AULO THÀNH NGUYỄN * HÀNG ĐỘC HẠI TRUNG QUỐC
DÂN LÀM BÁO
Thư ngỏ hợp tác kinh doanh: Nói không với sản phẩm độc hại Trung Quốc
Mọi người thân mến,
Chúng ta không cực đoan đến độ cho rằng tất cả các mặt hàng Tàu là độc
hại, nhưng với cơ chế kiểm soát chất lượng lỏng lẻo và yếu kém như hiện
nay thì khó mà đánh giá đâu là hàng độc hại và đâu là hàng đủ tiêu
chuẩn. Mỗi sản phẩm hàng Tàu đều chứa đựng một mối nguy hiểm cho chính
sức khỏe của bản thân chúng ta và những người xung quanh mình.
Và, thực tế là chúng ta không thể tẩy chay hàng độc hại Trung Quốc chỉ
bằng lời nói, bằng sự bất mãn. Phải bắt đầu bằng chính hành động của mỗi
người. Điều này đòi hỏi chúng ta phải cùng nhau xây dựng một giải pháp,
và giải pháp đó phải có sự phối hợp giữa người bán và người mua.
Tâm lý người tiêu dùng luôn mong mua được sản phẩm chất lượng mà giá cả
lại rẻ, trong khi người kinh doanh thì yếu tố hàng đầu là lợi nhuận.
Chúng ta phải cùng chung tay để tạo nên không gian hòa hợp giữa hai nhu
cầu đó. Có thể hàng hóa sẽ không bắt mắt, có thể giá sẽ hơi cao, có thể
lợi nhuận sẽ hơi thấp. Nhưng cái đích cuối cùng chúng ta nhắm đến đó là
sản phẩm sẽ không chứa tiềm ẩn nguy cơ độc hại đến sức khỏe như xuất xứ
từ Trung Quốc.
Tất nhiên, để tẩy chay hoàn toàn 95% hàng độc hại từ Trung Quốc đang
tràn ngập thị trường Việt Nam như hiện nay là rất khó, nhưng chúng ta sẽ
làm được nếu bắt đầu từ những việc nhỏ như: Tẩy chay các sản phẩm độc
hại đang gây nguy hại đến sức khỏe mỗi ngày như thực phẩm, trái cây,
hàng vải sợi, quần áo may mặc…
No China Shop được
tạo lập với mong muốn sẽ là nơi tập trung những đơn vị kinh doanh không
bán hàng Trung Quốc, là nơi giúp người tiêu dùng ý thức về sức khỏe với
thói quen mua sắm, là nơi mà những đơn vị kinh doanh sẽ can đảm đoạn
tuyệt với nguồn hàng Tàu kém chất lượng.
Ước mơ trên rất cần có sự đóng góp của mỗi người chúng ta. Đã đến lúc
chúng ta rời vị trí khán giả quan sát để tiến đến một bước trở thành
khách hàng, cộng sự của www.nochina-shop.com
Cùng nhau nói không với hàng Trung Quốc kém chất lượng bằng những hành
động tuy nhỏ nhưng chứa đựng một niềm tin lớn. Thay đổi thói quen mua
sắm để tránh lệ thuộc vào nguồn hàng Trung Quốc với niềm tin rằng những
gì chúng ta đang gieo hôm nay sẽ sinh hoa trái trong tương lai.
Không có việc lớn nào không bắt đầu từ việc đơn giản nhất.
Rất mong được hợp tác và chào đón tất cả mọi người đến với chúng tôi.
P/S Liên lạc với chúng tôi nếu bạn là người kinh doanh những sản phẩm
Việt Nam hoặc nhập khẩu từ các nước, ngoại trừ Trung Quốc. Chúng tôi sẽ
giới thiệu sản phẩm của bạn đến tất cả những người chúng tôi biết.
Email: nochina.shop@gmail.com
Điện thoại: (+84) 938 965168
Chia sẻ bài viết:
TRẦN ĐĂNG KHOA * THƠ TÌNH NGƯỜI LÍNH BIỂN
Thơ tình người lính biển
BienDong.Net:
“Thơ tình người lính biển” của nhà thơ Trần Đăng Khoa, sáng tác năm 1981 khi anh đang mặc áo lính trên quần đảo Trường Sa, là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ Trường Sa.
“Thơ tình người lính biển” của nhà thơ Trần Đăng Khoa, sáng tác năm 1981 khi anh đang mặc áo lính trên quần đảo Trường Sa, là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ Trường Sa.
Bài thơ
đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp, người vừa qua đời đầu tháng 1.2013 phổ nhạc
và trở thành một trong những bài hát được yêu thích nhất về đề tài biển
đảo. Nhân dịp đầu xuân, BDN xin giới thiệu lại sáng tác này của Trần
Đăng Khoa, như một chút tâm tình gửi tới các chiến sĩ đang canh giữ biển
đảo Tổ Quốc.
Anh ra khơi
Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng
Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng
Biển một bên và em một bên
Biển ồn ào, em lại dịu êm
Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ
Anh như con tàu, lắng sóng từ hai phía
Biển một bên và em một bên
Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa chiến sĩ Nguyễn Ngọc Sơn ( đảo Nam Yết thuộc quần đảo Trường Sa) với cô văn công quân đội sáng 23.4.2012 ( ảnh BienDong.Net )
Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn
Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc
Thăm thẳm nước trời, nhưng anh không cô độc
Biển một bên và em một bên
Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên
Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng
Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng
Biển một bên và em một bên.
Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không biển nữa. Chỉ còn anh với cỏ
Cho dù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên…
Trần Đăng Khoa
BIỂNĐÔNG.NET
SONG CHI * XÃ HỘI VIỆT NAM
Giới trẻ VN và tình trạng sa sút về mặt đạo đức, lý tưởng sống
Fri, 01/25/2013 - 01:02 — songchi
Song Chi.
Ở VN từ nhiều năm nay sự xuống cấp về mặt đạo đức xã hội đã lan vào
trong môi trường giáo dục, vào các ngôi trường, lớp học, tác động đến
người thầy đứng lớp và các em học sinh, sinh viên.
Nhiều hiện tượng tiêu cực ngang nhiên tồn tại như nạn quay cóp trong
các kỳ thi, nạn chạy điểm, “gạ tình lấy điểm”, mua bằng…Hình ảnh người
thầy và mối quan hệ giữa thầy trò nhìn chung không còn thiêng liêng như
xưa, ngược lại vết đen của những vụ thầy đánh trò, trò đánh thầy, thầy
có quan hệ tình dục với trò, thậm chí cưỡng bức trò…đã làm hoen ố môi
trường giáo dục vốn tôn nghiêm.
Trước sự xuống cấp chung đó, không ngạc nhiên khi một bộ phận giới
trẻ bây giờ có những lời nói, hành vi khiến người lớn nhiều khi phải
choáng.
Choáng vì lời ăn tiếng nói, hành vi ứng xử của một số học sinh trong “thế giới ảo”.
Báo Giáo dục Việt Nam ngày 10.1 có bài “Phẫn nộ giới trẻ chửi người thân trên facebook”
nói về hiện tượng một số bạn trẻ khiến cộng đồng mạng phẫn nộ vì đã lên
facebook chửi người thân với những lời lẽ hết sức thô tục, hỗn hào;
xưng tao, gọi bố mẹ ông bà bằng mày, bằng đủ thứ từ thô tục, chỉ vì
những lý do nhỏ nhặt như bị bố mẹ mắng, không cho tiền mua điện thoại
hoặc xúc phạm đến…thần tượng sao Hàn của mình. Cá biệt có trường hợp hai
bạn trẻ tông xe vào một cụ già khiến cụ bị thương nặng rồi qua đời, mà
còn lên mạng báo tin bằng những từ ngữ hết sức vô cảm…
Báo chí cũng báo động về nạn văng tục online của một số bạn trẻ. Trên
nhiều trang mạng xã hội, việc nhiều bạn trẻ thả sức comment “bẩn” về
một nhân vật, một hiện tượng nào đó không phải là hiếm. Chẳng hạn, với
một ca sĩ, diễn viên, người mẫu…mà các bạn trẻ không ưa, các bạn còn lập
ra “Hội những người ghét ca sĩ A, người mẫu B” và tha hồ chê bai, “ném
đá”. Với những ca sĩ, người mẫu được yêu thích, cũng không ít trường hợp
fan của ca sĩ này chửi bới fan của ca sĩ kia hoặc sẵn sàng thóa mạ
những ai không thích thần tượng của mình, thóa mạ cả ca sĩ khác để đề
cao thần tượng v.v…
Bài “Học sinh dùng điện thoại đe dọa giáo viên qua facebook”
trên VietnamNet ngày 13.1 nói về hiện tượng một số em học sinh dùng
điện thoại di động chụp ảnh thầy cô trong những phút hớ hênh, tư thế
không đẹp mắt chẳng hạn, để tung lên mạng, “tống điểm” thầy cô. Cũng có
những trường hợp học sinh ghét thầy cô, lên facebook lập hội nói xấu
người đó. Báo Giáo dục Việt Nam ngày 19.1 có bài “Nữ sinh Hà Nội gọi cô giáo là…đồ quái vật”.
Mới đây, câu chuyện một học sinh lớp 8 trường THCS Lý Tự Trọng (Tam Kỳ, Quảng Nam) bị đuổi học 1 năm vì chế lại lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến”
của Hồ Chí Minh để ra “tuyên ngôn” kêu gọi học sinh chống lại thầy cô,
đã làm nóng dư luận. Phần đông mọi người không chấp nhận hành động xúc
phạm thầy cô của em học sinh này, nhưng cũng cho rằng việc đuổi học 1
năm là hơi nặng. Cuối cùng, được sự bảo lãnh của Đoàn phường An Xuân
cùng với Đoàn trường THCS Lý Tự Trọng, em học sinh này đã được đi học
lại.
Choáng vì lời ăn tiếng nói, hành vi ứng xử của một số học sinh trong đời thực.
Có một dạo báo chí VN liên tiếp đưa tin về các trường hợp học sinh
đánh nhau, đặc biệt là nữ sinh. Nếu vào google gõ mấy chữ “nữ sinh đánh
nhau” sẽ cho ra hàng loạt kết quả, kể cả những video clip do chính các
em đánh nhau và quay lại, tung lên mạng hoặc do các em khác quay. Các em
đánh nhau dã man không khác gì đòn thù, rồi còn lột áo để làm nhục
trước đám đông. Dư luận còn phẫn nộ hơn nữa khi có những video clip cho
thấy trong khi các em đánh nhau, những em khác đứng ngoài thản nhiên
nhìn, không can ngăn, thậm chí còn cổ vũ. Hiện tượng này cho đến nay vẫn
tiếp tục xảy ra.
Báo Giáo dục Việt Nam ngày 30.7.2012: “Phẫn nộ khi xem clip nữ sinh bị lột áo, bị đạp nhiều lần vào đầu”. Bài báo cho biết: “Clip
có độ dài gần 6 phút, một nữ sinh đeo khăn quàng đỏ bị ba nữ sinh khác
giật tóc, ấn đầu xuống đất, chửi bới, đấm, đạp hàng trăm lần vào đầu,
vào mặt. Điều đáng chú ý là hai trong số ba thủ phạm của vụ hành hung
cũng mặc đồng phục như nữ sinh bị đánh.” Độ tuổi của các em nữ sinh này khoàng lớp 7, lớp 8.
Báo VietnamNet ngày 24.1: “Nữ sinh bị đánh hội đồng đến mê man, hoảng loạn”.
Nạn nhân là nữ sinh lớp 10 trường THPT Nguyễn Đình Liễn thuộc xã Cẩm
Huy, huyện Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh) bị một nhóm nữ sinh “đàn chị” đánh hội
đồng đến bất tỉnh, phải nhập viện cấp cứu trong tình trạng hôn mê sâu
nhiều ngày.
Báo Tin tức online ngày 22.1 “Một nữ sinh vung dao với hai người bạn: Cảnh báo nạn bạo lực học đường”,
kể lại một vụ xô xát giữa các em học sinh nữ trường THPT dân lập Đồi
Ngô, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Một em đã rút dao đâm hai em khác
khiến một trong hai em tử vong, em còn lại bị thương nặng.
Điều đáng nói, như bài báo phản ánh, là tình trạng học sinh ở đây cả
nam cả nữ, đánh nhau như cơm bữa nhưng chẳng thấy CA, bảo vệ, hay thầy,
cô giáo nào can ngăn. Khi hai học sinh bị thương cũng tự đèo nhau bằng
xe máy đến bệnh viện, “không có thầy cô giáo hay bảo vệ trường ra giúp gọi taxi đi BV tỉnh”, và “vụ
việc xảy ra cách cổng trường chỉ khoảng 20m, đúng vào giờ tan học nhưng
phải đến buổi chiều, khi học sinh của mình là em Thân Thị Hồng Hà tử
vong tại BV, lãnh đạo trường THPT dân lập Đồi Ngô mới biết.”
Báo Lao động phải đặt câu hỏi “Sao mãi thờ ơ?” trước tình
trạng bạo lực học đường gia tăng nhưng không thấy có cơ quan, ban ngành
nào đứng ra nhận trách nhiệm cũng không nghiên cứu,tìm giải pháp ngăn
ngừa, khắc phục…
Nữ sinh đã vậy, nam sinh cũng không kém: “Bất bình hình ảnh nam sinh dùng ghế ‘phang’ bạn tại lớp" (Soha/ Infonet), “Một tháng, ba vụ sinh viên đánh nhau đến chết" (báo Giáo dục Việt Nam)…
Bên cạnh chuyện đánh nhau, đôi khi dùng dao đâm nhau dẫn đến tử vong
là những hiện tượng sa sút về đạo đức khác: Nào đánh bài trong lớp “Lộ clip Hs cấp 2 đánh bài ăn tiền, văng tục trong lớp” (Infonet), cho vay nặng lãi “Bắt nhóm sinh viên cho vay nặng lãi, cưỡng đoạt tài sản”
(Báo Dân Trí)…Đó là chưa kể đến tình trạng yêu đương, quan hệ tình dục
sớm ở giới trẻ ngày nay. VN từ lâu nay đã bị xếp vào một trong những
nước có tỷ lệ nạo phá thai rất cao, trong đó tỷ lệ nạo phá thai ở lứa
tuổi vị thành niên cao nhất khu vực v.v…
Lý giải tất cả những hiện tượng này như thế nào? Đã có rất nhiều ý
kiến, bài viết của các nhà báo, nhà giáo, nhà tâm lý học, xã hội học về
hành vi ứng xử quá kém của một bộ phận giới trẻ VN ngày nay. Các nguyên
nhân cũng đã được đề cập đến, như do môi trường xã hội có quá nhiều cái
ác cái xấu đã tác động đến các em; do nền giáo dục VN chỉ biết dạy chữ
mà không chú trọng dạy người, chỉ biết nhồi nhét kiến thức cốt để đi thi
mà không giáo dục cho các em phần tâm hồn, nhân cách, triết lý sống cao
đẹp; nhiều gia đình quá bận rộn, phó thác mọi chuyện dạy dỗ con cái cho
nhà trường…
Bản thân các thầy cô nhiều khi chưa là tấm gương tốt cho các em về
mặt nhân cách, ứng xử với các em không được hay, thậm chí xúc phạm,
không tôn trọng quyền con người đối với các em...Đặc biệt trong năm 2012
vừa qua, hàng loạt vụ học sinh tự tử có nguyên nhân từ cách ứng xử của
thầy cô cũng như mối quan hệ chưa tốt giữa thầy cô và học sinh.
Người lớn, xã hội choáng khi được nghe/đọc/chứng kiến những hành vi
ứng xử tệ hại của giới trẻ, kể cả đâm chém nhau, hay yêu đương sớm, phá
thai…Nhưng thật lòng mà nói, cứ nhìn trẻ con, thanh thiếu niên ở các
nước dân chủ, phát triển, mới thấy trẻ con, thanh thiếu niên VN quá
thiệt thòi, khổ sở vì bị nhiều sức ép mà lại ít được cảm thông, hướng
dẫn đúng cách.
Đi học, chẳng hạn, với trẻ con, học sinh các nước là niềm vui, còn ở
VN ngay từ khi mới vào lớp một đã phải học miệt mài, suốt thời tiểu học,
trung học cứ thế mà “cày” ở trường, rồi ở lớp học thêm, học không có
mùa hè không có thời gian nghỉ ngơi, giải trí, không có tuổi thơ…Chương
trình thì nặng nhưng đến hơn một phần ba là những kiến thức “chết”,
kiến thức vô bổ hoặc lạc hậu.
Từ người lớn trong gia đình cho đến thầy cô ở trường vẫn chưa thật sự
tôn trọng học sinh như những con người. Nhiều thầy cô không thích hoặc
không cho phép học sinh nói khác với ý mình, với sách giáo khoa. Có một
số thầy cô còn đánh đập học sinh (ở lứa tuổi mẫu giáo, tiểu học), xúc
phạm các em (lứa tuổi ở bậc trung học)…khiến các em bị ức chế, dẫn đến
những hành vi như lên mạng nói xấu thầy cô, thậm chí phản ứng, đánh lại
thầy.
Xã hội thì toàn những sự bất công phi lý, dối trá, nói một đằng làm một nẻo, cái xấu cái ác nhan nhản khiến các em mất lòng tin.
Một thế hệ thiếu vắng niềm tin, không có lý tưởng, (ngoại trừ lý
tưởng phải học cao, đỗ đạt, để làm vui lòng cha mẹ, người thân và có
cuộc sống tốt hơn cho bản thân), đa phần không quan tâm đến thời cuộc,
đến tình hình chính trị xã hội của đất nước (vì nếu có quan tâm thì chỉ
mang họa vào thân (!), không được hướng dẫn đúng cách và trang bị những
kiến thức nhân văn, triết lý sống cao đẹp, kỹ năng sống…nên lạc loài,
ngông nghênh cũng là điều dễ hiểu.
Nhìn vào giáo dục VN, nhìn vào giới trẻ VN-tương lai của đất nước, để
thấy rằng nếu một ngày nào đó chế độ cộng sản ở VN sụp đổ, một trong
những thách thức lớn hơn việc xây dựng lại đất nước rất nhiều lần và
cũng mất thời gian hơn rất nhiều lần, đó là xây dựng lại toàn bộ hệ
thống giáo dục, xây dựng lại con người.
Comments
Tue, 01/29/2013 - 21:11 — anonymous
Tat ca deu la nan nhan.....
Vang,gioi tre noi rieng,toan dan trong nuoc noi chung deu la
nan nhan cua che do Cong San(Song Chi da trinh bay nhung suy doi ve moi
mat that day du va chinh xac)....Chung ta can phat hoa mot duong loi
khoi phuc lai nen giao duc nhan ban cho" Thoi ky hau Cong San" ngay tu
bay gio...
TRẦN TRUNG ĐẠO * BÊN THẮNG CUỘC
“Hãy tôn trọng lịch sử” nhưng lịch sử nào?
Tue, 01/22/2013 - 23:01 — ledienduc
Trần Trung Đạo
Trần Trung Đạo
Tôi chưa đọc Bên Thắng Cuộc đầy đủ để viết về tác phẩm
này. Có thể khi đọc xong cả hai cuốn, sẽ nhận xét Bên Thắng Cuộc với tư
cách một người miền Nam đã sống những năm khắc nghiệt ở Sài Gòn, “sinh
viên chế độ cũ”, đi kinh tế mới, vượt biển và trăn trở cùng đất nước.
Bài viết này chỉ bàn đến luận điểm mà các báo lề đảng dùng khi viết về
tác phẩm Bên Thắng Cuộc.
Hầu hết báo lề đảng đều đòi hỏi “Hãy tôn trọng lịch sử”, vâng, nhưng lịch sử nào?
Một trong những đề án lớn của các quốc gia thuộc khối CS Liên Xô cũ
không chỉ phục hồi kinh tế, ổn định xã hội sau gần 80 năm sống trong
chế độ toàn trị kinh hoàng, mà còn là viết lại lịch sử. Các nhà sử học
Nga dành nhiều năm để đánh giá các sự kiện diễn ra từ thời Vladimir
Lenin đến Mikhail Gorbachev và cho đến nay vẫn còn đang đánh giá. Nhiều
chi tiết như các điều khoản bí mật trong hiệp ước Molotov-Ribbentrop,
việc chiếm đóng các quốc gia vùng Baltic, sự giúp đỡ của đồng minh trong
thế chiến thứ hai, v.v... đã bị xóa trong sử CS. Một số sự kiện có nhắc
đến nhưng lại cố tình viết sai thủ phạm như vụ tàn sát 22 ngàn sĩ quan
Ba Lan tại rừng Katyn vào tháng 3 năm 1940 được viết là Đức Quốc Xã chứ
không phải do mật vụ Sô Viết hành hình. Không chỉ sử Nga mà cả lịch sử
thế giới, sự sụp đổ của đế quốc La Mã, các hình thái kinh tế cũng được
giải thích theo quan điểm CS.
Các nhà sử học Việt Nam trong tương lai cũng sẽ nhức đầu như thế.
Lịch sử không có một dòng chảy chính thống và trong suốt qua các thời kỳ
đất nước. Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 trên
phạm vi cả nước là lịch sử của kẻ thắng trận, được giải thích theo quan
điểm của kẻ thắng trận và để phục vụ cho mục đích của kẻ thắng trận.
Lịch sử Việt Nam mà sinh viên học sinh đang học là lịch sử được phát ra
từ cái loa, biểu tượng cho bộ máy tuyên truyền của chế độ, giống như cái
loa mà Huy Đức có thể đã ám chỉ trong bìa sách Bên Thắng Cuộc.
Rất nhiều tranh luận về lý do tồn tại của chế độ CS tại Việt Nam.
Trong cái nhìn của riêng tôi, chế độ CS tại Việt Nam chưa sụp đổ, không
phải nhờ đổi mới kinh tế, ổn định xã hội nhưng chính là nhờ tác dụng của
cái “loa lịch sử” đó. Đảng CS ít nhiều đã thành công trong việc che
giấu được tội ác và khoác cho mình chiếc áo chính danh, chính nghĩa, hay
ít nhất không một thành phần dân tộc nào chính danh, chính nghĩa hơn
đảng CS.
Đảng Cộng sản tại năm quốc gia sót lại từ phong trào CS quốc tế,
đặc biệt Trung Quốc và Việt Nam đã pha chế chủ nghĩa Dân tộc vào chủ
nghĩa Cộng sản thành một loại hợp chất gây mê man nhãn hiệu Dân tộc Xã
hội chủ nghĩa. Đảng CS lý luận rằng họ ra đời để đáp ứng một nhu cầu
lịch sử và, như một tác giả viết trong báo Pháp Luật, “những người cộng sản chỉ nối tiếp sứ mệnh mà lịch sử giao phó”. Lịch sử nào giao phó?
Chủ trương nhuộm đỏ Việt Nam của đảng CS rõ như ban ngày khi đẩy
hàng triệu thanh niên miền Bắc mang súng đạn của Nga, Tàu vào cưỡng
chiếm miền Nam. Pháp rút sớm hay rút muộn, Mỹ đến hay không đến cũng
chẳng ảnh hưởng gì đến mục tiêu thiết lập một nhà nước CS trên toàn lãnh
thổ Việt Nam nhất quán từ ngày thành lập đảng CS vào năm 1930. “Độc lập
dân tộc”, “Thống nhất đất nước” chỉ là những chiêu bài. Nếu không dùng
khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” bộ máy tuyên truyền tinh vi của đảng cũng
thừa khả năng để nặn ra hàng trăm chiêu bài, khẩu hiệu hấp dẫn khác để
kích thích và lợi dụng lòng yêu nước. Bộ máy tuyên truyền của đảng nhồi
nhét vào nhận thức của các thế hệ Việt Nam, nhất là thế hệ sinh ra và
lớn lên sau cuộc chiến, rằng cuộc chiến tranh gọi là “Chống Mỹ cứu nước”
trước 1975 là cuộc chiến chính nghĩa, “đánh Mỹ” là bước kế tục của
chiến tranh chống Thực Dân Pháp. Đó là lý luận của kẻ cướp. Đảng CS
không chỉ cướp đất nước mà cướp cả niềm tin và khát vọng của những người
đã chết.
Như tôi đã viết trước đây, miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng
có đấu tranh chính trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong
trào chống tham nhũng hoạt động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng
cũng có ông tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những
chính khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập chân chính. Xây dựng một xã hội
dân chủ vừa bước ra khỏi phong kiến và thực dân là một tiến trình vinh
quang nhưng cũng đầy trắc trở. Dân chủ ở miền Nam như một chiếc cây non
lớn lên trong mưa chiều nắng sớm. Nhưng dù có khó khăn, tham nhũng thối
nát bao nhiêu đi nữa, đó cũng là vấn đề riêng của Việt Nam Cộng Hòa
không dính dáng gì đến đảng CS ở miền Bắc. Những ông như Trịnh Đình
Thảo, Lâm Văn Tết có đủ không gian và phương tiện để đấu tranh một cách
hợp pháp tại miền Nam cho một xã hội tốt đẹp hơn như hàng trăm chính
khách quốc gia khác. Dĩ nhiên, họ có thể thất bại, bị tù đày và ngay cả
bị giết nhưng vẫn là những người quốc gia chân chính. Tuy nhiên, khi
tham gia Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, chấp nhận làm
công cụ cho đảng CS, họ đã tự chặt chiếc cầu biên giới giữa họ và nhân
dân miền Nam.
Tác giả viết trong "Sài Gòn Giải Phóng" nhắc đến "10 cô gái Đồng Lộc”
mà không biết rằng nếu có thể hiện hồn về, công việc đầu tiên của các
cô chết trong hố bom Đồng Lộc là đi tìm lãnh đạo đảng CS để thanh toán
cả vốn lẫn lời vì cái chết oan uổng của các cô chỉ để đổi lấy một đất
nước nghèo nạn, lạc hậu, một chế độ độc tài, tham nhũng, phản văn minh
tiến bộ như ngày nay.
Tác giả trên báo "Sài Gòn Giải Phóng" cũng nhắc đến đến “nhà tù Côn
Đảo”, “nghĩa trang Hàng Dương” làm tôi nhớ đến nơi này. Tôi cũng đã
từng đến đó, không phải vì phải ở tù mà chỉ vì muốn biết một di tích
lịch sử của dân tộc. Đảng xem nhà tù Côn Đảo như một “trường đại học
CS”, tài sản riêng của đảng CS nhưng đừng quên nhà tù Côn Đảo do thực
dân Pháp lập ra năm 1862 tức 68 năm trước khi đảng CS ra đời. Năm 1945,
đảng CS ước lượng có khoảng 5 ngàn đảng viên. Cho dù thực dân Pháp bắt
và đày nguyên cả đảng ra Côn Đảo cũng không thể so với số tù nhân thuộc
các phong trào yêu nước khác. Với tôi, cuộc chiến chống thực dân Pháp là
cuộc chiến chính nghĩa. Trong suốt gần một thế kỷ trong bóng tối thực
dân, hàng vạn đồng bào thuộc nhiều thế hệ Việt Nam đã bị bắt, tra tấn và
đã hy sinh trên Côn Đảo. Những đồng bào đã hy sinh trong cuộc chiến
chống Thực Dân và bỏ xác trên đảo đều xứng đáng được tôn vinh.
Nếu họ đã từng là đảng viên Cộng sản thì sao? Không sao cả. Như tôi đã có dịp viết trong tiểu luận "Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng Dương",
việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người Việt Nam, chủ yếu là
để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến
thắng dễ dàng hơn chứ không phải vì tin vào chủ nghĩa Cộng Sản. Ngày đó,
vì điều kiện giao thông khó khăn, núi non cách trở, sự phát triển của
các đảng phái chống thực dân ít nhiều bị giới hạn bởi các đặc tính địa
phương, bà con giòng họ, hoàn cảnh trưởng thành. Nếu họ sinh ra ở Quảng
Nam họ sẽ gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng, sinh ra ở Quảng Trị họ sẽ gia
nhập Đại Việt, sinh ra ở Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang họ sẽ gia nhập
Dân xã Đảng. Đó là trọng điểm của các đảng phái chống Pháp trong những
thập niên đầu của thế kỷ 20. Những người Việt yêu nước thời đó chọn lựa
đảng phái như chọn một chiếc phao để đưa dân tộc sang bờ độc lập. Những
nông dân hiền hòa chất phác, những công nhân đầu tắt mặt tối làm sao
biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn
đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc phao họ bám
cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc đời họ mà còn gây hệ lụy
cho cả dân tộc đến ngày nay. Đảng Cộng sản như một tổ chức thì khác. Mục
đích của đảng CS không chỉ nhuộm đỏ miền Nam, nhuộm đỏ Việt Nam mà còn
nhuộm đỏ cả dòng lịch sử.
Tác giả viết trên báo "Pháp Luật" so sánh việc chính quyền miền Nam tra tấn các đảng viên CS và tù “cải tạo” sau 1975 khi kết án tác giả Bên Thắng Cuộc đã “Nhấn
mạnh 'chế độ hà khắc' của các trại cải tạo nhưng cuốn sách lại không
nhắc đến những trại tù và cách ứng xử của chế độ Sài Gòn cũ đối với
những người yêu nước”. Những kẻ ném lựu đạn vào nhà hàng, ám sát,
đặt mìn trên quốc lộ 1, quốc lộ 4, đặt bom trong sân vận động, đốt chợ,
đốt làng, giết người vô tội không phải tù chính trị hay tù binh chiến
tranh, mà chỉ là những tên khủng bố. Chúng là những kẻ yêu đảng chứ
không phải là “những người yêu nước”. Bấm vào đây --> "Terrorist Attacks in Saigon 1960s-70s" để xem các “chiến công hiển hách” của Biệt động thành Sài Gòn Gia Định khi ám sát hàng loạt “Mỹ ngụy”
còn mặc tã ở nhà hàng Mỹ Cảnh. Tội ác giết phụ nữ trẻ em của chúng phải
được xét xử theo đúng luật pháp. Điều đó đã và đang được áp dụng tại
mọi quốc gia trên thế giới không riêng gì Việt Nam Cộng Hòa.
So sánh tù CS ở Côn Đảo và tù “cải tạo” là một cách so sánh vụng về và không cân xứng. Tổng số tù tại Côn Đảo
khác nhau tùy theo bên nào tống kết, 5 ngàn theo con số của VNCH công
bố và 17 ngàn theo con số của Hà Nội. Dù chọn con số 17 ngàn của đảng
thổi phồng vẫn không thể so với hơn 200 ngàn công nhân viên chức và sĩ
quan quân đội VNCH bị giam giữ trong 150 trại tù, đa số tận rừng sâu
nước độc kéo dài từ 1975 đến 1992 mà chính Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng thừa nhận.
Các tổ chức quốc tế ước lượng cho đến 1982 số viên chức và sĩ quan VNCH
bị giam giữ vẫn còn lên đến 300 ngàn người. Theo tổng kết của báo chí
Mỹ, khoảng 165 ngàn người
đã chết trong các trại tù CS. Ngoài ra, hàng triệu thân nhân, gia đình,
con cái họ bị đày ra các vùng kinh tế mới, bị bạc đãi như nô lệ thời CS
chỉ vì lý lịch VNCH.
Một điều quan trọng mà người dân miền Nam sẽ không bao giờ quên,
không giống tù Côn Đảo xảy ra trong thời chiến, tội ác “tù cải tạo” vô
cùng phi nhân đã được đảng thực thi sau khi đất nước đã hòa bình, sau
khi Lê Duẩn ngọt ngào tuyên bố “chiến thắng này thuộc về nhân dân Việt
Nam” và sau khi Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn Gia Định
vuốt ve các viên chức VNCH còn trong Dinh Độc Lập “Nhân dân Việt Nam
chính là người chiến thắng và chỉ đế quốc Mỹ mới thật sự là kẻ bại trận
mà thôi”.
Phân tích như vậy để thấy lý luận trong bài viết trên báo "Pháp
Luật" cho rằng cuộc chiến chấm dứt sáng 30/4/1975 “không phải là chiến
thắng của một “'bên thắng cuộc' hạn hẹp mà là chiến thắng của mọi người Việt Nam, trong đó cả những người từng ở phía bên kia”
đúng là sản phẩm của chính sách tẩy não. Miền Nam sau 30/4/1975 là một
nhà tù và nhân dân miền Nam là tù nhân dưới nhiều hình thức khác nhau.
Từ 1983, để tồn tại, đảng CS phải tự diễn biến hòa bình
bằng cách mở thêm một vài ô cửa sổ cho gió vào nhưng thực chất đất nước
vẫn còn bị bao bọc bằng bức tường dày bưng bít thông tin và một chế độ
trấn áp không thua tiêu chuẩn một nhà tù khắt khe quốc tế nào. Lý thuyết
Mác Lê có thể chỉ còn trong đầu môi chót lưỡi, trong các diễn văn,
trong các bài ai điếu của các lãnh đạo đảng nhưng các phương tiện chuyên
chính, toàn trị CS vẫn không khác gì nhiều so với thời triệt để cách
mạng trước đây. Một nhạc sĩ trẻ Việt Khang chỉ viết hai bài hát chống
Tàu bị kết án bốn năm tù. Một cô gái Đỗ Thị Minh Hạnh mới ngoài hai mươi
tuổi, đấu tranh cho quyền lợi công nhân phù hợp với luật pháp của đảng
CS quy định bị kết án bảy năm tù, một thanh niên trẻ Lê Sơn chỉ đưa tin
tức các cuộc biểu tình chống Trung Quốc và chống khai thác Bauxite tại
Tây Nguyên bị kết mười ba năm tù. Và hàng trăm, hàng ngàn người khác đã
sống và đã chết, nhiều trường hợp rất âm thầm, trong nhà tù CS chỉ vì
dám nói lên khát vọng dân chủ tự do.
Tác giả trên báo "Sài Gòn Giải Phóng" viết “Có thể lúc này lúc khác, Đảng có sai lầm. Cuộc sống khó khăn, đôi khi tôi cũng mất lòng tin vào đường lối của Nhà nước.” Hãy chỉ dùm tôi, không phải một năm, một tháng mà chỉ một ngày thôi đảng CS đã “lúc này lúc khác”. Bản chất của chế độ chưa hề thay đổi dù chỉ một giờ.
Lãnh đạo đảng có 38 năm để chọn một hướng đi phù hợp với trào lưu
tiến hóa của nhân loại, có hàng trăm cơ hội để sửa sai nhưng họ không
làm. Tất cả chính sách của đảng chỉ nhằm một mục đích duy nhất là củng
cố quyền cai trị mặc cho dân tộc bị bỏ lại phía sau một đoạn đường quá
xa so với đà tiến của nhân loại sau cách mạng tin học và toàn cầu hóa
kinh tế cuối thập niên 1980. Tội ác của đảng với “tù cải tạo”, “kinh tế
mới”, “đổi tiền”, “đánh tư sản”, có viết hàng tủ sách cũng không hết.
Nỗi đau và sự chịu đựng vô bờ bến của nhân dân miền Nam nói riêng và cả
nước nói chung, không thể nào diễn tả cạn dòng. Hàng ngàn câu chuyện
thật đau lòng đã xảy ra trên con đường máu nhuộm Việt Nam sau 1975 và
chỉ được phơi bày khi bức tường chuyên chính CS bị đạp đổ.
Có hai cách để đạp đổ bức tường chuyên chính. Thứ nhất, đi mượn một
cái búa lớn của các cường quốc đem về đập phá bức tường và thứ hai xói
mòn bằng những bàn tay nhỏ Việt Nam kiên nhẫn. Sau 38 năm, những người
đi tìm búa hoặc chết trên đường, hoặc trở về không. Còn lại hôm nay là
những bàn tay Việt Nam nhỏ nhoi. Bàn tay Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng
Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy
Thức, Lê Công Định, Lê Quốc Quân, Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hòa, Lê Văn
Sơn và hàng ngàn người Việt Nam yêu nước khác. Dù đang ngồi trong bốn
bức tường đen, họ mới chính là những người đang viết sử và thấy đâu là
sự thật.
---------------------------------------------------
* Bài nhận được trực tiếp từ tác giả Trần Trung Đạo
TRƯƠNG DUY NHẤT 8 NGUYỄN TẤN DŨNG
Thủ tướng và “quả bom” 3000 tỷ Đà Nẵng
Filed Under Trương Duy Nhất
Trương Duy NhấtChủ nhật 20 Tháng giêng, 2013
Khí trời giá lạnh. Một tuần tê cóng. Nhưng thời tiết chính trị lại nóng hực như lọt giữa chảo rang. Tâm điểm tuần qua là hình ảnh năng nổ của Thủ tướng cùng những phát ngôn ấn tượng, bất ngờ và quả bom đất đai 3000 tỷ Đà Nẵng.Thủ tướng
Dường như ông đang cố tìm cách lấy lại hình ảnh sau cuộc kiểm điểm hụt tại hội nghị 6. Lâu rồi mới thấy một hình ảnh Thủ tướng xông xáo năng nổ và nói hay đến thế. Liên tiếp các cuộc gặp gỡ chỉ đạo, liên tiếp các phát biểu hay.
“Bây giờ mình không thiếu gạo, mình cũng viện trợ nơi này nơi khác, vậy tại sao để con cháu mình trong cảnh cháu mang mì, cháu mang ngô, cháu mang khoai đến lớp, rồi phải lợp chòi nấu ăn?”- Câu hỏi bất ngờ của Thủ tướng tại hội nghị trực tuyến Bộ Lao động- thương binh xã hội được các báo giật tít tràn kín trang.
Thú thật, tôi cũng không ngờ Thủ tướng lại có thể hỏi được một câu hay đến vậy. Chỉ có điều, người phải trả lời câu hỏi đó không phải ai khác ngoài chính ông.
Có lẽ đây là phát biểu hay nhất của Thủ tướng kể từ sau bài xin lỗi và tự bạch về việc không từ chức tại quốc hội hơn 2 tháng trước.
Cũng là lần đầu tiên nghe ông tâm sự rằng rất đau lòng trước các sự thể đổ vỡ ở Vinashin, Vinalines: “Tuy chỉ có một vài doanh nghiệp thua lỗ, sai phạm gây hậu quả nghiêm trọng như Vinashin, Vinalines nhưng ảnh hưởng rất lớn, khiến người dân đặt câu hỏi còn Vina nào nữa? Tôi thực sự đau lòng, dân phê phán là đúng, thua lỗ tiền tỉ như thế ai không sốt ruột”- Lời bộc bạch trong cuộc gặp gỡ các tập đoàn kinh tế nhà nước- những mô hình “quả đấm thép” của chính phủ đang ôm món nợ khủng đến 60 tỷ USD.
Trước đó chỉ nghe ông nhận “trách nhiệm chính trị”, nhưng theo lời ông thì trong cái chuyện Vinashin ấy, Thủ tướng cũng chẳng ký gì sai!
Vì vậy, cú “đau lòng” lần này cũng khá bất ngờ và ấn tượng.
Bất ngờ và ấn tượng hơn khi nghe ông thẳng thừng chỉ trích sự tê liệt của đảng: “Tôi thấy hết sức buồn. Trong cách mạng tháng Tám ta chỉ có 5.000 đảng viên mà vẫn giành thắng lợi. Tập đoàn Vinashin có tới 6.000 đảng viên. Nhưng mà tê liệt. Làm trái, đầu tư tràn lan, rồi trái pháp luật kéo dài một thời gian mà tôi không nhận được bất kỳ đơn thư tố cáo của bất kỳ đảng viên nào. Rồi người đứng đầu thì được bầu vào hết cấp ủy này đến cấp ủy khác.
Hay ở Vinalines, mấy nghìn đảng viên mà vẫn làm sai làm trái như thế. Con sâu làm rầu nồi canh. Người dân đặt câu hỏi còn Vina nào nữa? Doanh nghiệp nhà nước đi liền với tiêu cực, phạm pháp, tham nhũng. Đội ngũ đảng viên của chúng ta rất lớn, vậy vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên ở đâu?”
Quá hay. Đâu phải mình Chủ tịch nước Trương Tấn Sang mới nói đến bầy sâu. Thủ tướng cũng nói về sâu đấy chứ. Đâu phải chỉ có Tổng Bí thư mới phê bình chỉ trích “đảng viên nhan nhản Cộng sản mấy người?”. Thủ tướng cũng phê bình chỉ trích đảng đấy chứ, ông nói bộ máy đảng bị “tê liệt” cơ mà.
Tôi… thích và ấn tượng với hình ảnh Thủ tướng tuần qua.
Quả bom Đà Nẵng
Dư luận bất ngờ đến choáng váng khi Thanh tra chính phủ tung ra kết luận sai phạm đất đai tại Đà Nẵng với mức hơn 3000 tỷ giữa lúc ông Nguyễn Bá Thanh chuẩn bị bàn giao Đà Nẵng ra Hà Nội ngồi ghế Trưởng ban Nội chính trung ương.
Ý kiến chỉ đạo xử lý của Thủ tướng và cả Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc rất gắt: Yêu cầu kiểm điểm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Đà Nẵng được cho là có liên quan giai đoạn 2003-2011, đồng thời chuyển cơ quan điều tra Bộ Công an một số trường hợp rất cụ thể.
Dư luận nóng hực. Tưởng như sắp bắt ông này bà nọ đến nơi.
Việc vốn nóng, lại như được đổ thêm dầu sau cú phản đòn tới tấp dồn dập của chính quyền Đà Nẵng. Cú phản pháo khiến tất cả các báo phải cắt bớt nhiều chuyên mục dành đất như thể một chuyên trang cho cuộc phản đòn của Đà Nẵng.
Tân Trưởng ban Nội chính trung ương Nguyễn Bá Thanh, người vẫn còn kiêm nhiệm Bí thư Đà Nẵng khẳng định dứt dạc rằng: Đà Nẵng làm đúng và vận dụng từ chính chủ trương của chính phủ!
