GIỚI THIỆU TÁC PHẨM MỚI
Điểm Sách, Nhạc
& CD-DVD
GS-Nhạc Sĩ Lê Mộng Nguyên giới thiệu tác phẩm và tác giả CD Tình
Khúc Phạm Đình Liên (RM Chiều 18/03/2012 tại FIAP- Paris
14)
Đời người viễn du thầm
mong
Chờ một kiếp mai trở về
Về đây cùng kề với giai nhân
Là người yêu vẹn đời
Nào những lúc tim còn ghi
Vạn lời thề ước năm nào
Mong sao cho tiếng thời gian qua
Đời lạnh lùng trôi theo
Nhớ những chiều ánh dương thu tàn người ơi…ta chỉ vấn vương
Hẹn một ngày mai về…
Đời người viễn du thầm mong
Chờ một kiếp mai trở về
Về đây cùng kề với giai nhân
Là người yêu vẹn đời
Về đây lúc tim còn say
Nhịp theo mơ khúc ân tình
Tiếng tơ lòng phím đàn lướt theo
Đầy những chuỗi ngày nhạc vời…
« Hẹn Một Ngày Về » là bài ca duy nhất của Phạm Đình Liên, viết trong năm 1957, được cho vào CD Việt Nam Mến Yêu, phần lớn để dành cho các tác giả tiền chiến như : Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Văn Phụng, Từ Phác-Lương Ngọc Châu vân vân, mà Phạm Đình Liên trình bày trong chiều Văn Học & Nghệ Thuật ngày 13 tháng 06 – 2004 tại FIAP (Phòng Bruxelles), do CLB Văn Hóa VN Paris tổ chức để đón tiếp học giả Đỗ Thông Minh đến từ Tokyo, với mục đích làm nổi bật giọng ca của Minh Cầm người vợ hiền, với nhiều nhung nhớ quá nhẹ nhàng như một thoáng hương xưa…Minh Cầm mà dạo ấy tôi đã táo bạo so sánh với Joan Baez lúc nữ ca sĩ này đặc biệt trình bày những bài hát bất bạo động chiều thứ sáu 15 th.07-1983 trước 150 000 khán thính giả tại Place de la Concorde-Paris với tự mình hòa âm qua cây đàn Tây Ban Nha huyền diệu, lợi khí của người hành hương… Trong CD Tình Khúc Phạm Đình Liên Ra Mắt ngày 18 tháng 03 năm 2012, HMNV lấy Số 01 thật đúng lý :
Chờ một kiếp mai trở về
Về đây cùng kề với giai nhân
Là người yêu vẹn đời
Nào những lúc tim còn ghi
Vạn lời thề ước năm nào
Mong sao cho tiếng thời gian qua
Đời lạnh lùng trôi theo
Nhớ những chiều ánh dương thu tàn người ơi…ta chỉ vấn vương
Hẹn một ngày mai về…
Đời người viễn du thầm mong
Chờ một kiếp mai trở về
Về đây cùng kề với giai nhân
Là người yêu vẹn đời
Về đây lúc tim còn say
Nhịp theo mơ khúc ân tình
Tiếng tơ lòng phím đàn lướt theo
Đầy những chuỗi ngày nhạc vời…
« Hẹn Một Ngày Về » là bài ca duy nhất của Phạm Đình Liên, viết trong năm 1957, được cho vào CD Việt Nam Mến Yêu, phần lớn để dành cho các tác giả tiền chiến như : Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Văn Phụng, Từ Phác-Lương Ngọc Châu vân vân, mà Phạm Đình Liên trình bày trong chiều Văn Học & Nghệ Thuật ngày 13 tháng 06 – 2004 tại FIAP (Phòng Bruxelles), do CLB Văn Hóa VN Paris tổ chức để đón tiếp học giả Đỗ Thông Minh đến từ Tokyo, với mục đích làm nổi bật giọng ca của Minh Cầm người vợ hiền, với nhiều nhung nhớ quá nhẹ nhàng như một thoáng hương xưa…Minh Cầm mà dạo ấy tôi đã táo bạo so sánh với Joan Baez lúc nữ ca sĩ này đặc biệt trình bày những bài hát bất bạo động chiều thứ sáu 15 th.07-1983 trước 150 000 khán thính giả tại Place de la Concorde-Paris với tự mình hòa âm qua cây đàn Tây Ban Nha huyền diệu, lợi khí của người hành hương… Trong CD Tình Khúc Phạm Đình Liên Ra Mắt ngày 18 tháng 03 năm 2012, HMNV lấy Số 01 thật đúng lý :
Sáng tác nguyên thủy theo cung
ré majeur - 2 dấu thăng, HMNV được Mai Thảo trình bày với hòa âm Đỗ Đình
Ân (là người giữ trách nhiệm này cho những bài từ Số 01 đến Số 08), rất
hay ! Gồm tất cả 40 trường canh, theo lối hành nhạc Blues hoặc C : mỗi đoạn lời
kết thúc cuối trường canh 4, áp dụng kỹ càng luật nhạc lý dẫn giải. Bài Số 2 «
Tình Người Viễn Xứ » (sáng tác năm 2011) do Thu Lan hát trong CD (Cung Si
bémol majeur, hành nhạc Slow) mở đầu với những lời nhung nhớ :
Xa vắng
quê hương nay đã từ lâu
Chân bước đi thênh thang khắp nẻo đường
Chiều
thương nhớ, lại nhớ rồi thương
Tiếng ta đàn đêm giã từ
Bao tháng năm miệt
mài chân trời Âu
Nơi chốn xa âm thầm như vạn lời
Lòng ấp ủ một mối tình
sâu
Tình cho quê hương…
Hành trình trí thức văn hóa của GS Phạm
Đình Liên thật lẫy lừng ở trong nước cũng như hải ngoại. Sinh năm 1935 tại Huế
và sau khi đậu Tú Tài toàn phần ban Toán tại trường Trung Học Khải Định
năm 1954, anh trúng tuyển kỳ thi Học Bổng Quốc Trưởng Toàn Quốc vào tháng 07 năm
1954 nên được Chính Phủ gửi sang du học tại Paris bắt đầu niên khóa 1954-1955…
Từ đó anh thi đậu bằng Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp (Doctorat 3ème Cycle) về Vật Lý Hạt
Nhân năm 1962, và bằng Tiến Sĩ Quốc Gia Khoa Học Vật Lý (Doctorat d’Etat ès
Sciences Physiques) tại Đại Học Grenoble, năm 1969. Anh đã từng hành chức Giáo
Sư 2 năm tại Đại Học Minnesota (Hoa Kỳ) và trong suốt 35 năm tại Đại Học
Grenoble (Pháp).
Giáo Sư Phạm Đình Liên về hưu từ
năm 2000 và ngụ tại Maisons-Alfort (Ỵle-de-France) với phu nhân Nguyễn Thị Minh
Cầm mà anh đã kết hôn năm 1964 tại Grenoble… Về phần tập luyện âm nhạc, từ thời
theo học Sorbonne với tư cách sinh viên, anh PĐL đã học Guitare espagnole (độc
tấu nhạc cổ điển và đệm đàn hòa âm) trong nhiều năm với GS nổi tiếng Romain
Worschech. Kế đó, anh ghi tên theo học một khóa đàn điêu luyện dưới sự điều
khiển của bà GS Ida Presti là một Tây Ban Cầm lừng danh trên thế giới, sau
Andrès Ségovia. Lẽ dĩ nhiên là anh đã có dịp tham dự những buổi văn nghệ sinh
viên tại Paris và Grenoble với cây đàn Tây Ban Nha hoặc độc tấu (nhạc cổ điển)
hoặc đàn đệm cho nam nữ VN ca hát.
GS Phạm Đình Liên cũng là một
nhà soạn nhạc, một nhạc sĩ (compositeur). Bài HMNV làm năm 1957 là một tỉ
dụ rõ ràng, để âu yếm tặng Minh Cầm, trở thành phu nhân PĐL 7 năm sau. Bẵng đi
một dạo, công việc sáng tác của PĐL trở lại trong dịp RM sách « Hoạn Nạn
Ca » của nhà thơ-học giả Phạm Quang Minh tại FIAP ngày 03 tháng 05 -2008,
với bài « Thương » (Thơ Phạm Quang Minh do PĐL phổ nhạc hôm ấy được nữ ca sĩ Kim
Thu hát). Bài THƯƠNG lấy Số 3 trong CD do nữ danh ca Thùy Dương trình bày một
cách âu yếm, thanh nhã, dễ thương) :
Tặng em một đóa hoa hồng
Mong đời em
đẹp như hồng anh trao
Ngày mai dẫu cách xa bao
Kết lời thệ ước chung trao
thiệp hồng
Ra đi lòng nghĩ đến em
Cho anh gởi một niềm tin về Trời
Mong
người thế cả quyền cao
Kết đôi chim nhạn thúy hào bồng lai
Tim em là đóa
hoa hồng
Ngày xưa anh ước được hồng lắm thay
Bây giờ hồng đã trong
tay
Thương đi cho thỏa những ngày nhớ mong
Sướng nhất là kẻ được
thương
Và người đã có được người để thương
Phúc nhất là kẻ được
thương
Người thương Trời kết phu nương mãn đời
Lời thơ quí phái và gọt dũa
của học giả Phạm Quang Minh do Phạm Đình Liên phổ nhạc, đã trở thành một tác
phẩm để lại cho đời vì rất trong sáng trong tình thương, một tán dương ca tình
nghĩa vợ chồng qua người thi sĩ mà cũng qua người nhạc sĩ : đôi uyên ương ca
sĩ-nhạc sĩ MC-PĐL là chứng minh của một mối « tình muôn thuở » tràn đầy hạnh
phúc, trái lại với mối tình âm thầm đau khổ của Félix Arvers đối với Marie
Nodier : « Lòng ta chôn một khối tình / Tình trong giây phút mà thành thiên thâu
/ Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu / Mà người gieo thảm như hầu không hay… » (Khái
Hưng, dịch giả Sonnet d’Arvers). Trong 10 bài TK-PĐL, có lẽ bài « Thương »
là một trong những bài thanh khiết nhất ! Trong thuyết trình về « Hoạn Nạn Ca »
ngày 03 th.05-2008, tôi đã nói nhiều khen ngợi về cách viết nhạc và lời ca của
tuyệt phẩm này.
Từ dạo ấy, Phạm Đình Liên đã bỏ
hẳn dạng nhà khoa học để bắt đầu ôm mộng trở thành một nhà soạn nhạc trữ
tình, lãng mạn đi sâu vào tình yêu với nhiều hứng cảm nhẹ nhàng, như lời thơ đẹp
của Quỳnh Liên mà anh đã phổ nhạc trong dịp Hè 2009 và cho vào CD-TKPĐL dưới chủ
đề THU – bài Số 04 cũng với giọng ca Thùy Dương :
Lác đác vàng rơi khắp ngã
đường
Thu về đem lại cảnh thê lương
Đã nghe tiếng gió hờn mây khói
Và
thấy dãi dầu với tuyết sương
Chiều thu, thu ngắm bóng tà dương
Xao xuyến
trong lòng nỗi vấn vương
Dòng nước sông Seine hờ hững chảy
Vàng thu nghe
tiếng nhạn kêu sương
………………………………………
Nhà khoa học tiếp tục đội lốt
nhà soạn nhạc của tình thương bằng cách phổ nhạc một bài thơ tứ tuyệt độc vận
ương « Thu Tình Thương » của Phương Du Nguyễn Bá Hậu. Bài thơ được BS Hậu đọc
trong Chiều THU TAO NGỘ do CLB Văn Hóa VN-Paris tổ chức ngày chủ nhật 04
th.10-2009 tại La Crypte ARAFAT đường Martin Bernard-Paris Quận 13, để đón tiếp
một phái đoàn văn nghệ sĩ lẫy lừng đến từ Hoa Kỳ, Gia Nã Đại và các nước trong
Liên Hiệp Âu Châu :
Ngọn gió heo may lạnh phố phường
Se lòng lữ khách
sống tha hương
Chiều nay chào đón Thu Tao Ngộ
Tấp nập tao nhân chật hội
trường
Vỗ cánh đoàn chim vượt giới cương
Tìm nơi hòa khí đượm yêu
đương
Đất lành chim đậu chung làm tổ
An hưởng thanh bình dưới ánh
dương
……………………………………………..
Và kết thúc :
Mai về Mỹ quốc vượt trùng
dương
Cảnh đẹp tình nồng gợi vấn vương
Khấn nguyện Trời Cao thương rọi
chiếu
Khắp nơi nhân thế lửa tình thương
Phạm Đình Liên quả thật là một
nhạc sĩ của Tình Thương (bài Số 05 « THU TÌNH THƯƠNG » trong CD do Thu Lan trình
bày). Bài Số 06 : VƯƠNG VẤN của CD được PĐL sáng tác trong dịp hè để
Thương Tặng M.C. – Paris 2010, một nhạc phẩm viết tự đáy lòng tác giả, được
giọng ca tha thiết của Thùy Dương làm xúc động nhiều tình cảm dạt dào
:
Tháng ngày trôi theo biết bao nhiêu tình trong lòng nhung nhớ
Thấy thấy
đôi ta gần nhưng còn vượt dặm ngàn bể khơi
Sống xa em nhưng vẫn ước mơ một
chuỗi dài đầm ấm
Đời ta như thế chẳng trông mong mơ mộng thêm gì nữa
đâu
Em dầu xa em quá đi
Nhưng vẫn thấy em quanh mình
Rồi
vương vấn biết bao tình
Nụ cười tươi như đóa hoa hồng thắm
Anh lặng lẽ ôm
mối tình đầu đầy ngập niềm vương vấn
Em tuy vẫn xa xôi nhưng trong lòng vẫn
một niềm tin
Ngày mai kia ôm ấp tình yêu qua muôn ngàn dặm sơn khê
Mong
mối tình đẹp như làn mây xanh thẳm tận bên trời Âu…
Bài Số 07 : XUÂN VÀ TÌNH YÊU
(cũng do Thùy Dương trình bày), hành nhạc hơi chậm (theo lời chỉ dẫn của tác
giả) nhưng giọng hát uyển chuyển, rất quyến rủ của người nữ danh ca, làm cho
thính giả theo rõi lời và nốt nhạc với lòng cảm kích, biết ơn :
Ngày tươi
thắm mãi bừng lên
Cùng chung vui đón hưởng xuân vừa sang tưng bừng
Lòng ta
say đắm với muôn tình yêu ngàn năm
Tình yêu vẫn mãi không phai
Cùng nhau
ta hát đàn ca
Ước gì xuân về mang lại cho người tình thương
Tình thương
yêu đó bao trùm cảnh vật quê hương…
Bài Số 08 : NGƯỜI TÔI YÊU (Cung
sol majeur, hành nhạc slow) của Phạm Đình Liên Thương Tặng M.C. – Paris 2011 là
một trong những bài hay nhất, êm đẹp nhất của tác giả. Trong CD-Tình Khúc PĐL,
Thu Lan với giọng Mezzo soprano tuyệt vời đã diễn tả một cách thiết tha, vừa sâu
đậm vừa nhẹ nhàng nỗi lòng của tác giả và người yêu dấu :
Nàng muôn vạn ánh
sao
Người ấp ủ bao tình
Xuân tưng bừng đẹp xinh quá em
Xuân mơ màng
mừng đón bình minh
Làn tóc mượt thiết tha
Đôi mắt đẹp mỹ miều
Đôi ta còn chung sống tình yêu quá đẹp
Lòng ta vui đón ngày về Xuân thắm
tươi
Sống dưới muôn vàn ánh dương bên trời Âu với bao tình thương
Quê
hương đẹp lắm em
Mong sao được thanh bình
Ta cùng về cùng xây đắp giang
sơn
Ta cùng về vui sống triền miên
Làn môi đẹp trữ tình
Khi nắng đẹp
vương thềm
Hạnh phúc đến tô thắm mãi người tôi yêu
Bài Số 09 : ĐỜI NGHỆ SĨ sáng tác
năm 2011, do Thụy Khanh trình bày trong CD qua hòa âm Viết Dũng, với những lời
ca tươi sáng :
Ánh nắng hồng tươi thắm tràn ngập buổi bình minh
Tiếng sáo
diều êm lắng nghe mơ màng từ đâu
Một ngày vui vụt bừng lên làm tươi sáng
không gian mênh mông cõi đời
Người nghệ sĩ đang tìm nét nhạc đầy mộng
mơ
Người nghệ sĩ đang tìm nốt vần thơ đáng yêu
Kết vần thơ cùng với nhạc
điệu để hiến cho đời…
Bài Số 10 : NỖI LÒNG ANH được
sáng tác để Thương Tặng M.C. - Huế 2011, do Bích Lan ca với hòa âm Viết Dũng
(Cung do majeur, Hành nhạc Slow), là một bài ca thanh thoát và thanh thú trong
diễn tả mối tình vợ chồng rất khăng khít :
Anh yêu em muốn cho
đời cùng chia xẻ lòng
Em tôi ơi đó là một dạng người giai nhân
Là người
con gái mỹ miều của miền thần kinh
EM LÀ CỦA ANH…
Em nhớ anh đặt niềm
thương vào cõi mộng mơ
Anh của em đó là một chàng trai anh hùng
Là người
yêu dấu muôn vàn tài ba, anh muôn đời của chính em…
Nói tóm lại : CD Tình Khúc Phạm
Đình Liên ra đời mười ngày sau « Ngày Quốc Tế của Người Phụ Nữ » : Journée
Internationale de la Femme (08 tháng 03 – 2012), để vinh danh tình nghĩa vợ
chồng của đôi uyên ương Minh Cầm – PĐL nói riêng & tình yêu người phụ nữ nói
chung, là một thành công mỹ mãn. Ngoại trừ hai nhạc sĩ hòa âm (Đỗ Đình Ân &
Viết Dũng), những giọng ca trình bày 10 tác phẩm của PĐL trong CD : Mai Thảo
(bài số 01), Thu Lan (bài Số 02, Số 05 & Số 08), Thùy Dương (bài Số
03, Số 04, Số 06 & Số 07), Thụy Khanh (bài Số 09) và Bích Lan (bài Số
10), toàn là những giọng nữ ca sĩ danh tiếng ở quốc nội.
GS
Nhạc Sĩ-TS LÊ MỘNG NGUYÊN (Paris)
Hân-hạnh giới-thiệu
Sách Mới
TÚI VẪN CÒN THƠ
Ông được Song Nhị giới-thiệu là
một Nhà Thơ mà hai Tác Giả,
vì ngoài những bài thơ tình và thơ chính khí
ông còn làm thơ trào phúng với bút danh Tú Lắc.
“... Loạn chốn văn chương. loạn chính trường
Phe này phe nọ mãi khoa trương
Tài năng chưa xứng ba đồng kẽm
Cũng múa, cũng may, cũng dở tuồng...”
Cung Diễm có phong thái của một nhà tu tiên
lưng đeo bầu rượu túi thơ:
Bầu luôn còn rượu và túi vẫn còn
thơ.
Hy vọng đọc được trong thơ trào phúng
của Cung Diễm = Tú Lắc
những bài vạch trần căn bệnh thời đại, như
chưa đọc sách (của Lê Xuân Nhuận) mà đã chê
bai...
TÚI VẪN CÒN THƠ
sách dày 218 trang, cỡ 4.5” x 5.1/4”
ấn phí 15 Mỹ kim
Liên lạc:
Cơ sở thi văn Cội Nguồn
P.O. Box 3648
San Jose, CA 95156
DIÊN NGHỊ
Túi Vẫn Còn Thơ – Thơ Và Rượu
Tháng 09/2011
Từ ngàn xưa thi nhân đã gắn kết rượu với thơ.
Rượu gieo hứng khởi đẩy thơ bay bổng...
Cõi ảo thực lênh đênh đang chờ đón âm sắc của thơ
"Thi nhân thủ đắc" một túi thơ kèm theo bầu rượu
Bầu rượu túi thơ - tri âm tri kỷ - trở nên lẽ sống giữa cuộc đời thường muôn hình muôn vẻ.
Bạch Cư Dị đời Đường thường luận "Tửu hàm khí ích chân". Cụng vài ly rượu Lục Nghị thời bấy giờ tăng sảng khoái tinh thần vững vàng ý chí, vì cuộc đời vốn chẳng được bao lâu - không đụng đến hương vị rượu nồng nàn, sẽ không còn cơ hội, thế có hoài công!
"Quy khứ lai đầu dĩ bạch
Điển tiền tương dụng mãi tửu khiết"
Trải qua bao thế hệ thi nhân, rượu và thơ hôm nay vẫn nguyên hình tương tại, chẳng những riêng đồng điệu thi ca, mà còn cho cả tao nhân mặc khách.
CUNG DIỄM gửi một tín hiệu "TÚI VẪN CÒN THƠ" hàm ý bầu rượu xưa của Bạch Cư Dị, Lý Bạch vẫn canh cánh bên lòng, cho dù dòng đời trôi giạt, chuyển hóa, thử thách nhục vinh, mất còn...
TÚI VẪN CÒN THƠ ngày càng chứa nặng nên phải được trang trải, ấn hành, phổ biến, trao gửi đến bạn yêu thơ. Mỗi lần tương ngộ, trà dư, tửu hậu, cũng là lúc văn chương thi phú qua lại bàn luận giữa môi trường thanh khí dung thông.
Những giai đoạn riêng tư, quá khứ, cũng không thể che giấu bởi tất cả phần sâu kín tận đáy lòng đã thành thơ qua khoảnh khắc cảm xúc chân thành Từ Quảng Nam, sử tích "Năm chim phụng" soãi cánh đo trời, đã sản sinh khá nhiều tài hoa thi sĩ hơn bất cứ địa phương nào trên ba miền Trung, Nam, Bắc.
Lược điểm văn học cận đại đầu thập niên 50, đất Quảng đã có Tạ Ký, Bùi Giáng, Tường Linh, Hoàng Lộc.. v.v...
Và nay CUNG DIỄM tiếp nối, bước tới nơi không gian ngoại xứ. Ở đó, suy gẫm, ưu tư, nhìn về nhớ lại cuộc đổi đời nghiệt ngã, khe khắt, một tai họa khó lường.
TÚI VẪN CÒN THƠ chứa đựng những sáng tác theo từng thời điểm, từng cảnh ngộ thông qua những đoạn thơ, những dòng thơ chở nặng thao thức về tình yêu, tình bạn, tình thơ, đan quyện hòa trộn chất nhớ thương, đậm đặc kết tụ khó loãng tan "Em ơi ta nhớ trời phương ấy" và tình rượu duyên thơ thưở nào "Tình rượu đã bén duyên thơ mất rồi.."
Nét khắc chạm khéo léo, tinh xảo đã trổ ra trong thơ bong hình cụ thể, để cùng tác giả tâm sự, kể lể, hồi niệm giữa rỗng lặng bao la...
Nếu TÚI VẪN CÒN THƠ dừng ngay đây thì ly rượu cay có khi đã chan hòa nước mắt. Nỗi buồn thơ đủ gửi gắm đến kẻ nòi tình. Tiếc nỗi CUNG DIỄM còn ly rượu đắng nồng độ vẫn thơ vẫn thơ đến tận mặt bằng xã hội đa đoan, đa sự bằng những tiếng cười -Tiếng cười cũng chua, cũng đắng, châm chọc, kê kích những thói tật lạc hậu, nghịch lý của người và việc thời nào cộng đồng xã hội nào nhiều hoặc ít cũng mắc phải. Mỗi đề tài, mỗi điển hình, xuất phát từ bản chất hoặc chỉ là hiện tượng cấu tạo, nếu có tật ắt giật mình – Đòi hỏi tự nhận diện, nhận thức, kiểm điểm và hóa giải.
Lời thơ châm biếm linh hoạt, nhẹ nhàng, gọn ghẽ cống hiến người đọc những tiếng cười rộng mở thích thú.
Tính nhân văn phổ quát, ý tưởng xây dựng, điểm đúng mặt đúng việc bằng ngôn từ chính xác, tạo ấn tượng rõ nét, lưu cửu lâu dài trong vùng cảm thụ.
Hai phần thơ cùng một tập thơ: Trữ tình và châm biếm. Đủ tiếng khóc lẫn tiếng cười. Biểu tượng bi hài treo trên sân khấu dân gian phóng chiếu đeo đẳng hình hài con người muôn thuở.
Trữ tình hoặc châm biếm CUNG DIỄM chỉ cho thấy cảm xúc toát ra từ chất liệu nghệ thuật - Làm chủ được ngôn từ thơ - Hồn thơ phong phú. Thơ đầy đặn và trong túi vẫn mãi còn thơ.
Song Nhị
Cung Diễm
Hai Tác Giả, Một Nhà Thơ
Cung Diễm, tác giả của thi phẩm "Túi Vẫn Còn Thơ". Bút danh này ông chỉ sử dụng cho những bài thơ tình và thơ chính khí do ông sáng tác. Thơ tình của Cung Diễm cũng "ướt át", mượt mà lắm. Thơ chính khí toát ra từ tấm lòng của một kẻ sĩ. Ông từng có tên trong một số tuyển tập thơ nhiều tác giả và trong những tập biên khảo nhận định, trong tác phẩm Lưu Dân Thi Thoại - bút luận (Diên Nghị-Song Nhị, Cội Nguồn 2003).
Trong "Túi Vẫn Còn Thơ" thật ra còn có phần thơ của một bút danh khác, của một... "người thứ hai" không nêu tên đó là tác giả Tú Lắc (và vài bút danh nữa như Đoản Côn, Đả Cẩu..) Đó là phần hai – Thơ Trào Phúng – Phần thơ này hầu hết đã được phổ biến trong mục thơ "Ngược Nguồn" của tạp chí Nguồn, trên Thời Báo (Trang Văn Học Nghệ Thuật cuối tuần) và trên một số tuần báo, tạp chí khác. Trong các bút danh vừa kể, bút hiệu TÚ LẮC đã trở nên danh tiếng trên thi đàn và đã làm nên tên tuổi của một nhà thơ trào phúng hiếm hoi trong dòng văn học VN từ nhiều thập niên qua, sau Tú Mỡ,...
Nhận định về thơ Cung Diễm và Tú Lắc đã có Diên Nghị trong bài Tựa ở đầu, và phong Thu trong bài viết và cuối quyển sách này. Do tác giả ngỏ ý muốn tôi viết Lời Bạt cho tác phẩm, trong chỗ thân tình cùng đi chung trên "hành trình văn học" gần 20 năm kể từ ngày Cội Nguồn bắt đầu vận động thành lập, năm 1994. Từ đó đến nay ông là một trong những người liên tục sinh hoạt, gắn bó với Cội Nguồn, với anh em trong mọi hoàn cảnh, mọi "buồn vui với chữ nghĩa".
Năm 1994, sau hơn một năm đến Mỹ, định cư tại vùng Vịnh - Thung lũng Silicon, Cung Diễm là một trong mấy nhà thơ đầu tiên cùng chúng tôi dựng nên "ngôi nhà Cội Nguồn" tại San Jose này. Ông là một nhà thơ có nhiều nghệ sĩ tính, chơi đàn Mandoline điêu luyện, ngâm thơ, ca hát, kể chuyện… món nào cũng hào hứng, tạo không khí sôi nổi vui nhộn trong những buổi sinh hoạt thơ văn.
Bên cạnh đó, ông là một nhân cách cặn kẽ, điềm đạm nhưng thẳng thắn trong cư xử với mọi người. Nơi ông là một con người thật thà hơn kiểu cách, dễ gần gũi và dễ thân tình... Bấy nhiêu đủ để tạo nên nhân dáng một nhà thơ đã có phần đóng góp đáng kể vào dòng văn học nước nhà từ hơn nửa thế kỷ qua.
Song Nhị
San Jose, tháng 11-2011
[Liên lạc tác giả: songnguyentm@gmail.com]
Túi Vẫn Còn Thơ – Thơ Và Rượu
Tháng 09/2011
Từ ngàn xưa thi nhân đã gắn kết rượu với thơ.
Rượu gieo hứng khởi đẩy thơ bay bổng...
Cõi ảo thực lênh đênh đang chờ đón âm sắc của thơ
"Thi nhân thủ đắc" một túi thơ kèm theo bầu rượu
Bầu rượu túi thơ - tri âm tri kỷ - trở nên lẽ sống giữa cuộc đời thường muôn hình muôn vẻ.
Bạch Cư Dị đời Đường thường luận "Tửu hàm khí ích chân". Cụng vài ly rượu Lục Nghị thời bấy giờ tăng sảng khoái tinh thần vững vàng ý chí, vì cuộc đời vốn chẳng được bao lâu - không đụng đến hương vị rượu nồng nàn, sẽ không còn cơ hội, thế có hoài công!
"Quy khứ lai đầu dĩ bạch
Điển tiền tương dụng mãi tửu khiết"
Trải qua bao thế hệ thi nhân, rượu và thơ hôm nay vẫn nguyên hình tương tại, chẳng những riêng đồng điệu thi ca, mà còn cho cả tao nhân mặc khách.
CUNG DIỄM gửi một tín hiệu "TÚI VẪN CÒN THƠ" hàm ý bầu rượu xưa của Bạch Cư Dị, Lý Bạch vẫn canh cánh bên lòng, cho dù dòng đời trôi giạt, chuyển hóa, thử thách nhục vinh, mất còn...
TÚI VẪN CÒN THƠ ngày càng chứa nặng nên phải được trang trải, ấn hành, phổ biến, trao gửi đến bạn yêu thơ. Mỗi lần tương ngộ, trà dư, tửu hậu, cũng là lúc văn chương thi phú qua lại bàn luận giữa môi trường thanh khí dung thông.
Những giai đoạn riêng tư, quá khứ, cũng không thể che giấu bởi tất cả phần sâu kín tận đáy lòng đã thành thơ qua khoảnh khắc cảm xúc chân thành Từ Quảng Nam, sử tích "Năm chim phụng" soãi cánh đo trời, đã sản sinh khá nhiều tài hoa thi sĩ hơn bất cứ địa phương nào trên ba miền Trung, Nam, Bắc.
Lược điểm văn học cận đại đầu thập niên 50, đất Quảng đã có Tạ Ký, Bùi Giáng, Tường Linh, Hoàng Lộc.. v.v...
Và nay CUNG DIỄM tiếp nối, bước tới nơi không gian ngoại xứ. Ở đó, suy gẫm, ưu tư, nhìn về nhớ lại cuộc đổi đời nghiệt ngã, khe khắt, một tai họa khó lường.
TÚI VẪN CÒN THƠ chứa đựng những sáng tác theo từng thời điểm, từng cảnh ngộ thông qua những đoạn thơ, những dòng thơ chở nặng thao thức về tình yêu, tình bạn, tình thơ, đan quyện hòa trộn chất nhớ thương, đậm đặc kết tụ khó loãng tan "Em ơi ta nhớ trời phương ấy" và tình rượu duyên thơ thưở nào "Tình rượu đã bén duyên thơ mất rồi.."
Nét khắc chạm khéo léo, tinh xảo đã trổ ra trong thơ bong hình cụ thể, để cùng tác giả tâm sự, kể lể, hồi niệm giữa rỗng lặng bao la...
Nếu TÚI VẪN CÒN THƠ dừng ngay đây thì ly rượu cay có khi đã chan hòa nước mắt. Nỗi buồn thơ đủ gửi gắm đến kẻ nòi tình. Tiếc nỗi CUNG DIỄM còn ly rượu đắng nồng độ vẫn thơ vẫn thơ đến tận mặt bằng xã hội đa đoan, đa sự bằng những tiếng cười -Tiếng cười cũng chua, cũng đắng, châm chọc, kê kích những thói tật lạc hậu, nghịch lý của người và việc thời nào cộng đồng xã hội nào nhiều hoặc ít cũng mắc phải. Mỗi đề tài, mỗi điển hình, xuất phát từ bản chất hoặc chỉ là hiện tượng cấu tạo, nếu có tật ắt giật mình – Đòi hỏi tự nhận diện, nhận thức, kiểm điểm và hóa giải.
Lời thơ châm biếm linh hoạt, nhẹ nhàng, gọn ghẽ cống hiến người đọc những tiếng cười rộng mở thích thú.
Tính nhân văn phổ quát, ý tưởng xây dựng, điểm đúng mặt đúng việc bằng ngôn từ chính xác, tạo ấn tượng rõ nét, lưu cửu lâu dài trong vùng cảm thụ.
Hai phần thơ cùng một tập thơ: Trữ tình và châm biếm. Đủ tiếng khóc lẫn tiếng cười. Biểu tượng bi hài treo trên sân khấu dân gian phóng chiếu đeo đẳng hình hài con người muôn thuở.
Trữ tình hoặc châm biếm CUNG DIỄM chỉ cho thấy cảm xúc toát ra từ chất liệu nghệ thuật - Làm chủ được ngôn từ thơ - Hồn thơ phong phú. Thơ đầy đặn và trong túi vẫn mãi còn thơ.
Song Nhị
Cung Diễm
Hai Tác Giả, Một Nhà Thơ
Cung Diễm, tác giả của thi phẩm "Túi Vẫn Còn Thơ". Bút danh này ông chỉ sử dụng cho những bài thơ tình và thơ chính khí do ông sáng tác. Thơ tình của Cung Diễm cũng "ướt át", mượt mà lắm. Thơ chính khí toát ra từ tấm lòng của một kẻ sĩ. Ông từng có tên trong một số tuyển tập thơ nhiều tác giả và trong những tập biên khảo nhận định, trong tác phẩm Lưu Dân Thi Thoại - bút luận (Diên Nghị-Song Nhị, Cội Nguồn 2003).
Trong "Túi Vẫn Còn Thơ" thật ra còn có phần thơ của một bút danh khác, của một... "người thứ hai" không nêu tên đó là tác giả Tú Lắc (và vài bút danh nữa như Đoản Côn, Đả Cẩu..) Đó là phần hai – Thơ Trào Phúng – Phần thơ này hầu hết đã được phổ biến trong mục thơ "Ngược Nguồn" của tạp chí Nguồn, trên Thời Báo (Trang Văn Học Nghệ Thuật cuối tuần) và trên một số tuần báo, tạp chí khác. Trong các bút danh vừa kể, bút hiệu TÚ LẮC đã trở nên danh tiếng trên thi đàn và đã làm nên tên tuổi của một nhà thơ trào phúng hiếm hoi trong dòng văn học VN từ nhiều thập niên qua, sau Tú Mỡ,...
Nhận định về thơ Cung Diễm và Tú Lắc đã có Diên Nghị trong bài Tựa ở đầu, và phong Thu trong bài viết và cuối quyển sách này. Do tác giả ngỏ ý muốn tôi viết Lời Bạt cho tác phẩm, trong chỗ thân tình cùng đi chung trên "hành trình văn học" gần 20 năm kể từ ngày Cội Nguồn bắt đầu vận động thành lập, năm 1994. Từ đó đến nay ông là một trong những người liên tục sinh hoạt, gắn bó với Cội Nguồn, với anh em trong mọi hoàn cảnh, mọi "buồn vui với chữ nghĩa".
Năm 1994, sau hơn một năm đến Mỹ, định cư tại vùng Vịnh - Thung lũng Silicon, Cung Diễm là một trong mấy nhà thơ đầu tiên cùng chúng tôi dựng nên "ngôi nhà Cội Nguồn" tại San Jose này. Ông là một nhà thơ có nhiều nghệ sĩ tính, chơi đàn Mandoline điêu luyện, ngâm thơ, ca hát, kể chuyện… món nào cũng hào hứng, tạo không khí sôi nổi vui nhộn trong những buổi sinh hoạt thơ văn.
Bên cạnh đó, ông là một nhân cách cặn kẽ, điềm đạm nhưng thẳng thắn trong cư xử với mọi người. Nơi ông là một con người thật thà hơn kiểu cách, dễ gần gũi và dễ thân tình... Bấy nhiêu đủ để tạo nên nhân dáng một nhà thơ đã có phần đóng góp đáng kể vào dòng văn học nước nhà từ hơn nửa thế kỷ qua.
Song Nhị
San Jose, tháng 11-2011
[Liên lạc tác giả: songnguyentm@gmail.com]
THƠ QUỐC HẬN THÁNG TƯ
NỖI HẬN THÁNG TƯ ĐEN
Trường Kim
Tháng Tư về ghi thêm nỗi nhục
Ngay ba mươi, năm bảy mươi lăm
Cộng vào bức tử miền nam
Sài Gòn quấn giải khăn tang hãi hùng
Giặc cộng vào người thành khỉ vượn
Dân phải lên núi hiểm rừng sâu
Cửa nhà, đảng cướp làm giàu
Người dân cơ cực, cháo rau qua ngày
Bầy cán ngố không mời mà đến
Từ bắc phần, rừng rú từng bầy
Chúng vào cướp, cướp thẳng tay
Đứa khuân, đứa chở cướp ngày cướp đêm
Ai kêu chúng vào đây "giãi phóng"
Một Sài gòn hòn ngọc viễn đông
Biến thành nghèo đói tận cùng
Người dân cả nước gông cùm đảo điên
Giặc cộng vào chùa chiền đổ nát
Cướp giáo đường, thánh thất, đền thờ
Áp đặt chính sách dân ngu
Gieo cho dân chúng nghi ngờ lẫn nhau
Bầy ác quỉ xới cày mồ mã
Sống không nhà, chết chẳng yên mồ
Cũng vì cái thuyết tam vô
Luân thường, đạo lý, cơ đồ còn đâu?
Chúng bày ra quá nhiều thủ đoạn
Trả thù quân, cán, chính miền nam
Tập trung bắt nhốt trại giam
Rừng thiêng, gió chướng biệt giam mút mùa
Kể từ đó đâu đâu cũng thấy
Cảnh nhà tù đầy dẫy khắp nơi
Hỏa Lò, Thanh Cẫm, Cỗng Trời
Đường về âm phủ, nhìn người tưởng ma
Còn cộng đảng trần gian u ám
Chỉ con đường địa ngục âm u
Đảng"giãi phóng" để dân ngu
Để cho đảng giở trò ma, bịp lừa
Ghi nhớ mãi Tháng Tư Đen ấy
Giặc cướp vào dân chạy tứ phương
Triệu người rời bỏ quê hương
Ba miền dân chúng tìm đường vượt biên
Chúng đàn áp người dân liều chết
Quyết đi tìm bờ bến tự do
Trùng dương bão lớn, sóng to
Thiên tai, hải tặc chực chờ sinh ly
Loài ác thú, trùng trùng tội ác
Triệu xác người với giá tự do
Đại dương, rừng núi nhà mồ
Xác trôi đầy biển, xương khô trắng rừng
Miệng la "giãi phóng" nhưng ăn cướp
Quân giặc Hồ bán nước hại dân
Mấy mươi năm cướp chẳng ngừng
Tháng ngày khiếu kiện người dân ba miền
Giang san một giải ngàn năm trước
Nay đâu còn Bản Giốc, Nam Quan
Càng khóc quần đảo Hoàng, Trường
Nay phường cộng đảng dâng lên kẻ thù
Tháng Tư về, đau lòng nhục quốc
Còn cộng nô, nước mất nhà tan
Toàn dân ơi hãy kết đoàn
Đồng tâm diệt cọng khải hoàn dân ca.
Chiều Mưa Hải Ngoại
Nguyễn Văn Tài
Chiều mưa đi dạo phố phường
Bổng dưng cảm thấy nhớ thương quê nhà
Từ khi rời nước đi xa
Năm canh thao thức lệ nhoà ướt mi
Đau lòng kẻ ở người đi
Đoạn trường chia cắt biệt ly gia đình
Cuộc đời như thiếu bình minh
Cộng Sản giết hại sinh linh bao người
Dân Việt thiếu hẳn tiếng cười
Lao động quần quật cuộc đời khổ đau
Đời người như cơn mưa rào
Lạnh căm ướt át khổ đau đêm ngày
Việt Cộng áp bức đọa đày
Tương lai đen tối đêm dài buồn đau
Mưa chiều hải ngoại thêm sầu
Giận loài Cộng phỉ làm tiêu nước nhà ./-
TÂM NGUYỆN
MỘT NGÀY ĐAU THƯƠNG rơi xuống
Đàn chim hiền hoà đang sống an bình bị chụp lưới, thảm thương !
Có một số may mắn đã vụt thoát cảnh đoạn trường !
Đổ trút xuống phủ đầu các cánh chim khác
Những chuỗi ngày an lành đã trở thành bi đát !
Khổ đau tủi nhục lan tràn
Biết bao tổ ấm ly tan
Thiệt đúng là Trời sầu, Đất thảm !!!
May mắn có những cánh chim được thoát
Bay đến tận miền giá rét xa xăm
Tuy thời tiết khắc nghiệt hằng năm
Nhưng tình đồng loại sưởi ấm cõi lòng cánh chim biệt xứ
Nơi đất lạ muà đông tuyết phủ
Nhưng có lò sưởi ấm con tim
Cũng tạm vơi đi đôi chút nỗi niềm
Tuy lưu vong mà tràn đầy hy vọng
Tạo dựng lại mái ấm gia đình
Đắp xây cuộc đời thêm đẹp, thêm xinh
Dạy dỗ thế hệ sau tiếp nối
Giờ đây đã hơn ba thập niên trôi nổi
Cánh chim xưa nay đã có tuổi rồi
Tâm nguyện cuối đời mong được một lần thôi
Bay trở về thăm lại QUÊ CHA, ĐẤT TỔ
Trong thể chế TỰ DO, DÂN CHỦ thắm đượm tình người
Và ngọn cờ VÀNG cuả Dân Tộc bay phất phới muôn nơi
TRÊN MẢNH ĐẤT QUÊ HƯƠNG YÊU DẤU NGÀN ĐỜI BẤT DIỆT !
KIỀU PHONG ( Toronto)
MỘT THÔI
Một bóng mát, một vườn cây
Một người nằm võng hây hây trưa hè,
Đong đưa theo tiếng sầu ve
Lâng lâng theo bóng cành tre mơ-màng
* * *
Bốn câu lục bát của nàng
Mộng mơ cho thỏa trăm ngàn nhớ thương
Một bài thơ, viết giữa đường
Thương về khởi điểm, một phương rất nghèo
Một thôi mà cứ mang theo
Một thôi mà cứ vai đeo nặng đời
Một thôi mà nhớ anh ơi!
Ðất dù Âu, Mỹ vẫn trời Việt Nam
Một em anh, rất tham-lam
Viết hoài vẫn thấy vết bầm quê-hương.
Ý Nga
10.12.2003
HOA KỲ & BIỂN ĐÔNG
Xác định lợi ích Hoa Kỳ tại Châu Á
Quỳnh Chi, phóng viên RFA
2012-05-20
Thượng nghị sĩ John McCain, một người được đánh giá là thấu hiểu và có nhiều hoạt động ở Châu Á trong sự nghiệp chính trị, một lần nữa xác định lợi ích của Hoa Kỳ tại vùng Châu Á Thái Bình Dương.
AFP
Là một trong những nhà lập pháp hàng đầu của Hoa Kỳ cũng như có nhiều kinh nghiệp tại vùng Châu Á Thái Bình Dươn, ông John McCain được mời nói chuyện và trả lời câu hỏi của báo giới.
Buổi nói chuyện diễn ra trong bối cảnh nhiều quốc gia Châu Á cho rằng hệ thống chính trị của Hoa Kỳ không giải quyết được vấn đề tài chính của nước này cũng như vấn đề thế giới. Sự việc này theo ông John McCain là một vấn đề khổng lồ và làm dấy lên nghi ngờ về sự cam kết của Washington tại vùng Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, vị thượng nghị sĩ đến từ bang Arizona khẳng định: “Cuối cùng thì mặc dù bối cảnh Châu Á thay đổi, nhưng lợi ích của Hoa Kỳ tại đây luôn không thay đổi”.
Những lợi ích cốt lõi
Lợi ích cũng như sự quan tâm của Hoa Kỳ là khả năng ngăn chặn xung đột, bảo vệ đồng minh, mở rộng thương mại, và phát triển dân chủ nhân quyền. Đây là những vấn đề cốt lõi cũng đã được Tổng thống Barack Obama khẳng định trước hội Úc vào năm ngoái, khi quyết định triển khai 2500 quân tại Darwin. Ông John McCain cũng khẳng định lợi ích và sự quan tâm của Hoa Kỳ không nhằm kiềm chế bất cứ quốc gia nào, kể cả Trung Quốc.
Tuy nhiên, theo ông John McCain, thách thức mà Hoa Kỳ đối mặt khi trở
lại Châu Á Thái Bình Dương là làm thế nào để sự cân bằng này có ý
nghĩa. Ngoại giao, kinh tế và quân sự được xem là sức mạnh của Hoa Kỳ và
nước này không muốn có những hành động ảnh hưởng đến những giá trị đó.
Ông John McCain khẳng định mở rộng thương mại là một trong những mục
tiêu lớn nhất của Hoa Kỳ. ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ tư của Hoa
Kỳ; tuy nhiên nước này chưa có một khuôn khổ thương mại mở rộng và năng
động đối với khối ASEAN. Điều này cho thấy Washington đã làm kinh doanh
ở Châu Á từ lâu nhưng về thương mại, Hoa Kỳ chỉ là một nhân tố bên lề.
Trong nhiệm kỳ của ông Barack Obama, chưa có một hiệp định tự do thương
mại nào được chốt lại hay thông qua. Trong khi đó, theo một thống kê năm
ngoái, các quốc gia Châu Á đã đúc kết hoặc thảo luận đến 300 thỏa thuận
thương mại, và dĩ nhiên không có một thỏa thuận nào có bao gồm Hoa Kỳ
trong đó.
Một chiến lược thương mại tại Châu Á là điều bắt buộc cho sự thành công kinh tế lâu dài của Hoa Kỳ.TNS John McCain
Cho nên hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương -TPP được Hoa Kỳ vô
cùng chú trọng và tạo nỗ lực để tất cả các nước ASEAN có thể tham dự.
Nếu điều này không thực hiện được, có khả năng Hoa Kỳ sẽ thúc đẩy một
hiệp định tự do thương mại riêng giữa Washington và ASEAN. Nói tóm lại,
ông John McCain cho rằng “Một chiến lược thương mại tại Châu Á là điều bắt buộc cho sự thành công kinh tế lâu dài của Hoa Kỳ”.
Về quân sự, ông John McCain khẳng định vùng Châu Á Thái Bình Dương là một nơi chủ yếu liên quan đến biển. Việc thêm sức mạnh của Hoa Kỳ vào khu vực này chủ yếu sẽ tập trung vào lực lượng hải quân. Ông cũng cho biết việc triển khai 2500 quân ở Úc “có thể là một ví dụ điển hình cho việc triển khai quân Mỹ đến các nước khác tại Châu Á, chẳng hạn như Philippines”.
