Wednesday, March 20, 2013
THANH THANH * LỆ CHÂU
LỆ CHÂU
Đã mấy thu rồi, hả bể dâu ?
Những hình bóng cũ nay về đâu ?
Có ai đốt lại lò hương ấy
Mà nhớ vô cùng, hỡi Lệ Châu !
Ta nhớ em như nhớ tháng ba (1):
Ngày giờ có đó, nghĩ không ra!
Chính ta chẳng hiểu mơ hay tỉnh;
Ta ở đây mà nhớ chính ta!
(1) 29/03/1975:
Đà Nẵng (thủ-phủ Miền Trung) thất-thủ.
Ta nhớ ta là một tiếng im,
Con thuyền không bến, máu không tim,
Không hoa cho một làn hương quyện,
Không tổ nương nhờ một cánh chim!
Ta có đầu ta – một thánh-thư:
Biết đường, đâu ngại ngã ba, tư!
Lòng ta có lửa mà không bếp,
Như thiếu trùng dương cho hải-ngư!
Thiếu một thần-giao, một cảm-thông;
Đời không tri-kỷ, không tâm đồng;
Bơ-vơ như trận kình-nghê-chiến:
Biển cả tung-hoành một lão-ông!
Rồi bỗng đâu đây giữa gió khơi
Có em bỗng gọi, có ta "ơi!"
Thuyền như nhắm bến, chim tìm tổ,
Đêm muốn hừng đông, hận muốn vơi ...
Em đến – gần mà như muôn trùng,
Không tên, không lấy cả hình dung...
Nhưng em đã đến, bằng xương thịt,
Đã sưởi lòng ta ...
ấm la.-lùng!
Em có là tiên... hay là... ma
Thì em cũng đã có yêu ta!
Tình em là một nguồn thi-hứng:
Bút rỉ mười năm... lại nở hoa!
Em đã theo ta mỗi bước chân,
Hòa trong hơi thở, nhập trong gân!
Có em là bạn... nên từ đó
Ta có niềm vui tự bản-thân...
Nhưng, bỗng tư bề nổi bão đêm:
Kình-ngư còn lại bộ xương lem!
Đất thành hoang đảo! dân thành rợ!
Ngư-phủ vào tù, lạc dấu em...
Nỗi nước khôn khuây, lại nỗi nhà,
Nỗi mình khắc-khoải một mình ta!
Bao nhiêu kỷ-niệm vào tro bụi
Như những kê vàng, quá-khứ xa ...
Ôi! Những ngày xanh, những ước mơ
Tan như ảo-ảnh mống trời mưa!
Thời-gian liệm lấp vào quên-lãng
Những mộng vàng son hóa mộng hờ!
Rồi có hôm nào như hôm nay:
Gió nào gợn sóng, lá nào bay ...
Cho ta gợi lại trong tâm-tưởng
Một thoáng ân-tình, thoáng rượu say ...
Trại
Kho Đạn (Đà Nẵng), 1980-81
(tạp-chí
"Cỏ Thơm" [Reston, VA. USA] số 62 Mùa Xuân 2013)
THƠ
NHỚ EM GÁI Ở BERLIN
(Tặng :em Mỹ)
-----
"Hôm nay mùng 8 thàng 3
Tôi giặt hộ Bà cái áo của Tôi"
-Ca dao mới
*
Cứ tưởng là "đi Tây"
Thì "đổi đời : sung sướng !
-Mất cả chồng, cả con
lấy cuộc đời vất vưởng...
Tường Berlin sụp xuống
Hóa công dân hạng hai
"Thất nghiệp" ăn trợ cấp
"Chạy chợ" trốn lủi hoài
Quê hương xứ Mặt trời
Sang lặn lội xứ Tuyết
Tóc xanh đã bạc rồi
Ngày về xa
biền biệt...
Mẹ cha nghèo đã chết
Anh chị cũng đã già
Thương một cô em gái
Lủi thủi phương trời xa.
Quê Bắc Ninh, gần ngày 8-3-2013
Nguyễn Khôi
Di Chúc Nhau
Thân em mười hai bến nước
Thân tôi cũng bến nước hàng trăm
Thôi thì một trăm mười hai miếng vải nhăn
May làm một, đấp chung chăn đời này
...
Thân em như tấm lụa đào
Thân tôi như mãnh vải bao bố tời
Thôi thì hai mãnh lứa đôi
Làm hai áo gối gác hờ bên nhau!
Thân em bảy nổi ba chìm
Thân tôi chục cái linh đinh hang hầm
Thôi thì hai đứa hai thân
Gộp chung làm một nợ nần cho vui!
Một mai hai đứa hết...xui
Mình xây kim tỉnh lại ...vùi tro nhau!
NGHIÊU MINH
http://youtu.be/iwCuuvpH60Y
Tuesday, March 19, 2013
TRẦN ĐỖ CUNG * CHUYỆN VƯỢT BIỂN
Những Chuyện Vượt Biển ĐôngTrần Đỗ Cung, C/N 2010/03
Sau biến cố thê thảm tháng 04/1975 dân chúng thấy rõ sự dã man độc ác của Việt Cộng. Những người không may mắn ở lại cố gắng thích ứng với tình thế trước cảnh chướng mắt của một lũ mán rừng kiêu căng đầu đội nón cối đi hôi của. Rồi những chỉ thị của ban quân quản Sài Gòn về đổi tiền, tem phiếu, đi kinh tế mới, trình diện cải tạo học tập đã làm cho nhiều gia đình tìm đường đào thoát. Có những người len lỏi đường bộ gian truân hướng về biên giới Cao Mên qua Thái Lan. Phần đông chọn đường bể chạy dài hàng ngàn cây số mà Việt Cộng chưa kiểm soát nổi.
Danh từ Thuyền Nhân chỉ hàng vạn người Việt Nam đã liều mình chạy trốn sự cai trị tàn ác của Việt Cộng trên những con thuyền bé nhỏ mỏng manh vượt biển và sóng gió, hy vọng tìm đến bờ bến tự do. Nhiều gia đình đã bỏ mạng trong khi các gia đình khác đến được các xứ Đông Nam Á để thấy là chỉ được tạm dung. Ngoài ra bọn Việt Cộng lợi dụng tình thế đặt ra vụ đi bán chính thức với mục đích trục xuất người Việt gốc Hoa, cướp tài sản của họ và thu vàng cho họ ra bể rồi để mặc cho sóng gió. Theo ước tính thì khoảng 50 % số người thoát ra khơi đã chết trên bể vì sóng gió. Bao nhiêu người chết thảm vì thuyền bị hải tặc Thái luân phiên cướp rồi dìm đắm. Nhiều phụ nữ và gái trẻ bị hãm hiếp xong rồi bị tụi hải tặc giết phi tang hay bị bán cho các ổ chứa điếm Thái Lan. Hoa Kỳ, Gia Nã Đại và nhiều nước Âu Tây đã đón nhận hầu hết các thuyền nhân trong những năm 1975-1980 khi thảm cảnh thuyền nhân đã đánh thức lương tâm nhân loại. Từ 1975 đã có 840 ngàn người Việt đến được các nước Đông Nam Á và Hồng Kông, trong số đó hơn 755 ngàn đã định cư tại các nước Âu Mỹ.
Trong số các con thuyền định mệnh, cá nhân tôi được biết vài trường hợp đại bất hạnh. Ông Nguyễn Huy Minh là dược sĩ khá giả có công ty dược phát đạt và nhà là một biệt thự sang trọng trên đường Pasteur. Minh là bạn học tôi ở Lycée Khải Định và là em ruột giáo sư Triết nổi tiếng Nguyễn Huy Bảo của trường. Tôi đã gặp anh hai tuần trước khi Việt Cộng vào Sài Gòn lúc tôi đã cho được vợ con đi lậu đến Clark Field. Anh cho tôi biết đang đóng tầu sửa soạn hải hành và mời tôi nếu cần có thể cùng đi. Về sau tôi được biết thuyền anh đã bị đắm cả gia đình mất xác, có thể do sóng gió và cũng có thể vì tài sản anh đem theo.
Một trường hợp éo le khác là gia đình vợ chồng cháu Liên Châu con gái thứ nhì của Liên-Thuật. Vợ chồng cháu cùng hai cháu bé sửa soạn gọn nhẹ cho chuyến ra khơi với một nhóm khác. Lúc đến bãi thì vì động chiếc thuyền lớn vội rời bến. Anh chồng là Dược Sĩ Hoàn trên Đà Lạt vội nhẩy lên nắm kịp thang mạn thuyền trong khi cháu gái bé được một người bạn giúp tung lên sàn tầu. Liên Châu sợ hãi, tay bế con nhỏ lúng túng đã để rớt con xuống bãi nên vội vã bỏ tay tụt xuống túm lấy con. Trong khi ấy chiếc thuyền từ từ ra khơi nên hai mẹ con bị bỏ rơi lại nhìn theo chồng con đi lòng đau như cắt để vào tù Việt Cộng trong vài tháng.
Tôi phải kể trường hợp may mắn của Trần Huy Tuấn là cháu ruột của tôi, con nhỏ em thứ năm của tôi tên là Trần Đỗ Lộc. Cháu Tuấn 14 tuổi được cho xuống Rạch Giá đi theo một gia đình vượt biển năm 1978. Khi ra khơi cháu coi như một cuộc đi chơi kỳ thú và không có tý quan niệm về sự nguy hiểm sẽ xẩy đến. Đi được ít ngày thì có vấn đề, con thuyền mỏng manh bị nước tràn vào và vỡ tan. Huy Tuấn vớ được một tấm ván và cứ thế nổi trên mặt bể, vớt rong biển nhai cầm hơi. Bỗng nhiên chiếc tầu thám thính South Cross Mỹ nhìn thấy và vớt cháu lên kịp. Tuấn được đưa vào Singapore, ở khách sạn của Hải Quân và vì nhớ thuộc lòng địa chỉ của tôi nên đã liên lạc được với tôi cấp kỳ qua Navy Postal Office. Chúng tôi bảo đảm cháu về Monterey đi học và hiện tại cháu đã thành công với hãng Google.
Còn phải kể sự bất hạnh thật vô duyên của gia đình dược sĩ Quản Trọng Lạng. Sửa soạn kỹ lưỡng cho chuyến vượt biển, gia đình đã ra đi trót lọt ngoại trừ những lo âu phải có khi rời bến. Khi đến bờ Mã Lai Á và thuyền cập bến thả neo thì ông dược sĩ quá mừng vội nhẩy xuống nước. Chẳng may rơi vào một hũng sâu anh ta bị hụt cẳng chết đuối trước sự chứng kiến của vợ con.
Trong những trường hợp vượt bể thành công sau nhiều ngày hiểm nguy tính mạng phải kể đến gia đình anh Nguyễn Đình Cường một giáo sư trung học trên Đà Lạt. Tôi gặp anh Cường lần đầu tiên năm 2004 nhân đi dự buổi giỗ tổ thuộc giòng họ Nguyễn Đình của nhà tôi dưới Nam California. Mới biết anh Cường có vai vế trên trong họ và thành trưởng tộc Nguyễn Đình tại xứ Mỹ. Tuy anh còn trẻ nhưng là một người hoạt bát và năng động đa tài, ngâm thơ và văn nghệ đầy đủ. Tôi được biết thêm về chuyến vượt bể tìm tự do đầy gian khổ của gia đình anh. Câu chuyện được viết gọn theo lời kể của anh, một câu chuyện có thể tiêu biểu cho mọi chuyến vượt biển thành công đến đất này.
Anh nói : “chúng tôi phải dự nhiều lớp chính trị để bị nhồi nhét lý thuyết cộng sản và Mác-Xít. Mỗi kỳ nghỉ hè sau khi học xong trong bốn tuần lễ chúng tôi phải viết phúc trình về những điều chúng tôi đã học để được chấm điểm. Ngoài ra tình hình kinh tế mỗi ngày mỗi tồi tệ, trong hoàn cảnh như vậy đâu có khác gì sống trong địa ngục. Bởi vậy chúng tôi phải tìm đường thoát ra khi có cơ hội".
Anh Cường có một số bạn tại vùng Cao Nguyên Đà Lạt, cách xa Sài Gòn 300 cây số về hướng Bắc. Các bạn đang dự tính đào thoát chung nhau mua bí mật một chiếc thuyền đánh cá bỏ neo trên một nhánh sông Mékong. Nếu công việc bại lộ thì tất nhiên sẽ bị công an còng tay đưa vào xà lim. Tất cả nhóm là 16 người gồm 5 phụ nữ, 10 đàn ông và con nhỏ của anh mới 27 tháng. Đêm 27/06/1977 họ nhổ neo đi về hướng Đông Nam để đến Mã Lai.
"Con thuyền đánh cá nhỏ bé của chúng tôi chỉ dài có 9 thước và bề ngang có hai thước rưỡi. Trang bị một động cơ mười mã lực thì làm sao ra biển được ? Tuy nhiên người ngư phủ giúp chúng tôi sửa soạn hành trình nói rằng nếu thời tiết tốt và bể tương đối lặng thì có thể đến Mã Lai trong vòng mười ngày. Lúc ấy là thời điểm cuối của mùa tốt trời nên chúng tôi phải cấp tốc ra đi không còn chần chờ được".
Trước ngày định mệnh phải tìm cách bí mật chuyển dần xuống thuyền các bình nhựa chứa nước ngọt và một bao gạo đủ dùng. Khi thuyền ra đến bể thì đi về Đông Nam để sau sẽ chuyển hướng qua Tây Nam. Đi được một ngày yên lành thì đến sáng ngày 27 gặp ngay một trận bão khá mạnh, gió to sóng cả và bể trở nên dữ dằn. Không thể giữ vững hướng cho con thuyền bé bỏng nên bị thổi dạt về phương Bắc. "Mười giờ khuya cùng ngày chúng tôi phải tìm cách bỏ neo nhưng chẳng may giây thừng neo to gần bằng cổ tay vướng vào chong chóng làm cho động cơ chết. Sáng hôm sau dò trên bản đồ chúng tôi thấy ở gần đảo Phú Quý cách mũi Varella khoảng 150 cây số và như vậy thì thuyền trôi dạt trên biển Nam Hải".
Mọi người bất lực khi động cơ im bặt, cần chờ cho thời tiết khá lên để cắt giây thừng vướng máy. Thế nhưng trong mười ngày liền gió vẫn không giảm và chiều ngày mồng Năm tháng Bẩy thì cả thừng lẫn neo rơi luôn xuống đáy bể. Tình trạng hoàn toàn vô vọng, con thuyền trôi dạt không biết đi đâu. "Chúng tôi hoàn toàn mất hướng, không ai có tí chút kinh nghiệm điều khiển thuyền và cũng chẳng ai biết cách sửa chữa "
Số lương thực đem theo được dự trù cho hai mươi ngày công với 400 lít nước ngọt. Nhưng hầu hết đã bị nhiễm dầu cặn và nước bể khi dầu nhớt bị chẩy ra từ những bình chứa bằng nhựa. Sau một tuần lễ thì hết lương thực và số nước uống cũng chỉ còn tí chút vì nhiều bình chứa bị nứt. Sau 20 ngày lênh đênh chúng tôi không còn một chút đồ ăn nào hết. Chúng tôi sống cầm hơi bằng đôi chút nước dơ còn lại trong vài can và nhắm mắt uống để sống còn. Tôi đã để dành phòng hờ chút gạo sống cho cháu bé trong hai hộp thiếc nhỏ, Sáng rồi tối tôi nhá gạo và đút cho nó chừng hai thìa cầm hơi. Thêm mấy trận bão thổi đến với những ngọn sóng cao như nhà hai từng. Con thuyền bé bỏng nhô lên cao rồi bị thả xuống liên hồi trong ba tiếng đồng hồ. Rất may là nó còn vững chắc nên không tan ra thành mảnh vụn. Cánh đàn ông phải ra sức tát nước ra khỏi mạn thuyền chớ không thì đã làm mồi cho Hà Bá rồi.
Vợ tôi ôm chặt con và tôi ôm cả hai, chúng tôi hoàn toàn ướt sũng. Song phải cám ơn Thượng Đế đã ban cho các trận cuồng phong này để có nước sạch hứng bằng áo mưa. Chúng tôi trở nên yếu hơn và tôi nghĩ là nếu vợ con chết thì tôi sẽ tự vẫn chết theo. Người chúng tôi ghẻ lở kinh khiếp và tinh thần hoàn toàn suy nhược chỉ còn trông mong bàn tay cứu nạn của Đức Phật hay Thượng Đế. Chúng tôi trông mong thấy một chiếc tầu nào nhìn thấy cảnh vô vọng và dơ tay cứu độ. Có chừng ba mươi tầu đi qua nhưng chỉ có mỗi một chiếc dừng lại. Họ hỏi có vấn đề gì không, tôi cố cắt nghĩa tình hình tuyệt vọng của chúng tôi. Nhưng có lẽ viên thuyền trưởng không hiểu nên gần một giờ sau họ bỏ đi, chẳng cho chút gì cả. Quá thất vọng khi thấy rằng cái chết gần kề, chúng tôi chỉ còn chờ một Phép Lạ. Và Phép Lạ đã đến vào ngày thứ 27 của cuộc hải hành kinh hoàng. Ngày đó là 22/07.
Chiều 22/07, sau trận bão to thì thời tiết khá lên cho thấy rõ chân trời xa xa. Khoảng ba giờ chiều một chiếc tầu nhìn thấy chiếc cờ nhỏ SOS báo hiệu và tiến lại gần. Anh Cường gắng sức leo lên thang giây để trần tình với vị thuyền trưởng. Ông ta nhận thấy mọi người đều quá yếu và có thể chết nếu không được cứu giúp ngay. Lúc ấy đáy thuyền có khe nứt và nước bể bắt đầu rò vào. Cùng một lúc trời tối sầm lại và mưa bắt đầu rơi vì một trận bão khác đang tiến đến. Ông ta quyết định cho vớt. Tất cả 16 người leo lên tầu lúc 5 giờ rưỡi chiều của một ngày lịch sử trong đời. "Ngày 22/07/1977 chúng tôi đứng trên boong tầu cứu mạng nhìn xuống thấy chiếc thuyền bé nhỏ như chiếc lá tre trôi trên mặt nước, và chúng tôi đi theo đến Nam Dương. Lối 7 giờ tối vị thuyền trưởng mời tôi vào phòng và nói rằng ông vừa nhận điện tín thời tiết báo là một trận bão lớn đến từ Phi Luật Tân mà trung tâm ở ngay toạ độ ông vừa cứu chúng tôi. Anh Cường ôm chầm lấy ông và khóc rưng rức khi nói lời cám ơn đã giúp cả bọn khỏi chìm xuống đáy đại dương
Phải mất 16 ngày cho tầu Đại Hàn đến đảo Bangka để thuỷ thủ và lao công bản xứ chất những cây gỗ nặng đem về nước họ chế biến. Anh Cường ngồi thảo một lá thư cho Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ trình bầy hoàn cảnh của cả nhóm. Ngày thứ 16 Tiến Sĩ Samphat Kumar đến từ Kuala Lumpur và lên tầu phỏng vấn. Ông xếp loại cả bọn thuộc thành phần tỵ nạn chính trị. Chúng tôi từ giã chiếc tầu Đại Hàn mắt nhoà lệ và lên một chiếc ca-nô nhỏ đi đến đảo Bangka. Từ đó chúng tôi đáp phi cơ đến Jakarta. Tiến Sĩ Kumar chia tay chúng tôi vì ông đã làm xong nhiệm vụ sau khi chúng tôi được chuyển cho chính phủ Nam Dương sống trong trại tạm cư Bogor trong 6 tháng trước khi được vào Mỹ.
Một trường hợp thành công khác là của gia đình bạn Tôn Thất Uẩn tuy đã kéo suốt mấy năm trời để hoàn toàn đoàn tụ. Bạn Uẩn trước kia làm Giám Đốc Tài Ngân Điện Lực Việt Nam và là bạn học với tôi tại Lycée Khải Định. Đầu năm 1975 bạn thôi việc Điện Lực và vào làm cho Sovigaz (nôm na là hãng Gió Đá) là một công ty sản xuất dưỡng khí, hơi acetylene và các đũa hàn bán sỷ và lẻ. Nhà máy chính đặt tại Khánh Hội có 2 chi nhánh đặt tại Cần Thơ và Nha Trang. Tháng 04/1975 hãng cử Uẩn làm đại diện miền Tây Sovigaz ở Cần Thơ trong khi gia đình khá đông vợ con và cháu nội ngoại tất cả 17 mạng phải ở lại Sài Gòn. Trước biến cố 30/04, anh không làm cách nào lo cho gia đình di tản.
Vì Sovigaz là một bộ phận ở Viễn Đông của đại công ty Pháp Air Liquide nên Việt Cộng để yên không gọi đi học tập cải tạo. Chỉ một thời gian ngắn sau Sovigaz bị quốc hữu hoá và trở thành công ty Hoá Chất trực thuộc Cục Hoá Chất. Tuy nhiên cũng còn may khi họ cần đem một bộ máy sản xuất dưỡng khí tử Biên Hoà đi Cần Thơ và giao cho Uẩn phụ trách thiết kế. Trong suốt thời gian bà Uẩn vẫn tìm đường ra khỏi Sài Gòn. Trong bốn năm dài ấy tình hình gia đình hầu như khánh kiệt.
Cơ may xẩy đến khi Uẩn được một đại lý cho Sovigaz Cần Thơ ở tỉnh Bạc Liêu giới thiệu cho một chủ thuyền đang tổ chức vượt biển tại Hộ Phòng, Bạc Liêu. Nhóm này đều là người Việt gốc Hoa thuộc Triều Châu đã làm nghề đánh cá ở đây lâu đời, thạo nghề biển và giỏi đóng tầu cũng như đi biển. Họ tổ chức đi bán chính thức nghĩa là khi đi ra bể có cả ca-nô công an hộ tống cho đến khi đến hải phận quốc tế thì mạnh ai nấy lo cũng như các thuyền nhân khác. Uẩn giao họ làm giấy giả người Hoa cho mình và ba trai một bé gái vì chỉ còn đủ chút tiền chung đậu, số còn thiếu sẽ trả sau khi ra đến nước ngoài. Nhóm đi bán chính thức gồm tất cả 270 người chen chúc xuống chiếc thuyền to chiều giài 20 thước, ngang và sâu ba thước. Có nghĩa là ngồi bó gối dưới đáy, boong trên và mạn thuyền, không có chỗ ngả lưng.
Thực phẩm đều do chủ thuyền lo liệu hết tuy nhiên nếu không phải là người sống trên biển thì ai nấy đều ói mửa mật xanh mật vàng đâu còn thiết ăn. Gia đình chỉ đem theo ít gói mì và nước uống phòng hờ cho 3 hay 4 ngày dự trù đến Mã Lai. Ra đi ngày 05/06/1979 từ Hộ Phòng, Bạc Liêu, gặp hải tặc Thái nhưng thật ra chỉ là ngư phủ kiếm ăn dễ dàng, lột vàng bạc châu báu chớ không đánh đập hiếp đáp. Trong nhóm đi có đến 4, 5 chục trai tráng và hải tặc chỉ độ tám tên nhưng không ai dám tự vệ vì không có chỉ huy. Mà nếu có muốn cưỡng lại thì phải nhớ rằng thuyền hải tặc to lớn hơn nhiều và nếu chúng ủi lại thì chỉ mất cả người lẫn của thôi. Đến Cherating trên bờ phía Đông Mã Lai thì cảnh sát Mã Lai đưa lên bờ ăn ở một tháng chớ không phải một trại tạm cư như mong đợi bởi vậy ai nấy hết sức lo âu. Thực phẩm do UNHCR đem ra như đồ hộp và gạo, nấu nướng bằng nồi chảo chủ thuyền cho mượn. Tối ngủ thì đã có các lều bạt ni lông xanh căng lên dùng dài ngày. Tuy đảo này là nơi Club Méditerranéan chọn làm trại nghỉ mát vì cảnh trí đẹp nhưng ai nấy lo âu sợ hãi vì sao họ không đưa mình vào trại tỵ nạn ? Sau một tháng bị bỏ lên nhiều con thuyền cũ của nhóm đi trước rồi kéo ra biển trôi dạt không biết về đâu. May gặp tầu Ile de Lumière (tầu Ánh Sáng) của Médecins Sans Frontières (Y Sĩ Không Biên Giới) vớt về Singapore. Thật ra cũng không hiểu tại sao mà gặp tầu Tây ở đây, vì tình cờ hay là chính phủ Mã Lai đã thu xếp ?
Khi đến Pháp thì 5 cha con được đưa lên tỉnh kỹ nghệ Lille. Họ bắt tay ngay vào làm đủ thứ việc vất vả hầu mong dành chút ít lo cho những người thân bên nhà. Chính phủ Pháp chỉ giúp cho một tháng trợ cấp và phải tự túc từ tháng thứ nhì trở đi có nghĩa là phải đến Tết Congo mới giúp được 13 người thân còn kẹt lại. Bởi vậy khi được tin là Vương Quốc Anh sẽ giúp đỡ trong một thời gian và cấp cho nhà ở, gia đình anh đã được Ủy Ban Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc cho sang London định cư cho đến nay. Anh Quốc không cần người bảo đảm phải chứng minh khả năng tài chính. Chỉ hai năm sau vợ cùng năm con và bẩy cháu nội ngoại đã xum họp đầy đủ tại xứ sương mù này để trở thành những công dân tự do và bác ái.
Chắc nhiều người đã biết quyển sách Thép Đen mà tác giả Đặng Chí Bình là điệp viên trẻ 22 tuổi đơn độc ra công tác tại Hà Nội. Sau khi xong nhiệm vụ ngắn hạn anh ta bị lộ và bắt vào nhà pha Hoả Lò rùng rợn trong sáu nắm trời khổ hạnh trần ai. Lúc ra toà anh bị xử thêm 12 năm tù cải tạo chuyển qua nhiều địa danh ác độc. Mãn hạn anh được tha về Sài Gòn với ba năm mất quyền công dân để tìm lại cha già đã lẩm cẩm và bà mẹ đã mù loà. Sống chật vật không hộ khẩu, sáng tối lo trình diện công an, ở tuổi gần 40 anh đã lập gia đình với một thiếu phụ trẻ và có hai con nhỏ. Thế rồi nhận thấy tương lai quá đen tối không lối thoát anh can đảm tìm đường vượt biển với sự đồng ý của vợ và khuyến khích của bố mẹ già. Lần đầu cô vợ chở bằng xe đạp đến điểm hẹn xe Lam đi Minh Hải, Bạc Liêu. Tối xuống thuyền sửa soạn ra khơi thì giữa đêm đen như mực công an có chó gọi cập bến khám xét. Bình liền bí mật chuồn xuống nước lặn tránh mũi đánh hơi của chó rồi mò qua lau sậy gai góc đến Hộ Phòng bán một miếng nhẫn vàng giấu trong đáy quần xà lỏn thuê xe Lam về Sài Gòn.
Lần thứ hai khi anh được giới thiệu làm thợ nề sửa sang Bệnh Viện Tâm Thần Biên Hoà anh đã cùng đi với vị Bác Sĩ điều trị trẻ tuổi trên chiếc thuyền nan trôi dần ra bể giữa đám lục bình dầy đặc. Thế mà anh trót lọt leo lên thuyền lớn đến Nam Dương sau nhiều ngày sôi nổi. Sống nhiều tháng tại trại tạm cư này, làm đủ việc cho trại rồi cuối cùng anh được phỏng vấn đi Mỹ định cư tại Boston để hằng ngày vào thư viện đại học UMA ngồi viết 1400 trang Thép Đen mong làm một ngọn nến thắp sáng cho các nạn nhân còn đau khổ trong ngục tù tối tăm của Việt Cộng. Anh đã bảo đảm cho vợ con qua Mỹ sinh sống trong khung cảnh ấm cúng nơi địa danh tôm hùm Maine nổi tiếng. Có lẽ tôi cần kể thêm câu chuyện của một nữ giai nhân đa tài đa sắc một thời. Đó là bạn học của tôi ở Lycée Khải Định năm 1939, Ngọc Trâm thuộc loại lá ngọc cành vàng của cố đô Huế xa xưa. Nàng kẹt lại Sài Gòn cùng mấy con nhỏ với Nhạc Sĩ Dương Thiệu Tước. Không sống nổi với bọn côn đồ Việt Cộng nàng tìm cách vượt biển tìm tự do. Khi Nhạc Sĩ Tước nhất định không chịu đi vì anh cho là người Việt Nam thì sống chết ở đây không đi đâu hết, Ngọc Trâm nhất định theo con đường của mình vì 2 con lớn Bửu Minh hiện ở bên Đức còn con gái Trang đang ở bên Pháp. Ngoài ra một con gái lấy Hà Thúc Cần buôn bán đồ cổ ở Singapore công thêm một con nhỏ theo chồng là một sĩ quan không quân định cư ở San Francisco.
Cùng 3 con nhỏ, Ngọc Trâm tức ca sĩ tài sắc một thời Minh Trang quyết định đi theo một nhóm vượt biển. Bốn mẹ con phải nộp cho chủ tầu mấy chục lượng vàng và đi bằng xe Lam đến Cà Mâu chờ trong một chiếc nhà sàn để được ghe nhỏ chở dần ra ghe lớn. Nói là ghe lớn nhưng hơn 150 mạng đi chỉ có đủ chỗ ngồi bó gối không cựa quậy gì được. Sau mấy ngày lênh đênh trên bể Nam Hải, say sóng ói mửa, thuyền bị hải tặc Thái cướp 2 lần, trấn lột, bắt há mồm cạy cả răng vàng nhưng may là không bị hiếp đáp gì cả. Lên bờ biển Liên Xinh, Thái Lan, đêm Giáng Sinh, ướt sũng chỉ còn bộ quần áo mong manh trên người, Ngọc Trâm điện thoại được cho con gái ở Singapore và ngay hôm sau nhận được tờ 100 Mỹ Kim quá đẹp. Bốn mẹ con bèn mua ngay một chiếc nhà chòi trên bãi bể để sống thoải mái trong 6 tháng trời chờ được giấy vào định cư tại Mỹ. Đêm đêm nghe sóng vỗ rì rào trên bãi cát vắt tay suy nghĩ trong chiếc nhà sàn mộng ảo không biết Minh Trang có nghe thoáng điệp khúc lãng mạn của Đêm Tàn Bến Ngự quyện vào giòng nước trong xanh của Blue Danube ?
Lại kể thêm tình tiết của một cặp vợ chồng chuyên gia tốt nghiệp các trường đại học nổi tiếng Pháp. Bà là Bác Sĩ Nguyễn Thị Đảnh phục vụ tại bộ Y Tế Sài Gòn còn ông Nguyễn Văn Thảo là một chuyên viên tài chính ngân hàng giữ chức thanh tra ngân hàng tại Ngân Hàng Quốc Gia. Hai ông bà không hề tham gia chính trị cũng như quân sự tại miền Nam. Khi lỡ chuyến ra khơi của tầu Việt Nam Thương Tín toàn gia bị kẹt lại Sài Gòn. Ông nói, "chắc chắn chính thể mới sẽ cần đến bàn tay của chúng ta để xây dựng lại xứ sở rách nát này". Nhưng thật sự trái ngược lại khi ông Thảo bị gọi trính diện học tập và đưa đi các trại khổ sai độc địa Bắc Thái. Bà BS Đảnh chứng kiến cảnh các cán bộ Hà Nội đến cơ quan y tế lấy từ các cục gôm, bút chì đến các tập vở chất đầy xe nhà binh chở về Bắc.
Bà Đảnh phải tìm cách đem con ra khỏi xứ. Khi đi thăm nuôi lang quân tại miền Bắc bà nhìn thấy cảnh Hà Nội nghèo nàn cùng cực nên đã quyết tâm cho chồng biết. Nhưng nói sao trước mặt lũ cán bộ ngồi chứng kiến ? Ông Đảnh sửng sốt khi nghe bà nói sẽ đưa các con đi vùng kinh tế mới làm lại cuộc đời và gặp lại các bà dì. Chợt hiểu là các bà dì đã định cư lâu ngày ở quốc ngoại ông yên tâm hơn và dặn dò, "em nhớ đừng để các con đi một mình vì chúng còn quá trẻ". Về Sài Gòn bà đã cùng các con vượt biển trên một chiếc thuyền nhỏ, lợi dụng khi chúng nó mải mê liên hoan trong ngày lễ 01/05. Bà may mắn gặp chiếc tầu chở dầu Na Uy vớt mẹ con đưa vào định cư tại xứ sở đẹp đẽ này. Về sau gia đình đã bảo trợ cho ông chồng qua Na Uy xum họp. Đến phi trường tuyết phủ trắng xoá ông đã tuyên bố với báo chí : "Tôi không còn cần gì nữa ; tôi có vợ con đầy đủ quanh tôi. Các con tôi được sống trong xứ sở đẹp đẽ này để trở thành những người tốt. Như vậy là tôi đã quá mãn nguyện rồi ".
Nói đến Vượt Biển phải nói đến tình trạng cùng cực của các anh em quân cán sống lao tù trong các trại khổ sai Việt Cộng. Phải chờ đến 1979 khi Tổng Thống Ronald Reagan cử Đặc Sứ John Vessey đến Hà Nội mới thấy hé mở tia hy vọng. Lúc ấy là cao điểm của phong trào Vượt Biển mà hằng chục vạn người đã bỏ xác dưới đáy Thái Bình Dương đánh động lương tri nhân loại. Các nước bắt đầu cho lệnh các tầu bè của mình phải tiếp cứu các nạn nhân. Rồi những tầu Ile de Lumière của Pháp, Aznavour của Đức, tầu Bịnh Viện của Mỹ, tầu chiến Hải Quân Hoa Kỳ, tầu South Cross cũng sẵn sàng ra tay cứu độ.
Hà Nội bằng lòng thoả thuận chương trình nhân đạo HO để cho Mỹ nhận các tù cải tạo vào định cư. Lũ lượt hằng loạt cựu tù qua Mỹ định cư với gia đình và được hưởng các sự giúp đỡ, tiền già, tiền tàn tật, tiền nhà, bảo trợ y tế ... Bây giờ danh từ HO được thay thế bằng danh xưng đẹp hơn Cựu Tù Nhân Chính Trị. Thế nhưng sau những chuyến bay dồn dập vượt đại dương đến các phi trường quốc tế Mỹ với sự đón tiếp cảm động của đồng bào bây giờ lại đến các chuyến cũng dồn dập không kém trở ngược lại Tân Sơn Nhất.
Trí nhớ quá ngắn của con người chăng ? Hay là lập luận nông cạn cho rằng Mỹ bỏ mình thì phải có bổn phận cưu mang mình, một lập luận ngây ngô do Việt Cộng mớm lời ? Các bạn hưởng được vài trăm mỗi tháng thêm tiền nhà tiền bảo hiểm y tế mà không đóng xu teng thuế nào hết ? Đừng nói đó là tiền của Mỹ mà phải nói là tiền của tất cả mọi người đóng thuế, bươn chải quanh năm để đến ngày 15/04 chạy đôn chạy đáo đến bưu điện bỏ chi phiếu vào thùng thơ cho đúng hạn kỳ
Không, các bạn biết lắm chớ và các bạn biết rõ là luật lệ chỉ cho các bạn đi du hý trong vòng 90 ngày để khỏi bị cắt tiền phúc lợi. Cho nên sau 90 ngày phè phỡn đủ thứ ôm ở Đại Sài Gòn, bạn lại trở về Tiểu Sài Gòn tích luỹ vốn liếng nhờ thêm con cái tiếp sức để xênh xang về bển trả thù mấy năm tù cải tạo trần ai mà bạn đã quên khuấy. Vừa thôi các bạn ơi, với thời buổi kinh tế suy thoái khó khăn, chúng tôi mong các bạn bình tâm suy nghĩ lại.
Trần Đỗ Cung, VanTuyenNet 2009/06/21
PHƯƠNG DUY * THĂM NUÔI
Lặn lội đường xa
Vào truyện – Trên khu cải tạo Bù Gia Mập có một con đường đất đỏ dài trên dưới hai mươi cây số, chạy dài từ khu kinh tế mới Minh Hưng, quận Bù Đăng, đi vào sóc Bombo,vòng qua Đức Hạnh, Bù Đốp. Con đường được thiết lập từ thời Đệ Nhất cộng Hoà của Chính Phủ Ngô Đình Diệm với dự tính khẩn hoang lập ấp, thành lập các khu dinh điền, vừa để chế ngự một an toàn khu của phe Cộng Sản VN. Kế hoạch đã bị bỏ dở sau sự sụp đổ nền Đệ nhất Cộng Hoà. Con đường bị bỏ hoang. Nhiều đoạn, cây rừng mọc lan ra che phủ hết,đi dưới đường nhìn lên không thấy bầu trời.. Con đường nắng lên đầy bụi đỏ, mưa xuống lại lầy lội trơn trợt. Đàn bà con gái lặn lội thăm con thăm chồng, tất cả đều phải ba lô trên vai, dép guốc cầm tay mới ráng lết đi được... Trong truyện ngắn này, người viết xin ghi lại một vài hình ảnh nhỏ bé như một lời tri ân của đứa con đến các bà mẹ, lòng biết ơn của người chồng đến các bà vợ Việt Nam tuyệt vời, một đời vất vả hy sinh cho người thân yêu của họ
trong khoảng thời gian cùng quẫn khó khăn nhất của xã
hội miền Nam.
Nhận được thư của Thoại gửi về qua tay chị Trang, chị mới đi thăm chồng về, Giang cảm thấy lo lắng. Nói là lá thư cho có vẻ trang trọng. Thực ra, đó chỉ là một mảnh giấy nhỏ nhàu nát. Trong thư, Thoại thăm hỏi gia đình và mẹ con nàng vài câu, thêm vài câu vắn tắt cho biết anh đang bệnh nhiều, cần thuốc thang chữa trị. Thời buổi khó khăn, tìm kiếm cái ăn cho hai mẹ con đã thật vất vả. Mà cả nước đều thế, chứ đâu riêng gì gia đình nàng. Mấy năm trời đi tù cải tạo, Thoại biết hoàn cảnh gia đình không khá, anh chưa bao giờ đòi hỏi xin xỏ gì. Nay tình hình chắc phải tồi tệ lắm mới có chuyện viết thư nhắn gửi như vầy.
X X X
Nhận được thư của Thoại gửi về qua tay chị Trang, chị mới đi thăm chồng về, Giang cảm thấy lo lắng. Nói là lá thư cho có vẻ trang trọng. Thực ra, đó chỉ là một mảnh giấy nhỏ nhàu nát. Trong thư, Thoại thăm hỏi gia đình và mẹ con nàng vài câu, thêm vài câu vắn tắt cho biết anh đang bệnh nhiều, cần thuốc thang chữa trị. Thời buổi khó khăn, tìm kiếm cái ăn cho hai mẹ con đã thật vất vả. Mà cả nước đều thế, chứ đâu riêng gì gia đình nàng. Mấy năm trời đi tù cải tạo, Thoại biết hoàn cảnh gia đình không khá, anh chưa bao giờ đòi hỏi xin xỏ gì. Nay tình hình chắc phải tồi tệ lắm mới có chuyện viết thư nhắn gửi như vầy.
Vậy nàng phải thu xếp lên rừng
một chuyến. Không đi, lỡ chồng có mệnh hệ gì, có lẽ sẽ ân hận suốt đời.
Công việc làm ăn của Giang bây giờ càng lúc càng khó khăn. Ngành may
mặc lúc trước gia công cón có đồng ra đồng vào. Kể từ khi bị buộc vào tổ
hợp, rồi tiến lên hợp tác xã, chỉ còn đồng lương cố định chết đói hàng
tháng cộng với ít tem phiếu mua gạo hẩm, nước mắm thối. Dạo sau này, đến
gạo hẩm cũng không còn. Tháng tháng mang tem sổ đến chỉ mua được khi
thì ít mì sợi, lúc vài ký bo bo loại thực phẩm cho ngựa ăn. Nhà nước gọi
nó là cao lương, nhưng nuốt vào miệng thế nào thì ỉa ra nguyện hột thế
ấy. Vậy mà có khi cũng không có, phải nhận mớ ngô vàng cứng như đá hoặc
bao củ lang củ sắn (khoai mì) hư thối hơn nửa. Thời những năm bốn mươi
lăm, nghe nói miền Bắc người chết đói hàng loạt, nhưng hồi ấy nàng chưa
sinh ra nên chẳng biết. Còn lớn lên ở cái miền Nam nhiều lúa lắm gạo
này, nàng chưa thấy có thời kỳ nào thế thảm như vậy.
Lại còn cái vụ phải xin phép nghỉ vài ngày để đi thăm chồng. Rắc rối
chứ đâu có đơn giản. Có nên về nhờ vả bố mẹ tí chút nào không? Cả hai
bên bố mẹ đều đã già, ruộng vườn co cóp mấy chục năm đã bị tịch thu hết
ngay từ những ngày đầu xã hội chủ nghĩa. Số còn lại giờ cũng phải vào
tập đoàn làm ăn tập thể, chả còn gì mà trông mong. Lấy gì để mua sắm lên
thăm Thoại đây?
Giang đành ngó quanh quất trong nhà coi có gì còn tí chút giá trị, có
thể tải được ra chợ. Của đi thay người, nàng ngẫm nghĩ. Cái khánh vàng
với bốn chữ Trăm Năm Hạnh Phúc lớn có con rồng và con phượng bao quanh
thật lộng lẫy. Quà cưới của bạn bè tặng Thoại ngày xưa, dễ có được vài
chỉ, đem bán đi chắc Thoại buồn, nàng cũng buồn. Nhưng thời buổi, cái
khó bó cái khôn. Túng phải tính cứ biết làm sao? Giang ngậm ngùi lôi nó
ra khỏi cái khung kiếng. Kể từ ngày “giải phóng”, số phận nó cũng giống
như Thoại, phải chui vào nằm trong một xó kín trong nhà, không được ngồi
trong tủ chè nữa.
Chưng ra cho chúng nó dòm ngó, có mà chết. Hôm nay
trong lúc túng cùng, thôi thì vĩnh. biệt. Giang gói nó lại bỏ vào giỏ
rồi đem ra chợ.
Vấn đề tài chánh coi như giải quyết xong. Không phải cầu cứu tới ai,
nhưng cũng nên cho bố mẹ Thoại biết một tiếng. Thoại đang đau ốm cần
giúp đỡ. Bố Thoại có nghề y tá dạo, ông biết về thuốc men, thế nào chả
có chút đỉnh cho con, còn mẹ ít nhất cũng có ít thức ăn cây nhà lá vườn
cho con trai bà sống cầm cự qua ngày. Tiện thể, nàng kéo thằng Quốc, em
trai nàng đi theo. Nó còn trẻ, mạnh khoẻ nhanh nhẹn đỡ đần tay chân chút
ít bớt vất vả. Kinh nghiệm của kỳ đi thăm nuôi lần trước vẫn còn nguyên
trong trí. Dạo ấy Giang đi cùng mẹ chồng, may mắn liên lạc được ít gia
đình rủ cùng đi chung, nương tựa, giúp đỡ khuyến khích nhau. Nếu không
chắc đã bỏ về nửa đường. Xe đò từ Sài Gòn đi Phước Long, tới ngã tư Minh
Hưng là điểm dừng cuối.
Từ đây không còn xe chở khách, ngoại trừ xe bộ
đội. Nhưng xe của “quân đội nhân dân” thường ít khi cho nhân dân đi quá
giang. Có lẽ có muốn cũng không còn chỗ, vì hàng ngày chả có mấy chuyến.
Và chuyến nào trên xe cũng thường đầy ắp. Tới Minh Hưng trời đã xế
chiếu. Muốn vào tới các trại cải tạo lao động ở trong rừng còn phải cuốc
bộ rất xa theo con đường Mười. Trại của Thoại ở gần nhất cũng cách trên
mười cây số. Tay xách nách mang, có gia đình còn mang theo con nhỏ
không biết làm sao để đi. Cuối cùng phải nhờ vả đến người dân địa
phương, những người trong vùng kinh tế mới. Họ rành rẽ đường đi nước
bước. Họ, có lẽ, trước đây cũng từ các thành phố đến, nhưng sau một thời
gian cực khổ, đã quen lam lũ. Vả lại, đó là cơ hội cho họ kiếm thêm
được ít đồng tiền đã trở nên rất hiếm hoi quý giá trên rừng này. Trẻ nhỏ
thì dẫn đường. Người lớn thì nhận chuyên chở giùm hành lý. Họ chịu hy
sinh nhiều giờ để vừa giúp đỡ vừa có thêm phần phụ giúp gia đình. Giá cả
thỏa thuận xong.
Có gia đình cả nhà cùng đi làm hướng dẫn viên một
loạt.
Đoàn người bắt đầu cất bước từ lúc xế chiều, khi nắng còn đổ gay gắt.
Thi thoảng, một chiếc molotova chạy ngang làm tung bụi đỏ mịt mù. Cứ
cách quãng dăm bảy trăm thước, đoàn người phải dừng lại nghỉ. Đến được
láng trại đầu tiên thì trời đã tối mịt. Mọi người mệt mỏi rã rời. Đoạn
đường chỉ hơn mười cây số mà đi tới gần năm tiếng. Đã vậy, khi còn
choạng vạng trời lại đổ ập cơm mưa. Đường đồi lên xuống đã gập ghềnh,
bây giờ thành trơn như bôi mỡ. Người đi thăm nuôi toàn là đàn bà con gái
chưa quen với những con đường đất trơn trợt, guốc dép cởi ra cầm trên
tay mà vẫn té lên ngã xuống, thật khổ ải. Ba lô trĩu nặng bờ vai nhỏ, Mưa lạnh đường trơn, chân đất vương Lặn lội thân cò pha nắng bụi,
Đường xa lặng lẽ đến thăm chồng.
Lần này, chuyến đi đột xuất, không có ai cùng đi, Giang nghĩ mình nên
chuẩn bị kỹ lưỡng. Nàng về quê mang theo lá thư của Thoại cho bố mẹ đọc,
cũng may quê Thoại gần thành phố, chỉ chừng hơn tiếng đồng hồ đi xe đò,
có thể đi về trong ngày. Gần như dự đoán của Giang, Bố Thoại biết tình
trạng sức khoẻ của con, có dự trữ sẵn mớ thuốc Thoại cần, nàng sẽ mua
thêm. Ông gửi kèm theo mấy hộp sữa đặc, một mặt hàng khá hiếm lúc này,
cho con trai bổi dưỡng. Bà mẹ thì chuẩn bị một ít ruốc, một hộp mỡ, đậu
phộng cây nhà lá vườn. Bà còn bảo mang theo ít cây trái trong vườn.
Giang bảo mẹ chồng: - Mẹ đã thấy rồi. Đường xá đi lại rất khó khăn, Con đâu thể mang vác nhiều. - Thì cũng phải có gì cho nó chứ. Chả lẽ lên thăm nuôi chồng tay không.
- Bây giờ thế này. Mẹ biết gia đình con, con cái còn nhỏ dại, đời sống
cũng khó khăn lắm. Bố mẹ bây giờ già quá rồi.
Thời buổi này chẳng làm gì
ra tiền. Thằng Thoại cũng cần chút ít phòng thân. Mẹ không có tiền cho,
con cố mang ít quà của mẹ. Phần mày không cần mua sắm nữa, ráng chạy
vạy dấm duí cho nó vài đồng.
Bà nói mãi. Giang đành chấp nhận mang theo quà của mẹ, ngoại trừ trái
cây hoa quả quá nặng nề. Nhưng bà bắt buộc cầm đi mấy cân bột, đậu xanh
và ít đường thẻ. Bà bảo trong tù chúng nó thiếu thốn nên thèm ngọt. Nhà
có sẵn, ráng mang đi cho bạn bè anh em nó có dịp “liên hoan”. Thằng Quốc
đang lúc rảnh rỗi, cũng sẵn sàng lên rừng. Có nó đi theo giúp đỡ, Giang
quyết định cho con đi cùng. Thằng Xuân chưa đầy ba tuổi nhưng lanh và
ngoan, có thể yê n tâm. Nên cho nó biết mặt bố. Kỳ trước lên rừng, nó
chưa được đi vì nàng chưa biết rõ đường đi nước bước. Bây giờ đã có kinh
nghiệm, thêm thằng Quốc bên cạnh. thêm tay thêm chân. Thoại chỉ mới gặp
con một lần ở Trảng Lớn. Lúc ấy, thằng Xuân mới mấy tháng chưa biết gì.
Hai cái ba lô đã chất cứng, đồ đạc bên ngoài vẫn còn nhiều, không biết
nhét vào đâu. Thứ nào nàng cũng thấy cần cho chồng. Quà cáp của bố mẹ và
thuốc men tối cần thiết không thể thiếu, dầu ăn, bột ngọt,tôm khô mặt
hàng tồn trữ chiến lược không thể bỏ lại.
Còn mấy gói thuốc lá và bánh
thuốc lào này thì tính sao? Giang thấy dạo sau này Thoại ngày càng ốm
yếu, ho hen luôn miệng, muốn khuyên chàng bỏ hút thuốc đi mà biết nói
như thế nào? Rừng núi khí hậu thời tiết lạnh lẽo, thân phận người tù, xa
vắng gia đình, cha mẹ vợ con đã nhiều năm, rượu chè đã không có, chỉ
còn làn khói thuốc cho ấm lòng, vơi đi nỗi nhớ nhung gia đình. Bỏ thì
thương, vương thì tội. Vả lại, không có thuốc lào thuốc lá thật thì họ
lại đi hút vớ vẩn những lá cây rừng độc hại thì còn nguy hiểm hơn. Thoại
đã chẳng từng kể anh và các bạn tù đã dùng xác bã trà làm thuốc hút đó
ư? Trà khô được pha uống đến khi nước pha trắng gần như nước lã mới đem
phơi khô, tẩm vào nước điếu đen thui để thành thuốc hút, chẳng ngon thì,
“không mỡ xài đỡ đèn cầy”, cũng tạm ấm lòng “ngục sĩ trong khi vắng
nhà”.
Xong được mấy món đồ lại lo chuyện giấy tờ. Việc làm trong tổ hợp và
đơn nghỉ phép đã có Thu lo giùm. Con nhỏ bạn gái chưa chồng, còn thong
thả nên giúp bạn nhiệt tâm.
Còn lại cái giấy phép đi đường từ mấy ông
‘kẹ’ ngoài phường là khá rắc rối. Ai đời cả năm mới xin phép đi thăm
nuôi chồng một, hai lần mà y như rằng, cứ thấy nàng ló mặt ra tới là
chúng hạnh hoẹ đủ thứ. Nào là mọi việc đã có nhà nước lo, cô không phải
lo, phải để cho chồng yên tâm học tập mới có kết quả, cứ thậm thụt lên
xuống thăm nuôi thế thì làm sao tiến bộ? Nào là đi hoài như thế mất bao
nhiêu công lao động. Ai cũng như cô thì còn ai xây dựng đất nước? Lần
nào cũng phải đấm mõm cho bọn chúng, khi thì vài gói Samít, lúc dăm bao
trà Thái Đức chúng mới chịu cấp giấy cho, còn ra giọng nhân nghĩa: - Nể lắm mới ký cho đó. Mấy phường khác thì còn lâu nghe chửa… Ra khỏi cánh cổng ủy ban, nàng còn nghe tiếng cười đểu của bọn chúng:
- ĐM lũ nguỵ quân Sài Gòn Chúng nó ăn bơ thừa sữa cặn của đế quốc quá
nhiều. Hèn chi vợ con chúng đứa nào cũng trắng da dài tóc. Từ nay cho
chúng bay chết cả nút…
Xong xuôi giấy tờ, Giang chuẩn bị đi ngay. Nàng cùng em và con ra bến
xe thật sớm.
Thời buổi này, cái gì cũng của dân, do dân làm chủ, nhưng
chủ chỉ đuợc phép ngó, không được phép rờ. Phải ưu tiên cho đầy tớ của
dân là cán bộ, bộ đội. Bỏ tiền ra mua vé xe cũng ưu tiên cho cán bộ,
thừa ra mới tới dân. Không sao, Giang biết cách xoay xở. Chỉ cần bỏ ra
ít tiền lẻ cho người bán dạo hàng quanh bến xe là có vé chợ đen. Bọn cửa
hàng thông đồng với đám viên chức cán bộ lợi dụng sự ưu tiên để mua
giành hết vé, đem tuồn ra ngoài kiếm lời chia nhau, thành ra dân có chầu
chực ba bốn ngày liền cũng chưa chắc có vé. Chuyện đểu cáng thế nhưng
lúc nào bọn chúng cũng giả bộ liêm chính, miệng lưỡi toàn là đạo đức
cách mạng. Rặt một bọn vô liêm sỉ.
Chiếc xe khách dồn người nêm như cối, không còn chỗ cựa. Hành khách leo
lên ngồi cả trên mui, mừng vì may mắn có được một chỗ. Chị em Giang và
con bị nhét vào giữa lòng xe nên không nhìn thấy quang cảnh bên đường.
Của đáng tội, sau vài năm “giải phóng”, đất nước rặt một màu xám tro. Có
còn gì khác để mà nhìn ngắm. Đâu đâu cũng một cảnh nhà cửa điêu tàn,
cây cối
xác xơ.
Càng
đi xa Sài Gòn càng thấy sự hoang sơ tiêu điều của những vùng được mệnh
danh là vùng kinh tế mới. Thật là thành quả. Giang nghĩ: hoa hôi kết
thành quả đắng. Chiếc xe cũ kỹ già nua, bò ì ạch, thở hổn hển. Mãi rồi
cũng lết được tới khu kinh tế mới Minh Hưng, điểm đến cuối cùng khi mặt
trời đã bắt đầu ngả về Tây. Xuống xe,
Giang cùng em và con bước vào một
quán nước bên đường. Nỗi lo lắng bắt đầu dâng lên. Khi còn ở nhà, vì hăm
hở muốn gặp chồng để biết đau ốm ra sao, phần vì những lo âu khác, nàng
quên đi cái khó khăn này: đường còn xa, phương tiện chuyên chở không
có, phải xoay xở ra sao? Phải ngủ trọ lại một đêm rồi sáng mai lên
đường? Vùng này kiếm ra một chỗ trọ cho ba người không dễ. Thằng Quốc
liều mạng bàn là cứ đi, mười giờ đêm đến là cùng chứ gì? Thấy được nỗi khó khăn của người đàn bà trẻ, người chủ quán thương hại:
- Để tôi hỏi thằng con trai tôi coi nó chịu dẫn đường giúp không? Nó
vẫn hay giúp đỡ bà con mình ở thành phố lên. Có nó quen đường quen xá ở
xó rừng này mới đi được.
Tội nghiệp thằng nhỏ. Lâu nay chịu cực chịu khổ
đã quen. Có hôm nó phải đi suốt đêm, gần sáng mới về tới nhà.
Giang mừng rỡ theo chủ nhà đi điều đình với người con. Giá cả thoả
thuận xong xuôi, họ ăn uống qua loa rồi chuẩn bị lên đường ngay.
Cậu con trai dẫn đường cùng Quốc mỗi người một ba lô, còn Giang bế con.
Thỉnh thoảng mỏi tay lại cho thằng Xuân xuống đi bộ. Chỉ mới hơn năm
giờ chiều mà trời đã choạng vạng.
Ở rừng trời mau tối, người ta bảo vậy.
Nàng rất mệt mà vẫn không dám nghỉ nhiều, con đường như dài vô tận. Hai
chị em lúc này luân phiên thay đổi, khi thì đeo ba lô, khi bồng thằng
Xuân. Nàng hơi hối hận đã mang con theo. Hai tay mỏi rã rời, hai chân
như buộc chì không cất lên nổi. Đoạn đường, theo cậu dẫn đường chưa được
phần ba. Trời đã thẫm màu. Cậu dẫn đường đi chặt nứa làm đuốc. Kinh
nghiệm đi rừng, lúc nào cũng phải có dao trên tay, cậu bảo thế. Đêm đã
về,thằng Xuân sợ hãi không rời mẹ ra nữa.
May mắn có một chiếc xe chạy ngang. Chiếc xe quân đội trên sư (đoàn) đi
công tác bị hư dọc đường, khách đã chuyển qua xe khác về trước. Bây giờ
xe mới sửa chữa xong quay về.
Chiếc xe trống rổng dừng lại cho quá
giang. Người bộ đội lái xe còn đủ tình người để thông cảm cho đám người
bơ vơ giữa rừng đêm. Giang cám ơn và trả tiền cho cậu bé dẫn đường để
cậu quay về nhà, còn ba người leo lên xe.
Đến trại cải tạo Thoại đang ở, trời đã hoàn toàn tối mịt, sương đêm rơi
xuống ướt lạnh bờ vai, người lái xe dừng lại cho ba người xuống. Giang
không quên lục tìm gói thuốc thơm biếu, cám ơn anh đã giúp đỡ.
Người bộ
đội cười nói không có chi, chúc gặp người thân vui vẻ rồi từ giã phóng
xe đi. Anh về sư, còn phải đi thêm một quãng nữa.
Giang nhìn quanh. Bên tay phải ngay chỗ xuống xe, mấy dãy nhà lợp tôn.
Là bộ phận khung (khung=ban chỉ huy một trại cải tạo thường cấp tiểu
đoàn). Những tấm tôn mà kỳ thăm nuôi trước, Thoại đã kể cho nàng nghe:
đó là những tấm tôn vấy máu anh em cải tạo. Số là khi còn ở tại trại tập
trung cải tạo Trảng Lớn, trại tù này trước đây do sư đoàn 25 bộ binh Mỹ
thiết lập, sau năm 1972, họ rút về nước đã trao lại cho sư đoàn 25 bộ
binh quân lực VNCH sử dụng làm căn cứ.
Sau tháng Tư 1975, quân chính quy
Bắc Việt tiếp thu đã sử dụng làm một trong những trại tập trung cải tạo
Sĩ Quan Miền Nam VN trình diện tại Sài Gòn và vùng phụ cận. Gần hai năm
trời tại trại với rất nhiều biến chuyển, những ông cai tù, người từ
phía bên kia nhìn thấy cảnh ‘phồn vinh giả tạo’ của miền Nam đã có rất
nhiều sáng tạo. Khởi đầu là phong trào “tam đê” gồm có đài, đồng, đạp.
Mỗi người phấn đấu để có một xe đạp làm chân, một đồng hồ trên tay và
cái đài trên vai. Đó là thế hệ xã hội chủ nghĩa nhuốm màu tư bản sơ
khởi. Khi phong trào đã lắng dịu thì đến chiến dịch “bốn vê”: vào,
vơ,vét, về. Sau một thời gian vơ vét hết mọi thứ, kể cả những mảnh vụn
kim khí từ những chiếc trực thăng, mang về cho một lực lượng lao
động”chùa” khổng lồ, đám sĩ quan tù cải tạo giũa gọt, vẽ khắc, đánh
bóng, làm thành những món quà quý giá như gương lược, kẹp trâm, những bộ
điếu cày chạm trổ tinh vi.
Đến cả những tấm ghi sắt lót làm sân bay
cũng được gỡ sạch để phục vụ cho các “anh hùng cách mạng.”
Khi không còn gì để vơ vét, đêm nằm vắt trán suy nghĩ, nhìn lên nóc nhà
họ thấy toàn là tôn. Hướng mắt về phía cửa sổ, bên ngoài là những bãi
mìn phòng thủ nằm giữa những lớp kẽm gai, cỏ tranh mọc tốt cao quá đầu
người. Lại suy nghĩ. Cỏ tranh này miền Bắc có lợp nhà thật tốt. Ở đây
bọn Mỹ Nguỵ toàn lợp mái bằng tôn. Giời ơi! Nghĩ ra rồi, của ở trên đầu
này chứ còn ở đâu nữa. Trong đầu của người cán bộ, những tấm tôn đã biến
thành những hòm lớn hòm nhỏ, mai này đi phép mang về nhà thì quý vô
cùng, tiện lợi lại bền hơn gỗ. Miền Bắc hiếm tôn thì chắc chắn có giá.
Đúng là sáng tạo.
Cụ Mác cụ Lê nói thì chẳng sai. Cám ơn các cụ. Nhờ tư
tưởng của các cụ đã soi sáng cho đàn cháu biết tư duy.
Bộ phận khung nhất trí soạn thảo kế hoạch. Chỉ tiêu được đề ra: thi đua
lao động lập thành tích mừng sinh nhật ‘Bác’. Quyết tâm đạt được mười
ngàn bó tranh. Sau khi đã cắt hết tranh phía trong trại, kể cả quanh sân
bay cũng chỉ được một phần ba, bộ phận cho lệnh tiến công ra ngoài rào,
tức đi vào khu vực có gài mìn bẫy. Tranh tai đây cao và rất dầy. Cắt
được hết thì không phải tới mười nghìn, mà có thể năm bẩy chục nghìn
cũng có dư. Còn mìn bẫy thì sao? Có người hỏi. Dễ lắm, thủ trưởng nói:
bảo đám tù cẩn thận, vừa cắt tranh vừa để mắt cảnh giác một tí có sao.
Chính trị viên tiểu đoàn còn mạnh miệng hơn: Bọn nguỵ quân nguỵ quyền
tội ác ngập đầu, được tha chết đã may mắn nhiều. Chúng mình ngày trước
còn gian lao nguy hiểm gấp vạn lần ấy. Rồi có sao đâu. Thôi. cứ thế mà
làm.
Lên giao ban nhận lệnh từ khung, anh em tù giật nẩy mình. Vài người đi
vào bãi có sơ đồ, có dụng cụ dò mìn còn lo lắng, huống chi hàng mấy trăm
con người hỗn độn đi vào lao động trong một vùng cỏ dầy chi chit che
kín hết các dấu hiệu mìn bẫy, lẫn vào cỏ không nhìn thấy nhau, chết là
chắc.
Lệnh trên đưa ra không thể không thi hành, bị ghép vào tội nổi loạn,
chống lại cách mạng tập thể cũng chết. Thi hành thì. Mọi người vô cùng
lo lắng, cầu trời khấn phật sao cho tai hoạ không xảy đến cho mình. Thật
ích kỷ nhưng trước một cái chết vô lý chắc chắn biết nói gì?
