QUÊ CHOA * NGUYỄN QUANG LẬP
Nguyễn Quang Lập
Blog FB của Cô Gái Đồ Long ( tại đây!)
cho hay: “Huyện Xuân Lộc bây giờ đã là Thị xã Long Khánh nên đường
Nguyễn Văn Bé cũng được mở rộng hoành tráng, chạy dọc suốt chiều ngang
thị trấn như con đường huyết mạch. Nhưng, tự dưng gần đây mấy bác lãnh
đạo địa phương bất ngờ cho đổi tên đường Nguyễn Văn Bé thành Hồ Thị
Hương”.
Thế
là câu chuyện Nguyễn Văn Bé đã lộ sáng. Hoặc anh ta là nhân vật anh
hùng không có thực, anh hùng tuyên huấn như kiểu anh hùng Lê Văn Tám;
hoặc đó là kẻ chiêu hồi, anh ta không hy sinh năm 1966 mà chết vì bệnh
năm 2002 tại Mỹ. “Tuy nhiên, theo một số tài liệu khác của quân đội Mỹ
đưa ra, có thể tìm kiếm google – trong đó có cả tờ Times đáng tin cậy
và nhiều tờ báo thời điểm 66-67 đăng tải hình ảnh anh Nguyễn Văn Bé
còn sống, lại thế này: Năm 1966 Nguyễn Văn Bé bị bắt và đã chiêu hồi.
Mỹ – ngụy.” Tin này của Cô Gái Đồ Long giống như nhiều nguồn tin khác
mà mình đã biết từ lâu. Mình biết từ lâu thì các cấp chính quyền lớn
nhỏ còn biết trước mình lâu hơn nữa.
Nguyễn
Văn Bé có phải là nhân vật anh hùng hay không? Câu trả lời ở tấm biển
đường Hồ Thị Hương vừa mới thay thế biển đường Nguyễn Văn Bé. Sự thay
thế lặng lẽ đó cho thấy người ta đã biết sai nhưng không dám công bố.
Cũng như câu chuyện Lê Văn Tám là do ông Trần Huy Liệu dựng lên,
chính gs Phan Huy Lê đã công bố điều này (tại đây!). Thế nhưng cho đến
nay không một ai, một cơ quan nào dám đứng ra thừa nhận sự thật mà gs
Phan Huy Lê đã nói. Để tránh phải đụng chạm đến sự thật, người ta hô
hoán lên câu chuyện “lật đổ thần tượng”.
Khốn thay, nào có thần tượng đâu mà lật đổ? Không lẽ lật đổ thần tượng giả mà sai, mà nguy hiểm? Vô lý! Giải thích cho việc công bố anh hùng Lê Văn Tám là không có thật, một thần tượng giả mà ta đã tôn thờ bấy lâu, gs Phan Huy Lê đã nói: “Theo quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực”. Quá đúng! Thì thì tại sao người ta sợ sự thật đến thế? Vì sự thật là thứ luôn gây bất lợi, rất nguy hiểm cho chế độ ta, có phải thế chăng?
Khốn thay, nào có thần tượng đâu mà lật đổ? Không lẽ lật đổ thần tượng giả mà sai, mà nguy hiểm? Vô lý! Giải thích cho việc công bố anh hùng Lê Văn Tám là không có thật, một thần tượng giả mà ta đã tôn thờ bấy lâu, gs Phan Huy Lê đã nói: “Theo quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực”. Quá đúng! Thì thì tại sao người ta sợ sự thật đến thế? Vì sự thật là thứ luôn gây bất lợi, rất nguy hiểm cho chế độ ta, có phải thế chăng?
Nguyễn Quang Lập
QUÊ CHOA
NGƯỜI VIỆT MUA THỊ TRẤN MỸ
Từ chuyện người Việt làm chủ thị trấn Mỹ
Nguyễn Xuân Nghĩa
Gửi cho BBC từ California, Hoa Kỳ
Cập nhật: 05:24 GMT - thứ bảy, 7 tháng 4, 2012
Hôm
Thứ Năm mùng năm vừa qua, gây sôi nổi cho dư luận Mỹ, và dĩ nhiên cả
Việt Nam, là việc một nhà đầu tư người Việt đã mua trọn một thị trấn
của tiểu bang Wyoming với giá 900.000 Mỹ kim qua sáu phút đấu giá trước
sự chứng kiến của truyền thông và người hiếu kỳ ở địa phương.
Chưa
được tổ chức thành một đơn vị hành chính độc lập, có tư cách pháp
nhân riêng, thị trấn hay ngôi làng Buford này chỉ có một người dân, có
thể gọi là thị trưởng hay xã trưởng, là ông Don Sammons, cư dân duy
nhất của Buford.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Xưa kia Buford cũng là một tiền trạm tên là Buford Trading Post khi đường hỏa xa còn chạy qua, và thời hoàng kim có lúc dân số lên tới gần 2.000. Nhưng thời thế thay đổi, xe lửa không còn, Buford thành một trạm xăng cho xe cộ vượt gió trên xa lộ xuyên bang số 80 vào mùa Hè. Mùa Đông thì đây là vùng đất lạnh hoang vắng.
Muốn giã từ một nghề toàn thời "vì ngày làm 24 tiếng", để qua Colorado sống gần con trai và dự tính viết sách về những năm hiu quạnh, ông Sammons rao bán từ mùa Hè năm ngoái. Ông mừng đến ứa lệ khi bán được tài sản, kể cả hộp thư có mã số bưu điện duy nhất trên khắp nước Mỹ mà không phải chia cho ai. Làm chủ tập thể thì phiền lắm!
Hy hữu
Như trúng độc đắc, một người Việt, nghe đâu đến từ Sài Gòn, sẽ làm chủ bất động sản hy hữu này.
Hy hữu vì Buford được giới thiệu là "thị trấn nhỏ nhất Hoa Kỳ".
Thuật quảng cáo tuyệt vời của người Mỹ! Công ty trung gian rao bán đấu giá với giá chào là trăm ngàn đồng thì giới thiệu bất động sản gồm có: ngôi nhà tiền chế bằng gỗ xúc có ba phòng ngủ đã mua từ năm 1994; một nhà học xây từ năm 1905 nay dùng làm văn phòng; một chuồng có thể chứa ba xe rưỡi, xây từ năm 1895; và một lều gỗ hơn trăm tuổi nay là một nhà kho.
Nhờ lời quảng cáo là bán nguyên một thị trấn, mấy chục nhà đầu tư đã tham dự từ nhiều nơi nhiều nước và nâng giá khiến ông chủ cũ thu hoạch bất ngờ!
Hiển nhiên, phải là một "đại gia" thì mới đầu tư theo kiểu cưỡi gió xem hoa như vậy: họ đến xem xét hai giờ trước khi cuộc đấu giá bắt đầu, qua điện thoại và Internet.
"Những người phát triển địa ốc tại Hoa Kỳ có nhiều nơi đầu tư an toàn và sinh lợi cao hơn nhiều. Họ chỉ ngạc nhiên về lối đầu tư như mua pháo toàn hồng của các đại gia kia."
Các nhà đầu tư có thể bùi tai hay lãng mạn tưởng tượng đến Las Vegas hoang vu trước khi thành kinh đô cờ bạc cực giầu của Nevada. Biết đâu, Buford cũng sẽ là Bình Khang, mà kiểu Mỹ? Hay là loại kiến trúc xuất hiện từ thời Viễn Tây của Mỹ trên cánh đồng Buford có thể là viện bảo tàng về một thị trấn giữa đàng nay đang rơi vào chốn lỡ làng? Mà dưới lòng đất, đôi khi Buford còn chứa dầu khí có thể bơm lên xài? Hay là ta đổi mới thành nông trại đón khách phương xa ở bên kia biển Thái bình?
Thật ra, Buford đã là kinh đô đón gió, thổ sản nổi tiếng của khu vực, chỉ thiếu mấy tháp gió của Trung Quốc là sẽ thành trung tâm sản xuất phong năng!
Những người phát triển địa ốc tại Hoa Kỳ có nhiều nơi đầu tư an toàn và sinh lợi cao hơn nhiều. Họ chỉ ngạc nhiên về lối đầu tư như mua pháo toàn hồng của các đại gia kia.
Nhưng, "đại gia" của Việt Nam vốn không lãng mạn.
Họ đầu tư vì lý do gì khác mà người phàm chẳng hiểu nổi, kể cả người Mỹ có máu phiêu lưu hoặc rất bén nhạy về kinh doanh.
Người Việt đầu tư
Người viết lại nghĩ đến đầu tư, một việc chính đáng đang được Hoa Kỳ khuyến khích. Vì vậy, xin nghiêm và buồn mà nói về chuyện đầu tư.
Nhiều người Việt đã từ trong nước đầu tư vào Hoa Kỳ, cả người và của.
Một số khu vực thương mại tại Quận Cam ở miền Nam California hay khu Bellaire của thành phố Houston bên Texas đã âm thầm đổi chủ và tưng bừng khai trương với nét trang trí độc đáo. Nhiều ngôi biệt thự nhìn qua là đã thấy kiến trúc "của ta": nguy nga tráng lệ trên khoảnh đất khỏi cần sân cỏ ở mặt tiền, nhưng nhà để xe thì kín đáo giấu vào trong. Bên ngoài, sau hàng rào sắt rất kiên cố là hai con nghê uy dũng đậm nét Trung Hoa.
Trong số này, con cháu đại gia thì sống cách khác, tháng tháng bước qua công ty đổi tiền nhận năm bảy ngàn đồng xanh để tiêu vặt. Các em hiên ngang tiêu xài vì có chính nghĩa: dọn bãi cho cha mẹ về sau có nơi an dưỡng tuổi già. Con cháu đám nạn dân hay thuyền nhân năm xưa thì nay chỉ ba cọc ba đồng chứ làm sao phe phẩy như vậy được?
Nhiều
người thắc mắc vì hàng năm người Việt ở nước ngoài vẫn gửi tiền về
cho thân nhân, con số chính thức của năm ngoái là chín tỷ Mỹ kim - gấp
vạn lần nghiệp vụ đầu tư Buford! Trong số này, phần lớn là xuất phát
từ Hoa Kỳ. Mà đấy là số chính thức, có thể chỉ bằng phân nửa con số
thật.
Dĩ nhiên
là trong số này cũng có tiền của người ở ngoài đầu tư vào trong, hoặc
giúp cho gia đình đứng tên để góp phần xây dựng đất nước. Nhưng người
thành công thì có thể đếm trên đầu ngón tay của một bàn tay. Còn lại
là những chuyện tái tê về sự lật lọng bất ngờ khi đến ngày hái quả.
Ngoài
ra, vì những lắt léo của việc chuyển ngân – công ty chuyển ngân không
ôm bó bạc của bạn đem về trao cho thân nhân ở nhà – mỗi nghiệp vụ gửi
tiền về lại có thể mở ra một trương mục chuyển tiền đi.... Tất nhiên,
có người hoài nghi nói đến chuyện "rửa tiền" khi đồng tiền phi pháp
bên trong lại không cánh mà bay vào vùng đất sạch bên này. Kinh tế học
rất lạnh lùng gọi đó là tẩu tán tư bản.
Năm
2005, Tổng thống George W. Bush đã có một cách trả lời rất Mỹ về
chuyện đó: "thì đôla của ta lại trở về ta!" Nói theo lối thi vị thì
cũng chỉ là "châu về Hợp Phố".Đón nhận di dân
Đó là chuyện tiền. Về chuyện người, nếu theo dõi kỹ thì ta thấy Hoa Kỳ có chính sách kín đáo đón nhận di dân Việt qua cánh cửa mở rộng hơn nếu so với người Hoa từ Trung Quốc. Các cơ quan hữu trách của Mỹ biết khá rõ về đòn phép nhập cư của người Việt qua những diện hôn thú, tôn giáo hay du học, đầu tư, v.v.... Nhưng thủ vai Mỹ khờ và lẳng lặng bỏ qua. Chứ với người Hoa thì khác – mà chẳng ai nói ra vì mang tiếng kỳ thị.
Có thể là Hoa Kỳ nghiệm thấy sức sinh động của người Việt trong khu vực tiếp cận với các "Phố Tầu". Hay là trong mối quan hệ phức tạp hiện nay giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, trên lãnh thổ Mỹ thì họ tin người Việt hơn vì truyền thống chống Trung Hoa xâm lược của dân tộc này.
Nhưng cũng có thể là họ sai, như đã từng nhiều lần trong lịch sử!
"Thu tiền về thì họ đầu tư qua Mỹ, để con em có chốn dung thân và bản thân có ngày hưởng nhàn trong cõi tự do. Có khi tự do lang thang trong cõi hoang vu của Mỹ."
Với Hoa Kỳ thì nhằm nhò gì chuyện đó.... châu về Hợp Phố! Nhưng với Việt Nam e rằng khốn.
Tại Việt Nam, người có chức có quyền – và vì vậy có tiền – đều có thể thoải mái bán hết nhờ 16 chữ vàng với Bắc Kinh. Và ưu tiên bán cho Trung Quốc mà chẳng ai kiểm soát hay kiện cáo linh tinh. Bí mật quốc gia mà! Thu tiền về thì họ đầu tư qua Mỹ, để con em có chốn dung thân và bản thân có ngày hưởng nhàn trong cõi tự do. Có khi tự do lang thang trong cõi hoang vu của Mỹ.
Cho đến ngày luật pháp Mỹ bỗng dưng lại cắc cớ hỏi về xuất xứ của đồng tiền đầu tư năm xưa. Xin cứ hỏi con cháu ông bà Marcos của Philippines thì rõ.
Nhưng còn lại, cái xứ sở bị rút ruột đó sẽ trôi về đâu?
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, sống tại California, Hoa Kỳ.http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/04/120406_vietnamese_buford.shtml
Hình ảnh thị trấn nhỏ nhất nước Mỹ
Cập nhật: 07:45 GMT - thứ sáu, 6 tháng 4, 2012
TỪ CÁNH ĐỒNG MÂY
Buổi nói chuyện củaChương trình Từ Cánh Đồng Mây
vớiLuật sư TRẦN LÂMLuật sư TRẦN THANH HIỆP
vớiLuật sư TRẦN LÂMLuật sư TRẦN THANH HIỆP
SỰ THAY ĐỔI ĐÃ ĐẾN GẦN
Có thể tóm lược: hiện ta có thể chống đỡ được Trung Quốc để khỏi trở thành như Triều Tiên, Miến Điện? Có phải chúng ta đang khủng hoảng nhiều mặt, thể chế hiện hành có thể chấn chỉnh để trụ được hay phải thay đổi triệt để mới mong có sức tồn tại và vươn lên?
Mặc dù trong kỳ Đại hội vừa rồi mọi góp ý đều không được lắng nghe, mọi người vẫn kỳ vọng vào đại hội sắp tới. Thời thế thay đổi, liệu tiếng nói của dân có giá trị gì? Xin hãy chờ xem!
I. Trung Quốc và Việt Nam
a. Nỗi sợ Trung Quốc:
Dù chỉ tiếp cận sơ qua, ai cũng thấy Trung Quốc thật đáng ngưỡng mộ: người đông vô kể, đất rộng như vô tận, thiên nhiên hùng vĩ và kỳ thú, những công trình xây dựng cũ mới thì đều đồ sộ đến mức khó ngờ. Sách nhiều vô kể, nội dung hay đến mức để đời. Qua lịch sử, khi loài người còn mông muội, Trung Quốc đã có nhiều phát minh…
Mấy chục năm nay, như có chiếc đũa thần, Trung Quốc vụt lên giàu có, nhiều ngành khoa học đạt mức thế giới, quân sự bùng phát. Trung Quốc như đang thách thức, như đang tranh giành ngôi đầu bảng thế giới.
Cái sợ hãi hơn là sợ não trạng con người Trung Quốc. Xem trong chuyện cổ, nhiều nghìn năm trước đến giờ, biết bao nhiêu gương mặt gian ngoan, mưu lược. Phụ nữ lại còn ghê gớm hơn, ngay cuối thế kỷ 20 mà Giang Thanh còn mưu mô làm Vua bà nước Tàu…
Các nhà phân tích kết luận: khi nàoTrung Quốc mạnh là Trung Quốc bành trướng. Bây giờ Trung Quốc đang muốn xuống Phương Nam. Cái cửa cần mở là Việt Nam, mà Việt Nam lại là cái gai khó gỡ.
Một
nhà ngoại giao kỳ cựu đã chua chát: “Trung Quốc thì gian ngoan, mưu
lược, còn chúng ta thì dại dột, cả tin. Các người đi trước và bản thân
tôi đã nhiều lần bị họ lừa”. Chúng ta choáng ngợp, rồi tự ti, rồi lo
sợ và cuối cùng bị khuất phục. Còn có ai đó bị bẫy sập để trở thành
tôi tớ, xét cũng là điều dễ hiểu.
Trong lịch sử, Trung Quốc đã từng thôn tính nhiều đất đai, nhiều dân tộc để có được tầm vóc như ngày nay. Trung Quốc đã đô hộ Việt Nam 4 lần và cũng bị Việt Nam nhiều lần đánh đuổi.
Ngay gần đây, các vị cầm đầu cũng cho Trung Quốc những đòn đau nhớ đời: diệt Pôn Pốt làm tan cái tiền đồn phương Nam của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình phát điên lên gọi “Việt Nam là bọn côn đồ”, doạ và thực hiện “cho Việt Nam một bài học”. Những người tham dự cuộc chiến tranh biên giới xác nhận là về mặt quân sự Việt Nam ở thế thắng. Rồi Việt Nam đuổi người Hoa. Lẽ dĩ nhiên họ ra đi không thể mang theo nhà cửa, đất đai…
Trong lịch sử, Trung Quốc đã từng thôn tính nhiều đất đai, nhiều dân tộc để có được tầm vóc như ngày nay. Trung Quốc đã đô hộ Việt Nam 4 lần và cũng bị Việt Nam nhiều lần đánh đuổi.
Ngay gần đây, các vị cầm đầu cũng cho Trung Quốc những đòn đau nhớ đời: diệt Pôn Pốt làm tan cái tiền đồn phương Nam của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình phát điên lên gọi “Việt Nam là bọn côn đồ”, doạ và thực hiện “cho Việt Nam một bài học”. Những người tham dự cuộc chiến tranh biên giới xác nhận là về mặt quân sự Việt Nam ở thế thắng. Rồi Việt Nam đuổi người Hoa. Lẽ dĩ nhiên họ ra đi không thể mang theo nhà cửa, đất đai…
Ta
đăng ký thềm lục địa có nghĩa là đòi xác lập chủ quyền ở Biển Đông.
Ta mua tàu bay, tàu ngầm, ta quan hệ với các nước để có liên minh quân
sự…Ta chờ đón những phản ứng mãnh liệt từ phía Trung Quốc nhưng cuối
cùng cũng chỉ có vài pha “tàu lạ”, vài lần Trung Quốc bắt nạt ngư dân
thế cô, giữa biển khơi.
Ta sợ vì ta yếu, vì ta không có lực lượng. Lực lượng của ta là lòng dân, sức dân. Ta lại đang đối xử với dân có thể nói là tàn tệ. Chính ta tiêu diệt sức sống của bản thân ta.
“Người ta mạnh vì anh quỳ gối” – có lẽ đúng. Trung Quốc không phải muốn làm gì thì làm. Hãy thức tỉnh, hãy can đảm, hãy chấp nhận mọi giải pháp, dù thế nào miễn là giữ vững được chủ quyền đất nước.
b. Về việc giao tiếp cụ thể với Trung Quốc:
Ta sợ vì ta yếu, vì ta không có lực lượng. Lực lượng của ta là lòng dân, sức dân. Ta lại đang đối xử với dân có thể nói là tàn tệ. Chính ta tiêu diệt sức sống của bản thân ta.
“Người ta mạnh vì anh quỳ gối” – có lẽ đúng. Trung Quốc không phải muốn làm gì thì làm. Hãy thức tỉnh, hãy can đảm, hãy chấp nhận mọi giải pháp, dù thế nào miễn là giữ vững được chủ quyền đất nước.
b. Về việc giao tiếp cụ thể với Trung Quốc:
Đây không phải là phân tích, đánh giá, kết luận, chỉ là những việc xảy ra gần đây, được liệt kê để bàn soạn, chiêm nghiệm:
1.
Việc bô xít Tây Nguyên: không nghe nói gì đến việc khởi động, làm con
đường sắt 300 km có độ chênh 70m, làm cảng, làm kho, làm bể chứa bùn
đỏ. Nếu làm, không biết 5 hay 7 năm có xong không? Thế mà hôm nay đã
làm nhà máy, cái trước chưa làm, cái sau đã làm.
Liệu người ta có mang những thứ cũ kỹ thải loại sang lắp đặt tại Việt Nam rồi sau đó sản xuất theo lối thô sơ, thành phẩm chuyển về bằng đường giao thông, còn môi trường thì không quan tâm. Thành một việc đã rồi và sẽ có bô xít “thổ phỉ” Tây Nguyên như than “thổ phỉ” Quảng Ninh! 2. 1000 năm Thăng Long Hà Nội và 2010, năm hữu nghị Việt Trung: Nếu ông Đào nói nhỏ với ông Mạnh “chuyện cha ông chúng ta xung đột đã có từ lâu, nay khơi ra làm gì, nó ảnh hưởng đến 16 chữ vàng. Chi bằng làm vừa vừa thôi. Chúng ta tập trung vào làm cái “Năm hữu nghị…” thế mới là thực sự củng cố mối tình của chúng ta. Làm to vào, thiếu tiền Trung Quốc tài trợ. Chả có cách nào để ông Mạnh không chấp hành.
Trong một năm ngắn ngủi, dân Hà Nội vừa nghe tiếng voi gầm ngựa hí, vừa nghe tiếng lanh canh chạm cốc.Liệu người ta có mang những thứ cũ kỹ thải loại sang lắp đặt tại Việt Nam rồi sau đó sản xuất theo lối thô sơ, thành phẩm chuyển về bằng đường giao thông, còn môi trường thì không quan tâm. Thành một việc đã rồi và sẽ có bô xít “thổ phỉ” Tây Nguyên như than “thổ phỉ” Quảng Ninh! 2. 1000 năm Thăng Long Hà Nội và 2010, năm hữu nghị Việt Trung: Nếu ông Đào nói nhỏ với ông Mạnh “chuyện cha ông chúng ta xung đột đã có từ lâu, nay khơi ra làm gì, nó ảnh hưởng đến 16 chữ vàng. Chi bằng làm vừa vừa thôi. Chúng ta tập trung vào làm cái “Năm hữu nghị…” thế mới là thực sự củng cố mối tình của chúng ta. Làm to vào, thiếu tiền Trung Quốc tài trợ. Chả có cách nào để ông Mạnh không chấp hành.
Biết
đâu đấy, đây còn là cái “cân tiểu ly” của ông Đào để xem câu đồn đại:
“Người Trung Quốc ghét người Mỹ và người Nhật nhưng ghét nhất là
người Việt Nam. Còn Việt Nam ghét nhất người Trung Quốc” đúng sai đến
mức nào? 3. Mở rộng Hà Nội: Nhiều người nói, không biết gì, kể cả ông
chủ tịch Hội quy hoạch có người nói không có căn cứ. Có người bạo
miệng: Việt Nam bị người xúi dại.
Các lãnh tụ Cộng sản đều ít nhiều mắc bệnh cuồng vĩ: Liên Xô biến sa mạc thành vườn nho, táo; Việt Nam có đường dây 500 KV, có đường Hồ Chí Minh… và cái gì cũng thấy “nhất” Đông Nam Á. Ta không có đủ tiền, không có kỹ thuật; lúc ấy Trung Quốc xui làm gấp, cho vay tiền, chẳng lẽ mình từ chối! Thế rồi người Trung Quốc đưa phong cách Trung Hoa vào, rồi người ta vận dụng câu nói của Tôn Văn: “Ở đâu có dấu ấn văn hoá Trung Hoa là đất đai của Trung Quốc”. Ta mất hay còn?
Các lãnh tụ Cộng sản đều ít nhiều mắc bệnh cuồng vĩ: Liên Xô biến sa mạc thành vườn nho, táo; Việt Nam có đường dây 500 KV, có đường Hồ Chí Minh… và cái gì cũng thấy “nhất” Đông Nam Á. Ta không có đủ tiền, không có kỹ thuật; lúc ấy Trung Quốc xui làm gấp, cho vay tiền, chẳng lẽ mình từ chối! Thế rồi người Trung Quốc đưa phong cách Trung Hoa vào, rồi người ta vận dụng câu nói của Tôn Văn: “Ở đâu có dấu ấn văn hoá Trung Hoa là đất đai của Trung Quốc”. Ta mất hay còn?
Không
hiểu sao Myanma cũng thân Trung Quốc thì thủ đô lại đi vào xóm núi.
Việt Nam cũng thân Trung Quốc thì thủ đô lại mở rộng gấp 4 lần. Hay là
người ta muốn Việt Nam thiếu hụt bối rối và hỗn loạn? 4. “Hãy gác
tranh chấp, hãy cùng nhau hợp tác khai thác”: Khẩu hiệu thật hay. Tôi
tin là Trung Quốc đã đọc truyện Trạng Quỳnh, sẽ áp dụng mưu Trạng
Quỳnh đối với bà Chúa Liễu trong chuyện bà Chúa có ruộng, Trạng Quỳnh
có công trồng tỉa…Ta lấy lực đâu mà cùng khai thác? Cử ai đến cùng
quản lý thì chắc một tuần là họ sẽ trở thành người Trung Quốc.
Nghĩ đến con đường huyết mạch Biển Đông với tài nguyên phong phú cũng thấy lo, cũng thấy Trung Quốc quyết liệt là dễ hiểu. 5. Việc đặt quan hệ đối tác giữa các tỉnh của hai bên biên giới: Thật là tốt đẹp! Ta rất cần việc này vì ta còn sản xuất nhỏ lẻ, việc quan hệ giữa hai tỉnh sẽ giản dị hoá quan hệ giữa hai quốc gia. Có tỉnh họ còn mạnh không kém gì nước ta. Liệu Trung Quốc có âm mưu chia cắt, thâm nhập rồi thôn tính từng phần? Các tỉnh của chúng ta có sức mấy mà chống đỡ được! 6. Người ta quan tâm đến Đại hội sắp tới sôi nổi hơn nhiều so với Đại hội đã qua. Quan tâm đến nhân sự đại hội xem có ai thân Tàu, ai là người của Tàu… coi đó là cái thước đo đất nước còn mất đến đâu. c. Biết mình biết người:
Nghĩ đến con đường huyết mạch Biển Đông với tài nguyên phong phú cũng thấy lo, cũng thấy Trung Quốc quyết liệt là dễ hiểu. 5. Việc đặt quan hệ đối tác giữa các tỉnh của hai bên biên giới: Thật là tốt đẹp! Ta rất cần việc này vì ta còn sản xuất nhỏ lẻ, việc quan hệ giữa hai tỉnh sẽ giản dị hoá quan hệ giữa hai quốc gia. Có tỉnh họ còn mạnh không kém gì nước ta. Liệu Trung Quốc có âm mưu chia cắt, thâm nhập rồi thôn tính từng phần? Các tỉnh của chúng ta có sức mấy mà chống đỡ được! 6. Người ta quan tâm đến Đại hội sắp tới sôi nổi hơn nhiều so với Đại hội đã qua. Quan tâm đến nhân sự đại hội xem có ai thân Tàu, ai là người của Tàu… coi đó là cái thước đo đất nước còn mất đến đâu. c. Biết mình biết người:
Người
xưa có câu: “Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”. Người
đời nay căn dặn: “Có những người sau khi gặp họ, bắt tay rồi phải xem
lại tay ta có thiếu ngón nào không?”.
Việt Nam hiện nay làm việc gì cũng phải nghĩ đến Trung Quốc. Đó là một chỉ dẫn quan trọng. Đó là “biết người”. Có lẽ, mọi người Việt Nam cần đào sâu suy nghĩ: “Mình đứng cương vị gì, mình bảo vệ đất nước ra sao trước Trung Quốc?”. Còn nếu chấp nhận “nghèo thì hèn, mạnh thì được, yếu thì thua”, và hơn thế nữa “Cứu nhà hơn cứu nước! Cứu thân mình hơn cứu Chúa!”, thì coi như mất nước. Đó là “biết mình”. III. Hãy nhìn lại mình Ta luôn nói ta có nhiều thành tích. Nhưng nhiều năm qua ta vẫn bị xếp vào danh sách các nước nghèo nhất. Ta nên bình tĩnh xem lại chính mình. “Không nghe anh nói, hãy nhìn anh làm”.
Ta hãy có cái nhìn khái quát hiện tình trên một vài mặt: a. Tam nông:
Việt Nam hiện nay làm việc gì cũng phải nghĩ đến Trung Quốc. Đó là một chỉ dẫn quan trọng. Đó là “biết người”. Có lẽ, mọi người Việt Nam cần đào sâu suy nghĩ: “Mình đứng cương vị gì, mình bảo vệ đất nước ra sao trước Trung Quốc?”. Còn nếu chấp nhận “nghèo thì hèn, mạnh thì được, yếu thì thua”, và hơn thế nữa “Cứu nhà hơn cứu nước! Cứu thân mình hơn cứu Chúa!”, thì coi như mất nước. Đó là “biết mình”. III. Hãy nhìn lại mình Ta luôn nói ta có nhiều thành tích. Nhưng nhiều năm qua ta vẫn bị xếp vào danh sách các nước nghèo nhất. Ta nên bình tĩnh xem lại chính mình. “Không nghe anh nói, hãy nhìn anh làm”.
Ta hãy có cái nhìn khái quát hiện tình trên một vài mặt: a. Tam nông:
Trong
tam nông có quá nhiều bê bối, người ta cho rằng do ta giữ quá lâu đạo
luật: “đất đai là của toàn dân, do nhà nước quản lý”.
Đất
đai sản xuất không có sở hữu rõ ràng, không mua, không bán được,
không gom góp để đủ sản xuất lớn được, buộc phải sản xuất manh mún, kỹ
thuật thô sơ, năng suất thấp, không chống được thiên tai nên vẫn đói
và chán nản. Lại cộng thêm sinh đẻ không kế hoạch, giáo dục quá kém,
không có tay nghề, nhân mãn và thất nghiệp tràn lan. Di cư tự do,
không có việc làm, tệ nạn xã hội và phạm pháp phát sinh không ngăn
nổi.
Nhiều nơi đã tự phát phá vỡ thế bí này. Phong trào “dồn điền đổi thửa” đã bước đầu đưa sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn hơn, tập trung hoá. Nhiều người nông dân góp tiền mua chung máy móc nông nghiệp. Có huyện tổ chức cho các nhóm nông dân vay tiền để mua ô tô, để đưa sản phẩm ra thành phố bán. Đã hé lộ những “ông Kim Ngọc đời mới”. Họ sẽ vứt bỏ đạo luật nói trên, rồi họ tạo ra nền sản xuất mới.
Nhiều nơi đã tự phát phá vỡ thế bí này. Phong trào “dồn điền đổi thửa” đã bước đầu đưa sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn hơn, tập trung hoá. Nhiều người nông dân góp tiền mua chung máy móc nông nghiệp. Có huyện tổ chức cho các nhóm nông dân vay tiền để mua ô tô, để đưa sản phẩm ra thành phố bán. Đã hé lộ những “ông Kim Ngọc đời mới”. Họ sẽ vứt bỏ đạo luật nói trên, rồi họ tạo ra nền sản xuất mới.
Nhiều người băn khoăn: công nghiệp hoá nông nghiệp bao nhiêu nước đã làm, có gì bí ẩn đâu sao ta không làm?
Có người tạm bằng lòng với lời giải thích: Trung Quốc chưa làm thì ta chưa làm; nông dân đông lắm, nguồn gốc của mọi biến động mà lịch sử đã ghi, phải giữ con chủ bài ruộng đất, như cái “mũ kim cô” mới mong an toàn trước họ… Nông dân làm chủ ruộng đất, những người có kỹ thuật, có vốn sẽ áp sát, đẻ ra một liên minh mới, thế thì lãnh đạo sao được?
Tình trạng này chính là nguyên nhân trực tiếp làm xuất hiện đội quân dân oan mất đất mất nhà ngày càng đông đảo trên phạm vi cả nước. Nguy cơ đảng mất nông dân đã là nhãn tiền.
Một hệ quả không ngờ ập tới: đất đai do nhà nước quản lý, thế là các cấp chính quyền thao túng. Đầu tư nước ngoài, đô thị hoá buộc phải có đất để phát triển. Thế là đẻ ra: thu hồi, định giá, đền bù, giải toả… Tiền nong như nước, tham nhũng trước nhỏ, sau to đến nay như bệnh không chữa nổi. Cái dây trói nông dân trở thành cái dây thít cổ các quan tham, làm điêu đứng Đảng và Nhà nước.
Hãy
trả ruộng đất cho nông dân, mở đầu việc công nghiệp hoá nông nghiệp.
b. Không phát huy vai trò cá nhân, không dùng người tài, hội họp quá
nhiều:Có người tạm bằng lòng với lời giải thích: Trung Quốc chưa làm thì ta chưa làm; nông dân đông lắm, nguồn gốc của mọi biến động mà lịch sử đã ghi, phải giữ con chủ bài ruộng đất, như cái “mũ kim cô” mới mong an toàn trước họ… Nông dân làm chủ ruộng đất, những người có kỹ thuật, có vốn sẽ áp sát, đẻ ra một liên minh mới, thế thì lãnh đạo sao được?
Tình trạng này chính là nguyên nhân trực tiếp làm xuất hiện đội quân dân oan mất đất mất nhà ngày càng đông đảo trên phạm vi cả nước. Nguy cơ đảng mất nông dân đã là nhãn tiền.
Một hệ quả không ngờ ập tới: đất đai do nhà nước quản lý, thế là các cấp chính quyền thao túng. Đầu tư nước ngoài, đô thị hoá buộc phải có đất để phát triển. Thế là đẻ ra: thu hồi, định giá, đền bù, giải toả… Tiền nong như nước, tham nhũng trước nhỏ, sau to đến nay như bệnh không chữa nổi. Cái dây trói nông dân trở thành cái dây thít cổ các quan tham, làm điêu đứng Đảng và Nhà nước.
Tôi thuộc gia đình viên chức chế độ cũ, tôi lại có điều kiện tiếp xúc với bộ máy nhà nước vào các năm 1945, 1954, 1975 thế kỷ trước. Tất cả họ, ngành nào, cấp nào đều thành thạo nghiệp vụ, hiểu hết chức trách, cấp nào có bằng cấp học vị cấp ấy. Họ cũng có các thiếu sót như ta hiện nay nhưng dứt khoát là không có tình trạng: không làm được việc.
Tôi thấy qua các bước thăng trầm của đất nước: giành được độc lập, chiến tranh và xây dựng đất nước…bao giờ cũng gắn thành công hay thất bại vào một số người hay một người đứng đầu. Hiện nay ta mờ mịt: không biết việc này từ đâu đến, vì sao phải làm, luôn luôn ứng phó, luôn phải sửa sai và cũng không thiếu giấu giếm, đổ thừa.
Tôi tại thấy ở các nước, các nhà khoa học, các nhà bác học, các chuyên gia họ tập hợp theo ngành vào các tổ chức phi chính phủ. Họ theo dõi tình hình, họ tranh luận, họ đưa ra các kiến nghị, các biện pháp… Có tổ chức được nhà nước tài trợ. Ngoài ra các Viện hàn lâm, các viên nghiên cứu của các trường đại học cũng tham gia vào việc phản biện và đề xuất.
Không phải ta thiếu người để xây dựng ra bộ phận này nhưng chính là ta không biết làm, không chịu làm. Bộ phận lãnh đạo chính trị thì phe cánh, tranh chấp, không có người tài. Bộ phận khoa học kỹ thuật thì bị chèn ép. Người giỏi bị loại ra ngoài vòng, còn bị cấm đoán nên giữ miệng, kín tiếng. Còn bộ máy nhà nước thì nhiều bất cập, nhiều xấu xa, ai cũng biết.
Nguyên nhân tụt hậu đã rõ, bệnh đã định nhưng thuốc chưa có. Có lẽ phải bình tĩnh chấn chỉnh từ lãnh đạo, sao cho có người có tâm, có tầm để họ quy tụ các tài này, để họ chấn chỉnh lại bộ máy nhà nước.
Sao nhiều phòng họp thế? Sao người ta cứ thay đổi kiểu ghế, mỗi ngày thêm oai vệ. Hôm nay Quốc hội họp, thấy các tay ghế to quá, chiếm nhiều diện tích và phản cảm. Thế rồi hội họp liên miên, cổ cồn, cà vạt, trang trọng không biết có cái gì mới, hay là người ngồi đấy mà hồn lang thang nơi đâu?
Cũng cần xem lại câu: “Đảng bao giờ cũng đúng, tập thể bao giờ cũng sáng suốt”. Cho nên lấy việc hội họp làm chính để rồi chỉ ăn và đi họp, còn cái sáng suốt không biết tìm ở đâu!
Có lẽ ta phải thay đổi: đề cao vai trò cá nhân, con người phải được đào tạo lại, phải đánh giá khác đi, phải sử dụng khác đi… có nghĩa là tất cả phải thay đổi.
Ông
cha ta nói: ‘Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Nguyễn Mạnh Tường nói:
“Tập thể là cái vô nghĩa”. Bà Hồ Xuân Hương thì bốp chát hơn: “Một
đàn thằng ngọng đứng xem chuông. Nó bảo nhau rằng ấy ái uông”. Còn Xê
khốp thì chế diễu: “Những cái đầu rỗng tuếch ngồi sau những bộ bàn ghế
bằng gỗ bồ đào”. c. Xây dựng kinh tế các nhóm lợi ích:
Khi mở cửa, khi đón đầu tư nước ngoài, ai cũng nghĩ rằng: ta sẽ học, ta sẽ làm, ta sẽ có tất cả như các nước, ta tiến bộ, ta thừa sức theo kịp thiên hạ… Lúc đầu ta bàn nhiều đến cái thiếu sót, cái thua thiệt, coi đó là học phí với sự an ủi thầm kín. Đến nay, cũng đã nhiều năm: hãng Sony ra đi, ta không thấy nói gì đến ngành điện tử, ta có bao nhiêu hãng ô tô mà nay không thấy cái gì gọi là ô tô Việt Nam… Hoá ra xét tiến bộ đầu tư nước ngoài lấy số tiền đầu tư để đánh giá, còn nền công nghiệp của ta là một việc khác. Kết quả: mất đất, mất môi trường, sức lao động bị bán rẻ. Trong khi ấy, đồng ruộng cần máy móc nông nghiệp, phân bón; học sinh cần máy tính, người lớn cần điện thoại di động… thì tất cả của nước ngoài.
Những cái cũ ta có: gạo, café, cao su, bao nhiêu năm nay không giải quyết được ổn thoả việc thu mua, chế biến, tồn trữ cứ vẫn như xưa. Cái ta có ưu thế tuyệt đối thì cũng không ổn định.
Những cái có mới, không ít, có thể chia ra hai loại: loại làm ra vì mục đích chính trị, nhằm khoa trương, kèm theo câu “nhất Đông Nam Á” như đường Trường Sơn, đường dây 500KV, hay như điện nguyên tử đến nay chưa có số lượng nhân lực ban đầu… Có cái khác thì thấy ai có thì học theo như Hà Nội bên Sông Hồng và Hà Nội rộng gấp 4 lần…
Loại thứ hai là thiếu hiểu biết kỹ thuật, bỏ ngoài tai ý kiến của các nhà khoa học, tự cho “chính trị là thống soái”, rồi chống cả trời đất như việc quản lí đô thị: Thành Hồ và Hà Nội: nạn ngập lụt người ta cảnh báo bao nhiêu năm, đã thấm đòn ở thành phố Hồ Chí Minh, đến nay lại xảy ra ở khu Mỹ Đình, nơi đỉnh cao của kiến trúc đô thị Việt Nam. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà không đi từ nông nghiệp, không công nghiệp hoá nông nghiệp, quy hoạch đô thị thì “treo”, không có luật nhập cư, công nghiệp hoá, xuất khẩu lao động thì bỏ rơi đào tạo nghề… Các việc này người ta làm ở Châu Âu từ thời kỳ Napoléon. Cái “Đảng bao giờ cũng sáng suốt”, “Tập thể bao giờ cũng đúng” đi đâu mất rồi? Thế mà cứ bô bô “Năm này, năm kia ta sẽ hiện đại hoá, công nghiệp hoá!”
Khi mở cửa, khi đón đầu tư nước ngoài, ai cũng nghĩ rằng: ta sẽ học, ta sẽ làm, ta sẽ có tất cả như các nước, ta tiến bộ, ta thừa sức theo kịp thiên hạ… Lúc đầu ta bàn nhiều đến cái thiếu sót, cái thua thiệt, coi đó là học phí với sự an ủi thầm kín. Đến nay, cũng đã nhiều năm: hãng Sony ra đi, ta không thấy nói gì đến ngành điện tử, ta có bao nhiêu hãng ô tô mà nay không thấy cái gì gọi là ô tô Việt Nam… Hoá ra xét tiến bộ đầu tư nước ngoài lấy số tiền đầu tư để đánh giá, còn nền công nghiệp của ta là một việc khác. Kết quả: mất đất, mất môi trường, sức lao động bị bán rẻ. Trong khi ấy, đồng ruộng cần máy móc nông nghiệp, phân bón; học sinh cần máy tính, người lớn cần điện thoại di động… thì tất cả của nước ngoài.
Những cái cũ ta có: gạo, café, cao su, bao nhiêu năm nay không giải quyết được ổn thoả việc thu mua, chế biến, tồn trữ cứ vẫn như xưa. Cái ta có ưu thế tuyệt đối thì cũng không ổn định.
Những cái có mới, không ít, có thể chia ra hai loại: loại làm ra vì mục đích chính trị, nhằm khoa trương, kèm theo câu “nhất Đông Nam Á” như đường Trường Sơn, đường dây 500KV, hay như điện nguyên tử đến nay chưa có số lượng nhân lực ban đầu… Có cái khác thì thấy ai có thì học theo như Hà Nội bên Sông Hồng và Hà Nội rộng gấp 4 lần…
Loại thứ hai là thiếu hiểu biết kỹ thuật, bỏ ngoài tai ý kiến của các nhà khoa học, tự cho “chính trị là thống soái”, rồi chống cả trời đất như việc quản lí đô thị: Thành Hồ và Hà Nội: nạn ngập lụt người ta cảnh báo bao nhiêu năm, đã thấm đòn ở thành phố Hồ Chí Minh, đến nay lại xảy ra ở khu Mỹ Đình, nơi đỉnh cao của kiến trúc đô thị Việt Nam. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà không đi từ nông nghiệp, không công nghiệp hoá nông nghiệp, quy hoạch đô thị thì “treo”, không có luật nhập cư, công nghiệp hoá, xuất khẩu lao động thì bỏ rơi đào tạo nghề… Các việc này người ta làm ở Châu Âu từ thời kỳ Napoléon. Cái “Đảng bao giờ cũng sáng suốt”, “Tập thể bao giờ cũng đúng” đi đâu mất rồi? Thế mà cứ bô bô “Năm này, năm kia ta sẽ hiện đại hoá, công nghiệp hoá!”
Còn
một điều vô cùng nhức nhối: làm gì cũng nói sẽ vay vốn ODA. Cứ vay
rồi ai trả? Kinh tế thị trường mà không có vốn. Số nợ này là bao
nhiêu? Ai biết?
Nếu chỉ có như trên thì đi một lẽ, nó lại có cái lẽ thứ hai, như rắn thêm chân:
Khi chúng ta còn bao cấp thì Philippin, Indonexia đã đi vào phát triển kinh tế. Các nhóm gọi là “nhóm lợi ích” đã ra đời. Nó là mối liên kết của những người kinh doanh, sản xuất với các người nắm quyền, họ đồng loã quyết định mọi việc, từ đó rút ruột nhà nước, chiếm đoạt tài sản quốc gia… Có khi đó là gia đình các nguyên thủ quốc gia như: Tổng thống Mác-cốt, tổng thống Su-hác-tô phải ra toà và ngồi tù là thế.
Ở ta thì những người thân quen, con cháu người cầm quyền từ TW đến cấp tỉnh đều núp bóng cha anh để làm ăn. Dân chỉ rõ công ty này là của ai, Công ty kia là của ai. Rồi những người có quyền chức ủng hộ cái này, diệt cái kia vì hối lộ… nền sản xuất bị chết từ trong trứng.
Indonexia, Philippin, Việt Nam có chung một bệnh. Philippin trước đây còn mạnh hơn ta mà nay suy thoái. Dù có nền dân chủ sơ khai mà không vực được nền kinh tế lên được.
Chưa
hết, hiện nay Trung Quốc thâm nhập vào nền kinh tế Việt Nam, thâm
nhập bằng cả quyền lực chính trị. Nếu như họ lại có trong tay các nhóm
lợi ích hay là các nhóm lợi ích hai bên kết hợp với nhau thì có lẽ
nền kinh tế Việt Nam đi đứt.Nếu chỉ có như trên thì đi một lẽ, nó lại có cái lẽ thứ hai, như rắn thêm chân:
Khi chúng ta còn bao cấp thì Philippin, Indonexia đã đi vào phát triển kinh tế. Các nhóm gọi là “nhóm lợi ích” đã ra đời. Nó là mối liên kết của những người kinh doanh, sản xuất với các người nắm quyền, họ đồng loã quyết định mọi việc, từ đó rút ruột nhà nước, chiếm đoạt tài sản quốc gia… Có khi đó là gia đình các nguyên thủ quốc gia như: Tổng thống Mác-cốt, tổng thống Su-hác-tô phải ra toà và ngồi tù là thế.
Ở ta thì những người thân quen, con cháu người cầm quyền từ TW đến cấp tỉnh đều núp bóng cha anh để làm ăn. Dân chỉ rõ công ty này là của ai, Công ty kia là của ai. Rồi những người có quyền chức ủng hộ cái này, diệt cái kia vì hối lộ… nền sản xuất bị chết từ trong trứng.
Indonexia, Philippin, Việt Nam có chung một bệnh. Philippin trước đây còn mạnh hơn ta mà nay suy thoái. Dù có nền dân chủ sơ khai mà không vực được nền kinh tế lên được.
Việc phân tách kinh tế Việt Nam với các mô thức, chỉ số, công thức xin dành cho các kinh tế gia, chưa chắc các kinh tế gia đã làm được vì lẽ tình hình bị che giấu.
Thiếu nhìn xa trông rộng, không có quy hoạch, thiếu kiến thức, thiếu óc phân tích, không có các biện pháp phù hợp là một phía. Phía khác là nạn tham nhũng tràn lan, cùng với ý thức có quyền hành thì cứ làm, rồi che dấu, xuyên tạc, có thể là nguyên nhân của các nguyên nhân.
d. Hoàn toàn thất bại trong lĩnh vực tư tưởng, văn hoá:
Tôi bị bất ngờ: cùng một lúc nhiều người mà
đảng
coi là tinh hoa, là tiêu biểu cho nền tư tưởng, văn hoá xã hội chủ
nghĩa, đều lên tiếng phỉ báng đảng. Có người đốt tác phẩm rồi nhịn ăn mà
chết. Có người quên hết mình đã có những gì mà chỉ nhớ bài thơ, bài
hát đầu đời khi chưa biết đảng. Có người sau 30.4 gặp lại bạn văn thời
xưa đã khóc mà nói là mình đã đóng kịch bao năm… Tóm lại họ tự nhân
mình là “văn nô”. Trần Đức Thảo thì ra đi trong đau khổ; Nguyễn Khắc
Viện thì giữ khoảng cách đầy kiêu hãnh; còn Nguyễn Mạnh Tường thì lạnh
lùng rời bỏ. Họ là người được thế giới ngưỡng mộ, nhân dân yêu mến.
Triết học, văn học, nghệ thuật, các khoa học khác để lại là tác phẩm. Tác phẩm gắn với con người. Thế là ta không còn tác phẩm, không còn con người. Thế là ta mất hết.
Rồi đây các hồi ký, các di cảo của nhiều người còn nói lên nhiều nữa: Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên…
Cụ Tô Hoài theo đảng, lúc Tây Bắc, lúc đồng bằng, ca ngợi đảng hết lời, đột nhiên cho ra Ba người khác. Nếu cụ còn loại này, xin cụ kịp thời cho ra mắt bạn đọc để đảng ghét cụ, cụ qua đời sẽ lờ cụ đi, mọi người sẽ đưa cụ đi an nghỉ nơi có côn trùng nỉ non, có hoa có lá, có trời xanh nước biếc và sẽ để bên cụ “Dế Mèn phiêu lưu ký”. Cụ chậm chạp, đảng vẫn mến mộ cụ. Cụ mất, sẽ đưa cụ vào Mai Dịch, rồi con cháu cụ xuất bản di cảo. Lúc ấy các vị nằm quanh cụ sẽ đánh đòn “hội chợ” cụ và mọi người sẽ cười cả đảng, cả cụ, một trận cười vỡ bụng.
Triết học, văn học, nghệ thuật, các khoa học khác để lại là tác phẩm. Tác phẩm gắn với con người. Thế là ta không còn tác phẩm, không còn con người. Thế là ta mất hết.
Rồi đây các hồi ký, các di cảo của nhiều người còn nói lên nhiều nữa: Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên…
Cụ Tô Hoài theo đảng, lúc Tây Bắc, lúc đồng bằng, ca ngợi đảng hết lời, đột nhiên cho ra Ba người khác. Nếu cụ còn loại này, xin cụ kịp thời cho ra mắt bạn đọc để đảng ghét cụ, cụ qua đời sẽ lờ cụ đi, mọi người sẽ đưa cụ đi an nghỉ nơi có côn trùng nỉ non, có hoa có lá, có trời xanh nước biếc và sẽ để bên cụ “Dế Mèn phiêu lưu ký”. Cụ chậm chạp, đảng vẫn mến mộ cụ. Cụ mất, sẽ đưa cụ vào Mai Dịch, rồi con cháu cụ xuất bản di cảo. Lúc ấy các vị nằm quanh cụ sẽ đánh đòn “hội chợ” cụ và mọi người sẽ cười cả đảng, cả cụ, một trận cười vỡ bụng.
Thời
Pháp thuộc, 80 năm mất 20 năm bình định, gần 10 năm vì chiến tranh
thế giới, dân ta chỉ có 20 triệu… Lao động tay chân, hỏi lấy gì mà
người Pháp xây dựng nổi Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng, đường xuyên Việt,
đường sắt Bắc Nam vươn tới Vân Nam… Phố Tây Hà Nội thiết kế cho xe
ngựa, nay ô tô như kiến, không tắc, không ngập. Nhà hát lớn, Cầu Du
me, phủ Toàn quyền, các công viên, bảo tàng sau hơn 100 năm vẫn bền
vững, vẫn đẹp… Đẹp mà lại hợp lý… Còn ta, cũng cao, cũng to, cũng
rộng…
Còn hơn các cái cũ, nhưng không gây được ấn tượng nào. Vào trong, đi, đứng, làm việc gặp nhiều bất tiện. Đó là vì, đây là một ngành khoa học không phải có tiền là cứ xây, vừa xây xong thì ngập lụt… Một nghiên cứu nói rằng: từ xa xưa, từng lớp thống trị nào cũng xây dựng các công trình đồ sộ, coi như biểu tượng của chế độ. Ta có thể cũng ở vào tình thế này. Các tỉnh, huyện, các ngành nào của ta cũng có não trạng này.
Kết luận này có cơ sở ở chỗ, người ta coi hình thức hơn nội dung, coi nhà cửa, phòng họp, hội trường quan trọng hơn con người. Con người không cập nhật với nhiệm vụ, với trách nhiệm. “Quan trí” cần phải nâng cao là lời nói cửa miệng của người dân.
Gần đây rầm rộ lên cái gọi là cấm phản biện công khai, rồi quản chặt báo chí. Người ta kêu trời vì sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Vấn đề quá dài, chưa thể đề cập nhưng phải nhận là đạo đức, là một mặt đời sống tinh thần, nó nở hoa hay méo mó cùng một nguyên nhân, cùng một kết quả với văn học, nghệ thuật.
Còn hơn các cái cũ, nhưng không gây được ấn tượng nào. Vào trong, đi, đứng, làm việc gặp nhiều bất tiện. Đó là vì, đây là một ngành khoa học không phải có tiền là cứ xây, vừa xây xong thì ngập lụt… Một nghiên cứu nói rằng: từ xa xưa, từng lớp thống trị nào cũng xây dựng các công trình đồ sộ, coi như biểu tượng của chế độ. Ta có thể cũng ở vào tình thế này. Các tỉnh, huyện, các ngành nào của ta cũng có não trạng này.
Kết luận này có cơ sở ở chỗ, người ta coi hình thức hơn nội dung, coi nhà cửa, phòng họp, hội trường quan trọng hơn con người. Con người không cập nhật với nhiệm vụ, với trách nhiệm. “Quan trí” cần phải nâng cao là lời nói cửa miệng của người dân.
Gần đây rầm rộ lên cái gọi là cấm phản biện công khai, rồi quản chặt báo chí. Người ta kêu trời vì sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Vấn đề quá dài, chưa thể đề cập nhưng phải nhận là đạo đức, là một mặt đời sống tinh thần, nó nở hoa hay méo mó cùng một nguyên nhân, cùng một kết quả với văn học, nghệ thuật.
Nguyên
nhân của sự sa sút quá đáng của mặt văn hoá, tư tưởng của ta có phải
là kết quả của sự lãnh đạo của Đảng: mọi việc phải theo ý lãnh đạo,
một hình thức toàn trị về tinh thần, tư tưởng? Nó thui chột mọi sáng
tạo cá nhân. Trước đây còn lờ mờ, nhưng nay đã lộ rõ.
Trước đây, văn học, nghệ thuật có phong trào, có chủ soái, có đấu tranh, có ngành phê bình như thơ mới chủ soái là Phan Khôi, Tự lực văn đoàn với Khái Hưng, Nhất Linh, họ sáng tác, họ tranh luận, họ phê bình… Có phong trào rộng khắp trong nhân dân. Thật kỳ lạ! Đó mới là thời kỳ nở rộ về văn hoá, lại xuất hiện trong thời kỳ thuộc địa, dân lại 95% không biết chữ. Phải chăng văn học, nghệ thuật được tự do mới bay bổng? Cái gọi là “tính Đảng”, “lề phải”, “lề trái” trong văn học nghệ thuật, trong thông tấn báo chí là thuốc độc. Có khác gì người uống rượu khen rượu làm cho họ hưng phấn, họ mạnh lên.đ. Khủng hoảng lãnh đạo:
Trước đây, văn học, nghệ thuật có phong trào, có chủ soái, có đấu tranh, có ngành phê bình như thơ mới chủ soái là Phan Khôi, Tự lực văn đoàn với Khái Hưng, Nhất Linh, họ sáng tác, họ tranh luận, họ phê bình… Có phong trào rộng khắp trong nhân dân. Thật kỳ lạ! Đó mới là thời kỳ nở rộ về văn hoá, lại xuất hiện trong thời kỳ thuộc địa, dân lại 95% không biết chữ. Phải chăng văn học, nghệ thuật được tự do mới bay bổng? Cái gọi là “tính Đảng”, “lề phải”, “lề trái” trong văn học nghệ thuật, trong thông tấn báo chí là thuốc độc. Có khác gì người uống rượu khen rượu làm cho họ hưng phấn, họ mạnh lên.đ. Khủng hoảng lãnh đạo:
Lịch
sử đã chứng minh, một đất nước vượt lên đều gắn liền với một cá nhân
kiệt xuất. Napoleon khi đã là Hoàng đế, triệu tập chuyên gia để làm
luật dân sự, sự hiểu biết của ông vê luật làm mọi người ngỡ ngàng. Ông
giải thích: khi còn trẻ, là trung uý, đã bị phạt giam, trong phòng
giam có sách, ông đọc thế rồi ông nhớ. Đạo luật “Sổ lao động” …là của
Napoleon tồn tại đến giờ. Hồ Chí Minh, Lý Quang Diệu, Lý Thừa Vãn,
Đặng Tiểu Bình, Tưởng Kinh Quốc đã minh định kết luận trên.
Với cái não trạng, cái lề lối làm việc của chúng ta hiện nay không thể chọn được người tài; ta lấy mục tiêu giữ vững chuyên chính, ai trung thành với ta thì ta chọn, chọn người thân cận, chọn người quanh ta…Người tài thì ở khắp nơi, họ đâu phục ta, quý ta, tin ta mà theo ta, rồi có theo ta lại nhiễm những thói xấu của ta, họ cũng thui chột. Cách của ta chỉ phù hợp với một chế độ đóng cửa, nghĩa là hàng chục năm mọi việc cứ năm sau như năm trước: không xuất cảnh, không Internet, không giao lưu, du học nước ngoài… mọi người câm nín. Giá đảng Cộng sản Việt Nam giữ như Triều Tiên, Cu Ba…ông Fidel nghỉ, ông Ra-un thay; Ông Kim Nhật Thành mất, Ông In làm, có phải nhẹ nhàng, ăn chắc không!
Với cái não trạng, cái lề lối làm việc của chúng ta hiện nay không thể chọn được người tài; ta lấy mục tiêu giữ vững chuyên chính, ai trung thành với ta thì ta chọn, chọn người thân cận, chọn người quanh ta…Người tài thì ở khắp nơi, họ đâu phục ta, quý ta, tin ta mà theo ta, rồi có theo ta lại nhiễm những thói xấu của ta, họ cũng thui chột. Cách của ta chỉ phù hợp với một chế độ đóng cửa, nghĩa là hàng chục năm mọi việc cứ năm sau như năm trước: không xuất cảnh, không Internet, không giao lưu, du học nước ngoài… mọi người câm nín. Giá đảng Cộng sản Việt Nam giữ như Triều Tiên, Cu Ba…ông Fidel nghỉ, ông Ra-un thay; Ông Kim Nhật Thành mất, Ông In làm, có phải nhẹ nhàng, ăn chắc không!
Có
điều rõ ràng nhất, chưa thấy một ai trong số 15 người khổng lồ, tỏ ra
có các điều kiện của một chính khách: thiếu nhìn xa, trông rộng,
không phân tích được tình hình để có kế sách phù hợp, làm hỏng rồi
chữa, nói mãi mà không làm được. Thực ra chưa ai chuẩn bị cho mình
thành chính khách, chưa ai đi theo một chính khách đích thực để làm
học trò…
Ông Ôbama nói dài, viết dài, xem kỹ lại là các chuyện thời thơ ấu, các điều răn dạy làm người. Ông đi khắp nơi để bàn về hoà bình, sao không còn thấy ông lớn tiếng dài hơi… Cương lĩnh của ông chỉ có 3 chữ: “Phải thay đổi!”. Ông đẩy mạnh hoà bình, dân chủ bằng diễn đàn toàn cầu, bằng lời góp ý với các nước. Có gì rầm rộ đâu! Ông biết rằng chỉ có hoà bình mới ngăn chặn Trung Quốc làm liều, chỉ có dân chủ, nhân quyền người dân Trung Quốc mới đổi thay số phận.
Ông không đến Việt Nam nhưng những việc ông làm là nỗi khát khao của Việt Nam: dân chủ và hoà bình. Dân chủ trong ôn hoà mới mong tránh được kiếp chư hầu. Ông Obama được giải thưởng Nobel là đúng. Vừa bước lên sân khấu nhưng giọng hát, lời ca đã đi ngay vào lòng người. Ông Ôbama chuẩn bị cuộc đời mình, cuộc đời của một chính khách xuất sắc, động thái đó hiển hiện ngay từ ngày đầu cầm quyền.Hôm nay, ai cũng nhận định là tình hình đất nước nhiều bê bối. Nhiều người cho rằng xuất phát từ sự lãnh đạo của Đảng mà cụ thể là từ Bộ chính trị.
Nói
cho rõ hơn là từ sau WTO, nếu ta cởi mở về chính trị thì tình hình có
thể khác đi, nhưng ta vẫn giữ nguyên nếp cũ. Ngày hôm nay ta ngẫm lại
xem, ta vẫn như xưa. Vẫn một nền nếp hội họp, ban hành các quyết định
rồi cái thì làm được, cái thì làm được một nửa, có cái nói mà không
làm hoặc nói một đàng làm một nẻo… Vẫn dài dòng, thiếu sức sống, cũng
ngày càng thêm nặng nề. Nặng nề đến mức tự Bộ chính trị phải kêu ầm
lên là suy thoái, nói cả đến việc sẽ bị “tự diễn biến” từ trong nội
bộ. Có người nói, nền nếp lãnh đạo của ta 60 năm rồi vẫn thế.Ông Ôbama nói dài, viết dài, xem kỹ lại là các chuyện thời thơ ấu, các điều răn dạy làm người. Ông đi khắp nơi để bàn về hoà bình, sao không còn thấy ông lớn tiếng dài hơi… Cương lĩnh của ông chỉ có 3 chữ: “Phải thay đổi!”. Ông đẩy mạnh hoà bình, dân chủ bằng diễn đàn toàn cầu, bằng lời góp ý với các nước. Có gì rầm rộ đâu! Ông biết rằng chỉ có hoà bình mới ngăn chặn Trung Quốc làm liều, chỉ có dân chủ, nhân quyền người dân Trung Quốc mới đổi thay số phận.
Ông không đến Việt Nam nhưng những việc ông làm là nỗi khát khao của Việt Nam: dân chủ và hoà bình. Dân chủ trong ôn hoà mới mong tránh được kiếp chư hầu. Ông Obama được giải thưởng Nobel là đúng. Vừa bước lên sân khấu nhưng giọng hát, lời ca đã đi ngay vào lòng người. Ông Ôbama chuẩn bị cuộc đời mình, cuộc đời của một chính khách xuất sắc, động thái đó hiển hiện ngay từ ngày đầu cầm quyền.Hôm nay, ai cũng nhận định là tình hình đất nước nhiều bê bối. Nhiều người cho rằng xuất phát từ sự lãnh đạo của Đảng mà cụ thể là từ Bộ chính trị.
Tình
hình chính trị như vậy là do sức sống của Bộ chính trị. Bộ chính trị
không có một người gọi là chủ soái, nhóm này hôm nay thiểu số, mai lại
đa số, nên có người nói một chính thể mà hai đường lối… mà lại không
giữa chừng thay được như người ta, phải chờ đến Đại hội. Đến Đại hội
vẫn nhùng nhằng như vậy. Thế là suy thoái dài dài, ta tụt hậu sau các
nước cùng cảnh ngộ trước đây nhiều chục năm.
Nói riêng từng người, đến hôm nay không một ai gây được cảm tình từ trong nhân dân, ấy là chưa kể đến có người bị người đời dè bỉu. Kể cũng tội, nhiều người được cụ Mười, cụ Anh tôn lên, mà hai cụ nào có biết ai là người tài. Các cụ có cái chuẩn là kẻ nào bảo được là trung thành với chế độ, đó là chuẩn số 1. Ai làm cũng được, nên đã có chức, có quyền là tự tin ngay. Đầy tự tin mà kém cỏi thì đúng là: “giao quyền hành cho kẻ kém cỏi, khác nào giao súng cho thằng điên”. Choáng ngợp trước quyền hành, giữ quyền hành đến cùng, nhưng lại không làm được việc, lại không tự giác thừa nhận, do đó bưng bít, tránh né. Và cuối cùng là nội bộ mâu thuẫn, nội bộ đã loại trừ nhau…Đất nước gánh chịu tất cả.
Đó là một cơ chế xây dựng quyền lực lạc hậu, nó kìm hãm sự phát triển. Cơ chế này, lúc này lại phải đối mặt với hai thách thức, cùng một lúc ập đến: ta phải hoà nhập với thế giới phương tây để phát triển. Trung Quốc thâm nhập nước ta, mối đe doạ ta phải phụ thuộc họ đã quá rõ ràng. Bộ máy lãnh đạo tối cao của ta như đang bó tay, thế là ta vừa lạc hậu, vừa nô lệ như một sức nặng đè ta nghẹt thở. Bộ máy lãnh đạo tối cao lúc này như đang nghĩ quẩn, trong một tình thế quẫn.
Tôi không hề oán giận các vị. Vì lẽ con người bị hoàn cảnh chi phối, nhào nặn là lẽ thường. Tiếc rằng các vị không ai được bồi đắp để trở thành chính khách, có quyền lại không có một cơ chế ràng buộc, kiểm soát thì tất yếu xảy ra tình hình vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân.
Có lẽ lúc này tìm cách để thay đổi, vớt vát lại. Cái gì cho bản thân, cái gì cho đất nước là con đường tốt nhất.
Gần đây việc dùng bạo lực tràn lan: bắt bớ, giam cầm, xét xử các nhà dân chủ, với các tội gán ghép; xô xát, đàn áp giáo dân, phật tử, tu sĩ; bịt miệng, mạt sát các trí thức, bắt bớ, xét xử các nhà báo… Có nghĩa là đánh tất cả. Không hiểu nhà nước, Đảng dựa vào ai để tồn tại? Hay là như người ta nói: khi sắp tan rã thường một chính quyền… tăng cường đàn áp?
Nói riêng từng người, đến hôm nay không một ai gây được cảm tình từ trong nhân dân, ấy là chưa kể đến có người bị người đời dè bỉu. Kể cũng tội, nhiều người được cụ Mười, cụ Anh tôn lên, mà hai cụ nào có biết ai là người tài. Các cụ có cái chuẩn là kẻ nào bảo được là trung thành với chế độ, đó là chuẩn số 1. Ai làm cũng được, nên đã có chức, có quyền là tự tin ngay. Đầy tự tin mà kém cỏi thì đúng là: “giao quyền hành cho kẻ kém cỏi, khác nào giao súng cho thằng điên”. Choáng ngợp trước quyền hành, giữ quyền hành đến cùng, nhưng lại không làm được việc, lại không tự giác thừa nhận, do đó bưng bít, tránh né. Và cuối cùng là nội bộ mâu thuẫn, nội bộ đã loại trừ nhau…Đất nước gánh chịu tất cả.
Đó là một cơ chế xây dựng quyền lực lạc hậu, nó kìm hãm sự phát triển. Cơ chế này, lúc này lại phải đối mặt với hai thách thức, cùng một lúc ập đến: ta phải hoà nhập với thế giới phương tây để phát triển. Trung Quốc thâm nhập nước ta, mối đe doạ ta phải phụ thuộc họ đã quá rõ ràng. Bộ máy lãnh đạo tối cao của ta như đang bó tay, thế là ta vừa lạc hậu, vừa nô lệ như một sức nặng đè ta nghẹt thở. Bộ máy lãnh đạo tối cao lúc này như đang nghĩ quẩn, trong một tình thế quẫn.
Tôi không hề oán giận các vị. Vì lẽ con người bị hoàn cảnh chi phối, nhào nặn là lẽ thường. Tiếc rằng các vị không ai được bồi đắp để trở thành chính khách, có quyền lại không có một cơ chế ràng buộc, kiểm soát thì tất yếu xảy ra tình hình vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân.
Có lẽ lúc này tìm cách để thay đổi, vớt vát lại. Cái gì cho bản thân, cái gì cho đất nước là con đường tốt nhất.
Gần đây việc dùng bạo lực tràn lan: bắt bớ, giam cầm, xét xử các nhà dân chủ, với các tội gán ghép; xô xát, đàn áp giáo dân, phật tử, tu sĩ; bịt miệng, mạt sát các trí thức, bắt bớ, xét xử các nhà báo… Có nghĩa là đánh tất cả. Không hiểu nhà nước, Đảng dựa vào ai để tồn tại? Hay là như người ta nói: khi sắp tan rã thường một chính quyền… tăng cường đàn áp?
Dựa
vào công an để tồn tại? Không được, vì một khi trong Bộ chính trị
đang có sự chia rẽ thì Công an nghe ai? Công an thi hành các mệnh lệnh
đơn lẻ thì được, nhưng đại cục, lúc có biến động lớn thì không thể
tin được. Nhân dân biểu tình, ngực đeo biển “Tôi là nhân dân”, tay họ
cầm hoa… Liệu những người cầm súng có chúc mũi xuống đất như ta đã
thấy khi bức tường Berlin bị rỡ bỏ không? Đó là cảm nhận của đông
người.
Dựa vào Trung Quốc để tồn tại? Tôi chưa hiểu dựa như thế nào, không biết kịch bản Trung Quốc cứu sự đổ vỡ của Đảng và chính quyền Việt Nam ra sao. Tôi chỉ thấy con đường duy nhất: tồn tại trong thân phận tôi đòi cho Trung Quốc. Không thể nói là tồn tại mà phải nói là đã bán đứt linh hồn cho quỷ sứ.
Gần đây đã lộ rõ một đường lối của Phương Tây: cụm lại để kiềm chế Trung Quốc. Dù có nhiều điều không bằng lòng họ vẫn hồ hởi với Việt Nam, vì Việt Nam còn yếu, nhưng lại vì “ i giữ được Việt Nam, người ấy chiếm được thế giới!”. Có sai lầm không khi nói: Trung Quốc là một nước có nhiều cà rốt, một nước đã từng dạy Việt Nam về lễ nghi, về cách ứng xử nhưng sao lại dùng cách lấn át, lăng nhục, cướp bóc và tàn sát…
Nếu Trung Quốc thật khoẻ còn khá, nếu chỉ là bề ngoài khoẻ thì khả năng Trung Quốc nắm phần thua là điều không thể không xẩy ra.Trước mắt 15 người khổng lồ, cái bàn cờ độc lập và dân chủ đã bày rõ: đi với Trung Quốc thì mất nước, còn đảng, còn quyền nhưng lại là đầy tớ; đi với Phương Tây thì mất quyền nhưng còn nước, chỉ mất thân phận tôi đòi. Mà đi với Phương Tây thì phải dân chủ, dân chủ thì phải phát động quần chúng, giao quyền cho quần chúng. Một sự lựa chọn khó khăn cho người này, rõ ràng, dứt khoát cho người kia.
Dựa vào Trung Quốc để tồn tại? Tôi chưa hiểu dựa như thế nào, không biết kịch bản Trung Quốc cứu sự đổ vỡ của Đảng và chính quyền Việt Nam ra sao. Tôi chỉ thấy con đường duy nhất: tồn tại trong thân phận tôi đòi cho Trung Quốc. Không thể nói là tồn tại mà phải nói là đã bán đứt linh hồn cho quỷ sứ.
Gần đây đã lộ rõ một đường lối của Phương Tây: cụm lại để kiềm chế Trung Quốc. Dù có nhiều điều không bằng lòng họ vẫn hồ hởi với Việt Nam, vì Việt Nam còn yếu, nhưng lại vì “ i giữ được Việt Nam, người ấy chiếm được thế giới!”. Có sai lầm không khi nói: Trung Quốc là một nước có nhiều cà rốt, một nước đã từng dạy Việt Nam về lễ nghi, về cách ứng xử nhưng sao lại dùng cách lấn át, lăng nhục, cướp bóc và tàn sát…
Nếu Trung Quốc thật khoẻ còn khá, nếu chỉ là bề ngoài khoẻ thì khả năng Trung Quốc nắm phần thua là điều không thể không xẩy ra.Trước mắt 15 người khổng lồ, cái bàn cờ độc lập và dân chủ đã bày rõ: đi với Trung Quốc thì mất nước, còn đảng, còn quyền nhưng lại là đầy tớ; đi với Phương Tây thì mất quyền nhưng còn nước, chỉ mất thân phận tôi đòi. Mà đi với Phương Tây thì phải dân chủ, dân chủ thì phải phát động quần chúng, giao quyền cho quần chúng. Một sự lựa chọn khó khăn cho người này, rõ ràng, dứt khoát cho người kia.
Có
thuyết đu đưa giữa hai thế lực và hình như chưa đâu áp dụng - một
thuyết đưa hai thằng thông minh vào cuộc có lợi cho thằng dốt! Thế thì
chúng ta chọn ra 2 người đi, đưa ông Ôbama và ông Hồ Cẩm Đào vào cuộc
để rồi cử một nhà ngoại giao Việt Nam đứng giữa để thu lợi cho Việt
Nam. Thuyết đu đưa giữa 2 thế lực chỉ là cái thuật trong việc tranh
chấp cụ thể, không thể đưa thành thuyết nọ, thuyết kia. Ông đại sứ Việt
Nam ngồi vào HĐBA Liên Hợp Quốc tuyên bố xanh rờn: “Không phụ thuộc
vào nước lớn”, trong khi Trung Quốc lấn át ta bằng đổ máu, bằng giành
giật tài nguyên… Thật là cười ra nước mắt.
Đất nước lạc hậu kéo dài đến gần nửa thế kỷ, các việc ta làm đổ bể, mất mát nhiều hơn là được. Thế giới đang biến động mà ta chập chững, loay hoay. Con đường đi lên chỉ thấy khó khăn. Phải chăng ta bị ý thức hệ kìm hãm? Phải chăng chúng ta chỉ là người trưởng thành trong chiến tranh và bao cấp? Phải chăng hoàn cảnh quay lưng lại với chúng ta, hoàn cảnh đã vượt chúng ta, hoàn cảnh đã đào thải chúng ta?
Đất nước lạc hậu kéo dài đến gần nửa thế kỷ, các việc ta làm đổ bể, mất mát nhiều hơn là được. Thế giới đang biến động mà ta chập chững, loay hoay. Con đường đi lên chỉ thấy khó khăn. Phải chăng ta bị ý thức hệ kìm hãm? Phải chăng chúng ta chỉ là người trưởng thành trong chiến tranh và bao cấp? Phải chăng hoàn cảnh quay lưng lại với chúng ta, hoàn cảnh đã vượt chúng ta, hoàn cảnh đã đào thải chúng ta?
e. Sự thay đổi đã đến gần:
Hay
là dân chủ hoá đã đến gần. Hay đúng hơn: Dân chủ hoá là có thể. Xét
trong phạm vi trong nước, nếu một lòng để Trung Quốc sai khiến thì coi
như mất nước; mất một lúc cả độc lập, tự do, hạnh phúc. Có nghĩa là ta
một lúc gạt bỏ lịch sử 4000 năm. Hậu quả là sẽ có biến động, bạo
động, ly khai, nổi loạn ở trong nước… Đó là chắc chắn. Không cần biện
luận. Đừng hòng có ai sống yên thân.
Xét
trong phạm vi thế giới, cái hoạ Trung Quốc coi như cái hoạ toàn cầu,
thiên hạ đã dứt khoát như thế. Có các động thái họ cụm lại, cụm để hạn
chế Trung Quốc. Mà hạn chế Trung Quốc trước mắt phải giải quyết vấn
đề Việt Nam. Ông Ôbama đi khắp nơi rao giảng hoà bình, cố gắng thu hẹp
các lò lửa chiến tranh. Ông đang bàn thảo để khôi phục lại các căn cứ
quân sự Mỹ tại Châu Á – Thái Bình Dương. Thế là vừa lên sân khấu,
khúc ca đầu tiên đã cuốn hút lòng người. Giải Nobel của ông không phải
là vội vã mà là đích đáng. Các nước Asean lôi kéo Trung Quốc vào bàn
đàm phán để hai bên cùng có lợi, ai ngờ việc đầu tiên lại là vấn đề
Biển Đông. Thế là lời ông Dương Danh Dy: “phải chống Trung Quốc nhưng
Việt Nam đừng chống một mình”. Thế giới đã nghe theo. Lời ông đúng là:
“Bụt chùa nhà không thiêng”.
Dân
chủ hoá lúc này là có thể. Người Việt Nam không bao giờ chịu làm nô
lệ. Người Tàu với Việt Nam hình như bao đời không ưa nhau. Dân chủ hoá,
chỉ có các quan tham ở hai nước phản đối vì lo sợ mất tài sản, lo bị
trả thù… Một khi lòng yêu nước trỗi dậy họ chấp nhận dân chủ hoá, thế
là 100% dân Việt Nam một lòng giữ nước. Các nước trên thế giới: Âu,
Mỹ, Asean sẽ hoan nghênh vì trút khỏi nỗi sợ Trung Quốc. Trung Quốc
đang bối rối nội bộ, đang che chắn chống phản kháng của thế giới, làm
gì có cuộc “động binh” nào chiếm Việt Nam. Cái chủ bài là khống chế
được 15 người khổng lồ, nay họ ra đi, thế là hết phép. Truyền thông
thế giới nói ít đến khó khăn của Trung Quốc là chưa thoả đáng.
Nói
riêng 15 vị khổng lồ, đến ngày hôm nay khi họ đã đánh tất cả các từng
lớp nhân dân, công việc thì bê bối, nội bộ chia rẽ đến phải bộc lộ để
dân biết, cố gắng bày ra việc này việc nọ, nhưng còn ai tin, ai nghe?
Chứng nào, tật nấy: cứ toàn trị, cứ cấm đoán… đến nỗi biểu tình chống
hàng Trung Quốc cũng chờ lệnh…Tự nhiên trong cuộc thi thể thao trong
nhà lại dám liệt Đài Loan thuộc Trung Quốc, ngang Hồng Kông, Ma
Cao…Can đảm chấp nhận dân chủ hoá là con đường duy nhất. Có bàn cãi
chăng chỉ là ở điểm: chuyển đổi như thế nào.IV. Đảng tách ra làm hai – Một cuộc chỉnh đốn đảng đích thực
a. Hãy chấm dứt một cách hiểu sai lệch:
Cựu
tổng thống Bin Clinton nói ở đại học Thanh Hoa: “Phản biện sinh ra
chân lý”. Hai phe có những ý kiến khác nhau, đưa ra luận để tìm ra ý
kiến đúng nhất, hai bên chấp nhận và cùng nhau hợp tác thực hiện, làm
cho mọi việc tốt lên. Ở ta, nhiều người cho dân chủ là tranh luận để
thắng thua… Dân chủ chỉ có đối lập mà không có đồng thuận, không có hợp
tác và chung trách nhiệm, chữ đối kháng chữ đa nguyên coi như cấm kỵ
ai nói tới điều này là phạm tội hình sự!
Đảng tách ra làm hai là làm theo đúng tiêu chí trên: chân lý, phản biện, đồng thuận, chia sẻ trách nhiệm, cùng hợp tác, cùng thực hiện chân lý, cùng phục vụ nhân dân. Bài học Thái Lan đã chỉ rõ: dân chủ là đấu tranh để tìm ra chân lý, cái phải đạt là đồng thuận, đồng thuận ở Thái Lan đến chậm chạp quá, khi đạt được phải trái, đúng sai, họ sẽ tiến lên. Bảo rằng họ đánh nhau có nghĩa là đa đảng không tốt. Đó là do không hiểu thế nào là dân chủ đa nguyên.
Đảng tách ra làm hai là Đảng vẫn còn, Đảng chấm dứt độc tài, độc đoán, độc quyền chân lý…Đảng sẽ là đảng của dân tộc, của nhân dân một cách đích thực. Đảng mạnh lên, đất nước phồn vinh, dân tộc có chỗ đứng xứng đáng trong cộng đồng quốc tế.
Đảng tách ra làm hai là làm theo đúng tiêu chí trên: chân lý, phản biện, đồng thuận, chia sẻ trách nhiệm, cùng hợp tác, cùng thực hiện chân lý, cùng phục vụ nhân dân. Bài học Thái Lan đã chỉ rõ: dân chủ là đấu tranh để tìm ra chân lý, cái phải đạt là đồng thuận, đồng thuận ở Thái Lan đến chậm chạp quá, khi đạt được phải trái, đúng sai, họ sẽ tiến lên. Bảo rằng họ đánh nhau có nghĩa là đa đảng không tốt. Đó là do không hiểu thế nào là dân chủ đa nguyên.
Đảng tách ra làm hai là Đảng vẫn còn, Đảng chấm dứt độc tài, độc đoán, độc quyền chân lý…Đảng sẽ là đảng của dân tộc, của nhân dân một cách đích thực. Đảng mạnh lên, đất nước phồn vinh, dân tộc có chỗ đứng xứng đáng trong cộng đồng quốc tế.
b. Chọn mô thức Đảng tách ra làm hai là một bó buộc:
Toàn
trị thì tha hoá. Tha hoá thì suy yếu đi đến tan vỡ. Nói rằng “Đảng tự
vỡ”, hôm nay không một ai phản bác nhưng tự vỡ như thế nào thì mọi
người ngẩn ngơ.
Có cái gì như thầm lặng nói lên là Đảng ta tiếp tục cầm quyền là khiên cưỡng; không ai trong nhóm cầm quyền có những tố chất của một chính khách; toàn Đảng hiện nay lỏng lẻo đến mức chỉ còn là những người tham quyền. Bao nhiêu năm vẫn giữ đất nước trong vòng lạc hậu; nếu để tiếp tục cầm quyền thì nhất định nước ta sẽ bị nước ngoài thôn tính…Vì thế việc thay đổi như là một đòi hỏi sống còn.
Rà soát lại thì không còn hình thức chuyển đổi nào đã có tiền lệ trong lịch sử: không có phe đối lập để làm việc thay đổi; không có phe đối lập có thể dựa vào nước ngoài để gây ra một cuộc chuyển đổi, nếu có chỉ là một cuộc chuyển đổi để mà mất hết. Trong đội ngũ cầm quyền không có một người, một nhóm nào dám đứng lên để gạt bỏ đối phương để một mình lãnh đạo đất nước; lại không có thể có cuộc xâm lăng quân sự để có người anh hùng giải phóng dân tộc rồi làm vua, làm lãnh tụ…
Còn có những bó buộc khác:Có cái gì như thầm lặng nói lên là Đảng ta tiếp tục cầm quyền là khiên cưỡng; không ai trong nhóm cầm quyền có những tố chất của một chính khách; toàn Đảng hiện nay lỏng lẻo đến mức chỉ còn là những người tham quyền. Bao nhiêu năm vẫn giữ đất nước trong vòng lạc hậu; nếu để tiếp tục cầm quyền thì nhất định nước ta sẽ bị nước ngoài thôn tính…Vì thế việc thay đổi như là một đòi hỏi sống còn.
Rà soát lại thì không còn hình thức chuyển đổi nào đã có tiền lệ trong lịch sử: không có phe đối lập để làm việc thay đổi; không có phe đối lập có thể dựa vào nước ngoài để gây ra một cuộc chuyển đổi, nếu có chỉ là một cuộc chuyển đổi để mà mất hết. Trong đội ngũ cầm quyền không có một người, một nhóm nào dám đứng lên để gạt bỏ đối phương để một mình lãnh đạo đất nước; lại không có thể có cuộc xâm lăng quân sự để có người anh hùng giải phóng dân tộc rồi làm vua, làm lãnh tụ…
đảng
phải tập trung những người ưu tú của dân tộc. Hiện nay thành phần này
và như gần hết nằm trong đảng nhưng bị lép vế với bao nhiêu nỗi niềm
đắng cay. Đảng là đảng cầm quyền, những người có khả năng này là những
người nằm trong đảng, một khi cờ đến tay họ thì gió có yếu, cờ vẫn
bay. Chúng ta còn có bao nhiêu người “cộng sản tử tế”, người vào đảng
để phục vụ nhân dân mà không hề băn khoăn cái gọi là ý thức hệ?
Nếu trong việc thực hiện, làm thật khéo léo, được mọi người ủng hộ, người muốn phản đối cũng thấy không có cái gì hơn đành tặc lưỡi chấp nhận, kẻ thù bên ngoài không có chỗ, không có cái lý để can thiệp, và cái yêu cầu nêu rất khiêm tốn, cần đạt được một điểm gốc chứ không đòi hỏi nhiều vì biết rằng dân chủ hoá là một quá trình, còn nhiều gian khổ… Có thể tóm lược các yêu cầu:
Có từ hai đảng, hai đảng kém, hơn hẳn một đảng xấu. Hai đảng thì có phản biện, có công khai, 4 năm một lần dân có thể thổi còi phạt góc, phạt 11m đến truất quyền thi đấu. Nhìn dần quen dần với vai trò làm chủ của mình, chính nhân dân hoàn thiện dần thể chế, có tham khảo những góp ý của các nhà chính trị, văn hoá để đi tới một nền dân chủ dần dần vững chắc.
Đảng viên là người lãnh đạo, đề ra quốc sách, ứng phó mọi cái… Thế thì phải thuộc về trí thức; mà trí thức ở nhiều lĩnh vực, với cái ý nghĩa trí thức là người giải quyết được mọi yêu cầu do cuộc sống của đất nước đặt ra. Vậy thì “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Một tỉnh có đảng bộ độ 50, 70 người, thành phố có 100 đến 200 người mà có tâm, có tầm, khoẻ bằng vạn đảng bộ có 4, 5 hàng con số… Có tâm, có tầm người ta sẽ làm, không gây hậu quả xấu, chỉ có kết quả tốt đẹp.
Việc chuyển đổi sẽ không gây biến động, không làm sáo trộn đất nước, êm ả mà chuyển đổi, chậm chạp và chắc chắn, bó buộc là không ai được để nước ngoài can thiệp, việc làm có tạo ra đồng thuận.
Không đặt ra việc tìm lý luận, đường lối, chủ thuyết. Đây chỉ là bước đi để hình thành tổ chức, cái việc này do tổ chức có chức năng làm. Lý thuyết về đảng và hội đã khá phổ biến trên thế giới rồi. Trước mắt phải có tổ chức, tổ chức… Thay đổi sao cho tương ứng với nhiệm vụ, với đặc điểm, đó là việc của từng đảng.
Hình
thành tổ chức có thể hình dung: chính những người cộng sản thực hiện
việc tách đảng, con người vẫn là cộng sản, không ai cướp quyền của
đảng. Lẽ dĩ nhiên có một số người ngoài đảng xin gia nhập.Nếu trong việc thực hiện, làm thật khéo léo, được mọi người ủng hộ, người muốn phản đối cũng thấy không có cái gì hơn đành tặc lưỡi chấp nhận, kẻ thù bên ngoài không có chỗ, không có cái lý để can thiệp, và cái yêu cầu nêu rất khiêm tốn, cần đạt được một điểm gốc chứ không đòi hỏi nhiều vì biết rằng dân chủ hoá là một quá trình, còn nhiều gian khổ… Có thể tóm lược các yêu cầu:
Có từ hai đảng, hai đảng kém, hơn hẳn một đảng xấu. Hai đảng thì có phản biện, có công khai, 4 năm một lần dân có thể thổi còi phạt góc, phạt 11m đến truất quyền thi đấu. Nhìn dần quen dần với vai trò làm chủ của mình, chính nhân dân hoàn thiện dần thể chế, có tham khảo những góp ý của các nhà chính trị, văn hoá để đi tới một nền dân chủ dần dần vững chắc.
Đảng viên là người lãnh đạo, đề ra quốc sách, ứng phó mọi cái… Thế thì phải thuộc về trí thức; mà trí thức ở nhiều lĩnh vực, với cái ý nghĩa trí thức là người giải quyết được mọi yêu cầu do cuộc sống của đất nước đặt ra. Vậy thì “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Một tỉnh có đảng bộ độ 50, 70 người, thành phố có 100 đến 200 người mà có tâm, có tầm, khoẻ bằng vạn đảng bộ có 4, 5 hàng con số… Có tâm, có tầm người ta sẽ làm, không gây hậu quả xấu, chỉ có kết quả tốt đẹp.
Việc chuyển đổi sẽ không gây biến động, không làm sáo trộn đất nước, êm ả mà chuyển đổi, chậm chạp và chắc chắn, bó buộc là không ai được để nước ngoài can thiệp, việc làm có tạo ra đồng thuận.
Không đặt ra việc tìm lý luận, đường lối, chủ thuyết. Đây chỉ là bước đi để hình thành tổ chức, cái việc này do tổ chức có chức năng làm. Lý thuyết về đảng và hội đã khá phổ biến trên thế giới rồi. Trước mắt phải có tổ chức, tổ chức… Thay đổi sao cho tương ứng với nhiệm vụ, với đặc điểm, đó là việc của từng đảng.
Phải coi việc tách đảng là một cuộc chỉnh đốn đảng cộng sản hiện đang cầm quyền.
Đảng
viên của đảng đang cầm quyền sẽ chia ra: một số đi theo đảng mới vừa
thành lập, một số vẫn ở trong đảng như hiện nay, một số sẽ ra khỏi
đảng vì rất nhiều lý do. Các đảng mới sẽ tự hoạt động. Đảng đang cầm
quyền nếu không tự tuyên bố giải thể mà vẫn tồn tại, vẫn hoạt động thì
nên tổ chức việc kết nạp lại: những người nhiều tai tiếng, những
người không thiết tha với đảng họ sẽ không đăng ký xin kết nạp lại,
thế là bớt đi một phiền nhiễu cả kẻ đi lẫn người ở lại. Các đảng mới
là cứ hoạt động theo một đạo luật mới, đều bình đẳng. Thế là thể chế
đa đảng hình thành một cách êm ả.
Không quá coi trọng việc viết văn kiện, việc ra mắt. Cái chính là Quôc hội chấp nhận đại diện tham gia ứng cử Quốc hội lập hiến là mọi việc khai thông.
Giữ
nguyên luật pháp hiện hành, luật mới ra đến đâu thì phủ định luật cũ
đến đấy, chấp nhận có sự vênh giữa luật và thực tiễn, nhưng chỉ chấp
nhận tồn tại thời gian tối thiểu.Không quá coi trọng việc viết văn kiện, việc ra mắt. Cái chính là Quôc hội chấp nhận đại diện tham gia ứng cử Quốc hội lập hiến là mọi việc khai thông.
Giữ nguyên bộ máy cũ và chấn chỉnh, sửa đổi dần dần, với một nguyên tắc: người cầm đầu phải là người giỏi nhất, người đứng ra chấn chỉnh ngành, chấn chỉnh từ trên xuống. Coi trọng vai trò người cầm đầu, giai đoạn đầu coi như họ tối hậu quyết định.
Giải quyết tham nhũng có ý kiến cần tiếp tục, có phản bác là giai đoạn vừa chuyển đổi, công việc bề bộn, nhân sự chưa ổn định không thể làm việc chống tham nhũng. Có ý khác là vẫn phải làm bằng mọi giá. Lại thêm có ý kiến chống tham nhũng sẽ rối loạn, sẽ không thiếu những đòi hỏi bức xúc, không riêng gì đối với chống tham nhũng và còn nhiều vấn đề của nhiều lĩnh vực khác. Có thể nên dành cho các đảng được thành lập mở hội nghị bàn tròn để giải quyết.
V. Lộ trình tách đảng và ban vận động thành lập đảng a. Thái độ của Bộ chính trị quyết định việc chuyển đổi:
Nếu bộ chính trị chưa cho rằng việc chuyển đổi là cần thiết và coi cuộc vận động là một hành vi phiến loạn rồi ra tay cấm đoán và đàn áp thì mọi việc cứ như hiện tình mà tiến bước, dành cho thời gian phân xử. Đó có thể là một sai lầm dẫn đến mất nước, khác gì là Lê Chiêu Thống? Nếu Bộ chính trị nhận thức được tình hình thế giới hiện nay các cường quốc đã quy về một mối. Trung Quốc gặp khó, không thể muốn làm gì Việt Nam thì làm. Nhân cơ hội này Việt Nam chuyển đổi thể chế thì Trung Quốc đành bó tay. Thế là ta thoát nạn và một thế lâu dài được mở ra. Trường hợp này chỉ cần Bộ chính trị mặc nhiên để cuộc chuyển đổi êm ả diễn ra và cao hơn nữa là mở hội nghị bàn tròn giữa
đảng
và các tổ chức vừa hình thành bàn bạc. Việc chuyển đổi do quyết định
đa phương phác ra. Khi chuyển đổi thể chế ở Ba Lan, Ba Lan đã phải họp
25 cuộc họp liên tịch, có nhiều cuộc kéo dài, thời gian đến nửa năm.