Chủ tịch Đà Nẵng, ông Văn Hữu Chiến thì thẳng thừng: cú đòn thanh tra 3000 tỷ là “bất thường và không thuyết phục”.
Bất thường quá đi chứ. Cả nước bao nơi bết bê chuyện đất đai, đến biểu tình, trấn áp nhân dân, đến nổ súng đổ máu, đến mức dàn quân trấn áp dân như những trận càn của địch thuở chiến tranh, đến mức dân uất ức cùng quẫn phải chĩa súng bắn vào chính quyền… Chỉnh trang giải tỏa thì rù rì bế tắc, đô thị cày xới nhem nhuốc bẩn thỉu. Vậy mà chẳng thấy thanh tra, chẳng nói năng gì. Đà Nẵng đang yên lành, đang phát triển, đang nổi lên như một hiện tượng, một mẫu hình sáng của cả nước thì lại ập vào kiểm thanh.
Bức xúc đến mức ông Chiến thẳng băng, bất chấp: Đà Nẵng không cần giải trình nữa vì đã giải trình quá nhiều rồi.
Trước yêu cầu của Thủ tướng chỉ thị phải “kiểm điểm Chủ tịch, các Phó chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng”, ông Chiến nói vẻ rất… thách thức: “làm sao phê bình kỷ luật được ai?”.
Đà Nẵng rúng động. Cả nước nóng lên vì chuyện Đà Nẵng.
Một hiệu ứng ngược khá hi hữu và thú vị chưa từng có trong lịch sử: Dư luận dân chúng và cộng đồng mạng ào ạt sôi lên như những đợt sóng cuộn cổ vũ, bênh vực “đối tượng sai phạm”. Thậm chí cả những trang mạng vốn được xem là chống Cộng quyết liệt đến cực đoan cũng công khai tỏ bày thái độ ủng hộ Nguyễn Bá Thanh và Đà Nẵng.
Sử Việt chưa thời nào có chuyện ly kỳ thú vị vậy: Dân tình đi ủng hộ một quan chức bị kết luận gây… “thất thu” hàng nghìn tỷ!
Thậm chí nhiều, rất nhiều bạn đọc còn tỏ thái độ sẵn sàng ủng hộ tiền, trích hàng tháng lương để quyên góp ủng hộ ông Thanh và chính quyền Đà Nẵng nếu thanh tra buộc phải truy nộp 3000 tỷ gọi là “thất thu” kia.
Cú phản đòn lập tức tạo dư chấn mạnh hơn cả quả bom 3000 tỷ từ kết luận thanh tra.
Chưa biết kết cuộc thế nào.
Dù sao, cú đòn này chắc khó tạo ảnh hưởng lớn đến đường tới của Nguyễn Bá Thanh. Nhưng lại có vẻ như đang cản “đường về” của cựu Chủ tịch Đà Nẵng, Phó trưởng ban Tổ chức trung ương Trần Văn Minh (nhiều khi có vẻ như đây cũng là…. cái đích chính không phụ tí nào trong sự thể ầm ĩ này).
Ghế Bí thư Đà Nẵng thay ông Thanh vẫn bỏ ngỏ. Ông Minh, cho dù là phương án tối ưu nhất, nhưng vẫn chỉ là 1 trong 3 ứng viên. Nếu ông Minh không phải là người được chọn để “trở về” thì đấy sẽ là một mối lo cho Đà Nẵng thời hậu Bá Thanh.
Ngoài 2 điểm nóng trên, cũng cần phải nhắc thêm chút về 2 sự kiện nữa: Những bữa cơm thịt chuột của học sinh vùng cao, ngày Hoàng Sa và quân xâm lược Trung Quốc.
Những bữa cơm thịt chuột
Hình ảnh rơi nước mắt. Những đứa trẻ học sinh vùng cao co ro giữa mùa giá rét, phải đi bẫy chuột để làm thịt cải thiện bữa ăn. Những cái bẫy thép hoen gỉ, những xác chuột (nhiều khi chẳng thể phân biệt được đâu là chuột đồng, chuột cống hay chuột nhắt) được các em thản nhiên vặt lông, nướng chặt trộn cùng gói mì tôm trong cái nồi nước lềnh bềnh làm… canh!
Không ti vi, không sách báo. Chẳng có đứa trẻ nào nghe đọc được câu hỏi… xót lòng của Thủ tướng: “mình không thiếu gạo, mình cũng viện trợ nơi này nơi khác, vậy tại sao để con cháu mình trong cảnh cháu mang mì, cháu mang ngô, cháu mang khoai đến lớp, rồi phải lợp chòi nấu ăn?”
Thầy giáo Phó Thủ tướng, nhà giáo ưu tú Nguyễn Thiện Nhân thì đang miệt mài đi chỉ huy bắt gà lậu.
Ngày Hoàng Sa và quân xâm lược Trung Quốc
39 năm trước (19/1/1974) Hoàng Sa mất. Hôm qua, không có báo nào nhớ. Hay tất cả đều cố quên? Duy nhất một tờ Thanh Niên dành gần trọn trang báo cho ngày Hoàng Sa, thuật tả chi tiết cuộc tấn công xâm lược của kẻ thù cùng trận tử thủ bảo vệ Hoàng Sa và sự hi sinh anh dũng của 53 quân nhân Việt Nam cộng hòa.
Lâu lắm, mấy chục năm rồi mới nghe một tờ báo dám nhắc đến cái tên: quân Trung Quốc xâm lược. Mấy chục năm rồi mới thấy duy nhất một tờ báo Thanh Niên gọi thẳng người bạn “16 chữ vàng 4 tốt” là kẻ thù, là kẻ xâm lăng, là quân xâm lược.
Cuối tuần. Khí trời vẫn lạnh, nhưng vẫn đầy sự thể nóng. Nóng đến mức nhiều khi muốn vung nắm đấm thụi vào đâu đó vài phát cho hả dạ!
Nguồn:
http://www.truongduynhat.vn/thu-tuong-va-qua-bom-3000-ty-da-nang/
TƯỞNG NĂNG TIẾN * XÃ HỘI VIỆT NAM
Dưới Chân Tượng Bác
Thu, 12/27/2012 - 11:17 — tuongnangtien
Sổ Tay Thượng Dân K’ Tien
Hôm nay đồng bào khai hội, sum họp một nhà thật là vui vẻ. Tiếc vì đường xá xa xôi, tôi không đến dự hội được. Tôi tuy xa, nhưng lòng tôi và Chính phủ vẫn gần gũi đồng bào.
Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.
Trước kia chúng ta đều xa cách nhau, một là thiếu dây liên lạc, hai là vì có kẻ xúi dục để chia rẽ chúng ta.
Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Trong Quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có “NHA DÂN TỘC THIỂU SỐ”để chăm sóc cho tất cả đồng bào.
Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta, vậy nên tất cả các dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta.
Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta.
Xin chúc Đại hội thành công.
HỒ CHÍ MINH
The Montagnards have been repressed by Vietnam for decades. This has got to stop.
Ở xứ ta, xem ra, người thực sự (và duy nhất) hiểu thấu tâm hồn đơn sơ của Bác chính là nhà thơ Tố Hữu:
Mong manh áo vải hồn muôn trượng,
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
Kỳ dư, không ai thấy được bản tính “khiêm tốn nhường ấy” ấy của Bác nên thiên hạ đã dựng cả đống tượng đồng phơi những lối mòn (tá lả) khắp mọi nơi – theo như ghi nhận của phóng viên Lý Trực Dũng:
“Chỉ trong khoảng 15 năm gần đây đã xuất hiện tới hàng trăm
tượng đài trên cả nước. Có địa phương còn lên kế hoạch sẽ xây dựng cả
trăm tượng đài sắp tới… Khó có thể tìm thấy một nước thứ hai trên thế
giới có phong trào xây dựng tượng đài ào ạt trong một thời gian ngắn như
vậy bằng 100% ngân sách nhà nước như Việt Nam. Công chúng
đương thời thì bàng quan, thờ ơ với ‘tượng đài’, thứ mà Nhà nước đang
hào phóng ban phát cho họ bằng tiền thuế của họ.”
Tuy thế, pho tượng của Người – đặt tại cần Thơ, vào năn 1976 –
vẫn được cả nước nhắc đến luôn, qua hai câu ca dao (vô cùng ) duyên
dáng vào Thời Cách Mạng:
Chiều chiều trên bến Ninh Kiều
Dưới chân tượng Bác đĩ nhiều hơn dân!
Tượng đài Bác Hồ với các dân tộc Tây Nguyên. Ảnh: Lao Động
Cái số “nhiều” này, ngó bộ, không được người dân địa phương tán
thưởng hay hãnh diện gì cho lắm – theo như tường thuật của ký giả Hoàng Văn Minh, trên báo Lao Động, vào hôm 3 tháng 12 năm 2012:
“Cần Thơ ‘chết tên’ vì gái bán dâm ... Một lãnh đạo
thành phố Cần Thơ ta thán:‘Ra ngoài, chúng tôi xấu hổ không dám ngẩng
mặt lên bởi cả nước ai cũng nghĩ là Cần Thơ của chúng tôi... xuất khẩu
gái mại dâm ......”
“Tại sao các tỉnh miền Tây lại có nhiều phụ nữ làm nghề ‘em ở
Cần Thơ’ đến thế? Từ cán bộ tỉnh cho đến cán bộ ấp, ai cũng nhìn tôi lắc
đầu ‘chịu’, không biết nói làm sao...”
Nói cho đúng ra là xui thôi, chớ chả “làm sao” cả. Bác vốn nổi tiếng là một người cần kiệm, suốt đời chỉ đi dép râu, hút thuốc Điện Biên, mong manh áo vải, và khi vớ rách thì xoay chỗ rách vào bên trong chớ (nhất định) không thay cái khác.
Dựng tượng một ông già hà tiện tới cỡ đó (ngay giữa lòng Tây Đô) thì làm sao mà người dân miền Tây khá lên
cho được, hả Trời? May mà cái “huông” của ku Nghệ vừa mới được “dời”
qua nơi khác, từ Tây Đô lên tuốt Tây Nguyên – theo như tường trình mới
đây của nhà báo Hoa Lư, trên Tuổi Trẻ Online:
“Tối 9-12, tại TP Pleiku (Gia Lai) đã diễn ra lễ khánh thành tượng đài Bác Hồ với các dân tộc Tây nguyên... Tượng
đài Bác Hồ với các dân tộc Tây nguyên được khởi công xây dựng tháng
10-2010 tại quảng trường Đại đoàn kết, TP Pleiku. Tượng Bác cao 10,8m
đặt trên bệ cao 4,5m được đúc bằng chất liệu đồng. Phía sau và hai bên
tượng Bác là phù điêu bằng đá tự nhiên có chiều dài 58m, cao 11m, hình
vòng cung với nhiều cánh sen, thể hiện nét đẹp văn hóa các dân tộc Tây
nguyên như nhà rông, rượu cần, cồng chiêng...Tổng kinh phí xây dựng công
trình là 230 tỉ đồng.”
Thạch thư toàn văn bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam. Ảnh: baovanhoa.vn
Cái ông Hoa Lư này, rõ ràng, là
một người đểnh đoảng. Viết báo gì mà từ hình ảnh đến bài vở đều
copy của thiên hạ hết trơn; đã vậy, còn làm ẩu tả và thiếu sót nữa.
Thằng chả quên ghi chi tiết quan trọng này: dưới chân tượng Bác có bức
thư của Chủ Tịch Hồ Chí Minh gửi Đại Hội Các Dân Tộc Thiểu Số Miền
Nam – được khắc trên một khối đá granite rộng 3m, cao 4,2m, dày 2,5m,
nặng hơn 135 tấn – nguyên văn như sau:
Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 1946
Cùng các đồng bào dân tộc thiểu số!
Cùng các đồng bào dân tộc thiểu số!
Hôm nay đồng bào khai hội, sum họp một nhà thật là vui vẻ. Tiếc vì đường xá xa xôi, tôi không đến dự hội được. Tôi tuy xa, nhưng lòng tôi và Chính phủ vẫn gần gũi đồng bào.
Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.
Trước kia chúng ta đều xa cách nhau, một là thiếu dây liên lạc, hai là vì có kẻ xúi dục để chia rẽ chúng ta.
Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Trong Quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có “NHA DÂN TỘC THIỂU SỐ”để chăm sóc cho tất cả đồng bào.
Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta, vậy nên tất cả các dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta.
Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta.
Xin chúc Đại hội thành công.
Lời chào thân ái
HỒ CHÍ MINH
Thư Bác viết đã hơn nửa thế kỷ qua mà đọc (lại) vẫn cứ muốn rơi nước mắt:“Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.”
Coi: lúc đói thì Cô Gái Pako “con
cháu Bác Hồ, gùi trên vai súng đạn ra hoả tuyến, gạo ngàn cân em gùi
ra chiến trường. Bộ đội giải phóng ơi yên tâm mà đánh thắng giặc Mỹ.” Mỹ cút rồi thì con cháu của cô gái Pako hàng ngày phải vượt sông Poko bằng dây cáp – theo như lời của hai nhà báo Trí Tín và Sơn Nguyễn:
“Người dân đã phải góp nhau 3
triệu đồng để làm hai đường cáp chạy song song, một dây đi và một dây
về. Một bên này cao thì bên kia phải thấp, nên khi lắp ròng rọc vào sẽ
tự động chạy một mạch tuồn tuột sang bên kia bờ trong chớp nhoáng. Không
chỉ nông lâm sản được vận chuyển qua sông bằng dây cáp, mà hầu hết trẻ
em bên kia sông đều phải đi qua dây cáp để đến trường.”
Ảnh: vnexpress.net
Bức thư thượng dẫn cũng đã được in thành 376. 000
bản – trên giấy láng cứng, nền hoa văn đẹp – nếu để ý sẽ thấy chỉ
qua một câu ngắn mà hai chữ “chúng ta” được Bác nhắc đi nhắc lại đến
ba lần:
“Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của
chúng ta, vậy nên tất cả các dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để
giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta.”
Tuy thế, ngay sau khi thâu tóm được cả giang sơn thì Chính Phủ tạo một đường ranh rất rõ giữa chúng ta và chúng nó – theo như nhận xét của nhà văn Nguyên Ngọc:
“Từ sau năm 1975, đối với Tây Nguyên chúng ta có hai chủ trương chiến lược:
Xây dựng Tây Nguyên thành một địa bàn vững chắc về an ninh và quốc phòng.
Xây dựng Tây Nguyên thành một vùng trọng điểm kinh tế của cả nước.
Để thực hiện chủ trương chiến lược đó, đã :
Tăng cường lực lượng lao động lớn cho Tây Nguyên bằng cách tiến
hành một cuộc đại di dân chưa từng có, chủ yếu từ đồng bằng châu thổ
sông Hồng và vùng duyên hải Nam Trung Bộ lên Tây Nguyên...
Tổ chức toàn bộ Tây Nguyên thành các đơn vị kinh tế lớn... Toàn
bộ đất và rừng ở Tây Nguyên được quốc hữu hoá, được lấy giao cho các
binh đoàn làm kinh tế, các LHXNLCN, các nông trường, lâm trường, và giao
cho dân di cư từ đồng bằng lên. Người bản địa chỉ còn phần đất thổ cư
và một ít đất làm rẫy.”
Hệ quả, hay nói đúng ra là hậu quả của “hai chủ trương chiến lược”
này, vẫn theo ghi nhận của Nguyên Ngọc – có những chữ in đậm, trong
nguyên bản – như sau:
“Dân số Tây Nguyên tăng nhanh, đột ngột, với cường độ lớn...
Đầu thế kỷ XX, các dân tộc bản địa chiếm 95% dân số. Đến năm 1975, tỷ
lệ này là 50%. Hiện nay người bản địa chỉ còn 15-20% trên toàn địa
bàn...
Sự tan vỡ của làng Tây Nguyên. Từ sau năm 1975, quyền sở hữu
tập thể truyền thống của cộng đồng làng đối với đất và rừng nghiểm
nhiên bị xoá bỏ, tất cả đất và rừng đều bị quốc hữu hoá. Như đã thấy ở
trên, quyền sở hữu này chính là nền tảng vật chất, kinh tế của làng ; bị
bứng mất đi nền tảng này, làng, tế bào cơ bản của xã hội Tây Nguyên,
tất yếu tan vỡ...
Môi trường bị tàn phá nghiêm trọng. Cho đến nay, trừ một vài
vùng nhỏ như một ít khu vực quanh núi Ngok Linh, vùng Komplong..., có
thể nói về cơ bản rừng Tây Nguyên đã bị phá sạch, hậu quả về nhiều mặt
không thể lường.
Người bản địa bị mất đất. Việc mất đất, không phải trong một
xã hội bình thường mà là từ tay người dân tộc bản địa sang tay người
nơi khác đến là người Việt, đã khiến vấn đề đất đai trở thành vấn đề dân
tộc. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp của sự mất ổn định nghiêm trọng
đã và đang diễn ra ở Tây Nguyên.
Văn hoá Tây Nguyên bị mai một. Việc mất rừng, tan vỡ của
làng, cơ cấu dân cư bị đảo lộn lớn và đột ngột, người bản địa bị mất đất
và mất gốc rễ trở thành lang thang trên chính quê hương ngàn đời của
mình... tất yếu đưa đến đổ vỡ về văn hoá.”
Tất cả mọi mất mát và đổ vỡ này được Nhà Nước bù đắp bằng ...
một pho tượng Bác, trị giá 230 tỉ đồng. Số tiền đủ để bắc ít nhất
là 230 chục cái cầu, chấm dứt tình trạng đu dây cáp hay bơi qua sông
đến trường, và ngăn được những tai nạn đắm đò xẩy ra hàng năm – nơi
những buôn làng heo hút.
Rõ ràng những lời nói tử tế, theo kiểu mật ngọt chết ruồi (Đồng
bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và
các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột
thịt) Bác và Đảng chỉ đặt dưới chân – để làm bàn đạp, khi cần. Ở
Tây Đô hay ở Tây Nguyên đều cũng thế thôi. Trước đã thế và nay vẫn
vậy.
Câu hỏi đặt ra là tình trạng “vẫn vậy” sẽ kéo dài được thêm được
bao lâu nữa khi mà nhà đương cuộc Hà Nội – xem ra – hoàn toàn không
học hỏi được gì sau những biến động vào năm 2001, 2004 xẩy ra ở Tây Nguyên, và 2011 ở Mường Nhé.
Theo AP,
phát đi vào ngày 12 tháng 12 năm 2012 thì “Việt Nam vừa kết án bốn
người Hmong tổng cộng 19 năm tù vì tội âm mưu lật đổ chính quyền,
với bằng chứng buộc tội là bốn bộ quân phục và một ... cương lĩnh
chính trị.”
Tranh: Babui
Tiếp tục xây dựng tượng đài cùng với nhà tù, có lẽ, là phương cách
duy nhất mà những người cộng sản có thể nghĩ ra để bảo vệ chế độ
trong lúc cùng quẫn. Tất nhiên, đây không phải là phương cách tối
ưu. Những tượng đài của Stalin, Lenin, và Mao Trạch Đông .. bị giật đổ
ngổn ngang khắp nơi minh đã chứng cho điều đó. Những “tượng đồng phơi
những lối mòn” của Bác, rồi ra, cũng sẽ cùng chung số phận thôi.
NGUYỄN THIÊN THỤ * THE ABOLITION OF PRIVATE PROPERTY
THE ABOLITION OF
PRIVATE PROPERTY
by
NGUYỄN THIÊN THỤ
I. PROPERTY
According to Wikipedia, property or private property is any physical or intangible entity that is owned by a person or jointly by a group of persons. Depending on the nature of the property, an owner of property has the right to consume, sell, rent, mortgage, transfer, exchange or destroy his or her property, and/or to exclude others from doing these things.
Important widely-recognized types of property include real property (land), personal property (physical possessions belonging to a person), private property (property owned by legal persons or business entities), public property (state owned or publicly owned and available possessions) and intellectual property (exclusive rights over artistic creations, inventions, etc.), although the latter is not always as widely recognized or enforced.
A title, or a right of ownership, is associated with property that establishes the relation between the goods/services and other persons, assuring the owner the right to dispense with the property in a manner he or she sees fit. Some philosophers assert that property rights arise from social convention. Others find origins for them in morality or natural law.
Personal property, roughly speaking, is private property that is
moveable, as opposed to real property or real estate. In the common law systems
personal property may also be called chattels or personality. In the civil law
systems personal property is often called movable property or movables - any
property that can be moved from one location to another.
This term is in distinction with immovable property or immovables, such as land and buildings. Movable property on land, that which was not automatically sold with the land, included many kinds of livestock; in fact the word cattle is derived from Middle English chatel, which was once synonymous with general movable personal property.
This term is in distinction with immovable property or immovables, such as land and buildings. Movable property on land, that which was not automatically sold with the land, included many kinds of livestock; in fact the word cattle is derived from Middle English chatel, which was once synonymous with general movable personal property.
Personal
property may be classified in a variety of ways. Tangible personal property
refers to any type of property that can generally be moved (i.e., it is not
attached to real property or land), touched or felt. These generally include
items such as furniture, clothing, jewelry, art, writings, or household goods.
In some cases, there can be formal title documents that show the ownership and transfer rights of that property after a person's death (for example, motor vehicles, boats, etc.) In many cases, however, tangible personal property will not be "titled" in an owner's name and is presumed to be whatever property he or she was in possession of at the time of his or her death.
In some cases, there can be formal title documents that show the ownership and transfer rights of that property after a person's death (for example, motor vehicles, boats, etc.) In many cases, however, tangible personal property will not be "titled" in an owner's name and is presumed to be whatever property he or she was in possession of at the time of his or her death.
Marx
distinguished private property from personal property. Marx did not oppose to
personal property which is "Hard-won, self-acquired, self-earned"
(1), by members of the proletariat. But in fact, communists did not follow
strictly the Marx's theory .
II. SOCIALISM BEFORE MARX
The
roots of modern Communist reach back very far. Many thinkers in the ancient
time considered that war, poverty and inequality in society were caused by the
passion of private property. To resolve this problem, they decided to abolish
private property.
1. Socrates (469 BC–399 BC)
He
was a Classical Greek philosopher, one of the founders of Western philosophy .
Plato, his student, always cited his teacher's ideas in his works entitled Laws
and Republic.
Socrates
dreamed of an equal society in which everybody have the same joy or sorrow,
every thing is common, not private (2).
2. Plato (428/427 BC)
He
was a Classical Greek philosopher, writer of philosophical dialogues. Along
with his mentor, Socrates, and his student, Aristotle, Plato helped to lay the
foundations of natural philosophy, science, and Western philosophy.
Like
his mentor, he looked for a classless state in which all citizen are friends,
property is banish from life, women, children are in common. He said:
The first and highest form of the state and of the government and of the law is that in which there prevails most widely the ancient saying, that "Friends have all things in common."
Whether there is anywhere now, or will ever be, this communion of women and children and of property, in which the private and individual is altogether banished from life, and things which are by nature private, such as eyes and ears and hands, have become common, and in some way see and hear and act in common, and all men express praise and blame and feel joy and sorrow on the same occasions, and whatever laws there are unite the city to the utmost-whether all this is possible or not, I say that no man, acting upon any other principle, will ever constitute a state which will be truer or better or more exalted in virtue .(3)
3. Pierre-Joseph Proudhon (1809 – 1865)
He
was a French politician, philosopher and socialist. He was a member of the
French Parliament . His best-known assertion is that Property is Theft!,
contained in his first major work, What is Property? Or, an Inquiry into the
Principle of Right and Government (Qu'est-ce que la propriété? Recherche
sur le principe du droit et du gouvernement), published in 1840.
III. ANTI-COMMUNISM BEFORE MARX
1. Aristote (469 BC–399 BC)
Socrates and Plato were his mentors. He did not agree with his mentors about the common property. He criticized the communism because of many reasons:
+Life in Communism is absurd:
But,
even supposing that it were best for the community to have the
greatest degree of unity, this unity is by no means proved to follow from the fact 'of all men saying "mine" and "not
mine" at the same instant of time,' which, according to
Socrates, is the sign of perfect unity in a state. For the word
'all' is ambiguous.
If the meaning be that every individual says 'mine' and 'not mine' at the same time, then perhaps the result at which Socrates aims may be in some degree accomplished; each man will call the same person his own son and the same person his wife, and so of his property and of all that falls to his lot.
This, however, is not the way in which people would speak who had their had their wives and children in common; they would say 'all' but not 'each.' In like manner their property would be described as belonging to them, not severally but collectively. There is an obvious fallacy in the term 'all': like some other words, 'both,' 'odd,' 'even,' it is ambiguous, and even in abstract argument becomes a source of logical puzzles.
That all persons call the same thing mine in the sense in which each does so may be a fine thing, but it is impracticable; or if the words are taken in the other sense, such a unity in no way conduces to harmony (4)
If the meaning be that every individual says 'mine' and 'not mine' at the same time, then perhaps the result at which Socrates aims may be in some degree accomplished; each man will call the same person his own son and the same person his wife, and so of his property and of all that falls to his lot.
This, however, is not the way in which people would speak who had their had their wives and children in common; they would say 'all' but not 'each.' In like manner their property would be described as belonging to them, not severally but collectively. There is an obvious fallacy in the term 'all': like some other words, 'both,' 'odd,' 'even,' it is ambiguous, and even in abstract argument becomes a source of logical puzzles.
That all persons call the same thing mine in the sense in which each does so may be a fine thing, but it is impracticable; or if the words are taken in the other sense, such a unity in no way conduces to harmony (4)
+Life in Communism is life of animals:
Nor
is there any way of preventing brothers and children and
fathers and mothers from sometimes recognizing one another; for
children are born like their parents, and they will necessarily be
finding indications of their relationship to one another.
Geographers declare such to be the fact; they say that in part of Upper Libya, where the women are common, nevertheless the children who are born are assigned to their respective fathers on the ground of their likeness.
And some women, like the females of other animals- for example, mares and cows- have a strong tendency to produce offspring resembling their parents, as was the case with the Pharsalian mare called Honest.[. . .]
Geographers declare such to be the fact; they say that in part of Upper Libya, where the women are common, nevertheless the children who are born are assigned to their respective fathers on the ground of their likeness.
And some women, like the females of other animals- for example, mares and cows- have a strong tendency to produce offspring resembling their parents, as was the case with the Pharsalian mare called Honest.[. . .]
+Life
of Communism would cause assaults and homicides, quarrels and slanders,
Other evils, against which it is not easy for the authors of
such a community to guard, will be assaults and homicides,
voluntary as well as involuntary, quarrels and slanders, all
which are most unholy acts when committed against fathers and
mothers and near relations, but not equally unholy when there
is no relationship.
Moreover, they are much more likely to occur if the relationship is unknown, and, when they have occurred, the customary expiations of them cannot be made.
Again, how strange it is that Socrates, after having made the children common, should hinder lovers from carnal intercourse only, but should permit love and familiarities between father and son or between brother and brother, than which nothing can be more unseemly, since even without them love of this sort is improper.
How strange, too, to forbid intercourse for no other reason than the violence of the pleasure, as though the relationship of father and son or of brothers with one another made no difference. (5)
Moreover, they are much more likely to occur if the relationship is unknown, and, when they have occurred, the customary expiations of them cannot be made.
Again, how strange it is that Socrates, after having made the children common, should hinder lovers from carnal intercourse only, but should permit love and familiarities between father and son or between brother and brother, than which nothing can be more unseemly, since even without them love of this sort is improper.
How strange, too, to forbid intercourse for no other reason than the violence of the pleasure, as though the relationship of father and son or of brothers with one another made no difference. (5)
Aristotle
is an open minded philosopher. He emphasized " a democratical education
for the sons of the poor with the sons of the rich" (6)
According
to Saint Augustine, a propertyless world was possible only in paradise - that
"Golden Age " which mankind had lost because of original sin ( 7)
3. James Harrington (1600s)
He
said that the worst possible situation is one in which the commoners have half
a nation's property, with crown and nobility holding the other half—a
circumstance fraught with instability and violence. A much better situation (a
stable republic) will exist once the commoners own most property, he
suggested.(Wikipedia)
IV. VIETNAMESE PHILOSOPHY
From the ancient time, Vietnamese literature emphasized on humanity:
Love
people as we love ourselves
(Thương người như thể thương thân)
(Thương người như thể thương thân)
Vietnamese
patriots love their country and their people:
Oh
gourd, love the pumpkin,
Though of different species, you share the same trellis
(Bầu ơi, thương lấy bí cùng /Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn)
Though of different species, you share the same trellis
(Bầu ơi, thương lấy bí cùng /Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn)
Vietnamese
people love their nation, their community , their family and freedom but they
dislike the communism:
-Each person lives in his house while alive, but in a grave after death.
(Sống
mỗi người mỗi nhà, chết mỗi người một mồ).
-No
children cries for their common father
(Cha
chung không ai khóc.)
-If a pagoda has too much monks, nobody closes the gate.
(Lắm
sãi không ai đóng cửa chùa.)
-
If there are many monks in a funeral, the corpse would be decayed.
And
many fathers in a family, the marriage of their daughter would be delayed
(Lắm
thầy thối ma, lắm cha con khó lấy chồng)
V. KARL MARX &F. ENGELS
Marx
and Engels presented their theory of Communism, but the most prominent ideas
are the "class struggle " and "abolition of property".
But the true aim of communism is "abolition of property". In
the Communist Manifesto, Karl Marx and Frederick Engels said:
"The
theory of Communism may be summed up in the single sentence: Abolition of
private property."
VI. WHY DID MARX AND ENGELS INTEND TO ABOLISH PRIVATE PROPERTY?
Marx and Engels raised the hatefulness in the heart of the workers and people in the name of justice and equality of society. In their works such as Das Kapital, Communist Manifesto, Marx and Engels accused the capitalists of exploitation.
In Das Kapital, Marx and Engels said:Capital is dead labour, that, vampire-like, only lives by sucking living labour, and lives the more, the more labour it sucks. The time during which the labourer works, is the time during which the capitalist consumes the labour-power he has purchased of him.(9).
In Communist Manifesto, Marx and Engels wrote:
The
bourgeoisie keeps more and more doing away with the scattered state of the
population, of the means of production, and of property. It has agglomerated
population, centralised the means of production, and has concentrated property
in a few hands....
The essential conditions for the existence and for the sway of the bourgeois class is the formation and augmentation of capital; the condition for capital is wage-labour....
For many a decade past the history of industry and commerce is but the history of the revolt of modern productive forces against modern conditions of production, against the property relations that are the conditions for the existence of the bourgeois and of its rule...
In Communist Manifesto, Marx and Engels' tactic is to cause the war between the bourgeois and the proletarians to make profits for the communist party with the idea of " class struggle".
The
proletarians cannot become masters of the productive forces of society, except
by abolishing their own previous mode of appropriation, and thereby also every
other previous mode of appropriation. They have nothing of their own to secure
and to fortify; their mission is to destroy all previous securities for, and
insurances of, individual property.
The proletariat is served as a screen or a tool for the ambition of power and money of the communists . Marx and Engels proclaimed the role of master of the Communists, and the relation between the Communism and the proletariat:
The
Communists, therefore, are on the one hand, practically, the most advanced and
resolute section of the working-class parties of every country, that section
which pushes forward all others; on the other hand, theoretically, they have
over the great mass of the proletariat the advantage of clearly understanding
the line of march, the conditions, and the ultimate general results of the
proletarian movement.
The
immediate aim of the Communists is the same as that of all other proletarian
parties: formation of the proletariat into a class, overthrow of the bourgeois
supremacy, conquest of political power by the proletariat (Communist Manifesto)
Marx and Engels draw a beautiful picture of the communist paradise:
When,
in the course of development, class distinctions have disappeared, and all
production has been concentrated in the hands of a vast association of the
whole nation, the public power will lose its political character. Political
power, properly so called, is merely the organised power of one class for
oppressing another.
If the proletariat during its contest with the bourgeoisie is compelled, by the force of circumstances, to organize itself as a class, if, by means of a revolution, it makes itself the ruling class, and, as such, sweeps away by force the old conditions of production, then it will, along with these conditions, have swept away the conditions for the existence of class antagonisms and of classes generally, and will thereby have abolished its own supremacy as a class.
If the proletariat during its contest with the bourgeoisie is compelled, by the force of circumstances, to organize itself as a class, if, by means of a revolution, it makes itself the ruling class, and, as such, sweeps away by force the old conditions of production, then it will, along with these conditions, have swept away the conditions for the existence of class antagonisms and of classes generally, and will thereby have abolished its own supremacy as a class.
In
place of the old bourgeois society, with its classes and class antagonisms, we
shall have an association, in which the free development of each is the
condition for the free development of all.
(Communist Manifesto)
VII. HOW THEY ABOLISH PROPERTY?
In the Communist Manifesto, Marx pointed out some measures to destroy the capitalists:
These
measures will, of course, be different in different countries. Nevertheless, in
most advanced countries, the following will be pretty generally applicable.
(1).
Abolition of property in land and application of all rents of land to public
purposes.
(2).
A heavy progressive or graduated income tax.
(3).
Abolition of all rights of inheritance.
(4).
Confiscation of the property of all emigrants and rebels.
(5).
Centralisation of credit in the hands of the state, by means of a national bank
with State capital and an exclusive monopoly.
(6).
Centralisation of the means of communication and transport in the hands of the
State.
(7).
Extension of factories and instruments of production owned by the State; the
bringing into cultivation of waste-lands, and the improvement of the soil
generally in accordance with a common plan.
(8).
Equal liability of all to work. Establishment of industrial armies, especially
for agriculture.
(9).
Combination of agriculture with manufacturing industries; gradual abolition of
all the distinction between town and country by a more equable distribution of
the populace over the country.
(10).
Free education for all children in public schools. Abolition of children’s
factory labour in its present form. Combination of education with industrial
production, &c, &c.
But who are the capitalists, the rich people? In fact, the Kulaks in USSR, the bourgeois, and the landlords in China, and Vienam were only the poor peasants but the communists imprisoned and killed them in order to despoil their property and threaten every people.
VIII. CRITIQUE OF THE ABOLITION OF PRIVATE PROPERTY
1.Abolition of private property is a kind of stealing, and
robbing
+A lot of religions advise their followers doing the good, and forbid them to steal, and to rob. The Ten Commandments shown in Exodus 20:2-17 and Deuteronomy 5:6-21 stated that the Israelites were not to steal. These texts were a blanket early protection of private property.
2. Private property is human rights
+ Excepted the communist countries, stealing and robbing is offending against the law Property rights are protected in the current laws of states usually found in the form of a constitution or a bill of rights. The United States Constitution provides explicitly for the protection of private property in the Fifth Amendment and Fourteenth Amendment: The Fifth Amendment states:
Nor be deprived of life, liberty, or property, without due process of law; nor shall private property be taken for public use, without just compensation. The Fourteenth Amendment states: No State shall make or enforce any law which shall abridge the privileges or immunities of citizens of the United States; nor shall any State deprive any person of life, liberty, or property, without due process of law.
Protection is also found in the United Nations's Universal Declaration of Human Rights, Article 17, and in the French Declaration of the Rights of Man and of the Citizen, Article XVII, and in the European Convention on Human Rights (ECHR), Protocol 1.
Excepted the communists, many thinkers respected the property right. By the influence of Cicero, Thomas Hobbes (1600s) emphasized on "giving to every man his own. Charles Comte, in Traité de la propriété (1834), attempted to justify the legitimacy of private property. According to Adam Smith, property rights encourage the property holders to develop the property, generate wealth, and efficiently allocate resources based on the operation of the market.
3. Property right is the instinct of human kind
Evolutionary theory and empirical studies suggest that many animals, including humans, have a genetic predisposition to acquire and retain property. This is hardly surprising because survival is closely bound up with the acquisition of things: food, shelter, tools and territory. But the root of these general urges may also run to quite specific and detailed rules about property acquisition, retention and disposition.
Animals
are known for doing certain activities without being taught or trained. These
are called their natural instincts, and they include many activities that just
simply come naturally to the animals.So do the human beings.The first instinct
an animal or baby get when it is born is the instinct of suckling. An animal or
a baby has a natural desire to be suckled by its mother.
They need to have their mother's nipples to suck on and get the natural milk that she provides. While suckling, the baby always raise their hands to seize her mother 's breasts. The second instinct an animal or a baby obtains is the one to eat. The animals live in group , they fight the other occupying their land, their food, and they protect their children, Land, food, children and wives are their property.
They need to have their mother's nipples to suck on and get the natural milk that she provides. While suckling, the baby always raise their hands to seize her mother 's breasts. The second instinct an animal or a baby obtains is the one to eat. The animals live in group , they fight the other occupying their land, their food, and they protect their children, Land, food, children and wives are their property.
4. Nobody can build a classless society and abolish private property even the communists.
In Communist Manifesto, Marx
dreamed of a society without individual exploitation, and national
exploitation. Marx wanted to abolish the borders of the
classes and the borders of the nations.
In proportion as the exploitation of one individual by another will also be put an end to, the exploitation of one nation by another will also be put an end to. In proportion as the antagonism between classes within the nation vanishes, the hostility of one nation to another will come to an end.
In proportion as the exploitation of one individual by another will also be put an end to, the exploitation of one nation by another will also be put an end to. In proportion as the antagonism between classes within the nation vanishes, the hostility of one nation to another will come to an end.
Despite Marx criticized Utopia, Marx's theory is
also a Utopian plan. Richard
Pipes, former director of Harvard’s Russian Research Center, asserts in his
book, Communism: A History, that “The Socialist
utopia is an imaginary horizon, forever retreating the closer one approaches
it.”(8)
Boris
Yeltsin said: Let's not talk about Communism. Communism was just an idea, just
pie in the sky.(9)
5. The oppressor and oppressed always exist
in parallel in all society.
We cannot build an equal society or
classless state. In Communist Manifesto, Marx wrote:" In the earlier epochs of history, we find almost everywhere
a complicated arrangement of society into various orders, a manifold gradation
of social rank. In ancient Rome we have patricians, knights, plebians, slaves;
in the Middle Ages, feudal lords, vassals, guild-masters, journeymen,
apprentices, serfs; in almost all of these classes, again, subordinate
gradations....
Society as a whole is more and more splitting up into two great hostile camps, into two great classes directly facing each other -- bourgeoisie and proletariat."
Society as a whole is more and more splitting up into two great hostile camps, into two great classes directly facing each other -- bourgeoisie and proletariat."
How
we can divide all of classes into two great classes ? How about the
middle class? This simplification is not correct because Marx also mention
"the middle class -- the small
tradespeople, shopkeepers, and retired tradesmen generally, the handicraftsmen
and peasants--" (Communist Manifesto).
Supposing
that society has two classes: bourgeoisie and proletariat, or oppressor and
oppressed, although the proletariat wins, two classes still survive and
stand in constant opposition to one another. We never had a classless state
because when the proletariat wins, the workers become the ruling class
and the bourgeoisie becomes the oppressed class. It is the continuous changes
in history. Although those individuals replace the others, the oppressor
and the oppressed will survive forever.
6. What Marx wrote and what his disciplines did are different.
In
Marxian economics and socialist politics, there is distinction between
"private property" and "personal property". The former is
defined as the means of production in reference to private ownership over an
economic enterprise based on socialized production and wage labor; the latter
is defined as consumer goods or goods produced by an individual (10)
In
Communist Manifesto, Marx also emphacised:
"The distinguishing feature of communism is not the
abolition of property generally, but the abolition of bourgeois property."
In
fact, communists seized everything and
evicted the bourgeois and their family, and forced peasants bring their oxes,
hens, ploughs into the collective farms.
They
labeled bourgeois and landlords to the poor people in order to seize their
property and frighten them.
7. What do the communists do after they seize the private property
of their people?
(1).
They destroyed country.
After
the revolution, the communists seized the power, killed or imprisoned the
capitalists, and seized their property and change it into the common
property. . They etablished a dictatorship and a command economy.
Many
bourgeois are the good administrators and businessmen. On the contrary, Lenin,
Stalin, and Mao Tse tung were not the economists but they released many great
economic plans and killed many million people in the collective farms.
In
1921 famine erupted in the Volga Region. It was caused by a number of reasons, but the serious reason is “prodrazvyorstka.” In many regions peasants staged riots, killing the
representatives of the Bolshevik authority. Up to 40 million people were
starving. There were reports of cannibalism.
The number of orphans and child crime grew drastically. The Soviet government had to turn to foreigners for humanitarian aid. The Famine largely stopped in 1922, in some regions in 1923. The total death toll was at least 5 million people.
The number of orphans and child crime grew drastically. The Soviet government had to turn to foreigners for humanitarian aid. The Famine largely stopped in 1922, in some regions in 1923. The total death toll was at least 5 million people.
Chief
changes in the lives of rural Chinese included the introduction of a mandatory
process of agricultural collectivization, which was introduced incrementally.
Private farming was prohibited, and those engaged in it were labeled as counter
revolutionaries and persecuted. Restrictions on rural people were enforced
through public struggle sessions, and social pressure, although people also
experienced forced labor.
Rural industrialization, officially a priority of the campaign, saw "its development … aborted by the mistakes of the Great Leap Forward."
Rural industrialization, officially a priority of the campaign, saw "its development … aborted by the mistakes of the Great Leap Forward."
The
Great Leap ended in catastrophe, resulting in tens of millions of excess
deaths. Estimates of the death toll range from 18 million to 45 million with
estimates by demographic specialists ranging from 18 million to
32.5 million.
South
Korea is better than North Korea, West Germany is better than East Germany.
Thus, we can conclude that the Marxist economy is not as good as the
capitalist economy and the communist leaders are the economic killers.
(2).They robbed the public property and became the New class.
