TRUNG QUỐC ĐE DỌA BIỂN ĐÔNG
Đằng sau lời đe dọa của Trung Quốc.Quân đội Trung Quốc thuộc hàng hùng mạnh nhất thế giới
Báo điện tử Asia Times vừa có bài của tác giả Peter Navarro nói về bất đồng mới nhất xung quanh chuyện thăm dò dầu khí ở khu vực biển Đông. Chúng tôi xin giới thiệu cùng quý vị:Trong một bất đồng nữa liên quan tới quyền khai thác dầu ở khu vực Nam Hải (mà Việt Nam gọi là Biển Đông), Trung Quốc đã bắn súng cảnh báo tập đoàn ExxonMobil. Bắc Kinh tức giận vì Exxon muốn hợp tác với PetroVietnam để thăm dò dầu khí trong vùng biển quanh các quần đảo Spratlys và Paracels (Trường Sa và Hoàng Sa) còn tranh chấp.TQ đã cảnh báo Exxon phải rút khỏi dự án, mà Bắc Kinh mô tả là vi phạm chủ quyền của TQ.Cuộc tranh cãi mới nhất này mang lại nhiều nguy cơ, nhưng cũng có nhiều điều cần tìm hiểu thêm về chính sách biển của TQ.
Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng của Hoa Kỳ, khu vực Nam Hải (biển Đông) có trữ lượng dầu chắc chắn khoảng bảy tỷ thùng; và khảo sát địa chất của Mỹ cho hay có thể có khoảng 20 tỷ thùng nữa.Về phần mình, TQ đánh giá một cách lạc quan rằng trữ lượng phải lên tới 200 tỷ thùng. Có nghĩa là TQ có thể khai thác hai triệu thùng mỗi ngày, tương đương 25% mức tiêu thụ, ước tính khoảng 8 triệu/ngày.Phần lớn trữ lượng chưa được khai thác đó được tin là nằm ở khu vực các quần đảo đang tranh chấp.Đối đầu?Các đảo Hoàng Sa nằm xa TQ, VN và Philippines một khoảng cách tương đương nhau; và ba nước TQ, VN và Đài Loan cùng tuyên bố chủ quyền với quần đảo này.Tuy nhiên , TQ là nước gần như thống lĩnh tại khu vực Hoàng Sa.Năm 1974, TQ đã lợi dụng tình hình chiến sự giữa hai miền Nam Bắc VN để đánh chiếm Hoàng Sa, lúc đó đang do quân đội miền Nam VN nắm giữ.
Bắc Kinh tăng cường chiến lược biểnCác đảo Trường Sa thì hiện
đang được TQ, VN, Brunei, Malaysia, Philippines và Đài Loan cùng
tuyên bố chủ quyền. Tại đây các đảo lớn nhỏ cũng có trữ
lượng dầu tuy chưa xác định nhưng được tin là rất lớn.Với giá
trị cao như vậy, không ngạc nhiên rằng TQ và VN đã nhiều lần
đụng độ vũ trang xung quanh quần đảo này. Năm 1988, đã có một
trận hải chiến mà sau đó TQ chiếm thêm sáu đảo và rặng san hô
nữa.Năm 1994, tàu chiến của VN đã hộ tống thuyền thăm dò của
TQ khỏi khu vực tranh chấp.Vụ Exxon xảy ra sau một nỗ lực thành
công khác của TQ trong việc đẩy một công ty dầu khí nước ngoài
khác khỏi quần đảo Trường Sa. Năm ngoái, đe dọa tương tự của
TQ đã khiến tập đoàn BP phải ngừng dự án hợp ytác khai thác
khí trị giá hai tỷ đôla với VN.Hành động mới của TQ sẽ chỉ
làm tăng căng thẳng giữa hai nước vốn có hai quân đội thuộc
loại lớn.
Quân đội TQ lớn nhất thế giới, còn quân đội VN lớn nhất Đông
Nam Á.Trong khi quan hệ kinh tế giữa TQ và VN gần đây đã phát
triển tốt đẹp, các tiền đề lịch sử và chính trị giữa hai bên
vẫn là thù hằn và thiếu tin tưởng.Chưa có bên nào quên đi một
'cuộc chiến VN' khác xảy ra năm 1979.TQ đã xâm lược VN với xe
tăng và khoảng 90.000 quân lính để trả thù hành động thân Nga
của VN tại Campuchia. Chỉ trong mười ngày, từ 40.000 tới hơn
100.000 lính TQ và VN tử trận, theo các thống kê khác nhau.Con
số này có thể còn nhiều hơn số lính Mỹ chết trong cuộc chiến
hơn mười năm ở VN (52.000).Vị thế địa chính trịVà chúng ta
không chỉ nói về quy mô quân đội. TQ đã xây dựng một loạt căn
cứ quân sự tại Nam Hải và TQ cũng là quốc gia duy nhất tìm
cách phát triển cơ sở hải quân nước sâu để đối trọng Hoa
Kỳ.Mục tiêu chính là để bảo vệ eo biển Malacca trong trường
hợp xung đột và Hoa Kỳ cấm vận dầu lửa/Eo biển nhỏ hẹp này
nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương và thường xuyên bị coi là
điểm xung đột hàng hải.Trung Quốc thiết lập nhiều căn cứ hải
quân tại Nam HảiNó mang giá trị chiến lược cao vì đa phần dầu
thô mà TQ nhập khẩu cho cỗ máy kinh tế của mình phải qua con
đường này.
Bắc Kinh lâu nay đã sợ rằng Mỹ sẽ chặn đường lưu thông qua
Malacca nếu quan hệ hai bên xấu đi thí dụ về vấn đề Đài Loan
hay một vấn đề nào khác.Các căn cứ ở Nam Hải và tiềm lực
hải quân ngày càng mạnh của TQ cũng mang một nghị trình chiến
lược khác chứ không chỉ để bảo vệ con đường hàng hải quan
trọng nói trên.Chúng tạo ra một sự 'khoanh vùng' của TQ bao
quanh các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giàu năng lượng. Chi
tiết này đã không qua được mắt VN cũng như Hoa Kỳ, khi dân biểu
Dana Rohrabacher từ năm 1998 đã nhắc tới nó.Tất nhiên bi kịch
hiện nay là việc TQ hà sách, đe dọa, đang làm chậm trễ thêm
quá trình khai thác nguồn tài nguyên dầu khí mà cả khu vực
cần trong bối cảnh thị trường năng lượng ngày càng thu hẹp.Một
sự hợp tác để khai thác các trữ lượng này sẽ tăng lợi ích
cho tất cả các quốc gia đang tranh chấp, đồng thời giảm áp lực
lên thị trường dầu lửa quốc tế.Peter Navarro là giáo sư về
kinh doanh tại Đại học California-Irvine, bình luận cho kênh CNBC
và là tác giả cuốn The Coming China Wars (FT Press).
January 23, 2009
Global Insights:
Chinese Navy Becomes Global Security PlayerGlobal Insights: Chinese Navy Becomes Global Security Player Richard WeitzBio 30 Dec 2008World Politics ReviewFor
the first time in modern history, the Chinese navy is deploying a task
force on an active maritime mission beyond the Pacific Ocean that could
involve combat operations. Beijing's unprecedented decision to join the
anti-piracy fleet off Somalia's coast resulted from a pragmatic
assessment of the likely net security benefits to China from the
deployment. The international community, including the United States,
should likewise approach the issue from a hardheaded perspective.
On Dec. 26, 2008, two destroyers and a supply ship of the South China
Sea Fleet departed from the Yalong Bay naval base at Sanya, on Hainan
Island, scheduled to arrive in the Gulf of Aden and the waters off
Somalia on Jan. 6. The task force's declared mission is to inspect
suspected pirate ships, assist vessels that come under pirate assault,
and defend themselves if threatened. The anticipated duration of the
initial deployment is three months, but any Chinese ship that withdraws
could be replaced by another.The task force, led by Rear Adm. Du
Jingchen, chief of staff of the Navy's South China Sea Fleet, totals
approximately 800 crew members.
The destroyers carry the standard armaments of cannons and missiles. The
flotilla also includes two helicopters that will provide aerial
surveillance of potential threats, assist with delivering supplies among
the ships, and engage in maritime search and rescue operations. The
helicopters will also support the mission of the 70 Special Forces
personnel aboard the destroyers, who have trained to board and inspect
vessels and, if necessary, engage any pirates they encounter. The
Special Forces unit is equipped only with light infantry weapons, and
does not plan to engage in sustained ground operations.The decision to
deploy off Somalia represents a new phase for the People's Liberation Army Navy
(PLAN), which has traditionally concentrated on defending Chinese
coastal waters and impeding U.S. military intervention in the event of a
conflict scenario involving Taiwan.
Although the PLAN has engaged in port visits and unsophisticated
exercises with foreign navies, the current mission represents the first
potential combat operation for the fleet outside of the Pacific. Even
so, the decision to join the anti-pirate campaign is consistent with
China's emergence, during the past two decades, as one of the leading
troop contributors to international peacekeeping operations. Although
Chinese peacekeeping forces are not operating in Somalia, they are
currently deployed in other African countries, as well as in other
conflict-prone regions.
Moreover, the Chinese government has become increasingly supportive of
humanitarian operations, even those requiring the use of force.In this
regard, the naval deployment reflects a pragmatic assessment of this
specific operation, rather than a revolutionary transformation in how
Beijing defines its appropriate international security role. From
Beijing's vantage point, the conditions of the deployment, although not
without risks, appear to be unusually favorable, entailing low probable
costs and many likely benefits for China. Among the justifications for
the deployment, Beijing can cite a clear need to provide security for
Chinese nationals in the Gulf of Aden.
According to Chinese Foreign Ministry spokesman Liu Jianchao,
of the 1,265 Chinese commercial vessels that traversed the gulf this
year, seven have been attacked. One, the Tian Yu 8 with 18 crew members,
remains under pirate control. The contested waters lay athwart the Suez
Canal route as well as a major shipping zone for crude oil from the
Persian Gulf, of particular interest to Beijing because more than half
of its imported oil originates from the Middle East. The commander of
the PLAN task force, Rear Adm. Du Jingcheng, highlighted as much when he stated
that his ships will "protect and escort Chinese ships carrying
strategic cargos, such as crude oil."Further facilitating Chinese
intervention, since June 2008, the U.N. Security Council (UNSC) has
adopted four resolutions supporting measures to curb piracy in the
region around Somalia.
Earlier this month, the council gave members a one-year mandate to
extend these operations within Somali territory, if necessary. In
addition, the internationally recognized government of Somalia has
supported the U.N.'s action, and its explicit invitation for foreign
intervention to curtail piracy and other lawlessness means that Chinese
leaders can participate in the military operations off Somalia's coast
without compromising their longstanding adherence to the doctrine of
non-interference in other countries' affairs.
The Chinese can also point to the presence of many other foreign navies
in the region, all engaged in the same counterpiracy escort missions
endorsed by the U.N. and the Somali government. The European Union has
launched its first active maritime operation in the region, and warships
from Russia, India and even Iran are now escorting merchant ships in
the Gulf.In addition to the main stated objective of protecting
shipping, the Chinese government stands to realize other benefits from
the deployment. For example, the mission showcases China's growing
military capabilities to domestic and foreign audiences. At the ceremony
marking the flotilla's departure from Sanya, Wu Shengli, commander of
the Chinese Navy, emphasized both these points:"The
expedition will show China's active attitude in maintaining the world's
peace and safety. It could also embody the Navy's resolution and
capacity to accomplish diversified military missions to deal with
multiple threats to national security."The deployment might also provide
the PLAN with opportunities to improve its tactics, techniques and
procedures in a relatively safe environment, as part of a coalition that
includes several more experienced navies. Furthermore, the deployment
helps justify China's continuing defense buildup, which other
governments -- citing the lack of a military threat to China -- have
criticized.Beijing can claim that its growing military power, including
its acquisition of a blue-water navy, is intended to address common
security challenges as China assumes the role of a responsible global
stakeholder. China's Somali operation does entail some modest risks.The
mission will prove logistically challenging since the PLAN does not
possess bases in the region, meaning that its lines of communication and
supply will probably extend all the way back to China. Another concern
is that Chinese or civilian casualties during the operation might
discourage further Chinese military forays into distant seas, at least
for a while.
Perhaps the greatest danger is that the deployment might alarm some of
China's neighbors. Japan, South Korea, and Vietnam have long-standing
maritime disputes with China. The Taiwanese must also worry about the
PLAN's growing power projection capacity, since the Taiwan Strait is the
island's main natural barrier against Chinese invasion.From the
perspective of the United States, China's newfound naval activism offers
its own challenges and opportunities. One challenge will be
operational. The American and Chinese navies have yet to demonstrate
that they can cooperate effectively on a common mission that, as in this
case, could potentially involve the use of force.
Their past exercises have been fairly unsophisticated.If the mission
succeeds, moreover, it could reinforce domestic pressure within China
for even greater increases in maritime projection capabilities (e.g.,
acquiring an aircraft carrier), to defend Chinese nationals and
interests in even more distant waters.Yet, working in partnership for
months with foreign navies will inevitably deepen mutual understanding.
Perhaps for this reason, Lt. Nathan Christensen, a spokesman for the
U.S. Fifth Fleet based in Bahrain, stated
that the maritime coalition operating in the Gulf of Aden would welcome
a Chinese operational contribution.Richard Weitz is a senior fellow at
the Hudson Institute and a World Politics Review senior editor. His
weekly WPR column, Global Insights, appears every Tuesday.Top Photo: People's Liberation Army sailor, November 1986 (Defense Dept. photo by Charles L. Mussi).http://www.worldpoliticsreview.com/article.aspx?id=3092
VIỆT NAM VÀ BIỂN ĐÔNG
VIỆT NAM VÀ BIỂN ĐÔNG
BIỂN VIỆT NAM SẮP...MẤTBIÊN GIỚI VIỆT-TRUNG:ĐI TÌM SỰ THẬT SAU NHỮNG CHE GIẤU,Việt Nam trước chủ trương của Trung Quốc đối với Biển Đông.
BIỂN VIỆT NAM SẮP...MẤTBIÊN GIỚI VIỆT-TRUNG:ĐI TÌM SỰ THẬT SAU NHỮNG CHE GIẤU,Việt Nam trước chủ trương của Trung Quốc đối với Biển Đông.
BIỂN VIỆT NAM SẮP...MẤT
Ngày 13 Tháng 5 Năm 2009 là thời hạn cuối cùng mà các Nước phải nộp bản
đồ về lãnh hải của quốc gia mình cho Uûy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa của
Liên Hiệp Quốc. Một nguồn tin cho biết, đa số các Nước trên thế giới có
liên quan đến biển đều đã nộp và hoàn tất các thủ tục, kể các các quốc
gia vùng Đông Nam Á cũng đều nộp bản đồ về lãnh hải của quốc gia họ,
nhưng riêng nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì cho đến nay
vẫn chưa thấy đệ nạp. Thông báo của Liên Hiệp Quốc đã có hơn 10 năm nay
và thời hạn cuối cùng là ngày 13 tháng 5 năm 2009 là thời hạn chót.Nếu
đến thời hạn chót mà Việt Cộng vẫn không đệ nạp thì Biển Việt Nam xem
như bị mất hàng triệu m2 một cách cố ý và có hệ thống. Nên nhớ rằng biển
bao gồm các hải đảo, tài nguyên thiên nhiên kể cả việc sinh sống đánh
cá của hàng triệu ngư dân Nước Việt. Trong khi đó Trung Cộng đã không
che dấu được ý đồ dùng sức mạnh xâm chiếm biển đông, bành trướng lãnh
thổ, lãnh hải, đồng hóa các Nước nhược tiểu và làm bá chủ Đông nam á.
Bất chấp các hòa ước, định ước quốc tế mà chính Trung Cộng đã ký kết kể
cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển đã ký với 118 quốc gia hội viên
Liên hiệp quốc vào năm 1982.Việt Nam là một Nước đang bị Trung Cộng
khống chế, xâm lấn một cách ngang ngược và thô bạo với sự đồng lõa cũa
Đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ bức công hàm của Phạm Văn Đồng ký ngày
4/8/1958, Trung Cộng đã đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974, đánh chiếm Trường
Sa năm 1988, đến hiệp định biên giới Việt Trung ký ngày 30/12/1999 đến
hiệp định lãnh hải Việt Trung ký ngày 25/12/2000..v.v.. tất cả đều ký
kết một cách bí mật mà ngay cả Quốc hội bù nhìn Việt Cộng cũng không
được nghe , biết và quyết định. Từ đó Việt Nam đã mất đi ải nam quan,
thác bản giốc, các địa danh và hàng ngàn cây số dọc theo biên giới.
Riêng về lãnh hải Trung Cộng lại đưa ra thuyết Biển Lịch Sử hay lưỡi
rồng từ thời Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Minh Thành Tổ để nuốt trọn biển
Việt Nam một cách trắng trợn.Thời hạn đệ nạp Bản đồ về biển đã gần kề.
Cộng Sản Việt Nam kẻ đang quàng ách thống trị bạo tàn trên đất nước và
dân tộc Việt Nam phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước lịch sử. Nếu
khiếp nhược yếu hèn không dám dùng xương máu để chống lại bọn bành
trướng xâm lược Bắc Kinh thì cũng phải thực hiện những nguyên tắc mà
Công ước quốc tế đã quy định cho mổi quốc gia có chủ thể quyền lợi và tố
quyền nhằm bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải một cách toàn vẹn.VNCH Foundationhttp://baotoquoc.com/index.php?view=story&subjectid=1850&chapter=1
http://blog.360.yahoo.com/blog-aCsJXiclbrLIqjvqik8yAHHG;_ylt=AgGQ7Cw8ERozQMv7gQyb5TmkAOJ3 Vũ Hải Đăng - ĐDCND
http://www.ddcnd.org/
(Trung Quốc tiến gần tới chiếm đoạt Biển Đông, Đảng Cộng Sản Việt Nam cắt Đất, nhượng Biển để giữ Chế độ).
Diều hâu Ẩn sau sự hữu hảo bề ngoài giữa bang giao hai nước, luôn có
những âm mưu đen tối. Lịch sử Việt Nam có nhắc đến một sự việc như vậy,
đó là mối tình Mị Châu - Trọng Thuỷ. Tương truyền, Trọng Thuỷ là "gián
điệp" của Bắc Triều sang nước ta, được Vua An Dương Vương tin dùng, gả
nàng Mị Châu làm vợ. Trọng Thuỷ ăn cắp kỹ nghệ chế tác vũ khí của nước
Âu Lạc. Do đó mà quân của An Dương Vương đã để thua quân Triệu Đà, khiến
cả Hoàng tộc bị giặc truy sát. Khi nàng Mị Châu và Vua cha chạy đến
cùng đường (biển Nghệ An), Thần Kim Quy hiện lên nói: "Giặc ở ngay sau
lưng nhà Vua đó".
An Dương Vương quay lại thấy nàng Mị Châu, hiểu ra sự việc, ông liền rút
gươm chém đầu nàng, rồi ông tự vẫn. Đó là truyền thuyết được lưu truyền
trong dân gian. Tuy nhiên, có thể thấy câu truyện đó là hư cấu của sự
kiện có thật trong lịch sử. Qua đó chúng ta thấy bọn Bắc Triều luôn mang
dã tâm xâm lược, thôn tính nước ta, chúng luôn theo đuổi chiến lược
diều hâu. Lịch sử Đảng CSVN tô hồng chiến công "giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước", bên cạnh đó họ ca ngợi Liên Xô, Trung Quốc là
những đồng minh, những người bạn tốt nhất của cách mạng Việt Nam..!
Những cuộc "đi đêm" giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc, những ký kết
cắt đất, nhượng biển giữa hai nhà cầm quyền Cộng sản, và những phi vụ
"gián điệp", "mua chuộc" giới lãnh đạo mà Trung Quốc tiến hành ở Việt
Nam v.v… tất cả đều bị sử Đảng xóa dấu vết, chúng được đánh bóng thành
những lời đường mật về "16 chữ vàng" và "4 tốt"…
Mang đất đai, biển cả của Tổ tiên dâng cho ngoại bang, hoặc vì nhu nhược
ươn hèn mà để mất đất đai, biển cả vào tay giặc, thì sử sách sẽ ghi tên
những kẻ đó vào tội bán nước, phản quốc. Và con cháu đời đời sẽ bêu rếu
tên bọn chúng, như đã bêu rếu: Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, và nay là
Đỗ Mười, Lê Đức Anh… Biển Đông Nhóm lãnh đạo chóp bu: Nguyễn Tấn Dũng,
Lê Hồng Anh, Trương Tấn Sang, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng tiếp tục
mắc mưu Trung Quốc, họ ham mồi nên đã mắc câu: Sự kiện Công an Cộng sản
Việt Nam đàn áp phong trào yêu nước của giới Trí thức, Học sinh, Sinh
viên và Văn nghệ sĩ: đe dọa, bắt bớ những người tham gia biểu tình chống
Trung Quốc hồi cuối năm 2007, đầu năm 2008. Gần đây, bức xúc trước việc
Trung Quốc gây sức ép buộc Tập đoàn dầu khí ExxonMobil của Mỹ và BP của
Anh phải rút khỏi dự án hợp tác với Việt Nam khai thác dầu khí ở vùng
biển Trường Sa. Tiếp đó, Trung Quốc công bố "dự án vĩ đại" thăm dò, khai
thác dầu khí trong vùng nước sâu ở Biển Đông của Việt Nam trị giá gần
30 tỷ USD, nhiều người dân Việt Nam đã bày tỏ sự bức xúc, căm phẫn, kêu
gọi sự đồng thuận toàn dân trước nguy cơ mất nước, nhưng họ không nhận
được sự đồng tình, ủng hộ nào từ phía Nhà nước Cộng sản Việt Nam, ngược
lại, họ đã bị sách nhiễu, đe dọa, thậm chí bắt bớ giam giữ. Nhiều người
dự đoán sau Olympic Bắc Kinh, Trung Quốc sẽ "rảnh tay" để tiến xuống
phía Nam . Sự thật là Cộng sản Việt Nam biết được âm mưu đó của Bắc
Triều, họ thực hiện một loạt chuyến ngoại giao con thoi sang Mỹ, EU,
Nga, Ấn Độ, và các nước Đông Nam Á, nhằm tăng cường hợp tác quân sự, tìm
kiếm sự ủng hộ của các nước này đối với vấn đề Biển Đông. Trong lần đến
thăm Việt Nam của Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ John Negroponte, khi trả lời
Báo chí liên quan đến vấn đề Biển Đông và sự tham gia hợp tác khai thác
dầu khí của các công ty Mỹ, Thứ trưởng Negroponte cho rằng: "Chúng tôi
tin những tranh chấp như thế này phải được xử lý hòa bình, theo những
cách thức không đưa đến việc chiếm đoạt", ông Negroponte nhấn mạnh. Sự
ủng hộ đó của Mỹ không đủ cứu Việt Nam, vì nhóm lãnh đạo chóp bu trong
Đảng CSVN đã mắc mưu Trung Quốc, một âm mưu thâm độc đã được các thế hệ
lãnh đạo của Đảng CSTQ liên tục thực hiện, đó là mưu kế "Rút củi đáy
nồi": gián điệp, mua chuộc, phân hóa tiến tới làm tan rã Đảng CSVN, làm
suy yếu nước ta, tạo thời cơ cho việc chiếm đoạt mọi nguồn lợi trên Biển
Đông và tài nguyên quốc gia của Việt Nam. Mọi sự kiện đã nói lên tất
cả. Khách biến thành Chủ Bằng chứng lịch sử và Cơ sở pháp lý để xác định
chủ quyền quốc gia, điều này có nghĩa lý gì khi chúng ta yếu: lý lẽ
thuộc về kẻ mạnh, nó chỉ dùng trong trường hợp cần sự phân xử từ một
nước, hay một thế lực trung gian. Còn trong cuộc đối đầu giữa dân tộc ta
và ngoại xâm phương Bắc từ hàng ngàn năm nay, chỉ có một nguyên tắc duy
nhất được cha ông ta áp dụng, đó là: "Chớ để họ lấn dần, nếu các ngươi
dám lấy một thước núi, một tấc sông của Tổ tiên để lại mà đút mồi cho
giặc, thì tội phải tru di - Lê Thánh Tông".
Do cách tuyên truyền mị dân của Nhà nước Cộng sản Việt Nam , nên nhiều
người nghĩ rằng "Các chiến sĩ hải quân Việt Nam vẫn vững tay súng, bảo
vệ vững chắc chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Đất liền luôn hướng tới
Trường Sa, gửi gắm các anh những tình cảm yêu thương, chia sẻ, động
viên…". Họ quên mất rằng, chủ quyền quốc gia phải là quá trình xác lập,
khẳng định liên tục qua hoạt động Kinh tế, Ngoại giao và Quân sự. Một
nhà nghiên cứu đã viết: Trung Quốc đã tổ chức thăm dò ở các vùng biển
sát thềm lục địa (và nằm trong vùng đặc quyền) của Việt Nam , đơn phương
công bố dự án khai thác dầu khí ở vùng nước sâu trên Biển Đông với trị
giá lên tới 29 tỉ USD. Trên thực tế, họ đã từng bước thiết lập chủ quyền
tại đây, dù không có cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử. Đó là chính
sách "Tằm ăn lá dâu" (lấn chiếm dần đến hết) mà Trung Quốc đã thực hiện
rất tốt. Chúng ta thử hình dung: Trung Quốc từng bước cho xây dựng các Giàn khoan trên Biển Đông, với sự bảo vệ của nhiều Tàu chiến, trước sự phản ứng yếu ớt của Việt Nam, các Giàn khoan đó mọc lên sừng sững, tung bay phất phới cờ đỏ sao vàng Trung Quốc. Lúc này, Khách biến thành Chủ, họ kẻ xâm lược, ngang nhiên dẫm đạp trên linh hồn Tổ tiên ta, còn chúng ta, đứng trên mảnh đất thiêng liêng của Tổ tiên mà như đứng trong phòng Khách của người láng giềng Trung Quốc. Các Ngư dân Việt Nam nếu vô tình "xâm phạm" lãnh hải do Trung Quốc chiếm đoạt, nơi mà cha ông ta vẫn thường xuyên qua lại và đánh bắt hải vật, nơi biết bao người con Việt Nam đã ngã xuống để bảo vệ chủ quyền Tổ quốc, nơi linh hồn Tổ tiên ta còn nằm lại cùng biển cả mênh mông, thì họ bị đối xử bằng bạo lực, bằng súng đạn của kẻ thù. Cái chết đến với họ rất đau đớn. Nhưng cái chết đó khiến người sống còn đau đớn hơn gấp nhiều lần. Tất cả đều bị Lịch sử Đảng CSVN, bộ máy tuyên truyền của Đảng CSVN bưng bít, giấu giếm. Họ đã giấu đi một sự thật lịch sử, rằng Đảng CSVN chưa bao giờ Thống nhất trọn vẹn giang sơn bờ cõi.
Hoàng Sa, Trường Sa và một phần biên giới phía Bắc đang bị lấn chiếm
dần, và trên thực tế đã thuộc quyền kiểm soát của Trung Quốc. Trên mặt
trận tuyên truyền, tâm lý chiến, Trung Quốc đã thắng Việt Nam , họ ghi
điểm rất ngoạn mục. Chiến lược ngoại giao diều hâu của Trung Quốc Ngoại
giao Chính trị, Trung Quốc mua chuộc, phân hóa được giới lãnh đạo Việt
Nam . Ngoại giao Kinh tế, Trung Quốc khống chế, chi phối, lũng đoạn nền
Kinh tế Việt Nam . Ngoại giao Văn hóa, Trung Quốc thực hiện chiến lược
"Hán Hóa" và "Nô dịch tư tưởng" thông qua phim ảnh, văn học - nghệ
thuật… Đảng, chính quyền Cộng sản Việt Nam cùng với quân đội của nó sẽ
gục ngã, tan rã nhanh chóng trước sức mạnh của Đế chế Cộng sản Trung
Hoa, nếu nó không biết dựa vào sự đoàn kết, đồng thuận toàn dân. Sự
thật, con diều hâu Trung Quốc đang quắp móng vuốt vào đất mẹ Việt Nam,
dòng máu căm hờn đang chảy sôi sục trong trái tim Việt Nam . Hành động
bán rẻ chủ quyền quốc gia, danh dự Tổ Quốc, tự trọng Dân tộc của Cộng
sản Việt Nam là không thể biện minh được, nó chỉ có thể được giải thích
rằng: Bọn quan chức đội lốt Cộng sản, phản bội Chủ nghĩa Mác, làm tay
sai cho Bắc Triều, bọn chúng cần giữ Chế độ này, giữ Đảng CS hơn giữ
Nước. Ngược lại, Cộng sản Trung Quốc từ lâu đã phản bội lý tưởng Cộng
sản. CNXH đặc sắc Trung Quốc thực chất là Chủ nghĩa Dân tộc cực đoan,
Chủ nghĩa Bá quyền nước lớn, theo đuổi chính sách diều hâu: ăn cướp, bòn
rút, bắt nạt các nước yếu. Bi kịch của Dân tộc Việt Nam bắt đầu từ đây,
một Học thuyết với tên gọi "Quốc tế Vô sản" (Tinh thần Vô sản quốc tế).
Khi truyền vào Trung Quốc nó bị "Hán Hóa", được Mao Trạch Đông giải
thích thành "Thuyết Ba Thế giới". Đặng Tiểu Bình kế thừa và phát triển
thành "Thuyết Đông-Tây Nam -Bắc" trong bối cảnh mở cửa hội nhập. Nếu như
Thuyết Ba Thế Giới phân thế giới làm ba: Những nước giàu, nước nghèo và
những nước đang thoát nghèo để đi lên khá giả, trong đó có Việt Nam .
Còn Thuyết Đông-Tây Nam -Bắc thì phân thế giới theo địa lý: Phương Bắc
giàu có, Phương Nam nghèo đói. Phương Tây là các cường quốc phát triển,
còn Phương Đông là các nước đang phát triển.
Có thể thấy, Trung Quốc đã loại bỏ đối đầu Ý thức hệ giữa "hai phe", họ sẵn sàng quan hệ với tất cả các nước, tất cả vì mục tiêu phát triển, vì lợi ích quốc gia. Tư tưởng Đặng Tiểu Bình đã vượt qua Chế độ Xã hội và Hình thái ý thức Xã hội: "Xét về quan hệ ngoại giao, chủ yếu cần xuất phát từ bản thân lợi ích chiến lược của nước mình… Không nên so đo, e ngại về sự khác biệt trong Chế độ Xã hội và Hình thái ý thức Xã hội". Vậy là xét về bản chất, chính sách ngoại giao của Trung Quốc đối với Việt Nam là: "Vừa kết bạn, vừa không quá thân, không liên minh, cũng không thù địch". Trung Quốc không đứng đầu một Khối đồng minh nào, tự họ trở thành một cực trong Thế giới đa cực. Trên bàn cờ Ngoại giao Trung Quốc, Việt Nam có ý nghĩa khá quan trọng, nước ta là "Tấm lá chắn đỏ" ngăn chặn Trào lưu Dân chủ hóa từ phương Nam , là bàn đạp để Trung Quốc tiến xuống Đông Nam Á. Trung Quốc đã vờn cho Việt Nam mệt nhoài, lúc thì vuốt ve, lúc thì dùng vũ lực, vừa không cho Việt Nam có cơ hội thân phương Tây để phát triển, vừa khiến Việt Nam phải lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, dẫn đến tình trạng trì trệ kéo dài ở nước ta, làm cho đất nước ngày càng tụt hậu so với Trung Quốc và Thế giới.
Sau 30 năm Trung Quốc cải cách mở cửa và theo đuổi chiến lược ngoại giao
diều hâu, họ đã đạt được những thành công lớn. Giờ đây, Việt Nam không
còn là đối thủ xứng tầm, đã tụt hậu quá xa, sự chênh lệch về trình độ
phát triển, về Kinh tế và Quốc phòng của Việt Nam so với Trung Quốc đủ
lớn để họ tiếp tục thực hiện giai đoạn hai của chiến lược diều hâu, đó
là "Tiến vào Biển Đông, kiểm soát toàn bộ Đông Nam Á, tạo thế ảnh hưởng
đối trọng với Mỹ và Nga". Con bồ câu Cộng sản Việt Nam vẫn còn bàng
hoàng sửng sốt, họ không hiểu vì sao Trung Quốc, một quốc gia cùng theo
lý tưởng XHCN, từng đứng về phe Cộng sản, lại trở mặt xưng bá Thiên Hạ,
quay lại ăn hiếp, bắt nạt người anh em nhỏ bé cũ. Trói buộc Ý thức hệ
làm giảm sức mạnh Dân tộc "Vì Tổ quốc Việt Nam XHCN", đây là một câu
khẩu hiệu hết sức phản động. Tổ quốc Việt Nam ta, nơi quê cha đất mẹ,
một đất nước có bề dày lịch sử văn hóa hàng ngàn năm. Còn cái gọi là
XHCN, hay CNXH khoa học Mác - Lênin, đó chỉ là một Học thuyết ra đời
cách đây chưa đầy 200 năm tại Châu Âu, nó chỉ tồn tại trên giấy tờ, chứ
chưa bao giờ xuất hiện trên cõi đời. Từ khi Ngô Quyền đại phá quân Nam
Hán, mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ, nước ta tuy vẫn chịu ảnh hưởng của
văn hóa phương Bắc, nhưng chưa bao giờ bị lệ thuộc vào Ý thức hệ Trung
Hoa. Cha ông ta luôn tạo cho mình một ý thức dân tộc mang bản sắc riêng.
Thời Nhà Lý, Vua Lý Thánh Tông đặt Quốc hiệu Đại Việt, có ý muốn nước
Nam ta sánh ngang hàng với Đại Tống ở phương Bắc.
Thời Nhà Trần, Vua Trần Nhân Tông xuất gia tu hành tại Yên Tử, sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm mang bản sắc Đại Việt… Sống bên cạnh một nước đầy tham vọng như Trung Quốc, cha ông ta đã khéo léo vận dụng sách lược mềm dẻo, nhưng kiên quyết trong những vấn đề mang tính nguyên tắc: tiếp thu có chọn lọc Văn minh và Ý thức hệ Trung Hoa, tạo dựng bản sắc Văn hóa Đại Việt, nhờ đó đã giữ vững biên cương phía Bắc, mở rộng bờ cõi xuống phương Nam, và tiến ra Biển Đông. Ý thức hệ Trung Hoa, coi Vua (Hoàng Đế) là Thiên Tử, quyền lực Hoàng Đế lớn như Trời (Thiên Triều). CNXH đặc sắc Trung Quốc, thực chất là một biến tướng của Chủ nghĩa Mác, nó đã bị Hán Hóa, được biểu hiện ra với đầy đủ bản chất tư tưởng Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình và Ý thức hệ Trung Hoa. Trung Quốc đã biến hình thành Chủ nghĩa Bá quyền, Đế quốc Thực dân kiểu mới, con quái vật ghê sợ đó đang hút máu, bóc lột tận xương tủy các dân tộc bé nhỏ ở Châu Á, Châu Phi và Mỹ Latinh. Bọn Bá quyền Trung Quốc trói buộc các dân tộc mà nó xâm chiếm vào một "quỹ đạo" chết người, quỹ đạo của sự Độc tài, Lệ thuộc, Trì trệ và yếu nghèo mà Việt Nam là một ví dụ điển hình. Trong mỗi chuyến đi Ngoại giao sang Trung Quốc, các nhà Lãnh đạo của Việt Nam luôn nhận được lời căn dặn, đúng hơn là lời đe dọa: "Trung Hoa - Việt Nam , Sơn Thủy Tương Liên, Văn Hóa Tương Thông, Lý Tưởng Tương Đồng, Vận Mệnh Tương Quan". Lý Tưởng Tương Đồng, Vận Mệnh Tương Quan, ở đây là Lý tưởng XHCN và Vận mệnh của hai Đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam . Một lời đe dọa trắng trợn, ý nói sự tồn vong của Đảng CSVN phụ thuộc vào Đảng CSTQ, Trung Quốc mà đổi màu, thì Việt Nam cũng đổi màu theo.
Thoát khỏi quỹ đạo Trung Quốc Trung Quốc tiến gần tới chiếm đoạt Biển Đông, Cộng Sản Việt Nam cắt Đất, nhượng Biển để giữ Chế độ. Bất cứ ai chống Trung Quốc xâm lược là chống Đảng CSVN. Sự thật là những người biểu tình chống Trung Quốc đều bị kết tội gây rối, bị chụp mũ là có thế lực bên ngoài kích động, lợi dụng. Người dân có quyền được nói lên chính kiến của mình, có quyền được biết, được đòi hỏi sự công khai, minh bạch về đường lối, chủ trương của Nhà nước đối với vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa. Nhưng họ chỉ nhận được sự im lặng đáng sợ. Không ai biết những cuộc "đi đêm" giữa hai Chính quyền Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc sẽ dẫn đến tấn thảm kịch ghê sợ như thế nào, tương lai của Dân tộc Việt Nam, Tổ quốc Việt Nam sẽ ra sao, và việc mất nước có phải chỉ còn là vấn đề thời gian? "Giặc ở ngay sau lưng nhà Vua đó", câu truyện lịch sử này nhắc chúng ta ghi nhớ, cảnh giác trước âm mưu thâm độc của ngoại xâm phương Bắc, tỉnh táo trước chiến lược diều hâu của Bắc Triều. Chúng ta đang đứng trước nguy cơ mất nước từ chính giặc nội xâm: Phe thân Tàu trong Trung ương Đảng CSVN và các Gián điệp Trung Quốc cài cắm tại Việt Nam. "Quân đội ta Trung với Đảng", lời thề này không có ý nghĩa gì trong thời điểm hiện nay, khi mà Đảng CSVN đã đưa đất nước đi vào quỹ đạo lệ thuộc bởi Trung Quốc, bị trói chặt vào đó. Muốn thoát khỏi quỹ đạo Trung Quốc, Việt Nam không còn con đường nào khác, ngoài con đường Dân chủ hóa. Việt Nam, ngày 18-12-2008VŨ HẢI ĐĂNG - ĐDCNDWalmart
‘Cần đoàn kết’ trong chuyện Biển Đông
Các lãnh đạo cười tươi, nhưng một số nước trong ASEAN đang tranh chấp ở
Biển ĐôngMột nhà nghiên cứu châu Âu nói với BBC rằng các nước Đông Nam Á
cần biết hợp tác để đưa ra quan điểm chung trước Trung Quốc trong vụ
tranh chấp tại Biển Đông.Tuần qua, Trung Quốc công khai tỏ ý không hài
lòng khi công ty Mỹ Exxon Mobil muốn hợp tác với PetroVietnam để
thăm dò dầu khí trong vùng biển quanh các quần đảo Trường Sa
và Hoàng Sa còn tranh chấp.Tiến sĩ Albrecht Rothacher, hiện làm ở
Phái bộ Ủy hội châu Âu tại Vienna, từng viết bài “Territorial
sovereignty in the South China Sea” (Chủ quyền lãnh thổ ở Biển Nam Trung
Hoa) trên tạp chí Asia Europe Journal năm 2007.Trả lời BBC ngày 23/07,
ông nói cảnh báo công khai của Trung Quốc với Exxon đã làm ông ngạc
nhiên.Albrecht Rothacher: Thật ngạc nhiên vì người ta nghĩ rằng trước
Thế vận hội, Trung Quốc sẽ rất “hiền lành” và không khơi ra các tranh
chấp lãnh thổ. Họ cũng có vẻ đã đồng ý nguyên tắc khảo sát biển Nam
Trung Hoa trong hòa bình. Nhưng bây giờ họ đã hâm nóng nhiệt độ.Trung
Quốc chưa bao giờ có nhượng bộ trong các đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ, dù
là với Nga, Ấn Độ hay Việt Nam. Lần này chỉ là nhắc lại những tuyên bố
chủ quyền trước đây. Tôi chỉ ngạc nhiên về chuyện thời gian, tại sao lại
là bây giờ mà không phải sau Olympic.BBC:Khi đánh giá toàn bộ tranh
chấp ở Biển Đông, ông thấy có giải pháp trọn vẹn không?Trung Quốc chưa
bao giờ đưa ra được bằng chứng vững chắc về chủ quyền. Họ bảo từ thời xa
xưa đã có người Trung Quốc ở đó, họ trưng ra một số vật dụng mà ngư dân
bỏ lại trên một số đảo. Nhưng dĩ nhiên các ngư dân có thể bỏ lại bất kỳ
thứ gì, trong các chuyến đi biển, trên những hòn đảo không người ở và
điều đó không chứng tỏ được chủ quyền. Nên rất khó chứng thực đòi hỏi
của Trung Quốc, kéo dài 2000 cây số từ đảo Hải Nam về phía nam, tiến tới
cả vùng biển của Indonesia. Theo tiêu chuẩn quốc tế, đòi hỏi như thế là
quá đáng.Về giải pháp, dĩ nhiên có thể thương lượng, nhưng Trung Quốc
không bao giờ chịu thương thượng. Thành ra giải pháp đành là cứ để yên
các tuyên bố chủ quyền như hiện tại, lên án mọi phương thức bạo lực và
đồng ý cùng khảo sát và chia sẻ tài nguyên với nhau, đồng ý cùng bảo vệ
môi trường tại đây.BBC:Liên hiệp châu Âu và Hoa Kỳ có sự quan tâm thế
nào đến vấn đề Biển Đông?Cho tới nay, họ chủ yếu quan tâm tới tự do đi
lại cho các tàu trên biển. Nhưng nay dính đến quyền lợi của Mỹ, vì vụ
ExxonMobil. Vì thế, Mỹ cũng có quyền lợi để muốn xung đột được giải
quyết yên bình, có thể có một hình thức phân xử nào đó của quốc
tế.BBC:Liệu có thể xảy ra việc Hoa Kỳ gây sức ép nào đó với Trung Quốc?
Trung Quốc thì muốn chia nhỏ từng bên ra, đe dọa từng nước riêng
rẽAlbrecht RothacherVẫn còn quá sớm để nói. Đây chưa phải là một cuộc
xung đột rõ rệt. Phản ứng của Trung Quốc, so với những gì mà ta đã biết
về họ, vẫn còn là khá nhẹ nhàng.BBC:Ở góc độ cá nhân, ông có cho rằng
Trung Quốc đang kéo dài thời gian. Một khi họ trở nên thực sự mạnh hơn,
những đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ cũng sẽ mạnh mẽ hơn?Chắc chắn rồi.
Chiến lược của họ lâu nay là thế, dù là với Đài Loan hay các tranh chấp
khác.BBC:Vậy theo ông, các nước nhỏ như Việt Nam hay Philippines làm gì
để đối phó?Họ có thể hợp tác, trước tiên giải quyết các tranh chấp song
phương với nhau. Cho tới nay, tất cả các bên, Việt Nam, Malaysia,
Brunei, Philippines, cùng tranh với nhau. Nên nếu các bên có một quan
điểm chung, có thể chia phần công bằng cho nhau, trong đó có cả phần cho
Trung Quốc, thì rất có ích. Điều đó mở đường cho một sự trung gian của
quốc tế, có thể là của Liên Hiệp Quốc. Trung Quốc thì muốn chia nhỏ từng
bên ra, đe dọa từng nước riêng rẽ.
CÁC BÀI LIÊN QUAN
Đằng sau lời đe dọa của Trung Quốc23 Tháng 7, 2008 Việt Nam
Trung Quốc xác nhận đã ép Exxon22 Tháng 7, 2008 Việt Nam
Việt Nam lên tiếng về Hoàng Sa10 Tháng 12, 2007 Chuyên đề
Việt Nam giữa thế giới21 Tháng 7, 2008
Chuyên đềTrung Quốc ép công ty dầu lửa Mỹ20 Tháng 7, 2008
Việt NamViệt Nam trước sức ép từ Trung Quốc22 Tháng 7, 2008 Việt Nam
Quan hệ Mỹ - Việt trong ấm ngoài lạnh21 Tháng 7, 2008 Việt Nam
Mỹ tăng cường hợp tác quân sự15 Tháng 7, 2008 Việt Nam
Trao đổi với báo giới sáng 12/9 tại Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ John Negroponte cho rằng: Mọi tranh chấp trên Biển Đông phải được giải quyết hòa bình, theo Luật Biển Liên Hợp Quốc (LHQ) theo những cách thức không đưa đến việc chiếm đoạt.Đây là lần đầu tiên sau 35 năm ông John Negroponte trở lại Việt Nam. Bằng vốn tiếng Việt lưu loát, giọng miền Nam chuẩn, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ bày tỏ thái độ lạc quan về triển vọng quan hệ Mỹ - Việt.
"Lý do làm cho tôi lạc quan, đó là hai nước đã trải qua một cuộc chiến
tranh cay đắng và khó khăn. Nhưng cả hai bên đều quyết tâm thúc đẩy mối
quan hệ tích cực trong tương lai, có thiện chí xây dựng mối quan hệ hợp
tác thân thiện".Ảnh:
Phạm Hải"Không đưa đến việc chiếm đoạt"Trả lời câu hỏi của phóng viên
báo Quân Đội Nhân Dân liên quan đến vấn đề Biển Đông và sự tham gia hợp
tác khai thác dầu khí của các công ty Mỹ,
Thứ trưởng Negroponte cho rằng các nước có tranh chấp giải quyết với
nhau theo Luật Biển của Liên Hợp Quốc."Chúng tôi tin những tranh chấp
như thế này phải được xử lý hòa bình, theo những cách thức không đưa đến
việc chiếm đoạt", ông Negroponte nhấn mạnh.Những tranh chấp như thế này
phải được xử lý hoà bình, theo những cách thức không đưa đến việc chiếm
đoạt. Các công ty Mỹ có đủ quyền tham gia hợp tác dầu khí với VN
Thứ trưởng Ngoại giao NegroponteÔng Negroponte cũng cho rằng: "Những
công ty Mỹ có đủ quyền tham gia hợp tác khai thác dầu khí với Việt
Nam".Về đối thoại nhân quyền, Thứ trưởng Mỹ cho rằng hai nước sẽ tiếp
tục thảo luận trong bối cảnh quan hệ hai nước ngày càng phát triển, được
cải thiện thân thiện hơn.Theo Thứ trưởng Negroponte, Việt Nam đã có
nhiều thay đổi với nền kinh tế tăng trưởng tốt từ 7-8%/năm trong suốt
một thập kỷ qua. Việt Nam đã làm nên sự kỳ diệu về phát triển kinh tế,
thoát khỏi đói nghèo và người dân có không gian, cơ hội rộng rãi để phát
triển cá nhân.
Ảnh: Phạm HảiLiên quan đến việc triển khai giải khoản hỗ trợ 3 triệu USD
tẩy độc dioxin và trợ giúp con người, ông Negroponte cho biết trong các
cuộc làm việc với quan chức Chính phủ Việt Nam, hai bên thống nhất
trước mắt sẽ tập trung vào những khu vực ưu tiên như Đà Nẵng và tiến
hành trao đổi chuyên gia.
"Tôi hài lòng về sự hợp tác giữa Mỹ và Việt Nam liên quan đến vấn đề da
cam/dioxin, MIA, rà phá bom mìn đang diễn ra tốt đẹp. Hai nước đối thoại
và hoạt động tích cực, theo tinh thần xây dựng".Kết nối công ty Mỹ và
trường ĐH ViệtThứ trưởng khẳng định: "Mỹ đặt mục tiêu làm sâu sắc mối
quan hệ kinh tế, thương mại và mở rộng sự hợp tác trong lĩnh vực ngoại
giao với Việt Nam nhằm tăng cường hòa bình, ổn định trong khu vực".Giáo
dục là một trong những lĩnh vực hợp tác được ưu tiên cao. Theo ông
Negroponte, trong tuần tới, nhóm đặc trách về giáo dục giữa hai nước sẽ
nhóm họp để thảo luận phương cách hợp tác, thực hiện mục tiêu gia tăng
số lượng sinh viên Việt Nam theo học ở Mỹ và sinh viên Mỹ học ở Việt
Nam, tăng cường trao đổi giữa các trường đại học của hai nước."Mỹ cũng
sẵn sàng kết nối các công ty của Mỹ và các trường đại học của Việt Nam
để giúp cho sinh viên tốt nghiệp tìm được công việc thích hợp, phục vụ
phát triển kinh tế đất nước, mở trường đại học của Mỹ tại Việt Nam".
Tranh chấp biển Đông: Thử tìm một giải pháp có lợi cho Việt NamNhân vụ ExxonMobil, thử tìm một giải pháp có lợi cho Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp hải phận Biển Đông và chủ quyền các đảo Trường Sa với Trung Quốc và các nước.Tháng 7 năm 2008, tranh chấp chủ quyền biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc qua vụ ExxonMobil đã bước vào một giai đoạn vừa tế nhị lại vừa có tính quyết định. Tế nhị vì cho dầu biểu lộ những lập trường hết sức cứng rắn, hai bên đều không muốn (hay không thể ?) để việc tranh chấp trở thành một cuộc xung đột quân sự. Và có tính quyết định vì qua vụ tranh chấp, lập trường pháp lý cơ bản của hai bên cho thấy hiện hữu một giải pháp tạm thời, có thể có lợi cho phía Việt Nam trong trung hạn để khai thác dầu khí.Trở lại vụ ExxonMobil : Đại công ty ExxonMobil của Hoa Kỳ đã ký thỏa ước khung về khai thác dầu khí với PetroVietnam nhân chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng hôm cuối tháng 6 năm 2008. Theo một thông cáo mới đây của tập đoàn này, hai phía đã có những hợp tác từ nhiều năm trước nhằm mục đích xác định các dự án có tiềm năng và hiện nay hai bên đang cùng đánh giá sơ bộ về kỹ thuật và kinh doanh một số vị trí ở ngoài khơi [1]. Thông cáo của ExxonMobil cho thấy các lô được nhượng quyền khai thác cho tập đoàn này đã được xác định là « có tiềm năng » (nhưng tiềm năng ước lượng là bao nhiêu thì không thấy nói !) và bắt đầu bước vào giai đoạn khai thác. Vị trí các lô này chưa được công bố cụ thể. Theo tuyên bố phía Việt Nam thì các lô này nằm trong « vùng kinh tế độc quyền » của Việt Nam, tức nằm trong vòng 200 hải lý (khoảng 370km) tính từ đường cơ bản
[2].
Theo bản đồ công bố trên một số trang web thì ExxonMobil khai thác 2
vùng : một vùng ở phía nam cửa vịnh Bắc Việt, thuộc bãi trầm tích sông
Hồng và một vùng giao tiếp ở phía nam của bãi Phú Khánh, phía Bắc của
bãi Nam Côn Sơn. Theo tin tức ở một số báo chí thì vùng này thuộc vùng
biển Trường Sa, là nơi hiện đang có tranh chấp giữa nhiều nước.Lập tức
phía Trung Quốc lên tiếng phản đối Việt Nam đồng thời hăm dọa ExxonMobil
nếu không rút đi thì sẽ dùng những « biện pháp mạnh ». Theo tin báo chí
trong vùng đăng ngày 23 tháng 7 thì Trung Quốc đã bắn súng hăm dọa nhân
viên của ExxonMobil trên dàn khoan ở vị trí khai thác. Phía Trung Quốc
cho rằng Việt Nam đã xâm phạm « chủ quyền lãnh thổ » của Trung Quốc. Chỉ
vài tháng trước, cũng vì sự hăm dọa của Trung Quốc, tập đoàn BP của Anh
Quốc đã phải ngừng một số dự án khai thác và thăm dò dầu khí tại các lô
mang số 5.2, 5.3, đặc biệt dự án đặt ống dẫn khí trị giá khoảng 2 tỉ
đôla từ đây vào đất liền. Phát ngôn nhân của BP, ông David Nicholas,
nói rằng hãng này thấy rằng "nên ngừng kế hoạch khảo sát địa
chấn tại lô 5.2 để cho các nước liên quan có cơ hội giải quyết
vấn đề". Được biết vùng khai thác của BP (lô 5.2 và 5.3) vẫn còn
trong vùng kinh tế độc quyền của Việt Nam, cách đường cơ bản 350km.Trước
mắt mọi người (thế giới), thái độ của Trung Quốc cực kỳ ngang ngược.
Nhưng không phải việc này chỉ thể hiện mới đây. Nước này, công bố năm
1949, bộ bản đồ xác định biển nội địa của Trung Quốc – tức tấm bản đồ 9
gạch - cho thấy rõ rệt tham vọng bành trướng của họ. Qua đó họ ngang
nhiên dành toàn bộ biển Đông, gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam,
mà không theo một tiêu chuẩn lịch sử hay pháp lý nào. Ở nhiều nơi,
đường xác định nội hải của Trung Quốc chỉ cách bờ biển VN, Phi, Mã Lai
khoảng 100km. Đường xác định này cũng bao gồm luôn đảo Natuna, phía nam
Trường Sa, thuộc chủ quyền của Nam Dương. Không một quốc gia văn minh
nào có thể công nhận thái độ ngang ngược này của Trung Quốc vì nó không
theo một tập quán hay luật lệ quốc tế nào. Riêng các nước bị Trung Quốc
lấn lướt nhận thấy có nhu cầu đoàn kết lại, nay đều thuộc Hiệp Hội Các
Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam cũng thuơng thuyết gia nhập từ năm
1992.Tháng 6 năm 1996, Trung Quốc ký thông qua bộ luật Quốc Tế về Biển
1982 đồng thời công bố các vùng biển « lãnh địa hải phận », mer
territoriale, VN gọi là « lãnh hải[3]
», vùng tiếp cận zone contigue và vùng kinh tế độc quyền zone
économique exclusive. Dịp này Trung Quốc công bố hệ thống đường cơ bản,
trong đó có tập hợp 29 điểm xác định đường cơ bản cho vùng biển Hoàng Sa
(13 điểm) và Trường Sa (16 điểm). Tọa độ các điểm được xác định theo
phụ lục đính kèm. Ta thấy Trung Quốc áp dụng luật biển 1982 cho các đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, dành cho hai quần đảo này một vùng biển rộng lớn,
gồm các vùng biển « lãnh địa hải phận », thềm lục địa và « vùng kinh tế
độc quyền », bao gồm phần lớn biển Đông.Chương V của Công Ước Quốc Tế
Montégo Bay 1982 xác định vùng « kinh tế độc quyền ». Theo đó một nước
cận biển có thể xác định vùng biển kinh tế độc quyền của mình, có chiều
rộng 200 hải lý, tính từ đường rìa ngoài của vùng tiếp cận (nếu có) hay
lãnh hải (12 hải lý). Nước này có thể khai thác kinh tế như đánh cá,
khai thác tài nguyên dưới đáy biển thuộc vùng kinh tế độc quyền, đương
nhiên phải tôn trọng một số luật lệ và tiêu chuẩn để bảo vệ quyền lợi
các nước khác cũng như gìn giữ môi trường sống. Điều luật này cũng áp
dụng cho các đảo ngoài khơi.Trên phương diện pháp lý và lịch sử
Trung Quốc không có thẩm quyền đòi chủ quyền vùng biển Đông, chủ quyền
các đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như thềm lục địa tại đây. Nhưng thực
tế Trung Quốc luôn lên tiếng phản đối mỗi khi Việt Nam thăm dò hay dự
định khai thác ở những vùng có thể có chồng lấn với vùng kinh tế độc
quyền của các đảo thuộc Trường Sa. Nguyên nhân việc này là do các
lãnh tụ vĩ đại (may mắn đã chết !) của CSVN đã có những tuyên bố ngu
xuẩn, sai với lịch sử, trong các thập niên 50-60 về chủ quyền của Hoàng
Sa và Trường Sa[4].
Họ cho rằng hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc. Đương nhiên Trung
Quốc lấy đó làm bằng chứng, biện minh trước quốc tế về các hành vi bành
trướng của mình.Nhưng vấn đề khác được đặt ra : các đảo thuộc Trường Sa
có được nhìn nhận là đảo[5]
theo luật biển 1982 hay không để mà có thềm lục địa hay vùng kinh tế
độc quyền ? Hầu hết các đảo ở Trường Sa đều rất nhỏ, không có nước ngọt,
không cây cối, phần lớn bị ngập khi thủy triều lên. Ngay cả một số đảo
khác có cây cối và nước ngọt, như đảo Ba Bình, Loai Ta, Thị Tứ… cũng
không thể có một nền kinh tế tự túc theo định nghĩa về đảo của luật biển
1982. Các đảo mà Trung Quốc hiện kiểm soát không có « đảo » nào có cây
cối và nước ngọt. Như thế các « đảo » này chưa đủ tiêu chuẩn để có lãnh
địa hải phận (lãnh hải), vùng kinh tế độc quyền như các đảo bình thường
khác được[6].Nếu
các đảo này không được quyền có vùng biển, không có thềm lục địa kéo ra
tới 200 hải lý thì làm gì có vấn đề chồng lấn ?Các lô khai thác của BP
vừa qua và ExxonMobil nằm trong vùng « kinh tế độc quyền » của Việt Nam,
khoảng giữa đất liền và trung tâm quần đảo Trường Sa, cách xa Trung
Quốc hàng ngàn km. Nhưng Trung Quốc vẫn ngang ngược cho rằng vùng đó
thuộc về họ.Tình hình như thế vô cùng bất lợi cho phía Việt Nam.
Việt Nam được ví như được ngồi trên đống của nhưng bị anh hàng xóm khốn
nạn chỉa súng đòi chia nên không thể móc ra tiêu xài. Việc khó khăn
này, nếu không tìm giải pháp thoát ra, sẽ kéo dài ít nhất cho đến
khi nào chủ quyền của các đảo thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa được giải quyết. Không nước nào có thể khai thác tài
nguyên ở thềm lục địa Trường Sa nếu chủ quyền các đảo tại đây chưa được
xác định và được nhìn nhận bởi các bên. Vấn đề « cộng đồng khai thác »
đã được nêu ra, nhưng sẽ khó thực hiện. Vả lại, nếu thực hiện thì phía
thiệt thòi vẫn là Việt Nam. Việc tranh chấp có thể kéo dài thêm nhiều
thập niên, vẫn giữ « nguyên trạng », nếu các bên tranh chấp vẫn tôn
trọng Qui Tắc Hành Sử Biển Đông đã được các nước ASEAN ký với Trung Quốc
năm 2002. Nhưng việc kéo dài thời gian lại có lợi cho Trung Quốc. Với
thời gian, chỉ cần một, hai thập niên nữa, sự lớn mạnh của Trung Quốc
không những chỉ dễ dàng thâu tóm biển Đông mà còn đặt được ảnh hưởng của
mình đến các nước trong khu vực.« Càng để lâu càng khó », câu nói của
ông Lê Công Phụng ám chỉ việc phân định vịnh Bắc Bộ, xem ra cũng đúng
cho biển Đông !Vì thế phải có một giải pháp. Việt Nam phải làm thế nào,
trước tình trạng hiện nay, để có thể khai thác, ít ra một phần, ở những
vùng biển thuộc vùng kinh tế độc quyền của nước mình ? Giải pháp nào có
lợi cho Việt Nam trong việc giải quyết chủ quyền các đảo và hải phận
biển Đông ?Những vấn đề này đáng lẽ ít phức tạp cho Việt Nam nếu như các
lãnh tụ vĩ đại ở miền Bắc đó không hiện hữu, hay không tuyên bố những
lời bất lợi. Ít phức tạp chứ không phải không phức tạp là vì phía VNCH
đã không giữ được Hoàng Sa tháng giêng năm 1974, trước sự xâm lăng của
Trung Quốc, cũng như đã không giữ được các đảo Thị Tứ, Song Tử Đông,
Vĩnh Viễn, Loai Ta… thuộc Trường Sa vào các năm 1968, 1972… do sự xâm
chiếm của quân đội Phi Luật Tân. Đây là các đảo hiếm hoi có nước ngọt
thuộc quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, theo luật quốc tế thì một vùng đất
(hay biển) của một quốc gia có được do một cuộc xâm lăng thì chủ quyền
vùng đất không được công nhận cho nước đó. Quân đội VNCH đã đổ máu để
giữ nước nhưng không thành, như thế dầu sao cũng ít trách nhiệm hơn việc
tuyên bố chủ quyền của ngoại bang trên vùng đất của tổ quốc mình.Vấn đề
của đất nước đặt ra như thế thì ta phải tìm phương hướng giải quyết có
lợi trên nhưng điều kiện như thế. Thất phu hữu trách, người viết xin đưa
ra đây một số ý kiến :Các yếu tố xét ra có lợi cho Việt Nam, đó là : 1/
VN tôn trọng các công ước quốc tế mà VN có ký kết. 2/ Vận động quốc tế
ủng hộ lập trường về biển của VN tại biển Đông. 3/ Trong trung hạn là
khai thác vùng biển và thềm lục địa của VN đã được quốc tế công nhận
(hay không phản đối). 4/ Về dài hạn là củng cố quốc phòng, liên minh
chiến lược với bạn bè quốc tế có cùng chung quyền lợi để đối trọng với
Trung Quốc. 5/ Tiến đến việc đưa vấn đề chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa
ra tòa án quốc tế.1/ Việt Nam nên chinh phục cảm tình các nước bằng một
thái độ gương mẫu của một quốc gia biết tôn trọng và có trách nhiệm với
cộng đồng thế giới. Việc này biểu hiện qua việc tôn trọng các bộ luật,
các tiêu chuẩn quốc tế mà Việt Nam có ký kết. Trước tiên là Luật Quốc Tế
về Biển 1982 và Qui Tắc Hành Sử Biển Đông 2002, hai công ước quốc tế mà
Việt Nam long trọng ký kết. Nội dung của Qui Tắc Hành Sử Biển Đông 2002
yêu cầu các bên không dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp, các bên
tránh làm các việc có thể thay đổi « nguyên trạng » tình hình các đảo,
ngưng khảo sát và khai thác v.v… Tôn trọng nội dung của nó là Việt Nam
khôn khéo sử dụng công pháp quốc tế để bảo vệ mình trước sự bành trướng
hung hãn của Trung Quốc. Nhưng VN cũng nên đứng đắn tôn trọng các tiêu
chuẩn về nhân quyền mà bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền định nghĩa. VN
nên chứng minh rằng mình có nhận thức khác với Trung Quốc về vấn đề nhân
quyền. Việc này rất có lợi vì nó phù hợp với nguyện vọng của người dân
và bạn bè Tây Phương.2/ Ngoại giao sẽ là việc quan trọng nhất.Hệ thống
đường cơ bản của Việt Nam công bố vào tháng 6 năm 1977, được xác định
bằng các đường thẳng nối 12 điểm cơ bản từ A0 đến A11, trước khi công
ước Montégo Bay 1982 được ký kết. Điểm bắt đầu A0 là điểm xác định chung
với Kampuchia sau này, trong vịnh Thái Lan và điểm chấm dứt A11 là đảo
Cồn Cỏ, ở cửa vịnh Bắc Việt. Dầu vậy hệ thống đường cơ bản của Việt Nam
phù hợp với bộ luật biển 1982. Vào thời điểm đó đã có trên 100 nước công
bố luật biển của mình, trong đó có đến 45 nước lấy đường thẳng làm
đường cơ bản. Hệ thống đường cơ bản của VN, ở một số điểm thì cách bờ
quá xa. Thí dụ các điểm A1 cách bờ 56 hải lý, A3 cách 52 hải lý, A4 cách
53 hải lý, A6 cách 74 hải lý… Những điểm này rõ ràng « không bình
thường », nhưng chiếu theo tinh thần điều 7 của bộ luật biển 1982 thì
các điểm trên không hề mâu thuẩn. Mặt khác, tập quán quốc tế cho thấy có
nhiều trường hợp đường cơ bản còn cách xa bờ hơn cả Việt Nam. Chỉ nói
các nước trong vùng, trường hợp Mã Lai, đường cơ bản nưóc này có nơi
cách bờ đến 85 hải lý. Trường hợp Miến Điện, nước này vạch một đường cơ
bản dài 220 hải lý, có nơi cách bờ đến 120 hải lý. Riêng Thái Lan thì
đường cơ bản cách bờ có nơi đến 60 hải lý. Như thế thì đường cơ bản của
Việt Nam không phải là một trường hợp đặt biệt, phải đặt lại vấn đề.Hệ
thống đường cơ bản của Việt Nam vì thế phù hợp với luật biển 1982 và tập
quán quốc tế. Tuy nhiên vào thời điểm 1977, do thái độ thù nghịch của
Việt Nam đối với thế giới, đã có 10 nước gởi công hàm phản đối Việt Nam
về đường cơ bản của Việt Nam. Trong đó có các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp,
Đức, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Úc, Mã Lai, Tân Gia Ba… Nhưng tình
hình hôm nay thuận lợi hơn. Việt Nam mở cửa giao thiệp với bạn bè năm
châu, không còn là « mũi nhọn xung kích » hung hăng của quốc tế cộng sản
do Liên Xô lãnh đạo. Hiện nay Việt Nam đã có quan hệ khá tốt với Hoa
Kỳ. Các lãnh tụ CSVN hôm nay xem ra sáng suốt hơn các vị lãnh đạo gọi là
vĩ đại ngày xưa vì ít ra họ đã làm những việc có lợi về lâu dài cho VN.
Thật vậy, phải nhìn nhận ông Nguyễn Tấn Dũng, dầu rất bết bát trong các
chính sách vĩ mô, đem lại hậu quả tai hại cho kinh tế và phát triển
Việt Nam hiện nay, nhưng ông Dũng đã có những đột phá rất mới về ngoại
giao, đem lợi lâu dài cho Việt Nam, nhất là mở đường cho Việt Nam có thể
khai thác những vùng biển mà từ trưóc đến nay đã bị Trung Quốc cản
trở.Ở đây tác giả muốn trở lại một chi tiết quan trọng trong bản tuyên
bố chung giữa VN và Hoa Kỳ nhân chuyến đi của ông Dũng vào cuối tháng 6
năm 2008. Đó là chi tiết « Hoa Kỳ tôn trọng và ủng hộ việc toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam ». Đã có nhiều tác giả đã viết báo bình luận và phân
tích chi tiết này nhưng chưa thấy ai đặt vấn đề là Hoa Kỳ « ủng hộ » thế
nào và lãnh thổ Việt Nam được Hoa Kỳ quan niệm ra sao ?Việc « tôn trọng
và ủng hộ » của Hoa Kỳ về vấn đề toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam nên
hiểu là Hoa Kỳ không can thiệp nhằm chia cắt VN, không ủng hộ các lực
lượng ly khai tại Việt Nam. Vấn đề sẽ tế nhị hơn, nếu một nước nào đó
chiếm đóng một phần lãnh thổ của VN, thái độ « ủng hộ » của Hoa Kỳ sẽ
như thế nào ? Mặt khác, cũng quan trọng không kém, Hoa Kỳ công nhận lãnh
thổ của Việt Nam trên căn bản nào ?Các vấn đề này sẽ thay đổi, có lợi
hay có hại cho VN tùy thuộc vào mối tương giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam
trong tương lai. Nhưng trước mắt, qua các thỏa thuận đã ký kết giữa
ExxonMobil và PetroVietNam, cũng như các tuyên bố của các nhân vật ngoại
giao Hoa Kỳ và Việt Nam, ta có thể đoán rằng Hoa Kỳ đã công nhận « lãnh
thổ » của Việt Nam với hệ thống đường cơ bản 1977.Địa điểm khai thác
của ExxonMobil nằm trên thềm lục địa, trong vùng kinh tế độc quyền của
VN. Do đường cơ bản của VN cách bờ vùng này đến 74 hải lý, vùng biển VN
mở ra đến 274 hải lý. Hoa Kỳ có thể đã công nhận lãnh thổ Việt Nam trên
tinh thần này, nếu không thì vấn đề khai thác của ExxonMobil đã không
được xúc tiến.Việt Nam vì thế mới mạnh dạn phản đối Trung Quốc và dám
tuyên bố sẵn sàng dùng mọi biện pháp để bảo vệ các tập đoàn khai thác
hợp pháp trên lãnh thổ của mình. Trung Quốc tức giận lắm nhưng không làm
gì được vì tập đoàn khai thác ExxonMobil là của Hoa Kỳ chứ không phải
là BP của Anh, dễ bắt nạt. Anh Quốc vì còn nhiều quyền lợi ở Hồng Kông,
không dám đương đầu vì sợ thiệt hại kinh tế.Ngoài ra ý nghĩa lơ lững của
sự « ủng hộ » của Hoa Kỳ cũng khiến cho Trung Quốc không dám làm
bậy.Theo tình hình hiện nay người viết lạc quan cho rằng không còn mấy
nước còn lý do để phản đối hệ thống đường cơ bản của Việt Nam.Đối với
Thái Lan thì cả hai nước đều có hệ thống đường cơ bản tương đồng, vì thế
khó mà phản bác lẫn nhau. Vùng biển giữa hai nước có một vùng chồng lấn
khoảng 6.500km². Theo tin trong nước thì VN nhượng cho Thái Lan 70%, VN
30%. Nhưng việc tương nhượng này phải được đền bù xứng đáng. Thái Lan
có rút lại công hàm phản đối của mình hay chưa?Đối với Mã Lai thì hệ
thống đường cơ bản của nước này có nơi cách bờ biển đến 85 hải lý, vì
thế cũng không có lý do phản đối hệ thống đường cơ bản của VN. Vùng
chồng lấn giữa hai nước hiện nay đã được giải quyết theo cách “cộng đồng
khai thác”. Mã Lai không còn lý do để làm khó VN.Các nước như Anh, Nhật
Bản, Pháp, Đức, Úc… không có thiệt hại gì do hiệu quả của đường cơ bản
VN. Việc chống đối từ năm 1977 là do nguyên nhân ý thức hệ hơn là kinh
tế. Hiện nay thời thế thay đổi, Việt Nam đã thay đổi và đang trở thành
đối tác tốt với các nước này. Việc rút lại các công hàm phản đối chỉ còn
là một vấn đề của ngoại giao.3/ Khi đã có được ủng hộ của các nước về
quan điểm hệ thống đường cơ bản, việc này đương nhiên dẫn tới việc công
nhận các vùng biển cũng như thềm lục địa của VN. Bây giờ VN mới có thể
cho đấu thầu khai thác dầu khí trong vùng hải phận kinh tế độc quyền của
mình và ưu tiên cho Hoa Kỳ hay các nước đã nhìn nhận hệ thống đường cơ
bản của VN. Đây có lẽ là việc mà VN đang thực hiện.Việt Nam cũng nên
thiết lập một hồ sơ kéo dài thềm lục địa, đến 350 hải lý, phù hợp với
tinh thần của công ước Biển 1982, sau đó nộp cho Commission on the
Limits of the Continental Shelf thuộc Liên Hiệp Quốc, trước tháng 5 năm
2009. Ở điểm này VN có lợi hơn các nước khác trong vùng vì thềm lục địa
của VN lài, là phần kéo dài của lục địa.Việc làm trên cũng nhằm “vô hiệu
hóa” ảnh hưởng các đảo Trường Sa do Trung Quốc chiếm đóng. Việt Nam có
lý do để đòi hỏi các đảo này không được hưởng các qui chế đã ấn định cho
luật biển 1982. Trường hợp các đảo Cồn Cỏ, Bạch Long Vĩ… không được gì
cả là thí dụ.Đối với Phi và Mã Lai, VN có đầy đủ hồ sơ chứng minh các
đảo mà các nước này chiếm đóng tại Trường Sa là của VN. Giải pháp cũng
sẽ là một trọng tài quốc tế hoặc là một trao đổi mà các bên đều có
lợi.Phần biển VN do đó sẽ lớn hơn tất cả các nước trong vùng, vì thuận
lợi địa lý như chiều dài, do hệ thống đường cơ bản, do thềm lục địa mở
ra thuận lợi không có hố sâu chặn lại như các nước khác… Đương nhiên là
sẽ không quan trọng bằng nếu như Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về VN.
Nhưng trước mắt Việt Nam có thể khai thác vùng biển của mình đồng thời
ngăn chận được tham vọng vô lý của Trung Quốc.Việc phản đối hay đe dọa
của Trung Quốc chắc chắn sẽ có nhưng không còn quan trọng. Lý lẻ của
Trung Quốc sẽ là Việt Nam khai thác trên một vùng có chồng lấn với thềm
lục địa của các đảo Trường Sa mà Trung Quốc đang đòi chủ quyền. Nhân
việc này VN nên đề nghị Trung Quốc đưa ra một tòa án phân xử. Việc này
hoàn toàn bất lợi cho Trung Quốc vì họ không có bằng chứng nào chứng
minh chủ quyền của họ ngoài các tuyên bố không có giá trị của các lãnh
tụ CSVN trong quá khứ.Nếu Trung Quốc khai thác ở Trường Sa thì nước này
không tôn trọng luật biển 1982 và Qui Tắc Hành Sử 2002. Trung Quốc không
có lý do gì để kéo dài thềm lục địa của họ ra đến đây. Các đảo họ chiếm
của Việt Nam thì đang trong vòng tranh chấp, vả lại, các đảo này không
thể có vùng kinh tế độc quyền hay thềm lục địa. Việt Nam cần phải liên
minh chặt chẽ với Phi và các nước khác để phản đối, làm áp lực đưa vấn
đề ra một tòa án quốc tế.Một ghi nhận, đặc điểm các nước sản xuất dầu
trên thế giới ngoài APEC, ngoại trừ nước Anh và Na Uy, mỗi khi nước đó
khám phá được một mỏ dầu có tầm quan trọng về kinh tế, trở thành một
nước sản xuất dầu, các nước đó đều xảy ra hổn hoạn. Việt Nam là một nước
kém phát triển, tâm lý bầy đàn vẫn còn phổ cập, vì thế dễ xảy ra các
việc tranh dành quyền lợi. Quốc hội VN nên thông qua một bộ luật về tài
nguyên quốc gia. Nên lập ra một ủy ban quản lý tài nguyên quốc gia, nhân
sự ủy ban này do quốc hội bổ nhiệm và có tránh nhiệm trước quốc hội,
làm việc định kỳ.4/ Về vấn đề quốc phòng, trước hết là các đảo Trường Sa
vẫn còn do VN kiểm soát thì phải củng cố thêm quân sự. Bộ Quốc Phòng
thường xuyên ủy lạo, thăm viếng các chiến sĩ trú đóng tại các đảo. Phải
cho các binh sĩ này hưởng một ngạch lương đặc biệt, xứng đáng với sự hy
sinh và gian khổ của họ.Riêng về sự lớn mạnh về quân sự của Trung Quốc,
nhất là về phương diện hải quân, Việt Nam là nước nên lo ngại hơn ai
hết.Về phía bắc, Trung Quốc tiếp giáp với Nga, không dễ dàng bành
trướng. Phía tây là núi non hiểm trở, sa mạc cằn khô, khí hậu khắc
nghiệt. Ở đó có các xứ Trung Á vốn thuộc vùng ảnh hưởng của Nga, ngoài
ra còn có Ấn Độ, xứ có thể đối trọng với TQ, phía tây nam. Phía đông là
Đại Hàn và Nhật Bản, hai đồng minh của Hoa Kỳ. Vấn đề bành trướng của
Trung Quốc không đặt ra. Chỉ có phía nam, toàn vùng biển Đông và khu vực
Đông Nam Á là không gian bành trướng của Trung Quốc. Vị trí của VN đối
với Trung Quốc cực kỳ quan trọng. Không đặt được Việt Nam vào vòng ảnh
hưởng của mình thì Trung Quốc sẽ không trở thành một cường quốc đúng
nghĩa. Việt Nam vì thế là mục tiêu chính để cho Trung Quốc vũ trang. Vấn
đề Đài Loan chỉ là một cái cớ.Giải pháp cho Việt Nam phải là liên minh
chiến lược với các nước có cùng mối lo ngại về sự trổi dậy của Trung
Quốc. Việt Nam thực sự mạnh, có liên minh chiến lược với các cường quốc,
chắc chắn sẽ « đóng khung » Trung Quốc.Trung Quốc nên hiểu rằng, nếu
chuốc thù gây oán với VN thì TQ sẽ vô cùng bất lợi. Việt Nam sẽ luôn
luôn là ác mộng, sẽ vĩnh viễn là trở ngại cho mọi phát triển của TQ
trong tương lai. Việc này sẽ đưa Trung Quốc về thời trước 1979.
Những hăm dọa qua hình thức các bài báo trên sina.com hiện nay đều không có ý nghĩa. Hàng ngàn năm nay, Việt Nam chưa bao giờ « sợ » Trung Quốc cả. Vì thế, Trung Quốc cần thay đổi thái độ, phải tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, phải lấy lòng VN. Đây là một thái độ khôn ngoan mà Trung Quốc cần có. Bởi vì TQ cần VN mà VN không hề cần TQ. Có ý thức như vậy thì TQ mới hy vọng xưng hùng xưng bá với các nước được.5/ VN phải vận động các nước lớn ủng hộ chủ quyền của mình ở HS và TS. Vấn đề chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa chỉ nên giải quyết bằng con đường pháp lý, qua một tòa án quốc tế. Nhưng đó sẽ là việc về lâu dài. Thời gian sẽ không còn là kẻ thù của VN nữa nếu các điều kiện trên được thực hiện.Kết luận : Tóm lại, việc tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc thể hiện qua vụ ExxonMobil vừa qua cho thấy Việt Nam đã một phần lấy lại được tư thế trong việc hành sử quyền chủ quyền của mình ở vùng kinh tế độc quyền. Công lao ở đây là do chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Ông Dũng đã thành công trong việc « vớt vát » được chút nào hay chút nấy quyền lợi của Việt Nam ở biển Đông mà các lãnh tụ gọi là vĩ đại của CSVN đã đem dâng cho Trung Quốc.
Những hăm dọa qua hình thức các bài báo trên sina.com hiện nay đều không có ý nghĩa. Hàng ngàn năm nay, Việt Nam chưa bao giờ « sợ » Trung Quốc cả. Vì thế, Trung Quốc cần thay đổi thái độ, phải tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, phải lấy lòng VN. Đây là một thái độ khôn ngoan mà Trung Quốc cần có. Bởi vì TQ cần VN mà VN không hề cần TQ. Có ý thức như vậy thì TQ mới hy vọng xưng hùng xưng bá với các nước được.5/ VN phải vận động các nước lớn ủng hộ chủ quyền của mình ở HS và TS. Vấn đề chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa chỉ nên giải quyết bằng con đường pháp lý, qua một tòa án quốc tế. Nhưng đó sẽ là việc về lâu dài. Thời gian sẽ không còn là kẻ thù của VN nữa nếu các điều kiện trên được thực hiện.Kết luận : Tóm lại, việc tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc thể hiện qua vụ ExxonMobil vừa qua cho thấy Việt Nam đã một phần lấy lại được tư thế trong việc hành sử quyền chủ quyền của mình ở vùng kinh tế độc quyền. Công lao ở đây là do chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Ông Dũng đã thành công trong việc « vớt vát » được chút nào hay chút nấy quyền lợi của Việt Nam ở biển Đông mà các lãnh tụ gọi là vĩ đại của CSVN đã đem dâng cho Trung Quốc.
Của đổ hốt lên được như thế cũng là khá lắm. Nhưng ông Dũng sẽ
còn khá hơn, lập công to cho đất nước, nếu ông có một quyết định mạnh và
thông minh để thay đổi hẵn bộ mặt của Việt Nam.Thiết lập được quan hệ
với Hoa Kỳ là điều tốt, cũng như quan hệ với các nước khác. Thuyết phục
được Hoa Kỳ cũng như các nước công nhận và ủng hộ toàn vẹn lãnh thổ của
Việt Nam là điều giỏi, ít ai trong chế độ hiện nay làm được. Nhưng điều
cần ý thức rằng Việt Nam phải mạnh. Mạnh thật sự từ ý chí cho đến thể
chất mới có thể vừa phát triển vừa giữ được nước, chống được Trung Quốc
trong dài hạn. Việc này không thể nào thực hiện nếu các thành phần dân
tộc Việt Nam vẫn còn thù nghịch với nhau, mỗi người dân đều có thể là
một « dân oan », người dân vẫn xem đảng cầm quyền là « giặc nội xâm ».
Chỉ có một chính sách đứng đắn về hòa giải và hòa hợp dân tộc mới có thể
hóa giải những mâu thuẫn này và chỉ có một chính phủ do dân thật sự bầu
ra mới có thể bảo đảm tính chính thống cũng như sự đứng đắn cho chính
sách đó. Các chính sách mị dân, các nghị quyết, như nghị quyết 36, sẽ
không giải quyết được vấn đề mà chỉ che dấu vấn đề. Trong khi đó càng để
lâu thì những mâu thuẫn tích lũy, càng làm cho dân tộc này thêm phân
hóa. Ông Dũng thừa khả năng, đã mở những bước đầu, ông có dám buớc thêm
những bước nữa hay không ?Trương Nhân Tuấn[1] Các hàng chữ in nghiêng là tin lấy từ BBC.[2]
Đường cơ bản (baseline) là đường cận bờ biển, từ đó xác định lãnh hải
(lãnh địa hải phận) 12 hải lý. Đường cơ bản có thể là đường thẳng, đường
cong v.v… sao phù hợp với tình trạng sinh hoạt kinh tế của người dân
trong vùng (và tập quán quốc tế) hay với tình trạng địa lý của bờ biển.[3]
Công hàm năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng thì không gọi là « lãnh hải »
mà gọi là « hải phận ». Thực ra gọi là « lãnh hải » hay « hải phận » đều
không sát ý nghĩa pháp lý của « mer territoriale – territorial sea ».
Ta thấy hai từ Pháp và Anh đều có cả « biển » và « đất ». Người Việt ta
thường dùng « lãnh hải » hay « hải phận » để chỉ cho một vùng biển bất
kỳ thuộc về một nước bất kỳ nào đó.[4] Xem bài Vài Ý Kiến về Trách Nhiệm Trong Vấn Đề Mất Đất Mất Biển, cùng tác giả, Tổ Quốc số 44.[5]
Ðiều thứ 121 của Công-Ước Montego Bay 10 tháng 12 năm 1982 định nghĩa
về đảo :1. Une île est une étendue naturelle de terre entourée d'eau qui
reste découverte à marée haute. (Ðảo là một dải đất tự nhiên, có nước
bao bọc chung quanh và không bị nước phủ lúc thủy triều lên)2. Sous
réserve du paragraphe 3, la mer territoriale, la zone contiguë, la zone
économique exclusive et le plateau continental d'une île sont délimités
conformément aux dispositions de la Convention applicables aux autres
territoires terrestres. (Một đảo có lãnh địa hải phận, vùng tiếp cận,
vùng kinh tế độc quyền và thêm lục địa riêng, ngoại trừ điều kiện ghi
dưới phần 3)3. Les rochers qui ne se prêtent pas à l'habitation humaine
ou à une vie économique propre, n'ont pas de zone économique exclusive
ni de plateau continental. (Những bãi đá (cồn đá) mà người ta không thể
sinh sống, hoặc tạo một nền kinh tế tự tại thì không có vùng kinh tế độc
quyền cũng như không có thềm lục địa).[6]
Các đảo Cồn Cỏ, Bạch Long Vĩ của Việt Nam là các đảo lớn, có dân cư
sinh sống đông đảo, có cả một nền kinh tế tự túc… nhưng chúng vẫn không
được nhìn nhận là đảo theo định nghĩa của luật biển 1982. Theo Hiệp Ước
Phận Định Vịnh Bắc Bộ năm 2000 thì các đảo này không những không có vùng
kinh tế độc quyền mà vùng biển lãnh hải của nó cũng không được tôn
trọng.mardi, 9 septembre 2008 - 20:52 (CEST)Article suivant : Góp ý với TS Dương Danh Huy Article précédent : Vấn đề trách nhiệm việc làm mất đất, mất biển
http://fr.blog.360.yahoo.com/blog-EGs0TdElabNXphrx56VTXO2Qa8378w--?cq=1&p=124CỘNG SẢN VIỆT NAM BÁN NƯỚC
*
Cộng Sản Việt Nam bán nước cầu vinh!
(H1. Bản đồ có mũi tên là vùng biển Việt Nam mà Trung Quốc muốn chiếm cứ.
*
(H2. ) Công hàm của Phạm văn Đồng công nhân chủ quyền Trung Cộng ngoài hải phận.
Từ ngày cướp chính quyền, cái gọi là "Cách mạng mùa Thu năm 1945", Hồ Chí Minh và đảng CSVN là một tập đoàn bán nước cho Đại Hán xâm lược Bắc Phương để cầu vinh, những chứng từ hình ảnh dưới đây minh chứng việc làm của đảng CSVN khiếp nhược, hèn nhát. Đối với người dân thì hà hiếp chiếm từng khu nhà, từng thướt đất, nhưng đối với ngoại bang thì cúi đầu dâng hiến hàng ngàn cây số vuông biên giới, hàng vạn vùng đất biển và cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho tập đoàn Cộng Sản Trung Hoa.
Lịch sử dân tộc Việt Nam hơn 4000 năm, cha ông ta đã bao lần đánh bại xâm lăng Tàu Hán Bắc Phương giữ gìn từng tất đất của bờ cõi. Lịch sữ dân tộc Việt có lúc thịnh lúc suy, nhưng anh hùng dân tộc thời nào cũng có do đó
từ ngàn xưa hai vị nữ lưu Trưng Trắc, Trưng Nhị đã từng đánh bại quân của Mã Viện, đến đời cha ông những tấm gương hy sinh lẫm liệt, những câu nói của anh hùng dân tộc còn vang vọng đâu đây nhắc nhỡ con cháu luôn đề phòng giặc Bắc Phương. Hùng khí ngút trời Nam của các tiên liệt làm cho quân Nguyên, quân Thanh, quân Mông Cổ hồn phiêu phách tán. Lịch sử dân tộc còn vang vọng lời răng của tiền nhân:
- Năm 938 Ngô Quyền đánh bại Bắc Phương trên sông Bạch Đằng trận đánh toàn thắng của dân tộc Việt chống đồng hóa của giặc Phương Bắc, chiến đấu giành độc lập dân tộc, chấm dứt Bắc Thuộc kéo dài 1117 năm (179 TCN - 938).
- Năm 1282, Trần Nhân Tông anh dũng chỉ đạo cuộc chiến của giặc Bắc Phương Nguyên Mông, vua dặn rằng “Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Tàu Hán. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta .Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích.Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn:
"Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu.“
Vua Trần Nhân Tông triệu tập Hội Nghị Diên Hồng cùng toàn dân chống giặc năm 1284, phong Trần Quốc Tuấn làm Hưng Đạo Đại Vương chống giặc Nguyên Mông. Hưng Đạo Đại Vương lưu truyền đời sau với cầu nói bất hủ “đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” ....Giặc bắc phương một lần nữa bị Hưng Đạo Vương đánh cho một trận tan tành trên sông Bạch Đằng dẹp ý đồ bành trướng của Nguyên Mông.
"Dẫu mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có"(Trái: Tượng Vua Lê Lợi 1385-1433. Phải Nguyễn Trãi 1380 - 1442)Ngày 20-09 năm Đinh Mùi (1427) Lê Lợi chém chết kiêu tướng Liễu Thăng, kết thúc cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Tàu xâm lược của quân Minh giành lại độc lập cho dân tộc. Trận chiến lịch sữ tại Chi Lăng còn vang vọng đời sau. Trong giai đoạn này Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi có câu “Dẫu mạnh yếu có lúc khác nhau, Song hào kiệt đời nào cũng có”
"Đánh cho dài tóc, đánh cho để răng đen"
(Quang Trung 1753-1792)Ngày 05 tháng Giêng Kỷ Dậu (1789) trận đánh lịch sữ thần tốc của vua Quang Trung quyét sạch 20 vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi nước ta với lời thề son sắc “Đánh cho dài tóc, đánh cho để đen răng”, “Đánh cho sử tri nam quốc anh hùng chi hữu chủ”
Bao nhiêu gương anh hùng bất khuất trời Nam, bao nhiêu xương máu của tiền nhân hy sinh để gìn giữ giang sơn gấm vóc. THẾ NHƯNG, đảng CSVN chỉ làm chủ đất nước có 62 năm họ đã CĂT XÉN, NHƯỜNG BIỂN, BÁN NƯỚC cho giặc Tàu.
Ông cha ta oanh liệt chống kẻ thù Phương Bắc như thế còn đảng CSVN thì bán nước cầu vinh:
Từ khi đảng CSVN nắm quyền năm 1945, họ đặt quyền lợi của đảng Cộng Sản lên trên quyền lợi tổ quốc, nhận giặc làm “anh” cho nên đảng CSVN đã lần lượt dâng biển hiến đất cho Trung Cộng như sau:
Âm thầm để Trung Cộng xâm lấn biên giới:
Khi ông Hồ Chí Minh về đặt bản doanh tại hang Pak-Bó, lúc đó vì muốn được sự an toàn và được bao che của Trung Cộng nên ông Hồ Chí Minh đã cho rằng phần lãnh thổ có hang Pak-Bó thuộc về Trung Quốc. Có như thế, phi cơ Pháp không thể vượt biên giới để ném bom những căn cứ địa của đảng CSVN. Cũng vào thời đó, Đảng CSVN có nhiều chiến khu gần vùng biên giới khi phi cơ Pháp đến oanh tạc thì Trung Quốc hô lên là lãnh thổ của họ, phía ông Hồ im lặng, về sau này Trung Cộng chiếm luôn mà Hà Nội không có một phản ứng nào cả. Đây có phải chăng là hành động âm thầm bán nước.
Công khai ký Công Hàm công nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc:
- Ngày 4/9/1958 Trung Quốc tuyên bố phần lãnh hải của Trung Quốc là 12 hải lý.- Ngày 14/09/1958 ông Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị Cộng Sản Hà Nội ra lệnh cho ông Phạm Văn Đồng với danh nghĩa Thủ Tướng Chính Phủ Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ký Công Hàm tán thành tuyên bố của Trung Cộng.
Theo Công Hàm này thì đảng CSVN chấp nhận “bản đồ” mà Trung Cộng đòi hỏi phần chủ quyền của họ (xin xem bản đồ và công hàm đính kèm) trong đó lãnh thổ Trung Quốc bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và phần lãnh hải của Trung Quốc phía Tây sát với bờ biển miền Trung và Bắc Việt Nam. Phía Đông trải dài tới Phi Luật Tân và phía Nam sát với Mã Lai và Nam Dương. Như vậy thì lãnh hải Việt Nam bị ép sát vào thềm lục địa và mất vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý. Vùng biển bị mất này chứa nhiều mỏ dầu khí và tài nguyên hải sản vô tận đã nuôi sống dân tộc ta tự bao đời.
(Hình trái, bản đồ có 9 gạch vàng là chu vi vùng biển Trung Cộng đòi hỏi bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hình phải là công hàm của Hồ Chí Minh chỉ đạo Phạm Văn Đồng ký nhận bản đồ trên)
Im lặng,quay đi khi Trung Cộng tấn công Hoàng Sa tháng 1/1974:
Ngày 17 tháng 1, 1974 khi Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, chống lại sự xâm lăng của Trung Cộng trên đảo Hoàng Sa, thì CSVN giữ thái độ im lặng đồng tình với sự xâm lăng của Trung Cộng.
Trong trận chiến này, hải quân VNCH đã bị Trung Cộng bắn chìm chiến hạm HQ-10 sau khi đã hạ hai chiến hạm của Trung Cộng, nhưng cuối cùng vì thế yếu, nên phải rút lui. Sự can đảm của các chiến sĩ Hải Quân VNCH bảo vệ tổ quốc một cách ngoan cường dù biết rằng không thể đương đầu với lực lượng hùng hậu của Hải Quân Trung Cộng, nhưng đã anh dũng chiến đấu bất khuất theo gương cha anh chống Tàu xâm lược.
(Soái hạm HQ-10 của quân Việt Nam Cộng Hòa anh dũng hy sinh bảo vệ Hoàng Sa tháng 1 năm 1974)
Giữ im lặng, cúi đầu, bưng bít tin tức khi Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa năm 1988 và bắn chết ngư phủ Việt nam trên vùng biển tổ quốc
Năm 1988, Trung Cộng lại một lần nữa đánh chiếm quần đảo Trường Sa, Trung Cộng đã giết chết 80 bộ đội Hải Quân Việt Nam. Lúc đó, đảng CSVN lại dấu nhẹm việc này, không công khai cho quân chúng biết.
Trong khoảng thời gian 2004 và 2005 Hải Quân Trung Cộng đã bắn chết ngư phủ Việt Nam, nhưng đảng CSVN vẫn làm ngơ và không có một hành động ngoại giao cụ thể nào để bênh vực cho quyền lợi của ngư dân Việt Nam, quay đi trước quân thù giết chết lương dân đây là hành động của một chính quyền khiếp nhược.
Lén lút ký Hiệp Ước biên giới Việt-Trung, cắt xén đất cho Trung Cộng:
- Ngày 30/12/1999 Hiệp Ước ký giữa CSVN và Trung Quốc.- Ngày 29/4/2000 Quốc Hội Trung Quốc thông qua.- Ngày 9/6/2000 quốc hội CSVN thông qua.- Ngày 27/12/2001 Việt Nam làm lễ cắm mốc biên giới mới.
Theo sự tìm hiểu các tài liệu thì phía CSVN nhượng cho Trung Quốc 789 cây số vuông (Km2) dọc theo biên giới hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn, và theo những tài liệu trong nước đưa ra thì Việt Nam mất 720 cây số vuông (cả hai tài liệu đều cho thấy phần hiến đất lớn hơn cả lãnh thổ Singapore). Ở tỉnh Cao Bằng có nơi nhường đất sâu gần 50 cây số (Km) sát tới hang Pak-Bó (nơi mà Hồ Chí Minh dùng làm cứ địa đầu tiên của đảng CSVN) . Còn tại Lạng Sơn thì nhượng vùng đất phía bắc sông Kỳ Cùng trong đó có Ải Nam Quan. Nếu chúng ta mở Internet trên trang Web Việt Nam, tài liệu mới nhất của đảng CSVN cho rằng “Lãnh thổ Việt Nam khởi từ cây số Zero (0) từ phía Bắc”. Cây số Zero (0) này chính là số năm (5) ngày trước - có nghĩa là từ Ải Nam Quan vào sâu 5 km đã thuộc về Trung Quốc. Ngày 28/01/2002 Ông Lê Cung Phụng Thứ Trưởng Ngoại Giao của CSVN trả lời phóng viên VASC Orient đã xác nhận “Mục Nam Quan nay thuộc về Trung Quốc”.
Lén lút ký hiệp định phân định lãnh hải Vịnh Bắc Việt, nhường biển cho Trung Cộng:
Ngày 25/12/2000 ông Trần Đức Lương chủ tịch nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã ký Hiệp Định phân chia lãnh hải trên Vịnh Bắc Bộ. Cũng theo ông Lê Cung Phụng Thứ Trưởng Ngoại Giao Việt Cộng trả lời phỏng viên VASC Orient ngày 28/01/2002 thì “chúng ta (Việt Nam) 53.2% và Trung Quốc 46.8%”. Căn cứ vào Hiệp Ước Brévié đã ký giữa Pháp và Nhà Thanh vào năm 1887 về vịnh Bắc Việt thì Trung Quốc 38% và Việt Nam 62%. Như vậy năm 2000, CSVN đã ký nhường thêm gần 8.8% lãnh hải vịnh Bắc Việt tương đương gần 11,000 km2, và lãnh hải của Trung Cộng nay chạy sâu tận đảo Bạch Long Vỹ.
Trong khoảng thời gian 2004 và 2005 Hải Quân Trung Cộng đã bắn chết ngư phủ Việt Nam, nhưng đảng CSVN vẫn làm ngơ và không có một hành động ngoại giao cụ thể nào để bênh vực cho quyền lợi của ngư dân Việt Nam, quay đi trước quân thù giết chết lương dân đây là hành động của một chính quyền khiếp nhược.
Phản ứng chiếu lệ khi Trung Cộng thành lập huyện Tam Sa để quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Đã đến lúc Trung Cộng muốn kết thúc chiếm đảo Hoàng Sa và Trường Sa bao vây mắt trước của Việt Nam, họ ngang nhiên công bố thành lập huyện Tam Sa tại Hải Nam để sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào lạnh thổ của họ. Nhà cầm quyền CSVN chỉ phản ứng chiếu lệ, run sợ không dám ra mặt chống đở sợ mất chiến ghế quyền lực không có chỗ dựa để củng cố.
62 năm CSVNcầm quyền so với chiều dài lịch sử dân tộc 4000 năm qúa ngắn ngũi, CSVN đã để mất bao nhiều phần giang sơn gấm vóc của tổ quốc không còn nghi ngờ gì nữa, không thể bào chữa được nữa: Cộng Sản Việt Nam là tập đoàn bán nước cầu vinh.
VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢN
www.vietquoc.org/modules.php?name=News&file=article&sid=211
TÀI LIỆU 2
Kháng thư phản đối Cộng Sản Việt Nam bán nước và Trung Quốc xâm lăng
Liên Minh DCNQVN
Việt Nam, ngày 21 tháng 12 năm 2007
Kính thưa
– toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước
– cùng các Thân hữu quốc tế,
Những văn bản bán nước của Cộng Sản Việt Nam
Gần đây, lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam bị Trung Quốc xâm phạm dựa trên những văn bản lịch sử sau:
• Ngày 4/9/1958 , TQ đưa ra bản tuyên bố 4 điểm xác định lãnh hải của TQ vòng theo bờ biển lục địa và các hải đảo chung quanh là 12 hải lý (thay vì 3 hải lý như trước). Đi kèm với bản tuyên bố này là một bản đồ có đường ranh giới lãnh hải bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
• Ngày 14/9/1958 , theo lệnh Hồ Chí Minh, thủ tướng CS là Phạm Văn Đồng ký công hàm gửi Chu Ân Lai, là tổng lý quốc vụ viện của TQ, công nhận bản tuyên bố trên. Như vậy, công hàm này mặc nhiên công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của TQ.
• Tháng 02/1972 , cục bản đồ trực thuộc phủ thủ tướng CSVN đã phổ biến một họa đồ thế giới, trên đó tên Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam bị bôi bỏ và chỉ còn tên Tây Sa và Nam Sa của TQ. Điều này cho thấy CSVN đã chính thức công nhận hai quần đảo này thuộc chủ quyền của TQ.
• Ngày 30/12/1999 , CSVN ký kết nhượng cho TQ 720 km2 đất liền ở biên giới hai nước, trong đó có Ải Nam Quan và thác Bản Giốc. Đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Hoa trước đây dài 1350 cây số, nay chỉ còn khoảng 1200 cây số.
• Ngày 25/12/2000 , CSVN tiếp tục nhượng thêm cho TQ khoảng 10.000 km2 lãnh hải của Việt Nam tại vịnh Bắc bộ. Như vậy, Việt Nam đã mất đi 9% diện tích biển Đông (ngày xưa, theo Công ước Thiên Tân do Pháp bảo hộ ký với nhà Mãn Thanh ngày 26/6/1887 và Công ước bổ túc ngày 20/6/1895 thì Việt Nam có 62% diện tích biển Đông; ngày nay Việt Nam chỉ còn 53%).
Như vậy, xét về bản chất, đảng CSVN chính là những kẻ bán nước cùng giuộc với Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống… xưa. Ngày xưa, những kẻ phản quốc này bán công khai và trọn gói hay bán sỉ cả đất nước; còn ngày nay CSVN “san nền, phân lô” đất nước ra để bán lẻ và bán dần dần cách lén lút, giấu diếm cả dân tộc!
Những hành động xâm lăng của Trung Quốc
Dựa vào những văn bản trên, TQ đã nhiều lần tấn công vào những phần đất và biển mà CSVN đã âm thầm ký kết cho họ:
– Ngày 19/1/1974 , TQ đã dùng nhiều chiến hạm và phi cơ cưỡng chiếm toàn bộ Hoàng Sa lúc đó thuộc chủ quyền Việt Nam Cộng Hòa. Hải quân VNCH đã chiến đấu anh dũng để bảo vệ phần đất của tổ quốc nhưng đã thất bại với 58 binh sĩ đã hy sinh.
– Ngày 14/3/1988 , hải quân TQ dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Trường Sa, bắn chìm ba tàu vận tải và giết chết 74 chiến sĩ của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
– Những năm gần đây, nhiều lần hải quân TQ đã bắn vào tàu của ngư dân Việt Nam khi họ đánh cá gần Hoàng Sa và Trường Sa, khiến nhiều ngư dân bị thương hoặc thiệt mạng.
– Mới đây, ngày 02/12/2007, TQ đã công khai và chính thức hóa hành động lén lút bán Hoàng Sa và Trường Sa cho TQ của CSVN bằng việc công bố quyết định sáp nhập hai quần đảo này của Việt Nam vào huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam của TQ.
Phản ứng của người dân Việt Nam và của nhà cầm quyền CSVN
Vì thế, ngày 09 và 16/12/2007, đồng bào Việt Nam, đặc biệt giới sinh viên, học sinh và văn nghệ sỹ, trí thức tại Sài Gòn và Hà Nội đồng loạt biểu tình phản đối hành động xâm lược trên của TQ. Nhưng cuộc biểu tình này đã bị công an CSVN tìm cách ngăn cản, giải tán, thậm chí bắt bớ một số người mà họ nghi là chủ mưu trong cuộc biểu tình. CSVN khiếp sợ TQ đến nỗi ngay sau đó bộ ngoại giao CSVN đã phải vội vàng xác định: “Đây là việc làm tự phát chưa được phép của các cơ quan chức năng Việt Nam. Khi các vụ việc trên xảy ra, các lực lượng bảo vệ của Việt Nam đã kịp thời có mặt, giải thích và yêu cầu bà con chấm dứt việc làm này”.
Đúng ra, để tỏ ra một nước có chủ quyền trên lãnh thổ của mình, ngoài việc ra mặt ủng hộ cuộc biểu tình bảo vệ lãnh thổ của người dân, nhà cầm quyền Việt Nam nên triệu đại sứ TQ tại Hà Nội đến để trao công hàm phản đối, đưa vấn đề ra trước Liên Hiệp Quốc, ra tòa án quốc tế. Nếu TQ phản ứng ngang ngược thì nhà cầm quyền Việt Nam phải sẵn sàng đóng cửa tòa đại sứ của họ, trả đại sứ của họ về nước. Nhưng CSVN khiếp sợ TQ đến nỗi không dám nói lên một lời phản đối nào khi bộ ngoại giao TQ răn đe nhà cầm quyền CSVN rằng các cuộc biểu tình trên sẽ “làm tổn hại quan hệ tốt đẹp giữa hai nước”.
So sánh cách xử sự của CSVN đối với TQ và đối với người dân trong nước ta thấy:
– Một đằng CSVN tỏ ra khiếp nhược, run sợ và lụy thuộc TQ không khác một nước chư hầu.
– Đằng khác lại tỏ ra khinh thị, ác độc và hà hiếp người dân trong nước còn hơn cả các chế độ thực dân: dung túng cho cán bộ của mình cướp đất đai của người dân, đàn áp các cuộc biểu tình của dân oan bị cướp đất đai cách bất công, bỏ tù phi pháp các nhà đấu tranh cho tự do dân chủ cách ôn hòa, đàn áp có hệ thống các tôn giáo trong nước, v.v…
Sở dĩ CSVN có thái độ hèn mạt , “đội trên đạp dưới” như vậy là vì họ:
+ Muốn lấy lòng Bắc Kinh để được bảo trợ cho độc quyền thống trị của mình,
+ Lo sợ nhân dân ngày càng biết rõ các thỏa thuận lén lút bán nước của họ,
+ Lo sợ sự đoàn kết của đồng bào đang ngày càng phát triển mạnh mẽ,
+ Lo sợ cuộc xuống đường đòi đất biển cho tổ quốc đầy chính nghĩa hôm nay ngày càng lớn mạnh sẽ buộc chế độ CSVN phải giải quyết theo chiều hướng bất lợi cho họ.
Nhận định
Trước tình hình hiện nay, Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam khẳng định:
– Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Dân tộc Việt Nam không bao giờ chấp nhận những công hàm hay hiệp định cướp nước và bán nước trên. Một trong những việc làm đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam mới với nền dân chủ đa nguyên đa đảng trong tương lai sẽ tuyên bố hủy bỏ những văn bản bán nước trên.
– Ngày nay dân tộc Việt Nam hoàn toàn có thể tự mình gìn giữ trọn vẹn giang sơn gấm vóc do cha ông đã đổ bao xương máu từ ngàn đời để lại. Chiến thắng tại Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa… là những bằng chứng hùng hồn chứng minh cho nhận định này. Ngoài ra, hiện nay dân tộc ta còn có những điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nhiều so với thời cha ông ta xưa trong việc giữ gìn vùng đất, vùng trời và vùng biển của Tổ quốc bằng những giải pháp hòa bình mà chưa nhất thiết phải dùng đến giải pháp quân sự.
– Việt Nam bị mất đất, mất biển về tay TQ là vì cả nước đã và đang bị cai trị bởi một đảng độc tài, phản dân tộc và phản dân chủ, luôn đặt quyền lợi của tập đoàn cầm quyền lên trên quyền lợi của dân tộc. Một đảng chính trị như thế không bao giờ xứng đáng lãnh đạo đất nước.
– Trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay, nếu mạnh mẽ hội nhập vào cộng đồng quốc tế , Việt Nam dễ dàng trở nên phồn vinh về kinh tế, hùng mạnh về quốc phòng. Nhưng vì CSVN quá lệ thuộc và khiếp sợ TQ , nên mọi động thái ngoại giao của CSVN đều phải được sự cho phép của TQ mới dám làm. Do đó, CSVN không thiết lập được một thế ngoại giao đủ mạnh giúp Việt Nam đương đầu với TQ khi bị nước này xâm lăng như trường hợp Trường Sa, Hoàng Sa hiện nay. TQ chỉ dám xâm lăng khi biết chắc Việt Nam đang bị lãnh đạo bởi tập đoàn CSVN bạc nhược, hèn nhát, và không có những đồng minh mạnh mẽ hậu thuẫn.
Lên án
Do đó, LMDCNQVN:
– Cực lực lên án CSVN đã nhiều lần lén lút bán đất bán biển thuộc lãnh thổ Việt Nam cho TQ. Đây là những hành động phản quốc của CSVN kiểu “cõng rắn cắn gà nhà” nhằm bảo vệ và duy trì độc quyền cai trị của họ trên nhân dân Việt Nam. Với dã tâm này, nếu không ngăn chặn, đảng CSVN sẽ còn tiếp tục thực hiện những hành động phản quốc tương tự khiến lãnh thổ Việt Nam bị mất dần vào tay TQ.
– Cực lực lên án TQ về việc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên một số lãnh thổ và lãnh hải, nhất là về việc sát nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào lãnh thổ TQ. Hành động này cho thấy dã tâm của TQ là lợi dụng sự lệ thuộc và khiếp nhược của đảng CSVN vào TQ để bành trướng lãnh thổ.
Kêu gọi
Vì vậy, LMDCNQVN:
• Kêu gọi đảng CSVN hãy lên tiếng mạnh mẽ chống lại hành động xâm lăng của TQ và có những hành động cụ thể, hữu hiệu để dành lại những phần giang sơn bị TQ xâm chiếm. Để thực hiện việc này, đảng CSVN cần phải:
+ công khai hóa trước toàn dân mọi mật ước đã ký với TQ, đặc biệt là hiệp ước về lãnh hải và lãnh thổ năm 1999 và 2000;
+ tiến hành mạnh mẽ việc dân chủ hóa đất nước. Chỉ khi có dân chủ thật sự Việt Nam mới có thể giàu mạnh và đủ khả năng chống lại mọi hình thức xâm lăng của ngoại bang.
Nếu không bảo vệ được lãnh thổ, không đòi lại được những phần lãnh thổ đã bán cho TQ, không có khả năng giữ được độc lập cho tổ quốc thì đảng CSVN hãy thoái vị để nhường quyền lãnh đạo tổ quốc cho cá nhân hay tập thể khác theo sự lựa chọn của toàn dân.
• Nhiệt liệt ca ngợi lòng yêu nước, tinh thần bất khuất và ý thức trách nhiệm đối với tổ quốc của các sinh viên học sinh và các văn nghệ sĩ đã biểu tình trước Tòa Đại sứ và Tòa Lãnh sự TQ tại Hà Nội và Sài Gòn hôm chủ nhật 9/12 và 16/12/07 vừa qua để lên án hành vi xâm lăng của TQ và một cách nào đó gián tiếp phản đối hành động phản quốc, nhượng đất nhượng biển cho TQ của đảng CSVN.
• Kêu gọi đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước thuộc mọi giới, không phân biệt địa phương, tôn giáo, giới tính, thành phần xã hội, quá khứ chính trị… hãy hết lòng đoàn kết bên nhau, quyết tâm chống ngoại xâm và tranh đấu cho một nền tự do dân chủ đích thực.
• Kêu gọi các quốc gia tự do tẩy chay Thế Vận Hội Olympic Bắc Kinh năm 2008 , và tẩy chay hàng hóa TQ ở khắp nơi trên thế giới để phản đối hành động xâm lăng của họ.
Cuối cùng, LMDCNQVN kính chúc đồng bào một mùa Giáng Sinh vui tươi, một Năm Mới hạnh phúc, và cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ thắng lợi mỹ mãn.
Ban Điều hành tạm thời:
1 – Kỹ sư Đỗ Nam Hải, Sài Gòn
2 − Giáo sư Nguyễn Chính Kết, Sài Gòn (đang vận động tại hải ngoại)
3 − Cựu Sĩ quan Trần Anh Kim, Thái Bình
4 − Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, Hoa Kỳ.
TAÌ LIỆU 3.
Đây là bản công-hàm bán nước của CSVN
Thủ Tướng Phủ
Nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hoà
Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà
ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4
tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà
Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của
Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà
tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các
cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn
trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong
mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung
hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý
lời chào rất trân trọng./.
Kính gửi: Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958.
Đồng chí Chu An Lai (Ấn ký)
Tổng lý Quốc vụ viện PHẠM VĂN ĐỒNG
Nước Cộng hoà Nhân dân Trung-hoa Thủ tướng Chính Phủ
tại BẮC KINH Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Hòa
Đây là nguyên-ngữ bản Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ Trung-Cộng quyết định về hải phận của Trung-quốc.
Trang Luật-học http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm
Dịch ra Anh-ngữ
DECLARATION OF THE GOVERNMENT OF THE PEOPLE'S REPUBLIC OF CHINA ON THE TERRITORIAL SEA
(Approved by the 100th Session of the Standing Committee of the National People's Congress on 4th September, 1958)
The People's Republic of China hereby announces:
(1) This width of the territorial sea of the People's Republic of China is twelve national miles. This provision applies to all Territories of the People's Republic of China, including the mainland China and offshore islands, Taiwan (separated from the mainland and offshore islands by high seas) and its surrounding islands, the Penghu Archipelago, the Dongsha Islands, the Xisha islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.
(2) The straight lines linking each basic point at the mainland's coasts and offshore outlying islands are regarded as base lines of the territorial sea of the mainland China and offshore islands. The waters extending twelve nautical miles away from the base lines are China's territorial sea. The waters inside the base lines, including Bohai Bay and Giongzhou Strait, are China's inland sea. The islands inside the base lines, including Dongyin Island, Gaodeng Island, Mazu Inland, Baiquan Island, Niaoqin Island, Big and Small Jinmen Islands, Dadam Island, Erdan Island and Dongding Island, are China's inland sea islands.
(3) Without the permit of the government of the People's Republic of China, all foreign aircrafts and military vessels shall not be allowed to enter China's territorial sea and the sky above the territorial sea.
Any foreign vessel sailing in China's territorial sea must comply with the relevant orders of the government of the People's Republic of China.
(4) The above provisions (2) and (3) also apply to Taiwan and its surrounding islands, the Penghu Islands, the Dongsha Islands, the Xisha Islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.
Taiwan and Penghu are still occupied with force by the USA. This is an illegality violating the People's Republic of China's territorial integrity and sovereignty. Taiwan and Penghu are waiting for recapture. The People's Republic of China has rights to take all appropriate measures to recapture these places in due course. It is China's internal affairs which should not be interfered by any foreign country.
http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm
Xisha Islands (Tây Sa = Hoàng Sa = Paracel Islands)
Nansha Islands (Nam Sa = Trường Sa = Spratly Islands)
Dịch ra Việt-ngữ
Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải
(Ðược thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân ngày 4 tháng 9 năm 1958)
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nay tuyên bố:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, tất cả máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc
(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Ðài Loan và Penghu hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoại quốc không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc
http://www.trungtamdukien.org/article.php?id_article=1028
Chú thích:
Quần đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
Vietnamese Claims to the Truong Sa Archipelago
[Ed. Spratly Islands]
Todd C. Kelly
Todd C. Kelly graduated from the M.A. program in Asian
Studies at the University of Hawaii at Manoa in August 1999.
On 15 June 1956, two weeks after the RVN reiterated the Vietnamese claims to the Truong Sa Islands, the DRV Second Foreign Minister told the PRC Charge d'Affaires that "according to Vietnamese data, the Xisha and Nansha Islands are historically part of Chinese territory."[65] Two years later, the PRC made a declaration defining its territorial waters. This declaration delineated the extent of Chinese territory and included the Truong Sa. In response, the DRV Prime Minister, Pham Van Dong, sent a formal note to PRC Premier Zhou Enlai stating that "The Government of the Democratic Republic of Viet Nam respects this decision."[66]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
http://www.hawaii.edu/cseas/pubs/explore/v3/todd.html
DRV = Democratic Republic of Vietnam - Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (North Vietnam)
PRC = People's Republic of China - Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa
RVN = Republic of Vietnam - Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Ngày 15 tháng 6 năm 1956, hai tuần lễ sau khi Việt Nam Cộng Hoà (RVN) tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa, Thứ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV) đã nói với Ban Thường Vụ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) rằng “theo những dữ kiện của Việt Nam thì quần đảo Hoàng Sa (Xisha) và quần đảo Trường Sa (Nansha) là một bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc” . Hai năm sau đó, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đã ra bản tuyên bố xác định lãnh hải của họ. Bản tuyên bố này đã vạch ra rõ ràng cái khoảng khu vực của lãnh thổ Trung quốc có bao gồm cả Trường Sa . Để đáp lễ, Thủ tướng Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV), Phạm Văn Đồng đã gởi một bản công hàm đến Thủ tướng Trung quốc Chu Ân Lai, nhấn mạnh rằng “Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định này
EYE ON ASIA - February 10, 1994
Saigon - Hanoi - Paracels Islands Dispute – 1974 By Frank Ching
Far Eastern Economic Review Reference: Vol. 157, No. 6, 10 Feb 1994
Vietnamese communists sell the Paracel and Spratly islands, but now want to say no.
According to Chinese Ministry of Foreign Affairs's "China's Indisputable Sovereignty Over the Xisha and Nansha Islands" (Beijing Review, Feb. 18, 1980), Hanoi has "settled" this matter with the Chinese in the past. They basically claimed:
- In June 1956, two years after Ho Chi Minh's government was re-established in Hanoi, North Vietnamese Vice Foreign Minister Ung Van Khien said to Li Zhimin, Charge d'Affaires of the Chinese Embassy in North Vietnam, that "according to Vietnamese data, the Xisha (Tây Sa = Hoang Sa = Paracels) and Nansha (Nam Sa = Truong Sa = Spratlys) islands are historically part of Chinese territory."
- On September 4, 1958, the Chinese Government proclaimed the breadth of its territorial sea to be twelve nautical miles which applied to to all territories of the PRC, "including ... the Dongsha Islands, the Xisha Islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands..." Ten days later, Pham Van Dong stated in his note to Zhou Enlai that "the Government of the Democratic Republic of Vietnam recognizes and supports the declaration of the Government of the People's Republic of China on China's territorial sea made on September 4, 1958."
One more thing to notice is that PRC threatened only the territories Vietnamese claimed and left open claims of other countries. It was very clear that Mr Ho Chi Minh, through Pham Van Dong, gave PRC "a big pie" because at that time Mr Ho Chi Minh was preparing for invading South Vietnam. Mr Ho needed colossal aids and closed eyes to accept all conditions of Beijing. It was easy for him to sell "only on paper" two archipelagoes which still belonged to South Vietnam by then.
For this, Vietnamese communists waited for a meeting of ASEAN countries in Manila, used this opportunity as a safe buoy and signed right away a paper requiring these countries to help Vietnam to solve this problem "fairly".
To its part, after taking islands of communist Vietnam, China showed amicability to Malaysia and Philippines and said that China was ready to negotiate resourceful areas with these two countries, brushing VC aside. China did say that it would not accept any foreign countries to get involved in this matter between it and communist Vietnam.
Later, Pham Van Dong denied his past wrongdoing in an issue of Far Eastern Economic Review, March 16, 1979. Basically, he said the reason he did was because it was "wartime". Here's excerpt from this article on p. 11 :
"According to Li (Chinese Vice-Premier Li Xiannian), China was ready to share the gulf's water "half and half" with the Vietnamese, but at the negotiating table, Hanoi drew the line of Vietnamese control close to Hainan island. Li also said that in 1956 (or 1958 ?), Vietnamese Premier Pham Van Dong supported a Chinese statement about sovereignty over the Spratly and Paracel islands, but since late 1975, Vietnam has been in control of part of the Spratly group - the Paracels being under Chinese control. In 1977, Dong reportedly said of his 1956 stance :"That was the war period and I had to say that".
Because of eagerness to create disastrous war for both areas North and South, and to contribute to international communism, Mr Ho Chi Minh did promise, without dignity, a "future" land for Chinese to grab, not knowing for sure that whether or not the South Vietnam would be swallowed.
As Dong said, "That was the war period and I had to say that". Who created the Vietnam War and ready to do all it could to get South Vietnam even to sell land ? Selling land during the war time and when it was over Pham Van Dong denied it by just laying falsely the blame on the war.
. . . . .
Also in Far East Economic Review March 16, 1979, p. 11.
In 9/1958, when China, in its declaration extending the breadth of Chinese territorial waters to 12 nautical miles, specified that the decision applied to all Chinese territories, including the Paracels and the Spratlies, Hanoi again went on record to recognize China'sovereignty over the 2 archipelagoes. PVD stated in a note to Chinese leader Zhou Enlai on 14/9/1958 :"The Government of the Democratic Republic of VN recognizes and supports the declaration of the Government of the People's Republic of China on its decision concerning China territorial sea made on 4/9/1958 (see Beijing Review 19/6/1958, p.21 -- Beijing Review-- 25/8/1979, p.25 -- The existence of such a statement and its contents were acknowledged in VN in BBC/FE, no. 6189, 9/8/1979, p. 1)
Why ?
Carlyle A. Thayer, author of "Vietnam's Strategic Readjustment," in Stuart Harris and Gary Klintworth, eds., China as a Great Power in the Asia Pacific (Melbourne: Longman Cheshire Pty Ltd., forthcoming 1994):
In pursuing its national interests, Vietnam has undertaken actions which appear highly provocative from China's point of view. For example, during Vietnam's long struggle for independence it made no public protests over Chinese claims to territory in the South China Sea and indeed supported them. Yet after unification Vietnam reversed its stance. In 1975 Vietnam occupied a number of islands in the Spratly archipelago and subsequently pressed territorial claims to the entire South China Sea.
As Foreign Minister Nguyen Manh Cam has admitted:
"Our leaders' previous declaration on the Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) archipelagoes was made in the following context: At that time, under the 1954 Geneva agreement on Indochina, the territories from the 17th parallel southward including the two archipelagoes were under the control of the South Vietnam administration. Moreover, Vietnam then had to concentrate all its force on the highest goal of resisting the US aggressive war to defend national independence. It had to gain support of friends all over the world. Meanwhile, Sino-Vietnamese relations were very close and the two countries trusted each other. China was according to Vietnam a very great support and valuable assistance. In that context and stemming from the above-said urgent requirement, our leaders' declaration [supporting China's claims to sovereignty over the Paracel and Spratly islands] was necessary because it directly served the fight for the defence of national independence and the freedom of the motherland.
More specifically, it aimed at meeting the then immediate need to prevent the US imperialists from using these islands to attack us. It has nothing to do with the historical and legal foundations of Vietnam's sovereignty over the,Truong Sa and Hoang Sa archipelagoes (remarks to a press conference in Hanoi on 2 December 1992 carried by Vietnam News Agency, 3 December 1992)."
These statements show that all what Chinese have alledged above are true. What happen today related to these 2 islands are merely consequences of the wicked settlement of these 2 communist brothers in the past. No one in the world community want to step in to settle the dispute between Communist Vietnam and PRC. The reason is very clear : diplomatic note and recognition by Vietnamese Communists can't be erased by a small country like VN who has wanted to play a trick cheating China. Moreover, Vietnamese Communists can't stay away from China while they have to follow Chinese "doi moi" to go forward to socialism.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
http://www.feer.com/articles/archive/1994/9402_10/P034.html
http://members.tripod.com/paracels74/observersseat.htm
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Cộng Sản Việt Nam bán Quần Đảo HS và TS, nhưng bây giờ muốn từ chối.
Theo tài liệu "Chủ quyền tuyệt đối của Trung Quốc trên Quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa " của Bộ Ngoại giao Trung Quốc (Beijing Review, Feb. 18, 1980), Hà Nội đã "dàn xếp" vấn đề này trong quá khứ. Đại khái họ đã bảo rằng:
- Hồi tháng 6 năm 1956, hai năm sau ngày chính phủ của Hồ Chí Minh đã tái lập tại Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Ung Văn Khiêm đã nói với Li Zhimin, Thường vụ viên của Toà Đại Sứ Trung quốc tại Bắc Việt, rằng "theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc".
- Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Chính phủ Trung quốc đã tuyên bố bề rộng của lãnh hải Trung quốc là mười hai hải lý, được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, "bao gồm ... Quần Đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa ...". Mười ngày sau đó, Phạm Văn Đồng đã ghi rõ trong bản công hàm gởi cho Chu An Lai, rằng "Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về vấn đề lãnh hải.
Thêm một điều cần ghi nhận là Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) đã chỉ đe dọa những lãnh thổ mà Việt Nam đã tuyên bố là của mình, và để yên cho các nước khác. Rõ ràng là ông Hồ Chí Minh qua Phạm Văn Đồng, đã tặng cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa "một cái bánh bao lớn" bởi vì lúc đó ông Hồ Chí Minh đang chuẩn bị cho công cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam. Ông Hồ cần sự viện trợ khổng lồ và đã nhắm mắt để nhận tất cả những điều kiện của Bắc Kinh. Đối với ông ta, việc bán "trên giấy tờ" hai quần đảo lúc đó vẫn thuộc về Nam Việt Nam là một điều dễ dàng.
Vì sự việc này mà Cộng sản Việt Nam đã chờ một buổi họp của các quốc gia khối ASEAN tại Manila, để dùng cơ hội này như một cái phao an toàn và ký ngay một văn kiện đòi hỏi những quốc gia này giúp Việt Nam giải quyết vấn đề "một cách đồng đều"
Về phía Trung Quốc, sau khi đã lấy những đảo của Cộng sản Việt Nam, họ đã tỏ thái độ ôn hòa đối với Mã Lai Á và Phi Luật Tân, và bảo rằng Trung Quốc sẵn sàng thương lượng các khu vực tài nguyên với các quốc gia này, và gạt VC qua một bên. Trung Quốc đã nói họ sẽ không tán thành bất cứ quốc gia nào can thiệp vào vấn đề giữa họ và Cộng sản Việt Nam.
Sau đó, Phạm Văn Đồng đã chối bỏ việc làm sai lầm của ông ta trong quá khứ, trong một ấn bản của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông ngày 16/3/1979. Đại khái, ông ấy nói lý do mà ông ấy đã làm bởi vì lúc đó là "thời kỳ chiến tranh". Đây là một đoạn văn trích từ bài báo này ở trang số 11:
Theo ông Li (Phó Thủ tướng Trung quốc Li Xiannian), Trung quốc đã sẵn sàng chia chác vùng vịnh "mỗi bên một nửa" với Việt Nam, nhưng trên bàn thương lượng, Hà Nội đã vẽ đường kiểm soát của Việt Nam đến gần Đảo Hải Nam. Ông Li cũng đã nói rằng vào năm 1956 (hay 1958 ?), Thủ tướng Việt Nam Phạm văn Đồng đã ủng hộ một bản tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền của họ trên Quần Đảo Trường Sa Và Hoàng Sa, nhưng từ cuối năm 1975, Việt Nam đã kiểm soát một phần của nhóm đảo Trường Sa - nhóm đảo Hoàng Sa thì đã bị kiểm soát bởi Trung Quốc. Năm 1977, theo lời tường thuật thì ông Đồng đã biện hộ cho lập trường của ông ấy năm 1956: "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy".
Do sự hồ hởi phấn khởi muốn tạo ra một cuộc chiến thê thảm cho cả hai miền Bắc và Nam, và góp phần vào phong trào quốc tế cộng sản, ông Hồ Chí Minh đã hứa, mà không có sự tự trọng, một phần đất "tương lai" để cho Trung Quốc lấy, mà không biết chắc chắn là có thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt Nam.
Như ông Đồng đã nói, "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy". Vậy thì ai đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam Việt Nam, ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh
...........
Cũng trong Tạp chí Kinh tế Viễn Đông số tháng 3 năm 1979, trang 11.
Hồi tháng 9 năm 1958, khi Trung Quốc, trong bản tuyên bố của họ về việc gia tăng bề rộng của lãnh hải của họ đến 12 hải lý, đã xác định rằng quyết định đó áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một lần nữa Hà Nội đã lên tiếng nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc trên 2 quần đảo đó. Ông Phạm Văn Đồng đã ghi nhận trong bản công hàm gởi cho lãnh tụ Trung Quốc Chu An Lai ngày 14/9/1958: "Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc" (xem Beijing Review 19/6/1958, trang 21 -- Beijing Review 25/8/1979, trang 25 -- Sự tồn tại của bản công hàm đó và tất cả nội dung đã được xác nhận tại Việt Nam trong BBC/FE, số 6189, ngày 9/8/1979, trang số 1.)
Tại sao ?
Theo ông Carlyle A Thayer, tác giả bài "Sự tái điều chỉnh chiến lược của Việt Nam" trong bộ tài liệu "Trung Quốc như một Sức mạnh Vĩ đại trong vùng Á châu Thái Bình Dương" của Stuart Harris và Gary Klintworth (Melbourne: Longman Cheshire Pty Ltd., forthcoming 1994): Việt Nam, trong việc theo đuổi quyền lợi quốc gia, đã thực hiện nhiều hành động mà theo quan điểm của Trung Quốc thì có vẻ khiêu khích cao độ. Thí dụ như, trong công cuộc đấu tranh trường kỳ dành độc lập, Việt Nam đã không biểu lộ sự chống đối công khai nào khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền của họ trên biển Nam Trung Hoa và đúng ra đã tán thành họ. Nhưng sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã đổi ngược lập trường. Năm 1975, Việt Nam đã chiếm đóng một số hải đảo trong Quần đảo Trường Sa và sau đó đã tiến hành việc tuyên bố chủ quyền lãnh thổ trên toàn bộ biển Nam Trung Hoa.
Như Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã thú nhận:
"Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Trung-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Đối với Việt Nam, Trung Quốc đã là một sự ủng hộ rất vĩ đại và trợ giúp vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho sự đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc .
Đặc biệt thêm nữa là cái tuyên bố đó đã nhắm vào sự đòi hỏi cần thiết lúc bấy giờ để ngăn ngừa bọn tư bản Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công chúng tôi. Nó không có dính dáng gì đến nền tảng lịch sử và pháp lý trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa (tuyên bố trong một buổi họp báo tại Hà Nội ngày 2/12/1992, được loan tải bởi Thông Tấn Xã Việt Nam ngày 3/12/1992)"
Những ghi nhận này cho thấy rằng tất cả những điều mà Trung Quốc đã tố cáo phía trên là sự thật. Những gì xảy ra ngày nay mà có liên hệ đến 2 quần đảo chỉ là những hậu quả của sự dàn xếp mờ ám của hai người cộng sản anh em trong qúa khứ. Không một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự bất đồng giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lý do rất rõ ràng: cái công hàm ngoại giao và sự nhìn nhận của Cộng sản Việt Nam không thể nào xoá bỏ được bởi một nước nhỏ như Việt Nam, kẻ đã muốn chơi đểu để lừa dối Trung Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt Nam không thể nào tránh được Trung Quốc trong khi họ phải theo "đổi mới" của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Nguyên bản tiếng Anh:
Saigon - Hanoi - Paracels Islands Dispute – 1974
Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)
Chi-tiết đọc thêm
A History of Three Warnings
By Dr. Jose Antonio Socrates
FIRST PART: DIVIDING THE PARACELS
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
When in 1957 China protested Vietnam’s move in Robert Island, Saigon was already in control also of two other islands of the Crescent Group: Pattle and Money Islands. The three South Vietnamese held islands are on the western side of the Crescent Group. Then in August 1958 Saigon took over Duncan Island in the eastern sector of the Crescent, thus facing the Amphitrite Group. Two weeks later the PRC government declared its sovereignty over the whole of the Paracels. They were supported by North Vietnam.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
http://palsun.fateback.com/819/analysis.htm
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Vào năm 1957 khi Trung quốc phản đối sự chiếm đóng của Việt Nam tại đảo Robert, thì chính quyền Sài Gòn đã hoàn toàn kiểm soát hai đảo khác trong nhóm Crescent: đảo Pattle và đảo Money. Ba (3) đảo mà Nam Việt Nam chiếm giữ nằm bên phía tây của nhóm Crescent. Rồi đến tháng 8 năm 1958, chính quyền Saigon chiếm giữ đảo Duncan nằm bên khu vực phía đông của nhóm đảo Crescent, đối diện với nhóm Amphitrite. Hai tuần sau đó, chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố chủ quyền của họ trên toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa. Họ đã được sự ủng hộ của Bắc Việt
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
STATEMENT
BY THE MINISTRY OF FOREIGN AFFAIRS
OF THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM
ON THE HOANG SA AND TRUONG SA
ARCHIPELAGOES
(AUGUST 7, 1979)
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
On July 30, 1979, China made public in Peking some documents in an attempt to justify its claim of sovereignty over the Paracels and Spratly archipelagoes.
As regards this issue, the Ministry of Foreign Affairs of the Socialist Republic of Viet Nam declares:
. . . . .
2. The Chinese interpretation of the September 14, 1958 note by the Prime Minister of the Democratic Republic of Viet Nam as recognition of China's ownership over the archipelagoes is a gross distortion since the spirit and letter of the note only mean the recognition of a 12 -mile limit for Chinese territorial waters.
.. . . . .
Ha Noi, August 7, 1979.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
http://members.tripod.com/paracels74/srvnstatement.htm
Tuyên bố của
Bộ Ngoại giao
nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
(Ngày 7 tháng 8 năm 1979)
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Ngày 30 tháng 7 năm 1979 tại Bắc Kinh, phía Trung quốc đã cho công bố một vài tài liệu với ý định để minh chứng cho việc tuyên bố chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Về vấn đề này, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam tuyên bố:
..........
2. Sự diễn giải của Trung quốc về bản công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà như một sự công nhận chủ quyền của phiá Trung quốc trên các quần đảo là một sự xuyên tạc trắng trợn khi tinh thần và ý nghĩa của bản công hàm chỉ có ý định công nhận giới hạn 12 hải lý của lãnh hải Trung quốc.
...........
Hà Nội ngày 7 tháng 8 năm 1979
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
International Recognition Of China's Sovereignty over the Nansha Islands
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
5. Viet Nam
a) Vice Foreign Minister Dong Van Khiem of the Democratic Republic of Viet Nam received Mr. Li Zhimin, charge d'affaires ad interim of the Chinese Embassy in Viet Nam and told him that "according to Vietnamese data, the Xisha and Nansha Islands are historically part of Chinese territory." Mr. Le Doc, Acting Director of the Asian Department of the Vietnamese Foreign Ministry, who was present then, added that "judging from history, these islands were already part of China at the time of the Song Dynasty."
b) Nhan Dan of Viet Nam reported in great detail on September 6, 1958 the Chinese Government's Declaration of September 4, 1958 that the breadth of the territorial sea of the People's Republic of China should be 12 nautical miles and that this provision should apply to all territories of the People's Republic of China, including all islands on the South China Sea. On September 14 the same year, Premier Pham Van Dong of the Vietnamese Government solemnly stated in his note to Premier Zhou Enlai that Viet Nam "recognizes and supports the Declaration of the Government of the People's Republic of China on China's territorial sea."
c) It is stated in the lesson The People's Republic of China of a standard Vietnamese school textbook on geography published in 1974 that the islands from the Nansha and Xisha Islands to Hainan Island and Taiwan constitute a great wall for the defense of the mainland of China
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
http://www.fmprc.gov.cn/eng/topics/3754/t19232.htm
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
5. Việt Nam
a) Thứ trưởng ngoại giao Ðồng văn Khiêm của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khi tiếp ông Li Zhimin, xử lý thường vụ Toà Ðại Sứ Trung quốc tại Việt Nam đã nói rằng "theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc". Ông Le Doc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao Việt nam, cũng có mặt lúc đó, đã nói thêm rằng "xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã hoàn toàn thuộc về Trung quốc từ thời nhà Ðường"
b) Báo Nhân Dân của Việt Nam đã tường thuật rất chi tiết trong số xuất bản ngày 6/9/1958 về Bản Tuyên Bố ngày 4/9/1958 của Nhà nước Trung quốc, rằng kích thước lãnh hải của nước Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và điều này được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của phía Trung quốc, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Nam Trung Hoa. Ngày 14/9 cùng năm đó, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng của phía nhà nước Việt Nam, trong bản công hàm gởi cho Thủ tướng Chu An Lai, đã thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam "nhìn nhận và ủng hộ Bản Tuyên Bố của Nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa trong vấn đề lãnh hải"
c) Bài học về nước CHND Trung Hoa trong giáo trình cơ bản của môn địa lý của Việt Nam xuất bản năm 1974, đã ghi nhận rằng các quần đảo từ Trường Sa và Hoàng Sa đến đảo Hải Nam và Ðài Loan hình thành một bức tường phòng thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa .
http://members.tripod.com/paracels74/conghambannuoc.htm
TÀI LIỆU 4
Thượng tọa Thích Thanh Quang lên tiếng ủng hộ Tuyên cáo về Hoàng Sa và Trường SaViện Hóa Đạo trong nước vừa gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến hai văn kiện lên tiếng của hai Ban Đại diện Quảng Nam – Đà.Nẵng và Thừa thiên – Huế.
Thượng tọa Thích Thanh Quang, Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng kiêm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh Niên, Viện Hóa Đạo, lên tiếng ủng hộ Tuyên cáo của Hội đồng Lưỡng Viện (Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo) GHPGVNTN về việc Trung quốc xâm lấn hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa.Bản lên tiếng viết : "Ban Đại diện cùng toàn thể Phật giáo đồ GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng chúng con lên tiếng kiên quyết ủng hộ bản Tuyên Cáo của Hội đồng Lưỡng Viện, cực lực phản đối Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã giao lãnh hải, lãnh thổ cho Trung quốc.
Đồng thời cấm cản, hăm dọa nhân sĩ, trí thức và đồng bào các giới biểu tình phản đối Trung quốc xâm chiếm Hoàng Sa và Trường Sa"."Nhận định rằng đất nước và dân tộc Việt Nam đã có một chiều dài lịch sử qua bốn nghìn năm văn hiến, có một truyền thống anh hùng vẻ vang qua các thời đại và triều đại, đã hy sinh xương máu chống ngoại xâm giữ gìn non sông gấm vóc. Thế mà ngày nay với sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam đem giao đất và biển cho Trung quốc bằng hành động và văn bản ký kết, lại còn cấm cản, hăm dọa đồng bào cùng các giới sinh viên, học sinh yêu nước biểu tình phản đối Trung quốc xâm chiếm Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là một việc làm hết sức tồi tệ đi ngược lại Quốc Hồn, Quốc Túy cũng như tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam.(...) "Ban Đại diện cùng toàn thể Tăng Ni, Tín đồ GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng chúng con nguyện đứng sau lưng Nhị vị Hoà thượng lãnh đạo cùng chư Tôn đức trong Hội đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, sẵn sàng chờ đợi thực hiện những chỉ thị của GHPGVNTN để bảo vệ tổ quốc và ông cha đã khai sáng giữ gìn để lại".Bản lên tiếng này làm tại Đã Nẵng hôm 4.1.2008.
http://www.webwarper.net/ww/~av/
www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=930
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 099
CỘNG SẢN VIỆT NAM BÁN NƯỚC
Tháng 12 năm 2008 cuộc cắm mốc biên giới Việt Hoa hoàn tất. Cộng sản
Việt Nam đã đầu hàng, đã bán nước. Sau đây là các tài liệu ngoại quốc
nói về diễn tiến xâm lược của cộng sản Trung Quốc, và diễn tiến bán nước
của cộng sản Việt Nam
* * *
TIN TỨC 1
January 01, 2009
Thursday
Muharram 03, 1430
GA_googleFillSlot("Old_D_Inside_Page_Banner_1");
China, Vietnam settle border dispute after 30 years
HANOI, Dec 31: Communist China and Vietnam on Wednesday said they had settled their long disputed land border, only hours before a deadline was due to expire and nearly 30 years after they fought a border war.Beijing and Hanoi � who normalised relations in 1991 and are now major trade partners � have sought to overcome a history of conflict and distrust to turn the former battlefields into a transnational economic growth area.Government teams from both sides have worked for years to plant border stones to mark their approximately 1,400 kms frontier in the remote and mountainous region, to meet a 2008 deadline agreed nine years ago.On New Year�s Eve, hours before the midnight deadline, both sides issued a joint statement in Hanoi saying they had �finalised the demarcation and placement of markers along the entire land border between Vietnam and China.� The countries, represented by Chinese Vice Foreign Minister Wu Dawei and his Vietnamese counterpart Vu Dung, hailed the agreement as �an event of great historical significance for relations between Vietnam and China.�They said it was the first time China and Vietnam had defined a clear territorial border with modern landmarkers, and they pledged to work for �peace, stability and mutual development in the border areas.� Next Feb 17 marks 30 years since China invaded Vietnam, sparking a month-long border war that claimed tens of thousands of lives.China � having backed Hanoi during the Vietnam war � then sought to punish Vietnam for invading Cambodia in 1978 and ousting the genocidal Khmer Rouge regime of Pol Pot, the radical Maoist leader who was backed by Beijing.When China officially declared war, it also cited the alleged mistreatment of Vietnam�s ethnic Chinese and Hanoi�s occupation of several of the Spratly Islands, a territorial dispute which has yet to be resolved.Four weeks after fighting began, China suddenly withdrew, with both sides claiming victory, although skirmishes continued for years.By most historical accounts the Sino-Vietnamese war ended in a costly stalemate for China against battle-hardened Vietnamese troops. China eventually tallied 26,000 dead combatants and Vietnam an estimated 37,000.The border area remains littered with landmines which, according to a Xinhua report this week, have killed and maimed thousands of Chinese since.Today China and Vietnam, despite the lingering maritime dispute, say they plan to turn the land border zone into a region of �peace and prosperity�.Under the plan, Vietnam�s poor far-north is set to be transformed with industrial projects and new road and rail links that would connect China�s Yunnan and Guangxi provinces with Vietnam�s Haiphong seaport.The economic corridors, part of a web of highways linking China with Southeast Asia, would help boost annual two-way trade to a targeted $25 billion by 2010 from $16 billion last year.Vietnam�s Prime Minister Nguyen Tan Dung in October visited Beijing, striking political agreements and business deals, including in oil exploration.The two sides, however, did not settle the hot-button issue of the Spratlys, a strategic and possibly oil and gas rich island chain in the South China Sea also claimed by Taiwan, Brunei, Malaysia and the Philippines.�AFP
http://www.dawn.com/2009/01/01/int1.htm
* * *
TIN TỨC 2
News HomeWorldAsia
China, Vietnam settle long-disputed land border
Wednesday, December 31, 2008 20:11 [IST]
Hanoi: Communist China and Vietnam today said they had settled their long disputed land border, only hours before a deadline was due to expire and nearly 30 years after they fought a border war. Beijing and Hanoi - who normalised relations in 1991 and are now major trade partners - have sought to overcome a history of conflict and distrust to turn the former battlefields into a transnational economic growth area. Government teams from both sides have worked for years to plant border stones to mark their about 1,400-kilometre long frontier in the remote and mountainous region, to meet a 2008 deadline agreed nine years ago. Today evening, hours before the midnight deadline, both sides issued a joint statement in Hanoi saying they had "finalised the demarcation and placement of markers along the entire land border between Vietnam and China." The countries, represented by Chinese Vice Foreign Minister Wu Dawei and his Vietnamese counterpart Vu Dung, hailed the agreement as "an event of great historical significance for relations between Vietnam and China." They said it was the first time China and Vietnam had defined a clear territorial border with modern land-markers, and they pledged to work for "peace, stability and mutual development in the border areas." Next February marks 30 years since China invaded Vietnam, sparking a month-long border war that claimed tens of thousands of lives. China - having backed Hanoi during the Vietnam war - sought to punish Vietnam for invading Cambodia in 1978 and ousting the genocidal Khmer Rouge regime of Pol Pot, the radical Maoist leader who was backed by Beijing.Source : PTI
http://news.indiainfo.com/2008/12/31/0812312012_china_vietnam_settle_long-disputed_land_border.html
TIN TỨC 3
China, Vietnam end land border disputeJanuary 1, 2009, 6:33 am
January 23, 2009, 11:47 pm
Communist China and Vietnam on Wednesday said they had settled their long disputed land border, only hours before a deadline was due to expire and nearly 30 years after they fought a border war.
Beijing and Hanoi - who normalised relations in 1991 and are now major trade partners - have sought to overcome a history of conflict and distrust to turn the former battlefields into a transnational economic growth area.
Government teams from both sides have worked for years to plant border stones to mark their approximately 1,400km frontier in the remote and mountainous region, to meet a 2008 deadline agreed nine years ago.
On New Year's Eve, hours before the midnight deadline, both sides issued a joint statement in Hanoi saying they had "finalised the demarcation and placement of markers along the entire land border between Vietnam and China."
The countries, represented by Chinese Vice Foreign Minister Wu Dawei and his Vietnamese counterpart Vu Dung, hailed the agreement as "an event of great historical significance for relations between Vietnam and China."
They said it was the first time China and Vietnam had defined a clear territorial border with modern landmarkers, and they pledged to work for "peace, stability and mutual development in the border areas."
Next February 17 marks 30 years since China invaded Vietnam, sparking a month-long border war that claimed tens of thousands of lives.
China - having backed Hanoi during the Vietnam war - then sought to punish Vietnam for invading Cambodia in 1978 and ousting the genocidal Khmer Rouge regime of Pol Pot, the radical Maoist leader who was backed by Beijing .
When China officially declared war, it also cited the alleged mistreatment of Vietnam's ethnic Chinese and Hanoi's occupation of several of the Spratly Islands, a territorial dispute which has yet to be resolved.
Four weeks after fighting began, China suddenly withdrew, with both sides claiming victory, although skirmishes continued for years.
By most historical accounts the Sino-Vietnamese war ended in a costly stalemate for China against battle-hardened Vietnamese troops. China eventually tallied 26,000 dead combatants and Vietnam an estimated 37,000.
The border area remains littered with landmines which, according to a Xinhua report this week, have killed and maimed thousands of Chinese since.
Today China and Vietnam, despite the lingering maritime dispute, say they plan to turn the land border zone into a region of "peace and prosperity".
Under the plan, Vietnam's poor far-north is set to be transformed with industrial projects and new road and rail links that would connect China's Yunnan and Guangxi provinces with Vietnam's Haiphong seaport.
The economic corridors, part of a web of highways linking China with South-East Asia, would help boost annual two-way trade to a targeted $US25 billion ($A36 billion) by 2010 from $US16 billion ($A23 billion) last year.
Vietnam's Prime Minister Nguyen Tan Dung in October visited Beijing , striking political agreements and business deals, including in oil exploration.
The two sides, however, did not settle the hot-button issue of the Spratlys, a strategic and possibly oil and gas rich island chain in the South China Sea also claimed by Taiwan, Brunei, Malaysia and the Philippines.
The dispute - in which Chinese naval vessels have in the past fired on Vietnamese fishing boats - has stirred strong nationalistic passions on both sides and sparked rare anti-Beijing street protests in Vietnam.
http://au.news.yahoo.com/a/-/archive/5239822/china-vietnam-end-land-border-dispute/
TIN TỨC 4
China, Vietnam settle long-disputed land border
Dec 31 08:59 AM US/Eastern
'Communist+China+and+Vietnam+on+Wednesday+said+they+had+settled+their+long+disputed+land+border%2C+only+hours+before+a+deadline+was+due+to+expire+and+nearly+30+years+after+they+fought+a+border+war.+';
farkItButton("China, Vietnam settle long-disputed land border", "http://www.breitbart.com/article.php?id=081231135934.7sqtkem6");
A Chinese woman walks through the Tan Thanh border gate in t...Vietnamese deputy Foreign Minister Vu Dung (right) reads out...
Communist China and Vietnam on Wednesday said they had settled their long disputed land border, only hours before a deadline was due to expire and nearly 30 years after they fought a border war.
Beijing and Hanoi -- who normalised relations in 1991 and are now major trade partners -- have sought to overcome a history of conflict and distrust to turn the former battlefields into a transnational economic growth area.
Government teams from both sides have worked for years to plant border stones to mark their approximately 1,400 kilometre (870-mile) frontier in the remote and mountainous region, to meet a 2008 deadline agreed nine years ago.
On New Year's Eve, hours before the midnight deadline, both sides issued a joint statement in Hanoi saying they had "finalised the demarcation and placement of markers along the entire land border between Vietnam and China."
The countries, represented by Chinese Vice Foreign Minister Wu Dawei and his Vietnamese counterpart Vu Dung, hailed the agreement as "an event of great historical significance for relations between Vietnam and China."
They said it was the first time China and Vietnam had defined a clear territorial border with modern landmarkers, and they pledged to work for "peace, stability and mutual development in the border areas."
Next February 17 marks 30 years since China invaded Vietnam, sparking a month-long border war that claimed tens of thousands of lives.
China -- having backed Hanoi during the Vietnam war -- then sought to punish Vietnam for invading Cambodia in 1978 and ousting the genocidal Khmer Rouge regime of Pol Pot, the radical Maoist leader who was backed by Beijing.
When China officially declared war, it also cited the alleged mistreatment of Vietnam's ethnic Chinese and Hanoi's occupation of several of the Spratly Islands, a territorial dispute which has yet to be resolved.
Four weeks after fighting began, China suddenly withdrew, with both sides claiming victory, although skirmishes continued for years.
By most historical accounts the Sino-Vietnamese war ended in a costly stalemate for China against battle-hardened Vietnamese troops. China eventually tallied 26,000 dead combatants and Vietnam an estimated 37,000.
The border area remains littered with landmines which, according to a Xinhua report this week, have killed and maimed thousands of Chinese since.
Today China and Vietnam, despite the lingering maritime dispute, say they plan to turn the land border zone into a region of "peace and prosperity".
Under the plan, Vietnam's poor far-north is set to be transformed with industrial projects and new road and rail links that would connect China's Yunnan and Guangxi provinces with Vietnam's Haiphong seaport.
The economic corridors, part of a web of highways linking China with Southeast Asia, would help boost annual two-way trade to a targeted 25 billion dollars by 2010 from 16 billion dollars last year.
Vietnam's Prime Minister Nguyen Tan Dung in October visited Beijing, striking political agreements and business deals, including in oil exploration.
The two sides, however, did not settle the hot-button issue of the Spratlys, a strategic and possibly oil and gas rich island chain in the South China Sea also claimed by Taiwan, Brunei, Malaysia and the Philippines.
The dispute -- in which Chinese naval vessels have in the past fired on Vietnamese fishing boats -- has stirred strong nationalistic passions on both sides and sparked rare anti-Beijing street protests in Vietnam.
Copyright AFP 2008, AFP stories and photos shall not be published, broadcast, rewritten for broadcast or publication or redistributed directly or indirectly in any medium
http://www.breitbart.com/article.php?id=081231135934.7sqtkem6&show_article=1
* * *
TIN TỨC 1
January 01, 2009
Thursday
Muharram 03, 1430
GA_googleFillSlot("Old_D_Inside_Page_Banner_1");
China, Vietnam settle border dispute after 30 years
HANOI, Dec 31: Communist China and Vietnam on Wednesday said they had settled their long disputed land border, only hours before a deadline was due to expire and nearly 30 years after they fought a border war.Beijing and Hanoi � who normalised relations in 1991 and are now major trade partners � have sought to overcome a history of conflict and distrust to turn the former battlefields into a transnational economic growth area.Government teams from both sides have worked for years to plant border stones to mark their approximately 1,400 kms frontier in the remote and mountainous region, to meet a 2008 deadline agreed nine years ago.On New Year�s Eve, hours before the midnight deadline, both sides issued a joint statement in Hanoi saying they had �finalised the demarcation and placement of markers along the entire land border between Vietnam and China.� The countries, represented by Chinese Vice Foreign Minister Wu Dawei and his Vietnamese counterpart Vu Dung, hailed the agreement as �an event of great historical significance for relations between Vietnam and China.�They said it was the first time China and Vietnam had defined a clear territorial border with modern landmarkers, and they pledged to work for �peace, stability and mutual development in the border areas.� Next Feb 17 marks 30 years since China invaded Vietnam, sparking a month-long border war that claimed tens of thousands of lives.China � having backed Hanoi during the Vietnam war � then sought to punish Vietnam for invading Cambodia in 1978 and ousting the genocidal Khmer Rouge regime of Pol Pot, the radical Maoist leader who was backed by Beijing.When China officially declared war, it also cited the alleged mistreatment of Vietnam�s ethnic Chinese and Hanoi�s occupation of several of the Spratly Islands, a territorial dispute which has yet to be resolved.Four weeks after fighting began, China suddenly withdrew, with both sides claiming victory, although skirmishes continued for years.By most historical accounts the Sino-Vietnamese war ended in a costly stalemate for China against battle-hardened Vietnamese troops. China eventually tallied 26,000 dead combatants and Vietnam an estimated 37,000.The border area remains littered with landmines which, according to a Xinhua report this week, have killed and maimed thousands of Chinese since.Today China and Vietnam, despite the lingering maritime dispute, say they plan to turn the land border zone into a region of �peace and prosperity�.Under the plan, Vietnam�s poor far-north is set to be transformed with industrial projects and new road and rail links that would connect China�s Yunnan and Guangxi provinces with Vietnam�s Haiphong seaport.The economic corridors, part of a web of highways linking China with Southeast Asia, would help boost annual two-way trade to a targeted $25 billion by 2010 from $16 billion last year.Vietnam�s Prime Minister Nguyen Tan Dung in October visited Beijing, striking political agreements and business deals, including in oil exploration.The two sides, however, did not settle the hot-button issue of the Spratlys, a strategic and possibly oil and gas rich island chain in the South China Sea also claimed by Taiwan, Brunei, Malaysia and the Philippines.�AFP
http://www.dawn.com/2009/01/01/int1.htm
* * *
TIN TỨC 2
News HomeWorldAsia
China, Vietnam settle long-disputed land border
Wednesday, December 31, 2008 20:11 [IST]
Hanoi: Communist China and Vietnam today said they had settled their long disputed land border, only hours before a deadline was due to expire and nearly 30 years after they fought a border war. Beijing and Hanoi - who normalised relations in 1991 and are now major trade partners - have sought to overcome a history of conflict and distrust to turn the former battlefields into a transnational economic growth area. Government teams from both sides have worked for years to plant border stones to mark their about 1,400-kilometre long frontier in the remote and mountainous region, to meet a 2008 deadline agreed nine years ago. Today evening, hours before the midnight deadline, both sides issued a joint statement in Hanoi saying they had "finalised the demarcation and placement of markers along the entire land border between Vietnam and China." The countries, represented by Chinese Vice Foreign Minister Wu Dawei and his Vietnamese counterpart Vu Dung, hailed the agreement as "an event of great historical significance for relations between Vietnam and China." They said it was the first time China and Vietnam had defined a clear territorial border with modern land-markers, and they pledged to work for "peace, stability and mutual development in the border areas." Next February marks 30 years since China invaded Vietnam, sparking a month-long border war that claimed tens of thousands of lives. China - having backed Hanoi during the Vietnam war - sought to punish Vietnam for invading Cambodia in 1978 and ousting the genocidal Khmer Rouge regime of Pol Pot, the radical Maoist leader who was backed by Beijing.Source : PTI
http://news.indiainfo.com/2008/12/31/0812312012_china_vietnam_settle_long-disputed_land_border.html
TIN TỨC 3
China, Vietnam end land border disputeJanuary 1, 2009, 6:33 am
January 23, 2009, 11:47 pm
Communist China and Vietnam on Wednesday said they had settled their long disputed land border, only hours before a deadline was due to expire and nearly 30 years after they fought a border war.
Beijing and Hanoi - who normalised relations in 1991 and are now major trade partners - have sought to overcome a history of conflict and distrust to turn the former battlefields into a transnational economic growth area.
Government teams from both sides have worked for years to plant border stones to mark their approximately 1,400km frontier in the remote and mountainous region, to meet a 2008 deadline agreed nine years ago.
On New Year's Eve, hours before the midnight deadline, both sides issued a joint statement in Hanoi saying they had "finalised the demarcation and placement of markers along the entire land border between Vietnam and China."
The countries, represented by Chinese Vice Foreign Minister Wu Dawei and his Vietnamese counterpart Vu Dung, hailed the agreement as "an event of great historical significance for relations between Vietnam and China."
They said it was the first time China and Vietnam had defined a clear territorial border with modern landmarkers, and they pledged to work for "peace, stability and mutual development in the border areas."
Next February 17 marks 30 years since China invaded Vietnam, sparking a month-long border war that claimed tens of thousands of lives.
China - having backed Hanoi during the Vietnam war - then sought to punish Vietnam for invading Cambodia in 1978 and ousting the genocidal Khmer Rouge regime of Pol Pot, the radical Maoist leader who was backed by Beijing .
When China officially declared war, it also cited the alleged mistreatment of Vietnam's ethnic Chinese and Hanoi's occupation of several of the Spratly Islands, a territorial dispute which has yet to be resolved.
Four weeks after fighting began, China suddenly withdrew, with both sides claiming victory, although skirmishes continued for years.
By most historical accounts the Sino-Vietnamese war ended in a costly stalemate for China against battle-hardened Vietnamese troops. China eventually tallied 26,000 dead combatants and Vietnam an estimated 37,000.
The border area remains littered with landmines which, according to a Xinhua report this week, have killed and maimed thousands of Chinese since.
Today China and Vietnam, despite the lingering maritime dispute, say they plan to turn the land border zone into a region of "peace and prosperity".
Under the plan, Vietnam's poor far-north is set to be transformed with industrial projects and new road and rail links that would connect China's Yunnan and Guangxi provinces with Vietnam's Haiphong seaport.
The economic corridors, part of a web of highways linking China with South-East Asia, would help boost annual two-way trade to a targeted $US25 billion ($A36 billion) by 2010 from $US16 billion ($A23 billion) last year.
Vietnam's Prime Minister Nguyen Tan Dung in October visited Beijing , striking political agreements and business deals, including in oil exploration.
The two sides, however, did not settle the hot-button issue of the Spratlys, a strategic and possibly oil and gas rich island chain in the South China Sea also claimed by Taiwan, Brunei, Malaysia and the Philippines.
The dispute - in which Chinese naval vessels have in the past fired on Vietnamese fishing boats - has stirred strong nationalistic passions on both sides and sparked rare anti-Beijing street protests in Vietnam.
http://au.news.yahoo.com/a/-/archive/5239822/china-vietnam-end-land-border-dispute/
TIN TỨC 4
China, Vietnam settle long-disputed land border
Dec 31 08:59 AM US/Eastern
'Communist+China+and+Vietnam+on+Wednesday+said+they+had+settled+their+long+disputed+land+border%2C+only+hours+before+a+deadline+was+due+to+expire+and+nearly+30+years+after+they+fought+a+border+war.+';
farkItButton("China, Vietnam settle long-disputed land border", "http://www.breitbart.com/article.php?id=081231135934.7sqtkem6");
A Chinese woman walks through the Tan Thanh border gate in t...Vietnamese deputy Foreign Minister Vu Dung (right) reads out...
Communist China and Vietnam on Wednesday said they had settled their long disputed land border, only hours before a deadline was due to expire and nearly 30 years after they fought a border war.
Beijing and Hanoi -- who normalised relations in 1991 and are now major trade partners -- have sought to overcome a history of conflict and distrust to turn the former battlefields into a transnational economic growth area.
Government teams from both sides have worked for years to plant border stones to mark their approximately 1,400 kilometre (870-mile) frontier in the remote and mountainous region, to meet a 2008 deadline agreed nine years ago.
On New Year's Eve, hours before the midnight deadline, both sides issued a joint statement in Hanoi saying they had "finalised the demarcation and placement of markers along the entire land border between Vietnam and China."
The countries, represented by Chinese Vice Foreign Minister Wu Dawei and his Vietnamese counterpart Vu Dung, hailed the agreement as "an event of great historical significance for relations between Vietnam and China."
They said it was the first time China and Vietnam had defined a clear territorial border with modern landmarkers, and they pledged to work for "peace, stability and mutual development in the border areas."
Next February 17 marks 30 years since China invaded Vietnam, sparking a month-long border war that claimed tens of thousands of lives.
China -- having backed Hanoi during the Vietnam war -- then sought to punish Vietnam for invading Cambodia in 1978 and ousting the genocidal Khmer Rouge regime of Pol Pot, the radical Maoist leader who was backed by Beijing.
When China officially declared war, it also cited the alleged mistreatment of Vietnam's ethnic Chinese and Hanoi's occupation of several of the Spratly Islands, a territorial dispute which has yet to be resolved.
Four weeks after fighting began, China suddenly withdrew, with both sides claiming victory, although skirmishes continued for years.
By most historical accounts the Sino-Vietnamese war ended in a costly stalemate for China against battle-hardened Vietnamese troops. China eventually tallied 26,000 dead combatants and Vietnam an estimated 37,000.
The border area remains littered with landmines which, according to a Xinhua report this week, have killed and maimed thousands of Chinese since.
Today China and Vietnam, despite the lingering maritime dispute, say they plan to turn the land border zone into a region of "peace and prosperity".
Under the plan, Vietnam's poor far-north is set to be transformed with industrial projects and new road and rail links that would connect China's Yunnan and Guangxi provinces with Vietnam's Haiphong seaport.
The economic corridors, part of a web of highways linking China with Southeast Asia, would help boost annual two-way trade to a targeted 25 billion dollars by 2010 from 16 billion dollars last year.
Vietnam's Prime Minister Nguyen Tan Dung in October visited Beijing, striking political agreements and business deals, including in oil exploration.
The two sides, however, did not settle the hot-button issue of the Spratlys, a strategic and possibly oil and gas rich island chain in the South China Sea also claimed by Taiwan, Brunei, Malaysia and the Philippines.
The dispute -- in which Chinese naval vessels have in the past fired on Vietnamese fishing boats -- has stirred strong nationalistic passions on both sides and sparked rare anti-Beijing street protests in Vietnam.
Copyright AFP 2008, AFP stories and photos shall not be published, broadcast, rewritten for broadcast or publication or redistributed directly or indirectly in any medium
http://www.breitbart.com/article.php?id=081231135934.7sqtkem6&show_article=1
Thursday, January 22, 2009
LỄ NHẬM CHỨC CỦA TỔNG THỐNG BARACK OBAMA
Diễn biến lễ nhậm chức của Obama
* * *
Vợ chồng ông Barack Obama tới nhà thờ làm lễ lúc 9h sáng, mở đầu ngày nhậm chức tổng thống với một chuỗi các sự kiện liên tiếp và kết thúc những hoạt động vào 2h sáng hôm sau để tới nơi ở mới: Nhà Trắng
(H1 ). Đám đông hàng trăm nghìn người ken đặc khu vực National Mall,
phía trước Đồi Capitol, từ lúc 4h Washington (16h Hà Nội), vài giờ
trước khi lễ nhậm chức diễn ra. Ảnh: AFP.)
9h sáng, vợ chồng ông Barack Obama được chào đón tại nhà thờ St John, để tiến hành lễ cầu nguyện riêng cùng với Phó tổng thống đắc cử Joe Biden và gia đình.
(H.2 ) 9h55', vợ chồng Tổng thống mãn nhiệm George Bush và Đệ nhất phu nhân Laura đứng trên sảnh chào đón Tổng thống đắc cử Barack Obama và phu nhân Michelle tại Nhà Trắng. Ảnh: New York Times.
(H.3 ) 11h30', đoàn xe đưa ông Barack Obama từ Nhà Trắng tới Đồi Capitol để thực hiện lễ tuyên thệ. Ảnh: BBC.
Phó tổng thống Joe Biden tuyên thệ, vài phút trước khi ông Obama nhậm chức. Ảnh: New York Times.
( H.4) Đúng 12h Washington (24h Hà Nội), ông Obama đặt tay lên cuốn kinh thánh tuyên thệ nhậm chức tổng thống thứ 44 của nước Mỹ. Đây là cuốn kinh thánh từng được tổng thống Abraham Lincoln sử dụng để tuyên thệ trước đây. Ảnh: New York Times.
(H.5) Toàn cảnh khu vực diễn ra lễ tuyên thệ nhậm chức của tân tổng
thống và phó tổng thống Mỹ tại Đồi Capitol. Ảnh: Getty Images.
(H.6) Tân Tổng thống Mỹ Barack Obama có bài phát biểu đầu tiên trên cương vị mới, ngay sau khi tuyên thệ nhậm chức. Ảnh: New York Times.
(H.7) .Tổng thống mãn nhiệm George Bush ôm chúc mừng tân Tổng thống Barack Obama. Ảnh: Los Angeles Times.
(H.8) Tổng thống Barack Obama và phu nhân Michelle tiễn vợ chồng cựu tổng thống Bush ra trực thăng sau lễ chuyển giao quyền lực ở Đồi Capitol. Ảnh: Los Angeles Times.
(H.9)
Vợ chồng tân tổng thống và phó tổng thống Mỹ vẫy chào cựu tổng thống Bush lên đường về quê nhà Texas. Ảnh: Los Angeles Times.
14h20', vợ chồng tân Tổng thống Barack Obama (trái) và Phó tổng thống Joe Biden duyệt đội danh dự tại Đồi Capitol, mở màn lễ diễu hành. Ảnh: AP.
Vợ chồng tân tổng thống và phó tổng thống Mỹ vẫy chào cựu tổng thống Bush lên đường về quê nhà Texas. Ảnh: Los Angeles Times.
14h20', vợ chồng tân Tổng thống Barack Obama (trái) và Phó tổng thống Joe Biden duyệt đội danh dự tại Đồi Capitol, mở màn lễ diễu hành. Ảnh: AP.
Khu vực khán đài được bao bọc bằng kính chống đạn gần Nhà Trắng, nơi tân Tổng thống Barack Obama chứng kiến màn diễu hành mừng ngày nhậm chức của ông. Ảnh: Reuters.
Mái đầu bạc dễ nhận thấy của Thượng nghị sĩ John McCain trong đám đông dự lễ nhậm chức của ông Obama. Ứng viên tổng thống đảng Cộng hòa này đã thất bại trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng trước đại diện của đảng Dân chủ Obama. Ảnh: New York Time.
Những giọt nước mắt xúc động của người da màu khi dự lễ nhậm chức của tổng thống gốc Phi đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ. Ảnh: New York Times.
Cảnh sát đặc nhiệm Mỹ trong ngày tổng thống mới nhậm chức. Hơn 40.000 nhân viên thuộc các lực lượng đã được huy động bảo đảm an toàn cho sự kiện này. Ảnh: AFP.
ĐỖ SƠN * LÀNG NGHỆ SĨ TẠI SÀI GÒN
VỀ VIỆT NAM NGHE EM !
BI HÀI KỊCH CỦA NGHỆ SĨ TRONG LÀNG NGHỆ SĨ !
ĐỖ SƠN
(Hình1: Hoài Linh, Chí Tài)
(Hình 2: Elvis Phương,
Tuấn Ngọc)
*
LD.Mấy năm trước có phong trào bọn ca sĩ trở cờ thuộc các cộng đồng Việt tị nạn Cộng sản trở về quê hương ca hát. Dạo đó, dư luận đã dậy lên, kẻ bênh người chống, bênh ít mà chống nhiều.
Một số về Việt Nam ít nói, chỉ ca hát lấy tiền. Một số nịnh hót ra mặt như Hương Lan, thì bô bô cái mồm thúi, ca tụng bọn phỉ quyền Việt gian Cộng sản trong nước, hỗn láo nhục mạ cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng sản. Rõ ràng nhất là vụ Hương Lan trả lời phỏng vấn của Hoàng Trọng Thụy; khiến bị mọi người khinh ghét và nguyền rủa.
Những người này về sống với cộng sản, tất nhiên là họ chuẩn bị tinh thần, đã học được ba điều chủ yếu sau trong thế giới cộng sản:
1. Tự phê: tự xỉ vả mình
2. Phê bình: tố cáo người.
3. Ca tụng cộng sản.
Những người này ngoài tài ca hát, còn giỏi nhiều nghệ thuật, nhất là thuật miệng lưỡi .
Họ đã được báo Sai Gòn Giải Phóng tại Sài Gòn phỏng vấn.
Hương Lan nói:
“Nếu nói rằng đời tôi có điều gì hài lòng nhất, thì đó là những ngày tháng cuối của cuộc đời ca hát này, tôi được về lại Việt Nam và hát cho những người dân mình nghe những tình ca về quê hương”.
Ca sĩ Duy Quang tâm sự:
“Chuyện được trở về sinh sống và làm việc tại quê hương là nguyện vọng
của tôi từ những năm 1980. Nhưng lúc đó thời cuộc chưa cho phép. Đến năm
2004, tôi mới trở về Việt Nam sinh sống và hoạt động văn nghệ. Tôi thực
sự ngạc nhiên và vui mừng khi thấy đời sống người dân được nâng cao,
dân trí đi lên. Hiện tại, công việc của tôi khá thuận lợi vì được nhiều
bạn bè giúp đỡ, ủng hộ.Tôi lại tìm được khán giả xưa của mình cùng sự
xuất hiện của một lượng khán giả trẻ yêu nhạc thường ủng hộ tôi tại
phòng trà Tình ca. Ngoài chuyện kinh doanh, phòng trà Tình ca còn là nơi
để các giọng ca hải ngoại có thể trình diễn và giao lưu cùng ca sĩ
trong nước. Trong cuộc sống, tôi thích tham gia các hoạt động từ thiện
vì đó là cơ hội cho tôi đền đáp ân tình nơi tôi được sinh ra”.
Với nghệ sĩ Hoài Linh, anh cảm nhận:
“Mỗi lần về nước là tôi lại thấy TP mình có nhiều thay đổi, ngày càng
tốt đẹp hơn. Có thể nói TPHCM đang đổi mới từng ngày. Bên cạnh đó, thế
hệ trẻ ngày nay rất giỏi, chịu khó học hỏi, thông thạo nhiều ngoại ngữ…
điều đó thể hiện sự năng động của con người, của thành phố hôm nay. Tôi
được về quê hương, được sống, được diễn phục vụ và được sự thương yêu
ủng hộ hết mình của khán giả, tôi thấy thật hạnh phúc!”.
Ca sĩ trẻ Phi Nhung cũng chia sẻ tâm tình:
“Tôi về Việt Nam nhiều nhưng đến Tết 2008 này tôi mới biểu diễn phục vụ bà con mình từ chuyến lưu diễn tại các tỉnh miền Tây. Sau chuyến lưu diễn, tôi rất muốn về lại miền Tây để hát phục vụ bà con nghèo.Khán giả ở đâu cũng rất dễ thương, tuy nhiên, khán giả Việt Nam khó tính và đòi hỏi cao hơn so với khán giả hải ngoại. Điều này khiến tôi quyết định sẽ dành thời gian 3 năm đầu tư vào thị trường âm nhạc Việt Nam, sẽ học thêm về nhạc lý, vũ đạo, múa, diễn xuất, cách giao tiếp…”.
Ca sĩ Elvis Phương khẳng định:
“Về quê hương sinh sống là điều mong ước lớn nhất của tôi. Tôi không có hạnh phúc nào hơn khi vẫn còn sức khỏe, tiếp tục phục vụ khán giả, những người yêu nhạc đã dành cho tôi nhiều tình cảm thân thương nhất. Sau hơn 47 năm đi hát, tôi thấy mình có nhiều may mắn khi vẫn được khán giả yêu quý. Và dù có đi đâu diễn tôi vẫn thích trở về Việt Nam biểu diễn phục vụ đồng bào mình”.
(Trích Sai gon Giải Phóng
http://www.sggp.org.vn/vanhoavannghe/2008/4/150479/ )
*
Những lời ca tụng như thế thì kể không xiết ! Hương Lan , Chế Linh và nhiều người tưởng bở, như Elvis Phương, tuyên bố sẽ sắm nhà cửa ở luôn ở bển, cứ như là chắc ăn như bắp.
Miệng ca tụng, lưng khom, chân quỳ chưa đủ, nội dung ca hát cũng là một điều tối cần thiết . Họ chọn ( hay cộng sản chọn cho họ?) những bài xưa ca tụng thủ đô Hà Nội, hoặc thích hợp với các chính sách của cộng sản.
Họ kêu gào "Về đây nghe em! Về đâynghe em! Kể chuyện tình bằng lời ca dao! Về đây nghe gọi tiếng xưa . .Hận thù người người lắng xuống! . . ., Hạnh phúc khi đã gặp nhau! " Nội dung thật ăn khớp với những lời rêu rao hòa hòa hợp, hòa giải " cuội" của cộng sản !
Một mặt khác, họ nói xấu hải ngoại rất tàn tệ.
Họ cho rằng Trung Quốc, Việt Nam, nói chung thế giới cộng sản là mặt trời bình minh đang lên. Còn thế giới Âu Mỹ là "mặt trời đen", "mặt trời đen quá như đời ta! . . . . Cuộc đời như chó hoang lang thang về đêm! . . Nụ cười ta đánh rơi khi mất tuổi thơ" . . .
Tội nghiệp, té ra ở hải ngoại các ca sĩ là những con chó lang thang ngoài đường , nay về Việt Nam mới thành người!
Ca như vậy thì chắc các đồng chí lớn sẽ vui vẻ mà nói:
"Học tập tốt! Ca tụng hay! Đúng là Việt Kiều yêu nước!
*
"YouTube:Về đây nghe em - Tuấn ngọc
Mặt Trời ĐenEivis-Phương ,/div>
Ðiều đáng ngạc nhiên là trong thời gian gần đây, chúng ta lại thấy bọn nghệ sĩ trở cờ ấy lại lục tục kéo trở ra hải ngoại, không kèn không trống, thỉnh thoảng xuất hiện lại trên các sân khấu hải ngoại. Sao có chuyện "ô rờ lui" như thế?
Tôi được biết rằng, bọn chúng vừa lãnh một quả đểu rất nặng ký của phỉ quyền Việt gian Cộng sản mà bọn nghệ sĩ khúc ruột ngàn dặm đã tỏ tình và khen ngợi cách đây không lâu. Cái gọi là Làng Nghệ Sĩ với hơn một trăm căn nhà, tuy không đắt giá như nhà trong cái gọi là Làng Việt Kiều, nhưng cũng trên trăm ngàn cho mỗi căn, vừa bị phỉ quyền Việt gian Cộng sản yêu dấu của họ tịch thu. Bọn cộng sản cướp của nhưng lại đưa ra lý do là trước đây đất xây làng đã bị bọn viên chức cấp dưới cấp giấy phép cho xây cấp ẩu tả, không có lệnh của cấp trên, mà cũng không đúng luật pháp của xã hội chủ nghĩa ta.
Nghe chính một tên nghệ sĩ trình diễn đã từng ở lâu trong nước và có nhà trong Làng Nghệ Sĩ kia kể lại, thì vào một ngày không đẹp trời, không nhớ có phải là ngày lễ cô hồn hay không, bọn nghệ sĩ trình diễn hải ngoại có nhà trong làng được thông báo cho biết lý do vừa kể, rồi thì mỗi đứa được cho phép gom gấp đồ tế nhuyễn và phải rời làng ta lập tức.Cổng làng được khóa chặt, kể từ này thằng nào con nào dám lén lút trở vào sẽ bị khép vào tội... xâm nhập gia cư bất hợp pháp, hoặc nặng hơn sẽ là... xâm phạm tài sản của xã hội chủ nghĩa.
Một trăm phần trăm là bọn nghệ sĩ ấy chỉ kịp thu xếp quần áo, tư trang, cùng tất cả thứ gì có thể xách tay mang theo. Bàn ghế, ti vi, tủ lạnh, máy nhạc, computers v.v ... đều bỏ lại trong những ngôi nhà nay đã thuộc về tài sản của xã hội chủ nghĩa.
Ðiều đau khổ nhất là bè lũ bọn nghệ sĩ trình diễn đó nay ra đây thì cứ câm miệng hến im thin thít, chẳng dám than phiền nữa lời. Vì sợ há miệng mắc quai, bởi những lời tuyên bố lố lăng cho cộng sản trước đây, nhất là Hương Lan. Vì biết có lên tiếng thì chẳng mấy ai thương hại. Và vì lần tới trở vào sợ bị phỉ quyền Việt gian Cộng sản yêu quý cắt cái cần cổ, mất cái chỗ đội nón!Tại sao phỉ quyền yêu quý của bọn nghệ sĩ trở cờ lại hành xử ba trợn như thế ?Tội nghiệp! Từng hát câu "quê hương là chum khế ngọt" để ám chỉ đất VN tỵ nạn hải ngoại là... chùm khế chua . Bây giờ nếu hát ngược lại, bản mặt mốc đâu có giống con giáp nào !Đỗ Sơn
LỜI BÌNH CỦA VAN MỘC CƯ SĨ:
Sao dạo này thê giới điên đảo hết trọi! Đa số nhà tu hành và văn nghệ sĩ về Việt Nam hí hững nhưng rồi phải cúp đuôi chạy ra hải ngoại trở lại.
" Sư" Nhất Hạnh, rồi đám nghệ sĩ kể trên đã bị Việt Côngcho một cú đá hậu đau điếng!
Trước tiên chúng dụ các người về để đem tiền bạc về cho nó.
Thứ hai là để đánh bóng chế độ. Những tên Việt kiều về thấy khách sạn và các cơ sở ăn chơi thì kêu ầm lên chế độ ta, đất nước ta nay đổi mới, cởi mở, tự do.
Thứ ba là ve vản và đánh lừa quốc tế.
Thứ tư là để đưa gián điệp qua Mỹ dưới dạng văn công văn nghệ, du lịch hay kết hôn. Họ nhờ mấy sư cha và ca sĩ tiếp tay.
Cuối cùng là một vụ lừa đảo! Chúng dụ thầy chùa, linh mục, mục sư, dân chúng và ca nhạc sĩ về mua nhà cửa, đàt đai, xây chùa chiền rồi chúng tịch thu. Các ông các bà "ký cóp cho cọp nó tha", tay trắng lại hoàn trắng tay!
Trước đây, cảm động vì lời nói ngọt ngào của cộng sản cũng có, mà cũng muốn chứng tỏ họ tích cực phục vụ cộng sản hết mình, các ông bà nghĩ rằng "có qua có lại ". Họ về Việt Nam được thì họ cũng mời VC sang Mỹ để đáp lễ, để làm vui lòng cộng sản, để làm ăn dễ dàng, chẳng cần danh dự, khí tiết, công bằng, dân chủ, tự do, thiện ác, Phật, Chúa, Thánh Thần! Do đó mà họ đã rước rất nhiều văn công VC sang Úc, Hoa Kỳ như Bạch Tuyết. Một số ông bà bầu còn mời công an dưới dạng ni cô, và bà sơ qua hải ngoại thâu tiền !
Ôi, tiền tài bao giờ cũng có sức mạnh dù cho là thầy, cha, chú cũng cúi đầu làm tay sai cho quỷ Sa tăng. Đám trên là vì lợi. Một số dại khờ. Một số cựu học sinh Trưng Vương, Gia Long đã nghe theo lời cộng sản gừi tiền về xây làng tình nghĩa cho giáo sư nghèo. Làng vừa xây xong thì cộng sản bán mất tiêu!
Than ôi! Nhiều người dại dột chưa khôn!Trước đây bọn trí thức miền Nam theo cộng sản như Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Lưu Hữu Phước, Trương Như Tảng. Đoàn văn Toại, Nguyễn Văn Hảo, Trần Thúc Linh, . . theo cộng sản cuối cùng một số bỏ chạy ra ngoại quốc.
Bài học lịch sử vẫn được lập lại vì người đời tham lợi, tham danh và ngu ngốc! Ôi đời là thế!Chuyện sư sãi, giám mục, linh mục, và văn nghệ sĩ không ai nói ra nhưng sao cái hũ mắm thối lại xì ra?
Bỉ nhân nhớ truyện Trạng Quỳnh như sau:
" Trạng Quỳnh làm một cái lều giữa hồ, cho bọn cò mồi tuyên truyền rằng "trong lều kín có chuyện hay lắm, xưa nay chưa từng thấy! "Thiên hạ đổ xô đi coi, mỗi người phải nộp tiền qua đò là một quan tiền ( Thường chỉ một vài chữ còn gọi là một đồng tiền). Tốn công, tốn của ,vào trong lều họ chỉ thấy một bà già mù cởi truồng. Mọi người xấu hổ ra về. Ai hỏi " Có gì hay không"? Có gì lạ không" thì ai cũng im lặng ra về không dám hé môi, vì nói ra sợ người đời chê mình dại!
XIN ĐỌC SƠN TRUNG * CHÙM KHẾ NGỌT
GÃ SIÊU * TRUYỆN PHIẾM
TÌNH YÊU TRƯỚC VÀ SAU
Gã Siêu
Chuyện phiếm:
Nếu so sánh giữa con người với con vật, gã nghiệm ra rằng :
Trong khi con vật luôn dẫm chân tại chỗ, trước sau như một, ngày xưa và hôm nay vẫn cứ y như thế, thì con người biến đổi không ngừng.Gã xin đưa ra một vài thí dụ điển hình :Con chim ngày xưa làm tổ thế nào, thì hôm nay nó vẫn làm tổ như vậy, cho dù chiếc tổ ấy được đan bằng những cọng cỏ khô thật tỉ mỉ và khéo léo.Con ong ngày xưa kéo mật thế nào, thì hôm nay nó vẫn kéo mật như vậy, cho dù mật ong có hương vị thơm ngon tuyệt vời.
Dầu vậy, thỉnh thoảng gã cũng thấy con vật này hay con vật kia có những hành động khác thường, chẳng hạn : con sáo biết nói, con gấu biết đi xe đạp, con khỉ biết nhảy dây…Sở dĩ chúng làm được như vậy là do dày công tập luyện, để rồi hành động theo phản xạ, chứ không phải hành động theo bản năng.Trong khi đó, con người không ngừng biến đổi và tạo nên những tiến bộ trong mọi lãnh vực.Chẳng hạn trong lãnh vực ăn. Ngày xưa người ta ăn tươi nuốt sống, còn hôm nay chúng ta đã biết nấu chín và chế biến thành những món đặc sản, cao lương mỹ vị.Chẳng hạn trong lãnh vực mặc. Ngày xưa người ta lấy lá cây hay da thú mà che thân, còn hôm nay chúng ta đã biết dệt nên bao nhiêu loại vải, đã biết may thành bao nhiêu mẫu mã áo quần.Trong lãnh vực ở. Ngày xưa người ta ở hang, ở lỗ, còn ngày nay chúng ta đã biết xây dựng những tòa nhà nhiều tầng, thậm chí còn có cả những tòa nhà chọc trời.
Trong lãnh vực đi, ngày xưa người ta đi bộ, đi voi, đi ngựa, còn ngày nay chúng ta đã có được biết bao nhiêu phương tiện di chuyển như xe đạp, xe máy, xe hơi, tàu thủy, tàu hỏa, tàu bay, thậm chí còn có cả những phi thuyền, hỏa tiễn để chinh phục không gian.Hôm nay gã xin "tán hươu tán vượn" với bàn dân thiên hạ về những biến đổi trong tình yêu. Đặc biệt là những biến đổi nơi anh đờn ông con giai trong quãng đời…làm chồng của mình.Về tình yêu của anh chồng dành cho chị vợ, có người đã chia ra thành ba thời kỳ hay ba giai đoạn, nhưng cũng có người chỉ chia ra làm hai thời kỳ hay hai giai đoạn mà thôi.Dựa vào những suy nghĩ cá nhân cũng như dựa vào những kinh nghiệm xương máu của các chiến hữu trên khắp các vùng chiến thuật, gã sẽ bàn tới những thời kỳ hay những giai đoạn này.Trước hết về ba thời kỳ, hay ba giai đoạn của tình yêu.Theo tác giả Kim Vốn trên báo "Phụ Nữ Chủ Nhật" thì đối với nhiều chuyên gia tâm lý, tình yêu có thể được chia thành ba giai đoạn, đó là sáu tuần, sáu tháng và sáu năm với "các thái độ ứng xử được thích nghi cho phù hợp", đi từ chiều chuộng, sang chăm sóc một cách miễn cưỡng, để rồi cuối cùng…người vợ chẳng còn một ký lô gà ram nào sốt!
Sự phân chia này được trình bày bằng lời nói cũng như bằng giọng nói của anh chồng như sau :Tình yêu theo thời gian6 tuần-6 tháng-6 năm- Anh yêu em!Thì anh yêu em mà! - Nếu không yêu cô thì tôi đã bỏ quách đi từ lâu rồi!- Em yêu, mẹ gọi điệu thoại cho em nè! - Điện thoại của em đó!Điện hoài điện hủy!- Anh nghĩ rằng em rất thích có chiếc nhẫn ấy. - Ừ thì cứ mua thứ gì mà cô muốn!- Ồ, không việc gì đâuCẩn thận, coi chừng vỡ - Trời ơi, người đâu và vụng về đến thế!- Em mà nấu thì sẽ có một bữa ăn ngon lành. - Tối nay chúng ta sẽ ăn gì đây ?Ngày nào cũng trứng luộc thì chịu làm sao được ?- Với chiếc áo đầm này, em mới đẹp làm sao ? - Lại một chiếc áo đầm nữa à ?Bao nhiêu chiếc áo đầm mới đủ cho cô đây ?- Anh đã cắt cỏ vườn, em khỏi phải quan tan nữa - Chiếc máy cắt cỏ hết mẹ nó xăng!Hôm nay cô đi mà cắt cỏ vườn- Anh đã mướn cho em một cuốn phim thật hay. Có thật là em muốn xem cuốn phim đó không ? - Tối nay có bóng đá, cô để TV đó cho tôi.
Gã cũng đã sưu tầm được một số hình ảnh khác rất cụ thể về ba giai đoạn của tình yêu, nhưng mang tính cách trung lập hơn, khách quan hơn và vô tư hơn, không ngả bên này cũng không nghiêng bên nọ, không bênh chị vợ mà hạ thấp anh chồng, hay ngược lại hạ thấp chị vợ mà bênh anh chồng.Gã tạm gọi ba giai đoạn này là : Trước, liền sau và lâu sau.- Với những người thích màu sắc, thì trước khi cưới là một màu hồng rực rỡ, liền sau khi cưới là một màu trắng nhạt, còn lâu sau khi cưới là một màu xám ảm đạm.- Với những người thích nghiên cứu về thời tiết, thì trước khi cưới là những ngày mùa xuân nắng ấm, liền sau khi cưới là những ngày hè thu oi bức hay mưa dông, còn lâu sau khi cưới là những ngày dài mùa đông lạnh giá.- Với những người thích âm thanh, trước khi cưới anh nói thì em nghe và em nói thì anh nghe, liền sau khi cưới, anh nói thì anh nghe và em nói thì em nghe, còn lâu sau khi cưới, thì cả hai cùng nói, nhưng hàng xóm phải nghe.- Với những người có tinh thần ăn uống, trước khi cưới thì nhìn nhau mà no, liền sau khi cưới thì nhìn nhau mà ngáp, còn lâu sau khi cưới thì nồi niêu xoong chảo thỉnh thoảng lại bay ra ngoài sân.- Với những người vốn mang dòng máu ga lăng, trước khi cưới thì chiếc dù lệch hẳn về phía nàng và chàng sẵn sàng chịu ướt, liền sau khi cưới thì chiếc dù nằm ở chính giữa và mỗi người chịu ướt một nửa, còn lâu sau khi cưới thì chiếc dù lệch hẳn về phía chàng và nàng đành cam chịu ướt.
Từ đó, người ta đi tới một kết luận không mấy sáng sủa :- Yêu nhau trong ba ngày, ghét nhau trong ba tháng và chịu đựng nhau suốt ba mươi ba năm.Có kẻ còn bi quan hơn khi phát biểu :- Trong cuộc đời anh đàn ông có hai ngày vui lớn. Ngày vui thứ nhất đó là ngày lấy vợ, còn ngày vui thứ hai đó là ngày vợ chết.Tiếp đến về hai thời kỳ, hay hai giai đoạn của tình yêu.Nhiều chuyên viên tâm lý khác thích đơn giản và sáng sủa hơn, nên đã chia tình yêu và nhất là tình yêu của anh chồng thành hai thời kỳ hay hai giai đoạn.Các chuyên gia này đã chọn ngày cưới mà cắm mốc thời gian cho sự phân chia ấy. Vì thế, hai thời kỳ hay hai giai đoạn này được gọi là tình yêu trước khi cưới và tình yêu sau khi cưới.Báo "Phụ Nữ Chủ Nhật", số ra ngày 15.01.2006 có đăng một bài ngăn ngắn với những ghi nhận như sau :Trước khi cưới - Sau khi cưới :- Anh yêu! Ghê quá, con chuột chết kìa. - Để đó cho anh.- Anh ơi! Có con mèo chết trên mái nhà mình. - - Thì lấy cây mà hất nó xuống, có con mèo chết mà cũng phải kêu chồng.- Em bệnh hả : Em yêu! Có đau lắm không em ? - Khỏe chưa ? - Dậy nấu cơm ăn, bộ tính cho cả nhà xơi mì gói hả ?- Không sao, dù bận nhưng nếu em cần là anh đến ngay.- Anh còn lu bu nhiều việc lắm, chưa về ngay được đâu!- Chúc em một sinh nhật thật vui vẻ và hạnh phúc.- Ôi dào, còn đầu óc đâu mà lãng với mạn nữa hả em.- Sao anh ăn cái gì em nấu cũng thấy ngon! - Em chiên kiểu gì mày cháy đen như vậy ?- Trông em thật dễ thương mỗi khi em khóc.- Hết than thở rồi lại khóc lóc, vợ con gì thấy mà phát chán.- Em là người phụ nữ đẹp nhất mà anh từng gặp! - Thằng bạn anh mới cưới được một cô bé vừa xinh lại vừa đẹp. Nó lấy vợ trễ, thế mà khôn.- TV có gì hay không em ? - Dọn cơm chưa ? Tối ngày ngồi đó mà xem phim Hàn Quốc.Trên báo "Gia đình", một chị vợ cũng đã ghi lại tâm sự buồn của mình, trước khi chia tay ca bản "anh đi đường anh, tôi đi đường tôi và tình nghĩa đôi ta chỉ có thế mà thôi" :Anh chiều chuộng em như một nàng công chúa nhỏ : khi ăn, anh chủ động gắp cho em; khi đi xe bus đông người, anh giành chỗ tốt cho em, dù mặt đỏ tía tai; khi đi qua đường, anh luôn dắt tay em và đi trước mở lối cho em.Khi ăn, anh chẳng thèm nhìn em lấy một lần; khi lên xe bus, anh để mặc em đứng bám vào tay vịn; khi đi qua đường, anh cũng chẳng thèm nắm lấy tay em.Kết luận:Là phụ nữ, ai cũng muốn được yêu thương, được chiều chuộng, được bảo vệ. Anh có hiểu hay không ?Mọi áo quần, trong cũng như ngoài, đều do anh mua.
Mẫu mã nào mới anh cũng đều sắm cho em. Anh chưa một lần đưa em đi mua đồ, mỗi lần tới siêu thị, đến trước gian hàng của phụ nữ, em kéo anh vào để cùng chọn với em, anh lại nói một cách khó chịu : - Em thấy bên trong có bóng dáng một thằng đờn ông nào không ?Kết luận:Anh không hiểu tâm tình người phụ nữ là như vậy, bảo sao em không bị tổn thương ?Anh thường kéo em ra ngoài luyện tập thể dục và nói cho em hiểu rằng sức khỏe là vốn liếng quí giá nhất của con người. Bản thân anh không tập thể dục nữa, lại còn bắt em phải ở nhà cả ngày, quanh quẩn với những công việc lặt vặt. Ngay cả khi em muốn tới câu lạc bộ tập thẩm mỹ, anh cũng không cho.Kết luận:Anh có biết rằng phụ nữ khi đã đến tuổi trung niên, nếu không chú trọng rèn luyện và bảo dưỡng, thì tốc độ lão hóa sẽ rất nhanh.Anh thường đem lại cho em rất nhiều những niềm vui bất ngờ.
Chẳng hạn như anh đặt trên bàn của em chiếc vé xem văn nghệ, làm em vui suốt cả tuần. Anh bỏ em qua một bên, chẳng thèm nói một lời. Có khi em nấu nướng thật ngon và đợi anh về cùng ăn, nhưng anh lại gọi điện thoại và nói với em rằng :- Tối nay anh có tiệc chiêu đãi, không về ăn cơm đâu…Kết luận:Anh có hiểu rằng một khi cơm canh đã nguội ngắt, em còn lòng dạ nào để hâm nóng lại đây.Dù đi công tác xa thế nào, thì hàng đêm anh đều gọi điện thoại về cho em.Khi đi công tác xa, thỉnh thoảng anh mới gọi điện thoại về cho em, nhưng cũng chỉ hỏi bài tập của con đã làm xong chưa. Ngay cả một câu quan tâm đến em, anh cũng không có.Kết luận:Anh có biết rằng khi vắng anh, em nhớ anh nhiều lắm hay không ?
Sao anh quá tiết kiệm lời nói với em như thế.Dù chia tình yêu thành ba hay thành hai thời kỳ và giai đoạn, nhưng những biến đổi trên xem ra cũng thật bất lợi, vì thế có kẻ đã băn khoăn tự hỏi :- Phải chăng hôn nhân chính là nấm mồ chôn vùi tình yêu ?Nghĩ như vậy xem ra có phần hơi bi quan, bởi vì trên thế gian vẫn có những cặp yêu thương nhau cho đến lúc đầu bạc răng long, đúng như lời mừng chúc : trăm năm hạnh phúc. Tuy nhiên cũng giúp cho chúng ta nhận ra cái khó khăn trong tình yêu.Thực vậy, tình yêu trước hôn nhân hay còn được gọi là tình yêu của cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, thường dễ dàng bởi vì lúc bấy giờ người ta đang "mê mẩn cả tâm thần", sẵn sàng kê cho bằng một trăm chỗ lệch, cũng như sẵn sàng chín bỏ làm…mười một, mười hai.Cái khó khăn nhất chính là tình yêu sau hôn nhân.
Làm sao duy trì cho nó được bền vững và liên tục phát triển, bởi vì lúc bấy giờ người ta mới tìm thấy những con rận trong chăn, cũng như mới khám phá ra những khuyết điểm của nhau và những lao đao vất vả trong cuộc sống lứa đôi.Thế nhưng, dù khó khăn tới đâu chăng nữa thì cũng vẫn phải tìm lấy phương thức riêng để giải quyết và vượt qua, nếu muốn làm cho tình yêu của mình được hâm nóng, và bản thân mình, dù là những cặp "uyên ương…già", cũng vẫn không kém phần say đắm.Những vun trồng và chăm sóc của chúng ta sẽ làm cho khóm gừng càng già càng cay.Những hy sinh cho nhau và vì nhau của chúng ta sẽ làm cho tình yêu ngày càng thêm nồng thắm./.
DIỄN VĂN CỦA TÂN TỔNG THỐNG MỸ
Bài diễn văn nhậm chức của Tổng thống Barack Obama
20/01/2009
*
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đọc bài diễn văn nhậm chức tại Trụ sở Quốc hội ở thủ đô Washington ngày 20/1/2009
Thưa quốc dân đồng bào,
Hôm nay tôi đứng đây với sự khiêm cung trước nhiệm vụ mà chúng ta phải đối phó, với lòng biết ơn về sự tin tưởng mà đồng bào đã dành cho tôi, và nghĩ đến những hy sinh mà các bậc tiền bối của chúng ta đã chịu đựng. Tôi cảm ơn tổng thống Bush về sự phục vụ của ông cho đất nước chúng ta, cũng như lòng hào hiệp và tinh thần hợp tác mà ông đã chứng tỏ trong suốt quá trình chuyển tiếp.
Cho đến nay, đã có 44 người Mỹ đọc lời tuyên thệ nhậm chức tổng thống. Những lời tuyên thệ này đã được đọc lên vào những thời kỳ đầy thịnh vượng và trong những thời hòa bình yên ổn. Tuy vậy, lời tuyên thệ này cũng vẫn thường được đọc lên trong những lúc thời gian đầy u ám và sóng gió. Vào những thời điểm như thế, nước Mỹ vẫn tiếp tục tiến bước không phải đơn giản chỉ vì tài năng và viễn kiến của những người nắm giữ các chức vụ cao, mà còn bởi vì nhân dân chúng ta tiếp tục trung thành với những lý tưởng của các bậc tiền bối, và trung thành với các văn kiện lập quốc.
Sự việc đã diễn ra như vậy. Và nó phải diễn ra như vậy với thế hệ người Mỹ hiện nay.
Sự kiện chúng ta đang lâm vào một cuộc khủng hoảng là điều ai cũng hiểu rõ. Quốc gia chúng ta đang có chiến tranh, chống lại một mạng lưới rộng lớn của bạo lực và lòng thù hận. Nền kinh tế của chúng ta bị suy yếu trầm trọng, do hậu quả của lòng tham và sự thiếu trách nhiệm của một số người, nhưng cũng vì sự thất bại chung của chúng ta phải có những lựa chọn khó khăn và chuẩn bị đất nước cho một thời đại mới. Nhà cửa đã bị mất mát; công việc bị cắt giảm; cơ sở kinh doanh bị đóng cửa. Công tác chăm sóc sức khỏe quá tốn kém; trường học chúng ta làm nhiều người thất bại; và mỗi ngày lại có thêm bằng chứng cho thấy rằng cách thức sử dụng năng lượng của chúng ta làm cho kẻ địch của chúng ta mạnh thêm và đe dọa đến hành tinh của chúng ta.
Đây là những chỉ dấu của khủng hoảng, bằng vào số liệu thống kê. Có những chỉ dấu không đo lường nhưng cũng không kém phần sâu sắc là sự hủy hoại lòng tin trên khắp đất nước. Đó là mối sợ hãi canh cánh rằng sự suy thoái của nước Mỹ là không thể tránh khỏi và rằng thế hệ kế tiếp phải hạ thấp kỳ vọng của mình.
Hôm nay, tôi xin nói với đồng bào rằng những thách thức mà chúng ta đang đối mặt là có thực. Những thách thức này rất nhiều và nghiêm trọng. Những thách thức không thể được giải quyết một cách dễ dàng và nhanh chóng. Nhưng nước Mỹ phải biết rằng, chúng sẽ được giải quyết.
Ngày hôm nay, chúng ta tề tựu ở đây bởi vì chúng ta đã chọn hy vọng thay vì sợ hãi, thống nhất về mục đích thay vì sự xung đột và bất hòa.
Ngày hôm nay, chúng ta đến đây để tuyên bố sự cáo chung của những lời than phiền nhỏ nhặt và những lời hứa hão huyền, những lời trách cứ và những giáo điều đã lỗi thời, đã bóp nghẹt nền chính trị của chúng ta quá lâu.
Chúng ta vẫn là một đất nước trẻ trung nhưng như lời Thánh Kinh đã nói, đã đến lúc ta phải gạt qua một bên những điều ấu trĩ. Đã đến lúc chúng ta phải tái khẳng định tinh thần kiên trì; để chọn cho chúng ta một lịch sử tốt đẹp hơn; để tiếp tục phát huy tặng phẩm quý giá đó; tư tưởng cao cả đó, đã được truyền lại cho chúng ta từ thế hệ này sang thế hệ khác: đó là lời hứa được Thượng Đế mặc khải là mọi người đều bình đẳng, mọi người đều tự do, đều xứng đáng có cơ hội mưu cầu hạnh phúc đầy đủ.
Trong khi tái khẳng định tính chất vĩ đại của đất nước chúng ta, chúng ta hiểu rằng sự vĩ đại đó không bao giờ là một điều đương nhiên mà có được. Phải có công phu mới xây dựng được sự vĩ đại đó. Cuộc hành trình của chúng ta không hề là những lối đi tắt hay sự chấp nhận những điều bất cập. Đó không phải là một con đường cho những người thiếu can đảm, cho những người thích nhàn nhã hơn là lao động, hay những người mưu tìm sự vui thú của giầu sang và danh vọng. Thay vào đó, ấy là con đường của sự chấp nhận rủi ro, những người hành động, những người tạo ra thời thế – một số những người đó là những người nổi tiếng nhưng thường hơn đó những người, nam cũng như nữ, mà việc làm không được ai biết đến, những người đã đưa chúng ta tiến lên con đường dài, gập ghềnh tiến đến phồn vinh và tự do.
Đối với chúng ta, họ là những người đã gói ghém một ít của cải trần thế của và vượt qua những đại dương để đi tìm một cuộc sống mới.
Đối với chúng ta, họ đã lao động cực nhọc trong những cơ xưởng tối tăm và chinh phục miền Tây; chịu đựng roi vọt và cầy xới đất đai khô cứng.
Đối với chúng ta, họ đã chiến đấu và hy sinh, ở những nơi như Concord và Gettysburg; ở Normandy và Khe Sanh.
Luôn luôn những người đàn ông và phụ nữ này đã không ngừng tranh đấu, hy sinh và làm việc cho tới khi đôi tay của họ rướm máu để cho chúng ta có được một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Họ đã nhận ra rằng nước Mỹ cao cả hơn con số gộp chung của những tham vọng cá nhân, cao cả hơn mọi sự khác biệt bắt nguồn từ bối cảnh gia đình, của cải hoặc phe nhóm.
Đây là hành trình mà ngày nay chúng ta tiếp tục theo đuổi. Đất nước chúng ta tiếp tục là quốc gia thịnh vượng và hùng mạnh nhất trên Trái đất. Sức sản xuất của công nhân của chúng ta không hề sút giảm so với thời kỳ trước khi vụ khủng hoảng này bắt đầu. Sự sáng tạo của trí óc của chúng ta không hề sút giảm, và hàng hóa và dịch vụ của chúng ta vẫn tiếp tục được cần tới in hệt như tuần trước, tháng trước, hoặc năm trước. Khả năng của chúng ta vẫn không hề suy giảm. Nhưng thời đại mà chúng ta đứng yên trong tự mãn, bảo vệ những quyền lợi hẹp hòi và trì hoãn việc đưa ra những quyết định khó khăn – thời đại đó quả thật đã qua rồi. Bắt đầu từ hôm nay, chúng ta phải đứng dậy chiến thắng chính chúng ta và bắt đầu làm việc lại để xây dựng lại nước Mỹ.
Bất cứ chỗ nào chúng ta nhìn tới đều có những việc cần phải làm. Tình trạng của nền kinh tế đòi hỏi chúng ta hành động, hành động một cách quả quyết và nhanh chóng, và chúng ta sẽ hành động – không những để tạo ra công ăn việc làm mới, nhưng còn để xây dựng một nền tảng mới cho sự tăng trưởng. Chúng ta sẽ xây dựng đường sá, cầu cống, mạng lưới tải điện và đường dây chuyển tải dữ liệu số để hỗ trợ cho công cuộc thương mại và nối kết chúng ta với nhau. Chúng ta sẽ khôi phục vị thế xứng đáng của khoa học, và áp dụng những điều kỳ diệu của kỹ thuật để nâng cao phẩm chất của công tác chăm sóc sức khỏe và giảm thiểu chi phí của công tác này. Chúng ta sẽ biến ánh sáng mặt trời, sức gió và đất đai thành năng lượng để chạy xe và vận hành nhà máy. Và chúng ta sẽ chuyển hóa trường học các cấp của mình để đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Chúng ta có thể làm được tất cả những việc này. Và những việc này là tất cả những gì mà chúng ta sẽ làm.
Giờ đây, có một số người đặt nghi vấn về tầm vóc của những tham vọng của chúng ta – những người cho rằng hệ thống của chúng ta không có khả năng để thực hiện nhiều kế hoạch to lớn như vậy. Nhưng những người đó là những người có trí nhớ không mấy tốt. Vì họ đã quên mất những gì mà đất nước này đã làm; những gì mà những người đàn ông và phụ nữ tự do có thể đạt được khi óc tưởng tượng được kết hợp với mục đích chung và nhu cầu kết hợp với lòng dũng cảm.
Những gì mà những người có thái độ hoài nghi quá độ không thể hiểu được là mặt đất dưới chân họ đã chuyển dịch – là những sự tranh cãi chính trị vô bổ đã phí phạm năng lực của chúng ta quá lâu giờ đây không còn áp dụng nữa. Câu hỏi mà chúng ta nêu lên hôm nay không phải là chính phủ của chúng ta quá lớn hay quá nhỏ, mà là chính phủ hoạt động có hiệu quả hay không – phải chăng chính phủ giúp đỡ các gia đình tìm được công ăn việc làm với mức lương khả quan, giúp họ có được sự chăm sóc sức khỏe với phí tổn phải chăng, giúp họ có được một cuộc sống về hưu tử tế. Nếu câu trả lời là ‘phải’, chúng ta nhất định sẽ xúc tiến. Nếu câu trả lời là ‘không’, chúng ta sẽ chấm dứt các chương trình đó. Và những người quản lý tiền bạc của công chúng như chúng tôi sẽ phải chịu trách nhiệm – phải chi tiêu một cách khôn ngoan, sửa đổi những thói quen xấu, và làm việc minh bạch trong ánh sáng ban ngày, bởi vì chỉ có như vậy chúng ta mới có thể khôi phục niềm tin của dân chúng đối với chính phủ.
Câu hỏi trước mắt chúng ta cũng không phải là thị trường là một sức mạnh tốt hay xấu. Sức mạnh của thị trường trong việc tạo ra của cải và nới rộng tự do là vô địch, nhưng vụ khủng hoảng này nhắc nhở chúng ta rằng nếu không có một cặp mắt chăm chú theo dõi, thị trường có thể vượt khỏi tầm kiểm soát – và đất nước không giàu mạnh trong lâu dài khi thị trường chỉ mang lại lợi ích cho những người giàu có. Sự thành công của nền kinh tế của chúng ta lúc nào cũng không thể chỉ tùy thuộc vào Tổng Sản Lượng Nội Địa, mà tùy thuộc vào sự thịnh vượng lan tỏa đến đâu; tùy thuộc vào khả năng của chúng ta trong việc nới rộng cơ hội cho những người có ý chí – không phải vì đó là một việc từ thiện, mà vì đó con đường chắc chắn nhất để đạt được mục tiêu chung.
Về vấn đề phòng vệ chung của chúng ta, chúng ta bác bỏ sự lựa chọn sai lầm là lựa chọn giữa an toàn và lý tưởng. Những người sáng lập nước Mỹ, từng đương đầu với những mối hiểm nguy mà chúng ta khó lòng tưởng tượng, đã soạn thảo một hiến chương để bảo đảm cho pháp trị và quyền của con người, một hiến chương được nới rộng bằng máu của nhiều thế hệ. Đây là những lý tưởng vẫn tiếp tục soi sáng thế giới và chúng ta sẽ không từ bỏ những lý tưởng này vì sự tiện lợi nhất thời. Và vì vậy, tôi xin nói với tất cả những dân tộc và chính phủ khác đang theo dõi buổi lễ hôm nay, từ những thủ đô to lớn cho tới ngôi làng nhỏ bé mà cha tôi đã chào đời, rằng quí vị nên biết là nước Mỹ là bạn của tất cả mọi quốc gia, mọi người đàn ông, mọi người phụ nữ, và mọi em bé – là bạn của những ai muốn mưu tìm một tương lai của hòa bình và phẩm giá, và chúng tôi sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo thêm một lần nữa.
Xin quí vị nhớ rằng những thế hệ trước đây đã đương đầu với chủ nghĩa phát-xít và chủ nghĩa cộng sản không phải chỉ bằng phi đạn và xe tăng, nhưng bằng những mối quan hệ đồng minh vững chãi và những sự tin tưởng mạnh mẽ. Những thế hệ đó hiểu rằng chỉ riêng sức mạnh không thôi không đủ để bảo vệ chúng ta, và sức mạnh cũng không dành chúng ta quyền làm những gì chúng ta thích. Thay vào đó, họ biết rằng sức mạnh của chúng ta gia tăng qua việc sử dụng sức mạnh một cách thận trọng; an ninh của chúng ta phát xuất từ sự chính đáng của mục tiêu của chúng ta, từ sức mạnh của tấm gương của chúng ta, và từ những phẩm chất tốt đẹp của lòng khiêm tốn và tinh thần tự chế.
Chúng ta là những người canh giữ di sản này. Một lần nữa, với sự hướng dẫn của những nguyên tắc này, chúng ta có thể ứng phó với những mối đe dọa mới, những mối đe dọa đòi hỏi một nỗ lực lớn hơn – đòi hỏi sự hợp tác và thông cảm nhiều hơn nữa giữa các quốc gia. Chúng ta sẽ triệt thoái một cách có trách nhiệm để giao cho nhân dân Iraq đất nước của họ, và củng cố nền hòa bình phải vô cùng chật vật mới có được ở Afghanistan. Với những người bạn mới và những người từng là kẻ thù, chúng ta sẽ làm việc không ngừng nghỉ để giảm thiểu mối đe dọa của vũ khí hạt nhân, và đảo ngược xu hướng tăng nhiệt toàn cầu. Chúng ta không có gì để phải cảm thấy xấu hổ vì lối sống của mình, và chúng ta cũng nhất định bảo vệ cho lối sống này; và đối với những người muốn đạt được mục tiêu bằng cách gieo rắc khủng bố và giết hại những người vô tội, chúng tôi muốn nói ngay với quí vị rằng tinh thần của chúng tôi đã trở nên vững mạnh hơn và không thể bị khuất phục; quí vị không thể thắng được chúng tôi - chúng tôi sẽ đánh bại quí vị.
Vì chúng ta biết rằng di sản đa dạng của mình là một sức mạnh chứ không phải là một nhược điểm. Chúng ta là một quốc gia của người Cơ đốc giáo và Hồi giáo, của Do thái giáo và Ấn độ giáo và của cả những người không tin theo đạo nào. Đất nước chúng ta hình thành bởi mọi ngôn ngữ và văn hóa bắt nguồn từ khắp nơi trên trái đất; và bởi vì chúng ta đã nếm mùi cay đắng của nội chiến và chia cách chủng tộc và đã vượt qua chương sử đen tối đó và trở nên mạnh hơn và đoàn kết hơn, cho nên chúng ta tin rằng những mối thù hận lâu năm rồi sẽ có ngày phai nhạt; tin rằng những lằn ranh chủng tộc sẽ nhanh chóng bị xóa đi; tin rằng thế giới đang thu hẹp, và sự liên đới của loài người sẽ được thể hiện; và tin rằng nước Mỹ phải đóng một vai trò để xây dựng một kỷ nguyên mới của hòa bình.
Đối với các quốc gia Hồi giáo, chúng ta tìm một hướng mới phía trước, dựa trên ích lợi hỗ tương và kính trọng lẫn nhau. Đối với các lãnh đạo trên khắp quả địa cầu muốn gieo rắc tranh chấp, hoặc đổ lỗi cho những tệ nạn xã hội của họ cho phương Tây, cần biết rằng nhân dân quí vị sẽ phán xét tốt cho quí vị về những gì quí vị có thể xây dựng, chứ không vì những gì quí vị hủy hoại. Đối với những ai bám víu quyền lực bằng tham nhũng, gian lận, và bằng cách bịt miệng những người bất đồng, hãy biết rằng quí vị đang đứng ở phía trái của lịch sử; nhưng chúng tôi sẵn sàng đưa tay giúp đỡ nếu quí vị sẵn sàng thay đổi lề lối của quí vị.
Đối với các quốc gia nghèo, chúng tôi cam kết làm việc với quí vị để các đồng ruộng của quí vị đơm hoa kết trái, và để cho nước sạch được tuôn chảy đến mọi nơi; để nuôi sống những cơ thể thiếu đói và giúp phương tiện cho những người cầu tiến mơ ước được mở mang trí tuệ. Và đối với các quốc gia giống như đất nước chúng ta, được hưởng những của cải tương đối dồi dào, chúng ta nguyện rằng chúng ta không thể nào vô cảm trước những thống khổ bên ngoài biên giới của chúng ta, và chúng ta cũng không thể tiêu dùng các nguồn lực của thế giới mà không nghĩ đến hậu quả. Vì thế giới đã thay đổi, chúng ta phải thay đổi với thế giới.
Trong lúc xét đến con đướng mở ra phía trước, chúng ta tưởng nhớ với tấm lòng biết ơn sâu sắc trước những người Mỹ dũng cảm cao cả, ngay vào giờ phút này, tuần tra các sa mạc xa xôi và núi non hẻo lánh. Họ nêu lên tấm gương cho chúng ta hôm nay, cũng hệt như những anh hùng đã khuất yên nghỉ nơi nghĩa trang quốc gia Arlington để lại cho chúng ta qua nhiều thời đại...Chúng ta vinh danh họ, không phải chỉ vì họ là những người bảo vệ tự do cho chúng ta, mà còn vì họ thể hiện tinh thần phục vụ; một ý chí hướng đến một điều gì cao cả hơn chính bản thân họ. Thật vậy, trong lúc này, lúc sẽ định hình cho cả một thế hệ, quả thực tinh thần này cần phải hiện hữu trong tất cả chúng ta.