Hậu quả của buổi sáng lao động hôm ấy thật kinh hồn: chỉ sau hai giờ
làm việc, một tiếng nổ long trời lở đất, tám mạng người ra đi, không ai
trong số còn nguyện vẹn thi thể. Sự sợ hãi lên đến cao độ khi nhận lệnh
đi thu nhặt xác bạn bè tử nạn. Cũng may tiếng nổ làm quang đi vùng cỏ
chung quanh. Buổi lao động được hủy bỏ. Sau ít ngày nghỉ ngơi cho công
tác chôn cất những người xấu số, người sống sót lấy lại tinh thần, cán
bộ khung vẫn tiến hành kế hoạch với một phương thức khác an toàn và nhân
đạo hơn. Họ dùng xe chở đán người tù cải tạo đi về phía Cà Tum,Núi Bà. Ở
vùng này có rất nhiều đồi tranh, xa xôi, tốn kém xăng dầu nhưng đỡ tốn
máu.
Dù
mở miệng ra là nêu cao chuyên chính vô sản, ca tụng sự tốt đẹp cũa con
người xã hội chủ nghĩa, bản năng tham tư của cán bộ bộ đội ngày càng
phát triển mạnh hơn. Càng ở lâu thì càng tham. Khi có lệnh chuyển trại
lên rừng, các doanh trại được giao lại cho đơn vị khác, số tranh chưa
cắt đủ thay thế tôn, nhưng tôn vẫn được tháo gỡ xuống hết để mang theo.
Số tranh có sẵn được giàn trải ra thật mỏng cho đủ che kín mái. Vì vậy,
khi hoàn thành, ở trong nhà không khác chi ở ngoài trời.
Khi đơn vị mới tới, làm sao họ ở? Có anh ngứa miệng hỏi. Đó là việc của
họ, cán bộ trả lời, dĩ nhiên, họ lại sáng tạo, lao động vinh quang là ở
chỗ này.
Tôn mang lên rừng để lợp mái cho bộ phận khung, để gò thành hòm lớn hòm
nhỏ cho cán bộ. Làm nhà cho khung xong mới tranh thủ dựng trại cho anh
em. Lại sáng tạo. Không có cỏ tranh, nhưng rừng có đầy tre nứa, lồ ô.
Đốn tre đốn gỗ về dựng nhà, mái và vách lợp bằng nứa đập dập đan vào
nhau thành những tấm phên.
Bạn tù cải tạo (ảnh minh hoạ) |
Nguồn: Journey from the Fall/Ham Tran |
Đó là cảnh những ngày đầu mới lên rừng lao
động.
Thoại đã kể cho nàng nghe như thế. Nàng đã ngậm ngùi thương cảm những
người bất hạnh và gia đình của họ. Những người thân mãi mãi không bao
giờ trở về chỉ vì những tấm tôn chẳng đáng giá là bao. Giờ sau vài mùa
mưa nắng, những tấm tôn lợp trên khung đã bắt đầu han rỉ, trông như một
chứng tích đẫm máu của tám người bạn tù nằm xuống trên đất Trảng năm
nào.
Giang bước vào dãy nhà lợp tôn được gọi là bộ phận khung, hay ban chỉ
huy trại để trình giấy tờ xin thăm nuôi đột xuất.
Được biết thật bất ngờ
là hầu hết anh em tù cải tạo đã có nhiệm vụ mới, được chuyển đến một vị
trí sâu hơn phía trong cho công tác chuẩn bị xây dựng một nhà máy làm
bột củ sắn (khoai mì) lớn nhất Động Nam Á Châu. Họ đã di chuyển cách đây
hai ngày, chỉ còn một số ít anh em ở lại phụ giúp tháo gỡ (lại tháo gỡ)
bộ phận khung mang đến vị trí mới. Hoàn tất xong sẽ đi sau. Họ cho phép
gia đình nàng tạm trú ngụ trong khu nhà thăm nuôi gọi là nhà khách,
đồng thời khuyến cáo hôm sau nên quay trờ về vì đợt thăm nuôi chính thức
chưa đến. Thật đau lòng biết bao. Chịu đựng đũ mọi gian khổ cốt để gặp
chồng lại không toại nguyện. Giang ôm con vào lòng mà khóc.
Có lẽ trời còn thương. Một số anh em cải tạo còn ở lại thấy khu nhà
khách có ánh lửa thì họ mò đến. May mắn hơn nữa, trong đó có Quang,
người bạn lính cùng đơn vị với Thoại ngày xưa. Chính hai người đã cùng
nhau đi trình diện cải tạo, do đó đang ở tù chung một trại.
Quang sắp
xếp chỗ ăn ở cho gia đình nàng. Cơm nước của tù chẳng có gì, ít bo bo và
củ mì ăn với nước muối và lá tàu bay. Giang đem con xuống dòng suối rửa
ráy qua loa. Nước suối lạnh như nước đá, dù bụi bám đầy người cũng
chẳng tắm rửa nổi. Thấy bọn Quang loay hoay với nồi sắn luộc, nàng bảo
Quốc lấy trong ba lô ra con gà rán sẵn thơm phức, gói xôi đậu xanh cùng
ít bánh nếp mẹ chồng làm, bà biết Thoại thích bánh này của mẹ. - Mời anh Quang, các anh đến dùng cơm với chúng em.
- Thôi chị ạ! Gia đình chị cứ tự nhiên đi, Quang nói. Tụi tui kham khổ
quen rồi. Với lại, để phần cho thằng Thoại nữa chứ. Vợ con lên thăm mà
không có gì nó buồn chết.
- Đừng ngại các anh ạ! Các thứ này Giang mang theo để dùng trong ngày
thôi.
Đến mai sẽ thiu thối hết. Các anh ăn thì cũng như anh Thoại thôi.
Ảnh không được ăn là tại số ảnh xui không có mặt hôm nay. Vả lại, em có
ít thuốc men và đồ khô, không gặp được chồng thì có lẽ phải nhờ mấy anh
chuyển đến giùm. Quốc ơi! chị có mang cà phê trong túi, em mang ra pha
mời các anh uống đi em.
Quang và các bạn không khách sáo nữa. Tất cả cùng ngồi xuống vừa hỏi
thăm chuyện thành phố, tin tức bên ngoài, vừa thưởng thức cái bùi của
nắm xôi, miếng thịt gà vừa béo vừa thơm. Thích nhất vẫn là hương vị của
ly cà phê đen thật đậm kèm theo điếu thuốc thơm ấm cúng. Nước sôi nấu
trong hộp qui gô có quai xách, vợt lọc cà phê làm bằng bao cát, vẫn
không kém phần thú vị giữa cái lạnh núi rừng. Tin tức vẫn chẳng có gì
lạ. “Vũ như Cẫn” Thời gian như ngưng lại. Đời sống khó khăn hơn. Mọi
việc ngày càng xấu đi.
Quang thấy mẹ con nàng lặn lội thật vất vả mới lên được tới đây mà
không gặp đuợc chồng thì quá tội nghiệp. Anh nhất định cùng các bạn bàn
cách để hai người gặp gỡ nhau. Họ bàn thảo một hồi. Cuối cùng đi dến
quyết định.
Ngày mai Quang thức dậy thật sớm, khoảng bốn giờ sáng đi lên trại mới.
Đường đất khá xa, đi và về cũng mất hơn ba giờ. Quang sẽ báo cho Thoại
biết có gia đình lên thăm. Trại mới chưa có nhà cửa rào dậu gì, chắc
chắn mọi người đang trong công tác chặt cây, lấy gỗ về làm nhà. Quang
bảo:
- Tao sẽ ráng đi nhanh chân để về sớm trước giờ lao động. Tuy nhiên, lỡ
có về muộn chút đỉnh thì tụi bay tìm cách bao che. Được rồi, chị Giang
chuẩn bị ngay một mớ đồ dùng vào ba lô tôi mang đi trước cho Thoại.
Riêng chi sau tám giờ lên khung xin lấy lại giấy tờ, cho họ biết không
gặp được chồng, chị quay trở về nghe không? Nhớ làm sao đừng để họ nghi
ngờ và đoán biết kế hoạch của chúng ta, lôi thôi lắm. Sau đó chị giả vờ
đi ngược trở về phía Minh Hưng.
Khi đã đi xa thoát khỏi tầm mắt của họ,
tôi sẽ đón chị đi vào rừng, chúng ta dùng lối mòn mà chúng tôi thường đi
lao động ở phía sau trại, khoảng chừng hai cây số lại trổ ra con lộ
lớn. Tới đây đã khá an toàn.Tôi đưa chị đi thêm một quãng đường nữa rồi
quay trở lại. Chị cứ tiếp tục đi tiếp. Trong khi Thoại ở đầu bên kia đi
ngược trở lại. Trên đường đi, chị sẽ gặp một trại cũ, anh em cải tạo đã
dơì đi,
bây giở trở thành một đơn vị sửa chữa công xa.
Bộ đội đóng ở đây ít khi hỏi han tới tù cải tạo, dường như họ không có
nhiệm vụ với tù. Sát lề đường gần cổng trại này có một quán nước gọi là
căng tin. Chủ quán là người dân thường được phép đến làm ăn liên hệ với
bộ đội, thỉnh thoảng tiếp cả khách cải tạo nếu ai có dịp đi qua., bộ đội
cũng không ngăn cấm. Chị vào quán ngồi uống nước quay mặt ra đường. Ai
hỏi chuyện cứ bịa đại là thăm chồng đi nghĩa vụ. Khi nào Thoại đi qua,
nó liếc vào quán sẽ thấy chị ngay. Tôi sẽ dặn nó khi đi qua quán, nhìn
thấy chị rồi cứ tiếp tục đi thẳng.
Chờ cho Thoại đi xa khoảng hơn trăm
mét, chị hãy trả tiền rồi ra khỏi quán đi theo. Làm sao để nếu có người
ngồi trong quán lúc đó không nghi ngờ. Ở một vườn sắn thật rậm rạp um
tùm cách đó khoảng nửa cây số có một cái chòi nhỏ nằm rất sâu bên trong.
Cái chòi do bọn tù cải tạo chúng tôi dựng lên tránh mưa nắng khi đi lao
động, bây giờ bỏ hoang, có sửa sang lại để làm điểm hẹn bí mật cho
những chuyện thăm nuôi đột xuất như vầy. Chòi nằm giữa rẫy nên rất kín
đáo. Thoại sẽ đón chị vào đó. Nhớ đừng để ai nhìn thấy chị gặp Thoại.
Cũng nhớ nhìn trước nhìn sau truớc khi bước vào bìa rừng. Bây giờ bọn
mình về trại cho chị và cháu nghỉ ngơi. Cố làm theo đúng kế hoạch. Bây
giờ chị đưa ba lô hành lý đây tôi mang đi truớc. Quang và các bạn chào
tạm biệt ra về.
Kế hoạch được tiến hành như dự định.
Quang báo cho Thoại biết trước và
trở lại kịp giờ lao động, rồi đưa gia đình Giang đi vào lối mòn tắt
trong rừng. Sau đó ra lộ đi kèm thêm một đoạn nữa rồi phải từ giã. Hai
chị em tiếp tục con đường. Thằng Quốc dường như qua một ngày vất vả hôm
trước, không còn bao nhiêu sức, Giang phải chia bớt túi đồ cho nó, trong
khi vẫn phải trông chừng con. Đường đồi lên đèo xuống dốc thật khổ. Đi
vài chục bước lại phải dừng lại thở. Mãi rồi cái quán bên đường cũng
hiện ra. Mừng vui hiện lên khoé mắt, Giang dẫn em và con vào giải khát,
nghỉ ngơi, chờ chồng. Bên trong có mấy người bộ đội ngồi uống nước trà
hút thuốc đưa đẩy cười nói với cô gái bán quán trông còn rất trẻ. Thấy
bọn Giang bước vào, họ ngưng nói, mắt hướng về nàng có ý nghi ngờ.
Nhưng
họ không nói gì.
Giang ngồi vào cái bàn ngay cạnh cửa, giả bộ chăm sóc con ăn uống. Kỳ
thực, đôi mắt cứ liếc nhìn ra đường trông ngóng. Thỉnh thoảng, một hai
người tù cải tạo ăn mặc rách rưới, trông thật tang thương, trên tay ai
cũng có một dao rựa lớn đi lướt qua nhưng không phải Thoại. Ngồi đã khá
lâu, nàng cảm thấy bồn chồn. Đám bộ đội cũng đã bỏ đi.
Đến lúc ấy, Thoại mới chợt hiện ra, cũng áo quần rách bươm, cũng con
dao rựa trên tay. Anh liếc nhẹ vào quán rồi tỉnh bơ đi thẳng. Quốc thì
thầm: “Ảnh tới rồi đó, chị thấy chưa?”
- Thấy rồi! Đừng nói gì hết. Để anh đi một quãng xa đã, kẻo tụi nó nghi.
Nhìn thân hình tiều tuỵ trong bộ đồ ăn xin của chồng, Giang thật mủi
lòng. Những kỳ thăm nuôi chính thức trước dù sao cũng còn khá tươm tất.
Lúc này đang giờ lao động, phải ăn mặc như người đi lao động không thì
lộ chuyện. Thật là buồn. Vợ lên thăm chồng mà gặp nhau không dám gọi.
Nàng muốn bật khóc mà không dám, chỉ đưa nhẹ khăn tay lên lau mắt như có
hạt bụi vướng vào. Ôi! Có thời đại nào người hãi sợ người như cái thời
đại này. Vợ chồng thân yêu đầu ấp tay gối, gặp nhau phải làm ngơ như
người xa lạ.
Chờ cho Thoại đi khuất, nàng mới trả tiền bước ra khỏi quán. Tính đi
ngược lại với hướng của Thoại một đoạn rồi mới băng rừng trở ra như dự
tính, nhưng sao chân lại cứ theo bước chân chàng. Thì, một liều ba bảy
cũng liều, đến đâu hay đến đó. Thoại dường như cũng không kiềm chế nổi tình cảm, anh đã quay lại, đến gần vợ con, nắm lấy cái túi xách trên vai nàng kêu khẽ: - Em! Con! Giang thổn thức: “
Anh ơi!” rồi nước mắt tuôn rơi. Thoại vội lên tiếng an ủi: - Đừng khóc, tụi nó nghi ngờ là khổ cả lũ. Để anh xách túi đồ đi trước vào vườn sắn. Em cứ thế mà đi theo nhé!
Rồi anh bỏ đi trước. Vườn sắn bỏ hoang, cỏ dại cao hơn đầu người mọc
chằng chịt xen lẫn với cây sắn. Đang cố vạch đường tìm vào cái chòi giữa
vườn, anh bỗng giật nẩy mình dừng lại. Loáng thoáng có tiếng người ở
phía chòi. Hoá ra là mấy tay bộ đội đi săn. Bọn họ lần theo dõi dấu heo
rừng về đào phá củ mì và tìm ra cái chòi. Thật là tiện cho họ, có chỗ để
ẩn nấp rình mồi.
Thật may, Thoại nghĩ, gia đình mình chưa vào tới, không thì đã lộ tẩy.
Không thể dùng chòi được nữa. Anh quay lui lại bảo Giang đừng tiến vào
sâu nữa. Đáng buồn, vợ con lên thăm mà không có một nơi chỗ yên ổn để
mừng rỡ, thăm hỏi, nói gì đến san sẻ tình nghĩa yêu thương. Đưa nhau đi
đâu bây giờ? Trở lại căng tin, mỗi cách ấy. Vừa đi vừa nói chuyện. Anh
dặn nàng nếu bị tra hỏi cứ trả lời túi xách nặng quá nhờ anh mang hộ nên
đãi anh ly nước, hai người không có quan hệ, Một tên bộ đội chạy đến
trước mặt anh lên tiếng hạch sách rất hách dịch như muốn ra uy: - Anh kia là cải tạo phải không? Đang giờ lao động sao lang thang ở đây? Có phải móc nối với gia đình thăm nuôi lén lút chứ gì?
Thoại tránh tiếng. Anh đưa con dao rựa ra trước mặt:
- Tôi đang đi lao động trong rừng kiếm cây về làm cột. Gặp chị ấy con
nhỏ lãi mang xách nặng nề nên giúp một tay, chứ không có liên hệ. Giang cũng đỡ lời:
- Em lên sư đây cán bộ ơi! Sắp tới sư chưa? Cán bộ chỉ giùm. Đang mang
xách nặng quá chưa biết làm sao thì có anh này giúp mang hộ. Tính lại
quán mời ảnh cốc nước trả công ý mà! Anh chàng bộ đội được người đàn bà gọi là cán bộ, ra vẻ mát lòng đổi thái độ: - À cũng sắp tới rồi, đi vài quãng nữa thôi. Chị có cần tôi giúp một tay?
- Thôi, gần tới rồi thì không dám làm phiền cán bộ. Hắn bỏ đi miệng lầm bầm: “cha nào trên sư tốt số thế! Cứ như múi mít ấy”. Thoại không nói gì, nhìn chăm chú vào ly nước trên tay. Chờ hắn đi xa, anh nói nhỏ:
- Đi đâu cũng gặp kỳ đà cản mũi, chán thật. Trong quán này tai vách
mạch rừng, nói chuyện nguy lắm. Thôi mình đi ra, vừa đi vừa nói chuyện
được đâu hay đó. Thuốc men đồ dùng Quang đã đưa cho anh rồi. Gặp nhau
lén lút thật bất tiện. Bố mẹ ra sao? Cả bố mẹ em nữa? Quốc lớn bộn
ha?Làm ăn thế nào? Cho anh gửi lời thăm hỏi sức khoẻ mọi người. Nói ông
bà cứ yên tâm, anh sẽ ráng giữ gìn sức khoẻ, ráng sống để về với em và
con, với gia đình.
Thôi, đưa em và con về. Có ở thêm cũng không gặp gỡ
nói chuyện được. Theo anh biết, hàng ngày quán này có chuyến xe ra vào
thị xã, không biết phía Minh Hưng hay Đức Hạnh. Em thử lại điều đình với
chủ quán xem sao? - Đã lâu không gặp anh. Chưa nói với nhau gì hết đã bảo đi về? Anh đau ốm ra sao?Nói thật cho em biết để em liệu. Giang khóc, “Chả lẽ vừa gặp nhau đã từ biệt ngay?”
- Đành chịu vậy! Hoàn cảnh này em biết. Anh thèm muốn được ôm em và con
vào lòng một chút mà đâu dám. Tụi nó bắt gặp là cùm chân biệt giam, khổ
vô cùng. Em hãy về. Chủ yếu mang thuốc men đến được tay anh để có hy
vọng chống chỏi bệnh tật, mới có ngày về với em. Thôi chịu thua số phận
đi, đợi dịp thăm nuôi chính thức mình gặp nhau lâu hơn. Nói bố mẹ đừng
lo lắng thái quá. Anh nhất định sẽ trở về.
Thoại đã nói thế, Giang còn biết nói sao. Nàng đứng dậy trả tiền, tiện
thể hỏi thăm về chuyến xe hàng sắp tới để xin đi theo. Sáng mai mới có.
Vậy lại phải cuốc bộ ra thị xã chiều nay. Giữa rừng, chỗ đâu mà trú.Mọi
người kéo nhau ra khỏi quán.
Đi bộ một quãng,nhìn chung quanh vắng lặng không có ai, Thoại choàng
tay qua vai vợ hôn nhẹ lên mái tóc đượm mùi cháy nắng của nàng, ghì vội
con vào lòng thì thầm với nó:
Xuân con ơi! Ba nhớ thương mẹ và con thật nhiều.
Con lên thăm mà ba
không thể nói chuyện với con ba thật đau lòng. Thôi con về nhớ ngoan
ngoãn cho mẹ vui nghe không? Nói với ông bà nội ngoại là ba nhớ ông bà
lắm. Mi tạm biệt ba cái coi nào!
Thằng bé còn đang ngẩn ngơ dãy dụa trên tay anh, người đàn ông đối với
nó vẫn còn xa lạ, gầy gò, rách rưới, lôi thôi như người ăn xin nó thường
thấy ngoài chợ. Ông lại còn ôm mẹ con nó vào lòng. Chưa kịp cất tiếng
khóc, bỗng dưng xuất hiện lù lù hai người bộ đội, một người hai mẹ con
mới gặp lúc sáng. Anh này quắc mắt lên: - A ha! Láo lếu thật. Lũ nguỵ dám qua mặt cách mạng. Vậy mà chúng nó bảo là không có quan hệ.
Tội lừa dối nhân dân, lừa gạt nhà nước nặng lắm có biết không? Đúng là
bản chất Mỹ Nguỵ khó mà gột rửa. Cần phải cho đi cải tạo mút chỉ mới
sáng mắt. Cách mạng đã cách ly gia đình để tạo cơ hội yên tâm học tập,
mà còn lén lút móc ngoặc với nhau. Này anh kia! Vi phạm nội qui của trại
là mang tội có âm mưu chống đối cách mạng, không thành tâm hối cải…
Hắn còn đang thuyết giảng, Thoại vội buông thằng bé xuống đất, quay qua
nói nhanh với vợ, “Kiếm đường về đi”, rồi chụp vội con dao dưới chân
nhãy phắt vào buị rậm trước mặt. Giang ôm lấy con, cùng đứa em trai đứng
ngơ ngác, bơ vơ giữa con đường đất đỏ bụi mờ. Thoại có lủi kịp không?
Về trại có sao không? Còn nàng, con nhỏ trên tay, về đâu đêm nay giữa
núi rừng bao la với sương đêm lạnh buốt?
Phương DuyCuối năm 2002( sửa chữa 05/2008)
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 253
CA TRÙ -
Saturday, March 16, 2013
TRỌNG THÀNH * CA TRÙ
Ca trù trước ngã ba đường:
Phục sinh hay mai một
Hát ca trù - tranh sơn dầu của Phạm Công Thành (2005). Ảnh: N.X.D
Ca trù - môn nghệ thuật cổ truyền độc đáo của Việt Nam - ngày
càng được công chúng trong nước và quốc tế biết đến. Năm 2009, ca trù
được Unesco công nhận là một “di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại
cần được bảo vệ khẩn cấp”. Điều bất ngờ là, trong thời gian gần đây,
càng lúc càng có những tiếng nói trong nước báo động về nguy cơ mai một
của ca trù.
Tại Việt Nam, về mặt số lượng, các nhóm ca trù địa phương dưới
hình thức câu lạc bộ đang nở rộ. Nếu như trước năm 2005, cả nước chỉ có
khoảng 20 câu lạc bộ, thì nay đã tăng lên gấp ba lần. Các câu lạc bộ ca
trù có mặt tại khoảng 15 tỉnh và thành phố Việt Nam. Một số khóa truyền
nghề của các nghệ nhân “đầu ngành” cho thế hệ trẻ đã được thực
hiện, một số liên hoan ca trù toàn quốc đã được tổ chức, một số sinh
hoạt ca trù gắn với các lề thói xưa đang bắt đầu được phục hồi, các
phương tiện truyền thông chú ý nhiều hơn đến ca trù…
Tuy nhiên, điều bất ngờ là, trong thời gian gần đây, càng lúc càng có
những tiếng nói trong nước cất lên báo động về nguy cơ mai một của ca
trù. Thậm chí, một số ý kiến nhắc đến khả năng Unesco rút danh hiệu “di sản văn hóa nhân loại” mà môn nghệ thuật quý báu này vừa được trao tặng.
Tạp chí Cộng đồng của RFI tuần này xin chuyển đến quý vị tiếng nói
của một số nghệ nhân, nghệ sĩ, nhà tổ chức, chuyên gia hàng đầu về ca
trù tại Việt Nam, những người tích cực hoạt động để cổ vũ cho sự phục
hồi/phổ biến nghệ thuật ca trù, với hy vọng tiếng nói của các vị khách
mời sẽ mang đến cho quý vị những góc nhìn khác nhau, góp phần vào việc
soi tỏ thực tại nhiều nghịch lý kể trên.
Các khách mời của chúng ta hôm nay là các nghệ sĩ, nghệ nhân Nguyễn
Thúy Hòa, Bạch Vân, Phạm Thị Huệ và Nguyễn Văn Khuê, những người trực
tiếp bảo tồn/phổ biến di sản nghệ thuật này ; giáo sư Tô Ngọc Thanh và
nhạc sĩ Đặng Hoành Loan, những người có trọng trách trong việc lập hồ sơ
ca trù gửi Unesco, và tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, tác giả một số công
trình nghiên cứu về lịch sử ca trù, đặc biệt qua di sản Hán-Nôm.
Lo lắng, nhưng lạc quan về tương lai của ca trù
Mở đầu tạp chí là tiếng nói của nhà nghiên cứu âm nhạc học dân
tộc Tô Ngọc Thanh, chủ tịch Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, một người
nhiều năm đóng góp cho quá trình phục hồi di sản ca trù.
Tô Ngọc Thanh : Sau khi nhận được cái vinh danh ấy,
thì vừa mừng, vừa lo, đặc biệt những người như chúng tôi. Tức là những
người dám nói hiểu biết một ít về ca trù. Lo sợ cho vận mệnh của nó, nên
càng lúc càng lo hơn. Bây giờ, nó như thế này : Chỗ đứng của ca trù
hiện nay trong con mắt của nhân dân có tăng lên so với trước. Họ biết rõ
đấy đích thực là một di sản quý báu, chứa chất những tinh hoa về văn
học, văn hóa, nghệ thuật và âm nhạc nữa. Thì đấy là một điều mừng, vì
anh chẳng lạ gì, trước đây cũng có người nói rằng đấy là sản phẩm của
cái nơi đĩ bợm, với hình ảnh về phố Khâm Thiên ngày xưa.
Trong hồ sơ mà chúng tôi gửi đi, thì bao giờ cũng có phần rất là quan trọng, gọi là "chương trình hành động",
để nếu như được vinh danh rồi, thì chúng tôi phải làm gì để xứng với
tầm cỡ của nó. Thì sau khi được vinh danh rồi, trong chương trình hành
động, chúng tôi cũng đề ra khá nhiều. Như thế đã trải qua ba năm rồi,
cái chương trình ấy chưa được cụ thể hóa.
Anh cũng biết, trước kia nó là của dân, nó được truyền nghề theo kiểu
cha truyền con nối, theo kiểu phường hội. Còn bây giờ nó không thể thế
được, thế bây giờ chúng tôi cần những kinh phí để truyền dạy. Cũng xin
nói thật là Hội Văn nghệ Dân gian của chúng tôi cũng đã tổ chức được 4, 5
lớp. Tức là từ những nghệ nhân truyền thẳng xuống cho lớp trẻ, mà thông
qua phương thức như ngày xưa, tức là truyền miệng, truyền nghề. Chúng
tôi cho rằng, đây là hình mẫu chúng tôi làm, để mai kia nếu có được kinh
phí của nhà nước, thì mô hình ấy có thể giúp cho ca trù được đứng hơn.
Vậy thì, nói với nhà báo thế này : Mọi người không quên, nhưng mà nó
đang ở bước đầu. Tôi hy vọng rằng, nó sẽ được hiện thực với một tốc độ
cũng không nhanh lắm đâu. Nó chưa thật là vui lắm, nhưng cũng không đến
mức phải buồn.
Con đường gìn giữ và phổ cập ca trù trong đời sống đương đại
Tiếp theo đây là một số nhận xét của nhạc sĩ Đặng Hoành Loan,
người phụ trách khoa học của Hồ sơ quốc gia về "Nghệ thuật ca trù của
người Việt" trình Unesco trước đây, về một số điều ông tâm đắc trong quá
trình đưa ca trù đến với đời sống đương đại, bên cạnh việc phục dựng
lại một số sinh hoạt cổ.
Đặng Hoành Loan : Về việc bảo tồn vốn cổ ca trù đúng
như nó có là điều khó khăn trong xã hội hiện đại. Vì ca trù hiện nay nó
mất mất cái môi trường sinh hoạt của nó. Cho nên là, việc giữ gìn nó
trong đời sống hiện nay, thì đương nhiên là nó vấp phải một số khó khăn
nhất định. Nhưng điều quan trọng là : Con người ngày nay, nhất là sau ba
năm được Unesco công nhận là di sản, thì giới yêu thích ca trù Việt Nam
đang làm được một số việc quan trọng.
Tôi cho rằng đây chỉ là việc tái hồi lại những bài ca đã có, những
bài thơ đã có. Và nó đang dần dần trở lại các sinh hoạt trong các tập
tục ngày xưa ở đình làng. Ta biết ca trù có các địa điểm trình diễn ở
đình làng, trong tư gia, cung đình và các lối chơi của các nhà nho. Thì
hiện nay cái đang có thể trở lại được,và đã trở lại là sinh hoạt ca trù
trong một số đình làng.
Thứ hai là ở các phố thị, các thành phố hiện nay, ca trù ngày nay
trình diễn lại các điệu hát trong cái sinh hoạt ngày xưa, bằng cách thức
tổ chức các câu lạc bộ. Tôi thấy rằng, hiện nay rất nhiều câu lạc bộ
rất tốt, đặc biệt là Hà Nội đang trở thành một trung tâm khá lớn, thu
hút lực lượng trẻ. Tôi nói như vậy là tôi dựa vào cuộc liên hoan ca trù
tháng 11/2011. Cuộc liên hoan này đánh dấu cuộc chuyển mình rất lớn, ca
trù sống lại, tái sinh lại trong xã hội hiện đại. Nhưng chúng ta đang hy
vọng phục hồi lại được những bài bản cũ, chứ còn chúng ta chưa hy vọng
được là có những sinh hoạt như truyền thống ngày xưa, như rất nhiều
người thường nói, là những lối ca trong gia đình, những lối ca thân
thiện, những lối ca sáng tác tại chỗ.
Đào nương – linh hồn của nghệ thuật ca trù
Là một nghệ thuật gắn liền với lịch sử Việt Nam hàng trăm, thậm chí
nghìn năm nay, ca trù chứa đựng nhiều tinh hoa của dân tộc Việt. Điều
đặc biệt đáng chú ý trong ca trù được nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh, đó
là sự phối kết linh diệu giữa các thể cách âm nhạc và sáng tạo thơ ca,
qua những mối giao hòa giữa đào nương và văn nhân, thi sĩ.
Thông thường trong nghệ thuật ca trù, người thưởng thức chính là các
văn nhân, đặc biệt trong vị trí quan viên giữ trống chầu, trong khi đó,
ca nương là người trình diễn.
Nhắc đến ca trù đương đại không thể không dừng lại để nhớ về ca nương
Quách Thị Hồ. Di sản ca trù của Việt Nam được thế giới biết đến ngày
hôm nay, một phần rất lớn nhờ công lao của bà và giáo sư Trần Văn Khê,
thông qua mối duyên kỳ ngộ giữa hai người, cách đây đã gần 40 năm (năm
1976, giáo sư Trần Văn Khê ghi âm giọng hát ca trù của bà Quách Thị Hồ
để giới thiệu ra thế giới qua đĩa hát mang nhãn hiệu Unesco).
"Tiếng hát của Quách Thị Hồ đẹp và tráng lệ như một tòa lâu đài
nguy nga, lộng lẫy, mà mỗi một tiếng luyến láy cao siêu tinh tế của bà
là một mảng chạm kỳ khu của một bức cửa võng trong cái tòa lâu đài ấy.
Tiếng hát ấy vừa cao sang bác học, vừa mê hoặc ám ảnh, diễn tả ở mức
tuyệt đỉnh nhất các ý tứ của các văn nhân thi sĩ gửi gắm trong các bài
thơ" (theo Nguyễn Xuân Diện).
Người ca nữ ngày nay sống như thế nào với những bài thơ mà họ hát
lên ? Chúng tôi có may mắn được nghệ sĩ Nguyễn Thúy Hòa (CLB Thái Hà),
người đã từng theo học với nghệ nhân Quách Thị Hồ, chia sẻ :
Nguyễn Thúy Hòa : Cái quan trọng mà thầy tôi dậy tôi
là, khi mình đọc cái bài thơ trước khi mình hát, thì mình phải có cái
cảm xúc thật của mình. Khi mình thể hiện, thì mình thể hiện bằng cái cảm
xúc đó. Cho nên, mỗi lần hát không một lần nào giống lần nào cả.
Tôi nhớ một lần hát bài "Tỳ bà hành". Tôi thể hiện nhiều lần
bài hát này. Nhưng lần đó, không hiểu sao, cảm xúc của tôi quá mạnh, nó
bị đong đầy quá. Và tôi đã không thể ngừng được, và tôi đã khóc rất là
nhiều. Tôi vừa khóc, tôi vừa hát và tôi nức nở. Bởi vì, tôi rất nhớ đến
thầy của tôi. Chỉ vì một câu hát thôi. Nội dung của bài hát không liên
quan đến thầy của mình. Nhưng mà từ một câu, một chữ nào đấy, tất cả
những hình bóng của thầy, những lời nói, tự nhiên nó ùa về.
Lúc ấy cái tâm trạng của mình nó không kìm được. Cái điều đó cũng là
điều không nên đối với một người nghệ sĩ. Mình phải biết kìm hãm cảm xúc
của mình. Nhưng mà khi khán giả thấy như thế, họ thấy là vô cùng hay.
Và họ cảm nhận được cả cái bài hát, cả cái cảm xúc của mình. Cái hình
ảnh đó, cái bài hát đó, cái ngày hôm đó luôn luôn ở trong tâm trí của
mình.
Giây phút tri âm
Người ca nương là cả một thế giới riêng. Trước đây, phần lớn nếu
không nói là hầu hết các bài thơ được hát trong ca trù, đều do các tác
giả là đàn ông viết. Và như vậy rất thường khi tâm sự của người phụ nữ
được thể hiện qua cảm nhận của nam văn sĩ. Người ca nữ ngày nay nhìn về
vẻ đẹp của ca trù như thế nào ? Sau đây là tiếng nói của nghệ sĩ Bạch
Vân (CLB Ca trù Hà Nội - CLB đầu tiên về ca trù, thành lập năm 1991) :
Bạch Vân : Những người đến với ca trù phải là những
người có một tính cách thâm trầm, sâu sắc, thì anh mới có thể thả hồn
mình vào đấy. Thứ hai là người hát cũng phải là người có những tâm
trạng. Cuộc đời thăng trầm thì hát hay hơn nhiều. Chẳng hạn như tác phẩm
nước ngoài, thì Bạch Vân thích nhất "Tỳ bà hành". Và Bạch Vân
thấy rất là quý nể bà Quách Thị Hồ cái bài ấy. Bạch Vân cũng đắm chìm
trong nó. Bạch Vân cảm thấy cái thân phận của người phụ nữ, đặc biệt
người ca nữ nó đau đớn, nhiều khi nó trần trụi, mình cảm thấy mình đúng
là cái thân phận như vậy.
Những người khách đến nghe rồi họ lại ra đi. Những khách tình cờ gặp gỡ cũng phải để lại cảm xúc chứ. « Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ », « Vô duyên đối diện bất tương phùng », « Đã từng khen chén rượu câu thơ, lòng riêng những đợi chờ tri kỷ mãi ».
Một giây phút nào đấy người ta cô đơn, người ta cảm thấy rằng đấy
cũng là mình tìm được một người bạn tri kỷ, tri âm. Cái thân phận của
người phụ nữ, cái thân phận của người ca nữ, nó buồn lắm, buồn sâu thẳm
và nhiều khi nó đau đớn đến tột cùng. Bạch Vân cứ ngồi hát là cảm thấy
Bạch Vân ở trong không gian ấy, trong nhân vật ấy và Bạch Vân đắm chìm
trong câu hát ấy. Và nhiều khi mình bay lên chín tầng mây, mình hòa
chung với nó, và mình không còn biết mình là ai nữa.
Đến bây giờ Bạch Vân cũng đã suýt soát gần 30 năm đam mê với nó, và
Bạch Vân thấy rằng là, những lúc mình buồn bã nhất, có thể mình muốn
chết, thì mình lại vào hát và mình cảm thấy mình lại bay bổng, mình lại
thăng hoa, mình lại giải thoát khỏi nỗi cô đơn và mình sẽ gặp tri âm,
tri kỷ trong câu hát của mình, và mình lại trở về một cách bình yên, và
mình lại sáng tạo, lại sống, mình lại yêu đời hơn.
Tất nhiên là, đến với ca trù, Bạch Vân phải trả giá cho tuổi thanh
xuân, trả giá cho hạnh phúc của mình. Nhưng mà, có những lúc mình đau
xót, buồn thấu xương, thấu thịt, buồn thấm đẫm một sự cô đơn khủng
khiếp, thì Bạch Vân lại lấy bộ phách ra và đắm chìm trong Tỳ bà hành,
trong "Cuốn chiếu nhân tình", trong "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ"…
Một thưở huy hoàng
Ca trù là một nghệ thuật đã có thời hết sức phổ biến trong xã hội
Việt Nam, từ nơi thôn dã cho đến chốn thị thành. Nghệ thuật ấy đã để
lại những đỉnh cao của nó, mà người nghệ sĩ ngày nay không dễ gì mà vươn
đến được. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện nhận xét :
Nguyễn Xuân Diện : Cái nghệ thuật ca trù, để có thể
phục hồi được, thì cái quan trọng nhất phải phục hồi là cái người đào
nương. Người đào nương hồi xưa đều được sinh ra ở làng quê và được giáo
dục trong các giáo phường. Cho đến hiện nay, việc này khó đến nỗi mà
chúng ta chưa tìm thấy lại được một người nào nữa, một người nào nữa có
thể tạm sánh với lại một phần nhỏ của bà Kim Đức, hoặc một phần nhỏ của
bà Quách Thị Hồ. Cả một sự tinh tế như vậy, chính vì thế cho nên nhạc sỹ
Nguyễn Xuân Khoát nói, có khi là phải lịch lãm cả một cuộc đời thì mới
mong hiểu nổi cho trọn vẹn một tiếng phách tre.
Thế thì, tìm lại cái hào quang của dĩ vãng vàng son như vậy ở trong
ca trù thì không thể có được. Và vì vậy, có lẽ chỉ giữ được ca trù trong
một khuôn khổ nào đó nhất định thôi. Nhưng chúng tôi cũng có thể hy
vọng là, khoảng mươi, mười lăm năm nữa thì may chăng là sẽ tìm lại được
chăng ?
Sự mong manh của một di sản nghìn năm
Sự phục hồi di sản ca trù không chỉ khó vì những đỉnh cao của môn
nghệ thuật cổ xưa này, mà còn vì sự mong manh của các nghệ nhân đầu đàn,
tất cả đều đã tuổi cao sức yếu. “Có lẽ không loại hình nghệ thuật
nào như ca trù, luôn gắn với hình ảnh những người biểu diễn ở vào độ
tuổi cực cao, mắt mờ chân chậm, răng lợi móm mém, mỗi khi lên xuống sân
khấu phải có người dìu. Họ nói run run yếu ớt, nhưng (lạ thay) mỗi khi
cất giọng hát, thì trong vắt thanh tân, nghe như rút hết chút sức tàn
còn lại... » (theo Hồng Minh, trang mạng nhandan.com.vn).
Việc người nghệ nhân không được chú trọng và trân trọng thực sự
đã khiến cho có rất nhiều lo ngại rằng nghệ thuật này có thể thất
truyền. Sau đây là tiếng nói của nghệ sĩ Phạm Thị Huệ, phụ trách CLB Ca
trù Thăng Long :
Phạm Thị Huệ : Chúng tôi cũng có những khó khăn như
là : Trước khi kêu gọi các nghệ nhân làm hồ sơ, thì (cơ quan hữu trách)
luôn luôn đề cao rằng, sau khi chúng ta được (Unesco) phong tặng, thì
nghệ nhân cũng sẽ có những ưu đãi đặc biệt để giúp cho họ. Cho tới giờ,
các nghệ nhân cũng chưa nhận được một sự ưu ái nào.
Đấy là cái điều tôi cảm thấy rất xót xa. Không biết là cho đến bao
giờ. Vì các cụ đều ở cái tuổi 88, gần 90 rồi. Ở cái tuổi đó, thì cũng
không còn ở gần chúng ta được bao lâu nữa. Và cái di sản mà các nghệ
nhân đang gìn giữ ở trong chính tâm hồn và tài năng của họ rất là khó có
thể nắm bắt được. Kể cả chúng ta có ghi âm hay học đi chăng nữa. Cái
việc ghi âm thì chỉ đơn thuần là cái máy hát lại thôi, không thể truyền
được cái hồn giống như chúng ta được học trực tiếp. Còn cái việc học
trực tiếp, thì chúng ta cũng phải thường xuyên được ở bên cạnh nghệ
nhân, sống cùng nghệ nhân, và phải có một chiều dài từ 3 năm đến 7 năm,
chứ không thể gỏn gọn trong vài chục ngày, vài tháng.
Đấy là những cái mà chúng tôi cảm thấy cái sự mong manh. Trong tương lai, ca trù rất có thể sẽ lại chìm vào quên lãng.
Thời buổi phấn vôi lẫn lộn
Thái độ đối xử đúng đắn với nghệ nhân, không chỉ là qua các đãi
ngộ vật chất, mà đặc biệt đáng lưu ý là sự trân trọng đối với năng lực
nghệ thuật đích thực của những người đầu đàn hiếm hoi còn sống. Được gọi
trân trọng là “các di sản sống”, nhưng điều mà một bộ phận công luận
tại Việt Nam rất phàn nàn rằng, các cơ quan hữu trách, trước hết là
những người có thẩm quyền trong lĩnh vực nghệ thuật, lại không hợp tác
thực sự với giới nghệ nhân đầu ngành, gây ra tình trạng nhiễu loạn chuẩn
mực hiện nay trong môn nghệ thuật đang trong quá trình hồi sinh. Sau
đây là một tâm sự của nghệ sĩ đàn đáy Nguyễn Văn Khuê, thuộc CLB Ca trù
Thái Hà, sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời tiếp nối ca trù.
Nguyễn Văn Khuê : Tôi thấy, như hiện nay tôi rất là
lo lắng. Làm ca trù xấu đi, và không có gì là mang đúng tính bác học của
nó. Hiện nay, (tôi rất lo lắng về) cách bảo tồn ca trù của bên Viện Âm
nhạc. Bây giờ, cứ ca nương mới học được một, hai năm đã có rất nhiều
thành tích các thứ.
Bình thường cái tiếng đàn của người ta phải tạo ra một con rồng, có
đường nét và vô cùng uyển chuyển, thì họ chỉ dậy như một con giun thôi.
Bản thân người đến với ca trù, người ta nghe, người ta chán.
Điều quan trọng nhất là : Thế nào thì được gọi là nghệ nhân ? Ai là
người để sát hạch đấy là nghệ nhân đích thực, có đủ tài năng, thẩm mỹ để
dạy cho lớp trẻ bây giờ. Khi mà thầy không đạt được tầm nghệ nhân mà
dạy, thì nó sẽ dễ làm mất hết cả cái chất của ca trù, và dễ làm lệch lạc
hướng đi.
Nếu cứ để như thế này, đào tạo theo phương thức này, mặc dù rất nhiều
tiền của nhà nước bỏ ra, rất nhiều tiền của các ban ngành vào rồi,
nhưng bây giờ thực ra phấn cũng như vôi. Không ai biết được là, người
nào đích thực là nghệ nhân, đích thức là người có tài thực sự.
Một nghệ nhân đầu ngành, không công bố danh tính, cho biết, bà
không đồng tình với những trắng đen lẫn lộn trong việc thẩm định chất
lượng trình diễn ca trù, cũng như chất lượng dạy nghề. Tuy nhiên, dù
không hợp tác với các cơ quan quản lý nghệ thuật, nghệ nhân đã ngoài 80
tuổi này cũng như một số người khác, vẫn âm thầm dạy nghề trong môi
trường gia đình, thân hữu, soạn sách hướng dẫn, hầu truyền lại những giá
trị đích thực của ca trù.
***
Trong vài thập niên trở lại đây, ca trù, một trong những loại hình
nghệ thuật được coi là vi diệu nhất của văn hóa Việt Nam, đang trở lại
với công chúng. Sự công nhận quốc tế, cũng như sự tôn vinh ngày càng
mạnh mẽ trong nước đối với ca trù là điều rõ ràng. Tuy nhiên, trong quá
trình hồi sinh ấy, ca trù đang đứng trước một ngã ba đường, giữa sự phục
sinh - thăng hoa của những gì là di sản đích thực và sự lẫn lộn trắng
đen, trong đó những giá trị nghệ thuật thực sự bị rẻ rúng và chìm trong
quên lãng.
“Ca trù có một truyền thuyết rất đẹp và lung linh huyền thoại về
sự ra đời. (...) các vị tổ ca trù đã được chính các vị tiên xui khiến
chế tác ra cây đàn đáy, mà tiếng đàn này có thể giải mọi phiền muộn,
chữa được bệnh cho mọi người. Tiếng đàn ấy còn se duyên cho hai vị tổ ca
trù thành đôi lứa... “ (theo Nguyễn Xuân Diện).
Mong sao sự khởi đầu rất thi vị ấy của ca trù vẫn còn sức mạnh để đưa
ca trù tiếp tục cuộc hành trình xuyên qua thời gian, đưa những gì tinh
túy nhất của các thế hệ đi trước đến với mai sau.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các nghệ sĩ Nguyễn Văn Khuê, Bạch
Vân, Nguyễn Thúy Hòa và Phạm Thị Huệ, các nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân
Diện, Đặng Hoành Loan và Tô Ngọc Thanh đã dành thời gian cho tạp chí hôm
nay. Trong thời gian thực hiện tạp chí này, chúng tôi đã nhận được
nhiều chỉ dẫn của giáo sư Trần Quang Hải, người tham gia lập hồ sơ ca
trù trình Unesco và có một số khảo cứu về âm thanh học của ca trù. Nhân
dịp này chúng tôi xin gửi lời tri ân tới giáo sư.
Trong tạp chí lần này, chúng tôi không có dịp nhắc đến nhiều người đã
có những đóng góp quan trọng cho công cuộc khôi phục và nghiên cứu về
ca trù (như nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền, tiến sĩ Alienor Anisensel,
người Pháp - tác giả một luận án về nhạc ngữ ca trù...) hay một số khía
cạnh đặc biệt khác cho thấy những biến chuyển của ca trù ngày hôm nay,
như các sáng tác mới trong thơ hát nói. Hy vọng sẽ có dịp trở lại với quý vị trong đề tài này vào một dịp tới.
Các bài liên quan
Monday, October 17, 2016
LÝ THUYẾT XÂM LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG - TRUNG CỘNG - SƠN TRUNG
Sunday, March 17, 2013
LÝ THUYÉT XÂM LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG
Trung Quốc và thuyết “trỗi dậy hòa bình” trấn an Mỹ
-
"Từ năm 2002, giới tinh hoa Trung Quốc, đại diện là Zheng Bijian, từng
là Trợ lý cho Chủ tịch Hồ Cẩm Đào bắt đầu phát triển lý thuyết mới về
“sự trỗi dậy hòa bình”, nhằm giải quyết nguồn gốc sâu xa sự hoài nghi về
Trung Quốc của phương Tây nói chung và Mỹ nói riêng".
Người Mỹ không quên “mối đe dọa Trung Quốc”
Như đã đề cập ở trên, trong quan hệ Mỹ - Trung không chỉ bao gồm khía cạnh “xây dựng và hợp tác”, mà còn bao gồm cả khía cạnh “thẳng thắn” ở những vấn đề bất đồng hay nghi ngờ giữa hai nước.
Chính vì vậy, khi các nhà ngoại giao đang nỗ lực tăng cường phát triển quan hệ chính trị giữa hai nước thì các nhà hoạch định chiến lược quốc phòng Mỹ vẫn luôn cẩn thận đề phòng với sự phát triển kinh tế và sức mạnh quân sự của Trung Quốc.
Nói cách khác, bóng ma về “mối đe dọa Trung Quốc” không bao giờ biến mất trong tâm lý của một số người Mỹ. Năm đầu tiên trong nhiệm kỳ hai của Bush, vấn đề Trung Quốc, sau khi đã lắng dịu đi một cách đáng kể từ ba năm trước, đột nhiên lại trở thành tâm điểm của công luận Mỹ.
Trong suốt năm 2005, phương tiện truyền thông Mỹ dành số lượng thời gian đáng kể đưa tin về Trung Quốc và quan hệ Mỹ - Trung. Vô số các tiêu đề bài báo, tin thời sự, bài tạp chí và sách tập trung vào các vấn đề kinh tế - quân sự có khúc mắc trong quan hệ hai nước.
Chẳng hạn về kinh tế, những lo ngại nảy sinh từ các hậu quả “toàn cầu hóa”, tăng đáng kể về giá dầu do sự trỗi dậy của Trung Quốc; các vụ mua lại các công ty Mỹ của các công ty Trung Quốc (như Tập đoàn Chinese National Offshore Oil Corporation (CNOOC) mua lại Công ty dầu Unocal, Haier mua Công ty sản xuất Maytag của Mỹ và Lenovo mua lại chi nhánh máy tính cá nhân IBM).
Về quân sự, vô số báo cáo của Bộ Quốc phòng và Quốc hội đều mang âm điệu đáng ngại trước việc Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng quân đội hiện đại. Một số người coi điều này như là làn sóng khác về “cơn sốt Trung Quốc” trong công chúng Mỹ. Những người khác gọi là sự quay trở lại của sự bài ngoại “mối đe dọa Trung Quốc”.
Nhưng dù bất cứ diễn tả nào, lý do thật sự đằng sau của làn sóng mới này là nhận thức về sự trỗi dậy của Trung Quốc như cường quốc khổng lồ về kinh tế và quân sự. Rõ ràng, một số chính khách và lãnh đạo quân sự và giới tinh hoa Mỹ đang lo lắng về tốc độ trỗi dậy của Trung Quốc, đặc biệt về quân sự. Việc sa lầy tại Iraq cũng làm tăng thêm sự lo ngại này của họ.
"Thuyết trỗi dậy hòa bình"
Nắm bắt được vấn đề này, những nhà hoạch định chính sách đối ngoại Trung Quốc tìm cách làm dịu đi mối lo ngại từ phía Mỹ và các nước khác. Bởi vì, họ hiểu rằng nếu không nó cũng sẽ không mang lại sự ổn định trong mối quan hệ hai bên.
Vì vậy, từ năm 2002, giới tinh hoa Trung Quốc, đại diện là Zheng Bijian, từng là Trợ lý cho Chủ tịch Hồ Cẩm Đào bắt đầu phát triển lý thuyết mới về “sự trỗi dậy hòa bình” nhằm giải quyết nguồn gốc sâu xa sự hoài nghi về Trung Quốc của phương Tây nói chung và Mỹ nói riêng.
Trong phát biểu nhân chuyến thăm Mỹ, Tổng bí thư Giang Trạch Dân cố gắng lèo lái luận điểm: Mỹ cần một khung chiến lược mới để nhìn sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc. Zheng Bijian tuyên bố Trung Quốc sẽ nắm lấy con đường mới trỗi dậy hòa bình hoàn toàn khác với Đức, Nhật và Liên Xô cũ.
Con đường mới được đặc trưng bởi sự gắn kết hơn là tách biệt khỏi tiến trình toàn cầu hóa kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế khiến sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc là có thể.
Sự phát triển của Trung Quốc cần môi trường hòa bình, đổi lại, sự phát triển đó sẽ củng cố hơn nữa hòa bình quốc tế. Tóm lại, sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc mang lại những cơ hội hơn là thách thức cho cộng đồng quốc tế.
Thuyết “sự trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc rõ ràng có tác động đến nhận thức của quan chức và giới tinh hoa Mỹ. Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Robert B. Zoellick cho rằng: “Việc làm thế nào đối phó với sức mạnh đang không ngừng trỗi dậy của Trung Quốc là một vấn đề quan trọng trong chính sách ngoại giao của Mỹ.”
Và ông nêu ra quan điểm “Mỹ phải thay đổi chính sách “hòa nhập” trong 30 năm qua” nhằm “giúp Trung Quốc vận dụng hành động mang tính xây dựng.”(15)
Phát biểu của Thứ trưởng Ngoại giao Rober Zoellick về mối quan hệ hai nước vào tháng 9/2005 là sự cụ thể hóa cho sự thay đổi này (16). Trong phát biểu của mình, Zoellick đặt ra một số nền tảng mới trong quan hệ Mỹ - Trung. Ông đưa ra thuyết về “Bên liên quan lợi ích có trách nhiệm”.
Chính sách này nhằm đưa Trung Quốc trở thành “Bên liên quan lợi ích có trách nhiệm” trong hệ thống quốc tế đang tồn tại do Mỹ giữ vai trò chủ đạo. Trong đó, lần đầu tiên trong tuyên bố chính thức của chính quyền, ông chỉ ra rằng, Trung Quốc không có hệ tư tưởng cực đoan và chống Mỹ và không tìm cách lật đổ hệ thống quốc tế đang tồn tại. Kết luận này cơ bản chấm dứt sự tranh cãi lâu nay trong công chúng Mỹ về việc liệu Trung Quốc có thành một Liên Xô kế tiếp hay không trong kỷ nguyên hậu Chiến tranh Lạnh.
Zoellick cũng tuyên bố là Trung Quốc không còn đứng ngoài hệ thống quốc tế. Sau hai thập kỷ cải cách và mở cửa, Trung Quốc đã trở thành thành viên toàn diện của hệ thống quốc tế. Dù Trung Quốc vẫn chưa phải là một nền dân chủ, nhưng bản thân Trung Quốc không bao giờ tham gia vào cuộc chiến chống dân chủ. Vì vậy, Mỹ không cần loại bỏ hợp tác lâu dài với Trung Quốc. Khái niệm thú vị nhất được đề ra trong phát biểu này là kêu gọi Trung Quốc trở thành “Bên liên quan lợi ích có trách nhiệm” trong hệ thống quốc tế dù ông không thực sự giải thích cụm này có nghĩa là gì.
Cụm từ mới “Bên liên quan lợi ích có trách nhiệm ”gây ra sự tranh luận sôi nổi trong giới quan sát về Mỹ của Trung Quốc. Tranh luận trở nên thú vị hơn do tính mơ hồ của cụm từ này và khó khăn trong việc dịch sang tiếng Trung Quốc với một cụm từ tương ứng.
Xuất hiện một vài cách dịch khác nhau trên các phương tiện truyền thông của Trung Quốc. Một số nhà phân tích Trung Quốc chỉ ra rằng Mỹ đang hình thành nên một chiến lược mới với Trung Quốc và Mỹ sẵn sàng chấp nhận sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Những người khác hoài nghi ý định thực sự đằng sau khái niệm này. Họ chỉ ra rằng, trong khi khái niệm này cho thấy Washington chính thức công nhận Trung Quốc như thành viên hợp pháp của hệ thống quốc tế hiện thời, nó cũng có nghĩa là hiện thời Washington sẽ đặt ra một bảng chuẩn cao hơn cho các vấn đề trong nước và quốc tế của Trung Quốc.
Trong quá khứ Mỹ có thể cho Trung Quốc một số đối xử đặc biệt về thương mại, nhân quyền, phổ biến hạt nhân… khi Trung Quốc vẫn là nước đứng ngoài hệ thống, sự đối xử đặc biệt đó không còn được đảm bảo cho một bên liên quan lợi ích có trách nhiệm.
Cuộc đối thoại nhận thức công khai như vậy là chưa từng thấy trong lịch sử quan hệ Mỹ - Trung. Nó chỉ ra rằng cả hai nước nhận thấy sự cần thiết và tầm quan trọng của việc tìm ra khung nhận thức chiến lược mới nhằm xác định và ổn định quan hệ này.
Mỹ muốn tìm ra một lí do nhận thức hợp lý để chấp nhận và ở mức độ nào đó thậm chí giúp đỡ sự trỗi dậy của Trung Quốc với tư cách là một cường quốc lớn. Dần dần, khái niệm “Bên liên quan lợi ích có trách nhiệm” nằm trong ngôn ngữ của Mỹ về Trung Quốc. Cụm từ này nằm trong những văn kiện chính thức ở các cấp khác nhau trong Bộ Ngoại giao, Nhà Trắng và Lầu Năm góc như được phản ánh trong hai văn kiện gần đây của chính quyền là QDR và NSS.
Trong chuyến thăm Mỹ gần đây của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, các nhà lãnh đạo hàng đầu hai nước rõ ràng cũng chấp thuận cách nói này. Trong nhận xét hoan nghênh luật South Lawn của Nhà Trắng, Tổng thống Bush lần đầu tiên tự dùng cụm từ này (17). Đổi lại, nhận xét của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào trong bữa ăn trưa tại Nhà Trắng cũng đề cập cụm từ này dù ông nhanh chóng thêm rằng Trung Quốc và Mỹ nên trở thành “đối tác mang tính xây dựng”(18).
Bắt đầu với khái niệm "Bên liên quan lợi ích có trách nhiệm", có vẻ các nhà hoạch định chính sách cấp cao trong Chính quyền Bush cố đưa ra một tập hợp ngôn ngữ mới để định nghĩa về Trung Quốc và quan hệ của Mỹ với nước này.
Gần đây, Mỹ vẫn chưa sẵn sàng với sự trở lại của ngôn ngữ dưới thời Clinton và gọi Trung Quốc là một “đối tác chiến lược” theo nghĩa rõ ràng. Có vẻ Nhà Trắng vẫn lo lắng nhiều về việc sử dụng từ “chiến lược” để mô tả quan hệ với Trung Quốc giống như nghĩa của cụm từ “đối tác chiến lược” vốn được dành cho những đồng minh của Mỹ và các nền dân chủ (theo định nghĩa của Mỹ).
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của khái niệm "Bên liên quan lợi ích có trách nhiệm", Mỹ hiện sẵn sàng thảo luận những vấn đề “chiến lược” trong quan hệ hai nước và công nhận Mỹ và Trung Quốc có một số “lợi ích chiến lược” chung. Những điều chỉnh chính sách này phản ánh một thực tế là quan hệ Mỹ - Trung đã vượt xa phạm trù quan hệ song phương, hai nước cần phải hợp tác trong các công việc chung để đối phó với muôn vàn thách thức của quốc tế thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh.
Chú thích:
15) “Xu hướng điều chỉnh chiến lược của Chính quyền Bush đối với Trung Quốc”. TTXVN, TLTKĐB, Tr1-9, 2006
16) Zoellick, Robert (2005a) “Whither China: from membership to responsibility,” remarks to National Committee on U.S.-China Relations, September 21, 2005, http://www.ncuscr.org /articlesandspeeches/Zoellick.htm.
17) Bush, George W. and Hu Jingtao (2006a) , “President Bush and President Hu of People’s Republic of China participate in arrival ceremony,” April 20, 2006, http://www.whitehouse.gov /news/releases/2006/04/images/20060420_v042006db-0046jpg515h.html.
18) Bush, George W. and Hu Jingtao (2006b), “President Bush and People’s Republic of China President Hu change luncheon toasts,” April 20, 2006, http://www.whitehouse.gov/news/releases/2006/04/20060420-2.html.
Theo Nguyễn Lan Hương (Tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 133, tháng 4/2009)
Đây chỉ là bản lưu tạm thời của bài viết được thực hiện tự động bởi
một chương trình máy tính. Để đảm bảo tính xác thực thông tin, các bạn
có thể Xem tin gốc
Chơi ngay!TRUNG QUỐC THẤT BẠI TẠI BIỂN ĐÔNG
Thất bại tại Biển Đông nhưng Trung Quốc vẫn chìm đắm trong giấc mộng
Về
khía cạnh chiến lược, chính sách ngoại giao, quan hệ quốc tế và truyền
thông trong vấn đề Biển Đông, Trung Quốc đã hoàn toàn bại trận. Dường
như không một quốc gia nào ủng hộ lập trường cũng như lối hành xử của
nước này. Bài viết của Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Á, Đại học Quốc
gia Singapore, Trịnh Vĩnh Niên trên Liên hợp Buổi sáng phân tích về nguyên nhân thất bại cũng như đối sách cho Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.
Thời
gian gần đây, mọi người đều vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng,
đã bao nhiêu năm nay, song song với sự trỗi dậy của Trung Quốc là chuỗi
"liên hoàn bại trận" của chính nước này trong các vấn đề về Biển. Đặc
biệt bắt đầu từ năm ngoái, xu hướng này ngày càng hiện ra rõ ràng hơn.
Trung
Quốc đã nỗ lực theo đuổi chiến lược "Trỗi dậy hòa bình" (Phát triển hòa
bình) ngay sau công cuộc cải cách mở cửa. Trên rất nhiều phương diện,
Trung Quốc đã từ bỏ chính sách chủ nghĩa đơn phương vốn đã tuân thủ từ
rất lâu trước đó, đồng thời phát triển quan hệ hữu nghị đa phương với
các nước ASEAN. Khu vực tự do thương mại Trung Quốc-ASEAN cũng đã bắt
đầu có hiệu lực. Trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc đã đề
xuất chủ trương "Gác tranh chấp chủ quyền, cùng khai thác chung". Những
biện pháp này xét từ góc độ lý thuyết đến thực tiễn áp dụng đã hình
thành nên sách lược và kim chỉ nam ngoại giao "Giấu mình chờ thời" của
Trung Quốc suốt từ thời Đặng Tiểu Bình đến nay. Thế nhưng rất nhiều
người đã cảm nhận ra rằng, trên rất nhiều vấn đề có liên quan, nếu như
Trung Quốc không thể trực diện đối mặt thì sẽ góp phần đẩy chính sách
của họ đi theo hướng ngược hẳn lại.
Sự
quan tâm chú ý của toàn bộ khu vực Châu Á và cộng đồng quốc tế cho tới
thời điểm này đều tập trung vào vấn đề Biển Đông, Biển Đông đột nhiên
lại thêm một lần nữa trở thành điểm nóng của thế giới. Chính quyền Trung
Quốc dường như lại không hiểu rõ tình trạng hiện nay. Đối với Trung
Quốc mà nói, chính sách Biển Đông về bản chất không hề có bất cứ một
thay đổi nào, chỉ là các nước có liên quan tiến hành một loạt các hành
động không có lợi cho Trung Quốc, và phản ứng của Trung Quốc theo đó
cũng chỉ tương đương với hình thức "cứu hỏa" mà thôi.
Trên
thực tế, từ rất nhiều năm trở lại đây, chính bởi vì nguyên do Trung
Quốc luôn áp dụng các biện pháp bị động đối phó lại khiến cho vấn đề
Biển Đông ngày một tích tụ chồng chất lại, và rồi dẫn đến cục diện như
ngày hôm nay. Không quan tâm Trung Quốc có muốn hay không, có nắm rõ
tình hình hay không, thì Trung Quốc phải đối mặt với những thách thức
chưa từng có trong vấn đề Biển Đông này.
Thứ nhất, Trung Quốc sớm đã hoàn toàn thất bại tại cuộc chiến công luận quốc tế.
