Monday, April 1, 2013
SƠN TRUNG * CHÍNHLUẬN 15
CHÍNHLUẬN 15
Thế là thế chân vạc "tam phân thiên hạ" của thời Tam quốc chiến (Ngụy Thục Ngô) đã hoàn thành khi Tập Cận Bình trong tháng ba vừa đăng quang đã vội Nga du ký với Putin hiệp ước Nga, Trung cộng ký một hiệp ước quan trọng.. Chúng ta không biết nội dung cuộc hội đàm này nhưng đài BBC cho biết có ba điểm quan trọng:
-Năng lượng
-Đầu tư
-Chiến lược.
Năng
lượng là điểm quan trọng. Đài BBC cho biết Nga là một trong các
nước sản xuất năng lượng hàng đầu thế giới, trong khi Trung
Quốc là nước tiêu thụ thuộc hàng lớn nhất. Thương mại Nga-Trung
đang phát triển nhanh, đạt con số kỷ lục 88 tỷ đôla trong năm
2012.
Tại
một cuộc họp báo, ông Tập Cận Bình gọi Nga là "hàng xóm hữu
nghị" và nói rằng việc ông nhanh chóng thăm Nga sau khi nhậm
chức là bằng chứng cho "tầm quan trọng mà Trung Quốc đặt lên
quan hệ với Nga"."Quan hệ Trung-Nga đang bước vào giai đoạn mới,
trong đó hai bên cùng mang lại cho nhau các cơ hội phát triển to
lớn."
Nói
chung, cuộc Nga du của Tập Cận Bình có mục đich mua vũ khí, tàu bè, máy
bay và xăng dầu
Nga .Ngoài ra còn có mục đich chính trị và quân sự nữa. Nhưng vấn đề
quân sự như thời đệ nhất, đệ nhị thế chiến thì chưa rõ nét. Nga theo
Trung Cộng đánh Mỹ hay Nga chỉ đứng giữa thủ lợi, theo tinh thần "sống
chết mặc bay"?
Cả hai không nói rõ họ liên minh chống Mỹ nhưng trong giọng điệu Tập Cận Bình ám chỉ họ muốn chống bá quyền Mỹ. Chủ
tịch Trung Quốc tuyên bố tại Viện quan hệ quốc tế ở Moscow rằng mối
quan hệ song phương vững mạnh giữa Trung Quốc với Nga không những đáp
ứng quyền lợi chung mà còn bảo đảm cho tình trạng cân bằng chiến lược
quốc tế và nền hoà bình thế giới.
Ông Tập Cận Bình không nhắc đến Hoa
Kỳ, nhưng không quên nói thêm rằng không một quốc gia nào hay một khối
quốc gia nào có quyền “đơn phương xử lý mọi công việc của thế giới.”
Theo bài báo trên, cuộc hợp tác này có lợi cho cả hai bên:
+Trung
quốc lo sợ một ngày kia Mỹ và Nhật Bản sẽ khóa cửa biển Đông khiến cho
tàu bè Trung Quốc sẽ không qua được châu Phi và Trung Đông mua xăng dầu.
Vì vậy, viêc mua xăng dầu Nga là thuận tiện nhất là Nga ở cạnh Trung
Quốc , và cũng là việc cần thiết cho kinh tế và chiến tranh.
+Nga có kho xăng dầu lớn nhất thế giới. Nga lo sợ tưong lai
loại nhiên liệu mới sẽ ra đời khiến cho kho xăng dầu của Nga trở thành
vô dụng, uổng phí hàng tỷ tỷ Mỹ kim. Nay được Trung Quốc đặt mua hàng là bảo đảm cho túi tiền của Nga, kinh tế của Nga.
Người
Nga phủ nhận liên minh Nga Hoa mà đó chỉ là việc kinh doanh mà thôi.Đại
diện đại sứ Liên bang Nga Evgeny Tomikhine ở Bắc Kinh bác bỏ
luận điểm nói rằng Trung Quốc và Nga lập liên minh chống Hoa Kỳ.Ông nói
dịp này Nga chỉ phát triển hợp tác đối tác chiến lược, không hề lập
một liên minh nào với Trung Quốc .Báo chí Anh ngữ của Trung Quốc, như
tờ Global Times và một số báo phổ
thông khác cũng nhất loạt bác bỏ quan điểm gọi là “Nga Hoa liên minh
chống Mỹ.”
Đại diện toàn
quyền Evgeny Tomikhine của Liên Bang Nga nói mối hợp tác
Nga-Hoa không phải liên minh, nhưng mức độ hợp tác có thể còn cao hơn
nhiều so với mức độ hợp tác giữa
những đồng minh. Điều đó có nghĩa là gì, nếu không phải là một “liên
minh không chính thức”, nhằm tạo đối trọng với Hoa Kỳ?
Báo chí Trung Quốc thì tất nhiên không bao giờ từ bỏ luận điểm về ý hướng hòa bình của Bắc Kinh, nên họ nói gì cũng không có giá trị.
Báo chí Trung Quốc thì tất nhiên không bao giờ từ bỏ luận điểm về ý hướng hòa bình của Bắc Kinh, nên họ nói gì cũng không có giá trị.
Dẫu sao thì có những dấu hiệu không tốt là các cuộc động binh.
(1). Cũng bài báo trên cho biết vào tháng 6 sắp tới Nga và Trung Quốc sẽ mở cuộc tập trận chung rất lớn ở
Đông Bắc Á. Một hạm đội Trung Quốc, có thể là hạm đội Đông Hải, hay
thành phần chủ lực của hạm đội, sẽ chia làm hai lực lượng, vượt eo biển
Tsushima, ở giữa Nhật và đông nam Nam Hàn, và eo biển La Perousse giữa
cực nam bán đảo Sakhalin của Nga với Hokkaido của Nhật, để hội quân với
hạm đội của Nga trên biển Nhật Bản.
(2).
Theo hãng thông tấn Nga ITAR-TASS, sau khi gặp Tập Cận BÌnh lệnh tập
trận tại Biển Đen của Tổng thống Nga đã được chuyển đến Bộ trưởng Quốc
phòng vào 4 giờ sáng, giờ địa phương hôm nay 28/03/2012.Người phát ngôn
điện Kremlin Dmitri Peskov tuyên bố, có tổng
cộng 36 chiến hạm và 7.000 binh sĩ sẽ tham gia vào cuộc tập trận này
(3). Theo hãng tin Ấn Độ PTI, Hải quân Trung Quốc ngày 27/03/2013 xác nhận sẽ tiến hành 40 cuộc diễn tập quân sự trong năm nayđể nâng cao năng lực chiến đấu của mình. Cùng lúc, Tân Hoa Xã cũng cho biết là Quân đội Trung Quốc sẽ tăng cường hợp tác với các lực lượng thực thi luật pháp trên biển để bảo vệ tốt hơn lợi ích của Bắc Kinh.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130329-hai-quan-trung-quoc-loan-bao-40-cuoc-tap-tran-nam-2013-va-tang-cuong-ho-tro-cac-l
(4). Theo hãng thông tấn Bắc Triều Tiên KCNA , lãnh đạo Kim Jong Un vào đêm 28 rạng 29/03/2013 đã ra lệnh cho các tướng lãnh sẵn sàng phóng tên lửa vào lãnh thổ Hoa Kỳ và các căn cứ tại Thái Bình Dương. Một nguồn tin quân sự Hàn Quốc cho biết « hoạt động tại các cơ sở tên lửa của Bắc Triều Tiên gia tăng rõ nét ».
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130329-lanh-dao-binh-nhuong-ra-lenh-chuan-bi-tan-cong-my
(4). Theo hãng thông tấn Bắc Triều Tiên KCNA , lãnh đạo Kim Jong Un vào đêm 28 rạng 29/03/2013 đã ra lệnh cho các tướng lãnh sẵn sàng phóng tên lửa vào lãnh thổ Hoa Kỳ và các căn cứ tại Thái Bình Dương. Một nguồn tin quân sự Hàn Quốc cho biết « hoạt động tại các cơ sở tên lửa của Bắc Triều Tiên gia tăng rõ nét ».
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130329-lanh-dao-binh-nhuong-ra-lenh-chuan-bi-tan-cong-my
Ngày 29.03.2013, tin SEOUL cho biết Bắc Triều Tiên đã đặt các lực lượng phi đạn trong tình trạng sẵn sàng tấn công
Hoa Kỳ. Đây là lời đe dọa mới nhất mà Bình Nhưỡng đưa ra trong lúc căng
thẳng tiếp tục tăng cao trên bán đảo Triều Tiên. .Trước đó trong ngày hôm nay, Đài phát thanh nhà nước Bắc Triều Tiên
trích lời lãnh tụ Kim Jong Un nói rằng “đã tới lúc thanh toán mọi vấn đề
với đế quốc Mỹ” và các đơn vị phi đạn của Bắc Triều Tiên giờ đây đang
túc trực sẵn sàng.
Thông tấn xã Băc Hàn cho biết Bắc Hàn đang làm lễ 15 tháng tư, sinh nhật của ông nội Kim Jong-Un, cố chủ
tịch Kim Il-Sung, nhà lập quốc Bắc Hàn. Đó cũng là thời gian hầu hết mọi
binh sĩ Bắc Hàn phải quay về đồng ruộng cho vụ mùa xuân . Bản tuyên chiến toàn diện Kim Jong Un viết: “Hiền nhiên là mọi xung đột quân sự trên bán đảo Triều Tiên đều dẫn
đến một cuộc chiến tranh toàn diện, chiến tranh hạt nhân khi mà những
oanh tạc cơ hạt nhân chiến lược của Mỹ ở các căn cứ trên Thái Bình
Dương, kể cả Hawaii và Guam, cũng như từ nội địa Hoa Kỳ, đã bay vào bầu
trời Nam Hàn để tham gia sách lược chiến tranh hạt nhân liều lĩnh nhắm
vào CHDCNC Triều Tiên. Trận tấn công đầu tiên của quân lực cách mạng
CHDCND Triều tiên sẽ đánh nổ tung các căn cứ quân sự xâm lược trong nội
địa Mỹ và trên các chiến trường địa bàn hành quân ở Thái Bình Dương, kể
cả Hawaii và Guam. Và (trận tấn công của CHDCNC/TrT) không những phá
thành tro bụi ngay lập tức những căn cứ quân sự của Mỹ ở Nam Hàn mà cả
những cơ sở của chế độ cầm quyền bù nhìn tại nơi này, kể cả dinh Tổng
thống và các căn cứ quân sự, khỏi nói đến những kẻ xâm lược và kẻ khiêu
khích.” .
Đài RFA bình luận:"Đây là giọng điệu lớn lối gây chiến cao nhất từ xưa đến nay trong lịch sử chiến tranh loài người. Xưa kia các nước tuyên chiến và bước vào chiến tranh thực sự cũng không hề có giọng điệu giết chóc ghê gớm đến thế, chỉ trừ lực lượng khủng bố Hồi giáo gần đây thù ghét phương Tây đến tận xương tủy. Các nước châu Âu, Mỹ, Nhật trong thế chiến thứ hai chỉ đòi buộc đối phương phải đầu hàng và bồi thường chiến tranh là cùng, không ai dọa giết tới cùng, đốt phá thành tro bụi cả xứ sở đối phương. Các lãnh tụ Cộng Sản hiếu chiến hàng đầu như Khrushchev, Mao Trạch Đông cũng đòi đánh tan thế giới tư bản, nhưng chưa hề khoác lác về một trận đánh như bằng phép Trời như vậy. Chỉ có một mình ông Thống Chế chưa đầy 30 tuổi Kim Jong-Un, được cận thần tôn xưng quá đáng, tưởng mình là thần thánh thật, mới dám đòi phá nát Seoul, chiếm cả nước anh em Nam Hàn chỉ trong một trận, không tha cho cả Mỹ ở xa hằng ngàn dặm. Hay ông và cận thần biết rằng chỉ có người dân Bắc Hàn tin vào lời ông nói, nên mới có giọng điệu kệch cỡm đến thế.
Lời dọa dẫm đối với các căn cứ Thái Bình Dương và nội địa Mỹ là hoàn toàn lố bịch, nhưng nguy cơ đối với Nam Hàn rất thực tiễn, vì lãnh thổ Nam Hàn nằm trọn trong tầm hỏa tiễn mà Bình Nhưỡng dọa có bom hạt nhân gài vào được để dội xuống. Thủ đô Seoul chỉ cách lằn ranh ngưng chiến 40 km. Bản nghiên cứu của Viện quốc tế nghiên cứu chiến lược cho biết Bắc Hàn bố trí 80% tổng hỏa lực trong phạm vi 100km của khu vực ranh giới. Lực lượng bố trí bao gồm khoảng 700 ngàn quân, 8 ngàn đại pháo và 2 ngàn xe tăng.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/untested-leader-threatens-to-destroy-the-south-n-us-04012013173512.html
Trước đây, cậu lãnh tụ nhóc con này đã gợi ý mong tổng thống Obama gọi điện thoại cho y. Và trước đó nhiều năm, Bằc Triều Tiên đã dọa thử bom hạt nhân, thử hỏa tiễn, sau đó thì hai bên hội họp, kết quả Bắc Triều Tiên nhận được it lương thực cứu đói. Sau đó, cứ vài năm, Bắc Hàn lại giở mững cũ đe dọa để vòi tiền, vòi gạo đế quốc Mỹ! Nhưng lần này, có vẻ Mỹ làm lơ trước kịch bản quá quen thuộc của Bắc Hàn. Thực ra Mỹ không những làm lơ mà còn xiết chặt thòng lọng vào cổ Bắc Hàn. BBC viết:
Đài RFA bình luận:"Đây là giọng điệu lớn lối gây chiến cao nhất từ xưa đến nay trong lịch sử chiến tranh loài người. Xưa kia các nước tuyên chiến và bước vào chiến tranh thực sự cũng không hề có giọng điệu giết chóc ghê gớm đến thế, chỉ trừ lực lượng khủng bố Hồi giáo gần đây thù ghét phương Tây đến tận xương tủy. Các nước châu Âu, Mỹ, Nhật trong thế chiến thứ hai chỉ đòi buộc đối phương phải đầu hàng và bồi thường chiến tranh là cùng, không ai dọa giết tới cùng, đốt phá thành tro bụi cả xứ sở đối phương. Các lãnh tụ Cộng Sản hiếu chiến hàng đầu như Khrushchev, Mao Trạch Đông cũng đòi đánh tan thế giới tư bản, nhưng chưa hề khoác lác về một trận đánh như bằng phép Trời như vậy. Chỉ có một mình ông Thống Chế chưa đầy 30 tuổi Kim Jong-Un, được cận thần tôn xưng quá đáng, tưởng mình là thần thánh thật, mới dám đòi phá nát Seoul, chiếm cả nước anh em Nam Hàn chỉ trong một trận, không tha cho cả Mỹ ở xa hằng ngàn dặm. Hay ông và cận thần biết rằng chỉ có người dân Bắc Hàn tin vào lời ông nói, nên mới có giọng điệu kệch cỡm đến thế.
Lời dọa dẫm đối với các căn cứ Thái Bình Dương và nội địa Mỹ là hoàn toàn lố bịch, nhưng nguy cơ đối với Nam Hàn rất thực tiễn, vì lãnh thổ Nam Hàn nằm trọn trong tầm hỏa tiễn mà Bình Nhưỡng dọa có bom hạt nhân gài vào được để dội xuống. Thủ đô Seoul chỉ cách lằn ranh ngưng chiến 40 km. Bản nghiên cứu của Viện quốc tế nghiên cứu chiến lược cho biết Bắc Hàn bố trí 80% tổng hỏa lực trong phạm vi 100km của khu vực ranh giới. Lực lượng bố trí bao gồm khoảng 700 ngàn quân, 8 ngàn đại pháo và 2 ngàn xe tăng.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/untested-leader-threatens-to-destroy-the-south-n-us-04012013173512.html
Trước đây, cậu lãnh tụ nhóc con này đã gợi ý mong tổng thống Obama gọi điện thoại cho y. Và trước đó nhiều năm, Bằc Triều Tiên đã dọa thử bom hạt nhân, thử hỏa tiễn, sau đó thì hai bên hội họp, kết quả Bắc Triều Tiên nhận được it lương thực cứu đói. Sau đó, cứ vài năm, Bắc Hàn lại giở mững cũ đe dọa để vòi tiền, vòi gạo đế quốc Mỹ! Nhưng lần này, có vẻ Mỹ làm lơ trước kịch bản quá quen thuộc của Bắc Hàn. Thực ra Mỹ không những làm lơ mà còn xiết chặt thòng lọng vào cổ Bắc Hàn. BBC viết:
Chế
độ ở Bình Nhưỡng muốn được các quốc gia láng giềng giàu
mạnh hơn coi họ một cách nghiêm túc. Nhưng qua cách đưa ra lời đe
dọa về nguy cơ
đẩy khu vực kinh tế năng động nhất thế giới vào cuộc chiến
tranh, Bắc Hàn đã che dấu được các yếu kém nội bộ và nhận
được nhượng bộ ngoại giao.
Nay, chỉ có Hoa Kỳ có thể lật tẩy lá bài của Bắc Hàn.
Vì thế, Bộ Tài chính Mỹ ra biện pháp
siết chặt tài chính với Bắc Hàn và Ngũ Giác Đài cử phi cơ
ném bom chiến lược B-52 và máy bay B-2 tới bán đảo Triều
Tiên..."
Tin BBC ngày 12-3-2013, đài BBC loan tin Hoa Kỳ vừa tăng thêm lệnh cấm vận lên ngân hàng trao đổi ngoại
tệ chính của Bắc Hàn và bốn cá nhân khác, trong lúc căng thẳng giữa các
bên do tham vọng hạt nhân của Bình Nhưỡng.
Ngày 31-3-2013, đài VOA cho biết Peter King, Chủ tịch Ủy ban An ninh Nội địa và là thành viên của Ủy ban Tình Báo Hạ viện tỏ thái độ coi thường lời hù dọa của cậu ấm Bắc Triều Tiên.
“Đây không phải là lời đe dọa trống rỗng.
Tôi không lo ngại về việc họ tấn công lục địa Mỹ ngay lúc này, hay thậm
chí bất kỳ một lãnh thổ nào của Mỹ. Tôi nghĩ rằng mối đe dọa thực sự là
Bắc Triều Tiên có thể tự đưa mình vào chỗ không lối thoát.”
"
Thùng rỗng kêu to", Bắc Hàn kêu to là vì thùng rỗng. Cái bệnh của cộng
sản là nói láo, là dối trá. Bắc Hàn đã bị phát giác là làm giả các hình
ảnh theo kiểu "có it xít ra nhiều", có một tàu thì phóng ra trăm tàu,
hai ba hỏa tiễn thì nhân lên hàng trăm hỏa tiễn để hù dọa thiên hạ.
Hãng thông tấn AFP vừa
phát hiện, một bức ảnh tàu hải quân Bắc Hàn tập trận do hãng KCNA đăng
hôm 26/03 có sự can thiệp của photoshop.Ảnh chụp tám tàu đổ bộ dạng có điện khí hiện đại
tiến vào bờ biển phía đông của Bắc Triều Tiên trong khuôn khổ cuộc tập
trận chống đổ bộ vào đất liền.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2013/03/130329_bac_han_photoshop_anh.shtml
Cái
bệnh dối trá lưu manh này là bệnh phổ biến trong thế giới cộng sản.Tại
Việt Nam trong chương trình thời sự tối 26/03/2013 của kênh VTV1 Đài
Truyền hình Việt Nam, có một phóng sự nhan đề : « Chức sắc tôn giáo góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992 ». Phóng sự này trích dẫn phát biểu của một người được chú thích là « Linh mục Nguyễn Quốc Hiếu, Chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Công giáo tỉnh Bắc Ninh ». Thế
nhưng, Văn phòng Tòa Giám mục Bắc Ninh ngày 28/03 vừa qua đã ra thông
cáo khẳng định Giáo phận Bắc Ninh không có linh mục nào tên là Nguyễn
Quốc Hiếu.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20130330-truyen-hinh-nha-nuoc-viet-nam-bi-phat-hien-nguy-tao-thong-tin-ve-gop-y-hien-phap
Mikhail Sergeyevich Gorbachev,nguyên Tổng Bí thư đảng cộng sản Liên Xô đã phát biểu:" I have devoted half of my life for communism. Today, I am sad to say that The Communist Party only spreads propaganda and deceives"
(Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản.
Hôm nay tôi đau buồn mà thú nhận rằng: cộng sản chỉ biết tuyên truyền và
dối trá.).
Thật vậy, cộng sản là một chủ nghĩa dối trá và tàn bạo.Việt Nam sau khi
Lê Duẩn sang Nga ký hiệp ước với Nga, khi về Lê Đức Anh kéo quân qua
chiếm Cambodia. Sau khi ký kết với Nga, Tập Cận Binh sẽ làm gì?
Bao giờ ông Tập Cận Bình chinh Đông?Dân Việt Nam đang chờ xem Sấm Trạng Trình có ứng nghiệm hay không:" Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,". Năm thìn đã qua, năm tị vừa đến! Trong năm tị thế chiến sẽ xảy ra. Có người cón đi vào chi tiết giải rằng Long vĩ xà đầu là cuối tháng ba âm lịch ( thìn) của năm tị (2013) này, tức là đầu tháng năm dương lịch -2013 này biển Đông sẽ dậy sóng. . Cầm mong cho những ông "duy tâm thần bí " này đoán sai!
Bao giờ ông Tập Cận Bình chinh Đông?Dân Việt Nam đang chờ xem Sấm Trạng Trình có ứng nghiệm hay không:" Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,". Năm thìn đã qua, năm tị vừa đến! Trong năm tị thế chiến sẽ xảy ra. Có người cón đi vào chi tiết giải rằng Long vĩ xà đầu là cuối tháng ba âm lịch ( thìn) của năm tị (2013) này, tức là đầu tháng năm dương lịch -2013 này biển Đông sẽ dậy sóng. . Cầm mong cho những ông "duy tâm thần bí " này đoán sai!
Marx cũng là một
loại " duy tâm thần bí". .Những dự đoán của Marx trật lất và làm cho
hàng trăm triệu người chết, và nay còn di họa cho Việt Nam, Trung, Quốc,
Tây Tậng, Bắc Hàn, Mông Cổ... Dẫu sao các vị " duy tâm thần bí" Việt Nam vẫn có cơ sở hơn Marx vì:
+Nhiều chiêm tinh gia tiên đoán năm 2013 thế chiến thứ ba.
+Từ lâu, Trung Cộng muốn làm bá chủ
thiên hạ, họ vẽ bản đồ lưỡi bò cho rằng hầu hết biển Đông là của họ. Nếu
ai yêu cầu họ trưng bằng cớ thì họ nói ngang":
- Trung Quốc là nước lớn nhất (nên có quyền ăn cướp. )
- Thực tại lịch sử cho họ quyền chiếm biển Đông cho dù trước đây các đảo
Trường Sa, HoàngSa, Điếu Ngư không có trong bản đồ Trung Quốc. Ý nói
nay Trung Quốc dân đông thế mạnh cho nên cần đất, cần biển, và họ tự cho
họ có quyền xậm lược!
+Nay Trung Quốc vẫn ngang nhiên bày tỏ tham vọng xâm lược mà không sợ gì
ai..Trọng Nghĩa đải RFI tường thuật vè cuộc hội thảo về vấn đề tranh
chấp tại Biển Đông tại Mỹ (13 - 15/03/2013), do Hội châu Á Asia Society
(New
York) cùng với Trường Hành chánh công Lý Quang Diệu (Singapore) đồng tổ
chức. Tập hợp nhiều nhà nghiên cứu hay quan chức chính phủ từ 6 nước
(Hoa Kỳ, Singapore, Việt Nam, Trung Quốc, Philippines và Úc), sự kiện
này đã thu hút sự chú ý của giới quan tâm đến tình hình Biển Đông, vì là
dịp để hiểu rõ hơn quan điểm của từng tác nhân liên quan đến hồ sơ
này.
Tiến sĩ Vũ Quang Việt, nguyên chuyên gia thống kê tại Liên Hiệp Quốc, đã có điều kiện dự cuộc hội thảo tại Hội Asia Society, và đã đồng ý chia sẻ với thính giả RFI một số suy nghĩ về điều có thể gọi là tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc đã được đại diện cao cấp của phía Trung Quốc - tướng Chu Thành Hổ - công khai bộc lộ trước đông đảo các nhà nghiên cứu quốc tế.
Tham vọng này có thể thấy qua các tuyên bố của nhân vật này, từ việc phản bác yêu cầu tài phán quốc tế của Philippines, xác định chủ quyền của Bắc Kinh trong vùng, coi nhẹ các nỗ lực của ASEAN trong việc thúc đẩy bộ Quy tắc ứng xử tại Biển Đông để ngăn ngừa xung đột, cho đến việc xem Biển Đông là một vấn đề song phương Mỹ-Trung, và nhất là chủ trương duy trì nguyên trạng hiện nay, nhưng theo kiểu Trung Quốc, tức là để cho Trung Quốc mặc sức tung hoành.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130325-hoi-thao-ve-bien-dong-tai-hoi-asia-society-tham-vong-ba-chu-cua-trung-quoc-lo-nguyen
Tiến sĩ Vũ Quang Việt, nguyên chuyên gia thống kê tại Liên Hiệp Quốc, đã có điều kiện dự cuộc hội thảo tại Hội Asia Society, và đã đồng ý chia sẻ với thính giả RFI một số suy nghĩ về điều có thể gọi là tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc đã được đại diện cao cấp của phía Trung Quốc - tướng Chu Thành Hổ - công khai bộc lộ trước đông đảo các nhà nghiên cứu quốc tế.
Tham vọng này có thể thấy qua các tuyên bố của nhân vật này, từ việc phản bác yêu cầu tài phán quốc tế của Philippines, xác định chủ quyền của Bắc Kinh trong vùng, coi nhẹ các nỗ lực của ASEAN trong việc thúc đẩy bộ Quy tắc ứng xử tại Biển Đông để ngăn ngừa xung đột, cho đến việc xem Biển Đông là một vấn đề song phương Mỹ-Trung, và nhất là chủ trương duy trì nguyên trạng hiện nay, nhưng theo kiểu Trung Quốc, tức là để cho Trung Quốc mặc sức tung hoành.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130325-hoi-thao-ve-bien-dong-tai-hoi-asia-society-tham-vong-ba-chu-cua-trung-quoc-lo-nguyen
Không lẽ Trung Quốc chỉ nói chơi hay sao? Nhiều bình luận gia Việt Nam
và quốc tế cho rằng Bắc Triều Tiên hung hăng làm cho Trung Cộng lo sợ
nhưng biết đâu Bắc Triều Tiên là đội quân tiên phong của Trung Cộng.
Tập Cận Bình chơi trò "ném đá giấu tay :," xui trẻ Kim Jong-Un,ăn cứt
gà". Trung Cộng và Bắc Hàn là một đồng một cốt, chẳng phải là hai như
thiên hạ nghĩ lầm. Tháng tư đang đến, chỉ ba tuần lễ nữa là tháng năm
dương lịch, ta thử chờ xem các ông duy tâm thần bí Việt Nam đúng hay
sai. Cầu mong họ nói sai như ông mục sư nọ ở bên Anh. bên Mỹ!
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 256
SẤM TRẠNG TRÌNH - TÒA ÁN VN- THƠ XƯỚNG HỌA
NGỌC ẨN * SẤM TRẠNG TRÌNH
“Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình.”
Long vĩ (2012) xà đầu (2013) là cuối năm con rồng đầu năm con rắn bắt
đầu có chiến tranh ở khắp nơi. Hiện tại Bắc Hàn đe dọa tấn công Nam Hàn
và Hoa Kỳ. Ở trung đông, Syria đang có chiến tranh dữ dội giữa người dân
và kẻ cầm quyền, Iran và Palestine đe dọa tiêu diệt Do Thái. Do Thái có
lẽ sẽ đánh phủ đầu Iran trước khi Iran có võ khí nguyên tử trong năm
2013. Ở Á châu Trung Quốc tranh chấp hải phận với Nhật Bản và
Philipines, TQ chiếm biển đảo của Việt Nam. Chiến tranh giữa Nam và Bắc
Hàn có thể xảy ra bất cứ lúc nào và sẽ kéo theo TQ, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Úc
Đại Lợi, Ấn Độ vào cuộc thì đúng là “can qua xứ xứ khổ đao binh”. “Mã đề dương cước anh hùng tận” đầu
năm con ngựa (2014) cho đến cuối năm con dê sẽ có nhiều người chết vì
chiến tranh. Chiến tranh nguyên tử có thể bùng nổ ở bán đảo Triều Tiên
và lây sang TQ. TQ rất lo sợ là khi Bắc Hàn xử dụng võ khí nguyên tử thì
Nam Hàn và Mỹ sẽ trả đũa bằng bom nguyên tử. TQ có chung biên giới với
Bắc Hàn, TQ sẽ bị phóng xạ nguyên tử mà phải di cư nhiều chục triệu dân
khiến kinh tế TQ gặp khủng hoảng. TQ bênh vực Bắc Hàn mà vào cuộc chiến
thì Nhật Bản, Úc và Ấn Độ là đồng minh của Mỹ sẽ tấn công Bắc Hàn và TQ.
Chiến tranh sẽ kéo dài từ năm con ngựa (2014) cho đến hết năm con dê
(2015) với số người tử vong của các bên tham chiến rất cao. Bắt đầu năm
con khỉ (2016) cho đến con gà (2017) mới nhìn thấy thái bình.
Nghe thì có vẻ trớ trêu nhưng điều tốt đẹp cho dân tộc Bắc Hàn chính là
được Mỹ và Nam Hàn tấn công, chiếm đóng. Nếu Mỹ phải thả hai quả bom
nguyên tử vào Bắc Hàn để tiêu diệt những lãnh đạo độc tài thì dân Bắc
Hàn được thực sự giải phóng cho dù sẽ có một số dân chết lây trong chiến
tranh. Hai quả bom nguyên tử sẽ tàn phá Bắc Hàn ít hơn và ngắn hạn hơn
là sự tàn phá của đảng CS Bắc Hàn. Ban lãnh đạo Bắc Hàn như căn nhà đã
bị mối mọt ăn rỗng ruột. Cách tốt nhất là đốt căn nhà để tiêu diệt toàn
bộ mối mọt và xây cất lại nhà mới tốt đẹp hơn. Mỹ đã từng chấm dứt chiến
tranh với Nhật bằng hai quả bom nguyên tử và dẹp đi chế độ độc tài
phong kiến ở Nhật và giúp nước Nhật xây dựng lại như ngày hôm nay. Nhật
Hoàng ngày nay chỉ còn là biểu tượng chứ không trực tiếp điều hành guồng
máy quốc gia. Cái may mắn của đất nước Đại Hàn là vẫn còn có một nửa là
Nam Hàn giàu mạnh, dân trí cao và được Mỹ giúp đỡ tận tình. Khi Đại Hàn
thống nhất và không còn bị độc tài cộng sản ngự trị thì đất nước Đại
Hàn sẽ có thêm tài nguyên và nhân lực xây dựng đất nước. Nam Bắc Hàn sẽ
thống nhất tương tự như Đông Đức và Tây Đức và trở thành cường quốc thế
giới. Dân tộc Việt Nam thì quá xui bị cộng sản độc tài đang ngự trị trên
quê hương sau khi đất nước thống nhất. Kết quả là VN đứng gần hạng nhất
vi phạm nhân quyền và tham nhũng và đứng gần hạng bét tự do báo chí.
TQ đang rất lo sợ chiến tranh Triều Tiên bộc phát và tìm mọi cách để
ngăn cản tên đàn em đừng gây sự mà vạ lây đến đàn anh. Đảng CSVN cũng
mong muốn là chiến tranh Triều Tiên đừng xảy ra. Khi TQ bị lôi kéo vào
chiến tranh Triều Tiên thì tên tay sai CSVN mất chỗ dựa và dân tộc VN sẽ
đứng lên đòi nhân quyền và tự do dân chủ và chắc chắn đảng CSVN sẽ bị
lật đổ. Khi TQ vì sợ vạ lây khoanh tay đứng nhìn tên đàn em Bắc Hàn bị
Mỹ và Nam Hàn đánh bại thì đó cũng là dấu hiệu tốt cho toàn dân VN khởi
nghĩa. Khi Bắc Hàn bị tiêu diệt thì Mỹ và Nam Hàn tiếp cận biên giới TQ
và áp lực bao vây TQ rất khủng khiếp.
“Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng (năm con rắn 2014 hết sa tăng)
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng (năm con ngựa 2014 quỷ đỏ CS chết)
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời” (“Cha con dòng họ thầy tăng” có lẽ cụ Trạng ám chỉ sư quốc doanh đi tu vẫn lấy vợ.)
“Nói đến độ thầy tăng mở nước (có lẽ cụ Trạng muốn nói các tôn giáo nổi lên)
Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu (đám quỷ cộng sản ăn nói, hành động xuôi ngược)
Bấy lâu những cậy phép màu
Bây giờ phép ấy để lâu không hào.” (dân không còn sợ CS)
“Cũng có kẻ non trèo biển lội
Lánh mình vào ở nội Ngô Tề (có phải cụ Trạng Trình ám chỉ Việt kiều khắp nơi?)
Có thầy Nhân Thập đi về (Việt kiều trở về giúp xây dựng đất nước sau khi CS từ trần)
Tả hữu phù trì cây cỏ thành binh.”
Có phải sấm ký của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đang ứng nghiệm?
Chia sẻ bài viết:
BÁO TUỔI TRẺ * TÒA ÁN VIỆT NAM KÍN HAY HỞ?
Báo Tuổi Trẻ: Tòa xử công khai nhưng… kín!
Posted by chuyenhoavietnam ⋅
Tâm Lụa
Tuổi Trẻ – 17/01/2013
TT – Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự và
Luật hành chính đều có điều khoản quy định các phiên tòa được xét xử
công khai, mọi công dân đều có quyền tham dự phiên tòa. Thế nhưng thực
tế có những phiên tòa đóng kín cửa không lý do.
-
Hình ảnh thường thấy hằng ngày ở cổng TAND TP Hà Nội: người dân chờ đợi, năn nỉ bảo vệ cho vào tòa – Ảnh: Tâm Lụa
Hàng chục người dân tập trung trước cổng TAND TP Hà Nội
(43 Hai Bà Trưng, quận Hoàn Kiếm) xin vào xem xét xử. Trước cổng tòa,
hai bảo vệ của tòa án và 4-5 người mặc cảnh phục đứng chắn ngay lối vào.
Họ kiểm tra rất gắt gao. Ai có giấy triệu tập của tòa mới được qua
cổng. Đó là những hình ảnh diễn ra thường ngày ở TAND TP Hà Nội.
Một phụ nữ với gương mặt khắc khổ chen vào xin bảo vệ
cho vào xem xét xử cháu ruột nhưng chỉ nhận được những cái lắc đầu. Bà
bị đẩy ra ngoài mặc dù đã hết lời năn nỉ rằng bà đã đi mấy trăm cây số
giữa trời lạnh buốt từ 3g sáng mới tới được đây.
Trong tòa án, trước cửa phòng xử 104B, một người đàn ông
đứng xin hai công an cho vào trong xem xét xử nhưng cũng chỉ nhận được
những cái lắc đầu. Năn nỉ mãi không được, người đàn ông văng tục, chửi
bới ầm ĩ cả dãy hành lang. Khi đó lực lượng công an mới cho ông vào
phòng.
Vi phạm pháp luật ngay tòa án
Qua được cổng bảo vệ chưa xong, trước cửa phòng xét xử
luôn có nhiều công an đứng canh gác để kiểm tra giấy tờ của người đến
xem xét xử. Mặc dù các phiên xét xử đều là các vụ án dân sự, hình sự
bình thường, không phải các vụ án liên quan đến an ninh quốc gia hoặc
các vụ hiếp dâm mà bị hại yêu cầu xử kín, thế nhưng lực lượng bảo vệ vẫn
cương quyết không cho người dân vào xem xét xử.
Ở TAND TP.HCM, việc người dân vào tòa xem xét xử dễ dàng
hơn khi cánh cổng vào tòa luôn mở rộng. Nhưng ở tòa phúc thẩm TAND tối
cao tại TP.HCM trên tầng 2, mọi việc có vẻ khó khăn hơn. Người đến đây
đều phải xuất trình giấy tờ cho bảo vệ. Một số sinh viên luật đến dự
phiên tòa để học tập, có chứng minh nhân dân nhưng không có giấy giới
thiệu của trường cũng bị bảo vệ không cho vào.
Việc không cho người dân vào tòa xem xét xử không những
vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, mà còn làm nảy sinh
tiêu cực. Theo phản ảnh của một số người dân, ai có tiền cho lực lượng
bảo vệ ở cổng TAND TP Hà Nội sẽ được vào tòa.
Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Quốc Hội –
thẩm phán, chánh văn phòng TAND TP Hà Nội – khẳng định lãnh đạo TAND TP
Hà Nội chưa bao giờ cấm người dân vào xem xét xử mà chỉ hạn chế. Theo
ông Hội, TAND TP Hà Nội đang sửa chữa trụ sở, diện tích chật chội, phòng
xử nhỏ hẹp, mỗi phòng xử chỉ ngồi được 15-20 người nên phải hạn chế
người dân vào xem. Việc hạn chế người ra vào tòa để “bảo vệ thẩm phán,
viện kiểm sát và những người tiến hành tố tụng. Chúng tôi sợ một số đối
tượng lưu manh côn đồ vào tòa án rồi lợi dụng ngủ lại để phá cơ sở vật
chất, lấy cắp tài liệu hồ sơ…”.
Lý do ông chánh văn phòng TAND TP Hà Nội đưa ra là
không thuyết phục vì ngay cả khi chưa sửa chữa trụ sở, TAND TP Hà Nội
cũng kiểm soát rất gắt gao việc người dân vào xem xét xử. Vụ án được xử ở
phòng lớn hay bé, phòng xử có còn chỗ hay không thì mỗi sáng lực lượng
bảo vệ ở cổng TAND TP Hà Nội vẫn ngăn cản người dân vào tòa.
Trả lời về việc dân phải đưa tiền cho bảo vệ mới được
vào tòa án, ông Hội cho biết: “Trước đây chúng tôi có nhận được đơn tố
cáo của người dân về vấn đề này, qua xác minh cũng đã cho thôi việc một
bảo vệ. Người dân bảo có đưa tiền, bảo vệ lại nói không nên rất khó xử
lý. Chúng tôi đã đặt camera ở cổng tòa để theo dõi bảo vệ tiếp xúc với
dân ra làm sao, có tiêu cực xảy ra hay không. Lãnh đạo TAND Hà Nội rất
mong dân chụp ảnh, quay phim hay có những bằng chứng xác thực về việc
bảo vệ nhận tiền, chúng tôi sẽ xử lý các trường hợp vi phạm”.
Đổi quyền hợp pháp của dân để lấy sự nhàn hạ?
Luật sư Ngô Ngọc Trai (Đoàn luật sư TP Nam Định) cho
rằng một số tòa án không cho người dân vào xem xét xử lấy lý do “bảo vệ
trật tự phiên tòa” là bao biện, không thuyết phục. Luật sư Trai cho
biết: “Nhiều phiên tòa còn chỗ trống rất nhiều nhưng bảo vệ không cho
dân vào xem. Trách nhiệm của lực lượng hỗ trợ tư pháp là giữ gìn trật tự
phiên tòa, nhưng thay vì làm nhiệm vụ của mình thì họ cấm không cho dân
vào phòng xử. Căn cứ điều 18 Bộ luật tố tụng hình sự, mọi người dân đều
được quyền tham dự phiên tòa. Một người đi đường tránh mưa cũng có
quyền tạt vào xem tòa hôm nay xử gì. Những hành vi ngăn cản người dân
vào phòng xử nghe tòa xử án đều vi phạm pháp luật”.
uật sư Ngô Ngọc Trai nói: “Luật tổ chức tòa án nhân
dân điều 38 Quy định: thẩm phán, hội thẩm phải tôn trọng nhân dân và
chịu sự giám sát của nhân dân. Việc người dân tham dự phiên tòa chính là
giám sát cán bộ tòa án tuân thủ, thực thi pháp luật. Đây cũng là một
phương thức tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật sinh động”.
Luật sư Trai là người đã gửi bản kiến nghị tới chánh án
TAND tối cao để phản ảnh về việc người dân bị ngăn trở khi đến xem xét
xử, nhưng tới nay không nhận được phản hồi. Luật sư cho biết sắp tới sẽ
tiếp tục gửi kiến nghị tới Quốc hội và Chủ tịch nước.
*****
Ngồi bệt ở cổng tòa
Ngồi bệt ở cổng tòa
Tại
phiên tòa xét xử vụ côn đồ hành hung người dân Văn Giang (sáng
30-11-2012, TAND huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên), rất đông người dân
muốn tham dự phiên tòa nhưng đều phải đứng bên ngoài. Lực lượng bảo vệ
tòa án thường không giải thích, không đưa được lý do chính đáng tại sao
không cho người dân vào xem xét xử. Nhiều người sau khi xin vào không
được đã ngồi bệt ở cổng tòa khóc.
Nguồn:
PHÂN ƯU GIA ĐÌNH CHIẾN SĨ TRẦN HỒNG
PHÂN ƯU
Nhận được tin buồn:
Nhà đấu tranh bất khuất chống Cộng Sản Việt Nam
TRẦN HỒNG
Nhà đấu tranh bất khuất chống Cộng Sản Việt Nam
TRẦN HỒNG
Đã vĩnh viễn ra đi vào ngày 26.03.2013
Tại Paris, Pháp Quốc
Chúng tôi thành kính phân ưu cùng chị Trần Hồng và tang quyến.
Nguyện cầu hương linh của người quá cố sớm được an giấc ngàn thu.
Lê Xuân Nhuận và Trần
Hồng
Sacramento, CA, USA
\
Sacramento, CA, USA
\
THƠ XƯỚNG HỌA
MẠT PHÁP
(XƯỚNG)
Thế giới ngày nay quá lạ lùng,
Tình người suy thoái khó hình dung.
Tham dâm, đắm lợi, phi nhân tánh,
Vị ngã, thủ tiêu, ví độc trùng.
Nhân quả tái sinh loài ngạ quỷ,
Hận thù xuất hiện lũ tàn hung.
Biết bao tôn giáo hành thiên đạo,
Đối cảnh thương tâm luống thẹn thùng.
TƯ-NGUYÊN
San jose, 19-3-2013
KÍNH HỌA 1
Thời buổi con người thật lạnh lùng,
Đa phần ích kỷ chẳng bao dung.
Lòng tham vô đáy như loài vật,
Trí đoản u mê giống bọ trùng.
Người lớn gây nhau đòi bắn giết,
Học sinh bắt nạt muốn hành hung.
Tâm còn phân biệt từng tôn giáo,
Đánh phá lẫn nhau quả thẹn thùng!
CHÁNH MINH
29 Mar 2013
KÍNH HỌA 2
NƯỚC MẮT ĐAU THƯƠNG
Cường bạo ra tay quá lạnh lùng
Hẳn là Trời Đất sẽ không dung
Ỷ quyền bắt bớ ...y như quỷ
Cậy thế ăn luồn...giống tựa trùng
Câm miệng ,dân lành chịu áp
bức
Huênh hoang ,"cán
ngố" cứ hành hung
Chao ôi mạt pháp, đời điên đảo
Nước mắt đau thương ức triệu thùng !
KÍNH
HỌA 3
Á KHẨU
Tâm
dù bất nhẫn khỏi truy lùng,
Khi
biết con người hẹp lượng dung.
Biến
cõi trần thành hoang tử địa,
Bám
quyền lợi quá ký sinh trùng!
Miệng
chồn, mỏ cáo, trùm thô bỉ,
Dạ
sói, lòng lang, chúa bạo hung.
Tiếng
mật lời đường quăng sọt rác,
Những
lời nhân nghĩa đổ trong thùng.
Dương
Hồng Kỳ
MẠT PHÁP MẠT THẾ
Họa
Xơn
xớt đầu môi, dạ lạnh lùng
Xem
người rất khó bắt hình dung.
Bài
phong ,phản đế, lòng xà thú
Đồng
chí ,anh em ,dạ điểu trùng.
Tây
Tạng lửa thiêu vì bạo ngược
Hoàng
Sa lệ ứa bởi tàn hung.
Nam
nhi cam chịu theo Hồ tặc,
Đọc
sử cha ông luống thẹn thùng.
Sơn Trung
TRẺ RANH LUẬN CHÍNH
CHUYỆN NƯÔC NON
Truyện dài
đấu đá trong hàng ngũ lãnh đạo Đảng Cộng Sản VN
Ông Trương Tấn Sang Ủy viên
Bộ Chánh Tri Đảng Cộng Sản VN kiêm chủ tịch nướcCHXHCNVN vừa đến Câu Lạc Bộ Thăng Long câu lạc bộ của
đám cán bộ
""cộm cán'""của
Đảng Cộng Sản VN hiện đang nghỉ hưu nói chuyện thời sự đã nói huỵch toẹt ra những bất cập
của chế đô chánh trị của nướcCHXHCNVN như ông là chủ tịch nước nhưng lại có siêu
chủ tịch nước là ông Tổng bí
thư Đảng Cộng Sản VN Nguyễn Phú Trọng,ông là tổng tư lệnh
quân đội nhưng vì qui định quân
đội phải trung thành với Đảng
Cộng Sản VN nên Tổng bí thưĐảng Cộng Sản VN là bí thư quân ủy trung ương do đó Tổng bí
thư Đảng Cộng Sản VN là siêu Tổng tư lệnh.
.Theo báo chí mạng thì
nhà tiên tri Trần Dần vừa đưa ralời tiên đoán rằng trong năm 2013 VN có một Gorbachev trong Đảng Cộng Sản VN và ông
Gorbachev VN này sẽ chấmdứt
vai trò lịch sử của Đảng Cộng Sản VN.
lên làm Tổng Thống và
VN lúc đó sẽ có
một ông thủ tướng nguyên là
ngươi tù lương tâm đểVN cất cánhTrong khi báochí mạng loan tin ông Trương Tấn
Sang ủy viên chánh trị Đảng Cộng Sản VN kiêm chủ tịch nước có kế hoạch biến Đảng Cộng Sản
VN thành môt đảng Xã Hội Dân Chủ để Việt Nam phát triển theomô hình
Myanmar nghĩa là bắt tay với
phe đối lập hầu phát triển đất
nước.Chúng ta hãy chờ xem, nhiều tấn
tuồng cụp lạc sẽ diễn ra liên
miên đấy.
Điều 4 hiến pháp
1992
Điều 4 hiến pháp
nước CHXHCNVN năm 1992 là kế thừa của
điều 4 hiến pháp năm 1980 mà điều 4 hiến pháp năm 1980 của CHXHCNVN theo giáo sư Trần Khuê
thì lại chép nguyên
văn điều 6 hiến pháp Liên Xô và ly kỳ hơn nữa cái
điều 6 hiến pháp Liên xô lại sao y chang điều 6 hiến
pháp Đức Quốc Xã thời Hit Le.Năm
1949 khi thành lập nươc
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa Mao Trạch
Đông đã đưa vào hiến pháp nước CHNDTH không những điều
6 hiến pháp Liên Xô mà
còn đưa chủ nghĩa Mác Lê vô hiến pháp
dù trước đó năm 1943 một trong những người sáng
lập nước CHNDTH là ông Đặng Tiểu Bình đã viết bài chỉ rõ
"" chúng ta phản đối
chuyên chính một Đảng của Quôc Dân Đảng cai trị quốc
gia""
Năm 1982 Đảng Cộng Sản
Trung Quốc đã xóa điều 4 trong hiến pháp sau đó
lãnh đao Hồ Cẩm Đào đã nói một câu bất hủ'""Một
chính đảng trước đây tiên tiến không có nghĩa là hiện nay cũng tiên
tiến và mãi mãi tiên tiến""
Chân tướng điều 4 hiến pháp
năm 1992 của nước CHXHCNVN là
như thế đó không hiểu sao Đảng Cộng Sản
VN cư khư khư giư mãi như đười ươi giữ ống vậy, thật bố sư khỉ
Thơ Thái Bá Tân
Thái Bá Tân dân Nghệ học tiếng Anh ơ
Nga và là thầy dạy tiếng Anh nổi tiếng có nhiều học trò
thành đạt ông từng là phó chủ tịch Hội ĐồngVăn Học nước
ngoài của Hội Nhà Văn VN,ông
chuyên làm thơ 5 chữ.Thái
Bá Tân đươc coilà loại nhà thơ hiền lành
bỗng nhiên ông có
nhiều bài thơ năm chữ rất la Trẻ Ranh xin trích đăng lại để mọi người cùng
thưởng lãm
Tự bạch
Chứ nói chung là nhục
Nhục phải làm thằng dân
Một nước giỏi nói phét
Lãnh đạo thì ngu đần
Riêng hai chữ Cộng Sản
Đã đủ nói phần nào
Làm thằng dân Cộng Sản
Có gì mà tự hào?
Mà tự hào sao được
Khi mấy triệu dân ta
Vượt biên thà chềt biển
Hơn phải chết ở
nhà
Tự hào là yêu nước
Yêu nước phải biểu tình
Mà biểu tình nó oánh
Quân ta oánh quân
mình
TBT
Mừng và lo
Mừng cho bác Căm Bốt
Sản xuất được xe
hơi
Trăm phần trăm nội địa
Tốt không kém
xe người
Mừng cho bác
Miến Điện
Đang có cớ đi lên
Khi độc tài
tự nguyện
Đặt đất nước lên
trên
Đúng là mình mừng thật
Nhưng làlo
có ngày
Đất nước ta phấn đấu
Theo kịp hai nước này
TBT
Nói về Cộng Sản
Vốn là anh thợ dịch
Xuốt mấy chục năm nay
Giờ buồn tôi viết lại
Mấy đoạn trích
dưới đây
Các trùm Cộng Sản nói
Về lý tưởng của mình
Bảo đảm viết đúng
ý
Không thêm
bớt linh tinh
Elsin ai cũng biết
Trùm Cộng Sản
Nga xô
Cộng Sản không thể sửa
Mà phải chôn
xuống mồ
Rồi ông Gorbachev
Tôi bỏ nửa đời người
Theo lý tưởng Cộng Sản
Tưởng nó
đẹp nhất đời
Thế mà giờ chua xót
Phải tuyên
bố điều này
Cộng Sản chỉ dối trá
Luôn dối trá
xưa nay
Tiếp nữa một trùm
nữa
Ông Putin ngươi hùng
Ngu mới tin Cộng Sản
Bà Markel
ngày nay
Là thủ tướng nướcĐức
Thì phát biểu thế này
Cộng Sản thật đáng sợ
Làm tha hóa con người
Bên họ thì dối trá
Thờ ơ và lỗi đời
Một ngươi rất đáng kính
Đưc Đạt lai Lạt
ma
Của nước xưa Tây
Tạng
Thì nói với chúng Ta
Cộng Sản là cỏ dại
Trên rác đời hôi tanh
Thế đây các bác ạ
Tin hay không thì tùy
Các vị ấy nói thế
Tôi chẳng thêm thắt gì
Các bạn tự kết luận
Rồi nghĩ về nước
mình
Cá nhân tôi thú thật
Tôi đọc thây mà kinh
TBT
Khuyên ông Trọng thật lòng
Tôi không biết ông
Thiệu
Yêu mến lại càng không
Nhưng buộc phải
thừa nhận
Một thưc tế đau lòng
Rằng ông ấy nói đúng
Thời còn ở miền Nam
""Đừng
nghe Cộng Sản nói
Hãy xem Cộng Sản
làm
Tôi sống ở miền Bắc
Sáu mươi lăm năm nay
Và buộc phải thừa nhận
Một thưc tế thế này
Rằng ta Đảng Chánh phủ
Thường hay nói một đàng
Mà lại làm một nẻo
Nhiều khi không đàng hoàng
Đảng Chánh phủ luôn nói
Mà nói hay nói nhiều
Rằng sẵn sàng chấp nhận
Vậy mà một nhà báo
Nói ý kiến của mình
Nói đàng hoàng chững chạc
Có lý và có tình
Liền bị buộc thôi
việc
Ai cũng hiểu vì sao
Không khéo lại tù tội
Như thế là thế nào
Như thế là các vị
Măc nhiên thừa nhận mình
Không làm như đã nói
Gây bưc xúc nhân tình
Là một ngươi yêu nước
Là công dân Việt Nam
Tôi mong Đảng đã
nói
Là nhất thiết phải làm
Vì đó là danh dự
Niềm tin và tương lai
Hãy chứng minh ông Thiệu
Nói như
thế là sai
PS
Tôi không biết ông
Trọng
Yêu mến lại
càng không
Nhưng là
chỗ người lớn
Tôi thành thực khuyên ông
Rút cái giấy sa thải
Một nhà báo công minh
Phần ông nếu phục thiện
Cũng nên xem lại mình
Tôi nhận hưu nhà
nước
Cũng đã mấy năm nay
Hi vọng còn
đươc nhận
Sau bài thơ ngắn này
TBT
Trẻ Ranh phải công nhận Thái
Bá Tân là nhà
thơ thời sự rất có tài và có
lòng Thái Bá
Tân càng làm thơ thới sự càng
chứng tỏ thi tài của ông mỗi
lúc một lẫy lừng và tấm lòng của tác giả thì thật là
bao la và cởi mở.
Luật với chả pháp
Bộ Tư Pháp
nước CHXHCNVN vừa ra thông cáo
cho biết sau khi rà soát lại
hơn mườinghìn văn bản pháp luật mà các
bộ cũng như các tỉnh thành ở nước CHXHCNVN ban hành trongthời giangần đây bộ Tư
Pháp nhận thây hơn ba nghìn văn bản phạm luật hoăc vi hiến
.Bộ Tư Pháp dẫn chứng như văn bản củabộ
Công An phạt ngươi đi xe gắn máy không phải chính chủ hoăc đôi mũ bải hiểm kém chât lượng'.Ôi luật với cả
pháp
Tổng bí thư Đảng Cộng
Sản VN Nguyễn Phú Trọng méo mặt
Tổng bí thư Đảng Cộng
Sản VN Nguyễn Phú
Trong""Tarjan nổi giận""
khi các cơ quan truyền thông chánh thống như đài truyền hình và
các báo Nhân Dân,Quân Đội Nhân Dân,Đai Đoan Kết liên tục đăng các bài
báo chống lại những luồng ý kiến
đòi bỏ điều 4 hiến pháp,bỏ đìều qui đinh đất đai là thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý phi chính
trị hóa quân đội,đa nguyên đa đảng, xác đinh rõ ràng
tam quyền phân lập,
Nhưng luận điểm của các tác giả qua yếu khi bảo vệ bản dư thảo sửa đổi hiến pháp 1992 trong khi các ý kiến đòi bỏ điều 4 đòi đa nguyên đa đảng đòi bỏ điều qui định đất đai thuôc sở hữu toàn dân do nhà nươc quản lý xác định rõ tam quyền phân lập lại đươc nhắc đi nhắc lại nhiều lần gây chú ý trong dư luận.Thế là tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng lên tiếng.
Nhưng luận điểm của các tác giả qua yếu khi bảo vệ bản dư thảo sửa đổi hiến pháp 1992 trong khi các ý kiến đòi bỏ điều 4 đòi đa nguyên đa đảng đòi bỏ điều qui định đất đai thuôc sở hữu toàn dân do nhà nươc quản lý xác định rõ tam quyền phân lập lại đươc nhắc đi nhắc lại nhiều lần gây chú ý trong dư luận.Thế là tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng lên tiếng.
""Vừa rồi đã có
các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là
suy thoái tư tưởng chánh trị và đao đưc lối sống.Xem ai có tư tưởng muốn bỏ điều 4 Hiến
Pháp không?Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng không?Muốn
đa nguyên đa đảng không? Cótam quyền phân lập?Có phi chính trị hóa
quân đội không?,Người ta có
quan điểm đấy đưa cả lên phương tiện
thông tin đại chúng.Thế là suy thoái chứ còn gì nữa.Thamgia khiếu kiện biểu tình ký nộp đơn tập thể thế nó là
cái gì.?Nên phải quan tâm xử lý những điều đó'".
Những lời phát
biểu của Tổng bí thư Đảng Cộng
Sản VN Nguyễn Phú Trọng đươc ngay nhà báo
Nguyễn Đắc Kiên phóng viên báo
Gia Đình và Xã Hội đáp
lại bằng một bài báo
công bố trên mạng
Internet với thái độ chững
chạc đàng hoàng nguyên văn như sau:
""Điều đầu tiên
phải xác định ông đangnói với ai?Nếu ông nói với nhân dân cả nước thì xin khẳng định luônông không
có tư cách,.Ông là
Tởng bí thư Đảng Cộng Sản VN nếu ông
dùng hai chữ suy thoái thì cùng lắm ông chỉ có
thể nói điều đó với những người là
Đảng viên Đảng Cộng Sản VN ông không đủ
tư cách nói điều đó
với nhân dân cả nước.
Nếuông và
các đồng chí của ông muốn giữ điều 4 hiến pháp muốn giữ vai trò
lãnh đạo muôn chánh trị hóa quân đội không muốn đa nguyên đa Đảng ,không muốn tam quyền
phân lập đó là ý kiến
của riêng ông và Đảng Cộng Sản VN
của ông.Ông không thể qui kết rằng đó
là ý muôn
của nhân dân VN.Tuy nhiên cũng cần
phải nhấn mạnh rằng ý muốn trên
chỉ nên xem là của riêng
ông ông Tổng bí thư Nguyễn
Phú Trọng chưa chắc đã là tâm nguyện của toàn bộ đảng
viên Đảng Cộng Sản VN.Ông nói suy thoái về đao đức .
Tôi muốn hỏi ông đao đưc của ông đang muốn nói là đao đức nào?.Đạo đức làm người?Đạo đức công dân?Đạo đức dân tộc VN.Tôi đoán là ông đang muốn nói đến đạo đưc người công sản của các ông.Thế ra những người không Đảng Cộng Sản trên thế gi7ớ là vô đạo đưc hết ạ?Đi vào nội dung suy thoái chánh trị tư tưởng…chánh trị tư tưởng ông muốn nói là chánh trị tư tưởng nào?Có phải phải chánh trị tư tưởng của Đảng Cộng Sản… ông thử đọc lại Cương lĩnh chánh trị và điều lệ Đảng của các ông ban hành xem không có điều nào nói xóa điều 4 hiến pháp là suy thoái muốn đa nguyên chánh trị là suy thoáio muốn phi chánh trị hóa quân đội là suy thoái chí có tham ô tham nhũng đi ngươc lại lợi ích của nhân dân là suy thoái…
Tôi muốn hỏi ông đao đưc của ông đang muốn nói là đao đức nào?.Đạo đức làm người?Đạo đức công dân?Đạo đức dân tộc VN.Tôi đoán là ông đang muốn nói đến đạo đưc người công sản của các ông.Thế ra những người không Đảng Cộng Sản trên thế gi7ớ là vô đạo đưc hết ạ?Đi vào nội dung suy thoái chánh trị tư tưởng…chánh trị tư tưởng ông muốn nói là chánh trị tư tưởng nào?Có phải phải chánh trị tư tưởng của Đảng Cộng Sản… ông thử đọc lại Cương lĩnh chánh trị và điều lệ Đảng của các ông ban hành xem không có điều nào nói xóa điều 4 hiến pháp là suy thoái muốn đa nguyên chánh trị là suy thoáio muốn phi chánh trị hóa quân đội là suy thoái chí có tham ô tham nhũng đi ngươc lại lợi ích của nhân dân là suy thoái…
Nhà báo Nguyễn Đưc Kiên bị ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trong đáp lại bằng cách
cho lệnh Tổng biên tập báo Gia Đình Xã Hội đuổi việc treo bút nhưng Nguyễn Đưc Kiên đươc cả nươc bênh
và thoải máio viết báo
mạng thành ra Tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng méo mặt.
TRẠI SÚC VẬT
TRẠI SÚC VẬT
Nhà thơ Trần Mạnh
Hảovừa viết bài trên báo mạng tuyên
dương nhà thơ Hữu Thỉnh và nhà văn Trung Trung Đỉnh là
can đảm khi dám xuất bản bản
tiếng Viết tiểu thuyết Trại Súc
Vật dưới tựa đề Chuyện ở Nông Trại của
Goerge Orwell
Tiểu thuyết Trại Súc
Vật là tác phẩm hiện thực vach trần những cái quái
đản của cộng sản tại Liên Xô và đươc tạp chí Times tôn vinh là
một trong 100 tác phẩm văn học
giátrị nhất thế kỷ 20.Trại súc vật bị cấm xuất bản và phổ biến ở Liên
xô và những nước theo Liên
xô.Tuy nhiên cái đáng nói
hơn là báo Quân Đội Nhân Dân cơ quan ngôn luận của Tổng Cục
Chánh Trị Quân Đội Nhân Dân lại
đăng dài dài nhiều ngày
tiểu thuyêt Trại Súc
Vật.
Chuyện gây cấn hơn là
báo ANTGGT phụ san của báo CAND đăng bài tỏ ý bưc xúc
về chuyện Trại Súc Vật đươc dịch
và xuất bản cũng như đăng báo .Báo ANTGGT nói
rằng nhà văn George Orwell từng là chỉ điểm của
cơ quan an ninh bộ ngoại giao Anh khi cưng cấpcho cơ quan này bản danh sách những nhân vật
mà nhà văn này
cho rằng có cảm tình với chủ nghiã cộng sản.
PHẢN ĐỐI MỸ
PHẢN ĐỐI MỸ
Hà nội phản đối
bộ ngoại giao Mỹ tôn vinh nhà báo Tạ Phong Tân là
một trong 10 phụ nữ can đảm năm 2012
Phát ngôn viên bộ ngoại giao CHXHCNVN ở Hà nội ,ông Lương Thanh Nghị vừa
lên tiếng phản đối bộ Ngoại giao
Mỹ khi bộ này tôn vinh nhà
báo mạng Tạ Phong Tân là một trong 10 nhânvật nữ can đảm
trong năm 2012 vì dám viết báo nói
lên sự thưc và bị nhà
cầm quyền CHXHCNVN ra lệnh cho tòa
án bỏ tù 10 năm.Theo phát
ngôn viên bộ ngoại giao CHXHCNVN thì bộ Ngoại Giao Mỹ đã xen vào chuyện nội bộ của CHXHCNVN khi tôn vinh một người tù CHXHCNVN ,nên
bộ ngoại giao CHXHCNVN cưc lưc phản đối.
Chuyện lạ
Báo ANTG cuối
tháng 2 phu san của nhật báo CAND cơ quan ngôn luận của bộ
CA nước CHXHCNVN vừa đăng bài viết của nhà thơ Hồng Thanh Quangnói chuyện với
nhà thơ Phan Huyền Thư con gái
nhạc sĩ Phan Lạc Hoa (ngươi bị Phan Lạc Tuyên
dồn vào
đường cùng phải tự tử )
Đoc bài viết của
nhà thơ Hồng Thanh Quang Trẻ Ranh thấy thật thương nhà thơ Phan Huyền Thư chưa đầy
10 tuổi cha đã bị ép phải chết
để bảo vệ sự thật và nghệ thuật.Tuy
cha bị giết vìbảo vệ chân
thiên mỹ nhưng Phan Huyền Thư vẫn
tiếp tục con đương bảo vệ chân thiên
mỹ làm
thơ viết văn với tinh thần bất phục những
cái sai trái và
tuyên bố có 3 con trai phải làm
sao sống 'phúc đưctại mẫu""cho
con nhờ.
Phạm Trần Anh ra mắt sách
lịch sử ỡ Mỹ
Phạm Trần Anh đốc sự hành
chánh lãnh tụ sinh viên Phật Gíao ngươi từng ở tù
với các nhà thơ Tú
Kếu Trần Thúc Vũ sau khi
bị án tù chung thân tại VN năm 1997 ra tù đã viết sử và cho xuât bản chui.Năm 2006 PhạmTrần
anh sang Mỹ xuât bản công khai bộ sử Việt của ông và rât đươc hoan nghênh..Mới
đây Thi Văn Lạc Viêt đã giới
thiêu những cuốn sử của Phạm Trần
Anh và rất đươc ngươi yêu sử Việt hoan nghênh đón đọc.
