Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday, 12 December 2016

TÂY TẠNG=MỸ&ĐÀI LOAN= VC. BUÔN NGƯỜI

LÊ MINH KHÔI * KÝ SỰ TÂY TẠNG




*
Hiện trạng Tây Tạng,
Việt Nam tương lai ?

January 31, 2010 ·
Saturday, January 30, 2010 16:17
Lê Minh Khôi.

Rời Thành Đô trên chiếc phi cơ cánh quạt loại nhỏ chứa khoảng sáu chục người, sau hơn một giờ bay chúng tôi đã thấy nhấp nhô những đỉnh núi phủ đầy tuyết trắng của xứ Tây Tạng. Bỏ lại sau lưng căn nhà tranh di tích của Đỗ Phủ, bỏ lại mảnh đất dựng nghiệp của Lưu Bị thời Tam Quốc, bỏ lại miếu thờ Khổng Minh, Quan Công, Trương Phi cùng những thành lũy bằng đất xây dựng từ thời Tần-Hán nằm gần quận lỵ Đôn Hoàng, khi chiếc máy bay chuẩn bị hạ cánh xuống phi trường Lhasa thì kim đồng hồ chỉ 1 giờ 22 phút, giờ địa phương, buổi chiều.
Mỗi người được phát cho một túi nhỏ đựng dưỡng khí và được dặn dò phải cẩn thận kẻo bị choáng váng hay té ngã vì áp suất thay đổi. Trong số hơn 60 hành khách thì gần ba chục là du khách Âu Mỹ, 5 hay 6 người mặc binh phục, hơn hai chục là thường dân nói tiếng Hoa, và vỏn vẹn chỉ có 4 người Việt. Lúc rời Washington DC nhóm anh em chúng tôi có tới 12 người, nhưng lúc đi Tây Tạng chỉ còn lại vợ chồng anh chị Trần Dương và vợ chồng tôi. Trong lúc chuẩn bị rời máy bay, tôi bỗng chợt nhớ tới bài địa lý thuở còn nhỏ:





Nước Tây Tạng rộng bằng hai nước Pháp, có dãy núi Hymalaya (Hy Mã Lạp Sơn) là dãy núi cao nhất thế giới, có ngọn Everest quanh năm tuyết phủ. Tuổi ấu thơ của tôi lại được kích thích khi nghe kể chuyện những nhà tu trên đất Tây Tạng ngồi xếp bằng tròn, bay vù vù từ đỉnh núi này qua đỉnh núi khác, hoặc những chuyện rùng rợn về thiên táng, xác người chết được đem lên đỉnh núi xẻ thịt ra từng mảnh quăng cho chim ăn theo triết lý: vật nuôi người, người nuôi vật, trái ngược với phong tục của chúng ta là địa táng, đào huyệt chôn dưới đất, hay hỏa táng là đem thiêu xác, lấy cốt về thờ. Lớn lên, đọc sách, đọc báo, đọc được những bức thư của nhà cách mạng Phan Bội Châu gửi cho nhà cách mạng Phan Chu Trinh, trên đầu thư cứ một điều Hy Mã Tôn Ông nhã giám, hai điều Hy Mã Tôn Ông nhã giám, thì lòng lại càng nao nức muốn biết Tây Tạng và Hy Mã Lạp Sơn lắm. Tưởng rằng “nhưng chỉ là giấc mơ thôi”, không ngờ có ngày tâm thành ý đạt.


Độ cao của nước Việt Nam ta trung bình so với mặt biển là khoảng 19 m (63 feet), nhưng độ cao của Tây Tạng so với mặt biển là 3,658 m (12,000 feet) và đỉnh cao của ngọn Everest so với mặt biển tới 8,848 m (29,000 feet). Cho nên, trừ dân địa phương, còn du khách khi đã có ý định mò lên thăm cái xứ sở nằm cao tít trên nóc nhà thế giới này thì đều đã dự liệu về chuyện áp suất không khí thay đổi. Tinh thần chuẩn bị kỹ càng như thế nhưng lúc máy bay đáp xuống phi trường, cánh cửa mở ra, chân mới chạm đất thì gió thổi mạnh đến nỗi không thể tự chủ nổi, chỉ bước được mấy bước thì cái mủ lưởi trai đem từ D.C. đã bị gió thổi văng xuống và cuốn đi như một chiếc lá. Một tay che đầu, một tay kéo cái túi hành lý nhỏ, chạy lọt được vào tới phòng chờ đợi thì cổ họng khô cứng lại như đã ba ngày không được một hớp nước.


Nhân viên hãng du lịch ra đón bốn người chúng tôi là một phụ nữ có tên Mã Dung. Cái tên này làm tôi chợt nhớ đến mấy cái tên Mã Đằng, Mã Đại và Mã Siêu trong bộ Tam Quốc Chí. Nghĩ vậy thôi, chứ cô Mã Dung không mang một nét đặc thù nào của Hán tộc. Thân hình dong dỏng cao, khoảng hơn thước rưỡi, tóc dài chấm lưng vai, da rám nâu, nói tiếng Anh đủ để chúng tôi hiểu được. Sau một vài câu trao đổi ngắn gọn, cô đưa chúng tôi lại chỗ lấy hành lý và ra ngay chiếc xe Van hiệu Toyota chờ sẵn. Trái với cô Mã Dung, người lái xe rõ ràng là một chú người Hoa chính hiệu, hai mắt ti hí, má phệ, tóc ngắn, nước da màu vàng tái, tương phản hẵn màu nước da của những người Tây Tạng mà chúng tôi từng gặp trong chùa Tây Tạng Labrang Monastery trên đất Sa Hẹ. Ra khỏi phi trường, xe chạy vòng vèo, một bên vách núi, một bên bờ sông, nước trong xanh ngắt. Độ chừng mười cây số xe dừng lại tại một khúc quẹo và người tài xế ra hiệu cho chúng tôi xuống để chụp hình. Đó là một cái hang thô sơ thờ hình Đức Phật ngồi thiền, miệng hang treo vô số tấm phướn và cờ đuôi nheo cùng những miếng vải to cỡ ba bốn bàn tay, màu sắc, xanh, trắng, đỏ, vàng, trông rất sặc sỡ. Chụp hình xong, chúng tôi lên xe về thẳng khách sạn Holiday Inn trên đường Beijing Lu.