Về quân sự, ông John McCain khẳng định vùng Châu Á Thái Bình Dương là một nơi chủ yếu liên quan đến biển. Việc thêm sức mạnh của Hoa Kỳ vào khu vực này chủ yếu sẽ tập trung vào lực lượng hải quân. Ông cũng cho biết việc triển khai 2500 quân ở Úc “có thể là một ví dụ điển hình cho việc triển khai quân Mỹ đến các nước khác tại Châu Á, chẳng hạn như Philippines”.
Hiện tại, hải quân Hoa Kỳ đang thiếu 313 tàu. Mới đây, chính phủ đưa
ra ý kiến cho về hưu một số lượng tàu dùng trong hải quân, trong đó có 7
tuần dương hạm, tàu ngầm tấn công. Đây là có thể được xem là một thách
thức đối với Hoa Kỳ nói chung và đối với kế hoạch can dự vào vùng Thái
Bình Dương nói riêng. Vì nếu thất bại, kết cục của Hoa Kỳ là hứa nhiều
hơn làm.
Vấn đề Biển Đông
Khi
hiện diện tại Châu Á Thái Bình Dương, Hoa Kỳ vướng phải ít nhất là 3
thử nghiệm, trong đó đặc biệt là vấn đề Biển Đông. Một trong những câu
hỏi Hoa Kỳ phải đối mặt là vai trò nước này sẽ như thế nào và Hoa Kỳ
liên quan gì đến những thách thức trong vùng.
Mặc dù không có tranh chấp tại vùng Biển Đông, nhưng hơn 1 ngàn tỷ đô
la giá trị thương mại của Hoa Kỳ qua vùng Biển Đông hàng năm.
Philippines, đồng minh lâu năm của Washington lại là nước có tranh chấp
gay gắt với Trung Quốc tại Trường Sa cho thấy Hoa Kỳ có lý do để biện
minh cho sự hiện diện của mình tại vùng biển tranh chấp phức tạp này.
Ông John McCain khẳng định ngoài những lý do trên, sự hiện diện của Hoa Kỳ
“là quan trọng cho một Châu Á đang lên nhằm tránh mặt tối của một lối
chính trị thực dụng. Đó là lối chính trị mà nước lớn làm những gì họ hài
lòng còn nước nhỏ phải chịu đựng”.
Vị Thượng nghị sĩ này còn nói rằng Hoa Kỳ phải “hỗ trợ những đối tác ASEAN như họ yêu cầu”
và giải quyết những bất đồng theo hướng hòa bình và đa phương. Lời nói
của ông John McCain không ám chỉ vào nước nào, cũng không chính thức ủng
hộ lối giải quyết đa phương như một số nước ASEAN yêu cầu, nhưng có thể
được xem là một thông điệp mạnh mẽ khẳng định vai trò của Hoa Kỳ tại
biển Đông, mặc dù chưa ai rõ tình hình biển Đông sẽ được giải quyết như
thế nào.
Ngày 9 tháng 5 vừa qua, phát biểu với các công ty Hoa Kỳ, Bộ trưởng
Quốc phòng Hoa Kỳ Leon Panetta ủng hộ việc phê chuẩn Công ước LHQ về
Luật biển 1982 – UNCLOS. Có hiệu lực từ năm 1994, UNCLOS được 157 nước
thông qua, nhưng Hoa Kỳ không nằm trong số đó. Phát biểu của ông Leon
Panetta trong lúc này có thể làm hài lòng một số quốc gia, trong đó có
Philippines. Tuy nhiên, theo ông John McCain, hiện tại cấp nguyên thủ
quốc gia Hoa Kỳ chưa nói gì về việc thông qua UNCLOS. Riêng bản thân ông
, ông ủng hộ việc này.
Việt Nam và nhân quyền
Liên quan đến Việt Nam, tại buổi nói chuyện này, ông John McCain cho biết ông hiểu rằng “Việt Nam dĩ nhiên lo sợ Trung Quốc” dựa vào những gì xảy ra trong lịch sử. Tuy nhiên, ông cho biết ông quan ngại về “cách thức mà chính phủ đối xử với các nhóm tôn giáo, các sắc tộc thiểu số, tình trạng tham nhũng ở mức cao”. Ông cho rằng vì tình trạng đàn áp nhân quyền vẫn đang diễn ra, Hoa Kỳ chưa thể cung cấp vũ khí tấn công cho Việt Nam.
Tuy nhiên, ông cho biết ông quan ngại về “cách thức mà chính phủ đối xử với các nhóm tôn giáo, các sắc tộc thiểu số, tình trạng tham nhũng ở mức cao”.
Hồi đầu năm nay, sau khi cùng ba nhà lập pháp khác đến Việt Nam, ông
John McCain đã tiết lộ rằng Việt Nam đưa cho ông một danh sách các vũ
khí cần mua. Tuy nhiên, lúc đó ông cũng khẳng định lập trường của mình
là không đáp ứng yêu cầu của Việt Nam khi tình trạng nhân quyền chưa cải
thiện.
Khẳng định can dự vào Châu Á trong vấn đề kinh tế, ngoại giao, quân
sự có lẽ không phải là một điểm mới. Nhưng ít ra nó cho thấy sự quyết
tâm và đồng thuận của Hoa Kỳ tại biển Đông. Mặc dù Hoa Kỳ nhiều lần
khẳng định “không cố tình kiềm chế nước nào”, nhưng theo các nhà quan
sát đây là động thái trấn an đồng minh, đối tác cũng như đối trọng với
Trung Quốc.Video Hoa Kỳ và Biển Đông
Thượng viện Mỹ xem xét khả năng phê chuẩn Công ước về Luật Biển
Nhiều nước đang tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông.
Nguồn:wikipedia
Sau gần 30 năm làm ngơ, ngày 23/05/2012, Thượng viện Hoa Kỳ,
định chế quyết định trong vấn đề phê chuẩn các hiệp định của nước Mỹ, sẽ
bắt đầu xem xét việc phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
năm 1982 dưới góc độ an ninh và chiến lược. Tiến trình xem xét được mở
đầu bằng một phiên điều trần của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ ở
Washington DC.
Cuộc điều trần - do Thượng Nghị Sĩ John Kerry, Chủ tịch Ủy ban
Đối ngoại Thượng viện chủ trì - sẽ nghe tham luận của bà Hillary
Clinton, Ngoại trưởng, ông Leon Panetta, Bộ trưởng Quốc phòng, và Tướng
Martin Dempsey, Tổng Tham mưu trưởng Liên quân.
Sự kiện Thượng viện Hoa Kỳ xem xét khả năng phê chuẩn Công Ước về
Luật Biển là một thay đổi quan trọng trong đường lối của Hoa Kỳ vốn đã
tẩy chay văn kiện ra đời từ năm 1982, đã được 162 quốc gia phê chuẩn, và
bắt đầu có hiệu lực từ năm 1994.
Quan điểm trước đây của Mỹ là không phê chuẩn Công ước này, vì cường
quốc kinh tế và hải quân số một thế giới muốn được quyền tự do khai thác
lòng biển, cũng như tung hoành trên đại dương mà không bị ràng buộc.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, khi quyết định dấn thân sâu hơn vào
vùng Châu Á trước đà vươn lên mạnh mẽ về mặt quân sự của Trung Quốc,
chính quyền Hoa Kỳ đã thấy rằng cần phải gia nhập công ước này để có
thêm tiếng nói. Ngoại trưởng Clinton đã tuyên bố rằng thúc đẩy việc phê
chuẩn UNCLOS là một trong những ưu tiên của bà tại Bộ Ngoại giao. Đó
cũng là quan điểm của Tổng thống Obama.
Quân đội Mỹ cũng cần có một cơ sở pháp lý để khỏi phải nhức đầu với
các quốc gia hàng hải đã tự đòi hỏi chủ quyền trên các vùng biển, và đặt
ra những quy định riêng biệt, hạn chế quyền tự do hàng hải. Công ước
Liên Hiệp Quốc sẽ cho phép các nước giải quyết tranh chấp lãnh thổ một
cách hòa bình mà không cần đến sự can thiệp của quân đội Mỹ
Tuesday, May 22, 2012
ĐỀ NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP CỨU NƯỚC
Việt Nam cần áp dụng tam quyền phân lập để tránh một Nhà nước toàn trị
Phiên họp Quốc hội Việt Nam ngày 21/05/2012 tại Hà Nội.
REUTERS/Kham
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần
thứ 5 vừa bế mạc ngày 15/05/2012 đã khẳng định một số vấn đề rất được dư
luận chú ý trong thời gian gần đây. Trước hết là tái công nhận đất đai
là sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản
lý. Kế đến là quyết định lập Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham
nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, do Tổng bí thư đứng đầu, và bỏ các ban
chỉ đạo cấp tỉnh.
RFI Việt
ngữ đã trao đổi với Luật gia Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó chủ tịch Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh về các vấn đề trên.
RFI: Xin chào luật gia Lê
Hiếu Đằng. Thưa ông, vừa qua Hội nghị trung ương lần thứ 5 đã tái khẳng
định « đất đai thuộc sở hữu toàn dân ». Ông có nhận xét như thế nào về
vấn đề này ?
Luật gia Lê Hiếu Đằng: Vừa qua
sau Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 nhiều người rất là
thất vọng. Bởi vì những chủ trương đưa ra trong nghị quyết hoàn toàn đi
ngược lại với thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, nhất là vấn đề đất đai. Mà
tôi cho rằng làm như vậy là không thực hiện dân chủ. Bởi vì lẽ ra phải
để cho dân, cho nhân sĩ trí thức, rồi các tổ chức, đoàn thể bàn bạc trao
đổi trong việc sửa đổi Hiến pháp, mà trong đó có điều khoản về đất đai.
Và sau khi đã bàn bạc rồi, trên cơ sở đó Đảng có quyết định và chịu
trách nhiệm trước dân, trước lịch sử về quyết định của mình, bằng cách
ra nghị quyết. Chứ làm như vậy là một quy trình ngược - bây giờ còn trao
đổi gì nữa, nếu khẳng định đất đai là sở hữu toàn dân ?
Có nhiều ý kiến đề nghị phải xác định là đất đai là có ba quyền
sở hữu : sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân. Thật ra sở
hữu cá nhân không ảnh hưởng gì vì khi có nhu cầu quốc phòng, nhu cầu an
ninh thì nhà nước có thể trưng thu, trưng mua. Điều này thì nước nào
cũng vậy cả.
Nhưng nếu nói đất đai là sở hữu toàn dân, do nhà nước quản lý,
thì dễ đi đến sự tùy tiện của các cấp chính quyền. Mặc dù có quy định là
bao nhiêu năm mới hết hạn, nhưng mà người dân vẫn không an tâm. Mà nhất
là tôi thấy vô lý ở chỗ, trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
vừa rồi, thì khẩu hiệu của chúng ta là ruộng đất cho dân cày, nên tập
hợp được nông dân - chính đây là lực lượng chủ yếu để làm cách mạng.
Nhưng khi cách mạng về, thắng lợi rồi thì bỗng dưng mình lại
tuyên bố là đất đai của toàn dân, không thừa nhận quyền sở hữu đất đai
của người dân, và nhất là nông dân. Có thể nói đây là một sự phản bội
đối với nông dân. Thành ra mới xảy ra nhiều hoàn cảnh đau lòng, như gia
đình ông Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng hay mới đây là ở Văn Giang (Hưng
Yên), và ở Nam Định.
Chúng tôi nghĩ là Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương lần thứ 5,
và phát biểu khai mạc cũng như bế mạc của ông Tổng bí thư đi ngược lại
nguyện vọng của người dân. Bởi vì trước đó, trong khi thảo luận để sửa
đổi Hiến pháp, nhiều nhân sĩ trí thức và kể cả những người có chân trong
chính quyền cấp cao trước đây, cũng đề nghị là phải công nhận quyền sở
hữu đất đai của người dân.
Tôi nghe nói là « Ý Đảng, lòng dân », thì rõ ràng là lòng dân đi
một đường mà ý Đảng lại đi một nẻo. Như vậy sẽ tiếp tục là một nguy cơ
làm mất ổn định chính trị. Chứ không có kẻ xấu, không có đám phản động
nào hết, mà chính những chủ trương chính sách bất hợp lý, không phù hợp
lòng dân sẽ là một trong những nguyên nhân gây mất ổn định chính trị.
Vì vậy mà chúng tôi thấy rất là thất vọng và rất buồn, vì lãnh
đạo của Đảng Cộng sản lại không thấy hết nỗi khổ của người dân trong
những vụ bị thu hồi đất. Và như vậy nó liên quan đến vấn đề chống tham
nhũng. Có nghĩa là tham nhũng hiện nay lớn nhất là tham nhũng về đất
đai, mà kẽ hở của luật pháp chính là việc không công nhận quyền sở hữu
ruộng đất của người dân.
RFI: Có vẻ chính quyền vẫn chưa muốn rút kinh nghiệm từ vụ Tiên Lãng, hoặc là lo ngại xảy ra tác động dây chuyền, ông nghĩ thế nào ?
Như trong bài viết « Ai biến chất chính trị và ai là người tự
diễn biến ? » trên mạng Bauxite Việt Nam tôi cũng đã phân tích, chính
vấn đề là những vụ như Văn Giang hay Nam Định đã gây nên sự công phẫn
của người dân. Ví dụ như đánh dân – dùng lực lượng công an để đánh dân,
mà chính quyền lại chối, nhưng cuối cùng lại lòi ra là đánh không phải
dân mà còn đánh hai nhà báo của đài phát thanh Việt Nam. Vấn đề không
phải là đánh nhà báo - vì dân thì anh đánh được à ? Như vậy hoàn toàn
không phù hợp với cái mà chúng ta thường nói là bản chất của chế độ
xã hội chủ nghĩa.
Chuyện xảy ra ở Văn Giang rất đáng buồn ở chỗ lẽ ra từ vụ Tiên
Lãng chúng ta rút kinh nghiệm. Mà Văn Giang đâu có xa Hà Nội bao nhiêu,
nhưng chính phủ trung ương không có một phản ứng gì để giải quyết vụ Văn
Giang, đi đến tình hình là xua một ngàn cảnh sát công an đi dẹp dân.
Chính quyền phải thấy rằng những vụ đó sẽ là manh nha nhiều vụ
việc khác nữa. Bởi vì không phải chỉ ở Tiên Lãng, Văn Giang hay Vụ Bản,
mà ngay ở Thành phố Hồ Chí Minh, ở các tỉnh miền Nam đều có những bức
xúc về đất đai cả. Vì vậy đây là vấn đề rất lớn trong tình hình hiện
nay.
Mà nếu giải quyết không khéo, không đứng về phía quyền lợi của
người dân, mà đứng về phía lợi ích của các tập đoàn, thì Nhà nước không
phải là Nhà nước của dân do dân vì dân. Không phải là Nhà nước để bảo vệ
người nghèo, những người cô thế nữa, mà là Nhà nước để bảo vệ những
người có tiền, người giàu, giới chủ, hay như chúng ta thường nói là
những tư sản đỏ.
RFI: Có lẽ là chấp nhận cho
người dân có được quyền sở hữu đất đai mới là lạ, vì hiện nay không dễ
gì thay đổi nhanh như vậy phải không thưa ông ?
Tôi cho rằng một Đảng cầm quyền phải dựa trên ý nguyện của người
dân để mà ra chính sách, chứ không phải dựa trên lợi ích nhóm, lợi ích
của các nhà đầu tư. Mà nếu dựa trên lợi ích của người dân và nhất là
nông dân, thì việc sửa đổi Hiến pháp, trong đó có Luật đất đai tôi cho
là đương nhiên thôi.
Nhưng vấn đề ở đây, nếu nói sửa đổi « lạ » là ở chỗ hiện nay tình
hình thực tế là các nhóm lợi ích đã chi phối chính quyền quá nhiều rồi -
hay là các nhà đầu tư thông qua đồng tiền đã chi phối các cấp chính
quyền quá nhiều ! Thành ra có nhiều người tin rằng việc sửa đổi Hiến
pháp, trong đó có Luật đất đai là sẽ không thay đổi.
Mà quả thật qua nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương lần thứ
5, thì rõ ràng suy nghĩ đó là đúng sự thật. Và có thể nói đã gây ra một
cú sốc rất lớn đối với số nhân sĩ trí thức và các tầng lớp nhân dân mà
từ trước đến giờ đã thảo luận và đã có ý kiến nên công nhận quyền sở hữu
về đất đai của người dân, trong đó có nông dân.
RFI: Còn về vấn đề lập Ban
chỉ đạo trung ương phòng chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, và bỏ
các ban chỉ đạo cấp tỉnh, theo ông sẽ có tác động được nhiều hơn trong
việc chống tham nhũng không ?
Tôi cho là tình hình tham nhũng hiện nay, như ngay báo chí công
khai của nhà nước, cũng như một số cuộc họp lãnh đạo cũng thừa nhận là
một căn bệnh ung thư đã di căn rồi. Có nghĩa là nó đã đục ruỗng bộ máy
nhà nước của chúng ta rất nhiều rồi.
Mà qua công tác từ trước tới giờ tôi vẫn biết, là cấp chính quyền
nhỏ thì ăn hối lộ, tham nhũng theo cấp nhỏ, cấp quận thì ăn theo cấp
quận, cấp thành phố thì theo thành phố, cấp tỉnh theo cấp tỉnh, trung
ương theo trung ương…Nó ăn ruỗng trong nhiều lãnh vực liên quan đến đời
sống con người. Ví dụ như lãnh vực giáo dục, lãnh vực y tế, xây dựng
chẳng hạn, rồi lãnh vực đất đai. Có thể nói là đã đụng chạm rất nhiều
đến đời sống, quyền lợi của người dân.
Vì vậy tôi cho là biện pháp nào để chống tham nhũng cũng phải
xuất phát từ chỗ, có thực sự muốn chống tham nhũng hay không. Và có
thoát khỏi những ràng buộc, bao vây của những thế lực – mà không phải
thế lực thù địch hay thế lực xấu gì, nhưng là những thế lực tài phiệt,
kể cả từ các nhóm lợi ích cho đến những nhà đầu tư không « ngay ngắn ».
Vấn đề là ở chỗ đó. Còn phương pháp nào thì cũng sẽ bị vô hiệu hóa nếu
không thực sự muốn chống tham nhũng, không thực sự chống lại cái xói mòn
của tiền bạc vào trong các cấp chính quyền.
Bây giờ ngoài ban chống tham nhũng của chính phủ ra, thì có ban
chỉ đạo.Tôi thì ở Thành phố Hồ Chí Minh hồi còn đương chức đã tham gia
rất nhiều ban chỉ đạo, nhưng rồi cuối cùng cái tác dụng của các ban chỉ
đạo cũng không có gì ghê gớm cả. Vì nói gì thì nói thì ban chỉ đạo cũng
chỉ là ban tổng hợp của nhiều ngành tham gia.
Vấn đề tổ chức cũng rất quan trọng, nhưng tôi nghĩ là nếu bây giờ
Tổng bí thư đứng đầu Ban chỉ đạo thì tôi cũng trông chờ xem hiệu quả
của Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng như thế nào. Nhưng
tôi thấy trước mắt những vụ như ở Tiên Lãng (Hải Phòng), ở Văn Giang, ở
Vụ Bản (Nam Định), đứng về mặt Đảng thì những vị giữ chức vụ cao trong
Đảng không động tĩnh gì hết. Như vậy chưa chắc gì khi có ban chỉ đạo sẽ
có tác dụng tích cực, mà vẫn để cho chính quyền hoành hành trong việc
giải tỏa đền bù, rồi trong nhiều việc khác, hay là trong vấn đề đầu tư
công.
Đầu tư công là một lãnh vực mà tham nhũng hết sức là to lớn. Những vụ
làm thất thoát hàng chục ngàn tỉ hay hàng trăm ngàn tỉ sẽ giải quyết
thế nào. Dù sao thì chúng ta cũng chờ xem thử ban chỉ đạo mới thành lập
sau nghị quyết trung ương 5 sẽ hành xử như thế nào, từ đó mới thấy rằng
Đảng và Nhà nước có quyết tâm thực sự chống tham nhũng hay không. Hay là
cũng như những lần trước đây đề ra rất nhiều biện pháp nhưng cuối cùng
là không hiệu quả vì không thực sự muốn chống tham nhũng.
RFI: Được biết sẽ thành lập
lại Ban Nội chính Trung ương đồng thời là cơ quan thường trực của Ban
chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng, như vậy có gì khác không
thưa ông ?
Thật ra trước đây đã có Ban An ninh Nội chính trung ương và ở cấp
tỉnh, thành phố rồi, nhưng mà sau đó giải tán, bây giờ lập lại. Tôi
nghĩ vấn đề khó khăn ở chỗ đây chỉ là một ban của Đảng thôi. Đứng về mặt
luật pháp thì một tổ chức chính quyền được luật pháp quy định thì mới
có quyền. Còn ban Đảng, ngay cái tên là chỉ « chỉ đạo » thôi mà, chứ đâu
có quyền. Có nghĩa là anh chỉ đạo cái này cái kia, nhưng mà bên chính
quyền làm hay không làm thì cũng không sao cả.
Cái này là cái mà từ trước tới giờ gặp rất nhiều khó khăn- có
nhiều ban chỉ đạo nhưng không hiệu quả. Mà điều này liên quan đến việc
có giao quyền thật sự cho ban chỉ đạo này hay không, hay lại cũng chỉ là
hình thức như các ban chỉ đạo khác.
RFI: Thưa ông, bên cạnh đó
còn có chuyện bố trí người thường dựa vào quen biết, thế lực chứ không
phải tài năng. Có lẽ khi nào chưa có cơ chế chọn được người có năng lực
vào những vị trí quan trọng thì vẫn còn tham nhũng?
Nhân đây tôi cũng muốn nói một ý mà trong hội nghị Ban chấp hành
Trung ương lần thứ 5 ông Tổng bí thư cũng có nêu, đó là vấn đề tam quyền
phân lập. Thật ra muốn chống tham nhũng, muốn một chính quyền hoạt động
có hiệu quả, thì phải chấp nhận tam quyền phân lập.
Mà đây không phải là sản phẩm của giai cấp tư sản, nhưng là thành
quả từ các kinh nghiệm - kinh nghiệm quản lý đất nước, con người mà ra.
Bởi vì tam quyền phân lập mới làm cho các bộ phận được độc lập. Ví dụ
như tư pháp có độc lập thì mới dám xử mấy ông tham nhũng chứ ?
Chứ bây giờ tình hình ở Việt Nam là gì ? Là xử theo bản án đã có
sẵn, nhất là những vụ nghiêm trọng là cấp ủy đảng đôi lúc có xen vào.
Hay là hành pháp cũng vậy. Thành ra vấn đề là phải độc lập thì mới có đủ
quyền lực để mà hành xử, để xử lý một số vụ việc nghiêm trọng xảy ra.
Ví dụ như ở các nước, Tổng thống tuy là « hạ cánh an toàn » rồi
nhưng mà sau họ cũng lôi ra xử. Chứ không phải như Việt Nam chúng ta, hễ
« hạ cánh an toàn » rồi thì thôi, hoặc là đương chức thì cũng không thể
nào xử được.
\
Thành ra tôi cho rằng việc tam quyền phân lập là một trong những
biện pháp để chống lại một cái Nhà nước toàn trị. Nếu không tam quyền
phân lập thì vai trò của Đảng như thế nào ? Đảng trở thành một siêu
quyền lực ! Ai giám sát Đảng ? Như vậy sẽ trở thành một siêu quyền lực
và dễ đi đến chỗ đứng trên pháp luật, đứng ngoài pháp luật và đi đến
lộng quyền. Đó là điều mà người dân đâu có ủy nhiệm thông qua lá phiếu
của mình ?
Vì vậy tôi cho là vấn đề chống tham nhũng, cũng như vấn đề đất
đai, thì nó liên quan đến một Nhà nước pháp quyền, trong đó tôn trọng
nguyên tắc tam quyền phân lập thì mới có hiệu quả. Chứ còn nếu không sẽ
dẫn đến chỗ « vừa đá bóng vừa thổi còi » và sẽ không đi đến đâu cả.
Trong thảo luận về sửa đổi Hiến pháp thì nhiều nhân sĩ trí thức
cũng đặt ra vấn đề tam quyền phân lập. Ngay ông Nguyễn Văn An từng là
Chủ tịch Quốc hội cũng nói, tuy không rõ, nhưng cũng nói hơi hơi cái ý
đó.
Đó là mối tương quan giữa vấn đề đất đai, vấn đề chống tham nhũng
với một Nhà nước pháp quyền thật sự. Trong đó phải tôn trọng một nguyên
tắc chung mà một Nhà nước dân chủ phải tuân thủ : tam quyền phân lập.
Và trong tam quyền phân lập thì Đảng cầm quyền cũng phải được người dân
giám sát, chứ không thể tự tung tự tác !
RFI Việt ngữ xin chân thành cảm ơn Luật gia Lê Hiếu Đằng,
nguyên Phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh,
đã vui lòng dành thì giờ trả lời phỏng vấn của chúng tôi.
Sửa đổi Hiến pháp: Những vấn đề nào là cần thiết nhất?
Bùi Tín viết riêng cho VOA
Hình: REUTERS
Trong lời khai mạc, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ việc sửa đổi và bổ sung hiến pháp lần này chỉ liên quan đến «những vấn đề thực sự cần thiết, được thực tế chứng minh là đúng đắn, có đủ cơ sở và sự thống nhất cao, khi thời điểm đã chín muồi» Ông cũng rào trước là sẽ không bàn đến việc 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tách rời nhau theo nguyên tắc «tam quyền phân lập», nghĩa là kiên quyết giữ nguyên chế độ độc quyền toàn trị của đảng CS, ôm chặt cả 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, không có ai kiểm soát và thay thế được. Đây là chế độ độc đoán phi dân chủ chỉ còn rải rác ở một số nước đếm được trên đầu ngón tay. Trên thế giới hiện không còn có ai cho rằng một nước theo chế độ độc đảng lại có thể là một nước dân chủ.
Vậy, trên thực tế, những vấn đề nào là cần thiết nhất?
Ngay vấn đề danh xưng, tên nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng đã đến lúc cần thay đổi. Vì thế nào là chế độ XHCN vẫn còn là vấn đề cần được thảo luận, chưa định hình được cho rõ ràng. Các nước XHCN ở Đông Âu, Trung Âu đã tan vỡ. Ngay như Trung Quốc mà nhóm lãnh đạo hiện nay ở Hà Nội coi là mẫu mực cũng chỉ mang danh là nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; Bắc Triều Tiên cũng chỉ được gọi là nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên; và Cuba cũng chỉ mang tên nước Cộng hòa Cuba.
Cũng cần nhắc lại nước Libya của Gadhafi đã từng tự gọi là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Libya; hay Miến Điện, từng được gọi là nước Xã hội Chủ nghĩa Miến Điện, cũng đã thay đổi quốc hiệu bằng cách bỏ hẵn cụm từ XHCN không còn thích hợp, vô duyên, mơ hồ. Chỉ còn có Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới vẫn tiếp tục giữ danh xưng XHCN lạc lõng, trơ trọi, phản khoa học vì không có nội dung thích hợp.
Vấn đề cấp bách, thiết thực hơn cần giải quyết ngay tại cuộc họp Trung ương lần này là vấn đề công nhận quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất của nông dân vốn có tự ngàn xưa, bỗng nhiên bị đảng CS xóa bỏ bằng cách «sáng tạo» ra khái niệm «sở hữu toàn dân».Ruộng đất, ao hồ … là thuộc quyền sở hữu của toàn dân. Vậy toàn dân là ai? Trên thế giới, không ở đâu có cái khái niệm toàn dân cả. Toàn dân là ai? Là ông hay là bà? Là cô hay là cậu? Sinh ra ngày tháng nào? Có họ gì, tên gì? Địa chỉ ở đâu? Làm nghề gì? Có danh nghĩa pháp nhân hay không?
Ngày xưa bên cạnh ruộng của tư nhân có một số rất ít ruộng «công», ruộng của chung, cho lợi ích công cộng, do chính quyền xã quản lý, hay ruộng của dòng họ, của hội tư nhân, có tên người đứng ra quản lý. Đó còn là ruộng công do hội đồng xã cai quản, nhằm tạo quỹ công, để sửa chữa đường xá, xây trường học, dự trữ lương thực khi đói kém, thuê người canh giữ ruộng đồng, có nhiều nơi có «tự điền», «học điền» nhằm chăm lo việc cúng bái ở các nhà thờ họ, cung cấp học bổng cho học sinh nghèo và học sinh giỏi; nhà chùa cũng có «tự điền», «hiến điền» do tư nhân có hảo tâm cúng hiến trước khi chết, nhằm chăm lo việc cúng bái, làm từ thiện, cứu trợ cô nhi quả phụ.
Đảng CS đã «tịch thu» tất cả các loại ruộng công và ruộng của tập thể trên đây, để nhân danh nhà nước nắm giữ hết, theo công thức «Ruộng đất là thuộc sở hữu của toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý». Toàn dân là ai? Không là ai cả, toàn dân không có họ tên, tiếng nói, địa chỉ nên đảng CS đã cướp chính quyền và tự cho quyền thay mặt toàn dân để sở hữu tất cả. Từ đó họ bày ra các khái niệm «thu hồi, đền bù, cưỡng chế», không hề có ở bất kỳ nước nào khác, để xóa bỏ triệt để quyền sở hữu ruộng đất của tư nhân, xóa luôn cả các loại ruộng công, ruộng của các dòng họ, của chùa, nhà thờ, các loại tự điền, học điền, công điền… phá hoại cuộc sống tư nhân và cộng đồng nhỏ ở nông thôn.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đảng CS rất thưa thớt, xuân thu nhị kỳ, mỗi năm chỉ họp 2 hay 3 lần. Do đó cần bàn đến những vấn đề cần kíp nhất, cấp bách nhất. Sửa đổi hiến Pháp là vấn đề cấp bách, nhưng không thể chỉ sửa những điều thứ yếu, bộ phận, hình thức.
Vấn đề sở hữu rộng đất, trả lại quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất cũng như các loại ruộng công, ruộng của tập thể dòng họ, nhà chùa, nhà thờ… là vấn đề nóng bỏng, chính đáng nhất.
Hiện đang có gần 40 ngàn vụ khiếu kiện về ruộng đất chưa được giải quyết, nông thôn tiêu điều, nông dân cảm thấy bị đảng CS phản bội, do đó không thể sửa chữa kiểu bộ phận, như 5 lần thay đổi Luật về đất đai trước đây.
Đi cùng với vấn đề then chốt trên đây, việc từ bỏ Điều 4 của Hiến pháp - cóp nhặt của hiến pháp Liên Xô - cũng hết sức cấp bách để thực hiện nền dân chủ đa nguyên, dựa trên quyền tự do lập hội. Xin nhớ Liên Xô sụp đổ chính là do cái Điều 4 khẳng định vị trí độc quyền của đảng CS.
Đảng CS Việt Nam đã đến lúc cần nghe rõ mong muốn nóng bỏng của đông đảo nhân dân là thiết lập một nền dân chủ đa nguyên hiện đại, điều kiện tiên quyết để hòa nhập hoàn toàn với thế giới dân chủ hiện đại. Lúc này đã là quá chậm. Không thể làm mất thêm thời gian của nhân dân, của dân tộc. Hãy chuẩn bị một cuộc họp Quốc hội lịch sử theo hướng ấy. Cũng cần tổ chức trưng cầu dân ý về vấn đề cực kỳ hệ trọng này.
Đảng CS sẽ được lợi, là khi có đảng anh em, bình đẳng để ganh đua, cạnh tranh nhau phục vụ nhân dân, lấy cử tri làm trọng tài, đảng CS sẽ có thể khắc phục sự suy thoái thảm hại hiện nay.
Đảng CS không thể một mặt cao ngạo tự cho mình là đúng đắn duy nhất không ai cạnh tranh thay thế được, mặt khác lại ươn hèn tự ty không dám đọ sức với một tổ chức nào khác, để lẩn thẩn nghĩ rằng công nhận đa nguyên là tự sát.
Còn vài ngày nữa Hội nghị Trung ương 5 sẽ kết thúc. Nếu bỏ qua việc bàn đến việc trả lại quyền tư hữu ruộng đất cho nông dân và bỏ điều 4 trong Hiến pháp, đi ngược với dân tộc và thời đại, Bộ Chính trị và Trung ương Đảng sẽ kiên trì một thái độ sai lầm tệ hại, tự dấn sâu vào con đường xa rời nhân dân, phản bội nông dân, như thế là khiêu khích toàn dân và sẽ không tránh khỏi sự chống đối rộng khắp của mọi tầng lớp đồng bào ta đang thức tỉnh.
http://www.voanews.com/vietnamese/blogs/tin/bui-tin-blog-sua-doi-hien-phap-05-10-2012-150962845.html
Posted by vanhoa at 11:48 AM No comments:
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0218
NỖI KHỔ ĐAU CỦA DÂN VIỆT NAM TRONG CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN
Người dân và nền hành chính công
Nhân Khánh, thông tín viên RFA
2012-05-18
Công tác cải cách thủ tục hành chính tại Việt Nam được thực hiện trong nhiều năm. Qua thời gian, nền hành chính công có những biến chuyển nhất định.
RFA PHOTO
Người dân đang cảm nhận như thế nào về các cơ quan công quyền
và đâu là vấn đề mấu chốt cần phải thực hiện trong công tác cải
cách hành chính hiện nay? Thông tín viên Nhân Khánh có những
ghi nhận về vấn đề này như sau. Mời quý vị theo dõi:
Hồi đầu tháng này, kết quả của chỉ số hiệu quả quản trị và
hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) năm 2011 vừa được công bố.
Cuộc điều tra được tiến hành bởi một số cơ quan trong nước,
có sự phối hợp của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP).
Với hàng chục ngàn người được tham vấn và tiến hành trên 63
tỉnh thành, đây là cuộc khảo sát trực tiếp lớn nhất ghi nhận ý
kiến người dân, được tiến hành tại Việt Nam cho đến nay. Chỉ số PAPI
thể hiện cảm nhận của người dân về nền hành chính công.
Cái xu hướng hiện nay nói chung, người ta đang càng ngày càng quay về với xu hướng xin cho. Nó còn nặng hơn ngày xưa. TS Nguyễn Thu Linh
Kết quả cuộc khảo sát cung cấp khá đầy đủ về thực trạng quản lý
nhà nước. Bên cạnh các tiến triển nhất định, hiện tượng “hành là
chính” vẫn xảy ra trong nhiều lĩnh vực. Các ý kiến của người dân
về hệ thống hành chính công là những đóng góp cần thiết trong
quản trị quốc gia. Xã hội dân sự là thành quả phát triển tất
yếu của quá trình vận động lịch sử tự nhiên. Trưởng ban tư vấn
Thang Văn Phúc, nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ cho rằng, chỉ số PAPI sẽ
được sử dụng như một công cụ đánh giá công tác quản trị và hành chính
công từ bên ngoài.
Vậy tâm thế của người dân hiện nay khi đến các cơ quan công
quyền đang diễn ra như thế nào? Chúng tôi đem thắc mắc này đến
với Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thu Linh, Phó Viện trưởng Viện Các vấn
đề phát triển, thì được cho biết:
“Cái xu hướng hiện nay nói chung, người ta đang càng ngày
càng quay về với xu hướng xin cho. Nó còn nặng hơn ngày xưa,
cộng với tác động tiêu cực của thị trường nữa. Thế cho nên,
người dân bây giờ đến công sở mà không có cái phong bì kèm theo
thì đa phần là không được việc.”
Trong số những cơ quan tham gia cuộc khảo sát về chỉ số PAPI
có Trung tâm Nghiên cứu phát triển và hỗ trợ cộng đồng (CECODES). Giáo
sư Đặng Ngọc Dinh, Giám đốc của Trung tâm này cho biết ý nghĩa và
mục đích của cuộc khảo sát là như sau:
“Là một quá trình rất lâu dài, mình hướng đến một nền
quản trị hiện đại mà PAPI đang tới. Mình coi người dân như là
khách hàng, đánh giá những dịch vụ của chính quyền.
Chứ còn thực tế bây giờ người dân chưa đến được đấy. Mình cứ làm dần dần như vậy, mỗi năm một ít.”
Kiểm
soát tham nhũng là một trong 6 lĩnh vực đánh giá chỉ số PAPI, kết quả
nghiên cứu cho thấy hiện tượng tham nhũng "vặt" là khá phổ biến. Điều
này không quá khó hiểu, nếu căn cứ theo một phát biểu khác
của ông Thang Văn Phúc, rào cản lớn nhất trong tiến trình cải cách thủ
tục hành chính chính là đội ngũ công chức. Tiền lương công chức hiện nay
không phản ánh đúng giá trị lao động của họ. Trong bối cảnh đặc thù
của Việt Nam, có lẽ tính chất độc quyền của nền hành chính
đã làm biến dạng mối quan hệ, lẽ ra phải là sòng phẳng giữa
người dân với cơ quan công quyền. Do đó, cách nhìn nhận giữa
người dân và cơ quan công quyền trước những cải cách thủ tục
hành chính, có lẽ không giống nhau. Tiến sĩ Nguyễn Thu Linh có
ý kiến như sau:
“Cách đây 2 năm, tôi có đi dự một buổi thông báo về kết
quả chỉ số PAPI. Trong cuộc họp này, tôi thấy có sự không gặp
nhau giữa các ý kiến. Bộ Nội vụ thì cho rằng các chỉ số PAPI
này là không phù hợp với các nội dung cải cách hành chính;
và như vậy không đánh giá được kết quả của cải cách hành
chính.
Tôi cũng có chia sẻ ý kiến rằng, đây là cái nhìn của
người dân về kết quả cải cách hành chính. Thế còn nội dung
các điểm cải cách hành chính, đấy là việc của cơ quan nhà
nước làm. Không nhất thiết hai cái phải giống nhau. Người dân đo
là đo cái kết quả, chứ không đo cách thức làm. Cách thức
nào, đấy là việc của nhà nước.”
Cải cách chưa đồng bộ
Tôi nghĩ là những người có trọng trách trong bộ máy nhà nước có thực sự, thực lòng cải cách hành chính hay không. Chứ còn cứ vòng vo một cửa với nhiều cửa. TS Nguyễn Thu Linh
Những kỳ vọng và nhu cầu về cải tổ, đổi mới thực sự của nhân dân và
nhiều tầng lớp trong xã hội là chính đáng. Các ách tắc của công
tác cải cách hành chính đang nằm đâu đó trong hệ thống phân
cấp. Xét trên bình diện toàn quốc, xem ra hệ thống thủ tục hành
chính dù đã được cải cách mạnh mẽ nhưng hiện vẫn còn chưa đồng bộ,
thiếu nhất quán. Cơ quan công quyền giữ thuận lợi cho hoạt động quản lý
của mình nhiều hơn là đáp ứng nhu cầu tạo thuận lợi cho người dân.
Cách làm này khiến không ít người dân váng đầu hoa mắt khi
đứng trước mê hồn trận thủ tục hành chính công. Qua kết quả
của chỉ số PAPI năm 2011, Giáo sư Đặng Ngọc Dinh có nhận xét
sau:
“Sự hài lòng của người dân thì rất là khác nhau, tùy
mỗi một tỉnh có cái khác nhau. Song nhìn chung giữa cái tỉnh
thấp với tỉnh cao cũng không khác biệt lắm. Như thế nó phản
ánh tình hình chung của đất nước.”
Vấn đề thiết yếu không phải là có bao nhiêu thủ tục hành
chính mà là người dân cảm nhận thế nào về chất lượng trong việc thực
hiện các thủ tục hành chính đó. Cải cách thủ tục hành chính
cũng cần thay đổi ngay từ hướng tiếp cận vấn đề. Thay vì từ
quan điểm nhìn nhận của cơ quan quản lý, thì phải tiếp cận từ góc
độ của các đối tượng tuân thủ là người dân. Hoặc theo như Tiến sĩ
Nguyễn Thu Linh, điểm mấu chốt để công tác cải cách hành chính
thành công là:
“Tôi
nghĩ là những người có trọng trách trong bộ máy nhà nước có
thực sự, thực lòng cải cách hành chính hay không. Chứ còn cứ
vòng vo một cửa với nhiều cửa…
Hành chính một cửa hay bao nhiêu cửa thì cái đấy là việc
của nội bộ hành chính, người dân người ta không cần biết.”
Có những phương thức tưởng như không phức tạp nhưng lại tỏ ra
chẳng dễ dàng áp dụng. Chẳng hạn trong các cam kết khi Việt
Nam gia nhập WTO, yêu cầu về tính minh bạch là rất quan trọng.
Tạo được sự minh bạch trong hệ thống hành chính, tức hiển nhiên đơn
giản hóa rất nhiều thủ tục thuộc hệ thống này.
Chặng đường để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua tổ
chức nhà nước, như phát biểu của ông Tổng Bí thư đảng Cộng sản
Nguyễn Phú Trọng, hồi đầu tháng này, quả còn lắm nhiêu khê.
Bởi mô hình phân quyền độc lập, ngoài công tác giám sát còn
có chức năng tạo sự cân bằng trong hệ thống quyền lực. Chừng
nào thì các thủ tục hành chính thực sự là các sản phẩm
dịch vụ công, là một đáp án vẫn còn bỏ ngỏ.
Vấn đề nông dân Việt Nam đầu thế kỷ 21
Nông
dân Văn Giang, Hưng Yên cắm lều chống lại lệnh của chính quyền cưỡng
chế thu hồi đất dành cho dự án Ecopack hôm 23/04/2012
REUTERS/Stringer
Với hơn 70% dân số là nông dân, Việt Nam là một nước nông
nghiệp. Quá trình hiện đại hóa đất nước ngày nay đang làm nảy sinh nhiều
bất công xã hội đè nặng lên thân phận của người nông dân Việt Nam, vốn
đã chịu quá nhiều thiệt thòi trong quá khứ bởi những chính sách đất đai
và nông dân.
RFI xin giới thiệu bài viết của nhà báo Nguyễn Minh Cần, hiện đang sống tại Matxcơva,về những vấn đề cấp bách liên quan đến người nông dân Việt Nam trong tình hiện nay.
Tác giả là cựu cán bộ đảng Cộng sản Việt Nam, tham gia cách mạng từ
thời tiền khởi nghĩa từng làm Thành uỷ viên và Uỷ viên Thường vụ Thành
uỷ Hà Nội, kiêm phó chủ tịch Uỷ ban Hành chính thành phố Hà Nội và. Bài
viết phản ánh quan điểm riêng của tác giả về vấn đề.
Từ sau những cuộc nổi dậy ở Thái Bình và Tây Nguyên, “dân oan” thường dùng hình thức khiếu kiện và biểu tình một cách hoà bình. Để có được tiếng vang lớn, họ thường tập trung đông người hơn, dài ngày hơn ở các đô thị lớn, nhất là thủ đô. Vườn hoa Mai Xuân Thưởng, Trụ sở tiếp dân ở Cầu Giấy Hà Nội cũng như Trụ sở tiếp dân ở đường Võ Thị Sáu, Văn phòng 2 Quốc hội ở Sài Gòn thường là những nơi tụ tập của dân oan đến từ nhiều tỉnh thành trong cả nước.
Tiếng sấm Đoàn Văn Vươn
Vụ án Đoàn Văn Vươn báo hiệu lòng uất hận của người «dân oan» đã lên gần đến điểm đỉnh, nó có thể bùng nổ bất cứ lúc nào và bất kỳ ở đâu.
Vụ án xử oan, nhưng không phải đối với «dân oan»
Một thời gian ngắn trước vụ án Đoàn Văn Vươn, là vụ án nông trường Sông Hậu, xử oan bà Trần Ngọc Sương, giám đốc nông trường. Vụ án này xử oan người vô tội, chứ về thực chất bà Sương không phải là «dân oan» bị cướp đoạt ruộng đất, nhà cửa dưới thời «đổi mới». Tuy vậy, cũng xin nói qua vài nét.
Hậu quả của việc xóa bỏ tư hữu ruộng đất
Chưa bao giờ vấn đề nông dân Việt Nam đặt ra một cách cấp thiết trước
phong trào dân chủ nước ta như hiện nay. Nông dân là khối người đông
đảo chiếm đến trên 70% dân số cả nước. Bằng lao động cực nhọc của mình,
từ nghìn xưa cho đến ngày nay họ đã và đang nuôi sống dân ta. Từ năm
1993 đến nay, nông dân đã góp phần tăng sản lượng nông nghiệp lên gấp
đôi và tăng khối lượng xuất khẩu nông phẩm của nước ta ra thế giới, nhờ
đó đến năm 2008, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu nhất nhì trên toàn
cầu về gạo, cà phê, hạt điều, tiêu, cá, tôm... Theo Tổ chức Lương thực
và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc, thu nhập của hai phần ba dân số Việt Nam
phụ thuộc vào ngành nông nghiệp. Thế nhưng, khốn thay, từ trước đến nay,
nông dân nước ta đã bị kẻ cầm quyền ngược đãi, đối xử rất tàn tệ và, kể
từ năm 1930 cho đến nay, họ luôn luôn là đối tượng của cái chính trị
lừa bịp của Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).
Những quả lừa “vĩ đại” của ĐCS
Quả lừa đầu tiên là cái khẩu hiệu “người cày có ruộng” mà ĐCSVN đưa ra ngay từ khi đảng mới ra đời, nghe rất bùi tai nông dân khi... ĐCS chưa cướp được chính quyền. Hồi đó, ĐCS ra sức ve vãn, phủ dụ nông dân, gọi nông dân là «hậu bị quân», là “một trong những chủ lực quân” của “cách mạng” để họ “sướng cái bụng” đem tiền của, sức lực và thậm chí cả thân mạng của mình hết lòng ủng hộ ĐCS với niềm tin vững chắc mà ngây thơ là khi cách mạng thành công, ĐCS sẽ thực hiện “ước mơ ngàn đời” của mình là “người cày có ruộng”! Nhưng thực tế lại quá phũ phàng cho bà con nông dân nước ta!
Quả lừa đầu tiên là cái khẩu hiệu “người cày có ruộng” mà ĐCSVN đưa ra ngay từ khi đảng mới ra đời, nghe rất bùi tai nông dân khi... ĐCS chưa cướp được chính quyền. Hồi đó, ĐCS ra sức ve vãn, phủ dụ nông dân, gọi nông dân là «hậu bị quân», là “một trong những chủ lực quân” của “cách mạng” để họ “sướng cái bụng” đem tiền của, sức lực và thậm chí cả thân mạng của mình hết lòng ủng hộ ĐCS với niềm tin vững chắc mà ngây thơ là khi cách mạng thành công, ĐCS sẽ thực hiện “ước mơ ngàn đời” của mình là “người cày có ruộng”! Nhưng thực tế lại quá phũ phàng cho bà con nông dân nước ta!