Ở Việt Nam đây là đóng cửa bàn chuyện nhà. Sau khi bàn soạn kéo dài, đưa ra tuyên bố giữ đảng và chính phủ với các đại biểu nhân dân về cuộc thay đổi thể chế.
Công việc trong nước không hề thay đổi. Từ trên mọi việc thay đổi dần dần. Có tuyên bố tin này đến nhân dân. Một số người sẽ không vui nhưng vẫn phải bằng lòng. Cuộc thay đổi trong tinh thần cả nước một lòng, gác lại quá khứ, toàn dân giữ nước, toàn dân một lòng xây dựng tương lai.
Ở Việt Nam đây là đóng cửa bàn chuyện nhà. Sau khi bàn soạn kéo dài, đưa ra tuyên bố giữ đảng và chính phủ với các đại biểu nhân dân về cuộc thay đổi thể chế.
Công việc trong nước không hề thay đổi. Từ trên mọi việc thay đổi dần dần. Có tuyên bố tin này đến nhân dân. Một số người sẽ không vui nhưng vẫn phải bằng lòng. Cuộc thay đổi trong tinh thần cả nước một lòng, gác lại quá khứ, toàn dân giữ nước, toàn dân một lòng xây dựng tương lai.
b. Tình hình hiện nay:
Trong
tình hình chính trị đất nước hiện nay, cảm thấy là khó có người nào
đó đứng ra hiệu triệu thành lập một đảng chính trị, càng khó hơn ai
dám bí mật tập hợp một số người để lập đảng… Dù rằng bản thân người ấy
đã là những đảng viên, những quan chức cỡ lớn, có tự tin là mình được
nhiều người ái mộ, là mình làm một cuộc dấn thân vì nhân dân. Đây là
hạn chế rất lớn. Làm sao để vượt qua? Có thể chấp nhận một bước đi quá
độ, một bước thăm dò, một giải pháp để vượt rào có thể thu xếp như
sau:
Một số người tự đứng ra vận động thành lập một đảng “đồng thuận”, có tính đa nguyên, tự xác định nhiệm vụ, lề lối như sau:
Thành phần là những đảng viên, cán bộ đã làm việc lâu năm trong tổ chức đảng và tổ chức Nhà nước. Tức là có sự am hiểu nhất định về việc và người. Số người này xác định các đối tượng có thể là nòng cốt cho đảng cần tổ chức để bàn soạn việc chung và riêng.
Một số người tự đứng ra vận động thành lập một đảng “đồng thuận”, có tính đa nguyên, tự xác định nhiệm vụ, lề lối như sau:
Thành phần là những đảng viên, cán bộ đã làm việc lâu năm trong tổ chức đảng và tổ chức Nhà nước. Tức là có sự am hiểu nhất định về việc và người. Số người này xác định các đối tượng có thể là nòng cốt cho đảng cần tổ chức để bàn soạn việc chung và riêng.
Ban
vận động cần mời được đủ từ 30 đến 50 đối tượng thì coi như hoàn
thành nhiệm vụ. Khi mời được người thứ 5, thứ 7 thì những người được
mời dĩ nhiên trở thành thành viên Ban vận động.
Khi con số lên đến 30, 50 thì Ban vận động tự giải thể. Ban phụ trách lâm thời của Đảng được ra đời. Từ ấy, mọi việc là của Ban phụ trách lâm thời.
Ban vận động xét cho cùng là một tổ chức “ lobby chính trị”, một ban liên lạc, một ban thăm dò. Các thành phần trong Ban vận động sau khi hoàn thành nhiệm vụ, lấy thời điểm các ban phụ trách lâm thời các đảng làm nhiệm vụ thì tự giải thể. Các thành viên Ban vận động dù có khả năng cũng không được tham gia các ban bệ của đảng mới.
Việc Bộ chính trị không ngăn chặn, không cấm đoán, không khủng bố những người trong Ban vận động thì mặc nhiên có sự ra đời các đảng mới, thực chất là các đảng viên hiện nay tách ra coi như Bộ chính trị bật đèn xanh cho việc chuyển đổi thể chế.
Khi con số lên đến 30, 50 thì Ban vận động tự giải thể. Ban phụ trách lâm thời của Đảng được ra đời. Từ ấy, mọi việc là của Ban phụ trách lâm thời.
Ban vận động xét cho cùng là một tổ chức “ lobby chính trị”, một ban liên lạc, một ban thăm dò. Các thành phần trong Ban vận động sau khi hoàn thành nhiệm vụ, lấy thời điểm các ban phụ trách lâm thời các đảng làm nhiệm vụ thì tự giải thể. Các thành viên Ban vận động dù có khả năng cũng không được tham gia các ban bệ của đảng mới.
Việc Bộ chính trị không ngăn chặn, không cấm đoán, không khủng bố những người trong Ban vận động thì mặc nhiên có sự ra đời các đảng mới, thực chất là các đảng viên hiện nay tách ra coi như Bộ chính trị bật đèn xanh cho việc chuyển đổi thể chế.
c.
Cái mô thức dân chủ hoá có thể bị dập tắt trong quá trình thực hiện vì
không có sự đồng thuận của đa số trong Bộ chính trị: Ngược lại mô
thức này thành công ở thời điểm luật Bầu cử Quốc hội được ban bố và
các đảng cử đại biểu tham dự mà không bị cản trở. Cái chốt đã được vứt
bỏ, chúng ta không cần bàn nhiều, có biết bao nhiêu tài năng được cởi
trói, mọi việc có thể tiến hành rất nhanh ngoài sức tưởng tượng của
mọi người. Cái não trạng tự mình hù doạ mình sẽ được gột rửa.
VI. Vài dòng kết thúc Trung Quốc hình như đã đi quá đà: thế kỷ 19 là của Anh, thế kỷ 20 là của Mỹ, thế kỷ 21 là của Trung Quốc, nhiều người nói thế và các dấu hiệu đã có. “Trung Quốc là con hổ ngủ”, điều này khi tôi còn nhỏ đã được nghe. Có đến gần 100 năm rồi nhưng vội nói rằng có thể chiếm Việt Nam trong 31 ngày, có thể đánh chiếm Ấn Độ và diệt cả Mỹ… rồi đòi chia đôi biển Thái Bình Dương với Mỹ lấy Hawai làm mốc… Nói thật hay hù doạ. Tôi tin là đã sa đà vào thế đang lên thành ra ngoa ngôn. Các trí thức thế giới hãy nghiên cứu kỹ Trung Quốc để có sự thống nhất nhận định, chỉ đạo cho mọi suy nghĩ và hành động của nhân dân thế giới. Nhân dân Việt Nam có lẽ là người xếp hàng số 1 để có được tài liệu này. Người ta còn nghĩ rằng Trung Quốc đang đi vào con đường của Liên Xô.
VI. Vài dòng kết thúc Trung Quốc hình như đã đi quá đà: thế kỷ 19 là của Anh, thế kỷ 20 là của Mỹ, thế kỷ 21 là của Trung Quốc, nhiều người nói thế và các dấu hiệu đã có. “Trung Quốc là con hổ ngủ”, điều này khi tôi còn nhỏ đã được nghe. Có đến gần 100 năm rồi nhưng vội nói rằng có thể chiếm Việt Nam trong 31 ngày, có thể đánh chiếm Ấn Độ và diệt cả Mỹ… rồi đòi chia đôi biển Thái Bình Dương với Mỹ lấy Hawai làm mốc… Nói thật hay hù doạ. Tôi tin là đã sa đà vào thế đang lên thành ra ngoa ngôn. Các trí thức thế giới hãy nghiên cứu kỹ Trung Quốc để có sự thống nhất nhận định, chỉ đạo cho mọi suy nghĩ và hành động của nhân dân thế giới. Nhân dân Việt Nam có lẽ là người xếp hàng số 1 để có được tài liệu này. Người ta còn nghĩ rằng Trung Quốc đang đi vào con đường của Liên Xô.
Một
tình thế mới đang hé lộ: các nước lớn đã thấy mối đe doạ của Trung
Quốc, họ như đang cụm lại để ngăn chặn Trung Quốc, cả các nước Asean
cũng đã đòi tham gia giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông… Khủng hoảng
về tài chính cũng làm cho Trung Quốc bị tổn thương, chưa rõ mức độ,
khác với trước đây là đa cực nay hình thành như có hai cực… Điều này là
một cái may, là một vận hội chưa bao giờ có. Nếu thế giới ngăn chặn
được Trung Quốc thì Trung Quốc không thể chèn ép quá mức Việt Nam. Lúc
này là lúc Việt Nam nên có thái độ rõ ràng. Thế giới phải giữ Việt
Nam. Trung Quốc phải chiếm được Việt Nam. Trung Quốc mạnh hay thế giới
mạnh, thời điểm một mất một còn, dù chon lựa gì thì cũng phải theo
Phương Tây, mất đảng còn nước.
Theo Phương Đông mất nước, đảng còn nhưng là cái xác không hồn, thế là mất cả đảng cả nước, rồi dẫn đến Hán hoá là mất cả dân tộc. Một sự lựa chon không cần phải bàn cãi. Lúc này là lúc dứt điểm. Còn đối với Trung Quốc vẫn giữ hoà hảo như xưa, không sợ quá mức, hãy xem Trung Quốc gần đây đã hạ giọng rồi… Ta cũng phải kiên trì 16 chữ vàng vì đã nói là “chữ” thì chữ bao giờ cũng đúng. Cái sai là giải thích sai, cái sai là lớn hơn, là thực hiện sai. Ta nên lấy 16 chữ vàng để buộc Trung Quốc phải thực thi. Ta phải giao quyền lực cho Quốc hội để làm chỗ dựa đối nhau với Trung Quốc và luôn nhớ rằng ta không biết tự vệ là thiếu sót của ta.
Theo Phương Đông mất nước, đảng còn nhưng là cái xác không hồn, thế là mất cả đảng cả nước, rồi dẫn đến Hán hoá là mất cả dân tộc. Một sự lựa chon không cần phải bàn cãi. Lúc này là lúc dứt điểm. Còn đối với Trung Quốc vẫn giữ hoà hảo như xưa, không sợ quá mức, hãy xem Trung Quốc gần đây đã hạ giọng rồi… Ta cũng phải kiên trì 16 chữ vàng vì đã nói là “chữ” thì chữ bao giờ cũng đúng. Cái sai là giải thích sai, cái sai là lớn hơn, là thực hiện sai. Ta nên lấy 16 chữ vàng để buộc Trung Quốc phải thực thi. Ta phải giao quyền lực cho Quốc hội để làm chỗ dựa đối nhau với Trung Quốc và luôn nhớ rằng ta không biết tự vệ là thiếu sót của ta.
Lúc
này hãy nghiêng hẳn về Phương Tây, lúc này chớp thời cơ để dân chủ
hoá, Trung Quốc đang lúng túng, chưa thể “động binh” để diệt ta. Đánh
lẻ, ăn chắc trong cái thế toàn cục đang chưa ổn định. Phải chăng là
điều có thể?
Đất nước ta hôm nay như trong tình trạng nước sôi lửa bỏng: Trước Đại hội X, mong mỏi của nhân dân là mở rộng dân chủ cho dễ thở, có lực để phát triển và chống được tham nhũng. Trước Đại hội sắp tới, việc Trung Quốc thâm nhập vào Việt Nam quá rõ ràng. Mọi suy nghĩ chuyển thành làm sao giữ được độc lập. Tất cả tập trung hy vọng vào việc dân chủ hoá. Dân chủ hoá sẽ giải quyết được việc trước mắt là độc lập, nhưng cũng một lúc giải quyết tham nhũng và mở đường cho phát triển.Thế là trở lại khẩu hiệu: “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” của năm 1945. Dân chủ hoá! Hai chữ ngắn gọn mà ngọt ngào, lại là tất cả trong lúc này.
Đất nước ta hôm nay như trong tình trạng nước sôi lửa bỏng: Trước Đại hội X, mong mỏi của nhân dân là mở rộng dân chủ cho dễ thở, có lực để phát triển và chống được tham nhũng. Trước Đại hội sắp tới, việc Trung Quốc thâm nhập vào Việt Nam quá rõ ràng. Mọi suy nghĩ chuyển thành làm sao giữ được độc lập. Tất cả tập trung hy vọng vào việc dân chủ hoá. Dân chủ hoá sẽ giải quyết được việc trước mắt là độc lập, nhưng cũng một lúc giải quyết tham nhũng và mở đường cho phát triển.Thế là trở lại khẩu hiệu: “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” của năm 1945. Dân chủ hoá! Hai chữ ngắn gọn mà ngọt ngào, lại là tất cả trong lúc này.
Luật Sư Trần Lâm
Tháng 11/2009
Nhìn Lại: Lý Ra, VN Phải Dân Chủ Từ 1945
Luật sư Trần Thanh Hiệp
Có
thể cải tổ luật pháp để tiến tới dân chủ từng bước hay không? Đó là
một quan tâm của Luật Sư Trần Thanh Hiệp, người từ Pháp đang tới thăm
nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, thảo luận với nhiều nhà hoạt động và thúc đẩy
cho nỗ lực dân chủ hóa tại quê nhà. Trong khi ghé thăm tòa soạn Việt
Báo hôm Thứ Ba 9-10-2007, vị chuyên gia luật pháp kỳ cựu trên 80 tuổi
này đã tâm sự về các mối quan tâm của ông, và chia sẻ các ưu tư từ
khía cạnh một nhà hoạt động về luật pháp nhiều thập niên. Ngồi giữa
thủ đô tị nạn Hoa Kỳ, Luật sư Trần Thanh Hiệp bày tỏ tin tưởng rằng đất
nước mình trước sau gì cũng sẽ dân chủ, tuy bây giờ còn nằm dưới gọng
kềm nhà nước độc tài cộng sản. Ong nói, dân chủ không còn là giấc mơ,
mà đang là sức mạnh lịch sử cho cả dân tộc, và "Từ năm 1945, dân tộc
chúng ta đã chọn con đường dân chủ.
Cựu Hoàng Bảo Đại đã hy sinh ngôi báu để toàn dân thiết lập dân chủ, nhưng những người Cộng Sản đã phản bội trắng trợn để áp đặt độc tài toàn trị. Bây giờ, dân tộc Việt Nam đã có một khoảng không gian tự do: đó chính là khối 3 triệu người Việt hải ngoại. Cho nên, nhiệm vụ người Việt hải ngoại là phải tiếp trợ các nhà dân chủ quốc nội để xóa bỏ độc tài và xây dựng dân chủ." Vào Thứ Sáu tuần này, luật sư Trần Thanh Hiệp sẽ rời Quận Cam, để thăm San Jose và rồi sẽ tới Oregon trên chuyến đi góp sức với vận động dân chủ. Mới mấy ngày trước, luật sư Trần Thanh Hiệp đã nói chuyện trên đài Á Châu Tự Do RFA, và trên làn sóng phát về quốc nội chung lời hội luận với một luật sư lão thành từ Hà Nội bàn về vấn đề dân chủ và tư pháp VN.
Cuộc hội luận, do phóng viên Trà Mi điều hợp, trên làn sóng này có 3 phần, tuy đề tài chuyên môn nhưng đã thu hút nhiều quan tâm từ thính giả trong và ngoài nước. Bản tường trình nhan đề "Hội luận trong ngoài nước về hiện tình ngành tư pháp Việt Nam" thực hiện với Trà Mi, phóng viên đài RFA, đã nêu bật được hiện tình luật pháp VN, các trở ngại dân chủ từ quốc nội - và có một số điểm quan trọng trích đoạn như sau. Những tồn tại trong hệ thống pháp luật Việt Nam lâu nay vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi lẫn bức xúc cho dư luận trong và ngoài nước. Để tìm hiểu thêm về thực tại của nền pháp lý Việt Nam và hướng tới những thay đổi kỳ vọng trong tương lai, Ban Việt Ngữ chúng tôi có cuộc trao đổi với hai vị luật sư trong và ngoài nước.
Đó là luật sư Trần Lâm, từ Hải Phòng, nguyên Chánh án Tòa Án Nhân dân Tối cao và cũng là một trong số rất ít những luật sư đang tham gia bào chữa các vụ án chính trị trong nước. Và luật sư Trần Thanh Hiệp, từ Pháp, cựu luật sư các toà Thựơng thẩm ở Sài Gòn cũng như tại Paris, hiện là Chủ tịch Trung tâm Việt Nam về nhân quyền, tác giả của nhiều bài nghiên cứu về chủ thuyết Hiến trị, nhà nước pháp quyền-pháp trị. Cả hai vị luật sư này năm nay đã ngoài 80 tuổi và là những chuyên gia kỳ cựu, nhiều năm kinh nghiệm trong ngành toà án….
- Luật sư Trần Lâm: Đối với Việt Nam thì mình đừng suy nghĩ tình hình cũng như là ở các nước kia, bởi vì pháp trị tức là mọi người phải theo quy định của pháp luật, chứ còn ở Việt Nam thì nó còn là nhân trị, tức là ý của người cầm quyền đấy, họ muốn làm gì là họ làm. Đấy, cái khổ của ta như thế đấy. Thế thì mang nó ra mà so sánh với các nước thì thấy là không thể chấp nhận được. Về chuyện tạm giam thì có vi phạm nhiều, nhưng theo tôi thì chưa phải là vấn đề đáng quan tâm vì còn nhiều cái nguy hiểm hơn cái tạm giam. "Nhân trị" đúng hơn là "pháp trị"?
- Trà Mi: Thưa ông, ông vừa nói là ở Việt Nam phải dùng từ "nhân trị" đúng hơn là "pháp trị"? - Luật sư Trần Lâm: Đấy là nhân trị. Ở nước ta đấy là nhân trị, chưa thể là pháp trị. Bởi vì ở nước ta hiện nay việc xử án, như cái vụ đất ở Đồ Sơn - đó là tội trọng rồi thế mà người ta mang ra xử tội rất nhẹ với án treo thôi, thế rồi dư luận bức xúc quá người ta mang ra xử lại bây giờ là 7 năm tù. Đấy cô xem, từ án treo, thấp nhất đấy, rồi trở thành 7 năm tù, cô thấy sự chênh lệch có ghê gớm không! Cái chuyện tạm giam ấy mà tôi xin mạnh dạn nói với cô đấy là một việc thấp nhất của chúng ta. - Trà Mi: Xin mời Luật sư Trần Thanh Hiệp góp ý thêm ạ.
- Luật sư Trần Thanh Hiệp: Nghe Luật sư Trần Lâm nói về cái thực trạng pháp luật ở Việt Nam thì điều đó ngoài sự tưởng tượng của tôi. Tôi xin đi sát vào câu hỏi, thứ nhất là cái nghị định 31-CP đã bãi bỏ chưa? Hay là chỉ bãi bỏ về mặt hình thức. Điểm thứ hai là từ căn bản nền pháp luật đó là pháp luật nào?
- Trà Mi: Dạ, xin mời Luật sư Trần Lâm. - Luật sư Trần Lâm: Nghị định 31-CP thì bãi bỏ rồi, nhưng mà nội dung của 31-CP thì đựơc chuyển sang một luật hành chính mới hơi tương tự như cái 31-CP. Nhưng hôm nay tôi không có tài liệu để đọc cho Bác biết. Thực ra đáng lẽ chúng tôi phải hàng ngày cập nhật chuyện đó, nhưng mà nói thật với Bác là ở nước ta ấy mà cái chuyện đó người ta làm cũng thường thường thôi.
- Luật sư Trần Thanh Hiệp: Xin Luật sư Trần Lâm cho biết cái luật hành chánh đó đưa ra những quy phạm để áp dụng nội dung của nghị định đã bị bãi bỏ, thế thì khoảng cách của các ngành là như thế nào? Luật hành chánh với luật hình sự ra làm sao?
- Luật sư Trần Lâm: Thực ra cái 31-CP người ta đưa vào luật hành chính, nhưng ở nước ngoài hay ở trong dân ngưòi ta cho đấy là một cái luật bỏ tù người ta mà không có xét xử. Bây giờ bỏ cái đó rồi lại đưa vào trong luật hành chánh có nhẹ hơn, thì xin lỗi Bác cái đó đáng nhẽ ra chúng tôi phải đọc kỹ rồi xem được thực hiện như thế nào, việc đó tôi chưa làm được. Hiện nay có những người bị bắt mà không biết bị bắt theo hành chính hay theo hình sự mà không thấy bị khởi tố, không thấy làm các thủ tục, thì đấy có tình trạng như vậy. Người ta cũng đang thắc mắc là những người bị bắt như thế thì phải cho rõ ràng, bị bắt vì tội gì, hành chính thì thế nào và hình sự thì thế nào. Có những chuyện như thế, đó là sự thật.
Chúng tôi không che giấu cho ai cả. Đó là thực tế ở trong nước. Tôi muốn nói với bà con ở nước ngoài để thông cảm. Tôi thừa nhận là có các việc ấy. (…) - Trà Mi: Chúng tôi xin được đặt ra câu hỏi là những luật sư, những người đóng vai trò là một lực lượng tiêu biểu để bảo vệ người dân thì vai trò đó của họ như thế nào trong việc giúp giữ được cán cân công lý hoặc là xây dựng một xã hội ổn định về chính trị?
- Luật sư Trần Thanh Hiệp: Vâng, về điểm này, tôi xin phép luật sư Trần Lâm để tôi nói ngay điều này. Muốn cho luật sư -như Trà Mi nói- có một vai trò nào trong trật tự chính trị - xã hội ở Việt Nam thì trứơc tiên phải quy chiếu vào cái gọi là "luật luật sư" hiện thời của Việt Nam. Người luật sư phải là kết tinh của quyền bào chữa.
Và luật luật sư hiện thời ở Việt Nam, theo tôi, đã không cho người luật sư làm tốt nhất, đúng như là các tiêu chuẩn ở các nước dân chủ tự do, tức là tượng trưng cho quyền bào chữa. Họ là chuyên gia về luật pháp cung cấp một số dịch vụ pháp lý ở trong khuôn khổ pháp lý của chế độ thôi. Theo sự theo dõi của tôi, ngay trong những việc Luật sư Trần Lâm đã biện hộ cho các bị can thì tôi thấy là không làm được bởi vì LS Trần Lâm cũng như các luật sư khác bị gò bó vào trong cái luật luật sư hiện thời ở Việt Nam.
- Luật sư Trần Lâm: Thưa Bác, tình hình luật sư ở Việt Nam thì như thế này ạ. Cách đây độ một hai năm có nhiều đạo luật mới về luật sư cũng mở rộng thẩm quyền, mở rộng phạm vi. Đó là nói trên giấy tờ thì tốt, nhưng vai trò của luật sư Việt Nam hiện nay so với nước ngoài thì nó thấp lắm. Nó thấp là vì người dân chưa biết dùng luật sư, người ta chưa hiểu luật sư thế nào cả. Trình độ dân chủ, trình độ văn hoá của người dân thấp cho nên việc dùng luật sư cũng bị hạn chế. Bản thân đội ngũ luật sư nói thực là cũng yếu vì học hành cũng không đến nơi đến chốn. Rồi công việc trong nước cũng không có để mà giỏi.
Luật sư hiện nay rất ít người nuôi sống được mình. Đến quá nửa số luật sư làm việc cho vui thôi. Còn đối với nhà nước thì nhà nước cũng có tôn trọng trên giấy tờ, nhưng trên thực tế thì lại thiếu tôn trọng. Cho nên vai trò người luật sư cũng không có đủ khả năng để làm công việc dân trao cho mình và luật pháp giao cho mình. Họ không đủ năng lực để làm việc đó. Mà chính người cầm quyền thì lại cũng không ủng hộ bộ máy nhà nước, vẫn quan liêu và vẫn thích làm theo ý mình. Mình có quyền thì làm theo ý mình. Hiện nay thì tình trạng là như thế. Còn bây giờ chúng tôi làm gì? Ngay bây giờ giới luật sư trên toàn quốc đêu muốn có luật sư đoàn để từ luật sư đoàn ấy có một vị thế, rồi có sự học tập lẫn nhau, nó có một tổ chức. Nhưng luật sư đoàn hiện nay không có. Ngay một nước tự xưng là pháp quyền mà lại không có luật sư đoàn.
Lụât sư chỉ được theo từng tỉnh mà thôi. Theo từng tỉnh đó cụ ạ. Chưa có luật sư đoàn toàn quốc. - Trà Mi: Dạ thưa, trong những vấn đề Luật sư Trần Lâm vừa trình bày có 3 điểm là do dân trí còn thấp, không hiểu rõ vai trò và chức năng của luật sư.
Nhưng thưa luật sư, thậm chí trong trường hợp những vụ án mà nghi can lại rất rành pháp luật, ví dụ trường hợp luật sư Đài, luật sư Công Nhân, thế thì không lẽ những người đó cũng không hiểu về vai trò của luật sư để kiếm cho mình một luật sư bênh vực mình thích đáng, mà hậu quả của họ bây giờ như chúng ta đã thấy là cũng có luật sư đứng ra bào chữa mà hiệu quả thì không đến đâu. Vậy có phải là do chính người bị nạn không hiểu rõ vai trò của luật sư hay vì một lý do nào khác khiến cho họ không được bảo vệ một cách chính đáng?
- Luật sư Trần Lâm: Dân không hiểu vai trò của luật sư, không biết sử dụng luật sư, và thêm nữa là dân cũng nghèo, không có tiền để thuê luật sư. Có nhiều cái hạn chế lắm. - Trà Mi: Như ông là người đã từng can thiệp vào trường hợp của luật sư Công Nhân đó, thưa ông? - Luật sư Trần Lâm: Hiện nay tôi là luật sư bào chữa cho các vị ấy.
- Trà Mi: Dạ thưa ông, trong những trường hợp này mà nói là vì dân trí thấp, không biết sử dụng luật sư, v.v. thì không biết có thích hợp với trường hợp này hay không?
- Luật sư Trần Lâm: Chỉ mấy người như Công Nhân và Đài thôi. Mà thực ra như mấy cái vụ xử án sơ thẩm đó ngưòi ta chả cho Đài cũng chả cho Công Nhân biện hộ tranh luận mà chỉ xử ào ào cho xong thôi. Ngay đấy là hai luật sư ra toà và vừa rồi 6-7 luật sư ra toà, nhưng tóm lại người ta cũng chỉ xử ào ào cho xong thôi chứ họ cũng chẳng được bảo vệ gì. Tôi nói như trên là nói chung người dân thôi, chứ các bị cáo như hai luật sư Đài và Công Nhân thì từ xưa tới nay hiếm có đó cô ạ.
- Trà Mi: Ý tôi muốn nêu ra ở đây là thậm chí như cả trường hợp ngưòi ta rất hiểu biết về pháp luật cũng chưa chắc là sẽ được bảo vệ bằng luật pháp, bằng công lý, phải không, thưa ông? - Luật sư Trần Lâm: Nói rằng "người dân được luật pháp bảo vệ, được dư luận quần chúng bảo vệ" thì những chuyện đó là nói chung thôi.
- Trà Mi: Thưa, hồi nãy ông có nói ở Việt Nam thực trạng này vẫn còn tồn tại bấy lâu nay, đó là trên giấy tờ về mặt nguyên tắc là có đủ các quy định nhưng về mặt thực tế lại không được thực thi. - Luật sư Trần Lâm: Vâng, tức là không làm như thế (như trên giấy tờ).
- Trà Mi: Vậy theo ý ông thì các luật sư nên có thái độ như thế nào hoặc cần phải làm gì tích cực hơn, cụ thể hơn để phát huy chức năng của mình, ngoài việc trông chờ những sự thay đổi từ phía nhà nước. - Luật sư Trần Lâm: Bây giờ chúng ta cũng phải chờ cái tổ chức nó được củng cố như thế nào đã. Nếu có luật sư đoàn thì sẽ có hội họp, sẽ có kiến nghị này nọ. Chứ còn nếu như hiện trạng thì nó vẫn lẻ tẻ thôi.
- Trà Mi: Vậy Luật sư Trần Thanh Hiệp có đề nghị nào không? - Luật sư Trần Thanh Hiệp: Tôi thấy luật sư ở Việt Nam hiện thời bây giờ làm một cái giấy khai sanh chỉ cho họ hành nghề trong phạm vi khuôn khổ của cái giấy khai sanh đó mà thôi. Bây giờ đòi hỏi các luật sư đang hành nghề đó (thủ tục giấy tờ, lời Luật sư Trần Lâm bổ túc) những hành động đặc biệt. Thứ nhất, nếu chỉ dựa vào khuôn khổ cứng nhắc của luật hiện hành thì không thể nói được điều gì ngoài những điều chính quyền cho phép nói.
Còn nếu muốn vượt ra ngoài, theo tôi, có hai con đường. Một con đường là ngay trong những vụ xét xử phải làm thế nào tìm hết tất cả mọi kẽ hở của luật pháp, những sự bất toàn của luật pháp hiện hành để mà bênh vực, thể hiện cái quyền được tự do bào chữa cho những bị cáo, bảo đảm cho họ được hưởng những sự xét xử công bằng. Làm như thế thì người luật sư sẽ phải chịu những hậu quả của công việc của mình, tức là theo truyên thống của nghê nghiệp luật sư trên thế giới thì rất nhiều người đã làm công việc đó. Tôi không hiểu các đồng nghiệp của tôi ở trong nước có sẵn sàng làm công việc đó hay không.
Ngoài ra còn có con đường khác mà theo kinh nghiệm của chúng tôi trong truyền thống của Luật Sư Đoàn Pháp, thì luật sư là những ngòi bút viết để cổ vũ, bênh vực cho tự do. Nhưng ở Việt Nam, trong khuôn khổ hiện thời không có quyền tự do ngôn luận, không có quyền tự do phát biểu, và báo chí cũng bị bao vây đến nỗi hơn 600 tờ báo trở thành các công cụ của một đường lối cai trị nhất định, thì những luật sư có thiện chí như Luật sư Trần Lâm liệu có làm được công việc đó hay không.
Tôi thấy rất là khó khăn và phải trả giá, vậy liệu những người trong cuộc có sẵn sàng trả giá đó để cho lý tưởng gọi là quyền bào chữa tự do của người luật sư có được thực hiện hay không. Người luật sư phải tự mình lựa chọn lấy và tự mình dám hành sử, chư còn nếu chính quyền cứ giữ nguyên cái khuôn khổ thì tôi thấy rằng khó lòng mà cải thiện cho được.
- Luật sư Trần Lâm: Tôi đồng ý với Bác là kể ra hãy còn gian nan và kéo dài thật đấy. Nhưng mà tình trạng dân chủ của luật sư thì còn có điều này mà Bác chưa biết. Đó là ông thẩm phán cũng không được độc lập cơ mà. Ông thẩm phán cũng không có dân chủ cơ mà. Tôi đã cãi cho một vụ mà trong đó người học trò của tôi ngồi ở ghế thẩm phán, còn tôi ở vai luật sư.
Khi ra giải lao tôi, tôi nói giữa cá nhân với nhau rằng "Sao cậu lại làm như thế?" thì anh ta đáp "Bác được tự do chứ tôi có được tự do đâu!" Anh ta bảo với tôi như thế thì Bác bảo phải làm sao nào? Thẩm phán nói với ông thầy của nó đồng thời là luật sư rằng "Luật sư các ông còn được nói lung tung chứ tôi không được tự do", bởi vì ở Việt Nam có cái gọi là "án bỏ túi" cơ mà Bác. Tức là người ta quyết định là vụ này xử thì nên xử như thế nào. Còn phiên toà chỉ là để diễn cơ mà. Đấy, Bác phải biết sự thật toà án nó như thế đấy mà Bác bảo phải thê nọ thế kia .(…) oOo Đàn áp không phải là Công lý
Cựu Hoàng Bảo Đại đã hy sinh ngôi báu để toàn dân thiết lập dân chủ, nhưng những người Cộng Sản đã phản bội trắng trợn để áp đặt độc tài toàn trị. Bây giờ, dân tộc Việt Nam đã có một khoảng không gian tự do: đó chính là khối 3 triệu người Việt hải ngoại. Cho nên, nhiệm vụ người Việt hải ngoại là phải tiếp trợ các nhà dân chủ quốc nội để xóa bỏ độc tài và xây dựng dân chủ." Vào Thứ Sáu tuần này, luật sư Trần Thanh Hiệp sẽ rời Quận Cam, để thăm San Jose và rồi sẽ tới Oregon trên chuyến đi góp sức với vận động dân chủ. Mới mấy ngày trước, luật sư Trần Thanh Hiệp đã nói chuyện trên đài Á Châu Tự Do RFA, và trên làn sóng phát về quốc nội chung lời hội luận với một luật sư lão thành từ Hà Nội bàn về vấn đề dân chủ và tư pháp VN.
Cuộc hội luận, do phóng viên Trà Mi điều hợp, trên làn sóng này có 3 phần, tuy đề tài chuyên môn nhưng đã thu hút nhiều quan tâm từ thính giả trong và ngoài nước. Bản tường trình nhan đề "Hội luận trong ngoài nước về hiện tình ngành tư pháp Việt Nam" thực hiện với Trà Mi, phóng viên đài RFA, đã nêu bật được hiện tình luật pháp VN, các trở ngại dân chủ từ quốc nội - và có một số điểm quan trọng trích đoạn như sau. Những tồn tại trong hệ thống pháp luật Việt Nam lâu nay vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi lẫn bức xúc cho dư luận trong và ngoài nước. Để tìm hiểu thêm về thực tại của nền pháp lý Việt Nam và hướng tới những thay đổi kỳ vọng trong tương lai, Ban Việt Ngữ chúng tôi có cuộc trao đổi với hai vị luật sư trong và ngoài nước.
Đó là luật sư Trần Lâm, từ Hải Phòng, nguyên Chánh án Tòa Án Nhân dân Tối cao và cũng là một trong số rất ít những luật sư đang tham gia bào chữa các vụ án chính trị trong nước. Và luật sư Trần Thanh Hiệp, từ Pháp, cựu luật sư các toà Thựơng thẩm ở Sài Gòn cũng như tại Paris, hiện là Chủ tịch Trung tâm Việt Nam về nhân quyền, tác giả của nhiều bài nghiên cứu về chủ thuyết Hiến trị, nhà nước pháp quyền-pháp trị. Cả hai vị luật sư này năm nay đã ngoài 80 tuổi và là những chuyên gia kỳ cựu, nhiều năm kinh nghiệm trong ngành toà án….
- Luật sư Trần Lâm: Đối với Việt Nam thì mình đừng suy nghĩ tình hình cũng như là ở các nước kia, bởi vì pháp trị tức là mọi người phải theo quy định của pháp luật, chứ còn ở Việt Nam thì nó còn là nhân trị, tức là ý của người cầm quyền đấy, họ muốn làm gì là họ làm. Đấy, cái khổ của ta như thế đấy. Thế thì mang nó ra mà so sánh với các nước thì thấy là không thể chấp nhận được. Về chuyện tạm giam thì có vi phạm nhiều, nhưng theo tôi thì chưa phải là vấn đề đáng quan tâm vì còn nhiều cái nguy hiểm hơn cái tạm giam. "Nhân trị" đúng hơn là "pháp trị"?
- Trà Mi: Thưa ông, ông vừa nói là ở Việt Nam phải dùng từ "nhân trị" đúng hơn là "pháp trị"? - Luật sư Trần Lâm: Đấy là nhân trị. Ở nước ta đấy là nhân trị, chưa thể là pháp trị. Bởi vì ở nước ta hiện nay việc xử án, như cái vụ đất ở Đồ Sơn - đó là tội trọng rồi thế mà người ta mang ra xử tội rất nhẹ với án treo thôi, thế rồi dư luận bức xúc quá người ta mang ra xử lại bây giờ là 7 năm tù. Đấy cô xem, từ án treo, thấp nhất đấy, rồi trở thành 7 năm tù, cô thấy sự chênh lệch có ghê gớm không! Cái chuyện tạm giam ấy mà tôi xin mạnh dạn nói với cô đấy là một việc thấp nhất của chúng ta. - Trà Mi: Xin mời Luật sư Trần Thanh Hiệp góp ý thêm ạ.
- Luật sư Trần Thanh Hiệp: Nghe Luật sư Trần Lâm nói về cái thực trạng pháp luật ở Việt Nam thì điều đó ngoài sự tưởng tượng của tôi. Tôi xin đi sát vào câu hỏi, thứ nhất là cái nghị định 31-CP đã bãi bỏ chưa? Hay là chỉ bãi bỏ về mặt hình thức. Điểm thứ hai là từ căn bản nền pháp luật đó là pháp luật nào?
- Trà Mi: Dạ, xin mời Luật sư Trần Lâm. - Luật sư Trần Lâm: Nghị định 31-CP thì bãi bỏ rồi, nhưng mà nội dung của 31-CP thì đựơc chuyển sang một luật hành chính mới hơi tương tự như cái 31-CP. Nhưng hôm nay tôi không có tài liệu để đọc cho Bác biết. Thực ra đáng lẽ chúng tôi phải hàng ngày cập nhật chuyện đó, nhưng mà nói thật với Bác là ở nước ta ấy mà cái chuyện đó người ta làm cũng thường thường thôi.
- Luật sư Trần Thanh Hiệp: Xin Luật sư Trần Lâm cho biết cái luật hành chánh đó đưa ra những quy phạm để áp dụng nội dung của nghị định đã bị bãi bỏ, thế thì khoảng cách của các ngành là như thế nào? Luật hành chánh với luật hình sự ra làm sao?
- Luật sư Trần Lâm: Thực ra cái 31-CP người ta đưa vào luật hành chính, nhưng ở nước ngoài hay ở trong dân ngưòi ta cho đấy là một cái luật bỏ tù người ta mà không có xét xử. Bây giờ bỏ cái đó rồi lại đưa vào trong luật hành chánh có nhẹ hơn, thì xin lỗi Bác cái đó đáng nhẽ ra chúng tôi phải đọc kỹ rồi xem được thực hiện như thế nào, việc đó tôi chưa làm được. Hiện nay có những người bị bắt mà không biết bị bắt theo hành chính hay theo hình sự mà không thấy bị khởi tố, không thấy làm các thủ tục, thì đấy có tình trạng như vậy. Người ta cũng đang thắc mắc là những người bị bắt như thế thì phải cho rõ ràng, bị bắt vì tội gì, hành chính thì thế nào và hình sự thì thế nào. Có những chuyện như thế, đó là sự thật.
Chúng tôi không che giấu cho ai cả. Đó là thực tế ở trong nước. Tôi muốn nói với bà con ở nước ngoài để thông cảm. Tôi thừa nhận là có các việc ấy. (…) - Trà Mi: Chúng tôi xin được đặt ra câu hỏi là những luật sư, những người đóng vai trò là một lực lượng tiêu biểu để bảo vệ người dân thì vai trò đó của họ như thế nào trong việc giúp giữ được cán cân công lý hoặc là xây dựng một xã hội ổn định về chính trị?
- Luật sư Trần Thanh Hiệp: Vâng, về điểm này, tôi xin phép luật sư Trần Lâm để tôi nói ngay điều này. Muốn cho luật sư -như Trà Mi nói- có một vai trò nào trong trật tự chính trị - xã hội ở Việt Nam thì trứơc tiên phải quy chiếu vào cái gọi là "luật luật sư" hiện thời của Việt Nam. Người luật sư phải là kết tinh của quyền bào chữa.
Và luật luật sư hiện thời ở Việt Nam, theo tôi, đã không cho người luật sư làm tốt nhất, đúng như là các tiêu chuẩn ở các nước dân chủ tự do, tức là tượng trưng cho quyền bào chữa. Họ là chuyên gia về luật pháp cung cấp một số dịch vụ pháp lý ở trong khuôn khổ pháp lý của chế độ thôi. Theo sự theo dõi của tôi, ngay trong những việc Luật sư Trần Lâm đã biện hộ cho các bị can thì tôi thấy là không làm được bởi vì LS Trần Lâm cũng như các luật sư khác bị gò bó vào trong cái luật luật sư hiện thời ở Việt Nam.
- Luật sư Trần Lâm: Thưa Bác, tình hình luật sư ở Việt Nam thì như thế này ạ. Cách đây độ một hai năm có nhiều đạo luật mới về luật sư cũng mở rộng thẩm quyền, mở rộng phạm vi. Đó là nói trên giấy tờ thì tốt, nhưng vai trò của luật sư Việt Nam hiện nay so với nước ngoài thì nó thấp lắm. Nó thấp là vì người dân chưa biết dùng luật sư, người ta chưa hiểu luật sư thế nào cả. Trình độ dân chủ, trình độ văn hoá của người dân thấp cho nên việc dùng luật sư cũng bị hạn chế. Bản thân đội ngũ luật sư nói thực là cũng yếu vì học hành cũng không đến nơi đến chốn. Rồi công việc trong nước cũng không có để mà giỏi.
Luật sư hiện nay rất ít người nuôi sống được mình. Đến quá nửa số luật sư làm việc cho vui thôi. Còn đối với nhà nước thì nhà nước cũng có tôn trọng trên giấy tờ, nhưng trên thực tế thì lại thiếu tôn trọng. Cho nên vai trò người luật sư cũng không có đủ khả năng để làm công việc dân trao cho mình và luật pháp giao cho mình. Họ không đủ năng lực để làm việc đó. Mà chính người cầm quyền thì lại cũng không ủng hộ bộ máy nhà nước, vẫn quan liêu và vẫn thích làm theo ý mình. Mình có quyền thì làm theo ý mình. Hiện nay thì tình trạng là như thế. Còn bây giờ chúng tôi làm gì? Ngay bây giờ giới luật sư trên toàn quốc đêu muốn có luật sư đoàn để từ luật sư đoàn ấy có một vị thế, rồi có sự học tập lẫn nhau, nó có một tổ chức. Nhưng luật sư đoàn hiện nay không có. Ngay một nước tự xưng là pháp quyền mà lại không có luật sư đoàn.
Lụât sư chỉ được theo từng tỉnh mà thôi. Theo từng tỉnh đó cụ ạ. Chưa có luật sư đoàn toàn quốc. - Trà Mi: Dạ thưa, trong những vấn đề Luật sư Trần Lâm vừa trình bày có 3 điểm là do dân trí còn thấp, không hiểu rõ vai trò và chức năng của luật sư.
Nhưng thưa luật sư, thậm chí trong trường hợp những vụ án mà nghi can lại rất rành pháp luật, ví dụ trường hợp luật sư Đài, luật sư Công Nhân, thế thì không lẽ những người đó cũng không hiểu về vai trò của luật sư để kiếm cho mình một luật sư bênh vực mình thích đáng, mà hậu quả của họ bây giờ như chúng ta đã thấy là cũng có luật sư đứng ra bào chữa mà hiệu quả thì không đến đâu. Vậy có phải là do chính người bị nạn không hiểu rõ vai trò của luật sư hay vì một lý do nào khác khiến cho họ không được bảo vệ một cách chính đáng?
- Luật sư Trần Lâm: Dân không hiểu vai trò của luật sư, không biết sử dụng luật sư, và thêm nữa là dân cũng nghèo, không có tiền để thuê luật sư. Có nhiều cái hạn chế lắm. - Trà Mi: Như ông là người đã từng can thiệp vào trường hợp của luật sư Công Nhân đó, thưa ông? - Luật sư Trần Lâm: Hiện nay tôi là luật sư bào chữa cho các vị ấy.
- Trà Mi: Dạ thưa ông, trong những trường hợp này mà nói là vì dân trí thấp, không biết sử dụng luật sư, v.v. thì không biết có thích hợp với trường hợp này hay không?
- Luật sư Trần Lâm: Chỉ mấy người như Công Nhân và Đài thôi. Mà thực ra như mấy cái vụ xử án sơ thẩm đó ngưòi ta chả cho Đài cũng chả cho Công Nhân biện hộ tranh luận mà chỉ xử ào ào cho xong thôi. Ngay đấy là hai luật sư ra toà và vừa rồi 6-7 luật sư ra toà, nhưng tóm lại người ta cũng chỉ xử ào ào cho xong thôi chứ họ cũng chẳng được bảo vệ gì. Tôi nói như trên là nói chung người dân thôi, chứ các bị cáo như hai luật sư Đài và Công Nhân thì từ xưa tới nay hiếm có đó cô ạ.
- Trà Mi: Ý tôi muốn nêu ra ở đây là thậm chí như cả trường hợp ngưòi ta rất hiểu biết về pháp luật cũng chưa chắc là sẽ được bảo vệ bằng luật pháp, bằng công lý, phải không, thưa ông? - Luật sư Trần Lâm: Nói rằng "người dân được luật pháp bảo vệ, được dư luận quần chúng bảo vệ" thì những chuyện đó là nói chung thôi.
- Trà Mi: Thưa, hồi nãy ông có nói ở Việt Nam thực trạng này vẫn còn tồn tại bấy lâu nay, đó là trên giấy tờ về mặt nguyên tắc là có đủ các quy định nhưng về mặt thực tế lại không được thực thi. - Luật sư Trần Lâm: Vâng, tức là không làm như thế (như trên giấy tờ).
- Trà Mi: Vậy theo ý ông thì các luật sư nên có thái độ như thế nào hoặc cần phải làm gì tích cực hơn, cụ thể hơn để phát huy chức năng của mình, ngoài việc trông chờ những sự thay đổi từ phía nhà nước. - Luật sư Trần Lâm: Bây giờ chúng ta cũng phải chờ cái tổ chức nó được củng cố như thế nào đã. Nếu có luật sư đoàn thì sẽ có hội họp, sẽ có kiến nghị này nọ. Chứ còn nếu như hiện trạng thì nó vẫn lẻ tẻ thôi.
- Trà Mi: Vậy Luật sư Trần Thanh Hiệp có đề nghị nào không? - Luật sư Trần Thanh Hiệp: Tôi thấy luật sư ở Việt Nam hiện thời bây giờ làm một cái giấy khai sanh chỉ cho họ hành nghề trong phạm vi khuôn khổ của cái giấy khai sanh đó mà thôi. Bây giờ đòi hỏi các luật sư đang hành nghề đó (thủ tục giấy tờ, lời Luật sư Trần Lâm bổ túc) những hành động đặc biệt. Thứ nhất, nếu chỉ dựa vào khuôn khổ cứng nhắc của luật hiện hành thì không thể nói được điều gì ngoài những điều chính quyền cho phép nói.
Còn nếu muốn vượt ra ngoài, theo tôi, có hai con đường. Một con đường là ngay trong những vụ xét xử phải làm thế nào tìm hết tất cả mọi kẽ hở của luật pháp, những sự bất toàn của luật pháp hiện hành để mà bênh vực, thể hiện cái quyền được tự do bào chữa cho những bị cáo, bảo đảm cho họ được hưởng những sự xét xử công bằng. Làm như thế thì người luật sư sẽ phải chịu những hậu quả của công việc của mình, tức là theo truyên thống của nghê nghiệp luật sư trên thế giới thì rất nhiều người đã làm công việc đó. Tôi không hiểu các đồng nghiệp của tôi ở trong nước có sẵn sàng làm công việc đó hay không.
Ngoài ra còn có con đường khác mà theo kinh nghiệm của chúng tôi trong truyền thống của Luật Sư Đoàn Pháp, thì luật sư là những ngòi bút viết để cổ vũ, bênh vực cho tự do. Nhưng ở Việt Nam, trong khuôn khổ hiện thời không có quyền tự do ngôn luận, không có quyền tự do phát biểu, và báo chí cũng bị bao vây đến nỗi hơn 600 tờ báo trở thành các công cụ của một đường lối cai trị nhất định, thì những luật sư có thiện chí như Luật sư Trần Lâm liệu có làm được công việc đó hay không.
Tôi thấy rất là khó khăn và phải trả giá, vậy liệu những người trong cuộc có sẵn sàng trả giá đó để cho lý tưởng gọi là quyền bào chữa tự do của người luật sư có được thực hiện hay không. Người luật sư phải tự mình lựa chọn lấy và tự mình dám hành sử, chư còn nếu chính quyền cứ giữ nguyên cái khuôn khổ thì tôi thấy rằng khó lòng mà cải thiện cho được.
- Luật sư Trần Lâm: Tôi đồng ý với Bác là kể ra hãy còn gian nan và kéo dài thật đấy. Nhưng mà tình trạng dân chủ của luật sư thì còn có điều này mà Bác chưa biết. Đó là ông thẩm phán cũng không được độc lập cơ mà. Ông thẩm phán cũng không có dân chủ cơ mà. Tôi đã cãi cho một vụ mà trong đó người học trò của tôi ngồi ở ghế thẩm phán, còn tôi ở vai luật sư.
Khi ra giải lao tôi, tôi nói giữa cá nhân với nhau rằng "Sao cậu lại làm như thế?" thì anh ta đáp "Bác được tự do chứ tôi có được tự do đâu!" Anh ta bảo với tôi như thế thì Bác bảo phải làm sao nào? Thẩm phán nói với ông thầy của nó đồng thời là luật sư rằng "Luật sư các ông còn được nói lung tung chứ tôi không được tự do", bởi vì ở Việt Nam có cái gọi là "án bỏ túi" cơ mà Bác. Tức là người ta quyết định là vụ này xử thì nên xử như thế nào. Còn phiên toà chỉ là để diễn cơ mà. Đấy, Bác phải biết sự thật toà án nó như thế đấy mà Bác bảo phải thê nọ thế kia .(…) oOo Đàn áp không phải là Công lý
LS Trần Thanh Hiệp:
Việt Long, phóng viên RFA, 2010-01-19
Ngày
20 và 21 tháng 1 năm 2010, chính quyền VN sẽ xét xử nhiều nhà tranh
đấu vì nhân quyền như LS Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, nhà văn
Nguyễn Xuân Nghĩa… Luật sư Trần Thanh Hiệp đưa ra nhận định trước các
phiên tòa.Việt Long, phóng viên RFA, 2010-01-19
Tòa án nhân Hà Nội vừa mới xử lại và giữ nguyên bản án sơ thẩm phạt 4 năm tù giam, kỹ sư Phạm Văn Trội, 3 năm tù giam đối với nhà văn Trần Đức Thạch và nhà giáo Vũ Hùng về tội tuyên truyền chống Nhà nước.
Ngày
20-01-2010 tòa án nhân dân cấp sơ thẩm thành phố Sài Gòn sẽ xử vụ các
nhận vật trí thức trong đó có Luật sư Lê Công Định, kỹ sư Nguyễn Tiến
Trung bị truy tố về tội âm mưu lật đổ chính quyền. Và ngày 21-01-2010
tòa án nhân dân Hải Phòng cũng mở phiên xử phúc thẩm để xử lại vụ 6
nhân vật khác về tội tuyên truyền chống Nhà nước, trong đó nhà văn
Nguyễn Xuân Nghĩa bị coi là chủ mưu, được yêu cầu cho biết nhận xét của
ông về những phiên xử hàng loạt nói trên.
Luật sư Trần Thanh Hiệp, chủ tịch Trung Tâm Việt Nam về Nhân Quyền, trụ sở đặt tại Paris, nói rằng ông rất quan tâm trước bước leo thang đàn áp rất đáng quan ngại hiện nay của bộ máy cầm quyền Hà Nội. Sau đây xin mời quý vị theo dõi cuộc trao đổi giữa Việt Long của đài Á Châu Tự Do và Luật sư Hiệp. Leo thang đàn áp Cơ quan điều tra khởi đầu đã làm tình làm tội để ép buộc các bị can nhận tội trước báo chí là đã phạm vào điều 88 Bô luật hình sự.
Nhưng phút chót các cơ quan này lại đổi tội danh. LS Trần Thanh Hiệp. Việt Long: Trong những phiên xử tại Việt Nam như vừa được trình bày, có lẽ công luận đang chờ theo dõi diễn tiến vụ xử 4 nhân vật được quốc tế biết đến nhiều, mà hồ sơ tội trạng đã được thiết lập chiếu điều 79 Bộ luật hình sự xử lý tội âm mưu lật đổ chính quyền.
Cảm tưởng của luật sư ra sao về các mặt nhân quyền, công lý ở Việt Nam trước những phiên xử dồn dập như vậy? LS Trần Thanh Hiệp: Quang cảnh náo nhiệt trong sinh hoạt tư pháp vừa được nêu lên đó mang nhiều ý nghĩa vừa đã rất rõ vừa lại chưa rõ. Theo tôi, có một điều đã rất rõ đó là tình trạng căng thẳng này trong xã hội bắt nguồn từ sự chống đối đường lối cai trị của nhà cầm quyền ngày càng gia tăng và càng tỏ ra không còn là việc nhỏ nữa, không thể bỏ qua hay giải quyết bằng biện pháp hành chánh được mà phải nhờ đến tòa án.
Nếu luật pháp mà tốt nghĩa là thuận lòng người và tòa án là trọng tài vô tư thì mức độ căng thẳng sẽ sút giảm vì công lý được thực hiện. Nhưng việc tòa phúc thẩm Hà Nội trong vụ Phạm Văn Trội-Trần Đức Thạch vẫn giữ nguyên những mức hình phạt của tòa dưới mặc dù các đương sự đã kháng cáo cho thấy là công lý vẫn chưa xuất hiện. Tất nhiên còn phải đợi thêm kết quả của hai vụ sắp xử thì mới rút ra được những kết luận đầy đủ.
Vậy trong khi chờ đợi thì tôi có thể nói rằng công lý vẫn ở đằng trước và cho đến phiên xử vừa qua của tòa phúc thẩm Hà Nội thì cuộc đàn áp đối lập ở Việt Nam vẫn tiếp tục qua những bước leo thang mới. Nguyễn Tiến Trung. Photo courtesy nguyentientrungblog . Việt Long: Tòa trên chỉ y án tòa dưới thì luật sư cũng cho là leo thang sao? LS Trần Thanh Hiệp: Tuy tôi đã thận trọng để nói rằng có những bước leo thang đàn áp mới nhưng thật ra cũng đã có leo thang trong vụ án Phạm Văn Trội-Trần Đức Thạch.
Tòa phúc thẩm không leo lên một bậc mới nhưng đã đứng ở bậc cũ mà tòa dưới đã leo, tức là tòa này đã bướcthêm một bước leo thang đàn áp đối với những người dân hoạt động dân chủ ôn hòa. Tôi sẽ xin bàn sau nếu có cơ hội, về vụ án Nguyễn Xuân Nghĩa sắp xử trong những ngày tới. Nhưng trong vụ Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Trần Hùynh Duy Thức tuy chưa xử nhưng đã có leo thang đàn áp rồi. Cơ quan điều tra khởi đầu đã làm tình làm tội để ép buộc các bị can nhận tội trước báo chí là đã phạm vào điều 88 Bô luật hình sự.
Nhưng phút chót các cơ quan này lại đổi tội danh từ nhẹ là tội tuyên truyền chống Nhà nước sang tội nặng hơn là âm mưu lật đổ chính quyền mà hình phạt tối đa là tử hình.
Đổi mà không giải thích được, như mọi người đã thấy trong phiên xử ông Trần Anh Kim, vì sao đã phải đổi tội như thế. Vậy thì chỉ còn là vì muốn leo thang mượn điều 79 này để hù dọa mà khủng bố dân. Ngoài ra lại còn bao vây bao chí cấm không cho những cơ quan truyền thông đại chúng được sử dụng các dụng cụ truyền thanh, truyền hình để theo dõi và tường thuật phiên xử. Rõ ràng la một bước leo thang để hòng lên tới đỉnh cao thời toàn trị Xit TaLin, Mao Trạch Đông v.v… Âm mưu lật đổ chính quyền?
Việt
Long: Liệu Nhà nước Việt Nam có thể nói rằng vì điều 79 liên quan tới
một tội phạm rất nghiêm trọng nên cần phải xử kín không?Luật sư Trần Thanh Hiệp, chủ tịch Trung Tâm Việt Nam về Nhân Quyền, trụ sở đặt tại Paris, nói rằng ông rất quan tâm trước bước leo thang đàn áp rất đáng quan ngại hiện nay của bộ máy cầm quyền Hà Nội. Sau đây xin mời quý vị theo dõi cuộc trao đổi giữa Việt Long của đài Á Châu Tự Do và Luật sư Hiệp. Leo thang đàn áp Cơ quan điều tra khởi đầu đã làm tình làm tội để ép buộc các bị can nhận tội trước báo chí là đã phạm vào điều 88 Bô luật hình sự.
Nhưng phút chót các cơ quan này lại đổi tội danh. LS Trần Thanh Hiệp. Việt Long: Trong những phiên xử tại Việt Nam như vừa được trình bày, có lẽ công luận đang chờ theo dõi diễn tiến vụ xử 4 nhân vật được quốc tế biết đến nhiều, mà hồ sơ tội trạng đã được thiết lập chiếu điều 79 Bộ luật hình sự xử lý tội âm mưu lật đổ chính quyền.
Cảm tưởng của luật sư ra sao về các mặt nhân quyền, công lý ở Việt Nam trước những phiên xử dồn dập như vậy? LS Trần Thanh Hiệp: Quang cảnh náo nhiệt trong sinh hoạt tư pháp vừa được nêu lên đó mang nhiều ý nghĩa vừa đã rất rõ vừa lại chưa rõ. Theo tôi, có một điều đã rất rõ đó là tình trạng căng thẳng này trong xã hội bắt nguồn từ sự chống đối đường lối cai trị của nhà cầm quyền ngày càng gia tăng và càng tỏ ra không còn là việc nhỏ nữa, không thể bỏ qua hay giải quyết bằng biện pháp hành chánh được mà phải nhờ đến tòa án.
Nếu luật pháp mà tốt nghĩa là thuận lòng người và tòa án là trọng tài vô tư thì mức độ căng thẳng sẽ sút giảm vì công lý được thực hiện. Nhưng việc tòa phúc thẩm Hà Nội trong vụ Phạm Văn Trội-Trần Đức Thạch vẫn giữ nguyên những mức hình phạt của tòa dưới mặc dù các đương sự đã kháng cáo cho thấy là công lý vẫn chưa xuất hiện. Tất nhiên còn phải đợi thêm kết quả của hai vụ sắp xử thì mới rút ra được những kết luận đầy đủ.
Vậy trong khi chờ đợi thì tôi có thể nói rằng công lý vẫn ở đằng trước và cho đến phiên xử vừa qua của tòa phúc thẩm Hà Nội thì cuộc đàn áp đối lập ở Việt Nam vẫn tiếp tục qua những bước leo thang mới. Nguyễn Tiến Trung. Photo courtesy nguyentientrungblog . Việt Long: Tòa trên chỉ y án tòa dưới thì luật sư cũng cho là leo thang sao? LS Trần Thanh Hiệp: Tuy tôi đã thận trọng để nói rằng có những bước leo thang đàn áp mới nhưng thật ra cũng đã có leo thang trong vụ án Phạm Văn Trội-Trần Đức Thạch.
Tòa phúc thẩm không leo lên một bậc mới nhưng đã đứng ở bậc cũ mà tòa dưới đã leo, tức là tòa này đã bướcthêm một bước leo thang đàn áp đối với những người dân hoạt động dân chủ ôn hòa. Tôi sẽ xin bàn sau nếu có cơ hội, về vụ án Nguyễn Xuân Nghĩa sắp xử trong những ngày tới. Nhưng trong vụ Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Trần Hùynh Duy Thức tuy chưa xử nhưng đã có leo thang đàn áp rồi. Cơ quan điều tra khởi đầu đã làm tình làm tội để ép buộc các bị can nhận tội trước báo chí là đã phạm vào điều 88 Bô luật hình sự.
Nhưng phút chót các cơ quan này lại đổi tội danh từ nhẹ là tội tuyên truyền chống Nhà nước sang tội nặng hơn là âm mưu lật đổ chính quyền mà hình phạt tối đa là tử hình.
Đổi mà không giải thích được, như mọi người đã thấy trong phiên xử ông Trần Anh Kim, vì sao đã phải đổi tội như thế. Vậy thì chỉ còn là vì muốn leo thang mượn điều 79 này để hù dọa mà khủng bố dân. Ngoài ra lại còn bao vây bao chí cấm không cho những cơ quan truyền thông đại chúng được sử dụng các dụng cụ truyền thanh, truyền hình để theo dõi và tường thuật phiên xử. Rõ ràng la một bước leo thang để hòng lên tới đỉnh cao thời toàn trị Xit TaLin, Mao Trạch Đông v.v… Âm mưu lật đổ chính quyền?
Trên
nguyên tắc thì tòa án có quyền lấy quyết định xử kín, nhưng một khi
đã cho công chúng tham dự thì tình trạng nửa kín nửa hở là điều không
biện minh được. LS Trần Thanh Hiệp. LS Trần Thanh Hiệp: Trên nguyên tắc
thì tòa án có quyền lấy quyết định xử kín, nhưng một khi đã cho công
chúng tham dự thì tình trạng nửa kín nửa hở là điều không biện minh
được. Nhưng leo thang không phải chỉ vì cách xử nửa kín nửa hở này mà
là vì ngay chính điều 79 Bộ luật hình sự. Tôi cần đi sâu một chút về
luật học để nói cho rõ về điều khoản này.
Việt Long: Mời luật sư nêu ý kiến. LS Trần Thanh Hiệp: Đúng là ở trong các bộ luật hình sự của hầu hết quốc gia trên thế giới đều có ghi tội danh âm mưu lật đổ chính quyền. Nhưng để xét xử thông qua tội danh ấy thì phải căn cứ vào nội dung của nó chứ không thể chỉ dựa vào danh xưng mà thôi. Và ở trong nội dung này phải định nghĩa thế nào là “âm mưu”, là “lật đổ”, là “chính quyền”. Chứ không phải bất cứ một hành vi nào hoặc là ý nghĩ, quan điểm hoặc là tinh cảm không ưa hay ngay cả muốn thay đổi chính quyền tại chức cũng có thể bị ghép vao tội âm mưu lật đổ chính quyền được.
Luật sư Trần Thanh Hiệp.Việt Long: Mời luật sư nêu ý kiến. LS Trần Thanh Hiệp: Đúng là ở trong các bộ luật hình sự của hầu hết quốc gia trên thế giới đều có ghi tội danh âm mưu lật đổ chính quyền. Nhưng để xét xử thông qua tội danh ấy thì phải căn cứ vào nội dung của nó chứ không thể chỉ dựa vào danh xưng mà thôi. Và ở trong nội dung này phải định nghĩa thế nào là “âm mưu”, là “lật đổ”, là “chính quyền”. Chứ không phải bất cứ một hành vi nào hoặc là ý nghĩ, quan điểm hoặc là tinh cảm không ưa hay ngay cả muốn thay đổi chính quyền tại chức cũng có thể bị ghép vao tội âm mưu lật đổ chính quyền được.
Nói
chung các bộ luật ấy đều xác định rằng chỉ là âm mưu lật đổ chính
quyền những hành vi nào mang tính bạo lực trực tiếp xâm phạm đến lãnh
thổ, an ninh đối nội, đối ngoại, đến sự tồn vong của chính thể, của chế
độ thì mới có thể coi là âm mưu lật đổ chính quyền. Bộ luật hình sự
đương hành ở Việt Nam trái lại nơi điều 79 cực kỳ mơ hồ về cách định
nghĩa tội danh lật đổ chính quyền. Vì chỉ thấy nói rằng: ”Người nào
hoạt động hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thì bị
phạt như sau….”, tuyệt nhiên không xác định thế nào là lật đổ chẳng
lẽ một đề nghị bằng lời phát biểu hay bằng bài viêt thay đổi để chế độ
xấu trở thành tốt cũng bị coi là lật đổ chính quyền hay sao? Việt
Long: Dù coi đó là một điều khoản mơ hồ chăng nữa thì luật sư căn cứ
vào đâu để khẳng định rằng tự bản thân sự mơ hồ đó là một bước leo
thang?
LS Trần Thanh Hiệp: Bộ luật hình sự năm 2000 hiện đang áp dụng dưới chế độ đương hành ở Việt Nam là một kiến trúc hính luật thoát thai từ bộ luật hình sự năm 1995 là con đẻ của chế độ chuyên chính vô sản toàn trị được thiết lập năm 1980.
Trong khung cảnh chính trị đó thì người ta hiểu được vì sao không một ai nếu không phải là Đảng Cộn sản Việt Nam có quyền thay đổi chế độ và loại tôi phạm lật đổ mơ hồ kiểu điều 79 có cơ sở ý thức hệ để biện minh. Nhưng cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, cả hệ thống độc tài toàn trị cộng sản ở Đông Âu và Liên Xô cũ sụp đổ, Đảng cộng sản cầm quyền ở Việt Nam năm 1992 và 2001 đã phải sửa đổi hiến pháp để đổi mới, từ bỏ chuyên chê để di vào dân chủ và hội nhập vào cộng dồng thế giới.
Điều 3 của Hiến pháp, văn bản sửa đổi và bổ sung năm 2001 đã ghi rằng “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc…” Điều 3 này từ tinh thần đến văn tự đã long trọng và công khai dưới hình thức thành văn công nhận cho bất cứ một người dân nào với tư cách là một thành tố của người chủ tập thể đất nước cũng có quyền tự do suy nghĩ, đề xuất đường lối thực hiện một xã hội văn minh, dân chủ. Luật sư Lê Công Định trên cơ sở những kiến thức hiện đại về luật học cũng như về chính trị học của ông nếu có đưa ra những đề xuất sửa đổi hiến pháp hay soạn thảo mộ hiến pháp mới hoàn bị hơn thì ông chỉ hành sử mộ “quyền chính trị” hợp pháp vì đã được đạo luật tối cao của quốc gia công nhân.
Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa.LS Trần Thanh Hiệp: Bộ luật hình sự năm 2000 hiện đang áp dụng dưới chế độ đương hành ở Việt Nam là một kiến trúc hính luật thoát thai từ bộ luật hình sự năm 1995 là con đẻ của chế độ chuyên chính vô sản toàn trị được thiết lập năm 1980.
Trong khung cảnh chính trị đó thì người ta hiểu được vì sao không một ai nếu không phải là Đảng Cộn sản Việt Nam có quyền thay đổi chế độ và loại tôi phạm lật đổ mơ hồ kiểu điều 79 có cơ sở ý thức hệ để biện minh. Nhưng cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, cả hệ thống độc tài toàn trị cộng sản ở Đông Âu và Liên Xô cũ sụp đổ, Đảng cộng sản cầm quyền ở Việt Nam năm 1992 và 2001 đã phải sửa đổi hiến pháp để đổi mới, từ bỏ chuyên chê để di vào dân chủ và hội nhập vào cộng dồng thế giới.
Điều 3 của Hiến pháp, văn bản sửa đổi và bổ sung năm 2001 đã ghi rằng “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc…” Điều 3 này từ tinh thần đến văn tự đã long trọng và công khai dưới hình thức thành văn công nhận cho bất cứ một người dân nào với tư cách là một thành tố của người chủ tập thể đất nước cũng có quyền tự do suy nghĩ, đề xuất đường lối thực hiện một xã hội văn minh, dân chủ. Luật sư Lê Công Định trên cơ sở những kiến thức hiện đại về luật học cũng như về chính trị học của ông nếu có đưa ra những đề xuất sửa đổi hiến pháp hay soạn thảo mộ hiến pháp mới hoàn bị hơn thì ông chỉ hành sử mộ “quyền chính trị” hợp pháp vì đã được đạo luật tối cao của quốc gia công nhân.
Thanh
niên Nguyễn Tiến Trung gia nhập một chính đảng Đảng Dân Chủ có thành
tích tham gia tử những ngày đầu của cuộc cách mạng dân chủ năm 1945 để
cổ võ cho sự phát huy của sinh hoạt dân chủ cho phù hợp với xu thế
của thời đại không thể coi là lật đổ chính quyền được nhất là chính
quyền ấy đã cam kết và bảo đảm thực thi dân chủ. Như vậy, bình thường
ra nhà cầm quyền Hà Nội không có cơ sở pháp lý xác đáng và vững chắc
để truy tố dưới tội danh lật đổ chính quyền những nhà tranh đấu dân
chủ ôn hòa và tiến bộ như Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Trần Huỳnh
Duy Thức.
Nhưng nếu cứ truy tố bừa bãi rồi bỏ tù họ, như đã xảy ra trong vụ xử Trần Anh Kim thì rõ ràng là một vụ leo thang đàn áp chứ không phải là một vụ xét xử công bằng để thực hiện công lý Việt Long: Vậy theo luật sư, thế nào là xét xử công bằng để thực hiện công lý?
LS Trần Thanh Hiệp: Theo tôi, phải chấm dứt ngay chính sách đàn áp có hệ thống và quy mô mà nhà cầm quyền Hà Nội đang muốn đi tới cùng. Để giữ cho xã hội có trật tự và ổn định, phải áp dụng nghiêm chỉnh pháp luật. Muốn vậy phải sửa đổi càng sớm càng tốt hệ thống pháp luậ công cụ đàn áp để thay thế bằng một hệ thống pháp tôn trọng và bảo vệ nhân quyền. Tôi tin rằng nếu chọn hướng đi mới này nhà cầm quyền Hà Nội sẽ nhận được sự trợ lực rộng lớn ở khắp mọi nơi trên thế giới. Việt Long: Xin cảm ơn luật sư Trần Thanh Hiệp và xin được nhắc lại, rằng ý kiến của luật sư Hiệp không nhất thiết phản ánh quan điểm của đài Á Châu Tự Do.
Nhưng nếu cứ truy tố bừa bãi rồi bỏ tù họ, như đã xảy ra trong vụ xử Trần Anh Kim thì rõ ràng là một vụ leo thang đàn áp chứ không phải là một vụ xét xử công bằng để thực hiện công lý Việt Long: Vậy theo luật sư, thế nào là xét xử công bằng để thực hiện công lý?
LS Trần Thanh Hiệp: Theo tôi, phải chấm dứt ngay chính sách đàn áp có hệ thống và quy mô mà nhà cầm quyền Hà Nội đang muốn đi tới cùng. Để giữ cho xã hội có trật tự và ổn định, phải áp dụng nghiêm chỉnh pháp luật. Muốn vậy phải sửa đổi càng sớm càng tốt hệ thống pháp luậ công cụ đàn áp để thay thế bằng một hệ thống pháp tôn trọng và bảo vệ nhân quyền. Tôi tin rằng nếu chọn hướng đi mới này nhà cầm quyền Hà Nội sẽ nhận được sự trợ lực rộng lớn ở khắp mọi nơi trên thế giới. Việt Long: Xin cảm ơn luật sư Trần Thanh Hiệp và xin được nhắc lại, rằng ý kiến của luật sư Hiệp không nhất thiết phản ánh quan điểm của đài Á Châu Tự Do.
QUÁN NHẬU BƯỚM VÀNG
Hôm nay, nhân ngày lễ Phục sinh năm 2012, mấy lão già tại xóm Gà lại tụ họp tại quán Bướm Vàng.
Tư Râu:
Các bác nghe tin gì chưa?
Cả bọn nhao nhao, đua nhau hỏi:
-Tin gì thế?
-Tin động trời. Báo Mỹ đăng tin rầm lên là một người Việt tại CHXHCN Việt Nam đã mua đứt một thành phố Mỹ ở cạnh thủ đô Washington.
-Ông SáuTắc Xi nói: Ai bảo dân Việt nghèo? Ai bảo dân Việt Nam là vô sản!
Bà Sư An ninh phường đứng bán hàng góp ý:
-Thế là Mỹ thua Việt Nam rồi. Ai bảo nước Mỹ giàu mạnh. Nay mai, Mỹ nghèo mạt rệp phải bán nước, bán đất đai cho Việt Nam anh hùng, cho Trung Quốc vĩ đại!Ngày xưa ta đã thắng về quân sự, nay ta lại đại thắng về kinh tế! Hoan hô đảng anh hùng!
Năm Móm nói:
Chắc trung ương đảng và Trung Cộng mừng lắm vì Viêt Nam ta đã xâm chiếm một phần nước Mỹ, sau dần dần sẽ chiếm toàn nước Mỹ, Đúng là Đảng bách chiến bách thắng, Thành công đại thành công!
Ông Bảy Còm nói:
-Tại sao tụi Mỹ ngu như thế nhỉ? Tại sao lại nó lại chịu để cho người Việt Nam xâm lược nước nó?
Trước kia Mỹ xâm lược Việt Nam, ha ha, nay Việt Nam xâm lược Mỹ!
Lão Tám Vịt Cồ nói:
-Các ông, các bà đừng chủ quan. Thánh dạy Việt Nam muốn sống còn thì phải Quy mã. Quy mã là qua Mỹ. Đám sĩ quan VNCH đã qua Mỹ mà sống còn. Nay tư bản đỏ muốn sống thì cũng phải quy mã. Thế là họ mua nhà, mua đất ở Mỹ để chuẩn bị cuộc "tháo chạy"!Ông Tư Râu nói:
-Tại sao lại phải quy mã?
Ông Hai Dừa Xiêm nói:" Có lẽ tụi nó sợ Tàu sắp đánh qua Việt Nam rồi chúng cắt cổ tập thể mấy thằng Việt cộng rồi chúng cươp nhà cửa, vàng, đô la cho nên phải lo chạy trước!Ông Bảy Còm nói: Tụi chúng đã đầu hàng, cắt đất dâng biển, bao nhiêu lần sang triều cống mà còn sợ gì?
Tám Vịt Cồ nói: Đầu hàng cũng chết. Bộ các ông không thấy Từ Hải nghe lời Kiều đầu hàng mà vẫn mất mạng, mất vợ và cơ nghiệp sao?
Lão Hai Dừa Xiêm nói: Đảng ta theo chủ nghĩa Cộng sản chống tư bản, tại sao lại phải chạy sang Mỹ?
Ông Năm Móm: Ngày xưa có Liên Xô, Trung Quốc, hễ có chuyện gì là chạy sang Liên Xô, Trung Quốc. Nay thì chạy đường nào? Nếu Trung Cộng đánh là phải chạy qua Thái Lan, Phi Luật Tân, Úc, Mỹ mà thôi, không còn đường nào nữa!Thằng Mỹ khôn thiệt, nó rút ra khỏi Việt Nam và Thái Bình Dương là ván cờ Châu Á, Thái Bình Dương thay đổi ngay, mà thay đổi có lợi cho Mỹ!Ông Sáu Tắc xi nói: Các ông không nghe tin các quan lớn đã cho hàng vạn các cô các cậu du học Mỹ, Canada, Úc mang tài sản và mua nhà cửa bên đó, hễ có biến động là họ dông! Việt Nam bây giờ thiếu vàng, đô la vì họ đã mang hết sang ngân hàng Thụy sĩ, ngân hàng Mỹ, Úc, Canada cho nên bây giờ ngân hàng trống rỗng là vậy!Lão Sáu Lùn nói:
Tại các bác không biết đó thôi chứ di cư sang Úc, Mỹ dễ lắm, có tiền vài trăm ngàn đô là nhập tịch các nước Úc, Canada, Mỹ được ngay. Chúng nó chỉ cần người có tiền, không phân biệt quốc cộng, Á, Âu, chẳng sợ ai xâm lược, chiếm cứ......Vì vậy mà bọn Tàu Lục địa sang Mỹ, Úc, Canada mua nhà nhiều lắm, Thằng cháu tôi ở Mỹ về nói vậy!
Lãi Hai Dừa Xiêm nói:
Thằng Mỹ khôn thiệt! Nó ngồi không hưởng lợi. Chúng ngoài miệng đòi hỏi nhân quyền nhưng trong bụng thấy Trung Quốc, Việt Nam tham nhũng là chúng mừng húm . Chúng nó đâu cần đổ quân , đâu cần thả bom nguyên tử, bom hạt nhân làm gì! Bọn Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng thì sức tàn phá bằng mấy quả bom hạt nhân. Ký cóp cho cọp nó tha. Bao tiền của tham nhũng lại mang về Âu, Mỹ, Úc. Như vậy là cộng sản làm tay sai cho tư bản . Làm sao mà bảo "Tư bản dẫy chết" hả?
Tư Râu nói: Đúng rồi! Đúng! Nghe nói tài sản Kadhafi, Mubarak ở ngoại quốc bị tịch thâu. Tài sản bọn Việt Cộng rồi cũng thế!
Ông Ba cà lăm nãy giờ ngồi im, bây giờ mới nói:
-Đúng
rồi! Tàu sắp dánh Việt Nam rồi! Tôi nghe nói báo Tàu hăm he đánh Việt
Nam trong vài ngày, vài giờ thôi! Họ chuẩn bị dư luận trong và ngoài
nước. Họ vừa đánh trống vừa ăn cướp. Họ bảo Việt Nam là thuộc địa của
họ, Trường Sa, Hoàng Sa là của họ mà quân Việt Nam xâm lược, chiếm đóng
các đảo của họ.
Tôi xem tin thế giới thì Trung Quốc lâu nay tuyên bố sẽ mở các cuộc chíến tranh hạn chế, còn gọi là cuộc tiểu chiến có lẽ là đánh chiếm Việt Nam, Lào, Mên, Miến Điện ... trong thời gian ngắn như đánh Lạng Sơn để đặt quốc tế trước sự đã rồi. Việc này có thể không động chạm đến quyền lợi trực tiếp của Mỹ cho nên Mỹ sẽ không vội can thiệp! Nhưng sớm muộn chiến tranh cũng xảy ra cho nên dân tư bản đỏ Hoa Lục cũng như Việt Nam đã và đang chạy ra khỏi nước. Chỉ có bọn tư bản đỏ là có phương tiện chạy, còn tụi mình thì đành chịu chết thôi!
Sáu Tắc Xi nói:
-Một
số Việt Cộng đầu hàng mà vẫn lo sợ nên phải tính tam thập lục kế. Còn
một đám trông mong ngày Trung Cộng đem đại binh sang thì mừng sẽ được
làm to hơn, ăn nhiều hơn!Tôi xem tin thế giới thì Trung Quốc lâu nay tuyên bố sẽ mở các cuộc chíến tranh hạn chế, còn gọi là cuộc tiểu chiến có lẽ là đánh chiếm Việt Nam, Lào, Mên, Miến Điện ... trong thời gian ngắn như đánh Lạng Sơn để đặt quốc tế trước sự đã rồi. Việc này có thể không động chạm đến quyền lợi trực tiếp của Mỹ cho nên Mỹ sẽ không vội can thiệp! Nhưng sớm muộn chiến tranh cũng xảy ra cho nên dân tư bản đỏ Hoa Lục cũng như Việt Nam đã và đang chạy ra khỏi nước. Chỉ có bọn tư bản đỏ là có phương tiện chạy, còn tụi mình thì đành chịu chết thôi!
Sáu Tắc Xi nói:
-Ông Hai Cam Sành nói;
Không thể tin quân Tàu. Thằng nào nhiều tiền càng dễ chết! . Chắc gì Trung Cộng buông tha cho Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng , Nguyễn Tấn Dũng,Trương Tấn Sang, Nguyễn Chí Vịnh. Vừa giết người, vừa cướp của nghe ra oai hùng và sướng tay hơn buông tha. Bọn Việt Cộng cũng khôn đáo để. Ngoài miệng chúng hoan hô 16 chữ vàng, quỳ gối khom lưng trước mặt Hồ Cẩm Đào nhưng chúng đã cho vợ con và đưa tài sản sang Âu, Mỹ, Úc ..từ lâu rồi. Trung Cộng sang thì cũng chỉ chiếm đất đai còn kho tàng thì trống rỗng vì Việt cộng đã vơ vét hết rồi!
Ông Tư Râu đánh đùi cái đét rồi nói:
-Chắc tụi Mỹ đã biết trước việc Trung cộng đánh Việt nam, dân chúng đạp nhau xông vào cơ quan di trú cho nên năm ngoái họ đã rút cơ quan di trú sang Thái Lan.
Lão Hăng Rô cười khà khà: Đúng rồi! Mỹ cũng biết trước mà Việt Cộng cũng lo trước. Việt cộng đã chuẩn bị từ lâu rồi. Con trai con gái chúng nó đã lấy Âu, Mỹ, Úc và Việt kiều, đã có nhà cửa tiền bạc ở ngoại quốc rồi. Nguyễn Tấn Dũng có con gái lấy Việt kiều Canada! Hễ có biến động là chúng cao chạy xa bay! Còn tụi theo Trung Cộng thì mong Trung Cộng từng giờ để được làm tay sai cho Trung Cộng!
Lão Dừa Xiêm nói: Hôm qua đọc tin BBC ,tôi thấy họ loan tin các nhà đầu tư nước ngoài đang rút khỏi Việt Nam. Phải chăng họ cũng sợ Trung Cộng xâm lược Việt Nam?
Ông Hăng Rô nói:
Họ rút lui có lẽ vì sợ Trung Cộng, mà cũng có thể vì làm ăn khó khăn như tham nhũng, luật lệ phức tạp, đồng tiền mất giá, đô la khan hiếm ...
Lão Tám hoạn lợn nói:
Có lão già mắc dịch nào đó ở bên tây mới đây kêu gọi đừng theo Mỹ chắc là ông được Trung Cộng mớm lời bảo nhân dân Việt Nam hãy im lặng đầu hàng đừng chống Trung Cộng mà gây ra cảnh chiến tranh tang tóc!Chắc là Trung Cộng sắp đánh nước ta nên bọn Việt gian đã mở chiến dịch kêu gọi đầu hàng Trung Quốc!Tư Ròm tiếp theo: Nay mai e mấy thằng Công an đánh dân , mấy thằng tham nhũng rồi cũng chết thảm thiết khi toàn dân nổi dậy!
Ông già Tư Ròm than thở: Việt Nam là đất đại loạn. Không bị chiến tranh thì cũng bị tham nhũng bắt giam, đánh đập, cướp nhà cướp đất. Trung Cộng có thể xâm lược mà toàn dân cũng có thể nổi dậy. Cộng sản càng đè nén thì sức bật của dân càng mạnh và dễ đi đến đổ máu và đấu tranh quyết liệt. Vì lo như vậy mà bọn Việt cộng đã toan tính dĩ đào vi thượng!
Người Việt Gốc Me
TIN KINH TẾ VIỆT NAM
Thuốc quá liều gây đình đốn kinh tế
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2012-04-06
Sau ba năm thực hiện gói kích cầu 143.000 tỷ đồng tương đương 8 tỷ USD, nền kinh tế Việt Nam đã rơi trở về điểm xuất phát cũ của năm 2008, khi khủng hoảng kinh tế tài chánh thế giới diễn ra.
RFA/AFP
Dư
luận được báo chí dẫn dắt sau khi bị cuốn hút vào vụ Tiên Lãng, Vụ
nứt đập thủy điện Sông Tranh 2, nay trở lại với thực tế đầy khó khăn
của nền kinh tế Việt Nam. Theo báo điện tử Saigon Tiếp thị, tăng
trưởng GDP trong quí 1/2012 đã sụt giảm mạnh xuống mức 4%, mức thấp
nhất trong vòng ba năm qua. Tờ báo nhận định là, chỉ số giá tiêu dùng
tháng 3/2012 được ghi nhận là trong xu hướng hạ giảm, nhưng thực chất
nếu tính theo năm thì vẫn tăng 14,15% so với tháng 3/2011 và cao hơn
mức 11,25% của tháng 3/2009 ở giai đoạn khủng hoảng toàn cầu.
Những tín hiếu rõ rệt của đình đốn
Nhà báo Saigon Tiếp Thị nhận định một cách đầy lo ngại là nền kinh tế có nguy cơ rơi vào tình trạng đình đốn, theo đó tăng trưởng kinh tế chậm trong khi lạm phát vẫn duy trì ở mức cao đang tác động lớn đến hầu hết tất cả các đối tượng trong nền kinh tế. Người tiêu dùng hạn chế chi tiêu vì thu nhập không theo kịp vật giá, còn nhà sản xuất thì hầu như thập diện mai phục, khó tiếp cận nguồn vốn vay, lãi suất ngân hàng quá cao, giá nguyên vật liệu, nhiên liệu cũng tăng nhanh. Tất cả các yếu tố đó dẫn tới thực tế là chi phí đầu vào tăng nhanh, sức tiêu thụ chậm và doanh nghiệp không thể tăng giá bán đầu ra tương ứng.
...ảnh hưởng tình hình thế giới và tất cả mọi thứ đều đi tới chỗ khó khăn, lãi suất ngân hàng cao, giá điện, giá nhân công. Các doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn đóng cửa rất nhiều, trong giai đoạn này cố gắng hết sức để tồn tại thôi chứ đừng nói tới lợi nhuận và phát triển.
Một doanh nhân ở TP.HCM tâm sự với chúng tôi:
“Năm ngoái các doanh nghiệp trong nước Việt Nam chậm chân lắm, ảnh hưởng tình hình thế giới và tất cả mọi thứ đều đi tới chỗ khó khăn, lãi suất ngân hàng cao, giá điện, giá nhân công. Các doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn đóng cửa rất nhiều, trong giai đoạn này cố gắng hết sức để tồn tại thôi chứ đừng nói tới lợi nhuận và phát triển.”
Ngày
1/4 VietnamNet đưa tin, chính phủ công bố trong ba tháng đầu năm 2012
có khoảng 12.000 doanh nghiệp giải thể, đăng ký ngừng hoạt động có
thời hạn hoặc dừng thực hiện nghĩa vụ thuế. Ông Vũ Đức Đam, bộ trưởng
chủ nhiệm văn phòng Chính phủ trong cuộc họp báo ở Hà Nội nhìn nhận số
lượng doanh nghiệp ngưng sản xuất và giải thể cao hơn những năm
trước. Chính phủ giải thích nguyên nhân của tình trạng này là vì, sản
xuất công nghiệp chế biến, chế tạo gặp nhiều khó khăn do chi phí đầu
vào cao, tiêu thụ chậm, tồn kho còn ở mức cao, dẫn đến qui mô sản xuất
thu hẹp. Trong khi đó lãi suất cho vay tuy giảm nhưng vẫn còn cao,
việc tiếp cận vốn khó khăn.
Bộ trưởng Vũ Đức Đam trấn an rằng, trong nền kinh tế thị trường, các nhà kinh doanh lập ra các doanh nghiệp mới, đăng ký kinh doanh mới cũng như có các doanh nghiệp phải đóng cửa, giải thể là chuyện bình thường. Theo lời ông Bộ trưởng, số lượng doanh nghiệp nhiều hay ít không quan trọng bằng hiệu quả họat động kinh doanh của cả nền kinh tế.
Bộ trưởng Vũ Đức Đam trấn an rằng, trong nền kinh tế thị trường, các nhà kinh doanh lập ra các doanh nghiệp mới, đăng ký kinh doanh mới cũng như có các doanh nghiệp phải đóng cửa, giải thể là chuyện bình thường. Theo lời ông Bộ trưởng, số lượng doanh nghiệp nhiều hay ít không quan trọng bằng hiệu quả họat động kinh doanh của cả nền kinh tế.
Hiện nay trên toàn cõi Việt Nam hàng nghìn doanh nghiệp đang ‘cháy’vì thiếu tín dụng hoạt động mà Ngân hàng Nhà nước không giải quyết vấn đề tiếp cận tín dụng cho những doanh nghiệp đó hoạt động để hàng nghìn doanh nghiệp phải phá sản, để hàng chục vạn người lao động phải mất việc làm thế thì không hợp lý.
Mặt bằng lãi suất ngân hàng được chính phủ hạ giảm 1% hồi tháng trước
nhưng lãi suất cho vay vẫn là quá cao trong mức 17%-18%, không những
thế doanh nghiệp rất khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Ông Bùi Kiến
Thành, chuyên gia kinh tế cao cấp ở Hà Nội từng nhiều lần kiến nghị
chính phủ sớm giải quyết vấn đề vốn vay với lãi suất hợp lý dưới 10%,
để cho doanh nghiệp có thể họat động, có thể tồn tại và có thể đóng
một vai trò tích cực trong vấn đề phát triển kinh tế đất nước. Nếu kể
luôn từ năm 2011 tới nay thì gần 100.000 doanh nghiệp đã phá sản,
ngừng hoạt động. Chuyên gia Bùi Kiến Thành phát biểu:
“Nếu như hôm nay ngay giữa thành phố Hà Nội trên phố Tràng Tiền cháy 5-7 căn phố mà Sở Cứu hỏa Hà Nội không chịu bơm nước chữa lửa thì tình hình nó sẽ như thế nào? Còn hiện nay trên toàn cõi Việt Nam hàng nghìn doanh nghiệp đang ‘cháy’vì thiếu tín dụng hoạt động mà Ngân hàng Nhà nước không giải quyết vấn đề tiếp cận tín dụng cho những doanh nghiệp đó hoạt động để hàng nghìn doanh nghiệp phải phá sản, để hàng chục vạn người lao động phải mất việc làm thế thì không hợp lý.”
Doanh nghiệp khó thoát khỏi phá sản“Nếu như hôm nay ngay giữa thành phố Hà Nội trên phố Tràng Tiền cháy 5-7 căn phố mà Sở Cứu hỏa Hà Nội không chịu bơm nước chữa lửa thì tình hình nó sẽ như thế nào? Còn hiện nay trên toàn cõi Việt Nam hàng nghìn doanh nghiệp đang ‘cháy’vì thiếu tín dụng hoạt động mà Ngân hàng Nhà nước không giải quyết vấn đề tiếp cận tín dụng cho những doanh nghiệp đó hoạt động để hàng nghìn doanh nghiệp phải phá sản, để hàng chục vạn người lao động phải mất việc làm thế thì không hợp lý.”
Cùng với thông tin chính phủ chính thức công bố số lượng 12.000 doanh nghiệp giải thể hay ngừng hoạt động riêng trong quí 1/ 2012, báo chí đưa rất nhiều tin liên quan tới tình trạng các đại công ty vỡ nợ hàng loạt, khiến độc giả không khỏi bàng hoàng. Đối với người dân bình thường, hiệu quả của toàn bộ của nền kinh tế là cái gì đó quá trừu tượng, người dân đưa ra những câu hỏi mang tính đời thường. Thí dụ năm 2011, Việt Nam xuất khẩu được 2,7 tỷ USD cà phê, kim ngạch lớn lao thế, nhưng tiền đi đâu hết mà hàng loạt đại gia cà phê vỡ nợ, tổng nợ khó trả của các đại gia cà phê cũng khoảng vài ngàn tỷ đồng.
VnExpress cuối tháng 3 đưa tin, Công ty cổ phần Đầu tư xuất nhập khẩu Cà phê Tây nguyên tức Vinacafe Buôn Ma Thuột đang ôm khối nợ quá hạn gần 2.000 tỷ đồng, ít cơ may hồi phục. Ngày 28/3, ông Vũ Đức Tiến, Giám đốc Vinacafe Buôn Ma Thuột phát biểu trên Tiền Phong Online xác nhận số nợ quá hạn với 8 Ngân Hàng đã giảm hiện còn 1.600 tỷ đồng. Tuy nhiên tài sản công ty gồm kho bãi, bất động sản, đoàn xe tải 55
chiếc đã được các ngân hàng thế chấp với trị giá 1.250 tỷ khi cho vay.
Công ty cổ phần Đầu tư xuất nhập khẩu Cà phê Tây nguyên tức Vinacafe Buôn Ma Thuột đang ôm khối nợ quá hạn gần 2.000 tỷ đồng, ít cơ may hồi phục. Ngày 28/3, ông Vũ Đức Tiến, Giám đốc Vinacafe Buôn Ma Thuột phát biểu trên Tiền Phong Online xác nhận số nợ quá hạn với 8 Ngân Hàng đã giảm hiện còn 1.600 tỷ đồng.
Ngoài ra công ty còn lượng hàng tồn kho ước tính trị giá 300 tỷ nên nếu bán hết sẽ trả được nợ. Vinacafe Buôn Ma Thuột từng được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động, được Hiệp Hội Cà phê Thế giới xếp hạng công ty xuất khẩu cà phê nhân đơn lẻ lớn nhất toàn cầu. Theo lời Giám đốc Vinacafe Buôn Ma Thuột Vũ Đức Tiến thì công ty ngập nợ vì chênh lệch tỷ giá USD quá lớn giữa thời điểm vay và trả. Đặc biệt lãi suất vay ngân hàng từ năm 2010 tới nay ở trong mức 16%-24% một năm khiến doanh nghiệp chao đảo. Ngoài ra Vinacafe Buôn Ma Thuột còn d
ùng một số khoản vay ngắn hạn vào đầu tư dài hạn.