Càng bao biện
càng trơ trẽn
Bị dư luận tấn công vì
giữ điều 4 hiến pháp độc quyền
chánh trị,biến quân đội thánh tay sai của Đảng,lập nhà nươc pháp quyền tập trung ba quyền hành pháp
lập pháp tư pháp tất cả vào
tay Đảng,biến đất đai thành tài sản của toán dân nhà nươc quản lý để Đảng tha hồ
thao túngĐảng
Cộng Sản VN bèn tung đám tiến sĩ tay sai viết bài bảo vệ Đảng đăng trên các báo
Đảng như Nhân Dân Quân Đội Nhân Dân rối cho lệnh các đài
phát thanhtruyền hình đọc lại.Kêt quả là
các bài báo
bảo vệ quan điểm của Đảng dân càng
đọc càng nghe cáng thây Đảng bố láo
bố lếu
TRẺ RANH
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 256
NGUYỄN HỮU VINH - TIN TỨC - TRUYỆN TÙ VÀ VƯỢT BIÊN
NGUYỄN HỮU VINH* VỤ ÁN ĐOÀN VĂN VƯƠN
Ước gì có phiên tòa thời thực dân, đế quốc'
Cập nhật: 10:30 GMT - thứ bảy, 6 tháng 4, 2013
Media Player
Blogger
Bấm
JB Nguyễn Hữu Vinh nói với BBC ông ước mong có những phiên
tòa như ở thời thực dân, đế quốc từng xử các vụ án với Nguyễn Ái Quốc,
Dimitrov hay vụ Đồng Nọc Nạn, sau khi theo dõi kết quả phiên sơ thẩm
được tuyên với ông Đoàn Văn Vươn và người thân trong cùng vụ án.
Ông nói: "Sau khi nghe kết quả của tòa án đối
với tội danh của anh em nhà họ Đoàn, đặc biệt ông Đoàn Văn Vươn bị mức
phạt 5 năm tù, cũng như những anh em khác của gia đình ông Đoàn Văn
Vươn, thì chúng tôi nghĩ ước gì chúng tôi có những phiên tòa như phiên
tòa của thực dân Pháp xử các nạn nhân ở Đồng Nọc Nạn, hoặc là phiên tòa
của Đức Quốc xã từng xử Dimitrov ở vụ án đốt nhà Quốc hội, cũng như vụ
án của thực dân Anh ở Hồng Kông đã xử Nguyễn Ái Quốc."
"Cảm giác của tôi là hết sức thất vọng với những
bản án như thế này và với những hệ thống pháp luật đã xử sự với những
người dân ở Việt Nam hiện nay như thế này. Phản ứng của người dân nhiều
khi không thể thể hiện ra được bằng những hành động, những việc làm,
nhưng tôi nghĩ rằng những phản ứng của họ trong y’ nghĩ, trong tiềm
thức và đặc biệt phản ứng của họ trong suy nghĩ, niềm tin và nhận thức
của họ là rất dữ dội. Và không chỉ có giáo dân."
Ông Vinh nói ông tin rằng các giáo dân đều có
quan điểm "như hai bức thư mà Đức Cha Chủ tịch Ủy ban Công lí - hòa bình
và Giám mục Hải Phòng đã nói rất rõ về quan điểm: Đoàn Văn Vươn không
thể là người có tội và vụ án này là vụ án trái pháp luật và vụ án không
thể chấp nhận được."
"Còn những người dân và giáo dân khác, tôi nghĩ
là những người đã theo dõi phiên tòa, những người đã biết được sự thật
và nắm bắt được thông tin một cách đầy đủ, tôi nghĩ rằng không có ai có
thể chấp nhận một bản án như thế, một cách hành xử như thế của hệ thống
pháp luật," Blogger từng được Tổ chức Human Rights Watch trao giải
Hellman/Hammett tháng 12/2012 nói với BBC.
NGUYỄN HƯNG QUỐC * VIỆT NAM THẮNG MỸ ?
Blog / Nguyễn Hưng Quốc
1975: Việt Nam có thắng Mỹ?
Trong bài “Thắng và bại”,
từ kinh nghiệm chiến tranh ở Iraq, tôi nêu lên nhận định: Thắng và bại
là một vấn đề phức tạp, gắn liền với một chu cảnh (context) nhất định.
Có khi người ta thắng một trận đánh nhưng lại thua một cuộc chiến tranh;
có khi thắng một cuộc chiến tranh nhỏ nhưng lại thua một cuộc chiến
tranh lớn. Hoặc ngược lại. Cũng có khi người ta thua hẳn một cuộc chiến
tranh nhưng lại thắng trong hòa bình, sau đó.
Từ chuyện thắng và bại, nhân tháng Tư, thử nhìn lại chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1954-75.
Liên quan đến cuộc chiến tranh ấy, cho đến nay, hầu như mọi người đều khẳng định: Việt Nam (hiểu theo nghĩa là miền Bắc Việt Nam) đã thắng Mỹ. Bộ máy tuyên truyền Việt Nam lúc nào cũng ra rả điều đó. Ngay người Mỹ cũng tự nhận là họ thua: Đó là cuộc chiến tranh đầu tiên mà họ thua trận! Điều đó đã trở thành một chấn thương dữ dội đối với một siêu cường quốc số một thế giới như Mỹ khiến nhiều người trong họ không ngừng trăn trở. Chiến tranh Việt Nam, do đó, với họ, trở thành một cuộc-chiến-chưa-kết-thúc (unfinished war) hoặc một chiến tranh vô tận (endless war) theo cách gọi của các học giả.
Dĩ nhiên, nhiều người nghĩ khác. Họ không chấp nhận họ thua trận với một trong ba lý do chính.
Từ chuyện thắng và bại, nhân tháng Tư, thử nhìn lại chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1954-75.
Liên quan đến cuộc chiến tranh ấy, cho đến nay, hầu như mọi người đều khẳng định: Việt Nam (hiểu theo nghĩa là miền Bắc Việt Nam) đã thắng Mỹ. Bộ máy tuyên truyền Việt Nam lúc nào cũng ra rả điều đó. Ngay người Mỹ cũng tự nhận là họ thua: Đó là cuộc chiến tranh đầu tiên mà họ thua trận! Điều đó đã trở thành một chấn thương dữ dội đối với một siêu cường quốc số một thế giới như Mỹ khiến nhiều người trong họ không ngừng trăn trở. Chiến tranh Việt Nam, do đó, với họ, trở thành một cuộc-chiến-chưa-kết-thúc (unfinished war) hoặc một chiến tranh vô tận (endless war) theo cách gọi của các học giả.
Dĩ nhiên, nhiều người nghĩ khác. Họ không chấp nhận họ thua trận với một trong ba lý do chính.
Một, một số người cho, về phương diện quân sự, quân đội Mỹ hầu như luôn
luôn chiến thắng, hơn nữa, tính trên tổng số thương vong, họ bị thiệt
hại ít hơn hẳn đối phương: trong khi Mỹ chỉ có 50.000 người chết, phía
miền Bắc, có khoảng từ một triệu đến một triệu rưỡi người bị giết (từ
phía người Việt Nam, chúng ta biết rõ điều này: Trong đó có rất nhiều
dân sự ở cả hai miền!) Những người này cho họ chỉ thua trên mặt trận
chính trị; và trong chính trị, họ không thua Bắc Việt, họ chỉ thua…
những màn ảnh tivi hằng ngày chiếu những cảnh chết chóc ghê rợn ở Việt
Nam trước mắt hàng trăm triệu người Mỹ, từ đó, làm dấy lên phong trào
phản chiến ở khắp nơi. Nói cách khác, Mỹ không thua Bắc Việt: Họ chỉ
thua chính họ, nghĩa là họ không thể tiếp tục kéo dài chiến tranh trước
sự thiếu kiên nhẫn của quần chúng, trước quyền tự do ngôn luận và phát
biểu của quần chúng, trước nhu cầu phát triển kinh tế trong nước.
Hai, một số người khác lại lý luận: Mặc dù Mỹ thua trận năm 1975, nhưng
nhìn toàn cục, họ lại là người chiến thắng. Một người Mỹ gốc Việt, Viet
D. Dinh, giáo sư Luật tại Đại học Georgetown University, trên tạp chí Policy Review
số tháng 12/2000 và 1/2001, quan niệm như vậy, trong một bài viết có
nhan đề “How We Won in Vietnam” (tr. 51-61): “Chúng ta thắng như thế nào
tại Việt Nam.” Ông lý luận: Mỹ và lực lượng đồng minh có thể thua trận
tại Việt Nam nhưng họ lại thắng trên một mặt trận khác lớn hơn và cũng
quan trọng hơn: Cuộc chiến tranh lạnh chống lại chủ nghĩa Cộng sản trên
toàn thế giới (tr. 53). Hơn nữa, cùng với phong trào đổi mới tại Việt
Nam cũng như việc Việt Nam tha thiết muốn bình thường hóa quan hệ ngoại
giao với Mỹ, Mỹ cũng đã thắng trên mặt trận lý tưởng và thiết chế: Cuối
cùng thì Việt Nam cũng đã theo Mỹ ít nhất một nửa: tự do hóa thị trường
(Còn nửa kia, dân chủ hóa thì chưa!) (tr. 61).
Một số người khác lại cho, sau khi rút quân khỏi Việt Nam, nhìn lại,
người Mỹ thấy Việt Nam đang lủi thủi chạy theo sau mình trên con đường
tư bản hóa. Họ khẳng định: “Chúng ta đã chiến thắng cuộc chiến tại Việt Nam bằng cách rút quân ra khỏi nơi đó.”
Ba, một số người khẳng định dứt khoát: Mỹ không hề thua Bắc Việt. Chiến
thắng của miền Bắc vào tháng Tư 1975 là chiến thắng đối với miền Nam chứ
không phải đối với Mỹ. Lý do đơn giản: Lúc ấy, hầu hết lính Mỹ đã rút
khỏi Việt Nam. Trước, ở đỉnh cao của cuộc chiến, Mỹ có khoảng nửa triệu
lính ở Việt Nam. Sau Tết Mậu Thân, thực hiện chính sách Việt Nam hóa
chiến tranh, lính Mỹ dần dần rút khỏi Việt Nam: Tháng 8/1969, rút 25.000
lính; cuối năm, rút thêm 45.000 người nữa. Đến giữa năm 1972, lính Mỹ ở
Việt Nam chỉ còn 27.000. Tháng 3/1973, 2.500 người lính cuối cùng rời
khỏi Việt Nam. Từ đó, ở Việt Nam, Mỹ chỉ còn khoảng 800 lính trong lực
lượng giám sát đình chiến và khoảng gần 200 lính Thủy quân lục chiến bảo
vệ Tòa Đại sứ ở Sài Gòn. Trong trận chiến cuối cùng vào đầu năm 1975,
lúc Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, không có cuộc giao tranh nào giữa Việt
Nam và Mỹ cả. Chính vì vậy, một số người Mỹ đặt câu hỏi: Tại sao có thể
nói là chúng ta thua trận khi chúng ta đã thực sự chấm dứt cuộc chiến đấu cả hơn hai năm trước đó?
Có thể tóm tắt lập luận thứ ba ở trên như sau: Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ chỉ bỏ cuộc chứ không thua cuộc.
Một số người phản bác lập luận ấy. Họ cho: bỏ cuộc tức là không hoàn
thành được mục tiêu mình đặt ra lúc khai chiến; không hoàn thành mục
tiêu ấy cũng có nghĩa là thua cuộc. Không có gì khác nhau cả.
Nhưng ở đây lại nảy ra một vấn đề: Mục tiêu Mỹ đặt ra lúc tham gia vào chiến tranh Việt Nam là gì?
Có hai mục tiêu chính:
Một, giúp đỡ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam trong cuộc đối đầu với chế độ Cộng sản ở miền Bắc.
Hai, ngăn chận làn sóng Cộng sản từ Trung Quốc đổ xuống Việt Nam, và từ đó, toàn bộ vùng Đông Nam Á.
Tập trung vào mục tiêu thứ nhất, nhiều người cho Mỹ thua trận ở Việt
Nam. Đó là điều không thể chối cãi được: cuối cùng, vào ngày 30/4/1975,
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã sụp đổ.
Tuy nhiên, xin lưu ý: trong hai mục tiêu trên, mục tiêu thứ hai mới là
quan trọng nhất. Khi lính Mỹ mới được điều sang Việt Nam, họ luôn luôn
được nhắc nhở đến mục tiêu thứ hai: “Nếu chúng ta không đến đây để ngăn
chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, chúng ta có thể sẽ phải
chiến đấu chống lại nó ở San Francisco sau này.” Mục tiêu đầu, nhằm xây
dựng một chế độ dân chủ không Cộng sản ở miền Nam, chỉ thỉnh thoảng mới được nhắc đến.
Có thể nói mục tiêu thứ nhất được đặt ra để cụ thể hóa mục tiêu thứ hai.
Nói cách khác, chính vì muốn ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa
Cộng sản, Mỹ mới nhảy vào giúp chính quyền miền Nam. Mục tiêu thứ nhất,
như vậy, chỉ là hệ luận của mục tiêu thứ hai. Nó chỉ là mục tiêu phụ.
Liên quan đến mục tiêu thứ hai, nên nhớ đến thuyết Domino vốn xuất hiện
từ năm 1951, thời kỳ đầu của chiến tranh lạnh, và được xem là nền tảng
lý thuyết cho các chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ đầu thập niên 1960
trở đi. Dựa trên thuyết Domino, chính phủ Mỹ tin là: Nếu Đông Dương rơi
vào tay Cộng sản, Miến Điện và Thái Lan sẽ bị Cộng sản chiếm gần như
ngay tức khắc. Sau đó, sẽ rất khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả,
để cho Indonesia, Ấn Độ và các nước khác tiếp tục nằm ngoài quỹ đạo
thống trị của Cộng sản Xô Viết.” Nghĩ như thế, chính phủ Mỹ đã xem Miền
Nam như một tiền đồn để ngăn chận hiểm họa cộng sản.
Nếu chỉ nhìn vào mục tiêu thứ hai này - mục tiêu ngăn chận làn sóng Cộng
sản ở Đông Nam Á - không thể nói là chính phủ Mỹ thất bại. Ngược lại.
Năm 1972, sau chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống Nixon, Mỹ đã
thành công ở ba điểm: Một, bước đầu bình thường hóa quan hệ ngoại giao
giữa hai nước để, tuy chưa hẳn là bạn, họ cũng không còn thù nghịch với
nhau như trước nữa; hai, khoét sâu mối mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên
Xô để hai nước đứng đầu khối Cộng sản này không còn thống nhất với
nhau; và ba, làm giảm bớt sự ủng hộ và trợ giúp của Trung Quốc đối với
Bắc Việt.
Với ba sự thành công ấy, Mỹ an tâm được ba điều: Một, khi Trung Quốc và
Liên Xô đã bị phân hóa, khối Cộng sản không còn mạnh và do đó, cũng
không còn quá nguy hiểm như trước. Hai, khi khối Cộng sản không còn
mạnh, đặc biệt khi Trung Quốc đang rất cần duy trì quan hệ hòa bình với
Mỹ để phát triển kinh tế và tranh giành ảnh hưởng với Liên Xô, Trung
Quốc sẽ không còn tích cực “xuất cảng cách mạng” ở các nước khác trong
vùng Đông Nam Á. Và ba, như là hệ quả của hai điều trên, Mỹ tin chắc:
ngay cả khi miền Bắc chiếm được miền Nam và ngay cả khi cả Campuchia và
Lào đều rơi vào tay Cộng sản thì chủ nghĩa Cộng sản cũng không thể phát
triển sang các nước khác như điều họ từng lo sợ trước đó.
Với ba sự an tâm trên, Mỹ quyết định rút quân ra khỏi Việt Nam. Với họ,
mục tiêu thứ hai, tức mục tiêu quan trọng nhất, đã hoàn tất thì mục tiêu
thứ nhất trở thành vô nghĩa. Miền Nam chỉ còn là một nước cờ chứ không
phải là một ván cờ. Họ thua một nước cờ nhưng lại thắng cả một ván cờ.
Thắng ở ba điểm:
Một, sau năm 1975, chủ nghĩa Cộng sản không hề phát triển ra khỏi biên
giới Lào và Campuchia. Các nước láng giềng của Đông Dương vẫn hoàn toàn
bình an trước hiểm họa Cộng sản.
Hai, sau khi chiếm miền Nam, chủ nghĩa Cộng sản ở Á châu không những
không mạnh hơn, mà ngược lại, còn yếu hơn hẳn. Yếu ở rất nhiều phương
diện. Về kinh tế, họ hoàn toàn kiệt quệ. Về quân sự, họ liên tục đánh
nhau. Về đối nội, họ hoàn toàn đánh mất niềm tin của dân chúng, từ đó,
dẫn đến phong trào vượt biên và vượt biển rầm rộ làm chấn động cả thế
giới. Về đối ngoại, họ hoàn toàn bị cô lập trước thế giới với những hình
ảnh rất xấu: Ở Khmer Đỏ là hình ảnh của sự diệt chủng; ở Việt Nam là
hình ảnh của sự độc tài và tàn bạo; ở Trung Quốc, sự chuyên chế và lạc
hậu. Cuối cùng, về ý thức hệ, ở khắp nơi, từ trí thức đến dân chúng,
người ta bắt đầu hoang mang hoài nghi những giá trị và những tín lý của
chủ nghĩa xã hội: Tầng lớp trí thức khuynh tả Tây phương, trước, một mực
khăng khăng bênh vực chủ nghĩa xã hội; sau, bắt đầu lên tiếng phê phán
sự độc tài và tàn bạo của nó. Một số trí thức hàng đầu, như Jean-Paul
Sartre, trở thành những người nhiệt tình giúp đỡ những người Việt Nam
vượt biên.
Ba, vào năm 1990, với sự sụp đổ của Liên Xô, của bức tường Berlin và của
hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Mỹ toàn thắng trong cuộc chiến
chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Ván cờ kéo dài nửa thế kỷ giữa chủ nghĩa
Cộng sản và chủ nghĩa tư bản đã kết thúc.
Nhìn vào ba sự thành công ấy, khó có thể nói Mỹ đã thua trận ở Việt Nam.
Lại càng không thể nói là miền Bắc Việt Nam đã thắng Mỹ.
Cũng cần lưu ý đến những sự thay đổi trong bản chất của chiến tranh. Từ
giữa thế kỷ 20 trở về trước, hầu hết các chiến lược gia, khi nghĩ về
chiến tranh, đều cho cái đích cuối cùng là phải chiến thắng một cách
tuyệt đối. Tiêu biểu nhất cho kiểu chiến thắng tuyệt đối ấy là cuộc
chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai. Ở cả hai lần, những kẻ
thù của phe Đồng minh đều tuyên bố đầu hàng. Ranh giới giữa thắng và
bại rất rõ. Rõ nhất là ở Nhật Bản. Sức tàn phá kinh hồn của hai trái bom
nguyên tử do Mỹ thả xuống Hiroshima và Nagasaki đã chứng tỏ sức mạnh vô
địch không thể chối cãi được của người chiến thắng.
Tuy nhiên, sau hai quả bom ấy, bản chất chiến tranh và cùng với nó, ý
nghĩa của chiến thắng, hoàn toàn thay đổi. Trong chiến tranh lạnh, cả Mỹ
lẫn Liên Xô đều có bom nguyên tử. Lúc nào cũng muốn tiêu diệt nhau
nhưng cả hai đều biết rất rõ cái điều Albert Einstein từng cảnh cáo:
“Tôi không biết trong chiến tranh thế giới lần thứ ba người ta đánh bằng
gì, nhưng trong chiến tranh thế giới lần thư tư, người ta sẽ chỉ có thể
đánh nhau bằng gậy và đá.” Thành ra, người ta vừa chạy đua chế tạo thật
nhiều, thật nhiều vũ khi nguyên tử vừa biết trước là chúng sẽ không
được sử dụng. Không nên được sử dụng. Không thể được sử dụng. Để tránh
điều đó, chiến tranh toàn diện (total war) biến thành chiến tranh giới
hạn (limited war); chiến tranh thế giới biến thành chiến tranh khu vực, ở
một số điểm nóng nào đó. Ý nghĩa của cái gọi là chiến thắng, do đó,
cũng đổi khác: bên cạnh cái thắng/bại về quân sự có cái thắng/bại về
chính trị và bên cạnh cái thắng/bại có tính chiến thuật có cái thắng/bại
có tính chiến lược.
Với những thay đổi ấy, chuyện thắng hay bại lại càng trở thành phức tạp hơn.
Phần kết luận, có hai điểm tôi xin nói cho rõ:
Thứ nhất, tôi chỉ muốn tìm hiểu một sự thật lịch sử chứ không hề muốn bênh vực cho Mỹ.
Thứ hai, dù Mỹ thắng hay bại, sau biến cố tháng 4/1975, miền Nam vẫn là
nạn nhân. Trên phạm vi quốc tế, ngoài miền Nam Việt Nam, Đài Loan là một
nạn nhân khác, tuy không đến nỗi bất hạnh như chúng ta.
Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là
blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài
VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Nguyễn Hưng Quốc
Nhà
phê bình văn học, nguyên chủ bút tạp chí Việt (1998-2001) và đồng chủ
bút tờ báo mạng Tiền Vệ (http://tienve.org). Hiện là chủ nhiệm Ban Việt
Học tại trường Đại Học Victoria, Úc. Đã xuất bản trên mười cuốn sách về
văn học Việt Nam.
TIN TỨC GẦN XA
Washington thúc giục Bắc Kinh giải quyết khủng hoảng Bắc Triều Tiên
Tổng thống Barack Obama và ông Tom Donilon, cố vấn an ninh Mỹ (AFP / Pete Souza)
Theo báo chí Mỹ, chính quyền Obama đã lên tiếng kêu gọi tân
lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình phải có « biện pháp mạnh » với chế độ
Bình Nhưỡng. Bằng không, Bắc Kinh sẽ phải trực diện với sức mạnh quân sự
của Hoa Kỳ đang được tăng cường tại vùng Bắc Á.
Trong bản tin hôm qua, thứ sáu 05/04/2013, nhật báo The New
York Times tiết lộ Washington đã có nhiều cuộc trao đổi với Bắc Kinh ,
kể cả cuộc điện đàm của tổng thống Mỹ Barack Obama với tân chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình.
Theo nguồn tin ẩn danh từ phía chính phủ Mỹ, phía Hoa Kỳ đã thông
báo với giới lãnh đạo Bắc Kinh một cách chi tiết kế hoạch tăng cường hệ
thống tên lửa phòng thủ để đối phó với thái độ đe dọa của nhà lãnh
đạo trẻ tuổi Bắc Triều Tiên Kim Jong Un.
Hoa Kỳ đã lần lượt đưa oanh tạc cơ tàng hình B2, chiến đấu cơ tàng
hình F22, hai khu trục hạm và giàn tên lửa chống tên lửa đến đảo Guam.
Theo AFP, Bắc Kinh không chỉ trích công khai mà cũng không phê phán
riêng về động thái tăng cường vũ khí của Mỹ vào Bắc Á sát nách Trung
Quốc. Thái độ im lặng này biểu lộ sự bất bình của ban lãnh đạo Trung
Quốc đối với Bắc Triều Tiên và họ hiểu rằng ủng hộ Bình Nhưỡng sẽ gây
tác hại cho quan hệ Mỹ-Trung.
Cố vấn an ninh Mỹ Tom Donilon nhận định rằng đây là « thời điểm quan
trọng » mà Trung Quốc cần phải tỏ thái độ : Quan trọng trong quan hệ
Mỹ-Trung, và quan trọng vào lúc khởi đầu nhiệm kỳ một của chủ tịch Trung
Quốc Tập Cận Bình và nhiệm kỳ hai của tổng thống Obama.
Cũng theo báo The New York Times, trong những ngày tới, Washington sẽ
cử nhiều nhân vật cao cấp sang Bắc Kinh để chuyển tải thông điệp muốn
Trung Quốc « mạnh tay » cảnh cáo Kim Jong Un.
Về phần mình, Ngoại trưởng John Kerry sẽ đến Bắc Kinh vào ngày 13/04/2013, thứ bảy tuần tới.
Các nhà ngoại giao tại Triều Tiên vẫn ở yên tại chỗ dù có cảnh báo
Binh sĩ Hàn Quốc tuần tra tại một trạm kiểm soát gần khu phi quân sự bán đảo Triều Tiên, ở Paju, phía bắc Seoul, 6/4/2013
CỠ CHỮ
06.04.2013
Các nhà ngoại giao nước ngoài tại Bắc Triều Tiên ngày thứ Bảy dường
như ở yên tại chỗ trong các tòa đại sứ tại Bình Nhưỡng dù chính phủ công
khai khuyến cáo họ nên rời khỏi thủ đô của nước này vì các lý do an
ninh.
Phúc trình nhận được tại các thủ đô phương Tây từ các tòa đại sứ nước ngoài tại Bình Nhưỡng cho thấy các nhà ngoại giao xem nhẹ cảnh báo rời khỏi Bắc Triều Tiên, và hầu hết các người nước ngoài xem thông điệp cảnh báo của Bắc Triều Tiên được lưu hành hôm thứ Sáu là một động thái nhằm làm gia tăng sự căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên.
Bắc Triều Tiên đã nói với các tòa đại sứ và các tổ chức quốc tế là Bình Nhưỡng chỉ có thể bảo đảm an toàn cho họ cho đến ngày 10 tháng Tư trong trường hợp có những hành động thù nghịch rõ rệt.
Nga và Anh hôm thứ Sáu cho biết không có kế hoạch di tản nhân viên tòa đại sứ.
Trong khi đó, những người Nam Triều Tiên làm việc tại khu phức hợp công nghiệp bên trong Bắc Triều Tiên-một dự án thương mại Seoul và Bình Nhưỡng ủng hộ trong nhiều năm qua-vượt biên giới trở về Nam Triều Tiên hôm thứ Bảy, vài ngày sau khi Bình Nhưỡng tuyên bố sẽ chặn không cho người Nam Triều Tiên vào cơ sở này. Có đến 500 người Nam Triều Tiên được biết vẫn còn tại khu phức hợp công nghiệp Kaesong, nơi là nguồn lợi tức chính cung cấp đồng tiền mạnh cho Bình Nhưỡng.
Bắc Triều Tiên trong mấy tuần gần đây đã liên tục đe dọa có hành động quân sự nhắm vào Hoa Kỳ và Nam Triều Tiên, trừ phi thế giới bên ngoài ngưng làm áp lực đối với Bắc Triều Tiên chấm dứt chương trình vũ khí hạt nhân. Bắc Triều Tiên tuyên bố có khả năng tấn công bằng vũ khí hạt nhân. Dù rằng chính phủ cô lập tại miền bắc đã có những tiến bộ trong công nghệ vũ khí hạt nhân, nhưng hầu hết các chuyên gia quân sự và ngoại giao nghi ngờ về khả năng của Bình Nhưỡng tiến hành một cuộc tấn công xa như thế qua biên giới.
Những nguồn tin đáng tin cậy trong vùng cho biết Bình Nhưỡng đã bố trí hai phi đạn tầm trung trên những dàn phóng lưu động gần bờ biển phía đông của nước này và các giới chức quốc phòng Hoa Kỳ nói với Đài VOA là đang chuẩn bị về việc Bắc Triều Tiên phóng một phi đạn khác trong những ngày tới.
Bắc Triều Tiên sẽ kỷ niệm một trăm năm ngày sinh của “cha già lập quốc” Kim Il Sung, vào ngày 15 tháng 4, với những phô trương và lễ hội cũng như trình diễn sức mạnh quân sự của nước này. Ông Kim Il Sung lãnh đạo quốc gia cộng sản từ năm 1948 cho đến khi ông qua đời vào năm 1994. Cháu nội ông, Kim Jong Un, hiện cầm quyền tại Bình Nhưỡng.
Phúc trình nhận được tại các thủ đô phương Tây từ các tòa đại sứ nước ngoài tại Bình Nhưỡng cho thấy các nhà ngoại giao xem nhẹ cảnh báo rời khỏi Bắc Triều Tiên, và hầu hết các người nước ngoài xem thông điệp cảnh báo của Bắc Triều Tiên được lưu hành hôm thứ Sáu là một động thái nhằm làm gia tăng sự căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên.
Bắc Triều Tiên đã nói với các tòa đại sứ và các tổ chức quốc tế là Bình Nhưỡng chỉ có thể bảo đảm an toàn cho họ cho đến ngày 10 tháng Tư trong trường hợp có những hành động thù nghịch rõ rệt.
Nga và Anh hôm thứ Sáu cho biết không có kế hoạch di tản nhân viên tòa đại sứ.
Trong khi đó, những người Nam Triều Tiên làm việc tại khu phức hợp công nghiệp bên trong Bắc Triều Tiên-một dự án thương mại Seoul và Bình Nhưỡng ủng hộ trong nhiều năm qua-vượt biên giới trở về Nam Triều Tiên hôm thứ Bảy, vài ngày sau khi Bình Nhưỡng tuyên bố sẽ chặn không cho người Nam Triều Tiên vào cơ sở này. Có đến 500 người Nam Triều Tiên được biết vẫn còn tại khu phức hợp công nghiệp Kaesong, nơi là nguồn lợi tức chính cung cấp đồng tiền mạnh cho Bình Nhưỡng.
Bắc Triều Tiên trong mấy tuần gần đây đã liên tục đe dọa có hành động quân sự nhắm vào Hoa Kỳ và Nam Triều Tiên, trừ phi thế giới bên ngoài ngưng làm áp lực đối với Bắc Triều Tiên chấm dứt chương trình vũ khí hạt nhân. Bắc Triều Tiên tuyên bố có khả năng tấn công bằng vũ khí hạt nhân. Dù rằng chính phủ cô lập tại miền bắc đã có những tiến bộ trong công nghệ vũ khí hạt nhân, nhưng hầu hết các chuyên gia quân sự và ngoại giao nghi ngờ về khả năng của Bình Nhưỡng tiến hành một cuộc tấn công xa như thế qua biên giới.
Những nguồn tin đáng tin cậy trong vùng cho biết Bình Nhưỡng đã bố trí hai phi đạn tầm trung trên những dàn phóng lưu động gần bờ biển phía đông của nước này và các giới chức quốc phòng Hoa Kỳ nói với Đài VOA là đang chuẩn bị về việc Bắc Triều Tiên phóng một phi đạn khác trong những ngày tới.
Bắc Triều Tiên sẽ kỷ niệm một trăm năm ngày sinh của “cha già lập quốc” Kim Il Sung, vào ngày 15 tháng 4, với những phô trương và lễ hội cũng như trình diễn sức mạnh quân sự của nước này. Ông Kim Il Sung lãnh đạo quốc gia cộng sản từ năm 1948 cho đến khi ông qua đời vào năm 1994. Cháu nội ông, Kim Jong Un, hiện cầm quyền tại Bình Nhưỡng.
http://www.voatiengviet.com/content/cac-nha-ngoai-giao-tai-trieu-tien-van-o-yen-tai-cho/1636290.html
Tòa thánh Vatican : Triệt để chấm dứt nạn lạm dụng tình dục trẻ em
Giáo hoàng Phanxico phát biểu tại Nhà thờ Thánh Phêrô trong một buổi nói chuyện hàng tuần, Vatican, 03/04/2013.
REUTERS/Stefano Rellandini
Đức Giáo Hoàng Phanxico yêu cầu các dòng tu phải có hành động
« mạnh mẽ và dứt khoát » chống lại tệ nạn lạm dụng tình dục, mà một số
linh mục là thủ phạm. Đây là lần đầu tiên từ ngày đăng quang, vị giáo
chủ gốc Achentina đề cập trực tiếp đến một ung bướu trong Giáo Hội Công
Giáo, xảy ra trong nhiều thập kỷ với hàng chục ngàn nạn nhân là trẻ em.
Hôm nay 05/04/2013 khi tiếp bộ trưởng Thánh bộ Giáo lý và Đức
tin tại Tòa thánh Vatican, tân Giáo Hoàng Phanxico kêu gọi Thánh bộ đặc
trách xử lý hồ sơ lạm dụng tình dục phải « hành động dứt khoát » chống
lại tình trạng « lạm dụng tính dục ». Theo thông báo của Tòa thánh, Đức
Giáo Hoàng yêu cầu các dòng tu phải có « biện pháp bảo vệ trẻ em và giúp
đỡ những nạn nhân trong quá khứ ».