Quả lừa tiếp theo là ĐCS “phát động cải cách ruộng đất” nói là để
tiêu diệt giai cấp địa chủ, tước đoạt ruộng đất của giai cấp này chia
cho dân cày, trước nhất là bần cố nông. “Thắng lợi vẻ vang” (!) của
cuộc CCRĐ hồi giữa thập niên 50 của thế kỷ trước, báo chí đã nói nhiều,
giờ chỉ xin nhắc lại vài điều thôi. CCRĐ thực sự là một cuộc thảm sát có
tính diệt chủng đã làm cho 172 nghìn 008 người dân ở nông thôn, chủ yếu
là nông dân, trở thành nạn nhân, nghĩa là bị bắn giết, đọa đày đến
chết, trong số đó 123 nghìn 266 người (tức là 71,66%) về sau được xác
nhận là oan; riêng 26 nghìn 453 người bị quy là địa chủ cường hào gian
ác thì có đến 20 nghìn 493 người (tức là 74,4%) được xác nhận là oan!
Còn 62 nghìn người bị quy là phú nông thì có đến 51 nghìn 003 người (tức
là 82%) được xác nhận là oan! Trong số những người bị oan cũng có hàng
nghìn cán bộ, đảng viên cộng sản (tài liệu chính thức trích từ cuốn Lịch
sử kinh tế Việt Nam, tập 2).
Đó là chưa nói đến những hậu quả nguy hại khác của cuộc tàn phá khủng
khiếp ở nông thôn mà ĐCS gọi là “cuộc cách mạng long trời lở đất” là:
bằng cuộc CCRĐ theo khuôn mẫu Mao-ít, ĐCS đã phá vỡ truyền thống tốt
đẹp, hòa hiếu, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau ở nông thôn mà cha ông ta đã
tạo dựng hàng mấy nghìn năm trước; đã phá hoại đạo lý, luân thường của
dân tộc và tạo nên một lối sống giả dối, man trá, điêu toa, vu khống,
bất nhân mở đầu cho sự băng hoại đạo đức, nhân cách sau này; đã phá hủy
cuộc sống tâm linh vốn có lâu đời, vì chùa chiền, miếu mạo, nhà thờ,
những nơi thờ tự... đều bị phá phách, triệt hạ... CCRĐ kết thúc, một số
bần cố nông hớn hở được nhận ruộng tưởng rằng “ước mơ ngàn đời” của họ
đã bắt đầu được thực hiện. Họ được chụp ảnh, quay phim để ĐCS tuyên
truyền khoe khoang “công ơn” của đảng đối với nông dân, thì... chưa đầy
một năm sau, ĐCS đã lùa những bần cố nông đó, cùng các nông dân khác bắt
họ đem ruộng đất tư vốn có của họ vào hợp tác xã, vô hình trung ĐCS
tước đoạt mất quyền tư hữu mà giao ruộng đất của họ cho các chủ nhiệm
hợp tác xã quản lý. Đấy, ĐCS đã thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”
một cách bịp bợm như vậy!
Đến quả lừa “vĩ đại”, tồi tệ nhất của ĐCSVN đối với nông dân và nói
chung cả với toàn dân ta, là... khi soạn thảo và thông qua Hiến pháp
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, bằng điều 19 của Hiến
pháp, ĐCS đã nhẹ nhàng, gần như thầm lặng, không “long trời lở đất” tí
nào, chuyển quyền tư hữu đất đai (tức là toàn bộ thổ canh thổ cư, nói
nôm na là ruộng đất) của nông dân và của nhân dân nói chung sang cái gọi
là “sở hữu toàn dân”! Từ đây, thực tế ĐCS đã “quốc hữu hóa”, hay nói
chính xác hơn “đảng hữu hóa” ruộng đất của nông dân và nhân dân. Từ đây,
quyền tư hữu ruộng đất của người dân hoàn toàn bị xóa bỏ, và ruộng đất
bây giờ thực tế nằm trong tay sở hữu của ĐCS là đảng độc tôn thống trị
đất nước. Từ đây, ĐCSVN thực tế đã tự biến mình thành một siêu đại địa
chủ. Đến lần sửa đổi hiến pháp năm 1992, điều 19 Hiến pháp năm 1980 lại
được đổi thành điều 17 cũng với nội dung giống như lần trước. Cả hai
Hiến pháp Việt Nam năm 1980 và năm 1992 đều nhằm mục tiêu tước đoạt
quyền tư hữu ruộng đất của người dân, đều vi phạm nghiêm trọng điều 17
Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền mà Việt Nam đã ký và cam kết thực hiện.
“Sở hữu toàn dân” là một hư ảo, một điều bịa đặt của các lãnh tụ cộng
sản, nó hoàn toàn phi lý, trái ngược với bản tính con người - và cả con
vật nữa - từ nghìn xưa đến nay luôn luôn muốn có tư hữu, mà cái bản
tính đó chính là động cơ thúc đẩy xã hội loài người tiến bộ mãi. Cho nên
cái gọi là “sở hữu toàn dân” chỉ là tấm màn dối trá che đậy âm mưu của
ĐCS cướp đoạt ruộng đất của người dân, vì thế người viết bài này mới
dùng từ “đảng hữu hóa” là ý như vậy. Xin bạn đọc hãy xem điều 1 Luật đất
đai năm 1993 ghi rành rọt: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước
thống nhất quản lý”, mà nhà nước dưới chế độ cực quyền toàn trị thì
chính là ĐCS đứng đầu là Bộ chính trị, chứ còn ai khác? Hãy xem Luật đất
đai năm 2003, ở đấy còn ghi trắng trợn hơn nữa: “Nhà nước đại diện chủ
sở hữu toàn dân về đất đai”.
Như vậy, ĐCS tự nhận mình là “quản lý” của “chủ sở hữu toàn dân về
đất đai”, nói trắng ra là siêu đại địa chủ nắm toàn bộ ruộng đất của cả
nước! Đây là quả lừa xảo trá nhất, đê tiện nhất, phản bội lại tất cả
những lời ĐCS đã hứa hẹn về “người cày có ruộng”! Không những là siêu
đại địa chủ, ĐCS còn là siêu đại địa chủ cường hào ác bá nhất nước,
luôn luôn sẵn sàng cướp đoạt ruộng đất của dân, luôn luôn sẵn sàng huy
động công an, quân đặc nhiệm, bộ đội, tòa án... đàn áp thẳng tay mọi
cuộc phản kháng của người dân “thấp cổ bé họng” muốn chống lại sự “cưỡng
chế” của đảng. Còn ở các địa phương, các cán bộ lãnh đạo noi gương kẻ
cầm quyền cấp trên cũng nhanh chóng tự biến mình thành những địa chủ
cường hào gian ác còn tồi tệ hơn cả dưới thời phong kiến. Đám địa chủ
“thẻ đỏ tim đen” này không sợ ai hết, vì chúng nắm trong tay toàn bộ các
cơ quan quyền lực, cả công an, cả kiểm sát lẫn tòa án...
Để thực hiện Hiến pháp năm 1980 và 1992, nhà nước đã ba lần ban hành
Luật đất đai vào năm 1987, 1993, 2003 và hai lần sửa đổi vào năm 1998,
2001 với hàng trăm văn bản dưới luật nhiều lần sửa đi sửa lại! Những
luật và văn bản này rất rối rắm, chồng chéo nhau, mâu thuẫn nhau, tạo ra
vô số kẽ hở cho đám quan lại cộng sản tha hồ tham nhũng.
Như vậy, bằng những quả lừa xảo quyệt nói trên, các lãnh tụ của
ĐCSVN, từ Hồ Chí Minh trở xuống đã từng bước tước đoạt quyền tư hữu
ruộng đất của người dân, trước hết là của nông dân, họ trắng trợn phản
bội lại quyền lợi của nông dân mà trước đây họ tâng bốc là «hậu bị
quân», là “một trong những chủ lực quân” của cách mạng! Vì thế, dưới cái
chế độ gọi là “xã hội chủ nghĩa” của ĐCS, thân phận người nông dân vốn
đã bèo bọt, thảm hại lại càng bèo bọt, thảm hại hơn bội phần.
Thảm kịch “dân oan”
Chính vì thế, từ những năm 80 thế kỷ trước – tức là sau khi Hiến pháp
“xã hội chủ nghĩa” được ban hành, trên đất nước ta xuất hiện thảm kịch
“dân oan” thời “đổi mới” ở khắp nơi. Vì sao có thảm kịch “dân oan”? Vì
người dân, nhất là nông dân, đã mất quyền sở hữu, nói chính xác hơn là
mất quyền tư hữu ruộng đất của mình, họ chỉ có quyền sử dụng ruộng đất
của “nhà nước” có hạn định mà thôi, và ĐCS với danh nghĩa nhà nước hay
chính phủ, muốn thu hồi, trưng thu, tước đoạt, hay “cưỡng chế” lúc nào
cũng được. Khi thu hồi, kẻ cầm quyền bồi thường cho người dân một số
tiền “tượng trưng”, chưa bằng một phần mười giá thực tế, còn bọn tham
quan ô lại xà xẻo bớt nữa, nên người dân càng thiệt thòi hơn.
Có lắm khi các “quan lớn” cộng sản vẽ vời ra những dự án đô thị hóa,
công nghiệp hóa... đồ sộ, không thực tế, rồi cưỡng chế thu lại ruộng đất
của dân (xót xa nhất là ruộng đất màu mỡ đã thâm canh), thu xong rồi bỏ
đấy chờ được phê duyệt, ruộng đất màu mỡ nằm năm này qua năm khác, có
khi hàng chục năm, đã trở thành đất hoang... Thế là đám tham quan ô lại
bày mưu tính kế đem bán lại cho nhà giàu, cho các “đại gia” với giá đắt
ngút trời. Còn hàng trăm, hàng nghìn gia đình nông dân mất ruộng, hết kế
sinh nhai, ôm một cục tiền “đền bù”, mà cũng không biết sử dụng thế nào
cho có lợi, hơn nữa đồng tiền lại mất giá, nên tiêu dần, cuối cùng rồi
cũng hết. Hết tiền, sống dở chết dở, đói rét phải đi lang thang, phiêu
bạt hay chạy vào các đô thị kiếm sống. Nỗi oan của người dân từ đó mà
ra.
Lúc đầu, bà con “dân oan” thấy rõ những bất công, những hà lạm, tham
nhũng của bọn cầm quyền địa phương nên họ tranh đấu bằng hình thức khiếu
kiện. Họ chỉ tưởng nỗi oan khiên của họ là do bọn quan lại địa phương
gây ra (điều này đúng, nhưng chỉ là phần hiển lộ thôi), họ có biết đâu
rằng căn nguyên sâu xa nỗi oan khuất của họ là ở cái chính sách của ĐCS
tước đoạt quyền tư hữu ruộng đất của người dân, là ở sự lừa đảo và phản
bội của ĐCS đối với nông dân! Nỗi đắng cay, tủi nhục, khổ ải của bà con
“dân oan” đi khiếu kiện thật là to lớn khôn cùng, không có bút mực nào
diễn tả hết được – họ đi từ làng quê đến các cơ quan cấp tỉnh, không
được giải quyết, họ lại đến các cấp cao hơn, không được nữa thì họ lại
đến thủ đô, ăn chực nằm chờ ở các dinh thự của các “ông lớn” của ĐCS,
các cơ quan chính phủ, quốc hội, thậm chí đến cả Mặt trận Tổ quốc dù cái
tổ chức này chẳng có thẩm quyền giải quyết oan ức của họ.
Hồi năm 2007, chúng tôi đã viết bài “Chuyện dài dân oan”, nay chỉ xin
nhắc lại vài điểm thôi. Mọi người đều biết, đã hơn 30 năm nay, hàng
triệu “dân oan” nhẫn nhục đi khiếu nại, đi từ cấp chính quyền này đến
cấp chính quyền khác, nhưng khắp mọi nơi các cấp chính quyền không giải
quyết gì cả. Cấp nọ chỉ “chuyền bóng” đến cấp kia, cấp trên lại chuyển
về cấp dưới... cốt làm cho dân oan mệt mỏi, tốn tiền hao của, rồi nản
lòng thối chí. Nhưng vì đây là cuộc vật lộn cho sự sống của họ, cho nên
họ không thể nào “bỏ cuộc”.
Trái lại, có khi vì uất hận đã bùng lên thành những cuộc đấu tranh
quyết liệt, như vụ nông dân đồng bằng sông Cửu Long nổi giận kéo lên Sài
Gòn hồi năm 1988; dân chúng vùng Thanh Nghệ Tĩnh liên tục đấu tranh sôi
nổi trong những năm 90; nhân dân vùng Xuân Lộc (Đồng Nai) đứng lên hồi
năm 1997; nông dân Thọ Đà (Hà Tây), Kim Nổ (Đông Anh, ngoại thành Hà
Nội) đánh nhau với công an để bảo vệ ruộng đất hồi năm 1996 và 1998; 250
nông dân ở nhiều tỉnh đã biểu tình trước Quốc hội đang họp ở Hà Nội
(20.05.1999) để tố cáo nạn tham nhũng và cường hào ác bá hoành hành ở
các địa phương; trên 30 người phụ nữ tỉnh Đồng Tháp ra tận thủ đô biểu
tình trước trụ sở ĐCS căng biểu ngữ với hàng chữ: “Nhân dân thành phố Sa
Đéc quá thất vọng. Không có dân chủ” (14.04.2000); 74 gia đình, gồm
người già và phụ nữ ở khu Chùa Vẽ thành phố Hải Phòng lên Hà Nội phản
đối các quan chức của đảng cướp đất của dân, v.v...
Nổi bật nhất là những cuộc biểu tình của nông dân Thái Bình (hồi
những năm 30 tỉnh này vốn được coi là “cái nôi” của ĐCSVN) đã diễn ra
hồi cuối năm 1996, rồi biến thành những cuộc nổi dậy từ tháng 05 đến
tháng 06.1997, lúc đầu thu hút hàng ngàn nông dân ở xã An Ninh huyện
Quỳnh Phụ (đêm 26 rạng 27.06.1997), sau đó toả ra toàn huyện Quỳnh Phụ,
lan khắp 5 huyện, là Quỳnh Phụ, Hưng Hà, Tiền Hải, Đông Hưng, Thái Thuỵ
(trong số 7 huyện của tỉnh Thái Bình). Từ tháng 05 cho đến tháng
11.1997, công an vây chặt khu vực có biến động. Mọi thông tin về vụ biến
động đều bị ĐCS bịt kín. Sau khi các “ông lớn” từ Trung ương ĐCS, trong
số đó có TBT Đỗ Mười, đến Thái Bình phủ dụ dân chúng, thi hành kỷ luật
một số cán bộ đảng để lấy lòng dân chúng thì cuộc bạo động lắng xuống.
Khi đó, Đỗ Mười liền cho công an bí mật bắt bỏ tù mà không xét xử những
người tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh – phần đông là cựu chiến binh
của “quân đội nhân dân”, cán bộ cũ đã về hưu của ĐCS. Trong tù, những
người này bị nhốt chung với thường phạm, và công an theo lệnh “trên” đã
khuyến khích thường phạm giết hại họ cực kỳ man rợ.
Tiếp sau cuộc vùng dậy của nông dân-dân oan Thái Bình là cuộc nổi dậy
của người Thượng vùng Tây Nguyên hồi tháng 02.2001. Sau đó, đến ngày
10.04.2004, hàng vạn dân Thượng lại nổi dậy, lần này có quy mô và tổ
chức hơn lần trước. Nguyên nhân các cuộc nổi dậy là do chính sách của
ĐCS di dân người miền đồng bằng lên Tây Nguyên, rồi cán bộ, đảng viên
người Kinh cùng bà con của họ đã lấn chiếm, cướp đoạt nương rẫy của
người Thượng, mặt khác cũng do chính quyền ngăn cấm tự do tín ngưỡng của
người Thượng. Một lần nữa ĐCS lại tung quân đàn áp dã man cuộc nổi dậy
này làm hàng chục (có tin hàng trăm) người chết. Trong hai lần nổi dậy,
vì bị đàn áp khốc liệt nên đã có hàng nghìn người Thượng chạy sang Cam
Bốt.Từ sau những cuộc nổi dậy ở Thái Bình và Tây Nguyên, “dân oan” thường dùng hình thức khiếu kiện và biểu tình một cách hoà bình. Để có được tiếng vang lớn, họ thường tập trung đông người hơn, dài ngày hơn ở các đô thị lớn, nhất là thủ đô. Vườn hoa Mai Xuân Thưởng, Trụ sở tiếp dân ở Cầu Giấy Hà Nội cũng như Trụ sở tiếp dân ở đường Võ Thị Sáu, Văn phòng 2 Quốc hội ở Sài Gòn thường là những nơi tụ tập của dân oan đến từ nhiều tỉnh thành trong cả nước.
Đặc biệt là cuộc biểu tình khiếu kiện dài ngày ở Sài Gòn của “dân
oan”, chủ yếu là nông dân ở 19 tỉnh thành Tiền Giang, An Giang, Kiên
Giang, Bình Dương, Bình Phước, Mỹ Tho, Bến Tre, Long An, Cần Thơ, Đồng
Tháp, Bà Rịa, Vũng Tàu, Bình Định, Bình Thuận... và 9 quận huyện ở Sài
Gòn – một cuộc biểu tình sáu-bảy trăm người, có khi lên đến 1000 người
và kéo dài 27 ngày (kể từ ngày 22.06 đến đêm 18 rạng 19.07.2007). Đây là
một cuộc biểu tình hoà bình đông đảo và lâu nhất chưa từng thấy dưới
chế độ toàn trị của ĐCS.
Người biểu tình căng những băng-rôn tố cáo đích danh bọn quan lại
cộng sản cướp đất, bóc lột và lừa dối «dân oan», như: “Chính quyền Tiền
Giang dối đảng lừa dân”, “Đả đảo Nguyễn Kim Châu, thanh tra chính phủ
báo cáo không trung thực với Thủ tướng”, “Đả đảo bà Nhàn, thanh tra Tiền
Giang áp dụng luật rừng với bà con. Đề nghị cách chức”, “Mười hộ dân
Đồng Tháp tố cáo chủ tịch tỉnh Trương Ngọc Hân và chủ tịch huyện Lai
Vung Tạ Văn Hội cướp đất cướp nhà, gây bức xúc lòng dân, làm dân chết
một người”, “Đả đảo chánh án tòa án tỉnh Tiền Giang lợi dụng chức vụ chỉ
đạo thẩm phán xử oan, trục lợi cá nhân”, “Tập thể bà con nông trường
Sông Hậu tố cáo UBND thành phố Cần Thơ bao che nông trường Sông Hậu.
Giám đốc Trần Ngọc Sương lừa đảo chiếm đoạt đất đai của dân và thu không
có quyết định của Nhà nước”, “Công ty cổ phần Bạc Liêu cấu kết với
chính quyền cướp đất giữa ban ngày”, "Tố Cáo Huỳnh Tấn Thành, Chủ Tịch
UBND tỉnh Bình Thuận tham nhũng", v.v...
Những khẩu hiệu này cho thấy người nông dân đã thấy rõ cội nguồn
những đau khổ của họ là các quan lại cộng sản. Khi cả một khối người
đông đảo biểu tình công khai gần một tháng trời, chịu đựng biết bao
thiếu thốn, cơ cực trong cảnh màn trời chiếu đất, dầm mưa dãi nắng, thì
công an theo lệnh của đảng, bao vây, đe doạ, cấm cản đủ điều, gây thêm
nhiều khốn khổ cho «dân oan». Thế nhưng, họ vẫn kiên trì đấu tranh cho
đến ngày ĐCS ra lệnh cho công an đàn áp dã man bằng dùi cui, vòi rồng
xịt nước, đèn cao áp, bình chữa lửa, roi điện, lựu đạn cay... để dẹp
cuộc biểu tình ở Sài Gòn. Sau đó, ĐCS đã cho cán bộ về các địa phương
diễn trò “giải quyết tại chỗ” những oan khuất của dân chúng, bồi thường
phần nào cho những hộ bị mất đất hòng xoa dịu lòng căm phẫn của «dân
oan». Nhưng «dân oan» vẫn không hài lòng, họ vẫn thấy thiệt thòi và lại
khiếu kiện tiếp.
Thế là cuộc biểu tình khiếu kiện lại tiếp diễn trong tháng 08.2007,
cả ở Hà Nội lẫn Sài Gòn. «Dân oan» các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang và
nhiều nơi khác, kể cả một số người từ miền Nam mang theo con cái ra Hà
Nội đứng biểu tình trước cửa Trụ sở tiếp dân ở số 110 Cầu Giấy. Còn ở
trong Nam, ngày 25.08, hàng trăm bà con dân oan các tỉnh Bình Thuận, Bến
Tre, An Giang, Lâm Đồng, Rạch Giá, Tiền Giang, Sóc Trăng... lại kéo về
Sài Gòn tụ tập trước cổng Trụ sở tiếp dân ở đường Võ Thị Sáu để khiếu
kiện, đòi đất đai, ruộng vườn, tài sản bị chính quyền cướp đoạt. Sáng
ngày 29 và 30.08, công an lại dùng vũ lực vây bắt và đưa dân oan về các
địa phương...
Cứ thế, trên 30 năm trời, “dân oan” đã tranh đấu không ngừng, hết năm
này qua năm khác, hàng triệu lá đơn đã «dâng» lên các «ông lớn» và bị
«xếp xó». Chẳng những thế, hàng trăm cuộc đấu tranh khác từ Bắc chí Nam
của «dân oan» đã bị ĐCS ra lệnh đàn áp với lực lượng hùng hậu gồm các
loại công an nổi chìm, “dân phòng”, chó nghiệp vụ, gây thương tích, làm
tử vong «dân oan», như ở Trảng Bom, Đồng Nai (năm 2008), ở Tĩnh Gia,
Thanh Hóa (năm 2010) hoặc đã làm cho «dân oan» quá uất hận, như kỹ sư
Phạm Thành Sơn ở Sơn Trà, Đà Nẵng phải tự thiêu trước UBND Thành phố Đà
nẵng (năm 2011) và anh Nguyễn Văn Tưởng ở Thăng Bình, Quảng Nam phải tự
tử (năm 2012). Hàng trăm «dân oan» ở Thái Bình (năm 1997), ở Quận 9 Sài
Gòn (năm 2008), ở Tây Nguyên (năm 2001, 2004, 2011), Khoái Châu, Hưng
Yên (năm 2008), ở Lục Ngạn, Bắc Giang (năm 2012), ở Tiên Lãng, Hải Phòng
(năm 2012) đã bị vu khống, ghép tội vô lý và tống ngục, có những người
bị giết trong tù, như những người lãnh đạo cuộc nổi dậy ở Thái Bình.
Hàng chục người vì lòng thương xót đồng bào bị oan khuất đã giúp cho bà
con «dân oan» viết đơn khiếu kiện, viết bài kể nỗi khổ của «dân oan»
trên báo chí, cũng như nhiều luật sư vì lương tâm nghề nghiệp đã đứng ra
bênh vực «dân oan» trong các vụ án đã bị vu khống và bỏ tù, như LS Lê
Trần Luật, LS Lê Thị Công Nhân, LS Huỳnh Văn Đông, LS Cù Huy Hà Vũ…...
Đùng một cái, ngày 05.01.2012, ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng,
thành phố Hải Phòng xảy ra vụ ông nông dân-kỹ sư Đoàn Văn Vươn và gia
đình, quá uất ức vì lệnh cưỡng chế vô lý của chính quyền huyện Tiên Lãng
đã nổ súng (súng hoa cải!) chống lại «cả trăm cảnh sát, công an, bộ
đội... tham gia cưỡng chế khu đầm 19,3 ha của gia đình ông Vươn» «khiến 4
cảnh sát và 2 bộ đội bị thương» (những chữ trong ngoặc kép là nguyên
văn báo chí trong nước). Sự kiện động trời này làm rung động cả nước!
Đầu đuôi câu chuyện như sau: Tháng 10 năm 1993, UBND huyện Tiên Lãng
giao 21 ha đất cho ông Vươn, đến tháng 4 năm 1997, lại giao bổ sung 19,3
ha đất (thực tế là đầm nước ven biển) để nuôi trồng thủy sản trong thời
hạn 14 năm tính từ năm 1993. Nhận được đầm nước, ông Vươn và người em
Đoàn Văn Quý cùng gia đỉnh ra sức khai phá, trước hết là làm đập ngăn
nước biển tràn vào. Sau bao nhiêu lần bị thất bại, sóng biển vỗ vào phá
vỡ đập, nhưng cả hai anh em đã nhẫn nại làm đi làm lại nhiều lần, cuối
cùng thì đập đứng vững, họ bắt đầu làm các công trình để nuôi thủy sản.
Các hộ láng giềng theo gương ông Vươn cũng đắp đập nuôi tôm cá. Công
việc dần dần tiến triển tốt hơn, họ bắt đầu có thu nhập để trả dần món
nợ lớn cho ngân hàng. Đám quan lại ở địa phương thèm thuồng dòm ngó và
bày mưu tính kế... Thế rồi, vào tháng 4 năm 2008, rồi lại tiếp đến tháng
4 năm 2009, UBND huyện Tiên Lãng ra hai quyết định thu hồi số đất đã
cho thuê. Ông Vươn điếng người, nhận thấy quyết định này quá ư vô lý nên
không chịu thi hành. Thế là UBND huyện Tiên Lãng ra lệnh cưỡng chế,
ngày 05.01.2012, họ điều động cả trăm cảnh sát, công an, bộ đội... đến
cưỡng chế khu đầm của gia đình ông Vươn. Anh em ông Vươn đã nổ súng để
chống cự.
Sau vụ đó, chính quyền địa phương đã cho xe ủi san phẳng ngôi nhà 2
tầng của ông Vươn cho em trai Đoàn Văn Quý ở nhờ, còn ngôi nhà của vợ
chồng ông Vươn đang ở - xe ủi không vào được - thì họ ra lệnh dùng búa
đập phá tan hoang, rồi đốt cháy hết quần áo, đồ đạc trong nhà. Bốn người
trong gia đình họ Đoàn bị tống giam, chờ ngày xét xử, họ bị buộc tội
«cố ý giết người». Một số nhà báo trong nước có công tâm đã mạnh dạn
phanh phui, vạch rõ việc kẻ cầm quyền ở địa phương âm mưu cướp đoạt
thành quả lao động của hai gia đình anh em họ Đoàn. Vụ án này gây chấn
động mạnh trong dư luận xã hội, đến nỗi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải
trực tiếp xem xét và kết luận (ngày 10.02.2012).
Sau đó, một vài cán bộ địa phương ở cấp huyện, xã đã bị thi hành kỷ
luật, trừ cấp thành phố được thủ tướng «hoan nghênh việc lãnh đạo thành
phố Hải Phòng nghiêm túc kiểm điểm... », dù vụ việc này không phải là
không có bàn tay lông lá của các «quan» thành phố đã bật đèn xanh cho
phép cấp dưới thực hiện vụ cướp đoạt này, còn bây giờ thì họ làm ra vẻ
ngây ngô, quanh co, dối trá... để trốn trách nhiệm (xem: những lời của
giám đốc công an Hải Phòng Đỗ Hữu Ca và phó chủ tịch Hải Phòng Đỗ Trung
Thoại...). Trong lúc thủ tướng Dũng khen lãnh đạo Hải Phòng thì ngày
17.02.2012 tại Câu lạc bộ Bạch Đằng ngay trước mặt bí thư thành ủy Hải
Phòng Nguyễn Văn Thành, một cán bộ của đảng đã lên micro dõng dạc nói
lớn: «Đề nghị Bộ chính trị cách chức bí thư Thành» và mọi người đã hoan
hô nhiệt liệt!
Đoàn Văn Vươn đáng lẽ phải được nêu lên làm một tấm gương sáng về
tính năng nổ, lao động kiên trì và sáng tạo của người nông dân thì cái
chế độ toàn trị đầy tham nhũng hiện nay lại đẩy ông ta vào vòng lao lý
vì bọn quan lại cộng sản mưu đồ cướp đoạt thành quả lao động vô cùng
gian khổ, khó nhọc nhiều năm của ông và gia đình ông. Không một người
nào yêu chuộng công lý mà không thương xót hai anh em họ Đoàn. Vì thế vụ
án Đoàn Văn Vươn đánh động lương tâm của rất nhiều người trong và ngoài
nước. Đặc biệt cảm đông là cụ bà Lê Hiền Đức, 81 tuổi, một đảng viên
cộng sản lâu năm, công bằng và chính trực, nổi tiếng là người nhiệt tình
chống tham nhũng và giúp đỡ «dân oan», đã lớn tiếng bênh vực hai anh em
họ Đoàn.
Bà nhìn sâu vào nội tình ĐCS và đã tuyên bố thẳng thừng: «Chừng nào
ông Đoàn Văn Vươn và những người thân của ông còn phải nằm trong vòng
lao lý, còn chưa được bồi hoàn các quyền lợi về vật chất, tinh thần đã
bị xâm phạm thì chừng đó tôi còn nhìn chính quyền trung ương của Việt
Nam chỉ như là sự phóng to của chính quyền huyện Tiên Lãng, chính quyền
thành phố Hải Phòng». Lời nói của cụ làm mọi người rất cảm phục
Vụ án Đoàn Văn Vươn báo hiệu lòng uất hận của người «dân oan» đã lên gần đến điểm đỉnh, nó có thể bùng nổ bất cứ lúc nào và bất kỳ ở đâu.
Mới đây, vào ngày 11.04.2012, một cuộc biểu tình khoảng gần 1000 bà
con nông dân đã diễn ra trước trụ sở Văn phòng Thanh tra Chính phủ tại
quận Cầu Giấy, Hà Nội. Đa số bà con đền từ Văn Giang (Hưng Yên) và Dương
Nội (Hà Đông). Ngoài ra có một số người từ miền Nam ra, họ ăn chực nằm
chờ nhiều tháng nay để khiếu kiện, chủ yếu chỉ vì cưỡng chế và đền bù
đất đai vô lý. Nông dân phản đối quyết định cưỡng chế đất trái pháp
luật của chủ tịch và phó chủ tịch UBND huyện Văn Giang. Ở đây, hơn 1800
hộ dân ở ba xã Xuân Quang, Cụng Công và Cửu Cao đang bị chính quyền
cưỡng chế thu hồi đất để làm dự án khu đô thị-thương mại-du lịch Ecopark
có diện tích trên 500 ha. Người dân được đền bù 43000 đồng một mét
vuông, một mức giá mà họ cho là quá bất công chỉ mua được vài mớ rau
muống.
Còn bà con ở Dương Nội bị chính quyền cưỡng chế đất để làm dự án khu
đô thị Lê Trọng Tấn. Nông dân Văn Giang và Dương Nội đã khởi kiện từ
nhiều năm trước nhưng chẳng được giải quyết gì. Lòng dân rất phẫn uất,
thế mà kẻ cầm quyền tuyên bố vẫn sẽ thi hành cưỡng chế ở huyện Văn Giang
vào ngày 20.04. Còn nông dân thì nói rằng: «đối với chúng tôi mất đất
là mất hết nguồn sống, nên chúng tôi sẽ đấu tranh đến cùng và sẵn sàng
chiến đấu» và họ đã làm chòi ở đồng ruộng để tổ chức canh phòng. Cảm
thấy dường như tinh thần Đoàn Văn Vươn đang thấm nhập vào tâm tư «dân
oan», báo hiệu những trận cuồng phong sắp tới...
Theo tin tức nhận được sáng nay, 24.04.2012, chính quyền đã huy động
một lực lượng hùng hậu hàng ngàn công an, an ninh (BBC đưa tin là khoảng
2000-4000) mặc sắc phục và thường phục cùng bọn «đầu gấu» xã hội đen,
từ 4h30 sáng đã đột nhập vào xã Phụng Công, xã Xuân Quan để chia cắt
dân, chặn đứng các ngả vào cánh đồng, rồi bắt giữ và đánh đập một số
người canh phòng trên đồng ruộng. Nông dân ở các nơi khác đổ xô đến yểm
trợ bà con thì bị tấn công, đánh đập tàn tệ. Dã man nhất là chúng bắt 10
người, khóa tay, rồi xịt hơi cay vào mặt, đe dọa, sau đó thả ra, nhiều
người bị ngất xỉu. Ở phía xã Phụng Công, có tiếng nổ liên hồi, người ta
đoán là tiếng súng AK. Tồi tệ nhất là đám công an ném xuống ao tất cả
lương thực, bánh mỳ dự trữ của dân. Tiếng khóc của phụ nữ, trẻ em vang
khắp cánh đồng.
Ở xã Xuân Quan có hai người bị trúng đạn hơi cay, một trong hai người
đó đạn trúng vào chân, máu me đầm đìa. Cuối cùng những người dân tay
không đã bị đẩy lùi trước lực lượng cưỡng chế hùng hậu của ĐCS. Trận
đàn áp nông dân lần này – theo lời bà con nông dân – chẳng khác gì trận
chiến đấu chống quân khủng bố. Tiếp theo sau lực lượng công an, an ninh
là đoàn xe ủi xông vào san ủi ruộng đất của bà con, những gia đình không
di chuyển kịp các chậu cây cảnh quý giá đắt tiền cũng bị tàn phá hết.
Thử hỏi hành động tội ác này của ĐCS có khác gì hành động của địa chủ
cường hào ác bá không? Nhất định người nông dân sẽ không quên nỗi uất
hận này!
Vụ án xử oan, nhưng không phải đối với «dân oan»
Một thời gian ngắn trước vụ án Đoàn Văn Vươn, là vụ án nông trường Sông Hậu, xử oan bà Trần Ngọc Sương, giám đốc nông trường. Vụ án này xử oan người vô tội, chứ về thực chất bà Sương không phải là «dân oan» bị cướp đoạt ruộng đất, nhà cửa dưới thời «đổi mới». Tuy vậy, cũng xin nói qua vài nét.
Nông trường Sông Hậu là một đơn vị kinh tế nhà nước được thành lập
hồi năm 1979 với diện tích lúc đầu là 3450 ha, về sau được mở rộng thêm,
tổng diện tích lên tới 6924,78 ha. Trong quá trình mở rộng diện tích có
thể đã có sự chiếm đoạt ruộng đất của nông dân thế nào đó, nên trong
cuộc biểu tình 27 ngày của «dân oan» hồi năm 2007 ở Sài Gòn, ta thấy có
tấm băng-rôn ghi rõ: “Tập thể bà con nông trường Sông Hậu tố cáo UBND
thành phố Cần Thơ bao che nông trường Sông Hậu. Giám đốc Trần Ngọc Sương
lừa đảo chiếm đoạt đất đai của dân và thu không có quyết định của Nhà
nước”. Chúng tôi chỉ nhắc lại điều đó ở đây, chứ không thể có kết luận
gì.
Nằm trên vùng đất trũng, bị nhiễm phèn và bị hoang hoá nhiều năm,
không có kênh mương thuỷ lợi, nông trường đã đi lên bằng nguồn vốn vay
ngân hàng: đã cải tạo đồng ruộng, xây dựng công trình thủy lợi, kết hợp
làm đường giao thông, cơ giới hoá nhiều khâu trong sản xuất, chuyển đổi
diện tích lúa mùa nổi một vụ trở thành đất trồng lúa 2 vụ, nâng sản
lượng hàng năm lên trên 60000 tấn lúa và tổ chức nuôi trồng thủy sản
trên 5000 ha. Nông trường đã xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư máy móc
thiết bị phát triển công nghiệp chế biến nông sản và đã có nhiều thành
tích trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu.
Tóm lại, nông trường là một đơn vị kinh tế khá nổi bật trong thời
«đổi mới» nhờ đó tạo được cuộc sống tương đối ổn định cho hơn 2300 hộ
nông trường viên. Công việc đang tiến triển tốt thì hồi tháng 04.2006,
chủ tịch UBND thành phố Cần Thơ ra quyết định thanh tra nông trường Sông
Hậu. Đúng một năm sau, công an thành phố Cần Thơ quyết định khởi tố vụ
án hình sự «cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế».
Tháng 08.2009, tòa án huyện Cờ Đỏ mở phiên tòa xét xử vụ án «lập quỹ
trái phép». Tòa tuyên án phạt bà giám đốc Trần Ngọc Sương 8 năm tù, bắt
bồi thường thiệt hại 4 tỷ đồng. Trên 3400 hộ nông trường viên làm đơn
phản đối và bà Sương kháng cáo. Tháng 11.2009, TAND thành phố Cần Thơ xử
phúc thẩm, quyết định y án 8 năm tù đối với bà Sương và buộc phải trả
cho nông trường 4,3 tỷ đồng. Bà tiếp tục kháng cáo lên tòa án tối cao...
Cuối cùng, nhờ sự can thiệp của một số cán bộ đảng cao cấp, tháng
01.2012, viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ đã ra quyết định đình
chỉ vụ án nông trường Sông Hậu.
Vụ án này cho thấy ĐCSVN độc quyền nắm cả ba thứ quyền – lập pháp,
hành pháp, tư pháp, do đó hệ thống tư pháp, kiểm sát, công an, tòa án ở
các cấp đều bị lệ thuộc hoàn toàn vào hệ thống đảng. Ở nơi nào cán bộ
lãnh đạo, vì đấu đá nội bộ hoặc tham nhũng mà muốn bỏ tù ai thì cả hệ
thống tư pháp ở nơi đó đều răm rắp làm theo lệnh đảng, bất chấp công lý
và nỗi oan khiên của người khác. Bà Sương là Anh hùng lao động được nhà
nước cộng sản tôn vinh mà còn bị chà đạp như vậy, thì thử hỏi «đám dân
oan vô danh tiểu tốt» làm sao đương nổi với bọn quan lại cộng sản tham
nhũng nắm toàn bộ quyền lực trong tay?
Hậu quả của việc xóa bỏ tư hữu ruộng đất
Ở trong một nước, nhất là nước nông nghiệp như nước ta, nơi mà nông
dân chiếm tuyệt đại đa số (trên 70%), thì điều trước tiên một nhà nước
thật tâm «vì dân, vì nước», muốn cho «dân giàu nước mạnh» phải làm là
khẳng định, xác lập rõ ràng quyền tư hữu ruộng đất của người dân, coi đó
là cái quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, có như vậy mới khích lệ
người dân vì quyền lợi của họ mà ra sức tăng gia sản xuất, nhờ đó mà dân
mới giàu, nước mới mạnh được. Nhưng các lãnh tụ ĐCS đâu có thật tâm «vì
dân, vì nước», nên họ đã tước đoạt quyền tư hữu ruộng đất của người dân
để chuyển thành cái gọi là «sở hữu toàn dân» về thực chất là quyền sở
hữu của ĐCS, như chúng ta đã phân tích trên. Việc xóa bỏ đó đã gây ra
biết bao tai họa cho người dân, trước hết là nông dân, vì đã cắt mất cái
cơ sở tạo nên nguồn sống của họ!
Ngoài việc tạo ra hàng triệu «dân oan», tước mất kế sinh nhai của họ,
đẩy «dân oan» vào cuộc sống bần cùng, bế tắc, việc tước đoạt quyền tư
hữu ruộng đất của người dân đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng khác.
Bị tước mất quyền làm chủ trên mảnh ruộng đất vốn là của mình, nay người
nông dân chỉ là người thuê mướn ruộng đất để sử dụng mà thôi (ở đây,
nông dân trở thành «tá điền» thời xã hội chủ nghĩa-phong kiến), thuê
mướn có hạn định (20 năm, cây lưu niên thì 50 năm), nên tâm lý của nông
dân đã thay đổi, họ không còn tha thiết gắn bó với mảnh ruộng đất mình
thuê mướn nữa.
Họ coi mảnh ruộng đất của nhà nước giao như là một vật dụng được mượn
tạm, trước sau gì cũng phải trả lại, cho nên họ cố khai thác triệt để
theo kiểu vắt kiệt mảnh ruộng đất đó để cố kiếm lợi nhanh chóng nhất,
chứ không muốn xây dựng cho mình kế hoạch lâu dài, họ không muốn đầu tư
công sức, tiền của để cải tạo chất đất, tăng độ phì nhiêu cho đất để
tăng năng suất, tăng thu hoạch cho mình, vì họ sợ uổng phí công sức,
tiền của mà cuối cùng bản thân mình và con cháu chẳng được hưởng gì khi
mảnh ruộng đất đó bị thu hồi. Cái tâm lý đó ảnh hưởng rất tiêu cực về
mặt kinh tế, văn hóa và xã hội của đất nước, nhưng các lãnh tụ ĐCS nhắm
mắt làm ngơ. Chính vì thế, ngày nay, chúng ta thấy có những chuyện ngược
đời hết sức đau lòng cho những ai biết lo nghĩ đến tiền đồ đất nước,
đến hạnh phúc của người dân: ruộng đất canh tác ngày càng thu hẹp một
cách nhanh chóng trong lúc dân số thì tăng mạnh, gây ra nhiều khó khăn
cho cuộc sống của người dân.\
Chính Bộ nông nghiệp Việt Nam cũng đã phải xác nhận: từ năm 2001 đến
năm 2006, đã có 376000 ha ruộng đất trồng lúa đã bị thu hồi, làm hơn một
triệu nông dân bơ vơ vì mất kế sinh nhai... Thế mà hàng nghìn ha vốn là
«bờ xôi ruộng mật» đã bị bỏ hoang hóa! Vì sao vậy? Vì các «quan lớn»
ham chạy theo món lợi lớn trước mắt – chủ yếu là lợi riêng – đã lập ra
quá nhiều, nhiều đến mức phí lý, các dự án đô thị cao cấp và siêu sang
trọng, các khu vui chơi, giải trí, các khu du lịch sinh thái, các sân
golf… rồi cứ mặc sức thu hồi ruộng đất của người dân.
Có rất nhiều dự án đô thị hóa, công nghiệp hóa lập nên, chưa được cấp
trên chuẩn nhận, hay chuẩn nhận mà không có tiền thực hiện... nên ruộng
đất của dân đã thu hồi rồi cứ để nằm đấy hàng chục năm trời, dần dần
trở thành hoang hóa. Có ai trước đây có thể tưởng tượng nổi tình trạng
này đã và đang xảy ra dưới thời «xã hội chủ nghĩa» của ĐCS? Nhiều nơi
nông dân thi nhau đào đất bề mặt ruộng – là lớp đất màu mỡ nhất bên trên
– để đem bán cho người ta làm các bãi cỏ sân golf hay bãi cỏ công viên
giải trí, du lịch, v.v... Trong lúc đó, đội quân thất nghiệp của nông
thôn ngày mỗi tăng, - theo báo chí trong nước - trong vài năm tới sẽ lên
tới nhiều triệu người, họ phải chạy ra các đô thị kiếm sống, bổ sung
thêm vào số người thất nghiệp ở đô thị vốn đã đông càng đông hơn.
ĐCS đưa ra khẩu hiệu cơ giới hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa nông
thôn, nhưng lại tước quyền tư hữu ruộng đất của người dân, thì trong
tương lai nước ta làm sao có được những chủ ruộng đất lớn, những chủ
trang trại lớn có khả năng làm việc cơ giới hóa, công nghiệp hóa đó?
Không có những người nông dân hay người trại chủ thật sự làm chủ ruộng
đất của mình thì cái khẩu hiệu cơ giới hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa
nông thôn chỉ là chuyện tào lao vô bổ của kẻ vô công rồi nghề hay những
tên bịp bợm!
Tóm lại, suốt mấy chục năm nay, tấn bi kịch của người dân bị tước
đoạt ruộng đất đã trở thành một nỗi đau nhức nhối của xã hội Việt Nam.
Biết bao cuộc đấu tranh đã bùng nổ và đã bị ĐCS đàn áp tàn bạo; biết bao
người, kể cả phụ nữ và trẻ con, đã ngã xuống vì súng đạn của «công an
nhân dân» «hết lòng vì đảng»; biết bao người «dân oan» và những người
bênh vực cho «dân oan» đã và đang phải ngồi rục xác trong tù!
Không thể để tình trạng này kéo dài mãi được nữa! Các chiến sĩ, các
tổ chức, các đảng phái đấu tranh cho dân chủ, tự do và nhân quyền trong
và ngoài nước cần phải đặt ngay việc đòi ĐCSVN trả lại quyền tư hữu
ruộng đất cho người dân, trước nhất là nông dân, vào chương trình hành
động của mình, coi đó là một trong những mục tiêu đấu tranh căn bản cần
toàn tâm toàn ý nhắm tới. Thiết nghĩ, việc đòi sửa lại Luật đất đai là
cần thiết, nhưng cái căn bản nhất, trước mắt nhất vẫn là phải đòi xóa bỏ
điều 17 trong Hiến pháp năm 1992, và Hiến pháp phải khẳng định quyền tư
hữu ruộng đất của người dân là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Việc
đòi xóa bỏ điều 17 cũng như điều 4 trong Hiến pháp năm 1992 phải là nội
dung chủ yếu trong cuộc đấu tranh của mọi người trong dịp sửa đổi Hiến
pháp lần này.
Nhưng xét cho cùng, chừng nào còn ĐCSVN thì e rằng việc xóa bỏ hai
điều vừa nói đó sẽ rất khó thực hiện được, cho nên phong trào dân chủ
nước ta sẽ không dừng lại ở chỗ đấu tranh đòi sửa đổi Hiến pháp, mà phải
nhắm tới cái đích xa hơn là đấu tranh đòi thay đổi hệ thống chính trị,
kiến lập chế độ dân chủ đa đảng với ba quyền phân lập rõ rệt.
Nếu ĐCS không đủ thông minh để trả lại quyền tư hữu ruộng đất cho
người dân thì rồi đây sẽ còn có hàng chục, hàng trăm Đoàn Văn Vươn khác
nữa, sẽ có nhiều cuộc bùng nổ to lớn hơn nữa, và nếu không khéo thì nỗi
uất hận của người dân bị kìm nén lâu ngày sẽ bùng lên thành ngọn lửa vĩ
đại thiêu rụi cái chế độ toàn trị của ĐCS. Lúc đó, ngay cả những binh
lính, sĩ quan của quân đội và công an - vốn xuất thân từ nông dân, từ
nhân dân – chắc chắn sẽ không còn là «thanh gươm và lá chắn» cho ĐCS nữa
mà số đông sẽ đứng lên bảo vệ người dân và quay súng lại chống ĐCS./.
tags: Chuyên mục trên mạng - Việt Nam
Làm sao bảo vệ Hiến pháp Việt Nam?