Trong
nhiều năm qua, khi Trung Quốc vẫn còn đắm chìm trong thuyết "Trỗi dậy
hòa bình" do chính họ tạo dựng nên, thì các quốc gia có liên quan đã nỗ
lực với tinh thần cao nhất và chuẩn bị đầy đủ trên trường quốc tế để chờ
đợi vấn đề Biển Đông sẽ nổi lên như trong dự tính đã có sẵn. Xét trên
hệ thống kiến thức (luật pháp), Trung Quốc hiện nay thật khó khăn để tìm
ra được bất kỳ một lực lượng hỗ trợ có hiệu quả nào cho họ. Về xu hướng
các giới truyền thông báo chí không đứng về phía Trung Quốc đã hình
thành như hiện nay thì Trung Quốc cũng không có quyền phát biểu tại đây.
Các nhà bình luận cho rằng dùng "Chính sách cứng rắn" để mô tả thái độ
của Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông là chưa đầy đủ, chính xác phải
gọi đó là "mang tính chất tranh cướp" mới đúng. Trên thực tế, cách nhận
thức tương tự như vậy của Trung Quốc đã trở nên khá phổ biến trong cộng
đồng quốc tế. Bản thân Trung Quốc lại quả quyết cho rằng họ không làm
gì mà lại bị đối xử "oan uổng" như vậy, đây chính là căn nguyên khiến
Trung Quốc bị mất quyền phát biểu trong cuộc chiến công luận quốc tế
này.
Thứ hai, Trung Quốc cũng thua trận trong cuộc chiến chiến lược.
Các
nước liên quan đều có những chiến lược khá rõ ràng trong vấn đề tranh
chấp Biển Đông, cụ thể bao gồm các chiến lược như chủ nghĩa đa phương
tại khu vực, quốc tế hóa, chính trị hóa đại quốc. Thế nhưng chiến lược
của Trung Quốc nếu không dám đối mặt với sự thực thì sẽ là nhập nhằng
không rõ ràng. Trung Quốc từ chối chi tiết hóa vấn đề, sử dụng khái niệm
"phản đối quốc tế hóa" vô cùng vĩ mô này nhằm che lấp vấn đề cụ thể.
Trên thực tế, tranh chấp Biển Đông đã được đa phương hóa, quốc tế hóa từ
rất lâu rồi, hơn nữa sẽ rất nhanh tiến đến giai đoạn "chính trị hóa đại
quốc" trong thời gian tới. Trung Quốc chỉ là không dám thừa nhận sự
thực hiển hiện ra trước mắt này mà thôi.
Thứ
ba, nếu tình hình vẫn tiếp diễn như vậy, Trung Quốc sẽ bị ràng buộc để
cuối cùng rơi vào tình trạng mất chủ quyền trong cuộc chiến.
Như
đã đề cập ở phần trên, từ năm ngoái cho đến năm nay, chính sách Biển
Đông của Trung Quốc về bản chất không hề có bất cứ một thay đổi nào, mà
chủ yếu chỉ là một số hành động mang tính chất phản ứng lại. Thế nhưng
cho đến thời điểm này, bất cứ nước nào cũng đều cho rằng Trung Quốc
chính là nguyên nhân phát sinh của mọi vấn đề. Tình hình thực tế là, các
nước khác có liên quan vẫn đang xúc tiến các hoạt động và hành động
trong khu vực tranh chấp Biển Đông, đặc biệt là trong việc phát triển
nguồn năng lượng.
Trung Quốc chìm đắm trong "giấc mộng".
Đã
nhiều năm nay, trong vấn đề tranh chấp Biển Đông (cũng như trong nhiều
vấn đề khác), Trung Quốc dường như luôn sống trong "giấc mộng" mà chính
bản thân họ tự vạch ra. Nhìn từ góc độ chiến lược, Trung Quốc không phải
là không có cơ hội để chiếm ưu thế trong vấn đề Biển Đông này, mà thay
vào đó lại tự động vứt bỏ những ưu thế đáng lẽ họ chiếm được ... Điều
đáng tiếc là, những hành động của TQ không những không chiếm được sự
đồng cảm của các nước liên quan đến tranh chấp mà cuối cùng dẫn đến kết
quả hoàn toàn ngược lại, gây tổn hại cho chính lợi ích quốc gia của
mình.
Vậy
thì, kết quả cuối cùng sẽ như thế nào đây? Trung Quốc liệu sẽ từ bỏ
chăng? Trong giới báo chí truyền thông vô cùng phát triển như ngày hôm
nay, phạm vi xu hướng thỏa hiệp mà các nhà cầm quyền có thể áp dụng được
ngày một nhỏ,càng không cần nói đến chuyện từ bỏ. Nếu tình hình này vẫn
cứ tiếp diễn thì cuối cùng chắc chắn sẽ dẫn đến các cuộc xung đột xảy
ra.Tuy nhiên xung đột trong thời gian này sẽ vô cùng bất lợi đối với
Trung Quốc.
Vấn
đề đã xuất hiện rồi, thì phái có cách đối phó lại. Nhiệm vụ đầu tiên
cần phải làm là tìm hiểu rõ tại sao lại xuất hiện tình trạng như vậy?
Ngoài các vấn đề xuất phát từ chính bản thân Trung Quốc thì còn có một
số nguyên nhân quan trọng khác nữa. Đối với các nước có liên quan mà nói
thì đây là sản phẩm phát sinh từ "môi trường quốc tế" và "môi trường
nội bộ".
Đầu
tiên đề cập đến môi trường quốc tế. Đối với các quốc gia có liên quan
thì nhân tố quan trọng nhất trong môi trường quốc tế không thể không
nhắc đến sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc và kéo théo sau đó là hiện
đại hóa nền quốc phòng, quân sự cũng như từ đó tác động đến cục diện địa
chính trị của toàn bộ khu vực Châu Á. Các quốc gia có liên quan đã bắt
đầu cảm thấy rằng thời gian không còn đứng về phía họ nữa. Mặc dù Trung
Quốc luôn nhấn mạnh về sự "trỗi dậy hòa bình" của mình, thế nhưng họ lại
bị coi là đã áp dụng chính sách chậm trễ kéo dài thời gian trong vấn đề
Biển Đông nhằm chờ thời cơ cho đến khi tình hình quốc tế thuận lợi sẽ
ra tay giải quyết tranh chấp. Do vậy, đối với các quốc gia có liên quan
thì vấn đề Biển Đông bắt buộc phải được giải quyết theo hướng có lợi cho
họ trước khi Trung Quốc thực sự trỗi dậy, nếu không, đợi cho đến khi
Trung Quốc đã trỗi dậy rồi, tia hy vọng sẽ trở nên vô cùng mong manh.
Cũng chính vì thế, bắt buộc phải thông qua bất cứ biện pháp nào để đẩy
mạnh hành động, hối thúc phát triển theo khuynh hướng có lợi cho bản
thân họ.
Đối
với Trung Quốc mà nói, môi trường các nước lớn chủ yếu đề cập đến những
biến đổi chính trị trong phạm vi giữa các nước này, đặc biệt là biến
đổi trong mối quan hệ với các nước lớn như Mỹ. Trong vấn đề Biển Đông,
không quản có muốn hay không thì Trung Quốc chắc chắn vẫn phải đối mặt
với Mỹ. Thế nhưng trong quan hệ hai nước Trung-Mỹ thì dù Trung Quốc đã
hao tâm tổn trí rất nhiều nhưng vẫn không biết nên làm như thế nào để có
thể hòa nhập được cùng Mỹ, đặc biệt là mối quan hệ với Mỹ trong khu vực
Châu Á. Rất nhiều người đã từng nghĩ rằng mục tiêu chủ yếu của Mỹ trong
sự hiện diện tại Châu Á này là nhằm đối phó với Trung Quốc, thế nhưng
trên thực tế lại không hề đơn giản như vậy. Lý do Mỹ tồn tại ở khu vực
Châu Á không chỉ để đối phó với riêng một Trung Quốc, mà còn liên quan
đến vấn đề địa chính trị khác. Ví dụ, nếu không có nhân tố Trung Quốc
thì Mỹ vẫn đương nhiên tìm ra được lý do để tạo ra không gian sinh tồn
tại Châu Á. Bất luận là khu vực Đông Bắc Á, Đông Nam Á hay Nam Á, mối
quan hệ phức tạp đan xen giữa các nước đều cần có sự hỗ trợ sức mạnh của
Mỹ để cân bằng lực lượng.
Trung Quốc không tạo dựng không gian cho Mỹ.
Rất
nhiều các quốc gia Châu Á đều cần sự hiện diện của Mỹ chính là do kết
quả không hành động của Trung Quốc. Ví dụ, trong vấn đề Triều Tiên thì
ngoài Triều Tiên ra, hầu hết tất cả các nước Châu Á đều bất mãn với cách
hành xử của Trung Quốc. Tất nhiên là cũng có những điểm khó xử riêng
nhưng không thể vì thế mà chứng minh rằng cách hành xử của Trung Quốc là
hợp lý được. Quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản thường xuyên liệt vào
trạng thái căng thẳng. Hiện nay cùng với sự trỗi dậy của Ấn Độ thì mối
quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ cũng hàm chứa rất nhiều những nhân tố
không xác định. Mặc dù Trung Quốc và các nước khu vực Châu Á luôn có các
lĩnh vực hợp tác chung, thế nhưng những cuộc xung đột dường như phát
sinh ngày một phức tạp hơn. Dù thế nào đi chăng nữa, trong việc giải
quyết các vấn đề khu vực Châu Á thì Mỹ vẫn là quốc gia duy nhất đã từng
nhiều lần thông qua các cuộc trải nghiệm, hơn nữa, tính quan trọng của
nhân tố Trung Quốc mặc dù ngày một tăng lên nhưng chưa hề thông qua bất
kỳ một cuộc trải nghiệm nào cả. Trong bối cảnh như vậy, Mỹ vẫn chính là
môt quốc gia đạt mức độ tin tưởng và được dựa dẫm cao nhất. Điều này
cũng được thể hiện trong vấn đề Biển Đông, những nước có liên quan hy
vọng có sự can thiệp của Mỹ tại khu vực xảy ra tranh chấp này, nhằm nâng
cao tính chắc chắn của họ trong vấn đề Biển Đông. Chính vì thế mà dẫn
tới xu thế "chính trị hóa đại quốc"...
Ở
đây còn có môi trường nội bộ của chính bản thân Trung Quốc. Phiên họp
Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ mười tám sẽ được tổ chức vào năm sau.
Trong thời gian này, nhiệm vụ chính của chính quyền Trung Quốc là giải
quyết công việc nội bộ, sự ổn định sẽ trấn áp tất cả mọi vấn đề khác. Có
một số quốc gia phán đoán rằng trong thời kỳ này thì Trung Quốc sẽ
không thể đưa ra những điều chỉnh lớn nào về chính sách đối ngoại được
cả. Điều này cũng có nghĩa rằng, trước khi một thế hệ lãnh đạo mới được
thành lập, Trung Quốc sẽ không thể có chính sách mới và quan trọng nào
trong lĩnh vực ngoại giao, hay nói rằng phần lớn các chính sách đối
ngoại được đưa ra tất nhiên đều mang tính chất phản ứng là chủ yếu. Cách
phán đoán này khiến cho các nước có liên quan đến tranh chấp sẽ nhận
thấy rằng đây là cơ hội để tiến hành áp dụng những phương pháp triệt để
hơn cho họ.
Trung
Quốc sẽ làm gì khi đối mặt với tình thế hiện tại này? Được coi là một
quốc gia lớn đang trong quá trình trỗi dậy, Trung Quốc chắc chắn sẽ đóng
vai trò ngày càng quan trọng trong các vấn đề về khu vực. Tình thế tại
Biển Đông đối với Trung Quốc mà nói, mặc dù "ngày thế giới tận thế" vẫn
còn cách xa vô cùng, nhưng họ bắt buộc phải thay đổi tính bị động đã tồn
tại cho đến thời điểm hiện tại này để chuyển sang tính chủ động hơn.
Điều đặc biệt quan trọng phải nói đến rằng, vấn đề hiện nay của Trung
Quốc không phải là vấn đề về nguồn tài nguyên, mà là chiến lược, chính
sách và cách huy động nguồn lực. Đơn giản mà nói chính là vấn đề về
đường lối tư duy của Trung Quốc. Trong tranh chấp “Nam Hải” (Biển Đông),
Trung Quốc phải có một đường lối tư duy rõ ràng, minh bạch.
Cần phải suy ngẫm lại đường lối tư duy đã cũ của Trung Quốc.
Khi
đề cập đến đường lối tư duy mới thì cần phải suy ngẫm lại đường lối tư
duy đã cũ của Trung Quốc. Vấn đề cốt lõi trong đường lối tư duy truyền
thống của Trung Quốc chính là phản đối "quốc tế hóa" trong trannh chấp
Biển Đông. Xét trên cơ sở lý thuyết, điều này đương nhiên là không sai.
Nhưng vấn đề phát sinh nằm ở chỗ khái niệm đưa ra này không những không
miêu tả được tình huống khách quan của quá trình tranh chấp Biển Đông mà
lại càng khó khăn hơn khi áp dụng đường lối tư duy này để có thể tìm ra
được biện pháp giải quyết. Điều này liên quan đến nhiều cấp độ bên
trong các vấn đề chính.
Thứ nhất là chủ nghĩa song phương.
Trung Quốc yêu sách gác tranh chấp chủ quyền cùng khai thác chung. Thế
nhưng cho đến nay chính sách này vẫn chỉ dừng lại ở trạng thái khẩu
hiệu, lý thuyết suông. Để có được mối quan hệ với các nước ASEAN, bản
thân Trung Quốc không hề có kế hoạch khai thác Biển Đông nào cả, mà
ngược lại chính là các nước có liên quan trong những năm gần đây tiến
hành tăng cường khai thác. Thế nhưng Trung Quốc không phải đề xuất ra
chủ trương cùng khai thác chung, mà chính xác phải nói là chủ trương
khai thác đơn phương. Trong vấn đề cùng khai thác chung, các quốc gia có
liên quan hoặc là không tự nguyện hoặc là tinh thần tự nguyện không
cao. Hay nói toạc ra thì Trung Quốc không có đủ sức mạnh cũng như cơ chế
quyền lực để thúc đẩy các quốc gia có liên quan công nhận và đi đến
chấp nhận yêu sách cùng khai thác chung mà Trung Quốc đã đề xuất.
Thứ hai là chủ nghĩa đa phương,
chính là mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước ASAEN. Vấn đề tranh
chấp Biển Đông chủ yếu biểu hiện trong "Tuyên bố ứng xửtrên Biển Đông”
mà Trung Quốc cũng đã ký kết. Thế nhưng văn bản này lại không mang bất
cứ tính chất ràng buộc pháp lý nào. Văn bản tuy đã được ký kết rất nhiều
năm qua nhưng không có bất cứ một quốc gia nào đạt hiệu quả trong việc
thúc đẩy cho văn bản trở thành một tài liệu mang tính ràng buộc pháp lý
được. Nên nói rằng chính bản thân Trung Quốc cũng không nỗ lực thực hiện
đầy đủ nhiệm vụ của mình trong đó. Điều quan trọng của vấn đề nằm ở chỗ
Trung Quốc vẫn tuân thủ chủ nghĩa song phương và phản đối đa phương hóa
trong tranh chấp Biển Đông. Thế nhưng bản chất thực sự của rất nhiều
vấn đề trong tranh chấp Biển Đông lại là đa phương, cho nên việc phản
đối chính sách đa phương hóa đã thể hiện rõ thái độ của Trung Quốc không
dám đối mặt với sự thực này.
Thứ ba là quốc tế hóa.
Các quốc gia có liên quan đã đưa vấn đề tranh chấp Biển Đông giao phó
cho Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế. Trung Quốc tỏ ý không chấp
nhận cho lắm, bởi vì nếu cầu cứu đến Liên Hợp Quốc hoặc các tổ chức quốc
tế thì khả năng bại trận của Trung Quốc sẽ lớn hơn cơ hội chiến thắng
rất rất nhiều lần. Như đã thảo luận trong phần trên, Trung Quốc đã thua
trận trong cuộc chiến công luận quốc tế rồi, sẽ không còn bao nhiêu
người có thể thông cảm cho lập trường của Trung Quốc được nữa.
Thứ tư là chính trị hóa đại quốc.
Các quốc gia có liên quan trong khu vực Đông Nam Á hy vọng sẽ có sự can
thiệp của Mỹ tại đây, điều này là dễ hiểu. Thế nhưng mức độ can thiệp
của Mỹ sẽ sâu nông như thế nào thì còn phải xem lợi ích quốc gia của
chính họ trong vấn đề này. Nhân tố Mỹ trong khu vực Đông Nam Á đã luôn
tồn tại từ trước tới nay, hay nói cách khác Mỹ đã luôn là một bộ phận
cấu thành trong cấu trúc khu vực này. Trên thực tế, lợi ích của Mỹ tại
khu vực Đông Nam Á này còn thâm căn cố đế hơn nhiều so với lợi ích của
Trung Quốc. Ngay từ thời kỳ khi mới bắt đầu chiến tranh lạnh thì Mỹ đã
không ngừng thiết lập mối quan hệ với các nước trong khối ASEAN, còn
Trung Quốc chỉ mãi cho đến sau thời kỳ cải cách giải phóng đất nước mới
bắt đầu xây dựng mối quan hệ mang tính thực chất với các nước này. Mối
quan hệ giữa Mỹ và các nước Đông Nam Á là toàn diện trên các lĩnh vực
còn Trung Quốc thì chủ yếu chỉ dựa trên lĩnh vực kinh tế, còn những lĩnh
vực khác mới đang thuộc thời kỳ sơ khai. Do vậy, việc chính quyền Trung
Quốc phản đối "chính trị hóa đại quốc" cũng chính là nguyên do khiến
cho nước này không nhận ra bản chất thật của vấn đề tranh chấp.
Khi
suy ngẫm đến các nhân tố đã được nêu ở phần trên, mọi người sẽ thật dễ
dàng để trả lời câu hỏi rằng "Trung Quốc nên đi những bước tiếp theo như
thế nào đây?", cũng có thể xem xét đánh giá từ nhiều góc độ như sau.
Trước tiên,
Trung Quốc cần đặt mình đứng từ góc độ của các quốc gia láng giềng hoặc
các nước có liên quan đến tranh chấp trong vấn đề Biển Đông để suy xét
vấn đề. Trong suốt thời gian dài đến nay, chính quyền Trung Quốc luôn
tuyên truyền lập trường với những nguyện vọng tốt đẹp của họ ra thế giới
trong và ngoài nước, ví dụ như những khái niệm gọi là "trỗi dậy hòa
bình", "phát triển hòa bình" và "láng giềng tốt", v.v... Những điều này
rất quan trọng nhưng không bao giờ có thể coi là đủ được cả, bởi vì
chính Trung Quốc đã coi nhẹ cách nhìn nhận của các nước xung quanh đối
với sự trỗi dậy của họ như thế nào, hay mối quan tâm của các nước đó ra
sao trước sự trỗi dậy của Trung Quốc. Chỉ cho đến khi thấu hiểu được mối
lo lắng của các nước láng giềng này rồi, thì Trung Quốc mới hoạch định
ra những chính sách thiết thực có hiệu quả được. Nếu không, không quan
tâm nguyện vọng của Trung Quốc có như thế nào đi chăng nữa, hay đại loại
giống như những khái niệm gọi tương tự như là "sự trỗi dậy hòa bình"
v.v... thì cuối cùng vẫn biến thành những lời Trung Quốc tự nói và tự
nghe.
Thứ hai,
Trung Quốc bắt buộc phải phân định rõ ràng giữa vấn đề an ninh hàng hải
và tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông. Mối quan tâm của cộng đồng quốc
tế đặc biệt là Mỹ nói riêng chính là vấn đề an ninh hàng hải, việc Mỹ
can thiệp vào vấn đề Biển Đông cũng chính xuất phát từ căn nguyên này
ra. Đối với vấn đề này, Trung Quốc cần căn cứ vào tình hình thực tế,
thừa nhận và nhấn mạnh rằng an ninh hàng hải là mối quan tâm của tất cả
các bên tham gia, đồng thời cũng là trách nhiệm của tất cả các bên.
Trung Quốc phải tình nguyện gánh vác trách nhiệm này cùng với các quốc
gia khác như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ hay các quốc gia ASEAN. Trên thực tế,
vấn đề an ninh hàng hải quốc tế vẫn luôn do Mỹ đảm nhiệm từ trước tới
nay. Mặc dù Trung Quốc đã bắt đầu có năng lực và sức mạnh trong vấn đề
này, thế nhưng khả năng gánh vác được trách nhiệm thì vẫn còn quá là xa
vời đối với chính họ, cho dù chỉ là vấn đề liên quan đến an ninh hàng
hải trong khu vực mà thôi. Trong lĩnh vực này, hai nước Trung, Mỹ có
không gian để có thể hợp tác cùng với nhau rất lớn, mà sự hợp tác như
vậy cũng phù hợp với lợi ích quốc gia của chính bản thân Trung Quốc.
(Đương nhiên ở đây đề cập đến một vấn đề còn cơ bản hơn, đó là việc
Trung-Mỹ sẽ hợp tác như thế nào để xây dựng nên hệ thống an ninh trong
khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Mà điều này đòi hỏi thể hiện trong một
bài lập luận khác biệt nữa).
Quản lý và kiểm soát sẽ chính là các lựa chọn.
Thứ
ba, một cấp bậc tiếp theo nữa là mối quan hệ giữa Trung Quốc và tổng
thể khối ASEAN. Việt Nam, Philippin, Malaysia và Bruney là những nước
thành viên ASEAN có tuyên bố chủ quyền một phần hoặc toàn bộ đối với một
số đảo trên Biển Đông. Điều này quyết định đến sự cân nhắc của Trung
Quốc về lợi ích tổng thể của khối ASEAN cũng như mối quan hệ giữa Trung
Quốc và tổng thể ASEAN. Mặc dù cho tới thời điểm hiện tại, Trung Quốc
không sẵn sàng chấp nhận chủ nghĩa đa phương, thế nhưng cuối cùng thì họ
bất đắc dĩ cũng phải thừa nhận, hơn nữa sự chấp nhận này càng sớm bao
nhiêu thì sẽ càng có lợi cho Trung Quốc bấy nhiêu. Hãy giả thiết một
chút rằng, nếu như "Tuyên bố ứng xử trên Biển Đông" ngay từ những năm
trước đã có tính ràng buộc pháp lý rồi thì cục diện Biển Đông sẽ không
đến nỗi phát triển như thời điểm hiện tại thế này. Không còn nghi ngờ gì
nữa, nếu Trung Quốc chấp nhận chủ nghĩa đa phương, thì "Tuyên bố ứng
xửtrên Biển Đông" sẽ vẫn là một lối vào đầy thuận tiện.
Thứ
tư, một cấp bậc cuối cùng là nên đối diện với vấn đề tranh chấp chủ
quyền như thế nào. Đây là vấn đề vô cùng thiết yếu, Trung Quốc nên từ bỏ
chủ nghĩa song phương truyền thống và chấp nhận chủ nghĩa song phương
mới, cũng có nghĩa là một chủ nghĩa song phương mới nằm trong cấu trúc
của chủ nghĩa đa phương. Điều này nói lên rằng, Trung Quốc và các nước
có liên quan đến tranh chấp sẽ có thể tiến hành các cuộc họp thảo luận
song phương dưới hình thức cấu trúc đa phương giữa Trung Quốc và ASEAN
khi bàn bạc nghiên cứu về vấn đề Biển Đông. Dưới hình thức cấu trúc đa
phương như vậy, các quốc gia không liên quan đến tranh chấp Biển Đông sẽ
không tỏ rõ thái độ ủng hộ đối với bất cứ một bên nào, lập trường trung
lập sẽ là lợi ích lớn nhất của tất cả các bên. Đồng thời khuôn khổ này
cũng tạo động lực lớn giúp cho các nước có liên quan đến tranh chấp có
thể tiến hành thương lượng thảo luận với Trung Quốc.
Vấn
đề Biển Đông ngày càng trở nên phức tạp gay gắt. Muốn một bước giải
quyết nhanh gọn vấn đề này là không điều không thể xảy ra được. Nếu
không giải quyết được vấn đề tồn tại, thì phương án quản lý và kiểm soát
sẽ trở thành những cách lựa chọn hợp lý. Nhưng muốn quản lý và kiểm
soát được vấn đề tranh chấp Biển Đông thì cần bắt buộc phát triển một
loạt các cơ chế pháp lý. Mặc dù Trung Quốc hiện nay đang nằm trong tình
thế bị động, thế nhưng không gian mà Trung Quốc có thể hoạt động được
lại vô cùng lớn. Là một quốc gia lớn có trách nhiệm thì Trung Quốc cũng
nên tìm kiếm các giải pháp để quản lý và kiểm soát vấn đề tranh chấp
trên Biển Đông bắt đầu ngay từ trong bối cảnh khu vực thậm chí mở rộng
ra quốc tế. Nếu Trung Quốc không thể thay đổi đường lối tư duy truyền
thống một cách có hiệu quả thì không gian hoạt động của Trung Quốc trong
vấn đề này sẽ ngày càng bị thu hẹp nhỏ lại.
Bản gốc tiếng Trung “中国活在梦中 南海早已彻底输掉”
Theo Liên hợp Buổi sáng
Đinh Thị Thu (dịch)
SƠN TRUNG * CHÍNHLUẬN 13
VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI
Một sự kiện đặc biệt trong tuần này là thế giới đã quan tâm đến các nhà
tranh đấu Việt Nam.Tổ chức Phóng viên Không biên giới RSF phối hợp với
đại công ty
internet Google trao Giải Công dân Mạng 2013
cho Blogger Huỳnh Ngọc Chênh của Việt Nam. Bộ
ngoại giao Mỹ đã vinh danh khoảng 20 phụ nữ Việt Nam bất khuất kiên
cường chống cộng sản xâm lược và bán nước. Các nước cũng đã khuyến cáo
Việt Nam nên tôn trọng nhân quyền, trả tự do cho LS Lê Quốc Quân.
Thượng nghị sĩ McCain qua Việt Nam cũng khuyến cáo Việt Nam thay
đổi chính sách.
Việt Nam cộng sản như một đứa bé ngu dốt và ương ngạnh. Với Trung Cộng,
chúng bò hai chân và lạy lục. Với các
nước, chúng vênh mặt lên và lên tiếng chửi rủa. Thái độ của Hà Nội cũng
giống như Bắc Hàn huênh hoang đe dọa tiêu diệt Washington. Việt Cộng
đối với ngoại quốc thì bất lịch sự hung hăng. Họ phản đối việc quốc tế
trao giải thưởng cho các Bloggers. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã làm
dáng dân chủ khi kêu gọi nhân dân góp ý kiến sửa đổi Hiến Pháp, đến khi
ngưởi ta lên tiếng thì ông bực bội và ăn nói kiểu ông nội người ta..
Ông là ai mà ông dám nói với nhân dân và các nhà trí thức đã đóng góp
sửa đổi Hiến pháp là 'suy thoái chính trị,
tư tưởng, đạo đức'. Nhân dân là suy thoái chính trị, tư
tưởng và đạo đức thì các ông làm tay sai Nga Tàu, bán nước, hại dân,
cướp tài sản nhân dân, giết cha mẹ, anh em, và như ông Hồ dối trá thành
tinh, giết Nông Thị Vân và quăng xác ra đường là chính trị cao, tư tưởng
vững và đạo đức trong sáng hay sao? Bây giờ các ông đâm chém nhau, lừa
gạt nhau, cướp bóc công khai mà dám lên mặt đạo đức ư? Các ông nên biết
các ông tội lỗi ngập đầu, xin cúi mặt xuống, đừng lên tiếng tư tưởng,
đạo đức. Tư tưởng, đạo đức Stalin, Mao, Hồ, Pol Pot thì cả thế giới biết
rồi!Thật buồn cười, các vua chúa ta, các vua chúa Anh, Pháp, Đức , các
Tổng thống Pháp, Mỹ và TrungHoa dân quốc it ai nói với quốc dân về tư
tưởng đạo đức, sao Mao, Hồ lại ưa đề cao tư tưởng đạo đức thế a? Rõ là "
thùng rỗng kêu to". Người giàu có thí it khi khoe của, đa số giấu kín
vì sợ trộm cướp. Người có đạo hạnh thật sự thì it khi khoe khoang vì
khoe khoang là tính xấu. Cổ Học Tinh Hoa có kể chuyện Án tử làm Tể tướng
thì mặt mũi khiêm cung, còn tên đánh xe thì dáng điệu vênh váo. Cả
triểu đình cộng sản không ai khiêm tốn, ai cũng kiêu căng, lên tiếng dạy
đời, và khoe khoang đủ thứ, nào là trí tuệ đỉnh cao, bách chiến bách
thắng...
Mình làm cha mà con mình nó bỏ nhà ra đi, mỗi khi đau khổ chúng chạy qua
ông hàng xóm, xin ông hàng xóm can thiệp, ông có thấy là nhục không?
Đây là lúc thoái trào của Mac Lê, của Mao, Hồ. Người Nga, người Đông Âu
đã giật sập tượng Marx, Lenin, Stalin, còn Trung Quốc thì còn bảng hiệu
Cộng sản bề ngoài, nhưng bề trong cái ruột Marx, Mao và cộng sản đã mất
cả rồi. Thiên hạ bảo ông Lú là phải!
Đài VOA ngày 16.03.2013 loan tin Thiếu tá Cathy Wilkinson, nữ phát ngôn viên của Ngũ Giác Đài, đã cho
biết " Không bàn vũ khí sát thương trong cuộc đối thoại Việt – Mỹ" trong cuộc phỏng vấn dành riêng cho VOA Việt Ngữ về cuộc
đối thoại chính sách quốc phòng Việt – Mỹ diễn ra hồi đầu năm tại Hà
Nội.
Bà cho hay: ‘Hoạt động xuất khẩu vũ khí sát thương bị cấm trong khuôn khổ các quy định hiện thời không được mang ra thảo luận tại cuộc đối thoại chính sách quốc phòng vừa qua. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ tiếp tục hợp tác với Việt Nam trong khuôn khổ các quy định hiện có để giúp nước này tăng cường khả năng quân sự trong các lĩnh vực quan trọng’.
http://www.voatiengviet.com/content/khong-ban-vu-khi-sat-thuong-trong-cuoc-doi-thoai-viet-my/1622988.html
Mỹ không bán vũ khí sát thương hoặc giúp đỡ Việt Cộng vì ba lý do:
+ Việt cộng không là đồng minh của Mỹ
+Việt cộng tàn ác, độc tài. Nước Mỹ không đem tiền bạc của dân mà trợ ác.
+Việt cộng có nhiều tay chân Trung Cộng ngay trong bộ Chính trị và hàng tướng lãnh. Bán vũ khí cho Việt Nam sẽ lọt vào tay Trung Cộng.
Nhiều người còn bảo rằng mấy tên Việt cộng xảo trá. Chúng giả đò mua vũ khí để tỏ ra ra tích cực chống ngoại xâm và cũng để mua bán kiếm chác it nhiều. Mua vũ khí Mỹ về bán lại cho Trung Cộng thì vừa được tiền, vừa được tiếng tôi ngoan!
Trong
tháng ba, Mỹ và Nam
Hàn luyện binh, Bắc Hàn cũng thử hỏa tiễn và tuyên bố sẽ san bằng Hoa
Thịnh Đốn. Có thể đó là lời đe dọa huyênh hoang của một đứa trẻ hung
hăng, điên
cuồng. Nhưng người Mỹ cũng phải thận trọng vì " cẩn tắc vô áy náy"
cho nên Washington cũng vội lắp đặt lá chắn đề phòng. Tú Anh đài RFI
ngày 15-3-2013
cho biết trước những lời đe dọa “đánh phủ đầu”của Bắc Triều Tiên, Hoa Kỳ
đã nhanh chóng củng cố hệ thống lá chắn chống tên lửa liên lục địa. Bờ
biển phía
tây của Mỹ sắp được tăng cường 14 dàn phi đạn diệt hỏa tiển trong khí đó
Nhật Bản sẽ được trang bị thêm một ra-đa phát hiện và theo dõi đạn đạo.
Đài
RFI loan tin Quyền tổng thống Venezuela Nicolas Maduro từng
loan báo là thi hài ông Hugo Chavez sẽ được ướp để cho đời sau tiếp tục
được thấy cố tổng thống của họ. Tuy nhiên hôm qua, 15/03/2013, Chính
quyền Venezuela
đã cho biết là sẽ không thực hiện việc này. Lý do là vì phương án này
đòi hỏi là phải đưa thi hài ông Chavez qua Nga và để lại đấy trong nhiều
tháng.
Cộng
sản vỗ ngực khoe họ là duy vật chủ nghĩa, là khoa học trong khi họ chửi
mắng các triết phái khác , và các tôn giáo là duy tâm thần bí, ngu si
dốt nát thì trong mấy chục năm qua, người ta đã thấy cộng sản hiện ra là
một tôn giáo, cũng giáo điều, cũng mê tín. Người ta đua nhau ướp xác
chết, tô tượng, in hình ảnh, lập nhà mồ, tổ chức lễ bái, thăm viếng bậc
giáo lãnh. Ông Hồ chết năm 1969 nhưng trước đó, người ta đã cho người
sang Liên Xô học kỹ thuật ướp xác. Thành ra di chúc ông già muốn chết
đơn sơ giản dị, nào ném tro ra biển, nào chôn cốt chỗ này chỗ kia là
hoàn toàn xạo!
Cái ông quyền Tổng thống Venezuela là tay gian nịnh nhưng may mắn thay, chính quyền Venezuela đã phản đối, thật khôn ngoan và sáng suốt thay! Ôi! Duy vật chủ nghĩa không tin linh hồn tồn tại, chết là hết, sao lại còn giữ cái xác hôi thúi kia làm gì cho tốn tiền? Trong khi dân nghèo, không nhà thương, không trường học, bọn Việt cộng sao lại tốn hàng triệu Mỹ kim cho các xác thối của lão già đại gian, đại ác?
Thế
giới đang chú trọng đến việc chuyển quyền tại Trung Công. Việc lên ngôi
của Tập Cận Bình là một sự kiện đại quan trọng vì thông thường, vị sáng
lập đảng có nhiều quyền hành, nhưng qua kinh nghiệm Stalin và Mao,
người ta phân lập, hay nói rõ hơn, người ta chia chác quyền lợi với nhau
ngay trong hàng ngũ tối cao của đảng. Vì vậy mà có ba chức vụ chia cho
ba ông lớn nhất là Tổng bí thư, Chủ tịch nước và Thủ tướng. Việt Nam
thêm một ghế quan trọng nữa là Chủ tịch quốc hội cho đủ bộ tứ của cái
ghế bốn chân. Vì sợ tranh giành, Đặng Tiểu Bình đã đặt lệ về hưu chứ
không ngồi hoài đến chết. Khó lắm mới khuyên được các cụ về hưu . Khó
lắm mới chia ra ba ghế cho ba ông. Thế mà nay các cụ lại giao quyền tổng
bí thư, chủ tịch nước, và chủ tịch tịch quân ủy trung ương cho một tay
Tập Cận Bình. Tại sao vậy?
Các bình luận gia quốc tế đều nêu lên lý do nội bộ. Lý do chính là Trung Quốc quá suy đồi cần phải thay thể hệ thống chính trị độc đảng, độc tài.
Tuy nhiên trong hàng ngũ đảng Trung Cộng, không thiếu những tay bảo thủ. Bà Phó Oánh nói rằng người ta đã không công bằng khi cho rằng cải cách chính trị kiểu Trung Quốc không phải là cải cách vì không đi theo cùng một con đường với các nước khác.Tựa đề của một bài báo trên tờ Hoàn cầu Thời báo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc còn viết rõ hơn. Họ nói rằng “Khẳng định con đường xã hội chủ nghĩa, kiên quyết bác bỏ mô hình Tây phương”.
Trong khi đó đa số nhà chính trị, văn nghệ sĩ cho rằng Trung Quốc không bác bỏ mọi ý niệm chính trị của Tây phương. Trong vài tuần qua có nhiều bài viết trên truyền thông nhà nước Trung Quốc nói tới sự quan tâm về các tác phẩm của Alexis de Tocqueville. Ông Vương Kỳ Sơn, một trong 7 ủy viên thườøng trực Bộ Chính trị, đã đề nghị các đồng sự của ông tìm đọc cuốn “Chế độ cũ và cách mạng” của sử gia người Pháp.
Dư luận Trung Quốc cũng bàn tán nhiều tới vấn đề phải chăng các điều kiện ở Trung Quốc đã chín muồi cho một cuộc cách mạng.
Về việc này nhà báo Trịnh Nhất Trung cho biết rằng ông Vương Kỳ Sơn và ông Tập Cận Bình quan tâm tới các tác phẩm của Tocqueville vì họ muốn học hỏi về cách thức cai trị và cách thức duy trì quyền lực độc tôn của mình và né tránh các mối rủi ro. Tuy nhiên, ông Trịnh cho rằng những người theo phe tự do và dân chúng nói chung lại có một cái nhìn khác. Họ nghĩ rằng Trung Quốc nên chấm dứt chế độ cai trị độc đảng. Họ tin rằng nếu điều đó không xảy ra thì Trung Quốc có thể trải qua một cuộc cách mạng tương tự như cuộc cách mạng Pháp. Một số người tin rằng những sự thay đổi thật sự sẽ không xảy ra nếu không tiến hành cải cách chính trị.
Nhà làm phim Ngãi Hiểu Minh, cũng là một nhà hoạt động xã hội, cho rằng dân chúng nên hành động để thúc đẩy cho sự thay đổi thay vì đặt hy vọng vào các nhà lãnh đạo đất nước. Bà Ngãi nói rằng chúng ta không thể đặt niềm tin vào những nhà lãnh đạo mà nước uống của họ được cung ứng bởi một đội ngũ nhân viên đặc biệt và gia đình của họ không còn sinh sống ở Trung Quốc. Bà nói thêm rằng khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhóm họp, họ gạt bỏ những vấn đề và những lời chỉ trích. Họ không cho phép người dân bày tỏ ý kiến. Người dân không được tụ họp hay biểu tình trên đường phố.
Hiện nay, ngân sách mà Trung Quốc dùng cho công tác bảo vệ an ninh còn cao hơn ngân sách quốc phòng. Sự mất tin tưởng của công chúng đối với các nhà lãnh đạo đất nước là một mối quan tâm lớn, đặc biệt vì nó dính líu tới nạn tham ô cửa quyền.
Các nhà lãnh đạo đảng Cộng Sản Trung Quốc mới đây đã cảnh báo rằng tham nhũng có thể đưa tới chỗ “mất nước mất đảng” và họ đã nói nhiều hơn tới điều mà họ gọi là quyết tâm chống tham nhũng của chính phủ.
Ông Tập Cận Bình cho biết chính phủ sẽ không chỉ trừng trị những giới chức tham nhũng cấp thấp, thường được gọi là “những con ruồi”, mà còn trừng trị cả những giới chức cấp cao, được gọi là “những con cọp.”
Ông Tập phát biểu đảng Cộng sản Trung Quốc đang đối mặt với những thách thức nghiêm trọng và cam kết ông sẽ chiến đấu vì khát vọng có một cuộc sống tốt đẹp hơn của người dân.
“Đảng đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng và cũng có nhiều vấn đề cấp bách trong đảng cần phải giải quyết, đặc biệt là nạn tham nhũng, xa rời quần chúng, hình thức và quan liêu của một số quan chức đảng”, ông Tập phát biểu.
Kết thúc bài phát biểu dài khoảng 19 phút, ông Tập nói: “Trung Quốc cần phải học hỏi nhiều hơn về thế giới cũng như thế giới cần phải học hỏi nhiều thêm về Trung Quốc”.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2013/03/130314_npc_set_to_vote.shtml
Tập Cận Bình lớn lối.Trung Quốc có gì hay cho thế giới học tập đây?
Tập Cận Bình lớn lối.Trung Quốc có gì hay cho thế giới học tập đây?
Tại
các quốc gia khác, thể chế chính trị và nạn tham nhũng là hai việc khác
nhau, hoặc it liên quan. Còn trong chế độ cộng sản, hai việc này là
một. Độc đảng đi đôi với độc tài. Độc tài là chính quyền vào tay một hay
vài ngưởi, họ muốn làm gì thì làm. Họ ngồi trên pháp luật dù đó là pháp
luật do họ đặt ra. Dân chúng là nô lệ, không có quyền tham gia bầu cử,
ứng cử, dân chúng không có quyền phê bình bọn cầm quyền. Ai làm trái ý
họ là bị giết, bị bỏ tù. Nếu trong một nước dân chủ, quyền dân quyết
định thì tham nhũng sẽ không còn chỗ đứng khi dân có quyền bầu cử, ứng
cử và phê phán việc làm của chính quyền.
Vì quyền
bính nằm trong tay, tài sản quốc gia nằm trong tay, họ chiếm làm tài
sản riêng, họ trở thành tư sản đỏ. Tham nhũng từ đó mà ra, phe đảng từ
đó mà ra, nạn cướp bóc, hối lộ, mua quan bán tước từ đó mà ra. Than
ôi, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao chửi quan lại, thực dân, hào
lý thì nay tội ác và tệ đoan cộng sản càng nặng hơn!
Làm sao
trừ diệt?Phải loại bỏ đảng cộng sản, phải trừ nọc độc cộng sản. Phải
thực thi dân chủ để dân có quyền tham gia việc nước và hưởng đời dân
chủ, tự do. Còn cộng sản là còn áp bức, tham nhũng, cướp bóc.
Tập
Cận Bình có dẹp được cộng đảng như Gorbachev đã làm hay không? Còn tập
trung quyền uy, tập trung lính tráng và súng đạn chỉ là biện pháp nhất
thời..
Còn
bỏ tù tham nhũng thì ai làm chẳng được, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào
không giết được mấy tên tham nhũng quèn hay sao? Đặng Tiểu Bình, Giang
Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào thiếu gì công an, thiếu gì lính, thiếu gì xe
tăng? Họ đã thẳng tay giết người chứ nào ngại ngùng mà phải chờ Tập Cận
Bình hay sao?Ngày nay, đảng cộng sản trao quyền cho Tập Cận Bình còn có mục đích khác. Đó là mục đich đối ngoại, không hiểu vô tình hay cố ý mà các bình luận gia bỏ quên không nói đến.
Ngày nay Trung Quốc tuyên bố chủ quyền biển Đông, họ không phải nói
chơi! Họ đã chuẩn bị, lý luận ( lý thuyết mới về
“sự trỗi dậy hòa bình Zheng Bijian, vốn là Trợ lý cho Chủ tịch Hồ Cẩm
Đào ). Tiền bạc , vũ khí, quân đội cũng đã có sẵn. Nay đến lúc phải
tấn công mà chủ soái là Tập Cận Bình.
Tập Cận Bình là tướng con gấu vững vàng, mắt voi nhỏ rất can đảm, hung
tợn, lỳ lợm, là tướng sát thủ dã man, cao hơn Đặng Tiểu Bình một bậc.
Tướng họ Đặng là tướng gian manh" Nhất lé nhì lùn". Họ Đặng giết hàng
ngàn sinh viên, Tập Cận Bình có thể giết hàng chục triệu mà không gớm
tay. Không cần trao cho ông ba chức vụ, một chức vụ ông cũng thâu
tóm quyền hành, mấy ông đồng chí kia nếu không ngoan ngoản thì theo cụ
Marx ngay! Bạc Hy Lai rồi cũng chết không nhắm mắt! Nhưng tiếc rằng
mặt họ Tập hơi tối, cái trán hơi ngắn cho nên thiếu thông minh, linh
hoạt, xoay trở khó khăn. So với Obama lanh lợi, thông minh, tiến thoái
dễ dàng. Hồ Cẩm Đào it nhất cũng có cái miệng tươi, mặt sáng. Còn Tập
Cận Bình Bình với cái vai, cái lưng và khuôn mặt đó là tay chiến đấu
không mỏi mệt, đập chết cũng không nhả con mồi ra. Có lẽ đã đến lúc "Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh" nên xuất hiện nhân vật dễ sợ này!
Trung Cộng nói và phải làm. Người Á Đông kín đáo, đến khi mở miệng là đã suy nghĩ kỹ. Người Trung Cộng quyết đánh vì họ suy nghĩ :
+Nay đến lúc Trung Quốc có binh lực, tàu bay, hàng không mẫu hạm, tên lửa, vệ tinh đã có đủ.
+ Nay là lúc Mỹ nguy cơ vì kinh tế khủng hoảng, tiền bạc eo hẹp. Đây là lúc Mỹ suy yếu nhất, còn chờ gì mà không đánh tới?
Họ tấn công như thế nào? Rất khó biết:
+Họ tấn công Việt Nam là điểm yếu nhất trong mắt xích Asian?
+Họ trực diện chơi Nhật Bản ở Điếu Ngư?
+Họ dùng Bắc Triều tiên đi pháo đầu?
Có lẽ Trung Cộng suy tính rằng họ và Bắc Triều tiên phóng ngàn hỏa tiễn,
chỉ cần mười hỏa tiễn rớt vào Mỹ, giết hàng chục ngàn dân, tiêu diệt
một vài thành phố là đủ cho dân Mỹ hốt hoảng, sợ hãi , các bộ trưởng,
các tướng lãnh mất tinh thần, mà biểu tình phản chiến. Phong trào lan
ra, mụt nhọt nổi lên từ trong lục phủ, ngũ tạng. Phe Dân chủ đánh thì
phe Cộng hòa đòi rút binh, phe cộng hòa chủ chiến thì phe Dân chủ phản
chiến và đòi hòa đàm. Hai phe đánh nhau. Phe hứa hẹn rút quân sẽ đắc
cử. Vì cái ghế tổng thống, vì chút quyền lợi, người ta bất chấp đạo
nghĩa và danh dự! Mỹ sẽ lui binh, mặc cho Trung cộng chiếm biển đông và
thế giới. Mỹ co cụm lại với thuyết Mỹ châu của người châu Mỹ! Dân Trung
Quốc chết vài trăm triệu chả ăn thua gì! Chỉ còn vài chục triêu người,
Trung Quốc cũng sẽ làm bá chủ thế giới! Đó
là quan điểm của Mao Trạch Đông mà ai cũng biết. Hồ Cẩm Đào, Tập Cận
Bình chắc cũng tự hào về chiến thắng trăm phần trăm của họ.
Dẫu sao, đối với Trung Quốc, chiến tranh là cần thiết. Chiến tranh để chiếm đất đai, xăng dầu, lương thực, nhất là chiếm thế giới để thực hiện chủ nghĩa thực dân ( di dân ,giản dân, tạo công ăn việc làm ở các thuộc địa), và cũng là phương cách dẹp nội loạn. Marx hô hào vô sản tranh đấu, nếu được thì được cả thế giới, mà đảng cộng sản hưởng lợi, nếu mất thì mất xich xiếng.Mao, Hồ, Tập cũng theo đường lối đó, cứ nổ súng đi thì được cả thế giới, nếu mất thì mất vài trăm triệu dân thì đáng gì!
Phải chăng đó là suy nghĩ của các Khổng Minh Trung Quốc? Các Khổng Minh Mỹ quốc nghĩ sao?
Saturday, March 16, 2013
TRỌNG THÀNH * CA TRÙ
Ca trù trước ngã ba đường:
Phục sinh hay mai một
Hát ca trù - tranh sơn dầu của Phạm Công Thành (2005). Ảnh: N.X.D
Ca trù - môn nghệ thuật cổ truyền độc đáo của Việt Nam - ngày
càng được công chúng trong nước và quốc tế biết đến. Năm 2009, ca trù
được Unesco công nhận là một “di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại
cần được bảo vệ khẩn cấp”. Điều bất ngờ là, trong thời gian gần đây,
càng lúc càng có những tiếng nói trong nước báo động về nguy cơ mai một
của ca trù.
Tại Việt Nam, về mặt số lượng, các nhóm ca trù địa phương dưới
hình thức câu lạc bộ đang nở rộ. Nếu như trước năm 2005, cả nước chỉ có
khoảng 20 câu lạc bộ, thì nay đã tăng lên gấp ba lần. Các câu lạc bộ ca
trù có mặt tại khoảng 15 tỉnh và thành phố Việt Nam. Một số khóa truyền
nghề của các nghệ nhân “đầu ngành” cho thế hệ trẻ đã được thực
hiện, một số liên hoan ca trù toàn quốc đã được tổ chức, một số sinh
hoạt ca trù gắn với các lề thói xưa đang bắt đầu được phục hồi, các
phương tiện truyền thông chú ý nhiều hơn đến ca trù…
Tuy nhiên, điều bất ngờ là, trong thời gian gần đây, càng lúc càng có
những tiếng nói trong nước cất lên báo động về nguy cơ mai một của ca
trù. Thậm chí, một số ý kiến nhắc đến khả năng Unesco rút danh hiệu “di sản văn hóa nhân loại” mà môn nghệ thuật quý báu này vừa được trao tặng.
Tạp chí Cộng đồng của RFI tuần này xin chuyển đến quý vị tiếng nói
của một số nghệ nhân, nghệ sĩ, nhà tổ chức, chuyên gia hàng đầu về ca
trù tại Việt Nam, những người tích cực hoạt động để cổ vũ cho sự phục
hồi/phổ biến nghệ thuật ca trù, với hy vọng tiếng nói của các vị khách
mời sẽ mang đến cho quý vị những góc nhìn khác nhau, góp phần vào việc
soi tỏ thực tại nhiều nghịch lý kể trên.
Các khách mời của chúng ta hôm nay là các nghệ sĩ, nghệ nhân Nguyễn
Thúy Hòa, Bạch Vân, Phạm Thị Huệ và Nguyễn Văn Khuê, những người trực
tiếp bảo tồn/phổ biến di sản nghệ thuật này ; giáo sư Tô Ngọc Thanh và
nhạc sĩ Đặng Hoành Loan, những người có trọng trách trong việc lập hồ sơ
ca trù gửi Unesco, và tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, tác giả một số công
trình nghiên cứu về lịch sử ca trù, đặc biệt qua di sản Hán-Nôm.
Lo lắng, nhưng lạc quan về tương lai của ca trù
Mở đầu tạp chí là tiếng nói của nhà nghiên cứu âm nhạc học dân
tộc Tô Ngọc Thanh, chủ tịch Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, một người
nhiều năm đóng góp cho quá trình phục hồi di sản ca trù.
Tô Ngọc Thanh : Sau khi nhận được cái vinh danh ấy,
thì vừa mừng, vừa lo, đặc biệt những người như chúng tôi. Tức là những
người dám nói hiểu biết một ít về ca trù. Lo sợ cho vận mệnh của nó, nên
càng lúc càng lo hơn. Bây giờ, nó như thế này : Chỗ đứng của ca trù
hiện nay trong con mắt của nhân dân có tăng lên so với trước. Họ biết rõ
đấy đích thực là một di sản quý báu, chứa chất những tinh hoa về văn
học, văn hóa, nghệ thuật và âm nhạc nữa. Thì đấy là một điều mừng, vì
anh chẳng lạ gì, trước đây cũng có người nói rằng đấy là sản phẩm của
cái nơi đĩ bợm, với hình ảnh về phố Khâm Thiên ngày xưa.
Trong hồ sơ mà chúng tôi gửi đi, thì bao giờ cũng có phần rất là quan trọng, gọi là "chương trình hành động",
để nếu như được vinh danh rồi, thì chúng tôi phải làm gì để xứng với
tầm cỡ của nó. Thì sau khi được vinh danh rồi, trong chương trình hành
động, chúng tôi cũng đề ra khá nhiều. Như thế đã trải qua ba năm rồi,
cái chương trình ấy chưa được cụ thể hóa.
Anh cũng biết, trước kia nó là của dân, nó được truyền nghề theo kiểu
cha truyền con nối, theo kiểu phường hội. Còn bây giờ nó không thể thế
được, thế bây giờ chúng tôi cần những kinh phí để truyền dạy. Cũng xin
nói thật là Hội Văn nghệ Dân gian của chúng tôi cũng đã tổ chức được 4, 5
lớp. Tức là từ những nghệ nhân truyền thẳng xuống cho lớp trẻ, mà thông
qua phương thức như ngày xưa, tức là truyền miệng, truyền nghề. Chúng
tôi cho rằng, đây là hình mẫu chúng tôi làm, để mai kia nếu có được kinh
phí của nhà nước, thì mô hình ấy có thể giúp cho ca trù được đứng hơn.
Vậy thì, nói với nhà báo thế này : Mọi người không quên, nhưng mà nó
đang ở bước đầu. Tôi hy vọng rằng, nó sẽ được hiện thực với một tốc độ
cũng không nhanh lắm đâu. Nó chưa thật là vui lắm, nhưng cũng không đến
mức phải buồn.
Con đường gìn giữ và phổ cập ca trù trong đời sống đương đại
Tiếp theo đây là một số nhận xét của nhạc sĩ Đặng Hoành Loan,
người phụ trách khoa học của Hồ sơ quốc gia về "Nghệ thuật ca trù của
người Việt" trình Unesco trước đây, về một số điều ông tâm đắc trong quá
trình đưa ca trù đến với đời sống đương đại, bên cạnh việc phục dựng
lại một số sinh hoạt cổ.
Đặng Hoành Loan : Về việc bảo tồn vốn cổ ca trù đúng
như nó có là điều khó khăn trong xã hội hiện đại. Vì ca trù hiện nay nó
mất mất cái môi trường sinh hoạt của nó. Cho nên là, việc giữ gìn nó
trong đời sống hiện nay, thì đương nhiên là nó vấp phải một số khó khăn
nhất định. Nhưng điều quan trọng là : Con người ngày nay, nhất là sau ba
năm được Unesco công nhận là di sản, thì giới yêu thích ca trù Việt Nam
đang làm được một số việc quan trọng.
Tôi cho rằng đây chỉ là việc tái hồi lại những bài ca đã có, những
bài thơ đã có. Và nó đang dần dần trở lại các sinh hoạt trong các tập
tục ngày xưa ở đình làng. Ta biết ca trù có các địa điểm trình diễn ở
đình làng, trong tư gia, cung đình và các lối chơi của các nhà nho. Thì
hiện nay cái đang có thể trở lại được,và đã trở lại là sinh hoạt ca trù
trong một số đình làng.
Thứ hai là ở các phố thị, các thành phố hiện nay, ca trù ngày nay
trình diễn lại các điệu hát trong cái sinh hoạt ngày xưa, bằng cách thức
tổ chức các câu lạc bộ. Tôi thấy rằng, hiện nay rất nhiều câu lạc bộ
rất tốt, đặc biệt là Hà Nội đang trở thành một trung tâm khá lớn, thu
hút lực lượng trẻ. Tôi nói như vậy là tôi dựa vào cuộc liên hoan ca trù
tháng 11/2011. Cuộc liên hoan này đánh dấu cuộc chuyển mình rất lớn, ca
trù sống lại, tái sinh lại trong xã hội hiện đại. Nhưng chúng ta đang hy
vọng phục hồi lại được những bài bản cũ, chứ còn chúng ta chưa hy vọng
được là có những sinh hoạt như truyền thống ngày xưa, như rất nhiều
người thường nói, là những lối ca trong gia đình, những lối ca thân
thiện, những lối ca sáng tác tại chỗ.
Đào nương – linh hồn của nghệ thuật ca trù
Là một nghệ thuật gắn liền với lịch sử Việt Nam hàng trăm, thậm chí
nghìn năm nay, ca trù chứa đựng nhiều tinh hoa của dân tộc Việt. Điều
đặc biệt đáng chú ý trong ca trù được nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh, đó
là sự phối kết linh diệu giữa các thể cách âm nhạc và sáng tạo thơ ca,
qua những mối giao hòa giữa đào nương và văn nhân, thi sĩ.
Thông thường trong nghệ thuật ca trù, người thưởng thức chính là các
văn nhân, đặc biệt trong vị trí quan viên giữ trống chầu, trong khi đó,
ca nương là người trình diễn.
Nhắc đến ca trù đương đại không thể không dừng lại để nhớ về ca nương
Quách Thị Hồ. Di sản ca trù của Việt Nam được thế giới biết đến ngày
hôm nay, một phần rất lớn nhờ công lao của bà và giáo sư Trần Văn Khê,
thông qua mối duyên kỳ ngộ giữa hai người, cách đây đã gần 40 năm (năm
1976, giáo sư Trần Văn Khê ghi âm giọng hát ca trù của bà Quách Thị Hồ
để giới thiệu ra thế giới qua đĩa hát mang nhãn hiệu Unesco).
"Tiếng hát của Quách Thị Hồ đẹp và tráng lệ như một tòa lâu đài
nguy nga, lộng lẫy, mà mỗi một tiếng luyến láy cao siêu tinh tế của bà
là một mảng chạm kỳ khu của một bức cửa võng trong cái tòa lâu đài ấy.
Tiếng hát ấy vừa cao sang bác học, vừa mê hoặc ám ảnh, diễn tả ở mức
tuyệt đỉnh nhất các ý tứ của các văn nhân thi sĩ gửi gắm trong các bài
thơ" (theo Nguyễn Xuân Diện).
Người ca nữ ngày nay sống như thế nào với những bài thơ mà họ hát
lên ? Chúng tôi có may mắn được nghệ sĩ Nguyễn Thúy Hòa (CLB Thái Hà),
người đã từng theo học với nghệ nhân Quách Thị Hồ, chia sẻ :
Nguyễn Thúy Hòa : Cái quan trọng mà thầy tôi dậy tôi
là, khi mình đọc cái bài thơ trước khi mình hát, thì mình phải có cái
cảm xúc thật của mình. Khi mình thể hiện, thì mình thể hiện bằng cái cảm
xúc đó. Cho nên, mỗi lần hát không một lần nào giống lần nào cả.
Tôi nhớ một lần hát bài "Tỳ bà hành". Tôi thể hiện nhiều lần
bài hát này. Nhưng lần đó, không hiểu sao, cảm xúc của tôi quá mạnh, nó
bị đong đầy quá. Và tôi đã không thể ngừng được, và tôi đã khóc rất là
nhiều. Tôi vừa khóc, tôi vừa hát và tôi nức nở. Bởi vì, tôi rất nhớ đến
thầy của tôi. Chỉ vì một câu hát thôi. Nội dung của bài hát không liên
quan đến thầy của mình. Nhưng mà từ một câu, một chữ nào đấy, tất cả
những hình bóng của thầy, những lời nói, tự nhiên nó ùa về.
Lúc ấy cái tâm trạng của mình nó không kìm được. Cái điều đó cũng là
điều không nên đối với một người nghệ sĩ. Mình phải biết kìm hãm cảm xúc
của mình. Nhưng mà khi khán giả thấy như thế, họ thấy là vô cùng hay.
Và họ cảm nhận được cả cái bài hát, cả cái cảm xúc của mình. Cái hình
ảnh đó, cái bài hát đó, cái ngày hôm đó luôn luôn ở trong tâm trí của
mình.
Giây phút tri âm
Người ca nương là cả một thế giới riêng. Trước đây, phần lớn nếu
không nói là hầu hết các bài thơ được hát trong ca trù, đều do các tác
giả là đàn ông viết. Và như vậy rất thường khi tâm sự của người phụ nữ
được thể hiện qua cảm nhận của nam văn sĩ. Người ca nữ ngày nay nhìn về
vẻ đẹp của ca trù như thế nào ? Sau đây là tiếng nói của nghệ sĩ Bạch
Vân (CLB Ca trù Hà Nội - CLB đầu tiên về ca trù, thành lập năm 1991) :
Bạch Vân : Những người đến với ca trù phải là những
người có một tính cách thâm trầm, sâu sắc, thì anh mới có thể thả hồn
mình vào đấy. Thứ hai là người hát cũng phải là người có những tâm
trạng. Cuộc đời thăng trầm thì hát hay hơn nhiều. Chẳng hạn như tác phẩm
nước ngoài, thì Bạch Vân thích nhất "Tỳ bà hành". Và Bạch Vân
thấy rất là quý nể bà Quách Thị Hồ cái bài ấy. Bạch Vân cũng đắm chìm
trong nó. Bạch Vân cảm thấy cái thân phận của người phụ nữ, đặc biệt
người ca nữ nó đau đớn, nhiều khi nó trần trụi, mình cảm thấy mình đúng
là cái thân phận như vậy.
Những người khách đến nghe rồi họ lại ra đi. Những khách tình cờ gặp gỡ cũng phải để lại cảm xúc chứ. « Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ », « Vô duyên đối diện bất tương phùng », « Đã từng khen chén rượu câu thơ, lòng riêng những đợi chờ tri kỷ mãi ».
Một giây phút nào đấy người ta cô đơn, người ta cảm thấy rằng đấy
cũng là mình tìm được một người bạn tri kỷ, tri âm. Cái thân phận của
người phụ nữ, cái thân phận của người ca nữ, nó buồn lắm, buồn sâu thẳm
và nhiều khi nó đau đớn đến tột cùng. Bạch Vân cứ ngồi hát là cảm thấy
Bạch Vân ở trong không gian ấy, trong nhân vật ấy và Bạch Vân đắm chìm
trong câu hát ấy. Và nhiều khi mình bay lên chín tầng mây, mình hòa
chung với nó, và mình không còn biết mình là ai nữa.
Đến bây giờ Bạch Vân cũng đã suýt soát gần 30 năm đam mê với nó, và
Bạch Vân thấy rằng là, những lúc mình buồn bã nhất, có thể mình muốn
chết, thì mình lại vào hát và mình cảm thấy mình lại bay bổng, mình lại
thăng hoa, mình lại giải thoát khỏi nỗi cô đơn và mình sẽ gặp tri âm,
tri kỷ trong câu hát của mình, và mình lại trở về một cách bình yên, và
mình lại sáng tạo, lại sống, mình lại yêu đời hơn.