Trung thành theo đường hướng của giáo chủ tiền nhiệm Bênêđictô 16, Đức Giáo Hoàng Phanxico yêu cầu các dòng tu, các giáo đoàn phải « tiếp tục thủ tục xử lý các thủ phạm và cam kết thi hành các chỉ thị cần thiết » để bài trừ tệ nạn này. Đức Giáo Hoàng cũng cam kết là bản thân ngài sẽ đặc biệt quan tâm và cầu nguyện cho các nạn nhân đang khổ đau.
Tai tiếng một bộ phận linh mục lạm dụng trẻ em và trẻ vị thành niên đã bùng ra trong thập niên 2000 tại Hoa Kỳ. Sau đó nhiều vụ lạm dụng đã được công khai hóa tại châu Âu đặc biệt là tại Ai len. Hầu hết các vụ bê bối này xảy ra trong nhiều thập niên trước.
Tại Châu Mỹ la tinh, giáo hội Mehico cũng bị một loạt tai tiếng.
Cựu Giáo Hoàng Bênêđictô 16 nhân danh Giáo Hội đã xin lỗi các nạn nhân và đưa ra nguyên tắc « zero dung thứ ».Tuy nhiên nhiều giám mục, linh mục phạm tội chỉ bị đổi đi nơi khác, hoặc được bao che.
Năm 2011, Thánh bộ Giáo lý và Đức tin ra chỉ thị cho các giáo hội trên toàn thế giới kỳ hạn trong vòng một năm phải thống nhất một đường hướng bài trừ tệ nạn lạm dụng tính dục trẻ em và phải hợp tác với tòa án thế tục.
Trung thành theo đường hướng của giáo chủ tiền nhiệm Bênêđictô 16, Đức Giáo Hoàng Phanxico yêu cầu các dòng tu, các giáo đoàn phải « tiếp tục thủ tục xử lý các thủ phạm và cam kết thi hành các chỉ thị cần thiết » để bài trừ tệ nạn này. Đức Giáo Hoàng cũng cam kết là bản thân ngài sẽ đặc biệt quan tâm và cầu nguyện cho các nạn nhân đang khổ đau.
Tai tiếng một bộ phận linh mục lạm dụng trẻ em và trẻ vị thành niên đã bùng ra trong thập niên 2000 tại Hoa Kỳ. Sau đó nhiều vụ lạm dụng đã được công khai hóa tại châu Âu đặc biệt là tại Ai len. Hầu hết các vụ bê bối này xảy ra trong nhiều thập niên trước.
Tại Châu Mỹ la tinh, giáo hội Mehico cũng bị một loạt tai tiếng.
Cựu Giáo Hoàng Bênêđictô 16 nhân danh Giáo Hội đã xin lỗi các nạn nhân và đưa ra nguyên tắc « zero dung thứ ».Tuy nhiên nhiều giám mục, linh mục phạm tội chỉ bị đổi đi nơi khác, hoặc được bao che.
Năm 2011, Thánh bộ Giáo lý và Đức tin ra chỉ thị cho các giáo hội trên toàn thế giới kỳ hạn trong vòng một năm phải thống nhất một đường hướng bài trừ tệ nạn lạm dụng tính dục trẻ em và phải hợp tác với tòa án thế tục.
tags: Quốc tế - Theo dòng thời sự - Vatican - Xã hội
Saturday, April 6, 2013
HƯNG YÊN * NGƯỜI TÙ
Mẩu Đời Một Người Cựu Tù Cải Tạo
Hưng Yên
Vì là lao động tự quản nên sáng ra lãnh phần ăn sáng và phần ăn trưa rồi ai muốn đi trước thì đi, ai muốn đi sau thì đi, không bắt buộc phải đi cùng một lúc với nhau và không có công an võ trang vác súng đi theo. Ấy là chỉ những người trách nhiệm đi chặt tre, chặt lá buông hay chặt cây về dựng lán, dựng nhà thôi, chứ những người đi phá rừng hay làm rẫy thì lại khác.
Hôm nay là ngày bầu cử, trường học đóng cửa nên thằng Thanh theo
thằng Hoàng ra chỗ sửa xe ngay từ buổi sáng. Khi mọi người đã đi hết,
ông Ba Cất mở “trạn” lấy cơm nguội ra ăn; cánh cửa trạn vừa mở ra ông đã
nghe mấy con gián chạy rào rào. Nhưng cũng chẳng sao, ở trong trại cải
tạo ông ăn phải gián là thường, mấy người khác cũng vậy, mà có thấy ai
kêu la hay khạc nhổ gì đâu! Ruồi, rệp, gián và người cùng ở chung với
nhau. Thau cơm độn khoai lang khô, khoai mì khô hay bo bo lãnh về chưa
kịp chia, ruồi đậu đen nghịt ở phía trên. Thau nước mắm “đại dương” lãnh
về (toàn nước muối pha
với chút nước mắm cho có mùi) mấy chục con ruồi
nổi lều bều... Lấy tay xua xua, đuổi đám ruồi ở thau cơm, lấy thìa vớt
mấy con ruồi ở thau nước mắm bỏ đi rồi chia cơm, chia nước mắm. Lúc chia
anh em ngồi lõ mắt ra nhìn, chỉ sợ chia không đều, phần mình ít hơn
phần người khác.
Miếng cháy lớn bằng nửa bàn tay bẻ ra làm mười bỏ lên trên mười phần
cơm của mười người, chỉ nghe có tiếng cằn nhằn là cháy bẻ không đều,
miếng to, miếng bé chứ chẳng thấy ai kêu nhiều ruồi nhiều nhặng bao giờ!
Chúa Nhật không phải đi lao động ở nhà, ai có thăm nuôi thì nấu nướng
linh tinh, đám con bà phước (người không có thăm nuôi) vô sản thì nhìn
người ta ăn rồi nuốt nước miếng, vì Chúa Nhật hay ngày lễ nghỉ không đi
lao động thì không có ăn sáng. Ăn rồi kẻ vá quần áo, người lật mùng, lật
chăn ra bắt rệp. Rệp đâu mà nhiều thế không biết, bắt hôm nay ngày mai
lại có, giết chán mỏi tay nó lại hôi rình bèn bắt bỏ vào cái hũ pê li xi
lin rồi thỉnh thoảng lấy ra xem nó bò chơi.
Còn gián cũng vậy, sinh sôi nẩy nở tràn lan vì giang sơn của mỗi
người tù chỉ rộng không bằng một chiếc chiếu cá nhân nên chiếu của người
này phải trải chồng lên mép chiếu của người kia. Rồi thì muối, mắm,
tương, chao, đường tán, mì vụn v.v. nói chung là mọi thứ tài sản của một
người tù đều được để trên “xích đông” thuộc phần mình ngay chỗ đầu nằm,
thế là trước khi người ăn, gián đã tha hồ mà hưởng thụ. Buổi sáng trước
khi đi lao động ngồi nhai miếng bột khoai mì luộc dầy bằng đốt ngón tay
và lớn bằng hai ngón tay chụm lại lãnh từ tối hôm trước. Ðang nhai mà
nghe đến xựt một cái rồi thấy hôi hôi, tanh tanh, lờ lợ là biết ngay đã
nhai phải một chú gián chui trong cái lỗ hổng ở miếng bột khoai mì.
Nhưng mặc mày, “ông” nhắm mắt nuốt luôn vì nếu nhả mày ra thì “ông” còn
gì đâu nữa mà ăn!
Ông Ba Cất đã ăn phải gián là thường vì thế mà ông chẳng bận tâm gì
đến mấy con gián đang chạy rào rào ở trong cái gác măng giê. Ông chỉ
nghĩ bụng: mình sẽ phải sửa lại cái gác măng giê, nó hở nhiều chỗ quá
rồi!
Còn được một bát đầy cơm nguội, ông Ba Cất chan vào một chút nước mắm
rồi ngồi ăn. Cũng may nồi cơm được đậy vung cẩn thận, gián không chui
vào được nên không có mùi hôi. Mới hôm qua, hôm kia đây thôi, còn ở
trong tù mà có được bát cơm như thế này thì đã là một hạnh phúc vô biên.
Quanh năm suốt tháng chỉ ăn độn, những năm về sau này, mùng một tết mới
có được bát cơm trắng nhưng tiêu chuẩn củng chỉ nhỉnh hơn bát cơm ngày
thường một chút nên ăn cũng chẳng đủ no.
Ông Ba Cất ngồi nhai bát cơm nguội chan với nước mắm. Lẽ ra nó phải
ngon lắm, nhưng ông lại không thấy có gì đặc biệt cả, lại nữa ông cũng
không cảm thấy đói để cần ăn.
Từ hôm qua đến nay bữa này là bữa thứ hai ông không phải ăn độn. Bữa
cơm tối hôm qua còn có cá trích kho, rau muống luộc chấm nước mắm và
nước rau muống luộc có bỏ chút muối làm canh. Tuy ăn có ngon hơn ăn cơm
tù nhiều thật, nhưng chỉ sau hai bát là ông đã không ăn nữa. Bà hỏi sao
ông ăn ít thế. Ông bảo trong tù ăn ít nó quen rồi, nay ăn nhiều sợ hại
bao tử, phải từ từ rồi mới ăn nhiều được, cũng như người bệnh lâu ngày
mới khỏi, ăn cho cố vào là có chuyện ngay! Tuy nói thế, nhưng còn một lý
do thứ hai mà ông Ba Cất không nói ra là ông về bất ưng, nhà không biết
để nấu thêm phần cơm ông, nếu ông ăn nhiều thì vợ với các con ông sẽ
đói. Hơn nữa dưới chế độ xhcn ưu việt làm bất cứ một việc gì mỗi người
đều có tiêu chuẩn cả, ngay cả ăn cũng thế.
Từ nhà ông đến đồn công an phường Thắng Tam đường xa hơn 3 cây số,
ông Ba Cất cuốc bộ mất gần một tiếng đồng hồ. Nhưng đi bộ một quãng
đường như thế đối với ông là chuyện tầm thường. Ngày mới từ trại Suối
Máu được đưa đi lao động tự quản ở Trảng Bom, cải tạo viên đã phải vào
rừng chặt tre, chặt lá buông, chặt cây đem về tự dựng lấy lán, lấy nhà
để ở. Trong mấy công tác này, ông Ba Cất thích được đi chặt tre nhất.
Muốn có một cây tre, cải tạo viên phải cuốc bộ cỡ 12 cây số đường rừng
để đến được khu rừng tre.
Chọn được bụi tre vừa ý rồi, người chặt tre phải làm thế nào để sau khi phá một bụi tre có thể lấy được tối thiểu là 4-5 cây một lúc, chứ nếu chỉ lấy được một 1-2 cây thôi thì uổng công lắm. Cái khó khăn vất vả nhất của việc chặt tre là dọn sạch từ dưới lên trên để có thể leo lên tít trên ngọn. Chặt đứt 5-6 ngọn cây tre đi rồi leo xuống chặt phần gốc xong là có thể rút được cây tre ra dễ dàng. Tiêu chuẩn của mỗi người một ngày là một cây tre, dài 6 mét trở lên, phía gốc to tối thiểu phải bằng cái lon gô. Mà tre là tre rừng lâu năm, cành, lá, gai góc đan chằng chịt vào nhau, phá được một lối đi vào sát bụi tre là đã vất vả lắm rồi, nên nếu không kiên trì và không biết cách thì không dễ gì mà lấy được một cây tre.
Ði chặt tre người ta cũng không đi một mình mà thường đi thành từng
nhóm hai, ba người để người nọ phụ người kia, tiếp tay nhau mà chặt
cành, mà kéo cây tre ra khỏi bụi, v.v. Nhóm ông Ba Cất chỉ có hai người,
ông và anh Nguyễn Ðình. Ông thích đi với anh Nguyễn Ðình vì anh là
người cùng đơn vị với ông, cùng ở cư xá Trương Công Ðịnh, anh chẳng
những đã hiền lành lại rất tháo vát. Còn anh Nguyễn Ðình cũng thích đi
với ông Ba Cất vì ngoài cái tình thân từ trước, ông Ba Cất còn là một
kiện tướng chặt tre.Chọn được bụi tre vừa ý rồi, người chặt tre phải làm thế nào để sau khi phá một bụi tre có thể lấy được tối thiểu là 4-5 cây một lúc, chứ nếu chỉ lấy được một 1-2 cây thôi thì uổng công lắm. Cái khó khăn vất vả nhất của việc chặt tre là dọn sạch từ dưới lên trên để có thể leo lên tít trên ngọn. Chặt đứt 5-6 ngọn cây tre đi rồi leo xuống chặt phần gốc xong là có thể rút được cây tre ra dễ dàng. Tiêu chuẩn của mỗi người một ngày là một cây tre, dài 6 mét trở lên, phía gốc to tối thiểu phải bằng cái lon gô. Mà tre là tre rừng lâu năm, cành, lá, gai góc đan chằng chịt vào nhau, phá được một lối đi vào sát bụi tre là đã vất vả lắm rồi, nên nếu không kiên trì và không biết cách thì không dễ gì mà lấy được một cây tre.
Vì là lao động tự quản nên sáng ra lãnh phần ăn sáng và phần ăn trưa rồi ai muốn đi trước thì đi, ai muốn đi sau thì đi, không bắt buộc phải đi cùng một lúc với nhau và không có công an võ trang vác súng đi theo. Ấy là chỉ những người trách nhiệm đi chặt tre, chặt lá buông hay chặt cây về dựng lán, dựng nhà thôi, chứ những người đi phá rừng hay làm rẫy thì lại khác.
Ông Ba Cất thích đi chặt tre vì tuy phải đi xa những 12 cây số, đi và
về 24 cây số, nhưng sau khi phá xong một bụi tre, lấy được 5-6 cây tre
xuống rồi thì ông và anh Nguyễn Ðình mỗi người một cây, mấy cây còn lại
đem giấu thật kĩ. Nếu thấy trời còn sớm thì trên đường về có thể vừa đi
vừa “cải thiện” linh tinh: nắm rau sam, nắm cải trời hoặc là quả bí, quả
muớp để chiều hôm đó có cái mà nấu nướng thêm, miễn là vác được cây
tre, bó lá buông hay cây cột về tới trại trước bốn giờ chiều giao cho
anh tổ trưởng kiểm soát, ghi vào sổ báo cáo thế là được. Hôm sau đi chặt
tre thì chỉ việc đến chỗ cũ rút ra hai cây tre đã giấu ngày hôm trước,
sau đó thì tha hồ mà đi cải thiện. Có lần ông và anh Nguyễn Ðình còn câu
được cả mấy chục con cá trắng, loại cá ở suối trông gần giống như con
cá diếc, lớn gần bằng hai ngón tay. Ðem về làm sạch rồi đốt lửa nướng,
hôm ấy hai anh em được một bữa “bồi dưỡng”! Sau này chuyển trại về Hàm
Tân, Thuận Hải Z30C thì toàn là đẩy xe cải tiến hoặc là gánh nước tưới
rau. Ngày gánh 60 đôi nước từ suối đi lên, dốc ngược, trơn như mỡ mà ông
Ba Cất còn đi được xá gì việc đi bộ từ nhà đến đồn công an có hơn 3 cây
số.
Hôm ấy là ngày bầu cử, đồn công an vắng hoe, mọi người đều đi công
tác, chỉ còn một anh công an ngồi ở phòng trực. Thấy ông Ba Cất lò dò
bước vào, anh ta trừng mắt lên hỏi:
- Ði đâu đây, có việc gì, sao giờ này không đi bầu cử mà lại đến dây?
Ông Ba Cất móc túi lấy tờ giấy “ra trại” mở ra cầm bằng cả hai tay đưa cho anh công an, khẽ thưa:
- Báo cáo cán bộ, tôi mới được ra trại, hôm nay đến trình diện đồn!
Anh công an cầm tờ giấy lẩm nhẩm đọc rồi ngước mắt lên hỏi:
- Có thuốc không?
Ông Ba Cất có gói thuốc rê ở trong túi, nhưng nghĩ chả lẽ lại mời cán bộ hút thuốc rê, nên ông nói trớ đi:
- Báo cáo cán bộ tôi không hút thuốc!
Anh công an bỏ tờ giấy ra trại của ông Ba Cất vào hộc bàn, đóng xập lại rồi vẫy tay bảo:
- Về đi, mai đến lấy!
Nói rồi anh ta đứng lên như là chuẩn bị đi đâu đó. Ông Ba Cất nằn nì:
- Báo cáo cán bộ tôi chỉ có mỗi tờ giấy đó, xin cán bộ ký nhận cho là
tôi đã trình diện rồi cho tôi xin lại, vì hôm nay là ngày bầu cử...
chưa nói hết câu thì anh công an đã trừng mắt lên:
- Ðã bảo về đi mai đến lấy còn lải nhải gì nữa, hay là muốn ở lại đây luôn?
Ông Ba Cất lủi thủi đi về lòng vừa buồn vừa lo! Bực mình bất giác ông
lẩm bẩm chửi thành tiếng: ÐM nó, ở đâu cũng giống nhau, trong trại muốn
được yên thân cũng phải hối lộ, về đây cũng thế!
Ở trong trại, tù nhân muốn được yên thân, muốn không bị làm phiền
cũng phải hối lộ cho quản giáo, cho cán bộ võ trang. Hình thức hối lộ là
như thế này: Tù nhân thì anh nào cũng rách như cái sơ mướp, trên chỉ có
bộ răng, dưới chỉ có “bác hồ”, đói khát triền miên, nhưng những anh
“con bà phước” chả nói làm gì còn những người khác thỉnh thoảng cũng
được thăm nuôi. Mà có thăm nuôi thì thế nào cũng có thuốc rê hay thuốc
lào bởi tù cải tạo hiếm có người không ghiền thuốc.
Cha cố, sư thày, ngày còn ở ngoài đời mà phì phèo điếu thuốc thì thật
là khó coi lắm, thế mà vào đây các vị cũng kéo thuốc rê, rít thuốc lào
như điên! Quan thày thuốc ngày trước cứ sau khi đụng vào bệnh nhân một
tí là lại đưa tay ra cho y tá xịt an côn để xát trùng. Còn thuốc rê với
thuốc lào thì đừng bao giờ nói với các vị vì đó là những thứ thuốc độc
cần phải tránh xa. Thế mà vào đây, tù khám bệnh cho tù, sau khi khám
xong quan đốc tờ được mời quấn điếu thuốc rê hay rít một điếu thuốc lào
thì hai mắt quan đốc tờ sáng lên!
Cũng bởi hầu hết tù nhân sau khi được thăm nuôi thế nào cũng có thuốc
rê hay thuốc lào nên mới có một cái luật bất thành văn là như thế này:
Sau khi được thăm nuôi, buổi sáng hay buổi chiều đi lao động, ngoài tiêu
chuẩn thuốc cho anh, anh phải vấn sẵn 4-5 điếu thuốc rê hay gói sẵn 4-5
bi thuốc lào để hối lộ cho cán bộ quản giáo hay cán bộ võ trang. Số
thuốc này anh giao cho đội trưởng để thỉnh thoảng đội trưởng lại mời cán
bộ hút một điếu.
Cán bộ có thuốc “phê” đều đều sẽ vui vẻ không làm khó dễ anh em. Anh nào mới được thăm nuôi cũng phải làm nghĩa vụ như thế, cho đến khi trong đội có người khác được thăm nuôi thì nghĩa vụ của anh mới chấm dứt. Nếu cùng một ngày mà có đến mấy người được thăm nuôi thì sẽ chia nhau mỗi người mấy ngày phải cung cấp thuốc cho cán bộ. Ông Ba Cất cứ đều đều 2 tháng được thăm nuôi một lần nên cứ mỗi 2 tháng là ông lại phải thi hành “nghĩa vụ” một lần. Sáng cũng như chiều, ông vấn sẵn 4 điếu thuốc rê đưa cho anh đội trưởng cùng với lời dặn:
Ðừng đưa cho nó một lúc, cứ đợi đến khi nó “vã” lắm rồi mới cho một điếu. Ðưa một lúc nó hút hết rồi thì không có đâu mà cho nữa! Nếu chẳng may mà lâu quá trong đội không có ai được thăm nuôi, chẳng lẽ người được thăm nuôi cuối cùng cứ phải cung cấp thuốc cho cán bộ mãi, khi đó “nghĩa vụ” sẽ thuộc về anh đội trưởng. Anh làm sao thì làm, cán bộ “vã” thuốc quá trở nên cáu gắt, làm khó dễ anh em thì anh em sẽ ÐM anh đội trưởng. Gặp những trường hợp như thế thì anh đội trưởng lại đi vòng vòng thì thào năn nỉ anh em bớt mồm bớt miệng “cứu bồ” trong cơn túng ngặt, thế là anh đội trưởng lại có thuốc “đút” cho cán bộ.
Cán bộ có thuốc “phê” đều đều sẽ vui vẻ không làm khó dễ anh em. Anh nào mới được thăm nuôi cũng phải làm nghĩa vụ như thế, cho đến khi trong đội có người khác được thăm nuôi thì nghĩa vụ của anh mới chấm dứt. Nếu cùng một ngày mà có đến mấy người được thăm nuôi thì sẽ chia nhau mỗi người mấy ngày phải cung cấp thuốc cho cán bộ. Ông Ba Cất cứ đều đều 2 tháng được thăm nuôi một lần nên cứ mỗi 2 tháng là ông lại phải thi hành “nghĩa vụ” một lần. Sáng cũng như chiều, ông vấn sẵn 4 điếu thuốc rê đưa cho anh đội trưởng cùng với lời dặn:
Ðừng đưa cho nó một lúc, cứ đợi đến khi nó “vã” lắm rồi mới cho một điếu. Ðưa một lúc nó hút hết rồi thì không có đâu mà cho nữa! Nếu chẳng may mà lâu quá trong đội không có ai được thăm nuôi, chẳng lẽ người được thăm nuôi cuối cùng cứ phải cung cấp thuốc cho cán bộ mãi, khi đó “nghĩa vụ” sẽ thuộc về anh đội trưởng. Anh làm sao thì làm, cán bộ “vã” thuốc quá trở nên cáu gắt, làm khó dễ anh em thì anh em sẽ ÐM anh đội trưởng. Gặp những trường hợp như thế thì anh đội trưởng lại đi vòng vòng thì thào năn nỉ anh em bớt mồm bớt miệng “cứu bồ” trong cơn túng ngặt, thế là anh đội trưởng lại có thuốc “đút” cho cán bộ.
Ở trong tù thì thế, nay được ra khỏi tù đến trình diện đồn cũng bị
công an hỏi “có thuốc không”? Không có thuốc, bị công an giữ tờ giấy ra
trại rồi đuổi về “mai tới lấy”! Hôm nay là ngày bầu cử, “chó vàng” chạy
đầy đường, đi đứng lạng quạng, nó hỏi giấy tờ không có, lỡ nó đem nó
nhốt rồi gửi đến một trại nào đó thì vợ con biết đâu mà tìm. Vì nghĩ vậy
nên khi về được đến nhà rồi, suốt ngày hôm đó ông Ba Cất không dám bước
ra khỏi cửa!
Tối về, ông kể chuyện cho vợ nghe, bà thở dài bảo:
- Em bậy quá, đáng lẽ phải bảo con Thảnh đưa cho anh mấy điếu Jet hay
Samit mới phải, bây giờ làm cái gì cũng phải có thủ tục “đầu tiên” mới
được!
[Nguyệt San Mạch Sống thuộc hệ thống truyền thông của BPSOS: http://www.machsongmedia.com.]
NGUYỄN HÀ TỊNH * VƯỢT BIỂN
1. Thảm Cảnh Vượt Biên – Nguyễn Hà Tịnh
Hy vọng, qua những dòng chữ được viết bằng máu và nước mắt của chính những người trong cuộc, qúy độc giả, với tấm lòng xót xa và những giọt nước mắt đau đớn của những người tỵ nạn cộng sản cùng cảnh ngộ, sẽ hiểu được,...tội ác của chánh phạm CSVN đằng sau muôn ngàn bi kịch rùng rợn của người vượt biển.
VỤ THỨ NHẤT: 87 người bị giết
NHÂN CHỨNG : Bà Nguyễn Thị Thương 36 tuổi, tốt nghiệp Đại Học Hoa Kỳ, tu nghiệp tại Paris, Pháp. Trước 1975 Bà là Giáo sư Đại Học Bách Khoa Thủ Đức. Bà Thương vượt biển cùng chồng là Giáo sư Trần Quang Huy, phân khoa trưởng Văn Khoa Đại Học Saigon, cùng với Mẹ ruột, cậu, 2 em trai, 2 em dâu, 4 cháu gái và một con gái nhỏ 3 tuổi. Nhưng chỉ còn Bà, con gái nhỏ của bà, một người em trai của Bà và một em gái của chồng sống sót.
Ghe mang số SS0646 IA dài 13 m 5, chở 107 người khởi hành từ Rạch Giá ngày 01 tháng 12 năm 1979. Ra khơi được 3 ngày, thuyền chạy về hướng Thái Lan, khi đã gần tới đất liền thì gặp bọn cướp biển vào ngày 03/12/1979. Hai tàu cướp ThaiLan cặp hai bên hông thuyền tị nạn, bọn cướp đã ùa sang với súng và dao. Vì ghe thuyền Việt Nam quá chật hẹp, bọn hải tặc đã lùa 27 người sang tàu của chúng cho dễ lục soát vàng bạc của cải.
80 người còn lại bị khám xét cướp hết vàng bạc, vật qúy. Sau đó bọn cướp buộc giây vào ghe Việt Nam vào đuôi tàu của chúng và kéo chạy. Chúng xả hết tốc lực, chạy lượn vòng qua lại làm ghe tị nạn nghiêng chìm như một trò chơi. Dân tị nạn la khóc, lạy van cho tới khi ghe chìm hẳn. Bọn cướp biển cắt giây nối và chạy bỏ mặc 80 người vùng vẫy tuyệt vọng, trong khi 27 người tị nạn trên tàu của chúng vật vã khóc ngất nhìn xuống biển chứng kiến người thân đang dãy dụa chết chìm.
Bọn hải tặc chạy thẳng về đảo sào huyệt KO KRA của chúng mang theo 27 người mà chúng đã tách đem lên thuyền chúng trước đó. Nhưng gần tới đảo, chúng xô đẩy tất cả đàn ông xuống biển, buộc họ bơi vào đảo. 7 người dàn ông này đều bị chết đuối vì không đủ sức bơi hoặc không biết bơi để có thể vào đến bờ, trong số này có Giáo sư TRẦN QUANG HUY. Còn lại 20 người sống sót sau cùng đã bị bọn cướp đưa lên đảo và lập tức chúng lại lục soát, sờ nắn khắp thân thể để tìm kiếm vật quý con cất giấu trong người. Bà BTD (xin viết tắt, giấu tên) 26 tuổi có con 4 tuổi, bị dẫn ngay vào bụi hãm hiếp mặc dù Bà đang mệt lả không đứng dậy nổi vì đói khát, kinh hoàng.
Sau đó, trong suốt 8 ngày liền bị giam giữ trên đảo, 20 thuyền nhân còn lại này đã bị quần thảo hành hạ bởi nhiều toán cướp biển khác nhau hàng ngày đổ bộ lên đảo. Các phụ nữ, cô gái phải chạy vào rừng hoặc leo lên hốc ẩn tránh. Nhưng vẫn không thoát khỏi tay bọn dâm tặc. Một lần Bà BTD quá mệt mỏi không còn sức chạy trốn nổi, đang nằm ngất ngư và được mọi người săn sóc thì bọn hải tặc lại ùa đến, đuổi tất cả mọi người chung quanh đi chỗ khác và 4 tên Thái man rợ luân phiên hãm hiếp tàn nhẫn ngay tại chỗ, khiến bà ta bị kiệt lực nằm im lìm không nhúc nhích được nữa.
Đến ngày thứ 3 trên đảo, một tàu Thái, bên hông có ghi chữ POLICE số 513 tới đảo. Bọn cướp rút lui, chạy tàu ra xa. Chiếc tàu Cảnh Sát neo sát bờ biển, họ chỉ nhìn vô bờ nhưng không lên đảo. Những người tị nạn Việt Nam mừng rỡ tưởng được cứu thoát, một thanh niên tị nạn bơi ra mang theo một lá thư cầu cứu bằng tiếng Anh để gởi cho giới chức Cao Ủy Liên Hiệp Quốc. Nhưng chưa bơi tới nơi đã bị tàu Cảnh Sát Thái nổ súng bắn xuống biển cảnh cáo. Anh ta hoảng hốt bơi quay trở vào bờ. Sau đó mọi người lại đề cử một thiếu niên 15 tuổi liều mình bơi ra cầu cứu lần nữa. Cậu này đã được Cảnh Sát cho lên tàu, nhưng chỉ cho vài gói mì và đuổi xuống biển ngay. Cuối cùng tàu Cảnh Sát này bỏ đi. Sau này mới biết họ đã không hề báo tin vào đất liền.
Ngay sau khi tàu Cảnh Sát bỏ đi bọn hải tặc lại lên đảo và tình trạng tồi tệ tiếp tục diễn ra. Đến ngày thứ năm, một tàu Hải Quân Thái Lan đi ngang qua đảo, nhóm người tị nạn chạy ra sát bờ vẫy gọi, làm hiệu và lần này chiếc tàu Hải Quân đã cho người lên đảo tiếp xúc và nhận bức thư nhờ chuyển về cho Cao Ủy Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan. Ngày thứ tám, Ông SCHWEITZER Đại diện Liên Hiệp Quốc tại TháiLan ra đón họ vào đất liền.
Không lâu sau đó Bà NGUYỄN THỊ THƯƠNG sinh thêm đứa con gái út trong trại tị nạn Song Khla và Bà sống tại đó với một đứa con gái 3 tuổi và người em trai của Bà và một em gái của Ông TRẦN QUANG HUY. Lúc bắt đầu rời Việt Nam Bà THƯƠNG đã có thai gần 9 tháng, chính nhờ vậy trong những ngày trên đảo KO KRA, Bà đã không bị hải tặc hãm hiếp.
Bà NGUYỄN THỊ THƯƠNG kể lại câu chuyện trên rồi khóc lặng lẽ và nói: "Chồng tôi và tôi đã đoán trước những thảm cảnh có thể xảy ra trên biển. Nhưng chúng tôi vẫn chấp nhận ra đi vì chúng tôi đã nghĩ rằng, dù thế nào cũng ít tệ hại hơn là sống dưới chế độ Cộng sản. Nhưng những đau khổ tôi đang phải chịu đã vượt qua dự đoán của chúng tôi".
VỤ THỨ HAI: 70 thuyền nhân Việt nam tị nạn bị giết
NHÂN CHỨNG : Ông Vũ Duy Thái 44 tuổi, đi cùng vợ là Bà Đinh Thị Bằng 40 tuổi cùng 4 con và 2 cháu. Hiện chỉ còn mình Ông sống sót.
Ghe VNKG 0980 dài 14 m, bề ngang 2 m 2 chở 120 người khởi hành từ Rạch Giá ngày 29 tháng 12, 1979. Lúc 7 giờ sáng ngày 31/12/1979 gặp tàu hải tặc Tháilan. Tàu này sơn màu đỏ cam, mang số 128 ở đầu mũi, gồm 12 tên cướp võ trang súng dài và dao, búa, rìu. Tàu của chúng phóng tới húc vào làm nứt bể mũi ghe tị nạn. Bọn hải tặc nhảy qua và lập tức phá máy ghe làm thủng thêm vết nứt, nước bắt đầu tràn vào. Bọn chúng lục soát chụp giựt đồng hồ, nhẫn vàng v.v... trong lúc nước nước tràn vào ghe của người tị nạn càng nhiều hơn và bắt đầu bị chìm dần sau khoảng 1 tiếng đồng hồ.