Cập nhật: 16:15 GMT - thứ sáu, 18 tháng 5, 2012
Một học giả trong lĩnh
vực luật học của Việt Nam vừa nêu quan điểm với truyền thông trong nước
về việc 'phải có thiết chế bảo hiến' để tránh vi phạm hiến pháp.
Hôm thứ Sáu, 18/8, tờ Lao Động online đăng ý
kiến của Phó Giáo sư Phạm Duy Nghĩa, Chủ nhiệm Khoa Luật, Đại học Kinh
tế TP Hồ Chí Minh nói:Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
"Các cơ quan giữ quyền lực công là
chính phủ, tòa án, quốc hội. Một đạo luật do quốc hội ban hành có thể vi
phạm hiến pháp, chính vì vậy phải có thiết chế bảo hiến."
Mở đầu cuộc phỏng vấn với tờ này, ông Nghĩa lưu ý về bản chất và chức năng của một bản hiến pháp. Ông nói:
"Trước hết, cần lưu ý hiến pháp là một khế ước
của nhân dân lập ra để kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiến pháp viết ra
để ràng buộc chính quyền chứ không phải ban quyền cho người dân.
"Nhưng ở một số quốc gia, hiến pháp đã không
được hiểu với ý nghĩa đó. Một số quốc gia sử dụng hiến pháp như cương
lĩnh của nhà nước, của những người lãnh đạo, còn những quốc gia dân chủ,
hiến pháp viết ra để trói buộc nhà cầm quyền.
"Trước hết, cần lưu ý hiến pháp là một khế ước của nhân dân lập ra để kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiến pháp viết ra để ràng buộc chính quyền chứ không phải ban quyền cho người dân"
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Phạm Duy Nghĩa
"Bởi lẽ, người có khả năng vi phạm hiến pháp
thường không phải nhân dân, mà là các cơ quan có thể sử dụng quyền lực
công. Các cơ quan giữ quyền lực công là chính phủ, tòa án, quốc hội."
Đưa ra khuyến nghị về giải quyết câu hỏi chế ước quyền lực của nhà nước ở Việt Nam một cách cụ thể, ông Nghĩa nói:
"Trong cấu trúc quyền lực VN, quyền lực thực tế
dồn vào Chính phủ và UBND các địa phương. Hệ thống tòa án cần nỗ lực để
có thêm niềm tin và sự kính trọng cao trong xã hội.
"Quốc hội với 3/4 đại biểu kiêm nhiệm nên chưa
thể chuyên nghiệp. Vì hai thiết chế đó còn yếu nên quyền lực tập trung
vào lực lượng hành pháp. Nếu phân bổ lại quyền lực, cần phân nhiệm để có
đối trọng và kiểm soát quyền lực.
"Quốc hội thực sự mạnh khi đại biểu Quốc hội thực sự nói lên tiếng nói cử tri của mình."
Cho ý kiến về việc củng cố vai trò của tư pháp thông qua tòa án, ông Nghĩa nói:
"Muốn tòa án mạnh, nhiệm kỳ của thẩm phán phải
đủ dài, không hạn chế 5 năm như hiện nay. Tổ chức tòa án phải độc lập,
tách ra khỏi ảnh hưởng của lực lượng hành pháp mà tòa án khu vực có thể
là một mô hình."
'Xu hướng lạm quyền'
Trước đó, cũng tờ Lao Động online đăng tải ý
kiến trong một bài viết, mà sau đó bị rút khỏi chính trang báo này, của
một quan chức thuộc Văn phòng Quốc hội bình luận về vấn đề lạm dụng
quyền lực của chính quyền và các cơ quan hành pháp.
Hôm đầu tuần, cũng báo Lao Động nêu ý kiến
của Phó Chủ nhiệm Quốc hội Nguyễn Sỹ Dũng nhận xét về xu hướng mà ông
cho là "bất ổn" trong thực thi quyền lực công ở trong nước:
"Sau sự kiện nhà của công dân Đoàn Văn Vươn ở
Tiên Lãng bị đập phá, sự kiện các nhà báo bị đánh hội đồng ở Văn Giang
cho chúng ta thấy đang có điều gì đó hoàn toàn bất ổn trong việc thực
thi quyền lực công ở nước ta.
"Hiện tượng quyền lực công bị lạm dụng, bị biến
thành bạo quyền đang xảy ra ngày một nhiều hơn. Trong lúc đó, phản ứng
của công luận, của chính quyền vẫn chưa đủ mạnh để có thể ngăn chặn và
chấm dứt hiện tượng xấu xa này.
"Lạm quyền là con bệnh đặc trưng và phổ biến của
quyền lực nhà nước. Vấn đề không phải là chỉ ở ta quyền lực mới như
vậy, mà là chỉ ở ta quyền lực mới chưa bị kiểm soát đến như vậy.
Trong bài viết được đăng ngày 15/5 nhưng nay
hơi khó tìm thấy trên mạng, Tiến sỹ Dũng nêu quan điểm của mình về
thế nào là 'nhà nước pháp quyền,' ông viết:
"Nhà nước pháp quyền không phải là nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật (muốn quản lý như thế nào thì cứ đặt ra pháp
luật như thế ấy).
"Nhà nước pháp quyền không phải là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật (muốn quản lý như thế nào thì cứ đặt ra pháp luật như thế ấy)"
Tiến sỹ Nguyễn Sỹ Dũng
"Một nhà nước như vậy sẽ gần với nhà nước chuyên
quyền hơn là nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà ở
đó mọi quyền lực nhà nước đều bị pháp luật chế ước chặt chẽ, bao gồm cả
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
"Người dân có thể làm bất cứ điều gì pháp luật không cấm, nhưng Nhà nước dứt khoát chỉ được làm những gì pháp luật cho phép.
Ông Dũng khẳng định các hành động mang tính bạo
lực trong các cuộc cưỡng chế ở Tiên Lãng, Văn Giang trong thời gian qua
là "lạm quyền," là vi phạm pháp luật và yêu cầu "loại trừ" các hành vi
này khỏi đời sống xã hội.
Theo ông, pháp luật không cho phép đập phá nhà
của công dân. Pháp luật không cho phép đánh hội đồng các nhà báo (và bất
cứ công dân nào khác).
Ông cũng viết rằng, "Những hành vi lạm quyền
nói trên là vi phạm nghiêm trọng pháp quyền. Chúng phải bị loại trừ khỏi
đời sống của chúng ta."
Tuần này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng vừa bế
mạc Hội nghị Trung ương 5, khóa 11, trong đó có nội dung bàn về Hiến
pháp và quan hệ sở hữu đất đai của nhà nước và nhân dân.
Hội nghị này tiếp tục khẳng định Bấm
vị thế lãnh đạo cao nhất và tuyệt đối của Đảng đối với nhà
nước và xã hội trong Hiến pháp, cũng như vai trò quyết định của Đảng và
chính quyền đối với việc định đoạt Bấm
chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu đất đai khác.
Trước đó, trong phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Tổng
Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng cũng đã khẳng định
"Nhà nước ta không tam quyền phân lập", cho thấy Đảng tiếp tục khẳng
định vị trí lãnh đạo ghi trong điều 4 Hiến pháp 1992.
Sở hữu đất đai "quyền thiêng liêng của dân"
Quốc Phương
BBC Tiếng Việt
Cập nhật: 14:45 GMT - chủ nhật, 12 tháng 2, 2012
Một cựu Phó Chủ nhiệm thường
trực Văn phòng Quốc hội lên tiếng với BBC cho rằng Việt Nam cần cải tổ
triệt để thể chế, luật pháp, viết lại Hiến pháp, trong đó trả lại quyền
sở hữu đất đai "thiêng liêng, bất khả xâm phạm" cho người dân và tôn
trọng các quyền cơ bản khác của nhân dân.
Bình luận với BBC hôm 11/02/2012 về kết luận, xử lý của Bấm
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng xung quanh vụ việc tranh
chấp đất đầy bạo lực giữa chính quyền Tiên Lãng, Hải Phòng và gia đình
ông Đoàn Văn Vươn, luật sư Trần Quốc Thuận cho rằng chính phủ nên "chủ
động giải quyết", mà không nên đợi tới khi phải "chịu các áp lực" từ
trong và ngoài nước mới ứng phó, xử lý.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Ông khẳng định, qua biến cố Đoàn Văn
Vươn cũng như cách ứng phó của chính quyền Hải Phòng và xử lý của chính
phủ, cho thấy hệ thống luật pháp Việt Nam hiện nay là bất cập "làm theo
cũng chết, mà không làm theo cũng chết" và do đó Việt Nam chưa thể là
một nhà nước pháp quyền.
Theo luật sư, Việt Nam "lẽ ra đã phải chuyển
đổi" chế độ sở hữu và sở hữu đất đai từ năm 1986, khi nước này bắt đầu
tiến hành đổi mới.
Nay theo ông là lúc Việt Nam phải sửa lại Hiến
pháp, cải tổ thể chế một cách triệt để, chứ không nên "cải cách nửa
vời," đồng thời tiến hành "sửa sai toàn bộ" đối với tất cả các oan sai,
sai lầm về đất đai từ trước tới nay, cũng như cải tổ "thực lòng" công
tác xử lý khiếu nại, khiếu kiện của người dân.
Trước câu hỏi cần sửa lại ra sao trong Hiến pháp
điều khoản quy định về chế độ sở hữu đất đai, ông Trần Quốc Thuận nêu
quan điểm:
"Khi xây dựng Hiến Pháp Việt Nam năm 1992, vấn
đề này cũng được đặt ra và dư luận trong nước cũng đòi hỏi phải thừa
nhận quyền sở hữu đất đai của người dân. Đó là một trong những quyền
thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
"Dĩ nhiên trong một Nhà nước có nhiều loại đất,
và trong đó có những loại đất phải thuộc người dân còn Nhà nước chỉ giữ
một phần công hữu nhỏ. Một số trường hợp khác, một số nước cũng đang làm
như thế.
"Sở hữu toàn dân này bây giờ lại thuộc về sở hữu của một nhóm người có chức, có quyền ở trong chế độ này, từ địa phương tới trung ương... là nguyên nhân sâu xa của một chế độ tham nhũng tràn lan, kéo dài, không ngăn cản được"
Luật sư Trần Quốc Thuận
Luật sư Thuận đề nghị sửa đổi chế độ sở hữu đất
đai này trong Hiến pháp với tinh thần có thể tóm lược trong một câu như
sau: "Đất đai thuộc về sở hữu của người dân, các thành phần kinh tế
khác, trong đó có nhà nước."
Cựu quan chức ngành lập pháp cho rằng pháp luật
Việt Nam "không nhất quán" và "không phù hợp" với nền kinh tế thị trường
của Việt Nam đang mở ra.
Những người làm luật, theo ông, đã "lắt léo" khi
quy định và đưa ra năm loại quyền liên quan tới sở hữu, trong đó có các
quyền sử dụng, chuyển nhượng, đầu tư, hợp tác v.v... nhưng các quyền
này đã bị vô hiệu hóa và khóa bởi một điều khoản được cho là "tù mù,"
đầy mâu thuẫn, là nguyên nhân của tham nhũng bộ máy.
Luật sư nói: "Lại có một quyền phủ lên bên trên
làm cho năm quyền đó trở thành không có quyền gì cả. Đó là sở hữu nhà
nước thuộc về toàn dân. Mà toàn dân là một thuật ngữ tù mù, không là gì
cả.
"Nhưng sở hữu toàn dân này bây giờ lại thuộc về
sở hữu của một nhóm người có chức, có quyền ở trong chế độ này, từ địa
phương tới trung ương.
"Mà cái đó cũng là nguyên nhân sâu xa của một
chế độ tham nhũng tràn lan, kéo dài, không ngăn cản được, do một nền
kinh tế chuyển sang thị trường mà không chuyển đồng bộ các cơ chế khác.
Đó là một điều rất không bình thường."
'Bài học giành quyền'
Luật sư Thuận tin rằng biến cố Tiên Lãng, Hải
Phòng xảy ra đầu năm 2012 cho "một bài học" về điều mà ông tin là "cuộc
đấu tranh" giành quyền thiêng liêng của người dân Việt Nam.
"Đó là quyền dân chủ, đó là nhân quyền. Cho nên,
cuộc đấu tranh ở Tiên Lãng dẫn đến một bài học rất rõ là nếu muốn chống
tham nhũng như Nghị quyết 4 đã đề ra thì phải để cho người dân tham
gia, để cho công luân tham gia, chứ anh không thể đóng cửa chống tham
nhũng."
Trích dẫn lời của cố lãnh tụ Đảng Cộng sản Việt
Nam, ông Hồ Chí Minh, ông Thuận nhấn mạnh tham nhũng là một thứ "giặc
nội xâm" mà không thể sử dụng biện pháp đóng cửa trong nội bộ Đảng. Cựu
quan chức Quốc hội đề nghị:
"Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, tham nhũng là
giặc nội xâm. Mà đã là giặc thì không thể dùng phương pháp phê và tự phê
bên trong được. Chống giặc thì phải có những biện pháp và những đòn
mạnh mẽ."
Nhân sự kiện Tiên Lãng đang được xử lý và Nghị
quyết 4 về chỉnh đốn đảng mới được Trung ương Đảng cộng sản ban hành,
chuyên gia lập pháp kiến nghị phải thay đổi trong cách thức công khai
hóa tài sản quan chức nhà nước. Ông nói:
"Nếu quả thật các ông lãnh đạo Đảng này muốn chống tham nhũng, thì phải mở cửa để người dân và báo chí tham gia vào. "
Luật sư Trần Quốc Thuận
"Nếu quả thật các ông lãnh đạo Đảng này muốn
chống tham nhũng, thì phải mở cửa để người dân và báo chí tham gia vào.
Đặc biệt, nên công khai tài sản của các vị lên công luận và báo chí chứ
không chỉ công khai ở cơ quan và nơi cư trú.
"Đó là một việc làm buồn cười mà nhiều năm nay
lặp đi lặp lại để che chắn những tài sản bất minh. Cho nên pháp luật
Việt Nam có những vấn đề không bình thường."
Luật sư cho rằng việc này dẫn đến một "hậu quả
tai hại," không bình thường, đó là việc quyền lực tập trung chỉ ở một
nhóm người hay một số người đang làm phương hại cho đất nước, cho Đảng.
Ông khẳng định:
"Người ta dùng chữ quyền lực tập trung cho Đảng.
Điều đó không phải như thế. Cái chữ "Đảng" này được hiểu là một nhóm
người rất nhỏ ở Trung ương, mà trong Nghị quyết 4 đã nói đó là những
nhóm lợi ích."
Trên cơ sở nhận thức này, luật sư Thuận đề nghị
khi sửa Hiến pháp 1992, Việt Nam cần sửa "cơ bản" để làm rõ các quyền cơ
bản của công dân mà theo ông đã được quy định rõ ngay từ bản Hiến pháp
1946. Ông nhấn mạnh:
"Các quyền cơ bản công dân trong Hiến pháp từ
năm 1946, tới 1958, 1980 đến 1992 đều đã nêu ra mà không thực hiện được,
thì đây là dịp để mở ra các quyền đó để dân tộc này ngẩng mặt lên nhìn
Thế giới được."
'Cải cách toàn diện'
Vị cựu quan chức của Quốc hội cho rằng đã tới
lúc Việt Nam tiến hành một cải cách toàn diện, chứ không chỉ dừng ở một
cuộc cải cách ruộng đất mới, mặc dù hiện nay theo ông là "thời điểm tốt
nhất" để xem xét lại "toàn bộ sai trái" của chính quyền từ quá khứ tới
nay về đất đai và các tranh chấp, oan sai khác.
Ông khẳng định: "Tôi cho rằng ở Việt Nam phải
làm một cuộc cải cách toàn diện chứ không phải chỉ là cải cách ruộng đất
hay là các cuộc cải cách nửa vời."
"Từ năm 1975 tới nay (có) rất nhiều cuộc cải
cách nửa vời. Và những cuộc cải cách nửa vời đó đưa đất nước, dân tộc
này không biết đi về đâu, mà như Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói, sẽ là
nguy cơ của sự tồn vong của Đảng này, chế độ này."
Ý kiến của luật sư Trần Quốc Thuận đã có sự gặp
gỡ với quan điểm, nhận thức của một số quan chức, chuyên gia phản biện
xã hội từ trong nước.
Nói với BBC gần đây xung quanh vấn đề tranh chấp
đất đai giữa chính quyền và dân và nạn tham nhũng do các nhóm lợi ích ở
nông thôn Việt Nam, Tiến sỹ Đặng Kim Sơn, đương kim Viện trưởng Viện
Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
(IPSARD,)Bộ Nông nghiệp, cho rằng:
"Nếu không xử lý tốt vấn đề đất đai, Việt Nam sẽ
khó đảm bảo được công bằng xã hội, một mục tiêu được các Đại hội Đảng
đưa vào văn kiện.
"Nếu không xử lý nghiêm minh nó sẽ lan tỏa ra cả nước, cho nên sự phản ứng ở Tiên Lãng là một báo hiệu của người dân không thể coi nhẹ."
Đại tướng Lê Đức Anh
"Đây không những là nguồn gốc của tham nhũng, nó
làm hỏng đội ngũ quản lý ở các cấp, mà đây còn là nguồn gốc của sự bất
bình của dân chúng làm cho ổn định xã hội không đảm bảo."
Còn Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), cựu thành viên Ban cố
vấn Chính phủ dưới thời các Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, khẳng
định với BBC:
"Nếu không có những cải cách rất mạnh bạo đối
với vấn đề đất đai, không có sự công khai minh bạch, và không có sự mở
rộng dân chủ để người dân nói lên tiếng nói thì các sự việc như vụ Tiên
Lãng, như các vụ việc khác, sẽ rất khó tránh khỏi."
Mới đây nhất, theo truyền thông trong nước, nguyên Chủ tịch Nước, Đại tướng Bấm
Lê Đức Anh tỏ ra quan ngại về hậu quả của vụ Tiên Lãng, ông
nói: "Nếu không xử lý nghiêm minh nó sẽ lan tỏa ra cả nước, cho nên sự
phản ứng ở Tiên Lãng là một báo hiệu của người dân không thể coi nhẹ".
Cũng chính vị Bấm
Cựu Chủ tịch Nước cho báo chí trong nước hay, trong vụ Tiên
Lãng "chính quyền huyện, xã đều sai" và ông cũng không tán thành việc
chính quyền huy động lực lượng vũ trang tham gia cưỡng chế đất.
ĐẢNG & QUỐC HỘI VIỆT CỘNG
Vẫn bế tắc sau Hội nghị Trung ương 5
Thanh Quang, phóng viên RFA
2012-05-21
Hôm 15/5, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đọc bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 5 dài hơn nửa tiếng.
Photo courtesy of chinhphu.vn
Đồng tiền tha hóa đội ngũ đảng
Theo blogger Trương Duy Nhất, “vẫn giọng đều đều như ông giáo làng,
không nhấn nhá, không ấn tượng, vẫn những nội dung, câu chữ quen thuộc
đến sáo rỗng, không thấy gì mới”, trong bối cảnh hội nghị “căng thẳng,
ngột ngạt, bức bối, bế tắc” với sự tham dự của “200 khuôn mặt lạnh
lùng”, “vừa thấy phản cảm vừa… thiếu niềm tin”.
Blogger Dân Choa thì thấy “Thất vọng về tuyên bố của TBT”.
Qua bài tựa đề như vừa nói, blogger Dân Choa những tưởng cuộc sống thực tiễn sẽ thôi thúc Nhà nước xúc tiến mạnh mẽ cải cách hành chính vốn là nhu cầu thiết yếu, mà đầu tiên là tu chính hiến pháp, rồi Nhà nước sẽ hướng dần tới việc tam quyền phân lập. Thế nhưng, theo blogger Dân Choa, ông TBT “đã đặt sẵn tiền đề cho việc sửa đổi”, tuyên bố:
Qua bài tựa đề như vừa nói, blogger Dân Choa những tưởng cuộc sống thực tiễn sẽ thôi thúc Nhà nước xúc tiến mạnh mẽ cải cách hành chính vốn là nhu cầu thiết yếu, mà đầu tiên là tu chính hiến pháp, rồi Nhà nước sẽ hướng dần tới việc tam quyền phân lập. Thế nhưng, theo blogger Dân Choa, ông TBT “đã đặt sẵn tiền đề cho việc sửa đổi”, tuyên bố:
"Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân; nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua tổ chức nhà nước
dưới sự lãnh đạo của Đảng…Nhà nước ta không tam quyền phân lập…"
Blogger Dân Choa nhận thấy tuyên bố như vậy không có nét gì mới và
chỉ nhằm củng cố thêm quyền lực cho Nhà nước, hay nói cách khác, quyền
lực của đảng.
Qua bài “ ĐCSVN càng bế tắc sau Hội nghị TW5”, tác giả Nguyễn Ngọc
Già lưu ý tới việc đảng CS qua hội nghị này tiếp tục tái khẳng định “đất
đai là sở hữu của…họ” cũng như không có dấu hiệu cho thấy đảng chấp
nhận chia sẻ quyền lực. Theo tác giả thì đảng đang tiếp tục “dắt tay
nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của…tiền tệ” thay vì cho “vãng tuồng”
cái “trí tuệ lai căng, mị dân”. Tác giả Nguyễn Ngọc Già nhận xét tiếp:
"Ông Dũng và "đồng chí ông ta" đã bỏ mặc "những tấm biển chỉ đường
của trí tuệ" trong mưa gió tơi bời, thế nên, hậu bối của Marx, của
Lenin, của Hồ Chí Minh đang mờ mịt, quýnh quáng - khó "sáng mắt sáng
lòng" để cùng "dắt tay nhau đi". Thay vào đó là "biển chỉ đường tiền tệ"
đang soi lối cho họ. Lý luận Marx, Lenin, Mao hay Hồ chẳng qua chỉ là
con bài "Tiến Lên" cho các đồng chí sát phạt lẫn nhau.
Họ đang mất đoàn kết nghiêm trọng, cũng bởi tiền. Tiền, dưới mọi hình
thức. Chắc chắn.…Việc khẳng định lại (một cách dứt khoát) việc không có
chuyện "tam quyền phân lập", rằng "ĐCSVN vẫn lãnh đạo tuyệt đối" đất
nước, không cho thấy ĐCSVN mạnh hơn, ngược lại họ đang yếu. Rất yếu.
Ông Dũng và "đồng chí ông ta" đã bỏ mặc "những tấm biển chỉ đường của trí tuệ" trong mưa gió tơi bời... Thay vào đó là "biển chỉ đường tiền tệ" đang soi lối cho họ.
Tác giả Nguyễn Ngọc Già
Đề cập tới 2 điểm đáng chú ý tại Hội nghị Trung ương 5, đó là “Ban
chỉ đạo phòng chống tham nhũng được giao về cho Bộ Chính trị” và tái
sinh “Ban Nội chính trung ương”, tác giả cho đó là một chỉ dấu thất bại
cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, khiến ông “phen này có cơ ngã ngựa giữa
đàng”. Tác giả nêu lên mâu thuẫn trong Đảng phát xuất từ nguyên tắc hồi
tố chính đáng của những nông dân mất đất trên 20 năm qua sẽ được giải
quyết ra sao, kể cả những vụ “nóng hổi” Tiên Lãng, Văn Giang, Nam Định,
Thái Hà…? Và, theo tác giả, Đảng “sẽ ngã sóng soài trên chính cái nguyên
tắc hồi tố chính đáng, quan trọng này”.
Nhắc đến vấn đề liên quan “chuyện dài dân oan”, blog Bauxite VN và
nhiều mạng nhật ký khác phổ biến bài “Lại một cuộc cưỡng chế tàn bạo!”,
qua đó tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nhấn mạnh rằng xưa nay, đã là nông dân là
cần có ruộng đất vốn là sự sống còn của họ. Ông lưu ý rằng dân cày mất
ruộng như cá không nước, nhưng bị tước đi ruộng đất thì họ sống bằng gì
trong khi tiền đền bù, nếu có, cũng rẻ mạt thì họ và gia đình sống được
thêm bao nhiêu ngày? Rồi ở tuổi 40, 50, 60, không chuyên môn, họ có được
hãng xưởng nào thu nhận không ?
Dồn dân vào bước đường cùng
Trước
tình cảnh ngày càng có đông đảo hộ nông dân bị tước đoạt ruộng đất - và
chỉ trong vòng vài tháng nay đã diễn ra các biến cố Tiên Lãng, Văn
Giang, Vụ Bản cùng cảnh bắt bớ, đánh đập dã man, tướng Nguyễn Trọng Vĩnh
thấy “chưa bao giờ nông dân oan ức khổ nhục như bây giờ!”. Ông cho biết
tiếp:
"Dưới thời thực dân Pháp thống trị, ngay khi vận động cách mạng bí
mật để giải phóng đất nước, Đảng đã nêu khẩu hiệu “Người cày có ruộng”
đáp ứng khát vọng của nông dân, nên nông dân hăng hái theo Đảng… Sao các
ông bà chính quyền hôm nay lại phản bội lại nông dân?...Tiếng kêu la
thảm thiết vang cả cánh đồng.
Những người bị bắt không biết ra sao, không biết có ai bị đánh
chết tại trụ sở công an như đã từng xảy ra ở một số nơi không? Sao mà
chính quyền bất nhân, vô đạo đức đến thế? Sao công an tàn ác dã man thế,
đánh dân như kẻ thù?...
Thực trạng trên đây làm cho mệnh đề mà văn kiện vẫn nêu “Nhà nước
của dân, do dân, vì dân” không còn ý nghĩa nữa! Nhà nước của dân, nay
người ta nói chính quyền là của tầng lớp giàu có, của nhóm lợi ích và cá
nhân tham nhũng. Nhà nước vì dân nay người ta nói là chính quyền áp bức
dân."
Qua bài “Hoá ra đếch phải đất nhà mình”, blogger Nguyễn Thông than phiền rằng “lâu nay mình nhầm, nhầm to”, khi ông nhớ lại:
"Bố mẹ mình hồi xưa có gần 9 sào ruộng do ông bà khai phá để lại,
sau bị hợp tác xã cướp trắng 7 sào, giờ chỉ còn hơn 2 sào thổ cư (nhà và
vườn). Cứ nghĩ đó là của nhà mình, do mồ hôi nước mắt ông bà cha mẹ
dựng lên, truyền cho con cháu, có quyền sở hữu vĩnh viễn, té ra không.
Đất ấy nhà mình có từ trước khi có đảng cộng sản và chế độ này.
Vậy mà theo ông Nguyễn Phú Trọng thì đảng, nhà nước có thể cướp
bất cứ lúc nào cũng được bởi nó “thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Đểu nhất là ý “và các dự án phát
triển kinh tế – xã hội theo quy định của pháp luật”, hiểu thế nào cũng
được. Thế hóa ra nhà mình chả có cái đếch gì. Luôn bị đặt trong nguy cơ
có thể phải lưu vong ngay trên quê hương đất nước mình."
Qua thư gởi GS Nguyễn Huệ Chi, blogger Hà Sĩ Phu lưu ý rằng xã hội VN
ngày nay đang “chứng kiến 2 ‘cuộc đua’ ngược dòng chưa từng có giữa
giáo lý chính thống với thực tiễn đời sống”, đó là những dân nghèo như ở
Tiên Lãng, Văn Giang…càng bị công quyền đánh đập dã man bao nhiêu thì
người lãnh đạo cao nhất nước khi lên diễn đàn càng khẳng định “tính
chính nghĩa, tính nhân văn và khoa học của Ý thức hệ bấy nhiêu.
... được trang bị bằng ý thức hệ địch – ta, nên họ nhìn người dân mất đất như là những kẻ thù, và tự họ biến thành những người ác ôn mà có lẽ chính họ cũng không nhận ra ngay lúc vung tay hành hung người khác
TS. Nguyễn Văn Tuấn
Đi tìm một sự lý giải, TS Hà Sĩ Phu nêu lên câu hỏi rằng tại sao
người ta – những người nhân danh cái Thiện, cực thiện – (lại) hành xử
tàn ác ? Và ông trích dẫn lời của GS.TS Y khoa Nguyễn Văn Tuấn dựa trên
khoa học thực nghiệm cùng sự am hiểu khách quan, sâu sắc để dẫn tới câu
trả lời “chí lý”: Nguyên nhân vấn đề là sự giáo điều của Ý Thức Hệ, như
sau:
“người bình thường có thể trở nên những kẻ ác ôn nếu được trang bị bằng một ý thức hệ hay giáo điều nào đó” ,
“cái ác có thể thắng cái thiện nếu được trang bị bằng một ý thức hệ” ,
“ở trong môi trường giáo điều và được trang bị bằng ý thức hệ địch – ta, nên họ nhìn người dân mất đất như là những kẻ thù, và tự họ biến thành những người ác ôn mà có lẽ chính họ cũng không nhận ra ngay lúc vung tay hành hung người khác”
“cái ác có thể thắng cái thiện nếu được trang bị bằng một ý thức hệ” ,
“ở trong môi trường giáo điều và được trang bị bằng ý thức hệ địch – ta, nên họ nhìn người dân mất đất như là những kẻ thù, và tự họ biến thành những người ác ôn mà có lẽ chính họ cũng không nhận ra ngay lúc vung tay hành hung người khác”
Đánh dân như đánh kẻ thù
TS
Hà Sĩ Phu hoàn toàn đồng ý với nhận định cho rằng “ác ôn ở những người
vốn bình thường mới nguy hiểm”, vì, ông giải thích, rằng “bởi khi tính
ác không do bẩm sinh thì do môi trường, do môi trường nên cùng một lúc
có thể sinh ra một loạt người ác, để cái ác trở nên bình thường.
Do môi trường xã hội nên cùng một lúc có thể sinh ra một đội ngũ ác
nên cái ác còn có thể được vinh danh!”. Và TS Hà Sĩ Phu muốn “nói cho
hết nhẽ”:
"Nhưng đã nói cũng nên nói cho hết nhẽ: Nhân danh cái CỰC THIỆN
sao lại sinh ra CỰC ÁC? Cũng có trường hợp do ngu tín mà bị ám thị, làm
điều Ác mà cứ tưởng mình đang làm điều Thiện, nhưng niềm tin như tín
ngưỡng ấy bây giờ còn được bao nhiêu? Thực tế có Thiện như đang rêu rao
không?
Khi nhân danh Ý thức hệ để chỉnh đốn về đạo đức, về nhân cách thì
một người đảng viên yêu Đảng như TS Chu Hảo phải công nhận đây là “một
thể chế nói chung là không khuyến khích trau dồi và tôn trọng nhân
cách”. Có của dân, vì dân thật không khi ông Chu Hảo phải nhận định “dân
nghèo ở nhiều nơi trên đất nước này đang bị dồn ép vào cảnh khốn cùng
bằng các luật lệ phi lý và các biện pháp trấn áp tàn bạo […] Chính quyền
này hình như không biết sợ dân nữa rồi!”
Mở đầu bài viết tựa đề “Tại sao người ta hành xử tàn ác”, blogger
Nguyễn Văn Tuấn mãi đến hôm nay vẫn còn thật sự sốc trước cảnh nhân viên
công lực vây đánh 2 phóng viên đài Tiếng Nói VN VOV, và GS Tuấn lại
càng sốc hơn khi qua đoạn phim quay chậm thấy “công an đấm đá một phụ nữ
chẳng có gì để tránh những đòn hành hung hội đồng”.
Còn hơn cả thú dữ say mồi, bên này bức tường ngăn
giữa nhà văn hoá và nghĩa trang liệt sĩ, mấy người đàn ông được trang
bị dùi cui, gậy gỗ lao vào lôi xềnh xệch một người phụ nữ tay không.
Blogger Hồ Như Hiển
Blogger Hồ Như Hiển
Blogger Hồ Như Hiển mô tả cảnh này rằng:
“Còn hơn cả thú dữ say mồi, bên này bức tường ngăn giữa nhà văn
hoá và nghĩa trang liệt sĩ, mấy người đàn ông được trang bị dùi cui, gậy
gỗ lao vào lôi xềnh xệch một người phụ nữ tay không. Hai người đã bẻ
quặt tay chị phía sau thế mà một kẻ khác còn đá vào bụng chị bằng một cú
có nghề. Bên kia bờ tường, khoảng chục người đàn ông lăm lăm, vung vẩy
gậy gỗ, chực lao qua bức tường như một bầy cá sấu đang há những chiếc
răng nhọn hoắt sẵn sàng lao vào cấu xé con mồi xấu số. Còn sự bỉ ổi, tàn
bạo nào hơn thế nữa?“Người với người sống để yêu nhau” là thế này đây
sao?"
Thế nạn nhân chân yếu tay mềm đó là ai ? Blogger Hiệu Minh trích dẫn
một nguồn tin cho biết đó là chị Ngô Thị Ánh, người xã Xuân Quan, huyện
Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Và blogger Hiệu Minh nhân tiện kể rằng “Ai
từng xem phim “Bố già – Godfather” sẽ nhớ cảnh chém giết tàn bạo trong
giới Mafia trả thù lẫn nhau. Tuy độc ác như vậy, nhưng giới mafia có một
qui định rất rõ “không được động đến phụ nữ và trẻ em” dù đó là người
của đối phương. Mafia thực chất là những con quỉ đội lốt người mà vẫn
tôn trọng phụ nữ và trẻ em”.
Có lẽ đó là lý do khiến blogger JB Nguyễn Hữu Vinh phải thốt lên rằng
“đánh dân như chớp, đánh tàn bạo, đánh như đòn thù. Chắc ngày xưa lính
Mĩ các chú cũng không đánh được sướng như bây giờ”.
Nhận diện các vấn đề nóng ở Quốc hội VN
Cập nhật: 14:13 GMT - thứ hai, 21 tháng 5, 2012
Quốc hội Việt Nam ngày
hôm nay 21/5 khai mạc kỳ họp thứ ba trong bối cảnh nổi cộm nhiều vấn đề
chính trị, kinh tế, xã hội tiếp tục gây lo ngại.
Dự kiến trong một tháng, các đại biểu sẽ xem xét, thông qua 13 dự án luật và hai dự thảo nghị quyết.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Quốc hội cũng sẽ cho ý kiến về các báo cáo của Chính phủ mà nổi bật là Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế.
Một số chuyên gia trong nước nói với BBC rằng
Quốc hội sẽ khó tìm ra giải pháp thực sự hiệu quả cho nhiều vấn đề từ
tranh chấp đất đai cho tới cải thiện kinh tế, xã hội và giáo dục, y tế.
Trao đổi với BBC Việt ngữ hôm thứ Hai, Tiến sĩ Bấm
Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), nói:
"Quốc hội lần này họp trong bối cảnh kinh tế -
xã hội có rất nhiều điều đặc biệt. Phải nói là tình hình kinh tế đang
khó khăn nhất kể từ khi bắt đầu Đổi mới cho đến nay.”
"Thứ hai, về mặt xã hội đang nổi lên rất nhiều
vấn đề như Tiên Lãng, Văn Giang, những cuộc biểu tình, biểu lộ sự phản
đối, không đồng tình của nông dân về vấn đề đất đai đang nổi cộm trong
xã hội.”
Tiến sĩ Doanh nói tiếp: “Y tế, giáo dục hiện
đang xuống cấp rất nhanh và gặp vấn đề rất lớn. Chưa bao giờ người dân
Việt Nam lại gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế đến như
thế này. Và chưa bao giờ tình hình giáo dục lại đang có nhiều vấn đề khó
khăn như thế."
Một chuyên gia kinh tế khác, Tiến sĩ Nguyễn
Quang A, cho rằng Quốc hội kỳ này sẽ vẫn không vượt qua được lề lối làm
việc cũ là "hợp thức hóa" các quan điểm của Đảng và sẽ khó thực hiện
được các cải cách mong đợi.
Ông nói: "Quốc hội Việt Nam chủ yếu thông qua
hay hợp thức những quyết định của Đảng Cộng sản đã quyết định rồi. Chính
vì vậy, những quyết định của Quốc hội không có nhiều giá trị cho lắm.”
'Vẫn hệt như cũ'
Cựu Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách Phát
triển (IDS, đã tự giải thể) không tin rằng các giải pháp tái cơ cấu nền
kinh tế và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp có nhiều thực chất.
"Quốc hội lần này họp trong bối cảnh kinh tế - xã hội có rất nhiều điều đặc biệt. Phải nói là tình hình kinh tế đang khó khăn nhất kể từ khi bắt đầu Đổi mới cho đến nay."
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
"Tôi đọc qua đề án tái cơ cấu kinh tế mà chính
phủ trình quốc hội kỳ này và thấy rằng chất lượng không được tốt. Những
vấn đề cốt yếu của kinh tế Việt Nam thì người ta chưa dám động đến”,
Tiến sĩ A nhận xét.
Được biết các vụ tranh chấp đất đai gây ầm ĩ gần
đây như Tiên Lãng, Văn Giang, Vụ Bản sẽ không được đưa vào chương trình
thảo luận.
Tuy vậy, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng đấy là “những vấn đề rất hệ trọng”.
“Vậy mà Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 5 của
ĐCS Việt Nam nhắc lại một chuyện vẫn hệt như cũ. Tức là phải kiên định
đất đai là công thổ quốc gia và giao cho nhà nước quản lý.”
“Không có sự thay đổi căn bản nào về một thể chế quan trọng nhất đối với nền kinh tế, đấy là quyền tài sản," ông nói.
Từ góc độ một cử tri, nhà văn Phạm Viết Đào ở Hà
Nội quan tâm tới vấn đề thông tin của Quốc hội tới các cử tri sao cho
họ có đủ thông tin.
"Ở mình, Quốc hội vẫn mang tính nghiệp dư, phong
trào nhiều. Tôi không rõ sự tái cấu trúc kinh tế lần này, sự can thiệp
của Quốc hội tích cực đến mức độ nào.”
"Đáng lẽ Chính phủ phải công bố rộng rãi trên
các phương tiện thông tin đại chúng để cho những cử tri có kiến thức,
hoặc những người theo dõi vấn đề có ý kiến hoặc tư vấn,” ông Đào nói.
Phát biểu khai mạc kỳ họp hôm thứ Hai, Chủ tịch
Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói "kỳ họp thứ ba của quốc hội có rất nhiều
nội dung quan trọng”.
Phiên họp sẽ xem xét, thông qua 13 dự án luật,
hai dự thảo nghị quyết, cũng như duyệt xét các báo cáo về kế hoạch và
thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2011 và
các tháng đầu năm 2012.
Trong số các dự luật được đưa ra cân nhắc tại kỳ
họp có các dự án luật được dư luận quan tâm như luật về phòng, chống
rửa tiền, và luật biển Việt Nam.
Hai nghị quyết về chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh năm 2013 và nghị quyết cải tiến, đổi mới, nâng cao hiệu quả
hoạt động Quốc hội cũng được xem xét, thảo luận.
Theo lịch trình, Quốc hội cũng sẽ xem xét tờ
trình đề nghị bãi nhiệm tư cách đại biểu Quốc hội đối với bà Đặng Thị
Hoàng Yến, người đã có đơn xin được vắng mặt ở phiên khai mạc kỳ họp.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/05/120521_vn_parliament_3rd_session.shtml
Truyền thông trong nước loan tin có hơn 1200 ý kiến của cử tri
được gửi đến cho các đại biểu quốc hội tại kỳ họp lần này dự kiến kéo
dài một tháng đến ngày 21 tháng 6 tới đây.
Số hơn 1200 ý kiến vừa nói do Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp cùng Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổng hợp. Những vấn đề đó là tình hình kinh tế trong những tháng đầu năm nay đáng ngại với việc hàng hóa của các doanh nghiệp bị tồn kho, hàng ngàn doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị giải thể. Thế rồi tình hình dịch bệnh, nhất là dịch tay chân miệng diễn biến phức tạp, bệnh lạ tại Quảng Ngãi chậm được làm rõ nguyên nhân. Cử tri cũng lo lắng về tình hình xe máy cháy nổ, tệ nạn xã hội gia tăng…Họ cũng nói việc phản ánh những vụ án tham nhũng chưa phản ánh đúng thực trạng đó.
Một vấn đề gây bức xúc cho nhiều người dân là tình hình thu hồi đất đai tại các địa phương gây nên những khiếu kiện dai dẳng trong những năm qua không được các báo nêu rõ trong số những ý kiến gửi đến quốc hội.
Tin cho biết chỉ có một nội dung có liên quan đến vấn đề vừa nói là giám sát việc thực hiện pháp luật về đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Việc giám sát này nhằm mục đích đánh giá tình hình ban hành và thực hiện chính sách pháp luật về lĩnh vực này trong thời gian năm năm qua mà thôi.
Tại hội nghị thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 11 vừa qua, trước khi diễn ra kỳ họp quốc hội lần này, cơ quan cao nhất của Đảng tuyên bố tiếp tục duy trì nguyên tắc ‘quyền sở hữu đất đai toàn dân, thống nhất do Nhà Nước quản lý’. Với quyết định đó, nhiều người cho rằng tình hình thu hồi đất đai gây bất mãn lâu nay trong dân chúng sẽ khó có cải thiện.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/05/120521_vn_parliament_3rd_session.shtml
Việt Nam khai mạc kỳ họp thứ 3,
quốc hội khóa 13
RFA 05-21-2012
Kỳ họp thứ 3, quốc hội khóa 13 của Việt Nam khai mạc hôm nay tại Hà Nội với nhiều vấn đề được cho là ‘nóng’ đối với cử tri cả nước sẽ được mang ra bàn thảo.
AFP
Số hơn 1200 ý kiến vừa nói do Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp cùng Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổng hợp. Những vấn đề đó là tình hình kinh tế trong những tháng đầu năm nay đáng ngại với việc hàng hóa của các doanh nghiệp bị tồn kho, hàng ngàn doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị giải thể. Thế rồi tình hình dịch bệnh, nhất là dịch tay chân miệng diễn biến phức tạp, bệnh lạ tại Quảng Ngãi chậm được làm rõ nguyên nhân. Cử tri cũng lo lắng về tình hình xe máy cháy nổ, tệ nạn xã hội gia tăng…Họ cũng nói việc phản ánh những vụ án tham nhũng chưa phản ánh đúng thực trạng đó.
Một vấn đề gây bức xúc cho nhiều người dân là tình hình thu hồi đất đai tại các địa phương gây nên những khiếu kiện dai dẳng trong những năm qua không được các báo nêu rõ trong số những ý kiến gửi đến quốc hội.
Tin cho biết chỉ có một nội dung có liên quan đến vấn đề vừa nói là giám sát việc thực hiện pháp luật về đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Việc giám sát này nhằm mục đích đánh giá tình hình ban hành và thực hiện chính sách pháp luật về lĩnh vực này trong thời gian năm năm qua mà thôi.
Tại hội nghị thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 11 vừa qua, trước khi diễn ra kỳ họp quốc hội lần này, cơ quan cao nhất của Đảng tuyên bố tiếp tục duy trì nguyên tắc ‘quyền sở hữu đất đai toàn dân, thống nhất do Nhà Nước quản lý’. Với quyết định đó, nhiều người cho rằng tình hình thu hồi đất đai gây bất mãn lâu nay trong dân chúng sẽ khó có cải thiện.
ĐỒNG CHÍ TRUNG KIÊN * MỸ DU KÝ
MỸ DU NHẬT KÝ
Đây
là suy nghĩ của một cựu cán bộ Cộng Sản Việt Nam có dịp thăm nước Mỹ,
nhưng không biết đây là ý nghĩ thực của ông hay chỉ là một phát biểu để
chứng tỏ mình rất trung thành với đảng, không mất lập trường sau khi đi
Mỹ về. Hoặc là tác phẩm của một ông bạn thích đùa nào đó. Dù tưởng
tượng, bài này cũng có it nhiều sự thức. Tôi đã đọc một số bài ký của
các cán ta đi Mỹ về thì nội dung cũng vây.
Sống trong "chế độ ta", ta phải biết "nghệ thuật sống". Cứ vận động đi Pháp công tác, đi Mỹ tham quan nhưng chớ bao giờ
hở miệng khen Pháp, khen Mỹ. Mất lập trường là bỏ mạng sa trường đó!
Sống trong xã hội cộng sản, không nên nói thật lòng mình như Phùng Quán : yêu ai thì nói rằng yêu, ghét ai thì bảo rằng ghét...".Trái
lại, phải lên gân, phải nổ, phải ca tụng đảng dù biết mười mươi đảng
gian ác, đảng tham nhũng, và chửi mắng kẻ thù dù kẻ thù tốt gấp trăm,
gấp ngàn lần hơn đảng ta. Phải sống và học tập Chế Lan Viên, Nguyễn Khải, Nguyễn Đình Thi .. . thì mới được làm quan to và sống an ổn giữa bầy sói
Hai thân thương,
Ba đi Mỹ thăm-thú theo lời mời của vợ chồng con Tư. Theo như Ba biết, thì chồng con Tư bảo rằng, Ba đã có sạn trong đầu rồi, không thể thay đổi và theo kịp trào lưu văn minh tiến hóa của loài người được, phải cho Ba đi một chuyến để mở mắt ra.
Ba nói riêng cho con nghe, một người có lập trường cách mạng hơn 50 năm vững vàng như Ba, làm sao mà lay chuyển được?
Ba đi Mỹ thăm-thú theo lời mời của vợ chồng con Tư. Theo như Ba biết, thì chồng con Tư bảo rằng, Ba đã có sạn trong đầu rồi, không thể thay đổi và theo kịp trào lưu văn minh tiến hóa của loài người được, phải cho Ba đi một chuyến để mở mắt ra.
Ba nói riêng cho con nghe, một người có lập trường cách mạng hơn 50 năm vững vàng như Ba, làm sao mà lay chuyển được?
Những thứ phồn vinh giả tạo của xã hội tư bản bóc lột đang giẫy
chết, không thể làm Ba lóa mắt xao động mà chao đảo niềm tin tất thắng
của xã hội chủ nghĩa, một xã hội văn minh tiên tiến, văn minh cùng cực
và tột đỉnh của loài người.
Niềm tin tất thắng đó, rạng ngời trong tim Ba, có từ ngày đem con ra Bắc tập kết, rồi băng Trường Sơn gian khổ về Nam giải phóng, đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào.
Niềm tin tất thắng đó, rạng ngời trong tim Ba, có từ ngày đem con ra Bắc tập kết, rồi băng Trường Sơn gian khổ về Nam giải phóng, đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào.
Một lòng tin tuyệt đối vào đường
lối không bao giờ sai lầm của đảng ta.
