Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 1 December 2016

THƠ*TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN= HÀ THỊ CẦU=

Wednesday, March 20, 2013


THANH THANH * LỆ CHÂU

      LỆ CHÂU

Đã mấy thu rồi, hả bể dâu ?
Những hình bóng cũ nay về đâu ?
Có ai đốt lại lò hương ấy
Mà nhớ vô cùng, hỡi Lệ Châu !
Ta nhớ em như nhớ tháng ba (1):
Ngày giờ có đó, nghĩ không ra!
Chính ta chẳng hiểu mơ hay tỉnh;
Ta ở đây mà nhớ chính ta!
(1) 29/03/1975: Đà Nẵng (thủ-phủ Miền Trung) thất-thủ.
Ta nhớ ta là một tiếng im,
Con thuyền không bến, máu không tim,
Không hoa cho một làn hương quyện,
Không tổ nương nhờ một cánh chim!
Ta có đầu ta – một thánh-thư:
Biết đường, đâu ngại ngã ba, tư!
Lòng ta có lửa mà không bếp,
Như thiếu trùng dương cho hải-ngư!
Thiếu một thần-giao, một cảm-thông;
Đời không tri-kỷ, không tâm đồng;
Bơ-vơ như trận kình-nghê-chiến:
Biển cả tung-hoành một lão-ông!
Rồi bỗng đâu đây giữa gió khơi
Có em bỗng gọi, có ta "ơi!"
Thuyền như nhắm bến, chim tìm tổ,
Đêm muốn hừng đông, hận muốn vơi ...
Em đến – gần mà như muôn trùng,
Không tên, không lấy cả hình dung...
Nhưng em đã đến, bằng xương thịt,
Đã sưởi lòng ta ...  ấm la.-lùng!
Em có là tiên... hay là... ma
Thì em cũng đã có yêu ta!
Tình em là một nguồn thi-hứng:
Bút rỉ mười năm... lại nở hoa!
Em đã theo ta mỗi bước chân,
Hòa trong hơi thở, nhập trong gân!
Có em là bạn... nên từ đó
Ta có niềm vui tự bản-thân...
Nhưng, bỗng tư bề nổi bão đêm:
Kình-ngư còn lại bộ xương lem!
Đất thành hoang đảo! dân thành rợ!
Ngư-phủ vào tù, lạc dấu em...
Nỗi nước khôn khuây, lại nỗi nhà,
Nỗi mình khắc-khoải một mình ta!
Bao nhiêu kỷ-niệm vào tro bụi
Như những kê vàng, quá-khứ xa ...
Ôi! Những ngày xanh, những ước mơ
Tan như ảo-ảnh mống trời mưa!
Thời-gian liệm lấp vào quên-lãng
Những mộng vàng son hóa mộng hờ!
Rồi có hôm nào như hôm nay:
Gió nào gợn sóng, lá nào bay ...
Cho ta gợi lại trong tâm-tưởng
Một thoáng ân-tình, thoáng rượu say ...
           Trại Kho Đạn (Đà Nẵng), 1980-81
                    THANH-THANH
(tạp-chí "Cỏ Thơm" [Reston, VA. USA] số 62 Mùa Xuân 2013)




THƠ






 NHỚ EM GÁI Ở BERLIN
     (Tặng :em Mỹ)
           -----
"Hôm nay mùng 8 thàng 3
Tôi giặt hộ Bà cái áo của Tôi"  
      -Ca dao mới
              *
Cứ tưởng là "đi Tây"
Thì "đổi đời : sung sướng !
-Mất cả chồng, cả con
lấy cuộc đời vất vưởng...
  Tường Berlin sụp xuống
   Hóa công dân hạng hai
  "Thất nghiệp" ăn trợ cấp
  "Chạy chợ" trốn lủi hoài
Quê hương xứ Mặt trời
Sang lặn lội xứ Tuyết
Tóc xanh đã bạc rồi
Ngày về xa biền biệt...
  Mẹ cha nghèo đã chết
  Anh chị cũng đã già
  Thương một cô em gái 
  Lủi thủi phương trời xa.
      Quê Bắc Ninh, gần ngày 8-3-2013
             Nguyễn Khôi


 


Di Chúc Nhau
Thân em mười hai bến nước
Thân tôi cũng bến nước hàng trăm
Thôi thì một trăm mười hai miếng vải nhăn
May làm một, đấp chung chăn đời này
...
Thân em như tấm lụa đào
Thân tôi như mãnh vải bao bố tời
Thôi thì hai mãnh lứa đôi
Làm hai áo gối gác hờ bên nhau!

Thân em bảy nổi ba chìm
Thân tôi chục cái linh đinh hang hầm
Thôi thì hai đứa hai thân
Gộp chung làm một nợ nần cho vui!

Một mai hai đứa hết...xui
Mình xây kim tỉnh lại ...vùi tro nhau!

NGHIÊU MINH
http://youtu.be/iwCuuvpH60Y

Tuesday, March 19, 2013


TRẦN ĐỖ CUNG * CHUYỆN VƯỢT BIỂN

Những Chuyện Vượt Biển ĐôngTrần Đỗ Cung, C/N 2010/03

Sau biến cố thê thảm tháng 04/1975 dân chúng thấy rõ sự dã man độc ác của Việt Cộng. Những người không may mắn ở lại cố gắng thích ứng với tình thế trước cảnh chướng mắt của một lũ mán rừng kiêu căng đầu đội nón cối đi hôi của. Rồi những chỉ thị của ban quân quản Sài Gòn về đổi tiền, tem phiếu, đi kinh tế mới, trình diện cải tạo học tập đã làm cho nhiều gia đình tìm đường đào thoát. Có những người len lỏi đường bộ gian truân hướng về biên giới Cao Mên qua Thái Lan. Phần đông chọn đường bể chạy dài hàng ngàn cây số mà Việt Cộng chưa kiểm soát nổi.

Danh từ Thuyền Nhân chỉ hàng vạn người Việt Nam đã liều mình chạy trốn sự cai trị tàn ác của Việt Cộng trên những con thuyền bé nhỏ mỏng manh vượt biển và sóng gió, hy vọng tìm đến bờ bến tự do. Nhiều gia đình đã bỏ mạng trong khi các gia đình khác đến được các xứ Đông Nam Á để thấy là chỉ được tạm dung. Ngoài ra bọn Việt Cộng lợi dụng tình thế đặt ra vụ đi bán chính thức với mục đích trục xuất người Việt gốc Hoa, cướp tài sản của họ và thu vàng cho họ ra bể rồi để mặc cho sóng gió. Theo ước tính thì khoảng 50 % số người thoát ra khơi đã chết trên bể vì sóng gió. Bao nhiêu người chết thảm vì thuyền bị hải tặc Thái luân phiên cướp rồi dìm đắm. Nhiều phụ nữ và gái trẻ bị hãm hiếp xong rồi bị tụi hải tặc giết phi tang hay bị bán cho các ổ chứa điếm Thái Lan. Hoa Kỳ, Gia Nã Đại và nhiều nước Âu Tây đã đón nhận hầu hết các thuyền nhân trong những năm 1975-1980 khi thảm cảnh thuyền nhân đã đánh thức lương tâm nhân loại. Từ 1975 đã có 840 ngàn người Việt đến được các nước Đông Nam Á và Hồng Kông, trong số đó hơn 755 ngàn đã định cư tại các nước Âu Mỹ.

Trong số các con thuyền định mệnh, cá nhân tôi được biết vài trường hợp đại bất hạnh. Ông Nguyễn Huy Minh là dược sĩ khá giả có công ty dược phát đạt và nhà là một biệt thự sang trọng trên đường Pasteur. Minh là bạn học tôi ở Lycée Khải Định và là em ruột giáo sư Triết nổi tiếng Nguyễn Huy Bảo của trường. Tôi đã gặp anh hai tuần trước khi Việt Cộng vào Sài Gòn lúc tôi đã cho được vợ con đi lậu đến Clark Field. Anh cho tôi biết đang đóng tầu sửa soạn hải hành và mời tôi nếu cần có thể cùng đi. Về sau tôi được biết thuyền anh đã bị đắm cả gia đình mất xác, có thể do sóng gió và cũng có thể vì tài sản anh đem theo.

Một trường hợp éo le khác là gia đình vợ chồng cháu Liên Châu con gái thứ nhì của Liên-Thuật. Vợ chồng cháu cùng hai cháu bé sửa soạn gọn nhẹ cho chuyến ra khơi với một nhóm khác. Lúc đến bãi thì vì động chiếc thuyền lớn vội rời bến. Anh chồng là Dược Sĩ Hoàn trên Đà Lạt vội nhẩy lên nắm kịp thang mạn thuyền trong khi cháu gái bé được một người bạn giúp tung lên sàn tầu. Liên Châu sợ hãi, tay bế con nhỏ lúng túng đã để rớt con xuống bãi nên vội vã bỏ tay tụt xuống túm lấy con. Trong khi ấy chiếc thuyền từ từ ra khơi nên hai mẹ con bị bỏ rơi lại nhìn theo chồng con đi lòng đau như cắt để vào tù Việt Cộng trong vài tháng.

Tôi phải kể trường hợp may mắn của Trần Huy Tuấn là cháu ruột của tôi, con nhỏ em thứ năm của tôi tên là Trần Đỗ Lộc. Cháu Tuấn 14 tuổi được cho xuống Rạch Giá đi theo một gia đình vượt biển năm 1978. Khi ra khơi cháu coi như một cuộc đi chơi kỳ thú và không có tý quan niệm về sự nguy hiểm sẽ xẩy đến. Đi được ít ngày thì có vấn đề, con thuyền mỏng manh bị nước tràn vào và vỡ tan. Huy Tuấn vớ được một tấm ván và cứ thế nổi trên mặt bể, vớt rong biển nhai cầm hơi. Bỗng nhiên chiếc tầu thám thính South Cross Mỹ nhìn thấy và vớt cháu lên kịp. Tuấn được đưa vào Singapore, ở khách sạn của Hải Quân và vì nhớ thuộc lòng địa chỉ của tôi nên đã liên lạc được với tôi cấp kỳ qua Navy Postal Office. Chúng tôi bảo đảm cháu về Monterey đi học và hiện tại cháu đã thành công với hãng Google.

Còn phải kể sự bất hạnh thật vô duyên của gia đình dược sĩ Quản Trọng Lạng. Sửa soạn kỹ lưỡng cho chuyến vượt biển, gia đình đã ra đi trót lọt ngoại trừ những lo âu phải có khi rời bến. Khi đến bờ Mã Lai Á và thuyền cập bến thả neo thì ông dược sĩ quá mừng vội nhẩy xuống nước. Chẳng may rơi vào một hũng sâu anh ta bị hụt cẳng chết đuối trước sự chứng kiến của vợ con.

Trong những trường hợp vượt bể thành công sau nhiều ngày hiểm nguy tính mạng phải kể đến gia đình anh Nguyễn Đình Cường một giáo sư trung học trên Đà Lạt. Tôi gặp anh Cường lần đầu tiên năm 2004 nhân đi dự buổi giỗ tổ thuộc giòng họ Nguyễn Đình của nhà tôi dưới Nam California. Mới biết anh Cường có vai vế trên trong họ và thành trưởng tộc Nguyễn Đình tại xứ Mỹ. Tuy anh còn trẻ nhưng là một người hoạt bát và năng động đa tài, ngâm thơ và văn nghệ đầy đủ. Tôi được biết thêm về chuyến vượt bể tìm tự do đầy gian khổ của gia đình anh. Câu chuyện được viết gọn theo lời kể của anh, một câu chuyện có thể tiêu biểu cho mọi chuyến vượt biển thành công đến đất này.

Anh nói : “chúng tôi phải dự nhiều lớp chính trị để bị nhồi nhét lý thuyết cộng sản và Mác-Xít. Mỗi kỳ nghỉ hè sau khi học xong trong bốn tuần lễ chúng tôi phải viết phúc trình về những điều chúng tôi đã học để được chấm điểm. Ngoài ra tình hình kinh tế mỗi ngày mỗi tồi tệ, trong hoàn cảnh như vậy đâu có khác gì sống trong địa ngục. Bởi vậy chúng tôi phải tìm đường thoát ra khi có cơ hội".

Anh Cường có một số bạn tại vùng Cao Nguyên Đà Lạt, cách xa Sài Gòn 300 cây số về hướng Bắc. Các bạn đang dự tính đào thoát chung nhau mua bí mật một chiếc thuyền đánh cá bỏ neo trên một nhánh sông Mékong. Nếu công việc bại lộ thì tất nhiên sẽ bị công an còng tay đưa vào xà lim. Tất cả nhóm là 16 người gồm 5 phụ nữ, 10 đàn ông và con nhỏ của anh mới 27 tháng. Đêm 27/06/1977 họ nhổ neo đi về hướng Đông Nam để đến Mã Lai.

"Con thuyền đánh cá nhỏ bé của chúng tôi chỉ dài có 9 thước và bề ngang có hai thước rưỡi. Trang bị một động cơ mười mã lực thì làm sao ra biển được ? Tuy nhiên người ngư phủ giúp chúng tôi sửa soạn hành trình nói rằng nếu thời tiết tốt và bể tương đối lặng thì có thể đến Mã Lai trong vòng mười ngày. Lúc ấy là thời điểm cuối của mùa tốt trời nên chúng tôi phải cấp tốc ra đi không còn chần chờ được".

Trước ngày định mệnh phải tìm cách bí mật chuyển dần xuống thuyền các bình nhựa chứa nước ngọt và một bao gạo đủ dùng. Khi thuyền ra đến bể thì đi về Đông Nam để sau sẽ chuyển hướng qua Tây Nam. Đi được một ngày yên lành thì đến sáng ngày 27 gặp ngay một trận bão khá mạnh, gió to sóng cả và bể trở nên dữ dằn. Không thể giữ vững hướng cho con thuyền bé bỏng nên bị thổi dạt về phương Bắc. "Mười giờ khuya cùng ngày chúng tôi phải tìm cách bỏ neo nhưng chẳng may giây thừng neo to gần bằng cổ tay vướng vào chong chóng làm cho động cơ chết. Sáng hôm sau dò trên bản đồ chúng tôi thấy ở gần đảo Phú Quý cách mũi Varella khoảng 150 cây số và như vậy thì thuyền trôi dạt trên biển Nam Hải".

Mọi người bất lực khi động cơ im bặt, cần chờ cho thời tiết khá lên để cắt giây thừng vướng máy. Thế nhưng trong mười ngày liền gió vẫn không giảm và chiều ngày mồng Năm tháng Bẩy thì cả thừng lẫn neo rơi luôn xuống đáy bể. Tình trạng hoàn toàn vô vọng, con thuyền trôi dạt không biết đi đâu. "Chúng tôi hoàn toàn mất hướng, không ai có tí chút kinh nghiệm điều khiển thuyền và cũng chẳng ai biết cách sửa chữa "

Số lương thực đem theo được dự trù cho hai mươi ngày công với 400 lít nước ngọt. Nhưng hầu hết đã bị nhiễm dầu cặn và nước bể khi dầu nhớt bị chẩy ra từ những bình chứa bằng nhựa. Sau một tuần lễ thì hết lương thực và số nước uống cũng chỉ còn tí chút vì nhiều bình chứa bị nứt. Sau 20 ngày lênh đênh chúng tôi không còn một chút đồ ăn nào hết. Chúng tôi sống cầm hơi bằng đôi chút nước dơ còn lại trong vài can và nhắm mắt uống để sống còn. Tôi đã để dành phòng hờ chút gạo sống cho cháu bé trong hai hộp thiếc nhỏ, Sáng rồi tối tôi nhá gạo và đút cho nó chừng hai thìa cầm hơi. Thêm mấy trận bão thổi đến với những ngọn sóng cao như nhà hai từng. Con thuyền bé bỏng nhô lên cao rồi bị thả xuống liên hồi trong ba tiếng đồng hồ. Rất may là nó còn vững chắc nên không tan ra thành mảnh vụn. Cánh đàn ông phải ra sức tát nước ra khỏi mạn thuyền chớ không thì đã làm mồi cho Hà Bá rồi.

Vợ tôi ôm chặt con và tôi ôm cả hai, chúng tôi hoàn toàn ướt sũng. Song phải cám ơn Thượng Đế đã ban cho các trận cuồng phong này để có nước sạch hứng bằng áo mưa. Chúng tôi trở nên yếu hơn và tôi nghĩ là nếu vợ con chết thì tôi sẽ tự vẫn chết theo. Người chúng tôi ghẻ lở kinh khiếp và tinh thần hoàn toàn suy nhược chỉ còn trông mong bàn tay cứu nạn của Đức Phật hay Thượng Đế. Chúng tôi trông mong thấy một chiếc tầu nào nhìn thấy cảnh vô vọng và dơ tay cứu độ. Có chừng ba mươi tầu đi qua nhưng chỉ có mỗi một chiếc dừng lại. Họ hỏi có vấn đề gì không, tôi cố cắt nghĩa tình hình tuyệt vọng của chúng tôi. Nhưng có lẽ viên thuyền trưởng không hiểu nên gần một giờ sau họ bỏ đi, chẳng cho chút gì cả. Quá thất vọng khi thấy rằng cái chết gần kề, chúng tôi chỉ còn chờ một Phép Lạ. Và Phép Lạ đã đến vào ngày thứ 27 của cuộc hải hành kinh hoàng. Ngày đó là 22/07.

Chiều 22/07, sau trận bão to thì thời tiết khá lên cho thấy rõ chân trời xa xa. Khoảng ba giờ chiều một chiếc tầu nhìn thấy chiếc cờ nhỏ SOS báo hiệu và tiến lại gần. Anh Cường gắng sức leo lên thang giây để trần tình với vị thuyền trưởng. Ông ta nhận thấy mọi người đều quá yếu và có thể chết nếu không được cứu giúp ngay. Lúc ấy đáy thuyền có khe nứt và nước bể bắt đầu rò vào. Cùng một lúc trời tối sầm lại và mưa bắt đầu rơi vì một trận bão khác đang tiến đến. Ông ta quyết định cho vớt. Tất cả 16 người leo lên tầu lúc 5 giờ rưỡi chiều của một ngày lịch sử trong đời. "Ngày 22/07/1977 chúng tôi đứng trên boong tầu cứu mạng nhìn xuống thấy chiếc thuyền bé nhỏ như chiếc lá tre trôi trên mặt nước, và chúng tôi đi theo đến Nam Dương. Lối 7 giờ tối vị thuyền trưởng mời tôi vào phòng và nói rằng ông vừa nhận điện tín thời tiết báo là một trận bão lớn đến từ Phi Luật Tân mà trung tâm ở ngay toạ độ ông vừa cứu chúng tôi. Anh Cường ôm chầm lấy ông và khóc rưng rức khi nói lời cám ơn đã giúp cả bọn khỏi chìm xuống đáy đại dương

Phải mất 16 ngày cho tầu Đại Hàn đến đảo Bangka để thuỷ thủ và lao công bản xứ chất những cây gỗ nặng đem về nước họ chế biến. Anh Cường ngồi thảo một lá thư cho Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ trình bầy hoàn cảnh của cả nhóm. Ngày thứ 16 Tiến Sĩ Samphat Kumar đến từ Kuala Lumpur và lên tầu phỏng vấn. Ông xếp loại cả bọn thuộc thành phần tỵ nạn chính trị. Chúng tôi từ giã chiếc tầu Đại Hàn mắt nhoà lệ và lên một chiếc ca-nô nhỏ đi đến đảo Bangka. Từ đó chúng tôi đáp phi cơ đến Jakarta. Tiến Sĩ Kumar chia tay chúng tôi vì ông đã làm xong nhiệm vụ sau khi chúng tôi được chuyển cho chính phủ Nam Dương sống trong trại tạm cư Bogor trong 6 tháng trước khi được vào Mỹ.

Một trường hợp thành công khác là của gia đình bạn Tôn Thất Uẩn tuy đã kéo suốt mấy năm trời để hoàn toàn đoàn tụ. Bạn Uẩn trước kia làm Giám Đốc Tài Ngân Điện Lực Việt Nam và là bạn học với tôi tại Lycée Khải Định. Đầu năm 1975 bạn thôi việc Điện Lực và vào làm cho Sovigaz (nôm na là hãng Gió Đá) là một công ty sản xuất dưỡng khí, hơi acetylene và các đũa hàn bán sỷ và lẻ. Nhà máy chính đặt tại Khánh Hội có 2 chi nhánh đặt tại Cần Thơ và Nha Trang. Tháng 04/1975 hãng cử Uẩn làm đại diện miền Tây Sovigaz ở Cần Thơ trong khi gia đình khá đông vợ con và cháu nội ngoại tất cả 17 mạng phải ở lại Sài Gòn. Trước biến cố 30/04, anh không làm cách nào lo cho gia đình di tản.

Vì Sovigaz là một bộ phận ở Viễn Đông của đại công ty Pháp Air Liquide nên Việt Cộng để yên không gọi đi học tập cải tạo. Chỉ một thời gian ngắn sau Sovigaz bị quốc hữu hoá và trở thành công ty Hoá Chất trực thuộc Cục Hoá Chất. Tuy nhiên cũng còn may khi họ cần đem một bộ máy sản xuất dưỡng khí tử Biên Hoà đi Cần Thơ và giao cho Uẩn phụ trách thiết kế. Trong suốt thời gian bà Uẩn vẫn tìm đường ra khỏi Sài Gòn. Trong bốn năm dài ấy tình hình gia đình hầu như khánh kiệt.

Cơ may xẩy đến khi Uẩn được một đại lý cho Sovigaz Cần Thơ ở tỉnh Bạc Liêu giới thiệu cho một chủ thuyền đang tổ chức vượt biển tại Hộ Phòng, Bạc Liêu. Nhóm này đều là người Việt gốc Hoa thuộc Triều Châu đã làm nghề đánh cá ở đây lâu đời, thạo nghề biển và giỏi đóng tầu cũng như đi biển. Họ tổ chức đi bán chính thức nghĩa là khi đi ra bể có cả ca-nô công an hộ tống cho đến khi đến hải phận quốc tế thì mạnh ai nấy lo cũng như các thuyền nhân khác. Uẩn giao họ làm giấy giả người Hoa cho mình và ba trai một bé gái vì chỉ còn đủ chút tiền chung đậu, số còn thiếu sẽ trả sau khi ra đến nước ngoài. Nhóm đi bán chính thức gồm tất cả 270 người chen chúc xuống chiếc thuyền to chiều giài 20 thước, ngang và sâu ba thước. Có nghĩa là ngồi bó gối dưới đáy, boong trên và mạn thuyền, không có chỗ ngả lưng.