The
leader or a group of communist hold the national assets, they become the
lords of the country. Communists seize the banks, robbed people of land and
houses, Communists become the red capitalists. The communists seized the
political and economic power so they spend freely the common
property.
The communists now build a " new class", live in a luxurious live.
The communists now build a " new class", live in a luxurious live.
Communism
as practiced by Lenin, Stalin and Chairman Mao is an entirely different
proposition. This kind of communism sets up an authoritarian government, with
the best goods and services going to those in government.
Djilas
showed that, in spite lip service to “democracy” and a “classless society,” the
Communist Party became “a new ruling and exploiting class…unable to act
differently from any ruling class that preceded them.” The Communist Party’s
“political bureaucracy” had “all the characteristics of the earlier ones as
well as some new characteristics of its own.”
Like other classes, the new class came to power by “destroying the political, social, and other orders they met in their way.”
Unlike other classes, which arose gradually as the result of economic and social forces, the new class promoted revolution in order “to establish its power over society” while justifying its power from “an idealistic point of view.”
Like other classes, the new class came to power by “destroying the political, social, and other orders they met in their way.”
Unlike other classes, which arose gradually as the result of economic and social forces, the new class promoted revolution in order “to establish its power over society” while justifying its power from “an idealistic point of view.”
Djilas said: "
It is the bureaucracy which formally uses,
administers, and controls both nationalized
and socialized property, as well as the entire life of society. The
role of bureaucracy in society, i.e., monopolistic administration and control
of national income and national goods, consign to it a special privileged
position. Social relations resemble state capitalism.
The more so, because the carrying out of industrialization is effected not only with the help of capitalists but with the help of the state machine. In fact, this privileged class performs that function, using the state machine as a cover and as an instrument.
Ownership is nothing other than the right to profit and control. If one defines class benefits by this right, the Communist states have seen, in the finalanalysis, the origin of a new form of ownership or of a new ruling or exploiting class. (11)
The more so, because the carrying out of industrialization is effected not only with the help of capitalists but with the help of the state machine. In fact, this privileged class performs that function, using the state machine as a cover and as an instrument.
Ownership is nothing other than the right to profit and control. If one defines class benefits by this right, the Communist states have seen, in the finalanalysis, the origin of a new form of ownership or of a new ruling or exploiting class. (11)
The New Class is a phenomena in the Communist
world. It appeared first in Soviet Union.
The nomenklatura system arose early in Soviet
history. Vladimir Lenin wrote that appointments were to take the following
criteria into account: reliability, political attitude, qualifications, and
administrative ability.
Joseph Stalin, who was the first general secretary of the party, also was known as "Comrade File Cabinet" (Tovarishch Kartotekov) for his assiduous attention to the details of the party's appointments.
Seeking to make appointments in a more systematic fashion, Stalin built the party's patronage system and used it to distribute his clients throughout the party bureaucracy.
Under Stalin's direction in 1922, the party created
departments of the Central Committee and other organs at lower levels that were
responsible for the registration and appointment of party officials. Known as
uchraspredy, these organs supervised appointments to important party
posts.
According to American sovietologist Seweryn Bialer, after Leonid Brezhnev's accession to power in October 1964, the party considerably expanded its appointment authority.
However, in the late 1980s some official statements indicated that the party intended to reduce its appointment authority, particularly in the area of economic management, in line with Mikhail Gorbachev's reform efforts.
At the all-union level, the Party Building and Cadre Work Department supervised party nomenklatura appointments. This department maintained records on party members throughout the country, made appointments to positions on the all-union level, and approved nomenklatura appointments on the lower levels of the hierarchy. The head of this department sometimes was a member of the Secretariat and was often a protégé of the general secretary.
Every party committee and party organizational
department, from the all-union level in Moscow to the district and city levels,
prepared two lists according to their needs.
The basic (osnovnoi) list detailed positions in the political, administrative, economic, military, cultural, and educational bureaucracies that the committee and its department had responsibility for filling.
The registered (uchetnyi) list enumerated the persons suitable for these positions.
An official in the party or government bureaucracy
could not advance in the nomenklatura without the assistance of a patron. In
return for this assistance in promoting his career, the client carried out the
policies of the patron.
Patron–client relations thus help to explain the ability of party leaders to generate widespread support for their policies. The presence of patron–client relations between party officials and officials in other bureaucracies also helped to account for the large-scale control the party exercised over the Soviet society.
All of the 2 million members of the nomenklatura system understood that they held their positions only as a result of a favor bestowed on them by a superior official in the party and that they could easily be replaced if they manifested disloyalty to their patron. Self-interest dictated that members of the nomenklatura submit to the control of their patrons in the party.
Clients sometimes could attempt to supplant their
patron. For example, Nikita Khrushchev, one of Lazar M. Kaganovich's former
protégés, helped to oust the latter in 1957. Seven years later, Leonid
Brezhnev, a client of Khrushchev, helped to remove his boss from power.
The power of the general secretary was consolidated to the extent that he placed his clients in positions of power and influence. The ideal for the general secretary, writes Soviet émigré observer Michael Voslensky, "is to be overlord of vassals selected by oneself."
Several factors explain the entrenchment of
patron–client relations. Firstly, in a centralized government system, promotion
in the bureaucratic-political hierarchy was the only path to power. Secondly,
the most important criterion for promotion in this hierarchy was approval from
one's supervisors, who evaluated their subordinates on the basis of political
criteria and their ability to contribute to the fulfillment of the economic
plan.
Thirdly, political rivalries were present at all levels of the party and state bureaucracies but were especially prevalent at the top. Power and influence decided the outcomes of these struggles, and the number and positions of one's clients were critical components of that power and influence. Fourthly, because fulfillment of the economic plan was decisive, systemic pressures led officials to conspire together and use their ties to achieve that goal.
The faction led by Brezhnev provides a good case
study of patron–client relations in the Soviet system. Many members of the
Brezhnev faction came from Dnipropetrovsk, where Brezhnev had served as first
secretary of the provincial party organization. Andrei P. Kirilenko, a
Politburo member and Central Committee secretary under Brezhnev, was first
secretary of the regional committee of Dnipropetrovsk.
Volodymyr Shcherbytsky, named as first secretary of the Ukrainian apparatus under Brezhnev, succeeded Kirilenko in that position. Nikolai Alexandrovich Tikhonov, appointed by Brezhnev as first deputy chairman of the Soviet Union's Council of Ministers, graduated from the Dnipropetrovsk College of Metallurgy, and presided over the economic council of Dnipropetrovsk Oblast. Finally, Nikolai A. Shchelokov, minister of internal affairs under Brezhnev, was a former chairman of the Dnipropetrovsk soviet.
Patron–client relations had implications for policy
making in the party and government bureaucracies. Promotion of trusted
subordinates into influential positions facilitated policy formation and policy
execution. A network of clients helped to ensure that a patron's policies could
be carried out.
In addition, patrons relied on their clients to provide an accurate flow of information on events throughout the country. This information assisted policymakers in ensuring that their programs were being implemented.(Wikipedia-Nomenklatura)
According
to the journal of the Hungarian Writers Union Irodalmi Újság (Literary
Gazette) of 24 August 1956, the Communist ruling clique in Hungary was
‘more aristocratic than the Habsburgs’ (the Austrian dynasty).
They
do not shop with the workers, but have special well-stocked stores for
themselves, and even on holiday at Lake Balaton they bathe behind barbed wire
fences with police guards to keep the workers away.
On
24 November, that is, after the defeat of the insurrection, the party daily Népszabadság,
in an effort to placate the workers, still stubbornly fighting its rearguard
action of strikes and go-slow tactics, admitted that:
...
one of the main reasons for the insurrection was the luxurious life of the
party officials... [and that] it must be acknowledged that a new aristocracy
was born in the ranks of the Communist movement, the bureaucrats. These
aristocrats of the regime travelled in sumptuous cars while the workers were
packed together in overcrowded trams.
They had at their disposal secret shops, where they could buy goods not available in the ordinary shops. They surrounded themselves with guards, secretaries, and became unapproachable to the workers. These aristocrats spent their holidays in luxury spots, isolated from the common herd, and their children had become true brats of rich people, insolent and conceited.
They had at their disposal secret shops, where they could buy goods not available in the ordinary shops. They surrounded themselves with guards, secretaries, and became unapproachable to the workers. These aristocrats spent their holidays in luxury spots, isolated from the common herd, and their children had become true brats of rich people, insolent and conceited.
It
was the extreme contrast between the luxurious life of the privileged class and
the miserable existence of the mass of the working people, even more than their
own personal frustration, that induced in the Communist intellectuals a mood of
rebellion. They suffered from the knowledge that their talents were being
prostituted in the interests of the slaveholders, and the more sensitive and
courageous among them could not remain silent. Of course, disillusionment in
the regime did not come suddenly.
Doubts arose, were pushed into the background, returned, were again banished, finally came back more strongly than ever, and as the situation progressively deteriorated, the doubts became certainty.
But some, of course, were only driven beyond doubt by the revolution itself. The case of the former Stalinist writer, and Stalin prize winner, Gyula Háy, is here worth noting as an example of the process of awakening among the sincere Communists.
In discussion with a Swiss journalist, François Bondy, he said at the beginning of November 1956 (12)
Doubts arose, were pushed into the background, returned, were again banished, finally came back more strongly than ever, and as the situation progressively deteriorated, the doubts became certainty.
But some, of course, were only driven beyond doubt by the revolution itself. The case of the former Stalinist writer, and Stalin prize winner, Gyula Háy, is here worth noting as an example of the process of awakening among the sincere Communists.
In discussion with a Swiss journalist, François Bondy, he said at the beginning of November 1956 (12)
When
the communists assumed power across Eastern Europe in the aftermath of WWII,
their stated intention was to create a new, more democratic and egalitarian
society. However, a gulf quickly became evident between the political elite and
the masses.
In the 1950s Yugoslav partisan and communist leader turned dissident Milovan Đilas openly condemned the emergence of what he described as a ‘New Class’ in communist Eastern Europe, comprised of the privileged political elite.
In post-war Eastern Europe, it was soon widely recognized that membership of the communist party didn’t just give you political standing, but also provided access to numerous socio-economic advantages.
Possession of a party card opened the door to numerous ‘perks’, including the allocation of a superior standard of accommodation, access to special shops (containing domestically produced goods in short supply and imported luxury items from the West) and holidays in special health resorts.
Little wonder then, that many people have subsequently justified their decision to join the East European communist parties, as motivated not by any genuine ideological or political commitment, but simply to ‘get along in life’. The higher up the power structure you climbed, the more levels of privilege reached ridiculous proportions.
While official salary levels among the nomenklatura (communist-era bureaucrats) remained relatively low in monetary terms, in practice communist officials could supplement their basic income through corruption, bribery and blat, and they also enjoyed a range of other ‘perks’.
In the 1950s Yugoslav partisan and communist leader turned dissident Milovan Đilas openly condemned the emergence of what he described as a ‘New Class’ in communist Eastern Europe, comprised of the privileged political elite.
In post-war Eastern Europe, it was soon widely recognized that membership of the communist party didn’t just give you political standing, but also provided access to numerous socio-economic advantages.
Possession of a party card opened the door to numerous ‘perks’, including the allocation of a superior standard of accommodation, access to special shops (containing domestically produced goods in short supply and imported luxury items from the West) and holidays in special health resorts.
Little wonder then, that many people have subsequently justified their decision to join the East European communist parties, as motivated not by any genuine ideological or political commitment, but simply to ‘get along in life’. The higher up the power structure you climbed, the more levels of privilege reached ridiculous proportions.
While official salary levels among the nomenklatura (communist-era bureaucrats) remained relatively low in monetary terms, in practice communist officials could supplement their basic income through corruption, bribery and blat, and they also enjoyed a range of other ‘perks’.
China’s
prime minister was a schoolteacher in northern China. His father was ordered to
tend pigs in one of Mao’s political campaigns. And during childhood, “my family
was extremely poor,” the prime minister, Wen Jiabao, said in a speech last
year.
But now 90, the prime minister’s mother, Yang Zhiyun, not only left poverty behind, she became outright rich, at least on paper, according to corporate and regulatory records. Just one investment in her name, in a large Chinese financial services company, had a value of $120 million five years ago, the records show.
But now 90, the prime minister’s mother, Yang Zhiyun, not only left poverty behind, she became outright rich, at least on paper, according to corporate and regulatory records. Just one investment in her name, in a large Chinese financial services company, had a value of $120 million five years ago, the records show.
Ho Chi Minh and his Communist groups have
ruined the country in every aspect and harmed the people to a horrible destiny:
They brought the country into slavery. They are ceding territory and sea to
their master-country. They brought only unhappiness, starvation, misery and
eternal poverty to the people. Only the groups of Communist Leaders enjoy their
luxurious life while the people of Vietnam continue to suffer.
IX. FORCED LABOR AND THE
COLLECTIVIZATION
In the Communist Manifesto,
Marx pointed out some measures to destroy the capitalism, but the important
measure is " Equal liability of all to work.
Establishment of industrial armies, especially for agriculture".
Indeed, abolish private property leads to forced labor. When communists seize all manufactures, compagnies, shops, land and
prohibit individual business, all
people in the country become the slaves of the communists..
1.
LOSS OF PRIVATE PROPERTY MEANS LOSS OF WEALTH
Working
in the collective farms is living in the prisons. The prisoners would be
hungry, cold, and maltreated. In the Soviet Union, in a kolkhoz, a
member, called kolkhoznik (колхо́зник, feminine колхо́зница),
was paid a share of the farm’s product and profit according to the number of
workdays, while a sovkhoz employed salaried workers. In practice, many Kolkhoz
did not pay their "members" much at all.
In 1946, 30 percent of Kolkhoz paid no cash for labor at all, 10.6 paid no grain, and 73.2 percent paid 500 grams of grain or less per day worked. In addition the kolkhoz was required to sell their crop to the State which fixed prices for the grain. These were set very low and the difference between what the State paid the farm and what the State charged consumers represented a major source of income for the Soviet government.
In 1948 the Soviet government charged wholesalers 335 rubles for 100 kilograms of rye, but paid the kolkhoz roughly 8 rubles. Nor did such prices change much to keep up with inflation. Prices paid by the Soviet government hardly changed at all between 1929 and 1953 meaning that the State did not pay one half or even one third of the cost of production.
In 1946, 30 percent of Kolkhoz paid no cash for labor at all, 10.6 paid no grain, and 73.2 percent paid 500 grams of grain or less per day worked. In addition the kolkhoz was required to sell their crop to the State which fixed prices for the grain. These were set very low and the difference between what the State paid the farm and what the State charged consumers represented a major source of income for the Soviet government.
In 1948 the Soviet government charged wholesalers 335 rubles for 100 kilograms of rye, but paid the kolkhoz roughly 8 rubles. Nor did such prices change much to keep up with inflation. Prices paid by the Soviet government hardly changed at all between 1929 and 1953 meaning that the State did not pay one half or even one third of the cost of production.
Members
of kolkhoz were allowed to hold a small area of private land and some animals.
The size of the private plot varied over the Soviet period but was usually
about 1 acre (0.40 ha). Before the Russian Revolution of 1917 a peasant
with less than 13.5 acres (5.5 ha) was considered too poor to maintain a
family.
However, the productivity of such plots is reflected in the fact that in 1938 3.9 percent of total sown land was in the form of private plots, but in 1937 those plots produced 21.5 percent of gross agriculture output.
However, the productivity of such plots is reflected in the fact that in 1938 3.9 percent of total sown land was in the form of private plots, but in 1937 those plots produced 21.5 percent of gross agriculture output.
Members
of the kolkhoz were required to do a minimum number of days work per year on
both the kolkhoz and on other government work such as road building. In one kolkhoz
the requirements were a minimum of 130 days a year for each able-bodied adult
and 50 days per boy aged between 12 and 16.
That was distributed around the year according to the agricultural cycle If kolkhoz members did not perform the required minimum of work, the penalties could involve confiscation of the farmer's private plot, a trial in front of a People's Court that could result in three to eight months of hard labour on the kolkhoz or up to one year in a corrective labor camp.(WIKIPEDIA. Kolkhoz)
That was distributed around the year according to the agricultural cycle If kolkhoz members did not perform the required minimum of work, the penalties could involve confiscation of the farmer's private plot, a trial in front of a People's Court that could result in three to eight months of hard labour on the kolkhoz or up to one year in a corrective labor camp.(WIKIPEDIA. Kolkhoz)
In Vietnam, the
farmers were divided into many classes. The farmer of first class was paid at
the end of the harvest time 400gr of rice ( 1 kilo of paddy) per day when he
needed 1kg of rice per day. He also needed meat, fish, vegetable and cloth. How
did they live with 400gr of rice per day?
There are many Vietnamese new folklore about the Communists' exploit:
-Một người làm việc bằng ba,
Để cho cán bộ xây nhà sắm xe.
A person works as hard as three persons,
In order to build a house or buy a car for the cadre.
-Thằng làm thì đói,
thằng nói thì no,
thằng bò thì sướng.
Who works will be hungry
Who speaks will be in comfort
Who crawls will be happy
Marx accused capitalists of their exploit, but in reality, communists exploit more than the capitalists.
Capitalists
exploited the workers, but they did not caused the death of thousand people.
But under the banner of equality, freedom, and happiness, communists killed
about hundred million people in the world of communism.
As a result, we
can say that having private property, we will have wealth. Without property we
will have no food, no money and no happiness, we are the prisoners.
2. LOSS OF PRIVATE PROPERTY MEANS LOSS OF FREEDOM
Private property has a relationship with freedom. The peasants, the workers in the collective farms and collective workshops are the slaves too. On the other hand, the communists have a lot of freedom, freedom to take the public property for them and live in a luxurious life.
In German Ideology, Marx wrote:"
He is a hunter, a fisherman, a herdsman, or a
critical critic, and must remain so if he does not want to lose his means of
livelihood; while in communist society, where nobody has one exclusive sphere
of activity but each can become accomplished in any branch he wishes, society
regulates the general production and thus makes it possible for me to do one
thing today and another tomorrow, to hunt in the morning, fish in the
afternoon, rear cattle in the evening, criticise after dinner, just as I have a
mind, without ever becoming hunter, fisherman, herdsman or critic.
This fixation of social activity, this
consolidation of what we ourselves produce into an objective power above us,
growing out of our control, thwarting our expectations, bringing to naught our
calculations, is one of the chief factors in historical development up till
now." (Private Property and Communism)
On the theoretical aspects, Marx was wrong. How a peasant or a worker has freedom when they are forced to work in a collective farm or a collective workshop?
In reality, collective farms and workshops are the prisons. In Soviet Union and in Vietnam, nobody can leave the collective farm or collective work shop without permission.
"In both the kolkhoz and sovkhoz, a system of internal passports prevented movement from rural areas to urban areas. Until 1969 all children born on a collective farm were forced by law to work there as adults unless they were specifically given permission to leave In effect, farmers became tied to their sovkhoz or kolkhoz in what may be described as a system of "neo-serfdom", in which the Communist bureaucracy replaced the former landowners". (Wikipedia, Kolkhoz)
On the theoretical aspects, Marx was wrong. How a peasant or a worker has freedom when they are forced to work in a collective farm or a collective workshop?
In reality, collective farm and workshop are the prisons. In Soviet Union and in Vietnam, nobody can leave the collective farm or collective work shop without permission.
"In both the kolkhoz and
sovkhoz, a system of internal passports prevented movement from rural areas to
urban areas. Until 1969 all children born on a collective farm were forced by
law to work there as adults unless they were specifically given permission to
leave In effect, farmers became tied to their sovkhoz or kolkhoz in what may be
described as a system of "neo-serfdom", in which the Communist
bureaucracy replaced the former landowners". (Wikipedia, Kolkhoz)
3. LOSS OF PRIVATE PROPERTY MEANS
LOSS OF MOTIVATION OF WORK
Marx believed that the communist society is better then capitalist society. On the other hand, Marx praised the Capitalism. In Communist Manifesto, Marx wrote:"
Marx believed that the communist society is better then capitalist society. On the other hand, Marx praised the Capitalism. In Communist Manifesto, Marx wrote:"
"The bourgeoisie, during its
rule of scarce one hundred years, has created more massive and more colossal
productive forces than have all preceding generations together".
In fact the communist society ìs a society of
failure. Communism in East Europe, Soviet Union collapsed totally. China and
Vietnam still conserve the communist flag but they follow the capitalist
economy.
Why the communist economy failed?
There were many ideas protesting the abolition of private property. In Communist Manifesto, Marx repeated what the anti-communists said:
Why the communist economy failed?
There were many ideas protesting the abolition of private property. In Communist Manifesto, Marx repeated what the anti-communists said:
"It has been objected that upon the
abolition of private property, all work will cease, and universal laziness will
overtake us."
And Marx replied:"According to this, bourgeois society ought long ago to have gone to the dogs through sheer idleness; for those who acquire anything, do not work. The whole of this objection is but another expression of the tautology: There can no longer be any wage labor when there is no longer any capital".
And Marx replied:"According to this, bourgeois society ought long ago to have gone to the dogs through sheer idleness; for those who acquire anything, do not work. The whole of this objection is but another expression of the tautology: There can no longer be any wage labor when there is no longer any capital".
Writing this sentence, Marx aimed to accuse the bourgeois of their laziness.
Many people by their prejudge think that the bourgeois are the lazy persons but
in fact the bourgeois are the studious persons, they work hard so they become
rich.
On the contrary, many people are poor because they want to play than to work. Moreover, they are addicted to cocaine, or gambling or drinking.
On the contrary, many people are poor because they want to play than to work. Moreover, they are addicted to cocaine, or gambling or drinking.
Why the communist economy failed? In the
capitalist and the monarchical society, people have freedom in working. A man
can become accomplished in any branch he wishes, society regulates the general
production and thus makes it possible for him to do one thing today and another
tomorrow, to hunt in the morning, fish in the afternoon, rear cattle in the
evening, criticise after dinner.
He works hard because he has freedom, and he
has motivation to work. He works hard and happily for his purposes: to buy a
coast, to buy a car, to build a house. He works hard for his future, and for
his son, and his daughter s' future. But in communist's hell, the workers do
not have enough food, how can he dream of a car, a house?
In a word, we can conclude that:
1- Marx and his comrades are the imaginary or
deceitful persons.
2- Nobody can build a classless state because
the oppressor and oppressed always exist in parallel in all society.
3 -Nobody can abolish private property
because the public private will be seized or robbed by one man, one family or
one group.
4-Abolition of private property will make
country and people poor and miserable.
5. The communist's dream costed hundred million people 's lives.
5. The communist's dream costed hundred million people 's lives.
__
(1).Communist Manifesto)
(2)..And there is unity where
there is community of pleasures and pains --where all the
citizens are glad or grieved on the same occasions of joy and
sorrow?
Yes;
and where there is no common but only private feeling a State is
disorganized --when you have one half of the world triumphing and the other plunged in grief at the same events happening to the city or
the citizens?
Such
differences commonly originate in a disagreement about the use of
the terms 'mine' and 'not mine,' 'his' and 'not his.'
Exactly
so. [. . .]. But would any of your guardians think or speak of any other
guardian as a stranger?
Certainly
he would not; for every one whom they meet will be regarded by
them either as a brother or sister, or father or mother, or son or daughter, or as the child or parent of those who are thus connected with him (Socrates - ADEIMANTUS - GLAUCON - THRASYMACHUS )
Plato, The Republic.Book V. Translated by Benjamin Jowett . http://classics.mit.edu/Plato/republic.6.v.html
(4
Aristotle. Politics. Part III...http://classics.mit.edu/Aristotle/politics.2.two.html
(6).http://classics.mit.edu/Aristotle/politics.4.four.html.
Part IX.(8). Pipes, Richard. Communism: A
History. (New York: The Modern Library, 2000), 84.
(7).
Richard Pipies. Communisim. A History. (New York: The Modern Library,
2000)- 4.
(10). Capital,
Volume 1, by Marx, Karl. From "Chapter 32: Historical Tendency of
Capitalist Accumulation": "Self-earned private property, that is
based, so to say, on the fusing together of the isolated, independent
laboring-individual with the conditions of his labor, is supplanted by
capitalistic private property, which rests on exploitation of the nominally
free labor of others, i.e., on wage-labor. As soon as this process of
transformation has sufficiently decomposed the old society from top to bottom,
as soon as the laborers are turned into proletarians, their means of labor into
capital, as soon as the capitalist mode of production stands on its own feet,
then the further socialisation of labour and further transformation of the land
and other means of production into socially exploited and, therefore, common
means of production, as well as the further expropriation of private
proprietors, takes a new form. That which is now to be expropriated is no
longer the labourer working for himself, but the capitalist exploiting many
laborers."
(11).
Milovan Djilas, The New Class (New York: Praeger, 1957), p. 35.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0247
TIN TỨC - THƠ XƯỚNG HỌA - VIỆT CỘNG- BIỂN ĐÔNG
Friday, February 1, 2013
TIN TỨC GẦN XA
Mỹ tái khẳng định: Úc là trụ cột chính trong chiến lược châu Á
Đô đốc Mỹ Samuel Locklear ( 29/08/2011)
REUTERS
Trong cuộc họp báo qua điện thoại, ngày hôm nay, 01/02/2013,
từ trụ sở Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương Hoa Kỳ, (PACOM) ở Hawai, đô đốc
Samuel Locklear tuyên bố, Úc là «trụ cột chính » trong chiến lược của Mỹ
tại châu Á cũng như trong việc đánh giá lại chiến lược quân sự của Hoa
Kỳ trong khu vực này. Theo chỉ huy PACOM, Ấn Độ Dương – phía tây nước Úc
– là một khu vực chiến lược quan trọng không thể tách rời vùng châu
Á-Thái Bình Dương.
Đô đốc Locklear cho biết, khi đánh giá quan hệ với Úc, Hoa Kỳ
cho rằng đó là một đồng minh rất tốt và rất gần gũi và trong quá khứ, Úc
luôn luôn ủng hộ Hoa Kỳ. Ông hy vọng là mối quan hệ tốt đẹp này sẽ tiếp
tục trong tương lai.
Vào tháng 11/2012, hai nước thông báo là quân đội Mỹ lắp đặt tại Úc một trạm ra đa, một trạm quan sát không gian, củng cố quân số thủy quân lục chiến tại căn cứ Darwin.
Vào thời điểm đó, bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã nói đến « một bước nhẩy vọt lớn trong quan hệ hợp tác song phương » và « một đường biên giới mới, quan trọng » trong việc tái cân bằng sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ trong khu vực.
Châu Á đã trở thành một ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Vào tháng 10 năm ngoái, hạm trưởng chỉ huy hàng không mẫu hạm USS George Washington, đã khẳng định rằng sự hiện diện của Hoa Kỳ tại châu Á là nhằm bảo đảm quyền tự do lưu thông trên các vùng biển đang có tranh chấp về chủ quyền giữa nhiều quốc gia.
Trước thái độ hung hăng của Trung Quốc trong các hồ sơ tranh chấp chủ quyền biển đảo, Nhật Bản, đồng minh của Hoa Kỳ, cũng tìm cách củng cố quan hệ với Úc.
Bộ Ngoại giao Nhật Bản thông báo là kể từ hôm qua, 31/01, hiệp định hợp tác giữa lực lượng phòng vệ Nhật Bản (quân đội Nhật Bản) và quân đội Úc bắt đầu có hiệu lực. Theo Tokyo, Úc là « đối tác chiến lược » có cùng các giá trị và lợi ích như Nhật Bản.
Vào tháng 11/2012, hai nước thông báo là quân đội Mỹ lắp đặt tại Úc một trạm ra đa, một trạm quan sát không gian, củng cố quân số thủy quân lục chiến tại căn cứ Darwin.
Vào thời điểm đó, bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã nói đến « một bước nhẩy vọt lớn trong quan hệ hợp tác song phương » và « một đường biên giới mới, quan trọng » trong việc tái cân bằng sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ trong khu vực.
Châu Á đã trở thành một ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Vào tháng 10 năm ngoái, hạm trưởng chỉ huy hàng không mẫu hạm USS George Washington, đã khẳng định rằng sự hiện diện của Hoa Kỳ tại châu Á là nhằm bảo đảm quyền tự do lưu thông trên các vùng biển đang có tranh chấp về chủ quyền giữa nhiều quốc gia.
Trước thái độ hung hăng của Trung Quốc trong các hồ sơ tranh chấp chủ quyền biển đảo, Nhật Bản, đồng minh của Hoa Kỳ, cũng tìm cách củng cố quan hệ với Úc.
Bộ Ngoại giao Nhật Bản thông báo là kể từ hôm qua, 31/01, hiệp định hợp tác giữa lực lượng phòng vệ Nhật Bản (quân đội Nhật Bản) và quân đội Úc bắt đầu có hiệu lực. Theo Tokyo, Úc là « đối tác chiến lược » có cùng các giá trị và lợi ích như Nhật Bản.
Thứ năm 31 Tháng Giêng 2013
Nhật Bản: Chiến lược 'an ninh dân chủ kim cương' đối phó với Trung Quốc
Thủ tướng Shinzo Abe phát biểu trước Quốc Hội Nhật Bản.
Reuters
Sau chiến lược « tái định vị » của Mỹ tại châu Á - Thái Bình
Dương và « hướng đông » của Ấn Độ, Nhật Bản thông báo chính sách «
hướng nam » mà thủ tướng Shinzo Abe gọi là « Chiến lược An ninh Dân chủ
Kim cương » tăng cường vòng vây án ngữ Trung Quốc.
Sau nửa thế kỷ tự kềm trong chính sách hiếu hòa, Nhật Bản bắt
đầu chuyển mình để đảm nhận vai trò của một đại cường kinh tế và quân
sự. Trong thông điệp 31/01/2013 gửi Quốc hội, tân thủ tướng Shinzo
Abe thông báo ông muốn « tu chính bản Hiến pháp » được soạn thảo dưới
sức ép của Hoa Kỳ sau đệ nhị thế chiến, ngăn cấm Nhật Bản vĩnh viễn
không được sử dụng đến chiến tranh.
Tân thủ tướng Nhật mong muốn xây dựng một chiến lược địa chính trị mới « hướng nam » và được đặt tên là « An ninh Dân chủ Kim cương » liên kết tất cả những quốc gia từ Ấn Độ kéo dài xuống Đông Nam Á và đến tận Úc Tất cả những quốc gia này có cùng một mối quan ngại chung là bị sức mạnh quân sự của Trung Quốc đe dọa.
Để có thể chủ động trong thế phân tranh Washington-Bắc Kinh, chiến lược « an ninh dân chủ kim cương » được Tokyo xây dựng với bốn quốc gia dân chủ trụ cột là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc. Tuy không nói ra, nhưng đối tượng nằm trong tầm nhắm của vòng đai này là Trung Quốc
Chỉ trong vòng một tháng cầm quyền, thủ tướng Nhật liên tục có một loạt động thái chinh phục cảm tình các quốc gia trong vùng Thái Bình Dương từ Úc , Ấn, Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Miến Điện và Việt Nam.
Đầu tháng giêng, thủ tướng Nhật chọn Hà Nội để thăm viếng đầu tiên, và sau đó sang Thái Lan và Indonesia. Tại Jakarta, ông thông báo « 5 điểm cơ bản chỉ đạo bang giao ». Cùng lúc đó, phó thủ tướng Taro Aso sang Miến Điện và ngoại trưởng Fumio Kishida đi Úc, Brunei , Philippines và Singapore.
Giới phân tích quốc tế gọi đây là chiến lược « định vị hướng nam ». Trong bài báo cùng tên trên AsiaTimes, nhà phân tích Richard Javal Heydarian nhấn mạnh về một chuổi sự kiện cụ thể : Tokyo đang được tăng cường quan hệ quân sự với Washington, gia tăng ngân sách quốc phòng, hào phóng cung cấp 12 tàu chiến và 10 tàu đổ bộ cho Philippines, xem xét khả năng bán tầu ngầm tối tân Soryu cho Úc và Việt nam.
Vì sao chiến lược « trỗi dậy » của Nhật Bản được đặt tên là « dân chủ kim cương » ?
Trong thế trận đối phó với Trung Quốc, phải chăng đây là một cơ hội cho Đông Nam Á và Việt Nam ?
RFI đặt câu hỏi với nhà phân tích Lưu Tường Quang từ Sydney.
« Chính sách an ninh dân chủ kim cương có thể coi đó là phản ứng chiến lược của Nhật Bản đối với sự trỗi dậy của Trung Quốc đặc biệt là về quân sự đã trở thành một mối đe dọa cho nhiều nước trong vùng kể cả Nhật Bản và Việt Nam. Trong những năm cuối thế kỷ 20 thì Nhật Bản cũng trỗi dậy nhưng sự trỗi dậy hòa bình của Nhật không đem lại căng thẳng trong vùng. Trái lại, vào đầu thế kỷ 21, sự trỗi dậy của Trung Quốc về kinh tế và quân sự tạo ra căng thẳng đến mức Tổng thống Obama đã thực hiện chính sách «tái định vị » tại châu Á Thái Bình dương và Ấn Độ đã theo đuổi một cách tích cực hơn cái chính sách gọi là « Hướng Đông ». Bây giờ có thêm chính sách mới từ Nhật Bản là « chính sách kim cương về an ninh và dân chủ ». Điều này cho thấy lực đối trọng từ Hoa Kỳ, Nhật và Ấn Độ đã bắt đầu hình thành…
Ông Shinzo Abe đã trình bày khái niệm « an ninh dân chủ kim cương » lần đầu tiên vào năm 2007 khi ông đi thăm quốc hội Ấn Độ với tư cách thủ tướng Nhật. Ông trình bày khái niệm về sự giao thoa giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình dương mà ông cho rằng có nhiều điểm chung về hòa bình, ổn định, tự do lưu thông hàng hải. Nhưng ông cũng lập luận là khi Trung Quốc coi 85% Biển Đông là « đại hồ » của Trung Quốc thì điều này gây tai hại cho giao thương hàng hải. Đến tháng 12/2012, trước bầu cử quốc hội tại Nhật, ông Shinzo Abe đã phổ biến bài tham luận của ông dưới cái nhan đề « An ninh Dân chủ Kim cương » tại châu Á.
Trong cốt lõi ông nói rằng thái độ xác quyết của Trung Quốc tại biển Hoa Đông và Hoa Nam đã tạo ra cái « ưu tiên » cho chính sách ngoại giao của Nhật Bản và Nhật Bản phải mở rộng tầm nhìn chiến lược . Cũng theo ông Abe, Nhật Bản là một cường quốc hàng hải và dân chủ trưởng thành nên cái sự lựa chọn chiến lược của Nhật cũng phản ảnh thực tế đó : bốn nước Úc Ấn Mỹ và Nhật hợp thành một chuổi kim cương bảo vệ tài sản chung của nhân loại, bảo vệ tự do giao thông hàng hải trong khu vực Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương…
Thật ra cái khung hợp tác chiến lược đã được thực hiện từ lâu ở cấp tam cường Mỹ-Nhật-Úc và ở cấp song phương với các hiệp ước an ninh chung giữa Mỹ- Nhật hay Mỹ-Úc …do vậy chiến lược mới sẽ được hình thành nhanh chóng…
Tháng Giêng 2013, trong chuyến công du Việt Nam, Thái Lan và Indonesia , thủ tướng Shinzo Abe trình bày tại Indonesia 5 nguyên tắc gọi là Hướng dẫn chỉ đạo bang giao giữa Nhật Bản và các quốc gia trong vùng mà nguyên tắc thứ nhất là « quý trọng những giá trị đại đồng về dân chủ và nhân quyền », thứ hai là « coi trọng tự do thông thương hàng hải », thứ ba là « tạo một hệ thống phát triển kinh tế và thương mại chung », thứ tư là « duy trì phát triển truyền thống văn hóa châu Á và thứ năm là « trao đổi giới trẻ ». Năm điểm này không gây vấn đề gì (cho các nước Đông Nam Á ) trừ điểm thứ nhất « tôn trọng dân chủ nhân quyền » có thể gây ra những khó khăn giữa Tokyo và Hà Nội…. »
Tân thủ tướng Nhật mong muốn xây dựng một chiến lược địa chính trị mới « hướng nam » và được đặt tên là « An ninh Dân chủ Kim cương » liên kết tất cả những quốc gia từ Ấn Độ kéo dài xuống Đông Nam Á và đến tận Úc Tất cả những quốc gia này có cùng một mối quan ngại chung là bị sức mạnh quân sự của Trung Quốc đe dọa.
Để có thể chủ động trong thế phân tranh Washington-Bắc Kinh, chiến lược « an ninh dân chủ kim cương » được Tokyo xây dựng với bốn quốc gia dân chủ trụ cột là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc. Tuy không nói ra, nhưng đối tượng nằm trong tầm nhắm của vòng đai này là Trung Quốc
Chỉ trong vòng một tháng cầm quyền, thủ tướng Nhật liên tục có một loạt động thái chinh phục cảm tình các quốc gia trong vùng Thái Bình Dương từ Úc , Ấn, Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Miến Điện và Việt Nam.
Đầu tháng giêng, thủ tướng Nhật chọn Hà Nội để thăm viếng đầu tiên, và sau đó sang Thái Lan và Indonesia. Tại Jakarta, ông thông báo « 5 điểm cơ bản chỉ đạo bang giao ». Cùng lúc đó, phó thủ tướng Taro Aso sang Miến Điện và ngoại trưởng Fumio Kishida đi Úc, Brunei , Philippines và Singapore.
Giới phân tích quốc tế gọi đây là chiến lược « định vị hướng nam ». Trong bài báo cùng tên trên AsiaTimes, nhà phân tích Richard Javal Heydarian nhấn mạnh về một chuổi sự kiện cụ thể : Tokyo đang được tăng cường quan hệ quân sự với Washington, gia tăng ngân sách quốc phòng, hào phóng cung cấp 12 tàu chiến và 10 tàu đổ bộ cho Philippines, xem xét khả năng bán tầu ngầm tối tân Soryu cho Úc và Việt nam.
Vì sao chiến lược « trỗi dậy » của Nhật Bản được đặt tên là « dân chủ kim cương » ?
Trong thế trận đối phó với Trung Quốc, phải chăng đây là một cơ hội cho Đông Nam Á và Việt Nam ?
« Chính sách an ninh dân chủ kim cương có thể coi đó là phản ứng chiến lược của Nhật Bản đối với sự trỗi dậy của Trung Quốc đặc biệt là về quân sự đã trở thành một mối đe dọa cho nhiều nước trong vùng kể cả Nhật Bản và Việt Nam. Trong những năm cuối thế kỷ 20 thì Nhật Bản cũng trỗi dậy nhưng sự trỗi dậy hòa bình của Nhật không đem lại căng thẳng trong vùng. Trái lại, vào đầu thế kỷ 21, sự trỗi dậy của Trung Quốc về kinh tế và quân sự tạo ra căng thẳng đến mức Tổng thống Obama đã thực hiện chính sách «tái định vị » tại châu Á Thái Bình dương và Ấn Độ đã theo đuổi một cách tích cực hơn cái chính sách gọi là « Hướng Đông ». Bây giờ có thêm chính sách mới từ Nhật Bản là « chính sách kim cương về an ninh và dân chủ ». Điều này cho thấy lực đối trọng từ Hoa Kỳ, Nhật và Ấn Độ đã bắt đầu hình thành…
Ông Shinzo Abe đã trình bày khái niệm « an ninh dân chủ kim cương » lần đầu tiên vào năm 2007 khi ông đi thăm quốc hội Ấn Độ với tư cách thủ tướng Nhật. Ông trình bày khái niệm về sự giao thoa giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình dương mà ông cho rằng có nhiều điểm chung về hòa bình, ổn định, tự do lưu thông hàng hải. Nhưng ông cũng lập luận là khi Trung Quốc coi 85% Biển Đông là « đại hồ » của Trung Quốc thì điều này gây tai hại cho giao thương hàng hải. Đến tháng 12/2012, trước bầu cử quốc hội tại Nhật, ông Shinzo Abe đã phổ biến bài tham luận của ông dưới cái nhan đề « An ninh Dân chủ Kim cương » tại châu Á.
Trong cốt lõi ông nói rằng thái độ xác quyết của Trung Quốc tại biển Hoa Đông và Hoa Nam đã tạo ra cái « ưu tiên » cho chính sách ngoại giao của Nhật Bản và Nhật Bản phải mở rộng tầm nhìn chiến lược . Cũng theo ông Abe, Nhật Bản là một cường quốc hàng hải và dân chủ trưởng thành nên cái sự lựa chọn chiến lược của Nhật cũng phản ảnh thực tế đó : bốn nước Úc Ấn Mỹ và Nhật hợp thành một chuổi kim cương bảo vệ tài sản chung của nhân loại, bảo vệ tự do giao thông hàng hải trong khu vực Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương…
Thật ra cái khung hợp tác chiến lược đã được thực hiện từ lâu ở cấp tam cường Mỹ-Nhật-Úc và ở cấp song phương với các hiệp ước an ninh chung giữa Mỹ- Nhật hay Mỹ-Úc …do vậy chiến lược mới sẽ được hình thành nhanh chóng…
Tháng Giêng 2013, trong chuyến công du Việt Nam, Thái Lan và Indonesia , thủ tướng Shinzo Abe trình bày tại Indonesia 5 nguyên tắc gọi là Hướng dẫn chỉ đạo bang giao giữa Nhật Bản và các quốc gia trong vùng mà nguyên tắc thứ nhất là « quý trọng những giá trị đại đồng về dân chủ và nhân quyền », thứ hai là « coi trọng tự do thông thương hàng hải », thứ ba là « tạo một hệ thống phát triển kinh tế và thương mại chung », thứ tư là « duy trì phát triển truyền thống văn hóa châu Á và thứ năm là « trao đổi giới trẻ ». Năm điểm này không gây vấn đề gì (cho các nước Đông Nam Á ) trừ điểm thứ nhất « tôn trọng dân chủ nhân quyền » có thể gây ra những khó khăn giữa Tokyo và Hà Nội…. »
Vì sao thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không bị mất chức?