Hôm
nay Ba được thằng Tư đem đi thăm thắng cảnh nước Mỹ. Theo lời thằng Tư
nói rằng, những thắng cảnh nầy, được nhân dân các nước văn minh yêu
chuộng hòa bình trên thế giới ghé thăm hàng năm đến có cả trăm triệu
người.
Từ Sạc-rờ-men-tô (Sacramanto, ghi chú của tác giả) thủ phủ của
Bang Ca-Li (California), xe hành khách đón Ba và thằng Tư đi. Hành khách
trên xe, có sáu mươi hai người. Đa số là các anh cả chị cả Trung Quốc
vĩ đại, còn lại hai mươi người khác, là những “ khúc ruột xa ngàn dặm”
của quê hương ta.
Triệt để tuân thủ đường lối đứng đắn của đảng ta, nên Ba kêu họ bằng danh từ thân thương đó, chứ theo Ba thấy, thì bọn nầy thuộc loại cực kỳ phản động, điên cuồng chống phá cách mạng.
Triệt để tuân thủ đường lối đứng đắn của đảng ta, nên Ba kêu họ bằng danh từ thân thương đó, chứ theo Ba thấy, thì bọn nầy thuộc loại cực kỳ phản động, điên cuồng chống phá cách mạng.
Chúng ăn nói toàn
những lời vong mạng phản động, bọn bám theo chân đế quốc tư bản, phản
lại đất nước quê hương xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Ba đề cao cảnh
giác tối đa khi giao tiếp với bọn ngụy nầy.
Ba sẽ nói nhiều về bọn phản quốc nầy trong thơ sau cho con biết, bây giờ Ba viết về những điều chứng kiến tận mắt, và đánh giá sự việc dưới quan điểm duy vật biện chứng của một con người có bề dày cách mạng và trung kiên như Ba. Họ đưa Ba vào thăm dinh Chủ Tịch của Bang Cali.
Ba sẽ nói nhiều về bọn phản quốc nầy trong thơ sau cho con biết, bây giờ Ba viết về những điều chứng kiến tận mắt, và đánh giá sự việc dưới quan điểm duy vật biện chứng của một con người có bề dày cách mạng và trung kiên như Ba. Họ đưa Ba vào thăm dinh Chủ Tịch của Bang Cali.
Vào trong dinh nầy, là Ba
thấy rõ cái tệ hại của tự do hỗn loạn của thế giới tư bản. Du khách đi
lại lang bang trong dinh, mà không có công an theo dõi, bám sát, canh
chừng chi cả.
Tệ đến nỗi có thể đứng bên ngoài phòng làm việc của Đồng Chí Chủ Tịch Bang nhìn vào, mà cũng chẵng ai ngăn cản. Như thế thì còn chi là bí mật quốc gia nữa. Thật là thiếu đề cao cảnh giác tột độ.
Tệ hại đến nỗi du khách chụp hình lia lịa các phòng ốc, hành lang, đường nẻo bên trong.
Tệ đến nỗi có thể đứng bên ngoài phòng làm việc của Đồng Chí Chủ Tịch Bang nhìn vào, mà cũng chẵng ai ngăn cản. Như thế thì còn chi là bí mật quốc gia nữa. Thật là thiếu đề cao cảnh giác tột độ.
Tệ hại đến nỗi du khách chụp hình lia lịa các phòng ốc, hành lang, đường nẻo bên trong.
Chụp hình cả đồng chí Chủ Tịch Bang, mà bọn bảo vệ làm
việc tắc trách trơ mắt ra, không hề biết ngăn cản, hay “ làm việc” để
đưa chúng đi cải tạo tư tưởng. Đúng là sống lúc quân hồi vô phèng, không
có chính quyền ư?
Dinh Chủ Tịch nầy, tự nó tố cáo tính bóc lột nhân dân lao động của bọn tư sản mại bản. Không phải như Bác Ta, cần kiệm liêm chính, chỉ ở trong căn chòi tre, đi dép lốp với hai bộ áo quần kaki. Ba nói điều nầy với thằng Tư. Nó nói với Ba rằng: “Cho đến giờ nầy mà Ba vẫn còn tin những điều lừa mị ấu trĩ nữa sao?” Ba không chấp lời nói của nó làm chi, vì Ba đang nhờ nó nhiều chuyện.
Dinh Chủ Tịch nầy, tự nó tố cáo tính bóc lột nhân dân lao động của bọn tư sản mại bản. Không phải như Bác Ta, cần kiệm liêm chính, chỉ ở trong căn chòi tre, đi dép lốp với hai bộ áo quần kaki. Ba nói điều nầy với thằng Tư. Nó nói với Ba rằng: “Cho đến giờ nầy mà Ba vẫn còn tin những điều lừa mị ấu trĩ nữa sao?” Ba không chấp lời nói của nó làm chi, vì Ba đang nhờ nó nhiều chuyện.
Cũng
may cho nó, nếu còn ở bên nhà, thì Ba cũng “đề xuất ” cho nó đi cải tạo
tư tưởng một thời gian ngắn chừng năm năm hay mười năm, để giúp đỡ nó.
Chiếc xe trực chỉ về hướng đông, đi qua những vùng đồi núi cỏ cháy vàng, băng qua thành phố bài bạc Rí-nồ (Reno), thành phố nầy của bọn tư sản bày ra để bóc lột mồ hôi nước mắt của tầng lớp thợ thuyền lao động và nông dân. Đây là âm mưu thâm độc của con bạch tuộc nhiều vòi, bám vào hút máu chính nhân dân chúng và nhân dân thế giới.
Ba cũng mong xe dừng lại thành phố nầy, để Ba thấy rõ hơn cái tội ác của đế quốc Mỹ đối với chính nhân dân lao động thợ thuyền.
Chiếc xe trực chỉ về hướng đông, đi qua những vùng đồi núi cỏ cháy vàng, băng qua thành phố bài bạc Rí-nồ (Reno), thành phố nầy của bọn tư sản bày ra để bóc lột mồ hôi nước mắt của tầng lớp thợ thuyền lao động và nông dân. Đây là âm mưu thâm độc của con bạch tuộc nhiều vòi, bám vào hút máu chính nhân dân chúng và nhân dân thế giới.
Ba cũng mong xe dừng lại thành phố nầy, để Ba thấy rõ hơn cái tội ác của đế quốc Mỹ đối với chính nhân dân lao động thợ thuyền.
Nhưng xe cứ lướt đi, băng qua rặng núi Xì-Ê-Ra
(Sierra Nevada ), đường núi quanh co, chập chùng làm lòng Ba xúc động
nhớ đến thời chân đi dép lốp băng rừng Trường Sơn, hạt gạo cắn làm tư,
đi về Nam giải phóng quê hương.
Thời đó có thừa gian khổ. Thế mà hôm nay ngồi trên ghế nệm êm ái của xe khách, xe lăn êm như ru trên con đường tráng nhựa phẳng phiu, xe có máy điều hòa không khí mát rượi, nhưng Ba vẫn chẳng thấy cái tính ưu việt nào, so với chuyện chân đất kéo pháo Trường Sơn ngày cũ.
Thời đó có thừa gian khổ. Thế mà hôm nay ngồi trên ghế nệm êm ái của xe khách, xe lăn êm như ru trên con đường tráng nhựa phẳng phiu, xe có máy điều hòa không khí mát rượi, nhưng Ba vẫn chẳng thấy cái tính ưu việt nào, so với chuyện chân đất kéo pháo Trường Sơn ngày cũ.
Buổi
chiều ghé lại thành phố Eo-cồ (Elko) thì xe đã chạy được hơn 520 đặm
Anh, tức hơn 830 cây số bên mình. Phải công nhận là khẩn trương, ngày
xưa đi bộ chừng đó đường trong rừng núi cũng phải hàng tháng trường, và
hao hụt nhân mạng không biết bao nhiêu mà kể.
Họ đem hành khách vào một tiệm ăn, họ gọi là ăn theo lối búp-phê ( buffet). Ba đoán đây là một quán ăn quốc doanh, cho nên không có người phục vụ. Khách phải xếp hàng dài, tự lấy thức ăn.
Họ đem hành khách vào một tiệm ăn, họ gọi là ăn theo lối búp-phê ( buffet). Ba đoán đây là một quán ăn quốc doanh, cho nên không có người phục vụ. Khách phải xếp hàng dài, tự lấy thức ăn.
Thế mà nhân dân miền nam vẫn
thường chế nhạo xã hội chủ nghĩa là “xếp hàng cả ngày”.
Ở
nước đại tư bản nầy cũng phải xếp hàng vậy, mà có ai kêu ca gì đâu. Mỗi
người lấy một cái dĩa, muỗng, nĩa, dao, khăn giấy, và đi dần tới, tự
múc lấy thức ăn trong hơn hai chục cái nồi lớn, nồi nầy có thể nấu cho
cả trung đoàn ăn.
Cứ thức ăn trong nồi vơi, thì nhà bếp bưng lên thêm, châm vào đầy lại, bởi vậy Ba không phải lo khẩn trương đấu tranh vì sợ hết phần của mình.
Thức ăn dồi dào, có nhiều chất tanh, chất béo và chất tươi. Đủ loại, gà, heo, bò, tôm, cá, cua, rau, đậu, nấu theo nhiều cách khác nhau.
Cứ thức ăn trong nồi vơi, thì nhà bếp bưng lên thêm, châm vào đầy lại, bởi vậy Ba không phải lo khẩn trương đấu tranh vì sợ hết phần của mình.
Thức ăn dồi dào, có nhiều chất tanh, chất béo và chất tươi. Đủ loại, gà, heo, bò, tôm, cá, cua, rau, đậu, nấu theo nhiều cách khác nhau.
Ban đầu,
Ba không dám múc nhiều thức ăn, vì sợ họ tính nhiều tiền, nhưng sau khi
nghe thằng Tư nói là ai muốn múc bao nhiêu món và nhiều bao nhiêu cũng
được, thì Ba nắm bắt ngay thời cơ thuận lợi, múc lên dĩa mình đủ thứ đầy
vun, vun quá nên vài thứ thức ăn chảy ra ngoài, rơi xuống sàn.
Riêng cái việc không có người phục vụ, không có người canh gác, ai muốn múc bao nhiêu thức ăn thì múc, cũng để lộ ra cái yếu kém về tổ chức, và yếu kém về ý thức bảo vệ tài sản nhân dân trong chế độ tư bản.
Riêng cái việc không có người phục vụ, không có người canh gác, ai muốn múc bao nhiêu thức ăn thì múc, cũng để lộ ra cái yếu kém về tổ chức, và yếu kém về ý thức bảo vệ tài sản nhân dân trong chế độ tư bản.
Ba ăn hết một dĩa đầy, và khi nghe thằng Tư nói, muốn ăn bao nhiêu dĩa cũng được, thì Ba tranh thủ ăn thêm một dĩa nữa.
Ăn
thêm trái cây cắt sẵn, bánh ngọt và cà-lem. Phải công nhận bánh ngọt
của bọn đế quốc ngon, đáng ra thì Ba không nên khen, vì khen đế quốc,
bất cứ là khen gì, cũng là mất lập trường cách mạng.
Ăn xong, bụng Ba căng kềnh, phải mở nút quần và nới dây nịt ra hai lỗ.
Cho
ăn thả dàn như thế nầy cũng là một thủ đoạn thâm độc của bọn tư bản, vì
ăn xong, thì Ba phải chạy gấp vào nhà cầu mà tháo dạ.
Chắc chi nhà cầu nầy là không phải là một hệ thống hố xí hai ngăn trá hình, bày ra để khai thác phân tươi của khách hàng?
Ba còn động não suy nghĩ rằng, biết đâu chúng nó biết Ba là người cách mạng trung kiên, muốn hại Ba nên bỏ thêm chất độc vào thức ăn thức uống, mà mình không hay.
Con phải rõ bọn CIA tàn bạo ở đâu cũng có mặt, và nhúng tay vào, mưu mô và sắp đặt khắp cả thế giới..
Ba còn động não suy nghĩ rằng, biết đâu chúng nó biết Ba là người cách mạng trung kiên, muốn hại Ba nên bỏ thêm chất độc vào thức ăn thức uống, mà mình không hay.
Con phải rõ bọn CIA tàn bạo ở đâu cũng có mặt, và nhúng tay vào, mưu mô và sắp đặt khắp cả thế giới..
Thế mà thằng Tư thì đổ tiệt cho Ba là tham ăn, cho nên bị tháo dạ.
Ba
cũng đề cao cảnh giác, không tin chi nhiều vào thằng Tư, hắn vốn là
Ngụy cũ, tuy đã được cách mạng giáo hóa cho gần mười năm, học tập có
tiến bộ, nên được về đoàn tụ với gia đình, nhưng biết đâu vẫn còn lén
lút hoạt động cho bọn gián điệp CIA.
Là người cách mạng, Ba phải luôn luôn đề cao cảnh giác. Đêm nay ngủ lại khách sạn Hiu-Tân (Hilton), khách sạn sang trọng, phòng có hai giường ngủ, Ba một giường, thằng Tư một giường. Trong căn buồng ngủ, mà chúng thắp đến mười hai bóng đèn.
Là người cách mạng, Ba phải luôn luôn đề cao cảnh giác. Đêm nay ngủ lại khách sạn Hiu-Tân (Hilton), khách sạn sang trọng, phòng có hai giường ngủ, Ba một giường, thằng Tư một giường. Trong căn buồng ngủ, mà chúng thắp đến mười hai bóng đèn.
Thật là phí phạm,
không có quy hoạch kinh tế. Khí trời đang mùa nóng nực, mà trên giường
chúng trải bốn năm lớp, nào là vải dày, vải mỏng, mền hai lớp, mền len,
làm Ba nghi ngờ chúng nó có âm mưu gì đây. Có lẽ chúng biết Ba thuộc
thành phần cách mạng, bày đặt ra để khoe khoang tuyên truyền chăng.
Ba biết rõ, thế nào chúng cũng đặt máy nghe lén, và đặt máy quay phim ghi lại các hành động, các câu nói của Ba. Ba đi quanh kiểm soát trên tường, góc nhà, trong hộc tủ, và thấy có nhiều máy móc, dụng cụ đáng nghi ngờ.
Ba nói thầm cho thằng Tư biết, để cảnh giác nó, mà nó không tin và gạt đi, cho rằng cái gì Ba cũng nghi ngờ như người mắc bệnh tâm trí.
Ba biết rõ, thế nào chúng cũng đặt máy nghe lén, và đặt máy quay phim ghi lại các hành động, các câu nói của Ba. Ba đi quanh kiểm soát trên tường, góc nhà, trong hộc tủ, và thấy có nhiều máy móc, dụng cụ đáng nghi ngờ.
Ba nói thầm cho thằng Tư biết, để cảnh giác nó, mà nó không tin và gạt đi, cho rằng cái gì Ba cũng nghi ngờ như người mắc bệnh tâm trí.
Người
làm cách mạng, và người có một chiều dày hoạt động cách mạng như Ba,
nếu không biết nghi ngờ, không biết đề phòng, thì đã không còn sống sót
đến hôm nay đâu.
Bởi vậy, nên Ba không nói nhiều, và chỉ nói những điều khi cần nói mà thôi. Khi vào phòng tắm, Ba cũng tắm với cái quần lót, chứ không trần truồng như ở nhà. Bọn tư bản rất thâm độc, biết đâu chúng nó quay phim mình, rồi buộc mình làm những điều đi ngược với đường lối của “trên”.
Buổi tối, thằng Tư kiếm đâu được số điện thoại của bạn nó là Phong, đang ở trong thành phố Eo-Cồ nầy.
Bởi vậy, nên Ba không nói nhiều, và chỉ nói những điều khi cần nói mà thôi. Khi vào phòng tắm, Ba cũng tắm với cái quần lót, chứ không trần truồng như ở nhà. Bọn tư bản rất thâm độc, biết đâu chúng nó quay phim mình, rồi buộc mình làm những điều đi ngược với đường lối của “trên”.
Buổi tối, thằng Tư kiếm đâu được số điện thoại của bạn nó là Phong, đang ở trong thành phố Eo-Cồ nầy.
Hai đứa nói chuyện điện thoại một hồi, cười
nói vui vẻ lắm.
Ba
nghe qua điện thoại, và đoán rằng, chúng nó rủ nhau đi hủ hóa ở ổ nhện
nào đó.
Một lúc sau thì thằng Phong đến, hắn nói thẳng ra rằng, muốn Ba đi theo chúng nó, để hưởng hương vị đời, cho biết đàn bà Mỹ nó thơm tho đến mức nào. Xem có hơn đám cán bộ hộ lý trên rừng Trường Sơn bao nhiêu bực. Nói thật với con, trong bụng Ba cũng mừng như mở cờ, nhưng đạo đức cách mạng buộc Ba phải nói lời từ chối. Nói lời từ chối, nhưng Ba cũng lo lắng là sợ chúng không mở lời nài ép Ba thêm lần nữa. Nếu chúng không đem đi, là cơ hội quý báu ngàn năm một thuở mất toi, không bao giờ có nữa.
Một lúc sau thì thằng Phong đến, hắn nói thẳng ra rằng, muốn Ba đi theo chúng nó, để hưởng hương vị đời, cho biết đàn bà Mỹ nó thơm tho đến mức nào. Xem có hơn đám cán bộ hộ lý trên rừng Trường Sơn bao nhiêu bực. Nói thật với con, trong bụng Ba cũng mừng như mở cờ, nhưng đạo đức cách mạng buộc Ba phải nói lời từ chối. Nói lời từ chối, nhưng Ba cũng lo lắng là sợ chúng không mở lời nài ép Ba thêm lần nữa. Nếu chúng không đem đi, là cơ hội quý báu ngàn năm một thuở mất toi, không bao giờ có nữa.
May thay, thằng Phong kéo Ba dậy, và nói : “Cái hang trê của Mỹ, còn quý hơn cái sự nghiệp cách mạng của Bác đến ngàn lần.”
Ba
thấy bị xúc phạm, nhưng cũng riu ríu đứng dậy đi theo. Trong đêm tối,
Phong lái xe chạy như bay.
Trên xe nó trang bị cái máy như con ma xó, kêu nó quẹo phải, rẽ trái, còn xa bao nhiêu nữa, chỉ còn một trăm thước nữa thôi, và kêu dừng lại. Chừng hơn một giơ lái xe, thì đến một trang trại. Bên trong trang trí như cảnh của phim cao bồi. Ngồi trong phòng khách, thằng Phong nói chi đó, Ba không hiểu.
Trên xe nó trang bị cái máy như con ma xó, kêu nó quẹo phải, rẽ trái, còn xa bao nhiêu nữa, chỉ còn một trăm thước nữa thôi, và kêu dừng lại. Chừng hơn một giơ lái xe, thì đến một trang trại. Bên trong trang trí như cảnh của phim cao bồi. Ngồi trong phòng khách, thằng Phong nói chi đó, Ba không hiểu.
Một
lúc sau có hai con nhỏ tóc vàng bồng bềnh, thân mình cân đối, ngực
căng, eo thon, mông đầy, chân dài, đi giày cao gót, da thịt trắng nõn
mền mại, mắt to, lông mi dài như riềm liễu rủ, môi mọng cớn lên khêu
gợi, nhan sắc chim sa cá lặn như tiên nương, nhún nhẩy ỏn ẻn.
Bây giờ thì sự nghiệp một ngàn năm cách mạng, Ba cũng bỏ, để đổi lấy một vòng ôm thơm tho sực nức kia, chứ nói chi năm mươi năm.
Thằng Phong nói gì với tên quản lý râu xồm, rồi cùng thằng Tư theo hai cô tiên thơm tho vào ngõ sau. Thằng quản lý ra hiệu cho Ba đi theo nó vào một cái phòng khác ngồi chờ.
Bây giờ thì sự nghiệp một ngàn năm cách mạng, Ba cũng bỏ, để đổi lấy một vòng ôm thơm tho sực nức kia, chứ nói chi năm mươi năm.
Thằng Phong nói gì với tên quản lý râu xồm, rồi cùng thằng Tư theo hai cô tiên thơm tho vào ngõ sau. Thằng quản lý ra hiệu cho Ba đi theo nó vào một cái phòng khác ngồi chờ.
Thiệt Ba không ngờ, động nhền nhện mà sang hơn cả dinh lãnh tụ.
Ba ngồi chờ chừng năm phút, thì cửa mở. Ba nhìn lên, suýt ngất đi vì sợ.
Con biết chuyện gì không?
Ba
thấy một con nặc nô hiện ra trong khung cửa, nó mang mặt nạ che đôi
xanh lè như mắt mèo, ngực trần thổn thện hai trái mướp hương, lưng thắt
đai da to bản, đi ủng da màu đen cao, và giữa hai chân là một cái khố
mỏng như sợi dây rộng chừng hai lóng tay con nít. Nó mang bao tay màu
đen, và cầm một con roi da to dài quất vun vút nghe đến lạnh xương sống.
Con roi da nầy, mà nó quất cho một phát, thì cả con bò mộng cũng lăn
ra, chứ nói chi đến người, mà Ba lại ốm yếu già cả vì bao năm lặn lội
nơi rừng sâu nước độc cho sự nghiệp cánh mạng của đảng ta.
Con nặc nô đứng chàng hảng hai chân, ngoác miệng ra nói câu gì đó Ba không hiểu, và nó vút roi xuống. Ba hết hồn, nhưng nhờ ơn Bác và Đảng đã dạy cho Ba nhuần nhuyễn bài học chém vè. Xưa, Ba đã từng chém vè hàng trăm trận mà thoát chết.
Con nặc nô đứng chàng hảng hai chân, ngoác miệng ra nói câu gì đó Ba không hiểu, và nó vút roi xuống. Ba hết hồn, nhưng nhờ ơn Bác và Đảng đã dạy cho Ba nhuần nhuyễn bài học chém vè. Xưa, Ba đã từng chém vè hàng trăm trận mà thoát chết.
Không lẽ B52 trút bom
như mưa, không chết, nay lại chết vì ngọn roi da của con nặc nô nầy.
Không lẽ sự nghiệp cách mạng năm mươi năm chấm dứt nơi dây?
Với tính “cơ động” cao, Ba phóng ra, luồn mình giữa hai chân con nặc nô mà chạy thoát ra bên ngoài. Nhờ dày kinh nghiệm trận mạc, Ba khẩn trương chui ngay xuống gầm xe nằm im, như ngày xưa nằm trong hầm kín địa đạo Củ Chi.
Với tính “cơ động” cao, Ba phóng ra, luồn mình giữa hai chân con nặc nô mà chạy thoát ra bên ngoài. Nhờ dày kinh nghiệm trận mạc, Ba khẩn trương chui ngay xuống gầm xe nằm im, như ngày xưa nằm trong hầm kín địa đạo Củ Chi.
Tháng
tám tiết trời nóng nực, mà mồ hôi Ba đổ ra lạnh ngắt, miệng khô đắng
nghét. Ba thực sự run sợ, hai hàm răng đánh nhau cầm cập, không còn anh
hùng như ngày xưa khi xông pha trận mạc hiểm nguy.
Ba
chợt động tâm cơ, e rằng thằng Tư và bạn nó toa rập hại Ba, trả mối thù
cách mạng đã cải tạo nó trong nhiều năm, định nhờ tay con nặc nô đế
quốc đưa Ba về gặp Các Mác Lê Nin và Bác Hồ vô vàn kính yêu chăng.
Thằng
Tư là con rể, hắn có thể âm mưu hại Ba, thì cũng không có chi là lạ. Ba
biết rõ, trong cách mạng, có khi phải hy sinh chính cả cha mẹ ruột, cả
con cái mình cho sự nghiệp của Đảng và Nhà Nước, thì thằng Tư nó hy sinh
ông già vợ cho bọn tư bản cũng không có gì là lạ cả.
Quần
Ba ướt nhẹp, Ba biết vì quá sợ, nên không cầm được nước tiểu, chuyện
nầy cũng thường thôi, Ba nhớ ngày xưa đã từng vãi phân cả quần nhiều
lần, mỗi khi ôm đầu chịu trận mưa bom B52 của địch.
Ba
nằm yên chừng nữa giờ, thì nghe có tiếng thằng Tư kêu Ba, và nghe có
tiếng chân người đi sục sạo tìm kiếm. Với tất cả đề cao cảnh giác, Ba
nằm yên không động đậy. Nhưng rồi chúng cũng tìm được Ba, lôi Ba ra, Ba
tưởng đâu lần nầy chết thật. Ba định chém vè thêm lần nữa, nhưng chém vè
xong rồi thì không biết đi đâu.
Thằng Tư cự nự Ba, hỏi tại sao khi không lại chui xuống gầm xe mà nằm.
Ba vừa sợ, vừa giận, nói liều với hai thằng Ngụy : “Chúng bay muốn giết tao thì cứ giết đi, bày trò làm chi?”.
Bạn
thằng Tư cười ha hả, và giải thích cho Ba biết rằng, vì hắn nói không
rõ ràng, thằng quản lý tưởng Ba có bệnh “khổ dâm”, nên gọi con nặc nô
kia ra để Ba hủ hóa với nó. Cây roi da cầm trên tay, là để đánh đập hành
hạ cho đổ máu trước khi thực sự đi vào cuộc truy hoan.
Ba không tin được lời giải thích chung chung đó, và nghĩ, vì chúng còn muốn lợi dụng khai thác ở Ba một vài bí mật nào đó của cách mạng, nên còn để Ba sống.
Ba không tin được lời giải thích chung chung đó, và nghĩ, vì chúng còn muốn lợi dụng khai thác ở Ba một vài bí mật nào đó của cách mạng, nên còn để Ba sống.
Tuy
giận lắm, nhưng Ba đã triển khai tính ưu việt của đảng ta, là khi ta
yếu thế, thì phải tạm thời thỏa hiệp, để chờ cơ hội mạnh, thì vùng lên,
thẳng tay dùng bạo lực cách mạng mà trấn áp không khoan nhượng.
Hai thằng phản động đưa Ba về lại khách sạn, cả đêm Ba đề cao cảnh giác, chỉ ngủ một con mắt mà thôi.
Sáng hôm sau dậy sớm, ra xe khi trời đất còn tối đen, nhiều người cằn nhằn, than vãn vì còn buồn ngủ. Bọn tiểu tư sản thành thị khi nào cũng hèn yếu và ưa hưởng thụ, mới có thế mà đã than vãn.
Hai thằng phản động đưa Ba về lại khách sạn, cả đêm Ba đề cao cảnh giác, chỉ ngủ một con mắt mà thôi.
Sáng hôm sau dậy sớm, ra xe khi trời đất còn tối đen, nhiều người cằn nhằn, than vãn vì còn buồn ngủ. Bọn tiểu tư sản thành thị khi nào cũng hèn yếu và ưa hưởng thụ, mới có thế mà đã than vãn.
Ngày xưa Ba đi trong rừng thâu đêm, tháng nầy qua tháng nọ, mà chẵng ai mở miệng kêu than một tiếng.
Đó cũng nhờ lòng tin tuyệt đối vào đảng, vào cách mạng, vì kêu than là mất lập trường, là chao đảo.
Xe đi về hướng Bắc, dọc theo rặng núi Đá Vôi, mà thằng Tư kêu là Rốc Kỳ Mao Tần ( Rocky Mountain). Hai ven đường, đất đai cằn cỗi khô khan, cây lúp xúp, ruộng đất nghèo nàn như Nghệ Tĩnh bên mình.
Xe đi về hướng Bắc, dọc theo rặng núi Đá Vôi, mà thằng Tư kêu là Rốc Kỳ Mao Tần ( Rocky Mountain). Hai ven đường, đất đai cằn cỗi khô khan, cây lúp xúp, ruộng đất nghèo nàn như Nghệ Tĩnh bên mình.
Khi xe chạy vào
Bang Ai Đa Hồ ( Idaho) thì Ba thấy có con sông, mà người ta kêu là sông
Rắn (Snake River), từ đây thấy cây cối xanh tươi, ruộng đồng mơn mởn. Ba
thấy hệ thống thủy lợi của chúng mà tức cười, làm sao mà so sánh với
tính ưu việt của hệ thống thủy lợi bên ta.
Chúng nó tưới ruộng bằng những ống nước dài có chích lổ, máng trên dàn sắt cao có bánh xe, di chuyển dọc theo ruộng. Nước bơm vào ống, xì vung ra như mưa trải rộng.
Chúng nó tưới ruộng bằng những ống nước dài có chích lổ, máng trên dàn sắt cao có bánh xe, di chuyển dọc theo ruộng. Nước bơm vào ống, xì vung ra như mưa trải rộng.
Ba không biết chúng làm sao mà
kéo nổi những giàn ống dài nặng như vậy được.
Có lẽ dùng trâu bò.
Thật là vụng về, bất tiện, kém tính sáng tạo.
Buổi trưa, xe ghé lại một tiệm ăn Trung Quốc, có lẽ cũng là tiệm quốc doanh, vì khách hàng phải tự đi lấy đồ ăn. Cũng xếp hàng, cũng chờ đến phiên mình. Tiệm nầy, thì thức ăn khá dồi dào, phải công nhận là ngon, bên ta không có tiệm quốc doanh nào mà so sánh được.
Trong khi ăn, Ba nói với thằng Tư, là bên mình ăn phở quốc doanh không người lái ở Hà Nội cũng rất ngon, và đầy tính cách sáng tạo của dân tộc.
Buổi trưa, xe ghé lại một tiệm ăn Trung Quốc, có lẽ cũng là tiệm quốc doanh, vì khách hàng phải tự đi lấy đồ ăn. Cũng xếp hàng, cũng chờ đến phiên mình. Tiệm nầy, thì thức ăn khá dồi dào, phải công nhận là ngon, bên ta không có tiệm quốc doanh nào mà so sánh được.
Trong khi ăn, Ba nói với thằng Tư, là bên mình ăn phở quốc doanh không người lái ở Hà Nội cũng rất ngon, và đầy tính cách sáng tạo của dân tộc.
Thằng
Tư nói rằng, vì hồi đó Ba đói, nên ăn cái gì cũng ngon cả. Nó nói thêm
là vợ nó khi ra Bắc thăm, khi nó đang cải tạo tại trại Cổng Trời, có ghé
Hà Nội ăn phở quốc doanh, và cho rằng, phở nầy chỉ ớn hơn nước vo gạo
một chút mà thôi.
Ba biết bọn nầy chỉ bôi bác cách mạng là giỏi. Trong tiệm nầy, có nồi xúp thịt gấu thật lớn, mọi người chen nhau xếp hàng múc vào chén đầy vun, họ tin tưởng thịt gấu ăn vào bổ âm, bổ dương, và tăng cường sức mạnh. Tin như vậy thì cũng tốt thôi.
Ba biết bọn nầy chỉ bôi bác cách mạng là giỏi. Trong tiệm nầy, có nồi xúp thịt gấu thật lớn, mọi người chen nhau xếp hàng múc vào chén đầy vun, họ tin tưởng thịt gấu ăn vào bổ âm, bổ dương, và tăng cường sức mạnh. Tin như vậy thì cũng tốt thôi.
Ba tranh thủ ăn luôn
hai tô xúp thịt gấu có mùi thuốc bắc nồng nồng. Có cả một nồi đầy vi cá
mập, tuy bụng đã căng kè,
Ba cũng tiến công làm thêm bốn năm miếng lớn. Lần nầy, ba cũng bị tháo dạ, nhưng giữ bí mật không cho thằng Tư biết. Người làm cách mạng, phải luôn luôn giữ kín mọi bí mật như giữ gìn con ngươi. Buổi xế chiều, thì xe đến thành phố cao bồi Giắc Xơn ( Jackson ), thành phố nhỏ, dân cư chỉ mấy trăm người, đa số là du khách. Ở đây đặc biệt có cái công viên, mà bốn cỗng vào làm bằng hàng ngàn cái sừng nai gài lên nhau. Bốn cái cỗng cao nghệu.
Ba cũng tiến công làm thêm bốn năm miếng lớn. Lần nầy, ba cũng bị tháo dạ, nhưng giữ bí mật không cho thằng Tư biết. Người làm cách mạng, phải luôn luôn giữ kín mọi bí mật như giữ gìn con ngươi. Buổi xế chiều, thì xe đến thành phố cao bồi Giắc Xơn ( Jackson ), thành phố nhỏ, dân cư chỉ mấy trăm người, đa số là du khách. Ở đây đặc biệt có cái công viên, mà bốn cỗng vào làm bằng hàng ngàn cái sừng nai gài lên nhau. Bốn cái cỗng cao nghệu.
Rồi xe tiếp tục đi lên
miền Bắc, từ đây là cây cối xanh tươi phủ núi rừng.
Rồi
xe đến vùng công viên quốc gia Đá Vàng (Yellow Stone), đây là một vùng
đất rộng lớn mỗi chiều chừng vài chục cây số ngàn nằm trùm lên ba Bang:
Oai-Ô-Minh (Wyoming), Mông-Ta-Na (Montana) và Ai-Đa-Hồ (Idaho).
Đa số đất đai đều nằm trong Oai-Ô-Minh, rẻo hẹp phía tây thuộc Ai-Đa-Hồ, rẻo mỏng phía bắc thuộc Mông-Ta-Na.
Cái công viên quốc gia nầy là một vết nhơ, một bằng chứng hùng hồn tố cáo tội ác của bọn địa chủ trong chế độ tư bản đối với giai cấp bần nông.
Đa số đất đai đều nằm trong Oai-Ô-Minh, rẻo hẹp phía tây thuộc Ai-Đa-Hồ, rẻo mỏng phía bắc thuộc Mông-Ta-Na.
Cái công viên quốc gia nầy là một vết nhơ, một bằng chứng hùng hồn tố cáo tội ác của bọn địa chủ trong chế độ tư bản đối với giai cấp bần nông.
Chúng nó cướp đất nông dân làm công viên mà chơi. Để biện minh cho hành
động tàn ác nầy, chúng phao vu lên là nhân dân lao động ở đây, đại đa số
là dân da đỏ nguyên thủy, thấy khói bốc lên từ đất, thấy nước nóng phụt
lên thành vòi lên trên cao, nên sợ cái thiêng liêng của trời đất mà
không dám ở lại, phải di dân đi nơi khác sinh sống.
Hướng dẫn viên du lịch cho biết rằng, vùng nầy nguyên là cái miệng núi lửa, đã phì ra nham thạch bao phủ một vùng rộng 30 dài 45 dặm Anh (chừng 50x70 cây số ngàn).
Hướng dẫn viên du lịch cho biết rằng, vùng nầy nguyên là cái miệng núi lửa, đã phì ra nham thạch bao phủ một vùng rộng 30 dài 45 dặm Anh (chừng 50x70 cây số ngàn).
Núi
lửa phun ba lần, lần thứ nhất cách đây hai triệu năm, lần thứ hai cách
một triệu ba trăm ngàn năm, lần thứ ba cách sáu trăm bốn mươi ngàn năm.
Lần cuối nầy phun ra được 530 tỷ mét khối nham thạch. Theo Ba, thì toàn bố láo cả. Bọn tư bản thường hay bịp bợm, nói điều không thật. Làm sao mà chúng biết được chuyện cả trăm ngàn năm trước? Khi đó chúng đã sinh ra đâu, mà nói như thật.
Chúng cho biết rằng công viên Đá Vàng nầy là một trong vài ba nơi đặc biệt trên thế giới, có núi lửa đang liên tục hoạt động với tầm mức nhẹ.
Lần cuối nầy phun ra được 530 tỷ mét khối nham thạch. Theo Ba, thì toàn bố láo cả. Bọn tư bản thường hay bịp bợm, nói điều không thật. Làm sao mà chúng biết được chuyện cả trăm ngàn năm trước? Khi đó chúng đã sinh ra đâu, mà nói như thật.
Chúng cho biết rằng công viên Đá Vàng nầy là một trong vài ba nơi đặc biệt trên thế giới, có núi lửa đang liên tục hoạt động với tầm mức nhẹ.
Bởi vậy cho nên có những cái
miệng, lâu lâu nước sôi và khói phọt lên cao, những đồng bùn lầy nước
sôi lục bục như nồi cháo nóng, và những miệng nước nóng có thể thả cá
vào luộc chín mà ăn được.
Sau bữa ăn chiều, Ba được đem đến một quảng trường, có ghế gỗ thấp vòng quanh một khu đất trống cho du khách ngồi, chờ xem hiện tượng nước phụt ra từ miệng một cái hố, mà khói hơi nước đang bốc lên um tùm. Họ bảo là đúng 5 giờ 59 sẽ có nước phun lên cao bằng tòa nhà lầu năm sáu từng.
Sau bữa ăn chiều, Ba được đem đến một quảng trường, có ghế gỗ thấp vòng quanh một khu đất trống cho du khách ngồi, chờ xem hiện tượng nước phụt ra từ miệng một cái hố, mà khói hơi nước đang bốc lên um tùm. Họ bảo là đúng 5 giờ 59 sẽ có nước phun lên cao bằng tòa nhà lầu năm sáu từng.
Du
khách đông đảo ngồi chờ xem hiện tượng lạ nầy. Ban đầu, cái hố xịt ra
hơi nước từng hồi, khói mù um, rồi bỗng hơi nước phụt cao vào không
trung, sau đó thì một cột nước phun thẳng lên trời, cao chừng vài ba
chục thước, cột nước kêu phì phì, khi cao khi thấp, rồi lụn dần, cho đến
khi chỉ có khói bay ra.
Thế là hết màn. Tưởng gì, chứ vòi phun thì ngoài Bắc ta thiếu gì, cả nước. Chỉ có khác là ở đây phun nước nóng bốc khói. Ba nghĩ rằng, đây cũng chỉ là trò bịp bợm để thu tiền của bọn tư bản mà thôi.
Thế là hết màn. Tưởng gì, chứ vòi phun thì ngoài Bắc ta thiếu gì, cả nước. Chỉ có khác là ở đây phun nước nóng bốc khói. Ba nghĩ rằng, đây cũng chỉ là trò bịp bợm để thu tiền của bọn tư bản mà thôi.
Có thể chúng đào hầm bên dưới, nấu một nồi nước sôi, rồi cho xịt
lên đúng giờ.
Chúng lừa bịp được thiên hạ ngây ngô, chứ không thể qua mặt được một con người cách mạng như Ba.
Tối nay, chúng cho Ba ngủ tại khách sạn Bét-Vét-Tẹc (Best Western) cũng hai giường rộng và tiện nghi đầy đủ. Cho ngủ tại những khách sạn sang trọng nầy, Ba biết rõ, cũng là âm mưu từ tòa Nhà Trắng, để tuyên truyền cho đế quốc tư bản.
Tối nay, chúng cho Ba ngủ tại khách sạn Bét-Vét-Tẹc (Best Western) cũng hai giường rộng và tiện nghi đầy đủ. Cho ngủ tại những khách sạn sang trọng nầy, Ba biết rõ, cũng là âm mưu từ tòa Nhà Trắng, để tuyên truyền cho đế quốc tư bản.
Nhưng lòng trung kiên với Đảng ta của Ba chưa bao giờ
sờn.
Buổi
sáng, du khách được khách sạn đãi ăn điểm tâm, chúng gọi là “điểm tâm
đại lục” (continental breakfast), có cà phê, sữa tươi, cốm rang đường
dát mỏng, bánh ngọt, bánh mì mềm, bơ, mứt trong gói giấy, và có một rổ
táo.
Ba
xốc tới, tiến lên dành thế chủ động, đoạt được ba trái táo cùng một
lúc, gói vào khăn cất đi để dành trưa ăn.
Cái thằng Ngụy đứng sau Ba
ganh tị nhíu mày có vẻ bất bình. Đâu có quy định nào là mỗi người chỉ
được lấy một trái táo?
Vì mỗi người một trái, thì cái rổ táo nầy cũng không đủ sáu mươi trái cho sáu mươi du khách.
Ba cướp lấy thời cơ, ăn luôn năm sáu cái bánh ngọt cho no bụng mà còn đi xem phong cảnh suốt ngày.
Chiếc
xe chở du khách đi vòng trong công viên, Ba thấy đồi núi đã cháy đen
thui, từ núi nầy qua núi nọ, hàng trăm quả đồi đã bị cháy, cây thông đen
điu trơ trụi chỉa thẳng lên trời như những rừng chông khổng lồ, liên
tiếp cả hàng chục cây số.
Hướng dẫn viên du lịch cho biết vùng công viên nầy đã bị cháy từ năm 1988, cháy liên tục từ tháng năm cho đến tháng mười một. Không chữa cháy được, cả nước chịu thua, và bó tay dương mắt nhìn thôi.
Hướng dẫn viên du lịch cho biết vùng công viên nầy đã bị cháy từ năm 1988, cháy liên tục từ tháng năm cho đến tháng mười một. Không chữa cháy được, cả nước chịu thua, và bó tay dương mắt nhìn thôi.
Cuộc hỏa hoạn nầy
được trời dập tắt do trận mưa vào tháng mười một. Cháy hết bốn mươi lăm
phần trăm công viên.
Theo Ba nghĩ, thì cuộc hỏa hoạn nầy có bàn tay của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới nhúng tay vào, để trừng phạt bọn đế quốc Mỹ hiếu chiến hung hăng. Là một thắng lợi lớn lao của chủ nghĩa ưu việt xã hội chủ nghĩa.
Đây là một bằng chứng vĩ đại minh chứng ai thắng ai. Nhìn trăm đồi núi của đế quốc hoang tàn mà lòng Ba phất phới ngọn cờ hồng tung bay.
Theo Ba nghĩ, thì cuộc hỏa hoạn nầy có bàn tay của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới nhúng tay vào, để trừng phạt bọn đế quốc Mỹ hiếu chiến hung hăng. Là một thắng lợi lớn lao của chủ nghĩa ưu việt xã hội chủ nghĩa.
Đây là một bằng chứng vĩ đại minh chứng ai thắng ai. Nhìn trăm đồi núi của đế quốc hoang tàn mà lòng Ba phất phới ngọn cờ hồng tung bay.
Ba
được đưa đến một cánh đồng bùn trắng, trên đó nhiều nơi khói bốc hơi từ
dưới lòng đất.
Ba nghĩ đây cũng là cảnh giả tạo, họ bắt chước sáng tạo của nhân dân ta trong kỹ thuật lò Hoàng Cầm, dẫn khói đi qua các vùng khác nhau.
Bên dưới, có nhiều nơi bùn sôi lục bục. Có chi lạ đâu. Cứ chôn dây điện nấu lò ở dưới đất và châm đều nước vào, thì sôi thôi.
Ba nghĩ đây cũng là cảnh giả tạo, họ bắt chước sáng tạo của nhân dân ta trong kỹ thuật lò Hoàng Cầm, dẫn khói đi qua các vùng khác nhau.
Bên dưới, có nhiều nơi bùn sôi lục bục. Có chi lạ đâu. Cứ chôn dây điện nấu lò ở dưới đất và châm đều nước vào, thì sôi thôi.
Có
những cái hố miệng tròn, bên trong nước nóng làm khói bốc mù, người ta
nói, câu cá đem nhúng vào nước sôi nầy, thì cá chín, kéo ra ăn được. Bố láo cả.
Ba đã từng thấy các anh nuôi, chị nuôi nấu cơm cho cả trung đoàn ăn, cái lò của ta, còn lớn hơn mấy cái hố nước nóng nầy nhiều.
Trên
cánh đồng bùn lầy nầy, có cầu gỗ bề ngang rộng, bắc vòng vèo chạy
quanh, không chừng dài cả cây số, cho du khách đi xem chơi.
Đây
là một sự phí phạm tài sản nhân dân, phục vụ cho bọn tiểu tư sản thành
thị, không màng chi đến nỗi khổ cực của nhân dân lao động, làm việc từ
mười hai tiếng đến mười lăm tiếng mỗi ngày trong các cơ xưởng sản xuất,
làm theo lối dây chuyền, của bọn tư bản bóc lột.
Chúng
nó đem Ba đến một nơi gọi là Miệng Rồng, đó là một cái hang lớn, bên
trong có tiếng kêu sòng sọc, hơi nước từ miệng hang phà ra nghi ngút, mà
hơi nầy thối hoắc còn hơn cả hơi người đau bụng xì hơi.
Theo
Ba nghĩ, thì đặt cho nó cái tên là Đít Núi thì đúng hơn, vì đó là một
cái hang tối tăm, có tiếng sòng sọc bên trong như người bị sôi bụng, và
xả hơi ra mịt mù thối tha.
Đám du khách chịu không nổi mùi hôi, đều nhăn mặt. chun mũi. Thế mà cũng đi xa cả ngàn dặm đường để đến xem cho được.
Rồi xe chở Ba đi xem thác nước, Ba cũng chẳng tha thiết gì cái thác nầy, bên ta chán kho gì thác mà phải tốn thì giờ đi xem.
Đám du khách chịu không nổi mùi hôi, đều nhăn mặt. chun mũi. Thế mà cũng đi xa cả ngàn dặm đường để đến xem cho được.
Rồi xe chở Ba đi xem thác nước, Ba cũng chẳng tha thiết gì cái thác nầy, bên ta chán kho gì thác mà phải tốn thì giờ đi xem.
Trên đường đi, Ba thấy có hai con bò rừng đang đi dọc đường, chúng đi trên lề, và bên tay phải, dáng thong dong.
Có người khen là con vật ở đây cũng hiểu biết và tôn trọng luật đi đường.
Ba nghĩ đó là bò máy, chính quyền địa phương bày ra để hù họa và mà mắt du khách thôi. Sau đó, thì đi thăm hồ, đây là cái hồ có diện tích 350 cây số vuông (136 dặm vuông Anh) và chu vi bờ hồ 170 cây số (110 dặm) chiều dài hồ 32 cây số, chiều rộng 9 cây số.(20x14 dặm).
Ba nghĩ đó là bò máy, chính quyền địa phương bày ra để hù họa và mà mắt du khách thôi. Sau đó, thì đi thăm hồ, đây là cái hồ có diện tích 350 cây số vuông (136 dặm vuông Anh) và chu vi bờ hồ 170 cây số (110 dặm) chiều dài hồ 32 cây số, chiều rộng 9 cây số.(20x14 dặm).
Nước xanh ngắt, nghe đâu hồ sâu
khoảng một trăm hai mươi thước.
Bên
bờ hồ, Ba thấy mấy người dân đứng câu cá.
Thì ra dân Mỹ cũng có những người mò tôm bắt ốc lam lũ, dầm mưa dãi nắng bên sông rạch kiếm cơm qua ngày, chứ giàu có cái nỗi gì. Nhưng Ba thấy họ đi câu, mà mang ủng, và áo quần thì sang trọng như các đồng chí trung ương đảng đi họp đại hội.
Ba không muốn so sánh với hồ Tây, hồ Trúc Bạch, hồ Bảy Mẫu bên mình. Hồ mình tuy nhỏ hơn, nhưng theo Ba thì đẹp hơn, thân thương hơn.