Thực phẩm đều do chủ thuyền lo liệu hết tuy nhiên nếu không phải là người sống trên biển thì ai nấy đều ói mửa mật xanh mật vàng đâu còn thiết ăn. Gia đình chỉ đem theo ít gói mì và nước uống phòng hờ cho 3 hay 4 ngày dự trù đến Mã Lai. Ra đi ngày 05/06/1979 từ Hộ Phòng, Bạc Liêu, gặp hải tặc Thái nhưng thật ra chỉ là ngư phủ kiếm ăn dễ dàng, lột vàng bạc châu báu chớ không đánh đập hiếp đáp. Trong nhóm đi có đến 4, 5 chục trai tráng và hải tặc chỉ độ tám tên nhưng không ai dám tự vệ vì không có chỉ huy. Mà nếu có muốn cưỡng lại thì phải nhớ rằng thuyền hải tặc to lớn hơn nhiều và nếu chúng ủi lại thì chỉ mất cả người lẫn của thôi. Đến Cherating trên bờ phía Đông Mã Lai thì cảnh sát Mã Lai đưa lên bờ ăn ở một tháng chớ không phải một trại tạm cư như mong đợi bởi vậy ai nấy hết sức lo âu. Thực phẩm do UNHCR đem ra như đồ hộp và gạo, nấu nướng bằng nồi chảo chủ thuyền cho mượn. Tối ngủ thì đã có các lều bạt ni lông xanh căng lên dùng dài ngày. Tuy đảo này là nơi Club Méditerranéan chọn làm trại nghỉ mát vì cảnh trí đẹp nhưng ai nấy lo âu sợ hãi vì sao họ không đưa mình vào trại tỵ nạn ? Sau một tháng bị bỏ lên nhiều con thuyền cũ của nhóm đi trước rồi kéo ra biển trôi dạt không biết về đâu. May gặp tầu Ile de Lumière (tầu Ánh Sáng) của Médecins Sans Frontières (Y Sĩ Không Biên Giới) vớt về Singapore. Thật ra cũng không hiểu tại sao mà gặp tầu Tây ở đây, vì tình cờ hay là chính phủ Mã Lai đã thu xếp ?

Khi đến Pháp thì 5 cha con được đưa lên tỉnh kỹ nghệ Lille. Họ bắt tay ngay vào làm đủ thứ việc vất vả hầu mong dành chút ít lo cho những người thân bên nhà. Chính phủ Pháp chỉ giúp cho một tháng trợ cấp và phải tự túc từ tháng thứ nhì trở đi có nghĩa là phải đến Tết Congo mới giúp được 13 người thân còn kẹt lại. Bởi vậy khi được tin là Vương Quốc Anh sẽ giúp đỡ trong một thời gian và cấp cho nhà ở, gia đình anh đã được Ủy Ban Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc cho sang London định cư cho đến nay. Anh Quốc không cần người bảo đảm phải chứng minh khả năng tài chính. Chỉ hai năm sau vợ cùng năm con và bẩy cháu nội ngoại đã xum họp đầy đủ tại xứ sương mù này để trở thành những công dân tự do và bác ái.

Chắc nhiều người đã biết quyển sách Thép Đen mà tác giả Đặng Chí Bình là điệp viên trẻ 22 tuổi đơn độc ra công tác tại Hà Nội. Sau khi xong nhiệm vụ ngắn hạn anh ta bị lộ và bắt vào nhà pha Hoả Lò rùng rợn trong sáu nắm trời khổ hạnh trần ai. Lúc ra toà anh bị xử thêm 12 năm tù cải tạo chuyển qua nhiều địa danh ác độc. Mãn hạn anh được tha về Sài Gòn với ba năm mất quyền công dân để tìm lại cha già đã lẩm cẩm và bà mẹ đã mù loà. Sống chật vật không hộ khẩu, sáng tối lo trình diện công an, ở tuổi gần 40 anh đã lập gia đình với một thiếu phụ trẻ và có hai con nhỏ. Thế rồi nhận thấy tương lai quá đen tối không lối thoát anh can đảm tìm đường vượt biển với sự đồng ý của vợ và khuyến khích của bố mẹ già. Lần đầu cô vợ chở bằng xe đạp đến điểm hẹn xe Lam đi Minh Hải, Bạc Liêu. Tối xuống thuyền sửa soạn ra khơi thì giữa đêm đen như mực công an có chó gọi cập bến khám xét. Bình liền bí mật chuồn xuống nước lặn tránh mũi đánh hơi của chó rồi mò qua lau sậy gai góc đến Hộ Phòng bán một miếng nhẫn vàng giấu trong đáy quần xà lỏn thuê xe Lam về Sài Gòn.

Lần thứ hai khi anh được giới thiệu làm thợ nề sửa sang Bệnh Viện Tâm Thần Biên Hoà anh đã cùng đi với vị Bác Sĩ điều trị trẻ tuổi trên chiếc thuyền nan trôi dần ra bể giữa đám lục bình dầy đặc. Thế mà anh trót lọt leo lên thuyền lớn đến Nam Dương sau nhiều ngày sôi nổi. Sống nhiều tháng tại trại tạm cư này, làm đủ việc cho trại rồi cuối cùng anh được phỏng vấn đi Mỹ định cư tại Boston để hằng ngày vào thư viện đại học UMA ngồi viết 1400 trang Thép Đen mong làm một ngọn nến thắp sáng cho các nạn nhân còn đau khổ trong ngục tù tối tăm của Việt Cộng. Anh đã bảo đảm cho vợ con qua Mỹ sinh sống trong khung cảnh ấm cúng nơi địa danh tôm hùm Maine nổi tiếng. Có lẽ tôi cần kể thêm câu chuyện của một nữ giai nhân đa tài đa sắc một thời. Đó là bạn học của tôi ở Lycée Khải Định năm 1939, Ngọc Trâm thuộc loại lá ngọc cành vàng của cố đô Huế xa xưa. Nàng kẹt lại Sài Gòn cùng mấy con nhỏ với Nhạc Sĩ Dương Thiệu Tước. Không sống nổi với bọn côn đồ Việt Cộng nàng tìm cách vượt biển tìm tự do. Khi Nhạc Sĩ Tước nhất định không chịu đi vì anh cho là người Việt Nam thì sống chết ở đây không đi đâu hết, Ngọc Trâm nhất định theo con đường của mình vì 2 con lớn Bửu Minh hiện ở bên Đức còn con gái Trang đang ở bên Pháp. Ngoài ra một con gái lấy Hà Thúc Cần buôn bán đồ cổ ở Singapore công thêm một con nhỏ theo chồng là một sĩ quan không quân định cư ở San Francisco.

Cùng 3 con nhỏ, Ngọc Trâm tức ca sĩ tài sắc một thời Minh Trang quyết định đi theo một nhóm vượt biển. Bốn mẹ con phải nộp cho chủ tầu mấy chục lượng vàng và đi bằng xe Lam đến Cà Mâu chờ trong một chiếc nhà sàn để được ghe nhỏ chở dần ra ghe lớn. Nói là ghe lớn nhưng hơn 150 mạng đi chỉ có đủ chỗ ngồi bó gối không cựa quậy gì được. Sau mấy ngày lênh đênh trên bể Nam Hải, say sóng ói mửa, thuyền bị hải tặc Thái cướp 2 lần, trấn lột, bắt há mồm cạy cả răng vàng nhưng may là không bị hiếp đáp gì cả. Lên bờ biển Liên Xinh, Thái Lan, đêm Giáng Sinh, ướt sũng chỉ còn bộ quần áo mong manh trên người, Ngọc Trâm điện thoại được cho con gái ở Singapore và ngay hôm sau nhận được tờ 100 Mỹ Kim quá đẹp. Bốn mẹ con bèn mua ngay một chiếc nhà chòi trên bãi bể để sống thoải mái trong 6 tháng trời chờ được giấy vào định cư tại Mỹ. Đêm đêm nghe sóng vỗ rì rào trên bãi cát vắt tay suy nghĩ trong chiếc nhà sàn mộng ảo không biết Minh Trang có nghe thoáng điệp khúc lãng mạn của Đêm Tàn Bến Ngự quyện vào giòng nước trong xanh của Blue Danube ?

Lại kể thêm tình tiết của một cặp vợ chồng chuyên gia tốt nghiệp các trường đại học nổi tiếng Pháp. Bà là Bác Sĩ Nguyễn Thị Đảnh phục vụ tại bộ Y Tế Sài Gòn còn ông Nguyễn Văn Thảo là một chuyên viên tài chính ngân hàng giữ chức thanh tra ngân hàng tại Ngân Hàng Quốc Gia. Hai ông bà không hề tham gia chính trị cũng như quân sự tại miền Nam. Khi lỡ chuyến ra khơi của tầu Việt Nam Thương Tín toàn gia bị kẹt lại Sài Gòn. Ông nói, "chắc chắn chính thể mới sẽ cần đến bàn tay của chúng ta để xây dựng lại xứ sở rách nát này". Nhưng thật sự trái ngược lại khi ông Thảo bị gọi trính diện học tập và đưa đi các trại khổ sai độc địa Bắc Thái. Bà BS Đảnh chứng kiến cảnh các cán bộ Hà Nội đến cơ quan y tế lấy từ các cục gôm, bút chì đến các tập vở chất đầy xe nhà binh chở về Bắc.

Bà Đảnh phải tìm cách đem con ra khỏi xứ. Khi đi thăm nuôi lang quân tại miền Bắc bà nhìn thấy cảnh Hà Nội nghèo nàn cùng cực nên đã quyết tâm cho chồng biết. Nhưng nói sao trước mặt lũ cán bộ ngồi chứng kiến ? Ông Đảnh sửng sốt khi nghe bà nói sẽ đưa các con đi vùng kinh tế mới làm lại cuộc đời và gặp lại các bà dì. Chợt hiểu là các bà dì đã định cư lâu ngày ở quốc ngoại ông yên tâm hơn và dặn dò, "em nhớ đừng để các con đi một mình vì chúng còn quá trẻ". Về Sài Gòn bà đã cùng các con vượt biển trên một chiếc thuyền nhỏ, lợi dụng khi chúng nó mải mê liên hoan trong ngày lễ 01/05. Bà may mắn gặp chiếc tầu chở dầu Na Uy vớt mẹ con đưa vào định cư tại xứ sở đẹp đẽ này. Về sau gia đình đã bảo trợ cho ông chồng qua Na Uy xum họp. Đến phi trường tuyết phủ trắng xoá ông đã tuyên bố với báo chí : "Tôi không còn cần gì nữa ; tôi có vợ con đầy đủ quanh tôi. Các con tôi được sống trong xứ sở đẹp đẽ này để trở thành những người tốt. Như vậy là tôi đã quá mãn nguyện rồi ".

Nói đến Vượt Biển phải nói đến tình trạng cùng cực của các anh em quân cán sống lao tù trong các trại khổ sai Việt Cộng. Phải chờ đến 1979 khi Tổng Thống Ronald Reagan cử Đặc Sứ John Vessey đến Hà Nội mới thấy hé mở tia hy vọng. Lúc ấy là cao điểm của phong trào Vượt Biển mà hằng chục vạn người đã bỏ xác dưới đáy Thái Bình Dương đánh động lương tri nhân loại. Các nước bắt đầu cho lệnh các tầu bè của mình phải tiếp cứu các nạn nhân. Rồi những tầu Ile de Lumière của Pháp, Aznavour của Đức, tầu Bịnh Viện của Mỹ, tầu chiến Hải Quân Hoa Kỳ, tầu South Cross cũng sẵn sàng ra tay cứu độ.

Hà Nội bằng lòng thoả thuận chương trình nhân đạo HO để cho Mỹ nhận các tù cải tạo vào định cư. Lũ lượt hằng loạt cựu tù qua Mỹ định cư với gia đình và được hưởng các sự giúp đỡ, tiền già, tiền tàn tật, tiền nhà, bảo trợ y tế ... Bây giờ danh từ HO được thay thế bằng danh xưng đẹp hơn Cựu Tù Nhân Chính Trị. Thế nhưng sau những chuyến bay dồn dập vượt đại dương đến các phi trường quốc tế Mỹ với sự đón tiếp cảm động của đồng bào bây giờ lại đến các chuyến cũng dồn dập không kém trở ngược lại Tân Sơn Nhất.

Trí nhớ quá ngắn của con người chăng ? Hay là lập luận nông cạn cho rằng Mỹ bỏ mình thì phải có bổn phận cưu mang mình, một lập luận ngây ngô do Việt Cộng mớm lời ? Các bạn hưởng được vài trăm mỗi tháng thêm tiền nhà tiền bảo hiểm y tế mà không đóng xu teng thuế nào hết ? Đừng nói đó là tiền của Mỹ mà phải nói là tiền của tất cả mọi người đóng thuế, bươn chải quanh năm để đến ngày 15/04 chạy đôn chạy đáo đến bưu điện bỏ chi phiếu vào thùng thơ cho đúng hạn kỳ

Không, các bạn biết lắm chớ và các bạn biết rõ là luật lệ chỉ cho các bạn đi du hý trong vòng 90 ngày để khỏi bị cắt tiền phúc lợi. Cho nên sau 90 ngày phè phỡn đủ thứ ôm ở Đại Sài Gòn, bạn lại trở về Tiểu Sài Gòn tích luỹ vốn liếng nhờ thêm con cái tiếp sức để xênh xang về bển trả thù mấy năm tù cải tạo trần ai mà bạn đã quên khuấy. Vừa thôi các bạn ơi, với thời buổi kinh tế suy thoái khó khăn, chúng tôi mong các bạn bình tâm suy nghĩ lại.
Trần Đỗ Cung, VanTuyenNet 2009/06/21

PHƯƠNG DUY * THĂM NUÔI

Lặn lội đường xa


Vào truyện – Trên khu cải tạo Bù Gia Mập có một con đường đất đỏ dài trên dưới hai mươi cây số, chạy dài từ khu kinh tế mới Minh Hưng, quận Bù Đăng, đi vào sóc Bombo,vòng qua Đức Hạnh, Bù Đốp. Con đường được thiết lập từ thời Đệ Nhất cộng Hoà của Chính Phủ Ngô Đình Diệm với dự tính khẩn hoang lập ấp, thành lập các khu dinh điền, vừa để chế ngự một an toàn khu của phe Cộng Sản VN. Kế hoạch đã bị bỏ dở sau sự sụp đổ nền Đệ nhất Cộng Hoà. Con đường bị bỏ hoang. Nhiều đoạn, cây rừng mọc lan ra che phủ hết,đi dưới đường nhìn lên không thấy bầu trời.. Con đường nắng lên đầy bụi đỏ, mưa xuống lại lầy lội trơn trợt. Đàn bà con gái lặn lội thăm con thăm chồng, tất cả đều phải ba lô trên vai, dép guốc cầm tay mới ráng lết đi được... Trong truyện ngắn này, người viết xin ghi lại một vài hình ảnh nhỏ bé như một lời tri ân của đứa con đến các bà mẹ, lòng biết ơn của người chồng đến các bà vợ Việt Nam tuyệt vời, một đời vất vả hy sinh cho người thân yêu của họ 
trong khoảng thời gian cùng quẫn khó khăn nhất của xã hội miền Nam.
X X X

Nhận được thư của Thoại gửi về qua tay chị Trang, chị mới đi thăm chồng về, Giang cảm thấy lo lắng. Nói là lá thư cho có vẻ trang trọng. Thực ra, đó chỉ là một mảnh giấy nhỏ nhàu nát. Trong thư, Thoại thăm hỏi gia đình và mẹ con nàng vài câu, thêm vài câu vắn tắt cho biết anh đang bệnh nhiều, cần thuốc thang chữa trị. Thời buổi khó khăn, tìm kiếm cái ăn cho hai mẹ con đã thật vất vả. Mà cả nước đều thế, chứ đâu riêng gì gia đình nàng. Mấy năm trời đi tù cải tạo, Thoại biết hoàn cảnh gia đình không khá, anh chưa bao giờ đòi hỏi xin xỏ gì. Nay tình hình chắc phải tồi tệ lắm mới có chuyện viết thư nhắn gửi như vầy. 
Vậy nàng phải thu xếp lên rừng một chuyến. Không đi, lỡ chồng có mệnh hệ gì, có lẽ sẽ ân hận suốt đời. Công việc làm ăn của Giang bây giờ càng lúc càng khó khăn. Ngành may mặc lúc trước gia công cón có đồng ra đồng vào. Kể từ khi bị buộc vào tổ hợp, rồi tiến lên hợp tác xã, chỉ còn đồng lương cố định chết đói hàng tháng cộng với ít tem phiếu mua gạo hẩm, nước mắm thối. Dạo sau này, đến gạo hẩm cũng không còn. Tháng tháng mang tem sổ đến chỉ mua được khi thì ít mì sợi, lúc vài ký bo bo loại thực phẩm cho ngựa ăn. Nhà nước gọi nó là cao lương, nhưng nuốt vào miệng thế nào thì ỉa ra nguyện hột thế ấy. Vậy mà có khi cũng không có, phải nhận mớ ngô vàng cứng như đá hoặc bao củ lang củ sắn (khoai mì) hư thối hơn nửa. Thời những năm bốn mươi lăm, nghe nói miền Bắc người chết đói hàng loạt, nhưng hồi ấy nàng chưa sinh ra nên chẳng biết. Còn lớn lên ở cái miền Nam nhiều lúa lắm gạo này, nàng chưa thấy có thời kỳ nào thế thảm như vậy. 
  Lại còn cái vụ phải xin phép nghỉ vài ngày để đi thăm chồng. Rắc rối chứ đâu có đơn giản. Có nên về nhờ vả bố mẹ tí chút nào không? Cả hai bên bố mẹ đều đã già, ruộng vườn co cóp mấy chục năm đã bị tịch thu hết ngay từ những ngày đầu xã hội chủ nghĩa. Số còn lại giờ cũng phải vào tập đoàn làm ăn tập thể, chả còn gì mà trông mong. Lấy gì để mua sắm lên thăm Thoại đây? Giang đành ngó quanh quất trong nhà coi có gì còn tí chút giá trị, có thể tải được ra chợ. Của đi thay người, nàng ngẫm nghĩ. Cái khánh vàng với bốn chữ Trăm Năm Hạnh Phúc lớn có con rồng và con phượng bao quanh thật lộng lẫy. Quà cưới của bạn bè tặng Thoại ngày xưa, dễ có được vài chỉ, đem bán đi chắc Thoại buồn, nàng cũng buồn. Nhưng thời buổi, cái khó bó cái khôn. Túng phải tính cứ biết làm sao? Giang ngậm ngùi lôi nó ra khỏi cái khung kiếng. Kể từ ngày “giải phóng”, số phận nó cũng giống như Thoại, phải chui vào nằm trong một xó kín trong nhà, không được ngồi trong tủ chè nữa.
 Chưng ra cho chúng nó dòm ngó, có mà chết. Hôm nay trong lúc túng cùng, thôi thì vĩnh. biệt. Giang gói nó lại bỏ vào giỏ rồi đem ra chợ. Vấn đề tài chánh coi như giải quyết xong. Không phải cầu cứu tới ai, nhưng cũng nên cho bố mẹ Thoại biết một tiếng. Thoại đang đau ốm cần giúp đỡ. Bố Thoại có nghề y tá dạo, ông biết về thuốc men, thế nào chả có chút đỉnh cho con, còn mẹ ít nhất cũng có ít thức ăn cây nhà lá vườn cho con trai bà sống cầm cự qua ngày. Tiện thể, nàng kéo thằng Quốc, em trai nàng đi theo. Nó còn trẻ, mạnh khoẻ nhanh nhẹn đỡ đần tay chân chút ít bớt vất vả. Kinh nghiệm của kỳ đi thăm nuôi lần trước vẫn còn nguyên trong trí. Dạo ấy Giang đi cùng mẹ chồng, may mắn liên lạc được ít gia đình rủ cùng đi chung, nương tựa, giúp đỡ khuyến khích nhau. Nếu không chắc đã bỏ về nửa đường. Xe đò từ Sài Gòn đi Phước Long, tới ngã tư Minh Hưng là điểm dừng cuối. 
Từ đây không còn xe chở khách, ngoại trừ xe bộ đội. Nhưng xe của “quân đội nhân dân” thường ít khi cho nhân dân đi quá giang. Có lẽ có muốn cũng không còn chỗ, vì hàng ngày chả có mấy chuyến. Và chuyến nào trên xe cũng thường đầy ắp. Tới Minh Hưng trời đã xế chiếu. Muốn vào tới các trại cải tạo lao động ở trong rừng còn phải cuốc bộ rất xa theo con đường Mười. Trại của Thoại ở gần nhất cũng cách trên mười cây số. Tay xách nách mang, có gia đình còn mang theo con nhỏ không biết làm sao để đi. Cuối cùng phải nhờ vả đến người dân địa phương, những người trong vùng kinh tế mới. Họ rành rẽ đường đi nước bước. Họ, có lẽ, trước đây cũng từ các thành phố đến, nhưng sau một thời gian cực khổ, đã quen lam lũ. Vả lại, đó là cơ hội cho họ kiếm thêm được ít đồng tiền đã trở nên rất hiếm hoi quý giá trên rừng này. Trẻ nhỏ thì dẫn đường. Người lớn thì nhận chuyên chở giùm hành lý. Họ chịu hy sinh nhiều giờ để vừa giúp đỡ vừa có thêm phần phụ giúp gia đình. Giá cả thỏa thuận xong. 
Có gia đình cả nhà cùng đi làm hướng dẫn viên một loạt. Đoàn người bắt đầu cất bước từ lúc xế chiều, khi nắng còn đổ gay gắt. Thi thoảng, một chiếc molotova chạy ngang làm tung bụi đỏ mịt mù. Cứ cách quãng dăm bảy trăm thước, đoàn người phải dừng lại nghỉ. Đến được láng trại đầu tiên thì trời đã tối mịt. Mọi người mệt mỏi rã rời. Đoạn đường chỉ hơn mười cây số mà đi tới gần năm tiếng. Đã vậy, khi còn choạng vạng trời lại đổ ập cơm mưa. Đường đồi lên xuống đã gập ghềnh, bây giờ thành trơn như bôi mỡ. Người đi thăm nuôi toàn là đàn bà con gái chưa quen với những con đường đất trơn trợt, guốc dép cởi ra cầm trên tay mà vẫn té lên ngã xuống, thật khổ ải. Ba lô trĩu nặng bờ vai nhỏ, Mưa lạnh đường trơn, chân đất vương Lặn lội thân cò pha nắng bụi,  
Đường xa lặng lẽ đến thăm chồng. Lần này, chuyến đi đột xuất, không có ai cùng đi, Giang nghĩ mình nên chuẩn bị kỹ lưỡng. Nàng về quê mang theo lá thư của Thoại cho bố mẹ đọc, cũng may quê Thoại gần thành phố, chỉ chừng hơn tiếng đồng hồ đi xe đò, có thể đi về trong ngày. Gần như dự đoán của Giang, Bố Thoại biết tình trạng sức khoẻ của con, có dự trữ sẵn mớ thuốc Thoại cần, nàng sẽ mua thêm. Ông gửi kèm theo mấy hộp sữa đặc, một mặt hàng khá hiếm lúc này, cho con trai bổi dưỡng. Bà mẹ thì chuẩn bị một ít ruốc, một hộp mỡ, đậu phộng cây nhà lá vườn. Bà còn bảo mang theo ít cây trái trong vườn. Giang bảo mẹ chồng: - Mẹ đã thấy rồi. Đường xá đi lại rất khó khăn, Con đâu thể mang vác nhiều. - Thì cũng phải có gì cho nó chứ. Chả lẽ lên thăm nuôi chồng tay không. - Bây giờ thế này. Mẹ biết gia đình con, con cái còn nhỏ dại, đời sống cũng khó khăn lắm. Bố mẹ bây giờ già quá rồi. 
Thời buổi này chẳng làm gì ra tiền. Thằng Thoại cũng cần chút ít phòng thân. Mẹ không có tiền cho, con cố mang ít quà của mẹ. Phần mày không cần mua sắm nữa, ráng chạy vạy dấm duí cho nó vài đồng. Bà nói mãi. Giang đành chấp nhận mang theo quà của mẹ, ngoại trừ trái cây hoa quả quá nặng nề. Nhưng bà bắt buộc cầm đi mấy cân bột, đậu xanh và ít đường thẻ. Bà bảo trong tù chúng nó thiếu thốn nên thèm ngọt. Nhà có sẵn, ráng mang đi cho bạn bè anh em nó có dịp “liên hoan”. Thằng Quốc đang lúc rảnh rỗi, cũng sẵn sàng lên rừng. Có nó đi theo giúp đỡ, Giang quyết định cho con đi cùng. Thằng Xuân chưa đầy ba tuổi nhưng lanh và ngoan, có thể yê n tâm. Nên cho nó biết mặt bố. Kỳ trước lên rừng, nó chưa được đi vì nàng chưa biết rõ đường đi nước bước. Bây giờ đã có kinh nghiệm, thêm thằng Quốc bên cạnh. thêm tay thêm chân. Thoại chỉ mới gặp con một lần ở Trảng Lớn. Lúc ấy, thằng Xuân mới mấy tháng chưa biết gì. Hai cái ba lô đã chất cứng, đồ đạc bên ngoài vẫn còn nhiều, không biết nhét vào đâu. Thứ nào nàng cũng thấy cần cho chồng. Quà cáp của bố mẹ và thuốc men tối cần thiết không thể thiếu, dầu ăn, bột ngọt,tôm khô mặt hàng tồn trữ chiến lược không thể bỏ lại.
 Còn mấy gói thuốc lá và bánh thuốc lào này thì tính sao? Giang thấy dạo sau này Thoại ngày càng ốm yếu, ho hen luôn miệng, muốn khuyên chàng bỏ hút thuốc đi mà biết nói như thế nào? Rừng núi khí hậu thời tiết lạnh lẽo, thân phận người tù, xa vắng gia đình, cha mẹ vợ con đã nhiều năm, rượu chè đã không có, chỉ còn làn khói thuốc cho ấm lòng, vơi đi nỗi nhớ nhung gia đình. Bỏ thì thương, vương thì tội. Vả lại, không có thuốc lào thuốc lá thật thì họ lại đi hút vớ vẩn những lá cây rừng độc hại thì còn nguy hiểm hơn. Thoại đã chẳng từng kể anh và các bạn tù đã dùng xác bã trà làm thuốc hút đó ư? Trà khô được pha uống đến khi nước pha trắng gần như nước lã mới đem phơi khô, tẩm vào nước điếu đen thui để thành thuốc hút, chẳng ngon thì, “không mỡ xài đỡ đèn cầy”, cũng tạm ấm lòng “ngục sĩ trong khi vắng nhà”. Xong được mấy món đồ lại lo chuyện giấy tờ. Việc làm trong tổ hợp và đơn nghỉ phép đã có Thu lo giùm. Con nhỏ bạn gái chưa chồng, còn thong thả nên giúp bạn nhiệt tâm. 
Còn lại cái giấy phép đi đường từ mấy ông ‘kẹ’ ngoài phường là khá rắc rối. Ai đời cả năm mới xin phép đi thăm nuôi chồng một, hai lần mà y như rằng, cứ thấy nàng ló mặt ra tới là chúng hạnh hoẹ đủ thứ. Nào là mọi việc đã có nhà nước lo, cô không phải lo, phải để cho chồng yên tâm học tập mới có kết quả, cứ thậm thụt lên xuống thăm nuôi thế thì làm sao tiến bộ? Nào là đi hoài như thế mất bao nhiêu công lao động. Ai cũng như cô thì còn ai xây dựng đất nước? Lần nào cũng phải đấm mõm cho bọn chúng, khi thì vài gói Samít, lúc dăm bao trà Thái Đức chúng mới chịu cấp giấy cho, còn ra giọng nhân nghĩa: - Nể lắm mới ký cho đó. Mấy phường khác thì còn lâu nghe chửa… Ra khỏi cánh cổng ủy ban, nàng còn nghe tiếng cười đểu của bọn chúng: - ĐM lũ nguỵ quân Sài Gòn Chúng nó ăn bơ thừa sữa cặn của đế quốc quá nhiều. Hèn chi vợ con chúng đứa nào cũng trắng da dài tóc. Từ nay cho chúng bay chết cả nút… Xong xuôi giấy tờ, Giang chuẩn bị đi ngay. Nàng cùng em và con ra bến xe thật sớm.
Thời buổi này, cái gì cũng của dân, do dân làm chủ, nhưng chủ chỉ đuợc phép ngó, không được phép rờ. Phải ưu tiên cho đầy tớ của dân là cán bộ, bộ đội. Bỏ tiền ra mua vé xe cũng ưu tiên cho cán bộ, thừa ra mới tới dân. Không sao, Giang biết cách xoay xở. Chỉ cần bỏ ra ít tiền lẻ cho người bán dạo hàng quanh bến xe là có vé chợ đen. Bọn cửa hàng thông đồng với đám viên chức cán bộ lợi dụng sự ưu tiên để mua giành hết vé, đem tuồn ra ngoài kiếm lời chia nhau, thành ra dân có chầu chực ba bốn ngày liền cũng chưa chắc có vé. Chuyện đểu cáng thế nhưng lúc nào bọn chúng cũng giả bộ liêm chính, miệng lưỡi toàn là đạo đức cách mạng. Rặt một bọn vô liêm sỉ. Chiếc xe khách dồn người nêm như cối, không còn chỗ cựa. Hành khách leo lên ngồi cả trên mui, mừng vì may mắn có được một chỗ. Chị em Giang và con bị nhét vào giữa lòng xe nên không nhìn thấy quang cảnh bên đường. Của đáng tội, sau vài năm “giải phóng”, đất nước rặt một màu xám tro. Có còn gì khác để mà nhìn ngắm. Đâu đâu cũng một cảnh nhà cửa điêu tàn, cây cối 
xác xơ.