INEXIM Daklak, một doanh nghiệp xuất khẩu cà phê từng có doanh thu hơn 1.000 tỷ đồng mỗi năm, nay cũng gần cạn vốn bên cạnh món nợ khó trả 365 tỷ đồng, INEXIM có khả năng phải bán hết tài sản để trả nợ hoặc công bố phá sản. Ông Vân Thành Huy, Chủ tịch Tổng giám đốc INEXIM nói với chúng tôi “buôn tài không bằng dài vốn”, doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn khi khó tiếp cận vốn vay ngân hàng dù lãi suất cho vay rất cao. Hơn nữa một số lớn doanh nghiệp Việt Nam vay mượn ngân hàng lượng tiền gấp nhiều lần tổng vốn
điều lệ. Ông Vân Thành Huy nhấn mạnh:
“Do thắt chặt tiền tệ nên doanh số thấp xuống chi phí thì cao lên và lợi nhuận giảm. Một số ngành hàng trong đó có mặt hàng cà phê gặp khó, các công ty nước ngoài (FDI) có nguồn vay với lãi suất thấp hơn chỉ khoảng 5% thôi; trong khi các doanh nghiệp của mình nếu vay ngoại tệ chịu 9% còn vay tiền Việt Nam l suất tới 22%. Chủ trương mở rộng sản xuất để có tăng trưởng 15%-20% thì mình mở rộng sản xuất, mua thiết bị, mở rộng kho hàng, do thắt chặt tiền tệ thì bây giờ phải co hẹp lại, giải quyết bớt tài sản đi để làm vốn….
...nợ quá hạn nợ xấu ở hệ thống ngân hàng thương mại đang tăng cao hơn năm 2010 và có tỷ lệ đáng báo động. một khối lượng lớn dòng vốn là các khoản nợ quá hạn, không trở lại ngân hàng, tức không tiếp tục trở lại nền kinh tế, khiến cho vòng quay vốn không thể mở rộng.
Trong bài bình luận kinh tế đầu tuần, Sgtt.com.vn nhận định là cần khơi thông nguồn vốn để đối phó nguy cơ đình đốn. Thế nhưng chính phủ đang lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan khi không thể đưa ra một gói kích cầu như năm 2009 nữa vì tình hình có nhiều khác biệt. Nếu lựa chọn tiếp một gói kích cầu nữa, tăng trưởng kinh tế có thể chỉ cải thiện được đôi chút nhưng rủi ro lạm phát tăng mạnh trong năm tới là điều khó tránh khỏi. Theo nhà báo, chính phủ cần có những biện pháp nhằm giải quyết căn nguyên gây ra tình trạng lạm phát đình đốn. Đó là phải giải quyết được tình trạng ách tắc của vòng quay vốn trong nền kinh tế, nhưng không gây ra thâm hụt ngân sách nhà nước.
Vẫn theo báo điện tử SGTT, nợ quá hạn nợ xấu ở hệ thống ngân hàng thương mại đang tăng cao hơn năm 2010 và có tỷ lệ đáng báo động. một khối lượng lớn dòng vốn là các khoản nợ quá hạn, không trở lại ngân hàng, tức không tiếp tục trở lại nền kinh tế, khiến cho vòng quay vốn không thể mở rộng. Vẫn theo SGTT hiện nay nền kinh tế Việt Nam cần một dòng vốn “sạch” từ 250.000 tới 300.000 tỷ đồng tương đương tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn vào khoảng 10-12% tổng dư nợ. Dòng vốn này có thể đến từ nước ngoài hoặc từ ngân sách nhà nước.
Điều gì đang xảy đến cho nền kinh tế Việt Nam. Tăng trưởng GDP đang giảm đáng kể nhờ chính sách thắt chặt tiền tệ tín dụng, thế nhưng sự siết chặt này lại đang gây đình đốn sản xuất. Cộng đồng doanh nghiệp và người dân Việt Nam đang đặt dấu hỏi về điều mà người xưa gọi là “Tài kinh bang tế thế” của Nhà nước.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/overdo-tight-currency-caus-stagn-04062012083913.html
Gần một nửa số doanh nghiệp hối lộ chính quyền
RFA
2012-04-05
Gần 50 phần trăm doanh nghiệp Việt Nam thú nhận phải hối lộ chính quyền để thắng các dự án thầu. Đó là kết quả một cuộc nghiên cứu được thực hiện bởi Phòng Thương mại Công nghiệp vừa cho ra hôm thứ Tư.Theo nghiên cứu này, khoảng 80% doanh nghiệp Việt Nam cho rằng tham nhũng ảnh hưởng xấu đến kinh doanh và 50% doanh nghiệp cho biết họ phải hối lộ chính quyền bằng tiền mặt, các món quà đắt tiền hay các chuyến nghỉ mát xa xỉ.
Theo đánh giá của TS Lê Đăng Doanh, kết quả nghiên cứu chỉ phản ánh một phần của sự thật và tình trạng tham nhũng còn tệ hại hơn trong thực tế. Ông Lê Đăng Doanh còn cho rằng chính phủ cần phải được giám sát một cách công khai, minh bạch và độc lập.
Nghiên cứu này của phòng Công thương và Công Nghiệp dựa trên phần trả lời của 270 doanh nghiệp, doanh nhân, tổ chức kinh doanh và công chức tại các vùng ở Việt Nam.
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/half-of-vietnam-firms-bribe-officials-survey-04052012155838.html
Nguyên phó vụ trưởng Bộ Tài chính chiếm đoạt trên 80 tỷ đồng
RFA 29.01.2012
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an HN vừa khởi tố nguyên phó vụ trưởng Vụ Tài Chính hành chính sự nghiệp, Bộ Tài chính Trần Anh Tuấn với tội danh “lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.”Theo thông tin ghi nhận, từ tháng 7/2011, khi đương chức, ông Tuấn đã lạm dụng quyền hạn nhận tiền hối lộ để giúp nhiều đơn vị trúng thầu xây dựng các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước, trong đó có dự án trường Đại học Hùng Vương.
Cơ quan điều tra xác định, bị can này mặc dù không có chức năng duyệt và cấp vốn nhưng lợi dụng chức vụ để hứa hẹn nhận và chiếm đoạt tiền của nhiều doanh nghiệp trong việc xin duyệt trợ cấp vốn Nhà nước.
Tuy nhiên, qua xác minh, công an Việt Nam cho biết, hiện nay bị can đã xuất cảnh ra nước ngoài từ tháng 12 năm ngoái vì thế họ đang hoàn thiện các thủ tục truy nã quốc tế với nguyên phó vụ trưởng Bộ Tài Chính này.
http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/fmr-dep-dir-of-dep-of-fin-cheat-80-bil-01292012084405.html
Câu chuyện nữ đại gia thủy sản và khoản nợ cả ngàn tỷ đồng
Đỗ Hiếu, phóng viên RFA
Đỗ Hiếu, phóng viên RFA
2012-03-27 Báo
chí trong nước tiếp tục đưa tin, đồng thời phản ảnh thắc mắc của dư
luận quanh chuyện công ty thủy sản Bianfishco do vợ chồng ông Trần Văn
Trí và bà Phạm Thị Diệu Hiền làm chủ, với tổng số nợ khổng lồ lên tới
trên 1300 tỷ đồng.
Photo courtesy of vietbao.vn
Photo courtesy of vietbao.vn
Có điều gì đó bất thường
Công ty cổ phần thủy sản Bình An tức Bianfishco do bà Phạm Thị Diệu Hiền làm tổng giám đốc, hiện là con nợ của trên 10 ngân hàng thương mại, cùng các cá nhân doanh nghiệp và nông gia với tổng số nợ hơn 1300 tỷ đồng.Số nợ này chưa thật sự chính xác mà còn tăng dần, Bianfishco còn bị nhiều công ty cùng cá nhân khởi kiện vì có làm ăn, mua bán, có cho vay mượn, cung cấp nguyên liệu, thức ăn nuôi thủy sản. Bianfishco tuyển dụng lực lượng lao động hơn 2000 công nhân, nay đang lâm cảnh thất nghiệp tạm thời, chưa biết khi nào mới đi làm trở lại.
Ông Nguyễn Tử Cương, Ủy viên Trung ương Nghề cá Việt Nam, qua câu chuyện với RFA cho rằng, vụ làm ăn và tình trạng thua lỗ này là việc chưa từng xảy ra bao giờ:
“Chúng tôi có thể khẳng định đây là trường hợp hi hữu, chứ không phải là việc phổ biến của doanh nghiệp Việt Nam. Về nguyên nhân thì tôi không rành lắm, nhưng cũng do các hành động mà bà Diệu Hiền lừa được các ngân hàng.”
Ông cũng đặt nghi vấn về chuyện kinh doanh của công ty Bianfishco, mà ông cho là có điều gì bất thường, khó hiểu, với lý do như sau:
“Các doanh nghiệp Việt Nam hàng năm phải báo cáo giá trị tài sản và kết quả kinh doanh trước cơ quan tài chính, nếu là doanh nghiệp cổ phần thì trước đại hội cổ đông. Nếu có rủi ro nào đó về tài chính thì đã được báo động trước, và tìm cách giải quyết, không thể để xảy ra như trường hợp đối với công ty Bình An.”
Ông tin rằng hệ thống tư pháp Việt Nam sẽ vào cuộc và có biện pháp thích đáng đối với việc kinh doanh bất chính như thế:
“Sự việc đang trong tiến trình điều tra, để nắm chính xác con số nợ và sau đó đương nhiên các cơ quan luật pháp sẽ có giải pháp để giải quyết số nợ mà công ty Bình An đang mắc phải.”
Với lý do phải đi trị bệnh ở nước ngoài, cuối tháng 3, bà Diệu Hiền xin xuất ngoại qua Singapore rồi từ đó sang Hoa Kỳ, nói là để trị bệnh ung thư và ủy quyền cho chồng là ông Trần Văn Trí, làm tổng giám đốc Bianfishco.
Các doanh nghiệp hàng năm phải báo cáo giá trị tài sản và kết quả kinh doanh. Nếu có rủi ro nào đó thì đã được báo động trước, và tìm cách giải quyết, không thể để xảy ra như trường hợp đối với công ty Bình An.Người ta vẫn còn nhớ hồi tháng 2 vừa qua, dân vùng Tây Đô bán tán xôn xao khi cặp vợ chồng đại gia này tổ chức tiệc cưới linh đình từ Saigon đến Cần Thơ, cho con trai là Trần Văn Chương với hot girl Quỳnh Chi. Ngay trong lúc tiệc cưới diễn ra tại tư gia, nhiều nông dân đã tập họp trước biệt thự, căng băng rôn đòi bà Hiền gấp rút trả nợ.
Ông Nguyễn Tử Cương
Tuần rồi khi gặp nhiều chục hộ nông dân bán cá, ông Trần Văn Trí, trước đó là giám đốc sở Giao thông vận tải Cần Thơ, nghỉ việc để làm tân tổng giám đốc công ty Bianfishco, ông Trí không đưa ra được thời điểm cụ thể trong việc thanh toán nợ nần, mà yêu cầu nông dân chờ đợi, khiến các chủ nợ có phản ứng mạnh mẽ.
Theo báo Pháp Luật, đại diện cho một số nông dân chủ nợ của Bianfishco đề nghị quận Ô Môn áp dụng biện pháp tạm thời cấm xuất cảnh đối với ông Trần Văn Trí.
Khi liên lạc với tư gia ông Trí ở Cần Thơ, một người giúp việc nhà cho biết:
“Ổng đi vắng rồi, không có nhà để tôi cho ổng hay, gọi lại đi, có gì thì ngày mai gặp ổng, tôi làm công cho ông chủ, cái chuyện bị nợ đòi thì cái đó phải rồi, có gì trao đổi với ổng nghe.”
Nhiều nông dân thắc mắc không biết Bianfishco sẽ xoay sở ra sao để kiếm đủ số tiền hơn 1300 tỷ đồng, cho dù bán hết của cải, tài sản như biệt thự ở Beverly Hills, California, được rao bán với giá là 2 triệu 745 ngàn đô la, nhà máy chế biến thủy sản khoảng gần 90 triệu đô la, xe Rolls Royce hơn triệu đô la cũng chưa thấm vào đâu so với từ mà báo chí dùng là “món nợ khủng” tính ra gần 90 triệu đô la Mỹ.
Có những chủ nợ khai là công ty Bianfishco còn thiếu của hộ mỗi người 40 hay 50 tỷ đồng, phần lớn là những người bị công ty này thiếu nhiều tỷ đồng.
Theo VNExpress thì thông tin từ gia đình cho biết bà Diệu Hiền bị ung thư vú tái phát, lây truyền qua gan, gây chứng bại liệt nhẹ tay trái. Ông Trần Văn Trí, chồng bà Hiền đưa ra tấm ảnh chứng minh cho việc vợ ông đang được điều trị ở tại Hoa Kỳ. Các nhân chứng thắc mắc vì ảnh đó có ghi ngày chụp là 16 tháng 9 năm 2009. Gia đình bà Hiền nói máy ảnh này mới mua, chưa điều chỉnh lại ngày tháng chính xác.
Sẽ xử lý đến đâu?
Tổ Kiểm tra nợ của công y Bianfishco do ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ thành lập yêu cầu cơ quan chức năng cho mời bà Phạm Thị Diệu Hiền về nước để giải quyết khó khăn tài chánh mà doanh nghiệp của vợ chồng bà phải đối phó.Các nhân viên điều tra nói nếu quả thật bà Hiền đang lâm chứng bệnh ngặt nghèo nên không thể trở về nước lúc này thì cần phải chuyển bệnh án của bà Hiền về Việt Nam, với sự xác nhận của chính quyền hai nước.
Qua câu chuyện với luật sư Nguyễn Văn Hậu là người từng bênh vực cho bà con nông dân huyện Cần Giờ, trong vụ án dai dẳng khiếu kiện công ty bột ngột Vedan đã xả nước thải độc hại, hủy hoại môi trường sống của nông dân ngành thủy sản, thì nữ đại gia Phạm Thị Diệu Hiền có thể bị dẫn độ từ Mỹ về nước:
“Giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã có nhiều trường hợp dẫn độ, gọi là ‘có đi có lại’, một doanh nghiệp làm ăn không đúng đắn, dùng những thủ đoạn gian dối thì tôi nghĩ rằng họ không chừa bất cứ việc gì, cho nên trường hợp này cần phải được xử lý theo pháp luật Việt Nam.”
Về phần các nông gia chủ nợ của Bianfishco thì có ông Thái Bá Thi, quê ở Thốt Nốt, Cần Thơ cho biết, ông có đến công ty này suốt 10 tháng qua nhưng chỉ được ban giám đốc trả lại nợ của ông một cách nhỏ giọt. Ông cũng mang nợ nhiều người khác, bị họ kéo tới nhà gây khó dễ, đòi xiết nợ. Ai nấy cũng khổ lắm rồi, nên sẽ tiến hành những bước cần thiết theo đúng thủ tục pháp lý.
Trong hoàn cảnh hết sức khó khăn lúc này, ông Thi cũng không biết phải nói gì?
“Thông cảm đi, cái chuyện của tôi thì đã trao đổi trong hội nghị rồi, không có gì phải cung cấp hay trao đổi thêm đâu.”
Giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã có nhiều trường hợp dẫn độ, gọi là ‘có đi có lại’, cho nên trường hợp này cần phải được xử lý theo pháp luật Việt Nam.Ông Lê Văn Chiến, đại diện một số nông dân còn bị Bianfishco nợ, than thở rằng nhà nông không có vốn liếng, phải đem tài sản thế chấp cho ngân hàng, cho bạn hữu, để hy vọng thoát cảnh nghèo khó, cải thiện cuộc sống gia đình, nào ngờ đã bị công ty Bianfishco chiếm dụng và lừa gạt hết vốn. Vốn và lãi vay mượn của ngân hàng tăng dần mỗi ngày, khiến nhiều nông gia lâm vào bước đường cùng, những nợ con tức vốn vay từ người dân bị chủ nợ kéo đến nhà hăm dọa, mắng chửi.
LS Nguyễn Văn Hậu
Người em gái của ông nói là ông Chiến thường xuyên vắng nhà:
“Tui là em thôi chứ không có đứng ra mua bán gì, nên không rành, để anh Ba về tui nói lại, chắc mai mới về.”
Mỗi khi gọi đến tư gia doanh nghiệp có liên quan đến chuyện nợ nần của Bianfishco thì đều nghe tiếng trả lời gần giống nhau:
“Ông ấy đi vắng rồi, tôi không biết, vợ chồng không có ai ở nhà, có con nợ đến đòi gì đó, tôi cũng không biết nữa.”
Bà Phạm Thị Mai, còn bị Bianfishco nợ 16 tỷ đồng nói với báo chí là chỉ vì chuyện nợ nần và nhiều gia đình, vợ chồng xích mích, bị ly tán, con cái phải bỏ học, đau yếu không thuốc men, rơi vào cảnh bi đát, hoang mang, bất an, vô vọng.
Dư luận cho rằng ở Việt Nam, chủ trương trừng trị tham nhũng chỉ nhắm đến những ‘con cá bé’ hay ‘tép riu’, còn cá mập, cá voi khổng lồ như chuyện Vinashin hay Bianfishco thì những cấp lãnh đạo dễ dàng hạ cánh an toàn lý do dễ hiểu là có “bùa hộ mạng’từ trên cao.
ww.rfa.org/vietnamese/in_depth/bhind-debt-bianfisco-dh-03272012131447.html
CÀ PHÊ ĐẮNG
Cầm quyền ra sao thì xã hội như vậy
Nhọ - Liều thuốc tự do
Submitted by Trưởng Biên Tập on Tue, 04/03/2012 - 00:00Nhọ ~ Tác giả gửi đến Dân Luận
Trong đêm lưu diễn ở Hà Nội của Bi Rain (ca sĩ Hàn Quốc), một số fan Việt quì xuống để ngửi và hôn hít chiếc ghế mà thần tượng của mình vừa ngồi.
Thông tin này lập tức gây sóng gió trong cộng đồng mạng Việt Nam sau khi lan truyền trên Facebook. Hầu hết báo giới thể hiện sự bất bình, và nhiều người nói về một nỗi nhục dân tộc. Người ta giật tít: "choáng", "sock", "quá trớn", "crazy"... Nhiều trí thức than vãn về sự suy đồi các giá trị tinh thần. Và khi những xúc động đã tạm lắng đi, một số blogger viết bài lí giải. Tôi thấy khá nhiều lí do đã được đề cập. Chẳng hạn: sự tồi dở của nền giáo dục, sự thui chột của nền nghệ thuật Việt Nam, sự xuống cấp của đạo đức và phẩm giá con người...
Nhìn chung, hầu hết các nhà bình luận tin rằng tuổi trẻ Việt Nam ngày càng mất nết.
Nhưng kết luận ấy, theo tôi, hơi có chút vội vàng và nóng nảy. Thanh niên Việt quả thực kém cỏi so với bạn đồng lứa bốn phương. Nhưng là một sinh viên, mà nhờ công việc nhóm, có khá nhiều trải nghiệm về sự chuyển biến tâm lí qua các thế hệ, tôi vẫn khá lạc quan về triển vọng của lớp người mà mình thuộc về.
Vậy trong cuộc thảo luận sôi nổi về thực trạng của tuổi trẻ Việt Nam, xin góp cho diễn đàn một cái nhìn của người trẻ.
Thực ra, tôi nghĩ vấn nạn bao trùm sự vụ này không phải là sự sùng bái văn hóa Hàn Quốc. Nguyên nhân cốt lõi, nhưng chưa thấy được đề cập, là cái quì gối trong văn hóa Việt Nam.
Nếu bạn chưa đồng ý, ta hãy cùng nhìn rõ bằng óc tưởng tượng của mình.
Giả sử, khi vẽ tranh, bạn giữ nguyên tư thế quì lạy và hôn ghế. Bạn thay thần tượng Bi Rain bằng thần tượng Khổng Tử. Rồi thay văn hóa Hàn Quốc bằng văn hóa Trung Hoa.
Làm thế, vụ "hôn ghế thần tượng" đình đám sẽ không còn là bức tranh về một thế hệ trẻ mất gốc và suy đồi.
Thay vào đó, ngạc nhiên chưa ! Sẽ là bức tranh chuẩn mực về đạo Thánh hiền của các Nho sĩ.
Vậy có thanh niên Việt mất gốc không nhỉ :) ?
Chúng
ta chướng mắt khi giới trẻ Việt quì xuống hôn ghế một thần tượng âm
nhạc nước ngoài. Nhưng hãy nhìn cái quì suốt dòng lịch sử của các thế hệ
đi trước. Suốt hai thiên niên kỉ, người Việt quì mọp ngoan ngoãn dưới
cái ghế của các vua quan. Hăng hái dẫn đầu truyền thống này là giới sĩ
phu - tầng lớp được xem như khối óc của cả nước.
Và so với thế hệ trẻ hôm nay, các nhà Nho vượt xa về độ vọng ngoại. Giới trẻ Việt Nam không đặt tượng Bi Rain lên bàn thờ, không xem anh như nguồn chân lí duy nhất đúng, và cũng không tôn anh này là "bậc Thánh nhân". Họ không gọi tiếng Hàn Quốc là "chữ thánh hiền". Họ cũng không đề nghị sử dụng tiếng Hàn Quốc, thay vì tiếng Việt, làm ngôn ngữ chính thức để giảng dạy trong mọi cấp học. Họ không chủ trương một nước Việt Nam mà mọi bài thơ, mọi bộ luật, và mọi văn bản hành chính đều được soạn thảo bằng tiếng Hàn Quốc. Họ không học lịch sử Hàn Quốc thay vì sử Việt Nam. Nhưng với văn hóa Trung Quốc, giới Nho sĩ - mà một thời được cả xã hội tôn vinh như hình mẫu lí tưởng để theo đuổi - đã thể hiện thái độ thế nào ?
Và so với thế hệ trẻ hôm nay, các nhà Nho vượt xa về độ vọng ngoại. Giới trẻ Việt Nam không đặt tượng Bi Rain lên bàn thờ, không xem anh như nguồn chân lí duy nhất đúng, và cũng không tôn anh này là "bậc Thánh nhân". Họ không gọi tiếng Hàn Quốc là "chữ thánh hiền". Họ cũng không đề nghị sử dụng tiếng Hàn Quốc, thay vì tiếng Việt, làm ngôn ngữ chính thức để giảng dạy trong mọi cấp học. Họ không chủ trương một nước Việt Nam mà mọi bài thơ, mọi bộ luật, và mọi văn bản hành chính đều được soạn thảo bằng tiếng Hàn Quốc. Họ không học lịch sử Hàn Quốc thay vì sử Việt Nam. Nhưng với văn hóa Trung Quốc, giới Nho sĩ - mà một thời được cả xã hội tôn vinh như hình mẫu lí tưởng để theo đuổi - đã thể hiện thái độ thế nào ?
Tìm một tấm gương tốt cho thanh niên Việt Nam, xem ra, khó lắm !
Nếu
bạn phản đối việc so đám trẻ trâu với các cụ đồ đạo mạo, ta hãy thử
tìm một sự liên tưởng gần gũi hơn. Hãy tua cuộn phim lùi về 50 năm
trước. Tưởng tượng hồi thập niên 1960, cũng trên đất Hà Nội này,
"...một số cháu thiếu niên cúi xuống, nhẹ nhàng hôn lên chiếc ghế mà
Bác đã ngồi với niềm kính yêu vô hạn dành cho người cha già của toàn
dân tộc...".
À, vậy thì các cháu cũng sẽ lên báo Nhi Đồng, báo Tiền Phong, báo Tuổi Trẻ, báo Thanh Niên... Nhưng không phải cùng các cụm từ "crazy", "choáng", "quá trớn"... , mà là trong các bài viết tuyên dương "những hạt giống đỏ", "những mầm non Cách mạng", "những ngọn cờ hồng"...
Trong chương trình học của tuổi trẻ Việt Nam hôm nay, người ta nhắc đến bao nhiêu "ngọn cờ hồng" như thế. Và người ta giảng dạy, tuyên truyền, chỉ để tạo ra thêm những "ngọn cờ" cũng y như thế. Ôi, những tấm gương...!
Và hãy nhìn lại tư thế khúm núm, xum xoe, khăm khẳm mùi nịnh bợ mà đại thi hào Tố Hữu - Nguyên Ủy viên bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bí thư Ban chấp hành Trung ương - đã dành cho cái ghế quyền lực dưới mông hai thần tượng của mình:
"Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
Ông Xít-ta-lin bên cạnh nhi đồng
Áo Ông trắng giữa mây hồng
Mắt Ông hiền hậu, miệng Ông mỉm cười
Xít-ta-lin! Xít-ta-lin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Xít-ta-lin!
Hôm qua loa gọi ngoài đồng
Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao
Làng trên xóm dưới xôn xao
Làm sao, Ông đã... làm sao, mất rồi!
Ông Xít-ta-lin ơi, Ông Xít-ta-lin ơi!
Hỡi ơi, Ông mất! Đất trời còn không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương mười!"
Tư thế đẹp đẽ ấy còn được lột tả chân thực hơn nữa qua 5 câu thơ:
"Giết! Giết nữa! Bàn tay không ngơi nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho Đảng bền lâu
Cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt!"
Nhưng Mao Chủ tịch và "Shít-ta-lin bất diệt" mà Tố Hữu... thờ, và đề nghị toàn Đảng, toàn dân "rập bước chung lòng" cùng... thờ, hai vị ấy là ai ?
Những bạn chưa biết câu trả lời, xin Google các cụm từ "Mao Trạch Đông", "Stalin", "độc tài", "tàn sát"... Cả hai là những bạo chúa bị nhân loại lên án vì phạm tội ác diệt chủng. Cả hai đã sát hại hàng triệu sinh mạng - mà một phần lớn thuộc tầng lớp tinh hoa của dân tộc - trong các cuộc thanh trừng phi nhân tính để củng cố quyền lực của bản thân. Đấy ! Hai "mặt trời chân lí" mọc đằng Bắc, mà ông Tố Hữu dạy ông bà, cha mẹ chúng tôi phải thương hơn cha, hơn mẹ, hơn chồng mình đấy !
Dầu vậy, Tố Hữu không làm báo giới phiền lòng, và chính giới thì lại càng không. Ông không "suy đồi các giá trị tinh thần", không "vong bản", không "mất gốc". Người ta mời ông làm Ủy viên bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bí thư Ban chấp hành Trung ương. Người ta trao ông Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật, đợt thứ nhất. Người ta để ông dạy toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xúm xuýt "thờ" các thần tượng - trong cương vị Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng Ban Thống nhất Trung ương, Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Ngày nay, thơ ông chiếm phần quan trọng trong chương trình học môn Ngữ Văn của mọi cấp. Sách giáo khoa mô tả ông như một nhà thơ lớn, và một nhân cách lớn của dân tộc. Sự nghiệp của Tố Hữu quả là một tấm gương sáng cho các cháu nhi đồng và thanh thiếu niên !
Tôi còn định nêu thêm vài ví dụ nữa về một người Việt Nam sùng bái thần tượng ngoại quốc đến mê cuồng. Vị này, vì hôn ghế "ba ông kia kìa" một cách say sưa, mà làm dân tộc ông mất 4 triệu mạng người, và nước ông lỡ mất một thế kỷ. Ngày nay, vị này được báo chí mô tả như một nhà tư tưởng vĩ đại và một tấm gương đạo đức lớn. Người ta đang phát động một chiến dịch rầm rộ và siêu tốn kém để giục cả nước học tập và làm theo tấm gương đạo đức của ông. Nếu có ai đó mà thế hệ của tôi - theo lệnh "trên" - buộc phải lấy làm khuôn vàng thước ngọc mà bắt chước, thì trăm phần trăm đó là ông này. Nhưng thôi, không nhắc đến tên ông ta làm gì, mất vui lắm :-)
Tới đây, có lẽ vấn đề đã sáng tỏ. Tư thế quì lạy và hôn ghế thần tượng chẳng phải đặc sản của thế hệ chúng tôi. Ta thấy nó hiện diện rộng khắp ở mọi thế hệ người Việt mình. Và phải nói rằng đến thế hệ của tôi, chứng bệnh kinh niên này đã nhiều lần thuyên giảm.
Vậy xin đừng cố mò mẫm chẩn bệnh cho riêng một thế hệ nữa. Tìm sao được, khi căn bệnh ấy cũng làm tổ trong não bộ của chính những nhà báo hăm hở lên án vụ hôn ghế Bi Rain ? Và khi những khuôn vàng thước ngọc để thanh niên Việt Nam học hỏi lại là những con bệnh nặng nhất, thì biết chữa bằng cách nào ?
Chúng ta cần một liều thuốc cho cả nước.
Tư thế nô lệ đến từ tâm thế nô lệ. Có cùng một triệu chứng nơi các Nho sĩ Việt, đại thi hào Tố Hữu, ông cụ mà tôi không nêu tên được, và các bạn trẻ vừa xì xụp hôn hít ghế Bi Rain. Họ thiếu tự trọng, và chịu sự lệ thuộc tinh thần.
Mà chỉ những con người tự do mới có sự tự trọng vẹn nguyên và đúng nghĩa.
Lúc này còn chưa quá muộn. Tuổi trẻ Việt chỉ mới quì lạy và hôn ghế một ngôi sao vô hại của xứ Kim Chi. Chưa đến ngày mà họ, một lần nữa, sụp lạy dưới những "mặt trời chân lí" vẽ bằng máu đỏ trên tấm da vàng.
Chưa quá muộn, để kê đơn chữa bệnh "trẻ con" cho đất nước.
Liều thuốc chúng ta cần là một văn hóa tự do, bắt nguồn từ một môi trường tự do và tôn trọng. Kê liều thuốc này, trước hết, phải là các bậc cha mẹ, các nhà giáo, và người trí thức Việt Nam.
Nhọ1/4/2012
Nguồn: Dân Luận
À, vậy thì các cháu cũng sẽ lên báo Nhi Đồng, báo Tiền Phong, báo Tuổi Trẻ, báo Thanh Niên... Nhưng không phải cùng các cụm từ "crazy", "choáng", "quá trớn"... , mà là trong các bài viết tuyên dương "những hạt giống đỏ", "những mầm non Cách mạng", "những ngọn cờ hồng"...
Trong chương trình học của tuổi trẻ Việt Nam hôm nay, người ta nhắc đến bao nhiêu "ngọn cờ hồng" như thế. Và người ta giảng dạy, tuyên truyền, chỉ để tạo ra thêm những "ngọn cờ" cũng y như thế. Ôi, những tấm gương...!
Và hãy nhìn lại tư thế khúm núm, xum xoe, khăm khẳm mùi nịnh bợ mà đại thi hào Tố Hữu - Nguyên Ủy viên bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bí thư Ban chấp hành Trung ương - đã dành cho cái ghế quyền lực dưới mông hai thần tượng của mình:
"Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
Ông Xít-ta-lin bên cạnh nhi đồng
Áo Ông trắng giữa mây hồng
Mắt Ông hiền hậu, miệng Ông mỉm cười
Xít-ta-lin! Xít-ta-lin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Xít-ta-lin!
Hôm qua loa gọi ngoài đồng
Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao
Làng trên xóm dưới xôn xao
Làm sao, Ông đã... làm sao, mất rồi!
Ông Xít-ta-lin ơi, Ông Xít-ta-lin ơi!
Hỡi ơi, Ông mất! Đất trời còn không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương mười!"
Tư thế đẹp đẽ ấy còn được lột tả chân thực hơn nữa qua 5 câu thơ:
"Giết! Giết nữa! Bàn tay không ngơi nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho Đảng bền lâu
Cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt!"
Nhưng Mao Chủ tịch và "Shít-ta-lin bất diệt" mà Tố Hữu... thờ, và đề nghị toàn Đảng, toàn dân "rập bước chung lòng" cùng... thờ, hai vị ấy là ai ?
Những bạn chưa biết câu trả lời, xin Google các cụm từ "Mao Trạch Đông", "Stalin", "độc tài", "tàn sát"... Cả hai là những bạo chúa bị nhân loại lên án vì phạm tội ác diệt chủng. Cả hai đã sát hại hàng triệu sinh mạng - mà một phần lớn thuộc tầng lớp tinh hoa của dân tộc - trong các cuộc thanh trừng phi nhân tính để củng cố quyền lực của bản thân. Đấy ! Hai "mặt trời chân lí" mọc đằng Bắc, mà ông Tố Hữu dạy ông bà, cha mẹ chúng tôi phải thương hơn cha, hơn mẹ, hơn chồng mình đấy !
Dầu vậy, Tố Hữu không làm báo giới phiền lòng, và chính giới thì lại càng không. Ông không "suy đồi các giá trị tinh thần", không "vong bản", không "mất gốc". Người ta mời ông làm Ủy viên bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bí thư Ban chấp hành Trung ương. Người ta trao ông Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật, đợt thứ nhất. Người ta để ông dạy toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xúm xuýt "thờ" các thần tượng - trong cương vị Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng Ban Thống nhất Trung ương, Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Ngày nay, thơ ông chiếm phần quan trọng trong chương trình học môn Ngữ Văn của mọi cấp. Sách giáo khoa mô tả ông như một nhà thơ lớn, và một nhân cách lớn của dân tộc. Sự nghiệp của Tố Hữu quả là một tấm gương sáng cho các cháu nhi đồng và thanh thiếu niên !
Tôi còn định nêu thêm vài ví dụ nữa về một người Việt Nam sùng bái thần tượng ngoại quốc đến mê cuồng. Vị này, vì hôn ghế "ba ông kia kìa" một cách say sưa, mà làm dân tộc ông mất 4 triệu mạng người, và nước ông lỡ mất một thế kỷ. Ngày nay, vị này được báo chí mô tả như một nhà tư tưởng vĩ đại và một tấm gương đạo đức lớn. Người ta đang phát động một chiến dịch rầm rộ và siêu tốn kém để giục cả nước học tập và làm theo tấm gương đạo đức của ông. Nếu có ai đó mà thế hệ của tôi - theo lệnh "trên" - buộc phải lấy làm khuôn vàng thước ngọc mà bắt chước, thì trăm phần trăm đó là ông này. Nhưng thôi, không nhắc đến tên ông ta làm gì, mất vui lắm :-)
Tới đây, có lẽ vấn đề đã sáng tỏ. Tư thế quì lạy và hôn ghế thần tượng chẳng phải đặc sản của thế hệ chúng tôi. Ta thấy nó hiện diện rộng khắp ở mọi thế hệ người Việt mình. Và phải nói rằng đến thế hệ của tôi, chứng bệnh kinh niên này đã nhiều lần thuyên giảm.
Vậy xin đừng cố mò mẫm chẩn bệnh cho riêng một thế hệ nữa. Tìm sao được, khi căn bệnh ấy cũng làm tổ trong não bộ của chính những nhà báo hăm hở lên án vụ hôn ghế Bi Rain ? Và khi những khuôn vàng thước ngọc để thanh niên Việt Nam học hỏi lại là những con bệnh nặng nhất, thì biết chữa bằng cách nào ?
Chúng ta cần một liều thuốc cho cả nước.
Tư thế nô lệ đến từ tâm thế nô lệ. Có cùng một triệu chứng nơi các Nho sĩ Việt, đại thi hào Tố Hữu, ông cụ mà tôi không nêu tên được, và các bạn trẻ vừa xì xụp hôn hít ghế Bi Rain. Họ thiếu tự trọng, và chịu sự lệ thuộc tinh thần.
Mà chỉ những con người tự do mới có sự tự trọng vẹn nguyên và đúng nghĩa.
Lúc này còn chưa quá muộn. Tuổi trẻ Việt chỉ mới quì lạy và hôn ghế một ngôi sao vô hại của xứ Kim Chi. Chưa đến ngày mà họ, một lần nữa, sụp lạy dưới những "mặt trời chân lí" vẽ bằng máu đỏ trên tấm da vàng.
Chưa quá muộn, để kê đơn chữa bệnh "trẻ con" cho đất nước.
Liều thuốc chúng ta cần là một văn hóa tự do, bắt nguồn từ một môi trường tự do và tôn trọng. Kê liều thuốc này, trước hết, phải là các bậc cha mẹ, các nhà giáo, và người trí thức Việt Nam.
Nhọ1/4/2012
Nguồn: Dân Luận
Chuyện tình XHCN tại VN, thật 100%,
do người trong chuyện kể
Khánh Ando người trong chuyện kể
Ai thường nghe nhac VN đều phải biết nhạc sĩ Văn Phụng và vợ là ca sĩ Châu Hà . Ông bà nầy chỉ có một người con trai duy nhất .
Anh nầy tuy lớn tuổi mà chưa có gia đình nên thường chit chat trên net để tìm người yêu . Qua net anh gặp được một cô gái trẻ ở VN .
Hai người email và phone một thời gian thì anh ta quyết định về VN gặp mặt .
Cô gái ra đón anh tại phi trường rồi đưa thẳng về khách san .
Ngay hôm sau đưa anh ra phường để làm giấy hôn thú .
Thật ra thì anh chưa có ý định về VN để cứơi vợ nhưng gặp cô gái thì anh như người mất hồn , sai gì làm nấy .
Trở lại Mĩ anh bị cô gái liên tục hối thúc làm giấy tờ bão lãnh .
Ngày đêm email và điện thoại quấy rầy . Anh chưa động tĩnh gì về việc bảo lãnh thì , mỗi người có số , trong lúc đang làm việc anh bị đứng tim và gục chết ngay tại bàn làm việc ở sở làm !
Hay tin "chồng" chết , cô gái tại VN đã nhờ một tổ hợp luật sư Mĩ có văn phòng tại VN , đòi hỏi chiếm đoạt tất cả tài sản của "chồng" để lại vì cô ấy là "vợ" có hôn thú . Văn phòng luật sư đại diện tại Mĩ mời bà Châu Hà đển thông báo . May mắn cho bà Châu Hà là trước khi đi VN anh con trai có để lại di chúc dành hết tài sản cho mẹ nếu có điều chẳng lành xảy ra cho anh .
Anh ta cũng khôn đáo để vì gia đình chỉ có mẹ con .
Anh nầy tuy lớn tuổi mà chưa có gia đình nên thường chit chat trên net để tìm người yêu . Qua net anh gặp được một cô gái trẻ ở VN .
Hai người email và phone một thời gian thì anh ta quyết định về VN gặp mặt .
Cô gái ra đón anh tại phi trường rồi đưa thẳng về khách san .
Ngay hôm sau đưa anh ra phường để làm giấy hôn thú .
Thật ra thì anh chưa có ý định về VN để cứơi vợ nhưng gặp cô gái thì anh như người mất hồn , sai gì làm nấy .
Trở lại Mĩ anh bị cô gái liên tục hối thúc làm giấy tờ bão lãnh .
Ngày đêm email và điện thoại quấy rầy . Anh chưa động tĩnh gì về việc bảo lãnh thì , mỗi người có số , trong lúc đang làm việc anh bị đứng tim và gục chết ngay tại bàn làm việc ở sở làm !
Hay tin "chồng" chết , cô gái tại VN đã nhờ một tổ hợp luật sư Mĩ có văn phòng tại VN , đòi hỏi chiếm đoạt tất cả tài sản của "chồng" để lại vì cô ấy là "vợ" có hôn thú . Văn phòng luật sư đại diện tại Mĩ mời bà Châu Hà đển thông báo . May mắn cho bà Châu Hà là trước khi đi VN anh con trai có để lại di chúc dành hết tài sản cho mẹ nếu có điều chẳng lành xảy ra cho anh .
Anh ta cũng khôn đáo để vì gia đình chỉ có mẹ con .
Biết là cũng khó ăn vì giấy tờ bảo lãnh chưa có , lại có di chúc để
lại cho mẹ nên luật sư đòi bà Châu Hà lệ phí 20 ngàn đô để "clear the
case". Bà CH tức lắm nên trả lời là không có tiền . Sau đó luật sư hạ
xuống 10 ngàn . Bà CH cũng nói không . Về nhà , bà CH liên lạc bạn bè và
may mắn gặp được một bà VN có chồng là luật sư Mĩ giúp đỡ . Chỉ tốn
chut đỉnh 500 đô cho giấy tờ là clear xong mọi chuyện .
Bà Châu Hà đã đem chuyện riêng tư nầy nói trên đài phát thanh VNHN
để có ý giúp đở và cảnh giác những ai có con cháu muốn về VN cưới vợ .
Thông điệp của bà là trước khi đi VN thì nên để lại di chúc như con bà
để đề phòng mọi chuyên rủi ro khi đi du lịch VN . Đài phat thanh VNHN
đã phát thanh câu chuyện của bà Châu Hà nhiều lần . Ai thường nghe đài
phát thanh VNHN đều biết chuyện nầy .
Đi du lich VN cũng như lính ra trận , không chết kiểu nầy cũng có
thể chết kiểu khác : chết vì hít khói xe , chết vì bị xe đụng , chết vì
ngộ độc thực phẩm , nhảy lầu tự tử , cướp đâm chết , SIDA ....
Ngay cả thấy mặt thằng Việt kiều nhớn nhơ , dễ ghét quá , lụi cho một nhát để nó về phục vụ Bác . Ấy thế mà dân ta vẫn ào ạt về VN .
"Chưa thấy quan tài chưa đỗ lệ" .
Ngay cả thấy mặt thằng Việt kiều nhớn nhơ , dễ ghét quá , lụi cho một nhát để nó về phục vụ Bác . Ấy thế mà dân ta vẫn ào ạt về VN .
"Chưa thấy quan tài chưa đỗ lệ" .
Trong chương trình lần này Khánh An mời hai bạn đại diện cho một nhóm có một hoạt động khá là lạ và mới ở Việt Nam, đó là “hút đinh”. Tại sao lại có một nhóm lạ như thế này tại Việt Nam?
Chống nạn "đinh tặc"
Khánh
An sẽ cùng nói chuyện với hai bạn và chắc là phải nhờ tới hai bạn
giải thích thêm là tại sao có một hoạt động như vậy với những đoàn
nhóm dùng xe đi hút đinh trên các ngả đường trong nước. Khánh An: Trước
khi bắt đầu vào chương trình, Khánh An mời hai bạn tự giới thiệu một
chút về bản thân mình, được không?
Thịnh: Em xin tự giới thiệu em là Nguyễn Hữu Thịnh, hiện nay em 26 tuổi. Công việc chính hiện tại em tham gia vào đội hút đinh của Quận Thủ Đức và em sinh sống tại Quận 9, TP.HCM. Hiện tại em là sinh viên mới ra trường thôi chị ơi nên chưa có việc làm gì hết, ngoài việc tham gia đội hút đinh.
Duy: Em tên là Lưu Thanh Duy. Năm nay em 18 tuổi. Em vừa tốt nghiệp cấp 3 xong thì em vừa đi học vừa đi làm. Em tham gia việc này cũng được 3 tháng hơn rồi. Em sinh sống tại Quận Thủ Đức luôn.
Khánh An: Khánh An một lần nữa rất vui chào đón các bạn đến với chương trình Café Wifi. Chắc là mọi người đang rất thắc mắc không biết tại sao lại có các đội hút đinh, các bạn có thể cho biết là tại sao lại có đội hút đinh xuất hiện ở Sài Gòn và mục đích của việc xuất hiện những đội nhóm này là như thế nào không?
Duy: Đội hút đinh của tụi em xuất hiện trên địa bàn TP.HCM cách đây cũng hơn một năm rồi. Đội hình này ra mắt khi mà trên các tuyến đường TP.HCM xuất hiện những đinh, vít ốc do những người vá xe người ta tự chế theo hình thoi mà dân TP.HCM thường hay gọi là những "con ách rô” để bẫy những người đi đường đi bằng xe Honda, xe tải mà cán phải thì sẽ bị bể bánh. Việc đó rất nguy hiểm vì người ta bị bể bánh thì có thể sẽ bị tai nạn giao thông, cho nên đội hút đinh xuất phát từ đó.
Khánh An: Vâng. Các bạn có thể cho biết ý tưởng thành lập những đội hút đinh này bắt đầu từ đâu không?
Duy: Dạ, đội hút đinh này theo em được biết là xuất hiện từ mấy anh thanh niên xung phong ở tỉnh Bình Dương. Các anh đã sáng chế ra những cái xe này và tụi em lấy theo mẫu thiết kế đó để thiết kế các xe mà đi trên đường của các tuyến đường quận mình.
Khánh An : Vâng. Và những mẫu xe này thì các bạn có thể mô tả cho mọi người biết nó như thế nào hay không ? Duy: Dạ, xe hút đinh được chế theo một cái khung sắt, ở dưới có gắn nam châm. Khi chạy trên đường thì mình cột cái xe đó vô xe máy của mình để mình chạy trên đường với tốc độ chậm thì những sắt vụn với những cái đinh, vít ốc, v.v. sẽ bị hút lên và khi mình xả ra thì mình lựa những cái nào nguy hiểm cho qua một bên.
Khánh An: Khi các bạn đi hút đinh như vậy thì các bạn hút được nhiều hay không?
Thịnh: Dạ. Để mọi người dễ hình dung thì như chị cũng biết là trên bộ bài tây nó có 4 quân bài là cơ, rô, chuồn, bích, thì loại đinh mà người ta làm thì nó giống như con ách rô vậy, y chang như vậy luôn đó.
Người ta cắt như vậy luôn đó và loại đó chỉ dùng để rải xe máy thôi. Còn để rải những xe tải thì họ sẽ cắt những miếng bự hơn và dày hơn, cũng y như vậy đó chị. Hồi lúc mới thành lập ra thì số lượng đinh mà tụi em đi hút về nhà phải tính bằng ký đó chị. Khánh An: Wow! Là khoảng bao nhiêu ký một ngày?
Thịnh: Cái đó cũng tùy, có hôm thì được nửa ký, có khi hôm được một ký. Như bây giờ đi liên tục như vậy thì có một số “đinh tặc” bị động cho nên hiện nay họ rải không có nhiều lắm. Có hôm tụi em đi về hút được khoảng một trăm cây, có khi thì hai trăm, ba trăm cây.
Khánh An : Vâng. Và có khi nào chính các bạn là những người bị cán đinh không? Duy & Thịnh: Dạ, chuyện đó thì thường xuyên lắm chị ơi.
Thịnh: Xe hút thì không có bị tại vì xe hút thì có cục nam châm rồi cho nên cái bánh của nó không có bị, chỉ có cái xe kéo của tụi em bị thôi chị ơi. Nó có thể xảy ra nhưng mà do là ngoài cái đội hút đinh của tụi em ra còn có một đội nữa là đội vá xe lưu động của quận nữa chị, cho nên hễ xe tụi em có bị bể, bị cán gì đó thì em sẽ điện cho đội đó lên và họ sẽ vá cho tụi em.
Khánh An: Hai bạn có thể cho biết là các bạn tham gia vào đội hút đinh từ khi nào hay không?
Duy: Em thì tham gia đội hút đinh từ tháng 1 tới tháng 6 năm 2010, sau đó em nghỉ 4 tháng để sắp xếp việc gia đình, rồi tới tháng 10 em vào làm lại cho tới bây giờ.
Công việc ý nghĩa
Khánh An: Vâng. Còn Thịnh thì sao ạ?
Loại đinh rải trên đường gây tai nạn cho phương tiện giao thông. Thịnh: Dạ. Em thì khi mà đội hút đinh này thành lập thì em cũng có biết và cũng có đi phụ mấy bạn trong đội hút đinh này vài lần, thì thấy công việc rất là hay và cũng có ý nghĩa, tại vì người ta cố tình rải đinh, vất vật nhọn ra đường làm cho những người lưu thông trên đường bị cán đinh xệp lốp, người ta phải đưa xe đi vá. Người ta lợi dụng điều đó để nâng giá tiền vá xe lên để lấy lời, thì đây là điều mà em thấy rất là bất bình. Do trước đó em kẹt còn phải đi học cho nên em không có tham gia được, rất là tiếc. Nhưng mà sau này em mới tốt nghiệp xong thì em có thời gian rảnh, em chưa đi làm, cho nên em xin tham gia vô đội này để làm. Thứ nhất, đây cũng là một việc đúng đắn, rất có ý nghĩa cho xã hội của mình và một phần nữa là công việc này em rất yêu thích cho nên em mới xin tham gia vô. Khánh An: Khi các bạn tham gia như vậy thì các bạn có thể cho biết là một ngày làm việc của các bạn là như thế nào hay không? Thịnh: Công việc của tụi em, nói đúng và chính xác luôn để cho chị và các bạn ở bên nước ngoài dễ hiểu, là công việc của tụi em 365 ngày tụi em làm đủ hết 365 ngày, không có ngày nghỉ chị ạ. Thịnh: Dạ. Ngoài giờ hành chính là 8 tiếng cơ bản, sáng từ 7 giờ cho tới 11 giờ là giờ nghỉ trưa, sau đó tụi em tiếp tục bắt đầu công việc là từ lúc 1 giờ chiều cho tới 5 giờ chiều tụi em kết thúc. Rồi sau đó ngoài thì giờ đó thì tụi em còn thay phiên nhau phân chia ra trực cơ quan với lại trực chốt vì trong thời gian nghỉ hễ mà dân người ta báo lúc nào thì tụi em đi ngay liền lúc đó.
Khánh An: Vâng. Khi các bạn làm như thế thì các bạn có được trợ cấp một phần nào không? Duy: Một tháng tụi em được hỗ trợ 2 triệu để anh em chi phí trong tháng, còn xăng thì do Ban An toàn giao thông Quận Thủ Đức cấp xăng vì xe công tụi em đi hút đinh hằng ngày. Khánh An: Hai bạn đều là những người tham gia từ lúc đầu khi thành lập những đội nhút đinh thì các bạn có thể cho biết là trong suốt quá trình các bạn tham gia làm công việc hút đinh thì các bạn có những kỷ niệm nào vui hay kỷ niệm nào mà các bạn nhớ nhất hay không?
Duy: Nói chung là niềm vui của anh em trong đội thì rất là nhiều, nhưng mà nếu nói về kỷ niệm nhớ nhất thì có kỷ niệm vào tháng 3 năm 2010, ngày 15 tháng 3, em nhớ rất rõ ngày đó, khi tụi em kéo xe đi trên Quốc Lộ 1A của Quận Thủ Đức thì có một vụ tai nạn đã xảy ra mà em nhớ nhất, là một cặp vợ chồng mà vợ đang mang bầu và người chồng chở đi bệnh viện để chuẩn bị sanh. Khi xe chạy ngang chỗ khu vực của công ty Samsung thì cán phải đinh tặc nên cặp vợ chồng đó bị tai nạn té xuống đường. Lúc đó trong đội anh em gồm 4 người chia nhau ra chở hai người đi bệnh viện, người vợ lúc đó bị băng huyết ở trong tình trạng coi như cứu được mẹ thì con không sống được, nên thấy rất là tội. Còn người chồng thì bị gãy tay, chân bị cày xuống đường nên bị trần xước rất là nhiều. Cảnh thương tâm đó làm tụi em nhớ nhất và có thể nói là nhớ trong cả cuộc đời luôn.
Khánh An: Vâng. Đó là một kỷ niệm buồn, phải không! Sau khi mà bạn chứng kiến và giúp cặp vợ chồng đó thì tâm trạng của bạn sau khi trở về như thế nào? Bạn có thấy là mình có một động lực nào đó để làm tốt công việc của mình hay không?
Duy: Sau vụ tai nạn đó thì anh em trong đội bảo nhau là thôi, cố gắng làm, mình không làm vì mình mà mình làm vì nhân dân. Em thì nói rằng mình có ba má nuôi rồi, bây giờ làm giúp người dân thì chắc ba má cũng vui. Góp phần an toàn giao thông
Khánh An: Bây giờ cũng là Tết rồi. Khánh An có thắc mắc là không biết trong mùa Tết khi tất cả những hoạt động khác đều dừng lại thì công việc hút đinh của các bạn có dừng lại hay không? Hay là các bạn vẫn tiếp tục làm trong mùa Tết?
Số lượng đinh các bạn mới hút về.
Thịnh: Dạ, Tết thì tụi em phải làm gấp đôi gấp ba lần ngày thường đó chị, tại vì thường thường trong những ngày lễ, ngày nghỉ những người đinh tặc họ sẽ rải đinh rất là nhiều, tại vì những thời gian đó các công sở công ty sẽ được nghỉ và người ta tận dụng những ngày đó để đi chơi. Đương nhiên, các đinh tặc sẽ tận dụng những ngày đó để rải đinh để kiếm được nhiều tiền qua việc vá xe, cho nên những ngày nghỉ lễ tụi em phải làm việc gấp hai gấp ba lần.
Khánh An: Khi mà các bạn tham gia một hoạt động rất là lạ, rất là mới, đó là hoạt động hút đinh, thì các bạn có học hỏi được gì hay không?
Những công việc mà các bạn làm mỗi ngày nó có làm thay đổi các bạn hay không? Duy: Cái này là công việc hàng ngày của tụi em nói chung là giúp cho tụi em chững chạc hơn, sống chan hòa với mọi người hơn và xuất phát từ đó mình làm những công chuyện nhân đạo với tất cả mọi người, nhiều khi mình thấy cuộc sống này sẽ vui hơn.
Khánh An: Thịnh thì sao?
Thịnh: Dạ. Lúc trước, khi em chưa tham gia đội này, em đi trên đường em rất là lo sợ không biết tới khi nào thì tới phiên mình cán phải đinh và khi cán rồi thì không biết mình như thế nào, em rất là lo sợ.
Thời gian em chưa gia nhập đội, em đi đường em không biết lúc nào em sẽ bị tai nạn nữa, mà từ khi em tham gia vào đội này thì số lượng đinh mỗi ngày em hút về là em cảm thấy rất là an tâm. Em rất là vui tại vì mỗi lần mình đi hút đinh về như vậy thì mình có cảm thấy là mình không hút được hết tất cả số lượng đinh trên tất cả các tuyến đường nhưng ít ra đoạn đường mà mình đi hút như vậy thì người dân lưu thông trên đường sẽ được an toàn trên chính đoạn đường mà mình đã hút, họ sẽ không bị tai nạn gì hết. Khi mình làm được điều đó mình cảm thấy rất là vui đó chị. Khánh An: Và một câu hỏi cuối thôi. Khi mà các bạn làm công việc hút đinh thì các bạn thấy có những khó khăn gì hay không?
Duy: Công việc của tụi em đôi khi rất là nguy hiểm từ những người vá xe vốn là đinh tặc. Khi tụi em đi trên đường thì những người đó họ mướn dân giang hồ này kia chận đường tụi em đòi đánh, đòi chém tụi em.
Trong những hoàn cảnh như vậy tụi em phải có cách xử lý khôn khéo để tránh được những cảnh nguy hiểm đó. Khánh An: Vâng. Khánh An cảm ơn các bạn rất là nhiều, thứ nhất là các bạn đã tham gia vào chương trình, thứ hai nữa là cảm ơn các bạn đã đóng góp vào hoạt động một cách rất hữu ích cho người dân, đặc biệt là trong mùa Tết. Cảm ơn các bạn rất là nhiều. Chào các bạn.
Thịnh: Em xin tự giới thiệu em là Nguyễn Hữu Thịnh, hiện nay em 26 tuổi. Công việc chính hiện tại em tham gia vào đội hút đinh của Quận Thủ Đức và em sinh sống tại Quận 9, TP.HCM. Hiện tại em là sinh viên mới ra trường thôi chị ơi nên chưa có việc làm gì hết, ngoài việc tham gia đội hút đinh.
Duy: Em tên là Lưu Thanh Duy. Năm nay em 18 tuổi. Em vừa tốt nghiệp cấp 3 xong thì em vừa đi học vừa đi làm. Em tham gia việc này cũng được 3 tháng hơn rồi. Em sinh sống tại Quận Thủ Đức luôn.
Khánh An: Khánh An một lần nữa rất vui chào đón các bạn đến với chương trình Café Wifi. Chắc là mọi người đang rất thắc mắc không biết tại sao lại có các đội hút đinh, các bạn có thể cho biết là tại sao lại có đội hút đinh xuất hiện ở Sài Gòn và mục đích của việc xuất hiện những đội nhóm này là như thế nào không?
Duy: Đội hút đinh của tụi em xuất hiện trên địa bàn TP.HCM cách đây cũng hơn một năm rồi. Đội hình này ra mắt khi mà trên các tuyến đường TP.HCM xuất hiện những đinh, vít ốc do những người vá xe người ta tự chế theo hình thoi mà dân TP.HCM thường hay gọi là những "con ách rô” để bẫy những người đi đường đi bằng xe Honda, xe tải mà cán phải thì sẽ bị bể bánh. Việc đó rất nguy hiểm vì người ta bị bể bánh thì có thể sẽ bị tai nạn giao thông, cho nên đội hút đinh xuất phát từ đó.
Khánh An: Vâng. Các bạn có thể cho biết ý tưởng thành lập những đội hút đinh này bắt đầu từ đâu không?
Duy: Dạ, đội hút đinh này theo em được biết là xuất hiện từ mấy anh thanh niên xung phong ở tỉnh Bình Dương. Các anh đã sáng chế ra những cái xe này và tụi em lấy theo mẫu thiết kế đó để thiết kế các xe mà đi trên đường của các tuyến đường quận mình.
Khánh An : Vâng. Và những mẫu xe này thì các bạn có thể mô tả cho mọi người biết nó như thế nào hay không ? Duy: Dạ, xe hút đinh được chế theo một cái khung sắt, ở dưới có gắn nam châm. Khi chạy trên đường thì mình cột cái xe đó vô xe máy của mình để mình chạy trên đường với tốc độ chậm thì những sắt vụn với những cái đinh, vít ốc, v.v. sẽ bị hút lên và khi mình xả ra thì mình lựa những cái nào nguy hiểm cho qua một bên.
Khánh An: Khi các bạn đi hút đinh như vậy thì các bạn hút được nhiều hay không?
Thịnh: Dạ. Để mọi người dễ hình dung thì như chị cũng biết là trên bộ bài tây nó có 4 quân bài là cơ, rô, chuồn, bích, thì loại đinh mà người ta làm thì nó giống như con ách rô vậy, y chang như vậy luôn đó.
Người ta cắt như vậy luôn đó và loại đó chỉ dùng để rải xe máy thôi. Còn để rải những xe tải thì họ sẽ cắt những miếng bự hơn và dày hơn, cũng y như vậy đó chị. Hồi lúc mới thành lập ra thì số lượng đinh mà tụi em đi hút về nhà phải tính bằng ký đó chị. Khánh An: Wow! Là khoảng bao nhiêu ký một ngày?
Thịnh: Cái đó cũng tùy, có hôm thì được nửa ký, có khi hôm được một ký. Như bây giờ đi liên tục như vậy thì có một số “đinh tặc” bị động cho nên hiện nay họ rải không có nhiều lắm. Có hôm tụi em đi về hút được khoảng một trăm cây, có khi thì hai trăm, ba trăm cây.
Khánh An : Vâng. Và có khi nào chính các bạn là những người bị cán đinh không? Duy & Thịnh: Dạ, chuyện đó thì thường xuyên lắm chị ơi.
Thịnh: Xe hút thì không có bị tại vì xe hút thì có cục nam châm rồi cho nên cái bánh của nó không có bị, chỉ có cái xe kéo của tụi em bị thôi chị ơi. Nó có thể xảy ra nhưng mà do là ngoài cái đội hút đinh của tụi em ra còn có một đội nữa là đội vá xe lưu động của quận nữa chị, cho nên hễ xe tụi em có bị bể, bị cán gì đó thì em sẽ điện cho đội đó lên và họ sẽ vá cho tụi em.
Khánh An: Hai bạn có thể cho biết là các bạn tham gia vào đội hút đinh từ khi nào hay không?
Duy: Em thì tham gia đội hút đinh từ tháng 1 tới tháng 6 năm 2010, sau đó em nghỉ 4 tháng để sắp xếp việc gia đình, rồi tới tháng 10 em vào làm lại cho tới bây giờ.
Công việc ý nghĩa
Khánh An: Vâng. Còn Thịnh thì sao ạ?
Loại đinh rải trên đường gây tai nạn cho phương tiện giao thông. Thịnh: Dạ. Em thì khi mà đội hút đinh này thành lập thì em cũng có biết và cũng có đi phụ mấy bạn trong đội hút đinh này vài lần, thì thấy công việc rất là hay và cũng có ý nghĩa, tại vì người ta cố tình rải đinh, vất vật nhọn ra đường làm cho những người lưu thông trên đường bị cán đinh xệp lốp, người ta phải đưa xe đi vá. Người ta lợi dụng điều đó để nâng giá tiền vá xe lên để lấy lời, thì đây là điều mà em thấy rất là bất bình. Do trước đó em kẹt còn phải đi học cho nên em không có tham gia được, rất là tiếc. Nhưng mà sau này em mới tốt nghiệp xong thì em có thời gian rảnh, em chưa đi làm, cho nên em xin tham gia vô đội này để làm. Thứ nhất, đây cũng là một việc đúng đắn, rất có ý nghĩa cho xã hội của mình và một phần nữa là công việc này em rất yêu thích cho nên em mới xin tham gia vô. Khánh An: Khi các bạn tham gia như vậy thì các bạn có thể cho biết là một ngày làm việc của các bạn là như thế nào hay không? Thịnh: Công việc của tụi em, nói đúng và chính xác luôn để cho chị và các bạn ở bên nước ngoài dễ hiểu, là công việc của tụi em 365 ngày tụi em làm đủ hết 365 ngày, không có ngày nghỉ chị ạ. Thịnh: Dạ. Ngoài giờ hành chính là 8 tiếng cơ bản, sáng từ 7 giờ cho tới 11 giờ là giờ nghỉ trưa, sau đó tụi em tiếp tục bắt đầu công việc là từ lúc 1 giờ chiều cho tới 5 giờ chiều tụi em kết thúc. Rồi sau đó ngoài thì giờ đó thì tụi em còn thay phiên nhau phân chia ra trực cơ quan với lại trực chốt vì trong thời gian nghỉ hễ mà dân người ta báo lúc nào thì tụi em đi ngay liền lúc đó.
Khánh An: Vâng. Khi các bạn làm như thế thì các bạn có được trợ cấp một phần nào không? Duy: Một tháng tụi em được hỗ trợ 2 triệu để anh em chi phí trong tháng, còn xăng thì do Ban An toàn giao thông Quận Thủ Đức cấp xăng vì xe công tụi em đi hút đinh hằng ngày. Khánh An: Hai bạn đều là những người tham gia từ lúc đầu khi thành lập những đội nhút đinh thì các bạn có thể cho biết là trong suốt quá trình các bạn tham gia làm công việc hút đinh thì các bạn có những kỷ niệm nào vui hay kỷ niệm nào mà các bạn nhớ nhất hay không?
Duy: Nói chung là niềm vui của anh em trong đội thì rất là nhiều, nhưng mà nếu nói về kỷ niệm nhớ nhất thì có kỷ niệm vào tháng 3 năm 2010, ngày 15 tháng 3, em nhớ rất rõ ngày đó, khi tụi em kéo xe đi trên Quốc Lộ 1A của Quận Thủ Đức thì có một vụ tai nạn đã xảy ra mà em nhớ nhất, là một cặp vợ chồng mà vợ đang mang bầu và người chồng chở đi bệnh viện để chuẩn bị sanh. Khi xe chạy ngang chỗ khu vực của công ty Samsung thì cán phải đinh tặc nên cặp vợ chồng đó bị tai nạn té xuống đường. Lúc đó trong đội anh em gồm 4 người chia nhau ra chở hai người đi bệnh viện, người vợ lúc đó bị băng huyết ở trong tình trạng coi như cứu được mẹ thì con không sống được, nên thấy rất là tội. Còn người chồng thì bị gãy tay, chân bị cày xuống đường nên bị trần xước rất là nhiều. Cảnh thương tâm đó làm tụi em nhớ nhất và có thể nói là nhớ trong cả cuộc đời luôn.
Khánh An: Vâng. Đó là một kỷ niệm buồn, phải không! Sau khi mà bạn chứng kiến và giúp cặp vợ chồng đó thì tâm trạng của bạn sau khi trở về như thế nào? Bạn có thấy là mình có một động lực nào đó để làm tốt công việc của mình hay không?
Duy: Sau vụ tai nạn đó thì anh em trong đội bảo nhau là thôi, cố gắng làm, mình không làm vì mình mà mình làm vì nhân dân. Em thì nói rằng mình có ba má nuôi rồi, bây giờ làm giúp người dân thì chắc ba má cũng vui. Góp phần an toàn giao thông
Khánh An: Bây giờ cũng là Tết rồi. Khánh An có thắc mắc là không biết trong mùa Tết khi tất cả những hoạt động khác đều dừng lại thì công việc hút đinh của các bạn có dừng lại hay không? Hay là các bạn vẫn tiếp tục làm trong mùa Tết?
Số lượng đinh các bạn mới hút về.
Thịnh: Dạ, Tết thì tụi em phải làm gấp đôi gấp ba lần ngày thường đó chị, tại vì thường thường trong những ngày lễ, ngày nghỉ những người đinh tặc họ sẽ rải đinh rất là nhiều, tại vì những thời gian đó các công sở công ty sẽ được nghỉ và người ta tận dụng những ngày đó để đi chơi. Đương nhiên, các đinh tặc sẽ tận dụng những ngày đó để rải đinh để kiếm được nhiều tiền qua việc vá xe, cho nên những ngày nghỉ lễ tụi em phải làm việc gấp hai gấp ba lần.
Khánh An: Khi mà các bạn tham gia một hoạt động rất là lạ, rất là mới, đó là hoạt động hút đinh, thì các bạn có học hỏi được gì hay không?
Những công việc mà các bạn làm mỗi ngày nó có làm thay đổi các bạn hay không? Duy: Cái này là công việc hàng ngày của tụi em nói chung là giúp cho tụi em chững chạc hơn, sống chan hòa với mọi người hơn và xuất phát từ đó mình làm những công chuyện nhân đạo với tất cả mọi người, nhiều khi mình thấy cuộc sống này sẽ vui hơn.
Khánh An: Thịnh thì sao?
Thịnh: Dạ. Lúc trước, khi em chưa tham gia đội này, em đi trên đường em rất là lo sợ không biết tới khi nào thì tới phiên mình cán phải đinh và khi cán rồi thì không biết mình như thế nào, em rất là lo sợ.
Thời gian em chưa gia nhập đội, em đi đường em không biết lúc nào em sẽ bị tai nạn nữa, mà từ khi em tham gia vào đội này thì số lượng đinh mỗi ngày em hút về là em cảm thấy rất là an tâm. Em rất là vui tại vì mỗi lần mình đi hút đinh về như vậy thì mình có cảm thấy là mình không hút được hết tất cả số lượng đinh trên tất cả các tuyến đường nhưng ít ra đoạn đường mà mình đi hút như vậy thì người dân lưu thông trên đường sẽ được an toàn trên chính đoạn đường mà mình đã hút, họ sẽ không bị tai nạn gì hết. Khi mình làm được điều đó mình cảm thấy rất là vui đó chị. Khánh An: Và một câu hỏi cuối thôi. Khi mà các bạn làm công việc hút đinh thì các bạn thấy có những khó khăn gì hay không?
Duy: Công việc của tụi em đôi khi rất là nguy hiểm từ những người vá xe vốn là đinh tặc. Khi tụi em đi trên đường thì những người đó họ mướn dân giang hồ này kia chận đường tụi em đòi đánh, đòi chém tụi em.
Trong những hoàn cảnh như vậy tụi em phải có cách xử lý khôn khéo để tránh được những cảnh nguy hiểm đó. Khánh An: Vâng. Khánh An cảm ơn các bạn rất là nhiều, thứ nhất là các bạn đã tham gia vào chương trình, thứ hai nữa là cảm ơn các bạn đã đóng góp vào hoạt động một cách rất hữu ích cho người dân, đặc biệt là trong mùa Tết. Cảm ơn các bạn rất là nhiều. Chào các bạn.
HỒI KÝ THANH THANH
BỤI ÐẤT VÀ HƯ-VÔ
TRƯA
ngày 25 tháng 12 năm 1974, tôi đang cùng với bạn-bè dự một bữa ăn
nhân dịp Nô-En tại nhà của một thuộc-viên thì được Sĩ-Quan Trực từ
Phòng Tình-Hình gọi máy đến báo-cáo một tin-tức khác thường.
Vào khoảng 11g30 vừa rồi, có một chiếc trực-thăng đáp xuống cạnh
Trường Tiểu-Học Xã Lộc-Mỹ, thuộc Quận Ðại-Lộc, Tỉnh Quảng-Nam.
Từ trên phi-cơ bước xuống một thiếu-tướng và một trung-tá Việt-Nam Cộng-Hòa, cùng với một người đàn-ông và một người đàn-bà Hoa-Kỳ. Người đàn-ông có mang theo một cái hộp trên tay. Viên trung-tá vào trường, dẫn bác Cai Trường ra, giới-thiệu với mấy người kia; rồi bác Cai Trường vào trong mang ra một cái xẻng, theo sự chỉ-dẫn của hai người Mỹ, đào một cái lỗ, ngay giữa hàng-rào phân chia khoảng sân bên hông trường ấy với con đường hương-lộ bên ngoài, chôn xuống đó cái hộp của người đàn-ông Hoa-Kỳ, lấp đất lại, rồi xóa sạch dấu đất mới, để chỗ đó trông giống bình-thường như không có việc gì xảy ra.
Xong, bốn người kia trở lên trực-thăng bay đi, và bác Cai Trường vào trường. Mọi việc xảy ra mau lẹ như đã được sắp-đặt từ trước rồi. Lúc chôn cái hộp là vào khoảng 12 giờ trưa. * TÔI đoán là có cái gì bí-mật, mà nhà chức-trách địa-phương giấu kín, hoặc không biết rõ nên Sở Ðặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Nam chỉ báo-cáo đơn-giản thế thôi. Cho nên, do tò-mò nghề-nghiệp, tôi về nhà sớm và bắt tay vào việc ngay. Sau khi gọi điện-thoại hỏi Trung-Tâm Hành-Quân thuộc Sư-Ðoàn I Không-Quân và Văn-Phòng Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu I, tôi tổ-chức một chuyến đi quan-sát tại chỗ, đồng-thời tiếp-xúc với các mật-viên quanh vùng, để biết thêm chi-tiết về vụ này... *
BÁC Nam thanh-minh: - Tôi cứ tưởng là chỉ cần báo-cáo những gì liên-can đến cộng-sản mà thôi, còn đây là vấn-đề tình-cảm cá-nhân mà các người trong cuộc đã yêu-cầu tôi giữ kín giùm... Thiếu-tá Sơn đỡ lời tôi: - Không ai trách-móc bác đâu. Bác hãy kể chuyện về người Mỹ tên Sam đi. Bác Nam kể: - Ðầu năm 1971, Toán Dân-Sự-Vụ của Thủy-Quân Lục-Chiến Hoa-Kỳ hoạt-động tại Quận Ðại-Lộc thay đổi cấp chỉ-huy. “Người mới đến là đại-úy Sam, một thanh-niên đẹp trai, hiền-lành, nhã-nhặn, bình-dân. Anh rất lanh-lợi và có nhiều sáng-kiến hay. “Công-tác nổi bật đầu tiên là anh thành-lập một Hội Việt-Mỹ cho Quận Ðại-Lộc.
Anh chịu khó đi thuyết-phục để mời vào Hội không những chỉ các viên-chức chính-quyền như Quận-Trưởng, Phó Quận-Trưởng, Chỉ-Huy Cảnh-Lực, Trưởng Chi Thông-Tin, Trưởng Phòng Văn-Hóa Giáo-Dục, Hiệu-Trưởng Trường Trung-Học, các sĩ-quan thuộc Chi-Khu, Xã-Trưởng, giáo-sư, phụ-huynh học-sinh, học-sinh trung-học, v.v... như thường-lệ, mà anh còn mời cả các thương-gia, nông-dân, tài-xa, tài-công, lâm-dân, ngư-dân, v.v... cùng với một số tu-sĩ Phật-Giáo trong vùng. “Với Hội Việt-Mỹ của Sam, sinh-hoạt ở đây sinh-động hẳn lên.
Hội-viên gồm mọi tầng-lớp xã-hội. Sách+ báo từ phía Hoa-Kỳ phân-phát, phổ-cập hầu như đến từng gia-đình. Hoạt-động không chỉ thu gọn trong các kỳ họp, mà còn thể-hiện qua bất-cứ cơ-hội nào có người Mỹ xuất-hiện trong làng xóm Việt-Nam. “Sam đề-nghị, và được phía Việt-Nam đồng-ý, dùng phòng học của Lớp Năm trường này làm nơi trao-đổi văn-hóa, dạy tiếng Anh vào buổi tối, vì nơi đây thuận-tiện cho sự đi lại của mọi người. “Phòng này nằm ở đầu dãy, bên hông có một cửa sổ nhìn ra hàng-rào che khuất tầm mắt của người qua đường.
Phía bên kia đường, các ông thấy đấy, có một cây đa cành lá sum-suê, rễ ở gốc cây cao hơn mặt đất, người nào vóc cao mà đứng lên trên đám rễ, tựa vào gốc cây nhìn vào cửa-sổ thì trông thấy mặt cô giáo rõ-ràng. “Giáo-viên Lớp Năm là cô Diệu-Hương, hoa-khôi toàn Quận, năm ấy vào khoảng hai mươi, dịu-dàng, lễ-phép, đứng-đắn, siêng-năng. “Phòng học Lớp Năm trước kia là nơi cô đến soạn bài, chấm bài cho học-sinh, và tự học thêm chương-trình đại-học vào các ngày nghỉ và mỗi buổi tối, thì nay còn là nơi cô đến làm công-việc của Hội với tư-cách thư-ký, học tiếng Anh, dạy tiếng Việt cho ngưới Mỹ, giúp chiếu phim, điều-khiển máy ghi-âm, v.v..
. “Cha mẹ cô thuộc giới trung-nông, sùng Ðạo Phật và chịu ảnh-hưởng Ðạo Nho. “Sự giao-tiếp giữa cô với Sam, trong khung-cảnh chung của sự tiếp-xúc giữa hai bên Việt-Mỹ, có bắt tay, có vỗ vai, nhất là giữa đàn-bà con-gái Việt Nam với đàn-ông Hoa-Kỳ, bề ngoài là chuyện tự-nhiên, nhưng cha+mẹ cô rất lo, nên đã nhờ tôi theo dõi, ngăn ngừa giùm, sợ đi quá xa. “Tôi là liên-lạc-viên của Hội, vừa sắp dọn rồi cất dẹp mọi thứ trước và sau mỗi buổi, vừa tham-dự học tiếng Anh và dạy tiếng Anh, nên tôi có mặt hầu hết mọi lần Sam và Diệu-Hương gặp nhau. Và tôi đã thấy ngay một mối tình trai+gái chớm nở giữa hai người, ngày càng sâu nặng hơn.
“Quả thật là tôi đã có đồng-lõa với hai người. “Thứ nhất là vì tôi thấy đại-úy Sam thật tình yêu Diệu-Hương, muốn xây-dựng lâu dài. Anh đi lễ chùa vào rằm, mồng một âm-lịch, tìm hiểu Ðạo Phật, học hỏi phong-tục tập-quán Việt-Nam. Anh biếu quà và tham-gia mọi cuộc vui với trẻ em vào các dịp cuối tuần, nghỉ hè, Trung Thu. Anh đưa Y-Tế Mỹ đi săn-sóc từng cụ già, cứu-trợ từng nạn-nhân bị Việt-Cộng pháo-kích, giật mìn.
Anh giúp lợp nhà, sửa đường, đào mương, tích-cực hơn cả cán-bộ của mình. Dân-chúng nhờ anh rất nhiều. ‘Mà điều quan-trọng là anh trân-trọng người yêu, không hề sỗ-sàng bậy-bạ như đa-số người Mỹ khác. Sam nói riêng với tôi là anh sẽ xin chính-thức cưới Diệu-Hương. Tôi biết là có nhiều cô-gái Việt-Nam lấy chồng Mỹ đường-hoàng, nên tôi yên tâm.
“Thứ nữa là vì tôi nghĩ: nếu cho cha+mẹ cô biết thì chắc ông+bà sẽ cấm hẳn cô tới+lui với Hội Việt-Mỹ; mà không có cô thì Hội tất-nhiên sẽ tan, vì anh sẽ dời Hội đi nơi khác, tôi mất việc làm với đồng lương cao và tiền lời bán đồ giải-khát, bánh, kẹo, cháo, chè mỗi đêm. “Mãi đến hôm nay, giữ đúng lời hứa với hai người trong cuộc, tôi vẫn chưa kể cho cha+mẹ cô biết về mối tình giữa hai người. “Huống chi đại-úy Sam thì đã về nước từ sau Nô-En năm ấy, và cô Diệu-Hương thì cũng đã bỏ đi đâu biệt-tích từ sau Nô-En năm ngoái, 1973...” -
Từ khi Sam rời Việt-Nam, đến khi Diệu-Hương đi biệt, là hai năm trời, hai người có còn liên-lạc với nhau hay không? Ðời sống tình-cảm của cô thế nào? - Anh vẫn gửi thư đều-đặn cho cô, qua tôi; tôi đều chuyển lại tận tay; nhưng cô nói là cô không trả lời. Tôi không được biết trong thư anh nói những gì. “Có nhiều thanh-niên Việt-Nam cũng như vài ba người Mỹ có vẻ săn đón cô hơn, nhưng cô đối xử với họ bề ngoài tự-nhiên như đối với Sam trước kia, chứ không có gì khác hơn. “Cuối năm 1972 thì cô đổi về dạy ở Tam-Kỳ, thuộc Tỉnh Quảng-Tín; cuối tuần về nhà thường ghé thăm tôi. “Tôi hiểu là cô rất buồn, ít nói hơn, da xanh hơn... “Ðây là bức thư của cô đã viết cho Sam vào dịp Nô-En năm ngoái.
Cô không gửi nó qua Mỹ mà lại nhờ tôi cất giữ như một bằng-chứng hoặc một di-vật lưu lại cho Sam; tôi không mở xem. Cô đã dặn tôi: nếu đến hết ngày Nô-En năm nay, tức là 12 giờ khuya hôm nay, mà Sam vẫn không trở lại gặp tôi, thì xin tôi hãy giải giùm lời thề, bằng cách đốt nó ở gốc cây đa, là nơi anh đã đứng đó nhiều lần hướng về cửa sổ say-đắm nhìn vào...” *
Lộc-Mỹ, ngày 25/12/1973
Anh Sam yêu-dấu, Ðây là bức thư đầu tiên mà cũng là bức thư cuối cùng em gửi anh, người đàn-ông đầu tiên mà cũng là người đàn-ông cuối cùng trong đời em. Nội-dung chỉ là EM YÊU ANH. Nhưng vấn-đề không chỉ đơn-giản như ba tiếng “em yêu anh”. Anh là người Mỹ học-thức, giàu-có, mạnh-khỏe, trẻ-trung, can-đảm, cần-cù, nhân-ái, vị-tha, hào-phòng, tự-do. Những quân-nhân như anh, ngoài các cuộc hành-quân còn dành thêm tâm-trí, công-sức và thì-giờ để làm công-tác xã-hội giúp ích cho người xung quanh, thật là hiếm-hoi.
Trong cương-vị của anh, anh xứng-đáng tiêu-biểu cho một dân-tộc hùng-cường, nghĩa-hiệp, vượt vạn dặm trùng-dương đến đây hy-sinh xương máu để bảo-vệ, kiến-thiết, và phát-triển Việt-Nam nghèo-yếu khổ-nạn quê-hương em. Anh là một thanh-niên lịch-thiệp, nói theo các bạn em là “con nhà giàu, học giỏi, đẹp trai”, yêu đời, yêu người, biết kính già quý trẻ, biết tôn-trọng những giá-trị tinh-thần, nhất là tôn-trọng người mình yêu. Anh đã cho em biết thế nào là mãnh-lực ái-tình, thế nào là tình yêu không phân chia chủng-tộc, màu da. Anh vừa lãng-mạn phác-họa một cảnh gia-đình hạnh-phúc tràn-trề, vừa thực-tế dự-trù sau khi xuất-ngũ sẽ tiếp-tục học lấy bằng Master, lấy bằng Ph.D., dọn đường cho sự-nghiệp tương-lai. Anh đặt kế-hoạch cho tiền-đồ của cả hai chúng mình. “Anh đã cho em Niềm Tin trong Tình Yêu”...
Nhưng vì cha+mẹ em không chấp-nhận việc một người con-gái Việt-Nam lấy chồng người nước ngoài (em biết điều đó qua nhiều lần ông+bà phê-bình người khác trước mặt em, và qua lời ông+bà nói với bác Nam mà bác ấy kể lại với em), nên em đành phải giấu-giếm mọi người, trừ bác Nam mà em đã thú thật sau này. Yêu nhau mà phải lén-lút, còn gì bực-bội và xấu-hổ bằng!
Hy-vọng duy-nhất của em là chờ đến ngày em hai mươi mốt tuổi, là tuổi hợp-pháp tự mình quyết-định hôn-nhân của mình; nhưng không phải là để tự-do làm giấy hôn-thú với anh, mà là để dễ thuyết-phục song-thân em chấp-nhận mối tình của chúng mình, vì em không thể làm một đứa con bất-hiếu - bất-hiếu vì làm trái ý cha+mẹ, bất-hiếu vì làm cha mẹ mất mặt với mọi người. Nhưng, nếu ông+bà vẫn không đồng-ý thì sao? Ðó là điều mà em không dám giải đáp, vì chỉ nghĩ đến là em đã thấy sợ rồi. Ðùng một cái, anh được lệnh hồi-hương. Một việc bình-thường mà thời-gian qua đắm chìm trong tình yêu em không nghĩ đến. Hết hạn tùng-quân thì phải về thôi!
Tuy thế, có lý nào chấm dứt mọi sự ngang đây sao anh? Nhưng anh đã trấn-an em. Anh hứa là sẽ tìm đủ mọi cách trở lại Việt-Nam, dù với tư-cách quân-nhân hay nhân-viên dân-chính, thường-dân. Qua năm 1972 thì Hội Việt-Mỹ dời đi nơi khác. Em sống xa anh, lại không còn gần những cảnh sinh-hoạt thân quen do anh tạo nên và vẫn mang đậm dấu ấn của anh, nên em cảm thấy cuộc sống trống vắng, lạt-lẽo vô cùng, dù anh vẫn gửi thư về đều đều; nên qua Nô-En thì em đã xin thuyên-chuyển về dạy ở Tam-Kỳ.
Em về Tam-Kỳ để gần căn-cứ Chu-Lai, để được thấy các bạn anh nhiều hơn, để đỡ nhớ anh hơn, và để càng nhớ anh hơn. Anh yêu! Cuộc đời không chiều lòng người. Nô-En 1972 anh chưa trở lại được, nhưng vẫn còn nhiều hy-vọng, vì chiến-tranh vẫn còn. Nô-En 1973 anh không trở lại được, thì đâu còn hy-vọng, vì chiến-tranh không còn. Phải chăng hy-vọng chỉ còn, tình yêu của chúng ta chỉ còn, khi vẫn còn chiến-tranh, cuộc chiến khốc-liệt mà chúng mình muốn sớm kết-thúc? Nhưng, kết-thúc như thế nào, có phải là trong chia-lìa, mất-mát, đổ-vỡ, đau-thương không anh? Nô-En năm nay em có một quyết-định mới. Em bỏ gia-đình, em bỏ việc làm, em thử... tìm về Hư-Vô, một cõi sắc-không không-sắc - như anh đã có nghiên-cứu và nói là đã lĩnh-hội được rồi - vì cuộc đời quả là bể khổ, oái-oăm phi-lý quá, phải không anh? Cha+mẹ em ép buộc em phải kết-hôn với một người mà em không yêu.
Thế là em đã có lý-do để thoát-ly gia-đình mà không làm cho ai đổ lỗi cho anh. Thời-hạn ba năm của lời thề xưa vẫn còn. Anh còn một năm để giải lời thề trước cây đa làng cũ. Anh còn một năm để thử-thách lòng anh. Em đã cố tình không viết một dòng chữ nào cho anh từ hai năm qua, trừ lời nhắn miệng với các người bạn mà anh nhờ gặp, rằng em trọn đời yêu anh và sẽ trung-thành với anh, cốt để giúp anh trắc-nghiệm tình anh. Nếu anh trở lại được, thì anh đi tìm em được; Tình Yêu sẽ hướng-dẫn anh.
Nếu anh không tìm ra em, mà anh vẫn muốn tìm em, thì đêm Nô-En 1974 em sẽ chờ anh ở Nhà Thờ năm xưa; chậm lắm là vào 12 giờ khuya ngày 25, phút cuối cùng của thời-gian thử-thách, em sẽ chờ anh ở gốc cây đa. Ở gốc cây đa đó, em đã đón nhận nụ hôn đầu tiên của người khác phái, em đã trao anh nụ hôn đầu tiên của người con gái, là lần đầu tiên em ngây-ngất mê-ly, là lần đầu tiên em sẵn-sàng chết đi trong vòng tay siết chặt của người yêu. Ôi, nụ hôn ngọt-ngào như lời thề-nguyền buổi sáng mùa xuân cuộc đời, mà cũng là nụ hôn đắng-cay mùi vị chia-ly chúng mình dành cho nhau trước ngày anh xa em.
Anh không sợ ma, em không sợ ma, nhưng hầu hết những người dân làng ở đây đều sợ ma. Nhờ họ sợ ma nên họ để yên cho chúng mình gặp nhau giữa khuya bên gốc cây đa nhiều đêm. Những lần ấy, anh có biết đâu, em lo sợ vô cùng: không phải là sợ có người biết được mối tình mà chúng mình giữ kín, mà là sợ Việt-Cộng tìm cách ám-hại anh, vì chúng đã hơn một lần muốn nhờ tay em... Bây giờ thì anh đã hiểu rồi đấy. Nụ hôn biểu-hiện lời thề. Ðời em chỉ hôn một người; người đó, trên đạo-lý, đã là chồng em. Em còn nhớ mấy câu Kinh Thánh mà anh đã giảng cho em: “Không được thề dối!” và “Không được phạm tội ngoại-tình!”; và: “Hễ ai ly-dị vợ mà không phải vì cớ vợ mình gian-dâm thì tức là khiến cho nàng ngoại-tình!” (Matthew 5:33, 27, 32)...
Em không ngoại-tình, em không gian-dâm; em chỉ yêu một mình anh. Nếu không có anh thì em sẽ là hư-vô, vì đời trở nên hư-vô. Ðây cũng là một cuộc thử-thách tối-trọng và tối-hậu về phần em: do nơi anh, và do lời hẹn của anh, em sẽ trở về sống với hạnh-phúc trần-gian, hay sẽ tiếp-tục và vĩnh-viễn trở thành sắc-không... D.H. *
- VÀ đây là mười hai bức thư của anh; Diệu-Hương không ghé lấy từ mười hai tháng nay... Trời đã xế chiều. Tôi tranh-thủ mở đọc bức thư mới nhất của người thanh-niên đã từng một thời là đại-úy Sam:
New York, December 1974
Diệu-Hương, người yêu duy-nhất của anh: Cả ba năm nay em không viết thư cho anh. Anh chấp-nhận, vì đó là ý muốn của em mà em đã nói cho anh biết trước rồi; nhưng trong thâm-tâm anh bao giờ cũng mong ước và ngóng chờ thư em. Vậy mà giờ đây thì anh không còn trông đợi thư em nữa, em biết vì sao không? Ngay khi gặp em là anh yêu em. Ðồng-thời, sau khi đã ở Việt-Nam rồi, đã hiểu Việt-Nam rồi, là anh yêu luôn Ðất Nước và đồng-bào em.
Anh về Hoa-Kỳ không phải chỉ để vận-động trở lại Việt-Nam với em mà thôi, mà là còn để nói lên tiếng nói của lương-tri, chống lại phong-trào phản-chiến, kêu gọi tinh-thần khử-bạo phù-nguy vốn là truyền-thống cao-đẹp của dân-tộc Hoa-Kỳ. Thế nhưng kết-quả ngược lại. Ma-quỷ đang hồi cực mạnh; người ta không nghe tiếng nói thống-thiết của những con người chính-trực như anh, thậm-chí bác đơn thỉnh-cầu của anh xin được một lần trở lại Việt-Nam.
Và bây giờ thì nước Mỹ đã bỏ cuộc rồi. Anh còn mặt-mũi nào sống trên đời này mà làm người thua cuộc, hả em? nhất là trong cuộc tình của chúng mình mà hạn chót của lời thề đã đến rồi. Trong quá-khứ, nước Mỹ đã từng cứu Pháp, giúp Ðức, tiếp-trợ Âu-Tây, nâng Nhật-Bản, vớt Ðại-Hàn, che-chở Á-Ðông. Trong tương-lai, nước Mỹ chắc-chắn sẽ còn hành-hiệp cái-thế độ-nhân. Nhất-định mọi người sẽ phải xét lại thái-độ yếu hèn của ngày hôm nay. Riêng đối với em, anh đã giữ tròn danh-tiết cho em. Trong đêm cuối cùng, bên gốc cây đa, em đã lịm người trong vòng tay anh, phó mặc hoàn-toàn cho anh.
Nhưng anh kính-trọng tinh-thần văn-hóa Ðông-Phương... Anh sẽ không để cho ai biết gì về mối tình vô-vọng của chúng mình. “Khối tình mang xuống tuyền-đài khôn tan...” Nếu còn có thoáng chốc nào em nhớ đến anh, thì xin em hãy tin rằng, đến tận hơi thở cuối cùng của cuộc đời mình, anh vẫn chỉ biết một lòng yêu em. Tình Yêu ấy là sinh-khí cho hình-hài này, vốn là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất mà thôi. Xin cho linh-hồn anh được thanh-thoát, làm một Romeo, một Trương Chi... SAM *
THIẾU-TÁ Sơn, Chánh Sở Ðặc-Cảnh Tỉnh sở-tại, nãy giờ ghé mắt cùng đọc theo tôi, phát-biểu: - Như thế là cô Diệu-Hương đã tái xuất-hiện ở Nhà Thờ đêm qua, và sẽ có mặt ở gốc cây đa đêm nay... Tôi nghĩ: “Ðoạn cuối câu chuyện không thuộc nhiệm-vụ của mình. Mình chỉ tìm biết xem cô là ai, lâu nay làm gì, ở đâu; thế thôi”. Tôi bắt tay từ-giã Sơn: - Tất cả thư-từ, và những việc gì xảy ra đêm nay, về sau, hoàn-toàn để tùy bác Nam giải-quyết. Bây giờ thì tôi phải về; còn nhờ anh Hòa trong Quảng-Ngãi, anh Song trong Quảng-Tín, và anh Ðảm ngoài Thừa-Thiên, dĩ-nhiên là cả anh nữa, tìm xem cô đang tu ở chùa nào... *
Ðà Nẵng, ngày 25 tháng 12 năm 1974
PHIẾU TRÌNH Kính trình... tại SÀI-GÒN Tiếp theo công-điện... Kính xác-nhận điện-trình sơ-khởi về việc... Văn-Phòng Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu I xác-nhận chính thiếu-tướng Phó Tư-Lệnh Quân-Khu I, thừa lệnh Cấp Trên, đã dùng trực-thăng đưa hai người Mỹ liên-hệ đến Xã Lộc-Mỹ trưa ngày hôm nay, 25-12-1974. Hai người Mỹ ấy là đại-diện của một văn-phòng Chưởng-Khế Mỹ, thi-hành di-chúc của một người tên Sam. Theo di-chúc của ông Sam thì sau khi ông tự-tử chết đi, thi-hài được thiêu thành tro, đem đến chôn ở hàng-rào của trường tiểu-học Xã Lộc-Mỹ, thuộc Quận Ðại-Lộc, Tỉnh Quảng-Nam, Việt-Nam, ngay hướng mắt nhìn từ gốc cây đa vào khung cửa sổ Lớp Năm, giữa ngày Nô-En năm nay...