Khi ghe chìm hẳn, đàn bà, trẻ con la khóc hoảng hốt níu kéo lẫn nhau. Bọn cướp nhảy xuống biển và chỉ chọn lựa cứu các cô gái trẻ đẹp. Lúc đó tàu của bọn hải tặc neo đậu cách đó 50 m. Bọn cưới đã lôi kéo về tàu chúng 5 cô gái. Một số đàn ông và thiếu niên tị nạn biết bơi cũng lội về phía tàu của chúng và bám leo lên. Nhiều người bị xô đẩy xuống, nhưng vì chúng ít người nên cuối cùng còn 50 người sống sót leo lên được tàu của chúng kể cả 5 cô gái được chúng cứu trước đó. Những người này đã chứng kiến trước mắt 70 người còn lại bị chết chìm dần dần. Mọi người nhìn thấy những bàn tay chới với ngoi lên khỏi mặt biển rồi mất hút.
Ông Vũ Duy Thái rời Việt Nam cùng vợ và 4 con, 2 cháu. Riêng Ông trong lúc hỗn loạn đã bơi bám vào tàu hải tặc và níu được vợ và một đứa con. Còn 3 đứa con khác và 2 cháu thì bị chết chìm. Tuy nhiên vợ và đứa con còn lại của Ông đã bị uống nước quá nhiều, khi kéo lên được thì không còn nhúc nhích. Ông hi vọng dùng phương pháp hô hấp nhân tạo sẽ cứu sống được, nhưng bọn hải tặc đã quăng vợ và con Ông xuống biển trở lại cho chết luôn.
Anh Phạm Việt Chiêu, 26 tuổi là tài công kể lại chính anh và một số đàn ông khác còn khoẻ đã vớt được một số người chưa chắc đã chết hẳn mà có thể chỉ mới bị ngất xỉu nhưng bọn hải tặc đã bắt bỏ họ xuống biển lại. Sau đó tàu hải tặc trực chỉ đảo KO KRA và chúng giam giữ nạn nhân trên đảo.
Ngày 1/1/1980, một chiếc tàu Hải quân Thái mang số 18 đến đảo vào ban đêm có võ trang vũ khí. Mọi người mừng rỡ tưởng được cứu thoát. Nhưng những người lính Hải quân chẳng chút thương tâm đoái hoài đến dân Việt tị nạn đang lâm cảnh khốn cùng, họ chỉ lo việc khám xét bằng cách bắt tất cả mọi người lột bỏ quần áo trần truồng kể cả đàn bà con gái rồi bỏ đi.
Ngày 2/1/1980 một tàu Hải quân Thái khác mang số 17 lại tới đảo. Lính Thái lại ùa lên lục soát. Tất cả phụ nữ bị lột truồng không còn mảnh vải che thân công khai trước đám đông để bọn lính này sờ nắn khám xét như để tìm vũ khí kẻ nào có giấu diếm. Sau đó, chúng rút về tàu đậu gần bờ biển và đến trưa ngày 4/1/1980 mới bỏ đi.
Trong thời gian hải quân Thái làm việc, bọn cướp vắng mặt nhưng ngay sau khi lính Thái vừa bỏ đi thì lập tức 4 chiếc tàu hải tặc tràn người lên đảo. Bọn cướp lại lục soát thêm nhiều lần nữa. Dĩ nhiên những nạn nhân VN khốn khổ chẳng còn gì để chúng cướp bốc nữa. Chúng luân phiên nhau hãm hiếp phụ nữ tại chỗ giữa ban ngày.Chúng chẳng cần tìm chỗ nào kín đáo để làm hành động thú tính này. Năm em gái Việt Nam: KH 15 tuổi, BT 17 tuổi, AH 12 tuổi, NY 11 tuổi và MT 15 tuổi bị chúng cưỡng hiếp tập thể ngay trước mắt mọi người.
Lẽ ra, thảm kịch còn kéo dài chưa biết đến ngày nào chấm dứt, nếu không may mắn được vị cứu tinh là Ông SCHEITZER Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc xuất hiện kịp thời cứu giúp và kết thúc thảm ác trạng này. Ông đã đến đảo KRA trên một chiếc tàu Cảnh Sát Thái lan.
VỤ THỨ BA: Hải tặc Thái bắt gái vn bán vô ổ điếm
NHÂN CHỨNG : Nguyễn Thị Ánh Tuyết 17 tuổi đi cùng chị là Bà Nguyễn Thị Năm bà này đã bị hải tặc giết trước đó và Công Huyền Tôn Nữ Mỹ kiều 17 tuổi.
Ghe không số, dài 10 m, chở 78 người, khởi hành tại NhaTrang ngày 08/12/1979. Ra khơi được 3 ngày thì hết nhiên liệu và thực phẩm, thuyền lênh đênh trên biển trong 10 ngày. Thời gian này có 12 trẻ em đã bị chết vì đói khát. Thi thể các em phải bỏ xuống biển. Đến ngày 21/12/1979 gặp 2 tàu hải tặc Tháilan. Bọn cướp buộc giây vào ghe VN với tàu của chúng, dùng vũ khí ép buộc tất cả mọi người qua tàu chúng để lục soát.
Bà Nguyễn Thị Năm 33 tuổi đang mang thai 5 tháng, đi cùng chồng là Ông Lê Văn Tư và 3 đứa con 9 tuổi, 5 tuổi và 3 tuổi. Cả 3 đứa trẻ này đã chết trong thời gian 10 ngày ghe bị trôi lênh đênh trước đó. Bà NĂM quá đau khổ và mệt mỏi không còn đủ sức leo qua tàu hải tặc khi chúng ra lịnh. Bọn cướp đã xốc nách Bà lên nhưng Bà vẫn nằm im, một tên cướp liền dùng xẻng xúc cá đập túi bụi vào đầu Bà NĂM. Bà đã bị nứt sọ chết ngay tại chỗ và chúng xô xác Bà xuống biển.
Mọi người kinh hoảng vội leo sang tàu hải tặc để cho chúng có chỗ trống lục soát, phá phách, xét quần áo, thân thể tìm đồ qúy. Sau đó tất cả đàn ông bị bắt nhốt vào hầm nước đá, đàn bà chúng cho ở trên sân tàu để sờ mó nghịch ngợm. Rồi chúng lùa thuyền nhân tị nạn qua trở lại chiếc ghe đã thủng nát. Khi đến ghe thì một người đàn ông đã chết vì đã bị giam giữ trong hầm nước đá lạnh cóng. Chiếc ghe tị nạn lại tiếp tục thả trôi lênh đênh trong nỗi tuyệt vọng cùng cực của mọi người.
Ngày hôm sau, hai chiếc tàu hải tặc khác lại đuổi theo, tới gần vùng đảo KO KRA chúng lại lên ghe lục soát cướp bốc. Lần này 3 thiếu nữ xinh đẹp nhất bị chúng bắt đem đi. Con thuyền tị nạn lại tiếp tục trôi trong tình trạng vô cùng bi đát. Máy ghe bị hư hỏng, không thức ăn, nước uống và ghe thì đã ngập nước vì lúc đó tất cả đàn ông đã quá đói khát không còn đủ sức tát nước nữa. Không ai biết số phận 70 người còn lại trên chiếc ghe khốn cùng đó, lúc này ra sao?
Hai chiếc tàu hải tặc chia nhau 3 cô gái VN. Hai cô N.T. Ánh Tuyết và Mỹ Kiều bị chiếc tàu của tên SAMSAC làm chủ bắt giữ. Còn chiết tàu kia bắt Cô LAN 17 tuổi mang đi mất hút, cho tới bây giờ không còn nghe tin tức gì về Cô ấy nữa. Hai cô ÁnhTuyết và Mỹ Kiều bị bọn SAMSAC mang vào đất liền, nhốt trong một khách sạn tại Songkhla. Chúng tách rời hai cô ở phòng riêng khác nhau. Ánh Tuyết bị một tên, được nghe gọi là BÍT canh chừng. Còn Mỹ Kiều thì ở chung phòng với tên SAMSAC.
Ánh Tuyết kể lại là Cô đã la hét kêu ầm lên khi tên BÍT định cưỡng hiếp Cô, khiến mọi người ở các phòng chung quanh cùng khác sạn đa số là người Tây Phương đổ xô tới xem và tên BÍT đã bỏ chạy. Riêng tên SAMSAC ở phòng gần đó nghe tiếng ồn ào vội đem Mỹ Kiều đi giấu trong một khách sạn khác ở tỉnh Haadyai cách Songkhla hơn 30 Km. Khi cảnh sát đến điều tra, chính cô Ánh Tuyết đã dẫn CảnhSát đến bến tàu Songkhla, nơi có chiếc tàu của bọn SAMSAC vẫn còn đậu đó và các thủ phạm hải tặc đã bị bắt kể cả tên SAMSAC mà Cảnh sát đã tìm thấy hắn sau đó cùng với Cô Mỹ Kiều tại khách sạn nói trên.
Tại Ty Cảnh Sát chúng đã khai là định bán hai Cô gái này cho một đường giây chuyên buôn gái cho các ổ điếm.
Trên đây, chúng tôi chỉ đưa ra một vài vụ điển hình thuyền nhân Việt Nam bị thảm nạn hải tặc Tháilan hành hạ, giết chóc xảy ra trong tháng 12-1979 tại đảo KO KRA. Tưởng cần nhắc lại rằng tệ nạn hoành hành của hải tặc THÁI không phải vào thời gian này mới xuất hiện. Trong mấy năm trước 1979 khi ở Việt Nam khởi sự có làn sóng Thuyền Nhân VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO thì người Việt tị nạn của chúng ta đã trở thành những con mồi ngon cho bọn hải tặc THÁI.
Báo chí trên thế giới cũng đã nhiều lần đề cập đến thảm kịch kinh hoàng mà "BOAT PEOPLE" đã phải chịu khổ nạn. Tuy nhiên kể từ khi các ngư phủ THÁI nhận thấy việc cướp bóc Thuyền Nhân sẽ làm cho họ trở nên giàu có mau chóng hơn là đánh cá thì số ngư dân Thái kiêm thêm nghề hải tặc đã ngày trở nên đông đảo, đưa tới hậu quả là người VN đi tị nạn bằng đường biển càng ngày càng bị rơi vào mạng lưới của bọn cướp biển dày đặc bủa vây trong khắp vùng Vịnh Thái lan.
NGUYỄN HÀ TỊNH
Hy vọng, qua những dòng chữ được viết bằng máu và nước mắt của chính những người trong cuộc, qúy độc giả, với tấm lòng xót xa và những giọt nước mắt đau đớn của những người tỵ nạn cộng sản cùng cảnh ngộ, sẽ hiểu được,...tội ác của chánh phạm CSVN đằng sau muôn ngàn bi kịch rùng rợn của người vượt biển.
VỤ THỨ NHẤT: 87 người bị giết
NHÂN CHỨNG : Bà Nguyễn Thị Thương 36 tuổi, tốt nghiệp Đại Học Hoa Kỳ, tu nghiệp tại Paris, Pháp. Trước 1975 Bà là Giáo sư Đại Học Bách Khoa Thủ Đức. Bà Thương vượt biển cùng chồng là Giáo sư Trần Quang Huy, phân khoa trưởng Văn Khoa Đại Học Saigon, cùng với Mẹ ruột, cậu, 2 em trai, 2 em dâu, 4 cháu gái và một con gái nhỏ 3 tuổi. Nhưng chỉ còn Bà, con gái nhỏ của bà, một người em trai của Bà và một em gái của chồng sống sót.
Ghe mang số SS0646 IA dài 13 m 5, chở 107 người khởi hành từ Rạch Giá ngày 01 tháng 12 năm 1979. Ra khơi được 3 ngày, thuyền chạy về hướng Thái Lan, khi đã gần tới đất liền thì gặp bọn cướp biển vào ngày 03/12/1979. Hai tàu cướp ThaiLan cặp hai bên hông thuyền tị nạn, bọn cướp đã ùa sang với súng và dao. Vì ghe thuyền Việt Nam quá chật hẹp, bọn hải tặc đã lùa 27 người sang tàu của chúng cho dễ lục soát vàng bạc của cải.
80 người còn lại bị khám xét cướp hết vàng bạc, vật qúy. Sau đó bọn cướp buộc giây vào ghe Việt Nam vào đuôi tàu của chúng và kéo chạy. Chúng xả hết tốc lực, chạy lượn vòng qua lại làm ghe tị nạn nghiêng chìm như một trò chơi. Dân tị nạn la khóc, lạy van cho tới khi ghe chìm hẳn. Bọn cướp biển cắt giây nối và chạy bỏ mặc 80 người vùng vẫy tuyệt vọng, trong khi 27 người tị nạn trên tàu của chúng vật vã khóc ngất nhìn xuống biển chứng kiến người thân đang dãy dụa chết chìm.
Bọn hải tặc chạy thẳng về đảo sào huyệt KO KRA của chúng mang theo 27 người mà chúng đã tách đem lên thuyền chúng trước đó. Nhưng gần tới đảo, chúng xô đẩy tất cả đàn ông xuống biển, buộc họ bơi vào đảo. 7 người dàn ông này đều bị chết đuối vì không đủ sức bơi hoặc không biết bơi để có thể vào đến bờ, trong số này có Giáo sư TRẦN QUANG HUY. Còn lại 20 người sống sót sau cùng đã bị bọn cướp đưa lên đảo và lập tức chúng lại lục soát, sờ nắn khắp thân thể để tìm kiếm vật quý con cất giấu trong người. Bà BTD (xin viết tắt, giấu tên) 26 tuổi có con 4 tuổi, bị dẫn ngay vào bụi hãm hiếp mặc dù Bà đang mệt lả không đứng dậy nổi vì đói khát, kinh hoàng.
Sau đó, trong suốt 8 ngày liền bị giam giữ trên đảo, 20 thuyền nhân còn lại này đã bị quần thảo hành hạ bởi nhiều toán cướp biển khác nhau hàng ngày đổ bộ lên đảo. Các phụ nữ, cô gái phải chạy vào rừng hoặc leo lên hốc ẩn tránh. Nhưng vẫn không thoát khỏi tay bọn dâm tặc. Một lần Bà BTD quá mệt mỏi không còn sức chạy trốn nổi, đang nằm ngất ngư và được mọi người săn sóc thì bọn hải tặc lại ùa đến, đuổi tất cả mọi người chung quanh đi chỗ khác và 4 tên Thái man rợ luân phiên hãm hiếp tàn nhẫn ngay tại chỗ, khiến bà ta bị kiệt lực nằm im lìm không nhúc nhích được nữa.
Đến ngày thứ 3 trên đảo, một tàu Thái, bên hông có ghi chữ POLICE số 513 tới đảo. Bọn cướp rút lui, chạy tàu ra xa. Chiếc tàu Cảnh Sát neo sát bờ biển, họ chỉ nhìn vô bờ nhưng không lên đảo. Những người tị nạn Việt Nam mừng rỡ tưởng được cứu thoát, một thanh niên tị nạn bơi ra mang theo một lá thư cầu cứu bằng tiếng Anh để gởi cho giới chức Cao Ủy Liên Hiệp Quốc. Nhưng chưa bơi tới nơi đã bị tàu Cảnh Sát Thái nổ súng bắn xuống biển cảnh cáo. Anh ta hoảng hốt bơi quay trở vào bờ. Sau đó mọi người lại đề cử một thiếu niên 15 tuổi liều mình bơi ra cầu cứu lần nữa. Cậu này đã được Cảnh Sát cho lên tàu, nhưng chỉ cho vài gói mì và đuổi xuống biển ngay. Cuối cùng tàu Cảnh Sát này bỏ đi. Sau này mới biết họ đã không hề báo tin vào đất liền.
Ngay sau khi tàu Cảnh Sát bỏ đi bọn hải tặc lại lên đảo và tình trạng tồi tệ tiếp tục diễn ra. Đến ngày thứ năm, một tàu Hải Quân Thái Lan đi ngang qua đảo, nhóm người tị nạn chạy ra sát bờ vẫy gọi, làm hiệu và lần này chiếc tàu Hải Quân đã cho người lên đảo tiếp xúc và nhận bức thư nhờ chuyển về cho Cao Ủy Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan. Ngày thứ tám, Ông SCHWEITZER Đại diện Liên Hiệp Quốc tại TháiLan ra đón họ vào đất liền.
Không lâu sau đó Bà NGUYỄN THỊ THƯƠNG sinh thêm đứa con gái út trong trại tị nạn Song Khla và Bà sống tại đó với một đứa con gái 3 tuổi và người em trai của Bà và một em gái của Ông TRẦN QUANG HUY. Lúc bắt đầu rời Việt Nam Bà THƯƠNG đã có thai gần 9 tháng, chính nhờ vậy trong những ngày trên đảo KO KRA, Bà đã không bị hải tặc hãm hiếp.
Bà NGUYỄN THỊ THƯƠNG kể lại câu chuyện trên rồi khóc lặng lẽ và nói: "Chồng tôi và tôi đã đoán trước những thảm cảnh có thể xảy ra trên biển. Nhưng chúng tôi vẫn chấp nhận ra đi vì chúng tôi đã nghĩ rằng, dù thế nào cũng ít tệ hại hơn là sống dưới chế độ Cộng sản. Nhưng những đau khổ tôi đang phải chịu đã vượt qua dự đoán của chúng tôi".
VỤ THỨ HAI: 70 thuyền nhân Việt nam tị nạn bị giết
NHÂN CHỨNG : Ông Vũ Duy Thái 44 tuổi, đi cùng vợ là Bà Đinh Thị Bằng 40 tuổi cùng 4 con và 2 cháu. Hiện chỉ còn mình Ông sống sót.
Ghe VNKG 0980 dài 14 m, bề ngang 2 m 2 chở 120 người khởi hành từ Rạch Giá ngày 29 tháng 12, 1979. Lúc 7 giờ sáng ngày 31/12/1979 gặp tàu hải tặc Tháilan. Tàu này sơn màu đỏ cam, mang số 128 ở đầu mũi, gồm 12 tên cướp võ trang súng dài và dao, búa, rìu. Tàu của chúng phóng tới húc vào làm nứt bể mũi ghe tị nạn. Bọn hải tặc nhảy qua và lập tức phá máy ghe làm thủng thêm vết nứt, nước bắt đầu tràn vào. Bọn chúng lục soát chụp giựt đồng hồ, nhẫn vàng v.v... trong lúc nước nước tràn vào ghe của người tị nạn càng nhiều hơn và bắt đầu bị chìm dần sau khoảng 1 tiếng đồng hồ.
Khi ghe chìm hẳn, đàn bà, trẻ con la khóc hoảng hốt níu kéo lẫn nhau. Bọn cướp nhảy xuống biển và chỉ chọn lựa cứu các cô gái trẻ đẹp. Lúc đó tàu của bọn hải tặc neo đậu cách đó 50 m. Bọn cưới đã lôi kéo về tàu chúng 5 cô gái. Một số đàn ông và thiếu niên tị nạn biết bơi cũng lội về phía tàu của chúng và bám leo lên. Nhiều người bị xô đẩy xuống, nhưng vì chúng ít người nên cuối cùng còn 50 người sống sót leo lên được tàu của chúng kể cả 5 cô gái được chúng cứu trước đó. Những người này đã chứng kiến trước mắt 70 người còn lại bị chết chìm dần dần. Mọi người nhìn thấy những bàn tay chới với ngoi lên khỏi mặt biển rồi mất hút.
Ông Vũ Duy Thái rời Việt Nam cùng vợ và 4 con, 2 cháu. Riêng Ông trong lúc hỗn loạn đã bơi bám vào tàu hải tặc và níu được vợ và một đứa con. Còn 3 đứa con khác và 2 cháu thì bị chết chìm. Tuy nhiên vợ và đứa con còn lại của Ông đã bị uống nước quá nhiều, khi kéo lên được thì không còn nhúc nhích. Ông hi vọng dùng phương pháp hô hấp nhân tạo sẽ cứu sống được, nhưng bọn hải tặc đã quăng vợ và con Ông xuống biển trở lại cho chết luôn.
Anh Phạm Việt Chiêu, 26 tuổi là tài công kể lại chính anh và một số đàn ông khác còn khoẻ đã vớt được một số người chưa chắc đã chết hẳn mà có thể chỉ mới bị ngất xỉu nhưng bọn hải tặc đã bắt bỏ họ xuống biển lại. Sau đó tàu hải tặc trực chỉ đảo KO KRA và chúng giam giữ nạn nhân trên đảo.
Ngày 1/1/1980, một chiếc tàu Hải quân Thái mang số 18 đến đảo vào ban đêm có võ trang vũ khí. Mọi người mừng rỡ tưởng được cứu thoát. Nhưng những người lính Hải quân chẳng chút thương tâm đoái hoài đến dân Việt tị nạn đang lâm cảnh khốn cùng, họ chỉ lo việc khám xét bằng cách bắt tất cả mọi người lột bỏ quần áo trần truồng kể cả đàn bà con gái rồi bỏ đi.
Ngày 2/1/1980 một tàu Hải quân Thái khác mang số 17 lại tới đảo. Lính Thái lại ùa lên lục soát. Tất cả phụ nữ bị lột truồng không còn mảnh vải che thân công khai trước đám đông để bọn lính này sờ nắn khám xét như để tìm vũ khí kẻ nào có giấu diếm. Sau đó, chúng rút về tàu đậu gần bờ biển và đến trưa ngày 4/1/1980 mới bỏ đi.
Trong thời gian hải quân Thái làm việc, bọn cướp vắng mặt nhưng ngay sau khi lính Thái vừa bỏ đi thì lập tức 4 chiếc tàu hải tặc tràn người lên đảo. Bọn cướp lại lục soát thêm nhiều lần nữa. Dĩ nhiên những nạn nhân VN khốn khổ chẳng còn gì để chúng cướp bốc nữa. Chúng luân phiên nhau hãm hiếp phụ nữ tại chỗ giữa ban ngày.Chúng chẳng cần tìm chỗ nào kín đáo để làm hành động thú tính này. Năm em gái Việt Nam: KH 15 tuổi, BT 17 tuổi, AH 12 tuổi, NY 11 tuổi và MT 15 tuổi bị chúng cưỡng hiếp tập thể ngay trước mắt mọi người.
Lẽ ra, thảm kịch còn kéo dài chưa biết đến ngày nào chấm dứt, nếu không may mắn được vị cứu tinh là Ông SCHEITZER Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc xuất hiện kịp thời cứu giúp và kết thúc thảm ác trạng này. Ông đã đến đảo KRA trên một chiếc tàu Cảnh Sát Thái lan.
VỤ THỨ BA: Hải tặc Thái bắt gái vn bán vô ổ điếm
NHÂN CHỨNG : Nguyễn Thị Ánh Tuyết 17 tuổi đi cùng chị là Bà Nguyễn Thị Năm bà này đã bị hải tặc giết trước đó và Công Huyền Tôn Nữ Mỹ kiều 17 tuổi.
Ghe không số, dài 10 m, chở 78 người, khởi hành tại NhaTrang ngày 08/12/1979. Ra khơi được 3 ngày thì hết nhiên liệu và thực phẩm, thuyền lênh đênh trên biển trong 10 ngày. Thời gian này có 12 trẻ em đã bị chết vì đói khát. Thi thể các em phải bỏ xuống biển. Đến ngày 21/12/1979 gặp 2 tàu hải tặc Tháilan. Bọn cướp buộc giây vào ghe VN với tàu của chúng, dùng vũ khí ép buộc tất cả mọi người qua tàu chúng để lục soát.
Bà Nguyễn Thị Năm 33 tuổi đang mang thai 5 tháng, đi cùng chồng là Ông Lê Văn Tư và 3 đứa con 9 tuổi, 5 tuổi và 3 tuổi. Cả 3 đứa trẻ này đã chết trong thời gian 10 ngày ghe bị trôi lênh đênh trước đó. Bà NĂM quá đau khổ và mệt mỏi không còn đủ sức leo qua tàu hải tặc khi chúng ra lịnh. Bọn cướp đã xốc nách Bà lên nhưng Bà vẫn nằm im, một tên cướp liền dùng xẻng xúc cá đập túi bụi vào đầu Bà NĂM. Bà đã bị nứt sọ chết ngay tại chỗ và chúng xô xác Bà xuống biển.
Mọi người kinh hoảng vội leo sang tàu hải tặc để cho chúng có chỗ trống lục soát, phá phách, xét quần áo, thân thể tìm đồ qúy. Sau đó tất cả đàn ông bị bắt nhốt vào hầm nước đá, đàn bà chúng cho ở trên sân tàu để sờ mó nghịch ngợm. Rồi chúng lùa thuyền nhân tị nạn qua trở lại chiếc ghe đã thủng nát. Khi đến ghe thì một người đàn ông đã chết vì đã bị giam giữ trong hầm nước đá lạnh cóng. Chiếc ghe tị nạn lại tiếp tục thả trôi lênh đênh trong nỗi tuyệt vọng cùng cực của mọi người.
Ngày hôm sau, hai chiếc tàu hải tặc khác lại đuổi theo, tới gần vùng đảo KO KRA chúng lại lên ghe lục soát cướp bốc. Lần này 3 thiếu nữ xinh đẹp nhất bị chúng bắt đem đi. Con thuyền tị nạn lại tiếp tục trôi trong tình trạng vô cùng bi đát. Máy ghe bị hư hỏng, không thức ăn, nước uống và ghe thì đã ngập nước vì lúc đó tất cả đàn ông đã quá đói khát không còn đủ sức tát nước nữa. Không ai biết số phận 70 người còn lại trên chiếc ghe khốn cùng đó, lúc này ra sao?
Hai chiếc tàu hải tặc chia nhau 3 cô gái VN. Hai cô N.T. Ánh Tuyết và Mỹ Kiều bị chiếc tàu của tên SAMSAC làm chủ bắt giữ. Còn chiết tàu kia bắt Cô LAN 17 tuổi mang đi mất hút, cho tới bây giờ không còn nghe tin tức gì về Cô ấy nữa. Hai cô ÁnhTuyết và Mỹ Kiều bị bọn SAMSAC mang vào đất liền, nhốt trong một khách sạn tại Songkhla. Chúng tách rời hai cô ở phòng riêng khác nhau. Ánh Tuyết bị một tên, được nghe gọi là BÍT canh chừng. Còn Mỹ Kiều thì ở chung phòng với tên SAMSAC.
Ánh Tuyết kể lại là Cô đã la hét kêu ầm lên khi tên BÍT định cưỡng hiếp Cô, khiến mọi người ở các phòng chung quanh cùng khác sạn đa số là người Tây Phương đổ xô tới xem và tên BÍT đã bỏ chạy. Riêng tên SAMSAC ở phòng gần đó nghe tiếng ồn ào vội đem Mỹ Kiều đi giấu trong một khách sạn khác ở tỉnh Haadyai cách Songkhla hơn 30 Km. Khi cảnh sát đến điều tra, chính cô Ánh Tuyết đã dẫn CảnhSát đến bến tàu Songkhla, nơi có chiếc tàu của bọn SAMSAC vẫn còn đậu đó và các thủ phạm hải tặc đã bị bắt kể cả tên SAMSAC mà Cảnh sát đã tìm thấy hắn sau đó cùng với Cô Mỹ Kiều tại khách sạn nói trên.
Tại Ty Cảnh Sát chúng đã khai là định bán hai Cô gái này cho một đường giây chuyên buôn gái cho các ổ điếm.
Trên đây, chúng tôi chỉ đưa ra một vài vụ điển hình thuyền nhân Việt Nam bị thảm nạn hải tặc Tháilan hành hạ, giết chóc xảy ra trong tháng 12-1979 tại đảo KO KRA. Tưởng cần nhắc lại rằng tệ nạn hoành hành của hải tặc THÁI không phải vào thời gian này mới xuất hiện. Trong mấy năm trước 1979 khi ở Việt Nam khởi sự có làn sóng Thuyền Nhân VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO thì người Việt tị nạn của chúng ta đã trở thành những con mồi ngon cho bọn hải tặc THÁI.
Báo chí trên thế giới cũng đã nhiều lần đề cập đến thảm kịch kinh hoàng mà "BOAT PEOPLE" đã phải chịu khổ nạn. Tuy nhiên kể từ khi các ngư phủ THÁI nhận thấy việc cướp bóc Thuyền Nhân sẽ làm cho họ trở nên giàu có mau chóng hơn là đánh cá thì số ngư dân Thái kiêm thêm nghề hải tặc đã ngày trở nên đông đảo, đưa tới hậu quả là người VN đi tị nạn bằng đường biển càng ngày càng bị rơi vào mạng lưới của bọn cướp biển dày đặc bủa vây trong khắp vùng Vịnh Thái lan.
NGUYỄN HÀ TỊNH
NGUYỄN THANH HOÀI * CÁI CHẾT CỦA MỘT NGƯỜI LÍNH
LTS: Trong suốt 8 thập niên kể từ
khi thành lập vào năm 1930, CSVN đã gieo rắc không biết bao nhiêu tội ác
trên quê hương Việt Nam. Có thể nói, trên từng tấc đất, ngọn cây, hòn
đá... của quê hương Việt Nam, dưới mỗi mái gia đình, trong mỗi thân phận
người Việt, đều có những dấu ấn ghi lại những tội ác kinh tâm động
phách do người cộng sản gây ra. Đặc biệt, sau khi ngang nhiên vi phạm
Hiệp Định Geneva, xâm lăng và chiếm đóng Miền Nam kể từ 30 tháng 4 năm
1975, CSVN đã thực hiện hàng loạt chiến dịch đàn áp, khủng bố, thủ tiêu,
bắt bớ... dã man trên khắp lãnh thổ Miền Nam, để một mặt ăn cướp trắng
trợn tài sản của người dân, mặt khác nghiền nát mọi sức đề kháng, chống
đối của những người yêu nước, khiến hàng triệu người dân Miền Nam phải
vượt biển, vượt biên tìm tự do.
Hậu quả, trong thời gian hơn hai thập
niên kể từ sau 1975, hàng trăm ngàn người Việt, trong đó phần lớn là phụ
nữ, trẻ em, ông bà già,... đã bị thảm tử trên biển cả, trong rừng sâu,
ngoài hoang đảo.... sau khi phải trải qua những bi kịch kinh tâm động
phách, muôn vạn phần đau đớn. Không những thế, ngay cả với những người
sống sót, những bi kịch kinh tâm động phách đó vẫn còn mãi mãi tiếp tục
ám ảnh, giầy vò, tra tấn họ, cho dù họ có sống trong bất cứ hoàn cảnh
nào, có đi đến bất cứ chân trời góc biển nào... Để có thể tái tạo một
trong muôn vàn tội ác của cộng sản Việt Nam đối với người vượt biên tìm
tự do, Sàigòn Times trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả những đoạn
hồi ký trích trong "Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông".
Hy vọng, qua những
dòng chữ được viết bằng máu và nước mắt của chính những người trong
cuộc, qúy độc giả, với tấm lòng xót xa và những giọt nước mắt đau đớn
của những người tỵ nạn cộng sản cùng cảnh ngộ, sẽ hiểu được, tội ác của
chánh phạm CSVN đằng sau muôn ngàn bi kịch rùng rợn của người vượt biển.
Qua đó, chúng ta sẽ thức ngộ được, lần đầu tiên trong lịch sử bốn ngàn
năm của dân tộc VN, và có thể nói lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại,
tội ác của một chế độ đối với chính người dân của chế độ, như chế độ
CSVN, quả thực đã vượt khỏi biên cương quốc gia, tung hoành trong mỗi
gia đình, mỗi cuộc đời, để rồi tiếp tục tràn lan trên khắp bề mặt địa
cầu...
*
Nếu
phân loại theo giới tính của nhóm người trên chiếc ghe này, có thể nói
tôi là một người đàn ông trẻ nhất trong nhóm, mặc dù lúc vượt biên tôi
tròm trèm mười bốn tuổi. Hay nói cho đúng hơn nữa, có thể gọi tôi là một
thằng con nít chưa hiểu sự đời. Thật sự mà nói, tôi chẳng hiểu sự đổi
thay của chế độ như thế nào mà rất nhiều người bỏ nước ra đi. Với cá
nhân tôi, tôi chỉ biết là tôi rất buồn khi bố mẹ gởi gắm tôi cho một
người quen làm chuyến phiêu lưu này. Tôi phải bỏ quên tuổi thơ của tôi,
những chiều đá banh, tắm sông, nghịch ngợm chọc phá và hái trộm xoài nhà
ông Cả Đậu làng bên. Tôi chỉ có một cảm giác thích thú duy nhất là khi
xuống tầu, tàu lướt sóng nhịp nhàng khi lên khi xuống mà tôi gọi là cưỡi
ngựa trên biển.