Khi nói đến chuyện chính phủ có thể làm gì và phải làm gì,thì điều tối hậu chính là niềm tin và quyết tâm của toàn dân mà quốc gia này trông cậy vào...Đó chính là lòng tử tế đưa tay đón nhận một người lạ vào trong nhà mình khi vỡ đê gây nạn lụt, nó cũng là lòng vị tha mà các công nhân sẵn sàng giảm bớt giờ để chia sẻ thiệt hại chung thay vì để cho một đồng nghiệp của mình mất việc; lòng tử tế đó soi sáng cho chúng ta mỗi khi chúng ta ở vào tình huống đen tối nhất. Lòng dũng cảm của nhân viên chữa cháy xông vào một cầu thang ngạt khói để cứu người, và cũng như ý chí của bậc cha mẹ quyết tâm chăm lo nuôi dưỡng cho con cái, mà cuối cùng số phận của chúng ta được quyết định.
Những thử thách của chúng ta có thể là mới mẻ. Các công cụ mà chúng ta dùng để đối phó với thách thức có thể là mới mẻ. Nhưng các giá trị đã dẫn đến thành công của chúng ta là những giá trị tự ngàn xưa, đó là siêng năng, cần cù trong công việc, lương thiện, can đảm, tinh thần thượng võ, khoan dung, thích tìm hiểu, học hỏi, trung thành và yêu nước. Đó là những chuyện có thật. Chúng là động lực âm thầm cho tiến bộ xuyên suốt lịch sử của nước Mỹ. Điều đang đòi hỏi chúng ta là quay về với những chân giá trị đó. Điều đòi hỏi chúng ta hiện nay là một kỷ nguyên mới của trách nhiệm ; một sự thừa nhận của mỗi người Mỹ rằng chúng ta có nghĩa vụ với chính chúng ta, quốc gia chúng ta, và cả thế giới ; những nghĩa vụ mà chúng ta vui lòng nhận lãnh, không phàn nàn với ý thức sắt đá rằng không có điều gì giúp thỏa mãn tinh thần, phản ảnh tư cách của chúng ta, cho bằng cống hiến tất cả cho một sự nghiệp khó khăn.
Đây là cái giá và sự hứa hẹn của quyền công dân.
Đây là nguồn gốc của sự tin cậy của chúng ta - sự hiểu biết rằng Thượng Đế để cho chúng ta để định hình một định mạng không chắc chắn.
Đây là ý nghĩa của tự do và tín ngưỡng của chúng ta- Tại sao mọi người, nam, nữ, trẻ em thuộc mọi chủng tộc và mọi niềm tin có thể cùng nhau vui mừng kỷ niệm tại quảng trường quốc gia vĩ đại này và tại sao một người có thân phụ cách đây gần 60 năm đến một nhà hàng ăn địa phương đã bị từ chối không được tiếp mà nay đứng trước mặt quý vị để đọc một lời tuyên thệ thiêng liêng nhất.
Do đó, chúng ta hãy đánh dấu ngày này bằng cách nhớ lại chúng ta là ai và chúng ta đã đi qua những chặng đường dài như thế nào. Vào năm khai sanh quốc gia Hoa Kỳ, trong những tháng giá lạnh nhất, một nhóm nhỏ những người ái quốc xúm lại với nhau bên cạnh đống lửa gần tàn bên bờ một dòng sông băng giá. Thủ đô đã bị bỏ lại phía sau. Kẻ thù đang tiến tới. Tuyết loang đầy máu. Vào thời điểm mà nhiều người ngờ vực nhất không biết cuộc cách mạng của chúng ta có đi đến kết quả hay không, thì vị quốc phụ của chúng ta hạ lệnh tuyên đọc những lời sau đây: “Hãy nói cho thế giới tương lai...là vào lúc mùa đông giá lạnh nhất, không có gì ngoài hy vọng và đức tính có thể sống còn...rằng thành phố này và xứ sở này, được cảnh báo trước hiểm họa chung, nhất quyết tiến tới…”
Đất nước Hoa Kỳ, đối mặt với những hiểm họa chung, trong mùa đông gian khổ này của chúng ta, chúng ta hãy nhớ lại những lời lẽ vượt thời gian đó. Với hy vọng và đức tính, chúng ta hãy một lần nữa can đảm vượt qua dòng nước băng giá và chịu đựng bất cứ cơn giông bão nào có thể thổi tới. Hãy để cho hậu thế của chúng ta nhắc lại là khi chúng ta bị thử thách, chúng ta đã không dừng bước bỏ dở cuộc hành trình, rằng chúng ta không quay lui trở lại mà chúng ta cũng chẳng hề ngập ngừng, nao núng và với tầm mắt đăm đăm đặt vào chân trời phía trước và với hồng ân của Thượng Đế ban cho chúng ta, chúng ta mang món quà tự do quý giá nhất chuyển giao lại một cách an toàn cho các thế hệ mai sau.
lLỜI BÌNH CỦA GIA HỘI
--
Tuesday, January 20, 2009
ĐỖ DUNG * TRUYỆN NGẮN
Joined: 03 Aug 2005Posts: 440
Posted: Tue Dec 09, 2008 7:06 pm
Post subject: Sau cuộc chung vui
SAU CUỘC CHUNG VUI
Chuyện hư cấu -
Viết làm quà Sinh Nhật cho một người.
Đỗ Dung
*
Bữa tiệc thật vui, mọi người xúm xít chúc tụng, thỉnh thoảng có tiếng phone reo, lại thêm lời chúc mừng của những người bạn ở xa. Hôm nay sinh nhật tôi, sinh nhật của một người đàn bà trên sáu mươi tuổi! Tôi ngồi đây, bạn bè xung quanh, tưởng như ngày nào, vẫn ríu rít như lũ học trò của thời Trưng Vương áo trắng xa xưa, vẫn những giọng nói bỡn cợt, bông đùa, vẫn những lời trêu ghẹo, nghịch ngợm …
Tạm bỏ quên đi những hệ lụy, những nhục nhằn, đau khổ của kiếp nhân sinh, chỉ còn có ta, có mi, chỉ còn có con nhỏ này, con nhỏ nọ…. Rồi cuộc chung vui nào cũng đến lúc tàn, cũng đến lúc phải chia tay. Thời tiết sang đông lạnh buốt, trăng thượng tuần treo lơ lửng trên bầu trời cao. Tôi một mình một bóng, co ro trong chiếc áo măng tô trở về căn nhà nhỏ. Có tiếng thở đều vọng ra từ phòng của bà cụ. Tôi rón rén về phòng mình. -Cô đã về đấy à? -Dạ con đây, mẹ còn thức ạ, con tưởng mẹ đã ngủ say. -Nào đã ngủ được đâu, cô đi chơi có vui không? Xem cửa ngõ cẩn thận rồi cũng đi ngủ đi! Thay quần áo xong, ra đứng tì tay bên thành cửa sổ, nhìn lên trời đêm xanh thẫm, nghĩ đến mẹ già ở phòng bên, nghĩ đến mình, nghĩ đến thời gian trôi …
Tôi thương mẹ, thương mình xót xa. Là con thứ trong một gia đình đông anh em, lẽ ra người hủ hỉ bên mẹ không phải là tôi nhưng như có sợi dây ràng buộc vô hình nên bây giờ trong căn nhà nhỏ này có hai người đàn bà cô đơn chung sống. Mẹ sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, nho phong, bố mẹ tôi nuôi dạy chúng tôi theo nền nếp cổ xưa. Mẹ muốn các con của mẹ lớn lên, sống như những hình ảnh mẹ đã dựng xây, như những hình ảnh mẹ hằng ôm ấp. Nhưng theo thời gian, những người con của mẹ lần lượt trưởng thành, tách rời vòng tay của mẹ để tạo lập những gia đình nhỏ riêng. Mẹ có dâu, có rể nhưng mẹ vẫn coi con trai, con gái của mẹ như những người con nhỏ thuở nào, vẫn là con của mẹ, của riêng!
Tôi nhớ đến Huy, đến mối tình đầu của một thời con gái. Huy cho tôi những câu nói ngọt ngào, những ân cần chăm sóc. Tôi đã yêu Huy, yêu say đắm, nồng nàn, yêu với mộng mơ, lãng mạn của tuổi mới lớn. Tôi tưởng ra một mái ấm trong đó có Huy, có tôi và một bầy con nhỏ sống trong êm đềm, hạnh phúc. Rồi do chiến cuộc lan tràn nên mặc dù Huy là bác sĩ vẫn bị động viên, vẫn phải theo đơn vị ra nơi địa đầu giới tuyến. Thỉnh thoảng nhận những lá thư của Huy với bao lời nói xa xôi, bóng gió, như những lời ngầm hẹn ước thủy chung, tôi sung sướng đợi chờ. Mẹ tỉnh táo, mẹ có những cảm nghĩ từ trái tim của người mẹ, mẹ đã khuyên nhủ, nhắc nhở con gái phải nghĩ đến tuổi thanh xuân, con gái chỉ có một thời. Nhưng trái tim có những lý lẽ riêng của nó, tôi bình tĩnh đợi chờ và tôi đã để vuột mất bao cơ hội có được những bến bờ bình an. Mẹ thương nên mẹ giận, từ giận đến ghét …
Hồi đó tôi nghĩ là mẹ đã ghét tôi, ghét đến ghét cay, ghét đắng. 30 tháng tư tang tóc đau thương, tôi theo gia đình di tản, mất tin tức của Huy. Tôi vẫn âm thầm, lặng lẽ chờ mong … Thời gian cứ lừng lững trôi, tôi phải hội nhập vào cuộc sống mới, trở thành cô giáo dạy lũ trẻ con đủ mọi sắc tộc. Một ngày được tin Huy, chàng đã định cư, đã lập gia đình và có mấy đứa con nhỏ. Tim tôi tan nát … Cái mà mình cho là tình yêu đã thực sự không phải. Tôi đã ngu muội, mù lòa, tin vào những lời đường mật mà không nhận ra chân tướng cuả con người hay vì định mệnh khắt khe khiến cuộc tình của tôi nổi trôi theo vận mệnh chung của đất nước! Rồi ánh mắt của vài chàng trai cũng cho tôi thoáng rung động, song cũng chỉ như những cơn gió thoảng qua …Cho đến một ngày Khiêm đến, chàng xuất hiện như một sự tình cờ hay do sự sắp đặt của một người bạn thân. Chàng đang cô đơn, tôi đang lẻ bóng, ở vào lứa tuổi chững chạc, trưởng thành. Một đám cưới diễn ra, tôi cũng đã sống trong hạnh phúc và một bé gái chào đời …
Tôi bằng lòng với hạnh phúc nhỏ bé, giản dị, tôi hầu hạ chồng con, chăm sóc cho Khiêm và bé Uyên từng miếng ăn, thức uống, từng manh quần, tấm áo. Tôi yêu người cùng tôi chung chăn gối, yêu chồng, yêu con. Dưới mắt mẹ tôi lại khác, cụ nhìn ra những khuyết điểm cuả Khiêm, cụ xót xa thương con gái. Với lòng thương bao la của người mẹ, cụ nghĩ con gái cụ phải được sống trong nhung luạ, phải được o bế, cưng chiều. Cụ không muốn con của cụ làm thân nô lệ, cụ có biết đâu đối với tôi, được hầu hạ chồng con là điều hạnh phúc. Chuyện nhỏ góp thành chuyện lớn, chuyện bé hóa chuyện to. Khiêm không khôn khéo, tế nhị mà mẹ tôi lại quá cứng cỏi, cương cường. Những cuộc chiến nho nhỏ giữa mẹ và chồng tôi bắt đầu xảy ra. Tôi biết nhân vô thập toàn, tôi biết những khuyết điểm của Khiêm cũng như những điều quá đáng của mẹ. Ở giữa, tôi chẳng biết phải làm sao! Tôi là người đàn bà tình cảm, yếu đuối, nhu nhược và ngược lại với mẹ, cụ hay nhìn vào những điều xấu để chê bai còn tôi hay tìm ra những ưu điểm để mà thương, mà quý. Khiêm có nóng nảy, độc đoán, không dịu dàng, mềm mỏng nhưng tôi cảm được sự lo lắng thương yêu của chàng.
Mẹ không chấp nhận bất cứ một ai hành hạ con của mẹ. Cụ can thiệp vào cuộc sống của chúng tôi hơi nhiều nhưng tôi biết đó là do tấm lòng thương con của người mẹ. Càng ngày sự xung khắc giữa mẹ và Khiêm càng trầm trọng cho đến khi sự việc không thể hàn gắn. Tôi phải đứng trước sự chọn lựa giữa mẹ và chồng! Khoảng thời gian đó tôi như phát điên, bên tình, bên hiếu … Mẹ tôi cũng già xộc hẳn đi, mặt hằn lên nét đau khổ. Khiêm quát tháo om xòm, nhà thê lương không một tiếng cười. Con bé Uyên co rúm vì sợ hãi … Cuối cùng chúng tôi ngồi xuống nói chuyện và đồng ý chia tay. Mẹ đòi hỏi những điều tuyệt đối mà thời buổi này có gì là tuyệt đối! Các anh chị em tôi đều có gia đình riêng, đều hạnh phúc. Mẹ ở nhà con nào cũng bắt nhặt, bắt khoan. Con dâu, con rể cố gắng chiều mẹ nhưng hạnh phúc gia đình nhỏ của họ quan trọng hơn. Họ phải giữ gìn, bảo vệ. Mẹ rơi vào nỗi cô đơn mà mẹ tự tạo ra.
Tôi xót thương mẹ già còm cõi nên mua nhà đón mẹ về ở chung. Có những đêm dài cô đơn trăn trở, tôi nhìn tôi trong gương, tôi nhìn tôi trên vách. Tuổi xuân vùn vụt qua mau, tôi cũng nhớ làn da ấm, vòng tay êm, tôi cũng nhớ Khiêm tha thiết. Đôi khi tôi trách mẹ, vì mẹ mà tôi rơi vào tình cảnh này. Nghĩ lại tôi lại trách Khiêm, sao Khiêm không giữ tôi lại, sao Khiêm không cùng tôi tranh đấu, phải chăng tình yêu của chàng không đủ mạnh, không đủ đầy như tôi nghĩ. Cuối cùng thì lỗi tại tôi, tôi yếu đuối, tôi nhu nhược và mơ hồ trong tâm thức tôi cảm thấy tôi thương mẹ hơn và tình yêu của mẹ là tình yêu chắc chắn, khả tín. Có những lúc tôi bắt gặp ánh mắt ái ngại của mẹ khi mẹ thấy tôi lủi thủi và đôi khi tôi nghe tiếng mẹ thở dài … Mấy năm đầu sau khi chia tay, tôi sống lặng lẽ, câm nín. Cuối tuần về với Khiêm và Uyên, cả tuần lo cho mẹ. Mẹ tôi càng lớn tuổi càng khó tính và càng khắt khe hơn. Một bầy chín người con cả trai, cả gái đều thành đạt, đều là những người con có hiếu song mẹ vẫn không vui. Bao giờ mẹ cũng cho là tôi hợp với mẹ nhất và mẹ chỉ có thể ở được với tôi. Không hiểu sao mẹ rất ghét Khiêm, ghét thậm tệ, đến nỗi Khiêm không dám ghé thăm và khi về thăm Khiêm tôi phải dấu diếm như người vụng trộm …
Nếu con người ra đời dưới một vì sao thì không biết tôi sinh ra dưới vì sao nào. Tôi đã hy sinh hạnh phúc gia đình nhỏ của tôi vì muốn đem lại niềm vui cho mẹ lúc cuối đời, nếu mẹ vẫn không vui thì sự hy sinh của tôi thành ra vô nghĩa. Khiêm dự tính về hưu sẽ sống ở Việt Nam, Uyên đã lớn, rồi cũng có gia đình riêng … còn tôi … chơ vơ … tôi cầu mong mẹ khỏe mạnh, vui sống để tôi còn có nơi chốn trở về. Đêm thật sâu, tôi kéo tấm màn che cửa sổ, bước vào giường, tắt đèn và cuộn mình trong chăn ấm, nghĩ đến bữa tiệc đã qua, nghĩ đến những người bạn dễ thương, những chương trình mà các bạn đã sắp xếp cho khi tôi nghỉ hưu…Những giọt nước mắt đã khô và tôi lại mỉm cười
sắp xếp cho khi tôi nghỉ hưu…Những giọt nước mắt đã khô và tôi lại mỉm cười …
Posted: Tue Dec 09, 2008 7:06 pm
Post subject: Sau cuộc chung vui
SAU CUỘC CHUNG VUI
Chuyện hư cấu -
Viết làm quà Sinh Nhật cho một người.
Đỗ Dung
*
Bữa tiệc thật vui, mọi người xúm xít chúc tụng, thỉnh thoảng có tiếng phone reo, lại thêm lời chúc mừng của những người bạn ở xa. Hôm nay sinh nhật tôi, sinh nhật của một người đàn bà trên sáu mươi tuổi! Tôi ngồi đây, bạn bè xung quanh, tưởng như ngày nào, vẫn ríu rít như lũ học trò của thời Trưng Vương áo trắng xa xưa, vẫn những giọng nói bỡn cợt, bông đùa, vẫn những lời trêu ghẹo, nghịch ngợm …
Tạm bỏ quên đi những hệ lụy, những nhục nhằn, đau khổ của kiếp nhân sinh, chỉ còn có ta, có mi, chỉ còn có con nhỏ này, con nhỏ nọ…. Rồi cuộc chung vui nào cũng đến lúc tàn, cũng đến lúc phải chia tay. Thời tiết sang đông lạnh buốt, trăng thượng tuần treo lơ lửng trên bầu trời cao. Tôi một mình một bóng, co ro trong chiếc áo măng tô trở về căn nhà nhỏ. Có tiếng thở đều vọng ra từ phòng của bà cụ. Tôi rón rén về phòng mình. -Cô đã về đấy à? -Dạ con đây, mẹ còn thức ạ, con tưởng mẹ đã ngủ say. -Nào đã ngủ được đâu, cô đi chơi có vui không? Xem cửa ngõ cẩn thận rồi cũng đi ngủ đi! Thay quần áo xong, ra đứng tì tay bên thành cửa sổ, nhìn lên trời đêm xanh thẫm, nghĩ đến mẹ già ở phòng bên, nghĩ đến mình, nghĩ đến thời gian trôi …
Tôi thương mẹ, thương mình xót xa. Là con thứ trong một gia đình đông anh em, lẽ ra người hủ hỉ bên mẹ không phải là tôi nhưng như có sợi dây ràng buộc vô hình nên bây giờ trong căn nhà nhỏ này có hai người đàn bà cô đơn chung sống. Mẹ sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, nho phong, bố mẹ tôi nuôi dạy chúng tôi theo nền nếp cổ xưa. Mẹ muốn các con của mẹ lớn lên, sống như những hình ảnh mẹ đã dựng xây, như những hình ảnh mẹ hằng ôm ấp. Nhưng theo thời gian, những người con của mẹ lần lượt trưởng thành, tách rời vòng tay của mẹ để tạo lập những gia đình nhỏ riêng. Mẹ có dâu, có rể nhưng mẹ vẫn coi con trai, con gái của mẹ như những người con nhỏ thuở nào, vẫn là con của mẹ, của riêng!
Tôi nhớ đến Huy, đến mối tình đầu của một thời con gái. Huy cho tôi những câu nói ngọt ngào, những ân cần chăm sóc. Tôi đã yêu Huy, yêu say đắm, nồng nàn, yêu với mộng mơ, lãng mạn của tuổi mới lớn. Tôi tưởng ra một mái ấm trong đó có Huy, có tôi và một bầy con nhỏ sống trong êm đềm, hạnh phúc. Rồi do chiến cuộc lan tràn nên mặc dù Huy là bác sĩ vẫn bị động viên, vẫn phải theo đơn vị ra nơi địa đầu giới tuyến. Thỉnh thoảng nhận những lá thư của Huy với bao lời nói xa xôi, bóng gió, như những lời ngầm hẹn ước thủy chung, tôi sung sướng đợi chờ. Mẹ tỉnh táo, mẹ có những cảm nghĩ từ trái tim của người mẹ, mẹ đã khuyên nhủ, nhắc nhở con gái phải nghĩ đến tuổi thanh xuân, con gái chỉ có một thời. Nhưng trái tim có những lý lẽ riêng của nó, tôi bình tĩnh đợi chờ và tôi đã để vuột mất bao cơ hội có được những bến bờ bình an. Mẹ thương nên mẹ giận, từ giận đến ghét …
Hồi đó tôi nghĩ là mẹ đã ghét tôi, ghét đến ghét cay, ghét đắng. 30 tháng tư tang tóc đau thương, tôi theo gia đình di tản, mất tin tức của Huy. Tôi vẫn âm thầm, lặng lẽ chờ mong … Thời gian cứ lừng lững trôi, tôi phải hội nhập vào cuộc sống mới, trở thành cô giáo dạy lũ trẻ con đủ mọi sắc tộc. Một ngày được tin Huy, chàng đã định cư, đã lập gia đình và có mấy đứa con nhỏ. Tim tôi tan nát … Cái mà mình cho là tình yêu đã thực sự không phải. Tôi đã ngu muội, mù lòa, tin vào những lời đường mật mà không nhận ra chân tướng cuả con người hay vì định mệnh khắt khe khiến cuộc tình của tôi nổi trôi theo vận mệnh chung của đất nước! Rồi ánh mắt của vài chàng trai cũng cho tôi thoáng rung động, song cũng chỉ như những cơn gió thoảng qua …Cho đến một ngày Khiêm đến, chàng xuất hiện như một sự tình cờ hay do sự sắp đặt của một người bạn thân. Chàng đang cô đơn, tôi đang lẻ bóng, ở vào lứa tuổi chững chạc, trưởng thành. Một đám cưới diễn ra, tôi cũng đã sống trong hạnh phúc và một bé gái chào đời …
Tôi bằng lòng với hạnh phúc nhỏ bé, giản dị, tôi hầu hạ chồng con, chăm sóc cho Khiêm và bé Uyên từng miếng ăn, thức uống, từng manh quần, tấm áo. Tôi yêu người cùng tôi chung chăn gối, yêu chồng, yêu con. Dưới mắt mẹ tôi lại khác, cụ nhìn ra những khuyết điểm cuả Khiêm, cụ xót xa thương con gái. Với lòng thương bao la của người mẹ, cụ nghĩ con gái cụ phải được sống trong nhung luạ, phải được o bế, cưng chiều. Cụ không muốn con của cụ làm thân nô lệ, cụ có biết đâu đối với tôi, được hầu hạ chồng con là điều hạnh phúc. Chuyện nhỏ góp thành chuyện lớn, chuyện bé hóa chuyện to. Khiêm không khôn khéo, tế nhị mà mẹ tôi lại quá cứng cỏi, cương cường. Những cuộc chiến nho nhỏ giữa mẹ và chồng tôi bắt đầu xảy ra. Tôi biết nhân vô thập toàn, tôi biết những khuyết điểm của Khiêm cũng như những điều quá đáng của mẹ. Ở giữa, tôi chẳng biết phải làm sao! Tôi là người đàn bà tình cảm, yếu đuối, nhu nhược và ngược lại với mẹ, cụ hay nhìn vào những điều xấu để chê bai còn tôi hay tìm ra những ưu điểm để mà thương, mà quý. Khiêm có nóng nảy, độc đoán, không dịu dàng, mềm mỏng nhưng tôi cảm được sự lo lắng thương yêu của chàng.
Mẹ không chấp nhận bất cứ một ai hành hạ con của mẹ. Cụ can thiệp vào cuộc sống của chúng tôi hơi nhiều nhưng tôi biết đó là do tấm lòng thương con của người mẹ. Càng ngày sự xung khắc giữa mẹ và Khiêm càng trầm trọng cho đến khi sự việc không thể hàn gắn. Tôi phải đứng trước sự chọn lựa giữa mẹ và chồng! Khoảng thời gian đó tôi như phát điên, bên tình, bên hiếu … Mẹ tôi cũng già xộc hẳn đi, mặt hằn lên nét đau khổ. Khiêm quát tháo om xòm, nhà thê lương không một tiếng cười. Con bé Uyên co rúm vì sợ hãi … Cuối cùng chúng tôi ngồi xuống nói chuyện và đồng ý chia tay. Mẹ đòi hỏi những điều tuyệt đối mà thời buổi này có gì là tuyệt đối! Các anh chị em tôi đều có gia đình riêng, đều hạnh phúc. Mẹ ở nhà con nào cũng bắt nhặt, bắt khoan. Con dâu, con rể cố gắng chiều mẹ nhưng hạnh phúc gia đình nhỏ của họ quan trọng hơn. Họ phải giữ gìn, bảo vệ. Mẹ rơi vào nỗi cô đơn mà mẹ tự tạo ra.
Tôi xót thương mẹ già còm cõi nên mua nhà đón mẹ về ở chung. Có những đêm dài cô đơn trăn trở, tôi nhìn tôi trong gương, tôi nhìn tôi trên vách. Tuổi xuân vùn vụt qua mau, tôi cũng nhớ làn da ấm, vòng tay êm, tôi cũng nhớ Khiêm tha thiết. Đôi khi tôi trách mẹ, vì mẹ mà tôi rơi vào tình cảnh này. Nghĩ lại tôi lại trách Khiêm, sao Khiêm không giữ tôi lại, sao Khiêm không cùng tôi tranh đấu, phải chăng tình yêu của chàng không đủ mạnh, không đủ đầy như tôi nghĩ. Cuối cùng thì lỗi tại tôi, tôi yếu đuối, tôi nhu nhược và mơ hồ trong tâm thức tôi cảm thấy tôi thương mẹ hơn và tình yêu của mẹ là tình yêu chắc chắn, khả tín. Có những lúc tôi bắt gặp ánh mắt ái ngại của mẹ khi mẹ thấy tôi lủi thủi và đôi khi tôi nghe tiếng mẹ thở dài … Mấy năm đầu sau khi chia tay, tôi sống lặng lẽ, câm nín. Cuối tuần về với Khiêm và Uyên, cả tuần lo cho mẹ. Mẹ tôi càng lớn tuổi càng khó tính và càng khắt khe hơn. Một bầy chín người con cả trai, cả gái đều thành đạt, đều là những người con có hiếu song mẹ vẫn không vui. Bao giờ mẹ cũng cho là tôi hợp với mẹ nhất và mẹ chỉ có thể ở được với tôi. Không hiểu sao mẹ rất ghét Khiêm, ghét thậm tệ, đến nỗi Khiêm không dám ghé thăm và khi về thăm Khiêm tôi phải dấu diếm như người vụng trộm …
Nếu con người ra đời dưới một vì sao thì không biết tôi sinh ra dưới vì sao nào. Tôi đã hy sinh hạnh phúc gia đình nhỏ của tôi vì muốn đem lại niềm vui cho mẹ lúc cuối đời, nếu mẹ vẫn không vui thì sự hy sinh của tôi thành ra vô nghĩa. Khiêm dự tính về hưu sẽ sống ở Việt Nam, Uyên đã lớn, rồi cũng có gia đình riêng … còn tôi … chơ vơ … tôi cầu mong mẹ khỏe mạnh, vui sống để tôi còn có nơi chốn trở về. Đêm thật sâu, tôi kéo tấm màn che cửa sổ, bước vào giường, tắt đèn và cuộn mình trong chăn ấm, nghĩ đến bữa tiệc đã qua, nghĩ đến những người bạn dễ thương, những chương trình mà các bạn đã sắp xếp cho khi tôi nghỉ hưu…Những giọt nước mắt đã khô và tôi lại mỉm cười
sắp xếp cho khi tôi nghỉ hưu…Những giọt nước mắt đã khô và tôi lại mỉm cười …
THƯ CHÚC TẾT CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
==
THƯ CHÚC TẾT CỦA VIỆN TĂNG THỐNG
*****************************
Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc TếInternational Buddhist Information BureauBureau International d'Information BouddhisteCơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhấtB.P. 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex ( France ) - Tel.: ( Paris ) (331) 45 98 30 85Fax : Paris (331) 45 98 32 61 - E-mail : http://us.mc330.mail.yahoo.com/mc/compose?to=ubcv.ibib@buddhist.comWeb : http://www.queme.net/*******************************************************************************
THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 20.1.2009Thư Chúc Xuân Kỷ Sửu 2009 của Viện Tăng thống, GH PGVN TN
PARIS, ngày 20.1.2009 ( PTTPGQT ) - Thừa ủy nhiệm Hòa thượng Thích Quảng Độ, Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Hòa thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh thư ký Viện Tăng thống kiêm Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo đã nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện (Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo) viết bức Thư Chúc Xuân Kỷ Sửu 2009 gửi đến Chư Tôn Trưởng Lão Hội Đồng Giáo Phẩm, Chư Hoà Thượng, Thượng Toạ, Đại Đức Tăng Ni cùng toàn thể Phật Tử và Đồng bào các giới trong, ngoài nước.
Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin đăng tải nguyên văn Thư Chúc Xuân như sau :
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG
Văn phòng Viện Tăng thống : Chùa Báo Quốc, 11 đường Điện Biên Phủ, Phường Đúc, TP Huế---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Phật lịch 2552 Số 01 /VTT/VP
Thư Chúc Xuân Kỷ Sửu -2009
của Viện Tăng Thống
Kính gửi:
Chư Tôn Trưởng Lão Hội Đồng Giáo Phẩm
Chư Hoà Thượng, Thượng Toạ, Đại Đức Tăng Ni
cùng toàn thể Phật Tử và Đồng bào các giới trong, ngoài nước
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Kính bạch chư tôn đức,
Thưa toàn thể liệt quý vị,
Trước thềm năm mới, tôi xin thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GH PGVN TN), trong và ngoài nước thành kính gửi đến chư liệt vị lời cầu chúc năm mới Kỷ Sửu, một năm nhiều sức khoẻ, vạn sự cát tường, Phật sự hanh thông và chúng sanh dị độ.
Kính thưa quý vị,
Theo lẽ tuần hoàn của vũ trụ, mùa xuân là mùa của vạn vật chuyển mình, cây cối đâm chồi trẩy lộc, trổ sắc khoe hương. Truyền thống dân tộc Việt Nam , mùa xuân về bao giờ cũng mang đến cho mọi người niềm vui tươi và hy vọng. Trong ý tưởng chan hoà niềm vui chung, tôi cũng thấy lòng được sưởi ấm, sau những năm tháng băng giá trước hiện trạng nhiễu nhương của Đất nước, Giáo hội, và tin tưởng rằng năm Kỷ Sửu, năm thứ chín của thiên niên kỷ mới, hồn thiêng của sông núi, ân đức của Phật tổ sẽ mang lại cho tất cả dân tộc chúng ta, nhiều niềm vui và lạc quan hơn.
Kính bạch chư tôn đức và quý liệt vị,
Trong thời gian dài lâu, chư tôn giáo phẩm và liệt quý vị, mặc dầu hoàn cảnh sinh hoạt có khắc nghiệt, sự răn đe cấm cản, sự hù doạ khủng bố có thường xuyên và thô bạo của các thế lực vô minh hung hãn. Thế nhưng, khó khăn không làm chùn bước, danh lợi không màng và bạo lực không làm nản chí, chư tôn đức và liệt quý vị đã đồng hành cùng Giáo hội, cống hiến công của vào sự nghiệp phục vụ chánh pháp và dân tộc, đòi lại pháp lý sinh hoạt bình thường của GH PGVN TN cũng như dân chủ, nhân quyền cho toàn thể dân tộc, kết quả cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu gì sáng sủa. Không những thế, gần đây hơn, đức cố Đệ Tứ Tăng Thống GH PGVN TN, Đại lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang viên tịch, là nỗi đau thương mất mát vô cùng lớn đối với Giáo hội, với chư tôn giáo phẩm, chư Hoà Thượng, Thượng Toạ, Đại Đức Tăng Ni và toàn thể Phật tử. Sự đột ngột ra về của Ngài đã để lại nỗi tiếc thương, trống vắng trong lòng Giáo hội và trong muôn vàn trái tim sắt son của Tăng tín đồ Phật giáo Việt Nam và các Thiện tri thức thế giới!
Trong giây phút này chúng ta hãy dừng lại,
lắng đọng tâm tư giây lát tưởng niệm Giác linh Ngài.
Kính thưa quý vị
Tang lễ đức cố Tăng Thống đã diễn ra êm đẹp trầm hùng trước vô vàn sách lược manh động và thâm độc của ma quân hung hãn bạo ngược, muốn tiêu diệt ngay GH PGVN TN tại tang lễ này. Tưởng chừng như hội đồng tang lễ mất hết cơ may tổ chức. Thế nhưng ánh sáng đến đâu, bóng tối lùi tới đó. Cái tà đã không thắng được điều chân. Con thuyền Bát nhã trí tuệ, sắc tức không, không tức sắc, đã chuyên chở kim thân đức cố Tăng Thống GH PGVN TN đến cõi tịch mặc vĩnh hằng.
Kính thưa quý vị,
Đạo Phật là sinh lực vô cùng phong phú. Đó là nguồn sinh lực của Chánh Pháp. Khởi nguyên cho nguồn sinh lực ấy là đức Phật. Nguồn sinh lực này không phải là những hệ thống lý thuyết vô tận trong ba tạng kinh điển, mà chính là sự thể hiện của chánh Pháp trong đời sống loài người.
Thời đức Phật còn tại thế, người ta chỉ cần nương vào đạo phong của Ngài mà tu tập và chứng ngộ. Nhân cách siêu tuyệt của Ngài đã cảm hoá nhân loại một cách nhiệm màu. Cho đến hơn một trăm năm sau ngày Nhập diệt mà uy đức của nhân cách ấy, vẫn còn hướng dẫn được sự sống của toàn Giáo hội, thì chúng ta đủ biết nguồn sinh lực ấy mạnh mẽ đến chừng nào!
Không những thế, gần ba nghìn năm sau hàng trăm triệu người, nương vào nhân cách ấy để tu tập và tiến bộ, thăng hoa đời sống đạo đức, lễ nghĩa trong xã hội. Đức Phật quả là Nguồn Sống bất tận!
Đệ tử của Ngài qua nhiều thế hệ, đã từng trân trọng và tăng bồi nguồn sinh lực ấy để cho mọi tầng lớp chúng sanh được thụ hưởng.
Còn gì mầu nhiệm và rực rỡ cho Phật giáo hơn, khi giáo lý được thể hiện ngay nơi cuộc sống của Tăng ni, Phật tử và nhân loại.
Hai mươi ba thế kỷ trước ở Ấn Độ, có ông vua hết sức tàn ác, từng đẫm ướt thanh gươm chinh phạt trong máu đào của hàng trăm nghìn sinh dân. Ấy thế mà, khi được cảm hoá theo chánh Pháp, đã trở thành một ông vua nhân từ thuần hậu, được mọi người thương mến kính phục. Đó là A Dục Vương đại đế. A Dục vương tàn ác (Candasoka) đã trở thành A Dục vương của chánh pháp (Dharmasoka).
A Dục vương đã áp dụng Chánh pháp của đức Phật để giúp nước trị dân. Một tổ quốc bao la, đã sinh hoạt theo đạo Phật, một khối dân hàng trăm triệu người sống trong an lạc – không còn ai bị sợ hãi – không một ai bị áp bức – không một ai bị chiếm đoạt đất đai và chẳng còn ai khốn cùng. Đó là thời đại đạo Phật được thịnh hành và áp dụng.
Ở Việt Nam vào các triều đại Lý – Trần, nguồn sinh lực ấy được khơi mở dồi dào nhờ công trình thực tu, thực chứng của các Thiền sư. Còn thêm các đấng quốc vương, tể tướng thực tâm quy y Chánh pháp và nguyện làm theo lời Phật dạy, (chứ không là lợi dụng chánh pháp, khoác áo cà sa vào chùa núp bóng Phật làm việc tà ma, đoạt danh tiếm lợi, bức hại sinh dân). Một dân tộc được sống hiền hoà, hành động theo tinh thần Phật giáo đã đưa quốc gia đến thái bình, an lạc và phú cường. Thời ấy, cũng là thời đại mà đạo Phật được thịnh hành và áp dụng.
Chánh Pháp được sinh hoạt ở đâu, thì nguồn sinh lực được khơi mở ở đó. Nhìn lại những thời đại mà Chánh pháp được thực hiện rõ ràng ấy, chúng ta nghĩ thế nào?
Còn gì mầu nhiệm và rực rỡ cho Phật giáo hơn, khi giáo lý Thế tôn được thể hiện trong đời sống hằng ngày của Tăng ni và Phật tử.
Kính bạch chư tôn giáo phẩm và quý vị.
Trong tinh thần đó, mừng xuân Di Lặc, đối với Tăng ni Phật tử, tôi cầu chúc chư Tôn đức giáo phẩm, chư vị thành viên Hội Đồng Lưỡng Viện, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, và toàn thể Phật tử cùng chư thiện tri thức trong và ngoài nước cùng toàn thể quý liệt vị một mùa xuân mới, an khương thịnh vượng, tinh tấn tu tâm hành thiện, trau dồi Giới - Định - Tuệ để chánh Pháp được rộ nở trong đời sống hằng ngày làm thăng hoa đạo pháp và dân tộc.
Nguyện cầu đất nước sớm thu đạt tự do, dân chủ, nhân dân an lạc, cảnh lầm than đói nghèo, tù tội bị xóa bỏ . Triệu người như một kề vai góp sức chống ngoại xâm, bảo toàn lãnh thổ, lãnh hải và Hoàng-sa Trường-sa để không thẹn với tiền nhân khổ công gầy dựng.
Cầu chúc chư tôn giáo phẩm, chư vị thành viên Hội Đồng Lưỡng Viện, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cùng toàn thể Phật tử và chư thiện tri thức đồng bào các giới trong và ngoài nước, một Mùa Xuân mới an vui, thịnh vượng, và thành công như ý. Tất cả chúng ta thành tâm nguyện cầu mười phương chư Phật, chư Đại Bồ tát, liệt vị Hộ pháp thiện thần, hồn thiêng sông núi, Tổ tiên và anh linh các Thánh tử đạo, phù hộ cho tất cả chúng ta vượt qua cơn quốc nạn và pháp nạn.
NAM MÔ ĐƯƠNG LAI HẠ SANH DI LẶC TÔN PHẬT
Huế, Báo Quốc ngày 03 tháng 01 năm 2009
T.U.N Hòa Thượng Xử lý Viện Tăng Thốngkiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo
Chánh Thư Ký Viện Tăng Thốngkiêm Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo(ấn ký)
Tỷ Kheo Thích Thiện Hạnh
ĐỖ DUNG * TRUYỆN NGẮN
==
Xuân Hạ Thu Đông…Rồi Lại Xuân…
Đỗ Dung
==
Chỉ còn hai tuần nữa là Tết. Trời cuối đông, gió bớt lạnh và nắng đã hanh vàng, nhẹ nhàng xua đi màu xám ảm đạm. Khoác lên mình chiếc áo len mỏng, tôi ra khu vườn nhỏ, vươn vai thở hít khí trời. Dàn nho trơ những cành khô như đang thoi thóp đợi hồi sinh, chậu quỳnh lá xanh mướt đang say sưa uống từng giọt nắng và những khóm cúc vàng, tím đã hé nụ, mỉm cười ... Theo thường lệ mỗi sáng thứ bảy, từ tinh mơ chúng tôi đã ríu rít gọi nhau để cùng ra công viên đi bộ quanh hồ hoặc ra biển đi dọc theo bãi cát. Sáng nay, vì tôi mới trở về sau khi đưa mẹ tôi sang D.C. thăm gia đình ông anh Cả nên chả thấy ai gọi và tôi cũng lười biếng nằm nướng đến bây giờ.
Không đi cũng thấy nhớ, không biết VD đang làm gì, chắc lại tíu tít bên chồng con. Trong các bạn, có lẽ cô nàng là người hạnh phúc nhất, mặt luôn vui tươi, hí hởn, gần ai người ấy cũng vui lây. HT đáng yêu, nhìn đời với cặp mắt bao dung, chuyện gi nàng cũng coi là chuyện nhỏ, luôn an ủi, vỗ về bạn bằng những lời nói chân thật, chí tình. KL dịu dàng, nhẹ nhàng với những ân cần, chu đáo rất Việt Nam còn MP, LD, MH, VB, Ninh, Ly …,những người bạn quanh tôi đã tiếp cho tôi sức sống sau cơn khủng hoảng về gia đình. Những người bạn ở nơi xa xôi như BB, như NK, ĐD, MC, VA, HM, PK, NB, LH, BH… từng khuôn mặt, từng khuôn mặt hiện lên trong tâm trí tôi với từng nét đặc biệt riêng. Tôi yêu các bạn tôi vô cùng!
Nhóm đi bộ chúng tôi có năm người, VD, HT, KL, MP và tôi. Lợi dụng con số 5 nên chúng tôi tự phong mình là “ Ngũ Long Công Chúa”, những lúc MP bận việc không tham dự thì bộ tứ laị thành “ Tứ Đại Cô Nương”. Chúng tôi thân nhau còn hơn chị em ruột, chia xẻ với nhau mọi chuyện, kể cả những khắc khoải, ưu tư trong cuộc sống cũng như những niềm vui chợt đến lại chợt đi …Mỗi buổi sau khi đi bộ chúng tôi kéo nhau vào “shopping mall”, sau đó ghé tiệm ăn và vẫn ăn quà như ngày xưa. Có những đề tài được chúng tôi đem ra bàn tán để rồi rúc ra, rúc rích với nhau vì những chuyện tiếu lâm hoặc ấm a, ấm ức, bực mình vì sao con nhỏ bạn mình… ngu quá!
Một hôm… Trác xuất hiện, như một tình cờ hay như một sự sắp đặt, không cần biết. Chỉ biết rằng tôi, người đàn bà đã ly dị, trên sáu mươi và chàng, một người đàn ông góa gần bảy chục - Hai kẻ cùng cô đơn- Buổi gặp mặt đầu tiên cũng cho tôi những xao xuyến. Tôi cười thầm sao minh lai bồi hồi như con gái mười tám lần đầu tiên đi hẹn với người yêu. Trác còn phong độ ở tuổi cổ lai hy, giọng nói ấm áp, ánh mắt trìu mến… Ngồi đối diện nhau trong tiệm ăn tôi tiếc thầm sao không gặp nhau mười năm về trước, khi tôi mới chia tay Khiêm và vợ của Trác vừa mới qua đời.
Như đọc được tư tưởng tôi Trác nói:
- Đời không có gì là muộn màng Diễm ạ. Quan trọng là chúng mình có hiểu nhau không và có chịu đựng được nhau không.
Ở VN Trác là bác sĩ, sang đây chàng thành nghệ sĩ, sau khi về hưu chàng tìm vui trong những ban nhạc và cũng dạy đàn.
- Diễm có muốn học đàn không, anh sẵn sàng dạy không công cho Diễm!
Trác nói xong đưa tôi hai cây đàn Mandolin bảo cầm về, hôm nào tiện sẽ bắt đầu học.
Buổi hội ngộ đầu tiên cho tôi một thoáng bâng khuâng.
Tiếp đến là những email tìm hiểu, những điện thoại thăm dò ý tứ. Những lời nói ân cần, trìu mến làm lòng tôi như ấm lại, tự ái đàn bà được vuốt ve. Có tình yêu ở tuổi cuối đời này không? Tôi luẩn quẩn, loanh quanh tìm câu giải đáp. Cuộc đời tôi đang tạm bình yên, tôi đã về hưu, Khiêm đã về VN thế nào cũng có cô vợ mới. Điều này cũng chẳng trách được khi hai người đã cùng ký xuống tấm giấy ly hôn. Uyên đã lớn, đã ra trường và có người yêu. Tôi cũng đã quen với nếp sống chung, với những chướng ách của mẹ. Hàng ngày, hàng tuần giỡn hớt, bông đùa với các bạn TV thuở nhỏ, bạn gần và bạn xa.
Một buổi sáng giọng Trác ở đầu dây kia, nồng ấm:
- Hôm nay trời đẹp quá, Diễm có rảnh không, cho anh mời Diễm đi chơi!
- Anh định đưa Diễm đi đâu?
-Đi chùa hay nhà thờ, chỗ nào Diễm thích, anh muốn đến một nơi yên tĩnh cho thanh thản tâm hồn.
Qua những lần điện thoại tôi biết chàng theo Công giáo còn gia đình tôi theo đạo Phật, nghĩ đến Trác tôi chọn đi nhà thờ.
Hai người quỳ lễ, thấy chàng ngước nhìn tượng chúa như đang thành kính nguyện cầu, lòng tôi cũng nao nao.
Khi ra về chàng nhìn sâu trong mắt tôi và hỏi:
- Trước tượng chúa Diễm nghĩ gì, cho anh biết được không?
- Lạy chúa con là người ngoại đạo, nhưng con tin có chúa ở trên cao.
- Chịu con gái Bắc kỳ, em trả lời khéo lắm!
Tôi mỉm cười và không dám hỏi lại anh nghĩ gì vì tôi rất sợ nghe:
- Con qùy lạy chúa trên trời, sao cho con lấy đuợc người con thương …
Có sự chăm sóc, để ý của người khác phái cũng làm con tim tôi vui trở lại, nụ cười như rạng rỡ hơn, ăn mặc chải chuốt hơn. Mọi việc không qua được những cặp mắt “cú vọ” của nhóm “ Ngũ Long Công Chúa “ và vấn đề được đem ra mổ xẻ tận tình:
- Em ơi, cẩn thận nghe em, đừng tin lời đường mật mà đổ thóc giống ra ăn đấy!
- Mi à, mi phải suy nghĩ cho kỹ nghe! Ở tuổi chúng mình còn chữ tình yêu viết hoa không?
- Mi phải biết làm tính cộng, tính trừ. Positive thì tiếp tục còn Negative thì liệu mà gài số dze đi!
Những lúc ngồi một mình, nghĩ về những lời bàn ra, tán vào của bạn bè tôi lại bật cười, tuổi sáu mươi mà cứ như những cô nữ sinh áo trắng ngày xưa nói chuyện về chàng nọ, chàng kia …Nghĩ đến cô Hiền, một giáo sư TV lên xe hoa ở tuổi 75, chú rể 80. Những lần gặp sau này thấy thầy cô rất vui vẻ. Cô tâm sự là cô chỉ cầu xin được ba năm thật Hạnh Phúc, sau đó già yếu thì sẽ nương tựa vào nhau. Cô sẵn sàng hầu thày nếu cô còn sức khỏe. Phải chăng cô đã gặp được người yêu!
Buổi tối, mẹ tôi không có nhà, một mình tôi chả thiết gì chuyện nấu nướng. Lấy nửa chén cơm nguội, rắc chút muối mè, tôi ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế bành, đếm từng hột cơm mà nhai. Những lúc cô đơn như thế này tôi cần một hình bóng, một bờ vai. Những khi buồn tủi tôi cũng mong có một vùng ngực bình yên để nép vào nương tựa, một vòng tay âu yếm vỗ về. Nhìn những cặp vợ chồng bền chặt đến đầu bạc răng long tôi không khỏi thèm thuồng, ganh tị. Tôi ước ao một gia đình nhỏ, hanh phúc giản dị mà suốt đời tôi không có. Ôi buồn …Khi đọc bài viết “ Ai sẽ là tôi” cuả Trần Mộng Tú lại càng thêm buồn thấm thía. Ai sẽ là “tôi”, ai sẽ là người ngồi bên giường khi tôi đau ốm. Ai sẽ là người thăm viếng khi tôi phải ở trong nhà già. Cả một viễn ảnh thê lương. Nhớ về Trần Vũ Thị Phúc, một cô bạn cùng khóa, Phúc được cải tử hoàn sinh vì tấm lòng yêu thương chân tình của Kevin, một mối tình đẹp của thế kỷ. Họ đã làm đám cưới trên giường bệnh khi cô dâu hấp hối và với mãnh lực của tình yêu Phúc đã chiến thắng được tử thần. Kevin đã bỏ tất cả, danh vọng, sự nghiệp, tiền bạc để chăm sóc Phúc. Đổi lại, Kevin được gì! Đó chẳng là TÌNH YÊU viết hoa sao!
Tình yêu là gì, phải chăng là một sự cho đi và nhận lại, là hai người tri kỷ, là hai người tin cậy nhau, thông cảm nhau, có thể chia xẻ chuyện buồn vui cũng như nâng đỡ, an ủi nhau khi cần…
Có thể đó là những ý tưởng lãng mạn, còn trong thực tế nếu sống chung thì sao? Phải đối đầu với biết bao nhiêu vấn nạn: Bệnh hoạn đau yếu của tuổi già. Một ngày là nghĩa nhưng chưa biết rằng ai sẽ hầu ai, đang khỏe mạnh đấy mà biết đâu một sớm, một chiều … Rồi lại con anh, con tôi … Rồi lại anh bừa bãi, tôi ở sạch, anh thích tiêu tiền, tôi thích cần kiệm. Tiền nào của anh, tiền nào của chung …
Như bạn ở xa đã thì thầm qua phone:
- Diễm ơi, ở tuổi chúng mình, sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống, ai cũng đã cứng cỏi, khó mà thay đổi lắm. Mi liệu có hợp với ông ta không? Liệu ông ta có hợp với mi không? Suy nghĩ cho kỹ vì không còn thời gian để mà uốn nắn nhau đâu. Không ai có thể sửa ai được đâu. Cứng như thép hết rồi.
- Mi ơi, cứ giữ ở mức độ tình bạn lại hay hơn. Ai ở nhà nấy, lâu lâu tìm đến nhau, an ủi vỗ về khi cần thiết và thỉnh thoảng cùng nhau đi du lịch, đi chơi xa vài ngày…Như thế vẫn có một giới hạn và lúc nào cũng tương kính như tân.
- Diễm ơi, ta biết mi là người chịu thương, chịu khó, tình lụy, lụy tình, vướng vào lại khổ thôi. Lại có người để mà hầu. Mi nên nhớ còn Cụ nữa đó!
Khổ quá, tôi không quen làm tính cộng, tính trừ. Tôi không quen phân bì hơn thiệt. Tôi là người đàn bà yếu đuối. Thôi xin cứ để mặc số trời.
Mùa xuân đến cây cối sẽ đâm chồi, nảy lộc. Chim chóc sẽ cất tiếng hoan ca… Nhưng đâu đây lại văng vẳng tiếng ai đang hát:
- Ta quen nhau mùa thu, ta thương nhau mùa đông, ta yêu nhau mùa xuân để rồi tàn theo mùa xuân....... Ai' ân …
Chả ai biết được ngày mai! Trăng rằm sáng vằng vặc đang dịu dàng len qua cửa sổ. Lòng tôi có thanh thản không mà nghe như mình đã thở dài. Hai cây đàn ngoan ngoãn nép mình trong góc phòng như đang nhìn tôi tha thiết... Sao tôi vẫn lủi thủi cô đơn ...
Tháng Giêng 2009
Đỗ Dung
Xuân Hạ Thu Đông…Rồi Lại Xuân…
Đỗ Dung
==
Chỉ còn hai tuần nữa là Tết. Trời cuối đông, gió bớt lạnh và nắng đã hanh vàng, nhẹ nhàng xua đi màu xám ảm đạm. Khoác lên mình chiếc áo len mỏng, tôi ra khu vườn nhỏ, vươn vai thở hít khí trời. Dàn nho trơ những cành khô như đang thoi thóp đợi hồi sinh, chậu quỳnh lá xanh mướt đang say sưa uống từng giọt nắng và những khóm cúc vàng, tím đã hé nụ, mỉm cười ... Theo thường lệ mỗi sáng thứ bảy, từ tinh mơ chúng tôi đã ríu rít gọi nhau để cùng ra công viên đi bộ quanh hồ hoặc ra biển đi dọc theo bãi cát. Sáng nay, vì tôi mới trở về sau khi đưa mẹ tôi sang D.C. thăm gia đình ông anh Cả nên chả thấy ai gọi và tôi cũng lười biếng nằm nướng đến bây giờ.
Không đi cũng thấy nhớ, không biết VD đang làm gì, chắc lại tíu tít bên chồng con. Trong các bạn, có lẽ cô nàng là người hạnh phúc nhất, mặt luôn vui tươi, hí hởn, gần ai người ấy cũng vui lây. HT đáng yêu, nhìn đời với cặp mắt bao dung, chuyện gi nàng cũng coi là chuyện nhỏ, luôn an ủi, vỗ về bạn bằng những lời nói chân thật, chí tình. KL dịu dàng, nhẹ nhàng với những ân cần, chu đáo rất Việt Nam còn MP, LD, MH, VB, Ninh, Ly …,những người bạn quanh tôi đã tiếp cho tôi sức sống sau cơn khủng hoảng về gia đình. Những người bạn ở nơi xa xôi như BB, như NK, ĐD, MC, VA, HM, PK, NB, LH, BH… từng khuôn mặt, từng khuôn mặt hiện lên trong tâm trí tôi với từng nét đặc biệt riêng. Tôi yêu các bạn tôi vô cùng!
Nhóm đi bộ chúng tôi có năm người, VD, HT, KL, MP và tôi. Lợi dụng con số 5 nên chúng tôi tự phong mình là “ Ngũ Long Công Chúa”, những lúc MP bận việc không tham dự thì bộ tứ laị thành “ Tứ Đại Cô Nương”. Chúng tôi thân nhau còn hơn chị em ruột, chia xẻ với nhau mọi chuyện, kể cả những khắc khoải, ưu tư trong cuộc sống cũng như những niềm vui chợt đến lại chợt đi …Mỗi buổi sau khi đi bộ chúng tôi kéo nhau vào “shopping mall”, sau đó ghé tiệm ăn và vẫn ăn quà như ngày xưa. Có những đề tài được chúng tôi đem ra bàn tán để rồi rúc ra, rúc rích với nhau vì những chuyện tiếu lâm hoặc ấm a, ấm ức, bực mình vì sao con nhỏ bạn mình… ngu quá!
Một hôm… Trác xuất hiện, như một tình cờ hay như một sự sắp đặt, không cần biết. Chỉ biết rằng tôi, người đàn bà đã ly dị, trên sáu mươi và chàng, một người đàn ông góa gần bảy chục - Hai kẻ cùng cô đơn- Buổi gặp mặt đầu tiên cũng cho tôi những xao xuyến. Tôi cười thầm sao minh lai bồi hồi như con gái mười tám lần đầu tiên đi hẹn với người yêu. Trác còn phong độ ở tuổi cổ lai hy, giọng nói ấm áp, ánh mắt trìu mến… Ngồi đối diện nhau trong tiệm ăn tôi tiếc thầm sao không gặp nhau mười năm về trước, khi tôi mới chia tay Khiêm và vợ của Trác vừa mới qua đời.
Như đọc được tư tưởng tôi Trác nói:
- Đời không có gì là muộn màng Diễm ạ. Quan trọng là chúng mình có hiểu nhau không và có chịu đựng được nhau không.
Ở VN Trác là bác sĩ, sang đây chàng thành nghệ sĩ, sau khi về hưu chàng tìm vui trong những ban nhạc và cũng dạy đàn.
- Diễm có muốn học đàn không, anh sẵn sàng dạy không công cho Diễm!
Trác nói xong đưa tôi hai cây đàn Mandolin bảo cầm về, hôm nào tiện sẽ bắt đầu học.
Buổi hội ngộ đầu tiên cho tôi một thoáng bâng khuâng.
Tiếp đến là những email tìm hiểu, những điện thoại thăm dò ý tứ. Những lời nói ân cần, trìu mến làm lòng tôi như ấm lại, tự ái đàn bà được vuốt ve. Có tình yêu ở tuổi cuối đời này không? Tôi luẩn quẩn, loanh quanh tìm câu giải đáp. Cuộc đời tôi đang tạm bình yên, tôi đã về hưu, Khiêm đã về VN thế nào cũng có cô vợ mới. Điều này cũng chẳng trách được khi hai người đã cùng ký xuống tấm giấy ly hôn. Uyên đã lớn, đã ra trường và có người yêu. Tôi cũng đã quen với nếp sống chung, với những chướng ách của mẹ. Hàng ngày, hàng tuần giỡn hớt, bông đùa với các bạn TV thuở nhỏ, bạn gần và bạn xa.
Một buổi sáng giọng Trác ở đầu dây kia, nồng ấm:
- Hôm nay trời đẹp quá, Diễm có rảnh không, cho anh mời Diễm đi chơi!
- Anh định đưa Diễm đi đâu?
-Đi chùa hay nhà thờ, chỗ nào Diễm thích, anh muốn đến một nơi yên tĩnh cho thanh thản tâm hồn.
Qua những lần điện thoại tôi biết chàng theo Công giáo còn gia đình tôi theo đạo Phật, nghĩ đến Trác tôi chọn đi nhà thờ.
Hai người quỳ lễ, thấy chàng ngước nhìn tượng chúa như đang thành kính nguyện cầu, lòng tôi cũng nao nao.
Khi ra về chàng nhìn sâu trong mắt tôi và hỏi:
- Trước tượng chúa Diễm nghĩ gì, cho anh biết được không?
- Lạy chúa con là người ngoại đạo, nhưng con tin có chúa ở trên cao.
- Chịu con gái Bắc kỳ, em trả lời khéo lắm!
Tôi mỉm cười và không dám hỏi lại anh nghĩ gì vì tôi rất sợ nghe:
- Con qùy lạy chúa trên trời, sao cho con lấy đuợc người con thương …
Có sự chăm sóc, để ý của người khác phái cũng làm con tim tôi vui trở lại, nụ cười như rạng rỡ hơn, ăn mặc chải chuốt hơn. Mọi việc không qua được những cặp mắt “cú vọ” của nhóm “ Ngũ Long Công Chúa “ và vấn đề được đem ra mổ xẻ tận tình:
- Em ơi, cẩn thận nghe em, đừng tin lời đường mật mà đổ thóc giống ra ăn đấy!
- Mi à, mi phải suy nghĩ cho kỹ nghe! Ở tuổi chúng mình còn chữ tình yêu viết hoa không?
- Mi phải biết làm tính cộng, tính trừ. Positive thì tiếp tục còn Negative thì liệu mà gài số dze đi!
Những lúc ngồi một mình, nghĩ về những lời bàn ra, tán vào của bạn bè tôi lại bật cười, tuổi sáu mươi mà cứ như những cô nữ sinh áo trắng ngày xưa nói chuyện về chàng nọ, chàng kia …Nghĩ đến cô Hiền, một giáo sư TV lên xe hoa ở tuổi 75, chú rể 80. Những lần gặp sau này thấy thầy cô rất vui vẻ. Cô tâm sự là cô chỉ cầu xin được ba năm thật Hạnh Phúc, sau đó già yếu thì sẽ nương tựa vào nhau. Cô sẵn sàng hầu thày nếu cô còn sức khỏe. Phải chăng cô đã gặp được người yêu!
Buổi tối, mẹ tôi không có nhà, một mình tôi chả thiết gì chuyện nấu nướng. Lấy nửa chén cơm nguội, rắc chút muối mè, tôi ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế bành, đếm từng hột cơm mà nhai. Những lúc cô đơn như thế này tôi cần một hình bóng, một bờ vai. Những khi buồn tủi tôi cũng mong có một vùng ngực bình yên để nép vào nương tựa, một vòng tay âu yếm vỗ về. Nhìn những cặp vợ chồng bền chặt đến đầu bạc răng long tôi không khỏi thèm thuồng, ganh tị. Tôi ước ao một gia đình nhỏ, hanh phúc giản dị mà suốt đời tôi không có. Ôi buồn …Khi đọc bài viết “ Ai sẽ là tôi” cuả Trần Mộng Tú lại càng thêm buồn thấm thía. Ai sẽ là “tôi”, ai sẽ là người ngồi bên giường khi tôi đau ốm. Ai sẽ là người thăm viếng khi tôi phải ở trong nhà già. Cả một viễn ảnh thê lương. Nhớ về Trần Vũ Thị Phúc, một cô bạn cùng khóa, Phúc được cải tử hoàn sinh vì tấm lòng yêu thương chân tình của Kevin, một mối tình đẹp của thế kỷ. Họ đã làm đám cưới trên giường bệnh khi cô dâu hấp hối và với mãnh lực của tình yêu Phúc đã chiến thắng được tử thần. Kevin đã bỏ tất cả, danh vọng, sự nghiệp, tiền bạc để chăm sóc Phúc. Đổi lại, Kevin được gì! Đó chẳng là TÌNH YÊU viết hoa sao!
Tình yêu là gì, phải chăng là một sự cho đi và nhận lại, là hai người tri kỷ, là hai người tin cậy nhau, thông cảm nhau, có thể chia xẻ chuyện buồn vui cũng như nâng đỡ, an ủi nhau khi cần…
Có thể đó là những ý tưởng lãng mạn, còn trong thực tế nếu sống chung thì sao? Phải đối đầu với biết bao nhiêu vấn nạn: Bệnh hoạn đau yếu của tuổi già. Một ngày là nghĩa nhưng chưa biết rằng ai sẽ hầu ai, đang khỏe mạnh đấy mà biết đâu một sớm, một chiều … Rồi lại con anh, con tôi … Rồi lại anh bừa bãi, tôi ở sạch, anh thích tiêu tiền, tôi thích cần kiệm. Tiền nào của anh, tiền nào của chung …
Như bạn ở xa đã thì thầm qua phone:
- Diễm ơi, ở tuổi chúng mình, sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống, ai cũng đã cứng cỏi, khó mà thay đổi lắm. Mi liệu có hợp với ông ta không? Liệu ông ta có hợp với mi không? Suy nghĩ cho kỹ vì không còn thời gian để mà uốn nắn nhau đâu. Không ai có thể sửa ai được đâu. Cứng như thép hết rồi.
- Mi ơi, cứ giữ ở mức độ tình bạn lại hay hơn. Ai ở nhà nấy, lâu lâu tìm đến nhau, an ủi vỗ về khi cần thiết và thỉnh thoảng cùng nhau đi du lịch, đi chơi xa vài ngày…Như thế vẫn có một giới hạn và lúc nào cũng tương kính như tân.
- Diễm ơi, ta biết mi là người chịu thương, chịu khó, tình lụy, lụy tình, vướng vào lại khổ thôi. Lại có người để mà hầu. Mi nên nhớ còn Cụ nữa đó!
Khổ quá, tôi không quen làm tính cộng, tính trừ. Tôi không quen phân bì hơn thiệt. Tôi là người đàn bà yếu đuối. Thôi xin cứ để mặc số trời.
Mùa xuân đến cây cối sẽ đâm chồi, nảy lộc. Chim chóc sẽ cất tiếng hoan ca… Nhưng đâu đây lại văng vẳng tiếng ai đang hát:
- Ta quen nhau mùa thu, ta thương nhau mùa đông, ta yêu nhau mùa xuân để rồi tàn theo mùa xuân....... Ai' ân …
Chả ai biết được ngày mai! Trăng rằm sáng vằng vặc đang dịu dàng len qua cửa sổ. Lòng tôi có thanh thản không mà nghe như mình đã thở dài. Hai cây đàn ngoan ngoãn nép mình trong góc phòng như đang nhìn tôi tha thiết... Sao tôi vẫn lủi thủi cô đơn ...
Tháng Giêng 2009
Đỗ Dung
LÊ MỘNG NGUYÊN * XUÂN KỶ SỬU
Nhân mùa Xuân Kỷ Sửu 2009
NS Lê Mộng Nguyên
(tâm tình với đồng hương trên Đài Radio Free VietNam – New Orleans, ngày thứ tư 17 th.12-2008 – Phân Bộ Paris : Tiếng Nói của Người Việt Quốc Gia Tự Do Tại Pháp)
Cứ mỗi năm, lúc mùa xuân đến trong kiếp lưu vong, tôi lại nhớ câu nói cuối cùng của Anh quốc vương Charles Đệ Nhất trước khi lên đoạn đầu đài năm 1649 : « Souvenez-vous !». Cứ mỗi năm, trong tháng giêng tây, các nước Âu Châu lại tụ họp nhau tại Ba Lan để làm kỷ niệm trại tập trung Auschwitz được quân đồng minh giải phóng năm 1945, là nơi mà Đức Quốc Xã (chủ nghĩa nazisme) đã thủ tiêu hơn 1 triệu người Do Thái bằng hơi ngạt rồi thiêu xác, trong thế chiến thứ hai. Nhân dịp này người ta nhắc đến « Bổn phận phải nhớ » (Devoir de mémoire), một sứ mệnh mà chúng ta phải làm tròn đối với lương tâm nhân loa.i. Mùa xuân Kỷ Sửu 2009 cũng như những mùa xuân khác trước đây, làm tôi nhớ lại một cách hãi hùng Tết Mậu Thân 1968, mà Giáo Dân Việt Nam Hải ngoại đã tóm tắt ở Trang Bìa Tuyển Tập –
Tài Liệu (do Định Hướng, Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ xuất bản, 1998), như sau : Lợi dụng giờ phút giao thừa thiêng liêng của dân tộc, Cộng sản VN mở cuộc tấn công đại qui mô trên toàn lãnh thổ miền Nam. Một cuộc giao tranh đẫm máu nhất kể từ mười năm nội chiến, mà chỉ chưa đầy một tháng đã khiến trên 80 000 người Việt thiệt ma.ng. Cao điểm tàn bạo và đẫm máu là HUẾ, nơi hàng ngàn thường dân vô tội đã bị hành quyết, chôn sống một cách dã man… Theo Nguyễn Trân, 2 800 người dân Huế (là nơi tôi sinh trưởng) bị Việt cộng giết và chôn tập thể. Tôi đã nêu lên câu hỏi (cách đây 5 năm) : so sánh với Hitler, chúng ta nghĩ như thế nào ? Thực dân trắng với đồng lõa phát xít Nhật trong năm Ất Dậu (thuộc hành Thủy, từ 13 tháng 02-1945 đến ngày 01 tháng 02-1946), đã cố tâm làm cho 2 triệu đồng bào Việt Nam chết đói hồi ấy một cách tàn nhẫn, thê thảm… sau khi đã thả bom đạn trong mùa xuân 1930, ngày 16 tháng 02, xuống làng Cổ Am (tỉnh Hải Dương) khủng bố thường dân, để trả thù vụ tổng khởi nghĩa ngày 10 tháng 02-1930 tại Yên Báy do vị anh hùng Nguyễn Thái Học đề cao… và ông đã bị xử quyết với 12 đồng chí rạng ngày 17 tháng 06 - 1930. Lúc qua Paris để trình bày sách Đường Thiên Lý - tam ngữ của Linh Linh Ngọc (trong đó có bản dịch Pháp ngữ « Tình Sử Nguyễn Thái Học – Cô Giang » - của Lê Mộng Nguyên), tại Thượng Nghị Viện Cộng Hòa Pháp – Salons de Boffrand , ngày thứ bảy 04 tháng 12 – 2004, nhạc sĩ Trần Quan Long thay mặt Nhà Xuất bản và Phát Hành Gió Đông, muốn đòi một lời xin lỗi của chính quyền Cộng Hòa về những hành động của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Chúng ta, đồng hương hải ngoại và quốc nội hiện nay, cũng cương quyết đòi một lời xin lỗi của nhà cầm quyền Hà Nội đã gieo tang tóc trên nước Việt Nam miền Bắc từ 1945 đến 1954 và trên toàn lãnh thổ từ ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư 1975. Phải thành thật xin lỗi và xin thứ lỗi trước hương hồn những vị anh hùng Quốc gia đã phải bỏ mình vì Cộng sản, bằng cách hối hận ăn năn, giải thoát ngay nước ta ra khỏi gông cùm độc tài đảng trị, cho mọi công dân được ấm no trong hạnh phúc, hòa bình, cho « Việt Nam Thắm Tươi –
Sau Ngày Hồi Phục Đất Nước Tự Do », đúng như tên của nhạc phẩm tôi vừa sáng tác và được trình bày hợp ca trong đêm văn nghệ 30 tháng 08 – 2008 tại Bruxelles (Vương quốc Bỉ) : Chào đón Việt Nam thắm tươi vùng Đông Á
Ta đồng tâm xây đắp ngày mai sáng ngời,
Công dân ơi ! từ nay xin noi gương hùng anh, ngàn năm kiếp người Việt Nam hiến thân... Cộng Hòa thắm tươi ! Ngày xưa lừng lẫy còn ghi dấu tiếng thơm qua núi sông thương người Lam Sơn :
Việt Nam thắm tươi !
Sông Bạch Đằng chan hòa dòng máu cho quốc dân thoát nơi lầm than ! Nam Bắc Trung cùng nhau,
Ta người Việt Nam tranh đấu cho khắp nơi hào quang nhiệm mầu…
Công dân ơi! từ nay ta xông pha ngại gì đường xa cố lòng cương chí bước đi,
Việt Nam thắm tươi !
Đồng bào mến yêu, xây sơn hà cho xứng dân oai hùng Việt Nam ! Đó không phải là một ảo tượng mà là một tin tưởng vững chắc cho một ngày mai tươi sáng, sau khi toàn dân cùng đại loạt nổi dậy đứng lên, bắt buộc nhà cầm quyền phải từ bỏ chế độ cộng sản lỗi thời để thành lập - như đòi hỏi của mọi người đang tranh đấu chống bạo tàn - một nước Việt Nam hùng mạnh dưới bầu trời Đông Nam Á, dân chủ thực sự, độc lập, TỰ DO. Tôi sẽ trở về cố quận lúc ấy, hiến dâng năng lực và kinh nghiệm rèn đúc trong kiếp tha hương đặng bồi đắp sơn hà mỗi ngày càng tươi sáng. Trong bài NHỚ HUẾ (Nostalgie de Hué) của Lê Mộng Nguyên, do Nhà Xuất Bản Á Châu (Bắc Việt : 59, Trần Nhân Tôn – Hà Nội ; Nam Việt : 16, đường Barbé – Sài Gòn - Tổng Phát Hành tại Việt Nam : Nguyễn Bá Châu : 92bis, Colonel Boudonnet – Sài Gòn) in lần thứ nhất năm 1952 (Giấy phép số 373/T.X.B. ngày 16 tháng 06 – 1952 của Nha Thông Tin Nam Việt) mà quí đồng hương mỗi lần nghe phải xúc động qua giọng hát trầm cảm của HOÀNG OANH, mỗi khi nữ danh ca diễn tả nỗi lòng của tác giả, đượm tình đất nước và triển vọng tương lai qua cựu kinh thành nhà Nguyễn với núi Ngự, sông Hương :
Ị- Ai đi xa Huế, làm sao quên được sông Hương
Con sông năm trước còn ghi bao tình nhớ thương
Theo giòng nước, lững lờ trôi…
Thuyền ai nghiêng mái chèo bên chùa Thiên Mụ,
ngược bến Bao Vinh theo tình nước mây ?
IỊ- Ai đi xa Huế, ngàn năm nhớ làn mắt ướt
Đây cô gái Huế làm duyên dáng cười với ai ?
Mây trời nước, bên giòng Hương…
Đò ơi ! qua bến này, khách dừng chân lại,
còn lắng nghe xa chuông chùa bao la.
* * *
Chiều nay lướt cánh chim về thành phố Huế
Chim kêu chiêm chiếp gọi đàn tha thiết
ngày về nào biết ai mơ thành xưa.
Tấc lòng cố quốc quê nhà xa xa
Ai về xứ Huế đôi lời nhắn trông ? Hồn anh linh còn xứ Huế mến yêu
Là đất nước tôi hằng mơ ước say
Thành phố Huế, thành phố Huế mến yêu !
Dù cách xa muôn ngàn năm luyến lưu bên giòng Hương.
Lê Mộng Nguyên (Paris)
Sunday, January 18, 2009
ÂM MƯU CỘNG SẢN GIAN TRÁ
HÃY ĐỀ PHÒNG TÀI LIỆU GIẢ MẠO CỦA CỘNG SẢN
Cảnh báo tài liệu giả “bãi nhiệm” ông Võ Văn Ái chức Phát ngôn nhân Viện Hoá Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất2008-03-25 PTTPGQTPARIS, ngày 25.3.2008 (PTTPGQT) -Trong mấy ngày vừa qua một tài liệu giả được tung lên các mạng Internet cho biết Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), ký Quyết Định ngày 18.3.2008 mang số 39/VHĐ/QĐ/VT giải nhiệm ông Võ Văn Ái làm Phát ngôn nhân cho Viện Hoá Đạo.
Quyết Định giả này được gửi đi từ Úc châu qua 2 địa chỉ phatahienchanh@gmail.com hôm 22.3.2008 và thautamcan@yahoo.com hôm 23.3.2008 kèm theo bản PDF có chữ ký của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ và khuôn dấu của Viện Hoá Đạo.
Quyết định giả mạo này được Trang nhà (Website) Ánh Dương (http://www.anhduong.info/) tại California, Hoa Kỳ chuyển tải gây xôn xao, sửng sốt giới báo chí, truyền thông và dư luận Cộng đồng hải ngoại.Nhân đây, Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế chân thành gửi lời tri ân đến một số báo chí có lương tâm nhà nghề tại Hoa Kỳ và Úc châu đã điện thoại hoặc gửi E.mail về Paris hỏi thăm và yêu cầu xác định trước khi loan tải.Qua hai Thông cáo báo chí phát hành ngày 17 và 19.3.2008, chúng tôi đã xin Đồng bào Phật tử và Đồng bào các giới cảnh báo tài liệu giả mạo có tên “Quyết định mang số 38 do Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ ký tại Saigon ngày 9.3.2008” với một thành phần nhân sự của GHPGVNTN Hải ngoại tại Úc châu và Tân Tây Lan gồm “52 người”, trong khi Quyết định thật của Viện Hoá Đạo chỉ có 29 vị Tăng Ni. Tài liệu giả này được đưa lên Mạng trong hai ngày 14 và 15.3.2008 do hai địa chỉ phát đi từ Úc châu :
thichgiactin@gmail.comvà vanphongcoigiua@gmail.com.
Tư liệu giả thứ hai hôm nay, một lần nữa, kẻ gian tiếp tục gây hoang mang, phân liệt Cộng đồng Người Việt Hải ngoại nói chung và Cộng đồng Phật giáo nói riêng. Chúng tôi xin trả lời chung với hàng trăm điện thư gửi về Paris hai ngày qua rằng :Quyết định giải nhiệm ông Võ Văn Ái chức vụ Phát ngôn nhân Viện Hoá Đạo là dối láo giống như tài liệu giả trước đây công bố sai Quyết định của Viện Hoá Đạo phê chuẩn thành phần nhân sự GHPGVNTN Hải ngoại tại Úc châu.Đồng bào Phật tử tại Úc châu vừa cung cấp cho chúng tôi tung tích Nhóm « nhà sư » làm giả các tài liệu hoặc thường vào quậy phá các Paltalk của Cộng đồng như sau :Một « nhà sư » nhân viên của tuần báo « Giác Ngộ », Cơ quan ngôn luận của Thành hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh (thuộc Giáo hội Nhà nước), được Thượng toạ Thích Quảng Ba bảo lãnh sang cư trú tại Úc.
« Nhà sư » này cùng với một số các « sư » thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam (tức Giáo hội Nhà nước) tập trung trong một ngôi chùa ở vùng ngoại ô Sydney để « hành đạo » theo chủ trương của Ban Tôn giáo Chính phủ. « Nhà sư » này mở một số địa chỉ E.mail để gửi bài vở lên Mạng thực hiện việc « hành đạo » của họ. Đại quan, một số địa chỉ đã được dùng để « hành đạo » là :thichgiactin@gmail.com ; phatahienchanh@gmail.com ; hienchanhphata@yahoo.com ; thautamcan@yahoo.com ; Atula Gioi vanphongcoigiua@gmail.com ; vanphongcoitren@gmail.com ; vanphongcoiduoi@gmail.com ; tonggiamdocvanphongcoitren@gmail.com ; vonga3@gmail.com ; Baovechanhphap@googlegroups.com ; vpvhdhk@gmail.com ; nguoihophap@gmail.com.
Ngoài việc chuyển đi những bài thơ, bản tin hay bài vở “chống Cộng” vô hại, thỉnh thoảng cho chen vào các bài phản tuyên truyền của Đảng CS. Việc « hành đạo » rõ nét và cụ thể như thế của “nhà sư” nói trên cùng đồng bọn có thể thấy qua 4 dấu hiệu gần đây :- Ngày 25.1.2008 địa chỉ "Bảo Vệ Chánh Pháp" phatahienchanh@gmail.com phát đi bài “Sự thật về những việc làm sai trái của ông Quảng Độ” của Hồng Lĩnh đăng trên báo “Công An Nhân dân” ngày 27.8.2007. Kèm bài cung cấp cho người đọc địa chỉ Trang nhà điện tử Công An Nhân dân để người đọc có thể vào xem các bài tuyên truyền, vu khống, chửi bới khác của Công an cộng sản.- Trong hai ngày 14 và 15.3.2008, hai địa chỉ thichgiactin@gmail.com và vanphongcoigiua@gmail.com tung lên mạng Internet tài liệu giả mạo “Quyết định Viện Hoá Đạo phê chuẩn thành phần nhân sự của GHPGVNTN Hải ngoại tại Úc châu và Tân Tây Lan gồm “52 người” cho nhiệm kỳ “2007-2011”, bao gồm Thượng toạ Thích Quảng Ba và một số “nhà sư” trong nhóm của họ vốn không có trong Quyết định thật.- Ngày 19.3.2008, địa chỉ "Atula Giới" vanphongcoigiua@gmail.com loan tin ông Võ Văn Ái chết.- Trong hai ngày 22 và 23.3.2009, hai địa chỉ phatahienchanh@gmail.com và thautamcan@yahoo.com tung lên mạng Internet Quyết định giả của Viện Hoá Đạo “thôi chức Phát ngôn nhân Viện Hoá Đạo của Đạo hữu Võ Văn Ái”.Quyết định giả giải nhiệm ông Võ Văn Ái thấy rõ qua 4 sự kiện :1. Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ và Viện Hoá Đạo không hề có ý định như thế ;2. Mẫu giấy tín chỉ (letterhead) của Viện Hoá Đạo khác với mẫu trên Quyết định giả ;3. Kẻ gian scan phần ấn ký của Đại lão Hoà thượng trong một văn kiện thật, rồi đem ghép vào bản đánh máy giả, nên hai loại chữ cũng như thân chữ (corps) rất khác nhau ; và4. Vì ngày tháng trong mẩu scan văn kiện thật không cùng ngày, nên kẻ gian đánh thêm số 8 vào sau số 1, ai nhìn kỹ sẽ phát hiện ngay sự giả mạo ngu lố của kẻ gian.Xin xem Quyết định giả phân tích các sự kiện giả mạo 2, 3, và 4 dưới đây.Sự “giao ban” cho các “nhà sư” hải ngoại đánh phá, bôi nhọ và phân liệt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhấtTrong chiến dịch mới nhằm Quốc-doanh-hoá Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khởi động từ năm 2005, Ban Tôn giáo Chính phủ kết hợp với Bộ Công an đã “giao ban” cho bộ phận “Sư và Cư sĩ Quốc doanh”, nếu không nói là “Sư và Cư sĩ Công an”, ở hải ngoại điều hành việc ly gián và phân liệt Giáo hội và Cộng đồng Phật giáo hải ngoại.
Trước kia, báo chí, truyền thông của Đảng trong nước trực tiếp viết bài mạ lỵ, vu khống, chửi bới ông Võ Văn Ái từ năm 1977 trở đi (năm ông Ái mở cuộc vận động quốc tế cho Nhân quyền và Tù nhân trại Cải tạo cũng như xướng xuất Con Tàu Đảo Ánh Sáng ra Biển Đông với Người Vượt Biển), thì nay việc chửi thuê viết mướn ấy “giao ban” cho các “nhà sư và Cư sĩ” ở hải ngoại, đồng thời sử dụng nhiều Trang nhà tại Hoa Kỳ, Canada, Úc châu, hay thông qua các nhóm Internet có tên là “Nhóm Tăng Ni Hải ngoại”, “Nhóm Tăng Ni Việt Nam Hải ngoại”, “Nhóm Phật giáo Việt Nam vì Dân tộc”, v.v... hợp đồng với các địa chỉ E.mail nêu ở phần trên.Kính xin Đồng bào, các Tôn giáo, Hội đoàn, Đoàn thể cảnh giác âm mưu ly gián, phân liệt thâm độc này để bảo toàn Cộng đồng đấu tranh của Người Việt tị nạn ở hải ngoại.
* * *
Xin cảnh báo những tài liệu giả danh Viện Hoá Đạo nhằm gây hoang mang và chia rẽ Phật giáo.Trong hai ngày 14 và 15.3.2008, hai địa chỉ E.mail tại Úc châu có tên thichgiactin@gmail.com và vanphongcoigiua@gmail.com tung lên mạng Internet một tư liệu giả mạo ghi là “Quyết định mang số 38 do Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ ký tại Saigon ngày 9.3.2008” với một thành phần nhân sự của GHPGVNTN Hải ngoại tại Úc châu và Tân Tây Lan gồm “52 người” cho nhiệm kỳ “2007-2011”.Trên E.mail gửi đi ở phần chủ đề (Subjet) ghi rằng : “Xin gui den Chu Ton Duc. day la Nhan su GHtai Uc Chau duoc HT Vien Truong phe chuan nhung khi dua ra cho Cu Sy Vo Van Ai, Pho vien truong Ngoai Vu da thay doi hoan toan, xin dinh kem ban chinh do Ht Vien Truong ky”. Chúng tôi xin bỏ dấu cho dễ hiểu như sau :“Xin gửi đến Chư Tôn Đức đây là nhân sự Giáo hội tại Úc được Hoà thượng Viện trưởng phê chuẩn nhưng khi đưa ra cho Cư Sỹ Võ Văn Ái, Phó Viện trưởng Ngoại vụ đã thay đổi hoàn toàn, xin đính kèm bản chính do Hoà thượng Viện trưởng ký”.Dù viết rõ “bản chính do Hoà thượng Viện trưởng ký”, nhưng tài liệu gửi đi không thấy chữ ký của Hoà thượng Thích Quảng Độ cũng như không có khuôn dấu của Viện Hoá Đạo.
Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin báo động và minh định rằng tài liệu nói trên là giả mạo do những kẻ có mưu đồ đen tối đang tạo dư luận gây phân hoá cộng đồng Phật giáo hải ngoại, gây phân liệt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), nhằm thủ tiêu cuộc đấu tranh vận động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN và tự do tôn giáo, nhân quyền, dân chủ cho quê hương Việt Nam.Tài liệu giả mạo trên có thể nhận rõ qua ba sự kiện. Một là ghi tên 52 chư Tăng Ni, không có thực trong Quyết định số 38 của Viện Hoá Đạo ban hành ngày 9.3.2008 và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế phát hành qua Thông cáo báo chí ngày 11.3.2008. Quyết định này chỉ có 29 chư Tăng Ni là thành phần nhân sự GHPGVNTN Hải ngoại tại Úc và Tân Tây Lan được Viện Hoá Đạo phê chuẩn (xin xem toàn văn thông cáo trên trang nhà Quê Mẹ và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế :
http ://www.queme.net
Hai là nhiều tên tuổi trong danh sách giả mạo gồm 52 Tăng Ni có nhiều vị không được Viện Hoá Đạo trong nước công nhận, như trường hợp Thượng toạ Thích Quảng Ba là một. Thứ ba là tư liệu giả mạo ghi nhiệm kỳ “2007-2011” ; Quyết định ký ngày 9.3.2008, thì sao lại bắt đầu nhiệm kỳ từ “2007” ?Vậy kính xin đồng bào các giới và đồng bào Phật tử cảnh giác hằng loạt địa chỉ E.mail ghi đủ thứ tên nặc danh, trá hình, kể cả tên chư Tăng, hoặc tiếm danh GHPGVNTN, tung lên Internet thời gian qua nhằm phân liệt GHPGVNTN Hải ngoại hầu thủ tiêu cuộc đấu tranh cho tự do tôn giáo, nhân quyền và dân chủ tại Việt Nam của Phật giáo đồ nói riêng và Người Việt tị nạn ở hải ngoại nói chung. Đặc biệt xin hãy cảnh giác những Tăng đoàn dị đạo đang phá Yết ma tăng và Pháp luân tăng, mà chúng tôi đã kêu gọi trong Thông cáo báo chí ngày 11.3.2008 vừa qua.Văn thư Viện Hoá Đạo chấp thuận sự từ chức vì lý do sức khoẻ của hai Hoà thượng Thích Như Huệ và Thích Bảo Lạc tại Úc châuQuyết định số 38 do Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN, ký ngày 9.3.2008, phê chuẩn thành phần nhân sự mới thuộc Hội đồng Giáo phẩm và Hội đồng Điều hành GHPGVNTN Hải ngoại tại Úc châu và Tân Tây Lan chiếu theo tinh thần Giáo chỉ số 9 ban hành ngày 8.9.2007 và Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 công bố ngày 25.9.2007.Sau khi Quyết định được gửi đến Giáo hội tại Úc châu và công bố qua Thông cáo Báo chí của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế ngày 11.3.2008, thì ngày 13.3.2008 hai Hoà thượng Thích Như Huệ và Thích Bảo Lạc đã có văn thư gửi về Viện Hoá Đạo xin từ chức “Vì lý do sức khoẻ, cần tịnh dưỡng (theo đề nghị của Bác sĩ) và hạnh nguyện nhập thất tịnh tu, dịch kinh sách, một thời gian”.
Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ đã chấp thuận sự từ chức của hai vị Hoà thượng theo Văn thư chấp thuận mang số 05/VHĐ/VT/VT ký ngày 15.3.2008 mà chúng tôi xin đăng toàn văn sau đây :GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤTVIỆN HÓA ÐẠOThanh Minh Thiền Viện, 90 Trần Huy Liệu, P. 15, quận Phú Nhuận TP Sài GònPhật lịch 2551Số : 05/VHÐ/VT/VTVăn thư(V/v chấp thuận thư từ chức)Kính gửi :- Hòa Thượng Thích Như Huệ- Hòa Thượng Thích Bảo Lạctại Úc Đại Lợi.Kính bạch nhị vị Hòa thượng,Căn cứ theo Quyết định thư từ chức của Hòa thượng Thích Như Huệ và Hòa thượng Thích Bảo Lạc, ký ngày 13.02.2008, vì lý do sức khỏe.Sau khi thỉnh ý Đức Tăng Thống, Viện Hóa Đạo quyết định chấp thuận thư từ chức của hai Hòa thượng.Kính chúc nhị vị Hòa thượng pháp thể khinh an, thân tâm thường lạc.Thanh Minh Thiền Viện ngày 15.3.2008Viện Trưởng Viện Hóa Đạo(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ
Bản sao kính gửi :- Viện Tăng Thống- Văn phòng II Viện Hóa Đạo- Phòng Thông Tin Phật giáo Quốc tế- Giáo Hội PGVNTN UĐL- TTLQuê Mẹ • B.P. 63 • 94472 Boissy Saint Lége
http://www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=965http://www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=955
ĐẠI HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HẢI NGOẠI
===
Thông Cáo Báo Chí Của Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất
Thống cáo báo chí của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất làm tại San Jose, California Hoa Kỳ ngày 12-10-2008
THÔNG CÁO BÁO CHÍLÀM TẠI SAN JOSE NGÀY 12.10.2008.
Phát huy Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất:QUYẾT NGHỊ CHÍN ÐIỂM của Ðại hội Thường niên Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhấtHải ngoại tại Hoa KỳSAN JOSE, ngày 12.10.2008 (PTTPGQT)
Ðại hội Thường niên Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ tổ chức tại Chùa An Lạc ở thành phố San Jose, bang California, Hoa Kỳ, trong ba ngày 10, 11 và 12.10.2008, đã thể hiện sâu xa tinh thần và quyết tâm phát huy Giáo hội để khai triển và thực hiện toàn vẹn Giáo chỉ số 9 của Đức cố đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang và Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ nhằm chận đứng hiện trạng nội ma ngoại chướng đang phân hóa cộng đồng dân tộc và cộng đồng Phật giáo.
Sau ba ngày Ðại hội, qua tám phiên khoáng đại đánh giá tình hình Giáo hội trong và ngoài nước một năm qua, vạch kế hoạch hoạt động cho năm tới, khai triển vai trò người Cư sĩ trước nhu cầu thời đại, và luận định âm mưu đưa Nghị quyết 36 của nhà cầm quyền Hà Nội nhằm phân liệt cộng đồng Phật giáo hải ngoại nói riêng và cộng đồng người Việt tị nạn nói chung, chư Hòa thượng, Thượng tọa, Ðại đức Tăng Ni và quý đạo hữu Cư sĩ, đại diện các Hội đồng Giáo phẩm , Hội đồng Điều hành, 13 Tổng vụ và 14 Miền trên toàn quốc Hoa Kỳ.
Ðồng thanh quyết nghị :1. Triệt để thực hiện và phát huy Giáo chỉ số 9 của Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007, Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ phổ biến ngày 25.9.2007 nhằm mở rộng sinh hoạt tổ chức Giáo hội tại Hoa Kỳ, củng cố niềm tin cho Tăng Ni, Phật tử đang vọng hướng về Giáo hội nơi quê nhà, điều hướng các cơ sở Giáo hội, các tổ chức Phật giáo Việt Nam trong công tác Phật sự, hoằng dương chánh pháp và văn hóa. Đồng thời ý thức sự tiếm danh GHPGVNTN hiện nay của một số Tăng Ni, Cư sĩ ở hải ngoại không phục vụ Giáo hội Mẹ là GHPGVNTN đã trưởng dưỡng ra các vị này, mà mục tiêu tiếm danh chỉ để phục vụ danh lợi riêng tư hay thế quyền phi dân tộc;2. Tổ chức các khóa an cư kiết hạ liên châu, các khoá tu học đặc biệt cho giới Cư sĩ, tạo thuận duyên cho mọi giới quần chúng Phật tử cũng như giới trẻ, trưởng dưỡng tín tâm, phát huy đạo học, thể nghiệm giáo pháp để viên mãn hạnh nguyện hoằng hóa độ sinh, và các khoá huấn luyện chuyên ngành nhằm đáp ứng các hoạt động của Giáo hội trên lĩnh vực truyền thông, văn hoá, xã hội. Đồng thời gây qũy hoạt động cho các cơ sở truyền thông, văn hoá, xã hội của Giáo hội ;3. Mở rộng và thúc đẩy tích cực công tác vận động quốc tế nhằm hậu thuẫn công cuộc phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý theo lập trường bốn điểm của Viện Hóa Đạo :
(Hình 1. Hòa Thượng Thích Hộ Giác đọc đạo từ khai mạc đại hội)
(H.2. Chư tăng tham dự đại hội)
"Thứ nhất, CHXHCNVN phải phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ;"Thứ hai, hoàn trả Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tất cả các cơ sở chùa viện, văn hóa, giáo dục, từ thiện mà Nhà nước chiếm dụng sau năm 1975. Bước đầu, hoàn trả ngay cho Giáo hội hai cơ sở chính yếu là Việt Nam Quốc tự và Trung tâm Văn hóa Quảng Đức để Giáo hội có cơ ngơi đặt trụ sở cho Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo;"Thứ ba, đưa Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Đảng và Nhà nước thiết lập năm 1981 ra khỏi Mặt trận Tổ quốc ; và"Thứ tư, làm sáng tỏ cái chết của Cố Hòa thượng Thích Thiện Minh năm 1978".4. Phát triển nhanh chóng và vững chãi hệ thống Gia Đình Phật tử Việt Nam tại Hoa Kỳ qua các Miền, mà Ban Hướng dẫn Trung ương Hoa Kỳ vừa được trình diện tại Đại hội cùng với sự gia nhập của các Đoàn Cựu Huynh trưởng San Jose, Sacramento, Dallas ;5. Phát triển các khuôn hội địa phương trên các tiểu bang Hoa Kỳ nhằm kiện toàn cơ sở hạ tầng của Giáo hội, thúc đẩy việc tu học Phật pháp và ngoại hộ cho Giáo hội trong công cuộc vận động nhân quyền, dân chủ và toàn vẹn lãnh thổ trước cuộc xâm lăng văn hoá nô dịch và soán chiếm hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa;6. Để ghi nhớ công ơn cao dày của Đức cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang, Đại Hội thay đổi tên miền Liễu Quán thành Miền Huyền Quang. Đại Hội cũng ấn định đại lễ Phật Đản 2553 tại chùa Điều Ngự, thành phố Westminster, nam California, Ngày Truyền Thông Văn Hoá tại cùng địa điểm, và Đại Hội Khoáng Đại GHPGVNTNHN-HK tại trụ sở chùa Diệu Pháp.
Trên lĩnh vực hoạt động đối ngoại và quốc tế :7. Mở rộng công tác ngoại giao thân hữu với các phong trào Phật giáo, Nhân quyền và Dân chủ trên thế giới, đặc biệt tại các quốc gia Châu Á để kết liên phong trào Phật giáo quốc tế phục vụ hoà bình và an sinh nhân loại ;8. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ cùng với Giáo hội các châu mở rộng cuộc vận động quốc tế để thể hiện Tuyên cáo ngày 27.12.2007 của Hội đồng Lưỡng Viện về việc Trung quốc xâm chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường sa đểa. bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ mà mục tiêu trước mắt là bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa ;b. gây ý thức cấp cứu trong Cộng đồng Người Việt hải ngoại về chủ quyền dân tộc và kết hợp mọi nỗ lực chung nhằm ngăn chặn nguy cơ mất nước ;9. Kêu gọi sự hậu thuẫn của thế giới thực hiện Chương trình 8 điểm trong "Lời Kêu gọi cho Dân chủ Việt Nam" do Hòa thượng Thích Quảng Ðộ nhân danh Hội đồng Lưỡng viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, công bố năm 2001, như một tiến trình dân chủ hóa Việt Nam bằng tình nghĩa dân tộc và phương thức bất bạo động, nhằm chấm dứt tình trạng phân tranh, nghèo đói, suy kiệt của đất nước ;
H.3.HT Thích Giác Đẳng, HT. Thích Viên Lý
H4.Ba thuyết trình viên về nội dung Giáo chỉ số 9. Từ trái qua phải : TT. Thích Giác Đẳng, Pháp sư NT Thích Giác Đức, Gs. Võ Văn Ái).
Đại hội nhất tề ghi nhớ công ơn cao dày của Đức cố đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang đã hi hiến trọn đời cho Đạo pháp trường tồn, GHPGVNTN vững chãi, Quê hương an lạc, tự do. Đại hội cũng nhất tề chắp tay cầu Phật gia hộ cho Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống, chư Tôn giáo phẩm Hội đồng Lưỡng Viện và trong 20 Ban Đại diện pháp thể khinh an, Phật sự viên thành.Phật lịch 2552 - Làm tại Chùa An Lạcthành phố San Jose, bang California, Hoa Kỳngày 12.10.2008.
http://www.vietquoc.org/modules.php?name=News&file=article&sid=566
===
Đại hội Bất thường Giáo hội Phật giáoViệt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ đồng thanh quyết nghị triệt để khâm tuân Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang2007-11-12 PTTPGQT.
Đồng thời Đại hội thỉnh cử 30 chư Tăng Ni, Cư sĩ vào Hội đồng Giáo phẩm và Hội đồng Điều hành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ và ra QUYẾT NGHỊ CHÍN ÐIỂM khâm tuân Giáo chỉ, phát huy nội lực và chấn chỉnh nội bộ.PORT ARTHUR, ngày 12.11.2007 (PTTPGQT)Để đối phó với tình hình khẩn trương của Giáo hội trong và ngoài nước, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ (GHPGVNTNHN-HK) đã triệu tập Đại hội Bất thường tại chùa Bửu Môn ở thành phố Port Arthur, bang Texas, ngày 10.11.2007, là nơi Hòa thượng Thích Huyền Việt làm Viện chủ.
Một phần của toàn cảnh hội trường Đại hội Bất thường ngày 10.11.2007Dù thời gian triệu tập khẩn cấp, nhưng 89 đơn vị thuộc các Hội đồng, các Tổng vụ và các Miền của Giáo hội trên toàn quốc Hoa Kỳ bao gồm 108 Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni, và Cư sĩ đại biểu.Sau khi Thượng tọa Thích Giác Đẳng, Trưởng ban Tổ chức Đại hội Bất thường, ngỏ lời chào mừng và giới thiệu các đại biểu đến từ 89 đơn vị của Giáo hội, Đại lão Hòa thượng Thích Hộ Giác, Chủ tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo kiêm Chủ tịch Hội đồng Điều hành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ xác định đường hướng của Giáo hội qua Đạo từ khai mạc rằng : "Trên căn bản của đại bi tâm, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã không xoay lưng với nỗi khổ trầm thống của dân, của nước, ngược lại, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Giáo Hội cũng dang rộng đôi tay hùng lực, can đảm trực diện với mọi hiểm nguy nhằm minh thị và khẳng định giá trị của đức Vô uý được trang bị bởi tinh thần vị tha vô ngã (...)
Việc làm của Giáo Hội không phải vì sự khen chê nhất thời, cũng không phải chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu mang tính giai đoạn chấp vá mà chính là sự thừa đương, xiển phát thể mệnh và sự nghiệp hoằng hóa của chư Phật và lịch đại Tổ sư".Ba thuyết trình viên về nội dung Giáo chỉ số 9. Hòa thượng tuyên bố lý do của Đại hội Bất thường : "Trước hiện tình pháp nạn bức thiết và vì sự tồn vong của Giáo Hội, vào ngày 08 tháng 9 năm 2007, Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang đã ban hành Giáo Chỉ số 09 nhằm cứu nguy Giáo Hội. Cũng trong tinh thần trách nhiệm đó, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo đã ra Thông Bạch Hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ của đức Đệ Tứ Tăng Thống để kiện toàn nhân sự và chấn chỉnh cơ cấu tổ chức các GHPGVNTN
tại Hải ngoại.(...)
Người xưa bảo, “Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần”. Trước giai đoạn khó khăn nguy biến hiện nay, nhị vị Hoà Thượng lãnh đạo tối cao của Giáo Hội đang đặt hết tin tưởng và kỳ vọng nơi mỗi chúng ta. Do vậy, hơn bất cứ lúc nào, chúng ta cần ý thức rằng, trở lực càng nhiều, chí nguyện của chúng ta càng kiên cố ; hiểm nạn càng tăng thì lòng trung kiên sắt son của chúng ta đối với Giáo Hội càng bền vững. Chúng ta cương quyết bảo vệ mạng mạch của Giáo Hội, giữ vững lập trường, sẵn sàng vì sự an lạc của mọi loài mà hết lòng hy
hiến".
(H.5. Hoà Thượng Thích Chánh Lạc)
Tiếp đấy, khi máy vi âm phát ra lời Huấn từ của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, từ trong nước gửi ra chào mừng và nhắn nhủ Đại hội, toàn thể các đại biểu đã tự động đứng lên chắp tay lắng nghe. Hòa thượng nói : "Trước hết, tôi thành kính chuyển lời vấn an của Đức Đệ Tứ Tăng thống và Hội đồng Lưỡng Viện Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) đến Hòa thượng Chủ tịch, Toàn thể Đại biểu Đại hội và Tăng Ni, Phật tử thuộc GHPGVNTNHN-HK
Nguyện cầu tất cả đều được thân tâm an lạc, Phật sự viên thành, Bồ đề tâm kiên cố."Sau đây, nhân dịp may mắn này tôi xin bày tỏ một số ý kiến rất vắn tắt về các Phật sự quan trọng của Giáo hội mới diễn ra mấy tuần lễ này, mà theo chỗ tôi biết, đã khiến dư luận thắc mắc, xôn xao nhiều nơi trong nhiều giới. Tôi muốn đề cập đến Giáo chỉ số 9 do Đức Đệ Tứ Tăng thống GHPGVNTN ban hành ngày 8.9.2007 và Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống do tôi, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, ký ngày 25.9.2007. Cả hai văn kiện này đã được Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế phổ biến khắp nơi, trong nước và ngoài nước".Trình bày đại quan chủ trương tiêu diệt GHPGVNTN của Nhà cầm quyền Cộng sản từ năm 1975 đến 2007, Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo cho biết nội tình mới của Giáo hội :
"Giáo hội đang trong tình cảnh trên đe dưới búa như thế, thì một vài thành viên của GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ về khuyên các thành viên của GHPGVNTN ở trong nước nghỉ việc, lý do "vì Giáo hội còn ai theo nữa đâu, còn xơ múi gì mà làm việc", cũng hệt như lời ông Nguyễn Văn Hưởng đã khuyên Đức Tăng thống nghỉ việc như trên. Thế thì hiển nhiên Giáo hội đang ở vào một tình trạng nguy cấp, bị trong đánh ra ngoài đánh vào. Phải đối phó sao đây ? Chính vì thế mà phải sử dụng biện pháp Giáo chỉ để đương đầu cứu nguy Giáo hội và như tôi đã nói ở trên. Giáo chỉ là biện pháp cấp bách, nghiêm trọng. Nó mạnh mẽ, đau đớn như một cuộc phẫu thuật để cứu lấy mạng sống của người bệnh. Dẫu có phải cắt bỏ một vài bộ phận trong cơ thể cũng phải hy sinh". (xem toàn văn dưới đây).
Hòa thượng Thích Chánh Lạctrình bày bản Quy chế mới.
Sauphần khai mạc, Thượng tọa Thích Viên Lý, Tổng Thư ký GHPGVNTNHN-HK, đọc các nguyên tắc điều hành Đại hội, từ thành phần đại biểu, quyền hạn các đại biểu đến thời lượng phát biểu và tư cách biểu quyết.Đại hội Bất thường tập trung vào hai khóa khoáng đại khai thông tình thế. Khoáng đại 1 vào buổi sáng thâm nhập Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang qua ba thuyết trình viên. Thượng tọa Thích Giác Đẳng trình bày về "Sự cần thiết của Giáo chỉ số 9", Cư sĩ Võ Văn Ái trình bày về "Giáo chỉ số 9 : từ hợp pháp tới khế cơ", và Pháp sư Niên trưởng Thích Giác Đức nói đại quan về tính xây dựng của Giáo chỉ số 9.Kết thúc phần thuyết trình, Hòa thượng Chủ tịch Thích Hộ Giác ba lần hỏi Đại hội : Sau khi nghe thuyết trình xong nội dung Giáo chỉ số 9 của Đức Đệ tứ Tăng thống, về sự cần thiết và tính hợp pháp, hợp hiến của Giáo chỉ, xin các Đại biểu cho biết ý kiến. Ai triệt để khâm tuân Giáo chỉ số 9 và thực hiện theo Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo thì xin nhất tề đứng lên chắp tay trước ngực niệm Phật. Ai không đồng ý xin cứ ngồi yên tại chỗ.Ba lần dóng hỏi đã được toàn thể các đại biểu đồng loạt đứng lên hoan hỉ chắp tay đảnh lễ. Không một người ngồi. Thế là Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống đã được toàn thể các đại biểu thành viên GHPGVNTNHN-HK triệt để khâm tuân và thực thi.Khoáng đại 2 vào buổi chiều dành cho việc tu chính Quy chế GHPGVNTNHN-HK do Hòa thượng Thích Chánh Lạc trình bày.
Quy chế mới gồm 9 chương, 31 điều được đưa ra thảo luận, nghiên cứu từng điều một trước đại hội và đã được toàn thể các đại biểu thông qua với đa số tuyệt đối. Tiếp đấy, Đại lão Hòa thượng Thích Hộ Giác, Chủ tịch Hội đồng Điều hành GHPGVNTNHN-HK, công bố trước Đại hội thành phần nhân sự mới, được thỉnh cử vào Hội đồng Giáo phẩm và Hội đồng Điều hành, là hai Hội đồng duy nhất của GHPGVNTNHN-HK để điều hành Phật sự tại Hoa Kỳ chiếu theo Quy chế mới. Hòa thượng cũng công bố danh sách công cử các vị Chánh Đại diện cho các Miền Giáo hội tại Hoa Kỳ.Toàn thể Đại hội chắp tay khâm tuân Giáo chỉ số 9của Đức Tăng thống Thích Huyền QuangThành phần nhân sự mới trong hai Hội đồng sẽ trình lên Viện Hóa Đạo trong nước xin phê chuẩn. Thành phần vừa thỉnh cử ấy như sau :Hội Đồng Giáo Phẩm :
Hòa thượng Thích Hộ GiácHòa thượng Thích Chánh LạcHòa thượng Thích Trí LãngHòa thượng Thích Viên ThànhHòa thượng Thích Chơn TríHòa thượng Thích Giác ChânHòa thượng Thích Thiện HữuHòa thượng Thích Huyền Việt.
Hội Đồng Điều HànhChủ Tịch : HT Thích Hộ Giác.
Phó Chủ Tịch Nội Vụ : HT Thích Chánh Lạc.
Phó Chủ Tịch đặc trách Nghiên Cứu Kế Hoạch : Pháp Sư Niên Trưởng Thích Giác Đức.
Tổng Thư Ký : TT Thích Viên Lý.
Phó Tổng Thư Ký : TT Thích Viên Thông.