Chế độ độc đảng lãnh đạo và tính chất “cùng hội cùng thuyền”
đã giúp ông Nguyễn Tấn Dũng giữ được chiếc ghế thủ tướng. Có thể tóm
tắt như vậy các nhận định của giáo sư Carlyle A. Thayer, để trả lời cho
câu hỏi nêu trên.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng phát biểu trước Quốc hội, 22/10/2012
REUTERS
Chế độ độc đảng lãnh đạo và tính chất “cùng hội cùng thuyền”
đã giúp ông Nguyễn Tấn Dũng giữ được chiếc ghế thủ tướng. Có thể tóm
tắt như vậy các nhận định của giáo sư Carlyle A. Thayer, để trả lời cho
câu hỏi nêu trên.
Hội nghị Trung ương 6 của đảng Cộng sản Việt Nam, sau 15 ngày
họp kín, bế mạc ngày 15/10 vừa qua, và Ban Chấp hành Trung ương đã quyết
định không kỷ luật Bộ Chính Trị và “một đồng chí trong Bộ Chính trị”.
“Đồng chí” này hay như lời chủ tịch nước Trương Tấn Sang “đồng chí X”, không ai khác chính là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, cho dù ông đã phạm nhiều sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lý, để cho nạn tham nhũng hoành hành. Phát biểu trước Quốc hội Việt Nam ngày 22/10/2012, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã thừa nhận trách nhiệm của mình đối với những sai lầm, khuyết điểm này.
Thế nhưng, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không bị mất chức. Tổng bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng giải thích là Ban Chấp hành Trung ương đã “cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá”.
Giới quan sát có những lý giải khác nhau.
Ngày 19/10 vừa qua, giáo sư Carlyle A. Thayer, chuyên gia về Việt Nam, thuộc Học viện Quốc phòng Úc, đưa ra một số nhận định. Theo ông, một số nhà phân tích đã ngạc nhiên là ông Nguyễn Tấn Dũng không bị cách chức thủ tướng. Họ đã nhầm lẫn vai trò thủ tướng trong chính thể dân chủ tự do với vai trò thủ tướng trong chế độ độc đảng lãnh đạo.
Ông Nguyễn Tấn Dũng vừa là thủ tướng vừa là “một đồng chí ủy viên Bộ Chính trị”. Ông có trách nhiệm cá nhân đối với các thành viên chính phủ và những tổ chức dưới quyền của ông. Nhưng ông cũng là ủy viên Bộ Chính trị, một định chế ra quyết định tập thể. Các phương tiện truyền thông chỉ tập trung chú ý đến vai trò thủ tướng của ông và không chú ý tới vị trí đầy ảnh hưởng của ông, người đứng thứ tư trong Bộ Chính trị.
Sau khi điểm lại những sai lầm, thất bại của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, câu hỏi đặt ra là tại sao ông lại không bị cách chức trong Hội nghị Trung ương 6 vừa qua ? Theo giáo sư C. Thayer, câu trả lời liên quan đến thực tế phe phái chính trị trong đảng Cộng sản Việt Nam. Nhìn trong tổng thế, Ban Chấp hành Trung ương bao gồm 4 nhóm khác nhau : Các ủy viên làm việc trong Đảng ở cấp Trung ương (19%), các ủy viên làm việc trong bộ máy Nhà nước ở cấp Trung ương (23,5%), các ủy viên làm việc ở cấp tỉnh hoặc địa phương (47%) và các ủy viên thuộc quân đội (10,5%). Mỗi nhóm này có lợi ích riêng của mình. Cho dù trong mỗi nhóm không có sự đồng nhất về chính trị, nhưng rõ ràng là ông Nguyễn Tấn Dũng đã có đủ sự ủng hộ ở cấp Nhà nước và tỉnh, địa phương để làm thất bại mọi ý đồ kỷ luật ông.
Giáo sư C.Thayer nhấn mạnh: Ông Nguyễn Tấn Dũng không chỉ là thủ tướng, ông còn là một “đồng chí ủy viên Bộ Chính trị”. Tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế đã làm cho văn phòng thủ tướng ngày càng có nhiều quyền lực, vượt lên trên cả Đảng. Điều này dẫn đến sự hình thành một mạng lưới bè phái, thân hữu, được hưởng các thành quả của sự phát triển kinh tế cũng như sự buông thả trong việc giám sát các chính sách của ông Nguyễn Tấn Dũng. Thế nhưng, “các đồng chí khác trong Bộ Chính trị” cũng được hưởng như vậy. Rõ ràng là họ, gia đình họ và những mạng lưới thân hữu của họ đều hưởng lợi từ mô hình phát triển “kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Do vậy, giáo sư C.Thayer cho rằng, mặc dù có những sai lầm, khuyết điểm, ông Dũng không bị mất chức hoặc buộc phải từ chức, bởi vì điều này sẽ gây ra những bất ổn chính trị trong một nước Việt Nam độc đảng lãnh đạo.
Nếu ông Nguyễn Tấn Dũng phải từ bỏ chức thủ tướng và ủy viên Bộ Chính trị, thì điều gì sẽ xẩy ra đối với các nhóm ủng hộ ông ở cấp Trung ương Đảng, Nhà nước và các chính quyền địa phương ?
Mặt khác, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định tái lập ban Kinh tế Trung ương cho phép Đảng có thể nắm bắt, theo dõi những dữ liệu kinh tế vĩ mô và xây dựng chính sách kinh tế trong tương lai.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuy tránh được áp lực buộc ông từ chức, nhưng từ nay sẽ không thể tự do hành động. Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra một lịch trình cải cách mà ông Dũng và Bộ Chính trị phải thực hiện. Đặc quyền của ông Dũng sẽ bị giảm bớt.
Ban Chấp hành Trung ương đã giao trách nhiệm cho Bộ Chính trị giải quyết vấn đề ổn định kinh tế xã hội, tiến hành cải cách các doanh nghiệp Nhà nước, lĩnh vực ngân hàng cũng như lựa chọn ban lãnh đạo tương lai trong Đại hội Đảng toàn quốc lần tới. Nói một cách khác, thủ tướng Dũng sẽ được chỉ đạo để nỗ lực giải quyết những vấn đề này. Quyền lực của ông sẽ bị hạn chế trong quá trình thực hiện chương trình cải cách.
Ban Chấp hành Trung ương sẽ xem xét, đánh giá về chương trình cải cách. Nếu mọi việc diễn ra bình thường, Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương giữa kỳ sẽ diễn ra vào dịp Tết Nguyên Đán 2013 (từ 9 đến 12/02/2013). Ông Nguyễn Tấn Dũng có thể không bị nêu tên, nhưng ông nằm trong tầm ngắm của những người muốn gạt bỏ những lãng phí kinh tế, một sản phẩm phụ của quá trình tăng trưởng kinh tế cao. Thủ tướng Dũng sẽ chịu áp lực từ nay cho đến khi có Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương, để chứng minh là có những tiến bộ trong việc cải cách các doanh nghiệp Nhà nước, cải cách lĩnh vực ngân hàng, chấm dứt ảnh hưởng của gia đình và các mạng lưới thân hữu, bè phái, vốn tung hoành ngang dọc cho đến nay.
Sau Hội nghị Trung ương 6, không một phe phái nào giành thắng lợi rõ rệt. Các đấu đá chính trị có thể còn tiếp tục vì mỗi phe đều tìm cách mở rộng ảnh hưởng của mình trong quá trình thực hiện cải cách. 2013 là năm giữa hai kỳ Đại hội toàn quốc (Đại hội 11 và 12). Bộ Chính trị sẽ lập nhiều tiểu ban soạn thảo các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và bắt đầu lựa chọn nhân sự cho các cơ quan lãnh đạo cao cấp của Đảng. Đấy sẽ là dịp các phe phái và những lãnh đạo tương lai của Đảng lại đấu đá, tác động đến chính sách và tranh giành ghế trong các cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng.
“Đồng chí” này hay như lời chủ tịch nước Trương Tấn Sang “đồng chí X”, không ai khác chính là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, cho dù ông đã phạm nhiều sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lý, để cho nạn tham nhũng hoành hành. Phát biểu trước Quốc hội Việt Nam ngày 22/10/2012, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã thừa nhận trách nhiệm của mình đối với những sai lầm, khuyết điểm này.
Thế nhưng, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không bị mất chức. Tổng bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng giải thích là Ban Chấp hành Trung ương đã “cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá”.
Giới quan sát có những lý giải khác nhau.
Ngày 19/10 vừa qua, giáo sư Carlyle A. Thayer, chuyên gia về Việt Nam, thuộc Học viện Quốc phòng Úc, đưa ra một số nhận định. Theo ông, một số nhà phân tích đã ngạc nhiên là ông Nguyễn Tấn Dũng không bị cách chức thủ tướng. Họ đã nhầm lẫn vai trò thủ tướng trong chính thể dân chủ tự do với vai trò thủ tướng trong chế độ độc đảng lãnh đạo.
Ông Nguyễn Tấn Dũng vừa là thủ tướng vừa là “một đồng chí ủy viên Bộ Chính trị”. Ông có trách nhiệm cá nhân đối với các thành viên chính phủ và những tổ chức dưới quyền của ông. Nhưng ông cũng là ủy viên Bộ Chính trị, một định chế ra quyết định tập thể. Các phương tiện truyền thông chỉ tập trung chú ý đến vai trò thủ tướng của ông và không chú ý tới vị trí đầy ảnh hưởng của ông, người đứng thứ tư trong Bộ Chính trị.
Sau khi điểm lại những sai lầm, thất bại của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, câu hỏi đặt ra là tại sao ông lại không bị cách chức trong Hội nghị Trung ương 6 vừa qua ? Theo giáo sư C. Thayer, câu trả lời liên quan đến thực tế phe phái chính trị trong đảng Cộng sản Việt Nam. Nhìn trong tổng thế, Ban Chấp hành Trung ương bao gồm 4 nhóm khác nhau : Các ủy viên làm việc trong Đảng ở cấp Trung ương (19%), các ủy viên làm việc trong bộ máy Nhà nước ở cấp Trung ương (23,5%), các ủy viên làm việc ở cấp tỉnh hoặc địa phương (47%) và các ủy viên thuộc quân đội (10,5%). Mỗi nhóm này có lợi ích riêng của mình. Cho dù trong mỗi nhóm không có sự đồng nhất về chính trị, nhưng rõ ràng là ông Nguyễn Tấn Dũng đã có đủ sự ủng hộ ở cấp Nhà nước và tỉnh, địa phương để làm thất bại mọi ý đồ kỷ luật ông.
Giáo sư C.Thayer nhấn mạnh: Ông Nguyễn Tấn Dũng không chỉ là thủ tướng, ông còn là một “đồng chí ủy viên Bộ Chính trị”. Tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế đã làm cho văn phòng thủ tướng ngày càng có nhiều quyền lực, vượt lên trên cả Đảng. Điều này dẫn đến sự hình thành một mạng lưới bè phái, thân hữu, được hưởng các thành quả của sự phát triển kinh tế cũng như sự buông thả trong việc giám sát các chính sách của ông Nguyễn Tấn Dũng. Thế nhưng, “các đồng chí khác trong Bộ Chính trị” cũng được hưởng như vậy. Rõ ràng là họ, gia đình họ và những mạng lưới thân hữu của họ đều hưởng lợi từ mô hình phát triển “kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Do vậy, giáo sư C.Thayer cho rằng, mặc dù có những sai lầm, khuyết điểm, ông Dũng không bị mất chức hoặc buộc phải từ chức, bởi vì điều này sẽ gây ra những bất ổn chính trị trong một nước Việt Nam độc đảng lãnh đạo.
Nếu ông Nguyễn Tấn Dũng phải từ bỏ chức thủ tướng và ủy viên Bộ Chính trị, thì điều gì sẽ xẩy ra đối với các nhóm ủng hộ ông ở cấp Trung ương Đảng, Nhà nước và các chính quyền địa phương ?
Mặt khác, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định tái lập ban Kinh tế Trung ương cho phép Đảng có thể nắm bắt, theo dõi những dữ liệu kinh tế vĩ mô và xây dựng chính sách kinh tế trong tương lai.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuy tránh được áp lực buộc ông từ chức, nhưng từ nay sẽ không thể tự do hành động. Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra một lịch trình cải cách mà ông Dũng và Bộ Chính trị phải thực hiện. Đặc quyền của ông Dũng sẽ bị giảm bớt.
Ban Chấp hành Trung ương đã giao trách nhiệm cho Bộ Chính trị giải quyết vấn đề ổn định kinh tế xã hội, tiến hành cải cách các doanh nghiệp Nhà nước, lĩnh vực ngân hàng cũng như lựa chọn ban lãnh đạo tương lai trong Đại hội Đảng toàn quốc lần tới. Nói một cách khác, thủ tướng Dũng sẽ được chỉ đạo để nỗ lực giải quyết những vấn đề này. Quyền lực của ông sẽ bị hạn chế trong quá trình thực hiện chương trình cải cách.
Ban Chấp hành Trung ương sẽ xem xét, đánh giá về chương trình cải cách. Nếu mọi việc diễn ra bình thường, Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương giữa kỳ sẽ diễn ra vào dịp Tết Nguyên Đán 2013 (từ 9 đến 12/02/2013). Ông Nguyễn Tấn Dũng có thể không bị nêu tên, nhưng ông nằm trong tầm ngắm của những người muốn gạt bỏ những lãng phí kinh tế, một sản phẩm phụ của quá trình tăng trưởng kinh tế cao. Thủ tướng Dũng sẽ chịu áp lực từ nay cho đến khi có Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương, để chứng minh là có những tiến bộ trong việc cải cách các doanh nghiệp Nhà nước, cải cách lĩnh vực ngân hàng, chấm dứt ảnh hưởng của gia đình và các mạng lưới thân hữu, bè phái, vốn tung hoành ngang dọc cho đến nay.
Sau Hội nghị Trung ương 6, không một phe phái nào giành thắng lợi rõ rệt. Các đấu đá chính trị có thể còn tiếp tục vì mỗi phe đều tìm cách mở rộng ảnh hưởng của mình trong quá trình thực hiện cải cách. 2013 là năm giữa hai kỳ Đại hội toàn quốc (Đại hội 11 và 12). Bộ Chính trị sẽ lập nhiều tiểu ban soạn thảo các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và bắt đầu lựa chọn nhân sự cho các cơ quan lãnh đạo cao cấp của Đảng. Đấy sẽ là dịp các phe phái và những lãnh đạo tương lai của Đảng lại đấu đá, tác động đến chính sách và tranh giành ghế trong các cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng.
tags: Chính trị - Chuyên mục trên mạng - Việt Nam
Tân ngoại trưởng Mỹ dưới bóng của Hillary Clinton
Libération hôm nay 31/01/2013, trong bài viết « Tân ngoại
trưởng Mỹ dưới bóng của Hillary », đã phác họa chân dung tân ngoại
trưởng Hoa Kỳ John Kerry và các thách thức đang chờ đón người kế nhiệm
bà Hillary Clinton.
Tân ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry (trái) và ngoại trưởng mãn nhiệm Hillary Clinton
Reuters
Libération hôm nay 31/01/2013, trong bài viết « Tân ngoại
trưởng Mỹ dưới bóng của Hillary », đã phác họa chân dung tân ngoại
trưởng Hoa Kỳ John Kerry và các thách thức đang chờ đón người kế nhiệm
bà Hillary Clinton.
Ông John Kerry nổi tiếng là một người thân Pháp. Thông thạo
tiếng Pháp, nhưng sau các kinh nghiệm chính trị, đặc biệt với cuộc tranh
cử tổng thống năm 2004 – mà ông là ứng cử viên đảng Dân chủ - John
Kerry đã nhận ra một điều là, tại Hoa Kỳ, phẩm chất này có thể bị coi
như là một nhược điểm.
Năm 2004, nước Pháp từng bị coi là kẻ phản bội, khi không ủng hộ
chiến dịch của Bush tại Irak. Lúc đó, ông John Kerry đã bị chế nhạo với
các biệt danh « Monsieur Kerry » hay « Jean Chéri ». Don Evans, bộ trưởng Thương mại Mỹ, bạn của Georg Bush, thậm chí còn châm chích : « Ông ta có vẻ giống người Pháp ».
Libération cho biết, trong những tuần gần đây, sự thân Pháp của John
Kerry đã thể hiện qua việc kêu gọi Washington ủng hộ chiến dịch « Serval » của quân đội Pháp tại Mali từ hậu trường – vì ông chưa chính thức nhậm chức. Theo người viết xã luận cho tờ Washington Post Jim Hoagland, thì “Nhà
Trắng sẽ dành cho John Kerry nhiều không gian hành động hơn là đối với
người tiền nhiệm. Obama thoải mái với Kerry hơn là với ngoai trưởng
Clinton, và chắc chắn người đứng đầu Nhà Trắng sẽ giao hồ sơ Cận Đông,
đang rất hỗn loạn, cho tân ngoại trưởng. »
Libétation điểm lại lý do khiến tân ngoại trưởng Mỹ trở thành một
người có phong cách Pháp. Kerry đã trải qua một phần tuổi thơ tại Châu
Âu, nơi cha ông phục vụ trong ngành ngoại giao. Kerry từng học nội trú
tại Thụy Sĩ, trước khi theo học tại một trường tư thục lừng danh ở
Massachusetts (Anh Quốc). Phong cách khá quý phái của ngoại trưởng Mỹ
tương lai nhắc đến việc ông là hậu duệ của hai gia tộc Mỹ nổi tiếng,
dòng họ Forbes và dòng họ Winthrop. Ngược lại, gia tài rất lớn của ông
lại đến từ hai cuộc hôn nhân, nhất là cuộc hôn nhân thứ hai với bà
Teresa Heinz, người thừa kế tập đoàn ketchup.
Xuất thân khá giả, John Kerry có tham vọng trở thành lãnh đạo nước Mỹ
ngay từ khi còn nhỏ. Mẫu mực của tân ngoại trưởng Mỹ là cố tổng thống
John Fitzgerald Kennedy (còn gọi là JFK). Theo tấm gương của JFK, John
Kerry nhập ngũ, phục vụ trong hải quân và đi Việt Nam chiến đấu, với
cương vị thuyền trưởng tầu tuần tra trên sông Mêkông. Chỉ ở Việt Nam
trong bốn tháng, Kerry trở về Mỹ mang theo suốt đời một lý tưởng. Đó là
thái độ chống lại mọi cuộc chiến « vô nghĩa » đe dọa mạng sống
của thanh niên Mỹ. Kinh nghiệm Việt Nam của Kerry, cũng giống như Chuk
Hagel – bộ trưởng Quốc phòng tương lai – là tương hợp với mối bận tâm
hiện nay của Obama : Đưa quân Mỹ rút khỏi các cuộc chiến tại Afghanistan
và Cận Đông.
Tuy nhiên, theo nhận định của Libération, quan điểm của nhà chính trị
John Kerry không phải hoàn toàn là nhất quán trong chính vấn đề này.
Nếu như năm 1991, ông bỏ phiếu chống cuộc can thiệp của Mỹ giải phóng
Koweit khỏi Irak, thì năm 2002, ông lại ủng hộ cuộc chiến tại Irak, để
rồi phê phán nó một cách quyết liệt sau đó. Simon Serfaty - một chuyên
gia về chính trị quốc tế tại Center for Strategic and International
Studies ở Washington - đưa ra nhận xét : « Kerry giống một diễn viên xiếc hơn là một lãnh đạo bộ Ngoại giao ».
Bốn năm hoạt động trên cương vị ngoại trưởng với các chuyến đi như thoi dệt, bà Hillary Clinton đã « để lại »
cho người kế nhiệm một cục diện ngoại giao rối ren và nhiều nguy cơ
bùng nổ hơn là vào năm 2009. Đơn cử : nội chiến ở Syria, Ai Cập bên bờ
hỗn loạn, Iran chỉ còn vài tháng nữa là có bom hạt nhân, chiến tranh tại
Mali, quan hệ với Nga xuống cấp và các căng thẳng mới giữa Trung Quốc
và các nước láng giềng…
Còn theo một chuyên gia chính trị quốc tế khác, Kerry sẽ chú ý đến
khu vực Cận Đông, tương đối bị bỏ rơi dưới thời Clinton, cụ thể là thử
tái khởi động lại tiến trình hòa bình Israel – Palestine và tìm cách
mang lại một sự nhất quán nhiều hơn trong chính sách của Mỹ đối với các
phong trào Mùa Xuân Ả Rập.
Pháp : Thông tri về mang thai hộ gây tranh luận
Một chủ đề chính trên trang nhất nhiều nhật báo Pháp là thông tri về việc mang thai hộ. Le Figaro chạy tựa « Mẹ mang thai hộ : Thông tri Taubira gây bão tố ». « Mang thai hộ thành chủ đề tranh luận » là tựa trang nhất La Croix.
Le Figaro cho biết, thông tri của bộ trưởng Tư pháp Christiane
Taubira về việc công nhận quốc tịch Pháp đối với các em nhỏ do mẹ mang
thai hộ sinh ra ở nước ngoài, đã gây ra một phản ứng dữ dội từ phía đảng
đối lập UMP. Phe phản đối dự luật về hôn nhân đồng tính và quyền nhận
con nuôi của các cặp đồng giới tính, phản đối quyết liệt thông tri này,
vì cho rằng : Đây là một văn bản pháp lý dọn đường trước cho việc hợp
pháp hóa quyền của các cặp nữ đồng tính có con với sự hỗ trợ của y học
và các cặp nam đồng tính có khả năng có con thông qua mẹ mang thai hộ.
Nhiều lãnh đạo đảng UMP lên tiếng đòi hủy bỏ thông tri này.
Để hiểu hơn về thông tri Taubira, liên quan đến việc mang thai hộ, Libération có bài « Mang thai hộ : hãy đi đi, (gần như) không có gì để xem cả ! ». Trả lời cho câu hỏi : « Liệu thông tri Taubira có phải là một trái bom không ?
», Libération giải thích thông tri này chỉ nhắc lại một luật đã có. Đó
là một đứa trẻ sinh là người Pháp, nếu như có bố hoặc mẹ là người Pháp.
Nội dung của thông tri không phải là công nhận việc mang thai hộ, mà là
nhắc lại yêu cầu thực tế của một số trẻ em sinh ra ở nước ngoài, có hoặc
cha, hoặc mẹ là người Pháp, nhưng không được công nhận quốc tịch.
Theo ông Alexandre Urwicz, đồng chủ tịch Hội các gia đình đồng tính
(AFDH), có khoảng 500 đến 800 trẻ em con cái người Pháp ở vào tình trạng
này. Đây là các em nhỏ do mẹ mang thai hộ sinh ra ở nước ngoài, vì
người mẹ « thật » mắc các bệnh ở bộ phận tử cung, nên không có khả năng thụ thai.
Bộ Tư pháp Pháp nhắc lại, việc mang thai hộ bị cấm ở Pháp, thông tri
không thay đổi quy định này, nên đây không phải là chủ đề tranh luận.
Trong khi đó, ông Alexandre Urwicz, đồng chủ tịch Hội các gia đình đồng
tính thì nhấn mạnh đến sự ngạc nhiên của ông trước thái độ thụ động của
Pháp trong vấn đề công nhận quốc tịch đối với các trẻ em này, khi mà
nhiều nước Châu Âu khác, cũng không thừa nhận mang thai hộ, như Đức, Tây
Ban Nha, vẫn dễ dàng cấp cho các em bé trong trường hợp tương tự một
chứng nhận quốc tịch.
Thảm họa nhân đạo chưa từng thấy tại Syria có thể xảy ra
Về thời sự quốc tế, Le Monde cảnh báo tình trạng khủng hoảng nhân đạo tại các vùng nổi dậy tại Syria qua bài viết « Syria : Thảm họa nhân đạo nhãn tiền với quy mô lớn chưa từng thấy
», với nhận định sự hỗn loạn tại miền Bắc khiến đời sống của người tỵ
nạn trở nên hết sức khó khăn và cản trở hoạt động của các tổ chức phi
chính phủ.
Phóng sự của Le Monde nhan đề « Người tỵ nạn Syria trốn chạy khỏi các trận đánh, bị bỏ mặc »,
đưa độc giả đến với một trong các vùng tỵ nạn được coi là lý tưởng ở
Syria : làng Atmé, với khoảng 6.000 dân trước khi xảy ra nội chiến. Nằm
lọt giữa hai đường biên giới với Thổ Nhĩ Kỹ, ngôi làng nhỏ cực bắc Syria
này gần như không hề bị không quân Syria tấn công, ngoại trừ một lần
duy nhất vào cuối năm ngoái. Đây cũng là cánh cửa mở ra cho người tỵ nạn
chạy sang nước Thổ. Chính vì vậy, Atmé đã thu hút rất nhiều luồng người
tỵ nạn.
Tuy nhiên, Ankara đã quyết định đóng cửa biên giới tại khu vực này
vào tháng 8/2012, khiến dòng người tỵ nạn tắc lại. Hiện tại có đến
17.000 người tỵ nạn khắp nơi đổ về đây. Cứ tốc độ thế này, đến hè tới,
dự kiến sẽ có khoảng 50.000 người tỵ nạn tại Atmé.
Điều kiện sống và vệ sinh trở nên ngày càng xấu. Bệnh xá ghi nhận,
riêng trong tháng trước đã có 1.100 ca bệnh viêm gan B. 31/12, hỏa hoạn
khiến 7 người chết. Khi trời mưa, các lều ngập nước và có thể bị sập bất
cứ lúc nào.
Một tổ chức nhân đạo lớn làm việc tại đây cho biết, họ rất ngạc
nhiên, khi không hề thấy ai làm nhiệm vụ ghi nhận thông tin về những
người tỵ nạn. Đồ cứu trợ thì có nhiều, nhưng việc phân phối tiến hành
không có tổ chức. Nguyên nhân của thực trạng vô tổ chức này là : các cơ
quan Liên Hiệp Quốc đều nằm ở bên kia bên giới và không cử người sang,
vì chính quyền Damas không chấp nhận cho Liên Hiệp Quốc tham gia các
hoạt động nhân đạo các vùng thuộc kiểm soát của quân nổi dậy. Giám đốc
trại ty nạn Atmé tuyên bố, nếu tình hình này kéo dài, thì chắc chắn sẽ
có nhiều bệnh tật và các rối loạn.
Tình trạng tại các trại tỵ nạn khác cũng ngày càng trở nên tồi tệ.
Các trại tỵ nạn thường trở thành hậu cứ của lực lượng Quân đội Syria Tự
do. Đây là nơi các binh sĩ quân nổi dậy gửi gắm người thân, tới nghỉ
ngơi hoặc tìm đồ tiếp viện.
Cũng trong hồ sơ Syria trên Le Monde, có bài « Đặc phái viên Liên Hiệp Quốc về Syria Lakhdar Brahimi hối thúc Hội đồng Bảo an hành động khẩn cấp ». « Syria : các nước vùng Vịnh rút tiền ra » là hàng tựa một cụm tranh cho đề tài Syria trên Libération.
Liên hoan tranh hoạt hình Angoulême – Pháp
Về văn hóa, liên hoan tranh hoạt hình – BD - Angoulême lần thứ 40,
miền nam nước Pháp, là chủ đề được nhiều báo Pháp quan tâm. Le Figaro
nhận xét : « với khoảng 220.000 du khách hàng năm, bảo tàng BD tuyệt
vời, bảy trường học cống hiến cho môn nghệ thuật thứ 9, cũng như nhiều
trò chơi video, Angoulême đã biến cuộc hội ngộ của những người hâm mộ
thành một cơ hội cho một cuộc cách mạng văn hóa ».
Libération thì dành cho chúng ta một số ra đặc biệt, được minh họa hoàn toàn bằng các tranh BD.
Triển lãm rô bốt tại Paris
Còn tại Paris, qua bài « Rô bốt tốt, rô bốt hung bạo và rô bốt bất lương », Le Monde giới thiệu về cuộc triển lãm « Và con người… đã tạo ra rô bốt »
tại Bảo tàng nghệ thuật và nghề nghiệp (Musée des arts et métiers), từ
tháng 11/2012 cho đến 03/03/2013, đặc biệt hướng đến các công chúng nhỏ
tuổi.
Cho đến nay, triển lãm đã tiếp đón gần 50.000 khách thăm. Theo giám
đốc bảo tảng, đây là một triển lãm thành công nhất, kể từ sau triển lãm «
Muséogames », dành cho các trò chơi video cách đây hai năm.
Nhiều loại rô bốt được trưng bày ở đây, từ các người máy trong lĩnh
vực quân sự, đến rô bốt phục vụ y học… Cuộc trưng bày còn cho người xem
nhìn lại lịch sử phát triển của rô bốt, với những nhiệm vụ nguy hiểm và
phức tạp mà chúng có thể làm thay cho người. Tuy nhiên ngày càng xuất
hiện nhiều hơn các rô bốt trong cuộc sống hàng ngày, như : rô bốt đọc
sách, rô bốt diễn viên, rô bốt giúp trẻ học bài…
Một trong các chủ đề chính của cuộc triển lãm gợi nhiều suy nghĩ, đó
là tương lai nào cho các rô bốt. Làm việc thay con người trong các công
việc khó khăn và nặng nhọc, liệu rô bốt có thể thay thế con người trong
các hoạt động xã hội thông thường khác hay không ?
Rời khỏi bảo tàng, một trong những điều mà các du khách nhí có thể
nhận ra là, có rất nhiều rô bốt tài giỏi, nhưng sức mạnh của chúng không
phải là không có vấn đề. Hiểu được các sức mạnh và những giới hạn của
rô bốt là « một sự nhập môn vào triết học » đầy ý nghĩa với một du khách nhỏ.
BIỂN ĐÔNG.NET. *HẢI QUÂN NHẬT
Hải quân Nhật lặng lẽ gia tăng sức mạnh
BienDong.Net:
Trong khi sức mạnh hải quân ngày càng lớn mạnh của Trung Quốc thu hút
được sự quan tâm đặc biệt của thế giới, lực lượng hải quân tiên tiến của
Nhật Bản được đánh giá là phần chìm "đáng gờm" của tảng băng.
Trong
khi tranh chấp giữa Nhật và Trung Quốc liên quan đến quần đảo
Senkaku/Điếu Ngư thu hút được sự quan tâm của quốc tế vì nhiều lý do, mà
hầu hết là tiêu cực, thì một trong vài nhân tố tích cực là cả hai bên
cho đến nay đều từ chối phái quân đội “vào cuộc”.
Ít nhất là cho tới thời điểm này, các cuộc đối đầu vẫn chỉ giới hạn ở lực lượng bảo vệ bờ biển và các tổ chức bán quân sự.
Với
giới chiến lược gia và các nhà báo theo dõi vấn đề quân sự, điều này có
nghĩa là hải quân Trung Quốc và Nhật vẫn “tung hỏa mù” về cách
thức đối phó với tình huống bất ngờ. Với sự phát triển cực thịnh, hải
quân nước xanh Trung Quốc đang được lên kế hoạch trang bị tàu đổ bộ chở
trực thăng (LPD) loại 071, tàu khu trục nhỏ mới loại 52D, tàu khu trục
loại 51A hay Liêu Ninh, tàu sân bay lớp Kusnetsov. Còn phía Nhật thì
sao?
Tàu
chở trực thăng lớp Hyuga có trang bị tổ hợp tên lửa tầm trung RIM-162
ESSM, tên lửa chống tàu ngầm RUM-139. Tàu có thể chở 11 trực thăng hạng
trung, hạng nặng các loại ( ảnh Internet )
Trở lại vào tháng
10/2012, James Holmes, chuyên gia quân sự hàng đầu của Mỹ, đã dẫn
chứng thuyết phục rằng Nhật có một đội “hải quân Chiến tranh Lạnh” được
thiết kế nhằm đáp ứng những nhiệm vụ cụ thể, theo đối tác đôi bên cùng
có lợi với Mỹ. “Theo phân công lao động được vạch ra giữa hải quân hai
nước, Hải quân Mỹ cung cấp hỏa lực tấn công, như tàu sân bay và các
phương tiện tiên tiến khác của cuộc chiến. Lực lượng phòng vệ biển Nhật
(JMSDF) hành động với tư cách là người lấp chỗ trống, khiến họ thành
thục trong những sứ mệnh “hậu trường” như dọn mìn, chống tàu ngầm và
tấn công tàu ngầm”.
Chính vì vậy mà vấn đề đặt ra tiếp theo là liệu Nhật có làm gì để thay đổi tình hình hiện nay, và nếu có thì sẽ như thế nào.
Phát
biểu với tạp chí quân sự IHS Jane’s hồi tháng 10, Đô đốc Katsutoshi
Kawano, tổng tham mưu trưởng JMSDF, có vẻ như muốn củng cố thêm tàu hơn
là mang cơ hội mới lên tàu. Ông nhấn mạnh đến vai trò của Nhật trong các
cuộc tập trận rà phá mìn quốc tế gần đây và những hợp đồng mua mới như
một tàu khu trục chống tàu ngầm (ASW) trọng tải 5.000 tấn, hai máy bay
tuần tra biển Kawasaki P-1 (MPA) thay thế cho đội P-3C Orion già cỗi
hiện nay và hiện đại hóa dịch vụ của các hệ thống chỉ huy, điều khiển,
liên lạc, máy tính, tình báo, giám sát và do thám (C4ISR).
“Việc
phát triển C4ISR và ASW phù hợp với mục tiêu nâng cấp các khả năng cụ
thể của JMSDF”, Đô đốc Kawano nhấn mạnh. Ông cũng đề cập đến việc nâng
cấp hai tàu khu trục để chúng có thể tham gia vào hệ thống phòng vệ tên
lửa đạn đạo SM-3 của Nhật, cùng với việc mở rộng hạm đội tàu ngầm từ 16
lên 22 chiếc.
Cho tới nay, có điều không ai để ý tới, đó là
không ai có thể cáo buộc JMSDF theo đuổi chương trình nghị sự bành
trướng, bởi đây chỉ là sự gia tăng đều đặn cho khả năng “phòng thủ” đã
có. Nhưng nếu nhìn vào các bằng chứng về thái độ khá chủ động để phù
hợp với chính sách “phòng thủ tích cực” mới của Nhật, và sau đó là một
số vụ mua bán cùng các cuộc tập trận gần đây, thì có nhiều điều thú
vị để bàn đến.
Sự gia tăng đầu tiên là các tàu sân bay
trực thăng mới 22DDH, mà chiếc đầu tiên hiện đang được IHI Marine đóng ở
Yokohama và sẽ hoàn thành vào năm 2015. Với chiều dài 248m và trọng tải
27.000 tấn, nó sẽ vượt trội các “tàu khu trục trực thăng” lớp Hyuga,
trọng tải 19.000 tấn hiện đang là tàu lớn nhất của JMSDF.
Tàu
Khu trục hạm lớp Akizuki của hải quân Nhật có lượng giãn nước 6.800
tấn, dài 150,5m. Tàu vũ trang tên lửa hành trình đối hạm Type 90 (tầm
bắn 200km), tên lửa đối không tầm trung RIM-162, tên lửa chống tàu ngầm
RUM-139 (chứa trong 32 ống phóng thẳng đứng), ngư lôi 324mm và pháo hạm (
ảnh Internet)
Không giống như tàu Hyuga và tàu “chị em” của
nó, Ise, 22DDH sẽ không được trang bị hệ thống phóng ngư lôi trên boong.
Thay vào đó, hỏa lực phụ thuộc vào 7 trực thăng ASW trên tàu. Có một
điều đặc biệt với 22DDH là nó có thể dễ dàng ghép đôi, trở thành tàu sân
bay hạng nhẹ, để lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ có thể dùng trong các
hoạt động viễn chinh. Tuy nhiên boong không được đánh giá tốt.
Cùng
với những tàu ASW trong hạm đội tàu ngầm trong Chiến tranh Lạnh, lực
lượng tàu đổ bộ lưỡng cư, vốn bị giới hạn bởi Điều 9 của Hiến
pháp, là một trong số ít các hoạt động được JMSDF triển khai. Nhưng
điều thú vị là, đây không phải là khả năng mới. JMSDF đã có
tàu lưỡng cư thực sự, đó là 3 tàu đổ bộ lớp Oosumi 14.000 tấn
(chính thức là tàu đổ bộ xe tăng) từ cuối những năm 1990.
Điều thay đổi chỉ là nhận thức về mối đe dọa. Cho đến gần đây
JMSDF không huấn luyện đổ bộ lưỡng cư và cho đến nay vẫn cự
tuyệt với lời kêu gọi thành lập lực lượng thủy đánh bộ.
Nhưng
điều này đang thay đổi. Ở Guam vào cuối năm 2012, lính lục quân
Lực lượng phòng vệ Nhật (JGSDF) đã tham gia huấn luyện đổ bộ
cùng với lính thủy đánh bộ Mỹ trên “các đảo thật” – theo lời
của một phát ngôn viện Bộ quốc phòng Nhật. Ngoài ra, Đô đốc
Kawano cũng nhấn mạnh các đảo ngoài khơi Nhật vẫn rất dễ bị
tấn công. JGSDF gần đây đã có một cuộc diễn tập đổ bộ lưỡng
cư khác, mặc dù cuộc diễn tập được thực hiện từ trực thăng
chứ không phải từ tàu.
Về trung hạn và dài hạn, Bộ
quốc phòng Nhật cũng lo ngại tới những tình huống bất ngờ
xung quanh Okinawa. Một bản kế hoạch của Bộ Quốc phòng Nhật bị
rò rỉ năm 1997 cho thấy các đảo Miyako và Ishigaki đều được xem
là những mục tiêu có khả năng bị Trung Quốc tấn công, để mở
đường cho hải quân Trung Quốc phá vỡ vành đai đảo đầu tiên để
tiến vào Thái Bình Dương.
Tàu ngầm tấn công chạy động cơ điện - diesel lớp Oyashio của Nhật có lượng giãn nước 4.000 tấn, dài 81,7m ( ảnh Internet)
Song
cần phải nhấn mạnh rằng đây chỉ là tình huống bất ngờ: cần
phải có sai lầm nghiêm trọng để Trung Quốc quyết định xâm chiếm
lãnh thổ Nhật nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng giữa hai nước.
Và dĩ nhiên, nếu cuộc xâm lược đó có liên quan đến Okinawa,
thì lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ đóng ở trại Courtney trên
đảo chính chắc chắn sẽ là thành phần chủ lực tham gia phản
ứng.
Nhưng khi gạt qua những viễn cảnh tồi tệ đó và
trở lại với thế giới thực, hải quân Nhật đã sẵn sàng đối
mặt với một vài thực tế mới. Việc hai tàu khu trục của JMSDF
tham gia vào sứ mệnh chống hải tặc quốc tế ở Vịnh Aden đã
mang lại những kinh nghiệm quý báu. Trong khi đó các P-3C đóng
ở Djibouti cũng là cơ hội tập huấn tuyệt vời cho các phi công.
Giờ đây họ đang đợi các máy bay tuần tra biển mới Kawasaki P-1.
Trong khi đó, quan tâm gần đây của Thủ tướng Abe đối với máy bay
không người lái RQ-4 Global Hawk có thể tăng thêm công cụ mới,
đầy mạnh mẽ cho hệ thống do thám, giám sát quanh các đảo tây
nam…Liệu JMSDF đã sẵn sàng có thái độ quyết liệt hơn hay chưa
vẫn là một câu hỏi mở. Nhưng có vẻ như JMSDF cũng giống như
toàn bộ Lực lượng phòng vệ Nhật, đang chuyển hướng, dù chậm
chạp, từ “hậu trường” Chiến tranh Lạnh sang vai trò đa sứ mệnh,
bao quát hơn.
BDN ( bài trên tạp chí Diplomat theo bản dịch của báo Dân Trí )
Tin cũ hơn:
VUA LÀM BÁO * DÂN OAN
Dân oan (1)
NÀY THÌ "DÂN OAN" - Tập 2
“Mình biết,
mấy cậu lãnh đạo xã gặp nhà báo cứ như là gặp ma. Mà thế đéo nào ở đây
bỏn ghét nhà báo thế không biết. Nghe nói những năm qua các vị này bị
hành ác chiến lắm, báo mình lắm lúc cũng tệ bỏ mẹ, về đéo biết đúng sai
thế nào cứ lên bài chửi loạn, kể cũng tài, báo ta cứ về là nhè mấy ông
khiếu kiện mà gặp, yêu thế chứ lị!"
Tìm hiểu ra
mới biết, ban đầu là “dân” đóng góp tiền để thuê nhà báo, mỗi khẩu là
100.000đ, sau tăng lên 200.000đ tùy từng đợt. Họ chia thành từng tổ, ngõ
xóm để đi thu. Những nhà nào không đóng, ăn rủa rủa nhục như chó!
Ở đâu ủng
hộ, thì mình không biết, nhưng chắc chắn có cái nhóm bán thức ăn gia
súc, bán phân đạm cho 3 xã. Thu hồi mẹ nó đất thì phân bán được cứt. Và
đám đang thuê đất của các hộ để làm trang trại nữa, nghe nói đất đã đền
bù Giải phóng mặt bằng rồi nên những thằng thuê đất không phải trả tiền
thuê, hộ nào còn sản xuất thì cứ sản xuất. Thế nên cứ tài trợ cho nhóm
kia, được lên thì mình cũng lên. Mà khiếu kiện càng kéo dài thì mình cứ
chăn nuôi, cứ hưởng lợi thôi. Nghe nói quỹ này có lúc lên đến cả tỷ bạc.
Hình như CA điều tra thu quỹ nhưng không hiểu sao không xử lý được!?