Ở đâu quen đấy. Sau một buổi chiều và một đêm dài nghỉ ngơi chúng tôi đã làm quen được với thời tiết. Sáng hôm sau chúng tôi ra ngồi nhâm nhi cà phê trong phòng khách để chờ xe đến đón. Phía bên kia đường là một dinh thự lớn, bảng hiệu nền đỏ chữ vàng viết bằng chữ Hán, hai người lính gác, súng gắn lưởi lê, quân phục màu xanh phân ngựa, thứ quân phục của lính Trung Cộng mà chúng tôi từng gặp ở Bắc Kinh và Tây An. Tại tiền đình, trên đỉnh cao của cột cờ là lá cờ Trung Cộng, một ngôi sao lớn bốn ngôi sao nhỏ phất phơ trước gió. Ngôi sao lớn tượng trưng cho Đại Hán, bốn ngôi sao nhỏ tượng trưng cho bốn sắc dân chư hầu Mãn, Mông, Hồi, Tạng. Mặt trời lúc này đã lên cao. Những tia nắng ban mai đã rọi xuyên qua khung kính cửa sổ của phòng khách dệt thành những sợi nắng đan chéo trên tường nhưng không khí vẫn còn se se lành lạnh. Xe cộ qua lại thưa thớt, lâu lắm mới thấy một chiếc xe tự chế, là chiếc xe có một bánh bằng gỗ do một người đẩy hay kéo, chậm chạp đẩy qua.


Theo lịch trình, đúng 9 giờ cô Mã Dung cùng người tài xế mới có mặt đưa chúng tôi tới đến Jokhang là ngôi đền được Hoàng hậu Wengcheng, vợ thứ của vua Songtsen Gampo, xây cất vào năm 647, và sau đó tới đền Lublinka. Hai ngôi đền thờ này khá lớn nhưng chỉ có một tầng, tường xây bao bọc chung quanh, vôi tróc loang lổ, thiếu người săn sóc, cũng hệt như quang cảnh sở thú ở Trùng Khánh, cây cỏ thì xơ xác, con người thì nhếch nhác. Thỉnh thoảng một nhóm dân Tây Tạng ngồi nhặt cỏ nhìn chúng tôi đi qua với ánh mắt vô cảm lạnh lùng rồi sau đó họ lại ngồi chồm hổm tiếp tục dọn cỏ hay đứng lên uể oải cầm chổi quét những chiếc lá rụng. Không khí ở đây ảm đạm buồn tênh chứ chẳng thấy gì gơi cảm.



Đến bữa ăn trưa chúng tôi được đưa vào nhà hàng quốc doanh nằm cùng dãy nhà với siêu thị do nhà nước quản lý. Tổ chức du lịch của Trung Quốc rất chặt chẽ. Chuyên chở đưa đón thì có China Travel Services, viết tắt là CTS, và chúng tôi gọi đùa là Communist Total Shit. Bữa ăn thì bị lùa vào nhà hàng quốc doanh. Mua sắm thì vào các thương xá Friendship của nhà nước luôn luôn được xây cất kế ngay nhà hàng ăn, hoặc xe bus chở thẳng vào các công ty sản xuất. Tiếng gọi là công ty nhưng thực chất là công ty quốc doanh, nhân viên phục vụ đều là người của chế độ mặc thường phục. Hầu hết đồng tiền của du khách đều lọt vào túi của nhà nước chớ rất khó mà rớt đến tay người dân.



Sau bữa cơm trưa, chúng tôi được đưa đi chơi băng qua sông Lhasa bằng thuyền Yak-Skin. Thuyền này làm bằng da con Yak, một loại bò đen to lớn, lông rất dài và rất dày để chống lạnh. Còn sống và khỏe mạnh thì con Yak được dùng để kéo cày và lấy sữa. Lúc chết thì thịt dùng làm thực phẩm, mỡ dùng làm dầu nến thắp, da dùng làm trống hoặc ghép lại làm thuyền. Con bò Yak mật thiết tới đời sống người dân Tây Tạng nên bò Yak là biểu tượng của xứ Tây Tạng. Con đường Beijing Lu kéo dài từ Bakhor tới Drapung Monastry chia thủ phủ Lhasa ra làm đôi, đoạn dẫn vào khu thương mại trung tâm thành phố cũng có tượng Yak. Đi xem trình diễn văn hóa dân tộc cũng có vũ điệu muá với bò Yak


Ở Lhasa thuyền Yak không đậu dưới sông mà được dựng ở các bến, mỗi bến có cả chục chiếc thuyền làm bằng da con Yak xếp thành dãy dài chờ du khách. Mỗi thuyền chở được sáu hay tám người và có thể chở thêm cả xe đạp hoặc xe gắn máy . Nước sông Lhasa rất trong nhưng do tuyết tan từ các đỉnh núi chung quanh đổ xuống nên thò tay xuống thấy lạnh buốt. Khi có du khách, một người Tây Tạng đưa lưng ra cõng một chiếc thuyền bằng da con Yak đến bến cho khách xuống và dùng sào chống con đò qua sông như hình ảnh người chèo đò Trương Chi trong truyện cổ Việt Nam.