Càng đi xa Sài Gòn càng thấy sự hoang sơ tiêu điều của những vùng được mệnh danh là vùng kinh tế mới. Thật là thành quả. Giang nghĩ: hoa hôi kết thành quả đắng. Chiếc xe cũ kỹ già nua, bò ì ạch, thở hổn hển. Mãi rồi cũng lết được tới khu kinh tế mới Minh Hưng, điểm đến cuối cùng khi mặt trời đã bắt đầu ngả về Tây. Xuống xe, 
Giang cùng em và con bước vào một quán nước bên đường. Nỗi lo lắng bắt đầu dâng lên. Khi còn ở nhà, vì hăm hở muốn gặp chồng để biết đau ốm ra sao, phần vì những lo âu khác, nàng quên đi cái khó khăn này: đường còn xa, phương tiện chuyên chở không có, phải xoay xở ra sao? Phải ngủ trọ lại một đêm rồi sáng mai lên đường? Vùng này kiếm ra một chỗ trọ cho ba người không dễ. Thằng Quốc liều mạng bàn là cứ đi, mười giờ đêm đến là cùng chứ gì? Thấy được nỗi khó khăn của người đàn bà trẻ, người chủ quán thương hại: - Để tôi hỏi thằng con trai tôi coi nó chịu dẫn đường giúp không? Nó vẫn hay giúp đỡ bà con mình ở thành phố lên. Có nó quen đường quen xá ở xó rừng này mới đi được.
 Tội nghiệp thằng nhỏ. Lâu nay chịu cực chịu khổ đã quen. Có hôm nó phải đi suốt đêm, gần sáng mới về tới nhà. Giang mừng rỡ theo chủ nhà đi điều đình với người con. Giá cả thoả thuận xong xuôi, họ ăn uống qua loa rồi chuẩn bị lên đường ngay. Cậu con trai dẫn đường cùng Quốc mỗi người một ba lô, còn Giang bế con. Thỉnh thoảng mỏi tay lại cho thằng Xuân xuống đi bộ. Chỉ mới hơn năm giờ chiều mà trời đã choạng vạng. 
Ở rừng trời mau tối, người ta bảo vậy. Nàng rất mệt mà vẫn không dám nghỉ nhiều, con đường như dài vô tận. Hai chị em lúc này luân phiên thay đổi, khi thì đeo ba lô, khi bồng thằng Xuân. Nàng hơi hối hận đã mang con theo. Hai tay mỏi rã rời, hai chân như buộc chì không cất lên nổi. Đoạn đường, theo cậu dẫn đường chưa được phần ba. Trời đã thẫm màu. Cậu dẫn đường đi chặt nứa làm đuốc. Kinh nghiệm đi rừng, lúc nào cũng phải có dao trên tay, cậu bảo thế. Đêm đã về,thằng Xuân sợ hãi không rời mẹ ra nữa. May mắn có một chiếc xe chạy ngang. Chiếc xe quân đội trên sư (đoàn) đi công tác bị hư dọc đường, khách đã chuyển qua xe khác về trước. Bây giờ xe mới sửa chữa xong quay về.
 Chiếc xe trống rổng dừng lại cho quá giang. Người bộ đội lái xe còn đủ tình người để thông cảm cho đám người bơ vơ giữa rừng đêm. Giang cám ơn và trả tiền cho cậu bé dẫn đường để cậu quay về nhà, còn ba người leo lên xe. Đến trại cải tạo Thoại đang ở, trời đã hoàn toàn tối mịt, sương đêm rơi xuống ướt lạnh bờ vai, người lái xe dừng lại cho ba người xuống. Giang không quên lục tìm gói thuốc thơm biếu, cám ơn anh đã giúp đỡ. 
Người bộ đội cười nói không có chi, chúc gặp người thân vui vẻ rồi từ giã phóng xe đi. Anh về sư, còn phải đi thêm một quãng nữa. Giang nhìn quanh. Bên tay phải ngay chỗ xuống xe, mấy dãy nhà lợp tôn. Là bộ phận khung (khung=ban chỉ huy một trại cải tạo thường cấp tiểu đoàn). Những tấm tôn mà kỳ thăm nuôi trước, Thoại đã kể cho nàng nghe: đó là những tấm tôn vấy máu anh em cải tạo. Số là khi còn ở tại trại tập trung cải tạo Trảng Lớn, trại tù này trước đây do sư đoàn 25 bộ binh Mỹ thiết lập, sau năm 1972, họ rút về nước đã trao lại cho sư đoàn 25 bộ binh quân lực VNCH sử dụng làm căn cứ. 
Sau tháng Tư 1975, quân chính quy Bắc Việt tiếp thu đã sử dụng làm một trong những trại tập trung cải tạo Sĩ Quan Miền Nam VN trình diện tại Sài Gòn và vùng phụ cận. Gần hai năm trời tại trại với rất nhiều biến chuyển, những ông cai tù, người từ phía bên kia nhìn thấy cảnh ‘phồn vinh giả tạo’ của miền Nam đã có rất nhiều sáng tạo. Khởi đầu là phong trào “tam đê” gồm có đài, đồng, đạp. Mỗi người phấn đấu để có một xe đạp làm chân, một đồng hồ trên tay và cái đài trên vai. Đó là thế hệ xã hội chủ nghĩa nhuốm màu tư bản sơ khởi. Khi phong trào đã lắng dịu thì đến chiến dịch “bốn vê”: vào, vơ,vét, về. Sau một thời gian vơ vét hết mọi thứ, kể cả những mảnh vụn kim khí từ những chiếc trực thăng, mang về cho một lực lượng lao động”chùa” khổng lồ, đám sĩ quan tù cải tạo giũa gọt, vẽ khắc, đánh bóng, làm thành những món quà quý giá như gương lược, kẹp trâm, những bộ điếu cày chạm trổ tinh vi. 
Đến cả những tấm ghi sắt lót làm sân bay cũng được gỡ sạch để phục vụ cho các “anh hùng cách mạng.” Khi không còn gì để vơ vét, đêm nằm vắt trán suy nghĩ, nhìn lên nóc nhà họ thấy toàn là tôn. Hướng mắt về phía cửa sổ, bên ngoài là những bãi mìn phòng thủ nằm giữa những lớp kẽm gai, cỏ tranh mọc tốt cao quá đầu người. Lại suy nghĩ. Cỏ tranh này miền Bắc có lợp nhà thật tốt. Ở đây bọn Mỹ Nguỵ toàn lợp mái bằng tôn. Giời ơi! Nghĩ ra rồi, của ở trên đầu này chứ còn ở đâu nữa. Trong đầu của người cán bộ, những tấm tôn đã biến thành những hòm lớn hòm nhỏ, mai này đi phép mang về nhà thì quý vô cùng, tiện lợi lại bền hơn gỗ. Miền Bắc hiếm tôn thì chắc chắn có giá. Đúng là sáng tạo. 
Cụ Mác cụ Lê nói thì chẳng sai. Cám ơn các cụ. Nhờ tư tưởng của các cụ đã soi sáng cho đàn cháu biết tư duy. Bộ phận khung nhất trí soạn thảo kế hoạch. Chỉ tiêu được đề ra: thi đua lao động lập thành tích mừng sinh nhật ‘Bác’. Quyết tâm đạt được mười ngàn bó tranh. Sau khi đã cắt hết tranh phía trong trại, kể cả quanh sân bay cũng chỉ được một phần ba, bộ phận cho lệnh tiến công ra ngoài rào, tức đi vào khu vực có gài mìn bẫy. Tranh tai đây cao và rất dầy. Cắt được hết thì không phải tới mười nghìn, mà có thể năm bẩy chục nghìn cũng có dư. Còn mìn bẫy thì sao? Có người hỏi. Dễ lắm, thủ trưởng nói: bảo đám tù cẩn thận, vừa cắt tranh vừa để mắt cảnh giác một tí có sao. Chính trị viên tiểu đoàn còn mạnh miệng hơn: Bọn nguỵ quân nguỵ quyền tội ác ngập đầu, được tha chết đã may mắn nhiều. Chúng mình ngày trước còn gian lao nguy hiểm gấp vạn lần ấy. Rồi có sao đâu. Thôi. cứ thế mà làm. 
  Lên giao ban nhận lệnh từ khung, anh em tù giật nẩy mình. Vài người đi vào bãi có sơ đồ, có dụng cụ dò mìn còn lo lắng, huống chi hàng mấy trăm con người hỗn độn đi vào lao động trong một vùng cỏ dầy chi chit che kín hết các dấu hiệu mìn bẫy, lẫn vào cỏ không nhìn thấy nhau, chết là chắc. Lệnh trên đưa ra không thể không thi hành, bị ghép vào tội nổi loạn, chống lại cách mạng tập thể cũng chết. Thi hành thì. Mọi người vô cùng lo lắng, cầu trời khấn phật sao cho tai hoạ không xảy đến cho mình. Thật ích kỷ nhưng trước một cái chết vô lý chắc chắn biết nói gì? Hậu quả của buổi sáng lao động hôm ấy thật kinh hồn: chỉ sau hai giờ làm việc, một tiếng nổ long trời lở đất, tám mạng người ra đi, không ai trong số còn nguyện vẹn thi thể. Sự sợ hãi lên đến cao độ khi nhận lệnh đi thu nhặt xác bạn bè tử nạn. Cũng may tiếng nổ làm quang đi vùng cỏ chung quanh. Buổi lao động được hủy bỏ. Sau ít ngày nghỉ ngơi cho công tác chôn cất những người xấu số, người sống sót lấy lại tinh thần, cán bộ khung vẫn tiến hành kế hoạch với một phương thức khác an toàn và nhân đạo hơn. Họ dùng xe chở đán người tù cải tạo đi về phía Cà Tum,Núi Bà. Ở vùng này có rất nhiều đồi tranh, xa xôi, tốn kém xăng dầu nhưng đỡ tốn máu.
Bạn tù cải tạo (ảnh minh hoạ)
Nguồn: Journey from the Fall/Ham Tran