Chánh văn phòng Hội Đồng Thường Trực kiêm Phụ tá đặc biệt HT Chủ tịch : TT. Thích Giác Đẳng.
Tổng Thủ Quỹ : Sư Bà Thích Nữ Nguyên Thanh.
Phó Tổng Thủ Quỹ : Ni sư Thích Nữ Tịnh Thường.Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp : HT Thích Chánh Lạc..
Tổngụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự : HT Thích Thiện Hữu.
Vụ Ni Bộ : Sư Bà Thích Nữ Giác Hương.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa : TT Thích Giác Đẳng.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Giáo Dục : TT Thích Viên Quang.
TổngVụ trưởng Tổng Vụ Cư Sĩ : HT. Thích Chơn Trí.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên : HT Thích Huyền Việt.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Từ Thiện Xã Hội : HT Thích Trí Lãng.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Kinh Tế và Tài Chánh : TT Thích Viên Huy.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Nghi Lễ : HT Thích Viên Thành.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Ngoại Vụ : GS Võ Văn Ái
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Kiến Thiết : TT Thích Thông Đạt.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Truyền Thông : ĐĐ Thích Trí Tịnh.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Pháp Chế : HT Thích Giác Chân.
Các vị Chánh Đại diện :Miền Vạn Hạnh, (Nam California từ Bakersfield đến San Diego) : HT Thích Chơn Trí.Miền Liễu Quán, (Bắc Bakersfield đến địa đầu Bắc California. : TT Thích Viên Dung.
Miền Giác Nhiên : Tiểu Bang Hawaii (còn chờ công cử)
Miền Khuông Việt, các Tiểu Bang Alaska, Oregon, Washington. : TT Thích Viên Dung.
Miền Khánh Hòa, các Tiểu Bang Montana, Idaho, Wyoming và Colorado (còn chờ).
Miền Khánh Anh, các Tiểu Bang Nevada, Arizona, New Mexico và Utah : HT Thích Chơn Trí.
Miền Quảng Đức, các Tiểu Bang North Dakota, South Dakota, Nebraska, Kansas, Missouri, Iowa và Minnesota (còn chờ công cử).
Miền Thiện Luật, Tiểu Bang Texas : TT Thích Giác Đẳng.Miền Tuệ Tạng, các Tiểu Bang Wisconsin, Michigan, Illinois,Indiana, Ohio và Kentucky (còn chờ công cử).
Miền Vĩnh Nghiêm, các Tiểu Bang Tennessee, Mississippi, Louisiana, Alabama, Arkansas và Oklahoma : HT Thích Huyền Việt.Miền Phước Huệ, các Tiểu Bang Connecticut, New York, Massachusetts, Vermont, New Hampshire và Maine : Pháp Sư Niên Trưởng Thích Giác Đức.
Miền Tịnh Khiết : Pháp Sư Niên Trưởng Thích Giác ĐứcMiền Tố Liên, các Tiểu Bang North Carolina, South Carolina (còn chờ công cử).Miền Đôn Hậu, các Tiểu Bang Georgia và Florida : Đại Đức Thích Trí Tịnh
Đại hội cũng đã đồng thanh thông qua với đa số tuyệt đối Quyết Nghị Chín điểm của Đại hội Bất thường đặt quyết tâm Khâm tuân Giáo chỉ, Phát huy nội lực và Chấn chỉnh nội bộ.Toàn văn Quyết Nghị viết như sau :
Quyết Nghị Chín Ðiểm(của Ðại hội Bất thường GHPGVNTNHN tại Hoa Kỳ)
Đại hội Bất thường kết thúc bằng Lễ Cầu An cho Nhị vị Hòa thượng Lãnh đạo, Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Thích Quảng Độ, cùng chư Giáo phẩm trong Hội Đồng Lưỡng viện và trong 20 Ban Đại diện. Sau đó là Lễ Kiệp kỵ để nhớ ơn lịch đại tổ sư, chư tiền bối hữu công Tăng Ni, Cư sĩ, Thánh tử đạo đã hi hiến thân tâm bảo vệ Đạo pháp và Dân tộc.Đại lão Hòa thượng Thích Hộ Giác ban Đạo từ kết thúc Đại hội trong niềm hân hoan của sự thành công rực rỡ đầy đạo tình. Đồng thời Hòa thượng nói lên sự cảm nhận âm thầm nhưng huyết mạch của toàn thể các đại biểu phó hội. Đó là lòng tri ân chí thiết với Nhị vị lãnh đạo tối cao, Đức Tăng thống và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ đã đem hết cuộc đời làm sáng danh Phật giáo Việt Nam. Không có công đức sâu dày của Nhị vị Hòa thượng, thì GHPGVNTN không còn có như ngày hôm nay trong công luận thế giới cũng như giữa lòng dân tộc. Hòa thượng xúc động trong nước mắt nói rằng :"Nếu Nhị vị có mặt hôm nay, Nhị vị sẽ hoan hỉ lắm, vì Nhị vị sẽ không ngờ rằng Giáo chỉ số 9 quý vị đưa ra đã được toàn thể chư Hòa thượng, Thượng tọa, Đại Đức Tăng Ni, Phật tử tuyệt đối khâm tuân. Nhưng so với hạnh chịu khổ với 30 năm tù tội, không biết lễ Cầu an này có đủ hay không ? Tại sao hai vị lại cứ tiếp tục gánh lấy cảnh tù đày, để rồi tấm thân hai vị cao tuổi, bệnh hoạn, sẽ còn gánh chịu đến bao lâu nữa ! Những gì Đại hội này đã thể hiện trong ngày hôm nay chứng tỏ tất cả chúng ta thật sự biết ơn sâu sắc và chúng ta nỗ lực thể hiện lòng tri ân chúng ta bằng hành động cụ thể phục vụ Giáo hội và đất nước nhằm đền đáp công ơn Nhị vị lãnh đạo tối cao của Phật giáo Việt Nam".
Toàn thể các đại biểu tham dự vô cùng xúc động. Nhiều người bật khóc. Nhưng nỗi cảm xúc tâm thành ấy tụ hội như một năng lực thanh tịnh, chuyển hóa ra quyết tâm nuôi dưỡng hành động cứu nguy Đạo và Nước.
==
Tài liệu tham khảo :
Huấn Từ(của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo)l Diễn Văn Khai Mạc(của Hòa Thượng Thích Hộ Giác, Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHN-HK)l Sự Cần Thiết Của Giáo Chỉ số 9(Thượng tọa Thích Giác Đẳng)l Giáo chỉ số 9, từ hợp pháp đến khế cơ(Cư sĩ Võ Văn Ái)
http://www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=903
Thông Cáo Báo Chí Của Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất
Thống cáo báo chí của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất làm tại San Jose, California Hoa Kỳ ngày 12-10-2008
THÔNG CÁO BÁO CHÍLÀM TẠI SAN JOSE NGÀY 12.10.2008.
Phát huy Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất:QUYẾT NGHỊ CHÍN ÐIỂM của Ðại hội Thường niên Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhấtHải ngoại tại Hoa KỳSAN JOSE, ngày 12.10.2008 (PTTPGQT)
Ðại hội Thường niên Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ tổ chức tại Chùa An Lạc ở thành phố San Jose, bang California, Hoa Kỳ, trong ba ngày 10, 11 và 12.10.2008, đã thể hiện sâu xa tinh thần và quyết tâm phát huy Giáo hội để khai triển và thực hiện toàn vẹn Giáo chỉ số 9 của Đức cố đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang và Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ nhằm chận đứng hiện trạng nội ma ngoại chướng đang phân hóa cộng đồng dân tộc và cộng đồng Phật giáo.
Sau ba ngày Ðại hội, qua tám phiên khoáng đại đánh giá tình hình Giáo hội trong và ngoài nước một năm qua, vạch kế hoạch hoạt động cho năm tới, khai triển vai trò người Cư sĩ trước nhu cầu thời đại, và luận định âm mưu đưa Nghị quyết 36 của nhà cầm quyền Hà Nội nhằm phân liệt cộng đồng Phật giáo hải ngoại nói riêng và cộng đồng người Việt tị nạn nói chung, chư Hòa thượng, Thượng tọa, Ðại đức Tăng Ni và quý đạo hữu Cư sĩ, đại diện các Hội đồng Giáo phẩm , Hội đồng Điều hành, 13 Tổng vụ và 14 Miền trên toàn quốc Hoa Kỳ.
Ðồng thanh quyết nghị :1. Triệt để thực hiện và phát huy Giáo chỉ số 9 của Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007, Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ phổ biến ngày 25.9.2007 nhằm mở rộng sinh hoạt tổ chức Giáo hội tại Hoa Kỳ, củng cố niềm tin cho Tăng Ni, Phật tử đang vọng hướng về Giáo hội nơi quê nhà, điều hướng các cơ sở Giáo hội, các tổ chức Phật giáo Việt Nam trong công tác Phật sự, hoằng dương chánh pháp và văn hóa. Đồng thời ý thức sự tiếm danh GHPGVNTN hiện nay của một số Tăng Ni, Cư sĩ ở hải ngoại không phục vụ Giáo hội Mẹ là GHPGVNTN đã trưởng dưỡng ra các vị này, mà mục tiêu tiếm danh chỉ để phục vụ danh lợi riêng tư hay thế quyền phi dân tộc;2. Tổ chức các khóa an cư kiết hạ liên châu, các khoá tu học đặc biệt cho giới Cư sĩ, tạo thuận duyên cho mọi giới quần chúng Phật tử cũng như giới trẻ, trưởng dưỡng tín tâm, phát huy đạo học, thể nghiệm giáo pháp để viên mãn hạnh nguyện hoằng hóa độ sinh, và các khoá huấn luyện chuyên ngành nhằm đáp ứng các hoạt động của Giáo hội trên lĩnh vực truyền thông, văn hoá, xã hội. Đồng thời gây qũy hoạt động cho các cơ sở truyền thông, văn hoá, xã hội của Giáo hội ;3. Mở rộng và thúc đẩy tích cực công tác vận động quốc tế nhằm hậu thuẫn công cuộc phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý theo lập trường bốn điểm của Viện Hóa Đạo :
(Hình 1. Hòa Thượng Thích Hộ Giác đọc đạo từ khai mạc đại hội)
(H.2. Chư tăng tham dự đại hội)
"Thứ nhất, CHXHCNVN phải phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ;"Thứ hai, hoàn trả Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tất cả các cơ sở chùa viện, văn hóa, giáo dục, từ thiện mà Nhà nước chiếm dụng sau năm 1975. Bước đầu, hoàn trả ngay cho Giáo hội hai cơ sở chính yếu là Việt Nam Quốc tự và Trung tâm Văn hóa Quảng Đức để Giáo hội có cơ ngơi đặt trụ sở cho Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo;"Thứ ba, đưa Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Đảng và Nhà nước thiết lập năm 1981 ra khỏi Mặt trận Tổ quốc ; và"Thứ tư, làm sáng tỏ cái chết của Cố Hòa thượng Thích Thiện Minh năm 1978".4. Phát triển nhanh chóng và vững chãi hệ thống Gia Đình Phật tử Việt Nam tại Hoa Kỳ qua các Miền, mà Ban Hướng dẫn Trung ương Hoa Kỳ vừa được trình diện tại Đại hội cùng với sự gia nhập của các Đoàn Cựu Huynh trưởng San Jose, Sacramento, Dallas ;5. Phát triển các khuôn hội địa phương trên các tiểu bang Hoa Kỳ nhằm kiện toàn cơ sở hạ tầng của Giáo hội, thúc đẩy việc tu học Phật pháp và ngoại hộ cho Giáo hội trong công cuộc vận động nhân quyền, dân chủ và toàn vẹn lãnh thổ trước cuộc xâm lăng văn hoá nô dịch và soán chiếm hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa;6. Để ghi nhớ công ơn cao dày của Đức cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang, Đại Hội thay đổi tên miền Liễu Quán thành Miền Huyền Quang. Đại Hội cũng ấn định đại lễ Phật Đản 2553 tại chùa Điều Ngự, thành phố Westminster, nam California, Ngày Truyền Thông Văn Hoá tại cùng địa điểm, và Đại Hội Khoáng Đại GHPGVNTNHN-HK tại trụ sở chùa Diệu Pháp.
Trên lĩnh vực hoạt động đối ngoại và quốc tế :7. Mở rộng công tác ngoại giao thân hữu với các phong trào Phật giáo, Nhân quyền và Dân chủ trên thế giới, đặc biệt tại các quốc gia Châu Á để kết liên phong trào Phật giáo quốc tế phục vụ hoà bình và an sinh nhân loại ;8. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ cùng với Giáo hội các châu mở rộng cuộc vận động quốc tế để thể hiện Tuyên cáo ngày 27.12.2007 của Hội đồng Lưỡng Viện về việc Trung quốc xâm chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường sa đểa. bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ mà mục tiêu trước mắt là bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa ;b. gây ý thức cấp cứu trong Cộng đồng Người Việt hải ngoại về chủ quyền dân tộc và kết hợp mọi nỗ lực chung nhằm ngăn chặn nguy cơ mất nước ;9. Kêu gọi sự hậu thuẫn của thế giới thực hiện Chương trình 8 điểm trong "Lời Kêu gọi cho Dân chủ Việt Nam" do Hòa thượng Thích Quảng Ðộ nhân danh Hội đồng Lưỡng viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, công bố năm 2001, như một tiến trình dân chủ hóa Việt Nam bằng tình nghĩa dân tộc và phương thức bất bạo động, nhằm chấm dứt tình trạng phân tranh, nghèo đói, suy kiệt của đất nước ;
H.3.HT Thích Giác Đẳng, HT. Thích Viên Lý
H4.Ba thuyết trình viên về nội dung Giáo chỉ số 9. Từ trái qua phải : TT. Thích Giác Đẳng, Pháp sư NT Thích Giác Đức, Gs. Võ Văn Ái).
Đại hội nhất tề ghi nhớ công ơn cao dày của Đức cố đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang đã hi hiến trọn đời cho Đạo pháp trường tồn, GHPGVNTN vững chãi, Quê hương an lạc, tự do. Đại hội cũng nhất tề chắp tay cầu Phật gia hộ cho Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống, chư Tôn giáo phẩm Hội đồng Lưỡng Viện và trong 20 Ban Đại diện pháp thể khinh an, Phật sự viên thành.Phật lịch 2552 - Làm tại Chùa An Lạcthành phố San Jose, bang California, Hoa Kỳngày 12.10.2008.
http://www.vietquoc.org/modules.php?name=News&file=article&sid=566
===
Đại hội Bất thường Giáo hội Phật giáoViệt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ đồng thanh quyết nghị triệt để khâm tuân Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang2007-11-12 PTTPGQT.
Đồng thời Đại hội thỉnh cử 30 chư Tăng Ni, Cư sĩ vào Hội đồng Giáo phẩm và Hội đồng Điều hành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ và ra QUYẾT NGHỊ CHÍN ÐIỂM khâm tuân Giáo chỉ, phát huy nội lực và chấn chỉnh nội bộ.PORT ARTHUR, ngày 12.11.2007 (PTTPGQT)Để đối phó với tình hình khẩn trương của Giáo hội trong và ngoài nước, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ (GHPGVNTNHN-HK) đã triệu tập Đại hội Bất thường tại chùa Bửu Môn ở thành phố Port Arthur, bang Texas, ngày 10.11.2007, là nơi Hòa thượng Thích Huyền Việt làm Viện chủ.
Một phần của toàn cảnh hội trường Đại hội Bất thường ngày 10.11.2007Dù thời gian triệu tập khẩn cấp, nhưng 89 đơn vị thuộc các Hội đồng, các Tổng vụ và các Miền của Giáo hội trên toàn quốc Hoa Kỳ bao gồm 108 Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni, và Cư sĩ đại biểu.Sau khi Thượng tọa Thích Giác Đẳng, Trưởng ban Tổ chức Đại hội Bất thường, ngỏ lời chào mừng và giới thiệu các đại biểu đến từ 89 đơn vị của Giáo hội, Đại lão Hòa thượng Thích Hộ Giác, Chủ tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo kiêm Chủ tịch Hội đồng Điều hành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ xác định đường hướng của Giáo hội qua Đạo từ khai mạc rằng : "Trên căn bản của đại bi tâm, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã không xoay lưng với nỗi khổ trầm thống của dân, của nước, ngược lại, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Giáo Hội cũng dang rộng đôi tay hùng lực, can đảm trực diện với mọi hiểm nguy nhằm minh thị và khẳng định giá trị của đức Vô uý được trang bị bởi tinh thần vị tha vô ngã (...)
Việc làm của Giáo Hội không phải vì sự khen chê nhất thời, cũng không phải chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu mang tính giai đoạn chấp vá mà chính là sự thừa đương, xiển phát thể mệnh và sự nghiệp hoằng hóa của chư Phật và lịch đại Tổ sư".Ba thuyết trình viên về nội dung Giáo chỉ số 9. Hòa thượng tuyên bố lý do của Đại hội Bất thường : "Trước hiện tình pháp nạn bức thiết và vì sự tồn vong của Giáo Hội, vào ngày 08 tháng 9 năm 2007, Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang đã ban hành Giáo Chỉ số 09 nhằm cứu nguy Giáo Hội. Cũng trong tinh thần trách nhiệm đó, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo đã ra Thông Bạch Hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ của đức Đệ Tứ Tăng Thống để kiện toàn nhân sự và chấn chỉnh cơ cấu tổ chức các GHPGVNTN
tại Hải ngoại.(...)
Người xưa bảo, “Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần”. Trước giai đoạn khó khăn nguy biến hiện nay, nhị vị Hoà Thượng lãnh đạo tối cao của Giáo Hội đang đặt hết tin tưởng và kỳ vọng nơi mỗi chúng ta. Do vậy, hơn bất cứ lúc nào, chúng ta cần ý thức rằng, trở lực càng nhiều, chí nguyện của chúng ta càng kiên cố ; hiểm nạn càng tăng thì lòng trung kiên sắt son của chúng ta đối với Giáo Hội càng bền vững. Chúng ta cương quyết bảo vệ mạng mạch của Giáo Hội, giữ vững lập trường, sẵn sàng vì sự an lạc của mọi loài mà hết lòng hy
hiến".
(H.5. Hoà Thượng Thích Chánh Lạc)
Tiếp đấy, khi máy vi âm phát ra lời Huấn từ của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, từ trong nước gửi ra chào mừng và nhắn nhủ Đại hội, toàn thể các đại biểu đã tự động đứng lên chắp tay lắng nghe. Hòa thượng nói : "Trước hết, tôi thành kính chuyển lời vấn an của Đức Đệ Tứ Tăng thống và Hội đồng Lưỡng Viện Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) đến Hòa thượng Chủ tịch, Toàn thể Đại biểu Đại hội và Tăng Ni, Phật tử thuộc GHPGVNTNHN-HK
Nguyện cầu tất cả đều được thân tâm an lạc, Phật sự viên thành, Bồ đề tâm kiên cố."Sau đây, nhân dịp may mắn này tôi xin bày tỏ một số ý kiến rất vắn tắt về các Phật sự quan trọng của Giáo hội mới diễn ra mấy tuần lễ này, mà theo chỗ tôi biết, đã khiến dư luận thắc mắc, xôn xao nhiều nơi trong nhiều giới. Tôi muốn đề cập đến Giáo chỉ số 9 do Đức Đệ Tứ Tăng thống GHPGVNTN ban hành ngày 8.9.2007 và Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống do tôi, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, ký ngày 25.9.2007. Cả hai văn kiện này đã được Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế phổ biến khắp nơi, trong nước và ngoài nước".Trình bày đại quan chủ trương tiêu diệt GHPGVNTN của Nhà cầm quyền Cộng sản từ năm 1975 đến 2007, Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo cho biết nội tình mới của Giáo hội :
"Giáo hội đang trong tình cảnh trên đe dưới búa như thế, thì một vài thành viên của GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ về khuyên các thành viên của GHPGVNTN ở trong nước nghỉ việc, lý do "vì Giáo hội còn ai theo nữa đâu, còn xơ múi gì mà làm việc", cũng hệt như lời ông Nguyễn Văn Hưởng đã khuyên Đức Tăng thống nghỉ việc như trên. Thế thì hiển nhiên Giáo hội đang ở vào một tình trạng nguy cấp, bị trong đánh ra ngoài đánh vào. Phải đối phó sao đây ? Chính vì thế mà phải sử dụng biện pháp Giáo chỉ để đương đầu cứu nguy Giáo hội và như tôi đã nói ở trên. Giáo chỉ là biện pháp cấp bách, nghiêm trọng. Nó mạnh mẽ, đau đớn như một cuộc phẫu thuật để cứu lấy mạng sống của người bệnh. Dẫu có phải cắt bỏ một vài bộ phận trong cơ thể cũng phải hy sinh". (xem toàn văn dưới đây).
Hòa thượng Thích Chánh Lạctrình bày bản Quy chế mới.
Sauphần khai mạc, Thượng tọa Thích Viên Lý, Tổng Thư ký GHPGVNTNHN-HK, đọc các nguyên tắc điều hành Đại hội, từ thành phần đại biểu, quyền hạn các đại biểu đến thời lượng phát biểu và tư cách biểu quyết.Đại hội Bất thường tập trung vào hai khóa khoáng đại khai thông tình thế. Khoáng đại 1 vào buổi sáng thâm nhập Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang qua ba thuyết trình viên. Thượng tọa Thích Giác Đẳng trình bày về "Sự cần thiết của Giáo chỉ số 9", Cư sĩ Võ Văn Ái trình bày về "Giáo chỉ số 9 : từ hợp pháp tới khế cơ", và Pháp sư Niên trưởng Thích Giác Đức nói đại quan về tính xây dựng của Giáo chỉ số 9.Kết thúc phần thuyết trình, Hòa thượng Chủ tịch Thích Hộ Giác ba lần hỏi Đại hội : Sau khi nghe thuyết trình xong nội dung Giáo chỉ số 9 của Đức Đệ tứ Tăng thống, về sự cần thiết và tính hợp pháp, hợp hiến của Giáo chỉ, xin các Đại biểu cho biết ý kiến. Ai triệt để khâm tuân Giáo chỉ số 9 và thực hiện theo Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo thì xin nhất tề đứng lên chắp tay trước ngực niệm Phật. Ai không đồng ý xin cứ ngồi yên tại chỗ.Ba lần dóng hỏi đã được toàn thể các đại biểu đồng loạt đứng lên hoan hỉ chắp tay đảnh lễ. Không một người ngồi. Thế là Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống đã được toàn thể các đại biểu thành viên GHPGVNTNHN-HK triệt để khâm tuân và thực thi.Khoáng đại 2 vào buổi chiều dành cho việc tu chính Quy chế GHPGVNTNHN-HK do Hòa thượng Thích Chánh Lạc trình bày.
Quy chế mới gồm 9 chương, 31 điều được đưa ra thảo luận, nghiên cứu từng điều một trước đại hội và đã được toàn thể các đại biểu thông qua với đa số tuyệt đối. Tiếp đấy, Đại lão Hòa thượng Thích Hộ Giác, Chủ tịch Hội đồng Điều hành GHPGVNTNHN-HK, công bố trước Đại hội thành phần nhân sự mới, được thỉnh cử vào Hội đồng Giáo phẩm và Hội đồng Điều hành, là hai Hội đồng duy nhất của GHPGVNTNHN-HK để điều hành Phật sự tại Hoa Kỳ chiếu theo Quy chế mới. Hòa thượng cũng công bố danh sách công cử các vị Chánh Đại diện cho các Miền Giáo hội tại Hoa Kỳ.Toàn thể Đại hội chắp tay khâm tuân Giáo chỉ số 9của Đức Tăng thống Thích Huyền QuangThành phần nhân sự mới trong hai Hội đồng sẽ trình lên Viện Hóa Đạo trong nước xin phê chuẩn. Thành phần vừa thỉnh cử ấy như sau :Hội Đồng Giáo Phẩm :
Hòa thượng Thích Hộ GiácHòa thượng Thích Chánh LạcHòa thượng Thích Trí LãngHòa thượng Thích Viên ThànhHòa thượng Thích Chơn TríHòa thượng Thích Giác ChânHòa thượng Thích Thiện HữuHòa thượng Thích Huyền Việt.
Hội Đồng Điều HànhChủ Tịch : HT Thích Hộ Giác.
Phó Chủ Tịch Nội Vụ : HT Thích Chánh Lạc.
Phó Chủ Tịch đặc trách Nghiên Cứu Kế Hoạch : Pháp Sư Niên Trưởng Thích Giác Đức.
Tổng Thư Ký : TT Thích Viên Lý.
Phó Tổng Thư Ký : TT Thích Viên Thông.
Chánh văn phòng Hội Đồng Thường Trực kiêm Phụ tá đặc biệt HT Chủ tịch : TT. Thích Giác Đẳng.
Tổng Thủ Quỹ : Sư Bà Thích Nữ Nguyên Thanh.
Phó Tổng Thủ Quỹ : Ni sư Thích Nữ Tịnh Thường.Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp : HT Thích Chánh Lạc..
Tổngụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự : HT Thích Thiện Hữu.
Vụ Ni Bộ : Sư Bà Thích Nữ Giác Hương.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa : TT Thích Giác Đẳng.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Giáo Dục : TT Thích Viên Quang.
TổngVụ trưởng Tổng Vụ Cư Sĩ : HT. Thích Chơn Trí.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên : HT Thích Huyền Việt.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Từ Thiện Xã Hội : HT Thích Trí Lãng.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Kinh Tế và Tài Chánh : TT Thích Viên Huy.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Nghi Lễ : HT Thích Viên Thành.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Ngoại Vụ : GS Võ Văn Ái
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Kiến Thiết : TT Thích Thông Đạt.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Truyền Thông : ĐĐ Thích Trí Tịnh.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Pháp Chế : HT Thích Giác Chân.
Các vị Chánh Đại diện :Miền Vạn Hạnh, (Nam California từ Bakersfield đến San Diego) : HT Thích Chơn Trí.Miền Liễu Quán, (Bắc Bakersfield đến địa đầu Bắc California. : TT Thích Viên Dung.
Miền Giác Nhiên : Tiểu Bang Hawaii (còn chờ công cử)
Miền Khuông Việt, các Tiểu Bang Alaska, Oregon, Washington. : TT Thích Viên Dung.
Miền Khánh Hòa, các Tiểu Bang Montana, Idaho, Wyoming và Colorado (còn chờ).
Miền Khánh Anh, các Tiểu Bang Nevada, Arizona, New Mexico và Utah : HT Thích Chơn Trí.
Miền Quảng Đức, các Tiểu Bang North Dakota, South Dakota, Nebraska, Kansas, Missouri, Iowa và Minnesota (còn chờ công cử).
Miền Thiện Luật, Tiểu Bang Texas : TT Thích Giác Đẳng.Miền Tuệ Tạng, các Tiểu Bang Wisconsin, Michigan, Illinois,Indiana, Ohio và Kentucky (còn chờ công cử).
Miền Vĩnh Nghiêm, các Tiểu Bang Tennessee, Mississippi, Louisiana, Alabama, Arkansas và Oklahoma : HT Thích Huyền Việt.Miền Phước Huệ, các Tiểu Bang Connecticut, New York, Massachusetts, Vermont, New Hampshire và Maine : Pháp Sư Niên Trưởng Thích Giác Đức.
Miền Tịnh Khiết : Pháp Sư Niên Trưởng Thích Giác ĐứcMiền Tố Liên, các Tiểu Bang North Carolina, South Carolina (còn chờ công cử).Miền Đôn Hậu, các Tiểu Bang Georgia và Florida : Đại Đức Thích Trí Tịnh
Đại hội cũng đã đồng thanh thông qua với đa số tuyệt đối Quyết Nghị Chín điểm của Đại hội Bất thường đặt quyết tâm Khâm tuân Giáo chỉ, Phát huy nội lực và Chấn chỉnh nội bộ.Toàn văn Quyết Nghị viết như sau :
Quyết Nghị Chín Ðiểm(của Ðại hội Bất thường GHPGVNTNHN tại Hoa Kỳ)
Đại hội Bất thường kết thúc bằng Lễ Cầu An cho Nhị vị Hòa thượng Lãnh đạo, Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Thích Quảng Độ, cùng chư Giáo phẩm trong Hội Đồng Lưỡng viện và trong 20 Ban Đại diện. Sau đó là Lễ Kiệp kỵ để nhớ ơn lịch đại tổ sư, chư tiền bối hữu công Tăng Ni, Cư sĩ, Thánh tử đạo đã hi hiến thân tâm bảo vệ Đạo pháp và Dân tộc.Đại lão Hòa thượng Thích Hộ Giác ban Đạo từ kết thúc Đại hội trong niềm hân hoan của sự thành công rực rỡ đầy đạo tình. Đồng thời Hòa thượng nói lên sự cảm nhận âm thầm nhưng huyết mạch của toàn thể các đại biểu phó hội. Đó là lòng tri ân chí thiết với Nhị vị lãnh đạo tối cao, Đức Tăng thống và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ đã đem hết cuộc đời làm sáng danh Phật giáo Việt Nam. Không có công đức sâu dày của Nhị vị Hòa thượng, thì GHPGVNTN không còn có như ngày hôm nay trong công luận thế giới cũng như giữa lòng dân tộc. Hòa thượng xúc động trong nước mắt nói rằng :"Nếu Nhị vị có mặt hôm nay, Nhị vị sẽ hoan hỉ lắm, vì Nhị vị sẽ không ngờ rằng Giáo chỉ số 9 quý vị đưa ra đã được toàn thể chư Hòa thượng, Thượng tọa, Đại Đức Tăng Ni, Phật tử tuyệt đối khâm tuân. Nhưng so với hạnh chịu khổ với 30 năm tù tội, không biết lễ Cầu an này có đủ hay không ? Tại sao hai vị lại cứ tiếp tục gánh lấy cảnh tù đày, để rồi tấm thân hai vị cao tuổi, bệnh hoạn, sẽ còn gánh chịu đến bao lâu nữa ! Những gì Đại hội này đã thể hiện trong ngày hôm nay chứng tỏ tất cả chúng ta thật sự biết ơn sâu sắc và chúng ta nỗ lực thể hiện lòng tri ân chúng ta bằng hành động cụ thể phục vụ Giáo hội và đất nước nhằm đền đáp công ơn Nhị vị lãnh đạo tối cao của Phật giáo Việt Nam".
Toàn thể các đại biểu tham dự vô cùng xúc động. Nhiều người bật khóc. Nhưng nỗi cảm xúc tâm thành ấy tụ hội như một năng lực thanh tịnh, chuyển hóa ra quyết tâm nuôi dưỡng hành động cứu nguy Đạo và Nước.
==
Tài liệu tham khảo :
Huấn Từ(của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo)l Diễn Văn Khai Mạc(của Hòa Thượng Thích Hộ Giác, Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHN-HK)l Sự Cần Thiết Của Giáo Chỉ số 9(Thượng tọa Thích Giác Đẳng)l Giáo chỉ số 9, từ hợp pháp đến khế cơ(Cư sĩ Võ Văn Ái)
http://www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=903
TUỆ NGUYÊN * THƯ GỬI HÒA THƯỢNG TRÍ QUẢNG
GỬI HÒA THƯỢNG TRÍ QUẢNG
Đôi dòng tâm sự kính gửi Hoà thượng Thích Trí Quảng
Phó chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương,
Trưởng ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam Tp. HCM,
Phó chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Tp. HCM
Kính bạch Hoà thượng,
Con là một phật tử sinh ra và lớn lên tại Hà Nội sau năm 1975. Tuy suốt 12 năm học phổ thông và 5 năm đại học con đều được học dưới mái trường Xã hội Chủ nghĩa ở miền Bắc. Nhưng con có may mắn là khi trưởng thành thì được tiếp xúc với một số bậc thiện tri thức và được hiểu hơn về Đạo Phật, nhờ đó mà con đã quy y Phật.Con đã nhiều lần đọc được những bài luận của Hoà thượng.
Trong những lần đó con có cảm nhận Hoà thượng là một nhà Phật học sâu sắc, văn viết của Hoà thượng súc tích và chứa đựng nhiều điều mà chúng con hàng phật tử hậu học được truyền trao những giá trị đúc kết bổ ích trên con đường học Phật.Tuy nhiên, trong thời gian gần đây Hoà thượng có viết một bài với nhan đề“ĐỨC VUA PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG VỊ TỔ NGƯỜI VIỆT NAM CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM” nhân dịp tổ chức Tưởng niệm 700 ngày Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông viên tịch, do Trang nhà Thư Viện Hoa Sen đăng tải.
Con lấy làm băn khoăn nhiều điều và muốn gởi lời tâm sự đến Hoà thượng. Kính xin Hoà thượng từ bi hoan hỉ chỉ dạy cho con và những ai có cùng băn khoăn về những điều sau :1. Trong bài viết của mình có đoạn Hoà thượng viết “
…Ngài (Đức Phật Hoàng) cũng hoàn thành một Phật sự vô cùng đặc biệt, đó là sự thống nhất các hệ phái Phật giáo có trước và khai sáng dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, đây là lần đầu tiên Phật giáo thời nhà Trần đã thống nhất được Phật giáo và thành lập một Giáo hội duy nhất với một Thiền phái duy nhất của người Việt Nam là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử”.Thưa Hoà thượng, đọc đoạn trên con không hiểu là dựa vào đâu mà ngài nói rằng Đức Phật Hoàng và Phật giáo nhà Trần thành lập một giáo hội DUY NHẤT với một Thiền phái DUY NHẤT của người Việt Nam ? Theo rất nhiều sách, tham luận về lịch sử Phật Giáo Việt Nam của các học giả uyên bác như Trần Văn Giáp, Thích Mật Thể, Đoàn Trung Còn, Nguyễn Lang, Lê Manh Thát, v.v… thì Đức Phật Hoàng lấy tinh tuý của các dòng thiền Phật giáo trước đó và với trí tuệ siêu việt của ngài, ngài đã khai sáng dòng Thiên Trúc lâm mang đậm nét Việt Nam, rất đơn giản mộc mạc nhưng siêu việt.Như vậy, chẳng có bằng chứng nào nói rằng Phật giáo nhà Trần thống nhất và thành lập một giáo hội duy nhất cả.
Con rất tin tưởng rằng, với trí tuệ và lòng từ của Đức Phật Hoàng, không bao giờ ngài áp đặt một cái gì là duy nhất, đặc biệt là về mặt tư tưởng đối với người dân mà ngài thương yêu vô bờ bến. Có lẽ chăng thời đó do uy đức và phẩm hạnh của ngài quá lớn, cộng với phẩm chất của dòng Thiền Trúc lâm là rất phù hợp đối với người Việt mà khiến cho phần lớn những người tu học lúc bấy giờ đều rất mến phục và quý kính. Chính vì vậy mà trong lịch sử ít nhắc đến các hệ phái khác vào thời điểm ấy. Liệu nói như Hoà thượng thì có oan cho Đức Phật Hoàng không, thưa Hoà thượng ?
2. Rồi Hoà thượng viết tiếp “Thành quả thống nhất đối với đất nước và đạo pháp của Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông gợi cho chúng ta liên tưởng đến điểm tương đồng với Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày nay. Năm 1975, khi nước nhà được độc lập và thống nhất, thì đến năm 1981, sinh hoạt của Phật giáo Việt Nam chúng ta cũng được chư tôn thiền đức của ba miền đồng lòng thống nhất trong một Giáo hội Phật giáo Việt Nam duy nhất”.Thưa Hoà thượng, con lấy làm băn khoăn là sao Hoà thượng lại so sánh thành quả thống nhất Phật giáo thời Đức Phật Hoàng - Phật Giáo Trúc Lâm cách đây hơn 700 năm với thành quả của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (thành lập năm 1981)ngày nay được ? Bởi đơn giản hàng hậu học như con, với chút kiến thức rất nhỏ bé cũng thấy 2 thành quả trên là khác nhau rất xa, xa lắm. Phật Giáo Trúc Lâm hồi đó lấy định hướng nhập thế để mà hành đạo, sống tuỳ duyên mà chứng đắc Phật tánh trong mỗi người, thể hiện vô cùng rõ ràng trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo của Đức Phật Hoàng :“Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyênĐói đến thì ăn nhọc ngủ liềnTrong nhà có báu thôi tìm kiếmĐối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”Và“Sạch giới lòng, dồi giới tướngNội ngoại nên bồ tát trang nghiêmNgay thờ chúa, thảo thờ chaĐi đỗ mới trượng phu trung hiếu”Phật Giáo Trúc Lâm hồi đó dạy con người lấy lòng NGAY THẲNG để mà giúp cho đất nước non sông, đưa ra những lời khuyên cho đến bậc quân vương và các quan lại phải sống sao cho đúng mực, vì dân vì nước.
Điển hình như vua Trần Anh Tông nhiều lần bị Đức Phật Hoàng quở mắng một cách nghiêm túc vì ham chơi và không có hành động thích đáng lo cho dân. Hồi đó, điển hình là Đức Phật Hoàng, luôn đặt mục tiêu Hộ Dân, Hộ Quốc lên trước cả Hộ Pháp để làm tôn chỉ mà hành đạo, không ngần ngại chi cả việc hi sinh thân mạng.Con không hiểu ngày nay “Gíao hội Phật giáo Việt Nam” đã làm được gì để có thể so sánh với Gíao hội Trúc Lâm hồi đó ? “Gíao hội Phật giáo Việt Nam” đã làm gì để Hộ Quốc trước việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong khi Nhà cầm quyền Việt Nam không những im hơi lặng tiếng mà còn ngăn cấm và bắt bớ sinh viên Việt Nam biểu tình ôn hoà phản đối sự việc trên ?“Gíao hội Phật giáo Việt Nam” đã Hộ quốc thế nào khi chứng kiến cảnh quan chức Việt Nam ăn trên ngồi trước, tham nhũng tham ô tràn lan gây phẫn nộ cho hơn 80 triệu người dân Việt mà đại bộ phận ở khu vực nông thôn đang sống trong cảnh mà Liên Hợp Quốc liệt vào mức nghèo khổ ?“Gíao hội Phật giáo Việt Nam” đã làm gì để giúp đỡ những người dân oan mất đất, đi khiếu kiện trong mấy chục năm trời để gọi là Hộ dân ?“Gíao hội Phật giáo Việt Nam” đã làm gì để hoằng dương chính pháp nói lên sự thật đau lòng của hiện trạng không có tự do, nhân quyền và dân chủ cho người dân ngay tại đất nước Việt Nam để gọi là Hộ Pháp ?Phải chăng ý ngài nói thành quả xây chùa đúc tượng cho thật nhiều như ngày nay mà “Gíao hội Phật giáo Việt Nam” đang làm và sẽ làm ? Phải chăng ý ngài nói ngày càng có nhiều người xuất gia tu học dưới những ngôi trường trung và cao cấp về Phật học được lèo lái bởi “Gíao hội Phật giáo Việt Nam” mà nhiều người trong đó không từng thuộc lấy một bài kệ trong Kinh Pháp Cú hoặc Bát Nhã Tâm kinh, còn nói gì đến hoằng dương chính pháp ?
Phải chăng ý ngài nói đến nhiều chư Tăng Ni trong “Gíao hội Phật giáo Việt Nam” đang hành nghề cúng bái để đáp ứng nhu cầu lợi danh thế tục ? Hoặc giả trong thời kỳ này mà chỉ lý giải suông kinh điển, hoặc thao thao bất tuyệt những điều chẳng ăn nhập gì với cuộc sống khổ cực của người dân Việt thì thật đau xót lắm thưa Hoà thượng.Càng đau xót hơn khi mà những điều trên lại diễn ra trước mặt dân chúng đang lầm than, đại bộ phận sống trong cảnh nghèo túng và bị cường quyền bịt miệng !!!Và còn rất rất nhiều điều khác nữa cho thấy sự khác xa giữa Gíao hội Trúc Lâm với “Gíao hội Phật giáo Việt Nam”.Không những thế, Hoà thượng còn nói là vào năm 1981, chư tôn đức 3 miền đồng lòng thống nhất trong một giáo hội phật giáo Việt Nam duy nhất là “Gíao hội Phật giáo Việt Nam”. Đọc đến đây thì con ngỡ ngàng quá. Vì rõ ràng là Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất còn đây và đang thăng hoa về phẩm chất Phật để mà Hộ Quốc, Hộ Dân và Hộ Pháp đúng theo tinh thần của Giáo hội Trúc Lâm đã làm trong suốt lich sử tồn tại của mình. Chắc ngài thật rõ biết bậc tiền bối của ngài là Đức Cố Tăng Thống Thích Huyền Quang và Thầy Thích Quảng Độ cùng các bậc tôn túc trong Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã không quản ngại cảnh tù đày áp bức lao khổ trong suốt cả cuộc đời của mình để mà vì nước, vì dân, vì chính pháp ?Không lẽ Hoà thượng quên rồi sao những năm tháng ngài tu hành tại chùa Ấn Quang (1957-1965) ?
Rồi còn nữa, ai đã gửi ngài đi du học tại Nhật Bản trong những tháng ngày mà Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vẫn gặp nhiều cảnh khó khăn gian khổ (1965-1973) ?Thế mà giờ đây Hoà thượng lại nói rằng “Gíao hội Phật giáo Việt Nam” là “duy nhất” !!! Không lẽ ngài nỡ lòng phủ nhận một giáo hội đang ngày đêm vất vả lội dòng lịch sử cùng dân tộc và đã từng dung thân ngài, cho ngài đi du học để có được như ngày hôm nay !!!Con thiết nghĩ, các bậc tôn túc trong Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất không bao giờ so sánh mình với Giáo hội Trúc Lâm cả.Các ngài chỉ quên mình mà hoằng dương chính pháp trong việc Hộ quốc, Hộ dân và Hộ pháp đúng như bổn phận của người xuất gia, truyền thừa 2000 năm giá trị Phật giáo Việt Nam của chư lịch đại tổ sư. Thế nhưng, chính trong ý nghĩa đó, mà có lẽ ai ai cũng sẽ nhận thấy chính Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là sự truyền thừa xứng đáng của Giáo hội Trúc Lâm.Ngày hôm nay trên đất nước Việt Nam chưa có được tự do, dân chủ và nhân quyền. Thế nhưng, rồi một ngày không xa Việt Nam sẽ có những điều ấy. Hàng hậu học chúng con sẽ không bao giờ quên được những bậc tôn túc trong Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã không quản ngại cảnh tù đày khắc khổ để mà sống đạo cho đất nước Việt Nam. Con còn nhận thấy, cũng chính nhờ có những hành động và ứng xử của Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất suốt mấy chục năm qua mà Phật giáo Việt Nam ngày nay mới không bị hổ thẹn trước chư lịch đại tổ sư, trước Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông, thưa Hoà thượng.Mai này khi Việt Nam có tự do, nhân quyền và dân chủ, chúng con và các thế hệ tiếp theo phải thành kính đê đầu cảm tạ Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất nhiều lắm vì trí tuệ, từ bi, uy dũng và đức hi sinh cao cả của các Ngài đã và đang đấu tranh cho dân tộc và Phật giáo Việt Nam.Con tin tưởng điều này lắm, bởi cuối cùng thì chính nghĩa sẽ thắng phi nghĩa, đó là bài học giáo đầu nằm lòng mà con được học trong ngày thọ giới quy y Phật.Thưa Hoà thượng, con thấy Đức Bổn Sư Thích Ca, Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông, và chư lịch đại tổ sư của Việt Nam đều luôn luôn dạy dỗ chúng con rằng Đạo Phật là Đạo Như thật, vậy sống và làm việc phải hướng về và y trên sự thật, nếu không thì sẽ phạm vào ít nhất là một trong Năm giới căn bản của người phật tử đó là “Không nói dối hay nói không đúng sự thật”.Kính bạch Hoà thượng,Những điều mà con đề cập ở trên, con thiết nghĩ sẽ còn nhiều người đồng lòng. Nay con chỉ xin mạn phép gửi đến Hoà thượng như những điều tâm sự, mong Hoà thượng ghi nhận và chỉ dạy cho con. Con lại càng mong mỏi điều này hơn khi mà bài viết trên là của Hoà thượng, là bậc thượng thủ trong “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” có nhiều uy tín và tiếng nói trong giáo hội của ngài.Hà Nội, ngày 4/1/2009Tuệ Nguyên
TÀI LIỆU:
http://www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=1154
THI GIANG * THƠ
=
BÀI THƠ TUYẾT TRẮNG
Ngàn dặm tôi đi - lìa đất Mẹ
Thiên Đường đã mất - một quê hương !
Bao năm luân trải đời lưu lạc...
Nhìn Xuân tuyết phủ - nỗi đoạn trường !
Quê người ấm lạnh niềm trăn trở
Biết ngỏ cùng ai trải tấm lòng ?
Cố hương xa lắc - mười phương nhớ...
Ẩn hiện đồi thông dưới tuyết trong.
Tuyết rơi... rơi tiếp chừng không dứt ?
Toả khắp không gian trắng một màu...
Nhà ai bếp lửa còn thao thức
Có chạnh niềm riêng... tóc bạc phau !?
Tôi lòng vẫn nén cơn sầu hận
Gượng nói cười vui với thế nhân !
Cuộc sống dư thừa - dù đã sẵn ;
Nhưng không bù đắp một đôi phần !..
Tuyết trắng - đêm Xuân vừa trở giấc
Nghe buồn dào dạt nhớ Quê Hương :
Cố quốc xa rồi ! - Đời lữ thứ...
Tôi đi tìm mãi một... Thiên Đường !..
Thi Giang Võ Hữu Quyền
Xuân Miền Tây Bắc Hoa Kỳ
==
Saturday, January 17, 2009
TRẦN BÌNH NAM * HỒI KÝ CỦA MÔT VC
*
TRẦN BÌNH NAM
==
==
Nhìn vào chế độ Cộng sản Việt Nam (qua hồi ký của một cán bộ trung kiên).
==
Trần Bình Nam
*
Một
cán bộ cộng sản cao cấp, ông Nguyễn Thành Thơ vừa viết cuốn hồi ký
“Cuối Đời Nhớ Lại” để đọc giữa bạn bè và đồng chí của ông ở trong nước.
Cuốn hồi ký này có thể cũng cùng số phận với nhiều tác phẩm của các cựu
cán bộ, đảng viên cộng sản khác, không được phép in thành sách phổ biến
rộng rãi mà chỉ được phép “photo copy” gởi chuyền tay nhau một cách hạn
chế.
Hồi
Ký “Cuối Đời Nhớ Lại” viết xong ngày 6 tháng 5 năm 2003, và ông Nguyễn
Thành Thơ đã mang đến dự tang lễ của một người cán bộ từng hoạt động với
ông vừa quá cố và vái tặng trước linh cửu bạn như một kỷ niệm để cùng
nhớ lại một thời đã qua. Do một sự tình cờ tôi đọc được tập hồi ký của
ông Nguyễn Thành Thơ
.Trong tập Hồi ký ông Nguyễn Thành Thơ cho biết tổ tiên ông sống tại Nghệ An vào thế kỷ 18. Ông tổ mấy đời trước đi lính Tây Sơn phục vụ trong đoàn quân của bà Bùi Thị Xuân. Trong trận đánh cuối cùng với vua Gia Long đầu năm 1802, quân Tây Sơn tan vỡ, bà Bùi Thị Xuân bị bắt (1), ông chạy về quê bế một đứa con trai 10 tuổi xuống thuyền trốn vào Nam để tránh việc trả thù của vua Gia Long. Ông không tái giá, ở vậy nuôi con, và người con đã tạo ra dòng họ “Nguyễn Thành” tại đồng bằng sông Cửu Long .
Ông Nguyễn Thành Thơ sinh năm 1925 tại làng Vĩnh Xuân, huyện La ghì, tỉnh Vĩnh Long. Cha ông là Nguyễn Ngươn Hanh sinh năm 1863, có nho học và làm nghề thuốc Bắc. Ông Hanh tham gia phong trào chống Pháp từ khi Pháp vừa đặt xong nền đô hộ tại Việt Nam. Năm 62 tuổi mới sinh ra ông Thơ với bà vợ thứ hai Nguyễn Thị Phước. Ông Nguyễn Ngươn Hanh bị Pháp cầm tù và chết tại Côn Đảo năm 1942 thọ 79 tuổi.Tập hồi ký này khác với các tập hồi ký khác ở chỗ, ông Nguyễn Thành Thơ tham gia cuộc tranh đấu chống Pháp giành độc lập lúc mới 14 tuổi cùng với các sĩ phu yêu nước khác trong đó có thân phụ ông.
Trong quá trình tranh đấu, thân sinh ông tham gia đảng cộng sản, nên ông cũng tham gia đảng cộng sản. Ông không tham gia Đảng cộng sản vì mê thuyết Mác Xít. Ông chỉ muốn theo chân thân phụ chống Pháp. Ông thoát ly gia đình trước cuộc cách mạng 1945 khi tuổi chưa đầy 20. Ông kinh qua cuộc đấu tranh chống Pháp cho đến khi ký hiệp định Geneve (năm ông 29 tuổi) chia đôi đất nước. Ông được Đảng cộng sản bố trí ở lại, không tập kết ra Bắc, và tiếp tục tham gia cuộc đấu tranh chính trị và vũ trang chiếm miền Nam do Hà Nội chỉ đạo.Ông Nguyễn Thành Thơ đóng góp và chứng kiến cuộc đại thắng của Đảng cộng sản năm 1975, sau đó trong đại hội 4 Đảng cộng sản (1976) ông trở thành Ủy viên TW Đảng. Ông có tất cả ưu thế và điều kiện để leo lên những chức vụ cao hơn trong Đảng và trong guồng máy cầm quyền. Nhưng vốn là một người còn lương tri thấy những đường lối sai lầm của Đảng mà việc trước mắt sau năm 1975 là quyết định xóa bỏ nền kinh tế thị trường tại miền Nam Việt Nam và có đủ can đảm cùng với các cán bộ gắn bó với miền Nam khác như Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng tỏ ý bất đồng với chính sách này và ông bị loại ra khỏi TW Đảng kể từ đại hội 5 năm 1981.
Ông từng chống lại chính sách kỳ thị đệ tam, đệ tứ, chính sách đối đãi với đảng viên Đại Việt của những năm 1945 khi công cuộc chống Pháp bùng nỗ, chống lại những sa đọa của cán bộ an ninh, chống chính sách đối với đồng bào gốc Miên tại các tỉnh miền Nam.Nhưng đó là những chuyện nhỏ. Chuyện lớn là ông từng chống lại chính sách xóa bỏ nền kinh tế cá thể tại miền Nam năm 1976 (tuy đồng ý về thống nhất chính trị Bắc Nam).
.Trong tập Hồi ký ông Nguyễn Thành Thơ cho biết tổ tiên ông sống tại Nghệ An vào thế kỷ 18. Ông tổ mấy đời trước đi lính Tây Sơn phục vụ trong đoàn quân của bà Bùi Thị Xuân. Trong trận đánh cuối cùng với vua Gia Long đầu năm 1802, quân Tây Sơn tan vỡ, bà Bùi Thị Xuân bị bắt (1), ông chạy về quê bế một đứa con trai 10 tuổi xuống thuyền trốn vào Nam để tránh việc trả thù của vua Gia Long. Ông không tái giá, ở vậy nuôi con, và người con đã tạo ra dòng họ “Nguyễn Thành” tại đồng bằng sông Cửu Long .
Ông Nguyễn Thành Thơ sinh năm 1925 tại làng Vĩnh Xuân, huyện La ghì, tỉnh Vĩnh Long. Cha ông là Nguyễn Ngươn Hanh sinh năm 1863, có nho học và làm nghề thuốc Bắc. Ông Hanh tham gia phong trào chống Pháp từ khi Pháp vừa đặt xong nền đô hộ tại Việt Nam. Năm 62 tuổi mới sinh ra ông Thơ với bà vợ thứ hai Nguyễn Thị Phước. Ông Nguyễn Ngươn Hanh bị Pháp cầm tù và chết tại Côn Đảo năm 1942 thọ 79 tuổi.Tập hồi ký này khác với các tập hồi ký khác ở chỗ, ông Nguyễn Thành Thơ tham gia cuộc tranh đấu chống Pháp giành độc lập lúc mới 14 tuổi cùng với các sĩ phu yêu nước khác trong đó có thân phụ ông.
Trong quá trình tranh đấu, thân sinh ông tham gia đảng cộng sản, nên ông cũng tham gia đảng cộng sản. Ông không tham gia Đảng cộng sản vì mê thuyết Mác Xít. Ông chỉ muốn theo chân thân phụ chống Pháp. Ông thoát ly gia đình trước cuộc cách mạng 1945 khi tuổi chưa đầy 20. Ông kinh qua cuộc đấu tranh chống Pháp cho đến khi ký hiệp định Geneve (năm ông 29 tuổi) chia đôi đất nước. Ông được Đảng cộng sản bố trí ở lại, không tập kết ra Bắc, và tiếp tục tham gia cuộc đấu tranh chính trị và vũ trang chiếm miền Nam do Hà Nội chỉ đạo.Ông Nguyễn Thành Thơ đóng góp và chứng kiến cuộc đại thắng của Đảng cộng sản năm 1975, sau đó trong đại hội 4 Đảng cộng sản (1976) ông trở thành Ủy viên TW Đảng. Ông có tất cả ưu thế và điều kiện để leo lên những chức vụ cao hơn trong Đảng và trong guồng máy cầm quyền. Nhưng vốn là một người còn lương tri thấy những đường lối sai lầm của Đảng mà việc trước mắt sau năm 1975 là quyết định xóa bỏ nền kinh tế thị trường tại miền Nam Việt Nam và có đủ can đảm cùng với các cán bộ gắn bó với miền Nam khác như Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng tỏ ý bất đồng với chính sách này và ông bị loại ra khỏi TW Đảng kể từ đại hội 5 năm 1981.
Ông từng chống lại chính sách kỳ thị đệ tam, đệ tứ, chính sách đối đãi với đảng viên Đại Việt của những năm 1945 khi công cuộc chống Pháp bùng nỗ, chống lại những sa đọa của cán bộ an ninh, chống chính sách đối với đồng bào gốc Miên tại các tỉnh miền Nam.Nhưng đó là những chuyện nhỏ. Chuyện lớn là ông từng chống lại chính sách xóa bỏ nền kinh tế cá thể tại miền Nam năm 1976 (tuy đồng ý về thống nhất chính trị Bắc Nam).
Ông
chống chính sách hợp tác xã nông nghiệp mà ông biết sẽ làm cho nông dân
mất hứng thú sản xuất, và ông chống chính sách ngăn sông cách chợ mà
ông biết sẽ làm cho dân đói.Tuy nhiên, nhờ công lao và sự trung thành
với Đảng ông Nguyễn Thành Thơ không bị loại ra khỏi các chức vụ dưới cấp
TW Đảng và ông đã tiếp tay với Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt và sự ủng
hộ ngầm của Trường Chinh thúc đẩy quyết định “đổi mới” kinh tế tại Đại
hội 6 năm 1986. Tại đại hội này Nguyễn Văn Linh đắc cử Tổng Bí thư thay
thế Trường Chinh.
Ông Nguyễn Thành Thơ nghỉ hưu năm 1992 lúc ông 67 tuổi. Ông được cấp 30 mẫu tây đất tại huyện Tân Uyên tỉnh Bình Dương trồng cây ăn trái và lấy gỗ và nhờ đó có một đời sống vật chất sung túc.Ông không phải là một người chống Đảng. Nét đặc biệt của ông Nguyễn Thành Thơ là ngay thẳng không biết xu nịnh, lại hay nói không thuận chiều với những chính sách giáo điều của Đảng nên cấp trên không ưa ông. Họ không cất nhắc ông lên các chức vụ then chốt của đảng nhưng không ghét ông vì ông là một người trung thành, đơn giản và được sự kính mến che chở của bạn bè trong Đảng bộ miền Nam và không đe dọa quyền lực một ai. Cán bộ cao cấp gốc miền Nam đồng thời với ông như Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng rất quý nể ông vì tính tình phóng khoáng hết lòng sống chết với bạn bè đồng chí. Ông Nguyễn Thành Thơ là người dám làm những việc ngoài đường lối của đảng, nhưng luôn luôn chứng tỏ mình là một đảng viên trung thành có thể chết vì đảng.
Ông Nguyễn Thành Thơ nghỉ hưu năm 1992 lúc ông 67 tuổi. Ông được cấp 30 mẫu tây đất tại huyện Tân Uyên tỉnh Bình Dương trồng cây ăn trái và lấy gỗ và nhờ đó có một đời sống vật chất sung túc.Ông không phải là một người chống Đảng. Nét đặc biệt của ông Nguyễn Thành Thơ là ngay thẳng không biết xu nịnh, lại hay nói không thuận chiều với những chính sách giáo điều của Đảng nên cấp trên không ưa ông. Họ không cất nhắc ông lên các chức vụ then chốt của đảng nhưng không ghét ông vì ông là một người trung thành, đơn giản và được sự kính mến che chở của bạn bè trong Đảng bộ miền Nam và không đe dọa quyền lực một ai. Cán bộ cao cấp gốc miền Nam đồng thời với ông như Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng rất quý nể ông vì tính tình phóng khoáng hết lòng sống chết với bạn bè đồng chí. Ông Nguyễn Thành Thơ là người dám làm những việc ngoài đường lối của đảng, nhưng luôn luôn chứng tỏ mình là một đảng viên trung thành có thể chết vì đảng.
Kết thúc sự nghiệp của ông không có gì để ca ngợi, ngoại trừ những dòng chữ trong tập hồi ký “Cuối Đời Nhớ Lại” vô tình cho chúng ta thấy một số sự kiện có tính lịch sử. Ông Nguyễn Thành Thơ từng giữ những chức vụ quan trọng, và từng có dịp tiếp xúc với tất cả các lãnh tụ như Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp … nên những mẫu chuyện ông kể lại trong hồi ký hé mở cho chúng ta thấy cá tính của những con người từng nắm vận mệnh nước Việt Nam và giúp chiếu rọi ánh sáng vào những vấn đề lớn khác như Hà Nội nghĩ gì về Hiệp Định Geneve năm 1954, cuộc tấn công của Bắc Kinh qua biên giới Việt Nam năm 1979 … Và từ đó lý giải tại sao đất nước Việt Nam đang trải qua hoàn cảnh hôm nay.
Trong thời gian ông lãnh nhiệm vụ lãnh đạo địch vận, ông từng là người chỉ huy tướng Dương Văn Nhựt được gởi từ miền Bắc vào Nam để tiếp xúc với tướng Dương Văn Minh. Sự việc ông kể lại công tác này (nếu ông Nguyễn Thành Thơ ghi lại chính xác) có thể giúp cho các nhà viết sử về sau nghiên cứu một nghi vấn quan trọng.
Sau đây là vài trích dẫn:
Lê Duẫn và hiệp định Geneve:
Năm 1954 hiệp định Geneve vừa ký xong đảng cộng sản gởi Lê Duẫn vào Nam để lãnh đạo đảng bộ miền Nam chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử hay cuộc nổi dậy. Ông Nguyễn Thành Thơ ghi lại buổi học tập do Lê Duẫn chủ tọa:“Học lớp chính trị do anh Lê Duẫn giảng “Hiệp định Geneve và đấu tranh thi hành hiệp định Geneve” trong đó có những ý quan trọng như: Ta không tán thành ký kết Hiệp định Geneve, do Trung quốc, Liên xô ép. Mỹ sẽ trở thành kẻ xâm lược chính. Đảng bí mật, tổ chức quần chúng bán công khai và công khai. Cảnh giác chiến tranh, do đó phải giấu một số quân và vũ khí …” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 83)
Quản lý nhân sự thoát ly:
Nhân sự thoát ly bị cắt dứt hoàn toàn với gia đình để tránh việc trốn về với gia đình sau khi thấy được mặt thật của Đảng. Ai bỏ trốn sẽ bị bắn bỏ. Ông Nguyễn Thành Thơ thuật lại chuyện một cán bộ văn nghệ nữ đã tự sát vì bị bao vây. Cô ta ắt là đã gởi nhiều thư thăm hỏi gia đình không được cơ quan chuyển:“Có nữ đồng chí tên là Nhị Hà khỏang 30 tuổi, người Bến Tre, xinh đẹp, đi tập kết, được đi học Liên xô về đạo diễn, về miền Tây là cán bộ đạo diễn ở cơ quan văn nghệ Khu. Dự họp, mặc quần áo bà ba củn cởn của thiếu nữ càng thêm xinh đẹp, giờ giải lao lên ca hát phục vụ, được cuộc họp vỗ tay nhiệt liệt tán thưởng. Một hôm khoảng 10 giờ đêm, có một cán bộ đến báo, đêm vừa rồi cơ quan văn nghệ Khu có cuộc họp liên hoan, có một cán bộ cởi nịt súng máng lên vách. Nhị Hà gỡ lấy súng, lên đạn rồi nói ‘Xin từ giả anh chị em, tôi chết’ Các học trò diễn viên khóc mướt, nói không ra lời, tất cả đều lấn vào tranh thủ giựt súng. Nhị Hà chỉa súng vào màng tang nói ‘Các anh chị em ngồi yên để tôi sống thêm một lúc nữa, còn tìm cách giựt súng tôi sẽ nổ súng chết ngay’. Anh chị em hỏi ‘Vì sao muốn chết’ Nhị Hà nói: ‘Tôi có chồng gởi thơ cho chồng không biết bao nhiêu lần vẫn không thăm tôi, vẫn không thơ trả lời. Tôi còn mẹ, nhờ người đi rước nhiều lần vẫn không gặp tôi …
Trong hoàn cảnh cô đơn nhớ chồng con, cha mẹ anh em không tả nổi, không có tương lai sum họp chỉ muốn chết thôi. Nếu anh chị em thương tôi chôn tôi bên ngoài một góc nghĩa trang nào đó để tôi luôn gặp người qua lại chào mừng, chung quanh mộ trồng bông mười giờ là loại hoa tôi ưa thích nhất’. Nói xong bóp cò, súng rớt, đưa đi quân y, nửa đường tắt thở” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 119)
Về cải cách ruộng đất:
Cho đến nay người ta tưởng cuộc cải cách ruộng đất giết chết phú nông và địa chủ chỉ diễn ra tại miền Bắc khoảng năm 1953, 1954 thôi. Sự thật những nhà lãnh đạo giáo điều của Đảng đã ra lệnh cải cách ruộng đất tại miền Nam vào năm 1964, 1965 khi cộng sản đã kiểm soát được một phần lớn đồng bằng sông Cửu Long theo mô thức đấu tố đã làm tại miền Bắc. Lệnh này cho thấy cuộc cải cách ruộng đất tại miền Bắc giết oan biết bao nhiêu nông dân, sau đó cải sửa, Hồ Chí Minh khóc nhận sai lầm chỉ là một màn kịch. Tuy nhiên các cán bộ miền Nam thấy tình hình đất đai và quan hệ giữa địa chủ và nông dân ở miền Nam không có gì giống với điều kiện ở miền Bắc như chỉ thị mô tả và đã tỏ ý không hăng hái thi hành.Ông Nguyễn Thành Thơ thuật lại rằng, khoảng năm 1964 khi đang công tác tại đồng bằng sông Cửu Long ông được gọi về trình diện Cục R (2). Tại R ông được lệnh về tổ chức “Phát động quần chúng cải cách ruộng đất một cách toàn diện và triệt để”. Nghe giải thích cả ngày ông vẫn không thông, và sau khi cho điều tra thực trạng ông không thấy có địa chủ theo tiêu chuẩn ngoài Bắc hay tại Trung quốc, và cũng không có nông dân bị hiếp đáp để đứng ra tố khổ như ngoài Bắc. Hỏi ý Nguyễn Chí Thanh lúc đó chỉ huy Cục R, Nguyễn Chí Thanh cũng mù mờ không quyết, sau đó điện ra Bắc hỏi Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh bảo không làm được thì ngưng lại (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 120, 121).
Về chính sách giết nhầm hơn bỏ sót:
Ông Nguyễn Thành Thơ kể rằng trong thời gian xâm lăng miền Nam, công an cộng sản được lệnh “thà giết lầm hơn bỏ sót”. Ông viết:“Ban an ninh khu có trại giam kể là tử tội, ở xã thuộc huyện Thanh Tri – Sóc Trăng có chỉ thị cho ban cai quản trại giam, khi địch đánh vào trại giam, phải xử tử ngay không để dịch giải thoát” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 122).Ở một đoạn khác ông Nguyễn Thành Thơ viết rằng khi ông mang vấn đề này ra kiểm điểm và hỏi chủ trương như vậy có sai trái gì không thì một cán bộ an ninh tên là Ba Hương giải thích:“Xưa nay làm công tác an ninh thường có quan điểm thà giết lầm chứ không thả lầm” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 123)
Phê phán nội bộ về tấn công Mậu Thân:
Cuộc tấn công Mậu Thân 1968 trên toàn quốc Đảng cộng sản xem như một thắng lợi lớn, nhưng sự thật cuộc tổng tấn công đã thất bại khắp nơi, và tổn thất nhân mạng về phía cộng sản rất nặng nề vì chiến thuật địa phương lủng củng thiếu thống nhất. Thuật lại việc phê phán nội bộ sau trận Mậu Thân ông Nguyễn Thành Thơ ghi nhận ba đợt tấn công theo chỉ thị của cục R đều thất bại. Phần ông bị phê bình. Ông viết trong bản kiểm điểm:“Tấn công đợt 1, Khu ủy ai cũng nói “a thần phù” và vỗ đít, không chủ động. Đợt 2 trong tình hình địch cảnh giác phòng thủ chặt ta tấn công sẽ bị đỡ ngực nên nhiều đồng chí đều có ý kiến chuyển hướng tấn công, chủ yếu vào nơi địch sơ hở và ta có chuẩn bị. Khuyết điểm tinh thần tấn công của tôi theo chỉ đạo trên là bế tắc, không tìm được chỗ yếu của địch và nghiên cứu cách tần công địch không đỡ được. Do tấn công vào điểm trong đợt 2 ta bị tiêu hao nhiều quá, ai cũng thắc mắc. Trong cuộc hội nghị Khu ủy thống nhất củng cố ba thứ quân và chuyển hướng tấn công không đúng chỉ đạo bên trên.” (“Cuối Đời Nhớ Lại”, trang 136)
Vì những lẽ trên ông Nguyễn Thành Thơ nói ông không thể làm theo chỉ thị vì sẽ có nhiều tổn thất. Nhưng trong bản kiểm điểm ông nhận lỗi như cấp trên muốn. Ông viết:“Trong chấp hành chỉ đạo tấn công dứt điểm đô thị, tôi có khuyết điểm cầu an tiêu cực tấn công, không dứt điểm được các mục tiêu đô thị ở Khu 3” (“Cuối Đời Nhớ Lại”, trang 136)
Địch vận tướng Dương Văn Minh :
Một tiết lộ có giá trị lịch sử nhất là nỗ lực vận động (từ năm 1963 đến năm 1968) sự hợp tác của tướng Dương Văn Minh bất thành do chính ông Nguyễn Thành Thơ thực hiện (thời gian 1968 làm Trưởng ban Binh vận R, một chức vụ chỉ giao cho cấp Ủy viên TW đảng) theo lệnh của Phạm Hùng. Hà Nội đã đưa tướng Dương Văn Nhựt (em của tướng Dương Văn Minh) từ miền Bắc vào tiếp xúc với Dương Văn Minh, và tướng Dương Văn Minh đều thông báo cho tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn biết nội dung các cuộc tiếp xúc này.Năm 1968, sau trận Mậu Thân và Hoa Kỳ đang xuống thang chiến tranh. Tại bộ chỉ huy Trung ương cục R Phạm Hùng làm việc với Nguyễn Thành Thơ. Nguyễn Thành Thơ ghi:“Anh Phạm Hùng bàn ‘Mỹ xuống thang chiến tranh, nội bộ ngụy sẽ mâu thuẫn chia rẽ lật đổ nhau, anh tổ chức tranh thủ Dương Văn Minh lợi dụng thời cơ để chiếm địa vị trong ngụy quyền để thực hiện hòa hợp dân tộc, chấm dứt chiến tranh’. Trung ương cục có điện kêu Dương Văn Nhựt (vốn là tướng trong hàng ngủ cộng sản, em ruột tướng Dương Văn Minh) cộng tác với tôi thực hiện.”“Dương Văn Nhựt đến làm việc với tôi. Trước nhứt tôi hỏi Dương Văn Nhựt ‘quá trình qua Dương Văn Minh đối với ta có biểu lộ cảm tình gì không’. Nhựt trình bày ‘Thời Ngô Đình Điệm, Dương Văn Minh đảo chánh Diệm, đảng có kêu tôi gặp Minh, bảo với Minh khi làm tổng thống thì bãi bỏ ấp chiến lược đi. Minh trả lời ‘sẽ bãi bỏ ấp chiến lược nhưng chùa Phật, Thiên chúa được dựng lên theo gom dân lập ấp chiến lược vẫn giữ. Khi ta tấn công Mậu Thân Đảng bảo tôi (Dương Văn Nhựt) đến gặp Minh. Tôi đến nhà Minh, biết Minh đi Thụy Sĩ tôi lên ngay máy bay đi Thụy Sĩ, biết Minh về Thái Lan, tôi theo về Thái Lan, gặp được Minh tôi nói: ‘Ông Nguyễn Hữu Thọ mời Minh về tham gia Mặt Trận Giải Phóng và Chính Quyền liên hiệp’ Minh nói : ‘không biết làm chính trị, việc đó dành cho ông Thọ’ .
Tôi (Nguyễn Thành Thơ) nói với Nhựt
‘Như
vậy Minh là một nhân vật trung gian, có quan điểm trung gian, theo địch
vẫn có cảm tình với ta, vậy Nhựt đi làm việc với Minh là đi tranh thủ
Minh lợi dụng tình hình, để giành địa vị trong ngụy quyền, hiệp thương
với ta thực hiện hòa hợp’. Nhựt nói ‘Yêu cầu như thế ta tranh thủ hướng
dẫn Minh giành quyền rất dễ, tôi tin Minh sẽ hăng hái làm theo’“Khi Nhựt
về báo cáo ‘Đến nhà Minh gặp mẹ tôi, mẹ tôi ôm tôi khóc, tôi cũng khóc,
thấy vợ chồng Minh rất xúc động. Vợ Minh lo ăn nghỉ cho tôi rất chu
đáo, con Minh vui mừng vì có người chú trong hàng ngũ cách mang. Tiếp
theo, khi nào Minh rãnh rỗi, tôi nói chuyện với Minh nhiều chủ đề để
xiết vô chủ đề tranh thủ Minh, nói hướng dẫn của ta thêm thuận lợi. Minh
chỉ hỏi để hiểu rõ thêm ý của ta, không thấy phản ứng gì’.“Đến ngày
chót Minh tổ chức chiếu bóng cho gia đình xem. Minh ngồi trên xe, tôi
ngồi một bên, một người Mỹ ngồi một bên, người Mỹ luôn lén nhìn tôi. Sau
đó Minh cho xe đưa tôi về Tây Ninh. Theo tôi (Dương Văn Nhựt) nhận xét,
Minh ngồi gữa coi chiếu bóng, có một người Mỹ ở bên, để ngầm cho tôi
biết, Minh giành chức vụ trong chính quyền ngụy để thương lượng với ta
được một trường phái Mỹ ủng hộ .
“Tôi
(Nguyễn Thành Thơ) báo cáo anh Phạm Hùng …, anh Phạm Hùng nói đại ý:
‘Ta đoán Mỹ sẽ xuống thang chiến tranh, ta hoạt động mạnh, ngụy suy yếu
sẽ đẻ ra lủng củng. Minh nghe lời ta có thể đạt được mong muốn. Kể từ
nay cắt đứt liên lạc để tránh lộ liễu, chuyện có quá trình, có đi sẽ
đến. Trả Dương Văn Nhựt về Bắc”“Cuộc vận động theo Nhựt nói lại, đến
30-4-1975, Phòng chính trị Bộ Tư Lệnh cấm không được nói cho ai biết,
nên Nhựt không dám hé môi” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 139, 140)
Chiến tranh Việt Trung 1979:
Khoảng cuối năm 1978 khi tình hình biên giới Việt-Kampuchia và Việt –Trung căng thẳng, quân lính Kampuchia thường vượt biên giới cướp của và giết người mà Việt Nam không có đối sách gì.Trong một dịp Tổng Bí thư Lê Duẫn đi thăm huyện Cần Giờ tháp tùng bởi Huyện ủy và 30 cán bộ cao cấp khác, Nguyễn Thành Thơ ghi:“Lê Duẫn nói ‘Các anh có gì hỏi tôi giải đáp’ . Anh em phấn khởi rộ lên ‘Xin hỏi K nó quấy rối biên giới ta, tàn sát cướp phá rất dã man điên cuồng, sao ta đối phó rất lôi thôi, chúng tôi khó hiểu’. Anh Lê Duãn trả lời ‘Các đồng chí hỏi đúng là một tình hình cả nước đều quan tâm, chúng tôi đau đầu lắm ngủ không được, không phải là vấn đề Khmer đỏ, vấn đề Pôn Pốt mà là vấn đề ai đằng sau Khmer đỏ, Pôn Pốt. Lần này ta có đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi, nhưng ta đánh nó, Trung quốc đánh ta thôi, nhưng ta không chiếm K, Trung quốc cũng không chiếm ta.” (“Cuối Đời Nhìn Lại” trang 159)
Ý kiến của cán bộ cao cấp miền Nam về thống nhất đất nước:
Nội bộ cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam có ý kiến khác biệt về cách thống nhất đất nước, thống nhất chính trị mà không thống nhất kinh tế hay thống nhất cả chính trị và kinh tế . Ông Nguyễn Thành Thơ viết như sau về các cuộc thảo luận ở cấp cao:“Lần đầu tiên dự cuộc họp cán bộ hội nghị toàn quốc tại trường công an thành phố tại Thủ Đức, do anh Lê Duẫn chủ trì, trong cuộc họp tôi nhớ các anh nói về thống nhất đất nước, vấn đề tôi nhớ mãi là anh Linh (Nguyễn Văn Linh) phát biểu ‘Thống nhất đất nước, tiến hành ngay thống nhất lãnh thổ, thống nhứt Đảng, đoàn thể, Mặt trận, Nhà nước, thống nhứt quân đội … Nhưng đề nghị khoan thống nhứt kinh tế, để nó được phát triển như nó có, ta xem ưu khuyết, cái gì phát huy, cái gì bỏ đi .” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 160)
Trong một cuộc họp sau đó tại Hà Nội do Trường Chinh chủ trì, ông Nguyễn Thành Thơ ghi rằng một số cán bộ miền Bắc phê bình:“Có một số cán bộ Đảng viên (ám chỉ cán bộ miền Nam) không muốn thống nhứt đất nước để hưởng thụ”. Ngày nghỉ họp, anh Bạch Đằng (Trần Bạch Đằng) đến gặp tôi kéo tôi đi nói: ‘Tôi anh đến gặp anh Sáu Thọ’ (Lê Đức Thọ). Đến nhà anh Sáu Thọ anh vui vẻ tiếp, anh Bạch Đằng nói: ‘Tôi không tán thành cuộc họp lần này, Trung ương có nhận xét một số Đảng viên không muốn thống nhứt đất nước, chúng tôi tán thành thống nhứt tất cả, chỉ có một điểm kinh tế để như nó có, lại nhận xét chúng tôi không muốn thống nhứt, lại nói chúng tôi để hưởng thụ . Chúng tôi lo là lo nền kinh tế suy sụp đời sống nhân dân khó khăn, nếu nói đó là để hưởng thụ thì nhân dân được hưởng thụ, còn thống nhứt để dân nghèo thì chính trị đất nước thế nào’ Anh Sáu Thọ nói ‘Kinh tế là nền tảng, không thống nhứt kinh tế, tất cả các vấn đề khác thống nhứt không có nghĩa gì.’ Hai anh cải với nhau rất gay gắt đến mức đứng lên ngồi xuống quơ tay. Tôi ngồi rất lo …” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 160)
Đói do thống nhứt kinh tế, ngăn sông cấm chợ:
Trong thời gian 1976, 1977 dù một số cán bộ miền Nam như Nguyễn Văn Linh, Trần Bạch Đằng chống thống nhứt kinh tế, nhưng Lê Đức Thọ là người nắm thực quyền chủ trương thống nhứt toàn diện, nên những ủy viên cao cấp khác như Lê Duẫn, Trường Chinh cũng để cho trôi qua (có thể sợ chống thống nhứt kinh tế là đi ngược với chủ thuyết và bị chụp mũ là xét lại). Cả nước sau đó rơi vào đói rách. Ông Nguyễn Thành Thơ kể lại một hoạt cảnh đói:“Một hôm khoảng 6 giờ tối, chồng thiếu tướng, vợ bác sĩ, trong lúc tôi Bí thư Chính ủy khu miền Tây, chị là người chăm lo sức khỏe cho tôi, rất ơn nghĩa, đá cửa rào nhà tôi kêu “Mười Khẩn, gạo đâu ăn?” (Mười Khẩn là một trong những bí danh của ông Nguyễn Thành Thơ). Tôi chạy ra mở cửa, trước thái độ đói giận, tôi vô nhà vác bao gạo mới được cấp đem ra để trên xe, xe rồ chạy về không có lời chào hỏi đến như đi” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 164)
Một hoạt cảnh khác không kém phần sống động. Nguyễn Thành Thơ ghi:“Hai anh em con tôi, sau những ngày ăn bo bo, khoai bắp, vừa có gạo nấu nồi cháo, em vào bếp múc tô cháo ăn, anh vô bếp thếy em ăn, anh cúi xuống hỏi ‘Mầy ăn gì?’ Người em lấy mặt che tô cháo, anh nắm lỗ tai dỡ lên ‘Mầy ăn cháo gạo không chờ ai ăn’, liền đẩy đầu em xuống tô cháo, mặt đầy cháo, em ngóc đầu dậy lấy tô cháo vụt vào mặt anh, trúng mé mắt máu ra lai láng, vợ tôi vội chở đến bệnh viện Gia Định cầm máu may lại.” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang164, 165) .
Vai trò của Trường Chinh trong cuộc đổi mới năm 1986:
hưa có tài liệu nào cho thấy vai trò của Trường Chinh trong quyết định “đổi mới”. Nhưng dựa vào Hồi ký của ông Nguyễn Thành Thơ có lẽ Trường Chinh đã có một vai trò tích cực. Nguyễn Thành Thơ viết:“Lúc đó (năm 1986) tình hình, anh Ba Duẫn mất, anh Trường Chinh được TW Đảng giao nhiệm vụ Tổng Bí thư. Anh vào Sài Gòn được Thành ủy đưa xuống một số cơ sở sản xuất, thấy sản xuất phát triển, lao động có việc làm, hàng hóa tiêu dùng không thiếu, không khí sắp hàng mua hàng đi kiếm hàng không còn . Anh nói với anh em “Đi lên xã hội chủ nghĩa, Đảng lãnh đạo, theo đường lối quần chúng, thực tế thực tiễn, dân tộc và thời đại.” Rồi khen anh Linh là con người thực tế, thực tiễn, không duy ý chí, về Hà Nội làm việc, sau đó quyết định đề bạt anh Linh làm Thường trực Ban bí thư .” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 192).
Nhờ sự cất nhắc và ủng hộ của Trường Chinh Nguyễn Văn Linh đã đắc cử Tổng Bí thư tại đại hội 6 của Đảng trong năm 1986 và cầm đầu cuộc “đổi mới” cứu Việt Nam ra khỏi nạn đói.Cuốn Hồi Ký “Cuối Đời Nhớ Lại” của ông Nguyễn Thành Thơ cho thấy, do đấu tranh nội bộ và áp lực của tình hình thế giới Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết định “đổi mới” chính sách kinh tế, và qua đó cởi bỏ được một trong hai cái gông họ máng lên đầu dân tộc Việt. Cái gông còn lại là cái “gông chính trị”, cái Điều 4 của bản Hiến Pháp quái ác hiện hành.Chừng nào thì Đảng cộng sản Việt Nam tháo gỡ cái gông còn lại để dân tộc có đầy đủ tự do thong dong tiến bước?
Trần Bình Nam
Jan., 17, 2009binhnam@sbcglobal.nethttp://www.tranbinhnam.com/
(1) Xem Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn trang 573
(2) “R” là Trung ương cục miền Nam, bộ phận lãnh đạo cuộc chiến tại miền Nam của Hà Nội, thường đóng bên kia biên giới Cam Bốt người cộng sản gọi là K .
Chiến tranh Việt Trung 1979:
Khoảng cuối năm 1978 khi tình hình biên giới Việt-Kampuchia và Việt –Trung căng thẳng, quân lính Kampuchia thường vượt biên giới cướp của và giết người mà Việt Nam không có đối sách gì.Trong một dịp Tổng Bí thư Lê Duẫn đi thăm huyện Cần Giờ tháp tùng bởi Huyện ủy và 30 cán bộ cao cấp khác, Nguyễn Thành Thơ ghi:“Lê Duẫn nói ‘Các anh có gì hỏi tôi giải đáp’ . Anh em phấn khởi rộ lên ‘Xin hỏi K nó quấy rối biên giới ta, tàn sát cướp phá rất dã man điên cuồng, sao ta đối phó rất lôi thôi, chúng tôi khó hiểu’. Anh Lê Duãn trả lời ‘Các đồng chí hỏi đúng là một tình hình cả nước đều quan tâm, chúng tôi đau đầu lắm ngủ không được, không phải là vấn đề Khmer đỏ, vấn đề Pôn Pốt mà là vấn đề ai đằng sau Khmer đỏ, Pôn Pốt. Lần này ta có đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi, nhưng ta đánh nó, Trung quốc đánh ta thôi, nhưng ta không chiếm K, Trung quốc cũng không chiếm ta.” (“Cuối Đời Nhìn Lại” trang 159)
Ý kiến của cán bộ cao cấp miền Nam về thống nhất đất nước:
Nội bộ cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam có ý kiến khác biệt về cách thống nhất đất nước, thống nhất chính trị mà không thống nhất kinh tế hay thống nhất cả chính trị và kinh tế . Ông Nguyễn Thành Thơ viết như sau về các cuộc thảo luận ở cấp cao:“Lần đầu tiên dự cuộc họp cán bộ hội nghị toàn quốc tại trường công an thành phố tại Thủ Đức, do anh Lê Duẫn chủ trì, trong cuộc họp tôi nhớ các anh nói về thống nhất đất nước, vấn đề tôi nhớ mãi là anh Linh (Nguyễn Văn Linh) phát biểu ‘Thống nhất đất nước, tiến hành ngay thống nhất lãnh thổ, thống nhứt Đảng, đoàn thể, Mặt trận, Nhà nước, thống nhứt quân đội … Nhưng đề nghị khoan thống nhứt kinh tế, để nó được phát triển như nó có, ta xem ưu khuyết, cái gì phát huy, cái gì bỏ đi .” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 160)
Trong một cuộc họp sau đó tại Hà Nội do Trường Chinh chủ trì, ông Nguyễn Thành Thơ ghi rằng một số cán bộ miền Bắc phê bình:“Có một số cán bộ Đảng viên (ám chỉ cán bộ miền Nam) không muốn thống nhứt đất nước để hưởng thụ”. Ngày nghỉ họp, anh Bạch Đằng (Trần Bạch Đằng) đến gặp tôi kéo tôi đi nói: ‘Tôi anh đến gặp anh Sáu Thọ’ (Lê Đức Thọ). Đến nhà anh Sáu Thọ anh vui vẻ tiếp, anh Bạch Đằng nói: ‘Tôi không tán thành cuộc họp lần này, Trung ương có nhận xét một số Đảng viên không muốn thống nhứt đất nước, chúng tôi tán thành thống nhứt tất cả, chỉ có một điểm kinh tế để như nó có, lại nhận xét chúng tôi không muốn thống nhứt, lại nói chúng tôi để hưởng thụ . Chúng tôi lo là lo nền kinh tế suy sụp đời sống nhân dân khó khăn, nếu nói đó là để hưởng thụ thì nhân dân được hưởng thụ, còn thống nhứt để dân nghèo thì chính trị đất nước thế nào’ Anh Sáu Thọ nói ‘Kinh tế là nền tảng, không thống nhứt kinh tế, tất cả các vấn đề khác thống nhứt không có nghĩa gì.’ Hai anh cải với nhau rất gay gắt đến mức đứng lên ngồi xuống quơ tay. Tôi ngồi rất lo …” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 160)
Đói do thống nhứt kinh tế, ngăn sông cấm chợ:
Trong thời gian 1976, 1977 dù một số cán bộ miền Nam như Nguyễn Văn Linh, Trần Bạch Đằng chống thống nhứt kinh tế, nhưng Lê Đức Thọ là người nắm thực quyền chủ trương thống nhứt toàn diện, nên những ủy viên cao cấp khác như Lê Duẫn, Trường Chinh cũng để cho trôi qua (có thể sợ chống thống nhứt kinh tế là đi ngược với chủ thuyết và bị chụp mũ là xét lại). Cả nước sau đó rơi vào đói rách. Ông Nguyễn Thành Thơ kể lại một hoạt cảnh đói:“Một hôm khoảng 6 giờ tối, chồng thiếu tướng, vợ bác sĩ, trong lúc tôi Bí thư Chính ủy khu miền Tây, chị là người chăm lo sức khỏe cho tôi, rất ơn nghĩa, đá cửa rào nhà tôi kêu “Mười Khẩn, gạo đâu ăn?” (Mười Khẩn là một trong những bí danh của ông Nguyễn Thành Thơ). Tôi chạy ra mở cửa, trước thái độ đói giận, tôi vô nhà vác bao gạo mới được cấp đem ra để trên xe, xe rồ chạy về không có lời chào hỏi đến như đi” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 164)
Một hoạt cảnh khác không kém phần sống động. Nguyễn Thành Thơ ghi:“Hai anh em con tôi, sau những ngày ăn bo bo, khoai bắp, vừa có gạo nấu nồi cháo, em vào bếp múc tô cháo ăn, anh vô bếp thếy em ăn, anh cúi xuống hỏi ‘Mầy ăn gì?’ Người em lấy mặt che tô cháo, anh nắm lỗ tai dỡ lên ‘Mầy ăn cháo gạo không chờ ai ăn’, liền đẩy đầu em xuống tô cháo, mặt đầy cháo, em ngóc đầu dậy lấy tô cháo vụt vào mặt anh, trúng mé mắt máu ra lai láng, vợ tôi vội chở đến bệnh viện Gia Định cầm máu may lại.” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang164, 165) .
Vai trò của Trường Chinh trong cuộc đổi mới năm 1986:
hưa có tài liệu nào cho thấy vai trò của Trường Chinh trong quyết định “đổi mới”. Nhưng dựa vào Hồi ký của ông Nguyễn Thành Thơ có lẽ Trường Chinh đã có một vai trò tích cực. Nguyễn Thành Thơ viết:“Lúc đó (năm 1986) tình hình, anh Ba Duẫn mất, anh Trường Chinh được TW Đảng giao nhiệm vụ Tổng Bí thư. Anh vào Sài Gòn được Thành ủy đưa xuống một số cơ sở sản xuất, thấy sản xuất phát triển, lao động có việc làm, hàng hóa tiêu dùng không thiếu, không khí sắp hàng mua hàng đi kiếm hàng không còn . Anh nói với anh em “Đi lên xã hội chủ nghĩa, Đảng lãnh đạo, theo đường lối quần chúng, thực tế thực tiễn, dân tộc và thời đại.” Rồi khen anh Linh là con người thực tế, thực tiễn, không duy ý chí, về Hà Nội làm việc, sau đó quyết định đề bạt anh Linh làm Thường trực Ban bí thư .” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 192).
Nhờ sự cất nhắc và ủng hộ của Trường Chinh Nguyễn Văn Linh đã đắc cử Tổng Bí thư tại đại hội 6 của Đảng trong năm 1986 và cầm đầu cuộc “đổi mới” cứu Việt Nam ra khỏi nạn đói.Cuốn Hồi Ký “Cuối Đời Nhớ Lại” của ông Nguyễn Thành Thơ cho thấy, do đấu tranh nội bộ và áp lực của tình hình thế giới Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết định “đổi mới” chính sách kinh tế, và qua đó cởi bỏ được một trong hai cái gông họ máng lên đầu dân tộc Việt. Cái gông còn lại là cái “gông chính trị”, cái Điều 4 của bản Hiến Pháp quái ác hiện hành.Chừng nào thì Đảng cộng sản Việt Nam tháo gỡ cái gông còn lại để dân tộc có đầy đủ tự do thong dong tiến bước?
Trần Bình Nam
Jan., 17, 2009binhnam@sbcglobal.nethttp://www.tranbinhnam.com/
(1) Xem Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn trang 573
(2) “R” là Trung ương cục miền Nam, bộ phận lãnh đạo cuộc chiến tại miền Nam của Hà Nội, thường đóng bên kia biên giới Cam Bốt người cộng sản gọi là K .
==l
LỜI BÌNH CỦA vẠN MỘC CƯ SĨ:
Năm
1954, nông dân có vài sào ruộng thị bị quy là địa chủ, bị đấu tố, bị
tù, hoăc bị giết. Nay bọn cộng sản ra sức phá rừng, bán gỗ lấy tiền, lập
đồn điền, mỗi tên có vài chục, vài trăm mẫu ruộng! Vậy thì chúng là
gì?Đáng tội gi? Chúng nó nay cướp của, lấy dất nước làm của riêng, mặc
sức hưởng thụ. Ai đòi tự do dân chủ là chúng khủng bố, giết hại. Chúng
lo làm giàu, đâu dám chống Trung Quốc xâm lược. Chúng bán nước để cầu
vinh!
Nguyễn Thành Thơ tỏ ra nhân nghĩa. Nhưng chắc gì
được mấy điều thực lòng? Tố Hữu ra tay đàn áp Nhân Văn, Giai Phẩm nhưng
cuối đời lại giả đò nhân nghĩa, khen ngợi Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần. .
.! Than ôi mèo khóc chuột và những lời giả dối của cộng sản để đánh lừa
lịch sử và nhân dân. Về Tố Hữu dối trá, xin xem loạt bài của Nhật Hoa
Khanh "Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng "(Những tâm sự của nhà
thơ Tố Hữu) " tại Sơn Trung Thư Trang
==
KHUYẾT DANH * GIẤY CHỨNG NHẬN
From: Dacsongphuong Nguyen <http://us.mc330.mail.yahoo.com/mc/compose?to=dacsongphuongnguyen@yahoo.com>
Date: 2009/1/12Subject:
GIẤY CHỨNG NHẬN NGỪƠI (trích Tâm thức VN )
Trên tàu, cô soát vé xinh đẹp nhìn chằm chằm vào người đàn ông lớn tuổi đi làm thuê,
- Vé tàu!Người đàn ông lớn tuổi lục khắp người từ trên xuống dưới một thôi mộthồi, cuối cùng tìm thấy vé, nhưng cứ cầm trong tay không muốn chìa ra.Cô soát vé liếc nhìn vào tay anh, trách móc:-
Ðây là vé trẻ em.Người đàn ông đứng tuổi đỏ bừng mặt, nhỏ nhẹ đáp:
- Vé trẻ em chẳng phải ngang giá vé người tàn tật hay sao ?Giá vé trẻ em và người tàn tật đều bằng một nửa vé, đương nhiên cô soát vé biết. Cô nhìn kỹ người đàn ông một lúc rồi hỏi:
- Anh là người tàn tật ?- Vâng, tôi là người tàn tật.
- Vậy anh cho tôi xem giấy chứng nhận tàn tật.Người đàn ông tỏ ra căng thẳng. Anh đáp:
- Tôi... không có giấy tờ. Khi mua vé cô bán vé bảo tôi đưa giấy chứng nhận tàn tật, không biết làm thế nào, tôi đã mua vé trẻ em.Cô soát vé cười gằn:
- Không có giấy chứng nhận tàn tật, làm sao chứng minh được anh là người tàn tật?Người đàn ông đứng tuổi im lặng, khe khẽ tháo giầy, rồi vén ống quần lên
-Anh chỉ còn một nửa bàn chân.Cô soát vé liếc nhìn, bảo :
- Tôi cần xem chứng từ, tức là quyển sổ có in mấy chữ "Giấy chứng nhận tàn tật", có đóng con dấu của Hội Người Tàn Tật !Người đàn ông đứng tuổi có khuôn mặt quả dưa đắng, giải thích:
- Tôi không có tờ khai gia đình của địa phương, người ta không cấp sổtàn tật cho tôi. Hơn nữa, tôi làm việc trên công trường của tư nhân.Sau khi xảy ra tai nạn ông chủ bỏ chạy, tôi cũng không có tiền đến bệnhviện giám định...
Trưởng tàu nghe tin, đến hỏi tình hình.Người đàn ông đứng tuổi một lần nữa trình bày với trưởng tàu, mình làngười tàn tật, đã mua một chiếc vé có giá trị bằng vé của người tàntật…Trưởng tàu cũng hỏi :- Giấy chứng nhận tàn tật của anh đâu ?Người đàn ông đứng tuổi trả lời anh không có giấy chứng nhận tàn tật, sau đó anh cho trưởng tàu xem nửa bàn chân của mình.Trưởng tàu ngay đến nhìn cũng không thèm nhìn, cứ nhất quyết nói :
- Chúng tôi chỉ xem giấy chứng nhận, không xem người. Có giấy chứngnhận tàn tật chính là người tàn tật, có giấy chứng nhận tàn tật mới được hưởng chế độ ưu đãi vé người tàn tật. Anh mau mau mua vé bổ sung.Người đứng tuổi bỗng thẫn thờ. Anh lục khắp lượt các túi trên người vàhành lý, chỉ có hơn 50 ngàn đồng, hoàn toàn không đủ mua vé bổ sung. Anh nhăn nhó và nói với trưởng tàu như khóc:
- Sau khi bàn chân tôi bị máy cán đứt một nửa, không bao giờ còn đi làm được nữa. Không có tiền, ngay đến về quê cũng không về nổi. Nửa vé nàycũng do bà con đồng hương góp mỗi người một ít để mua giùm, xin ông mởlượng hải hà, giơ cao đánh khẽ, nương bàn tay cao quý, tha cho tôi.Trưởng tàu nói kiên quyết:
- Không được.Thừa dịp, cô soát vé nói với Trưởng tàu:
- Bắt anh ta lên đầu tàu xúc than, coi như làm lao động nghĩa vụ.Nghĩ một lát, trưởng tàu đồng ý:- Cũng được.
Một người lão thành ngồi đối diện với người đàn ông đứng tuổi tỏ ra chướng tai gai mắt, đứng phắt lên nhìn chằm chằm vào mắt vị trưởng tàu,hỏi :
- Anh có phải đàn ông không ?Vị trưởng tàu không hiểu, hỏi lại:
- Chuyện này có liên quan gì đến tôi có là đàn ông hay không ?
- Anh hãy trả lời tôi, anh có phải đàn ông hay không ?
- Ðương nhiên tôi là đàn ông !
- Anh dùng cái gì để chứng minh anh là đàn ông ? Anh đưa giấy chứng nhận đàn ông của mình cho mọi người xem xem ?Mọi người chung quanh cười rộ lên.Thừ người ra một lát, vị truởng tàu nói :- Một người đàn ông to lớn như tôi đang đứng đây, lẽ nào lại là đàn ông giả ?Người lão thành lắc lắc đầu, nói:
- Tôi cũng giống anh chị, chỉ xem chứng từ, không xem người, có giấychứng nhận đàn ông sẽ là đàn ông, không có giấy chứng nhận đàn ôngkhông phải đàn ông.Vị trưởng tàu tịt ngóp, ngay một lúc không biết ứng phó ra sao.Cô soát vé đứng ra giải vây cho Trưởng tàu. Cô nói với người lão thành:- Tôi không phải đàn ông, có chuyện gì ông cứ nói với tôi.Người lão thành chỉ vào mặt chị ta, nói thẳng thừng:- Cô hoàn toàn không phải người !
Cô soát vé bỗng nổi cơn tam bành, nói the thé :
- Ông ăn nói sạch sẽ một chút. Tôi không là người thì là gì ?
Người lão thành vẫn bình tĩnh, cười ranh mãnh, ông nói:- Cô là người ư? Cô đưa giấy chứng nhận "người" của cô ra xem nào...Mọi hành khách chung quanh lại cười ầm lên một lần nữa.Chỉ có một người không cười. Ðó là người đàn ông trung niên bị cụt chân.Anh cứ nhìn trân trân vào mọi thứ trước mặt. Không biết tự bao giờ, mắtanh đẫm lệ, không rõ anh tủi thân, xúc động, hay thù hận.
* *
Friday, January 16, 2009
GIA HỘI * NẠN LŨ LỤT TẠI vIỆT nAM
NẠN LỤT TẠI VIỆT NAM
GIA Hôi
Cuối năm 1999, một trận lụt lớn nhất thế kỷ đã xảy đến cho nhân dân Việt Nam.Đầu tháng 11-1999, cơn mưa lũ đã tràn ngập bảy tỉnh miền Trung Việt Nam từ Bình Định cho đến nam Quảng Bình.Trận lụt này đã gây thiệt hại về nhân mạng và tài sản dân chúng mà nặng nhất là tỉnh Thừa Thiên. Lượng nước mưa đã lên 2.000mm so với lượng trung bình hằng năm là 1.700mm.Tại Huế nhiều nơi nước lên đến 2m, làm cho 600 người chết, hư hại nhà cửa, trường học,sách vở.
Năm 2008, khắp nước đều lut to, nặng nhất là Sài gòn, Hà Nôi . Hà Nội bị nhân dân gọi là " Hà Lội". Phóng Sự mùa nước lũ của phóng viên báo Cải Ba Hoa ở Hà Nội có đoạn như sau:
"Trận mưa lịch sử cuối tháng 10/2008 đã làm Hà Nội ngập tràn trong biển nước. Theo yêu cầu của hàng triệu lượt độc giả trong và ngoài nước gửi về tòa soạn mấy ngày qua, hôm nay xin phép tạm ngưng “ mất giấc ngủ trưa” để đăng một số tin đặc biệt (theo dõi từ ngày hôm đó đên nay), cung cấp tới các bạn những thông tin “nóng” do nhóm phóng viên của báo Cải Ba Hoa ghi nhanh tại các điểm ngập."Nước ngập mênh mông, có chỗ sâu hơn 1 mét. Ở các khu phố người ta phải huy động các người mẫu, hoa hậu chân cực dài mặc váy ngắn hết mức cõng các bác tổ trưởng dân phố đi thị sát các đoạn đường, đoạn cống xung yếu.
Lời bình: Đúng là những lúc khó khăn mới thấy đáng quý sự tương trợ của mọi người.
Thật là: “Lá lành đùm lá rách, chân dài cõng chân ngắn”.
Tại các khu chợ, bà con kinh doanh thực phẩm kê bàn lên khá cao, họ ngồi trên thuyền và vợt cá tươi bơi từ các sông vào để bán. Người mua ai cũng thích vì được ăn cá cực tươi và lại là cá tự nhiên, ngon hơn hẳn cá nuôi thường ngày. Đúng là trong cái rủi có cái may.Trong ngày đầu, do mất điện nên các mạng viễn thông bị tê liệt. Khách hàng đồng loạt nhận được mẩu tin từ tổng đài có nội dung bí hiểm: “H2O>>TC”. Mọi người dịch mò là: “Nước ngập nhiều, thông cảm!”. Nếu quả đúng như vậy thì quả là đây là một tin nhắn “ướt át” nhất trong năm.
Một số đám cưới diễn ra trong các ngày 31-10 và 01-11 đã trở thành một kỷ niệm khó quên đối với cô dâu chú rể vì cô dâu đã được bế ra khỏi nhà tránh phải lội hỏng váy cưới. Các xe hoa đành phải dẹp sang một bên để nhường chỗ cho các xe to có gầm cao hơn. Xe chật như nêm, cô dâu thì ngồi lòng chú rể. Và tệ hại hơn nữa là đám cưới hầu như chỉ có người nhà thân cận đến ăn cỗ. Khách khứa đến rất ít vì ngập không đi nổi. Tuy vậy cũng có điều vui là, theo kinh nghiệm dân gian: Đám cưới gặp trời mưa to thế này, về sau đôi uyên ương sẽ rất giàu và cuộc sống hạnh phúc tràn trề!
Giá cả trong những ngày vừa qua tăng đột biến, rau muống 40 nghìn đồng/bó, bắp cải bé tí: 16.000đ/cái, thịt lợn thăn: 20.000đ/lạng... Thậm chí dép nhựa tổ ong cũng được đẩy lên 80.000đ/đôi. Lau bu-ji xe máy 50.000đ/chiếc… Đây cũng là dịp làm ăn hiếm có cho một số người.Các cửa hàng kinh doanh xăng dầu bỗng trở nên ế ẩm bởi ôtô, xe máy bị ngập nước không thể lưu thông, vì vậy họ không có nhu cầu mua nhiên liệu. Một số cây xăng bắt đầu có hiện tượng rục rịch bán đèn dầu, đèn măng-xông,… nhằm tiêu thụ bớt lượng xăng dầu ế ẩm vì họ nghĩ rằng nước lụt sẽ kèm theo mất điện.Điện đóm tối thui ở nhiều khu phố, phóng viên chúng tôi đã chứng kiến nhiều hộ dân phải thắp nến (đèn cầy) lên để… xem vô tuyến. Quả là người Hà Nội yêu truyền hình, văn hóa, văn nghệ đáng nể!Công ty cấp nước thành phố nhìn biển nước ngập tràn khắp nơi mà than thở: “Thế là từ nay mình hết độc quyền!”.
Còn công ty thoát nước thì rầu rĩ: “Có tăng lương cho chúng tôi gấp 10 lần hiện nay thì cũng bó tay!”.Các phố N.K, H.T… rục rịch đóng xuồng tôn để bán, tuy nhiên mặt bằng sản xuất lại không có, do nước ngập cao, hơn nữa điện cũng bị cúp nên cũng không hàn được.Một số khu phố khác, mọi người không đi làm, đi học được, kê bàn ghế ra cửa hỏi thăm hàng xóm. Họ trở nên thân thiện hiếm thấy. Câu chuyện cũng chỉ chủ yếu là: Nghe đồn chỗ này nước ngập đến… bẹn, chỗ kia đến vòng 1… chỗ khác đi bằng xuồng, chỗ nọ đi cà kheo. Hà Nội mà mưa vài ngày nữa thì máy bay phải thả bánh mỳ, mỳ tôm…v.v và v.v…
Nhiều sản phụ sinh con trong các ngày vừa qua đã cực kỳ vất vả khi thuê xe vào bệnh viện. Các hãng taxi hầu hết từ chối vì đường ngập sâu không thể đi nổi. Có b.m suýt đẻ rơi trên đường tới viện phụ sản. Điều đặc biệt, theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, hầu hết các bé trai sinh ở những ngày này đều có tên là Đại Vũ (mưa lớn) và các bé gái tên Hồng Thủy (nước ngập). Có lẽ bố mẹ của các em muốn lưu lại những kỷ niệm khó quên".
http://diendan.baobongda.com.vn/showthread.php?t=9327
Một tờ khác viết về thiệt hai của lũ Hà Nội và các vùng lân cận như sau:
"Hà Nội dẫn đầu về số người thiệt mạng do mưa lũ 02/11/2008 19h33 (GMT+7)Tính đến 19h tối nay, 2/11 toàn địa bàn Hà Nội đã có 18 người bị chết do mưa to gây ngập lụt. Trong số 49 người chết và mất tích trong đợt mưa lũ này ở các tỉnh miền Bắc, Hà Nội là địa phương dẫn đầu về số người thiệt mạng.
Mưa lớn gây ngập đã cướp đi sinh mạng 18 người ở Hà Nội.Như vậy, đến thời điểm này, Hà Nội có 7 người chết do nước cuốn trôi, trong đó, huyện Từ Liêm có 2 người, quận Ba Đình 1 người, Đống Đa 1 người, huyện Mỹ Đức 1 người, Chương Mỹ 1 người, Mê Linh 1 người.Có 2 người chết do sét đánh, đó là ở guyện Đông Anh 1 người, huyện Mê Linh 1 người.4 người chết đuối tại huyện Chương Mỹ 1 người (chưa tìm thấy xác), huyện Mê Linh 2 trẻ em chết đuối, huyện Thạch Thất 1 trẻ em.4 người chết do điện giật, đó là huyện Hoài Đức 1 người và Chương Mỹ 3 người (gồm 1 công an viên, 1 chủ nhiệm HTX và 1 bảo vệ HTX xã bị điện giật chết trong lúc đang di chuyển máy bơm).