Hôm sau chúng tôi đựợc đưa đến thăm cung điện Potala là nơi ngày trước các vị Phật sống Tây Tạng ngự trị. Cung điện này cao ba từng quét vôi nửa trắng, nửa nâu xây trên triền núi gồm nhiều dãy nhà nối tiếp nhau. Nửa trắng phía dưới là nhà khách, nhà ăn, nhà chứa vật cụ, phần trên màu nâu được phân chia thành các phòng thờ phượng. Phía trước, ở dưới thấp là một sân rộng phía trước chừng hơn hai mẫu tây để tín đồ tụ hội, từng toán du khách đổ xuống từ những chiếc xe bus hòa nhập với những người dân địa phương chạy theo bán nhang đèn và các tu sĩ khoác áo choàng màu huyết dụ hay màu vàng nghệ làm không khí ở đây thêm nhôn nhịp. Từ trên cao, tôi nhìn khắp bốn phía để mong thấy những tín đồ đi hành hương, cứ bước một bước lại nằm dài thẳng cẳng xuống đất, duỗi hai tay về phía trước, miệng đọc kinh, sau đó lại đứng dậy bước thêm một bước khác, rồi lại nằm dài người xuống đất, như những con sâu đo. Chúng tôi đến cung điện Potala không nhằm vào ngày lễ nên ngoài du khách ra chỉ thấy những người dân Tây Tạng dẫn vợ con đến cúng vái. Người chồng nét mặt khắc khổ, quần áo nhiều mảnh, có khi khoác áo nhà binh sờn rách, người vợ mặc váy, cổ đeo nhiều chiếc vòng bằng đồng, đầu quấn khăn tua sặc sỡ, chân bước, tay cầm chiếc “vòng luân hồi” vừa đi vừa quay, miêng lẩm bẩm đọc kinh một cách thành kính.



Con đường đi lên điện Potala là những phiến đá lát bậc thang, không dốc lắm nhưng rất hẹp khiến người lên người xuống phải chen chúc len lách. Càng lên cao càng ngộp thở. Hơi người, hơi khói, và nhất là hơi bốc ra từ những ngọn nến và những bình dầu đốt bằng mỡ Yak khiến không khí thật ngột ngạt. Qua tầng một, tầng hai, là lên đến khu chánh điện, được chia làm nhiều gian nhỏ, cờ quạt, lọng phướn treo kín mít. Tại mỗi phòng đều có bàn thờ Phật hoặc bàn thờ linh vị các Đạt Lai Lạt Ma đã hóa kiếp. Mỗi phòng đều có một nhà sư lo việc đèn dầu và ngay gần cửa ra vào của mỗi phòng là một thùng kiếng để thập phương bỏ tiền dâng cúng. Một lần vừa lấy máy ảnh định chụp một tấm hình thì vị sư già khẳng khiu ngồi gần chánh điện xua tay ra hiệu chỉ thẳng vào một người to béo mặc thường phục ngồi ở góc cửa ra vào. Người đó mới thực sự quyền hành còn vi sư già chỉ là cây cảnh.



Rời tu viện Potala chúng tôi được đưa đi xem một khu sản xuất thủ công nghệ gồm nhà đan lát, nhà dệt thảm, nhà chạm khắc đồ gỗ. Mỗi nhà đều có khu sản xuất và khu bán hàng. Tại những khu sản xuất, nhân công là người Tạng, nét mặt khắc khổ chịu đựng, ngồi từng dãy im thin thít, quấn sợi, kéo chỉ. Ở khu dệt thảm đa số thợ là trẻ nhỏ, thấy du khách đến chúng lấm lét ra hiệu cho du khách lại gần rồi hai mắt dáo dác, đưa tay xin tiền. Không biết là chúng sợ bị bắt, bị trừng phạt, hay sợ bị thu lại số tiền xin được. Đến khu bán hàng thì chỉ thấy người Hoa, líu lo nói tiếng Hoa, nét mặt sung mãn. Buổi chiều chúng tôi được đưa đi mua sắm ở khu thương mại nằm phía đông thành phố, trong lòng bốn con đường chính có tên Wengduixinca, Dongzisu Road, Hebalinlu và Zinzudong Lu.



Ở mấy dãy phố này không có nhà cao từng. Bảng hiệu hoặc viết bằng Anh Ngữ hoặc bằng chữ Hán. Bước vào đây không khác gì bước vào các khu phố Tàu ở Philadelphia hay phố Tàu ở Los Angeles. Có lẽ người dân Tây Tạng đã “tự nguyện xin đi các vùng kinh tế mới”, hệt như người Sàigòn tự nguyện dâng nhà dâng cửa cho Đảng cho Bác để đi lao động vinh quang tại các vùng đèo heo hút gió khỉ ho cò gáy Bù Đăng, Bù Đóp, Bù Gia Mập. Bữa ăn cuối cùng tại Lhasa chúng tôi được đưa vào nhà hàng uống sữa Yak, ăn cháo lòng Yak, có tiếp viên và nhạc công mặc xiêm y Tây Tạng, nhưng viên quản lý lại cũng là người Tàu. Khi sắp ra về cô Mã Dung choàng lên cổ chúng tôi mỗi người một khăn vải mỏng màu trắng, biểu lộ tình hữu nghị và sự hiếu khách của người Tạng.