Có tiền, họ
đi thuê cả luật sư, nhà báo về đông lắm. Chả biết cụ tỷ thế nào nhưng
chuyện văn phòng luật sư Bách Sự Thuận đã nhận của nhóm này 200 triệu
thì cả làng biết. Vì phải công khai chi tiêu mà. Văn phòng này là của
mấy ông Đinh Tiến Hùng trước làm bên VKS quân sự về hưu lập lên, tư vấn
về đường đi nước bước, đi toàn những chỗ hiểm. Khắp các cơ quan trung
ương, các bộ, ban ngành đi ráo không xót chỗ nào. Cứ nói đến đoàn Văn
Giang là Công an Hà Nội chỉ nước vái vì độ bựa của họ. Nghe mấy ông khoe
chiến tích vừa ỉa được bãi trên cổng 35 Ngô Quyền có vẻ tự hào lắm. Bảo
vệ ra bảo đề nghị bà con không phóng uế bừa bãi, liền có bà tên Dơi ra
nói “ai là bà mày, ai là con mày?” rồi tụt mẹ nó quần ra, ông bảo vệ kia
chạy mất dép. Đi nhiều vậy nhưng vì có luật sư nên dân oan Văn Giang
cũng khôn lắm, mấy bác ở trên không chỉ đạo quyết liệt nên họ cứ nhơn
nhơn. Họ thừa biết các bác đang bận bàn về quan điểm!?
Thuê luật
sư, tiêu chán chưa hết tiền thì quay sang thuê thêm các nhà báo về, viết
thả phanh. Cứ chửi được bọn doanh nghiệp, chính quyền là lấy tiền. Gúc
trên mạng thì đầy rẫy. Đéo mẹ mỗi bài sủa lên được thì cũng 10tr ngon.
Lại được tiếng là thời sự nữa chứ. Mình thấy mấy đứa bên Nông nghiệp về,
cấm đứa nào nói ủng hộ CNH- HĐH, đô thị hóa. Đm toàn chửi Công phá nông
thôi. Nó cứ mang cái nghị quyết tam nông ra nó dọa mình. Mà nghĩ cũng
đúng, nó phải bảo vệ tư liệu sản xuất của nó chứ. Có cứt mà nó ủng hộ
lấy đất nông nghiệp ý. Thực hiện đúng tôn chỉ mục đích báo ngành đấy.
Nhưng đcm nó, nó ăn tiền mồ hôi nước mắt của người nông dân đấy ạ.
………………………………..
Đận này,
phong phanh nhưng không kém phần hừng hực, lại đang diễn trò lệ quyên để
chữa trị cho chân của em hót gơn, 50k/suất, đại khái thế, tiền có đến
em hót gơn chân dài này không, thì chỉ có chúa biết, em hót gơn biết,
đám “dân oan đầu lãnh” này biết, và hehe …..mình biết, thế mới tài!
Mình khâm
phục tờ Tuổi trẻ, lăn lộn với dân đến thế là cùng, “dân oan” Văn Giang
vừa chuẩn bị “kế hoạch xuống đồng”, đã thấy phóng viên Tuổi trẻ ngồi
chồm hỗm, trang thiết bị tác nghiệp đầy đủ, thông tin còn nhanh nhạy hơn
đám an ninh, nể thật!
Tay phóng
viên này, thực hiện đúng phương châm sát ván với “dân oan”, từng ăn cùng
mâm và hehe ngủ cùng phản với đám Lê Văn Chi, Lê Thạch Bàn như mình đã
viết, và khi biết rằng, tay này mới chỉ là cộng tác viên, thì sự nể phục
lại tăng thêm bội phần.
Lãnh đạo
Tuổi trẻ biết không? Mình nghĩ là không biết, vì nếu biết, chẳng ai cho
đám nhân viên của mình xây dựng hình ảnh một tờ báo hoành tráng, trở
thành hình ảnh của một con chó đói giơ xương thè lè dãi nhớt, đám “dân
oan” nhứ nhứ khúc xương cùi ở đâu, là chạy rông ở đó, ăn chực nằm chờ
kiếm vài xu lẻ, mình biết, vài xu lẻ là cụ thể bao nhiêu, nhưng tạm
không nói.
Tay này, có biết sự thật về diễn biến, bản chất của đô thị Văn Giang, và chân dung của đám “dân oan” không? Thừa biết!
Biết, mà tại sao lại thế? Hỏi – đã là trả lời!
Tay phóng
viên kền kền này, là ai, và đã bẻ bút, đút phong bì như thế nào? Tự
Điệp, họ Hoàng, vào thằng gúc, hỏi anh Bàn ở Văn Giang và tay Điệp Hoàng
tờ Tuổi trẻ, ra ngay lập tức.
DG
Chuyên mục: Dân oan, Giải phóng mặt bằng, Lê Thạch Bàn, Lê Văn Chi, Quan đánh dâQUAN LÀM BÁO * SAO KHÔNG OÁNH TAO?
Friday, February 1, 2013
SAO THẦY TRÒ ĐỒNG CHÍ X KHÔNG KHỞI KIỆN QUAN LÀM BÁO NHỈ!
Quanlambao -
Sau khi New York Times đăng tải những bài tố cáo về tham nhũng của Cựu
Thủ Tướng Ôn Gia Bảo thì tòa báo này bị Trung Quốc liên tục tấn công.
Hóa ra nó cũng na ná như cái kiểu Hackers tấn công Quân làm báo!
Khi NYT công bố 'chút chút' 'thâm cung bí sử' của Ông Gia Bảo thì kể từ ngày đó cũng là ngày đối mặt với tin tặc. Tại sao Ông Ôn GIa Bảo không khởi kiện NYT đi! Một tờ báo lớn vậy mà kiện cũng thu được tiền tỷ đó!
Bịt Miệng nhân dân
Thủ Tướng & NHóm thâu tóm
Tại sao Nguyễn Tấn Dũng thoát lưới Vinashin?
Rõ ràng Trung Quốc đang ngán ngại nếu kiện NYT thì sẽ trấn động địa cầu vì những bằng chứng tham nhũng không những của Ôn GIa Bảo mà có thể của nhiều giới chóp bu Trung Nam Hải sẽ được phơi bày thật sự trước Tòa Án liên bang Hoa Kỳ! Vì NYT là của Mỹ chính hiệu nên Trung Quốc đành chơi bẩn! Gần 1.4 tỷ dân rồi, thất nghiệp nhiều lắm, có cho một mớ ngoài đó canh mấy cái máy để Hack cũng chẳng tốn kém là bao! Nhất là nếu sử dụng 'đám tù nhân' thì lại chẳng phải trả tiền!
Quay trở lại Quan làm báo, tại sao thầy trò đồng chí X không kiện Quan làm báo ở Hoa Kỳ nhỉ! Nếu đã 'biết' máy chủ đặt ở nhà bà Cựu nghị bị đuổi thì cứ cho Luật sư đến California mà khởi kiện? Mà lại cũng chơi trò Bẩn: Tin tặc, suốt ngày hack vào Quan làm báo vậy?! Không những thế còn khiến Tướng Hưởng lại 'vất vả' tối ngày phải hò hét chửi bới mấy thằng lính sao không đánh sập Quan làm báo mà lại để mấy tờ 'gà nhà' bị đánh sập trước!
Nếu đồng chí X thấy mình oan trái sao không 'mạnh dạn' khởi kiện nhỉ? Cần gì phải ra cái Văn bản hèn mọn 7169 để cả thế giới người ta cười chê vậy! Quan làm báo sẵn sàng 'hầu' Thầy trò đồng chí X nếu đồng chí 'chơi ngon' kiện Quan làm báo về tội 'vu khống' đấy! Khi đó bàn dân Thiên hạ sẽ tha hồ mà được thưởng thức 'sơn hào hải vị' của chốn"Cung đình"!
Quan làm báo sẽ cho bà con xem Cô gái rượu và chàng rể quý đang đầu tư vào đâu tại Las Vegas để bà con Việt Nam sang đánh bài thì đến ủng hộ nhé!
Thám tử Quan
Trung Quốc tấn công mạng báo Mỹ
Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo (Nguồn: AFP)
Trung Quốc đã bác bỏ cáo buộc rằng nước này đã tấn công hệ thống mạng của tờ New York Times, vụ tấn công mà tờ báo cho là liên quan tới việc báo này có bài điều tra về tài sản của gia đình Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo.
“Các cơ quan có thẩm quyền của Trung Quốc đã phản ứng rõ ràng đối với những cáo buộc vô căn cứ của tờ New York Times,” người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nói trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh.
Ông Hồng Lỗi cũng cho rằng việc NY Times tự ý kết luận mà thiếu những bằng chứng rõ ràng là việc làm vô trách nhiệm, đồng thời cho biết Trung Quốc cũng là nạn nhân của tấn công mạng và luật pháp Trung Quốc nghiêm cấm những hành vi của các tin tặc.
Cùng ngày, Bộ Quốc phòng Trung Quốc cũng ra thông báo nói rằng quân giải phóng nhân dân Trung Quốc không bao giờ ủng hộ bất kỳ hành vi tấn công mạng nào.
“Các cuộc tấn công mạng có bản chất xuyên quốc gia và vô danh; bất kỳ cáo buộc nào rằng quân đội Trung Quốc tấn công các trang web mà không có bằng chứng xác đáng là thiếu chuyên nghiệp và vô căn cứ,” thông báo được gửi tới AFP cho hay.
Trước đó, báo Mỹ The New York Times nói họ đã trở thành nạn nhân của các tin tặc có thể có liên hệ với giới quân sự Trung Quốc.
[New York Times khẳng định bị tin tặc Trung Quốc tấn công]
Trong bốn tháng qua các tin tặc đã xâm nhập vào hệ thống máy tính và đánh cắp các mật mã của nhân viên trong tòa báo và NYT hiện đang tiến hành điều tra, tập trung vào các thư điện tử của trưởng đại diện báo tại Thượng Hải, David Barboza.
Barboza đã viết một phóng sự đăng ngày 25/10 trong đó nói người thân của Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã kiếm được hàng tỷ USD trong các vụ làm ăn. NYT nói họ đang tiến hành điều tra với sự trợ giúp của các chuyên gia an ninh mạng từ bên ngoài, loại bỏ những kẻ xâm nhập và ngăn chặn chúng đột nhập vào hệ thống mạng của tòa báo một lần nữa.
“Các tin tặc Trung Quốc, sử dụng những biện pháp mà một số tư vấn của chúng tôi cho là có liên hệ với cách làm của quân đội Trung Quốc trong quá khứ, đã đột nhập vào mạng của NYT,” tờ báo cho biết. Các tin tặc ăn cắp những mật mã và nhắm vào máy tính của 53 nhân viên tờ báo, bao gồm cựu trưởng đại diện Bắc Kinh Jim Yardley, hiện là trưởng đại diện Nam Á của báo ở Ấn Độ.
Tờ báo nói các tin tặc có thể muốn tìm “tên những người có thể đã cung cấp thông tin cho ông Barboza.” “Họ đã có thể phá hoại hệ thống của chúng tôi,” trưởng bộ phận thông tin của tờ báo Marc Frons nói. “Nhưng có vẻ họ không muốn làm như thế.”
NYT đã yêu cầu công ty AT&T, đơn vị quản lý mạng của tờ báo, theo dõi các hoạt động bất thường sau khi xuất hiện cảnh báo từ những quan chức Trung Quốc rằng việc tờ báo điều tra tài sản của gia đình ông Ôn có thể “gây ra hậu quả”.
NYT cũng đã báo cáo vụ việc cho Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI), nhưng do những cuộc tấn công vẫn diễn ra sau khi bài điều tra về gia đình ông Ôn đã được đăng, NYT đã thuê thêm công ty an ninh mạng Mandiant vào ngày 7/11./.
Trần Trọng (Vietnam+)
Trung Quốc tấn công mạng báo Mỹ
Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo (Nguồn: AFP)
Trung Quốc đã bác bỏ cáo buộc rằng nước này đã tấn công hệ thống mạng của tờ New York Times, vụ tấn công mà tờ báo cho là liên quan tới việc báo này có bài điều tra về tài sản của gia đình Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo.
“Các cơ quan có thẩm quyền của Trung Quốc đã phản ứng rõ ràng đối với những cáo buộc vô căn cứ của tờ New York Times,” người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nói trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh.
Ông Hồng Lỗi cũng cho rằng việc NY Times tự ý kết luận mà thiếu những bằng chứng rõ ràng là việc làm vô trách nhiệm, đồng thời cho biết Trung Quốc cũng là nạn nhân của tấn công mạng và luật pháp Trung Quốc nghiêm cấm những hành vi của các tin tặc.
Cùng ngày, Bộ Quốc phòng Trung Quốc cũng ra thông báo nói rằng quân giải phóng nhân dân Trung Quốc không bao giờ ủng hộ bất kỳ hành vi tấn công mạng nào.
“Các cuộc tấn công mạng có bản chất xuyên quốc gia và vô danh; bất kỳ cáo buộc nào rằng quân đội Trung Quốc tấn công các trang web mà không có bằng chứng xác đáng là thiếu chuyên nghiệp và vô căn cứ,” thông báo được gửi tới AFP cho hay.
Trước đó, báo Mỹ The New York Times nói họ đã trở thành nạn nhân của các tin tặc có thể có liên hệ với giới quân sự Trung Quốc.
[New York Times khẳng định bị tin tặc Trung Quốc tấn công]
Trong bốn tháng qua các tin tặc đã xâm nhập vào hệ thống máy tính và đánh cắp các mật mã của nhân viên trong tòa báo và NYT hiện đang tiến hành điều tra, tập trung vào các thư điện tử của trưởng đại diện báo tại Thượng Hải, David Barboza.
Barboza đã viết một phóng sự đăng ngày 25/10 trong đó nói người thân của Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã kiếm được hàng tỷ USD trong các vụ làm ăn. NYT nói họ đang tiến hành điều tra với sự trợ giúp của các chuyên gia an ninh mạng từ bên ngoài, loại bỏ những kẻ xâm nhập và ngăn chặn chúng đột nhập vào hệ thống mạng của tòa báo một lần nữa.
“Các tin tặc Trung Quốc, sử dụng những biện pháp mà một số tư vấn của chúng tôi cho là có liên hệ với cách làm của quân đội Trung Quốc trong quá khứ, đã đột nhập vào mạng của NYT,” tờ báo cho biết. Các tin tặc ăn cắp những mật mã và nhắm vào máy tính của 53 nhân viên tờ báo, bao gồm cựu trưởng đại diện Bắc Kinh Jim Yardley, hiện là trưởng đại diện Nam Á của báo ở Ấn Độ.
Tờ báo nói các tin tặc có thể muốn tìm “tên những người có thể đã cung cấp thông tin cho ông Barboza.” “Họ đã có thể phá hoại hệ thống của chúng tôi,” trưởng bộ phận thông tin của tờ báo Marc Frons nói. “Nhưng có vẻ họ không muốn làm như thế.”
NYT đã yêu cầu công ty AT&T, đơn vị quản lý mạng của tờ báo, theo dõi các hoạt động bất thường sau khi xuất hiện cảnh báo từ những quan chức Trung Quốc rằng việc tờ báo điều tra tài sản của gia đình ông Ôn có thể “gây ra hậu quả”.
NYT cũng đã báo cáo vụ việc cho Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI), nhưng do những cuộc tấn công vẫn diễn ra sau khi bài điều tra về gia đình ông Ôn đã được đăng, NYT đã thuê thêm công ty an ninh mạng Mandiant vào ngày 7/11./.
Trần Trọng (Vietnam+)
Thursday, January 31, 2013
WIKILEAK * NGUYỄN TẤN DŨNG
Wikileaks Published Secret Documents on The Vietnamese Prime Minister :
Thông Tấn Xã VangAnh
Wikileaks Published Secret Documents on The Vietnamese Prime Minister :Wikileaks Công Bố Tài Liệu Bí Mật Về Thủ Tướng Việt Nam :
Ai đưa Nguyễn Tấn Dũng lên đỉnh cao quyền lực
Published on October 5, 2012Trong một chuyến viếng thăm tỉnh Kiên Giang vào hai ngày 6 và 7 tháng 4 năm 2006, ông Seth Winnick, tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn, đã tìm hiểu qua giới chức địa phương về thân thế một nhân vật từng có thời niên thiếu ở vùng này, đó là ông Nguyễn Tấn Dũng, khi đó là phó thủ tướng Việt Nam.
Những dữ kiện thu thập trong chuyến đi được ông Seth Winnick tường
trình trong công điện ngày 13 tháng 4 năm 2006, gửi về cho Bộ Ngoại Giao
Hoa Kỳ ở Hoa Thịnh Ðốn, vẽ nên chân dung ông Dũng như một người con yêu
của Kiên Giang, và giải thích lý do tại sao sự nghiệp chính trị của ông
Dũng chỉ trong một thời gian ngắn đã lên như diều gặp gió.
Theo một công điện của Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ Sài Gòn gửi về Hoa
Thịnh Ðốn, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng là người có sự nghiệp chính trị rất
thuận buồm xuôi gió, vì được sự hậu thuẫn của cả Lê Ðức Anh, cựu chủ
tịch nước, thuộc thành phần bảo thủ, và Võ Văn Kiệt, cựu thủ tướng và là
nhân vật có khuynh hướng cải tổ nặng ký nhất. (Hình: HoangDinhNam/AFP/Getty Images)
‘Người con Kiên Giang’
Công điện cho biết, theo lời ông Bùi Ngọc Sương, chủ tịch Ủy Ban
Nhân Dân tỉnh Kiên Giang, ông Dũng ra đời tháng 11 năm 1949 ở tỉnh Cà
Mau, và sau đó theo gia đình dọn hẳn về Kiên Giang.
Ông Sương cho hay, cha của ông Dũng là một lãnh đạo cao cấp của Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN), bị giết chết khi ông Dũng còn tấm
bé. Sau cái chết của cha, ông Dũng cũng gia nhập MTGPMN. (Lý lịch của
ông Dũng ghi rằng ông gia nhập Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam vào năm 1961,
khi mới được khoảng mười hai, mười ba tuổi, và gia nhập đảng Cộng Sản
vào năm 1967.)
Vẫn theo lời chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Kiên Giang, ông Dũng
từng là y tá cứu thương cho MTGPMN, và trong thời kỳ chiến tranh, được
lên chức đội trưởng đội phẫu thuật Kiên Giang. Ðịa bàn hoạt động của ông
Dũng lúc đó là rừng U Minh, nơi một thời là thành trì vững chắc của
MTGPMN.
Sau 20 năm phục vụ trong quân đội, ông Dũng giải ngũ năm 1981 với
chức vụ thiếu tá, rồi được đưa về đào tạo ở Học Viện Chính Trị Nguyễn Ái
Quốc của đảng CSVN tại Hà Nội, nơi ông đã lấy được bằng cử nhân luật và
bằng tốt nghiệp về nghiên cứu chính trị.
Sau khi tốt nghiệp Học Viện Chính Trị, ông Dũng được bổ nhiệm làm phó Trưởng Ban Cán Bộ và Tổ Chức Tỉnh Ủy Kiên Giang.
Một đoạn trong công điện viết:
"Dũng nhanh chóng thăng quan tiến tiến chức trong hàng ngũ đảng cấp
tỉnh. Chỉ trong vòng một thập niên, ông được bổ nhiệm làm bí thư Tỉnh
Ủy Kiên Giang, đồng thời là thành viên Ðảng Ủy Quân Khu 9.
Năm 1986, tại Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ 6, Dũng được bầu là ủy
viên của Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng. Cuối năm 1994, ông được chuyển
về Hà Nội để nhận chức thứ trưởng Bộ Nội Vụ (sau này được đổi tên thành
Bộ Công An).”
Công điện cũng cho biết, với Kiên Giang, ông Dũng luôn là người con gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn.
Theo giới chức tỉnh Kiên Giang, ông Dũng thường xuyên về thăm quê
và cắt cử nhiều người gốc Kiên Giang, hay thuộc đồng bằng Sông Cửu Long
vào những vai trò quan trọng tại Hà Nội.
Công điện tiết lộ:
“Một nguồn tin đáng tin cậy tại Kiên Giang nói với Tổng Lãnh Sự Hoa
Kỳ rằng, Ủy viên Bộ Chính Trị kiêm Bộ Trưởng Bộ Công An Lê Hồng Anh
cũng là người được Dũng đỡ đầu và giúp trở thành người kế nhiệm ông làm
bí thư tỉnh Kiên Giang, rồi sau đó ra Hà Nội.”
Cũng theo công điện, một vài người Kiên Giang khác được ông Dũng nâng đỡ.
“Dũng còn bổ nhiệm ông Huỳnh Vĩnh Ái, cựu phó chủ tịch Ủy Ban Nhân
Dân Kiên Giang vào chức phó chủ tịch của Ủy Ban Thể Dục Thể Thao quốc
gia, một chức tương đương với Thứ trưởng. Ở chức vụ này, Ái được trao
trách nhiệm điều hành việc hợp pháp hóa một số những hình thức cá cược
thể thao. Ngoài ra, Dũng cũng đưa cựu giám đốc Sở Y Tế tỉnh Kiên Giang
là ông Trần Chí Liêm ra Hà Nội, và giờ đây Liêm là thứ trưởng Bộ Y Tế.”
Tả phù hữu bật
Giải thích con đường quan lộ thuận lợi của Nguyễn Tấn Dũng, Tổng
Lãnh Sự Seth Winnick dùng những cụm từ như “Ties of Blood” hay “Blood
Debt” để mô tả thâm tình giữa Nguyễn Tấn Dũng với cả hai cánh tả lẫn hữu
của đảng CSVN.
Ông Seth Winnick viết trong công điện:
“Một nguồn tin ở đồng bằng sông Cửu Long cho biết, cha của Nguyễn
Tấn Dũng tử nạn vì bị Hoa Kỳ hay quân đội VNCH tấn công ngay giữa lúc
đang họp với hai lãnh đạo của lực lượng nổi dậy lúc đó là Lê Ðức Anh và
Võ Văn Kiệt.”
Công điện giải thích:
“Vẫn theo nguồn tin này, cả Lê Ðức Anh và Võ Văn Kiệt tin rằng họ nợ Dũng một món ‘ân oán’, và có bổn phận phải đền bù cho Dũng.
Ðó là lý do tại sao, dù có lập trường đối nghịch nhau, cả hai, Lê
Ðức Anh thuộc thành phần bảo thủ, từng giữ chức chủ tịch nước từ năm
1992 đến 1997, và sau khi về hưu vẫn có rất nhiều thế lực; và Võ Văn
Kiệt, cựu Thủ Tướng và là nhân vật có khuynh hướng cải tổ nặng ký nhất,
đều cùng tiếp tay hỗ trợ cho sự nghiệp chính trị của Dũng.”
Công điện còn cho biết các giới chức đồng bằng sông Cửu Long, “dù
không lạm bàn về khuynh hướng chính trị của Dũng,” tỏ ra “rất hãnh diện
về người con yêu xứ Kiên Giang.”
Công điện ghi rõ nhận xét của người Kiên Giang về Nguyễn Tấn Dũng:
“Dũng là một người bộc trực thẳng thắn, dám nói, dám làm, không ngại có
những quyết định táo bạo. Thí dụ, ông là người đầu tiên trong nhóm lãnh
đạo cao cấp dám gửi con qua học đại học tại Hoa Kỳ.”
Các viên chức Kiên Giang cũng đánh giá rằng, liên hệ của ông Dũng
với cả cựu Chủ Tịch nước Lê Ðức Anh và cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt “giúp
ông có thế để chống chỏi với áp lực từ cả hai phía bảo thủ và cấp tiến.”
Ngoài thân thế của Nguyễn Tấn Dũng, một công điện khác, từ tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn, gửi về cho Bộ Ngoại Giao, ngày 5 tháng 6, năm 2009, cho thấy rõ hơn về con người này, khi mô tả việc Nguyễn Tấn Dũng từng chiếm độc quyền trang nhất của các tờ báo in cũng như báo mạng lớn, để dành cho bài ai điếu của ông, viết trong dịp giỗ đầu của cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt.
Giành giựt chức thừa kế
Công điện cho biết, “chỉ một năm sau cái chết của vị cựu Thủ Tướng
cấp tiến Võ Văn Kiệt, giới ủng hộ ông Kiệt than phiền là lãnh đạo đảng
cộng sản đương thời hoàn toàn phớt lờ những cải tổ mà ông Kiệt đề nghị,
dù muốn bảo vệ di sản của ông.”
Cũng theo công điện, thì mặc dù tỏ ra không mấy tin tưởng vào viễn
ảnh của việc cải tổ, giới trí thức Sài Gòn, kể cả những người đã dấy lên
phong trào phản đối rầm rộ chính sách khai thác Bô Xít của đảng, cũng
công nhận rằng “chủ trương cởi mở và sự thẳng thắn của Kiệt tiếp tục tạo
cho họ nguồn cảm hứng để tiếp tục con đường cải cách, và dân chủ hóa
Việt Nam mà ông đã vạch ra.”
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là họ đánh giá cao nỗ lực của
Nguyễn Tấn Dũng trong việc “dùng hoài niệm Võ Văn Kiệt” để “làm hồi sinh
hình ảnh của mình như một nhà lãnh đạo có khuynh hướng cải tổ.”
Thay vào đó, công điện nhận định rằng, người ta (giới trí thức Sài
Gòn) “nói về một khoảng trống trong phe cải cách, bởi vì ngày nay, ngoài
ông Kiệt ra, không ai hội đủ cả tinh thần cách mạng lẫn uy tín về cải
tổ.”
Một đoạn trong công điện viết:
“Ở Việt Nam, ngày giỗ là một cột mốc quan trọng, và theo truyền
thống, trách nhiệm cử hành nghi lễ giỗ hàng năm được trao cho người thừa
kế.”
Vì vậy, công điện cho biết, vào ngày 28 tháng 5, giới quan tâm tại
Sài Gòn đã “chau mày” trước việc Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ra chỉ thị
cho tất cả những báo in và các trang báo điện tử lớn, hai ngày trước
ngày giỗ của Võ Văn Kiệt, phải đăng một bài viết của Dũng nhân dịp này.
Công điện nêu rõ:
“Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn được cho biết là giới truyền thông
nhận chỉ thị trực tiếp từ phủ Thủ Tướng, là bài điếu văn của ông phải
được đăng ở trang nhất, và không bài viết nào được đi trước bài của
ông.”
Theo nhận định của đại diện Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, bài viết của thủ
tướng “chẳng đặc sắc gì hơn một bài tán dương lãnh đạo tiêu biểu, ca
tụng ông Kiệt như một chiến sĩ giải phóng nhiệt thành, nhiều sáng kiến,
đi tiên phong trong việc hòa giải dân tộc và cải cách kinh tế.”
Thế nhưng, sau khi bài viết của Dũng được công bố, “một loạt các bài viết khác đua nhau xuất hiện.”
Và, “rất nhiều bài viết cả trên báo ‘lề phải’ lẫn cộng đồng blog,
mô tả ông Kiệt là vị lãnh đạo cuối cùng của ‘thế hệ đổi mới’: một nhà
cải cách vĩ đại, hòa giải; nhưng trên tất cả, là một người ủng hộ dân
chủ ở một vị trí độc đáo, có nhiều uy tín và dám công khai kêu gọi cải
cách.”
Công điện cho biết thêm là những nhà quan sát chính trị tại Sài Gòn
nói với tòa lãnh sự Hoa Kỳ là họ “đánh giá hành động của Dũng là một nỗ
lực “khôi phục lại hình ảnh của mình như là một người ủng hộ cải cách.”
Và, đặc biệt là để “thu hút sự ủng hộ của giới trí thức cổ xúy cải
cách, trong thời gian gần đây đã liên tục chỉ trích chính sách khai thác
bauxite tại Tây Nguyên của chính quyền.”
Tuy nhiên, công điện kết luận:
“Trong bối cảnh mà ước nguyện và tư tưởng của Võ Văn Kiệt không
được mấy tôn trọng trong năm qua, mánh khóe của Dũng không những đã
chẳng giúp ông kiếm được tí điểm nào trong giới trí thức mà còn phản tác
dụng.”
Xem tin nguồn: http://www.ttxva.org/wikileaks-ai-dua-nguyen-tan-dung-len-dinh-cao-quyen-luc/#ixzz28R5t2kH6
Follow us: thongtanxavanganh on Facebook
Đăng 5th October 2012 bởi Thanh Vu
Wednesday, January 30, 2013
THƠ XƯỚNG HỌA
RƯỢU
(Thủ vĩ ngâm)
Bài xướng Trần Cảnh Hân
(1909 - 2006)
Rượu là linh dược dám khinh đâu
Rượu thiếu, lương y phải lắc đầu
Rượu có lượng liều tăng bổ dưởng
Rượu vô điều độ hại dài lâu
Rượu nâng phẩm giá chàng thanh lịch
Rượu giảm uy nghi gã bá hầu
Rượu dở rượu hay tùy kẻ uống
Rượu là linh dược dám khinh đâu
An Lưu, Quảng Trị
RƯỢU
( Những từ
đầu RƯỢU đọc trên xuống dưới lên)
Bài họa 1: Lê
Ngọc Kha
Rượu cũng đề tài luận tới đâu…
Uống nhiều tác hại đứng hàng đầu
Om sòm cải cọ say sưa mãi
U uất la rầy lảm nhảm lâu
Uyển chuyển cụng ly cùng hạ giới
Oai phong nâng chén bậc công hầu
Ưa thì khen tốt, ghét chê độc
Rượu cũng đề tài luận tới đâu…
Uống nhiều tác hại đứng hàng đầu
Om sòm cải cọ say sưa mãi
U uất la rầy lảm nhảm lâu
Uyển chuyển cụng ly cùng hạ giới
Oai phong nâng chén bậc công hầu
Ưa thì khen tốt, ghét chê độc
Rượu cũng đề tài luận tới đâu…
RƯỢU
Bài họa Nguyễn Phú Long
Rượu là cần lắm! Có sai đâu!
Rượu cụng một ly lúc mở đầu.
Rượu chúc vợ chồng tình thắm thiết,
Rượu mừng bằng hữu nghĩa bền lâu.
Rượu thêm trang trọng nơi bàn tiệc,
Rượu để say sưa với ả hầu.
Rượu uống lai rai, thơ lãng mạn
Rượu là cần lắm! Có sai đâu!
Rượu cụng một ly lúc mở đầu.
Rượu chúc vợ chồng tình thắm thiết,
Rượu mừng bằng hữu nghĩa bền lâu.
Rượu thêm trang trọng nơi bàn tiệc,
Rượu để say sưa với ả hầu.
Rượu uống lai rai, thơ lãng mạn
Rượu là cần lắm! Có sai đâu!
RƯỢU
Bài họa 2: Lê Ngọc Kha
Rượu ân rượu nghĩa hợp tâm đầu
Thơ rượu thâm tình dễ kiếm đâu
Cố quốc điêu tàn cơn khủng hoảng
Thi thư nghiêng ngửa nạn chư hầu
Nhân sinh bĩ cực cầu qua chóng
Trần thế yên bình ước được lâu
Cảnh vật hài hòa ly rượu cụng
Hân hoan mời rượu hợp tâm đầu.
RƯỢU
Bài họa Tâm Giao Nguyễn Văn Tương
Rượu dùng vừa phải có sao đâu ?
Rượu uống nhiều khi gây nhức đầu.
Rượu trắng Hòa Long ngon hết biết,
Rượu vang Đà Lạt đậm đà lâu !
Rượu tình, rượu nghĩa xin bồi tiếp,
Rượu quấy, rượu la chẳng dám hầu !
Rượu khiến đám đình thêm rộn rả,
Rượu dùng vừa phải có sao đâu ?
BR 31/12/2010
Rượu uống nhiều khi gây nhức đầu.
Rượu trắng Hòa Long ngon hết biết,
Rượu vang Đà Lạt đậm đà lâu !
Rượu tình, rượu nghĩa xin bồi tiếp,
Rượu quấy, rượu la chẳng dám hầu !
Rượu khiến đám đình thêm rộn rả,
Rượu dùng vừa phải có sao đâu ?
BR 31/12/2010
RƯỢU
Bài họa Linh Đàn
Lưu Linh rượu thánh biết về đâu
Lý Bạch rượu thơ vẫn đứng đầu
Bá Quát rượu bầu - trời cũng ngấm
Tản Đà rượu đế - đất quay lâu*
Tú Xương rượu mướn không ai rót
Nguyễn Khuyến rượu ngon chẳng bạn hầu
Xin hãy rượu tình cùng đối ẩm
Mừng Xuân rượu nhạt hỡi mình đâu
chú thích: * “Đất say đất cũng lăn quay
Trời say trời cũng đỏ gay ai cười”
Tản Đà
Lý Bạch rượu thơ vẫn đứng đầu
Bá Quát rượu bầu - trời cũng ngấm
Tản Đà rượu đế - đất quay lâu*
Tú Xương rượu mướn không ai rót
Nguyễn Khuyến rượu ngon chẳng bạn hầu
Xin hãy rượu tình cùng đối ẩm
Mừng Xuân rượu nhạt hỡi mình đâu
chú thích: * “Đất say đất cũng lăn quay
Trời say trời cũng đỏ gay ai cười”
Tản Đà
RƯỢU
Bài họa Hoài Việt Nguyễn Vĩnh
Tường
Rượu lựa xem mình sức đến đâu
Rượu say quên hết bạn tâm đầu
Rượu mê ly cụng người chê trách
Rượu lỡ lời rồi khách nhớ lâu
Rượu biết cầm chừng nên bá tước
Rượu ngon khéo tiếp tạo công hầu
Rượu không quá lượng sao điều độ
Rượu lựa xem mình sức đến đâu!
Rượu say quên hết bạn tâm đầu
Rượu mê ly cụng người chê trách
Rượu lỡ lời rồi khách nhớ lâu
Rượu biết cầm chừng nên bá tước
Rượu ngon khéo tiếp tạo công hầu
Rượu không quá lượng sao điều độ
Rượu lựa xem mình sức đến đâu!
RƯỢU
Bài họa Nguyễn Vô Cùng
Rượu nồng hương cũ biết tìm đâu
Rượu ngấm cơn say tới bạc đầu
Rượu buổi chia ly còn đắng mãi
Rượu ngày hội ngộ đã chờ lâu
Rượu tràn nỗi nhớ cay bờ mắt
Rượu đọng tình quê nghẹn cuống hầu
Rượu nhạt bên đời bao chỗ bán
Rượu nồng hương cũ biết tìm đâu
01- 2011
RƯỢU Ở ĐÂU
Bài họa Lý Hiểu
Gió lạnh canh tàn rượu ở đâu?
Thành sầu vây hảm rượu đương đầu
Tâm đầy mối hận rượu tuôn gấp
Ý dậy tình mê rượu ngấm lâu
Chung thủy nàng dâng rượu hợp cẩn
Phủ phàng chàng đắm rượu công hầu
Không mơ cạn chén rượu tri kỷ
Gió lạnh canh tàn rượu ở đâu ?
Virginia, 01-01-2011.
RƯỢU MỪNG
Bài họa Trương Lan Anh
Bài họa Trương Lan Anh
Rượu mừng ta uống có sao đâu?
Rượu rót mời nhau từ buổi đầu
Rượu nấu Kim Long say cũng dễ
Rượu dầm Can Lộc thấm càng lâu
Rượu vui cứ rót mừng nâng chén
Rượu ép xin đừng để phải hầu
Rượu đến tiệc vui thêm rộn rã
Rượu mừng ta uống có sao đâu?
(Thị xã Quảng Trị)
RƯỢU
Bài họa
Nguyễn Tường
Rượu dùng hợp cảnh đã sao đâu,
Rượu nhấp vài ly tiện mở đầu.
Rượu uốn môi mềm nên nói ít,
Rượu nung gan nóng chớ ngồi lâu.
Rượu khi nghiêng ngả ông bằng cháu,
Rượu lúc say sưa chủ giống hầu.
Rượu tục hay thanh tùy cách uống,
Rượu dao hai mặt chẳng đùa đâu.
NY Jan, 03, 2011
RƯỢU
Bài họa Phùng Trần,Trần Quế Sơn
Bài họa Phùng Trần,Trần Quế Sơn
Rượu làm sứ giả khắp đâu đâu
Rượu lễ nhân sinh xếp hạng đầu
Rượu trắng đậm đà tình mãi đẹp
Rượu hồng thắm thiết nghĩa bền lâu
Rượu vào xoa dịu bao phiền lụy
Rượu giải âu lo những đợi hầu
Rượu chính là nguồn vui cuộc sống
Rượu làm sứ giả khắp đâu đâu.
Jan-04-2011)
RƯỢU
Bài họa Lê Văn Thanh
Bài họa Lê Văn Thanh
Rượu chưng gạo nếp hại gì đâu
Rượu ủ nhiều năm ngon ngọt lâu
Rượu cũng mê tâm và tổn trí
Rượu như đòn xóc nhọn hai đầu
Rượu phùng rượu biệt theo danh chính
Rượu nghĩa rượu ân lễ tiếp hầu
Rượu trước tiệc tùng khai vị đúng
Rượu chưng gạo nếp hại gì đâu
RƯỢU
Bài họa Trương Nghi
Rượu thánh thơ thần hỏi ở đâu
Rượu mênh mang ngọt chén tâm đầu
Rượu say ân nghĩa trời say khướt
Rượu ngấm men tình đất ngấm lâu
Rượu lạt cạn nồng ly khế hữu
Rượu ngon đốt cháy mộng vương hầu
Rượu quay quắt đắng mùi nhân thế
Rượu thánh thơ thần hỏi ở đâu
RƯỢU
Bài họa Văn
Thiên Tùng
Rượu dùng đúng cách có sao đâu,
Rượu tốt khi chưng lấy nước đầu.
Rượu cộng phương thang đừng quá chén,
Rượu vô hương liệu chớ xài lâu.
Rượu bà ông xướng ai dùng được,
Rượu quán tôi nâng lắm kẻ hầu.
Rượu nghĩa, rượu tình không thể cạn,
Rượu này nhấm mãi chẳng say đâu.
Quảng Trị 06/01/2011
Rượu tốt khi chưng lấy nước đầu.
Rượu cộng phương thang đừng quá chén,
Rượu vô hương liệu chớ xài lâu.
Rượu bà ông xướng ai dùng được,
Rượu quán tôi nâng lắm kẻ hầu.
Rượu nghĩa, rượu tình không thể cạn,
Rượu này nhấm mãi chẳng say đâu.
Quảng Trị 06/01/2011
RƯỢU
Bài họa Phieuvan_Thlangdu
Rượu đắng tình nồng dễ biết đâu
Rượu ngây rượu tỉnh rượu tâm đầu
Rượu nung tiết tháo nơi thi các
Rượu luận anh hùng chốn kiếm lâu
Rượu ngây rượu tỉnh rượu tâm đầu
Rượu nung tiết tháo nơi thi các
Rượu luận anh hùng chốn kiếm lâu
Rượu khách thanh liêm men chí sỹ
Rượu phường ô lại bã công hầu
Rượu kia đậm nhạt nào ai chắc
Rượu đắng tình nồng dễ biết đâu
19-01-2011
Rượu đắng tình nồng dễ biết đâu
19-01-2011
RƯỢU
Bài họa Lê
Văn Hạt
Rượu
uống đừng say có hại đâu
Rượu đường rượu chợ vị đau đầu
Rượu đường rượu chợ vị đau đầu
Rượu sang
người đãi làng thi phú
Rượu tốt ai
vui chốn tửu lầu
Rượu đế
rượu tây đều tốt cả
Rượu tình
rượu nghĩa được người hầu
Rượu nào
cấm bán là không nhấm
Rượu uống
đừng say có hại đâu .
RƯỢU
Bài họa Võ Sĩ Quý
Rượu trắng tình son ấm bởi đâu
Rượu ai
mời uống buổi ban đầu
Rượu người nâng chén dù quen mới
Rượu bạn chung ly
như biết lâu
Rượu cạn dốc
lòng châm chước rót
Rượu
đầy quyết chí ân cần hầu
Rượu say nghĩa
ý nồng tương ngộ
Rượu trắng tình
son ấm bởi đâu
Nha Trang
RƯỢU
Bài họa Ly Châu
Cho là linh dược, dựa vào đâu?
“Bốn Bức Tường Vây”* rượu đứng đầu
“Bốn Bức Tường Vây”* rượu đứng đầu
Rượu giúp nam nhi hừng tráng khí
Men làm nữ tử đọa hồng lâu
Cờ bay ủ rủ “nam vô tửu”
Yếm trể tênh hênh nữ bất hầu
Rượu tự ngàn xưa cầu bạn hữu
Sa trường túy ngọa chẳng cười đâu!
*Tứ
ÐỗTường”: Tửu, Sắc,Tài, Khí.
RƯỢU XUÂN
Bài họa Phan Khâm
Rượu rót tràn ly chảy tới đâu
Rượu ơi lai láng chốn giang đầu
Rượu quên cay đắng qua nhanh chóng
Rượu nhớ mặn nồng đọng rất lâu
Rượu thấy nụ cười sau suối tóc
Rượu nghe tiếng thét giữa thanh hầu
Rượu xuân tao ngộ bao lâu nữa
Rượu rót tràn ly chảy tới đâu.
Rượu rót tràn ly chảy tới đâu
Rượu ơi lai láng chốn giang đầu
Rượu quên cay đắng qua nhanh chóng
Rượu nhớ mặn nồng đọng rất lâu
Rượu thấy nụ cười sau suối tóc
Rượu nghe tiếng thét giữa thanh hầu
Rượu xuân tao ngộ bao lâu nữa
Rượu rót tràn ly chảy tới đâu.