Chúng tôi đã đến tận nơi tìm hiểu, được biết: Nguyên... *
SÁNG sau, tôi đang đọc lại bản lưu Phiếu Trình nói trên thì Sĩ-Quan Trực Phòng Tình-Hình báo-cáo rằng các Chánh Sở Ðặc-Cảnh các Tỉnh đã có mặt sẵn, đang chờ lệnh tôi trên máy điện-đàm. Thiếu-tá Thái Văn Hòa của Tỉnh Quảng-Ngãi được tôi hỏi trước, trả lời: - Ở Tỉnh Quảng-Ngãi có chùa Thiên-Ấn và nhiều chùa khác, nhưng không có ni-cô nào giống với đối-tượng cần tìm... Thiếu-tá Ðặng Văn Song, Chánh-Sở của Tỉnh Quảng-Tín, báo-cáo là chưa tìm ra. Chánh-Sở Trương Công Ðảm của Tỉnh Thừa-Thiên liền xin xác-nhận:
- Ngoài này chúng tôi đã tìm ra được cô rồi. “Cô ở ngay Chùa Sư-Nữ nổi tiếng của Miền Trung. Tại đây, cô giấu lý-lịch; ngoại-trừ Sư-Bà trụ-trì, còn với người khác thì cô xưng một tên khác, nhưng thường chỉ dùng pháp-danh mà thôi. Cô không bao giờ tiếp-xúc với người ngoài chùa. Trước đây đã có nhiều người từ trong Ðại-Lộc ra tìm, nhiều lần mà không gặp được. Riêng ngày hôm kia, cô đã xin phép đi vào Quảng-Nam thăm nhà...” TÔI cám ơn các anh, rồi hỏi thiếu-tá Lâm Minh Sơn của Tỉnh Quảng-Nam tình-hình đêm qua thế nào. Sơn đáp: - Ðêm qua, chúng tôi không thấy Diệu-Hương đến gốc cây đa. Có lẽ cô đã nấp kín, cũng gần đâu đó mà thôi. Nhưng không thấy Sam xuất-hiện thì cô đến đó làm gì! “Còn bác Nam thì, vào lúc 12 giờ khuya, sau khi đốt xong bức thư của cô ở gốc cây đa, đã chôn luôn các bức thư của Sam vào chỗ đã chôn cái hộp mới được đưa đến từ nửa vòng trái đất bên kia...”
Từ trên phi-cơ bước xuống một thiếu-tướng và một trung-tá Việt-Nam Cộng-Hòa, cùng với một người đàn-ông và một người đàn-bà Hoa-Kỳ. Người đàn-ông có mang theo một cái hộp trên tay. Viên trung-tá vào trường, dẫn bác Cai Trường ra, giới-thiệu với mấy người kia; rồi bác Cai Trường vào trong mang ra một cái xẻng, theo sự chỉ-dẫn của hai người Mỹ, đào một cái lỗ, ngay giữa hàng-rào phân chia khoảng sân bên hông trường ấy với con đường hương-lộ bên ngoài, chôn xuống đó cái hộp của người đàn-ông Hoa-Kỳ, lấp đất lại, rồi xóa sạch dấu đất mới, để chỗ đó trông giống bình-thường như không có việc gì xảy ra.
Xong, bốn người kia trở lên trực-thăng bay đi, và bác Cai Trường vào trường. Mọi việc xảy ra mau lẹ như đã được sắp-đặt từ trước rồi. Lúc chôn cái hộp là vào khoảng 12 giờ trưa. * TÔI đoán là có cái gì bí-mật, mà nhà chức-trách địa-phương giấu kín, hoặc không biết rõ nên Sở Ðặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Nam chỉ báo-cáo đơn-giản thế thôi. Cho nên, do tò-mò nghề-nghiệp, tôi về nhà sớm và bắt tay vào việc ngay. Sau khi gọi điện-thoại hỏi Trung-Tâm Hành-Quân thuộc Sư-Ðoàn I Không-Quân và Văn-Phòng Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu I, tôi tổ-chức một chuyến đi quan-sát tại chỗ, đồng-thời tiếp-xúc với các mật-viên quanh vùng, để biết thêm chi-tiết về vụ này... *
BÁC Nam thanh-minh: - Tôi cứ tưởng là chỉ cần báo-cáo những gì liên-can đến cộng-sản mà thôi, còn đây là vấn-đề tình-cảm cá-nhân mà các người trong cuộc đã yêu-cầu tôi giữ kín giùm... Thiếu-tá Sơn đỡ lời tôi: - Không ai trách-móc bác đâu. Bác hãy kể chuyện về người Mỹ tên Sam đi. Bác Nam kể: - Ðầu năm 1971, Toán Dân-Sự-Vụ của Thủy-Quân Lục-Chiến Hoa-Kỳ hoạt-động tại Quận Ðại-Lộc thay đổi cấp chỉ-huy. “Người mới đến là đại-úy Sam, một thanh-niên đẹp trai, hiền-lành, nhã-nhặn, bình-dân. Anh rất lanh-lợi và có nhiều sáng-kiến hay. “Công-tác nổi bật đầu tiên là anh thành-lập một Hội Việt-Mỹ cho Quận Ðại-Lộc.
Anh chịu khó đi thuyết-phục để mời vào Hội không những chỉ các viên-chức chính-quyền như Quận-Trưởng, Phó Quận-Trưởng, Chỉ-Huy Cảnh-Lực, Trưởng Chi Thông-Tin, Trưởng Phòng Văn-Hóa Giáo-Dục, Hiệu-Trưởng Trường Trung-Học, các sĩ-quan thuộc Chi-Khu, Xã-Trưởng, giáo-sư, phụ-huynh học-sinh, học-sinh trung-học, v.v... như thường-lệ, mà anh còn mời cả các thương-gia, nông-dân, tài-xa, tài-công, lâm-dân, ngư-dân, v.v... cùng với một số tu-sĩ Phật-Giáo trong vùng. “Với Hội Việt-Mỹ của Sam, sinh-hoạt ở đây sinh-động hẳn lên.
Hội-viên gồm mọi tầng-lớp xã-hội. Sách+ báo từ phía Hoa-Kỳ phân-phát, phổ-cập hầu như đến từng gia-đình. Hoạt-động không chỉ thu gọn trong các kỳ họp, mà còn thể-hiện qua bất-cứ cơ-hội nào có người Mỹ xuất-hiện trong làng xóm Việt-Nam. “Sam đề-nghị, và được phía Việt-Nam đồng-ý, dùng phòng học của Lớp Năm trường này làm nơi trao-đổi văn-hóa, dạy tiếng Anh vào buổi tối, vì nơi đây thuận-tiện cho sự đi lại của mọi người. “Phòng này nằm ở đầu dãy, bên hông có một cửa sổ nhìn ra hàng-rào che khuất tầm mắt của người qua đường.
Phía bên kia đường, các ông thấy đấy, có một cây đa cành lá sum-suê, rễ ở gốc cây cao hơn mặt đất, người nào vóc cao mà đứng lên trên đám rễ, tựa vào gốc cây nhìn vào cửa-sổ thì trông thấy mặt cô giáo rõ-ràng. “Giáo-viên Lớp Năm là cô Diệu-Hương, hoa-khôi toàn Quận, năm ấy vào khoảng hai mươi, dịu-dàng, lễ-phép, đứng-đắn, siêng-năng. “Phòng học Lớp Năm trước kia là nơi cô đến soạn bài, chấm bài cho học-sinh, và tự học thêm chương-trình đại-học vào các ngày nghỉ và mỗi buổi tối, thì nay còn là nơi cô đến làm công-việc của Hội với tư-cách thư-ký, học tiếng Anh, dạy tiếng Việt cho ngưới Mỹ, giúp chiếu phim, điều-khiển máy ghi-âm, v.v..
. “Cha mẹ cô thuộc giới trung-nông, sùng Ðạo Phật và chịu ảnh-hưởng Ðạo Nho. “Sự giao-tiếp giữa cô với Sam, trong khung-cảnh chung của sự tiếp-xúc giữa hai bên Việt-Mỹ, có bắt tay, có vỗ vai, nhất là giữa đàn-bà con-gái Việt Nam với đàn-ông Hoa-Kỳ, bề ngoài là chuyện tự-nhiên, nhưng cha+mẹ cô rất lo, nên đã nhờ tôi theo dõi, ngăn ngừa giùm, sợ đi quá xa. “Tôi là liên-lạc-viên của Hội, vừa sắp dọn rồi cất dẹp mọi thứ trước và sau mỗi buổi, vừa tham-dự học tiếng Anh và dạy tiếng Anh, nên tôi có mặt hầu hết mọi lần Sam và Diệu-Hương gặp nhau. Và tôi đã thấy ngay một mối tình trai+gái chớm nở giữa hai người, ngày càng sâu nặng hơn.
“Quả thật là tôi đã có đồng-lõa với hai người. “Thứ nhất là vì tôi thấy đại-úy Sam thật tình yêu Diệu-Hương, muốn xây-dựng lâu dài. Anh đi lễ chùa vào rằm, mồng một âm-lịch, tìm hiểu Ðạo Phật, học hỏi phong-tục tập-quán Việt-Nam. Anh biếu quà và tham-gia mọi cuộc vui với trẻ em vào các dịp cuối tuần, nghỉ hè, Trung Thu. Anh đưa Y-Tế Mỹ đi săn-sóc từng cụ già, cứu-trợ từng nạn-nhân bị Việt-Cộng pháo-kích, giật mìn.
Anh giúp lợp nhà, sửa đường, đào mương, tích-cực hơn cả cán-bộ của mình. Dân-chúng nhờ anh rất nhiều. ‘Mà điều quan-trọng là anh trân-trọng người yêu, không hề sỗ-sàng bậy-bạ như đa-số người Mỹ khác. Sam nói riêng với tôi là anh sẽ xin chính-thức cưới Diệu-Hương. Tôi biết là có nhiều cô-gái Việt-Nam lấy chồng Mỹ đường-hoàng, nên tôi yên tâm.
“Thứ nữa là vì tôi nghĩ: nếu cho cha+mẹ cô biết thì chắc ông+bà sẽ cấm hẳn cô tới+lui với Hội Việt-Mỹ; mà không có cô thì Hội tất-nhiên sẽ tan, vì anh sẽ dời Hội đi nơi khác, tôi mất việc làm với đồng lương cao và tiền lời bán đồ giải-khát, bánh, kẹo, cháo, chè mỗi đêm. “Mãi đến hôm nay, giữ đúng lời hứa với hai người trong cuộc, tôi vẫn chưa kể cho cha+mẹ cô biết về mối tình giữa hai người. “Huống chi đại-úy Sam thì đã về nước từ sau Nô-En năm ấy, và cô Diệu-Hương thì cũng đã bỏ đi đâu biệt-tích từ sau Nô-En năm ngoái, 1973...” -
Từ khi Sam rời Việt-Nam, đến khi Diệu-Hương đi biệt, là hai năm trời, hai người có còn liên-lạc với nhau hay không? Ðời sống tình-cảm của cô thế nào? - Anh vẫn gửi thư đều-đặn cho cô, qua tôi; tôi đều chuyển lại tận tay; nhưng cô nói là cô không trả lời. Tôi không được biết trong thư anh nói những gì. “Có nhiều thanh-niên Việt-Nam cũng như vài ba người Mỹ có vẻ săn đón cô hơn, nhưng cô đối xử với họ bề ngoài tự-nhiên như đối với Sam trước kia, chứ không có gì khác hơn. “Cuối năm 1972 thì cô đổi về dạy ở Tam-Kỳ, thuộc Tỉnh Quảng-Tín; cuối tuần về nhà thường ghé thăm tôi. “Tôi hiểu là cô rất buồn, ít nói hơn, da xanh hơn... “Ðây là bức thư của cô đã viết cho Sam vào dịp Nô-En năm ngoái.
Cô không gửi nó qua Mỹ mà lại nhờ tôi cất giữ như một bằng-chứng hoặc một di-vật lưu lại cho Sam; tôi không mở xem. Cô đã dặn tôi: nếu đến hết ngày Nô-En năm nay, tức là 12 giờ khuya hôm nay, mà Sam vẫn không trở lại gặp tôi, thì xin tôi hãy giải giùm lời thề, bằng cách đốt nó ở gốc cây đa, là nơi anh đã đứng đó nhiều lần hướng về cửa sổ say-đắm nhìn vào...” *
Lộc-Mỹ, ngày 25/12/1973
Anh Sam yêu-dấu, Ðây là bức thư đầu tiên mà cũng là bức thư cuối cùng em gửi anh, người đàn-ông đầu tiên mà cũng là người đàn-ông cuối cùng trong đời em. Nội-dung chỉ là EM YÊU ANH. Nhưng vấn-đề không chỉ đơn-giản như ba tiếng “em yêu anh”. Anh là người Mỹ học-thức, giàu-có, mạnh-khỏe, trẻ-trung, can-đảm, cần-cù, nhân-ái, vị-tha, hào-phòng, tự-do. Những quân-nhân như anh, ngoài các cuộc hành-quân còn dành thêm tâm-trí, công-sức và thì-giờ để làm công-tác xã-hội giúp ích cho người xung quanh, thật là hiếm-hoi.
Trong cương-vị của anh, anh xứng-đáng tiêu-biểu cho một dân-tộc hùng-cường, nghĩa-hiệp, vượt vạn dặm trùng-dương đến đây hy-sinh xương máu để bảo-vệ, kiến-thiết, và phát-triển Việt-Nam nghèo-yếu khổ-nạn quê-hương em. Anh là một thanh-niên lịch-thiệp, nói theo các bạn em là “con nhà giàu, học giỏi, đẹp trai”, yêu đời, yêu người, biết kính già quý trẻ, biết tôn-trọng những giá-trị tinh-thần, nhất là tôn-trọng người mình yêu. Anh đã cho em biết thế nào là mãnh-lực ái-tình, thế nào là tình yêu không phân chia chủng-tộc, màu da. Anh vừa lãng-mạn phác-họa một cảnh gia-đình hạnh-phúc tràn-trề, vừa thực-tế dự-trù sau khi xuất-ngũ sẽ tiếp-tục học lấy bằng Master, lấy bằng Ph.D., dọn đường cho sự-nghiệp tương-lai. Anh đặt kế-hoạch cho tiền-đồ của cả hai chúng mình. “Anh đã cho em Niềm Tin trong Tình Yêu”...
Nhưng vì cha+mẹ em không chấp-nhận việc một người con-gái Việt-Nam lấy chồng người nước ngoài (em biết điều đó qua nhiều lần ông+bà phê-bình người khác trước mặt em, và qua lời ông+bà nói với bác Nam mà bác ấy kể lại với em), nên em đành phải giấu-giếm mọi người, trừ bác Nam mà em đã thú thật sau này. Yêu nhau mà phải lén-lút, còn gì bực-bội và xấu-hổ bằng!
Hy-vọng duy-nhất của em là chờ đến ngày em hai mươi mốt tuổi, là tuổi hợp-pháp tự mình quyết-định hôn-nhân của mình; nhưng không phải là để tự-do làm giấy hôn-thú với anh, mà là để dễ thuyết-phục song-thân em chấp-nhận mối tình của chúng mình, vì em không thể làm một đứa con bất-hiếu - bất-hiếu vì làm trái ý cha+mẹ, bất-hiếu vì làm cha mẹ mất mặt với mọi người. Nhưng, nếu ông+bà vẫn không đồng-ý thì sao? Ðó là điều mà em không dám giải đáp, vì chỉ nghĩ đến là em đã thấy sợ rồi. Ðùng một cái, anh được lệnh hồi-hương. Một việc bình-thường mà thời-gian qua đắm chìm trong tình yêu em không nghĩ đến. Hết hạn tùng-quân thì phải về thôi!
Tuy thế, có lý nào chấm dứt mọi sự ngang đây sao anh? Nhưng anh đã trấn-an em. Anh hứa là sẽ tìm đủ mọi cách trở lại Việt-Nam, dù với tư-cách quân-nhân hay nhân-viên dân-chính, thường-dân. Qua năm 1972 thì Hội Việt-Mỹ dời đi nơi khác. Em sống xa anh, lại không còn gần những cảnh sinh-hoạt thân quen do anh tạo nên và vẫn mang đậm dấu ấn của anh, nên em cảm thấy cuộc sống trống vắng, lạt-lẽo vô cùng, dù anh vẫn gửi thư về đều đều; nên qua Nô-En thì em đã xin thuyên-chuyển về dạy ở Tam-Kỳ.
Em về Tam-Kỳ để gần căn-cứ Chu-Lai, để được thấy các bạn anh nhiều hơn, để đỡ nhớ anh hơn, và để càng nhớ anh hơn. Anh yêu! Cuộc đời không chiều lòng người. Nô-En 1972 anh chưa trở lại được, nhưng vẫn còn nhiều hy-vọng, vì chiến-tranh vẫn còn. Nô-En 1973 anh không trở lại được, thì đâu còn hy-vọng, vì chiến-tranh không còn. Phải chăng hy-vọng chỉ còn, tình yêu của chúng ta chỉ còn, khi vẫn còn chiến-tranh, cuộc chiến khốc-liệt mà chúng mình muốn sớm kết-thúc? Nhưng, kết-thúc như thế nào, có phải là trong chia-lìa, mất-mát, đổ-vỡ, đau-thương không anh? Nô-En năm nay em có một quyết-định mới. Em bỏ gia-đình, em bỏ việc làm, em thử... tìm về Hư-Vô, một cõi sắc-không không-sắc - như anh đã có nghiên-cứu và nói là đã lĩnh-hội được rồi - vì cuộc đời quả là bể khổ, oái-oăm phi-lý quá, phải không anh? Cha+mẹ em ép buộc em phải kết-hôn với một người mà em không yêu.
Thế là em đã có lý-do để thoát-ly gia-đình mà không làm cho ai đổ lỗi cho anh. Thời-hạn ba năm của lời thề xưa vẫn còn. Anh còn một năm để giải lời thề trước cây đa làng cũ. Anh còn một năm để thử-thách lòng anh. Em đã cố tình không viết một dòng chữ nào cho anh từ hai năm qua, trừ lời nhắn miệng với các người bạn mà anh nhờ gặp, rằng em trọn đời yêu anh và sẽ trung-thành với anh, cốt để giúp anh trắc-nghiệm tình anh. Nếu anh trở lại được, thì anh đi tìm em được; Tình Yêu sẽ hướng-dẫn anh.
Nếu anh không tìm ra em, mà anh vẫn muốn tìm em, thì đêm Nô-En 1974 em sẽ chờ anh ở Nhà Thờ năm xưa; chậm lắm là vào 12 giờ khuya ngày 25, phút cuối cùng của thời-gian thử-thách, em sẽ chờ anh ở gốc cây đa. Ở gốc cây đa đó, em đã đón nhận nụ hôn đầu tiên của người khác phái, em đã trao anh nụ hôn đầu tiên của người con gái, là lần đầu tiên em ngây-ngất mê-ly, là lần đầu tiên em sẵn-sàng chết đi trong vòng tay siết chặt của người yêu. Ôi, nụ hôn ngọt-ngào như lời thề-nguyền buổi sáng mùa xuân cuộc đời, mà cũng là nụ hôn đắng-cay mùi vị chia-ly chúng mình dành cho nhau trước ngày anh xa em.
Anh không sợ ma, em không sợ ma, nhưng hầu hết những người dân làng ở đây đều sợ ma. Nhờ họ sợ ma nên họ để yên cho chúng mình gặp nhau giữa khuya bên gốc cây đa nhiều đêm. Những lần ấy, anh có biết đâu, em lo sợ vô cùng: không phải là sợ có người biết được mối tình mà chúng mình giữ kín, mà là sợ Việt-Cộng tìm cách ám-hại anh, vì chúng đã hơn một lần muốn nhờ tay em... Bây giờ thì anh đã hiểu rồi đấy. Nụ hôn biểu-hiện lời thề. Ðời em chỉ hôn một người; người đó, trên đạo-lý, đã là chồng em. Em còn nhớ mấy câu Kinh Thánh mà anh đã giảng cho em: “Không được thề dối!” và “Không được phạm tội ngoại-tình!”; và: “Hễ ai ly-dị vợ mà không phải vì cớ vợ mình gian-dâm thì tức là khiến cho nàng ngoại-tình!” (Matthew 5:33, 27, 32)...
Em không ngoại-tình, em không gian-dâm; em chỉ yêu một mình anh. Nếu không có anh thì em sẽ là hư-vô, vì đời trở nên hư-vô. Ðây cũng là một cuộc thử-thách tối-trọng và tối-hậu về phần em: do nơi anh, và do lời hẹn của anh, em sẽ trở về sống với hạnh-phúc trần-gian, hay sẽ tiếp-tục và vĩnh-viễn trở thành sắc-không... D.H. *
- VÀ đây là mười hai bức thư của anh; Diệu-Hương không ghé lấy từ mười hai tháng nay... Trời đã xế chiều. Tôi tranh-thủ mở đọc bức thư mới nhất của người thanh-niên đã từng một thời là đại-úy Sam:
New York, December 1974
Diệu-Hương, người yêu duy-nhất của anh: Cả ba năm nay em không viết thư cho anh. Anh chấp-nhận, vì đó là ý muốn của em mà em đã nói cho anh biết trước rồi; nhưng trong thâm-tâm anh bao giờ cũng mong ước và ngóng chờ thư em. Vậy mà giờ đây thì anh không còn trông đợi thư em nữa, em biết vì sao không? Ngay khi gặp em là anh yêu em. Ðồng-thời, sau khi đã ở Việt-Nam rồi, đã hiểu Việt-Nam rồi, là anh yêu luôn Ðất Nước và đồng-bào em.
Anh về Hoa-Kỳ không phải chỉ để vận-động trở lại Việt-Nam với em mà thôi, mà là còn để nói lên tiếng nói của lương-tri, chống lại phong-trào phản-chiến, kêu gọi tinh-thần khử-bạo phù-nguy vốn là truyền-thống cao-đẹp của dân-tộc Hoa-Kỳ. Thế nhưng kết-quả ngược lại. Ma-quỷ đang hồi cực mạnh; người ta không nghe tiếng nói thống-thiết của những con người chính-trực như anh, thậm-chí bác đơn thỉnh-cầu của anh xin được một lần trở lại Việt-Nam.
Và bây giờ thì nước Mỹ đã bỏ cuộc rồi. Anh còn mặt-mũi nào sống trên đời này mà làm người thua cuộc, hả em? nhất là trong cuộc tình của chúng mình mà hạn chót của lời thề đã đến rồi. Trong quá-khứ, nước Mỹ đã từng cứu Pháp, giúp Ðức, tiếp-trợ Âu-Tây, nâng Nhật-Bản, vớt Ðại-Hàn, che-chở Á-Ðông. Trong tương-lai, nước Mỹ chắc-chắn sẽ còn hành-hiệp cái-thế độ-nhân. Nhất-định mọi người sẽ phải xét lại thái-độ yếu hèn của ngày hôm nay. Riêng đối với em, anh đã giữ tròn danh-tiết cho em. Trong đêm cuối cùng, bên gốc cây đa, em đã lịm người trong vòng tay anh, phó mặc hoàn-toàn cho anh.
Nhưng anh kính-trọng tinh-thần văn-hóa Ðông-Phương... Anh sẽ không để cho ai biết gì về mối tình vô-vọng của chúng mình. “Khối tình mang xuống tuyền-đài khôn tan...” Nếu còn có thoáng chốc nào em nhớ đến anh, thì xin em hãy tin rằng, đến tận hơi thở cuối cùng của cuộc đời mình, anh vẫn chỉ biết một lòng yêu em. Tình Yêu ấy là sinh-khí cho hình-hài này, vốn là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất mà thôi. Xin cho linh-hồn anh được thanh-thoát, làm một Romeo, một Trương Chi... SAM *
THIẾU-TÁ Sơn, Chánh Sở Ðặc-Cảnh Tỉnh sở-tại, nãy giờ ghé mắt cùng đọc theo tôi, phát-biểu: - Như thế là cô Diệu-Hương đã tái xuất-hiện ở Nhà Thờ đêm qua, và sẽ có mặt ở gốc cây đa đêm nay... Tôi nghĩ: “Ðoạn cuối câu chuyện không thuộc nhiệm-vụ của mình. Mình chỉ tìm biết xem cô là ai, lâu nay làm gì, ở đâu; thế thôi”. Tôi bắt tay từ-giã Sơn: - Tất cả thư-từ, và những việc gì xảy ra đêm nay, về sau, hoàn-toàn để tùy bác Nam giải-quyết. Bây giờ thì tôi phải về; còn nhờ anh Hòa trong Quảng-Ngãi, anh Song trong Quảng-Tín, và anh Ðảm ngoài Thừa-Thiên, dĩ-nhiên là cả anh nữa, tìm xem cô đang tu ở chùa nào... *
Ðà Nẵng, ngày 25 tháng 12 năm 1974
PHIẾU TRÌNH Kính trình... tại SÀI-GÒN Tiếp theo công-điện... Kính xác-nhận điện-trình sơ-khởi về việc... Văn-Phòng Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu I xác-nhận chính thiếu-tướng Phó Tư-Lệnh Quân-Khu I, thừa lệnh Cấp Trên, đã dùng trực-thăng đưa hai người Mỹ liên-hệ đến Xã Lộc-Mỹ trưa ngày hôm nay, 25-12-1974. Hai người Mỹ ấy là đại-diện của một văn-phòng Chưởng-Khế Mỹ, thi-hành di-chúc của một người tên Sam. Theo di-chúc của ông Sam thì sau khi ông tự-tử chết đi, thi-hài được thiêu thành tro, đem đến chôn ở hàng-rào của trường tiểu-học Xã Lộc-Mỹ, thuộc Quận Ðại-Lộc, Tỉnh Quảng-Nam, Việt-Nam, ngay hướng mắt nhìn từ gốc cây đa vào khung cửa sổ Lớp Năm, giữa ngày Nô-En năm nay...
Chúng tôi đã đến tận nơi tìm hiểu, được biết: Nguyên... *
SÁNG sau, tôi đang đọc lại bản lưu Phiếu Trình nói trên thì Sĩ-Quan Trực Phòng Tình-Hình báo-cáo rằng các Chánh Sở Ðặc-Cảnh các Tỉnh đã có mặt sẵn, đang chờ lệnh tôi trên máy điện-đàm. Thiếu-tá Thái Văn Hòa của Tỉnh Quảng-Ngãi được tôi hỏi trước, trả lời: - Ở Tỉnh Quảng-Ngãi có chùa Thiên-Ấn và nhiều chùa khác, nhưng không có ni-cô nào giống với đối-tượng cần tìm... Thiếu-tá Ðặng Văn Song, Chánh-Sở của Tỉnh Quảng-Tín, báo-cáo là chưa tìm ra. Chánh-Sở Trương Công Ðảm của Tỉnh Thừa-Thiên liền xin xác-nhận:
- Ngoài này chúng tôi đã tìm ra được cô rồi. “Cô ở ngay Chùa Sư-Nữ nổi tiếng của Miền Trung. Tại đây, cô giấu lý-lịch; ngoại-trừ Sư-Bà trụ-trì, còn với người khác thì cô xưng một tên khác, nhưng thường chỉ dùng pháp-danh mà thôi. Cô không bao giờ tiếp-xúc với người ngoài chùa. Trước đây đã có nhiều người từ trong Ðại-Lộc ra tìm, nhiều lần mà không gặp được. Riêng ngày hôm kia, cô đã xin phép đi vào Quảng-Nam thăm nhà...” TÔI cám ơn các anh, rồi hỏi thiếu-tá Lâm Minh Sơn của Tỉnh Quảng-Nam tình-hình đêm qua thế nào. Sơn đáp: - Ðêm qua, chúng tôi không thấy Diệu-Hương đến gốc cây đa. Có lẽ cô đã nấp kín, cũng gần đâu đó mà thôi. Nhưng không thấy Sam xuất-hiện thì cô đến đó làm gì! “Còn bác Nam thì, vào lúc 12 giờ khuya, sau khi đốt xong bức thư của cô ở gốc cây đa, đã chôn luôn các bức thư của Sam vào chỗ đã chôn cái hộp mới được đưa đến từ nửa vòng trái đất bên kia...”
LÊ XUÂN NHUẬN
(Trích từ hồi-ký “Cảnh-Sát-Hóa”) 20USD (kể cả cước-phí)
Nhà sách Tự Lực, Garden Grove Nhà sách Hương Giang, San Jose
Nhà sách Tự Do, San Jose
LxuanLe@yahoo.com
(Trích từ hồi-ký “Cảnh-Sát-Hóa”) 20USD (kể cả cước-phí)
Nhà sách Tự Lực, Garden Grove Nhà sách Hương Giang, San Jose
Nhà sách Tự Do, San Jose
LxuanLe@yahoo.com
PHAN QUỲNH * VÕ VIỆT NAM
Tản Mạn Về Võ Roi Võ Gậy ViệtNam
VSNT Phan Quỳnh
Nhà võ xưa cho rằng gậy là tiền thân của các loại binh khí cầm tay cổ điển khác. Gậy vót nhọn có thể trở thành cây dáo, cây lao hay ngọn bút v.v…Gậy còn được gọi là Roi, Hèo, Trượng, Tiên, hay Côn … và có nhiều loại dài ngắn khác nhau . Gậy dài được gọi là Gậy Bẩy hay Trung Bình Tiên, dài bẩy thước ta (khoảng 2,80 mét); gậy ngắn có tên là Gậy Ba dài ba thước ta (khoảng 1,20 mét) tiết diện tròn khoảng trên hay dưới 5cm tùy người xử dụng bằng gỗ lim, gỗ nghiến hay tre đực đặc ruột, tre bánh tẻ, hoặc bằng sắt thép.
Gậy ngắn tiết diện vuông hay chữ nhật bằng gỗ hay sắt được gọi là tay thước hay giản. (Đôi khi giản có tiết diện lục giác và có cán cầm).
Riêng roi làm bằng gỗ dẻo, bằng mây già hoặc tre đặc, to nhỏ tùy theo bàn tay người xử dụng lớn, nhỏ.
Nhiều lò võ xưa thực dụng hơn, không phân chia gậy, côn theo thước tấc như trên mà linh động căn cứ vào tầm vóc lớn nhỏ của từng người xử dụng, căn cứ vào chiều cao từng võ sinh để phân chia gậy ra nhiều loại dài ngắn với những tên khác nhau như Trường Côn, Tề Mi Côn, Trung Côn, hay Đoản Côn.
Đoản côn có chiều dài từ bả vai hay nách xuống tới đầu ngón tay người xử dụng duỗi thẳng.
Trung côn dài từ mặt đất chân đứng thẳng đến ngực người xử dụng.
Tề mi côn dài từ mặt đất đến ngang tầm mi mắt.
Trường côn dài nhất, từ mặt đất tới đầu ngón tay với thẳng của người xử dụng (được gọi là “dài một đầu một với”) .
Đánh gậy là môn võ chiến đấu và cũng là môn thể thao được hình thành rất sớm ở nước ta, và đã trở thành môn võ truyền thống.
Truyền thuyết Phủ Đổng Thiên Vương nói lên gậy đã được xử dụng nhiều và phổ biến từ hồi đầu thuở các vua Hùng dựng nước. Cậu bé đánh giặc Ân bằng ngựa sắt, roi sắt. Chưa hết, roi sắt bị gẫy, cậu bé dũng sĩ anh hùng làng Gióng đã nhổ từng khóm tre ngà làm roi quay tít hàng trăm vòng rồi quất mạnh xuống đầu giặc :
Đứa thì sứt mũi sứt tai,
Đứa thì chết nhóc vì gai tre ngà.
(Bài ca Hội Gióng)
Truyền thuyết cho biết thêm theo Thánh Gióng đi đánh giặc còn có ông Đường Ghềnh (Trung Mầu, Gia Lâm) cầm vồ đập đất, có đoàn trẻ chăn trâu Hội Xá (Gia Lâm) cầm roi, cầm khăng, có người câu cá vác cần câu đuổi giặc.
Tác giả Đào Duy Anh nghiên cứu cổ sử tại huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa phát hiện rải rác hàng trăm đền thờ Thánh Lưỡng , một nhân vật thời cuối nhà Tùy chống quân nhà Đường ở quận Cửu Chân (nay là Thanh Hóa), hàng năm nhân dân địa phương tổ chức Lễ hội cúng tế tại các đền thờ Thánh Lưỡng này, ngoài những trò vui chơi khác, lễ hội luôn luôn tổ chức biểu diễn trò đánh Trận Gậy để tưởng niệm sinh hoạt thường nhật củaThánh Lưỡng thời xưa (Đào Duy Anh, HỒI KÝ ĐÀO DUY ANH – Nhớ Nghĩ Chiều Hôm, nhà xuất bản Trẻ tái bản, tpHCM 2000, trang 122).
Gậy đã gắn liền vào sinh hoạt hàng ngày của tổ tiên chúng ta . Gia đình nào trước đây cũng có cái gậy dựng ở góc nhà. Cái then cài cửa, cái cán cuốc, cán xẻng, cái mái chèo thuyền, cái bắp cầy, đòn gánh, cần câu, v.v. … lúc biến cũng dễ dàng trở thành cây gậy ngừa phòng bất trắc.
Tới dịp hội hè đình đám, đánh gậy là môn thể thao được thanh niên trai tráng trong làng đua nhau thi sức , trổ tài . Họ lập ra những phường hội để tập dượt, để giúp nhau trau dồi tài nghệ, tinh luyện về môn đánh gậy .
Tác giả Toan Ánh nói về ngày hội thi đấu trung bình tiên xưa như sau :
” Thường tại các hội quê, khi có đấu trung bình tiên dân làng đều có treo giải như giải đánh vật hoặc giải bơi thuyền hoặc như nhiều cuộc vui xuân khác vậy. Các võ sĩ dự cuộc đấu roi, vì giải thưởng thì ít, vì tinh thần thượng võ, nhất là vì danh dự của từng lò roi thì nhiều. Hai tiếng lò roi để chỉ những tay chơi trung bình tiên xuất thân ở một xã nào, hoặc ở một nhóm nào, có người huấn luyện chỉ dẫn.
“Đánh trung bình tiên, đánh tay đôi, ai đánh trúng địch thủ vào những chỗ hiểm và đánh trúng nhiều được coi là thắng.
“Trong cuộc đấu, chiếc gậy thường được bịt giẻ ở đầu để tránh sự nguy hiểm cho các đấu thủ. Đầu bịt giẻ, được nhúng vào nước vôi trắng, để một khi địch thủ nào đánh trúng đối phương sẽ có dấu vết để lại. Vết vôi ở người mỗi địch thủ giúp cho ban giám khảo xét định hơn thua. Trận đấu gồm nhiều hợp và mỗi hợp tính theo những động tác của các đối thủ”. (1)
Năm 1258, quân Nguyên lần thứ nhất sang xâm lược Đại Việt. Khi đã chiếm được Thăng Long, bọn giặc xua quân đi càn quét, cướp phá các vùng lân cận. Tới Cổ Sở (nay là Yên Sở phía tây ngoại thành Hà Nội) , giặc bị nhân dân trong vùng dùng gậy, dùng dáo đánh cho thua to . Nói về trận đánh này, sử cũ đã ghi :” Đời Nguyên Phong (Trần Thái Tông), quân Thoát Hoan vào cướp, khi đến xã Cổ Sở ngựa không tiến được , người trong xã chống phá được giặc”.
Sử cũ cũng ghi :”Năm Mậu Tuất (1298) (đời Trần Anh Tông), mùa thu tháng tám thi đấu gậy”.
Tuy sử không thuật rõ thể thức thi đấu thế nào, song cuộc thi được kể là ở triều Trần, diễn ra sau khi đất nước đã ba lần đánh thắng giặc Mông Cổ và cuộc thi đấu có ý nghĩa khuyến khích quân sĩ và nhân dân trong nước mài sắc cảnh giác, luôn luôn tập luyện sẵn sàng đứng lên chiến đấu đập tan mọi cuộc ngoại xâm.
Một sự kiện cũng liên quan đến đánh gậy đã được Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi chép vào năm 1323: “Ông Mặc thi đấu trượng chiếm cao khoa” .
Đánh gậy là một môn võ truyền thống của dân tộc đã được nhiều người ngưỡng mộ và tập luyện. Không những thanh niên trai tráng tập luyện mà ngay cả nữ giới cũng trau dồi kỹ thuật chiến đấu này :
Ai vô Bình Định mà coi,
Đàn bà cũng biết cầm roi đi quờn (quyền).
(Ca dao)
Hoặc
Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh
Xin mở một dấu ngoặc về truyền thuyết nguồn gốc roi Thuận Truyền thuộc xã Bình Thuận, huyện Tây Sơn, Bình Định: Roi
Thuận Truyền xa nữa không rõ ông tổ là ai, nhưng võ sư Hồ Nhu được
xem như một sư tổ. Ông sinh năm 1891, cha từng là một võ quan triều
Nguyễn, mẹ người Huế, cũng là con nhà võ. Chuyện xưa kể, một lần do bị
bức hiếp, Hồ Nhu đã đánh trả con trai một ông Hương Kiểm trong làng.
Ông Hương Kiểm xách gậy đi tìm, đòi đánh ông. Mẹ ông đã giở ngay cán
cuốc đánh ngược lên một thế. Vậy là cái gậy trong tay Hương Kiểm bay vù
tận ngõ. Từ đó, Hồ Nhu bắt đầu theo mẹ luyện võ. Nhưng theo võ sư Hồ
Sừng, hồi bé, võ sư Hồ Nhu chưa được mẹ dạy võ. Ông phải tìm học ở
nhiều ông thầy khác, như học roi của Ba Đề, học nội công của Đội Sẻ,
tiếp đến học roi của Hồ Khiêm, ông còn được một tạo sĩ (đậu tiến sĩ võ)
truyền dạy thêm. Khi đường roi đã cứng cáp vì kết hợp tinh hoa của
nhiều thầy, thấy được, mẹ ông mới tinh truyền thêm. Đường roi càng trở
nên thiên biến vạn hóa, sâu hiểm khôn lường. . . .
Tháng
11 năm Mậu Thân 1788 quân Mãn Thanh xâm chiếm Thăng Long, Bắc Bình
Vương Nguyễn Huệ, sau khi đăng quang tại Phú Xuân (Huế), vội kéo đại
binh thần tốc đi Bắc phạt. Tới Nghệ An, nhà vua dừng lại đây vài ngày
để mộ thêm quân và nhanh chóng tuyển dụng được trăm ngàn tân binh.
Theo truyền thuyết vùng Thanh Nghệ, cả cánh rừng tre rộng lớn nơi đây
đã được nhà vua trưng dụng để lấy tre làm binh khí, làm quân dụng cho
đoàn tân binh nghĩa quân này. Điều đó nói lên gậy tre vót nhọn có lẽ là
binh khí chủ yếu của đoàn tân nghĩa binh Tây Sơn, bởi với thời gian
ngắn ngủi kỷ lục không dễ rèn đúc đủ binh khí bằng sắt thép trang bị
cho cả nhiều ngàn quân.
Tới thế kỷ 19, võ gậy ở nước ta đã được
phát huy tới trình độ cao. Một lần nữa, gậy được quy định rõ ràng :
gậy dùng để tập và thi lúc này ngoài gậy tre còn xử dụng hai loại gậy
nữa là sắt và gỗ. Gậy sắt theo qui định có loại dài hơn 6 thước 3 tấc
ta (khoảng 1,50 mét) và nặng tới 40 cân ta (khoảng 25 kg); còn gậy gỗ
dài 6 thước 5 tấc với chu vi 2 tấc 6 phân. Việc thi gậy thời này có
hai môn : múa và đấu.Múa gậy để biểu diễn tài khéo léo và sức mạnh.
Đấu gậy để thẩm định kỹ thuật chính xác, dũng mãnh và linh hoạt cần thiết cho chiến đấu.
Thể thức thi Hội thời nhà Nguyễn : ngoài các môn võ bắt buộc phải thi khác, riêng môn đấu gậy đầu thế kỷ 19 sử sách có nói rõ : “Thi
đấu côn gỗ cứ một người thi đấu với hai người, người nào thắng luôn
cả hai là hạng ưu; thắng một người và ngang sức (hòa) một người là
hạng bình ; thắng một người và kém (thua) một người hoặc ngang sức hai
người là hạng thứ ; không thắng là hạng liệt “. Rõ ràng đây là
môn đấu đòi hỏi người thi phải có tài năng, sức lực, dũng cảm, và mưu
trí. Đó là cuộc thi đấu gậy để đạt danh hiệu Cử Nhân Võ.
Còn đấu gậy trong thi Đình
thì mức độ yêu cầu cao hơn. Một người phải đấu với năm người, thắng
cả mới được là ưu; nếu chỉ thắng bốn ngang sức một hay thắng ba ngang
sức hai là bình. Còn thắng hai ngang sức ba hoặc thắng một ngang sức
bốn là thứ ; không thắng là liệt. Đó là cuộc thi đấu gậy để đạt danh
hiệu Tiến Sĩ Võ.Song dù thi Hội hay thi Đình, người thi đều phải qua cuộc thử sức bằng môn múa hai loại gậy gỗ và sắt. Yêu cầu múa phải nhanh, mạnh, khéo, gọn, … , gậy múa phải quay tít trên cao và bao kín quanh mình, không trống không hở.
XX
X
Chàng
Lía, một dũng sĩ đất Qui Nhơn Bình Định nổi lên chống bất công của
triều đình nhà Nguyễn, có tài đánh gậy rất khéo léo , tinh vi :
Đường côn trọn vẹn trăm bề,
Múa như giông tố tiếng nghe vù vù .
( Vè chàng Lía )
Khi
quân Pháp nổ súng tấn công cướp thành Gia Định năm 1859, nhân dân Nam
Bộ đứng lên dùng gậy tầm vông xông ra chống giặc Pháp cứu nước. Tinh
thần chiến đấu ngoan cường của nghĩa quân dưới trướng chủ tướng
Trương Định đã được cụ Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi trong bài ” Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc “ nổi tiếng :
Ngoài cật có một manh áo vải,
Trong tay cầm một ngọn tầm vông.
Các
thế võ gậy cổ truyền với những đòn miếng lợi hại mỗi địa phương trên
đất nước, mỗi lò võ xưa có những cách cầm gậy, vuốt gậy khác nhau . Có
lò võ thích xử dụng gậy dài, có lò chỉ chuyên luyện gậy ngắn để xử
dụng những thế xuyên lâm (đâm thẳng), bổ thượng, phạt tả, phạt hữu, dóc mía dọc (đánh từ trên xuống hay từ dưới lên), dóc mía ngang (đánh từ phải qua trái hay ngược lại), thượng công hạ kích, với những thế công thế thủ khác nhau,vân vân …Về kỹ thuật cầm gậy, cầm côn, thường dùng cả hai tay nhưng cũng có thể xử dụng một tay cho gậy ngắn, và có nhiều lối nắm cầm gậy khác nhau, ½, 2/3 hay cả vòng tròn gậy tùy theo thế võ hay đấu trường rộng hẹp khác nhau, trong ngõ hẻm, trong rừng rậm, v.v. . . Thông thường có hai lối cầm gậy dài : Nhật nguyệt áp chưởng và Long trảo hộ châu .
Nhật nguyệt áp chưởng là lối cầm gậy hai tay đối nhau hai bên , tay trong tay ngoài nắm chặt gậy nằm gọn ở giữa hai lòng bàn tay.
Long trảo hộ châu là lối cầm gậy bằng mười đầu móng tay và cả hai
tay đều cùng ở một phía gậy .
Tác giả Bùi Trọng Việt trong Đặc san Trúc Lâm xuân Ất Dậu 2005
trang 107 đã mô tả chi tiết về Đấu Gậy Ngày Xuân:
Chỗ
tập đánh gậy thường là một bãi cỏ trống hoặc một cái sân đất rộng để
học viên nhẩy múa và đập gậy cũng như thúc gậy xuống đất. Sau một thời
gian tập hết các thế đánh và đỡ cũng phải cả năm. Nhưng để trở nên
một tay tài nghệ đủ tiêu chuẩn để tham dự các trận đấu còn tùy thuộc
vào khả năng, sở học và kinh nghiệm của học viên. Riêng những tay gậy
có đủ sức tham dự những trận thư hùng trong những dịp hội hè đình đám,
hoặc dịp Tết để tranh giải quán quân với thiên hạ thì ph6i là những
tay điêu luyện bậc thầy. Tuy nhiên các trận đấu cũng có giới hạn tùy
theo địa phương, thí dụ : tranh giải hàng Tổng (gồm có 5, 6 làng),
hàng Huyện hoặc liên Huyện, hoặc liên Tỉnh, v.v. . .
Ban Giám khảo dĩ nhiên phải là những tay gậy có nghệ thuật
siêu quần thuộc loại trưởng môn, tức là các ông thầy của các “lò”
huấn luyện. Người trọng tài (xưa gọi là người “cầm trịch” ) không có
môn sinh tham dự trong trận đấu. Thường những trận đánh qua trọng thì
họ phải mời mấy người từ những tỉnh khác tới để tránh thiên vị và
tăng thêm phần long trọng.Giải thưởng ngày xưa thường bằng hiện kim hoặc bằng khen thưởng của các quan đầu Huyện hay đầu Tỉnh, nhưng phần nhiều họ lại trọng cái danh dự quán quân hơn cả.
Tiện đây chúng tôi xin kể sơ qua một trận mà chính người viết đã được mục kích.
. . . Đấu trường là một bãi đất rộng, bên cạnh một ngôi
đình, chung quanh là những cây cổ thụ và một phía là những bụi tre già.
Người xem đứng nghẹt ở chung quanh, ở bên ngoài hai hàng dây trão
giới hạn như hình chữ U với những hàng cột cao treo hàng chục cái đèn
măng-xông (manchon), sáng như ban ngày. Phía đầu chữ U là khán đài
chính nơi quan huyện đại diện cho Tỉnh cùng các vị hương lý và ban
trọng tài. Mấy người “cầm trịch” thì ngồi ở hai bên; trên hai chiếc
ghế khá cao gần trên hàng cây bắc giống như cái chòi.
Phía
sau dẫy ghế trọng tài là một bàn hương án có bầy một cái đỉnh lớn đốt
trầm, khói tỏa mùi thơm phảng phất, ngay trước hương án là một tấm
giấy lớn ghi tên các toán tham dự. Sau khán đài là một chiếc quan tài,
đây là món quà tặng cho một tay gậy nào xấu số mà lỡ bị đánh chết bất
tử thì đã có quan huyện đại diện qua đầu Tỉnh chứng kiến rồi, phe bại
trận chỉ việc đem xác chết về chôn mà không có lý do để thưa kiện
(chúng tôi không hiểu những người tham dự có ký kết gì không?).
Xung
quanh vòng đai là những người cầm gậy giữ trật tự và bốn người ngồi
trên đòn gióng cao để làm trọng tài phụ. Bên phải khán đài treo một cái
chiêng lớn và bên trái là một cái trống. Hai góc phía trước khán đài
là hai cái bảng đen. Một cái ghi thể lệ các trận đấu. Một cái ghi ngày
tháng, trận đấu thứ mấy và lò nào đang giữ giải, gồm : hạng nhất,
hạng nhì và hạng ba. Thời gian tranh giải là 10 ngày, hôm đó là ngày
thứ 8 và lò gậy Thái Bình đang giữ giải. Thể lệ là lò nào cảm thấy có
thể thắng cuộc thì xin vào đấu, chớ không có bắt thăm theo vòng loại
như các trò chơi thể thao bây giờ. Trong vòng hai ngày nữa là mãn cuộc,
nếu không có đội nào dự tranh thì đội giữ giải cuối cùng coi như
thắng cuộc.
Theo thông lệ
thì sau khi người đại diện đọc thể lệ cuộc đấu thì lập tức ba hồi
chiêng trộng nổi lên, tiếp theo là một tràng pháo nổ thật dài. Khi
tiếng pháo dứt, thì ba tiếng trống điểm, báo hiệu giờ khởi đấu bắt
đầu. Lập tức hai đấu thủ ăn mặc nai nịt gọn gàng, một người thắt ngang
lưng giải lục xanh và người kia mang giải lụa đỏ. Đầu mỗi người chít
một khăn ngang thắt ra sau gáy thành một giải dài tới ngang vai, trông
như một tráng sĩ. Mỗi người mang một cây gậy ra sân, hai người cùng
múa bài “bái Tổ” thật đẹp mắt và mỉm cười chào quan khách và khán giả,
rồi cùng nhau đi một bài “trảo mã” (?) và khiêm tốn chào nhau theo
thủ tục Tổ truyền. Đoạn đôi kỳ phùng địch thủ chống đốc gậy tung người
ra xa nhau với những đường gậy nhanh như gió. Trước còn vờn nhau để
thử tài cao thập, đồng thời tìm những điểm yếu của nhau để khai thác
cho đúng lúc. Rồi lập tức trổ ra những ngón nghề để hạ nhau như :
đường Xuyên sơn, tức đâm thẳng đầu gậy vào người đối phương, phạt tả,
phạt hữu, bổ thượng hoặc tiền xung hậu kích.
… Tiếp
theo là những đòn chí tử bằng cả sức mạnh của cây gậy giáng xuống đầu
nhau với đòn Bổ thượng, tức là cầm một đầu gậy đánh thật mạnh ngay
giữa đầu hoặc phía tay nào mạnh của đối phương 06 làm giảm sức mạnh
của nhau.
Bên đỡ chuyển
ngay thế trung bình tận đưa gậy lên đỡ đòn đập thẳng xuống đầu như
trời giáng của đối phương và nhanh như chớp, người đỡ đòn xoay người
qua một bên lùa cây gậy quay một đường cực mạnh ngang chân dưới để trả
đũa bằng một đòn “quét chợ” từ phải qua trái, nhanh đến nỗi ta không
trông thấy gậy mà chỉ nghe được tiếng gió xẹt bên tai. Bên bị đòn
“quét chợ” cũng chẳng kém, nhẩy bổng người lên như con sóc chống ngay
đầu gậy nghiêng về một phía để đỡ đòn. Đồng thời vuốt đốc gậy tung ngay
một đường phạt ngang lưng từ trái qua phải, bên bị đánh xoay người
qua phải vớ thế đinh tấn, hai tay đưa gậy ra đỡ cú đánh ngang hông.
Tiếng kêu chát chúa của 2 cây gậy chạm nhau chưa dứt thì người bị đánh
đã vuốt ngay đốc gậy tuốt một đòn “dóc mía” thốc ngược từ dưới lên
trên làn cho người đang ở thế công phải chống gậy xuống đất ở thế
nghiêng theo 45 độ hai tay giữ chắc để thủ, nếu không khéo sẽ bị đánh
văng ra ngoài vòng hạn định.
… khi đang quần thảo bên
nhau, bỗng nhiên họ chống gậy bay người qua một bên và có khi bay qua
hẳn phía sau đối phương để đánh hững đòn hiểm nghèo, nếu sơ hở thì khó
tránh né được …. (trang 108)
XX
X
Để tạm kết thúc, xin đơn cử hai bài thiệu về võ gậy cổ truyền, một bài về gậy dài, bài “Lữ Vọng Tâm Côn” và một bài về gậy ngắn, bài “Hoàng Kim Giản Pháp” được lưu truyền trong dân gian hay trong các lò võ xa xưa ở nước ta :X
I/ Lữ Vọng Tâm Côn
Thượng trình thọ thế lưỡng biên khai ,
Tam tấn xà thương nhất điểm lai ,
Bảo tử kinh xa hồi tọa mã ,
Kinh châu hổ cứ trấn Trung sơn ,
Điểm thủy phong đao phi chiếc dực .
Thạch bàn Lữ Vọng tọa lý ngư , (2)
Phi khứ phi lai biên quơ thảo ,
Đàng địa phi xa luyện trung thiên .
II/ Hoàng Kim Giản Pháp
Bình thân lập thế ,
Lưỡng long thủ châu ,
Khuynh thân bái tổ ,
Thiềm thử vọng nguyệt ,
Kim giản bạt sơn ,
Tiềm tàng long hổ ,
Phượng vũ xuyên lâm ,
Phi giao đoạt ngọc ,
Mãnh sư trấn động ,
Cuồng phong tảo diệp nhất,
Cuồng phong tảo diệp nhì,
Tiềm tàng long hổ ,
Phượng vũ xuyên lâm ,
Phi giao đoạt ngọc ,
Mãnh sư trấn động ,
Cuồng phong tảo diệp ,
Tiềm tàng long hổ ,
Lão tiều quải sơn ,
Thiềm thử vọng nguyệt ,
Lão tiều quải sơn ,
Vân gia hồi giản ,
Đoạt mệnh kim giản ,
Khuynh thân bái tổ . /.
PQ
____________________________________________________(1) Toan Ánh, Nếp cũ . Hội hè đình đám. Saigon, Sao Mai xb, 1974, trang 278.
(2) Có nơi đọc là ” Thạch bàn lưỡng vọng tọa lý ngư “.
Võ học: Vật cổ truyền Việt Nam
Tháng Hai 20, 2012 bởi nguyenchan
VẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
TRONG LỊCH SỬ VÀ GIAI THOẠI
VSNT Phan Quỳnh
Đấu
vật là một hoạt động dùng sức không có phương tiện , dụng cụ nào
ngoài tài khéo nhanh nhẹn , nghệ thuật , dẻo dai và sức lực nhằm thi
thố tài năng quật ngã nhau giữa hai đối thủ gọi là Đô hay Đô Vật .Khác với đánh võ bàn tay luôn luôn cứng, khi giao đấu các đô vật hai bàn tay mở xòe và mền mại , hầu dễ dàng cầm nắm , quăng quật . Những đô vật nổi tiếng hay bậc thầy được tôn là Trạng Vật . Tại những làng thôn có nhiều đô vật giỏi , hoặc có nơi đào tạo được nhiều đô vật , có thầy dạy hẳn hoi , gọi là Lò Vật .
Vật là một bộ môn thể thao rất được ưa chuộng trong giới nông dân ViệtNam thời xưa . Những ngày đầu của mùa Xuân thuở thanh bình hay những buổi hội hè đình đám nơi thôn dã, dân làng thường tổ chức những cuộc vui như hát quan họ, thi nấu cơm, chọi trâu, đá gà, đánh đu, kéo co, bắn nỏ, đánh gậy trung bình tiên, đấu vật, v.v… Nhất là đấu vật, mở hội ngày Xuân mà không có thi vật thì thật là thiếu thú vị của những ngày Tết. Trống vật nổi lên là có sức thu hút mọi người , già , trẻ , gái , trai , đủ mọi tầng lớp nô nức đến bao quanh đấu trường ; người ta bình luận say sưa , chê khen rành rọt từng thế , từng miếng vật , từng keo vật từng tác phong của mỗi đô .
Bộ môn vật , ngoài tính cách giải trí vui chơi , còn là một môn thể thao hữu ích, giúp thanh niên trong làng thêm cường tráng, thêm nghị lực , lòng dũng cảm , để giữ làng , giữ lúa và giữ nước. Đấu vật đã trở thành một tục lệ , một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ViệtNam. Bức tranh dân gian Du Xuân Đồ đã miêu tả sống động cảnh tượng sinh hoạt văn nghệ , thể thao của nhân dân Việt Nam xưa vào dịp đầu Xuân với lời thơ chú thích :
Thái bình mở hội xuân ,
Nô nức quyết xa gần ,
Nhạc dâng ca trong điện ,
Trò thưởng vật ngoài sân
Ca dao vùng SơnNamcó câu :
Ba năm chúa mở khoa thi
Đệ nhất thi vật , đệ nhì thi bơi,
Đệ tứ thi đánh cờ người ,
Phường Bông tứ xứ mồng Mười tháng Ba .
Ngay
từ thời xa xưa, khi mới có của bộ môn này tại nước ta , vật đã được
coi là một phương pháp dùng để luyện sức , đo tài , chọn người ra
giúp dân giúp nước . Điều đó đã thể hiện ngay trong kỹ thuật , phong
cách và lối chơi .Theo Pierre Gourou, tác giả sách “Les Paysans Du Delta Tonkinois” tái bản tại Paris năm 1965 (1), thì tại đồng bằâng sông Hồng có nhiều làng, ví dụ làng Hà Lỗ tỉnh Bắc Ninh, có tục “đặt ruộng“, dành riêng một số Công điền của làng cho làm rẽ, cho thuê thu tô để có tiền tổ chức Hội Vật hàng năm.
Thật vậy , xưa kia ở nước ta chẳng mấy nơi không có lò vật . Có những lò vật vang lừng xứ Bắc như lò vật Guột , Tri Nhị , Gia Lương (Bắc Ninh), lò vật Đông Kỵ (Đồng Quang, Từ Sơn , Bắc Ninh) lò vật Thụy Lâm (Đông Anh, Cổ Loa) , lò làng Yên ( Yên Mẫn, Châm Khê , Võ Giàng ) lò Liễu Đôi (Nam Hà) , lò Phú Thọ , Vĩnh Phúc Yên , Nam Định, Hưng Yên ,Hải Phòng, lò vật Thường Tín, lò Thanh hóa, Nghệ An , vân vân . Hội Vật làng Sình (xã Phú Mậu , huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên) hàng năm mở hội vào ngày 10 tháng Giêng Âm lịch thu hút nhiều đô danh tiếng miền Trung. Lại có lò cứ 12 năm mới mở Hội Vật một lần, ví dụ lò vật Trà Lữ thuộc trấn Sơn Nam cũ, cứ đúng năm Mùi mới lại mở thi Vật, nơi tranh hùng của các đô vật bốn phương , háo hức về giật giải. Nhưng cũng có làng khi mở hội đình rángù tổ chức đấu vật vẫn không thành , theo các cụ già xưa , nếu nơi naò không phải là đất vật thì khó có thể lập nổi sân vật mà các tay đô vật giỏi cũng không đến tranh giải. Đền Lý Bát Đế , thờ tám vị vua nhà Hậu Lý (từ năm 1010 đến năm 1225) tại Đình Bảng (Bắc Ninh), có tượng hai ông Đá Rãi, hai đô vật nổi tiếng.
Dưới đây, chúng ta thử hướng về lối vật của người nông dân ViệtNamthời xa xưa.
I/. TẬP LUYỆN.
1/. Quanh năm, xong việc đồng áng , được lúc nào rảnh rỗi, trai tráng trong làng thường rủ nhau tập dượt võ thuật hay vật, họ chỉ bào lẫn nhau, ai có miếng võ nào hay, ngón vật nào độc đáo thì lại truyền dậy cho anh em cùng tập. Những ngày giáp Tết Nguyên Đán, nếu trong làng có ông thày võ, họ đến tụ tập tại nhà ông thày để luyện tập thêm ; làng nào không có thì cử người đi đón thày ở lò võ , lò vật các làng lân cận về để dậy.
Trang phục khi tập luyện cũng như khi lên đài đấu của các đô vật là đóùng có mỗi một cái khố và ởû trần, không có đai đẳng gì cảø, trên đầu chít khăn đầu rìu hay chít khăn bỏ tua . Khố là một miếng vài dài được cuốn vào như một cái quần sì-líp. Khố có nhiều màu, nào đỏ, nào xanh, nâu hay vàng, hồng, tím, . . .
2/. Kỹ thuật và Nghi lễ .
Trước hết, các đô vật được tập cách luyện thể lực cho dai sứ, mạnh tay mạnh chân, cách đứng thủ thế nào cho vững chắc , cách “lồng tay tư”sao cho có ưu thế và những bộ pháp như cách di chuyển từng bước chân, khi tới, khi lui, khi bước ngang, bước xéo, xoay vòng, … Họ còn được tập luyện cách té ngã thế nào cho khỏi đập đầu xuống đất , khỏi gẫy tay, tập cách né tránh, thoát hiểm, “ cầøu vồng “, kể cả những nghi thức có tính cách tôn giáo dành riêng cho mỗi lò vật, như Múa Hoa, Xe Đài hay còn gọi là Ra Giàng, hoặc Múa Hạc v.v…
Ra Giàng , Múa Hạc hay Xe Đài
là một lễ nghi thành kính của các đô vật , và còn một hình thức khởi
động của đô vật có mang tính dân tộc , vừa là cách trình diễn của đô
vật với khán giả, tạo một không khí hào hứng lành mạnh trước khi vào
cuộc đấu thực sự. Ngoài ra Ra Giàng , hai bên vờn nhau , còn đánh đòn
tâm lý , gây cho đối phương tư tưởng hoang mang , giao động với những
lối Ra Giàng hùng dũng , chân đứng hình con hạc , hay đứng theo kiểu
con phượng nhích chân , con dang cất cánh hoặc con công múa xòe, cổ
tay uốn lượn , ngón tay múa may mền dẻo , uốn éo , giống như những
nghi thức tay Ấn tay Quyết của các thầy tế , pháp sư hay phù thủy .
Có lẽ nó có nguồn gốc của lễ nghi Tế Thần sau những chiến thắng của
các dân tộc Á đông thời thượng cổ bên ngọn lửa thiêng bập bùng trên
thuyền chiến hay đồng nội ven ao hồ, sông biển . (Xem Luyện Võ của Phan
Quỳnh) . Phải chăng có sự liên hệ nào đó giữa những hình ảnh Ra Giàng
hay Múa Hạc của các đô vật vùng đồng bằng Bắc bộ và bắc Trung bộ Việt
Nam mà nhịp chân tiến lên lùi xuống ba bước, bước ngang hai bước với
những cảnh chim chóc , cảnh người múa (múa võ?) chạm đúc trang trí
trên trống đồng Đông Sơn, hay rõ hơn trống đồng Hoàng Hạ , Ngọc Lũ
hay trên thạp đồng Đào Thịnh ? Điểm đáng chú ý là động tác bàn tay
những người múa trên trống đồng, thạp đồng đã được thể hiện một cách
cường điệu, bàn tay xòe ra hình ba chạc to quá khổ so với người .
Vật không phải chỉ cần có sức khỏe , có lực để thắng được đối phương , nó còn đòi hỏi phải có thế , có miếng , có kỹ thuật , có mánh lới , cộng với sự nhanh nhẹn , chính xác của từng đô vật. Do đó , vật có nhiều thế , nhiều miếng , có những miếng đánh trong tư thế bất ngờ , có những miếng đánh trong lúc giằng co , hoặc đánh trong tư thế nằm (nằm bò) . Dưới đây là một số đòn miếng vật thông dụng :
- Kê : dùng hông hoặc vai làm điểm tựa để quăng ngã đối thủ.
- Ngáng (hay Cản) : dùng chân quét hay gạt, cản chân đối thủ làm mãt thăng bằng cho té ngãù.
- Đệm : dùng đầøu gối, hay bắp đùi , lót đằng sau chân đối thủ rồi dùng sức mạnh của mình gait , đẩêy, sô đối phưóng té ngửa ra.
- Vét : đang vờn nhau, nhử cho đối thủ tiến lại gần, nhanh chóng cúi người xuống, chân trái gập hạ thấõp, chân phải rút về sau duỗi thẳûng, đồng thời tay phải đưa lên ấõn mạnh vào vai trái đốùi thủ, bàn tay bắùt chặùt lãy khoeo sau chân trái đối thủ giật mạnh về phía mình.
- Bắt Để Hớt Gót : Hai đô vật đối diện sát vào nhau (mà chưa lồng tay tư) một người bất ngờ dùng hai tay bắt chặt lấy cánh tay phải đối phương . Chân phải và người lập tức xoay chếch sang phía bên phải , người cúi thấp hai chân dạng ra hai bàn chân rê mạnh và nhanh , lùi chếch về phía sau , đồng thời dùng hai tay kéo mạnh đối phương về phía mình. Khi đối phương đang mất đà hơi chúi về phía trước thì lập tức ta hạ tay trái xuống , từ phía trong dùng bàn tay phải bắt và hất mạnh cổ chân trái đối phương ra đằng sau. Thuận bên nào , làm bên ấy.
-Bốc Một Chân :
a/ Tư thế bất ngờ : Hai đô vật đứng sát và đối diện , một trong hai người bất ngờ hất hai tay của đối phương lên và người phải nhanh chóng chuồi dài ra phía sau, lúc này chân trái đặt trước , chân phải đặt ở phía sau , đầu cúi xuống , dùng vai ấn vào thân thể đối phương, đồng thời dùng hai tay bốc khoeo chân phải đối phương giật mạnh về phía mình , đối phương bị mất thăng bằng bởi hai lực nên ngã ngửa.
b/ Tư thế giằng co :Tayphải bá cổ đối phương , tay trái nắm cánh tay trên , tay phải đối phương, dầu cúi xuống dựa vào gáy phía phải đối phương, chân trái phía trước , chân phỉ phía sau. Đối phương dùng sức nay ta , ta dùng sức nay lại . Đối phương lại cố dùng sức nay ta , ta bất ngờ hạ thấp người xuống và đánh như miếng bốc một chân trong tư thế bất ngờ.
-Sườn tay trong : còn gọi là đánh đòn dọc , bất ngờ biến thế thật nhanh, luồn luồn cánh tay phải vào phía trong cánh tay trái đối phương , bàn tay phải lồng vào nách trái đối phương .Tay trái nắm vào cánh tay phải đối phương , ghì vào sát người mình . Đồng thời bước nhanh chân phải về phía trong lòng đối phương , cúi người xuống dùng hông mình hất mạnh đối phương ra phía sau cho ngã .
-Đánh Gẩy : Đang lồng tay tư , bất ngờ đổi hai tay vào phía trong cánh tay đối phương , bàn tay trái mở nay mạnh vào cổ bean phải , bàn tay phải xốc nách trái đối phương , kéo mạnh về phía mình , đồng thời nghiêng người dùng sườn trái hất mạnh , chân phải hất chân đối phương cho té ngã.
-Tay Quai : Đang lồng tay tư , bất ngờ chuyển hai tay vào phía trong hai cánh tay đối phương , tay phải luồn qua dưới nách trái đối phương, tay trái luồn qua trên vai đối phương đều ra sau long và hai bàn tay nắm chắc lấy nhau ghì chặt đối phương . Rồi bất ngờ dùng tay phải nay mạnh đối phương ra sau , cánh tay trái kéomạnh đối phương về phía mình . Đồng thời nghiêng mình dùng sườn phải đánh mạnh và châm phải hất chân đối phương cho té ngã .
- Nằm Bò (hay Hạ Thổ) : khi bị xa cớ lỡ miếng hay khi gặp đối thủ mạnh hớn, họ thường nằm sãp xuống mặt đãt, tay chân dang rộng ra, mặc cho đối thủ tha hồ đẩêy, bê, bứng, nhấõc hổng, để rồi liệu cơ hội đánh lừa đối thủ, lợi dụng lúc đối thủ sơ hở thì lập tức chồm dậy tấn công lại.
Các miếng Bốc , miếng Gồng , miếng Sườn , … , có lại có nhiều thế khác nhau : Gồng Đứng , Gồng Quỳ , Gồng Ngồi , Sườn Tay Trong , Sườn Tay Ngoài , Bốc Hai Chân , Bốc Một Chân , vân vân .(2)
Tuy nhiên , mỗi lò vật , mỗi địa phương , lại có những thế vật độc đáo , đặc biệt riêng , phong cách riêng , mạnh mẽ , ác hiểm hay uyển chuyển , bay bướm riêng , nổi tiếng trong vùng , nhất là những thế “đánh dịp nhì” . nghĩa là kỹ thuật đánh chống lại , phản lại : chống Bốc , chống Gồng ngồi , chống Mói , chống Cầu vồng , chống Sườn trong , vân vân , ví dụ xưa kia : lò Mỹ Độ (tên nôm là làng Đò thuộc tổng Mỹ Cầu , Phủ Lạng Thương, Bắc Giang) có miếng chống Vét, chống Gẫy , Lấy Bò ; lò Mai Động có miếng Giồng , miếng Mói ; lò Yên Sở có miếng Sườn miếng Móc ; lò Đồng Tâm (Vụ Bản, Nam Định) lại nổi tiếng với những ngón Móc-Chảo, Vỉa Lộn Cối , Giát Bốc , Bỏ Thuốc , Sườn Cặp Cổ , . . .
II/-. LỆ VẬT
Muốn đánh bại đối thủ trong cuộc đãu vật thì các đô vật phải theo những luật lệ sau đây :
1/. Nhấc bổng địch thủ hổng cảø hai chân lên khỏi mặt đất (“Túc Ly Địa”) được coi là thắng , hổng một chân không kể .
2/. Vật đối phương té ngã ngửa, lưng vai chạm mặùt đấõt thì thắng (“Lấm Lưng Trắng Bụng”), ngã xấõp không kể .
Vật không có hòa, phải xác định một thắng một thua (thắng tuyệt đối hay thắng điểm). Ngoài ra không được đấm đá , bãm huyệt, móc xương quai xanh , chẹn hàm , bẻ cổ , lên gối, nắm tóc, móc mắùt, cù léc, thọc cắn,…, phun nưôc miếng, văng tục, xé khố đối thủ, hay khi bị té ngã rồi không được móc chân cho đối thủ ngã theo, v.v…
Thí sinh thượng đài đấu vật không tính tuổi tác hay cân lượng.
Tùy theo địa phương tổ chức, vật có nhiều giải khác nhau, chia hai loại : Giải Thờ và Giải Chính.
1/. Giải Thờ (hay Giải Hàng)
Giải thờ còn được gọi là Giải Xông Sới , không có người giữ giải . Ai muốn lên vật thì ghi tên rồi bắt cặp. Ai thắng thì được làng thưởng. Tranh Giải Thờ chỉ là mở• đầu cho ngày Hội Vật, để cho những ai muốn khảo sức nhau thì lên bắt cặp, và có nhiều Giải Thờ trong một ngày. Ở giải này khi vật hai đối thủ thường không dùng hết sức, chỉ cốt phô bày nghệ thuật, vật cho đẹp, cho vui, có khi cả hai cùng té ngã cho cả làng cùng cười. Thay vì họ lừa miếng nhau thì họ lại múa may cho thật mền dẻo để người xem vui mắt.(3)
2/. Giải Chính.
Giải Chính có ba giải : giải nhất, giảøi nhì và giảøi ba. Ba giải này đều có người xin giữ . Các đô vật tứ xứ muốn phá giải nào thì xin ghi tên để vật với người giữ giải ấy. Nếu không có ai xin phá giải trong ba ngày, theo lệ làng, thì người giữ giải đương nhiên được lãnh giải mình giữ (Giải Cạn).
Trong ba Giải Chính này thì giải ba phải được phá trước rồi mới tới giải nhì, và giải nhất.
Về số đối thủ phải đấu thì lệ làng định như sau :
- Giải nhất : trong sáu ngoài năm.
- Giải nhì : trong bốn ngoài ba.
- Giải ba : trong ba ngoài hai.
“Trong sáu ngoài năm” nghĩa là ai giữ giải nhất thì phải vật thắng đủ liền sáu người mới được coi là chiếm giải, còn người phá giải thì chỉ cần vật ngã năm đối thủ kể cả người giữ giải . Nếu người giữ giải đã thắng năm keo mà bị thua keo chót thì cũng không được nhận giải . “Trong bốn ngoài ba” hay “Trong ba ngoài hai” cũng tính tương tự như thế.Giải thưởng cho đô vật có nhiều loại cho giải chính , giải hàng , lại có giải chung cuộc cho đô vật nào thắng nhiều điểm nhật trong những ngày Hội Vật
Thường thường Giải Chính do đô vật hạng nhất trong làng hay ở các làng khác đến xin giữ .
IV/. THƯỢNG ĐÀI .
Ngày Hội Vật đầu Xuân đã đến. Trống vật thúc dục làm nao nức lòng người. Già trẻ, trai gái đều bỏ mặc hết mọi công việc nhà, rủ nhau tụ tập đông đảo trưôc sân đình để dự khán. Các đô trong làng đều ghi tên dự thí. Những đô tứ xứ, ở các làng lân cận muốn xin dự thí phải mang lễ vật đến để xin cúng thần . Tùy theo lệ làng, có nơi lễ vật là đĩa sôi gấc, hay nhánh cau với vài lá trầu , hoặc bó hoa, trái cây hoa quả ø, hoặc thẻ nhang,…
Bãi cỏ phẳng rộng trước sân đình làng được dùng làm đấu trường , ở giữa được kẻ vạch một vòng tròn , đường kính khoảng 6 mét bằng vôi trắng, vòng tròn này được gọi là sới vật. Có nơi sới vật là hình vuông mỗi cạnh tám mét , có nơi sới vật được đóng dóng bằng tre chung quanh , có nơi sới vật nằm dưới đáy ao nông cạn đã tát hết nước và khơi khô trước sân đình để dân làng , khán giả đứng chung quanh bờ xem cho rõ (sân này còn được dùng để đánh cờ người) . Hai bên sới vật là hai hàng cờ đuôi nheo ngũ hành gồm năm mầu xanh, đỏ đen vàng trắng, mỗi bên năm lá cờ . Các đô vật trong thiên hạ ởû trần trùng trục, chỉ đóng mỗi một cái khố , đầu chit khăn , ngồi thành hai hàng dưôi hai dẫy cờ . Người nào cũng lực lưỡng, bắp thịt nỏ nang rắn chắc.
Hai bên tả hữu trước sới vật là hai cái trống cái (trống lớn) , có nơi chỉ dùng một trống thôi , và những hàng ghế danh dự dành cho quí vị chức sắc trong làng và hàng tổng. Hai vị đàn anh trong dân được cử đánh trống cái , gọi là “cầm chịch” , nghĩa là làm nhiệm vụ của trưởng ban Trọng tài cuộc đấu .
Sau khi múa Ra Giàng , hai đô vật bắt đầøu giao đấõu. Trống vật liên tục mỗi hồi là ba tiếng. Hai người cầm chịch cứ người nọ đánh ba tiếng dứt thì người kia lại đánh ba tiếng tiếp theo. Các đô vật tài hoa thường dùng các miếng vật vừa đẹp mắt mà vẫn quyết liệt , nghiêm túc và chính xác .
Ngay giữa sới vật có ba người tuần đinh, làm nhiệm vụ của trọng tài phụ . Hai trong ba người này , mỗi người cầm một lá cờ đuôi nheo nhỏ phất phẩy làm hiệu lệnh vật, người thứ ba cầm một trống lưng (trống nhỏ) để gõ nhẹ khuyến khích , thúc dục hai đô tấn công tiếp.
Keo vật càng trở nên gây cấn, tiếng trống lại mau hơn, người tuầøn đinh kề hẳn trống vào mang tai các đô để thúc , để cổ võ để nhắc nhở , hai lá cờ đuôi nheo cũng nhộn nhịp phe phẩy không ngừng để giữ trật tự, giãn các khán giả vây vòng mỗi lúc một quá chặùt.
Khán giảø reo hò , la hét khuyến khích yểm trợï tinh thần “gà nhà”, họ dán mắt vào từng miếng bốc , miếng sườn , miếng gồng của các đô , rồi reo lên khi đô nào đó hạ đối phương bằng một miếng đẹp mắt . Keo vật vào hồi quyết liệt , họ , những khán giả sát gần sới vật , nằm xoài ra đất để xem cho rõ .
Hai đối thủ nào bá cổ, nào tay nắm tay , hoặc thủ thế, giữ miếng , vờn nhau , . . . Họ ôm lưng, bá vai, ngáng chân, có lúc họ nắm tay nhau giật mạnh rồi buông ra cho té ngã. Cuộc đấu mỗi lúc một gay go, sôi động và hào hứng. Họ lừa nhau từng miếng, từng bưôc chân, từng cách di chuyển, rồi gặp cơ hội thuận tiện họ quật ngã ngửa nhau “lấm lưng trắng bụng” giữa tiếng reo hò ầm ĩ vui vẻ của mọi người …
Giải nhất vừa được phá . Kẻ chiến thắng hiên ngang kiêu hãnh lên lãnh giải . Phần thưởng đôi khi chỉ là ba vuông vải nhiễu điều, gói trà mạn sen (có những Hội Vật lớn , giải chính là một con bò hay con nghé) và một phong pháo toàn hồng được xé ra đốt ngay sau cuộc đấõu như chào mừng người vô địch thiên hạ .
Sau ba ngày tận sức, tận lực chiến đấõu trong tinh thần thượng võ , huynh đệ , các đô lại quây quần dướâi mái đình cùng nhau chè chén vui vẻ .
V/ VẬT TRONG LỊCH SỬ VÀ GIAI THOẠI
Một truyền thống cao đẹp của vật là ngay từ thời kỳ đầu dựng nước và giữ nước , các anh hùng dân tộc cứu dân giúp nước phần lớn đều là những đô vật nổi tiếng trong dân gian , được nhân dân kính trọng và thờ phụng mà ngày nay vẫn còn đền thờ : như Lý Ông Trọng (Lý Thân) được thờ ở Chèm , (ngoại ô Hà Nội), như Đô Lỗ (Cao Lỗ) , Đô Nồi (Nồi Hầu) , giúp vua Thục An Dương Vương (năm 257-207 trước Tây lịch) , ngày nay nhân dân vẫn hương khói thờ phụng tại Cổ Loa.
Theo Thần tích đền Nghè (Hải Phòng) bà Lê Chân dựng đài thi võ , luyện vật cho ba quân , chiến đấu giúp Hai Bà Trưng (năm 40-43 sau Tây lịch) đánh đuổi quân Đông Hán Trung quốc . Đô Dương , Đô Chinh (Nguyễn Tam Chinh) đã là những bậc thày nổi tiếng trong làng xã trước khi ra giúp Hai Bà Trưng cứu nước . Khi chết , Đô Chinh được nhân dân nhớ ơn, vinh tôn là Thần Hoàng làng làng Mai Động (ngoại thành Hà Nội), thờ phụng cho đến ngày nay và được xưng tụng là ông tổ lò vật Mai Động .
Nhân đây cũng xin nêu lên một chi tiết cần tìm hiểu thêm về Thành Hoàng làng Mai Động của các tác giả Văn Hạc trong bài “Lai Lịch Và Ý Nghĩa Hội Vật Làng Mai Động” đăng trong báo Trung Bắc Chủ Nhật , số 100 phát hành tại Hà Nội ngày 1 tháng 3 năm 1942 (trang 15 , 16) và tác giả Toan Ánh trong tác phẩm Hội Hè Đình Đám, quyển thượng xuất bản tại Saigon năm 1969 (trang 61) , các tác giả này đều cho Thành Hoàng Làng Mai Động là Bà Lê Chân , nhưng thần phả làng Mai Động và nhân dân làng này lại cho biết Thành Hoàng làng là lão đô Nguyễn Tam Chinh . (Bà Lê Chân và lão đô Nguyễn Tam Chinh đều là tướng lãnh của Hai Bà Trưng).
Thần phả làng Mai Động ghi : Nguyễn Tam Chinh vốn người Thanh Hóa , vì chán cảnh mất nước , bỏ ra bắc tới Động Mơ tức Mai Động , thấy vùng đất lạ mới dừng lại mở trường dậy học . Ông thu nhận được 30 môn đồ , có sức khỏe , có kiến thức ,truyền dậy cả văn cả võ để đợi thời cơ . Trong các môn võ thuật , ông chú ý dậy cho học trò cách thức đấu vật . Ngày ngày , trước sân trường , ông ngồi xem từng cặp luyện tập , chỉ cho họ những ngón sơ hở và truyền cho họ những miếng hiểm ác để hạ thủ đối phương . Lớp học càng ngày càng tấn tới . Khi Hai Bà Trưng hiệu triệu nhân dân nổi dậy khởi nghĩa đánh đuổi quân Tô Định , ông làm lễ tế trời đất rồi cùng học trò kéo quân lên phụ giúp Hai Bà Trưng và lập được nhiều chiến công . Già trẻ trai gái mở hội đón rước và tình nguyện xin theo Đô Chinh rất đông . Cũng từ đó môn vật được lưu truyền lại trong vùng . Hàng năm mỗi lần Tết đến , nhân dân ở nay lại tổ chức Hội Vật vào những ngày mồng 4, 5, 6 để tưởng nhớ người xưa .
Truyền thuyết cũng kể rằng khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa , nhiều đô vật Kinh Bắc (Bắc-giang, Bắc-ninh) đã cùng bà Thánh Thiên hưởng ứng nhiệt liệt và đã trở thành những tướng giỏi của Hai Bà . Thánh Thiên công chúa sau khi hy sinh đền nợ nước đã được nhân dân Ngọc Lâm (huyện Yên Dũng , Bắc Giang) thờ làm Thần Hoàng làng .
Trước khi phát động quần chúng khởi nghĩa đánh giặc Đông Ngô , Bà Triệu (năm 248) đã lên núi Nưa mở trường thi võ, đấu vật , luyện kiếm , bắn cung nỏ , huấn luyện nghĩa quân sao cho mỗi người vừa có thể lực dồi dào , vừa tinh thông các môn võ nghệ , chiến đấu chống giặc, khiến kẻ địch khiếp vía phải thốt lên :
Hoành qua đương hổ dị
Đối diện Bà vương nam !
(múa giáo chống hổ dễ , giáp mặt với vua Bà thực khó!)
Dân
gian ngày nay còn truyền tụng câu ca dao nói lên sự ủng hộ của quần
chúng đối với “Nhụy Kiều tướng quân” Triệu Thị Trinh và ca ngợi tài đức
của bà :
Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi bành vàng.
Lý
Bôn tức Lý Nam Đế (năm 544-5480), Triệu Quang Phục , Mai Thúc Loan
tức Mai Hắc Đế (năm 722) . . . đều có sức khỏe hơn người và nổi tiếng
về vật đã lãnh đạo toàn dân nổi lên chống quân Trung quốc xâm lược .
Phùng Hưng giỏi vật và quật chết được cọp dữ dược nhân dân tôn là Đô
Quân , vua của các đô vật , và người em ruột của ông là Phùng Hải ,
giỏi vật không kém anh , được nhân dân tôn là Đô Bảo , tướng của các
đô vật trong thiên hạ (4)Lò vật làng Quỳnh Đô đã nổi tiếng trong vùng ngay từ thế kỷ thứ VI , thời kỳ nhà Lương đang đô hộ Giao Châu. Tục ngữ có câu : “Lo vật Quỳnh Đô , rỏ cua Cổ điển” , Quỳnh Đô thuộc huyện Thanh Trì , tỉnh Hà Đông . Hồi còn son trẻ , lão đô Phạm Tu trước khi ra giúp vua Lý Nam Đế đánh đuổi quân nhà Lương , khai sáng nhà nước Vạn Xuân năm 544, đã từng học vật tại Quỳnh Đô . ông người làng Quang (tức làng Thanh Liệt , Thanh Trì, cùng quê hương với thày đồ cương trực Chu Van An) đã sang tập vật làng bên là Quỳnh Đô và trở thành một đô vật nổi tiếng trong vùng, nhân dân thường gọi là Đô Tu (có tài liệu ghi là Đô Hồ, vì tương truyền thần thánh đất Tây Hồ đã “ứng điềm lành” trong việc ông ra đời) (5)
Nhân dân vùng Thanh Hóa ngày nay vẫn còn truyền tụng về lò vật nổi tiếng của Dương Đình Nghệ , nơi sản xuất ra nhiều đô vật giỏi ra giúp Ngô Vương Quyền đánh đuổi quân Nam Hán (năm 939), dựng nền độc lập lâu dài cho đất nước .
Ngay khi giành được nền tự chủ lâu dài cho dân tộc , các triều đại Đinh Lê Lý Trần và tiếp theo sau nữa , trong việc tổ chức quân độ gìn giữ bờ cõi , nhà nước đều coi trọng bộ môn vật , đã thiết lập trong quân ngũ nhiều đội vật , tổ chức thường xuyên đấu vật nhằm rèn luyện thể lực , lòng dũng cảm , tuyển lựa nhân tài và giải trí trong quân sĩ .
Đội Đô vật Xuân Trường thời Trần đã góp phần tạo chiến công hiển hách thắng quân Mông Nguyên, một đoàn quân hung hãn , có lối vật Mông cổ nổi tiếng đương thời . Bà Liệt , Hoài Đức Vương , con tư sinh của Trần Thừa , em cùng cha khác mẹ của vua Trần Thái Tông , cũng đã từng là một đô vật có hạng trong đội vật nổi tiếng tại kinh đô Thăng Long .
Sử cũ chép : “ Nhâm Thìn , năm Thiên Ứng chính bình thứ I (1232) (nhà Tống , năm Thiệu Định thứ 5) . Tháng Giêng , mùa Xuân mới sắp xếp nghi lễ trong triều :
Phong cho em là Bà Liệt tước Hoài Đức Vương.
Thượng hoàng lúc còn hàn vi , có lấy một người con gái ở thôn Bà Liệt , huyện Tây Chân , khi đã có thai thì bỏ , sau sinh con trai , Thượng hoàng không nhìn nhận gì đến . Người con trai ấy lúc lớn lên , mặt mũi khôi ngô , giỏi nghề võ , sung vào đội đánh vật . Một hôm , cùng với người trong đội đánh cầu , rồi lại cùng nhau đánh vật , người kia vật người con trai ấy ngã , chẹn lấy cổ , gần tắt thở , Thượng hoàng tự nhiên quát to lên rằng : “ Nó là con ta nay ! “ Anh kia sợ , buông ra , nhân thế gọi tên là Bà Liệt . Nay có lệnh phong tước cho (6)
Trong binh đội của triều đình nhà Hậu Lê, đô vật được chia làm nhiều loại từ thấp đến cao với những cấp bậc , tên gọi khác nhau , lịch trình đấu vật hàng năm và cách thi vật tại kinh đô Thăng Long được Phan Huy Chú ghi rõ ràng trong sách Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí như sau :
“Hàng năm , khi Tế cờ xong , sai hai viên quan võ coi thi đánh vật (một viên quản binh thị hậu , một viên quản ngoại binh) . Trước khi thi Đô và Sứ ba keo , rồi Đô và Sứ mới cử tử đệ rat hi . Những người mới tiến cử cùng đấu với nhau , ai thắng ba keo thì cho đấu với Xa . Thắng Xa ba keo thì cho đấi với Dù . Tuy thắng Dù ba keo , cũng không được đấu với Sứ . Lực đấu với Lực thắng ba keo thì cho đấu với Xa , thắng Xa ba keo , cho đấu với Dù , thắng Dù ba keo , cho đấu với Sứ . Tuy thắng Sứ ba keo , cũng không được đấu với Đô. Nội lực sĩ đấu với Nội lực sĩ , thắng ba keo , thì cho đấu với Xa , thắng Xa ba keo , cho đấu với Dù , thắng Dù ba keo , cho đấu với Sứ , thắng Sứ ba keo , cho đấu với Đô . Người mới tiến cử đấu với Dù thắng hai keo trở lên , thì cho làm danh tướng ở Dù , đấu với Xa thắng hai keo trở lên , cho làm danh tướng ở Xa , đấu với Lực thắng hai keo trở lean , cho làm danh tướng ở Lực . Lực đấu với Dù thắng hai keo trở lên , cho làm danh tướng ở Dù , đấu với Xa thắng hai keo , cho làm danh tướng ở Xa . Nội lực sĩ đấu với Xa , thắng hai keo , cho làm danh tướng ở Xa , đấu với Dù thắng hai keo , cho làm danh tướng ở Dù . Người nào thắng Sứ hai keo , cho chức phó đề hạt ; thắng Đô hai keo , cho chức đô úy . Sứ thắng Sứ ba keo , cho đấu với Đô ; thắng Đô một keo , dẫu có thua một keo , cũng cho thăng chức . Đô mà thắng Đô , không thua keo nào , cho chức Đô úy. (chú giải : Đô , Sứ : các tay vật cao cấp ; Xa : có lẽ là quân ở các độ Tứ xa ; Dù : có lẽ là quân các độ Bả dù ; Lực : tên những đội quân, ví như Lực, Hành)” (7)
Một giai thoại về Trạng Vật dưới triều vua Lê Thánh Tông đã được Vũ Phương Đề ghi lại năm 1755 trong tác phẩm Công-Dư Tiệp-Ký như sau :
Ông Võ-Phong người làng Mộ-Trạch là em quan Thượng Võ-Hữu, nguyên người có tướng ngũ-đoản (chân tay , tai , mắt , miệng , mũi , 5 thứ đều ngắn và nhỏ , còn người thì thấp) nhưng rất giỏi về môn đấu vật . Đời vua Lê Thánh-Tông (1460-70) nhân có một hôm ông ra kinh thành Tràng-An gặp lúc vua đang ngự triều , ông thấy có viên Đô-lực sĩ vác chiếc chùy đồng đứng hầu có vẻ dương dương tự đắc ! ông bèn quay lại hỏi bạn : này bác người kia là ai ? có tài cán chi ? mà dám ngang nhiên như vậy .
Bạn đáp : Người đó là một võ sĩ sở trường về môn đánh vật , hiện thời không ai địch nổi ! như vậy cũng là một cách để tiến thân đó !
Nghe bạn kể xong ông lại hỏi rằng : nếu vậy ngày mai tôi muốn cùng y so tài cao thấp phỏng có được không ?
Bạn nghe xong vội vàng can rằng : người ta cao lớn thế kia mà bác thì bé loắt choắt như vậy ! sợ khi đối thủ lại làm trò cười cho thiên hạ đó thôi !
Ông mỉm cười đáp : điều đó xin Bác đừng ngại . Tôi đây bản lĩnh rất cao cường ! từ trước đến giờ chưa ai thắng nổi . Còn y chẳng qua chưa gặp địch thủ nên mới nổi danh , nhưng nay gặp tôi rồi Bác thử coi tôi sẽ thắng y một cách rất dễ đó ! Nói xong ông bèn viết một bản tấu xin cùng lực sĩ so tài .
Hoàng Thượng xem tấu phán rằng : lực sĩ của ta tuyển lựa trong muôn ngàn người mới được có một ! hỏi có ai hơn được nữa ? thế mà anh kia tài nghệ ra sao lại giám to gan lớn mật như vậy ? nhưng rồi Ngài cũng phê chuẩn và định ngày giờ tỉ thí để Ngài thân ngự ra coi .
Thế rồi đến hôm tỉ thí , trong lúc đôi bên còn đương vờn nhau biểu diễn , thì ông quờ ngay xuống đất lấy một ít cát nắm kín trong lòng bàn tay , thừa lúc vô tình ném thẳng vào mặt địch thủ . Lực sĩ vừa nhắm mắt lại thì nhanh như chớp , ông đã dùng miếng Xuyên Trừu , một tay thọc nách một chân đệm phía sau lưng , đẩy mạnh một cái khiến cho Lực sĩ mất đà bị nằm phơi bụng ngay trên mặt đất (Theo lệ đua vật , hễ ai bị nằm ngửa bụng mới gọi là thua , còn nằm sấp bụng thì không kể) . Thế là ông đã thắng cuộc một cách dễ dàng ! khán giả hoan hô nhiệt liệt .
Lúc ấy Hoàng-Thượng ở trên đài trông xuống thấy ông quật đổ Lực sĩ mau lẹ như vậy , Ngài cũng tấm tắc khen là một tay Thần dũng , rồi sai lột chức Đô Lực-sĩ để phong cho ông ; dần dần ông được thăng đến Cẩ-Y Thị-Vệ Úy-ty Chỉ-huy-Sứ , nổi tiếng là người chính trực siêng năng . . . . làm Trạng đô vật . . . (8)
Sử cũ cũng ghi chuyện Mạc Đăng Dung , người tạo dựng triều đại nhà Mạc (1527-1667), từng là một ngư phủ nghèo hèn , nhờ tài vật khéo léo mà nổi danh, bước tiến vào quan trường leo từ võ tướng lên đến bậc đế vương (9)
Một giai thoại nữa về vật có liên quan đến Mạc Đăng Dung được hai tác giả Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án trong tác phẩm Tang Thương Ngẫu Lục thế kỷ XIX ghi lại như sau :
Triều trước , ông Lê Tuấn Mậu , người làng Xuân Lội , huyện Yên Phong làm quan đến chức Đô Ngự Sử . Bấy giờ Mạc Đăng Dung do sự đánh vật mà được làm nên quan to. Ông nhiếc hắn rằng :
-Anh đừng cậy sức , ta rất có thể như thế được , nhưng không thèm làm nay thôi.