Dù mở miệng ra là nêu cao chuyên chính vô sản, ca tụng sự tốt đẹp cũa con người xã hội chủ nghĩa, bản năng tham tư của cán bộ bộ đội ngày càng phát triển mạnh hơn. Càng ở lâu thì càng tham. Khi có lệnh chuyển trại lên rừng, các doanh trại được giao lại cho đơn vị khác, số tranh chưa cắt đủ thay thế tôn, nhưng tôn vẫn được tháo gỡ xuống hết để mang theo. Số tranh có sẵn được giàn trải ra thật mỏng cho đủ che kín mái. Vì vậy, khi hoàn thành, ở trong nhà không khác chi ở ngoài trời.
Khi đơn vị mới tới, làm sao họ ở? Có anh ngứa miệng hỏi. Đó là việc của họ, cán bộ trả lời, dĩ nhiên, họ lại sáng tạo, lao động vinh quang là ở chỗ này. Tôn mang lên rừng để lợp mái cho bộ phận khung, để gò thành hòm lớn hòm nhỏ cho cán bộ. Làm nhà cho khung xong mới tranh thủ dựng trại cho anh em. Lại sáng tạo. Không có cỏ tranh, nhưng rừng có đầy tre nứa, lồ ô. Đốn tre đốn gỗ về dựng nhà, mái và vách lợp bằng nứa đập dập đan vào nhau thành những tấm phên. 
Đó là cảnh những ngày đầu mới lên rừng lao động. Thoại đã kể cho nàng nghe như thế. Nàng đã ngậm ngùi thương cảm những người bất hạnh và gia đình của họ. Những người thân mãi mãi không bao giờ trở về chỉ vì những tấm tôn chẳng đáng giá là bao. Giờ sau vài mùa mưa nắng, những tấm tôn lợp trên khung đã bắt đầu han rỉ, trông như một chứng tích đẫm máu của tám người bạn tù nằm xuống trên đất Trảng năm nào. Giang bước vào dãy nhà lợp tôn được gọi là bộ phận khung, hay ban chỉ huy trại để trình giấy tờ xin thăm nuôi đột xuất. 
Được biết thật bất ngờ là hầu hết anh em tù cải tạo đã có nhiệm vụ mới, được chuyển đến một vị trí sâu hơn phía trong cho công tác chuẩn bị xây dựng một nhà máy làm bột củ sắn (khoai mì) lớn nhất Động Nam Á Châu. Họ đã di chuyển cách đây hai ngày, chỉ còn một số ít anh em ở lại phụ giúp tháo gỡ (lại tháo gỡ) bộ phận khung mang đến vị trí mới. Hoàn tất xong sẽ đi sau. Họ cho phép gia đình nàng tạm trú ngụ trong khu nhà thăm nuôi gọi là nhà khách, đồng thời khuyến cáo hôm sau nên quay trờ về vì đợt thăm nuôi chính thức chưa đến. Thật đau lòng biết bao. Chịu đựng đũ mọi gian khổ cốt để gặp chồng lại không toại nguyện. Giang ôm con vào lòng mà khóc. Có lẽ trời còn thương. Một số anh em cải tạo còn ở lại thấy khu nhà khách có ánh lửa thì họ mò đến. May mắn hơn nữa, trong đó có Quang, người bạn lính cùng đơn vị với Thoại ngày xưa. Chính hai người đã cùng nhau đi trình diện cải tạo, do đó đang ở tù chung một trại. 
Quang sắp xếp chỗ ăn ở cho gia đình nàng. Cơm nước của tù chẳng có gì, ít bo bo và củ mì ăn với nước muối và lá tàu bay. Giang đem con xuống dòng suối rửa ráy qua loa. Nước suối lạnh như nước đá, dù bụi bám đầy người cũng chẳng tắm rửa nổi. Thấy bọn Quang loay hoay với nồi sắn luộc, nàng bảo Quốc lấy trong ba lô ra con gà rán sẵn thơm phức, gói xôi đậu xanh cùng ít bánh nếp mẹ chồng làm, bà biết Thoại thích bánh này của mẹ. - Mời anh Quang, các anh đến dùng cơm với chúng em. - Thôi chị ạ! Gia đình chị cứ tự nhiên đi, Quang nói. Tụi tui kham khổ quen rồi. Với lại, để phần cho thằng Thoại nữa chứ. Vợ con lên thăm mà không có gì nó buồn chết. - Đừng ngại các anh ạ! Các thứ này Giang mang theo để dùng trong ngày thôi. 
Đến mai sẽ thiu thối hết. Các anh ăn thì cũng như anh Thoại thôi. Ảnh không được ăn là tại số ảnh xui không có mặt hôm nay. Vả lại, em có ít thuốc men và đồ khô, không gặp được chồng thì có lẽ phải nhờ mấy anh chuyển đến giùm. Quốc ơi! chị có mang cà phê trong túi, em mang ra pha mời các anh uống đi em. Quang và các bạn không khách sáo nữa. Tất cả cùng ngồi xuống vừa hỏi thăm chuyện thành phố, tin tức bên ngoài, vừa thưởng thức cái bùi của nắm xôi, miếng thịt gà vừa béo vừa thơm. Thích nhất vẫn là hương vị của ly cà phê đen thật đậm kèm theo điếu thuốc thơm ấm cúng. Nước sôi nấu trong hộp qui gô có quai xách, vợt lọc cà phê làm bằng bao cát, vẫn không kém phần thú vị giữa cái lạnh núi rừng. Tin tức vẫn chẳng có gì lạ. “Vũ như Cẫn” Thời gian như ngưng lại. Đời sống khó khăn hơn. Mọi việc ngày càng xấu đi. 
  Quang thấy mẹ con nàng lặn lội thật vất vả mới lên được tới đây mà không gặp đuợc chồng thì quá tội nghiệp. Anh nhất định cùng các bạn bàn cách để hai người gặp gỡ nhau. Họ bàn thảo một hồi. Cuối cùng đi dến quyết định. Ngày mai Quang thức dậy thật sớm, khoảng bốn giờ sáng đi lên trại mới. Đường đất khá xa, đi và về cũng mất hơn ba giờ. Quang sẽ báo cho Thoại biết có gia đình lên thăm. Trại mới chưa có nhà cửa rào dậu gì, chắc chắn mọi người đang trong công tác chặt cây, lấy gỗ về làm nhà. Quang bảo: - Tao sẽ ráng đi nhanh chân để về sớm trước giờ lao động. Tuy nhiên, lỡ có về muộn chút đỉnh thì tụi bay tìm cách bao che. Được rồi, chị Giang chuẩn bị ngay một mớ đồ dùng vào ba lô tôi mang đi trước cho Thoại. Riêng chi sau tám giờ lên khung xin lấy lại giấy tờ, cho họ biết không gặp được chồng, chị quay trở về nghe không? Nhớ làm sao đừng để họ nghi ngờ và đoán biết kế hoạch của chúng ta, lôi thôi lắm. Sau đó chị giả vờ đi ngược trở về phía Minh Hưng.
 Khi đã đi xa thoát khỏi tầm mắt của họ, tôi sẽ đón chị đi vào rừng, chúng ta dùng lối mòn mà chúng tôi thường đi lao động ở phía sau trại, khoảng chừng hai cây số lại trổ ra con lộ lớn. Tới đây đã khá an toàn.Tôi đưa chị đi thêm một quãng đường nữa rồi quay trở lại. Chị cứ tiếp tục đi tiếp. Trong khi Thoại ở đầu bên kia đi ngược trở lại. Trên đường đi, chị sẽ gặp một trại cũ, anh em cải tạo đã dơì đi,
 bây giở trở thành một đơn vị sửa chữa công xa. Bộ đội đóng ở đây ít khi hỏi han tới tù cải tạo, dường như họ không có nhiệm vụ với tù. Sát lề đường gần cổng trại này có một quán nước gọi là căng tin. Chủ quán là người dân thường được phép đến làm ăn liên hệ với bộ đội, thỉnh thoảng tiếp cả khách cải tạo nếu ai có dịp đi qua., bộ đội cũng không ngăn cấm. Chị vào quán ngồi uống nước quay mặt ra đường. Ai hỏi chuyện cứ bịa đại là thăm chồng đi nghĩa vụ. Khi nào Thoại đi qua, nó liếc vào quán sẽ thấy chị ngay. Tôi sẽ dặn nó khi đi qua quán, nhìn thấy chị rồi cứ tiếp tục đi thẳng. 
Chờ cho Thoại đi xa khoảng hơn trăm mét, chị hãy trả tiền rồi ra khỏi quán đi theo. Làm sao để nếu có người ngồi trong quán lúc đó không nghi ngờ. Ở một vườn sắn thật rậm rạp um tùm cách đó khoảng nửa cây số có một cái chòi nhỏ nằm rất sâu bên trong. Cái chòi do bọn tù cải tạo chúng tôi dựng lên tránh mưa nắng khi đi lao động, bây giờ bỏ hoang, có sửa sang lại để làm điểm hẹn bí mật cho những chuyện thăm nuôi đột xuất như vầy. Chòi nằm giữa rẫy nên rất kín đáo. Thoại sẽ đón chị vào đó. Nhớ đừng để ai nhìn thấy chị gặp Thoại. Cũng nhớ nhìn trước nhìn sau truớc khi bước vào bìa rừng. Bây giờ bọn mình về trại cho chị và cháu nghỉ ngơi. Cố làm theo đúng kế hoạch. Bây giờ chị đưa ba lô hành lý đây tôi mang đi truớc. Quang và các bạn chào tạm biệt ra về. Kế hoạch được tiến hành như dự định.
 Quang báo cho Thoại biết trước và trở lại kịp giờ lao động, rồi đưa gia đình Giang đi vào lối mòn tắt trong rừng. Sau đó ra lộ đi kèm thêm một đoạn nữa rồi phải từ giã. Hai chị em tiếp tục con đường. Thằng Quốc dường như qua một ngày vất vả hôm trước, không còn bao nhiêu sức, Giang phải chia bớt túi đồ cho nó, trong khi vẫn phải trông chừng con. Đường đồi lên đèo xuống dốc thật khổ. Đi vài chục bước lại phải dừng lại thở. Mãi rồi cái quán bên đường cũng hiện ra. Mừng vui hiện lên khoé mắt, Giang dẫn em và con vào giải khát, nghỉ ngơi, chờ chồng. Bên trong có mấy người bộ đội ngồi uống nước trà hút thuốc đưa đẩy cười nói với cô gái bán quán trông còn rất trẻ. Thấy bọn Giang bước vào, họ ngưng nói, mắt hướng về nàng có ý nghi ngờ. 
Nhưng họ không nói gì. Giang ngồi vào cái bàn ngay cạnh cửa, giả bộ chăm sóc con ăn uống. Kỳ thực, đôi mắt cứ liếc nhìn ra đường trông ngóng. Thỉnh thoảng, một hai người tù cải tạo ăn mặc rách rưới, trông thật tang thương, trên tay ai cũng có một dao rựa lớn đi lướt qua nhưng không phải Thoại. Ngồi đã khá lâu, nàng cảm thấy bồn chồn. Đám bộ đội cũng đã bỏ đi. Đến lúc ấy, Thoại mới chợt hiện ra, cũng áo quần rách bươm, cũng con dao rựa trên tay. Anh liếc nhẹ vào quán rồi tỉnh bơ đi thẳng. Quốc thì thầm: “Ảnh tới rồi đó, chị thấy chưa?” 
  - Thấy rồi! Đừng nói gì hết. Để anh đi một quãng xa đã, kẻo tụi nó nghi. Nhìn thân hình tiều tuỵ trong bộ đồ ăn xin của chồng, Giang thật mủi lòng. Những kỳ thăm nuôi chính thức trước dù sao cũng còn khá tươm tất. Lúc này đang giờ lao động, phải ăn mặc như người đi lao động không thì lộ chuyện. Thật là buồn. Vợ lên thăm chồng mà gặp nhau không dám gọi. Nàng muốn bật khóc mà không dám, chỉ đưa nhẹ khăn tay lên lau mắt như có hạt bụi vướng vào. Ôi! Có thời đại nào người hãi sợ người như cái thời đại này. Vợ chồng thân yêu đầu ấp tay gối, gặp nhau phải làm ngơ như người xa lạ. Chờ cho Thoại đi khuất, nàng mới trả tiền bước ra khỏi quán. Tính đi ngược lại với hướng của Thoại một đoạn rồi mới băng rừng trở ra như dự tính, nhưng sao chân lại cứ theo bước chân chàng. Thì, một liều ba bảy cũng liều, đến đâu hay đến đó. Thoại dường như cũng không kiềm chế nổi tình cảm, anh đã quay lại, đến gần vợ con, nắm lấy cái túi xách trên vai nàng kêu khẽ: - Em! Con! Giang thổn thức: “ 
Anh ơi!” rồi nước mắt tuôn rơi. Thoại vội lên tiếng an ủi: - Đừng khóc, tụi nó nghi ngờ là khổ cả lũ. Để anh xách túi đồ đi trước vào vườn sắn. Em cứ thế mà đi theo nhé! Rồi anh bỏ đi trước. Vườn sắn bỏ hoang, cỏ dại cao hơn đầu người mọc chằng chịt xen lẫn với cây sắn. Đang cố vạch đường tìm vào cái chòi giữa vườn, anh bỗng giật nẩy mình dừng lại. Loáng thoáng có tiếng người ở phía chòi. Hoá ra là mấy tay bộ đội đi săn. Bọn họ lần theo dõi dấu heo rừng về đào phá củ mì và tìm ra cái chòi. Thật là tiện cho họ, có chỗ để ẩn nấp rình mồi. Thật may, Thoại nghĩ, gia đình mình chưa vào tới, không thì đã lộ tẩy.
 Không thể dùng chòi được nữa. Anh quay lui lại bảo Giang đừng tiến vào sâu nữa. Đáng buồn, vợ con lên thăm mà không có một nơi chỗ yên ổn để mừng rỡ, thăm hỏi, nói gì đến san sẻ tình nghĩa yêu thương. Đưa nhau đi đâu bây giờ? Trở lại căng tin, mỗi cách ấy. Vừa đi vừa nói chuyện. Anh dặn nàng nếu bị tra hỏi cứ trả lời túi xách nặng quá nhờ anh mang hộ nên đãi anh ly nước, hai người không có quan hệ, Một tên bộ đội chạy đến trước mặt anh lên tiếng hạch sách rất hách dịch như muốn ra uy: - Anh kia là cải tạo phải không? Đang giờ lao động sao lang thang ở đây? Có phải móc nối với gia đình thăm nuôi lén lút chứ gì?  
Thoại tránh tiếng. Anh đưa con dao rựa ra trước mặt: - Tôi đang đi lao động trong rừng kiếm cây về làm cột. Gặp chị ấy con nhỏ lãi mang xách nặng nề nên giúp một tay, chứ không có liên hệ. Giang cũng đỡ lời: - Em lên sư đây cán bộ ơi! Sắp tới sư chưa? Cán bộ chỉ giùm. Đang mang xách nặng quá chưa biết làm sao thì có anh này giúp mang hộ. Tính lại quán mời ảnh cốc nước trả công ý mà! Anh chàng bộ đội được người đàn bà gọi là cán bộ, ra vẻ mát lòng đổi thái độ: - À cũng sắp tới rồi, đi vài quãng nữa thôi. Chị có cần tôi giúp một tay? 
  - Thôi, gần tới rồi thì không dám làm phiền cán bộ. Hắn bỏ đi miệng lầm bầm: “cha nào trên sư tốt số thế! Cứ như múi mít ấy”. Thoại không nói gì, nhìn chăm chú vào ly nước trên tay. Chờ hắn đi xa, anh nói nhỏ: - Đi đâu cũng gặp kỳ đà cản mũi, chán thật. Trong quán này tai vách mạch rừng, nói chuyện nguy lắm. Thôi mình đi ra, vừa đi vừa nói chuyện được đâu hay đó. Thuốc men đồ dùng Quang đã đưa cho anh rồi. Gặp nhau lén lút thật bất tiện. Bố mẹ ra sao? Cả bố mẹ em nữa? Quốc lớn bộn ha?Làm ăn thế nào? Cho anh gửi lời thăm hỏi sức khoẻ mọi người. Nói ông bà cứ yên tâm, anh sẽ ráng giữ gìn sức khoẻ, ráng sống để về với em và con, với gia đình.
 Thôi, đưa em và con về. Có ở thêm cũng không gặp gỡ nói chuyện được. Theo anh biết, hàng ngày quán này có chuyến xe ra vào thị xã, không biết phía Minh Hưng hay Đức Hạnh. Em thử lại điều đình với chủ quán xem sao? - Đã lâu không gặp anh. Chưa nói với nhau gì hết đã bảo đi về? Anh đau ốm ra sao?Nói thật cho em biết để em liệu. Giang khóc, “Chả lẽ vừa gặp nhau đã từ biệt ngay?” - Đành chịu vậy! Hoàn cảnh này em biết. Anh thèm muốn được ôm em và con vào lòng một chút mà đâu dám. Tụi nó bắt gặp là cùm chân biệt giam, khổ vô cùng. Em hãy về. Chủ yếu mang thuốc men đến được tay anh để có hy vọng chống chỏi bệnh tật, mới có ngày về với em. Thôi chịu thua số phận đi, đợi dịp thăm nuôi chính thức mình gặp nhau lâu hơn. Nói bố mẹ đừng lo lắng thái quá. Anh nhất định sẽ trở về. Thoại đã nói thế, Giang còn biết nói sao. Nàng đứng dậy trả tiền, tiện thể hỏi thăm về chuyến xe hàng sắp tới để xin đi theo. Sáng mai mới có. Vậy lại phải cuốc bộ ra thị xã chiều nay. Giữa rừng, chỗ đâu mà trú.Mọi người kéo nhau ra khỏi quán. Đi bộ một quãng,nhìn chung quanh vắng lặng không có ai, Thoại choàng tay qua vai vợ hôn nhẹ lên mái tóc đượm mùi cháy nắng của nàng, ghì vội con vào lòng thì thầm với nó: Xuân con ơi! Ba nhớ thương mẹ và con thật nhiều. 
Con lên thăm mà ba không thể nói chuyện với con ba thật đau lòng. Thôi con về nhớ ngoan ngoãn cho mẹ vui nghe không? Nói với ông bà nội ngoại là ba nhớ ông bà lắm. Mi tạm biệt ba cái coi nào! Thằng bé còn đang ngẩn ngơ dãy dụa trên tay anh, người đàn ông đối với nó vẫn còn xa lạ, gầy gò, rách rưới, lôi thôi như người ăn xin nó thường thấy ngoài chợ. Ông lại còn ôm mẹ con nó vào lòng. Chưa kịp cất tiếng khóc, bỗng dưng xuất hiện lù lù hai người bộ đội, một người hai mẹ con mới gặp lúc sáng. Anh này quắc mắt lên: - A ha! Láo lếu thật. Lũ nguỵ dám qua mặt cách mạng. Vậy mà chúng nó bảo là không có quan hệ. 
  Tội lừa dối nhân dân, lừa gạt nhà nước nặng lắm có biết không? Đúng là bản chất Mỹ Nguỵ khó mà gột rửa. Cần phải cho đi cải tạo mút chỉ mới sáng mắt. Cách mạng đã cách ly gia đình để tạo cơ hội yên tâm học tập, mà còn lén lút móc ngoặc với nhau. Này anh kia! Vi phạm nội qui của trại là mang tội có âm mưu chống đối cách mạng, không thành tâm hối cải… Hắn còn đang thuyết giảng, Thoại vội buông thằng bé xuống đất, quay qua nói nhanh với vợ, “Kiếm đường về đi”, rồi chụp vội con dao dưới chân nhãy phắt vào buị rậm trước mặt. Giang ôm lấy con, cùng đứa em trai đứng ngơ ngác, bơ vơ giữa con đường đất đỏ bụi mờ. Thoại có lủi kịp không? Về trại có sao không? Còn nàng, con nhỏ trên tay, về đâu đêm nay giữa núi rừng bao la với sương đêm lạnh buốt?
Phương DuyCuối năm 2002( sửa chữa 05/2008)


CA TRÙ -

Saturday, March 16, 2013


TRỌNG THÀNH * CA TRÙ

Ca trù trước ngã ba đường: 
Phục sinh hay mai một
Hát ca trù - tranh sơn dầu của Phạm Công Thành (2005). Ảnh: N.X.D
Hát ca trù - tranh sơn dầu của Phạm Công Thành (2005). Ảnh: N.X.D
Trọng Thành
 