TA, RƯỢU
Bài họa Thái Huy
Rượu ấy cùng ta, bạn khác đâu
Rượu khơi cảm khái thuở ban đầu
Rượu làm phấn chấn vui nhiều dịp
Rượu giúp nguôi ngoai hận bấy lâu
Rượu đã cùng ta mơ cái thế ( sic ! )
Rượu nay với tớ rũ công hầu
Rượu ơi, rượu nhé, ta và rượu
Rượu ấy cùng ta bạn, bạn khác đâu.
4-13-11
RƯỢU ĐOÀN VIÊN
Bài họa Đoàn Ngọc Kiều Nga
Chén rượu đoàn viên đã nhắp đâu
Sao nghe hiu hắt ý tâm đầu
Trăng thề, non hẹn dường chưa khuyết
Cá nước, chim trời tưởng đã lâu
Kẻ đợi ngậm ngùi câu ước thệ
Người đi tan tác mộng công hầu
Ngày qua môi mắt dần phai nhạt
Mà chén đoàn viên đã nhắp đâu
Boston, 15-4-2011
RƯỢU
Bài họa Văn Kế Thế
Rượu nồng chưa cạn bạn về đâu
Rượu xé lòng đau nhớ buổi đầu
Rượu đắng môi mềm tình bất tận
Rượu cay mắt ướt nghĩa dài lâu
Rượu nâng cạn chén giao lời ước
Rượu rót tràn ly...ngỏ ý hầu
Rượu thấm cho lòng thêm nhức nhối
Rượu nồng chưa cạn bạn về đâu.
RƯỢU
Bài họa Trần Quảng Lượng
Rượu mang ý nghĩa
bởi từ đâu?
Rượu cúng Tổ Tiên
- đứng hạng đầu
Rượu biếu Thầy Cô
- tình vạn thuở
Rượu dâng Cha Mẹ
- lễ từ lâu
Rượu mừng thành
quả - Nam, Khanh, Tướng
Rượu thưởng công
lao - Bá, Tử, Hầu
Rượu đợi
tình nhân - câu ước hẹn
Rượu chờ tri kỷ -
mãi nơi đâu!?
(Phụng Họa)
RƯỢU
(Nối Ý của Trần Quảng Lượng)
Bài họa Hoàng Gia Độ
Rượu chờ tri kỷ
mãi nơi đâu?!
Rượu ướp tình em
đến bạc đầu
Rượu tiển người
đi thương nhớ mãi
Rượu mong hạnh
ngộ đợi chờ lâu
Rượu cầu thế giới
quên thù hận
Rượu ước tha nhân
xóa chủ hầu
Rượu dẫn hồn thơ
vào biển mộng
Vào nơi cung quế,
tận đâu đâu...
(Phụng Họa)
RƯỢU TÌNH…
Bài họa 1: Quang Tuyết
Rượu tình rượu nghĩa thuở xưa
đâu?
Rượu thấm tim đau kẻ bạc đầu
Rượu rót chưa say hình khuất
mãi
Rượu mời vừa nhắp bóng tàn
lâu
Rượu đời nghèo khổ ai cầu cạnh
Rượu phận giàu sang kẻ thỉnh hầu
Rượu đã mềm môi đêm chiếc bóng
Rượu tình ta
uống bạn lòng đâu?
RƯỢU
NGHĨA…
Bài họa 2: Quang Tuyết
Rượu rót ly tràn tri kỷ đâu?
Rượu thơm môi hẹn bến giang đầu
Rượu nồng hương lửa giờ xa lắc
Rượu đắng kim bằng đã biệt lâu
Rượu chuốc công danh cay ý nguyện
Rượu cầu khanh tướng nhục tâm hầu
Rượu nhạt tình sâu ai ngoảnh mặt?
Rượu ân rượu nghĩa biết tìm đâu?
Rượu thơm môi hẹn bến giang đầu
Rượu nồng hương lửa giờ xa lắc
Rượu đắng kim bằng đã biệt lâu
Rượu chuốc công danh cay ý nguyện
Rượu cầu khanh tướng nhục tâm hầu
Rượu nhạt tình sâu ai ngoảnh mặt?
Rượu ân rượu nghĩa biết tìm đâu?
RƯỢU
Bài họa Motthoi
Rượu ơi! tốt xấu ở nơi đâu?
Rượu!... cãi tới lui nhức cái đầu
Rượu biết điều hòa...thêm tuổi thọ
Rượu mê quá độ...sống không lâu
Rượu say...lầm lỡ sinh đồ tể
Rượu tỉnh..định tâm đạt tướng hầu
Rượu quỉ, rượu Tiên thật khó nói
Rượu ơi! tốt xấu ở nơi đâu ?
Jun.
8th. 2012
CHUYỆN
RƯỢU
Bài họa Dương Hồng Kỳ
Chuyện
rượu nói hoài đi đến đâu?
Ma men
đưa lối cứ bầy đầu.
Kết
giao bằng hữu không bền vững
Gìn giữ
gia đình khó được lâu
Tụ
phái, tụ bè, mơ chuyện phiếm
Bỏ con,
bỏ cái, kiếm nàng hầu
Tan gia
bại sản, vùi danh tiếng,
Chuyện
rượu nói hoài đi đến đâu!
RƯỢU QUÝ
Bài họa 1: Phan Thị Thanh Minh
Bài họa 1: Phan Thị Thanh Minh
Thơm
men rượu quý chẳng thường đâu
Cúng tế dâng hương rượu đứng đầu
Nếp cái hoa vàng ngon nhớ mãi
Táo Mèo,thuốc Bắc bổ thơm lâu
Nam vô tửu ví cờ không phất
Kỳ hữu phong tựa rượu ngấm hầu
Đãi khách giao lưu mời nhấc đặt
Thơm men rượu quý chẳng thường đâu.
SAY RƯỢU
Cúng tế dâng hương rượu đứng đầu
Nếp cái hoa vàng ngon nhớ mãi
Táo Mèo,thuốc Bắc bổ thơm lâu
Nam vô tửu ví cờ không phất
Kỳ hữu phong tựa rượu ngấm hầu
Đãi khách giao lưu mời nhấc đặt
Thơm men rượu quý chẳng thường đâu.
SAY RƯỢU
Bài họa
2: Phan Thị Thanh Minh
Đã xỉn đâu mà, hử rượu đâu?
Ngất nga, ngất ngưởng quát điên đầu
Con mua trao vội, chuồn nhanh chóng
Vợ rót dâng mau, trốn biệt lâu
Thốc tháo bợm nôn, không kẻ hót
Liếm la vàng dọn, khỏi ai hầu
Mơ mơ ông quát:Tao còn tỉnh
Đã xỉn đâu mà, hử rượu đâu?
BA VẠN BỎ
Bài họa
3: Phan Thị Thanh Minh
Anh mà say xỉn chẳng yêu đâu !
Bình cạn kêu la lại lắc đầu
Mồm ói, mắt hoa, chân lảo đảo
Tay run, mặt đỏ, nói liên lâu
Ngày chưa bia rượu anh chiều chuộng
Nay cứ rượu bia em dọn hầu
Ngán cảnh tình này ba vạn bỏ!
Anh mà say xỉn chẳng yêu đâu !
Anh mà say xỉn chẳng yêu đâu !
Bình cạn kêu la lại lắc đầu
Mồm ói, mắt hoa, chân lảo đảo
Tay run, mặt đỏ, nói liên lâu
Ngày chưa bia rượu anh chiều chuộng
Nay cứ rượu bia em dọn hầu
Ngán cảnh tình này ba vạn bỏ!
Anh mà say xỉn chẳng yêu đâu !
RƯỢU
Bài họa Hồ Trọng Trí
Rượu là
nhu yếu phải thường đâu
Rượu
thuốc lương y xếp loại đầu
Rượu
uống say sưa tâm trí loạn.
Rượu
ghiền tác hại biết từ lâu.
Rượu
tình rượu nghĩa vui bè bạn
Rượu lễ
rượu nghi cống để hầu
Rượu
yến tiệc dùng khai vị trước
Rượu
trong ẩm thực phải thường đâu.
Kim
Long, BRVT
RƯỢU
Bài họa Trần-Lệ-Khánh--Trúc-Lệ
Rượu
thưởng bây giờ nhớ mãi đâu...
Rượu
mời tương ngộ lúc ban đầu
Rượu
trao Mặc Khách Đằng Vương Các
Rượu
tặng Giai Nhân Vọng Phượng Lâu
Rượu
kết vườn Đào chung Đế Bá
Rượu
mua điều nghĩa đạt Công Hầu
Rượu
nâng ly cạn mừng tri kỷ
Rượu
thưởng bây giờ nhớ mãi đâu...
LUẬN VỀ RƯỢU
(thay lời kết, sau khi đã đọc những bài họa vận)
Bài họa Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
Luận bàn về rượu đến đâu đâu
Trăm sự đều do rượu dẫn đầu
Khi nói rượu hay dùng vẫn tốt
Trăm sự đều do rượu dẫn đầu
Khi nói rượu hay dùng vẫn tốt
Lúc chê rượu dở bỏ càng lâu
Mấy tay rượu bợm không ai phục
Lắm ả rượu khôn có kẻ hầu
Rượu… một đề tài dài bất tận
Luận bàn về rượu đến đâu đâu.
Rượu… một đề tài dài bất tận
Luận bàn về rượu đến đâu đâu.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 247
ĐOÀN VĂN TOẠI - HUẾ XƯA -
Wednesday, January 30, 2013
ĐOÀN VĂN TOẠI * SÁM HỐI
THỔN THỨC CHO VIỆT
NAM
Bây giờ nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho sự ngây thơ của mình khi tin rằng cộng sản là những người cách mạng và xứng đáng được ủng hộ. Trên thực tế, họ đã phản bội nhân dân Việt Nam và làm thất vọng các phong trào tiến bộ trên toàn thế giới.
Tôi nhận lãnh trách nhiệm về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi. Và nay tôi chỉ còn cách đóng vai nhân chứng cho sự thật này hầu các người đã từng ủng hộ Việt Cộng trước kia có thể cùng chia sẻ trách nhiệm với tôi.
Lời tác giả: Khi cộng sản chiếm miền Bắc Việt Nam năm 1954, hàng triệu người đã lũ lượt di cư vào Nam.Tôi đã tận tai nghe nhiều câu chuyện về sự đau khổ tột cùng của họ. Nhưng cũng như nhiều người miền Nam lúc ấy, tôi đã không tin vào những câu chuyện đó.
Cả về sau này, tôi cũng đã không tin về những câu chuyện được kể trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago) của văn hào Solzhenitsyn. Tôi không tin vì cho rằng đó là những luận điệu tuyên truyền chống Cộng. Nhưng vào năm 1979, tôi đã cho xuất bản cuốn sách Việt Nam Ngục Tù của chính tôi. Liệu những người đã từng nếm trải những kinh hoàng dưới chế độ cộng sản có bao giờ thử thuyết phục những người không có cái kinh nghiệm này?
Kể từ năm 1945, năm tôi ra đời tại huyện Cái Vồn thuộc tỉnh Vĩnh Long, một tỉnh lỵ cách Sài Gòn 160 km về hướng Nam, cho đến khi ngày tôi rời Việt Nam vào tháng 5/1978, tôi chưa từng một ngày vui hưởng hoà bình. Căn nhà gia đình tôi đã bị đốt 3 lần trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong suốt cuộc đời niên thiếu, tôi đã phải theo cha mẹ di tản từ làng này sang làng khác để tránh tên bay đạn lạc. Cũng giống như những người Việt Nam yêu nước khác, cha mẹ tôi cũng tham gia kháng chiến chống Pháp. Khi tôi lớn lên, tôi lại tận mắt chứng kiến các nông dân đã bị các quan chức địa phương của chính quyền Sài Gòn áp bức ra sao, và họ đã phải chịu những cuộc oanh tạc tàn khốc của quân Pháp như thế nào. Tôi đã học trong lịch sử sự chiến đấu kiên cường của dân tộc chống lại ách đô hộ ngàn năm của giặc Tàu rồi đến các cuộc kháng chiến gian khổ chống ách thống trị trăm năm của giặc Tây. Với hành trang đó, tôi và các bạn đồng lứa đã lớn lên cũng với nỗi căm thù sự can thiệp của ngoại bang.
Khi các sinh viên Sài Gòn bầu tôi vào chức Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Sinh viên Sài Gòn vào năm 1969 và 1970, tôi đã tham gia vào các hoạt động đòi hoà bình khác nhau, đã lãnh đạo sinh viên biểu tình chống chế độ Thiệu và sự dính líu của người Mỹ. Tôi đã ấn hành nguyệt san Tự Quyết, và đã làm một cuộc du hành đến California để thuyết trình về các hoạt động phản chiến ở Đại học Berkeley và Stanford vào tháng 1/1971. Vì các hoạt động đó, tôi đã bị bắt và tống giam nhiều lần dưới chế độ Thiệu.
Vào thời điểm ấy, tôi tin rằng tôi đang thi hành sứ mệnh hoà bình và độc lập cho đất nước tôi. Tôi cũng tin tưởng vào đề cương của MTDTGPMN, một tổ chức đang lãnh đạo cuộc kháng chiến cách mạng ở miền Nam Việt Nam. Tôi căm ghét các nhà lãnh đạo Sài Gòn, các người như Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung tướng Đặng Văn Quang ‒ những cựu chiến binh trong quân đội viễn chinh Pháp. Đó là những người được Pháp tuyển mộ vào năm 1940 để giúp chúng tiêu diệt các phần tử kháng chiến Việt Nam. Theo thời gian, họ đã vươn lên thành những nhà lãnh đạo, nhưng sự lãnh đạo của họ không thu được lòng dân. Và chính vì không có được ủng hộ của người dân, nên họ phải dựa vào các thế lực nước ngoài.
Với tư cách một lãnh tụ sinh viên, tôi cho rằng tôi phải hoàn thành khát vọng của người dân Việt Nam về dân chủ, tự do và hoà bình.
Một cách ngây thơ, tôi nghĩ rằng chế độ Hà Nội ít nhất cũng là người Việt Nam, trong khi người Mỹ chỉ là những kẻ xâm lược giống như người Pháp trước đó. Như nhiều người trong phong trào đối lập tại miền Nam lúc ấy, tôi tin rằng dù sao các đồng bào cộng sản miền Bắc cũng sẽ dễ có sự tương nhượng và dễ nói chuyện hơn là người Mỹ. Hơn thế nữa, tôi lại thấy choáng ngợp trước các thành tích hy sinh và tận tâm của các lãnh tụ cộng sản. Chẳng hạn, Tôn Đức Thắng, Phó Chủ tịch Bắc Việt, đã bị nhốt đến 17 năm trong nhà tù của Pháp. Tôi cũng bị hớp hồn trước bản đề cương chính trị được MTDTGPMN áp dụng, bao gồm chính sách hoà giải dân tộc, không hề có sự trả thù, và chính sách ngoại giao phi liên kết. Cuối cùng, tôi đã chịu ảnh hưởng của các phong trào tiến bộ khắp thế giới và các nhà đại trí thức phương Tây lúc ấy. Tôi đã có cảm tưởng rằng các lãnh đạo phong trào phản chiến ở Mỹ cuối thập niên 60 đầu 70 đã chia sẻ cùng niềm tin với tôi.
Niềm tin ấy càng được củng cố hơn sau khi Hiệp định Paris ký kết vào năm 1973 và sự sụp đổ của Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa năm sau đó. Khi cuộc giải phóng đã hoàn tất, tôi chính là người đã khuyên bảo bạn bè và thân nhân không nên di tản. “Tại sao các người lại bỏ đi?” tôi hỏi, “Tại sao các người lại sợ cộng sản?”
Tôi chấp nhân một viễn cảnh khó khăn trong thời gian tái thiết quê hương nên đã quyết định ở lại và tiếp tục làm việc với tư cách một quản trị viên một chi nhánh của Ngân hàng Saì Gòn, nơi tôi đã làm việc hơn 4 năm, và là nơi tôi viết các báo cáo mật về tình hình kinh tế Nam Việt Nam cho MTDTGPMN (Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đã không bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa động viên vì là con một trong gia đình. Tôi cũng không gia nhập Việt Cộng vì MTDTGPMN nghĩ rằng tôi sẽ phục vụ tốt hơn trong vai trò báo cáo tài chính từ ngân hàng).
Sau khi Sài Gòn thất thủ được nhiều ngày, MTDTGPMN thành lập chính quyền Cách mạng Lâm thời, mời tôi gia nhập một uỷ ban tài chính, một nhóm bao gồm các trí thức có nhiệm vụ cố vấn cho chính quyền về các vấn đề kinh tế. Tôi hăng hái tham gia, chấp nhận mức cắt giảm lương đến 90%.
Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là giúp thảo ra một kế hoạch nhằm tịch thu tất cả các tài sản tư nhân ở miền Nam Việt Nam. Tôi cảm thấy sốc, và đề nghị chỉ nên thi hành điều đó với tài sản những người từng cộng tác với chính quyền cũ và với những người đã làm giàu nhờ chiến tranh, và sẽ phân phối lại theo một cách thức nào đó cho các người nghèo và nạn nhân chiến tranh không phân biệt thuộc phe nào. Đề nghị của tôi bị bác bỏ, dĩ nhiên.
Tôi đã quá ngây thơ khi nghĩ rằng các quan chức địa phương đã sai lầm, rằng họ đã hiểu lầm ý định tốt của các lãnh đạo đảng cộng sản. Tôi đã tranh đấu với họ nhiều lần, vì hoàn toàn đặt niềm tin vào các tuyên bố của Hà Nội trước đây rằng “tình hình ở Nam Việt Nam rất đặc biệt và rất khác với tình hình miền Bắc Việt Nam”. Chỉ vài tháng trước khi Sài Gòn thất thủ, Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, đã tuyên bố “miền Nam cần có chính sách riêng của nó”. Sau cùng, tôi không thể tuân theo lệnh sắp đặt các cuộc tịch thu tài sản tư hữu, một kế hoạch vẫn đang được xúc tiến. Một kế hoạch như vậy không hề đáp ứng nguyện vọng của người dân Nam Việt Nam, và nó đi ngược với lương tâm của tôi. Tôi quyết định từ chức. Nhưng không ai được phép từ chức trong chế độ cộng sản.
Một ngụ ý bất tuân lệnh sẽ không được người cộng sản tha thứ. Khi tôi đưa đơn từ chức, người lãnh đạo uỷ ban tài chính đã cảnh cáo rằng hành động của tôi “sẽ bị xem là sự tuyên truyền nhằm kích động quần chúng, và rằng chúng ta không bao giờ cho phép điều đó xảy ra”.
Nhiều ngày sau đó, trong khi tôi đang tham dự một buổi hoà nhạc tại Nhà Hát Lớn (trước đây là trụ sở Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, nơi mà tôi đã lãnh đạo các sinh viên chiếm giữ nhiều lần trước đây dưới chế độ Thiệu), tôi bị bắt. Không có sự truy tố cũng như không có lý do nào được đưa ra.
Sau khi Sài Gòn thất thủ, rất nhiều nhà trí thức tiến bộ cũng như nhiều nhà lãnh đạo các phong trào phản chiến trước đây đều tin rằng chính quyền mới sẽ đem lại dân chủ và tự do thay cho sự thống trị của ngoại bang. Họ tin rằng chính quyền mới sẽ đeo đuổi các quyền lợi tốt nhất cho nhân dân. Sẽ giữ đúng lời hứa của chính họ về chính sách hoà giải dân tộc, không có sự trả thù. Phủi sạch những hứa hẹn, nhà cầmn quyền cộng sản đã bắt giam hàng trăm ngàn người ‒ không chỉ những người đã cộng tác với chế độ Thiệu mà cả những người khác, bao gồm các vị lãnh đạo tôn giáo và các cựu thành viên MTDTGPMN.
Việt Nam ngày nay trở thành một quốc gia không có luật pháp nào khác hơn là sự điều hành độc đoán của những kẻ đang nắm quyền lực. Không hề có cái gọi là dân quyền. Bất cứ ai cũng đều có thể bị bắt mà không cần truy tố cũng như không cần xét xử. Và khi đã ở trong tù, các tù nhân đều được giáo dục rằng chính các thái độ, hành vi và sự “cải tạo tốt” là yếu tổ chủ chốt đễ xét xem liệu họ có thể được trả tự do hay không- không cần biết họ đã phạm tội gì. Vì vậy, các tù nhân thường là phải tuân lệnh tuyệt đối các quản giáo để hy vọng được thả sớm. Trong thực tế, họ không bao giờ biết được khi nào họ sẽ được thả – hay có thể bản án của họ sẽ được kéo dài thêm. Ở đất nước Việt Nam ngày nay có bao nhiêu tù chính trị? Không ai có thể biết được con số chính xác. Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng có khoảng từ 150.000 đến 200.000 chính trị phạm, người Việt tỵ nạn thì ước đoán con số đó là 1 triệu.
Hoàng Hữu Quýnh, một trí thức tốt nghiệp Đại học Mạc Tư Khoa, hiệu trưởng một trường kỹ thuật tại Tp. HCM (trước đây là Sài Gòn), vừa mới bỏ trốn trong một chuyến đi tham quan các nước Châu Âu do nhà nước bảo trợ. Ông đã nói với báo chí Pháp, “Hiện nay ở Việt Nam có ít nhất 700.000 tù nhân”. Một nhân chứng khác, Nguyễn Công Hoan, một cựu thành viên trong Quốc hội thống nhất được bầu vào năm 1976, đã vượt biển thành công vào năm 1978, đã tuyên bố chính bản thân ông được biết về “300 trường hợp xử tử” chỉ nội trong tỉnh Phú Yên của ông.
Vào năm 1977, các quan chức Hà Nội khăng khăng rằng chỉ có 50.000 người bị bắt giữ vì có những hành vi gây nguy hại cho an ninh quốc gia. Nhưng trong khi đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố trên tờ Paris Match số ra ngày 22/9/1978, “Trong vòng 3 năm qua, tôi đã trả tự do cho hơn 1 triệu tù nhân từ các trại cải tạo.”
Người ta có thể tự hỏi làm thế nào có thể thả 1 triệu tù nhân trong khi chỉ bắt giữ có 50.000!
Tôi bị tống vào một xà lim 1m x 2m, tay trái bị xiềng vào chân phải và tay phải xiềng vào chân trái. Thứ ăn của tôi là cơm trộn với cát. Khi tôi khiếu nại về cát trong cơm, các quản giáo đã giải thích rằng cát được cho vào cơm để nhắc nhở các tù nhân về các tội ác mà họ đã phạm. Tôi đã khám phá ra khi đổ nước vào tô cơm có thể tách cát ra khỏi cơm và lắng nó xuống đáy. Nhưng phần nước chỉ có 1lít cho một ngày dùng cho uống và tắm rửa, do vậy tôi phải dùng nó hết sức tiết kiệm.
Sau 2 tháng biệt giam, tôi được chuyển ra phòng giam lớn, một phòng giam 5m x 9m, tuỳ theo thời điểm được nhồi nhét từ 40 đến 100 tù nhân. Nơi đây chúng tôi phải thay phiên để được nằm xuống ngủ, và phần lớn các tù nhân trẻ và còn mạnh khoẻ phải chịu ngủ ngồi. Trong cái nóng hầm hập, chúng tôi cũng phải thay phiên để được hứng vài cơn gió mát của khí trời từ một lỗ thông gió chút xíu và cũng là cửa sổ duy nhất của phòng giam. Mỗi ngày tôi đều chứng kiến các bạn tù chết dưới chân tôi.
Vào tháng 3, 1976, khi một nhóm phóng viên phương Tây đến viếng thăm nhà tù của tôi, các quản giáo đà lùa các tù nhân đi và thay vào đó là các bộ đội miền Bắc. Trước cửa nhà tù, không còn thấy các hàng rào kẻm gai, không có tháp canh, chỉ có vài công an và một tấm bảng lớn chăng ngang cửa chính đề câu khẩu hiệu nổi tiếng của Hồ Chí Minh, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chỉ có những người đang bị giam và các quản giáo là biết cái gì thực sự ẩn giấu đằng sau những dấu hiệu đó. Và mọi tù nhân đều biết rằng nếu họ bị tình nghi đào thoát thì người bạn đồng tù và người thân của họ tại nhà sẽ bị trừng phạt thay vì chính họ.
Chúng ta sẽ không bao giờ biết được con số thực sự của những tù nhân bỏ mạng, nhưng chúng ta đã biết cái chết của nhiều tù nhân nổi tiếng, những người trong quá khứ chưa bao giờ cộng tác với Chính quyền Thiệu hay với người Mỹ: chẳng hạn, Thích Thiện Minh, nhà chiến lược cho các phong trào tranh đấu hoà bình của Phật tử tại Sài Gòn, một nhà đấu tranh phản chiến đã từng bị kết án 10 năm dưới chế độ Thiệu, sau cùng bị buộc phải thả ông vì sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam và các nhà hoạt động phản chiến khắp thế giới.
Đại Đức Thiện Minh đã chết trong tù 6 tháng sau khi ông bị bắt vào năm 1979. Một cái chết âm thầm khác là của Luật sư Trần Văn Tuyên, một lãnh tụ khối đối lập tại Quốc hội dưới thời Tổng thống Thiệu.
Nhà hoạt động nổi tiếng này đã chết dưới bàn tay cộng sản vào năm 1976, mặc dù vào cuối tháng 4/1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố với các phóng viên Pháp rằng ông vẫn còn sống mạnh khoẻ trong trại cải tạo.
Một trong những tổn thất to lớn nhất là cái chết của triết gia nổi tiếng Việt Nam Hồ Hữu Tường. Tường, bạn đồng môn với Jean Paul Sartre thập niên 30 tại Paris, có lẽ là nhà trí thức hàng đầu tại Nam Việt Nam. Ông chết tại nhà tù Hàm Tân vào ngày 26/06/1980. Đây là những người bị bắt, cùng với rất nhiều những người khác trong nhóm những người Nam Việt Nam ưu tú và được trọng nể nhất, với mục đích ngăn ngừa bất cứ một sự chống đối nào với chế độ cộng sản.
Một số người Mỹ ủng hộ Hà Nội đã làm lơ hoặc biện minh cho những cái chết này, như họ đã từng làm với vô số các thảm kịch đã xảy ra từ khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975. Rất có thể họ sẽ vẫn tiếp tục giữ im lặng nhằm lãng tránh một sự thật về Việt Nam nếu tiết lộ sẽ mang lại một nỗi vỡ mộng sâu xa đối với họ. Cay đắng thay nếu tự do và dân chủ vẫn là mục tiêu xứng đáng để chiến đấu tại Philippines, tại Chile, tại Nam Hàn hay tại Nam Phi, thì nó lại không xứng để bảo vệ tại các nước cộng sản như Việt Nam.
Mọi người đều nhớ đến vô số các cuộc biểu tình chống đối Mỹ can thiệp vào Việt Nam và chống lại các tội ác chiến tranh của chế độ Thiệu. Nhưng một số trong các người đã từng một thời nhiệt thành với các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền thì nay lại tỏ ra hết sức lãnh đạm khi cũng chính các nguyên tắc ấy đang bị chà đạp tại nước Việt Nam cộng sản.
Chẳng hạn, một nhà hoạt động phản chiến, William Kunstler, vào tháng 5, 1979 đã từ chối ký vào một bức thư ngỏ gởi nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, trong đó có chữ ký của nhiều nhà hoạt động phản chiến khác, kể cả Joan Baez, phản đối sự vi phạm nhân quyền của chế độ Hà Nội.
Kunstler nói “Tôi không tin vào sự chỉ trích công khai một chính quyền xã hội chủ nghĩa, dù đó là sự vi phạm nhân quyền”, và “toàn bộ chiến dịch này của Baez có thể là một âm mưu của CIA”. Câu nói này đã làm tôi nhớ lại lập luận mà chế độ Thiệu thường đưa ra làm lý do đàn áp các người đối lập, “Tất cả các hoạt động phản chiến và đối lập đều do cộng sản giựt dây”.
Còn có rất nhiều những huyền thoại về chế độ hiện hành tại Việt Nam mà người dân rất nên được soi sáng. Nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh đầu tiên là một người quốc gia và rằng đảng cộng sản Việt Nam trước đây cũng như hiện nay đều độc lập với Liên Sô.
Tôi cũng là người tin như vậy trước khi cộng sản chiếm miền Nam.
Nhưng rồi chân dung các nhà lãnh đạo Soviet nay được treo đầy các chung cư, trường học và các công sở trên khắp nước “Việt Nam độc lập”. Ngược lại, người ta chưa từng thấy chân dung bất cứ một nhà lãnh đạo Mỹ nào được treo ngay cả trong chế độ được gọi là bù nhìn của Tổng thống Thiệu.
Mức độ lệ thuộc của chính quyền hiện hành vào các ông chủ Soviet được thể hiện rõ ràng nhất do thi sĩ nổi tiếng của cộng sản Việt Nam, Tố Hữu, thành viên Bộ Chính Trị và là Trưởng Ban Văn hoá Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta có cơ hội được nghe người thi sĩ cao cấp này than khóc nhân cái chết của Stalin:
‘Xít-ta-lin! Xít-ta-lin,
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng, con gọi Xít-ta-lin
Ông Xít-ta-lin ôi. Ông Xít-ta-lin ôi,
Hỡi ôi ông mất, đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười.’
(Đời đời nhớ ông - Tố Hữu).
Thật là khó mà tưởng tượng những vần thơ như vậy lại được viết tại Việt Nam, một đất nước mang nặng truyền thống gia đình và bổn phận với con cái. Và bài thơ ấy vẫn đang chiếm một vị trí trang trọng trong ấn bản về thơ ca Việt Nam hiện đại được xuất bản tại Hà Nội.
Hơn thế nữa, Lê Duẩn, Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam, trong một bài diễn văn chính trị đọc trước Hội nghị khoáng đại của Quốc hội thống nhất năm 1976, “Cuộc cách mạng Việt Nam là để thực thi bổn phận và các cam kết quốc tế”, và vì vậy, trong lời lẽ của bản luận cương của đảng năm 1971 đã viết, “dưới sự lãnh đạo của Liên bang Soviet”. Sự vinh quang của một xã hội Soviet là mục tiêu chính yếu trong sách lược của đảng cộng sản Việt Nam.
Sau khi Sài Gòn thất thủ, nhà nước đã ngay tức khắc đóng cửa toàn bộ các nhà sách và rạp hát. Tất cả các sách vở được xuất bản trong chế độ cũ đều bị tịch thu hay đốt bỏ. Các tác phẩm văn hoá thuần tuý cũng không ngoại lệ, kể cả các bản dịch tác phẩm của Jean Paul Sartre, Albert Camus và Dale Carnegie. Ngay cả tác phẩm Cuốn Theo Chiều Gió của Margaret Mitchell cũng nằm trong danh sách văn chương đồi truỵ. Nhà nước thay thế những tác phẩm ấy bằng những tác phẩm văn chương nhằm nhồi sọ trẻ em và người lớn với ý tưởng chủ đạo, “Liên bang Soviet là thiên đường của xã hội chủ nghĩa”.
Một lập luận khác của các nhà biện luận phương Tây có liên quan đến vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam. Một điều khoản của bản hiến pháp mới, được đưa ra vào năm nay, có nêu rằng “nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng”. Về điều khoản này, Lê Duẩn đã nhiều lần tuyên bố, “Chế độ của chúng ta triệu lần dân chủ hơn bất cứ chế độ nào trên thế giới”.
Ngược lại, trên thực tế, đã trình bày rõ sự thật qua một sự kiện mang tính báng bổ một ngôi chùa Phật giáo, trong vụ đó một người đàn bà khoả thân theo lệnh nhà nước đã tiến vào ngôi chùa trong giờ hành lễ.
Khi Hoà thượng Thích Mẫn Giác, một nhà lãnh đạo Phật giáo nổi tiếng, lên tiếng phản đối, nhà nước đã nhân vụ này lên án Phật giáo là kẻ thù của dân chủ, chính xác là vi phạm quyền tự do không tín ngưỡng. Hoà Thượng Thích Mẫn Giác, người đóng vai trò là cầu nối giữa Phật giáo và nhà nước cộng sản, đã phải vượt thoát Việt Nam bằng thuyền vào năm 1977 và nay đang định cư tại Los Angeles.
Tất cả những ai từng ủng hộ MTDTGPMN trong cuộc chiến đấu chống chế độ Sài Gòn đều có thể cảm nhận sự bị phản bội và nỗi tuyệt vọng của họ.
Khi Harrison Salisbury của tờ New York Times viếng thăm Hà Nội vào tháng 12, 1966, các nhà lãnh đạo Hà Nội đã nói với ông, “Sách lược tranh đấu của miền Nam được chỉ đạo từ miền Nam chứ không phải từ miền Bắc”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói với Salisbury, “Không có ai ở miền Bắc có ý tưởng ngu ngốc, tội ác” rằng miền Bắc muốn thôn tính miền Nam.
Vậy mà trong diễn văn đọc nhân lễ mừng chiến thắng vào ngày 19/05/1975, Lê Duẩn đã nói, “Đảng của chúng ta là một và là người lãnh đạo duy nhất đã tổ chức, kiểm soát và điều hành toàn bộ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam ngay từ ngày đầu của cuộc cách mạng”.
Trong bản báo cáo chính trị đọc trước Quốc hội hợp nhất tại Hà Nội vào ngày 26/05/1976, Lê Duẩn nói, “Nhiệm vụ cách mạng chiến lược của đất nước ta trong thời kỳ mới là thống nhất tổ quốc và đưa toàn bộ đất nước tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, lên chủ nghĩa cộng sản”.
Vào năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời do MTTGPMN thành lập đã bị xoá sổ, và toàn thể 2 miền Nam Bắc Việt Nam đều nằm dưới sự cai trị của những người cộng sản.
Ngày nay,trong số 17 thành viên Bộ Chính trị và 134 Uỷ viên Trung ương thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, không hề có người nào thuộc MTDTGPMN trước kia. Ngay cả Nguyễn Hữu Thọ, cựu Chủ tịch MT, chỉ nắm chức vụ Chủ tịch nhà nước, một chức vụ mang tính nghi lễ với nhiệm vụ đón tiếp khách nước ngoài và tham dự các buổi lễ lạc. Nhưng ngay cả vị trí đó rồi sẽ bị xoá bỏ khi bàn hiến pháp mới ra đời.
Hãy nghe lời của ông Trương Như Tảng, một những người sáng lập MT, cựu Bộ trưởng Tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, vừa mới đây cũng là một thuyền nhân vượt biển. Ông Tảng trốn thoát khỏi Việt Nam vào tháng 12, 1979 và hiện nay sống tại Paris.
Ông đã nói với các phóng viên về kinh nghiệm của ông trong cuộc họp báo gần đây vào tháng 5, 1980. 12 năm trước, ông nói, khi ông bị bỏ tù dưới chế độ Thiệu vì các hoạt động thân cộng của mình, cha của ông đã đến thăm ông.
Ông cụ đã hỏi ông, “Tại sao con lại dứt bỏ tất cả ‒ một công việc tốt, một gia đình sung túc ‒ để gia nhập cộng sản? Con không biết rằng cộng sản rồi sẽ phản bội con và sẽ thủ tiêu con, và khi con thật sự hiểu ra thì đã quá muộn?” Tảng, một nhà trí thức, đã trả lời cha “Tốt hơn là cha nên im lặng và chấp nhận sự hy sinh một trong các đứa con của cha cho nền dân chủ và độc lập của đất nước”.
Sau cuộc Tổng Công kích Tết Mậu thân 1968, Tảng được trao đổi với 3 Đại tá tù binh chiến tranh Mỹ, và sau đó ông biến mất vào rừng với MT. Ông đã viếng thăm nhiều nước cộng sản và các nước thế giới thứ 3 để kêu gọi sự ủng hộ dành cho MT trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Ông đã nói trong cuộc họp báo. “Tôi đã biết MT là một tổ chức do cộng sản chi phối và tôi đã quá ngây thơ khi cho rằng Hồ Chí Minh và Đảng của ông ta sẽ dặt quyền lợi quốc gia lên trên ý thức hệ và đặt quyền lợi nhân dân Việt Nam lên trên quyền lợi của đảng. Nhưng nhân dân Việt Nam và tôi đã sai lầm”.
Trương Như Tảng đã kể về kinh nghiệm của ông về phương sách các tầng lớp lãnh đạo cộng sản cai trị, “Người cộng sản là chuyên gia về nghệ thuật chiêu dụ và có thể làm bất cứ cách nào để dụ bạn về phe họ một khi họ chưa nắm được chính quyền. Nhưng một khi đã nắm được quyền lực lập tức họ trở thành sắt máu và tàn nhẫn”. Ông tóm tắt tình hình tại Việt Nam hiện nay, “Gia đình ly tán, xã hội phân ly, ngay cả đảng cũng chia rẽ”.
Bây giờ nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho sự ngây thơ của mình khi tin rằng cộng sản là những người cách mạng và xứng đáng được ủng hộ. Trên thực tế, họ đã phản bội nhân dân Việt Nam và làm thất vọng các phong trào tiến bộ trên toàn thế giới.Tôi nhận lãnh trách nhiệm về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi. Và nay tôi chỉ còn cách đóng vai nhân chứng cho sự thật này hầu các người đã từng ủng hộ Việt Cộng trước kia có thể cùng chia sẻ trách nhiệm với tôi.
Khi tôi còn trong tù, Mai Chí Thọ, một Uỷ viên Trung ương đảng, đã nói chuyện trước một nhóm tù nhân chính trị chọn lọc.
Ông ta đã nói với chúng tôi,
“Hồ Chí Minh có thể là một quỷ dữ, Nixon có thể là một vĩ nhân. Người Mỹ có thể có chính nghĩa, chúng ta có thể không có chính nghĩa. Nhưng chúng ta đã chiến thắng và người Mỹ đã bị đánh bại bởi vì chúng ta đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một vĩ nhân, Nixon là một tên sát nhân và người Mỹ là những kẻ xâm lược”.
Ông ta đã kết luận,
“Yếu tổ chủ chốt là làm thế nào kiểm soát người dân và ý tưởng của họ. Chỉ có chủ nghĩa Mác Lê mới có thể làm được như vậy. Không ai trong các anh đã từng biết đến một sự kháng cự nào đối với chế độ cộng sản, bởi vậy không nên nghĩ đến điều đó nữa. Hãy quên chuyện đó đi? Giữa các anh ‒ những nhà trí thức ưu tú ‒ và tôi, tôi đã nói với các anh sự thật”.
Và quả là ông ta đã nói sự thật. Từ năm 1978, khi cộng sản Việt Nam chiếm đóng Lào, xâm lấn Kampuchea và tấn công Thailand, trong khi đó Liên Sô xâm lăng Afghanistan. Trong mỗi một sự kiện đó, người cộng sản vẫn tự phác hoạ chân dung của họ một cách ly kỳ, là những người giải phóng, người cứu rỗi, người bảo vệ chống lại các lực lượng xâm lăng nước ngoài. Và trong mỗi sự kiện, dư luận thế giới vẫn tương đối êm dịu.
Nhưng ở Việt Nam, người dân vẫn thường nhắc nhau, “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”.
Một trong những người Nam Việt Nam theo cộng sản, ông Nguyễn Văn Tăng, bị tù 15 năm dưới thời Pháp, 8 năm dưới thời Diệm, 6 năm dưới thời Thiệu, và hiện nay vẫn còn đang nằm tù, đã nói với tôi, “Muốn hiểu người cộng sản, trước nhất phải sống với cộng sản”.
Vào một buổi chiểu mưa rơi tại nhà tù Lê Văn Duyệt, Sài Gòn, ông đã nói với tôi,'Ước mơ của tôi bây giờ không phải là được thả ra, không phải là được gặp lại gia đình. Tôi chỉ mơ được trở lại nhà tù của Pháp 30 năm trước”.
Đó là giấc mơ của một người đàn ông 60 tuổi đã gởi trọn tuổi thanh xuân vào việc ra vào nhà tù để chiến đấu cho tự do và độc lập của đất nước. Giờ này, có lẽ ông đã chết trong tù hay có thể đã bị nhà nước của nhân dân hành quyết.
Ước mơ của nhân dân Việt Nam là một cuộc cách mạng thực sự, họ không muốn chủ nghĩa cộng sản. Mức độ đo lường sự chán ghét cộng sản là việc hàng ngàn người đã từ bỏ sự ràng buộc lịch sử của họ với đất mẹ.
Dưới thời thực dân Pháp, trải qua bao năm dài chiến tranh, ngay cả trong thảm cảnh nạn đói năm 1945 có đến 2 triệu người chết đói, người Việt Nam vẫn không đành đoạn rời bỏ quê hương, mảnh đất có mồ mả ông cha. Các cuộc đổ xô ra đi tỵ nạn là bằng chứng trực tiếp của sự kinh hoàng với chế độ hiện nay.
Hãy nghe lời một người tỵ nạn khác, Nguyễn Công Hoan, cựu thành viên MT và là thành viên Quốc hội thống nhất được bầu năm 1976, “Chế độ hiện nay là chế độ phi nhân và áp bức nhất mà nước Việt Nam từng được biết đến”. Ông Hoan trốn thoát bằng thuyền vào năm 1977, sau khi từ bỏ chức vụ của ông trong Quốc hội cộng sản. “Quốc hội”, ông tuyên bố, “là một bù nhìn, các thành viên ở đó chỉ biết nói dạ, không bao giờ biết nói không”.
Giữa các thuyền nhân sống sót, bao gồm cả những người bị hải tặc hảm hiếp và những người chịu nhiều cực nhục trong các trại tỵ nạn, không hề có người nào hối tiếc đã tìm cách trốn khỏi chế độ hiện nay.
Tôi tuyệt đối tin rằng sự thật về Việt Nam sẽ dần dần hiện rõ. Nó có sẵn cho những ai muốn tìm hiểu về nó. Như Solzhenitsyn đã từng nói, “Sự thật cũng nặng nề như là thế giới vậy”.