Giăng Dung tức , xin với vua cùng ông thou sức , ông hăng hái nhận lời , bôi mỡ vào mình , cài kim vào tóc và khố , vật cho Đăng Dung ngã suýt chết.
Khi Đăng Dung cướp ngôi , ông thác bệnh không ra . Y cố mời mãi , ông bảo người đỡ vực vào triều , rồi nhổ vào mặt hắn mà chết . (10)
Vào thế kỷ XVI , có một giai thoại về quan Thượng thư mê vật như sau : Thượng thư Nguyễn Doãn Khâm thời nhà Mạc ,vốn là một đô vật . Một ngày Xuân nọ đi qua làng Giao Tất (Gia Lâm Bắc Ninh) mởù hội đầu năm , thấy một đô vật đã ba ngày liền giữ giải làng . Ông dừng lại và xin vào đọ sức . Đô vật đang giữ giải giận lắm , định bụng vật ông ngã ngay tức khắc . Song chỉ một keo , ông đã làm cho đô vật ấy lấm lưng , trở tay không kịp . Anh ta liền bái phục , xin nhường lại giải cho ông . Nhưng ông không nhận . Đó là một giai thoại mà nhân dân hay truyền tụng để nói lên tinh thần thượng võ và tính khiêm tốn , thương yêu lẫn nhau giữa các đô vật (11)
Trên phần lớn các cột kèo , hoành phi , bình phong bằng gỗ quí tại đình , chùa , đền , miếu ở miền Bắc xưa các nghệ sĩ dân gian thường trang trí , chạm trổ , tạc khắc những cảnh sinh hoạt , hội hè đương thời , và đấu vật là một đề tài không thể thiếu trong những trang trí này .
Tác giả Bàng Bá Lân có bài thơ “Vô Địch” nói về đấu vật như sau :
Vô Địch
Trên sân cỏ trưôc đình, hai đấu thủ.
Hai tượng đồng – đối mặt đứng khom khom.
Bốn cánh tay dang thẳng đợi giao đòn;
Bốn chân vững như chôn liền xuống đất.
Họ lăn lẳn nhìn nhau vào tận mặt.
Bắp thịt căng, cuồn cuộn nổi như thừng.
Mắt gườm gườm như cọp dữ tranh hùng.
Cằâm chành bạnh, tay chờn vờn giữ miếng.
Bỗng như chớp, cà hai cùng chồm đến.
Nắm tay nhau giật, lắùc, vặn tơi bời..
Tùng, tùng … tùng. Trống vật giục liên hồi.
Cuộc giao đấõu đã tới màn gay cấn :
Anh “Khố Đỏ”, to con hơn chèn lấn
Ghì đối phưóng muốn nghẹt thởû rơi xương.
Nhưng “Khố Đen” luồn mau lẹ dị thường
Như lươn trạch, thoát vòng tay địch thủ.
Cuộc đấõu sức vẫn chưa phân thắng phụ,
Mọi ngón đòn ác liệt được đưa ra.
Mồ hôi nồng thoa mỡ bóng làn da.
Bỗng “Khố Đỏ” vung tay như trăn gió.
Quấn chặt cứng lấy cánh tay đối thủ,
Còn tay kia quờ rộng bắt ngang chân
“Khố Đen” vùng nhẩy vọt vượt qua tầm
Tránh thoát kịp, và tung đòn hiểm độc.
Hắn húc mạnh đầu đối phương nghe “cộp”
“Khố Đỏ” bất ngờ lộng óc, chùn chân,
Mắt hoa lên, lỏng hởû cánh tay thần
“Khố Đen” lẹ luồn nhanh vào bụng địch,
Chuyển thần lực, đội bổng trăm cân thịt
Quay một vòng và quật ngửa tênh hênh
Tiếng hò reo vang rộn cảø sân đình.
Hoan hô kẻ vừa thắng vòng chung kết . (12)
V/ KẾT
Xuân đã hết, ai nấy lại tiếp tục công việc đồng áng và hẹn gặp nhau trong những ngày Xuân năm sau.
Điểm ghi nhận nơi đây là các đô vật nông dân xưa có một tinh thần thượng võ đáng kính trọng, họ ganh đua nhau trong tài cao thấp, kẻ thắng người bại đều hảø hê vui vẻ, khâm phục nhau thật sự, không hận thù ghen ghét. Mặc dù phần thưởng các giài vật không đáng giá bao nhiêu so với công lao lặn lội từ xa xôi và sắm sửa lễ vật mang đến, họ vẫn nao nức, hăng say rủ nhau đến phá giải. Hễ nghe thấy nơi nào, làng nào mở Hội Vật nhất nhất họ cũng hẹn hòø, lặn lội rủ nhau đến dự để đua sức, để xem mặt biết tên người vô địch.
Vật cổ truyền Việt Nam có xu thế thiên về các đánh và đỡ ở thế thấp . Tuy nhiên , vật Việt Nam cũng có sử dụng các miếng ở thế đánh cao như Đội, Sườn , và nhiều miếng đánh khác đòi hỏi kỹ thuật cao , nhưng nói chung ít được dùng . Và dù ở thế , miếng nào , thấp hay cao , đều dùng tài nghệ làm cho đối phương té ngã “lấm lưng trắng bụng” . loại trừ những lối đánh ác hiểm . Điều này đã trở thành đạo lý và phong tục trong làng vật Việt Nam xưa . Nhờ vậy , tuy trong từng làng xã chưa có luật lệ đấu vật thành văn rõ ràng , nhưng từ các đô vật tới người xem trước nay đều coi những lối đánh ác hiểm là xấu , là hèn , trái với tinh thần thượng võ chân chính . Những đô vật có kỹ thuật cao , có miếng đánh sáng tạo , điêu luyện , được nhân dân quí mến, tuổi trẻ tin theo , triều đình mộ dụng vậy.
Chú thích
(1) Pierre Gourou , Les paysans du delta tonkinois , Paris, Monton et Ce Lahay , 1965 .
(2)Vật Việt Nam , Tổng cục Thể Dục Thể Thao, Ha Nội, 1974 , trang 9.
(3) Toan Ánh , Phong Tục Việt Nam , nhà XB Xuân Thu tái bản tại Los Alamitos USA , trang 230.
(4) Lý Tế Xuyên , Việt Điện U-Linh Tập , bản dịch của Lê Hữu Mục , Saigon , nhà sách Khai Trí , 1960 , trang 49 .
(5) Trần Quốc Vượng (chủ biên), Nghìn Xưa Văn Hiến, TẬP I , tái bản lần 1, Hà Nội, nhà xuất bản Hà Nội , 2000, trang 133..
(6) Quốc Sử Quán thế ky XIX , Việt Sử Thông Giám Cương Mục ,(chinh tên là “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục”) Chính biên, quyển 6-8, tập V , Tổ Biên Dịch : “Ban Nghiên Cứu Văn Sử Địa “ biên dịch và chú giải, Hà Nội, nhà xuất bản Văn Sử Địa, 1958 , trang 455 .
(7) Phan Huy Chú, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, tập IV Binh Chế Chí, Văn Tịch Chí, Bang Giao Chi, bảng sách dẫn, Viện Sử Học Việt Nam phiên dịch và chú giải, Đào Duy Anh hiệu đính, Hà Nội, nhà Xuất bản Sử Học, 1961, trang 34-35 .
(8) Vũ Phương Đề , Công-Dư Tiệp-Ký , quyển I, dịch giả Tô Nam Nguyễn Đình Diệm, in lần thứ nhất, Saigon , Bộ Quốc Gia Giáo Dục xuất bản, 1961, trang 17-19 .
(9) Đại Việt Sử Ký Toàn Thư , mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 , tập III , Hoàng Văn Lâu và Ngô Thế Long dịch và chú thích , Hà Nội , nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội , 1993 , trang 109
(10) Phạm Đình Hổ & Nguyễn Án , Tang Thương Ngẫu Lục , dịch giả Đạm Nguyên , quyển nhất, Saigon , Bộ QGGD xuất bản , 1962 , trang 85-86.
(11)Lê Đại , Nét Đẹp Của Tinh Thần Thượng Võ, tuần báo Thể Dục Thể Thao số 7(577) , Hà Nội , thứ bẩy 12 tháng 2 năm 1976, trang 4.
(12) Bàng Bá Lân , Vào Thu, Thơ , Saigon , nhà xuất bản Ánh Sáng 1969 , trang 48 .
,
CÁNH ĐỒNG MÂY
Buổi nói chuyện của chương trình
Từ Cánh Đồng Mây
Từ Cánh Đồng Mây
“HỘI NGỘ CỦA NHỮNG VÌ SAO”
với
Luật Sư
Trần Lâm Trần Thanh Hiệp
Nguyễn Xuân Phước
Xin bấm link để nghe
CHỈNH ĐỐN ĐẢNG LÀ “CHUYỆN CŨ CHÉP LẠI”
Luật
Sư Trần Lâm, nguyên Thẩm phán Toà Án Nhân Dân Tối Cao, nguyên trưởng
ban tuyên giáo tỉnh và hiệu trưởng trường Đảng trong nhiều chục năm.
Ông được biết đến trong các vụ tranh cãi có liên quan đến dân chủ
nhân quyền trong nước. Luật sư Trần Lâm vừa có bài viết nhận định tình
hình chính trị hiện nay (Trần Lâm: Sự thay đổi đã đến gần với nhiều
chi tiết đang gây sự chú ý của dư luận trong và ngoài nước).
LS Trần Thanh Hiệp
Song
song với các hoạt động cho dân chủ tại Việt Nam của những người ở
trong nước, nhiều người Việt hải ngoại quan tâm đến vấn đề dân chủ và
nhân quyền cho Việt Nam cũng đã có những nỗ lực đóng góp vào công cuộc
tranh đấu này trong nhiều lãnh vực khác nhau. Một trong các nhân vật
đó là luật sư Trần Thanh Hiệp, người từng giữ những chức vụ quan trọng
trong chính quyền miền Nam trước năm 1975, và hiện nay là Chủ Tịch
Trung Tâm Nghiên Cứu Việt Nam về Nhân Quyền có trụ sở tại Paris. Ông
cũng là tác giả của nhiều bài khảo cứu và bình luận về nhân quyền và
thực trạng nhân quyền tại Việt Nam. Luật sư Trần thanh Hiệp sinh năm
1927 tại Hà Tĩnh.
Ông tốt nghiệp Cao Đẳng Công Pháp, Đại Học Aix Marseille và Cao Đẳng Chính Trị Học, Đại Học Paris II. Ông từng là luật sư Tòa Thượng Thẩm Saigon và Tòa Thượng Thẩm Paris. Sau năm 1975, ông định cư tại Pháp, và từng là chủ tịch Trung Tâm Văn Bút Hải Ngoại trong nhiều năm. Trong vai trò này ông đã cùng Văn Bút Quốc Tế đấu tranh để cho nhiều văn nghệ sĩ được trả tự do.
Luật sư Trần Thanh Hiệp mô tả công việc mà ông đang thực hiện với tư cách là chủ Tịch Trung Tâm Nghiên Cứu Việt Nam về Nhân Quyền có trụ sở tại Paris: LS TRẦN THANH HIỆP: Công việc chính của chúng tôi là nghiên cứu về luật quốc tế về nhân quyền rồi phổ biến những quy phạm về nhân quyền cũng như là về chính sách áp dụng nhân quyền, thăng tiến nhân quyền của luật quốc tế, và giúp tất cả các tổ chức, hội đoàn của người Việt đang tranh đấu cho nhân quyền để hỗ trợ cho cuộc tranh đấu dân chủ hóa Việt Nam ở trong nước. Và thứ hai là chúng tôi đang cùng một số anh em tại Paris và các nơi khác ấn hành một tạp chí văn hóa, chính trị, khoa học mang tên là viễn tượng Việt Nam chú trọng về mặt nghiên cứu tư tưởng chính trị và ấn hành một năm hai lần
Ông tốt nghiệp Cao Đẳng Công Pháp, Đại Học Aix Marseille và Cao Đẳng Chính Trị Học, Đại Học Paris II. Ông từng là luật sư Tòa Thượng Thẩm Saigon và Tòa Thượng Thẩm Paris. Sau năm 1975, ông định cư tại Pháp, và từng là chủ tịch Trung Tâm Văn Bút Hải Ngoại trong nhiều năm. Trong vai trò này ông đã cùng Văn Bút Quốc Tế đấu tranh để cho nhiều văn nghệ sĩ được trả tự do.
Luật sư Trần Thanh Hiệp mô tả công việc mà ông đang thực hiện với tư cách là chủ Tịch Trung Tâm Nghiên Cứu Việt Nam về Nhân Quyền có trụ sở tại Paris: LS TRẦN THANH HIỆP: Công việc chính của chúng tôi là nghiên cứu về luật quốc tế về nhân quyền rồi phổ biến những quy phạm về nhân quyền cũng như là về chính sách áp dụng nhân quyền, thăng tiến nhân quyền của luật quốc tế, và giúp tất cả các tổ chức, hội đoàn của người Việt đang tranh đấu cho nhân quyền để hỗ trợ cho cuộc tranh đấu dân chủ hóa Việt Nam ở trong nước. Và thứ hai là chúng tôi đang cùng một số anh em tại Paris và các nơi khác ấn hành một tạp chí văn hóa, chính trị, khoa học mang tên là viễn tượng Việt Nam chú trọng về mặt nghiên cứu tư tưởng chính trị và ấn hành một năm hai lần
GIÁ TRỊ PHÁP LÝ VÀ TÍNH CHÍNH THỐNG CỦA HIẾN PHÁP VIỆT NAM HIỆN NAY
LS Nguyễn Xuân Phước
Lời Nói Ðầu
Bài
viết nầy có mục đích tái khám phá những giá trị cơ bản của hiến pháp
1946 và tra xét lại giá trị của hiến pháp hiện nay của nước cộng Hoà
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam dựa vào cơ sở của hiến pháp 1946. Nếu hiến
pháp 1946 là một hiến pháp hợp pháp khai sinh ra nưóc Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà, thì nguyên tắc lập hiến đòi hỏi các hiến pháp kế thừa của
hiến pháp 1946 phải tuân thủ các điều khoản căn bản của hiến pháp
1946. Khi tra xét lại thủ tục ban hành hiến pháp 1959 chúng ta thấy
rằng thủ tục ban hành hiến pháp này và các hiến pháp sau đó đã không
tuân thủ qui định của hiến pháp 1946 về việc thay đổi hiến pháp. Một
khi hiến pháp kế thừa không tuân thủ các điều khoản lập hiến của hiến
pháp mẹ thì hiến pháp kế thừa đó bất hợp hiến, bất hợp pháp và không
có giá trị chính thống.
I. Những Ý Niệm Căn Bản Về Hiến Pháp
Hiến
pháp là bộ luật tối cao của một quốc gia định nguyên tắc tổ chức
guồng máy công quyền để thực hiện mục đích xây dựng một xã hội trong
đó dân làm chủ đất nước nhằm bảo đảm dân quyền và nhân quyền của công
dân, và đồng thời bảo đảm tính chất ổn định, chính thống và hợp pháp
của nhà cầm quyền. Nhà cầm quyền nào không thực thi hiến pháp, phản
bội các điều khoản của hiến pháp, nhà cầm quyền ấy tự mình chấm dứt
giá trị pháp lý và tính chính thống về giá trị quyền lực lãnh đạo quốc
dân. 1
Ðể
xác định quyền làm chủ đất nước của nhân dân, hiến pháp luôn luôn
phải được toàn thể nhân dân chấp thuận và mọi sự thay đổi hiến pháp
phải luôn luôn được toàn thể nhân dân quyết định bằng lá phiếu. Hiến
pháp gọi đó là quyền phúc quyết. Quyền phúc quyết cộng với các quyền
tự do ứng cử và bầu cử, quyền bình đẳng cơ hội về quyền lợi và nghĩa
vụ kính tế chính trị văn hoá, và các quyền công dân khác xác định nhân
dân là chủ nhân ông của đất nước. Khi nhân dân được phúc quyết hiến
pháp hay được tự do ứng cử và bầu cử đó là lúc họ thực sự hành sử
quyền làm chủ đất nước của mình.
II. Sự Ra Ðời Của Hiến Pháp 1946
Năm
1946, Quốc Hội dân cử đầu tiên đã được bầu lên bằng một cuộc phổ
thông đầu phiếu đầu tiên của đất nước ta. Sau đó quốc hội được bổ xung
thêm các dân biểu là những nhân sĩ và các nhà cách mạng chống Pháp
không Cộng Sản. Quốc hội đầu tiên nầy tập hợp được nhiều thành phần xã
hội và đảng phái chính trị có những xu hướng khác nhau. Ngoài các nhà
cách mạng tả phái mà đại diện là các ông Hồ chí Minh, Võ Nguyên Giáp,
Phạm Văn Ðồng, có sự tham dự của các nhà cách mạng tiên khởi thời
Phan Bội Châu như cụ Huỳnh Thúc Kháng cùng với các nhà cách mạng hữu
phái như các ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nhất Linh Nguyễn
Tường Tam, Trần Trung Dung vv… [2] [3] [4].
Sau
đó, Quốc Hội đã bầu ra một Ủy Ban Dự Thảo Hiến Pháp đã gồm 11 người,
thuộc mọi thành phần, là đại biểu của các tổ chức, đảng phái chính trị
và các tầng lớp nhân dân khác nhau do ông Hồ Chí Minh chủ trì.
Ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc Hội Việt nam đã thông qua hiến pháp đầu tiên cho một nước Việt Nam độc lập.
Về
phần nội dung, Hiến Pháp 1946 đã qui định những quyền căn bản của
công dân trong đó có quyền bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa
(điều 6), quyền bình đẳng trước pháp luật (điều 7), quyền tự do ứng cử
và bầu cử (điều 18), nhân dân có quyền phúc quyết về hiến pháp (điều
21). Hiến pháp 1946 còn đi xa hơn bằng cách cho phép những người ngoại
quốc tranh đấu cho tự do dân chủ mà phải trốn tránh được cư ngụ trên
đất Việt nam (điều 16).
Quan
trọng nhất là không nó không hề có một điều khoản nào qui định là một
đảng phái nào hay một ý thức hệ nào là độc tôn và độc quyền lãnh đạo
đất nước như các bản hiến pháp sau này của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
hay Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. [5]
Ðứng
trên phương diện lịch sử, hiến pháp 1946 là cơ sở pháp lý khai sinh
nước Việt Nam độc lập sau hơn 80 năm bị mất chủ quyền về tay thực dân
Pháp. Vì cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ sau khi quốc hội thông qua
hiến pháp nên hiến pháp 1946 không được chính thức công bố và cuộc
tổng tuyển cử nghị viện nhân dân không được thi hành. Tuy nhiên, theo
tài liệu của đảng Cộng Sản thì chính phủ và ban thường vụ quốc hội
luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung hiến pháp 1946 để điều hành
mọi hoạt động trong nước [5] . Và hiến pháp đó có giá trị cho đến năm
1960 khi hiến pháp 1959 được ban hành.
Tài liệu Ðảng Cộng Sản cũng đánh giá như sau:
Hiến
pháp 1946 là một bản hiến pháp cô đúc, khúc chiết, mạch lạc và dễ
hiểu với tất cả mọi người. Nó là bản hiến pháp mẫu mực trên nhiều
phương diện. [6]
Mặc
dù chính phủ kháng chiến ra đời không theo thủ tục của hiến pháp vì
hoàn cảnh chiến tranh, và mặc dù những điều khoản của hiến pháp đã bị
nhà nước vi phạm, chúng ta có thể xác định được rằng chính phủ đã công
nhận hiến pháp 1946 là khế ước hợp pháp giữa quốc dân Việt và nhà cầm
quyền đương thời. Hiến pháp 1946 xác định những giá trị căn bản về văn
hoá, chính trị và kinh tế và biến những giá trị đó thành những lý
tưởng và hoài vọng dân tộc mà thế hệ 1945 đã hy sinh xương máu để
chiến đấu và bảo vệ. Ðồng thời nó xác định nhân dân là chủ nhân ông
tuyệt đối của đất nước.
Do
đó, hiến pháp 1946 là một hiến pháp tốt, có giá trị pháp lý, và là
nền tảng pháp lý ắt có và đủ để xây dựng nước Việt Nam mới, tự do dân
chủ và độc lập. Hiến pháp đó là nền tảng pháp lý cho mọi thay đổi pháp lý của các hiến pháp kế thừa.
III. Cái Chết Oan Khiên Của Hiến Pháp 1946 và Tính Chất Bất Hợp Pháp của Các Hiến Pháp Kế Thừa
Xác
định tính cách hợp pháp và hợp lý của hiến pháp 1946 để nhấn mạnh một
điểm là Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (cho đến năm 1980) và nước
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (từ năm 1980 cho đến nay) đều phải
mang tính kế thừa và mang tính liên tục về mặt pháp lý, tinh thần và
nội dung của hiến pháp 1946.
Sau
năm 1946, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà có thêm tất cả là ba hiến pháp.
Các hiến pháp tuần tự ra đời trong các năm sau đây: 1959 ban hành năm
1960, 1980 và 1992.
Tài
liệu đảng Cộng Sản viết về thủ tục ra đời của hiến pháp 1959, là bản
hiến pháp kế thừa trực tiếp bản hiến pháp 1946, như sau:
“Hiến
pháp 1946, hiến pháp dân chủ đầu tiên của nhà nước ta đã hoàn thành
sứ mệnh của nó, nhưng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới nó
cần được bổ sung và thay đổi. Vì vậy, trong kỳ họp lần thứ sáu, Quốc
Hội nước Việt nam Dân Chủ Cộng hoà khoá I đã quyết định sửa đổi hiến
pháp 1946 và thành lập ban dự thảo hiến pháp sửa đổi.”
Tài liệu này viết tiếp:
“Sau
khi làm xong bản dự thảo đầu tiên, tháng 7 năm 1958 bản dự thảo đã
được thảo luận trong các cán bộ trung cấp và cao cấp thuộc các cơ quan
quân dân, chính, Ðảng. Sau đợt thảo luận này, bản dự thảo đã được
chỉnh lý lại vào ngày 1 tháng 4 năm 1959 đem công bố để toàn dân thảo
luận và đóng góp ý kiến xây dựng. Cuộc thảo luận nầy làm trong bốn
tháng liền tại khắp nơi trong các cơ quan, xí nghiệp, trường học và
các tổ chức khác của nhân dân, ở thành thị và nông thôn, việc nghiên
cứu và thảo luận dự thảo hiến pháp tiến hành sôi nổi và đã trở thành
một phong trào quần chúng rộng rãi có đủ các tầng lớp nhân dân tham
gia.”
Tài liệu trên kết luận về phần thủ tục thay đổi hiến pháp năm 1959 như sau:
“Ngày
18-12-1959, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá I, chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đọc báo cáo về dự thảo hiến pháp sửa đổi. Ngày 31-12-1959, quốc hội
đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 1-1-1960 Chủ tịch ký
sắc lệnh công bố hiến pháp.” [7]
Khi bàn về hiến pháp 1959, tài liệu của ÐCSVN viết như sau:
“Hiến pháp 1959 là sự kế thừa và phát triển của hiến pháp 1946 trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.”[7]
Những
trích dẫn kể trên cho thấy nhà nước tự ý tuyên bố là Hiến Pháp 1946
đã “hoàn thành sứ mệnh” của nó mà không nói rõ ràng thế nào là “sứ
mệnh của hiến pháp” và thế nào là “hoàn thành.” Trong
hiến pháp 1946 không hề có điều khoản nào xác định “sứ mệnh của hiến
pháp” và ấn định rằng khi hiến pháp “hoàn thành” sứ mệnh của nó thì
giá trị thi hành của hiến pháp phải bị chấm dứt.
Thế
thì, lý do khai tử hiến pháp 1946 hoàn toàn vô căn cứ. Cái chết của
hiến pháp 1946 là một cái chết oan khiên, cái chết ngụy tạo. Hiến pháp
1946 đã bị ÐCSVN xé bỏ một cách tức tưởi vì hiến pháp 1959 không có lý
do chánh đáng và hợp pháp để thay thế hiến pháp 1946.
Hơn
nữa, vì nhà nước xác nhận hiến pháp 1959 là hiến pháp kế thừa của
hiến pháp 1946 và đã cam kết điều hành đất nước theo tinh thần và nội
dung của hiến pháp 1946 nên sự thay đổi hiến pháp cũng phải tuân thủ
yêu cầu của hiến pháp 1946.
Thủ
tục thay đổi hiến pháp năm 1959 theo tài liệu của chính Ðảng Cộng Sản
đã chứng minh sự ra đời của hiến pháp 1959 đã không theo đúng nguyên
tắc qui định trong điều 70 của hiến pháp 1946. Hiến pháp 1946 qui định rõ ràng, minh bạch, ngắn gọn và dễ hiểu là những thay đổi hiến pháp phải được nhân dân phúc quyết.
Ðiều 70 của Hiến Pháp 1946 liên quan đến vấn đề thay đổi hiến pháp viết rằng:
“Sửa đổi hiến pháp phải theo cách thức sau đây:
a) Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu.
b) Nghị viên bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi.
c) Những điều thay đổi khi đã được nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết.”
Trong khi đó, điều 112 quy định thủ tục SỬA ÐỔI HIẾN PHÁP của hiến pháp 1959 được viết như sau:
Chỉ
có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi phải được ít
nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Như vậy, với hiến pháp 1959, nhà cầm quyền đã loại hẳn vai trò phúc quyết của nhân dân.
Việc
đem dự thảo hiến pháp ra cho “toàn dân” thảo luận và đóng góp ý kiến
“một cách sôi nổi” là một thủ tục tốt, nhưng hoàn toàn không có giá
trị pháp lý. Hiến pháp 1946 không đòi hỏi nhân dân phải thảo luận và
đóng góp ý kiến một cách… sôi nổi. Hiến pháp 1946 đòi hỏi nhân dân phải có quyền phúc quyết mọi thay đổi hiến pháp. Thủ
tục phúc quyết này cần được hiểu là phải được thực hiện qua một cuộc
trưng cầu dân ý (referendum) tự do để thể hiện sự chấp thuận của toàn
dân. [8]
Các
Hiến pháp từ năm 1959 trở đi đã loại bỏ hẳn vai trò phúc quyết của
nhân dân trong thủ tục thay đổi hiến pháp. Vì quyền phúc quyết những
thay đổi hiến pháp xác định quyền làm chủ đất nước của nhân dân, do đó,
khi nhân dân không còn quyền phúc quyết hiến pháp, thì quyền làm chủ
đất nước đã bị đã bị tước đoạt. Chúng ta có thể kết luận rằng, cái
chết của hiến pháp 1946 đánh dấu một giai đoạn lịch sử mà người dân
Việt Nam đã bị cướp đoạt quyền làm chủ đất nước.
Vì sự thể điều 70 hiến pháp 1946 qui định thủ tục pháp lý của sự thay đổi hiến pháp,
Vì sự thể lý do sửa đổi hiến pháp có tính chất ngụy tạo,
Vì sự thể thủ tục sửa đổi hiến pháp để cho ra đời hiến pháp 1959 đã vi phạm nghiêm trọng điều 70 nầy,
Vì sự thể hiến pháp 1959 tước đoạt quyền sửa đổi hiến pháp của nhân dân Việt Nam
Chúng
ta có thể khẳng định rằng, các hiến pháp từ 1959 trở đi đã phản bội
lý tưởng và ước vọng của dân tộc ở đỉnh cao nhất của lòng yêu nước của
thế hệ thanh niên và nhân dân ở thời đại 1945.
Ðồng
thời, hiến pháp 1959 cùng các hiến pháp xuất hiện sau đó hoàn toàn
bất hợp hiến và bất hợp pháp vì không có tính kế thừa và tính liên tục
về mặt pháp lý, tinh thần và nội dung của hiến pháp 1946. Do đó, các
hiến pháp kế thừa không có năng lực pháp lý để xác định tính chất hợp
pháp và chính thống của nhà cầm quyền.
IV. Lối Ra và Lối Về
Vì
quyền phúc quyết của nhân dân về mọi thay đổi hiến pháp xác định
quyền làm chủ đất nước, sự thể đảng Cộng Sản Việt Nam ngang nhiên dùng
hiến pháp 1959 để bãi bỏ quyền phúc quyết trong thủ tục lập hiến của
người dân là hành vi tước đoạt quyền dân chủ của nhân dân Việt Nam.
Nhận
định về tính chất dân chủ của thủ tục lập hiến của nước ta hiện nay,
luật sư Nguyễn Văn Thảo, cố vấn pháp luật của quốc hội và bộ chính trị
ÐCSVN, trình bày trong bài viết “Soạn thảo, sửa đổi hiến pháp, và
thực hiện bảo vệ hiến pháp” đăng trong Tạp Chí Cộng Sản số 12 tháng
6-2001, cho rằng thủ tục lập hiến của các hiến pháp xuất hiện sau hiến
pháp 1946 không có tính cách dân chủ. Trong bài nầy Luật Sư Thảo đã
có những nhận định về thủ tục soạn thảo hiến pháp 1946, 1959, 1980,
1992 như sau:
“Thực tiễn nước ta có hai công thức soạn thảo (hiến pháp):
“Ban soạn thảo hiến pháp + trưng cầu dân ý (hiến pháp 1946)
“Ban soạn thảo hiến pháp + hỏi ý kiến nhân dân (hiến pháp 1959, 1980, 1992)
Trong
hai công thức trên, tổ chức trưng cầu dân ý là một thành tựu về phát
huy dân chủ trực tiếp, thực chất là để từng công dân tham gia trực
tiếp vào việc thông qua hiến pháp.
Công
thức thành lập Ủy Ban soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân rồi
trình lên Quốc Hội thông qua thì việc lấy ý kiến nhân dân khác hẳn với
trưng cầu ý dân. Tập hợp ý kiến của nhân dân để chỉnh lý bản dự thảo
Hiến Pháp, công dân không được tỏ thái độ trực tiếp với dự thảo Hiến
Pháp, không tham gia việc thông qua Hiến Pháp.” [10]
Một
thủ tục soạn thảo hiến pháp mà “công dân không được tỏ thái độ trực
tiếp với dự thảo Hiến Pháp, không tham gia việc thông qua Hiến Pháp”
xác định tính chất mất dân chủ của hiến pháp nầy. Ðó là trường hợp ra
đời của các hiến pháp 1959, 1980 và 1992. Ðồng thời đó là lời xác minh
sự vi phạm trầm trọng điều 70 của hiến pháp 1946 về nguyên tắc trưng
cầu dân ý những thay đổi hiến pháp.
Với
lý luận hiến pháp, luật sư Thảo muốn thay mặt ÐSCVN khéo léo nhắn nhủ
với nhân dân rằnghiến pháp hiện nay hoàn toàn không có tính chất dân
chủ, vì trên cơ sở điều 70 của hiến pháp 1946, những hiến pháp sau này
không hợp hiến và hoàn toàn không có giá trị pháp lý.
Một
chế độ hợp pháp không thể được xây dựng trên một hiến pháp bất hợp
pháp. Ðây là khủng hoảng hiến pháp lớn nhất trong mọi khủng hoảng hiến
pháp liên quan đến giá trị chính thống (legitimacy) của chế độ.
Mặt
khác, sư hiện diện của các đảng phái không Cộng Sản trong việc hình
thành hiến pháp 1946 cho thấy rằng có một mối tương quan chặt chẽ giữa
tinh thần dân chủ đa nguyên và hiến pháp 1946. Nếu hiến pháp 1946 thể
hiện những lý tưởng và ước vọng của thế hệ 1945 về một tổ quốc độc
lập, về một thể chế dân chủ đa nguyên, là biểu tượng sự đoàn kết của
toàn dân trong công cuộc đấu tranh chống Pháp, là đỉnh cao của các
phong trào cách mạng từ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái
Học, Trương Tử Anh, và phong trào Cộng Sản yêu nước thì cái chết của
nó là sự phản bội toàn bộ lý tưởng của thế hệ 1945 và của nhân dân
Việt Nam.
Do
đó, muốn tái lập tính chính thống lịch sử và pháp lý của chế độ hiện
nay, muốn giải trừ chuyên chính, muốn xây dựng một chế độ dân chủ đa
nguyên, điều thiết yếu là quốc hội và nhà nước Việt Nam phải trở về với
những giá trị của hiến pháp 1946 và mọi thay đổi hiến pháp phải tuân
thủ những quy định điều 70 của hiến pháp nầy.
V. Kết Luận
Vì
hiến pháp là luật pháp tối cao xác định giá trị pháp lý của nhà nước,
do đó, với một hiến pháp không có cơ sở pháp lý như hiến pháp hiện
nay, nhà nước không có năng lực pháp lý để tồn tại. Và nhà nước không
thể tiếp tục tồn tại và lãnh đạo đất nước trong tình trạng không hợp
pháp, không hợp hiến và không có tính chất chính thống.
Ðối
với nhân dân Việt Nam, vấn đề không phải là vấn đề thay đổi, chắp vá
vài ba chương, hay hai ba điều khoản của hiến pháp hiện nay như ÐCSVN
đề nghị, hoặc chỉ bỏ điều 4 hiến pháp như một số nhà đấu tranh dân chủ
đề nghị. Những thay
đổi hiến pháp chỉ có giá trị khi quyền phúc quyết hiến pháp của nhân
dân được tái lập cùng với sự hình thành một ủy ban bầu cử quốc gia độc
lập và đa nguyên để bảo đảm cho tính chất trong sáng của các cuộc bầu
cử hoặc trưng cầu dân ý theo như tinh thần của hiến pháp 1946.
Khổng
Tử viết: “thượng bất chính, hạ tắc loạn.” Trong thời đại dân chủ, một
nhà nước không có cơ sở hiến pháp dân chủ hợp pháp và chính thống để
chứng minh sự tồn tại của nó là một trường hợp “thượng bất chính”
nghiêm trọng nhất của mọi trường hợp “thượng bất chính” và nó sẽ dẫn
tới một kịch bản “hạ tắc loạn.”
Chúng
ta có thể nhận định được ngay là nỗ lực giải quyết khủng hoảng hiến
pháp là đầu mối để tháo gỡ chế độ thượng bất chính hiện nay. Nó sẽ là
căn cứ địa hồi sinh dân tộc. Bất kỳ nhân dân một chọn lựa phương cách
giải quyết khủng hoảng hiến pháp như thế nào, hoặc quay trở về với hiến
pháp 1946 hoặc thực hiện một hiến pháp mới, tất cả đều phải tuân thủ
nguyên tắc lập hiến của hiến pháp 1946. Nó sẽ là cơ sở pháp lý ắt có
cho sự ra đời của một nước Ðại Việt thời đại 2000. Chỉ có giá trị của
hiến pháp 1946 mới có thể tiếp nối giá trị chính thống về lịch sử,
phục hồi chỗ đứng lịch sử của các đảng phái cách mạng yêu nước, và bảo
toàn giá trị chính thống của cuộc chiến tranh giành độc lập.
Với
một hiến pháp xác định quyền làm chủ đất nước của người dân, nhân dân
Việt mới có thể hành xử quyền làm chủ đất nước của mình. Từ đó, người
dân có thể thực hiện quyền chọn lựa người lãnh đạo đất nước mà không
phải qua những cơ quan đề cử của đảng, để đồng tiền của người dân bỏ
ra thực hiện những cuộc bầu cử không bị lãng phí, để mọi người cùng
nhau xây dựng một xã hội dân sự trên nền tảng chế độ dân chủ pháp trị.
Chỉ
có một chính quyền có giá trị chính thống về lịch sử và pháp lý mới
có đầy đủ cơ sở vật chất và tinh thần để thực hiện công cuộc phục hưng
dân tộc, phục hoạt văn hoá, và bảo toàn lãnh thổ, để tiếp nối sứ mạng
cứu quốc tồn chủng của tiền nhân. Cơ sở vật chất và tinh thần đó của
dân tộc là sức mạnh để đưa đất nước ra khỏi cơ chế độc đoán trì trệ và
ao tù của chuyên chính, để đưa dân tộc Việt vào giai đoạn cất cánh
kinh tế toàn dân. Có như thế, nước Ðại Việt của thời đại 2000 mới có
thể hoà nhập được với cộng đồng các dân tộc văn minh tiến bộ của nhân
loại ở thế kỷ 21, và để rửa mối nhục nghèo đói và lạc hậu của xã hội
chủ nghĩa hiện nay.
BỆNH VIỆN BAY ORBIS
Orbis tổ chức nâng cao chuyên môn cho bác sĩ bệnh viện mắt SAIGON
11/04/2008 11:03Thông qua dự án "bệnh viện bay", từ ngày 5 - 16.4, tại TP.HCM, Orbis sẽ tổ chức đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ y, bác sĩ bệnh viện mắt SAIGON trong 2 tuần.
Đây là chương trình có ý nghĩa xã hội to lớn nằm trong những hoạt động của tổ chức Orbis đến SAIGON với dự án “bệnh viện bay”. Chương trình cũng mang lại hiệu quả trong việc nâng cao nhận thức cộng đồng, xã hội về chăm sóc mắt và phòng chống mù lòa.
Với tổng số tiền tài trợ 233.253 USD, mục tiêu của dự án là đào tạo xử lý các bệnh về mắt cho 50 bác sĩ nhãn khoa, 80 y tá, trưởng các khoa và 10 cán bộ thiết bị kỹ thuật y tế sẽ được đào tạo quản lý, bảo dưỡng thiết bị nhãn khoa, 16 y tá sẽ được đào tạo trực tiếp các kỹ thuật về nhãn khoa...
Được biết, Viettel sẽ hỗ trợ toàn bộ hệ thống thông tin internet trong suốt quá trình đào tạo này. Ông Tống Viết Trung - Giám đốc Viettel Telecom chia sẻ: “Trong thời gian qua, Viettel đã thực hiện nhiều hoạt động xã hội, từ thiện với mong muốn chung tay cùng cộng đồng để làm cho xã hội tốt đẹp hơn và chương trình hỗ trợ hệ thống thông tin cho dự án “bệnh viện bay” cũng không nằm ngoài mục tiêu đó”.
Thoạt trông thì bệnh viện không khác gì một chiếc máy bay thông thường |
Nhưng bên trong là khu khám, điều trị, phẫu thuật... đầy đủ |
Khu vực khám với nhiều phương tiện tối tân |
Rất nhiều bệnh nhân có cơ hội được các giáo sư, chuyên gia hàng đầu về nhãn khoa khám, phẫu thuật miễn phí |
Họ tràn đầy hy vọng được nhìn thấy ánh sáng trọn vẹn |
Không chỉ khám và điều trị, Bệnh viện Bay còn giúp y bác sĩ Việt Nam nâng cao trình độ |
Cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm bổ ích |
Không chỉ hướng dẫn kỹ thuật mổ, các y bác sĩ còn được hướng dẫn cách tiếp xúc với bệnh nhân |
Cháu bé trai 6 tuổi tên Khánh đang chuẩn bị vào mổ đục thủy tinh thể |
Tất cả hình ảnh của bé trong phòng phẫu thuật được truyền ra bên ngoài... |
... để các bác sĩ, điều dưỡng Việt Nam học tập và thảo luận |
Phương châm của Tổ chức Orbis là luôn thân thiện với bệnh nhân |
TRUNG CỘNG VÀ VIỆT CỘNG
Nhận diện kẻ thù mới của Việt NamThanh Quang, phóng viên RFA
2012-04-03
Trung Quốc ngày càng ráo riết thực hiện những hành động tùy tiện bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp cam kết trong khu vực và với VN – nhất là cam kết “4 tốt và 16 chữ vàng”.
Photo courtesy of tienphong
Quân đội là công cụ của Đảng
Trung Quốc đã bất chấp nhân bản nhằm sớm toại nguyện tham vọng “ao nhà” ở Biển Đông, mà nạn nhân chủ chốt trước mắt không ai khác hơn là ngư dân Việt ở vùng ven biển Miền Trung kiếm miếng cơm manh áo ngày càng chật vật và đầy nguy hiểm tại ngư trường truyền thống của ông cha mình có từ hàng ngàn năm qua.
Trong khi
thêm một tàu cá từ Quảng Ngãi vừa mới bị “tàu lạ” đâm chìm ở gần đảo
Cồn Cỏ thuộc biển Quảng Trị giữa lúc 21 ngư dân từ xã An Vĩnh, huyện
Lý Sơn, Quảng Ngãi lâm nạn hôm mùng 3 tháng 3 bị TQ ra giá phạt mỗi
người khoảng 11.000 đô la; và trong khi 2 chiếc tàu lớn cỡ tàu hải
quân của TQ an nhiên đậu tại Vịnh Nha Trang, nơi – theo trang web Xuân
Diện – “lãnh đạo Biên phòng Khánh Hoà được dẫn lời nói sẽ tham mưu để
xử phạt hành chính 2 tàu này”, nghĩa là ngư dân TQ được VN phạt tiền
theo giá “hữu nghị” so với số tiền phạt nhiều hơn gấp trăm lần mà phía
TQ dành cho ngư dân VN, thì tác giả Vũ Nhật Khuê thắc mắc rằng “Nếu
quân đội (VN) thực sự là của nhân dân thì không có chuyện ngư dân bị
TQ bắt đòi tiền chuộc. Quân đội không bảo vệ được nhân dân và sự toàn
vẹn lãnh thổ là một quân đội bạc nhược và thất bại”.
Qua
bài “Quân đội VN là của nhân dân sao trung thành với đảng?”, tác giả
Vũ Nhật Khuê lưu ý rằng Thượng tướng Nguyễn Xuân Lịch, Chủ nhiệm Tổng
cục chính trị của quân đội nhân dân VN khẳng định “quân đội tuyệt đối
trung thành với đảng” rồi thì sau đó mới “bảo vệ tổ quốc”, trong khi
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong chuyến đi thăm Tổng cục chính trị
quân đội, đã trình bày ‘vòng vo cuối cùng cũng là đảng trên hết…Tóm
lại, ông Trọng chỉ đạo Tổng cục chính trị nắm cho được quân đội làm
công cụ để bảo vệ đảng…”. Tác giả Vũ Nhật Khuê lưu ý:Ở Tiên Lãng thì quân đội phụ giúp nhà cầm quyền cướp đất của dân. Trên Tây Nguyên thì quân đội cướp đất của người thiểu số sắc tộc cách trắng trợn.“Do vậy ai đó ảo tưởng quân đội là của nhân dân thì nên thực tế nhìn rằng quân đội của đảng cộng sản. Và quân đội kiểu này đang làm gì: bảo vệ tổ quốc và nhân dân hay đi bảo vệ quyền lợi của các đảng viên cao cấp? Từ lý luận Mác- Lê, cho đến thực tiễn hiện nay cho thấy quân đội chỉ là một công cụ của đảng. Ở Tiên Lãng thì quân đội phụ giúp nhà cầm quyền cướp đất của dân. Trên Tây Nguyên thì quân đội cướp đất của người thiểu số sắc tộc cách trắng trợn.”
Tác giả Vũ Nhật Khuê
Như vậy thì không chỉ quân đội là công cụ ưu tiên của đảng mà, theo nhà văn Trần Khải, đất cũng là của đảng. Qua bài tựa đề “Khi Đất Là Của Đảng”, nhà văn Trần Khải mở đầu phân tích rằng về mặt danh nghĩa thì đất là của toàn dân nhưng thực tế cho thấy người dân không có sở hữu gì cả vì quyền ban phát đất nằm trong tay cán bộ, tạo điều kiện làm giàu cho bản thân cùng gia đình và dòng tộc họ. Tác giả lưu ý rằng nhà nước không muốn - hay chưa muốn – thay đổi “thói cường hào phi lý” trắng trợn đó, vì nếu tước đi quyền lợi ban phát đất đai của cán bộ thì còn ai trung thành với đảng CS nữa.
Địa chủ đỏ cướp đất của dân
Theo nhận xét của nhà văn Trần Khải thì biến cố Đoàn Văn Vươn những
tưởng tạo nên một chuyển biến quan trọng về luật đất đai, nhưng “hoá ra
chẳng có gì hết”, và chuyện ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng can thiệp
vừa rồi chỉ là để trình diễn, việc kỷ luật cán bộ cũng để trình diễn
trong khi thực chất vấn đề là “Nhà nước sẽ vẫn siết quyền quản lý đất
để ban phát cho tư bản làm các dự án phát triển, và qua đây cán bộ mới
có tiền phong bì, tiền phần trăm… Cụ thể, đất là sở hữu toàn dân,
nhưng cũng là lợi tức của đảng CSVN và của cán bộ”. Và tác giả báo
động:
“Các địa chủ đỏ ngày nay
không chỉ có hàng trăm, mà là hàng chục ngàn hectare đất. Chúng ta
nhớ nhiều địa chủ ngày nào chưa có đến một hectare đất mà đã bị trói
vào cột trường đấu, để tá điền đốt râu, rồi chết tức tưởi trong thời
kỳ cải cách ruộng đất. Các địa chủ đỏ ngày nay không tốn một giọt mồ
hôi mà ung dung, phè phỡn quá!...Ai nói rằng tài nguyên đất nước hiện
nay – dù là đất, là rừng, là biển, là sông… – là của toàn dân? Chỉ duy
có Đảng CSVN dám nói như thế, trong khi ban phát, chia chác quyền
khai thác cho cán bộ đảng viên. Đó là một thực tế ai cũng đang nhìn
thấy, đang chứng kiến, và đang nghe tiếng oan dậy khắp trời hàng
ngày.”
Blogger Trương Duy Nhất cảnh báo bây giờ lại có thêm một
Đoàn Văn Vươn khác, dù không có súng để bắn vào lực lượng cưỡng chế
việc cướp đất, hay phía cầm quyền không có trận “trăm quân đại chiến
tam dân” gọi là “đẹp đến mức có thể viết thành sách”, nhưng Đoàn Văn
Vươn thứ hai đó, tên Nguyễn Văn Tưởng ở Quảng Nam, đã cầm dao xông lên
đâm cán bộ cưỡng chiếm đất rồi anh uống thuốc độc tự tử, tạo nên bi
cảnh “ ‘anh Vươn’ Nguyễn Văn Tưởng đau nhói lòng”.Các địa chủ đỏ ngày nay không tốn một giọt mồ hôi mà ung dung, phè phỡn quá!...Ai nói rằng tài nguyên đất nước hiện nay – dù là đất, là rừng, là biển, là sông… – là của toàn dân?Nhà báo Trương Duy Nhất nêu lên câu hỏi: “Những bi kịch này vì đâu? Vì đâu người nông dân cùng quẫn đến bước đường cùng để buộc họ phải giương súng bắn vào chính quyền, phải vung dao đâm cán bộ rồi tự kết liễu cuộc đời bằng một liều thuốc độc? Lại nghe đâu đó người dân uất ức khiêng cả quan tài xông vào trụ sở ủy ban…Ngày một nhiều hơn những đoàn dân “đòi đất” từ các vùng quê kéo về Hà Nội. Qui hoạch, chỉnh trang, thu hồi, giải tỏa đền bù thế nào để đến nỗi dân tình phải xuống đường với băng rôn “cướp đất”? Có gì đó thật bất an.”
Nhà văn Trần Khải
Những quả bom nổ chậm
Nói tới tâm trạng bất an, Blogger Tô Hải cũng đã trải qua “mấy đêm không ngủ” để viết “nhật ký mở sau một tuần suy nghĩ về những chuyện hơn cả khủng khiếp”. Đó là chuyện “Mẹ VN đang bị cài bom nổ chậm khắp người”. Nhạc sĩ Tô Hải giải thích:1-Những quả “bom nước” hàng ngàn triệu mét khối với sức cuốn trôi không thua gì sóng thần ở Fukưshima...
2-Đó là những quả “bom bùn đỏ”mà mấy cái ông tờ-sờ, giờ-sờ đảng-viên-hưởng-đặc-ân-của-người-chủ-trương-cài-đặt-bom đã… liều mạng “đảm bảo không thể xảy ra thảm họa bùn đỏ Hungary” với lời hứa tỉnh bơ “Nếu có chuyện gì tôi xin đi…tù!” (nay chắc tất cả đã hết nhiệm kỳ và mang theo lời hứa... về hưu ,” hạ cánh an toàn”, y như những kẻ tội tầy trời nhưng phen này thoát khỏi bị chỉnh đốn!
3-Đó là 16 quả bom hạt nhân được bảo đảm sẽ "rước" về từ những nơi đang “thà thắp nến nhưng không dùng thêm điện hạt nhân”, những nước văn minh, tiên tiến đang phải biểu tình đi, đứng, ngồi, nằm để ngăn chặn cái thứ năng lượng giết người hàng loạt đến 2,3 đời con cháu... vì không phải là không thể thay thế được!
Rồi nhạc sĩ Tô Hải “nhìn lại lịch sử mà lo cho tương lai của Mẹ VN đang mang đầy mình những trái bom nổ chậm siêu nặng suốt từ Nam chí Bắc…có thể phát nổ bất cứ lúc nào” khiến có thể diễn ra một kịch bản kinh khủng nhất – “một cuộc tận thế” dành riêng cho người VN ta trong một tương lai không xa do các “lực lượng thù nghịch nội và ngoại” đang bắt tay nhau tiến hành ! Nhạc sĩ Tô hải lưu ý rằng cách đây hơn 50 năm, Mao Trạch Đông tuyên bố sẵn sàng hy sinh 500 triệu dân Trung Hoa để tiêu diệt ‘sạch sành sanh” hổ giấy Đế Quốc Mỹ thì, theo blogger Tô Hải, việc “huỷ diệt cả một dân tộc VN…chẳng là một cái đinh gì” đối với TQ cả.
Có lẽ điều đó thuộc trong lý do mà blogger Người Buôn Gió cảnh báo rằng phải “Nhận rõ kẻ thù mới” khi chủ nghĩa bá quyền TQ trở thành đối tượng trực tiếp và nguy hiểm cho VN. Theo blogger Người Buôn Gió thì kẻ thù phương Bắc này “trước là bạn, nay chuyển thành thù, chúng đội lốt Mác-Lê Nin, giả danh CNXH, khôi phục tình hữu nghị Việt-Trung nhưng mục tiêu chính là nhằm “thôn tính nước ta”. Blogger Người Buôn Gió phân tích:
“Chúng móc nối với những phần tử thoái hóa, biến chất trong cán bộ ta. Sử dụng người Hoa trên đất nước ta làm đội quân ngầm. Chúng dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, kể cả âm mưu đầu độc tư tưởng từng thế hệ về lâu dài. Chúng đẩy mạnh phá hoại ta về tổ chức, tư tưởng, tâm lý, kinh tế, văn hóa xã hội...kết hợp với lấn chiếm biên giới, khiêu khích trên biển và đe dọa chiến tranh xâm lược. Kẻ thù đã được xác định, chúng đã và đang đánh ta , lại ở ngay bên cạnh chúng ta.
Ngày nay chúng đã sản xuất được vũ khí hạt nhân, hóa học và nhiều loại khác để trang bị cho quân đội của chúng và thậm chí còn xuất khẩu. Chúng đã lợi dụng những mối quan hệ với ta để tìm hiểu chúng ta về nhiều mặt. Do đó chúng có thể tấn công chúng ta nhanh chóng bằng đường bộ, đường biển, đường hàng không.”
Có lẽ đó là kẻ thù của dân tộc Việt. Thế họ có phải là kẻ thù của đảng và nhà nước VN không ? Qua bài “Dung Nhan Của Đảng Và Diện Mạo Kẻ Thù”, blogger Đinh
Tấn Lực mở đầu rằng cũng giống như những đảng và nhà nước núp bóng chủ nghĩa CS còn sót lại trên thế giới, thì “kẻ thù của đảng và nhà nước (VN) này vẫn còn nhiều, “nhưng nhất định chẳng phải bọn bá quyền bành trướng hung tàn hiểm độc…”. Vì sao? Tác giả phân tích:
Chúng đã lợi dụng những mối quan hệ với ta để tìm hiểu chúng ta về nhiều mặt. Do đó chúng có thể tấn công chúng ta nhanh chóng bằng đường bộ, đường biển, đường hàng không.“Những bia chiến thắng bị phá cho mất dấu tích, những cuộc dâng hương/dâng hoa tưởng niệm và trình diễn văn nghệ giúp vui dưới chân các đài liệt sĩ bên kia biên giới… đã chứng thực điều đó.
Blogger Người Buôn Gió
Những cà lăm/ấp úng “chứng cứ không tranh cãi” của bộ ngoại giao về vấn đề biển đảo, những ôm hôn thắm thiết, những cúi rạp người bắt tay bằng hai tay, cả chiếc cà vạt cũng cà lăm/cà lặp cho đồng điệu/đồng màu với “quốc khách”, và lệnh bắt giam người hỏi thăm “Việt Nam Tôi Đâu?”, hoặc lệnh cấm chiếu phim Mộ Gió… đã hồn nhiên chứng thực điều đó.
Những biện pháp đàn áp thô bạo các cuộc biểu tình chống hiểm họa Bắc thuộc, những trò bắt nguội/bắt cóc/bắt chẹt/bắt nạt/bắt nọn/bắt địa/bắt tội/bắt ép/bắt buộc/chồng án/triệu tập/khám nhà/”phục hồi nhân phẩm”… hay vất mắm tôm/chất thải vào nhà, và cả bung gót đạp mặt người biểu tình… đã tận tình chứng thực điều đó.
Chẳng những không là kẻ thù, nó, bọn bá quyền bành trướng hung tàn hiểm độc đó, còn là bạn, thậm chí là thầy, với những lời bảo ban/răn dạy (cứ như tam cang ngũ thường của Khổng Tử) rất đáng ghi tâm khắc cốt và truyền thừa cho nhau trong mỗi dịp rèn quân chỉnh cán…”
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/ReadingBlogs/vn-need-identf-enemy-tq-04032012164209.html
Trung Quốc tăng chi tiêu quân sự năm 2012 lên 11,2%
Hình: Reuters
Trung
Quốc loan báo ngân sách quốc phòng của họ trong năm nay sẽ tăng
11,2%, lên tới 106,7 tỷ đô la giữa bối cảnh sự tăng trưởng kinh tế mạnh
mẽ tiếp tục thúc đẩy quá trình mở rộng quân sự nhanh chóng của nước
này.
Người phát ngôn của Quốc hội Trung Quốc, ông Lý Triệu Tinh, hôm nay cho báo giới biết chi tiêu quốc phòng của Bắc Kinh sẽ tăng lên khoảng 10,6 tỷ Mỹ kim so với năm rồi.
Ông Lý nói: ‘Trung Quốc có 1,3 tỷ dân, một lãnh thổ rộng lớn, và bờ biển dài, nhưng chi tiêu quốc phòng tương đối thấp so với các nước lớn khác.’
Ngân sách quân sự của Trung Quốc hiện đứng thứ nhì trên thế giới, sau Hoa Kỳ.
Công cuộc phát triển quân đội nhanh chóng của Trung Quốc đã gây quan ngại cho các nước ở Châu Á và cả Hoa Kỳ dù Bắc Kinh vẫn nói rằng quá trình hiện đại hóa quân sự của họ chỉ đơn thuần mang mục đích phòng vệ.
Cuối năm ngoái, Bộ Quốc phòng Mỹ công bố báo cáo cho thấy công cuộc phát triển quân đội của Trung Quốc dường như nhằm mục đích ngăn không cho các cường quốc bên ngoài can thiệp vào bất kỳ mâu thuẫn nào có thể có trong tương lai với Đài Loan.
http://www.voanews.com/vietnamese/news/asia/china-defense-spending-03-04-12-141349483.htmlNgười phát ngôn của Quốc hội Trung Quốc, ông Lý Triệu Tinh, hôm nay cho báo giới biết chi tiêu quốc phòng của Bắc Kinh sẽ tăng lên khoảng 10,6 tỷ Mỹ kim so với năm rồi.
Ông Lý nói: ‘Trung Quốc có 1,3 tỷ dân, một lãnh thổ rộng lớn, và bờ biển dài, nhưng chi tiêu quốc phòng tương đối thấp so với các nước lớn khác.’
Ngân sách quân sự của Trung Quốc hiện đứng thứ nhì trên thế giới, sau Hoa Kỳ.
Công cuộc phát triển quân đội nhanh chóng của Trung Quốc đã gây quan ngại cho các nước ở Châu Á và cả Hoa Kỳ dù Bắc Kinh vẫn nói rằng quá trình hiện đại hóa quân sự của họ chỉ đơn thuần mang mục đích phòng vệ.
Cuối năm ngoái, Bộ Quốc phòng Mỹ công bố báo cáo cho thấy công cuộc phát triển quân đội của Trung Quốc dường như nhằm mục đích ngăn không cho các cường quốc bên ngoài can thiệp vào bất kỳ mâu thuẫn nào có thể có trong tương lai với Đài Loan.
Chạy đua vũ trang ở châu Á
Cập nhật: 16:47 GMT - thứ tư, 4 tháng 4, 2012
Giới
bình luận lâu nay đã bắt đầu nói đến một cuộc "chạy đua
quân sự" trong khu vực, đặc biệt là sau việc Việt Nam mua sáu
tàu ngầm hạng kilo của Nga.
Hoàn cầu
Thời báo, tờ báo mang khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa của
Trung Quốc, hôm thứ Tư 4/4, có bài phân tích về quá trình
này.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
"Tăng trưởng kinh tế ở châu Á đã thúc đẩy việc ‘hiện đại hóa’ quân sự trong khu vực. Các nhà phân tích coi đây là một cuộc đua vũ trang có chừng mực.
Cuộc đua này tất nhiên làm dấy lên những bàn tán và nghi ngại. Lầu Năm góc tuyên bố hôm thứ Hai rằng họ đang tìm cách gây dựng một rào chắn trong khu vực nhằm chống lại loại tên lửa đạn đạo của châu Á gần giống với một hệ thống phòng thủ của châu Âu.
Khi các quốc gia đang ganh đua cho phạm vi ảnh hưởng và vị trí tối thượng trên biển, các hàng không mẫu hạm là một trong những quân bài chủ để chiến thắng.
Phòng thủ hay tấn công?
Trung Quốc đã đầu tư vào các loại vũ khí tối tân, trong đó có tàu sân bay dài 300 mét đã có lượt thử nghiệm đầu tiên vào tháng 8.Hàng không mẫu hạm Varyag của Liên Xô cũ đã được đổi mới hoàn toàn để thực hiện nhiệm vụ mới của mình phục vụ việc huấn luyện và nghiên cứu của hải quân Trung Quốc.
Hàng không mẫu hạm đầu tiên do Ấn Độ thực hiện, INS Vikrant, cũng đã được hạ thủy hồi tháng 12. Theo báo Hindu, con tàu này sẽ đi vào hoạt động trong năm 2015.
Với INS Vilramaditya, cũng của Liên Xô cũ được Ấn Độ mua và làm mới, dự tính sẽ đi vào hoạt động trong năm 2012, Ấn Độ đang bắt kịp với các nước phát triển bằng một tốc độ ấn tượng.
‘Các hàng không mẫu hạm châu Á còn tụt lại sau tàu của Hoa Kỳ rất xa cả về kích thước và khả năng hoạt động,’ Bành Quang Khiêm, một chuyên gia của Học viện Khoa học Quân đội, nói về những mối lo của thế giới về khả năng xảy ra một cuộc đua vũ trang trong khu vực châu Á – Thái bình Dương.
"Trung Quốc và Ấn Độ là hai tay chơi chính. Nhưng cả hai đều đang tình trạng đang phải hoàn thiện, và có lẽ mức này sẽ còn được giữ trong rất nhiều năm nữa,’ Holmes nói. ‘Nếu có một cuộc đua vũ trang ở châu Á, nó sẽ là một cuộc đua dè chừng và chậm rãi do những tiêu chuẩn đã cũ."
James Holmes, Học viện Hải quân Hoa Kỳ
‘Trung Quốc và Ấn Độ là hai tay chơi chính. Nhưng cả hai đều đang tình trạng đang phải hoàn thiện, và có lẽ mức này sẽ còn được giữ trong rất nhiều năm nữa,’ Holmes nói. ‘Nếu có một cuộc đua vũ trang ở châu Á, nó sẽ là một cuộc đua dè chừng và chậm rãi do những tiêu chuẩn đã cũ.’
Tuy nhiên, phương Tây vẫn luôn vấn hỏi về sự bùng phát quân sự trong khu vực. Nhà Trắng đã hơn một lần yêu cầu Trung Quốc giải trình mục đích của mình trước thế giới.
‘Sức mạnh quân đội còn hạn chế của Trung Quốc là để bảo vệ chế độ, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc,’ cựu bộ trưởng ngoại giao Lý Triệu Tinh nói vào đầu tháng này.
Ian Storey, một học giả cao cấp của Viện Nghiên cứu Singapore về Đông Nam Á, nói rằng động lực chính trong việc hiện đại hóa quốc phòng của Trung Quốc là để chuẩn bị cho Giải phóng Quân Trung Quốc đối phó với những mâu thuẫn ở eo biển Đài Loan.
‘Bắc Kinh đã đưa chiến thuật chống tiếp cậ́n vào để cản trở quân đội Mỹ tới hỗ trợ Đài Loan – thông qua việc trang bị tàu ngầm và phát triển vũ khí, chẳng hạn như hỏa tiễn đạn đạo, với chủ ý nhắm tới hàng không mẫu hạm Mỹ,’ ông Storey nói.
Tuy nhiên ông cũng nói rằng từ năm 2002, quân đội Trung Quốc còn được giao những nhiệm vụ mới trong đó có cả bảo vệ quyền lợi kinh tế của Trung Quốc ở nước ngoài, duy trì hoà bình, viện trợ nhân đạo và cứu trợ thiên tai.
Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain đã đặt nghi vấn về một bài viết trên tờ Wall Street rằng Bắc Kinh lên kế hoạch sử dụng tàu sân bay mới của mình chỉ nhằm mục đích tự vệ.
Hoa Kỳ đã 'thống trị cả thế giới' từ khi Liên Xô sụp đổ và họ coi bất kỳ lực lượng nào trỗi dậy mà không chơi theo luật của họ như một mối đe dọạ, ông Tống nói thêm.
Tương lai ra sao?
Châu Á là khu vực nhập khẩu vũ trang lớn nhất từ năm 2007 – 2011, theo một báo cáo do Viện Nghiên cứu Hòa bình Thế giới Stockholm (SIPRI) công bố hôm 19/3.Ấn Độ (chiếm 10%) là một trong những nước nhập khẩu vũ trang quốc tế lớn nhất, tiếp theo đó là Nam Hàn (6%), Trung Quốc và Pakistan (5%), và Singapore (4%).
Trong khi đó, tổng thống Mỹ Barack Obama đã cố gắng trấn an các đồng minh châu Á là các nước này sẽ vẫn đóng vai trò chủ đạo trong khu vực.
Michael Beckley, một học giả nghiên cứu của chương trình an ninh quốc tế tại Trung tâm Belfer đại học Havard, trả lời tờ Hoàn cầu Thời báo rằng chính sách ‘trụ cột’ của Mỹ thực chất là sự tiếp nối của một chính sách đã tồn tại lâu dài để duy trì các giao ước kiên định.
Beckley nói việc hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc khiến các quốc gia khác tiếp tục tăng cường năng lực hải quân và làm mạnh thêm những mối quan hệ quân sự với Hoa Kỳ.
Mỹ lên kế hoạch thực hiện những cuộc tập trận trên diện rộng với Philippines từ ngày 16/4 đến ngày 27/4 ở Palawan, một hòn đảo gần biển Đông.
Cùng lúc đó, những nước Thái Bình Dương khác trong đó có Nam Hàn và Nhật Bản, tìm kiếm mối quan hệ quân sự mạnh mẽ hơn với đồng minh thân cận nhất của mình, những động thái có thể sau này sẽ gây thêm những căng thẳng trong khu vực.
"Do sự phát triển mạnh về kinh tế, đừng ngạc nhiên khi thấy họ (Trung Quốc) đang khăng khăng và đòi hỏi một tiếng nói lớn và ảnh hưởng lớn hơn ở châu Á và trên toàn thế giới mà trước đây họ chưa từng có được. Đây không phải là một đòi hỏi vô cớ. "
Cựu Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell
Các láng giềng châu Á đã mất lòng tin chung: Pakistan cũng đã sánh ngang với Ấn Độ khi mục tiêu duy nhất của nước này là leo lên được vị trí thứ ba trong danh sách những nước tiêu thụ vũ khí nhiều nhất châu Á. Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á khác, như Việt Nam và Philippines, đang ngày càng có nhiều xích mích về lãnh thổ vùng biển Đông.
Storey cho rằng ông không hình dung ra một cuộc đối đầu lớn trên biển Đông, tuy nhiên, nguy cơ xảy ra va chạm vùng biển sẽ khiến những vấn đề ngoại giao và khủng hoảng quân sự sẽ ngày càng nghiêm trọng và căng thẳng.
Hoa Kỳ cũng nói rằng nước này mong muốn được khai phá quan hệ quân sự gần gũi hơn với Trung Quốc.
‘Do sự phát triển mạnh về kinh tế, bạn đừng ngạc nhiên khi thấy họ đang khăng khăng và đòi hỏi một tiếng nói lớn và ảnh hưởng lớn hơn ở châu Á và trên toàn thế giới mà trước đây họ chưa từng có được. Đây không phải là một đòi hỏi vô cớ. Đây là một kỳ vọng mà tôi chắc chắn rằng chúng ta có thể đối phó được,’ tờ Wall Street trích lời Colin Powell, cựu Ngoại trưởng đồng thời là Tổng Tham mưu trưởng quân đội Hoa Kỳ.
Chiến tranh với VN: TQ không mất nhiều?
Cập nhật: 06:30 GMT - thứ sáu, 6 tháng 4, 2012
Tờ
báo mạng Asia Times vừa đăng bài của Jens Kastner, một cây bút ở
Đài Loan, cho rằng cái giá cho cuộc chiến của Trung Quốc để
tranh giành chủ quyền trên Biển Đông là ‘không lớn lắm’.
Theo
tác giả, đã xuất hiện những dấu hiệu rộng rãi từ phía Trung
Quốc rằng nước này có thể khởi động các cuộc tấn công quy
mô nhỏ ở những vùng biển có tranh chấp vốn được tin rằng có
trữ lượng dầu mỏ lớn.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Thế bí Malacca
Chỉ
tính riêng trong tháng Ba (năm 2012), Bắc Kinh đã khẩu chiến
với Seoul về một đảo đá ngầm, với Manila về kế hoạch của
nước này xây dựng một cầu cảng và với Hà Nội về động thái
xây dựng các giếng dầu khí của Trung Quốc.Cuộc chiến không chỉ dừng lại ở ngôn từ. Tàu cá của Việt Nam cũng đã bị Trung Quốc bắt và ngư dân trên tàu bị giam giữ.
Điểm chung của tất cả các vùng biển, quần đảo và đá ngầm xảy ra tranh chấp này là chúng nằm gần bờ biển của các nước tranh chấp khác hơn là gần bờ biển Trung Quốc.
Khi các nhà chiến lược nhắc đến ‘Thế bí Malacca’, ý của họ là các tuyến đường thông thương trên biển của Trung Quốc rất dễ bị tổn thương. Nếu xung đột xảy ra giữa Mỹ và Trung Quốc, thì nguồn cung dầu thô cần thiết để giúp nền kinh tế nước này vận hành có thể bị gián đoạn một cách tương đối dễ dàng ở eo biển Malacca vốn nối từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương.
Theo
ước lượng của Trung Quốc thì trữ lượng dầu khí ở tây Thái
Bình Dương có thể đáp ứng nhu cầu của nước này trong hơn 60
năm.
Với việc
nước này loan báo chi tiêu quân sự chính thức của họ trong
năm 2012 là 100 tỷ đôla và ngân sách thật sự của họ trên thực
tế cao hơn nhiều, Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc
dường như đang trên đường xây dựng sức mạnh cần thiết để đảm
bảo công cuộc tìm kiếm an ninh năng lượng của họ diễn ra suôn
sẻ.
Các tên
lửa đạn đạo chống tàu chiến của họ sẽ khiến cho Washington
phải cân nhắc kỹ trước khi đưa lực lượng của họ vào khu vực
để cứu nguy cho đồng minh, cũng như các máy bay chiến thuật
trên đất liền ngày càng tăng về số lượng và các tên lửa
hành trình chứ chưa nói gì tới hạm đội đông đảo các tàu
chiến và tàu ngầm phóng tên lửa của họ.
Nếu
Bắc Kinh tự tin rằng Washington không muốn can thiệp thì quân
đội các nước tranh chấp với họ trong khu vực sẽ phải đối phó
với máy bay chiến đấu J-15 được đặt trên tàu sân bay đầu tiên
của họ, hạm đội tàu hộ tống đang giă tăng nhanh chóng về số
lượng cũng như các tàu đổ bộ lưỡng cư hoàn toàn mới và
các tàu chở trực thăng có thể nhanh chóng đưa hàng ngàn lính
thủy đánh bộ đến các đảo đang tranh chấp.
Ý chí chính trị
Ý
chí chính trị cho các kế hoạch quân sự như thế đã được báo
hiệu ít nhất một lần. Trong các bài xã luận trên truyền
thông nhà nước của Trung Quốc, nhất là trên tờ Hoàn cầu thời
báo, khái niệm về ‘tiểu chiến’ đã được tuyên truyền ngày
càng nhiều kể từ năm 2011.
Hồi
đầu tháng Ba, thủ tướng nước này Ôn Gia Bảo phát biểu trong
cuộc họp Quốc hội rằng Quân đội giải phóng nhân dân nên chuẩn
bị sẵn sàng cho các ‘cuộc chiến cục bộ’.
"Mặc dù Trung Quốc hiển nhiên không thể dễ dàng thắng Việt Nam và dù một cuộc chiến như thế sẽ gây xáo trộn rất lớn cho khu vực Đông Nam Á và phần còn lại của Đông Á, nó vẫn có thể kiểm soát được."
Steve Tsang, giám đốc Viện chính sách Trung Quốc của Đại học Nottingham
Các
chuyên gia mà tờ Asia Times phỏng vấn cho rằng Trung Quốc có thể
đạt được các mục tiêu tương lai với các cuộc tấn công quân sự
hạn chế.
Ông
Steve Tsang, giám đốc Viện chính sách Trung Quốc của Đại học
Nottingham, nhận định rằng điều này tùy thuộc phần lớn vào
việc cuộc tiểu chiến đó là nhằm mục đích gì, nó được tiến
hành như thế nào và chống lại quốc gia nào.
Ông
Tsang tin rằng Hàn Quốc sẽ không là mục tiêu tấn công bất
chấp các cuộc khẩu chiến bùng nổ gần đây giữa hai nước sau
khi người đứng đầu Cục hải dương Trung Quốc cho rằng đảo san hô
Leodo, một đảo ngầm ngoài khơi hòn đảo du lịch Jeju của Hàn
Quốc, gần như chắc chắn nằm trong vùng biển thuộc quyền tài
phán của Trung Quốc.
“Việc
Trung Quốc khởi động một chiến dịch quân sự thậm chí ở mức
độ hạn chế nhằm vào Hàn Quốc sẽ là một hành vi hết sức
nghiêm trọng mà không ai có thể dung thứ,” ông Tsang nói.
“Hoa
Kỳ sẽ phải có lập trường mạnh mẽ và có hành động ngay
lập tức tại Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc để áp đặt một
lệnh ngừng bắn,” ông nói thêm.
"Tuy
nhiên, một cuộc đối đầu quân sự nhỏ đối với Việt Nam hay
Philippines để giành chủ quyền các đảo san hô ở Biển Đông là
một vấn đề hoàn toàn khác," ông Tsang lập luận.
‘Có thể kiểm soát’
"Bắc Kinh có thể cố gắng làm cho các cuộc tiểu chiến đó ở quy mô càng nhỏ và càng ít được chú ý càng tốt."
James Holmes, giáo sư chiến lược tại Trường Hải chiến Hoa Kỳ
“Mặc
dù Trung Quốc hiển nhiên không thể dễ dàng thắng Việt Nam và
dù một cuộc chiến như thế sẽ gây xáo trộn rất lớn cho khu
vực Đông Nam Á và phần còn lại của Đông Á, nó vẫn có thể
kiểm soát được,” ông nói.
“Nếu cuộc xung đột này không kéo dài và ở mức độ hạn chế thì tác động tức thời sẽ không lớn lắm.”
Tuy
nhiên, ông Tsang cũng cảnh báo rằng việc Trung Quốc tấn công
Việt Nam hay Philippines sẽ càng làm cho các nước Đông Nam Á
mong muốn hợp tác quân sự với Hoa Kỳ.
“Nhưng
về cơ bản những nước này không thể làm được gì nhiều để
chống lại một Trung Quốc đang khẳng định mình,” ông nói.
Ông
cũng nhận định hiệp ước phòng vệ lẫn nhau giữa Philippines
và Hoa Kỳ có thể cũng không giúp cho nước này ‘miễn nhiễm’
trước một hành động quân sự chớp nhoáng của Trung Quốc.
“Chúng
ta cần phải xem các điều khoản trong hiệp ước này. Chính
phủ Mỹ cần phải xem xét rằng một cuộc tấn công quân sự nhằm
vào Philippines có phải là một vấn đề an ninh nghiêm trọng
mà nước này cần phải đáp trả hay không và họ cũng cần thời
gian để quyết định cách đáp trả phù hợp,” ông phân tích.
“Sẽ
không có chuyện gì xảy ra nếu chiến sự xong xuôi trước khi
vấn đề được đưa ra Quốc hội (Hoa Kỳ) để bàn thảo,” ông nói.
James
Holmes, một học giả về chiến lược tại Trường Hải chiến Hoa
Kỳ, nhận xét Bắc Kinh có thể dễ dàng không gặp vấn đề gì
nếu họ tấn công Philippines hay Việt Nam.
“Bắc
Kinh có thể cố gắng làm cho các cuộc tiểu chiến đó ở quy
mô càng nhỏ và càng ít được chú ý càng tốt,” ông phân tích.
“Ưu
thế của hạm đội của họ so sánh với hải quân các nước Đông
Nam Á và việc trang bị các vũ khí mới đặt dọc theo bờ biển
như tên lửa đạn đạo chống tàu chiến giúp cho Trung Quốc có
khả năng răn đe mạnh mẽ nếu xảy ra xung đột,” ông nói.
Tác động kinh tế
Ông
phân tích rằng Trung Quốc sẽ để dành chứ không triển khai
các vũ khí chiến đấu chính của nước này mà chỉ dùng các
tàu được trang bị tương đối ít vũ trang và tương đối tầm
thường trong lực lượng hải giám của họ.
“Hải
quân các nước Đông Nam Á có thể sẽ đối đầu với các tàu
chiến này, nhưng họ cũng biết rõ rằng quân đội Trung Quốc sẽ
triển khai các sức mạnh hải quân có ưu thế vượt trội nếu họ
dám đối đầu,” ông nói.
Mặt
khác, các nhà kinh tế cũng không thấy có trở ng̣ại gì lắm
trong một cuộc tiểu chiến của Trung Quốc để giành năng lượng
với các quốc gia Đông Nam Á.
"Tuy nhiên việc này (cuộc chiến trên BIển Đông) chỉ có tác động rất nhỏ đối với chỉ số lạm phát, thất nghiệp hay sản lượng công nghiệp của bất kỳ quốc gia nào ngoại trừ chính nước bị Trung Quốc tấn công."
Ronald A Edwards, chuyên gia kinh tế chính trị Trung Quốc ở Đại học Tamkang, Đài Loan
“Các
thị trường chứng khoán trên toàn thế giới sẽ phản ứng mạnh
mẽ trong ngắn hạn – tức là chỉ vài ngày,” ông Ronald A.
Edwards, một chuyên gia kinh tế chính trị Trung Quốc ở Đại học
Tamkang, Đài Loan, cho biết.
“Tuy
nhiên việc này chỉ có tác động rất nhỏ đối với chỉ số
lạm phát, thất nghiệp hay sản lượng công nghiệp của bất kỳ
quốc gia nào ngoại trừ chính nước bị Trung Quốc tấn công."
Ông
Edwards lập luận rằng kết quả của cuộc chiến chớp nhoáng
kéo dài 9 ngày giữa Nga và Georgia năm 2008 mà khi đó Nga đã
dùng sức mạnh quân sự vượt trội để đẩy Gruzia ra khỏi Nam
Ossetia – một hành động bị phương Tây lên án – có thể được tham
khảo để tính toán xem liệu kinh tế Trung Quốc có phải trả
giá đắt cho một chiến dịch phiêu lưu quân sự hay không.
“Cuộc chiến chớp nhoáng của Nga với Gruzia là một ví dụ so sánh rất hay,” ông Edwards nói.
“Trong
khi tin tức về cuộc chiến này trở thành tít ở mọi nơi trong
vài tuần thì không có tác động gì đáng kể về mặt kinh tế
ở các quốc gia ngoại trừ Georgia vào tháng 8 năm 2008 và sau
đó,” ông nói thêm.
BBC
sẽ đăng phần trả lời đặc biệt của một số nhà nghiên cứu dành riêng
cho BBC quanh câu hỏi một cuộc chiến vì Biển Đông có xảy ra hay không.
Mời quý vị đón theo dõi.
CỘNG SẢN VIỆT NAM TÀN ÁC
Vụ Đoàn Văn Vươn khơi dậy tranh cãi về bất công xã hội tại VN
Quy
định dân chỉ có quyền sử dụng, chứ không có quyền sở hữu đất đai là
lý do khiến hồ sơ khiếu kiện đất đai chiếm nhiều nhất trong số các đơn
thư khiếu nại trong nước. Phương châm ‘đất thuộc toàn dân do nhà nước
quản lý’ đã đẩy biết bao nhiêu gia đình ra khỏi mảnh đất nương thân
mà họ nhọc công gầy dựng từ chính mồ hôi, nước mắt, sức lao động lương
thiện của mình cũng như gây ra bao cuộc tranh chấp mà kết cục thường
bất lợi cho người dân đi khiếu kiện, đôi khi còn dẫn tới án mạng hoặc
án tù.
Phát
súng mới đây của người nông dân Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng (Hải Phòng)
chống lại lực lượng võ trang tới cưỡng chế bất hợp pháp đất canh tác
của gia đình ông đã vang dội thành một tiếng súng cảnh tỉnh về cuộc
khủng hoảng tranh chấp đất đai giữa chính quyền với người dân tại Việt
Nam. Trong cuộc thảo luận hôm nay, 4 bạn trẻ là Tiến Nam ở Yên Bái, Lê
tại Sài Gòn, Quốc Anh từ Khánh Hòa, và Thạch Vũ ở Hà Nội sẽ nói lên
cảm nghĩ của họ về sự kiện hiếm thấy này.
Thạch Vũ:
Người Việt Nam đang ấn tượng trước tiếng súng hoa cải của của anh
Đoàn Văn Vươn. Tuy vụ việc này là sai pháp luật nhưng nó đã đánh thức ý
thức của người dân về các vấn đề liên quan đến đất đai. Sau vụ anh
Vươn, hàng loạt những sai sót khác trong việc cưỡng chế đất đai ở Việt
Nam cũng đã được lôi ra ánh sáng.
Quốc Anh: Vụ của anh Đoàn Văn Vươn đánh lên hồi chuông lớn cho tất cả dân oan trong nước, buộc nhà nước phải ngồi vào giải quyết.
Quốc Anh: Vụ này nổ lớn vì trong đó chính quyền đưa cả hệ thống an ninh, quân đội, chó nghiệp vụ tới cưỡng chế nhà anh Vươn. Phía anh Vươn có mìn tự chế, súng hoa cải. Hai bên đều có dùng tới võ khí và bạo động rồi cho nên nó gây được tiếng vang, tiếng nổ toàn quốc.
Thạch Vũ: Một vụ cưỡng chế đất với các công an phải nhập viện vì trúng đạn hoa cải nên đủ tạo ra dư chấn.
Trà Mi: Về lý do khiến vụ này nổ lớn có bạn cho rằng do bản chất sự việc độc đáo, hiếm thấy tại Việt Nam khiến người ta tò mò. Có bạn nói là do báo chí trong nước vốn bị nhà nước kiểm soát chặt mà được phép khai thác nhiều khía cạnh của vấn đề cũng khiến cho vụ việc được quan tâm hơn. Chính quyền để cho vụ này nổ lớn, liệu chăng họ không cảm thấy việc này sẽ có ảnh hưởng bất lợi cho nhà nước?
Tiến Nam: Mình xin kể một câu chuyện. Có một ông vua để cho quan lại tham ô, áp bức dân lành khiến uy tín của ông trên bờ vực dễ bị dân nổi dậy. Một đại thần hiến kế, mách vua cho một quan tham phải chết vì khi đó dân sẽ tung hê ông vua như một minh quân.
Lê: Người ta đang đạt được điều mong muốn. Liên đới với câu chuyện Nam kể, rõ ràng kết quả đang diễn tiến đúng như vậy khi mà hình ảnh của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mờ nhạt, đang đi xuống trong dư luận từ các vụ tham nhũng Vinashin, bauxite Tây Nguyên…
Trà Mi: Các bạn cho rằng không ngẫu nhiên mà một vụ có thể bất lợi cho nhà nước lại được báo chí trong nước để ý, lưu tâm tới như vậy, phải có một dụng ý nào đó.
Tiến Nam: Như một người đang ngấp ngoái chết đuối tự nhiên vớ được cái phao. Vụ anh Vươn như một cái phao dành cho Thủ tướng Dũng.
Quốc Anh: Mình cho rằng việc báo lề trái lên tiếng mạnh mẽ khiến không thể che dấu được nữa, buộc chính quyền phải cư xử cho minh bạch một chút.
Trà Mi: Lập luận này của Quốc Anh có thuyết phục các bạn không?
Tiến Nam: Còn có những vụ khác ghê gớm và dữ hơn vụ này mà không được nổ lớn.
Trà Mi: Nam phản bác ý kiến của Quốc Anh rằng còn nhiều vụ nghiêm trọng hơn mà không được nổi là cũng do ý của nhà cầm quyền muốn cho vụ nào nổi hay chìm. Nếu suy đoán của các bạn đúng, điều này cho các bạn suy nghĩ gì? Nếu vụ anh Vươn được khai thác với dụng ý chính trị nhằm lấy lòng dân, được và mất đối với mỗi bên ra sao?
Tiến Nam: Anh Vươn đã chuẩn bị trước. Nếu anh chấp nhận bị cưỡng chế để rồi cầm đơn đi khiếu kiện đất đai như những người dân oan khác thì hằng ngày anh phải ăn chực nằm chờ ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng mà thôi. Đôi khi một người chấp nhận hy sinh để đòi lại xương máu, những mất mát của họ.
Trà Mi: Ý Nam là hy sinh tự do tức thời để được dư luận quan tâm. Đó là cái được và mất đối với những người cùng cảnh ngộ với anh Vươn. Thế còn về phía chính quyền?
Quốc Anh: Chính quyền cũng chẳng muốn xử cho anh Vươn có lợi vì sợ tạo ra tiền lệ. Xử có lợi cho chính quyền cũng không được vì chính quyền sai trái hoàn toàn ngay từ ban đầu. Cho nên, cái được ngay lúc này là chính quyền phải thật thà, thi hành đúng pháp luật.
Trà Mi: Quốc Anh cho rằng chính quyền đang bị đặt vào thế ‘tiến thoái lưỡng nan’ xử được cho anh Vươn cũng khó, xử được cho chính quyền lại càng làm dâng tràn uất nghẹn, bức xúc trong dân chúng.
Tiến Nam: Mình không đồng ý với Quốc Anh. Những vụ như cải cách ruộng đất, đánh tư sản trước năm 1980. Sau đó, họ cũng có trả lại một số đất đai nhưng đâu phải là trả lại tất cả đâu. Đâu phải ai đứng lên đòi là được trả đâu, càng đòi càng bị xử lý.
Lê: Những vụ như thế này ở Việt Nam không hiếm đâu. Còn có vụ xảy ra án mạng nữa kia như ở Hưng Yên, Bắc Giang, hay Bến Tre, Cồn Dầu Đà Nẵng..v.v.. Chuyện cưỡng chiếm đất đai nhan nhản, đầy rẫy khắp mọi nẻo phố phường Việt Nam. Dân tình lầm than kêu trời không thấu. Nếu vụ này theo ý chủ quan của nhà cầm quyền muốn làm cho lớn, cái được của họ là cần phải lấy lại hình ảnh trong khi dân điêu linh không còn tin tưởng vào khả năng lãnh đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Còn cái mất chỉ là vài ba con tốt thôi.
Trà Mi: Cái được của chính quyền, theo Lê, là lấy lại hình ảnh. Các bạn khác có đồng ý là nhà nước đạt được mục tiêu đó hay không?
Thạch Vũ: Họ chả được. Nếu được chỉ trong mắt vài ai đó. Trước đây có rất nhiều vụ như biểu tình chống Trung Quốc, giáo xứ Thái Hà, vụ Cồn Dầu, vụ Tòa Khâm Sứ.. Chính quyền muốn lấy lại lòng dân, nhưng có được hay không khi mà hướng giải quyết các sự việc như thế.
Lê: Tỷ lệ người xem đọc báo lề trái không cao so với báo lề phải. Cho nên khi các báo lề phải đưa tin về vụ này, dân thấy ồ bây giờ nhà nước vẫn còn quan tâm đến dân, sẵn sàng xử lý các tên quan tham. Còn những người hiểu sự việc cặn kẽ không nhiều.
Trà Mi: Các bạn có người cho rằng thủ thuật chính trị qua vụ này cũng thành công một phần vì nhiều người đọc báo lề phải. Có bạn cho rằng không thành công vì dân bất mãn quá rồi.
Tiến Nam: Dân bất mãn nhưng mấy người biết vào internet để đọc tìm thông tin đa chiều. Đa số dân Việt Nam bây giờ tiếp nhận các luồng thông tin qua TV, sách báo của nhà nước. Cho nên khi đọc báo trong nước họ có thể nghĩ rằng nhóm lãnh đạo này xấu xa nhưng ông Dũng tốt lắm. Vụ anh Vươn là con cờ và là ván bài của ông Dũng muốn vớt vác lại uy tín của mình.
Trà Mi: Vậy theo các bạn để lấy lại hình ảnh hợp lòng dân nhất, cần phải giải quyết vụ này thế nào?
Tiến Nam: Tôi nghĩ vụ này sẽ kết cục ‘vừa đấm vừa xoa’.
Lê: Là những người theo sát sự việc, mình mong muốn khác, nhưng với một người dân bình thường sống trong chế độ này bao nhiêu năm bị mất đi khả năng suy đoán, tự do và dân chủ, thì mong muốn của họ khó hiểu lắm. Có thể họ chỉ muốn đầy đủ cơm áo gạo tiền. Nhưng mong muốn của mình thì xa hơn thế. Mình mong nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phải biết quan tâm đến dân thật sự, ngay lập tức cải tổ bộ máy chính trị để xã hội Việt Nam tiến lên nền tự do, dân chủ, có công lý, hòa bình.
Trà Mi: Lê cho rằng để hợp lòng dân, kết cục không chỉ nằm trong vụ này mà còn phải thể hiện qua những trường hợp khác, những vấn đề bức xúc trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Thạch Vũ: Chúng ta ngồi nói chuyện thế này với mong muốn một tương lai tốt đẹp hơn cho Việt Nam.
Trà Mi: Với khao khát đó, người trẻ có thể góp phần thế nào để biến ước mơ thành hiện thực?
Thạch Vũ: Muốn đất nước phát triển, ít ra phải hạ thấp cái tôi cá nhân để không có gì có thể gây trở ngại cho việc lên tiếng vì những bất công xã hội.
Trà Mi: Ý kiến các bạn khác, từ vụ việc của anh Vươn các bạn nghiệm ra điều gì?
Quốc Anh: Bài học từ vụ này là ‘mềm thì cắn, rắn thì buông’. Cho nên, mình nghĩ đôi khi cũng cần gửi một lời cảnh cáo đến chính quyền rằng không phải chúng ta dễ thuần, dễ bảo để họ muốn làm gì thì làm. Chúng ta cũng có sự căm giận và bất bình.
Lê: Việt Nam chúng ta nếu cứ tiếp tục bám víu vào chế độ cộng sản xã hội chủ nghĩa và trông chờ vào sự đổi mình hay hoàn lương nào đó thì khó có thể xảy ra nếu trong chính mỗi bạn trẻ không góp sức mình qua lời nói và hành động.
Trà Mi: Các bạn có kỳ vọng một kết cục tốt đẹp trong vụ anh Vươn không?
Lê: Mình không hề mảy may kỳ vọng về một tương lai tốt đẹp cho anh Vươn và gia đình anh trong sự việc này. Người lãnh hậu quả nặng nề nhất sẽ là gia đình anh và liên đới là toàn bộ đồng bào dân oan Việt Nam nói chung. Chúng ta phải có sự nhìn nhận thấu đáo.
Thạch Vũ: Chính quyền muốn xoa dịu công luận thì không nên xử nặng gia đình anh Vươn.
Quốc Anh: Mình mong nhà cầm quyền cư xử hợp lòng dân và trả lại những mất mát về vật chất và tinh thần cho anh Vươn cũng như những dân oan đấu tranh vì mất đất đai. Mình muốn nhà cầm quyền và mọi người hãy quan tâm hơn tới họ và cùng lên tiếng cho họ vì họ bị rơi vào hoàn cảnh rất khốn khổ.
Trà Mi thân mời các bạn nghe đài cùng thảo luận trên Tạp chí Thanh Niên hằng tuần của đài VOA và cùng trao đổi ý kiến bình luận với các độc giả khác trong các chủ đề của Tạp chí Thanh Niên trên trang www.voatiengviet.com. Tạp chí Thanh Niên nằm trong phần Chuyên mục đặc biệt trên trang chính. Để trực tiếp góp tiếng trong giờ phát thanh Tạp chí, xin quý vị gửi số phone về vietnamese@voanews.com, Trà Mi sẽ liên lạc mời quý vị tham gia.
Tạp chí Thanh Niên hẹn gặp lại quý vị và các bạn trong một chủ đề mới vào giờ này, tuần sau.
ww.voanews.com/vietnamese/news/farmer-gunfight-ignites-debate-on-social-injustice-04-06-12-146466865.htmlQuốc Anh: Vụ của anh Đoàn Văn Vươn đánh lên hồi chuông lớn cho tất cả dân oan trong nước, buộc nhà nước phải ngồi vào giải quyết.
Lê: Theo
mình, đây là hiện tượng ‘tức nước, vỡ bờ’. Sống trong xã hội Việt Nam
ngày nay, mình thấy chuyện dân oan bị chiếm đoạt đất đai, ruộng vườn
trên diện rộng cả nước mà bấy lâu nay dân kêu cứu, kiện tụng không
được giải quyết. Việc anh Vươn đã khiến cả chính phủ, Thủ tướng cũng
phải vào cuộc để giải quyết. Hành động của anh Vươn vừa tự vệ vừa đáp
trả lại hành vi phạm pháp của thế lực cầm quyền, nhưng theo mình,
‘người ta’ có phần đã thành công trong vụ này.
Trà Mi: ‘Người ta’ ở đây có thể hiểu là ai?
Lê: Là các phe phái trong nội bộ chính quyền.
Trà Mi: Sự
kiện chưa ngã ngũ, mình cũng chưa biết ai được ai mất phải không,
nhưng trước khi đi sâu hơn vào chi tiết, xin mời ý kiến của Nam.