Ở Tây Tạng bốn ngày, đi đâu cũng chỉ thấy người Hoa làm chủ. Trước đây Tây Tạng là một quốc gia độc lập cho đến năm 1959 thì bị Trung Cộng sát nhập. Trước năm 1950 dân số Tây Tạng gần một triệu nhưng năm 2000, theo thống kê, dân số lên đến hơn 2 triệu. Một triệu người thêm sau này chắc chắn có đến 80% là người Hoa vì dân Tây Tạng rất ít sinh đẻ. Giờ đây có lẽ dân số trên đất Tạng đã cao hơn nhiều, nhưng người Tây Tạng đích thực đã trở thành nô lệ của người Trung Hoa Hán Tộc. Lũ Tạng Gian trở thành cai nô còn người dân Tây Tạng thì làm thợ trong các xưởng máy hoặc làm nông nô tại các nông trường. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhân danh Tây Tạng vận động khắp thế giới xin cho Tây Tạng là một xứ tự trị Tibet Autonomy Region (TAR) cũng không được. Trung Cộng đã dựng lên một Ban Thiền Lạt Ma làm bù nhìn.



Trước đây đến Tây Tạng phải bằng máy bay. Năm 2000, du khách từ Thành Đô tới Tây Tạng cũng phải đi bằng máy bay. Năm 2004 Trung Cộng xây dựng một thiết lộ nối liền Trung Quốc đến Tây Tạng. Có con đường này thì lên Tây Tạng sẽ dễ dàng và người Hán sẽ lên Tây Tạng thoải mái. Con đường này làm tôi liên tưởng đến con đường Trường Sơn được Hà Nội cho làm xuyên suốt từ biên giới Trung Cộng vô Nam.



Ôi! Dân Tạng chỉ có hơn một triệu nên phải chịu cảnh mất nước đã đành, còn dân Việt chúng ta có hơn tám chục triệu cũng đành chịu trở thành dân mất nước? Chẵng lẽ ngay trong cuộc đời trước mắt, chúng ta đứng yên để thấy những đảng viên cộng sản trở thành cai nô, người dân Việt Nam trở thành nông nô, tổ quốc Việt Nam là một ngôi sao nhỏ nằm chung với bốn ngôi sao nhỏ khác. Lá cờ Trung Cộng sẽ là lá cờ có một ngôi sao nhỏ lớn tượng trưng cho Đại Hán và năm ngôi sao nhỏ tượng trưng cho năm sắc dân bị mất nước là Mãn, Mông, Hồi, Tạng, Việt ? Lê Minh Khôi.

*


NGUYỄN VĂN TUẤN * KÝ SỰ VIỆT NAM

*
Vấn đề du lịch VIET NAM

Nguyễn Văn Tuấn Dr. (Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan, Sydney , Úc)

Theo một thống kê thăm dò ý kiến những du khách đến Việt Nam thì có đến trên 70% những người hỏi trả lời rằng họ sẽ không quay lại Việt Nam một lần nữa.
Tôi gọi đó la hiện tượng "Một lần đi không trở lại".
Một câu hỏi vẫn ám ảnh tôi là tại sao có hiện tượng này, trong khi đất nước này có nhiều cảnh đẹp và con người nói chung là hiếu khách và cũng dễ mến.
Tôi chưa bao giờ nghĩ mình đi du lịch ở trong nước, vì đơn giản là mỗi lần về Việt Nam là một chuyến về quê thăm nhà và bà con.

Nhưng có cơ hội đi đây đi đó, Tôi cũng quan sát được đôi điều thú vị, ít ra là có thể trả lời cho câu hỏi tại sao có hiện tượng "một đi không trở lại".


Vấn đề sản phẩm du lịch


Việt Nam có nhiều cảnh đẹp, nhưng chúng ta chưa biết tận dụng thế mạnh này.
Chúng ta còn nhiều bãi biển có thể nói là đẹp chẳng thua bãi biển nào trên thế giới.
Chẳng hạn như bãi biển Nha Trang, chỉ có thể mô tả là quá đẹp và lại rất dài (khoảng 9 km).
Phú Quốc cũng có một số bãi biển đẹp hoang sơ đến mê hồn.
Hôm tôi ghé khu Mũi Dương (Phú Quốc), với những hàng dương thẳng tắp và cát trắng đó là một nơi hết sức lý tưởng để nghỉ mát và tắm biển.
So với các nơi khác trên thế giới mà tôi đã từng đi qua, những bãi biển của ta có thể nói là đẹp hơn nhiều.
Chẳng hạn như bãi biển Gold Coast nổi tiếng của Úc chẳng là cái thá gì của bãi biển Nha Trang!
Thế những Gold Coast được quảng cáo rất hay, và được gìn giữ rất cẩn thận nên không có ô nhiễm như các bãi biển ở nước ta.

Điều đáng buồn nhất là hầu hết những thắng cảnh nước ta đang bị ô nhiễm trầm trọng, và đây có thể là một "downfall" của Việt Nam .
Ở Nha Trang, đi trên cáp treo nhìn xuống biển mà thấy đau nhói vì rác rưởi mênh mông
Ở Phú Quốc ở những bãi biển đẹp tuyệt vời mà nhìn thì mắt bị đau vì những bãi rác khổng lồ.

Có những nơi mang tiếng là khu di tích lịch sử cấp nhà nước mà việc bảo tồn thì chẳng ra gì.
Tháp Bánh Ít (xây từ thời cuối thế kỷ 11 ở Qui Nhơn), được công nhận di tích lịch sử quốc gia tháng 12/1982 mà rác vỏ cam quít ngập đầy trong tháp!
Nhìn vào cách trùng tu tháp này Tôi chỉ biết lắc đầu dơ tay lên trời cho sự dốt nát của người làm công việc trùng tu.
Thuở đời nay, bên cạnh những viên gạch có độ tuổi hàng ngàn năm được hun đúc và xây rất nghệ thuật, người ta trát vào đó những viên gạch dỏm và… xi măng. Trông nó thô kệch làm sao.
Tôi thật không hiểu nổi tại sao lại có cách làm vô văn hóa như thế, và tại sao mấy ông quan văn hóa lại để tình trạng này xảy ra.