Và Việt Nam là một bài học về sự thật.
Đoàn Văn Toại
Tuesday, January 29, 2013
HUẾ ĐẸP VÀ THƠ MỘNG
Xứ
Huế đẹp và thơ mộng đã đi vào thơ ca khiến cho những ai đã từng đến Huế
đều phải ngẩn ngơ và xao xuyến trước vẻ trầm lặng, thanh bình nơi
đây...
Kỳ đài
Sông Hương
Ngọ môn
Add caption |
Trên bờ sông Hương
Một cửa cung
Cửa vào Cung điện
Trong cung điện
Một buổi thiết triều tại điện Cần Chánh
Các quan vào chầu vua tại điện Cần Chánh
Vua Khải Định
Vua KHải Định
Vua Bảo Đại
Nam Phương hoàng hậu
Thuyền rồng trên sông Hương
Nhạc công
một đoàn vũ công
Đoàn hát miền Bắc
Đoàn hát người thiểu số
Vua đi tế đàn Nam Giao
Vua ra ngoại thành
Vua ra ngoại thành
Cửa Hiền Nhân
Cửa Thượng Tứ
Lăng vua THiệu Trị
Thành phố xưa
Cầu Trường Tiền
Chợ Đông Ba
Huế nhìn từ trên không
Ông quan bộ Hộ
Ông quan và hầu cận
Một góc đường phố tại Huế khoảng 1950
|
Cảnh sinh hoạt và buôn bán trên đường phố 1950
|
Vẻ bình lặng trên phố cổ Bao Vinh tại Huế năm 1926
|
Một tiệm buôn xe đạp trên phố
|
Cuộc sống trong gia đình một quan chức tại kinh thành Huế xưa
|
Hình ảnh quan đi võng thời xưa
|
Chợ Đông Ba năm 1927
|
Một góc chợ Đông Ba xưa
|
Khách sạn Morin tại Huế
|
Xe kéo chờ đón khách du lịch về khách sạn Morin
|
Hồ Tịnh Tâm tại kinh thành Huế
|
Quang cảnh tại nhà ga xe lửa Huế năm 1938
|
KAMI - TƯỞNG NĂNG TIẾN - DƯƠNG THU HƯƠNG
Saturday, February 2, 2013
KAMI * NGUYỄN BÁ THANH
Tương lai Nguyễn Bá Thanh: Lành ít, dữ nhiều?
Sat, 02/02/2013 - 08:52 — KamiDù tết nhất đã đến cận kề, song dư luận xã hội vẫn chăm chú theo dõi và kỳ vọng vào một kết quả tốt đẹp của cuộc chiến giữa đồng chí X và đồng chí Bá Thanh. Nhìn ở góc độ quản lý nhà nước, thì đây là một hiện tượng hết sức nguy hiểm mà chưa hề có tiền lệ ở Việt nam, vì một người đứng đầu của một thành phố trực thuộc trung ương (được bảo kê) dám đối đầu với Thủ tướng Chính phủ, người đứng đầu cơ quan hành pháp.
Chuyện ông "vua" Đà nẵng Nguyễn Bá Thanh và đồng chí X không ưa
nhau thì từ lâu ai cũng biết. Nhưng đó cũng là lý do vì sao một người
như Nguyễn Bá Thanh có năng lực, ít tì vết được quảng đại quần chúng cần
lao không chỉ riêng xứ Quảng mà trên phạm cả nước yêu mến và kỳ vọng.
Nhưng câu hỏi vì sao một con người như ông Nguyễn Bá Thanh lại không
vượt qua cửa ải để lọt vào Bộ Chính trị trong đại hội đảng khóa XI là
một vân đề đáng quan tâm. Cho dù trước đại hội XI, dư luận đã nói nhiều
về khả năng này. Nhưng kết quả sau đại hội XI không diễn ra như thế, mà
kết quả là phe đồng chí X hả hê bao nhiêu thì ngược lại phe của đồng chí
Bá Thanh đã ngậm đắng nuốt cay bấy nhiêu. Mâu thuẫn giữa đồng chí X và
Bá Thanh bắt đầu cũng chỉ là việc không ưa nhau, cũng như việc một bộ
phận không nhỏ các cán bộ lãnh đạo cao cấp có học hành ghét đồng chí X
vì ít học, nhưng lại hay tỏ vẻ ta đây.
Với đồng chí X, sự may mắn của
con đường quan lộ quá thênh thang và luôn được sắp đặt bố trí đảm nhận
các chức vụ quan trọng theo lối người tìm việc, bỗng hóa trở thành điểm
yếu trong nhiệm kỳ thứ hai trong vai trò người đứng đầu cơ quan hành
pháp. Như trường hợp năm 1998, khi được bổ nhiệm giữ chức Thống đốc Ngân
hàng nhà nước mà chuyên môn của đồng chí X không đủ để đọc và hiểu một
báo cáo quyết toán tài chính, chứ chưa nói đến các công việc khác ở tầm
vĩ mô.
Cũng như vốn mang tiếng tốt nghiệp Đại học Luật hệ tại chức,
nhưng kiến thức về pháp luật của đồng chí hầu như không hề có, với hàng
loạt các quyết định khi ở cương vị người đứng đầu cơ quan hành pháp
nhưng lại vi phạm hiến pháp là những ví dụ điển hình.
Nhưng tiếc rằng, đồng chí X đã không hiểu thực chất của con
người mình. Đó là cái như dư luận xã hội đánh giá rằng ngoài cái vẻ
phương phi, tốt mã thì ở con người đồng chí X chẳng có cái gì cho ra hồn
để xứng tầm một người lãnh đạo cao cấp.
Nhưng chết nỗi đồng chí X cứ
nghĩ là mình giỏi, khi đưa ra các ý đồ hoang tưởng học mót của người
khác, như trường hợp mô hinh các chebol của Hàn quốc là một ví dụ. Trong
việc này, nguy hiểm nhất là việc đồng chí X tự ý vô hiệu hóa chức năng
quản lý nhà nước của các bộ, ngành đổi với các tập đoàn, tổng công ty
thuộc doanh nghiệp nhà nước. Nghĩa là Thủ tướng trực tiếp điều hành các
tập đoàn, tổng công ty thuộc khối doanh nghiệp nhà nước, những cái mà
đồng chí X tự hào là những "quả đấm thép". Để rồi đên hôm nay, kết quả
của những "quả đấm thép" mang lại chỉ là những con số âm. Cụ thể trong 6
năm (2006-2012) dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đồng chí X, các quả đấm
thép với một khoản lỗ và khoản nợ khổng lồ. Theo báo cáo của Bộ
KH&ĐT, lỗ lũy kế của 10 tập đoàn, tổng công ty khoảng 17.730 tỷ
đồng. Đáng lưu ý là, tổng nợ phải trả của các DNNN lên tới hơn 1,3 triệu
tỷ đồng (khoảng trên 60 tỷ USD), hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu bình
quân là 1,82 lần (năm 2011 là 1,77 lần).
Tổng tài sản/tổng nợ phải trả
là 1,6 lần. v.v... Một phần lý do mà Bộ Chính trị chưa thống nhất cho
đồng chí X nghỉ, cũng là để đồng chí X chịu trách nhiệm giải quyết những
khoản công nợ khổng lồ do chính mình gây ra. Nghĩa là nói theo kiểu dân
dã thì họ không chấp nhận việc "ông ăn ông ỉa rồi để thằng khác dọn
thay".
Trong cuộc đọ sức Ba - Bá, tuy không nắm được vai trò chủ động
và áp đảo trong cuộc chơi mới này, song trên thực tế phe của đồng chí X
vẫn phòng ngự kiên cường và đôi lúc vẫn chủ động ra đòn chọc ngoáy đối
phương. Trong khi ông Bá Thanh còn lạc quan, mải mê đánh võ mồm ở Đà
nẵng để tranh thủ dư luận.
Câu chuỵện bản kết luận thanh tra vấn đề đất
đai ở Đà nẵng của Thanh tra Chính phủ, cứ thập thò khi thì bảo không
công bố bỗng đùng một cái lại cho công bố là một ví dụ. Nó cũng không
khác gì chuyện của phe kia, vừa hôm thứ tư 23.1.2013 tuyên bố "Ban Nội
chính TƯ chưa thể hoạt động ngay", thì cũng đùng một cái lại thành "Ban
Nội chính Trung ương bắt đầu hoạt động từ ngày 1.2.2013".
Đưa hai dẫn
chứng của hai phe để thấy có sự tính toán rất kỹ và thận trọng của mỗi
bên, trong lúc đang gầm ghè nhau ở cục diện ngang ngửa. Và việc phe của
đồng chí X đã dụng phép "tiên thủ hạ vi cường" vừa qua tuy được coi là
động thái thăm dò, nhưng cũng thể hiện cho thấy họ có thể có trong tay
một vài cú đòn đủ để đánh một phát chết tươi đồng chí Bá Thanh.
Cá nhân đồng chí Bá Thanh ra trung ương nhận chức Trưởng Ban
Nội chính TW lần này cũng chẳng phải ngon ăn, khi mà một bộ phận nhân sự
mới của Ban Nội chính TW hiện tại đa phần là con người (80/102), cơ sở
vật chất từ Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng
trước đây thuộc Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng vốn
đồng chí X là người đứng đầu chuyển sang.
Và ông Phạm Anh Tuấn, Phó
Chánh Văn phòng Thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống
tham nhũng đảm nhiệm chức vụ P. Trưởng Ban Nội chính TW. Sự xuất hiện
của ông Phạm Anh Tuấn, Phó Chánh Văn phòng Thường trực của Ban Chỉ đạo
Trung ương trong các cuộc phỏng vấn của báo chí nhân ngày ra mắt của Ban
Nội chính TW (01.2.2013) thay ông Nguyễn Bá Thanh hình như có cái gì
không ổn lắm (!?).
Và không thể không nó đến một nhân vật nặng ký của
phe đồng chí X, đó là ông Nguyễn Xuân Phúc người được dư luận đồn đoán
rằng sẽ giữ chức Tổng Bí thư trong kỳ đại hội đảng khóa tới. Đặc biệt
là số cán bộ lãnh đạo của ngành Tòa án và Viện Kiểm sát hiện nay vẫn
chịu sự "chỉ đạo" (thực chất là vây cánh) của đồng chí X.
Không lâu sau
khi Trung ương Đảng lập Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng, Thủ tướng
Việt Nam ký ngay quyết định lập Ban Chỉ đạo phòng chống tội phạm trực
thuộc chính phủ. Hay việc hôm 21/1/2013, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký
quyết định đã lập ra Ban chỉ đạo 138 CP do Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc đứng đầu.
Điều đó cho thấy lực lượng của phe đồng chí X còn đủ mạnh
và xung quanh ông Nguyễn Bá Thanh đang có không ít cái bẫy đang rình
rập, chỉ chờ thời cơ là chụp xuống. Chính có lẽ vì thế mà ông Nguyễn Bá
Thanh không ít lần phải thú nhận rằng "Địch đang ở trong lòng thì đánh đấm gì nữa?”.
Nhưng quan trọng hơn cả sẽ là vấn đề ai sẽ là người được quyết
định về Đà nẵng để kế tục ông Nguyễn Bá Thanh sau khi ông ra Hà nội? Đây
là nút thắt cũng là sự quyết định của cả một vấn đề liên quan đến sự
nghiệp chính trị của ông Nguyễn Bá Thanh, sẽ thành hay bại.
Vì nếu người
về thay ông Nguyễn Bá Thanh là ông Trần Văn Minh là Phó Trưởng Ban Tổ
chức TW người ra đi từ Đà nẵng nay trở lại thì là điều may mắn cho ông
Nguyễn Bá Thanh. Vì như thế những vấn đề ông Thanh còn để lại sau lưng ở
Đà nẵng coi như tạm ổn. Nhưng tin cho biết phương án dự kiến này đến
phút chót đã chính thức bị hủy bỏ. Và phương án tiếp theo người đó sẽ là
ông Tô Lâm, trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an như đồn đoán. Một người
thuộc phe đồng chí X sẽ là người đảm nhận trọng trách đó thì coi như ông
Nguyễn Bá Thanh đã xong.
Vì khi đó.việc làm rõ các vấn đề sai phạm ở Đà
nẵng, thời ông Nguyễn Bá Thanh là người lãnh đạo đứng đầu sẽ ở tình thế
"nội công ngoại kích" - trong đánh ra, ngoài đánh vào. Lúc đó thì thế
cờ ngày hôm nay sẽ bị lật ngược và khi đó có lẽ ông Nguyễn Bá Thanh sẽ
được thủ trong một vai khác - kẻ phạm tội.
Khi đó, không cần nói đến những sai phạm mang tính tập thể của
ban lãnh đạo TP. Đà nẵng đã gây ra từ năm 2003 đến nay, mà chỉ khoét sâu
vào những khuyết điểm của cá nhân ông Nguyễn Bá Thanh thôi cũng đủ làm
cho ông Thanh lên bờ xuống ruộng.
Đơn cử ví dụ như cáo buộc về nhận hối
lộ 4,4 tỉ đồng hồi năm 2000, trong lúc ông Nguyễn Bá Thanh làm Chủ tịch
UBND Thành phố, đã để xảy ra vụ án rút ruột Cầu Sông Hàn đã từng gây
chấn động Đà Nẵng. Trong vụ án này, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà
Nẵng đã có công văn số 77/KSĐT/KT vào tháng 10 năm 2000 gửi Lãnh đạo
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Phan Diễn,
trong đó nói về việc ông Nguyễn Bá Thanh đã nhận hối lộ của Phạm Minh
Thông 4,4 tỉ đồng trong các công trình xây dựng Cầu Sông Hàn và đường
Bắc Nam ở Đà Nẵng. Cho dù năm 2007 đã có văn bản của Thanh tra Chính phủ
và ý kiến của đồng chí X không khởi tố vụ án đi chăng nữa. Hay gần đây
nhất là vụ ông Nguyễn Bá Thanh bảo lãnh khoản vay 3.000 tỷ đồng cho các
doanh nghiệp, trong đó Thân Đức Nam (Cienco 5 - 900 tỷ), Thân An (Nam Việt Á - 300 tỷ) và một số đại gia khác thì cũng đủ để ông
Nguyễn Bá Thanh chống đỡ được cũng đủ mệt. Vì nghe nói trong vụ này ông
Nguyễn Bá Thanh cũng có nhiều chuyện hết sức lình xình về vấn đề tiền
bạc.
Nhưng khi rờ vào chỗ này thì cũng liên quan đến ông Nguyễn Xuân
Phúc, mà cái thông tin ông Phúc liên quan đến “đồ bành” Thân Đức Nam,
ngoài vỉa hè người ta kháo nhau tin: “Bây giờ Thân bảo Bộ trưởng Phúc
đứng là đứng, ngồi là ngồi, bảo đi phải đi, bào ỉa là phải rặn ra mà
ỉa!”. Trong cái khó lại ló cái dễ đối với Nguyễn Bá Thanh ông là ở chỗ
này
Tuy nhiên, cũng xin khuyên ông Nguyễn Bá Thanh là ông cũng phải
cẩn thận với ông Tổng Trọng, người đang sử dụng ông Thanh như một quân
bài trong trận chiến hạ bệ đồng chí X. Ông Nguyễn Phú Trọng tuy có biệt
danh là Trọng "lú", nhưng ông Trọng chỉ lú mồm chứ tính toán mưu mô khá
sâu, chứ không phải dạng lú toàn tập.
Ông ta cũng có điểm mạnh, đó là sự
thâm nho. Cứ xem trọng vụ chỉnh đốn đảng, ông Trọng cứ từ từ, chậm rãi
từng bước thít cái thòng lọng vào cổ đồng chí X, đều đều như kiểu con
nhện chăng tơ. Riêng vụ "cố ý" rưng rưng nước mắt tuyên bố không xử lý
được đồng chí X trong phiên bế mạc Hội nghị TW 6 - Khóa 11 là chiêu khổ
nhục kế trên cả tuyệt vời. Sau cú khóc vờ của ông Tổng Trọng đã làm cho
đồng chí X thân bại, danh liệt và từ khi đó hình ảnh đồng chí X càng trở
nên tồi tệ trong mắt quốc dân đồng bào. Cho nên, đối với ông Nguyễn Bá
Thanh cũng cần phải đề phòng với ông Tổng Trọng, biết đâu ông ta dùng
chiêu một mũi tên trúng hai đích? Ông Nguyễn Bá Thanh và đồng chí X là
hai nhân vật lãnh đạo trẻ hơn, có tư tưởng cải cách và cấp tiến. Cho dù
cả hai không phải là đồng minh của nhau trong thời điểm này. Ngược lại,
phe chủ chiến của ông Tổng và ông 4S là những nhân vật bảo thủ, thân
Tầu.
Họ chỉ đồng quan điểm với ông Nguyễn Bá Thanh trong việc hạ bệ đồng
chí X, chứ tư tưởng cải cách và chống Trung quốc thì khác nhau. Biết
đâu chước của Mao “Giảo thố tử, cẩu tảo thanh” - (Hết mùa săn, chúng tôi
giết chó) sẽ được mang ra áp dụng với ông Nguyễn Bá Thanh sau khi đồng
chí X chính thức bị hạ bệ?
Cho dù biết rằng cái tên Nguyễn Bá Thanh bây giờ là tên đang
hot, đa số dân chúng đang kỳ vọng vào ông Nguyễn Bá Thanh sẽ làm được gì
đó ít nhiều trong cái thời buổi nhiễu nhương như hiện nay. Thời của
những bầy sâu bọ lên làm người lãnh đạo.
Do vậy ai mà nói gì không hay
cho ông Bá thì lập tức sẽ bị cho rằng người của đồng chí X (:D). Nhưng
tôi vẫn viết, chả để làm gì ngoài việc giúp bạn đọc đọc giải khuây trong
những ngày Tết, khi bánh chưng ngán đã đến tận cổ.
Chúc mừng năm mới Xuân Qúy Tỵ!
Ngày cuối năm Rồng 03 tháng 2 năm 2013
© Kami
TƯỞNG NĂNG TIẾN * HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Một Người Hiểu Chậm
Fri, 02/01/2013 - 11:03 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Chắc rảnh – và rảnh lắm – nên nhà văn Phạm thị Hoài xoay ra kiếm chuyện (cà khịa) với đồng nghiệp chơi, cho nó qua ngày:
Nguồn ảnh: talawas
Chắc rảnh – và rảnh lắm – nên nhà văn Phạm thị Hoài xoay ra kiếm chuyện (cà khịa) với đồng nghiệp chơi, cho nó qua ngày:
“... tác giả văn chương, chung quy có ba loại. Loại dành cho đồng nghiệp, tác giả của tác giả. Loại dành cho công chúng, tác giả của độc giả. Và loại dành riêng cho sự tự mê hoặc của những tác giả tự phong.”
Loại thứ nhất hiếm hoi, là những người không thể thay thế, mất
một ai trong số họ là cơ thể văn chương nhân loại tàn phế một bộ phận
trọng yếu...
Loại thứ hai đông hơn và là đối tượng chính của các nhà điểm
sách, phê bình và nghiên cứu văn học. Đánh giá về tài năng và tầm cỡ của
họ là việc phụ thuộc chủ yếu vào khí hậu và môi trường văn hóa...
Loại thứ ba đông hơn cả, nhưng chỉ đáng quan tâm ở khía cạnh họ
là những kẻ làm ngôn ngữ xói mòn nhanh nhất, ngốn nhiều giấy mực và byte
nhất, và là thủ phạm chính khiến văn chương bị xóa thành công khỏi danh
sách nhu yếu phẩm tinh thần của con người...”
Tôi cũng đã có lúc học đòi theo chuyện “văn chương” nên đọc xong
đoạn văn thượng dẫn mà không khỏi ... bần thần (chút đỉnh) khi tự xét
rằng chắc (chắn) mình thuộc loại ... thứ ba. Cái loại viết “với
phương châm thà bị tống vào thùng rác còn hơn không tồn tại.” Nói cho
nó gọn: cái thứ người cầm bút như tôi thiên hạ gọi là lều văn, túp
văn, hay chòi văn, hoặc chuồng văn ... gì đó!
Cùng với đám chuồng văn này, nước Việt còn có một hiện tượng
độc đáo khác nữa gọi là chuồng học – theo như cách mô tả của phóng
viên báo Dân Trí , đọc được vào hôm 5/ 9/2012:
“Huổi Chát là một bản Mông chừng vài chục nóc nhà ở huyện nghèo
Mường Tè. Hôm chúng tôi có mặt, chỉ còn 7 ngày nữa là đến ngày hội khai
giảng, nhưng những gì bày ra trước mắt thật đắng lòng:
Một căn lều tranh tre nứa lá gió thổi tứ bề, xiêu vẹo, ghế gãy
bàn long, ủn ỉn trong đó một cặp lợn mán, được cô giáo cắm bản giới
thiệu là trường học...
Cô giáo Đinh Thị Vin nói bằng tiếng Mông, vẫy chúng xuống lớp.
Lớp học là một căn chòi lá rộng độ bằng 4 chiếc chiếu đôi xiêu vẹo, vách
tre vọc vạch, hở hoác. Bên trong bàn ghế gãy nát, đầy mạng nhện, ngổn
ngang phân heo. Không biết đã từ bao giờ, trường học của lũ trẻ đã trở
thành nơi trú ngụ cho một cặp heo mán với 4 heo con. Có người trong số
chúng tôi gọi đùa, giọng không ít cay đắng: “Đây là chuồng học chứ đâu
phải trường học...”
Ảnh: Dân Trí
“7 năm trước, cô giáo Đinh Thị Vin từ Phú Thọ rừng cọ đồi chè lên Mường Tè theo tiếng gọi tình nguyện...Và
giờ, cô giáo người Kinh đã trở thành đứa con của Huổi Chát, của Nậm
Manh, nói tiếng Mông để dạy tiếng phổ thông, ăn mèn mén, sắn khô, măng
rừng, với ước mơ giản dị là một ngày nào đó sẽ có một đứa trò nhỏ người
Mông thi đậu vào đại học.”
Vạn sự khởi đầu nan mà. Qua khỏi bậc tiểu học (nghĩa là
sau giai đoạn thụ giáo ở những chuồng học) học sinh sẽ được nghe giảng
bài bằng tiếng của người Kinh, và bước chân vào những trường trung học bề thế hơn nhiều – như cái trường này đây: Trường THCS Nậm Kè.
Ảnh: Dongsongxanh
Phải đợi cho đến khi lên đến bậc đại học thì những mầm non
Việt Nam – xuất thân từ chuồng học – sẽ mới có cơ hội bước vào những
cơ sở giáo dục hoành tráng, ở tầm mức quốc tế, được giảng dậy bằng
Anh ngữ, theo như ... dự án (Bắt Tay Xây Dựng Trường Đại Học Trí Việt) đã được thông báo, từ nhiều năm trước:
“Sáng 7.11.2007, tại trụ sở Ủy ban về người VN ở nước ngoài
(NVNƠNN) TP.HCM, Câu lạc bộ Khoa học và Kỹ thuật NVNƠNN (OVSCLUB) và Hội
đồng sáng lập Dự án trường Đại học tư thục Trí Việt đã ký kết Thỏa
thuận hợp tác: xây dựng một trường đại học chính quy hiện đại, trên tinh
thần thực học để đào tạo nhân lực chất lượng cao phục vụ cho công cuộc
hiện đại hóa và công nghiệp hóa đất nước.
Đại diện cho Hội đồng sáng lập Dự án Đại học tư thục Trí Việt là
bà Tôn Nữ Thị Ninh, Chủ tịch Hội đồng và đại diện của OVSCLUB là TSKH
Trần Hà Anh, Trưởng Ban điều hành. Buổi lễ ký kết diễn ra với sự chứng
kiến của Ban Chủ nhiệm Ủy ban NVNƠNN, Ban Liên lạc NVNƠNN TP.HCM...
Theo kế hoạnh, khoảng năm 2010 trường sẽ bắt đầu tuyển sinh cho
một số khoa và dự kiến đến năm 2020 sẽ đáp ứng được phần nào nhu cầu đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, không chỉ cho Nam Bộ mà còn vươn
rộng ra phạm vi toàn quốc.” Nguồn ảnh: talawas
Nói vậy (ngó bộ) vẫn chưa đã miệng nên trong những cuộc phỏng vấn sau đó, bà Tôn Nữ Thị Ninh – người được mô tả là “một nữ ngoại giao lừng lẫy một thời” – còn cho “nổ” thêm vài lần nữa, khiến rất nhiều người bị ù tai:
- Luật chơi của Trí Việt là: nói không với thiếu trung thực.
- Hiện dự án còn trong giai đoạn cấp phép,
trước dự tính đặt ở Vũng Tàu nay thì đặt ở TP. HCM. Gọi là trường quốc
tế bởi vì sẽ dạy bằng tiếng Anh kể từ năm thứ 2, với lập luận rằng thanh
niên Việt Nam thời hội nhập phải có tiếng Anh như là một ngôn ngữ làm
việc của mình, ngoài tiếng mẹ đẻ...
Coi: sống trong một chế độ mà lường gạt, dối trá và nghi ngờ
là chủ trương xuyên suốt mà bà Tôn Nữ Thị Ninh lại đặt ra “luật chơi là
nói không với thiếu trung thực” và còn nói bằng ngoại ngữ nữa (cơ) thì
“giai đoạn cấp phép” e sẽ còn “bùng nhùng” cho đến Tết hoặc (không chừng) cho tới khi ... bà ấy chết!
Theo nhà báo Huy Đức:
“Chủ nghĩa xã hội là một thực thể chỉ có thể hiểu được bằng sự
trải nghiệm” (*). Tuổi đời của bà TNTN (ngó bộ) hơi nhiều, thời
gian “trải nghiệm” với xã hội chủ nghĩa (xem ra) cũng không phải ít.
Rõ ràng, bà là một người hiểu chậm.
Bữa nay – nhằm ngày cuối tuần – tôi cũng đang (rất) rảnh nên
xin được phép góp ý cùng bà Tôn Nữ Thị Ninh, với hy vọng giúp cho
chuyện xây dựng viện đại học Trí Việt được nhanh chóng và toàn hơn
chút xíu.
Về địa điểm, tôi đề nghị bà Ninh nên lắng nghe qua lời khuyên
của một nhân vật có thẩm quyền – giáo sư Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ
trưởng Bộ TN&MT: ” Không ‘bôi trơn’ không có đất đâu!”
Kế tiếp, xin nghe lời phát biểu của một nhân vật đã có kinh
nghiệm (và thành công) trong việc thành lập một đại học tư ở Việt
Nam – qua lời tường thuật của giáo sư Đào Trung Đạo, đọc được trên RFA vào hôm 9 tháng 9 năm 2012:
“Mới đây tôi có một người bạn ở Việt Nam du lịch sang Mỹ – anh
ta khá thành công trong những dự án kinh doanh kể cả việc đầu tư thành
lập đại học tư thục...
Dựa vào sự hiểu biết chung chung của tôi (cũng như của hầu hết
mọi người về chế độ cọng sản hiện nay) nên tôi hỏi anh (giả bộ ngớ
ngẩn): nói chung anh chốt cho tôi hiểu một điểm quan trọng nhất về lý do
của sự hiện hữu và tồn tại của toàn bộ những cơ sở sinh hoạt kinh tế,
xã hội, giáo dục, y tế, báo chí, tòa án… (dĩ nhiên không thể kể vào danh
sách này những cơ sở do chính quyền lập ra) ở Việt Nam hiện nay, thì
câu trả lời khá ‘hài’ của anh ta là:ở tất cả những cơ sở đó luôn
luôn có một cái ‘bàn thờ vô hình’ trên đó ‘ngự’ một cán bộ cọng sản đã
được bố trí ngồi vào đó bất kể khả năng và tư cách của anh ta. Và ở phía
dưới cái bàn thờ đó các anh có thể bỏ công sức làm bất cứ điều gì các
anh cho là đúng đắn hữu ích trong một giới hạn có thể chấp nhận được
(giới hạn này khá rộng rãi kể cả những hành vi tham nhũng, vô đạo đức)
nhưng tuyệt đối không được đụng đến cái bàn thờ này, nhất là đừng có ý
định ngồi vào đó thì mọi chuyện sẽ ‘cũng được thôi’.
Ngẫm nghĩ về nhận định khá ấn tượng của anh bạn tôi thấy mình
vẫn thuộc vào loại ‘thiếu đào sâu tư tưởng’ vì sờ sờ trước mắt toàn bộ
con dân Việt đều bị đặt dưới cái bàn thờ khổng lồ là cái Lăng Bác ở Hà
Nội! Vì chủ nghĩa cộng sản chính thức đã trở thành một tôn giáo và đúng
như di huấn của Marx ‘tôn giáo là thuốc phiện’ cho nên Đảng đã biến dân chúng thành những người nghiện kinh niên.
Nhưng nghĩ xa hơn thêm chút nữa, căn cứ vào những gì đã và đang
xảy ra thì tôi thấy: Thứ nhất, bàn thờ cũng có nhiều thứ bậc cao thấp.
Thứ nhì, giữa những anh ngồi trên những bàn thờ khác nhau đó không phải
là lúc nào họ cũng ‘nhất trí’ nhưng nhiều khi lại còn âm thầm tìm cách
‘đàn áp’, hất cẳng nhau vì ngồi trên những bàn thờ này vốn là những ma
quỉ. Đấy là cảnh tượng của một thứ tôn giáo thờ ma quỉ. Tình hình chính
trị hiện nay dường như đang diễn ra sự cạnh tranh thứ bậc của ba bàn thờ
ma quỉ: ‘Tổng Bí thư’, ‘Chủ tịch Nước’, và ‘Thủ tướng’ dưới sự chứng kiến câm nín của ‘Bàn thờ Bác.”
Có lẽ vì chưa chọn được một cái “bàn thờ” thích hợp nên nhiều năm
đã trôi qua mà Đại Học Trí Việt vẫn còn đang phải ... chờ cấp phép.
Sự cân nhắc và thận trọng của bà Tôn Nữ Thị Ninh, trong hoàn cảnh hiện
tại, nên được đánh giá cao. Nếu không, mai hậu, Đại Học Trí Việt sẽ
gặp “rắc rối” (y như Đại học Dân lập Hùng Vương bây giờ) chỉ vì chọn
nhầm ... cái bàn thờ nên gặp “rắc rối” và lôi thôi lớn – theo như
tường thuật của BBC, nghe được vào hôm 19 tháng 9 năm 2012:
“Thời gian gần đây, hai chị em ông Đặng Thành Tâm đã gặp một
số rắc rối. Ngoài việc bà Yến bị tố cáo không trung thực, ông Tâm
cũng bị đình chỉ chức Chủ tịch và Hiệu trưởng Đại học Dân lập Hùng
Vương, cơ sở mà ông hỗ trợ tài chính, hồi tháng Ba vì “vi phạm nguyên
tắc quản lý."
Trong khi chờ đợi thực hiện Dự Án Đại Học Quốc Tế Trí Việt (Tri Viet International University Project) giảng dậy bằng Anh Ngữ, hàng ngày vẫn có những cô giáo ở miền xuôi như cô “Đinh Thị Vin từ Phú Thọ rừng cọ đồi chè lên Mường Tè theo tiếng gọi tình nguyện...
nói tiếng Mông để dạy tiếng phổ thông, ăn mèn mén, sắn khô, măng rừng,
với ước mơ giản dị là một ngày nào đó sẽ có một đứa trò nhỏ người Mông
thi đậu vào đại học.”
Cùng lúc, nhiều bậc thức giả cũng đang chăm lo những dự án “giản dị” không kém – như Dự Án Bữa Cơm Có Thịt
của của tiến sĩ Trần Đăng Tuấn và nhà văn Phạm Ngọc Tiến (cùng với
nhóm bằng hữu của hai ông) cho những học sinh ở vùng cao. Trước những sự
kiện này, nhà báo Trương Duy Nhất đã thốt lên đôi lời vô cùng cảm khái:
“Có một lúc nào đó, chúng ta góp tiền không phải để mua thịt cho
các bé học sinh nghèo Tây Bắc, mà để dựng tượng đài những thầy cô giáo
trẻ từ xuôi lên sống và dạy học ở Tây Bắc? Sẽ không phải là tượng đài
hoành tráng. Hãy là tượng đài mà người ta nhìn thấy ở đó cái rét tê buốt
trong lớp học và ánh lửa nhẫn nại trong bếp độc thân.”
Rồi ra, không chừng, dám cũng sẽ có tượng đài của bà Tôn Nữ Thị
Ninh – người (trước khi chuyển qua từ trần) đã có ý hướng độc đáo là
sẽ xây dựng một trường đại học quốc tế, với sứ mệnh Trí Cao – Tâm Rộng – Tầm Xa trong một chế độ mà những kẻ cầm quyền tầm nhìn thì chỉ thấp bằng con kiến, và lòng dạ thì bé xíu như một cái cây tăm.
T.N.T
(*) Huy Đức. Bên Thắng Cuộc. Westminster: OsinBooK, 2012. Vol.2.
NGUYỄN HƯNG QUỐC * XÃ HỘI DÂN SỰ
Xã hội dân sự ở Việt Nam: Một bức tranh lệch lạc và dang dở
Filed Under Nguyễn Hưng Quốc
Nguyễn Hưng QuốcVOA -31.01.2013
Hầu hết các tài liệu viết về xã hội dân sự ở Việt Nam, chủ yếu bằng tiếng Anh đều nhấn mạnh: Xã hội dân sự chỉ mới manh nha tại Việt Nam từ giữa thập niên 1980, khi chính phủ và đảng cầm quyền công bố chính sách đổi mới. Thật ra, không phải. Theo tôi, đó chỉ là một cái nhìn phi lịch sử và đầy thiên kiến chính trị: Một cách vô tình hay cố ý, người ta hư vô hoá sự tồn tại của một nửa nước tương đối tự do trong thời kỳ 1954-75.
Từ những góc nhìn khác nhau, người ta có thể phê phán chế độ Việt Nam Cộng Hòa về nhiều điểm, từ chính trị đến quân sự, từ kinh tế đến xã hội. Tuy nhiên, có một điều không thể phủ nhận được: ở miền Nam, từ 1954 đến 1975, xã hội dân sự được phát triển một cách mạnh mẽ. Số lượng các tổ chức (chính thức và không chính thức) có tính chất tự nguyện, phi lợi nhuận, độc lập với nhà nước, của những người có cùng sở thích hoặc lý tưởng chung, nhiều vô cùng.
Không những nhiều mà còn đa dạng. Hầu như ở lãnh vực nào cũng có. Có những tổ chức có gốc gác từ ngoại quốc như: Hội Hồng Thập Tự (bây giờ gọi là Hội Chữ Thập Đỏ) hay Hướng Đạo. Có những tổ chức liên quốc gia như Hội Việt – Mỹ hay Hội Việt – Pháp, Việt – Đức. Các tôn giáo, ngoài một tổ chức thống nhất chung, còn có nhiều tổ chức nhỏ, như Công giáo thì có Phong trào Thiếu nhi Thánh thể, Hùng Tâm Dũng Chí và Thanh niên Sinh Công; Phật giáo thì, ngoài Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, có Hội Phật Học Việt Nam, Gia đình Phật tử, Thanh niên Phật tử… Địa phương nào cũng có các Hội đồng hương, Hội tương trợ hoặc Hội tương tế. Với người già thì có các Hội cao niên; với người trẻ thì, ngoài Hướng Đạo, còn có các tổ chức như Đoàn Thanh niên Thiện chí, Du Ca, Đoàn Văn nghệ Thanh niên Tiên Rồng, Đoàn văn nghệ Thanh niên Học sinh (còn có tên là Phong trào Nguồn sống), Thanh niên Phụng sự Xã hội, Đoàn Công tác Xã hội Sinh viên Học sinh. Ở các đại học đều có Hội Sinh viên; ở Sài Gòn và Huế còn có Tổng hội Sinh viên. Trong lãnh vực văn hóa cũng có rất nhiều tổ chức dân sự như: Cơ quan Khảo cứu Văn hóa Kỹ thuật Việt Nam, Tổng hội Khổng học Việt Nam, Tổng hội Việt Nam cổ học, Hội Việt Nam Văn hóa Á châu, Hội Giáo dục Bình dân Việt Nam… Về báo chí, có Nghiệp đoàn Ký giả Nam Việt, Hội Ái hữu Ký giả Việt Nam, Nghiệp đoàn Ký giả Việt Nam…Về văn học thì có Trung tâm Văn bút và vô số các thi văn đoàn ở mọi nơi. Một số tạp chí lớn hoạt động như một nhóm với một số cây bút chính làm hạt nhân, từ đó, chúng ta có nhóm Văn hóa Ngày nay, nhóm Sáng Tạo, nhóm Quan Điểm. Về mỹ thuật, ngoài Nghiệp đoàn Hội họa Việt Nam, còn có Hội hoạ sĩ trẻ. Về âm nhạc thì lại càng phong phú.
Một số tổ chức trên có thể nhận được sự tài trợ của chính quyền, nhưng ngay cả trong trường hợp ấy, họ cũng có tự do để hoạt động một cách độc lập, theo quy chế tự quản. Ngoài ra, còn có vô số tổ chức được thành lập chỉ với mục đích chống chính quyền như Ủy ban Cải thiện Chế độ Lao tù (của Linh mục Chân Tín), Phong trào Phụ nữ đòi Quyền sống (của Ngô Bá Thành), Ủy ban Tranh đấu cho Tự do Báo chí và Xuất bản (của Nguyễn Văn Bình), Ủy ban Bảo vệ Quyền lợi Người lao động (của Phan Khắc Từ), Lực lượng Hoà hợp Hòa giải Dân tộc (của Vũ Văn Mẫu), v.v.
Không những ở miền Nam thời 1954-75, ngay cả trước đó nữa, từ đầu thế kỷ 20, dưới thời Pháp thuộc, xã hội dân sự cũng đã phát triển khá mạnh mẽ. Ngoài các tổ chức chính trị chống Pháp, một cách công khai hay bí mật, còn có vô số các tổ chức xã hội, văn hóa, giáo dục rải rác khắp nơi, đặc biệt tại các thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội và Huế. Nông dân thì lập các Nông hội; học sinh sinh viên thì lập các Học hội; phụ nữ cũng lập các Hội phụ nữ dưới nhiều danh xưng khác nhau; phần lớn các tổ chức Phật giáo hoạt động sau này đều có tiền thân từ trước năm 1945: Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học (1930), Hội An Nam Phật học (1932), Hội Phật giáo Bắc kỳ (1934)… Về phương diện văn hóa, nổi bật nhất là Đông Kinh nghĩa thục (1907), Hội Khai trí Tiến Đức (1919-45), nhóm Tự Lực văn đoàn (nhóm này cũng tổ chức Phong trào Ánh sáng nhắm vào các hoạt động xã hội), và Hội Truyền bá Quốc ngữ (1938-45, do Nguyễn Văn Tố làm Hội trưởng).
Nếu đi ngược thời gian, trước thế kỷ 20, dưới thời phong kiến, chúng ta cũng có thể bắt gặp một hình thức phôi thai của các tổ chức xã hội dân sự. Ở các trường học vốn có chút tính chất thương mại (để nuôi sống các thầy đồ) nhưng nhiều hơn, tính chất văn hóa, nơi thầy trò và các đồng môn gặp gỡ và trao đổi với nhau về các chuyện học thuật, văn chương cũng như thế sự. Ở các tao đàn (trừ Tao Đàn Nhị thập bát tú vốn có tính quan phương do vua Lê Thánh Tông thành lập và làm Đô nguyên súy) như Chiêu Anh các của Mạc Thiên Tứ, Tùng Vân xã (còn được gọi là Mặc Vân thi xã) của Tùng Thiện vương. Vân vân.
Trong cuốn Civil Society in China (1), Timothy Brook phác họa sự phát triển của xã hội dân sự – qua các tổ chức có tính chất tự trị – ở Trung Quốc qua hai thời kỳ, từ thế kỷ 16 đến năm 1911 (thời nhà Thanh) và từ 1911-1949 (thời Cộng Hòa) như sau:
Các tổ chức tự trị ở Trung Quốc | ||
Nguyên tắc | Từ thế kỷ 16 đến 1911 | Từ 1911-1949 |
1. Theo địa phương (locality) | Làng xã Hội đồng hương |
Hội đồng làng, khu phố Hội đồng hương |
2. Theo nghề nghiệp (occupation) | Phường hội | Hội kinh đoanh, hội nghề nghiệp, nghiệp đoàn |
3. Theo sở thích (fellowship) | Các hội đạo | Tổ chức tôn giáo, nhà thờ |
Tổ chức từ thiện | Tổ chức từ thiện, phát triển xã hội | |
Nhóm văn nghệ | Hội kịch nghệ, đoàn âm nhạc, câu lạc bộ sách, câu lạc bộ thể thao, hội phụ nữ, đoàn thanh niên | |
Trường học | Trường tư, đại học, hội sinh viên, hội cựu học sinh, hội nghiên cứu | |
4. Theo lý tưởng chung (common cause) | Đảng phái chính trị, các nhóm vận động chính sách |
Ở đây, với cái nhìn thoáng qua như trên, chúng ta có thể thấy được một số điểm:
Thứ nhất, xã hội dân sự đã manh nha ở Việt Nam từ trước thế kỷ 20.
Thứ hai, từ đầu thế kỷ 20 trở đi, nó đã thực sự hình thành và phát triển.
Thứ ba, ở miền Nam, trong giai đoạn từ 1954 đến 1975, nó nở rộ.
Thứ tư, chỉ ở miền Bắc, từ sau 1954 và ở cả nước, sau năm 1975, xã hội dân sự mới bị triệt tiêu.
Ở đây lại nảy ra hai vấn đề:
Thứ nhất, xã hội dân sự dưới thời Pháp thuộc cũng như ở miền Nam có đóng vai trò gì đáng kể trong quá trình dân chủ hóa xã hội hay không?