Ngoài 18 người thiệt mạng của Hà Nội, trong số 49 người chết và mất tích, Hà Tĩnh có tới 17 người, Bắc Giang 3 người, Hoà Bình 2 người, Nghệ An 2 người, Thái Nguyên 2 người, Vĩnh Phúc 2 người, Phú Thọ 1 người, Ninh Bình 1 người, Quảng Bình 1 người.Đáng lo ngại nhiều tuyến đê ở Ninh Bình và Vĩnh Phúc đang bị hưu hại nặng, 1 số nơi đã bị vỡ.Theo thông tin từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, mưa lớn đã gây úng ngập trên diện rộng, làm thiệt hại hơn 90% hoa màu và cây trồng vụ Đông, đáng kể là 5.500ha cây đậu tương và rau màu các loại, trên 1700 ha lúa chưa kịp gặt, diện tích nuôi trồng thuỷ sản gần như mất trắng.Đồng thời, hiện nhiều khu dân cư và các công trình dân sinh vẫn trong tình trạng ngập úng, hư hỏng nhiều công trình giao thông, thuỷ lợi, đê điều, hồ đập, ùn tắc giao thông trên nhiều tuyến phố, hàng trăm trạm điện của Hà Nội cũng bị ngập trong nước ...Do diễn biến thời tiết bất thường, khu vực Hà Nội vài ngày tới có thể còn mưa, tình hình úng ngập còn diễn biến phức tạp.
Kiều Minh
http://vtc.vn/xahoi/196206/index.htm*
*Một tờ báo Saigòn viết về lụt lội nơi đây với hàng tít lớn" Sài Gòn sẽ chìm trong biển nước nếu mưa như Hà Nội":
"Nếu phải hứng chịu đợt mưa lớn như vừa qua thì chắc chắn TP HCM sẽ ngập sâu, thậm chí sâu hơn Thủ đô nếu mưa gặp triều cường, các chuyên gia nhận định. Tuy nhiên, họ cũng tự tin phân tích rằng, Sài Gòn sẽ thoát ngập nhanh hơn.Ông Nguyễn Trọng Luyện, Phó giám đốc Công ty thoát nước đô thị TP HCM, phân tích, chỉ cần mưa với lưu lượng 60 mm kéo dài trong 2 tiếng, thành phố đã ngập nặng. "Nếu phải hứng chịu những cơn mưa tới 200-300 mm chắc chắn đường phố Sài Gòn cũng biến thành sông".
Một chuyên gia khác trong ngành cấp thoát nước thành phố còn cho rằng, Sài Gòn sẽ bị nhấn chìm sâu hơn Hà Nội nếu thời điểm mưa lớn kết hợp với triều cường đang lên. "Bởi hiện nay, chưa nói đến mưa, cứ mỗi lần triều cao gần 1,4 m, người dân thành phố lại phải đối mặt với cảnh tượng vỡ đê bao ngoại thành, nội đô bì bõm nước", vị này nói."Cống cũ hiện nay chỉ được thiết kế cho những trận mưa không đến 100 mm thì chỉ cần mưa chừng 200 mm thành phố chắc chắn ngập sâu. Việc tiêu thoát nước sẽ quá tải trong trường hợp như vậy", tiến sĩ Lê Long, chuyên gia phản biện trong các dự án chống ngập tại TP HCM phân tích.Triều cường khiến TP HCM luôn ngập nước, nhưng cũng có thể cứu thành phố thoát ngập.
Ngoài ra, theo ông Long những trận mưa lớn như Hà Nội mấy ngày vừa qua rất khó đối phó do không thể dự báo trước. Mưa trên diện rộng kéo dài, mọi tình toán đều rất khó khả thi.Tuy nhiên, các chuyên gia nhận định rằng, Sài Gòn sẽ nhanh chóng thoát ngập bởi không nằm trong "rốn nước" như Thủ đô, đồng thời lợi thế từ hệ thống kênh rạch chằng chịt cũng giúp nước rút nhanh hơn.
Trao đổi với VnExpress.net, ông Tăng Đức Thắng, Phó viện trưởng Viện khoa học Thủy lợi miền Nam, cho biết, chính nhờ hệ thống kênh rạch rộng khắp, nên khả năng tiêu thoát nước của TP HCM cao hơn Hà Nội. Theo ông, chỉ những vùng trũng dưới hẳn chân triều, nội đô xa sông, kênh như quận 6, Bình Thạnh... là có thể sẽ ngập kéo dài. "Những khu vực ven kênh chắn chắn sẽ rút nước rất nhanh khi thủy triều xuống", ông Thắng nói.
Đồng tình với quan điểm trên, ông Nguyễn Trọng Luyện phân tích, khi thủy triều xuống do kênh rạch có mực nước thấp, nên chỉ trong vòng 24 tiếng là nước từ nội đô nhanh chóng thoát ra các sông.Thêm nữa, dù mưa có kết hợp với thủy triều, nhưng với quy luật một chu kỳ thủy triều chỉ trong 8 tiếng. Tới kỳ triều xuống nước sẽ được kéo ra ngoài với tốc độ khá nhanh.Theo các chuyên gia, Hà Nội ngập sâu và lâu như hiện nay, ngoài việc do nằm trong rốn lũ (giữa các sông lớn: sông Hồng, sông Nhuệ, sông Đáy) còn do không có hệ thống thoát nước bằng kênh rạch hỗ trợ"Cần hạn chế thấp nhất sự ứ nước trong nội đô. Mưa lớn ngập là chuyện đương nhiên, nhưng thời gian Hà Nội thoát nước lâu như vậy là không ổn, do chỉ có một trạm bơm Yên Sở", ông Long nói.
Kiên Cường
http://www.vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2008/11/3BA08241/
* * *
Những trận lụt này một phần là do thiên tai nhưng phần nhiều do cộng sản gây ra. Sau đây là những nguyên nhân chính do cộng sản là thủ phạm:
1. NẠN PHÁ RỪNG.
Trước và sau 1975, cộng sản đã phá hoại rừng để tăng diện tích sản xuất vì ông Hồ và bọn thủ hạ đã nêu cao khẩu hiệu: "TĂNG GIA SẢN XUÂ!T". Chúng còn mươn cớ xây đập Thủy điện để phá rừng. Việc xây đập thuỷ điện chỉ là lấy cớ để cộng sản lấy tiền bỏ túi. Hậu quả tiền bi mất mà đập thủy điện không có giọt nước nào. Thực ra Cộng sản phá rừng lấy gỗ bán cho ngoại quốc để lấy tiền bỏ túi như Nguyễn Văn Trấn đã tố cáo trong “ Viết Cho Mẹ và Quốc Hội”.Chính việc phá rừng đốn gỗ khiến cho bao nhiêu nuớc cứ chảy thẳng về miền xuôi, gây nên lụt lội.Sự việc thì nhiều vô số.Trong kháng chiến,cộng sản đã phá hoại Trường sơn để làm đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập miền Nam: “Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước “.
Không những Trường Sơn bị phá mà miền Bắc cũng điêu tàn. Tô Hoài đã viết trong tác phẩm của ông rằng ngày xưa ra khỏi Hà Nội là thấy núi rừng trùng điệp, nay thì từ Tam Đảo đã ngó thấy Lạng Sơn. Sau 1975, cộng sản nào là chủ trương làm đường dây điện Nam Bắc, nào làm đường xuyên Trường Sơn, làm thủy điện Đồng Nai . . .
Tất cả là giả hoặc là phụ, cái chính là phá rừng lấy gỗ xuất cảng, một món lợi béo bở mà vua quan và thực dân Pháp không dám làm! Chính cộng sản tham lợi, gian ác và ngu dốt, chỉ thấy lợi trước mắt quên hại sau lưng! Cũng có thể chúng biết hại nhưng cóc cần. Cái chúng cần là tiền bạc và quyền thế!
2. CỘNG SẢN PHÁ HOẠI ĐẤT NƯỚC.
Trong bao năm cầm quyền cộng sản đã cướp tài sản nhân dân do sưu cao, thuế nặng, do chính sách cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, dánh tư sản. Nay chúng giàu thêm vì tiền Việt kiều gửi về hàng tỷ, ngoại quốc đầu tư hàng tỷ, chúng bỏ túi, chúng xây nhà to nhưng không vét sông ngòi, mở mang hệ thống cống rảnh. Thậm chí chúng còn phá hoại hệ thống này để lấy đất mà bán cho ngoại bang hay xây cất dinh thự cho chúng.
3. THỦY LỢI
Việc làm thủy lợi phải là do các kỹ sư chuyên nghiệp hay những người tài giỏi như các quan lại ngày xưa làm Doanh điền sứ. Cộng sản cho những tên học thức lớp ba ra lãnh đạo đất nước và những kẻ i tờ vạch kế họach thủy lợi toàn huyện, toàn tỉnh. Nhiều nơi, cộng sản bỏ hàng tỷ đồng, làm thủy lợi vừa xong thì sụp đổ hoăc có tác dụng ngược: hoặc là dẫn nước ra biển, hoặc làm nước ứ đọng.
4.NẠN LẤP SÔNG
Nguyên nhân thứ ba chính là nạn lấp sông. Nay cộng sản công khai bán đất và nhượng biển cho Trung Quốc, và các nước khác. Trên một vài bờ sông tại Sài Gòn, nước chảy cuồn cuộn chính tôi đã thấy có những tấm bảng đề tên chủ nhân, chắc là các lãnh đạo đảng hay con cháu của họ. Tại Hà Nội, người ta đã đổ rác xuống sông, lấn sống, lấp sông.Thậm chí có lảnh đạo cộng sản xây nhà trên đệ Hồng hà. Họ chỉ chờ một ngày sông cạn là nhảy ra chiếm đất rồi bán cho ngoại quốc lấy tiền. Ngảy nào đây, họ giết địa chủ, tư sản mặc dù những người nay thực chất là nông dân hay tiểu thương mà nay thì họ chính là tội nhân của dân tộc.
Cộng sản trước đây hô hào đấu tranh giai cấp, thực thi công bằng xã hội, xây dựng tự do, dân chủ nhưng thực chất là tham lợi, gian trá, lừa dối nhân dân, chúng bất chấp thủ đoạn, cướp của, giết người công khai, theo đường lối" Sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi". Chúng tham tiền , không yêu nhân dân, không yêu vô sản, mặc cho giang sơn điêu tàn, dân chúng đói khổ, lụt lội, mất nhà cửa, tính mạng và phải chịu ốm đau, và nhiều khốn khổ trong cuộc sống!
5. NẠN CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN
Ngảy nào đây, họ giết địa chủ, tư sản nay từ quan trên cho đến tay công an hạng bét thì họ đã trở thành địa chủ đỏ, tư sản đỏ và băng cướp đỏ, tài sản và tội ác gấp trăm bọn cường hào ác bá và quan lại tham ô thời trước. Chinh vì chủ trương vô sản chuyên chính, vì dụng mưu mánh gian ác mà không dùng đạo đức, dùng súng đạn, mã tấu mà không dùng pháp luật cho nên cuối cùng nên cơ sự như thế này!Tóm lại, từ việc bán nước, hại dân và tham nhũng là do lý thuyết Mác Lê sai lầm, đường lối vô sản chuyên chính tệ hại, và đảng cộng sản từ Lénin, Stalin , Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành, Pon Pot . . . toàn là một lũ đại gian, đại ác đã gây nhiều tội ác, làm nhân dân khốn khổ.
Cổ nhân đã nói: Làm thầy thuốc sai lầm thì hại một mạng người. Làm chính trị sai lầm thì gây họa bao thế hệ.Nay thì cộng sản đã gây tai họa cho nhân dân ta từ 1930 cho đến nay!
* * *
Trước nạn lụt, cộng sản bèn ra quyết định sửa chửa cống thoát nước. Nhưng mục đích lũ chúng là làm cạn sông để lấy đất chứ không phải là xây dựng thành đô, tạo an ninh hạnh phúc cho nhân dân, cho nên dù bỏ ra hàng tỷ thì cũng vào tay tham nhũng, mà nạn lụt lội ngày càng thêm tốc độ và cường độ.
Trước nạn lụt, đồng bào trong nước, xót tình ruột thịt, đã quyên tiền bạc cứu trợ. Vì biết cộng sản tham nhũng, không bao giờ thực tâm yêu dân cho nên mỗi khi có nạn lụt, đồng bào nhất là các chị em các chợ, đã tự động quyên góp và đem về tận nơi xảy ra lụt để cứu dân.Họ không bao giờ để tiền bạc lọt vào tay cộng sản. Tuy nhiên, cộng sản có trăm mưu ngàn kế để cướp đoạt hàng cứu trợ và tiền bạc của đồng bào.. Hàng hóa di chuyển đã bị mất mát.Hàng gủi vào kho cũng bị lấy sạch. Và bằng nhiều thủ đoạn khác, cộng sản đã cườp miếng cơm, manh áo của dồng bào nạn nhân.
Trong các tác phẩm viết về Miền Nam, nhất là viết về cộng sản nổi lên ở Bến Lức, Cai Lậy trong những năm trước 1945, nhà văn Xuân Vũ đã nói " bọn cướp còn chia của cho dân nghèo, còn cộng sản thì đừng hòng".
Trong thời gian sống tại Việt Nam, tôi không bao giờ thấy cộng sản " phát chẩn" cho dân nghèo như thời quân chủ và thời Pháp thuộc. Họ lấy hết tiền cứu trợ của quốc tế bỏ túi. Một tổ chức quốc tế muốn cứu trợ dân lụt, đã làm đơn xin UBND thành phố, UB bảo phải có người uy tín nhận. Nhóm này bèn nhờ bác sĩ Trương Thìn là một tên nằm vùng, làm phó giám đốc một cơ quan y tế. Nhóm thiện nguyện quốc tế này chạy tới chạy lui và kết quả là số hàng đã chìm trong túi tham của cộng sản.
Cộng sản đã làm nhiều tội ác.Quần chúng nhân dân đã biết rõ tội ác của chúng và một ngày không xa, nhân dân sẽ bắt chúng đền tội.Trước đây, cộng sản nắm độc quyền cứu trợ để ăn cướp, ăn chận tiền bạc quốc tế và đồng bào hải ngoại. Sau nhờ sự tranh đấu của quốc tế và các cộng đồng Việt Nam hải ngoại, cộng sản đã lui bước, cho các tổ chức tư nhân nhận tiền cứu trợ. Tuy nhiên, nay cộng sản lại ra thông cáo việc cứu trợ là độc quyền nhà nước cộng sản. Tiền bạc quốc tế và các hội đoàn phải vào tay cộng sản. Nạn lụt cũng là lúc các tay sai cộng sản và bọn lưu manh ở hải ngoại lại giở thủ đoạn lường gạt, kêu gọi cứu trợ để nộp tiền cho công sản và vào túi tham của chúng. Chúng ta nên sáng suốt, dừng mắc mưu cộng sản và bọn gian manh.Chúng ta phải vạch trần tội ác cộng sản trong việc phá rừng, lấp ao hồ phá hoại đất nước và bán nước. Đó là công việc c hính bên cạnh việc đấu tranh cho tự do và dân chủ tại Việt Nam
.====
Xin nghe bản "Ha Nội Mùa Nước Lũ" do Bùi Công Sáng ca.
Thursday, January 15, 2009
PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS
NGÀY 14.1.2009Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ viết thư cho ông Ban
Ki-moon, Tổng thư ký LHQ, và trả lời phỏng vấn Đài Á châu Tự do nhân
việc Hà Nội cấm 2 Đại biểu Quốc hội Châu Âu đến Việt Nam – Tài liệu về
chính sách kềm kẹp áp bức kỷ lục của Đảng Cộng sản Việt NamPARIS, ngày
14.1.2009 (PTTPGQT) - Vừa qua công luận thế giới và Việt Nam sôi nổi
trước sự kiện hai vị Đại biểu Quốc hội Châu Âu bị Hà Nội ngăn cấm vào
Việt Nam. Nhất là hai vị được mời đến thăm Quốc hội Việt Nam và đã được
Sứ quán Hà Nội tại Rome, Ý, cấp chiếu khán nhập nội.Lý do Hà nội đưa ra
khi ngăn cấm là nhà cầm quyền Việt Nam không thể "bảo đảm an ninh" cho
hai nhà ngoại giao Tây phương trên lãnh thổ Việt Nam. Một nghịch lý khó
biện minh, khi ai cũng biết rằng Việt Nam là thành viên không thường
trực tại Hội đồng Bảo an LHQ, và từ tháng 7 năm 2007 được bình bầu làm
Chủ tịch luân phiên Hội đồng Bảo an này.Đại lão Hòa thượng Thích Quảng
Độ viết thư gửi ông Ban Ki-moon yêu cầu thúc đẩy Việt Nam chu toàn trọng
trách "hòa bình và an ninh" của quốc gia mình trước cộng đồng quốc tế
cũng như trong cộng đồng dân tộc.Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin
dịch ra Việt ngữ nguyên văn thư viết bằng Anh văn sau đây.
Nhân thể chúng tôi cũng chép lại cuộc phỏng vấn Đại lão Hòa thượng Thích
Quảng Độ của Đài Á châu Tự do về sự kiện nói trên để cống hiến bạn
đọc.Và cuối cùng là phân tích tài liệu về chính sách kềm kẹp áp bức kỷ
lục của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà cầm quyền Hà Nội.Thư Đại lão Hòa
thượng Thích Quảng Độ gửi ông Tổng Thư ký LHQ :
Kính gửi Ngài Ban Ki-moonTổng thư ký LHQ
Quảng trường Liên Hiệp QuốcTp Nữu Ước, Hoa Kỳ
Saigon, ngày 2.1.2009
Ông Tổng Thư Ký thân mến,
Qua bức thư hôm nay tôi muốn biểu đạt mối quan tâm về những vi phạm tự
do tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam, cũng như chủ tâm của nhà cầm
quyền Việt Nam ngăn chặn công luận thế giới trong việc quan sát các vi
phạm nghiêm trọng này.Vừa qua vào ngày 23.12.2008, hai vị Đại biểu Quốc
hội người Ý, Dân biểu Quốc hội Châu Âu Marco Pannella và Thượng nghị sĩ
Quốc hội Ý Marco Perduca bị cấm nhập cảnh Việt Nam. Dù rằng hai vị có
chiếu khán nhập nội với dự tính viếng thăm các đại biểu Quốc hội Việt
Nam tại Hà Nội.
Ngoài ra hai vị cũng dự tính đến Thanh Minh Thiền viện ở Saigon thăm
tôi.Chuyến viếng thăm Việt Nam của hai vị đáp ứng lời mời của Phái đoàn
Quốc hội Việt Nam khi phái đoàn này đến gặp gỡ Quốc hội Châu Âu tại
thành phố Strasbourg hôm 18.12 trong khuôn khổ đối thoại liên viện. Tại
cuộc gặp gỡ này một số Dân biểu Quốc hội Châu Âu biểu tỏ mối quan tâm về
vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo tại Việt Nam. Phái đoàn Việt Nam
hồi đáp như một sự thiếu thông tin, nên ngỏ lời mời các vị Dân biểu Châu
Âu viếng thăm Việt Nam hầu chứng kiến sự thật tại chỗ.
Thế nhưng, khi hai vị Đại biểu Quốc hội Pannella và Perduca đến Nam Vang
trên đường nhập cảnh Việt Nam, thì Đại sứ quán Ý tại Hà Nội thông báo
rằng chính phủ Việt Nam "không thể bảo đảm an ninh" nếu hai vị đến Việt
Nam. Tiếp đấy, khi chuẩn bị ra phi trường đi Saigon thì hai vị nhận được
thư của một hãng du lịch gửi qua hệ thống Fax nói rằng hai vị không
được phép đến Việt Nam, một hãng du lịch mà hai vị chưa bao giờ liên hệ.
Tôi thật bàng hoàng và bất bình trước thái độ của nhà cầm quyền Việt Nam
- một mặt cất lời mời các nhân vật quốc tế đến thăm Việt Nam, mặt khác
dùng đủ cớ ngăn chặn những ai muốn trực tiếp quan sát tình hình nhân
quyền. Không thể nào chấp nhận sự kiện một chính quyền đang là thành
viên không thường trực tại Hội đồng Bảo an LHQ, và đóng vai Chủ tịch
luân phiên Hội đồng Bảo an từ tháng 7 năm 2008, lại có thể tuyên bố
"không bảo đảm an ninh" cho hai vị Đại biểu Quốc hội trên lãnh thổ nước
mình.
Hơn nữa, hành xử của Việt Nam đối với các nhân vật quốc tế đủ cho thấy
cung cách họ đang đối xử như thế nào với 85 triệu dân Việt hiện đang bị
tước đoạt mọi nhân quyền cơ bản.
Vào tháng 7 năm 2007, trước khi tham gia vào Hội đồng Bảo an LHQ, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng long trọng hứa hẹn trước Đại hội đồng LHQ rằng :
"Việt Nam có đầy đủ ý thức về niềm vinh hạnh và trọng trách lớn lao khi
trở thành thành viên không thường trực tại Hội đồng Bảo an LHQ, bộ phận
chủ yếu được giao phó nhiệm vụ hàng đầu là gìn giữ hòa bình và an ninh
thế giới. Khi được bình bầu, Việt Nam xin tham gia toàn vẹn cho các mục
tiêu và nguyên tắc chứa đựng trong Hiến chương LHQ và chúng tôi sẽ làm
hết sức mình để hợp tác với các thành viên khác nhằm đáp ứng nhiệm vụ
quan trọng này".Thưa ông Tổng Thư ký,Việt Nam phải thể hiện lời cam kết
nghiêm trọng này, và duy trì trách vụ được giao phó trước cộng đồng thế
giới.
Tôi xin cất lời kêu gọi ông Tổng thư ký thúc đẩy Việt Nam thi hành mọi
nhiệm vụ của một thành viên tại Hội đồng Bảo an LHQ trong việc gìn giữ
hòa bình và an ninh, không riêng trên thế giới mà ngay tại lãnh thổ Việt
Nam.Là quốc gia đã tham gia ký kết Công ước quốc tế về Các quyền Dân sự
và Chính trị từ năm 1982, Việt Nam phải đảm bảo nhân quyền trên hai
bình diện quốc nội cũng như quốc tế. Thế nhưng 27 năm qua, nhà cầm quyền
Việt Nam vi phạm Công ước quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị một
cách có hệ thống, mặc dù các Thủ tục đặc biệt của LHQ và Ủy ban Nhân
quyền LHQ không ngừng khuyến thỉnh Việt Nam chấm dứt các vi phạm. Nhân
kỷ niệm 60 năm bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, tôi xin ông Tổng thư
ký hãy giúp nhân dân Việt Nam thực hiện mục tiêu cao quý nhất, là "đem
đến cho mọi người tất cả nhân quyền".
Nhân đầu năm dương lịch 2009, tôi xin gửi đến ông Tổng thư ký lời chân
thành chúc ông sức khỏe và an vui. Nhân dân quanh thế giới, bất phân
chủng tộc, tín ngưỡng, đang đặt hết niềm tin vào ông. Cầu chúc ông thành
công trong mọi nỗ lực cao quý cho nhân loại.
Trân trọng.(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng ĐộXử lý Thường vụ Viện Tăng thốngkiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ trả lời phỏng vấn Đài Á Châu Tự do :
Bài phỏng vấn của Phóng viên Ỷ Lan, Đài Á châu Tự do, về sự kiện nói trên đã được phát sóng về Việt Nam ngày 26.12.2008.
Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin chép lại nguyên văn như sau :
Thưa quý thính giả, hai Dân biểu của Quốc Hội Châu Âu được Việt Nam mời
sang quan sát tình hình tôn giáo, nhân quyền ở Việt Nam, nhưng bất ngờ
khi họ đến Thái Lan[1], đột nhiên phía Việt Nam yêu cầu hai người đừng
vào Việt Nam vì lý do an ninh bản thân của hai người.
Thông tín viên Ỷ Lan của Đài Á châu Tự do đã phỏng vấn Dân biểu Marco
Pannella, một trong hai nhà Dân cử Châu Âu. Ông cho biết Việt Nam ngăn
chặn có thể vì hai Dân biểu dự tính đi thăm Đại lão Hoà thượng Thích
Quảng Độ, Đệ Ngũ Tăng Thống Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.Ỷ Lan
có dịp phỏng vấn vị Hoà thượng lãnh đạo Giáo hội bị nhà nước cấm sinh
hoạt này, về cảm nghĩ của Ngài trước sự kịên vừa nói.
Ỷ Lan :
Kính bạch Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ, hôm qua Đại biểu Quốc Hội
Châu Âu là ông Marco Panella và Thượng Nghị Sĩ Quốc Hội Ý Marco Perduca
trên đường đến thăm Quốc Hội Việt Nam ở Hà Nội, mong muốn ghé Sài Gòn
viếng thăm Hoà Thượng tại Thanh Minh Thiền Viện, nhưng hai vị đã bị cấm
vào Việt Nam. Kính xin Hoà Thượng cho biết cảm tưởng về vụ này?
Hòa thượng Thích Quảng Độ :
Cách đó mấy hôm tôi có được nghe bài phỏng vấn của cô Ỷ Lan trên Đài Á
Châu Tự Do thì có biết sơ sơ về cái việc phái đoàn Hà Nội sang tiếp xúc
với Quốc Hội Liên Âu để bàn về các vấn đề kinh tế, trong đó có vấn đề
nhân quyền. Về vấn đề nhân quyền, phái đoàn Việt Nam có hứa với Quốc Hội
Châu Âu rằng nhân quyền là những giá trị chung nhưng sự áp dụng nhân
quyền tuỳ thuộc mức độ kinh tế của dân chúng. Đối với dân chúng nghèo họ
không quan tâm sự tự do ngôn luận mà quan tâm về ăn uống, đói no.Đấy là
quan niệm của chính phủ Hà Nội về nhân quyền như thế đấy. Tóm lại là
bây giờ nhân dân Việt Nam không ai quan tâm đến nhân quyền cả. Miếng ăn
là quan trọng nhất. Nhưng rồi họ còn đi thêm một bước nữa là họ nói, và
họ khoe ở Việt Nam có nguyên tắc buộc những người đi mô tô phải mang mũ
bảo hộ, mà những quốc gia khác không có quốc gia nào có quy chế đó. Đấy
là vĩ đại quá, quá vĩ đại !Còn về dân chủ thì họ cho rằng quan niệm dân
chủ ở Việt Nam là cộng đồng, cá nhân phải khế hợp với cộng đồng. Cái
điểm này có lẽ họ chủ quan, tức là họ quan niệm dân chủ là tập trung.
Tập trung ở đây tức là tập trung vào tay cái đảng Cộng sản. Chỉ dân chủ
với đảng Cộng sản mà thôi.
Quần chúng thì dưới quyền chỉ huy của đảng Cộng sản. Mà đảng Cộng sản
bảo ngồi thì phải ngồi, được cho đi thì đi, chứ không có cưỡng lại
được.Đấy là cái quan niệm dân chủ của họ, của Xã hội Chủ nghĩa là như
vậy, thì ai ai cũng đã biết rồi, biết từ lâu rồi, mấy chục năm nay
rồi.Thế nhưng tôi không ngờ phái đoàn Hà Nội đến các nước Châu Âu là nơi
người ta tôn trọng tự do, nhân quyền, dân chủ mà lại nói như thế, thì
không biết họ có ngượng không ? Nhất là khi mà Quốc Hội Châu Âu người ta
ngỏ ý… rồi thì phái đoàn Hà Nội còn trách Quốc Hội Châu Âu là vì Quốc
Hội Châu Âu không có thông tin, không được thông tin đầy đủ cho nên cứ
lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền.
Nhân tiện họ lại mời các dân biểu Quốc Hôi Châu Âu đến Việt Nam thăm để
thấy tận mắt, chẳng hạn như thế, thì họ có hứa, cho nên Quốc Hội Châu Âu
có quyết định sang. Rồi bây giờ họ sang để thực sự nhìn thấy tận mắt,
chứng kiến cho biết tình hình dân chủ, nhân quyền ở đây như thế nào. Và
vì Phái đoàn Hà Nội mời cho nên họ mới đi. Họ cử hai người đó đi cho
biết. Nhưng đến Cao Miên thì họ bị chặn. Tòa Đại sứ thì visa cho vào,
nhưng ra phi trường thì bị chặn.Như vậy không biết cái cung cách làm
việc của Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa đối với quốc tế ra sao.
Nhưng đối với quốc tế mà họ còn như thế thì tôi cũng buồn và xấu hổ nữa.
Bởi chính họ mời người ta đến thì người ta mới đến. Nhưng mà mời đến
rồi thì lại không cho người ta vào.Mời họ đến thăm nhà mình, họ đến cửa
ngỏ nhà mình lại không cho vào. Chưa đến cửa ngỏ đã chặn rồi thì cái lời
hứa của họ như vậy còn có giá trị gì, cái lời mời còn có giá trị
gì?Đấy, tôi xấu hổ ở chỗ đó. Mà tôi đã nghe vắn tắt trong cái bản tin gì
đó mà tôi nghe hai ông bị chặn không cho vào, thì tôi vừa buồn lòng vừa
xấu hổ. Xấu hổ cho cả dân tộc phải sống dưới một chế độ ăn nói bất nhất
như thế.Từ đó tôi nghĩ rằng chính họ đến thấy tận mắt như thế, họ chứng
kiến thực sự như thế họ mới thông cảm cho 85 triệu dân Việt Nam đang
sống như thế nào, trong hoàn cảnh nào. Dân chủ, nhân quyền không quan
trọng, chỉ cần có miếng ăn thôi ! Ngoài miếng ăn không cần gì nữa. Gía
trị con người chỉ có thế thôi ! Nhân phẩm chỉ có thế thôi !
Thành ra con người biến thành con heo, con trâu, con bò, không hơn không
kém.Còn cái mũ bảo hộ ở đây thì có là cái gì đâu mà họ đi khoe khắp thế
giới. Họ còn nói không nước nào có cái quy chế đó. Thành ra họ cứ quanh
quẩn trong cái xó nhà Việt Nam chứ không đi đâu à ? Nói mà không giữ
lời hứa thì đối với dân họ như thế nào ? Đối với dân họ thì coi dân rất
thấp, coi dân như cỏ rác vậy thôi. Cái đó là tôi buồn. Buồn mà xấu hổ
nữa. Xấu hổ phải sống dưới chế độ khổ sở như thế.
Ỷ Lan :
Nhân thể, kính xin Hoà Thượng hoan hỉ cho biết tình hình của Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong năm nay có gì phấn khởi hơn các năm
trước không, bạch Hoà Thượng?
HT. Thích Quảng Độ :
Không có gì phấn khởi, trái lại còn có sự buồn thảm về sự viên tịch của
Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống, là một sự trống vắng, một khoảng trống rất lớn
mà không có gì có thể bù đắp vào được. Nhưng vừa rồi thì biến cố đó là
biến cố quan trọng nhất, trọng đại nhất đối với Giáo Hội.Thế còn về mặt
xã hội thì các Ban đại diện các nơi, từ trung ương đến địa phương cứ
tiếp tục bị đàn áp. Vừa rồi đây, cách đây một tuần thì Viện đã ra thông
tư yêu cầu các địa phương báo cáo về trung ương những Phật sự và công
việc của Giáo Hội từng địa phương như thế nào, thành quả và bị đàn áp ra
sao, khuyết điểm gì thì xin báo về trung ương để trung ương biết tình
hình các nơi như thế nào. Có lẽ chỉ vài tuần nữa sẽ có những bản báo cáo
như thế thì đầy đủ hơn.Hôm nay tôi chỉ nói sơ là về tổng quát chưa có
gì thay đổi. Vẫn thế thôi.Tôi phải nói thật rằng là chừng nào mà chế độ
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam còn như thế này thì xã hội không có hy vọng gì
mà được sinh hoạt bình thường đâu. Họ cũng đàn áp như bao năm qua.Họ
dùng đủ cách, hết cách này đến cách khác để mà làm thế nào xoá sổ, xoá
sạch cái danh nghĩa của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trên đất
nước Việt Nam. Thì ngay bây giờ họ lại có đường lối mới nữa. Vừa rồi
những nhóm này nhóm kia chẳng hạn, như đã biết… như đã biết đấy[2].
Rất là buồn, đau buồn !Nhưng chưa hết đâu, còn nhiều, mà gần tới đây cái
biện pháp họ áp dụng còn trầm trọng hơn. Như những sự kiện xảy ra vừa
rồi đấy, năm ngoái đây. Cho nên rằng là chúng tôi ở nhà đây nói chung là
phải chờ đợi những cái tai hoạ đến với mình nhiều hơn là chờ đợi cái
hanh thông đến với mình. Vì thế cho nên cứ sẵn sàng. Chuẩn bị tinh thần
để đón nhận, để đương đầu. Thế thôi.
Cho nên trước khi tiễn đưa Đức Đệ Tứ Tăng Thống đến nơi an nghỉ cuối
cùng, chúng tôi nói rồi : Chúng tôi sẽ tiếp tục con đường đi của Ngài,
nhưng mà đã biết trước còn rất nhiều khó khăn, còn rất nhiều chông gai,
nhưng sẵn sàng vượt qua. Còn hơi thở thì vẫn cứ phải tiếp tục. Đó là cái
chí nguyện của Giáo Hội.
Ỷ Lan :
Xin cảm ơn Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ.Tài liệu về chính sách kềm
kẹp áp bức kỷ lục của Đảng Cộng sản Việt NamGần đây luân lưu bí mật một
tài liệu nói về chính sách đàn áp quần chúng để duy trì sự thống trị
tuyệt đối của đảng Cộng sản. Có người bán tín bán nghi về xuất xứ tài
liệu.
Thế nhưng nhìn vào thực tại Việt Nam trong năm qua trên mọi lĩnh vực của
đời sống, thì chẳng nghi ngờ gì nữa về quyết tâm bảo vệ đảng thiểu số
của người Cộng sản, mặc bao đòi hỏi, yêu sách thiết tha về tự do, nhân
quyền và sự sống của tuyệt đại đa số dân Việt.Đặc biệt khi được nghe lời
tuyên bố phi dân chủ hôm 28.12.08 của ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại
Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 64 về vai trò khủng bố sắt thép của
công an.
Tài liệu mật của Đảng Cộng sản luân lưu cuối năm 2008 tập trung vào
nhiệm vụ đàn áp và tiêu diệt mọi ý thức dân chủ.Lý thuyết đề ra qua bản
tài liệu mật, thì « nghiên cứu tất cả những tư tưởng gia vĩ đại trong
việc chiếm đoạt quyền lực và duy trì vị trí độc tôn, từ Tôn Tử, Ngô
Khởi, Trương Tử Phòng, Lý Tư… và Mao Trạch Đông ở phương Đông, cho đến
Machiavelli – tác giả cuốn cẩm nang "The Prince" nổi tiếng ở phương Tây,
thậm chí cả Napoleon, Hitler, Stalin… hoặc Hugo Chavez thời nay. (…)
Làm sao để chúng ta vẫn trấn áp được đối lập dân chủ, nhưng vẫn không
làm sức mẻ quan hệ ngoại giao đang ngày càng một tốt hơn với Hoa Kỳ và
phương Tây ».« Phải làm cho dân chúng vừa yêu vừa sợ. Nếu không thể làm
cho người dân yêu mến thì cũng phải tuyệt đối duy trì nỗi sợ hãi để họ
không bao giờ có đủ ý chí mà nổi loạn ».Hành động đề ra qua bản tài liệu
mật, thì « Phải giữ cho cái gọi là "phong trào dân chủ đối lập" không
thể trở thành phong trào đúng nghĩa, không thể bén rễ và lan rộng.« Phải
làm sao để nó chỉ là hoạt động manh mún, rời rạc, tự phát của các cá
nhân đơn lẻ; làm cho có nhiều "lãnh tụ" mà ít hoặc không có quần chúng;
có nhiều "nhân sĩ trí thức" mà ít hoặc không có một tổ chức nào có thực
lực; có nhiều những hoạt động lãng mạn hời hợi có tính phô trương – mà
người dân có biết đến cũng chỉ mỉm cười ý nhị - chứ ít hoặc khộng có
những hoạt động thiết thực có tầm mức ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội; có
thật nhiều những hoạt động "chống cộng cực đoan" có tính chất phá hoại
từ bên trong, gây phản cảm đối với người dân lao động, thậm chí làm cho
những gia đình cách mạng và đội ngũ cựu chiến binh phẫn nộ… ».
Đối với giới thanh niên, sinh viên, thì làm sao cho giới này biết « khao
khát tiền bạc và công danh, mạo hiểm và sáng tạo trong kinh doanh, cầu
tiến trong sự nghiệp riêng, tôn thờ Bill Gates và chủ nghĩa tiêu thụ.
Nhưng đồng thời cũng tuyệt đối thờ ơ với những lý tưởng và hoài bão cải
biến xã hội, xa lạ với những tư tưởng trừu tượng viễn vông, tìm kiếm
những giải pháp cá nhân thay cho ý thức công dân, và đặc biệt là tránh
xa âm mưu thay đổi chế độ ».Đồng thời « chủ động trong việc mở rộng Xã
hội dân sự, thuần phục và trung hoà giai cấp trung lưu đang lớn mạnh.
Làm sao để trong mỗi tổ chức dân sự đều có chân rết của ta. Các tổ chưc
trung gian như Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Hội Phụ nữ, các Hội Cựu
chiến binh, các Câu lạc bộ Hưu trí, v.v… phát huy vai trò tối đa trong
việc trung hoà những nhân tố nguy hiểm, điều hoà những xung đột nếu có
giữa nhà nước và xã hội, giảm thiểu sự bất mãn của dân chúng… ».« Làm
sao để Xã hội dân sự vẫn được mở rộng nhưng theo hướng có kiểm soát của
chúng ta, chứ không trở thành mối đe doạ.« Quan trọng hơn cả là chúng ta
phải tiếp tục nuôi dưỡng nỗi sợ hãi – dù chỉ là nổi sợ mơ hồ trong tiềm
thức – nhưng đồng thời cũng không để cho nhân dân cảm thấy tuyệt vọng.
Cho dù người dân có bất mãn về chuyện này chuyện kia thì vẫn làm cho họ
nuôi hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Và phải làm điều này một
cách hết sức tinh vi, kiên nhẫn, đôi lúc phải can đảm cắt bỏ những khối u
trong đảng để làm nguội bớt nỗi tức giận của nhân dân ». (…) Chúng ta
phải biết dùng mồi để nhử, đánh vào thói tham lam ích kỷ lẫn thói háo
danh của người đời, vừa phải làm sao để tinh thần thực dụng và chủ nghĩa
mánh mung chụp giật trở thành bản tính của dân tộc - vốn đã rã rời về ý
chí, tan vỡ về niềm tin, chán ngán các loại ý thức hệ; nhưng đồng thời
cũng phải chuẩn bị sẵn những cái van để dân chúng có chỗ giải toả ẩn ức
». (…)
Đặc biệt chúng ta ngầm khuyến khích những hành động tự sát theo kiểu
"không thành công cũng thành nhân" - tất nhiên là phế nhân. Chúng ta
cũng phải biết lắng nghe những phê phán của địch thủ mà thay đổi cho
thích hợp. Kẻ đối địch luôn có những bài học quí giá mà chỉ có những
người bản lĩnh và khôn ngoan mới nhìn ra.« Nếu kẻ địch lãng mạn viễn
vông với những khẩu hiệu trừu tượng như "dân chủ", "nhân quyền", "tự
do"…thì chúng ta phải thực tế với những tiêu chí cụ thể như "ổn định xã
hội", "tăng trưởng kinh tế", "xoá đói giảm nghèo"…« Nếu kẻ địch hô hào
những điều khó hiểu du nhập từ phương Tây như "đa nguyên", "đa đảng",
"pháp trị", "khai phóng"…thì chúng ta phải tích cực cổ vũ mô hình Nhân
Trị của đấng Minh Quân – nhưng ở đây Minh Quân phải đựơc hiểu là Đảng
Cộng sản – cũng như đề cao những "giá trị Á châu" một cách khéo léo.«
Chúng ta cũng phải phát huy "dân chủ cơ sở", "dân chủ tập trung", "dân
chủ trong đảng"… để làm sao cho dân thấy đảng không phải là cái gì đó
cao xa vời vợi, mà đảng cũng là dân, ở ngay trong dân, từ dân mà ra, đã
và đang đồng hành cùng với dân. (…) Đối thủ của chúng ta thường lãng mạn
và nhiều nhiệt tình nhưng ít chịu học hỏi, thì nếu có học thì chỉ qua
quýt đủ để thuộc lòng những khẩu hiệu trừu tượng như "nhân quyền", "dân
chủ"… rồi nhai đi nhai lại làm dân chúng phát nhàm. Nói chung, đối thủ
của chúng ta thường chỉ biết đến một số cuốn cẩm nang về dân chủ có ngôn
từ rất kêu, rất đẹp, nhưng nghèo nàn về phương pháp thực tế, lẫn lộn
giữa cứu cánh và phương tiện.(…) Hai phạm trù "dân chủ" và "phát triển"
có quan hệ hết sức phức tạp, phi tuyến, chứ không phải là quan hệ nhân -
quả. Nghiên cứu kỹ thuật về vấn đề này sẽ rất có lợi cho chúng ta trong
việc chủ động phát triển kinh tế mà không cần phải "dân chủ hoá".Sự tự
hào thấy rõ của Đảng Cộng sản qua tài liệu mật này, là Đảng « đã đào tạo
ra một thế hệ trẻ thờ ơ vô cảm với tất cả các loại tư tưởng và ý thức
hệ, chai sạn với lý tưởng và hoài bão mà thanh niên thường có, trở nên
thực dụng và ích kỷ hơn bao giờ hết ».Bởi vì hơn ai hết, người Cộng sản
biết rằng :« Các cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ độc tài bao giờ cũng
do sinh viên và trí thức dẫn đầu; công nhân, nông dân, và các tầng lớp
lao động khác chỉ là sức mạnh cơ bắp. Chỉ có trí thức và sinh viên mới
đủ lý luận để huy động được đông đảo quần chúng, mới có lý tưởng để dấn
thân, và mới có khả năng tổ chức và phối hợp ».Cho nên chiến thuật áp
dụng hiện nay của Đảng là :« Đối với tầng lớp trí thức, những biện pháp
"vừa trấn áp vừa vuốt ve" từ xưa đến nay đã đem lại kết quả khả quan.
Chúng ta đã duy trì được một tầng lớp trí thức hèn nhát, háo danh, và
nếu không quá ngu dốt thiển cận thì cũng chỉ được trang bị bởi những
kiến thức chắp vá, hổ lốn, lỗi thời ».Chiến thuật trên đây đã được Đảng
Cộng sản phân tích thấu đáo tâm lý quần chúng trí thức qua hai lớp già
và trẻ : « Đa phần trong số này cũng chỉ đến khi về hưu mới thu gom được
dũng khí mà ra mặt đối đầu với chúng ta, do đó sức cũng đã tàn, lực
cũng đã kiệt. Một số ít trẻ trung hơn, nhiệt huyết còn phương cương, thì
lại chưa có kinh nghiệm trường đời, chưa được trang bị lý luận chu đáo,
chưa có kiến thức về dân chủ sâu rộng. Với những kẻ này chúng ta đàn áp
không nương tay, bỏ tù từ 3 đến 7 năm.
Đó là phương cách giết gà từ trong trứng.« Thử tưởng tượng xem một tài
năng trẻ phải chui chột những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời trong lao
tù, cách ly với môi trường học vấn, gặm nhấm nỗi cô đơn thay cho việc
học hành nghiên cứu, thì sao có thể phát triển hết khả năng? Khi ra tù
thì cũng đã quá tuổi trung niên, mệt mỏi, chán chường. Nếu vẫn còn dũng
khí thì cũng đã tụt hậu về kiến thức, bị trì néo bởi gánh nặng gia đình,
còn làm gì được nữa?! ».
Với những điểm trọng yếu trên đây rút từ tài liệu mật của Đảng Cộng sản,
chúng tôi xin báo động đến những ai ưu tư cho tiền đồ đất nước và đạo
lý Việt, nhằm có kế sách ngăn chặn sự tiến công hung bạo của kẻ dữ và kẻ
ác giữa thời đại giết người hôm nay.
[1] Thực ra là Nam Vang, Cam Bốt. Người xướng ngôn bị lầm. (PTTPGQT chú)
[2] Ý Hòa thượng muốn nói tới các nhóm Phật giáo ly khai và tiếm danh GHPGVNTN ở hải ngoại trong năm qua. (PTTPGQT chú)
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 099
LÒNG GIAN THAM CỦA TRUNG CỘNG
Tây Tạng Kho Tàng
Trần Khải
Đối với Trung Quốc, Tây Tạng là một kho tàng khổng lồ. Không cần phải nói chuyện văn hóa làm chi, bởi vì Chính Trị Bộ Đảng Cộng Sản Trung Quốc không bận tâm gì chuyện "kho tàng phi vật thể" nói theo kiểu các nhà văn hóa UNESCO, mà thực tế Tây Tạng là kho tàng cụ thể, sờ được, đổi được ra vô số lượng tiền bạc...
Trong tình hình tài nguyên thế giới đang cạn dần, Tây Tạng đã trở thành kho tàng khổng lồ cho nhiều thế hệ khai thác.Lược sơ kho tàng này là bài viết nhan đề "Tibet: The Hidden Facts" (Tây Tạng: Những Sự Kiện Ẩn Kín) của Partha Gangopadhyay, giáo sư Đại Học Kinh Tế và Tài Chánh của viện University of Western Sydney Macarthur tại Úc Châu, đăng trên mạng gốc là Australi.to News, và được đăng lại trên Atimes ngày 29-12-2008.GS Gangopadhyay cho biết là vừa hoàn tất một công trình nghiên cứu về năng lượng, và cho thấy khả năng của Tây Tạng có thể sản xuất lượng điện 250,000 Mwe.
Cũng cần chú thích chỗ này: Một cuộc nghiên cứu của đại học MIT về năng lượng tiểu bang Nevada http://ivanpahvalley.com/id19.html cho biết một đơn vị Mwe, tức là megawatts electric, tương đương 1 triệu watts tức 1,000 kilowatts, và sản lượng địa nhiệt này (lấy từ sức nóng địa cầu, geothermal electric production) hiện nay chỉ khoảng 10,000 Mwe, và địa nhiệt điện có thể vận hành 24 giờ/ngày và 7 ngày/tuần, không bị gián đoạn như loại điện lấy từ sức gió hay từ mặt trời.Bài viết cũng cho biết rằng Bộ Tài Nguyên Trung Quốc đã loan báo các khám phá tài nguyên mới khắp Tây Tạng. Đó là kết quả nghiên cứu của chương trình bí mật dài 7 năm, dự án khảo sát tốn kém 44 triệu đô, khởi sự từ 1999. Có hơn 1,000 nhà nghiên cứu chia ra làm 24 nhóm riêng rẽ và đi khắp vùng bình nguyên Thanh Hải - Tây Tạng để vẽ bản đồ tài nguyên.Trong đó cho thấy khám phá ra 16 mỏ lớn mới gặp các chất khoáng như đồng, sắt, chì, kẽm... trị giá ước lượng 128 tỉ Mỹ Kim. Các mỏ đã biết của Tây Tạng là 126 mỏ, như thế cộng vào cho thấy cả kho tài nguyên các khoáng chất lithium, chromite, đồng, borax...Meng Xianlai, giám đốc China Geological Survey (Sở Khảo Sát Địa Chất Trung Quốc) từng than phiền rằng kinh tế TQ bị kẹt vì thiếu tài nguyên, và cứ phải nhập cảng. Khám phá mới này chắc chắn là còn hơn là trúng số độc đắc. Thế cho nên, các chuyện gọi là đối thoại với Tây Tạng về tự trị, hay bán tự trị, hay tự trị một phần, hay chỉ là tự trị văn hóa, vân vân... hẳn chỉ là chuyện ảo tưởng.Như thế, Tây Tạng bây giờ được tin là có trữ lượng 40 triệu tấn đồng - tức một phần ba tổng trữ lượng đồng TQ - 40 triệu tấn chì và kẽm, và hơn 1 tỉ tấn sắt phẩm lượng cao. Nói chỉ riêng về vỉa có tên là Nyixung đã có trữ lượng ước tính 500 triệu tấn sắt, đủ để Trung Quốc giảm lượng nhập cảng sắt tới 20%.Đó chỉ mới nói tới phần nằm dưới đất, chưa nói gì tới gỗ rừng bạt ngàn nguyên sinh.Thế đấy, làm sao mà nói chuyện hòa hợp hòa giải, hay chuyện đối thoại gì với Đức Đạt Lai Lạt Ma được, khi cả kho tàng khổng lồ thấy rõ như thế.
Nhà nước Tàu Cộng trước giờ vẫn rất là thâm độc và thù dai, chưa đưa hồng vệ binh sang Ấn Độ quậy phá Đức Đạt Lai Lạt Ma là hên lắm rồi. Nhưng cũng cần coi chừng đó, bản chất thù dai lúc nào cũng nằm sâu ẩn trong lòng người, bất kể là Tây, Tàu, Nhật, Việt, Ấn Độ... nhất là trong những người cuồng tín chính trị, thì chuyện triển lãm lá cờ Tây Tạng dưới chân giày đạp của các thanh niên Bắc Kinh cũng là chuyện bình thường.Thời xưa, các vua tranh hùng, đưa quân ra nước ngoài truy sát đối phương là chuyện bình thường. Thời nay, đã tha chết, chỉ hạ ngục, đánh cho tàn phế rồi thả ra nước ngoài, rồi sau đó cho hạ nhục các biểu tượng đối phương cũng là chuyện bình thường hơn.Huống gì là, với cả một kho tàng trên Hy Mã Lạp Sơn, xài tới bao giờ cho hết. Mới biết, sức mạnh của kho tàng. Mua được biết là bao nhiêu.
TRẦN KHẢI
TRẦN NGÂN TIÊU * OBAMA VÀ ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ MỸ
CHUYỆN NGHỊCH NHĨ - THAY ĐỔI (The Change We Can Believe)
Trần Ngân Tiêu
Sau khi ông nghị Obama đắc cử tổng thống Hoa Kỳ thì ông bạn Bob cựu chiến binh người Mỹ ở cạnh nhà tôi, vốn thuộc đảng Cộng Hoà, có vẻ cay cú cho nên mỗi khi xáp lại nói chuyện thì ông ta luôn luôn đẩy đưa với giọng mỉa mai về Obama.Dù nói chuyện về vấn đề gì thì quanh co một hồi lão Bob này cũng đưa đẩy câu chuện về vấn đề ông “tổng” gốc Phi Châu đạo Hồi này. Ông ta luôn mở đầu với câu: “I don’t know why people believed what he said” vì nó chỉ là “bulls…”. Ý Bob nói là Obama đưa châm ngôn “The Change We Can Believe” để mị những kẻ ... ngu chứ nghe nó nghịch nhĩ lắm.
Ông ta tiếp:
Thế này nhá, anh ta gốc từ Phi Châu, may mắn lớn lên ở đất Mỹ, tức là từ cái lỗ đen thùi lùi được cho leo lên miệng lỗ thì tức là “change” rồi còn gì. Thế rồi được tự do ăn học, được vào trường luật danh tiếng, cái trường mà ngày xưa anh nhọ nào ló mặt tới thì bị đá như con chó ghẻ, thế thì cũng đã “change” rồi còn gì nữa. Chưa hết ngoài cuộc sống tự do thoải mái ra anh ta lại được “change” trở thành ông nghị thế thì Obama còn đòi “change” nữa và chỉ noí “change” chứ anh ta chẳng nói “change” thành cái gì mới là tếu. Có dịp anh ta chỉ nói: Cái “change” mà chúng ta muốn có thể không đạt tới trong vòng một năm hay trong vòng một nhiệm kỳ nhưng tôi có cảm giác (I had feeling) rằng chúng ta sẽ đạt tới đó. Mẹ! Noí thế thì thằng đếch nào chẳng nói được vậy mà người ta dồn phiếu cho anh ta mới lạ chứ.Nhìn vẻ cay cú của Bob chẳng lẽ tôi nói thẳng vào mặt lão ta là Obama muốn “change” để làm “ngồi lên đầu” các anh chứ muốn làm cái gì nữa nhưng tôi lại thôi vì muốn nghe hết nỗi ấm ức của anh chàng “Yankee” này.
Thấy tôi gật gù như “thấm” lời của mình nên Bob lại tiếp:Thế rồi sau khi đắc cử chưa thấy Obama “change” ra làm sao thì đã thấy nội các của anh ta hầu hết là người của Clinton trước kia và ngay cả con mẹ Hillary Clinton nữa mới quái đản chứ. Nói xong Bob lắc đầu tỏ vẻ chán nản: “Mạt đến nơi rồi”. Tôi an ủi Bob: Này ông bạn, hãy lạc quan một chút chứ. Obama mặc dù có cái mà chúng tôi gọi “cái cười không xương nhiều đường lắt léo, mồm không cạp mồm méo làm ba ” nhưng đó là điều may mắn cho các anh lúc này đấy. Bob trợn mắt ngó tôi hỏi: Tại sao là chỉ may mắn cho chúng tôi, bộ anh không phải là công dân nước này à? Mà may mắn là may mắn làm sao?
Tôi bảo Bob rằng tôi cũng là công dân Mỹ nhưng tôi không có máu “Yankee” nên tôi đếch xót xa bằng các anh. Còn nói may mắn là vì thế này:
Ông phải nghĩ xa một chút. Trong khi dân chúng ngấy con ngựa non háu đá Cộng Hoà Bush con rồi thì bắt buộc phải chọn đảng dân chủ. Nếu đã chọn đảng dân chủ mà không chọn Obama thì phải chọn Hillary Clinton. Nhưng chọn Hillary nếu Hillary thắng John MCain rồi thì hậu qủa sẽ tồi tệ hơn nhiều. Ông thử nghĩ Hillary làm tổng thống thì có khác gì Bill Clinton làm tổng thống. Giả thử Hillary chọn Bill là ông phó thì quyền hành của Bill còn công khai hơn nữa. Bề gì thì cũng phu xướng phụ tùy mà. Nếu phu xướng phụ tùy thì sau sáu tháng một năm biết đâu Hillary theo đúng hiến pháp “bị bệnh” hay bị tai nạn, không làm việc được nữa thì Hillary nhường quyền cho anh phó Bill, thế là nước Mỹ có dịp thưởng thức thêm “Clinton Dynasty” tám năm nữa ông có muốn như thế không? Còn nữa, cũng may cho các anh và cũng may cho chính Obama, là Obama không chọn Hillary làm phó tổng thống. Vì nếu chọn thì biết đâu chẳng chóng thì chầy Obama cũng lấy vé một chiều đích thân đi thăm đấng tối cao và sau đó theo hiến pháp, Hillary sẽ kế vị tông tông rồi bổ nhiệm Bill làm phó ông bạn có hiểu không!Nghe những điều “nghịch nhĩ” như vậy Lão Bob ngó tôi như ngó một thằng khùng, nhưng sau một vài giậy hắn gật gù như những điều tôi nói cũng có lý.
Bất thình lình Bob hỏi:- Anh nghĩ là họ dám làm như thế à?Tôi cười vào mũi Bob, bảo: Tại sao không? Xưa nay từ Đông qua Tây, khi say mê quyền hành thì cái gì mà người ta chẳng làm. Ông không thấy Hillary khi vận động bầu cử đã chơi Obama sát ván nhưng sau đó toe toét nâng bi niếm sạch những gì đã nhổ ra trước đó chứng tỏ là họ say mê quyền hành rất mực. Bill Clinton cũng chẳng tốt gì, nếu chỉ được làm phó cho Hillary thôi thì biết đâu lão ta không cho Hillary đi “vùng năm chiến thuật” để…cho đỡ vướng mắt.
Bob bỉu môi noí rằng tôi có ý nghĩ điên khùng nên tôi hỏi Bob: Ông có biết có bao nhiêu bạn bè, hoặc người có dính dáng làm ăn với gia đình Clinton đã đi tàu xuốt trong thời gian Bill ngự trong nhà trắng không? Trên chín mươi người.Theo mạng lưới “Clinton Body Count” như Ether Zone Online, thì những người này hoặc là có làm ăn liên hệ, hoặc có thể là nhân chứng cung cấp tài liệu về sự làm ăn của gia đình Clinton, thì bằng hình thức này hay khác đã chết một cách rất đáng ngờ như tự tử, bị bắn, bị cướp, bị tai nạn lưu thông v.v.
Việc rõ nhất là Vincent Foster, phụ tá cố vấn tại dinh tổng thống và cũng là bạn thân lâu năm của Bill Clinton, được “thấy” ngày 20-7-1993 nằm chết thẳng cẳng tại văn phòng vì một phát đạn vào miệng. Báo cáo là tự tử thế là xong. Jon Parnel Walker, điều tra viên của cơ quan RTC về sự liên hệ giữa vụ Whitewater và Madison S&L bankruptcy, chết vì rơi từ thượng tầng của cao ốc Lincoln Towers xuống đất. Đại khái còn có hai ba người bị sát hại vì có thể là nhân chứng trong vụ “Drug Trafficking” ở Mena Arkansas. Có bẩy người bị bắn chết hay bị xe đụng chết, trong đó có cả phóng viên, luật sư, vì họ có thể cung cấp tin tức cho vụ điều tra về công ty INSLAW. Có ít nhất năm người bị bắn chết hay bị tai nạn hi hữu hoặc tự tử vì có liên hệ hay là nhân chứng vụ Whitewater.Có một vài cái chết rất hi hữu và đáng ngờ như Ed Willey, vận động viên gây qũy ứng cử cho Bill Clinton, chết vì tai nạn bởi chính súng của mình. Cùng ngày vợ của Ed là Kathleen bị “sexually assaulted “tại dinh tổng thống bởi Bill.
Rồi Kathy Furguson, có tài liệu về vụ Bill Clinton sách nhiễu tình dục Paula Jone, khi không chị này tự tử chết ngày11-5-1994. Bill Shelton, chồng của Kathy, cũng tự tử tại mồ vợ ngày 12-6-1994 với phát đạn bắn từ sau ót (!). Có một cái chết rất bất nhẫn là Susan Coleman, theo tin đồn ở Arkansas thì Susan thì có lẹo tẹo tình ái vớí Bill, chết với một phát súng vào đầu khi chị ta có bầu bay tháng rưỡi… và còn vài chục mạng nữa không có thì giờ kể hết...Bob ngó tôi tỏ vẻ bán tín bán nghi nhưng tôi nghĩ trong đầu hắn đã… “dịu” đi sự đố kỵ với hiện tượng ông nhọ nhồi Obama làm tông tông rồi.
Để cho bọn Yankee kỳ thị này thấm tôi bảo Bob:Tôi nói thật cho nhà anh biết, “đồng bào” của các anh coi vậy chứ cũng còn u mê nên dễ bị lôi cuốn bởi truyền thông lắm nên quên rằng bất cứ ứng cử viên nào cũng vậy, nhọ nồi hay “honky” hứa hẹn là một chuyện còn thực hành sau khi đắc cử là một chuyện khác. Obama hứa “change” nhưng “change” từ Bush trở lại Clinton. Bush tuyên bố giảm thuế anh ta cũng tuyên bố giảm thuế nhưng mai mốt cũng phải tăng thuế vì nếu không tăng thì lấy đếch gì mà xài. Khi còn vận động anh ta tuyên bố nếu đắc cử anh ta sẽ “rút ngay” quân Mỹ khỏi Iraq nhưng đếch nói “rút” như thế nào. Sau khi đắc cử Obama lại đưa ra lịch trình 18 tháng rút quân khỏi Iraq y trang như của tổng Bush vậy.
Anh biết rại sao không? Bởi vì Obama có đi lính ngày nào đâu nên tuyên bố ẩu chứ anh ta đâu biết rằng “rút” là vấn đề nhức đầu nhất cho những cấp chỉ huy chiến trường. Theo đà nói cho sướng miệng Obama tuyên bố sẽ tạo thêm ra được hai triệu rưỡi việc làm.Thấy Bob nhìn tôi ngơ ngác, tôi bảo Bob rằng các anh u mê tới mức không nhìn thấy cái “xạo” ở đây là với tình trạng thất nghiệp hiện nay, các hãng xưởng thi nhau đóng cửa hay phá sản thì rút gần nửa triệu quân về ngay tức khắc (kiều Obama và Hillary) thì công việc đâu cho họ làm. Công việc cũ mất thì phải lãnh tiền thất nghiệp, trợ cấp xã hội và như vậy thì lại càng thâm thủng ngân qũy và các anh cứ è cổ ra mà đóng thuế hì hì…
Lão Bob coi bộ không kiếm được lý gì để phản bác cái suy luận nửa thực nửa giả tưởng của tôi nhưng lão vẫn bỉu môi nói: “Mẹ! Anh nói cứ như là một lý thuyết gia chính trị ấy mà sao giờ anh ở đây lãnh tiền thất nghiệp?”. Nghe anh ta hỏi xỏ lá như vậy tôi mỉm cười bảo: Người Á Châu chúng tớ có câu “Anh hùng mạt vận” nên “Dục bất tòng tâm” vả lại con người ta còn phải có “đất” nữa anh hiểu không?
Và để trả miếng tôi bảo Bob:Anh Bob à. Anh có biết rằng bọn chính trị cầm quyền của các anh khi nhả ra để Obama làm tông tông không phải họ ngu đâu mà bọn con buôn này khôn thấy mẹ đấy. Anh phải biết bọn con buôn chính trị khôn nhưng rất hèn. Họ chơi trên xương máu của đồng loại, họ không cần đến hai chữ “danh dự” hay tín nghĩa mà chỉ nghĩ đến chữ “lợi”. Anh thử nghĩ sau khi để Bush con tuyên chiến với quân khủng bố, hiều ngầm là bọn Hồi giáo cực đoạn, đã tạo ra mối thù truyền kiếp rồi hiện giờ lại xa lầy ở Iraq, nuốt thì mắc họng mà nhả thì cũng chẩy máy mồm mà còn ê chề mặt mũi nên họ muốn làm hoà anh biết không. Bọn Yankee các anh có thể chi bạc tỉ ra để làm hoà nhưng có thằng nào có đủ mặt dầy mặt dạn có can đảm lãnh cái việc đi hề hề xin xí xoá này.
Thế cho nên họ chốp một thằng nhóc đạo Hồi Obama lấy ống đu đủ thổi cho nó từ một con cóc to bằng con bò rồi đầy lên làm tông tông để lãnh cái việc “xin đầu hàng” cho họ đỡ mất mặt anh hiều không!Có lẽ Obama cũng biết đây là trò xúi con nít ăn kít gà xáp nhưng từ một một thằng nhọ vô danh trở thành tông tông của thế giới tự do lỗ lã đếch gì đâu mà không dám làm.Bob trợn mắt ngỏ tôi hỏi: Anh nói đó là đầu hàng à?
Tôi cười hề hề: Đầu hàng trong danh dự mà lị. Cũng như các anh ‘rút” ra khõi Việt Nam cũng là rút ra trong “danh dự” đấy. Tôi nói thật với anh nhá, bọn Yankee các anh làm đếch gì có danh dự nhưng các anh cứ sợ hoen ố danh dự. Nghe tôi noí câu này mặt Bob tỏ vẻ khó chịu không bằng lòng chút nào, nhưng tôi noí tiếp:Anh đừng nổi nóng, đợi năm ba năm nữa anh suy nghĩ những gì tôi nói hôm nay rồi hãy nổi nóng. Bây giờ tôi chỉ gợi cho anh một ý nghĩ nhỏ như thế này. Anh thử nghĩ một nhóc nhọ nhồi vô danh mà khi tranh cử tổng thống tại sao thiên hạ đổ tiền vô ủng hộ đến năm bẩy trăm tỉ đô la đến nỗi Obama tuyên bố không cần tiền yểm trợ từ qũy bầu cử quốc gia nữa? Nơi sinh nơi đẻ của Obama thì mù mà mù mờ không báo chí nào moi móc ra cả mà lại moi cái vụ bà phó Palin của John MCain may đồ hết bao nhiều tiền.
Còn nữa, để cho con ngựa non háu đá đừng có chạy bậy hay “qua sông đấm buồi vào sóng”, nên dù chưa nhậm chức họ cũng cho Obama nếm mùi đời với cú đầu tiên là cái “xì-căn-đan” vi thống đốc Illinois rao bán cái ghế nghị sĩ cũ của Obama tạo một dư luận ngầm rằng: “Đíu mẹ, biết đâu cái chức nghị sĩ của thằng nhóc này chắc nó cũng mua chứ nó tài cán gì mà…”. Đây cũng là ngụ ý riêng cho Obama hiều rằng nếu không vâng lời dẫn dắt thì thân bại danh liệt đấy con ạ.
Chúng ông có thể bơm mày phồng thì cũng có thể chích cho mày xì xuống như tấm rẻ rách. Chưa hết, cú Do Thái tấn công Hamas là để coi Obama có chiêu thức gì giải quyết vấn đề Do Thái và Palestine. Xưa nay chưa có ông tổng nào giải quyết được xích mích giữa hai dân tộc này giờ đưa anh gốc đạo Hồi ra giải quyết coi ra sao. Có thể đây là cú thử cựa của bọn Yankee và cũng có thể là của Do Thái để họ có thái độ với Obama trong tương lại.Bob vẫn lắc đầu kêu “No, no, no.”. Ai cũng biết dân gốc Yankee lúc nào cũng cho mình là nhất còn ý tưởng của người khác, nhất là dân khác giống, thì như kit ấy nên tôi bực mình:
Ông Bob à. Mai mốt ông nhớ điều tôi noí hôm nay thế này nhá. Nếu ông tổng nhọ của các anh làm nên chuyện, tức là cái chuyện xa va hề hề với Hồi giáo thành công thì tôi không biết bọn con buôn chính trị sẽ đối xử ra sao với anh ta trong tương lai. Nhưng nếu anh ta thất bại hay ăn cháo đái bát thì may mắn được ngồi trọn một nhiệm kỳ còn không thì anh ta sẽ đi chơi với anh em tổng thống Kennedy ông hiều không? Bây giờ ông mới hiểu tại sao nội các của Obama toàn là người của “Clinton” trước kia và ông có thấy một thằng Yankee chính cống là Joe Biden đã ngồi kề Obama chờ sẵn rồi ông thấy không? Có lẽ nghe tôi nhét nhiều qúa vào đầu nên Bob xua tay:Ok! Ok!. That is enough for today. Don’t make me crazy. Rồi anh ta ù té chạy về nhà. Tôi nghĩ thầm: Mẹ! Các anh làm cả nước tôi “điên đầu khốn khổ” có ai than vãn chó gì đâu.
TRẦN NGÂN TIÊU
==
BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG
==
==
THIẾU-TƯỚNG NGUYỄN KHẮC BÌNH
Thanh Thanh Lê Xuân Nhuận
==
Một ngày vào dịp Quốc-Khánh 1-11-1974, tôi lại nhận được lệnh khẩn vào gặp chuẩn-tướng Huỳnh Thới Tây, Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương, mà không được biết lý-do hay mục-đích gì, y như lần vào trình-diện vào cuối tháng 9 năm 1973 - để đưa tôi ra Miền Trung.
Tôi vừa bước vào văn-phòng là chuẩn-tướng Tây dẫn tôi đi ngay với ông, lên xe, qua bên tòa lầu của thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia. Lên tầng trên rồi, ông mới nói nhỏ với tôi:- Thiếu-tướng Tư-Lệnh muốn gặp riêng anh.Tướng Tây đưa tôi vào gặp tướng Bình. Trong cuộc gặp này, tướng Tây chỉ đóng vai trò dự-thính và quan-sát-viên, từ đầu đến cuối không hề nói một tiếng nào.Sau khi bắt tay, mời ngồi, hỏi qua về sức khỏe và gia-đình, thiếu-tướng Bình nói chuyện với tôi:- Tôi định đưa anh ra làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế, anh nghĩ sao?
Tôi không nghĩ sao hết. Trong một thời-buổi mà giấc mơ của không biết bao nhiêu sĩ-quan cấp tá, dù là đã được biệt-phái từ Quân-Lực qua Cảnh-Lực rồi, hay là vẫn còn ở bên quân-ngũ, là được cử làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực một Tỉnh, một Thị-Xã, hoặc một Quận ở Thủ-Đô Sài-Gòn, thì tôi đã thấy chán ngấy từ lâu cái chức-vụ mà giá-trị công-chính của nó đã bị nhiều người dẹp bỏ, để chỉ mong đợi cái hệ-quả tư-tà của nó mà thôi. Có thể nói đó là một cương-vị để làm tiền; trừ một số ít chỉ tự bằng lòng với những lợi-lộc vừa-phải tự-nhiên-mà-có, còn thì đua nhau đổi trắng thay đen vơ-vét cho đầy túi tham, mà điều tệ-hại hơn hết là do đó mà dung-dưỡng tệ-nạn xã-hội, làm suy-yếu đội-ngũ Quốc-Gia, tạo kẽ hở cho đối-phương xông lên.
Tôi nghĩ đến bản-thân tôi, mà gia-đình còn ở Nha-Trang: nếu làm việc ở Đà-Nẵng như hiện nay thì tôi còn có thể ít nhất mỗi tháng một lần về Trung-Ương và nhân đó ghé thăm gia-đình, chứ đi làm việc ở các Tỉnh khác thì khó mà về Nha-Trang vì trái ngả đường; còn nếu đưa vợ+con theo thì cứ mỗi lần dời-đổi chỗ ở là một lần hao-tốn, mà đã chắc gì ở được tại một Tỉnh nào lâu đâu. Riêng đối với Huế, sau mười lăm năm dâu-bể - kể từ ngày tôi bị đày đi khỏi nó vào năm 1960 - bộ mặt đã khác hẳn rồi, tấm lòng cũng chẳng còn nguyên; bây giờ nếu tôi vẫn ở xa Huế mà giúp-đỡ Huế thì dễ, chứ ở ngay Huế thì e tôi sẽ khó lòng mà tự giúp-đỡ được ngay chính mình.
Tôi thấy rõ là các cấp chỉ-huy của tôi hiện nay, thiếu-tướng Bình và chuẩn-tướng Tây, đã dành cho tôi một lòng ưu-ái đặc-biệt, cả một đặc-ân lớn-lao. Đáng lẽ tôi nên nói một câu gì khéo-léo, để vừa chối-từ vừa tỏ lòng cám ơn. Biết bao nhiêu lần tôi đã nghe rõ các người xung quanh, dù là ở cấp Xã Ấp, ở cấp Toán Tổ, nói đến “cất-nhắc”, nói đến “chức-phận”, nào là “tri-ân”, nào là “trung-thành”. Nhưng tôi không thể sử-dụng miệng lưỡi mình trong trường-hợp này, mặc dù biết rằng một lời nói ngọt sẽ gây được nhiều thiện-cảm nơi người nghe hơn.
Tôi đáp:- Xin thiếu-tướng cho tôi ở lại Đà-Nẵng.Cả tướng Bình lẫn tướng Tây đều giữ vẻ mặt điềm-nhiên, nhưng tôi nghĩ là họ hẳn không khỏi ngạc-nhiên. Tướng Bình hỏi tôi:- Tại sao anh không thích ra Huế?- Vì tôi bị đổi đi xa, nay được trở về; gặp lại những kẻ đáng bị trừng-trị mà dung-tha họ thì không được rồi, nhưng nếu ra tay thì sẽ bị họ xem là trả thù hay trở mặt, e không trọn tiếng với đời.
Tướng Bình hỏi tiếp:
- Anh thấy nếu ở nơi khác thì dễ làm việc hơn ở Huế sao?Tôi sợ là ông hiểu lầm rằng tôi tránh né những nơi khó-khăn. Tôi không tránh né khó-khăn mà tôi chỉ muốn tránh né những nơi mà mình có thể bị dùng làm vật hy-sinh.
Tự-nhiên tôi thấy muốn nói, công-khai và trực-diện, vì đây quả là cơ-hội hiếm có, rằng: “Các ông đừng đánh giá tôi ngang hàng với đa-số cùng mang cấp-bậc và/hoặc cùng giữ chức-vụ như tôi!” - ý tôi định nói là vì tôi không gặp thời, chứ thực ra thì... Tôi bỗng kịp tự kiềm-chế, và chỉ trình-bày một cách mà tôi cho là khiêm-tốn:
- Tôi có khả-năng làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực tại bất-cứ một Tỉnh nào trên toàn-quốc, mà không thua kém bất-cứ một người nào...Tướng Bình gật đầu. Hẳn ông hiểu rõ là tôi nói thật. Nhưng có lẽ ông tưởng tôi muốn xin đi làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực tại một Tỉnh nào không có người cũ quen tôi, để dễ trừng-trị những kẻ phạm-pháp hơn chăng, nên ông hỏi tôi:- Anh nghĩ thế nào về Tỉnh Quảng-Nam?Thừa-Thiên là quê mẹ tôi; tôi đã lớn lên ở đó, tôi có ở đó rất nhiều kỷ-niệm trọn đời không quên, thế mà tôi đã chối-từ, huống gì Quảng-Nam. Tôi thấy thật khó nói lên ý-kiến của mình. Tuy thế, nhìn thấy nét mặt của tôi là ông biết ngay tôi không nhận lời.
Ông liền nói tiếp:- Tôi cho anh chọn Tỉnh nào anh thích.Đến tận nước này thì thật quá lắm. Một vị Tư-Lệnh Lực-Lượng Cảnh-Sát Toàn-Việt, đồng-thời cũng là Đặc-Ủy-Trưởng Phủ Đặc-Ủy Tình-Báo Trung-Ương, thứ-bậc gấp đôi Bộ-Trưởng, hiện có đầy-đủ quyền-hành cũng như dư-thừa thuộc-viên thân-tín để chọn bổ-nhiệm vào các chức-vụ chỉ-huy, từ ở Trung-Ương xuống đến Xã Phường, mà lại chấp-nhận cho tôi tự chọn địa-phương công-tác theo ý muốn riêng của mình! Tôi thật xúc-động trước thái-độ đó, cùng lúc cảm thấy thỏa-mãn, vì tự-ái được vuốt-ve.
Phải chăng Cấp Trên cần tôi tập-trung nỗ-lực đảm-trách an-ninh trật-tự riêng cho một Tỉnh quan-trọng, như Tỉnh Thừa-Thiên, mà tỉnh-lỵ là Thị-Xã Huế, nơi xuất-phát liên-tục của những phong-trào chống-đối Chính-Quyền Trung-Ương, và hiện nay vẫn là nơi sôi-sục chính-tình, nên cần có tôi có mặt thường-trực tại chỗ để chuyên-chú lo ổn-định nội-an; hoặc Tỉnh Quảng-Nam, là nơi bám trụ của các cơ-quan đầu-não của cả Đảng-Ủy Liên-Khu V lẫn Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu V của đối-phương, cũng là hậu-cứ tiếp-nhận lực-lượng cộng-sản từ Bắc-Việt xâm-nhập vào, bàn-đạp để chúng vừa cầm chân Quân-Đoàn I của ta, vừa tiến sâu hơn vào các tỉnh ở phía Nam, kể từ vùng đất địa-đầu chiến-lược này bên trong phòng-tuyến A-Sau và Đèo Hải-Vân, nên cần có tôi chú-tâm bảo-vệ số đông đồng-bào bị kẹt tại các Xã Ấp thuộc vùng tranh-chấp ở giữa hai bên? Nếu thế thì tại sao ông lại bảo tôi chọn Tỉnh nào khác hơn? Hay là ông định đưa người nào khác đến thay-thế tôi ở chức-vụ và hoạt-hạt hiện-thời?
Trong trường-hợp đó, tôi nên chọn một Tỉnh nào tiện đường cho tôi để dễ đi+về chăm-sóc gia-đình hiện ở Nha-Trang.
Tôi bèn hỏi lại:- Thưa thiếu-tướng, bất-cứ ở Vùng nào?Tướng Bình mỉm cười, nhận thấy tôi đã lợi-dụng câu nói của ông, trả lời:- Cứ tạm chọn ở Vùng I trước đã!Quảng-Trị, Quảng-Tín, Quảng-Ngãi, đều càng bất-tiện hơn Thừa-Thiên và Quảng-Nam. Tôi suy-nghĩ nhanh trong đầu: nếu lại từ-chối thì có thể làm cấp trên bực mình, nên tôi dựa theo câu nói của ông mà trả lời ông, vì tôi biết chắc là sẽ bị từ-chối ngay:- Nếu thiếu-tướng cho tôi đảm-trách Thị-Xã Đà-Nẵng...Và, để mở một lối thoát cho cả ông lẫn tôi, hầu chấm dứt vụ cử-nhiệm này, tôi nói thêm:- Tôi có thể kiêm-nhiệm cả Đặc-Cảnh Vùng I lẫn Cảnh-Lực Thị-Xã Đà-Nẵng, để nâng phía Sắc-Phục ở đó lên...*Thiếu-tướng Bình im-lặng một lát rồi chuyển câu chuyện qua đề-tài khác. Ông hỏi tôi:- Anh có tham-gia đảng-phái nào không?
Tôi đáp:- Tôi là người không đảng-phái.Có lẽ ông muốn hỏi xem, ngoài các đảng-phái chính-trị ra, còn có hội-đoàn, phe-nhóm hoặc nhân-vật hữu-danh hữu-quyền nào khác đỡ đầu cho tôi hay không, nên ông khéo-léo:- Hồi đó, ai giới-thiệu anh qua Phủ Đặc-Ủy?Sự-việc thật là đơn-giản, nhưng ông không nghĩ đơn-giản, và tôi cũng khó trình-bày đơn-giản. Cả một quá-trình chuyển-biến của Ngành Cảnh-Sát Công-An Quốc-Gia qua suốt gần ba thập-niên hiện lên trong đầu-óc tôi; nhưng các viên-chức dù cao-cấp nhất, dù lớn chức nhất, và già nghề nhất, cũng có mấy ai nắm vững vấn-đề? Tôi đành trả lời ngắn gọn:- Tôi được chỉ-định dự thi khả-năng chuyên-môn, trắc-nghiệm bằng máy dò-sự-nói-dối, học Khóa đầu tiên Tình-Báo Đặc-Biệt Cao-Cấp của Mỹ, rồi được biệt-phái qua Phủ Đặc-Ủy..., chứ không do sự giới-thiệu của một nhân-vật hay đoàn-thể nào.Tướng Bình lại đổi đề-tài.
Ông hỏi tôi:- Anh với Lê Văn Hảo liên-hệ thế nào?À, thì ra họ vẫn chưa biết rõ sự liên-hệ ấy. Tôi đáp:- Lê Văn Hảo là em khác mẹ của vợ tôi.Ông hỏi thêm:- Sau vụ cộng-sản tổng-tấn-công Tết Mậu-Thân 1968 thì sao?Tôi trình-bày:- Hảo theo Việt-Cộng; tôi có báo-cáo lên đại-tá Nguyễn Mâu, hồi đó là Phụ-Tá Tổng-Giám-Đốc, Trưởng Khối Cảnh-Sát Đặc-Biệt Trung-Ương; đại-tá Mâu nói rằng: “Trong một gia-đình, có thể có người này bên này, kẻ kia bên kia; nếu anh không dính-dáng gì với y thì thôi!” Thực-tế, tôi, và vợ tôi, không hề liên-lạc với anh-ta.Tôi rất ngạc-nhiên tại sao mãi đến giờ này thiếu-tướng Tư-Lệnh Cảnh-Lực mới nêu vấn-đề đó ra với tôi. Phải chăng Trung-Ương không biết chuyện đó trước khi cử tôi ra Miền Trung? Còn nếu có biết và có nghi tôi thì đâu có bổ-nhiệm tôi? Ngược lại, tuy biết mà vẫn tin tôi thì còn nhắc lại làm gì? Hay là mãi đến gần đây mới biết?
Tôi nhớ, trước đó không lâu, trong một buổi họp tại phòng-giấy của thiếu-tướng Hoàng Lạc, Phó Tư-Lệnh Quân-Khu I, nhân khi đại-tá Lê Quang Nhơn, Chánh-Sở I Quân-An, thuyết-trình về công-tác theo-dõi các quân-nhân có liên-hệ gia-đình với Việt-Cộng – các quân-nhân này có tên trong một loại hồ-sơ đặc-biệt gọi là “Hồ-Sơ Z”; cách phân-loại này về sau cũng được áp-dụng đối với cảnh-nhân - đại-tá Nhơn đã nói: “Ngay trong năm anh+em chúng tôi ngồi họp ở đây, cũng có người có hồ-sơ Z”. Năm người hiện-diện là đại-tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I; đại-tá Phạm Văn Phô, Trưởng Phòng 2 Quân-Đoàn và Quân-Khu I; trung-tá Phạm Xuân Bách, Phụ-Tá Trung-Tâm-Trưởng Phụng-Hoàng Vùng I; đại-tá Nhơn, và tôi. Họ có ám-chỉ gì tôi hay không?Hay là Trung-Ương mới biết, nhưng vì kết-quả điều-tra của phía Việt-Nam, chắc cũng giống như kết-quả đoán mò của các thuộc-viên của tôi, khác với kết-quả của phía Hoa-Kỳ, mà chính tôi đã đính-chính, nên tướng Bình mới đích-thân hỏi tôi để ông trực-tiếp quan-sát phản-ứng của tôi ra sao?Bỗng tôi giật mình. Phải chăng Cấp Trên không chỉ nghi tôi vì tôi có thân-nhân là Việt-Cộng, mà lại nghi tôi vì tôi “lý-tưởng” quá chừng: không cần phe-phái, không màng cấp-chức, không thèm lợi-lộc, mà vẫn phục-vụ tận-tụy và hữu-hiệu hơn người?
Tôi đã có nghe trung-tá Nguyễn Hữu Hải, Giám-Đốc Ngành Đặc-Cảnh Vùng II, kể lại rằng, trong một cuộc họp tại Trung Ương, chuẩn-tướng Huỳnh Thới Tây khi đề-cập đến tôi, đã khen-ngợi tôi không tiếc lời, đồng-thời lại đặt câu hỏi: “Quái! Sao thằng Nhuận nó tài đến thế!”*Ngưng một lát, thiếu-tướng Bình chuyển sang vấn-đề khác:- Anh nói tóm-tắt tình-hình ở Huế hiện nay ra sao?Tình-hình ở Huế nói riêng, và những nơi khác liên-quan đến Huế nói chung, thì tôi đã có báo-cáo lên đầy-đủ rồi. Tôi chỉ nhấn mạnh vài điểm nổi bật mà thôi:- Về phần cộng-sản thì quả trước đây chúng đã nắm được đa-số các tay “lãnh-tụ” tập-thể sinh-viên, nhất là qua vụ vu-khống “chính-quyền bắt cóc sinh-viên” vừa rồi, chúng đã tạo được ảnh-hưởng trong giới phụ-huynh sinh-viên & học-sinh, giáo-chức, và cả quần-chúng nói chung. Nhưng tôi đã lập kế-hoạch, đích-thân chỉ-đạo và yểm-trợ cho Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên sử-dụng một số biện-pháp tình-báo chuyên-môn để lật ngược lại thế cờ, làm chủ tình-hình. Hiện nay, chúng ta đã chiếm được thế thượng-phong đối với cộng-sản nội-thành rồi.
- Về phần nội-chính?- Tuy không có những tổ-chức nhỏ và nhiều như từ Đà-Nẵng trở vào, nhưng hai tổ-chức lớn thì rất đáng được Chính-Quyền quan-tâm: đó là “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” và “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”, mà cấp-thiết nhất là “Phong-Trào” này.- Anh nói về Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc trước.- “Lực-Lượng” ấy quy-tụ được hầu hết Phật-Tử là thành-phần đại-đa-số trong dân-chúng, kể cả công-chức và quân-nhân.
Ngoài Khối Ấn-Quang xuất-phát từ Miền Trung và kiểm-soát hầu hết Phật-Giáo-Đồ khắp nơi, đại-tướng Dương Văn Minh đã thu-phục được hầu hết giới tín-đồ Phật-Giáo gốc Miền Nam, và thạc-sĩ Vũ Văn Mẫu đã lôi-cuốn được hầu hết khối tín-đồ Phật-Giáo gốc Miền Bắc di-cư. Đối với quốc-tế thì đó là thành-phần thứ ba; đối với quốc-nội thì đó là tập-hợp dân-sự lớn mạnh nhất, bao gồm nhiều chính-đảng nhất; các cấp lãnh-đạo lại là nhân-vật dân-cử có quyền bất-khả xâm-phạm. Điều đáng nói là cộng-sản đã len-lỏi vào, và chính-quyền địa-phương thì không dám dòm-ngó đến, phó mặc cho Trung-Ương lo.
Tuy thế, tôi đã có người bên trong, cho nên biết trước chương-trình & nội-dung sinh-hoạt của họ, khắp Vùng.- Anh chắc-chắn không có gì đáng lo?- Vâng, nếu họ vẫn cứ tổ-chức mít-tinh tại các sân chùa, chứ không xuống đường gây xáo-trộn trật-tự chung, và nếu họ không xúi-giục quân-đội gây binh-biến gì, mà chỉ chờ-đợi đến ngày bầu-cử Tổng-Thống, vào cuối năm tới. Tính đến hôm nay, và riêng Miền Trung thì thế; còn về tương-lai, và các nơi khác thì tôi không dám đoán trước...
- Còn về “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”?Tôi tin là thiếu-tướng Bình, tuy là tín-đồ Đạo Chúa, nhưng ông sống đời công-chính theo lời Chúa dạy, sẽ rất công-bình chứ không thiên-vị Đạo nào, không bao che cho người nào, nên tôi nói thẳng cảm+nghĩ của tôi:- Chủ-đề chống tham-nhũng thì hấp-dẫn đối với mọi người, kể cả một số người mà bản-thân cũng không trong-sạch; nhưng tham-gia vào “Phong-Trào” thì hầu như là chỉ có tín-đồ Ky-Tô-Giáo; còn xuống đường thì là những phần-tử mà quyền-lợi vật-chất hoặc tinh-thần đã quá gắn liền với cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và gia-đình. Dù sao, cuộc biểu-tình của họ mà bị Cảnh-Sát (do thiếu-tá Liên Thành chỉ-huy) đàn-áp vừa rồi cũng đã gây được một tiếng vang, có lợi cho “Phong-Trào”, tức là có hại cho Chính-Quyền.
Đó là một bước dò đường. Tin-tức mới nhất cho biết là “Phong-Trào” sẽ tổ-chức xuống đường khắp nước; từ Huế, Quảng-Trị vào các Tỉnh Vùng II thì do linh-mục Nguyễn Kim Bính, cha xứ Phú Cam, khởi-xướng; tại thủ-đô Sài-Gòn và các Tỉnh Vùng III, Vùng IV thì do linh-mục Trần Hữu Thanh phát-động. Khi đó thì tình-hình khắp nước sẽ rối beng; Chính-Quyền khó kiểm-soát được dân-chúng, ngay cả các ban tổ-chức biểu-tình cũng khôn nắm vững thành-phần tham-gia, và không ai đối-phó nổi với phản-ứng của các thành-phần chống lại họ, trong khi các phương-tiện truyền-thông trong và ngoài nước tha-hồ đổ thêm dầu vào.
Tóm lại, “Phong-Trào” không chờ đến ngày bầu-cử sang năm; họ muốn Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ-chức ngay; họ muốn có một Tổng-Thống là tín-đồ Đạo Ky-Tô...- Tổng-Thống (Nguyễn Văn Thiệu) cũng là...- Nhưng có một số phần-tử phân-biệt đạo dòng với đạo theo. Vả lại, vấn-đề không ngừng ở đó, mà là nhắm vào vai trò giáo-dân của người lãnh-đạo quốc-gia. Họ muốn có một Tổng-Thống rập khuôn cố Tổng-Thống Ngô Đỉnh Diệm. Tống-Thống hiện nay không hề đối-xử phân-biệt với các tín-đồ đạo khác, không chịu lợi-dụng Chính-Quyền để tạo ưu-thế cho Đạo Ky-Tô, nên họ bất-mãn. Họ đồn miệng rằng Đức Tổng-Giám-Mục Nguyễn Văn Bình đã “cảnh-cáo” Tổng-Thống về khoản này.
Nổi bật nhất là nội-dung những lời thuyết-giáo của linh-mục Nguyễn Kim Bính tại nhà thờ Phú Cam, Huế, mà tôi đã cho thu băng gửi về Trung-Ương, trong đó đã có hai đoạn tiêu-biểu cho hai phương-diện của một vấn-đề: một đoạn linh-mục Bính hằn-học khích-động đồng-đạo, đại-ý “người ta đã ám-hại một tổng-thống anh-minh...”, và một đoạn ông cay-đắng phân-bua, đại-ý “như tôi là một Cha Xứ ở Phú Cam này, có ai mà không biết tôi; thế mà cái ngài đại-tá Tôn Thất Khiên ấy, cái đấng tỉnh-trưởng Tôn Thất Khiên ấy, đến nhậm-chức ở đây đã bao lâu rồi, mà vẫn chưa hề đến thăm hỏi tôi một lần...”Thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình gật đầu:- Tôi đã có nghe cuốn băng ấy rồi.Ông hỏi tiếp tôi:- Theo anh thì những việc gì cụ-thể có thể xảy ra trong tương-lai gần, hậu-quả thế nào?- Cộng-sản Bắc-Việt ồ-ạt chuyển quân và chiến-cụ vào. Quân-Lực của ta thì bị bó tay vì bản Hiệp-Định Paris; nếu có đụng-độ quân-sự thì điều đó thuộc thẩm-quyền của cấp Trung-Ương. Riêng về phương-diện chính-trị nội-bộ thì tình-hình chung ngày càng xấu thêm: các cấp Chính-Quyền địa-phương không biết thu-phục dân-tâm; nhất là ở vùng ngoại-ô, nói chi ở vùng tranh-chấp. Đồng-bào chán ghét tham-nhũng, mà lại khao-khát hòa-bình. Tổ-chức của nhóm linh-mục Trần Hữu Thanh và Nguyễn Kim Bính là “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”. Một số tín-đồ Ky-Tô-Giáo sẽ đồng-loạt xuống đường khắp nơi. Nếu không ngăn-chận thì có thể có bạo-động. Giả-dụ một số quá-khích (Việt-Cộng xúi-giục) tấn-công những người họ cho là đã tham-gia tích-cực vào cuộc Cách-Mạng 1-11-1963 lật đổ chế-độ Đệ-Nhất Cộng-Hòa, mà những người này thì nằm bên phía “Lực-Lượng”, và tất-nhiên là những phần-tử này sẽ phải tự-vệ, biến thành xung-đột tôn-giáo, ít nhất cũng như biến-cố Thanh-Bồ Đức-Lợi tại Đà-Nẵng trước đây. “Phong-Trào” mà “làm mạnh” được thì phía “Lực-Lượng” hẳn cũng sẽ không chịu thua. Ngăn-chận thì bị gán cho là đàn-áp tôn-giáo; giả-dụ có kẻ bắt chước nữ-Dân-Biểu Kiều-Mộng-Thu, nằm lăn giữa đường để cho phóng-viên chụp ảnh, quay phim, dùng làm bằng-chứng là ả đã bị cảnh-sát bạo-hành, xong kéo đồng-bọn vào nhà-hàng lớn ăn khao, trong lúc phản-ứng của dư-luận chung, cả trong nước lẫn ngoài nước, nhất là tại Hoa-Kỳ, thì rất bất-lợi cho ta. Hơn nữa, làm sao có đủ lực-lượng để giúp vãn-hồi an-ninh: kinh-nghiệm các vụ lộn-xộn ở Quận Hoài-Nhơn của Tỉnh Bình-Định, Thị-Xã Tuy-Hòa của Tỉnh Phú-Yên, cho thấy là Chính-Quyền Tỉnh bất-lực khi chính Cảnh-Sát của địa-phương mình bị đám lộng-hành bao vây, tấn-công. Trung-Ương cũng khó tiếp tay: chỉ nội một vụ ở Chủa Linh-Sơn, Đà-Lạt, mà phải cần có phi-cơ quân-sự di-chuyển Cảnh-Sát Dã-Chiến từ Sài-Gòn ra; nếu có biến-động nhiều nơi một lần thì làm sao mà giải-nguy?
Quan-trọng hơn hết là bọn Việt-Cộng đã xâm-nhập vào “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”. Chúng đã hiểu rõ là tổ-chức này thù-hận chế-độ hiện-thời hơn hết, nên chúng lợi-dụng để có thêm những đồng-minh chung sức chống phá Việt-Nam Cộng-Hòa. Chúng đã bắt đầu lôi kéo thêm các tổ-chức khác nữa, từ bên ngoài Ky-Tô-Giáo, để cùng hưởng-ứng “Phong-Trào”, vì “Phong-Trào” là hình-thức đối-lập hợp-pháp, nấp được vào đó là hoạt-động dễ vô cùng. Chúng sẽ có thể chiếm giữ công-sở, đột-nhập đồn bót, khủng-bố, phá-hoại, ít nhất là cũng thành-công về mặt chính-trị, thông-tin tuyên-truyền...
- Theo anh thì Chính-Quyền nên đối-phó cách nào?- Tôi xin đề-nghị Trung-Ương tạm-thời nhượng-bộ “Phong-Trào” một bước đầu tiên, để tiện cấp-thời vô-hiệu-hóa mọi kế-hoạch hoạt-động của họ hiện nay, bằng cách cử hai tín-đồ Ky-Tô-Giáo, gốc-gác Đệ-Nhất Cộng-Hòa và thân-cận với giới cựu Cần-Lao, ra làm Tỉnh-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Sát Quốc-Gia tại Tỉnh Thừa-Thiên...Thiếu-tướng Bình và chuẩn-tướng Tây nhìn nhau.Tôi nói tiếp liền:- Như thế là chỉ mới giải-quyết được bước đầu, chứ chưa xong trọn vấn-đề. Tuy nhiên, nếu tôi còn ở Vùng I thì tôi, chính tôi, sẽ ngăn-chận được mọi sự xáo-trộn tiếp theo, cho Vùng I, và do đó, cho toàn Miền Nam...
*Thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia Việt-Nam Cộng-Hòa, đứng dậy, đưa tay bắt tay cám ơn tôi, và kết-thúc cuộc tiếp-xúc bằng lời khuyến-khích tôi và hứa-hẹn sẽ thăng cấp cho tôi vào Ngày Cảnh-Lực 1-6-1975.Tôi cùng chuẩn-tướng Hùynh Thới Tây trở về văn-phòng Bộ Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương, lần này thì cùng đi bộ. Tôi muốn nói lên một lời cám ơn ông đã đề-bạt tôi, đã dành cho tôi rất nhiều đặc-quyền, đặc-ân, mà các cấp+chức khác, ngang tôi, kể cả cao hơn tôi, cũng không có được – đương-nhiên là trong công-vụ mà thôi. Ít nhất thì ông cũng đã bắt cả các cấp Giám-Đốc phụ-tá của ông tại Trung-Ương phải đích-thân đáp-ứng ngay mọi đề-nghị của tôi; và, thay vì, như với nhiều giới-chức khác - cấp dưới dâng nạp quà cáp lên cho cấp trên – thì ông ngược lại đã cho riêng tôi mỗi tháng 20,000 đồng, tương-đương gần nửa tháng lương của tôi, để thuê nhà ở vì tôi phải rời gia-đình mà ra Miền Trung - tất-nhiên với sự đồng-ý của thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình. Nhưng tôi không nói ra được lời cám ơn đó, vì nó có vẻ nịnh-hót thế nào ấy - một việc mà tôi không bao giờ làm, cho nên đã bị thiệt-thòi từ hai mươi bảy năm nay.
Chúng tôi lặng-lẽ bước bên cạnh nhau, trước những cặp mắt ngạc-nhiên của nhiều sĩ-quan gặp trên đường đi. Cuối cùng, như để đánh tan bầu không-khí lạt-lẽo ấy, và lấy lại thế chủ-động, thiếu-tướng Tây nói với tôi, mà tôi nghe như nói lên tâm-tư của một số đông viên-chức chỉ-huy Ngành Đặc-Cảnh thời bấy giờ:- Qua Sắc-Phục thì có tiền...Sau đó, ông không quên trao tiền thuê nhà cho tôi, và nhắc tôi cần gì thì giải-quyết gấp với các Giám-Đốc hữu-quan, để còn rời Sài-Gòn sớm mà ghé thăm gia-đình hiện ở Nha-Trang.*Ngay hôm sau, tôi vừa về đến Nha-Trang thì nhận được tin Trung-Ương đã cử hai nhân-vật khác đến thay đại-tá Tôn Thất Khiên và thiếu-tá Liên Thành trong chức-vụ Tỉnh-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế.Tân Tỉnh-Trưởng là đại-tá Nguyễn Hữu Duệ.Đại-tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I, nhắn tôi ra Đà-Nẵng gấp, để cùng ông ra Huế chủ-tọa lễ giao-nhận chức-vụ Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế, giữa thiếu-tá Liên-Thành và trung-tá Hoàng Thế Khanh.LÊ XUÂN NHUẬN(trích từ cuốn hồi-ký “Về Vùng Chiến Tuyến” cuả Lê Xuân Nhuận, do nhà Văn Nghệ xuất-bản năm 1996 – ISBN: 1-886566-15-1)
Muốn biết thêm về các vấn-đề liên-quan, xin vào liên-mạng sau đây:http://www.lexuannhuan.com/
==
==
THIẾU-TƯỚNG NGUYỄN KHẮC BÌNH
Thanh Thanh Lê Xuân Nhuận
==
Một ngày vào dịp Quốc-Khánh 1-11-1974, tôi lại nhận được lệnh khẩn vào gặp chuẩn-tướng Huỳnh Thới Tây, Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương, mà không được biết lý-do hay mục-đích gì, y như lần vào trình-diện vào cuối tháng 9 năm 1973 - để đưa tôi ra Miền Trung.
Tôi vừa bước vào văn-phòng là chuẩn-tướng Tây dẫn tôi đi ngay với ông, lên xe, qua bên tòa lầu của thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia. Lên tầng trên rồi, ông mới nói nhỏ với tôi:- Thiếu-tướng Tư-Lệnh muốn gặp riêng anh.Tướng Tây đưa tôi vào gặp tướng Bình. Trong cuộc gặp này, tướng Tây chỉ đóng vai trò dự-thính và quan-sát-viên, từ đầu đến cuối không hề nói một tiếng nào.Sau khi bắt tay, mời ngồi, hỏi qua về sức khỏe và gia-đình, thiếu-tướng Bình nói chuyện với tôi:- Tôi định đưa anh ra làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế, anh nghĩ sao?
Tôi không nghĩ sao hết. Trong một thời-buổi mà giấc mơ của không biết bao nhiêu sĩ-quan cấp tá, dù là đã được biệt-phái từ Quân-Lực qua Cảnh-Lực rồi, hay là vẫn còn ở bên quân-ngũ, là được cử làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực một Tỉnh, một Thị-Xã, hoặc một Quận ở Thủ-Đô Sài-Gòn, thì tôi đã thấy chán ngấy từ lâu cái chức-vụ mà giá-trị công-chính của nó đã bị nhiều người dẹp bỏ, để chỉ mong đợi cái hệ-quả tư-tà của nó mà thôi. Có thể nói đó là một cương-vị để làm tiền; trừ một số ít chỉ tự bằng lòng với những lợi-lộc vừa-phải tự-nhiên-mà-có, còn thì đua nhau đổi trắng thay đen vơ-vét cho đầy túi tham, mà điều tệ-hại hơn hết là do đó mà dung-dưỡng tệ-nạn xã-hội, làm suy-yếu đội-ngũ Quốc-Gia, tạo kẽ hở cho đối-phương xông lên.
Tôi nghĩ đến bản-thân tôi, mà gia-đình còn ở Nha-Trang: nếu làm việc ở Đà-Nẵng như hiện nay thì tôi còn có thể ít nhất mỗi tháng một lần về Trung-Ương và nhân đó ghé thăm gia-đình, chứ đi làm việc ở các Tỉnh khác thì khó mà về Nha-Trang vì trái ngả đường; còn nếu đưa vợ+con theo thì cứ mỗi lần dời-đổi chỗ ở là một lần hao-tốn, mà đã chắc gì ở được tại một Tỉnh nào lâu đâu. Riêng đối với Huế, sau mười lăm năm dâu-bể - kể từ ngày tôi bị đày đi khỏi nó vào năm 1960 - bộ mặt đã khác hẳn rồi, tấm lòng cũng chẳng còn nguyên; bây giờ nếu tôi vẫn ở xa Huế mà giúp-đỡ Huế thì dễ, chứ ở ngay Huế thì e tôi sẽ khó lòng mà tự giúp-đỡ được ngay chính mình.
Tôi thấy rõ là các cấp chỉ-huy của tôi hiện nay, thiếu-tướng Bình và chuẩn-tướng Tây, đã dành cho tôi một lòng ưu-ái đặc-biệt, cả một đặc-ân lớn-lao. Đáng lẽ tôi nên nói một câu gì khéo-léo, để vừa chối-từ vừa tỏ lòng cám ơn. Biết bao nhiêu lần tôi đã nghe rõ các người xung quanh, dù là ở cấp Xã Ấp, ở cấp Toán Tổ, nói đến “cất-nhắc”, nói đến “chức-phận”, nào là “tri-ân”, nào là “trung-thành”. Nhưng tôi không thể sử-dụng miệng lưỡi mình trong trường-hợp này, mặc dù biết rằng một lời nói ngọt sẽ gây được nhiều thiện-cảm nơi người nghe hơn.
Tôi đáp:- Xin thiếu-tướng cho tôi ở lại Đà-Nẵng.Cả tướng Bình lẫn tướng Tây đều giữ vẻ mặt điềm-nhiên, nhưng tôi nghĩ là họ hẳn không khỏi ngạc-nhiên. Tướng Bình hỏi tôi:- Tại sao anh không thích ra Huế?- Vì tôi bị đổi đi xa, nay được trở về; gặp lại những kẻ đáng bị trừng-trị mà dung-tha họ thì không được rồi, nhưng nếu ra tay thì sẽ bị họ xem là trả thù hay trở mặt, e không trọn tiếng với đời.
Tướng Bình hỏi tiếp:
- Anh thấy nếu ở nơi khác thì dễ làm việc hơn ở Huế sao?Tôi sợ là ông hiểu lầm rằng tôi tránh né những nơi khó-khăn. Tôi không tránh né khó-khăn mà tôi chỉ muốn tránh né những nơi mà mình có thể bị dùng làm vật hy-sinh.
Tự-nhiên tôi thấy muốn nói, công-khai và trực-diện, vì đây quả là cơ-hội hiếm có, rằng: “Các ông đừng đánh giá tôi ngang hàng với đa-số cùng mang cấp-bậc và/hoặc cùng giữ chức-vụ như tôi!” - ý tôi định nói là vì tôi không gặp thời, chứ thực ra thì... Tôi bỗng kịp tự kiềm-chế, và chỉ trình-bày một cách mà tôi cho là khiêm-tốn:
- Tôi có khả-năng làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực tại bất-cứ một Tỉnh nào trên toàn-quốc, mà không thua kém bất-cứ một người nào...Tướng Bình gật đầu. Hẳn ông hiểu rõ là tôi nói thật. Nhưng có lẽ ông tưởng tôi muốn xin đi làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực tại một Tỉnh nào không có người cũ quen tôi, để dễ trừng-trị những kẻ phạm-pháp hơn chăng, nên ông hỏi tôi:- Anh nghĩ thế nào về Tỉnh Quảng-Nam?Thừa-Thiên là quê mẹ tôi; tôi đã lớn lên ở đó, tôi có ở đó rất nhiều kỷ-niệm trọn đời không quên, thế mà tôi đã chối-từ, huống gì Quảng-Nam. Tôi thấy thật khó nói lên ý-kiến của mình. Tuy thế, nhìn thấy nét mặt của tôi là ông biết ngay tôi không nhận lời.
Ông liền nói tiếp:- Tôi cho anh chọn Tỉnh nào anh thích.Đến tận nước này thì thật quá lắm. Một vị Tư-Lệnh Lực-Lượng Cảnh-Sát Toàn-Việt, đồng-thời cũng là Đặc-Ủy-Trưởng Phủ Đặc-Ủy Tình-Báo Trung-Ương, thứ-bậc gấp đôi Bộ-Trưởng, hiện có đầy-đủ quyền-hành cũng như dư-thừa thuộc-viên thân-tín để chọn bổ-nhiệm vào các chức-vụ chỉ-huy, từ ở Trung-Ương xuống đến Xã Phường, mà lại chấp-nhận cho tôi tự chọn địa-phương công-tác theo ý muốn riêng của mình! Tôi thật xúc-động trước thái-độ đó, cùng lúc cảm thấy thỏa-mãn, vì tự-ái được vuốt-ve.
Phải chăng Cấp Trên cần tôi tập-trung nỗ-lực đảm-trách an-ninh trật-tự riêng cho một Tỉnh quan-trọng, như Tỉnh Thừa-Thiên, mà tỉnh-lỵ là Thị-Xã Huế, nơi xuất-phát liên-tục của những phong-trào chống-đối Chính-Quyền Trung-Ương, và hiện nay vẫn là nơi sôi-sục chính-tình, nên cần có tôi có mặt thường-trực tại chỗ để chuyên-chú lo ổn-định nội-an; hoặc Tỉnh Quảng-Nam, là nơi bám trụ của các cơ-quan đầu-não của cả Đảng-Ủy Liên-Khu V lẫn Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu V của đối-phương, cũng là hậu-cứ tiếp-nhận lực-lượng cộng-sản từ Bắc-Việt xâm-nhập vào, bàn-đạp để chúng vừa cầm chân Quân-Đoàn I của ta, vừa tiến sâu hơn vào các tỉnh ở phía Nam, kể từ vùng đất địa-đầu chiến-lược này bên trong phòng-tuyến A-Sau và Đèo Hải-Vân, nên cần có tôi chú-tâm bảo-vệ số đông đồng-bào bị kẹt tại các Xã Ấp thuộc vùng tranh-chấp ở giữa hai bên? Nếu thế thì tại sao ông lại bảo tôi chọn Tỉnh nào khác hơn? Hay là ông định đưa người nào khác đến thay-thế tôi ở chức-vụ và hoạt-hạt hiện-thời?