Còn ở dinh Độc Lập (nay là dinh Thống Nhất) thì bị xuống cấp nghiêm trọng.
Phòng ốc loang lổ, dơ bẩn, rồi lại có những cái lô-cốt có lẽ tồn tại từ thời bao cấp của những người Bộ-đội từ Bắc mới vào Nam xây để trồng rau để "cải thiện đời sống" vẫn còn chình ình phía sau dinh, trông rất phản cảm. Còn phía trong, những toilet (ôi thôi ! những toilet) ở đây không được tu sửa nên bước vào phòng là mùi hôi thối nồng nặc.
Ấy thế mà người ta tổ chức hội nghị khoa học quốc tế ở đây mới chết người chứ !
Ở những nơi này, người ta đều thu phí vào nhưng chẳng biết số tiền đó được sử dụng cho việc gì, chắc chắn không phải cho việc bảo trì rồi.
Đó là chưa kể đến đội quân chèo kéo du khách lúc nào cũng bu quanh họ làm họ hết hồn hết vía.


Thật ra, chẳng đâu xa, ngay phía ngoài những khách sạn 5 sao sang trọng, mỗi khi khách bước ra là bị đội quân này vây đến nỗi có khách dơ tay lắc đầu than trời.
Những người buôn gánh bán bưng này không còn thi vị như trước nữa, mà họ đã trở thành một lực lượng hung-hãn có thể bóp méo hình ảnh một nước Việt Nam thân-thiện
Thật ra, phần lớn lực lượng chèo kéo này là người từ "miền ngoài"(Thanh Hóa, Nghệ An Hà Tĩnh, v.v…) vào, chứ không hẳn là người miền Nam .
Nhìn thấy những cảnh này, Tôi - một người Việt- thấy rất xấu hổ cho cái văn hóa đặc thù đó.
Tôi sẽ không trách các du khách đó nếu họ nói "Tôi sẽ không bao giờ quay lại xứ sở này".

Dịch vụ nghèo nàn và kém

Dịch vụ du lịch ở Việt Nam nếu đem so với Thái Lan thì còn kém quá xa. Ngoại trừ một số công ti du lịch lớn, đại đa số các công ti du-lịch trung và nhỏ thì chưa cónhững hướng dẫn viên chuyên nghiệp,am hiểu lịch sử và tình hình đại phương để thuyết-phục khách du lịch.
Ở những nơi có nhiều thắng cảnh như Phú Quốc, còn thiếu rất nhiều nhân viên du-lịch có khả năng hướng dẫn du khách..
Nhiều khi Tôi hỏi những em làm hướng dẫn ở địa phương,các em ấy chỉ nói "không biết và kèm theo một…Nụ cười!

Hôm ở Qui Nhơn, Tôi ghé thăm khu bảo tàng Quang Trung và nghe một cô hướng dẫn thuyết trình về những trận đánh gắn liền với tên tuổi của vua Quang Trung mà không biết nên cười hay khóc.
Tôi nghĩ Em nhầm lẫn giữa tuyên truyền và hướng dẫn du khách, nên những lời nói và cách nói của em biến em thành một cái loa tuyên truyền rất… khôi hài.

Một vấn đề sinh tử ở Việt Nam là vệ sinh.


Ghé qua bất cứ khu du lịch nào, dù là những khu nổi tiếng "danh lam thắng cảnh", cái nỗi kinh hoàng nhất với du-khách là nhà vệ sinh.
Hình sau đây cho thấy giữa một khu bảo tàng Quang Trung được xây khá hoành tráng mà nhà vệ sinh thì kinh-khủng và Tôi dám chắc rằng chẳng có du khách nào dám vào đó.
Thật ra, chẳng cần đi đâu xa, du khách chỉ cần ghé qua cái toilet của nhà ga sân bay Phú Bài (Huế) hay sân bay Cam Ranh (Nha Trang), thậm chí nhà ga sân bay nội địa


Tân Sơn Nhất thì sẽ thấy ngay người Việt Nam nói chung không quan tâm đến vệ sinh cá nhân.
Ở những nơi (hãy tạm cho) là "văn minh" này, Tôi thấy những cái toilet cũ kĩ, dơ bẩn, nhếch nhúa, và có khi được thiết kế một cách rất… ngu xuẩn. Ngu xuẩn như thế nào?
Chẳng hạn như ở nhà ga sân bay Phú Bài, người ta thiết kế cái toilet đi tiểu chắc là cho những người đàn ông cao 2 m trở lên, hay như cái cầu toilet mà nếu đóng cửa thì người ngoài vẫn có thể nhìn vào thấy mồn một !

Hay như ở nhà ga sân bay nội địa Tân Sơn Nhất, nơi tập trung nhiều chuyến bay hàng ngày, mà chỉ có một toilet, đến nỗi khi mỗi chuyến bay là có một hàng người dài chờ đi toile Thật khó mà tưởng tượng nổi tại sao một đất nước đang đổi mới lại có những người thiết kế những thứ toilet quái đản như thế hay những cái đầu quản lí với một cái toilet! Nói đến vệ sinh cá nhân làm Tôi nhớ đến chuyện…giấy.
Những ngày lưu lại thành phố Qui Nhơn tôi ở trong khách sạn Hải Âu...
Theo quảng cáo và chứng nhận của Tổng cục Du lịch thì khách sạn này có hạng 4 sao tức là thuộc vào hạng khách sạn cao cấp.