Thì ra dân Mỹ cũng có những người mò tôm bắt ốc lam lũ, dầm mưa dãi nắng bên sông rạch kiếm cơm qua ngày, chứ giàu có cái nỗi gì. Nhưng Ba thấy họ đi câu, mà mang ủng, và áo quần thì sang trọng như các đồng chí trung ương đảng đi họp đại hội.
Ba không muốn so sánh với hồ Tây, hồ Trúc Bạch, hồ Bảy Mẫu bên mình. Hồ mình tuy nhỏ hơn, nhưng theo Ba thì đẹp hơn, thân thương hơn.
Trên đường Ba cũng thấy nhiều bầy nai nhởn nhơ ăn cỏ, không sợ gì con người cả.
Giá như Ba ở đây, Ba sẽ mở một quán thịt rừng, mỗi ngày giết vài con nai bán thịt, thì kiếm được bộn tiền.
Nói thế, chứ con người như Ba, không có quyền phe phẩy, làm việc buôn bán, mất đạo đức cách mạng. Buổi trưa, du khách được đem đến quán ăn.
Ba không ưa ăn loại bánh mì mềm lạt lẽo, thằng Tư mua bánh xèo Mỹ cho Ba với hắn ăn. Chưa bao giờ mà Ba ăn bánh xèo dở như hôm nay.
Nói thế, chứ con người như Ba, không có quyền phe phẩy, làm việc buôn bán, mất đạo đức cách mạng. Buổi trưa, du khách được đem đến quán ăn.
Ba không ưa ăn loại bánh mì mềm lạt lẽo, thằng Tư mua bánh xèo Mỹ cho Ba với hắn ăn. Chưa bao giờ mà Ba ăn bánh xèo dở như hôm nay.
Chúng nó không biết làm bánh xèo mà cũng bày
đặt bán. Bánh xèo của chúng dày cộm, mềm bủn nhủn, có nước xốt cà chua
đỏ lòm, bên trên có rắc lạp xưởng, ớt, nấm cắt mỏng, rau. Ăn rất béo.
Thằng Tư kêu loại bánh xèo nầy là “pi-dà” ( pizza). Dù đói bụng, nhưng
thứ nầy rất khó nuốt. Ráng ăn cho qua bữa, ăn xong uống nước ngọt.
Ăn miếng bánh xèo đó mà thằng Tư trả tiền đắt như bữa cơm Tàu ăn đầy bụng. Lấy kinh nghiệm buổi trưa, chiều hôm đó đám du khách vào cửa hàng bách hóa tổng hợp mà mua thức ăn tối đem về phòng.
Ăn miếng bánh xèo đó mà thằng Tư trả tiền đắt như bữa cơm Tàu ăn đầy bụng. Lấy kinh nghiệm buổi trưa, chiều hôm đó đám du khách vào cửa hàng bách hóa tổng hợp mà mua thức ăn tối đem về phòng.
Ba thấy mấy “khúc ruột xa
nghìn dặm” mua về nhiều con gà quay, bánh mì, rượu chát, rượu bia, trái
cây, rau sống, dưa chua, đem vào phòng ăn khách sạn mà liên hoan ồn ào
cho đến khuya, để lộ ra cái bản chất của bọn tiểu tư sản thành thị bao
giờ cũng sa đọa, chỉ nghĩ đến hưởng thụ vật chất và sợ gian khổ.
Sáng
hôm sau, xe lại khởi hành sớm, cũng ra đi khi trời còn mờ sương. Xe
xuôi về hướng Nam, hình như quay lại đường cũ, Ba không rõ lắm, xe chạy
quá mau.
Đi chừng vài tiếng, thì xe dừng lại xem một trại nuôi gấu, chó sói và nai rừng. Du khách phải đóng tiền để xe chở vào trại xem.
Ngồi trên xe, đi qua trại gấu, thấy chúng thong thả ung dung trong khuôn viên có hàng rào. Ba nghĩ nơi đây họ cũng nuôi gấu để hút mật gấu, bán ra cho dân nhậu hòa với rượu mà uống như bên mình.
Đi chừng vài tiếng, thì xe dừng lại xem một trại nuôi gấu, chó sói và nai rừng. Du khách phải đóng tiền để xe chở vào trại xem.
Ngồi trên xe, đi qua trại gấu, thấy chúng thong thả ung dung trong khuôn viên có hàng rào. Ba nghĩ nơi đây họ cũng nuôi gấu để hút mật gấu, bán ra cho dân nhậu hòa với rượu mà uống như bên mình.
Thế mà bên ngoài giả nói đạo đức là bảo tồn giống thú hiếm quý.
Xe
tiếp tục đi, rồi ghé lại xem một thác nước thủy điện nằm vắt ngang
thành phố.
Đó là thành phố có tên Thác Ai-Đa-Hồ (Idaho Fall City). Thác dài rộng, không cao, nằm xuyên qua thành phố. Đối với Ba, đã lăn lộn nhiều năm trong rừng Trường Sơn, thì thác nước cũng chẳng có gì xa lạ quyến rũ để đi xem.
Ba ngồi lại im lặng trên phiến đá, còn du khách thì xôn xao chụp hình, nói nói, cười cười, tấm tắc khen.
Đó là thành phố có tên Thác Ai-Đa-Hồ (Idaho Fall City). Thác dài rộng, không cao, nằm xuyên qua thành phố. Đối với Ba, đã lăn lộn nhiều năm trong rừng Trường Sơn, thì thác nước cũng chẳng có gì xa lạ quyến rũ để đi xem.
Ba ngồi lại im lặng trên phiến đá, còn du khách thì xôn xao chụp hình, nói nói, cười cười, tấm tắc khen.
Xe
ghé lại một nơi mà nhìn xuống là thung lũng sâu thẳm. Bên dưới có nhà
cửa, có đường xá. Bên kia là vách đá dựng đứng cao ngất.
Không biết họ đi xuống bằng đường nào. Bên trên cao, có cây cầu mà Ba nghĩ là họ bắt chước cầu Hàm Rồng của mình. Cầu cong bắc qua mõm đá cao. Có năm sáu thanh niên mang dù, đứng trên cầu nhảy xuống vực sâu.
Không biết họ đi xuống bằng đường nào. Bên trên cao, có cây cầu mà Ba nghĩ là họ bắt chước cầu Hàm Rồng của mình. Cầu cong bắc qua mõm đá cao. Có năm sáu thanh niên mang dù, đứng trên cầu nhảy xuống vực sâu.
Chúng nó lái dù cũng khá giỏi, vì khi đáp xuống
đất, thì đáp đúng vào cái điểm mà chúng làm dấu bằng hai miếng vải màu
bắt chéo hình chữ thập.
Bọn nầy ăn no, rững mỡ, không làm những việc sản xuất ra của cải vật chất, mà chỉ lo vui chơi, chơi thứ nguy hiểm.
Buổi chiều, thì xe đến bang U-Tà (Utah), du khách được dẫn đi xem mỏ đồng, chúng nó đào sâu xuống đất hình phểu, sâu nhiều cây số.
Bọn nầy ăn no, rững mỡ, không làm những việc sản xuất ra của cải vật chất, mà chỉ lo vui chơi, chơi thứ nguy hiểm.
Buổi chiều, thì xe đến bang U-Tà (Utah), du khách được dẫn đi xem mỏ đồng, chúng nó đào sâu xuống đất hình phểu, sâu nhiều cây số.
Chúng cho biết
là mỏ đồng nầy lớn nhất thế giới. Họ khoan đất, nhồi mìn, nổ tung đáy
núi, rồi dùng xe xúc đất đá đem vào máy xay vụn, đem lọc, rồi nấu ra
đồng. Chiếc xe xúc đất có bánh xe với đường kính của nó, gấp hai lần
chiều cao của Ba.
Không biết Liên Xô vĩ đại của chúng ta, có thứ xe nầy hay không. Theo Ba nghĩ, thì nơi đây thợ thuyền lao động bị bóc lột tận xương tủy, và thặng dư giá trị do tư liệu sản xuất đều vào tay bọn tư bản gian ác.
Không biết Liên Xô vĩ đại của chúng ta, có thứ xe nầy hay không. Theo Ba nghĩ, thì nơi đây thợ thuyền lao động bị bóc lột tận xương tủy, và thặng dư giá trị do tư liệu sản xuất đều vào tay bọn tư bản gian ác.
Đây mới thật là cảnh dời non lấp biển. Ba khám phá ra một điều nữa, là bọn tư bản tuy gian ác không lường, nhưng vô cùng ngây ngô, không những chúng cho ta đi xem, mà còn cắt nghĩa, giải thích từng chi tiết về việc khai phá cái mỏ đồng nầy.
Sau
nầy về nước, Ba sẽ đề xuất lên trên, xin phái người bí mật qua đây thu
thập hết tài liệu, để về khai thác mỏ đồng của xứ ta cho có hiệu quả
hơn. Thủ đô của Bang nầy tên là thành phố Hồ Muối, ( Salt Lake City) vì ở
đây, có cái hồ nước mặn, ở độ cao hơn mặt biển gần một cây số, nồng độ
muối mặn hơn muối biển đến năm lần.
Làm sao tin được mà lại gạt gẫm Ba. Lục địa xa biển đến non ngàn cây số, làm chi mà có nước biển tràn vào đây được. Lại dấu đầu lòi đuôi, làm chi có chuyện mặn hơn nước biển đến năm lần? Bày đặt ra để chứng tỏ nước Mỹ có nhiều điều khác thường mà lòe bịp thiên hạ thôi.
Làm sao tin được mà lại gạt gẫm Ba. Lục địa xa biển đến non ngàn cây số, làm chi mà có nước biển tràn vào đây được. Lại dấu đầu lòi đuôi, làm chi có chuyện mặn hơn nước biển đến năm lần? Bày đặt ra để chứng tỏ nước Mỹ có nhiều điều khác thường mà lòe bịp thiên hạ thôi.
Ở
Bang nầy, có nhiều người theo đạo Mọt Mông (Mormon), Bang U-Tà là trung
ương cục của đạo nầy. Nghe nói, đồng chí khai sáng và lãnh đạo ngày xưa
có trên năm chục bà vợ.
Có lẽ vì vậy, nên những kẻ thiếu vợ ganh ghét, đánh đuổi và giết chết. Đồng chí lãnh đạo kế nhiệm, đem tông đồ chạy, đi bộ băng qua nước Mỹ, đến U-Tà thì kiệt sức, dừng lại mà xây dựng hội Thánh tại đây.
Có lẽ vì vậy, nên những kẻ thiếu vợ ganh ghét, đánh đuổi và giết chết. Đồng chí lãnh đạo kế nhiệm, đem tông đồ chạy, đi bộ băng qua nước Mỹ, đến U-Tà thì kiệt sức, dừng lại mà xây dựng hội Thánh tại đây.
PHẠM QUẾ DƯƠNG * Y TẾ VIỆT NAM
NHÀ THƯƠNG HAY NHÀ TÙ?
Phạm Quế Dương
Nhà báo Phan Lợi kể rằng: " Tương tự như một số vị bộ trưởng mới nhậm chức, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến vừa có chuyến "vi hành" tại TP.SG về tình trạng quá tải tại các BV và thái độ được mô tả của bà là… không khỏi "choáng"!
Đúng là không choáng sao được khi thấy bệnh nhân tại BV Ung bướu lóp ngóp bò từ gầm giường ra chào đón mình. Và cũng không quá tải sao được khi số giường thực kê của BV chỉ có 631 giường nhưng số bệnh nhân điều trị nội trú tới… 1.807 người và số ngoại trú 9.510 người! ".
Cái hình ảnh bệnh nhân lóp ngóp bò từ gầm giường ra chào đón bà Bộ trưởng Y tế thật ấn tượng. Tôi cũng từng chứng kiến một bà nguyên Chánh Văn phòng Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lóp ngóp bò từ gầm giường bệnh nhân ra chào tôi. Người bệnh là tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang – chồng bà. Năm ấy ông Giang phải vào bệnh viện mổ tiền liệt tuyến. Ông Giang có tiêu chuẩn bệnh viện Việt Xô nhưng vì sợ người ta ám hại nên ông phải bí mật trốn sang bệnh viện Viêt Đức, cậy nhờ người thân quen là bác sỹ đầu ngành Bửu Triều.
Nhân đây xin trích một đoạn trong bài " Bệnh viện gãy giường vì quá tải " của nhà báo Quang Duy để thấy được phần nào thảm cảnh của bệnh nhân và của người đi chăm nuôi bệnh nhân ở nước ta:
" 8 - 10 người bệnh cùng ngồi truyền hóa chất trên một chiếc giường bệnh, đó đã là chuyện ngày thường ở Bệnh viện Ung bướu TƯ (K) cơ sở 1.
Buồng bệnh chưa đầy 20m2 nhưng luôn tải tới 30 người bệnh. Người trẻ, nam giới nhường người già, phụ nữ chỗ ngồi trên giường bệnh, ra ngồi hành lang mà truyền. Bất cứ chốt cửa, tay cài nào cũng thành chỗ móc để họ treo dây truyền.
Ngày 1.2, bà Hà Thị Cẩm (ở Thanh Trì, Hà Nội) lên BV K truyền hóa chất đợt thứ 5 sau khi phát hiện bị ung thư (UT) vú tháng 9.2011. Ngồi cùng giường với bà còn 5 bệnh nhân khác. Bốn giường khác trong buồng bệnh cũng đều đều quân số 5 - 6 người/giường. Căn phòng vẻn vẹn chưa đầy 20m2 vốn thiết kế chỉ cho 4 bệnh nhân, hôm nay tải tới 25 người bệnh.
Bà Cẩm đính chính với chúng tôi: "Còn vài bệnh nhân nữa phải ngồi ngoài hành lang. Âm lịch, hôm nay mới chỉ là ngày mùng 10 tết. Tâm lý nhiều người bệnh muốn qua rằm tháng giêng rồi mới lên BV nên ở đây còn vắng. Ai ở đây cũng vậy, truyền hóa chất mệt đến mấy cũng là ngồi chứ không ai được nằm giường, đều phải chia sẻ chỗ ngồi ấy cho 5 - 7 người khác. Ngày thường, ở đây mỗi giường bệnh cõng 8 người là bình thường. Muốn duỗi chân cũng không dễ".
Không chỉ người bệnh, mà y-bác sĩ cũng bức xúc về quá tải. Y tá Tạ Thị Hồng - khoa Nội 1 - cho biết: "Hai tháng trước, giường bệnh cuối cùng ở buồng bệnh 1 đã gãy, lúc đó có 10 bệnh nhân ngồi trên đó. Đến nay, giường vẫn chưa được sửa, nên tạm thời chỉ để 4 người ngồi trên đó".
Đã gần 11h trưa mà hành lang khoa Nội 1 vẫn đông như... trẩy hội, chỉ có điều hầu như ai nấy cũng đều mệt mỏi, bơ phờ. Chúng tôi bước len qua lối đi một cách rất giữ ý, để tránh chạm người bệnh đang nằm giường xếp hay ngồi với cây truyền dịch bên tay. Bà Nguyễn Thị Hải (ở Lạch Tray, Hải Phòng) cũng đã truyền hóa chất 5 đợt. Những lần truyền ngoài giờ, bà vào đây từ 4h30 sáng để chờ được truyền từ 5h sáng. Lần thì chờ đến 1h đêm mới truyền xong. Ngồi ở hành lang, người ra vào, có lần bà không cố định được kim truyền nên chệch ven, phải tiêm thuốc chống thối thịt, hoại tử tay ".
Vì sao đến nông nỗi ấy ? Vì bao nhiêu tiền đóng thuế của nông dân, tiền bán tài nguyên, dầu khí, tiền anh chị em công nhân đi bán sức lạo đông ở nước ngoài gửi về …., đồng thì rơi vào túi các quan tham, đồng thì dốc ra xây công sở thật hoành tráng cho Đảng, cho Nhà nước …, mua ôtô xịn hảo hạng cho các quan đi làm … và đi lễõ chùa cầu thăng tiến, tài lộc.
Theo tin từ Bộ Y tế, Việt Nam nằm trong danh sách 33 quốc gia có tỷ lệ giường bệnh thấp nhất trên thế giới,
Nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam 27 tháng Hai
GIA HỘI * DIỄN TIẾN TRẬN ĐỒ BIỂN ĐÔNG
GIA HỘI
Tuần trước, Trung
Quốc đem một đoàn đánh cá đông đảo ra đánh cá tại Scaborough là vùng đảo
thuộc chủ quyền Phi Luật Tân, Philippines cho tàu ra ngăn cản.
Hai bên đầu điều thêm tàu và tinh hình găng nhau. Tiếp theo, Trung Quốc ra lệnh cấm các nước đánh biển đông từ ngày 16-5 cho đến 1-8 2012.
Philippines cũng không chịu thua, bèn ban hành lệnh cấm đánh bắt cá tại Scarborough. Đài RFA cho biết Philippines hôm thứ Tư ban hành lệnh cấm đánh bắt cá kéo dài hai tháng tại khu vực tranh chấp ở biển Đông sau khi tuyên bố nước này không chấp nhận lệnh cấm đánh cá của Trung Quốc.
Lý do được Giám đốc cục Ngư nghiệp và Tài nguyên Nước, Asis Perez đưa ra cho rằng có nhiều dân đánh cá trong khu vực này nên cần phải đóng một thời gian để khu vực này có thể 'thở'.
Giới chức Philippines cũng nhấn mạnh rằng họ áp dụng lệnh cấm riêng của nước mình.Cả hai lệnh cấm đánh cá của Philippines và Trung Quốc đều bắt đầu ngày 16 tháng 5. Tuy nhiên, tin không nói rõ là nếu tàu thuyền vi phạm thì Manila sẽ xử lý thế nào. Còn đối với lệnh cấm đánh bắt của Trung Quốc thì tàu thuyền vi phạm sẽ bị bắt, tịch thu ngư cụ và phạt lên đến 8 ngàn đô la.
Hai bên đầu điều thêm tàu và tinh hình găng nhau. Tiếp theo, Trung Quốc ra lệnh cấm các nước đánh biển đông từ ngày 16-5 cho đến 1-8 2012.
Philippines cũng không chịu thua, bèn ban hành lệnh cấm đánh bắt cá tại Scarborough. Đài RFA cho biết Philippines hôm thứ Tư ban hành lệnh cấm đánh bắt cá kéo dài hai tháng tại khu vực tranh chấp ở biển Đông sau khi tuyên bố nước này không chấp nhận lệnh cấm đánh cá của Trung Quốc.
Lý do được Giám đốc cục Ngư nghiệp và Tài nguyên Nước, Asis Perez đưa ra cho rằng có nhiều dân đánh cá trong khu vực này nên cần phải đóng một thời gian để khu vực này có thể 'thở'.
Giới chức Philippines cũng nhấn mạnh rằng họ áp dụng lệnh cấm riêng của nước mình.Cả hai lệnh cấm đánh cá của Philippines và Trung Quốc đều bắt đầu ngày 16 tháng 5. Tuy nhiên, tin không nói rõ là nếu tàu thuyền vi phạm thì Manila sẽ xử lý thế nào. Còn đối với lệnh cấm đánh bắt của Trung Quốc thì tàu thuyền vi phạm sẽ bị bắt, tịch thu ngư cụ và phạt lên đến 8 ngàn đô la.
Tình trạng tranh chấp tại bãi cạn
Scarborough vẫn chưa lắng dịu sau hơn 1 tháng. Hiện tại, tàu hai bên vẫn chưa
rút lui. Trung Quốc có hai tàu của chính phủ và 10 tàu cá trong khi Philippines
có hai tàu của chính phủ và một tàu cá tại khu vực Scarborough.
http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/philip-to-drill-at-china-claim-reef-05172012093448.html
http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/philip-to-drill-at-china-claim-reef-05172012093448.html
Tuần qua Trung Quốc công bố
lệnh cấm đánh bắt cá trong lãnh hải "Lưỡi bò" do họ áp đặt trên biển
Đông. Philippines cũng công bố lệnh ngưng đánh bắt hải sản, cùng ban hành hôm
thứ tư.
RFI luận rằng đó là hành động
cứng rắn của Philippines:Mày cấm tao, tao cấm mày. Mày bắt tao, tao bắt mày.
RFI viết:
RFI viết:
Tuy là nước nhỏ, nhưng
chính phủ Philippines đã phản ứng theo lối ăn miếng trả miếng : dàn tàu chiến
trong vùng tranh chấp và đe dọa cũng sẽ ban hành lệnh cấm đánh cá để bảo vệ hải
sản quý hiếm đang bị « ngư dân » Trung Quốc đánh bắt. Manila tỏ ra năng động
trên mọi lãnh vực từ pháp lý, vận động ngoại giao đến tăng cường quân lực với
sự trợ giúp của Mỹ, để chống lại âm mưu lấn chiếm biển đảo của Trung Quốc.
Trong khi đó thì đài RFA nhận định
trái ngược:
Philippines đã
nhượng bộ ở Scarborough khi tuyên bố sẽ ban hành lệnh cấm đánh bắt hải sản của
riêng mình vào cùng ngày thứ tư khi Trung Quốc bắt đầu áp dụng lệnh cấm tương
tự trong lãnh hải "Lưỡi bò" bao gồm cả bãi cạn Scarborough.
Đó là một sự nhượng bộ, khi Manila phải để nước khác đánh cá và chặn người Phi đánh cá, rồi nước đó lại cấm đánh bắt cá trong hải phận đặc quyền kinh tế của Philippines.
Tuy nhiên sự nhượng bộ đó là một hành động chính trị khôn ngoan và linh hoạt, và là điều phải làm trong tương quan lực lượng về kinh tế, chính trị và quân sự với Trung Quốc. Cùng lúc, Việt Nam đã lên tiếng phản đối lệnh đó của Trung Quốc. Đó cũng là việc phải làm và đã được làm đúng.
Đó là một sự nhượng bộ, khi Manila phải để nước khác đánh cá và chặn người Phi đánh cá, rồi nước đó lại cấm đánh bắt cá trong hải phận đặc quyền kinh tế của Philippines.
Tuy nhiên sự nhượng bộ đó là một hành động chính trị khôn ngoan và linh hoạt, và là điều phải làm trong tương quan lực lượng về kinh tế, chính trị và quân sự với Trung Quốc. Cùng lúc, Việt Nam đã lên tiếng phản đối lệnh đó của Trung Quốc. Đó cũng là việc phải làm và đã được làm đúng.
.http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/us-sub-shows-up-near-scarborough--what-s-the-meaning-05172012122136.html
Trước sự uy hiếp của Trung Cộng, chủ nhật, tàu ngầm tấn công tối tân nhất thế giới của Mỹ xuất hiện trên hải cảng Subic Bay.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/us-sub-shows-up-near-scarborough--what-s-the-meaning-05172012122136.html
Như vậy là Mỹ biểu thị tích cực việc yểm trợ Philippines chớ không bỏ lơ cho Trung Quốc xơi thịt.
Trong khi đó đài VOA luận rằng Trung Quốc đã dịu giọng trong vu Scaborough chứ không hung hăng như trước.Trong bài tường thuật ngày hôm nay, Tân Hoa Xã của nhà nước Trung Quốc nói rằng vụ xích mích mới nhất này đã bùng ra hồi tháng 4, khi một chiến hạm Philippines quấy nhiễu 12 chiếc tàu đánh cá của Trung Quốc đang tránh bão ở đảo Hoàng Nham.
Tuy có sự phản kháng kịch liệt của Trung Quốc, phát ngôn viên Hồng Lỗi của Bộ Ngoại giao hôm nay đã có lời lẻ mềm mỏng hơn khi trả lời các câu hỏi của báo chí. Ông kêu gọi Manila thừa nhận điều mà ông mô tả là lập trường rõ ràng và trước sau như một của Trung Quốc là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hòn đảo này.
Ông Hồng nói rằng Philippines nên thật sự tôn trọng chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc. Ông nói thêm rằng đòi hỏi của Bắc Kinh là Manila xúc tiến các cuộc thương lượng ngoại giao về vấn đề này.
http://www.voanews.com/vietnamese/news/asia/trung-quoc-diu-giong-trong-viec-cong-kich-philippines-05-16-2012.html
Trong khi hai bên Trung Cộng, Philippines gằm ghè thì sắp tới Mỹ và Asean sẽ họp tại Manila.
Trước sự uy hiếp của Trung Cộng, chủ nhật, tàu ngầm tấn công tối tân nhất thế giới của Mỹ xuất hiện trên hải cảng Subic Bay.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/us-sub-shows-up-near-scarborough--what-s-the-meaning-05172012122136.html
Như vậy là Mỹ biểu thị tích cực việc yểm trợ Philippines chớ không bỏ lơ cho Trung Quốc xơi thịt.
Trong khi đó đài VOA luận rằng Trung Quốc đã dịu giọng trong vu Scaborough chứ không hung hăng như trước.Trong bài tường thuật ngày hôm nay, Tân Hoa Xã của nhà nước Trung Quốc nói rằng vụ xích mích mới nhất này đã bùng ra hồi tháng 4, khi một chiến hạm Philippines quấy nhiễu 12 chiếc tàu đánh cá của Trung Quốc đang tránh bão ở đảo Hoàng Nham.
Tuy có sự phản kháng kịch liệt của Trung Quốc, phát ngôn viên Hồng Lỗi của Bộ Ngoại giao hôm nay đã có lời lẻ mềm mỏng hơn khi trả lời các câu hỏi của báo chí. Ông kêu gọi Manila thừa nhận điều mà ông mô tả là lập trường rõ ràng và trước sau như một của Trung Quốc là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hòn đảo này.
Ông Hồng nói rằng Philippines nên thật sự tôn trọng chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc. Ông nói thêm rằng đòi hỏi của Bắc Kinh là Manila xúc tiến các cuộc thương lượng ngoại giao về vấn đề này.
http://www.voanews.com/vietnamese/news/asia/trung-quoc-diu-giong-trong-viec-cong-kich-philippines-05-16-2012.html
Trong khi hai bên Trung Cộng, Philippines gằm ghè thì sắp tới Mỹ và Asean sẽ họp tại Manila.
Ngoại trưởng Philippines
Albert del Rosario cho biết Cuộc đối thoại Mỹ-ASEAN nhằm thắt chặt mối quan hệ
giữa 10 nước Đông Nam Á với Hoa Kỳ.
Các nhà ngoại giao cao
cấp từ Hoa Kỳ và 10 nước Đông Nam Á bao gồm Việt Nam sẽ gặp nhau từ ngày 20-22
tháng này trong cuộc họp thường kỳ tại thủ đô Philippines giữa bối cảnh tranh
chấp Biển Đông căng thẳng.
Bộ Ngoại giao Philippines ngày 17/5 loan báo Manila sẽ tổ chức Cuộc đối thoại Mỹ-ASEAN lần thứ 25 và hội nghị của Nhóm Nhân sỹ Mỹ-ASEAN tại Manila.
Bộ Ngoại giao Philippines ngày 17/5 loan báo Manila sẽ tổ chức Cuộc đối thoại Mỹ-ASEAN lần thứ 25 và hội nghị của Nhóm Nhân sỹ Mỹ-ASEAN tại Manila.
Báo chí Philippines trích
lời Ngoại trưởng Albert del Rosario cho biết Cuộc đối thoại Mỹ-ASEAN nhằm thắt
chặt mối quan hệ giữa 10 nước Đông Nam Á với Hoa Kỳ và đề ra kế hoạch cho quan
hệ đối tác giữa ASEAN và Mỹ.
Thông cáo của Bộ Ngoại giao Philippines nói các bên tham gia đối thoại sẽ đánh giá những tiến bộ trong hợp tác Mỹ-ASEAN, trao đổi quan điểm về những diễn biến của quốc tế và khu vực, cho thấy vấn đề tranh chấp Biển Đông giữa ASEAN với Trung Quốc có thể được nêu lên để thảo luận trong dịp này.
Hội nghị của Nhóm Nhân sỹ Mỹ-ASEAN sẽ đưa ra những khuyến nghị về hành động trong tương lai bao gồm các cơ hội củng cố hợ tác giữa đôi bên trong các vấn đề toàn cầu và khu vực, cũng như tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực cụ thể như mậu dịch và đầu tư, đáp ứng thiên tai và an toàn năng lượng.
Thông cáo của Bộ Ngoại giao Philippines nói các bên tham gia đối thoại sẽ đánh giá những tiến bộ trong hợp tác Mỹ-ASEAN, trao đổi quan điểm về những diễn biến của quốc tế và khu vực, cho thấy vấn đề tranh chấp Biển Đông giữa ASEAN với Trung Quốc có thể được nêu lên để thảo luận trong dịp này.
Hội nghị của Nhóm Nhân sỹ Mỹ-ASEAN sẽ đưa ra những khuyến nghị về hành động trong tương lai bao gồm các cơ hội củng cố hợ tác giữa đôi bên trong các vấn đề toàn cầu và khu vực, cũng như tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực cụ thể như mậu dịch và đầu tư, đáp ứng thiên tai và an toàn năng lượng.
Hoa Kỳ là một trong những
đối tác đối thoại lâu nay của ASEAN sau khi thiết lập quan hệ với khối từ năm
1977.
http://www.voanews.com/vietnamese/news/vietnam/hop-cao-cap-my-asean-sap-dien-ra-ophilippines-05-17-2012-151860185.html
http://www.voanews.com/vietnamese/news/vietnam/hop-cao-cap-my-asean-sap-dien-ra-ophilippines-05-17-2012-151860185.html
Tuy nhiên, một số sự kiện khác xảy
ra ngoài tiên liệu của các nhà bình luận.
1- Sự kiện nổi bật nhất là Bắc Hàn
bắt tàu đánh cá Trung Quốc. Trời ơi, đầy tớ phản chủ rồi! Tại sao vậy?Có sự lầm
lẫn nào chăng? Đài BBC loan tin:
Các trang báo mạng
Legal Evening News, Beijing News và CNTV (trang mạng của Đài truyền hình
trung ương Trung Quốc CCTV) đều cho biết họ đã được Bộ Ngoại giao Trung
Quốc xác nhận rằng họ biết có thông tin này là đang liên lạc với
giới chức Bắc Triều Tiên.
Ba tàu cá Trung
Quốc bị lực lượng vũ trang Bắc Hàn tấn công hôm 8/5: họ dùng vũ lực
đe dọa để lên các tàu này sau đó họ chiếm lấy tàu bằng cách vô
hiệu hóa các máy móc thiết bị trên tàu, một chủ tàu nói với hãng
thông tấn Pháp AFP. Một chủ tàu khác
ở Đông Cảng cũng xác nhận vụ việc AFP.
Truyền thông Trung
Quốc dùng từ "bị bắt cóc" để nói về tình cảnh của các
ngư dân Trung Quốc.
Trả lời BBC Tiếng
Trung, ông Lưu Minh, chuyên gia về vấn đề Triều Tiên tại Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Thượng Hải nói:
"Hiện tuy chưa
có xác nhận từ chính quyền, những kẻ bắt cóc rất có thể là lực
lượng cấp địa phương ở Bắc Triều Tiên, và vì cho tới nay chưa từng
có tin tức về hoạt động cướp biển trong vùng."
Theo truyền thông
Trung Quốc thì các ngư dân này khởi hành từ Đông Cảng thuộc tỉnh Sơn
Đông và sau đó ra khơi ở vùng biển đông bắc nằm giữa Trung Quốc và
Bắc Hàn nơi họ bị bắt giữ.
Các thuyền viên
trốn thoát khi vụ bắt giữ xảy ra cho biết Bắc Hàn đòi số tiền
chuộc lên lến 1,2 triệu nhân dân tệ, tương đương gần 190.000 đô la Mỹ.
Bắc Hàn yêu cầu
phải nộp tiền chuộc chậm nhất là thứ Năm ngày 17/5.
Tờ Hoàn cầu thời
báo bản tiếng Hoa dẫn lời một nhà bình luận Trung Quốc giấu tên cho
biết thật ra xung đột về quyền đánh cá giữa Trung Quốc và Bắc Hàn
ở Hoàng Hải căng thẳng hơn nhiều so với tranh chấp với Nam Hàn.
Bộ Ngoại giao Trung
Quốc cho biết họ ‘đang liên hệ với giới chức Bắc Hàn để bảo vệ
quyền và lợi ích của công dân chúng tôi’, theo AFP.
Sự kiện này cho
thấy các ngư dân Trung Quốc hiện đang có xu hướng đi đánh bắt ngày
càng xa bờ biển nước này.
Đài RFI cũng loan tin: Theo hãng tin Pháp AFP, vào hôm nay, 17/05/2012, các nguồn
tin từ báo chí Trung Quốc và thân nhân những người bị bắt đã tiết lộ : Mới đây,
đã có 29 ngư dân Trung Quốc cùng tàu thuyền của họ bị một toán người Bắc Triều
Tiên có trang bị võ khí chặn bắt trên biển. Những kẻ bắt cóc đã đòi phía Trung
Quốc phải nộp 1,2 triệu yuan (150.000 euro/ 190.000 đô la) để chuộc mạng số
người này.
2. Sự kiện thứ hai là Đài Loan phản đối Philippines về vụ Scarborough. Đài Loan
cùng theo phe Trung Cộng chống Philippines và Mỹ sao? Tuần trước, Mỹ cũng thắc
mắc lập trường Đài Loan thì Đai Loan nói rằng họ không bắt tay với Trung Cộng,
nhưng nay họ lại lên tiếng về vụ Scaborough.
3. Sự kiện thứ ba là Nam
Hàn và Nhật đình chỉ hợp tác quân sự.Theo
một phát ngôn viên bộ Quốc phòng Hàn Quốc, sở dĩ Seoul phải quyết định như
trên, đó là vì thái độ không đồng tình của công luận.
Nói rõ hơn đa số
dân Triều Tiên còn căm thù Nhật Bản, hay là giữa hai nước Triều Tiên có sự lạ gì xảy ra?
Tình trạng tranh chấp lãnh hải căng thẳng giữa Philippines và TQ tại bãi cạn Scarborough cách đảo Luzon của Phi 230 km và cách vùng duyên hải Hoa Lục 1.200 km khiến “kẻ láng giềng khổng lồ xấu bụng” ra tay “trả thù” trước về mặt kinh tế, từ việc hạn chế du lịch, kiểm dịch gắt gao hoa quả Philippines cho đến hạn chế dịch vụ hàng không Hoa Lục tới Manila.
Tình trạng tranh chấp lãnh hải căng thẳng giữa Philippines và TQ tại bãi cạn Scarborough cách đảo Luzon của Phi 230 km và cách vùng duyên hải Hoa Lục 1.200 km khiến “kẻ láng giềng khổng lồ xấu bụng” ra tay “trả thù” trước về mặt kinh tế, từ việc hạn chế du lịch, kiểm dịch gắt gao hoa quả Philippines cho đến hạn chế dịch vụ hàng không Hoa Lục tới Manila.
Lên tiếng mới đây với Đài Á Châu Tự
Do, cựu Đại tá hải quân quân đội nhân dân VN Quách Hải Lượng, nhận xét:
“Trước hết TQ là nước lớn, làm vậy
là sai. Trên thế giới chỉ có một mình Bắc Kinh là đòi chiếm lấy đất đai lãnh
thỗ của người khác. Nó là chủ nghĩa bành trướng, không tốt. Đất nước là của
Philippines mà nó đánh gây gổ thì khi Philippines cương quyết lại, phải hoan
nghênh thái độ bảo vệ đất nước của Phi.”
Nhiều bình luận gia cho rằng Hải
quân Philippines yếu, không thể chọi với Trung Cộng. Philippines chỉ biết trông
cậy vào hiệp ước quân sự với Hoa Kỳ mà thôi. Cuộc chiến hôm nay nếu vì quyền
lợi của các tiểu quốc thì chưa chắc Hoa Kỳ đã ra công trợ giúp nhưng lần này
là cuộc chiến trực tiếp tới tương lai Hoa Kỳ cho nên Hoa Kỳ phải gánh vác công
việc Biển Đông.
Nhiều bình luận gia cho rằng nếu chiến tranh xảy ra, Trung Quốc sẽ thiệt hại nhiều nhất, vì quân đội Hoa Lục – cũng giống như mọi quân đội khác trên thế giới – cần nhiên liệu để chiến đấu, nếu không, Hoa Lục sẽ khó mà duy trì chiến tranh.
Nhiều bình luận gia cho rằng nếu chiến tranh xảy ra, Trung Quốc sẽ thiệt hại nhiều nhất, vì quân đội Hoa Lục – cũng giống như mọi quân đội khác trên thế giới – cần nhiên liệu để chiến đấu, nếu không, Hoa Lục sẽ khó mà duy trì chiến tranh.
Nguồn nhiên liệu cung cấp cho Trung
Quốc từ Trung Đông chủ yếu qua eo biển Malacca. Như vậy, tất cả những gì cần
làm là Hoa Kỳ cho bố trí chiến hạm ở Singapore – tại eo biển Malacca – thì
chiến tranh sẽ kết thúc nhanh chóng.
Tuy
nhiên, một số bình luận gia cho
rằng không đánh Mỹ thì Trung Quốc cũng chết vì nạn nhân mãn, thiếu nhiên
liệu và
nguyên liệu, kinh tế sẻ suy sụp, nội loạn sẽ bùng lên...Đàng nào cũng
chết, liều chết may ra thắng lợi chăng? Chính Trung Quốc tuyên bố rất
hung hăng. Trung Quốc chơi nhiều thủ đoạn cổ điển. Họ không dám công
khai công kích thế giới. Họ ném đá giấu tay, họ chơi trò " xúi trẻ ăn
cứt gà". Họ đẩy tờ Hoàn Cầu đứng ra đe dọa thế giới. Họ nói họ không
phải là cỏ cây, họ phải đánh trả, họ phải dạy Philippines, Việt Nam một
bài học. Họ cũng nói nếu Trung Quốc nước ngập bụng thì thế giới cũng
ngập đầu, nghĩa là đánh nhau họ vẫn thắng? Tin vào cái gì vậy?
Từ thời còn lạc hậu với bước nhảy vọt và cách mạng vô văn hóa, Mao cho
rằng chiến tranh sẽ làm cho thế giới chết hết, Trung Quốc sẽ còn nửa triệu
người là thắng và đủ cai trị thế giới. Đó là quan niệm xưa của thời chiến thuật
biển người, lấy mười chọi một là thắng.
Nhưng trong cuộc chiến ngày nay, quân số không còn là yếu tố quyết định, vũ khí tối tân có thể tiêu diệt một lúc hàng triệu người, không biết ông Mao căn cứ vào đâu mà nói vậy?
Nhưng trong cuộc chiến ngày nay, quân số không còn là yếu tố quyết định, vũ khí tối tân có thể tiêu diệt một lúc hàng triệu người, không biết ông Mao căn cứ vào đâu mà nói vậy?
Người Mỹ bây giờ cắt giảm quân số
không phải vì thiếu tiền mà vì khoa học kỹ thuật đã giúp họ đỡ tốn tiền! Một
hàng không mẫu hạm của Mỹ trước đây chứa 15 ngàn người, nay chỉ cần vài ba ngàn
lính và chuyên viên là đủ!
Lên tiếng mới đây với Đài Á Châu Tự
Do, cựu Đại tá hải quân quân đội nhân dân VN Quách Hải Lượng, nhận xét:
“Trước hết TQ là nước lớn, làm vậy là sai. Trên thế giới chỉ có một mình Bắc Kinh là đòi chiếm lấy đất đai lãnh thỗ của người khác. Nó là chủ nghĩa bành trướng, không tốt. Đất nước là của Philippines mà nó đánh gây gổ thì khi Philippines cương quyết lại, phải hoan nghênh thái độ bảo vệ đất nước của Phi.”
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/look-at-cn-phi-problem-tq-05172012120325.html
Một số luật gia và nhà nghiên cứu cho rằng chiến tranh bất lợi cho cả hai bên. Nhưng con đường liều mạng của Trung Quốc tin tưởng vào chiến tranh họ sẽ thắng vì dân đông, có quyết tâm chiến đấu và có vũ khí tối tân (hơn ngày xưa). Có thể đi đến chiến tranh nhưng trước hết Trung Cộng sẽ mưu mẹo lường gạt như dùng sức mạnh nuốt từ từ các nuớc yếu như Việt Nam, Lào, Miên, Thái Lan, Philippines bằng quân sự và bằng cách mua chuộc, hăm dọa ... Họ dùng sức mạnh để ép các nước này ký hiệp định bất bình đẳng, họ dùng chính sách bẻ đũa từng chiếc. Họ không dám đưa vấn đề ra quốc tế để hòa hội, đàm phán, và họ cũng sợ Philippines định đưa vấn đề ra tòa án quốc tế vì Trung Cộng sợ thua. Chỉ có đánh nhau hoặc cơ mưu xảo quyệt để lấn chiếm chứ họ không có tâm đàm phán hòa bình. BBC nhận định:
.Mới đây hội nghị về Biển Đông tại Mỹ, các nhả nghiên cứu Trung Quốc đã kết luận rằng trên cơ sở pháp lý, Trung Cộng đuối lý.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20120506-ban-than-gioi-nghien-cuu-trung-quoc-cung-thay-la-bac-kinh-duoi-ly-trong-viec-doi-chu
Trước tình thế hiện nay, đài RFA cũng thấy chóng mặt, không biết tương lai sẽ chiến hay hòa. Đài này nhận định nước đôi:
Trung Quốc chuẩn bị hành đông quân sự?
“Trước hết TQ là nước lớn, làm vậy là sai. Trên thế giới chỉ có một mình Bắc Kinh là đòi chiếm lấy đất đai lãnh thỗ của người khác. Nó là chủ nghĩa bành trướng, không tốt. Đất nước là của Philippines mà nó đánh gây gổ thì khi Philippines cương quyết lại, phải hoan nghênh thái độ bảo vệ đất nước của Phi.”
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/look-at-cn-phi-problem-tq-05172012120325.html
Một số luật gia và nhà nghiên cứu cho rằng chiến tranh bất lợi cho cả hai bên. Nhưng con đường liều mạng của Trung Quốc tin tưởng vào chiến tranh họ sẽ thắng vì dân đông, có quyết tâm chiến đấu và có vũ khí tối tân (hơn ngày xưa). Có thể đi đến chiến tranh nhưng trước hết Trung Cộng sẽ mưu mẹo lường gạt như dùng sức mạnh nuốt từ từ các nuớc yếu như Việt Nam, Lào, Miên, Thái Lan, Philippines bằng quân sự và bằng cách mua chuộc, hăm dọa ... Họ dùng sức mạnh để ép các nước này ký hiệp định bất bình đẳng, họ dùng chính sách bẻ đũa từng chiếc. Họ không dám đưa vấn đề ra quốc tế để hòa hội, đàm phán, và họ cũng sợ Philippines định đưa vấn đề ra tòa án quốc tế vì Trung Cộng sợ thua. Chỉ có đánh nhau hoặc cơ mưu xảo quyệt để lấn chiếm chứ họ không có tâm đàm phán hòa bình. BBC nhận định:
Bốn lý do mà Tân Hoa Xã đưa ra để phản
bác đề xuất này của Philippines là Công ước quốc tế về luật
biển năm 1982 không có hiệu lực với các tranh chấp chủ quyền,
Trung Quốc không có nghĩa vụ phải ra tòa, bản thân Hoa Kỳ cũng
chưa phê chuẩn công ước này và động cơ thật sự của đề xuất
này là làm mất mặt Trung Quốc.
“Kể từ khi Trung Quốc từ chối đưa tranh
chấp ra tòa án quốc tế, một số hãng truyền thông đã diễn
dịch hành động này của Trung Quốc là sợ bị thua kiện,” Tân Hoa
Xã cho biết.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2012/05/120514_china_scs_tribunal.shtml..Mới đây hội nghị về Biển Đông tại Mỹ, các nhả nghiên cứu Trung Quốc đã kết luận rằng trên cơ sở pháp lý, Trung Cộng đuối lý.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20120506-ban-than-gioi-nghien-cuu-trung-quoc-cung-thay-la-bac-kinh-duoi-ly-trong-viec-doi-chu
Trước tình thế hiện nay, đài RFA cũng thấy chóng mặt, không biết tương lai sẽ chiến hay hòa. Đài này nhận định nước đôi:
Trung Quốc chuẩn bị hành đông quân sự?
Trong khi đó, Trung Quốc
đã có những hoạt động quân sự rộng lớn hơn quanh Philippines, không phải chỉ có
hai tàu hải giám ở Scarborough.
Tuần trước đã có tin Nhật
Bản phát hiện một tiểu hạm đội 5 chiến hạm của Trung Quốc di chuyển qua eo biển
Okinawa của Nhật, hướng về phía nam, tức là hướng đến vùng biển Philippines, là
môt phần Thái Bình Dương ở phía đông xứ này. Hải quân Trung Quốc lại còn tập
trận đổ bộ ở vùng đảo phía bắc Philippines nữa.
Không rõ mục đích cuộc
điều động này là gì, vì nếu trợ chiến cho Scarborough thì người ta không sử
dụng đường hải hành đó. Nhưng liệu điều động hạm đội Nam Hải theo đường đó thì
mới đạt yếu tố bất ngờ chăng? Đó là điều không thực tế, vì cả đoàn tàu đi qua
hải phận của Nhật không thể không bị Nhật Bản và lực lượng Mỹ ở Okinawa phát
hiện.
Trung Quốc cũng không dàn
quân đối đầu với hạm đội 7 từ phía Guam tiến qua. Biển Philippines tức là
cả một vùng Thái Bình Dương phía đông Philippines, từ đó chạy dài qua Hawaii
tới California và Mexico, dăm chiếc tàu làm sao đối phó được một vài chiến hạm
của hạm đội 7?
Cho nên có làm gì thì
Trung Quốc cũng sẽ không gây chiến ở Scarborough, trong khi phía Philippines
lại càng không muốn gây chiến.
Cầu hoà?
Hôm thứ tư Philippines
vừa chỉ định hai đặc sứ đi Bắc Kinh. Cả hai đều là những nhà tài chính và kinh
doanh. Một trong hai người mang quốc tịch Philippines, gốc Hoa, ông Daniel Lee.
Hai đặc sứ này được giao
nhiệm vụ tạo mối thân thiện giữa chính phủ hai nước và đặt mối liên lạc chặt
chẽ hơn giữa hai bên. Trong 6 tháng hai ông này còn có nhiệm vụ quảng cáo và
kêu gọi người Hoa đi du lịch Philippines.
Tới này Manila vẫn chưa
chọn được một đại sứ để bổ nhiệm sang Bắc Kinh. Người được đề cử năm ngoái là
một người thân với gia đình Tổng thống Aquino, đã bị Quốc hội từ chối phê chuẩn
với lý do “thiếu kinh nghiệm”.