Ca trù - môn nghệ thuật cổ truyền độc đáo của Việt Nam - ngày càng được công chúng trong nước và quốc tế biết đến. Năm 2009, ca trù được Unesco công nhận là một “di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp”. Điều bất ngờ là, trong thời gian gần đây, càng lúc càng có những tiếng nói trong nước báo động về nguy cơ mai một của ca trù.
Tại Việt Nam, về mặt số lượng, các nhóm ca trù địa phương dưới hình thức câu lạc bộ đang nở rộ. Nếu như trước năm 2005, cả nước chỉ có khoảng 20 câu lạc bộ, thì nay đã tăng lên gấp ba lần. Các câu lạc bộ ca trù có mặt tại khoảng 15 tỉnh và thành phố Việt Nam. Một số khóa truyền nghề của các nghệ nhân “đầu ngành” cho thế hệ trẻ đã được thực hiện, một số liên hoan ca trù toàn quốc đã được tổ chức, một số sinh hoạt ca trù gắn với các lề thói xưa đang bắt đầu được phục hồi, các phương tiện truyền thông chú ý nhiều hơn đến ca trù…
Tuy nhiên, điều bất ngờ là, trong thời gian gần đây, càng lúc càng có những tiếng nói trong nước cất lên báo động về nguy cơ mai một của ca trù. Thậm chí, một số ý kiến nhắc đến khả năng Unesco rút danh hiệu “di sản văn hóa nhân loại” mà môn nghệ thuật quý báu này vừa được trao tặng.
Tạp chí Cộng đồng của RFI tuần này xin chuyển đến quý vị tiếng nói của một số nghệ nhân, nghệ sĩ, nhà tổ chức, chuyên gia hàng đầu về ca trù tại Việt Nam, những người tích cực hoạt động để cổ vũ cho sự phục hồi/phổ biến nghệ thuật ca trù, với hy vọng tiếng nói của các vị khách mời sẽ mang đến cho quý vị những góc nhìn khác nhau, góp phần vào việc soi tỏ thực tại nhiều nghịch lý kể trên.
Các khách mời của chúng ta hôm nay là các nghệ sĩ, nghệ nhân Nguyễn Thúy Hòa, Bạch Vân, Phạm Thị Huệ và Nguyễn Văn Khuê, những người trực tiếp bảo tồn/phổ biến di sản nghệ thuật này ; giáo sư Tô Ngọc Thanh và nhạc sĩ Đặng Hoành Loan, những người có trọng trách trong việc lập hồ sơ ca trù gửi Unesco, và tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, tác giả một số công trình nghiên cứu về lịch sử ca trù, đặc biệt qua di sản Hán-Nôm.
Lo lắng, nhưng lạc quan về tương lai của ca trù
Mở đầu tạp chí là tiếng nói của nhà nghiên cứu âm nhạc học dân tộc Tô Ngọc Thanh, chủ tịch Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, một người nhiều năm đóng góp cho quá trình phục hồi di sản ca trù.
Tô Ngọc Thanh : Sau khi nhận được cái vinh danh ấy, thì vừa mừng, vừa lo, đặc biệt những người như chúng tôi. Tức là những người dám nói hiểu biết một ít về ca trù. Lo sợ cho vận mệnh của nó, nên càng lúc càng lo hơn. Bây giờ, nó như thế này : Chỗ đứng của ca trù hiện nay trong con mắt của nhân dân có tăng lên so với trước. Họ biết rõ đấy đích thực là một di sản quý báu, chứa chất những tinh hoa về văn học, văn hóa, nghệ thuật và âm nhạc nữa. Thì đấy là một điều mừng, vì anh chẳng lạ gì, trước đây cũng có người nói rằng đấy là sản phẩm của cái nơi đĩ bợm, với hình ảnh về phố Khâm Thiên ngày xưa.
Giáo sư Tô Ngọc Thanh
16/10/2012
Trong hồ sơ mà chúng tôi gửi đi, thì bao giờ cũng có phần rất là quan trọng, gọi là "chương trình hành động", để nếu như được vinh danh rồi, thì chúng tôi phải làm gì để xứng với tầm cỡ của nó. Thì sau khi được vinh danh rồi, trong chương trình hành động, chúng tôi cũng đề ra khá nhiều. Như thế đã trải qua ba năm rồi, cái chương trình ấy chưa được cụ thể hóa.
Anh cũng biết, trước kia nó là của dân, nó được truyền nghề theo kiểu cha truyền con nối, theo kiểu phường hội. Còn bây giờ nó không thể thế được, thế bây giờ chúng tôi cần những kinh phí để truyền dạy. Cũng xin nói thật là Hội Văn nghệ Dân gian của chúng tôi cũng đã tổ chức được 4, 5 lớp. Tức là từ những nghệ nhân truyền thẳng xuống cho lớp trẻ, mà thông qua phương thức như ngày xưa, tức là truyền miệng, truyền nghề. Chúng tôi cho rằng, đây là hình mẫu chúng tôi làm, để mai kia nếu có được kinh phí của nhà nước, thì mô hình ấy có thể giúp cho ca trù được đứng hơn.
Vậy thì, nói với nhà báo thế này : Mọi người không quên, nhưng mà nó đang ở bước đầu. Tôi hy vọng rằng, nó sẽ được hiện thực với một tốc độ cũng không nhanh lắm đâu. Nó chưa thật là vui lắm, nhưng cũng không đến mức phải buồn.
Con đường gìn giữ và phổ cập ca trù trong đời sống đương đại
Tiếp theo đây là một số nhận xét của nhạc sĩ Đặng Hoành Loan, người phụ trách khoa học của Hồ sơ quốc gia về "Nghệ thuật ca trù của người Việt" trình Unesco trước đây, về một số điều ông tâm đắc trong quá trình đưa ca trù đến với đời sống đương đại, bên cạnh việc phục dựng lại một số sinh hoạt cổ.
Đặng Hoành Loan : Về việc bảo tồn vốn cổ ca trù đúng như nó có là điều khó khăn trong xã hội hiện đại. Vì ca trù hiện nay nó mất mất cái môi trường sinh hoạt của nó. Cho nên là, việc giữ gìn nó trong đời sống hiện nay, thì đương nhiên là nó vấp phải một số khó khăn nhất định. Nhưng điều quan trọng là : Con người ngày nay, nhất là sau ba năm được Unesco công nhận là di sản, thì giới yêu thích ca trù Việt Nam đang làm được một số việc quan trọng.
Nhạc sĩ Đặng Hoành Loan
16/10/2012
Tôi cho rằng đây chỉ là việc tái hồi lại những bài ca đã có, những bài thơ đã có. Và nó đang dần dần trở lại các sinh hoạt trong các tập tục ngày xưa ở đình làng. Ta biết ca trù có các địa điểm trình diễn ở đình làng, trong tư gia, cung đình và các lối chơi của các nhà nho. Thì hiện nay cái đang có thể trở lại được,và đã trở lại là sinh hoạt ca trù trong một số đình làng.
Thứ hai là ở các phố thị, các thành phố hiện nay, ca trù ngày nay trình diễn lại các điệu hát trong cái sinh hoạt ngày xưa, bằng cách thức tổ chức các câu lạc bộ. Tôi thấy rằng, hiện nay rất nhiều câu lạc bộ rất tốt, đặc biệt là Hà Nội đang trở thành một trung tâm khá lớn, thu hút lực lượng trẻ. Tôi nói như vậy là tôi dựa vào cuộc liên hoan ca trù tháng 11/2011. Cuộc liên hoan này đánh dấu cuộc chuyển mình rất lớn, ca trù sống lại, tái sinh lại trong xã hội hiện đại. Nhưng chúng ta đang hy vọng phục hồi lại được những bài bản cũ, chứ còn chúng ta chưa hy vọng được là có những sinh hoạt như truyền thống ngày xưa, như rất nhiều người thường nói, là những lối ca trong gia đình, những lối ca thân thiện, những lối ca sáng tác tại chỗ.
Đào nương – linh hồn của nghệ thuật ca trù
Là một nghệ thuật gắn liền với lịch sử Việt Nam hàng trăm, thậm chí nghìn năm nay, ca trù chứa đựng nhiều tinh hoa của dân tộc Việt. Điều đặc biệt đáng chú ý trong ca trù được nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh, đó là sự phối kết linh diệu giữa các thể cách âm nhạc và sáng tạo thơ ca, qua những mối giao hòa giữa đào nương và văn nhân, thi sĩ.
Thông thường trong nghệ thuật ca trù, người thưởng thức chính là các văn nhân, đặc biệt trong vị trí quan viên giữ trống chầu, trong khi đó, ca nương là người trình diễn.
Nhắc đến ca trù đương đại không thể không dừng lại để nhớ về ca nương Quách Thị Hồ. Di sản ca trù của Việt Nam được thế giới biết đến ngày hôm nay, một phần rất lớn nhờ công lao của bà và giáo sư Trần Văn Khê, thông qua mối duyên kỳ ngộ giữa hai người, cách đây đã gần 40 năm (năm 1976, giáo sư Trần Văn Khê ghi âm giọng hát ca trù của bà Quách Thị Hồ để giới thiệu ra thế giới qua đĩa hát mang nhãn hiệu Unesco). 
"Tiếng hát của Quách Thị Hồ đẹp và tráng lệ như một tòa lâu đài nguy nga, lộng lẫy, mà mỗi một tiếng luyến láy cao siêu tinh tế của bà là một mảng chạm kỳ khu của một bức cửa võng trong cái tòa lâu đài ấy. Tiếng hát ấy vừa cao sang bác học, vừa mê hoặc ám ảnh, diễn tả ở mức tuyệt đỉnh nhất các ý tứ của các văn nhân thi sĩ gửi gắm trong các bài thơ" (theo Nguyễn Xuân Diện). 
Người ca nữ ngày nay sống như thế nào với những bài thơ mà họ hát lên ? Chúng tôi có may mắn được nghệ sĩ Nguyễn Thúy Hòa (CLB Thái Hà), người đã từng theo học với nghệ nhân Quách Thị Hồ, chia sẻ :
Nguyễn Thúy Hòa : Cái quan trọng mà thầy tôi dậy tôi là, khi mình đọc cái bài thơ trước khi mình hát, thì mình phải có cái cảm xúc thật của mình. Khi mình thể hiện, thì mình thể hiện bằng cái cảm xúc đó. Cho nên, mỗi lần hát không một lần nào giống lần nào cả.
Nghệ sĩ Nguyễn Thúy Hòa
16/10/2012
Tôi nhớ một lần hát bài "Tỳ bà hành". Tôi thể hiện nhiều lần bài hát này. Nhưng lần đó, không hiểu sao, cảm xúc của tôi quá mạnh, nó bị đong đầy quá. Và tôi đã không thể ngừng được, và tôi đã khóc rất là nhiều. Tôi vừa khóc, tôi vừa hát và tôi nức nở. Bởi vì, tôi rất nhớ đến thầy của tôi. Chỉ vì một câu hát thôi. Nội dung của bài hát không liên quan đến thầy của mình. Nhưng mà từ một câu, một chữ nào đấy, tất cả những hình bóng của thầy, những lời nói, tự nhiên nó ùa về.
Lúc ấy cái tâm trạng của mình nó không kìm được. Cái điều đó cũng là điều không nên đối với một người nghệ sĩ. Mình phải biết kìm hãm cảm xúc của mình. Nhưng mà khi khán giả thấy như thế, họ thấy là vô cùng hay. Và họ cảm nhận được cả cái bài hát, cả cái cảm xúc của mình. Cái hình ảnh đó, cái bài hát đó, cái ngày hôm đó luôn luôn ở trong tâm trí của mình.
Giây phút tri âm
Người ca nương là cả một thế giới riêng. Trước đây, phần lớn nếu không nói là hầu hết các bài thơ được hát trong ca trù, đều do các tác giả là đàn ông viết. Và như vậy rất thường khi tâm sự của người phụ nữ được thể hiện qua cảm nhận của nam văn sĩ. Người ca nữ ngày nay nhìn về vẻ đẹp của ca trù như thế nào ? Sau đây là tiếng nói của nghệ sĩ Bạch Vân (CLB Ca trù Hà Nội - CLB đầu tiên về ca trù, thành lập năm 1991) :
Bạch Vân : Những người đến với ca trù phải là những người có một tính cách thâm trầm, sâu sắc, thì anh mới có thể thả hồn mình vào đấy. Thứ hai là người hát cũng phải là người có những tâm trạng. Cuộc đời thăng trầm thì hát hay hơn nhiều. Chẳng hạn như tác phẩm nước ngoài, thì Bạch Vân thích nhất "Tỳ bà hành". Và Bạch Vân thấy rất là quý nể bà Quách Thị Hồ cái bài ấy. Bạch Vân cũng đắm chìm trong nó. Bạch Vân cảm thấy cái thân phận của người phụ nữ, đặc biệt người ca nữ nó đau đớn, nhiều khi nó trần trụi, mình cảm thấy mình đúng là cái thân phận như vậy.
Nghệ sĩ Bạch Vân
16/10/2012
Những người khách đến nghe rồi họ lại ra đi. Những khách tình cờ gặp gỡ cũng phải để lại cảm xúc chứ. « Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ », « Vô duyên đối diện bất tương phùng », « Đã từng khen chén rượu câu thơ, lòng riêng những đợi chờ tri kỷ mãi ».
Một giây phút nào đấy người ta cô đơn, người ta cảm thấy rằng đấy cũng là mình tìm được một người bạn tri kỷ, tri âm. Cái thân phận của người phụ nữ, cái thân phận của người ca nữ, nó buồn lắm, buồn sâu thẳm và nhiều khi nó đau đớn đến tột cùng. Bạch Vân cứ ngồi hát là cảm thấy Bạch Vân ở trong không gian ấy, trong nhân vật ấy và Bạch Vân đắm chìm trong câu hát ấy. Và nhiều khi mình bay lên chín tầng mây, mình hòa chung với nó, và mình không còn biết mình là ai nữa.
Đến bây giờ Bạch Vân cũng đã suýt soát gần 30 năm đam mê với nó, và Bạch Vân thấy rằng là, những lúc mình buồn bã nhất, có thể mình muốn chết, thì mình lại vào hát và mình cảm thấy mình lại bay bổng, mình lại thăng hoa, mình lại giải thoát khỏi nỗi cô đơn và mình sẽ gặp tri âm, tri kỷ trong câu hát của mình, và mình lại trở về một cách bình yên, và mình lại sáng tạo, lại sống, mình lại yêu đời hơn.
Tất nhiên là, đến với ca trù, Bạch Vân phải trả giá cho tuổi thanh xuân, trả giá cho hạnh phúc của mình. Nhưng mà, có những lúc mình đau xót, buồn thấu xương, thấu thịt, buồn thấm đẫm một sự cô đơn khủng khiếp, thì Bạch Vân lại lấy bộ phách ra và đắm chìm trong Tỳ bà hành, trong "Cuốn chiếu nhân tình", trong "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ"…
Một thưở huy hoàng
Ca trù là một nghệ thuật đã có thời hết sức phổ biến trong xã hội Việt Nam, từ nơi thôn dã cho đến chốn thị thành. Nghệ thuật ấy đã để lại những đỉnh cao của nó, mà người nghệ sĩ ngày nay không dễ gì mà vươn đến được. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện nhận xét :
Nguyễn Xuân Diện : Cái nghệ thuật ca trù, để có thể phục hồi được, thì cái quan trọng nhất phải phục hồi là cái người đào nương. Người đào nương hồi xưa đều được sinh ra ở làng quê và được giáo dục trong các giáo phường. Cho đến hiện nay, việc này khó đến nỗi mà chúng ta chưa tìm thấy lại được một người nào nữa, một người nào nữa có thể tạm sánh với lại một phần nhỏ của bà Kim Đức, hoặc một phần nhỏ của bà Quách Thị Hồ. Cả một sự tinh tế như vậy, chính vì thế cho nên nhạc sỹ Nguyễn Xuân Khoát nói, có khi là phải lịch lãm cả một cuộc đời thì mới mong hiểu nổi cho trọn vẹn một tiếng phách tre.
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện
17/10/2012
Thế thì, tìm lại cái hào quang của dĩ vãng vàng son như vậy ở trong ca trù thì không thể có được. Và vì vậy, có lẽ chỉ giữ được ca trù trong một khuôn khổ nào đó nhất định thôi. Nhưng chúng tôi cũng có thể hy vọng là, khoảng mươi, mười lăm năm nữa thì may chăng là sẽ tìm lại được chăng ?
Sự mong manh của một di sản nghìn năm
Sự phục hồi di sản ca trù không chỉ khó vì những đỉnh cao của môn nghệ thuật cổ xưa này, mà còn vì sự mong manh của các nghệ nhân đầu đàn, tất cả đều đã tuổi cao sức yếu. “Có lẽ không loại hình nghệ thuật nào như ca trù, luôn gắn với hình ảnh những người biểu diễn ở vào độ tuổi cực cao, mắt mờ chân chậm, răng lợi móm mém, mỗi khi lên xuống sân khấu phải có người dìu. Họ nói run run yếu ớt, nhưng (lạ thay) mỗi khi cất giọng hát, thì trong vắt thanh tân, nghe như rút hết chút sức tàn còn lại... » (theo Hồng Minh, trang mạng nhandan.com.vn).
Việc người nghệ nhân không được chú trọng và trân trọng thực sự đã khiến cho có rất nhiều lo ngại rằng nghệ thuật này có thể thất truyền. Sau đây là tiếng nói của nghệ sĩ Phạm Thị Huệ, phụ trách CLB Ca trù Thăng Long :
Phạm Thị Huệ : Chúng tôi cũng có những khó khăn như là : Trước khi kêu gọi các nghệ nhân làm hồ sơ, thì (cơ quan hữu trách) luôn luôn đề cao rằng, sau khi chúng ta được (Unesco) phong tặng, thì nghệ nhân cũng sẽ có những ưu đãi đặc biệt để giúp cho họ. Cho tới giờ, các nghệ nhân cũng chưa nhận được một sự ưu ái nào.
Nghệ sĩ Phạm Thị Huệ
16/10/2012
Đấy là cái điều tôi cảm thấy rất xót xa. Không biết là cho đến bao giờ. Vì các cụ đều ở cái tuổi 88, gần 90 rồi. Ở cái tuổi đó, thì cũng không còn ở gần chúng ta được bao lâu nữa. Và cái di sản mà các nghệ nhân đang gìn giữ ở trong chính tâm hồn và tài năng của họ rất là khó có thể nắm bắt được. Kể cả chúng ta có ghi âm hay học đi chăng nữa. Cái việc ghi âm thì chỉ đơn thuần là cái máy hát lại thôi, không thể truyền được cái hồn giống như chúng ta được học trực tiếp. Còn cái việc học trực tiếp, thì chúng ta cũng phải thường xuyên được ở bên cạnh nghệ nhân, sống cùng nghệ nhân, và phải có một chiều dài từ 3 năm đến 7 năm, chứ không thể gỏn gọn trong vài chục ngày, vài tháng.
Đấy là những cái mà chúng tôi cảm thấy cái sự mong manh. Trong tương lai, ca trù rất có thể sẽ lại chìm vào quên lãng.
Thời buổi phấn vôi lẫn lộn
Thái độ đối xử đúng đắn với nghệ nhân, không chỉ là qua các đãi ngộ vật chất, mà đặc biệt đáng lưu ý là sự trân trọng đối với năng lực nghệ thuật đích thực của những người đầu đàn hiếm hoi còn sống. Được gọi trân trọng là “các di sản sống”, nhưng điều mà một bộ phận công luận tại Việt Nam rất phàn nàn rằng, các cơ quan hữu trách, trước hết là những người có thẩm quyền trong lĩnh vực nghệ thuật, lại không hợp tác thực sự với giới nghệ nhân đầu ngành, gây ra tình trạng nhiễu loạn chuẩn mực hiện nay trong môn nghệ thuật đang trong quá trình hồi sinh. Sau đây là một tâm sự của nghệ sĩ đàn đáy Nguyễn Văn Khuê, thuộc CLB Ca trù Thái Hà, sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời tiếp nối ca trù.
Nguyễn Văn Khuê : Tôi thấy, như hiện nay tôi rất là lo lắng. Làm ca trù xấu đi, và không có gì là mang đúng tính bác học của nó. Hiện nay, (tôi rất lo lắng về) cách bảo tồn ca trù của bên Viện Âm nhạc. Bây giờ, cứ ca nương mới học được một, hai năm đã có rất nhiều thành tích các thứ.
Kép đàn Nguyễn Văn Khuê
16/10/2012
Bình thường cái tiếng đàn của người ta phải tạo ra một con rồng, có đường nét và vô cùng uyển chuyển, thì họ chỉ dậy như một con giun thôi. Bản thân người đến với ca trù, người ta nghe, người ta chán.
Điều quan trọng nhất là : Thế nào thì được gọi là nghệ nhân ? Ai là người để sát hạch đấy là nghệ nhân đích thực, có đủ tài năng, thẩm mỹ để dạy cho lớp trẻ bây giờ. Khi mà thầy không đạt được tầm nghệ nhân mà dạy, thì nó sẽ dễ làm mất hết cả cái chất của ca trù, và dễ làm lệch lạc hướng đi.
Nếu cứ để như thế này, đào tạo theo phương thức này, mặc dù rất nhiều tiền của nhà nước bỏ ra, rất nhiều tiền của các ban ngành vào rồi, nhưng bây giờ thực ra phấn cũng như vôi. Không ai biết được là, người nào đích thực là nghệ nhân, đích thức là người có tài thực sự.
Một nghệ nhân đầu ngành, không công bố danh tính, cho biết, bà không đồng tình với những trắng đen lẫn lộn trong việc thẩm định chất lượng trình diễn ca trù, cũng như chất lượng dạy nghề. Tuy nhiên, dù không hợp tác với các cơ quan quản lý nghệ thuật, nghệ nhân đã ngoài 80 tuổi này cũng như một số người khác, vẫn âm thầm dạy nghề trong môi trường gia đình, thân hữu, soạn sách hướng dẫn, hầu truyền lại những giá trị đích thực của ca trù.
***
Trong vài thập niên trở lại đây, ca trù, một trong những loại hình nghệ thuật được coi là vi diệu nhất của văn hóa Việt Nam, đang trở lại với công chúng. Sự công nhận quốc tế, cũng như sự tôn vinh ngày càng mạnh mẽ trong nước đối với ca trù là điều rõ ràng. Tuy nhiên, trong quá trình hồi sinh ấy, ca trù đang đứng trước một ngã ba đường, giữa sự phục sinh - thăng hoa của những gì là di sản đích thực và sự lẫn lộn trắng đen, trong đó những giá trị nghệ thuật thực sự bị rẻ rúng và chìm trong quên lãng.
Ca trù có một truyền thuyết rất đẹp và lung linh huyền thoại về sự ra đời. (...) các vị tổ ca trù đã được chính các vị tiên xui khiến chế tác ra cây đàn đáy, mà tiếng đàn này có thể giải mọi phiền muộn, chữa được bệnh cho mọi người. Tiếng đàn ấy còn se duyên cho hai vị tổ ca trù thành đôi lứa... “ (theo Nguyễn Xuân Diện).
Mong sao sự khởi đầu rất thi vị ấy của ca trù vẫn còn sức mạnh để đưa ca trù tiếp tục cuộc hành trình xuyên qua thời gian, đưa những gì tinh túy nhất của các thế hệ đi trước đến với mai sau.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các nghệ sĩ Nguyễn Văn Khuê, Bạch Vân, Nguyễn Thúy Hòa và Phạm Thị Huệ, các nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Diện, Đặng Hoành Loan và Tô Ngọc Thanh đã dành thời gian cho tạp chí hôm nay. Trong thời gian thực hiện tạp chí này, chúng tôi đã nhận được nhiều chỉ dẫn của giáo sư Trần Quang Hải,  người tham gia lập hồ sơ ca trù trình Unesco và có một số khảo cứu về âm thanh học của ca trù. Nhân dịp này chúng tôi xin gửi lời tri ân tới giáo sư. 
Trong tạp chí lần này, chúng tôi không có dịp nhắc đến nhiều người đã có những đóng góp quan trọng cho công cuộc khôi phục và nghiên cứu về ca trù (như nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền, tiến sĩ Alienor Anisensel, người Pháp - tác giả một luận án về nhạc ngữ ca trù...) hay một số khía cạnh đặc biệt khác cho thấy những biến chuyển của ca trù ngày hôm nay, như các sáng tác mới trong thơ hát nói. Hy vọng sẽ có dịp trở lại với quý vị trong đề tài này vào một dịp tới. 
Các bài liên quan

Monday, October 17, 2016


LÝ THUYẾT XÂM LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG - TRUNG CỘNG - SƠN TRUNG

Sunday, March 17, 2013


LÝ THUYÉT XÂM LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG

Trung Quốc và thuyết “trỗi dậy hòa bình” trấn an Mỹ

Trung Quoc va thuyet “troi day hoa binh” tran an My (III)
- "Từ năm 2002, giới tinh hoa Trung Quốc, đại diện là Zheng Bijian, từng là Trợ lý cho Chủ tịch Hồ Cẩm Đào bắt đầu phát triển lý thuyết mới về “sự trỗi dậy hòa bình”, nhằm giải quyết nguồn gốc sâu xa sự hoài nghi về Trung Quốc của phương Tây nói chung và Mỹ nói riêng".

Người Mỹ không quên “mối đe dọa Trung Quốc”
Như đã đề cập ở trên, trong quan hệ Mỹ - Trung không chỉ bao gồm khía cạnh “xây dựng và hợp tác”, mà còn bao gồm cả khía cạnh “thẳng thắn” ở những vấn đề bất đồng hay nghi ngờ giữa hai nước.
Chính vì vậy, khi các nhà ngoại giao đang nỗ lực tăng cường phát triển quan hệ chính trị giữa hai nước thì các nhà hoạch định chiến lược quốc phòng Mỹ vẫn luôn cẩn thận đề phòng với sự phát triển kinh tế và sức mạnh quân sự của Trung Quốc.
Nói cách khác, bóng ma về “mối đe dọa Trung Quốc” không bao giờ biến mất trong tâm lý của một số người Mỹ. Năm đầu tiên trong nhiệm kỳ hai của Bush, vấn đề Trung Quốc, sau khi đã lắng dịu đi một cách đáng kể từ ba năm trước, đột nhiên lại trở thành tâm điểm của công luận Mỹ.
Trong suốt năm 2005, phương tiện truyền thông Mỹ dành số lượng thời gian đáng kể đưa tin về Trung Quốc và quan hệ Mỹ - Trung. Vô số các tiêu đề bài báo, tin thời sự, bài tạp chí và sách tập trung vào các vấn đề kinh tế - quân sự có khúc mắc trong quan hệ hai nước.
Chẳng hạn về kinh tế, những lo ngại nảy sinh từ các hậu quả “toàn cầu hóa”, tăng đáng kể về giá dầu do sự trỗi dậy của Trung Quốc; các vụ mua lại các công ty Mỹ của các công ty Trung Quốc (như Tập đoàn Chinese National Offshore Oil Corporation (CNOOC) mua lại Công ty dầu Unocal, Haier mua Công ty sản xuất Maytag của Mỹ và Lenovo mua lại chi nhánh máy tính cá nhân IBM).
Về quân sự, vô số báo cáo của Bộ Quốc phòng và Quốc hội đều mang âm điệu đáng ngại trước việc Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng quân đội hiện đại. Một số người coi điều này như là làn sóng khác về “cơn sốt Trung Quốc” trong công chúng Mỹ. Những người khác gọi là sự quay trở lại của sự bài ngoại “mối đe dọa Trung Quốc”.
Nhưng dù bất cứ diễn tả nào, lý do thật sự đằng sau của làn sóng mới này là nhận thức về sự trỗi dậy của Trung Quốc như cường quốc khổng lồ về kinh tế và quân sự. Rõ ràng, một số chính khách và lãnh đạo quân sự và giới tinh hoa Mỹ đang lo lắng về tốc độ trỗi dậy của Trung Quốc, đặc biệt về quân sự. Việc sa lầy tại Iraq cũng làm tăng thêm sự lo ngại này của họ.
"Thuyết trỗi dậy hòa bình"
Nắm bắt được vấn đề này, những nhà hoạch định chính sách đối ngoại Trung Quốc tìm cách làm dịu đi mối lo ngại từ phía Mỹ và các nước khác. Bởi vì, họ hiểu rằng nếu không nó cũng sẽ không mang lại sự ổn định trong mối quan hệ hai bên.
Vì vậy, từ năm 2002, giới tinh hoa Trung Quốc, đại diện là Zheng Bijian, từng là Trợ lý cho Chủ tịch Hồ Cẩm Đào bắt đầu phát triển lý thuyết mới về “sự trỗi dậy hòa bình” nhằm giải quyết nguồn gốc sâu xa sự hoài nghi về Trung Quốc của phương Tây nói chung và Mỹ nói riêng.
Trong phát biểu nhân chuyến thăm Mỹ, Tổng bí thư Giang Trạch Dân cố gắng lèo lái luận điểm: Mỹ cần một khung chiến lược mới để nhìn sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc. Zheng Bijian tuyên bố Trung Quốc sẽ nắm lấy con đường mới trỗi dậy hòa bình hoàn toàn khác với Đức, Nhật và Liên Xô cũ.
Con đường mới được đặc trưng bởi sự gắn kết hơn là tách biệt khỏi tiến trình toàn cầu hóa kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế khiến sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc là có thể.
Sự phát triển của Trung Quốc cần môi trường hòa bình, đổi lại, sự phát triển đó sẽ củng cố hơn nữa hòa bình quốc tế. Tóm lại, sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc mang lại những cơ hội hơn là thách thức cho cộng đồng quốc tế.
Thuyết “sự trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc rõ ràng có tác động đến nhận thức của quan chức và giới tinh hoa Mỹ. Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Robert B. Zoellick cho rằng: “Việc làm thế nào đối phó với sức mạnh đang không ngừng trỗi dậy của Trung Quốc là một vấn đề quan trọng trong chính sách ngoại giao của Mỹ.”
Và ông nêu ra quan điểm “Mỹ phải thay đổi chính sách “hòa nhập” trong 30 năm qua” nhằm “giúp Trung Quốc vận dụng hành động mang tính xây dựng.”(15)
Phát biểu của Thứ trưởng Ngoại giao Rober Zoellick về mối quan hệ hai nước vào tháng 9/2005 là sự cụ thể hóa cho sự thay đổi này (16). Trong phát biểu của mình, Zoellick đặt ra một số nền tảng mới trong quan hệ Mỹ - Trung. Ông đưa ra thuyết về “Bên liên quan lợi ích có trách nhiệm”.
Chính sách này nhằm đưa Trung Quốc trở thành “Bên liên quan lợi ích có trách nhiệm” trong hệ thống quốc tế đang tồn tại do Mỹ giữ vai trò chủ đạo. Trong đó, lần đầu tiên trong tuyên bố chính thức của chính quyền, ông chỉ ra rằng, Trung Quốc không có hệ tư tưởng cực đoan và chống Mỹ và không tìm cách lật đổ hệ thống quốc tế đang tồn tại. Kết luận này cơ bản chấm dứt sự tranh cãi lâu nay trong công chúng Mỹ về việc liệu Trung Quốc có thành một Liên Xô kế tiếp hay không trong kỷ nguyên hậu Chiến tranh Lạnh.
Zoellick cũng tuyên bố là Trung Quốc không còn đứng ngoài hệ thống quốc tế. Sau hai thập kỷ cải cách và mở cửa, Trung Quốc đã trở thành thành viên toàn diện của hệ thống quốc tế. Dù Trung Quốc vẫn chưa phải là một nền dân chủ, nhưng bản thân Trung Quốc không bao giờ tham gia vào cuộc chiến chống dân chủ. Vì vậy, Mỹ không cần loại bỏ hợp tác lâu dài với Trung Quốc. Khái niệm thú vị nhất được đề ra trong phát biểu này là kêu gọi Trung Quốc trở thành “Bên liên quan lợi ích có trách nhiệm” trong hệ thống quốc tế dù ông không thực sự giải thích cụm này có nghĩa là gì.
Cụm từ mới “Bên liên quan lợi ích có trách nhiệm ”gây ra sự tranh luận sôi nổi trong giới quan sát về Mỹ của Trung Quốc. Tranh luận trở nên thú vị hơn do tính mơ hồ của cụm từ này và khó khăn trong việc dịch sang tiếng Trung Quốc với một cụm từ tương ứng.
Xuất hiện một vài cách dịch khác nhau trên các phương tiện truyền thông của Trung Quốc. Một số nhà phân tích Trung Quốc chỉ ra rằng Mỹ đang hình thành nên một chiến lược mới với Trung Quốc và Mỹ sẵn sàng chấp nhận sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Những người khác hoài nghi ý định thực sự đằng sau khái niệm này. Họ chỉ ra rằng, trong khi khái niệm này cho thấy Washington chính thức công nhận Trung Quốc như thành viên hợp pháp của hệ thống quốc tế hiện thời, nó cũng có nghĩa là hiện thời Washington sẽ đặt ra một bảng chuẩn cao hơn cho các vấn đề trong nước và quốc tế của Trung Quốc.
Trong quá khứ Mỹ có thể cho Trung Quốc một số đối xử đặc biệt về thương mại, nhân quyền, phổ biến hạt nhân… khi Trung Quốc vẫn là nước đứng ngoài hệ thống, sự đối xử đặc biệt đó không còn được đảm bảo cho một bên liên quan lợi ích có trách nhiệm.
Cuộc đối thoại nhận thức công khai như vậy là chưa từng thấy trong lịch sử quan hệ Mỹ - Trung. Nó chỉ ra rằng cả hai nước nhận thấy sự cần thiết và tầm quan trọng của việc tìm ra khung nhận thức chiến lược mới nhằm xác định và ổn định quan hệ này.
Mỹ muốn tìm ra một lí do nhận thức hợp lý để chấp nhận và ở mức độ nào đó thậm chí giúp đỡ sự trỗi dậy của Trung Quốc với tư cách là một cường quốc lớn. Dần dần, khái niệm “Bên liên quan lợi ích có trách nhiệm” nằm trong ngôn ngữ của Mỹ về Trung Quốc. Cụm từ này nằm trong những văn kiện chính thức ở các cấp khác nhau trong Bộ Ngoại giao, Nhà Trắng và Lầu Năm góc như được phản ánh trong hai văn kiện gần đây của chính quyền là QDR và NSS.
Trong chuyến thăm Mỹ gần đây của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, các nhà lãnh đạo hàng đầu hai nước rõ ràng cũng chấp thuận cách nói này. Trong nhận xét hoan nghênh luật South Lawn của Nhà Trắng, Tổng thống Bush lần đầu tiên tự dùng cụm từ này (17). Đổi lại, nhận xét của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào trong bữa ăn trưa tại Nhà Trắng cũng đề cập cụm từ này dù ông nhanh chóng thêm rằng Trung Quốc và Mỹ nên trở thành “đối tác mang tính xây dựng”(18).
Bắt đầu với khái niệm "Bên liên quan lợi ích có trách nhiệm", có vẻ các nhà hoạch định chính sách cấp cao trong Chính quyền Bush cố đưa ra một tập hợp ngôn ngữ mới để định nghĩa về Trung Quốc và quan hệ của Mỹ với nước này.
Gần đây, Mỹ vẫn chưa sẵn sàng với sự trở lại của ngôn ngữ dưới thời Clinton và gọi Trung Quốc là một “đối tác chiến lược” theo nghĩa rõ ràng. Có vẻ Nhà Trắng vẫn lo lắng nhiều về việc sử dụng từ “chiến lược” để mô tả quan hệ với Trung Quốc giống như nghĩa của cụm từ “đối tác chiến lược” vốn được dành cho những đồng minh của Mỹ và các nền dân chủ (theo định nghĩa của Mỹ).
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của khái niệm "Bên liên quan lợi ích có trách nhiệm", Mỹ hiện sẵn sàng thảo luận những vấn đề “chiến lược” trong quan hệ hai nước và công nhận Mỹ và Trung Quốc có một số “lợi ích chiến lược” chung. Những điều chỉnh chính sách này phản ánh một thực tế là quan hệ Mỹ - Trung đã vượt xa phạm trù quan hệ song phương, hai nước cần phải hợp tác trong các công việc chung để đối phó với muôn vàn thách thức của quốc tế thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh.