Khách sạn được xây gần bờ biển, và người thiết kế khách sạn phải nói là giỏi, vì ở bất cứ phòng nào, khách vẫn có thể nhìn ra biển, đều có thể mụch kích cảnh núi rừng hùng vĩ, và đều có thể nhìn xuống thấy toàn bộ cảnh quan của thành phố. Phòng ốc cũng sạch sẽ, hiện đại, được trang bị hệ thống internet và wifi tuyệt vời, chắc chắn là hơn những khách sạn 5 sao mà Tôi từng ở Hà Nội và Sài Gòn, hay các thành phố lớn như Montréal, Los Angeles, San Francisco , New York, Florence,


Nhưng nếu có một khách sạn nào mà du khách không muốn quay lại ở thì Hải Âu là một khách sạn như thế.
Phòng ốc tuy rất tuyệt vời, nhưng phần lớn đều… hôi thối.
Nói chính xác hơn là hôi thối mùi thuốc lá.
Có lẽ vì khách sạn cho phép khách hút thuốc lá trong phòng, nên vào phòng nào cũng hôi mùi thuốc lá không chịu được.
Chỉ trong vòng vài phút mà Tôi phải thay đổi đến 4 phòng để có một phòng có thể tạm sống được.
Tôi góp ý cho mấy người làm quản lí, nhưng nhìn qua thái độ của họ tôi không hi vọng gì họ sẽ thay đổi.

Điều đáng nói nữa là khách sạn 4 sao nhưng trong phòng không có đến một cái cơ bản nhất của khách: đó là giấy serviette.
Tôi hỏi thì người ta trả lời là khách sạn không có chính sách cung cấp hộp giấy trong phòng; muốn thì phải mua. Trời! mới nghe qua, Tôi tưởng mình nghe lầm.
Khách sạn 4 sao gì mà không có giấy ???
Họ cho biết nếu cung cấp hộp giấy trong phòng thì khách sẽ ăn cắp hết.
À, thì ra họ sợ khách ăn cắp giấy, nên làm khổ du khách.
Đây có lẽ là một lối suy nghĩ nhỏ mọn, chỉ vì tiết kiệm vài ba ngàn đồng mà họ bỏ qua cái lớn hơn : đó là thu hút khách.

Thực khách ở những nhà hàng Việt Nam đều quen với tình trạng không có giấy serviette.
Buồn cười nhất và có lẽ tục-tĩu nhất là trong các nhà hàng hạng trung, người ta sử dụng giấy đi cầu để … lau miệng và lau tay.
Còn những nhà hàng hạng "bình dân", người ta cắt những mảnh giấy báo thành những mảnh vuông nhỏ khoảng 3 x 3 cm để làm giấy...
Có nơi thì cung cấp những cái khăn lạnh (và dĩ nhiên là tính tiền), nhưng những ai có
kinh nghiệm thì không dám sử dụng mấy cái khăn này vì chúng hàm chứa hàng triệu vi khuẩn gây bệnh trong đó.


Theo báo chí phản ảnh thì mấy khăn lạnh này được "tái sinh" bằng một công nghệ kinh khủng: sau khi dùng xong, người ta tẩy và thấm nước qua loa rồi xịt vào đó những loại
dầu thơm rẻ tiền của Trung Quốc, và vô bao rồi đem đi giao cho các nhà hàng.
Do đó, Tôi không ngạc nhiên chút nào khi mở ra thì thấy khăn vẫn còn những vết dơ bẩn hiển hiện trong khăn!
Thật là kinh khủng!
Người ta chỉ vì lợi nhuận mà làm bất cứ chuyện gì, kể cả chuyện lây bệnh ?

Cái gì cũng giả...

Nạn làm giả ở VN đã và đang làm cho hình ảnh nước ta đã méo mó càng xấu xí hơn.
Có thể nói ở Việt Nam bây giờ cái gì cũng có đồ giả, đồ dỏm.
Quần áo, đồng hồ, máy móc, vật dụng gia đình, rượu bia, thức ăn,v.v…đều có thể giả, và du khách có khi phải trả cái giá đắt cho sự giả tạo này.
Chẳng riêng gì du khách, ngay cả người dân trong nước cũng thiếu tin tưởng vào hàng hóa "Made in Vietnam ".
Nạn làm đồ giả ở nước ta đang trở thành một Quốc Nạn.

Kinh nghiệm cá nhân của Tôi có lẽ là một bài học ?
Trên đường từ Kiên Giang về TPHCM, Tôi và anh bạn ghé vào một quán ăn vừa giải lao vừa nhâm nhi, Tôi kêu hai chai bia "Ken", thì thằng Em dơ tay ngăn lại ngay.
Tôi ngạc nhiên hỏi tại sao thì nó giải thích: coi chừng bia giả.
Trời, bia mà giả à ? Nó giải thích rằng trong thời gian gần đây bia Heineken do bán quá chạy nên bị giả nhiều, nhất là bia chai vì chai dễ giả hơn là bia lon.
Hễ bất cứ cái gì có vẻ nổi tiếng trên thị trường thì có đồ giả hay đồ nhái ngay.