Trong trường-hợp đó, tôi nên chọn một Tỉnh nào tiện đường cho tôi để dễ đi+về chăm-sóc gia-đình hiện ở Nha-Trang.
Tôi bèn hỏi lại:- Thưa thiếu-tướng, bất-cứ ở Vùng nào?Tướng Bình mỉm cười, nhận thấy tôi đã lợi-dụng câu nói của ông, trả lời:- Cứ tạm chọn ở Vùng I trước đã!Quảng-Trị, Quảng-Tín, Quảng-Ngãi, đều càng bất-tiện hơn Thừa-Thiên và Quảng-Nam. Tôi suy-nghĩ nhanh trong đầu: nếu lại từ-chối thì có thể làm cấp trên bực mình, nên tôi dựa theo câu nói của ông mà trả lời ông, vì tôi biết chắc là sẽ bị từ-chối ngay:- Nếu thiếu-tướng cho tôi đảm-trách Thị-Xã Đà-Nẵng...Và, để mở một lối thoát cho cả ông lẫn tôi, hầu chấm dứt vụ cử-nhiệm này, tôi nói thêm:- Tôi có thể kiêm-nhiệm cả Đặc-Cảnh Vùng I lẫn Cảnh-Lực Thị-Xã Đà-Nẵng, để nâng phía Sắc-Phục ở đó lên...*Thiếu-tướng Bình im-lặng một lát rồi chuyển câu chuyện qua đề-tài khác. Ông hỏi tôi:- Anh có tham-gia đảng-phái nào không?
Tôi đáp:- Tôi là người không đảng-phái.Có lẽ ông muốn hỏi xem, ngoài các đảng-phái chính-trị ra, còn có hội-đoàn, phe-nhóm hoặc nhân-vật hữu-danh hữu-quyền nào khác đỡ đầu cho tôi hay không, nên ông khéo-léo:- Hồi đó, ai giới-thiệu anh qua Phủ Đặc-Ủy?Sự-việc thật là đơn-giản, nhưng ông không nghĩ đơn-giản, và tôi cũng khó trình-bày đơn-giản. Cả một quá-trình chuyển-biến của Ngành Cảnh-Sát Công-An Quốc-Gia qua suốt gần ba thập-niên hiện lên trong đầu-óc tôi; nhưng các viên-chức dù cao-cấp nhất, dù lớn chức nhất, và già nghề nhất, cũng có mấy ai nắm vững vấn-đề? Tôi đành trả lời ngắn gọn:- Tôi được chỉ-định dự thi khả-năng chuyên-môn, trắc-nghiệm bằng máy dò-sự-nói-dối, học Khóa đầu tiên Tình-Báo Đặc-Biệt Cao-Cấp của Mỹ, rồi được biệt-phái qua Phủ Đặc-Ủy..., chứ không do sự giới-thiệu của một nhân-vật hay đoàn-thể nào.Tướng Bình lại đổi đề-tài.
Ông hỏi tôi:- Anh với Lê Văn Hảo liên-hệ thế nào?À, thì ra họ vẫn chưa biết rõ sự liên-hệ ấy. Tôi đáp:- Lê Văn Hảo là em khác mẹ của vợ tôi.Ông hỏi thêm:- Sau vụ cộng-sản tổng-tấn-công Tết Mậu-Thân 1968 thì sao?Tôi trình-bày:- Hảo theo Việt-Cộng; tôi có báo-cáo lên đại-tá Nguyễn Mâu, hồi đó là Phụ-Tá Tổng-Giám-Đốc, Trưởng Khối Cảnh-Sát Đặc-Biệt Trung-Ương; đại-tá Mâu nói rằng: “Trong một gia-đình, có thể có người này bên này, kẻ kia bên kia; nếu anh không dính-dáng gì với y thì thôi!” Thực-tế, tôi, và vợ tôi, không hề liên-lạc với anh-ta.Tôi rất ngạc-nhiên tại sao mãi đến giờ này thiếu-tướng Tư-Lệnh Cảnh-Lực mới nêu vấn-đề đó ra với tôi. Phải chăng Trung-Ương không biết chuyện đó trước khi cử tôi ra Miền Trung? Còn nếu có biết và có nghi tôi thì đâu có bổ-nhiệm tôi? Ngược lại, tuy biết mà vẫn tin tôi thì còn nhắc lại làm gì? Hay là mãi đến gần đây mới biết?
Tôi nhớ, trước đó không lâu, trong một buổi họp tại phòng-giấy của thiếu-tướng Hoàng Lạc, Phó Tư-Lệnh Quân-Khu I, nhân khi đại-tá Lê Quang Nhơn, Chánh-Sở I Quân-An, thuyết-trình về công-tác theo-dõi các quân-nhân có liên-hệ gia-đình với Việt-Cộng – các quân-nhân này có tên trong một loại hồ-sơ đặc-biệt gọi là “Hồ-Sơ Z”; cách phân-loại này về sau cũng được áp-dụng đối với cảnh-nhân - đại-tá Nhơn đã nói: “Ngay trong năm anh+em chúng tôi ngồi họp ở đây, cũng có người có hồ-sơ Z”. Năm người hiện-diện là đại-tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I; đại-tá Phạm Văn Phô, Trưởng Phòng 2 Quân-Đoàn và Quân-Khu I; trung-tá Phạm Xuân Bách, Phụ-Tá Trung-Tâm-Trưởng Phụng-Hoàng Vùng I; đại-tá Nhơn, và tôi. Họ có ám-chỉ gì tôi hay không?Hay là Trung-Ương mới biết, nhưng vì kết-quả điều-tra của phía Việt-Nam, chắc cũng giống như kết-quả đoán mò của các thuộc-viên của tôi, khác với kết-quả của phía Hoa-Kỳ, mà chính tôi đã đính-chính, nên tướng Bình mới đích-thân hỏi tôi để ông trực-tiếp quan-sát phản-ứng của tôi ra sao?Bỗng tôi giật mình. Phải chăng Cấp Trên không chỉ nghi tôi vì tôi có thân-nhân là Việt-Cộng, mà lại nghi tôi vì tôi “lý-tưởng” quá chừng: không cần phe-phái, không màng cấp-chức, không thèm lợi-lộc, mà vẫn phục-vụ tận-tụy và hữu-hiệu hơn người?
Tôi đã có nghe trung-tá Nguyễn Hữu Hải, Giám-Đốc Ngành Đặc-Cảnh Vùng II, kể lại rằng, trong một cuộc họp tại Trung Ương, chuẩn-tướng Huỳnh Thới Tây khi đề-cập đến tôi, đã khen-ngợi tôi không tiếc lời, đồng-thời lại đặt câu hỏi: “Quái! Sao thằng Nhuận nó tài đến thế!”*Ngưng một lát, thiếu-tướng Bình chuyển sang vấn-đề khác:- Anh nói tóm-tắt tình-hình ở Huế hiện nay ra sao?Tình-hình ở Huế nói riêng, và những nơi khác liên-quan đến Huế nói chung, thì tôi đã có báo-cáo lên đầy-đủ rồi. Tôi chỉ nhấn mạnh vài điểm nổi bật mà thôi:- Về phần cộng-sản thì quả trước đây chúng đã nắm được đa-số các tay “lãnh-tụ” tập-thể sinh-viên, nhất là qua vụ vu-khống “chính-quyền bắt cóc sinh-viên” vừa rồi, chúng đã tạo được ảnh-hưởng trong giới phụ-huynh sinh-viên & học-sinh, giáo-chức, và cả quần-chúng nói chung. Nhưng tôi đã lập kế-hoạch, đích-thân chỉ-đạo và yểm-trợ cho Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên sử-dụng một số biện-pháp tình-báo chuyên-môn để lật ngược lại thế cờ, làm chủ tình-hình. Hiện nay, chúng ta đã chiếm được thế thượng-phong đối với cộng-sản nội-thành rồi.
- Về phần nội-chính?- Tuy không có những tổ-chức nhỏ và nhiều như từ Đà-Nẵng trở vào, nhưng hai tổ-chức lớn thì rất đáng được Chính-Quyền quan-tâm: đó là “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” và “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”, mà cấp-thiết nhất là “Phong-Trào” này.- Anh nói về Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc trước.- “Lực-Lượng” ấy quy-tụ được hầu hết Phật-Tử là thành-phần đại-đa-số trong dân-chúng, kể cả công-chức và quân-nhân.
Ngoài Khối Ấn-Quang xuất-phát từ Miền Trung và kiểm-soát hầu hết Phật-Giáo-Đồ khắp nơi, đại-tướng Dương Văn Minh đã thu-phục được hầu hết giới tín-đồ Phật-Giáo gốc Miền Nam, và thạc-sĩ Vũ Văn Mẫu đã lôi-cuốn được hầu hết khối tín-đồ Phật-Giáo gốc Miền Bắc di-cư. Đối với quốc-tế thì đó là thành-phần thứ ba; đối với quốc-nội thì đó là tập-hợp dân-sự lớn mạnh nhất, bao gồm nhiều chính-đảng nhất; các cấp lãnh-đạo lại là nhân-vật dân-cử có quyền bất-khả xâm-phạm. Điều đáng nói là cộng-sản đã len-lỏi vào, và chính-quyền địa-phương thì không dám dòm-ngó đến, phó mặc cho Trung-Ương lo.
Tuy thế, tôi đã có người bên trong, cho nên biết trước chương-trình & nội-dung sinh-hoạt của họ, khắp Vùng.- Anh chắc-chắn không có gì đáng lo?- Vâng, nếu họ vẫn cứ tổ-chức mít-tinh tại các sân chùa, chứ không xuống đường gây xáo-trộn trật-tự chung, và nếu họ không xúi-giục quân-đội gây binh-biến gì, mà chỉ chờ-đợi đến ngày bầu-cử Tổng-Thống, vào cuối năm tới. Tính đến hôm nay, và riêng Miền Trung thì thế; còn về tương-lai, và các nơi khác thì tôi không dám đoán trước...
- Còn về “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”?Tôi tin là thiếu-tướng Bình, tuy là tín-đồ Đạo Chúa, nhưng ông sống đời công-chính theo lời Chúa dạy, sẽ rất công-bình chứ không thiên-vị Đạo nào, không bao che cho người nào, nên tôi nói thẳng cảm+nghĩ của tôi:- Chủ-đề chống tham-nhũng thì hấp-dẫn đối với mọi người, kể cả một số người mà bản-thân cũng không trong-sạch; nhưng tham-gia vào “Phong-Trào” thì hầu như là chỉ có tín-đồ Ky-Tô-Giáo; còn xuống đường thì là những phần-tử mà quyền-lợi vật-chất hoặc tinh-thần đã quá gắn liền với cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và gia-đình. Dù sao, cuộc biểu-tình của họ mà bị Cảnh-Sát (do thiếu-tá Liên Thành chỉ-huy) đàn-áp vừa rồi cũng đã gây được một tiếng vang, có lợi cho “Phong-Trào”, tức là có hại cho Chính-Quyền.
Đó là một bước dò đường. Tin-tức mới nhất cho biết là “Phong-Trào” sẽ tổ-chức xuống đường khắp nước; từ Huế, Quảng-Trị vào các Tỉnh Vùng II thì do linh-mục Nguyễn Kim Bính, cha xứ Phú Cam, khởi-xướng; tại thủ-đô Sài-Gòn và các Tỉnh Vùng III, Vùng IV thì do linh-mục Trần Hữu Thanh phát-động. Khi đó thì tình-hình khắp nước sẽ rối beng; Chính-Quyền khó kiểm-soát được dân-chúng, ngay cả các ban tổ-chức biểu-tình cũng khôn nắm vững thành-phần tham-gia, và không ai đối-phó nổi với phản-ứng của các thành-phần chống lại họ, trong khi các phương-tiện truyền-thông trong và ngoài nước tha-hồ đổ thêm dầu vào.
Tóm lại, “Phong-Trào” không chờ đến ngày bầu-cử sang năm; họ muốn Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ-chức ngay; họ muốn có một Tổng-Thống là tín-đồ Đạo Ky-Tô...- Tổng-Thống (Nguyễn Văn Thiệu) cũng là...- Nhưng có một số phần-tử phân-biệt đạo dòng với đạo theo. Vả lại, vấn-đề không ngừng ở đó, mà là nhắm vào vai trò giáo-dân của người lãnh-đạo quốc-gia. Họ muốn có một Tổng-Thống rập khuôn cố Tổng-Thống Ngô Đỉnh Diệm. Tống-Thống hiện nay không hề đối-xử phân-biệt với các tín-đồ đạo khác, không chịu lợi-dụng Chính-Quyền để tạo ưu-thế cho Đạo Ky-Tô, nên họ bất-mãn. Họ đồn miệng rằng Đức Tổng-Giám-Mục Nguyễn Văn Bình đã “cảnh-cáo” Tổng-Thống về khoản này.
Nổi bật nhất là nội-dung những lời thuyết-giáo của linh-mục Nguyễn Kim Bính tại nhà thờ Phú Cam, Huế, mà tôi đã cho thu băng gửi về Trung-Ương, trong đó đã có hai đoạn tiêu-biểu cho hai phương-diện của một vấn-đề: một đoạn linh-mục Bính hằn-học khích-động đồng-đạo, đại-ý “người ta đã ám-hại một tổng-thống anh-minh...”, và một đoạn ông cay-đắng phân-bua, đại-ý “như tôi là một Cha Xứ ở Phú Cam này, có ai mà không biết tôi; thế mà cái ngài đại-tá Tôn Thất Khiên ấy, cái đấng tỉnh-trưởng Tôn Thất Khiên ấy, đến nhậm-chức ở đây đã bao lâu rồi, mà vẫn chưa hề đến thăm hỏi tôi một lần...”Thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình gật đầu:- Tôi đã có nghe cuốn băng ấy rồi.Ông hỏi tiếp tôi:- Theo anh thì những việc gì cụ-thể có thể xảy ra trong tương-lai gần, hậu-quả thế nào?- Cộng-sản Bắc-Việt ồ-ạt chuyển quân và chiến-cụ vào. Quân-Lực của ta thì bị bó tay vì bản Hiệp-Định Paris; nếu có đụng-độ quân-sự thì điều đó thuộc thẩm-quyền của cấp Trung-Ương. Riêng về phương-diện chính-trị nội-bộ thì tình-hình chung ngày càng xấu thêm: các cấp Chính-Quyền địa-phương không biết thu-phục dân-tâm; nhất là ở vùng ngoại-ô, nói chi ở vùng tranh-chấp. Đồng-bào chán ghét tham-nhũng, mà lại khao-khát hòa-bình. Tổ-chức của nhóm linh-mục Trần Hữu Thanh và Nguyễn Kim Bính là “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”. Một số tín-đồ Ky-Tô-Giáo sẽ đồng-loạt xuống đường khắp nơi. Nếu không ngăn-chận thì có thể có bạo-động. Giả-dụ một số quá-khích (Việt-Cộng xúi-giục) tấn-công những người họ cho là đã tham-gia tích-cực vào cuộc Cách-Mạng 1-11-1963 lật đổ chế-độ Đệ-Nhất Cộng-Hòa, mà những người này thì nằm bên phía “Lực-Lượng”, và tất-nhiên là những phần-tử này sẽ phải tự-vệ, biến thành xung-đột tôn-giáo, ít nhất cũng như biến-cố Thanh-Bồ Đức-Lợi tại Đà-Nẵng trước đây. “Phong-Trào” mà “làm mạnh” được thì phía “Lực-Lượng” hẳn cũng sẽ không chịu thua. Ngăn-chận thì bị gán cho là đàn-áp tôn-giáo; giả-dụ có kẻ bắt chước nữ-Dân-Biểu Kiều-Mộng-Thu, nằm lăn giữa đường để cho phóng-viên chụp ảnh, quay phim, dùng làm bằng-chứng là ả đã bị cảnh-sát bạo-hành, xong kéo đồng-bọn vào nhà-hàng lớn ăn khao, trong lúc phản-ứng của dư-luận chung, cả trong nước lẫn ngoài nước, nhất là tại Hoa-Kỳ, thì rất bất-lợi cho ta. Hơn nữa, làm sao có đủ lực-lượng để giúp vãn-hồi an-ninh: kinh-nghiệm các vụ lộn-xộn ở Quận Hoài-Nhơn của Tỉnh Bình-Định, Thị-Xã Tuy-Hòa của Tỉnh Phú-Yên, cho thấy là Chính-Quyền Tỉnh bất-lực khi chính Cảnh-Sát của địa-phương mình bị đám lộng-hành bao vây, tấn-công. Trung-Ương cũng khó tiếp tay: chỉ nội một vụ ở Chủa Linh-Sơn, Đà-Lạt, mà phải cần có phi-cơ quân-sự di-chuyển Cảnh-Sát Dã-Chiến từ Sài-Gòn ra; nếu có biến-động nhiều nơi một lần thì làm sao mà giải-nguy?
Quan-trọng hơn hết là bọn Việt-Cộng đã xâm-nhập vào “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”. Chúng đã hiểu rõ là tổ-chức này thù-hận chế-độ hiện-thời hơn hết, nên chúng lợi-dụng để có thêm những đồng-minh chung sức chống phá Việt-Nam Cộng-Hòa. Chúng đã bắt đầu lôi kéo thêm các tổ-chức khác nữa, từ bên ngoài Ky-Tô-Giáo, để cùng hưởng-ứng “Phong-Trào”, vì “Phong-Trào” là hình-thức đối-lập hợp-pháp, nấp được vào đó là hoạt-động dễ vô cùng. Chúng sẽ có thể chiếm giữ công-sở, đột-nhập đồn bót, khủng-bố, phá-hoại, ít nhất là cũng thành-công về mặt chính-trị, thông-tin tuyên-truyền...
- Theo anh thì Chính-Quyền nên đối-phó cách nào?- Tôi xin đề-nghị Trung-Ương tạm-thời nhượng-bộ “Phong-Trào” một bước đầu tiên, để tiện cấp-thời vô-hiệu-hóa mọi kế-hoạch hoạt-động của họ hiện nay, bằng cách cử hai tín-đồ Ky-Tô-Giáo, gốc-gác Đệ-Nhất Cộng-Hòa và thân-cận với giới cựu Cần-Lao, ra làm Tỉnh-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Sát Quốc-Gia tại Tỉnh Thừa-Thiên...Thiếu-tướng Bình và chuẩn-tướng Tây nhìn nhau.Tôi nói tiếp liền:- Như thế là chỉ mới giải-quyết được bước đầu, chứ chưa xong trọn vấn-đề. Tuy nhiên, nếu tôi còn ở Vùng I thì tôi, chính tôi, sẽ ngăn-chận được mọi sự xáo-trộn tiếp theo, cho Vùng I, và do đó, cho toàn Miền Nam...
*Thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia Việt-Nam Cộng-Hòa, đứng dậy, đưa tay bắt tay cám ơn tôi, và kết-thúc cuộc tiếp-xúc bằng lời khuyến-khích tôi và hứa-hẹn sẽ thăng cấp cho tôi vào Ngày Cảnh-Lực 1-6-1975.Tôi cùng chuẩn-tướng Hùynh Thới Tây trở về văn-phòng Bộ Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương, lần này thì cùng đi bộ. Tôi muốn nói lên một lời cám ơn ông đã đề-bạt tôi, đã dành cho tôi rất nhiều đặc-quyền, đặc-ân, mà các cấp+chức khác, ngang tôi, kể cả cao hơn tôi, cũng không có được – đương-nhiên là trong công-vụ mà thôi. Ít nhất thì ông cũng đã bắt cả các cấp Giám-Đốc phụ-tá của ông tại Trung-Ương phải đích-thân đáp-ứng ngay mọi đề-nghị của tôi; và, thay vì, như với nhiều giới-chức khác - cấp dưới dâng nạp quà cáp lên cho cấp trên – thì ông ngược lại đã cho riêng tôi mỗi tháng 20,000 đồng, tương-đương gần nửa tháng lương của tôi, để thuê nhà ở vì tôi phải rời gia-đình mà ra Miền Trung - tất-nhiên với sự đồng-ý của thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình. Nhưng tôi không nói ra được lời cám ơn đó, vì nó có vẻ nịnh-hót thế nào ấy - một việc mà tôi không bao giờ làm, cho nên đã bị thiệt-thòi từ hai mươi bảy năm nay.
Chúng tôi lặng-lẽ bước bên cạnh nhau, trước những cặp mắt ngạc-nhiên của nhiều sĩ-quan gặp trên đường đi. Cuối cùng, như để đánh tan bầu không-khí lạt-lẽo ấy, và lấy lại thế chủ-động, thiếu-tướng Tây nói với tôi, mà tôi nghe như nói lên tâm-tư của một số đông viên-chức chỉ-huy Ngành Đặc-Cảnh thời bấy giờ:- Qua Sắc-Phục thì có tiền...Sau đó, ông không quên trao tiền thuê nhà cho tôi, và nhắc tôi cần gì thì giải-quyết gấp với các Giám-Đốc hữu-quan, để còn rời Sài-Gòn sớm mà ghé thăm gia-đình hiện ở Nha-Trang.*Ngay hôm sau, tôi vừa về đến Nha-Trang thì nhận được tin Trung-Ương đã cử hai nhân-vật khác đến thay đại-tá Tôn Thất Khiên và thiếu-tá Liên Thành trong chức-vụ Tỉnh-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế.Tân Tỉnh-Trưởng là đại-tá Nguyễn Hữu Duệ.Đại-tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I, nhắn tôi ra Đà-Nẵng gấp, để cùng ông ra Huế chủ-tọa lễ giao-nhận chức-vụ Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế, giữa thiếu-tá Liên-Thành và trung-tá Hoàng Thế Khanh.LÊ XUÂN NHUẬN(trích từ cuốn hồi-ký “Về Vùng Chiến Tuyến” cuả Lê Xuân Nhuận, do nhà Văn Nghệ xuất-bản năm 1996 – ISBN: 1-886566-15-1)
Muốn biết thêm về các vấn-đề liên-quan, xin vào liên-mạng sau đây:http://www.lexuannhuan.com/
==
NGUYỄN PHÚ THỨ * NĂM KỶ SỬU NÓI CHUYỆN TRÂU
Năm Sửu Nói chuyện Trâu(Kỷ Sửu từ 26-01-2009 đến 13-02-2010)
(Trich dẫn trong tác phẩm Tìm Hiểu Cuộc Đời của Nguyễn-Phú-Thứ)
Hàn Lâm Nguyễn Phú Thứ
Sau khi năm Mậu Tý chấm dứt, thì đến năm Kỷ Sửu được bàn giao từ giờ giao thừa bắt đầu giữa đêm chủ nhựt , 25-01-2009 để cầm tinh đến 24 giờ đêm thứ bảy 13-02-2010. Năm Kỷ Sửu này cũng thuộc hành Hỏa và mạng Tích Lịch Hỏa tức Lửa Sấm Sét, năm này thuộc Âm, có can Kỷ thuộc mạng Thổ và có chi Sửu thuộc mạng Thổ. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành, thì năm này "Can tương hòa Chi" Bởi vì, Can = Thổ và Chi = Thổ. Trường hợp này, giống như các năm Kỷ Mùi (1919-1979-2039-2099) có Can Chi tương hòa lại có cùng mạng Thổ giống như năm Kỷ Sửu này hoặc là các năm Nhâm Tý (1912-1972-2032-2092) có Can Chi tương hòa đều có cùng mạng Thủy.
Vì vậy, người hay năm Kỷ Sửu này xem như tổng quát rất thuận lợi, bởi vì Trời Đất được giao hòa nhau, không khác trong nhà có đôi vợ chồng sống rất hạnh phúc vậy, cho nên có thể nói là năm được thăng tiến từ vật chất đến tinh thần được vững chắc trong sự nghiệp tương lai. Được biết năm Sửu vừa qua là năm Đinh Sửu thuộc hành Thủy, nhằm ngày thứ sáu, 07-02-1997 đến 27-01-1998.Căn cứ theo Niên Lịch Cổ Truyền Á Đông xuất hiện được minh định quảng bá từ năm thứ 61 của đời Hoàng Đế bên Tàu, bắt đầu năm 2637 trước Công Nguyên, cho nên chúng ta lấy 2637 + 2009 = 4646, rồi đem chia cho 60 thì có kết quả Vận Niên Lục Giáp thứ 77 và số dư 26 năm bắt buộc rơi vào Vận Niên Lục Giáp thứ78 bắt đầu từ năm 1984 cho đến năm 2043. Do vậy, năm Kỷ Sửu 2009 này là năm thứ 26 của Vận Niên Lục Giáp 78.Năm Sửu tức Trâu cũng là Ngưu, cho nên trong bàn dân thiên hạ cũng thường nhắc nhở luôn trong sinh hoạt xả hội hằng ngày, từ đó mới có những từ ngữ liên quan, xin trích dẫn như sau :
Sửu là con Trâu đứng hạng thứ 2 của 12 con vật trong Thập Nhị Địa Chi, vì lớn con kình càng, lại còn mang cặp sừng trên đầu nên không thể sánh bằng con Chuột lanh lợi nhỏ con đến trước.Giờ Sửu = là giờ từ 01 giờ đến đúng 03 giờ sáng hôm sau.Tháng Sửu = là tháng Chạp của năm âm lịch.Hoàng Ngưu = Hỏa Ngưu = con Bò.Thủy Ngưu = Con Trâu.Ngưu Dương = Trâu Dê.Ngoài ra, chúng ta còn thấy cây cỏ mang tên Ngưu, xin trích dẫn như sau :Ngưu hoàng = Vật vàng vàng mà cứng ở trong cái mật con Bò, người ta dùng để làm thuốc trị phong đàm.Hắc Sửu = là loại cây bìm bìm lông, hột nó đen, dùng để làm thuốc trị hạ nhiệt.Ngưu bàng tử = Hột cây muồng hoè để làm thuốc trị ghẻ.Ngưu tất = Rễ cỏ xước dùng để làm thuốc trị chứng bịnh đau gân cốt.Khiên Ngưu = Loại dây hắc sửu, dùng để làm thuốc trị hạ nhiệt.v.v.Đặc biệt, có những Ca Dao, Tục Ngữ và Thành Ngữ, xin trích dẫn như sau :Trâu Bò ở với nhau, quen chuồng quen chỏi ( cây chắn ngang ở cửa chuồng)Người ở với nhau lâu, inh ỏi đủ điềuTrâu kia kén cỏ bờ ao,Anh kia, không vợ đời nào có con.Người ta con trước con sau,Thân anh không vợ như cau không buồng.Cau không buồng như tuồng cau đực,Trai không vợ cực lắm anh ơi!Người ta đi đón về đôi,Thân anh đi lẻ về loi một mình.Mất Trâu thì lại mua Trâu,Những quân cướp nó có giàu hơn ai.Trâu Bò được ngày phá đổ,Con cháu được ngày giổ ông.Nhịn thuốc mua Trâu,Nhịn trầu mua ruộng.Muốn giàu, nuôi Trâu cái,Muôn lụn bại, nuôi Bồ Câu... (Ca Dao).
Trâu chậm uống nước đục.
Trâu ngơ ăn cỏ héo.
Trâu lành không ai mà cả (trả giá để mua).
Trâu ngả lắm kẻ cầm dao.
Trâu đạp cũng chết,
Voi đạp cũng chết
.Trâu hay ác thì Trâu vạt sừng.
Trâu bịnh cũng bằng Bò khoẻ.
Trâu toi thì Bò ngả.
Trâu lấm vẩy quàng.
Trâu trắng đi đâu mất mùa đến đấy.
Trai mười bảy, bẻ gãy sừng Trâu.
Thân Trâu lo, thân Bò liệu.
Có ăn có chọi mới gọi là Trâu.
Thở hơn Trâu hạ địa (Trâu bịnh lâu ngày).
Mua Trâu vẽ bóng.
Máu đâu, Trâu đó.
Không có Trâu, bắt Bò thế, (đi đẩm).
Thà chết vũng chân Trâu, hơn chết khi dĩa đèn.
Tham bong bóng bỏ bọng Trâu.
Thật thà lái Trâu.
Thở như Trâu Bò mới vực (tập kéo xe hay cày bừa)
Trâu Bò húc nhau Ruồi Muổi chết oan.
Trâu cày, Ngựa cởi.
Trâu chết chẳng khỏi rơm.
Trâu chết mặc Trâu, Bò chết mặc Bò.
Trâu cột ghét Trâu ăn.
Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy.
Trâu già đâu nệ dao phay.
Trâu nghiến hàm, Bò bạch thiệt (lưỡi trắng).
Trâu tìm cột, cột chẳng tìm Trâu.
Dắt Trâu chui qua ống.Ngưu tầm Ngưu, Mã tầm Mã.
Thọ hóa thanh Ngưu.(Cây lâu năm hoá thành Trâu xanh)... v.v. (Thành Ngữ).
Miếng trầu là đầu cậu chuyện,
Con Trâu là đầu cơ nghiệp... v.v (Tục Ngữ).
Xuyên qua Ca Dao, Tục Ngữ và Thành Ngữ có liên quan đến Trâu đã dẫn ở trên kia, chúng ta không thể ngừng ở đây, mà còn thấy rất nhiều sách viết về những huyền thoại Trâu, xin trích dẫn để quý bà con đồng hương nhàn lãm như sau :Trâu là gia súc, loài nhai lại, trên đầu có cặp sừng hình vòng cung, nó chính là người bạn chân thành của những nhà nông từ xa xưa, đã từng đổ mồ hôi, sót con mắt trên luống cày hay bừa trên thửa ruộng, để cho có những hạt lúa, nương khoai nuôi dưỡng gia đình tộc Việt chúng ta. Ngày nay, nhờ cơ giới hóa có máy cày thay Trâu, nên Trâu bớt cơ cực như ngày xưa. Đối với thời xưa, dân tộc mình xem Trâu là một trong ba việc hàng đầu căn bản cho gia đình và xả hội cần phải sắm, cho nên trong dân gian thường nhắc nhở như sau :Tậu Trâu, lấy vợ, làm nhàTrong ba việc ấy lọ là khó thay!Ngoài ra, đất nước chúng ta là nông nghiệp, cho nên trong dân gian cũng thường nhắc đến Chồng cày, Vợ cấy, con Trâu đi bừa trên đồng ruộng. Đó chính là hình ảnh thân quen của những nông gia, có đời sống rất chất phát, cần cù lại êm đềm và hạnh phúc trong sự phân công giữa người và Trâu, xin trích dẫn như sau đây:
Rủ nhau đi cấy, đi cày,
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu,
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con Trâu đi bừa.
hoặc là :
Trâu ơi, ta bảo Trâu cày,
Trâu ra ngoài ruộng, Trâu cày với ta,
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây, Trâu đấy ai mà quản công,
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng Trâu ăn.
Khi viết về cái Cày và con Trâu, tôi lại nhớ trong ngạn ngữ (Proverbe) Pháp cũng có câu như sau : Mettre la charrue devant les bœufs (Đặt cái cày trước con Trâu). Ý nói, bất cứ việc gì chúng ta đừng bao giờ làm việc trái đời, ví như đặt cày cái trước con Trâu, thì không thể thực hiện để thành công được.Trong dân gian mình có những huyền thoại tương truyền về Trâu, xin trích dẫn như sau:
Tại sao Trâu ăn cỏ !Thuở xưa, Ngọc Hoàng sai một vị Bồ Tát xuống trần gian mang theo 1 bao hạt giống lúa và 1 bao cỏ để phổ độ chúng sanh. Trước khi xuống trần, Ngọc Hoàng đã tỉ mỉ căn dặn, đến trần gian phải gieo rắc bao hạt giống lúa trước để dân có dư giả mà ăn, còn bao cỏ thì gieo sau để nuôi thú vật. Nhưng khi vị Bồ Tát đến trần gian, thấy phong cảnh khác lạ, nên mãi mê xem mà quên lời căn dặn của Ngọc Hoàng, để rồi gieo bao cỏ trước và bao hạt giống lúa sau. Từ đó, cỏ không cần trồng cũng mọc tràn lan khắp mọi nơi, các thú vật ăn không bao giờ hết vì quá dư thừa và không làm sao diệt cỏ hết được. Còn lúa phải gieo trồng rất cực khổ và khó khăn mới có ăn, bởi vì bị cỏ mọc lấn áp làm lúa phát triển chậm hơn cỏ. Bởi lỗi ấy của vị Bố Tát, làm cho người trần gian trồng lúa rất khó nhọc mới có ăn và cỏ thì mọc tự nhiên quá nhiều, cho nên Ngọc Hoàng mới đày vị Bồ Tát này xuống trần gian hóa thành con Trâu để giúp người trần gian cày bừa trồng lúa và ăn cỏ, chừng nào hết cỏ sẽ được tha thứ cùng phục hồi địa vị cũ, nhưng ăn hoài vẫn không bao giờ hết cỏ được, nên Trâu chưa thoát kiếp. Do lý do trên, nên Trâu thường đi cày bừa giúp nông gia và ăn cỏ.Trong dân gian xem Trâu là vị Bồ Tát, có tánh tình hiền, nên ít ăn thịt hơn Bò là thế.Tại sao Trâu chỉ có một hàm Răng !Cũng tương truyền thuở xưa rằng : Các loài thú vật bốn cẳng như : Chó, Mèo, Trâu, Cọp ...v.v thì có được hai hàm răng, duy chỉ có con Ngựa dù cũng có 4 cẳng, nhưng chỉ có một hàm răng. Bửa nọ, Ngựa được mời đi dự tiệc, Ngựa nghĩ rằng mình chỉ có một hàm răng ăn rất chậm, nên đi hỏi Chó, Mèo, Cọp ... để mượn hàm răng, thì Chó, Mèo, Cọp ... cũng được mời ăn tiệc, chỉ còn Trâu cũng được mời ăn tiệc, nhưng không muốn đi vì lười, phần làm việc cực nhọc nên thân thể ê ẩm, nên không đi dự tiệc, cho nên Trâu được Ngựa đến năn nỉ và than thân trách phận vì số không có hai hàm răng, rồi hứa chỉ mượn tạm hàm răng của Trâu đi ăn tiệc xong sẽ trả lại liền, còn đền ơn đáp nghĩa cho Trâu. Trâu nghe bùi tai, động lòng nên gỡ cho Ngựa mượn. Sau khi dự tiệc xong, Ngựa thấy có hai hàm răng ăn rất mau và lại ngon miệng, nên động lòng tham, không giữ gìn lời hứa, bèn trốn lánh Trâu để giựt luôn hàm răng. Một hôm Trâu gặp được Ngựa đòi lại hàm răng và mắng chửi Ngựa thậm tệ, Ngựa phóng nước đại chạy trốn mất dạng, Trâu rượt theo một hồi không bắt kịp Ngựa, vì thân thể nặng nề nên rất chậm chạp. Từ đó, Trâu dành nuốt hận cho đến ngày nay, chỉ có một hàm răng, trong khi Ngựa lại có hai hàm răng.Đó là, nguyên do Trâu ăn cỏ, chỉ có một hàm răng và cày bừa giúp nhà nông trồng lúa. Đây là một trong những tương truyền trong dân gian để răng đời đáng quý !Tại saoTrâu không biết nói tiếng người và có cái sẹo như nốt ruồi dưới cổ !
Thuở xa xưa, Trâu cùng nói được tiếng với người, nhờ vậy người dùng lời nói để sai khiến Trâu, cho nên bọn mục đồng (chăn Trâu) không thể dùng roi để đánh đập Trâu hay không cho Trâu ăn cỏ đầy đủ, vì sợ Trâu mét chủ. Nhờ vậy, người cùng vật quấn quít và thương mến nhau. Có một gia đình nông dân nọ, có nuôi một con Trâu và mướn một cậu bé để chăn Trâu, thời gian sau nó bỏ bê chăn Trâu, vì mê lo đánh đáo cùng bọn chăn Trâu khác, nhưng sợ Trâu đi ăn lúa, nên nó cột Trâu lại một chỗ không cho ăn uống, cho nên Trâu bị đói, bụng xếp ve, để qua mắt chủ, nó lấy mo cau áp vào bụng Trâu rồi trét bùn bên ngoài. Cứ thế, ngày ngày nó dẫn Trâu về chuồng, người chủ thấy bụng Trâu no tròn thì hài lòng và yên bụng tưởng rằng nó lo cho Trâu cẩn thận chu đáo, có ngờ đâu Trâu thì bị đói cả ngày, không như các ngày vừa qua, chỉ bỏ Trâu đói vài giờ, cho nên Trâu định mét chủ, nhưng Trâu bị nó khôn ngoan, lanh lợi dùng lời lấn áp Trâu, không cho Trâu có dịp nói với chủ. Sáng họm sau, người chủ vắt Trâu đi cày, Trâu đi không nổi vì đói, nên bị chủ quát : "Mau lên đồ lười".
Trâu trả lời : "Không phải lười vì đói" Chủ nói :Ngày nào nó cũng cho mầy ăn một bụng no nê mà đói nỗi gì?. Trâu thố lộ : "Nó chỉ lo mê đánh đáo, rồi nói láo cho tôi ăn no, no gì mà no trong mo cau ngoài đất sét". Người chủ vội vàng kiểm chứng thấy sự thật, khi lột mo cau trét bùn dưới bụng Trâu và đánh cậu bé chăn Trâu một trận nên thân. Từ đó, ngày nào Trâu cũng được ăn no và tắm rửa chu đáo. Riêng cậu bé chăn Trâu, ba bốn ngày hôm sau chỗ bị đánh vẫn còn sưng, cậu bé ngồi khóc trên bờ ruộng, bỗng một ông lão hiện ra hỏi han nguyên do bị đánh, cậu bé trình bày sự thật và ông lão rút trong người ra một nén nhang, rồi đốt lên dí vào cổ con Trâu, làm cho Trâu đau điếng, kêu khan cả cổ, tiếng nói dần dần biến mất, sau cùng khi nào muốn nói, Trâu chỉ phát ra được tiếng "nghé...ọ". Riêng ở chổ bị thương, sau đó trở thành một cái sẹo như nốt ruồi. Từ đó, Trâu sanh ra đều không nói được tiếng người và đều mang cái nốt sẹo ở dưới cổ.
Những huyền thoại về Trâu còn nhiều, nào là :Trâu nhà, Trâu rừng, Ngưu Mân (Trâu ngủ), trong Tây Du Ký tác giả Ngô Thừa Ân nói về Ngưu Ma Vương đánh với Tề Thiên Đại Thánh cuối cùng nhờ có Thái Thượng Lão Quân mới thu phục được Ngưu Ma Vương dẹp bỏ được chướng ngại trên đường thầy Trần Huyền Trang tức Tam Tạng phụng chỉ vua Đường Thái Tôn sang nước Thiên Trúc để thỉnh kinh Phật về truyền bá trong dân gian. Ba bộ kinh của Phật Giáo là : Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng gọi chung là Tam Tạng. Trên đường đi xa xôi ngàn dặm, hành trình gian nan, nguy hiểm vì có nhiều yêu quái, nhờ có b học trò giỏi the phò như sau :Ø thứ nhứt là Tôn Ngộ Không tức Tôn Hành Giả, cốt Khỉ tu hành lâu năm nên thành người, có 72 phép biến hóa thần thông, được biệt danh là Tề Thiên Đại Thánh.Ø thứ nhì là Trư Bát Giới, cốt Heo tu hành lâu năm nên thành người, cũng có phép không vừa.Ø thứ ba là Sa tăng, một con quỷ hung tợn được thầy Tam Tạng thuyết phục và thâu dụng làm đệ tử.Mặc dù thầy Trần Huyền Trang có ba đệ tử tài năng phép luật cao cường, nhưng khi đến Hoả Diệm Sơn đành phải chùn bước, vì trở ngại núi quá cao lại có phun lửa rực trời, sức nóng mãnh liệt. Muốn vượt qua phải dập tắt ngọn lửa này, nhưng phải có cây quạt Ba Tiêu của Ngưu Ma Vương tức chồng của Bà La Sát nắm giữ. Được biết, Ngưu Ma Vương vốn là con Trâu đã tu luyện cả ngàn năm thành người, nên tài phép không thua gì Tề Thiên Đại Thánh. Thầy trò Đường Tăng Tam Tạng tìm đến mượn quạt Ba Tiêu, thì Ngưu Ma Vương không cho mượn, còn nặng lời sỉ vả, cho nên Tôn Hành Giả hiệp cùng Trư Bát Giới được Thổ Địa trợ giúp vây đánh Ngưu Ma Vương suốt ba ngày ba đêm để chiếm đoạt quạt Ba Tiêu, nhưng bất phân thắng bại. Sau cùng, nhờ Phật Tổ cho bốn Ông Kim Cang tấn công bốn hướng như sau :* Ông Đại Lực Kim Cang hướng Đông.* Ông Vĩnh Trụ Kim Cang hướng Tây.* Ông Thắng Chi Kim Cang hướng Nam* Ông Bát Pháp Kim Cang hướng Bắc.Khi đó, Ngưu Ma Vương mới cùng đường chống đỡ, nên phải chạy trốn, nhảy lên cao núp trong mây, nhưng cũng không thoát khỏi được, vì có các sứ thần của thượng đế là Na Tra và Lý Thiên Vương chận đường vây bắt. Cuối cùng Ngưu Ma Vương mới chịu đầu hàng và quy y đầu Phật.Nhân đây, tôi xin trích dẫn Ngài Huyền Trang như sau : Ngài Huyền Trang tức Hiuan-Trang (có người nói ngài họ Trần tên Huyền Trang), sanh năm 602 và chết năm 664, hưởng thọ 63 tuổi. Năm 13 tuổi ngài xuất gia học đạo. Năm 20 tuổi thọ giới cụ túc, lúc bấy giờ nước Tàu có loạn lạc, mãi đến năm 629, ngài được 27 tuổi, thuộc đời nhà Đường (618-907) niên hiệu Trinh Quáng năm thứ ba, Ngài mới sang Ấn Độ thỉnh kinh, phãi qua 100 quốc gia thuộc các nước nhỏ của xứ Ấn Độ, cho nên có tên Đường Tam Tạng. Việc đi này, rất nhiều cuộc nguy hiểm trên đường đi và nhờ phép Phật che chở, nên Ngài vượt qua các tai nạn và cuối cùng được các Vua Tây Vực tiếp rước và giúp đỡ tận tình để Ngài tu học các ngôi đại tự cho thành tài, cuối cùng thỉnh các tạng kinh sách từ Ấn Độ mang về, được Vua Thái Tông tiếp rước nồng hậu. Sau đó, Ngài dịch kinh luận được trên 1.500 quyển từ Phạn ngữ sang Hán ngữ, riêng bộ Duy Thức Luận là đặc sắc nhứt và được người đời tôn Ngài là Giáo Tổ dịch giả của Pháp Tướng Tông.
Hơn nữa, Ngài còn soạn xong bộ Tây Du Ký dâng lên vua Thái Tông, được vua ngự phê cùng các bộ kinh khác của Ngài dịch và khi Ngài tịch được vua Cao Tông cử hành quốc táng, cùng xây tháp tôn thờ Ngài. Do đó, có thể nói Ngài là một đại sa môn người Trung Hoa đầu tiên dịch kinh từ tiếng Phạn sang tiếng bản xứ. Nếu kể từ sau khi Đức Phật diệt độ, cho đến Ngài đi thỉnh kinh từ Ấn Độ về năm 645 là 1.189 năm (bởi vì : 544 + 645 = 1.189 năm) và thời gian ngài đi thỉnh kinh là 16 năm (bởi vì : 645 - 629 = 16 năm). (Trích dẫn bài Năm Hợi Nói Chuyện Heo ở trước).
Ngoài ra còn có :Tục đấu (chọi) Trâu: Tục này xưa kia thường được tổ chức ở một vài nơi như huyện Lập Thạch, Tỉnh Vĩnh Yên hoặc ở Đình Bảng, Hà Đông hay ở Đồ Sơn, Kiến An, cho nên trong dân gian thường truyền tụng để nhớ ngày đấu Trâu như sau :Dù ai bán đâu, buôn đâu,Mùng mười tháng tám đấu Trâu thì về.hoặc là :Dù ai buôn bán trăm nghề,Mùng mười tháng tám nhờ về đấu Trâu.Đặc biệt, khi nói đến mục đồng(chăn Trâu) ngày xưa, không phải người mục đồng nào cũng nghèo hèn, thất học hết, tối ngày chân lắm tay bùn cơ cực suốt một cuộc đời ở cận kề với Trâu, mà không thể trở thành danh nhân lừng lẩy. Bằng chứng là trong lịch sử đất nước chúng ta có hai danh nhân đã từng là mục đồng.
Đó là:Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ là người mục đồng, quê ở Hoa Lư, huyện Gia Viễn, Tỉnh Ninh Bình. Sau khi đứng lên dẹp được loạn sứ quân lên ngôi trở thành vua Đinh Tiên Hoàng (năm 968) làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi (chết năm 979).Trong Đại Nam Quốc Sử diễn ca, có đoạn nói về vua Đinh Tiên Hoàng như sau :Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh,Con quan Thứ Sử ở thành Hoa Lư,Khác thường từ thuở còn thơ,Rủ đoàn mục tử mở cờ bông lau ...Đào Duy Từ thuở nhỏ cũng là mục đồng, con của Đào Tá Hán làm nghề hát tuồng và Bà Kim Chi là người hiếu học, nên sau được Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên được phong chức Nha Úy Nội Tán, tước Lộc Khê Hầu, Quan Quản nội ngoại quân cơ, Tham lý quốc chánh và Cụ Đào Duy Từ là người đứng ra tổ chúc đắp xây lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc và lũy Định Bắc Trường Thành dọc theo sông Nhật Lệ tục gọi là Lũy Thầy Đồng Hới để ngăn chận hữu hiệu quân Chúa Trịnh.Viết huyền thoại về Trâu còn dài dài, nếu kể thêm các lịch sử tương truyền bên Tàu hoặc đi vào văn chương sách vở thì không thể kể hết được, cho nên xin tạm ngưng ở đây, khi có dịp sẽ nối tiếp.Trước khi tạm kết thúc bài này, tôi xin trích dẫn thời gian 10 năm những năm con Trâu vừa qua và sắp tới có Hành như thế nào? để cống hiến quý bà con đồng hương nhàn lãm hoặc xem mình có phải sanh đúng năm Sửu hay không như dưới đây :Tên NămThời GianHành Gì?Tân Sửu19-02-1901 đến 07-02-1902ThổQuý Sửu06-02-1913 đến 25-01-1914MộcẤt Sửu25-01-1925 đến 12-02-1926KimĐinh Sửu11-02-1937 đến 30-01-1938ThủyKỷ Sửu29-01-1949 đến 16-02-1950HỏaTân Sửu15-02-1961 đến 04-02-1962ThổQuý Sửu03-02-1973 đến 22-01-1974MộcẤt Sửu20-02-1985 đến 08-02-1986KimĐinh Sửu07-02-1997 đến 27-01-1998ThủyKỷ Sửu26-01-2009 đến 13-02-2010HỏaVà nhân đây, xin trích dẫn các ngày Tết nguyên đán kể từ năm Tân Mão 2011 đến năm Quý Mão 2023 để cống hiến quý bà con đồng hương thưỡng lãm như sau:- Tết Tân Mão, nhằm thứ năm, 03-02-2011 *
- Tết Nhâm Thìn, nhằm thư hai, 23-01-2012 **- Tết Quý Tỵ, nhằm chủ nhựt, 10-02-2013 **- Tết Giáp Ngọ, nhằm thứ sáu, 31-01-2014 *- Tết Ất Mùi, nhằm thứ năm, 19-02-2015*- Tết Bính Thân, nhằm thứ hai, 08-02-2016 **- Tết Đinh Dậu, nhằm thứ bảy, 28-01-2017 *- Tết Mậu Tuất, nhằm thứ sáu, 16-02-2018 *- Tết Kỷ Hợi, nhằm thứ ba, 05-02-2019 *- Tết Canh Tý, nhằm thứ bảy, 25-01-2020 *- Tết Tân Sửu, nhằm thứ sáu, 12-02-2021 *- Tết Nhâm Dần, nhằm thứ ba, 01-02-2022 **- Tết Quý Mão, nhằm chủ nhựt, 22-01-2023 *Kính chúc tất cả gia đình quý bà con đồng hương năm mới Vạn Sự Cát Tường.
____________________________
Cước Chú : Những năm có một dấu * thì Tết có ngày 30, còn những năm có hai dấu ** thì Tết không có ngày 30, nên đón giao thừa vào giữa đêm 29, vì tháng thiếuHàn Lâm Nguyễn-Phú-ThứMừng Xuân Kỷ Sửu 2009
SƠN TRUNG * HỘI HOA ANH ĐÀO
HỘI HOA ANH ĐÀO
SƠN TRUNG
Đại Nhật vương quốc và Thiên Nam vương quốc có một mối liên hệ mật thiết. Thiên Nam quốc là một quốc gia chậm tiến ở cạnh Thái Bình dương, luôn luôn bị ngoại xâm và nội chiến. Đại Nhật vương quốc là một quốc gia thịnh vượng, văn minh bậc nhất trong vùng này. Đại Nhật vương quốc đã sản xuất các hàng hóa tối tân và xuất cảng khắp nơi trên thế giới. Đại Nhật vương quốc năm ngoái đã viện trợ cho Thiên Nam quốc một ngân khoản tương đương ba trăm ngàn lượng vàng, và cũng đã xuất cảng nhiều hàng hóa sang Thiên Nam quốc.
Nhân ngày quốc khánh của Thiên Nam quốc, quốc vương nước này bèn gửi sứ điệp đến các sứ quán ngoại quốc, yêu cầu họ đóng góp vật chất và tinh thần cho ngày quốc khánh nước này. Sứ quán Đại Nhật tại Thiên Nam gửi sớ về quốc vương Đại Nhật báo cáo việc này, và đề nghị tổ chức một ngày văn hóa tại Thiên nam quốc. Vua Đại Nhật bèn ra lệnh quan thượng thư bộ Ngoại giao và bộ Văn hóa Đại Nhật họp bàn kế hoạch thực hiện ngày Văn hóa này. Cả hai bộ thống nhất ý kiến là tổ chức một hội hoa anh đào tại nước Thiên Nam.Tòa Đại sứ Đại Nhật tại Thiên Nam quốc đã được thông báo đầy đủ chi tiết, được yêu cầu đứng ra tổ chức hội hoa anh đào và lo mọi thủ tục cùng thu xếp nơi ăn, chốn ở cho phái đoàn văn nghệ sĩ gồm vài chục người.
Phái đoàn Đại Nhật đã mang theo một chuyến máy bay đặc biệt chở hàng trăm cây anh đào, cùng đội trống, ban nhạc, và một đoàn vũ công sang Thiên Nam quốc biểu diễn.Thấm thoắt đã giữa mùa xuân, đoàn văn hóa Đại Nhật đã đến kinh đô Thiên Nam quốc. Họ thuê hẳn một khách sạn lớn để ăn ở và chuẩn bị mọi thứ. Hội hoa anh đào sẽ được tổ chức một ngày tại cơ sở Văn hóa quốc gia ở phố Đại Thắng lợi, là trung tâm điểm của kinh đô Bắc kinh của Thiên Nam quốc. Trung tâm này rất rộng lớn, có một khu vườn hoa rộng rãi, giống như một vườn Bách thảo, bên trong cùng bên ngoài có những sân khấu lớn có thể chứa chục ngàn người.
Vì là mùa xuân, khí hậu mát mẻ, và trời có nắng ấm nên ban tổ chức dùng sân khấu ngoài trời để tổ chức ngày văn hóa. Trước mặt sân khấu là vườn hoa cho nên đoàn Văn hóa Đại Nhật đã mang năm trăm cây anh đào kết lại thành một cây anh đào rất to cao, có cả vạn cành hoa rất tuyệt vời. Trên sân khấu, các nghệ sĩ Đại Nhật đánh trống rất nhịp nhàng và hùng dũng. Bên cạnh, các cô gái Đại Nhật mặc quốc phục của họ rất sặc sở đầy ấn tượng. Trong vườn hoa, cũng có nhiều cây anh đào làm cho khán giả như lạc vào một rừng hoa anh đào tươi thắm. Bên cạnh các cành anh đào, nhân viên phuc vụ người Đại Nhật đã bày ra hàng dãy bàn dài, khoảng hai trăm bàn bánh, trái, mứt, kẹo, cà phê, trà cùng các thực phẩm khác của Đại Nhật quốc để khách Thiên Nam và quốc tế thưởng thức những nét đặc thù của văn hóa Đại Nhật.Đúng chín giờ sáng thì ban tổ chức mở cửa. Khởi đầu là xe của chính phủ Đại Nhật và Thiên Nam tiến vào, sau là các thượng khách của các quốc gia bạn cùng các phái đoàn thông tín và báo chí các nước. Và cuối cùng là dân chúng Thiên Nam và một số khách du lịch được phép vào xem tự do.Bổng người ta thấy hàng trăm trẻ em trai và gái người Thiên Nam xuất hiện, tuổi khoảng mười bốn, mười bảy, chúng không vào cổng chính, chúng công kênh nhau qua bức tường của cơ sở văn hóa quốc gia mà vào bên trong. Trong chốc lát, chúng ngắt trụi các hoa anh đào và ăn sạch các thực phẩm bày biện trên các bàn. Nếu ăn không hết, chúng vơ vét mang theo hoặc vứt bừa bãi. Trong khoảng vài phút thì chúng đua nhau chạy ra ngoài và biến mất trong các ngỏ hẽm của kinh đô Thiên Nam.
Thái độ của bọn trẻ này đã khiến các cô gái Đại Nhật hoảng sợ và các quan khách ngoại quốc ngạc nhiên vô cùng. Tuy nhiên, các sở thông tấn ngoại quốc thì vô cùng sung sướng vì được môt dịp chụp những bức ảnh lạ trong đời.Trước sự kiện này, các báo chí trong nước im lặng, không một tờ bào nào đả động đến việc thiếu nhi đại phá hội hoa anh đào. Báo chí Đại Nhật cũng im lặng vì sợ động chạm đến bang giao của hai nước.
Một tờ báo Hàn quốc viết:Cuộc triển lãm văn hóa Đại Nhật tại Thiên Nam đã thất bại vì tình hình an ninh ở thủ đô Thiên Nam không bảo đảm.Trước mắt quốc tế, bọn cướp, bọn vô gia cư và bọn hành khất lộng hành mà cảnh sát ở đây chỉ khoanh tay nhìn.
Một tờ báo Pháp bình luận:
Ở Thiên Nam ngày nay rất có tự do. Không thấy có hiønh bóng quân đội hoặc cảnh sát ngoài đường phố. Những thanh niên nổi loạn đã vào ra tự do, không hề bị ngăn chận hay bắt giữ. Đó là môt sự tiến bộ vượt bực không thể phủ nhận của nước Thiên Nam ngày nay.
Một tờ báo Mỹ viết:Vương quốc Thiên Nam tự hào đã xóa đói giãm nghèo, nâng cao đời sống gấp năm, gấp mười thời trước, Nhưng sự kiện xảy ra tại hội hoa anh đào trong tháng hai vừa qua cho thấy thiếu nhi tại Thiên Nam đã bị đói khát cho nên chúng đã ngang nhiên cướp thực phẩm trước con mắt quốc tế mà không hề e sợ. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Đói ăn vụng, túng làm càn “, chứng tỏ nền kinh tế Thiên Nam sụp đổ, xã hội bất công, trong khi có những nhà tư bản đỏ mua xe hơi hàng triệu Mỹ kim thì trẻ con và dân nghèo bị bỏ đói vô cùng thê thảm.Một tờ báo Anh quốc có cái nhìn sâu sắc hơn:Thiên Nam từ trước là một quốc gia có mấy ngàn năm văn hiến, và chú trọng giáo dục. Gia đình, học đường và xã hội luôn chú ý đến đạo đức nhưng nửa thế kỷ nay, nền giáo dục Khổng Mạnh đã bị hủy bỏ,học sinh như con vẹt được dạy ca tụng lãnh tụ, bắt đấu tố cha mẹ. Ngoài đường phố, nạn chửi thề, nói tục, phổ biến. Trong cơ quan, triều đình không tuyển chọn người tài đức mà tuyển chọn kẻ gian ác và nịnh hót. Trong các bộ viện, từ trung ương tới địa phương , nạn tham ô, nhũng lạm, ăn cướp của công và tài sản nhân dân càng ngày càng công khai và phổ biến. Bầu cử thì gian dối , pháp luật thì bất công, học đường thì mua bán băng cấp. . . Một nền giáo dục như thế chỉ đào tạo lưu manh và trộm cắp thì không có gì là lạ lùng!
Về phía dân chúng Thiên Nam thì họ thảo luận rất sôi nổi. Trong một xóm nhỏ, Bà Sáu bảo :-Bác Tư ơi! Hôm qua tại hội hoa anh đào của người Đại Nhật, trẻ con thủ đô Bắc kinh đã xông vào ngắt hoa và ăn hết các bánh kẹo mời khách!
Ông Tư bình phẩm-Trẻ con bây giờ mất dạy quá! Ai lại trước mắt quốc tế mà làm như vậy không sợ thiên hạ chê cười! Xấu hổ quá.Bà Năm nói:-Ngày thường, đường phgố đầy cảnh sát, tại sao trong lễ hội quốc tế lại không có cảnh sát? Tại sao cảnh sát để trẻ con vào làm loạn như thế?
Ông Tám cười mà nói:-Chúng là con ông cháu cha đấy. Chúng đua xe gắn máy, chúng cướp gái nhà lành chẳng ai dám dám ho he, cảnh sát cũng bó tay thôi!
Ông Sáu nói:-Nước Đại Nhật tội gì mà tổ chức hôi hoa anh đào cho tốn tiền bạc và công phu! Dính với hủi làm chi cho khổ thân!Cuối cùng, nhà vua Thiên Nam cũng được báo cáo tình hình vụ phá hội hoa anh đào.
Vua ra lệnh cho Hình bộ thượng thư điều tra trách nhiệm về ai. Bộ Hình tâu :
-Muôn tâu bệ hạ, việc giữ an ninh trong kinh đô là trách nhiệm của quan Ngũ môn Đô thống.Quan Đô thống quỳ xuống tâu:
-Chức vụ Đô Thống là chống phản loạn, bảo vệ hoàng thành và bảo vệ vua, còn việc trộm cắp là do các cơ quan an ninh và cảnh sát các quân, huyện phụ trách.
Vua cho gọi viên giám đốc sở an ninh kinh đô thì ông tâu như sau:
-Muôn tâu bệ hạ, tình hình kinh đô rất tốt đẹp, không hề có phản động hay gián điệp quấy phá. Chẳng qua là đám trẻ con thấy lạ thì vui đùa quá trớn mà thôi. Vì lòng từ bi mà cảnh sát không điều động binh mã để bắt trẻ con. Nếu làm như thế, bọn quốc tế sẽ cho ta là đánh đập, giam cầm và ngược đãi thiếu nhi, vi phạm nhân quyền.
Đức vua nghe xuôi tai cho nên không hỏi đến việc này nữa mặc cho quốc tế và nhân dân kẻ nói ngược, người nói xuôi.It lâu sau, bản tin thông tấn Đại Nhật cho biết viên thứ trưởng bộ Văn hóa Đại Nhật và Đại sứ Đại Nhật tại Thiên Nam từ chức vì đã phạm sai lầm trong việc tổ chức hội hoa anh đào tại Thiên Nam quốc. Các báo chí hai nước Đại Nhật, Thiên Nam và quốc tế xôn xao vì trên thế gian này không ai lại chịu trách nhiệm về hành vi vô văn hóa của quốc gia bạn. Nhân dân và báo chí làm ầm ĩ vụ này, họ viết thư, gọi điện thoại, họ gửi fax và e mail yêu cầu chính phủ Đại Nhật giải thích.
Trước áp lực của quần chúng, Bộ Văn hóa và Thông tin Đại Nhật tuyên bố sẽ mở một cuộc họp các ký giả để giải thích rõ ràng thể theo yêu cầu của dân chúng và giới truyền thông quốc tế.Trong phòng họp, viên thứ trưởng văn hóa lên nói:
Thưa các đại biểu,
Thưa đồng bào trong nước,
Thưa nhân dân thế giới,
Thưa các thông tín viên báo chí,
Tôi xin nhận trách nhiệm là tôi và các nhân viên bộ văn hóa đã kém cỏi về ngôn ngữ và văn tự Thiên Nam cho nên đã làm cho hội hoa anh đào bị phá hoại.
Sau đó, họ cho chiếu cuốn phim về việc tùy viên văn hóa Đại Nhật tiếp xúc với Giám Đốc Sở An Ninh kinh đô Bắc kinh của Thiên Nam quốc.Cuộn phim bắt đầu là hình ảnh cuộc tiếp xúc giữa tòa đại sứ Đại Nhật và chính quyền Thiên Nam quốc.
Tuỳ viên văn hóa Đại Nhật nói:-Tòa Đại sứ chúng tôi thể theo lời yêu cầu của quý quốc mà quyết định tổ chức hội hoa anh đào tại thủ đô Bắc kinh của quý quốc, xin quý vị nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi.Giám đốc Sở An Ninh bắt tay tuỳ viên sứ quán và nói:
-Rất hân hạnh. Xin ông cho biết quý quốc sẽ có những tiết mục nào để chúng tôi biết mà sắp đặt công việc.
Tùy viên sứ quán trình bày:
-Chúng tôi sẽ mở hội văn hóa, triển lãm hoa anh đào, đánh trống, và ca vũ nhạc. Xin cho chúng tôi mượn một nơi rộng rãi khang trang.Hai bên thỏa thuận về địa điểm, ngày giờ tổ chức. Và hai bên cũng thỏa thuận các điều kiện khác. Hai bên chào nhau ra về.
Trước khi ra cửa, ông giám đốc sở An Ninh dặn đi dặn lại nhiều lần:
Xin quý ông tôn trọng luật lệ nước tôi và các thủ tục đầu tiên.
Sau khi cuộc triển lãm hoa bị phá hoại, ông đại sứ và tùy viên văn hóa mở cuộn băng ra xem nhiều lần mà cũng không tìm ra nguyên nhân thất bại. Một hôm, một cặp vợ chồng người Đại Nhật vốn là bạn của ông đại sứ đi du lịch châu Á, nhân tiện ghé thăm Thiên Nam quốc, và đến tòa đại sứ thăm bạn cũ. Người vợ của ông bạn là người Thiên Nam quốc, và bà cũng được mời xem cuộn băng quay ngày hội hoa anh đào. Bà xem từ đầu đến cuối, rồi hỏi ông đại sứ:
-Ông hối lộ cho họ bao nhiều đô la?
Ông đại sứ ngạc nhiên đáp:
-Luật lệ nước Đại Nhật nghiêm khắc trị tội hối lộ. Làm sao tôi có thể hối lộ được? Hơn nữa, trong buổi họp song phương, bên Thiên Nam không hề đưa ra đòi hỏi về tiền bạc. Tại sao bà lại nói về việc hối lộ?
Bà đáp:
Việc đòi hối lộ đã rõ trong lời nói của tên giám đốc sở An Ninh: Tiếng Thiên Nam nói lái: “Đầu tiên” là “tiền đâu”?
Thủ tục đầu tiên là phải nộp tiền hối lộ. Nếu ông chi tiền cho họ, họ sẽ sai công an đến canh gác. Vì ông không hiểu tiếng lóng và không hối lộ nên họ sai người đến phá hoại cho bỏ ghét. Đó là đường lối mới , phong cách mới, và nét đặc thù mới của văn hóaThiên Nam ngày nay sau một thời gian theo chủ nghĩa Đại đồng!
(Sơn TrungSON TRUNG TRUYEN KY- MÁI TRUỜNG PHƯỢNG ĐỎ)
http://son-trung.blogspot.com/
===
Phần lớn truyện ngắn của Sơn Trung là dựa trên sự thật lịch sử của đất nước Việt Nam, truyện Hội hoa Anh Đào trên đây cũng vậy.
XIN XEM THÊM CAC HÌNH ẢNH CỦA CÂU CHUYỆN TƯƠNG TỰ XẢY RA ĐẦU THÁNG 1-2009 TẠI HA NOI Ơ CÁC ĐIA CHỈ SAU :
http://www.rfa.org/vietnamese/
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/
http://www.voanews.com/vietnamese/
From: http://us.mc354.mail.yahoo.com/mc/compose?to=kimtoan35@yahoo.com <http://us.mc354.mail.yahoo.com/mc/compose?to=kimtoan35@yahoo.com>
Một độc giả đã gửi e mail như sau:
Subject:
Nhân dân ta dự lễ hội Hoa Anh Đào !
Thua quy vi.
Anh Dam Thao co gui cho quy vi link you tube duoi day :"Le hoi hoa Anh Dao/ Hanoi/2009".
Cau chuyen nhu the nay. Nha cam quyen CS mo hoi hoa Anh Dao tai Hanoi tu ngay 1 den 5 thang 1 nam 2009.Le hoi duoc chuan bi rat cong phu, nhung chi sau khi khai mac, thanh nien Ha Thanh (Dat nghin nam van vat hay noi cach khac Hanoi la cai noi van hoa cua ca nuoc) da pha sach.Khong phai vi phan doi nha cam quyen ma vi thieu y thuc cong dan. Day khong phai la lan dau co su kien dang buon xay ra. Nam 2008, nguoi Nhat da dem hoa Anh dao den trung bay trong le hoi tai Hanoi, cung bi pha nat truoc mat nhung nguoi Nhat. Ho da ngao ngan lac dau.Xin quy vi mo link duoi day se thay ro hon
:http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/flower-festival-in hanoi-a cultural disappointment-01082009125325.html . tuc la dai A Chau Tu Do (RFA).
Nen doc cho biet . Nhung trieu chung bao dong cho tuong lai cua dan toc. Mot nen giao duc khong chu trong y thuc dao duc, nhan ban...ChÚ :From: Thao T Dam <http://us.mc354.mail.yahoo.com/mc/compose?to=thaodam@yahoo.com>Subject: Nhân dân ta dự lễ hội Hoa Anh Đào !To:http://www.youtube.com/watch?v=3IdolO05M9I&eurl=http://video.rfvn.com/?p=5767
===
Sơn Trung chú thích về tài liệu và hình ảnh về lễ hội hoa anh đào tháng 4- 2008:
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Cache/Image/805/253805.jpg
http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200804/original/images1531207_anh-dao.jpg
http://vtc.vn/newsimage/original/vtc_107321_adao1.jpg
http://www.tin247.com/vnexpress/080406174502-479-660.jpg
http://www.laodong.com.vn/Home/Le-hoi-hoa-Anh-dao-tham-troi-Ha-Noi/20074/31146.laodong
*
Sau đây là ý kiến của đồng bào trong nước về lễ hội Hoa Anh Đào ở Hà Nội tháng 4 năm 2008 qua các báo chí:
Lễ hội hoa anh đào ở Việt Nam
300 cành hoa anh đào tươi chuyển từ Nhật Bản sẽ được dựng thành 3 cây lớn trong lễ hội hoa anh đào, tổ chức tại Trung tâm Triển lãm VN (Hà Nội) ngày 6/4.
Tại lễ hội, công chúng sẽ được tham dự nhiều hoạt động mang đậm dấu ấn văn hoá truyền thống Nhật Bản: giới thiệu ẩm thực, chơi tung bóng Kendama, ném vòng Wanage, trình diễn kimono, trình diễn các môn võ Nhật Bản...
Ban tổ chức còn mang tới lễ hội 300 lồng đèn cá chép, biểu tượng cho may mắn, sức khoẻ, hạnh phúc...
Những cành đào tươi được chuyển bằng máy bay sang Việt Nam vào lễ hội hoa anh đào năm 2007. Ảnh: Nguyễn Hưng.
Đặc biệt, 2 đội múa tới từ Tokyo và Harajuku (Nhật Bản) và 4 đoàn của Việt Nam sẽ trình diễn màn múa dân gian nổi tiếng Yosakoi. Hoạt động này do hai hội giao lưu văn hoá Nhật - Việt và Việt - Nhật phối hợp tổ chức nhân kỷ niệm 35 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Lễ hội hoa anh đào được tổ chức ở nhiều nước trên thế giới như Hàn Quốc, Mỹ... Lần đầu tiên, lễ hội hoa anh đào diễn ra ở Việt Nam vào năm 2007, thu hút rất nhiều các bạn trẻ tham dự.
Anh Thư
http://www.vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2008/04/3BA00F67/
"T tham gia lễ hội từ A->Z, lại học ở Núi Trúc, thấy các thầy cô chu đáo và bỏ công sức ra chuẩn bị cho lễ hội nhiều như thế nào, t càng thấy xấu hổ và xót xa khi những cành anh đào bị bẻ. Không biết các thầy cô sẽ nghĩ gì khi bọn t quay lại lớp học nữa. Buồn thay cho thanh niên Việt.
Lâm Thanh - - jacky_alone_1988@yahoo.com
Các bạn có thấy ảnh cuối cùng không. Người ta mang từ Nhật sang có vài cành anh đào để giới thiệu với chúng ta. Thế mà các teen của Việt Nam lại thi nhau bẻ, nói thực là rất xấu hổ với mấy thầy cô giáo người Nhật
http://images.google.com/imgres?imgurl=http://www.hoahoctro.vn/upload/20080406/Sakura%25202/le%2520hoi%2520hoa%2520anh%2520dao%2520031.jpg&imgrefurl=http://www.hoahoctro.vn/tin247/13877.hht&usg=__NbR82qwyF15r0qlOgjXIAkYeXlo=&h=300&w=400&sz=78&hl=en&start=1&tbnid=MBNd4LctPD3n4M:&tbnh=93&tbnw=124&prev=/images%3Fq%3Dhoi%2Bhoa%2Banh%2Bdao%26hl%3Den
"Nhưng màn "ấn tượng" nhất của lễ hội này không dừng lại ở đó. Phải nói là "ấn tượng đến kinh hoàng" mới đúng. Đó là khi những người VN "quả cảm" nhằm lúc bảo vệ lơ là, xông vào tàn phá không thương tiếc những cây hoa anh đào, thật không tha-giả không thương. Họ thi nhau vặt, bẻ những cành anh đào yếu ớt. Cây anh đào trắng đẹp nhất trong 3 cây thật-cũng được bảo vệ kĩ càng nhất đã nhanh chóng trở nên trơ trụi. Còn những cây giả thì cũng bị xâu xé, nhổ sạch từ gốc đến ngọn."
http://images.google.com/imgres?imgurl=http://i158.photobucket.com/albums/t102/petit3lf/DSCN5399.jpg&imgrefurl=http://blog.360.yahoo.com/blog-UdmdI6ohfrLpTjzq2uon1g--%3Fcq%3D1%26p%3D366&usg=__qDV8ETJFv2coce-BknG2dG1o7wk=&h=1024&w=768&sz=193&hl=en&start=15&tbnid=WX-2AeXCjceGeM:&tbnh=150&tbnw=113&prev=/images%3Fq%3Dhoi%2Bhoa%2Banh%2Bdao%26hl%3Den
Tuổi trẻ, ừ ai chẳng biết tuổi trẻ phải yêng hùng, phải cá tính, phải làm những cái gì đó bất quy tắc, phải thể hiện mình. Nhưng mà thể hiện nhưng nào để vẫn còn là người có văn hóa, biết trân trọng cái đẹp.Lễ hội hoa tưởng chừng là một sự thể hiện của một nét văn hóa mới nhưng vô tình lại trở thành nơi thể hiện rõ nhất sư thiếu hụt về ý thức công cộng của chúng ta. Nếu lễ hội hoa tết và lễ hội hoa anh đào chỉ là một bằng chứng rõ nhất về sự thiếu hụt ý thức chung, còn bao nhiêu biểu hiện của sự thiếu hụt ý thức nữa mà chúng ta đã, đang và sẽ vô tư mắc phải
http://images.google.com/imgres?imgurl=http://images7.dantri.com.vn/Uploaded/duykhanh/anhdao/DSC02240.gif&imgrefurl=http://vatlysupham.hnue.edu.vn/viewtopic.php%3Ff%3D20%26t%3D5968&usg=__f4yCVaHMvgvNWqgKnypp87_vmf8=&h=263&w=350&sz=64&hl=en&start=37&tbnid=_gFndAV09_Rq9M:&tbnh=90&tbnw=120&prev=/images%3Fq%3Dhoi%2Bhoa%2Banh%2Bdao%26start%3D20%26ndsp%3D20%26hl%3Den%26sa%3DN
"Vui thì đã rõ: hơn một vạn người, chủ yếu là bạn trẻ, đến với lễ hội - chứng tỏ giới trẻ VN không thờ ơ với những sự kiện văn hóa và mang tinh thần học hỏi, hội nhập. Buồn vì một số bạn dự lễ hội mà có nhiều thái độ ứng xử không hiểu nổi nơi công cộng!" - một thành viên ban tổ chức lắc đầu.
Ban tổ chức lễ hội đã mở hết các cánh cổng để khách vào. Tuy nhiên, nhiều bạn trẻ công kênh nhau bật tường rào để vào trong trước những ánh mắt ngỡ ngàng của nhiều người Nhật đang xếp hàng vào cổng cạnh đó. Hai thiếu nữ Nhật với trang phục kimono sợ đến phát run lên nép mình vào hàng rào khi có bạn trẻ cười sỗ sàng: "Đẹp quá, cho đây sờ thử một cái!".Một đôi tay ngọc ngà hăm hở bẻ hoa -
Ban tổ chức đã bố trí các gian hàng trưng bày và bán các loại thức ăn nhanh, ăn nhẹ ở hai phía sảnh lễ hội. Nhưng chưa đến 13g, toàn bộ hai bên sảnh ngập rác, trong khi các thùng rác được bố trí hầu như trống rỗng!
Khoảng 15g, khi lễ rước kiệu Yosakoi từ trung tâm tiếng Nhật trên phố Núi Trúc tới khu vực Trung tâm triển lãm Giảng Võ chưa dứt thì khá đông bạn trẻ cả nam lẫn nữ ào ạt, xô đẩy nhau tới ba cây hoa anh đào thật (mà nhiều nghệ nhân đã mất nhiều thời gian để ghép từ 300 cành hoa) tranh nhau... bứt hoa bẻ cành! Trong chớp nhoáng, những cây hoa anh đào bị "tiêu diệt" gọn. Bảy cây hoa anh đào giả, hoa làm bằng lụa cùng với đèn lồng được ban tổ chức bố trí các góc sân cũng bị bẻ trụi. Thậm chí những dàn lưới treo lơ lửng hoa anh đào cũng bị nhiều bạn kiệu nhau lên "thanh toán" nốt!"Đó không chỉ là một hành động đáng xấu hổ mà còn làm bạn bè quốc tế nhìn và nghĩ khác về con người Việt Nam".(Nguyễn Tất Dũng, SV Trường ĐH Kiến trúc)
" Nếu các hành động tương tự của các bạn trẻ cứ tiếp diễn, chắc không chỉ Nhật Bản mà không ít các nước khác sẽ ngần ngại khi dự định tổ chức lễ hội ở VN".(Nguyễn Hồng Nhung, HS Trường THPT Nguyễn Huệ - Hà Đông, Hà Tây)
Hành động đáng xấu hổ. Ngay tại lễ hội, nhiều bạn trẻ chứng kiến đã có một cảm giác chung: "Đáng xấu hổ với những người bạn Nhật"!Đưa cháu gái đi dự lễ hội, bác Hà Thu Anh, khu tập thể Ngọc Khánh (Hà Nội), luôn để mắt trông chừng và dặn cô cháu gái 15 tuổi: "Không được bứt một cánh hoa anh đào!". Khi chứng kiến cảnh "tàn phá” vào cuối buổi chiều, bác Thu Anh lắc đầu ngán ngẩm: "Thật đáng xấu hổ!" .
Khi chứng kiến cảnh các bạn trẻ VN tranh giành nhau bứt hoa bẻ cành, cô giáo Iurumi khá ngỡ ngàng hỏi các học trò VN của mình: "Như vậy là sao?". Học trò của cô không biết trả lời thế nào. Cô giáo Iurumi lắc đầu: "Ở Nhật, các bạn trẻ đều rất tôn trọng văn hóa công cộng và vì lợi ích chung".
TRẦN ĐÌNH TÚ
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=251482&ChannelID=7
Thật buồn khi người dân Thủ đô ta lại có những việc làm không hay như vậy. Vẫn biết là hoa anh đào đẹp thật và biết rằng đại đa số người dân ta đâu có nhiều dịp được sang tận nơi sản sinh ra loài hoa này vậy nên được tận mục sở thị này đã làm các bạn thoả mãn một cách thái quá. Hoa chỉ đẹp khi chúng ta biết cách thưởng thức nó theo một ý nghĩa văn hoá. Không chỉ cho chính chúng ta mà còn là nét đẹp của văn hoá Việt Nam trong con mắt của bạn bè quốc tế. Các thiếu nữ ư? Chính họ đã là loài hoa đẹp của tạo hoá rồi. Vậy nếu như thế nào khi có ai vô tình bẻ mất cánh tay mềm mại của bạn giống như việc mà các bạn đang làm với loài hoa đẹp kia? Đặng Tiến Năm, Vũng Tàu, email:dangtiennamvt_1982@...
Em là người tận mắt chứng kiến cảnh người ta tàn phá cây đào (phía trái sân khấu) không thương tiếc
Em là một người đã tham gia trực tiếp lễ hội hoa đào, bạn em cũng học tiếng Nhật ở trung tâm núi Trúc. Em thấy đó là một lễ hội quá tuyệt vời, tuy hơi chen lấn và mệt một chút, nhưng rát vui và bổ ích, em tin rằng nếu có một lễ hội như thế nữa, em cũng sẽ tham gia. Em cũng là người tận mắt chứng kiến cảnh người ta tàn phá cây đào (phía trái sân khấu) không thương tiếc. Khi các bạn Nhật Bản đang biểu diễn một điệu múa truyền thống rất đẹp mà không tỏ ra mệt mỏi, thì có những thanh niên ngang nhiên trèo lên cây đào bẻ cành ném xuống, chỉ cần một người dám là tất cả đều dám lấy một cành làm kỷ niệm cho mình. Thế mà, khi có người hét lên thông báo, thì các bác bảo vệ cũng chỉ đứng nhìn, ngao ngán... Trong phút chốc, em không chỉ thấy tiếc nuối, mà còn căm phẫn hết mức, ức chế vô cùng... Không chỉ thế, ngay cả học sinh đang mặc đồng phục cũng tham gia, em đã nhắc và bảo không nên làm vậy nhưng không ai nghe, em cũng chẳng biết làm gì, rất chán...
Chương trình đáng lẽ kéo dài đến 6h30 nhưng sau đó có nhiều xích mích nên phải hoãn lúc 6h, bạn em kể phía Nhật Bản họ rất buồn và bức xúc. Phải chăng chúng ta đã coi thường văn hoá của họ, chúng ta đã coi thường thành ý của người ta, chúng ta có dám mong một lễ hội như thế năm sau nữa không? Em thấy buồn quá, thật là "con sâu làm rầu nồi canh", phải làm sao để thế hệ sau biết nghĩ nhiều hơn và ý thức cao hơn?Trịnh Tùng Anh THPT Marie-Curie-HN
Đọc bài báo này tôi cảm thấy xấu hổ thay!. Tại sao mọi người có thể hành động như vậy. Dù sao cũng là "người Hà Nội thanh lịch" mà, nhất là các cô gái "xinh đẹp" thế. Bạn bè quốc tế sẽ nghĩ gì về chúng ta đây. Thật đáng buồn. Trần Tuấn Minh, Hà Nội, email: tr.tuanminh@...
Đây là một hành vi vô cùng thiếu văn hóa . Những người góp phần tham gia vào lễ hội như chúng tôi thấy vô cùng xấu hổ vì hành động này của một số ít người, thậm chí có bạn bẻ cả 1 cành to, cả đào thật và đào giả cũng không tha, lại còn cười nói vui vẻ như mình vừa làm được một việc tốt. Mong người Việt chúng ta hãy nâng cao ý thức và tinh thần trách nhiệm hơn nữa. Nguyễn Thị Nga Linh, email: nguyenngalinh@...
Các bạn có bao giờ ý thức được công việc của mình làm không? Có cảm thấy xấu hổ không? Nếu bạn đang sống ở nước ngoài thì bạn sẽ giải thích thế nào cho người nước ngoài hiểu về hành động của các bạn? Ý thức của những người như vậy cực kỳ kém mặc dù đang sống ở Thủ đô. Trước khi làm một việc gì, mong các bạn tự ý thức được hành động của mình. Nguyễn Danh Thắng, Nha Trang, email: ndt_lucky2003@...Có thể nói, đây là sự tiêu biểu cho sự vô ý thức, sự ích kỉ (muốn đưa cái đẹp về nhà riêng của mình)... của một bộ phận không nhỏ trong chúng ta. Ngay ở Hà Nội nghìn năm văn hiến mà còn xảy ra chuyện này thì thật đáng phải suy nghĩ. Mong mọi người kịp thời suy nghĩ để không tái diễn! Long, HCM, email: lytieulong98@...
Phải xem lại ý thức của những người đã hái hoa. Mọi người đều biết rằng hoa Anh đào là biểu tượng của nước Nhật. Ai đã từng sống và học tập tại Nhật mới biết sự trân trọng của người Nhật với loài hoa này. Hiện đang là mùa anh đào ở Nhật. Đây là một hình ảnh không đẹp về văn hoá. Nguyễn Vũ Trung, Hà Nội
Ý thức của những người "vặt hoa" thật là kém, thật đáng buồn. Với cách xử sự thiếu lịch sự, thiếu hiểu biết và ích kỉ như thế này thì liệu có ai muốn mang hoa sang nước ta một lần nữa không. Liên hệ sang giao thông Việt Nam thì ý thức này chính là nguyên nhân gây ra ùn tắc giao thông ở Việt Nam. Để thay đổi ý thức này cần phải giáo dục tốt cho thế hệ trẻ và có hình thức xử phạt đủ mạnh mới mong làm thay đổi tình trạng này. Email: tuananhpy98@...http://vietnamnet.vn/bandocviet/2008/04/777147/
TRẦN BÌNH NAM * XUÂN KỶ SỬU (2009) NHỚ TẾT MẬU THÂN (1968)
Từ Xuân Kỷ Sửu 2009 nhìn về:Những điều chưa giải mã trong trận Mậu Thân 1968
Trần Bình Nam
Đến Xuân Kỷ Sửu (2009) này là 41 năm sau trận Mậu Thân 1968, trận đánh làm chuyển hướng cuộc chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên nhiều câu hỏi vẫn còn tồn tại đối với các nhà nghiên cứu. Cái kết quả kỳ lạ của nó là phía cộng sản Bắc việt thua trên chiến trường nhưng đạt được kết quả chính trị và tâm lý ngoài dự liệu của họ. Tướng Võ Nguyên Giáp, người hoạch định và chỉ huy cuộc tổng tấn công không phải là người nguyên thủy chủ trương cần có cuộc tấn công.Cuối năm 1965 khi Giáp đưa các sư đoàn thiện chiện của Bắc Việt thử lửa với sư đoàn kỵ binh không vận của Hoa Kỳ (một sư đoàn di chuyển hoàn toàn bằng trực thăng) và cuối cùng đánh không lại phải chạy thoát thân sang bên kia biên giới Cam bốt, ông biết quân đội Bắc việt không thể đánh trực diện với quân đội Hoa Kỳ. Theo ông Giáp cuộc chiến đấu để chiếm miền Nam chỉ có thể thực hiện bằng chiến tranh hao mòn cho đến khi Hoa Kỳ mệt mỏi. Nhưng bộ ba Lê Duẫn, Trường Chinh và Nguyễn Chí Thanh (đại tướng ngang cấp với Võ Nguyên Giáp) cho rằng cần đánh mạnh đánh mau và đánh một cách liều lĩnh mới hy vọng chuyển đổi thế cờ.Để giải quyết sự bất đồng ý kiến giữa các đàn em thân tín, tháng Tư năm 1967 ông Hồ Chí Minh triệu tập hội nghị Trung ương đảng 13. Hội nghị cân nhắc hai ý kiến là đánh hao mòn của tướng Võ Nguyên Giáp hay đánh chớp nhoáng để chiếm thời cơ .
Với sự ủng hộ của Lê Duẫn, Trường Chinh và Nguyễn Chí Thanh, hội nghị thông qua nghị quyết 13 chuẩn bị đánh mạnh đánh mau để chiếm miền Nam kết thúc chiến tranh. Nghị quyết 13 là lệnh căn bản của trận Mậu Thân 1968 còn gọi là cuộc “Tổng Công Kích, Tổng Khởi Nghĩa”Cho đến nay Hoa Kỳ cũng chưa nắm hết các sự kiện về Mậu Thân. Tháng 6 năm 1997 trong chuyến đi tìm sự thật “Những cơ hội bỏ lỡ” tại Hà Nội phái đoàn McNamara đã ghi trong danh sách nhiều câu hỏi về cuộc chiến đó, nhưng không được trả lời thỏa đáng. Cũng có thể còn nhiều dữ kiện về Mậu Thân còn nằm trong văn khố mật của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.Nhưng tuy còn bí ẩn, giới nghiên cứu cuộc chiến Việt Nam đều đồng ý rằng trận Mậu Thân đã làm thay đổi hướng của cuộc chiến Việt Nam dẫn đến chiến thắng của Hà Nội năm 1975.Trong cuộc chiến Việt Nam Hà Nội, dù được sự giúp đỡ của Nga sô và Trung quốc, không mạnh hơn Hoa Kỳ về mặt quân sự, nhưng có hai yếu tố làm thế của Hà Nội mạnh hơn. Thứ nhất Hoa Kỳ sợ Trung quốc can thiệp như ở Triều Tiên (1950-53) nên năm 1965 khi buộc lòng phải đổ quân đến Việt Nam vì không muốn thấy miền Nam sụp đổ, Hoa Kỳ, qua các lời tuyên bố ngoại giao không úp mở, cho phía cộng sản biết Hoa Kỳ không muốn thấy Hà Nội chiếm miền Nam, và Hoa Kỳ không có ý định lật đổ chính quyền miền Bắc, nên đối với Hà Nội nếu tung mọi nỗ lực vào miền Nam họ chỉ thắng hay hòa.Thứ hai, trong chiến lược bảo vệ miền Nam Hoa Kỳ không có kế hoạch cắt đường tiếp vận của Hà Nội từ Bắc vào Nam qua đường Lào và Cam Bốt. Những cuộc tiến quân ngắn hạn qua Cam bốt năm 1970 và Lào năm 1971 không nằm trong chiến lược ngăn chận vĩnh viển mà chỉ là những hành động ngắn hạn để giải quyết những vấn đề có tính cách chiến thuật. Cuộc hành quân phối hợp giữa quân lực Mỹ và quân đội miền Nam đánh qua Cam bốt tháng 4 năm 1970 cốt phá hủy hậu cứ của quân đội Bắc Việt. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 năm 1971 qua Lào để chận đường mòn Hồ Chí Minh và để trắc nghiệm chương trình Việt Nam hóa chiến tranh.
Không gì làm các nhà lãnh đạo cộng sản yên tâm hơn khi nghe tổng thống Johnson tuyên bố: “Chúng ta không có ý tiêu diệt Bắc Việt. Chúng ta không có ý thay đổi chính quyền tại đó. Chúng ta không có định thiết lập căn cứ quân sự vĩnh viễn tại miền Nam. Chúng ta đưa quân đến Nam Việt Nam cốt để thuyết phục Bắc Việt nên chấm dứt xâm lăng các nước lân bang, và để chứng tỏ cho Hà Nội biết rằng chiến tranh du kích do nước này gây ra chống nước kia sẽ không thể có kết quả. Chúng ta cần cho Bắc Việt biết giá xâm lăng của họ sẽ rất cao để họ chọn lựa giữa thương thuyết hay đơn phương chấm dứt cuộc xâm lăng.” (Diễn văn của tổng thống Johnson đọc trước American Alumni Council ngày 12-7-66).Theo Henry Kissinger (Diplomacy, Easton Press, 1994: Vietnam on the Road to Despair, trang 660) trên nguyên tắc có hai chiến lược để thắng một cuộc chiến tranh du kích:
Thứ nhất, bảo đảm an ninh cho dân chúng, không cho địch tổ chức nhân dân bằng tuyên truyền và khủng bố để thành lập một chính quyền.
Thứ hai, là tấn công vào hậu phương và đường tiếp vận của địch, trong trường hợp Việt Nam có nghĩa mở rộng chiến tranh qua Lào, Cam Bốt và nếu cần đánh ra Bắc Việt.Hoa Kỳ áp dụng chiến lược thứ hai nhưng chỉ áp dụng nửa vời bằng oanh tạc. Tổng thống Johnson không muốn Trung quốc cảm thấy bị đe dọa, không muốn cuộc chiến Việt Nam làm quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết căng thẳng và cũng không muốn chiến tranh làm hỏng chương trình Đại Xã Hội (Great Society) của ông trong nước. Hoa Kỳ giới hạn chiến tranh bằng bộ binh trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam trong khi Bắc Việt xem Đông Dương là một chiến trường toàn bộ.Nhìn lại, cơ quan CIA và các chính trị gia Hoa Kỳ trong lãnh đạo chiến tranh Việt Nam đã không hiểu được Trung quốc nghĩ gì. Do tranh chấp với Liên bang Xô viết Trung quốc không muốn thấy Bắc Việt toàn thắng tại Việt Nam nên Trung quốc sẽ không can thiệp nếu Hoa Kỳ cùng với quân đội VNCH mở rộng chiến tranh bộ binh ra Bắc với bảo đảm không xâm phạm đất đai của Trung quốc. Đối với Trung quốc, nếu Bắc Việt thắng, cái gai Xô viết càng gần hơn.
Ngoài ra lịch sử quan hệ Việt-Trung cho Trung quốc thấy một nước Việt Nam thống nhất sẽ không phải là một người bạn dễ chơi. Mao Trạch Đông đã nhắn khéo Hoa Kỳ qua nhà báo Edgar Snow rằng Trung quốc không có quân đội ở nước ngoài và không có ý gây chiến với ai ngoại trừ khi lãnh thổ Trung quốc bị xâm lăng (“Interview with Mao” The New Republic, 27-2-65).Trong quyết định tung cuộc tấn công Mậu Thân Hà Nội đánh một canh bạc nguy hiểm nhưng Hà Nội biết không “thua” vì đã nắm vững các yếu tố về phía Hoa Kỳ.Vào cuối năm 1967 quân đội Hoa Kỳ không còn được dân chúng ủng hộ như trước trong vụ Maddox và tại Hoa Kỳ đã có những cuộc biểu tình chống chiến tranh.
Nhưng nói chung dân chúng Hoa Kỳ chưa quyết liệt chống chiến tranh và quốc hội Hoa Kỳ vẫn còn thống nhất trong quyết định hơn thua với khối cộng và với Hà Nội. Vì vậy, theo Bernard C. Nalty viết trong cuốn The Vietnam War (trang 183) Hà Nội cần một trận Điện Biên Phủ thứ hai để chuyển hướng dư luận dân chúng Hoa Kỳ.Không có gì chứng tỏ Hà Nội nắm chắc một trận đánh lớn vào các thành phố miền Nam sẽ làm cho dân nổi dậy lật đổ chính quyền, nhưng Hà Nội tin rằng một trận đánh tạo ra sự rối loạn và gây ra nhiều tổn thất (nhất là cho quân nhân Hoa Kỳ) sẽ thổi bùng ngọn lửa chống chiến tranh tại Hoa Kỳ .Hơn nữa lúc này Hà Nội có rất ít lựa chọn. Lợi dụng các xáo trộn chính trị tại Nam Việt Nam cuối năm 1963, Hà Nội kiểm soát gần phân nửa miền Nam vào cuối năm 1964 (Vietnam War Day by Day, John S. Bowman, trang 60). Mùa thu năm 1964, sau vụ Maddox tháng 8, Hồ Chí Minh quyết định tạo một chuyển biến cơ bản tại miền Nam trước khi Hoa Kỳ kịp can thiệp. Chính trị bộ đảng cộng sản Việt Nam gởi một sư đoàn quân chính qui Bắc Việt vào cao nguyên miền Trung định cắt đôi Nam Việt Nam từ An Khê ra Qui Nhơn. Trước viễn ảnh miền Nam sụp đổ, hay ít nhất các tỉnh phía Bắc quốc lộ 19 bị cô lập, đầu năm 1965 một trung đoàn Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên Việt Nam giữ an ninh căn cứ không quân Đà Nẵng để quân đội miền Nam rảnh tay chiến đấu. Nhưng tướng Westmoreland tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam nghĩ rằng đã quá trễ không còn thì giờ tăng quân số, huấn luyện và trang bị cho quân đội miền Nam để đánh nhau với quân đội Bắc Việt.
Lãnh đạo quân sự yếu kém của miền Nam trong trận Ấp Bắc đầu năm 1963 lại tái diễn trong trận Đồng Xoài giữa tháng 6/65 gây thiệt hại nặng cho quân đội miền Nam. Để mua thời gian tướng Westmoreland đề nghị lập một hàng rào phòng thủ phía Nam khu phi quân sự bằng 5 sư đoàn bộ binh Hoa Kỳ từ bờ biển phía Đông sang Tây cắt đôi nước Lào đến tận sông Cửu Long, nhưng tổng thống Johnson bác bỏ. Giải pháp duy nhất còn lại đối với Westmoreland là đưa vào Việt Nam ít nhất một sư đoàn bộ binh Mỹ để chận đứng kế hoạch cắt đôi Việt Nam Cộng Hòa của Bắc Việt, đồng thời tăng cường quân đội Mỹ bảo vệ các tỉnh phía Bắc, quan trọng nhất là cố đô Huế.Trong khi đó đại sứ Maxwell Taylor không muốn thấy quân đội Hoa Kỳ trực tiếp chiến đấu. Ông đề nghị dùng quân đội Hoa Kỳ phòng thủ các vùng đông dân ở ven biển để quân đội VNCH lo việc chiến đấu và bình định.Tổng thống Johnson do dự trước hai đề nghị.
Tuy nhiên sau hội nghị Honolulu tháng 4/65 do McNamara chủ tọa với các tướng lãnh tại bộ Quốc phòng và cố vấn tại Bạch Ốc với sự tham dự của tướng Westmoreland và đại sứ Maxwell Taylor, tổng thống Johnson quyết định gởi 9 tiểu đoàn đến Việt Nam và cho phép tướng Westmoreland dùng lực lượng để diệt dịch. Tuy nhiên trên mặt chính thức Hoa Kỳ tuyên bố không thay đổi nguyên tắc quân đội Hoa Kỳ chỉ làm nhiệm vụ phòng thủ (để làm vui lòng đại sứ Taylor?). Sự việc “nói một đàng làm một nẽo” này là nguyên nhân làm các phóng viên tại Việt Nam bắt đầu không tin những gì bộ tư lệnh quân sự Mỹ tại Việt Nam phổ biến, và sau trận Mậu Thân không tin cả những gì do tòa Bạch ốc hay bộ Quốc phòng Hoa Kỳ tuyên bố .
Trong khi Hoa Kỳ do dự, Hà Nội lần đầu tiên tung các đơn vị cấp tiểu đoàn đẩy mạnh các cuộc đánh phá trên toàn miền Nam, đồng thời đưa các đơn vị chính quy cấp trung đoàn (trung đoàn 33, 34 & 66) chuẩn bị cho chiến trường cao nguyên. Nhiều quân lỵ bị tiêu diệt và nhiều trại lực lượng đặc biệt dọc biên giới bị tấn công. Hoa Kỳ trả đũa bằng các dùng máy bay B-52 bỏ bom các nơi nghi ngờ quân đội cộng sản trú đóng.Nhưng tình hình càng ngày càng bất lợi, và Hoa Kỳ lại đứng trước một lựa chọn bắc buộc khác là gởi thêm quân đến Việt Nam theo đề nghị của tướng Westmoreland. Tháng 7-65 tổng thống Johnson quyết định gởi sư đoàn kị binh không vận vừa mới được thành lập cùng với nhiều đơn vị thuộc nhiều binh chủng khác nhau nâng quân số Hoa Kỳ từ 75.000 lên 125.000, và tuyên bố Hoa Kỳ sẽ gởi thêm quân đến Việt Nam nếu tình hình đòi hỏi.Với phương tiện và nhân lực mới, tướng Westmoreland vạch một kế hoạch bình định 3 điểm: thứ nhất, xây dựng hạ tầng cơ sở như phi truờng, bến tàu, và đường giao thông để chuẩn bị cho việc mở rộng chiến tranh và tạo cơ sở phát triển kinh tế miền Nam. Thứ hai, dùng quân đội Hoa Kỳ tấn công các đại đơn vị cộng sản ở cao nguyên.
Thứ ba, cầm chân quân đội Bắc Việt còn lại trên toàn miền Nam để quân đội Việt Nam Công Hòa thực hiện giai đoạn chót của cuộc bình định.Cuộc đụng độ với quân đội chính qui Bắc Việt trong thung lũng sông Ia Drang phía Tây Pleiku trong hai tháng 10 & 11/65 giữa sư đoàn kị binh không vận Hoa Kỳ và các trung đoàn chính qui 33, 34 và 66 Bắc Việt là cuộc đụng độ lớn nhất giữa quân đội Bắc Việt và Hoa Kỳ. Tại Ia Drang, lần đầu tiên máy bay chiến lược B-52 được dùng yểm trợ chiến thuật cho các đơn vị Hoa Kỳ. Sau một tuần lễ giao tranh ác liệt từ 14 đến 19/11, quân đội Bắc Việt rút qua bên kia biên giới Cam bốt. Hoa Kỳ không truy kích, chỉ oanh tạc đường mòn Hồ Chí Minh trong một chiến dịch không tập bí mật gọi là Operation Steel Tiger do tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Lào chịu trách nhiệm. Cuộc không tập bí mật Steel Tiger gồm 20.000 phi vụ phối hợp với chiến dịch không tập Bắc Việt công khai Operation Rolling Thunder gồm 55.000 phi vụ trong năm 1965 vẫn không cắt đứt nổi con đường tiếp vận của Bắc Việt. Chiến lược tưởng như chắc thắng của Westmoreland bắt đầu có vấn đề.Năm 1966 cuộc chiến tiếp tục leo thang. Tại hội nghị thượng đỉnh Honolulu tháng 2/66 giữa tổng thống Johnson và hai tướng Nguyễn Văn Thiệu (Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia - như quốc trưởng) và Nguyễn Cao Kỳ (Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương - như Thủ tướng), hai tướng Thiệu và Kỳ hứa xây dựng một chính quyền dân sự hợp hiến để thu phục nhân tâm (In the Jaws of History, Bùi Diễm, trang 162.) Trong khi đó tổng thống Johnson tăng thêm 100.000 quân, nâng tổng số lên 280.000 người, không kể 60.000 thủy thủ của hạm đội 7 yểm trợ cho cuộc không tập Bắc Việt và 35.000 quân đồn trú tại Thái Lan. Quân đội miền Nam tăng lên 750.000 người kể cả địa phương quân và cảnh sát. Bộ đội cộng sản tại miền Nam cuối năm 1966 gồm 275.000 quân gồm 45.000 quân chính qui Bắc Việt (điều trần của McNamara trước Thượng nghị viện ngày 23/1/67).
Chiến cuộc sôi động trong năm 1966 làm cán bộ hạ tầng của cộng sản bận rộn với chiến trường nên năm qua 1967 tình hình an ninh nông thôn miền Nam trở nên sáng sủa, nhất là sau khi tổng thống Johnson giao cả hai nhiệm vụ quân sự và dân sự vụ cho tướng Westmoreland, và nhất là sau cuộc bầu cử tổng thống tại miền Nam theo tinh thần bản Hiến Pháp Đệ nhị Cộng hòa được một Quốc hội Lập hiến công bố trong tháng 4/67. Tháng 9/67 tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử tổng thống cùng liên danh với tướng Nguyễn Cao kỳ đứng phó.Nhưng vào lúc tình hình miền Nam có vẻ sáng sủa thì trận Mậu Thân xẩy ra với hình ảnh chiến trường sôi động nhất là hình ảnh căn cứ Khe Sanh bị bao vây, toà đại sứ Mỹ tại Sàigon bị đột nhập, một số thành phố như Huế, Bến Tre bị đổ nát. Lần đầu tiên truyền hình mang kinh hoàng của chiến tranh đến tận từng gia đình người Mỹ và làm cho dân chúng Mỹ hoàn toàn mất tin tưởng vào một sự chiến thắng tại Nam Việt Nam như chính phủ từng tuyên bố. Tổng thống Johnson đang chuẩn bị tranh cử nhiệm kỳ 2 (tháng 11/68) và ông không đủ can đảm thấy một cuộc chiến dai dẳng trong ngày bầu cử và cá nhân ông bị thành phần chống chiến tranh bêu rếu “nướng thanh niên Mỹ” ngoài chiến trường. Ngoài ra sự tin tưởng chiến thắng của bộ tham mưu của tổng thống Johnson cũng bắt đầu lung lay, mặc dù cuối tháng 11/67 khi về Hoa Kỳ báo cáo tình hình với tổng thống tướng Westmoreland lạc quan tuyên bố Hoa Kỳ đang thắng và quân đội Mỹ có thể bắt đầu rút về từ năm 1969. Các cố vấn của tổng thống gồm bộ trưởng quốc phòng McNamara, bộ trưởng ngoại giao Dean Rusk và cố vấn an ninh quốc gia Walt Rostow thấy thắng không phải là dễ và đang nghĩ cách xuống thang cuộc chiến.Henry Kissinger cố vấn bình định cho đại sứ Cabot Lodge sau nhiều chuyến đi thăm nông thôn Việt Nam trong hai năm 1965 và 1966 về tận nông thôn cũng nghĩ Hoa Kỳ khó thắng (Diplomacy, 1994, trang 663).
Trong khi đó Hà Nội lượng định rằng nếu tiếp tục các cuộc tấn công vào quân đội Hoa Kỳ phối hợp với sự phá hoại công trình bình định nông thôn để bao vây thành thị theo sách vở không chắc sẽ thành công vì Hoa Kỳ có một khả năng vật chất to lớn. Hà Nội cần một trận thư hùng đánh thẳng vào tất cả các đô thị miền Nam để tạo điều kiện cho dân chúng miền Nam đồng loạt nổi dậy buộc quân đội Hoa Kỳ phải rút lui trước áp lực quốc tế; nếu không dư luận trong nước cũng làm sụp đổ ý chí chiến đấu của Hoa Kỳ. Quan niệm của một trận tấn công qui mô và đồng loạt vào các thành thị miền Nam nẩy mầm. Và như đã nói ở trên, Nghị quyết 13 của Trung ương đảng cộng sản Việt Nam tháng 4 năm 1967 đã đưa trận TCK-TKN lên dàn phóng.Bắt chước vua Quang Trung đánh quân Thanh bất kỳ xuất ý vào dịp Tết Kỷ Dậu năm 1789, Hà Nội vạch một kế hoạch đánh các đô thị miền Nam vào Tết Mậu Thân (30-1-68). Hằng năm vào dịp Tết Nguyên Đán có hưu chiến, quân nhân miền Nam nghỉ phép, pháo đốt gây tiếng vang là những điều kiện tốt cho một cuộc tấn công bất ngờ.Hà Nội còn cần yếu tố bất ngờ chiến lược. Tháng 7-67 Hà Nội triệu tập các đại sứ về nước. Trước khi trở lại nhiệm sở các đại sứ đều có nhiệm vụ làm cho các nước sở tại hiểu Hà Nội đang muốn thương thuyết với Hoa Kỳ. Điều kiện thương thuyết là Hoa Kỳ ngưng dội bom Bắc Việt. Hà Nội cần điều kiện tốt để chuyển người và vũ khí vào miền Nam. Mùa hè năm 1967, ông Raymond Aubrac, một người Pháp từng giúp đỡ Hồ Chí Minh khi ông ta đến Paris thương thuyết với Pháp năm 1946, lúc đó đang làm cho Cơ quan Y tế Liên hiệp quốc ngỏ ý với Hoa Kỳ qua Kissinger (hai người gặp nhau trong một hội nghị của các nhà khoa học kêu gọi giải giới vũ khí nguyên tử giữa năm 1967) sẵn sàng đi Hà Nội thuyết phục Hồ Chí Minh thương thuyết với Hoa Kỳ chấm dứt cuộc chiến.