Chú thích:
15) “Xu hướng điều chỉnh chiến lược của Chính quyền Bush đối với Trung Quốc”. TTXVN, TLTKĐB, Tr1-9, 2006
16) Zoellick, Robert (2005a) “Whither China: from membership to responsibility,” remarks to National Committee on U.S.-China Relations, September 21, 2005, http://www.ncuscr.org /articlesandspeeches/Zoellick.htm.
17) Bush, George W. and Hu Jingtao (2006a) , “President Bush and President Hu of People’s Republic of China participate in arrival ceremony,” April 20, 2006, http://www.whitehouse.gov /news/releases/2006/04/images/20060420_v042006db-0046jpg515h.html.
18) Bush, George W. and Hu Jingtao (2006b), “President Bush and People’s Republic of China President Hu change luncheon toasts,” April 20, 2006, http://www.whitehouse.gov/news/releases/2006/04/20060420-2.html.
Theo Nguyễn Lan Hương (Tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 133, tháng 4/2009)
Đây chỉ là bản lưu tạm thời của bài viết được thực hiện tự động bởi một chương trình máy tính. Để đảm bảo tính xác thực thông tin, các bạn có thể  Xem tin gốc  
Chơi ngay!

TRUNG QUỐC THẤT BẠI TẠI BIỂN ĐÔNG

Thất bại tại Biển Đông nhưng Trung Quốc vẫn chìm đắm trong giấc mộng

Email In PDF.
Về khía cạnh chiến lược, chính sách ngoại giao, quan hệ quốc tế và truyền thông trong vấn đề Biển Đông, Trung Quốc đã hoàn toàn bại trận. Dường như không một quốc gia nào ủng hộ lập trường cũng như lối hành xử của nước này. Bài viết của Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Á, Đại học Quốc gia Singapore, Trịnh Vĩnh Niên trên Liên hợp Buổi sáng phân tích về nguyên nhân thất bại cũng như đối sách cho Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.



Thời gian gần đây, mọi người đều vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng, đã bao nhiêu năm nay, song song với sự trỗi dậy của Trung Quốc là chuỗi "liên hoàn bại trận" của chính nước này trong các vấn đề về Biển. Đặc biệt bắt đầu từ năm ngoái, xu hướng này ngày càng hiện ra rõ ràng hơn.
Trung Quốc đã nỗ lực theo đuổi chiến lược "Trỗi dậy hòa bình" (Phát triển hòa bình) ngay sau công cuộc cải cách mở cửa. Trên rất nhiều phương diện, Trung Quốc đã từ bỏ chính sách chủ nghĩa đơn phương vốn đã tuân thủ từ rất lâu trước đó, đồng thời phát triển quan hệ hữu nghị đa phương với các nước ASEAN. Khu vực tự do thương mại Trung Quốc-ASEAN cũng đã bắt đầu có hiệu lực. Trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc đã đề xuất chủ trương "Gác tranh chấp chủ quyền, cùng khai thác chung". Những biện pháp này xét từ góc độ lý thuyết đến thực tiễn áp dụng đã hình thành nên sách lược và kim chỉ nam ngoại giao "Giấu mình chờ thời" của Trung Quốc suốt từ thời Đặng Tiểu Bình đến nay. Thế nhưng rất nhiều người đã cảm nhận ra rằng, trên rất nhiều vấn đề có liên quan, nếu như Trung Quốc không thể trực diện đối mặt thì sẽ góp phần đẩy chính sách của họ đi theo hướng ngược hẳn lại.
Sự quan tâm chú ý của toàn bộ khu vực Châu Á và cộng đồng quốc tế cho tới thời điểm này đều tập trung vào vấn đề Biển Đông, Biển Đông đột nhiên lại thêm một lần nữa trở thành điểm nóng của thế giới. Chính quyền Trung Quốc dường như lại không hiểu rõ tình trạng hiện nay. Đối với Trung Quốc mà nói, chính sách Biển Đông về bản chất không hề có bất cứ một thay đổi nào, chỉ là các nước có liên quan tiến hành một loạt các hành động không có lợi cho Trung Quốc, và phản ứng của Trung Quốc theo đó cũng chỉ tương đương với hình thức "cứu hỏa" mà thôi.
Trên thực tế, từ rất nhiều năm trở lại đây, chính bởi vì nguyên do Trung Quốc luôn áp dụng các biện pháp bị động đối phó lại khiến cho vấn đề Biển Đông ngày một tích tụ chồng chất lại, và rồi dẫn đến cục diện như ngày hôm nay. Không quan tâm Trung Quốc có muốn hay không, có nắm rõ tình hình hay không, thì Trung Quốc phải đối mặt với những thách thức chưa từng có trong vấn đề Biển Đông này.
Thứ nhất, Trung Quốc sớm đã hoàn toàn thất bại tại cuộc chiến công luận quốc tế.
Trong nhiều năm qua, khi Trung Quốc vẫn còn đắm chìm trong thuyết "Trỗi dậy hòa bình" do chính họ tạo dựng nên, thì các quốc gia có liên quan đã nỗ lực với tinh thần cao nhất và chuẩn bị đầy đủ trên trường quốc tế để chờ đợi vấn đề Biển Đông sẽ nổi lên như trong dự tính đã có sẵn. Xét trên hệ thống kiến thức (luật pháp), Trung Quốc hiện nay thật khó khăn để tìm ra được bất kỳ một lực lượng hỗ trợ có hiệu quả nào cho họ. Về xu hướng các giới truyền thông báo chí không đứng về phía Trung Quốc đã hình thành như hiện nay thì Trung Quốc cũng không có quyền phát biểu tại đây. Các nhà bình luận cho rằng dùng "Chính sách cứng rắn" để mô tả thái độ của Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông là chưa đầy đủ, chính xác phải gọi đó là "mang tính chất tranh cướp" mới đúng. Trên thực tế, cách nhận thức tương tự như vậy của Trung Quốc đã trở nên khá phổ biến trong cộng đồng quốc tế. Bản thân Trung Quốc lại quả quyết cho rằng họ không làm gì mà lại bị đối xử "oan uổng" như vậy, đây chính là căn nguyên khiến Trung Quốc bị mất quyền phát biểu trong cuộc chiến công luận quốc tế này.
Thứ hai, Trung Quốc cũng thua trận trong cuộc chiến chiến lược.
Các nước liên quan đều có những chiến lược khá rõ ràng trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, cụ thể bao gồm các chiến lược như chủ nghĩa đa phương tại khu vực, quốc tế hóa, chính trị hóa đại quốc. Thế nhưng chiến lược của Trung Quốc nếu không dám đối mặt với sự thực thì sẽ là nhập nhằng không rõ ràng. Trung Quốc từ chối chi tiết hóa vấn đề, sử dụng khái niệm "phản đối quốc tế hóa" vô cùng vĩ mô này nhằm che lấp vấn đề cụ thể. Trên thực tế, tranh chấp Biển Đông đã được đa phương hóa, quốc tế hóa từ rất lâu rồi, hơn nữa sẽ rất nhanh tiến đến giai đoạn "chính trị hóa đại quốc" trong thời gian tới. Trung Quốc chỉ là không dám thừa nhận sự thực hiển hiện ra trước mắt này mà thôi.
Thứ ba, nếu tình hình vẫn tiếp diễn như vậy, Trung Quốc sẽ bị ràng buộc để cuối cùng rơi vào tình trạng mất chủ quyền trong cuộc chiến.
Như đã đề cập ở phần trên, từ năm ngoái cho đến năm nay, chính sách Biển Đông của Trung Quốc về bản chất không hề có bất cứ một thay đổi nào, mà chủ yếu chỉ là một số hành động mang tính chất phản ứng lại. Thế nhưng cho đến thời điểm này, bất cứ nước nào cũng đều cho rằng Trung Quốc chính là nguyên nhân phát sinh của mọi vấn đề. Tình hình thực tế là, các nước khác có liên quan vẫn đang xúc tiến các hoạt động và hành động trong khu vực tranh chấp Biển Đông, đặc biệt là trong việc phát triển nguồn năng lượng.
Trung Quốc chìm đắm trong "giấc mộng".
Đã nhiều năm nay, trong vấn đề tranh chấp Biển Đông (cũng như trong nhiều vấn đề khác), Trung Quốc dường như luôn sống trong "giấc mộng" mà chính bản thân họ tự vạch ra. Nhìn từ góc độ chiến lược, Trung Quốc không phải là không có cơ hội để chiếm ưu thế trong vấn đề Biển Đông này, mà thay vào đó lại tự động vứt bỏ những ưu thế đáng lẽ họ chiếm được ... Điều đáng tiếc là, những hành động của TQ không những không chiếm được sự đồng cảm của các nước liên quan đến tranh chấp mà cuối cùng dẫn đến kết quả hoàn toàn ngược lại, gây tổn hại cho chính lợi ích quốc gia của mình.
Vậy thì, kết quả cuối cùng sẽ như thế nào đây? Trung Quốc liệu sẽ từ bỏ chăng? Trong giới báo chí truyền thông vô cùng phát triển như ngày hôm nay, phạm vi xu hướng thỏa hiệp mà các nhà cầm quyền có thể áp dụng được ngày một nhỏ,càng không cần nói đến chuyện từ bỏ. Nếu tình hình này vẫn cứ tiếp diễn thì cuối cùng chắc chắn sẽ dẫn đến các cuộc xung đột xảy ra.Tuy nhiên xung đột trong thời gian này sẽ vô cùng bất lợi đối với Trung Quốc.
Vấn đề đã xuất hiện rồi, thì phái có cách đối phó lại. Nhiệm vụ đầu tiên cần phải làm là tìm hiểu rõ tại sao lại xuất hiện tình trạng như vậy? Ngoài các vấn đề xuất phát từ chính bản thân Trung Quốc thì còn có một số nguyên nhân quan trọng khác nữa. Đối với các nước có liên quan mà nói thì đây là sản phẩm phát sinh từ "môi trường quốc tế" và "môi trường nội bộ".
Đầu tiên đề cập đến môi trường quốc tế. Đối với các quốc gia có liên quan thì nhân tố quan trọng nhất trong môi trường quốc tế không thể không nhắc đến sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc và kéo théo sau đó là hiện đại hóa nền quốc phòng, quân sự cũng như từ đó tác động đến cục diện địa chính trị của toàn bộ khu vực Châu Á. Các quốc gia có liên quan đã bắt đầu cảm thấy rằng thời gian không còn đứng về phía họ nữa. Mặc dù Trung Quốc luôn nhấn mạnh về sự "trỗi dậy hòa bình" của mình, thế nhưng họ lại bị coi là đã áp dụng chính sách chậm trễ kéo dài thời gian trong vấn đề Biển Đông nhằm chờ thời cơ cho đến khi tình hình quốc tế thuận lợi sẽ ra tay giải quyết tranh chấp. Do vậy, đối với các quốc gia có liên quan thì vấn đề Biển Đông bắt buộc phải được giải quyết theo hướng có lợi cho họ trước khi Trung Quốc thực sự trỗi dậy, nếu không, đợi cho đến khi Trung Quốc đã trỗi dậy rồi, tia hy vọng sẽ trở nên vô cùng mong manh. Cũng chính vì thế, bắt buộc phải thông qua bất cứ biện pháp nào để đẩy mạnh hành động, hối thúc phát triển theo khuynh hướng có lợi cho bản thân họ.
Đối với Trung Quốc mà nói, môi trường các nước lớn chủ yếu đề cập đến những biến đổi chính trị trong phạm vi giữa các nước này, đặc biệt là biến đổi trong mối quan hệ với các nước lớn như Mỹ. Trong vấn đề Biển Đông, không quản có muốn hay không thì Trung Quốc chắc chắn vẫn phải đối mặt với Mỹ. Thế nhưng trong quan hệ hai nước Trung-Mỹ thì dù Trung Quốc đã hao tâm tổn trí rất nhiều nhưng vẫn không biết nên làm như thế nào để có thể hòa nhập được cùng Mỹ, đặc biệt là mối quan hệ với Mỹ trong khu vực Châu Á. Rất nhiều người đã từng nghĩ rằng mục tiêu chủ yếu của Mỹ trong sự hiện diện tại Châu Á này là nhằm đối phó với Trung Quốc, thế nhưng trên thực tế lại không hề đơn giản như vậy. Lý do Mỹ tồn tại ở khu vực Châu Á không chỉ để đối phó với riêng một Trung Quốc, mà còn liên quan đến vấn đề địa chính trị khác. Ví dụ, nếu không có nhân tố Trung Quốc thì Mỹ vẫn đương nhiên tìm ra được lý do để tạo ra không gian sinh tồn tại Châu Á. Bất luận là khu vực Đông Bắc Á, Đông Nam Á hay Nam Á, mối quan hệ phức tạp đan xen giữa các nước đều cần có sự hỗ trợ sức mạnh của Mỹ để cân bằng lực lượng.
Trung Quốc không tạo dựng không gian cho Mỹ.
Rất nhiều các quốc gia Châu Á đều cần sự hiện diện của Mỹ chính là do kết quả không hành động của Trung Quốc. Ví dụ, trong vấn đề Triều Tiên thì ngoài Triều Tiên ra, hầu hết tất cả các nước Châu Á đều bất mãn với cách hành xử của Trung Quốc. Tất nhiên là cũng có những điểm khó xử riêng nhưng không thể vì thế mà chứng minh rằng cách hành xử của Trung Quốc là hợp lý được. Quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản thường xuyên liệt vào trạng thái căng thẳng. Hiện nay cùng với sự trỗi dậy của Ấn Độ thì mối quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ cũng hàm chứa rất nhiều những nhân tố không xác định. Mặc dù Trung Quốc và các nước khu vực Châu Á luôn có các lĩnh vực hợp tác chung, thế nhưng những cuộc xung đột dường như phát sinh ngày một phức tạp hơn. Dù thế nào đi chăng nữa, trong việc giải quyết các vấn đề khu vực Châu Á thì Mỹ vẫn là quốc gia duy nhất đã từng nhiều lần thông qua các cuộc trải nghiệm, hơn nữa, tính quan trọng của nhân tố Trung Quốc mặc dù ngày một tăng lên nhưng chưa hề thông qua bất kỳ một cuộc trải nghiệm nào cả. Trong bối cảnh như vậy, Mỹ vẫn chính là môt quốc gia đạt mức độ tin tưởng và được dựa dẫm cao nhất. Điều này cũng được thể hiện trong vấn đề Biển Đông, những nước có liên quan hy vọng có sự can thiệp của Mỹ tại khu vực xảy ra tranh chấp này, nhằm nâng cao tính chắc chắn của họ trong vấn đề Biển Đông. Chính vì thế mà dẫn tới xu thế "chính trị hóa đại quốc"...
Ở đây còn có môi trường nội bộ của chính bản thân Trung Quốc. Phiên họp Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ mười tám sẽ được tổ chức vào năm sau. Trong thời gian này, nhiệm vụ chính của chính quyền Trung Quốc là giải quyết công việc nội bộ, sự ổn định sẽ trấn áp tất cả mọi vấn đề khác. Có một số quốc gia phán đoán rằng trong thời kỳ này thì Trung Quốc sẽ không thể đưa ra những điều chỉnh lớn nào về chính sách đối ngoại được cả. Điều này cũng có nghĩa rằng, trước khi một thế hệ lãnh đạo mới được thành lập, Trung Quốc sẽ không thể có chính sách mới và quan trọng nào trong lĩnh vực ngoại giao, hay nói rằng phần lớn các chính sách đối ngoại được đưa ra tất nhiên đều mang tính chất phản ứng là chủ yếu. Cách phán đoán này khiến cho các nước có liên quan đến tranh chấp sẽ nhận thấy rằng đây là cơ hội để tiến hành áp dụng những phương pháp triệt để hơn cho họ.
Trung Quốc sẽ làm gì khi đối mặt với tình thế hiện tại này? Được coi là một quốc gia lớn đang trong quá trình trỗi dậy, Trung Quốc chắc chắn sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các vấn đề về khu vực. Tình thế tại Biển Đông đối với Trung Quốc mà nói, mặc dù "ngày thế giới tận thế" vẫn còn cách xa vô cùng, nhưng họ bắt buộc phải thay đổi tính bị động đã tồn tại cho đến thời điểm hiện tại này để chuyển sang tính chủ động hơn. Điều đặc biệt quan trọng phải nói đến rằng, vấn đề hiện nay của Trung Quốc không phải là vấn đề về nguồn tài nguyên, mà là chiến lược, chính sách và cách huy động nguồn lực. Đơn giản mà nói chính là vấn đề về đường lối tư duy của Trung Quốc. Trong tranh chấp “Nam Hải” (Biển Đông), Trung Quốc phải có một đường lối tư duy rõ ràng, minh bạch.
Cần phải suy ngẫm lại đường lối tư duy đã cũ của Trung Quốc.
Khi đề cập đến đường lối tư duy mới thì cần phải suy ngẫm lại đường lối tư duy đã cũ của Trung Quốc. Vấn đề cốt lõi trong đường lối tư duy truyền thống của Trung Quốc chính là phản đối "quốc tế hóa" trong trannh chấp Biển Đông. Xét trên cơ sở lý thuyết, điều này đương nhiên là không sai. Nhưng vấn đề phát sinh nằm ở chỗ khái niệm đưa ra này không những không miêu tả được tình huống khách quan của quá trình tranh chấp Biển Đông mà lại càng khó khăn hơn khi áp dụng đường lối tư duy này để có thể tìm ra được biện pháp giải quyết. Điều này liên quan đến nhiều cấp độ bên trong các vấn đề chính.
Thứ nhất là chủ nghĩa song phương. Trung Quốc yêu sách gác tranh chấp chủ quyền cùng khai thác chung. Thế nhưng cho đến nay chính sách này vẫn chỉ dừng lại ở trạng thái khẩu hiệu, lý thuyết suông. Để có được mối quan hệ với các nước ASEAN, bản thân Trung Quốc không hề có kế hoạch khai thác Biển Đông nào cả, mà ngược lại chính là các nước có liên quan trong những năm gần đây tiến hành tăng cường khai thác. Thế nhưng Trung Quốc không phải đề xuất ra chủ trương cùng khai thác chung, mà chính xác phải nói là chủ trương khai thác đơn phương. Trong vấn đề cùng khai thác chung, các quốc gia có liên quan hoặc là không tự nguyện hoặc là tinh thần tự nguyện không cao. Hay nói toạc ra thì Trung Quốc không có đủ sức mạnh cũng như cơ chế quyền lực để thúc đẩy các quốc gia có liên quan công nhận và đi đến chấp nhận yêu sách cùng khai thác chung mà Trung Quốc đã đề xuất.
Thứ hai là chủ nghĩa đa phương, chính là mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước ASAEN. Vấn đề tranh chấp Biển Đông chủ yếu biểu hiện trong "Tuyên bố ứng xửtrên Biển Đông” mà Trung Quốc cũng đã ký kết. Thế nhưng văn bản này lại không mang bất cứ tính chất ràng buộc pháp lý nào. Văn bản tuy đã được ký kết rất nhiều năm qua nhưng không có bất cứ một quốc gia nào đạt hiệu quả trong việc thúc đẩy cho văn bản trở thành một tài liệu mang tính ràng buộc pháp lý được. Nên nói rằng chính bản thân Trung Quốc cũng không nỗ lực thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của mình trong đó. Điều quan trọng của vấn đề nằm ở chỗ Trung Quốc vẫn tuân thủ chủ nghĩa song phương và phản đối đa phương hóa trong tranh chấp Biển Đông. Thế nhưng bản chất thực sự của rất nhiều vấn đề trong tranh chấp Biển Đông lại là đa phương, cho nên việc phản đối chính sách đa phương hóa đã thể hiện rõ thái độ của Trung Quốc không dám đối mặt với sự thực này.
Thứ ba là quốc tế hóa. Các quốc gia có liên quan đã đưa vấn đề tranh chấp Biển Đông giao phó cho Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế. Trung Quốc tỏ ý không chấp nhận cho lắm, bởi vì nếu cầu cứu đến Liên Hợp Quốc hoặc các tổ chức quốc tế thì khả năng bại trận của Trung Quốc sẽ lớn hơn cơ hội chiến thắng rất rất nhiều lần. Như đã thảo luận trong phần trên, Trung Quốc đã thua trận trong cuộc chiến công luận quốc tế rồi, sẽ không còn bao nhiêu người có thể thông cảm cho lập trường của Trung Quốc được nữa.
Thứ tư là chính trị hóa đại quốc. Các quốc gia có liên quan trong khu vực Đông Nam Á hy vọng sẽ có sự can thiệp của Mỹ tại đây, điều này là dễ hiểu. Thế nhưng mức độ can thiệp của Mỹ sẽ sâu nông như thế nào thì còn phải xem lợi ích quốc gia của chính họ trong vấn đề này. Nhân tố Mỹ trong khu vực Đông Nam Á đã luôn tồn tại từ trước tới nay, hay nói cách khác Mỹ đã luôn là một bộ phận cấu thành trong cấu trúc khu vực này. Trên thực tế, lợi ích của Mỹ tại khu vực Đông Nam Á này còn thâm căn cố đế hơn nhiều so với lợi ích của Trung Quốc. Ngay từ thời kỳ khi mới bắt đầu chiến tranh lạnh thì Mỹ đã không ngừng thiết lập mối quan hệ với các nước trong khối ASEAN, còn Trung Quốc chỉ mãi cho đến sau thời kỳ cải cách giải phóng đất nước mới bắt đầu xây dựng mối quan hệ mang tính thực chất với các nước này. Mối quan hệ giữa Mỹ và các nước Đông Nam Á là toàn diện trên các lĩnh vực còn Trung Quốc thì chủ yếu chỉ dựa trên lĩnh vực kinh tế, còn những lĩnh vực khác mới đang thuộc thời kỳ sơ khai. Do vậy, việc chính quyền Trung Quốc phản đối "chính trị hóa đại quốc" cũng chính là nguyên do khiến cho nước này không nhận ra bản chất thật của vấn đề tranh chấp.
Khi suy ngẫm đến các nhân tố đã được nêu ở phần trên, mọi người sẽ thật dễ dàng để trả lời câu hỏi rằng "Trung Quốc nên đi những bước tiếp theo như thế nào đây?", cũng có thể xem xét đánh giá từ nhiều góc độ như sau.
Trước tiên, Trung Quốc cần đặt mình đứng từ góc độ của các quốc gia láng giềng hoặc các nước có liên quan đến tranh chấp trong vấn đề Biển Đông để suy xét vấn đề. Trong suốt thời gian dài đến nay, chính quyền Trung Quốc luôn tuyên truyền lập trường với những nguyện vọng tốt đẹp của họ ra thế giới trong và ngoài nước, ví dụ như những khái niệm gọi là "trỗi dậy hòa bình", "phát triển hòa bình" và "láng giềng tốt", v.v... Những điều này rất quan trọng nhưng không bao giờ có thể coi là đủ được cả, bởi vì chính Trung Quốc đã coi nhẹ cách nhìn nhận của các nước xung quanh đối với sự trỗi dậy của họ như thế nào, hay mối quan tâm của các nước đó ra sao trước sự trỗi dậy của Trung Quốc. Chỉ cho đến khi thấu hiểu được mối lo lắng của các nước láng giềng này rồi, thì Trung Quốc mới hoạch định ra những chính sách thiết thực có hiệu quả được. Nếu không, không quan tâm nguyện vọng của Trung Quốc có như thế nào đi chăng nữa, hay đại loại giống như những khái niệm gọi tương tự như là "sự trỗi dậy hòa bình" v.v... thì cuối cùng vẫn biến thành những lời Trung Quốc tự nói và tự nghe.
Thứ hai, Trung Quốc bắt buộc phải phân định rõ ràng giữa vấn đề an ninh hàng hải và tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông. Mối quan tâm của cộng đồng quốc tế đặc biệt là Mỹ nói riêng chính là vấn đề an ninh hàng hải, việc Mỹ can thiệp vào vấn đề Biển Đông cũng chính xuất phát từ căn nguyên này ra. Đối với vấn đề này, Trung Quốc cần căn cứ vào tình hình thực tế, thừa nhận và nhấn mạnh rằng an ninh hàng hải là mối quan tâm của tất cả các bên tham gia, đồng thời cũng là trách nhiệm của tất cả các bên. Trung Quốc phải tình nguyện gánh vác trách nhiệm này cùng với các quốc gia khác như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ hay các quốc gia ASEAN. Trên thực tế, vấn đề an ninh hàng hải quốc tế vẫn luôn do Mỹ đảm nhiệm từ trước tới nay. Mặc dù Trung Quốc đã bắt đầu có năng lực và sức mạnh trong vấn đề này, thế nhưng khả năng gánh vác được trách nhiệm thì vẫn còn quá là xa vời đối với chính họ, cho dù chỉ là vấn đề liên quan đến an ninh hàng hải trong khu vực mà thôi. Trong lĩnh vực này, hai nước Trung, Mỹ có không gian để có thể hợp tác cùng với nhau rất lớn, mà sự hợp tác như vậy cũng phù hợp với lợi ích quốc gia của chính bản thân Trung Quốc. (Đương nhiên ở đây đề cập đến một vấn đề còn cơ bản hơn, đó là việc Trung-Mỹ sẽ hợp tác như thế nào để xây dựng nên hệ thống an ninh trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Mà điều này đòi hỏi thể hiện trong một bài lập luận khác biệt nữa).
Quản lý và kiểm soát sẽ chính là các lựa chọn.
Thứ ba, một cấp bậc tiếp theo nữa là mối quan hệ giữa Trung Quốc và tổng thể khối ASEAN. Việt Nam, Philippin, Malaysia và Bruney là những nước thành viên ASEAN có tuyên bố chủ quyền một phần hoặc toàn bộ đối với một số đảo trên Biển Đông. Điều này quyết định đến sự cân nhắc của Trung Quốc về lợi ích tổng thể của khối ASEAN cũng như mối quan hệ giữa Trung Quốc và tổng thể ASEAN. Mặc dù cho tới thời điểm hiện tại, Trung Quốc không sẵn sàng chấp nhận chủ nghĩa đa phương, thế nhưng cuối cùng thì họ bất đắc dĩ cũng phải thừa nhận, hơn nữa sự chấp nhận này càng sớm bao nhiêu thì sẽ càng có lợi cho Trung Quốc bấy nhiêu. Hãy giả thiết một chút rằng, nếu như "Tuyên bố ứng xử trên Biển Đông" ngay từ những năm trước đã có tính ràng buộc pháp lý rồi thì cục diện Biển Đông sẽ không đến nỗi phát triển như thời điểm hiện tại thế này. Không còn nghi ngờ gì nữa, nếu Trung Quốc chấp nhận chủ nghĩa đa phương, thì "Tuyên bố ứng xửtrên Biển Đông" sẽ vẫn là một lối vào đầy thuận tiện.
Thứ tư, một cấp bậc cuối cùng là nên đối diện với vấn đề tranh chấp chủ quyền như thế nào. Đây là vấn đề vô cùng thiết yếu, Trung Quốc nên từ bỏ chủ nghĩa song phương truyền thống và chấp nhận chủ nghĩa song phương mới, cũng có nghĩa là một chủ nghĩa song phương mới nằm trong cấu trúc của chủ nghĩa đa phương. Điều này nói lên rằng, Trung Quốc và các nước có liên quan đến tranh chấp sẽ có thể tiến hành các cuộc họp thảo luận song phương dưới hình thức cấu trúc đa phương giữa Trung Quốc và ASEAN khi bàn bạc nghiên cứu về vấn đề Biển Đông. Dưới hình thức cấu trúc đa phương như vậy, các quốc gia không liên quan đến tranh chấp Biển Đông sẽ không tỏ rõ thái độ ủng hộ đối với bất cứ một bên nào, lập trường trung lập sẽ là lợi ích lớn nhất của tất cả các bên. Đồng thời khuôn khổ này cũng tạo động lực lớn giúp cho các nước có liên quan đến tranh chấp có thể tiến hành thương lượng thảo luận với Trung Quốc.
Vấn đề Biển Đông ngày càng trở nên phức tạp gay gắt. Muốn một bước giải quyết nhanh gọn vấn đề này là không điều không thể xảy ra được. Nếu không giải quyết được vấn đề tồn tại, thì phương án quản lý và kiểm soát sẽ trở thành những cách lựa chọn hợp lý. Nhưng muốn quản lý và kiểm soát được vấn đề tranh chấp Biển Đông thì cần bắt buộc phát triển một loạt các cơ chế pháp lý. Mặc dù Trung Quốc hiện nay đang nằm trong tình thế bị động, thế nhưng không gian mà Trung Quốc có thể hoạt động được lại vô cùng lớn. Là một quốc gia lớn có trách nhiệm thì Trung Quốc cũng nên tìm kiếm các giải pháp để quản lý và kiểm soát vấn đề tranh chấp trên Biển Đông bắt đầu ngay từ trong bối cảnh khu vực thậm chí mở rộng ra quốc tế. Nếu Trung Quốc không thể thay đổi đường lối tư duy truyền thống một cách có hiệu quả thì không gian hoạt động của Trung Quốc trong vấn đề này sẽ ngày càng bị thu hẹp nhỏ lại.
Bản gốc tiếng Trung “中国活在梦中 南海早已彻底输掉
Theo Liên hợp Buổi sáng
Đinh Thị Thu (dịch)