Nhưng
cái cảm giác thích thú này chẳng duy trì trong tôi lâu được. Hơn cả tuần
vật lộn với sóng biển, giữa phong ba bão táp, ói tới mật xanh, cái sống
và cái chết chỉ cận kề trong gang tấc, tôi đã nghĩ là bố mẹ tôi đem
sinh mạng tôi đùa giỡn với tử thần.
Chỉ mới ngày thứ hai trên biển, chú thím Bảy - người mà bố mẹ tôi gửi gấm tôi - đã nằm la liệt trên tàu. Chẳng ai còn ngó ngàng chăm sóc đến tôi. Tôi có cảm giác lạc lõng giữa một nhóm người xa lạ. Chiếc tầu thì quá chật. Tôi lâu nay đã quen chạy nhảy, nghịch ngợm, giờ bó gối trên chiếc tầu con chật hẹp tưởng chừng như con chim bị nhốt trong lồng.. Tôi chỉ có một may mắn duy nhất là tiêu chuẩn thực phẩm phân phát cho tôi đầy đủ hơn mọi người khác bởi tôi còn quá nhỏ so với những người trên tầu.
Ngày
đầu tiên trên biển, cái thích thú cỡi tầu trên sông nước đã đè bẹp cái
mệt nhọc, phiền muộn của tôi. Tôi reo mừng nhảy cỡn lên theo cái nhịp
nhàng lướt sóng lên xuống của con tầu. Tôi đã tạm quên đám bạn bè cùng
trang lứa, những ngày thả diều, đá bóng, bắt dế... ở quê nhà. Cứ nghĩ
như một cuộc du ngoạn xa. Tôi vẫn chưa ý thức được rằng sự ra đi này như
đi tìm sự sống trong cái chết. Và cái lạ lẫm thú vị trong tôi đã dần
mất hẳn trong hành trình của những ngày cuối cùng.
Tôi bắt đầu thấm nỗi cô đơn và sự nhớ nhung giữa gia đình. Tựa như con chim non vừa rời xa tổ ấm. Những đứa em của tôi, cu Vũ, bé Tý giờ này chắc đã ngủ yên bên mẹ. Tôi đã cảm thấy mệt mỏi và mất đi vẻ linh hoạt vốn sẵn trong tôi. Tôi chẳng còn thấy thiết tha hay thú vị trong hành trình bắt buộc này khi cơn bão ập xuống trong ngày thứ ba trên biển. Mưa tầm tã như trút nước, sấm sét giông gió và cả một khoảng trời trên biển mù mịt mây xám.
Tàu
phải bỏ neo giữa biển như một chấp nhận, một chịu đựng không lối thoát.
Tôi tưởng chừng như cái chết đang cận kề bên mình. Bão táp làm bầm dập
tôi đến tả tơi. Ruột gan như lộn phèo và ói mửa tới cả mật xanh. Tôi
ngất đi trong sự khiếp hãi kinh hồn này.
Chẳng
biết bao lâu thời gian đã qua, tôi tỉnh dậy. Nắng chiều chiếu trải rộng
trên tầu. Tôi nhìn quanh. Mọi người trên tầu cũng tả tơi, rách nát như
tôi. Tựa như tất cả từ cõi chết trở về. Tôi đưa mắt tìm chú thím Bảy.
Hai người còn nằm thiêm thiếp mê mệt. Tôi gượng dứng dậy. Nhưng sức lực
dường như tiêu tán đâu hết. tay châm run rẩy và tôi lại ngã nhào xuống.
Tôi
ngã vào vòng tay một người đàn ông. Anh ta chụp lấy tôi và dìu tôi ngồi
xuống sàn. Ánh mắt và nụ cười đầy vẻ thân thiện. Tôi nhìn lại anh ta
chỉ hơn tôi độ mười mấy tuổi. Làn da rám nắng. Khuôn mặt dày dạn nét
phong trần. Tôi như có cảm giác an ủi và đỡ lạc lõng. Tôi đã có người để
làm bạn, chuyện trò. Rồi từ hôm ấy, tôi thường xuyên lân la bên cạnh
anh ở trên tầu.
Tầu của
chúng tôi đã lênh đênh trên biển sang ngày thứ bảy. Trận bão đi qua đã
làm thiệt hại nặng nề con tầu. Máy hư, bánh lái gẫy. Tàu hết phương cứu
chữa, chỉ còn theo sức gió trôi dạt. Thức ăn đã dần dần vơi và nước uống
thì gần cạn. Mỗi người trên tầu bây giờ phải ăn cháo thật lỏng thay cơm
và chỉ uống được một ngụm nhỏ nước mỗi ngày.
Tôi
chưa bao giờ nghĩ rằng có lúc cái đói và cơn khát hành hạ tôi như lúc
này. Tôi đang sức lớn mà tiêu chuẩn ăn chỉ vừa nhét đủ kẽ răng và nước
uống thì chưa đủ thấm giọng. Đêm ngủ lại trăn trở theo tiếng reo của bao
tử, tôi tưởng chừng như điên lên được.. May mà có người anh tôi mới
quen trên tầu, mà trong thân mật tôi quen gọi anh là anh cả. Anh tìm
cách xin thêm phần ăn và nước uống cho tôi. Lắm khi thấy tôi quá đói,
anh còn nhường luôn phần ăn của anh cho tôi nữa. Bây giờ nghĩ lại tôi
vẫn còn thấy thẹn thùng trong lòng. Bởi những lần như vậy tôi chưa bao
giờ biết từ chối. Tuổi tôi còn quá nhỏ, tôi chưa cảm nhận được cái hy
sinh của người khác dành cho mình.
Qua
đi sóng gió bắt đầu cơn nắng cháy cả da. Mọi người chúng tôi được lên
hết trên khoang để hưởng chút gió mát của biển. Tôi vẫn lân la theo bên
cạnh anh. Anh thường đặt đầu tôi nằm trên đùi anh và kể chuyện của anh
cho tôi nghe. Chuyện đời lính. Những lần đụng trận trên chiến trường.
Những sự chia sẻ hy sinh của đồng đội. Tôi thấy mắt anh rực lửa và đanh
lại. Rồi lần bỏ trận chiến chạy về phố thị Pleiku tìm người thân trong
lửa đạn, vợ con anh đã thất lạc phương nào. Anh đã rong ruổi hàng bao
năm để tìm tin tức nhưng vẫn hoài công. Nhìn gương mặt anh, nét chua xót
ngậm ngùi trong tròng mắt cho tôi cảm nhận được cái đau đớn trong lòng
anh. Cũng nhờ những câu chuyện ấy của anh đã đánh lừa ảo giác cho tôi
vơi bớt cơn đói khát đang hành hạ.
Ngày
thứ mười trôi qua. Mọi người trên tầu gần như kiệt sức. Con tầu vẫn
bồng bềnh trên nước chạy theo sức gió đẩy đưa. Chẳng còn biết số mạng
mình đang đi về đâu. Chỉ còn chờ đợi một may mắn nào đó xảy đến. Tôi
thầm phục ý chí của anh cả. Anh vẫn tìm cách an ủi giúp đỡ mọi người.
Rồi sang ngày thứ mười hai. Có vài người trên ghe đã kiệt sức không chịu
đựng nổi đã bị chết. Cuối cùng một đời người không được trở về lòng đất
mà phải đành gởi thây xuống biển cả.
Bây
giờ thì tôi đã thực sự kinh hoàng. Sự sợ hãi đã đi theo cả trong giấc
ngủ. Tôi không ngớt mê sảng, cứ mơ thấy bố mẹ và các em tôi. Họ đang vẫy
tay gọi tôi. Tôi lơ lửng bay theo mà chẳng thể nào bắt kịp. Anh cả vẫn
bên cạnh tôi, mớm cho tôi từng thìa cháo, từng muổng nước.Tôi đã đến
giai đoạn không còn cảm nhận sự đói khát nữa, mà chỉ còn mong cho sự
chết đến sớm như là một giải thoát còn hơn cứ mãi như thế này.
Chưa
hết tai ương này lại đến tai ương khác. Nhưng có lẽ cái tai ương cuối
cùng này đã kết thúc cái sự không may mắn của chúng tôi.
...Giữa
lúc mọi người hoàn toàn tuyệt vọng thì có tiếng ghe máy tiến lại gần.
Như được uống thuốc hồi sinh, mọi người cùng bật dậy.. Kể cả tôi. Đến
lúc đủ tỉnh táo để nhìn mọi vật chung quanh thì tôi đã suýt rú lên vì sợ
hãi. Anh cả đã ôm choàng tôi lại và vỗ nhẹ vào vai trấn an tôi. Tôi
nhìn thấy khoảng chừng năm tên cầm giáo mác, mã tấu đang đứng chung
quanh trên tầu.
Những
khuôn mặt dữ dằn đến ghê sợ. Bọn chúng đang hò hét và ra dấu cho mọi
người tháo nữ trang, tiền bạc giao nộp cho chúng. Chúng còn lục soát
từng hang hốc, ngõ kẹt quanh tầu. Lúc này chẳng còn ai đủ sức lực để
phản kháng. Cho đến khi chẳng còn tìm thấy được gì thêm chúng quan sát
một lượt quanh tầu. Tầm nhìn của chúng chiếu vào hai cô gái chỉ hơn tôi
độ mấy tuổi đang sợ hãi nép vào lòng mẹ.
Chúng
tiến đến và nâng mặt hai cô lên. Đầu tóc rũ rượi. Khuôn mặt còn đọng
nét kinh hoàng. Nhìn hai cô gái đang sụp lạy như tế sao, chúng cười lên
ha hả.
Cuối cùng chúng
lôi hai cô gái đứng dậy như chuẩn bị đưa xuống tầu của chúng. Hai người
mẹ sợ hãi nhưng vì tình thương con đã nhào tới ghì tay chúng. Có lẽ sợ
mất thời gian, tên đứng cạnh tiện tay vung nhát mã tấu lên. Mọi người
kinh hoàng đồng kêu rú lên. Nhát mã tấu ngọt xớt hớt một mảng trên đầu
người đàn bà. Máu bắn lên có vòi. Người đàn bà gục xuống chẳng kịp kêu
lên một tiếng nào.
Tôi
run cầm cập trong vòng tay anh cả. Hình như tôi cảm thấy anh cùng độ
rung như tôi. Tôi ngước nhìn anh. Khuôn mặt anh đanh lại và rực lửa. Tôi
thấy lại lần thứ hai như lần anh kể chuyện lúc trạm trán trước quân
thù. Nhưng lần này trước đám cướp biển, nhìn gương mặt anh như vậy tôi
có linh cảm không may lẫn khiếp sợ thực sự.
Đúng
như tôi dự đoán, khi nhìn người đàn bà giẫy giụa trước lúc xuôi tay,
anh đẩy tôi ra khỏi lòng và bật dậy như chiếc lò xo. Anh lao đến bọn
chúng và thuận tay giật được chiếc mã tấu trên tay đứa đứng gần nhất.
Anh vung đao chém loạn xạ vào bọn chúng.
Tôi
cũng không tưởng tượng được đột nhiên anh lại khoẻ mạnh đến như vậy.
Hai tên đứng bên cạnh anh không dự trù được trước phản ứng đột ngột của
anh, lãnh trúng hai nhát vào đầu ngã nhào xuống biển. Ba tên còn lại
buông tay hai cô gái và sửng sốt lùi lại thủ thế đứng nhìn anh.
Lúc
này anh cũng đã dừng tay lại và cắm thanh mã tấu xuống sàn tầu vịn tay
thở dốc. Tôi biết rằng sức lực anh đã kiệt. Những ngày chịu đói khát
trên biển đã bào mòn sức lực anh. Cái căm hận trước bạo lực chỉ là một
chút kích thích ngắn hạn tăng sức mạnh cho anh trong những nhát dao đầu
tiên mà anh đã trút hết trên hai tên cướp biển. Bây giờ sức lực anh đã
tiêu tán hết.
Có lẽ ba
tên cướp biển đã nhìn thấy điều đó. Nhưng chúng cũng còn dè dặt và từ từ
thủ thế tiến lại. Anh cũng run run rút thanh mã tấu lên cầm lại trên
tay. Tên cướp đi đầu dừng lại một tích tắc rồi vung dao nhắm vào đầu anh
chém tới. Anh ngã người ra sau né tránh. Vừa vặn lúc đó, có âm thanh
của ghe máy nổ cách không xa lắm đang xé nước lao tới.
Bọn
cướp nhìn thấy và biết không còn đủ thời gian để trả đũa, nhưng trước
khi nhảy xuống tầu bỏ chạy, chúng còn cố ném vụt những chiếc mã tấu vào
người anh. Có một chiếc cắm phập vào ngay giữa ngực anh. Máu tuôn xối xả
và anh đã ngã quị xuống sàn tầu.
Chiếc
tầu tuần dương của cảnh sát Thái Lan vừa đến kịp đã cứu chúng tôi nhưng
không cứu sống được anh. Vết thương gần ngay giữa tim ra quá nhiều máu.
Tôi nắm chặt tay anh và nhìn anh thoi thóp thở. Lần đầu tiên trong đời
có lẽ đây là lần tôi biết cảm nhận cái đau đớn và biết khóc thật sự. Tôi
muốn nói với anh thật nhiều điều những suy nghĩ của tôi dành cho anh.
Nhưng tôi chỉ biết uất nghẹn. Anh đã tắt thở trước khi vào đến đất liền.
Cái cuối cùng tôi còn được nhìn thấy ở anh là cái xiết tay nhẹ và nụ
cười rạng rỡ trên khuôn mặt anh trước khi nhắm mắt.
Ngôi
mộ anh được chôn trên đồi phía sau hàng rào của trại dành cho những
người tị nạn. Ở nơi đây cũng có những ngôi mộ nằm san sát với nhau.
Những xác người vượt biên trên biển trôi dạt vào đất liền.
Tôi
đã được nhận đi định cư ở Mỹ bởi tôi thuộc diện trẻ em dưới tuổi thành
niên. Những ngày nằm đợi lên đường, nhớ anh tôi thường thích thơ thẩn ra
thăm mộ. Tôi thích hái những hoa tím dại trên đồi đặt lên mộ anh như
một ngậm ngùi, thương tưởng.
Đã
gần hai mươi năm qua. Tôi bây giờ đã thực sự trưởng thành. Chuyện vượt
biển của ngày xưa chừng như nhạt nhòa. Duy chỉ còn hình ảnh của anh đọng
mãi trong ký ức. Tôi có thể trả lời cho tôi được một điều đã ấp ủ mãi
trong lòng. Cái giá của sự tự do mà mọi người phải đem sinh mạng mình
thi gan cùng biển cả. Và với riêng cá nhân anh cả anh không nằm xuống
trên chiến trường, nhưng anh đã trọn cái hy sinh đúng nghĩa cho đồng đội
là những người vượt biển trên tàu, kể cả hai cô gái bé bỏng trước móng
vuốt hung dữ của hải tặc..
Tôi
chỉ có mỗi một ân hận duy nhất là chưa được biết tên anh. Hình ảnh anh
trong tôi là một anh hùng vô danh không tên tuổi. Cuối cùng tôi đã
nghiệm ra ở anh một điều mà cho đền cuối đời chưa chắc tôi đã làm được:
Đời sống thì ngắn ngủi. Duy những điều có ý nghĩa để lại cho đời mới
thật sự bất tậm. Phải vậy không anh?
Nguyễn Thanh Hoài
|
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 256
Posted by
vanhoa
at
8:12 PM
No comments:
Hoàng yên Lưu
Câu chuyện kinh hoàng, kể rằng chính quyền đã sát hại hơn 1000 tù nhân ở Phú Lợi và gây tổn hại cho 4000 tù nhân khác bằng thủ đoạn đầu độc. Ai nghe cũng ghê tởm tội ác, nhất là đọc thơ Tú Mỡ, khi ông ở xa Phú Lợi hơn 1000 km, tận Hà Nội, chỉ đọc báo biết tin này đã dùng cả một tập thơ dài để vẽ “thảm kịch Phú Lợi” bằng những lời đầy máu lửa và hận thù:
Biến đau thương thành sức mạnh
Chuyển căm thù quyết định thi đua
Triệu người cùng một động cơ
Trả thù Phú lợi phất cờ Cần lao...
Bọn tớ thầy giết người Phú lợi
Phải có ngày đền tội nhân dân
Máu đền nợ máu cho cân
Sát nhân giả tử là tuân luật hình
Điều quả báo ứng linh chứng thực
Kẻ nào dùng thuốc độc, súng gươm
Giết người trung thực hiền lương
Tránh sao thuốc độc súng gươm giết mình!
Lời Tú Mỡ khi ấy chẳng khác gì giọng điệu đấu tố lúc ấy đang lan tràn ở thôn quê đồng bằng sông Hồng và sông Thái Bình.
Nhưng sự thực có vụ đầu độc ở Phú Lợi hay không?
Một nhà nghiên cứu hiện đại là Vu Gia trong tác phẩm Tú Mỡ, người gieo tiếng cười, do nhà xuất bản Thanh niên, TP. HCHM, ấn hành năm 2008, cho biết “thảm kịch” tù chính trị bị đầu độc ở Phú Lợi vào năm 1956 hoàn toàn là hư cấu của bộ máy tuyên truyền mà thôi.
Ông Vu Gia cho biết, vào năm 1987, ông được giám đốc Nhà xuất bản Sông Bé giao cho ông và một cây bút khác (Hàng Chức Nguyên) viết một cuốn sách về vụ đầu độc ở Phú Lợi. Hai cây viết trẻ khi ấy đã mời những cựu tù nhân Phú Lợi tới họp tại ngay nhà tù Phú Lợi (ở cách thị xã Thủ Dầu một chừng 3 cây số ngày nay đã biến thành một công viên) để tìm nhân chứng trong “vụ đầu độc’ và dự định lập bia cho những liệt sĩ đã chết vì “bị đầu độc”. Nào ngờ các cựu tù được mời tới, sau 1975 đều là nhân vật cao cấp, vai vế trong chế độ mới, đã khẳng định không hề có vụ đầu độc nào cả, và chẳng có ai chết để lập bia, mà chuyện đầu độc chỉ là sản phẩm của chiến tranh tâm lý. Một nhân chứng kể lại: “Nhân có lễ lạt chi đó, tù nhân chúng tôi được ăn no một bữa thịt heo. Tối về có người bị bội thực, ói mửa. Anh em ra hái rau muống giã nước cho bạn uống”. Từ đó có người tung tin ra ngoài là bị đầu độc. Tin này được thổi phồng và xảy ra, một vài cuộc biểu tình tố cáo tội ác của Đế quốc ở Phú Lợi. Nhưng rồi nội vụ vì “bé xé ra to” và “hư cấu” nên mau chóng rơi vào quên lãng trừ guồng máy tuyên truyền lâu lâu lâu lại nhắc lại.
Tuy có lúc Tú Mỡ phải xuôi dòng, thì ta cũng nên thông cảm với ông. Vào thập niên 1950, ông đã già trước tuổi (sinh 1900), thân cô thế cô, con cái đông, bạn bè thân thiết trong Tự lực văn đoàn có người bị giết (Khái Hưng), có kẻ lưu vong (Nhất Linh và Hoàng Đạo), sau 1954 con cái có người di cư vào Nam (như phu nhân của nhà văn tự do Doãn Quốc Sĩ là bà Hồ thị Thảo, con gái của Tú Mỡ) trong khi áp lực xã hội quá mạnh và quá khắc nghiệt (điển hình là vụ đàn áp Nhân văn-Giai phẩm), nên ông không thể không thuận dòng để sinh tồn.
Điều không nên quên là trong cảnh “may thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi”, viết theo chỉ thị, Tú Mỡ không thể làm khác nhưng vẫn giữ thủy chung với Tự lực văn đoàn, một văn đoàn bị phê phán kịch liệt sau 1945 dựa vào giáo điều do ông Trường Chinh đưa ra:
“Sau cơn khủng bố trắng 30-31, một sự buồn rầu, u uất tràn ngập tâm hồn nhân dân Việt Nam. Văn chương lãng mạn Tự lực văn đoàn ra đời. Giai cấp tư sản dân tộc không dám đấu tranh bằng chính trị và quân sự chống đế quốc nữa, bèn chuyển sang đấu tranh bằng văn hóa chống phong kiến quan liêu (các báo Phong hóa, Ngày nay và sách Tự lực văn đoàn) chủ nghĩa lãng mạn trong văn học nghệ thuật đi đôi với phong trào vui vẻ trẻ trung có tính chất trụy lạc của thanh niên trí thức thành thị.” (Cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân Việt Nam)
Trước giáo điều sắt thép như trên, giới cầm bút ở miền Bắc khi ấy đều lên án Tự lực văn đoàn, nhất là mạt sát Nhất Linh thậm tệ. Riêng Tú Mỡ vẫn giữ vững sự chung thủy với người bạn kính mến Nguyễn Tường Tam.
Người ta kể lại vào 1950 trong một cuộc họp giữa các nhà văn ngoài kháng chiến để phê bình sinh hoạt văn học 32-45, cụ thể là Tự lực văn đoàn, do Tô Hoài làm tổ trưởng, Tú Mỡ là người duy nhất dám đứng lên để bênh vực Nhất Linh khiến cho Tô Hoài đứng tim.
Vào tuổi 70, Tú Mỡ nhìn lại quãng đời hoạt động văn hóa của mình, vẫn khẳng định mục tiêu của Tự lực văn đoàn là đúng: “Kể về công, anh em đã thực hiện được mục đích của đoàn, điều chính là làm giàu thêm văn sản trong nước, đã có một đóng góp đáng kể vào văn học Việt Nam, tạo cho đoàn một tiếng tăm vang dội một thời, một thành tích mà các văn đoàn ra đời sau không đạt được, một chân giá trị riêng trong một giai đoạn nhất định mà giới văn học ngày nay phải công nhận”.
Chương trình xây dựng nhà ánh sáng của Tự lực văn đoàn bị nhóm phê bình giáo điều chỉ trích là cải lương, là thỏa hiệp với thực dân, nhưng Tú Mỡ từng hô hào xây dựng nhà ánh sáng trên tờ Phong hóa:
Các ngài hãy để tiền trăm bạc ngàn
Giúp đoàn ánh sáng món tiền
Dựng nhà cao ráo khắp miền thôn quê
Cho dân nghèo sống thỏa thuê
Ấy là quả phúc nên vê cho tròn
(Quả phúc)
Sau 1945, Tú Mỡ vẫn tự hào về chương trình này và coi nó là ý hướng tiến bộ của nhóm ông.
Trong Hồi ký trontg bếp núc của Tự lực văn đoàn Tú Mỡ tỏ lòng thương tiếc văn đoàn và anh em trong văn đoàn, ông viết bằng cả tấm lòng của kẻ “trải qua một cuộc bể dâu”:
“Cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta bùng nổ. Cái thất tinh hội “Tự lực văn đoàn” tan tác trong cơn phong ba như những sao đổi ngôi...
Chỉ còn ba chúng tôi người cũ trong Tự lực văn đoàn là may mắn, tan rồi lại hợp (chỉ Tú Mỡ, Thế Lữ và Xuân Diệu), còn các anh khác biệt vô âm tín.
Tôi không biết anh Khái Hưng có ra được vùng tự do mà tìm được con đường sống như anh đã nói với tôi hay không? Bẵng đi mấy năm mới được tin anh chết nhưng không rõ anh chết ở đâu, vì sao mà chết?
Sau đó lại được tin anh Hoàng Đạo đã rơi rụng trên đất Quảng Châu (Trung Quốc) sau một thời gian phiêu bạt, ốm yếu nơi đất khách quê người.
Anh Trần Tiêu cũng mất tại quê hương.
Thế là Thất tinh hội đã rơi rụng mất ba.”
Đối với Nhất Linh, Tú Mỡ tỏ lòng cảm thương cái chết của người tri âm này và cho tới những năm cuối đời và trong một bài thơ cuối cùng ông vẫn nhắc tới nỗi lòng thương bạn và kỷ niệm khó quên khi theo Nhất Linh làm báo Phong Hóa tại một căn nhà nhỏ ở ấp Thái Hà vào năm 1932:
Duyên văn nghệ là duyên tri ngộ
Từng vui buồn sướng khổ có nhau
Khi cà phê, khi phở tái, khi thuốc sái, khi trà tàu
Khi sắm vai trên sân khấu, khi làm báo suốt đêm thâu...
Không nên quên Hồi ký trong bếp núc của Tự lực văn đoàn hoàn thành 12-08-1969 nhưng 20 năm sau nó mới được phép ra mắt bạn đọc trên hai kỳ Tạp chí Văn học 1987 khi Tú Mỡ đã chết được hai chục năm.
HÀ NHÂN VĂN * THƠ-
HÀ NHÂN VĂN * TRUNG CỘNG XÂM LƯỢC
Hà Nhân Văn
Mục tiêu xa của Bắc Kinh: Dầu khí Côn Sơn, Tây Nguyên, Trường Sơn VIỆT NAM TRƯỚC THÁCH ĐỐ ĐẠI HÁN ĐỎ XÂM LĂNG!
VẤN ĐỀ LIÊN MINH VỚI HOA KỲ
Đăng vào lúc
04:23
VẤN ĐỀ LIÊN MINH VỚI HOA KỲ
Ts
Cù Huy Hà Vũ từng thống thiết kêu gọi Việt Nam phải liên minh với Hoa
Kỳ, "Đó là mệnh lệnh". Mệnh lệnh của ai? Mệnh lệnh của tổ quốc và của Mẹ
Việt Nam. Lời kêu trầm thống ấy chính là nguyên nhân Bắc Kinh áp lực
CSVN phải bắt giam và bỏ tù Cù Huy Hà Vũ đồng thời tiêu diệt khí thế VN.
Nhưng liên minh với Mỹ vào lúc này có dễ không? Dễ mà khó, rất khó!
Dễ
là vì Mỹ đang muốn giúp VN và bảo vệ Biển Đông. Các tổ chức cựu chiến
binh Mỹ "Viet Veterans" đã và đang đổ xô qua tiếp tay tái thiết VN, hàn
gắn vết thương "20 năm cuộc chiến" và xóa nhòa "hội chứng VN". Khuynh
hướng thân Mỹ trong giới trí thức, sinh viên, cựu tướng lãnh và cựu
chiến binh VNCS càng ngày càng lan rộng, lấy "Trung tâm Hoa Kỳ" ở Sàigòn
làm thí dụ, giới trẻ tấp nập đến trung tâm, nhất là ngày thứ bảy chủ
nhật. Nhưng rất khó lúc này, chỉ có thể liên minh với Mỹ về chính trị và
quân sự trong điều kiện tiên quyết, "ắt có và đủ", VN phải có tự do dân
chủ và tôn trọng nhân quyền. Thời cơ vàng son đang tới. Ngày 2-6 vừa
qua, sau khi dự thượng đỉnh G-8 trở về, TT Obama tái xác định với lời lẽ
hết sức cứng rắn: Bất cứ nơi nào an ninh của Hoa Kỳ bị đe dọa, Hoa Kỳ
sẽ phản ứng tức khắc, kể cả dùng biện pháp quân sự. Biển Đông là vùng an
ninh của Mỹ.
HAI ĐIỀU KIỆN CHỐNG ĐẠI HÁN
Nếu
bất hạnh Trung quốc Đỏ xâm lăng VN như phe diều hâu Bắc Kinh đã và đang
hô hào cổ võ "đánh! đánh" , Tàu Đỏ chắc chắn sẽ thua Việt Nam trong 2
điều kiện sinh tử: 1. Diệt được lũ Việt gian trong lãnh đạo và trong
lòng ĐCSVN. 2. Trung hòa đạo quân thứ năm của Bắc Kinh đang lúc nhúc
trên đất nước, đó là tập thể trên 300,000 Hoa kiều mới nhập lậu vào VN
từ đầu thập niên 2000, hầu hết là Hán dân đến từ các tỉnh nghèo như
Thiểm Tây, Hà Nam, Hồ Nam... Cần phân biệt lớp Hoa kiều mới này với đồng
bào Việt gốc Hoa trước năm 1975 ở cả 2 miền Nam Bắc, nay gọi đơn giản
là đồng bào Hoa, hầu hết đến VN từ thế kỷ 17 và trước nữa, gốc Phúc
Kiến, Quảng Đông, đảo Hải Nam và một số ở Chiết Giang và Quảng Tây, vốn
là huyết hệ Việt tộc trong dòng Bách Việt, ta phải bảo vệ, là đồng bào
ta.
TẬP ĐOÀN VIỆT GIAN TRONG ĐẢNG CSVN
Bộ
"sậu" của Bắc Kinh đang là một quyền lực sinh sát trong lãnh đạo ĐCSVN.
Do cao trào chống Đại Hán bá quyền trong quân đội và quần chúng VN,
chúng mai phục nằm im, chờ giờ hành động. Trùm Nguyễn Phú Trọng chắc
không đến nỗi nào so với Lê Khả Phiêu - Trần Đức Lương và Tô Huy Rứa,
sản phẩm của Bắc Kinh, vẫn chưa đủ lông cánh vượt qua mặt Trương Tấn
Sang, dù tháng 7 này, Sang sẽ hết thực quyền điều hành đảng. Một Nguyễn
Chí Vịnh, như biết thân phận nằm êm ru, chưa qua mặt nổi Phùng Quang
Thanh. ĐH kỳ 11 vừa qua, tướng Thanh về nhì, 95% phiếu sau Trương Tấn
Sang. Trọng đứng thứ 6, do là người của Bắc Kinh nên được đẩy lên làm
TBT, nếu không có cục Tình báo Hoa Nam mua chuộc thúc đẩy, không đến
lượt Trọng làm TBT mà phải do họ Trương.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, Trọng là tay em của phe chống TQ, suốt nhiều năm phục vụ tại tòa soạn báo Nhân Dân, Trọng chống Đại Hán bá quyền rất mãnh liệt, Trọng nằm trong quĩ đạo Lê Duẫn - Lê Đức Thọ. Trọng du học và đậu Phó tiến sĩ ở Liên Xô. Theo tin Hà Nội, Trọng chỉ ngả vào vòng tay Bắc Kinh từ khi Trọng làm bí thư thành ủy Hà Nội, Trọng lạc vào phe làm ăn móc ngoặc với các đại gia Tầu Đỏ trong dịch vụ vĩ đại "mở rộng thủ đô", mua bán đất ở các huyện ngoại thành. Xét về ý thức hệ, suốt nhiều năm, từ thập niên 1960, Trọng thuộc phe giáo điều Mác Lê Liên Xô, cực lực chống lại chủ nghĩa xét lại của Mao Trạch Đông.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, Trọng là tay em của phe chống TQ, suốt nhiều năm phục vụ tại tòa soạn báo Nhân Dân, Trọng chống Đại Hán bá quyền rất mãnh liệt, Trọng nằm trong quĩ đạo Lê Duẫn - Lê Đức Thọ. Trọng du học và đậu Phó tiến sĩ ở Liên Xô. Theo tin Hà Nội, Trọng chỉ ngả vào vòng tay Bắc Kinh từ khi Trọng làm bí thư thành ủy Hà Nội, Trọng lạc vào phe làm ăn móc ngoặc với các đại gia Tầu Đỏ trong dịch vụ vĩ đại "mở rộng thủ đô", mua bán đất ở các huyện ngoại thành. Xét về ý thức hệ, suốt nhiều năm, từ thập niên 1960, Trọng thuộc phe giáo điều Mác Lê Liên Xô, cực lực chống lại chủ nghĩa xét lại của Mao Trạch Đông.
Do
quyền lợi sinh tử của địa phương, các ủy viên TƯĐ hầu hết thuộc phe âm
thầm chống Đại Hán, từ Nghệ Tĩnh đến Nam Ngãi, Bình Phú. Nhờ vậy, bọn
Việt gian tay sai Đại Hán càng ngày càng co cụm lại nhưng chúng dư thừa
phương tiện. Tiền đẻ ra quyền lực! Sự thức tỉnh, chống Đại Hán càng ngày
càng lan rộng trong nội đảng, nhất là hàng tướng lãnh và sĩ quan cao
cấp QĐND nay đã về hưu nhưng ảnh hưởng vẫn còn lớn trong tập thể cựu
chiến binh và cán bộ cơ sở. Tiêu biểu nhất như cựu Thiếu tướng Nguyễn
Trọng Vĩnh, cựu Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của VN tại Bắc Kinh
(1974-1989), Gs. Trần Phượng, cựu Phó Thủ tướng, sử gia Dương Trung Quốc
v.v... họ là những tiếng nói đầy trọng lực và rất thuyết phục, do họ là
người yêu nước và thanh liêm... Nhưng bộ sậu của TC và sâu bọ Việt gian
vẫn còn lúc nhúc trong nhiều ngành.