Qua Kissinger, chính phủ Hoa Kỳ đồng ý, miễn là Raymond Aubrac không chính thức đại diện cho Hoa Kỳ. Hồ Chí Minh, qua Raymond Aubrac, nhắn rằng Hà Nội sẵn sàng thương thuyết nếu Hoa Kỳ ngưng dội bom Bắc Việt, và Hoa Kỳ có thể tiếp xúc với Mai Văn Bộ, đại diện ngoại giao của Hà Nội tại Paris. Mắc mưu Hồ Chí Minh, ngày 29-9 tổng thống Johnson tuyên bố tại Houston, Texas rằng không quân Hoa Kỳ sẽ ngưng dội bom Bắc Việt nếu việc này dẫn tới một cuộc thương thuyết hữu ích. (Johnson papers, 1968, Vol II, trang 879).Hai bên ướm lời nhưng không có hành động cụ thể. Hoa Kỳ vẫn oanh tạc Bắc Việt và Hà Nội vẫn chuyển người và chiến cụ vào Nam. Nhưng Hà Nội biết Hoa Kỳ có phương tiện tình báo để biết nên cần một kế hoạch nghi binh khác để Hoa Kỳ không thể đoán được mưu đồ chính. Giữa tháng 10/67 Bắc Việt cho uy hiếp căn cứ Cồn Thiên ở địa đầu vùng giới tuyến bằng trọng pháo và đặc công, đồng thời cho quân bao vây căn cứ Khe Sanh, và cuối năm 1967 tung nhiều cuộc tấn công cấp trung đoàn và bán sư đoàn vào Lộc Ninh (29/10 - 3/11/67) và Dak To (3/11 - 22/11/67) nằm dọc biên giới. Riêng Khe Sanh với 2 sư đoàn (304 và 325C) gồm hơn 20.000 quân Hà Nội tính rằng nếu diệt được Khe Sanh cuộc tấn công vào các thành thị miền Nam dự tính vào dịp Tết sẽ dễ thành công hơn. Nếu không, cuộc tấn công sẽ giúp che dấu ý đồ của Mậu Thân.Cứ điểm Khe Sanh cách giới tuyến phân chia Nam Bắc Việt Nam 24 km, cách biên giới Lào 10 km được lập từ năm 1962 do một lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ trú đóng.
Tháng 1-67 khi cuộc chiến lên cao độ, Thủy quân lục chiến đến thay thế đưa quân số đồn trú lên 6,000 người gồm 2 trung đoàn Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và 1 tiểu đoàn Biệt Động quân Việt Nam. Ngày 20-1-68 cộng quân ồ ạt nã trọng pháo vào căn cứ Khe Sanh và hôm sau bộ binh Bắc Việt mở các cuộc xung phong vào các cứ điểm chung quanh mở màn trận đánh Khe Sanh kéo dài 77 ngày.Trong lúc đó, nhân Tết Nguyên Đán Hà Nội tuyên bố đơn phương ngưng bắn một tuần lễ từ ngày 27/1/68 đến 3/2/68. Tại miền Bắc Hà Nội cho dân chúng ăn Tết trước một ngày nói là để dân chúng hưởng hoàn toàn những ngày Hoa Kỳ ngưng dội bom, nhưng sự thật chỉ là một kế hoạch làm lạc hướng Hoa Kỳ, đồng thời để dân chúng chuẩn bị tinh thần cho những cuộc oanh tạc mạnh mẽ hơn sau khi cộng sản mở cuộc tấn công Mậu Thân.Trong thời gian này Hoa Kỳ và Hà Nội chờ đợi lẫn nhau. Hoa Kỳ đợi Hà Nội ngưng xâm nhập để ngưng dội bom, Hà Nội chờ Hoa Kỳ ngưng dội bom để tăng cường xâm nhập.Một nghi vấn chung quanh trận Mậu Thân là Hoa Kỳ biết ý định tổng tấn công của Hà Nội đến đâu và đã thông báo cho tổng thống Thiệu đến mức độ nào? Có lẽ Hoa Kỳ biết nhiều hơn những gì tướng Westmoreland thông báo cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Có thể Hoa Kỳ muốn trắc nghiệm khả năng tình báo quân sự của VNCH và xem quân đội VNCH sẽ chống đỡ cuộc tấn công như thế nào. Có thể Hoa Kỳ muốn quân đội cộng sản xuất hiện để dùng hỏa lực tiêu diệt. Hoa Kỳ.
Trong thời gian này các sĩ quan Hoa Kỳ phục vụ tại Việt Nam đều được cảnh giác một cuộc tấn công của cộng quân vào các thành phố miền Nam trong dịp Tết, nhất là một trận đánh quy mô chiếm thành phố Huế (1), trong khi đó quân đội miền Nam vẫn được nghỉ phép và nhất là ngày 27 Tết tổng thống Thiệu ban hành quyết định bãi bỏ giới nghiêm tại Sàigòn trong 36 giờ ngưng bắn (Vietnam War Day by Day của John Bowman, trang 119), và thủ tướng Nguyễn Văn Lộc cho dân chúng tùy tình hình an ninh địa phương được đốt pháo trong 4 ngày từ 30 Tết đến hết ngày mồng 3 (Cuộc TCK-TKN của Việt cộng - Mậu Thân 1968, tài liệu Khối quân sử Phòng 5/TTM, trang 12). Ngày 30 Tết tổng thống Thiệu rời Sàigòn về quê vợ ở Mỹ Tho ăn Tết (The Vietnam War, Bernard C. Nalty, trang 185)Cũng có thể tướng Westmoreland không muốn cho báo chí Mỹ biết tình hình nghiêm trọng. Truyền thông Mỹ đang có khuynh hướng bi đát hóa tình hình tại Việt Nam. Trước đó hai tháng tại Washington, tướng Westmoreland, với sự khuyến khích của Bạch cung đã tuyên bố Hoa Kỳ sắp kết thúc cuộc chiến trong thắng lợi.Tuy nhiên tin tức tình báo vào những ngày gần Tết cho tướng Westmoreland thấy tình hình nghiêm trọng hơn đã tưởng nên ông yêu cầu tổng thống Thiệu duy trì ít nhất 50% quân số ở vị trí chiến đấu. Lệnh ngưng bắn được hủy bỏ tại các tỉnh vùng I chiến thuật và giảm từ 36 giờ xuống 24 giờ tại các nơi khác.
Nhiều tư lệnh sư đoàn do khuyến cáo của sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ thu hồi giấy nghỉ phép của sĩ quan và binh sĩ trực thuộc như hai sư đoàn chung quanh Sài gòn, một sư đoàn tại cao nguyên và sư đoàn đóng tại Huế.Trong đêm giao thừa Tết Mậu Thân (29/1 rạng ngày 30/1/68) cộng quân mở cuộc tấn công vào 8 thành phố và tỉnh lỵ thuộc vùng II và bộ tư lệnh vùng I tại Đà Nẳng, tất cả đều thuộc Quân khu 5 theo tổ chức vùng của cộng sản (TCK-TKN, Khối quân sử Phòng 5/TTM, trang 353). Dùng quân số cấp tiểu đoàn cộng sản đánh vào Nha Trang, Hội An, Ban Mê Thuộc, Qui Nhơn, Pleiku. Từ Mỹ Tho trở về Sàigòn sáng mồng 1 Tết, tổng thống Thiệu bãi bỏ lệnh ngưng bắn trên toàn quốc và ra lệnh quân nhân nghỉ phép trở về đơn vị.Đêm hôm sau, mồng 1 Tết cộng quân đánh vào 33 trên 42 thị trấn và thành phố khác của miền Nam, gồm Sài gòn, Mỹ Tho, Cần Thơ và Bến Tre, bộ tư lệnh của tướng Westmoreland, dinh Độc Lập và tòa đại sứ Mỹ. Tại dinh Độc Lập đặc công cộng sản trang phục giả quân đội miền Nam để tấn công nhưng bị đẩy lui.Tại tòa đại sứ Hoa Kỳ, 23 đặc công thuộc tiểu đoàn đặc công tinh nhuệ C-10 mặc thường phục tập trung tại một tiệm sửa xe hơi lãnh chất nỗ, súng tự động và súng chống thiết giáp rồi dùng xe đến tòa đại sứ Mỹ (Eyewitness History of the Vietnam War 1961-1975, The Associated Press, trang 101.) Toán đặc công bắn chết lính canh, dùng bộc phá đục một lỗ thủng ở vòng thành rồi chui vào bên trong. Toán Thủy quân lục chiến ở tầng cuối cùng khóa chặt cửa tử thủ. Sáng ngày, hai đại đội quân cảnh Hoa Kỳ phá tường lọt vào bên trong thanh toán từng ổ kháng cự của đặc công. Trong khi đó lính dù Hoa Kỳ từ trực thăng đổ xuống sân thượng tảo thanh từng tầng một từ trên xuống. Chín giờ sáng tiếng súng chấm dứt tại tòa đại sứ , 23 đặc công bị giết, 6 chiến sĩ Hoa kỳ tử thương (TCK-TKN, Khối quân sử Phòng 5/TTM, trang 99).
Việc đặc công chỉ lọt vào khuôn viên hay vào bên trong tòa nhà của tòa đại sứ không phải là một khác biệt quan trọng. Nhưng đối với dư luận Mỹ lại khác. Nếu Hoa Kỳ không giữ được an ninh cho tòa đại sứ của mình thì làm thế nào để giữ an ninh cho một xứ rộng hơn 160.000 cây số vuông như Westmoreland vừa báo cáo? Cuộc tấn công toàn quốc cho thấy những gì tướng Westmoreland và tòa Bạch Cung tuyên bố mấy tháng trước là tình hình đang sáng sủa thật ra chẳng sáng sủa chút nào. Trước Mậu Thân giới truyền thông nghi ngờ chính quyền nhưng nói chung dân chúng vẫn còn tin quân đội Hoa Kỳ đang chiến thắng. Sau Mậu Thân niềm tin mong manh này cũng không còn.Thật ra tướng Westmoreland không tô mầu hồng cho bức tranh chiến cuộc Việt Nam khi cuối tháng 11/67 ông nói Hoa Kỳ đang chiến thắng và tiên đoán Hoa Kỳ có thể bắt đầu rút quân năm 1969. Ông miêu tả thực trạng của lực lượng đôi bên dựa theo lối lượng định sức mạnh quân sự cổ điển.
Ông không thấy được khả năng huy động của người cộng sản trong một trận chiến tranh du kích có sự tham dự của nhân dân, mặc dù tham dự dưới áp lực của khủng bố.Cộng sản đã dùng 84.000 quân gồm lính chính qui Bắc Việt và bộ đội tại chỗ (tại các tỉnh vùng I đa số lực lượng tấn công là quân chính qui) tấn công 36 trên 44 tỉnh lỵ, 5 trên 6 thành phố, 64 trên 242 quận lỵ, 50 trụ sở hội đồng xã, 23 căn cứ và phi trường. Cộng quân lọt vào được 13 trung tâm đông dân cư nhưng đều bị đẩy lui từ 2 đến 3 ngày ngoại trừ một vài ổ kháng cự kéo dài 6 ngày tại Sàigon, và Huế 25 ngày. Trong 25 ngày tác chiến Bắc việt thiệt 45.000 quân, bị bắt 6.991 người, miền Nam thiệt 2.788 người, 8.299 bị thương, Hoa Kỳ thiệt 1,536 quân, bị thương 7.764 (The Vietnam War, Bernard C. Nalty, trang 189). Quân đội miền Nam dù chỉ có nửa quân số dưới cờ đã chiến đấu một cách anh dũng và không một đơn vị nào bỏ súng theo đối phương, cũng không có vùng nào dân chúng nổi dậy phất cờ gióng trống theo cộng sản. Tổ chức bí mật và nhân sự của Mặt trận Giải phóng miền Nam xuất hiện chuẩn bị nắm chính quyền bị lộ diện và bị vô hiệu hóa sau Mậu Thân. Sau cuộc tấn công dân chúng miền Nam ở thành thị hiểu cộng sản là gì, nhất là sau khi các mồ chôn tập thể các nạn nhân bị cộng sản giết tại Huế được phanh phui. Lệnh tổng động viên của tổng thống Thiệu sau Mậu Thân được đáp ứng và ông ta bạo dạn trang bị vũ khí cho nhân dân tự vệ.
Tuy nhiên, phóng viên tại chỗ và báo chí thấy khác.Trong đêm súng nổ tại tòa đại sứ Hoa Kỳ, phóng viên từ hai khách sạn Caravelle và Majestic kéo tới làm tin và tranh nhau loan tin du kích cộng sản đã lọt vào tòa đại sứ. Tin này làm xúc động dư luận tại Hoa Kỳ. Sáng hôm sau tướng Westmoreland đính chính rằng đặc công cộng sản chỉ vào được trong khuôn viên nhưng các phóng viên lờ đi vì họ có thói quen nghi ngờ các nguồn tin của chính quyền. Chiến trường Việt Nam là nơi lý tưởng để nổi danh nên nhiều phóng viên trẻ chưa có kinh nghiệm chiến trường lẫn lý thuyết về chiến tranh đổ đến làm tin. Họ làm phóng sự nhanh vội nhắm chuyển về Hoa Kỳ tin tức nóng hổi và hình ảnh gây xúc động. Họ làm tin với mục đích chỉ cho dân thấy những gì tòa Bạch Ốc và tướng Westmoreland tuyên bố về cuộc chiến đang thắng là một trò cười. Họ chuyển đoạn phim quay cảnh đổ nát của thành phố Bến Tre để bình luận “quân đội Hoa Kỳ phải phá nát thành phố này để cứu nó” mặc dù Bến Tre chỉ sụp đổ 25%, nhẹ hơn các thành phố Âu châu trong thế chiến thứ II. Họ loan tin kinh thành Huế sụp đổ hoàn toàn trong khi các bức thành của cố đô vẫn còn đứng vững.Tại Hoa Kỳ các nhà bình luận có uy tín thi nhau bình luận bất lợi cho Hoa Kỳ. Walter Lippman (Newsweek 11/3/68) tiên đoán Hoa Kỳ sẽ thất bại tại Việt Nam. Walter Cronkite (CBS News 27/2/68) nói nếu Hoa Kỳ leo thang chiến tranh, Hà Nội đủ khả năng đáp ứng và Hoa Kỳ sẽ đuối sức trước. Wall Street Journal vốn ủng hộ cuộc chiến Việt Nam, đổi lập trường, bình luận: “nếu chưa chuẩn bị tư tưởng, dân chúng Hoa Kỳ cần chuẩn bị chấp nhận thực tế rằng chính sách của Hoa Kỳ đã thất bại tại Việt Nam” (The Logic of the Battlefield, 23/2/68). Đài truyền hình NBC trong một chương trình đặc biệt về Việt Nam ngày 10/3/68 kết luận, “bỏ mọi chuyện khác ra ngoài, đã đến lức chúng ta phải quyết định có cần phải phá hủy Việt Nam để cứu Việt Nam không”.
Tuần báo Time viết, (The War, 15/3/68) “Năm 1968 cho chúng ta thấy một sự thật là, chiến thắng - hay ngay cả một cuộc thương thuyết thuận lợi -, không ở trong tầm tay của quốc gia mạnh nhất thế giới.” (theo Diplomacy, Henry Kissinger, page 671 và 672)Truyền thông, phụ họa với phong trào chống chiến tranh dâng cao đã lung lay tinh thần của tổng thống Johnson và đoàn cố vấn từng chủ chiến của tổng thống. Đêm 31/3/68 tổng thống Johnson tuyên bố đơn phương ngưng dội bom trên vĩ tuyến 20, không ra ứng cử tổng thống nữa, và kêu gọi Hà Nội ngồi vào bàn hội nghị. Chưa đầy 72 giờ sau Hà Nội, vì cần củng cố lực lượng đang tan nát của họ tại miền Nam tuyên bố sẵn sàng hòa đàm. Ngày 31 tháng 10, để yểm trợ cho ứng cử viên Hubert Humphrey, tổng thống Johnson ra lệnh ngưng dội bom toàn cỏi Bắc Việt. Humprey thất cử vì dân chúng Hoa Kỳ, tuy không ủng hộ cuộc chiến tranh Việt Nam như năm 1964, không muốn thấy một chính quyền Dân chủ chạy trốn do Humphrey đại diện. Theo sử gia Arthur Schlesinger viết trong cuốn “Robert Kennedy and His Times” (1978), thăm dò dư luận lúc tổng thống Johnson đọc diễn văn cho thấy 61% dân chúng Hoa Kỳ vẫn còn muốn chiến đấu, và 70% nghỉ Hoa Kỳ chưa nên chấm dứt cuộc oanh tạc Bắc Việt.Bàn về ảnh hưởng quyết định của tổng thống Johnson đến kết quả của cuộc chiến Việt Nam, Henry Kissinger, thương thuyết gia của tổng thống Nixon với Hà Nội tại Paris viết: “Đó là một quyết định có tính cách định mệnh của một tổng thống Hoa Kỳ sau thế giới đại chiến.
Nếu ông Johnson không rút lui, ông ta vẫn có thể đương đầu với cuộc chiến và đắc cử một nhiệm kỳ nữa. Cho dù ông không muốn tiếp tục ứng cử vì lý do sức khỏe ông vẫn có thể tăng áp lực đối với Hà Nội trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ để người kế nhiệm có thế mạnh thương thuyết với Hà Nội. Sau trận Mậu Thân thế quân sự của Hà Nội yếu nhiều, vì vậy nếu Hoa Kỳ tăng áp lực trong năm 1968 thế thương thuyết của Hoa Kỳ đã mạnh hơn. Vừa xuống thang chiến tranh, vừa tuyên bố không ra ứng cử tổng thống, đề nghị hòa đàm của Hoa Kỳ hoàn toàn bất lợi. Hai ứng cử viên tổng thống Richard Nixon và Hubert Humphrey tranh nhau hứa đem lại hòa bình trong danh dự nhưng chẳng có gì trong tay để bảo đảm lời hứa. Hà Nội đồng ý thương thuyết chỉ để được Hoa Kỳ ngưng dội bom để củng cố hạ tầng cơ sở chính trị miền nam bằng nhân sự Bắc Việt. Hà Nội đã không nhượng bộ tổng thống Johnson, và họ biết họ chẳng cần nhượng bộ người kế nhiệm.” (Diplomacy, Henry Kissinger, trang 672).
Hà Nội đã thắng qua Hiệp Định Paris 1973 và cuộc tấn công 55 ngày năm 1975. Hoa Kỳ rút được kinh nghiệm gì? Chưa thấy. Chỉ thấy Hoa Kỳ đã bỏ lở cơ hội thiết lập dân chủ tại Việt Nam khi khối cộng sản Nga sô sụp đổ. Và cho đến nay qua 6 đời tổng thống (Carter, Reagan, George Bush, Clinton, W. Bush, Obama) Hoa Kỳ vẫn còn lúng túng về một chính sách Việt Nam.Chuyến thăm viếng của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tháng 6/2008 đánh dấu một bước thay đổi căn bản trong quan hệ Mỹ Việt .Bản thông cáo chung kết thúc cuộc thăm viếng ghi nhận Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ “trao đổi việc mở rộng và tăng cường đối thoại giữa các quan chức cao cấp của hai nước. …. sẽ ủng hộ việc lập cơ chế đối thoại mới về chính trị-quốc phòng và chính sách nhằm tăng cường sự trao đổi thường xuyên và sâu hơn về các vấn đề chiến lược và an ninh”. Và sau cùng Hoa Kỳ “tái khẳng định sự ủng hộ của Chính phủ Hoa Kỳ đối với chủ quyền quốc gia, an ninh, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.” Hoa Kỳ đang có cơ hội tạo một thế đứng tại Việt Nam và qua đó củng cố thế chiến lược của mình tại Tây Thái Bình Dương. Nhưng cơ hội còn chờ những bước đi của chính phủ Barack Obama. Ông Obama nhiệm chức tổng thống Hoa Kỳ ngày 20/1/2009 nhất định sẽ mang lại một không khí mới trên chính trường Hoa Kỳ và thế giới, nhưng trước một khối công việc khác quan trọng hơn nhất là sự chống đỡ tình trạng suy thoái kinh tế, không chắc ông ta có đủ thì giờ để tìm ra một chính sách đúng đối với Việt Nam trước áp lực của Trung quốc . Sự việc tháng 7/2008 vừa qua hãng dầu ExxonMobil của Hoa Kỳ im lặng chấm dứt giao kèo khai thác dầu mỏ và khí đốt với công ty PetroVietnam không phải là một dấu hiệu tốt. (2)
Trần Bình Nam
binhnam@sbcglobal.nethttp://www.tranbinhnam.com/
(1) Cá nhân tôi có một bằng chứng rằng Hoa Kỳ biết khá rõ dự tính tấn công vào dịp Mậu Thân. Năm 1967 tôi đi tu nghiệp tại Trung tâm huấn luyện hải quân Hoa Kỳ tại San Diego . Cuối năm 1967 trước khi trở về Việt Nam tôi đến tham dự một buổi tiếp tân ban đêm chào đón các sĩ quan Hoa Kỳ vừa trở về sau một năm phục vụ tại Việt Nam . Tôi chuyện trò với một đại úy hải quân (rất tiếc tôi không nhớ tên) và được biết ông ta là cố vấn cho căn cứ hải quân VNCH tại Thuận An, cửa sông Hương dẫn lên Huế . Nói chuyện Huế, chuyện Tết và tôi cho ông ta biết Tết sắp tới (tức Tết Mậu Thân) tôi có dự tính đưa các con về Huế ăn Tết và để các cháu thăm ông bà nội . Ông đại úy làm tôi ngạc nhiên vô cùng khi ông khuyên tôi Tết sắp tới nghỉ đâu thì nghỉ nhưng đừng có về Huế. Tôi hỏi tại sao thì ông ta lảng sang chuyện khác. Câu chuyện chứng tỏ bộ tư lệnh Hoa Kỳ tại Việt Nam biết rõ kế hoạch tấn công trong dịp Tết Mậu Thân của cộng sản Hà nội và đã thông báo các cấp sĩ quan cố vấn. Tôi không quan tâm đến lời khuyên của ông đại úy Mỹ cho rằng chỉ là chuyện đùa vui. Tôi đã mang hai con trai về Huế ăn Tết và xuýt bỏ mạng tại đó.(2) Theo Roger Mitton trong tài liệu “China-Vietnam ties remain more sour than sweet” (Asia Sentinal Consulting 14 November 2008).
LÒNG GIAN THAM CỦA TRUNG CỘNG
Tây Tạng Kho Tàng
Trần Khải
Đối với Trung Quốc, Tây Tạng là một kho tàng khổng lồ. Không cần phải nói chuyện văn hóa làm chi, bởi vì Chính Trị Bộ Đảng Cộng Sản Trung Quốc không bận tâm gì chuyện "kho tàng phi vật thể" nói theo kiểu các nhà văn hóa UNESCO, mà thực tế Tây Tạng là kho tàng cụ thể, sờ được, đổi được ra vô số lượng tiền bạc...
Trong tình hình tài nguyên thế giới đang cạn dần, Tây Tạng đã trở thành kho tàng khổng lồ cho nhiều thế hệ khai thác.Lược sơ kho tàng này là bài viết nhan đề "Tibet: The Hidden Facts" (Tây Tạng: Những Sự Kiện Ẩn Kín) của Partha Gangopadhyay, giáo sư Đại Học Kinh Tế và Tài Chánh của viện University of Western Sydney Macarthur tại Úc Châu, đăng trên mạng gốc là Australi.to News, và được đăng lại trên Atimes ngày 29-12-2008.GS Gangopadhyay cho biết là vừa hoàn tất một công trình nghiên cứu về năng lượng, và cho thấy khả năng của Tây Tạng có thể sản xuất lượng điện 250,000 Mwe.
Cũng cần chú thích chỗ này: Một cuộc nghiên cứu của đại học MIT về năng lượng tiểu bang Nevada http://ivanpahvalley.com/id19.html cho biết một đơn vị Mwe, tức là megawatts electric, tương đương 1 triệu watts tức 1,000 kilowatts, và sản lượng địa nhiệt này (lấy từ sức nóng địa cầu, geothermal electric production) hiện nay chỉ khoảng 10,000 Mwe, và địa nhiệt điện có thể vận hành 24 giờ/ngày và 7 ngày/tuần, không bị gián đoạn như loại điện lấy từ sức gió hay từ mặt trời.Bài viết cũng cho biết rằng Bộ Tài Nguyên Trung Quốc đã loan báo các khám phá tài nguyên mới khắp Tây Tạng. Đó là kết quả nghiên cứu của chương trình bí mật dài 7 năm, dự án khảo sát tốn kém 44 triệu đô, khởi sự từ 1999. Có hơn 1,000 nhà nghiên cứu chia ra làm 24 nhóm riêng rẽ và đi khắp vùng bình nguyên Thanh Hải - Tây Tạng để vẽ bản đồ tài nguyên.Trong đó cho thấy khám phá ra 16 mỏ lớn mới gặp các chất khoáng như đồng, sắt, chì, kẽm... trị giá ước lượng 128 tỉ Mỹ Kim. Các mỏ đã biết của Tây Tạng là 126 mỏ, như thế cộng vào cho thấy cả kho tài nguyên các khoáng chất lithium, chromite, đồng, borax...Meng Xianlai, giám đốc China Geological Survey (Sở Khảo Sát Địa Chất Trung Quốc) từng than phiền rằng kinh tế TQ bị kẹt vì thiếu tài nguyên, và cứ phải nhập cảng. Khám phá mới này chắc chắn là còn hơn là trúng số độc đắc. Thế cho nên, các chuyện gọi là đối thoại với Tây Tạng về tự trị, hay bán tự trị, hay tự trị một phần, hay chỉ là tự trị văn hóa, vân vân... hẳn chỉ là chuyện ảo tưởng.Như thế, Tây Tạng bây giờ được tin là có trữ lượng 40 triệu tấn đồng - tức một phần ba tổng trữ lượng đồng TQ - 40 triệu tấn chì và kẽm, và hơn 1 tỉ tấn sắt phẩm lượng cao. Nói chỉ riêng về vỉa có tên là Nyixung đã có trữ lượng ước tính 500 triệu tấn sắt, đủ để Trung Quốc giảm lượng nhập cảng sắt tới 20%.Đó chỉ mới nói tới phần nằm dưới đất, chưa nói gì tới gỗ rừng bạt ngàn nguyên sinh.Thế đấy, làm sao mà nói chuyện hòa hợp hòa giải, hay chuyện đối thoại gì với Đức Đạt Lai Lạt Ma được, khi cả kho tàng khổng lồ thấy rõ như thế.
Nhà nước Tàu Cộng trước giờ vẫn rất là thâm độc và thù dai, chưa đưa hồng vệ binh sang Ấn Độ quậy phá Đức Đạt Lai Lạt Ma là hên lắm rồi. Nhưng cũng cần coi chừng đó, bản chất thù dai lúc nào cũng nằm sâu ẩn trong lòng người, bất kể là Tây, Tàu, Nhật, Việt, Ấn Độ... nhất là trong những người cuồng tín chính trị, thì chuyện triển lãm lá cờ Tây Tạng dưới chân giày đạp của các thanh niên Bắc Kinh cũng là chuyện bình thường.Thời xưa, các vua tranh hùng, đưa quân ra nước ngoài truy sát đối phương là chuyện bình thường. Thời nay, đã tha chết, chỉ hạ ngục, đánh cho tàn phế rồi thả ra nước ngoài, rồi sau đó cho hạ nhục các biểu tượng đối phương cũng là chuyện bình thường hơn.Huống gì là, với cả một kho tàng trên Hy Mã Lạp Sơn, xài tới bao giờ cho hết. Mới biết, sức mạnh của kho tàng. Mua được biết là bao nhiêu.
TRẦN KHẢI
TRẦN NGÂN TIÊU * OBAMA VÀ ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ MỸ
CHUYỆN NGHỊCH NHĨ - THAY ĐỔI (The Change We Can Believe)
Trần Ngân Tiêu
Sau khi ông nghị Obama đắc cử tổng thống Hoa Kỳ thì ông bạn Bob cựu chiến binh người Mỹ ở cạnh nhà tôi, vốn thuộc đảng Cộng Hoà, có vẻ cay cú cho nên mỗi khi xáp lại nói chuyện thì ông ta luôn luôn đẩy đưa với giọng mỉa mai về Obama.Dù nói chuyện về vấn đề gì thì quanh co một hồi lão Bob này cũng đưa đẩy câu chuện về vấn đề ông “tổng” gốc Phi Châu đạo Hồi này. Ông ta luôn mở đầu với câu: “I don’t know why people believed what he said” vì nó chỉ là “bulls…”. Ý Bob nói là Obama đưa châm ngôn “The Change We Can Believe” để mị những kẻ ... ngu chứ nghe nó nghịch nhĩ lắm.
Ông ta tiếp:
Thế này nhá, anh ta gốc từ Phi Châu, may mắn lớn lên ở đất Mỹ, tức là từ cái lỗ đen thùi lùi được cho leo lên miệng lỗ thì tức là “change” rồi còn gì. Thế rồi được tự do ăn học, được vào trường luật danh tiếng, cái trường mà ngày xưa anh nhọ nào ló mặt tới thì bị đá như con chó ghẻ, thế thì cũng đã “change” rồi còn gì nữa. Chưa hết ngoài cuộc sống tự do thoải mái ra anh ta lại được “change” trở thành ông nghị thế thì Obama còn đòi “change” nữa và chỉ noí “change” chứ anh ta chẳng nói “change” thành cái gì mới là tếu. Có dịp anh ta chỉ nói: Cái “change” mà chúng ta muốn có thể không đạt tới trong vòng một năm hay trong vòng một nhiệm kỳ nhưng tôi có cảm giác (I had feeling) rằng chúng ta sẽ đạt tới đó. Mẹ! Noí thế thì thằng đếch nào chẳng nói được vậy mà người ta dồn phiếu cho anh ta mới lạ chứ.Nhìn vẻ cay cú của Bob chẳng lẽ tôi nói thẳng vào mặt lão ta là Obama muốn “change” để làm “ngồi lên đầu” các anh chứ muốn làm cái gì nữa nhưng tôi lại thôi vì muốn nghe hết nỗi ấm ức của anh chàng “Yankee” này.
Thấy tôi gật gù như “thấm” lời của mình nên Bob lại tiếp:Thế rồi sau khi đắc cử chưa thấy Obama “change” ra làm sao thì đã thấy nội các của anh ta hầu hết là người của Clinton trước kia và ngay cả con mẹ Hillary Clinton nữa mới quái đản chứ. Nói xong Bob lắc đầu tỏ vẻ chán nản: “Mạt đến nơi rồi”. Tôi an ủi Bob: Này ông bạn, hãy lạc quan một chút chứ. Obama mặc dù có cái mà chúng tôi gọi “cái cười không xương nhiều đường lắt léo, mồm không cạp mồm méo làm ba ” nhưng đó là điều may mắn cho các anh lúc này đấy. Bob trợn mắt ngó tôi hỏi: Tại sao là chỉ may mắn cho chúng tôi, bộ anh không phải là công dân nước này à? Mà may mắn là may mắn làm sao?
Tôi bảo Bob rằng tôi cũng là công dân Mỹ nhưng tôi không có máu “Yankee” nên tôi đếch xót xa bằng các anh. Còn nói may mắn là vì thế này:
Ông phải nghĩ xa một chút. Trong khi dân chúng ngấy con ngựa non háu đá Cộng Hoà Bush con rồi thì bắt buộc phải chọn đảng dân chủ. Nếu đã chọn đảng dân chủ mà không chọn Obama thì phải chọn Hillary Clinton. Nhưng chọn Hillary nếu Hillary thắng John MCain rồi thì hậu qủa sẽ tồi tệ hơn nhiều. Ông thử nghĩ Hillary làm tổng thống thì có khác gì Bill Clinton làm tổng thống. Giả thử Hillary chọn Bill là ông phó thì quyền hành của Bill còn công khai hơn nữa. Bề gì thì cũng phu xướng phụ tùy mà. Nếu phu xướng phụ tùy thì sau sáu tháng một năm biết đâu Hillary theo đúng hiến pháp “bị bệnh” hay bị tai nạn, không làm việc được nữa thì Hillary nhường quyền cho anh phó Bill, thế là nước Mỹ có dịp thưởng thức thêm “Clinton Dynasty” tám năm nữa ông có muốn như thế không? Còn nữa, cũng may cho các anh và cũng may cho chính Obama, là Obama không chọn Hillary làm phó tổng thống. Vì nếu chọn thì biết đâu chẳng chóng thì chầy Obama cũng lấy vé một chiều đích thân đi thăm đấng tối cao và sau đó theo hiến pháp, Hillary sẽ kế vị tông tông rồi bổ nhiệm Bill làm phó ông bạn có hiểu không!Nghe những điều “nghịch nhĩ” như vậy Lão Bob ngó tôi như ngó một thằng khùng, nhưng sau một vài giậy hắn gật gù như những điều tôi nói cũng có lý.
Bất thình lình Bob hỏi:- Anh nghĩ là họ dám làm như thế à?Tôi cười vào mũi Bob, bảo: Tại sao không? Xưa nay từ Đông qua Tây, khi say mê quyền hành thì cái gì mà người ta chẳng làm. Ông không thấy Hillary khi vận động bầu cử đã chơi Obama sát ván nhưng sau đó toe toét nâng bi niếm sạch những gì đã nhổ ra trước đó chứng tỏ là họ say mê quyền hành rất mực. Bill Clinton cũng chẳng tốt gì, nếu chỉ được làm phó cho Hillary thôi thì biết đâu lão ta không cho Hillary đi “vùng năm chiến thuật” để…cho đỡ vướng mắt.
Bob bỉu môi noí rằng tôi có ý nghĩ điên khùng nên tôi hỏi Bob: Ông có biết có bao nhiêu bạn bè, hoặc người có dính dáng làm ăn với gia đình Clinton đã đi tàu xuốt trong thời gian Bill ngự trong nhà trắng không? Trên chín mươi người.Theo mạng lưới “Clinton Body Count” như Ether Zone Online, thì những người này hoặc là có làm ăn liên hệ, hoặc có thể là nhân chứng cung cấp tài liệu về sự làm ăn của gia đình Clinton, thì bằng hình thức này hay khác đã chết một cách rất đáng ngờ như tự tử, bị bắn, bị cướp, bị tai nạn lưu thông v.v.
Việc rõ nhất là Vincent Foster, phụ tá cố vấn tại dinh tổng thống và cũng là bạn thân lâu năm của Bill Clinton, được “thấy” ngày 20-7-1993 nằm chết thẳng cẳng tại văn phòng vì một phát đạn vào miệng. Báo cáo là tự tử thế là xong. Jon Parnel Walker, điều tra viên của cơ quan RTC về sự liên hệ giữa vụ Whitewater và Madison S&L bankruptcy, chết vì rơi từ thượng tầng của cao ốc Lincoln Towers xuống đất. Đại khái còn có hai ba người bị sát hại vì có thể là nhân chứng trong vụ “Drug Trafficking” ở Mena Arkansas. Có bẩy người bị bắn chết hay bị xe đụng chết, trong đó có cả phóng viên, luật sư, vì họ có thể cung cấp tin tức cho vụ điều tra về công ty INSLAW. Có ít nhất năm người bị bắn chết hay bị tai nạn hi hữu hoặc tự tử vì có liên hệ hay là nhân chứng vụ Whitewater.Có một vài cái chết rất hi hữu và đáng ngờ như Ed Willey, vận động viên gây qũy ứng cử cho Bill Clinton, chết vì tai nạn bởi chính súng của mình. Cùng ngày vợ của Ed là Kathleen bị “sexually assaulted “tại dinh tổng thống bởi Bill.
Rồi Kathy Furguson, có tài liệu về vụ Bill Clinton sách nhiễu tình dục Paula Jone, khi không chị này tự tử chết ngày11-5-1994. Bill Shelton, chồng của Kathy, cũng tự tử tại mồ vợ ngày 12-6-1994 với phát đạn bắn từ sau ót (!). Có một cái chết rất bất nhẫn là Susan Coleman, theo tin đồn ở Arkansas thì Susan thì có lẹo tẹo tình ái vớí Bill, chết với một phát súng vào đầu khi chị ta có bầu bay tháng rưỡi… và còn vài chục mạng nữa không có thì giờ kể hết...Bob ngó tôi tỏ vẻ bán tín bán nghi nhưng tôi nghĩ trong đầu hắn đã… “dịu” đi sự đố kỵ với hiện tượng ông nhọ nhồi Obama làm tông tông rồi.
Để cho bọn Yankee kỳ thị này thấm tôi bảo Bob:Tôi nói thật cho nhà anh biết, “đồng bào” của các anh coi vậy chứ cũng còn u mê nên dễ bị lôi cuốn bởi truyền thông lắm nên quên rằng bất cứ ứng cử viên nào cũng vậy, nhọ nồi hay “honky” hứa hẹn là một chuyện còn thực hành sau khi đắc cử là một chuyện khác. Obama hứa “change” nhưng “change” từ Bush trở lại Clinton. Bush tuyên bố giảm thuế anh ta cũng tuyên bố giảm thuế nhưng mai mốt cũng phải tăng thuế vì nếu không tăng thì lấy đếch gì mà xài. Khi còn vận động anh ta tuyên bố nếu đắc cử anh ta sẽ “rút ngay” quân Mỹ khỏi Iraq nhưng đếch nói “rút” như thế nào. Sau khi đắc cử Obama lại đưa ra lịch trình 18 tháng rút quân khỏi Iraq y trang như của tổng Bush vậy.
Anh biết rại sao không? Bởi vì Obama có đi lính ngày nào đâu nên tuyên bố ẩu chứ anh ta đâu biết rằng “rút” là vấn đề nhức đầu nhất cho những cấp chỉ huy chiến trường. Theo đà nói cho sướng miệng Obama tuyên bố sẽ tạo thêm ra được hai triệu rưỡi việc làm.Thấy Bob nhìn tôi ngơ ngác, tôi bảo Bob rằng các anh u mê tới mức không nhìn thấy cái “xạo” ở đây là với tình trạng thất nghiệp hiện nay, các hãng xưởng thi nhau đóng cửa hay phá sản thì rút gần nửa triệu quân về ngay tức khắc (kiều Obama và Hillary) thì công việc đâu cho họ làm. Công việc cũ mất thì phải lãnh tiền thất nghiệp, trợ cấp xã hội và như vậy thì lại càng thâm thủng ngân qũy và các anh cứ è cổ ra mà đóng thuế hì hì…
Lão Bob coi bộ không kiếm được lý gì để phản bác cái suy luận nửa thực nửa giả tưởng của tôi nhưng lão vẫn bỉu môi nói: “Mẹ! Anh nói cứ như là một lý thuyết gia chính trị ấy mà sao giờ anh ở đây lãnh tiền thất nghiệp?”. Nghe anh ta hỏi xỏ lá như vậy tôi mỉm cười bảo: Người Á Châu chúng tớ có câu “Anh hùng mạt vận” nên “Dục bất tòng tâm” vả lại con người ta còn phải có “đất” nữa anh hiểu không?
Và để trả miếng tôi bảo Bob:Anh Bob à. Anh có biết rằng bọn chính trị cầm quyền của các anh khi nhả ra để Obama làm tông tông không phải họ ngu đâu mà bọn con buôn này khôn thấy mẹ đấy. Anh phải biết bọn con buôn chính trị khôn nhưng rất hèn. Họ chơi trên xương máu của đồng loại, họ không cần đến hai chữ “danh dự” hay tín nghĩa mà chỉ nghĩ đến chữ “lợi”. Anh thử nghĩ sau khi để Bush con tuyên chiến với quân khủng bố, hiều ngầm là bọn Hồi giáo cực đoạn, đã tạo ra mối thù truyền kiếp rồi hiện giờ lại xa lầy ở Iraq, nuốt thì mắc họng mà nhả thì cũng chẩy máy mồm mà còn ê chề mặt mũi nên họ muốn làm hoà anh biết không. Bọn Yankee các anh có thể chi bạc tỉ ra để làm hoà nhưng có thằng nào có đủ mặt dầy mặt dạn có can đảm lãnh cái việc đi hề hề xin xí xoá này.
Thế cho nên họ chốp một thằng nhóc đạo Hồi Obama lấy ống đu đủ thổi cho nó từ một con cóc to bằng con bò rồi đầy lên làm tông tông để lãnh cái việc “xin đầu hàng” cho họ đỡ mất mặt anh hiều không!Có lẽ Obama cũng biết đây là trò xúi con nít ăn kít gà xáp nhưng từ một một thằng nhọ vô danh trở thành tông tông của thế giới tự do lỗ lã đếch gì đâu mà không dám làm.Bob trợn mắt ngỏ tôi hỏi: Anh nói đó là đầu hàng à?
Tôi cười hề hề: Đầu hàng trong danh dự mà lị. Cũng như các anh ‘rút” ra khõi Việt Nam cũng là rút ra trong “danh dự” đấy. Tôi nói thật với anh nhá, bọn Yankee các anh làm đếch gì có danh dự nhưng các anh cứ sợ hoen ố danh dự. Nghe tôi noí câu này mặt Bob tỏ vẻ khó chịu không bằng lòng chút nào, nhưng tôi noí tiếp:Anh đừng nổi nóng, đợi năm ba năm nữa anh suy nghĩ những gì tôi nói hôm nay rồi hãy nổi nóng. Bây giờ tôi chỉ gợi cho anh một ý nghĩ nhỏ như thế này. Anh thử nghĩ một nhóc nhọ nhồi vô danh mà khi tranh cử tổng thống tại sao thiên hạ đổ tiền vô ủng hộ đến năm bẩy trăm tỉ đô la đến nỗi Obama tuyên bố không cần tiền yểm trợ từ qũy bầu cử quốc gia nữa? Nơi sinh nơi đẻ của Obama thì mù mà mù mờ không báo chí nào moi móc ra cả mà lại moi cái vụ bà phó Palin của John MCain may đồ hết bao nhiều tiền.
Còn nữa, để cho con ngựa non háu đá đừng có chạy bậy hay “qua sông đấm buồi vào sóng”, nên dù chưa nhậm chức họ cũng cho Obama nếm mùi đời với cú đầu tiên là cái “xì-căn-đan” vi thống đốc Illinois rao bán cái ghế nghị sĩ cũ của Obama tạo một dư luận ngầm rằng: “Đíu mẹ, biết đâu cái chức nghị sĩ của thằng nhóc này chắc nó cũng mua chứ nó tài cán gì mà…”. Đây cũng là ngụ ý riêng cho Obama hiều rằng nếu không vâng lời dẫn dắt thì thân bại danh liệt đấy con ạ.
Chúng ông có thể bơm mày phồng thì cũng có thể chích cho mày xì xuống như tấm rẻ rách. Chưa hết, cú Do Thái tấn công Hamas là để coi Obama có chiêu thức gì giải quyết vấn đề Do Thái và Palestine. Xưa nay chưa có ông tổng nào giải quyết được xích mích giữa hai dân tộc này giờ đưa anh gốc đạo Hồi ra giải quyết coi ra sao. Có thể đây là cú thử cựa của bọn Yankee và cũng có thể là của Do Thái để họ có thái độ với Obama trong tương lại.Bob vẫn lắc đầu kêu “No, no, no.”. Ai cũng biết dân gốc Yankee lúc nào cũng cho mình là nhất còn ý tưởng của người khác, nhất là dân khác giống, thì như kit ấy nên tôi bực mình:
Ông Bob à. Mai mốt ông nhớ điều tôi noí hôm nay thế này nhá. Nếu ông tổng nhọ của các anh làm nên chuyện, tức là cái chuyện xa va hề hề với Hồi giáo thành công thì tôi không biết bọn con buôn chính trị sẽ đối xử ra sao với anh ta trong tương lai. Nhưng nếu anh ta thất bại hay ăn cháo đái bát thì may mắn được ngồi trọn một nhiệm kỳ còn không thì anh ta sẽ đi chơi với anh em tổng thống Kennedy ông hiều không? Bây giờ ông mới hiểu tại sao nội các của Obama toàn là người của “Clinton” trước kia và ông có thấy một thằng Yankee chính cống là Joe Biden đã ngồi kề Obama chờ sẵn rồi ông thấy không? Có lẽ nghe tôi nhét nhiều qúa vào đầu nên Bob xua tay:Ok! Ok!. That is enough for today. Don’t make me crazy. Rồi anh ta ù té chạy về nhà. Tôi nghĩ thầm: Mẹ! Các anh làm cả nước tôi “điên đầu khốn khổ” có ai than vãn chó gì đâu.
TRẦN NGÂN TIÊU
==
BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG
==
==
THIẾU-TƯỚNG NGUYỄN KHẮC BÌNH
Thanh Thanh Lê Xuân Nhuận
==
Một ngày vào dịp Quốc-Khánh 1-11-1974, tôi lại nhận được lệnh khẩn vào gặp chuẩn-tướng Huỳnh Thới Tây, Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương, mà không được biết lý-do hay mục-đích gì, y như lần vào trình-diện vào cuối tháng 9 năm 1973 - để đưa tôi ra Miền Trung.
Tôi vừa bước vào văn-phòng là chuẩn-tướng Tây dẫn tôi đi ngay với ông, lên xe, qua bên tòa lầu của thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia. Lên tầng trên rồi, ông mới nói nhỏ với tôi:- Thiếu-tướng Tư-Lệnh muốn gặp riêng anh.Tướng Tây đưa tôi vào gặp tướng Bình. Trong cuộc gặp này, tướng Tây chỉ đóng vai trò dự-thính và quan-sát-viên, từ đầu đến cuối không hề nói một tiếng nào.Sau khi bắt tay, mời ngồi, hỏi qua về sức khỏe và gia-đình, thiếu-tướng Bình nói chuyện với tôi:- Tôi định đưa anh ra làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế, anh nghĩ sao?
Tôi không nghĩ sao hết. Trong một thời-buổi mà giấc mơ của không biết bao nhiêu sĩ-quan cấp tá, dù là đã được biệt-phái từ Quân-Lực qua Cảnh-Lực rồi, hay là vẫn còn ở bên quân-ngũ, là được cử làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực một Tỉnh, một Thị-Xã, hoặc một Quận ở Thủ-Đô Sài-Gòn, thì tôi đã thấy chán ngấy từ lâu cái chức-vụ mà giá-trị công-chính của nó đã bị nhiều người dẹp bỏ, để chỉ mong đợi cái hệ-quả tư-tà của nó mà thôi. Có thể nói đó là một cương-vị để làm tiền; trừ một số ít chỉ tự bằng lòng với những lợi-lộc vừa-phải tự-nhiên-mà-có, còn thì đua nhau đổi trắng thay đen vơ-vét cho đầy túi tham, mà điều tệ-hại hơn hết là do đó mà dung-dưỡng tệ-nạn xã-hội, làm suy-yếu đội-ngũ Quốc-Gia, tạo kẽ hở cho đối-phương xông lên.
Tôi nghĩ đến bản-thân tôi, mà gia-đình còn ở Nha-Trang: nếu làm việc ở Đà-Nẵng như hiện nay thì tôi còn có thể ít nhất mỗi tháng một lần về Trung-Ương và nhân đó ghé thăm gia-đình, chứ đi làm việc ở các Tỉnh khác thì khó mà về Nha-Trang vì trái ngả đường; còn nếu đưa vợ+con theo thì cứ mỗi lần dời-đổi chỗ ở là một lần hao-tốn, mà đã chắc gì ở được tại một Tỉnh nào lâu đâu. Riêng đối với Huế, sau mười lăm năm dâu-bể - kể từ ngày tôi bị đày đi khỏi nó vào năm 1960 - bộ mặt đã khác hẳn rồi, tấm lòng cũng chẳng còn nguyên; bây giờ nếu tôi vẫn ở xa Huế mà giúp-đỡ Huế thì dễ, chứ ở ngay Huế thì e tôi sẽ khó lòng mà tự giúp-đỡ được ngay chính mình.
Tôi thấy rõ là các cấp chỉ-huy của tôi hiện nay, thiếu-tướng Bình và chuẩn-tướng Tây, đã dành cho tôi một lòng ưu-ái đặc-biệt, cả một đặc-ân lớn-lao. Đáng lẽ tôi nên nói một câu gì khéo-léo, để vừa chối-từ vừa tỏ lòng cám ơn. Biết bao nhiêu lần tôi đã nghe rõ các người xung quanh, dù là ở cấp Xã Ấp, ở cấp Toán Tổ, nói đến “cất-nhắc”, nói đến “chức-phận”, nào là “tri-ân”, nào là “trung-thành”. Nhưng tôi không thể sử-dụng miệng lưỡi mình trong trường-hợp này, mặc dù biết rằng một lời nói ngọt sẽ gây được nhiều thiện-cảm nơi người nghe hơn.
Tôi đáp:- Xin thiếu-tướng cho tôi ở lại Đà-Nẵng.Cả tướng Bình lẫn tướng Tây đều giữ vẻ mặt điềm-nhiên, nhưng tôi nghĩ là họ hẳn không khỏi ngạc-nhiên. Tướng Bình hỏi tôi:- Tại sao anh không thích ra Huế?- Vì tôi bị đổi đi xa, nay được trở về; gặp lại những kẻ đáng bị trừng-trị mà dung-tha họ thì không được rồi, nhưng nếu ra tay thì sẽ bị họ xem là trả thù hay trở mặt, e không trọn tiếng với đời.
Tướng Bình hỏi tiếp:
- Anh thấy nếu ở nơi khác thì dễ làm việc hơn ở Huế sao?Tôi sợ là ông hiểu lầm rằng tôi tránh né những nơi khó-khăn. Tôi không tránh né khó-khăn mà tôi chỉ muốn tránh né những nơi mà mình có thể bị dùng làm vật hy-sinh.
Tự-nhiên tôi thấy muốn nói, công-khai và trực-diện, vì đây quả là cơ-hội hiếm có, rằng: “Các ông đừng đánh giá tôi ngang hàng với đa-số cùng mang cấp-bậc và/hoặc cùng giữ chức-vụ như tôi!” - ý tôi định nói là vì tôi không gặp thời, chứ thực ra thì... Tôi bỗng kịp tự kiềm-chế, và chỉ trình-bày một cách mà tôi cho là khiêm-tốn:
- Tôi có khả-năng làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực tại bất-cứ một Tỉnh nào trên toàn-quốc, mà không thua kém bất-cứ một người nào...Tướng Bình gật đầu. Hẳn ông hiểu rõ là tôi nói thật. Nhưng có lẽ ông tưởng tôi muốn xin đi làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực tại một Tỉnh nào không có người cũ quen tôi, để dễ trừng-trị những kẻ phạm-pháp hơn chăng, nên ông hỏi tôi:- Anh nghĩ thế nào về Tỉnh Quảng-Nam?Thừa-Thiên là quê mẹ tôi; tôi đã lớn lên ở đó, tôi có ở đó rất nhiều kỷ-niệm trọn đời không quên, thế mà tôi đã chối-từ, huống gì Quảng-Nam. Tôi thấy thật khó nói lên ý-kiến của mình. Tuy thế, nhìn thấy nét mặt của tôi là ông biết ngay tôi không nhận lời.
Ông liền nói tiếp:- Tôi cho anh chọn Tỉnh nào anh thích.Đến tận nước này thì thật quá lắm. Một vị Tư-Lệnh Lực-Lượng Cảnh-Sát Toàn-Việt, đồng-thời cũng là Đặc-Ủy-Trưởng Phủ Đặc-Ủy Tình-Báo Trung-Ương, thứ-bậc gấp đôi Bộ-Trưởng, hiện có đầy-đủ quyền-hành cũng như dư-thừa thuộc-viên thân-tín để chọn bổ-nhiệm vào các chức-vụ chỉ-huy, từ ở Trung-Ương xuống đến Xã Phường, mà lại chấp-nhận cho tôi tự chọn địa-phương công-tác theo ý muốn riêng của mình! Tôi thật xúc-động trước thái-độ đó, cùng lúc cảm thấy thỏa-mãn, vì tự-ái được vuốt-ve.
Phải chăng Cấp Trên cần tôi tập-trung nỗ-lực đảm-trách an-ninh trật-tự riêng cho một Tỉnh quan-trọng, như Tỉnh Thừa-Thiên, mà tỉnh-lỵ là Thị-Xã Huế, nơi xuất-phát liên-tục của những phong-trào chống-đối Chính-Quyền Trung-Ương, và hiện nay vẫn là nơi sôi-sục chính-tình, nên cần có tôi có mặt thường-trực tại chỗ để chuyên-chú lo ổn-định nội-an; hoặc Tỉnh Quảng-Nam, là nơi bám trụ của các cơ-quan đầu-não của cả Đảng-Ủy Liên-Khu V lẫn Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu V của đối-phương, cũng là hậu-cứ tiếp-nhận lực-lượng cộng-sản từ Bắc-Việt xâm-nhập vào, bàn-đạp để chúng vừa cầm chân Quân-Đoàn I của ta, vừa tiến sâu hơn vào các tỉnh ở phía Nam, kể từ vùng đất địa-đầu chiến-lược này bên trong phòng-tuyến A-Sau và Đèo Hải-Vân, nên cần có tôi chú-tâm bảo-vệ số đông đồng-bào bị kẹt tại các Xã Ấp thuộc vùng tranh-chấp ở giữa hai bên? Nếu thế thì tại sao ông lại bảo tôi chọn Tỉnh nào khác hơn? Hay là ông định đưa người nào khác đến thay-thế tôi ở chức-vụ và hoạt-hạt hiện-thời?
Trong trường-hợp đó, tôi nên chọn một Tỉnh nào tiện đường cho tôi để dễ đi+về chăm-sóc gia-đình hiện ở Nha-Trang.
Tôi bèn hỏi lại:- Thưa thiếu-tướng, bất-cứ ở Vùng nào?Tướng Bình mỉm cười, nhận thấy tôi đã lợi-dụng câu nói của ông, trả lời:- Cứ tạm chọn ở Vùng I trước đã!Quảng-Trị, Quảng-Tín, Quảng-Ngãi, đều càng bất-tiện hơn Thừa-Thiên và Quảng-Nam. Tôi suy-nghĩ nhanh trong đầu: nếu lại từ-chối thì có thể làm cấp trên bực mình, nên tôi dựa theo câu nói của ông mà trả lời ông, vì tôi biết chắc là sẽ bị từ-chối ngay:- Nếu thiếu-tướng cho tôi đảm-trách Thị-Xã Đà-Nẵng...Và, để mở một lối thoát cho cả ông lẫn tôi, hầu chấm dứt vụ cử-nhiệm này, tôi nói thêm:- Tôi có thể kiêm-nhiệm cả Đặc-Cảnh Vùng I lẫn Cảnh-Lực Thị-Xã Đà-Nẵng, để nâng phía Sắc-Phục ở đó lên...*Thiếu-tướng Bình im-lặng một lát rồi chuyển câu chuyện qua đề-tài khác. Ông hỏi tôi:- Anh có tham-gia đảng-phái nào không?
Tôi đáp:- Tôi là người không đảng-phái.Có lẽ ông muốn hỏi xem, ngoài các đảng-phái chính-trị ra, còn có hội-đoàn, phe-nhóm hoặc nhân-vật hữu-danh hữu-quyền nào khác đỡ đầu cho tôi hay không, nên ông khéo-léo:- Hồi đó, ai giới-thiệu anh qua Phủ Đặc-Ủy?Sự-việc thật là đơn-giản, nhưng ông không nghĩ đơn-giản, và tôi cũng khó trình-bày đơn-giản. Cả một quá-trình chuyển-biến của Ngành Cảnh-Sát Công-An Quốc-Gia qua suốt gần ba thập-niên hiện lên trong đầu-óc tôi; nhưng các viên-chức dù cao-cấp nhất, dù lớn chức nhất, và già nghề nhất, cũng có mấy ai nắm vững vấn-đề? Tôi đành trả lời ngắn gọn:- Tôi được chỉ-định dự thi khả-năng chuyên-môn, trắc-nghiệm bằng máy dò-sự-nói-dối, học Khóa đầu tiên Tình-Báo Đặc-Biệt Cao-Cấp của Mỹ, rồi được biệt-phái qua Phủ Đặc-Ủy..., chứ không do sự giới-thiệu của một nhân-vật hay đoàn-thể nào.Tướng Bình lại đổi đề-tài.
Ông hỏi tôi:- Anh với Lê Văn Hảo liên-hệ thế nào?À, thì ra họ vẫn chưa biết rõ sự liên-hệ ấy. Tôi đáp:- Lê Văn Hảo là em khác mẹ của vợ tôi.Ông hỏi thêm:- Sau vụ cộng-sản tổng-tấn-công Tết Mậu-Thân 1968 thì sao?Tôi trình-bày:- Hảo theo Việt-Cộng; tôi có báo-cáo lên đại-tá Nguyễn Mâu, hồi đó là Phụ-Tá Tổng-Giám-Đốc, Trưởng Khối Cảnh-Sát Đặc-Biệt Trung-Ương; đại-tá Mâu nói rằng: “Trong một gia-đình, có thể có người này bên này, kẻ kia bên kia; nếu anh không dính-dáng gì với y thì thôi!” Thực-tế, tôi, và vợ tôi, không hề liên-lạc với anh-ta.Tôi rất ngạc-nhiên tại sao mãi đến giờ này thiếu-tướng Tư-Lệnh Cảnh-Lực mới nêu vấn-đề đó ra với tôi. Phải chăng Trung-Ương không biết chuyện đó trước khi cử tôi ra Miền Trung? Còn nếu có biết và có nghi tôi thì đâu có bổ-nhiệm tôi? Ngược lại, tuy biết mà vẫn tin tôi thì còn nhắc lại làm gì? Hay là mãi đến gần đây mới biết?
Tôi nhớ, trước đó không lâu, trong một buổi họp tại phòng-giấy của thiếu-tướng Hoàng Lạc, Phó Tư-Lệnh Quân-Khu I, nhân khi đại-tá Lê Quang Nhơn, Chánh-Sở I Quân-An, thuyết-trình về công-tác theo-dõi các quân-nhân có liên-hệ gia-đình với Việt-Cộng – các quân-nhân này có tên trong một loại hồ-sơ đặc-biệt gọi là “Hồ-Sơ Z”; cách phân-loại này về sau cũng được áp-dụng đối với cảnh-nhân - đại-tá Nhơn đã nói: “Ngay trong năm anh+em chúng tôi ngồi họp ở đây, cũng có người có hồ-sơ Z”. Năm người hiện-diện là đại-tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I; đại-tá Phạm Văn Phô, Trưởng Phòng 2 Quân-Đoàn và Quân-Khu I; trung-tá Phạm Xuân Bách, Phụ-Tá Trung-Tâm-Trưởng Phụng-Hoàng Vùng I; đại-tá Nhơn, và tôi. Họ có ám-chỉ gì tôi hay không?Hay là Trung-Ương mới biết, nhưng vì kết-quả điều-tra của phía Việt-Nam, chắc cũng giống như kết-quả đoán mò của các thuộc-viên của tôi, khác với kết-quả của phía Hoa-Kỳ, mà chính tôi đã đính-chính, nên tướng Bình mới đích-thân hỏi tôi để ông trực-tiếp quan-sát phản-ứng của tôi ra sao?Bỗng tôi giật mình. Phải chăng Cấp Trên không chỉ nghi tôi vì tôi có thân-nhân là Việt-Cộng, mà lại nghi tôi vì tôi “lý-tưởng” quá chừng: không cần phe-phái, không màng cấp-chức, không thèm lợi-lộc, mà vẫn phục-vụ tận-tụy và hữu-hiệu hơn người?
Tôi đã có nghe trung-tá Nguyễn Hữu Hải, Giám-Đốc Ngành Đặc-Cảnh Vùng II, kể lại rằng, trong một cuộc họp tại Trung Ương, chuẩn-tướng Huỳnh Thới Tây khi đề-cập đến tôi, đã khen-ngợi tôi không tiếc lời, đồng-thời lại đặt câu hỏi: “Quái! Sao thằng Nhuận nó tài đến thế!”*Ngưng một lát, thiếu-tướng Bình chuyển sang vấn-đề khác:- Anh nói tóm-tắt tình-hình ở Huế hiện nay ra sao?Tình-hình ở Huế nói riêng, và những nơi khác liên-quan đến Huế nói chung, thì tôi đã có báo-cáo lên đầy-đủ rồi. Tôi chỉ nhấn mạnh vài điểm nổi bật mà thôi:- Về phần cộng-sản thì quả trước đây chúng đã nắm được đa-số các tay “lãnh-tụ” tập-thể sinh-viên, nhất là qua vụ vu-khống “chính-quyền bắt cóc sinh-viên” vừa rồi, chúng đã tạo được ảnh-hưởng trong giới phụ-huynh sinh-viên & học-sinh, giáo-chức, và cả quần-chúng nói chung. Nhưng tôi đã lập kế-hoạch, đích-thân chỉ-đạo và yểm-trợ cho Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên sử-dụng một số biện-pháp tình-báo chuyên-môn để lật ngược lại thế cờ, làm chủ tình-hình. Hiện nay, chúng ta đã chiếm được thế thượng-phong đối với cộng-sản nội-thành rồi.
- Về phần nội-chính?- Tuy không có những tổ-chức nhỏ và nhiều như từ Đà-Nẵng trở vào, nhưng hai tổ-chức lớn thì rất đáng được Chính-Quyền quan-tâm: đó là “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” và “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”, mà cấp-thiết nhất là “Phong-Trào” này.- Anh nói về Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc trước.- “Lực-Lượng” ấy quy-tụ được hầu hết Phật-Tử là thành-phần đại-đa-số trong dân-chúng, kể cả công-chức và quân-nhân.
Ngoài Khối Ấn-Quang xuất-phát từ Miền Trung và kiểm-soát hầu hết Phật-Giáo-Đồ khắp nơi, đại-tướng Dương Văn Minh đã thu-phục được hầu hết giới tín-đồ Phật-Giáo gốc Miền Nam, và thạc-sĩ Vũ Văn Mẫu đã lôi-cuốn được hầu hết khối tín-đồ Phật-Giáo gốc Miền Bắc di-cư. Đối với quốc-tế thì đó là thành-phần thứ ba; đối với quốc-nội thì đó là tập-hợp dân-sự lớn mạnh nhất, bao gồm nhiều chính-đảng nhất; các cấp lãnh-đạo lại là nhân-vật dân-cử có quyền bất-khả xâm-phạm. Điều đáng nói là cộng-sản đã len-lỏi vào, và chính-quyền địa-phương thì không dám dòm-ngó đến, phó mặc cho Trung-Ương lo.
Tuy thế, tôi đã có người bên trong, cho nên biết trước chương-trình & nội-dung sinh-hoạt của họ, khắp Vùng.- Anh chắc-chắn không có gì đáng lo?- Vâng, nếu họ vẫn cứ tổ-chức mít-tinh tại các sân chùa, chứ không xuống đường gây xáo-trộn trật-tự chung, và nếu họ không xúi-giục quân-đội gây binh-biến gì, mà chỉ chờ-đợi đến ngày bầu-cử Tổng-Thống, vào cuối năm tới. Tính đến hôm nay, và riêng Miền Trung thì thế; còn về tương-lai, và các nơi khác thì tôi không dám đoán trước...
- Còn về “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”?Tôi tin là thiếu-tướng Bình, tuy là tín-đồ Đạo Chúa, nhưng ông sống đời công-chính theo lời Chúa dạy, sẽ rất công-bình chứ không thiên-vị Đạo nào, không bao che cho người nào, nên tôi nói thẳng cảm+nghĩ của tôi:- Chủ-đề chống tham-nhũng thì hấp-dẫn đối với mọi người, kể cả một số người mà bản-thân cũng không trong-sạch; nhưng tham-gia vào “Phong-Trào” thì hầu như là chỉ có tín-đồ Ky-Tô-Giáo; còn xuống đường thì là những phần-tử mà quyền-lợi vật-chất hoặc tinh-thần đã quá gắn liền với cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và gia-đình. Dù sao, cuộc biểu-tình của họ mà bị Cảnh-Sát (do thiếu-tá Liên Thành chỉ-huy) đàn-áp vừa rồi cũng đã gây được một tiếng vang, có lợi cho “Phong-Trào”, tức là có hại cho Chính-Quyền.
Đó là một bước dò đường. Tin-tức mới nhất cho biết là “Phong-Trào” sẽ tổ-chức xuống đường khắp nước; từ Huế, Quảng-Trị vào các Tỉnh Vùng II thì do linh-mục Nguyễn Kim Bính, cha xứ Phú Cam, khởi-xướng; tại thủ-đô Sài-Gòn và các Tỉnh Vùng III, Vùng IV thì do linh-mục Trần Hữu Thanh phát-động. Khi đó thì tình-hình khắp nước sẽ rối beng; Chính-Quyền khó kiểm-soát được dân-chúng, ngay cả các ban tổ-chức biểu-tình cũng khôn nắm vững thành-phần tham-gia, và không ai đối-phó nổi với phản-ứng của các thành-phần chống lại họ, trong khi các phương-tiện truyền-thông trong và ngoài nước tha-hồ đổ thêm dầu vào.
Tóm lại, “Phong-Trào” không chờ đến ngày bầu-cử sang năm; họ muốn Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ-chức ngay; họ muốn có một Tổng-Thống là tín-đồ Đạo Ky-Tô...- Tổng-Thống (Nguyễn Văn Thiệu) cũng là...- Nhưng có một số phần-tử phân-biệt đạo dòng với đạo theo. Vả lại, vấn-đề không ngừng ở đó, mà là nhắm vào vai trò giáo-dân của người lãnh-đạo quốc-gia. Họ muốn có một Tổng-Thống rập khuôn cố Tổng-Thống Ngô Đỉnh Diệm. Tống-Thống hiện nay không hề đối-xử phân-biệt với các tín-đồ đạo khác, không chịu lợi-dụng Chính-Quyền để tạo ưu-thế cho Đạo Ky-Tô, nên họ bất-mãn. Họ đồn miệng rằng Đức Tổng-Giám-Mục Nguyễn Văn Bình đã “cảnh-cáo” Tổng-Thống về khoản này.
Nổi bật nhất là nội-dung những lời thuyết-giáo của linh-mục Nguyễn Kim Bính tại nhà thờ Phú Cam, Huế, mà tôi đã cho thu băng gửi về Trung-Ương, trong đó đã có hai đoạn tiêu-biểu cho hai phương-diện của một vấn-đề: một đoạn linh-mục Bính hằn-học khích-động đồng-đạo, đại-ý “người ta đã ám-hại một tổng-thống anh-minh...”, và một đoạn ông cay-đắng phân-bua, đại-ý “như tôi là một Cha Xứ ở Phú Cam này, có ai mà không biết tôi; thế mà cái ngài đại-tá Tôn Thất Khiên ấy, cái đấng tỉnh-trưởng Tôn Thất Khiên ấy, đến nhậm-chức ở đây đã bao lâu rồi, mà vẫn chưa hề đến thăm hỏi tôi một lần...”Thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình gật đầu:- Tôi đã có nghe cuốn băng ấy rồi.Ông hỏi tiếp tôi:- Theo anh thì những việc gì cụ-thể có thể xảy ra trong tương-lai gần, hậu-quả thế nào?- Cộng-sản Bắc-Việt ồ-ạt chuyển quân và chiến-cụ vào. Quân-Lực của ta thì bị bó tay vì bản Hiệp-Định Paris; nếu có đụng-độ quân-sự thì điều đó thuộc thẩm-quyền của cấp Trung-Ương. Riêng về phương-diện chính-trị nội-bộ thì tình-hình chung ngày càng xấu thêm: các cấp Chính-Quyền địa-phương không biết thu-phục dân-tâm; nhất là ở vùng ngoại-ô, nói chi ở vùng tranh-chấp. Đồng-bào chán ghét tham-nhũng, mà lại khao-khát hòa-bình. Tổ-chức của nhóm linh-mục Trần Hữu Thanh và Nguyễn Kim Bính là “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”. Một số tín-đồ Ky-Tô-Giáo sẽ đồng-loạt xuống đường khắp nơi. Nếu không ngăn-chận thì có thể có bạo-động. Giả-dụ một số quá-khích (Việt-Cộng xúi-giục) tấn-công những người họ cho là đã tham-gia tích-cực vào cuộc Cách-Mạng 1-11-1963 lật đổ chế-độ Đệ-Nhất Cộng-Hòa, mà những người này thì nằm bên phía “Lực-Lượng”, và tất-nhiên là những phần-tử này sẽ phải tự-vệ, biến thành xung-đột tôn-giáo, ít nhất cũng như biến-cố Thanh-Bồ Đức-Lợi tại Đà-Nẵng trước đây. “Phong-Trào” mà “làm mạnh” được thì phía “Lực-Lượng” hẳn cũng sẽ không chịu thua. Ngăn-chận thì bị gán cho là đàn-áp tôn-giáo; giả-dụ có kẻ bắt chước nữ-Dân-Biểu Kiều-Mộng-Thu, nằm lăn giữa đường để cho phóng-viên chụp ảnh, quay phim, dùng làm bằng-chứng là ả đã bị cảnh-sát bạo-hành, xong kéo đồng-bọn vào nhà-hàng lớn ăn khao, trong lúc phản-ứng của dư-luận chung, cả trong nước lẫn ngoài nước, nhất là tại Hoa-Kỳ, thì rất bất-lợi cho ta. Hơn nữa, làm sao có đủ lực-lượng để giúp vãn-hồi an-ninh: kinh-nghiệm các vụ lộn-xộn ở Quận Hoài-Nhơn của Tỉnh Bình-Định, Thị-Xã Tuy-Hòa của Tỉnh Phú-Yên, cho thấy là Chính-Quyền Tỉnh bất-lực khi chính Cảnh-Sát của địa-phương mình bị đám lộng-hành bao vây, tấn-công. Trung-Ương cũng khó tiếp tay: chỉ nội một vụ ở Chủa Linh-Sơn, Đà-Lạt, mà phải cần có phi-cơ quân-sự di-chuyển Cảnh-Sát Dã-Chiến từ Sài-Gòn ra; nếu có biến-động nhiều nơi một lần thì làm sao mà giải-nguy?
Quan-trọng hơn hết là bọn Việt-Cộng đã xâm-nhập vào “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”. Chúng đã hiểu rõ là tổ-chức này thù-hận chế-độ hiện-thời hơn hết, nên chúng lợi-dụng để có thêm những đồng-minh chung sức chống phá Việt-Nam Cộng-Hòa. Chúng đã bắt đầu lôi kéo thêm các tổ-chức khác nữa, từ bên ngoài Ky-Tô-Giáo, để cùng hưởng-ứng “Phong-Trào”, vì “Phong-Trào” là hình-thức đối-lập hợp-pháp, nấp được vào đó là hoạt-động dễ vô cùng. Chúng sẽ có thể chiếm giữ công-sở, đột-nhập đồn bót, khủng-bố, phá-hoại, ít nhất là cũng thành-công về mặt chính-trị, thông-tin tuyên-truyền...
- Theo anh thì Chính-Quyền nên đối-phó cách nào?- Tôi xin đề-nghị Trung-Ương tạm-thời nhượng-bộ “Phong-Trào” một bước đầu tiên, để tiện cấp-thời vô-hiệu-hóa mọi kế-hoạch hoạt-động của họ hiện nay, bằng cách cử hai tín-đồ Ky-Tô-Giáo, gốc-gác Đệ-Nhất Cộng-Hòa và thân-cận với giới cựu Cần-Lao, ra làm Tỉnh-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Sát Quốc-Gia tại Tỉnh Thừa-Thiên...Thiếu-tướng Bình và chuẩn-tướng Tây nhìn nhau.Tôi nói tiếp liền:- Như thế là chỉ mới giải-quyết được bước đầu, chứ chưa xong trọn vấn-đề. Tuy nhiên, nếu tôi còn ở Vùng I thì tôi, chính tôi, sẽ ngăn-chận được mọi sự xáo-trộn tiếp theo, cho Vùng I, và do đó, cho toàn Miền Nam...
*Thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia Việt-Nam Cộng-Hòa, đứng dậy, đưa tay bắt tay cám ơn tôi, và kết-thúc cuộc tiếp-xúc bằng lời khuyến-khích tôi và hứa-hẹn sẽ thăng cấp cho tôi vào Ngày Cảnh-Lực 1-6-1975.Tôi cùng chuẩn-tướng Hùynh Thới Tây trở về văn-phòng Bộ Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương, lần này thì cùng đi bộ. Tôi muốn nói lên một lời cám ơn ông đã đề-bạt tôi, đã dành cho tôi rất nhiều đặc-quyền, đặc-ân, mà các cấp+chức khác, ngang tôi, kể cả cao hơn tôi, cũng không có được – đương-nhiên là trong công-vụ mà thôi. Ít nhất thì ông cũng đã bắt cả các cấp Giám-Đốc phụ-tá của ông tại Trung-Ương phải đích-thân đáp-ứng ngay mọi đề-nghị của tôi; và, thay vì, như với nhiều giới-chức khác - cấp dưới dâng nạp quà cáp lên cho cấp trên – thì ông ngược lại đã cho riêng tôi mỗi tháng 20,000 đồng, tương-đương gần nửa tháng lương của tôi, để thuê nhà ở vì tôi phải rời gia-đình mà ra Miền Trung - tất-nhiên với sự đồng-ý của thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình. Nhưng tôi không nói ra được lời cám ơn đó, vì nó có vẻ nịnh-hót thế nào ấy - một việc mà tôi không bao giờ làm, cho nên đã bị thiệt-thòi từ hai mươi bảy năm nay.
Chúng tôi lặng-lẽ bước bên cạnh nhau, trước những cặp mắt ngạc-nhiên của nhiều sĩ-quan gặp trên đường đi. Cuối cùng, như để đánh tan bầu không-khí lạt-lẽo ấy, và lấy lại thế chủ-động, thiếu-tướng Tây nói với tôi, mà tôi nghe như nói lên tâm-tư của một số đông viên-chức chỉ-huy Ngành Đặc-Cảnh thời bấy giờ:- Qua Sắc-Phục thì có tiền...Sau đó, ông không quên trao tiền thuê nhà cho tôi, và nhắc tôi cần gì thì giải-quyết gấp với các Giám-Đốc hữu-quan, để còn rời Sài-Gòn sớm mà ghé thăm gia-đình hiện ở Nha-Trang.*Ngay hôm sau, tôi vừa về đến Nha-Trang thì nhận được tin Trung-Ương đã cử hai nhân-vật khác đến thay đại-tá Tôn Thất Khiên và thiếu-tá Liên Thành trong chức-vụ Tỉnh-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế.Tân Tỉnh-Trưởng là đại-tá Nguyễn Hữu Duệ.Đại-tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I, nhắn tôi ra Đà-Nẵng gấp, để cùng ông ra Huế chủ-tọa lễ giao-nhận chức-vụ Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế, giữa thiếu-tá Liên-Thành và trung-tá Hoàng Thế Khanh.LÊ XUÂN NHUẬN(trích từ cuốn hồi-ký “Về Vùng Chiến Tuyến” cuả Lê Xuân Nhuận, do nhà Văn Nghệ xuất-bản năm 1996 – ISBN: 1-886566-15-1)
Muốn biết thêm về các vấn-đề liên-quan, xin vào liên-mạng sau đây:http://www.lexuannhuan.com/
==
==
THIẾU-TƯỚNG NGUYỄN KHẮC BÌNH
Thanh Thanh Lê Xuân Nhuận
==
Một ngày vào dịp Quốc-Khánh 1-11-1974, tôi lại nhận được lệnh khẩn vào gặp chuẩn-tướng Huỳnh Thới Tây, Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương, mà không được biết lý-do hay mục-đích gì, y như lần vào trình-diện vào cuối tháng 9 năm 1973 - để đưa tôi ra Miền Trung.
Tôi vừa bước vào văn-phòng là chuẩn-tướng Tây dẫn tôi đi ngay với ông, lên xe, qua bên tòa lầu của thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia. Lên tầng trên rồi, ông mới nói nhỏ với tôi:- Thiếu-tướng Tư-Lệnh muốn gặp riêng anh.Tướng Tây đưa tôi vào gặp tướng Bình. Trong cuộc gặp này, tướng Tây chỉ đóng vai trò dự-thính và quan-sát-viên, từ đầu đến cuối không hề nói một tiếng nào.Sau khi bắt tay, mời ngồi, hỏi qua về sức khỏe và gia-đình, thiếu-tướng Bình nói chuyện với tôi:- Tôi định đưa anh ra làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế, anh nghĩ sao?
Tôi không nghĩ sao hết. Trong một thời-buổi mà giấc mơ của không biết bao nhiêu sĩ-quan cấp tá, dù là đã được biệt-phái từ Quân-Lực qua Cảnh-Lực rồi, hay là vẫn còn ở bên quân-ngũ, là được cử làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực một Tỉnh, một Thị-Xã, hoặc một Quận ở Thủ-Đô Sài-Gòn, thì tôi đã thấy chán ngấy từ lâu cái chức-vụ mà giá-trị công-chính của nó đã bị nhiều người dẹp bỏ, để chỉ mong đợi cái hệ-quả tư-tà của nó mà thôi. Có thể nói đó là một cương-vị để làm tiền; trừ một số ít chỉ tự bằng lòng với những lợi-lộc vừa-phải tự-nhiên-mà-có, còn thì đua nhau đổi trắng thay đen vơ-vét cho đầy túi tham, mà điều tệ-hại hơn hết là do đó mà dung-dưỡng tệ-nạn xã-hội, làm suy-yếu đội-ngũ Quốc-Gia, tạo kẽ hở cho đối-phương xông lên.
Tôi nghĩ đến bản-thân tôi, mà gia-đình còn ở Nha-Trang: nếu làm việc ở Đà-Nẵng như hiện nay thì tôi còn có thể ít nhất mỗi tháng một lần về Trung-Ương và nhân đó ghé thăm gia-đình, chứ đi làm việc ở các Tỉnh khác thì khó mà về Nha-Trang vì trái ngả đường; còn nếu đưa vợ+con theo thì cứ mỗi lần dời-đổi chỗ ở là một lần hao-tốn, mà đã chắc gì ở được tại một Tỉnh nào lâu đâu. Riêng đối với Huế, sau mười lăm năm dâu-bể - kể từ ngày tôi bị đày đi khỏi nó vào năm 1960 - bộ mặt đã khác hẳn rồi, tấm lòng cũng chẳng còn nguyên; bây giờ nếu tôi vẫn ở xa Huế mà giúp-đỡ Huế thì dễ, chứ ở ngay Huế thì e tôi sẽ khó lòng mà tự giúp-đỡ được ngay chính mình.
Tôi thấy rõ là các cấp chỉ-huy của tôi hiện nay, thiếu-tướng Bình và chuẩn-tướng Tây, đã dành cho tôi một lòng ưu-ái đặc-biệt, cả một đặc-ân lớn-lao. Đáng lẽ tôi nên nói một câu gì khéo-léo, để vừa chối-từ vừa tỏ lòng cám ơn. Biết bao nhiêu lần tôi đã nghe rõ các người xung quanh, dù là ở cấp Xã Ấp, ở cấp Toán Tổ, nói đến “cất-nhắc”, nói đến “chức-phận”, nào là “tri-ân”, nào là “trung-thành”. Nhưng tôi không thể sử-dụng miệng lưỡi mình trong trường-hợp này, mặc dù biết rằng một lời nói ngọt sẽ gây được nhiều thiện-cảm nơi người nghe hơn.
Tôi đáp:- Xin thiếu-tướng cho tôi ở lại Đà-Nẵng.Cả tướng Bình lẫn tướng Tây đều giữ vẻ mặt điềm-nhiên, nhưng tôi nghĩ là họ hẳn không khỏi ngạc-nhiên. Tướng Bình hỏi tôi:- Tại sao anh không thích ra Huế?- Vì tôi bị đổi đi xa, nay được trở về; gặp lại những kẻ đáng bị trừng-trị mà dung-tha họ thì không được rồi, nhưng nếu ra tay thì sẽ bị họ xem là trả thù hay trở mặt, e không trọn tiếng với đời.
Tướng Bình hỏi tiếp:
- Anh thấy nếu ở nơi khác thì dễ làm việc hơn ở Huế sao?Tôi sợ là ông hiểu lầm rằng tôi tránh né những nơi khó-khăn. Tôi không tránh né khó-khăn mà tôi chỉ muốn tránh né những nơi mà mình có thể bị dùng làm vật hy-sinh.
Tự-nhiên tôi thấy muốn nói, công-khai và trực-diện, vì đây quả là cơ-hội hiếm có, rằng: “Các ông đừng đánh giá tôi ngang hàng với đa-số cùng mang cấp-bậc và/hoặc cùng giữ chức-vụ như tôi!” - ý tôi định nói là vì tôi không gặp thời, chứ thực ra thì... Tôi bỗng kịp tự kiềm-chế, và chỉ trình-bày một cách mà tôi cho là khiêm-tốn:
- Tôi có khả-năng làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực tại bất-cứ một Tỉnh nào trên toàn-quốc, mà không thua kém bất-cứ một người nào...Tướng Bình gật đầu. Hẳn ông hiểu rõ là tôi nói thật. Nhưng có lẽ ông tưởng tôi muốn xin đi làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực tại một Tỉnh nào không có người cũ quen tôi, để dễ trừng-trị những kẻ phạm-pháp hơn chăng, nên ông hỏi tôi:- Anh nghĩ thế nào về Tỉnh Quảng-Nam?Thừa-Thiên là quê mẹ tôi; tôi đã lớn lên ở đó, tôi có ở đó rất nhiều kỷ-niệm trọn đời không quên, thế mà tôi đã chối-từ, huống gì Quảng-Nam. Tôi thấy thật khó nói lên ý-kiến của mình. Tuy thế, nhìn thấy nét mặt của tôi là ông biết ngay tôi không nhận lời.
Ông liền nói tiếp:- Tôi cho anh chọn Tỉnh nào anh thích.Đến tận nước này thì thật quá lắm. Một vị Tư-Lệnh Lực-Lượng Cảnh-Sát Toàn-Việt, đồng-thời cũng là Đặc-Ủy-Trưởng Phủ Đặc-Ủy Tình-Báo Trung-Ương, thứ-bậc gấp đôi Bộ-Trưởng, hiện có đầy-đủ quyền-hành cũng như dư-thừa thuộc-viên thân-tín để chọn bổ-nhiệm vào các chức-vụ chỉ-huy, từ ở Trung-Ương xuống đến Xã Phường, mà lại chấp-nhận cho tôi tự chọn địa-phương công-tác theo ý muốn riêng của mình! Tôi thật xúc-động trước thái-độ đó, cùng lúc cảm thấy thỏa-mãn, vì tự-ái được vuốt-ve.
Phải chăng Cấp Trên cần tôi tập-trung nỗ-lực đảm-trách an-ninh trật-tự riêng cho một Tỉnh quan-trọng, như Tỉnh Thừa-Thiên, mà tỉnh-lỵ là Thị-Xã Huế, nơi xuất-phát liên-tục của những phong-trào chống-đối Chính-Quyền Trung-Ương, và hiện nay vẫn là nơi sôi-sục chính-tình, nên cần có tôi có mặt thường-trực tại chỗ để chuyên-chú lo ổn-định nội-an; hoặc Tỉnh Quảng-Nam, là nơi bám trụ của các cơ-quan đầu-não của cả Đảng-Ủy Liên-Khu V lẫn Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu V của đối-phương, cũng là hậu-cứ tiếp-nhận lực-lượng cộng-sản từ Bắc-Việt xâm-nhập vào, bàn-đạp để chúng vừa cầm chân Quân-Đoàn I của ta, vừa tiến sâu hơn vào các tỉnh ở phía Nam, kể từ vùng đất địa-đầu chiến-lược này bên trong phòng-tuyến A-Sau và Đèo Hải-Vân, nên cần có tôi chú-tâm bảo-vệ số đông đồng-bào bị kẹt tại các Xã Ấp thuộc vùng tranh-chấp ở giữa hai bên? Nếu thế thì tại sao ông lại bảo tôi chọn Tỉnh nào khác hơn? Hay là ông định đưa người nào khác đến thay-thế tôi ở chức-vụ và hoạt-hạt hiện-thời?
Trong trường-hợp đó, tôi nên chọn một Tỉnh nào tiện đường cho tôi để dễ đi+về chăm-sóc gia-đình hiện ở Nha-Trang.
Tôi bèn hỏi lại:- Thưa thiếu-tướng, bất-cứ ở Vùng nào?Tướng Bình mỉm cười, nhận thấy tôi đã lợi-dụng câu nói của ông, trả lời:- Cứ tạm chọn ở Vùng I trước đã!Quảng-Trị, Quảng-Tín, Quảng-Ngãi, đều càng bất-tiện hơn Thừa-Thiên và Quảng-Nam. Tôi suy-nghĩ nhanh trong đầu: nếu lại từ-chối thì có thể làm cấp trên bực mình, nên tôi dựa theo câu nói của ông mà trả lời ông, vì tôi biết chắc là sẽ bị từ-chối ngay:- Nếu thiếu-tướng cho tôi đảm-trách Thị-Xã Đà-Nẵng...Và, để mở một lối thoát cho cả ông lẫn tôi, hầu chấm dứt vụ cử-nhiệm này, tôi nói thêm:- Tôi có thể kiêm-nhiệm cả Đặc-Cảnh Vùng I lẫn Cảnh-Lực Thị-Xã Đà-Nẵng, để nâng phía Sắc-Phục ở đó lên...*Thiếu-tướng Bình im-lặng một lát rồi chuyển câu chuyện qua đề-tài khác. Ông hỏi tôi:- Anh có tham-gia đảng-phái nào không?
Tôi đáp:- Tôi là người không đảng-phái.Có lẽ ông muốn hỏi xem, ngoài các đảng-phái chính-trị ra, còn có hội-đoàn, phe-nhóm hoặc nhân-vật hữu-danh hữu-quyền nào khác đỡ đầu cho tôi hay không, nên ông khéo-léo:- Hồi đó, ai giới-thiệu anh qua Phủ Đặc-Ủy?Sự-việc thật là đơn-giản, nhưng ông không nghĩ đơn-giản, và tôi cũng khó trình-bày đơn-giản. Cả một quá-trình chuyển-biến của Ngành Cảnh-Sát Công-An Quốc-Gia qua suốt gần ba thập-niên hiện lên trong đầu-óc tôi; nhưng các viên-chức dù cao-cấp nhất, dù lớn chức nhất, và già nghề nhất, cũng có mấy ai nắm vững vấn-đề? Tôi đành trả lời ngắn gọn:- Tôi được chỉ-định dự thi khả-năng chuyên-môn, trắc-nghiệm bằng máy dò-sự-nói-dối, học Khóa đầu tiên Tình-Báo Đặc-Biệt Cao-Cấp của Mỹ, rồi được biệt-phái qua Phủ Đặc-Ủy..., chứ không do sự giới-thiệu của một nhân-vật hay đoàn-thể nào.Tướng Bình lại đổi đề-tài.
Ông hỏi tôi:- Anh với Lê Văn Hảo liên-hệ thế nào?À, thì ra họ vẫn chưa biết rõ sự liên-hệ ấy. Tôi đáp:- Lê Văn Hảo là em khác mẹ của vợ tôi.Ông hỏi thêm:- Sau vụ cộng-sản tổng-tấn-công Tết Mậu-Thân 1968 thì sao?Tôi trình-bày:- Hảo theo Việt-Cộng; tôi có báo-cáo lên đại-tá Nguyễn Mâu, hồi đó là Phụ-Tá Tổng-Giám-Đốc, Trưởng Khối Cảnh-Sát Đặc-Biệt Trung-Ương; đại-tá Mâu nói rằng: “Trong một gia-đình, có thể có người này bên này, kẻ kia bên kia; nếu anh không dính-dáng gì với y thì thôi!” Thực-tế, tôi, và vợ tôi, không hề liên-lạc với anh-ta.Tôi rất ngạc-nhiên tại sao mãi đến giờ này thiếu-tướng Tư-Lệnh Cảnh-Lực mới nêu vấn-đề đó ra với tôi. Phải chăng Trung-Ương không biết chuyện đó trước khi cử tôi ra Miền Trung? Còn nếu có biết và có nghi tôi thì đâu có bổ-nhiệm tôi? Ngược lại, tuy biết mà vẫn tin tôi thì còn nhắc lại làm gì? Hay là mãi đến gần đây mới biết?
Tôi nhớ, trước đó không lâu, trong một buổi họp tại phòng-giấy của thiếu-tướng Hoàng Lạc, Phó Tư-Lệnh Quân-Khu I, nhân khi đại-tá Lê Quang Nhơn, Chánh-Sở I Quân-An, thuyết-trình về công-tác theo-dõi các quân-nhân có liên-hệ gia-đình với Việt-Cộng – các quân-nhân này có tên trong một loại hồ-sơ đặc-biệt gọi là “Hồ-Sơ Z”; cách phân-loại này về sau cũng được áp-dụng đối với cảnh-nhân - đại-tá Nhơn đã nói: “Ngay trong năm anh+em chúng tôi ngồi họp ở đây, cũng có người có hồ-sơ Z”. Năm người hiện-diện là đại-tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I; đại-tá Phạm Văn Phô, Trưởng Phòng 2 Quân-Đoàn và Quân-Khu I; trung-tá Phạm Xuân Bách, Phụ-Tá Trung-Tâm-Trưởng Phụng-Hoàng Vùng I; đại-tá Nhơn, và tôi. Họ có ám-chỉ gì tôi hay không?Hay là Trung-Ương mới biết, nhưng vì kết-quả điều-tra của phía Việt-Nam, chắc cũng giống như kết-quả đoán mò của các thuộc-viên của tôi, khác với kết-quả của phía Hoa-Kỳ, mà chính tôi đã đính-chính, nên tướng Bình mới đích-thân hỏi tôi để ông trực-tiếp quan-sát phản-ứng của tôi ra sao?Bỗng tôi giật mình. Phải chăng Cấp Trên không chỉ nghi tôi vì tôi có thân-nhân là Việt-Cộng, mà lại nghi tôi vì tôi “lý-tưởng” quá chừng: không cần phe-phái, không màng cấp-chức, không thèm lợi-lộc, mà vẫn phục-vụ tận-tụy và hữu-hiệu hơn người?
Tôi đã có nghe trung-tá Nguyễn Hữu Hải, Giám-Đốc Ngành Đặc-Cảnh Vùng II, kể lại rằng, trong một cuộc họp tại Trung Ương, chuẩn-tướng Huỳnh Thới Tây khi đề-cập đến tôi, đã khen-ngợi tôi không tiếc lời, đồng-thời lại đặt câu hỏi: “Quái! Sao thằng Nhuận nó tài đến thế!”*Ngưng một lát, thiếu-tướng Bình chuyển sang vấn-đề khác:- Anh nói tóm-tắt tình-hình ở Huế hiện nay ra sao?Tình-hình ở Huế nói riêng, và những nơi khác liên-quan đến Huế nói chung, thì tôi đã có báo-cáo lên đầy-đủ rồi. Tôi chỉ nhấn mạnh vài điểm nổi bật mà thôi:- Về phần cộng-sản thì quả trước đây chúng đã nắm được đa-số các tay “lãnh-tụ” tập-thể sinh-viên, nhất là qua vụ vu-khống “chính-quyền bắt cóc sinh-viên” vừa rồi, chúng đã tạo được ảnh-hưởng trong giới phụ-huynh sinh-viên & học-sinh, giáo-chức, và cả quần-chúng nói chung. Nhưng tôi đã lập kế-hoạch, đích-thân chỉ-đạo và yểm-trợ cho Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên sử-dụng một số biện-pháp tình-báo chuyên-môn để lật ngược lại thế cờ, làm chủ tình-hình. Hiện nay, chúng ta đã chiếm được thế thượng-phong đối với cộng-sản nội-thành rồi.
- Về phần nội-chính?- Tuy không có những tổ-chức nhỏ và nhiều như từ Đà-Nẵng trở vào, nhưng hai tổ-chức lớn thì rất đáng được Chính-Quyền quan-tâm: đó là “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” và “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”, mà cấp-thiết nhất là “Phong-Trào” này.- Anh nói về Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc trước.- “Lực-Lượng” ấy quy-tụ được hầu hết Phật-Tử là thành-phần đại-đa-số trong dân-chúng, kể cả công-chức và quân-nhân.
Ngoài Khối Ấn-Quang xuất-phát từ Miền Trung và kiểm-soát hầu hết Phật-Giáo-Đồ khắp nơi, đại-tướng Dương Văn Minh đã thu-phục được hầu hết giới tín-đồ Phật-Giáo gốc Miền Nam, và thạc-sĩ Vũ Văn Mẫu đã lôi-cuốn được hầu hết khối tín-đồ Phật-Giáo gốc Miền Bắc di-cư. Đối với quốc-tế thì đó là thành-phần thứ ba; đối với quốc-nội thì đó là tập-hợp dân-sự lớn mạnh nhất, bao gồm nhiều chính-đảng nhất; các cấp lãnh-đạo lại là nhân-vật dân-cử có quyền bất-khả xâm-phạm. Điều đáng nói là cộng-sản đã len-lỏi vào, và chính-quyền địa-phương thì không dám dòm-ngó đến, phó mặc cho Trung-Ương lo.
Tuy thế, tôi đã có người bên trong, cho nên biết trước chương-trình & nội-dung sinh-hoạt của họ, khắp Vùng.- Anh chắc-chắn không có gì đáng lo?- Vâng, nếu họ vẫn cứ tổ-chức mít-tinh tại các sân chùa, chứ không xuống đường gây xáo-trộn trật-tự chung, và nếu họ không xúi-giục quân-đội gây binh-biến gì, mà chỉ chờ-đợi đến ngày bầu-cử Tổng-Thống, vào cuối năm tới. Tính đến hôm nay, và riêng Miền Trung thì thế; còn về tương-lai, và các nơi khác thì tôi không dám đoán trước...
- Còn về “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”?Tôi tin là thiếu-tướng Bình, tuy là tín-đồ Đạo Chúa, nhưng ông sống đời công-chính theo lời Chúa dạy, sẽ rất công-bình chứ không thiên-vị Đạo nào, không bao che cho người nào, nên tôi nói thẳng cảm+nghĩ của tôi:- Chủ-đề chống tham-nhũng thì hấp-dẫn đối với mọi người, kể cả một số người mà bản-thân cũng không trong-sạch; nhưng tham-gia vào “Phong-Trào” thì hầu như là chỉ có tín-đồ Ky-Tô-Giáo; còn xuống đường thì là những phần-tử mà quyền-lợi vật-chất hoặc tinh-thần đã quá gắn liền với cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và gia-đình. Dù sao, cuộc biểu-tình của họ mà bị Cảnh-Sát (do thiếu-tá Liên Thành chỉ-huy) đàn-áp vừa rồi cũng đã gây được một tiếng vang, có lợi cho “Phong-Trào”, tức là có hại cho Chính-Quyền.
Đó là một bước dò đường. Tin-tức mới nhất cho biết là “Phong-Trào” sẽ tổ-chức xuống đường khắp nước; từ Huế, Quảng-Trị vào các Tỉnh Vùng II thì do linh-mục Nguyễn Kim Bính, cha xứ Phú Cam, khởi-xướng; tại thủ-đô Sài-Gòn và các Tỉnh Vùng III, Vùng IV thì do linh-mục Trần Hữu Thanh phát-động. Khi đó thì tình-hình khắp nước sẽ rối beng; Chính-Quyền khó kiểm-soát được dân-chúng, ngay cả các ban tổ-chức biểu-tình cũng khôn nắm vững thành-phần tham-gia, và không ai đối-phó nổi với phản-ứng của các thành-phần chống lại họ, trong khi các phương-tiện truyền-thông trong và ngoài nước tha-hồ đổ thêm dầu vào.
Tóm lại, “Phong-Trào” không chờ đến ngày bầu-cử sang năm; họ muốn Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ-chức ngay; họ muốn có một Tổng-Thống là tín-đồ Đạo Ky-Tô...- Tổng-Thống (Nguyễn Văn Thiệu) cũng là...- Nhưng có một số phần-tử phân-biệt đạo dòng với đạo theo. Vả lại, vấn-đề không ngừng ở đó, mà là nhắm vào vai trò giáo-dân của người lãnh-đạo quốc-gia. Họ muốn có một Tổng-Thống rập khuôn cố Tổng-Thống Ngô Đỉnh Diệm. Tống-Thống hiện nay không hề đối-xử phân-biệt với các tín-đồ đạo khác, không chịu lợi-dụng Chính-Quyền để tạo ưu-thế cho Đạo Ky-Tô, nên họ bất-mãn. Họ đồn miệng rằng Đức Tổng-Giám-Mục Nguyễn Văn Bình đã “cảnh-cáo” Tổng-Thống về khoản này.
Nổi bật nhất là nội-dung những lời thuyết-giáo của linh-mục Nguyễn Kim Bính tại nhà thờ Phú Cam, Huế, mà tôi đã cho thu băng gửi về Trung-Ương, trong đó đã có hai đoạn tiêu-biểu cho hai phương-diện của một vấn-đề: một đoạn linh-mục Bính hằn-học khích-động đồng-đạo, đại-ý “người ta đã ám-hại một tổng-thống anh-minh...”, và một đoạn ông cay-đắng phân-bua, đại-ý “như tôi là một Cha Xứ ở Phú Cam này, có ai mà không biết tôi; thế mà cái ngài đại-tá Tôn Thất Khiên ấy, cái đấng tỉnh-trưởng Tôn Thất Khiên ấy, đến nhậm-chức ở đây đã bao lâu rồi, mà vẫn chưa hề đến thăm hỏi tôi một lần...”Thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình gật đầu:- Tôi đã có nghe cuốn băng ấy rồi.Ông hỏi tiếp tôi:- Theo anh thì những việc gì cụ-thể có thể xảy ra trong tương-lai gần, hậu-quả thế nào?- Cộng-sản Bắc-Việt ồ-ạt chuyển quân và chiến-cụ vào. Quân-Lực của ta thì bị bó tay vì bản Hiệp-Định Paris; nếu có đụng-độ quân-sự thì điều đó thuộc thẩm-quyền của cấp Trung-Ương. Riêng về phương-diện chính-trị nội-bộ thì tình-hình chung ngày càng xấu thêm: các cấp Chính-Quyền địa-phương không biết thu-phục dân-tâm; nhất là ở vùng ngoại-ô, nói chi ở vùng tranh-chấp. Đồng-bào chán ghét tham-nhũng, mà lại khao-khát hòa-bình. Tổ-chức của nhóm linh-mục Trần Hữu Thanh và Nguyễn Kim Bính là “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”. Một số tín-đồ Ky-Tô-Giáo sẽ đồng-loạt xuống đường khắp nơi. Nếu không ngăn-chận thì có thể có bạo-động. Giả-dụ một số quá-khích (Việt-Cộng xúi-giục) tấn-công những người họ cho là đã tham-gia tích-cực vào cuộc Cách-Mạng 1-11-1963 lật đổ chế-độ Đệ-Nhất Cộng-Hòa, mà những người này thì nằm bên phía “Lực-Lượng”, và tất-nhiên là những phần-tử này sẽ phải tự-vệ, biến thành xung-đột tôn-giáo, ít nhất cũng như biến-cố Thanh-Bồ Đức-Lợi tại Đà-Nẵng trước đây. “Phong-Trào” mà “làm mạnh” được thì phía “Lực-Lượng” hẳn cũng sẽ không chịu thua. Ngăn-chận thì bị gán cho là đàn-áp tôn-giáo; giả-dụ có kẻ bắt chước nữ-Dân-Biểu Kiều-Mộng-Thu, nằm lăn giữa đường để cho phóng-viên chụp ảnh, quay phim, dùng làm bằng-chứng là ả đã bị cảnh-sát bạo-hành, xong kéo đồng-bọn vào nhà-hàng lớn ăn khao, trong lúc phản-ứng của dư-luận chung, cả trong nước lẫn ngoài nước, nhất là tại Hoa-Kỳ, thì rất bất-lợi cho ta. Hơn nữa, làm sao có đủ lực-lượng để giúp vãn-hồi an-ninh: kinh-nghiệm các vụ lộn-xộn ở Quận Hoài-Nhơn của Tỉnh Bình-Định, Thị-Xã Tuy-Hòa của Tỉnh Phú-Yên, cho thấy là Chính-Quyền Tỉnh bất-lực khi chính Cảnh-Sát của địa-phương mình bị đám lộng-hành bao vây, tấn-công. Trung-Ương cũng khó tiếp tay: chỉ nội một vụ ở Chủa Linh-Sơn, Đà-Lạt, mà phải cần có phi-cơ quân-sự di-chuyển Cảnh-Sát Dã-Chiến từ Sài-Gòn ra; nếu có biến-động nhiều nơi một lần thì làm sao mà giải-nguy?
Quan-trọng hơn hết là bọn Việt-Cộng đã xâm-nhập vào “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”. Chúng đã hiểu rõ là tổ-chức này thù-hận chế-độ hiện-thời hơn hết, nên chúng lợi-dụng để có thêm những đồng-minh chung sức chống phá Việt-Nam Cộng-Hòa. Chúng đã bắt đầu lôi kéo thêm các tổ-chức khác nữa, từ bên ngoài Ky-Tô-Giáo, để cùng hưởng-ứng “Phong-Trào”, vì “Phong-Trào” là hình-thức đối-lập hợp-pháp, nấp được vào đó là hoạt-động dễ vô cùng. Chúng sẽ có thể chiếm giữ công-sở, đột-nhập đồn bót, khủng-bố, phá-hoại, ít nhất là cũng thành-công về mặt chính-trị, thông-tin tuyên-truyền...
- Theo anh thì Chính-Quyền nên đối-phó cách nào?- Tôi xin đề-nghị Trung-Ương tạm-thời nhượng-bộ “Phong-Trào” một bước đầu tiên, để tiện cấp-thời vô-hiệu-hóa mọi kế-hoạch hoạt-động của họ hiện nay, bằng cách cử hai tín-đồ Ky-Tô-Giáo, gốc-gác Đệ-Nhất Cộng-Hòa và thân-cận với giới cựu Cần-Lao, ra làm Tỉnh-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Sát Quốc-Gia tại Tỉnh Thừa-Thiên...Thiếu-tướng Bình và chuẩn-tướng Tây nhìn nhau.Tôi nói tiếp liền:- Như thế là chỉ mới giải-quyết được bước đầu, chứ chưa xong trọn vấn-đề. Tuy nhiên, nếu tôi còn ở Vùng I thì tôi, chính tôi, sẽ ngăn-chận được mọi sự xáo-trộn tiếp theo, cho Vùng I, và do đó, cho toàn Miền Nam...
*Thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia Việt-Nam Cộng-Hòa, đứng dậy, đưa tay bắt tay cám ơn tôi, và kết-thúc cuộc tiếp-xúc bằng lời khuyến-khích tôi và hứa-hẹn sẽ thăng cấp cho tôi vào Ngày Cảnh-Lực 1-6-1975.Tôi cùng chuẩn-tướng Hùynh Thới Tây trở về văn-phòng Bộ Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương, lần này thì cùng đi bộ. Tôi muốn nói lên một lời cám ơn ông đã đề-bạt tôi, đã dành cho tôi rất nhiều đặc-quyền, đặc-ân, mà các cấp+chức khác, ngang tôi, kể cả cao hơn tôi, cũng không có được – đương-nhiên là trong công-vụ mà thôi. Ít nhất thì ông cũng đã bắt cả các cấp Giám-Đốc phụ-tá của ông tại Trung-Ương phải đích-thân đáp-ứng ngay mọi đề-nghị của tôi; và, thay vì, như với nhiều giới-chức khác - cấp dưới dâng nạp quà cáp lên cho cấp trên – thì ông ngược lại đã cho riêng tôi mỗi tháng 20,000 đồng, tương-đương gần nửa tháng lương của tôi, để thuê nhà ở vì tôi phải rời gia-đình mà ra Miền Trung - tất-nhiên với sự đồng-ý của thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình. Nhưng tôi không nói ra được lời cám ơn đó, vì nó có vẻ nịnh-hót thế nào ấy - một việc mà tôi không bao giờ làm, cho nên đã bị thiệt-thòi từ hai mươi bảy năm nay.