SƠN TRUNG * CHÍNHLUẬN 13


 VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI


 Một sự kiện đặc biệt trong tuần này là thế giới đã quan tâm đến các nhà tranh đấu Việt Nam.Tổ chức Phóng viên Không biên giới RSF phối hợp với đại công ty internet Google  trao  Giải Công dân Mạng 2013   cho Blogger Huỳnh Ngọc Chênh của Việt Nam. Bộ  ngoại giao Mỹ đã  vinh danh  khoảng 20 phụ nữ Việt Nam bất khuất kiên cường chống cộng sản xâm lược và bán nước. Các nước cũng đã khuyến cáo Việt Nam nên tôn trọng nhân quyền, trả tự do cho LS Lê Quốc Quân. Thượng nghị sĩ McCain qua Việt Nam  cũng khuyến cáo Việt Nam thay đổi chính sách.

Việt Nam cộng sản như một đứa bé ngu dốt và ương ngạnh. Với Trung Cộng, chúng bò hai chân và lạy lục. Với các nước, chúng vênh mặt lên và lên tiếng chửi rủa. Thái độ của Hà Nội cũng giống như Bắc Hàn huênh hoang đe dọa tiêu diệt Washington. Việt Cộng đối với ngoại quốc thì bất lịch sự hung hăng. Họ phản đối việc quốc tế trao giải thưởng cho các Bloggers. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã làm dáng dân chủ khi kêu gọi nhân dân góp ý kiến  sửa đổi Hiến Pháp, đến khi ngưởi ta lên tiếng thì ông bực bội và ăn nói  kiểu  ông nội người ta.. Ông là ai mà ông dám nói với nhân dân và các nhà trí thức  đã đóng góp sửa đổi Hiến pháp  là 'suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức'. Nhân dân là suy thoái chính trị, tư tưởng và đạo  đức  thì  các ông làm tay sai Nga Tàu, bán nước, hại dân, cướp tài sản nhân dân, giết cha mẹ, anh em, và như ông Hồ dối trá thành tinh, giết Nông Thị Vân và quăng xác ra đường là chính trị cao, tư tưởng vững và đạo đức trong sáng hay sao? Bây giờ các ông đâm chém nhau, lừa gạt nhau, cướp bóc công khai mà dám lên mặt đạo đức ư? Các ông nên biết các ông tội lỗi ngập đầu, xin cúi  mặt xuống, đừng lên tiếng tư tưởng, đạo đức. Tư tưởng, đạo đức Stalin, Mao, Hồ, Pol Pot thì cả thế giới biết rồi!Thật buồn cười, các vua chúa ta, các vua chúa Anh, Pháp, Đức , các Tổng thống Pháp, Mỹ và TrungHoa dân quốc it ai nói với quốc dân về tư tưởng đạo đức, sao Mao, Hồ lại ưa đề cao tư tưởng đạo đức thế a?  Rõ là " thùng rỗng kêu to". Người giàu có thí it khi khoe của, đa số giấu kín vì sợ trộm cướp. Người có đạo hạnh thật sự thì it khi khoe khoang vì khoe khoang là tính xấu. Cổ Học Tinh Hoa có kể chuyện Án tử làm Tể tướng thì mặt mũi khiêm cung, còn tên đánh xe thì dáng điệu vênh váo. Cả triểu đình cộng sản không ai khiêm tốn, ai cũng kiêu căng, lên tiếng dạy đời, và khoe khoang đủ thứ, nào là trí tuệ đỉnh cao, bách chiến bách thắng...
Mình làm cha mà con mình nó bỏ nhà ra đi, mỗi khi đau khổ chúng chạy qua ông hàng xóm, xin ông hàng xóm can thiệp, ông có thấy là nhục không? Đây là lúc thoái trào của Mac Lê, của Mao, Hồ. Người Nga, người Đông Âu đã giật sập tượng Marx, Lenin, Stalin, còn Trung Quốc thì còn bảng hiệu Cộng sản bề ngoài, nhưng bề trong cái ruột Marx, Mao và cộng sản đã mất cả rồi. Thiên hạ bảo ông Lú là phải!


Bà cho hay: ‘Hoạt động xuất khẩu vũ khí sát thương bị cấm trong khuôn khổ các quy định hiện thời không được mang ra thảo luận tại cuộc đối thoại chính sách quốc phòng vừa qua. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ tiếp tục hợp tác với Việt Nam trong khuôn khổ các quy định hiện có để giúp nước này tăng cường khả năng quân sự trong các lĩnh vực quan trọng’.
 http://www.voatiengviet.com/content/khong-ban-vu-khi-sat-thuong-trong-cuoc-doi-thoai-viet-my/1622988.html

 Cuộc thảo luận thường niên lần ba giữa các giới chức quân đội Việt – Mỹ diễn ra trong bối cảnh căng thẳng dâng cao tại biển Đông.

Mỹ không bán vũ khí sát thương hoặc giúp đỡ Việt Cộng vì ba lý do:
+ Việt cộng không là đồng minh của Mỹ
+Việt cộng tàn ác, độc tài. Nước Mỹ không đem tiền bạc của dân mà trợ ác.
+Việt cộng có nhiều tay chân Trung Cộng ngay trong bộ Chính trị và hàng tướng lãnh. Bán vũ khí cho Việt Nam sẽ lọt vào tay Trung Cộng.

 Nhiều người còn bảo rằng mấy tên Việt cộng xảo trá. Chúng giả đò mua vũ khí để tỏ ra ra tích cực chống ngoại xâm và cũng để mua bán kiếm chác it nhiều. Mua vũ khí Mỹ về bán lại cho Trung Cộng thì vừa được tiền, vừa được tiếng tôi ngoan!

Trong tháng ba, Mỹ và Nam Hàn luyện binh, Bắc Hàn cũng thử hỏa tiễn và tuyên bố sẽ san bằng Hoa Thịnh Đốn. Có thể đó là lời đe dọa huyênh hoang của một đứa trẻ hung hăng, điên cuồng. Nhưng người Mỹ cũng phải thận trọng vì " cẩn tắc vô áy náy" cho nên Washington cũng vội lắp đặt lá chắn đề phòng. Tú Anh đài RFI ngày 15-3-2013 cho biết trước những lời đe dọa “đánh phủ đầu”của Bắc Triều Tiên, Hoa Kỳ đã nhanh chóng củng cố hệ thống lá chắn chống tên lửa liên lục địa. Bờ biển phía tây của Mỹ sắp được tăng cường 14 dàn phi đạn diệt hỏa tiển trong khí đó Nhật Bản sẽ được trang bị thêm một ra-đa phát hiện và theo dõi đạn đạo.
 


Đài RFI loan tin Quyền tổng thống Venezuela Nicolas Maduro từng loan báo là thi hài ông Hugo Chavez sẽ được ướp để cho đời sau tiếp tục được thấy cố tổng thống của họ. Tuy nhiên hôm qua, 15/03/2013, Chính quyền Venezuela đã cho biết là sẽ không thực hiện việc này. Lý do là vì phương án này đòi hỏi là phải đưa thi hài ông Chavez qua Nga và để lại đấy trong nhiều tháng.
 Cộng sản vỗ ngực khoe họ là duy vật chủ nghĩa, là khoa học trong khi họ chửi mắng các triết phái khác , và các tôn giáo là duy tâm thần bí, ngu si dốt nát thì trong mấy chục năm qua, người ta đã thấy cộng sản hiện ra là một tôn giáo, cũng giáo điều, cũng mê tín. Người ta đua nhau ướp xác chết, tô tượng, in hình ảnh, lập nhà mồ, tổ chức lễ bái, thăm viếng bậc giáo lãnh. Ông Hồ chết năm 1969 nhưng trước đó, người ta đã cho người sang Liên Xô học kỹ thuật ướp xác. Thành ra di chúc ông già muốn chết đơn sơ giản dị, nào ném tro ra biển, nào chôn cốt chỗ này chỗ kia là hoàn toàn xạo!

Cái ông quyền Tổng thống Venezuela là tay gian nịnh nhưng may mắn thay, chính quyền Venezuela đã phản đối, thật khôn ngoan và sáng suốt thay! Ôi! Duy vật chủ nghĩa không tin linh hồn tồn tại, chết là hết, sao lại còn giữ  cái xác hôi thúi kia làm gì cho tốn tiền?  Trong khi dân nghèo, không nhà thương, không trường học, bọn Việt cộng sao lại tốn hàng triệu Mỹ kim cho các xác thối của lão già đại gian, đại ác?

 
Thế giới đang chú trọng đến việc chuyển quyền tại Trung Công. Việc lên ngôi của Tập Cận Bình là một sự kiện đại quan trọng vì thông thường, vị sáng lập đảng có nhiều quyền hành, nhưng qua kinh nghiệm Stalin và Mao, người ta phân lập, hay nói rõ hơn, người ta chia chác quyền lợi với nhau ngay trong hàng ngũ tối cao của đảng. Vì vậy mà có ba chức vụ chia cho ba ông lớn nhất là Tổng bí thư, Chủ tịch nước và Thủ tướng. Việt Nam thêm một ghế quan trọng nữa là Chủ tịch quốc hội cho đủ bộ tứ của cái ghế bốn chân. Vì sợ tranh giành, Đặng Tiểu Bình đã đặt lệ về hưu chứ không ngồi hoài đến chết. Khó lắm mới khuyên được các cụ về hưu . Khó lắm mới chia ra ba ghế cho ba ông. Thế mà nay các cụ lại giao quyền tổng bí thư, chủ tịch nước, và chủ tịch tịch quân ủy trung ương cho một tay Tập Cận Bình. Tại sao vậy?
























Đó là quan điểm của Mao Trạch Đông mà ai cũng biết. Hồ Cẩm Đào, Tập Cận Bình chắc cũng tự hào về chiến thắng trăm phần trăm của họ.