TRƯỚC THÁCH ĐỐ VÀ SỢ HÃI
Sợ
Trung Cộng thì dân ta không sợ. Nếu sợ, làm sao VNCS chiến thắng cuộc
chiến biên giới năm 1979, với trên 20,000 quân TC phơi xác và vài vạn tù
binh, thương binh! Đại tướng Tổng tư lệnh quân viễn chinh Dương Đắc Chí
trở thành Dương Thất Chí sau khi bị thiêu rụi trăm cỗ xe, pháo, nướng
trọn 2 vạn quân. Bây giờ anh tướng Tàu Đỏ rụng răng, tuần này qua tuần
khác viết lên website hô hào "đánh Ô Nam, lấy lại đất cũ của Trung
quốc"! Những ngàn năm, người Việt dù sợ và rất sợ Đại Hán xâm lăng nhưng
ở thế chân tường lại vùng lên không hề biết sợ. Sợ là sợ nội xâm, nội
thù. Qua các tấm gương dũng liệt của Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Đan Quế, Lê
Quốc Quân và hàng trăm trí thức đã can trường đứng lên, đồng bào trong
và ngoài nước chê trách phàn nàn: Hào kiệt VN còn ở đâu? Sao trí thức
trong nước vẫn im lìm! Xin khoan phê bình và lên án. Ở hải ngoại này nói
gì viết gì mà không được. Nỗi sợ bạo quyền vẫn còn bao trùm xã hội VN
hôm nay.
SỢ CHỬI! SỢ CÔNG AN BÔI NHỌ!
Hàng
ngàn trí thức và nhân vật thượng thặng của CSVN đã lên tiếng phản đối
vụ Bô xít Đắc Nông trong đó có cả bà già Nguyễn Thị Bình và Gs. Ngô Bảo
Châu, học giả Nguyễn Huệ Chi. Thế rồi im bặt, tiếng nói tắt ngay như
viên sỏi ném xuống lòng giếng sâu. Tại sao? Vẫn là sợ. Sợ tù đầy chưa
bằng sợ bị bôi nhọ trên báo của công an Cộng Đảng. Hãy xem: lúc còn sinh
thời, cố HT Thích Huyền Quang liên tục bị báo công an bôi nhọ, réo tên
tục của ngài, gọi bằng ông. Rồi HT Thích Quảng Độ, liên tục bị xuyên tạc
bôi nhọ. Gần đây, tháng 5, báo CA của Đảng lại lải nhải bôi nhọ Cù Huy
Hà Vũ, kéo theo Ngô Bảo Châu, gọi là "Gs. Châu hiểu lầm về Cù Huy Hà
Vũ". Tâm hồn trí thức, nhất là trong giáo giới đại học vốn rất nhạy cảm,
rất sợ bị bôi nhọ, xuyên tạc bôi tác trên mặt báo. Tại sao lại sợ và
rất sợ như thế?
Đây là tâm lý chung, nó chửi mình mình ráng chịu nhưng còn vợ con, anh em, bà con bên nội bên ngoại và học trò. Bằng hữu và chiến hữu không sao. Đảng CSVN có ba đội "hùng binh" bảo vệ Đảng: một là QĐND, sau là công an rồi đến đội quân báo Đảng trong đó chửi, xuyên tạc và bôi đen đối thủ của Đảng được trao cho báo Công An, nghĩa là công an làm 2 chức năng: bắt bớ tra tấn nhân dân, bôi đen và chửi các nhân vật CS cần triệt hạ. Thí dụ liên tục bôi đen bôi bẩn cựu Đại tá Bùi Tín, vu cáo Đại tá Tín theo VT. Hãy hiên ngang và dõng dạc như Đạ tá Tín, ông sẵn sàng đối phó với quân "khốn kiếp" ấy. Đại tá Tín đã lên tiếng như người cha dạy lũ con hoang của tổ quốc, ông Tín đã cho chúng một vài bài học đích đáng qua bài viết của ông. Bản thân người cầm bút Cao Thế Dung là khách hàng thường trực nhiều năm của báo Công An.
Thí dụ tuần báo "An Ninh Thế Giới" của Công An số ra ngày 16-2-2004, số 426, bài đầu, trang 3 "An ninh trong nước", viết rằng: "Các nhân vật trong "chính phủ" bịp đã kể rõ: Cao Thế Dung "tham mưu đường lối" hiện là bồi bút. Ở khu Bolsa, quận Cam, California, nơi có đông người Việt sinh sống và cũng là nơi đẻ ra nhiều tổ chức phản động nhất, hễ ai đưa cho Cao Thế Dung - dù chỉ vài chục "đô", thuê Dung viết bài "đánh" người này người nọ trên mấy tờ báo lá cải là Dung "đánh" liền mà chẳng cần biết sai hay đúng. Trình độ học vấn mập mờ nhưng sang Mỹ, Dung khoe đã có bằng tiến sĩ do... Đại học Harvard cấp". Họ Cao vui vẻ, lịch sự viết thư về Hà Nội trả lời: Chửi nữa đi các em, để anh gửi cho chút ít đô la xài chơi!
Trí thức trong nước hãy noi gương Hòa thượng Thích Quảng Độ, ngài đâu có thèm quan tâm! Chấp! Như đánh cờ chấp chúng cả xe pháo mã. Đừng sợ! ĐGH Gioan Phao lô II, vị tân Á Thánh từng lên tiếng khuyên dân Ba Lan của ngài dưới thời bạo quyền CS: Đừng sợ! Hãy đừng sợ như Điếu Cầy, như Lê Thị Công Nhân, như Cù Huy Hà Vũ, như Nguyễn Đan Quế... Chấp chúng! Nhưng không bất chấp, ta đã và đang thắng bọn bạo quyền Việt gian, ngay cả ở hải ngoại.
Đây là tâm lý chung, nó chửi mình mình ráng chịu nhưng còn vợ con, anh em, bà con bên nội bên ngoại và học trò. Bằng hữu và chiến hữu không sao. Đảng CSVN có ba đội "hùng binh" bảo vệ Đảng: một là QĐND, sau là công an rồi đến đội quân báo Đảng trong đó chửi, xuyên tạc và bôi đen đối thủ của Đảng được trao cho báo Công An, nghĩa là công an làm 2 chức năng: bắt bớ tra tấn nhân dân, bôi đen và chửi các nhân vật CS cần triệt hạ. Thí dụ liên tục bôi đen bôi bẩn cựu Đại tá Bùi Tín, vu cáo Đại tá Tín theo VT. Hãy hiên ngang và dõng dạc như Đạ tá Tín, ông sẵn sàng đối phó với quân "khốn kiếp" ấy. Đại tá Tín đã lên tiếng như người cha dạy lũ con hoang của tổ quốc, ông Tín đã cho chúng một vài bài học đích đáng qua bài viết của ông. Bản thân người cầm bút Cao Thế Dung là khách hàng thường trực nhiều năm của báo Công An.
Thí dụ tuần báo "An Ninh Thế Giới" của Công An số ra ngày 16-2-2004, số 426, bài đầu, trang 3 "An ninh trong nước", viết rằng: "Các nhân vật trong "chính phủ" bịp đã kể rõ: Cao Thế Dung "tham mưu đường lối" hiện là bồi bút. Ở khu Bolsa, quận Cam, California, nơi có đông người Việt sinh sống và cũng là nơi đẻ ra nhiều tổ chức phản động nhất, hễ ai đưa cho Cao Thế Dung - dù chỉ vài chục "đô", thuê Dung viết bài "đánh" người này người nọ trên mấy tờ báo lá cải là Dung "đánh" liền mà chẳng cần biết sai hay đúng. Trình độ học vấn mập mờ nhưng sang Mỹ, Dung khoe đã có bằng tiến sĩ do... Đại học Harvard cấp". Họ Cao vui vẻ, lịch sự viết thư về Hà Nội trả lời: Chửi nữa đi các em, để anh gửi cho chút ít đô la xài chơi!
Trí thức trong nước hãy noi gương Hòa thượng Thích Quảng Độ, ngài đâu có thèm quan tâm! Chấp! Như đánh cờ chấp chúng cả xe pháo mã. Đừng sợ! ĐGH Gioan Phao lô II, vị tân Á Thánh từng lên tiếng khuyên dân Ba Lan của ngài dưới thời bạo quyền CS: Đừng sợ! Hãy đừng sợ như Điếu Cầy, như Lê Thị Công Nhân, như Cù Huy Hà Vũ, như Nguyễn Đan Quế... Chấp chúng! Nhưng không bất chấp, ta đã và đang thắng bọn bạo quyền Việt gian, ngay cả ở hải ngoại.
Bất
chấp luật pháp quốc tế, trước sau TC cũng sẽ chiếm hết Trường Sa, áp
đảo VN, thực hiện "nghị quyết" 2 nước, 2 đảng là một, bỏ ngỏ biên giới
Việt - Trung. Vấn đề sinh tử của dân tộc VN bây giờ là phải diệt lũ Việt
gian, tay sai Đại Hán ở trong lòng lãnh đạo TƯĐ - CSVN. Phải theo gương
xưa, ngoại thù có thể khoan hồng, Việt gian phản quốc phải diệt ngay.
Nhưng với tập đoàn lãnh đạo CSVN ta phải tính sao đây? Vận nước đang như
treo trên sợi chỉ mành. Với lãnh đạo CS thì Đảng trên nước, cá nhân
lãnh tụ trên Đảng. Bế tắc! Tạm thời vào lúc này vẫn không thể khoanh
tay. Chờ quốc tế can thiệp ư? Chưa thể được!
Ngay Hoa Kỳ cũng đã bày tỏ lập trường không can thiệp vào cuộc tranh chấp các phía ở Biển Đông. Nam Dương hiện là chủ tịch ASEAN, Nam Dương vẫn lập lờ. Bắc Kinh đang chia để trị. TC đầu tư dẫn dầu ở Nam Dương. Bắc Kinh đang thuyết phục hải quân Nam Dương và TC sẽ "liên kiểm", 2 bên tuần tiểu chung ở Biển Đông trong khi Nam Dương không liên hệ đến cuộc tranh chấp ở Biển Đông. Còn lại Mã Lai, Brunei, Phi Luật Tân và Tân Gia Ba, cả 3 nước vẫn không tin VN, nghi ngại VN vẫn là chư hầu Đỏ của Bắc Kinh. Vả lại, TC sẽ phá và đả phá mọi toan tính liên minh của ba nước ASEAN. Vậy ta phải làm thế nào?
Bài toán rất nan giải! Trước hết, cứu nước như chữa lửa, hải ngoại cần vận động một cao trào không sợ, thúc đẩy đồng bào trong nước không sợ, nhất là không sợ báo đảng Công An bôi nhọ. Và từ đó, vận động cao trào không sợ Đại Hán xâm lược. Bằng tài liệu qua video hay tivi (như Global Tivi) chứng minh để đồng bào các giới trong nước biết rõ 2 điều: 1. Nếu kiện Bắc Kinh ra tòa án quốc tế về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa thuộc VN, TC đã xâm lăng cướp đoạt, ngay cả thềm lục địa VN, chắc chắn VN sẽ thắng. Pháp quốc là một nhân chứng. 2.
Làm một phim tài liệu lịch sử qua video: qua 8 lần Đại Hán xâm lăng VN kể từ đời Ngô Vương Quyền, Lê Đại Hành đến Quang Trung, Đại Hán đã bị đánh bại. VN không thua một trận nào. Trước hết, trong sự bế tắc hiện nay hãy tạo một niềm tin tất thắng đã! Điều căn bản khác là tiếp tục tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền, vẫn là một vũ khí nhiệm mầu để lật đổ bạo quyền cho đến chừng nào lũ Việt gian, bộ sậu của TC bị đánh bật khỏi tập thể lãnh đạo VN, chừng nào những Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Trọng Vĩnh, Trần Phương từ lòng đảng CSVN hàng loạt thức tỉnh đứng lên: không sợ bạo quyền, không sợ Đại Hàn Đỏ, bấy giờ khả dĩ VN sẽ tìm được thế quốc tế. Chắc chắn, quốc tế không bỏ Biển Đông, không bỏ rơi ASEAN, không bỏ VN nếu một VN có tự do dân chủ không còn bọn đầy tớ tai sai Bắc Kinh.
Ngay Hoa Kỳ cũng đã bày tỏ lập trường không can thiệp vào cuộc tranh chấp các phía ở Biển Đông. Nam Dương hiện là chủ tịch ASEAN, Nam Dương vẫn lập lờ. Bắc Kinh đang chia để trị. TC đầu tư dẫn dầu ở Nam Dương. Bắc Kinh đang thuyết phục hải quân Nam Dương và TC sẽ "liên kiểm", 2 bên tuần tiểu chung ở Biển Đông trong khi Nam Dương không liên hệ đến cuộc tranh chấp ở Biển Đông. Còn lại Mã Lai, Brunei, Phi Luật Tân và Tân Gia Ba, cả 3 nước vẫn không tin VN, nghi ngại VN vẫn là chư hầu Đỏ của Bắc Kinh. Vả lại, TC sẽ phá và đả phá mọi toan tính liên minh của ba nước ASEAN. Vậy ta phải làm thế nào?
Bài toán rất nan giải! Trước hết, cứu nước như chữa lửa, hải ngoại cần vận động một cao trào không sợ, thúc đẩy đồng bào trong nước không sợ, nhất là không sợ báo đảng Công An bôi nhọ. Và từ đó, vận động cao trào không sợ Đại Hán xâm lược. Bằng tài liệu qua video hay tivi (như Global Tivi) chứng minh để đồng bào các giới trong nước biết rõ 2 điều: 1. Nếu kiện Bắc Kinh ra tòa án quốc tế về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa thuộc VN, TC đã xâm lăng cướp đoạt, ngay cả thềm lục địa VN, chắc chắn VN sẽ thắng. Pháp quốc là một nhân chứng. 2.
Làm một phim tài liệu lịch sử qua video: qua 8 lần Đại Hán xâm lăng VN kể từ đời Ngô Vương Quyền, Lê Đại Hành đến Quang Trung, Đại Hán đã bị đánh bại. VN không thua một trận nào. Trước hết, trong sự bế tắc hiện nay hãy tạo một niềm tin tất thắng đã! Điều căn bản khác là tiếp tục tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền, vẫn là một vũ khí nhiệm mầu để lật đổ bạo quyền cho đến chừng nào lũ Việt gian, bộ sậu của TC bị đánh bật khỏi tập thể lãnh đạo VN, chừng nào những Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Trọng Vĩnh, Trần Phương từ lòng đảng CSVN hàng loạt thức tỉnh đứng lên: không sợ bạo quyền, không sợ Đại Hàn Đỏ, bấy giờ khả dĩ VN sẽ tìm được thế quốc tế. Chắc chắn, quốc tế không bỏ Biển Đông, không bỏ rơi ASEAN, không bỏ VN nếu một VN có tự do dân chủ không còn bọn đầy tớ tai sai Bắc Kinh.
BẮC KINH PHƠI BÀY CHÂN TƯỚNG DÃ THÚ
Như
quí đồng hương đã rõ qua đài và báo, ngày 26-5 vừa qua, ba tàu hải giám
của TC tiến sâu vào hải phận VN, cách Nha Trang hơn 100 hải lý, áp vào
tàu Bình Minh 2 của công ty Petro VN, quấy phá, đe dọa và cắt dây cáp
thăm dò địa chất. Hà Nội lên tiếng phản đối. Phát ngôn viên bộ ngoại
giao TC phản bác lại, ngang ngược nói rằng VN hoạt động phi pháp trong
vùng biển của TQ. Và tự hậu VN không được quyền hoạt động phi pháp như
vậy!
Đây là hành động xâm lăng trắng trợn của TC, chứ không phải 2 bên tranh chấp! Đây là thềm lục địa VN cách Mũi Né và Nha Trang hơn 100 hải lý thì tranh chấp cái gì? Hành động của TC bất chấp luật biển 1982 và công pháp quốc tế. Thực ra thì họ đã bất chấp khi đơn phương in bản đồ mới TQ và Biển Đông, tự khoanh vạch làn ranh chiếm trên 80% Biển Đông! Cả thế giới từ lâu đã biết rõ tham vọng bá quyền của TQ. Nay hơn một lần nữa, TC lại bất chấp quốc tế và ASEAN. Hành động ngang ngược này, TC làm cho cả ĐNA và Á châu hoảng sợ. Tự TC đã tự tố cáo mình là bành trướng bá quyền.
Đây là hành động xâm lăng trắng trợn của TC, chứ không phải 2 bên tranh chấp! Đây là thềm lục địa VN cách Mũi Né và Nha Trang hơn 100 hải lý thì tranh chấp cái gì? Hành động của TC bất chấp luật biển 1982 và công pháp quốc tế. Thực ra thì họ đã bất chấp khi đơn phương in bản đồ mới TQ và Biển Đông, tự khoanh vạch làn ranh chiếm trên 80% Biển Đông! Cả thế giới từ lâu đã biết rõ tham vọng bá quyền của TQ. Nay hơn một lần nữa, TC lại bất chấp quốc tế và ASEAN. Hành động ngang ngược này, TC làm cho cả ĐNA và Á châu hoảng sợ. Tự TC đã tự tố cáo mình là bành trướng bá quyền.
Bắc
Kinh có tính toán, tại sao lại hành động vào lúc này? Sau khi hòa hoãn
với Mỹ, bái phục Mỹ, nịnh hót Mỹ để Mỹ cho rảnh tay ngang dọc Biển Đông.
Lịch sử lại tái diễn, năm 1978, Đặng Tiểu Bình thăm Hoa Kỳ hòa hoãn và
kết thân, trở về nước họ Đặng "dạy cho VN một bài học", tung 11 quân
đoàn hay là 44 sư đoàn tấn công thượng du cũng là để giải cứu chế độ
khát máu Pol Pot đang bị VNCS vây khốn ở vùng Tây Nam Việt - Miên, phá
vỡ tham vọng của TC xây một tiền đồn chiến lược ở Cao Miên qua chế độ
diệt chủng Pol Pot. Như ta đã biết Bắc Kinh thua to ở cả Cao Miên (1978)
và Thượng du Bắc Việt (tháng 2-1979).
Nếu không kịp thời tháo chạy, ít nhất 3 quân đoàn TC đã không thoát được vòng vây tử thần ở Thái Nguyên, Bắc Cạn, Cao Bằng và Lạng Sơn (sau hơn 3 tuần lễ bại liệt kể từ ngày 17-2-1979). Đánh Thượng du VN, chủ yếu là để cứu Miên. Mất Cao Miên Pol Pot, TC mất thế đứng ở ĐNA (tham khảo: Chang Pao-im "The Sino-Vietnamese conflict over Kampuchia, Suervey, no 27, Autumn & Winter 1983, pp. 171-206). Bài học cũ tái diễn chăng? Bộ trưởng QP Lương Quang Liệt qua Manila hòa hoãn với Phi, hứa hẹn đủ điều, ngầm chia rẽ, xé lẻ Việt - Phi. Tướng Trần Bỉnh Quốc qua Mỹ nịnh Mỹ, thổi Mỹ lên đến mây xanh, cả hai ông trở về Bắc Kinh cho đoàn tàu chiến hải giám tiến sâu vào thềm lục địa VN. Để làm gì? Mới chỉ là "dương oai diễu võ", màn đầu nhưng lại gây tai hại cho TC không phải là nhỏ ở TBD, ĐNA và cả Á châu. TC quá kiêu căng, đi thêm bước nữa sẽ đổ bể to!
Nếu không kịp thời tháo chạy, ít nhất 3 quân đoàn TC đã không thoát được vòng vây tử thần ở Thái Nguyên, Bắc Cạn, Cao Bằng và Lạng Sơn (sau hơn 3 tuần lễ bại liệt kể từ ngày 17-2-1979). Đánh Thượng du VN, chủ yếu là để cứu Miên. Mất Cao Miên Pol Pot, TC mất thế đứng ở ĐNA (tham khảo: Chang Pao-im "The Sino-Vietnamese conflict over Kampuchia, Suervey, no 27, Autumn & Winter 1983, pp. 171-206). Bài học cũ tái diễn chăng? Bộ trưởng QP Lương Quang Liệt qua Manila hòa hoãn với Phi, hứa hẹn đủ điều, ngầm chia rẽ, xé lẻ Việt - Phi. Tướng Trần Bỉnh Quốc qua Mỹ nịnh Mỹ, thổi Mỹ lên đến mây xanh, cả hai ông trở về Bắc Kinh cho đoàn tàu chiến hải giám tiến sâu vào thềm lục địa VN. Để làm gì? Mới chỉ là "dương oai diễu võ", màn đầu nhưng lại gây tai hại cho TC không phải là nhỏ ở TBD, ĐNA và cả Á châu. TC quá kiêu căng, đi thêm bước nữa sẽ đổ bể to!
LÃNH ĐẠO ĐCSVN BẼ BÀNG - LÚNG TÚNG
Vụ
tàu Bình Minh 2 và Bắc Kinh tiếp tục ngang ngược xâm lấn hải phận VN đã
làm cho phe thân Bắc Kinh trong lãnh đạo CSVN lúng túng to! Thật sự bẽ
bàng, "16 chữ vàng, 4 tốt" trong quan hệ Việt - Trung để đâu? Phe thân
Mỹ và Tây phương có lý do vùng lên: Nhìn coi! Đồng chí TQ như thế đấy!
Trong họa vốn có phúc, cả nước VN nhốn nháo "mất nước đến nơi rồi!". Đây
là cơ hội ngàn vàng "Dân tộc thức tỉnh". Uncle Sam vỗ đùi hỉ hả: "Muốn
cứu nguy không? Dân chủ tự do đi, sẽ OK cái rụp!". Có thể nói qua vụ
Bình Minh 2, trước sự hung hãn ngang ngược công khai của TC, cả nước VN
đều hướng về chân trời Tây, SOS!
MỤC TIÊU CHÍNH CỦA BẮC KINH
Hầu
hết cho rằng TC công khai xâm lăng Biển Đông do tham vọng tài nguyên
dầu khí, mà một website của Bắc Kinh ví Biển Đông là một vịnh Ba Tư, Ả
Rập Trung Đông! Phóng đại! Khí đốt tuy nhiều, tập trung ở thềm lục địa
từ Đà Nẵng đến Phú Yên, Nha Trang, nhưng thuộc loại chất lượng kém. Vùng
dầu lửa quanh giếng Bạch Hổ không nhiều. Các bản nghiên cứu phúc trình
của Đại học Harvard đã cho ta biết rõ về số lượng phỏng định làm sao mà
so được với dầu khí ở vịnh Ba Tư (tham khảo "Theo hướng Rồng Bay" - Viện
phát triển quốc tế, ĐH Harard 1994 - Bản dịch của Ts. Cao Đức Phát,
hiện là bộ trưởng bộ nông nghiệp).
Dầu khí và hơi đốt VN tập trung ở vùng đảo Côn Sơn, nhất là từ Nam Côn Sơn đến biển Rạch Giá với khối lượng vĩ đại, vượt Brunei, đứng đầu ĐNA - TBD. Rất may do các hãng dầu Mỹ đã khám phá, có giếng với trữ lượng trên 90 tỷ thùng! Đại Hán Bắc Kinh nhắm tới vùng này. Sau là tài nguyên tôm cá và than đá. Bản nghiên cứu của ĐH Harvard cho biết: "Tại VN có những vỉa than đơn lẻ có độ dầy cực lớn tới 90 m, và hiện nay, VN là nước có trữ lượng than antracit lớn nhất thế giới, nằm ngay sát bờ biển" (tlđd, chương X, tr. 25). Tóm lại mục tiêu chính của Đại Hán Đỏ là nguồn hải sản trong hải phận VN, dầu khí hơi đốt ở vùng biển Côn Sơn và Rạch Giá trong vịnh Thái Lan thuộc VN. Chiến lược của Bắc Kinh là làm chủ Biển Đông, khống chế VN, buộc VN phải qui phục để khai thác tài nguyên như vô tận ở Trường Sơn và Tây Nguyên VN.
Dầu khí và hơi đốt VN tập trung ở vùng đảo Côn Sơn, nhất là từ Nam Côn Sơn đến biển Rạch Giá với khối lượng vĩ đại, vượt Brunei, đứng đầu ĐNA - TBD. Rất may do các hãng dầu Mỹ đã khám phá, có giếng với trữ lượng trên 90 tỷ thùng! Đại Hán Bắc Kinh nhắm tới vùng này. Sau là tài nguyên tôm cá và than đá. Bản nghiên cứu của ĐH Harvard cho biết: "Tại VN có những vỉa than đơn lẻ có độ dầy cực lớn tới 90 m, và hiện nay, VN là nước có trữ lượng than antracit lớn nhất thế giới, nằm ngay sát bờ biển" (tlđd, chương X, tr. 25). Tóm lại mục tiêu chính của Đại Hán Đỏ là nguồn hải sản trong hải phận VN, dầu khí hơi đốt ở vùng biển Côn Sơn và Rạch Giá trong vịnh Thái Lan thuộc VN. Chiến lược của Bắc Kinh là làm chủ Biển Đông, khống chế VN, buộc VN phải qui phục để khai thác tài nguyên như vô tận ở Trường Sơn và Tây Nguyên VN.
Thế
nước đang chơi vơi, bên lề sụp đổ. Tiên quyết là phải có tự do dân chủ,
nhân quyền và phải có thế tựa Âu Mỹ mới chống trả được đại họa Đại Hán
Đỏ.
Hà Nhân Văn
HOÀNG YÊN LƯU * TÚ MỠ
Tú Mỡ, xuôi dòng thời cuộc!
- Details
- Created on Wednesday, 27 March 2013 20:17
- Category: Văn nghệ
Hoàng yên Lưu
Trước 1945, Tú Mỡ nổi tiếng với Giòng nước ngược, dùng ngòi bút để vẽ ra
bức tranh xã hội nửa phong kiến, nửa thực dân, đầy hủ tục; phê phán
những điều trái tai gai mắt, với cuộc sống ngổn ngang thói hư tật xấu
trong buổi giao thời Đông Tây; và đấu tranh cho mục đích cải thiện xã
hội cấp thiết của Tự lực văn đoàn. Nhờ thế ông được độc giả cho tới ngày
nay còn yêu quý thái độ quả cảm và những vần thơ sắc bén, thấm tình yêu
điều thiện, nồng nàn chính nghĩa của ông.
Nhưng sau 1945, với nhiều tác phẩm chạy theo thời cuộc từ bút danh “Bút chiến đầu” của Hồ Trọng Hiếu, thơ trào phúng của Tú Mỡ đã lột xác, trở thành những bài vè và chỉ là những đoạn thời sự được viết bằng văn vần. Cũng vì thế một người đồng thời với ông, nhà thơ Xuân Sách (1932-2008) trong tập Chân dung nhà văn, đã viết vài câu châm biếm ông bằng giọng nhẹ nhàng nhưng thấm thía:
Một nắm xương khô cũng gọi Mỡ
Quanh năm múa bút để mua vui
Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược
Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi!
Nhưng sau 1945, với nhiều tác phẩm chạy theo thời cuộc từ bút danh “Bút chiến đầu” của Hồ Trọng Hiếu, thơ trào phúng của Tú Mỡ đã lột xác, trở thành những bài vè và chỉ là những đoạn thời sự được viết bằng văn vần. Cũng vì thế một người đồng thời với ông, nhà thơ Xuân Sách (1932-2008) trong tập Chân dung nhà văn, đã viết vài câu châm biếm ông bằng giọng nhẹ nhàng nhưng thấm thía:
Một nắm xương khô cũng gọi Mỡ
Quanh năm múa bút để mua vui
Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược
Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi!
Do đó, ngày nay chẳng mấy ai nhớ tác giả Giòng nước ngược cũng là tác
giả Nụ cười kháng chiến (1952), Nụ cười chính nghĩa (1958) và Bút chiến
đấu (1960) nữa.
Cũng vì sau 1945, những bài vè cạn dòng cảm hứng của Tú Mỡ phần lớn chạy theo tin tức và giáo điều nên khi “xuất xưởng” mau chóng trở thành phản tác dụng, và không những không gây được tiếng cười, sự đồng tình của độc giả về đối tượng tác giả châm biếm hoặc lên án, mà “gậy ông đập lưng ông”: chính nhà thơ chịu búa rìu dư luận vì nụ cười giả dối, lời chỉ trích hàm hồ, sai lầm một cách nực cười!
Điển hình cho nụ cười đầy những lời đao to búa lớn, đổi trắng thay đen của Bút chiến đấu là một bài trường ca tố cáo “tội ác Mỹ Ngụy” nhân vụ “đầu độc ở Phú Lợi”.
Sau 1975, ở Sài Gòn, bộ máy tuyên truyền nhắc đi nhắc lại “thảm kịch Phú Lợi” bằng những lời thống thiết, gay gắt nhất. Truyền thông ngày ấy đã lên án thủ đoạn bạo tàn của “chế độ thực dân mới” vào một năm giữa thập niên 1950 ở nhà tù Phú Lợi (ở Bình Dương), nơi giam giữ tù nhân chính trị.
Cũng vì sau 1945, những bài vè cạn dòng cảm hứng của Tú Mỡ phần lớn chạy theo tin tức và giáo điều nên khi “xuất xưởng” mau chóng trở thành phản tác dụng, và không những không gây được tiếng cười, sự đồng tình của độc giả về đối tượng tác giả châm biếm hoặc lên án, mà “gậy ông đập lưng ông”: chính nhà thơ chịu búa rìu dư luận vì nụ cười giả dối, lời chỉ trích hàm hồ, sai lầm một cách nực cười!
Điển hình cho nụ cười đầy những lời đao to búa lớn, đổi trắng thay đen của Bút chiến đấu là một bài trường ca tố cáo “tội ác Mỹ Ngụy” nhân vụ “đầu độc ở Phú Lợi”.
Sau 1975, ở Sài Gòn, bộ máy tuyên truyền nhắc đi nhắc lại “thảm kịch Phú Lợi” bằng những lời thống thiết, gay gắt nhất. Truyền thông ngày ấy đã lên án thủ đoạn bạo tàn của “chế độ thực dân mới” vào một năm giữa thập niên 1950 ở nhà tù Phú Lợi (ở Bình Dương), nơi giam giữ tù nhân chính trị.
Câu chuyện kinh hoàng, kể rằng chính quyền đã sát hại hơn 1000 tù nhân ở Phú Lợi và gây tổn hại cho 4000 tù nhân khác bằng thủ đoạn đầu độc. Ai nghe cũng ghê tởm tội ác, nhất là đọc thơ Tú Mỡ, khi ông ở xa Phú Lợi hơn 1000 km, tận Hà Nội, chỉ đọc báo biết tin này đã dùng cả một tập thơ dài để vẽ “thảm kịch Phú Lợi” bằng những lời đầy máu lửa và hận thù:
Biến đau thương thành sức mạnh
Chuyển căm thù quyết định thi đua
Triệu người cùng một động cơ
Trả thù Phú lợi phất cờ Cần lao...
Bọn tớ thầy giết người Phú lợi
Phải có ngày đền tội nhân dân
Máu đền nợ máu cho cân
Sát nhân giả tử là tuân luật hình
Điều quả báo ứng linh chứng thực
Kẻ nào dùng thuốc độc, súng gươm
Giết người trung thực hiền lương
Tránh sao thuốc độc súng gươm giết mình!
Lời Tú Mỡ khi ấy chẳng khác gì giọng điệu đấu tố lúc ấy đang lan tràn ở thôn quê đồng bằng sông Hồng và sông Thái Bình.
Nhưng sự thực có vụ đầu độc ở Phú Lợi hay không?
Một nhà nghiên cứu hiện đại là Vu Gia trong tác phẩm Tú Mỡ, người gieo tiếng cười, do nhà xuất bản Thanh niên, TP. HCHM, ấn hành năm 2008, cho biết “thảm kịch” tù chính trị bị đầu độc ở Phú Lợi vào năm 1956 hoàn toàn là hư cấu của bộ máy tuyên truyền mà thôi.