Chúng tôi lặng-lẽ bước bên cạnh nhau, trước những cặp mắt ngạc-nhiên của nhiều sĩ-quan gặp trên đường đi. Cuối cùng, như để đánh tan bầu không-khí lạt-lẽo ấy, và lấy lại thế chủ-động, thiếu-tướng Tây nói với tôi, mà tôi nghe như nói lên tâm-tư của một số đông viên-chức chỉ-huy Ngành Đặc-Cảnh thời bấy giờ:- Qua Sắc-Phục thì có tiền...Sau đó, ông không quên trao tiền thuê nhà cho tôi, và nhắc tôi cần gì thì giải-quyết gấp với các Giám-Đốc hữu-quan, để còn rời Sài-Gòn sớm mà ghé thăm gia-đình hiện ở Nha-Trang.*Ngay hôm sau, tôi vừa về đến Nha-Trang thì nhận được tin Trung-Ương đã cử hai nhân-vật khác đến thay đại-tá Tôn Thất Khiên và thiếu-tá Liên Thành trong chức-vụ Tỉnh-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế.Tân Tỉnh-Trưởng là đại-tá Nguyễn Hữu Duệ.Đại-tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I, nhắn tôi ra Đà-Nẵng gấp, để cùng ông ra Huế chủ-tọa lễ giao-nhận chức-vụ Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế, giữa thiếu-tá Liên-Thành và trung-tá Hoàng Thế Khanh.LÊ XUÂN NHUẬN(trích từ cuốn hồi-ký “Về Vùng Chiến Tuyến” cuả Lê Xuân Nhuận, do nhà Văn Nghệ xuất-bản năm 1996 – ISBN: 1-886566-15-1)
Muốn biết thêm về các vấn-đề liên-quan, xin vào liên-mạng sau đây:http://www.lexuannhuan.com/
==
NGUYỄN PHÚ THỨ * NĂM KỶ SỬU NÓI CHUYỆN TRÂU
Năm Sửu Nói chuyện Trâu(Kỷ Sửu từ 26-01-2009 đến 13-02-2010)
(Trich dẫn trong tác phẩm Tìm Hiểu Cuộc Đời của Nguyễn-Phú-Thứ)
Hàn Lâm Nguyễn Phú Thứ
Sau khi năm Mậu Tý chấm dứt, thì đến năm Kỷ Sửu được bàn giao từ giờ giao thừa bắt đầu giữa đêm chủ nhựt , 25-01-2009 để cầm tinh đến 24 giờ đêm thứ bảy 13-02-2010. Năm Kỷ Sửu này cũng thuộc hành Hỏa và mạng Tích Lịch Hỏa tức Lửa Sấm Sét, năm này thuộc Âm, có can Kỷ thuộc mạng Thổ và có chi Sửu thuộc mạng Thổ. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành, thì năm này "Can tương hòa Chi" Bởi vì, Can = Thổ và Chi = Thổ. Trường hợp này, giống như các năm Kỷ Mùi (1919-1979-2039-2099) có Can Chi tương hòa lại có cùng mạng Thổ giống như năm Kỷ Sửu này hoặc là các năm Nhâm Tý (1912-1972-2032-2092) có Can Chi tương hòa đều có cùng mạng Thủy.
Vì vậy, người hay năm Kỷ Sửu này xem như tổng quát rất thuận lợi, bởi vì Trời Đất được giao hòa nhau, không khác trong nhà có đôi vợ chồng sống rất hạnh phúc vậy, cho nên có thể nói là năm được thăng tiến từ vật chất đến tinh thần được vững chắc trong sự nghiệp tương lai. Được biết năm Sửu vừa qua là năm Đinh Sửu thuộc hành Thủy, nhằm ngày thứ sáu, 07-02-1997 đến 27-01-1998.Căn cứ theo Niên Lịch Cổ Truyền Á Đông xuất hiện được minh định quảng bá từ năm thứ 61 của đời Hoàng Đế bên Tàu, bắt đầu năm 2637 trước Công Nguyên, cho nên chúng ta lấy 2637 + 2009 = 4646, rồi đem chia cho 60 thì có kết quả Vận Niên Lục Giáp thứ 77 và số dư 26 năm bắt buộc rơi vào Vận Niên Lục Giáp thứ78 bắt đầu từ năm 1984 cho đến năm 2043. Do vậy, năm Kỷ Sửu 2009 này là năm thứ 26 của Vận Niên Lục Giáp 78.Năm Sửu tức Trâu cũng là Ngưu, cho nên trong bàn dân thiên hạ cũng thường nhắc nhở luôn trong sinh hoạt xả hội hằng ngày, từ đó mới có những từ ngữ liên quan, xin trích dẫn như sau :
Sửu là con Trâu đứng hạng thứ 2 của 12 con vật trong Thập Nhị Địa Chi, vì lớn con kình càng, lại còn mang cặp sừng trên đầu nên không thể sánh bằng con Chuột lanh lợi nhỏ con đến trước.Giờ Sửu = là giờ từ 01 giờ đến đúng 03 giờ sáng hôm sau.Tháng Sửu = là tháng Chạp của năm âm lịch.Hoàng Ngưu = Hỏa Ngưu = con Bò.Thủy Ngưu = Con Trâu.Ngưu Dương = Trâu Dê.Ngoài ra, chúng ta còn thấy cây cỏ mang tên Ngưu, xin trích dẫn như sau :Ngưu hoàng = Vật vàng vàng mà cứng ở trong cái mật con Bò, người ta dùng để làm thuốc trị phong đàm.Hắc Sửu = là loại cây bìm bìm lông, hột nó đen, dùng để làm thuốc trị hạ nhiệt.Ngưu bàng tử = Hột cây muồng hoè để làm thuốc trị ghẻ.Ngưu tất = Rễ cỏ xước dùng để làm thuốc trị chứng bịnh đau gân cốt.Khiên Ngưu = Loại dây hắc sửu, dùng để làm thuốc trị hạ nhiệt.v.v.Đặc biệt, có những Ca Dao, Tục Ngữ và Thành Ngữ, xin trích dẫn như sau :Trâu Bò ở với nhau, quen chuồng quen chỏi ( cây chắn ngang ở cửa chuồng)Người ở với nhau lâu, inh ỏi đủ điềuTrâu kia kén cỏ bờ ao,Anh kia, không vợ đời nào có con.Người ta con trước con sau,Thân anh không vợ như cau không buồng.Cau không buồng như tuồng cau đực,Trai không vợ cực lắm anh ơi!Người ta đi đón về đôi,Thân anh đi lẻ về loi một mình.Mất Trâu thì lại mua Trâu,Những quân cướp nó có giàu hơn ai.Trâu Bò được ngày phá đổ,Con cháu được ngày giổ ông.Nhịn thuốc mua Trâu,Nhịn trầu mua ruộng.Muốn giàu, nuôi Trâu cái,Muôn lụn bại, nuôi Bồ Câu... (Ca Dao).
Trâu chậm uống nước đục.
Trâu ngơ ăn cỏ héo.
Trâu lành không ai mà cả (trả giá để mua).
Trâu ngả lắm kẻ cầm dao.
Trâu đạp cũng chết,
Voi đạp cũng chết
.Trâu hay ác thì Trâu vạt sừng.
Trâu bịnh cũng bằng Bò khoẻ.
Trâu toi thì Bò ngả.
Trâu lấm vẩy quàng.
Trâu trắng đi đâu mất mùa đến đấy.
Trai mười bảy, bẻ gãy sừng Trâu.
Thân Trâu lo, thân Bò liệu.
Có ăn có chọi mới gọi là Trâu.
Thở hơn Trâu hạ địa (Trâu bịnh lâu ngày).
Mua Trâu vẽ bóng.
Máu đâu, Trâu đó.
Không có Trâu, bắt Bò thế, (đi đẩm).
Thà chết vũng chân Trâu, hơn chết khi dĩa đèn.
Tham bong bóng bỏ bọng Trâu.
Thật thà lái Trâu.
Thở như Trâu Bò mới vực (tập kéo xe hay cày bừa)
Trâu Bò húc nhau Ruồi Muổi chết oan.
Trâu cày, Ngựa cởi.
Trâu chết chẳng khỏi rơm.
Trâu chết mặc Trâu, Bò chết mặc Bò.
Trâu cột ghét Trâu ăn.
Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy.
Trâu già đâu nệ dao phay.
Trâu nghiến hàm, Bò bạch thiệt (lưỡi trắng).
Trâu tìm cột, cột chẳng tìm Trâu.
Dắt Trâu chui qua ống.Ngưu tầm Ngưu, Mã tầm Mã.
Thọ hóa thanh Ngưu.(Cây lâu năm hoá thành Trâu xanh)... v.v. (Thành Ngữ).
Miếng trầu là đầu cậu chuyện,
Con Trâu là đầu cơ nghiệp... v.v (Tục Ngữ).
Xuyên qua Ca Dao, Tục Ngữ và Thành Ngữ có liên quan đến Trâu đã dẫn ở trên kia, chúng ta không thể ngừng ở đây, mà còn thấy rất nhiều sách viết về những huyền thoại Trâu, xin trích dẫn để quý bà con đồng hương nhàn lãm như sau :Trâu là gia súc, loài nhai lại, trên đầu có cặp sừng hình vòng cung, nó chính là người bạn chân thành của những nhà nông từ xa xưa, đã từng đổ mồ hôi, sót con mắt trên luống cày hay bừa trên thửa ruộng, để cho có những hạt lúa, nương khoai nuôi dưỡng gia đình tộc Việt chúng ta. Ngày nay, nhờ cơ giới hóa có máy cày thay Trâu, nên Trâu bớt cơ cực như ngày xưa. Đối với thời xưa, dân tộc mình xem Trâu là một trong ba việc hàng đầu căn bản cho gia đình và xả hội cần phải sắm, cho nên trong dân gian thường nhắc nhở như sau :Tậu Trâu, lấy vợ, làm nhàTrong ba việc ấy lọ là khó thay!Ngoài ra, đất nước chúng ta là nông nghiệp, cho nên trong dân gian cũng thường nhắc đến Chồng cày, Vợ cấy, con Trâu đi bừa trên đồng ruộng. Đó chính là hình ảnh thân quen của những nông gia, có đời sống rất chất phát, cần cù lại êm đềm và hạnh phúc trong sự phân công giữa người và Trâu, xin trích dẫn như sau đây:
Rủ nhau đi cấy, đi cày,
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu,
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con Trâu đi bừa.
hoặc là :
Trâu ơi, ta bảo Trâu cày,
Trâu ra ngoài ruộng, Trâu cày với ta,
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây, Trâu đấy ai mà quản công,
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng Trâu ăn.
Khi viết về cái Cày và con Trâu, tôi lại nhớ trong ngạn ngữ (Proverbe) Pháp cũng có câu như sau : Mettre la charrue devant les bœufs (Đặt cái cày trước con Trâu). Ý nói, bất cứ việc gì chúng ta đừng bao giờ làm việc trái đời, ví như đặt cày cái trước con Trâu, thì không thể thực hiện để thành công được.Trong dân gian mình có những huyền thoại tương truyền về Trâu, xin trích dẫn như sau:
Tại sao Trâu ăn cỏ !Thuở xưa, Ngọc Hoàng sai một vị Bồ Tát xuống trần gian mang theo 1 bao hạt giống lúa và 1 bao cỏ để phổ độ chúng sanh. Trước khi xuống trần, Ngọc Hoàng đã tỉ mỉ căn dặn, đến trần gian phải gieo rắc bao hạt giống lúa trước để dân có dư giả mà ăn, còn bao cỏ thì gieo sau để nuôi thú vật. Nhưng khi vị Bồ Tát đến trần gian, thấy phong cảnh khác lạ, nên mãi mê xem mà quên lời căn dặn của Ngọc Hoàng, để rồi gieo bao cỏ trước và bao hạt giống lúa sau. Từ đó, cỏ không cần trồng cũng mọc tràn lan khắp mọi nơi, các thú vật ăn không bao giờ hết vì quá dư thừa và không làm sao diệt cỏ hết được. Còn lúa phải gieo trồng rất cực khổ và khó khăn mới có ăn, bởi vì bị cỏ mọc lấn áp làm lúa phát triển chậm hơn cỏ. Bởi lỗi ấy của vị Bố Tát, làm cho người trần gian trồng lúa rất khó nhọc mới có ăn và cỏ thì mọc tự nhiên quá nhiều, cho nên Ngọc Hoàng mới đày vị Bồ Tát này xuống trần gian hóa thành con Trâu để giúp người trần gian cày bừa trồng lúa và ăn cỏ, chừng nào hết cỏ sẽ được tha thứ cùng phục hồi địa vị cũ, nhưng ăn hoài vẫn không bao giờ hết cỏ được, nên Trâu chưa thoát kiếp. Do lý do trên, nên Trâu thường đi cày bừa giúp nông gia và ăn cỏ.Trong dân gian xem Trâu là vị Bồ Tát, có tánh tình hiền, nên ít ăn thịt hơn Bò là thế.Tại sao Trâu chỉ có một hàm Răng !Cũng tương truyền thuở xưa rằng : Các loài thú vật bốn cẳng như : Chó, Mèo, Trâu, Cọp ...v.v thì có được hai hàm răng, duy chỉ có con Ngựa dù cũng có 4 cẳng, nhưng chỉ có một hàm răng. Bửa nọ, Ngựa được mời đi dự tiệc, Ngựa nghĩ rằng mình chỉ có một hàm răng ăn rất chậm, nên đi hỏi Chó, Mèo, Cọp ... để mượn hàm răng, thì Chó, Mèo, Cọp ... cũng được mời ăn tiệc, chỉ còn Trâu cũng được mời ăn tiệc, nhưng không muốn đi vì lười, phần làm việc cực nhọc nên thân thể ê ẩm, nên không đi dự tiệc, cho nên Trâu được Ngựa đến năn nỉ và than thân trách phận vì số không có hai hàm răng, rồi hứa chỉ mượn tạm hàm răng của Trâu đi ăn tiệc xong sẽ trả lại liền, còn đền ơn đáp nghĩa cho Trâu. Trâu nghe bùi tai, động lòng nên gỡ cho Ngựa mượn. Sau khi dự tiệc xong, Ngựa thấy có hai hàm răng ăn rất mau và lại ngon miệng, nên động lòng tham, không giữ gìn lời hứa, bèn trốn lánh Trâu để giựt luôn hàm răng. Một hôm Trâu gặp được Ngựa đòi lại hàm răng và mắng chửi Ngựa thậm tệ, Ngựa phóng nước đại chạy trốn mất dạng, Trâu rượt theo một hồi không bắt kịp Ngựa, vì thân thể nặng nề nên rất chậm chạp. Từ đó, Trâu dành nuốt hận cho đến ngày nay, chỉ có một hàm răng, trong khi Ngựa lại có hai hàm răng.Đó là, nguyên do Trâu ăn cỏ, chỉ có một hàm răng và cày bừa giúp nhà nông trồng lúa. Đây là một trong những tương truyền trong dân gian để răng đời đáng quý !Tại saoTrâu không biết nói tiếng người và có cái sẹo như nốt ruồi dưới cổ !
Thuở xa xưa, Trâu cùng nói được tiếng với người, nhờ vậy người dùng lời nói để sai khiến Trâu, cho nên bọn mục đồng (chăn Trâu) không thể dùng roi để đánh đập Trâu hay không cho Trâu ăn cỏ đầy đủ, vì sợ Trâu mét chủ. Nhờ vậy, người cùng vật quấn quít và thương mến nhau. Có một gia đình nông dân nọ, có nuôi một con Trâu và mướn một cậu bé để chăn Trâu, thời gian sau nó bỏ bê chăn Trâu, vì mê lo đánh đáo cùng bọn chăn Trâu khác, nhưng sợ Trâu đi ăn lúa, nên nó cột Trâu lại một chỗ không cho ăn uống, cho nên Trâu bị đói, bụng xếp ve, để qua mắt chủ, nó lấy mo cau áp vào bụng Trâu rồi trét bùn bên ngoài. Cứ thế, ngày ngày nó dẫn Trâu về chuồng, người chủ thấy bụng Trâu no tròn thì hài lòng và yên bụng tưởng rằng nó lo cho Trâu cẩn thận chu đáo, có ngờ đâu Trâu thì bị đói cả ngày, không như các ngày vừa qua, chỉ bỏ Trâu đói vài giờ, cho nên Trâu định mét chủ, nhưng Trâu bị nó khôn ngoan, lanh lợi dùng lời lấn áp Trâu, không cho Trâu có dịp nói với chủ. Sáng họm sau, người chủ vắt Trâu đi cày, Trâu đi không nổi vì đói, nên bị chủ quát : "Mau lên đồ lười".
Trâu trả lời : "Không phải lười vì đói" Chủ nói :Ngày nào nó cũng cho mầy ăn một bụng no nê mà đói nỗi gì?. Trâu thố lộ : "Nó chỉ lo mê đánh đáo, rồi nói láo cho tôi ăn no, no gì mà no trong mo cau ngoài đất sét". Người chủ vội vàng kiểm chứng thấy sự thật, khi lột mo cau trét bùn dưới bụng Trâu và đánh cậu bé chăn Trâu một trận nên thân. Từ đó, ngày nào Trâu cũng được ăn no và tắm rửa chu đáo. Riêng cậu bé chăn Trâu, ba bốn ngày hôm sau chỗ bị đánh vẫn còn sưng, cậu bé ngồi khóc trên bờ ruộng, bỗng một ông lão hiện ra hỏi han nguyên do bị đánh, cậu bé trình bày sự thật và ông lão rút trong người ra một nén nhang, rồi đốt lên dí vào cổ con Trâu, làm cho Trâu đau điếng, kêu khan cả cổ, tiếng nói dần dần biến mất, sau cùng khi nào muốn nói, Trâu chỉ phát ra được tiếng "nghé...ọ". Riêng ở chổ bị thương, sau đó trở thành một cái sẹo như nốt ruồi. Từ đó, Trâu sanh ra đều không nói được tiếng người và đều mang cái nốt sẹo ở dưới cổ.
Những huyền thoại về Trâu còn nhiều, nào là :Trâu nhà, Trâu rừng, Ngưu Mân (Trâu ngủ), trong Tây Du Ký tác giả Ngô Thừa Ân nói về Ngưu Ma Vương đánh với Tề Thiên Đại Thánh cuối cùng nhờ có Thái Thượng Lão Quân mới thu phục được Ngưu Ma Vương dẹp bỏ được chướng ngại trên đường thầy Trần Huyền Trang tức Tam Tạng phụng chỉ vua Đường Thái Tôn sang nước Thiên Trúc để thỉnh kinh Phật về truyền bá trong dân gian. Ba bộ kinh của Phật Giáo là : Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng gọi chung là Tam Tạng. Trên đường đi xa xôi ngàn dặm, hành trình gian nan, nguy hiểm vì có nhiều yêu quái, nhờ có b học trò giỏi the phò như sau :Ø thứ nhứt là Tôn Ngộ Không tức Tôn Hành Giả, cốt Khỉ tu hành lâu năm nên thành người, có 72 phép biến hóa thần thông, được biệt danh là Tề Thiên Đại Thánh.Ø thứ nhì là Trư Bát Giới, cốt Heo tu hành lâu năm nên thành người, cũng có phép không vừa.Ø thứ ba là Sa tăng, một con quỷ hung tợn được thầy Tam Tạng thuyết phục và thâu dụng làm đệ tử.Mặc dù thầy Trần Huyền Trang có ba đệ tử tài năng phép luật cao cường, nhưng khi đến Hoả Diệm Sơn đành phải chùn bước, vì trở ngại núi quá cao lại có phun lửa rực trời, sức nóng mãnh liệt. Muốn vượt qua phải dập tắt ngọn lửa này, nhưng phải có cây quạt Ba Tiêu của Ngưu Ma Vương tức chồng của Bà La Sát nắm giữ. Được biết, Ngưu Ma Vương vốn là con Trâu đã tu luyện cả ngàn năm thành người, nên tài phép không thua gì Tề Thiên Đại Thánh. Thầy trò Đường Tăng Tam Tạng tìm đến mượn quạt Ba Tiêu, thì Ngưu Ma Vương không cho mượn, còn nặng lời sỉ vả, cho nên Tôn Hành Giả hiệp cùng Trư Bát Giới được Thổ Địa trợ giúp vây đánh Ngưu Ma Vương suốt ba ngày ba đêm để chiếm đoạt quạt Ba Tiêu, nhưng bất phân thắng bại. Sau cùng, nhờ Phật Tổ cho bốn Ông Kim Cang tấn công bốn hướng như sau :* Ông Đại Lực Kim Cang hướng Đông.* Ông Vĩnh Trụ Kim Cang hướng Tây.* Ông Thắng Chi Kim Cang hướng Nam* Ông Bát Pháp Kim Cang hướng Bắc.Khi đó, Ngưu Ma Vương mới cùng đường chống đỡ, nên phải chạy trốn, nhảy lên cao núp trong mây, nhưng cũng không thoát khỏi được, vì có các sứ thần của thượng đế là Na Tra và Lý Thiên Vương chận đường vây bắt. Cuối cùng Ngưu Ma Vương mới chịu đầu hàng và quy y đầu Phật.Nhân đây, tôi xin trích dẫn Ngài Huyền Trang như sau : Ngài Huyền Trang tức Hiuan-Trang (có người nói ngài họ Trần tên Huyền Trang), sanh năm 602 và chết năm 664, hưởng thọ 63 tuổi. Năm 13 tuổi ngài xuất gia học đạo. Năm 20 tuổi thọ giới cụ túc, lúc bấy giờ nước Tàu có loạn lạc, mãi đến năm 629, ngài được 27 tuổi, thuộc đời nhà Đường (618-907) niên hiệu Trinh Quáng năm thứ ba, Ngài mới sang Ấn Độ thỉnh kinh, phãi qua 100 quốc gia thuộc các nước nhỏ của xứ Ấn Độ, cho nên có tên Đường Tam Tạng. Việc đi này, rất nhiều cuộc nguy hiểm trên đường đi và nhờ phép Phật che chở, nên Ngài vượt qua các tai nạn và cuối cùng được các Vua Tây Vực tiếp rước và giúp đỡ tận tình để Ngài tu học các ngôi đại tự cho thành tài, cuối cùng thỉnh các tạng kinh sách từ Ấn Độ mang về, được Vua Thái Tông tiếp rước nồng hậu. Sau đó, Ngài dịch kinh luận được trên 1.500 quyển từ Phạn ngữ sang Hán ngữ, riêng bộ Duy Thức Luận là đặc sắc nhứt và được người đời tôn Ngài là Giáo Tổ dịch giả của Pháp Tướng Tông.
Hơn nữa, Ngài còn soạn xong bộ Tây Du Ký dâng lên vua Thái Tông, được vua ngự phê cùng các bộ kinh khác của Ngài dịch và khi Ngài tịch được vua Cao Tông cử hành quốc táng, cùng xây tháp tôn thờ Ngài. Do đó, có thể nói Ngài là một đại sa môn người Trung Hoa đầu tiên dịch kinh từ tiếng Phạn sang tiếng bản xứ. Nếu kể từ sau khi Đức Phật diệt độ, cho đến Ngài đi thỉnh kinh từ Ấn Độ về năm 645 là 1.189 năm (bởi vì : 544 + 645 = 1.189 năm) và thời gian ngài đi thỉnh kinh là 16 năm (bởi vì : 645 - 629 = 16 năm). (Trích dẫn bài Năm Hợi Nói Chuyện Heo ở trước).
Ngoài ra còn có :Tục đấu (chọi) Trâu: Tục này xưa kia thường được tổ chức ở một vài nơi như huyện Lập Thạch, Tỉnh Vĩnh Yên hoặc ở Đình Bảng, Hà Đông hay ở Đồ Sơn, Kiến An, cho nên trong dân gian thường truyền tụng để nhớ ngày đấu Trâu như sau :Dù ai bán đâu, buôn đâu,Mùng mười tháng tám đấu Trâu thì về.hoặc là :Dù ai buôn bán trăm nghề,Mùng mười tháng tám nhờ về đấu Trâu.Đặc biệt, khi nói đến mục đồng(chăn Trâu) ngày xưa, không phải người mục đồng nào cũng nghèo hèn, thất học hết, tối ngày chân lắm tay bùn cơ cực suốt một cuộc đời ở cận kề với Trâu, mà không thể trở thành danh nhân lừng lẩy. Bằng chứng là trong lịch sử đất nước chúng ta có hai danh nhân đã từng là mục đồng.
Đó là:Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ là người mục đồng, quê ở Hoa Lư, huyện Gia Viễn, Tỉnh Ninh Bình. Sau khi đứng lên dẹp được loạn sứ quân lên ngôi trở thành vua Đinh Tiên Hoàng (năm 968) làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi (chết năm 979).Trong Đại Nam Quốc Sử diễn ca, có đoạn nói về vua Đinh Tiên Hoàng như sau :Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh,Con quan Thứ Sử ở thành Hoa Lư,Khác thường từ thuở còn thơ,Rủ đoàn mục tử mở cờ bông lau ...Đào Duy Từ thuở nhỏ cũng là mục đồng, con của Đào Tá Hán làm nghề hát tuồng và Bà Kim Chi là người hiếu học, nên sau được Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên được phong chức Nha Úy Nội Tán, tước Lộc Khê Hầu, Quan Quản nội ngoại quân cơ, Tham lý quốc chánh và Cụ Đào Duy Từ là người đứng ra tổ chúc đắp xây lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc và lũy Định Bắc Trường Thành dọc theo sông Nhật Lệ tục gọi là Lũy Thầy Đồng Hới để ngăn chận hữu hiệu quân Chúa Trịnh.Viết huyền thoại về Trâu còn dài dài, nếu kể thêm các lịch sử tương truyền bên Tàu hoặc đi vào văn chương sách vở thì không thể kể hết được, cho nên xin tạm ngưng ở đây, khi có dịp sẽ nối tiếp.Trước khi tạm kết thúc bài này, tôi xin trích dẫn thời gian 10 năm những năm con Trâu vừa qua và sắp tới có Hành như thế nào? để cống hiến quý bà con đồng hương nhàn lãm hoặc xem mình có phải sanh đúng năm Sửu hay không như dưới đây :Tên NămThời GianHành Gì?Tân Sửu19-02-1901 đến 07-02-1902ThổQuý Sửu06-02-1913 đến 25-01-1914MộcẤt Sửu25-01-1925 đến 12-02-1926KimĐinh Sửu11-02-1937 đến 30-01-1938ThủyKỷ Sửu29-01-1949 đến 16-02-1950HỏaTân Sửu15-02-1961 đến 04-02-1962ThổQuý Sửu03-02-1973 đến 22-01-1974MộcẤt Sửu20-02-1985 đến 08-02-1986KimĐinh Sửu07-02-1997 đến 27-01-1998ThủyKỷ Sửu26-01-2009 đến 13-02-2010HỏaVà nhân đây, xin trích dẫn các ngày Tết nguyên đán kể từ năm Tân Mão 2011 đến năm Quý Mão 2023 để cống hiến quý bà con đồng hương thưỡng lãm như sau:- Tết Tân Mão, nhằm thứ năm, 03-02-2011 *
- Tết Nhâm Thìn, nhằm thư hai, 23-01-2012 **- Tết Quý Tỵ, nhằm chủ nhựt, 10-02-2013 **- Tết Giáp Ngọ, nhằm thứ sáu, 31-01-2014 *- Tết Ất Mùi, nhằm thứ năm, 19-02-2015*- Tết Bính Thân, nhằm thứ hai, 08-02-2016 **- Tết Đinh Dậu, nhằm thứ bảy, 28-01-2017 *- Tết Mậu Tuất, nhằm thứ sáu, 16-02-2018 *- Tết Kỷ Hợi, nhằm thứ ba, 05-02-2019 *- Tết Canh Tý, nhằm thứ bảy, 25-01-2020 *- Tết Tân Sửu, nhằm thứ sáu, 12-02-2021 *- Tết Nhâm Dần, nhằm thứ ba, 01-02-2022 **- Tết Quý Mão, nhằm chủ nhựt, 22-01-2023 *Kính chúc tất cả gia đình quý bà con đồng hương năm mới Vạn Sự Cát Tường.
____________________________
Cước Chú : Những năm có một dấu * thì Tết có ngày 30, còn những năm có hai dấu ** thì Tết không có ngày 30, nên đón giao thừa vào giữa đêm 29, vì tháng thiếuHàn Lâm Nguyễn-Phú-ThứMừng Xuân Kỷ Sửu 2009
SƠN TRUNG * HỘI HOA ANH ĐÀO
HỘI HOA ANH ĐÀO
SƠN TRUNG
Đại Nhật vương quốc và Thiên Nam vương quốc có một mối liên hệ mật thiết. Thiên Nam quốc là một quốc gia chậm tiến ở cạnh Thái Bình dương, luôn luôn bị ngoại xâm và nội chiến. Đại Nhật vương quốc là một quốc gia thịnh vượng, văn minh bậc nhất trong vùng này. Đại Nhật vương quốc đã sản xuất các hàng hóa tối tân và xuất cảng khắp nơi trên thế giới. Đại Nhật vương quốc năm ngoái đã viện trợ cho Thiên Nam quốc một ngân khoản tương đương ba trăm ngàn lượng vàng, và cũng đã xuất cảng nhiều hàng hóa sang Thiên Nam quốc.
Nhân ngày quốc khánh của Thiên Nam quốc, quốc vương nước này bèn gửi sứ điệp đến các sứ quán ngoại quốc, yêu cầu họ đóng góp vật chất và tinh thần cho ngày quốc khánh nước này. Sứ quán Đại Nhật tại Thiên Nam gửi sớ về quốc vương Đại Nhật báo cáo việc này, và đề nghị tổ chức một ngày văn hóa tại Thiên nam quốc. Vua Đại Nhật bèn ra lệnh quan thượng thư bộ Ngoại giao và bộ Văn hóa Đại Nhật họp bàn kế hoạch thực hiện ngày Văn hóa này. Cả hai bộ thống nhất ý kiến là tổ chức một hội hoa anh đào tại nước Thiên Nam.Tòa Đại sứ Đại Nhật tại Thiên Nam quốc đã được thông báo đầy đủ chi tiết, được yêu cầu đứng ra tổ chức hội hoa anh đào và lo mọi thủ tục cùng thu xếp nơi ăn, chốn ở cho phái đoàn văn nghệ sĩ gồm vài chục người.
Phái đoàn Đại Nhật đã mang theo một chuyến máy bay đặc biệt chở hàng trăm cây anh đào, cùng đội trống, ban nhạc, và một đoàn vũ công sang Thiên Nam quốc biểu diễn.Thấm thoắt đã giữa mùa xuân, đoàn văn hóa Đại Nhật đã đến kinh đô Thiên Nam quốc. Họ thuê hẳn một khách sạn lớn để ăn ở và chuẩn bị mọi thứ. Hội hoa anh đào sẽ được tổ chức một ngày tại cơ sở Văn hóa quốc gia ở phố Đại Thắng lợi, là trung tâm điểm của kinh đô Bắc kinh của Thiên Nam quốc. Trung tâm này rất rộng lớn, có một khu vườn hoa rộng rãi, giống như một vườn Bách thảo, bên trong cùng bên ngoài có những sân khấu lớn có thể chứa chục ngàn người.
Vì là mùa xuân, khí hậu mát mẻ, và trời có nắng ấm nên ban tổ chức dùng sân khấu ngoài trời để tổ chức ngày văn hóa. Trước mặt sân khấu là vườn hoa cho nên đoàn Văn hóa Đại Nhật đã mang năm trăm cây anh đào kết lại thành một cây anh đào rất to cao, có cả vạn cành hoa rất tuyệt vời. Trên sân khấu, các nghệ sĩ Đại Nhật đánh trống rất nhịp nhàng và hùng dũng. Bên cạnh, các cô gái Đại Nhật mặc quốc phục của họ rất sặc sở đầy ấn tượng. Trong vườn hoa, cũng có nhiều cây anh đào làm cho khán giả như lạc vào một rừng hoa anh đào tươi thắm. Bên cạnh các cành anh đào, nhân viên phuc vụ người Đại Nhật đã bày ra hàng dãy bàn dài, khoảng hai trăm bàn bánh, trái, mứt, kẹo, cà phê, trà cùng các thực phẩm khác của Đại Nhật quốc để khách Thiên Nam và quốc tế thưởng thức những nét đặc thù của văn hóa Đại Nhật.Đúng chín giờ sáng thì ban tổ chức mở cửa. Khởi đầu là xe của chính phủ Đại Nhật và Thiên Nam tiến vào, sau là các thượng khách của các quốc gia bạn cùng các phái đoàn thông tín và báo chí các nước. Và cuối cùng là dân chúng Thiên Nam và một số khách du lịch được phép vào xem tự do.Bổng người ta thấy hàng trăm trẻ em trai và gái người Thiên Nam xuất hiện, tuổi khoảng mười bốn, mười bảy, chúng không vào cổng chính, chúng công kênh nhau qua bức tường của cơ sở văn hóa quốc gia mà vào bên trong. Trong chốc lát, chúng ngắt trụi các hoa anh đào và ăn sạch các thực phẩm bày biện trên các bàn. Nếu ăn không hết, chúng vơ vét mang theo hoặc vứt bừa bãi. Trong khoảng vài phút thì chúng đua nhau chạy ra ngoài và biến mất trong các ngỏ hẽm của kinh đô Thiên Nam.
Thái độ của bọn trẻ này đã khiến các cô gái Đại Nhật hoảng sợ và các quan khách ngoại quốc ngạc nhiên vô cùng. Tuy nhiên, các sở thông tấn ngoại quốc thì vô cùng sung sướng vì được môt dịp chụp những bức ảnh lạ trong đời.Trước sự kiện này, các báo chí trong nước im lặng, không một tờ bào nào đả động đến việc thiếu nhi đại phá hội hoa anh đào. Báo chí Đại Nhật cũng im lặng vì sợ động chạm đến bang giao của hai nước.
Một tờ báo Hàn quốc viết:Cuộc triển lãm văn hóa Đại Nhật tại Thiên Nam đã thất bại vì tình hình an ninh ở thủ đô Thiên Nam không bảo đảm.Trước mắt quốc tế, bọn cướp, bọn vô gia cư và bọn hành khất lộng hành mà cảnh sát ở đây chỉ khoanh tay nhìn.
Một tờ báo Pháp bình luận:
Ở Thiên Nam ngày nay rất có tự do. Không thấy có hiønh bóng quân đội hoặc cảnh sát ngoài đường phố. Những thanh niên nổi loạn đã vào ra tự do, không hề bị ngăn chận hay bắt giữ. Đó là môt sự tiến bộ vượt bực không thể phủ nhận của nước Thiên Nam ngày nay.
Một tờ báo Mỹ viết:Vương quốc Thiên Nam tự hào đã xóa đói giãm nghèo, nâng cao đời sống gấp năm, gấp mười thời trước, Nhưng sự kiện xảy ra tại hội hoa anh đào trong tháng hai vừa qua cho thấy thiếu nhi tại Thiên Nam đã bị đói khát cho nên chúng đã ngang nhiên cướp thực phẩm trước con mắt quốc tế mà không hề e sợ. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Đói ăn vụng, túng làm càn “, chứng tỏ nền kinh tế Thiên Nam sụp đổ, xã hội bất công, trong khi có những nhà tư bản đỏ mua xe hơi hàng triệu Mỹ kim thì trẻ con và dân nghèo bị bỏ đói vô cùng thê thảm.Một tờ báo Anh quốc có cái nhìn sâu sắc hơn:Thiên Nam từ trước là một quốc gia có mấy ngàn năm văn hiến, và chú trọng giáo dục. Gia đình, học đường và xã hội luôn chú ý đến đạo đức nhưng nửa thế kỷ nay, nền giáo dục Khổng Mạnh đã bị hủy bỏ,học sinh như con vẹt được dạy ca tụng lãnh tụ, bắt đấu tố cha mẹ. Ngoài đường phố, nạn chửi thề, nói tục, phổ biến. Trong cơ quan, triều đình không tuyển chọn người tài đức mà tuyển chọn kẻ gian ác và nịnh hót. Trong các bộ viện, từ trung ương tới địa phương , nạn tham ô, nhũng lạm, ăn cướp của công và tài sản nhân dân càng ngày càng công khai và phổ biến. Bầu cử thì gian dối , pháp luật thì bất công, học đường thì mua bán băng cấp. . . Một nền giáo dục như thế chỉ đào tạo lưu manh và trộm cắp thì không có gì là lạ lùng!
Về phía dân chúng Thiên Nam thì họ thảo luận rất sôi nổi. Trong một xóm nhỏ, Bà Sáu bảo :-Bác Tư ơi! Hôm qua tại hội hoa anh đào của người Đại Nhật, trẻ con thủ đô Bắc kinh đã xông vào ngắt hoa và ăn hết các bánh kẹo mời khách!
Ông Tư bình phẩm-Trẻ con bây giờ mất dạy quá! Ai lại trước mắt quốc tế mà làm như vậy không sợ thiên hạ chê cười! Xấu hổ quá.Bà Năm nói:-Ngày thường, đường phgố đầy cảnh sát, tại sao trong lễ hội quốc tế lại không có cảnh sát? Tại sao cảnh sát để trẻ con vào làm loạn như thế?
Ông Tám cười mà nói:-Chúng là con ông cháu cha đấy. Chúng đua xe gắn máy, chúng cướp gái nhà lành chẳng ai dám dám ho he, cảnh sát cũng bó tay thôi!
Ông Sáu nói:-Nước Đại Nhật tội gì mà tổ chức hôi hoa anh đào cho tốn tiền bạc và công phu! Dính với hủi làm chi cho khổ thân!Cuối cùng, nhà vua Thiên Nam cũng được báo cáo tình hình vụ phá hội hoa anh đào.
Vua ra lệnh cho Hình bộ thượng thư điều tra trách nhiệm về ai. Bộ Hình tâu :
-Muôn tâu bệ hạ, việc giữ an ninh trong kinh đô là trách nhiệm của quan Ngũ môn Đô thống.Quan Đô thống quỳ xuống tâu:
-Chức vụ Đô Thống là chống phản loạn, bảo vệ hoàng thành và bảo vệ vua, còn việc trộm cắp là do các cơ quan an ninh và cảnh sát các quân, huyện phụ trách.
Vua cho gọi viên giám đốc sở an ninh kinh đô thì ông tâu như sau:
-Muôn tâu bệ hạ, tình hình kinh đô rất tốt đẹp, không hề có phản động hay gián điệp quấy phá. Chẳng qua là đám trẻ con thấy lạ thì vui đùa quá trớn mà thôi. Vì lòng từ bi mà cảnh sát không điều động binh mã để bắt trẻ con. Nếu làm như thế, bọn quốc tế sẽ cho ta là đánh đập, giam cầm và ngược đãi thiếu nhi, vi phạm nhân quyền.
Đức vua nghe xuôi tai cho nên không hỏi đến việc này nữa mặc cho quốc tế và nhân dân kẻ nói ngược, người nói xuôi.It lâu sau, bản tin thông tấn Đại Nhật cho biết viên thứ trưởng bộ Văn hóa Đại Nhật và Đại sứ Đại Nhật tại Thiên Nam từ chức vì đã phạm sai lầm trong việc tổ chức hội hoa anh đào tại Thiên Nam quốc. Các báo chí hai nước Đại Nhật, Thiên Nam và quốc tế xôn xao vì trên thế gian này không ai lại chịu trách nhiệm về hành vi vô văn hóa của quốc gia bạn. Nhân dân và báo chí làm ầm ĩ vụ này, họ viết thư, gọi điện thoại, họ gửi fax và e mail yêu cầu chính phủ Đại Nhật giải thích.
Trước áp lực của quần chúng, Bộ Văn hóa và Thông tin Đại Nhật tuyên bố sẽ mở một cuộc họp các ký giả để giải thích rõ ràng thể theo yêu cầu của dân chúng và giới truyền thông quốc tế.Trong phòng họp, viên thứ trưởng văn hóa lên nói:
Thưa các đại biểu,
Thưa đồng bào trong nước,
Thưa nhân dân thế giới,
Thưa các thông tín viên báo chí,
Tôi xin nhận trách nhiệm là tôi và các nhân viên bộ văn hóa đã kém cỏi về ngôn ngữ và văn tự Thiên Nam cho nên đã làm cho hội hoa anh đào bị phá hoại.
Sau đó, họ cho chiếu cuốn phim về việc tùy viên văn hóa Đại Nhật tiếp xúc với Giám Đốc Sở An Ninh kinh đô Bắc kinh của Thiên Nam quốc.Cuộn phim bắt đầu là hình ảnh cuộc tiếp xúc giữa tòa đại sứ Đại Nhật và chính quyền Thiên Nam quốc.
Tuỳ viên văn hóa Đại Nhật nói:-Tòa Đại sứ chúng tôi thể theo lời yêu cầu của quý quốc mà quyết định tổ chức hội hoa anh đào tại thủ đô Bắc kinh của quý quốc, xin quý vị nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi.Giám đốc Sở An Ninh bắt tay tuỳ viên sứ quán và nói:
-Rất hân hạnh. Xin ông cho biết quý quốc sẽ có những tiết mục nào để chúng tôi biết mà sắp đặt công việc.
Tùy viên sứ quán trình bày:
-Chúng tôi sẽ mở hội văn hóa, triển lãm hoa anh đào, đánh trống, và ca vũ nhạc. Xin cho chúng tôi mượn một nơi rộng rãi khang trang.Hai bên thỏa thuận về địa điểm, ngày giờ tổ chức. Và hai bên cũng thỏa thuận các điều kiện khác. Hai bên chào nhau ra về.
Trước khi ra cửa, ông giám đốc sở An Ninh dặn đi dặn lại nhiều lần:
Xin quý ông tôn trọng luật lệ nước tôi và các thủ tục đầu tiên.
Sau khi cuộc triển lãm hoa bị phá hoại, ông đại sứ và tùy viên văn hóa mở cuộn băng ra xem nhiều lần mà cũng không tìm ra nguyên nhân thất bại. Một hôm, một cặp vợ chồng người Đại Nhật vốn là bạn của ông đại sứ đi du lịch châu Á, nhân tiện ghé thăm Thiên Nam quốc, và đến tòa đại sứ thăm bạn cũ. Người vợ của ông bạn là người Thiên Nam quốc, và bà cũng được mời xem cuộn băng quay ngày hội hoa anh đào. Bà xem từ đầu đến cuối, rồi hỏi ông đại sứ:
-Ông hối lộ cho họ bao nhiều đô la?
Ông đại sứ ngạc nhiên đáp:
-Luật lệ nước Đại Nhật nghiêm khắc trị tội hối lộ. Làm sao tôi có thể hối lộ được? Hơn nữa, trong buổi họp song phương, bên Thiên Nam không hề đưa ra đòi hỏi về tiền bạc. Tại sao bà lại nói về việc hối lộ?
Bà đáp:
Việc đòi hối lộ đã rõ trong lời nói của tên giám đốc sở An Ninh: Tiếng Thiên Nam nói lái: “Đầu tiên” là “tiền đâu”?
Thủ tục đầu tiên là phải nộp tiền hối lộ. Nếu ông chi tiền cho họ, họ sẽ sai công an đến canh gác. Vì ông không hiểu tiếng lóng và không hối lộ nên họ sai người đến phá hoại cho bỏ ghét. Đó là đường lối mới , phong cách mới, và nét đặc thù mới của văn hóaThiên Nam ngày nay sau một thời gian theo chủ nghĩa Đại đồng!
(Sơn TrungSON TRUNG TRUYEN KY- MÁI TRUỜNG PHƯỢNG ĐỎ)
http://son-trung.blogspot.com/
===
Phần lớn truyện ngắn của Sơn Trung là dựa trên sự thật lịch sử của đất nước Việt Nam, truyện Hội hoa Anh Đào trên đây cũng vậy.
XIN XEM THÊM CAC HÌNH ẢNH CỦA CÂU CHUYỆN TƯƠNG TỰ XẢY RA ĐẦU THÁNG 1-2009 TẠI HA NOI Ơ CÁC ĐIA CHỈ SAU :
http://www.rfa.org/vietnamese/
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/
http://www.voanews.com/vietnamese/
From: http://us.mc354.mail.yahoo.com/mc/compose?to=kimtoan35@yahoo.com <http://us.mc354.mail.yahoo.com/mc/compose?to=kimtoan35@yahoo.com>
Một độc giả đã gửi e mail như sau:
Subject:
Nhân dân ta dự lễ hội Hoa Anh Đào !
Thua quy vi.
Anh Dam Thao co gui cho quy vi link you tube duoi day :"Le hoi hoa Anh Dao/ Hanoi/2009".
Cau chuyen nhu the nay. Nha cam quyen CS mo hoi hoa Anh Dao tai Hanoi tu ngay 1 den 5 thang 1 nam 2009.Le hoi duoc chuan bi rat cong phu, nhung chi sau khi khai mac, thanh nien Ha Thanh (Dat nghin nam van vat hay noi cach khac Hanoi la cai noi van hoa cua ca nuoc) da pha sach.Khong phai vi phan doi nha cam quyen ma vi thieu y thuc cong dan. Day khong phai la lan dau co su kien dang buon xay ra. Nam 2008, nguoi Nhat da dem hoa Anh dao den trung bay trong le hoi tai Hanoi, cung bi pha nat truoc mat nhung nguoi Nhat. Ho da ngao ngan lac dau.Xin quy vi mo link duoi day se thay ro hon
:http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/flower-festival-in hanoi-a cultural disappointment-01082009125325.html . tuc la dai A Chau Tu Do (RFA).
Nen doc cho biet . Nhung trieu chung bao dong cho tuong lai cua dan toc. Mot nen giao duc khong chu trong y thuc dao duc, nhan ban...ChÚ :From: Thao T Dam <http://us.mc354.mail.yahoo.com/mc/compose?to=thaodam@yahoo.com>Subject: Nhân dân ta dự lễ hội Hoa Anh Đào !To:http://www.youtube.com/watch?v=3IdolO05M9I&eurl=http://video.rfvn.com/?p=5767
===
Sơn Trung chú thích về tài liệu và hình ảnh về lễ hội hoa anh đào tháng 4- 2008:
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Cache/Image/805/253805.jpg
http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200804/original/images1531207_anh-dao.jpg
http://vtc.vn/newsimage/original/vtc_107321_adao1.jpg
http://www.tin247.com/vnexpress/080406174502-479-660.jpg
http://www.laodong.com.vn/Home/Le-hoi-hoa-Anh-dao-tham-troi-Ha-Noi/20074/31146.laodong
*
Sau đây là ý kiến của đồng bào trong nước về lễ hội Hoa Anh Đào ở Hà Nội tháng 4 năm 2008 qua các báo chí:
Lễ hội hoa anh đào ở Việt Nam
300 cành hoa anh đào tươi chuyển từ Nhật Bản sẽ được dựng thành 3 cây lớn trong lễ hội hoa anh đào, tổ chức tại Trung tâm Triển lãm VN (Hà Nội) ngày 6/4.
Tại lễ hội, công chúng sẽ được tham dự nhiều hoạt động mang đậm dấu ấn văn hoá truyền thống Nhật Bản: giới thiệu ẩm thực, chơi tung bóng Kendama, ném vòng Wanage, trình diễn kimono, trình diễn các môn võ Nhật Bản...
Ban tổ chức còn mang tới lễ hội 300 lồng đèn cá chép, biểu tượng cho may mắn, sức khoẻ, hạnh phúc...
Những cành đào tươi được chuyển bằng máy bay sang Việt Nam vào lễ hội hoa anh đào năm 2007. Ảnh: Nguyễn Hưng.
Đặc biệt, 2 đội múa tới từ Tokyo và Harajuku (Nhật Bản) và 4 đoàn của Việt Nam sẽ trình diễn màn múa dân gian nổi tiếng Yosakoi. Hoạt động này do hai hội giao lưu văn hoá Nhật - Việt và Việt - Nhật phối hợp tổ chức nhân kỷ niệm 35 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Lễ hội hoa anh đào được tổ chức ở nhiều nước trên thế giới như Hàn Quốc, Mỹ... Lần đầu tiên, lễ hội hoa anh đào diễn ra ở Việt Nam vào năm 2007, thu hút rất nhiều các bạn trẻ tham dự.
Anh Thư
http://www.vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2008/04/3BA00F67/
"T tham gia lễ hội từ A->Z, lại học ở Núi Trúc, thấy các thầy cô chu đáo và bỏ công sức ra chuẩn bị cho lễ hội nhiều như thế nào, t càng thấy xấu hổ và xót xa khi những cành anh đào bị bẻ. Không biết các thầy cô sẽ nghĩ gì khi bọn t quay lại lớp học nữa. Buồn thay cho thanh niên Việt.
Lâm Thanh - - jacky_alone_1988@yahoo.com
Các bạn có thấy ảnh cuối cùng không. Người ta mang từ Nhật sang có vài cành anh đào để giới thiệu với chúng ta. Thế mà các teen của Việt Nam lại thi nhau bẻ, nói thực là rất xấu hổ với mấy thầy cô giáo người Nhật
http://images.google.com/imgres?imgurl=http://www.hoahoctro.vn/upload/20080406/Sakura%25202/le%2520hoi%2520hoa%2520anh%2520dao%2520031.jpg&imgrefurl=http://www.hoahoctro.vn/tin247/13877.hht&usg=__NbR82qwyF15r0qlOgjXIAkYeXlo=&h=300&w=400&sz=78&hl=en&start=1&tbnid=MBNd4LctPD3n4M:&tbnh=93&tbnw=124&prev=/images%3Fq%3Dhoi%2Bhoa%2Banh%2Bdao%26hl%3Den
"Nhưng màn "ấn tượng" nhất của lễ hội này không dừng lại ở đó. Phải nói là "ấn tượng đến kinh hoàng" mới đúng. Đó là khi những người VN "quả cảm" nhằm lúc bảo vệ lơ là, xông vào tàn phá không thương tiếc những cây hoa anh đào, thật không tha-giả không thương. Họ thi nhau vặt, bẻ những cành anh đào yếu ớt. Cây anh đào trắng đẹp nhất trong 3 cây thật-cũng được bảo vệ kĩ càng nhất đã nhanh chóng trở nên trơ trụi. Còn những cây giả thì cũng bị xâu xé, nhổ sạch từ gốc đến ngọn."
http://images.google.com/imgres?imgurl=http://i158.photobucket.com/albums/t102/petit3lf/DSCN5399.jpg&imgrefurl=http://blog.360.yahoo.com/blog-UdmdI6ohfrLpTjzq2uon1g--%3Fcq%3D1%26p%3D366&usg=__qDV8ETJFv2coce-BknG2dG1o7wk=&h=1024&w=768&sz=193&hl=en&start=15&tbnid=WX-2AeXCjceGeM:&tbnh=150&tbnw=113&prev=/images%3Fq%3Dhoi%2Bhoa%2Banh%2Bdao%26hl%3Den
Tuổi trẻ, ừ ai chẳng biết tuổi trẻ phải yêng hùng, phải cá tính, phải làm những cái gì đó bất quy tắc, phải thể hiện mình. Nhưng mà thể hiện nhưng nào để vẫn còn là người có văn hóa, biết trân trọng cái đẹp.Lễ hội hoa tưởng chừng là một sự thể hiện của một nét văn hóa mới nhưng vô tình lại trở thành nơi thể hiện rõ nhất sư thiếu hụt về ý thức công cộng của chúng ta. Nếu lễ hội hoa tết và lễ hội hoa anh đào chỉ là một bằng chứng rõ nhất về sự thiếu hụt ý thức chung, còn bao nhiêu biểu hiện của sự thiếu hụt ý thức nữa mà chúng ta đã, đang và sẽ vô tư mắc phải
http://images.google.com/imgres?imgurl=http://images7.dantri.com.vn/Uploaded/duykhanh/anhdao/DSC02240.gif&imgrefurl=http://vatlysupham.hnue.edu.vn/viewtopic.php%3Ff%3D20%26t%3D5968&usg=__f4yCVaHMvgvNWqgKnypp87_vmf8=&h=263&w=350&sz=64&hl=en&start=37&tbnid=_gFndAV09_Rq9M:&tbnh=90&tbnw=120&prev=/images%3Fq%3Dhoi%2Bhoa%2Banh%2Bdao%26start%3D20%26ndsp%3D20%26hl%3Den%26sa%3DN
"Vui thì đã rõ: hơn một vạn người, chủ yếu là bạn trẻ, đến với lễ hội - chứng tỏ giới trẻ VN không thờ ơ với những sự kiện văn hóa và mang tinh thần học hỏi, hội nhập. Buồn vì một số bạn dự lễ hội mà có nhiều thái độ ứng xử không hiểu nổi nơi công cộng!" - một thành viên ban tổ chức lắc đầu.
Ban tổ chức lễ hội đã mở hết các cánh cổng để khách vào. Tuy nhiên, nhiều bạn trẻ công kênh nhau bật tường rào để vào trong trước những ánh mắt ngỡ ngàng của nhiều người Nhật đang xếp hàng vào cổng cạnh đó. Hai thiếu nữ Nhật với trang phục kimono sợ đến phát run lên nép mình vào hàng rào khi có bạn trẻ cười sỗ sàng: "Đẹp quá, cho đây sờ thử một cái!".Một đôi tay ngọc ngà hăm hở bẻ hoa -
Ban tổ chức đã bố trí các gian hàng trưng bày và bán các loại thức ăn nhanh, ăn nhẹ ở hai phía sảnh lễ hội. Nhưng chưa đến 13g, toàn bộ hai bên sảnh ngập rác, trong khi các thùng rác được bố trí hầu như trống rỗng!
Khoảng 15g, khi lễ rước kiệu Yosakoi từ trung tâm tiếng Nhật trên phố Núi Trúc tới khu vực Trung tâm triển lãm Giảng Võ chưa dứt thì khá đông bạn trẻ cả nam lẫn nữ ào ạt, xô đẩy nhau tới ba cây hoa anh đào thật (mà nhiều nghệ nhân đã mất nhiều thời gian để ghép từ 300 cành hoa) tranh nhau... bứt hoa bẻ cành! Trong chớp nhoáng, những cây hoa anh đào bị "tiêu diệt" gọn. Bảy cây hoa anh đào giả, hoa làm bằng lụa cùng với đèn lồng được ban tổ chức bố trí các góc sân cũng bị bẻ trụi. Thậm chí những dàn lưới treo lơ lửng hoa anh đào cũng bị nhiều bạn kiệu nhau lên "thanh toán" nốt!"Đó không chỉ là một hành động đáng xấu hổ mà còn làm bạn bè quốc tế nhìn và nghĩ khác về con người Việt Nam".(Nguyễn Tất Dũng, SV Trường ĐH Kiến trúc)
" Nếu các hành động tương tự của các bạn trẻ cứ tiếp diễn, chắc không chỉ Nhật Bản mà không ít các nước khác sẽ ngần ngại khi dự định tổ chức lễ hội ở VN".(Nguyễn Hồng Nhung, HS Trường THPT Nguyễn Huệ - Hà Đông, Hà Tây)
Hành động đáng xấu hổ. Ngay tại lễ hội, nhiều bạn trẻ chứng kiến đã có một cảm giác chung: "Đáng xấu hổ với những người bạn Nhật"!Đưa cháu gái đi dự lễ hội, bác Hà Thu Anh, khu tập thể Ngọc Khánh (Hà Nội), luôn để mắt trông chừng và dặn cô cháu gái 15 tuổi: "Không được bứt một cánh hoa anh đào!". Khi chứng kiến cảnh "tàn phá” vào cuối buổi chiều, bác Thu Anh lắc đầu ngán ngẩm: "Thật đáng xấu hổ!" .
Khi chứng kiến cảnh các bạn trẻ VN tranh giành nhau bứt hoa bẻ cành, cô giáo Iurumi khá ngỡ ngàng hỏi các học trò VN của mình: "Như vậy là sao?". Học trò của cô không biết trả lời thế nào. Cô giáo Iurumi lắc đầu: "Ở Nhật, các bạn trẻ đều rất tôn trọng văn hóa công cộng và vì lợi ích chung".
TRẦN ĐÌNH TÚ
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=251482&ChannelID=7
Thật buồn khi người dân Thủ đô ta lại có những việc làm không hay như vậy. Vẫn biết là hoa anh đào đẹp thật và biết rằng đại đa số người dân ta đâu có nhiều dịp được sang tận nơi sản sinh ra loài hoa này vậy nên được tận mục sở thị này đã làm các bạn thoả mãn một cách thái quá. Hoa chỉ đẹp khi chúng ta biết cách thưởng thức nó theo một ý nghĩa văn hoá. Không chỉ cho chính chúng ta mà còn là nét đẹp của văn hoá Việt Nam trong con mắt của bạn bè quốc tế. Các thiếu nữ ư? Chính họ đã là loài hoa đẹp của tạo hoá rồi. Vậy nếu như thế nào khi có ai vô tình bẻ mất cánh tay mềm mại của bạn giống như việc mà các bạn đang làm với loài hoa đẹp kia? Đặng Tiến Năm, Vũng Tàu, email:dangtiennamvt_1982@...
Em là người tận mắt chứng kiến cảnh người ta tàn phá cây đào (phía trái sân khấu) không thương tiếc
Em là một người đã tham gia trực tiếp lễ hội hoa đào, bạn em cũng học tiếng Nhật ở trung tâm núi Trúc. Em thấy đó là một lễ hội quá tuyệt vời, tuy hơi chen lấn và mệt một chút, nhưng rát vui và bổ ích, em tin rằng nếu có một lễ hội như thế nữa, em cũng sẽ tham gia. Em cũng là người tận mắt chứng kiến cảnh người ta tàn phá cây đào (phía trái sân khấu) không thương tiếc. Khi các bạn Nhật Bản đang biểu diễn một điệu múa truyền thống rất đẹp mà không tỏ ra mệt mỏi, thì có những thanh niên ngang nhiên trèo lên cây đào bẻ cành ném xuống, chỉ cần một người dám là tất cả đều dám lấy một cành làm kỷ niệm cho mình. Thế mà, khi có người hét lên thông báo, thì các bác bảo vệ cũng chỉ đứng nhìn, ngao ngán... Trong phút chốc, em không chỉ thấy tiếc nuối, mà còn căm phẫn hết mức, ức chế vô cùng... Không chỉ thế, ngay cả học sinh đang mặc đồng phục cũng tham gia, em đã nhắc và bảo không nên làm vậy nhưng không ai nghe, em cũng chẳng biết làm gì, rất chán...
Chương trình đáng lẽ kéo dài đến 6h30 nhưng sau đó có nhiều xích mích nên phải hoãn lúc 6h, bạn em kể phía Nhật Bản họ rất buồn và bức xúc. Phải chăng chúng ta đã coi thường văn hoá của họ, chúng ta đã coi thường thành ý của người ta, chúng ta có dám mong một lễ hội như thế năm sau nữa không? Em thấy buồn quá, thật là "con sâu làm rầu nồi canh", phải làm sao để thế hệ sau biết nghĩ nhiều hơn và ý thức cao hơn?Trịnh Tùng Anh THPT Marie-Curie-HN
Đọc bài báo này tôi cảm thấy xấu hổ thay!. Tại sao mọi người có thể hành động như vậy. Dù sao cũng là "người Hà Nội thanh lịch" mà, nhất là các cô gái "xinh đẹp" thế. Bạn bè quốc tế sẽ nghĩ gì về chúng ta đây. Thật đáng buồn. Trần Tuấn Minh, Hà Nội, email: tr.tuanminh@...
Đây là một hành vi vô cùng thiếu văn hóa . Những người góp phần tham gia vào lễ hội như chúng tôi thấy vô cùng xấu hổ vì hành động này của một số ít người, thậm chí có bạn bẻ cả 1 cành to, cả đào thật và đào giả cũng không tha, lại còn cười nói vui vẻ như mình vừa làm được một việc tốt. Mong người Việt chúng ta hãy nâng cao ý thức và tinh thần trách nhiệm hơn nữa. Nguyễn Thị Nga Linh, email: nguyenngalinh@...
Các bạn có bao giờ ý thức được công việc của mình làm không? Có cảm thấy xấu hổ không? Nếu bạn đang sống ở nước ngoài thì bạn sẽ giải thích thế nào cho người nước ngoài hiểu về hành động của các bạn? Ý thức của những người như vậy cực kỳ kém mặc dù đang sống ở Thủ đô. Trước khi làm một việc gì, mong các bạn tự ý thức được hành động của mình. Nguyễn Danh Thắng, Nha Trang, email: ndt_lucky2003@...Có thể nói, đây là sự tiêu biểu cho sự vô ý thức, sự ích kỉ (muốn đưa cái đẹp về nhà riêng của mình)... của một bộ phận không nhỏ trong chúng ta. Ngay ở Hà Nội nghìn năm văn hiến mà còn xảy ra chuyện này thì thật đáng phải suy nghĩ. Mong mọi người kịp thời suy nghĩ để không tái diễn! Long, HCM, email: lytieulong98@...
Phải xem lại ý thức của những người đã hái hoa. Mọi người đều biết rằng hoa Anh đào là biểu tượng của nước Nhật. Ai đã từng sống và học tập tại Nhật mới biết sự trân trọng của người Nhật với loài hoa này. Hiện đang là mùa anh đào ở Nhật. Đây là một hình ảnh không đẹp về văn hoá. Nguyễn Vũ Trung, Hà Nội
Ý thức của những người "vặt hoa" thật là kém, thật đáng buồn. Với cách xử sự thiếu lịch sự, thiếu hiểu biết và ích kỉ như thế này thì liệu có ai muốn mang hoa sang nước ta một lần nữa không. Liên hệ sang giao thông Việt Nam thì ý thức này chính là nguyên nhân gây ra ùn tắc giao thông ở Việt Nam. Để thay đổi ý thức này cần phải giáo dục tốt cho thế hệ trẻ và có hình thức xử phạt đủ mạnh mới mong làm thay đổi tình trạng này. Email: tuananhpy98@...http://vietnamnet.vn/bandocviet/2008/04/777147/
TRẦN BÌNH NAM * XUÂN KỶ SỬU (2009) NHỚ TẾT MẬU THÂN (1968)
Từ Xuân Kỷ Sửu 2009 nhìn về:Những điều chưa giải mã trong trận Mậu Thân 1968
Trần Bình Nam
Đến Xuân Kỷ Sửu (2009) này là 41 năm sau trận Mậu Thân 1968, trận đánh làm chuyển hướng cuộc chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên nhiều câu hỏi vẫn còn tồn tại đối với các nhà nghiên cứu. Cái kết quả kỳ lạ của nó là phía cộng sản Bắc việt thua trên chiến trường nhưng đạt được kết quả chính trị và tâm lý ngoài dự liệu của họ. Tướng Võ Nguyên Giáp, người hoạch định và chỉ huy cuộc tổng tấn công không phải là người nguyên thủy chủ trương cần có cuộc tấn công.Cuối năm 1965 khi Giáp đưa các sư đoàn thiện chiện của Bắc Việt thử lửa với sư đoàn kỵ binh không vận của Hoa Kỳ (một sư đoàn di chuyển hoàn toàn bằng trực thăng) và cuối cùng đánh không lại phải chạy thoát thân sang bên kia biên giới Cam bốt, ông biết quân đội Bắc việt không thể đánh trực diện với quân đội Hoa Kỳ. Theo ông Giáp cuộc chiến đấu để chiếm miền Nam chỉ có thể thực hiện bằng chiến tranh hao mòn cho đến khi Hoa Kỳ mệt mỏi. Nhưng bộ ba Lê Duẫn, Trường Chinh và Nguyễn Chí Thanh (đại tướng ngang cấp với Võ Nguyên Giáp) cho rằng cần đánh mạnh đánh mau và đánh một cách liều lĩnh mới hy vọng chuyển đổi thế cờ.Để giải quyết sự bất đồng ý kiến giữa các đàn em thân tín, tháng Tư năm 1967 ông Hồ Chí Minh triệu tập hội nghị Trung ương đảng 13. Hội nghị cân nhắc hai ý kiến là đánh hao mòn của tướng Võ Nguyên Giáp hay đánh chớp nhoáng để chiếm thời cơ .
Với sự ủng hộ của Lê Duẫn, Trường Chinh và Nguyễn Chí Thanh, hội nghị thông qua nghị quyết 13 chuẩn bị đánh mạnh đánh mau để chiếm miền Nam kết thúc chiến tranh. Nghị quyết 13 là lệnh căn bản của trận Mậu Thân 1968 còn gọi là cuộc “Tổng Công Kích, Tổng Khởi Nghĩa”Cho đến nay Hoa Kỳ cũng chưa nắm hết các sự kiện về Mậu Thân. Tháng 6 năm 1997 trong chuyến đi tìm sự thật “Những cơ hội bỏ lỡ” tại Hà Nội phái đoàn McNamara đã ghi trong danh sách nhiều câu hỏi về cuộc chiến đó, nhưng không được trả lời thỏa đáng. Cũng có thể còn nhiều dữ kiện về Mậu Thân còn nằm trong văn khố mật của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.Nhưng tuy còn bí ẩn, giới nghiên cứu cuộc chiến Việt Nam đều đồng ý rằng trận Mậu Thân đã làm thay đổi hướng của cuộc chiến Việt Nam dẫn đến chiến thắng của Hà Nội năm 1975.Trong cuộc chiến Việt Nam Hà Nội, dù được sự giúp đỡ của Nga sô và Trung quốc, không mạnh hơn Hoa Kỳ về mặt quân sự, nhưng có hai yếu tố làm thế của Hà Nội mạnh hơn. Thứ nhất Hoa Kỳ sợ Trung quốc can thiệp như ở Triều Tiên (1950-53) nên năm 1965 khi buộc lòng phải đổ quân đến Việt Nam vì không muốn thấy miền Nam sụp đổ, Hoa Kỳ, qua các lời tuyên bố ngoại giao không úp mở, cho phía cộng sản biết Hoa Kỳ không muốn thấy Hà Nội chiếm miền Nam, và Hoa Kỳ không có ý định lật đổ chính quyền miền Bắc, nên đối với Hà Nội nếu tung mọi nỗ lực vào miền Nam họ chỉ thắng hay hòa.Thứ hai, trong chiến lược bảo vệ miền Nam Hoa Kỳ không có kế hoạch cắt đường tiếp vận của Hà Nội từ Bắc vào Nam qua đường Lào và Cam Bốt. Những cuộc tiến quân ngắn hạn qua Cam bốt năm 1970 và Lào năm 1971 không nằm trong chiến lược ngăn chận vĩnh viển mà chỉ là những hành động ngắn hạn để giải quyết những vấn đề có tính cách chiến thuật. Cuộc hành quân phối hợp giữa quân lực Mỹ và quân đội miền Nam đánh qua Cam bốt tháng 4 năm 1970 cốt phá hủy hậu cứ của quân đội Bắc Việt. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 năm 1971 qua Lào để chận đường mòn Hồ Chí Minh và để trắc nghiệm chương trình Việt Nam hóa chiến tranh.
Không gì làm các nhà lãnh đạo cộng sản yên tâm hơn khi nghe tổng thống Johnson tuyên bố: “Chúng ta không có ý tiêu diệt Bắc Việt. Chúng ta không có ý thay đổi chính quyền tại đó. Chúng ta không có định thiết lập căn cứ quân sự vĩnh viễn tại miền Nam. Chúng ta đưa quân đến Nam Việt Nam cốt để thuyết phục Bắc Việt nên chấm dứt xâm lăng các nước lân bang, và để chứng tỏ cho Hà Nội biết rằng chiến tranh du kích do nước này gây ra chống nước kia sẽ không thể có kết quả. Chúng ta cần cho Bắc Việt biết giá xâm lăng của họ sẽ rất cao để họ chọn lựa giữa thương thuyết hay đơn phương chấm dứt cuộc xâm lăng.” (Diễn văn của tổng thống Johnson đọc trước American Alumni Council ngày 12-7-66).Theo Henry Kissinger (Diplomacy, Easton Press, 1994: Vietnam on the Road to Despair, trang 660) trên nguyên tắc có hai chiến lược để thắng một cuộc chiến tranh du kích:
Thứ nhất, bảo đảm an ninh cho dân chúng, không cho địch tổ chức nhân dân bằng tuyên truyền và khủng bố để thành lập một chính quyền.
Thứ hai, là tấn công vào hậu phương và đường tiếp vận của địch, trong trường hợp Việt Nam có nghĩa mở rộng chiến tranh qua Lào, Cam Bốt và nếu cần đánh ra Bắc Việt.Hoa Kỳ áp dụng chiến lược thứ hai nhưng chỉ áp dụng nửa vời bằng oanh tạc. Tổng thống Johnson không muốn Trung quốc cảm thấy bị đe dọa, không muốn cuộc chiến Việt Nam làm quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết căng thẳng và cũng không muốn chiến tranh làm hỏng chương trình Đại Xã Hội (Great Society) của ông trong nước. Hoa Kỳ giới hạn chiến tranh bằng bộ binh trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam trong khi Bắc Việt xem Đông Dương là một chiến trường toàn bộ.Nhìn lại, cơ quan CIA và các chính trị gia Hoa Kỳ trong lãnh đạo chiến tranh Việt Nam đã không hiểu được Trung quốc nghĩ gì. Do tranh chấp với Liên bang Xô viết Trung quốc không muốn thấy Bắc Việt toàn thắng tại Việt Nam nên Trung quốc sẽ không can thiệp nếu Hoa Kỳ cùng với quân đội VNCH mở rộng chiến tranh bộ binh ra Bắc với bảo đảm không xâm phạm đất đai của Trung quốc. Đối với Trung quốc, nếu Bắc Việt thắng, cái gai Xô viết càng gần hơn.
Ngoài ra lịch sử quan hệ Việt-Trung cho Trung quốc thấy một nước Việt Nam thống nhất sẽ không phải là một người bạn dễ chơi. Mao Trạch Đông đã nhắn khéo Hoa Kỳ qua nhà báo Edgar Snow rằng Trung quốc không có quân đội ở nước ngoài và không có ý gây chiến với ai ngoại trừ khi lãnh thổ Trung quốc bị xâm lăng (“Interview with Mao” The New Republic, 27-2-65).Trong quyết định tung cuộc tấn công Mậu Thân Hà Nội đánh một canh bạc nguy hiểm nhưng Hà Nội biết không “thua” vì đã nắm vững các yếu tố về phía Hoa Kỳ.Vào cuối năm 1967 quân đội Hoa Kỳ không còn được dân chúng ủng hộ như trước trong vụ Maddox và tại Hoa Kỳ đã có những cuộc biểu tình chống chiến tranh.
Nhưng nói chung dân chúng Hoa Kỳ chưa quyết liệt chống chiến tranh và quốc hội Hoa Kỳ vẫn còn thống nhất trong quyết định hơn thua với khối cộng và với Hà Nội. Vì vậy, theo Bernard C. Nalty viết trong cuốn The Vietnam War (trang 183) Hà Nội cần một trận Điện Biên Phủ thứ hai để chuyển hướng dư luận dân chúng Hoa Kỳ.Không có gì chứng tỏ Hà Nội nắm chắc một trận đánh lớn vào các thành phố miền Nam sẽ làm cho dân nổi dậy lật đổ chính quyền, nhưng Hà Nội tin rằng một trận đánh tạo ra sự rối loạn và gây ra nhiều tổn thất (nhất là cho quân nhân Hoa Kỳ) sẽ thổi bùng ngọn lửa chống chiến tranh tại Hoa Kỳ .Hơn nữa lúc này Hà Nội có rất ít lựa chọn. Lợi dụng các xáo trộn chính trị tại Nam Việt Nam cuối năm 1963, Hà Nội kiểm soát gần phân nửa miền Nam vào cuối năm 1964 (Vietnam War Day by Day, John S. Bowman, trang 60). Mùa thu năm 1964, sau vụ Maddox tháng 8, Hồ Chí Minh quyết định tạo một chuyển biến cơ bản tại miền Nam trước khi Hoa Kỳ kịp can thiệp. Chính trị bộ đảng cộng sản Việt Nam gởi một sư đoàn quân chính qui Bắc Việt vào cao nguyên miền Trung định cắt đôi Nam Việt Nam từ An Khê ra Qui Nhơn. Trước viễn ảnh miền Nam sụp đổ, hay ít nhất các tỉnh phía Bắc quốc lộ 19 bị cô lập, đầu năm 1965 một trung đoàn Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên Việt Nam giữ an ninh căn cứ không quân Đà Nẵng để quân đội miền Nam rảnh tay chiến đấu. Nhưng tướng Westmoreland tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam nghĩ rằng đã quá trễ không còn thì giờ tăng quân số, huấn luyện và trang bị cho quân đội miền Nam để đánh nhau với quân đội Bắc Việt.
Lãnh đạo quân sự yếu kém của miền Nam trong trận Ấp Bắc đầu năm 1963 lại tái diễn trong trận Đồng Xoài giữa tháng 6/65 gây thiệt hại nặng cho quân đội miền Nam. Để mua thời gian tướng Westmoreland đề nghị lập một hàng rào phòng thủ phía Nam khu phi quân sự bằng 5 sư đoàn bộ binh Hoa Kỳ từ bờ biển phía Đông sang Tây cắt đôi nước Lào đến tận sông Cửu Long, nhưng tổng thống Johnson bác bỏ. Giải pháp duy nhất còn lại đối với Westmoreland là đưa vào Việt Nam ít nhất một sư đoàn bộ binh Mỹ để chận đứng kế hoạch cắt đôi Việt Nam Cộng Hòa của Bắc Việt, đồng thời tăng cường quân đội Mỹ bảo vệ các tỉnh phía Bắc, quan trọng nhất là cố đô Huế.Trong khi đó đại sứ Maxwell Taylor không muốn thấy quân đội Hoa Kỳ trực tiếp chiến đấu. Ông đề nghị dùng quân đội Hoa Kỳ phòng thủ các vùng đông dân ở ven biển để quân đội VNCH lo việc chiến đấu và bình định.Tổng thống Johnson do dự trước hai đề nghị.
Tuy nhiên sau hội nghị Honolulu tháng 4/65 do McNamara chủ tọa với các tướng lãnh tại bộ Quốc phòng và cố vấn tại Bạch Ốc với sự tham dự của tướng Westmoreland và đại sứ Maxwell Taylor, tổng thống Johnson quyết định gởi 9 tiểu đoàn đến Việt Nam và cho phép tướng Westmoreland dùng lực lượng để diệt dịch. Tuy nhiên trên mặt chính thức Hoa Kỳ tuyên bố không thay đổi nguyên tắc quân đội Hoa Kỳ chỉ làm nhiệm vụ phòng thủ (để làm vui lòng đại sứ Taylor?). Sự việc “nói một đàng làm một nẽo” này là nguyên nhân làm các phóng viên tại Việt Nam bắt đầu không tin những gì bộ tư lệnh quân sự Mỹ tại Việt Nam phổ biến, và sau trận Mậu Thân không tin cả những gì do tòa Bạch ốc hay bộ Quốc phòng Hoa Kỳ tuyên bố .
Trong khi Hoa Kỳ do dự, Hà Nội lần đầu tiên tung các đơn vị cấp tiểu đoàn đẩy mạnh các cuộc đánh phá trên toàn miền Nam, đồng thời đưa các đơn vị chính quy cấp trung đoàn (trung đoàn 33, 34 & 66) chuẩn bị cho chiến trường cao nguyên. Nhiều quân lỵ bị tiêu diệt và nhiều trại lực lượng đặc biệt dọc biên giới bị tấn công. Hoa Kỳ trả đũa bằng các dùng máy bay B-52 bỏ bom các nơi nghi ngờ quân đội cộng sản trú đóng.Nhưng tình hình càng ngày càng bất lợi, và Hoa Kỳ lại đứng trước một lựa chọn bắc buộc khác là gởi thêm quân đến Việt Nam theo đề nghị của tướng Westmoreland. Tháng 7-65 tổng thống Johnson quyết định gởi sư đoàn kị binh không vận vừa mới được thành lập cùng với nhiều đơn vị thuộc nhiều binh chủng khác nhau nâng quân số Hoa Kỳ từ 75.000 lên 125.000, và tuyên bố Hoa Kỳ sẽ gởi thêm quân đến Việt Nam nếu tình hình đòi hỏi.Với phương tiện và nhân lực mới, tướng Westmoreland vạch một kế hoạch bình định 3 điểm: thứ nhất, xây dựng hạ tầng cơ sở như phi truờng, bến tàu, và đường giao thông để chuẩn bị cho việc mở rộng chiến tranh và tạo cơ sở phát triển kinh tế miền Nam. Thứ hai, dùng quân đội Hoa Kỳ tấn công các đại đơn vị cộng sản ở cao nguyên.
Thứ ba, cầm chân quân đội Bắc Việt còn lại trên toàn miền Nam để quân đội Việt Nam Công Hòa thực hiện giai đoạn chót của cuộc bình định.Cuộc đụng độ với quân đội chính qui Bắc Việt trong thung lũng sông Ia Drang phía Tây Pleiku trong hai tháng 10 & 11/65 giữa sư đoàn kị binh không vận Hoa Kỳ và các trung đoàn chính qui 33, 34 và 66 Bắc Việt là cuộc đụng độ lớn nhất giữa quân đội Bắc Việt và Hoa Kỳ. Tại Ia Drang, lần đầu tiên máy bay chiến lược B-52 được dùng yểm trợ chiến thuật cho các đơn vị Hoa Kỳ. Sau một tuần lễ giao tranh ác liệt từ 14 đến 19/11, quân đội Bắc Việt rút qua bên kia biên giới Cam bốt. Hoa Kỳ không truy kích, chỉ oanh tạc đường mòn Hồ Chí Minh trong một chiến dịch không tập bí mật gọi là Operation Steel Tiger do tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Lào chịu trách nhiệm. Cuộc không tập bí mật Steel Tiger gồm 20.000 phi vụ phối hợp với chiến dịch không tập Bắc Việt công khai Operation Rolling Thunder gồm 55.000 phi vụ trong năm 1965 vẫn không cắt đứt nổi con đường tiếp vận của Bắc Việt. Chiến lược tưởng như chắc thắng của Westmoreland bắt đầu có vấn đề.Năm 1966 cuộc chiến tiếp tục leo thang. Tại hội nghị thượng đỉnh Honolulu tháng 2/66 giữa tổng thống Johnson và hai tướng Nguyễn Văn Thiệu (Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia - như quốc trưởng) và Nguyễn Cao Kỳ (Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương - như Thủ tướng), hai tướng Thiệu và Kỳ hứa xây dựng một chính quyền dân sự hợp hiến để thu phục nhân tâm (In the Jaws of History, Bùi Diễm, trang 162.) Trong khi đó tổng thống Johnson tăng thêm 100.000 quân, nâng tổng số lên 280.000 người, không kể 60.000 thủy thủ của hạm đội 7 yểm trợ cho cuộc không tập Bắc Việt và 35.000 quân đồn trú tại Thái Lan. Quân đội miền Nam tăng lên 750.000 người kể cả địa phương quân và cảnh sát. Bộ đội cộng sản tại miền Nam cuối năm 1966 gồm 275.000 quân gồm 45.000 quân chính qui Bắc Việt (điều trần của McNamara trước Thượng nghị viện ngày 23/1/67).
Chiến cuộc sôi động trong năm 1966 làm cán bộ hạ tầng của cộng sản bận rộn với chiến trường nên năm qua 1967 tình hình an ninh nông thôn miền Nam trở nên sáng sủa, nhất là sau khi tổng thống Johnson giao cả hai nhiệm vụ quân sự và dân sự vụ cho tướng Westmoreland, và nhất là sau cuộc bầu cử tổng thống tại miền Nam theo tinh thần bản Hiến Pháp Đệ nhị Cộng hòa được một Quốc hội Lập hiến công bố trong tháng 4/67. Tháng 9/67 tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử tổng thống cùng liên danh với tướng Nguyễn Cao kỳ đứng phó.Nhưng vào lúc tình hình miền Nam có vẻ sáng sủa thì trận Mậu Thân xẩy ra với hình ảnh chiến trường sôi động nhất là hình ảnh căn cứ Khe Sanh bị bao vây, toà đại sứ Mỹ tại Sàigon bị đột nhập, một số thành phố như Huế, Bến Tre bị đổ nát. Lần đầu tiên truyền hình mang kinh hoàng của chiến tranh đến tận từng gia đình người Mỹ và làm cho dân chúng Mỹ hoàn toàn mất tin tưởng vào một sự chiến thắng tại Nam Việt Nam như chính phủ từng tuyên bố. Tổng thống Johnson đang chuẩn bị tranh cử nhiệm kỳ 2 (tháng 11/68) và ông không đủ can đảm thấy một cuộc chiến dai dẳng trong ngày bầu cử và cá nhân ông bị thành phần chống chiến tranh bêu rếu “nướng thanh niên Mỹ” ngoài chiến trường. Ngoài ra sự tin tưởng chiến thắng của bộ tham mưu của tổng thống Johnson cũng bắt đầu lung lay, mặc dù cuối tháng 11/67 khi về Hoa Kỳ báo cáo tình hình với tổng thống tướng Westmoreland lạc quan tuyên bố Hoa Kỳ đang thắng và quân đội Mỹ có thể bắt đầu rút về từ năm 1969. Các cố vấn của tổng thống gồm bộ trưởng quốc phòng McNamara, bộ trưởng ngoại giao Dean Rusk và cố vấn an ninh quốc gia Walt Rostow thấy thắng không phải là dễ và đang nghĩ cách xuống thang cuộc chiến.Henry Kissinger cố vấn bình định cho đại sứ Cabot Lodge sau nhiều chuyến đi thăm nông thôn Việt Nam trong hai năm 1965 và 1966 về tận nông thôn cũng nghĩ Hoa Kỳ khó thắng (Diplomacy, 1994, trang 663).
Trong khi đó Hà Nội lượng định rằng nếu tiếp tục các cuộc tấn công vào quân đội Hoa Kỳ phối hợp với sự phá hoại công trình bình định nông thôn để bao vây thành thị theo sách vở không chắc sẽ thành công vì Hoa Kỳ có một khả năng vật chất to lớn. Hà Nội cần một trận thư hùng đánh thẳng vào tất cả các đô thị miền Nam để tạo điều kiện cho dân chúng miền Nam đồng loạt nổi dậy buộc quân đội Hoa Kỳ phải rút lui trước áp lực quốc tế; nếu không dư luận trong nước cũng làm sụp đổ ý chí chiến đấu của Hoa Kỳ. Quan niệm của một trận tấn công qui mô và đồng loạt vào các thành thị miền Nam nẩy mầm. Và như đã nói ở trên, Nghị quyết 13 của Trung ương đảng cộng sản Việt Nam tháng 4 năm 1967 đã đưa trận TCK-TKN lên dàn phóng.Bắt chước vua Quang Trung đánh quân Thanh bất kỳ xuất ý vào dịp Tết Kỷ Dậu năm 1789, Hà Nội vạch một kế hoạch đánh các đô thị miền Nam vào Tết Mậu Thân (30-1-68). Hằng năm vào dịp Tết Nguyên Đán có hưu chiến, quân nhân miền Nam nghỉ phép, pháo đốt gây tiếng vang là những điều kiện tốt cho một cuộc tấn công bất ngờ.Hà Nội còn cần yếu tố bất ngờ chiến lược. Tháng 7-67 Hà Nội triệu tập các đại sứ về nước. Trước khi trở lại nhiệm sở các đại sứ đều có nhiệm vụ làm cho các nước sở tại hiểu Hà Nội đang muốn thương thuyết với Hoa Kỳ. Điều kiện thương thuyết là Hoa Kỳ ngưng dội bom Bắc Việt. Hà Nội cần điều kiện tốt để chuyển người và vũ khí vào miền Nam. Mùa hè năm 1967, ông Raymond Aubrac, một người Pháp từng giúp đỡ Hồ Chí Minh khi ông ta đến Paris thương thuyết với Pháp năm 1946, lúc đó đang làm cho Cơ quan Y tế Liên hiệp quốc ngỏ ý với Hoa Kỳ qua Kissinger (hai người gặp nhau trong một hội nghị của các nhà khoa học kêu gọi giải giới vũ khí nguyên tử giữa năm 1967) sẵn sàng đi Hà Nội thuyết phục Hồ Chí Minh thương thuyết với Hoa Kỳ chấm dứt cuộc chiến.
Qua Kissinger, chính phủ Hoa Kỳ đồng ý, miễn là Raymond Aubrac không chính thức đại diện cho Hoa Kỳ. Hồ Chí Minh, qua Raymond Aubrac, nhắn rằng Hà Nội sẵn sàng thương thuyết nếu Hoa Kỳ ngưng dội bom Bắc Việt, và Hoa Kỳ có thể tiếp xúc với Mai Văn Bộ, đại diện ngoại giao của Hà Nội tại Paris. Mắc mưu Hồ Chí Minh, ngày 29-9 tổng thống Johnson tuyên bố tại Houston, Texas rằng không quân Hoa Kỳ sẽ ngưng dội bom Bắc Việt nếu việc này dẫn tới một cuộc thương thuyết hữu ích. (Johnson papers, 1968, Vol II, trang 879).Hai bên ướm lời nhưng không có hành động cụ thể. Hoa Kỳ vẫn oanh tạc Bắc Việt và Hà Nội vẫn chuyển người và chiến cụ vào Nam. Nhưng Hà Nội biết Hoa Kỳ có phương tiện tình báo để biết nên cần một kế hoạch nghi binh khác để Hoa Kỳ không thể đoán được mưu đồ chính. Giữa tháng 10/67 Bắc Việt cho uy hiếp căn cứ Cồn Thiên ở địa đầu vùng giới tuyến bằng trọng pháo và đặc công, đồng thời cho quân bao vây căn cứ Khe Sanh, và cuối năm 1967 tung nhiều cuộc tấn công cấp trung đoàn và bán sư đoàn vào Lộc Ninh (29/10 - 3/11/67) và Dak To (3/11 - 22/11/67) nằm dọc biên giới. Riêng Khe Sanh với 2 sư đoàn (304 và 325C) gồm hơn 20.000 quân Hà Nội tính rằng nếu diệt được Khe Sanh cuộc tấn công vào các thành thị miền Nam dự tính vào dịp Tết sẽ dễ thành công hơn. Nếu không, cuộc tấn công sẽ giúp che dấu ý đồ của Mậu Thân.Cứ điểm Khe Sanh cách giới tuyến phân chia Nam Bắc Việt Nam 24 km, cách biên giới Lào 10 km được lập từ năm 1962 do một lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ trú đóng.
Tháng 1-67 khi cuộc chiến lên cao độ, Thủy quân lục chiến đến thay thế đưa quân số đồn trú lên 6,000 người gồm 2 trung đoàn Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và 1 tiểu đoàn Biệt Động quân Việt Nam. Ngày 20-1-68 cộng quân ồ ạt nã trọng pháo vào căn cứ Khe Sanh và hôm sau bộ binh Bắc Việt mở các cuộc xung phong vào các cứ điểm chung quanh mở màn trận đánh Khe Sanh kéo dài 77 ngày.Trong lúc đó, nhân Tết Nguyên Đán Hà Nội tuyên bố đơn phương ngưng bắn một tuần lễ từ ngày 27/1/68 đến 3/2/68. Tại miền Bắc Hà Nội cho dân chúng ăn Tết trước một ngày nói là để dân chúng hưởng hoàn toàn những ngày Hoa Kỳ ngưng dội bom, nhưng sự thật chỉ là một kế hoạch làm lạc hướng Hoa Kỳ, đồng thời để dân chúng chuẩn bị tinh thần cho những cuộc oanh tạc mạnh mẽ hơn sau khi cộng sản mở cuộc tấn công Mậu Thân.Trong thời gian này Hoa Kỳ và Hà Nội chờ đợi lẫn nhau. Hoa Kỳ đợi Hà Nội ngưng xâm nhập để ngưng dội bom, Hà Nội chờ Hoa Kỳ ngưng dội bom để tăng cường xâm nhập.Một nghi vấn chung quanh trận Mậu Thân là Hoa Kỳ biết ý định tổng tấn công của Hà Nội đến đâu và đã thông báo cho tổng thống Thiệu đến mức độ nào? Có lẽ Hoa Kỳ biết nhiều hơn những gì tướng Westmoreland thông báo cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Có thể Hoa Kỳ muốn trắc nghiệm khả năng tình báo quân sự của VNCH và xem quân đội VNCH sẽ chống đỡ cuộc tấn công như thế nào. Có thể Hoa Kỳ muốn quân đội cộng sản xuất hiện để dùng hỏa lực tiêu diệt. Hoa Kỳ.
Trong thời gian này các sĩ quan Hoa Kỳ phục vụ tại Việt Nam đều được cảnh giác một cuộc tấn công của cộng quân vào các thành phố miền Nam trong dịp Tết, nhất là một trận đánh quy mô chiếm thành phố Huế (1), trong khi đó quân đội miền Nam vẫn được nghỉ phép và nhất là ngày 27 Tết tổng thống Thiệu ban hành quyết định bãi bỏ giới nghiêm tại Sàigòn trong 36 giờ ngưng bắn (Vietnam War Day by Day của John Bowman, trang 119), và thủ tướng Nguyễn Văn Lộc cho dân chúng tùy tình hình an ninh địa phương được đốt pháo trong 4 ngày từ 30 Tết đến hết ngày mồng 3 (Cuộc TCK-TKN của Việt cộng - Mậu Thân 1968, tài liệu Khối quân sử Phòng 5/TTM, trang 12). Ngày 30 Tết tổng thống Thiệu rời Sàigòn về quê vợ ở Mỹ Tho ăn Tết (The Vietnam War, Bernard C. Nalty, trang 185)Cũng có thể tướng Westmoreland không muốn cho báo chí Mỹ biết tình hình nghiêm trọng. Truyền thông Mỹ đang có khuynh hướng bi đát hóa tình hình tại Việt Nam. Trước đó hai tháng tại Washington, tướng Westmoreland, với sự khuyến khích của Bạch cung đã tuyên bố Hoa Kỳ sắp kết thúc cuộc chiến trong thắng lợi.Tuy nhiên tin tức tình báo vào những ngày gần Tết cho tướng Westmoreland thấy tình hình nghiêm trọng hơn đã tưởng nên ông yêu cầu tổng thống Thiệu duy trì ít nhất 50% quân số ở vị trí chiến đấu. Lệnh ngưng bắn được hủy bỏ tại các tỉnh vùng I chiến thuật và giảm từ 36 giờ xuống 24 giờ tại các nơi khác.
Nhiều tư lệnh sư đoàn do khuyến cáo của sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ thu hồi giấy nghỉ phép của sĩ quan và binh sĩ trực thuộc như hai sư đoàn chung quanh Sài gòn, một sư đoàn tại cao nguyên và sư đoàn đóng tại Huế.Trong đêm giao thừa Tết Mậu Thân (29/1 rạng ngày 30/1/68) cộng quân mở cuộc tấn công vào 8 thành phố và tỉnh lỵ thuộc vùng II và bộ tư lệnh vùng I tại Đà Nẳng, tất cả đều thuộc Quân khu 5 theo tổ chức vùng của cộng sản (TCK-TKN, Khối quân sử Phòng 5/TTM, trang 353). Dùng quân số cấp tiểu đoàn cộng sản đánh vào Nha Trang, Hội An, Ban Mê Thuộc, Qui Nhơn, Pleiku. Từ Mỹ Tho trở về Sàigòn sáng mồng 1 Tết, tổng thống Thiệu bãi bỏ lệnh ngưng bắn trên toàn quốc và ra lệnh quân nhân nghỉ phép trở về đơn vị.Đêm hôm sau, mồng 1 Tết cộng quân đánh vào 33 trên 42 thị trấn và thành phố khác của miền Nam, gồm Sài gòn, Mỹ Tho, Cần Thơ và Bến Tre, bộ tư lệnh của tướng Westmoreland, dinh Độc Lập và tòa đại sứ Mỹ. Tại dinh Độc Lập đặc công cộng sản trang phục giả quân đội miền Nam để tấn công nhưng bị đẩy lui.Tại tòa đại sứ Hoa Kỳ, 23 đặc công thuộc tiểu đoàn đặc công tinh nhuệ C-10 mặc thường phục tập trung tại một tiệm sửa xe hơi lãnh chất nỗ, súng tự động và súng chống thiết giáp rồi dùng xe đến tòa đại sứ Mỹ (Eyewitness History of the Vietnam War 1961-1975, The Associated Press, trang 101.) Toán đặc công bắn chết lính canh, dùng bộc phá đục một lỗ thủng ở vòng thành rồi chui vào bên trong. Toán Thủy quân lục chiến ở tầng cuối cùng khóa chặt cửa tử thủ. Sáng ngày, hai đại đội quân cảnh Hoa Kỳ phá tường lọt vào bên trong thanh toán từng ổ kháng cự của đặc công. Trong khi đó lính dù Hoa Kỳ từ trực thăng đổ xuống sân thượng tảo thanh từng tầng một từ trên xuống. Chín giờ sáng tiếng súng chấm dứt tại tòa đại sứ , 23 đặc công bị giết, 6 chiến sĩ Hoa kỳ tử thương (TCK-TKN, Khối quân sử Phòng 5/TTM, trang 99).
Việc đặc công chỉ lọt vào khuôn viên hay vào bên trong tòa nhà của tòa đại sứ không phải là một khác biệt quan trọng. Nhưng đối với dư luận Mỹ lại khác. Nếu Hoa Kỳ không giữ được an ninh cho tòa đại sứ của mình thì làm thế nào để giữ an ninh cho một xứ rộng hơn 160.000 cây số vuông như Westmoreland vừa báo cáo? Cuộc tấn công toàn quốc cho thấy những gì tướng Westmoreland và tòa Bạch Cung tuyên bố mấy tháng trước là tình hình đang sáng sủa thật ra chẳng sáng sủa chút nào. Trước Mậu Thân giới truyền thông nghi ngờ chính quyền nhưng nói chung dân chúng vẫn còn tin quân đội Hoa Kỳ đang chiến thắng. Sau Mậu Thân niềm tin mong manh này cũng không còn.Thật ra tướng Westmoreland không tô mầu hồng cho bức tranh chiến cuộc Việt Nam khi cuối tháng 11/67 ông nói Hoa Kỳ đang chiến thắng và tiên đoán Hoa Kỳ có thể bắt đầu rút quân năm 1969. Ông miêu tả thực trạng của lực lượng đôi bên dựa theo lối lượng định sức mạnh quân sự cổ điển.
Ông không thấy được khả năng huy động của người cộng sản trong một trận chiến tranh du kích có sự tham dự của nhân dân, mặc dù tham dự dưới áp lực của khủng bố.Cộng sản đã dùng 84.000 quân gồm lính chính qui Bắc Việt và bộ đội tại chỗ (tại các tỉnh vùng I đa số lực lượng tấn công là quân chính qui) tấn công 36 trên 44 tỉnh lỵ, 5 trên 6 thành phố, 64 trên 242 quận lỵ, 50 trụ sở hội đồng xã, 23 căn cứ và phi trường. Cộng quân lọt vào được 13 trung tâm đông dân cư nhưng đều bị đẩy lui từ 2 đến 3 ngày ngoại trừ một vài ổ kháng cự kéo dài 6 ngày tại Sàigon, và Huế 25 ngày. Trong 25 ngày tác chiến Bắc việt thiệt 45.000 quân, bị bắt 6.991 người, miền Nam thiệt 2.788 người, 8.299 bị thương, Hoa Kỳ thiệt 1,536 quân, bị thương 7.764 (The Vietnam War, Bernard C. Nalty, trang 189). Quân đội miền Nam dù chỉ có nửa quân số dưới cờ đã chiến đấu một cách anh dũng và không một đơn vị nào bỏ súng theo đối phương, cũng không có vùng nào dân chúng nổi dậy phất cờ gióng trống theo cộng sản. Tổ chức bí mật và nhân sự của Mặt trận Giải phóng miền Nam xuất hiện chuẩn bị nắm chính quyền bị lộ diện và bị vô hiệu hóa sau Mậu Thân. Sau cuộc tấn công dân chúng miền Nam ở thành thị hiểu cộng sản là gì, nhất là sau khi các mồ chôn tập thể các nạn nhân bị cộng sản giết tại Huế được phanh phui. Lệnh tổng động viên của tổng thống Thiệu sau Mậu Thân được đáp ứng và ông ta bạo dạn trang bị vũ khí cho nhân dân tự vệ.
Tuy nhiên, phóng viên tại chỗ và báo chí thấy khác.Trong đêm súng nổ tại tòa đại sứ Hoa Kỳ, phóng viên từ hai khách sạn Caravelle và Majestic kéo tới làm tin và tranh nhau loan tin du kích cộng sản đã lọt vào tòa đại sứ. Tin này làm xúc động dư luận tại Hoa Kỳ. Sáng hôm sau tướng Westmoreland đính chính rằng đặc công cộng sản chỉ vào được trong khuôn viên nhưng các phóng viên lờ đi vì họ có thói quen nghi ngờ các nguồn tin của chính quyền. Chiến trường Việt Nam là nơi lý tưởng để nổi danh nên nhiều phóng viên trẻ chưa có kinh nghiệm chiến trường lẫn lý thuyết về chiến tranh đổ đến làm tin. Họ làm phóng sự nhanh vội nhắm chuyển về Hoa Kỳ tin tức nóng hổi và hình ảnh gây xúc động. Họ làm tin với mục đích chỉ cho dân thấy những gì tòa Bạch Ốc và tướng Westmoreland tuyên bố về cuộc chiến đang thắng là một trò cười. Họ chuyển đoạn phim quay cảnh đổ nát của thành phố Bến Tre để bình luận “quân đội Hoa Kỳ phải phá nát thành phố này để cứu nó” mặc dù Bến Tre chỉ sụp đổ 25%, nhẹ hơn các thành phố Âu châu trong thế chiến thứ II. Họ loan tin kinh thành Huế sụp đổ hoàn toàn trong khi các bức thành của cố đô vẫn còn đứng vững.Tại Hoa Kỳ các nhà bình luận có uy tín thi nhau bình luận bất lợi cho Hoa Kỳ. Walter Lippman (Newsweek 11/3/68) tiên đoán Hoa Kỳ sẽ thất bại tại Việt Nam. Walter Cronkite (CBS News 27/2/68) nói nếu Hoa Kỳ leo thang chiến tranh, Hà Nội đủ khả năng đáp ứng và Hoa Kỳ sẽ đuối sức trước. Wall Street Journal vốn ủng hộ cuộc chiến Việt Nam, đổi lập trường, bình luận: “nếu chưa chuẩn bị tư tưởng, dân chúng Hoa Kỳ cần chuẩn bị chấp nhận thực tế rằng chính sách của Hoa Kỳ đã thất bại tại Việt Nam” (The Logic of the Battlefield, 23/2/68). Đài truyền hình NBC trong một chương trình đặc biệt về Việt Nam ngày 10/3/68 kết luận, “bỏ mọi chuyện khác ra ngoài, đã đến lức chúng ta phải quyết định có cần phải phá hủy Việt Nam để cứu Việt Nam không”.
Tuần báo Time viết, (The War, 15/3/68) “Năm 1968 cho chúng ta thấy một sự thật là, chiến thắng - hay ngay cả một cuộc thương thuyết thuận lợi -, không ở trong tầm tay của quốc gia mạnh nhất thế giới.” (theo Diplomacy, Henry Kissinger, page 671 và 672)Truyền thông, phụ họa với phong trào chống chiến tranh dâng cao đã lung lay tinh thần của tổng thống Johnson và đoàn cố vấn từng chủ chiến của tổng thống. Đêm 31/3/68 tổng thống Johnson tuyên bố đơn phương ngưng dội bom trên vĩ tuyến 20, không ra ứng cử tổng thống nữa, và kêu gọi Hà Nội ngồi vào bàn hội nghị. Chưa đầy 72 giờ sau Hà Nội, vì cần củng cố lực lượng đang tan nát của họ tại miền Nam tuyên bố sẵn sàng hòa đàm. Ngày 31 tháng 10, để yểm trợ cho ứng cử viên Hubert Humphrey, tổng thống Johnson ra lệnh ngưng dội bom toàn cỏi Bắc Việt. Humprey thất cử vì dân chúng Hoa Kỳ, tuy không ủng hộ cuộc chiến tranh Việt Nam như năm 1964, không muốn thấy một chính quyền Dân chủ chạy trốn do Humphrey đại diện. Theo sử gia Arthur Schlesinger viết trong cuốn “Robert Kennedy and His Times” (1978), thăm dò dư luận lúc tổng thống Johnson đọc diễn văn cho thấy 61% dân chúng Hoa Kỳ vẫn còn muốn chiến đấu, và 70% nghỉ Hoa Kỳ chưa nên chấm dứt cuộc oanh tạc Bắc Việt.Bàn về ảnh hưởng quyết định của tổng thống Johnson đến kết quả của cuộc chiến Việt Nam, Henry Kissinger, thương thuyết gia của tổng thống Nixon với Hà Nội tại Paris viết: “Đó là một quyết định có tính cách định mệnh của một tổng thống Hoa Kỳ sau thế giới đại chiến.
Nếu ông Johnson không rút lui, ông ta vẫn có thể đương đầu với cuộc chiến và đắc cử một nhiệm kỳ nữa. Cho dù ông không muốn tiếp tục ứng cử vì lý do sức khỏe ông vẫn có thể tăng áp lực đối với Hà Nội trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ để người kế nhiệm có thế mạnh thương thuyết với Hà Nội. Sau trận Mậu Thân thế quân sự của Hà Nội yếu nhiều, vì vậy nếu Hoa Kỳ tăng áp lực trong năm 1968 thế thương thuyết của Hoa Kỳ đã mạnh hơn. Vừa xuống thang chiến tranh, vừa tuyên bố không ra ứng cử tổng thống, đề nghị hòa đàm của Hoa Kỳ hoàn toàn bất lợi. Hai ứng cử viên tổng thống Richard Nixon và Hubert Humphrey tranh nhau hứa đem lại hòa bình trong danh dự nhưng chẳng có gì trong tay để bảo đảm lời hứa. Hà Nội đồng ý thương thuyết chỉ để được Hoa Kỳ ngưng dội bom để củng cố hạ tầng cơ sở chính trị miền nam bằng nhân sự Bắc Việt. Hà Nội đã không nhượng bộ tổng thống Johnson, và họ biết họ chẳng cần nhượng bộ người kế nhiệm.” (Diplomacy, Henry Kissinger, trang 672).
Hà Nội đã thắng qua Hiệp Định Paris 1973 và cuộc tấn công 55 ngày năm 1975. Hoa Kỳ rút được kinh nghiệm gì? Chưa thấy. Chỉ thấy Hoa Kỳ đã bỏ lở cơ hội thiết lập dân chủ tại Việt Nam khi khối cộng sản Nga sô sụp đổ. Và cho đến nay qua 6 đời tổng thống (Carter, Reagan, George Bush, Clinton, W. Bush, Obama) Hoa Kỳ vẫn còn lúng túng về một chính sách Việt Nam.Chuyến thăm viếng của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tháng 6/2008 đánh dấu một bước thay đổi căn bản trong quan hệ Mỹ Việt .Bản thông cáo chung kết thúc cuộc thăm viếng ghi nhận Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ “trao đổi việc mở rộng và tăng cường đối thoại giữa các quan chức cao cấp của hai nước. …. sẽ ủng hộ việc lập cơ chế đối thoại mới về chính trị-quốc phòng và chính sách nhằm tăng cường sự trao đổi thường xuyên và sâu hơn về các vấn đề chiến lược và an ninh”. Và sau cùng Hoa Kỳ “tái khẳng định sự ủng hộ của Chính phủ Hoa Kỳ đối với chủ quyền quốc gia, an ninh, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.” Hoa Kỳ đang có cơ hội tạo một thế đứng tại Việt Nam và qua đó củng cố thế chiến lược của mình tại Tây Thái Bình Dương. Nhưng cơ hội còn chờ những bước đi của chính phủ Barack Obama. Ông Obama nhiệm chức tổng thống Hoa Kỳ ngày 20/1/2009 nhất định sẽ mang lại một không khí mới trên chính trường Hoa Kỳ và thế giới, nhưng trước một khối công việc khác quan trọng hơn nhất là sự chống đỡ tình trạng suy thoái kinh tế, không chắc ông ta có đủ thì giờ để tìm ra một chính sách đúng đối với Việt Nam trước áp lực của Trung quốc . Sự việc tháng 7/2008 vừa qua hãng dầu ExxonMobil của Hoa Kỳ im lặng chấm dứt giao kèo khai thác dầu mỏ và khí đốt với công ty PetroVietnam không phải là một dấu hiệu tốt. (2)
Trần Bình Nam
binhnam@sbcglobal.nethttp://www.tranbinhnam.com/
(1) Cá nhân tôi có một bằng chứng rằng Hoa Kỳ biết khá rõ dự tính tấn công vào dịp Mậu Thân. Năm 1967 tôi đi tu nghiệp tại Trung tâm huấn luyện hải quân Hoa Kỳ tại San Diego . Cuối năm 1967 trước khi trở về Việt Nam tôi đến tham dự một buổi tiếp tân ban đêm chào đón các sĩ quan Hoa Kỳ vừa trở về sau một năm phục vụ tại Việt Nam . Tôi chuyện trò với một đại úy hải quân (rất tiếc tôi không nhớ tên) và được biết ông ta là cố vấn cho căn cứ hải quân VNCH tại Thuận An, cửa sông Hương dẫn lên Huế . Nói chuyện Huế, chuyện Tết và tôi cho ông ta biết Tết sắp tới (tức Tết Mậu Thân) tôi có dự tính đưa các con về Huế ăn Tết và để các cháu thăm ông bà nội . Ông đại úy làm tôi ngạc nhiên vô cùng khi ông khuyên tôi Tết sắp tới nghỉ đâu thì nghỉ nhưng đừng có về Huế. Tôi hỏi tại sao thì ông ta lảng sang chuyện khác. Câu chuyện chứng tỏ bộ tư lệnh Hoa Kỳ tại Việt Nam biết rõ kế hoạch tấn công trong dịp Tết Mậu Thân của cộng sản Hà nội và đã thông báo các cấp sĩ quan cố vấn. Tôi không quan tâm đến lời khuyên của ông đại úy Mỹ cho rằng chỉ là chuyện đùa vui. Tôi đã mang hai con trai về Huế ăn Tết và xuýt bỏ mạng tại đó.(2) Theo Roger Mitton trong tài liệu “China-Vietnam ties remain more sour than sweet” (Asia Sentinal Consulting 14 November 2008).
No comments:
Post a Comment