Hôm ở Qui Nhơn, hai lần đi mua bin để vào máy chụp hình là hai lần bị bin giả.
Bin cũng được đóng hộp và bao bì rất "xịn", nhưng chụp chưa đầy 5 tấm hình thì … hết bin.
Tôi đã phải trả 30.000 đồng cho 8 cục bin như thế.
Tiền thì tốn chẳng bao nhiêu, nhưng giận nhất là đứng trước một cảnh đẹp, ưng ý mình, mà đành bó tay vì máy nói "Battery Empty" (hết bin) để ghi lại.
Có khi Tôi muốn thốt lên lời chửi thề cho hả dạ, nhưng nghĩ lại thì biết chửi ai đây ?
Chửi cái văn hóa dỏm, cái văn hóa lường gạt của dân mình ư ?
Đành phải ngậm miệng và bấm bụng chịu đau thôi..

Giá cả quá đắt...
Tôi đã nói qua những dịch vụ kém cỏi của du lịch Việt Nam , nhưng có cái làm chùng bước du khách nhất là giá cả quá đắt đỏ.
Khách sạn o Việt Nam bây giờ, dù là khách sạn không sao, giá vẫn 40-50 USD/phòng.
Khách sạn 3 sao trở lên thì giá tuy còn quá rẻ so với các khách sạn cùng hạng ở Tây phương, nhưng lại khá đắt so với các khách sạn trong vùng Đông Nam Á.
Với những dịch vụ nghèo nàn như ở nước ta thì Tôi nghĩ sẽ không khó cho du khách khi họ chọn đi Thái Lan và Mã Lai vì ở những nơi này giá cả còn rẻ (hơn Việt Nam) mà dịch vụ thì lại tốt hơn gấp mấy lần..

Có một hiện tượng ở những tỉnh lẻ là người ta hay "chém" du khách và Việt kiều.
Một hôm, Tôi và một người bà con vào quán Bảy Mẫu trên đường Xuân Diệu, Thanh-
Pho Qui Nhơn...
Quán ăn thuộc loại bình dân,chứ chẳng phải sang trọng gì, nhưng vì nằm gần biển nên Tôi muốn ngồi đó mà ngắm biển cho vui mắt.
Tôi gọi 1 con cá lớn bằng gang tay, nửa con gà luộc, và 4 lon bia "Ken".
Đến khi gọi tính tiền, Tôi thấy con số tròn trĩnh 300.000 đồng.
Nhìn qua thì tôi biết mình bị "chém", nhưng Tôi làm bộ hỏi: con số 300 ngàn tròn quá hả em ? Người tính tiền là một em bé trai khoảng 19 tuổi gì đó cười mà không nói gì trước câu bình phẩm của Tôi.
Nhưng Tôi vẫn vui vẻ trả, cho dù người bà con muốn cãi cọ và "kiếm chuyện" vì anh ấy là dân địa phương và thấy giá bất hợp lí.

Tưởng bị chém ở quán là xong, ai dè lên xe taxi lại bị chém tiếp.
Từ quán Bảy Mẫu đến Khách sạn Hải Âu chỉ khoảng 2 hay cao lắm là 3 cây số, và vì
đêm đó (28/12, khoảng 10 pm) Việt Nam thắng Thái Lan nên để an toàn kêu taxi đi về khách sạn.


Chiếc taxi của hãng Mai Linh (rất tiếc là tôi quên số) đi đến đường Nguyễn Tất Thành thì không đi thêm được nữa vì quá đông người và xe gắn máy.
Tôi đành bảo anh tài xế cho Tôi xuống xe cuốc bộ khoảng 500 thước gì đó.
Nhìn đồng hồ tôi thấy 30 ngàn đồng!
Tôi biết mình bị chém, vì quãng đường đó chỉ tốn 15 ngàn là cùng.
Thôi thì đêm nay vui nên mình có thể cho anh ta thêm chục ngàn cũng chẳng sao.
Nghĩ thế Tôi vui vẻ trả tiền...Nhưng vì ban đêm và Tôi tin anh ta, nên cầm tiền thối,
Tôi không để ý là anh ta lấy bao nhiêu ?
Đến khi về khách sạn thì thấy anh ta lấy đến 50 ngàn đồng!
Thế là bị chém đến 3 lần...
Cũng là một chuyến đi đáng nhớ đời.

Có khi họ "chém" trước mặt mình chứ chẳng lén lút gì.
Chẳng hạn như hôm đi thăm khu du lịch sinh thái Hàm-Hô (Bình Định).
Ông anh Tôi (người địa phương) vào mua vé, mỗi vé giá 12 ngàn đồng.
Nhưng đến khi cầm vé thì thấy trên giấy ghi là 10 ngàn đồng, anh Tôi bèn hỏi tại sao thêm 2 ngàn đồng ?
Người bán vé thản nhiên nói vì phải thêm phần bảo hiểm !
Hỏi bảo hiểm gì thì anh chàng bán vé không trả lời được và bắt đầu nói ngọng.


Tôi nói với ông anh "Thôi, cãi cọ làm gì với 2 ngàn đồng, mình bỏ qua cho chuyến đi được vui".
Ông anh Tôi còn ấm ức nói : Làm ăn kiểu này thì mai mốt ai dám vô đây ?
Đúng, Tôi cũng nghĩ như anh, với cách làm tiền trắng trợn như thế thì du-khách có thể mỉm cười cho ăn, nhưng Họ sẽ không quay lại một lần nữa.
Cuối năm 2008 ngành du lịch đang than vản vì du khách đến Việt Nam giảm so với năm ngoái.
Thật vậy, nhiều khách sạn Tôi ở qua đều than trời về tình trạng phòng trống, không có người thuê.
Cũng may mà có khách Việt kiều về thăm quê, chứ nếu nguồn khách này giảm nữa thì quả là một thất bại.