Tiến Nam:
Phát súng anh Vươn cảnh tỉnh nhà cầm quyền về xử lý các vấn đề xã
hội, đặc biệt là vấn đề hiến pháp và pháp luật đang bị họ sử dụng để
áp chế dân. Luật sở hữu đất đai ở Việt Nam cho dân được quyền sử dụng
chứ không được sở hữu. Vậy nên khi nhà cầm quyền hay thế lực nào đó
cần hay có ý đồ tư lợi, họ có thể lấy đất của dân bằng mọi giá.
Trà Mi: Ngoài
tác dụng cảnh tỉnh giới hữu trách, đối với dân chúng nói chung, và
với người trẻ nói riêng, vụ việc này có tác động, ảnh hưởng ra sao?
Tiến Nam: Nó
làm cho giới trẻ tỉnh ngộ ra nhiều khi thấy rằng tự do, công bằng,
công lý không thể nói suông mà có những cách đòi lại các quyền tự do
căn bản phải có.
Trà Mi: Theo các bạn, vì sao vụ này lại nổ lớn như vậy?
Lê: Thứ nhất là khi lòng dân hội đủ, ức chế hội đủ. Thứ hai, ngay trong nội bộ chính quyền cũng muốn làm chuyện này lớn lên.
Trà Mi: Vì sao, có lợi ích gì chăng?
Tiến Nam: Họ có mâu thuẫn nội bộ với nhau và muốn lợi dụng vụ này để đấu đá nội bộ lẫn nhau.Quốc Anh: Vụ này nổ lớn vì trong đó chính quyền đưa cả hệ thống an ninh, quân đội, chó nghiệp vụ tới cưỡng chế nhà anh Vươn. Phía anh Vươn có mìn tự chế, súng hoa cải. Hai bên đều có dùng tới võ khí và bạo động rồi cho nên nó gây được tiếng vang, tiếng nổ toàn quốc.
Thạch Vũ: Một vụ cưỡng chế đất với các công an phải nhập viện vì trúng đạn hoa cải nên đủ tạo ra dư chấn.
Trà Mi: Về lý do khiến vụ này nổ lớn có bạn cho rằng do bản chất sự việc độc đáo, hiếm thấy tại Việt Nam khiến người ta tò mò. Có bạn nói là do báo chí trong nước vốn bị nhà nước kiểm soát chặt mà được phép khai thác nhiều khía cạnh của vấn đề cũng khiến cho vụ việc được quan tâm hơn. Chính quyền để cho vụ này nổ lớn, liệu chăng họ không cảm thấy việc này sẽ có ảnh hưởng bất lợi cho nhà nước?
Tiến Nam: Mình xin kể một câu chuyện. Có một ông vua để cho quan lại tham ô, áp bức dân lành khiến uy tín của ông trên bờ vực dễ bị dân nổi dậy. Một đại thần hiến kế, mách vua cho một quan tham phải chết vì khi đó dân sẽ tung hê ông vua như một minh quân.
Lê: Người ta đang đạt được điều mong muốn. Liên đới với câu chuyện Nam kể, rõ ràng kết quả đang diễn tiến đúng như vậy khi mà hình ảnh của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mờ nhạt, đang đi xuống trong dư luận từ các vụ tham nhũng Vinashin, bauxite Tây Nguyên…
Trà Mi: Các bạn cho rằng không ngẫu nhiên mà một vụ có thể bất lợi cho nhà nước lại được báo chí trong nước để ý, lưu tâm tới như vậy, phải có một dụng ý nào đó.
Tiến Nam: Như một người đang ngấp ngoái chết đuối tự nhiên vớ được cái phao. Vụ anh Vươn như một cái phao dành cho Thủ tướng Dũng.
Quốc Anh: Mình cho rằng việc báo lề trái lên tiếng mạnh mẽ khiến không thể che dấu được nữa, buộc chính quyền phải cư xử cho minh bạch một chút.
Trà Mi: Lập luận này của Quốc Anh có thuyết phục các bạn không?
Tiến Nam: Còn có những vụ khác ghê gớm và dữ hơn vụ này mà không được nổ lớn.
Trà Mi: Nam phản bác ý kiến của Quốc Anh rằng còn nhiều vụ nghiêm trọng hơn mà không được nổi là cũng do ý của nhà cầm quyền muốn cho vụ nào nổi hay chìm. Nếu suy đoán của các bạn đúng, điều này cho các bạn suy nghĩ gì? Nếu vụ anh Vươn được khai thác với dụng ý chính trị nhằm lấy lòng dân, được và mất đối với mỗi bên ra sao?
Tiến Nam: Anh Vươn đã chuẩn bị trước. Nếu anh chấp nhận bị cưỡng chế để rồi cầm đơn đi khiếu kiện đất đai như những người dân oan khác thì hằng ngày anh phải ăn chực nằm chờ ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng mà thôi. Đôi khi một người chấp nhận hy sinh để đòi lại xương máu, những mất mát của họ.
Trà Mi: Ý Nam là hy sinh tự do tức thời để được dư luận quan tâm. Đó là cái được và mất đối với những người cùng cảnh ngộ với anh Vươn. Thế còn về phía chính quyền?
Quốc Anh: Chính quyền cũng chẳng muốn xử cho anh Vươn có lợi vì sợ tạo ra tiền lệ. Xử có lợi cho chính quyền cũng không được vì chính quyền sai trái hoàn toàn ngay từ ban đầu. Cho nên, cái được ngay lúc này là chính quyền phải thật thà, thi hành đúng pháp luật.
Trà Mi: Quốc Anh cho rằng chính quyền đang bị đặt vào thế ‘tiến thoái lưỡng nan’ xử được cho anh Vươn cũng khó, xử được cho chính quyền lại càng làm dâng tràn uất nghẹn, bức xúc trong dân chúng.
Tiến Nam: Mình không đồng ý với Quốc Anh. Những vụ như cải cách ruộng đất, đánh tư sản trước năm 1980. Sau đó, họ cũng có trả lại một số đất đai nhưng đâu phải là trả lại tất cả đâu. Đâu phải ai đứng lên đòi là được trả đâu, càng đòi càng bị xử lý.
Lê: Những vụ như thế này ở Việt Nam không hiếm đâu. Còn có vụ xảy ra án mạng nữa kia như ở Hưng Yên, Bắc Giang, hay Bến Tre, Cồn Dầu Đà Nẵng..v.v.. Chuyện cưỡng chiếm đất đai nhan nhản, đầy rẫy khắp mọi nẻo phố phường Việt Nam. Dân tình lầm than kêu trời không thấu. Nếu vụ này theo ý chủ quan của nhà cầm quyền muốn làm cho lớn, cái được của họ là cần phải lấy lại hình ảnh trong khi dân điêu linh không còn tin tưởng vào khả năng lãnh đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Còn cái mất chỉ là vài ba con tốt thôi.
Trà Mi: Cái được của chính quyền, theo Lê, là lấy lại hình ảnh. Các bạn khác có đồng ý là nhà nước đạt được mục tiêu đó hay không?
Thạch Vũ: Họ chả được. Nếu được chỉ trong mắt vài ai đó. Trước đây có rất nhiều vụ như biểu tình chống Trung Quốc, giáo xứ Thái Hà, vụ Cồn Dầu, vụ Tòa Khâm Sứ.. Chính quyền muốn lấy lại lòng dân, nhưng có được hay không khi mà hướng giải quyết các sự việc như thế.
Lê: Tỷ lệ người xem đọc báo lề trái không cao so với báo lề phải. Cho nên khi các báo lề phải đưa tin về vụ này, dân thấy ồ bây giờ nhà nước vẫn còn quan tâm đến dân, sẵn sàng xử lý các tên quan tham. Còn những người hiểu sự việc cặn kẽ không nhiều.
Trà Mi: Các bạn có người cho rằng thủ thuật chính trị qua vụ này cũng thành công một phần vì nhiều người đọc báo lề phải. Có bạn cho rằng không thành công vì dân bất mãn quá rồi.
Tiến Nam: Dân bất mãn nhưng mấy người biết vào internet để đọc tìm thông tin đa chiều. Đa số dân Việt Nam bây giờ tiếp nhận các luồng thông tin qua TV, sách báo của nhà nước. Cho nên khi đọc báo trong nước họ có thể nghĩ rằng nhóm lãnh đạo này xấu xa nhưng ông Dũng tốt lắm. Vụ anh Vươn là con cờ và là ván bài của ông Dũng muốn vớt vác lại uy tín của mình.
Trà Mi: Vậy theo các bạn để lấy lại hình ảnh hợp lòng dân nhất, cần phải giải quyết vụ này thế nào?
Tiến Nam: Tôi nghĩ vụ này sẽ kết cục ‘vừa đấm vừa xoa’.
Lê: Là những người theo sát sự việc, mình mong muốn khác, nhưng với một người dân bình thường sống trong chế độ này bao nhiêu năm bị mất đi khả năng suy đoán, tự do và dân chủ, thì mong muốn của họ khó hiểu lắm. Có thể họ chỉ muốn đầy đủ cơm áo gạo tiền. Nhưng mong muốn của mình thì xa hơn thế. Mình mong nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phải biết quan tâm đến dân thật sự, ngay lập tức cải tổ bộ máy chính trị để xã hội Việt Nam tiến lên nền tự do, dân chủ, có công lý, hòa bình.
Trà Mi: Lê cho rằng để hợp lòng dân, kết cục không chỉ nằm trong vụ này mà còn phải thể hiện qua những trường hợp khác, những vấn đề bức xúc trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Thạch Vũ: Chúng ta ngồi nói chuyện thế này với mong muốn một tương lai tốt đẹp hơn cho Việt Nam.
Trà Mi: Với khao khát đó, người trẻ có thể góp phần thế nào để biến ước mơ thành hiện thực?
Thạch Vũ: Muốn đất nước phát triển, ít ra phải hạ thấp cái tôi cá nhân để không có gì có thể gây trở ngại cho việc lên tiếng vì những bất công xã hội.
Trà Mi: Ý kiến các bạn khác, từ vụ việc của anh Vươn các bạn nghiệm ra điều gì?
Quốc Anh: Bài học từ vụ này là ‘mềm thì cắn, rắn thì buông’. Cho nên, mình nghĩ đôi khi cũng cần gửi một lời cảnh cáo đến chính quyền rằng không phải chúng ta dễ thuần, dễ bảo để họ muốn làm gì thì làm. Chúng ta cũng có sự căm giận và bất bình.
Lê: Việt Nam chúng ta nếu cứ tiếp tục bám víu vào chế độ cộng sản xã hội chủ nghĩa và trông chờ vào sự đổi mình hay hoàn lương nào đó thì khó có thể xảy ra nếu trong chính mỗi bạn trẻ không góp sức mình qua lời nói và hành động.
Trà Mi: Các bạn có kỳ vọng một kết cục tốt đẹp trong vụ anh Vươn không?
Lê: Mình không hề mảy may kỳ vọng về một tương lai tốt đẹp cho anh Vươn và gia đình anh trong sự việc này. Người lãnh hậu quả nặng nề nhất sẽ là gia đình anh và liên đới là toàn bộ đồng bào dân oan Việt Nam nói chung. Chúng ta phải có sự nhìn nhận thấu đáo.
Thạch Vũ: Chính quyền muốn xoa dịu công luận thì không nên xử nặng gia đình anh Vươn.
Quốc Anh: Mình mong nhà cầm quyền cư xử hợp lòng dân và trả lại những mất mát về vật chất và tinh thần cho anh Vươn cũng như những dân oan đấu tranh vì mất đất đai. Mình muốn nhà cầm quyền và mọi người hãy quan tâm hơn tới họ và cùng lên tiếng cho họ vì họ bị rơi vào hoàn cảnh rất khốn khổ.
Trà Mi thân mời các bạn nghe đài cùng thảo luận trên Tạp chí Thanh Niên hằng tuần của đài VOA và cùng trao đổi ý kiến bình luận với các độc giả khác trong các chủ đề của Tạp chí Thanh Niên trên trang www.voatiengviet.com. Tạp chí Thanh Niên nằm trong phần Chuyên mục đặc biệt trên trang chính. Để trực tiếp góp tiếng trong giờ phát thanh Tạp chí, xin quý vị gửi số phone về vietnamese@voanews.com, Trà Mi sẽ liên lạc mời quý vị tham gia.
Tạp chí Thanh Niên hẹn gặp lại quý vị và các bạn trong một chủ đề mới vào giờ này, tuần sau.
Báo động tình trạng công an bạo hành tại Việt Nam
Nạn
công an hành hung, tra tấn, đánh chết dân đã lên tới mức báo động với
hàng chục người thiệt mạng ngay tại đồn công an trong vài năm qua.
Nhiều lỗi vi phạm nhỏ như không đội mũ bảo hiểm nhưng rốt cuộc đã phải
trả giá bằng cả mạng sống dưới bàn tay của công an, lực lượng có nhiệm
vụ bảo vệ sự bình yên cho xã hội và tính mạng người dân. Những nghịch
lý đang diễn ra đã khiến nhiều người mất niềm tin và sợ hãi trước lực
lượng công quyền này. Đó cũng là cảm nghĩ mà 4 bạn trẻ: Trần Sơn, Kim
Tiến ở Hà Nội, Trung từ Vũng Tàu, và Thanh Tùng tại Dak Lak chia sẻ
trong cuộc thảo luận trên Tạp chí Thanh Niên hôm nay.
Trà Mi: Ấn tượng chung của các bạn về người công an và ngành công an Việt Nam như thế nào?
Thanh Tùng: Tôi cảm thấy lực lượng công an Việt Nam đã có những hành xử thiếu dân chủ và tôn trọng dân.
Trung: Em có ấn tượng không tốt về họ. Em là người tu luyện Pháp Luân Công, luôn bị họ cư xử không đúng.
Kim Tiến: Trước khi bố em bị công an đánh chết, tuy em không thích công an vì những tiêu cực trong ngành công an như tham ô, hành xử không lễ độ với người dân, nhưng em cũng còn tin tưởng điều gì đó. Đến khi xảy ra chuyện bố em bị công an bắt giữ vô cớ, bị họ đánh chết oan ức thì niềm tin ấy trong em cũng dần mất đi. Hình ảnh người công an trong em trở nên rất tồi tệ. Em có biết và tìm hiểu về những trường hợp khác cũng bị chết oan dưới bàn tay của công an.
Trà Mi: Tiến vừa chia sẻ những kinh nghiệm mà gia đình bạn đã trải qua khi đối diện với công an. Lúc nãy Trung nói cũng có những kinh nghiệm ‘đau thương’ với công an. Bạn có thể cho biết bạn đã gặp những gì khiến bạn có ấn tượng không tốt về họ?
Trung: Khi em đi giới thiệu về Pháp Luân Công, họ cũng bắt em. Em lên TPHCM ngồi thiền trước lãnh sự quán Trung Quốc để thỉnh nguyện cho 2 đồng tu bị bắt oan là Thành và Trung, cũng bị công an bắt. Thường khi họ bắt về đồn, họ không nói lý lẽ gì cả. Họ muốn làm gì mình thì làm. Họ cứ động thủ tùy thích. Công an ngoài Hà Nội là kinh khủng nhất. Khi em ra Hà Nội ngồi thiền trước đại sứ quán Trung Quốc, họ cũng bắt em. Về tới đồn, họ không nói gì, cứ ra tay đánh, hỏi một câu là đánh một cái. Vô lý nhất là gần đây em ra công viên Lê Văn Tám ở Sài Gòn tập công Pháp Luân Công và ngồi tọa thiền một mình cũng bị công an kết hợp với bảo vệ công viên đánh ngay tại chỗ rồi lôi kéo em về đồn đánh rất dữ. Sau đó, họ còn đưa em vào trung tâm giáo dục. Nói chung có nhiều cái vô lý vậy đó.
Trà Mi: Theo các bạn, nguyên nhân nào gây ra tình trạng công an lạm dụng quyền lực, cư xử thô bạo với dân, dẫn tới rất nhiều trường hợp tử vong dưới tay công an?
Kim Tiến: Tình trạng này đang diễn ra rất phổ biến vì không được ngăn chặn kịp thời, không được đưa ra ánh sáng, và người dân còn chưa biết cách xử lý tình huống. Công an đánh chết dân hiện là một ổ dịch lan tràn có sức công phá mà hầu như các bản án dành đưa ra rất hiếm. Ngoài ra, mức án và tội danh dành cho nó cũng chưa thỏa đáng.
Thanh Tùng: Mọi nguyên nhân dẫn tới nạn công an lạm quyền là do thể chế. Với thể chế tại Việt Nam hiện thời, công an là lực lượng bảo vệ chính quyền, được sự nuông chiều và bao che của chính quyền.
Trà Mi: Vì sao bạn cho rằng ‘thể chế nuông chiều lực lượng công an’?
Thanh Tùng: Ở Việt Nam là chế độ độc đảng và lực lượng công an và quân đội nhân dân phục vụ cho chế độ đó, phải bảo vệ cho chế độ đó. Ngược lại, chế độ đó cũng bảo vệ cho lực lượng công an. Lẽ ra, công an ‘nhân dân’ và quân đội ‘nhân dân’ phải phục vụ dân, nhưng thực ra họ lại phục vụ cho chính quyền. Dân chủ lại ít được nghĩ đến.
Trà Mi: Từ ý kiến của Tùng, vấn đề đặt ra là lực lượng công an Việt Nam bảo vệ ai, chính quyền hay nhân dân? Ý kiến các bạn khác thế nào?
Trung: Công an Việt Nam giống như một cỗ máy vận hành theo mệnh lệnh ở trên. Họ lại không được quang minh chính đại, thường mặc thường phục giả làm côn đồ hoặc sử dụng côn đồ để trấn áp dân. Công an nước mình khác với công an các nước khác trên thế giới ở chỗ không quang minh chính đại.
Trà Mi: Điều gì khiến các bạn nghĩ rằng những trường hợp đã xảy ra không phải là những vi phạm của các cá nhân? Có yếu tố nào cho các bạn suy nghĩ ngược lại không?
Trần Sơn: Cách đây vài ngày, ông Nguyễn Phú Trọng có họp với lực lượng công an và tuyên bố lực lượng công an thề tuyệt đối trung thành với đảng. Đảng, công an, hay quân đội đều ăn lương của dân thì tất cả bộ máy đó đều phải phục vụ dân. Một thể chế dân chủ, một nhà nước dân sự phải thực hiện điều đó. Ở đây thì ngược lại, tạo cho công an thái độ ‘kiêu binh’ vì dẫu họ có vi phạm pháp luật đi nữa cũng dễ dàng được cho qua. Lỗi hệ thống nằm ở chỗ đó.
Trà Mi: Chính tuyên bố rằng lực lượng công an phải thề trung thành tuyệt đối với đảng đã khiến bạn nghĩ rằng công an là lực lượng bảo vệ đảng trước rồi mới bảo vệ dân. Tiến có đồng ý với Sơn không hay có ý kiến nào khác không?
Kim Tiến: Các trường hợp chết dưới bàn tay công an trong những năm gần đây đang gia tăng và sẽ gia tăng tiếp nếu không được ngăn chặn kịp thời. Các hành động đó đã vi phạm nghiêm trọng đến đạo đức nghề nghiệp của ngành công an mà họ thường tuyên bố là những người thực thi pháp luật. Họ là những người hiểu biết pháp luật mà lại chà đạp lên luật pháp.
Thanh Tùng: Rất khó đối diện với một người công an để biết được là họ đang làm nhiệm vụ hay đang không làm nhiệm vụ.
Trà Mi: Có khác nhau thế nào chăng? Bạn chuẩn bị tư tưởng và tinh thần khi đối diện với họ trong trường hợp họ đang làm nhiệm vụ và đang không làm nhiệm vụ thế nào?
Thanh Tùng: Mình khó biết được là người ta đang lợi dụng mình hay đang thực thi trách nhiệm.
Trà Mi: Đó là cảm giác của Tùng khi đối diện trước công an. Còn Sơn, bạn có cảm giác ‘an toàn’ khi đối diện với công an không?
Trần Sơn: Qua các vụ việc đã diễn ra, đôi khi tôi cũng có cảm giác mất an toàn như Tùng, không biết họ đang làm việc hay đang mưu đồ cá nhân.
Trà Mi: Khi đứng trước họ, bạn có sợ hãi không?
Trần Sơn: Không, mình đàng hoàng, không có lỗi thì mình không sợ.
Trà Mi: Một tâm lý chung thường thấy là nhiều người khi đối diện trước công an cảm thấy sợ, chưa biết mình có lỗi gì hay không đã run trước rồi…
Trần Sơn: Nếu mình hiểu biết và hành xử đúng thì buộc người công an phải thực thi đúng pháp luật. Cho nên, trước hết mình nên có thái độ rõ ràng, đứng đắn, đàng hoàng, và hiểu biết pháp luật. Muốn hiểu biết pháp luật thì mình phải học, đọc, và tự tìm hiểu thôi.
Trà Mi: Bàn về nguyên nhân dẫn tới tình trạng công an bạo hành, các bạn cho rằng không chỉ là do thể chế tạo điều kiện thuận lợi cho ngành công an lạm quyền, mà chính người dân do thiếu hiểu biết pháp luật cũng góp phần vào tệ trạng đó.
Trần Sơn: Chính xác.
Trà Mi: Tuy nhiên, có một số người lý giải rằng nghề nào cũng có những rủi ro và tai nạn nghề nghiệp. Công an, nghề thường xuyên phải đối phó với tội phạm trong trọng trách bảo vệ an ninh, chắc chắn không thể tránh được những rủi ro gây đả thương hay tử thương cho người khác. Cho nên, việc công an làm chết người trong lúc thi hành công vụ cũng là chuyện có thể xảy ra ngoài ý muốn, ngoài tầm kiểm soát thôi. Ý kiến các bạn thế nào?
Kim Tiến: ‘Làm chết người trong khi thi hành công vụ’ cần phải xem công vụ đó là gì, có đúng đó là công vụ không. Phải rõ ràng những việc anh đang xử lý có đúng với công vụ anh đang làm hay không.
Trà Mi: Với trách nhiệm bảo vệ an ninh, công an được giao quyền và nhiệm vụ có thể sử dụng võ lực trong trường hợp cần thiết. Cho nên, nhiều khi hơi quá tay họ cũng có thể giải thích là có thể có các biện pháp trấn áp mạnh tay trong trường hợp cần thiết. Ý kiến các bạn ra sao?
Trần Sơn: Về vấn đề này, pháp luật Việt Nam không được rõ ràng. Có quá nhiều khoản tùy nghi dẫn tới lạm quyền. Thế nào là ‘thi hành công vụ’? Như trường hợp của ông Đoàn Văn Vươn chẳng hạn, vụ này xuất phát từ quyết định sai trái của Ủy ban huyện Tiên Lãng. Cho nên, dưới góc độ pháp luật, người ta không coi những người công an đi thi hành cưỡng chế đó là ‘thi hành công vụ’ mà là đi cướp. Chuyện thế nào là ‘thi hành công vụ’ cũng không được giải thích rõ ràng trong pháp luật. Không phải cứ anh mặc quần áo cảnh sát là anh đang thi hành công vụ. Thứ hai, trường hợp nào công an được dùng võ lực và trường hợp nào không. Tất nhiên trong trường hợp khống chế một tên cướp đang dùng súng tự thủ thì dùng võ lực là chính đáng.
Thanh Tùng: Ý thức pháp luật và ý thức dân chủ của người công an, người ta tự đặt mình cao hơn dân vì họ đang bảo vệ chính quyền. Cho nên họ coi thường dân và hành xử không đúng pháp luật. Họ đang phục vụ chính quyền đó thì phải được chính quyền đó bảo vệ. Một đứa con được nuông chiều như vậy, có quyền như vậy thì những hành xử đó mới xảy ra thường xuyên và mang tính hệ thống.
Trà Mi: Ý bạn là có sự dung dưỡng mới có sự lộng hành. Vậy những công dân trẻ như các bạn có thể làm gì để góp phần chống lại những sự dung dưỡng và lộng hành đó, ngăn chặn những tệ nạn đe dọa tính mạng người dân?
Thanh Tùng: Bằng báo chí, lên tiếng nói.
Kim Tiến: Mỗi người dân cần ý thức được quyền lợi của mình và hiểu được quyền hạn của công an đến đâu để có thể tự bảo vệ mình.
Trà Mi: Công an lạm quyền đánh dân, giết dân dĩ nhiên là điều không thể chấp nhận, nhưng làm thế nào để biến nó thành điều không thể tồn tại? Ý kiến Sơn thế nào?
Trần Sơn: Muốn chữa bệnh cần phải tìm hiểu nguyên nhân bệnh cho đúng. Nãy giờ chúng ta đã phân tích khá nhiều về nguyên nhân. Chúng ta chỉ hy vọng là nạn này giảm bớt thôi chứ chưa dám mơ tới chuyện lạm quyền hoàn toàn biến mất. Cần nhớ rằng nơi nào có quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến sự tha hóa tuyệt đối, tức tội ác. Nói lên điều này rõ ràng cần đến công luận. Hy vọng buổi phát thanh này có nhiều bạn nghe và tác động đến họ phần nào. Việt Nam chừng nào chưa có nền báo chí tự do, tự do ngôn luận thì tệ trạng này còn tiếp diễn. Công luận lên tiếng mạnh mẽ buộc chính quyền phải giải quyết tới nơi tới chốn. Ở Việt Nam, hành pháp, lập pháp, và tư pháp đều chung một hệ thống lãnh đạo, không khách quan, không độc lập. Với thực trạng này thì câu hỏi của chị rất khó trả lời. Tôi cũng chẳng biết phải làm thế nào cả. Phải tự đọc, tự học, tôn trọng pháp luật không để xảy ra những vụ việc liên quan đến công an. Pháp luật Việt Nam có tính tùy nghi quá nhiều, không rõ ràng, nhập nhằng. Chính những điều đó bảo kê, chống lưng cho việc phạm pháp và lạm quyền của ngành công an. Rất khó chị ạ.
Kim Tiến: Chỉ có một cách là dân phải tôn trọng pháp luật, đừng để phải vào đồn công an thôi. Còn vào trong đó rồi, những gì xảy ra trong đó rất khó lường.
Trà Mi: Khi cảm thấy đang đứng trước sự nguy hiểm trước công an, làm thế nào để tự vệ?
Thanh Tùng: Tôi cảm thấy lực lượng công an Việt Nam đã có những hành xử thiếu dân chủ và tôn trọng dân.
Trung: Em có ấn tượng không tốt về họ. Em là người tu luyện Pháp Luân Công, luôn bị họ cư xử không đúng.
Kim Tiến: Trước khi bố em bị công an đánh chết, tuy em không thích công an vì những tiêu cực trong ngành công an như tham ô, hành xử không lễ độ với người dân, nhưng em cũng còn tin tưởng điều gì đó. Đến khi xảy ra chuyện bố em bị công an bắt giữ vô cớ, bị họ đánh chết oan ức thì niềm tin ấy trong em cũng dần mất đi. Hình ảnh người công an trong em trở nên rất tồi tệ. Em có biết và tìm hiểu về những trường hợp khác cũng bị chết oan dưới bàn tay của công an.
Trà Mi: Tiến vừa chia sẻ những kinh nghiệm mà gia đình bạn đã trải qua khi đối diện với công an. Lúc nãy Trung nói cũng có những kinh nghiệm ‘đau thương’ với công an. Bạn có thể cho biết bạn đã gặp những gì khiến bạn có ấn tượng không tốt về họ?
Trung: Khi em đi giới thiệu về Pháp Luân Công, họ cũng bắt em. Em lên TPHCM ngồi thiền trước lãnh sự quán Trung Quốc để thỉnh nguyện cho 2 đồng tu bị bắt oan là Thành và Trung, cũng bị công an bắt. Thường khi họ bắt về đồn, họ không nói lý lẽ gì cả. Họ muốn làm gì mình thì làm. Họ cứ động thủ tùy thích. Công an ngoài Hà Nội là kinh khủng nhất. Khi em ra Hà Nội ngồi thiền trước đại sứ quán Trung Quốc, họ cũng bắt em. Về tới đồn, họ không nói gì, cứ ra tay đánh, hỏi một câu là đánh một cái. Vô lý nhất là gần đây em ra công viên Lê Văn Tám ở Sài Gòn tập công Pháp Luân Công và ngồi tọa thiền một mình cũng bị công an kết hợp với bảo vệ công viên đánh ngay tại chỗ rồi lôi kéo em về đồn đánh rất dữ. Sau đó, họ còn đưa em vào trung tâm giáo dục. Nói chung có nhiều cái vô lý vậy đó.
Trà Mi: Theo các bạn, nguyên nhân nào gây ra tình trạng công an lạm dụng quyền lực, cư xử thô bạo với dân, dẫn tới rất nhiều trường hợp tử vong dưới tay công an?
Kim Tiến: Tình trạng này đang diễn ra rất phổ biến vì không được ngăn chặn kịp thời, không được đưa ra ánh sáng, và người dân còn chưa biết cách xử lý tình huống. Công an đánh chết dân hiện là một ổ dịch lan tràn có sức công phá mà hầu như các bản án dành đưa ra rất hiếm. Ngoài ra, mức án và tội danh dành cho nó cũng chưa thỏa đáng.
Thanh Tùng: Mọi nguyên nhân dẫn tới nạn công an lạm quyền là do thể chế. Với thể chế tại Việt Nam hiện thời, công an là lực lượng bảo vệ chính quyền, được sự nuông chiều và bao che của chính quyền.
Trà Mi: Vì sao bạn cho rằng ‘thể chế nuông chiều lực lượng công an’?
Thanh Tùng: Ở Việt Nam là chế độ độc đảng và lực lượng công an và quân đội nhân dân phục vụ cho chế độ đó, phải bảo vệ cho chế độ đó. Ngược lại, chế độ đó cũng bảo vệ cho lực lượng công an. Lẽ ra, công an ‘nhân dân’ và quân đội ‘nhân dân’ phải phục vụ dân, nhưng thực ra họ lại phục vụ cho chính quyền. Dân chủ lại ít được nghĩ đến.
Trà Mi: Từ ý kiến của Tùng, vấn đề đặt ra là lực lượng công an Việt Nam bảo vệ ai, chính quyền hay nhân dân? Ý kiến các bạn khác thế nào?
Trung: Công an Việt Nam giống như một cỗ máy vận hành theo mệnh lệnh ở trên. Họ lại không được quang minh chính đại, thường mặc thường phục giả làm côn đồ hoặc sử dụng côn đồ để trấn áp dân. Công an nước mình khác với công an các nước khác trên thế giới ở chỗ không quang minh chính đại.
Trà Mi: Điều gì khiến các bạn nghĩ rằng những trường hợp đã xảy ra không phải là những vi phạm của các cá nhân? Có yếu tố nào cho các bạn suy nghĩ ngược lại không?
Trần Sơn: Cách đây vài ngày, ông Nguyễn Phú Trọng có họp với lực lượng công an và tuyên bố lực lượng công an thề tuyệt đối trung thành với đảng. Đảng, công an, hay quân đội đều ăn lương của dân thì tất cả bộ máy đó đều phải phục vụ dân. Một thể chế dân chủ, một nhà nước dân sự phải thực hiện điều đó. Ở đây thì ngược lại, tạo cho công an thái độ ‘kiêu binh’ vì dẫu họ có vi phạm pháp luật đi nữa cũng dễ dàng được cho qua. Lỗi hệ thống nằm ở chỗ đó.
Trà Mi: Chính tuyên bố rằng lực lượng công an phải thề trung thành tuyệt đối với đảng đã khiến bạn nghĩ rằng công an là lực lượng bảo vệ đảng trước rồi mới bảo vệ dân. Tiến có đồng ý với Sơn không hay có ý kiến nào khác không?
Kim Tiến: Các trường hợp chết dưới bàn tay công an trong những năm gần đây đang gia tăng và sẽ gia tăng tiếp nếu không được ngăn chặn kịp thời. Các hành động đó đã vi phạm nghiêm trọng đến đạo đức nghề nghiệp của ngành công an mà họ thường tuyên bố là những người thực thi pháp luật. Họ là những người hiểu biết pháp luật mà lại chà đạp lên luật pháp.
Thanh Tùng: Rất khó đối diện với một người công an để biết được là họ đang làm nhiệm vụ hay đang không làm nhiệm vụ.
Trà Mi: Có khác nhau thế nào chăng? Bạn chuẩn bị tư tưởng và tinh thần khi đối diện với họ trong trường hợp họ đang làm nhiệm vụ và đang không làm nhiệm vụ thế nào?
Thanh Tùng: Mình khó biết được là người ta đang lợi dụng mình hay đang thực thi trách nhiệm.
Trà Mi: Đó là cảm giác của Tùng khi đối diện trước công an. Còn Sơn, bạn có cảm giác ‘an toàn’ khi đối diện với công an không?
Trần Sơn: Qua các vụ việc đã diễn ra, đôi khi tôi cũng có cảm giác mất an toàn như Tùng, không biết họ đang làm việc hay đang mưu đồ cá nhân.
Trà Mi: Khi đứng trước họ, bạn có sợ hãi không?
Trần Sơn: Không, mình đàng hoàng, không có lỗi thì mình không sợ.
Trà Mi: Một tâm lý chung thường thấy là nhiều người khi đối diện trước công an cảm thấy sợ, chưa biết mình có lỗi gì hay không đã run trước rồi…
Trần Sơn: Nếu mình hiểu biết và hành xử đúng thì buộc người công an phải thực thi đúng pháp luật. Cho nên, trước hết mình nên có thái độ rõ ràng, đứng đắn, đàng hoàng, và hiểu biết pháp luật. Muốn hiểu biết pháp luật thì mình phải học, đọc, và tự tìm hiểu thôi.
Trà Mi: Bàn về nguyên nhân dẫn tới tình trạng công an bạo hành, các bạn cho rằng không chỉ là do thể chế tạo điều kiện thuận lợi cho ngành công an lạm quyền, mà chính người dân do thiếu hiểu biết pháp luật cũng góp phần vào tệ trạng đó.
Trần Sơn: Chính xác.
Trà Mi: Tuy nhiên, có một số người lý giải rằng nghề nào cũng có những rủi ro và tai nạn nghề nghiệp. Công an, nghề thường xuyên phải đối phó với tội phạm trong trọng trách bảo vệ an ninh, chắc chắn không thể tránh được những rủi ro gây đả thương hay tử thương cho người khác. Cho nên, việc công an làm chết người trong lúc thi hành công vụ cũng là chuyện có thể xảy ra ngoài ý muốn, ngoài tầm kiểm soát thôi. Ý kiến các bạn thế nào?
Kim Tiến: ‘Làm chết người trong khi thi hành công vụ’ cần phải xem công vụ đó là gì, có đúng đó là công vụ không. Phải rõ ràng những việc anh đang xử lý có đúng với công vụ anh đang làm hay không.
Trà Mi: Với trách nhiệm bảo vệ an ninh, công an được giao quyền và nhiệm vụ có thể sử dụng võ lực trong trường hợp cần thiết. Cho nên, nhiều khi hơi quá tay họ cũng có thể giải thích là có thể có các biện pháp trấn áp mạnh tay trong trường hợp cần thiết. Ý kiến các bạn ra sao?
Trần Sơn: Về vấn đề này, pháp luật Việt Nam không được rõ ràng. Có quá nhiều khoản tùy nghi dẫn tới lạm quyền. Thế nào là ‘thi hành công vụ’? Như trường hợp của ông Đoàn Văn Vươn chẳng hạn, vụ này xuất phát từ quyết định sai trái của Ủy ban huyện Tiên Lãng. Cho nên, dưới góc độ pháp luật, người ta không coi những người công an đi thi hành cưỡng chế đó là ‘thi hành công vụ’ mà là đi cướp. Chuyện thế nào là ‘thi hành công vụ’ cũng không được giải thích rõ ràng trong pháp luật. Không phải cứ anh mặc quần áo cảnh sát là anh đang thi hành công vụ. Thứ hai, trường hợp nào công an được dùng võ lực và trường hợp nào không. Tất nhiên trong trường hợp khống chế một tên cướp đang dùng súng tự thủ thì dùng võ lực là chính đáng.
Thanh Tùng: Ý thức pháp luật và ý thức dân chủ của người công an, người ta tự đặt mình cao hơn dân vì họ đang bảo vệ chính quyền. Cho nên họ coi thường dân và hành xử không đúng pháp luật. Họ đang phục vụ chính quyền đó thì phải được chính quyền đó bảo vệ. Một đứa con được nuông chiều như vậy, có quyền như vậy thì những hành xử đó mới xảy ra thường xuyên và mang tính hệ thống.
Trà Mi: Ý bạn là có sự dung dưỡng mới có sự lộng hành. Vậy những công dân trẻ như các bạn có thể làm gì để góp phần chống lại những sự dung dưỡng và lộng hành đó, ngăn chặn những tệ nạn đe dọa tính mạng người dân?
Thanh Tùng: Bằng báo chí, lên tiếng nói.
Kim Tiến: Mỗi người dân cần ý thức được quyền lợi của mình và hiểu được quyền hạn của công an đến đâu để có thể tự bảo vệ mình.
Trà Mi: Công an lạm quyền đánh dân, giết dân dĩ nhiên là điều không thể chấp nhận, nhưng làm thế nào để biến nó thành điều không thể tồn tại? Ý kiến Sơn thế nào?
Trần Sơn: Muốn chữa bệnh cần phải tìm hiểu nguyên nhân bệnh cho đúng. Nãy giờ chúng ta đã phân tích khá nhiều về nguyên nhân. Chúng ta chỉ hy vọng là nạn này giảm bớt thôi chứ chưa dám mơ tới chuyện lạm quyền hoàn toàn biến mất. Cần nhớ rằng nơi nào có quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến sự tha hóa tuyệt đối, tức tội ác. Nói lên điều này rõ ràng cần đến công luận. Hy vọng buổi phát thanh này có nhiều bạn nghe và tác động đến họ phần nào. Việt Nam chừng nào chưa có nền báo chí tự do, tự do ngôn luận thì tệ trạng này còn tiếp diễn. Công luận lên tiếng mạnh mẽ buộc chính quyền phải giải quyết tới nơi tới chốn. Ở Việt Nam, hành pháp, lập pháp, và tư pháp đều chung một hệ thống lãnh đạo, không khách quan, không độc lập. Với thực trạng này thì câu hỏi của chị rất khó trả lời. Tôi cũng chẳng biết phải làm thế nào cả. Phải tự đọc, tự học, tôn trọng pháp luật không để xảy ra những vụ việc liên quan đến công an. Pháp luật Việt Nam có tính tùy nghi quá nhiều, không rõ ràng, nhập nhằng. Chính những điều đó bảo kê, chống lưng cho việc phạm pháp và lạm quyền của ngành công an. Rất khó chị ạ.
Kim Tiến: Chỉ có một cách là dân phải tôn trọng pháp luật, đừng để phải vào đồn công an thôi. Còn vào trong đó rồi, những gì xảy ra trong đó rất khó lường.
Trà Mi: Khi cảm thấy đang đứng trước sự nguy hiểm trước công an, làm thế nào để tự vệ?
Trần Sơn:
Tự tin, không sợ hãi, và kiến thức pháp luật tự trang bị cho mình
cũng là phương pháp tự vệ, sẽ quyết định cách hành xử của người công
an đối với mình, giảm thiểu sự lạm quyền.
Trà Mi: Vừa
rồi là ý kiến của 4 bạn trẻ trong nước về nạn bạo hành trong lực
lượng công an Việt Nam. Quan điểm của bạn nghe đài về những người được
mệnh danh là ‘Vì nước quên thân, vì dân phục vụ’ như thế nào? Xin
chia sẻ cùng chúng tôi và các độc giả khác trong chuyên mục Tạp chí
Thanh Niên trên trang www.voatiengviet.com.
Tạp chí Thanh Niên nằm trong phần Chuyên mục-Tường trình đặc biệt.
Xin quý vị nhấp chuột 2 lần vào 3 khung hình giữa trang chính.
Tạp chí Thanh Niên hẹn gặp lại qúy vị và các bạn trong một đề tài mới, vào giờ này, tuần sau.
VẾ PHAN KHÔI
-
ĐỌC LẠI CHƯƠNG DÂN THI THOẠI
CỦA PHAN KHÔI-----------------------------
ĐỌC LẠI CHƯƠNG DÂN THI THOẠI
CỦA PHAN KHÔI-----------------------------
Tặng : Ts. Nguễn Văn Hoa
Thi thoại là "Sách bình luận thi văn hoặc chép chuyện Thi nhân". Đó
là một dạng Phê bình thơ, xuất hiện từ đời Tống : Âu Dương Tu
(1007-1072) có "Lục nhất thi thoại" cùng mổi tiếng với "Thạch Lâm thi
thoại" của Diệp Mộng Đắc. Sau này sáng giá nhất là "Tùy Viên thi thoại"
của Viên Mai (1716-1797).
Ở Trung Hoa và ta xưa
nay coi đọc" Thi thoại chẳng khác nào được một người chơi hoa sành sỏi
dắt ta di xem và kể cho ta nghe câu chuyện lạ lùng về từng loài hoa
một" (theo Nguyễn Hiến Lê). Vì thế Thi thoại thường được hoan nghênh
hơn thơ.
Biên soạn Thi thoại rất khó : phải là người có
tài, có uy tín lớn, phải đọc nhiều Sách, nghiền ngẫm, từng trải, quen
biết nhiều Thi nhân, bản thân không chỉ làm thơ hay mà còn phải viết
văn cũng hay nữa.
Ở ta có Phan Khôi (1887-1959) là
Nhà văn đạt tiêu chí như thế : về văn nghiệp , trước Cách mạng tháng
8-1945 để lại tập "Chương Dân thi thoại"-( năm 1931). Tập sách tuy
mỏng, nhưng với tinh thần nhập thế và niềm say mê cái mới đã đưa Phan
Khôi vào vị trí 2 lần đi tiên phong vừa là "ông tổ thơ mới" vừa là
"ông tổ cuả thi thoại" nước ta.
Chương Dân Thi thoại là sách phê bình thơ của Chương Dân tiên sinh
(tên hiệu - bút danh của Phan Khôi) là tập hợp các bài viết đã đăng
trên các tờ báo khác nhau :
Mở đầu là giải thích : -Thơ là một lối văn có vần theo âm thanh từ điệu
của một thứ tiếng (ngôn ngữ) mà thi nhân sáng tác ra. - Thi thoại là
lối trứ thuật chuyên nói về chuyện làm thơ.
Trong
Thi thọai thường sưu tầm các bài thơ, câu thơ hay và kèm đôi lời
"bình"...cốt lưu truyền những câu thơ HAY của tao nhân mặc khách để
giới làm thơ thưởng thức học tập nâng cao phát triển... Trong Chương
Dân Thi thoại , Phan Khôi đề cao 2 quan điểm về thơ:
-Thơ Hay có 2 cách ; 1 là cách tự nhiên, 1 cách đúc đắn. Cách tự
nhiên thì có phần lưu lợi, đúc đắn thì có phần trang nghiêm. Nhưng trang
nghiêm thì được bên văn từ, mất bên tình tính, còn lưu lợi thì có thể
lưỡng toàn hơn (hiểu đơn giản là chỉ nên viết khi thật hứng khởi, tự
do, phóng khoáng, không nên quá lý trí gò theo niêm luật "thôi xao"
?)
.Phan Khôi chủ trương : "làmThi thoại không được bỏ sót thơ HAY, nhất là khi cả nước đã thành ra 1 cái vô hình thi xã" (nói như kiểu hôm nay là không được phân biệt thơ Trung ương/ thơ địa phương, thơ Hội viên/ thơ câu lạc bộ...mà chỉ có một tiêu chuẩn là thơ HAY mà thôi). Vì thế trong Chương Dân thi thoại , Phan Khôi đã chọn bình thơ từ Miên Thẩm, Hồ Xuân Hương, Tú Xương...đến các tác giả vô danh trong thiên hạ, không phân biệt địa vị xã hội, nam/nữ với mục đích ủng hộ sự đổi mới thi ca.
.Phan Khôi chủ trương : "làmThi thoại không được bỏ sót thơ HAY, nhất là khi cả nước đã thành ra 1 cái vô hình thi xã" (nói như kiểu hôm nay là không được phân biệt thơ Trung ương/ thơ địa phương, thơ Hội viên/ thơ câu lạc bộ...mà chỉ có một tiêu chuẩn là thơ HAY mà thôi). Vì thế trong Chương Dân thi thoại , Phan Khôi đã chọn bình thơ từ Miên Thẩm, Hồ Xuân Hương, Tú Xương...đến các tác giả vô danh trong thiên hạ, không phân biệt địa vị xã hội, nam/nữ với mục đích ủng hộ sự đổi mới thi ca.
Câu chuyện thú vị là : có bài "tống biệt" của một ông ở Bình Thuận đọc lên để làm trò cười lúc tiễn bạn :
Trái Mù U trên núi
Chảy xuống cửa Phan Rang.
Anh đi về ngoài nớ
Trong lòng tôi chẳng an.
Bao giờ anh trở vô
Gặp tôi ở giữa đàng.
Nắm tay nói chuyện chơi
Uống rượu cười nghênh ngang.
Bài thơ chợt tưởng "Quê mùa", nhưng ngẫm nghĩ thì : 2 câu đầu là thể
hứng, mà cái ý hứng rất kỳ. Câu thứ 6 trông lại nhau mà gặp" ở giữa
đàng" thì lại có cái biệt thú. Toàn bài "nhất khí quán hạ", thêm cùng
cái cảnh tượng "trái mù u trên núi chảy xuống cửa Phan Rang" thật là
vừa tự nhiên , vừa lưu lợi chảng thua gì một bài tuyệt tác .
BI KICH PHAN KHÔI : đúng như Tố Như đã tiên tri " càng tài tình
lắm càng oan trái nhiều", hồi 1956-1957 Phan Khôi bị coi là "đầu sỏ
Nhân văn Giai Phẩm"...rồi đành phải bó gối ngồi chơi xơi nước tại gia
với bà vợ già...đầu năm 1957 : Phan khôi làm bài thơ tự mừng thọ mình,
mở đầu bằng 2 câu :
Lên bảy mươi rồi, mẹ nó ơi !
Thọ ta, ta chúc nọ phiền ai...
Bài thơ không được đăng báo , nhưng đến tai Nguyễn Công Hoan, Nhà văn này liền làm bài "họa" :
Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi !
Thọ mi, mi chúc, chớ hòng ai .
Văn chương đù mẹ thằng cha bạc,
Tiết tháo ! Tiên sư cái mẽ ngoài.
Lô-dích, trước cam làm kiếp chó,
Nhân văn nay lại hít gì voi.
Sống dai thêm tuổi cho thêm nhục,
Thêm nhục cơ trời chẳng thấy gai.
Là dân "Quảng Nam hay cãi..." nên Phan Khôi có bài thơ như kiểu trần tình tự biện hộ cho mình :
Làm sao cũng chẳng làm sao
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có làm gì cũng chảng làm sao.
Cuối năm 1957, sau cuốn "Nắng chiều" không được in, Phan Khôi từ đó
ngừng mọi chuyện viết lách...Già yếu, cô đơn, bệnh tật, ông từ trần
lúc 11 giờ sáng ngày 16-1-1959 tại số nhà 73 phố Thuốc Bắc - Hà Nội
Suốt đời Phan Khôi sống (bảo thủ-không tùy thời) đúng theo châm
ngôn của Đại Nho Mạnh Tử "Phú quí bất năng dâm,bần tiện bất năng di,uy
vũ bất năng khuất"...Ông phải chăng đáng là một Văn Hào của Việt Nam
ta trong thế kỷ 20 ! ?
Quê Đình Bảng, ngày hội đền Đô , 15-3-ta (2012)
Nguyễn Khôi - cẩn bút...
Kỷ niêm 53 năm, ngày mất Nhà văn Phan Khôi
NHỚ CỤ TỔ THƠ MỚI PHAN KHÔI
* NGUYỄN KHÔI
Tặng :BNN & Lý Phương Liên
Thơ Việt đến ông :gặp thời "đột phá"
-Hãy gác sang bên Lý, Đỗ, Bạch, Tô (1)
-Hãy cất về xưa Truyện Kiều, Hoài cổ (2)
Cho "Tình Già" khởi sắc hồn thơ...
Ừ có "vận" (có vần), bỏ đi niêm luật
Giải phóng tình thơ phới phới bay lên
"Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ
Thương là thương, chỉ anh với em."
Ôi đã 53 năm "về" miền thiên cổ (3)
Mà hồn thơ tự do... Người mở sáng thi đàn
Những Chế Lan Viên, những Hàn Mặc Tử
Quang Dũng- Vi Thùy Linh...bi tráng - ĐẸP trời Nam...
Chao, Phan Khôi - "Cụ Tổ" nền Thơ Mới
Mặc ai người vùi dập...đã xong đời !
-Không mộ chí, cả một thời cấm kỵ
Ai nhớ Phan Khôi : tưởng vọng "vái" lên Trời .
-(1) -Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha
-(2) -Truyện Kiều của Nguyễn Du,, "Thăng Long thành hoài cổ" của Bà Huyện Thanh Quan
-(3)- Sống gửi , thác về.
Góc Thành Nam Hà Nội 15-1-2012
Nguyễn Khôi
Phan Khôi - Bài 3: Con đường văn hóa
Bìa hai tác phẩm của Phan Khôi
DR
Phan
Khôi cùng đường lối văn hoá với Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, trong
việc dịch thuật, giới thiệu tư tưởng Tây phương và đặt nền móng quốc
ngữ : phát triển từ vựng và nghiên cứu tiếng Việt. Lại vừa đối lập với
hai vị học giả này, trong cách đưa tinh thần phản biện vào triết học,
sử học, văn học và xã hội học.
Ảnh hưởng Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh
Người đầu tiên Phan Khôi chịu ảnh hưởng trong nghề báo là Nguyễn Văn Vĩnh. Bởi lối viết vừa đàm vừa luận của Nguyễn Văn Vĩnh trên Đăng Cổ Tùng Báo (1908) sau này sống lại trong lối hài đàm của Phan Khôi. Hai nhân vật mà Phan Khôi đặc biệt kính trọng trong địa hạt văn học và thương mại là Nguyễn Văn Vĩnh và Bạch Thái Bưởi.
Mục Nam âm thi thoại trên Nam Phong mở đầu văn nghiệp của Phan Khôi (2/1918).Nhưng Phạm Quỳnh mới thật là người "tiên phong" và khuyến khích Phan Khôi vào con đường này. Lời mở đầu Nam âm thi thoại ít nhiều ảnh hưởng bài Thơ Ta thơ Tây của Phạm Quỳnh [viết năm 1917; có lẽ là bài lý thuyết thơ sớm nhất của Việt Nam. 1922, Phạm Quỳnh đọc bài diễn văn La poésie annnamite (Thi ca Việt Nam) tại Paris, một tác phẩm giá trị khác về bình thơ]. Nam Âm thi thoại phê bình thơ theo lối Tầu, nhưng đã có những nhận thức mới lạ về ngữ học, đặc cách Phan Khôi: trực bút, cô đọng, dùng chữ độc sáng, bất ngờ. Khi Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến viết thay, mục này không còn thú vị nữa.
Phạm Quỳnh bình văn từ 1917, nhưng cách phê bình của ông (lược truyện và nói cái hay và cái dở) nay đã lỗi thời; ngược lại, tiểu luận, triết học, ngữ học, biên khảo và dịch thuật của Phạm Quỳnh có giá trị bất biến.
Phan Khôi bình văn sau Phạm Quỳnh. Bài Cái cười của con rồng cháu tiên trên PNTV số 84 (28/5/1931) là một sáng tạo độc đáo: Đọc Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh, ông nhận thức ý nghiã cái cười của người Việt: tự nhận mình là con Rồng cháu Tiên, nhưng vô ý thức, gì cũng cười, cười cả sự tật nguyền của người khác, "cái cười vô nghiã lý, vô ý thức, cái cười vừa ngu dại, vừa độc ác" ấy "đã thấm vào máu dân tộc nầy". Đây là bài phê bình xã hội học sớm nhất của văn chương Việt Nam. Bài này đã làm Tản Đà nổi giận, viết loạt bài Bài trừ cái nạn Phan Khôi ở Nam Kỳ [An Nam tạp chí, Hà Nội từ số 26 (1/1932)] buộc tội Phan phỉ báng dân tộc và đòi "giết" Phan trên văn đàn. Phan Khôi đi trước thời đại là như vậy.
Dù chỉ cộng tác với Nam Phong hơn một năm (2/1918-5/1919), nhưng ảnh hưởng Phạm Quỳnh trên Phan Khôi khá rõ. Sau này, Phan tiếc đã bỏ Nam Phong (có lẽ vì hai cá tính độc đáo không thể ngồi chung, Phạm Quỳnh nhỏ hơn Phan Khôi năm tuổi, mà làm xếp, không dễ). Dù hai người có tranh luận, nhưng vẫn tương kính nhau. Phan Khôi đã học được tinh thần phê bình, óc lý luận của Phạm Quỳnh.
Phan Khôi, một đời tự học
Phan Khôi học chữ Hán với ông nội, cha và 10 năm với Trần Quý Cáp, rồi tự học quốc ngữ và tiếng Pháp từ 1906; dịch Kinh Thánh trong 5 năm (1920-1925): những "trường rèn luyện" ấy, đã tạo nên Phan Khôi, nhà báo và học giả uyên thâm hai nền văn hoá Đông Tây.
Năm 10936, Phan Thị Nga, viết về việc ông học tiếng Pháp như sau:
"Ông xuống Nam Định học với ông Nguyễn Bá Học, gặp thầy hay, ông thấy sức học mình tấn tới, nhưng rủi mới học được ba tháng ông lại bị bắt giải về Quảng. Người ta kết án ông (ông Phan Thành Tài người Quảng Nam (Bảo An tây) trước làm phán toà sau về dạy học can vào việc vua Duy Tân, bị xử tử). Ba năm trong lao, ông tìm cách đưa sách vào học như Lecture courante, Manuel v.v... Đọc sách chỗ nào không hiểu ông lại lật tự vị ra tra. Hồi ấy, ông nghe nói có thày Ưng Điển dạy giỏi, ông viết thư nhờ thày Điển ra bài cho. Làm đâu được vài bài vừa bị ông án Trần Văn Thống khám xét thâu hết sách Tây ta, bút, giấy và nói một câu nghe rất ý vị: "Các anh còn học làm gì nữa vì có ai cho các anh thi nữa mà học!"
Mãn tù ông ra Huế xin học trường dòng (...) ông vô học đứng chót đội sổ trong hai tháng qua tháng thứ ba đến kỳ hạch ông trở nên đứng đầu. Gặp đại tang, ông thôi học, về quê mở lớp dạy chữ Nho và quốc ngữ. Hai năm sau có nghị định bỏ thi, ông thôi dạy, bảo học trò: "Dạy các anh cho giỏi chữ Nho tôi vẫn dạy được, nhưng bây giờ các anh học giỏi ra chẳng làm gì được hãy học chữ Tây đi".
Thôi dạy, ông lại cắp sách đến trường học thầy Lê Hiển, ông cùng học với học trò của ông. Qua năm sau, ông Nguyễn Bá Trác giới thiệu ông vào làm Nam Phong. Ông bước vào nghề báo từ lúc ấy (1918) viết được một năm, ông xuống Hải Phòng làm thơ ký cho Bạch Thái Bưởi. Đơn từ bằng chữ Tây ngăn ngắn ông có thể xem được và viết được.
Thôi làm thơ ký, ông lại vào Nam viết cho Lục Tỉnh Tân Văn. Làm được ít lâu, ông viết một bài kịch liệt quá, người ta buộc ông thôi, ông lại ra Bắc làm cho hội Tin Lành. Ông chuyên dịch Kinh Thánh chữ Nho ra quốc ngữ. (...). Ông sóng Kinh thánh Tây với Kinh thánh Tàu rồi dịch, chấm câu rất rành mạch. Làm được một năm ông lại thôi, vào Nam kiếm việc" (Phan Thị Nga, Lối tự học của những bậc đàn anh nước ta, Hà Nội báo, số 10, 11/3/1936, Thanh Lãng soạn, tài liệu đánh máy của Tạ Trọng Hiệp).
Từ 1911 đến 1917, Phan Khôi tìm cách thoát khỏi bị quản thúc ở làng sau khi ra tù:
"Ra tù từ năm 1911, cho đến năm 1917, chẳng có cơ hội nào cho mình vượt khỏi cổng làng. Điều ấy, tôi tự lấy làm uất ức đã đành, mà tiên quân tôi, người lại còn lo cho tôi hơn nữa. Muốn ra đi, cái chí của tôi ở chỗ khác; nhưng thầy tôi thì chỉ mong làm sao cho tôi có đường xoay xở hầu mau thoát khỏi cái lốt tù. Vậy mà năm 1918 ra Hà Nội làm Nam Phong tạp chí nửa chừng lại bỏ mà về" (Bạch Thái Công ty thơ ký viên- một tự truyện của Phan Khôi, Dân Báo, Sài gòn, số 201, số Tết, 1940, tài liệu của Lại Nguyên Ân).
Trong thời gian này, Phan Khôi vẫn liên lạc với những hoạt động yêu nước. Phan Thành Tài, thầy dậy Pháp văn của ông, tham dự vào cuộc khởi nghiã Duy Tân, 1916, và bị tử hình; Phan Khôi cũng được Thái Phiên rủ vào, nhưng ông từ chối. Vì đã lựa chọn con đường văn hoá? Vì không tin ở khả năng những người cầm đầu? Hay vì sự cấm đoán của cha? (Nguyễn Công Hoan sẽ vin vào cớ Phan từ chối Thái Phiên để buộc tội Phan làm chỉ điểm cho Tây).
Đến năm 1918, được Nguyễn Bá Trác mời vào Nam Phong, cơ hội tốt để thoát ly gia đình và bước vào nghề cầm bút. Nhưng chỉ được hơn một năm. Bỏ Nam Phong vào Nam làm báo, Phan Khôi lại gặp khó khăn với Lục Tỉnh Tân Văn:
"Năm 1919 vào Sàigòn, trước làm cho Quốc dân diễn đàn, sau làm cho Lục tỉnh tân văn, không bao lâu bị giải chức. Những lúc ấy, về ở nhà, tôi đôi khi cũng nghĩ đến sự mình mà ân hận: Té ta tôi chẳng những là thằng người không biết chiều đời mà còn là thằng con không biết chiều cha.
Ở Sàigòn về nhà đầu mùa thu năm 1919, nằm khoèo cho đến mùa xuân năm sau, tôi thấy chán sự đeo đuổi theo đời, nhưng còn thấy chán hơn nữa là cái cảnh phẳng lỳ với vợ với con. Ấy thế mà mỗi khi bẩm mạng cùng thầy tôi xin lại đi nữa, thì người một hai ngăn trở không cho, lấy cớ rằng vận hạn của tôi còn xấu lắm, dẫu có đi cũng chưa làm gì được.
Tôi biết làm sao có được tự do như [...] đây. Xin phép mà không được là phải chịu. Suốt một mùa đông tôi ngày nào cũng phải nốc rượu và thường thường ban đêm trốn đi đánh cờ đánh kiệu ờ nhà hàng xóm" (Bạch Thái Công ty thơ ký viên).
Những dòng tâm sự trên đây nói rõ nỗi khổ tâm của ông trên đường lập thân.
Tháng 3/1920, một cơ hội nữa, giúp Phan Khôi thoát ly gia đình lần thứ nhì: Người em họ là Phan Hạnh (em Phan Thanh) chết tại Thanh Hoá, Phan được chú ủy thác ra Thanh Hoá lo liệu; ông đưa hành lý của người đã khuất ra Hà Nội, rồi xuống Hải Phòng lấy tàu về Trung. Nhưng tại đây, tình cờ kiếm được việc làm thư ký cho Bạch Thái Bưởi, lương tháng 50 đồng.
Làm 8 tháng (1/5/1920- 31/12/1920), Phan xin nghỉ vì điều kiện làm việc quá vất vả.
1921- 1925, dịch Kinh Thánh
Sở dĩ Phan Khôi xin nghỉ, vì đã tìm được việc mới ở Hà Nội: dịch sách cho Hội Tin Lành của Mỹ, vừa cao lương hơn vừa phù hợp với chí hướng của ông: trau dồi tiếng Pháp và tìm hiểu tư tưởng Tây Phương. (Trong vụ NVGP, người ta sẽ vin vào cớ này để buộc tội Phan làm gián điệp cho Mỹ). Phan nghỉ việc ngày 31/12/1920, và có viết thư bảo đảm báo trước một tháng. Như vậy có thể xác định: Phan đã nhận dịch Kinh Thánh vào khoảng tháng 11/1920.
Phan Khôi viết: "Tôi đã từng dịch kinh điển đạo Cơ Đốc từ tiếng Pháp và tiếng Tàu ra tiếng Việt Nam. Hồi đó tôi làm việc ấy dưới quyền hai ông bà mục sư W. Cadman. Tuy họ coi tôi là người trọng yếu lắm trong việc dịch, nhưng dầu đến một câu trong đó họ cũng không để toàn quyền về tôi. Gặp câu nào nghĩa hơi khó một chút thì bà Cadman đem nhiều bổn sách ra mà đối chiếu -vì bà biết đến 13 thứ tiếng- để chọn lấy nghiã nào đúng nhứt. Phần chúng tôi dịch chỉ có bộ Tân ước và một phần ba Cựu ước thôi, song mất đến 5 năm mới thành". (Bàn về việc dịch kinh Phật, Trung Lập 5/9/1931, Phan Khôi 1931, Lại Nguyên Ân sưu tầm, trang 352).
Trong bài "Giới thiệu và phê bình Thánh Kinh Báo", có một câu xác định rõ thời gian dịch: "Sau hết, tôi xin có lời cảm ơn ông bà Mục sư Cadman đã gởi tặng tập báo nầy cho tôi. Vì tôi làm chung việc dịch Kinh Thánh với ông trong 5 năm (1920-1925), biết ông là người yêu lẽ thật, nên thấy trái thì nói, tôi chẳng lấy làm ngại chút nào" [PNTV, số 74 (16/10/1930), Phan Khôi 1930, LNA, trang 568]. Bài này, Phan Khôi phê bình một câu trong Kinh Thánh Báo, mà Cadman viết sai một chữ.
Việc dịch Kinh Thánh, Hội Công Giáo bắt đầu từ 1872, và Hội Tin Lành, từ 1916.
Phước Nguyên viết: "Năm 1916 các nhà lãnh đạo Hội Thánh Tin Lành đã bắt đầu cho phiên dịch toàn bộ Kinh Thánh sang tiếng Việt. Công trình này kéo dài gần 10 năm và đến năm 1926, các tín hữu Tin Lành Việt Nam đã có bộ Kinh Thánh đầu tiên bằng ngôn ngữ của mình" (Phước Nguyên, Quá trình phiên dịch Kinh Thánh sang tiếng Việt, Báo Linh Lực, tháng 1/1996, baolinhluc.org)
Phước Nguyên viết lại lịch sử những bản dịch xuất hiện từ 1892 đến 1919. Trong giai đoạn này, Kinh Thánh chỉ mới được dịch từng đoạn, từng phần. Đến 1926, với sự đóng góp của Phan Khôi, bộ Kinh Thánh mới hoàn tất và được Hội Tin Lành in năm 1926.
"1923, Thánh Kinh Hội Anh Quốc xuất bản Kinh Thánh Tân Ước tại Hà Nội. Toàn bộ Kinh Thánh được thực hiện xong vào năm 1925, và xuất bản năm 1926 tại Thượng Hải.
Bản dịch này do một nhóm học giả gồm có cụ Phan Khôi, ông bà giáo sĩ William C. Cadman, giáo sĩ John D. Olsen thực hiện với sự giúp đỡ của một số thành viên khác trong đó có cụ: Trần Văn Dõng, sinh viên trường Cao Đẳng Đông Dương, cụ Tú Phúc và vài học giả khác. Tuy nhiên người phiên dịch chính là cụ Phan Khôi.
Trong suốt 70 năm qua, bản Kinh Thánh nầy được tục bản nhiều lần tại Anh Quốc, Hong Kong, Hoa Kỳ, Đức, Đại Hàn và Việt Nam. Đây là bản Kinh Thánh được ấn hành và sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Mặc dù chúng ta không có số liệu thống kê chính thức nhưng ước tính mỗi lần tái bản Kinh Thánh từ 5000 đến 10.000 cuốn; trong suốt 70 năm qua, số Kinh Thánh phát hành đã được vài trăm ngàn cuốn. Có lẽ đây là cuốn sách Việt Ngữ được phát hành nhiều nhất từ trước đến nay." (Phước Nguyên, bđd)
Sau đó tác giả liệt kê việc dịch kinh thánh từ 1925 đến ngày nay, ra chữ quốc ngữ và chữ nôm. Và ông cho biết:
"Năm 1995, toàn bộ Kinh Thánh của Giáo Hội Tin Lành đã được tái bản tại Đà Nẵng (Việt Nam). Bộ Kinh Thánh tái bản lần này là bản Kinh Thánh 1926. Việc tái bản này do Hội Thánh Tin Lành Việt Nam thực hiện với sự hổ trợ của Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (UBS). Đây là bản Kinh Thánh đầu tiên được phép in và phát hành dưới chế độ cộng sản Việt Nam". (Bài đã dẫn).
Chúng ta thử so sánh một đoạn trong kinh Tân ước, bản Tin Lành với bản Công giáo, để thấy cách dịch của Phan Khôi.
Phúc âm Matthieu (L'Évangile selon Saint Matthieu), đoạn nói về chúa giáng sinh, bản Tin Lành dịch:
Phúc âm Mã-Thi
Chúa giáng sinh
Sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế Giê-xu diễn tiến như sau: Cô Ma-ri đã đính hôn với Giô-sép, nhưng khi còn là trinh nữ, nàng chịu thai do Thánh Linh. "Giô-sép, vị hôn phu của Ma-ri là người ngay thẳng, quyết định kín đáo từ hôn, vì không nỡ để nàng bị sỉ nhục công khai. Đang suy tính việc ấy, Giô-sép bỗng thấy một thiên sứ đến báo mộng: "Giô-sép, con cháu Đa- vít! Đừng ngại cưới Ma-ri làm vợ! Vì cô ấy chịu thai do Thánh Linh. Ma-ri sẽ sinh con trai, hãy đặt tên là Giê-xu vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi xiềng xích tội lỗi" (Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước, Thánh Kinh Hội quốc tế xuất bản, Văn Phẩm Nguồn Sống phát hành, 1994, trích Kinh Tân Ước, sách Phúc âm Mã-Thi, Chúa giáng sinh, trang 1).
Bản Công giáo dịch:
Tin mừng theo thánh Mát-Thêu
Truyền tin cho ông Giu-se
Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giu-se, là con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ" (Kinh Thánh Tân Ước, nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, 2000, trang 68).
So sánh hai đoạn văn, chúng ta thấy ngay tài năng của Phan Khôi: đoạn trên ngắn hơn đoạn dưới hơn một dòng, lại rõ nghiã và hay hơn. Ví dụ Évangile dịch là Phúc âm (Hán-Việt) hay hơn Tin mừng (tiếng Việt). Không kể sự vô lý ở đoạn dưới: chưa chung sống thì sao gọi là vợ chồng? Bản tiếng Pháp phổ thông cũng ghi: "Marie, sa mère, était fiancée à Joseph". (Bà Marie, mẹ người, là vợ chưa cưới của Joseph).
Tóm lại: Bản Kinh Thánh phổ biến hiện nay của Hội Tinh Lành, là do Phan Khôi (dịch giả chính) đã dịch Tân ước và 1/3 Cựu Ước. Ông đã làm trong 5 năm (1921-1925). Qua cách dùng chữ, có thể tạm xác định: 1/3 bản Cựu ước mà Phan Khôi dịch thuộc phần đầu.
Thời kỳ dịch Kinh Thánh là thời kỳ chủ chốt, đã rèn luyện ngòi bút Phan Khôi. Nhờ sự tiếp xúc sâu sắc với Kinh Thánh, ông đã hiểu văn minh Tây phương, từ nguồn cội, vì Thánh Kinh là nguồn cội các điển tích và chủ đề lớn trong văn học Tây Phương. Việc dịch Thánh Kinh là một trường ngữ học nghiệt ngã, khiến sau này ở địa vị "ngự sử văn đàn", không những Phan viết tiếng Việt đúng mà ông còn đòi hỏi những nhà văn khác phải viết tiếng Việt cho đúng. Kinh nghiệm dịch thuật để rèn luyện tri thức của ông, đáng noi gương hậu thế.
Ba năm ở ẩn tại Cà Mau (1922-1925)
Một dấu hỏi: Tại sao khoảng 1921-1922, Phan Khôi đang ở Hà Nội, đã có việc dịch Kinh Thánh và viết báo (Hữu Thanh và Thực Nghiệp dân báo), lại bỏ vào Sài Gòn? Hữu Thanh, tờ báo của Ngô Đức Kế, một trong những thành viên chính của phong trào Duy Tân và Đông Du, vừa từ Côn Đảo trở về. Vậy Phan Khôi vào Nam, vì nhiệm vụ, hay chỉ tình cờ? Nhất là vào Sài Gòn rồi phải trốn xuống Cà Mau. Phan Thị Nga viết:
"Gặp hồi chưa có việc ông dùng thì giờ rỗi để học, ông ở tại đồn điền của một bạn ở Cà Mau, đồn điền ấy hẻo lánh quá, không có ai nói chuyện cho vui, ông vụt cầm bút viết bức thư thứ nhất, bức thư chữ Tây cho ông Dejean. Rất ngạc nhiên và khen bức thư của ông viết trôi chảy, ông Dejean bảo ông có thể dạy ông Phan trong 6 tháng, ông ta có thể viết được báo chữ Tây. Từ đó về sau ông Phan thường dịch các bài của ông Dejean viết ở các báo Tây.
Lối học của ông Phan hồi ấy là gặp chữ chi khó là hỏi, hỏi rồi tra tự vị lại cho chắc chắn và biên vào sổ con, gặp bài gì thích thì dịch" (Phan Thị Nga, bài đã dẫn).
Phan Thị Mỹ Khanh viết: "Rồi nhân có một vụ việc gì đó xẩy ra ở thành phố, ông bị mật thám tình nghi, đe dọa, phải chạy xuống Cà Mau tạm trú tại nhà một người quen thân làm chủ đồn điền tại đây. Thời gian ở ẩn ăn không ngồi rồi khá lâu, mất đến gần 3 năm, nhưng cha tôi biết tận dụng nó để làm một việc có ích là tiếp tục học tiếng Pháp bằng cách trao đổi thư từ, bài tập qua đường bưu điện với một nhà báo người Pháp ở Saigòn, tên là Dejean" (...) (Nhớ cha tôi, Đà Nẵng, 2001, trang 39).
Có một số nghi vấn:
1- Nếu không có nhiệm vụ gì, tại sao đang có việc ở Hà Nội, Phan Khôi lại vào Sài Gòn ?
2- Phan làm gì mà bị Pháp tình nghi, phải chạy xuống Cà Mau ở ẩn trong ba năm ?
3- Phan vào Nam để bắt liên lạc với Nguyễn An Ninh, vừa từ Paris về nước năm 1922 ?
4- Việc Phan Khôi học tiếng Pháp với Dejean de La Bâtie, chứng tỏ ông có liên lạc với nhóm La Cloche fêlée (Chuông rè). Xin nhắc lại: Dejean de La Bâtie, Pháp lai, đồng chí của Nguyễn An Ninh, từng làm chủ nhiệm báo Chuông rè. Phan Văn Hùm trong Ngồi tù khám lớn [Bảo Tồn, Sàigòn, 1929, Phan Tùng Mai (con Phan Văn Hùm) tái bản, Sài Gòn, 1957] cho biết: lần vào tù năm 1928, Dejean được giam cùng với người Pháp, còn Nguyễn An Ninh, thì các cai tù Pháp rất nể trọng, gọi là Monsieur.
Vậy trong ba năm ở ẩn tại Cà Mau, Phan Khôi học tiếng Pháp hàm thụ với Dejean de la Bâtie và tiếp tục dịch Kinh Thánh. Sau, người ta sẽ chắp nối hai sự kiện này, để xuyên tạc Phan Khôi làm mật thám cho Tây, cho Mỹ.
1925, viết sách Phan Châu Trinh
Tài liệu 241 của sở mật thám Nam Kỳ, mật báo ngày 1/6/1926, gửi thống đốc Nam Kỳ và Phủ toàn quyền Hà Nội, ghi:
"Tú tài Phan Khôi mà tôi đã báo Ngài cách đây mấy tháng như là một đồ đệ của Phan Châu Trinh, đã viết một tác phẩm mang tên đơn giản là "Phan Châu Trinh" tôi đã có trong tay tập sách đó với 94 trang đánh máy.(...)
Kèm theo tiểu sử của Phan Châu Trinh, tác phẩm này chứa đựng các bình luận về đời sống chính trị, tư tưởng, các dự án và công việc tuyên truyền ở Đông Dương, ở Pháp và ở nước ngoài, những quan điểm chính trị của con người được dân An Nam coi là nhà đại ái quốc. Nếu được in ra, chắc chắn sách này sẽ được hoan nghênh và kích động những người An Nam đọc chống đối chính phủ bảo hộ.
Phan Châu Trinh đã cho gọi tú tài Phan Khôi vào Nam Kỳ với ý đồ cho y viết tác phẩm này và nhiều tác phẩm chính trị khác. Nhưng tình hình sức khoẻ không cho ông ta thực hiện hoàn toàn ý đồ đó. Phan Khôi đang soạn thảo ra một tác phẩm theo dạng đó với những thông tin do các bạn cũ thân cận của Phan Châu Trinh cung cấp, trong đó có Huỳnh Thúc Kháng. Phan Khôi tính dựa vào nhà in "Bảo Tồn thư xã" đang chuẩn bị ra đời để xuất bản tác phẩm của y (...)
Phan Khôi ở nhà họa sĩ Ky đường Martin des Pallières. Y quan hệ thường xuyên với Nguyễn Pho và Dejean de la Bâtie." Ký tên P. Arnoux (tài liệu của Lê Thị Kinh, in lại trong Nhớ cha tôi, trang 279-280). Đây lại là một chứng nữa về việc Phan có giao du với Nguyễn An Ninh vì Bảo Tồn thư xã do gia đình Nguyễn An Ninh thiết lập.
Từ 1925 đến 1928, Phan Khôi viết cho Thần Chung, Đông Pháp, Văn học ở Sài Gòn và gởi bài cho Đông Tây ở Hà Nội. Hiện nay chưa có sưu tập các bài viết trong thời gian này. Đây là giai đoạn Pháp đã bình định nền cai trị, tuy nhiên vẫn có những yếu tố quan trọng:
- Đám tang vĩ đại của Phan Châu Trinh, mà Phan Khôi đã viết bài Hiệu triệu quốc dân.
- Phan Bội Châu bị bắt, nhưng Pháp không dám áp dụng án tử hình (đã xử vắng mặt), chỉ đem về quản thúc ở Huế: Nguyễn Thế Truyền đã góp phần quan trọng trong việc vận động Hội nhân quyền và viết bài trên báo Le Paria, tại Pháp.
- Sự tung hoành của ngòi bút Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường trên các báo La cloche fêlée và L'Annam, tại Nam Kỳ.
- Pháp phải cải cách giáo dục: bỏ ý định Pháp hoá người Việt (thay chữ Hán bằng chữ Pháp). Lần đầu tiên mở cấp sơ học ở Trung và Bắc, năm 1924, dậy tiếng Việt cho học trò từ nhỏ, nhờ sự vận động của Phạm Quỳnh. (Sẽ nói rõ hơn trong bài phụ lục về Nam Phong).
Phan Khôi càng thấy sức mạnh của ngòi bút, ông chuẩn bị bước vào giai đoạn nòng cốt: Phụ Nữ Tân Văn.
1928-1932: Thời kỳ Phụ Nữ Tân Văn
Từ năm 1928 đến 1932, ngòi bút Phan Khôi tả xung hữu đột trên tất cả các "mặt trận" tranh đấu xã hội và văn hoá. Hầu như ông chỉ ở trong Nam, thỉnh thoảng có viết bài cho báo Bắc, nhưng Nam Kỳ vẫn là chính. Lập luận đấu tranh dựa trên khí giới: phê bình.
1928: Phê bình Trần Huy Liệu trên báo Đông Pháp. Đặt vấn đề: Phải viết sử cho đúng.
1929: Phê bình Khổng Giáo ở Thần Chung. Tranh đấu nữ quyền và Đòi hỏi viết tiếng Việt cho đúng trên Phụ Nữ Tân Văn.
1930: Tranh luận với Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim trên Phụ Nữ Tân Văn.
1931: Phê bình cuốn Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh trong bài Cái cười của con rồng cháu tiên trên PNTV. Đây là bài phê bình văn học đầu tiên viết theo lối hiện đại.
1932: Công bố Một lối "thơ mới" trình chánh giữa làng thơ và bài Tình già, cả hai được coi là bản tuyên ngôn của Thơ mới,trên Tập văn mùa xuân, báo Đông Tây, rồi PNTV. Tư tưởng và phong cách Phan Khôi được xác định ở thời kỳ Phụ Nữ Tân Văn: cùng dòng chẩy với Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, trong việc dịch thuật, giới thiệu tư tưởng Tây phương và đặt nền móng quốc ngữ bằng cách phát triển từ vựng và nghiên cứu tiếng Việt. Lại vừa đối lập với hai vị học giả này, trong cách đưa tinh thần phản biện vào triết học, sử học, văn học và xã hội học. Sự khảo sát phong cách và tư tưởng Phan Khôi là đối tượng của một bài khác.
Phan Khôi và cộng sản
Khi lên án Phan Khôi, người ta thường dẫn bảo ông đã nói hoặc viết câu này câu kia chống Đảng chống Bác, là không đúng. Thực ra Phan Khôi chỉ chống cái dốt, cái độc tài, cái ngu dân và cái thần tượng hoá, từ trước khi có Bác có Đảng viết hoa. Ngay từ khi cộng sản mới nhen nhúm ở Việt Nam, ông đã viết những bài về cái ngu và cái dốt của họ: như bài Quân cách mạng đời nay (Trung Lập số 6151 (20/5/1930), nói về ông tướng cách mạng Trần Đại Lộc, dơ tay lên trán đỡ đạn và bài Quốc ngữ của bọn cọng sản (Trung Lập, số 6235 (1/9/1930), nói về việc cộng sản muốn sửa cách viết: Pháp viết là Fáp, gì viết là zì, đ viết là d. Và nếu chỉ muốn thay đổi quốc ngữ, cũng chẳng sao, nhưng họ lại chủ trương đấu tranh giai cấp mới phiền. Phan Khôi ghét đấu tranh giai cấp từ thời ấy (1928-1930), cùng chí hướng với Nguyễn An Ninh, vì Ninh thâm hiểu lý thuyết cộng sản và đả kích mạnh mẽ đấu tranh giai cấp.
Bình sinh, Phan không sợ ai bao giờ: 1906, Phan đã kiện triều đình vì thi cử gian lận. 1928, ông viết bài Cái dốt của triều đình Huế, [Đông Pháp, số 717 (8/5/1928)], đại ý nói: Làm Hán Việt từ điển, mà không biết từ điển với tự điển khác nhau như thế nào: Tự là chữ, mà từ là lời. Trong tự điển mỗi mục từ chỉ có một chữ. Trong từ điển mỗi mục từ có thể có nhiều chữ ghép lại. Nhưng không phải chữ ghép nào cũng được coi là từ để đem vào từ điển được. Ví dụ, thiên mã thì gọi là từ được, vì đó là một cách nói đặc biệt (expression), gần như một điển cố, chỉ việc vua Võ Đế nhà Hán có con ngựa hay lắm, vua đặt tên là thiên mã, tức là ngựa nhà trời. Còn tẫn mã (ngựa cái) hay dịch mã (ngựa trạm) thì không thể đem vào từ điển được, vì nếu cứ lấy những chữ ghép tràn như vậy, thì phải bao nhiêu từ điển cho đủ !
Bàn về việc cấm sách, ông viết: Ở thế kỷ hai mươi, đâu đâu người ta cũng hô lớn nào tự do, nào tôn trọng quyền ngôn luận, quyền xuất bản, mà lại có cái chuyện cấm sách mới lạ. "Vậy thì chúng tôi viết đây để làm chi? (...) Một cuốn sách không cấm thì người ta coi như thường, không chú ý. Đến cấm đi một cái, thì hết thẩy ai nấy đều chú ý vào nó. Cấm đi, là muốn cho người ta đừng đọc, mà không ngờ lại làm cho người ta càng đọc! (...) có nhiều cuốn sách hiển thánh rồi. Việt nam vong quốc sử và Hải ngoại huyết thư đã hiển thánh hai mươi năm nay (...) Không có cái thú gì bằng cái thú trong lúc trời mưa, đóng cửa cho chặt lại, rồi... đọc sách cấm! Cái thế lực của sách cấm là như vậy, còn cấm sách nữa thôi?... (Cấm sách, sách cấm, Đông Pháp, số 763 (1/9/1928).
Ông nói phiếm những việc dưới thời Pháp thuộc, cách đây 90 năm, mà lại trúng với việc thời nay. Trong thuật ngữ văn học, người ta gọi ông là một nhà văn có tính hiện đại.
Nhân chuyện cấm sách, lại nhớ đến một số bài của Phan Khôi, đăng trên báo Trung Lập, Sài Gòn, 1930, được Lại Nguyên Ân sưu tầm đầy đủ. Nhưng khi in thành sách, gia đình tự kiểm duyệt bỏ đi một số bài. Bản trên mạng lainguyenan.free.fr đầy đủ.
Trong số mấy bài bị bỏ, có bài Khoái cho ông Mussolini, (Trung Lập, số 6207 28/7/1930) vì khen Mussolini nên bị loại, oan. Việc khen Mussolini, năm 1930, là bình thường, chẳng có gì đáng xấu hổ, mà phải cắt, vì lúc ấy, bộ mặt trái của đảng Phát xít chưa được thế giới biết đến. Phan khen cái gì? Ông khen Mussolini đã cấm tiệt thói ăn mày: khi nước Ý có nơi bị động đất, gần 2000 người chết, vậy mà Mussolini cấm không được lập hội này hội kia xin tiền. [Gần đây nước Nhật vừa động đất, vừa sóng thần, vừa bể lò nguyên tử, mà họ có ngửa tay xin tiền ai đâu?]. Mussolini chẳng được cái nết gì, nhưng ít ra cũng được việc dạy dân không ăn mày. Việc ấy, dân ta, đến cả lãnh tụ, cũng còn đang cần phải dạy. Phan Khôi hiện đại là ở chỗ đó.
Bài "Hơn hai trăm năm còn thúi" (Trung Lập, số 6152 (21/5/1930), cũng bị cắt, vì ông kể chuyện ngày 11/5/1930, "có một nhà nọ đào móng đặng xây nhà, trong khi đào, phát lộ ra một cái quan tài xưa coi bề ngoài còn chắc. Người ta bèn mở ra xem thấy thi thể đã nát rồi, chỉ còn có bộ xương và quần áo. Quần áo cái dáng vẫn tươi tốt, nhưng khi động tới liền hoá ra tro. (...) Thế nhưng lạ một điều là lúc dỡ ra, hơi hám xông lên vẫn còn thú nực thúi nồng (...) Vậy mời biết giống người ta là giống thúi hơn hết thẩy mọi loài. (...) Cái thúi hai trăm năm còn chưa mấy chút; có cái thúi đến muôn năm, là kẻ "di xú vạn niên" kia". (Trung Lập, số 6152 (21/5/1930).
Bài này chẳng đả động đến ai, chỉ nói chuyện... người, vậy mà vì "nhậy cảm" cũng phải cắt đi. Ý Phan muốn nói đến những kẻ nhất thời "vàng ngọc dát đầy, tiền hô hậu ủng", nhưng chả biết mai sau thế nào? Có "di xú vạn niên" chăng?
Cái gương tầy liếp Thủy Hoàng đốt sách còn trơ trơ ra đó? Bọn nhà văn thường nhớ dai và bênh nhau xuyên thế kỷ. Đụng đến sách vở, hậu quả khó lường.
Đến bài Thúi thây, thì bị cắt là đúng, vì đụng tới lãnh tụ tối cao quốc tế, Phan viết:
"An Nam ta hay mắng những người biết ăn mà không biết làm là "đồ thúi thây". Kỳ thiệt An Nam ta thuở nay có mấy ai mà thây bị thúi bao giờ. Duy thấy bây giờ cái thây ông Lê Ninh nước Nga bị thúi đó thôi. Việc đời hay tréo nhau là vậy, ông Lê Ninh lại là người ăn ít mà làm nhiều! Không biết hồi họ ướp xác ông thế nào mà ngày nay đến nỗi thúi ra. Cứ theo tin mới đây thì xác ấy không thể để được nữa mà phải thiêu ra tro. Nếu vậy thì ra khoa học ngày nay lại dở hơn ngày xưa.
Ai có tri thức khá một chút, há không biết bên Ai Cập đời xưa có cái thuật ướp xác để lâu kêu là "momie" hay sao? (...) Xứ Nga lạnh hơn Ai Cập, sao xác ông Lê Ninh lại thúi? (...)
Đến như xứ An Nam mình, thuộc về ôn đới, khí hậu điều hòa, có lẽ giữ xác được lâu mà không thúi chăng? Song ngặt vì An Nam ta lại không có cái xác nào đáng ướp hết; cái thây nào cũng đáng để cho thúi quách hết thẩy". (Thúi thây, Trung Lập, số 6216 (7/8/1930)
Tóm lại, những việc Phan viết cách đây hơn 80 năm mà cứ mới như bây giờ. Đó là tính hiện đại trong ngòi bút Phan Khôi. Người ta còn gọi là nhà văn tiên tri nữa.
Phê Bình Lãnh đạo văn nghệ và Nắng Chiều
Thời kỳ NVGP, Bài Phê bình lãnh đạo Văn Nghệ là tác phẩm tiêu biểu. Phan Khôi kê khai những nét chính trong đời sống văn nghệ thời bấy giờ: kiểm duyệt lời nói, chữ viết, cấm phê bình, chỉ đạo sáng tác, đán áp nhà văn, thánh hóa lãnh tụ, bè phái văn nghệ, trong 7 điểm:
1- "Tôi muốn nói sự thực"- Nhưng người ta bảo: "có những sự thực không nên nói".
2- "Tôi muốn phê bình"- Nhưng người ta bảo, "phê bình nội bộ thì được, không nên viết lên báo, bên địch chúng thấy chúng sẽ xuyên tạc"
4- Sự giáo dục sáng tác: "Nhược bằng bắt hết mọi người viết, phải viết theo lối với mình thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết".
"Đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu!"
5- Sự đàn áp nhà văn: "Hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính trị tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa những người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công".
6- Sự tôn sùng lãnh tụ: "Tôi còn nhớ có vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ Người viết hoa, lấy lẽ rằng chữ Người viết hoa chỉ để xưng Hồ chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ Người không phải để xưng Hồ chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như ở trong chiêm bao, chiêm bao thấy mình đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê mỗ tố cáo ông Nguyễn mỗ trước ngai vàng: "Trong phép viết chỉ có chữ nào thuộc về Hoàng thượng mới phải đai, thế mà tên Nguyễn mỗ viết thư cho bạn dám xài những chữ không phải thuộc về Hoàng thượng. Nhân may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là mình đang ngồi ở trong phòng họp hội Văn nghệ".
7- Sự gian lận trong giải thưởng văn học 54-55: "Cả ba ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong ban trung khảo. Nếu ở trong ban trung khảo mà thôi còn khá, thử điều tra lại hồ sơ, thì ba ông còn ở ban sơ khảo nữa, sao lại có thể như thế? Trường thi phong kiến xưa, tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn sạch tiếng. Một người nào có con em đi thi thì người ấy có được cắt cử cũng phải hồi tỵ, không được chấm trường. Bây giờ đến cả chính mình đi thi mà cũng không hồi tỵ, một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã liêm chính cả rồi, một lẽ trắng trợn vì thấy mọi cái miệng đã bị vú lấp."
Bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ hầu như người Việt Bắc Nam, trưởng thành trong khoảng 1954, ai cũng biết.
Còn một tác phẩm nữa, hầu như không ai biết, vì nó bị chôn mất rồi. Đó là cuốn Nắng chiều. Không được in. Nhưng việc Phan Khôi đem Nắng chiều đến Hội Nhà Văn, để in, năm 1957, có thể so sánh với việc Tư Mã Thiên viết sử ký. Nhờ Đoàn Giỏi mà ngày nay chúng ta biết đến sự hiện diện của Nắng chiều: "Tháng 12/1957, Phan Khôi đưa đến nhà xuất bản Hội nhà văn một xấp bản thảo dầy, bên ngoài đề hai chữ "Nắng chiều" (Đoàn Giỏi, Tư tưởng phản động trong sáng tác của Phan Khôi, Văn Nghệ số 15 (tháng 8/1958), in lại trong Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí). Đoàn Giỏi giả giọng đả kích, để công bố cho hậu thế biết nội dung tác phẩm cuối cùng của Phan Khôi. Và ông đã phải trả giá nặng nề không kém gì một thành viên NVGP.
Nắng chiều, theo Đoàn Giỏi, gồm những bài bút ký và tạp văn viết trong kháng chiến, và mấy bài viết sau 1954: Cầm vịt, Tiếng Chim, Cây Cộng sản, Thái văn Thu, Chuyện ba ông vua Càn Long, Quang Trung và Chiêu Thống, Giới thiệu Nguyễn Trường Tộ... Và ông đã giới thiệu từng văn bản một: Truyện Thái văn Thu, đả kích bạo lực cách mạng và sự đàn áp NVGP. Chuyện ba ông vua... đả kích chế độ phong kiến ngày nay. Bài Nguyễn Trường Tộ, so sánh chế độ hiện hành với những triều đại phong kiến trước.
Riêng hai bài Cầm vịt và Tiếng chim, Phan Khôi đã "đánh vào vấn đề căn bản của chủ nghiã Mác-Lê Nin", đểxác định: Xã hội không có đấu tranh giai cấp. Của ai người nấy ăn. Vấn đề đấu tranh giai cấp chỉ là kiểu rình phần ăn của kẻ khác.
Đoàn Giỏi trích một đoạn trong bài Tiếng chim của Phan Khôi:
"Một lần ở Cẩn Nhân, tôi ngồi nơi nhà sàn, thấy hai con quạ rình bắt con gà con, một con bắt được bay ra đứng ở bờ ruộng, xé con gà ra ăn; còn con kia bị gà mẹ chống cự, bắt không được, cũng bay ra đứng cạnh con quạ thứ nhất, nó nhìn sững và đi đi lại lại, rồi cũng bay đi tuốt, nó không hề nói: "Mầy phải cho tao với!"
VàĐoàn Giỏi giải thích như sau: "Vấn đề thứ nhất Phan Khôi đặt ra là không có người bóc lột người. Vấn đề thứ hai là của ai người ấy ăn. Cho đến thứ quạ kia còn biết giành giật cái miếng không phải của nó là không ổn, và không hề nói: Mầy phải chia cho tao với" (Đoàn Giỏi, bài đã dẫn).
Bài thứ nhì được Đoàn Giỏi giới thiệu khá kỹ, là bài Cây Cộng sản, ông viết:
"... Cây Cộng sản, ngay câu đầu, Phan Khôi đã chỉ ngay vào Việt Bắc, quê hương cách mạng: "Có một thứ thực vật nữa cũng như sen nhật bản, ở xứ ta trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Đâu thì tôi chưa thấy chỉ thấy trong mấy tỉnh Việt Bắc không chỗ nào là không có". Đầu tiên Phan Khôi thấy nó rải rác mấy nơi ở tỉnh Phú Thọ, và nhiều nhất là ở Thái Nguyên và Tuyên Quang. Nó mọc trên thị trấn bị ta phá hoại "như rừng, ken kít nhau". Nơi gọi là Cỏ Bù-xít vì nó có mùi hôi như con bọ xít, nơi gọi là Cây Cứt lợn, nơi gọi là Cây chó đẻ. "Tên đều không nhã tí nào hết" thứ cây ấy những người có học không gọi bằng Cây Cứt lợn dại, mà gọi bằng Cây Cộng sản".