Saturday, March 16, 2013


TRỌNG THÀNH * CA TRÙ

Ca trù trước ngã ba đường: 
Phục sinh hay mai một
Hát ca trù - tranh sơn dầu của Phạm Công Thành (2005). Ảnh: N.X.D
Hát ca trù - tranh sơn dầu của Phạm Công Thành (2005). Ảnh: N.X.D
Trọng Thành
 
Ca trù - môn nghệ thuật cổ truyền độc đáo của Việt Nam - ngày càng được công chúng trong nước và quốc tế biết đến. Năm 2009, ca trù được Unesco công nhận là một “di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp”. Điều bất ngờ là, trong thời gian gần đây, càng lúc càng có những tiếng nói trong nước báo động về nguy cơ mai một của ca trù.
Tại Việt Nam, về mặt số lượng, các nhóm ca trù địa phương dưới hình thức câu lạc bộ đang nở rộ. Nếu như trước năm 2005, cả nước chỉ có khoảng 20 câu lạc bộ, thì nay đã tăng lên gấp ba lần. Các câu lạc bộ ca trù có mặt tại khoảng 15 tỉnh và thành phố Việt Nam. Một số khóa truyền nghề của các nghệ nhân “đầu ngành” cho thế hệ trẻ đã được thực hiện, một số liên hoan ca trù toàn quốc đã được tổ chức, một số sinh hoạt ca trù gắn với các lề thói xưa đang bắt đầu được phục hồi, các phương tiện truyền thông chú ý nhiều hơn đến ca trù…
Tuy nhiên, điều bất ngờ là, trong thời gian gần đây, càng lúc càng có những tiếng nói trong nước cất lên báo động về nguy cơ mai một của ca trù. Thậm chí, một số ý kiến nhắc đến khả năng Unesco rút danh hiệu “di sản văn hóa nhân loại” mà môn nghệ thuật quý báu này vừa được trao tặng.
Tạp chí Cộng đồng của RFI tuần này xin chuyển đến quý vị tiếng nói của một số nghệ nhân, nghệ sĩ, nhà tổ chức, chuyên gia hàng đầu về ca trù tại Việt Nam, những người tích cực hoạt động để cổ vũ cho sự phục hồi/phổ biến nghệ thuật ca trù, với hy vọng tiếng nói của các vị khách mời sẽ mang đến cho quý vị những góc nhìn khác nhau, góp phần vào việc soi tỏ thực tại nhiều nghịch lý kể trên.
Các khách mời của chúng ta hôm nay là các nghệ sĩ, nghệ nhân Nguyễn Thúy Hòa, Bạch Vân, Phạm Thị Huệ và Nguyễn Văn Khuê, những người trực tiếp bảo tồn/phổ biến di sản nghệ thuật này ; giáo sư Tô Ngọc Thanh và nhạc sĩ Đặng Hoành Loan, những người có trọng trách trong việc lập hồ sơ ca trù gửi Unesco, và tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, tác giả một số công trình nghiên cứu về lịch sử ca trù, đặc biệt qua di sản Hán-Nôm.
Lo lắng, nhưng lạc quan về tương lai của ca trù
Mở đầu tạp chí là tiếng nói của nhà nghiên cứu âm nhạc học dân tộc Tô Ngọc Thanh, chủ tịch Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, một người nhiều năm đóng góp cho quá trình phục hồi di sản ca trù.
Tô Ngọc Thanh : Sau khi nhận được cái vinh danh ấy, thì vừa mừng, vừa lo, đặc biệt những người như chúng tôi. Tức là những người dám nói hiểu biết một ít về ca trù. Lo sợ cho vận mệnh của nó, nên càng lúc càng lo hơn. Bây giờ, nó như thế này : Chỗ đứng của ca trù hiện nay trong con mắt của nhân dân có tăng lên so với trước. Họ biết rõ đấy đích thực là một di sản quý báu, chứa chất những tinh hoa về văn học, văn hóa, nghệ thuật và âm nhạc nữa. Thì đấy là một điều mừng, vì anh chẳng lạ gì, trước đây cũng có người nói rằng đấy là sản phẩm của cái nơi đĩ bợm, với hình ảnh về phố Khâm Thiên ngày xưa.
Giáo sư Tô Ngọc Thanh
16/10/2012
Trong hồ sơ mà chúng tôi gửi đi, thì bao giờ cũng có phần rất là quan trọng, gọi là "chương trình hành động", để nếu như được vinh danh rồi, thì chúng tôi phải làm gì để xứng với tầm cỡ của nó. Thì sau khi được vinh danh rồi, trong chương trình hành động, chúng tôi cũng đề ra khá nhiều. Như thế đã trải qua ba năm rồi, cái chương trình ấy chưa được cụ thể hóa.
Anh cũng biết, trước kia nó là của dân, nó được truyền nghề theo kiểu cha truyền con nối, theo kiểu phường hội. Còn bây giờ nó không thể thế được, thế bây giờ chúng tôi cần những kinh phí để truyền dạy. Cũng xin nói thật là Hội Văn nghệ Dân gian của chúng tôi cũng đã tổ chức được 4, 5 lớp. Tức là từ những nghệ nhân truyền thẳng xuống cho lớp trẻ, mà thông qua phương thức như ngày xưa, tức là truyền miệng, truyền nghề. Chúng tôi cho rằng, đây là hình mẫu chúng tôi làm, để mai kia nếu có được kinh phí của nhà nước, thì mô hình ấy có thể giúp cho ca trù được đứng hơn.
Vậy thì, nói với nhà báo thế này : Mọi người không quên, nhưng mà nó đang ở bước đầu. Tôi hy vọng rằng, nó sẽ được hiện thực với một tốc độ cũng không nhanh lắm đâu. Nó chưa thật là vui lắm, nhưng cũng không đến mức phải buồn.
Con đường gìn giữ và phổ cập ca trù trong đời sống đương đại
Tiếp theo đây là một số nhận xét của nhạc sĩ Đặng Hoành Loan, người phụ trách khoa học của Hồ sơ quốc gia về "Nghệ thuật ca trù của người Việt" trình Unesco trước đây, về một số điều ông tâm đắc trong quá trình đưa ca trù đến với đời sống đương đại, bên cạnh việc phục dựng lại một số sinh hoạt cổ.
Đặng Hoành Loan : Về việc bảo tồn vốn cổ ca trù đúng như nó có là điều khó khăn trong xã hội hiện đại. Vì ca trù hiện nay nó mất mất cái môi trường sinh hoạt của nó. Cho nên là, việc giữ gìn nó trong đời sống hiện nay, thì đương nhiên là nó vấp phải một số khó khăn nhất định. Nhưng điều quan trọng là : Con người ngày nay, nhất là sau ba năm được Unesco công nhận là di sản, thì giới yêu thích ca trù Việt Nam đang làm được một số việc quan trọng.
Nhạc sĩ Đặng Hoành Loan
16/10/2012
Tôi cho rằng đây chỉ là việc tái hồi lại những bài ca đã có, những bài thơ đã có. Và nó đang dần dần trở lại các sinh hoạt trong các tập tục ngày xưa ở đình làng. Ta biết ca trù có các địa điểm trình diễn ở đình làng, trong tư gia, cung đình và các lối chơi của các nhà nho. Thì hiện nay cái đang có thể trở lại được,và đã trở lại là sinh hoạt ca trù trong một số đình làng.
Thứ hai là ở các phố thị, các thành phố hiện nay, ca trù ngày nay trình diễn lại các điệu hát trong cái sinh hoạt ngày xưa, bằng cách thức tổ chức các câu lạc bộ. Tôi thấy rằng, hiện nay rất nhiều câu lạc bộ rất tốt, đặc biệt là Hà Nội đang trở thành một trung tâm khá lớn, thu hút lực lượng trẻ. Tôi nói như vậy là tôi dựa vào cuộc liên hoan ca trù tháng 11/2011. Cuộc liên hoan này đánh dấu cuộc chuyển mình rất lớn, ca trù sống lại, tái sinh lại trong xã hội hiện đại. Nhưng chúng ta đang hy vọng phục hồi lại được những bài bản cũ, chứ còn chúng ta chưa hy vọng được là có những sinh hoạt như truyền thống ngày xưa, như rất nhiều người thường nói, là những lối ca trong gia đình, những lối ca thân thiện, những lối ca sáng tác tại chỗ.
Đào nương – linh hồn của nghệ thuật ca trù
Là một nghệ thuật gắn liền với lịch sử Việt Nam hàng trăm, thậm chí nghìn năm nay, ca trù chứa đựng nhiều tinh hoa của dân tộc Việt. Điều đặc biệt đáng chú ý trong ca trù được nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh, đó là sự phối kết linh diệu giữa các thể cách âm nhạc và sáng tạo thơ ca, qua những mối giao hòa giữa đào nương và văn nhân, thi sĩ.
Thông thường trong nghệ thuật ca trù, người thưởng thức chính là các văn nhân, đặc biệt trong vị trí quan viên giữ trống chầu, trong khi đó, ca nương là người trình diễn.
Nhắc đến ca trù đương đại không thể không dừng lại để nhớ về ca nương Quách Thị Hồ. Di sản ca trù của Việt Nam được thế giới biết đến ngày hôm nay, một phần rất lớn nhờ công lao của bà và giáo sư Trần Văn Khê, thông qua mối duyên kỳ ngộ giữa hai người, cách đây đã gần 40 năm (năm 1976, giáo sư Trần Văn Khê ghi âm giọng hát ca trù của bà Quách Thị Hồ để giới thiệu ra thế giới qua đĩa hát mang nhãn hiệu Unesco). 
"Tiếng hát của Quách Thị Hồ đẹp và tráng lệ như một tòa lâu đài nguy nga, lộng lẫy, mà mỗi một tiếng luyến láy cao siêu tinh tế của bà là một mảng chạm kỳ khu của một bức cửa võng trong cái tòa lâu đài ấy. Tiếng hát ấy vừa cao sang bác học, vừa mê hoặc ám ảnh, diễn tả ở mức tuyệt đỉnh nhất các ý tứ của các văn nhân thi sĩ gửi gắm trong các bài thơ" (theo Nguyễn Xuân Diện). 
Người ca nữ ngày nay sống như thế nào với những bài thơ mà họ hát lên ? Chúng tôi có may mắn được nghệ sĩ Nguyễn Thúy Hòa (CLB Thái Hà), người đã từng theo học với nghệ nhân Quách Thị Hồ, chia sẻ :
Nguyễn Thúy Hòa : Cái quan trọng mà thầy tôi dậy tôi là, khi mình đọc cái bài thơ trước khi mình hát, thì mình phải có cái cảm xúc thật của mình. Khi mình thể hiện, thì mình thể hiện bằng cái cảm xúc đó. Cho nên, mỗi lần hát không một lần nào giống lần nào cả.
Nghệ sĩ Nguyễn Thúy Hòa
16/10/2012
Tôi nhớ một lần hát bài "Tỳ bà hành". Tôi thể hiện nhiều lần bài hát này. Nhưng lần đó, không hiểu sao, cảm xúc của tôi quá mạnh, nó bị đong đầy quá. Và tôi đã không thể ngừng được, và tôi đã khóc rất là nhiều. Tôi vừa khóc, tôi vừa hát và tôi nức nở. Bởi vì, tôi rất nhớ đến thầy của tôi. Chỉ vì một câu hát thôi. Nội dung của bài hát không liên quan đến thầy của mình. Nhưng mà từ một câu, một chữ nào đấy, tất cả những hình bóng của thầy, những lời nói, tự nhiên nó ùa về.
Lúc ấy cái tâm trạng của mình nó không kìm được. Cái điều đó cũng là điều không nên đối với một người nghệ sĩ. Mình phải biết kìm hãm cảm xúc của mình. Nhưng mà khi khán giả thấy như thế, họ thấy là vô cùng hay. Và họ cảm nhận được cả cái bài hát, cả cái cảm xúc của mình. Cái hình ảnh đó, cái bài hát đó, cái ngày hôm đó luôn luôn ở trong tâm trí của mình.
Giây phút tri âm
Người ca nương là cả một thế giới riêng. Trước đây, phần lớn nếu không nói là hầu hết các bài thơ được hát trong ca trù, đều do các tác giả là đàn ông viết. Và như vậy rất thường khi tâm sự của người phụ nữ được thể hiện qua cảm nhận của nam văn sĩ. Người ca nữ ngày nay nhìn về vẻ đẹp của ca trù như thế nào ? Sau đây là tiếng nói của nghệ sĩ Bạch Vân (CLB Ca trù Hà Nội - CLB đầu tiên về ca trù, thành lập năm 1991) :
Bạch Vân : Những người đến với ca trù phải là những người có một tính cách thâm trầm, sâu sắc, thì anh mới có thể thả hồn mình vào đấy. Thứ hai là người hát cũng phải là người có những tâm trạng. Cuộc đời thăng trầm thì hát hay hơn nhiều. Chẳng hạn như tác phẩm nước ngoài, thì Bạch Vân thích nhất "Tỳ bà hành". Và Bạch Vân thấy rất là quý nể bà Quách Thị Hồ cái bài ấy. Bạch Vân cũng đắm chìm trong nó. Bạch Vân cảm thấy cái thân phận của người phụ nữ, đặc biệt người ca nữ nó đau đớn, nhiều khi nó trần trụi, mình cảm thấy mình đúng là cái thân phận như vậy.
Nghệ sĩ Bạch Vân
16/10/2012
Những người khách đến nghe rồi họ lại ra đi. Những khách tình cờ gặp gỡ cũng phải để lại cảm xúc chứ. « Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ », « Vô duyên đối diện bất tương phùng », « Đã từng khen chén rượu câu thơ, lòng riêng những đợi chờ tri kỷ mãi ».
Một giây phút nào đấy người ta cô đơn, người ta cảm thấy rằng đấy cũng là mình tìm được một người bạn tri kỷ, tri âm. Cái thân phận của người phụ nữ, cái thân phận của người ca nữ, nó buồn lắm, buồn sâu thẳm và nhiều khi nó đau đớn đến tột cùng. Bạch Vân cứ ngồi hát là cảm thấy Bạch Vân ở trong không gian ấy, trong nhân vật ấy và Bạch Vân đắm chìm trong câu hát ấy. Và nhiều khi mình bay lên chín tầng mây, mình hòa chung với nó, và mình không còn biết mình là ai nữa.
Đến bây giờ Bạch Vân cũng đã suýt soát gần 30 năm đam mê với nó, và Bạch Vân thấy rằng là, những lúc mình buồn bã nhất, có thể mình muốn chết, thì mình lại vào hát và mình cảm thấy mình lại bay bổng, mình lại thăng hoa, mình lại giải thoát khỏi nỗi cô đơn và mình sẽ gặp tri âm, tri kỷ trong câu hát của mình, và mình lại trở về một cách bình yên, và mình lại sáng tạo, lại sống, mình lại yêu đời hơn.
Tất nhiên là, đến với ca trù, Bạch Vân phải trả giá cho tuổi thanh xuân, trả giá cho hạnh phúc của mình. Nhưng mà, có những lúc mình đau xót, buồn thấu xương, thấu thịt, buồn thấm đẫm một sự cô đơn khủng khiếp, thì Bạch Vân lại lấy bộ phách ra và đắm chìm trong Tỳ bà hành, trong "Cuốn chiếu nhân tình", trong "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ"…
Một thưở huy hoàng
Ca trù là một nghệ thuật đã có thời hết sức phổ biến trong xã hội Việt Nam, từ nơi thôn dã cho đến chốn thị thành. Nghệ thuật ấy đã để lại những đỉnh cao của nó, mà người nghệ sĩ ngày nay không dễ gì mà vươn đến được. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện nhận xét :
Nguyễn Xuân Diện : Cái nghệ thuật ca trù, để có thể phục hồi được, thì cái quan trọng nhất phải phục hồi là cái người đào nương. Người đào nương hồi xưa đều được sinh ra ở làng quê và được giáo dục trong các giáo phường. Cho đến hiện nay, việc này khó đến nỗi mà chúng ta chưa tìm thấy lại được một người nào nữa, một người nào nữa có thể tạm sánh với lại một phần nhỏ của bà Kim Đức, hoặc một phần nhỏ của bà Quách Thị Hồ. Cả một sự tinh tế như vậy, chính vì thế cho nên nhạc sỹ Nguyễn Xuân Khoát nói, có khi là phải lịch lãm cả một cuộc đời thì mới mong hiểu nổi cho trọn vẹn một tiếng phách tre.
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện
17/10/2012
Thế thì, tìm lại cái hào quang của dĩ vãng vàng son như vậy ở trong ca trù thì không thể có được. Và vì vậy, có lẽ chỉ giữ được ca trù trong một khuôn khổ nào đó nhất định thôi. Nhưng chúng tôi cũng có thể hy vọng là, khoảng mươi, mười lăm năm nữa thì may chăng là sẽ tìm lại được chăng ?
Sự mong manh của một di sản nghìn năm
Sự phục hồi di sản ca trù không chỉ khó vì những đỉnh cao của môn nghệ thuật cổ xưa này, mà còn vì sự mong manh của các nghệ nhân đầu đàn, tất cả đều đã tuổi cao sức yếu. “Có lẽ không loại hình nghệ thuật nào như ca trù, luôn gắn với hình ảnh những người biểu diễn ở vào độ tuổi cực cao, mắt mờ chân chậm, răng lợi móm mém, mỗi khi lên xuống sân khấu phải có người dìu. Họ nói run run yếu ớt, nhưng (lạ thay) mỗi khi cất giọng hát, thì trong vắt thanh tân, nghe như rút hết chút sức tàn còn lại... » (theo Hồng Minh, trang mạng nhandan.com.vn).
Việc người nghệ nhân không được chú trọng và trân trọng thực sự đã khiến cho có rất nhiều lo ngại rằng nghệ thuật này có thể thất truyền. Sau đây là tiếng nói của nghệ sĩ Phạm Thị Huệ, phụ trách CLB Ca trù Thăng Long :
Phạm Thị Huệ : Chúng tôi cũng có những khó khăn như là : Trước khi kêu gọi các nghệ nhân làm hồ sơ, thì (cơ quan hữu trách) luôn luôn đề cao rằng, sau khi chúng ta được (Unesco) phong tặng, thì nghệ nhân cũng sẽ có những ưu đãi đặc biệt để giúp cho họ. Cho tới giờ, các nghệ nhân cũng chưa nhận được một sự ưu ái nào.
Nghệ sĩ Phạm Thị Huệ
16/10/2012
Đấy là cái điều tôi cảm thấy rất xót xa. Không biết là cho đến bao giờ. Vì các cụ đều ở cái tuổi 88, gần 90 rồi. Ở cái tuổi đó, thì cũng không còn ở gần chúng ta được bao lâu nữa. Và cái di sản mà các nghệ nhân đang gìn giữ ở trong chính tâm hồn và tài năng của họ rất là khó có thể nắm bắt được. Kể cả chúng ta có ghi âm hay học đi chăng nữa. Cái việc ghi âm thì chỉ đơn thuần là cái máy hát lại thôi, không thể truyền được cái hồn giống như chúng ta được học trực tiếp. Còn cái việc học trực tiếp, thì chúng ta cũng phải thường xuyên được ở bên cạnh nghệ nhân, sống cùng nghệ nhân, và phải có một chiều dài từ 3 năm đến 7 năm, chứ không thể gỏn gọn trong vài chục ngày, vài tháng.
Đấy là những cái mà chúng tôi cảm thấy cái sự mong manh. Trong tương lai, ca trù rất có thể sẽ lại chìm vào quên lãng.
Thời buổi phấn vôi lẫn lộn
Thái độ đối xử đúng đắn với nghệ nhân, không chỉ là qua các đãi ngộ vật chất, mà đặc biệt đáng lưu ý là sự trân trọng đối với năng lực nghệ thuật đích thực của những người đầu đàn hiếm hoi còn sống. Được gọi trân trọng là “các di sản sống”, nhưng điều mà một bộ phận công luận tại Việt Nam rất phàn nàn rằng, các cơ quan hữu trách, trước hết là những người có thẩm quyền trong lĩnh vực nghệ thuật, lại không hợp tác thực sự với giới nghệ nhân đầu ngành, gây ra tình trạng nhiễu loạn chuẩn mực hiện nay trong môn nghệ thuật đang trong quá trình hồi sinh. Sau đây là một tâm sự của nghệ sĩ đàn đáy Nguyễn Văn Khuê, thuộc CLB Ca trù Thái Hà, sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời tiếp nối ca trù.
Nguyễn Văn Khuê : Tôi thấy, như hiện nay tôi rất là lo lắng. Làm ca trù xấu đi, và không có gì là mang đúng tính bác học của nó. Hiện nay, (tôi rất lo lắng về) cách bảo tồn ca trù của bên Viện Âm nhạc. Bây giờ, cứ ca nương mới học được một, hai năm đã có rất nhiều thành tích các thứ.
Kép đàn Nguyễn Văn Khuê
16/10/2012
Bình thường cái tiếng đàn của người ta phải tạo ra một con rồng, có đường nét và vô cùng uyển chuyển, thì họ chỉ dậy như một con giun thôi. Bản thân người đến với ca trù, người ta nghe, người ta chán.
Điều quan trọng nhất là : Thế nào thì được gọi là nghệ nhân ? Ai là người để sát hạch đấy là nghệ nhân đích thực, có đủ tài năng, thẩm mỹ để dạy cho lớp trẻ bây giờ. Khi mà thầy không đạt được tầm nghệ nhân mà dạy, thì nó sẽ dễ làm mất hết cả cái chất của ca trù, và dễ làm lệch lạc hướng đi.
Nếu cứ để như thế này, đào tạo theo phương thức này, mặc dù rất nhiều tiền của nhà nước bỏ ra, rất nhiều tiền của các ban ngành vào rồi, nhưng bây giờ thực ra phấn cũng như vôi. Không ai biết được là, người nào đích thực là nghệ nhân, đích thức là người có tài thực sự.
Một nghệ nhân đầu ngành, không công bố danh tính, cho biết, bà không đồng tình với những trắng đen lẫn lộn trong việc thẩm định chất lượng trình diễn ca trù, cũng như chất lượng dạy nghề. Tuy nhiên, dù không hợp tác với các cơ quan quản lý nghệ thuật, nghệ nhân đã ngoài 80 tuổi này cũng như một số người khác, vẫn âm thầm dạy nghề trong môi trường gia đình, thân hữu, soạn sách hướng dẫn, hầu truyền lại những giá trị đích thực của ca trù.
***
Trong vài thập niên trở lại đây, ca trù, một trong những loại hình nghệ thuật được coi là vi diệu nhất của văn hóa Việt Nam, đang trở lại với công chúng. Sự công nhận quốc tế, cũng như sự tôn vinh ngày càng mạnh mẽ trong nước đối với ca trù là điều rõ ràng. Tuy nhiên, trong quá trình hồi sinh ấy, ca trù đang đứng trước một ngã ba đường, giữa sự phục sinh - thăng hoa của những gì là di sản đích thực và sự lẫn lộn trắng đen, trong đó những giá trị nghệ thuật thực sự bị rẻ rúng và chìm trong quên lãng.
Ca trù có một truyền thuyết rất đẹp và lung linh huyền thoại về sự ra đời. (...) các vị tổ ca trù đã được chính các vị tiên xui khiến chế tác ra cây đàn đáy, mà tiếng đàn này có thể giải mọi phiền muộn, chữa được bệnh cho mọi người. Tiếng đàn ấy còn se duyên cho hai vị tổ ca trù thành đôi lứa... “ (theo Nguyễn Xuân Diện).
Mong sao sự khởi đầu rất thi vị ấy của ca trù vẫn còn sức mạnh để đưa ca trù tiếp tục cuộc hành trình xuyên qua thời gian, đưa những gì tinh túy nhất của các thế hệ đi trước đến với mai sau.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các nghệ sĩ Nguyễn Văn Khuê, Bạch Vân, Nguyễn Thúy Hòa và Phạm Thị Huệ, các nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Diện, Đặng Hoành Loan và Tô Ngọc Thanh đã dành thời gian cho tạp chí hôm nay. Trong thời gian thực hiện tạp chí này, chúng tôi đã nhận được nhiều chỉ dẫn của giáo sư Trần Quang Hải,  người tham gia lập hồ sơ ca trù trình Unesco và có một số khảo cứu về âm thanh học của ca trù. Nhân dịp này chúng tôi xin gửi lời tri ân tới giáo sư. 
Trong tạp chí lần này, chúng tôi không có dịp nhắc đến nhiều người đã có những đóng góp quan trọng cho công cuộc khôi phục và nghiên cứu về ca trù (như nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền, tiến sĩ Alienor Anisensel, người Pháp - tác giả một luận án về nhạc ngữ ca trù...) hay một số khía cạnh đặc biệt khác cho thấy những biến chuyển của ca trù ngày hôm nay, như các sáng tác mới trong thơ hát nói. Hy vọng sẽ có dịp trở lại với quý vị trong đề tài này vào một dịp tới. 
Các bài liên quan

No comments:

Post a Comment