Tất nhiên là, đến với ca trù, Bạch Vân phải trả giá cho tuổi thanh
xuân, trả giá cho hạnh phúc của mình. Nhưng mà, có những lúc mình đau
xót, buồn thấu xương, thấu thịt, buồn thấm đẫm một sự cô đơn khủng
khiếp, thì Bạch Vân lại lấy bộ phách ra và đắm chìm trong Tỳ bà hành,
trong "Cuốn chiếu nhân tình", trong "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ"…
Một thưở huy hoàng
Ca trù là một nghệ thuật đã có thời hết sức phổ biến trong xã hội
Việt Nam, từ nơi thôn dã cho đến chốn thị thành. Nghệ thuật ấy đã để
lại những đỉnh cao của nó, mà người nghệ sĩ ngày nay không dễ gì mà vươn
đến được. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện nhận xét :
Nguyễn Xuân Diện : Cái nghệ thuật ca trù, để có thể
phục hồi được, thì cái quan trọng nhất phải phục hồi là cái người đào
nương. Người đào nương hồi xưa đều được sinh ra ở làng quê và được giáo
dục trong các giáo phường. Cho đến hiện nay, việc này khó đến nỗi mà
chúng ta chưa tìm thấy lại được một người nào nữa, một người nào nữa có
thể tạm sánh với lại một phần nhỏ của bà Kim Đức, hoặc một phần nhỏ của
bà Quách Thị Hồ. Cả một sự tinh tế như vậy, chính vì thế cho nên nhạc sỹ
Nguyễn Xuân Khoát nói, có khi là phải lịch lãm cả một cuộc đời thì mới
mong hiểu nổi cho trọn vẹn một tiếng phách tre.
Thế thì, tìm lại cái hào quang của dĩ vãng vàng son như vậy ở trong
ca trù thì không thể có được. Và vì vậy, có lẽ chỉ giữ được ca trù trong
một khuôn khổ nào đó nhất định thôi. Nhưng chúng tôi cũng có thể hy
vọng là, khoảng mươi, mười lăm năm nữa thì may chăng là sẽ tìm lại được
chăng ?
Sự mong manh của một di sản nghìn năm
Sự phục hồi di sản ca trù không chỉ khó vì những đỉnh cao của môn
nghệ thuật cổ xưa này, mà còn vì sự mong manh của các nghệ nhân đầu đàn,
tất cả đều đã tuổi cao sức yếu. “Có lẽ không loại hình nghệ thuật
nào như ca trù, luôn gắn với hình ảnh những người biểu diễn ở vào độ
tuổi cực cao, mắt mờ chân chậm, răng lợi móm mém, mỗi khi lên xuống sân
khấu phải có người dìu. Họ nói run run yếu ớt, nhưng (lạ thay) mỗi khi
cất giọng hát, thì trong vắt thanh tân, nghe như rút hết chút sức tàn
còn lại... » (theo Hồng Minh, trang mạng nhandan.com.vn).
Việc người nghệ nhân không được chú trọng và trân trọng thực sự
đã khiến cho có rất nhiều lo ngại rằng nghệ thuật này có thể thất
truyền. Sau đây là tiếng nói của nghệ sĩ Phạm Thị Huệ, phụ trách CLB Ca
trù Thăng Long :
Phạm Thị Huệ : Chúng tôi cũng có những khó khăn như
là : Trước khi kêu gọi các nghệ nhân làm hồ sơ, thì (cơ quan hữu trách)
luôn luôn đề cao rằng, sau khi chúng ta được (Unesco) phong tặng, thì
nghệ nhân cũng sẽ có những ưu đãi đặc biệt để giúp cho họ. Cho tới giờ,
các nghệ nhân cũng chưa nhận được một sự ưu ái nào.
Đấy là cái điều tôi cảm thấy rất xót xa. Không biết là cho đến bao
giờ. Vì các cụ đều ở cái tuổi 88, gần 90 rồi. Ở cái tuổi đó, thì cũng
không còn ở gần chúng ta được bao lâu nữa. Và cái di sản mà các nghệ
nhân đang gìn giữ ở trong chính tâm hồn và tài năng của họ rất là khó có
thể nắm bắt được. Kể cả chúng ta có ghi âm hay học đi chăng nữa. Cái
việc ghi âm thì chỉ đơn thuần là cái máy hát lại thôi, không thể truyền
được cái hồn giống như chúng ta được học trực tiếp. Còn cái việc học
trực tiếp, thì chúng ta cũng phải thường xuyên được ở bên cạnh nghệ
nhân, sống cùng nghệ nhân, và phải có một chiều dài từ 3 năm đến 7 năm,
chứ không thể gỏn gọn trong vài chục ngày, vài tháng.
Đấy là những cái mà chúng tôi cảm thấy cái sự mong manh. Trong tương lai, ca trù rất có thể sẽ lại chìm vào quên lãng.
Thời buổi phấn vôi lẫn lộn
Thái độ đối xử đúng đắn với nghệ nhân, không chỉ là qua các đãi
ngộ vật chất, mà đặc biệt đáng lưu ý là sự trân trọng đối với năng lực
nghệ thuật đích thực của những người đầu đàn hiếm hoi còn sống. Được gọi
trân trọng là “các di sản sống”, nhưng điều mà một bộ phận công luận
tại Việt Nam rất phàn nàn rằng, các cơ quan hữu trách, trước hết là
những người có thẩm quyền trong lĩnh vực nghệ thuật, lại không hợp tác
thực sự với giới nghệ nhân đầu ngành, gây ra tình trạng nhiễu loạn chuẩn
mực hiện nay trong môn nghệ thuật đang trong quá trình hồi sinh. Sau
đây là một tâm sự của nghệ sĩ đàn đáy Nguyễn Văn Khuê, thuộc CLB Ca trù
Thái Hà, sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời tiếp nối ca trù.
Nguyễn Văn Khuê : Tôi thấy, như hiện nay tôi rất là
lo lắng. Làm ca trù xấu đi, và không có gì là mang đúng tính bác học của
nó. Hiện nay, (tôi rất lo lắng về) cách bảo tồn ca trù của bên Viện Âm
nhạc. Bây giờ, cứ ca nương mới học được một, hai năm đã có rất nhiều
thành tích các thứ.
Bình thường cái tiếng đàn của người ta phải tạo ra một con rồng, có
đường nét và vô cùng uyển chuyển, thì họ chỉ dậy như một con giun thôi.
Bản thân người đến với ca trù, người ta nghe, người ta chán.
Điều quan trọng nhất là : Thế nào thì được gọi là nghệ nhân ? Ai là
người để sát hạch đấy là nghệ nhân đích thực, có đủ tài năng, thẩm mỹ để
dạy cho lớp trẻ bây giờ. Khi mà thầy không đạt được tầm nghệ nhân mà
dạy, thì nó sẽ dễ làm mất hết cả cái chất của ca trù, và dễ làm lệch lạc
hướng đi.
Nếu cứ để như thế này, đào tạo theo phương thức này, mặc dù rất nhiều
tiền của nhà nước bỏ ra, rất nhiều tiền của các ban ngành vào rồi,
nhưng bây giờ thực ra phấn cũng như vôi. Không ai biết được là, người
nào đích thực là nghệ nhân, đích thức là người có tài thực sự.
Một nghệ nhân đầu ngành, không công bố danh tính, cho biết, bà
không đồng tình với những trắng đen lẫn lộn trong việc thẩm định chất
lượng trình diễn ca trù, cũng như chất lượng dạy nghề. Tuy nhiên, dù
không hợp tác với các cơ quan quản lý nghệ thuật, nghệ nhân đã ngoài 80
tuổi này cũng như một số người khác, vẫn âm thầm dạy nghề trong môi
trường gia đình, thân hữu, soạn sách hướng dẫn, hầu truyền lại những giá
trị đích thực của ca trù.
***
Trong vài thập niên trở lại đây, ca trù, một trong những loại hình
nghệ thuật được coi là vi diệu nhất của văn hóa Việt Nam, đang trở lại
với công chúng. Sự công nhận quốc tế, cũng như sự tôn vinh ngày càng
mạnh mẽ trong nước đối với ca trù là điều rõ ràng. Tuy nhiên, trong quá
trình hồi sinh ấy, ca trù đang đứng trước một ngã ba đường, giữa sự phục
sinh - thăng hoa của những gì là di sản đích thực và sự lẫn lộn trắng
đen, trong đó những giá trị nghệ thuật thực sự bị rẻ rúng và chìm trong
quên lãng.
“Ca trù có một truyền thuyết rất đẹp và lung linh huyền thoại về
sự ra đời. (...) các vị tổ ca trù đã được chính các vị tiên xui khiến
chế tác ra cây đàn đáy, mà tiếng đàn này có thể giải mọi phiền muộn,
chữa được bệnh cho mọi người. Tiếng đàn ấy còn se duyên cho hai vị tổ ca
trù thành đôi lứa... “ (theo Nguyễn Xuân Diện).
Mong sao sự khởi đầu rất thi vị ấy của ca trù vẫn còn sức mạnh để đưa
ca trù tiếp tục cuộc hành trình xuyên qua thời gian, đưa những gì tinh
túy nhất của các thế hệ đi trước đến với mai sau.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các nghệ sĩ Nguyễn Văn Khuê, Bạch
Vân, Nguyễn Thúy Hòa và Phạm Thị Huệ, các nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân
Diện, Đặng Hoành Loan và Tô Ngọc Thanh đã dành thời gian cho tạp chí hôm
nay. Trong thời gian thực hiện tạp chí này, chúng tôi đã nhận được
nhiều chỉ dẫn của giáo sư Trần Quang Hải, người tham gia lập hồ sơ ca
trù trình Unesco và có một số khảo cứu về âm thanh học của ca trù. Nhân
dịp này chúng tôi xin gửi lời tri ân tới giáo sư.
Trong tạp chí lần này, chúng tôi không có dịp nhắc đến nhiều người đã
có những đóng góp quan trọng cho công cuộc khôi phục và nghiên cứu về
ca trù (như nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền, tiến sĩ Alienor Anisensel,
người Pháp - tác giả một luận án về nhạc ngữ ca trù...) hay một số khía
cạnh đặc biệt khác cho thấy những biến chuyển của ca trù ngày hôm nay,
như các sáng tác mới trong thơ hát nói. Hy vọng sẽ có dịp trở lại với quý vị trong đề tài này vào một dịp tới.
Các bài liên quan
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 253
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0253
HUY LÂM - NGƯỜI GIÀ - HUY PHƯƠNG - BÙI MỸ DƯƠNG
Tuesday, March 19, 2013
HUY LÂM * NGƯỜI GIÀU SỐNG LÂU
Người giàu sống lâu
- Details
- Created on Tuesday, 19 March 2013 00:43
- Category: Tạp Ghi
- Huy Lâm
Người
viết chưa từng được may mắn làm một người giàu có sung túc nên không
biết cuộc sống của người giàu ra sao. Nhưng được làm người giàu chắc là
sướng, ít nhất là về mặt vật chất.
Này
nhé, bạn cứ thử tưởng tượng xem, một người không cần phải thật giàu có,
chỉ cần rủng rỉnh tiền bạc thôi, khi muốn mua một món đồ gì là có thể
mua ngay chứ không cần phải nhìn vào ví xem có đủ tiền không? Rồi không
phải đắn đo suy nghĩ là có nên mua hay không? Hoặc cân nhắc xem món đồ
ấy có thật sự cần thiết hay không? Nếu muốn đi chơi xa ư? Ừ thì cứ lấy
vé máy bay hạng nhất, rồi tới đâu đó là đã có sẵn khách sạn sang trọng ở
những góc phố chính, rất tiện cho việc di chuyển và mua sắm.
Người
không giàu thì không được cái diễm phúc ấy. Muốn làm gì cũng phải tính
toán cho thật kỹ, chi li từng khoản tiêu xài. Vé máy bay thì xem hãng
nào rẻ hơn mới đi. Ở khách sạn thì cỡ ba sao là đủ sang rồi. Ăn uống thì
kiếm những tiệm tương đối bình dân thôi, chớ vào những nơi khăn trải
bàn thì trắng muốt, ủi là thẳng nếp, muỗng nĩa đặt ngay ngắn, ly lớn ly
nhỏ, đĩa to đĩa bé được sắp xếp thật cầu kỳ. Nếu chẳng may liều mình
bước vào những nơi ấy một lần cho biết mà nhỡ có bị chém trầy trụa chiếc
thẻ tín dụng thì cũng đáng đời, chẳng ai thèm thương xót. Nghèo mà ham.
Đồng
tiền nối liền khúc ruột. Do đó, nếu không phải là người giàu có, tiền
bạc rủng rỉnh, thì khi làm bất cứ chuyện gì, dù lớn hay nhỏ, bạn hãy
gắng nhớ phải so đo tính toán cho thật khôn ngoan, sảy một cái là gặp
nạn như chơi, mệt vô cùng.
Thế
thì, làm người giàu quả là sướng thật. Nhưng điều đó dường như vẫn chưa
đủ, người giàu thì càng ngày càng giàu thêm. Người nghèo thì may lắm là
dậm chân tại chỗ, còn không thì bị thụt lùi. Trong danh sách các tỉ phú
trên thế giới của tạp chí Forbes thì hiện nay là 1.426 người, tăng thêm
210 tỉ phú trong năm qua. Tổng số tài sản của những nhà đại phú này là
$5,4 ngàn tỉ, tăng thêm sơ sơ có $800 tỉ so với một năm trước đó. Trung
bình mỗi nhà tỉ phú ôm một khối tài sản trị giá $3,7 tỉ. Đây là con số
khổng lồ mà đại đa số những người đi làm bình thường như chúng ta có mơ
tới mấy mươi đời cũng không với tới. Riêng tại Hoa Kỳ, lợi tức của nhóm
1%, những người đứng đầu trong nấc thang kinh tế, đã tăng gấp đôi kể từ
năm 1980, chiếm 20% tổng số lợi tức toàn quốc. Trong khi đó lợi tức của
những người đi làm bình thường chỉ tăng 4% mà mức lạm phát lại ăn bớt đi
2% - nghĩa là mức sống của đại đa số không tiến thêm bao nhiêu.
Đã
thế, người giàu lại còn được sống lâu hơn người bình thường để hưởng
thụ cho hết những cái sung sướng vật chất mà đời ưu đãi cho họ nữa cơ
chứ.
Theo
một nghiên cứu của nhóm Longevity Science Advisory Panel ở Anh Quốc,
với người giàu ở nước này, tuổi thọ trung bình của đàn ông là 83,8 và
phụ nữ là 86,7, tương phản với nhóm người lao động bình thường, tuổi thọ
trung bình của họ là khoảng ba năm ngắn hơn. Nghiên cứu trên còn cho
thấy khoảng cách tuổi thọ giữa giàu và nghèo càng ngày càng cách biệt.
Đầu thập niên 1980, khoảng cách biệt tuổi thọ giữa giàu và nghèo là
khoảng hai năm, đến nay khoảng cách biệt đó là 3,5 năm.
Kết
quả của nghiên cứu nói rằng lý do mà người nghèo chết sớm hơn là vì
cuộc sống của họ kém lành mạnh hơn là những người giàu. Họ không được
hưởng những dịch vụ y tế tốt hơn mà lại có thói quen uống rượu, hút
thuốc và thêm bị béo phì. Thế nên, tuổi thọ của họ vì thế mà bị thấp hơn
so với người giàu. Tựu trung cũng chỉ vì “ba cái lăng nhăng” nó quấy mà
cụ Nguyễn Công Trứ trước đây đã phải buột miệng than thở.
Những
nghiên cứu khác cho thấy ở Mỹ cũng thế, người giàu sống thọ hơn người
nghèo. Một nghiên cứu của Văn phòng Ngân Sách Quốc hội (CBO) vào năm
2008 thấy rằng khoảng cách biệt tuổi thọ giữa giàu nghèo ở Mỹ, cũng như
giữa những người có bằng cấp và không bằng cấp, đã tăng kể từ thập niên
1980. Trong thập niên 2000, những nhóm người có lợi tức cao sống thọ hơn
những nhóm người có lợi tức thấp là khoảng 1,9 năm. Khoảng cách biệt đó
đã tăng 1,6 năm kể từ thập niên 1980.
Tương
tự như các nước Tây phương, người giàu Á châu sống thọ hơn người nghèo Á
châu. Theo một nghiên cứu vào năm 2011 của viện nghiên cứu The Korean
National Pension Research Institute nói rằng những người Nam Hàn có lợi
tức thuộc nửa cao hơn thì sống thọ hơn những người có lợi tức thuộc nửa
thấp hơn khoảng bốn năm.
Cũng
có bằng chứng khoa học cho thấy người giàu chậm lão hóa hơn do trong cơ
thể của người giàu sản xuất một loại hormone có liên hệ tới tuổi thọ
của con người nhiều hơn là người nghèo.
Trong
một bài báo trên tờ The Washington Post trong mục về sức khỏe, tác giả
Michael A. Fletcher đưa ra một so sánh giữa hai khu vực giàu nghèo tại
tiểu bang Florida để ta thấy được sự khác biệt rất rõ rệt về tuổi thọ ở
hai nơi nằm kề cận nhau thuộc vùng phía nam nước Mỹ. Khu vực giàu có là
quận St. Johns. Vì là một cộng đồng khá giả nên người dân sống trong khu
vực này được hưởng tất cả những tiện nghi mà chỉ người giàu mới có như:
những sân golf với thảm cỏ xanh quanh năm bao bọc lấy khu vực dân cư và
gần đó là bãi biển dài thẳng tắp, sân quần vợt mới tinh và một hệ thống
đường mòn tỏa ra khắp mọi ngõ ngách dành cho xe đạp và người đi bộ.
Nhờ
vậy mà lối sống của dân cư trong quận St. Johns rất lành mạnh. Họ năng
hoạt động bên ngoài hơn. Bảy ngày một tuần, từ sáng tới tối, lúc nào
cũng có người đạp xe đạp, đi bộ, đánh golf hoặc chơi quần vợt. Và hẳn
nhiên là với lối sống lành mạnh đó, tuổi thọ trung bình của người dân ở
đây cũng tương đối cao hơn những nơi khác. Theo kết quả nghiên cứu của
trường Đại học Washington, phụ nữ tại đây có thể sống tới gần 83 tuổi,
so với chỉ hai thập niên trước, tuổi thọ của họ kéo dài thêm bốn năm.
Tuổi thọ trung bình của nam giới là hơn 78 tuổi, dài hơn sáu năm so với
hai thập niên trước.
Nhưng
khi nhìn qua khu vực hàng xóm là quận Putnam bên cạnh, đời sống ở đây
không những không có cảnh nhàn viên như St. Johns mà tuổi thọ còn bị
ngắn hơn rất nhiều. Lợi tức trung bình và trị giá nhà ở của Putnam chỉ
bằng khoảng một nửa so với St. Johns. Và tuổi thọ trung bình của quận
Putnam kể từ năm 1989 chỉ nhích lên được một chút. Tuổi thọ của phụ nữ
tại đây là khoảng 78 tuổi, so với hai thập niên trước chỉ nhích lên ít
hơn một năm. Trong khi đó, cùng thời gian này, tuổi thọ của nam giới
tăng thêm được một năm rưỡi và hiện nay là khoảng 71 tuổi, bảy năm ngắn
hơn so với tuổi thọ nam giới ở quận St. Johns cách đó ít dặm.
Khoảng
cách biệt tuổi thọ khá xa giữa hai quận hạt nằm sát bên nhau có lẽ phản
ánh một sự thật khó chối cãi về sự bất quân bình kinh tế giữa nhóm
người này với nhóm người kia càng ngày càng gia tăng tại nước Mỹ. Tuy
tuổi thọ trung bình ở Mỹ tiếp tục tăng đều đặn, đạt 78,5 tuổi vào năm
2009, có những bằng chứng nghiên cứu cho thấy sự tăng tuổi thọ này phần
lớn chỉ xảy ra ở nhóm những người giàu có và khá giả.
Mà
tuổi thọ không chỉ chênh lệch bởi những nhóm với mức lợi tức khác nhau,
mà hiện nay một vài nhóm - đặc biệt là những phụ nữ da trắng có lợi tức
thấp - cũng đang bị thua xút tuổi thọ.
Một
bản phúc trình được đăng trên tạp chí Health Affairs vào tháng Hai vừa
qua nói rằng gần một nửa các quận hạt ở Mỹ trong thời gian qua, số phụ
nữ chết trước tuổi 75 với tỉ lệ cao hơn trước đây rất nhiều. Các quận
hạt mà tuổi thọ của phụ nữ đang sút giảm thường là ở khu vực nông thôn
thuộc vùng phía nam và tây.
Tình
hình đời sống ở những khu vực nông thôn nước Mỹ nói chung không chỉ là
khó kiếm được công việc tốt (đưa đến lợi tức thấp) mà sự tiếp cận các
dịch vụ y tế cũng khó khăn do số bác sĩ cung ứng không đủ. Ngay cả những
người có bảo hiểm y tế muốn gặp bác sĩ cũng là chuyện khó khăn, nan
giải. Do đó, những người bệnh, nhất là những người mang những căn bệnh
hiểm nghèo đã không có được sự săn sóc y tế đúng mức và điều này ảnh
hưởng không ít tới tuổi thọ của họ.
Vậy, phải chăng chuyện kinh tế và tuổi thọ có sự liên hệ mật thiết với nhau?
Không
hẳn thế. Đó chỉ là một cách ngụy biện. Giàu nghèo không phải là lý do
chính mà tuổi thọ dài hay ngắn. Vấn đề là ở chỗ người giàu thường có
khuynh hướng sống lành mạnh và có ý thức hơn đối với cuộc sống của chính
họ. Thế thôi.
Mà suy cho cùng, sống thọ hay không không quan trọng. Cái quan trọng là cuộc sống có hạnh phúc vui vẻ hay không?
GIẢI TRÍ CỦA NGƯỜI GIÀ
Những thú vui giải trí của những người đứng tuổi
- Details
- Created on Thursday, 14 March 2013 01:10
- Category: Văn nghệ
Westminster , California (tin tổng hợp)
Khi
bước vào căn phòng khách của một gia đình người Việt , trên đường
Sapphire, thành phố Westminster, người ta tưởng như là bước vào một sàn
nhảy của một phòng trà ca nhạc: có ca sĩ hát trên bục sân khấu, có những
cặp dìu nhau theo điệu nhạc, và xung quanh căn phòng có những người
ngồi lắng nghe tiếng hát, hay rù rì nói chuyện.
Một
hình thức giải trí rất thông dụng của những người đứng tuổi ở Little
Saigon là các chương trình “hát cho nhau nghe” có khiêu vũ. Các buổi
trình diễn thường diễn vào vào những ngày cuối tuần tại những tư gia.
Một nhóm bạn bè, những người mà con cái đã lên đại học hay đã trưởng
thành, tụ tập tại một trong nhà của những người này. Mỗi cặp mang đến
một món ăn, và hùn tiền để mướn nhạc sĩ đến chơi nhạc “sống”: thường mỗi
người phải bỏ vào từ 6 hay 7 mỹ kim cho tiền trả thù lao cho nhạc sĩ
đến đánh đàn.
Theo
bà Phạm Diễm Tuyết năm nay 75 tuổi đang sống ở Santa Ana, thì bắt đầu
là những cuộc họp bạn, để ăn uống tâm sự, rồi dần dà mới biến thành
những chương trình hát karaoke, nhảy đầm.
Ông
Phú Lê một cựu sĩ quan không quân VNCH, về hưu cách đây vài năm, đã mua
nhà ở Westminster trong nhiều năm qua, với mục đích tổ chức các chương
trình họp bạn,hát cho nhau nghe này. Ông Phú đã bỏ tiền mua một dàn máy
loại nhà nghể”Public announcement system” và những dụng cụ lỉnh kỉnh
khác như microphones, trống, đàn, bàn ghế..v.v.
Các
nhóm hát cho nhau nghe ở Cali thường có chừng 30 người. Họ hát làm hai
đợt, xen vào giữa nửa tiếng đồng hồ dành cho việc ăn uống.
Chúng
tôi cũng xin nói thêm ở đây là hát cho nhau nghe là một thú vui tao
nhã, về tinh thần cũng như thể chất và giúp ích cho sức khỏe. Đến các
hộp đêm để nhẩy đầm chăng? Đó là khung cảnh của khói thuốc, của rượu
chè, thuốc lắc.
Còn đến dự khán các chương trình ca nhạc ư? Đó là một cách giải trí thụ động, không tốt cho bằng chính mình tự hát.
Hát
cũng như tập thở khí công, còn nhẩy đầm cũng là một phương cách tập thể
dục hữu hiệu như đi bộ, chạy treadmill. Một điểm lợi khác nữa là khi
tập hát, hay nhảy đầm, người ta phải suy nghĩ những bước tiến lui, và
đây là một cách thức hữu hiệu ngăn ngừa bệnh quên, Alzheimer’s.
Tại
Toronto, chương trình hát cho nhau nghe trên Thời Báo Radio đã kéo dài
hơn 4 năm qua, hiện đã phát thanh trên 200 chương trình. Qúy độc giả có
thể gửi những bài hát dưới dạng mp3 qua mạng internet, hay gửi những CD
đến địa chỉ của Thời Báo, chúng tôi sẽ lần lượt cho phát thanh, không kể
hát hay hay hát không hay, trong tinh thần “hát hay không bẳng hay
hát”. Quý vị cũng có thể nghe các chương trình hát cho nhau nghe trên
website này (cột màu đen, ở bên phải, dưới các quảng cáo của Radio, SBTN Canada)
HUY PHƯƠNG * TRUNG CỘNG
Một người làm thương mãi biết hổ thẹn
- Details
- Created on Thursday, 14 March 2013 00:51
- Category: Tạp Ghi
HUY PHƯƠNG
Cổ
nhân vẫn cho rằng “phi thương bất phú.” Kỹ sư, giáo viên, công chức
đồng lương cố định là lẽ đương nhiên; bác sĩ, luật sư ngay thẳng, không
làm điều mờ ám thì lợi tức cũng giới hạn. Duy chỉ có giới thương mãi tùy
thời cơ, đối tượng, nhu cầu mà xoay chuyển, thu lợi tức cho mình, cho
nên người ta có nói: “Người mua lầm chứ người bán không lầm.” Có món mua
một bán hai, nhưng cũng có món mua một bán mười.
Thời
VNCH có bao nhiêu người kể cả giới có chức có quyền, trong khi quân đội
đổ máu ngoài chiến trường, thì hậu phương người ta “tuồn” thuốc tây,
xăng, gạo, vải vóc và cả… vũ khí cho địch quân để làm giàu, chỉ vì đồng
tiền, dù là đồng tiền vấy máu. Thị trấn nhỏ bé Gò Dầu Hạ sát biên giới
Kampuchea, dân số không đến vài chục nghìn mà đã có hơn 10 nhà thuốc
tây, thuốc thời đó không cần toa bác sĩ, bán cho ai, nếu không mua đem
về tiếp tế cho Việt Cộng bên kia biên giới?
Bây
giờ trong khi Trung Cộng thôn tính Hoàng Sa, Trường Sa, ngang ngược
trên Biển Đông, bắt bớ giam cầm ngư phủ Việt Nam ngay trong hải phận
quốc tế, cắt dây cáp của tàu dò dầu khí của Việt Nam, lập làng, thuê
đất, thuê rừng, khai thác bauxit trên đất Việt Nam, toàn dân phải chịu
nhục vì tập đoàn cai trị muốn bán nước. Trong khi đó thì bọn con buôn,
sẵn sàng vì lợi nhuận, nhập hàng độc hại giết người vào để giết dân
mình, con buôn du lịch thì tổ chức cho đồng bào mình, viếng thăm đất nhà
của bọn bành trướng, nơi mà gần đây đã có cửa hiệu trương bảng cấm
người Việt Nam và chó mà không biết nhục. Ngay cả các dịch vụ du lịch
người Việt tị nạn ở Mỹ, ở Úc, ở Canada, ở Âu Châu… mỗi năm đã tổ chức
bao nhiêu chuyến du hành đi thăm Bắc Kinh, Thượng Hải… đem thêm ngoại tệ
cho đất nước này, qua các trạm hải quan của Trung Cộng mà không thấy
xấu hổ, đứng chụp ảnh tại Quảng trường Thiên An Môn mà không nghe mùi
máu tanh của 5,000 người đã chết chỉ vì đòi hỏi dân chủ trong đêm 4
tháng 6-1989.
Nhưng
những nhà buôn kiếm lời trên những chuyến du lịch đi Trung Cộng không
quan tâm đến điều này, dù họ là những người Việt Nam, vô cảm vì nỗi đau
chung của người Việt.
Công
ty du lịch của ông Trần Nguyên Thắng ở ngay đất Bolsa này đã làm được
một điều mà tôi nghĩ chưa một công ty du lịch nào làm được, đó là ông từ
chối không làm tour cho đồng bào của ông đi Trung Quốc. Ở đây là đất tự
do, ông không là giám đốc một công ty du lịch của nhà nước CSVN, làm
dịch vụ theo chỉ thị, nên ông có quyền làm ăn theo ý ông. Ai thấy tiền
mà không tham, vì tour du lịch Trung Cộng là tour rẻ nhất, dễ ăn nhất,
vì rẻ nên có nhiều người tham dự.
Trước hết, ông giám đốc công ty du lịch này không ưa cộng sản, ông cho rằng: “Văn
hóa cộng sản là một thứ văn hóa tồi tệ nhất trong lịch sử Á Châu. Đấu
tố giai cấp, tình yêu giai cấp đã đạp đổ đi tất cả mọi truyền thống cũ.
Để sống sót trong hệ thống cộng sản, con người buộc phải sống thay đổi
nhiều bộ mặt để có miếng ăn, để có chỗ ngủ. Đời sống dạy cho cán bộ, cho
người dân phải biết cách luồn lách, biết cách nịnh bợ, biết cách sống
giả nhân giả nghĩa, biết cách bè phái tham nhũng hối lộ để sống còn
trong xã hội đó. Có người nào trong tổ chức chính phủ và đảng của Trung
Cộng ngày nay đã không từng là những Hồng Vệ Binh năm xưa dưới thời của
Mao Trạch Đông. Những hung thần con nít đó đã làm lại lịch sử và nền văn
hóa cộng sản cho đất nước Trung Hoa.”
Chỉ
nói riêng về danh xưng của đất nước cộng sản đông dân nhất thế giới
này, vì sao phải gọi họ là Trung Quốc như CSVN đã gọi, mà không gọi họ
là Trung Cộng cho… chính danh? Tôi đã đồng ý với Trần Nguyên Thắng khi
ông viết rằng: “… danh từ Trung Quốc hình thành từ tên Trung Hoa Dân
Quốc từ thời Tôn Dật Tiên, tên mà Thống Chế Tưởng Giới Thạch vẫn dùng
khi đến Đài Loan. Còn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa với Cộng Sản chủ nghĩa
do đảng Cộng Sản chỉ huy không gọi là Trung Cộng thì gọi là gì bây giờ.
Có chữ “Quốc” nào trong cái tên đó đâu! Đến danh từ tên mà cũng có ý
lừa đảo lập lờ, nếu họ thật tốt thì có sợ gì mà không tự nhận là Trung
Cộng. Vì thế tôi không gọi họ là Trung Quốc mà gọi họ là Trung Cộng cho
đúng tên và chính danh.” Là một người hướng dẫn du lịch nhiều năm,
đi nhiều nơi trên thế giới, ông Thắng cho rằng danh lam thắng cảnh của
nước Tàu không thể so sánh được với Ai Cập, Peru, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ,
Pháp, Slovenia, Kampuchea, Miến Điện và ngay cả Việt Nam. Ông chê văn
hóa Trung Cộng còn thấp kém vì chỉ biết dối trá, lọc lừa, chụp giựt, ăn
cắp, chen lấn, vô lễ… Không giấu diếm, sợ hãi vì còn mong muốn đi về
Việt Nam, ông Trần Nguyên Thắng, một người kiếm tiền lương thiện bằng
những tour du lịch, cũng cho rằng “chế độ cộng sản hiện nay tại Việt Nam
còn tệ nạn tham nhũng, thối nát, quan liêu…”
Trong một bài báo gần đây sau khi có tin một nhà hàng ở Bắc Kinh treo bảng “miễn tiếp khách Nhật, Phi, Việt và chó,”
ông đã mong có một ngày nào đó khi về Việt Nam ông sẽ mở một cửa hàng,
với những thực phẩm “đặc biệt” để dành cho cán bộ cộng sản và… lợn: “For Communist members and pig only!”
Tôi
không quen ông Trần Nguyên Thắng của công ty du lịch mang tên ông, cũng
như chưa hề giáp mặt ông một lần, nhưng tôi nghĩ ông là người can đảm,
biết hổ thẹn và có tấm lòng yêu nước.
Trong giới làm thương mãi, không ai chê tiền, ông cũng cần tiền, nhưng không phải ở chỗ đó, vì ông còn biết nhục.
NGUYỄN BÁ CHỔI * CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Xin đừng gọi “em” bằng… chiến tranh chống Mỹ
Thưa các anh,
Em là cuộc chiến tranh kéo dài trên 20 năm trên nước Việt Nam mà anh chàng nhạc sĩ phản chiến dựa hơi lính để trốn lính của “bên thua cuộc” gọi là “20 năm nội chiến từng ngày”; còn các anh thì gọi là “chiến tranh chống Mỹ cứu nước”, về sau này gọi vắn tắt
“chiến tranh chống Mỹ”. Em đau khổ dường nào khi bị các anh gọi không đúng tên em.
Trước
hết, em muốn gợi nhắc nhở để may ra các anh sống lại chút tình đồng cảm
mà thấu hiểu cho nỗi lòng em ròng rã từ 50 năm qua. Các anh thử tưởng
tượng khi tên mình bị người ta gọi sai đi, hoặc do vô tình, hoặc cố ý vì
nguyên nhân hay mục địch nào đó. Chẳng hạn như anh Nguyễn Thanh Tú bị gọi là Nguyễn Thành Thúi, anh Trần Đăng Thanh ra Trần Bất Hạnh, anh Nguyễn Phú Trọng thành Lú Nặng, anh Nguyễn Tấn Dũng ra Dũng Xà Mâu hay Ba Ếch, anh Trương Tấn Sang thành Trương Tấn Xạo... mặc dù trên thực tế người ta gọi tên các anh này trại ra như thế rất là “hợp tình hợp lý”- em mượn chữ của “nhà báo” kiêm “tiến sĩ” kiêm luôn “giáo sư” Nguyễn Thanh Tú nói về “phải giữ lấy điều 4 HP”.
Thưa các anh, tên cúng cơm đầy đủ của em là “Chiến tranh do CS Miền Bắc (tức nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà) xâm lăng Miền Nam (tức Việt Nam Cộng hòa)”, ban đầu bị các anh gọi là “Giải phóng Miền Nam”, về sau đổi thành “Chiến tranh Chống Mỹ”.
Người ta gọi trại tên các anh Thanh Tú ra “thằng thúi”; Đăng Thanh “bất hạnh”; Phú Trọng “lú nặng”; Tấn Dũng “Dũng xà mâu, Ba Ếch”; Tấn Sang “tấn xạo”...
là gọi đúng bản chất “sự việc”; thế mà các anh đã chẳng những buồn
phiền, rầu rĩ mà còn giận hờn tím gan. Còn như em đây, bị các anh gán
cho cái tên với ý nghĩa hoàn toàn trái ngược lại. Nay thiết nghĩ đã đến
lúc em phải đòi lại cho đúng tên thực của mình. Em đau khổ cũng quen rồi
nhưng vì, như lời bác cuỗm được của ông Quản Trọng bên Tàu dạy các
cháu, “vì lợi ích trăm năm trồng người”, em thiết nghĩ sự gọi đúng tên đúng việc này nếu không thức tỉnh được các anh đầu óc có chưa chai lì
thì cũng vì “sổ hưu” thì ít ra cũng giải độc được cho con cháu các anh để chúng hiểu đúng sự thật lịch sử nước non nhà.
Em
ra đời năm 1954 tức là ngay khi các anh phải rút về Bắc vĩ tuyến 17
theo Hiệp định Genève chia đôi đất nước, các anh đã cài cắm người ở lại
và chôn dấu vũ khí để chuẩn bị đánh chiếm Miền Nam khi đó chưa có sự
hiện diện của quân đội Mỹ. Hiệp định do các anh ký chưa ráo mực thì
chính các anh chờ đêm tối đến mò về làng mạc thôn ấp nơi đồng bào Miền
Nam đang
sống yên lành, tìm bắt cóc sát hại viên chức chính quyền, rồi từ từ
“thừa thắng xông lên”, các anh cho ra mắt “Mặt trận giải phóng Miền Nam”, vào ngày 20/12/1960.
Từ
đó, thân em càng phình ra theo những “thành công” phá làng đốt xóm, bắt
cóc giết người, đắp mô, gài mìn đường sá, tung lựu đạn rạp hát phòng
trà... Cho mãi đến 1964, khi Miền Nam chịu không thấu sự hoành hành từ
phía các anh mà Miền Nam có câu hát
“giặc Miền Bắc vô đây, bàn tay nhuốm máu anh em...”, quân đồng minh của
họ do Mỹ dẫn đầu với Thái Lan, Tân Tây Lan, Úc, Nam Triều Tiên, Phi
Luật Tân mời mới nhảy vào cứu nguy.
Như vậy thì rõ ràng: “các anh chống đồng bào Miền Nam trước khi “chống Mỹ”. Rõ ràng Mỹ chỉ là kẻ đến sau bộ đội cụ Hồ trong cuộc đời em”.
Mà
quả thực rõ ràng là như vậy. Khi Hiệp định Paris chưa ngã ngũ, “anh” Lê
Đức Thọ đã đi đêm với Kissinger Mỹ để lừa gạt Miền Nam ký vào bản hiệp
định cho Mỹ rút quân và các anh muốn làm gì thì làm sau đó.
Quân Mỹ đã rút năm 1973, đúng như tinh thần Hiệp định Hoà bình mà các anh đã ký kết.
Quân
Mỹ đã rút khỏi, nhưng thân em nào có được yên. Các anh vẫn giày vò thân
em vì sự thực, như thuở ban đầu, mục đích chủ trương của các anh là
chống người Việt Mền Nam chứ đâu phải chống Mỹ. Chỉ cần xem những tấm
hình chụp “anh” Thọ đi đêm với Kít Mỹ với khuôn mặt hồ hởi phấn khởi của
hai anh thì biết thân phận em còn phải nằm ngửa ra cho đến hai năm sau.
Nói
chi đâu xa: vụ Mậu Thân mà mới đây nhân dịp kỷ niệm 45 năm các anh vẫn
còn bày trò gian lận bằng cuốn phim gọi là “tài liệu” về Mậu Thân Huế
của cô ả Lê Phong Lan.
Năm
đó em tưởng mình được yên thân trong ba ngày Tết, vì chính các anh đề
nghị và được bên Miền Nam đồng ý hưu chiến cho bà con Mừng Xuân sang,
nhưng chính các anh đã tráo trở. Xuân vừa sang, tiếng súng AK đã nổ vang
phố Huế. Em (tức chiến tranh) lại phải tức giấc. Chính
các anh đi ruồng bắt rồi đem chôn sống hàng ngàn người Việt chứ đâu
phải người Mỹ! Chống Mỹ thì chôn sống Mỹ chớ hà cớ gì lại đi chôn sống
người Việt!
Em
nhớ không sai, tinh thần của Hiệp Định Paris 1973 là chấm dứt chiến
tranh, vãn hồi hoà bình mà các anh đã ký; và quả nhiên rõ ràng là quân
Mỹ đã rút khỏi Miền Nam. Vậy mà các anh vẫn đánh quân Miền Nam và đánh
lớn bằng chiến dịch Hồ Chí Minh để phe các anh có được “đại thắng mùa
xuân”, và tù binh không
ai khác hơn là người Việt Nam. Trắng đen thế ấy nhưng các anh cho đến
nay vẫn không chịu “sáng mắt sáng lòng” gọi em bằng tên “Chiến tranh chống Mỹ” thì oan cho em quá.
Các
anh ơi, nếu em nhớ không lầm thì trong một cuốn tiểu thuyết nói về yêu
đương nào đó có chuyện anh chàng kia tuổi tác đáng bậc chú cô bé nọ,
nhưng vì yêu đã xin “đừng gọi anh bằng chú”
Nay em cũng xin các anh, không phải vì yêu mà vì công lý, xin đừng gọi em là “Chiến tranh chống Mỹ”, nhưng hãy gọi cho đúng tên.
Đó là cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam Tự Do do Cộng sản Miền Bắc phát động.
Em cám ơn các anh,
BÙI MỸ DƯƠNG * HỌP BẠN TRƯNG VƯƠNG
Họp mặt các bạn (53-60) ơi.
Thưa
các bạn nhớ lại kỳ họp
mặt 2004 tại California nhóm (53-60)
của chúng ta lần đầu tiên gặp gỡ rất đông gồm
81 bạn và gần ba chục đức lang quân.
Chúng ta mừng
mừng tủi tủi khóc cười vì đã hơn 40 năm mới gặp nhau đông như vậy.
Chúng ta vẫn
thường
tham dự ngày lễ Hai Bà tổ chức ở California, Washington DC, Houston, rất đông các cựu học-sinh của trường thuộc nhiều niên khóa nhưng nhóm (53-60) của chúng ta rất ít. Vì thế có gặp nhau cũng không có cơ hội hàn huyên nhớ
lại những ngày thần tiên thuở đó
Hội
hoa anh đào taị thủ đô Hoa thịnh Đốn năm 2003 tuy chung mà
riêng nhóm bạn (53-60)
tại THủ đô khá đông, tình nghĩa
đầy ắp
” con tim”.
Tú-Nhật
sắp xếp ăn, ở
cho cả đám bạn., trưng dụng chồng con chuyên chở. trong những
ngày hội, Chị đã “ xẻ
áo” trong cơn tuyết giá bất chợt.
Kim-Hân hiếu khách không làm” tài xế” nàng phải nhờ con trai đón tận Phi trường và sau đó cô con gái dễ thương
đã đưa mẹ và bạn đi giới thiệu những cảnh đẹp tượng trưng của Thủ-đô.
Bạn
Trần thị Ninh rất thân từ thuở “xoã tóc vai”, bao năm
dâu bể gặp lại nhau, anh chị, đón về
“túp lều lý tưởng “ cho ăn ngủ một đêm rồi
tiễn chân ra phi trường.
Thấy tình bè bạn thân thiết như thế nên Nguyễn thị Thảo, Kim-Long, Châu-Hà, Khánh-Ngọc, Kim–Dung bàn kế hoạch là làm sao tìm được các bạn đồng niên khoá gặp nhau sau bao năm xa mái trường thân yêu ?? Cùng ý đó tất cả đã tìm kiếm và nhóm (53-60) đã thành hình có danh sách 208 bạn gồm hải ngoại và trong nước, Chúng ta nối kết liên lạc thăm hỏi, chia vui xẻ buồn với nhau.
Bây giờ
đã là những cụ già tuổi hạc cao, tuổi tri thiên mệnh,.Chồng tôi nhận định cứ sống trên 60 tuổi
là được Thượng đế ưu ái ban phúc lắm rồi.
Vậy mà lũ (53-60)
chúng ta đã vượt qua
được ranh giới trên cả thập niên rồi đó mừng không ??.
Nhớ
năm đầu tiên (2004)
sau 2 bữa tiệc chào mừng của dân quận Cam Cam , tụi mình kéo xuống San Diego quấy
phá, ăn uống nhà Phạm thị Kim . Bạn Kim phải nhờ chồng con, dâu rể giúp một tay cho bữa tiệc cả trăm người được chu đáo. Chúng ta trò
chuyện cười nói tưởng như “tuổi thơ ngây” ngày nào. Rồi tiệc lớn tiệc nhỏ đãi nhau từng nhóm, để rồi lưu
luyến chia tay.
Năm 2005 ngày gia-đình Trưng-Vương hội ngộ tại Houston nhóm (53-60) cũng có cuộc
họp mặt riêng tại “ lầu
đài tình ái” của Ngô
kim Nhụy, với lòng hiếu khách thức
ăn chọn lọc, cảnh
nhà đẹp rộng rãi cho chúng
ta nhớ lại những ngày thơ dại “ hái hoa, bắt bướm, …” Kết thúc những ngày gặp nhau bằng bữa ăn đậm
tình quê ở quán Phố Xưa. Thầy trò tâm tình thoải mái.
Năm 2006 cũng nhân ngày lễ
Hai Bà, chúng ta lại một lần nữa đến vùng biển đẹp có khí hậu tốt nhất nước Mỹ do bạn Ngân-Sơn “ đăng cai” với
bữa trưa kiểu Pháp tại nhà và hướng dẫn du lịch của vùng tây nam nước Mỹ. Đi xem cảnh, tâm tình khi về “kiến bò bụng ” chủ nhân cho ăn buffet
tại nhà hàng . Quyết tâm trả thù dân tộc ( nhà hàng Tầu) các bạn TV thể hiện
câu “ nữ thực như hổ” cho nhà hàng lỗ chơi…
Năm 2008
chúng ta lại họp mặt ở Texas xứ nóng tình bỏng, các bạn sở tại đãi tại nhà hàng
chưa đủ, thân thương hơn phải tại gia nữa: Kim-Long, Châu-Hà và sau cùng đến
nhà Trương hoàng Yến với bến sông sau nhà chúng ta lại được dịp thoả thích nói
cười ăn uống. Những dịp vui đó cả lũ chúng tôi như được trở về “ngày tháng cũ”
Tháng 8 năm 2010 Mỹ
Dương kỷ-niệm lên “lão” nhóm bạn ta ở
Canada và nhiều tiểu bang trên đất Mỹ về tham dự : Nam bắc California,
Washington DC, Washington state,
Virginia, New Jesey, Florida, Texas ….Tất cả khoảng trên 70 vị và phu
quân . Tiệc tùng xong quí vị lại xuống
vùng phía nam thăm các bạn ở San Diego, ra Park hội họp ca hát và ngày sau cùng
đi xem đảo Catalina bằng tầu. Cả ngày hàn huyên vui vẻ, mệt nhoài, Mỹ-Dương đã
chia tay các bạn bằng những bát phở gà, phở sào, cơm gà hay chả cá Thăng Long tại
nhà hàng Quang Trung để mai ai về nhà nấy nhớ mãi cuộc vui này.
Tháng 4
năm 2011 Đoan Chính nại cớ về hưu cho nhóm chúng ta họp mặt tại San Jose’
Ngoài tiệc
của Đoan-Chính bạn Đỗ thị Đào và Đỗ thị
Mai đã đón đưa, cho ăn cho ở, khoản đãi thật chu đáo không ngờ tình bạn của chúng ta thương nhau
như thế. Đào vận dụng chồng con phụ giúp. quí hoá quá hỡi các bạn TV của chúng
ta.ơi !!
Không
dám nhắc thêm nhưng ở tuổi của chúng ta rất hạn hẹp nếu có cơ hội thì cố gắng
cùng nhau gặp mặt “kẻo mai kia mốt nọ” lại nuối tiếc khôn nguôi!...
Ngày 23
tháng 2 năm 2013 Mỹ Phan tổ chức “ vào tròng” được 50 năm, chị có nhã ý mời quí
bạn tham dự và sau đó riêng tư hội ngộ
(53-60) . Nếu đông đủ, chúng ta sẽ làm một cuộc du lịch khác như Las Vegas, hay
Sand Canyon v..v.. ???
Minh
Loan đi chơi Texas về cho biêt các bạn Houston ủng hộ hết mình cuộc hội ngộ vào
tháng 2 năm 2013 này.
TV (53-60) kỷ niệm 60 năm ngày rời ngôi trường thân yêu .
Như
đã định thứ bẩy ngày 23/2/2013….bữa tiệc
mừng “ lễ vàng” của bạn Trần Mỹ-Phan và anh Bùi phong Quang có khoảng trên 30 bạn
đồng khoá tham dự tuy vui nhưng chưa được thoả chí chuyện trò. Để kéo dài thời gian gặp nhau, ban tổ chức thuê
xe bus du ngoạn thành phố “ đỏ đen” cho tự do nói cười mà không làm phiền người
khác. Thời gian rong ruổi trên xe, lũ chúng tôi đã có khoảnh khắc riêng tư từng
nhóm, chuyện vui buồn của những tháng ngày xa cách. Muốn làm cho không khí vui tươi sinh động chị
trưởng ban tổ chức Minh Loan lên micro nói lời chào mừng và chương trình du ngoạn
đồng thời khuyến khích các bạn hát, hay kể chuyện vui. Thanh Hải, Kim Dung năng
động phụ với Minh Loan phân phối đồ ăn
thức uống cho các bạn.
Phần ăn gồm một bánh paté nóng hổi mới lấy trong tiệm, một
cái bánh khúc do bàn tay khéo léo Quỳnh-Giao, gói thạch dừa ngon dòn do bà Kim
nổi tiếng quận Cam. Ăn ngon để có sức, những
trái quit, chùm nho ngọt làm trong giọng, chai nước mát bớt khản cổ vì nói nhiều.
Cám ơn các chị bạn chu đáo lo ăn, lo uống nhưng làm sao cho chuyến đi vui vẻ thế
là Minh Loan cổ võ, khuyến khích các bạn biểu lộ tài năng. Cả đám như được xem
cuốn DVD cây nhà lá vườn: bạn Kim-Toàn với giọng ca mạnh, cao vút, làm chúng
tôi vừa ngưỡng mộ vừa được cười nghiêng ngả. Cô dâu 50 năm cũng góp lời ca có
thể chị xúc động ( sau đêm ngà ngọc) nên giọng trĩu nặng. Minh-Chúc hát hay và
thường là người của đám đông, Vân Phương cô bạn không cùng trường nhưng cùng
xóm hát thật hay với bản nhạc tiền chiến khiến những tràng vỗ tay kêu như pháo
nổ. Thanh Hải phân phát một số bản nhạc cho cả lũ đồng ca góp tiếng: nào nhạc
Xuân, nhạc quê hương. Hết hát đến kể chuyện vui, mà tiếu lâm của VN thì phải hiểu nghĩa trắng
nghĩa đen mới lấy được nụ cười. Để tường trình tôi tóm tắt: đem thơ của bà chúa
thơ nôm Hồ xuân Hương ra bình giải.
Tài nói chuyện cười có vợ chồng đốc Thủy & Ngọc-Ly kể vài nét đùa nghịch của nghề nghiệp, vợ chồng nhà văn Thiên nhất Phương & Vân Xã sưu tầm nhiều chuyện đó đây xưa nay cũng làm cho nhiều bạn “ em hiền như ma sơ” đỏ mặt. Tiếng hát lời ca và những mẩu chuyện vui cho chúng tôi “lão bà” quên hiện tại, trở về tuổi “ đôi tám”.
Ôi! một
giấc mơ tuyệt đẹp đang vẩn vơ trong đầu thì xe dừng ngay trước khách sạn Rio. Đôi
vợ chồng hết lòng với bạn anh Thành & Ngân-Sơn sau bữa tiệc của Mỹ-Phan đã vội
lái xe đi trước lo nơi ăn, chốn ở, giải trí cho chúng tôi. Xin trân trọng lòng
hiếu khách của anh chị hôm nay cũng như cách đây mấy năm trước (2006) tại San Diego.
Một ngày
ồn ào trên xe vẫn chưa đủ, đến song bài phải thử thời vận, chúng tôi hạn chế cuộc chơi để khỏi cay cú mất vui. Kết quả
nhóm 4 đứa chúng tôi Tuyết, Hồi, Hoa và Dương được sòng bài trả cho 24 xu. Mấy
giờ kéo máy chuyện trò vui vẻ mà túi không vơi, nhớ câu ca dao con gái bẩy nghề chúng tôi thể
hiện“ ăn quà là bốn”. Vé “ăn thả cửa” trong 24 giờ, chủ tiệm đánh vào lòng tham
con người nên tiệm ăn “ all you can eat” rất đông, vì họ biết dung tích bao tử
có hạn, muốn ăn nhiều cũng không được.
Vân-Thu,
Hải, Kim-Dung, Ngân-Sơn dẫn các bạn đi xem show, bốn đứa chúng tôi chỉ muốn nói
chuyện với nhau, nói mãi, nói hoài mà không hết. Quá khuya mới về phòng nghỉ, hy
vọng những mộng đẹp thuở xa xưa, một ngày gặp lại chính mình nơi các bạn. Niềm vui gặp các bạn, tinh
thần giao động đã phải dùng một viên thuốc trợ giúp để ngày mai còn tiếp tục cuộc
chơi.
Sau một
ngày ăn (quà) chơi ( bấm máy) thoả thích ở chốn không có ngày đêm, tiền bạc như
cỏ rác, xin nhắc lại lời người bạn lần đầu
tiên viếng thăm nơi đây: “ kém trời mỗi cái cao”.
Một ngày
quên hết chuyện trần thế, các bà già trở về bến mơ, tung tả trẻ trung vui đùa
như hồi ăn quà vặt trước cửa trường Trưng-Vương 60 năm về trước.!!! Niềm vui
riêng tư từng nhóm bây giờ tụ hội vui chung ở không gian nhỏ hẹp ( xe bus) trên đường trở về quận Cam. Con đường
dài Las Vegas –Westminster như ngắn lại bằng giọng hát lời ca, tiếng cười rộn
ràng của các “ lão bà” và xe đã đến điểm hẹn, chấm rứt cuộc hành trình bằng chầu
phở Thanh mà Kim Dung là “ nhà tài trợ” ???
Chúng
tôi “ lưu luyến” chia tay vì ngày mai có chương trình khác nữa. Một số bạn
phương xa được con cháu, những người quen mời đãi, chúng tôi Đoan –Chính, Quỳnh-Giao, Hồng-Lan, Hồi-Hương,
Hoa, Tuyết, Mỹ-Dương đến nhà cặp vợ chồng Diệp & Hợi thưởng thức tài bếp
núc và lối đón tiếp nồng hậu của họ.
Bữa tiệc
chia tay của nhóm ( 53-60) tổ chức tại nhà hàng Seafood World. Minh-Loan chu
đáo chọn nhà hàng, thực đơn, dàn nhạc, ca sĩ , MC , nhiếp ảnh, tường trình với
các bạn không đến tham dự đồng thời để chúng tôi ghi nhớ vài hình ảnh đáng yêu
của các bạn gìa hôm nay. Rất tiếc và bạn
Ngô kim-Nhụy đã lặn lội từ Texas tới mà ngày vui cuối mệt không đến được , chúc
bạn mau bình phục để chúng ta còn có dịp gặp lại nhau nữa !
Cuối bữa
tiệc mỗi người còn được tặng chút quà lưu niệm như để nhớ ngày họp mặt nhau hôm
nay.(3/2013).
Tuổi
của chúng tôi, đường đời đã trải, thời gian còn hạn hẹp nên khẳng định rằng: chúng
ta cần và phải có bạn trong đời.
Nhà tư
tưởng Aristote đã nói: “ Tình bạn là
cái cần thiết đối với cuộc sống, vì không ai lại mong muốn cuộc sống không có bạn
bè”.
Người bạn
đời đã ra đi nên ngoài tình gia-đình anh chị em và đàn con cháu thì bạn bè là nguồn
an ủi cho bớt cô đơn, đi nốt đoạn cuối cuộc đời vì thế tôi thương và thèm các bạn
lắm. Nghe tin bạn ở xa tham dự ngày hội
ngộ, vui mừng khôn xiết, họ cũng như tôi mong gặp những “ con bạn” thương yêu
thuở “ tuổi dại khờ” .
Đám bạn học TV chúng tôi quen biết nhau hơn nửa thế-kỷ, dù ở
tuổi Lão Lai cũng không ngại đường xa tìm đến với nhau thương quá; phải tiếp
đón thật tận tình. Hiện tại mới thật, ngày mai làm sao biết, bây giờ có cơ hội
hãy nắm lấy không sẽ tiếc nuối. Câu nhận xét của các cụ quả không sai “ vì tình
vì nghĩa, không vì cả bát cơm” nhất là xứ Mỹ vật chất dư thừa.
California
nắng ấm khí hậu điều hòa, người Việt Nam
định cư nhiều hơn các nơi khác. Các bạn (53-60) nơi này khá đông chỉ cần gọi qua phone
ới một tiếng là vui buồn có nhau. Ngày họp
mặt các bạn, tất cả đều mong ước, nhưng nước Mỹ rộng lớn tội cho đám bạn già mệt
mỏi trong cuộc hành trình dài. Cùng tiểu bang tự lái xe hay dùng xe đò cũng mất vài giờ bó chân bó cẳng. Bắc
California có Đoan Chính đến trước mấy
ngày, Ngô bích Vân phải chuyển 2 chuyến
xe lửa, Vân Xã có ông tài xế sẵn sàng rong ruổi từ thành phố vàng San Francisco,
Nguyễn thị Hồng ham vui mượn chuyến xe đò Hoàng. Nguyễn thị Tâm cũng được đức
lang quân tháp tùng cho phải phép. Phía nam, Phạm thúy Vân , Ngân Sơn từ San Diego
lên. Tiểu bang nóng bỏng Texas, Houston
có “ba con mèo mướp” Hoa, Hồi-Hương, Tuyết rồi Dương-Chi, Kim-Dung, Hanh, Kim-Nhụy,
Thanh-Phong cũng sang phó hội. Ông rể sĩ quan võ bị Đà-Lạt từ thành phố Seattle
thuộc tiểu bang mầu xanh, cũng mượn cánh chim trời dẫn cô vợ Nguyệt Thanh đi gặp
các bạn thời“ áo trắng”.
Tôi làm
công việc của các chị (Tú-Nhật, Hường-Liên) trưởng lớp những năm xưa là điểm
danh, xin quí bạn đứng lên, nhoẻn nụ cười thật tươi cho các chú phó nhòm chụp hình: Bùi thị Ái, Nguyễn ngọc Lan-Hương, Lê ngọc-Loan,
Nguyễn kim-Dung, Hoàng thanh-Hải, Nguyễn thị Nhung, Nguyễn hoà-Phong, Dương
vân-Thu, Đặng thị Diệp, Tiêu mỹ-Lợi, Nguyễn thị Điển, Vũ ngọc-Vinh, Phan thị Quỳnh-Giao,
Lê thị hồng-Lan, Nguyễn anh-Vân, Phạm hồng-Yến, Nguyễn thị Tâm, Nguyễn
ngân-Sơn, Nguyễn thị Tuyết, Bùi hồi-Hương, Nguyễn thị Hoa, Phạm kim-Dung, Đỗ
dương-Chi, Mai thanh-Phong, Đỗ thị-Chúc, Trần minh-Loan, Trần mỹ-Phan, Nguyễn
kim-Oanh, Bùi Mỹ-Dương, Đào nguyệt-Thanh, Trần thị Hanh, Nguyễn ngọc-Hoàn, Trần
thị Tân, Nguyễn thị Hồng, Ngô bích-Vân, Phạm đoan-Chính, Trinh thư-Hương , Đinh
hồng-Oanh, Phạm thị Dung, Trịnh hồng-Hạnh, Trần bạch-Lan.
Chuông tan học chưa reo, cổng trường chưa mở
mà các anh họ, anh ruột, cháu chắt đã thẫn thờ , thập thò, chờ đợi như quí anh: Nguyễn đình Thảng, Bùi thế Thành,
Nguyễn văn Quỳnh, Hoàng văn Hợi, Nguyễn song Thuận, Trần đức Tiến, Nguyễn ngọc
Hốt, Đặng quý-Đông, Trần đức-Tiến. Nếu sự
việc trên xẩy ra 60 năm về trước chắc quí chị sẽ bị gọi ra văn phòng khiển
trách nặng ….
Cám ơn
các bạn đã tạo cơ hội họp mặt (53-60), đây chỉ là bản tường trình đùa nghịch
mong làm các bạn cười thật nhiều, có sức khỏe dẻo dai để chúng ta lại gặp nhau
thêm nhiều năm nữa nhé .
Thương mến . Bùi mỹ Dương ( mùa Xuân 3/2013)
RFI * NGHỆ SĨ HÀ THỊ CẦU
Thứ sáu 15 Tháng Ba 2013
Hà Thị Cầu – Truyền nhân cuối cùng của nghệ thuật Hát xẩm?
Nghệ nhân Hà Thị Cầu
DR
Nghệ nhân Hà Thị Cầu vừa ra đi ở tuổi ngoài 90. Giới những
người yêu quí nghệ thuật cổ truyền Việt Nam thương và tiếc một đỉnh cao.
Nhiều tiếng nói khẳng định : « Người hát xẩm cuối cùng đã về trời ». Sự
ra đi của Hà Thị Cầu liệu có phải là dấu chấm cáo chung Hát xẩm, môn
nghệ thuật một thời là món ăn tinh thần quen thuộc của đông đảo người
bình dân Việt Nam ?
Hát xẩm, môn nghệ thuật từng đặc biệt nở rộ tại miền bắc Việt
Nam trong nửa đầu thế kỷ XX, đã không có đất sống trong chế độ mới.
Nhưng những gì thấm sâu vào máu thịt của người nghệ sĩ đích thực không
thể nào biến mất. Trong cuộc đời gần một thế kỷ của mình, nhất là hai
mươi năm cuối đời, Hà Thị Cầu đã liên tục truyền đến cho các thế hệ đi
sau những gì tinh túy nhất trong môn nghệ thuật của đầu thế kỷ trước.
Tạp chí Văn hóa của RFI tuần này xin chuyển tới quý thính giả tiếng
nói của một số nhà nghiên cứu, nghệ sĩ, từng gắn bó với nghệ nhân Hà Thị
Cầu hay đặc biệt quan tâm đến di sản của bà.
Khách mời của tạp chí là nhà dân tộc nhạc học Trần Quang Hải (Paris),
nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa, nhạc sĩ Đặng Hoành Loan và nhà nghiên cứu Bùi
Trọng Hiền từ Hà Nội.
Vượt lên đau khổ : Thần lực của một giọng hát
Mở đầu tạp chí là tiếng nói của nhà nghiên cứu Trần Quang Hải :
Trần Quang Hải : Bà ấy mất đi là xứ Việt Nam mất đi
một gia tài rất lớn, về văn chương, văn học dân gian, là cái văn học
dính liền với những người « dân gian », những người nghèo nhất.
trong xã hội. Tôi thấy rằng, muốn hát xẩm cho thật hay, phải sống rất
nhiều, phải lăn lộn vào trong cuộc đời, phải có nhiều kinh nghiệm, phải
có nhiều đau khổ và chính là cái đau khổ đó mới tạo ra một cái thần lực ở
trong giọng hát của mình.
RFI : Ông có thể cho biết, vì sao ông lại biết đến môn nghệ thuật hát xẩm và những kỷ niệm của ông với nghệ nhân Hà Thị Cầu.
Trần Quang Hải : Khi tôi đi về Việt Nam lần đầu
tiên, thì tôi có nghe nói ở Hà Nội có một điệu hát xẩm, thì tôi có đi
gặp anh Thao Giang, phó giám đốc Trung tâm về nhạc dân gian Việt Nam.