Rồi Đoàn Giỏi kể tiếp về gốc gác cái tên này: Phan Khôi bịa ra là trước kia xứ ta không có cây này, người Pháp đem đến giồng ở các đồn điền cà phê, cao su, rồi chẳng bao lâu nó lan ra, không diệt được, tình trạng này bắt đầu từ những năm 1930-31, cùng lúc Đông Dương Cộng sản đảng bắt đầu hoạt động, "phong trào Cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khử được như thứ cây ấy cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là "herbe communiste", đáng lẽ dịch là cỏ Cộng sản, nhưng nhiều người gọi là Cây Cộng sản. Nó còn một tên nữa rất lạ..."
Hỏi tên này là gì ? Thì Phan Khôi lại bịa lời một ông già Thổ: "ông nói tên nó là "Cỏ cụ Hồ". Thứ cỏ này trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng, thì thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường xá đồi đống, người ta không biết tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó như vậy".
Tại sao Phan Khôi đem Cây Cứt lợn, cũng gọi là Chó đẻ, là Bọ xít "toàn những tên không nhã tý nào nào hết" để gọi nó là Cây Cộng sản và Cỏ cụ Hồ?" (Đoàn Giỏi, bài đã dẫn).
Câu hỏi "ngây thơ" của Đoàn Giỏi chứng tỏ sự "đồng loã" của ông với tác giả Nắng Chiều. Dù Đoàn Giỏi lúc ấy là nhà văn của Đảng, nhưng vì bài viết này, độc giả đã quý ông như một thành viên của NVGP.
Cũng về tập bản thảo Nắng chiều, Chế Lan Viên lại một lần nữa hiện ra, đậm nét qua ngòi bút của Đào Vũ: "Đồng chí Chế Lan Viên lúc ấy có đọc bản thảo kia", "Đồng chí Chế Lan Viên lúc ấy có phân tích nhiều mặt về những ám ý xấu xa, phản động trong những “tìm tòi” ấy của Phan Khôi; và tỏ ý rất công phẫn. Chúng tôi cũng đồng tình". Khi "Phan Khôi nói với chị Chế Lan Viên nên về khuyên bảo anh ấy đừng đi theo lãnh đạo", thì "Đồng chí Chế Lan Viên lên tận phòng của y cho một bữa nên thân. Những nào: Đừng cậy già mà nói láo, đây ba mươi năm nữa cũng già, đồ đốn mạt đồ hèn v.v…" (Đào Vũ, Tính cách vô lại và bộ mặt chính trị nhơ nhớp của Phan Khôi ngày nay, Văn nghệ, số 12, tháng 5/1958).
Những ngày tháng cuối
Như chúng ta đã biết, gia đình Phan Khôi giầu có, nhờ bà Cố dựng nghiệp tỷ phú; và chính ông cũng giầu, vì viết nhiều và là một trong những nhà văn được trả nhuận bút cao nhất thời ấy. Truyện đấu tranh giai cấp Phan viết như đùa, không ngờ lại là bi kịch mà gia đình ông đã trải qua khi ông đang ở Việt Bắc. Đào Vũ kể:
"Đồng chí cùng quê với Phan Khôi ôn lại chuyện nhân dân địa phương căm thù định đến tàn phá nhà Phan Khôi từ phong trào bình dân [1936] và cho biết, ý định ấy mãi đến sau cách mạng [sau 1945] mới thực hiện được: Những nương dâu phì nhiêu kia của Phan Khôi bà con nông dân đã giành lấy về tay chia nhau trồng trọt, tre nhà Phan Khôi, vì căm thù, bà con đốn không còn một gốc, nhà của Phan Khôi, bà con đập lấy gạch về xây bao nhiêu hầm khắp làng để che chở cho dân làng kháng chiến trường kỳ. - Giữa Phan Khôi và nông dân địa phương từ bao lâu, đã diễn ra một cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt" (Đào Vũ, bài đã dẫn).
Sau Nhân Văn, Phan Khôi bị đuổi khỏi 51 Trần Hưng Đạo, Trần Duy viết:
"Cũng từ dạo ấy, tôi thấy sức khoẻ của ông Phan Khôi sa sút. Có lúc thấy ông đi không vững. Có lúc thấy ông khó thở. Ông nói với tôi ông bị sốt thường xuyên, xin được đi khám bệnh nhưng không ai ký giấy giới thiệu. Một buổi chiều tôi đến 51 Trần Hưng Đạo thì gặp cảnh: Một quan chức có quyền lực quát đuổi vợ chồng ông ra khỏi số nhà 51 Trần Hưng Đạo.
Người này quát lớn:
"Tống cổ thằng già khốn nạn này ra khỏi đây!"
Vợ ông, bà Huệ ôm chăn màn, sách vở; ông Phan Khôi lảo đảo theo sau. Ra cổng gặp tôi, ông chào và nói:"Thôi, anh về đi… Buồn không cần thiết!" (Trần Duy, Tưởng niệm về Phan Khôi, Talawas 18/6/2008)
Bị đuổi khỏi 51 Trần Hưng Đạo, Phan Khôi dọn về 10 Nguyễn Thượng Hiền, và sau đó là 73 Phố Thuốc Bắc.
Lâm Bích Thủy, con gái nhà thơ Yến Lan, nhớ về căn nhà này:
"Gia đình tôi ở phía dưới, giữa 5 gia đình khác, kề vách là gia đình cụ Khôi. Phía ngoài căn nhà cụ là chân cầu thang của hộ bà Cán, đến bể nước công cộng. Căn dành cho gia đình cụ là một cái buồng khép kín, rộng chừng 9 m2, bằng 3/4 gian nhà tôi, có thể đấy là nơi thờ cúng của chủ trước. Giữa nhà tôi và nhà cụ là một cửa sổ nhỏ, to bằng bàn cớ tướng. Tôi thường ngồi cạnh cửa sổ nhà cụ giặt giũ.
Ban đầu mới dọn về, tôi thấy ba tôi và các chú nhà thơ hay vào phòng cụ Khôi uống trà, bàn chuyện thời sự, bình luận những bài thơ vừa đăng báo; bọn trẻ chúng tôi chạy vô chạy ra nhà cụ để chơi với các anh các chị con cụ, mọi người đều thân thiện, cởi mở. Thế rồi, dần dần tôi thấy có một điều gì đó, lung lắm. Các cô các chú không xởi lởi như trước nữa. Trong cư xử tỏ ra dè dặt, dò xét. Nhà cụ Khôi cứ vắng dần bóng người lớn, vắng dần tiếng trẻ. Không khí trong ngôi nhà nặng nề, xét nét, xa lạ. Tôi hỏi má tôi "tại sao vậy?". Bà nói nhỏ sợ người khác nghe: " Ông Khôi đang bị coi là người cầm đầu nhóm Nhân văn - Giai phẩm, con không nên vào nhà cụ, có người đang theo dõi nhà mình đấy…". Tôi không hiểu Nhân văn - Giai phẩmlà tội gì, nặng đến mức nào mà ai cũng sợ liên lụy đến như thế. Tuy không nói ra nhưng ai cũng muốn chứng minh rằng mình không hề có quan hệ thân mật với gia đình cụ Khôi. Họ tránh nhà cụ như thể nhà có bệnh dịch lây lan. (...)
Dường như gia đình cụ hiểu được điều băn khoăn của mọi người nên tế nhị lấy báo dán kín cửa sổ lại. Lâu lâu tôi thấy cụ ngang qua nhà, vẫn dáng người cao, nhưng gầy yếu hơn trong bộ đồ tây màu vàng nhạt, tóc còn lơ thơ vài cọng bạc trắng, ẩn sau chiếc mũ phớt màu nâu. Trên tay cụ giờ có thêm chiếc ba-toong, gặp ai cụ không nhìn, mắt hướng thẳng phía trước như chưa hề biết họ.
Như trước đây, tôi vẫn ngồi giặt bên bể nước, cạnh cửa sổ nhà cụ. Tôi liếc nhìn cụ qua cửa sổ. Cụ ngồi trên giường, giờ cụ trầm ngâm, buồn buồn, mắt nhìn đâu đâu, tôi thương cụ quá chừng. Có lần tôi nghe cụ ngâm bằng giọng Quảng Nam: "Làm chi cũng chẳng làm chi / Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao / Làm sao cũng chẳng làm sao / Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi…" (Lâm Bích Thuỷ, Thủy chung tình bạn sau linh cữu, tài liệu Talawas).
Cái chết của Phan Khôi
Phan Cừ, Phan An viết: "11 giờ trưa ngày 16/1/1959 (mồng 8 tháng Chạp âm lịch). Ông nằm quay mặt vào tường lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng, trong sự túc trục chăm sóc của bà vợ Nguyễn Thị Huệ (...) Cỗ xe song mã màu đen quàn thi hài ông, đi sau là vợ con, cháu cùng một vài bạn hữu tiễn ông lần cuối đến nghiã trang Hợp Thiện ở phía đông thành phố Hà Nội. Trong chiến tranh, phần mộ của ông bị thất lạc". (Phan Cừ, Phan An, Phan Khôi niên biểu, Chưong Dân thi thoại, Đà nẵng, 1996. trang bđd).
Phan Thị Thái viết: "Mộ cha tôi được ghi dấu bằng tấm bia nhỏ mang tên: Chương Dân (...) Khoảng một năm trước khi mất, thầy tôi rất buồn. Mỗi dịp nghỉ hè về thăm thầy, tôi thường thấy người ngồi bàn viết lách hoặc đọc sách.
Có khi nằm đọc rồi ngủ quên nhưng hai tay vẫn giữ chặt quyển sách dày cộm, hầu hết là sách chữ Hán. Hầu như thầy tôi không có thì giờ rảnh. Sáng sáng đi vài ba đường quyền, ăn uống điểm tâm rồi ngồi vào bàn làm việc cho đến tối. Chỉ có một tuần trước khi mất, vì quá đuối sức, người đành phải lìa chiếc bàn và quyển sách. Gia tài lớn mà thầy tôi để lại cho chúng tôi là sách và rất nhiều các bài viết, các bài nghiên cứu về tiếng Việt và chữ Hán. Chúng tôi đã gìn giữ tất cả trước tác của thầy tôi trong nhiều năm và sau đó đã chuyển giao cho Viện Hán Nôm để các đồng nghiệp của ông tiếp tục công việc nghiên cứu, dịch thuật". (Phan Thị Thái, Nhớ cha tôi, học giả Phan Khôi, 19/12/1996, Kiến Thức Ngày Nay).
Lâm Bích Thuỷ viết:
"Chở linh cữu cụ là một chiếc xe có hai con ngựa kéo bị che hai bên mắt, khoảng bảy hoặc tám người, kể cả người đánh xe ngựa và ba tôi − nhà thơ Yến Lan. Nhưng điều để lại sau đám tang là sự dè bỉu và mỉa mai đối với ba tôi mà người thời bấy giờ gọi là "thằng". Sáng hôm sau, ngoài phố, họ kháo nhau bằng những câu: "Nghe nói ngoài gia đình còn có thằng cha nhà thơ nào đó cả gan đưa đám lão Phan Khôi". Giải thích điều này ba tôi nói: "Đó là đạo lý của người Việt Nam − Nghĩa tử là nghĩa tận". (Lâm Bích Thuỷ, bđd)
Theo Lại Nguyên Ân, nghiã trang Hợp Thiện, không bị chiến tranh tàn phá, mà bị chiếm đất dần để xây nhà. Năm 1970, nghiã trang này được chuyển lên Bất Bạt. Những ngôi mộ bị dời đi, có đánh số, nhưng sau gia đình không tìm lại được.
Tại sao? Có phải vì trong suốt thời gian này, gia đình không ai đến viếng chăng ?
Tất yếu của định mệnh ? Hay cố tình xoá dấu Phan Khôi ?
Điều mà Phan Khôi làm cho bà Cố cách đây hơn nửa thế kỷ, tức là kiện cái chế độ phong kiến, để mộ của bà cố được trở về chôn ở mảnh đất gia tiên, hiện chưa ai làm cho ông. Phan Khôi có mười con, và bao nhiêu cháu ?
Nếu ngày nay có một việc làm hữu ích về phía chính quyền, thì không phải là những lễ kỷ niệm, với những bài ca tụng vô bổ, mà là sự tìm lại hài cốt Phan Khôi, trong đám mộ ở Bất Bạt, xác định ADN, để dựng lại ngôi mộ Phan Khôi, xứng đáng với địa vị của một văn hào Việt Nam trong thế kỷ XX.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20110517-phan-xvi-phan-khoi-bai-3-con-duong-van-hoa
Người đầu tiên Phan Khôi chịu ảnh hưởng trong nghề báo là Nguyễn Văn Vĩnh. Bởi lối viết vừa đàm vừa luận của Nguyễn Văn Vĩnh trên Đăng Cổ Tùng Báo (1908) sau này sống lại trong lối hài đàm của Phan Khôi. Hai nhân vật mà Phan Khôi đặc biệt kính trọng trong địa hạt văn học và thương mại là Nguyễn Văn Vĩnh và Bạch Thái Bưởi.
Mục Nam âm thi thoại trên Nam Phong mở đầu văn nghiệp của Phan Khôi (2/1918).Nhưng Phạm Quỳnh mới thật là người "tiên phong" và khuyến khích Phan Khôi vào con đường này. Lời mở đầu Nam âm thi thoại ít nhiều ảnh hưởng bài Thơ Ta thơ Tây của Phạm Quỳnh [viết năm 1917; có lẽ là bài lý thuyết thơ sớm nhất của Việt Nam. 1922, Phạm Quỳnh đọc bài diễn văn La poésie annnamite (Thi ca Việt Nam) tại Paris, một tác phẩm giá trị khác về bình thơ]. Nam Âm thi thoại phê bình thơ theo lối Tầu, nhưng đã có những nhận thức mới lạ về ngữ học, đặc cách Phan Khôi: trực bút, cô đọng, dùng chữ độc sáng, bất ngờ. Khi Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến viết thay, mục này không còn thú vị nữa.
Phạm Quỳnh bình văn từ 1917, nhưng cách phê bình của ông (lược truyện và nói cái hay và cái dở) nay đã lỗi thời; ngược lại, tiểu luận, triết học, ngữ học, biên khảo và dịch thuật của Phạm Quỳnh có giá trị bất biến.
Phan Khôi bình văn sau Phạm Quỳnh. Bài Cái cười của con rồng cháu tiên trên PNTV số 84 (28/5/1931) là một sáng tạo độc đáo: Đọc Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh, ông nhận thức ý nghiã cái cười của người Việt: tự nhận mình là con Rồng cháu Tiên, nhưng vô ý thức, gì cũng cười, cười cả sự tật nguyền của người khác, "cái cười vô nghiã lý, vô ý thức, cái cười vừa ngu dại, vừa độc ác" ấy "đã thấm vào máu dân tộc nầy". Đây là bài phê bình xã hội học sớm nhất của văn chương Việt Nam. Bài này đã làm Tản Đà nổi giận, viết loạt bài Bài trừ cái nạn Phan Khôi ở Nam Kỳ [An Nam tạp chí, Hà Nội từ số 26 (1/1932)] buộc tội Phan phỉ báng dân tộc và đòi "giết" Phan trên văn đàn. Phan Khôi đi trước thời đại là như vậy.
Dù chỉ cộng tác với Nam Phong hơn một năm (2/1918-5/1919), nhưng ảnh hưởng Phạm Quỳnh trên Phan Khôi khá rõ. Sau này, Phan tiếc đã bỏ Nam Phong (có lẽ vì hai cá tính độc đáo không thể ngồi chung, Phạm Quỳnh nhỏ hơn Phan Khôi năm tuổi, mà làm xếp, không dễ). Dù hai người có tranh luận, nhưng vẫn tương kính nhau. Phan Khôi đã học được tinh thần phê bình, óc lý luận của Phạm Quỳnh.
Phan Khôi, một đời tự học
Phan Khôi học chữ Hán với ông nội, cha và 10 năm với Trần Quý Cáp, rồi tự học quốc ngữ và tiếng Pháp từ 1906; dịch Kinh Thánh trong 5 năm (1920-1925): những "trường rèn luyện" ấy, đã tạo nên Phan Khôi, nhà báo và học giả uyên thâm hai nền văn hoá Đông Tây.
Năm 10936, Phan Thị Nga, viết về việc ông học tiếng Pháp như sau:
"Ông xuống Nam Định học với ông Nguyễn Bá Học, gặp thầy hay, ông thấy sức học mình tấn tới, nhưng rủi mới học được ba tháng ông lại bị bắt giải về Quảng. Người ta kết án ông (ông Phan Thành Tài người Quảng Nam (Bảo An tây) trước làm phán toà sau về dạy học can vào việc vua Duy Tân, bị xử tử). Ba năm trong lao, ông tìm cách đưa sách vào học như Lecture courante, Manuel v.v... Đọc sách chỗ nào không hiểu ông lại lật tự vị ra tra. Hồi ấy, ông nghe nói có thày Ưng Điển dạy giỏi, ông viết thư nhờ thày Điển ra bài cho. Làm đâu được vài bài vừa bị ông án Trần Văn Thống khám xét thâu hết sách Tây ta, bút, giấy và nói một câu nghe rất ý vị: "Các anh còn học làm gì nữa vì có ai cho các anh thi nữa mà học!"
Mãn tù ông ra Huế xin học trường dòng (...) ông vô học đứng chót đội sổ trong hai tháng qua tháng thứ ba đến kỳ hạch ông trở nên đứng đầu. Gặp đại tang, ông thôi học, về quê mở lớp dạy chữ Nho và quốc ngữ. Hai năm sau có nghị định bỏ thi, ông thôi dạy, bảo học trò: "Dạy các anh cho giỏi chữ Nho tôi vẫn dạy được, nhưng bây giờ các anh học giỏi ra chẳng làm gì được hãy học chữ Tây đi".
Thôi dạy, ông lại cắp sách đến trường học thầy Lê Hiển, ông cùng học với học trò của ông. Qua năm sau, ông Nguyễn Bá Trác giới thiệu ông vào làm Nam Phong. Ông bước vào nghề báo từ lúc ấy (1918) viết được một năm, ông xuống Hải Phòng làm thơ ký cho Bạch Thái Bưởi. Đơn từ bằng chữ Tây ngăn ngắn ông có thể xem được và viết được.
Thôi làm thơ ký, ông lại vào Nam viết cho Lục Tỉnh Tân Văn. Làm được ít lâu, ông viết một bài kịch liệt quá, người ta buộc ông thôi, ông lại ra Bắc làm cho hội Tin Lành. Ông chuyên dịch Kinh Thánh chữ Nho ra quốc ngữ. (...). Ông sóng Kinh thánh Tây với Kinh thánh Tàu rồi dịch, chấm câu rất rành mạch. Làm được một năm ông lại thôi, vào Nam kiếm việc" (Phan Thị Nga, Lối tự học của những bậc đàn anh nước ta, Hà Nội báo, số 10, 11/3/1936, Thanh Lãng soạn, tài liệu đánh máy của Tạ Trọng Hiệp).
Từ 1911 đến 1917, Phan Khôi tìm cách thoát khỏi bị quản thúc ở làng sau khi ra tù:
"Ra tù từ năm 1911, cho đến năm 1917, chẳng có cơ hội nào cho mình vượt khỏi cổng làng. Điều ấy, tôi tự lấy làm uất ức đã đành, mà tiên quân tôi, người lại còn lo cho tôi hơn nữa. Muốn ra đi, cái chí của tôi ở chỗ khác; nhưng thầy tôi thì chỉ mong làm sao cho tôi có đường xoay xở hầu mau thoát khỏi cái lốt tù. Vậy mà năm 1918 ra Hà Nội làm Nam Phong tạp chí nửa chừng lại bỏ mà về" (Bạch Thái Công ty thơ ký viên- một tự truyện của Phan Khôi, Dân Báo, Sài gòn, số 201, số Tết, 1940, tài liệu của Lại Nguyên Ân).
Trong thời gian này, Phan Khôi vẫn liên lạc với những hoạt động yêu nước. Phan Thành Tài, thầy dậy Pháp văn của ông, tham dự vào cuộc khởi nghiã Duy Tân, 1916, và bị tử hình; Phan Khôi cũng được Thái Phiên rủ vào, nhưng ông từ chối. Vì đã lựa chọn con đường văn hoá? Vì không tin ở khả năng những người cầm đầu? Hay vì sự cấm đoán của cha? (Nguyễn Công Hoan sẽ vin vào cớ Phan từ chối Thái Phiên để buộc tội Phan làm chỉ điểm cho Tây).
Đến năm 1918, được Nguyễn Bá Trác mời vào Nam Phong, cơ hội tốt để thoát ly gia đình và bước vào nghề cầm bút. Nhưng chỉ được hơn một năm. Bỏ Nam Phong vào Nam làm báo, Phan Khôi lại gặp khó khăn với Lục Tỉnh Tân Văn:
"Năm 1919 vào Sàigòn, trước làm cho Quốc dân diễn đàn, sau làm cho Lục tỉnh tân văn, không bao lâu bị giải chức. Những lúc ấy, về ở nhà, tôi đôi khi cũng nghĩ đến sự mình mà ân hận: Té ta tôi chẳng những là thằng người không biết chiều đời mà còn là thằng con không biết chiều cha.
Ở Sàigòn về nhà đầu mùa thu năm 1919, nằm khoèo cho đến mùa xuân năm sau, tôi thấy chán sự đeo đuổi theo đời, nhưng còn thấy chán hơn nữa là cái cảnh phẳng lỳ với vợ với con. Ấy thế mà mỗi khi bẩm mạng cùng thầy tôi xin lại đi nữa, thì người một hai ngăn trở không cho, lấy cớ rằng vận hạn của tôi còn xấu lắm, dẫu có đi cũng chưa làm gì được.
Tôi biết làm sao có được tự do như [...] đây. Xin phép mà không được là phải chịu. Suốt một mùa đông tôi ngày nào cũng phải nốc rượu và thường thường ban đêm trốn đi đánh cờ đánh kiệu ờ nhà hàng xóm" (Bạch Thái Công ty thơ ký viên).
Những dòng tâm sự trên đây nói rõ nỗi khổ tâm của ông trên đường lập thân.
Tháng 3/1920, một cơ hội nữa, giúp Phan Khôi thoát ly gia đình lần thứ nhì: Người em họ là Phan Hạnh (em Phan Thanh) chết tại Thanh Hoá, Phan được chú ủy thác ra Thanh Hoá lo liệu; ông đưa hành lý của người đã khuất ra Hà Nội, rồi xuống Hải Phòng lấy tàu về Trung. Nhưng tại đây, tình cờ kiếm được việc làm thư ký cho Bạch Thái Bưởi, lương tháng 50 đồng.
Làm 8 tháng (1/5/1920- 31/12/1920), Phan xin nghỉ vì điều kiện làm việc quá vất vả.
1921- 1925, dịch Kinh Thánh
Sở dĩ Phan Khôi xin nghỉ, vì đã tìm được việc mới ở Hà Nội: dịch sách cho Hội Tin Lành của Mỹ, vừa cao lương hơn vừa phù hợp với chí hướng của ông: trau dồi tiếng Pháp và tìm hiểu tư tưởng Tây Phương. (Trong vụ NVGP, người ta sẽ vin vào cớ này để buộc tội Phan làm gián điệp cho Mỹ). Phan nghỉ việc ngày 31/12/1920, và có viết thư bảo đảm báo trước một tháng. Như vậy có thể xác định: Phan đã nhận dịch Kinh Thánh vào khoảng tháng 11/1920.
Phan Khôi viết: "Tôi đã từng dịch kinh điển đạo Cơ Đốc từ tiếng Pháp và tiếng Tàu ra tiếng Việt Nam. Hồi đó tôi làm việc ấy dưới quyền hai ông bà mục sư W. Cadman. Tuy họ coi tôi là người trọng yếu lắm trong việc dịch, nhưng dầu đến một câu trong đó họ cũng không để toàn quyền về tôi. Gặp câu nào nghĩa hơi khó một chút thì bà Cadman đem nhiều bổn sách ra mà đối chiếu -vì bà biết đến 13 thứ tiếng- để chọn lấy nghiã nào đúng nhứt. Phần chúng tôi dịch chỉ có bộ Tân ước và một phần ba Cựu ước thôi, song mất đến 5 năm mới thành". (Bàn về việc dịch kinh Phật, Trung Lập 5/9/1931, Phan Khôi 1931, Lại Nguyên Ân sưu tầm, trang 352).
Trong bài "Giới thiệu và phê bình Thánh Kinh Báo", có một câu xác định rõ thời gian dịch: "Sau hết, tôi xin có lời cảm ơn ông bà Mục sư Cadman đã gởi tặng tập báo nầy cho tôi. Vì tôi làm chung việc dịch Kinh Thánh với ông trong 5 năm (1920-1925), biết ông là người yêu lẽ thật, nên thấy trái thì nói, tôi chẳng lấy làm ngại chút nào" [PNTV, số 74 (16/10/1930), Phan Khôi 1930, LNA, trang 568]. Bài này, Phan Khôi phê bình một câu trong Kinh Thánh Báo, mà Cadman viết sai một chữ.
Việc dịch Kinh Thánh, Hội Công Giáo bắt đầu từ 1872, và Hội Tin Lành, từ 1916.
Phước Nguyên viết: "Năm 1916 các nhà lãnh đạo Hội Thánh Tin Lành đã bắt đầu cho phiên dịch toàn bộ Kinh Thánh sang tiếng Việt. Công trình này kéo dài gần 10 năm và đến năm 1926, các tín hữu Tin Lành Việt Nam đã có bộ Kinh Thánh đầu tiên bằng ngôn ngữ của mình" (Phước Nguyên, Quá trình phiên dịch Kinh Thánh sang tiếng Việt, Báo Linh Lực, tháng 1/1996, baolinhluc.org)
Phước Nguyên viết lại lịch sử những bản dịch xuất hiện từ 1892 đến 1919. Trong giai đoạn này, Kinh Thánh chỉ mới được dịch từng đoạn, từng phần. Đến 1926, với sự đóng góp của Phan Khôi, bộ Kinh Thánh mới hoàn tất và được Hội Tin Lành in năm 1926.
"1923, Thánh Kinh Hội Anh Quốc xuất bản Kinh Thánh Tân Ước tại Hà Nội. Toàn bộ Kinh Thánh được thực hiện xong vào năm 1925, và xuất bản năm 1926 tại Thượng Hải.
Bản dịch này do một nhóm học giả gồm có cụ Phan Khôi, ông bà giáo sĩ William C. Cadman, giáo sĩ John D. Olsen thực hiện với sự giúp đỡ của một số thành viên khác trong đó có cụ: Trần Văn Dõng, sinh viên trường Cao Đẳng Đông Dương, cụ Tú Phúc và vài học giả khác. Tuy nhiên người phiên dịch chính là cụ Phan Khôi.
Trong suốt 70 năm qua, bản Kinh Thánh nầy được tục bản nhiều lần tại Anh Quốc, Hong Kong, Hoa Kỳ, Đức, Đại Hàn và Việt Nam. Đây là bản Kinh Thánh được ấn hành và sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Mặc dù chúng ta không có số liệu thống kê chính thức nhưng ước tính mỗi lần tái bản Kinh Thánh từ 5000 đến 10.000 cuốn; trong suốt 70 năm qua, số Kinh Thánh phát hành đã được vài trăm ngàn cuốn. Có lẽ đây là cuốn sách Việt Ngữ được phát hành nhiều nhất từ trước đến nay." (Phước Nguyên, bđd)
Sau đó tác giả liệt kê việc dịch kinh thánh từ 1925 đến ngày nay, ra chữ quốc ngữ và chữ nôm. Và ông cho biết:
"Năm 1995, toàn bộ Kinh Thánh của Giáo Hội Tin Lành đã được tái bản tại Đà Nẵng (Việt Nam). Bộ Kinh Thánh tái bản lần này là bản Kinh Thánh 1926. Việc tái bản này do Hội Thánh Tin Lành Việt Nam thực hiện với sự hổ trợ của Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (UBS). Đây là bản Kinh Thánh đầu tiên được phép in và phát hành dưới chế độ cộng sản Việt Nam". (Bài đã dẫn).
Chúng ta thử so sánh một đoạn trong kinh Tân ước, bản Tin Lành với bản Công giáo, để thấy cách dịch của Phan Khôi.
Phúc âm Matthieu (L'Évangile selon Saint Matthieu), đoạn nói về chúa giáng sinh, bản Tin Lành dịch:
Phúc âm Mã-Thi
Chúa giáng sinh
Sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế Giê-xu diễn tiến như sau: Cô Ma-ri đã đính hôn với Giô-sép, nhưng khi còn là trinh nữ, nàng chịu thai do Thánh Linh. "Giô-sép, vị hôn phu của Ma-ri là người ngay thẳng, quyết định kín đáo từ hôn, vì không nỡ để nàng bị sỉ nhục công khai. Đang suy tính việc ấy, Giô-sép bỗng thấy một thiên sứ đến báo mộng: "Giô-sép, con cháu Đa- vít! Đừng ngại cưới Ma-ri làm vợ! Vì cô ấy chịu thai do Thánh Linh. Ma-ri sẽ sinh con trai, hãy đặt tên là Giê-xu vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi xiềng xích tội lỗi" (Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước, Thánh Kinh Hội quốc tế xuất bản, Văn Phẩm Nguồn Sống phát hành, 1994, trích Kinh Tân Ước, sách Phúc âm Mã-Thi, Chúa giáng sinh, trang 1).
Bản Công giáo dịch:
Tin mừng theo thánh Mát-Thêu
Truyền tin cho ông Giu-se
Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giu-se, là con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ" (Kinh Thánh Tân Ước, nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, 2000, trang 68).
So sánh hai đoạn văn, chúng ta thấy ngay tài năng của Phan Khôi: đoạn trên ngắn hơn đoạn dưới hơn một dòng, lại rõ nghiã và hay hơn. Ví dụ Évangile dịch là Phúc âm (Hán-Việt) hay hơn Tin mừng (tiếng Việt). Không kể sự vô lý ở đoạn dưới: chưa chung sống thì sao gọi là vợ chồng? Bản tiếng Pháp phổ thông cũng ghi: "Marie, sa mère, était fiancée à Joseph". (Bà Marie, mẹ người, là vợ chưa cưới của Joseph).
Tóm lại: Bản Kinh Thánh phổ biến hiện nay của Hội Tinh Lành, là do Phan Khôi (dịch giả chính) đã dịch Tân ước và 1/3 Cựu Ước. Ông đã làm trong 5 năm (1921-1925). Qua cách dùng chữ, có thể tạm xác định: 1/3 bản Cựu ước mà Phan Khôi dịch thuộc phần đầu.
Thời kỳ dịch Kinh Thánh là thời kỳ chủ chốt, đã rèn luyện ngòi bút Phan Khôi. Nhờ sự tiếp xúc sâu sắc với Kinh Thánh, ông đã hiểu văn minh Tây phương, từ nguồn cội, vì Thánh Kinh là nguồn cội các điển tích và chủ đề lớn trong văn học Tây Phương. Việc dịch Thánh Kinh là một trường ngữ học nghiệt ngã, khiến sau này ở địa vị "ngự sử văn đàn", không những Phan viết tiếng Việt đúng mà ông còn đòi hỏi những nhà văn khác phải viết tiếng Việt cho đúng. Kinh nghiệm dịch thuật để rèn luyện tri thức của ông, đáng noi gương hậu thế.
Ba năm ở ẩn tại Cà Mau (1922-1925)
Một dấu hỏi: Tại sao khoảng 1921-1922, Phan Khôi đang ở Hà Nội, đã có việc dịch Kinh Thánh và viết báo (Hữu Thanh và Thực Nghiệp dân báo), lại bỏ vào Sài Gòn? Hữu Thanh, tờ báo của Ngô Đức Kế, một trong những thành viên chính của phong trào Duy Tân và Đông Du, vừa từ Côn Đảo trở về. Vậy Phan Khôi vào Nam, vì nhiệm vụ, hay chỉ tình cờ? Nhất là vào Sài Gòn rồi phải trốn xuống Cà Mau. Phan Thị Nga viết:
"Gặp hồi chưa có việc ông dùng thì giờ rỗi để học, ông ở tại đồn điền của một bạn ở Cà Mau, đồn điền ấy hẻo lánh quá, không có ai nói chuyện cho vui, ông vụt cầm bút viết bức thư thứ nhất, bức thư chữ Tây cho ông Dejean. Rất ngạc nhiên và khen bức thư của ông viết trôi chảy, ông Dejean bảo ông có thể dạy ông Phan trong 6 tháng, ông ta có thể viết được báo chữ Tây. Từ đó về sau ông Phan thường dịch các bài của ông Dejean viết ở các báo Tây.
Lối học của ông Phan hồi ấy là gặp chữ chi khó là hỏi, hỏi rồi tra tự vị lại cho chắc chắn và biên vào sổ con, gặp bài gì thích thì dịch" (Phan Thị Nga, bài đã dẫn).
Phan Thị Mỹ Khanh viết: "Rồi nhân có một vụ việc gì đó xẩy ra ở thành phố, ông bị mật thám tình nghi, đe dọa, phải chạy xuống Cà Mau tạm trú tại nhà một người quen thân làm chủ đồn điền tại đây. Thời gian ở ẩn ăn không ngồi rồi khá lâu, mất đến gần 3 năm, nhưng cha tôi biết tận dụng nó để làm một việc có ích là tiếp tục học tiếng Pháp bằng cách trao đổi thư từ, bài tập qua đường bưu điện với một nhà báo người Pháp ở Saigòn, tên là Dejean" (...) (Nhớ cha tôi, Đà Nẵng, 2001, trang 39).
Có một số nghi vấn:
1- Nếu không có nhiệm vụ gì, tại sao đang có việc ở Hà Nội, Phan Khôi lại vào Sài Gòn ?
2- Phan làm gì mà bị Pháp tình nghi, phải chạy xuống Cà Mau ở ẩn trong ba năm ?
3- Phan vào Nam để bắt liên lạc với Nguyễn An Ninh, vừa từ Paris về nước năm 1922 ?
4- Việc Phan Khôi học tiếng Pháp với Dejean de La Bâtie, chứng tỏ ông có liên lạc với nhóm La Cloche fêlée (Chuông rè). Xin nhắc lại: Dejean de La Bâtie, Pháp lai, đồng chí của Nguyễn An Ninh, từng làm chủ nhiệm báo Chuông rè. Phan Văn Hùm trong Ngồi tù khám lớn [Bảo Tồn, Sàigòn, 1929, Phan Tùng Mai (con Phan Văn Hùm) tái bản, Sài Gòn, 1957] cho biết: lần vào tù năm 1928, Dejean được giam cùng với người Pháp, còn Nguyễn An Ninh, thì các cai tù Pháp rất nể trọng, gọi là Monsieur.
Vậy trong ba năm ở ẩn tại Cà Mau, Phan Khôi học tiếng Pháp hàm thụ với Dejean de la Bâtie và tiếp tục dịch Kinh Thánh. Sau, người ta sẽ chắp nối hai sự kiện này, để xuyên tạc Phan Khôi làm mật thám cho Tây, cho Mỹ.
1925, viết sách Phan Châu Trinh
Tài liệu 241 của sở mật thám Nam Kỳ, mật báo ngày 1/6/1926, gửi thống đốc Nam Kỳ và Phủ toàn quyền Hà Nội, ghi:
"Tú tài Phan Khôi mà tôi đã báo Ngài cách đây mấy tháng như là một đồ đệ của Phan Châu Trinh, đã viết một tác phẩm mang tên đơn giản là "Phan Châu Trinh" tôi đã có trong tay tập sách đó với 94 trang đánh máy.(...)
Kèm theo tiểu sử của Phan Châu Trinh, tác phẩm này chứa đựng các bình luận về đời sống chính trị, tư tưởng, các dự án và công việc tuyên truyền ở Đông Dương, ở Pháp và ở nước ngoài, những quan điểm chính trị của con người được dân An Nam coi là nhà đại ái quốc. Nếu được in ra, chắc chắn sách này sẽ được hoan nghênh và kích động những người An Nam đọc chống đối chính phủ bảo hộ.
Phan Châu Trinh đã cho gọi tú tài Phan Khôi vào Nam Kỳ với ý đồ cho y viết tác phẩm này và nhiều tác phẩm chính trị khác. Nhưng tình hình sức khoẻ không cho ông ta thực hiện hoàn toàn ý đồ đó. Phan Khôi đang soạn thảo ra một tác phẩm theo dạng đó với những thông tin do các bạn cũ thân cận của Phan Châu Trinh cung cấp, trong đó có Huỳnh Thúc Kháng. Phan Khôi tính dựa vào nhà in "Bảo Tồn thư xã" đang chuẩn bị ra đời để xuất bản tác phẩm của y (...)
Phan Khôi ở nhà họa sĩ Ky đường Martin des Pallières. Y quan hệ thường xuyên với Nguyễn Pho và Dejean de la Bâtie." Ký tên P. Arnoux (tài liệu của Lê Thị Kinh, in lại trong Nhớ cha tôi, trang 279-280). Đây lại là một chứng nữa về việc Phan có giao du với Nguyễn An Ninh vì Bảo Tồn thư xã do gia đình Nguyễn An Ninh thiết lập.
Từ 1925 đến 1928, Phan Khôi viết cho Thần Chung, Đông Pháp, Văn học ở Sài Gòn và gởi bài cho Đông Tây ở Hà Nội. Hiện nay chưa có sưu tập các bài viết trong thời gian này. Đây là giai đoạn Pháp đã bình định nền cai trị, tuy nhiên vẫn có những yếu tố quan trọng:
- Đám tang vĩ đại của Phan Châu Trinh, mà Phan Khôi đã viết bài Hiệu triệu quốc dân.
- Phan Bội Châu bị bắt, nhưng Pháp không dám áp dụng án tử hình (đã xử vắng mặt), chỉ đem về quản thúc ở Huế: Nguyễn Thế Truyền đã góp phần quan trọng trong việc vận động Hội nhân quyền và viết bài trên báo Le Paria, tại Pháp.
- Sự tung hoành của ngòi bút Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường trên các báo La cloche fêlée và L'Annam, tại Nam Kỳ.
- Pháp phải cải cách giáo dục: bỏ ý định Pháp hoá người Việt (thay chữ Hán bằng chữ Pháp). Lần đầu tiên mở cấp sơ học ở Trung và Bắc, năm 1924, dậy tiếng Việt cho học trò từ nhỏ, nhờ sự vận động của Phạm Quỳnh. (Sẽ nói rõ hơn trong bài phụ lục về Nam Phong).
Phan Khôi càng thấy sức mạnh của ngòi bút, ông chuẩn bị bước vào giai đoạn nòng cốt: Phụ Nữ Tân Văn.
1928-1932: Thời kỳ Phụ Nữ Tân Văn
Từ năm 1928 đến 1932, ngòi bút Phan Khôi tả xung hữu đột trên tất cả các "mặt trận" tranh đấu xã hội và văn hoá. Hầu như ông chỉ ở trong Nam, thỉnh thoảng có viết bài cho báo Bắc, nhưng Nam Kỳ vẫn là chính. Lập luận đấu tranh dựa trên khí giới: phê bình.
1928: Phê bình Trần Huy Liệu trên báo Đông Pháp. Đặt vấn đề: Phải viết sử cho đúng.
1929: Phê bình Khổng Giáo ở Thần Chung. Tranh đấu nữ quyền và Đòi hỏi viết tiếng Việt cho đúng trên Phụ Nữ Tân Văn.
1930: Tranh luận với Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim trên Phụ Nữ Tân Văn.
1931: Phê bình cuốn Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh trong bài Cái cười của con rồng cháu tiên trên PNTV. Đây là bài phê bình văn học đầu tiên viết theo lối hiện đại.
1932: Công bố Một lối "thơ mới" trình chánh giữa làng thơ và bài Tình già, cả hai được coi là bản tuyên ngôn của Thơ mới,trên Tập văn mùa xuân, báo Đông Tây, rồi PNTV. Tư tưởng và phong cách Phan Khôi được xác định ở thời kỳ Phụ Nữ Tân Văn: cùng dòng chẩy với Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, trong việc dịch thuật, giới thiệu tư tưởng Tây phương và đặt nền móng quốc ngữ bằng cách phát triển từ vựng và nghiên cứu tiếng Việt. Lại vừa đối lập với hai vị học giả này, trong cách đưa tinh thần phản biện vào triết học, sử học, văn học và xã hội học. Sự khảo sát phong cách và tư tưởng Phan Khôi là đối tượng của một bài khác.
Phan Khôi và cộng sản
Khi lên án Phan Khôi, người ta thường dẫn bảo ông đã nói hoặc viết câu này câu kia chống Đảng chống Bác, là không đúng. Thực ra Phan Khôi chỉ chống cái dốt, cái độc tài, cái ngu dân và cái thần tượng hoá, từ trước khi có Bác có Đảng viết hoa. Ngay từ khi cộng sản mới nhen nhúm ở Việt Nam, ông đã viết những bài về cái ngu và cái dốt của họ: như bài Quân cách mạng đời nay (Trung Lập số 6151 (20/5/1930), nói về ông tướng cách mạng Trần Đại Lộc, dơ tay lên trán đỡ đạn và bài Quốc ngữ của bọn cọng sản (Trung Lập, số 6235 (1/9/1930), nói về việc cộng sản muốn sửa cách viết: Pháp viết là Fáp, gì viết là zì, đ viết là d. Và nếu chỉ muốn thay đổi quốc ngữ, cũng chẳng sao, nhưng họ lại chủ trương đấu tranh giai cấp mới phiền. Phan Khôi ghét đấu tranh giai cấp từ thời ấy (1928-1930), cùng chí hướng với Nguyễn An Ninh, vì Ninh thâm hiểu lý thuyết cộng sản và đả kích mạnh mẽ đấu tranh giai cấp.
Bình sinh, Phan không sợ ai bao giờ: 1906, Phan đã kiện triều đình vì thi cử gian lận. 1928, ông viết bài Cái dốt của triều đình Huế, [Đông Pháp, số 717 (8/5/1928)], đại ý nói: Làm Hán Việt từ điển, mà không biết từ điển với tự điển khác nhau như thế nào: Tự là chữ, mà từ là lời. Trong tự điển mỗi mục từ chỉ có một chữ. Trong từ điển mỗi mục từ có thể có nhiều chữ ghép lại. Nhưng không phải chữ ghép nào cũng được coi là từ để đem vào từ điển được. Ví dụ, thiên mã thì gọi là từ được, vì đó là một cách nói đặc biệt (expression), gần như một điển cố, chỉ việc vua Võ Đế nhà Hán có con ngựa hay lắm, vua đặt tên là thiên mã, tức là ngựa nhà trời. Còn tẫn mã (ngựa cái) hay dịch mã (ngựa trạm) thì không thể đem vào từ điển được, vì nếu cứ lấy những chữ ghép tràn như vậy, thì phải bao nhiêu từ điển cho đủ !
Bàn về việc cấm sách, ông viết: Ở thế kỷ hai mươi, đâu đâu người ta cũng hô lớn nào tự do, nào tôn trọng quyền ngôn luận, quyền xuất bản, mà lại có cái chuyện cấm sách mới lạ. "Vậy thì chúng tôi viết đây để làm chi? (...) Một cuốn sách không cấm thì người ta coi như thường, không chú ý. Đến cấm đi một cái, thì hết thẩy ai nấy đều chú ý vào nó. Cấm đi, là muốn cho người ta đừng đọc, mà không ngờ lại làm cho người ta càng đọc! (...) có nhiều cuốn sách hiển thánh rồi. Việt nam vong quốc sử và Hải ngoại huyết thư đã hiển thánh hai mươi năm nay (...) Không có cái thú gì bằng cái thú trong lúc trời mưa, đóng cửa cho chặt lại, rồi... đọc sách cấm! Cái thế lực của sách cấm là như vậy, còn cấm sách nữa thôi?... (Cấm sách, sách cấm, Đông Pháp, số 763 (1/9/1928).
Ông nói phiếm những việc dưới thời Pháp thuộc, cách đây 90 năm, mà lại trúng với việc thời nay. Trong thuật ngữ văn học, người ta gọi ông là một nhà văn có tính hiện đại.
Nhân chuyện cấm sách, lại nhớ đến một số bài của Phan Khôi, đăng trên báo Trung Lập, Sài Gòn, 1930, được Lại Nguyên Ân sưu tầm đầy đủ. Nhưng khi in thành sách, gia đình tự kiểm duyệt bỏ đi một số bài. Bản trên mạng lainguyenan.free.fr đầy đủ.
Trong số mấy bài bị bỏ, có bài Khoái cho ông Mussolini, (Trung Lập, số 6207 28/7/1930) vì khen Mussolini nên bị loại, oan. Việc khen Mussolini, năm 1930, là bình thường, chẳng có gì đáng xấu hổ, mà phải cắt, vì lúc ấy, bộ mặt trái của đảng Phát xít chưa được thế giới biết đến. Phan khen cái gì? Ông khen Mussolini đã cấm tiệt thói ăn mày: khi nước Ý có nơi bị động đất, gần 2000 người chết, vậy mà Mussolini cấm không được lập hội này hội kia xin tiền. [Gần đây nước Nhật vừa động đất, vừa sóng thần, vừa bể lò nguyên tử, mà họ có ngửa tay xin tiền ai đâu?]. Mussolini chẳng được cái nết gì, nhưng ít ra cũng được việc dạy dân không ăn mày. Việc ấy, dân ta, đến cả lãnh tụ, cũng còn đang cần phải dạy. Phan Khôi hiện đại là ở chỗ đó.
Bài "Hơn hai trăm năm còn thúi" (Trung Lập, số 6152 (21/5/1930), cũng bị cắt, vì ông kể chuyện ngày 11/5/1930, "có một nhà nọ đào móng đặng xây nhà, trong khi đào, phát lộ ra một cái quan tài xưa coi bề ngoài còn chắc. Người ta bèn mở ra xem thấy thi thể đã nát rồi, chỉ còn có bộ xương và quần áo. Quần áo cái dáng vẫn tươi tốt, nhưng khi động tới liền hoá ra tro. (...) Thế nhưng lạ một điều là lúc dỡ ra, hơi hám xông lên vẫn còn thú nực thúi nồng (...) Vậy mời biết giống người ta là giống thúi hơn hết thẩy mọi loài. (...) Cái thúi hai trăm năm còn chưa mấy chút; có cái thúi đến muôn năm, là kẻ "di xú vạn niên" kia". (Trung Lập, số 6152 (21/5/1930).
Bài này chẳng đả động đến ai, chỉ nói chuyện... người, vậy mà vì "nhậy cảm" cũng phải cắt đi. Ý Phan muốn nói đến những kẻ nhất thời "vàng ngọc dát đầy, tiền hô hậu ủng", nhưng chả biết mai sau thế nào? Có "di xú vạn niên" chăng?
Cái gương tầy liếp Thủy Hoàng đốt sách còn trơ trơ ra đó? Bọn nhà văn thường nhớ dai và bênh nhau xuyên thế kỷ. Đụng đến sách vở, hậu quả khó lường.
Đến bài Thúi thây, thì bị cắt là đúng, vì đụng tới lãnh tụ tối cao quốc tế, Phan viết:
"An Nam ta hay mắng những người biết ăn mà không biết làm là "đồ thúi thây". Kỳ thiệt An Nam ta thuở nay có mấy ai mà thây bị thúi bao giờ. Duy thấy bây giờ cái thây ông Lê Ninh nước Nga bị thúi đó thôi. Việc đời hay tréo nhau là vậy, ông Lê Ninh lại là người ăn ít mà làm nhiều! Không biết hồi họ ướp xác ông thế nào mà ngày nay đến nỗi thúi ra. Cứ theo tin mới đây thì xác ấy không thể để được nữa mà phải thiêu ra tro. Nếu vậy thì ra khoa học ngày nay lại dở hơn ngày xưa.
Ai có tri thức khá một chút, há không biết bên Ai Cập đời xưa có cái thuật ướp xác để lâu kêu là "momie" hay sao? (...) Xứ Nga lạnh hơn Ai Cập, sao xác ông Lê Ninh lại thúi? (...)
Đến như xứ An Nam mình, thuộc về ôn đới, khí hậu điều hòa, có lẽ giữ xác được lâu mà không thúi chăng? Song ngặt vì An Nam ta lại không có cái xác nào đáng ướp hết; cái thây nào cũng đáng để cho thúi quách hết thẩy". (Thúi thây, Trung Lập, số 6216 (7/8/1930)
Tóm lại, những việc Phan viết cách đây hơn 80 năm mà cứ mới như bây giờ. Đó là tính hiện đại trong ngòi bút Phan Khôi. Người ta còn gọi là nhà văn tiên tri nữa.
Phê Bình Lãnh đạo văn nghệ và Nắng Chiều
Thời kỳ NVGP, Bài Phê bình lãnh đạo Văn Nghệ là tác phẩm tiêu biểu. Phan Khôi kê khai những nét chính trong đời sống văn nghệ thời bấy giờ: kiểm duyệt lời nói, chữ viết, cấm phê bình, chỉ đạo sáng tác, đán áp nhà văn, thánh hóa lãnh tụ, bè phái văn nghệ, trong 7 điểm:
1- "Tôi muốn nói sự thực"- Nhưng người ta bảo: "có những sự thực không nên nói".
2- "Tôi muốn phê bình"- Nhưng người ta bảo, "phê bình nội bộ thì được, không nên viết lên báo, bên địch chúng thấy chúng sẽ xuyên tạc"
4- Sự giáo dục sáng tác: "Nhược bằng bắt hết mọi người viết, phải viết theo lối với mình thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết".
"Đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu!"
5- Sự đàn áp nhà văn: "Hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính trị tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa những người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công".
6- Sự tôn sùng lãnh tụ: "Tôi còn nhớ có vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ Người viết hoa, lấy lẽ rằng chữ Người viết hoa chỉ để xưng Hồ chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ Người không phải để xưng Hồ chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như ở trong chiêm bao, chiêm bao thấy mình đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê mỗ tố cáo ông Nguyễn mỗ trước ngai vàng: "Trong phép viết chỉ có chữ nào thuộc về Hoàng thượng mới phải đai, thế mà tên Nguyễn mỗ viết thư cho bạn dám xài những chữ không phải thuộc về Hoàng thượng. Nhân may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là mình đang ngồi ở trong phòng họp hội Văn nghệ".
7- Sự gian lận trong giải thưởng văn học 54-55: "Cả ba ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong ban trung khảo. Nếu ở trong ban trung khảo mà thôi còn khá, thử điều tra lại hồ sơ, thì ba ông còn ở ban sơ khảo nữa, sao lại có thể như thế? Trường thi phong kiến xưa, tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn sạch tiếng. Một người nào có con em đi thi thì người ấy có được cắt cử cũng phải hồi tỵ, không được chấm trường. Bây giờ đến cả chính mình đi thi mà cũng không hồi tỵ, một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã liêm chính cả rồi, một lẽ trắng trợn vì thấy mọi cái miệng đã bị vú lấp."
Bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ hầu như người Việt Bắc Nam, trưởng thành trong khoảng 1954, ai cũng biết.
Còn một tác phẩm nữa, hầu như không ai biết, vì nó bị chôn mất rồi. Đó là cuốn Nắng chiều. Không được in. Nhưng việc Phan Khôi đem Nắng chiều đến Hội Nhà Văn, để in, năm 1957, có thể so sánh với việc Tư Mã Thiên viết sử ký. Nhờ Đoàn Giỏi mà ngày nay chúng ta biết đến sự hiện diện của Nắng chiều: "Tháng 12/1957, Phan Khôi đưa đến nhà xuất bản Hội nhà văn một xấp bản thảo dầy, bên ngoài đề hai chữ "Nắng chiều" (Đoàn Giỏi, Tư tưởng phản động trong sáng tác của Phan Khôi, Văn Nghệ số 15 (tháng 8/1958), in lại trong Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí). Đoàn Giỏi giả giọng đả kích, để công bố cho hậu thế biết nội dung tác phẩm cuối cùng của Phan Khôi. Và ông đã phải trả giá nặng nề không kém gì một thành viên NVGP.
Nắng chiều, theo Đoàn Giỏi, gồm những bài bút ký và tạp văn viết trong kháng chiến, và mấy bài viết sau 1954: Cầm vịt, Tiếng Chim, Cây Cộng sản, Thái văn Thu, Chuyện ba ông vua Càn Long, Quang Trung và Chiêu Thống, Giới thiệu Nguyễn Trường Tộ... Và ông đã giới thiệu từng văn bản một: Truyện Thái văn Thu, đả kích bạo lực cách mạng và sự đàn áp NVGP. Chuyện ba ông vua... đả kích chế độ phong kiến ngày nay. Bài Nguyễn Trường Tộ, so sánh chế độ hiện hành với những triều đại phong kiến trước.
Riêng hai bài Cầm vịt và Tiếng chim, Phan Khôi đã "đánh vào vấn đề căn bản của chủ nghiã Mác-Lê Nin", đểxác định: Xã hội không có đấu tranh giai cấp. Của ai người nấy ăn. Vấn đề đấu tranh giai cấp chỉ là kiểu rình phần ăn của kẻ khác.
Đoàn Giỏi trích một đoạn trong bài Tiếng chim của Phan Khôi:
"Một lần ở Cẩn Nhân, tôi ngồi nơi nhà sàn, thấy hai con quạ rình bắt con gà con, một con bắt được bay ra đứng ở bờ ruộng, xé con gà ra ăn; còn con kia bị gà mẹ chống cự, bắt không được, cũng bay ra đứng cạnh con quạ thứ nhất, nó nhìn sững và đi đi lại lại, rồi cũng bay đi tuốt, nó không hề nói: "Mầy phải cho tao với!"
VàĐoàn Giỏi giải thích như sau: "Vấn đề thứ nhất Phan Khôi đặt ra là không có người bóc lột người. Vấn đề thứ hai là của ai người ấy ăn. Cho đến thứ quạ kia còn biết giành giật cái miếng không phải của nó là không ổn, và không hề nói: Mầy phải chia cho tao với" (Đoàn Giỏi, bài đã dẫn).
Bài thứ nhì được Đoàn Giỏi giới thiệu khá kỹ, là bài Cây Cộng sản, ông viết:
"... Cây Cộng sản, ngay câu đầu, Phan Khôi đã chỉ ngay vào Việt Bắc, quê hương cách mạng: "Có một thứ thực vật nữa cũng như sen nhật bản, ở xứ ta trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Đâu thì tôi chưa thấy chỉ thấy trong mấy tỉnh Việt Bắc không chỗ nào là không có". Đầu tiên Phan Khôi thấy nó rải rác mấy nơi ở tỉnh Phú Thọ, và nhiều nhất là ở Thái Nguyên và Tuyên Quang. Nó mọc trên thị trấn bị ta phá hoại "như rừng, ken kít nhau". Nơi gọi là Cỏ Bù-xít vì nó có mùi hôi như con bọ xít, nơi gọi là Cây Cứt lợn, nơi gọi là Cây chó đẻ. "Tên đều không nhã tí nào hết" thứ cây ấy những người có học không gọi bằng Cây Cứt lợn dại, mà gọi bằng Cây Cộng sản".
Rồi Đoàn Giỏi kể tiếp về gốc gác cái tên này: Phan Khôi bịa ra là trước kia xứ ta không có cây này, người Pháp đem đến giồng ở các đồn điền cà phê, cao su, rồi chẳng bao lâu nó lan ra, không diệt được, tình trạng này bắt đầu từ những năm 1930-31, cùng lúc Đông Dương Cộng sản đảng bắt đầu hoạt động, "phong trào Cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khử được như thứ cây ấy cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là "herbe communiste", đáng lẽ dịch là cỏ Cộng sản, nhưng nhiều người gọi là Cây Cộng sản. Nó còn một tên nữa rất lạ..."
Hỏi tên này là gì ? Thì Phan Khôi lại bịa lời một ông già Thổ: "ông nói tên nó là "Cỏ cụ Hồ". Thứ cỏ này trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng, thì thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường xá đồi đống, người ta không biết tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó như vậy".
Tại sao Phan Khôi đem Cây Cứt lợn, cũng gọi là Chó đẻ, là Bọ xít "toàn những tên không nhã tý nào nào hết" để gọi nó là Cây Cộng sản và Cỏ cụ Hồ?" (Đoàn Giỏi, bài đã dẫn).
Câu hỏi "ngây thơ" của Đoàn Giỏi chứng tỏ sự "đồng loã" của ông với tác giả Nắng Chiều. Dù Đoàn Giỏi lúc ấy là nhà văn của Đảng, nhưng vì bài viết này, độc giả đã quý ông như một thành viên của NVGP.
Cũng về tập bản thảo Nắng chiều, Chế Lan Viên lại một lần nữa hiện ra, đậm nét qua ngòi bút của Đào Vũ: "Đồng chí Chế Lan Viên lúc ấy có đọc bản thảo kia", "Đồng chí Chế Lan Viên lúc ấy có phân tích nhiều mặt về những ám ý xấu xa, phản động trong những “tìm tòi” ấy của Phan Khôi; và tỏ ý rất công phẫn. Chúng tôi cũng đồng tình". Khi "Phan Khôi nói với chị Chế Lan Viên nên về khuyên bảo anh ấy đừng đi theo lãnh đạo", thì "Đồng chí Chế Lan Viên lên tận phòng của y cho một bữa nên thân. Những nào: Đừng cậy già mà nói láo, đây ba mươi năm nữa cũng già, đồ đốn mạt đồ hèn v.v…" (Đào Vũ, Tính cách vô lại và bộ mặt chính trị nhơ nhớp của Phan Khôi ngày nay, Văn nghệ, số 12, tháng 5/1958).
Những ngày tháng cuối
Như chúng ta đã biết, gia đình Phan Khôi giầu có, nhờ bà Cố dựng nghiệp tỷ phú; và chính ông cũng giầu, vì viết nhiều và là một trong những nhà văn được trả nhuận bút cao nhất thời ấy. Truyện đấu tranh giai cấp Phan viết như đùa, không ngờ lại là bi kịch mà gia đình ông đã trải qua khi ông đang ở Việt Bắc. Đào Vũ kể:
"Đồng chí cùng quê với Phan Khôi ôn lại chuyện nhân dân địa phương căm thù định đến tàn phá nhà Phan Khôi từ phong trào bình dân [1936] và cho biết, ý định ấy mãi đến sau cách mạng [sau 1945] mới thực hiện được: Những nương dâu phì nhiêu kia của Phan Khôi bà con nông dân đã giành lấy về tay chia nhau trồng trọt, tre nhà Phan Khôi, vì căm thù, bà con đốn không còn một gốc, nhà của Phan Khôi, bà con đập lấy gạch về xây bao nhiêu hầm khắp làng để che chở cho dân làng kháng chiến trường kỳ. - Giữa Phan Khôi và nông dân địa phương từ bao lâu, đã diễn ra một cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt" (Đào Vũ, bài đã dẫn).
Sau Nhân Văn, Phan Khôi bị đuổi khỏi 51 Trần Hưng Đạo, Trần Duy viết:
"Cũng từ dạo ấy, tôi thấy sức khoẻ của ông Phan Khôi sa sút. Có lúc thấy ông đi không vững. Có lúc thấy ông khó thở. Ông nói với tôi ông bị sốt thường xuyên, xin được đi khám bệnh nhưng không ai ký giấy giới thiệu. Một buổi chiều tôi đến 51 Trần Hưng Đạo thì gặp cảnh: Một quan chức có quyền lực quát đuổi vợ chồng ông ra khỏi số nhà 51 Trần Hưng Đạo.
Người này quát lớn:
"Tống cổ thằng già khốn nạn này ra khỏi đây!"
Vợ ông, bà Huệ ôm chăn màn, sách vở; ông Phan Khôi lảo đảo theo sau. Ra cổng gặp tôi, ông chào và nói:"Thôi, anh về đi… Buồn không cần thiết!" (Trần Duy, Tưởng niệm về Phan Khôi, Talawas 18/6/2008)
Bị đuổi khỏi 51 Trần Hưng Đạo, Phan Khôi dọn về 10 Nguyễn Thượng Hiền, và sau đó là 73 Phố Thuốc Bắc.
Lâm Bích Thủy, con gái nhà thơ Yến Lan, nhớ về căn nhà này:
"Gia đình tôi ở phía dưới, giữa 5 gia đình khác, kề vách là gia đình cụ Khôi. Phía ngoài căn nhà cụ là chân cầu thang của hộ bà Cán, đến bể nước công cộng. Căn dành cho gia đình cụ là một cái buồng khép kín, rộng chừng 9 m2, bằng 3/4 gian nhà tôi, có thể đấy là nơi thờ cúng của chủ trước. Giữa nhà tôi và nhà cụ là một cửa sổ nhỏ, to bằng bàn cớ tướng. Tôi thường ngồi cạnh cửa sổ nhà cụ giặt giũ.
Ban đầu mới dọn về, tôi thấy ba tôi và các chú nhà thơ hay vào phòng cụ Khôi uống trà, bàn chuyện thời sự, bình luận những bài thơ vừa đăng báo; bọn trẻ chúng tôi chạy vô chạy ra nhà cụ để chơi với các anh các chị con cụ, mọi người đều thân thiện, cởi mở. Thế rồi, dần dần tôi thấy có một điều gì đó, lung lắm. Các cô các chú không xởi lởi như trước nữa. Trong cư xử tỏ ra dè dặt, dò xét. Nhà cụ Khôi cứ vắng dần bóng người lớn, vắng dần tiếng trẻ. Không khí trong ngôi nhà nặng nề, xét nét, xa lạ. Tôi hỏi má tôi "tại sao vậy?". Bà nói nhỏ sợ người khác nghe: " Ông Khôi đang bị coi là người cầm đầu nhóm Nhân văn - Giai phẩm, con không nên vào nhà cụ, có người đang theo dõi nhà mình đấy…". Tôi không hiểu Nhân văn - Giai phẩmlà tội gì, nặng đến mức nào mà ai cũng sợ liên lụy đến như thế. Tuy không nói ra nhưng ai cũng muốn chứng minh rằng mình không hề có quan hệ thân mật với gia đình cụ Khôi. Họ tránh nhà cụ như thể nhà có bệnh dịch lây lan. (...)
Dường như gia đình cụ hiểu được điều băn khoăn của mọi người nên tế nhị lấy báo dán kín cửa sổ lại. Lâu lâu tôi thấy cụ ngang qua nhà, vẫn dáng người cao, nhưng gầy yếu hơn trong bộ đồ tây màu vàng nhạt, tóc còn lơ thơ vài cọng bạc trắng, ẩn sau chiếc mũ phớt màu nâu. Trên tay cụ giờ có thêm chiếc ba-toong, gặp ai cụ không nhìn, mắt hướng thẳng phía trước như chưa hề biết họ.
Như trước đây, tôi vẫn ngồi giặt bên bể nước, cạnh cửa sổ nhà cụ. Tôi liếc nhìn cụ qua cửa sổ. Cụ ngồi trên giường, giờ cụ trầm ngâm, buồn buồn, mắt nhìn đâu đâu, tôi thương cụ quá chừng. Có lần tôi nghe cụ ngâm bằng giọng Quảng Nam: "Làm chi cũng chẳng làm chi / Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao / Làm sao cũng chẳng làm sao / Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi…" (Lâm Bích Thuỷ, Thủy chung tình bạn sau linh cữu, tài liệu Talawas).
Cái chết của Phan Khôi
Phan Cừ, Phan An viết: "11 giờ trưa ngày 16/1/1959 (mồng 8 tháng Chạp âm lịch). Ông nằm quay mặt vào tường lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng, trong sự túc trục chăm sóc của bà vợ Nguyễn Thị Huệ (...) Cỗ xe song mã màu đen quàn thi hài ông, đi sau là vợ con, cháu cùng một vài bạn hữu tiễn ông lần cuối đến nghiã trang Hợp Thiện ở phía đông thành phố Hà Nội. Trong chiến tranh, phần mộ của ông bị thất lạc". (Phan Cừ, Phan An, Phan Khôi niên biểu, Chưong Dân thi thoại, Đà nẵng, 1996. trang bđd).
Phan Thị Thái viết: "Mộ cha tôi được ghi dấu bằng tấm bia nhỏ mang tên: Chương Dân (...) Khoảng một năm trước khi mất, thầy tôi rất buồn. Mỗi dịp nghỉ hè về thăm thầy, tôi thường thấy người ngồi bàn viết lách hoặc đọc sách.
Có khi nằm đọc rồi ngủ quên nhưng hai tay vẫn giữ chặt quyển sách dày cộm, hầu hết là sách chữ Hán. Hầu như thầy tôi không có thì giờ rảnh. Sáng sáng đi vài ba đường quyền, ăn uống điểm tâm rồi ngồi vào bàn làm việc cho đến tối. Chỉ có một tuần trước khi mất, vì quá đuối sức, người đành phải lìa chiếc bàn và quyển sách. Gia tài lớn mà thầy tôi để lại cho chúng tôi là sách và rất nhiều các bài viết, các bài nghiên cứu về tiếng Việt và chữ Hán. Chúng tôi đã gìn giữ tất cả trước tác của thầy tôi trong nhiều năm và sau đó đã chuyển giao cho Viện Hán Nôm để các đồng nghiệp của ông tiếp tục công việc nghiên cứu, dịch thuật". (Phan Thị Thái, Nhớ cha tôi, học giả Phan Khôi, 19/12/1996, Kiến Thức Ngày Nay).
Lâm Bích Thuỷ viết:
"Chở linh cữu cụ là một chiếc xe có hai con ngựa kéo bị che hai bên mắt, khoảng bảy hoặc tám người, kể cả người đánh xe ngựa và ba tôi − nhà thơ Yến Lan. Nhưng điều để lại sau đám tang là sự dè bỉu và mỉa mai đối với ba tôi mà người thời bấy giờ gọi là "thằng". Sáng hôm sau, ngoài phố, họ kháo nhau bằng những câu: "Nghe nói ngoài gia đình còn có thằng cha nhà thơ nào đó cả gan đưa đám lão Phan Khôi". Giải thích điều này ba tôi nói: "Đó là đạo lý của người Việt Nam − Nghĩa tử là nghĩa tận". (Lâm Bích Thuỷ, bđd)
Theo Lại Nguyên Ân, nghiã trang Hợp Thiện, không bị chiến tranh tàn phá, mà bị chiếm đất dần để xây nhà. Năm 1970, nghiã trang này được chuyển lên Bất Bạt. Những ngôi mộ bị dời đi, có đánh số, nhưng sau gia đình không tìm lại được.
Tại sao? Có phải vì trong suốt thời gian này, gia đình không ai đến viếng chăng ?
Tất yếu của định mệnh ? Hay cố tình xoá dấu Phan Khôi ?
Điều mà Phan Khôi làm cho bà Cố cách đây hơn nửa thế kỷ, tức là kiện cái chế độ phong kiến, để mộ của bà cố được trở về chôn ở mảnh đất gia tiên, hiện chưa ai làm cho ông. Phan Khôi có mười con, và bao nhiêu cháu ?
Nếu ngày nay có một việc làm hữu ích về phía chính quyền, thì không phải là những lễ kỷ niệm, với những bài ca tụng vô bổ, mà là sự tìm lại hài cốt Phan Khôi, trong đám mộ ở Bất Bạt, xác định ADN, để dựng lại ngôi mộ Phan Khôi, xứng đáng với địa vị của một văn hào Việt Nam trong thế kỷ XX.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20110517-phan-xvi-phan-khoi-bai-3-con-duong-van-hoa
KÝ TƯỞNG NĂNG TIẾN
Chuyện Tù & Chuyện Đùa
Những trại cải tạo lao động mà tôi đã sống qua, hồi cuối thập niên 1970, đều không có điện. Mọi sinh hoạt, do vậy, được phân chia rõ rệt: từ lúc mặt trời mọc cho đến khi lặn là thời gian dành cho “công tác.” Giữa khoảng thời gian này, trại viên được “tùy nghi.” Phải sống trong cảnh tối tăm mới thấy đêm dài, nhất là những đêm đông. Có đêm, tôi khều thằng bạn nằm bên – hỏi nhỏ:
- Theo mày thì lúc nào, hay nơi nào, được coi là hạnh phúc nhất trên đời này?
- Bắc Mỹ Thuận!
Nó đáp nhẹ nhàng, không một giây do dự. Tôi ngớ người ra một lát – và chỉ một lát thôi – rồi nhớ ngay đến sông Tiền Giang, với những đám lục bình lơ lửng trên dòng nước đẫm màu phù sa, đang cuồn cuộn trôi nhanh trong nắng chiều vàng rực, giữa bến bờ xanh um, xa tầm ngút mắt.
Trong lúc cả đoàn xe xếp hàng dài, chờ đến luợt xuống phà, hành khách tấp nập ra vào những quán ăn nằm san sát bên đường. Không khí thơm lừng mùi gà nuớng, tôm nướng, heo nướng, bò nướng, cá nướng, chuột nướng…Không gian rực rỡ màu sắc của đủ loại trái cây quen thuộc, của miền Nam: khóm, mận, ổi, nhãn, soài, măng cụt, sầu riêng, chôm chôm, cam, quýt …
Duới phà chen lẫn với hành khách là những em bé bán hàng rong: xôi vị, cốm dẹp, bánh bèo nước dừa, bánh tằm bì, chuối nướng, chè đậu, gỏi gà, cháo vịt, nem nướng, chả chiên, mía hấp, bì cuốn, bún mắm, chả giò, đậu phụng, cà rem, trà đá, ốc gạo hấp lá gừng, ốc leng xào dừa, chim mía rô ti…
Tôi nuốt nước miếng cùng với ý nghĩ rằng: thằng khốn nạn này … đang đói, và đói lắm. Nói tình ngay, vào thời điểm đó (những năm đầu sau ngày “giải phóng,” và gần cả hai thập niên sau nữa) cả nước đều đói cả – và đói lả – chứ chả riêng gì mấy đứa chúng tôi.
Thời đó, may quá, đã qua rồi. Cái đói, cũng như miếng ăn, không còn là điều ám ảnh thường trực đối với người dân Việt nữa. Bắc Mỹ Thuận cũng không còn hiện hữu. Cầu Mỹ Thuận, tân kỳ và tráng lệ, đã lạnh lùng đưa những chuyến “phà ngang” đi vào … lịch sử!
Hôm nay, ngồi đọc bài viết của nhà văn Phạm Đình Trọng (“Đi Thăm Cù Huy Hà Vũ”) qua trang Dân Luận – vào hôm 24 tháng 3 năm 2012 – mà (cảm động) muốn rơi nước mắt. Đất nước đã bước vào thời kỳ đổi mới. Sự đổi thay thấm dần vào đời sống của những người đang bị giam cầm. Cảnh thăm tù ở quê hương xa xôi giờ đây (sao) giản dị, dễ dàng, và …. sung túc quá:
“Chín giờ xe chúng tôi đã dừng trước trụ cổng cao có tấm biển nhỏ màu xanh với hai hàng chữ trắng: Trại giam số 5. Phân trại 3. Mặt đỏ ửng vì khấp khởi sắp được gặp người chồng thân yêu, Dương Hà cầm sổ thăm nuôi và tập giấy chứng minh của những người đi thăm nuôi bước vào khung cổng nhỏ trước vọng gác…”
“Tôi hỏi thầy Phạm Toàn: Anh đoán xem họ có cho ta được vào gặp Cù Huy Hà Vũ không? Thầy Phạm Toàn lại nheo mắt, lom lom nhìn vào mặt tôi, chờ tôi phải trả lời chính câu hỏi của tôi. Tôi đành nói: Theo em, họ chỉ giải quyết cho ta đươc một nửa mong muốn thôi, tức là chỉ có mẹ con Dương Hà được vào gặp chồng, gặp cha, còn em với anh thì đừng hi vọng. Quả đúng như vậy. Người mang phán quyết của chỉ huy trại phóng xe máy ra. Đồ thăm nuôi trong chiếc túi lớn hai người khiêng phải bày ra bàn cho ba viên công an xăm soi kiểm tra rồi lại xếp vào túi, đưa lên xe ba gác. Buồng giam có hai người. Đồ thăm nuôi Cù Huy Hà Vũ phải mang cho cả hai dùng trong một tháng…”
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ. Ảnh: hoạ sĩ TTLan
Tôi trộm nghĩ (vì nói ra nghe hơi kỳ) rằng ở tù như vậy thì … sướng thiệt! Với “một xe ba gác thực phẩm thăm nuôi” thì tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ có thể sống ung dung đến nửa năm, chứ không phải là cả tháng.
Tuy nhiên, chỉ vài hôm sau – hôm 27 tháng 3 năm 2012 – cũng trên trang Dân Luận, tôi lại đọc được “Thông Báo Tình Hình Án Phạt Của Tiến Sĩ Cù Huy Hà Vũ” do phu nhân của ông nhờ nhiều cơ quan truyền thông phổ biến, như sau:
“Kính gửi Quý Báo,
Tối hôm qua, 26/3/2012, gia đình tôi nhận được một phong bì thư, có dấu ngày 23/3/2012 của bưu điện Thống Nhất (nơi Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đang bị biệt giam), không đề tên người hoặc cơ quan gửi. Bên trong phong bì là Thông báo tình hình chấp hành án phạt tù của Ts Cù Huy Hà Vũ ghi ngày 30/01/2012. Kính nhờ Quý Báo cho đăng để những ai quan tâm đến Ts Cù Huy Hà Vũ được rõ.
Xin trân trọng cảm ơn Quý Báo.
Nguyễn Thị Dương Hà”
Cứ theo như “thông báo” này thì người bị giam “được đánh giá là cải tạo kém” nên “trại giam số 5 thông báo để ông/bà và gia đình biết và đề nghị tiếp tục quan tâm phối hợp động viên, giáo dục anh Cù Huy Hà Vũ học tập rèn luyện tiến bộ.”
Trong một cuộc nói chuyện với BBC, vào ngày 28 tháng 3 năm 2012, bà Nguyễn Thị Dương Hà nói giấy thông báo trên giống như một “trò đùa.” Chồng con người ta bị giam cầm mà “đùa” như thế e hơi thiếu phần … tế nhị. Tuy nhiên, tôi (lại) trộm nghĩ thêm rằng tinh thần hài hước của những người điều hành trại giam hiện nay dù sao cũng có cái hay, nó giúp cho thân nhân người tù được thư giãn phần nào – nếu so với không khí căng thẳng, và thù hận, của những trại giam ở Việt Nam, mấy mươi năm trước.
Hãy nghe một người tù nổi tiếng hồi thập niên 60, ông Nguyễn Hữu Đang, nói qua (chút đỉnh) về nội qui trại giam của mình:
“Án bao nhiêu năm chẳng quan trọng, chẳng đáng kể. Không một mối liên hệ với bên ngoài, không thư từ, không thăm nom, không tiền hay quà hay lương thực gửi tới – không, anh không nhận được chút gì của bạn bè hay gia đình. Anh không có quyền nhận thăm nom, không tiếp xúc với bên ngoài.Anh chỉ sống chuyên giữa các anh với nhau, những người tù, những tù nhân chính trị. Thế giới của anh, nhân loại đối với anh là 200 người tù – không có những người đồng tổ quốc, đồng công dân; với anh, không có gì hết, chỉ có 200 người đồng ngục cùng một số phận…“Và đây là lời của một người tù nổi tiếng (không kém) khác, cũng bị bắt giam vào năm 1959, ông Kiều Duy Vĩnh:
“Mẹ tôi đến Bộ Công An ở phố Trần Bình Trọng hỏi về anh con bị tù. Gác cửa không cho vào. Nhưng từ nhà tôi ở chợ Hôm ra hồ Thiền Quang chưa đến 1 km nên hầu như liên tục khi nào mẹ tôi đi đâu là mẹ tôi lại tạt vào Bộ Công An quấy rầy họ. Đến nỗi người thường trực cứ trông thấy mẹ tôi là tránh mặt không tiếp.Nói tóm lại, vẫn theo lời ông Nguyễn Hữu Đang:
Mẹ tôi cứ đến hỏi. Hỏi mãi. Riết rồi họ phải trả lời. Nhưng cũng mất hơn 3 năm họ mới cho mẹ tôi cái địa chỉ trại tù Cổng Trời: Công Trường 75A Hà Nội. Mẹ tôi lại hỏi tiếp: Thế cái công trường này nó ở chỗ nào ở cái đất Hà Nội này? Họ bảo họ không biết…”
“Trại này có truyền thuyết là ‘vào thì không ra’, đến đây là phải bỏ xác chớ không hy vọng gì để trở về với gia đình. Trại Cổng Trời là một lò sát sinh đầy bí mật, tàn bạo và khoa học của Hà Nội. Trại này đã bí mật chôn vùi 300 anh em tù biệt kích miền Nam và hàng ngàn tù chính trị, tu sĩ và linh mục Công giáo cũng như giới trí thức chống chủ nghĩa CS của chính miền Bắc.”Đến thập niên 70 thì tình trạng ở trại giam ở Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, tử tế hơn thấy rõ. Thân nhân người tù được cho biết nơi giam giữ và được cho phép vào thăm nom, và chuyện trò qua sự giám sát của cán bộ quản giáo – theo lời của người tù Bùi Ngọc Tấn:
“Hắn bước lên bậc cấp. Người đầu tiên hắn nhìn thấy là ông Thanh Vân. Vợ hắn và Bình ngồi ở phía cuối chiếc bàn hình chữ nhật to dài. Ông Thanh Vân ngồi đầu này.Qua đến thế kỷ đầu thập niên thứ hai (của thế kỷ 21) thì người tù được thăm viếng, truyện trò, và nhận quà thoải mái – theo như ghi nhận của nhà văn Phạm Đình Trọng, qua bài viết thượng dẫn:
- Báo cáo ông, tôi có mặt.
Ông Thanh Vân chỉ tay vào một cái ghế ở giữa:
- Anh ngồi xuống. Trại giải quyết cho anh được gặp chị ấy, nhưng anh không được nhận đồ tiếp tế.
Lại thế nữa. Nhưng thôi. Không đề nghị, không van xin. Đồ tiếp tế là những thứ cứu sống mình nhưng cũng không là gì cả. Điều quan trọng là được gặp vợ, hai vợ chồng đôí thoại. Được nhìn nhau. Được nhìn Bình, người bạn không bao giờ bỏ hắn.
Những câu đối thoại không biết bắt đầu từ đâu, luôn bị ám ảnh bởi sợ hết giờ. Những câu đối thoại có sự hiện diện của ông quản giáo, chỉ là những điều dối trá. Thì thôi, hãy nói cho nhau nghe những điều dối trá. Chúng ta đã học cách nghe những lời dối trá để qua đấy biết được sự thật. Ông Thanh Vân đã lại lúi húi vào quyển sách giáo khoa. Lần này là quyển Vật lý lớp 10. Ông là một người vừa thâm canh, vừa quảng canh trí tuệ.
Vợ hắn lên tiếng trước:
- Anh có khoẻ không?
Hắn nhìn vợ. Nhìn thẳng vào mắt vợ. Vợ hắn cũng nhìn vào mắt hắn. Hai người nhìn nhau. Họ đọc trong mắt nhau tình yêu thương, nỗi khổ cực, sự đau đớn, niềm tin, sự phẫn uất, nỗi tuyệt vọng, lòng xót thương không bờ bến, sự khao khát bên nhau và nỗi hận không làm được cả vũ trụ nổ tung lên…
Hắn thở dài.
Hắn không muốn thở dài trước những ông quản giáo, vì hắn cho rằng tiếng thở dài của người tù sẽ đem lại niềm vui cho họ. Hắn không muốn tỏ ra mềm yếu trước mặt người khác. Nhưng lúc này tiếng thở dài là cái van xả xúp-páp an toàn. Nếu không người hắn sẽ nổ tung lên mất. Cả người hắn như một quả núi lửa, nghẹn ngào…
Ngọc giàn giụa nước mắt, những dòng nước mắt lặng lẽ. Hắn nhìn vợ không bằng lòng. Cái nhìn ấy muốn nói: Đừng khóc em. Có ai thương chúng mình đâu. Những giọt nước mắt của em anh không trả được.
Ông Thanh Vân rời quyển sách Vật lý lớp 10, đứng lên:
- Thôi. Hết giờ gặp. Anh Tuấn chuẩn bị về trại…”
( Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập I. CLB Tuổi Xanh, Hoa Kỳ: 2000, 31- 34).
“Đồ thăm nuôi trong chiếc túi lớn hai người khiêng phải bày ra bàn cho ba viên công an xăm soi kiểm tra rồi lại xếp vào túi, đưa lên xe ba gác. Buồng giam có hai người. Đồ thăm nuôi Cù Huy Hà Vũ phải mang cho cả hai dùng trong một tháng…”Hệ thống nhà tù của nước CHXHCNVN, rõ ràng, mỗi ngày một bớt phần… man rợ. Hay nói một cách lạc quan hơn, và tích cực hơn, là mỗi lúc một thêm văn minh và tiến bộ. Tuy thế, phu nhân của tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ (bà Nguyễn Thị Dương Hà) xem chừng vẫn còn hơi thất vọng về cung cách làm việc “như đùa” của ban điều hành Trại Giam Số 5 – ở Thanh Hoá.
Tôi e rằng bà Nguyễn Thị Dương Hà đã có những kỳ vọng (hơi) cao quá. Việt Nam (chả may) là một quốc gia tụt hậu, và đang bị nhân loại bỏ lại phía sau – như bỏ rơi một đôi dép rách. Trong hoàn cảnh đó, ở những nơi giam cầm tối tăm mà tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ vẫn còn nguyên vẹn chân tay (tưởng) đã là … may mắn lắm rồi!
Đã thế, họ còn chịu khó gửi “thông báo về tình hình chấp hành án phạt tù” của người bị giam cho thân nhân nữa. Theo tôi, bà Dương Hà nên coi đây lấy một dấu hiệu đáng mừng. Đây là một chuyện đùa (cho vui) chỉ có thể xẩy ra trong giai đoạn đất nước đã bước vào thời đổi mới.
Tưởng Năng Tiến
4/2012
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0213
TIỂU NGUYÊN KINH THÁI LANG
All Chinese and Taiwanese Must Read !
Về
địa lý, Nhật Bản và Trung Hoa rất gần nhau, nhưng mà về tính
cách thì hai dân tộc lại xa nhau một trời một vực. Người Hoa Lục
(Trung Cộng) cho tôi cảm nhận cái ấn tượng lúc ban đầu là rất tốt,
nhưng về lâu về dài, thì những khuyết điểm đều bạo lộ hết ra ngoài.
Người Hoa Lục nhát gan, nịnh hót, hèn yếu, hư ngụy, xảo trá,
thích làm tài khôn và cái điều làm cho tôi không thể nào lý giải
được là tại sao người Hoa Lục tự đối đãi với chính đồng bào ruột
thịt của họ thì rất ư là vô tình, nhưng lại đối đãi với người
ngoại quốc thì họ rất khép nép và cung kính.
Lúc tôi mới vừa đến Hoa Lục,b ất quá thì tôi chỉ là một tên học trò nghèo khó, ấy thế mà tôi lại được đãi ngộ như là một "siêu quốc dân"; kinh nghiệm của nhiều năm ở đó, cho tôi một ấn tượng rất sâu đậm, người Hoa Lục chẳng khác nào một thau cát rời rạc, người Hoa Lục đoàn kết một lòng là có, nhưng điều đó chỉ xảy ra ở vào những thời điểm đặc biệt, tỷ dụ như dân tộc họ đang đối diện với sự diệt vong, nhưng mà đó lại cũng không phải là một sự đoàn kết triệt để nữa, người Hoa Lục đối diện với Ngoại Đấu và Nội Tranh thì hầu như nghiêng về phần Nội Tranh nhiều hơn, người Hoa Lục hận nhứt là Hán Gian.
Lúc tôi mới vừa đến Hoa Lục,b ất quá thì tôi chỉ là một tên học trò nghèo khó, ấy thế mà tôi lại được đãi ngộ như là một "siêu quốc dân"; kinh nghiệm của nhiều năm ở đó, cho tôi một ấn tượng rất sâu đậm, người Hoa Lục chẳng khác nào một thau cát rời rạc, người Hoa Lục đoàn kết một lòng là có, nhưng điều đó chỉ xảy ra ở vào những thời điểm đặc biệt, tỷ dụ như dân tộc họ đang đối diện với sự diệt vong, nhưng mà đó lại cũng không phải là một sự đoàn kết triệt để nữa, người Hoa Lục đối diện với Ngoại Đấu và Nội Tranh thì hầu như nghiêng về phần Nội Tranh nhiều hơn, người Hoa Lục hận nhứt là Hán Gian.
Các bạn là người Hoa Lục các bạn làm sao lý giải, nếu như nói người Hoa Lục là lương thiện, hư ngụy việc chi tôi thật chẳng biết đó là chuyện gì, nếu như người Hoa Lục đơn thuần không có việc nồi da xáo thịt, thì đây có thể nói là lương thiện, nhưng khi xảy ra cuộc Cách Mạng Văn Hóa, thì tình huống đã đổi khác, thật tình mà nói, đối với việc làm của các bạn, tôi thấy chẳng có điểm nào để gọi là cảm ơn, nếu có thì chỉ là nghi vấn và không thể nào lý giải mà thôi.
Còn nữa, tôi cũng không thể nào hiểu nổi tại sao các bạn lại không nhận khoản tiền bồi thường sau chiến tranh của Nhật Bản. Không có một dân tộc nào giống như dân tộc người Hoa Cộng đối nội thì tàn bạo, nhưng đối ngoại thì lại ẩn nhẩn. Điều này đã làm cho tôi liên tưởng đến sự quan hệ giữa Do Thái và Đức Quốc. Thật lòng mà nói tôi rất thán phục người Do Thái, thái độ không khoan thứ không nhờ vả đối với người Đức của họ, đã tỏ rõ sự trọng thị quyền lợi và giá trị tự kỷ.
Họ không tha thứ người Đức, nhưng người Đức rất kính trọng họ. Ngược lại, tại phương Đông, hiện thực người Nhật Bản rất khinh thị người Trung Hoa, các bạn vứt bỏ bồi khoản, các bạn tha thứ chúng tôi, chúng tôi vẫn hận các bạn, khinh thị các bạn, bỉ thị các bạn, nguyên nhân không phải tại chúng tôi, mà là do bởi tự chính các bạn, các bạn tự khinh tự tiện (đê tiện), người ngoài cũng không làm sao có cách để giúp các bạn, người Hoa Lục không có huyết tính, ý khí đã bị mài cùn lụt hết rồi, cái còn lại chỉ là hơi tàn, tự ti và ngôn ngữ của các bạn hiện là sùng bái Tây Dương với cung cách nịnh hót để làm cho Ngoại Nhân vui thích.
Các bạn tự cho là Văn Minh Cổ Quốc, nhưng ngoại trừ những kiến trúc giết người rùng rợn, những văn vật trong các viện bảo tàng,s inh hoạt của người Hoa Lục trong hiện thực có còn lưu lại cái bóng dáng văn minh truyền thống hay không ? Không sai, Nhật Bản đã từng chịu sự ảnh hưởng văn minh của Trung Hoa trong thời gian dài lâu, nhưng mà hiện tại sự bảo tồn văn hóa và duy trì được như xưa của người Hoa Lục lại chỉ ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Tân Gia Ba, chứ không ở Hoa Lục.
Các bạn đem thành tín, tiết nghĩa, lễ nghi, tứ thư ngũ kinh coi như bốn thứ đồ phế thải mà quét vào bãi rác, tiếng nói là kiến lập một xã hội mới, có ngờ đâu lại như thế này. Các bạn dĩ nhiên là thấy rõ ràng hơn chúng tôi, một đằng thì tham ô hủ bại (lời quỷ dối người của các bạn :"hủ bại là vấn đề mà các nước trên toàn thế giới đều phải đối diện"), tham bạc mê vàng, ca kỹ dâm ô, chơi chó đua ngựa, còn đằng khác thì nghèo đến nổi cơm ăn chẳng đủ no.
Làm đồ giả, thi` Hoa Cộng không ai địch nổi, thổi phồng nói dóc,thấy lợi quên nghĩa,các bạn không có tín ngưỡng, tin chũ nghĩa Mac-xit.
Nếu mà Marx có biết được cái chủ nghĩa của ông ta mà là một cái xã hội như vậy, chắc là ông ta cũng phải tức chết đi thôi, tinh thần rổng tuếch, chẳng ai tin ai, thật không thể nào mà trách một cái thau cát rời rạc.
Người Hoa Lục hiện tại, với mức độ vô tri, ngu muội như thế, nếu thụt lùi trở về ở thời của năm 1895 thì cũng chẳng tốt hơn được là bao nhiêu !
Trung Cộng là một đại quốc, nhưng mà về chính trị thì tuyệt đối là một kẻ yếu. Các bạn từng trào tiếu Nhật Bản chúng tôi là chính trị ải tử (thằng lùn) nhưng mà chúng ta thử so sánh chế độ xã hội, coi xem cái xã hội nào trên thế giới ăn ngủ được ngon ?
Xã hội chủ nghĩa chỉ còn có vài ba nước mà thôi, lại không đoàn kết, chuyên chế, độc tài, thế giới chẳng hoan nghinh, nhưng vì Trung Cộng bạn quá to lớn, cho nên được thấy là trọng yếu, nhưng các bạn vẫn luôn là đối tượng ở thế công chính trị đối với Tây phương, chưa bao giờ tự chủ động xuất kích (để cải thiện), lý do là vì các bạn không làm, nhân quyền bị thế giới lên án bao nhiêu năm nay ?
Ai đem nhân quyền là quyền sống tối đại của con người đi giáng cách (chà đạp nhân quyền)? Cách Mạng Văn Hóa, Bước Đại Nhảy Vọt, bao nhiêu cái sai lầm của chính phủ của các bạn, các ca xướng gia của các bạn vẫn hát: người dẫn đường cải cách khai phóng, dắt chúng tôi đi về hướng thời đại mới. Giờ thì không còn người dân Hoa Lục nào ngoan ngoản, nghe theo, ở vào thời đại văn minh như ngày nay thì cái tình huống như thế thật là hiếm có rồi. Các bạn người Hoa Lục đang tự hủy hoại chính mình, trí tuệ của chính mình, tài nguyên của chính mình. Kinh tế Hoa Lục các bạn phát triển nhanh, cái giá phải trả có xứng đáng không ? Tài nguyên khô kiệt, môi trường sinh thái bị ác hóa.
Nguồn tài nguyên năng lượng tuyệt vời của tỉnh Sơn Tây của các bạn đã bị chính các bạn hoang phí hủy hoại đến thế nào, kinh tế lạc hậu, dân sinh suy thoái, tham quan hoành hành. Các bạn có biết chăng, thời Trung Hoa Dân Quốc thống trị Hoa Lục, Sơn Tây hãy còn là một tỉnh mô phạm.
Các bạn cũng chẳng biết địa vị của Sơn Tây trong lịch sử Trung Hoa, kinh tế của tỉnh Sơn Tây thịnh vượng ở thời Thanh triều, một nửa số quan tể tướng ở thời nhà Đường đều xuất thân từ tỉnh Sơn Tây, địa vị của Sơn Tây cao hơn xa so với thành phố Thượng Hải mà các bạn đã từng tự hào huênh hoang khen tặng. Bây giờ các bạn hãy thử nhìn Sơn Tây, là sẽ biết ngay cái gì là cái khoảng cách giữa lịch sử và hiện thực rồi (GDP bình quân đầu người Hoa Lục là số 1 từ dưới chót đếm lên).