Liệu kế hoạch ngoại giao-thương mại đó của Manila có hiệu quả không, trong lúc Trung Quốc vừa cản du khách sang Philippines, vừa cấm cửa không cho nhập một số lượng chuối khổng lồ xuất khẩu từ Philippines, viện lý do an toàn thực phẩm?
Việc gửi hai đặc sứ đi Bắc Kinh chỉ là hành động tỏ thiện chí của Philippines. Trung Quốc chưa đáp ứng gì, nên có thể cũng không đem lại kết quả mong muốn.
Liệu kế hoạch ngoại giao-thương mại đó của Manila có hiệu quả không, trong lúc Trung Quốc vừa cản du khách sang Philippines, vừa cấm cửa không cho nhập một số lượng chuối khổng lồ xuất khẩu từ Philippines, viện lý do an toàn thực phẩm?
Việc gửi hai đặc sứ đi Bắc Kinh chỉ là hành động tỏ thiện chí của Philippines. Trung Quốc chưa đáp ứng gì, nên có thể cũng không đem lại kết quả mong muốn.
Nhưng cùng ngày mà Bộ
trưởng ngoại giao Philippines Albert del Rosario kêu gọi ASEAN lên tiếng, ông
bộ trưởng cũng cho biết có “nhiều” quốc gia ASEAN tiếp xúc với ông, bày
tỏ rằng họ đang theo dõi chặt chẽ sự kiện Scarborough, và “rất thông cảm” với
Manila về những gì đang xảy ra.
Dù sao thái độ im lặng
dửng dưng của toàn khối ASEAN còn lại phải được coi gần như sự khiếp nhược,
đáng chê trách, dù ai đó có thì thầm nói riêng lời “thông cảm”.
Nhà hàng xóm sắp cháy mà
người trong xóm trùm mền nói nhỏ qua vách là “rất thông cảm”? Sự “thông
cảm” đó phải được giải thích thế nào ngoài hai chữ “khiếp nhược” trước sức mạnh
và “biển lận” để tránh thiệt hại về thương mại với người khổng lồ tham lam
Trung Quốc?
Lịch sử nhiều lần cho
thấy những quốc gia hay những nhóm quốc gia không biết đoàn kết chống ngoại xâm
đều gặp cảnh “đáng đời” về sau.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/us-sub-shows-up-near-scarborough--what-s-the-meaning-05172012122136.html
Thật ra các nước bạn cũ của Mỹ như Nhật, Nam Hàn, Philippines còn có thể tin Mỹ nhưng các nước khác thì họ sợ Trung Cộng nên không dám đi theo Mỹ chống lại Trung Cộng . Sợ là một chuyện mà chính ra họ đã ăn tiền Trung Cộng, cam tâm làm tay sai cho Trung Cộng để cầu thắng lợi và bảo vệ quyền lợi của họ. Việc này rõ ràng trong đời Hồ Chí Minh, Phạm VănĐồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười ...Và đó cũng là tâm lý và thái độ của một số cộng sản trong bộ chính trị ngày nay chủ trương cúi đầu, đã làm tôi mọi Trung Cộng thì cứ tiếp tục làm tôi mọi, khi Mỹ thắng thì ta sẽ xông lên "đả đảo Trung Cộng", " hoan hô Mỹ" !Đấy cũng là lời lẽ của một cựu GS đại học Việt Nam Cộng Hòa trả lời phỏng vấn đài RFI và đài VOA rằng đừng theo Mỹ, nghĩa là ông khuyên dân ta và các nước Á châu cam tâm với 16 chữ vàng và bốn tốt của Trung Cộng. Nói chung, đó là tâm lý đốn mạt, lưu manh và " khiếp nhược" của nhiều nước ở Á châu như RFA đã bình luận!
Thật ra các nước bạn cũ của Mỹ như Nhật, Nam Hàn, Philippines còn có thể tin Mỹ nhưng các nước khác thì họ sợ Trung Cộng nên không dám đi theo Mỹ chống lại Trung Cộng . Sợ là một chuyện mà chính ra họ đã ăn tiền Trung Cộng, cam tâm làm tay sai cho Trung Cộng để cầu thắng lợi và bảo vệ quyền lợi của họ. Việc này rõ ràng trong đời Hồ Chí Minh, Phạm VănĐồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười ...Và đó cũng là tâm lý và thái độ của một số cộng sản trong bộ chính trị ngày nay chủ trương cúi đầu, đã làm tôi mọi Trung Cộng thì cứ tiếp tục làm tôi mọi, khi Mỹ thắng thì ta sẽ xông lên "đả đảo Trung Cộng", " hoan hô Mỹ" !Đấy cũng là lời lẽ của một cựu GS đại học Việt Nam Cộng Hòa trả lời phỏng vấn đài RFI và đài VOA rằng đừng theo Mỹ, nghĩa là ông khuyên dân ta và các nước Á châu cam tâm với 16 chữ vàng và bốn tốt của Trung Cộng. Nói chung, đó là tâm lý đốn mạt, lưu manh và " khiếp nhược" của nhiều nước ở Á châu như RFA đã bình luận!
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0218
TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN * KINH TẾ VIỆT NAM
LÀM THẾ NÀO
HẢI NGOẠI TRỢ LỰC QUỐC NỘI
TẤN CÔNG VÀO
TỬ HUYỆT KINH TẾ CSVN
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 10.05.2012
Web: http://VietTUDAN.net
Trong
một thời gian dài qua, chúng tôi luôn luôn kêu gọi sự trợ lực Hải ngoại
cho Quốc nội tấn công và TỬ HUYỆT CSVN nhằm dứt bỏ Cơ chế CSVN hiện
hành. Một số độc giả viết rằng làm thế nào dứt bỏ được Cơ chế CSVN khi
người dân không có một tấc sắt. Chúng tôi đã viết hồi âm rằng quần chúng
Việt Nam không có một tấc sắt, nhưng có một Ý CHÍ cứng hơn gang thép.
Cái ý chí ấy đã được biểu lộ ra qua 90% dân chúng khi được hỏi tới.
Chính cái Ý CHÍ cứng hơn gang thép này là khi giới dứt bỏ Cơ chế CSVN.
Nước Mỹ có vô vàn tấc sắt, có cả nguyên tử, nhưng không muốn dứt bỏ Cơ
chế CSVN, thì Cơ chế
vẫn nằm đó. Điều quan trọng cái Ý CHÍ muốn chấm dứt Cộng sản hay không.
Một
số vị đồng ý với chúng tôi về điểm này, nhưng lại đặt ra câu hỏi với
tất tất cả xây dựng: vậy LÀM THẾ NÀO HẢI NGOẠI TRỢ LỰC QUỐC NỘI TẤN CÔNG
VÀO TỬ HUYỆT KINH TẾ CSVN ? Bài viết vắn gọn hôm nay muốn trả lời câu
hỏi này.
Nhắc lại Tiến trình đấu tranh Quốc nội
nhằm Tử Huyệt Kinh Tế CSVN
Việc
nhắc lại này để Hải ngoại chúng ta luôn theo sát với những đợt tấn công
của Quốc nội. Hải ngoại chỉ giữ nhiệm vụ hỗ trợ Quốc nội, chứ không
phải là lực lượng chính yếu hay tự coi mình là chủ chốt, để tự ý mở
những Phong trào đấu tranh đội đá vá trời, nhiều khi còn trở thành “hỏa
mù“ để CSVN dấu đi cái TỬ HUYỆT KINH TẾ. Tiến trình đấu tranh Quốc nội
gồm 3 chặng:
* Chặng 1: Đòi TƯ HỮU phương tiện làm ăn, nhất là Đất Đai
* Chặng 2: Đòi LUẬT LỆ rõ rệt về tư hữu Đất đai
* Chặng 3: Đấu tranh BẢO VỆ quyền Kinh tế
Khi
nhân dân có TƯ HỮU, có quyền sử dụng TƯ HỮU để làm ăn mà Nhà nước phải
tôn trọng, những cá nhân sinh hoạt Kinh tế tiến tới những Luật Lệ bảo
phân định quyền lợi Kinh tế giữa họ và đặt để cho Nhà nước những lãnh
vực can thiệp vào đời sống Kinh tế tư nhân cho hợp lý. Kinh tế tư nhân
lớn mạnh, thì tư nhân có lực để đòi hỏi Nhà nước phải tôn trọng. Gọi
“Sĩ“ là Chính giới, gọi “Nông“ là lớp người làm ăn Kinh tế tư nhân. Câu
nói “Nhất Sĩ nhì Nông !”, nhưng hết gạo chạy rông, thì “Nhất Nông nhì Sĩ
“. Đây là chặng DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ (Démocratisation Economique) để có
lực thực hiện
DÂN CHỦ HÓA CHÍNH TRỊ (Démocratisation Politique).
Hải ngoại tránh những ý tưởng sai lầm
khi nói đánh CSVN về Kinh tế
Có
những lúc, có lẽ vì quá nồng nhiệt trong việc tấn công CSVN, một số
người tung lên các Diễn Đàn khẩu hiệu : “TẨY CHAY HÀNG HÓA VN” trong ý
hướng cấm vận. Khẩu hiệu đơn giản này có thể gây một sự hiểu lầm làm mất
thiện cảm của dân nghèo Quốc nội, nhất là những tiểu thương, xí nghiệp
tư doanh nhỏ. Họ cần phải bán hàng hóa ra ngoài để sống. Thực ra, chính
Hải ngoại chúng ta phải tìm cách nâng đỡ Tư doanh thì mới đúng. Làm cho
Tư doanh lớn lên để có lực khả dĩ chống lại Quốc doanh CSVN. Khẩu hiểu phải không có những kẽ hở để Quốc nội hiểu lầm. Tỉ dụ:
“TẨY CHAY HÀNG HÓA DO QUỐC DOANH CSVN SẢN XUẤT “.
Gần
đây nhất, trong Kiến Nghị gửi lên TT.OBAMA và kêu gọi ký Thỉnh Nguyện
Thư, có câu nói liên hệ đến Thương Mại, đó là VÌ NHÂN QUYỀN, XIN MỸ CẮT
THƯƠNG MẠI VỚI VIỆT NAM, trong ý tưởng cấm vận vì lý do Nhân quyền trống
trải. Một số Vị đã nại ra Lập trường của Hoa kỳ trong cuộc họp ở Hạ Uy
Di mà TT.Obama tuyên bố với Trung quốc. Thực ra, trong cuộc họp tại Hạ
Uy Di, khi TT.Obama tuyên bố những điều kiện hội nhập vùng Tự do Mậu
dịch xuyên Thái Bình Dương, đó chỉ là trong bối cảnh Trung quốc muốn
loại Hoa kỳ ra khỏi Hiệp hội trong vùng này để Trung quốc thống trị.
Ngày 24.11.2011, chúng tôi đã viết như
sau:
“APEC
mới họp ngày 12/13.11.2011. Theo nhận định của Tác giả Donald EMMERSON,
thì Trung quốc muốn nhấn mạnh đến một Tổ chức Đông Á gồm các quốc gia
Đông Nam Á và Trung quốc, Nhật, Nam Hàm thêm vào, nghĩa là không có Hoa
kỳ. Nhưng trong cuộc Họp APEC vừa qua tại Hạ Uy Di, lợi dụng vấn đề An
Ninh chung Thái Bình Dương, nhất là vấn đề Biển Đông, Hoa kỳ đề nghị một
Hiệp ước rộng lớn hơn gọi là Hiệp Hội Xuyên Thái Bình Dương
(Trans-Pacific Partnership TTP). Các quốc gia Vùng Thái Bình Dương, vì
vấn đề An Ninh, cần sự hiện diện của Hoa kỳ, một quốc gia ưu thế về quân
sự. Khi Hoa kỳ đặt Căn cứ
quân sự tại Uc cũng trong ý hướng an ninh Thái Bình dương này, nhằm
giảm mối đe dọa về an ninh từ Trung quốc.
Hoa
kỳ không minh nhiên loại Trung quốc ra khỏi Thị trường Tự do Mậu dịch
Thái Bình Dương, nhưng đặt những điều kiện khắt khe cho Hội viên của
Hiệp Hội, như:
=> Tự do Kinh doanh, nghĩa là dân chủ hóa Kinh tế. Chính trị không độc đoán nắm trọn sinh hoạt Kinh tế nữa.
=> Tôn trọng quyền lao động quốc tế
=> Tôn trọng bản quyền tư hữu trí tuệ
=> Tôn trọng Môi trường
=> Để Tỷ giá Tiền tệ uyển chuyển đối với Đo-la “
Khi
trong TNT, đưa điều kiện Nhân Quyền trống trải ra để yêu cầu TT.Obama
cắt Thương Mại với Việt Nam trong ý hướng cấm vận, thì đó là điều có thể
làm cho Quốc nội kết án chúng ta.
Hải ngoại tấn công Nhân Quyền cụ thể vào cái
QUYỀN SỐNG THÂN XÁC của dân nghèo
Trở lại câu hỏi LÀM THẾ NÀO HẢI NGOẠI TRỢ LỰC QUỐC NỘI TẤN CÔNG VÀO TỬ HUYỆT KINH TẾ CSVN ?
Một
số những Phong trào Hải ngoại quen với hai chữ Nhân Quyền. Chúng tôi
chỉ xin rằng, nếu tiếp tục đấu tranh cho Nhân Quyền tại Việt Nam, thì
nên đấu tranh trong những gì cụ thể sau đây:
1. Cái
Nhân quyền cụ thể nhất và tối ư quan trọng là QUYỀN SỐNG THÂN XÁC. Đòi
Nhân quyền trống trải trong những phạm trù Tự do, Dân chủ, thì CSVN co
dãn như chúng ta đánh vào tấm cao su. Có thể chính CSVN để cho chúng ta
tấn công vào tấm cao su để chúng tránh cái TỬ HUYỆT KINH TẾ. Vì vậy,
thay vì nói hai chữ Nhân quyền trống trải, chúng ta nên nói rõ rệt ra là
đấu tranh cho QUYỀN SỐNG của Dân nghèo đói khổ.
2. Thay
vì XIN các Chính quyền nước ngoài can thiệp với tà quyền CSVN để chúng
nới rộng Nhân quyền, thì chúng ta tấn công Nhân quyền bằng YÊU CẦU các
Chính quyền nước ngoài không được cấu kết với CSVN mà tước đoạt QUYỀN
SỐNG của Dân nghèo Việt Nam. Thay vì XIN thì chúng ta CÁO BUỘC các Chính
quyền tòng phạm với tội ác CSVN trong việc bóc lột dân nghèo.
3. Theo
sát với Chặng đấu tranh Kinh tế tại Quốc nội. Dân nghèo Việt Nam đang ở
chặng đấu tranh gay gắt là đòi quyền TƯ HỮU phương tiện tối thiểu để
làm ăn sinh sống thân xác. Khi CSVN tước đoạt phương tiện tối thiểu làm
ăn sinh sống của dân nghèo, tức là vi phạm vào cái Nhgân quyền cụ thể và
quan trọng nhất trong các quyền của con người. Tước đoạt phương tiện
làm ăn tối thiểu, tức là tước đoạt QUYỀN SỐNG THÂN XÁC, tức là giết
người bằng để ĐÓI vậy.
Thực
vậy, Nông dân nghèo cần miếng đất để trồng ngô khoai mà sống. Cưỡng chế
chiếm đất trồng cấy, cúp túp lều che nắng mưa của dân nghèo, tức là vi
phạm Nhân quyền trầm trọng. Các Phong trào Dân Oan tại Quốc nội đang đòi
Nhân quyền cụ thể: giữ lại TƯ HỮU đất đai là phương tiện nuôi thân. Đói
với giới Công nhân, sức Lao động là TƯ HỮU không thể tách rời với thân
xác họ. Khi khai thác, bóc lột sức Lao động của Công nhân, tức là phạm
vào quyền TƯ HỮU tối thượng của họ. Công nhân tại Việt Nam cũng đang
đứng lên đấu tranh để sức Lao động của họ được tôn trọng. Họ cho thuê
sức Lao động,
thì phải có sự thỏa thuận của hai bên, chứ không thể bịt miệng Lao
động, gùm cổ họ bán cho tài phiệt nước ngoài như thời La Mã bán nô lệ.
Giới Nông dân bị nhà nước CSVN cưỡng chiếm đất đai là để bán cho tài
phiệt nước ngoài. Sức Lao động của Công nhân bị CSVN gùm cổ lôi đi, cũng
là để bán với giá rẻ cho những Công ty nước ngoài. Đối với Nông dân và
Công nhân, đây là tình trạng bị cưỡng ép làm mất Nhân quyền tối thượng
do sự CẤU KẾT KHAI THÁC giữa CSVN và tài phiệt nước ngoài. Những tài
phiệt này đến từ đâu ? Họ đến từ Mỹ, Pháp, Uùc, Nhật, Đại Hàn, Đài Loan,
Tân Gia Ba, Mã Lai Á…
Khi
chúng tối nói TẤN CÔNG NHÂN QUYỀN là chúng tôi muốn CÁO BUỘC sự cấu kết
của nước ngoài với CSVN để bóc lột hai quyền TƯ HỮU tối ư cần thiết cho
Nông dân và Công nhân để có QUYỀN SỐNG thân xác. Chúng ta không XIN XỎ
các Chính quyền nước ngoài làm ơn can thiệp với CSVN để Nhân quyền được
nối rộng cho dân Việt Nam, mà chúng ta YÊU CẦU các Chính quyền nước
ngoài ngăn cấm đám tài phiệt của nước họ đến Việt Nam cấu kết với Cộng
sản độc tài để tước đoạt QUYỀN SỐNG của dân nghèo.
Cụ thể, từ Hải ngoại, chúng ta mở những Phong trào lên tiếng để:
=> Nông dân Việt Nam có NGHIỆP ĐOÀN NÔNG DÂN ĐỘC LẬP đấu tranh cho những quyền của Nông dân, nhất là quyền TƯ HỮ đất đai, phương tiện thiết cần để sinh sống.
=> Công nhân Việt Nam có NGHIỆP ĐOÀN CÔNG NHÂN ĐỘC LẬP đấu tranh cho sức Lao động của họ khỏi bị bóc lột.
Nếu
Hải ngoại muốn hỗ trợ cuộc đấu tranh Kinh tế cho Quốc nội, thì các
Phong trào lên tiếng đòi các Chính quyền nước ngoài phải yêu cầu CSVN
cho thành lập những NGHIỆP ĐOÀN ĐỘC LẬP cho Nông dân và Công nhân, đồng
thời YÊU CẦU các Chính quyền nước ngoài ngăn cấm những tài phiệt của
nước họ đến Việt Nam vi phạm vào Nhân quyền tối thượng là cướp bóc QUYỀN
SỐNG của dân nghèo.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 10.05.2012
Web: http://VietTUDAN.net
SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN
Sổ Tay Thường Dân Tưởng Năng Tiến: Chuyện Ông Điếu Cầy & Ông Thái Bát
(05/15/2012
Tôi
có chút giao tình với nhà văn Vũ Thư Hiên. Mối giao tình này, nói nào
ngay, không đậm đà (hay mặn mà) gì cho lắm. Chúng tôi chả có điểm nào
tâm đầu ý hiệp, ngoài việc đều có thời gian sống ở “chiến khu” – hay nói
theo ngôn ngữ đời thường là cùng ... bị ở tù!
Bởi thế, mỗi khi có dịp gặp nhau (sau khi đã cạn mấy ly đầy, rồi đầy vài ly cạn) thế nào cả hai cũng huyên thuyên về những chuyện “ở chiến khu.” Có lần, tôi nghe ông nói nói đến một người tù có tên Thái Bát. Nhân vật này là một tù nhân số lẻ – nghĩa là tù chính trị, thuộc diện tập trung cải tạo – loại tù không án, cứ cải tạo tốt là (automatic) được cho về nhà (đuổi gà) giúp vợ thôi.
Thử nghe nguyên chơi (nguyên văn) một mẩu chuyện trao đổi giữa hai ông, Vũ Thư Hiên và Nguyễn Thái Bát, ở trại tù Tân Lập:
“- Bác làm sao bị bắt ?
Ông già nấc lên từng chặp.
- Tôi theo cách mạng cướp chính quyền, cũng đã làm thôn đội rồi xã đội một hồi kháng chiến chống Pháp... Tôi theo cụ Hồ, sao, ông không tin hở ?
- Tôi tin chứ.
- Sau, hòa bình lập lại rồi, tôi nghỉ. Mọi sự khốn khó bắt đầu từ đấy.
- Người ta bảo bác bất mãn?
- Không. Nhưng ở chế độ ta không làm cán bộ nữa là hết, thì người ta không tin mình nữa, không còn coi trọng mình nữa. Mà làm dân thì, ối giời ơi, khổ lắm, khổ đủ đường, ông chắc cũng biết, có cần kể cho ông nghe không ?
- Không cần.
- Cho nên các cháu nhà tôi đều nhao đi làm cán bộ. Thằng cả chưa đủ tuổi xung phong đi bộ đội. Con bé sau nó xin làm chân văn thư cho ủy ban xã không được, xin làm công an xã. Rồi nó được cảm tình Đảng...
- Tiến bộ quá !
- Tiến bộ gì. Con bé nhà tôi năm nay hăm nhăm rồi. Vẫn chưa chồng. Khốn nạn, nó xinh, ông ạ. Mắt đen lay láy, mà nhanh lắm. Má lúm đồng tiền. Da cứ trắng hồng. Nó trông mẹ nó, như lột. Ông nấc lên, kéo vạt áo lau mắt.
- Cô ấy làm sao ?
- Chẳng làm sao cả - ông mếu máo - thằng công an xã, chi ủy viên, cứ gọi nó đi hội ý hội báo, bồi dưỡng... Rồi con bé nhà tôi phễnh bụng ra.
- ...
- Tôi phẫn chí. Chưa ai biết cả, nhưng bà nhà tôi biết, tôi biết. Tôi uống rượu, say rồi, tôi chửi cha chúng nó, chửi cả lò nhà chúng nó ...
- Chết thật !
- Đến khi làng phong phanh biết con tôi chửa hoang, thì tôi chửi cả cái Đảng của chúng nó...
- Chậc chậc, khiếp quá ! Sao bác dại thế ?
- Không chửi để cho chúng nó muốn làm gì thì làm à ? Đảng gì mà họp thì thọt, bồi dưỡng đảng viên mới gì mà cứ tối đến mới í ới gọi nhau đi bồi dưỡng, bồi dưỡng cái mả cha chúng bay à ?!
Bởi thế, mỗi khi có dịp gặp nhau (sau khi đã cạn mấy ly đầy, rồi đầy vài ly cạn) thế nào cả hai cũng huyên thuyên về những chuyện “ở chiến khu.” Có lần, tôi nghe ông nói nói đến một người tù có tên Thái Bát. Nhân vật này là một tù nhân số lẻ – nghĩa là tù chính trị, thuộc diện tập trung cải tạo – loại tù không án, cứ cải tạo tốt là (automatic) được cho về nhà (đuổi gà) giúp vợ thôi.
Thử nghe nguyên chơi (nguyên văn) một mẩu chuyện trao đổi giữa hai ông, Vũ Thư Hiên và Nguyễn Thái Bát, ở trại tù Tân Lập:
“- Bác làm sao bị bắt ?
Ông già nấc lên từng chặp.
- Tôi theo cách mạng cướp chính quyền, cũng đã làm thôn đội rồi xã đội một hồi kháng chiến chống Pháp... Tôi theo cụ Hồ, sao, ông không tin hở ?
- Tôi tin chứ.
- Sau, hòa bình lập lại rồi, tôi nghỉ. Mọi sự khốn khó bắt đầu từ đấy.
- Người ta bảo bác bất mãn?
- Không. Nhưng ở chế độ ta không làm cán bộ nữa là hết, thì người ta không tin mình nữa, không còn coi trọng mình nữa. Mà làm dân thì, ối giời ơi, khổ lắm, khổ đủ đường, ông chắc cũng biết, có cần kể cho ông nghe không ?
- Không cần.
- Cho nên các cháu nhà tôi đều nhao đi làm cán bộ. Thằng cả chưa đủ tuổi xung phong đi bộ đội. Con bé sau nó xin làm chân văn thư cho ủy ban xã không được, xin làm công an xã. Rồi nó được cảm tình Đảng...
- Tiến bộ quá !
- Tiến bộ gì. Con bé nhà tôi năm nay hăm nhăm rồi. Vẫn chưa chồng. Khốn nạn, nó xinh, ông ạ. Mắt đen lay láy, mà nhanh lắm. Má lúm đồng tiền. Da cứ trắng hồng. Nó trông mẹ nó, như lột. Ông nấc lên, kéo vạt áo lau mắt.
- Cô ấy làm sao ?
- Chẳng làm sao cả - ông mếu máo - thằng công an xã, chi ủy viên, cứ gọi nó đi hội ý hội báo, bồi dưỡng... Rồi con bé nhà tôi phễnh bụng ra.
- ...
- Tôi phẫn chí. Chưa ai biết cả, nhưng bà nhà tôi biết, tôi biết. Tôi uống rượu, say rồi, tôi chửi cha chúng nó, chửi cả lò nhà chúng nó ...
- Chết thật !
- Đến khi làng phong phanh biết con tôi chửa hoang, thì tôi chửi cả cái Đảng của chúng nó...
- Chậc chậc, khiếp quá ! Sao bác dại thế ?
- Không chửi để cho chúng nó muốn làm gì thì làm à ? Đảng gì mà họp thì thọt, bồi dưỡng đảng viên mới gì mà cứ tối đến mới í ới gọi nhau đi bồi dưỡng, bồi dưỡng cái mả cha chúng bay à ?!
Nhà Báo Tự Do Nguyễn Văn Hải. (Ảnh: blogdieucay)
Rác tai quá, bí thư xã, chủ tịch xã cho
con gái ông đi dự lớp huấn luyện, kỳ thực là đi phá thai. Ông biết, ông
cấm con gái ông phá. Cái thai nó tội tình gì ? Nó cũng là một con người
chứ. Nó chưa ra đời. Nó chưa làm hại ai. Nó không như cái quân chó dái
chạy nhông, quân ăn cứt uống đái làm hại đồng bào. Không được phá thai,
cứ đẻ ra tao nuôi, giết cái thai là bất nhân, là vô đạo, ông trói con và
chân giường mà dạy. Nhưng con ông xấu hổ, không nghe ông, cứ đi phá
thai. Ông uống rượu nhiều hơn nữa, chửi dữ hơn nữa.
Tóm lại, ông Bát chửi sướng miệng thì thôi. Còn những đứa bị ông chửi thì thù ông mục mả. Trưởng công an xã báo cáo công an huyện. Công an huyện lập hồ sơ. Cứ mỗi lần ông Bát chửi là một lần công an xã báo cáo, mỗi lần báo cáo được gửi lên là hồ sơ tên phản động Nguyễn Thái Bát lại dày thêm một chút. Cho tới ngày người ta bắt ông đi cải tạo về tội tuyên truyền phản động, chống Đảng, chống chế độ.” (Vũ Thư Hiên, Đêm Giữa Ban Ngày. California:Văn Nghệ, 1997).
Với tội danh này, chả trách, ông Thái Bát đã chết rục trong tù – vẫn theo như lời kể của nhà văn Vũ Thư Hiên:
“Ông chết vào ngày Quốc Khánh, cái ngày mà ông Bát đã đi cướp chính quyền năm bốn lăm... Xác ông được đưa xuống trạm xá chờ cán bộ trại mang hồ sơ xuống xác nhận chính là tên phản động Nguyễn Thái Bát đã chết chứ không phải tên nào khác.
Khi cửa các phòng giam đã khóa lại rồi, tôi cứ ngồi bên cửa sổ mà nhìn về phía trạm xá. Trời tối hẳn mới thấy nghe tiếng búa nện chan chát trên ván thiên - dấu chấm hết cho một kiếp người...”
Ông Thái Bát đã chết rồi nhưng dòng đời , tất nhiên, vẫn lạnh lùng trôi. Và những kẻ “tuyên truyền phản động, nói xấu Đảng và chế độ” (đương nhiên) vẫn phải tiếp tục vào tù.
Mới đây – theo RFA, nghe được vào hôm 4 tháng 5 năm 2012 – mới có thêm ba công dân Việt Nam nữa (ông Nguyễn văn Hải, ông Phan Văn Hải và bà Tạ Phong Tần ) vừa “bị khởi tố với tội danh xuyên tạc sự thật, nói xấu Đảng và Nhà nước... Cả ba người bị xét xử theo điều 88 Bộ Luật hình sự Việt Nam, mà mức án cao nhất lên đến 20 năm tù giam...”
Tôi không rõ là bà Tạ Phong Tần và ông Phan Thanh Hải đã nói năng linh tinh ra sao khiến Đảng và Nhà Nước phải phiền lòng đến thế? Riêng ông Nguyễn Văn Hải, theo như tôi biết, không phải là người hay nói. Ông ấy không được đào tạo để trở thành luật gia hay luật sư như hai người bạn chung vụ. Vốn xuất thân là một người lính, ông Hải có khuynh hướng hành động hơn là luận thuyết.
Bản tin thượng dẫn còn có thêm chi tiết là: “Trước khi bị bắt hồi năm 2008, blogger Điếu Cày - Nguyễn Văn Hải từng tham gia những cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.”
Tóm lại, ông Bát chửi sướng miệng thì thôi. Còn những đứa bị ông chửi thì thù ông mục mả. Trưởng công an xã báo cáo công an huyện. Công an huyện lập hồ sơ. Cứ mỗi lần ông Bát chửi là một lần công an xã báo cáo, mỗi lần báo cáo được gửi lên là hồ sơ tên phản động Nguyễn Thái Bát lại dày thêm một chút. Cho tới ngày người ta bắt ông đi cải tạo về tội tuyên truyền phản động, chống Đảng, chống chế độ.” (Vũ Thư Hiên, Đêm Giữa Ban Ngày. California:Văn Nghệ, 1997).
Với tội danh này, chả trách, ông Thái Bát đã chết rục trong tù – vẫn theo như lời kể của nhà văn Vũ Thư Hiên:
“Ông chết vào ngày Quốc Khánh, cái ngày mà ông Bát đã đi cướp chính quyền năm bốn lăm... Xác ông được đưa xuống trạm xá chờ cán bộ trại mang hồ sơ xuống xác nhận chính là tên phản động Nguyễn Thái Bát đã chết chứ không phải tên nào khác.
Khi cửa các phòng giam đã khóa lại rồi, tôi cứ ngồi bên cửa sổ mà nhìn về phía trạm xá. Trời tối hẳn mới thấy nghe tiếng búa nện chan chát trên ván thiên - dấu chấm hết cho một kiếp người...”
Ông Thái Bát đã chết rồi nhưng dòng đời , tất nhiên, vẫn lạnh lùng trôi. Và những kẻ “tuyên truyền phản động, nói xấu Đảng và chế độ” (đương nhiên) vẫn phải tiếp tục vào tù.
Mới đây – theo RFA, nghe được vào hôm 4 tháng 5 năm 2012 – mới có thêm ba công dân Việt Nam nữa (ông Nguyễn văn Hải, ông Phan Văn Hải và bà Tạ Phong Tần ) vừa “bị khởi tố với tội danh xuyên tạc sự thật, nói xấu Đảng và Nhà nước... Cả ba người bị xét xử theo điều 88 Bộ Luật hình sự Việt Nam, mà mức án cao nhất lên đến 20 năm tù giam...”
Tôi không rõ là bà Tạ Phong Tần và ông Phan Thanh Hải đã nói năng linh tinh ra sao khiến Đảng và Nhà Nước phải phiền lòng đến thế? Riêng ông Nguyễn Văn Hải, theo như tôi biết, không phải là người hay nói. Ông ấy không được đào tạo để trở thành luật gia hay luật sư như hai người bạn chung vụ. Vốn xuất thân là một người lính, ông Hải có khuynh hướng hành động hơn là luận thuyết.
Bản tin thượng dẫn còn có thêm chi tiết là: “Trước khi bị bắt hồi năm 2008, blogger Điếu Cày - Nguyễn Văn Hải từng tham gia những cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.”
Từ
trái qua phải: Song Chi, Phương Thi, Trăng Đêm, Điếu Cày, Huỳnh Công
Thuận, Bùi Chát và Đông A SG. (Ảnh: Blog cũ Nguyễn Tiến Trung. Chú
thích: SC.)
Thì ra thế!
Và nếu đúng thế thì vụ này (e) sẽ lôi thôi lắm, lôi thôi lâu, và chắc chắn là sẽ lôi thôi lớn. Tuy ông Điếu Cầy không uống rượu say rồi chửi “mục mả” chúng nó ra, hay rủa xả chúng là “quân ăn cứt uống đái làm hại đồng bào” (như ông Thái Bát) nhưng việc ông tham gia những cuộc biểu tình chống Trung Quốc cũng gây phương hại không kém cho sĩ diện của qúi vị lãnh tụ Đảng và Nhà Nước.
Theo quan niệm chính thống của Nhà Nước thì “Bác Hồ ta đó chính là bác Mao.” Do đó, chống Trung Quốc (chống lãnh tụ vĩ đại của nhân dân nước bạn) là bêu xấu chính bác Hồ kính yêu của chúng ta – chớ còn chối cãi gì nữa?
Hơn thế nữa, theo tường thuật của nhà báo Thế Vinh (Báo Năng lượng Mới số 117 ra ngày 4/5/201) thì “Chính Nguyễn Văn Hải cùng các thành viên trong đó có Phan Thanh Hải và Tạ Phong Tần đã lợi dụng các sự kiện chính trị, tổ chức và tham gia các cuộc biểu tình gọi là chống Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa – Trường Sa và tẩy chay Olympic Bắc Kinh rước đuốc qua TP HCM vào các ngày 9/122007, 16/12/2007 và 19/1/2008 tại TP HCM.”
Thiệt là hết thuốc!
Ta vốn coi “bên kia biên giới là nhà bên này bên kia biên giới cũng là quê hương” mà Điếu Cầy hành sử như vậy thì coi sao được chớ. Với Chủ Trương Bốn Tốt và Phương Châm Mười Sáu Chữ Vàng thì Tầu với Ta – tính ra – như một mà. Chả trách, ngoài tội “xuyên tạc sự thật, nói xấu Đảng và Nhà nước” – nhà báo Thế Vinh còn thay mặt ngành tư pháp Việt Nam kết án công dân bất hảo Nguyễn Văn hải thêm hai tội danh nữa: xúi dục biểu tình và phá rối trị an.
Điếu Cầy phen này chắc chết (chết chắc) trong tù, y như cái ông Thái Bát năm xưa thôi. Ở tuổi 60 làm sao người tù Điếu cầy có thể sống sót được (thêm mươi hay hai mươi năm nữa) trong trại giam của những người cộng sản?
Đây, rõ ràng, là một câu hỏi khó. Tuy nhiên, nó chưa khó bằng câu hỏi tiếp theo: Làm thế nào để chế độ hiện hành có thể kéo dài thêm mười hay hai mươi năm nữa mà lo (chi) cho sinh mạng của Điếu Cầy?
Tưởng Năng Tiến, RFAs Blog
Và nếu đúng thế thì vụ này (e) sẽ lôi thôi lắm, lôi thôi lâu, và chắc chắn là sẽ lôi thôi lớn. Tuy ông Điếu Cầy không uống rượu say rồi chửi “mục mả” chúng nó ra, hay rủa xả chúng là “quân ăn cứt uống đái làm hại đồng bào” (như ông Thái Bát) nhưng việc ông tham gia những cuộc biểu tình chống Trung Quốc cũng gây phương hại không kém cho sĩ diện của qúi vị lãnh tụ Đảng và Nhà Nước.
Theo quan niệm chính thống của Nhà Nước thì “Bác Hồ ta đó chính là bác Mao.” Do đó, chống Trung Quốc (chống lãnh tụ vĩ đại của nhân dân nước bạn) là bêu xấu chính bác Hồ kính yêu của chúng ta – chớ còn chối cãi gì nữa?
Hơn thế nữa, theo tường thuật của nhà báo Thế Vinh (Báo Năng lượng Mới số 117 ra ngày 4/5/201) thì “Chính Nguyễn Văn Hải cùng các thành viên trong đó có Phan Thanh Hải và Tạ Phong Tần đã lợi dụng các sự kiện chính trị, tổ chức và tham gia các cuộc biểu tình gọi là chống Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa – Trường Sa và tẩy chay Olympic Bắc Kinh rước đuốc qua TP HCM vào các ngày 9/122007, 16/12/2007 và 19/1/2008 tại TP HCM.”
Thiệt là hết thuốc!
Ta vốn coi “bên kia biên giới là nhà bên này bên kia biên giới cũng là quê hương” mà Điếu Cầy hành sử như vậy thì coi sao được chớ. Với Chủ Trương Bốn Tốt và Phương Châm Mười Sáu Chữ Vàng thì Tầu với Ta – tính ra – như một mà. Chả trách, ngoài tội “xuyên tạc sự thật, nói xấu Đảng và Nhà nước” – nhà báo Thế Vinh còn thay mặt ngành tư pháp Việt Nam kết án công dân bất hảo Nguyễn Văn hải thêm hai tội danh nữa: xúi dục biểu tình và phá rối trị an.
Điếu Cầy phen này chắc chết (chết chắc) trong tù, y như cái ông Thái Bát năm xưa thôi. Ở tuổi 60 làm sao người tù Điếu cầy có thể sống sót được (thêm mươi hay hai mươi năm nữa) trong trại giam của những người cộng sản?
Đây, rõ ràng, là một câu hỏi khó. Tuy nhiên, nó chưa khó bằng câu hỏi tiếp theo: Làm thế nào để chế độ hiện hành có thể kéo dài thêm mười hay hai mươi năm nữa mà lo (chi) cho sinh mạng của Điếu Cầy?
Tưởng Năng Tiến, RFAs Blog
NGUYỄN THIÊN THỤ * ĐẠP ĐỔ CỔNG TRƯỜNG
Hình ảnh cánh cổng Trường PTCS Thực Nghiệm (Hà
Nội) đổ sập vì mấy trăm phụ huynh chen lấn giành giật suất mua một tờ
đơn xin học cho con chắc sẽ còn ám ảnh nhiều người.Xắn ống quần, đạp đổ cổng trường để chen chân mua hồ sơ - Ảnh: Nam Khánh |
ĐẠP ĐỔ CỔNG TRƯỜNG
NGUYỄN THIÊN THỤ
Một tin rất nhỏ nhưng được báo chí trong và ngoài nuớc loan tin. Báo Tuổi Trẻ viết: Nhân dân thành phố Hà Nội đã đạp đổ cổng trường Phổ Thông Cơ Sở Hà Nội:
Cảnh trắng đêm chờ xin suất học mẫu giáo cho con năm
ngoái, năm kia tưởng sẽ thành thứ ký ức sợ hãi, nhưng hóa ra lại khiến
phụ huynh thêm kinh nghiệm khi “săn” cho con suất vào lớp 1.
Dù nhà trường bảo 6g mới bán đơn, dù nói rõ không có
ngoại lệ, xếp hàng trước không tính... thì cả trăm người vẫn có mặt từ
đêm trước, vật vờ vỉa hè, ngủ luôn tại chỗ với tâm niệm “có công, có sức
kiểu gì cũng được đáp đền”.
Cái đáng lo vượt trên nỗi lo quá tải thông thường đó là
sự chật hẹp của tư duy nhà quản lý. Sau hôm xô đổ cánh cổng trường thực
nghiệm, tưởng như con đường đến tương lai của những đứa trẻ non nớt mới
vừa 6 tuổi đã mở toang, phụ huynh vẫn phải lặp lại cảnh chen lấn dưới
cánh cổng mau mắn được dựng lại. Nói công bằng cũng có một cải cách nho
nhỏ: chỉ cho năm người vào một lần dưới sự giám sát nghiêm ngặt của lực
lượng bảo vệ và cả... công an. Sự “đổi mới” rụt rè này chỉ bảo đảm cho
cánh cổng trường thực nghiệm không đổ thêm lần nữa, chứ làm sao giải tỏa
cơn khát và ước mơ bước vào tương lai được hanh thông của những người
thức trắng đêm hi vọng với đến một tờ đơn xin nhập học?
ttp://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Thoi-su-suy-nghi/491700/Khi-canh-cong-truong
Đài RFA ghi: Phía sau cánh cổng đổ (Mặc Lâm, biên tập viên RFA Bangkok, 2012-05-17)
Đài RFA ghi: Phía sau cánh cổng đổ (Mặc Lâm, biên tập viên RFA Bangkok, 2012-05-17)
Sự việc cánh cổng sắt của trường PTCS Thực Nghiệm phố Liễu Giai
Hà Nội bị sụp đổ do phụ huynh chen lấn nộp đơn xin nhập học cho con đang
được người trong và ngoài giới giáo dục lo ngại.
Mỗi năm cứ đến ngày đầu niên khóa cần nộp đơn nhập học cho con trong
hạn tuổi mầm non, mẫu giáo hay lớp một tại các trường chuyên hay danh
tiếng là một ngày thực sự được xem là ác mộng của nhiều bậc phụ huynh. Ác mộng của việc xếp hàng
Cảnh phải xếp hàng từ tối để đến sáng sớm hôm sau khi cổng trường
vửa mở lập tức hàng ngàn người ào vào lấy đơn, điền vội vã và đóng các
loại lệ phí cho con mình kịp nhập học trong năm mới diễn ra lập đi lập
lại hàng chục năm nay nhưng chưa có dấu hiệu cải tiến nào nhằm giúp
cho phụ huynh bớt gian nan trong ngày đầu con đi học.
Năm nay tình hình xem ra tệ hại hơn khi cánh cổng trường PTCS Thực Nghiệm bị hàng ngàn người chen lấn nhau đến nỗi cánh cổng sắt cứng cáp phải đổ rạp xuống đất vào đêm 12 rạng 13 tháng 5 vừa qua.
Năm nay tình hình xem ra tệ hại hơn khi cánh cổng trường PTCS Thực Nghiệm bị hàng ngàn người chen lấn nhau đến nỗi cánh cổng sắt cứng cáp phải đổ rạp xuống đất vào đêm 12 rạng 13 tháng 5 vừa qua.
Khởi đầu, đảng cộng sản không có đề cương về giáo dục. Trong"Tư bản luận", Marx chỉ trích kinh tế tư bản, và trong "Tuyên ngôn Đảng cộng sản", Marx kêu gọi tiêu diệt thượng tầng kiến trúc văn hóa cũ, tịch thu tài sản tư bản, bắt nhân dân lao động cưỡng bách.. .Trong các chính sách cộng sản về sau, chúng ta mới thấy rõ nét về chính sách văn hóa cộng sản, và chính sách văn hóa cộng sản bộc lộ đường lối giáo dục cộng sản.
Cộng sản chủ trương tiêu diệt thượng tầng kiến trúc xã hội cũ nghĩa là tiêu diệt các triết lý cũ trước Marx và các học thuyết đồng thời với Marx. Nói rộng ra là chống mọi tư tưởng, sách báo, phong tục, tập quán, văn hóa, nghệ thuật cũ, trong đó có nền giáo dục cũ.
Mặc dầu cộng sản nói tiếp thu văn hóa cũ nhưng thực tế là đánh phá tất cả. Hành động đốt sách, phá chùa chiền, đền miếu,nhà thờ, giết hại và bỏ tù các văn nghệ sĩ của Mao và Hồ hoàn toàn trái với chủ trương đầu môi "tiếp thu văn hóa cũ". Hồ Chí Minh chủ trương "trung với đảng hiếu với dân" là muốn phá bỏ trật tự gia đình xã hội cũ, và thay vào đó là thói " sùng bái lãnh tụ" và " mù quáng tín ngưỡng tôn giáo cộng sản!"
Cái
chủ trương này chính là "mộng", là đường lối cộng sản do Marx đề xướng.
Trước khi có học thuyết Marx, các nhà tư tưởng như Phật Thích Ca, Khổng
tử, Aristote và nhiều nhà tư tưởng khác như các tu sĩ Thiên chúa
giáo, các triết gia đồng thời với Marx đã nghĩ đến công bình xã hội, từ
bi, bác ái, giúp đỡ người nghèo, già yếu, bệnh tật.
Tất cả đường lối nhân bản này được gọi chung là đường lối xã hội, hay chủ nghĩa xã hội. Riêng Marx thì chỉ trích tất cả là lạc hậu, phản động, chỉ có thuyết của ông là khoa học, đem lại lợi ích thiết thực bằng cách lấy của nhà giàu, bãi bỏ tư hữu, mọi tài sản là của chung của nhân dân. Vì chủ trương bãi bỏ tư hữu, tài sản là của chung cho nên mới gọi là cộng sản.
Tất cả đường lối nhân bản này được gọi chung là đường lối xã hội, hay chủ nghĩa xã hội. Riêng Marx thì chỉ trích tất cả là lạc hậu, phản động, chỉ có thuyết của ông là khoa học, đem lại lợi ích thiết thực bằng cách lấy của nhà giàu, bãi bỏ tư hữu, mọi tài sản là của chung của nhân dân. Vì chủ trương bãi bỏ tư hữu, tài sản là của chung cho nên mới gọi là cộng sản.
Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối giáo dục Cộng sản là Dân tộc, khoa học và đại chúng trong Đề cương về văn hóa Việt Nam
từ năm 1943. Ba nguyên tắc đó đã chỉ đạo công tác giáo dục.Sau được sắc lệnh 146/SL ngày 10 - 8 -
1946 khẳng định là “3 nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục mới”.
Ba nguyên tắc này chỉ là dối trá. Nền văn học, nghệ thuật giáo dục cộng sản là theo chủ nghĩa Marx, chú trọng đấu tranh giai cấp, đánh phá thượng tầng kiến trúc cũ. Họ kết tội tổ tiên là phong kiến, và kết tội tất cả vua quan.
Trong lịch sử dân tộc, họ chỉ dạy lịch sử cộng sản và thơ văn Hồ Chí Minh, Tố Hữu. Ngoài đảng cộng sản thì dân tộc Việt Nam trước đó không có đấu tranh bảo vệ độc lập và xây dựng văn chương, nghệ thuật.
Ba nguyên tắc này chỉ là dối trá. Nền văn học, nghệ thuật giáo dục cộng sản là theo chủ nghĩa Marx, chú trọng đấu tranh giai cấp, đánh phá thượng tầng kiến trúc cũ. Họ kết tội tổ tiên là phong kiến, và kết tội tất cả vua quan.