Anh ấy nói với tôi là đương muốn trùng tu hát xẩm trở lại, sau khi bị
mất đi trên 50 năm. Khi đó, Thao Giang mới cho tôi nghe một số làn điệu
đặc biệt, trong đó có một vài bài do bà Hà Thị Cầu hát. Tôi hỏi, ai mà
có giọng quá đặc biệt như vậy.
Tôi gặp một bà cụ, cái cặp mắt rất là sắc sảo và cái giọng nói rất là
vang, vang mạnh lắm và tiếng đờn nghe não ruột luôn. Tôi nhắm mắt mà
nghe, thì tôi thấy rằng, rõ ràng là người này đã sống rất nhiều và đã có
một đời sống rất là gian truân, nhưng mà có điều, vẫn lướt lên để sống,
chấp nhận cái cuộc sống của mình, chứ không có đòi hỏi gì nhiều hết.
Thành ra cái tiếng đờn và giọng hát, nó đi quyện vào nhau. Tôi rất lấy
làm sung sướng được nghe bà ấy hát. Lần đầu tiên bà ấy hát cho tôi nghe
bài « Thập ân ». Thì tôi nhớ hoài cái bài Thập ân này. Nó nói lên cái lòng hiếu thảo của người con.
Từ đó về sau này, tôi không có dịp gặp được bà ấy nữa. Có điều tôi
theo dõi tất cả những sinh hoạt của bà, qua báo chí, qua đài truyền
hình… Tôi biết rằng năm 2008 bà ấy được lãnh giải thưởng Đào Tấn, là một giải thưởng rất là quan trọng cho những người đã phụng sự âm nhạc dân tộc và nghệ thuật cổ truyền.
Trong 10 năm chót của cuộc đời bà ấy, có rất nhiều học trò đã đến học
với bà ấy. Anh Thao Giang cũng đã quay nhiều phim cho đài truyền hình
về sinh hoạt của bà ấy và có phim « Xẩm Đỏ », được đạo diễn Lương Đình Dũng quay cách nay 2 năm.
Tôi xem bà ấy cũng như tất cả những diva, hay những người nghệ sĩ
lớn, hay những ca sĩ lớn của xứ Việt Nam hay ngay như trên thế giới,
ngang hàng với bà Quách Thị Hồ. Bà ấy có một giọng hát rất là đặc biệt,
là đại diện cho một truyền thống âm nhạc đang sắp mai một đi (…).
Di sản lớn, tiếp thu rất nhỏ
Theo như tôi nghĩ, sự ra đi của bà Hà Thị Cầu sẽ để lại sự mất mát
rất lớn trong truyền thống hát xẩm. Không có một cơ quan nghiên cứu để
làm một cuộc điền dã, đi thâu thập bà ấy, theo phương pháp dân tộc nhạc
học. Các điền dã ít có làm hoặc chỉ làm một cách chung chung để thâu một
số bài bản cho một số người trẻ học thôi, chứ không có đi thâu một cách
tận tường, thâu hết – một việc cần làm để duy trì truyền thống hát xẩm
với người cuối cùng còn lại của truyền thống này.
Nhạc sĩ Đặng Hoành Loan là người đã thực hiện từ sớm việc thu
thanh nghệ nhân Hà Thị Cầu. Sau đây ông chia sẻ một số ấn tượng về tài
năng Hà Thị Cầu và thực trạng của việc kế thừa.
Đặng Hoành Loan : Bà ấy là một tài năng xẩm, với
giọng hát tuyệt vời, với những rung cảm dường như nó từ máu, từ trong
huyết mạch của bà ấy, cho nên khi bà ấy cất lên giọng hát là nó cuốn hút
người ta ngay. Tôi được làm việc với bà ấy và thu thanh toàn bộ những
vốn liếng của bà ấy vào những năm 1990. Nếu bây giờ đem đối chiếu lại
với cái việc bà truyền lại cho lớp trẻ hiện nay, thì chắc chỉ được 1/10
thôi.
Đấy là vốn liếng bài bản. Còn vốn liếng nghệ thuật, tức là cái trình
diễn nghệ thuật của bà ấy, thì phải nói rằng là lớp trẻ chưa tiếp cận
được. Bởi vì bà có một tài năng mà không phải nghệ sĩ nào cũng có. Một
người vừa đàn, vừa hát, một người vừa đánh trống, vừa hát. Một người tự
mình có thể đánh hai ba trống một lúc, thì đấy là điều hiếm thấy. Đồng
thời bà ấy lại là một nghệ sĩ, một người hát xẩm, đúng là xẩm, tức là sự
ngẫu hứng những bài hát, thì bà ấy là người ngẫu hứng vô cùng tài ba.
Và có nhiều bài hát bà để lại những dấu ấn rất sâu, như « Yên Mô quê mình », là bài viết về quê hương Yên Mô của bà ấy.
Có lẽ đây là người cuối cùng ra đi cùng với tài sản xẩm, không còn
bao giờ có thể thấy nó hiện hữu được nữa. Và nếu nói một cách theo chủ
quan của những người… thì cũng có thể nói là cũng còn lại một chút ít,
của lớp trẻ tiếp thu được dăm ba bài.
Cũng như nhà dân tộc nhạc học Trần Quang Hải, nhạc sĩ Đặng Hoành
Loan nhận thấy, nghệ nhân Hà Thị Cầu đã ra đi, và cùng với bà là cả một «
gia tài » hết sức lớn lao đã một đi không trở lại, lớp nghệ sĩ trẻ mới
chỉ thâu nhận được những điều ít ỏi từ người nghệ sĩ lớn.
Nỗ lực nối lại một truyền thống nửa thế kỷ đứt đoạn
Như chúng ta biết, môn hát xẩm như một phương tiện kiếm sống của
những người mù trên các không gian ngoài đường phố đã không còn tồn tại
từ hàng chục năm nay. Trong thời gian ít năm trở lại đây, tại Hà Nội bắt
đầu phát triển một số nhóm biểu diễn do các nghệ sĩ, các nhà nghiên cứu
chủ trì với mục tiêu phục dựng lại những bài hát và làn điệu xẩm thời
xưa.
Trung tâm phát triển nghệ thuật âm nhạc, Hội Nhạc sĩ Việt Nam, kể
từ năm 2008, đã tổ chức Lễ giỗ Tổ nghề hát xẩm (vào ngày 22/2 âm lịch)
sau nửa thế kỷ gián đoạn, nhằm nối lại với truyền thống này.
Chúng tôi xin chuyển đến quý vị tiếng nói của nghệ sĩ Mai Tuyết
Hoa, một trong những giọng hát và tay đàn quen thuộc với nhiều người yêu
thích xẩm. Chị Mai Tuyết Hoa là một trong các trụ cột của sân khấu xẩm
được tổ chức vào thứ bảy hàng tuần trước cửa chợ Đồng Xuân (Hà Nội). Sau
đây nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa chia sẻ những kỷ niệm và ấn tượng in dấu
trong tâm hồn chị trong thời gian được theo học nghệ nhân Hà Thị Cầu.
Mai Tuyết Hoa : Tôi biết bà qua giọng hát, qua những
cái băng tư liệu của Viện nghiên cứu âm nhạc Việt Nam sưu tầm. Nghe
băng, nghe đĩa của cụ và tôi đã bắt chước cái giọng hát của cụ, cũng như
tiếng đàn của cụ. Cái điều ấn tượng nhất với tôi là cái phong cách của
cụ, cũng như tính cách của cụ, rất là gần gũi, dí dỏm và rất là hài
hước.
Riêng đối với nghệ thuật hát xẩm, thì phải nói, nó rất là phong phú.
Phong phú ở bài bản, phong phú ở làn điệu, có buồn, có vui. Nói chung,
thì nghệ thuật hát xẩm diễn tả được tất cả những tâm trạng của con
người. Và cái điều khó nhất, chính là làm sao mà mình hát gần gũi nhất,
dí dỏm nhất và lôi cuốn người nghe nhất. Và cho dù là, cho đến bây giờ,
tôi đã học đến hơn mười năm, nhưng mà cái điều mà nghệ nhân Hà Thị Cầu
làm được, cuốn hút được người nghe, thì tôi nghĩ vẫn còn rất là xa, bởi
vì tôi cũng chỉ có thể học được một chút gì đó của cụ thôi, còn để đạt
đến đỉnh điểm như cụ, thì tôi nghĩ điều đó khó ai có thể làm được.
Hát cho mình, hát cho mọi người
Đặc biệt là nghệ thuật hát xẩm, thì nó không như những loại hình nghệ
thuật khác, nó khác quan họ, nó khác ca trù, nó rất là dân dã, rất là
bình dân. Bình dân ở đây là nó rất gần gũi với mọi người. Ở mọi tầng lớp
đều có thể thưởng thức nghệ thuật hát xẩm, vì nó dễ nghe, dễ hiểu. Nghệ
thuật hát xẩm chính là cái mà người hát xẩm hát cho mình và cho mọi
người.
RFI : Hát cho mình và hát cho mọi người là như thế nào, xin chị diễn tả thêm.
Mai Tuyết Hoa : Người hát xẩm hát thế nào để cho
người nghe cảm thấy rằng là, cái điều này nó lay động lòng người lắm, nó
miêu tả được nhân tình thế thái, thời sự chiến cuộc. Hoặc là ví dụ như,
một người rất thích người hát xẩm hát cho một nỗi niềm gì đấy của mình,
ví dụ như anh đang thích một cô này, mà chưa nói được ra lời, thì nhờ
người hát xẩm hát cho là tôi đang rất là thích cô đấy, cô có đồng ý đến
với tôi hay không ? Người hát xẩm hát cho cuộc đời mình và hát hộ người
kia. Người kia cảm thấy rằng là anh hát xẩm này anh ấy có ích, anh ấy
giúp được cô kia cô ấy hiểu được ý nghĩa của anh í, thì anh í động lòng,
anh í để vào chậu thau đồng một chút ít tiền vào chậu thau đồng, gọi là
thưởng cho người hát xẩm. Chứ người hát xẩm không đi xin, đó là điều
tôi muốn nói với tất cả mọi người là như vậy.
Kết thúc chương trình hôm nay, chúng tôi xin mời quý vị nghe
tiếng nói của nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền, người được nghệ nhân Hà Thị
Cầu nhận làm con nuôi. Ông cũng là người từ gần 20 năm nay liên tục nỗ
lực để hiểu xẩm, với hy vọng truyền đến công chúng những bí ẩn của môn
nghệ thuật này.
Bùi Trọng Hiền : Tôi được nghe giọng của bà lần đầu
tiên là vào năm 1979-1980, thời đó trên làn sóng phát thanh của đài
tiếng nói Việt Nam, phát một bài hát xẩm, gọi là « Theo Đảng trọn đời
», là do bà đặt lời, vừa đàn, vừa hát. Đấy là lần đầu tiên trong cuộc
đời tôi được nghe. Hồi đó còn nhỏ lắm, thì thấy đó là một giọng hát rất
hay. Nội dung của bài ca ấy nói về những người con đi tha phương cầu
thực, tìm miếng ăn để sống, trong thời ly loạn của chiến tranh.
Sau này, khi lớn lên, học nhạc cổ rồi trở thành một người làm nghiên
cứu, thì cái lần tôi được tiếp xúc chính thức với bà là năm 1992, trong
những cuộc liên hoan ở Hà Nội, thì được gặp bà. Thì đến năm 1994, tôi
mới có dịp được về Ninh Bình, để thăm bà. Từ đó, bà nhận tôi làm con
nuôi, và tôi nhận bà làm mẹ đỡ đầu. Cứ có cơ hội, thì tôi lại xách máy
và phi xe máy 120 cây về Ninh Bình nhà bà, và tranh thủ học hỏi và ghi
chép tất cả, và thu âm toàn bộ những gì tinh hoa nhất, mà bà có.
Cái phóng khoáng và giang hồ của xẩm
Thông qua bà, tôi hiểu được xẩm của thời xưa, bởi vì bà là người cuối
cùng hát xẩm. Thông qua những lời kể của bà, rồi những ngón đàn tiếng
ca của bà, rồi tất cả những kỹ thuật, về phách, sênh, đàn nhị, về cách
đặt lời của bà, cũng như tất cả những gì kỳ vĩ nhất của nghệ thuật xẩm
của những người hát rong, vốn là những người hỏng mắt, cứ theo đó mà
tuôn trào qua những lời kể, và tôi đã ngấm rất nhiều và thực sự bà là
một người thầy rất lớn của tôi.
Suốt từ đó, cho đến khi bà còn khỏe, trong rất nhiều năm, cứ có dịp
nào về là tôi lại xách máy quay lại thu âm. Một bài của bà, tôi thu
không biết bao nhiêu lần, và mỗi lần bà lại đàn hát ra một dị bản khác
nhau. Các bạn cũng biết là nghệ thuật xẩm cũng như rất nhiều thể loại
nghệ thuật cổ truyền khác của Việt Nam là nghệ thuật ngẫu hứng. Mỗi làn
điệu của một « lòng bản », trên cái lòng bản đó, người ta trình diễn các dị bản rất khác nhau. Đó là độ « giang hồ » của xẩm.
RFI : Thưa anh, nghệ thuật xẩm của rất nhiều làn
điệu. Làn điệu nào có thể nói là đặc trưng cho nghệ thuật hát xấm và
bản thân nghệ nhân Hà Thị Cầu là đỉnh cao trong những làn điệu đó.
Bùi Trọng Hiền : Từ một hình thức hát rong của những
người hỏng mắt, xẩm đã sáng tạo những làn điệu của riêng mình, mà không
một thể loại nào có. Tôi lấy ví dụ như điệu xẩm Huê tình chẳng hạn. Đấy
là một điệu xẩm rất nổi tiếng. Nổi tiếng đến mức mà các ngành cổ nhạc
bạn, ví dụ như chèo và ca trù đã du nhập làn điệu đấy vào trong kho tàng
âm nhạc của mình.
Chúng ta biết rằng xẩm ngày xưa hát ở đường phố, hát ở bến nước, sân
đình, hát ở bến đò, hát ở góc chợ. Cái nhu cầu của xẩm là hát ở những
nơi đông người để kiếm sống. Thế cho nên, một bài ca xẩm thường không
thể là bài ngắn gọn và nó thường là những làn điệu để chuyển tải những
bài thơ rất dài. Để làm sao, người ta đi chợ, người ta nghe được đoạn
đầu, thậm chí người ta nghe được bất cứ đoạn nào trong lời ca đó, người
ta cũng nắm bắt được làn điệu đó, và người ta cảm thấy thích thú. Vì
thế, cái tính gọi là tính trường thiên, tính kể truyện của xẩm rất là rõ
ràng.
Người kể truyện trong sân khấu cuộc đời
Một đặc điểm nữa là nội dung của xẩm phải rất đặc biệt. Đặc biệt để
làm sao trong đám đông ấy, giữa những tiếng ồn ào của chợ búa, của bến
đò, của đường phố, người ta phải nghe nó đập vào ấn tượng, vào tai, vào
mắt cái người đi đường, để người ta dừng lại, người ta thưởng tiền cho
người hát xẩm. Thì với cái đặc điểm hát rong, nay đây mai đó, thì bản
chất cái nghề nghiệp đó, cái cách thức diễn xướng, lấy đường phối, lấy
bầu trời, lấy khung cảnh xã hội làm sân khấu, gọi là « sân khấu cuộc đời » của mình, thì hát xẩm đã tự hình thành nên những tính cách nghệ thuật rất riêng.
Bà biết hầu hết tất cả các làn điệu xẩm cổ truyền. Ở bà có cái đặc
biệt là bà không biết chữ, như những người nghệ sĩ xẩm thời xưa thôi,
nhưng chỉ có điều cái trữ lượng lời ca và làn điệu trong bà, nó như là
một cái ăn sâu vào trong máu rồi, bởi vì bà hát từ năm 8 tuổi, 10 tuổi,
nó in cả cuộc đời và một lúc nào đấy là nó bật ra, thì bà lại hát trường
thiên cả một đoạn rất dài. Thế cho nên, khó có thể nói là bà hát cái gì
hay nhất, bởi vì đối với tôi, bu tôi hát cái gì cũng hay. Bà sử dụng
thành thạo tất cả các nhạc cụ sênh, phách, trống mảnh, nhị và việc diễn
tấu đa năng, vài nhạc cụ một lúc như thế, vừa hát, vừa đàn, là một điểm
rất đặc trưng của xẩm. Đối với tôi, thì bu hát làn điệu nào cũng ngọt
ngào và hết sức kinh điển.
RFI : Một trong những cái nét mà anh vừa nhấn
mạnh, là cái sự phóng khoáng trong diễn xuất của người hát xẩm và đặc
biệt là nghệ nhân Hà Thị Cầu, đúng không ạ ?
Bùi Trọng Hiền : Bản chất của mỗi làn điệu xẩm là
mang tính dị bản rất lớn, mỗi người thể hiện một cách khác nhau và thậm
chí cùng một người mỗi lần hát một cách khác nhau, nhưng nó lại có một lòng bản riêng của từng làn điệu (Hát minh họa hai câu trong bài Thập ân với các biến tấu khác nhau : « Mẹ mới có thai, kể từ một ân, thì con ơi, mẹ mới có thai. Âm dương nhị khí nào ai biết gì »).
Một tuyến giai điệu có thể hát dựng lên, hoặc hát luồn xuống là tùy
theo các cảm hứng của người ta lúc ấy. Nhưng cái điểm vào đầu và điểm
kết thúc phải xác định được theo điệu thức của làn điệu đó và cái khung
lòng bản của làn điệu đó, ứng với lời thơ lục bát, thì nó sẽ ra được làn
điệu Thập ân. Và đấy chính là độ giang hồ, hoang dã của xẩm, khiến cho
cái độ phóng khoáng và mỗi người sẽ thể hiện vào đó một dấu ấn của riêng
mình.
RFI : Thưa anh, xẩm được coi là nghệ thuật của
những người có cuộc sống rất khổ ải. Điều này có đúng không và nếu đúng,
thì được thể hiện như thế nào qua giọng hát của bà Hà Thị Cầu ?
Bùi Trọng Hiền : Có điều rất lạ là cuộc sống của
những người xẩm ngày xưa được xếp vào ở tầng đáy của xã hội, bởi vì họ
là những người bị hỏng mắt, thì âm nhạc trở thành cứu cánh của những
người hỏng mắt, và vì thế họ tìm đến xẩm. Thì đấy là cái đầu tiên ta
thấy.
Nhưng điều đặc biệt của hát xẩm, chúng ta tưởng tượng là, nếu như để
kiếm sống, mà chỉ hát những khúc hát bi ai không, thì sẽ rất khó, cho
nên là, anh muốn người ta nghe và người ta cho anh tiền, thì thường anh
phải tìm đến những chủ đề đừng có quá buồn, quá bi lụy. Tôi cho rằng
chính đặc điểm xã hội đấy, từ nhu cầu của đám đông đấy, nó dẫn đến trong
xẩm là âm nhạc tươi sáng rất nhiều. Những cái điệu buồn rất ít, mà cái
buồn chỉ là cái buồn man mác. Cái buồn nó không bi lụy, ai oán đến mức
bi sầu, cảm thấy không lối thoát. Còn lại đa số là các làn điệu vui,
tươi sáng.
Xẩm đủ bản lĩnh để hát về thời sự
Chúng ta biết rằng, trong xã hội có những thói hư tật xấu gì mà người
ta muốn đả kích, thì xẩm rất nhanh nhạy, biến tất cả những câu chuyện
ấy thành một bài thơ dài và bắt đầu hát. Tất nhiên là trong đám đông ở
chợ, khi mà nghe thấy hát về một hiện tượng có tính thời sự như thế, thì
lập tức người ta sẽ dừng lại nghe và người ta rất vui, vì đánh trúng
vào thị hiếu của người ta mà. Chẳng hạn như có cô gái không chồng mà
chửa, hay một cô gái lấy Tây đen, hay là có một ông nhà giàu keo kiệt,
chẳng hạn, thì xẩm lập tức ứng biến ngay thành bài ca. Chúng ta biết
trong thời chống Pháp, thì cuộc khởi nghĩa của Đội Cấn thất bại trên
Thái Nguyên, thì khi đó ai là người dám nói ? Thời đó không có báo chí
nhiều như bây giờ và những thông tin ấy tất cả đều thông qua xẩm hết. Và
lập tức xẩm ở Hà Nội có một bài vè rất dài, gọi là « vè Đội Cấn
». Và cả trăm câu thơ đó, người xẩm đã sáng tạo ra và hát những nội
dung có tính hết sức thời sự và đánh đúng vào tinh thần yêu nước, vào
cái câu chuyện vừa mới nóng hổi. Và xẩm đủ bản lĩnh để hát những điều
đó.
RFI : Anh nói đến một điều rất thú vị và quan
trọng. Thế ở nghệ nhân Hà Thị Cầu, thì tính thời sự và cập nhật này được
thể hiện như thế nào ?
Bùi Trọng Hiền : Trong những bài hát rất nổi tiếng của bà như « Dâu lười » và « Rể lười »,
chẳng hạn. Chúng ta biết là trong xã hội, chuyện trong một làng xóm,
một vùng nào đó, chuyện gọi là dâu lười và rể lười là rất phổ biến. Chỉ
có điều, không ai có thể đem công khai ra nói được. Bỗng nhiên, có một
người xẩm hát một bài « Dâu lười », rồi sau đó người ta cứ tự
vận vào, chắc là nói đến ông nào đó trong xóm nhà mình, hoặc gia đình
mình, người ta nghe thấy đã quá. Có thể nói chuyện « Dâu lười » và « Rể lười »
là một trong các chủ đề về thời sự rất đặc sắc mà bà còn nhớ lại được.
Nó nằm trong kho tàng của xẩm cổ truyền. Về sau này, hầu như là bà rất
ít « viết » bài ca mới, ngoài bài « Theo Đảng trọn đời »
rất nổi tiếng, vào thời gian Việt Nam chống lại quân Trung Quốc xâm
lược năm 1979. Còn phần lớn kho tàng bà hát thì phần lớn là xẩm cổ
truyền, lời cổ truyền hết.
RFI : Nghệ nhân Hà Thị Cầu được coi là người hát xẩm cuối cùng, bà đã ra đi, vậy tương lai của môn nghệ thuật này sẽ ra sao ?
Bùi Trọng Hiền : Những làn điệu xẩm vẫn còn lại. Còn
lại trong các băng đĩa của các nhà nghiên cứu, còn lại trong một số
nghệ sĩ đã học được một vài làn điệu, nhưng một nghệ sĩ xẩm đúng nghĩa
của nó, một nghệ sĩ xẩm đích thực, thì đã chấm dứt cuộc sống. Cho nên,
sự ra đi của bà cũng đặt dấu chấm hết cho nghệ thuật hát xẩm nói chung.
Bà Hà Thị Cầu là người cuối cùng.
RFI xin chân thành cảm ơn nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa, các nhà
nghiên cứu Trần Quang Hải, Đặng Hoành Loan và Bùi Trọng Hiền đã dành
thời gian cho tạp chí
Các bài liên quan
Thursday, March 14, 2013
SƠN TRUNG * GS. NGHIÊM THẨM
HOÀI NIỆM GS. NGHIÊM THẨM
SƠN TRUNG
Sinh ngày 13-5-1920, tại Hà Đông. Giáo sư Đại Học Văn Khoa và Quản thủ viện Bảo tàng Quốc Gia
Cư ngụ tại 290/27 Công Lý, Saigòn.
Gia nhập :Socié té des Etudes Indochinoises.
Hội Việt Nam Liên Lạc Văn Hóa Á Châu.
THÀNH TÍCH VĂN HÓA:
Ông viết khoảng 30 bài, ở đây chúng tôi xin ghi lại 10 bài tượng trưng.
Ông viết khoảng 30 bài, ở đây chúng tôi xin ghi lại 10 bài tượng trưng.
1. Introduction à Ethnographie du Vietnam.(Revue Văn Hóa Nguyệt San N0 75, Saigon, 1962.)
2."Esquisse d'une étude sur les interdits chez les Vietnamiens" (Publication de l Institu de Recherches Archeologiques N0 8, Saigon, 1965.
3. Comment se pose la question des sources et des documents en Asie et en Afriques, notamment en ce qui a trait à l' histoire, à la philologie, au droit et plus généralement aux science humaines.(Publié dans " État et perspertives des etudes Affricaines et Orientales", Université de Montreal, 1964)
4.Towards understanding the origines of Vietnam (Revue "Asian culture", vol III, N0 2, Saigon 1961, publié par Vietnamese Association for Asian cltural relation).
5. Đi thăm kho tàng của các vua Chàm. Văn Hóa nguyệt san, số 56, 57; Saigon, 1960.
6. Sơ lược về các kho tàng chứa báu vật của các vua Chàm. Khào cổ tập san, số 1, Saigon, 1960.
7. Công việc bảo tồn và trùng tu các cổ tích lịch sử và mỹ thuật. Quê Hương số 39, 1962.
8. "Nguyễn Văn Học hay Trần Văn Học", Tạp chí Văn hóa nguyệt san, số 61, 1961.
9. Đồng bào Sedang. Quê Hương số 27, 1961.
10. Những thế kỷ đầu tiên của Phật giáo tại Việt Nam. Vạn Hạnh số 8, 9 năm 1966.
QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC & CÔNGTÁC
Diplome de l' Ecole du Louvre (Paris)
Diplome de Muséeologie ( Paris)
Được ủy nhiệm đi Hoa Kỳ 1960 để tổ chức cuộc triển lãm lưu động về Mỹ Thuật và Khảo cổ Việt Nam.
Chánh sự vụ viện Khảo Cổ (1957-1963)
Giám Đốc Viện Khảo Cổ ( 1964)
Chuyên viên tại viện Bảo Tàng Saigon (1965-1967)
Quản thủ viện Bảo Tàng Quốc Gia Saigon (từ 1968).
Giáo sư khoa Khảo cổ và viện lịch sử mỹ thuật Đông Phương tại trường Quốc Gia cao đẳng Mỹ thuật Saigon (1067-1969).
Giáo sư Đại Học Văn Khoa Saigon (từ 1961).
Hội viên Hội Đồng Dân Quân, ban Văn Hóa (1966-1967)
Chủ tịch tiểu ban Nghiên cứu các sắc dân thiểu số, Hội Đồng dân quân (1967)
Giáo sư tại Đại học Chiến tranh chính trị Da lat (từ 1966)
Hội viên ủy ban Khoa học Nhân Văn của Hội Đồng Quốc gia khảo cứu Khoa Học (Từ 1969)Đắc cử Hội viên Hội đồng Văn Hóa Giáo dục (1969) [1]
2."Esquisse d'une étude sur les interdits chez les Vietnamiens" (Publication de l Institu de Recherches Archeologiques N0 8, Saigon, 1965.
3. Comment se pose la question des sources et des documents en Asie et en Afriques, notamment en ce qui a trait à l' histoire, à la philologie, au droit et plus généralement aux science humaines.(Publié dans " État et perspertives des etudes Affricaines et Orientales", Université de Montreal, 1964)
4.Towards understanding the origines of Vietnam (Revue "Asian culture", vol III, N0 2, Saigon 1961, publié par Vietnamese Association for Asian cltural relation).
5. Đi thăm kho tàng của các vua Chàm. Văn Hóa nguyệt san, số 56, 57; Saigon, 1960.
6. Sơ lược về các kho tàng chứa báu vật của các vua Chàm. Khào cổ tập san, số 1, Saigon, 1960.
7. Công việc bảo tồn và trùng tu các cổ tích lịch sử và mỹ thuật. Quê Hương số 39, 1962.
8. "Nguyễn Văn Học hay Trần Văn Học", Tạp chí Văn hóa nguyệt san, số 61, 1961.
9. Đồng bào Sedang. Quê Hương số 27, 1961.
10. Những thế kỷ đầu tiên của Phật giáo tại Việt Nam. Vạn Hạnh số 8, 9 năm 1966.
QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC & CÔNGTÁC
Diplome de l' Ecole du Louvre (Paris)
Diplome de Muséeologie ( Paris)
Được ủy nhiệm đi Hoa Kỳ 1960 để tổ chức cuộc triển lãm lưu động về Mỹ Thuật và Khảo cổ Việt Nam.
Chánh sự vụ viện Khảo Cổ (1957-1963)
Giám Đốc Viện Khảo Cổ ( 1964)
Chuyên viên tại viện Bảo Tàng Saigon (1965-1967)
Quản thủ viện Bảo Tàng Quốc Gia Saigon (từ 1968).
Giáo sư khoa Khảo cổ và viện lịch sử mỹ thuật Đông Phương tại trường Quốc Gia cao đẳng Mỹ thuật Saigon (1067-1969).
Giáo sư Đại Học Văn Khoa Saigon (từ 1961).
Hội viên Hội Đồng Dân Quân, ban Văn Hóa (1966-1967)
Chủ tịch tiểu ban Nghiên cứu các sắc dân thiểu số, Hội Đồng dân quân (1967)
Giáo sư tại Đại học Chiến tranh chính trị Da lat (từ 1966)
Hội viên ủy ban Khoa học Nhân Văn của Hội Đồng Quốc gia khảo cứu Khoa Học (Từ 1969)Đắc cử Hội viên Hội đồng Văn Hóa Giáo dục (1969) [1]
Đọc bài viết của Bạch Diện thư sinh, tôi có cảm hứng và có tài liệu để
viết bài này. Trước 1975, tôi cùng làm việc với GS Nghiêm Thẩm tại Đại
Học Văn Khoa Saigon. GS thuộc lớp thế hệ gìà, còn tôi thuộc thế hệ trẻ.
GS dạy ban Nhân Văn, tôi dạy ban Văn Chương Việt Nam. Ban Văn Chương
Việt Nam có môn phụ là Văn Minh Việt Nam, mời GS Nghiêm Thẩm dạy về môn
Khảo cổ, chương trình của GS Nghiêm Thẩm là các nền văn minh cổ như Đông
Sơn với trống đồng, búa cổ. Ban Văn Minh Việt Nam còn có GS Vũ Quốc
Thúc dạy về pháp chế Việt Nam thời cổ.
Tôi it khi gặp GS và chuyện trò cùng GS Nghiêm Thẩm vì giờ giấc khác nhau .
Sau ngày 30- tháng 4-1975, trường chưa giải thể, chúng tôi phải học tập chính trị hơn một năm. Lúc đó , tôi mới biết Bà Ngô Thị Dung là người vợ mới của GS. Bà vốn chuyên về tiếng Nhật, lúc đó cũng được tập trung học chính trị tại DHVK Saigon với chúng tôi. Một hôm tại Đại học Văn Khoa , bà đi trước, tôi đi sau, tôi mới thấy rõ tướng "xà hành" là như thế nào. Sách triết lý cũng như sách tướng Đông phương bao giờ cũng chú trọng bốn chữ "Quang Minh chính đại" . Sắc mặt tươi sáng thì tốt, mặt mũi, thân hình phải ngay chính. Miệng méo, vai lệch, tiếng nói không rõ, thân hình xiêu vẹo, tam đình bất cân là tướng tiểu nhân hoặc ít hưởng phúc lộc. Người xưa thường lấy cái cụ thể để nói về cái tượng trưng, hoặc lấy cái hình tướng này để nói về hình tướng khác. Cổ nhân lại ưa dùng lời văn bóng bảy Nếu không có thầy hướng dẫn, ta khó mà hiểu được. Thí dụ mũi rồng, mắt phượng thì hiểu làm sao vì không ai thấy rồng, thấy phượng. Nói dáng " tọa như sơn" thì nghĩa hiểu rõ nhưng thế nào là tọa như sơn". Điều mà ai cũng biết như sách nói "mao như thảo" nghĩa là lông như cỏ nhưng có ba bảy loại cỏ. Trên Long Khánh, hay Đà Lạt cỏ cao hơn đầu người vậy thì hiểu làm sao cho đúng.
Sau nghe tin GS Nghiêm Thẩm bị giết, búa bổ vào đầu, tôi mới nghiệm thấy cái tướng "xà hành" là không tốt cho chồng con.
Tôi it khi gặp GS và chuyện trò cùng GS Nghiêm Thẩm vì giờ giấc khác nhau .
Sau ngày 30- tháng 4-1975, trường chưa giải thể, chúng tôi phải học tập chính trị hơn một năm. Lúc đó , tôi mới biết Bà Ngô Thị Dung là người vợ mới của GS. Bà vốn chuyên về tiếng Nhật, lúc đó cũng được tập trung học chính trị tại DHVK Saigon với chúng tôi. Một hôm tại Đại học Văn Khoa , bà đi trước, tôi đi sau, tôi mới thấy rõ tướng "xà hành" là như thế nào. Sách triết lý cũng như sách tướng Đông phương bao giờ cũng chú trọng bốn chữ "Quang Minh chính đại" . Sắc mặt tươi sáng thì tốt, mặt mũi, thân hình phải ngay chính. Miệng méo, vai lệch, tiếng nói không rõ, thân hình xiêu vẹo, tam đình bất cân là tướng tiểu nhân hoặc ít hưởng phúc lộc. Người xưa thường lấy cái cụ thể để nói về cái tượng trưng, hoặc lấy cái hình tướng này để nói về hình tướng khác. Cổ nhân lại ưa dùng lời văn bóng bảy Nếu không có thầy hướng dẫn, ta khó mà hiểu được. Thí dụ mũi rồng, mắt phượng thì hiểu làm sao vì không ai thấy rồng, thấy phượng. Nói dáng " tọa như sơn" thì nghĩa hiểu rõ nhưng thế nào là tọa như sơn". Điều mà ai cũng biết như sách nói "mao như thảo" nghĩa là lông như cỏ nhưng có ba bảy loại cỏ. Trên Long Khánh, hay Đà Lạt cỏ cao hơn đầu người vậy thì hiểu làm sao cho đúng.
Sau nghe tin GS Nghiêm Thẩm bị giết, búa bổ vào đầu, tôi mới nghiệm thấy cái tướng "xà hành" là không tốt cho chồng con.
Vài ngày sau, gặp GS Thanh Lãng, được GS cho biết trước đó vài hôm, GS
Nghiêm Thẩm có đến thăm GS. Thanh Lãng, và ông cho biết trước đó một
ngày, một con chim ở đâu bay tới sa xuống trước mặt ông, ông cho là điềm
xấu và ông lấy làm bồn chồn, lo lắng. GS Nghiêm Thẩm lo lắng là phải vì
dân ta ta có câu " chim sa cá nhảy " là độc lắm. Chúng tôi nghe
chuyện, ai nấy buồn xo.
Khi sinh thời, GS Nghiêm Thẩm có tiếng trăng hoa, cho nên khi GS bị giết, ai cũng nghĩ rằng ông bị tình địch trả thù. Tuy nhiên, GS Nghiêm Thẩm cũng như GS. Phạm Văn Diêu có nhiều sách quý, Cộng sản không muốn hai ông mang sách quý ra ngoại quốc cho nên họ đã giữ hai ông ở lại. GS Phạm Văn Diêu là cháu họ Phạm Văn Đồng, người ta lại càng muốn không cho đi sợ tiết lộ bí mật quốc gia và thanh danh của thủ tướng. Cũng như bà Giáo sư, tiến sĩ Võ Hồng Anh, người phụ nữ đầu tiên của ngành vật lý Việt Nam con gái Võ đại tướng được tặng giải thưởng Kovalevskaia, được Mỹ mời qua dạy học, chắc là đảng không muốn bà đi..
Nay đọc tài liệu của Bạch Diện thư sinh thì tôi mới biết một khuôn mặt khác của người giáo sư đó. Té ra ông là một bậc chính nhân quân tử, "uy vũ bất năng khuất". Một khi đại vương hạ giá cầu hiền mà ông thẳng thắn từ chối thì ông quả có gan cóc tía, con người đó rất quý, không tìm thấy đủ trên mười ngón tay. Người ta hai lần cầu khẩn mà ông cương quyết thì ông can đảm hơn Trần Bình Trọng. Ông quyết liệt thì bọn họ sẽ không tha thứ!GS Nghiêm Thẩm tất biết họ dùng ông để làm gì. Họ dùng ông để ngụy tạo chứng cớ lịch sử để khoe mẽ với Nga Tàu và Quốc Tế. Ông đã quyết liệt nếu mềm lòng, suốt đời ông sẽ là nô lệ của họ.
Khi sinh thời, GS Nghiêm Thẩm có tiếng trăng hoa, cho nên khi GS bị giết, ai cũng nghĩ rằng ông bị tình địch trả thù. Tuy nhiên, GS Nghiêm Thẩm cũng như GS. Phạm Văn Diêu có nhiều sách quý, Cộng sản không muốn hai ông mang sách quý ra ngoại quốc cho nên họ đã giữ hai ông ở lại. GS Phạm Văn Diêu là cháu họ Phạm Văn Đồng, người ta lại càng muốn không cho đi sợ tiết lộ bí mật quốc gia và thanh danh của thủ tướng. Cũng như bà Giáo sư, tiến sĩ Võ Hồng Anh, người phụ nữ đầu tiên của ngành vật lý Việt Nam con gái Võ đại tướng được tặng giải thưởng Kovalevskaia, được Mỹ mời qua dạy học, chắc là đảng không muốn bà đi..
Nay đọc tài liệu của Bạch Diện thư sinh thì tôi mới biết một khuôn mặt khác của người giáo sư đó. Té ra ông là một bậc chính nhân quân tử, "uy vũ bất năng khuất". Một khi đại vương hạ giá cầu hiền mà ông thẳng thắn từ chối thì ông quả có gan cóc tía, con người đó rất quý, không tìm thấy đủ trên mười ngón tay. Người ta hai lần cầu khẩn mà ông cương quyết thì ông can đảm hơn Trần Bình Trọng. Ông quyết liệt thì bọn họ sẽ không tha thứ!GS Nghiêm Thẩm tất biết họ dùng ông để làm gì. Họ dùng ông để ngụy tạo chứng cớ lịch sử để khoe mẽ với Nga Tàu và Quốc Tế. Ông đã quyết liệt nếu mềm lòng, suốt đời ông sẽ là nô lệ của họ.
Trong thời gian đó tôi thấy có những vị ngày tháng quỳ mòn sân Ngô Tổng
Thống, hoặc đức cha Ngô Đình Thục, giờ chót lại theo cờ đỏ... Thật sự có
những ông rất khí tiết và hiểu đời. Khi cộng sản vào, GS Nghiêm Toản ,
GS Nguyễn Duy Cần lấy cớ già 70 lại bệnh tật nên xin về nghỉ. Tôi cũng
thấy có ông ngày xưa nịnh hót khoa trưởng Bùi Xuân Bào, sau khi GS. Bùi
Xuân Bào đi tù, vô cớ ông đứng lên chỉ trích vắng mặt GS. Bùi Xuân Bào.
Tôi nói vô cớ vì lúc đó không ai bắt ông phải chỉ trích, phê bình ai.
GS Lê Văn Diệm là con người lù đù, it nói nhưng đã đứng lên phản pháo
ông nọ, cũng là con người can đảm. GS Bùi Xuân Bào là con người hiền
lành. Khi ở tù về, ông thành thực than thở với tôi rằng Ông chỉ muốn qua
Pháp để gặp vợ con". Đó cũng là con người hiền lành, gỉỏi chịu đựng.
Tôi cũng thấy có ông trên 80-90 tuổi, họ cho về hưu thì vẫn xin ở lại "học tập tốt, lao động tốt" để được lưu dung. Ông này lấy cớ học tập tốt để cho con ông một trung tá đang đi tù ở miền Bắc được sớm về đoàn tụ gia đình.Trước đây tôi cho ông là nịnh nhưng sau mới biết ông yêu cộng sản thật tình, ông không muốn con ông chạy theo "Mỹ ngụy" nên khuyên con ông ở lại để hưởng độc lập tự do.
Sau 1975, chúng tôi mỗi người một phương tan tác, it khi nghe tin nhau. Nay được đọc bài của Bạch Diện thư sinh, lòng thêm mối cảm phục GS Nghiêm Thẩm.
______
[1] Hình ảnh và tiểu sử lấy từ Niên Giám Văn Nghệ Sĩ và Hiệp Hội Văn Hóa Việt Nam 1969- 1970. Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa, Saigon, 1970. tr.87. Sau này, ông Nghiêm Trung gửi thư cho biết GS. NghiêmThẩm sinh năm 1918 chứ không phải 1920 và tháng mất của GS là 26/07/1979 chứ không phải là tháng 11.Xin cảm tạ.)
BẠCH DIỆN THƯ SINH * GS NGHIÊM THẨM
GS. Nghiêm Thẩm: Vị giáo sư anh hùng - Nhà khoa học chân chính
Sau ngày 30-4-1975, nhiều giáo sư các Đại học miền Nam bị loại ra khỏi Đại học. Một số giáo sư tìm cách vượt biên, một số bất hợp tác thẳng thừng, một số chấp nhận hợp tác, hợp tác miễn cưỡng hay hợp tác tự nguyện. Có một sự thật phũ phàng là, hợp tác tự nguyện hay hợp tác miễn cưỡng, các vị giáo sư ấy đều bị kì thị và không được tin dùng. Thêm một sự thật khác nữa, đó là các vị ấy thường xuyên nhận được lệnh phải viết lách hoặc thực hiện những công trình “khoa học” nhằm phục vụ nhu cầu chính trị. Trong cuốn Bên Thắng Cuộc của Huy Đức vừa mới được phổ biến, có đoạn trích lời phát biểu của Huỳnh Kim Báu, Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh xác nhận sự thật ấy: “Những năm ấy, các trí thức Sài Gòn vẫn nhận được điện thoại từ Văn phòng Thành ủy hỏi xem: ‘Có công trình khoa học chào mừng 3-2 hay 19-5 không?’. Những Giáo sư như Phạm Biểu Tâm, Lê Văn Thới thì mắng ngay: ‘Không có thứ khoa học nào gọi là khoa học chào mừng cả’. Nhưng một số người khác thì có, người thì làm ra chất tẩy rửa ‘pentonic’, người chứng minh ‘ăn mấy ký khoai mì bổ bằng một ký thịt bò’, người thì ‘ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo’. Nhưng ngay cả những ‘nỗ lực’ đó cũng không giúp kiến tạo được lòng tin”. (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc. Cuốn I, Phần I: Miền Nam, Chương VI: Vượt Biên. Bodoilambao.wordpress.com).
Trong số những giáo sư Đại học ở lại và hợp tác miễn cưỡng, đã nổi bật lên một vị giáo sư anh hùng, dám đem mạng sống của mình để bảo vệ danh dự của một nhà giáo, một nhà khoa học chân chính. Vị giáo sư đó chính là Giáo sư Nghiêm Thẩm, Giám đốc Viện Bảo tàng Sài Gòn, giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn và cũng là giáo sư của hầu hết các Đại học công tư ở miền Nam hồi đó.
Thân thế
Gs. Nghiêm Thẩm sinh năm 1920, tại huyện Đông Anh, tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc Hà Nội); là con thứ 5 của cụ Nghiêm Hoàn Luyến, người làng Hòa Xá, phủ Ứng Hòa, Hà Nội.
Dòng tộc Gs. Nghiêm Thẩm, lớp trước, có nhiều người xuất thân khoa bảng, quan lại. Thế hệ sau, ở miền Bắc, có người là thứ trưởng, đại sứ, doanh gia; ở miền Nam, người anh thứ ba của Gs. Nghiêm Thẩm là Gs. Nghiêm Đằng, nguyên Phó Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh và anh thứ 4 là Nghiêm Mỹ, Đại sứ Việt Nam Cộng hòa ở Malaysia, Jordan và New Zealand. (Xin xem Bài Phát Biểu của Ông Nghiêm Kiến Nam trong buổi lễ kỉ niệm ngày húy 90 năm của Cụ Bảng Mai Lâm Nghiêm Châu Tuệ tổ chức ngày 18.9.2011. Nghiemchungtam.wordpress.com)
Sau khi tốt nghiệp Trung học ở Hà Nội, ông được gửi sang Pháp, học trường École du Louvre, Paris, ngành bảo tàng (de Muséologie).
Năm 1956, ông về nước. Từ đó, ông lần lượt đảm trách nhiều công tác văn hóa giáo dục:
- Phục vụ tại Viện Khảo cổ Sài Gòn, đặc trách khai quật di tích lịch sử Óc Eo (Ba Thê, An Giang); hướng dẫn các đoàn đi nhiều nơi ở miền Nam để khai quật những di chỉ khảo cổ.
- 1961, được bầu làm thành viên Hội đồng điều hành khóa 10 Hội Tiền sử Viễn Đông (Far Eastern Prehistory Association - FEPA). Cũng trong năm này, ông được mời làm giáo sư ngành nhân chủng học tại Đại học Văn khoa Sài Gòn và Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định.
- Năm 1964, ông được mời làm Giám đốc Viện Khảo cổ Sài Gòn và giáo sư tại Đại học Vạn Hạnh vừa mới thành lập; đồng thời, được mời làm cố vấn xây dựng chùa Vĩnh Nghiêm.
- Năm 1966, được mời giảng dậy tại trường Đại học Chiến Tranh Chánh Trị Đà lạt.
- Năm 1968, Quản thủ Viện Bảo tàng Quốc gia Sài Gòn.
- Năm 1969, Ủy viên Ủy ban Khoa học Nhân văn của Hội đồng Quốc gia Khảo cứu khoa học Việt Nam Cộng hòa.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, Gs. Nghiêm Thẩm ở lại và tiếp tục được coi là nhân viên giảng huấn như trước. (Chúng tôi chưa biết Gs. Nghiêm Thẩm “được phép” dậy môn gì).
Cuối tháng 11 năm 1979, Gs. Nghiêm Thẩm bị giết chết một cách tàn ác tại nhà riêng số 29/27 Nam Kỳ Khởi Nghĩa (tên cũ: đường Công Lý), phường 8, quận 3,Tp. HCM.
Những công trình khảo cứu
Gs. Nghiêm Thẩm để lại nhiều công trình nghiên cứu nhân chủng và khảo cổ quý báu cho đời sau (theo Wikipedia).
1. "Tôn giáo của người Chăm ở Việt Nam", Quê-hương bộ 2 tập I, tháng 4/1962, tr. 108-123. (tài liệu tham-khảo đã được Pierre Bernard Lafont nhắc lại trong "Contributions à l'ètude des structures sociales des Chams du Viêt-nam", Bulletins de l'Ecole francaise d'Extreme-Orient, No 1/volume 52,p157 - p171, 1964).
2. "Sơ lược về các kho tàng chứa bảo vật của các vua Chăm", "Việt-nam khảo-cổ tập san', số 1, 1960, Saigon Tham khảo bổ-túc cùng tác-giả Văn-hóa Nguyệt-san, số 56, trang 1359-1366, 1960 và Văn-hóa Nguyệt -san, số 57, trang 1567-1575, 1960 "Đi thăm kho tàng các vua Chăm".
3. "Esquisse d'une étude sur les interdits chez les Vietnamiens" (tiếng Pháp), Ministère de la culture et de l'éducation la République du Vietnam, 1965, 240 trang. Tủ sách Viện Khảo Cổ ( trích đoạn: "le nom d'une personne fait partie integrante de son individu. On doit ménager ces noms individuels comme si l'on a affaire avec la substance precieuse et sacrée qu'est l'âme.(tr.74)" [tham khảo bổ túc "Interdits concernant les noms imperiaux sous le règne des Nguyễn" Tạ quang Phát, tập san khảo cổ 4, Saigon, 1966, pp 52–84].
4. "Tương quan giữa Sử địa và Nhân chủng học", Tập san Sử địa cuốn 1, th.1,2,3, 1966.
5. "Công trình sư Trần Văn Học", Tạp chí Văn hóa, số 61, 1962.
6. "Tìm hiểu đồng bào Thượng" Tạp chí Quê-hương, số 31, giêng/1962, tr 130-150 Bản dịch tiếng Anh của Voth Donald E. "Seeking to understand the highlanders: the two tribal kingdoms of the vietnamese Court in the past, king of Fire (Po Tau Pui) and King of Water(Po Tau Ea)". South-East Asia. An international quarterly, vol 1, pp335–363, 1971.Tham-khảo bổ-túc tư-liệu của ông Adhemar Leclere "Compte-rendus des seances de l'Academie des Inscriptions et Belles Lettres 3903, vol 47, issue 4, pp 369-378. Bị vong lục của Công-sứ Pháp tại Cao-miên, Adhemar Leclere, phúc-trình Hiến-chương về việc sáng-lập một Đại thọ lâm Phật giáo "veah" (Vihara), ở Sâmbok (tỉnh Kratie), mà quốc vương Cao-miên Sauriyopor, gọi là "ngọ môn"(threa nokor) trong đó có nhắc đến các "Vua Lửa" (Hỏa xá) & "Vua nước" (Thủy xá) mà hai vương quốc Cao-miên và Ai-lao phải triều cống cứ ba năm một lần (kèm theo danh sách dài các loại cống-vật), ngoài ra cón cam kết sẽ bảo-lãnh chu toàn việc hậu sự cho các tiểu vương Hỏa xá và Thủy xá nếu một trong hai vị này băng hà. Vihara (đại tòng lảm) Sâmbok, khoảng 10 kms bắc Kratíe (Kracheh), hay, Wat Phnom Sâmbok, dựa theo hiến chương này được sáng lập vào năm 1601. Bản phúc-trình của Công sứ Leclere được in bởi nhà Alphonse Picard & fils, libraires des archives nationales et de la Sociéte de l'École des Chartes, 82 rue Bonaparte, Paris 6.
7. "Kĩ thuật Bảo tàng học và giáo dục căn-bản", 96 trang, UNESCO, Saigon, 1959 (dịch).
8. "Persistence culturelle du substrat indonesien chez les Vietnamiens" (Sự tồn tại của bản chất Indonesien trong nền văn hóa Việt Nam) ngày 11 tháng 9 năm 1961.
9. Tờ trình về việc đi xem công tác xây cất hai ngôi đền tại Kalong và tại Sopmadronhay, để chứa bảo vật của các vua Chăm, và ghé thăm các Tháp Po Dam, tháp Phố Hài (Pajai), còn gọi Tháp Po Sah Inư trên Đồi Bà Nài và đền thờ vua Po Nrop (đồng tác giả với Lưu Quý Tân).
10. Phúc trình việc đi tiếp nhận những tảng đá chạm tại trường tiểu học Tam Hiệp, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.(chú giải: v/v những tảng đá chạm, yêu cầu bạn đọc nên tham khảo bổ túc ở Louis Malleret, "II. Pierres gravées et Cachets de divers pays du Sud-Est de l'Asie, trường Viễn Đông Bác Cổ, B.E.F.E.O, vol 51, issue 51-1, pp 99–116, 1963).
11. R.Y. Lefebvre D'Argencé, Les céramiques à base chocolatée au musée Lous Finot de l'Ecole francaise d'Extrême-Orient à Hanoi.
Đời tư
Có 3 vị phụ nữ đã chính thức đi qua cuộc đời Gs. Nghiêm Thẩm: Hồi còn học bên Pháp, ông sống chung với bà Gerda Meta Nielsen, một nghệ sĩ phong cầm người Đan Mạch. Ông bà có với nhau 1 con gái tên là Đan Tuyết Thẩm Nghiêm, sanh năm 1956, tên đầy đủ là Ester Bondo Đan Tuyết Thẩm Nghiêm.
Đi du học về, ông thành hôn với Bà Ds. Đỗ Thị Thuần Bích. Bà là giáo sư dậy tại trường đại học Dược khoa Sài Gòn. Gs.Thuần Bích sinh 2 con trai, Nghiêm Thẩm Đan Nghị và Nghiêm Thẩm Đan Đại. Năm 1977, Bà Thuần Bích đưa 2 con đi vượt biên và định cư tại Hoa Kì. Bà đã qua đời tại Sacramento, CA., vào năm 2010.
Sau khi Bà Ds. Thuần Bích đi vượt biên được một thời gian, Gs. Nghiêm Thẩm sống chung với Bà Ngô Thị Dung. Bà Ngô Thị Dung giảng dậy tiếng Nhật tại Đại học Tổng hợp Thành phố HCM (Đh. Văn khoa cũ) sau ngày 30.4.1975.
Phong cách
Gs. Nghiêm Thẩm là một trí thức thứ thiệt, có cuộc sống giản dị, thanh bạch. Phong thái ông an nhiên, tự tại; nét mặt thường tươi vui, hiền lành. Ông cười bằng miệng và cả bằng mắt. Chiếc tẩu hút thuốc “pipe” coi như là vật tùy thân của ông. Gs. Đỗ Khánh Hoan, Trưởng Ban Anh văn Đại học Văn khoa Sài Gòn trước 30.4.1975, đồng nghiệp lâu năm của Gs. Nghiêm Thẩm, nhận xét về Gs. Nghiêm thẩm như sau: “Theo chỗ tôi biết Gs. Thẩm hiền lành, không gây thù chuốc oán với ai, không ganh đua kèn cựa với ai, coi mọi thứ như 'nơ pa.'” (Email của Gs. Đỗ Khánh Hoan ngày 02.02.2013).
Mức lương một giáo sư Đại học ở miền Nam thời ấy đâu đến nỗi nào, song suốt bao năm, ông rong ruổi khắp mọi con đường Sài Gòn chỉ với một cái xe đạp, đàng sau ràng chiếc cặp samsonite đựng tài liệu giảng dậy. Bọn đạo chích đã từng chiếu cố chiếc samsonnite này của ông nhiều lần! Những thứ đó làm nên dáng dấp và phong cách độc đáo rất dễ mến của Gs. Nghiêm Thẩm.
Có lẽ của cải vật chất qúy giá nhất của ông là căn nhà do chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cấp cho. Gia đình ông đã sống tại đây trên 20 năm và cũng chính tại nơi đây, ông đã bị thảm sát.
Cuộc sống Gs. Nghiêm Thẩm tuy thanh bạch về của cải vật chất, song trong căn nhà ông, chất chứa cả một kho tàng văn hóa vô giá. Thật vậy, chỉ cần phát mại một pho tượng đồng đen hay một chiếc búa khảo cổ không thôi, ông đã có thể kiếm được một món tiền khá lớn, đấy là chưa kể đến tủ sách hiếm qúy của ông. Còn nhớ, khi được Gs. Nghiêm Thẩm nhận đỡ đầu tiểu luận, ông đã đưa tôi lên lầu thăm kệ sách của ông kê chung quanh phòng ngủ. Ông hãnh diện bảo tủ sách của ông có những cuốn hiện ở cả miền Nam không đâu có. Liên tục trong nhiều năm, giáo sư đã chi tiêu một khoản tiền khá lớn để thuê người đóng bìa cứng cho những cuốn sách hiếm qúy mà ông sưu tầm được. Đương nhiên những cuốn sách này là vô giá trong thị trường văn hóa, chữ nghĩa.
Cái chết anh hùng của một nhà giáo, một nhà khoa học chân chính
Gs. Đỗ Khánh Hoan cho biết: Gs. Nghiêm Thẩm chỉ miệt mài nghiên cứu và giảng dậy, không bao giờ dính dáng chuyện chính trị (qua cuộc tiếp xúc điện thoại với Gs. Đỗ Khánh Hoan ngày 08 và 09, 01. 2013) .
Ai cũng nghĩ, sau 30.4.1975, một người luôn luôn xa tránh chính trị như Gs. Nghiêm Thẩm, sẽ được sống an thân dưới chế độ mới. Đáng tiếc, điều đó đã sai. Bởi vì, dưới chế độ Cộng Sản, tất cả đều phải phục vụ chính trị, đều phải phục vụ tuyên truyền. Chống chế độ, đương nhiên sẽ bị chế độ bóp nát. Không chống chế độ, nhưng không chịu làm tay sai cho chế độ, cũng bị chế độ nghiền nát.
Đó là trường hợp Gs. Nghiêm Thẩm.
Hồi tưởng, khoảng gần cuối tháng 4 năm 1975, vì có việc phải vào gặp Ông Chấn tại Văn phòng Đại học Văn khoa Sài Gòn; khi đi ra ngang cửa Câu lạc bộ Văn khoa, tôi gặp Gs. Nghiêm Thẩm. Ông vẫn xách chiếc samsonite như mọi khi, nhưng khuôn mặt ra chiều rất đăm chiêu. Tôi chào ông và hỏi ông tình hình rồi sẽ ra sao. Giáo sư bảo: “Hết rồi. Sài Gòn sẽ như Nam Vang” (Nam Vang thất thủ ngày 17. 4. 1975). Ông còn nói như tiên tri: “Đại sứ Mĩ Martin (Graham Martin) sẽ cuốn cờ, leo lên máy bay trực thăng mà đào thoát y như Đại sứ Mĩ Dean (John Gunther Dean) ở Nam Vang”. Tôi hỏi tiếp: “Thầy có đi không”. Ông buồn buồn bảo: “Tôi không đi. Tôi già rồi, đi làm gì”. Đó là lần cuối cùng tôi gặp Gs. Nghiêm Thẩm.
Năm 1988, đi tù cải tạo về, nghe tin Gs. Nghiêm Thẩm đã bị sát hại, tôi rủ anh Nguyễn Văn V. tới thăm Gs. Toan Ánh và cũng để hỏi về cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm. (Anh NVV. là giáo sư Trung học, cũng đi tù cải tạo về vì tội chống đối nhà trường XHCN).
Theo lời Gs. Toan Ánh kể cho hai chúng tôi thì Gs. Nghiêm Thẩm vẫn thường hay lên nhà ông chơi. Rồi, một sáng, Gs. Nghiêm Thẩm từ nhà Gs. Toan Ánh đạp xe về nhà, khi bước lên lưng chừng cầu thang, Gs. Nghiêm Thẩm đã bị một tên hung thủ dùng cái búa khảo cổ của ông đập vào đầu ông tới chết. Một điều đáng ngạc nhiên là, không biết căn cứ vào đâu, Gs. Toan Ánh nghi ngờ nguyên do vụ án mạng là vì tình.
Khi sang tới Hoa Kì, tình cờ tôi được đọc cuốn “Rồng Xanh Ngục Đỏ” (Hội Hữu xuất bản tại Hoa Kì năm 1986) của Lm. Vũ Đình Trác, trong đó có nói về cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm.
Lm. Vũ Đình Trác và Gs. Nghiêm Thẩm quen nhau và trở thành đôi bạn thân từ năm 1978 khi hai vị, như hầu hết các giáo sư Đại học còn ở lại, đã gia nhập vào các nhóm nghiên cứu văn hóa thành lập sau 30.4.1975. Vì say mê khảo cổ, cho nên khi nghe Lm. Vũ Đình Trác nói ông có Cuốn Bách Việt Tiên Hiền Chí, trích ra từ Đại Bộ Dã Sử Trung Hoa Lĩnh Nam Di Thư, ngay lập tức, Gs. Nghiêm Thẩm tìm tới làm quen với Lm. Vũ Đình Trác. Rồi từ chỗ trao đổi sách cổ và tài liệu cổ, hai vị trở thành đôi bạn tri kỉ, tâm giao.
Lần đầu tới thăm Gs. Nghiêm Thẩm, Lm. Vũ Đình Trác ngạc nhiên được biết thêm Gs. Nghiêm Thẩm đang sống chung với bà Ngô Thị Dung. Sau 30.4.1975, bà Ngô Thị Dung dậy Nhật ngữ tại Đại học (Văn khoa cũ). Lm. Vũ Đình Trác quen biết Bà Ngô Thị Dung hồi cả hai còn học bên Nhật. Gs. Nghiêm Thẩm nói ông và bà Ngô Thị Dung đã làm hôn thú để làm đơn xin đi đoàn tụ với ba má bà đang sống ở Canada.
Trong thời đại “đồ đểu cáng” sau 30.4.1975, dưới những con mắt tham lam và tàn ác của những ông kẹ văn hóa, việc sở hữu những đồ cổ và sách cổ qúy giá cũng trở thành một mối lo hại thân cho các khổ chủ .
Cho nên Gs. Nghiêm Thẩm phải dặn dò Lm. Vũ Đình Trác: “Linh mục phải giữ bí mật những tài liệu cổ này, kẻo tụi nó đánh hơi được thì phiền to; chiếc búa khảo cổ của tôi, tụi nó cũng đã biết rồi, mà cứ nay đứa này, mai đứa khác đến hỏi thăm và đòi xem” (Sđd. Trang 253).
Còn Bà Ngô Thị Dung thì thổ lộ: “Anh Thẩm là một nhà khoa học thuần túy, nên anh thiếu sự đưa đẩy uyển chuyển, khi giao tiếp với công an cán bộ”. Bà cũng nói thật “ Anh Thẩm qúy cha lắm, mới tiết lộ những bí mật của anh như thế” (Sđd. Trang 253).
Thêm vào đó, sau khi chiếm trọn miền Nam, với khí thế thắng lợi ngút trời, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ bộc lộ tham vọng muốn làm bá chủ toàn vùng Đông Nam Á. Trên thực tế, vào thời điểm đó, CSVN đã chiếm đóng Lào, rồi Kampuchea, và đang chuẩn bị “giải phóng” Thái Lan. Để thực hiện âm mưu, họ tích cực chuẩn bị mọi mặt. Trong kế hoạch chuẩn bị, họ toan tính lợi dụng chất xám của trí thức để đánh mặt trận tâm lí, khơi dậy ý chí quật cường và lòng kiêu hãnh dân tộc. Đây là điểm khởi đầu cho tai họa sắp đổ ập xuống cuộc đời của một trí thức thứ thiệt như Gs. Nghiêm Thẩm.
Đúng như vậy. Gs. Nghiêm Thẩm đã tâm sự với Lm. Vũ Đình Trác chuyện Tổng Bí thư đảng CSVN Lê Duẩn, với sự tháp tùng của Nguyễn Tuân, đã vào Nam và cho mời Gs. Nghiêm Thẩm tới khách sạn Majestic mà đãi đằng, khen ngợi, rồi “đưa đơn đặt hàng” cho ông.