Các bạn hoang phí và hủy hoại tài nguyên như thế, giả sử như Sơn Tây được mang cho Nhật Bản, chúng tôi sẽ rất trân trọng như là tổ tiên mà cung phụng để phát triển Sơn Tây, và Sơn Tây sẽ giàu mạnh hơn nhiều so với Bắc Kinh, Thượng Hải cường thịnh mà các bạn đã từng trọng thị.
Các bạn, kinh tế phát triển nhanh, rồi mừng rỡ mà dùng cái quái gì là Thượng Hải, là Bắc Kinh làm cửa sổ để ngắm nhìn, ngu xuẩn quá ! Hai thành phố đó chiếm diện tích Hoa Lục là bao nhiêu, dân số bao nhiêu ? Các bạn trường kỳ khinh thị nông dân, 9 trăm triệu nông dân mà không chiếu cố tốt cho họ. Hoa Lục các bạn sẽ phải đối diện với đại loạn rồi đó !
Lúc ở Bắc Kinh, tôi đã có nói chuyện với một bà lão người đến từ tỉnh Sơn Đông. Bà là người đã dắt hai đứa con gái của bà đến Bắc Kinh để cùng bán dâm, bà nói, nhờ ở thân xác mình mà có cơm ăn, không xấu hổ đâu, có xấu hổ chăng là cái xã hội này kìa, vì hơn 40 năm trước, chính quyền sở tại đã khua chiêng gióng trống mang mấy nghìn dân bản xứ (Sơn Đông) di dân đến Tân Cương, đưa đến vùng hoang vu sơn dã để họ tự sinh tự diệt. Số người bị chết nơi đó không biết là bao nhiêu nhưng họ vẫn không cho trở về Sơn Đông, lén trốn về Sơn Đông cũng chẳng ích gì.
Hoa Lục giàu nhưng mà số người thất nghiệp lại gia tăng, thêm một người thất nghiệp là xã hội sẽ có thêm một nhân tố bất ổn định cho xã hội.''
Các bạn không giải quyết, thu nhập của nông dân thấp, các bạn không quan tâm, khoảng cách giàu nghèo càng xa, các bạn lại làm như là chẳng thấy gì ! Cái mà các bạn thích là người ngoại quốc tán dương, cái điểm này nhiều người đã thấy rất rõ, các bạn hư vinh, xa xỉ, xã hội của các bạn hổn loạn, các bạn lại muối mặt không biết xấu hổ mà dám nói là thời của người Nhật đã hết rồi, Hoa Lục Cộng Sản đã vượt xa Hoa Kỳ rồi, ha ha, o^i cái nhìn thiển cận !
Các bạn bất quá chỉ mới "cởi mở" hai mươi mấy năm, mà đã láo khoét như vậy. Kinh tế Nhật Bản đang đình trệ, các bạn liều mạng "phát triển" mười năm vẫn không đạt được 1/4 tổng sản lượng kinh tế của Nhật Bản, vậy mà dám nói vượt xa Hoa Kỳ, chuyện thần thoại chăng ? Còn nữa, tình hình thế giới không tốt cho các bạn, nhưng mà Nhật Bản, nhờ vào chế độ ưu việt, người dân thật lòng, cùng với sự chân thành giúp đỡ của Tây Phương, là lý do đủ để tái phục hồi.
Còn Hoa Lục, bởi hình thái ý thức, chế độ, với Hoa Kỳ hoặc với các nước tự do khác không thể dung nhập cùng nhau. Hoa Lục ổn định cái gì, một khi mà xã hội hổn loạn, kinh tế băng hoại, các nước xung quanh không có ai ủng hộ, cũng bởi vì nước của các bạn trước sau vẫn luôn cho người ta cái nhìn phản cảm. Bởi vậy Nhật Bản tuy thua trận, vẫn có cơ hội vươn lên.
Hoa Lục thua, chắc chắn sẽ hoàn toàn chia năm sẽ bảy. Các quốc gia xung quanh đều mong muốn Hoa Lục như vậy. Nước Nga chẳng muốn các bạn được yên. Ấn Độ hận các bạn. Đông Nam Á hận các bạn. Bởi vậy hoàn cảnh của các bạn rất là tệ hại và bấp bênh, ấy thế mà các bạn vẫn chẳng hề thấy được cái nguy cơ đó, vẫn cảm giác lương hảo, như vậy rõ ràng là quá ngu muội.
Trong những sắc dân Đông Phương, chúng tôi tôn kính người Hàn Quốc, bởi vì họ và chúng tôi rất giống nhau, có máu có thịt, dám nói dám làm, lịch sử của chúng tôi và của các bạn đã từng có vấn đề va chạm nhau.
Người Hàn Quốc từ ông Tổng thống đến quốc dân đều có thể kháng nghị. Trung Cộng thì chỉ có vài ba người phát ngôn của bộ ngoại giao với sự hiểu biết thiển cận, không biết khinh trọng, chỉ biết ở đó ý ý á á. Ha ha...đấy là cái sự khác biệt đó !
Người Hàn Quốc hận chúng tôi, nhưng chúng tôi kính trọng người đối thủ này. Bạn hận hay không hận chúng tôi, chúng tôi cảm nhận không có chuyện gì để nói, bởi vì tính cách của các bạn, phẩm hạnh của các bạn cho thế giới thấy rõ: người Hoa Lục không có tính thẳng thắn, cương trực. Hiện tôi đang suy nghĩ, Không quên việc trước (lịch sử) sẽ là thầy của việc sau (tiền sự bất vong, hậu sự chi sư) như vậy cuối cùng, giữa Nhật và Hoa Cộng ai là người đã bỏ quên lịch sử ?
Chúng tôi tham bái thần xã, sửa lại sách giáo khoa lịch sử, nói rõ là chúng tôi không có quên cái giai đoạn lịch sử đó,c òn các bạn ? Những người bị hại trong thế chiến thứ hai ? Các bạn chỉ vì lo tranh chấp trong đảng phái, mà không nghĩ đến đại nghĩa của dân tộc.
Nói gì đến cái chuyện trong 8 năm kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Trung Hoa, sách sử của các bạn viết về giai đoạn lịch sử đó so với chúng tôi, sao nó quá mơ hồ, không rõ ràng, là bởi vì các bạn tự bóp méo lịch sử, ha ha! (một lần nữa cho thấy rõ là nội tranh nặng hơn ngoại kháng).
Các bạn chửi chúng tôi là không nhìn thẳng vào vấn đề xâm lược Trung Hoa, làm thương tổn đến cảm tình người dân Hoa Lục, thế còn các bạn thì sao ? Qua nhiều lần vận động "cải tổ" chính trị, các bạn đã có nhìn thẳng vào sự bức hại của mình đối với người dân hay chưa ? Có nhìn thẳng vào sự hủy hoại của cách mạng văn hóa hay chưa ? Các bạn cần phải trực thị với rất nhiều điều sai lầm đó.
Đó là do ai(?)đã làm tổn hại cảm tình của người dân Trung Hoa vậy hở ? Làm phim Tàn Sát Thành Nam Kinh, trong số các bạn lại có những người vô lương đã thốt lên là tại làm sao không có nhiều màn hiếp dâm trên ống kín.
Các bạn người Hoa lục là cái kiểu như vậy, làm sao kêu người ta chấp nhận được hỉ ? Các bạn có thể không có khả năng, nhưng các bạn lại còn không cần đến nhân cách. Người Mỹ đánh chúng tôi đến gần chết, chúng tôi không hận họ, chúng tôi bội phục họ, Hàn Quốc bị chúng tôi thống trị qua, bây giờ họ đã thành công lập được kỳ tích kinh tế, họ dám tranh đấu và dám làm, chúng tôi kính phục họ.'
Còn các bạn, người Hoa Lục cộng sản, thì chẳng có được một cái điểm nào để cho chúng tôi coi trọng cả. Hãy cố gắng phản tỉnh đi ! Các bạn co' đất rộng và giàu tài nguyên, lịch sử lâu đời, thế mà phải thua dưới tay chúng tôi, các bạn không cảm thấy xấu hổ hay sao ?
Một cái thau cát rời rạc sinh ra đầy chật ních đám người toàn chia rẻ, thời đại của các bạn giờ còn có thể sinh ra được những chí sĩ gì nữa hay không ? Trung Hoa Dân Quốc còn có Lỗ Tấn, Thái Ngạc, Chu Tự Thanh là những người mà chúng tôi bội phục. Bây giờ các bạn, ngoài những tay tham quan, hư hoa học giả, những phần tử tư tưởng khiếp hèn, thì còn có cái gì nữa đâu ?'
Các bạn chẳng đã từng nói muốn vun bồi tài năng người bản địa để họ được làm chủ nhân của những giải thưởng hòa bình Nobel hay sao ? Tại vì sao đến bây giờ vẫn chẳng có được vậy ? Vụ máy siêu điện toán dùng chip Loongson của các bạn, tần số chủ mới chỉ có 266Hz (Hertz), thế mà dám lớn lối thổi phồng đòi thương nghiệp hóa, ha ha ! Người Hoa Lục, chúng tôi kính phục các bạn cái gì chứ ??
Do Thi Thuan
http://biendongnama.tk/
http://anhduong.nethttp://hoangvan.net
http://anhduong.net/HoaSi/HoangVan/
____________________
Ba nguoi vo toi nhu nha bao Dieu Cay ,
Viet Khang va Nguyen Trung Linh bi mat tu do
Tuc la moi nguoi dan Viet deu khong co tu do
Viet Khang da bi mang di dau?
Sao lai nhot Nguyen Trung Linh vao nha thuong dien?
Hay tra tu do cho Dieu Cay, Viet Khang va Nguyen Trung Linh!
http://anhduong.net/HoaSi/HoangVan/
____________________
Ba nguoi vo toi nhu nha bao Dieu Cay ,
Viet Khang va Nguyen Trung Linh bi mat tu do
Tuc la moi nguoi dan Viet deu khong co tu do
Viet Khang da bi mang di dau?
Sao lai nhot Nguyen Trung Linh vao nha thuong dien?
Hay tra tu do cho Dieu Cay, Viet Khang va Nguyen Trung Linh!
BÙI TÍN * TRUNG QUỐC
Bùi Tín Blog
Thứ Năm, 05 tháng 4 2012
Giáo sư G.Chang vẫn khẳng định: Trung Quốc sẽ sụp đổ
Hình: VOA Chinese - Tina Chung
Gordon
Chang là một giáo sư, một học giả Hoa Kỳ gốc Trung Quốc, từng viết
nhiều sách và bài báo về tình hình chính trị-kinh tế-tài chính của
Trung Quốc. Ông cũng là nhà bình luận có tiếng của tạp chí Forbes, một
tạp chí lớn về kinh tế - tài chính, ra đời từ năm 1917, mỗi tuần ra 2
số, có trụ sở ở New York.
Năm 2001, ngay khi Trung Quốc vừa được gia nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế WTO, Gs Gordon Chang cho ra mắt cuốn sách The coming collapse of China (Sự sụp đổ sắp đến của Trung Quốc).
Cuốn sách trình bày một loạt «quả bom nổ chậm» của Trung Quốc, đó là dân số quá lớn, lại đang phát triển nhanh; mâu thuẫn giữa thành thị phát triển nhanh với nông thôn quá trì trệ; vùng duyên hải phát triển quá mạnh với vùng nội địa phát triển chậm; mâu thuẫn giữa các dân tộc, đặc biệt là dân Tây Tạng, Uighur với dân tộc đại Hán; mâu thuẫn thế hệ giữa tuổi trẻ am hiểu thế giới xung quanh qua máy điện toán, Twitter, Facebook, điện thoại cầm tay với lãnh đạo bảo thủ lạc hậu; mâu thuẫn giữa khối người theo Pháp Luân Công với chế độ cảnh sát trị…
Những quả bom nổ chậm ấy đang ngấm ngầm phá vỡ cái vỏ ổn định bên ngoài của chế độ, và đến độ nào đó sẽ phát huy tác dụng tổng hợp, thúc đẩy nhau đưa chế độ độc đảng đến tình trạng bùng nổ vỡ tung như ở Liên Xô năm 1991.
Trong kết luận của cuốn sách nói trên, Gs Chang phỏng đoán rằng chỉ trong chừng 10 năm nữa, Trung Quốc sẽ tan vỡ, sụp đổ, nghĩa là vào khoảng 2011-2012.
Gần đây, một số bạn đọc của tạp chí Forbes, và trên mạng Forbes.com, hỏi rằng đến thời điểm này, Gs Chang có còn giữ chính kiến trên đây nữa không?
Bài báo mới vào tháng 2-2012 của Gs Chang trên tạp chí Forbes là để trả lời câu hỏi đó. Bài báo kết luận một cách chắc nịch: «Tôi không thấy có lý do nào để từ bỏ kết luận 10 năm trước. Thực tế càng khẳng định kết luận ấy».
Ông giải thích thêm về lập luận của ông như sau:
- Thời kỳ vàng son cho sự phát triển do Đặng Tiểu Bình phát động cuối những năm 1980 đã qua; mỗi chu kỳ phát triển thường không thể quá 30 năm; đà phát triển đã cạn, lợi thế của sự chấm dứt chiến tranh lạnh cũng cạn theo; quả ngọt của dân số tăng làm tăng sức lao động đã thành quả đắng về dân số.
- Mới đây Bắc Kinh quyết định không cho công ty nước ngoài mua lại các công ty nội địa và chủ trương tái quốc hữu hoá một số công ty đã cổ phần hóa là những bước lùi về đường lối.
- Từ năm 2008, thị trường quốc tế đổ vỡ, nhu cầu quốc tế sụt giảm mạnh, Trung Quốc bị thiệt rất lớn khi đồng Euro bị khủng hoảng.
- Nhu cầu tăng lương cho người lao động toàn xã hội không thể trì hoãn, chi phí quốc phòng tăng quá lớn, chi phí y tế, giáo dục không tăng- trên thực tế là giảm tính theo đầu người - sẽ dẫn đến nhiều khó khăn gay gắt, thảm họa xã hội chồng chất.
- Dự trữ ngoại tệ tuy rất lớn nhưng đã giảm nhanh, do lạm phát cao, lại do tiền chạy ra nước ngoài theo khối lượng lớn, đặc biệt là từ tháng 9-2011,
- khủng hoảng kinh tế ngày càng đậm nét, đơn đặt hàng công nghiệp giảm mạnh, ô tô không còn bán chạy, bong bóng tài sản và nhà cửa phình to có nguy cơ nổ bất cứ lúc nào.
- Năm 2010 đã có 150.000 cuộc đấu tranh, biểu tình, bạo loạn, đánh bom, tự thiêu … nói lên sự bất mãn của quần chúng; năm 2011 lên đến 280.000 cuộc; kỷ lục này sẽ bị vượt trong năm 2012. Đúng vậy, sang năm 2012, số thanh niên, nhà tu hành, nhà sư tự thiêu tăng nhanh; các vụ nổi loạn, đập phá cơ quan chính quyền, công an ở Tây Tạng, Uighur liên tiếp nổ ra, người theo Pháp Luân Công ngày càng gan góc, những bloggers trí thức trẻ tuổi ngảy càng đông thêm và bất khuất…
Đúng vào khi Gs Gordon Chang dự đoán sự sụp đổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không còn xa, đảng CS bãi chức ông Bạc Hy Lai, ủy viên Bộ Chính trị đang lên, đưa ông ra khỏi chức vụ bí thư thành uỷ Trùng Khánh, sau vụ ông Vương Lập Quân, phó thị trưởng đặc trách ngành công an, xin tỵ nạn chính trị tại lãnh sự quán Hoa Kỳ tại đây nhưng bị từ chối.
Ông Tập Cận Bình, người sẽ thay ông Hồ Cẩm Đào trên cương vị tổng bí thư kiêm chủ tịch nước tại Đại hội Đảng lần thứ 18 vào cuối năm nay, cũng vừa đưa ra nhận định rất bi quan: «Trung Quốc đang là nơi tập trung mọi thứ thối nát», trong khi đương kim Thủ tướng Ôn Gia Bảo cũng nhận định là cần phải thay đổi nhiều về kinh té - tài chính và chính trị để tồn tại, nhưng thay đổi ra sao, thay đổi đến đâu thì không ai dám nói rõ. Vì không thay thì bế tắc, thế cùng tất biến, mà thay cả hệ thống thì cũng là biến, là bế tắc và đổ vỡ cho chế độ độc đảng.
Gs Chang là nhà trí thức am hiểu thời cuộc, một nhà bình luận có uy tín của tạp chí Forbes, không phải là nhà xem bói, đoán mò, bấm độn. Ông đoan chắc chế độ cộng sản ở Trung Quốc đang đi dần đến bờ vực. Ông khẳng định rằng « trước những diễn biến hiện tại của tình hình, ông không có lý do nào để từ bỏ dự đoán về sự sụp đổ không xa của Trung Hoa Cộng sản ». Cuốn sách The coming collapse of China (Sự sụp đổ sắp đến của Trung Quốc) vẫn còn nguyên giá trị.
Chúng ta hãy theo dõi tình hình và chờ xem.
* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Năm 2001, ngay khi Trung Quốc vừa được gia nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế WTO, Gs Gordon Chang cho ra mắt cuốn sách The coming collapse of China (Sự sụp đổ sắp đến của Trung Quốc).
Cuốn sách trình bày một loạt «quả bom nổ chậm» của Trung Quốc, đó là dân số quá lớn, lại đang phát triển nhanh; mâu thuẫn giữa thành thị phát triển nhanh với nông thôn quá trì trệ; vùng duyên hải phát triển quá mạnh với vùng nội địa phát triển chậm; mâu thuẫn giữa các dân tộc, đặc biệt là dân Tây Tạng, Uighur với dân tộc đại Hán; mâu thuẫn thế hệ giữa tuổi trẻ am hiểu thế giới xung quanh qua máy điện toán, Twitter, Facebook, điện thoại cầm tay với lãnh đạo bảo thủ lạc hậu; mâu thuẫn giữa khối người theo Pháp Luân Công với chế độ cảnh sát trị…
Những quả bom nổ chậm ấy đang ngấm ngầm phá vỡ cái vỏ ổn định bên ngoài của chế độ, và đến độ nào đó sẽ phát huy tác dụng tổng hợp, thúc đẩy nhau đưa chế độ độc đảng đến tình trạng bùng nổ vỡ tung như ở Liên Xô năm 1991.
Trong kết luận của cuốn sách nói trên, Gs Chang phỏng đoán rằng chỉ trong chừng 10 năm nữa, Trung Quốc sẽ tan vỡ, sụp đổ, nghĩa là vào khoảng 2011-2012.
Gần đây, một số bạn đọc của tạp chí Forbes, và trên mạng Forbes.com, hỏi rằng đến thời điểm này, Gs Chang có còn giữ chính kiến trên đây nữa không?
Bài báo mới vào tháng 2-2012 của Gs Chang trên tạp chí Forbes là để trả lời câu hỏi đó. Bài báo kết luận một cách chắc nịch: «Tôi không thấy có lý do nào để từ bỏ kết luận 10 năm trước. Thực tế càng khẳng định kết luận ấy».
Ông giải thích thêm về lập luận của ông như sau:
- Thời kỳ vàng son cho sự phát triển do Đặng Tiểu Bình phát động cuối những năm 1980 đã qua; mỗi chu kỳ phát triển thường không thể quá 30 năm; đà phát triển đã cạn, lợi thế của sự chấm dứt chiến tranh lạnh cũng cạn theo; quả ngọt của dân số tăng làm tăng sức lao động đã thành quả đắng về dân số.
- Mới đây Bắc Kinh quyết định không cho công ty nước ngoài mua lại các công ty nội địa và chủ trương tái quốc hữu hoá một số công ty đã cổ phần hóa là những bước lùi về đường lối.
- Từ năm 2008, thị trường quốc tế đổ vỡ, nhu cầu quốc tế sụt giảm mạnh, Trung Quốc bị thiệt rất lớn khi đồng Euro bị khủng hoảng.
- Nhu cầu tăng lương cho người lao động toàn xã hội không thể trì hoãn, chi phí quốc phòng tăng quá lớn, chi phí y tế, giáo dục không tăng- trên thực tế là giảm tính theo đầu người - sẽ dẫn đến nhiều khó khăn gay gắt, thảm họa xã hội chồng chất.
- Dự trữ ngoại tệ tuy rất lớn nhưng đã giảm nhanh, do lạm phát cao, lại do tiền chạy ra nước ngoài theo khối lượng lớn, đặc biệt là từ tháng 9-2011,
- khủng hoảng kinh tế ngày càng đậm nét, đơn đặt hàng công nghiệp giảm mạnh, ô tô không còn bán chạy, bong bóng tài sản và nhà cửa phình to có nguy cơ nổ bất cứ lúc nào.
- Năm 2010 đã có 150.000 cuộc đấu tranh, biểu tình, bạo loạn, đánh bom, tự thiêu … nói lên sự bất mãn của quần chúng; năm 2011 lên đến 280.000 cuộc; kỷ lục này sẽ bị vượt trong năm 2012. Đúng vậy, sang năm 2012, số thanh niên, nhà tu hành, nhà sư tự thiêu tăng nhanh; các vụ nổi loạn, đập phá cơ quan chính quyền, công an ở Tây Tạng, Uighur liên tiếp nổ ra, người theo Pháp Luân Công ngày càng gan góc, những bloggers trí thức trẻ tuổi ngảy càng đông thêm và bất khuất…
Đúng vào khi Gs Gordon Chang dự đoán sự sụp đổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không còn xa, đảng CS bãi chức ông Bạc Hy Lai, ủy viên Bộ Chính trị đang lên, đưa ông ra khỏi chức vụ bí thư thành uỷ Trùng Khánh, sau vụ ông Vương Lập Quân, phó thị trưởng đặc trách ngành công an, xin tỵ nạn chính trị tại lãnh sự quán Hoa Kỳ tại đây nhưng bị từ chối.
Ông Tập Cận Bình, người sẽ thay ông Hồ Cẩm Đào trên cương vị tổng bí thư kiêm chủ tịch nước tại Đại hội Đảng lần thứ 18 vào cuối năm nay, cũng vừa đưa ra nhận định rất bi quan: «Trung Quốc đang là nơi tập trung mọi thứ thối nát», trong khi đương kim Thủ tướng Ôn Gia Bảo cũng nhận định là cần phải thay đổi nhiều về kinh té - tài chính và chính trị để tồn tại, nhưng thay đổi ra sao, thay đổi đến đâu thì không ai dám nói rõ. Vì không thay thì bế tắc, thế cùng tất biến, mà thay cả hệ thống thì cũng là biến, là bế tắc và đổ vỡ cho chế độ độc đảng.
Gs Chang là nhà trí thức am hiểu thời cuộc, một nhà bình luận có uy tín của tạp chí Forbes, không phải là nhà xem bói, đoán mò, bấm độn. Ông đoan chắc chế độ cộng sản ở Trung Quốc đang đi dần đến bờ vực. Ông khẳng định rằng « trước những diễn biến hiện tại của tình hình, ông không có lý do nào để từ bỏ dự đoán về sự sụp đổ không xa của Trung Hoa Cộng sản ». Cuốn sách The coming collapse of China (Sự sụp đổ sắp đến của Trung Quốc) vẫn còn nguyên giá trị.
Chúng ta hãy theo dõi tình hình và chờ xem.
* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Thursday, April 5, 2012
VỀ ÔNG TRẦN CHÁNH THÀNH
Luật Sư Trần Chánh Thành
Đầu thập niên 1940: Cử Nhân Luật khoa, Đại học Luật khoa Hà Nội.
1945 : Chánh văn phòng, Bộ Tư Pháp (thời Thủ Tướng Trần Trọng Kim).
1946-1949: Giám Đốc Tư Pháp Liên Khu 3(thời kỳ kháng chiến chống Pháp).
1949-1951: Giám Đốc Kinh Tế Liên Khu 3 (thời kỳ kháng chiến chống
Pháp), rời bỏ chiến khu, dùng mảng nhỏ, vượt biển Sầm
SơnThanh Hóa trở về vùng quốc gia.
1952-1954: hành nghề Luật tại Sàigòn (trong văn phòng LS.Trương Đình
Dzu).
1954: tham dự phái đoàn của Bộ Quốc Phòng (thời Thủ Tướng Bửu
Lộc) sang Paris dự hội nghị.
1954-1955: Bộ Trưởng tại Phủ Thủ Tướng (thời Thủ Tướng Ngô Đình Diệm).
1955-1960: Bộ Trưởng Bộ Thông Tin, Việt Nam Cộng Hòa.
1955: Phát động Phong Trào Tố Cộng.
1955: Chủ Tịch Hội Đồng Tố Cộng (gồm các Bộ Thông Tin, Tư
Pháp, Quốc Phòng, Nội Vụ )
1955: Dân biểu trong Quốc Hội Lập Hiến,
tham dự vào Ủy Ban soạn thảo Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa.
1962- 1964: Đại sứ Việt Nam tại Tunisie.
1970: Tổng Trưởng Ngọai Giao, Việt Nam Cộng Hòa.
1975: Ông quyết định không chịu ra trình diện đầu hàng quân Cộng Sản.
Ngày 3 tháng 5 năm 1975, ông uống thuốc độc tự vận.
LUẬT KHOA SAN JOSE BLOG
Đặng Văn Nhâm
Lời tác giả .-
Gương liệt sĩ đã để lại đến muôn đời:Thành mất, tướng tuẫn tiết
là lẽ thường. Đáng kể như trường hợp Phan Thanh Giản, sau khi
mất 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ năm 1867 và Nguyễn Tri Phương sau khi
mất thành Hà Nội (1873). Thời đệ nhị thế chiến, 1945, sau khi
nước Nhật đầu hàng, một số tướng lãnh Nhật không chịu nhục cũng
noi gương võ sĩ đạo đã dùng Hara-Kiri để tuẫn tiết.
Như thế, trong cuộc thất bại năm 1975, các tướng Nguyễn Khoa
Nam, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng... tuẫn tiết cũng chỉ là hành
động "ninh thọ tử bất ninh thọ nhục" cuả những người đã từng
xông pha trận mạc, vốn sẵn có giòng máu anh hùng trong huyết
quản.
Nhưng "Văn quan" không sợ chết như một võ tướng trong giây phút
nước mất nhà tan mới là điều cổ kim hãn hữu và đáng cho mọi người
noi gương và suy ngẫm.
Năm
nay, nhân ngày 30 tháng Tư Đen cuả một phần tư thế kỷ sau, tôi
không nhắc lại những cái chết đáng ca ngợi cuả các vị tướng anh
hùng đã nêu tên ở trên, một phần vì năm nào, nhân dịp này, báo
chí cũng đã đề cập đến, nên không còn gì mới lạ hơn nưã. Bây giờ
tôi viết thêm cũng bằng thừa! Trong khi đó, tôi lại thấy, từ một
phần tư thế kỷ qua chẳng ai đề cập đến một sự tuẫn tiết đầy sĩ
khí hào hùng cuả một "văn quan" đã từng đóng vai khai quốc công
thần cuả nền đệ nhất CH miền Nam, một nhân vật chánh trị đã khai
sinh chiến dịch "Tố Cộng" khiến cho hàng trăm ngàn cán binh CS nằm
vùng ở miền Nam bị điêu đứng... Hành động tuẫn tiết cuả ông ngay
khi quân CSBV mới kéo vào thủ đô miền Nam, không chịu để cho
quân CS áp giải vào những trại tù cải tạo , để rồi sau đó nhờ
những tờ tự thú, tự kiểm để được hưởng kiếp sống thừa trong tủi
nhực do kẻ thù ban cho chẳng những đã nói lên tiết tháo bất
khuất cuả kẻ sĩ , mà ông còn dùng cái chết nhẹ tưạ lông hồng cuả
mình để cảnh giác thế giới tự do về hiểm hoạ CS trong vùng Đông Nam Á.
Đó mới chính là điều mới lạ và là một tấm gương sáng cho hậu
thế mà nay tôi xin cống hiến bạn đọc... – ĐVN.
L.S. TRẦN CHÁNH THÀNH VỚI NỀN ĐỆ NHẤT C.H.
Suốt
chiều dài lịch sử chống Cộng ở miền Nam, từ năm 1954 đến 1975,
một khuôn mặt chính trị đã nổi bật nhất dưới thời đệ nhất CH là
luật sư Trần Chánh Thành. Nhiều người còn coi ông Thành như một
bậc khai quốc công thần của nhà Ngô. Đánh giá ông Thành như thế,
tưởng cũng không có gì gọi là quá đáng. Ngay trong nội các đầu
tiên, ra mắt quốc dân tại Sài Gòn ngày 6.7.1954, của thủ tướng
Ngô Đình Diệm, người ta đã thấy ông Thành giữ chức Bộ Trưởng tại
Phủ Thủ Tướng. Nên nhớ lúc đó chưa có phong trào di cư. Vì lúc
này hội nghị Genève vẫn chưa đạt được thỏa hiệp trọn vẹn vấn đề phân
chia Nam-Bắc cho hiệp định Genève (Accords de Genève). Nhưng lúc
này tên ông Trần Chánh Thành vẫn còn nhiều xa lạ đối với quần
chúng miền Nam.
Đến
khi thủ tướng Ngô Đình Diệm cải tổ chánh phủ ngày 10.5.1955,ông
Thành đảm nhiệm chức vụ Tổng Trưởng Thông Tin. Đây là một thời
kỳ dầu sôi lửa bỏng, nhiều thử thách gay go nhất của chế độ Ngô
Đình Diệm. Nhiệm vụ "Tổng Trưởng Thông Tin" lúc bấy giờ không
chỉ giản dị gói tròn trong khuôn khổ của hai chữ "thông tin"
hiền lành, mà thực sự là một cơ quan đầu não của chế độ đang
phải chiến đấu quyết liệt, có tính cách sinh tử, bằng các phương
tiện truyền thông, tâm lý... cùng một lúc trên hai trận tuyến chống
CS và tiêu diệt mầm mống phá hoại của các phần tử tay sai thực dân
Pháp. Đặc biệt nhất là chiến dịch truất phế Bảo Đại. Ngoài
nhiệm vụ nặng nề đó, ông Thành còn phải đảm nhiệm trách vụ chủ
tịch "Hội Đồng Tố Cộng" gồm các bộ Thông Tin, Tư Pháp, Quốc
Phòng và Nội Vụ. Mặt khác ông Thành còn là một dân biểu trong
quốc hội Lập Hiến, có chân trong Ủy Ban soạn thảo Hiến Pháp cùng
với 14 dân biểu khác. Thời gian ấy TT Diệm lại đặc biệt tín nhiệm TC
Thành, bàn bạc với các ông em cố vấn trao quyền lãnh đạo "Phong
trào Cách Mạng QG" cho Thành, giưã lúc đảng Cần Lao Nhân Vị cuả
ông Nhu chưa tiện xuất đầu lộ diện. Buổi đầu nội bộ đầu não dinh
Độc Lập rất muốn tránh điều đàm tiếu: Chẳng lẽ ông anh thủ
tướng, nắm trọn quyền uy quốc sự lại có bên cạnh một ông em là
thủ lãnh một đảng chánh trị bề thế nưã hay sao? Lúc bấy giờ tên
ông Thành đã thực sự đã trở thành một ngôi sao sáng, nổi bật trên
đấu trường chánh trị miền Nam.
Bên
ngoài dân chúng, ai cũng lầm tưởng, như thế chắc chắn ông Trần
Chánh Thành phải được chế độ nuông chiều, và anh em Tổng Thống
Diệm tin yêu, gắn bó chặt chẽ. Nhưng ở đời, có nằm trong chăn
mới biết chăn có rận. Những chuyện tâm huyết sau đây của ông
Thành đều được giữ kín như bưng. Ngoài một vài người anh em
trong thân quyến, không ai biết được. Nay tôi kể ra đây chỉ cốt
cho các thế hệ hậu sinh thấy rõ sự nẩy mầm tai hại của chế độ
gia đình trị và tôn giáo trị dưới hai thời đệ nhất, và đệ nhị CH miền
Nam VN, không kém gì sự tai hại của chế độ độc tài đảng trị của
CS miền Bắc. Nên biết dưới thời Nguyễn Văn Thiệu làm tổng thống,
tất cả anh em dòng họ nhà Thiệu và cả bên vợ của Thiệu là
Nguyễn Thị Kim Anh, bất luận xa gần, đều được ban phát chức
tước, ngôi cao bổng hậu, ngồi mát ăn bát vàng. Tạm kể sơ sơ, nào
là: Đại sứ Ý Đại Lợi Nguyễn Văn Hiếu, Đại Sứ Đài Loan Nguyễn
Văn Kiểu, Chủ Tịch Giám Sát Viện Ngô Xuân Tích, Ngô Thị Huyết (tục danh
chị Sáu Huyết buôn lậu hàng quốc cấm và buôn quan bán tước của
chế độ), mẹ của Hoàng Đức Nhã, bí thư kiêm cố vấn của Tổng
Thống, kiêm Tổng Trưởng Dân Vận Chiêu Hồi, đại tá tỉnh trưởng
Hoàng Đức Ninh, tổng trưởng Thông Tin, tổng trưởng Văn Hóa Giáo
Dục Ngô Khắc Tĩnh, chủ tịch Công Ty Phân Bón Hải Long Nguyễn
Xuân Nguyên, anh em cột chèo với Thiệu . Thậm chí cả đến người
con rể của Ngô Xuân Tích, tên "Từ Bò Viên" ( vì nhà anh này bán thịt bò
vò viên, hiện đang ở khu Bolsa,HK) một đại úy Công Binh , cũng
đã được Thiệu đem vào dinh Độc Lập ban cho chức "Công Cán Ủy
Viên" trong nhà luôn luôn có đến ba, bốn người lính hầu ( theo
lời tự khoe trước các chỗ đông người của Từ Bò Viên) v.v...và
v.v...
Trong tương lai, dân tộc VN muốn thoát khỏi vòng ách nạn của các loại
chế độ cai trị lạc hậu, vô nhân tính ấy, chỉ có một con đường
duy nhất phải theo là thiết lập một hệ thống đảng phái chánh trị
mạch lạc với công thức hoàn toàn mới mẻ, tạo cơ hội cho mọi
người có tài năng, đức độ trong quần chúng, không phân biệt địa
phương, tôn giáo...có môi trường tham gia gánh vác việc phục
hưng đất nước.
Bây
giờ trở lại chuyện Trần Chánh Thành với anh em TT Ngô Đình Diệm
trong dinh Độc Lập.Để bạn đọc nắm vững vấn đề, trước hết tôi
xin được tóm lược thân thế của ông, rồi đến các hoạt động chánh
trị theo tiến trình thời gian. Tuy dòng dõi gia tộc là người
miền Bắc, nhưng Trần Chánh Thành lại sinh trưởng ở miền Trung,
học trung học ở Huế. Bởi thân phụ của ông Thành là cụ Hường Lô
Tự KhanhTrần Đức, đã giữ chức vụ bí thư của Khâm Sứ Pháp ở Trung
Kỳ, đồng thời làm thông ngôn bên cạnh vua Khải Định.Khi vua khải Định
sang Pháp dự hội chợ đấu xảo Marseille, cụ Hường Lô Tự Khanh
Trần Đức, xuất thân trường Hậu Bổ, cũng có chân trong phái đoàn
tháp tùng. Thuở thiếu thời ông Thành học hành xuất sắc, đỗ cử
nhân luật, rồi đỗ đầu kỳ thi tri huyện tư pháp cho cả Trung-Bắc
Kỳ,và đã từng được bổ nhiệm chức chưởng lý các tòa án miền
Trung, là một chức vụ đứng đầu ngành thẩm phán công tố. Thời
chánh phủ Trần Trọng Kim, sau một thời gian ngắn làm chánh văn phòng
bộ Tư Pháp, dưới quyền tổng trưởng Tư Pháp Trịnh Đình Thảo.Tháng
8.1945, sau khi VM cướp chính quyền , ở cương vị chủ tịch nhà
nước VN dân chủ Cộng Hoà, Hồ Chí Minh đánh điện vời TC Thành ra
Hà Nội. Khi cuộc kháng chiến bùng nổ (12.46), ông Thành đã từng
đảm nhiệm liên tiếp hai chức vụ quan trọng trong guồng máy kháng
chiến: Giám Đốc Tư Pháp liên khu 3 ( 3 năm đầu), rồi Giám Đốc
Kinh Tế liên khu 3 ( 2 năm sau). Sau đó ông Thành đã nại cớ bị
bệnh trĩ nặng không đạp xe máy đi họp được, để xin từ chức về
Nghệ An tạm trú ở nhà họ cuả Cao Xuân Vỹ (phủ Diễn Châu, LK 4). Nên
biết trong thời kỳ kháng chiến, LK 3 vô cùng quan trọng, chẳng
khác nào thủ đô của chánh phủ kháng chiến, lại là nguồn kinh tế
chính, cung cấp huyết mạch nuôi dưỡng cơ quan đầu não (đã tập
trung hết cả trong vùng rừng núi Cao- Bắc-Lạng). LK 3 gồm thủ đô
Hà Nội và các tỉnh: Hà Đông, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên,
Kiến An, Sơn Tây, Phủ Lý, Ninh Bình, Nam Định...
Sau
đó, vì không thể nào thích hợp được với chủ nghĩa CS, ông Thành
đã rời bỏ chiến khu, cùng một người em thúc bá là nhà báo Mạc
Kinh sau này, dùng một chiếc mảng nhỏ, vượt biển Sầm Sơn, thuộc
tỉnh Thanh Hóa, ải địa đầu của liên khu Tư, trốn vào vùng quốc
gia. Sau hai tháng ở Hà Nội, hai anh em ông Thành bay vào Sài
Gòn.Tại đây, trong thời gian đầu, ông Thành làm luật sư trong
văn phòng của LS Trương Đình Dzu, rồi gặp gỡ ông Ngô Đình Nhu.
Lúc bấy giờ, khoảng năm 1952, lá bài Ngô Đình Diệm đã được người Mỹ chú
ý đến. Ông Ngô Đình Nhu đưa ra dự kiến xuất bản tạp chí Xã Hội,
dùng làm cơ quan tuyền truyền ủng hộ cho giải pháp Ngô Đình
Diệm. Đến tháng 10.1952, tạp chí Xã Hội ra mắt số đầu tiên , do
ông Nhu đứng tên gíam đốc, chủ nhiệm, với sự cộng tác của hai
anh em ông Thành ngay từ đầu.
Trong khoảng thời gian từ 1952 đến 1954, thỉnh thoảng ông Ngô
Đình Cẩn ở Huế bay vào Sài Gòn để họp bàn. Với dáng điệu chậm
chạp, lờ khờ, bị nhiều người chê là quê mùa, thất học, nhưng ông
Cẩn lại ăn nói chững chạc, biện luận rành mạch, đâu ra đấy, với
những ý kiến cụ thể, sâu sắc,và một nhãn quan chính trị , đối
phó với CS khá bén nhậy. Cá tính và ngoại hình của ông Cẩn hoàn
toàn khác hẳn ông Nhu, một con người dong dỏng cao, gương mặt
đăm chiêu, khắc khổ, lúc nào cũng lầm lì . Những ai đã có dịp gần gũi
ông Nhu ít nhiều đều phải nhìn nhận về chất kiêu ở ông. Có lẽ
ông tự kiêu về thành tích học vấn, đã từng xuất thân từ một
chủng viện nổi tiếng có truyền thống lâu đời là "École des
Chartres" của Pháp. Ôâng Nhu còn là một người mang nặng thành
kiến đối với các đảng phái chánh trị linh tinh, nhất là đố kỵ
giới chính khách, chánh trị gia Bắc Kỳ dữ lắm. Bởi thế, người ta
thấy những kẻ ham nói nhiều, hay phát biểu ý kiến nọ kia, và tỏ ra có
nhận xét khá sắc bén, trước sau gì cũng đều bị ông Nhu gạt bỏ ra
ngoài vòng liên hệ.
Ông
Nhu chỉ thích người đối thoại cứ ngồi im đấy, chăm chú nghe
ông, rồi thỉnh thoảng lựa lời, lựa dịp chen vào vài lời bàn bạc
khéo léo, như kẻ đánh trống chầu, thì mau chóng chiếm được cảm
tình của ông.Nói một cách chính xác, ông Nhu muốn xuất hiện
trong xã hội chánh trị miền Nam như một khuôn mặt lý thuyết gia,
một nhà lãnh tụ. Ông hoàn toàn không có tài hùng biện, đành
rằng ông suy tư rất nhiều.
Riêng ông Thành, sở dĩ đã được ông Diệm mến mộ, tin dùng ngay từ
buổi đầu, khi mới về VN nhậm chức thủ tướng, một phần vì gia
thế, một phần vì ông Diệm không coi ông Thành là người Bắc, rặt
nòi rau muống như LS Lê Quang Luật. Nhưng phần lớn vẫn do thành
tích và khả năng của ông Thành. Ngoài những chức vụ có tính cách
chuyên gia luật pháp từ thời chánh phủ Trần Trọng Kim cùng
những kinh nghiệm hiểu biết phong phú về người và việc trong
thời bưng biền kháng chiến, năm 1954, Thành được mời tham gia phái
đoàn của bộ Quốc Phòng [ do ông Phan Huy Quát làm tổng trưởng ,
trong nội các của thủ tướng Bửu Lộc], sang Paris dự hội nghị với
chánh quyền Pháp.
Khoảng đầu tháng 4 năm 1955, ông Thành đã khởi sự phát động
"PHONG TRÀO TỐ CỘNG" trên toàn quốc, khiến cho trên 200 ngàn cán
binh CS đang nằm vùng ở miền Nam vô cùng lo ngại. Lúc bấy giờ
các giáo phái và một số chính đảng mệnh danh quốc gia còn đang
kèn cựa tranh chấp với ông Diệm. Giữa cơn sóng gió ba đào của
đất nước, con thuyền quốc gia chưa biết sẽ trôi giạt về đâu, thế
mà trong bóng tối của dinh Độc Lập, sự rạn nứt giữa hai người em
của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã ngấm ngầm xảy ra với kẻ đã dầy công
xây dựng nền đệ nhất CH.
Sự
hiềm khích vì mặc cảm và lòng đố kỵ giữa ông Nhu với ông Thành
đã ngấm ngầm bùng nổ sớm lắm. Ngoại trừ cảm tình riêng cuả TT
Diệm dành cho ông Thành vì sự đóng góp tích cực cuả Thành. Nhưng
các ông em cố vấn lại luôn đặt vấn đề phòng ngưà, ngăn chận ảnh
hưởng cuả Thành. Ngay trong khoảng thời gian đang diễn ra chiến
dịch "truất phế Bảo Đại", tức khoảng cuối tháng 9 đầu tháng 10,
năm 1955, bộ Thông Tin đã tung ra rất nhiều truyền đơn đủ loại
của các đoàn thể chánh trị, tôn giáo, văn hóa, xã hội ủng hộ
chính phủ, cổ động quần chúng tham gia việc truất phế Bảo Đại, thì lẫn
trong đám rừng truyền đơn ấy, đột nhiên người ta nhận thấy xen
lẫn những tấm truyền đơn với giọng điệu rất khác lạ, tuồng như
muốn ngầm ám chỉ Trần Chánh Thành là Cộng Sản!
Dĩ
nhiên trong quần chúng không mấy ai để ý đến chuyện tuế toái đó
làm gì. Nhưng một vài người trong cuộc, hoặc có liên hệ xa gần
với các hoạt động hậu trường chánh trị trong dinh Độc Lập không
khỏi sinh nghi và thắc mắc. Một hôm, rất tình cờ, một người anh
em trong thân tộc của ông Thành (và cũng là người có nhiều công
đóng góp với ông Nhu ngay từ trước ngày Ngô Chí Sĩ về nước chấp
chánh, và từng soạn nhiều bài cho TT Diệm.Sau đấy nên vốn đã có
cái ưu thế ra vào bàn giấy riêng cuả BS Tuyến) vui chân bước vào
văn phòng sở Nghiên Cứu Chánh Trị, đang tạm thời đặt trên lầu nhà sách
"Lượm Lúa Vàng" của cha Thục, ở đường Trần Hưng Đạo (Boulevard
Galliéni). Lúc đó người em thúc bá của ông Thành đã bất chợt bắt
gặp những tấm truyền đơn khác lạ kia đang nằm chất đống trong
ngăn kéo. Biết rõ ràng như thế rồi, anh mới đem hỏi BS Tuyến. Ông
Tuyến hoảng hốt phân trần là "bọn đàn em làm bậy quá!". Phần
ông bận bịu trăm thứ, đâu còn thì giờ nào mà để mắt đến những
chuyện mờ ám linh tinh như thế. Cuối cùng ông Tuyến còn thố lộ
thêm: "Mình đã mắng bọn chúng nó dữ lắm rồi! Thôi anh hãy bỏ qua , và
giữ kín đừng kể lại cho anh Thành biết làm gì!" Ngoài ra, ông
Tuyến còn buộc phải hứa giữ kín tuyệt đối chuyện đó, không kể
cho ai biết.
Thời
gian cứ thế lặng lẽ trôi qua dưới gầm cầu. Hằng ngày, trong
dinh Độc Lập, ông Thành vẫn tiếp tục làm việc gần gũi với TT
Diệm và vẫn rất được ông Diệm tin dùng; trong khi ông Nhu vẫn
giữ một thái độ hoài nghi, kín đáo đối phó.
Đến
khoảng giữa năm 1957, một đột biến quan trọng khác đã xảy ra là
âm mưu ám sát ông Thành do "Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung",
lãnh mạng của ông Cẩn, vào Sài Gòn thi hành. Đến mức này, mọi
âm mưu ngấm ngầm của hai người em ông Diệm nhằm chống phá ông
Thành đã được che đậy từ năm 1955 đến nay mới được báo tri cho
ông Thành biết. Trước tình thế khẩn trương như vậy, bắt buộc ông
Trần Chánh Thành phải tường trình cặn kẽ cho ông Diệm.
Sau
khi đã nghe ông Thành kể hết đầu đuôi, lập tức ông Diệm đùng
đùng nổi cơn thịnh nộ, nhưng vẫn không dám la rầy, sửa sai hai
người em, mà lại trút hết trách nhiệm lên đầu bác sĩ Trần Kim
Tuyến. Ông ra lịnh gọi ông Tuyến vào, hạch hỏi, quát tháo và mắng
nhiếc thậm tệ, rồi lại còn thuận tay xô hết giấy má trên bàn
cho bay tung tóe xuống đất. Trước tai bay vạ gió xảy đến bất ngờ
như thế, ông Tuyến chẳng còn biết nói gì hơn là đứng im chịu
trận!
Sau
đó, chắc ông Diệm đã nói chuyện riêng với hai ông Nhu, Cẩn gì đó, nên
vấn đề rạn nứt sâu xa, đến mức đối nghịch trầm trọng này đã được
dinh Độc Lập tạm thời cho "đông lạnh", để ông Thành vẫn tiếp
tục phục vụ chế độ, và kề cận ông Diệm mãi cho đến năm 1960, sau
vụ đảo chánh hụt của đại tá Nguyễn Chánh Thi...
Đến
đây, thiết tưởng tôi cũng nên nói qua về nguyên nhân đã nảy
sinh lòng nghi kỵ, hờn ghen giữa hai ông Nhu, Cẩn đối với ông
Thành, là một trong số vài tổng trưởng đã được tổng thống Diệm
hết lòng tin yêu. Lúc đó ông Thành là người đã phát động "phong
trào Tố Cộng" như một quốc sách, diễn ra rầm rộ trên cả nước.
Thoạt tiên thành quả rất tốt đẹp. Vì người điều khiển chiến dịch
đã nhắm đúng đối tượng để triệt hạ như những tay thợ săn dã thú thiện
nghệ trong rừng, nhắm đúng con mồi, bắn bách phát bách trúng.
Nếu
đường lối ấy cứ thế mà tiến triển, chắc miền Nam sẽ mau
chóngquét sạch được bọn cán bộ CS nằm vùng. Nhưng không ngờ chẳng
bao lâu sau, "phong trào Tố Cộng" lần hồi biến dạng thành một
con dao hai lưỡi, hết sức nguy hiểm về nhiều mặt. Theo tôi tìm
hiểu, lúc đó đã có rất nhiều nguyên nhân khiến "phong trào Tố
Cộng" của ông Thành bị biến chất. Nhưng cho dễ hiểu, tôi xin tóm
gọn trong vài nguyên nhân chính như sau: Phản ứng mạnh mẽ và
hành động phá hoại chiến dịch "Tố Cộng" của bọn cán bộ CS nằm vùng
thuộc đủ mọi thành phần, khắp nơi trên toàn quốc.Trong số, đáng
kể nhất là đám cán bộ CS đội lốt tu sĩ Thiên Chúa Giáo – đặc
biệt là một số linh mục di cư - lúc bấy giờ đang được anh em nhà
họ Ngô rất mực trọng vọng, coi như thành phần nòng cốt quan yếu
của chế độ. Cộng thêm vào đó là đầu óc thiển cận, và tinh thần
nhu nhược, hèn yếu của đám chính khách quốc gia sôi thịt.
Tập đoàn cán bộ CS nằm vùng ở miền Nam [gồm cả một đạo quân đông đảo đến gần 200 ngàn người không tập kết ra Bắc theo tinh thần hiệp định Genève năm 1954]
đứng trước nguy cơ bị Trần Chánh Thành lật mặt nạ đã lập tức áp
dụng chiến thuật "gậy ông đậïp lưng ông", hay còn gọi là "mượn dao
giết người". Bọn cán bộ CS nằm vùng trong Nam mau chóng sốt sắng
tiếp tay với các chính quyền địa phương trong công tác "Tố
Cộng", làm như thể chúng coi CS như kẻ tử thù, bất cộng đái
thiên. Đồng thời đám cán bộ ấy cũng áp dụng chiến thuật hỏa mù,
"chụp mũ CS" bừa bãi, lung tung, lên đầu lên cổ cho cả những
người cán bộ quốc gia chân chính, và những kẻ nào mà chúng liệt vào
thành phần nguy hiểm đối với cách mạng. Như thế, tất nhiên đường
lối "Tố Cộng" của chánh phủ trở nên hỗn loạn ngay, tinh thần
quần chúng bắt đầu giao động hoang mang, Quốc / Cộng, chân / giả
khó phân. Hiệu năng "Tố Cộng" bị sa sút.
Mặt
khác, bọn cán bộ cao cấp CS khoác áo tu sĩ Thiên Chúa giáo di
cư bắt đầu sử dụng chiếc dù tôn giáo để bảo vệ cho các "đồng
chí" nằm vùng, bằng cách mở rộng cửa, đón nhận những kẻ ngoại
đạo "tân tòng". Đọc đến đây, tôi tin chắc, bạn đọc không còn
thắc mắc nữa khi nhớ lại dưới thời kỳ gia đình trị và tôn giáo
trị của TT Ngô Đình Diệm, song song với "phong trào Tố Cộng"
từng đợt sóng tín đồ TCG tân tòng đã bỗng nhiên dâng lên cuồn cuộn làn
sóng vỡ bờ khắp nơi trên toàn lãnh thổ miền Nam. Nói có sách ,
mách có chứng, nơi đây tôi xin đơn cử một trường hợp điển hình
của phong trào "cán bộ CS nằm vùng cải đạo theo TCG " để khỏi bị sa lưới của "phong trào Tố Cộng" do ông Trần Chánh Thành đặt ra.
CÁN BỘ C.S. NẰM VÙNG CẢI ĐẠO TÂN TÒNG!
Ngoài miền Trung, tiện nội có một gia đình thân tộc cư ngụ ở
đường Lê Thánh Tôn (ấp Bình Nhạn, xã Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên) , nên
thỉnh thoảng vợ chồng tôi hay ra đó chơi. Mỗi lần như thế,
chúng tôi đều ở lại lâu ngày, có khi hàng tuần lễ mới trở về Sài
Gòn.
Trước mặt nhà này là gia đình của một người tên Hùng lấy vợ Huế. Lúc
bấy giờ anh ta mới khoảng 38 hay 40 tuổi gì đó.
Theo
sự tìm hiểu của tôi, trước hiệp định Genève 54, vùng này thuộc
VC kiểm soát (thuộc liên khu 5, sau đổi tên là Miền Nam Trung
Bộ, do Nguyễn Duy Trinh, bí thư Liên Khu Ủy kiêm chủ tịch Ủy Ban
Kháng Chiến Hành Chánh, chỉ huy). Trong thời kỳ đó, tên Hùng đã
là đảng viên CS và đã từng giữ chức Trung Đội Trưởng Dân Quân
Du Kích Xã tại địa phương.
Sau
khi phân chia đất nước, vùng này thuộc quyền chánh phủ quốc gia
kiểm soát. Chiến dịch "Tố Cộng" được ông Trần Chánh Thành, Tổng
Trưởng Thông Tin, kiêm chủ tịch "Hội Đồng Liên Bộ Tố Cộng" phát
động mạnh mẽ kể từ ngày 11.4.1955. Tôi còn nhớ trong thời điểm
này, tỉnh trưởng Phú Yên là Lương Duy Ủy, sau đã bị giết trong
vụ Mậu Thân, tại Nha Trang.
Khi
cao trào "Tố Cộng" trở nên quyết liệt, tên Hùng sợ bị sa lưới,
nên đã tìm cách "chui sâu" vào vỏ bọc an toàn "con chiên Thiên
Chúa Giáo". Với cái mác "con chiên TCG" thời TT Ngô Đình Diệm
cũng được liệt vào hàng "công dân ưu đãi" con cưng của chế độ.
Nhất là khi con chiên đó lại được một ông cha di cư nào che chở
thì chẳng có kẻ nào dám đụng đến một cọng lông chân. Nếu trong
đời có kẻ nào dại dột đụng đến con chiên, dù tân tòng cũng thế,
lập tức các cha cố ra mặt can thiệp ngay. Nhờ thế vợ chồng tên Hùng đã
được yên ổn làm ăn, và ba đứa con nhỏ, xem ra cũng no đủ, phủ
phê... Lần hồi gia đình tên Hùng trở nên khágiả, nhà cửa sửa sang
tươm tất. Trong nhà, cán bộ CS Hùng mở ra hai lớp học, từ lớp
Năm đến lớp Tư , cho trẻ con quanh vùng. Còn người vợ thì làm
bánh chưng, bánh tét, để bán lẻ và bỏ mối...
Trong thời gian làm báo ở quê nhà, tôi đã lặn lội đi nhiều nơi,
nhất là miền Trung, nên đã thấy tận mắt và biết rõ ràng nhiều
trường hợp cán bộ CS đã được các linh mục bao che, cho cải đạo
tân tòng, để được ưu đãi. Có lần tôi đã đặt thẳng vấn đề này với
linh mục Tô Đình Sơn, gốc người Qui Nhơn, khoảng năm 1967, ông
được bổ đến Tuy Hòa. Đến năm 1970-1971, ông đổi về Qui Nhơn, vì
nơi đây là địa phận do Giám Mục Trần Kim Điền (?) cai quản...LM
Tô Đình Sơn đã giải thích ngon ơ, làm như thể lúc đó miền Nam
không hề xảy ra chiến tranh với CS: "Nước Chúa luôn luôn mở rộng cho
mọi người, không phân biệt một ai. Dù cho là đảng viên CS thực
sự chăng nữa, tình thương của Chúa cũng có thể cảm hóa được. Tệ
lắm thì kể bỏ đời này. Nhưng đời sau chắc sẽ tốt!"
Như
thế, ngay từ khi khởi đầu nền đệ nhất CH, tôi đã thấy chính
sách "Chống Cộng" của chính phủ Ngô Đình Diệm chỉ là một trò
"trống đánh xuôi, kèn thổi ngược" vô cùng tai hại. Một đàng vì
nghĩa vụ ông Thành chủ trương diệt Cộng.Nhưng ngược lại, một số
cha cố rất thân cận, rất được tín nhiệm của anh em TT Diệm lại
ra mặt công khai bao che, tàng nặc cán bộ CS nằm vùng. Sự đối
nghịch quyết liệt, có tính cách sinh tử , đã hiện ra quá rõ rệt
trên đấu trường chính trị miền Nam. Từ đó, tôi nhận ra vị thế cô đơn,
cực kỳ nguy hiểm của ông Thành, và cảm thấy ái ngại cho ông.
Cuối
cùng, chuyện gì phải đến đã đến. Có lẽ nhóm cha cố di cư muốn
sớm triệt hạ người chủ xướng "phong trào Tố Cộng", nên đã ra tay
xúi dục, tung tin phao đồn ông Thành là cán bộ CS cao cấp mai
phục trong chánh quyền, để gây mối nghi kỵ trong lòng anh em TT
Ngô Đình Diệm, mượn tay anh em nhà họ Ngô loại bỏ ông Trần Chánh
Thành. Đòn ly gián này của bọn CS nằm vùng đã tỏ ra vô cùng thâm
độc, khêu gợi đúng đầu mối của sự nghi ngờ là tiền tích sống
trong kháng chiến 7 năm với CS ở LK 3 , miền Bắc của ông Thành.
Như
mọi người đều biết, hành động tung tin đồn thất thiệt vốn là
ngón sở trường của người CS . Tục ngữ đã nói "tin đồn đến tai
người khôn là hết! "Nhưng ngược lại, nếu tin đồn đến tai kẻ ngu,
thì chẳng khác nào ngọn lửa rừng gặp được gió to, chẳng mấy chốc
mà lan ra khắp nơi, mọi chốn, gây nên tai họa vô lường. Bởi khi
thiên hạ nghe tin đồn, dù là nhảm nhí, vẫn cứ ghim ngay vào
trong bụng, không cần vội kiểm chứng để rõ trắng / đen làm gì.
Có lắm chuyện thuộc loại tin đồn, đến mãi về sau người nghe mới có cơ
hội khám phá ra được sự thật, thì mọi việc đã quá muộn rồi.Vô
phương cứu vãn!Bởi thế, lịch sử nhân loại, tự ngàn xưa, đã chứng
minh: Tin đồn vốn là một thứ võ khí giết người mà không cần
động thủ, là một đạo quân không cần đánh mà thắng! Trong phạm vi
tuyên truyền và chiến tranh tâm lý, người khéo tung tin đồn ví
chẳng khác nào nhà ảo thuật tài tình, có thể biến một bó hoa đủ
màu xinh đẹp thành một bó dao găm, hay một một con chim bồ câu
hiền lành, dễ thương, biến thành một con mãng xà nguy hiểm, khiến người
xem bị mê mẩn tâm thần, lầm lạc tức thì ngay trong giây lát đó.
Vậy,
hành động của ông Nhu, sai sở Mật Vụ tung truyền đơn ngầm tố
cáo ông Trần Chánh Thành là CS năm 1955, với việc ông Cẩn sai
Đoàn Công tác Đặc Biệt Miền Trung vào Sài Gòn ám sát ông Trần
Chánh Thành, theo tôi nghĩ , chẳng qua đều do bàn tay ám hại
người quốc gia của bọn cán bộ CS nằm vùng mà thôi!
Tuy
nhiên, ông Thành hãy còn may mắn, vẫn được TT Diệm tiếp tục tin
dùng. Đến năm 1962, ông Thành đã được ông Diệm bổ nhiệm đi làm
đại sứ VNCH tại Tunisie, một nước Bắc Phi, cựu thuộc địa Pháp.
Trong suốt giai đoạn nhiễu nhương của đất nước, dưới thời các
tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh..., ông Trần Chánh Thành đã
lui về ở ẩn. Mãi đến năm 1970, người ta mới thấy ông Thành xuất
hiện trở lại chính trường. Ông đứng trong liên danh "Bạch Tượng"
(Cần Lao) tranh cử vào Thượng Viện và giữ chức vụ Tổng Trưởng Ngoại
Giao...
CHUYỆN KHÔNG TIN VẪN PHẢI TIN!
Đây
là một chuyện "bí mật hậu trường" khác của ông Thành. Nhưng
chuyện này lại chẳng dính dáng gì đến việc quốc gia đại sự hay
chánh trị. Chuyện này phải nói là kỳ bí, đến mức gần như hoang
đường, hoàn toàn có tính cách riêng tư trong phạm vi gia đình.
Người ngoài và ngay cả giới thân hữu của ông Thành cũng không mấy
người được biết.
Từ
thuở làm người, tôi vốn là một kẻ thuộc loại "vô sư vô sách,
quỉ thần bất trách, quỉ thần tri". Tôi không bao giờ biết sợ ma
quái, hay tin những chuyện có tính cách dị đoan, hoang đường.
Nhưng trước chuyện kỳ bí này đã xảy ra trong gia đình ông Thành,
khởi từ một truyền thuyết đượm đầy tính chất thần thoại khó tin
(1957), rồi lần hồi đến 18 năm sau bỗng nhiên biến thành hiện
thực (1975)!
Vì
tính cách huyền bí kỳ diệu nhưng vẫn gắn liền với thời cuộc ấy
của câu chuyện, nên tôi mạn phép kể vào đây để bạn đọc tường
lãm.
Như
đoạn trên tôi đã kể, năm 1957, ông Thành đã may mắn nhờ anh em thông
báo cho khám phá kịp thời âm mưu ám hại của "Đoàn Công Tác Đặc
Biệt Miền Trung" của ông Cẩn. Cũng trong năm này, chắc phải do
một ma lực thiêng liêng nào đó đưa đẩy đã khiến ông Thành được
một người sành điệu trong giới sưu tầm đồ cổ ở Sài Gòn giới
thiệu một pho tượng bán thân, tạc bằng đá màu xanh lam, rất mỹ
thuật, bề ngang khoảng 60 phân tây và chiều cao khoảng 80 phân
tây. Thoạt nhìn người ta nhận ra ngay khuôn mặt lớn, rất linh
hoạt và thần khí đầy vẻ uy nghi của một vị Thiền Sư hoặc một võ sĩ
đạo Nhật Bản. Màu đá theo thời gian đã cũ chứng tỏ đây là một bức
tượng cổ rất lâu đời.
Thoạt trông thấy pho tượng, dù chưa biết lai lịch như thế nào,
ông Thành đã thích ngay, nên không ngại tốn kém rước về để trưng
bày trong phòng khách. Sau đó ông Thành mới nhờ một thân hữu
thâm nho, người Nghệ An đến "Viện Bác Cổ" [nằm trong khuôn viên
Sở Thú, đầu đại lộ Norodom-Thống Nhất- ở Sài Gòn], để truy tầm
lai lịch của pho tượng hiếm có và quí giá đó. Nơi đây, vị Nho
gia người xứ Nghệ đã được ông Vương Hồng Sển, một chuyên gia đồ
cổ, quản thủ Bảo Tàng Viện Quốc Gia, hợp tác, tham cứu tài liệu tàng
trữ trong thư khố của "Société des Études Indochinoises" do các
nhà bác học, khảo cổ lừng danh thế giới của Pháp dựng lên. Nhờ
thế, sau đó, ông Thành mới được biết pho tượng bán thân ấy đã
tạc chân dung một nhân vật võ sĩ đạo lừng danh của Nhật từ trên
300 năm trước. Nhưng ông Sển vẫn không truy tầm được nguồn gốc
và nguyên nhân vì sao mà một pho tượng cổ quí, hiếm có, thuộc
loại "quốc gia chi bảo" ấy của nước Nhật lại bị trôi dạt sang
đến tận nước VN xa xôi này. Nhưng người ta vẫn có thể nhận ra dấu vết
của pho tượng kỳ dị đó, khởi đầu đã được đặt trong khuôn viên
dinh Thống Soái Nam Kỳ [tức dinh Norodom, sau đổi tên là dinh
Độc Lập], khi ngôi dinh thự này mới hoàn tất. Từ đó, người ta dự
đoán, khi Nhật đảo chánh Pháp ở Đông Dương (9.3.1945), nhà cầm
quyền Nhật ở Đông Dương đã chiếm ngụ dinh Norodom, thấy pho
tượng cổ của nước họ, họ liền tịch thâu lại.Nhưng chẳng bao lâu
sau quân Nhật bị thất trận, phải đầu hàng. Quân đồng minh đến Sài
Gòn giải giới quân đội Nhật. Trong cơn loạn lạc ấy, pho tượng võ sĩ
đạo Nhật Bản cũng không thoát khỏi cảnh truân chuyên, thân phận
ba đào, trôi giạt hết nơi này đến nơi khác...
Nhưng kỳ lạ nhất, có tính chất huyền bí vô cùng chẳng khác nào
lời sấm ký, trong lý lịch của pho tượng , người ta còn đọc được
một di ngôn lưu truyền chắc nịch,vắn tắt như sau:" Khi nào
trên mặt tượng nổi lên một chấm nhỏ dưới bụng mắt như một giọt
lệ, đó là điềm báo trước một đại họa sắp giáng xuống cho chủ nhân
đang thủ đắc"!
Nghe
thuật lại như thế, trong lòng ông Thành vẫn bán tín bán nghi.
Ông săm soi thật kỷ pho tượng, nhận thấy tuyệt nhiên chẳng có một
dấu vết gì khác thường , chứ đừng nói gì đến kỳ bí, trên khuôn
mặt, và dưới bụng hai con mắt của pho tượng. Cái vẻ đẹp đầy mỹ
tính của bức tượng cộng thêm nét uy nghi, lẫm liệt , xuất thần
trên khuôn mặt của người võ sĩ đạo Nhật Bản, đã chiếm trọn lòng
say mê, thích thú của ông Thành, khiến cho lời báo tri của pho
tượng huyền bí kia bị đánh bật ra ngoài. Ông thuê thợ đóng một cái bệ
gỗ cao, chắc chắn, để kê pho tượng tại một vị trí trang trọng và
thích hợp nhất ở phòng khách. Ông còn căn dặn gia nhân phục dịch
trong nhà phải đặc biệt quan tâm lau chùi pho tượng hằng ngày.
Theo
thời gian, lâu dần pho tượng trở thành một vật quá quen thuộc
trong gia đình ông Thành. Chẳng còn ai quan tâm đến pho tượng với
câu sấm ký lưu truyền của nó nữa. Năm tháng cứ thế lặng lẽ trôi
qua. Hàng chục năm trời sau, thời gian tuần tự trôi qua êm đềm,
trên mặt pho tượng vẫn không hiện ra một dấu vết gì khác lạ.
Nhưng bỗng một hôm, khoảng năm 1973, vào lúc sáng sớm, như thường
lệ ông Thành bước xuống phòng khách, từng trệt của ngôi nhà 4
tầng, số 59 đường Duy Tân, có sân rộng và dài non trăm thước. Ông
bước tới nhìn pho tượng như một thói quen hằng ngày. Bỗng ông giật
mình đánh thót, khi chợt thấy một chút gì hơi khác lạ nơi má bên
trái của mặt tượng. Một chấm nhỏ bằng hột bắp đã nổi lên! Khi
lấy tay sờ vào , thì cái chấm ấy vẫn chỉ bằng đá cứng màu xanh
lam của toàn bộ bức tượng. Như vậy rõ ràng cái chấm nhỏ như giọt
nước mắt ấy đã mọc lên từ trong bức tượng như một cái mụn bọc
nhỏ, chứ không phải từ ngoài gắn hay dính vào. Đầu óc ông Thành
trở nên bàng hoàng, ông mở rộng cửa sổ cho ánh sáng lùa vào.
Giọt lệ đá ấy càng hiển lộ rõ rệt hơn. Để nhận xét cho chắc chắn hơn,
ông gọi hai người nhà bưng pho tượng ra sân. Dưới ánh nắng chan
hòa sáng rực, cảm giác kinh hoàng bùng lên trong lòng, ông Thành
thấy rõ ràng đó là một giọt lệ đá đột nhiên xuất hiện đúng như
lời sấm lý lưu truyền, chứ không phải là chuyện hoang tưởng, mơ
hồ. Trong khoảnh khắc thời gian ngắn ngủi, ông Thành nhớ lại lời
ghi chép trong Viện Bác Cổ khoảng mười năm trước. Ông trầm ngâm
nhưng tỏ vẻ đăm chiêu suy nghĩ lắm. Ngoài kia, thời thế đang
biến chuyển dồn dập một cách đáng lo ngại.
Ông
cố moi hết ký ức, vận dụng hết trí nhớ mà vẫn không sao luận
giải nổi hiện tượng đột xuất kỳ bí này. Từ bao nhiêu năm rồi,
cũng như mới ngày hôm qua đây, có bao giờ ông thấy cái giọt lệ
tiền định ấy đâu! Hiển nhiên cái giọt lệ báo điềm thảm họa dưới
bụng mắt của pho tượng huyền bí mới đột ngột hiện lên hôm nay.
Trong lòng ông thầm nghĩ, pho tượng tạc bằng đá cứng chứ phải đâu
bằng gỗ, hoặc loài hoa cỏ mà một sớm một chiều nảy mầm kết nụ.
Như vậy, chẳng hóa ra câu chuyện hài hước "mầm đá" của cụ Trạng Quỳnh
ngày xưa đã phần nào có thực?
Thế
rồi, không giữ mãi được mối băn khoăn cho riêng mình, ông Thành
đã đem chia sẻ hiện tượng "giọt lệ" dưới mắt pho tượng trong
nhà với một vài thân nhân ruột thịt. Cuối cùng, mọi người đều
nhất trí với ông Thành: Chuyện đã xảy ra đến như thế, vô phương
hoán cải, âu cũng do định mệnh đã an bài, đành cứ thản nhiên mà
chấp nhận, bình tĩnh mà quan sát tình thế, và chiêm nghiệm vào
cảnh ngộ của mình. Nhưng, kể từ ngày đó, cả nhà ai cũng không
khỏi âm thầm bận tâm lo lắng, vì để ý thấy dường như "giọt lệ đá" trên
mặt pho tượng mỗi ngày càng nổi lên rõ dần và thêm lớn dần ...
Đến
lúc này chuyện "thiên cơ tiền định" ghi trong bức tượng đã đột
nhiên hiển lộ như tiếng còi báo động, song le như thế chỉ mới có
phân nửa. Còn một nửa cuối, thảm họa đau thương sẽ xảy ra cho
gia đình chủ nhân thủ đắc pho tượng chưa linh ứng. Phần này, ta
phải chờ mãi đến ngày 3.5.1975, tức hơn hai năm sau, mới thấy
được tính chất linh thiêng, kỳ diệu của lời tiên tri báo động đã
ghi trong lai lịch của bức tượng. Đó là ngày ông Thành tự sát!
Tiếp theo sau không lâu, chỉ khoảng 10 ngày là cùng, bà cụ thân mẫu của
ông Thành cũng đã sẩy chân ngã từ trên lầu xuống đất, và qua
đời luôn!...
NHỮNG GIÂY PHÚT CUỐI CÙNG LINH NGHIỆM...
Cuối
tháng Tư Đen , năm 1975, trong giây phút hấp hối của thủ đô Sài
Gòn, ông Thành, cũng như nhiều nhân vật từng cầm quyền cao cấp
khác, đã thấy rõ miền Nam sẽ không sao thoát khỏi bàn tay sắt
máu của quân CSBV, nên ông đã gửi trước vợ con sang Pháp lánh
nạn. [Được biết khuê danh của bà Thành là Thẩm Thị Nguyệt Nhung.
Hai năm sau ngày ông thành qua đời, ở Paris, bà quả phụ Trần
Chánh Thành đã bước thêm bước nữa !]. Còn bản thân ông vẫn ung
dung ở lại theo dõi tình hình. Bởi ông Thành và các ông Trần Trung Dung
, Phan Huy Quát, đã được tòa đại sứ Pháp tại Sài Gòn cam kết sẽ
cho xe đến tận nhà đón ra phi trường để bay sang Pháp vào lúc
10 giờ sáng ngày 29.4.75.Nhưng bất ngờ đến ngày đó, Sài Gòn lên
cơn sốt cực độ, thời tiết nóng đến 35 độ bách phân, khiến thiên
hạ ai cũng muốn lột phăng quần áo ném đi cho thân thể thoải mái.
Trong khi đó, ngược lại đài phát thanh cứ ra rả tả cảnh "tuyết
rơi" và chơi không ngừng bản nhạc lạc điệu "Đêm đông lạnh lẽo
chúa sinh ra đời!...". Đó là ám hiệu của tòa đại sứ Mỹ, nhắc nhở
mọi công dân Mỹ ở Sài Gòn phải mau chóng chuồn ra đệ thất hạm đội cho
lẹ. Quanh cảnh thành phố mau chóng trở nên cực kỳ hỗn loạn, cướp
bóc hôi của tư gia và các cơ sở Mỹ nổi lên lung tung khắp nơi,
mọi liên lạc bằng điện thoại đều bị gián đoạn. Tòa đại sứ Mỹ bị
dân chúng , đủ mọi hạng người bu quanh dầy đặc, khiến trở thành
"nội bất xuất, ngoại bất nhập".
Quang cảnh tòa đại sứ Pháp gần đó cũng đông đúc, rối loạn không
kém. Vì thế, liên lạc giữa tòa đại sứ Pháp với ba ông Trần Chánh
Thành, Trần Trung Dung và Phan Huy Quát tất nhiên bị gián đoạn.
Ba nhân vật chánh trị này, từ lâu, vốn rất thân với nhau. Trong
cơn nguy cấp ấy, ba ông vẫn cố giữ liên lạc rất chặt chẽ, và
bàn tính tạm thời tìm một nơi ẩn náu an toàn, kín đáo. Đến ngày
hôm sau, 30.4.75, ba ông Thành, Dung , Quát móc nối được với một
nhân vật thẩm quyền của bệnh viện Grall, để giả trang vào đó tạm
trú. Nhưng chỉ 24 giờ sau, có lẽ bị động, bệnh viện Grall yêu cầu cả
ba ông phải mau chóng rời khỏi nơi đây. Lập tức ba người phải
chia tay, mỗi người đi một ngả, để tìm lối thoát hiểm riêng cho
mình.
Riêng ông Thành vào ẩn náu trong một "appartement" của một cao ốc lớn
trên đường Gia Long, sát ngay góc đường Tự Do. Nhưng trước khi
đến trú ẩn trong cao ốc này, ông Thành đã dặn dò ông M K, một
người em thúc bá, về mọi cách liên lạc. Đến 4 giờ chiều ngày
2.5, ông M K đến cao ốc đó đón ông Thành để đưa thẳng về nhà của
ông ở dường Duy Tân. Mới giờ đó, không ngờ Ủy Ban Quân Quản
Thành Phố đã cho bộ đội đến canh gác khu cao ốc này rồi. Quan
sát thấy chỉ có vỏn vẹn một tên bộ đội chính qui, đeo băng đỏ trên cánh
tay, cầm súng AK đi đi lại lại dọc theo mặt tiền cao ốc đến
cuối đường, rồi quay lại, rất đều đặn như người nhàn tản đi bách
bộ, cuối cùng MK lẻn vào được khu cao ốc để đón ông Thành ra
đường Tự Do, đến nơi có chiếc xe Honda 2 bánh đậu sẵn với cô con
gái 16 tuổi, tên Dung, con gái của ông M K đang đứng canh
chừng. Đến tận lúc đó tên bộ đội canh gác vẫn không hề biết tí
gì về những chuyện đã xảy ra chung quanh hắn. Trong giỏ xe, ông M K còn
ngụy trang thêm vài bó rau muống, để làm giảm bớt sự tò mò chú ý
của bọn lính canh CS đối với một chiếc xe chở khẳm đến 3 người!
Lúc
bấy giờ ngôi nhà ở đường Duy Tân của gia đình ông Thành chỉ còn
vỏn vẹn ba, bốn gia nhân với bà cụ thân mẫu của ông Thành và bà
Nhơn, một người chị gái của ông, năm nay đã 87 tuổi , hiện định
cư ở Pháp. Còn bà Thành và các con đã được ông Thành gửi sang
Pháp lánh nạn trước từ tháng 3.1975. Nên biết, ông Thành mồ côi
cha từ thuở nhỏ, nên đã được người chú là cụ Trần Nguyên Anh,
thân sinh của ông M K, cưu mang dưỡng dục đến lớn. Vì thế nên ông
Thành và ông M K đã thương yêu, quyến luyến nhau như anh em ruột
thịt.
Trong tình trạng tuyệt vọng chiều hôm đó, hai anh em ông Thành đã kín
đáo khép mình trong một căn phòng nhỏ cùng nhau tâm sự rất nhiều,
mãi cho đến gần sát giờ giới nghiêm (7 giờ) vẫn chưa dứt. Cuối
cùng, giờ chia tay đã đến, ông Thành cầm tay người em bịn rịn,
dặn dò, nhắn gửi hết việc gia đình, rồi ông lại còn nói thêm một
câu ngắn gọn: "Chúng ta đều đã hiểu CS quá rõ. Với anh, chỉ có
một lựa chọn cuối cùng. Anh phải tự xử lấy anh thôi...Em về đi.
Giờ giới nghiêm đã tới rồi. Sáng sớm mai em lên với anh nhé!..."
Ông
M K nghe những câu ông Thành nói chẳng khác nào như những lời
trăn trối, khiến lòng ông tan nát. Trước khi ra về, ông M K đã
nhìn thật lâu vào mắt ông Thành và ngậm ngùi nói:
_ "Dù thế nào chăng nữa, xin anh cũng đừng quyết định gì vội. Hãy cố chờ đến sáng mai anh em ta gặp lại nhau..."
Tuy
nói như thế, nhưng thâm tâm ông M K vẫn không tin vào hiệu quả
của lời mình nói. Linh tính đã báo cho ông biết rằng kể từ giây
phút này, ông đã mất hẳn, mất vĩnh viễn ông Thành ...
Suốt
đêm hôm đó, ông M K không tài nào chợp mắt được. Hai ông bà đã
thao thức sáng đêm bàn bạc chuyện gia đình, chuyện ông Thành và
cả chuyện của bản thân đang bị đặt trước một viễn ảnh tương lai
đen tối mờ mịt, rẫy đầy bất trắc, thảm họa khó lường. Đến khi
trời vừa sáng, giờ giới nghiêm vừa dứt, ông M K đã hấp tấp phóng
xe Honda lên thẳng nhà ông Thành. Vừa đặt chân vào phòng khách.
Khác hẳn mọi khi, nơi đây bỗng trở nên vắng lặng như tờ, như
không còn một hơi thở nào nữa. Không khí trong căn phòng này đã bao
phủ một màu thê lương , ảm đạm. Bà Nhơn lẻ loi, đôi mắt đỏ hoe, đang
ngồi thu mình nơi bực cầu thang, lối dẫn lên phòng ngủ của ông
Thành . Bà Nhơn bảo ông M K:
_
"Em lên ngay đi. Thành an nghỉ rồi! Hồi hôm , Thành đã nói
chuyện lâu với chị...dặn trao tập giấy màu vàng cho em đó...
Thành nằm ở phòng ngủ nhỏ lầu hai... Em ở bên Thành đi. Chị phải
tới sứ quán Pháp ngay bây giờ để làm sẵn thủ tục. Chị sẽ quay về
thật gấp..."
Được biết bà Nhơn có quốc tịch Pháp, dạy học ở Collège Nha Trang, thuộc nhân viên "Centre Culturel Francais".
Lập
tức ông M K phải lo giải quyết ngay một số việc cần kíp. Trước
hết, mời bà cụ thân mẫu của ông Thành đi theo bà Nhơn đến tạm
trú tại nhà một thân nhân khác, và phải nói dối là cụ cứ đi
trước, còn ông Thành sẽ được tòa đại sứ Pháp cho xe đến đón ra
phi trường sau. Ông M K sợ bà cụ mà biết chuyện ông Thành tự tử
thì sẽ lôi thôi to. Mọi việc lo cho ông Thành bây giờ phải thật
kín đáo, không để lộ một chút tin tức hay nghi hoặc nào ra ngoài
vòng ruột thịt. Mặt khác, ông M K dặn gia nhân hãy để cho ông Thành
ngủ yên, đừng ai quấy rầy, không cần đem sữa sáng như thường lệ,
vì đêm qua ông đã thức khuya...Sáng nay ông Thành cũng không
muốn tiếp khách nữa!...
Khi
còn lại chỉ có một mình trong ngôi nhà rộng thênh thang, ông M K
mới đẩy nhẹ cửa phòng ngủ, tiếng máy lạnh vẫn sè sè nho nhỏ.
Ông Thành đang nằm đó, bất động như người đang ngủ mê. Nét mặt
bình thản. Nhưng hai bên cánh mũi có hai vệt thuốc nhỏ màu nâu
nhạt lẫn chút máu đỏ đọng lại, dài bằng hai đốt ngón tay. Ông M K
ôm nhẹ mặt ông Thành, thấy vẫn còn ấm, ngực và chân tay vẫn hãy
còn ấm. Ông thầm nghĩ chắc ông Thành chỉ mới vừa từ giã cõi đời
thôi. Nhì trên mặc chiếc bàn ngủ, một hộp thuốc ngủ 50 viên chẳng
còn sót một viên nào. Nơi bàn giấy góc phòng, mọi thứ đều ngăn nắp.
Có một tập giấy 18 trang. Ông M K liếc thoáng qua , biết ngay là
những lời trăn trối cuối cùng của ông Thành. Ông Thành lên
tiếng tố cáo hiểm họa CSVN trước thế giới tự do, sau khi chúng
đã cưỡng chiếm miền Nam. Ông Thành cũng tiên liệu để kêu gọi thế
giới dân chủ , nhân đạo phải có trách nhiệm tinh thần ngăn chận
bàn tay máu trả thù trút lên mạng sống của toàn thể quân nhân
và quần chúng miền Nam. Ngoài ra, ông Thành còn phác họa cho mọi
người thấy trước thảm trạng của miền Nam, đồng thời phơi bày âm mưu
gây chiến tranh loạn lạc đối với các nước láng giềng trong bán
đảo Đông Dương và Thái Lan. Cuối cùng ông Thành minh xác, ông đã
lấy cái chết để phản đối CSBV xâm chiếm miền Nam. Một cái chết
âm thầm nhưng đầy tiết tháo, sĩ khí của một nhân vật chánh trị,
khi biết mình đã không thực hiện trọn vẹn được lý tưởng thì ung
dung, thanh thản ra đi, để cho đối phương phải trọng nể. Cái
chết của ông Thành vì thế đã có chút gì khác với những cái chết của
các tướng Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam , Lê Văn Hưng v.v...
Bên
cạnh tập giấy đó, ông Thành còn viết sẵn vài dòng chữ trên một
tấm danh thiếp, nhằm gửi thẳng cho cơ quan an ninh, xác định cái
chết của ông là do chính ông tự chọn, đừng gây phiền nhiễu cho
ai hết!
Trong vòng một tiếng đồng hồ sau, bà Nhơn đã trở về. Lúc này, toàn thân
ông ông Thành mới bắt đầu trở lạnh, lạnh ngắt. Một mặt ông M K
phải lo canh chừng đám gia nhân, vài người còn lại. Mặt khác bà
Nhơn lo liên lạc báo tin cho vài người bà con trong thân tộc nội,
ngoại (bên bà Thành). Nhưng không một ai lui tới. Dường như ai
cũng lo ngại, muốn trốn tránh. Không khí thành phố Sài Gòn lúc
ấy căng thẳng đến tột độ. Ai cũng có chuyện để phải lo và để sợ.
Một tiếng động mạnh cũng đủ làm cho người ta giật mình kinh
hoảng, nhớn nhác...
Trong hoàn cảnh đó, một mình ông M K phải lo hết mọi việc rửa ráy thi hài và tẩn liệm cho ông Thành.
Lúc
ấy, khoảng ba giờ chiều , bỗng gia nhân báo tin có ban Quân
Quản đến khám nhà. Gồm ba cán bộ đeo súng ngắn bên hông, băng đỏ
trên cánh tay, và một tên bộ đội mang tiểu liên đi theo hộ vệ.
Trong trường hợp này, dù muốn dù không, ông M K vẫn phải ra mặt
tiếp đón. Ngay câu đầu tiên bọn cán bộ CS đã nói thẳng, chúng
đến tiếp thu ngôi nhà, và ra lệnh đưa chúng đi xét nhà. Chúng đi
thẳng một mạch lên lầu 4, rồi từ đó mới trở xuống, vào từng
phòng một, quan sát soi mói và khám xét cẩn thận. Không bỏ sót một
phòng nào. Vào đâu chúng cũng ngắm nhìn, để ý kiểm điểm từng ly
từng tí, rồi xẵng giọng hạ lịnh: "Đồ đạc ở đâu để nguyên đấy.
Cấm tuyệt không được di chuyển!"
Khi
xuống đến lầu 2, nơi có phòng thi hài của ông Thành nằm đó,
bỗng nhiên đầu óc ông M K trở nên căng thẳng tột độ. Tinh thần
ông bấn loạn. Nếu bọn cán bộ CS bất chợt thấy thi hài ông Thành
đang nằm trơ trơ ở đó, ông sẽ trả lời như thế nào? Một điều chắc
chắn nhất, không thể nào tránh được là bọn cán bộ CS sẽ hạch
hỏi mọi người hiện diện trong nhà. Rồi thì mọi sự sẽ phải khai
trình tỉ mĩ, từ tên tuổi, chức phận cũ, rồi đến nguyên nhân cái
chết... Nhưng liệu bọn CS ác ôn này có cho phép chôn cất ngay không,
hay sẽ đem thi hài đi mổ xẻ, khán nghiệm...?
Lại
còn vấn đề sấp giấy ông Thành đã viết di ngôn tố cáo CSVN nữa
chứ. Ông M K bối rối vô cùng, không biết sẽ phải ăn nói ra sao,
và rồi những gì sẽ xảy ra cho bản thân ông ngay sau đó, ông không
thể lường được.
Trong tình cảnh nguy nan đó, ông M K chỉ còn kịp nghĩ đến việc
cầu nguyện vong hồn ông Thành, sống khôn, thác thiêng, xin ông
phù hộ cho gia đình thoát qua được cơn hiểm nghèo nghiệt ngã này,
để còn có cơ hội chôn cất di hài ông êm thắm!
Không ngờ một chuyện lạ của đời người đã xảy đến, chẳng khác nào
như lời khấn vái của ông M K linh ứng , như linh hồn ông Thành
hãy còn lẩn khuất đâu đó, để lôi chân bọn cán bộ CSBV đi qua căn
phòng đó. Chúng vừa đi vừa chuyện trò với nhau, và vẫn ra lệnh
mở từng cửa phòng, nhưng không còn vẻ tích cực soi mói như vài
giây đồng hồ trước đó. Khi chúng đến trước cửa phòng ông Thành
nằm, lồng ngực M K tưởng chừng sắp nổ tung. Nhưng chẳng khác nào
như một phép lạ, chúng cứ thế đi luôn, không dừng lại, cho đến
phòng cuối của từng lầu 2, rồi chúng đi luôn xuống dưới nhà...
Nơi
đây, chúng dừng lại, ghi vội biên bản, coi như ngôi nhà này vô
chủ. Chủ nhân đã bỏ đi ngoại quốc! Thì ra bọn cán bộ này cũng
ngờ ngệch lắm.Trong đầu chúng đã bị nhồi chặt cứng một mớ lý
thuyết Mác Xít, với những giáo điều rẻ tiền, đâu còn chỗ nào để
chứa thêm một thứ hiểu biết gì khác! Nhưng chúng đặc biệt quan
tâm đến mọi thứ đồ đạc vật chất trong nhà. Cuối cùng, trước khi
ra đi, chúng ra lệnh: Mọi người trong nhà chỉ được phép quây
quần ở tầng trệt, không được bén mảng lên lầu. Đồ đạc trong nhà không
được tơ hào suy suyển.
Sau
đó bà Nhơn và ông M K phân công mỗi người một việc cần kíp. Bà
Nhơn chạy vội ra phường khai tử cho ông Thành, với lý do bịnh
tim. Còn ông M K phóng thẳng về nhà tìm giấy chủ quyền ngôi mộ
của bà thân mẫu ở nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi [còn một tầng trên],
đem trình ban Quân Quản Nghĩa Trang, để xin đóng dấu cho mai
táng.
Đến
lúc này xét ra cái chết của ông Thành chẳng còn gì cần phải che giấu
nữa, nên gia nhân đều được biết hết. Tiếng khóc không còn bị đè
nén ấm ức, nghẹn ngào nữa, mà được tự do vang lên , khiến các nhà
hàng xóm không khỏi ngạc nhiên. Cách nhà ông Thành chừng hai,
ba ngôi biệt thự là trụ sở của "Hội Trí Thức Yêu Nước" thành phố
HCM của đám Ngô Bá Thành, ni sư Huỳnh Liên, Trương Đình Dzu,
Trần Thúc Linh v.v...Vì thế nên tin ông Thành qua đời đã mau
chóng đến tai những người trong hội ấy.
Ngày
hôm sau, 2.5.1975, lèo tèo vài thân nhân đến viếng. Trong đám
bạn bè, người ta chỉ thấy một mình ông Trần Trung Dung.
Ngày
4.5.75, khoảng vài mươi người đã đến tiễn đưa di thể ông Thành
đến nơi an nghỉ cuối cùng. Không khí lo sợ, ngại ngùng lặng lẽ
bao trùm hết cả vẻ "tử biệt sinh ly" của một đám tang.
Thế
rồi không ngờ họa vô đơn chí, ông Thành vừa qua đời chưa được
mấy ngày, chừng hơn một tuần lễ sau, bà cụ thân mẫu của ông Thành
cũng ngã từ lầu cao xuống đất . Một đám tang thảm đạm khác lại
diễn ra trong không khí chánh trị nặng nề, ngột ngạt của đô
thành Sài Gòn tràn ngập màu cờ đỏ sao vàng!
Cùng
lúc đó, tin ông Thành tự tử cũng nhanh chóng loan ra rộng rãi.
Nhưng lại bằng một luận điệu sai lạc, ngỡ nghệch, dường như có
ác ý xuyên tạc như sau: "Hôm 1.5, ông Trần Chánh Thành còn kẹt
lại Sài Gòn. Khi cán bộ CS đến bấm chuông ngoài cổng, ông Thành
sợ hãi, nghĩ rằng sẽ bị bắt, nên vội vàng uống thuốc ngủ tự tử
!"
Lời
đồn đãi ngây ngô ấy thế mà vẫn có cánh dài bay xa, ra tới hải ngoại.
Nhưng khôi hài nhất là vẫn có một số người vội tin. Trong đó còn
có cả mấy ông nhà báo nữa! Người ta đã lười suy nghĩ đến độ
không chịu động não một chút để nhìn ra tính cách phi lý của tin
đồn: Đợi CS đến tận nơi bắt mới đem thuốc ngủ ra uống, thì
thuốc nào ngấm cho kịp? Khi đó chắc chắn CS đã xích tay lôi đi
rồi!
Bởi
vậy, như trên đã nói, từ cổ chí kim tin đồn vốn là một loại võ khí giết
người độc hại hơn gươm , đao, súng đạn. Khi sự thật được phơi
bày ra ánh sáng thì mọi việc đều đã quá muộn rồi! Do đó nơi đây,
kể chuyện này tôi chỉ nhằm mục đích duy nhất: Trả sự thật về
cho sự thật. Và "toute vérité est bonne à dire"!
* * * * *
Bây giờ trở lại pho tượng võ sĩ đạo linh thiêng, huyền bí trong
nhà ông Thành. Đến lúc này mọi người trong gia tộc mới thấy sự
linh ứng hiển lộ qua "giọt lệ đá", nên khi đưa linh cữu ông thành
ra nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, tang quyến đã phải dúi tiền cho
bọn đô tỳ, kín đáo bưng bức tượng lén đặt vào trong xe tang.
Ngay sau khi đã an táng ông Thành rồi, người nhà ông Thành mới
đem pho tượng ấy lên cúng cho một ngôi chùa ở Thủ Đức. Nay pho
tượng võ sĩ đạo huyền bí ấy trôi nổi về đâu, không ai biết được!
(trích BMHTCTMN , quyển 3)
No comments:
Post a Comment