Trong lịch sử dân tộc, họ chỉ dạy lịch sử cộng sản và thơ văn Hồ Chí Minh, Tố Hữu. Ngoài đảng cộng sản thì dân tộc Việt Nam trước đó không có đấu tranh bảo vệ độc lập và xây dựng văn chương, nghệ thuật.
Đấu
tranh giai cấp, vô sản chuyên chính, giết sạch hơn bỏ sót là hoàn toàn
trái với văn hóa Việt Nam. Gây ra cuộc tàn sát, con đấu cha, vợ tố
chồng, làng xóm vu khống nhau là trái với nhân bản của loài người và đạo
đức dân tộc Việt Nam.
Về
khoa học thì phe cộng sản hoàn toàn yếu kém. Marx đề cao khoa học nhưng
tất cả luận điểm của Marx là phản khoa học. Triết thuyết của Marx là
duy tâm, không có chứng minh, không có khách quan, nói một đàng làm một
nẻo.
Marx cho rằng lịch sử loài ngoài phải trải qua năm giai đoạn phát triển: (1). cộng sản nguyên thủy (2).Bộ lạc (3). Quân chủ (4). Tư bản (5). Cộng sản.
Marx cho rằng lịch sử loài ngoài phải trải qua năm giai đoạn phát triển: (1). cộng sản nguyên thủy (2).Bộ lạc (3). Quân chủ (4). Tư bản (5). Cộng sản.
Nhưng nhiều quốc gia không theo cộng sản, và nhiều cộng đồng vẫn ở vào thời kỳ nguyên thủy hay bộ lạc.
Marx
cho rằng xã hội luôn luôn luôn thay đổi, cái mới phủ định cái cũ, thế
sao sau chủ nghĩa cộng sản thì không có chủ nghĩa nào khác ư?
Marx
nói xã hội luôn đi lên mà chưa gì chủ nghĩa cộng sản đã biến mất ở châu
Âu, và tại Châu Á, chủ nghĩa cộng sản biến thái với hình thức tử bản
đỏ, loại bỏ tính chất dân chủ và xã hội trong quốc gia (trong khi các
nước tư bản rất dân chủ và có nhiều tính chất xã hội).
Marx
cho rằng chủ nghĩa cộng sản là tất yếu. khách quan và khoa học. . Nước
100 độ sôi thì không ông khoa học nào và quốc gia nào lại bảo nước sôi
90 hay 130 độ.
Marx bảo xã hội loài người phải tiến lên theo năm giai đoạn, như đã nói, nhưng Lenin lại chủ trương bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản. Từ Marx qua Lenin, từ Stalin qua Trotsky, và từ Mao qua Đặng Tiểu Bình tư tưởng luôn khác biệt vào tạo ra chém giết sao lại gọi là khoa học? Như vậy là thuyết của Marx không khoa học, không khách quan và không tất yếu.
Nền giáo dục của cộng sản không khoa học khi cộng sản chủ trương khủng bố trí thức, cất nhắc công nông lên quản lý từ làng xã đến trung ương. Cộng sản phản khoa học khi chủ trương "hồng hơn chuyên" cho nên kết quả ngày nay là khoa học xuyên tâm liên, và tệ nạn bằng cấp giả tràn lan từ trung ương đến các ngành nghề...Cộng sản chỉ mượn danh công nông, còn thực tế toàn dân bị coi là kẻ thù bị bóc lột, khủng bố cho nên không thể gọi là đại chúng. Cộng sản ngày nay vì lợi ích bản thân, phe nhóm, hoàn toàn phản quốc hại dân cho nên nền giáo dục cộng sản không có tính dân tộc, khoa học và đại chúng, mà mang các tính chất xấu:
- hoang tưởng
- lừa dối
- chính sách ngu dân
- chủ nghĩa hình thức
-vô nhân bản.
Sau đây, chúng tôi sẽ nói rõ các điểm trên.
1. Hoang tưởng
Marx và các đồng chí ông nghĩ nông cạn rằng cướp của tư sản giết và cầm tù tư sản là hết kẻ bóc lột! Các ông sẽ tiêu diệt tư bản và xây dựng một xã hội tốt dẹp ngàn lần tư bản. Thực tế đó chỉ là hoang tưởng, cộng sản chỉ đem lại khổ đau cho nhân loại. Cộng sản đã giết hàng trăm triệu người, tàn bạo gấp mấy lần thực dân và phát xít.
Marx bảo xã hội loài người phải tiến lên theo năm giai đoạn, như đã nói, nhưng Lenin lại chủ trương bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản. Từ Marx qua Lenin, từ Stalin qua Trotsky, và từ Mao qua Đặng Tiểu Bình tư tưởng luôn khác biệt vào tạo ra chém giết sao lại gọi là khoa học? Như vậy là thuyết của Marx không khoa học, không khách quan và không tất yếu.
Nền giáo dục của cộng sản không khoa học khi cộng sản chủ trương khủng bố trí thức, cất nhắc công nông lên quản lý từ làng xã đến trung ương. Cộng sản phản khoa học khi chủ trương "hồng hơn chuyên" cho nên kết quả ngày nay là khoa học xuyên tâm liên, và tệ nạn bằng cấp giả tràn lan từ trung ương đến các ngành nghề...Cộng sản chỉ mượn danh công nông, còn thực tế toàn dân bị coi là kẻ thù bị bóc lột, khủng bố cho nên không thể gọi là đại chúng. Cộng sản ngày nay vì lợi ích bản thân, phe nhóm, hoàn toàn phản quốc hại dân cho nên nền giáo dục cộng sản không có tính dân tộc, khoa học và đại chúng, mà mang các tính chất xấu:
- hoang tưởng
- lừa dối
- chính sách ngu dân
- chủ nghĩa hình thức
-vô nhân bản.
Sau đây, chúng tôi sẽ nói rõ các điểm trên.
1. Hoang tưởng
Marx và các đồng chí ông nghĩ nông cạn rằng cướp của tư sản giết và cầm tù tư sản là hết kẻ bóc lột! Các ông sẽ tiêu diệt tư bản và xây dựng một xã hội tốt dẹp ngàn lần tư bản. Thực tế đó chỉ là hoang tưởng, cộng sản chỉ đem lại khổ đau cho nhân loại. Cộng sản đã giết hàng trăm triệu người, tàn bạo gấp mấy lần thực dân và phát xít.
Một khi nắm toàn bộ tài sản quốc gia, với hoang tưởng cái sau tốt hơn cái trước ( cái sau phủ định cái trước), do đó xã hội có bước nhảy vọt mà Lenin, Stalin, Mao đã lập nông trường, công trường với các kế hoạch năm, mười năm kết quả mấy chục triệu dân bị chết vì làm việc quá sức, thiếu thuốc men và thực phẩm. Đó là tai họa của hoang tưởng và ngu dôt của các lãnh tụ cộng sản.
Một khi chủ trương tài sản là của chung, thì vợ cũng là vợ chung, con cũng là con chung. Họ nghĩ rằng như thế là diệt tư hữu, diệt gia đình.
Lên trên nữa, xã hội không còn giai cấp, không còn vua quan, ai cũng là đồng chí, ai cũng có thể làm chủ tịch, tổng bí thư. Trong xã hội này thì đâu có quân thần, phụ tử, hôn nhân, cúng tế... Vì vậy mà ông Hồ chủ trương con không cần hiếu với cha mẹ mà phải biết tôn trọng lãnh tụ và đảng.
Tinh thần này y hệt tổ chức Phát xít, trường học là trại lính. Và Mao cũng đã cho nam nữ sống riêng từng khu. Thanh niên nào được bầu bình anh hùng lao động hay chiến sĩ thi đua thì cuối tuần hay cuối tháng được sang trại nữ vui với các nữ đồng chí. Xong rồi thôi. Con đẻ ra có đảng, có đoàn nuôi nấng dạy dỗ không cần gia đình, cha mẹ...
Cách giáo dục này tạo cho con cái coi khinh cha mẹ, vì việc này mà trẻ xã hội cộng sản dễ trở thành trẻ du côn, mất dạy từ trong trứng nước. Cái xã hội vô đạo đức khởi sự từ đây.
Cái hoang tưởng cộng sản đã cho Mao thấy đảng và Nhà nước bất lực. Ban đầu Mao ban lệnh đảng cung cấp phí tổn hôn nhân, sinh đẻ, chôn cất nhưng sau bãi bỏ.
Đó là hoang tưởng đưa đến tai họa cho nhân loại.
2. Dối trá
Chủ nghĩa Marx là hoang tưởng mà cũng là lường gạt. Cộng sản chủ trương tuyên truyền dối trá . Giáo dục cũng trở thành môi trường và vũ khí tuyên truyền , cho nên giáo dục cộng sản cũng như văn chương nghệ thuật đã trở thành công cụ giả dối của cộng sản trong canh bạc cứu quốc và giải phóng giai cấp bịp bợm của cộng sản.
Vì chú trọng tuyên truyền, lừa dối, cộng sản đề ra thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa, tô lục chuốt hồng cho xã hội tàn ác, lưu manh và độc tài của cộng sản. Vì đường lối văn học nghệ thuật này, cộng sản tạo ra một lớp văn nghệ sĩ nịnh hót, dối trá. Ngay trong quân sự, chính trị, ngoại giao, y tế, thương mại, pháp luật, xã hội, chỗ nào cũng là gian manh, lừa dối.Ai nói thực, ai trung trực là bị bắt giam hoặc chém giết. Xã hội cộng sản không có dân chủ và thành tín.
Cộng sản luôn nói dối và che đậy sự thật. Bởi vì Nguyễn Chí Thiện trong lớp học đã nói sự thật là do Mỹ thả hai quả bom nguyên tử vào Hiroshima và Nagasaki vào tháng 8-1945 mà Nhật đầu hàng, chấm dứt đệ nhị thế chiến , vì việc này,Nguyễn Chí Thiện bị giam. Vì tuyên truyền mà Trần Huy Liệu đã bịa ra vụ Lê Văn Tám, và cộng sản đàn em cũng đã thêu dệt nhân vật liệt sĩ Nguyễn Văn Bé, và nhiều nhân vật khác bắt học sinh ca tụng...Cộng sản đầu độc học sinh, sinh viên và thanh niên nam nữ, biến họ thành người máy, thành con vẹt, thành kẻ cuồng tín.
Cộng sản tuyên truyền xảo trá, dạy học sinh nói dối. Lớn lên, bệnh "làm láo báo cáo hay" phổ biến trong mọi ngành nghề. Phê và tự phê chính là dạy học sinh nói láo khi ca tụng lãnh tụ, và khi khai thành tích của mình.
Phê bình nhau, theo dõi thầy giáo chính là đường lối giáo dục tạo chia rẽ, hận thù và nịnh hót. Cộng sản chỉ trích Nho học trọng từ chương, xa thực tế, nhưng cộng sản chính là chuộng tuyên truyền, chuộng nói láo, thích nịnh hót. Những kẻ nịnh hót thì được địa vị cao, kẻ hiền lành thì bị thiệt thòi:
"Thằng làm thì đói,
Thằng nói thì no,
Thằng bò thì sướng".
3. Ngu dân.
Các
nước khác chú trọng tinh thần sáng tạo, cộng sản dạy nhồi sọ, bắt học
sinh học vẹt như lớp nào, năm nào cũng dạy đi dạy lại chủ nghĩa cộng
sản, ca tụng lãnh tụ, thơ văn Hồ Chí Minh và Tố Hữu.
Quốc gia ta, thế giới này có nhiều điều tốt đẹp nhưng chúng không cho học, cộng sản tạo ra một bức màn sắt ngăn đôi thế giới, không cho học sinh, sinh viên biết về thế giới bên ngoài, một thế giới đẹp đẽ hơn ngục tù cộng sản.
Cộng sản che đậy, thu ngắn tầm hiểu biết của học sinh, sinh viên. Đó chính là chính sách ngu dân, như chủ ngựa bịt mắt ngựa không để ngựa nhìn ra hai bên.
Quốc gia ta, thế giới này có nhiều điều tốt đẹp nhưng chúng không cho học, cộng sản tạo ra một bức màn sắt ngăn đôi thế giới, không cho học sinh, sinh viên biết về thế giới bên ngoài, một thế giới đẹp đẽ hơn ngục tù cộng sản.
Cộng sản che đậy, thu ngắn tầm hiểu biết của học sinh, sinh viên. Đó chính là chính sách ngu dân, như chủ ngựa bịt mắt ngựa không để ngựa nhìn ra hai bên.
Chính
sách ngu dân còn biểu lộ qua chủ trương vô sản chuyên chính, chọn thầy,
chọn trò theo lý lịch công nông. Thầy giáo dốt dạy học trò dốt ấy là chính sách
ngu dân. Thầy giáo, cô giáo phải dạy theo giáo án dù giáo án sai, học trò
viết theo sách giáo khoa thường được điểm cao hơn những trò có tinh
thần sáng tạo, biết suy nghĩ và phê bình.
Chính
sách ngu dân còn được biểu hiện qua báo chí, đài ca tụng những thành
tích phản khoa học như xuyên tâm liên trị bá bệnh, bèo hoa dâu là phân
bón tốt , phân bò khô cho trâu bò ăn thì mập mạp. Chính nền giáo dục
cộng sản tự bản thân nó đã là ngu dốt như cách dạy làm toán, cách dạy
viết lúc thì kiểu này, lúc thì kiểu kia làm cho học sinh khó hiểu, còn
giáo án, đề thi nhiều khi sai be sai bét.
Thầy dốt, ban lãnh đạo vô trách nhiệm thì làm sao dân trí tiến bộ. Chính sách ngu dân còn biểu hiện qua việc đưa những người ngu dốt lên làm hiệu trưởng, và đảng đoàn gồm những người dốt đeo nhãn hiệu thạc sĩ, tiến sĩ ma lên dạy học, lên lãnh đạo cho nên giáo dục suy đồi là phải.Từ trên xuống dưới, từ đầu cho đến hiện nay, đất nước Việt Nam đã là nô lệ Nga, Tàu, và các lãnh tụ là kẻ ngu đốt, tham lam, tàn ác. Những kẻ lãnh đạo như vậy, một đảng toàn những kẻ như vậy làm sao quốc gia, làm sao văn hóa, giáo dục không suy đồi?
Thầy dốt, ban lãnh đạo vô trách nhiệm thì làm sao dân trí tiến bộ. Chính sách ngu dân còn biểu hiện qua việc đưa những người ngu dốt lên làm hiệu trưởng, và đảng đoàn gồm những người dốt đeo nhãn hiệu thạc sĩ, tiến sĩ ma lên dạy học, lên lãnh đạo cho nên giáo dục suy đồi là phải.Từ trên xuống dưới, từ đầu cho đến hiện nay, đất nước Việt Nam đã là nô lệ Nga, Tàu, và các lãnh tụ là kẻ ngu đốt, tham lam, tàn ác. Những kẻ lãnh đạo như vậy, một đảng toàn những kẻ như vậy làm sao quốc gia, làm sao văn hóa, giáo dục không suy đồi?
4. Chủ nghĩa hình thức, không thực chất
Giáo dục cộng sản toàn là nói dối, lãng phí thời giờ trong việc ca tụng lãnh tụ, còn trẻ con Âu Mỹ từ lớp Vườn Trẻ đã được dạy nhiều điều hữu ích. Dạy trẻ ca tụng lãnh tụ, học triết lý Marx, bắt sinh viên học sinh đi thực tế, lập các lớp chuyên tu, tại chức, trí thức hóa công nông là việc làm vô ích và hình thức, tạo ra nạn bằng cấp ma, tạo ra những lớp bác sĩ kỹ sư bất tài và ngu dốt ( y tá lâu năm lên bác sĩ, bác sĩ không viết nổi toa thuốc, cán bộ tuyên giáo khoa khoang ngoài Bắc cắm ống đu đủ là lấy dầu hỏa nấu bánh chưng, ngoài bắc TV chạy đầy đường.. .)
Các chinh sách này cũng vô lý và phản khoa học vì không có quốc gia nào đặt tiêu chuẩn trong một hai năm phải có mấy chục ngàn thạc sĩ, tiến sĩ. Việc này thật ra là công việc mua quan bán tước của đảng để lấy tiền bỏ túi,và cũng là tạo bằng cấp giả nhằm che đậy gốc vô sản, vô học của họ, và cũng để lòe bịp nhân dân và quốc tế khác hẳn với thời trước họ khoe thành phần bần cố, khinh miệt trí thức. Nhất là Mao lớn tiếng miệt thị trí thức không bằng cục phân!
Kết quả nền giáo dục này chỉ là tai họa cho quốc gia, làm tăng lên sự gian lận, tham nhũng, chiếm quyền hành, mưu tư lợi,tạo ra một lũ sâu mọt phản dân hại nước, không có mục đích phục vụ quốc gia, dân tộc như nền giáo dục thời Pháp, Việt Nam cộng hóa và các quốc gia khác.
Giáo dục cộng sản toàn là nói dối, lãng phí thời giờ trong việc ca tụng lãnh tụ, còn trẻ con Âu Mỹ từ lớp Vườn Trẻ đã được dạy nhiều điều hữu ích. Dạy trẻ ca tụng lãnh tụ, học triết lý Marx, bắt sinh viên học sinh đi thực tế, lập các lớp chuyên tu, tại chức, trí thức hóa công nông là việc làm vô ích và hình thức, tạo ra nạn bằng cấp ma, tạo ra những lớp bác sĩ kỹ sư bất tài và ngu dốt ( y tá lâu năm lên bác sĩ, bác sĩ không viết nổi toa thuốc, cán bộ tuyên giáo khoa khoang ngoài Bắc cắm ống đu đủ là lấy dầu hỏa nấu bánh chưng, ngoài bắc TV chạy đầy đường.. .)
Các chinh sách này cũng vô lý và phản khoa học vì không có quốc gia nào đặt tiêu chuẩn trong một hai năm phải có mấy chục ngàn thạc sĩ, tiến sĩ. Việc này thật ra là công việc mua quan bán tước của đảng để lấy tiền bỏ túi,và cũng là tạo bằng cấp giả nhằm che đậy gốc vô sản, vô học của họ, và cũng để lòe bịp nhân dân và quốc tế khác hẳn với thời trước họ khoe thành phần bần cố, khinh miệt trí thức. Nhất là Mao lớn tiếng miệt thị trí thức không bằng cục phân!
Kết quả nền giáo dục này chỉ là tai họa cho quốc gia, làm tăng lên sự gian lận, tham nhũng, chiếm quyền hành, mưu tư lợi,tạo ra một lũ sâu mọt phản dân hại nước, không có mục đích phục vụ quốc gia, dân tộc như nền giáo dục thời Pháp, Việt Nam cộng hóa và các quốc gia khác.
5. Vô nhân bản
Nền giáo
dục cộng sản là vô nhân đạo vì cộng sản dạy căm thù , khuyến khích con
tố cha, vợ đấu chồng, học trò theo dõi thầy giáo, bạn bè vu khống nhau. Tai
hại nhất là cộng sản đã đào tạo một lớp công an, bộ đội giết người
không gớm tay. Vụ Ôn Như Hầu, vụ tàn sát đệ tứ quốc tế, vu mậu thân...
là dấu tích tội ác của cộng sản Việt Nam.
Tại sao
nền giáo dục cộng sản suy đồi như thế? Sau đây là một vài nguyên nhân
chính:
1. Cộng sản theo chủ trương vô sản chuyên chính nên khinh rẽ trí thức, quá coi nhẹ giáo dục.
Thời
quân chủ, ngành quan lại (chính) thì đưọc trong hơn ngành giáo (giáo),
bởi vì ai cũng rõ, làm quan có quyền thế hơn là làm một ông giáo. Tuy
nhiên, xã hội lại trọng ông giáo một cách thành thực.Trí thức đứng đầu:
"Sĩ, nông, công, thương "
"Sĩ, nông, công, thương "
"Muốn sang thì bắc cầu kiều,
Muốn con hay chữ phải yêu mến thầy".
Trong xã hội cũ, ông thầy chỉ đứng sau vua: "Quân sư phụ". Thời
Pháp thuộc, Việt Nam cộng hòa và bên Pháp, trường Sư Phạm tuyển sinh
viên giỏi. Vào Sư Phạm còn khó hơn Y khoa, vì Y Khoa không thi tuyển.
Chế độ cộng sản không những coi khinh trí thức mà coi trí thức là trọng tội:
"Trí phú địa hào
Đào tận gốc,
Trốc tận rễ".
Trong
kháng chiến, trí thức bị đày đọa chính vì Marx trong Tuyên Ngôn của
đảng Cộng sản viết rằng trí thức cũng như thương gia, thợ thủ công, nông
dân là thành phần lưng chừng. Lênin khi lên cầm quyền là đuổi trí
thức, sau phải bỏ tiền ra thuê trí thức các nước tư bản.
Việt cộng cũng vậy. Sau 1975, họ đuổi các kỹ sư điện Đa Nhim, sau phải thuê trí thức Nhật, Nhật cho người kỹ sư "ngụy" về làm lương vài chục ngàn đô một năm (nếu cho họ ở lại, chỉ cần vài trăm đô một năm). Đấy là cái bệnh giai cấp, cái bệnh vô sản chuyên chính, nhất là cái bệnh tôn sùng Marx, tôn sùng lãnh tụ (lãnh tụ bảo gì cũng nghe theo và tin thật).
Việt cộng cũng vậy. Sau 1975, họ đuổi các kỹ sư điện Đa Nhim, sau phải thuê trí thức Nhật, Nhật cho người kỹ sư "ngụy" về làm lương vài chục ngàn đô một năm (nếu cho họ ở lại, chỉ cần vài trăm đô một năm). Đấy là cái bệnh giai cấp, cái bệnh vô sản chuyên chính, nhất là cái bệnh tôn sùng Marx, tôn sùng lãnh tụ (lãnh tụ bảo gì cũng nghe theo và tin thật).
Bệnh
vô sản chuyên chính đẻ ra bệnh lý lịch, quan điểm "hồng hơn chuyên"
cho
nên họ bỏ sót nhân tài, tạo ra bao thế hệ thầy dốt, trò dốt. Quân chủ
và tư bản dù vua, tổng thống ngu dốt vẫn tuyển dụng kẻ tài cao học rộng,
vua làm sai thì các quan có quyền can ngăn.
Tư bản lại càng trọng trí thức vì có trí thức mới có những sáng kiến làm tăng năng suất, làm cho cuộc sống văn minh, tiến bộ, làm giàu cho xã hội và cho nhà tư bản, nhà kinh doanh.
Tư bản lại càng trọng trí thức vì có trí thức mới có những sáng kiến làm tăng năng suất, làm cho cuộc sống văn minh, tiến bộ, làm giàu cho xã hội và cho nhà tư bản, nhà kinh doanh.
Trong khi đó, cộng sản đày đọa, khinh rẽ trí thức, không trọng chuyên môn, dùng bọn thân tín, ngu dốt và tham lam cho nên bọn này phá nước, hại kinh tế . Nhất là cộng sản độc tài, độc đảng, không sợ dân, sợ báo chí, sợ dư luận. Cộng sản tồn tại bằng bạo lực của công an, bộ đội cho nên họ không muốn ai phê bình họ, trái lại họ chỉ thích ca tụng, sùng bái...
Khác với quân chủ và tư bản trọng kẻ hiền tài, cộng sản chỉ cho con em vô sản và con em đảng vào các ngành y dược, còn rác rến thì vào Sư Phạm, cho nên tục ngữ có câu:
Nhất Y nhì Dược,
Sư Phạm bỏ qua,
Bách Khoa tạm được.
Bách Khoa tạm được.
Ngày tôi trong Nam ra thăm Quảng Bình, ông bạn ngày xưa hỏi tôi:
-Trong Nam, tụi Ngụy trọng thầy giáo lắm sao?
Ông
kể rằng một hôm ông qua đò Phù Trịch, cùng với một đám người mập mạp,
to, đen ( người sĩ quan Cộng Hòa bị tù). Gặp lúc sóng to, gió lớn, ông lái đò quen bạn tôi, liền nói to:
"Ông giáo ơi, ra giúp một tay!" Bạn tôi đứng dậy, cùng lúc đó, các ông mập mạp, to đen chạy lại nói:
"Xin thầy để em chèo cho".
Ông
bạn kết luận bằng một tiếng cười vui vẻ, và tôi cũng cười theo, không
nói gì cả vì tôi biết bạn tôi đã hiểu, không cần phải nói thêm.
Ngày
xưa thầy giáo cũng nghèo nhưng lương bổng cũng tạm đủ sống.Còn trong
nghề giáo của chế độ Cộng sản, tình trạng thê thảm. Cô giáo phải bán quà trong
lớp, thầy giáo phải đạp xích lô:
"Giáo án, dán áo",
Thầy giáo, lương lãnh ba đồng
Làm sao sống nổi mà không đi thồ
Nhiều thầy phải đạp xích lô
Làm sao xây dựng tiền đồ học sinh?
Cô giáo phải bán bia ôm
Ôm phải học trò, ăn nói sao đây ?
Làm sao sống nổi mà không đi thồ
Nhiều thầy phải đạp xích lô
Làm sao xây dựng tiền đồ học sinh?
Cô giáo phải bán bia ôm
Ôm phải học trò, ăn nói sao đây ?
Ngày
20-11 là ngày nhà giáo, chính là ngày đút lút theo truyền thống tham
nhũng của chế độ.Cô giáo được học trò tặng hoa, đã bực mình nói thẳng: "Các em
nên tặng thứ gì thực tế hơn là tặng hoa".Cô giáo cũng như quan tham cộng sản ra mặt đòi hỏi "thủ tục đầu tiên".
Sau
1985, đổi mới và từ bỏ "bao cấp", các cơ quan phải tự cung tự cấp. Nhà
trường cho thuê mặt bằng, cho bán hàng quà, thức ăn trong trường để kiếm
lợi nhuận, nhưng lợi nhuận được bao nhiều thì chi bộ, đảng, đoàn hưởng
hết, thấy cô chỉ được vài đồng.
Thực
ra trong chế độ cộng sản, chỉ có các quan lớn và tay chân là no béo,
còn các ngành nghề khác thì nghèo đói.
Trừ tướng tá, tỉnh ủy, huyện ủy, bộ trưởng, giám đốc, chỉ có Công an, Thuế vụ, Kiểm Lâm là no béo. Đa số công nhân, thợ thuyền cán bộ thì lương quá thấp bởi vì chính sách bóc lột của cộng sản, coi công nhân viên là nô lệ.
Trừ tướng tá, tỉnh ủy, huyện ủy, bộ trưởng, giám đốc, chỉ có Công an, Thuế vụ, Kiểm Lâm là no béo. Đa số công nhân, thợ thuyền cán bộ thì lương quá thấp bởi vì chính sách bóc lột của cộng sản, coi công nhân viên là nô lệ.
2. Cộng sản bóc lột
Trên
lý thuyết, chủ nghĩa cộng sản chống bóc lột, xóa tan giai cấp nhưng từ
Lênin cho đến Mao, Hồ, cộng sản luôn bắt công nhân, nông dân làm việc
ngày đêm với đồng lương chết đói:
Làm ngày không đủ,
tranh thủ làm đêm,
Làm thêm ngày nghỉ.
Nông
dân hạng nhất mỗi ngày được một ký lúa tức hai lon gạo, mà nông dân ít
nhất ngày ăn ba bữa, mỗi bữa một lon đầy, chưa kể mắm muối, áo quần.
Quan trọng nhất là công điểm này chỉ được trả vào cuối mùa .Như vậy nông dân phải nhịn đói 6 tháng sau mới có gạo ăn!
Trong
chế độ cộng sản, sinh viên tốt nghiệp lương khoảng 60 đồng. Số tiền này
nếu có vợ con thì ăn không đủ một tuần hay mười ngày chưa kể tiền thuốc
men, tiền thuê nhà.
Trong Nam ngày xưa, một ông công chức hạng thấp nhất khoảng ba ngàn là có đủ cho vợ con nếu ông không cờ bạc rượu chè. Lúc bấy giờ tô phở 5 hay 3 đồng, tạ gạo khoảng 100/150 đồng, lạng vàng y khoảng 3/ 5ngàn.
Trong Nam ngày xưa, một ông công chức hạng thấp nhất khoảng ba ngàn là có đủ cho vợ con nếu ông không cờ bạc rượu chè. Lúc bấy giờ tô phở 5 hay 3 đồng, tạ gạo khoảng 100/150 đồng, lạng vàng y khoảng 3/ 5ngàn.
Cộng
sản theo đường lối của các quán bia ôm và khách sạn, mặc các em xoay
xở, còn giai cấp chủ không bao giờ trả lương cho em út.
Chính
sách bóc lột, chính sách Tú Bà đã thể hiện trong kháng chiến. Trong khi
các quan to ăn uống sung sướng thì cán bộ nghèo đói. Ban ngày, đảng
viên ăn với với cán bộ nhưng buổi chiều họp chi bộ, đại đội, tiểu đoàn,
họ được bồi dưỡng riêng.
Còn ông Hồ trong túi có hai bao thuốc lá. Thuốc lá nội hút khi ra biểu diễn trước quần chúng nhưng khi ở chiến khu hay tư dinh, ông hút phì phèo thuốc ngoại. Trong Cục R có đủ loại hàng ngoại , hàng xa xỉ, hàng cấm, đủ loại đầu bếp , đủ loại người hầu hạ...
Còn ông Hồ trong túi có hai bao thuốc lá. Thuốc lá nội hút khi ra biểu diễn trước quần chúng nhưng khi ở chiến khu hay tư dinh, ông hút phì phèo thuốc ngoại. Trong Cục R có đủ loại hàng ngoại , hàng xa xỉ, hàng cấm, đủ loại đầu bếp , đủ loại người hầu hạ...
Chính
sách bóc lột này còn đến bây giờ là thời tiền rừng biển bạc, các tư sản
đỏ xây dựng bao công ty, khách sạn, mua xe hàng triệu đô la, và chuyển
hàng triệu, hàng tỷ mỹ kim ra ngoại quốc, và bỏ túi cũng hàng chục, hàng
trăm tỷ như Vinashin. Air Line.. Vinalines, Công ty Dầu khí.. .
Đài RFA loan tin và bình luận:
Chỉ trong vòng 3 năm vừa qua, mức lương tối thiểu cho cán bộ
viên chức Nhà nước đã được điều chỉnh đến 5 lần, từ 450,000
đồng lên 1,05 triệu đồng/ tháng, thế nhưng vẫn chưa bảo đảm
được nhu cầu tối thiểu cho những người hưởng lương Nhà nước.
Vấn đề “tăng lương” không theo kịp “tăng giá” vẫn luôn là nỗi ám
ảnh cho những nhà lập chính sách Việt Nam. Những hệ luỵ của
việc không đủ thu nhập khiến hiện tượng mà một số chuyên gia
gọi là “tước đoạt để bù đắp” ở nhiều cán bộ công chức, viên
chức cũng nảy sinh.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/mini-salary-cause-corrup-vh-05182012215812.html
3. Tham nhũng, bè phái, gian lận.
3. Tham nhũng, bè phái, gian lận.
Sự
kiện xấu xa xảy ra là do chủ nghĩa cộng sản chủ trương vô sản chuyên
chính nghĩa là chỉ dùng những kẻ theo cộng sản bất chấp tài đức. Cộng
sản gian tham nhất là vì họ xuất thân giai cấp vô sản, hay vô sản lưu
manh nhất là khi họ cầm quyền thì họ càng gian tham vô tận.
Cộng sản miệng nói trừ diệt tư hữu nhưng chính họ có óc tư hữu hơn mọi người một khi họ nắm tài sản "nhà chùa", mặc tình bỏ túi và hoang phí.Ngày xưa, Nho gia trọng đạo đức, con nhà gia giáo, có học lễ nghĩa cho nên họ cũng biết tự chế, còn vô sản , nhất là vô sản lưu manh, lại nắm quyền cao chức trọng thì tha hồ trộm cướp, gian manh.
Vả lại, quân chủ và tư bản có pháp luật nghiêm minh, có dư luận , có báo chí nên các viên chức biết tự chế, không như trong xã hội cộng sản độc tài, không công lý, không dân chủ.
Ngoài ra, việc phe phái, tham nhũng, gian lận là do bệnh bao che của đảng, của phe nọ, phe kia: "Nhất thân nhì thế, tam quyền, tứ chế". Kẻ cầm quyền ngu dốt, gian ác như Hồ Chí Minh, Lê Đức Thọ, Đinh Đức Thiện, Trần Quốc Hoàn, Đỗ Mười làm vua chúa trong đảng, còn ở huyện thì có lưu manh chợ, lưu manh huyện cầm đầu. Con họ học dốt, họ đến mắng chửi thầy cô, hăm đuổi thầy cô, đuổi hiệu trưởng, như vậy năm nào câu ấm không học hay học kém vẫn điểm cao. Cậu vào đại học, cậu thành tiến sĩ, thạc sĩ nhưng bản chất cậu là lưu manh.
Vì vậy trong XHCN xảy ra nhiều chuyện mà quân chủ và tư bản không có hay rất it thấy như thầy giáo ăn cắp xe đạp, trường Đại Học Vạn Hạnh Sàigon sau 1975 thành cư xá giáo viên nhưng thực chất trở thành nơi lở loang ô uế, thành nơi cờ bạc, thành nơi đĩ điếm...
Ngày nay các sinh viên vào đại học là nhiễm bia rượu, cờ bạc, gái, xì ke. ma túy...Có người bảo rằng Đại học Việt Nam là trung tâm trụy lạc. Vì vậy mà ta không lạ việc giáo viên bắt ép nữ sinh, việc quan đầu tỉnh cưỡng ép học sinh., và việc nữ sinh bán dâm...Xã hội ngày xưa khá hơn vì họ chọn người tài đức, con nhà gia giáo chứ không là vô sản lưu manh.
Ngoài ra pháp luật công minh, dư luận quần chúng, dư luận báo chí, kỷ luật nội bộ cũng khắt khe cho nên không có nhiều việc truỵ lạc, thi cử gian lận, mua quan bán tước như ngày nay.
Chủ trương bóc lột của cộng sản là bần cùng hóa nhân dân, đưa đến một hệ quả là trộm cướp bí mật và công khai.Cán bộ sinh ra tham nhũng, hối lộ, ăn trộm ăn cắp và dân chúng cũng phải hối lộ, ăn trộm ăn cắp. Công nhân ăn cắp tài sản công ty , nhất là nông dân một ngày một ký lúa mà sáu tháng mới phát lúa, tất phải ăn cắp khoai sắn, lúa để tồn tại. Cha ăn cắp, con ăn cắp, tạo ra một nền giáo dục xã hội là trộm cắp.Ngày xưa cũng có tham nhũng nhưng it thôi, vì lương tiền đủ sống, và con người biết giữ đạo đức. Nay thì người người trộm cắp, nhà nhà trộm cắp, cả nước tham nhũng, cướp giựt. Một thực tế khác là cộng sản tạo ra môi trường trộm cướp.Ở vùng xôi đậu, bọn du kích mặc sức bắt dân buôn bán "hàng ngoại hóa" rồi lấy tài sản của dân bỏ túi. Trong Cải cách ruộng đất, nông dân, cán bộ mặc sức cướp tài sản những nạn nhân được gọi là phản động, phú nông địa chủ.. .Họ tranh nồi niêu, bàn ghế, giường chiếu, nhà cửa, ruộng đất. Cái bệnh này phát triển trong chiến tranh, cán bộ mặc sức thao túng, nhất là sau 1975 đại thắng mùa xuân, cộng sản mặc sức chiếm nhà cửa , vàng bạc, nhà cửa của dân miền Nam...Trong cuộc xâm chiếm Cambodge, quân Việt Cộng cũng mặc sức cướp phá, họ vào chùa bẻ cắt tượng Phật để lấy vàng.
Cộng sản miệng nói trừ diệt tư hữu nhưng chính họ có óc tư hữu hơn mọi người một khi họ nắm tài sản "nhà chùa", mặc tình bỏ túi và hoang phí.Ngày xưa, Nho gia trọng đạo đức, con nhà gia giáo, có học lễ nghĩa cho nên họ cũng biết tự chế, còn vô sản , nhất là vô sản lưu manh, lại nắm quyền cao chức trọng thì tha hồ trộm cướp, gian manh.
Vả lại, quân chủ và tư bản có pháp luật nghiêm minh, có dư luận , có báo chí nên các viên chức biết tự chế, không như trong xã hội cộng sản độc tài, không công lý, không dân chủ.
Ngoài ra, việc phe phái, tham nhũng, gian lận là do bệnh bao che của đảng, của phe nọ, phe kia: "Nhất thân nhì thế, tam quyền, tứ chế". Kẻ cầm quyền ngu dốt, gian ác như Hồ Chí Minh, Lê Đức Thọ, Đinh Đức Thiện, Trần Quốc Hoàn, Đỗ Mười làm vua chúa trong đảng, còn ở huyện thì có lưu manh chợ, lưu manh huyện cầm đầu. Con họ học dốt, họ đến mắng chửi thầy cô, hăm đuổi thầy cô, đuổi hiệu trưởng, như vậy năm nào câu ấm không học hay học kém vẫn điểm cao. Cậu vào đại học, cậu thành tiến sĩ, thạc sĩ nhưng bản chất cậu là lưu manh.
Vì vậy trong XHCN xảy ra nhiều chuyện mà quân chủ và tư bản không có hay rất it thấy như thầy giáo ăn cắp xe đạp, trường Đại Học Vạn Hạnh Sàigon sau 1975 thành cư xá giáo viên nhưng thực chất trở thành nơi lở loang ô uế, thành nơi cờ bạc, thành nơi đĩ điếm...
Ngày nay các sinh viên vào đại học là nhiễm bia rượu, cờ bạc, gái, xì ke. ma túy...Có người bảo rằng Đại học Việt Nam là trung tâm trụy lạc. Vì vậy mà ta không lạ việc giáo viên bắt ép nữ sinh, việc quan đầu tỉnh cưỡng ép học sinh., và việc nữ sinh bán dâm...Xã hội ngày xưa khá hơn vì họ chọn người tài đức, con nhà gia giáo chứ không là vô sản lưu manh.
Ngoài ra pháp luật công minh, dư luận quần chúng, dư luận báo chí, kỷ luật nội bộ cũng khắt khe cho nên không có nhiều việc truỵ lạc, thi cử gian lận, mua quan bán tước như ngày nay.
Chủ trương bóc lột của cộng sản là bần cùng hóa nhân dân, đưa đến một hệ quả là trộm cướp bí mật và công khai.Cán bộ sinh ra tham nhũng, hối lộ, ăn trộm ăn cắp và dân chúng cũng phải hối lộ, ăn trộm ăn cắp. Công nhân ăn cắp tài sản công ty , nhất là nông dân một ngày một ký lúa mà sáu tháng mới phát lúa, tất phải ăn cắp khoai sắn, lúa để tồn tại. Cha ăn cắp, con ăn cắp, tạo ra một nền giáo dục xã hội là trộm cắp.Ngày xưa cũng có tham nhũng nhưng it thôi, vì lương tiền đủ sống, và con người biết giữ đạo đức. Nay thì người người trộm cắp, nhà nhà trộm cắp, cả nước tham nhũng, cướp giựt. Một thực tế khác là cộng sản tạo ra môi trường trộm cướp.Ở vùng xôi đậu, bọn du kích mặc sức bắt dân buôn bán "hàng ngoại hóa" rồi lấy tài sản của dân bỏ túi. Trong Cải cách ruộng đất, nông dân, cán bộ mặc sức cướp tài sản những nạn nhân được gọi là phản động, phú nông địa chủ.. .Họ tranh nồi niêu, bàn ghế, giường chiếu, nhà cửa, ruộng đất. Cái bệnh này phát triển trong chiến tranh, cán bộ mặc sức thao túng, nhất là sau 1975 đại thắng mùa xuân, cộng sản mặc sức chiếm nhà cửa , vàng bạc, nhà cửa của dân miền Nam...Trong cuộc xâm chiếm Cambodge, quân Việt Cộng cũng mặc sức cướp phá, họ vào chùa bẻ cắt tượng Phật để lấy vàng.
Chủ nghĩa cộng sản ngày nay là cộng sản giả tạo. Chủ nghĩa cộng sản đích thực là phải có hai điểm quan trọng là dân chủ và xã hội
nhưng hai điều này vắng bóng trong lịch sử đảng cộng sản với chủ trương
"vô sản chuyên chính" của Marx.
Chuyên chính tức là khủng bố, đàn áp và
giết hại. Điểm này hoàn toàn trái với tinh thần dân chủ và xã hội.Và
cũng trái với nhân nghĩa, từ bi, bác ái của các tôn giáo và luân lý
truyền thống Việt Nam.
Sau
khi Mao điên rồ đặt ra bước nhảy vọt thì kinh tế thất bại ,làm chết vài
chục triệu dân, đảng viên lớn nhỏ, sinh viên, nông dân vùng lên phản
kháng. Mao bày ra cuộc " cách mạng vô văn hóa" để tiêu diệt những kẻ
chống đối. Khi Mao chết, Đặng Tiểu Bình đổi mới. Đặng thấy kinh tế chỉ
huy sai lầm nên đã thay đổi. Từ đó Đặng từ bỏ mục tiêu xã hội mặc cho
dân tự sinh tự diệt.
Trong khi tư bản cưỡng bách học sinh trung học, cho người nghèo nhập viện , và trợ cấp người nghèo và già cả thì đảng cộng sản từ nay bắt dân đóng góp mọi thứ.
Trong khi tư bản cưỡng bách học sinh trung học, cho người nghèo nhập viện , và trợ cấp người nghèo và già cả thì đảng cộng sản từ nay bắt dân đóng góp mọi thứ.
Từ đây, Việt Nam cũng hô hào" bãi bỏ bao cấp", đảng thì ăn no, còn cán bộ và dân chúng tự xoay xở, đảng không còn xuất hầu bao cho các địa phương và bộ viện nữa.
Chỉ có những điạ phương giàu, cơ quan béo là no, còn cán bộ nói chung là đói.Thầy giáo, cô giáo lẽ tất nhiên là ở cuối nấc thang xã hội:
Nhà văn, nhà giáo, nhà báo nhà đài,
Bốn nhà cộng lại bằng hai nhà nghèo.
Nhà giáo lương không đủ sống. Viêtnam net nói lên nỗi bi thương của nhà giáo trong XHCN:
Thu nhập osin "đè bẹp" lương thạc sĩ Toán. Chị Thu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội than thở: “Lương thạc sĩ như tôi mỗi
tháng cũng chỉ được tầm 3 triệu đồng, thế mà vẫn phải bù lỗ để trả lương tới 4
triệu cho osin".
http://vietnamnet.vn/vn/doi-song/61946/thu-nhap-osin--de-bep--luong-thac-si-toan.htmlTờ Tin 247 đã cho biết có nhiều thầy giáo quá nghèo nên không dám lấy vợ.
http://www.tin247.com/luong_thap%2C_thay_giao_khong_dam_lay_vo-11-21869199.html
Trong bối cảnh này, nhiều người trẻ đã quay lưng với nghề giáo. Tờ Dân Trí đã viết
.- Từ xa xưa trong dân gian đã truyền
tụng những câu nói tôn vinh nghề dạy học như "Nhất tự vi Sư, bán tự vi
Sư", "nghề dạy học là nghề cao quý trong các nghề cao quý"... Thế nhưng
hãy xem thực tế hiện nay ra sao. Cuộc sống của giáo viên vùng cao vô cùng khó khăn, vất vả
Hiện nay, lớp trẻ đang dần quay lưng lại với nghề dạy học. Câu nói: Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm
dường như là nỗi ám ảnh. Mỗi khi đặt bút đăng ký dự thi vào một ngành
Sư phạm của một trường đại học – cao đẳng nào đó, các em học sinh sẽ
không khỏi boăn khoăn, suy xét. Phải chăng nghề sư phạm có một cái tội
lớn, đó là “nghèo”?
Lương Văn Hà
(trường THPT Thực hành Cao Nguyên, số 567- Lê Duẩn, Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk)
http://dantri.com.vn/c701/s701-499331/lop-tre-dang-dan-quay-lung-lai-voi-nghe-day-hoc.htmTrong khi bọn chúng ra tay đốt phá, cướp giựt tài sản quốc gia qua các Hội Festival, qua Nghìn năm Thăng Long, và các công ty như Vinashin, Vinalines, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.. . xài phí, bỏ túi hàng ngàn tỷ đô thế mà chúng không xây thêm trường ốc và trả lương cho giáo viên đủ sống.. .
Như vậy, chính là cộng sản đã không chú trọng giáo dục, không quan tâm đến học sinh, đến nhân dân và đời sống giáo viên bình thường là bởi họ giàu, con em họ đã học trường đặc biệt của ngoại quốc hay trong nước, sau con em họ sẽ ra nước ngoài và ôm tài sản hàng triệu đô, hàng tỷ đô ra nước ngoài cho nên họ không cần quan tâm đến thầy cô, học trò nghèo đói trong nước. Chính họ tạo ra cảnh đói khổ, thiếu thốn là vì họ muốn dân đói, không sức chống đối họ. Họ tạo ra khủng hoảng thiếu ( thiếu trường thiếu bệnh viện, thiếu giao thông) để cho họ tiện bóc lột.
Không riêng giáo viên mà nhiều ngành nghề khác cũng bị bóc lột. Phụ huynh phải trả học phí cao, bệnh nhân phải trả viện phí cao nhưng tiền bạc đó vào tay đảng tham nhũng cho nên thầy cô , bác sĩ và y tá không được là bao.Họ phải tự tay bóc lột học sinh, bóc lột bệnh nhân lần nữa để mà sống. Cuối cùng, nhân dân là là nỗi khổ vô tận, bị cộng sản cướp giật lại đến bác sĩ, y tá cứa cổ.
Còn thầy giáo ngoài việc bắt học sinh học thêm thì không còn cách chi tăng thu nhập bằng cách đi thồ, bia ôm.. .Từ thời Nho giáo, trải qua Pháp thuộc, đến Việt Nam cộng hòa, nhân dân ta không bao giờ lâm cảnh khốn khổ như vậy.
Nói tóm lại, phải san bằng thành trì cộng sản, phải đạp đổ cổng trường cộng sản , phải trả nhà trường lại cho thầy giáo, phải trả bệnh viện cho các bác sĩ, phải trả đất nước cho nhân dân, phải đuổi đảng đoàn ra khỏi nhà trường, ra khỏi bệnh viện, ra khỏi đất nước, thì mới xây dựng một chính quyền tài giỏi, trong sạch, yêu nước thương dân, và xây dựng nền dân chủ đích thực, đồng thời xây dựng một nền giáo dục tiến bộ cho nhân dân ta, đất nước ta và tương lai con cháu chúng ta .
NGUYỄN THIÊN THỤ
No comments:
Post a Comment