Thứ hai, tại sao đảng Cộng sản lại cấm đoán xã hội dân sự?
Để trả lời một cách thuyết phục cho câu hỏi thứ nhất, cần có những công trình nghiên cứu công phu và công tâm. Cho đến bây giờ, chúng ta vẫn chưa có. Đành chờ.
Với vấn đề thứ hai, câu trả lời tương đối dễ: Đó là chính sách. Chính sách ấy gắn liền với các quan điểm quan trọng trong chủ nghĩa Mác, được Karl Marx đề cập và được Antonio Gramsci, một nhà Mác-xít lỗi lạc ở đầu thế kỷ 20, khai triển, từ đó, được áp dụng rộng rãi trong tất cả các chế độ xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Cho đến ngày các chế độ ấy bị sụp đổ.
Chú thích:
1. Timothy Brook & B. Michael Frolic (1997), Civil Society in China, New York: M.E. Sharpe, tr. 25.
*****
Nguồn:
http://www.voatiengviet.com/content/xa-hoi-dan-su-vietnam-buc-tranh-dang-do/1593984.html
About these ads
Friday, February 1, 2013
DƯƠNG THU HƯƠNG * CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN
Lột Trần Chế Độ CS
Dương Thu Hương
Đối với thế giới, uy tín của chính quyền cộng sản Việt Nam đã mất từ lâu, mất một phần khi xảy ra cuộc chiếm đóng Cambodia, mất toàn phần khi làn sóng thuyền nhân tràn lên các đại dương và xác chết của họ trôi khắp bãi bờ các quốc gia khác.
Với dân chúng trong nước, giờ đây họ thôi là nhà cầm quyền vĩ đại. Bởi
sự thoát đồng đã xảy ra từ rất lâu, họ thôi là thượng đế và dân chúng
thôi là những con nộm bị điều khiển bằng thứ tôn giáo do kẻ cầm quyền
sáng tác.
Dân
chúng đã nhìn rõ bản mặt của họ: những con vật đi bằng hai chân, những
con vật tham tàn, những con vật đang run sợ vì sự tham tàn của chúng
không còn được bóng tối che đậy.
Nhà cầm quyền Hà Nội lúc này chỉ còn tin vào nòng súng. Nhưng bất kì
kẻ cầm súng nào cũng có lúc chết vì chính thứ vũ khí mà họ sử dụng. Bởi
vì, chẳng có thứ vũ khí nào tự động nhả đạn. Vũ khí nào cũng cần bàn
tay của con người, dù là bàn tay bấm nút chiến tranh hạt nhân hay bàn
tay cầm dao găm, súng lục. Khi con người đã nhìn rõ sự thật, khi
họ không còn bị huyễn hoặc bởi các trò mị dân, khi họ hiểu họ là ai và
họ có thể làm chủ số phận của họ bằng cách nào, lúc ấy, các nòng súng sẽ đổi hướng.
Tiếng nhạc ầm ĩ trong ngày hội “Ngàn năm Thăng Long” hẳn đã át đi tiếng
nức nở của trên năm mươi gia đình nạn nhân chết vì bão lụt ở miền
Trung. Các quan chức Hà Nội không bỏ ra một nửa giây để tưởng niệm
những kẻ xấu số. Họ quên. Cũng như họ đã từng quên những người dân
đánh cá tỉnh Thanh bị giặc Tầu giết ngoài khơi, như họ quên các chiến sĩ
đã bỏ mình trên biên giới vào cuộc chiến tranh năm 1979. . .
Họ quên và họ quên. Vậy họ nhớ điều gì?
Khi con gái họ có nhu cầu mua một chiếc váy cưới xấp xỉ 200. 000 euros
tại đại lộ Champs Elysées thì họ phải nghĩ cách làm đầy thêm các ngân
khoản ở ngân hàng ngoại quốc. Khi nhân tình của họ cần chiếc xe hơi
sang trọng như xe của cô Hồ Thu Hồng thì họ phải nghĩ cách để kiếm cho
bằng được chiếc xe ấy, để nàng khỏi tủi thân vì kém chị kém em. Khi
ngôi lầu của họ chỉ đáng giá hai triệu đô la mà của kẻ khác giá gấp đôi
thì họ phải tìm cách đuổi kịp và vượt hắn. Đó là mối quan tâm cốt lõi
của giai cấp tư sản đỏ Việt Nam giờ đây, cái guồng quay cũ kĩ của đám
mới giầu.
Ai đó từng nói câu này: “Trong giai đoạn tích luỹ tư bản, giai cấp tư sản có thể giết chết cha đẻ của họ để có tiền”.
Giai cấp tư sản đỏ Việt Nam cũng có chung một trạng thái tâm lý đó:
khát tiền, làm mọi thứ để có tiền, bất kể phương tiện nào, dù đó là tội
ác. Nhưng tư sản đỏ Việt Nam không cần giết bố, bởi họ có một đối tượng khác dễ giết hơn nhiều: dân đen.
Họ không cần đốn ngã kẻ sinh thành bởi có thể hút máu dân đen một cách
thoả thuê, vừa thoả mãn cơn khát tiền lại vừa yên ổn lương tâm vì không
mắc tội giết cha.
Lấy ví dụ về tập đoàn Vinashin.
Mua một vỏ tầu cũ nát, đáy nứt, không thể vận hành, lấy sơn quét lên
rồi rút hàng triệu đô la trong công quỹ. Hàng triệu đô la ấy quan lớn
bỏ túi, còn con tầu “bãi rác” sơn bóng loáng kia được đặt trên đất liền
để làm “hiện vật bảo tàng”.
Nghe tưởng như chuyện đùa. Nghe như tiếu lâm. Thứ tiếu lâm cười ra nước mắt. Chỉ có ở Việt Nam , nơi kẻ cầm quyền coi dân là lũ trâu bò, mới dám làm điều ngang ngược đó. Chỉ có ở xứ Việt Nam
, khi tất cả các cuộc kí kết, thương thuyết của chính phủ đều diễn ra
trong bóng đêm và dân chúng không được quyền biết đến mới có thể xảy ra
hiện tượng này.
Lấy ví dụ thứ hai:
các vụ buôn người. Dưới chế độ độc đảng, độc tài, ai có thể làm được
điều này nếu không là chính các thành viên trong chế độ ấy. Tại sao lại
buôn người? Vì buôn người thu lời nhanh nhất, mà vốn đầu tư coi như
zero nếu có quyền hành. Cho nên, buôn người là nghề mới của đảng cộng sản Việt Nam , đảng thừa thãi quyền hành vì không có đối trọng.
Đã
là lái buôn, ắt phải tham. Lòng tham mà không bị điều tiết bởi các
điều luật thì nó sẽ phát triển vô cùng tận. Do đó, món hàng hoá có tên
gọi là “dân đen”của các quan chức Việt Nam sẽ được khai thác tối đa để làm đầy túi các bậc trị vì dân.
Khi đã coi dân chúng là hàng hoá, ắt người cộng sản phải tìm mọi cách
để đám dân đen trở thành vật vô tri, tức là các công cụ, thứ công cụ này
có chức năng sản xuất nhưng phải câm và phải điếc. Khi mà các công cụ dân đen không chịu nổi đàn áp, buộc mở mồm thì lập tức họ có cách để bắt nó phải câm. Vũ khí đó có tên gọi “chuyên chính”, bộ máy đàn áp trứ danh lâu nay.
Hãy đọc báo Công an nhân dân đưa tin về vụ xử ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do ngày 27 tháng 10 năm nay:
“Được Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu Uỷ ban bảo vệ người lao động Việt Nam
đưa Hùng, Hạnh sang Malaysia đào tạo, huấn luyện, rồi từ ngày 28/1 đến
ngày 9/2/10, Trần Ngọc Thành đã chỉ đạo Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị
Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình, rải
truyền đơn ở Trà Vinh, Đồng Nai, Tp HCM, nội dung kêu gọi người dân
chống lại Đảng, Nhà nước, kêu gọi đấu tranh để đòi dân chủ; lợi dụng các
vấn đề còn thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân ở
một số khu công nghiệp để tổ chức tuyên truyền, kích động công nhân đình
công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp.
. .”
Thứ nhất,
tác giả bài báo này quên rằng “Kích động công nhân đình công, biểu
tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp” là đích xác
các hành động của người cộng sản Việt Nam những năm trước cách mạng.
Các hành động này cũng đã từng xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới,
khi giai cấp lao động không chịu nổi sự áp bức và bóc lột của đám chủ
nhân. Các phản ứng tiêu cực này chỉ xảy ra khi sự thoả thuận giữa người
làm công với kẻ trả công bị vi phạm và cuộc sống của người lao động bị
đe doạ.
Phải
chăng tác giả bài báo này cho rằng chỉ riêng đảng cộng sản vĩ đại của
ông ta là được quyền sử dụng chiêu thức ấy còn những người khác thì bị
cấm vì họ không được là người mà chỉ là thứ phẩm của người, tức “dưới
người”, nói cách khác: “người vượn Néandertal”?
Thứ hai,
câu “lợi dụng các vấn đề thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương
của công nhân. . . ” chỉ là lối mỹ từ hoá sự vật. Nói một cách xác thực
và dân giã, hiện nay các quan lớn cộng sản Việt Nam đang thực thi chính
sách “bòn nơi khố quạnh, đãi nơi quần hồng”.
Tại sao lại “bòn nơi khố quạnh”?
Vì ngu, vì tham, vì trước ngoại nhân thì dốt nát và khiếp nhược nên các
quan lớn chỉ có lối kiếm tiền dễ nhất là bóc lột đồng bào mình, những
người không có phương tiện để tự bảo vệ, những kẻ bị hà hiếp, bị tê liệt
cùng một lần vì đói nghèo và sợhãi.
Tại sao lại “đãi nơi quần hồng”?
Vì người cộng sản lúc này thôi còn là cộng sản, họ đã trở thành đám tư
sản dù vẫn giữ vẻ mặt ngô nghê và bộ điệu lố bịch của kẻ cách đây chưa
lâu còn lo le sợi dây giong lợn giống hoặc lúc lắc cái ống bơ đựng xu lẻ
ăn mày. Khi đã đổi vai thì họ phải bám vào cái giai cấp tương lai của
họ, giai cấp mới này chính là đám quần hồng, thế nên họ phải đãi đám
quần hồng để còn kiếm chác phần đường mật trong đũng cái quần hồng ấy.
Sự thật đơn giản, nếu người ta nhìn thẳng vào nó.
Đám cầm quyền hôm nay đã rơi từ đỉnh cao của sự “kiêu ngạo cộng sản”
xuống vũng bùn của“các con lợn truỵ lạc phương Tây” mà trước đây họ
thường sa sả chửi rủa, họ đang sống xả láng trong cảnh phồn vinh mà
trước đây họ mỏi mồm lên án. Nói tóm lại, họ đang là thứ “khỉ khoác quần áo”, thứ “nhặt cái đuôi của bọn tiểu tư sản cắm vào lỗ mồm” như ông tổ hói đầu Lenin của họ từng cảnh báo trước đây.
Trong cuộc sống tối tăm, nhục nhằn của người nô lệ, các anh hùng đánh
đuổi ngoại xâm chính là các bậc thánh sống, được tôn trọng, thần phục,
ngưỡng mộ, và có toàn quyền trở thành các nhà sáng lập triều đình.
Nhìn lại lịch sử, ta dễ dàng chiêm nghiệm điều đó. Phải chăng triều
Lý, triều Trần, triều Lê, triều Tây Sơn Nguyễn Huệ đều được khởi dựng
sau các chiến thắng lẫy lừng chống kẻ xâm lăng? Ngoại trừ Đinh Bộ Lĩnh
là viên tướng phất cờ khởi nghĩa dẹp loạn sứ quân, thống nhất đất nước,
nói một cách dễ hiểu là viên tướng duy nhất xây dựng triều đình khi
chiến thắng các cuộc nội chiến phân quyền, còn lại, những gương mặt sáng
chói trong lịch sử đất Việt đều là những anhhùng chống Tầu và chống
Nguyên – Mông. Các triều vua này từng tuyên bố “Sông núi nước Nam vua
Nam ở”.
Và cuộc sống mái của họ là giành mục đích người Việt Nam là người Việt
Nam, dẫu áo vải quần thâm nhưng đàn ông nhất quyết không cạo trọc, tết
sam như gã A. Q, đàn bà không bó chân như các mợ Tầu.
Tuân theo logic ấy, triều cộng sản được hình thành là nhờ nó có công
trong cuộc cách mạng chống giặc Tây. Và người ta còn khoan dung cho nó
là vì tính đến cái công ấy, cái công “dành độc lập dân tộc”, cái khả
năng nối tiếp
truyền thống của các Vua nước Nam nhất thiết phải ở đất nước Nam, coi
sự tồn tại của non sông quý hơn tròng mắt của chính họ.
Cái tinh thần bất khuất ấy, còn hay chăng?
Còn hay chăng, tinh thần dân tộc của những người đã đổ máu để cắm
ngọn cờ hồng lên thành Hà Nội sáu mươi lăm năm trước, những cảm tử quân
đã ôm bom ba càng vào mùa đông năm 1946 với lời thề “Quyết tử cho tổ
quốc quyết sinh”?
Nếu những anh hùng vô danh ấy có linh hồn, hẳn các linh hồn ấy giờ đây đang nức nở.
Nếu những hiển linh của các vua xưa có thể cất lời, thì lời đầu tiên họ
nói sẽ là “Lũ người này đã phản bội lại dân tộc, bọn sâu bọ này đã bôi nhọ mặt chúng ta!”
Ngày Hội Ngàn năm Thăng Long diễn ra vào đúng ngày 1 tháng 10, thằng mù cũng biết đó chính là ngày Quốc khánh Trung Quốc. Tại sao lại là con số này? Tại sao có sự lựa chọn này? Vô ý chăng? Nhầm nhỡ chăng? Mất trí nhớ chăng?
Cứ coi như Bộ trưởng Bộ Văn hoá dốt nát thì trên đầu ông ta còn mười
một người trong bộchính trị. Không lẽ cả mười một người này mắc chứng
mất trí nhớ? Không lẽ cả mười một người này mắc bệnh thiểu năng?
Nếu
để cho mười một kẻ thiểu năng đứng trên đầu trên cổ mình thì dân Việt
xứng đáng là các bệnh nhân của trại tâm thần, một trại tâm thần khổng lồ
chưa từng thấy mà trong đó các con bệnh bị tiêm
thuốc ngủ liều cao liên miên nên đờ đẫn, không còn khả năng nhận thức
sự vật xung quanh. Nếu không, họ đã bị bán đứng cho Tầu, và tương lai
của họ, một tương lai không tránh được sẽ là bản sao lại sầu thảm của
những người dân Tây Tạng hoặc Tân Cương một khi họ bó tay trước lũ bán
nước.
Chọn ngày Quốc Khánh Trung Quốc để mở hội Ngàn năm Thăng Long là một biểu tượng hai mặt.
1. Với triều đình Bắc Kinh
chính phủ Hà Nội đã làm bản tuyên bố: Thành Thăng Long cũng chỉ là một
bộ phận trong lịch sử mẫu quốc, nó phải được treo đèn kết hoa cùng một
lần với đèn hoa của thủ phủ đại triều. Một khi thủ đô của một quốc gia
đã định vị nhưvậy, có nghĩa quốc gia ấy tự xác nhận danh tính chư hầu
một cách công khai. Sự kiện này là bản giao kèo bộc lộ lòng trung thành
vô hạn và vô điều kiện của đám hàng thần Hà Nội.
2. Với dân chúng,
đây cũng là lời tuyên bố thẳng thừng: Chúng tao bất chấp lịch sử, chúng
tao có toàn quyền định đoạt vận mệnh đất nước. Kẻ nào chống lại, kẻ đó
sẽ bị tiêu diệt.
Chọn ngày quốc khánh Trung Hoa để mở hội Ngàn năm Thăng Long là bằng
chứng hiển nhiên để mảnh vải rách cuối cùng che thân chế độ cộng sản rơi
xuống. Họ đã trở thành kẻ bán nước, công khai hoá hành vi bán nước của mình.
Nếu như năm 1945, cha anh họ là các anh hùng giải phóng dân tộc thì giờ đây, trái lại, họ là những tên phản tặc, sỉ nhục của tổ tiên, chẳng những cắt đất, cắt biển dâng cho giặc mà còn đương nhiên ném bùn lên lịch sử.
Người Việt Nam ta có câu “hổ phụ sinh cẩu tử”. Mà bọn người này, không
những là những con “cẩu tử” mà còn là “cẩu ghẻ”, “cẩu sida”.
Những người cầm quyền Hà Nội thừa thông minh để hiểu rằng họ là
những con cẩu ghẻ. Rằng trong dòng máu của bất cứ người Việt nào cũng
lưu cữu một thành tố có tên gọi “chống ngoại xâm”, mà thứ ngoại xâm
thống trị lâu dài nhất, tàn độc nhất, để lại các kinh nghiệm đau thương
sâu đậm nhất trong kí ức là “giặc phương Bắc”.
Cuộc thực dân hoá của Pháp 100 năm chỉ là cơn bão chóng qua so với thời
kì bắc thuộc của giặc Tầu. Họ biết rằng bất cứ kẻ nào phản lại truyền
thống đấu tranh dân tộc, kẻ đó mất chỗ đứng trong lòng dân chúng. Ngày
hôm trước còn được tung hô hoàng đế, hôm sau đã biến thành “Thằng chó
săn, thằng phản tặc, phường bán nước”.
Đó là trường hợp vua Lê Chiêu Thống đã phải chịu do hành vi bán nước
của ông ta. Còn câu ca “Nguyễn Ánh cõng rắn về cắn gà nhà” mãi mãi là
bài học lịch sử tố cáo tội ác của kẻ đặt lợi ích dòng họ trên quyền lợi
dân tộc. Giờ đây, nhà cầm quyền Hà Nội biết rằng họ đã bị đẩy sang bên
kia đường biên, họ rơi vào cùng một bè lũ với Lê Chiêu Thống và Nguyễn
Ánh.
Để đặt tên cho họ một cách rõ ràng và chính xác, tôi xin nhại lại câu
“cõng rắn về cắn gà nhà” của các cụ xưa mà rằng nhà cầm quyền Hà Nội giờ
đây là bọn “dẫn hổ về thịt dê nha“
DẪN HỔ VỀ THỊT DÊ NHÀ.
Tại sao lại là hổ và dê?
Hổ,
vì vương triều phương Bắc bây giờ mạnh hơn thực dân Pháp năm xưa nhiều
lần, để so sánh một cách chính xác thì phải dùng hình ảnh con hổ chứ
không thể là con rắn.
Dê, vì nhìn lại bản đồ, bạn đọc sẽthấy rằng toàn bộ bán đảo Đông Dương có thể ví như một con dê mà Tây nguyên chính là phần sống
lưng con dê đó. Một khi con hổ Trung Hoa cắm được móng vuốt lên chính
giữa lưng con dê này, coi như số mạng con dê đã nằm trong hai hàm răng
của nó.
Đế quốc Trung Hoa sẽ
trải rộng khắp châu Á. Việt, Miên, Lào sẽ trở thành các tỉnh thành
khác nhau của Trung Hoa, “công đầu” này thuộc về ai nếu không là nhà cầm
quyền Hà Nội, kẻ dựng lên công trình bauxite Tây nguyên?
Bauxite ư? Trò lừa đảo!
Thiếu
gì các quặng bauxite rải rác khắp miền Bắc Việt Nam , tại sao không là
Lào Cai, Yên Bái hay Cao Bằng mà lại là Tây Nguyên? Vả chăng, khai thác
bauxite để làm gì? Kiếm tiền chăng? Dối trá! Biết bao bài báo đã phân
tích chán chê lợi hại về khai thác bauxite, kể cả các tài liệu trên thế giới
cũng công bố rộng rãi tác hại của nó, mà vụ gần đây nhất là Vùng bùn đỏ
Hungaria. Còn có thể nói thêm được điều gì khi mà sự bán nước hiển
nhiên đã bầy ra trước mặt dân chúng, giữa thanh thiên bạch nhật?
Nhà cầm quyền Hà Nội hoàn toàn có ý thức về hành vi bán nước của họ, bởi con tính của họ là trở thành một thứ “Thái thú Tô Định hiện đại”, được hưởng đủ phần xôi thịt của Bắc triều.
Còn Việt Nam biến thành một tỉnh nào đó của Trung Quốc, mang tên Quảng
Việt, Quảng Nam, Quảng Lạc. . . họ không cần quan tâm.
Họ biết rõ rằng hành động của họ là đi ngược lại lợi ích của nhân dân,
biết rằng không người Việt nào cam tâm làm nô lệ cho Tầu, rằng kinh
nghiệm đau đớn của tổ tiên luôn luôn sống trong ý thức lẫn vô thức dân
tộc, thế nên họ chủ trương đàn áp dân chúng, họ chủ trương dùng bàn tay sắt để bóp nghẹt cổ những ai muốn nói lời phản kháng. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2009, thứ trưởng bộ nội vụ Nguyễn Văn Hưởng tức Trần đã công khai dọa nạt những người trí thức Việt Nam vào dịp viện IDS của tiến sĩ Nguyễn Quang A tuyên bố giải tán.
Ông nghị Trần nói rằng
“Ở Việt Nam đảng độc quyền lãnh đạo nên không thể có phản biện. Phản
biện tức là phản động. Các anh muốn phản biện hả? Nhà tù đang còn nhiều
chỗ lắm. Nhưng chúng tôi cũng không cần đến nhà tù, chúng tôi có các
phương tiện hữu hiệu hơn. Tai nạn xe cộ bây
giờ tổ chức rất dễ dàng. Còn một biện pháp rẻ hơn và nhàn nhã hơn: đầu
độc. Các anh uống cà phê rồi khi về đến nhà thì cứng đơ ra mà chết.
Những bài bản này thế giới sử dụng đã lâu, chúng tôi cũng không thua kém
họ. . . ”
Những lời lẽ này nói lên điều gì nếu chẳng phải sự công khai triệt để
của tính tội phạm và tư cách chó? Một chính thể không còn lý do chính
đáng để tồn tại thì chỉ có thể duy trì bằng bạo lực, chỉ có thể sử dụng
bọn tội phạm, bọn sát nhân, bọn cặn bã xã hội, tóm lại, bọn chó giữ
nhà.
Không còn lý tưởng, không còn đạo đức, ngập chìm trong tham lam, truỵ lạc, con người trượt từ chữ NGƯỜI sang chữ CON.
Bác chúng em
Vào những năm 1989, 1990, tôi có vinh hạnh làm quen và gặp gỡ ông Lê Giản,
người công an đầu tiên của Việt Nam, người lãnh đạo bộ máy cảnh sát từ
những năm đầu cách mạng. Ông Lê Giản đích thực là “Người công an nhân
dân, từ nhân dân mà ra, do dân và vì dân”.
Tôi hiểu vì sao cuộc kháng chiến thành công. Kháng chiến thành công vì có những người như ông Lê Giản.
Nhưng ông Lê Giản đã chết và“Người công an nhân dân”cũng đã chết theo.
Cái chết này xảy ra từ từ với thời gian, một cái chết âm thầm, nhưng
không phải là vô hình vô ảnh.
Tôi chứng minh:
Cách đây ngót ba thập kỉ, khi những lượt hoa quả đầu tiên từ phương bắc tràn vào nước ta, các phòng phân tích thuộc Bộ Nội vụ đã
báo cáo lên bộ chính trị rằng các thứ hoa quả này đều tẩm formaldéhyde
(thuốc ướp xác chết) vô cùng độc hại cho người tiêu dùng vì nó phá huỷ
mô liên kết của các tế bào và là tác nhân gây ra bệnh ung thư.
Bộ chính trị ra lệnh cấm phổ biến sự thực trên vì “sợ mất lòng nước bạn”.
Các sĩ quan công an chỉ có thể ngăn cấm chính vợ con họ và rỉ tai những người thân cận nhất (anh em ruột, cha mẹ vợ chẳng hạn), đối với người ngoài, họ
tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh cấp trên. Tuyệt đối im lặng. Tuyệt đối
thản nhiên nhìn đồng bào mình ăn thứ đồ ăn nhiễm độc, biết chắc chắn
rằng ngày một ngày hai họ sẽ ung thư và sẽ chết vì bệnh đó.
Tính kỉ luật của đám sĩ quan này mới cao thượng làm sao(!) Và cao thượng làm sao, những kẻ ngồi
quanh bàn họp bộ chính trị, những bậc lương đống của triều đình, chịu
trách nhiệm chăn dắt dân đen, đàng hoàng ra lệnh cấm rò rỉ sự thật vào
tai dân chúng, bỏ mặc mấy chục triệu người bị đầu độc và chết dần chết mòn!
Đối với tôi, con đường bán mình cho giặc của chế độ Hà Nội đã khởi sự từ ngày ấy. Và ngày ấy cũng là cái mốc đánh dấu sự chuyển biến chất lượng này: từ người công an nhân dân, công an đã trở thành kẻ quay lưng lại với nhân dân.
Ba thập kỉ đã qua, những kẻ quay lưng lại với nhân dân đã trượt không ngừng trên con dốc, để trở thành kẻ thù của nhân dân.
Bây giờ, gương mặt nào là gương mặt đích thực của công an? Người hùng bảo vệ dân hay đám chó giữ nhà cắn cổ dân để bảo vệ ông chủ của nó?
Hãy xem lại các hình ảnh đưa lên internet năm 2008 về vụ nông dân bị
cướp đất biểu tình ở Sài Gòn. Những người dân cầy gầy gò xơ xác, đa
phần là người già và phụ nữ, từ các tỉnh Tiền Giang, An Giang, Bến Tre,
Long An, Bình Thuận đổ đến trước văn phòng Quốc hội 2 với các khẩu hiệu
“Trả đất cho dân”, “Chống cửa quyền, tham nhũng”. Những người dân ấy đã
bị đám công an và dân phòng béo múp vì bia rượu, mặt hằm hằm sát khí
đối xử ra sao? Mấy thế kỉ đã
qua nhưng hình ảnh bọn người này vẫn là bản sao chính xác bọn nha lại
mà Nguyễn Du đã mô tả trong Truyện Kiều:“Đầy nhà một lũ ruồi xanh”
và“Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi”.
Gần đây nhất, hãy nhìn hình ảnh anh Nguyễn Ngọc Quang, một giáo dân ở
Định Quán, tỉnh Đồng Nai vì tham gia đấu tranh cho dân chủ mà bị công an
Đà Lạt ba lần tổ chức tai nạn xe cộ để kẹp suýt chết.
Tôi tự hỏi, có lúc nào những người công an này tự vấn lương tâm? Tại
sao họ không dùng sức lực, dùng khả năng hung bạo mà họ sẵn có để giết
những tên giặc Tầu, lũ dã nhân tàn sát những người dân đánh cá Thanh
Hoá?
Nếu
là những người mà nghề nghiệp đặt trên bạo lực, bản năng hiếu chiến
mạnh mẽ, tại sao họkhông dùng khả năng đó để tiêu diệt ngoại xâm mà lại
đi đàn áp những sinh viên yêu nước biểu tình đòi Trường Sa, Hoàng Sa
trước sứ quán Tầu? Tại sao? Vì họ thiếu trí khôn hay vì họ là những kẻ
mù loà, óc não bị khô cứng trong một cuộc sống mà ngoài việc tuân theo
mệnh lệnh cấp trên không còn khả năng nghĩ đến điều gì khác ?
Vì chưa từng là công an, nên tôi dành những câu hỏi ấy cho họ trả lời. Tôi chỉ nêu lên nhận xét thứ hai, nhận xét khi tôi nhìn tấm ảnh đoàn biểu tình đòi mạng người xảy ra tại thị xã Bắc Giang ngày 25 tháng 7 năm nay.
Nhiều người biết rằng, ngày 23 tháng 7, hai công an huyện Tân Yên tỉnh
Bắc Giang đã đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, quê quán tại
huyện Việt Yên vì tội danh không đội mũ bảo hiểm. Ngày 25 tháng 7, gia
đình anh Khương đã chở xác chàng trai này lên thị xã Bắc Giang đòi đền
mạng. Dân chúng xông lên ủng hộ gia đình nạn nhân, con số lên đến hàng ngàn người, làm thành một cuộc biểu tình rầm rộ chưa
từng có trong lịch sử tỉnh Bắc Giang, mà theo bài phỏng vấn, các cụ già
đã nói rằng còn đông hơn ngày theo Việt Minh cướp chính quyền năm Ất
dậu.
Trong sự kiện này, tôi chú ý đến một chi tiết: công an đưa xe cứu hoả
mang vòi rồng đến trấn áp dân chúng, nhưng trước khí thế căm
hờn của đám đông, công an bỏ chạy, hàng chục người dân trèo lên xe
đứng. Hiện tượng đó chứng tỏ không phải lúc nào công an cũng tê liệt vì
mù loà, luôn hành động như đám robot hoặc lũ chó berger. Trong lúc nguy khốn, họ đã tính toán và đã chọn con đường bỏ chạy để thoát thân.
Có lẽ, con tính của họ cũng đơn giản thôi. Không phải công an nào cũng phú quý vinh hoa như ông
nghị Nguyễn Văn Hưởng. Đa phần những người lính quèn chỉ đủ sức nuôi
một vợ thôi mà để nuôi cô vợ này với hai, ba đứa con kèm theo cuộc sống
của họ cũng
không phải là “thiên đường nơi hạ giới”. Nếu máu đổ ra mà chỉ để bảo
đảm cuộc sống ấy thì đó là một cuộc đổi chác ngu xuẩn. Thêm nữa, lớp
lính bây giờ tương
đối trẻ, họ biết chữ nên không hoàn toàn bị bưng bít thông tin, họ hiểu
được số phận của đám công an ra sao khi các cuộc cách mạng dân chủ xảy
ra ở Nga, ở Tiệp, ở Hung, ở Đức, và ở Ukraina mới rồi.
Thêm nữa, dù hổ thẹn hay cố tình bưng bít lương tâm, nơi thầm kín nhất
của con tim, họ cũng hiểu rằng chết vì một lý tưởng cao cả thì
đó là cái chết xứng đáng không làm hổ thẹn cho con cháu, chết chỉ vì
miếng cơm thì đó là cái chết của con chó gác sân mà khi dân chúng nổi
lên, họ sẽ lấy bắp cầy phang vỡ sọ hoặc dùng câu liêm cắt cổ.
Khi lòng dũng cảm và tinh thần hào hiệp không còn nữa, cái còn lại là sự tính toán vị kỉ của mỗi con người. Sự vị kỉ này cũng có mặt tốt của nó, nó là rào cản để chủ nghĩa cuồng tín không thể đặt chân vào mảnh sân của mỗi căn nhà.
Một người công an, nếu chưa mất toàn bộ sự sáng suốt, ắt phải biết tính
toán họ được bao nhiêu và mất bao nhiêu, liệu số lương bổng họ được có
trang trải nổi phần tiêu phí cho đám tang của họ và nuôi nổi cô vợ với
lũ con còn lại, hay sự hy sinh của họ chỉ để làm nặng thêm túi tiền các quan lớn, khiến các quan thêm rửng mỡ để đi hiếp trẻ con (như ông chủ tịch kiêm phó bí thư tỉnh Hà Giang tên Nguyễn Trường Tộ và các ông khác chưa bị lộ mặt), hay máu họ đổ xuống chỉ để đổi lấy các hộp kem đắt tiền nhằm bổ dưỡng
làn da mịn màng cho các mỹ nhân của quan lớn (như đám mèo cái đang vờn
quanh rốn ông nghị Nguyễn Văn Hưởng)? Vân vân và vân vân. . .
Sự tính toán luôn có lợi cho con người. Bởi thánh nhân thường hiếm mà
kẻ trục lợi thường nhiều nên không thể đòi hỏi tất cả mọi người đều xả
thân vì đất nước. Tuy nhiên, nếu không là thánh nhân thì họ cũng là dân
Việt.
Là
dân Việt, họ phải hiểu rằng truyền thống chống Tầu là dòng máu sôi sục
liên tục chảy trong tim dân tộc này. Bất cứ kẻ bán nước nào, sớm hay
muộn, trước hay sau cũng sẽ nằm trước mũi súng của nhân dân.
Dân Việt :
Ai là dân Việt?
Phải chăng đó
là tộc người duy nhất trong hàng trăm tộc Việt (Bách Việt) xưa kia sống
ở phía nam sông Dương Tử còn giữ lại được bản sắc mà chưa bị đồng hoá
như chín mươi chín tộc Việt kia?
Phải chăng vì sự cứng đầu này mà đất Việt luôn luôn là con mồi trong tâm thức Bắc triều?
Ngoài các lý do về nhu cầu bờ biển với các hải cảng, nhu cầu khoáng
sản, còn một nhu cầu thầm kín nữa mà quan lại phương Bắc không nói ra,
đó là nhu cầu đồng hoá nốt cái phần còn lại của Bách Việt.
Niềm
kiêu hãnh Đại quốc là ở đó. Mối bực mình của Đại quốc cũng là ở đó.
Một khi họ đã thâu tóm, đã chiếm lĩnh, đã áp đặt nền văn hoá và chữ Hán
lên chín mươi chín tộc Việt kia, lẽ nào còn cái tộc cuối cùng họ phải
chịu thua?Ở thế thượng phong mà mấy ngàn năm nay chưa nuốt trọn hòn xôi
Việt Nam, mảnh đất cỏn con, dường như là một “vết thương lòng, một sự tự
ái” mà vua chúa Trung Hoa không chịu được.
Cách đây vài năm, ai đó từng nói với tôi rằng “Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch là địch thủ, nhưng về chính sách đối với Việt Nam thì bọn họ sẽ ngồi cùng một bàn”.
Đó là một nhận định sáng suốt.
Năm trước, ông bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc tiến hành cuộc điều tra dư luận xem bao nhiêu phần trăm dân chúng ủng
hộ xâm chiếm Việt Nam . Theo công bố của ông ta thì con số này lên đến
trên 90%. Cứ cho rằng Trung Quốc là một nước cộng sản nên dân chúng
còn sợ hãi, họ phải tuân theo thượng cấp nên có thể trừ đi 20 phần trăm,
phần còn lại vẫn là trên 70 phần trăm. Và điều này là sự thật không ai
có thể chối bỏ.
Năm nay đã là năm 2010, thế kỉ 21,
Trung Quốc không còn sống dưới vương triều họ Mao, không còn phải đổi
xác người thân cho nhau để chén thịt. Kinh tế phát triển, các phương
tiện kĩ thuật phát triển, trình độ văn hoá được nâng cấp, sách báo lan
tràn trong các đô thị, không thể cho rằng dân Trung Quốc hoàn toàn bị
dắt mũi bởi họ ngu dốt, bởi thiếu thông tin, bởi sợ hãi nhà cầm quyền,
ngược lại, họ đang dương dương tự đắc vì là dân của Cường quốc số 2 trên
thế giới. Vậy thì, cái “hòn xôi Việt Nam chưa nuốt được” kia không chỉ
làm ngáng họng đám cầm quyền mà cũng còn làm ngứa ngáy cổ họng vô số dân đen phương Bắc, một mặc cảm có mẫu số chung.
Vì lý do nào mà bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc làm cuộc điều tra này? Đó là một trò chơi ngẫu nhiên hay là sự thăm dò có chủ định?
Vì lý do nào mà trên các site internet Trung Quốc tung ra hàng loạt bài chửi bởi, nhục mạ “lũ chó Việt Nam , phải đánh bọn chúng. Lũ chó Việt Nam, lần này chúng ta sẽ thanh toán lịch sử”,
và công bố một cách chi tiết chương trình thôn tính Việt Nam trong ba
mươi mốt ngày, phần còn lại của bán đảo được quy định là một tuần, tóm
lại là chương trình con hổ Trung Quốc nuốt trọn con dê Đông Dương?
Liệu nhà cầm quyền phương Bắc có thể ngang ngược làm những điều ấy
chăng nếu như chính quyền Hà Nội còn là một chính quyền độc lập mà không
tự nguyện biến mình thành đám gia nô cho vương triều Đại Hán?
Tôi dành những câu hỏi ấy cho bạn đọc trả lời.
Tôi chỉ xin nhắc họ rằng, chúng ta là tộc người cuối cùng sống sót mà không bị đồng hoá thành người Hán. Tổ tiên chúng ta đã đấu tranh không mệt mỏi để chống lại sự áp đặt của Bắc triều, bởi họ đã nhìn thấy sự đánh mất bản diện, sự lụi tàn của 99 tộc Việt kia.
Để tồn tại và được là chính mình, tổ tiên ta vừa chống chọi vừa lùi
xuống phương Nam . Lịch sử của dân tộc Việt tóm gọn trong câu này: “
Nam tiến”!
Nam tiến, nam tiến và nam tiến!
Cuộc Nam tiến thứ nhất khởi sự dưới triều Lê, từ năm 1428 đến năm 1527.
Kể từ đây, cuộc khai khẩn và chinh phạt tiếp tục không ngưng nghỉ. Từ
Thăng Long các đoàn quân xưa vượt qua đèo Ngang, sau lưng họ là những
đoàn nông dân và thợ thủ công vào phá rừng, bạt núi, kiến tạo ruộng đồng
và lập làng xây ấp. Rồi tiến đến châu Ô, châu Rí. Rồi, từ đèo Ngang
vượt qua đèo Hải Vân là chặng đường thứ hai. Cứ thế mà hành trình này
tiếp tục cho đến mũi Cà Mau.
Nam tiến, đó là sự nghiệp dựng nước của tổ tiên ta.
Bây giờ, chúng ta không còn cơ hội để tiếp tục sự nghiệp của họ. Chúng ta không thể Nam tiến. Trước mặt chúng ta đã là biển. Chúng ta tiến đi đâu?
Người Việt chỉ còn cách tồn tại cuối cùng là giữ lấy đất đai,
đất đai ấy là xương máu của cha ông ngàn đời tích tụ lại, đất đai ấy là
nơi cắt rốn chôn rau nhưng cũng là thành luỹ mà họ có thể nương tựa vào
để duy trì cuộc sống cho mình và cho các thế hệ mai sau.
Để giữ được non sông, để có thể là người Việt mà không trở thành đám thiểu số khiếp nhược của một vương quốc khác, chúng ta không thể tiếp tục dung dưỡng một chính quyền bán nước, một chính
quyền đã ngang nhiên cắt đất, cắt biển cống cho phương Bắc, đã nhục nhã
biến ngọn cờThăng Long ngàn năm thành một mảnh vải vụn xén ra từ cái
váy hồng Bắc Kinh.
Chúng ta không thể bảo vệ được Tổ quốc nếu tiếp tục nuôi giữa lòng dân
tộc mình một con rắn độc, cũng như Vua An Dương Vương xưa đánh mất non
sông vì trót đẻ ra và trót yêu thương đứa con gái phản tặc có tên là Mỵ
Châu. Với tất cả các hành vi nhục nhã mà họ đã làm, chế độ Hà Nội giờ
đây đã chính thức trở thành một thứ Mỵ Châu.
Tuy nhiên, Mỵ Châu xưa là một người đàn bà xinh đẹp nhưng ngu dốt, kẻ
luỵ tình nông nổi nên tội bán nước của cô ta còn được người đời khoan
dung. Tại đền thờ Cổ Loa có hai tượng đá, tượng đá ngoài sân là biểu
tượng Mỵ Châu nằm gục mặt xuống đất mà bất cứ ai đi qua cũng phải đạp
một cái lên lưng và nhổ một bãi nước bọt để trừng phạt “con Mỵ Châu bán
nước”. Còn tượng đá trong đền, tựa như một người đàn bà cụt cổ phủ vải
đỏ thì lại được hương khói do lòng đồng cảm với “Mỵ Châu khờ dại và lụy
tình”.
Dân Việt vốn không cuồng tín, họ phân biệt rõ ràng mọi sự, bên kia chữ lý còn đọng chữ tình.
Nhưng nàng Mỵ Châu ngây thơ, khờ dại đã chết từ mấy ngàn năm trước, còn
chính quyền Mỵ Châu bây giờ không một chút khờ dại mà cũng chẳng luỵ
tình ai, nó chỉ luỵ
cái túi tiền của chính nó. Mọi tính toán của nó chỉ nhằm tu tạo, xây
đắp quyền lợi bản thân, cũng như con thú chỉ có một đam mê duy nhất là
liếm cho mượt bộ lông của chính nó mà thôi.
Mỵ Châu ngày nay là một con đĩ già trơ trẽn, trần truồng nằm dạng háng sẵn cho phương Bắc.
Người dân Việt phải chém cụt đầu con đĩ ấy, trước khi nó kịp trao hết nỏ thần vào tay giặc nếu chúng ta không muốn lặp lại số phận bi thảm của An Dương Vương.
Dân tộc Việt không thể làm được điều ấy, nếu quân đội không đứng lên cùng với họ.
Quân đội, những người lính của nhân dân, các anh còn ngủ đến bao giờ?
DƯƠNG THU HƯƠNG
*Tổng Thống Nga Vladimir Putin:
Kẻ nào tin những gì Cộng Sản nói, là không có cái đầu.
Kẻ nào làm theo lời của Cộng Sản, là không có trái tim.
*Tổng Thống Nga Boris Yeltsin:
Cộng Sản không thể nào sửa chửa, mà cần phải đào thải nó.
*Bí Thư Đảng Cộng Sản Nam Tư Milovan Djilas:
20 tuổi mà không theo Cộng Sản, là không có trái tim,
40 tuổi mà không từ bỏ Cộng Sản, là không có cái đầu.
*Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên xô Mr. Mikhail Gorbachev:
Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng Cộng Sản.
Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng Cộng Sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 247
No comments:
Post a Comment