Ông Vu Gia cho biết, vào năm 1987, ông được giám đốc Nhà xuất bản Sông Bé giao cho ông và một cây bút khác (Hàng Chức Nguyên) viết một cuốn sách về vụ đầu độc ở Phú Lợi. Hai cây viết trẻ khi ấy đã mời những cựu tù nhân Phú Lợi tới họp tại ngay nhà tù Phú Lợi (ở cách thị xã Thủ Dầu một chừng 3 cây số ngày nay đã biến thành một công viên) để tìm nhân chứng trong “vụ đầu độc’ và dự định lập bia cho những liệt sĩ đã chết vì “bị đầu độc”. Nào ngờ các cựu tù được mời tới, sau 1975 đều là nhân vật cao cấp, vai vế trong chế độ mới, đã khẳng định không hề có vụ đầu độc nào cả, và chẳng có ai chết để lập bia, mà chuyện đầu độc chỉ là sản phẩm của chiến tranh tâm lý. Một nhân chứng kể lại: “Nhân có lễ lạt chi đó, tù nhân chúng tôi được ăn no một bữa thịt heo. Tối về có người bị bội thực, ói mửa. Anh em ra hái rau muống giã nước cho bạn uống”. Từ đó có người tung tin ra ngoài là bị đầu độc. Tin này được thổi phồng và xảy ra, một vài cuộc biểu tình tố cáo tội ác của Đế quốc ở Phú Lợi. Nhưng rồi nội vụ vì “bé xé ra to” và “hư cấu” nên mau chóng rơi vào quên lãng trừ guồng máy tuyên truyền lâu lâu lâu lại nhắc lại.
Tuy có lúc Tú Mỡ phải xuôi dòng, thì ta cũng nên thông cảm với ông. Vào thập niên 1950, ông đã già trước tuổi (sinh 1900), thân cô thế cô, con cái đông, bạn bè thân thiết trong Tự lực văn đoàn có người bị giết (Khái Hưng), có kẻ lưu vong (Nhất Linh và Hoàng Đạo), sau 1954 con cái có người di cư vào Nam (như phu nhân của nhà văn tự do Doãn Quốc Sĩ là bà Hồ thị Thảo, con gái của Tú Mỡ) trong khi áp lực xã hội quá mạnh và quá khắc nghiệt (điển hình là vụ đàn áp Nhân văn-Giai phẩm), nên ông không thể không thuận dòng để sinh tồn.
Điều không nên quên là trong cảnh “may thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi”, viết theo chỉ thị, Tú Mỡ không thể làm khác nhưng vẫn giữ thủy chung với Tự lực văn đoàn, một văn đoàn bị phê phán kịch liệt sau 1945 dựa vào giáo điều do ông Trường Chinh đưa ra:
“Sau cơn khủng bố trắng 30-31, một sự buồn rầu, u uất tràn ngập tâm hồn nhân dân Việt Nam. Văn chương lãng mạn Tự lực văn đoàn ra đời. Giai cấp tư sản dân tộc không dám đấu tranh bằng chính trị và quân sự chống đế quốc nữa, bèn chuyển sang đấu tranh bằng văn hóa chống phong kiến quan liêu (các báo Phong hóa, Ngày nay và sách Tự lực văn đoàn) chủ nghĩa lãng mạn trong văn học nghệ thuật đi đôi với phong trào vui vẻ trẻ trung có tính chất trụy lạc của thanh niên trí thức thành thị.” (Cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân Việt Nam)
Trước giáo điều sắt thép như trên, giới cầm bút ở miền Bắc khi ấy đều lên án Tự lực văn đoàn, nhất là mạt sát Nhất Linh thậm tệ. Riêng Tú Mỡ vẫn giữ vững sự chung thủy với người bạn kính mến Nguyễn Tường Tam.
Người ta kể lại vào 1950 trong một cuộc họp giữa các nhà văn ngoài kháng chiến để phê bình sinh hoạt văn học 32-45, cụ thể là Tự lực văn đoàn, do Tô Hoài làm tổ trưởng, Tú Mỡ là người duy nhất dám đứng lên để bênh vực Nhất Linh khiến cho Tô Hoài đứng tim.
Vào tuổi 70, Tú Mỡ nhìn lại quãng đời hoạt động văn hóa của mình, vẫn khẳng định mục tiêu của Tự lực văn đoàn là đúng: “Kể về công, anh em đã thực hiện được mục đích của đoàn, điều chính là làm giàu thêm văn sản trong nước, đã có một đóng góp đáng kể vào văn học Việt Nam, tạo cho đoàn một tiếng tăm vang dội một thời, một thành tích mà các văn đoàn ra đời sau không đạt được, một chân giá trị riêng trong một giai đoạn nhất định mà giới văn học ngày nay phải công nhận”.
Chương trình xây dựng nhà ánh sáng của Tự lực văn đoàn bị nhóm phê bình giáo điều chỉ trích là cải lương, là thỏa hiệp với thực dân, nhưng Tú Mỡ từng hô hào xây dựng nhà ánh sáng trên tờ Phong hóa:
Các ngài hãy để tiền trăm bạc ngàn
Giúp đoàn ánh sáng món tiền
Dựng nhà cao ráo khắp miền thôn quê
Cho dân nghèo sống thỏa thuê
Ấy là quả phúc nên vê cho tròn
(Quả phúc)
Sau 1945, Tú Mỡ vẫn tự hào về chương trình này và coi nó là ý hướng tiến bộ của nhóm ông.
Trong Hồi ký trontg bếp núc của Tự lực văn đoàn Tú Mỡ tỏ lòng thương tiếc văn đoàn và anh em trong văn đoàn, ông viết bằng cả tấm lòng của kẻ “trải qua một cuộc bể dâu”:
“Cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta bùng nổ. Cái thất tinh hội “Tự lực văn đoàn” tan tác trong cơn phong ba như những sao đổi ngôi...
Chỉ còn ba chúng tôi người cũ trong Tự lực văn đoàn là may mắn, tan rồi lại hợp (chỉ Tú Mỡ, Thế Lữ và Xuân Diệu), còn các anh khác biệt vô âm tín.
Tôi không biết anh Khái Hưng có ra được vùng tự do mà tìm được con đường sống như anh đã nói với tôi hay không? Bẵng đi mấy năm mới được tin anh chết nhưng không rõ anh chết ở đâu, vì sao mà chết?
Sau đó lại được tin anh Hoàng Đạo đã rơi rụng trên đất Quảng Châu (Trung Quốc) sau một thời gian phiêu bạt, ốm yếu nơi đất khách quê người.
Anh Trần Tiêu cũng mất tại quê hương.
Thế là Thất tinh hội đã rơi rụng mất ba.”
Đối với Nhất Linh, Tú Mỡ tỏ lòng cảm thương cái chết của người tri âm này và cho tới những năm cuối đời và trong một bài thơ cuối cùng ông vẫn nhắc tới nỗi lòng thương bạn và kỷ niệm khó quên khi theo Nhất Linh làm báo Phong Hóa tại một căn nhà nhỏ ở ấp Thái Hà vào năm 1932:
Duyên văn nghệ là duyên tri ngộ
Từng vui buồn sướng khổ có nhau
Khi cà phê, khi phở tái, khi thuốc sái, khi trà tàu
Khi sắm vai trên sân khấu, khi làm báo suốt đêm thâu...
Không nên quên Hồi ký trong bếp núc của Tự lực văn đoàn hoàn thành 12-08-1969 nhưng 20 năm sau nó mới được phép ra mắt bạn đọc trên hai kỳ Tạp chí Văn học 1987 khi Tú Mỡ đã chết được hai chục năm.
UT Ỏ *THƯỢNG KINH KÝ SỰ
ÚT Ỏ VỀ KINH
Thượng Kinh ký sự (Thái)
-----------
Chuyển ngữ : Nguyễn Khôi
Lời
dẫn : Đây là một "thiên ký sự" của Út Ỏ -phìa Chiềng Ban, Chúa đất
Mường Mụa xưa (nay là huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La), sau đời Vua Lê Tương
Dực (1509-1516) về Kinh đô Thăng Long dâng Voi nạp cống cho vua Lê-chúa
Trịnh (khoảng sau 1573 trở đi), bài viết theo thể thơ kể truyện của Dân
tộc Thái bản địa Sơn La
(thể "Khắp"), tác phẩm có trước cả "Thượng Kinh ký sự" của Hải Thượng
lãn ông Lê Hữu Trác. Dưới con mắt khách quan của Út Ỏ, một vị quan,một
trí thức, một nhà thơ dân tộc
Thái cho ta thấy được sự phồn vinh sầm uất thời thịnh trị của kinh
thành Thăng Long thời vua Lê- chúa Trịnh xưa (nay là Thủ đô Hà Nội).
Bè xuôi cập bến Tầm Châu
Đường Voi hết buổi, ghé lầu Quán cơm
Xứ Mường Kinh bán buôn đủ thứ
Rượu thịt xơi thừa mứa thiếu gì.
Người xuôi ăn uống xẻn dè
Một Quan tiền thỏa no nê ba lòng.
Rồi đi tới Hà Đông- Cao Xá
Đồn Tướng Quân trấn giữ nơi này
Mới hay thành quách cao dày
Cậu Cai, ông Đội ra oai chặn đường
Sai lính đòi bạc vàng, lụa mỏng
Bảo phải bằng lần cống trước đây
-Thưa rằng trời đất có hay
Xưa ông Phìa lớn chọn ngày tiến Voi
Còn nay Phìa
bé phận tôi
Cố dâng Voi quý còn đòi gì hơn ?
Cai, Đội vẫn ra tuồng xách nhiễu
Gà một con, gạo biếu một nồi
Sớm mai được phép qua rồi
Từ rừng vào phố chân Voi nhẹ nhàng...
Bè thả trôi theo làn nước chảy
Ngắm trời mây sảng khoái về Kinh
Đò thuyền xuôi ngược lênh đênh
Như vào xứ lạ : tới Dinh lúc nào
Sai nhân vội trình vào Quan lớn
-Voi quý này mãi tận Chiềng Ban
Đường xa lội suối băng ngàn
Mất nhiều tháng vượt khó khăn đem về
Sai nhân ra vẫy đi vào Phủ
Nhác trông lên thấy đủ lính hầu
Giáo gươm lóe sáng trên đầu
Ngỡ mình cỏ rác lạc vào Đế Kinh ?
Hèo roi tuốt trắng tinh tăm
tắp
Áo bào nhiều màu sắc cực sang
Quan Triều đội mũ cánh chuồn
Ngang lưng Ngài thắt đai vàng uy nghi.
Vào quỳ lễ lạy Ngài ba lạy
Lời kính dâng Voi quý , bạc vàng :
- Xin thương dân chúng ,bản mường
Một lòng trung nghĩa Phìa Ban coi vì
Xin chớ nghe những gì xúc xiểm
Bao đời Vua : quân đến khoét đào
Núi rừng sụp đổ thương đau
Bản quê xơ xác, cáo cầy đào hang.
Đã qua rồi triều vua Hồng Thuận (Lê Tương Dực)
Về Triều đình cầu khẩn minh oan
Kính mong Hoàng thượng xót thương
Đây là Voi quý về dâng Triều đình.
Quan Thiếu Bảo thực tình hả dạ
Khen Phìa Mai kính Chúa, yêu Vua
Sai Thư Lại thảo giấy
tờ
Dâng lời "khải Chúa" hẹn chờ sáng mai.
Canh năm, dậy tiếng gà gáy sáng
Tiếng chuông đồng ngân vọng Kinh Đô
Sai Nha đón lúc tinh mơ
Áo khăn tề chỉnh...cung Vua tiến vào
Quan Câu Kê dẫn đầu hộ tống
Thớt Voi theo thủng thẳng uy nghiêm
Cửa Nam đá xếp liền liền
Voi qua lọt thỏm ,phía bên rẽ vào
Trước phủ Chúa hàng rào quân lính
Võng lọng đầy lấp lánh kiệu hoa
Lầu cao cung điện sáng lòa
Trăm quan túc trực trước tòa chính Vương
Áo mũ sang tía hường đường bệ
Quân Ngự Lâm đẹp trẻ hào hùng
Giáo gươm lớp lớp như rừng
Bề tôi quỳ lạy lễ mừng "tiến Voi"
Chúa hớn hở đến nơi xem
ngắm
Thớt Voi to khỏe khoắn vững vàng
Phán : cho miễn thuế mỏ Vàng
Cẩm bào áo gấm Chúa ban cho Phìa.
Áo rực rỡ tỏa tia nắng sớm
Thôi hãy về Mường Bản chăn dân
Năm năm nộp thuế một lần
Lấy bằng bạc, vải...bớt phần lo âu
Những mừng rỡ : dập đầu ơn Chúa
Chúa mừng vui lần nữa gia ơn
Ban cho áo gấm hoa tròn
Ngỡ lên tiên... trở về Mường Bản ta.
Sai Nha lại đưa ra lối cũ
Thăm phố phường ngoài Phủ gần xa
Tìm mua giấy viết, quạt hoa
Nhớ người Mường Bản chờ quà Kinh Đô.
Qua Bông Nhuộm : gấm ,tơ, lụa trắng
Sang Cửa Đông đá dựng đâu xa
Đủ hàng bán lợn, bán gà
Cá
, cua ...đủ thứ toàn là thức ăn
Hàng Cau có hàng trăm loại quả
Muôn nghìn người các ngả chen nhau
Mải xem gấm vóc Hàng Đào
The hồng từng xúc chất cao tới trời
Toàn những thứ đẹp ơi là đẹp
Bát đĩa bày càng liếc càng ưa
Hàng Gương lấp lánh có thừa
Gương to bên phố tha hồ đứng soi
Hàng Mũ đủ áo tơi, khăn túi
Hiệu thợ may chen tới len vào
Người nào bộ nấy khít khao
Cắt may như ý thợ nào khéo hơn ?
Hàng Nông Cụ bán buôn cũng lắm
Tới Hàng Nồi thử ngắm chọn chơi
Nồi ninh, chảo rán tuyệt vời
Sang Hàng đạn ghém, chì chài, lưỡi câu
Hàng Thiếc lắm cơi trầu, bình rượu
Như hoa Ban chồng
chéo sáng choang
Giầu sang là cửa Hàng Vàng
Ăn ngon mặc đẹp khoe khoang hết mình
Hàng Chiêng đánh kêu inh vui thật
Tiếng vang như đổ thác xuống ghềnh
Tới Hàng Gươm giáo mà kinh
Đao to, kiếm nhỏ rợn mình ngó qua
Sang lầu to toàn là súng lớn
Khẩu " Thần Oai" vừa bốn người khiêng
Ngổn ngang nhà ngói nối liền
Bầy Voi ngà trắng thật hiền nhẩn nha.
Từ thuở lớn làm cha lũ nhỏ
Thấy bao nghề chắng có ở Mường ?
Dù hoa nét vẽ tinh tươm
Áo Vua rồng lượn thêu cườm trên khuy
Tranh Nàng Tiên tạc chi đến khéo
Cột người ôm họ đẽo thẳng băng
Cột người ôm họ đẽo thẳng băng
Đài cao dựng vút hết tầm
Đèn trên đỉnh tháp thắp bằng thứ
chi ?
*
Cuộc du ngoạn thêm đi thêm biết
Về Bản Mường kể hết...khó tin
Hàng Mây bện chão kéo thuyền
Cói đan bao thứ đẹp bền mời mua
Đi chừng đã mỏi nhừ chân cẳng
Về Quán Cơm nghỉ hẳn một đêm
Sớm vào chào biệt Quan trên
Gửi lới chúc Chúa bình yên đẹp lòng.
*
Lời Chúa dặn nhiều năm nhớ kỹ
Lời mẹ cha đủ nhẽ thân thương
Quan sai kẻ đỡ khách Mường
Tới thuyền thân tiễn lên đường rời Kinh.
Nguyên tác : Út Ỏ
Chuyển ngữ : Nguyễn
Khôi
GIANG LÊ * ĐOÀN VĂN VƠN
Công Lý
Về
vụ Đoàn Văn Vươn, giống như đa số “nhân loại tiến bộ”, tôi không đồng
tình với bản án. Tuy nhiên ở đây tôi muốn nói về hai vấn đề mà có thể
nhiều người chưa biết hoặc ngộ nhận.
Thứ nhất một số ý kiến cho rằng
ĐVV chống lại người thi hành công vụ là nghiễm nhiên có tội bất luận lý
do và động cơ. Cho dù phía chính quyền lúc đó làm sai nhưng không thể vì
thế mà công dân được quyền chống lại, càng không được nổ súng hay dùng
biện pháp bạo lực. Điển hình của quan điểm này là bài báo của Đức Hiển hay đoạn trả lời phỏng vấn của ông Nguyễn Đình Lộc.
Tôi không phải chuyên gia pháp luật nên không dám lạm bàn, nhưng tôi
chợt nhớ đến Tu chính án số 2 của hiến pháp Mỹ về quyền sở hữu vũ khí cá
nhân. Mặc dù tôi là người phản đối lại quyền này nhưng tôi biết một
trong những lý do Tu chính án số 2 ra đời vì những người soạn thảo nó
cho rằng người dân phải có quyền có vũ khí để có thể chống lại chính
quyền nếu chính quyền làm bậy.
Tìm hiểu kỹ hơn về Tu chính án số 2 trên Wikipedia
được biết quan điểm này có nguồn gốc từ Anh trong English Bill of
Rights 1689. Thời đó những người Anh theo đạo Tin lành đấu tranh chống
lại vua James II vì ông này làm trái với những quyết định của quốc hội.
Như vậy ít nhất theo quan điểm của hệ thống common law, chống lại chính
quyền không phải lúc nào cũng có tội. Tu chính án số 2 của Mỹ trên một
khía cạnh nhất định đã chấp nhận quyền được chống lại chính quyền (bằng
bạo lực) nếu người dân cho rằng chính quyền làm bậy. Do vậy quan điểm
cho rằng không nước nào trên thế giới cho phép công dân được chống lại
người thi hành công vụ không hẳn đúng. Hơn nữa những cuộc cách mạng để
lại dấu ấn trong lịch sử nhân loại (vd cách mạng Pháp 1789, cách mạng
Tân hợi 1911, cách mạng tháng Mười 1917 hay cách mạng tháng Tám 1945)
đều là những cuộc nổi dậy của người dân dùng vũ lực lật đổ chính quyền
hiện hữu. Không ai có thể nói những cuộc cách mạng đó “phạm pháp”.
Từ đây tôi muốn nêu lên vấn đề
thứ 2 quan trọng hơn. Người thi hành công vụ phải hiểu là government
officials với nghĩa government là nhánh hành pháp. Trong một xã hội tam
quyền phân lập, nhánh hành pháp chỉ được phép thực thi những gì được qui
định trong hiến pháp, được nhánh lập pháp thông qua hoặc được nhánh tư
pháp phán quyết. Nếu nhánh hành pháp làm trái với ý nguyện của nhánh lập
pháp, như trường hợp vua James II làm trái với ý nguyện của quốc hội
Anh, thì người dân có quyền chống lại.
Việc phân định đúng sai không
phải chức năng của nhánh hành pháp mà của nhánh tư pháp. Đây là lý do
tại sao việc khám xét tư gia hay bắt người (trừ những trường hợp đột
xuất) luật Mỹ bắt buộc cảnh sát phải có warrant của toà án trước. Lưu ý
warrant của toà án chứ không phải warrant của prosecutor (viện kiểm
sát). Vụ tấn công vào đầm tôm của nhà ĐVV không có warrant của toà mà
chỉ có quyết định của cơ quan hành pháp là biểu hiện không tôn trọng tư
pháp. Cũng vì không phân biệt hành pháp và tư pháp nên nhiều người trích
dẫn kết luận của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng chính quyền Tiên
lãng đã sai để lập luận ủng hộ ĐVV. Thực ra thủ tướng Dũng hay cả Bộ
Chính trị không có quyền phán xét đúng sai, đó là việc của toà án.
Một quan điểm nữa khá phổ biến
là nếu người dân không đồng tình với một chính sách hay quyết định của
chính quyền (hành pháp) thì không được chống (bằng bạo lực) mà phải đem
ra toà kiện. Bỏ qua vấn đề “con kiến kiện củ khoai” ở VN, quan điểm này
đặt quá cao vai trò của hành pháp so với người dân. Tại sao chính quyền
không khởi kiện người dân nếu họ không đồng ý thi hành một chính
sách/quyết định hành chính nào đó? Ở Mỹ/Úc nếu bạn bị cảnh sát gửi giấy
phạt vi phạm giao thông, bạn có quyền tuyên bố không đồng ý với giấy
phạt đó và cảnh sát phải có trách nhiệm đem vụ việc ra toà để toà phán
xét (tất nhiên bạn phải đến dự khi toà yêu cầu). Quan hệ giữa người dân
và chính quyền (hành pháp) như vậy công bằng hơn. Chính quyền không phải
luôn luôn đúng cho đến khi nào toà xử sai mà là người dân không sai cho
đến khi nào toà tuyên bố ngược lại.
THẾ LINH * TÒA ÁN CỘNG SẢN
Án oan: Một nét đặc thù của chế độ cộng sản!
Thất Lĩnh (Danlambao)
- Khi vụ án Đoàn Văn Vươn khép lại, một cơn bão dư luận trên nhiều
phương tiện truyền thông, mạng xã hội mạnh mẽ kết luận: bản án 5 năm tù
cho Đoàn Văn Vươn là quá nặng. Tuy nhiên, vấn đề mà mọi người đề cập đến
không chỉ dừng lại ở mức án mà cách tiến hành xử án đã bộc lộ rõ bản
chất của chế độ cộng sản, đó là bẻ cong lẽ phải - bất chấp công lý.
Nhiều người theo dõi sát sao phiên tòa đều khẳng định, hội đồng xét xử
chỉ tập trung vào hành động phản kháng của Đoàn Văn Vươn mà không đề cập
động cơ dẫn đến hành động ấy. Thực tế, gia đình Đoàn Văn Vươn đã nhiều
lần giải trình, thương lượng với chính quyền địa phương về quyền lợi và
nghĩa vụ mà họ đã cam kết với chính quyền trước đây. Tất cả những lời
giải thích đều bị phớt lờ vì nhà nước cần diện tích đất mà gia đình ông
Vươn sở hữu để phục vụ cho mục đích khác. Sự nghiệp mà cả gia đình đã
đầu tư gần 20 năm bỗng chốc bị tước đoạt, cùng đường, gia đình Đoàn Văn
Vươn đã liều mình giữ đất bằng vũ lực nhằm níu giữ niềm tin le lói sau
cùng. Thế nhưng, niềm tin ấy đã bị dập tắt bằng sức mạnh của cường
quyền, không theo lẽ phải của một phiên xử bị phê phán từ người dân
thường, người am hiểu luật pháp trong nước đến các chuyên gia nhân quyền
quốc tế.
Cách tiến hành xử vụ án Đoàn Văn Vươn khiến nhiều người liên tưởng đến
vụ xử của nhà báo Hoàng Khương cách đây chưa lâu. Muốn có bằng chứng
cảnh sát giao thông nhận hối lộ, Hoàng Khương đã nhờ người đưa hối lộ.
Đây là một phương cách thực tế chứng minh người viết bài lăn xả vào thực
tế sự việc. Nhưng trớ trêu anh bị buộc tội vì hành vi “gày bẫy” cảnh
sát giao thông. Thử hỏi cảnh sát giao thông liêm chính thì ai gày bẫy
được? Một nhà báo không dùng phương cách đó thì làm sao có bằng chứng
cảnh sát phạm tội. Hóa ra việc làm đúng trở thành sai. Người đúng ra có
công góp phần đầy lùi tội tham nhũng trở thành tội phạm. Lý do là vì ai
đó muốn cảnh báo rằng: dân thường hay truyền thông muốn lên tiếng chống
tiêu cực thì cũng vừa phải thôi, làm quá mất uy tín của chính quyền thì
phải bị xử. Thế là Hoàng Khương nhận một bản án oan khuất.
Một xã hội nhiễu nhương trắng đen lẫn lộn như thế không khó để hiểu tiêu
cực vì sao tồn tại và ngày càng phát mạnh như một thứ dịch hạch. Đây là
một trong hai điển hình của các vụ oan án đang xảy ra hằng ngày, hằng
giờ trên đất nước Việt Nam được cai trị của đảng cộng sản. Sau khi theo
dõi các vụ oan án Đoàn Văn Vươn nhiều người đã phải buộc miệng thốt lên
rằng: họ ước có một vụ xử đồng Nọc Nạn thời Pháp thuộc. Cộng sản lên án
thực dân Pháp là ác ôn, bất công nhưng trong mắt người dân hiện nay tòa
án cộng sản thua xa tòa án thời Pháp thuộc cách đây hằng trăm năm. Điều
này chứng minh sự bóc lột và bất công của chế độ cộng sản đối với đồng
bào mình cũng ghê gớm hơn kẻ thù ngoại xâm.
Nhiều năm qua, người nông dân nói riêng và người dân Việt Nam nói chung
đã chịu nỗi đau bị chiếm đoạt đất đai. Song hành với điều đó là tình
trạng oan án đang ngày càng gia tăng. Thử hỏi một xã hội mà người dân
luôn chịu oan khuất, bị tước đoạt từ ruộng đất đến quyền công dân thì xã
hội đó có tốt đẹp giống như những lời lừa bịp được nghe, được thấy hàng
ngày trên truyền hình, báo in thông qua phát biểu của lãnh đạo cộng
sản?
Chắc chắn phản ứng của người dân đến tai lãnh đạo cộng sản. Chắc chắn
lãnh đạo cộng sản hiểu rõ nguyên do Đoàn Văn Vươn phản kháng. Nhưng câu
hỏi đặt ra là vì sao biết rõ đó là oan sai mà chính quyền cộng sản vẫn
không thay đổi phương cách cai trị mà vẫn hà hiếp người dân từ vũ lực
đến tòa án? Bởi vì, nếu không làm thế thì họ thừa nhận chính quyền sai.
Từ đó, họ lo sợ niềm tin vốn đã bị xói mòn ngày càng hao hụt. Nhưng thực
tế chứng minh ngược lại, hành động đó càng khiến cho uy tín của chính
quyền càng bị lung lay trong lòng người dân. Qua đó, người dân càng cảm
thấy rõ hơn rằng dù họ đang sống ở thế kỷ 21 nhưng họ bị cộng sản đối xử
chẳng khác thời phong kiến mà vua quan được tự quyền định đoạt bất chấp
công lý.
Một xã hội như thế rất đáng bị xóa đi để thay thế bằng một chế độ khác tốt đẹp hơn!
THƠ TRANH ĐẤU
MAI TÔI CHẾT XIN CỜ VÀNG ĐỪNG PHỦ.
Những bạn bè tôi đã mất lâu rồi !
Xác thân đã thấm sâu lòng đất mẹ !
Cần gì nữa những nắm mồ sạch sẽ ?
Khi nước nhà chưa sạch bóng quân thù ,
Khi nước nhà vẫn còn bóng cộng nô ,
Một lần nữa chúng cam tâm bán nước .
Nỗi nhục xưa một ngàn năm Bắc thuộc !
Đất biên cương biển đảo đã mất rồi !
Bạn nằm đó mà hồn vẫn chưa nguôi !
Tôi mượn lời thơ nói niềm uất hận !
Khi đất nước giặc còn đang rao bán !
Van xin làm gì một cái nghĩa trang ,
Đâu cần chi những nắm mộ huy hoàng ,
Chỉ tủi những vong linh người nằm xuống .
Tôi mong sao một ngày mai tươi sáng
Đất nước mình dẹp hết bọn cường quyền .
Bọn chúng tôi sẽ rước các hương linh ,
Đặt trân trọng trên bàn thờ tổ quốc .
Ngọc Trân
Tướng Lê Quang Lưỡng (cựu tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù/QLVNCH):
" Xin mặc đồ đen, không mặc quân phục, nếu muốn đến đưa tôi lần chót"
Một vị Tướng-lãnh QLVNCH đã trối-trăn :
-
Tôi làm Tướng không bảo-vệ được nước, khi nước mất tôi đã không dám
chết theo nước, nên khi tôi chết già yêu-cầu đừng phủ quốc-kỳ lên
quan-tài tôi, vì tôi tự biết mình không xứng-đáng được hưởng lễ-nghi
nầy.
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ
Lê Quang Lưỡng
Mai tôi
chết cờ vàng xin đừng phủ
Xác
thân này đâu chết cho quê hương ?
Súng
gươm xưa đã bỏ lại chiến trường!
Thân
chiến bại nhục nhằn nơi đất khách!
Hơn nửa
đời đã tan rồi khí phách.
Nhớ bạn
bè nằm xuống nghĩ mà đau!
Không
quan tài cờ phủ giữa chiến hào,
Máu
thịt đã thấm vào lòng đất mẹ.
Bao năm
trời bao nhiêu người trai trẻ,
Chết
không cần cờ phủ vẫn uy nghi.
Khi nằm
xuống bạn nào đã cần gì ??
Chỉ ước
muốn thân này dâng đất nước,
Ta giờ
đây đã tàn bao mơ ước!
Chuyện
ngày xưa chỉ còn thấy trong mơ...
Ngày về
quê càng lúc càng xa mờ.
Thời
gian vẫn lạnh lùng theo năm tháng,
Tuổi
càng cao lòng càng nghe mặn đắng!
Xót
thân này khi chết bỏ lại đây!
Nơi xứ
người bạn hữu chẳng còn ai ??
Mai tôi
chết cờ vàng xin đừng phủ.
Lê Quang Lưỡng
Dâng lên anh linh tử sĩ đã có lúc an nghỉ tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa
LỜI TỬ SĨ
Mẹ chớ đắp cho
con ngôi mộ mới
Để xương con rữa nát với thời gian
Làm phân bón cây nhân quyền sai
trái
Cho ngày sau con cháu sống huy
hoàng
Em chớ buồn nhìn mộ anh
xiêu tán
Thấy bia anh đầy dấu đạn căm
thù
Ngay cả núi sông giặc còn
rao bán
thì hồn nào yên được giấc ngàn
thu!
Con hãy để xác cha hòa với đất
Ba chết rồi, cải táng được gì
đâu!
Đồng đội ba biết bao người bỏ xác
Dưới truông
hào, trên núi thẳm, rừng sâu
Chị hãy để cho em
vào phiêu lãng
cho em quên mối hận tháng
Tư buồn
Hai mươi năm đất miền Nam tươi sáng
chỉ một ngày mưa thấm lệ trào
tuôn
Bạn hãy để cho tôi
tròn tiết tháo
Sống anh hùng thì chết cũng
quang vinh
Chớ xin xỏ bọn cường quyền vô đạo
Thêm tủi lòng người đã quyết hy
sinh
Nếu bạn muốn tôi
ngàn thu yên giấc
xin hãy thay tôi dựng lại cờ vàng
Tôi không muốn được mồ tươm mả tất
Khi nước nhà mây vẫn trắng màu
tang
Vũ Đình Trường
Đọc thơ Lời tử sĩ
Đọc thơ anh
chợt rưng rưng nước mắt !
Lời thơ buồn thấm tận trái tim tôi ! Những bạn bè tôi đã mất lâu rồi !
Xác thân đã thấm sâu lòng đất mẹ !
Cần gì nữa những nắm mồ sạch sẽ ?
Khi nước nhà chưa sạch bóng quân thù ,
Khi nước nhà vẫn còn bóng cộng nô ,
Một lần nữa chúng cam tâm bán nước .
Nỗi nhục xưa một ngàn năm Bắc thuộc !
Đất biên cương biển đảo đã mất rồi !
Bạn nằm đó mà hồn vẫn chưa nguôi !
Tôi mượn lời thơ nói niềm uất hận !
Khi đất nước giặc còn đang rao bán !
Van xin làm gì một cái nghĩa trang ,
Đâu cần chi những nắm mộ huy hoàng ,
Chỉ tủi những vong linh người nằm xuống .
Tôi mong sao một ngày mai tươi sáng
Đất nước mình dẹp hết bọn cường quyền .
Bọn chúng tôi sẽ rước các hương linh ,
Đặt trân trọng trên bàn thờ tổ quốc .
Ngọc Trân
No comments:
Post a Comment