Cuối bữa tiệc thịnh soạn, Lê Duẩn nói với Gs. Nghiêm Thẩm: “Anh Nghiêm Thẩm, chắc anh biết: cả thế giới đang coi Việt Nam mình như “đỉnh cao trí tuệ loài người” mà anh cũng được vinh dự ấy. Việt Nam chúng ta phải làm chủ miền Đông-Nam-Á này. Mọi yếu tố làm chủ hầu như đã đầy đủ, chỉ còn thiếu một điều…
Từ trước tới nay, mấy thằng chép sử “nhãi ranh’ vẫn cho rằng: nguồn gốc các sắc tộc miền Đông-Nam Á-Châu này là Mã Lai hay Indonesien. Đại Nga-xô mới tìm được ít dấu vết chứng tỏ rằng Việt Nam chúng mình mới là thủy tổ. Chúng ta đang làm lại lịch sử Đông-Nam Á-Châu. Khoa nhân chủng học và khảo cổ của ta lúc này đang phát đạt vô biên, nên anh phải nắm lấy cơ hội này, với uy tín sẵn có của anh, anh phải viết một bài lớn, thẩm định lại: Dân Việt Nam là thủy tổ các dân tộc Đông-Nam Á-Châu. Như thế mới đúng ý nghĩa của “Đỉnh cao trí tuệ loài người” và mới xứng đáng tài năng hiếm có của anh”.
Tôi im lặng một phút…trả lời hắn: “Uy tín của tôi lúc này là nói đúng và nói thật. Theo các tài liệu khoa học hiển nhiên, nhất là khoa khảo cổ học và nhân chủng học quá rõ ràng, tôi không thể viết thế khác được. Viết như đồng chí nói là phản khoa học”.
Hắn mỉm cười, bảo tôi: “Anh nói thế tức là còn đang ở trong vòng gò bó của sách vở, của óc đế quốc, của hủ lậu, chứ không theo sử quan một tí nào cả”.
Tôi cảm thấy tức đầy ruột…nên tôi hơi bạo lời: “Nếu tôi viết như thế, thì các nhà khảo cổ và nhân chủng học trên thế giới sẽ cho tôi và cả chế độ tôi phục vụ là con chó chết. Tôi không bao giờ làm chuyện sa đọa ấy”.
Lê Duẩn vẫn không lộ vẻ tức giận. Hắn hỏi tôi vắn tắt: “Anh nhất định không làm chuyện đó?”.
Tôi bỗng tìm được một danh từ xưng hô, trả lời hắn: “Tôi không thể đáp ứng yêu cầu của đàn anh trong việc này”.
Lê Duẩn ném cho tôi một cái nhìn có vẻ dữ tợn với câu nói cộc lốc: “Anh nhất định thế…Mong anh đổi ý”.
Tôi cũng nhìn thẳng vào mặt hắn, trả lời cương quyết: “Tôi không bao giờ đổi ý”.
Hắn đi ra, không nói thêm nửa lời.
Tôi coi đó như một biến cố đổ vỡ trong đời tôi, dưới chế độ khốn nạn này. Nhưng tôi thà tan vỡ cả tấm thân với cả chế độ này, còn hơn đổ vỡ cho đất nước tôi, cho chí hướng và danh dự học thức của tôi” (Sđd. Trang 254, 255,256).
Sau lần gặp Lê Duẩn, Gs. Nghỉêm Thẩm sống thấp thỏm, lo âu, chờ đợi một điều gì đó không hay xẩy ra cho ông. Nhưng rất bất ngờ, giáo sư lại được mời đi họp một lần nữa. Người mời lần này là Bộ trưởng Thông tin Văn hóa CSVN Nguyễn Văn Hiếu. Tháp tùng Bộ trưởng Thông tin Văn hóa còn có Gs. Phạm Huy Thông, Viện trưởng Viện Khảo cổ Hà Nội và mấy viên bộ trưởng khác. Nơi hội họp là khách sạn Hữu Nghị. Thời gian họp kéo dài ba bốn ngày. Đưa rước bằng xe Mercedes. Ăn uống sang trọng. Mục đích được cho biết là chuẩn bị tham dự Đại hội khảo cổ sắp diễn ra ở Moscow. Họ yêu cầu Gs. Nghiêm Thẩm đóng góp tài liệu và kiến thức; họ nói úp mở có thể sẽ mời giáo sư tham gia phái đoàn.
Đáp lại, Gs. Nghiêm Thẩm dứt khoát không chấp nhận đưa ra quan điểm nào khác, ngoài sự tôn trọng tính khách quan của những tài liệu khảo cổ và giáo sư cũng ngỏ ý xin được miễn tháp tùng phái đoàn đi Moscow, viện cớ “tôi có nhiều ý kiến đối nghịch, sẽ bất lợi cho Đại hội” (Sđd. Trang 256).
Trước thái độ cương quyết của Gs. Nghiêm Thẩm, viên bộ trưởng nói: “Cái đó tùy anh” và “Anh chưa đủ thành thực”.
Gs. Nghiêm Thẩm nói với Lm. Vũ Đình Trác: “Tôi nghe câu đó như một bản án kết tội; từ đó, tôi bắt đầu chán sống. Bà NTD (Ngô Thị Dung) bảo tôi: thái độ như vậy không hay. Coi chừng tụi nó cho mình là phản chế độ, là bất hợp tác. Anh nên mềm dẻo với tụi nó thì hơn” (Sđd. Trang 257).
Chuyện Gs. Nghiêm Thẩm bị bọn Cộng sản làm phiền cũng được Gs. Đỗ Khánh Hoan xác nhận qua email ông gửi cho tôi ngày 02.02.2013 như sau: “…Nhiều lần gặp nhau anh (tức Gs. Nghiêm Thẩm) chỉ nói: Bọn nó muốn 'toucher' moa nhưng moa không thích, dính vào tụi nó bẩn người và khó chịu lắm. Họa chứ không phải phúc đâu, Hoan! Moa chỉ mong nó bảo nhau đến nhận chìa khóa cơ sở là moa bai bai!”.
Vào thời điểm đầu Tháng 11.1979, Gs. Nghiêm Thẩm rất bi quan, chán nản; thậm chí có lần ông còn thổ lộ với Lm. Vũ Đình Trác là ông muốn vào đạo Chúa, mong nấp bóng từ bi của Ngài và được Ngài an ủi, phù trì.
Nỗi chết chóc càng ngày càng ám ảnh tâm trạng Gs. Nghiêm Thẩm.
Tuy rất thông cảm tâm trạng u uẩn của bạn, nhưng Lm. Vũ Đình Trác không biết làm gì để giúp bạn. Rồi vì phải đi Cần Thơ giảng dậy lớp Đông y, linh mục buồn bã chia tay Gs. Nghiêm Thẩm, ông nói với giáo sư: “Số phận chúng mình dưới chế độ Cộng sản chỉ có thế”.
Sau mấy tuần đi dậy ở miền Tây, Lm. Vũ Đình Trác trở lại Sài Gòn và tới thăm Gs. Lê Tôn Nghiêm (cựu linh mục, giáo sư Triết học). Gs. Lê Tôn Nghiêm cho linh mục biết Gs. Nghiêm Thẩm đã bị sát hại cách đó 2 tuần, tức là vào cuối Tháng 11.1979.
Theo sự tường thuật của Lm. Vũ Đình Trác thì vụ sát hại Gs. Nghiêm Thẩm xẩy ra vào lúc 11 sáng. Thủ phạm là 2 tên lạ mặt. Chúng tông cửa vào nhà và móc súng ra, uy hiếp Gs. Nghiêm Thẩm phải giao ra chiếc búa khảo cổ của ông. Khi lấy được chiếc búa khảo cổ, một tên dùng chính chiếc búa khảo cổ đập 3 búa lên đầu giáo sư, rồi chúng tẩu thoát cùng với chiếc búa cướp được. Gs. Nghiêm Thẩm nằm chết trên vũng máu. Lúc xẩy ra án mạng, bà Ngô Thị Dung không có ở nhà chỉ có cô cháu lén nhìn trộm thấy mọi diễn biến.
Cô cháu vội đi tìm bà Ngô Thị Dung. Công an tới lập biên bản và niêm phong tủ sách của giáo sư.
Bà Ngô Thị Dung lo việc mai táng cho Gs. Nghiêm Thẩm. Có một ít đồng nghiệp tiễn đưa giáo sư ra nghĩa trang.
Sau lễ an táng, một số giáo sư thân hữu đã ngồi lại với nhau để hồi tưởng về Gs. Nghiêm Thẩm. Qua trao đổi tâm tình, các vị biết được Gs. Nghiêm Thẩm đã thổ lộ tâm sự bi quan, yếm thế với 6 thân hữu khoảng 10 ngày trước khi ông bị thảm sát.
Gs. Lê Tôn Nghiêm và Gs. NTN (chưa đoán ra là vị nào) mời thân hữu nâng li, đang khi đó Gs. TNT ngâm lên bài thơ chiêu hồn thống thiết:
Nghiêm Thẩm! Nghiêm Thẩm!
Anh là đỉnh cao của hoa gấm Giang sơn,
Anh ra đi mang nặng những oán hờn.
Có khôn thiêng, xin hãy về chứng giám
Vạn lòng thành, vạn niềm tin tưởng niệm
Của anh em trí thức dưới trời Nam.
Nguyện làm gió quét sạch lũ sài lang,
Nguyện làm mưa cho quê hương mát mẻ,
Nguyện làm nắng cho rực màu đất mẹ,
Nguyện làm trăng gieo rắc ánh thanh bình.
Vài nhận xét:
1. Về thời điểm: Wikipedia và vietgle.vn đều chỉ nói vắn tắt Gs. Nghiêm Thẩm bị cướp giết chết tại tư gia vào năm 1982.
Thiển nghĩ, thời điểm 1982 không chính xác. Xin nêu 2 bằng chứng:
Một là, Gs. Đỗ Khánh Hoan cho chúng tôi biết ông đã nghe tin Gs. Nghiêm Thẩm bị sát hại trước khi ông vượt biên vào Tháng 12.1979. Vậy vụ thảm sát Gs. Nghiêm Thẩm không thể nào xẩy ra sau ngày Gs. Đỗ Khánh Hoan vượt biên được (qua cuộc điện thoại của tôi với Gs. Đỗ Khánh Hoan vào ngày 08 và 09. 01. 2013).
Hai là, trong hồi kí “Rồng Xanh Ngục Đỏ” (Sđd), Lm. Vũ Đình Trác nói ông chia tay Gs. Nghiêm Thẩm vào đầu Tháng 11.1979 để đi Cần Thơ giảng dậy lớp Đông y. Khi ông trở về Sài Gòn thì Gs. Lê Tôn Nghiêm cho biết Gs. Nghiêm Thẩm đã bị sát hại cách đó 2 tuần, tức là vào cuối Tháng 11.1979. Năm sau, Lm. Vũ Đình Trác vượt biên vào Tháng 5.1980.
Với 2 bằng chứng khả tín này, có thể khẳng định Gs. Nghiêm Thẩm bị sát hại vào Tháng 11 năm 1979 chứ không phải là năm 1982.
2. Về thủ phạm và cách gây án: Gs. Toan Ánh và Lm. Vũ Đình Trác đều nói Gs. Nghiêm Thẩm bị hung thủ đập vào đầu đến chết bằng cái búa khảo cổ qúy giá của ông. Nhưng Gs. Toan Ánh lại nghi sát thủ là một tay gian phu, cho nên chắc hung thủ chỉ có một tên mới hợp lí. Đang khi đó, theo Lm. Vũ Đình Trác thì hung thủ là 2 tên lạ mặt.
Mặc dù chúng tôi biết rõ Gs. Toan Ánh vốn là bạn thâm giao của Gs. Nghiêm Thẩm, nhưng không hiểu ông căn cứ vào đâu để nêu lên nghi vấn một tên gian phu đã gây nên cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm. Đàng khác, nghi vấn này xét thấy càng vô lí hơn, vì bất cứ tên gian phu nào cũng như bất cứ người nào muốm cắm sừng lên đầu người phối ngẫu của mình, tối thiếu, đều phải tính toán cẩn thận giờ giấc sinh hoạt của nạn nhân và phải chọn thời điểm và nơi hành sự cho an toàn, kín đáo.
Nếu vụ án Gs. Nghiêm Thẩm là do một tên gian phu thì quả là y quá ngang nhiên và quá táo bạo, cho nên mới dám vi phạm những điều cấm kị sơ đẳng của một kẻ gian. Thiển nghĩ, cái nghi vấn của Gs. Toan Ánh sẽ mãi mãi chỉ là một nghi vấn có tính cách “tiêu cực”, trừ khi những người trong cuộc còn tại thế chịu lên tiếng.
Cũng không loại bỏ cái nghi vấn của Gs. Toan Ánh là do bị ảnh hưởng bởi thủ đoạn đánh lạc dư luận của những kẻ phạm án. Biết đâu chúng đã thi hành âm mưu bắn một mũi tên mà giết được 2 con chim: tức là chúng giết Gs. Nghiêm Thẩm rồi cho Công an lập ra một biên bản gian trá, trong đó dàn dựng thủ phạm sát nhân là một tên gian phu. Làm thế, chúng vừa làm mất danh dự vừa bịt miệng vị phụ nữ, là người không có mặt ở nhà lúc xẩy ra án mạng.
Chắc nhiều người còn nhớ CSVN đã bắt Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đêm 05.10.2010 với tang vật tội “mua dâm” là “hai bao cao su (condoms)” khều ra được từ sọt rác phòng khách sạn của ông. Thế rồi CSVN lại phù phép tội mua dâm thành ra tội “tuyên truyền chống phá nhà nước XHCN”!
3. Về nguyên do tại sao Gs. Nghiêm Thẩm bị thảm sát
Có nhiều bằng chứng cho một nghi vấn khác “hợp lí” hơn: Chính bọn lãnh đạo chóp bu CSVN ra lệnh giết Gs. Nghiêm Thẩm vì ông là một trí thức bất hợp tác, không chịu khuất phục làm công cụ tuyên truyền cho chúng.
Đọc cuốn hồi kí “Rồng Xanh Ngục Đỏ” dài 379 trang của Lm. Vũ Đình Trác, chúng tôi thấy có vài chỗ tác giả đã lầm lẫn hoặc là cả tin. Chẳng hạn như ở trang 209, tác giả kể chuyện Gs. Lý Chánh Trung đã vượt biên tới Thái Lan năm 1981 và vì bị đồng bào vạch mặt chỉ tên là Cộng sản, cho nên không thể xin định cư tại Hoa Kì mà phải xin đi Pháp. Có lẽ tác giả muốn kể chuyện vượt biên của Gs. Châu Tâm Luân. Sự thật thì Gs. Lý Chánh Trung không hề vượt biên; ông vẫn ở Việt Nam.
Hay là ở các trang 262- 275, Lm. Vũ Đình Trác thuật lại một cách tin tưởng những chuyện phép lạ do tên Hồ Ngọc Ánh (Hồ Ngọc Anh) “đạo diễn” cho Đức Mẹ Maria “thi hành” ở Trung tâm Fatima, Bình Triệu, vào năm 1975. Theo tôi, tay Hồ Ngọc Anh này là một tên đại bịp. Không biết bằng cách nào, sau này, hắn ta lại có mặt tại Hoa Kì và đã tới lãnh địa Dòng Đồng Công tại Carthage, Missouri, toan dở trò bịp bợm một lần nữa vào Tháng 12 năm 1993, nhưng đã bị Dòng Đồng Công lột mặt nạ (Xin xem bài Sự Thật Về Ông Hồ Ngọc Anh dài 7 trang trên Nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ, Số 194, Tháng 02,1994). Thực ra, không phải chỉ một mình Lm. Vũ Đình Trác tin vào vụ “phép lạ Hồ Ngọc Anh” mà còn có vài giáo sĩ vị vọng khác nữa cũng tin như vậy!
Mặc dù có vài điều đáng tiếc ấy, song không thể phủ nhận toàn bộ giá trị cuốn hồi kí Rồng Xanh Ngục Đỏ được. Đọc cuốn hồi kí này, chúng ta sẽ có cái nhìn sống động tổng quát về tình hình suy sụp của xã hội miền Nam sau ngày 30.4.1975, nhất là tình cảnh bi đát của giới trí thức và giáo sư Đại học. Đúng là cái cảnh “sĩ khí rụt rè gà phải cáo”!.
Riêng phần tường thuật diễn tiến các tình tiết dẫn đưa tới cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm, chúng tôi thấy có lớp lang và hữu lí.
Thứ nhất: Tính khảng khái và sự bất hợp tác của Gs. Nghiêm Thẩm
Bất cứ ai quan tâm tới lịch sử cận đại Việt Nam cũng đều biết tỏ tường rằng, trong quá trình đấu tranh cướp chính quyền ở cả hai miền đất nước, bọn lãnh đạo chóp bu CSVN đã thủ tiêu nhiều nhà đối lập danh tiếng, nhiều đồng chí dầy công nghiệp của họ, cho nên việc họ tiêu diệt một trí thức bất hợp tác như Gs. Nghiêm Thẩm chỉ là chuyện nhỏ, chuyện thường tình!
Đối với bọn Cộng Sản, không theo chúng cũng bị chúng coi là kẻ thù cần phải tiêu diệt. Thế mà Gs. Nghiêm Thẩm đã dám không tuân theo lệnh của Lê Duẩn là kẻ có quyền lực vô biên vào thời đó. Hậu quả tất nhiên là Gs. Nghiêm Thẩm phải chết.
Thứ hai: Để thi hành lệnh hành quyết của các lãnh tụ CS, bọn tay sai sát nhân có trăm phương nghìn kế để giết người: Bắt đi “cải tạo” nơi rừng thiêng nước độc không có ngày về, mật báo cho đối phương để mượn tay đối phương tiêu diệt đối thủ, dùng thuốc độc, cho xe cán chết, dàn dựng một vụ chết vì lạc đạn hoặc là một vụ cướp của giết người…
Xem xét thấy vụ sát hại Gs. Nghiêm Thẩm, bắt buộc người quan sát phải nghi ngờ ngay đây là một vụ thanh toán kẻ bất hợp tác về chính trị, được dàn dựng như là một vụ giết người cướp của.
Nghi vấn này căn cứ trên lập luận như sau: Kẻ trộm cướp thường chỉ nhắm vào những con mồi có tiền của; đang khi Gs. Nghiêm Thẩm không phải là người có tiền của. Bọn hung thủ sát hại Gs. Nghiêm Thẩm và chỉ lấy được chiếc một búa khảo cổ. Thử hỏi làm sao những tên trộm cướp bình thường lại biết Gs. Nghiêm Thẩm sở hữu chiếc búa khảo cổ và nếu chỉ để lấy chiếc búa ấy, có đáng để chúng phải giết một mạng người không? Suy ra, chỉ có những kẻ chủ mưu, những kẻ ra lệnh giết người thuộc giới cầm quyền chính trị văn hóa cao cấp mới biết Gs. Nghiêm Thẩm có đồ cổ và sách vở hiếm qúy. Cướp của trong trường hợp này là thứ yếu, tiêu diệt đối tượng bất hợp tác chính trị mới là chủ đích. Thêm vào đó, ngay sau khi Gs. Nghiêm Thẩm bị sát hại, Công an tới lập biên bản và “tức khắc niêm phong tủ sách” của ông (Sđd. Trang 258). Bọn cướp của giết người bình thường không biết giá trị của sách vở.
Thứ ba: Gs. Đỗ Khánh Hoan cho biết, Ban Giám hiệu nhà trường Cộng sản rất thích màu mè. Theo lệ, mỗi khi một giáo sư hay nhân viên Trường Đại học nào có cha mẹ vợ con qua đời, nhà trường đều cử đại diện đi phúng điếu. Riêng trường hợp Gs. Nghiêm Thẩm bị sát hại, nhà trường phản ứng rất khác lạ. Gs. Đỗ Khánh Hoan chỉ được nghe tin về cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm chứ không được nhà trường thông báo chính thức và nhà trường cũng không cử phái đoàn đi thăm viếng hoặc phúng điếu. Gs. Nghiêm Thẩm là giáo sư kì cựu của nhà trường. Bà Ngô Thị Dung sống chung có hôn thú với Gs. Nghiêm Thẩm, cũng là giảng viên Nhật ngữ của nhà trường. Vậy tại sao nhà trường lại đối xử phân biệt tệ hại và vô tình đến như vậy? Câu trả lời chỉ có thể vì đây là vụ án chính trị mà thôi.
Từ câu trả lời trên, người ta có thể hiểu được tại sao vài tài liệu trên mạng lại “ngụy tạo” nguyên do và thời điểm về cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm. Họ nói Gs. Nghiêm Thẩm bị cướp giết tại tư gia năm 1982. Phải chăng họ muốn tung hỏa mù, muốn đánh lạc hướng dư luận?
Thứ tư: Hoạt cảnh sát hại Gs. Nghiêm Thẩm diễn ra trước con mắt nhìn lén của cô cháu gái, lúc đó có mặt ở nhà.
Thứ năm: Cứ sự thường, nếu đây là vụ án hình sự thuần túy thì, ít nhiều gì, công an, báo chí và tòa án cũng đã làm việc. Nhưng đây là vụ án mạng có tính chính trị mà thủ phạm là bọn Cộng sản, rồi chính bọn họ lập biên bản và điều tra thì chẳng khác chi một kẻ vừa đá banh vừa thổi còi, cho nên vụ án giết Gs. Nghiêm Thẩm ngay giữa thành phố lớn nhất của một nước đã bị cho chìm xuồng, và dư luận không mấy ai hay, không mấy ai biết.
Vụ Gs.Nghiêm Thẩm bị sát hại chưa bao giờ được điều tra nghiêm chỉnh và khách quan, cũng như chưa bao giờ được một tòa án xứng đáng xét xử công khai với đầy đủ thủ tục tố tụng, cho nên theo luật, không ai có thẩm quyền đưa ra lời buộc tội có giá trị pháp lí ở đây và vụ việc vẫn còn là một nghi án. Thế nhưng, trên đời này có nhiều vụ việc, mặc dù chưa được công nhận là có giá trị pháp lí (de jure), nhưng đã có giá trị trên thực tế rồi (de facto).
Trong thời cận đại và thời hiện đại, cha chú chúng tôi và chính chúng tôi là những chứng nhân sống, là nạn nhân thật sự của các thủ đoạn cướp chính quyền và các đòn phép kềm kẹp tàn độc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cho nên chúng tôi không lạ gì những thủ đoạn thâm hiểm, những tội ác tày trời của bọn Cộng sản VN. Vụ sát hại Gs. Nghiêm Thẩm chưa có bản án pháp lí, nhưng trong tâm trí chúng tôi, với những bằng chứng và những suy luận trên đây, thiết tưởng đã đủ lí do để chúng tôi đi từ nghi vấn đến kết luận rằng Gs. Nghiêm Thẩm đã bị bọn chóp bu Cộng sản VN ra lệnh sát hại một cách tàn ác, vì ông đã cương quyết bất hợp tác, không chịu bẻ cong ngòi bút làm công cụ tuyên truyền cho chúng.
Oan khuất thay! Đau đớn thay!
Vinh danh Gs. Nghiêm Thẩm
Mặc dù chưa được thụ án nghiêm chỉnh và dư luận không mấy ai hay, không mấy ai biết vụ Gs. Nghiêm Thẩm bị sát hại, nhưng chúng tôi là môn sinh của Gs. Nghiêm Thẩm, chúng tôi biết và chúng tôi muốn danh tính và cái chết tức tưởi của vị giáo sư anh hùng được đời sau biết tới. Hiện nay, bọn CSVN làm ra rất nhiều luật lệ, nhưng chúng xài có một thứ luật. Đó là luật rừng. Cho nên không mong gì chúng giở lại hồ sơ vụ án Gs. Nghiêm Thẩm. Nếu có ai khiếu kiện thì kết quả cũng chỉ là “con kiến mà kiện củ khoai” mà thôi. Song chúng tôi tin rằng CSVN không có thể thống trị đất nước này mãi được. Sẽ có một ngày đất nước thoát khỏi gông cùm Cộng sản. Chắc chắn lúc đó, công lí sẽ được trả lại cho Gs. Nghiêm Thẩm một cách sòng phẳng.
Trong hoàn cản hiện nay, môn sinh chúng tôi có thể làm ngay một việc là vinh danh Gs. Nghiêm Thẩm như một trí thức anh hùng, một nhà giáo, một nhà khoa học chân chính.
Bất kể bọn Cộng sản đã dàn dựng vụ sát hại Gs. Nghiêm Thẩm như thế nào, và rồi giải thích ra sao, Gs. Nghiêm Thẩm vẫn đã là anh hùng rồi. Gs. Nghiêm Thẩm là anh hùng ngay từ khi ông dứt khoát không tuân lệnh của Tổng Bí thư đảng CSVN Lê Duẩn, của viên Bộ trưởng Thông tin Văn hóa CSVN để phải bẻ cong ngòi bút mà viết bài phục vụ chính trị. Gs. Nghiêm Thẩm đã không chịu khuất phục trước cường quyền, sẵn sàng chấp nhận tất cả, ngay cả cái chết để bảo vệ danh dự một trí thức, bảo vệ sự thực khách quan của khoa học.
Gs. Nghiêm Thẫm xứng đáng là một Chu Văn An, là một Nguyễn Bỉnh Khiêm thời đại ngày nay.
Cuối cùng, chúng tôi xin mượn những câu thơ bất khuất của kẻ sĩ Phùng Quán để kính viếng hương hồn Gs. Nghiêm Thẩm.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
(Lời Mẹ Dặn)
*Bạch Diện Thư Sinh
02.02.2013.
(Mong được qúy độc giả chỉ cho biết những phát hiện khác có liên quan tới cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm, để sự thật càng sáng tỏ hơn. Xin liên lạc về: yetkieu01@gmail.com. Xin cảm tạ.)
Phần phụ thêm:
1. Gs. Toan Ánh (1916-2009)
Gs. Toan Ánh (ảnh của Nguyễn Thụy Long)
Tên thật là Nguyễn Văn Toán. Sinh tại Thị Cầu, Bắc Ninh.
Ông từng là công chức cao cấp Bộ Thông Tin, Phó Chủ tịch Hội đồng Văn hóa Giáo dục VNCH và là giảng sư Đại học Vạn Hạnh và Đại học Huế.
Ông là nhà biên khảo tiếng tăm, là tác giả của trên 120 cuốn sách, hầu hết là những cuốn khảo luận về phong tục tập quán giá trị, như: Nếp Cũ (11 cuốn), Việt Nam Chí Lược (5 cuốn), Tín Ngưỡng Việt Nam, Hội Hè Đình Đám, Cầm Ca, v.v….
Gs. Toan Ánh là một học giả luôn luôn nâng đỡ, khuyến khích hậu sinh học tập. Năm 1971, dù không phải là học trò của ông, chúng tôi cũng đã mấy lần được hầu chuyện giáo sư. Tôi được Gs. Nghiêm Thẩm nhận đỡ đầu cho tiểu luận của tôi, một phần là nhờ lời giới thiệu của Gs. Toan Ánh.
Tư gia của Gs. Toan Ánh nằm trong cư xá dân sự đường Công Lý, chênh chếch phía trước cổng Tổng Tham Mưu QLVNCH. Còn nhớ hồi ấy, chung quanh phòng khách là những kệ sách xếp đầy sách vở. Lần trở lại thăm Gs. Toan Ánh năm 1988, tôi nhận thấy người và cảnh đã đổi khác nhiều. Căn phòng chỉ còn là phòng khách, không còn những kệ đầy ắp sách vở. Hồi đó, giáo sư còn tráng kiện, hoạt bát làm sao. Nay thì tuổi đời chồng chất và nhất là hoàn cảnh đổi dời của thời thế đã làm cho dáng vẻ giáo sư ra chiều ưu tư, xa vắng. Nụ cười vẫn còn đó, nhưng chừng như ít tươi hơn xưa! Giáo sư bảo ông đã hưu dưỡng và người ta đang thương lượng để xuất bản những bộ sách cũ cũng như mới của ông. Ông than phiền rằng bên hải ngoại đã in sách của ông mà không hỏi ông. Khi ông viết thư yêu cầu họ trả cho ông chút tiền nhuận bút để dưỡng già, họ trả lời: “Sách của ông chúng tôi in ra cho, ông còn muốn gì nữa?!” Gs. Toan Ánh chua chát nói: “Đấy, mấy anh coi, họ nói thế có nghe được không. Trước 30.4.1975, sách của tôi xuất bản bao nhiêu
bộ, toàn là sách bán được, sách có độc giả, không bao giờ thuộc loại sách bán “xon” ngoài hè phố. Sách của tôi khá nhiều. Tên tuổi Toan Ánh đâu có xa lạ gì với độc giả toàn miền Nam. Tôi đâu có cần nhờ tới họ mới được thiên hạ biết đến”.
Hiện ở trong nước, Nhà xuất bản Trẻ đã kí hợp đồng 10 năm (2004-2015) để được độc quyền xuất bản Toan Ánh Toàn Tập, gồm 124 tác phẩm đã từng xuất bản và chưa xuất bản của Gs. Toan Ánh. Có một điểm cần lưu ý là tất cả những sách vở đã xuất bản thời Quốc gia nay được in lại ở trong nước đều bị đục bỏ, sửa chữa những chỗ đụng chạm tới Cộng sản VN hoặc là sẽ có những ghi chú cuối trang theo quan điểm của người Cộng sản.
2. Lm. Vũ Đình Trác (1927-2003)
Lm. Vũ Đình Trác
Ông sinh tại Trung Lao, Nam Định.
1954: Linh mục
1960: Cử nhân Văn chương Việt Hán, Đại học Văn khoa Sài Gòn.
1963 – 68: Bề trên Tu viện Mai Khôi, Chí Hòa; Hiệu trưởng Trung học Minh Viễn, Chợ Lớn.
1968 – 71: Du học Đài Loan, đậu Thạc sĩ Triết tại Đại học Fujen (Phụ Nhân), Đài Bắc.
1971 – 74: Học Đại học Sophia, Tokyo, Nhật Bản, đậu Tiến sĩ Triết.
1974: Về nước, dậy học.
Ông là tác giả khoảng 20 cuốn sách, như: Triết Lý Chấp Sinh Nguyễn Công Trứ, Triết Lý Nhân Bản Nguyễn Du, Một Trăm Cây Thuốc Vạn Linh, Việt Nam Trong Qũy Đạo Thế Giới, Rồng Xanh Ngục Đỏ, Công Giáo Việt Nam Trong Truyền Thống Văn Hóa Dân Tộc…
Cuối Tháng 8. 1975: bị đuổi cùng 60 tu sĩ ra khỏi cơ sở tu hội Thánh Gioan Bình triệu do lệnh của UB Quân quản Xã Bình Trước, Quận Thủ Đức, vì chúng muốn cướp cơ sở của Tu hội. Về nhà ở với mẹ tại Chí Hòa. Làm việc mục vụ chui cho các nữ tu Mai Khôi Chí Hòa; đồng thời dậy các nữ tu chế thuốc Nam và chữa bệnh chui, nhưng rất mát tay. Để khỏi phiền phức, ông viết đơn xin nghỉ dậy Đại học. Có lúc được mời mở lớp dậy châm cứu và thuốc dân tộc tại Trung tâm Tĩnh tâm Betania, Chí Hòa. Ông còn đi mở lớp ở Cần Thơ, Long Xuyên, Đà Lạt, Dốc Mơ. Sau đó, xin mở Phòng Đông y tại Bệnh viện Saint Paul (nay là Bv. Điện Biên Phủ) cho đến sau Tết 1980.
Tháng 5. 1980: Vượt biên sang Hoa Kì.
2003: Qua đời tại Nam California.
BX CANH * CỪU VÀ SÓI
Con Cừu và Con Chó Sói – BXCanh
Đăng trong: Tháng Hai 18, 2013 | Tác giả: muoisau | Filed under: Human Right | Tags: Bình Luận |1 Comment »
2 Votes
Bài đọc suy gẫm: Con Cừu và Con Chó Sói hay Những Bài Học Để Đời của tác giả BXCanh.Hình ảnh chỉ có tính minh họa.
Hình Ls. Nguyễn Mạnh Tường hồi trẻ và 1952.
1. Trí thức NGUYỄN MẠNH TƯỜNG.
Nói tới tên ông, nhiều người Việt nghĩ ngay tới việc ông đỗ
hai bằng tiến sĩ, Văn và Luật tại Montpellier, Pháp trong một năm, lúc
mới 23 tuổi. Ngoài ra, người ta không nhớ ông đã làm được công nghiệp gì
tương xứng với tài năng và công lao học tập! Điều đó không có chi lạ.
Ông đã theo “Hồ tặc” đi kháng chiến, và kể từ lúc ấy, đời ông kể như đã
đi vào ngõ cụt. Đã có quá nhiều sách báo nói về ông Nguyễn Mạnh Tường và
những tháng ngày thê thảm của ông và gia đình ông, dù bản thân ông chưa
phải là trái chanh đã hết nước trong tay Cộng. Nếu không đọc cuốn sách
Un Excommunié do chính ông viết, chúng ta khó tưởng tượng ông “lưỡng
khoa tiến sĩ” này lại bị đau nhục dưới tay “vượn người” như thế! Nhưng
vì đâu nên nỗi?
Hoàn cảnh lịch sử? Lòng yêu nước, hay sự bịp bợm của cộng sản đã đưa ông vào thảm trạng?
Năm 1936, cậu thanh niên 27 tuổi, với hai bằng tiến sĩ từ mẫu quốc
hồi hương, tương lai sáng rỡ như mặt trăng mặt trời. Cậu trở thành giáo
sư trường Lycée du Protectorat tức trường Bưởi, rồi cậu mở văn phòng
luật sư tại hai biệt thự tại thủ đô Hà Nội. Khi cộng sản cướp chính
quyền, cậu hào hứng hiến luôn cả hai biệt thự cho nhà nước. Kháng chiến
bùng nổ, cậu không ngại gian lao, xách khăn gói vào Khu Tư, tức Thanh
Hóa theo “Bác.”
Chiến tranh tạm ngừng năm 1954, nhà trí thức lúc ấy đã mỏi mệt vì
những điều tai nghe, mắt thấy về Đảng và “bác”, nhưng cổ đã vướng tròng,
khó bề thoát ra. Trở về Hà Nội, ông được cộng sản ấn vào tay một lô
chức tước “phó”, vô danh và… vô thực luôn: Phó chủ tịch Hội Luật Gia
Việt Nam, phó Trưởng khoa Đại Học Sư Phạm, thành viên Hội Hữu Nghị
Việt-Xô, v…v..
“ Đó là các chức vụ hoàn toàn có tính cách lễ nghi, không hiệu năng
mà cũng chằng có thực quyền, đó là những chức vụ mà tôi chỉ là kẻ dư
thừa .”
Năm 1956, có phong trào Đòi tự do, dân chủ của các báo Nhân Văn, Giai
Phẩm. Báo Nhân Văn đăng bài phỏng vấn ông Nguyễn Mạnh Tường. Ông vạch
trần tính chất phản dân hại nước của cộng sản:
“Đảng Viên đảng Lao Động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tính thần dân chủ, xa lìa quần chúng, tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình… ”
“Đảng Viên đảng Lao Động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tính thần dân chủ, xa lìa quần chúng, tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình… ”
Dĩ nhiên, ông cũng còn tin cộng sản có thể sửa đổi được, và ông đề
nghị những biện pháp sửa đổi! Ngày nay, dù đã có một tay cộng sản gộc,
chính tông, là Boris Yelsin bỏ đảng và tuyên bố
“Cộng Sản không thể sửa đổi ”, nhiều ông trí thức của ta vẫn tin rằng
có thể dùng kiến nghị, thư ngỏ… để thay đổi chính sách của Cộng sản.
Cộng sản dĩ nhiên không thèm đếm xỉa gì đến những đề nghị của ông Tường;
nhưng lãnh đạo Cộng sản lại dương những con mắt cú vọ quan sát, nhằm
“chiếu tướng” ông trí thức. Ngày 30 tháng 10 năm 1956, ông luật sư, giáo
sư, kiêm luôn bao nhiêu chức Phó và Thành viên các hội, đọc một bài
diễn văn tại cái gọi là Mặt Trận Tổ Quốc, phân tích những khốc hại đẫm
máu của việc Cải Cách Ruộng Đất, và đề ra phương hướng để tránh mắc lại!
Ông Trí thức lúc ấy chắc vẫn tin là cộng sản mắc “sai lầm”, chứ không
phải là chúng chủ tâm và tỉ mỉ hoạch định đủ phương kế để giết người và
cướp đất ruộng. Sau bài diễn văn với những đề nghị này, nọ của ông, dây
thừng quanh cổ ông được cộng sản xiết chặt lại. Bao nhiêu chức tước vớ
vẩn của ông được gỡ sạch. Ông bị đưa ra đấu tố tại trường Đại Học cho
học trò ông xỉ vả, mắng mỏ; ông bị ra trước Mặt Trận Tổ Quốc để các
“đồng chí” của ông đấu đá. Ông bị các đảng viên đảng Xã Hội, một đảng bù
nhìn do cộng sản nặn ra để trang trí cho chế độ, đấu tố ông lần chót.
Ông chống trả rất can trường, với lập luận sắc bén của một luật sư có
tài. Nhưng rồi ông đau khổ nhận rằng:
“Con cừu thì không thể lý luận với một con chó sói”.
Số phận ông đã được Cộng đảng quyết định: Bỏ cho chết đói giữa một sa mạc hận thù không lối thoát. Ông than thở
“Tôi đã là kẻ lữ hành trong chuyến đi qua sa mạc kéo dài từ năm 1958
đến năm 1990, hơn ba mươi năm dài đằng đẵng! Chìm trong vùng cát của sa
mạc tuyệt vọng làm cạn khô dòng nước mắt, tôi đã lê tấm thân bị tra tấn
bởi thiếu thốn cô đơn với quả tim rướm máu bởi nỗi buồn chua cay và vị
đắng của mật!” Trong ba mươi năm dài ấy, nhà trí thức sống ra sao?
Ông kể lại:
“Trước tiên, loại bỏ ngay buổi ăn sáng, một thói quen sa hoa của
những người tư sản. Tiếp đến, cá thịt từ từ biến mất trong những buổi ăn
trưa và tố́i. Khẩu phần cơm rau mỗi ngày một ít đi, và đến lúc mỗi ngày
chúng tôi chỉ có một bát cháo để ăn. Vợ và con gái tôi ốm đi trông
thấy. Bao nhiêu sáng láng đã biến mất trên khuôn mặt dài ra vì ốm đói.”
Trong cơn khốn cùng như thế, gia đình ông Tiến sĩ “may mắn” có được
một con gà mái “mắn đẻ một cách đáng ngạc nhiên ”. Mỗi ngày con gà cho
một trái trứng, và mỗi người trong gia đình thay phiên nhau hưởng. Muốn
cho gà đẻ trứng, thì phải cho nó ăn. Khốn nỗi người còn sắp chết đói,
lấy đâu gạo, bắp cho gà! Nhà trí thức ‘phát huy sáng kiến’:
“mỗi ngày, vào lúc hoàng hôn, khi chợ đã vắng người mua bán, tôi lượn
quanh để lén nhặt những mảnh rau vụn, tránh không để người qua đường
nhìn thấy, mang về nuôi nó”
Thê thảm không còn gì để nói! Nhưng con gà, dù mắn đẻ, tất cũng không
nuôi sống nổi cả gia đình của ông tiến sĩ. Ông phải đau khổ, năn nỉ
những kẻ có tiền để họ mua những thứ ông có thể vơ vét ở trong nhà: sách
vở, quần áo của ông, son phấn , tóc giả của bà, muỗng nĩa trong bếp…
Giống hệt tình cảnh của toàn dân miền Nam năm 1975 khi được cộng “giải
phóng.” Ba mươi năm vật lộn mỏi mòn, chỉ để khỏi chết đói!
Cộng sản đã trả công cho sự nhiệt thành và công lao hạn mã của ông
bằng cái đói và nhục. Nhiệt thành, say sưa, vì khi Cộng mới nổi lên, ông
đã đem tất cả nhà cửa hiến dâng cho đảng.
Công lao hãn mã, vì ông đã lặn lội sang tận thủ đô Bruxelles của Bỉ,
năm 1956, đem tài hùng biện, chứng minh với Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ
thế giới, là Bắc cộng có “chính nghĩa” khi dùng súng đạn để “giải phóng
miền Nam ” Nhưng xem tư cách và sự phản ứng can trường của ông trong
suốt 30 năm bị cộng mưu dìm cho chết, chúng ta ngậm ngùi thương ông hơn
là oán giận. Ông đã lạc đường vào lịch sử và bị vây bọc trong hoàn cảnh
khó khăn. Không khuất phục được ông, bọn cộng vô học ghen, tức, đầy đọa
và hạ nhục ông.
So sánh với những anh “trí thức” hải ngọai ngày nay, từng kinh hoàng
bỏ chạy khi cộng sản tới, lại được chứng kiến sự tan rã tận gốc của cái
chủ thuyết giết người tàn độc, mà vẫn xun xoe đưa đầu cho cộng sai
khiến, chúng ta phải kinh ngạc về sự “khả úy” của các “trí thức” hậu
sinh. Ông Nguyễn Mạnh Tường có lẽ đã trả được mối thù với bọn việt cộng
bằng cách mô tả sự tàn độc của chúng trong hai cuốn Hồi Ký mà ông để lại
cho đời.
Ông đã thảnh thơi từ giã cuộc đời ngày 13 tháng 6 năm 1997.Hình Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường và vợ, bà Tống Lệ Dung.
2. Trí thức DƯƠNG QUỲNH HOA
Nhận định bất hủ của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (trí thức theo công sản sau phản tỉnh lại và bị chế độ đối xử tệ bạc) là :”Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẽ thù tiềm ẩn”. Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói:” Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại”. Blog Truong Sa
Bà Dương Quỳnh Hoa sinh trưởng trong tầng lớp thượng lưu của xã hội
Việt Nam. Bà theo học y khoa tại Saigon rồi sang Pháp năm 1948 học tiếp
và đỗ bác sĩ năm 1953. Ăn phải bả Cộng sản, bà liên lạc với Cộng sản
Pháp, gia nhập cộng đảng vào cuối thập niên 1950 và hoạt động cho Cộng
trong thời gian ở Pháp từ 1948 đến 1954. Sau 1954, bà về Saigon nằm vùng
và do thám cho cộng. Năm 1960, được bọn Bắc cộng giựt dây, bọn theo
cộng miền Nam thành lập Mặt Trận Giải Phóng. Bà Hoa là một sáng lập viên
của cái Mặt Trận này. Năm 1968, sau vụ đại bại của cộng quân, mụ cùng
chồng trốn ra bưng với Việt cộng, và được cho làm Bộ Trưởng Y Tế. Trong
thời gian ở trong bưng, đứa con trai nhỏ của mụ đã chết vì bệnh sưng
màng não. Chồng bà là Huỳnh Văn Nghị được cộng dụ dỗ cho nhập Đảng;
nhưng ông Nghị nhận rõ bộ mặt thật của bọn giải phóng, nên tìm cách
khước từ “vinh dự” đó. Năm 1975, sau khi chiếm được Miền Nam, bọn Bắc
Cộng ra tay xóa sổ cái Mặt Trận Giải Phóng.
Những anh chị trót bán linh hồn cho quỷ trong Mặt Trận, như các anh
Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trương Như Tảng… và bọn lủng lẳng đứng
giữa như Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung… đều vỡ
mặt, tẽn tò như một lũ con nít bị lừa không được ăn kẹo! Chính bà Hoa
sau này đã thú nhận việc đi theo Cộng là một ảo tưởng chính trị trong
đời bà. Ngày 17 tháng 10 năm 1996, khi được tờ báo Far Eastern Economic
Review phỏng vấn:
“ Quel est l’évenement le plus marquant pendant les 50 années passées?”
Bà trả lời:“L’effondement du mur de Berlin qui a mis un term à la “grande illusion”
dịch tạm: Biến cố nào được kể là nổi bật nhất trong 50 năm qua?
Bà DQH: Đó là sự sụp đổ bức tường Bá Linh và chấm dứt một “ảo tưởng lớn ”
Khi được Stanley Karnow phỏng vấn về sự thất bại của cộng sản Việt nam, bà nói:
“Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó, quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đa hết ”.[I have been a communist all my life, but now I’ve seen the realities of Communist, and it is a failure - mismanagement, corruption, repression. My ideals are gone”]
“Tôi và anh chỉ là những kẻ bù nhìn, là những món đồ trang sức rẻ tiền. Chúng ta không thể nào phục vụ một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ.”
Khi được phỏng vấn về bọn lãnh đạo Việt cộng, bà lạnh lùng trả lời:
“Đó là những kẻ ngu si đần độn, bởi vì họ là cộng sản”.
Trong những câu bà Hoa nói trên, chúng ta nên chú ý đến câu
“Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản…”
Đó chính là một lời thú nhận là:
dù học hành nhiều như bà, được sống trong một nước tự do như nước
Pháp, có thừa phương tiện tìm hiểu, nghiên cứu, bà đã không biết gì về
chủ nghĩa cộng sản!
Ngày 25/2/2006, người nữ cán bộ cộng sản đã góp công không nhỏ cho
cộng sản đặt cái ách khốn cùng trên đầu đồng bào của bà, lặng lẽ bị các
oan hồn chết vì giặc cộng, đưa về trước Diêm Vương để nghe phán xét tội
lỗi. Cái bạo quyền bà đã hy sinh hết tuổi thanh xuân và tài năng để dựng
nên nó, không có được một lời nói về bà. Mang “ảo tưởng ”, tự hiến mình
làm “bù nhìn, đồ trang sức rẻ tiền ”, “ không biết sự thật về cộng sản
mà vẫn theo chúng” thì kết quả đương nhiên chỉ có như thế.
Các vị trí thức tiền bối như Nguyễn Mạnh Tường, Dương Quỳnh Hoa, do
hoàn cảnh lịch sử hoặc do sai lầm nhất thời, đã có lúc theo cộng hay
thân cộng. Nhưng khi nhận rõ bộ mặt phản dân hại nước của cộng sản, họ
đã có phản ứng quyết liệt. Trí thức Nguyễn Manh Tường đã dõng dạc tuyên
bố:
“ Tôi không hề tham gia mặt trận Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một
người yêu nước, luôn luôn ưu tư đến việc giành lại độc lập cho đất nước.
Tuy nhiên tôi tự xác định cho mình một vị trí là làm một người trí
thức. Mà người trí thức, muốn độc lập, thì không nên tham chính. Người
trí thức phải đứng về phía nhân dân, chứ không đứng về phía nhà cầm
quyền.”
Ông cũng đã can đảm nhận chịu 30 năm đọa đầy thê thảm chứ không đầu
hàng cộng. Khi thoát khỏi sự kiềm chế của Cộng sản, ông đã viết hai cuốn
sách:
(1) Un Excommunié – http:// http://www.ethongluan.org/ và
(2) Une Voix Dans La Nuit http://www.viet.rfi.fr/vi%C3%AAtnam/20110918-plan-vii-nguyenmanh-tuong-tieu-thuyet-une-voix-dans-la-nuit-ii-van-de-tri-thuc-v
, bày tỏ lập trường của trí thức, và mô tả sự xấu xa tàn độc của Cộng
sản. Cuốn Une Voix Dans La Nuit, [chưa xuất bản, được bà Thụy Khuê trích
dẫn và bình luận trong Website của RFI] viết về về sự thiết lập chế độ
ác ôn cộng sản ở Việt Nam. Ông viết xong vào năm 1993, lúc đã 85 tuổi,
chứng tỏ ông trí thức vẫn nặng lòng vì đất nước. Bà Dương Quỳnh Hoa cũng
dứt khoát vứt bỏ mọi ưu tiên mà chế độ dành cho bà, để quay về vị trí
của người trí thức.
Những trí thức nói trên, nhất là tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, vẫn còn lưu lại trong lòng chúng ta sự ngậm ngùi thương tiếc.
BXCanh
Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.
Links:
Vulep.blogspot.com
Wednesday, March 13, 2013
SƠN TRUNG * CHÍNH LUẬN 12
CUỘC CỜ ĐÔNG HẢI
Từ đầu năm 2013, tình hình biển đông có vẻ tạm yên.Các lãnh tụ Trung Quốc và Mỹ không có màn đấu khẩu nào có lẽ Quốc Hội Trung Quốc chưa bỏ phiếu bầu Tập Cận Bình vào địa vị Chủ Tịch nước, nhưng tàu hải giám Trung Quốc ngày càng lộng hành. Tin đài VOA ngày13.03.2013 cho biết
Hai
tàu cá mang cờ hiệu Việt Nam bị Trung Quốc phát hiện sáng ngày 13/3 gần quần
đảo Hoàng Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền đã bị hai tàu hải giám Trung Quốc
đuổi ra khỏi khu vực vì điều mà Tân Hoa xã gọi là “bị tình nghi đánh bắt cá bất
hợp pháp trong lãnh hải Trung Quốc.”
Trung Quốc tăng cường tuần tra Biển Đông từ năm ngoái và lần đầu tiên đã điều động một máy bay trực thăng lên tàu tham gia công tác này.
Đội tàu của Trung Quốc đang tiến hành công tác tuần tra định kỳ ở Hoàng Sa hiện do thành phố Tam Sa của Bắc Kinh quản lý hành chính.
Truyền thông Trung Quốc cho hay chuyến tuần tra 9 ngày khởi sự hôm 10/3 phối hợp giữa trực thăng và 3 tàu hải giám mang số hiệu 83, 262, và 263 hôm nay đã hoàn tất tuần tra quần đảo Vĩnh Lạc thuộc Hoàng Sa.
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-xua-duoi-tau-ca-vietnam-o-hoang-sa/1620778.html
Trung Quốc tăng cường tuần tra Biển Đông từ năm ngoái và lần đầu tiên đã điều động một máy bay trực thăng lên tàu tham gia công tác này.
Đội tàu của Trung Quốc đang tiến hành công tác tuần tra định kỳ ở Hoàng Sa hiện do thành phố Tam Sa của Bắc Kinh quản lý hành chính.
Truyền thông Trung Quốc cho hay chuyến tuần tra 9 ngày khởi sự hôm 10/3 phối hợp giữa trực thăng và 3 tàu hải giám mang số hiệu 83, 262, và 263 hôm nay đã hoàn tất tuần tra quần đảo Vĩnh Lạc thuộc Hoàng Sa.
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-xua-duoi-tau-ca-vietnam-o-hoang-sa/1620778.html
Lẽ tất nhiên cộng đảng Việt Nam đối với mẫu quốc phải im
lặng vì "im lặng là vàng". Cả thế giới lo lắng nhưng giới chức thẩm
quyền Đài Loan bình chân như vại.Đài VOA hôm 11-3- 2013 loan tin rằng Đài Loan
nói rằng Hiện tại xung đột quân sự vì tranh chấp
chủ quyền tại Biển Đông và biển Đông Trung Hoa có phần chắc sẽ không xảy ra,
nhưng có nguy cơ có thể có các cuộc đụng độ tình cờ. Đó là nhận định của Bộ
Quốc phòng Đài Loan đưa ra ngày 9/3 được thông tấn xã trung ương Đài Loan đăng
tải. http://www.voatiengviet.com/content/dai-loan-khong-co-kha-nang-xung-dot-quan-su-tai-bien-dong/1619419.html
Mấy vị sếnh sáng này khôn quá trời , chuyên môn nói nước đôi
kiểu thầy bói quê ta:
"Số cô có vợ có
chồng,
Sinh con đầu lòng chẳng
gái thời trai".
Tiếc rằng các vị thẩm quyền chẳng cho biết lý do làm sao mà
quả quyết chiến tranh Biển Đông
"có phần chắc sẽ không xảy ra" .Tàu không dám đánh Mỹ hay Mỹ chẳng dám đánh
Tàu? Nếu vậy thì thích quá, hòa bình sẽ mãi mãi vững bền trên biển Thái Bình,
và biển Thái Bình quả là cái tên định mệnh! Trong khi các ông Đài Loan rung đùi
an tâm hưởng lạc thì các ông Mỹ lo lắng, chạy ngược chạy xuôi. Theo Trọng Nghĩa
đài RFI trong bài nhan đề "Hoa Kỳ : Hội thảo về nguy cơ Biển Đông biến
thành bom nổ chậm" , cho biết
Từ ngày 13/03 đến 15/03/2012, tranh chấp tại Biển Đông sẽ được
giới chuyên gia quốc tế mổ xẻ nhân cuộc hội thảo tại Mỹ do Hội châu Á Asia
Society - trụ sở tại New York - phối hợp với Trường Chính sách công Lý Quang
Diệu tại Singapore đồng tổ chức. Đặt dưới lăng kính "Biển Đông là nhân tố
trung tâm cho hòa bình và an ninh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương", các
chuyên gia tham gia hội thảo sẽ phân tích xem phải chăng tranh chấp trong vùng
này đang là một quả bom nổ chậm, đòi hỏi nhanh chóng có giải pháp tháo gỡ.
http://www.viet.rfi.fr/node/79459
Sau khi Obama đắc cử Tổng
Thống, người ta chờ đợi chính sách mới của ông như thế nào, có theo đường lối
mạnh mẽ của bộ trưởng Gates và Clinton hay đánh trống bỏ dùi. Nhất là hai ông
cựu chiến binh Việt Nam nổi tiếng thân cộng lên làm bộ trưởng Ngoại giao và Quốc
Phòng thì tình hình sẽ về đâu? Hai ông có theo đường lối phản chiến nữa hay
không?
Minh Anh, đài RFI ngày 13-3-2013 , đã lấy từ nhật báo
kinh tế Les Echos hôm nay có bài phân tích đề tựa « Căn nguyên và những cái
bẫy trong việc rẽ hướng sang châu Á của Hoa Kỳ ». Tờ báo nhận định rằng,
việc Mỹ tăng cường quân đội trong khu vực có nguy cơ khiến cho Trung Quốc thêm
hung hăng.
Tờ báo này cho biết Tổng thống Obama đã quyết tâm
chuyển hướng về châu Á. Sự chuyển hướng này rất cần thiết để chống lại Trung
Quốc bành trướng. Sự chuyển hướng này có hai cái lợi là chiếm lấy kho dầu ở
Thái Bình Dương để khỏi lệ thuộc Trung Đông. Sự chuyển hướng xoay trục này cũng
có lợi vì Mỹ sẽ bắt đầu từ việc rút hết quân tại Irak vào năm 2011 và
tương tự cho Afghanistan từ đây đến hết năm 2014. Mặt khác, chiến tranh lạnh
kết thúc cho phép Mỹ giải ước từ từ khỏi châu Âu. Lầu Năm Góc sẽ cho rút bớt
thêm quân tại các khu căn cứ ở Đức.
Tờ báo này nói đến hai điều bất lợi. Đó là làm cho
Trung Cộng hung hăng và bang giao Mỹ Trung xấu đi. Tờ báo kể ra hai điểm nhưng
hai điều cũng là một. Còn việc làm cho Trung Quốc hung hăng thì Trung Quốc hung
hăng từ lâu chứ không phải từ khi Obama xoay trục đổi chiều.
Trong khi đó, tờ Le Monde lại cho
rằng căng thẳng Nhật Trung sẽ đưa đến chiến tranh. Lê Phước, đài RFI ngày 12
tháng 3 năm 2013 nhận định rằng Nhật Báo Le
Monde hôm nay góp phần giải đáp thắc mắc này với bài phỏng vấn hai chuyên gia
về Trung Quốc Jean-Philippe Béja và Valérie Niquet. Bài phỏng vấn chạy dòng tít
cảnh báo:« Trung-Nhật, chiến tranh lạnh tại Châu Á ». Hai chuyên gia
đi vào phân tích cặn kẽ nhiều vấn đề cốt lõi trong tranh chấp Nhật-Trung, trong
đó đại để có mấy vấn đề nổi cộm sau:
-
Tập Cận Bình luôn khẳng định bảo vệ chủ quyền quốc gia.
-Thủ tướng Shinzo Abe từ khi nhậm
chức đã tỏ ra cứng rắn với Trung Quốc.
Trong khi hai vị lãnh đạo tỏ ra hăng
hái chiến đấu, thì dân Trung quốc và Trung Cộng thấy họ đủ mạnh để thay Mỹ làm
bá chủ hoàn cầu. Tham vọng của Trung Cộng làm cho cả châu Á đứng về phía Mỹ, và
hoan hô Mỹ trở lại vùng này. Trung Cộng muốn chia hai Thái Bình Dương với Mỹ
nhưng Mỹ không chấp nhận. Trung cộng ra sức ve vuốt , hăm dọa, chia rẽ khối
Asian nhưng Trung Cộng không hoàn toàn mãn nguyện. Có thể Việt Nam, Lào,
Cambodia theo Trung Cộng nhưng cả khối lớn Nhật Bản, Ấn Đô, Philuật tân, Úc châu
sẽ theo Mỹ, cán cân lực lượng rõ là nghiêng về Mỹ. Các chuyên gia cũng nói rằng
thực lực quân sự Trung Cộng chỉ dọa trẻ con chứ so với Mỹ thì chẳng ăn thua gì
mà hung hăng bọ xít!
Đi xa hơn nữa, tờ Phương Đông của
Trung Cộng đã loan tin là họ thấy trước Nhật Mỹ đánh hàng không mẫu hạm của họ.
Trong tình hình đảo
Senkaku vô cùng căng thẳng, báo chí Hồng Kông cho rằng, một khi Trung-Nhật giao
chiến, Nhật-Mỹ sẽ coi tàu chiến cỡ lớn của Quân đội Trung Quốc là mục tiêu tấn
công đợt đầu, thậm chí dự định một lần là bắn chìm tàu sân bay Trung Quốc.
Cách đây không lâu, tờ
Sankei Shimbun Nhật Bản đã công bố kế hoạch tác chiến chủ yếu nhất hiện nay của
Bộ Quốc phòng Nhật Bản, tổng cộng có 5 phương án tác chiến, trong đó có 3
phương án liên quan tới Quân đội Trung Quốc. Ba phương án chiến tranh ở cấp độ cao
nhất này đều liên quan đến cuộc khủng hoảng xảy ra ở biển Hoa Đông.
Phương án thứ nhất là
Trung-Nhật xảy ra chiến tranh do tranh đoạt chủ quyền đảo Senkaku; phương án
thứ hai là Trung-Nhật xảy ra va chạm ở xung quanh đảo Senkaku, tình hình leo
thang mở rộng, Quân đội Trung Quốc can thiệp, Trung Quốc muốn kiểm soát đảo
Ishigaki và đảo Miyako ở phía tây bắc Đài Loan; phương án tác chiến thứ ba thậm
chí đặt ra tình huống Quân đội Trung Quốc tấn công Đài Loan.
Trong các phương án tác
chiến này, đều phỏng đoán Quân đội Trung Quốc điều động tàu sân bay, tàu tấn
công đổ bộ, lực lượng đặc nhiệm, tên lửa đạn đạo và máy bay chiến đấu, Mỹ-Nhật
liên kết chống lại Quân đội Trung Quốc.
Đặc biệt là trong phương
án thứ ba, Bộ Quốc phòng Nhật Bản cho rằng, Quân đội Trung Quốc sẽ xảy ra cuộc
đối đầu trực tiếp với quân Mỹ và quân Nhật lấy Okinawa làm căn cứ.
Nếu quân Mỹ toàn lực tham gia, Trung Quốc sẽ sử dụng tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D đe dọa tàu sân bay của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời sử dụng tên lửa đạn đạo tầm xa DF-31 đe dọa lãnh thổ Mỹ.
Theo tờ “Liên hợp Buổi sáng” Singapore, nếu
Trung-Nhật xảy ra xung đột quân sự, một khi quy mô xung đột mở rộng, rất có khả
năng hải quân và không quân đều sẽ tham gia.
Bình luận viên quân sự
Trần Quang Văn của tờ “Thế giới báo” cho rằng, trong chiến tranh trên biển-trên
không hiện đại, do sức mạnh không quân ngày càng mạnh, có khả năng răn đe đối
không, đối hải tương đối mạnh, cho nên ngoài sức chiến đấu của hải quân, không
quân của hai bên mới là then chốt của thắng bại. Không có sự yểm trợ của không
quân, các tàu chiến mặt nước của hải quân đều sẽ trở thành “bia ngắm”, đặc biệt
là những tàu chiến mặt nước cỡ lớn như tàu sân bay, tàu tấn công đổ bộ.
Truyền hình vệ tinh
Phượng Hoàng Hồng Kông cho rằng, trong thời điểm hai bên “say sưa” giao chiến
quyết liệt, quân Mỹ ra tay để viện trợ cho quân Nhật, cuộc chiến tranh trên
biển sẽ kết thúc với thắng lợi nghiêng về Nhật-Mỹ.
Trong tình hình tàu chiến của Nhật-Mỹ cơ bản chưa bị tổn thất, nhiều tàu khu trục, tàu ngầm của Trung Quốc bị bắn chìm.
Đặc biệt, tàu sân bay
Liêu Ninh cũng bị bắn trúng chỗ hiểm và bốc cháy, để nước tràn vào và nghiêng
ngả, không thể tự chủ hoạt động. Sau 30 phút, Nhật Bản hạ lệnh cho tàu ngầm
phóng ngư lôi bắn chìm tàu sân bay Liêu Ninh. Cuối cùng, Nhật-Mỹ liên kết đánh
bại Hải quân Trung Quốc.
Nguồn:
Đông Bình - GDVN
Đài RFI và đài VOA cùng loan tin
rằng Obama quyết tâm ủng hộ các nước Asian trong cuộc tranh chấp chủ quyền biển
đảo. Trọng Nghĩa đài RFI loan tin Vào tháng Mười
tới đây, Tổng thống Mỹ Barack Obama sẽ đến Brunei tham gia hai hội nghị thượng
đỉnh Đông Á EAS và Mỹ-ASEAN. Phát biểu vào hôm qua, 12/03/2013 sau cuộc hội đàm
song phương với Quốc vương Brunei Hassanal Bolkiah tại Nhà Trắng ở Washington,
ông Obama xác nhận rằng ông sẽ đề cập đến các « vấn đề hàng hải » với lãnh đạo
các nước sẽ đến Bandar Seri Badawan, thủ đô Brunei, để tham gia hai hội nghị
thượng đỉnh thường niên kể trên.
Tổng thống Mỹ nhấn mạnh : «
Chúng tôi sẽ thảo luận về vấn đề hàng hải. Rõ ràng là đang có rất nhiều căng
thẳng trong khu vực liên quan đến các vấn đề trên biển. »Theo Tổng
thống Mỹ, người đứng đầu xứ Brunei đã chứng tỏ tài lãnh đạo trong việc « đoàn kết các nước lại với nhau để đảm bảo sao cho tất cả
mọi người đều tuân thủ các quy tắc cơ bản của luật pháp và các chuẩn mực quốc
tế. »
Trong thời gian gần đây, và nhất là
từ khi chính thức nhậm chức chủ tịch luân phiên khối ASEAN, Brunei luôn khẳng
định rằng họ sẽ thúc đẩy trong nhiệm kỳ của mình, việc đúc kết một bộ quy tắc
ứng xử tại Biển Đông mang tính chất ràng buộc giữa Trung Quốc và ASEAN.
Tổng thống Obama nói các cuộc họp
sắp tới sẽ là kênh hữu ích để thảo luận các vấn đề thương mại, kinh tế, và
ngoại giao có ảnh hưởng tới khu vực mà Hoa Kỳ đang chuyển trọng tâm hướng tới.
Tổng thống Mỹ cũng cho biết rằng Hoa
Kỳ sẽ tham gia vào cuộc diễn tập đầu tiên phối hợp giữa Mỹ, Trung Quốc, và các
nước ASEAN vào tháng sáu năm nay để trắc nghiệm xem các cường quốc quân sự Thái
Bình Dương có thể hợp tác thế nào trong công tác cứu trợ thảm họa.
Brunei đã tuyên bố sẽ theo đuổi một
bộ quy tắc ứng xử mang tính ràng buộc pháp lý giữa các nước có tranh chấp ở
Biển Đông trong lúc giữ ghế Chủ tịch ASEAN trong năm nay.
Trong khi đó, Trung Quốc vẫn nhất
mực đòi giải quyết tay đôi với từng nước một có tranh chấp.
Nguồn: AFP, Washington Post.
LUẬT SƯ TRẦN VĂN TUYÊN II
Thư Ngỏ Của Gia Đình Cố LS Trần Văn Tuyên
Ngày: Saturday, 01, March
Ông Trần Tử Thanh - thứ nam cố LS Trần Văn Tuyên
Chúng tôi nhận được lá thư gởi các cơ quan báo chì của gia đinh cố LS Trần Văn Tuyên lên tiếng về vụ phỏng vấn giữa Tường Thắng và ông Vũ Trọng Khanh. Trong thư, gia đình cố luật sư Trần Văn Tuyên phủ nhận có các liên hệ họ hàng với ông Vũ Trọng Khanh. Ngoài ra chúng tôi cũng đồng ý có một cuộc phỏng vấn với ông Trần Tử Thanh - thứ nam của cố LS Trần Văn Tuyên để phản biện những gì mà ông Vũ Trọng Khanh đã nói. Khi nào thực hiện xong cuộc phỏng vấn, chúng tôi sẽ mời quý bạn đọc theo dõi. Chúng tôi đăng nguyên văn lá thư của cố gia đình LS Trần Văn Tuyên để quý bạn đọc tham khảo.
Thư Ngỏ Của Gia đình Cố Phó Thủ tướng, Luật sư Trần Văn Tuyên
Đồng kính gửi:
- Các cơ quan truyền thông, truyền hình, báo chí, các mạng internet.
- Qúy vị :
Lãnh đạo tinh thần các tôn giáo
Chủ tịch các Đảng pháiquốc gia
Chủ tịch Cộng Đồng
- CácTổ chức, Hội đoàn người Việt quốc gia tại hải ngoại.
- Bà con Thân Thuộc và Bằng Hữu của Gia Dình Cố Luật Sư Trần
Văn Tuyên trong và ngoài nước
Mới đây trong một cuộc phỏng vấn kéo dài 4 phần trên đài truyền hình
SBTN ở quận Cam và được báo Việt Nam Exodus đưa lên mạng, có một
người xưng là Vũ Trọng Khanh, tự Vũ Lăng, cựu Đại Tá QLVNCH tốt
nghiệp khóa 4 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt (?) , con của nhà văn Vũ
Trọng Phụng (?) - không hiểu vì ly do gì, đã mạo nhận là cháu của Luật
Sư Trần Văn Tuyên.
Vì sự việc có liên quan đến thân phụ và giòng tộc chúng tôi, chúng tôi xin
minh xác:
1. Họ và tên người này nêu ra trong cuộc phỏng vấn để chứng minh
liên hệ với gia đình Luật Sư Trần Văn Tuyên là hoàn toàn xa lạ đối
với gia đình chúng tôi và không có trong gia phả của giòng họ
Trần.
2. Những sự kiện liên quan đến thân phụ chúng tôi là những sự kiện
hoàn toàn bịa đặt một cách trắng trợn.
Tất nhiên khi tạo dựng những sự kiện nêu trên, người được phỏng vấn
hẳn đã có mưu đồ đen tối nào đó.
Vì vậy chúng tôi xin gởi bức thư ngỏ này thông báo tới toàn thể bà con
trong gia tộc, các bằng hữu quen biết gia đình chúng tôi, cùng mọi giới,
để cảnh giác đề phòng và tránh mọi ngộ nhận trong tương lai.
Thay mặt gia đình cố Luật Sư Trần Văn Tuyên
Luật Sư Trần Tử Huyền, Trưởng Nam
California, ngày 17 tháng Hai năm 2008
Bài này o+? Vietnam Exodus
http://www.vietnamexodus.info/vne
URL cu?a bài này là:
http://www.vietnamexodus.info/vne/modules.php?name=News&file=article&sid=3516
NHÀ TÙ CHÓT của PHÓ THỦ TƯỚNG TRẦN VĂN TUYÊN
Nhà tù chót của Trần Văn Tuyên
VIÊN LINH sao lục
Wednesday, October 27, 2010
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=122321&z=257
Hơn một năm sau khi ở tù cộng sản, nhà văn hóa, người lo việc nước Trần Văn Tuyên (sinh ngày 1 tháng 9, 1913), gục ngã trên mặt bàn trong trại tù tập trung Hà Sơn Bình, hai ngày sau thì từ trần.
Cố luật sư, Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên, chụp trước Quốc Hội VNCH. (Hình do Tạp chí Khởi Hành cung cấp.)
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/articlefiles/122321-TRVTUYEN-1-300.jpg
Theo tin tức do Việt Cộng đưa ra, đó là ngày 28 tháng 10, 1976. Như thế cho tới hôm nay, nhà lãnh tụ tên tuổi nhất của Việt Nam Quốc Dân Ðảng của miền Nam đã khuất bóng vừa đúng 34 năm; và ở đời được 63 năm. Cuộc đời ông vào tù ra khám nhiều lần, song cứ theo một bài thơ ông để lại, hình như ông không “lấy đó làm điều:”
Thân già tuổi tác trời cho sống
Ta vẫn yêu đời thỏa chí trai
Cùm xích nung sôi hồn cách mạng
Giao thừa chóng đến đợi sao mai.
(Trần Văn Tuyên, Giao Thừa Trong Ngục, Khởi Hành 10, 1998)
Thế hệ ’40, ’50 (những người trưởng thành vào những năm 1940, những năm 1950) lưu tâm tới tình hình đất nước của một Việt Nam tranh đấu, hầu như không ai là không nghe nói đến Trần Văn Tuyên. Nhưng sau đó, và nhất là sau khi đất nước thu vào một mối (“một mối u sầu một mối tang thương” như thơ Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực), ít người còn biết rõ con người ấy là ai. Cho nên bài viết này chỉ là một ghi chép thu gọn, nhằm giúp trí nhớ bạn đọc, nhất là các bạn đọc trẻ, về chân-thân người yêu nước Trần Văn Tuyên qua mô tả của nhiều nhân vật chứng nhân của một thời kỳ quốc cộng phân tranh.
1. “Trong số những người thân thuộc này, tôi nghĩ tới chiến sĩ Trần Văn Tuyên, mà trong 40 năm qua tôi vẫn xem là một huynh trưởng, một người bạn vong niên, một nhà văn hóa, một nhà văn học, một nhà ái quốc, một nhà cách mạng chân chính đã nêu cao truyền thống dân tộc và giữ vững tinh thần bất khuất của giống nòi Lạc Việt.
Ngày 6 tháng 12, 1947: Hội đàm Bollaert-Bảo Ðại tại Vịnh Hạ Long.
Sau cuộc hội đàm Vịnh Hạ Long, cựu hoàng
Bảo Ðại cử hai vị cộng sự viên thân tín từ HongKong về nước tiếp xúc
với các nhân sĩ quốc nội, nhằm thành lập chính phủ quốc gia đầu tiên.
Hai cộng sự viên than tín đó là ông Lưu Ðức Trung và ông Trần Văn Tuyên.
Năm 1951 Thủ Tướng Trần Văn Hữu ký nghị định cử ông Trần Văn Tuyên và
chúng tôi (Thái Văn Kiểm) đi Pháp tham dự lễ kỷ niệm 2000 năm thành lập
Paris (Paris tên cũ là Lutetie-Lutece được thành lập năm 51 trước C.N.).
Trong các hoạt động hiệp hội, đoàn thể,
LS Tuyên là sáng lập viên phong trào Hướng Ðạo Việt Nam, phong trào
Truyền Bá Quốc Ngữ, Hội Bảo Vệ Nhân Quyền và Công Quyền, cố vấn Tổng
Công Ðoàn Tự Do. Ông có dạy học ở trường Thăng Long Hà Nội.”
(Thái Văn Kiểm, Liệt sĩ Trần Văn Tuyên)
2. “Sau hơn nửa thế kỷ qua, tôi vẫn còn
nhớ rõ hình ảnh người huynh trưởng Trần Văn Tuyên bên đống lửa trại Chùa
Láng (gần Hà Nội) năm xưa. Anh cũng mặc đồng phục Hướng Ðạo như chúng
tôi. Cũng quần soọc tím, áo sơ mi nâu bạc màu, cũng thắt khăn quàng nơi
cổ như mọi HÐ khác. Lúc ấy hướng đạo sinh của các đoàn đã ngồi thành
vòng tròn khá lớn quanh đống lửa trại. Anh Tuyên vừa bước qua vòng tròn,
mọi tiếng rì rào nổi lên khắp dẫy, như một dòng điện truyền lan: ‘Anh
Tuyên! Anh Tuyên đấy!’ Anh là hình ảnh một trong những thần tượng Hướng
Ðạo của chúng tôi.”
(Mặc Thu, Nhớ về Trần Văn Tuyên)
3. “Tầm thước, nhanh nhẹn, tóc húi cao,
mắt sáng tinh anh sau cặp kính cận dầy cộm, luôn tươi cười cởi mở, anh
Trần Văn Tuyên là mẫu người trí thức thông minh, rõ rệt là một hiền
nhân. Rất uyên bác, đọc nhiều sách khảo cứu, có cả một thư viện trong
nhà, anh thông thạo Pháp, Anh và Hán tự Anh viết báo, làm luật sư, lưu
vong sang Tầu, ở tù nhiều lần, làm bộ trưởng Thông Tin, làm phó thủ
tướng Ðặc Trách Kế Hoạch, dân biểu, trưởng khối đối lập, thủ lãnh luật
sư đoàn.”
(Nguyễn Tường Bá, vài kỷ niệm về
anh Trần Văn Tuyên. Vẫn theo LS Nguyễn Tường Bá, báo New York Times gọi
Trần Văn Tuyên trong tù là “một Solzhenitsyn của nhà tù Gulag Việt Nam)
4. Khởi Hành phỏng vấn ông Trần Tử Miễn, con trai út của LS Tuyên. Lời ông Miễn:
“Ông theo gương chí sĩ Nguyễn Thái Học,
gia nhập Quốc Dân Ðảng năm 16 tuổi. Ông cảm phục Abraham Lincoln, Thomas
Jefferson (người nói báo chí là Ðệ Tứ Quyền), và Tôn Dật Tiên, cha đẻ
của thuyết Tam Dân của Trung Hoa Quốc Dân Ðảng: Dân tộc độc lập – Dân
quyền tự do – Dân sinh hạnh phúc. Ba tiêu đề này, Việt Cộng trộm mấy chữ
sau: Ðộc lập Tự do Hạnh phúc để lừa phỉnh. Cũng chính vì ba chữ này mà
một số anh em Việt quốc đi theo hàng ngũ Việt Cộng (trước cuộc di cư
1954). Về tình bằng hữu, cha tôi thân thiết với cố Dân Biểu Trần Văn Văn
(thân phụ anh Trần Văn Bá) cả hai cha con đều bị Việt Cộng sát hại
trước và sau 1975.
Cha tôi không bao giờ chấp nhận chính
phủ ba thành phần. Trước 30 tháng 4 độ hai tháng, Tòa Ðại Sứ Mỹ có liên
lạc nói họ dành 50 chỗ cho gia đình cha tôi và thân hũu trên máy bay để
di tản. Nhưng ông không có ý định ra đi. Vì các lý do: Mình sinh ra ở
đây, thà chết ở đây. Tất cả anh em VNQDÐ đều quyết định ở lại, vậy mình
càng không bỏ rơi anh em.”
(Thụy Khanh phỏng vấn, Saint Germain les Corbeit, 21 tháng 9, 1998)
5. Lời Trần Văn Tuyên: “Xét quá trình
hoạt động, tôi không thấy có tội gì với nhân dân Việt Nam. Nếu tôi có
tội thì đó là cái nhìn của đảng Cộng Sản Việt Nam.” (Trần Văn Tuyên, Bản
khai lý lịch tại trại tù Long Thành, 16 tháng 5, 1975)
“Một ánh sáng chói lòa. Tôi giật mình
ngẩng đầu nhìn, tưởng lựu đạn hay plát-tích nổ. Bên cạnh tôi, một đám
khói trắng bùng lên. Tôi nhìn khách, không thấy khách. Cũng không phải
là lựu đạn hay plát-tích. Cũng không phải là pháo bông ăn mừng cách mạng
thành công. Ngẩn ngơ, tôi thủng thẳng bước đi. Mình cảm thấy lòng mình
cũng bơ vơ, cơ khổ: không còn nơi dung thân, không có nơi gieo ý, không
có nơi xây dựng!
Như khách, tôi cũng nhận thấy con người
mới chỉ thấy hoang tàn, tang tóc của cách mạng mà chưa thấy phần xây
dựng của cách mạng. Và ngày ngày, mỗi buổi chiều, tôi tới vườn Diên Hồng
ngồi đợi khách. Nhưng cách mạng! Anh còn đây hay đã đi đâu?”
(Trần Văn Tuyên, Người Khách Lạ, tập truyện ngắn, 30 tháng 10, 1965)
Chú thích: Các trích dẫn trên
đây chỉ là phần ngắn gọn cho hợp khuôn khổ Trang Thời Sự Nhân Văn, từ
những bài dài in trong Khởi Hành chủ đề Trần Văn Tuyên, số 24, xuất bản
tháng 10, 1998.
Đại Tá Vũ Lăng Vũ Trọng Khanh
Posted on March 5, 2008 by hoanghaithuy
Biết dzồi.. Khổ lắm.. Kể mãi..! Vâng, không tả oán nữa, xin nói ngay vào chuyện. Một tối Phù Hư, người bạn văn nghệ của tôi, ghé nhà tôi, anh nói:
- Tôi mới gặp anh con trai của ông Vũ Trọng Phụng. Anh ta mới ở Hà Nội vào. Tôi hẹn gặp lại anh ta sáng mai.
Anh hỏi tôi:
- Anh có muốn gặp con trai ông Vũ Trọng Phụng không? Muốn gặp thì sáng mai đi với tôi.
Từ lâu tôi biết Nhà Văn Vũ Trọng Phụng không có con trai, ông chỉ có một người con gái. Gần như tất cả những người đọc những tiểu thuyết Giông Tố, Số Đỏ, Cơm Thầy Cơm Cô của Nhà văn Vũ Trọng Phụng đều biết ông chỉ có một người con gái. Nay ở đâu ra anh con này của Nhà Văn? Mạo nhận ư? Nhưng mạo nhận là con Nhà Văn để làm gì? Tôi không tin người nào đó là con trai của Nhà Văn nhưng vì buồn quá đỗi, buồn đến có thể chết được, phần vì không có việc gì làm, tôi theo Phù Hư đi gặp anh ta.
Những tháng đầu tiên bọn Bắc Cộng rước hình Chủ Tịt Hồ chí Minh của chúng vào Sài Gòn, dzân Sài Gòn — thất nghiệp không phải chăm phần chăm mà là năm chăm phần chăm — toàn dzân không ai có việc gì làm, người ta đổ ra đường kiếm ăn Chợ Trời, Chợ Đất, nhiều người Sài Gòn ra Chợ Trời cho đỡ buồn, nhiều người mở hàng cà phe vỉa hè. Hàng họ thật giản dzị, vài cái bàn, vài cái ghế thấp tè đóng bằng gỗ ván thùng, vài phin cà phe, một ấm cà phe bí tất, nửa ký cà phe, nửa ký đường, bán gần hết chạy đi mua, 1 phích nước, dăm cái ly, cái muỗng, thế là thành một tiệm cà phe vỉa hè Sài Gòn Thất Thủ Lủ Khủ Lù Khù. Sáng hôm ấy tôi theo Phù Hư đến một tiệm cà phe như thế trên vỉa hè đường Gia Long. Đúng giờ hẹn người tự nhận là con trai của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng đến.
Người thanh niên trắng trẻo, đẹp trai, mặt mũi sáng sủa, bận bộ đồ bà ba đen mới may. Tôi không có khả năng nhận xét sắc xảo gì nhưng nhìn anh tôi biết chắc anh không phải là dân Sài Gòn, anh là người miền Bắc mới vào Sài Gòn nhưng anh không có cái vẻ cù lần của bọn thanh niên Hà Nội Bắc Kỳ Xã Hội Chủ Nghĩa, những kẻ được dân Sài Gòn tả trong câu dzân dzao 1975:
Trai Sài Gòn như chim anh vũ,Phù Hư đãi anh ly cà phê đen giá 1 đồng, 1 đồng tiền Hồ là 500 đồng bạc Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.
Trai Hà Nội như củ khoai lang.
Tôi nói với anh thanh niên :
- Tôi tưởng ông Vũ Trọng Phụng không có con trai ?
Rất lễ phép, và có vẻ đầy đủ thẩm quyền, coi như chuyện người thiên hạ không biết Nhà Văn Vũ Trọng Phụng có con trai là chuyện thường, là những người không biết đáng thương hại, anh ta nói :
- Thưa bác.. Bố cháu có cháu và em gái cháu. Tên cháu là Vũ Trọng Khanh.
Lần thứ nhất tôi nghe cái tên Vũ Trọng Khanh là trong một buổi sáng cuối năm 1975, hay đầu năm 1976, trên vỉa hè đường Gia Long, Sài Gòn.
Sau ly cà phe, vài điếu thuốc lá, Phù Hư và tôi chia tay với Vũ Trọng Khanh. Ngoài việc xưng là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, người nói tên mình là Vũ Trọng Khanh không ba hoa chích chòe khoe khoang, không nói lời gì với ý định lừa gạt hay lợi dụng Phù Hư và tôi. Anh cũng không hỏi nhà chúng tôi, không nói chỗ anh ở, công tác anh làm, không hẹn gặp lại. Từ đấy tôi không gặp lại anh, tôi cũng không nghe ai nói đến anh.
Năm 1975, 1976 tôi 40 tuổi, người tự nhận là Vũ Trọng Khanh, con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, trạc 30 tuổi. Nếu anh là con ông Vũ, anh phải ra đời trước năm 1939 là năm ông Vũ từ trần, ít nhất anh phải ra đời trong những năm 1934, 1935, năm 1975 anh phải gần 40 tuổi, anh phải già, phải via tông-keng bằng tôi, anh không thể trẻ đến như thế. Tôi không tin anh là con Nhà Văn Vũ Trọng Phụng nhưng tôi chẳng bắt bẻ anh làm gì. Tại sao lại cố ý moi móc để chứng tỏ người ta nhận vơ ? Mà người ta nhận vơ người ta là con ông Nhà Văn sì đã nàm thao? Hại gì ai ? Nhà văn Vũ Trọng Phụng có nổi tiếng, có được người đời trọng mến, mới có người nhận là con. Ở đời thiếu gì anh con từ bố, chối bố hay xấu hổ khi có ai nói anh là con của ông bố anh.
Những năm 2000, 2001, ở Kỳ Hoa Đất Trích, tôi nghe nói :
- Ở San José có người nhận là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, tên là Vũ Trọng Khanh.
Tôi nghe qua rồi bỏ. Tự nhiên tôi không tin nhân vật Vũ Trọng Khanh San José 2000 là nhân vật Vũ Trọng Khanh tôi gặp năm 1975, 1976 trên vỉa hè đường Gia Long, Sài Gòn. Lại một người nhận vơ.. ! Mà người ta nhận vơ sì đã nàm thao? Người ta nhận vợ kệ người ta, mình không nhận vơ, mình không tin chuyện người ta nhận vơ thì thôi. Có gì quan trọng mà cứ phải vạch ra là người ta nhận vơ.
Ngày tháng qua đi..
Tháng 2 năm 2008, liêu lạc ở Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích, sau hơn 30 mùa lá rụng vật đổi, sao dời, người tù rạc, người đi, người ở, người về, người ra nghĩa địa, người vào lò thiêu, tôi gặp lại cái tên Vũ Trọng Khanh, tôi lại nghe nói đến ông Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh tôi thấy ở Kỳ Hoa Đất Trích trên màn ảnh truyền hình SBTN năm 2008 không phải là anh thanh niên Bắc Kỳ đẹp trai Vũ Trọng Khanh tôi gặp ở Sài Gòn cuối năm 1975 hay đầu năm 1976.
Như vậy : trước sau, trong vòng 40 năm, tôi thấy cuộc đời này có hai ông Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh thứ nhất tôi được gặp, được nói chuyện ở Sài Gòn năm 1975 không có chức vụ, không cấp bậc gì cả, ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tôi chỉ được nhìn thấy dung nhan trên màn hình Internet trong cuộc phỏng vấn của Hệ Thống Truyền Thông SBTN. Ông Vũ Trọng Khanh San José 2008 được Đài SBTN giới thiệu bằng cái tên có cấp bậc quân đội là Đại Tá Vũ Lăng.
Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San José 2008 trạc Sáu Bó tuổi đời, bận quân phục, tôi nhìn không rõ đó là quân phục Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa hay quân phục Quân Đội Hoa Kỳ. Ông có vẻ đau yếu, dường như ông ngồi không vững, ông nói khó khăn, ông có bà vợ trẻ ngồi bên đỡ lời, nói dùm. Trong cuộc phỏng vấn ông nói ba, bà nói bẩy. Chuyện kỳ lạ là, như tôi đã viết trên đây, gần như tất cả những người Việt Nam từng đọc tiểu thuyết của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, từng biết, dù biết ít, biết lơ mơ, về đời tư của Nhà Văn, đều biết Nhà Văn không có con trai, nhưng ký giả SBTN — không lẽ không biết — không đặt câu hỏi :
- Có gì chứng minh ông là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ?
Ký giả phỏng vấn, dường như tên là ông Tường Thắng, phăng phăng la tuy-líp coi người được phỏng vấn đúng là ông con của Nhà Văn. Ông ký giả cũng phoong phoong gọi người được phỏng vấn là Đại tá.
Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San Jose, và bà vợ, kể nhiều chuyện kỳ cục quá đỗi là kỳ cục. Không những chỉ kỳ cục, đó còn là những chuyện dựng đứng. Không chỉ chuyện dựng đứng thường mà là chuyện dựng đứng năm chăm phầm chăm. Tôi nghe chuyện ông bà kể mà chịu hổng có nổi. Tôi kể lại những lời ông bà nói như sau, tất nhiên tôi chỉ kể đại khái thôi, tôi không thể kể hết hay kể thật đúng từng tiếng trong những lời ông bà nói, nhưng tôi kể không sai.
Ông Đại Tá Vũ Lăng kể ông bị bọn Bắc Cộng bắt sống năm 1961, ông bị tù giam 22 năm ở Bắc Việt, năm 1982 ông trở về Sài Gòn, năm 1985, 1986 ông vượt biên bằng đường bộ sang Thái Lan, người ta đón ông sang Hoa Kỳ. Trong thời gian chịu tù đày ở Bắc Việt, ông bị bọn Cai Tù Bắc Cộng tra tấn, chúng đánh ông thủng ba lỗ ở đầu, rút hết 10 móng tay ông.
Ông kể :
Lúc đầu Bộ Trưởng Công An Bùi Thiện Ngộ và Thiếu Tướng Công An Dương Thông hỏi cung tôi, rồi đến ông Đại Tá Bùi Tín. Khi nghe tôi nói tôi là con Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, Đại Tá Bùi Tín đập bàn, quát :
- Mày nói láo. Nhà Văn Vũ Trọng Phụng làm gì có thằng con phản động như mày !
Tôi nói :
- Ông Bùi Bằng Đoàn cũng làm gì có thằng con mất dậy như Bùi Tín.
Ông ấy móc súng Côn ra dọa bắn nát đầu tôi nhưng rồi ông ấy không dám bắn.
Khi ông Thầy Châm Cứu Bùi Duy Tâm ở San Francisco tổ chức chào đón Đại Tá Việt Cộng Bùi Tín đến San José, tôi đến nơi gặp ông. Thấy tôi, ông Bùi Tín mặt xanh rờn, tôi vỗ vai ông ta, nói :
- Đại Tá đừng sợ, đây là đất tự do, ông và tôi cùng là người đi tìm tự do.
Ông xin tôi tha lỗi, tôi nói :Ông kể :
- Đại tá yên tâm, tôi không trả thù ông đâu.
Đại Tá Vũ Lăng kể Vũ Trọng Phụng không phải là tên thật của Nhà Văn, tên thật của Nhà Văn là Vũ Văn Tý. Tên của bà mẹ ông, bà vợ Nhà Văn, là Phụng, ông Vũ Văn Tý ghép tên bà thành bút hiệu Vũ Trọng Phụng. Ông kể bà vợ Nhà Văn, bà mẹ ông, là em gái Luật Sư Trần Văn Tuyên, em cùng cha, khác mẹ. Ông kể năm ông 9 tuổi, Luật Sư Trần Văn Tuyên nói với bà mẹ ông là đưa ông sang Pháp, nhưng ông TV Tuyên lại đưa ông sang Vân Nam bên Tầu. Ông sống ở đất Tầu mấy năm cho đến khi ông gặp ông Nguyễn Mạnh Côn, ông nói rõ :
- Người về sau là Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn.
Ông kể ông Nguyễn Mạnh Côn đưa ông từ Vân Nam về Hong Kong rồi đưa ông xuống tầu biển về Singapore. Không thấy ông nói rõ ông Nguyễn Mạnh Côn có cùng về Singapore rồi Sài Gòn với ông hay không. Chỉ biết ông kể tới đây là mất tích ông Nguyễn Mạnh Côn. Chính quyền Singapore giúp phương tiện cho ông về Sài Gòn. Từ Sài Gòn ông lên Tòa Thánh Tây Ninh.
Ở Tây Ninh tôi gặp lại ông Trần Văn Tuyên. Ông ấy đang là Cố vấn Pháp Luật của Đức Hộ Pháp Pham Công Tắc. Ông ấy bảo tôi: “Mày đừng nói với ai mày là cháu tao. Ở đây chúng nó kỳ thị, chúng nó thù ghét Bắc Kỳ. Đừng nhận họ để khi nếu nó giết tao thì nó không giết mày, nó giết mày thì nó không giết tao.”Ngưng lời kể của Đại Tá Vũ Lăng.
Tôi được Tướng Trịnh Minh Thế nhận là em nuôi, cho tôi đi học Khóa 4 Trường Sĩ Quan Đà Lạt. Năm ấy (1952) tôi nhớ Thiếu Tá Lefort là Hiệu Trưởng. Mỗi khóa Trường Võ Bị Đà Lạt cho các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo được cử 10 người theo học. Những năm 1960, 1961 có một số cán bộ, binh sĩ Việt Cộng gài lại trong Nam sau Hiệp Định Geneve được đưa ra Bắc chỉnh huấn, Tình Báo tổ chức cho tôi nhập vào những toán đó để ra Bắc hoạt động. Tôi ra Bắc năm 1961, bị bắt, bị tù đến năm 1982 mới trở về Sài Gòn.
***
Ai thì tôi không dzám quả quyết chứ Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn thì tôi
tự cho tôi có thể nói chắc là cả đời ông — Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn —
không một lần đi ra khỏi nước Việt Nam. Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn, tác giả
những văn phẩm nổi tiếng một thời của Văn Chương Quốc Gia Việt Nam Cộng
Hòa Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử, Mối Tình Mầu Hoa Đào, Ba Người Lính Nhẩy Dù Lâm Nạn, Kỳ Hoa Tử..vv..
bị bọn Bắc Cộng bắt Tháng Ba 1976, năm 1979 ở Trại Tù Khổ Sai Xuyên
Mộc, Nhà Văn đòi bọn CS phải trả tự do cho ông, chúng không chịu trả,
ông tuyệt thực. Bắt chước cách đàn áp tù nhân của bọn Nga Cộng, Tầu
Cộng, bọn Cai Tù Xuyên Mộc không cho ông uống nước đến chết. Nhà Văn
chết ở Trại Tù Xuyên Mộc.
Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên có ông con là Trần Tử Thanh. Năm 1988 Trần Tử Thanh nằm phơi rốn trong Phòng 10 Khu ED Nhà Tù Chí Hòa cùng Tu sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát và người anh em cùng vợ với tôi là Hoàng Hải Thủy. Năm ấy ông Trần Tử Thanh, cùng ông em là Trần Vọng Quốc, bị Phản Gián P 25 nó tó vì tội làm tình báo, tình bổ chi đó. Hai anh em ông cùng nằm phơi rốn trong Nhà Tù Chí Hòa. Tôi, qua điện thoại, hỏi ông Trần Tử Thanh về chuyện ông Đại Tá Vũ Lăng San José nói bà mẹ ông ta là em gái Cố Luật sư Trần Văn Tuyên, tức bà là bà cô ruột của ông, và như dzậy Đại Tá Vũ Lăng Vũ Trọng Khanh San José là anh em con cô, con cậu với ông, ông Trần Tử Thanh cũng đã biết về cuộc phỏng vấn của Đài SBTN, ông kêu :
- Làm gì có chuyện đó. Bà vợ ông Vũ Trọng Phụng đâu phải là em ông cụ tôi. Ông cụ tôi có bao giờ đến Tòa Thánh Tây Ninh đâu. Hoàn toàn bịa đặt. Anh em chúng tôi sẽ phải lên tiếng về vụ này.
Ông Trần Tử Thanh gửi cho tôi bức thư ngỏ :
THƯ NGỎ
Đồng kính gửi :
- Các cơ quan truyền thông, truyền hình, báo chí, các mạng Internet.
- Quí vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, quí vị chủ tịch các đảng phái quốc gia, quí vị Chủ Tịch Công Đồng, các Tổ Chức, Hội Đoàn người Việt Quốc Gia tại hải ngoại.
- Bà con thân thuộc và Bằng Hữu của Gia Đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Mới đây trong cuộc phỏng vấn kéo dài 4 phần trên Đài Truyền Hình SBTN ở Quận Cam và được báo Việt Nam Exodus đưa lên mạng, có một người xưng là Vũ Trọng Khanh, tự Vũ Lăng, Cựu Đại Tá QLVNCH, tốt nghiệp Khóa 4 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt ( ? ), con của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ( ? ) — không hiểu vì lý do gì, đã mạo nhận là cháu của Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Vì sự việc có liên quan đến thân phụ và giòng tộc chúng tôi, chúng tôi xin minh xác :
1 — Họ và tên người này nêu ra trong cuộc phỏng vấn để chứng minh liên hệ với gia đình Luật Sư Trần Văn Tuyên là hoàn toàn xa lạ với gia đình chúng tôi và không có trong gia phả của giòng họ Trần.
2 — Những sự kiện liên quan đến thân phụ chúng tôi là những sự kiện hoàn toàn bịa đặt một cách trắng trợn.
Tất nhiên khi tạo dựng những sự kiện nêu trên, người được phỏng vấn hẳn có mưu đồ đen tối nào đó.
Vì vậy, chúng tôi xin gửi bức thư ngỏ này thông báo tới toàn thể bà con trong gia tộc, các bằng hữu quen biết gia đình chúng tôi, cùng mọi giới để cảnh giác đề phòng và tránh mọi ngộ nhận trong tương lai.
Thay mặt gia đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Luật Sư Trần Tử Huyền, Trưởng Nam.
California, ngày 17 Tháng Hai năm 2008.
***
Trước năm 1975 giới ca-ve Sài Gòn có cô Lan, biệt hiệu Lan Khùng, nói
cô là con ông Nhà Văn Lê Văn Trương. Năm 1980 ở Sài Gòn có ông Lê Khiêm
nhận là con Nhà Văn Lê Văn Trương.Năm 1990 ở Hà Nội có ông Mạc Can, ông này viết tiểu thuyết, nghe nói là con Nhà Văn Lê Văn Trương.
Năm 1976 ở Sài Gòn Cờ Đỏ tôi gặp người xưng tên là Vũ Trọng Khanh, nhận mình là con trai ông Nhà Văn Vũ Trọng Phụng.
Năm 2008 ở Kỳ Hoa, tôi thấy ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tự nhận mình là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng. Ông Vũ Trọng Khanh San José còn tự nhận ông là Đại Tá và là cháu ruột Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Tôi đã kể những gì tôi biết về nhân vật Vũ Trọng Khanh. Xin để quí vị có ý kiến về vụ này. Chỉ xin viết vài chuyện cho đỡ ngứa ngáy:
- Ông Vũ Trọng Khanh nói ông là “bạn vong niên của Nhà Thơ Nguyễn Bính.” Ông kể năm ông 9 tuổi, khoảng những năm 1940, 1941 ông Trần Văn Tuyên đưa ông từ Hà Nội sang Vân Nam, khoảng những năm 1949, 1950 ông Nguyễn Mạnh Côn đưa ông từ Vân Nam đến Hong Kong rồi về Singapore, ông đến Tòa Thánh Cao Đài ở Tây Ninh, ông đi học Khóa Sĩ Quan Đà Lạt, năm 1961 ông ra Bắc, ông bị tù trên đất Bắc 22 năm. Thời gian nào ông là “bạn vong niên” của Nhà Thơ Nguyễn Bính. Ít nhất khi Nhà Thơ 40 tuổi, ông phải 20 tuổi, khi Nhà Thơ 60 tuổi, ông 30, ông mới có thể là “bạn vong niên” của Nhà Thơ. Năm Nhà Thơ 30 tuổi, ông 9 tuổi, nàm thao ông có thể là “bạn vong niên” của Nhà Thơ? Nhờ ông tí!
- Ông kể ông bị bọn Bắc Cộng giam tù 22 năm. Khi giả làm Việt Cộng miền Nam ra Bắc năm 1961 cứ cho cấp bậc của ông là Trung Úy đi, trong 22 năm tù ông “ô-tô-măng-tít”, tức ông tự động thăng cấp? Trở về Sài Gòn năm 1982 ông là Đại Tá? Năm 1982 các ông Tướng của quân đội tôi ông thì ngồi tù, ông thì ở nước ngoài, ông về ai phong cấp Tá cho ông? Sôi sì ông tự phong cấp Tá cho ông cũng được đi, kỳ cục là chuyện mấy ông TV SBTN phây phây giới thiệu ông là Đại Tá.
Những năm 1961, 1962 ông bị bọn Cai Tù Bắc Cộng tra tấn, hỏi cung, bọn Bắc Cộng đã làm gì có Bộ Trưởng Công An Bùi Thiện Ngộ với Đại Tá Bùi Tín!
Ở Sài Gòn tôi có người bạn văn nghệ trẻ có bút hiệu lạ là Phù Hư. Hôm nay kể chuyện xưa nhắc đến Phù Hư, tôi nhớ ở Kỳ Hoa tôi có người bạn văn nghệ trẻ bút hiệu là Hư Vô.
Hai cái tên Phù Hư, Hư Vô giống nhau quá đi mất. Hai người cùng Hư, một người Hư Phù, người kia Hư Vô. Hư Phù hay Hư Vô cũng là Hư. Xong Hư Phù đỡ Hư hơn Hư Vô, Hư Phù còn tí ti hư để mà phù, Hư Vô thì vô luôn, không còn tí hư nào để mà vô cả.
Ở quê hương tôi hôm nay là Ngày Hai Mươi Tết, Tết Nguyên Đán vừa qua được hai mươi ngày. Ông bà tôi thường nói là: “Ra Giêng..”, tức sang Tháng Giêng. Chiều nay ở Kỳ Hoa đã là cuối Tháng Hai Tây. Mưa tuyết trên Rừng Phong. Tuyết này là Tuyết Hoa — Tuyết nhẹ, mỏng, khô, tan ngay — trong bài viết này tôi nhắc đến Phù Hư, viết xong tôi nhớ anh, nhớ hình ảnh anh năm xưa. Anh đưa tôi đi gặp Vũ Trọng Khanh một buổi sáng ở Sài Gòn năm 1976. Cà phê vỉa hè đường Gia Long. Sài Gòn buồn ơi là buồn. Năm ấy Phù Hư ba mươi, tôi bốn mươi.
Tôi mong Phù Hư, hiện sống ở Sài Gòn, sẽ đọc bài viết này của tôi.
Tôi gửi bài này tặng Hư Vô ở Kỳ Hoa.
Tôi đố quí vị biết Hư Vô là nam hay nữ?
Lại viết thêm vài dòng nữa: Ối.. ông Đại Tá Vũ Lăng ơi.. Lộng giả thành chân có thế thôi..! I can You. I xin You. Ông định làm trò lộng giả thành chân nhưng không được đâu, nhiều khi lộng giả không thành chân, thành cẳng mà là thành dzởm! Ông dựng đứng lên những chuyện không thật, chúng tôi biết những chuyện ông nói không thật, chúng tôi bắt buộc phải lên tiếng.
Chúng tôi không ai nói gì, mấy ông Nhà TiVi SBTN có thể bảo nhau:
- Bọn “sì-péc-ta-tưa” của mình chúng nó ngu lắm. Mình cho người kể chuyện dzởm năm chăm phần chăm về Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn, Luật Sư Trần Văn Tuyên mà chúng nó im re, không thằng nào, con nào nói gì cả!
Tội chúng tôi quá, mấy ông ơi!
http://hoanghaithuy.wordpress.com/2008/03/05/dai-ta-vu-lang-vu-trong-khanh/
About these ads
Nguồn: Trannhuong.com
Bà Hằng
Câu chuyện ông Vũ Lăng nào đó “nhận vơ” là con trai của Vũ Trọng Phụng thật chẳng có gì quan trọng. Vì thiên hạ ai cũng đều biết đó là chuyện “bá vơ”.
Nhưng từ chuyện nhận vơ này nhảy sang chuyện “nhận vơ” là thư ký riêng của ông Vũ Hồng Khanh VNQDĐ trong khi đương sự chỉ mới 15 tuổi (sic) thì “bụt trên tòa cũng phải nhảy xuống”. Ở hải ngoại hiện nay những cái tên của các chính đảng như VNQDĐ thường bị kẻ xấu mạo nhận, thậm chí tổ chức lễ lạ, xử dụng đảng kỳ nhằm tạo hư danh nhưng láo lếu đến xúc phạm đảng thể như Vũ Lăng và Dương Thị Phương Hằng thì thật mới có một (đôi sất). Đọc bà Hằng viết mấy chữ tiền bối với hậu bối thấy nó trơ trẽn, ngu ngơ làm sao. Tiền bối là chữ dùng để chỉ lớp người đi trước chung một con đường, chung lý tưởng, chung chí hướng, có nhân cách. Người có học hành, đủ chữ nghĩa, có tư cách chẳng ai dám tự nhận mình là tiển bối người khác. Mấy lời nhắc nhở này ông bà nên ghi nhớ.
Lãnh tụ Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần, nhà văn lập thuyết Nguyễn Mạnh Côn đã đi vào lịch sử. Nhà văn Vũ Trọng Phụng đã đi vào văn học sử.
Thân thế của họ đã được soi rọi kỹ lưỡng vì họ là người của công chúng.
Tất nhiên xã hội có nhiề kẻ muốn lợi dụng tên tuổi của họ để phục vụ mưu đồ cá nhân vào mục đíc nào đó. Nhưng những kẻ xạo láo hay có nhiều sơ hở, viết bừa, nói càn và sau đó khốn nạn thay chúng lại quên hết. Bà Hằng có tật già mồm, chầy cối nhưng những sai lệch, bất hợp lý về không gian, thời gian, và nhân vật được nhắc tới trở thành những bằng chứng khó biện giải. Ông bà có thể đã quên nhiều điều huênh hoang, láo xạo trước đây (chẳng ai chấp vì vô hại) nhưng Công Tử Hà Đông vì ở Rừng Phong gần gũi, quen biết với gia đình ông Trần văn Tuyên biết chuyện nên có một bài; nếu ông bà không lưu giữ, chúng tôi gửi lại để bạn đọc trên diễn đàn cùng thưởng lãm.
Kim Âu
NOV23
ĐẠI TÁ VŨ LĂNG??!!, CON TRAI VŨ TRỌNG PHỤNG?
CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG
Tháng 2, tháng 3 năm 1976/ Tháng 2, tháng 3 năm 2008..Thấm thoắt dzây mà thời gian đã qua 33 mùa lá rụng..Những năm 1975, 1976 tôi sống những ngày buồn thảm, u tối, tuyệt vọng giữa lòng Sài Gòn, thành phố thủ đô đau thương của tôi.
Biết dzồi..Khổ lắm..Kể mãi..! Vâng, không tả oán nữa, xin nói ngay vào chuyện. Một tối Phù Hư, người bạn văn nghệ của tôi, ghé nhà tôi, anh nói:
- Tôi mới gặp con trai của ông Vũ Trọng Phụng. Anh ta mới ở Hà Nội vào. Tôi hẹn gặp lại anh ta sáng mai.
Anh hỏi tôi:
- Anh có muốn gặp con trai ông Vũ Trọng Phụng không?
Từ lâu tôi biết Nhà Văn Vũ Trọng Phụng không có con trai, ông chỉ có một người con gái. Gần như tất cả những người đọc những tiểu thuyết Giông Tố, Số Đỏ, Cơm Thầy Cơm Cô của Nhà văn Vũ Trọng Phụng đều biết ông chỉ có một người con gái. Nay ở đâu ra anh con này của Nhà Văn? Mạo nhận ư? Nhưng mạo nhận là con Nhà Văn để làm gì? Tôi không tin người nào đó là con trai của Nhà Văn nhưng vì buồn quá đỗi, buồn đến có thể chết được, phần vì không có việc gì làm, tôi theo Phù Hư đi gặp anh ta.
Những tháng đầu tiên bọn Bắc Cộng rước hình Chủ Tịt Hồ chí Minh của chúng vào Sài Gòn, dzân Sài Gòn – thất nghiệp không phải chăm phần chăm mà là năm chăm phần chăm – toàn dzân không có việc gì làm, đổ ra đường kiếm ăn Chợ Trời, Chợ Đất, mở hàng cà phe vỉa hè. Hàng họ thật giản dzị, vài cái bàn, vài cái ghế thấp tè đóng bằng gỗ ván thùng, vài phin cà phe hay một ấm ninh cà phe, nửa ký cà phe, nửa ký đường, bán gần hết chạy đi mua, 1 phích nước, dăm cái ly, cái muỗng, thế là thành một tiệm cà phe vỉa hè Sài Gòn Thất Thủ Lủ Khủ Lù Khu. Sáng hôm ấy tôi theo Phù Hư đến một tiệm cà phe như thế trên vỉa hè đường Gia Long. Đúng giờ hẹn người tự nhận là con trai của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng đến.
Người thanh niên trắng trẻo, đẹp trai, mặt mũi sáng sủa, bận bộ đồ bà ba đen mới may. Không có khả năng nhận xét sắc xảo gì nhưng nhìn anh tôi biết chắc anh không phải là dân Sài Gòn, anh là người miền Bắc mới vào Sài Gòn nhưng anh không có cái vẻ cù lần của bọn thanh niên Hà Nội Bắc Kỳ Xã Hội Chủ Nghĩa, những kẻ được dân Sài Gòn tả trong câu dzân dzao 1975:
Trai Sài Gòn như chim anh vũ,
Trai Hà Nội như củ khoai lang.
Phù Hư đãi anh ly cà phê đen giá 1 đồng, 1 đồng tiền Hồ là 500 đồng bạc Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.
Tôi nói với anh thanh niên :
- Tôi tưởng ông Vũ Trọng Phụng không có con trai ?
Rất lễ phép, và có vẻ đầy đủ thẩm quyền, coi như chuyện người thiên hạ không biết Nhà Văn Vũ Trọng Phụng có con trai là chuyện thường, anh ta nói :
- Thưa bác..Bố cháu có cháu và em gái cháu. Tên cháu là Vũ Trọng Khanh.
Lần thứ nhất tôi nghe cái tên Vũ Trọng Khanh là trong một sáng cuối năm 1975, hay đầu năm 1976, trên vỉa hè đường Gia Long, Sài Gòn.
Sau ly cà phe, vài điếu thuốc lá, tôi chia tay với Vũ Trọng Khanh. Ngoài việc xưng là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, người nói tên mình là Vũ Trọng Khanh không ba hoa chích chòe khoe khoang, không nói lời gì với ý định lừa gạt hay lợi dụng Phù Hư và tôi. Anh cũng không hỏi nhà chúng tôi, không nói chỗ anh ở, công tác anh làm, không hẹn gặp lại. Từ đấy tôi không gặp lại anh, tôi cũng không nghe ai nói đến anh.
Năm 1975, 1976 tôi 40 tuổi, người tự nhận là Vũ Trọng Khanh, con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, trạc 30 tuổi. Nếu anh là con ông Vũ, anh phải ra đời trước năm 1939 là năm ông Vũ từ trần, ít nhất anh phải ra đời trong những năm 1934, 1935, năm 1975 anh phải gần 40 tuổi, phải già, phải via tông-keng bằng tôi, anh không thể trẻ đến như thế.
Lần gặp Vũ Trọng Khanh ở Sài Gòn, tôi không tin anh là con Nhà Văn Vũ Trọng Phụng nhưng tôi chẳng bắt bẻ anh làm gì. Tại sao lại cố ý moi móc để chứng tỏ người ta nhận vơ ? Mà người ta nhận vơ người ta là con ông Nhà Văn sì đã nàm thao? Hại gì ai ? Nhà văn Vũ Trọng Phụng có nổi tiếng, có được người đời trọng mến, mới có người nhận là con. Ở đời thiếu gì anh con từ bố, chối bố hay xấu hổ khi có ai nói anh là con của ông bố anh.
Những năm 2000, 2001, ở Kỳ Hoa Đất Trích, tôi nghe nói :
- Ở San José có người nhận là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, tên là Vũ Trọng Khanh.
Tôi nghe qua rồi bỏ. Tự nhiên tôi không tin nhân vật Vũ Trọng Khanh San José 2000 là nhân vật Vũ Trọng Khanh tôi gặp năm 1975, 1976 trên vỉa hè đường Gia Long, Sài Gòn. Lại một vụ nhận vơ.. ! Mà người ta nhận vơ sì đã nàm thao?
Ngày tháng qua đi..Tháng 2 năm 2008, liêu lạc ở Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích, tôi gặp lại cái tên Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh tôi thấy ở Kỳ Hoa năm 2008 không phải là anh thanh niên Bắc Kỳ đẹp trai Vũ Trọng Khanh tôi gặp ở Sài Gòn cuối năm 1975 hay đầu năm 1976. Như vậy : trước sau, trong vòng 40 năm, tôi thấy cuộc đời này có hai ông Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh thứ nhất tôi được gặp, được nói chuyện ở Sài Gòn năm 1975 không có chức vụ, không cấp bậc gì cả, ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tôi chỉ được nhìn thấy dung nhan trên màn hình Internet trong cuộc phỏng vấn của Hệ Thống Truyền Thông SBTN. Ông Vũ Trọng Khanh San José 2008 được SBTN giới thiệu bằng cái tên có chức vị quân đội là Đại Tá Vũ Lăng.
Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San José 2008 trạc Sáu Bó tuổi đời, bận quân phục, tôi nhìn không rõ đó là quân phục Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa hay quân phục Quân Đội Hoa Kỳ. Ông có vẻ đau yếu, dường như ông ngồi không vững, ông nói khó khăn, ông có bà vợ trẻ ngồi bên đỡ lời, nói dùm. Trong cuộc phỏng vấn ông nói ba, bà nói bẩy. Chuyện kỳ lạ là, như tôi đã viết trên đây, gần như tất cả những người Việt Nam từng đọc tiểu thuyết của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, từng biết, dù biết ít, biết lơ mơ, về đời tư của Nhà Văn, đều biết Nhà Văn không có con trai, nhưng ký giả SBTN – không lẽ không biết – không đặt câu hỏi :
- Có gì chứng minh ông là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ?
Ký giả phỏng vấn, dường như tên là ông Tường Thắng, phăng phăng la tuy-líp coi người được phỏng vấn đúng là ông con của Nhà Văn.
Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San Jose, và bà vợ, kể nhiều chuyện kỳ cục quá đỗi là kỳ cục. Không những chỉ kỳ cục, đó còn là những chuyện dựng đứng. Không chỉ chuyện dựng đứng thường mà là chuyện dựng đứng năm chăm phầm chăm. Tôi nghe chuyện ông bà kể mà chịu hổng có nổi. Tôi kể lại những lời ông bà nói như sau, tất nhiên tôi chỉ kể đại khái thôi, tôi không thể kể hết hay kể thật đúng những lời ông bà nói, nhưng tôi kể không sai.
Ông Đại Tá Vũ Lăng kể ông bị bọn Bắc Cộng bắt sống, giam tù 22 năm ở Bắc Việt, năm 1982 ông trở về Sài Gòn, năm 1985, 1986 ông vượt biên bằng đường bộ sang Thái Lan, người ta đón ông sang Hoa Kỳ. Trong thời gian chịu tù đày ở Bắc Việt, ông bị bọn Cai Tù Bắc Cộng tra tấn, chúng đánh ông thủng hai lỗ ở đầu, rút hết 10 móng tay ông.
Ông kể :
- Lúc đầu Bộ Trưởng Công An Bùi Thiện Ngộ và Thiếu Tướng Công An Dương Thông hỏi cung tôi, rồi đến ông Đại Tá Bùi Tín. Khi nghe tôi nói tôi là con Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, Đại Tá Bùi Tín đập bàn, quát :
- Mày nói láo. Nhà Văn Vũ Trọng Phụng làm gì có thằng con phản động như mày !
Tôi nói :
- Ông Bùi Bằng Đoàn cũng làm gì có thằng con mất dậy như Bùi Tín.
Ông ấy móc súng Côn ra dọa bắn tôi nhưng rồi ông ấy không dám bắn.
Khi ông Thầy Châm Cứu Bùi Duy Tâm ở San Francisco tổ chức chào đón Đại Tá Việt Cộng Bùi Tín đến San José, tôi đến nơi gặp. Thấy tôi, ông Bùi Tín mặt xanh rờn, tôi vỗ vai ông ta, nói :
- Đại Tá đừng sợ, đây là đất tự do, ông và tôi cùng là người đi tìm tự do.
Đại Tá Vũ Lăng kể Vũ Trọng Phụng không phải là tên thật của Nhà Văn, tên thật của Nhà Văn là Vũ Văn Tý. Tên của bà mẹ ông, bà vợ Nhà Văn, là Phụng, ông Vũ Văn Tý ghép tên bà thành bút hiệu Vũ Trọng Phụng. Ông kể bà vợ Nhà Văn, bà mẹ ông, là em gái Luật Sư Trần Văn Tuyên, em cùng cha, khác mẹ. Ông kể năm ông 9 tuổi, Luật Sư Trần Văn Tuyên nói với bà mẹ ông là đưa ông đi chơi , nhưng ông TV Tuyên lại đưa ông sang Vân Nam bên Tầu. Ông sống ở đất Tầu mấy năm cho đến khi ông gặp ông Nguyễn Mạnh Côn, ông nói rõ :
- Người về sau là Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn.
Ông kể ông Nguyễn Mạnh Côn đưa ông từ Vân Nam về Hong Kong rồi đưa ông xuống tầu biển về Singapore . Không thấy ông nói rõ ông Nguyễn Mạnh Côn có cùng về Singapore với ông hay không. Chỉ biết ông kể tới đây là mất tích ông Nguyễn Mạnh Côn. Chính quyền Singapore giúp phương tiện cho ông về Sài Gòn. Từ Sài Gòn ông lên Tòa Thánh Tây Ninh.
Ông kể :
- Ở Tây Ninh tôi gặp lại ông Trần Văn Tuyên. Ông ấy đang là Cố vấn Pháp Luật của Đức Hộ Pháp Pham Công Tắc. Ông ấy bảo tôi : « Mày đừng nói với ai mày là cháu tao. Ở đây chúng nó kỳ thị, chúng nó thù ghét Bắc Kỳ. Đừng nhận họ để khi nếu nó giết tao thì nó không giết mày, nó giết mày thì nó không giết tao. »
Tôi được Tướng Trịnh Minh Thế nhận là em nuôi, cho tôi đi học Khóa 4 Trường Sĩ Quan Đà Lạt. Năm ấy ( 1952 ) tôi nhớ Thiếu Tá Lefort là Hiệu Trưởng. Mỗi khóa Trường Võ Bị Đà Lạt cho các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo được cử 10 người theo học. Những năm 1960, 1961 có một số cán bộ, binh sĩ Việt Cộng gài lại trong Nam sau Hiệp Định Geneve được đưa ra Bắc chỉnh huấn, Tình Báo tổ chức cho tôi nhập vào những toán đó để ra Bắc hoạt động. Tôi ra Bắc năm 1961, bị bắt, bị tù đến năm 1982 mới trở về Sài Gòn.
Ngưng lời kể của Đại Tá Vũ Lăng.
*
Ai thì tôi không dzám quả quyết chứ Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn thì tôi tự cho tôi có thể nói chắc là cả đời ông – Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn – không một lần đi ra khỏi nước Việt Nam. Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn nổi tiếng một thời của Văn Chương Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử, Mối Tình Mầu Hoa Đào, Ba Người Lính Nhẩy Dù Lâm Nạn, Kỳ Hoa Tử..vv..bị bọn Bắc Công bắt Tháng Ba 1976, năm 1979 ở Trại Tù Khổ Sai Xuyên Mộc, Nhà Văn đòi bọn CS phải trả tự do cho ông, chúng không chịu trả, ông tuyệt thực. Bắt chước cách đàn áp tù nhân của bọn Nga Cộng, Tầu Cộng, bọn Cai Tù Xuyên Mộc không cho ông uống nước dến chết. Nhà Văn chết ở Trại Tù Xuyên Mộc.
Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên có ông con là Trần Tử Thanh. Năm 1988 Trần Tử Thanh nằm phơi rốn trong Phòng 10 Khu ED Nhà Tù Chí Hòa cùng Tu sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát và người anh em cùng bà vợ, với tôi là Hoàng Hải Thủy. Năm ấy ông Trần Tử Thanh, cùng ông em là Trần Vọng Quốc, bị Phản Gián P 25 nó tó vì tội « âm mưu cưa ghế chính quyền nhân rân » . Hai anh em ông cùng nằm phơi rốn trong Nhà Tù Chí Hòa. Tôi, qua điện thoại, hỏi ông Trần Tử Thanh về chuyện ông Đại Tá Vũ Lăng San José nói bà mẹ ông ta là em gái Cố Luật sư Trần Văn Tuyên, tức là bà cô ruột của ông, và như dzậy Đại Tá Vũ Lăng Vũ Trọng Khanh San José là anh em con cô, con cậu với ông, ông Trần Tử Thanh cũng đã biết về cuộc phỏng vấn của SBTN, ông kêu :
- Làm gì có chuyện đó. Bà vợ ông Vũ Trọng Phụng đâu phải là em ông cụ tôi. Gia phả giòng tộc nhà tôi không có ai tên như vậy cả. Hoàn toàn bịa đặt ! Anh em chúng tôi sẽ phải lên tiếng về vụ này.
Ông Trần Tử Thanh gửi cho tôi bức thư ngỏ :
THƯ NGỎ
Đồng kính gửi :
- Các cơ quan truyền thông, truyền hình, báo chí, các mạng Internet.
- Quí vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, quí vị chủ tịch các đảng phái quốc gia, quí vị Chủ Tịch Công Đồng, các Tổ Chức, Hội Đoàn người Việt Quốc Gia tại hải ngoại.
- Bà con thân thuộc và Bằng Hữu của Gia Đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Mới đây trong cuộc phỏng vấn kéo dài 4 phần trên Đài Truyền Hình SBTN ở Quận Cam và được báo Việt Nam Exodus đưa lên mạng, có một người xưng là Vũ Trọng Khanh, tự Vũ Lăng, Cựu Đại Tá QLVNCH, tốt nghiệp Khóa 4 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt ( ? ), con của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ( ? ) – không hiểu vì lý do gì - đã mạo nhận là cháu của Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Vì sự việc có liên quan đến thân phụ và giòng tộc chúng tôi, chúng tôi xin minh xác :
1 – Họ và tên người này nêu ra trong cuộc phỏng vấn để chứng minh liên hệ với gia đình Luật Sư Trần Văn Tuyên là hoàn toàn xa lạ với gia đình chúng tôi và không có trong gia phả của giòng họ Trần.
2 – Những sự kiện liên quan đến thân phụ chúng tôi là những sự kiện hoàn toàn bịa đặt một cách trắng trợn.
Tất nhiên khi tạo dựng những sự kiện nêu trên, người được phỏng vấn hẳn có mưu đồ đen tối nào đó.
Vì vậy, chúng tôi xin gửi bức thư ngỏ này thông báo tới toàn thể bà con trong gia tộc, các bằng hữu quen biết gia đình chúng tôi, cùng mọi giới để cảnh giác đề phòng và tránh mọi ngộ nhận trong tương lai.
Thay mặt gia đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Luật Sư Trần Tử Huyền, Trưởng Nam.
California, ngày 17 Tháng Hai năm 2008.
*
Trước năm 1975 giới ca-ve Sài Gòn có cô Lan, biệt hiệu Lan Khùng, nói cô là con ông Nhà Văn Lê Văn Trương. Năm 1980 ở Sài Gòn có ông Lê Khiêm nhận là con Nhà Văn Lê Văn Trương.
Năm 1990 ở Hà Nội có ông Mạc Can, ông này viết tiểu thuyết, nghe nói là con Nhà Văn Lê Văn Trương.
Năm 1976 ở Sài Gòn Cờ Đỏ tôi gặp người xưng tên là Vũ Trọng Khanh, nhận mình là con trai ông Nhà Văn Vũ Trọng Phụng.
Năm 2008 ở Kỳ Hoa, tôi thấy ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tự nhận mình là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng. Ông Vũ Trọng Khanh San José còn tự nhận ông là Đại Tá và là cháu ruột Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Tôi đã kể những gì tôi biết về nhân vật Vũ Trọng Khanh. Xin để quí vị nhận định về vụ này.
CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG
----- Forwarded Message -----
Ngày 22 Tháng 11 Năm 2012
Chúng tôi trả lời ông Kim Âu về những vấn đề liên quan đến thân phụ của chúng tôi là cố văn hào Vũ Trọng Phụng và bác của chúng tôi là ông Vũ Hồng Khanh và VNQDĐ. Chúng tôi cũng đính kém hai bài viết : Lên Tiếng của Gia Đình Vũ Trọng Phụng về bài viết Nhìn Lại Vũ Trọng Phụng của Hội Nhà Văn của chế độ Cộng Sản Việt Gian bán nước. Máy của chúng tôi sử dụng pages nên sẽ bị corrupted với PC cho nên chúng tôi phải chuyển đổi thành PDF.
Bà Vũ Mỹ Lương không có tên gọi là bà Gái và cũng không hề là con gái của ông Cữu Tích ( do người vợ thứ tư sinh hạ ). Như vậy, thông tin mà ông Kim Âu có được hoàn toàn không đúng sự thật.
Bà Vũ Mỹ Lương có thuộc về một gia đình chỉ chuyên nghề bán thuốc cam tích tán ở tại căn nhà riêng của bà Cả Giảng là chị của bà Vũ Mỹ Lương tại phố Hàng Bạc chứ không thuộc một gia đình tư sản có cửa hàng thuốc ở phố Hàng Bạc. Nếu là một nhà tư sản có cửa hàng thuốc thì phải mở tại phố thuốc Bắc có tên Lãn Ông.
Bố Vũ Trọng Phụng của chúng tôi chỉ chính thức cưới vợ một lần vào năm 1929 khi bố chúng tôi cưới bà Trần Thị Kim Phụng và sinh hạ anh Vũ Trọng Khanh còn được gọi là Vũ Thiếu Lăng vào ngay 1 tháng 1 năm 1930.
Khi bố của chúng tôi chớm mắc bệnh lao vào năm 1934 ông bà ngoại của anh Vũ Trọng Khanh buộc bà Trần Thị Kim Phụng mang anh Vũ Trọng Khanh về Tuyên Quang để tránh bị lây bệnh. Mẹ đẻ của anh Vũ Trọng Khanh là bà Trần Thi Kim Phụng không chịu nhưng với sức ép của gia đình, bà Trần thị Kim Phụng đã quyết lên chùa Bò quy y cửa Phật để ông bà ngoại của anh Vũ Trọng Khanh không làm cho vấn đề trở nên phức tạp và đau lòng hơn. Từ năm 1935 anh Vũ Trọng Khanh trở thành một đứa trẻ thiếu vắng người mẹ và côi cút. Đến năm 1936 chứ không phải là năm 1938 ( như những gì chế độ cộng sản rêu rao) thì cố văn hào Vũ Trọng Phụng mới chịu nghe lời bà Phạm Thị Khách lấy người vợ lẽ để chăm sóc cho anh Vũ Trọng Khanh và bà Vũ Mỹ Lương đã nhận lời về làm vợ lẽ bố chúng tôi và làm mẹ kế của anh Vũ Trọng Khanh. Chúng tôi không sống ở phố Hàng Bạc vì căn nhà đó là của bà Cả Giảng, chị ruột của bà Vũ Mỹ Lương. Chúng tôi sống ở phố Cầu mới quận Ngã tư Sở thuộc tỉnh Hà Đông. Thông tin của ông Kim Âu hoàn toàn không đúng sự thật.
Gia đình cố văn hào Vũ Trọng Phụng chỉ còn lại một mẹ già là bà Phạm Thị Khách, tức là bà nội của anh Vũ Trọng Khanh. Khi ông Kim Âu viết: Ông ( Vũ Trọng Phụng )mất ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, để lại gia đình còn bà nội, mẹ đẻ, vợ và người con gái chưa đầy 1 tuổi tên là Vũ Mỹ Hằng. Thông tin này hoàn toàn không đúng sự thật bởi vì ông nội và bà nội của bố anh Vũ Trọng Khanh đã chết 20 năm trước khi bố của anh Vũ Trọng Khanh cưới bà Phạm Thị Khách. Những người trong dòng họ của bà Phạm Thị Khách tức bà nội của anh Vũ Trọng Khanh đều là những đảng viên của VNQDĐ.
Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài còn ông Vũ Hồng Khanh đào thoát sang Trung Hoa móc nối với các đồng chí tiếp tục hoạt động cũng vào năm 1930 và vẫn là lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân đảng chứ không hề trở thành lãnh đạo mới của VNQDĐ. Ông Vũ Hồng Khanh ( tên thật là Vũ Văn Giản) là cháu ruột của ông Nguyễn Hải Thần ( tên thật là Vũ Hải Thu ). Chúng tôi thiết nghĩ chỉ những người trong gia tộc mới biết rõ những điều này và ông Vũ Hồng Khanh đã sống với ông Nguyễn Hải Thần, ông Hồ Học Lãm, ông Nguyễn Thượng Hiền, Vũ Quang Tài, Vũ Bá Phẩm, Phạm Hồng Thái, Lê Tán Anh từ năm 1930.
Việt Nam Cách mạng Đồng Minh Hội là do ông Nguyễn Hải Thần và ông Trương Bội Công thành lập từ những năm 1917 sau khi mặt trận của ông Đội Cấn bị Pháp triệt hạ. Ông Nguyễn Hải Thần là bạn đồng chí với ông Phan Bội Châu và đã lưu vong sang Trung Hoa từ những năm 1900 và trở thành anh em kết nghĩa với ông Tôn Dật Tiên. Ông Nguyễn Hải Thần cũng là bạn học với ông Tưởng Giới Thạch ở bên Nhật tại Trường Chấn Võ Sĩ Quan Quan Quân Học Hiệu. Ông Trương Bội Công lúc bấy giờ đã là Trung tướng trong quân đội của Nhật hoàng. Giây mơ rể má là do Kỳ Ngoại hầu Cường Để được một công chúa Nhật thương yêu và được làm phò mã của Nhật Hoàng cho nên Phong trào Đông du mới thành hình được. Ông Trương Bội Công là chú ruột của ông Trương Bội Hoàng và ông Trương Bội Hoàng là bố đẻ của ông Trương Tử Anh. Với giây mơ rễ má này mà ông Vũ Hồng Khanh đã chấp thuận để VNQDĐ và Đại Việt thống nhất làm một. Sở dĩ có tên Việt nam Cách mạng Đồng minh Hội là bởi vì những đồng minh của ông Nguyễn Hải Thần là người Trung Hoa và người Nhật trong đó có ông Tôn Dật Tiên, ông Tưởng Giởi Thạch, Khuyển Dưỡng Nghị, Trương bội Công ( Tướng Nhật )Như vậy ông Vũ Hồng Khanh không hề thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội vào năm 1942 tại Liễu châu. Thông tin mà ông kim Âu có hoàn toàn không đúng sự thật.
Đến cuối năm 1941 ông Trần văn Tuyên bị Pháp truy bức( một đảng viên của VNQDĐ) đến đường cùng đã phải giả dạng làm một bà nhà buôn và ông đã xin với mẹ của tôi (Vũ Trong Khanh ) đang tu tại chùa Bò cho phép ông đưa tôi đi trốn cùng ông để tránh sự nghi ngờ của mật vụ Pháp bởi vì không ai nghi ngờ một mụ đàn bà đi buôn dắt theo một đứa trẻ con để phụ giúp(Vũ Trọng Khanh 11 tuổi gần 12 tuổi ). Thế là tự nhiên tôi ( Vũ Trọng Khanh ) trở thành một giá trị lợi dụng cho những nhà cách mạng mà những người này có máu mủ ruột thịt với tôi.
Sau khi đảng trưởng Nguyễn Thái Học bị Pháp giết ông Vũ Hồng Khanh luôn giữ chức vụ Bí Thư Trưởng và không hề có sự thay đổi. Không hề có mặt trận QDĐ mà chỉ có những đảng viên QDĐ. Ông Nguyễn Tường Tam có tham vọng riêng và đã lợi dụng Việt Nam Cách mạng Đồng Minh Hội nhưng ông Nguyễn Tường Tam chưa bao giờ được tuyên thệ làm một đảng viên của VNQDĐ. Do đó mà ông Nguyễn Tường mới bị lão Ba Vương Nguyễn Tất Thành lợi dụng và cả hai đã bị quân đội của Tưởng giới Thạch là Tướng Trương Phát Khuê bắt giải về Liễu châu. Và, ông Vũ Hồng Khanh là người đã cứu hai kẻ phản bội này.
Ông Vũ Hồng Khanh không hề có mặt tại phố Ôn Như Hầu vào năm 1945. Lúc đó ông Vũ Hồng Khanh đang ở tại số 80 Phố Quan Thánh và tôi, Nguyễn Hữu Thanh và Tô Trọng Khoa cũng có mặt tại đó. Năm 1945 tôi ( Vũ Trọng Khanh) được 15 tuổi. Do bị mật thám Pháp truy lùng tất cả các đảng viên VNQDĐ đều không thể ra mặt hoạt động cho nên phải sử dụng những đứa trẻ bằng tuổi tôi hoặc lớn hơn vài tuổi trong đó có anh Tô Trọng Khoa, Nguyễn Hữu Thanh, Bằng Xồm, Phạm Xuân Chiểu, Tôn Nữ Lệ Hà, Phạm Văn Liễu và còn nhiều nữa.
Nếu muốn biết thêm nhiều chi tiết thật về nguyên nhân thành lập chính phủ Hiên Hiệp và tại sao có vụ án Ôn Như Hầu, xin quý vị chờ đón đọc toàn bộ sách: Truyện của Đời Tôi của tác giả Vũ Trọng Khanh tức Đại tá Vũ Lăng.
Chúng tôi không trách cứ thái độ vô lễ của những hậu bối khi viết “ Vậy thì ông Vũ Lăng con nhà văn Vũ Trọng Phụng và cứ cho là cháu ông Vũ Hồng Khanh làm thư ký và liên lạc viên cho ông Vũ Hồng Khanh lúc mấy tuổi vậy? 12, hay 13? Không lẽ VNQDĐ hết nhân sự rồi hay sao mà phải dùng trẻ con làm thư ký riêng, cán bộ giao liên cho Bí thư trưởng. “ Tại sao quý vị không đặt ngược lại vấn đề để thương cảm cho những đứa trẻ như chúng tôi thời đó? Làm thư ký riêng và làm cán bộ giao liên cho những nhà cách mạn thời đó là làm cái gì?
Chúng tôi thiết nghĩ không có những anh hùng tí hon này qua mặt bọn mật thám Pháp để thông tin cho nhau bằng những ngày dài chạy bộ hàng chục cây số với cái bụng đói meo thì VNQDĐ đã bị tận diệt từ năm 1930 rồi không còn có cơ hội để cho quý vị tỏ thái độ như thế, phải không?
Chúng tôi chỉ buồn là đến thế hệ của quý vị rồi mà cũng không biết sử dụng cái đầu độc lập của mình để suy xét vấn đề mà cứ tiếp tục tin theo những dối láo của những bài viết trong quá khứ hay trong hiện tại. Tôi, Vũ Trọng Khanh là cháu của ông Vũ Hồng Khanh thế thì tại sao cứ phải cho là cháu của Vũ Hồng Khanh cũng như tôi, Vũ Trọng Khanh là con trai duy nhất của cố văn hào Vũ Trọng Phụng, tại sao tôi phải tự nhận là con trai của một người nghèo kiết xác vfa chết vị bệnh ho lao không có tiền để chữa bệnh?
Dương Thị Phương Hằng & Đại Tá Vũ Lăng
Kính chị Hằng
Tôi cũng có liên quan chút chút với VNQDĐ nên có một vài thắc mắc nhờ chị cho biết .
Nhà văn Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912, quê ở làng Hảo, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nhưng ông sinh ra, lớn lên và mất tại Hà Nội. chết năm 1939. Vợ ông, bà Vũ Mỹ Lương, tên thường gọi là bà Gái, là con người vợ thứ tư của cụ Cửu Tích, một nhà tư sản có cửa hàng thuốc ở phố Hàng Bạc. Sau khi làm đám cưới vào ngày 23 tháng 1 năm 1938, hai vợ chồng đã cùng thuê nhà ở phố Hàng Bạc.
Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, để lại gia đình còn bà nội, mẹ đẻ, vợ và người con gái chưa đầy 1 tuổi tên là Vũ Mỹ Hằng.
Ngày 13 tháng 2 năm 1930, ông Vũ Hồng Khanh là một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng ở Kiến An (Hải Phòng) [1]. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài còn ông đào thoát sang Trung Hoa móc nối với các đồng chí tiếp tục hoạt động và trở thành lãnh đạo mới của Việt Nam Quốc dân đảng.
Năm 1942 tại Liễu Châu (Trung Hoa), Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ (Quốc dân đảng), Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân chính đảng), Nguyễn Hải Thần thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, thường được gọi tắt là Việt Cách.
Ngày 1 tháng 9 năm 1945, ông từ Côn Minh về nước qua ngả Mường Khương, vào Lào Cai.
Do cần phải hợp tác để đối phó với Việt Minh ngày 15 tháng 12 năm 1945 các đảng phái chống Việt Minh đã thống nhất thành lập một lực lượng gọi là Mặt trận Quốc dân Đảng. Vũ Hồng Khanh giữ chức Bí thư trưởng tổ chức này.
Ngày 2 tháng 3 năm 1946 ông tham gia Chính phủ liên hiệp kháng chiến và đảm nhận chức vụ Phó Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên hội (sau đổi là Ủy ban Kháng chiến). Ông cùng Hồ Chí Minh đã ký với Jean Sainteny Hiệp định sơ bộ 1946.
Tháng 7 năm 1946, xảy ra vụ án phố Ôn Như Hầu ở Hà Nội, lực lượng công an khám xét các trụ sở của Việt Nam Quốc dân đảng, phát giác nhiều vũ khí, truyền đơn hiệu triệu chống chính phủ (do Việt Minh dàn dựng). Tuy nhiên theo Việt Nam Quốc dân Đảng, trụ sở ở phố Ôn Như Hầu chỉ là một chỗ làm việc bình thường của Việt Nam Quốc dân Đảng bị tấn công trong lúc không nghĩ là mình sẽ bị tấn công và các đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng không có vũ khí nặng nào. Vũ Hồng Khanh và các lãnh đạo các đảng phái chống Việt Minh như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Trung Hoa.
Vậy thì ông Vũ Lăng con nhà văn Vũ Trọng Phụng và cứ cho là cháu ông Vũ Hồng Khanh làm thư ký và liên lạc viên cho ông Vũ Hồng Khanh lúc mấy tuổi vậy? 12, hay 13? Không lẽ VNQDĐ hết nhân sự rồi hay sao mà phải dùng trẻ con làm thư ký riêng, cán bộ giao liên cho Bí thư trưởng.
Chị có thể viết rõ thêm về đoạn này được không?
Trân trọng
Kim Âu
Kính chị Hằng
Tôi cũng có liên quan chút chút với VNQDĐ nên có một vài thắc mắc nhờ chị cho biết .
Nhà văn Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912, quê ở làng Hảo, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nhưng ông sinh ra, lớn lên và mất tại Hà Nội. chết năm 1939. Vợ ông, bà Vũ Mỹ Lương, tên thường gọi là bà Gái, là con người vợ thứ tư của cụ Cửu Tích, một nhà tư sản có cửa hàng thuốc ở phố Hàng Bạc. Sau khi làm đám cưới vào ngày 23 tháng 1 năm 1938, hai vợ chồng đã cùng thuê nhà ở phố Hàng Bạc.
Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, để lại gia đình còn bà nội, mẹ đẻ, vợ và người con gái chưa đầy 1 tuổi tên là Vũ Mỹ Hằng.
Ngày 13 tháng 2 năm 1930, ông Vũ Hồng Khanh là một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng ở Kiến An (Hải Phòng) [1]. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài còn ông đào thoát sang Trung Hoa móc nối với các đồng chí tiếp tục hoạt động và trở thành lãnh đạo mới của Việt Nam Quốc dân đảng.
Năm 1942 tại Liễu Châu (Trung Hoa), Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ (Quốc dân đảng), Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân chính đảng), Nguyễn Hải Thần thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, thường được gọi tắt là Việt Cách.
Ngày 1 tháng 9 năm 1945, ông từ Côn Minh về nước qua ngả Mường Khương, vào Lào Cai.
Do cần phải hợp tác để đối phó với Việt Minh ngày 15 tháng 12 năm 1945 các đảng phái chống Việt Minh đã thống nhất thành lập một lực lượng gọi là Mặt trận Quốc dân Đảng. Vũ Hồng Khanh giữ chức Bí thư trưởng tổ chức này.
Ngày 2 tháng 3 năm 1946 ông tham gia Chính phủ liên hiệp kháng chiến và đảm nhận chức vụ Phó Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên hội (sau đổi là Ủy ban Kháng chiến). Ông cùng Hồ Chí Minh đã ký với Jean Sainteny Hiệp định sơ bộ 1946.
Tháng 7 năm 1946, xảy ra vụ án phố Ôn Như Hầu ở Hà Nội, lực lượng công an khám xét các trụ sở của Việt Nam Quốc dân đảng, phát giác nhiều vũ khí, truyền đơn hiệu triệu chống chính phủ (do Việt Minh dàn dựng). Tuy nhiên theo Việt Nam Quốc dân Đảng, trụ sở ở phố Ôn Như Hầu chỉ là một chỗ làm việc bình thường của Việt Nam Quốc dân Đảng bị tấn công trong lúc không nghĩ là mình sẽ bị tấn công và các đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng không có vũ khí nặng nào. Vũ Hồng Khanh và các lãnh đạo các đảng phái chống Việt Minh như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Trung Hoa.
Vậy thì ông Vũ Lăng con nhà văn Vũ Trọng Phụng và cứ cho là cháu ông Vũ Hồng Khanh làm thư ký và liên lạc viên cho ông Vũ Hồng Khanh lúc mấy tuổi vậy? 12, hay 13? Không lẽ VNQDĐ hết nhân sự rồi hay sao mà phải dùng trẻ con làm thư ký riêng, cán bộ giao liên cho Bí thư trưởng.
Chị có thể viết rõ thêm về đoạn này được không?
Trân trọng
Kim Âu
----- Forwarded Message -----
From: Michelle Duong
Wednesday, November 21, 2012 10:53 PM
Subject: [ChinhNghiaViet] DTPH góp ý về VNQDĐ và Đại Việt QDĐ:: (CHÍNH NGHĨA): TNHH: CÓ MA KHÔNG? [1 Attachment]
Chào chị TNHH,
1) Chúng tôi là những đảng viên kỳ cựu của VNQDĐ cùng lưu vong sang Trung hoa với ông Vũ Hồng Khanh sau khi đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị lên đoạn đầu đài tại Yên Báy. Chúng tôi xin khẳng định về hai đảng lớn duy nhất còn lại tại miền Nam Việt Nam sau năm 1954: VNQDĐ và Đại Việt. Đại Việt do ông Trương Tử Anh thành lập nhưng vào năm 1942 ông Trương tử Anh đã sang Trung Hoa xin gặp ông Vũ Hồng Khanh tại Vân Nam và xin được sát nhập Đại Việt với VNQDĐ và đã được ông Vũ Hồng Khanh chuẩn thuận để thống nhất làm một. Tại hải ngoại lúc bấy giờ vẫn giữ tên Việt Nam QDĐ, và ở trong quốc nội vẫn giữ tên Đại Việt bởi vì Đại Việt là danh xưng của tổ quốc Việt Nam lúc đó, Hoàng đế Bảo Đại vẫn xưng là Hoàng đế của Đại Việt. Anh Vũ Trọng Khanh tức Đại tá Vũ Lăng là cháu ruột của ông Vũ Hồng Khanh lúc bấy giờ đang sống lưu vong bên Trung Hoa vừa làm thơ ký riêng và vừa làm cán bộ giao liên cho cho ông Vũ Hồng Khanh và ông Nguyễn Hải Thần. Chính anh Vũ Trọng Khanh đã chứng kiến và ghi chép buổi họp giữa ông Vũ Hồng Khanh và ông Trương Tử Anh. Kể từ ngày đó VNQDĐ và ĐẠI VIỆT đã trở thành một.
2) Đến năm 1945 Trương Tử Anh bị Việt Minh giết và người kế nhiệm ông Trương Tử Anh là anh Lê Ninh nhưng không bao lâu sau anh Lê Ninh bị thủ tiêu và Đại Việt đã rẻ sang một lối khác với những người đảng viên thích quyền lực cho tới bây giờ.
3) VNQDĐ từ khởi thủy không hề có phân hóa cho nên không có những hệ phái như chị TNHH nêu ra trong bài viết dưới đây: Có MA không? VNQDĐ chỉ có một danh xưng là VNQDĐ thống nhất bởi vì sau khi tổ quốc Việt Nam bị Hồ Chí Minh bắt tay với Pháp để dành quyền cai trị và Hồ Chí Minh đã chấp nhân chia đôi đất nước ra làm hai quốc gia khác biệt về thể chế chinh trị cũng như hình thức cai trị nhân dân. Ở tại miền Bắc VN số đảng viên QDĐ vẫn còn những cơ sở hạ tầng chưa chạy được vào miền Nam từ năm 1945-1954.
4) Sau năm 1954 ông Vũ Hồng Khanh đã thống nhất Kỳ bộ miền Bắc do ông Vũ Hồng Khanh lãnh đạo với Xứ bộ miền Nam do ông Nguyễn Hòa Hiệp lãnh đạo. Sau khi thống nhất kỳ bộ miền Bắc với Xứ bộ miền Nam ông Vũ Hồng Khanh được bầu giữ chức vụ Bí thư trưởng của VNQDĐ thống nhất và ông Nguyễn Hòa Hiệp giữ chức vụ Bí thư Thường vụ và LS Trần Văn Tuyên giữ chức vụ Tổng Thư Ký. Sau khi đảng trưởng Nguyễn Thái Học bị Pháp giết tất cả các đảng viên của VNQDĐ cùng thời với ông Nguyễn Thái Học đã thề quyết không bầu ai vào chức vụ đảng trưởng nữa nhằm mục đích giữ vững lòng trung kiên với lý tưởng và ngọn cờ mà đảng trưởng Nguyễn Thái Học đã phất lên.
4) Ông Nguyễn Tường Tam có tham vọng riêng và chưa bao giờ là đảng viên của VNQDĐ. Chỉ có ông Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long là đảng viên trung kiên của VNQDĐ.
5) Khi ra tới Hải ngoại chúng tôi đã biết có những kẻ tự xưng là VNQDĐ và đã làm những điều xấu xa chỉ vì những tham vọng hảo huyền. Những người này không hề biết đến những hy sinh lớn lao của những bậc tiền bối. Chúng tôi tin rằng một viên ngọc dù cho có vỡ nát thì giát ngọc vẫn trong. Một cục đất sét dù cho có vo ve thành viên ngọc thì đất sét vẫn hoàn đất sét. Vài hàng thân kính gởi đến chị TNHH, một người phụ nữ có nhiều tâm huyết với chiều dài và bề dày của Lịch sử đầy máu và nước mắt của tiền nhân. Chúng tôi rất trân trọng và quý mến chị.
DuongThiPhuongHang 1476 & Đại tá Vũ Lăng
--- On Wed, 11/21/12, TonNuHoangHoa
Date: Wednesday, November 21, 2012, 5:12 PM
Dạ xin cảm ơn chị DTPH đã bổ khuyết Khi có người đặt câu hỏi có ma không ? thì có người nói có, cũng có người nói không. Nhưng câu hỏi được chuyễn đến mọi người có cùng một hơi thở trên hai tầng không khí khác nhau. Một của cuộc sống bên ngoài và một của cõi riêng mình thì câu trả lời lại thấp thoáng vào con đường giáo lý của tôn giáo về hai phần thể xác và linh hồn.
Trong phần thể xác còn có khuôn dạng của bóng dáng con người cùng với cuộc sống trôi nỗi dập dồn và với cái lý của nhân quả đó là một cuộc vay trả nợ đời.
Chuyện của tôi không nằm trong sự chết có linh hồn mà trong cái nghiệt ngã không có sự luân chuyễn di động của một người quen vừa mới chết
Hai hay ba năm trước Đại tá T. ở Oregon có gọi cho tôi và yêu cầu tôi gọi cho bác Đoàn Thái vì bác Thái muốn nói chuyện với tôi.
Tôi gọi bác Thái. Trong khoảng thời gian này tình trạng sức khỏe của bác Thái cũng không khả quan lắm. Bác nói với tôi về Đảng Đại Việt của Bác và chê trách ông Hà Thúc Ký tại sao lại giao Đại Việt cho ông Bùi Diễm mà theo bác Thái Bùi Diễm là một tên Việt gian
Bác Thái bảo với tôi là bác đã theo dõi bài viết của tôi từ ngày chúng tôi chủ trương Tạp Chí Gọi Nhau (1989). Bác khích lệ tôi đã chịu khó học hỏi nên đã tiến tời nhiều trong việc viết văn. Tôi cảm ơn lời khích lệ của bác và cũng không quên nói cho bác Thái biết là tôi không thích tham gia và tham dự vào chuyện của các đảng phái. Trong ý nghĩ đơn giãn của tôi từ khi hiểu biết chuyện nước non thì hình thức 2 chữ Đảng phái đồng nghĩa với 2 chữ phân hóa
Bác Thái không cần biết tôi thích nghe hay không, bác vẫn nói và còn bảo tôi là : Tôi nói cho cô biết để sau này tôi chết đi cô viết cho tôi một bài
Tôi nghe lời bác Thái nói mà bỗng tức cười cho tôi là đã trở thành Công Ty Viết hồi nào mà lại đang nhận phiếu đặt hàng. Bác Thái bên kia dòng điện thoại nhắc tôi có nghe không mà sao im lìm quá vậy? Dạ cháu đang nghe xin bác nói tiếp
Bác Thái lại nói tiếp trong khi đó tôi nghe lời bác Thái gái bên cạnh nhắc nhở bác từ từ kẽo ngột thở.
Mô Phật ! tôi lạnh toát cả người cho nên tôi để bác Thái nói hết mà không dám xen vào
Bác chê trách ông Hà Thúc Ký bởi cái lý do là ông Ký đã đưa Đảng Đại Việt cho VG Bùi Diễm. Bác bảo Đại Việt cách Mạng Đảng là do ông Trương Tử Anh sáng lập với Cương Lĩnh Dân Tộc Sinh tồn gồm có 3 sứ bộ Bắc Kỳ Trung kỳ và Nam Kỳ. Trung Kỳ do ông Bửu Hiệp nắm, Nam Kỳ là do ông Nguyễn Hòa Hiệp Khi ông Bửu Hiệp chết thì ông Hà Thúc Ký tự động lên thay thế .
Còn ông Bùi Diễm lúc bấy giờ tự xưng là Đại Việt Quan Lại. Bác Thái bảo là ông HTK xách ông Bùi Diễm về làm chủ tịch là từ nguyên nhân buôn bán Computer của ông Hoàng Tuấn. Ông Tuấn mách mối cho ông Ký và ông Ký mời gọi ông Bùi Diễm hùn với ông Tuấn mỗi người $50,000 đô la. Bác Thái còn nói lúc đó có mời cố TT Thiệu nhưng ông Thiệu từ chối. Sau này ông Tuấn cho ông Ký và ông Bùi Diễm cả triệu đô la chia nhau. Đó là lý do ông Bùi Diễm nhảy vào làm chủ tịch. Trong khi đó người mà bác Thái quí mến nhất là BS Hồ Văn Châm. Bác nói tại sao ông Ký không đưa cho ông Châm mà lại đưa cho tên VG Bùi Diễm ?
Bác Thái còn nói đến chuyện chiến khu Ba Lòng cùng chuyện Đại Tá Huỳnh Văn Tồn cứu ông Hà Thúc Ký
Tôi nghe xong rồi cũng quên. Nhất là khi Bác Thái nói về ông Hà Thúc Ký mà không biết bác Thái có biết là anh Hà Thúc Ký là anh em cô cậu ruột với tôi không?
Đôi khi, tôi nghĩ con người thường hay làm tù nhân của chính mình đi từ dòng suy nghĩ tương phản nín nhịn trên sự suy tư qua nhiều dòng diễn tiến để đi đến một số định lý qua một lối thẳng, nhiều giai đoạn rồi từ đó tự giãi đáp cái ẩn số của phương trình
Từ đó tôi cũng ít gọi bác Thái. Cho đến một hôm cách đây vài tuần, tự nhiên trong sự suy nghĩ của tôi có Bác Thái. Tôi định sẽ gọi thăm bác nhưng trước khi gọi bác tôi lại gọi cho Đại tá T ở Oregon muốn hỏi xem bác Thái dạo này ra sao ?
Tiếng ĐT T. bên kia rõ mồm một : Ổng chết rồi chị ơi ! chết gần hai năm rồi . Nếu tôi nhớ không lầm thì ngày giỗ của ông ấy hôm nay hay vài ngày qua tôi không rõ
Mô Phật. Tôi sợ gần chết. Mới đó mà gần hai năm. Tôi lật đật vào Cell phone để delete tên của Bác trong contact list nhưng không biết tại sao tên và phone của Bác vẫn còn trong contact list cho đến bây giờ
Tôi nhớ lại lời bác Thái bảo tôi viết về lời bác nói. Tôi đã hoàn thành hôm nay để không còn mắc nợ ngừơi chết Tuy nhiên đối với tôi chuyện Đảng phái tôi chưa bao giờ cảm thấy hãnh diện để nghe, chỉ trừ khoảng thời gian hào hùng khí phách của 2 đảng Việt Nam QDĐ và Đại Việt Quốc dân đảng từ 1945-1955.
Sau này tìm hiểu thêm về thực trạng và nhu cầu kết hợp của các đảng phái tôi lại buồn hơn. Như đã có lần chúng tôi đã thưa cùng quí vị là sự ổn định của chính trị rất cần thiết để phát triễn xã hội hay nói rõ ra sự ổn định chính trị rất cần thiết cho sự giữ vững thành trì chống Cộng của Tập Thể Ngừơi Việt QG tại hải ngoại
Từ năm 1964- 1967 theo một thống kê cho biết Chính thể Đệ Nhị VNCH có đến 33 đảng phái trong 33 danh xưng có Phong Trào , Lực Lượng, Mặt Trận, Đảng , Khối Đoàn.
Hiện tượng đa đảng này trên chính trường lúc bấy giờ không thấy có những việc làm gì ích quốc lợi dân mà tệ trạng phân hóa càng ngày càng lên cao trên mục tiêu để "dành ghế" trong chính quyền.
Thậm chí có những nhà gọi là chính trị đảng phái cũng mom men đến cửa Chùa hay cổng nhà thờ nhờ oai lực của các vị lãnh đạo tôn giáo để có được những “cái ghế” này. Từ Khối Chùa Xá Lợi với Hội Phật Học Nam Việt rồi Việt Nam Quốc Tự, Ấn Quang miền Vĩnh Nghiêm đến Khối Công Giáo Chính trị cũng chia ra Lực Lượng Đại Đoàn Kết , Công Giáo Tiến Hành, Mặt Trận Công Dân Công Giáo vân vân và vân vân
Trong khi đó hai đảng kỳ cựu là Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng thì tình trạng phân hóa càng ngày càng tăng như Việt Nam Quốc Dân Đảng(VNQDĐ) trong thời kỳ này lại chia ra làm 10 hệ phái(*) như:
- VNQDD Trung Ương cả Tiến
- VNQDD Trung Ương Lâm Thời
- VNQDD Thống Nhất
- VNQDD Chủ Lực
- VNQDD Tân Chính
-VNQDĐ Xứ Bộ Miền Bắc
-VNQDĐ Xứ Bộ Miền Trung
-VNQDĐ Xứ Bộ Miền Nam
-VNQDĐ Biệt Bộ Nguyễn Tường Tam
-VNQDĐ Liên Tỉnh Miền Trung
Về phía Đại Việt đảng này cũng phân hóa thành 5 phe:
-Tân Đại Việt (Nguyễn Tôn Hoàn, Phan Thông Thảo, Nguyễn Ngọc Huy)
-Đại Việt Cách Mạng Đảng (Hà Thúc Ký, Hoàng Xuân Tửu)
-Đại Việt Nguyên Thủy(Trần Văn Xuân)
-Đại Việt Quan Lại (Phan Huy Quát, Đặng Văn Sung)
-Đại Việt Thống Nhất (Nguyễn Đình Luyện)
Ngoài ra, ở miền Nam có Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng gọi tắt là Dân Xã Đảng cũng chia thành 3 nhánh cùng tên đảng nhưng khác tên của lãnh tụ:
-Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng(Trình Quốc Khánh)
-Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng( Phạm Bá Cần)
-Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng( Trịnh Kim Cù)
Theo tài liệu chúng tôi đọc được của một tác giả xuất thân từ Trường Quốc Gia Hành Chánh VNCH thì ngoài 54 tên của đảng có khai báo còn có rất nhiều tổ chức đảng phái chính trị khác
Ra tới hải ngoại thì sự phân hóa này lại càng trầm trọng hơn. Một số thành viên chân chính của các đảng phái này tự cho mình là "kẽ dại" đã lặng lẽ đi vào nơi yên tĩnh để cho những người “khôn“đang tìm chủ nghĩa cơ hội vẫn ở chốn "lao xao". Có một lần tôi hỏi một vị sĩ quan của Quân Lực VNCH về đảng Đại Việt mà ông là đảng viên thì ông lắc đầu ngao ngán bảo tôi là đừng có hỏi nữa.
Bây giờ nói chuyện đảng phái giống như nồi cháo heo. Tự nhiên tôi cảm thấy vô cùng tiếc nuối như vừa vụt mất một bảo vật
Trong khi đó một số tự xưng là “con dòng cháu giống của VNQDĐ”, là lãnh tụ hải ngoại thì lại đi bắt tay với đảng Việt Tân là hậu thân của MTQGTNGPVN (Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam ( gọi nôm na mặt Trận Hoàng Cơ Minh) đã được thành lập tại cái nôi xôi đậu Bá Linh. Một đảng phái mà theo sự suy nghĩ của phần đông Người Tỵ nạn cs tại hải ngoại cho là ngoại vi của đảng csVN.
Chính sự suy nghĩ này mà người tỵ nạn cs tại hải ngoại đã nhìn những khuôn mặt tổ chức đảng phái như một hóa thân kỳ diệu của một dáng dấp liêu trai mờ mờ ảo ảo không có tượng hình.
Thật ra , người Việt tỵ nạn cs cũng có thể nhìn ra khuôn mặt của đảng phái nhưng ngoài sự phân hóa ra họ đã trở thành những con thuyền có bến nhưng đã quên con suối cội nguồn ,quên đi những dòng lịch sử oai hùng chuyễn tải những tinh thần đề kháng chống VGCS để biến hình thành dạng yêu ma theo phù thủy VGCS đọc bùa chú úm bà la úm bà la bán nước hại dân . Vì ẩn hiện mập mập mờ mờ qua những cương lĩnh đấu tranh đầu voi đuôi chuột đã làm người dân mất hết niềm tin
Trong khi người dân chỉ có một ước mơ thầm lặng duy nhất là được nhìn thấy một kết hợp giữa những cảm nhận, những cảm thấy của những trái tim VN tỵ nạn cs và không phải bị "ràng buột bên những biên cương thống khổ của đảng phái này hay đảng phái nọ"
Những ước mơ đó rất bình thường, rất giản dị nhưng lại vô cùng khó khăn khi cả tập thể người Việt tỵ nạn cs không đảng phái lại phải đối đầu với những con Ma đảng đang chập chờn ẩn hiện gây phân hóa trên sự ổn định của người dân mỗi ngày một trầm trọng.
Đó chính là những con Ma chưa chôn còn vật vờ trên dương thế nhưng đã chết tự lâu rồi trong lòng người Việt TỴ NẠN cs Tại Hải Ngoại.
Chúng tôi hy vọng rằng nếu những vị đảng viên chân chính của các chính đảng nên tìm một giãi pháp để ổn định lại sự sinh hoạt cho các đảng phái của mình trước hiễm họa của đảng csVN đang dọn đường để đưa dân tộc VN vào con đường diệt vong (có nghĩa là Dân Tộc hết sinh tồn). Còn hơn là tự chọn con đường tiêu cực để làm mai một tinh hoa của những nhà cách mạng đã lao tâm gầy dựng nên các chính đảng một thời.
Tôn Nữ Hoàng Hoa
20 tháng 11 năm 2012
Kính chị Hằng
Tôi cũng có liên quan chút chút với VNQDĐ nên có một vài thắc mắc nhờ chị cho biết .
Nhà văn Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912, quê ở làng Hảo, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nhưng ông sinh ra, lớn lên và mất tại Hà Nội. chết năm 1939. Vợ ông, bà Vũ Mỹ Lương, tên thường gọi là bà Gái, là con người vợ thứ tư của cụ Cửu Tích, một nhà tư sản có cửa hàng thuốc ở phố Hàng Bạc. Sau khi làm đám cưới vào ngày 23 tháng 1 năm 1938, hai vợ chồng đã cùng thuê nhà ở phố Hàng Bạc.
Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, để lại gia đình còn bà nội, mẹ đẻ, vợ và người con gái chưa đầy 1 tuổi tên là Vũ Mỹ Hằng.
Ngày 13 tháng 2 năm 1930, ông Vũ Hồng Khanh là một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng ở Kiến An (Hải Phòng) [1]. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài còn ông đào thoát sang Trung Hoa móc nối với các đồng chí tiếp tục hoạt động và trở thành lãnh đạo mới của Việt Nam Quốc dân đảng.
Năm 1942 tại Liễu Châu (Trung Hoa), Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ (Quốc dân đảng), Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân chính đảng), Nguyễn Hải Thần thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, thường được gọi tắt là Việt Cách.
Ngày 1 tháng 9 năm 1945, ông từ Côn Minh về nước qua ngả Mường Khương, vào Lào Cai.
Do cần phải hợp tác để đối phó với Việt Minh ngày 15 tháng 12 năm 1945 các đảng phái chống Việt Minh đã thống nhất thành lập một lực lượng gọi là Mặt trận Quốc dân Đảng. Vũ Hồng Khanh giữ chức Bí thư trưởng tổ chức này.
Ngày 2 tháng 3 năm 1946 ông tham gia Chính phủ liên hiệp kháng chiến và đảm nhận chức vụ Phó Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên hội (sau đổi là Ủy ban Kháng chiến). Ông cùng Hồ Chí Minh đã ký với Jean Sainteny Hiệp định sơ bộ 1946.
Tháng 7 năm 1946, xảy ra vụ án phố Ôn Như Hầu ở Hà Nội, lực lượng công an khám xét các trụ sở của Việt Nam Quốc dân đảng, phát giác nhiều vũ khí, truyền đơn hiệu triệu chống chính phủ (do Việt Minh dàn dựng). Tuy nhiên theo Việt Nam Quốc dân Đảng, trụ sở ở phố Ôn Như Hầu chỉ là một chỗ làm việc bình thường của Việt Nam Quốc dân Đảng bị tấn công trong lúc không nghĩ là mình sẽ bị tấn công và các đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng không có vũ khí nặng nào. Vũ Hồng Khanh và các lãnh đạo các đảng phái chống Việt Minh như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Trung Hoa.
Vậy thì ông Vũ Lăng con nhà văn Vũ Trọng Phụng và cứ cho là cháu ông Vũ Hồng Khanh làm thư ký và liên lạc viên cho ông Vũ Hồng Khanh lúc mấy tuổi vậy? 12, hay 13? Không lẽ VNQDĐ hết nhân sự rồi hay sao mà phải dùng trẻ con làm thư ký riêng, cán bộ giao liên cho Bí thư trưởng.
Chị có thể viết rõ thêm về đoạn này được không?
Trân trọng
Kim Âu
-
Chào chị TNHH,
1) Chúng tôi là những đảng viên kỳ cựu của VNQDĐ cùng lưu vong sang Trung hoa với ông Vũ Hồng Khanh sau khi đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị lên đoạn đầu đài tại Yên Báy. Chúng tôi xin khẳng định về hai đảng lớn duy nhất còn lại tại miền Nam Việt Nam sau năm 1954: VNQDĐ và Đại Việt. Đại Việt do ông Trương Tử Anh thành lập nhưng vào năm 1942 ông Trương tử Anh đã sang Trung Hoa xin gặp ông Vũ Hồng Khanh tại Vân Nam và xin được sát nhập Đại Việt với VNQDĐ và đã được ông Vũ Hồng Khanh chuẩn thuận để thống nhất làm một. Tại hải ngoại lúc bấy giờ vẫn giữ tên Việt Nam QDĐ, và ở trong quốc nội vẫn giữ tên Đại Việt bởi vì Đại Việt là danh xưng của tổ quốc Việt Nam lúc đó, Hoàng đế Bảo Đại vẫn xưng là Hoàng đế của Đại Việt. Anh Vũ Trọng Khanh tức Đại tá Vũ Lăng là cháu ruột của ông Vũ Hồng Khanh lúc bấy giờ đang sống lưu vong bên Trung Hoa vừa làm thơ ký riêng và vừa làm cán bộ giao liên cho cho ông Vũ Hồng Khanh và ông Nguyễn Hải Thần. Chính anh Vũ Trọng Khanh đã chứng kiến và ghi chép buổi họp giữa ông Vũ Hồng Khanh và ông Trương Tử Anh. Kể từ ngày đó VNQDĐ và ĐẠI VIỆT đã trở thành một.
2) Đến năm 1945 Trương Tử Anh bị Việt Minh giết và người kế nhiệm ông Trương Tử Anh là anh Lê Ninh nhưng không bao lâu sau anh Lê Ninh bị thủ tiêu và Đại Việt đã rẻ sang một lối khác với những người đảng viên thích quyền lực cho tới bây giờ.
3) VNQDĐ từ khởi thủy không hề có phân hóa cho nên không có những hệ phái như chị TNHH nêu ra trong bài viết dưới đây: Có MA không? VNQDĐ chỉ có một danh xưng là VNQDĐ thống nhất bởi vì sau khi tổ quốc Việt Nam bị Hồ Chí Minh bắt tay với Pháp để dành quyền cai trị và Hồ Chí Minh đã chấp nhân chia đôi đất nước ra làm hai quốc gia khác biệt về thể chế chinh trị cũng như hình thức cai trị nhân dân. Ở tại miền Bắc VN số đảng viên QDĐ vẫn còn những cơ sở hạ tầng chưa chạy được vào miền Nam từ năm 1945-1954.
4) Sau năm 1954 ông Vũ Hồng Khanh đã thống nhất Kỳ bộ miền Bắc do ông Vũ Hồng Khanh lãnh đạo với Xứ bộ miền Nam do ông Nguyễn Hòa Hiệp lãnh đạo. Sau khi thống nhất kỳ bộ miền Bắc với Xứ bộ miền Nam ông Vũ Hồng Khanh được bầu giữ chức vụ Bí thư trưởng của VNQDĐ thống nhất và ông Nguyễn Hòa Hiệp giữ chức vụ Bí thư Thường vụ và LS Trần Văn Tuyên giữ chức vụ Tổng Thư Ký. Sau khi đảng trưởng Nguyễn Thái Học bị Pháp giết tất cả các đảng viên của VNQDĐ cùng thời với ông Nguyễn Thái Học đã thề quyết không bầu ai vào chức vụ đảng trưởng nữa nhằm mục đích giữ vững lòng trung kiên với lý tưởng và ngọn cờ mà đảng trưởng Nguyễn Thái Học đã phất lên.
4) Ông Nguyễn Tường Tam có tham vọng riêng và chưa bao giờ là đảng viên của VNQDĐ. Chỉ có ông Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long là đảng viên trung kiên của VNQDĐ.
5) Khi ra tới Hải ngoại chúng tôi đã biết có những kẻ tự xưng là VNQDĐ và đã làm những điều xấu xa chỉ vì những tham vọng hảo huyền. Những người này không hề biết đến những hy sinh lớn lao của những bậc tiền bối. Chúng tôi tin rằng một viên ngọc dù cho có vỡ nát thì giát ngọc vẫn trong. Một cục đất sét dù cho có vo ve thành viên ngọc thì đất sét vẫn hoàn đất sét. Vài hàng thân kính gởi đến chị TNHH, một người phụ nữ có nhiều tâm huyết với chiều dài và bề dày của Lịch sử đầy máu và nước mắt của tiền nhân. Chúng tôi rất trân trọng và quý mến chị.
DuongThiPhuongHang 1476 & Đại tá Vũ Lăng
Dạ xin cảm ơn chị DTPH đã bổ khuyết
Kính
TNHH
Chào chị TNHH,
Một trong 3 lãnh tụ của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng là Trương Kim Cù chứ không phải Trịnh Kim Cù.
DuongThiPhuongHang 1476
Nhưng có một cái gì đó từ trong mộng hay thoáng trong thực đánh thức mình dậy trong một giấc ngủ dài hoặc một chút lành lạnh chạy từ ót đến cuối đừơng xương sống thì cho dù cả trong mộng hay trong thực cũng gờn gợn lên hình ảnh của Ma. Vì cái ý nghỉ mênh mông vượt lên trên mọi thứ tiếng nói không hạn chế, vụt chốc thóang lên cao, bay bổng ra ngoài mọi toan tính cân đo của con người cùng bao nhiêu màu sắc biến hiện phát ra từ lân tinh gọi hồn xương cốt mà con người có thể gọi đó là Ma
Chuyện của tôi không nằm trong sự chết có linh hồn mà trong cái nghiệt ngã không có sự luân chuyễn di động của một người quen vừa mới chết
Hai hay ba năm trước Đại tá T. ở Oregon có gọi cho tôi và yêu cầu tôi gọi cho bác Đoàn Thái vì bác Thái muốn nói chuyện với tôi.
Tôi gọi bác Thái. Trong khoảng thời gian này tình trạng sức khỏe của bác Thái cũng không khả quan lắm. Bác nói với tôi về Đảng Đại Việt của Bác và chê trách ông Hà Thúc Ký tại sao lại giao Đại Việt cho ông Bùi Diễm mà theo bác Thái Bùi Diễm là một tên Việt gian
Bác Thái bảo với tôi là bác đã theo dõi bài viết của tôi từ ngày chúng tôi chủ trương Tạp Chí Gọi Nhau (1989). Bác khích lệ tôi đã chịu khó học hỏi nên đã tiến tời nhiều trong việc viết văn. Tôi cảm ơn lời khích lệ của bác và cũng không quên nói cho bác Thái biết là tôi không thích tham gia và tham dự vào chuyện của các đảng phái. Trong ý nghĩ đơn giãn của tôi từ khi hiểu biết chuyện nước non thì hình thức 2 chữ Đảng phái đồng nghĩa với 2 chữ phân hóa
Bác Thái không cần biết tôi thích nghe hay không, bác vẫn nói và còn bảo tôi là : Tôi nói cho cô biết để sau này tôi chết đi cô viết cho tôi một bài
Tôi nghe lời bác Thái nói mà bỗng tức cười cho tôi là đã trở thành Công Ty Viết hồi nào mà lại đang nhận phiếu đặt hàng. Bác Thái bên kia dòng điện thoại nhắc tôi có nghe không mà sao im lìm quá vậy? Dạ cháu đang nghe xin bác nói tiếp
Bác Thái lại nói tiếp trong khi đó tôi nghe lời bác Thái gái bên cạnh nhắc nhở bác từ từ kẽo ngột thở.
Mô Phật ! tôi lạnh toát cả người cho nên tôi để bác Thái nói hết mà không dám xen vào
Bác chê trách ông Hà Thúc Ký bởi cái lý do là ông Ký đã đưa Đảng Đại Việt cho VG Bùi Diễm. Bác bảo Đại Việt cách Mạng Đảng là do ông Trương Tử Anh sáng lập với Cương Lĩnh Dân Tộc Sinh tồn gồm có 3 sứ bộ Bắc Kỳ Trung kỳ và Nam Kỳ. Trung Kỳ do ông Bửu Hiệp nắm, Nam Kỳ là do ông Nguyễn Hòa Hiệp Khi ông Bửu Hiệp chết thì ông Hà Thúc Ký tự động lên thay thế .
Còn ông Bùi Diễm lúc bấy giờ tự xưng là Đại Việt Quan Lại. Bác Thái bảo là ông HTK xách ông Bùi Diễm về làm chủ tịch là từ nguyên nhân buôn bán Computer của ông Hoàng Tuấn. Ông Tuấn mách mối cho ông Ký và ông Ký mời gọi ông Bùi Diễm hùn với ông Tuấn mỗi người $50,000 đô la. Bác Thái còn nói lúc đó có mời cố TT Thiệu nhưng ông Thiệu từ chối. Sau này ông Tuấn cho ông Ký và ông Bùi Diễm cả triệu đô la chia nhau. Đó là lý do ông Bùi Diễm nhảy vào làm chủ tịch. Trong khi đó người mà bác Thái quí mến nhất là BS Hồ Văn Châm. Bác nói tại sao ông Ký không đưa cho ông Châm mà lại đưa cho tên VG Bùi Diễm ?
Bác Thái còn nói đến chuyện chiến khu Ba Lòng cùng chuyện Đại Tá Huỳnh Văn Tồn cứu ông Hà Thúc Ký
Tôi nghe xong rồi cũng quên. Nhất là khi Bác Thái nói về ông Hà Thúc Ký mà không biết bác Thái có biết là anh Hà Thúc Ký là anh em cô cậu ruột với tôi không?
Đôi khi, tôi nghĩ con người thường hay làm tù nhân của chính mình đi từ dòng suy nghĩ tương phản nín nhịn trên sự suy tư qua nhiều dòng diễn tiến để đi đến một số định lý qua một lối thẳng, nhiều giai đoạn rồi từ đó tự giãi đáp cái ẩn số của phương trình
Từ đó tôi cũng ít gọi bác Thái. Cho đến một hôm cách đây vài tuần, tự nhiên trong sự suy nghĩ của tôi có Bác Thái. Tôi định sẽ gọi thăm bác nhưng trước khi gọi bác tôi lại gọi cho Đại tá T ở Oregon muốn hỏi xem bác Thái dạo này ra sao ?
Tiếng ĐT T. bên kia rõ mồm một : Ổng chết rồi chị ơi ! chết gần hai năm rồi . Nếu tôi nhớ không lầm thì ngày giỗ của ông ấy hôm nay hay vài ngày qua tôi không rõ
Mô Phật. Tôi sợ gần chết. Mới đó mà gần hai năm. Tôi lật đật vào Cell phone để delete tên của Bác trong contact list nhưng không biết tại sao tên và phone của Bác vẫn còn trong contact list cho đến bây giờ
Tôi nhớ lại lời bác Thái bảo tôi viết về lời bác nói. Tôi đã hoàn thành hôm nay để không còn mắc nợ ngừơi chết Tuy nhiên đối với tôi chuyện Đảng phái tôi chưa bao giờ cảm thấy hãnh diện để nghe, chỉ trừ khoảng thời gian hào hùng khí phách của 2 đảng Việt Nam QDĐ và Đại Việt Quốc dân đảng từ 1945-1955.
Sau này tìm hiểu thêm về thực trạng và nhu cầu kết hợp của các đảng phái tôi lại buồn hơn. Như đã có lần chúng tôi đã thưa cùng quí vị là sự ổn định của chính trị rất cần thiết để phát triễn xã hội hay nói rõ ra sự ổn định chính trị rất cần thiết cho sự giữ vững thành trì chống Cộng của Tập Thể Ngừơi Việt QG tại hải ngoại
Từ năm 1964- 1967 theo một thống kê cho biết Chính thể Đệ Nhị VNCH có đến 33 đảng phái trong 33 danh xưng có Phong Trào , Lực Lượng, Mặt Trận, Đảng , Khối Đoàn.
Hiện tượng đa đảng này trên chính trường lúc bấy giờ không thấy có những việc làm gì ích quốc lợi dân mà tệ trạng phân hóa càng ngày càng lên cao trên mục tiêu để "dành ghế" trong chính quyền.
Thậm chí có những nhà gọi là chính trị đảng phái cũng mom men đến cửa Chùa hay cổng nhà thờ nhờ oai lực của các vị lãnh đạo tôn giáo để có được những “cái ghế” này. Từ Khối Chùa Xá Lợi với Hội Phật Học Nam Việt rồi Việt Nam Quốc Tự, Ấn Quang miền Vĩnh Nghiêm đến Khối Công Giáo Chính trị cũng chia ra Lực Lượng Đại Đoàn Kết , Công Giáo Tiến Hành, Mặt Trận Công Dân Công Giáo vân vân và vân vân
Trong khi đó hai đảng kỳ cựu là Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng thì tình trạng phân hóa càng ngày càng tăng như Việt Nam Quốc Dân Đảng(VNQDĐ) trong thời kỳ này lại chia ra làm 10 hệ phái(*) như:
- VNQDD Trung Ương cả Tiến
- VNQDD Trung Ương Lâm Thời
- VNQDD Thống Nhất
- VNQDD Chủ Lực
- VNQDD Tân Chính
-VNQDĐ Xứ Bộ Miền Bắc
-VNQDĐ Xứ Bộ Miền Trung
-VNQDĐ Xứ Bộ Miền Nam
-VNQDĐ Biệt Bộ Nguyễn Tường Tam
-VNQDĐ Liên Tỉnh Miền Trung
Về phía Đại Việt đảng này cũng phân hóa thành 5 phe:
-Tân Đại Việt (Nguyễn Tôn Hoàn, Phan Thông Thảo, Nguyễn Ngọc Huy)
-Đại Việt Cách Mạng Đảng (Hà Thúc Ký, Hoàng Xuân Tửu)
-Đại Việt Nguyên Thủy(Trần Văn Xuân)
-Đại Việt Quan Lại (Phan Huy Quát, Đặng Văn Sung)
-Đại Việt Thống Nhất (Nguyễn Đình Luyện)
Ngoài ra, ở miền Nam có Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng gọi tắt là Dân Xã Đảng cũng chia thành 3 nhánh cùng tên đảng nhưng khác tên của lãnh tụ:
-Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng(Trình Quốc Khánh)
-Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng( Phạm Bá Cần)
-Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng( Trịnh Kim Cù)
Theo tài liệu chúng tôi đọc được của một tác giả xuất thân từ Trường Quốc Gia Hành Chánh VNCH thì ngoài 54 tên của đảng có khai báo còn có rất nhiều tổ chức đảng phái chính trị khác
Ra tới hải ngoại thì sự phân hóa này lại càng trầm trọng hơn. Một số thành viên chân chính của các đảng phái này tự cho mình là "kẽ dại" đã lặng lẽ đi vào nơi yên tĩnh để cho những người “khôn“đang tìm chủ nghĩa cơ hội vẫn ở chốn "lao xao". Có một lần tôi hỏi một vị sĩ quan của Quân Lực VNCH về đảng Đại Việt mà ông là đảng viên thì ông lắc đầu ngao ngán bảo tôi là đừng có hỏi nữa.
Bây giờ nói chuyện đảng phái giống như nồi cháo heo. Tự nhiên tôi cảm thấy vô cùng tiếc nuối như vừa vụt mất một bảo vật
Trong khi đó một số tự xưng là “con dòng cháu giống của VNQDĐ”, là lãnh tụ hải ngoại thì lại đi bắt tay với đảng Việt Tân là hậu thân của MTQGTNGPVN (Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam ( gọi nôm na mặt Trận Hoàng Cơ Minh) đã được thành lập tại cái nôi xôi đậu Bá Linh. Một đảng phái mà theo sự suy nghĩ của phần đông Người Tỵ nạn cs tại hải ngoại cho là ngoại vi của đảng csVN.
Chính sự suy nghĩ này mà người tỵ nạn cs tại hải ngoại đã nhìn những khuôn mặt tổ chức đảng phái như một hóa thân kỳ diệu của một dáng dấp liêu trai mờ mờ ảo ảo không có tượng hình.
Thật ra , người Việt tỵ nạn cs cũng có thể nhìn ra khuôn mặt của đảng phái nhưng ngoài sự phân hóa ra họ đã trở thành những con thuyền có bến nhưng đã quên con suối cội nguồn ,quên đi những dòng lịch sử oai hùng chuyễn tải những tinh thần đề kháng chống VGCS để biến hình thành dạng yêu ma theo phù thủy VGCS đọc bùa chú úm bà la úm bà la bán nước hại dân . Vì ẩn hiện mập mập mờ mờ qua những cương lĩnh đấu tranh đầu voi đuôi chuột đã làm người dân mất hết niềm tin
Trong khi người dân chỉ có một ước mơ thầm lặng duy nhất là được nhìn thấy một kết hợp giữa những cảm nhận, những cảm thấy của những trái tim VN tỵ nạn cs và không phải bị "ràng buột bên những biên cương thống khổ của đảng phái này hay đảng phái nọ"
Những ước mơ đó rất bình thường, rất giản dị nhưng lại vô cùng khó khăn khi cả tập thể người Việt tỵ nạn cs không đảng phái lại phải đối đầu với những con Ma đảng đang chập chờn ẩn hiện gây phân hóa trên sự ổn định của người dân mỗi ngày một trầm trọng.
Đó chính là những con Ma chưa chôn còn vật vờ trên dương thế nhưng đã chết tự lâu rồi trong lòng người Việt TỴ NẠN cs Tại Hải Ngoại.
Chúng tôi hy vọng rằng nếu những vị đảng viên chân chính của các chính đảng nên tìm một giãi pháp để ổn định lại sự sinh hoạt cho các đảng phái của mình trước hiễm họa của đảng csVN đang dọn đường để đưa dân tộc VN vào con đường diệt vong (có nghĩa là Dân Tộc hết sinh tồn). Còn hơn là tự chọn con đường tiêu cực để làm mai một tinh hoa của những nhà cách mạng đã lao tâm gầy dựng nên các chính đảng một thời.
Tôn Nữ Hoàng Hoa
gần 40 tuổi, phải già, phải via tông-keng bằng tôi, anh không thể trẻ đến như thế.
Lần gặp Vũ Trọng Khanh ở Sài Gòn, tôi không tin anh là con Nhà Văn Vũ Trọng Phụng nhưng tôi chẳng bắt bẻ anh làm gì. Tại sao lại cố ý moi móc để chứng tỏ người ta nhận vơ ? Mà người ta nhận vơ người ta là con ông Nhà Văn sì đã nàm thao? Hại gì ai ? Nhà văn Vũ Trọng Phụng có nổi tiếng, có được người đời trọng mến, mới có người nhận là con. Ở đời thiếu gì anh con từ bố, chối bố hay xấu hổ khi có ai nói anh là con của ông bố anh.
Những năm 2000, 2001, ở Kỳ Hoa Đất Trích, tôi nghe nói :
- Ở San José có người nhận là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, tên là Vũ Trọng Khanh.
Tôi nghe qua rồi bỏ. Tự nhiên tôi không tin nhân vật Vũ Trọng Khanh San José 2000 là nhân vật Vũ Trọng Khanh tôi gặp năm 1975, 1976 trên vỉa hè đường Gia Long, Sài Gòn. Lại một vụ nhận vơ.. ! Mà người ta nhận vơ sì đã nàm thao?
Ngày tháng qua đi..Tháng 2 năm 2008, liêu lạc ở Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích, tôi gặp lại cái tên Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh tôi thấy ở Kỳ Hoa năm 2008 không phải là anh thanh niên Bắc Kỳ đẹp trai Vũ Trọng Khanh tôi gặp ở Sài Gòn cuối năm 1975 hay đầu năm 1976. Như vậy : trước sau, trong vòng 40 năm, tôi thấy cuộc đời này có hai ông Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh thứ nhất tôi được gặp, được nói chuyện ở Sài Gòn năm 1975 không có chức vụ, không cấp bậc gì cả, ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tôi chỉ được nhìn thấy dung nhan trên màn hình Internet trong cuộc phỏng vấn của Hệ Thống Truyền Thông SBTN. Ông Vũ Trọng Khanh San José 2008 được SBTN giới thiệu bằng cái tên có chức vị quân đội là Đại Tá Vũ Lăng.
Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San José 2008 trạc Sáu Bó tuổi đời, bận quân phục, tôi nhìn không rõ đó là quân phục Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa hay quân phục Quân Đội Hoa Kỳ. Ông có vẻ đau yếu, dường như ông ngồi không vững, ông nói khó khăn, ông có bà vợ trẻ ngồi bên đỡ lời, nói dùm. Trong cuộc phỏng vấn ông nói ba, bà nói bẩy. Chuyện kỳ lạ là, như tôi đã viết trên đây, gần như tất cả những người Việt Nam từng đọc tiểu thuyết của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, từng biết, dù biết ít, biết lơ mơ, về đời tư của Nhà Văn, đều biết Nhà Văn không có con trai, nhưng ký giả SBTN – không lẽ không biết – không đặt câu hỏi :
- Có gì chứng minh ông là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ?
Ký giả phỏng vấn, dường như tên là ông Tường Thắng, phăng phăng la tuy-líp coi người được phỏng vấn đúng là ông con của Nhà Văn.
Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San Jose, và bà vợ, kể nhiều chuyện kỳ cục quá đỗi là kỳ cục. Không những chỉ kỳ cục, đó còn là những chuyện dựng đứng. Không chỉ chuyện dựng đứng thường mà là chuyện dựng đứng năm chăm phầm chăm. Tôi nghe chuyện ông bà kể mà chịu hổng có nổi. Tôi kể lại những lời ông bà nói như sau, tất nhiên tôi chỉ kể đại khái thôi, tôi không thể kể hết hay kể thật đúng những lời ông bà nói, nhưng tôi kể không sai.
Ông Đại Tá Vũ Lăng kể ông bị bọn Bắc Cộng bắt sống, giam tù 22 năm ở Bắc Việt, năm 1982 ông trở về Sài Gòn, năm 1985, 1986 ông vượt biên bằng đường bộ sang Thái Lan, người ta đón ông sang Hoa Kỳ. Trong thời gian chịu tù đày ở Bắc Việt, ông bị bọn Cai Tù Bắc Cộng tra tấn, chúng đánh ông thủng hai lỗ ở đầu, rút hết 10 móng tay ông.
Ông kể :
- Lúc đầu Bộ Trưởng Công An Bùi Thiện Ngộ và Thiếu Tướng Công An Dương Thông hỏi cung tôi, rồi đến ông Đại Tá Bùi ... [tiếp theo]
bị Phản Gián P 25 nó tó vì tội « âm mưu cưa ghế chính quyền nhân rân » . Hai anh em ông cùng nằm phơi rốn trong Nhà Tù Chí Hòa. Tôi, qua điện thoại, hỏi ông Trần Tử Thanh về chuyện ông Đại Tá Vũ Lăng San José nói bà mẹ ông ta là em gái Cố Luật sư Trần Văn Tuyên, tức là bà cô ruột của ông, và như dzậy Đại Tá Vũ Lăng Vũ Trọng Khanh San José là anh em con cô, con cậu với ông, ông Trần Tử Thanh cũng đã biết về cuộc phỏng vấn của SBTN, ông kêu :
- Làm gì có chuyện đó. Bà vợ ông Vũ Trọng Phụng đâu phải là em ông cụ tôi. Gia phả giòng tộc nhà tôi không có ai tên như vậy cả. Hoàn toàn bịa đặt ! Anh em chúng tôi sẽ phải lên tiếng về vụ này.
Ông Trần Tử Thanh gửi cho tôi bức thư ngỏ :
THƯ NGỎ
Đồng kính gửi :
- Các cơ quan truyền thông, truyền hình, báo chí, các mạng Internet.
- Quí vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, quí vị chủ tịch các đảng phái quốc gia, quí vị Chủ Tịch Công Đồng, các Tổ Chức, Hội Đoàn người Việt Quốc Gia tại hải ngoại.
- Bà con thân thuộc và Bằng Hữu của Gia Đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Mới đây trong cuộc phỏng vấn kéo dài 4 phần trên Đài Truyền Hình SBTN ở Quận Cam và được báo Việt Nam Exodus đưa lên mạng, có một người xưng là Vũ Trọng Khanh, tự Vũ Lăng, Cựu Đại Tá QLVNCH, tốt nghiệp Khóa 4 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt ( ? ), con của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ( ? ) – không hiểu vì lý do gì - đã mạo nhận là cháu của Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Vì sự việc có liên quan đến thân phụ và giòng tộc chúng tôi, chúng tôi xin minh xác :
1 – Họ và tên người này nêu ra trong cuộc phỏng vấn để chứng minh liên hệ với gia đình Luật Sư Trần Văn Tuyên là hoàn toàn xa lạ với gia đình chúng tôi và không có trong gia phả của giòng họ Trần.
2 – Những sự kiện liên quan đến thân phụ chúng tôi là những sự kiện hoàn toàn bịa đặt một cách trắng trợn.
Tất nhiên khi tạo dựng những sự kiện nêu trên, người được phỏng vấn hẳn có mưu đồ đen tối nào đó.
Vì vậy, chúng tôi xin gửi bức thư ngỏ này thông báo tới toàn thể bà con trong gia tộc, các bằng hữu quen biết gia đình chúng tôi, cùng mọi giới để cảnh giác đề phòng và tránh mọi ngộ nhận trong tương lai.
Thay mặt gia đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Luật Sư Trần Tử Huyền, Trưởng Nam.
California, ngày 17 Tháng Hai năm 2008.
*
Trước năm 1975 giới ca-ve Sài Gòn có cô Lan, biệt hiệu Lan Khùng, nói cô là con ông Nhà Văn Lê Văn Trương. Năm 1980 ở Sài Gòn có ông Lê Khiêm nhận là con Nhà Văn Lê Văn Trương.
Năm 1990 ở Hà Nội có ông Mạc Can, ông này viết tiểu thuyết, nghe nói là con Nhà Văn Lê Văn Trương.
Năm 1976 ở Sài Gòn Cờ Đỏ tôi gặp người xưng tên là Vũ Trọng Khanh, nhận mình là con trai ông Nhà Văn Vũ Trọng Phụng.
Năm 2008 ở Kỳ Hoa, tôi thấy ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tự nhận mình là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng. Ông Vũ Trọng Khanh San José còn tự nhận ông là Đại Tá và là cháu ruột Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Tôi đã kể những gì tôi biết về nhân vật Vũ Trọng Khanh. Xin để quí vị nhận định về vụ này.
CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG
Subscribe to:
Posts (Atom)
No comments:
Post a Comment