Nói gì thì nói, tình trạng "một đi không trở lại" là một xu hướng hết sức đáng ngại.
Các giới chức đang bàn kế hoạch để thu hút du khách trở lại Việt Nam .
Theo Tôi có lẽ hơi muộn. Nhưng muộn còn hơn không.
Tôi nghĩ du khách có thể quay lại Việt Nam nếu ngành du lịch chấn chỉnh lại dịch vụ,
xóa bỏ nạn chèo kéo du-khách, điều chỉnh giá cả cho hợp lí, và một điều không thể thiếu được : Do la Vệ-Sinh.

Nguyễn Văn Tuấn (Sydney Australia)
*

MINH NGHIÊU * BÚT KÝ

*

NM



Subject: Hậu qủa của một cơn giận ....

============ ========= =========

ĐỂ XỬ DỤNG HAY ĐỂ YÊU THƯƠNG.

Trong khi 1 người đàn ông đang đánh bóng chiếc xe của ông ta, thì đứa con trai lớn 4 tuổi của ông ta nhặt lên 1 viên sỏi và vẽ nhiều đường lằn lên phía bên kia cạnh chiếc xe của ông ta.
Trong lúc giận dữ, người đàn ông đó đã nắm lấy bàn tay của đứa con và đánh mạnh nhiều mà không nhận rằng ông ta đang dùng 1 cái cờ lê vặn vít để đánh

Kết quả là trong bệnh viện, đứa con trai của ông ta đã mất đi hết các ngón tay của mình do quá nhiều chỗ gãy.
Khi đứa con trai nhìn thấy đôi mắt bố mình biểu lộ sự đau đớn, đứa bé bèn hỏi: “Bố ơi ! Khi nào các ngón tay của con mới có thể mọc trở lại ?”
Người bố cảm thấy rất đau đớn và không nói được lời nào; ông ta trở lại chiếc xe của mình và đá nó thật nhiều.

Trong khi đang bị lương tâm dằn vặt và đang ngồi đối diện phía hông của chiếc xe đó, ông ta chợt nhìn thấy những vết xước do chính đứa con trai của ông ta đã vẽ rằng: “ Bố ơi ! Con yêu Bố nhiều lắm !”

Và 1 ngày sau đó, người đàn ông đó đã quyết định tự sát….

Cơn giận và Tình yêu không bao giờ có giới hạn; nên xin hãy chọn Tình Yêu để được 1 cuộc sống tươi đẹp và đáng yêu, và xin hãy nhớ điều này :

Đồ vật thì để xử dùng, còn con người thì để yêu thương.

Vấn đề của thế giới ngày nay thì ngược lại : con người thì để xử dụng, còn đồ vật thì để yêu thương.

Hãy luôn cố nhớ những ý nghĩa này :

Hãy cẩn thận với những ý nghĩ của bạn, vì bạn sẽ nói chúng.
Hãy cẩn thận với những lời nói của bạn, vì bạn sẽ thực hiện chúng.
Hãy cẩn thận với những hành động của bạn, vì chúng sẽ là thói quen của bạn.
Hãy cẩn thận với những thói quen của bạn, vì chúng sẽ là cá tính của bạn..
Hãy cẩn thận với những cá tính của bạn, vì chúng sẽ quyết định số mệnh của bạn

*

Saturday, February 6, 2010


TIN ĐÀI VOA *CÂU CHUYỆN VIỆT NAM

*





Cậu bé mồ côi’ gốc Việt tìm thấy cha mẹ ruột sau 34 năm
Suốt thời niên thiếu, Thanh Campbell luôn nghĩ mình là một trẻ mồ côi, không còn người thân. Lúc gần hai tuổi, cậu bé gốc Việt được một gia đình mục sư người Canada nhận nuôi, sau khi được đưa khỏi Việt Nam khi chiến tranh kết thúc. Sống trong vòng tay yêu thương của gia đình bố mẹ nuôi, Thanh không nguôi tự hỏi vì sao lúc đó mình bị bỏ rơi trong trại mồ côi. Nhưng 34 năm sau, gia đình ruột thịt tìm thấy anh qua một bài báo. Mời quý vị theo dõi điều kỳ diệu này trong chuyên mục ‘Câu chuyện Việt Nam’ với Nguyễn Trung
Thanh Campbell
Hình: Courtesy of Thanh Campbell
Thanh Campbell và gia đình

Hơn 30 năm trước, cậu bé Thanh cùng hai người anh được đưa tới một trại trẻ mồ côi, vì người cha, một binh sĩ thuộc quân đội Việt Nam Cộng hòa, cảm thấy rằng con mình sẽ được an toàn tại đó trong tình cảnh chiến tranh loạn lạc.

Khi cuộc chiến gần kết thúc, các binh sĩ Hoa Kỳ tới cô nhi viện này và đưa các em bé đi tới Canada.

Thanh là một trong số 57 em bé mồ côi được đưa khỏi Sài Gòn hồi năm 1975 trong chiến dịch ‘Operation Babylift’ (hay còn gọi là Chiến dịch Không vận Cô nhi).

Khi bố mẹ ruột của Thanh tới tìm các con đưa về nhà, chỉ còn lại hai người con cả. Câu chuyện tưởng như chấm dứt tại đó.

Hàng chục năm sau, trong một lần đi diễn thuyết về cuộc đời mình hồi năm 2003, anh Thanh tình cờ gặp một người khác được đưa đi cùng đợt với anh khi xưa.

Năm 2006, hai người bạn này đã tổ chức một cuộc hội ngộ các em bé từng được đưa khỏi Việt Nam, với sự tham gia của 42 người.

Anh Thanh nói: 'Thật là kỳ diệu khi chúng tôi có thể tìm lại và họp mặt phần lớn các trẻ em mồ côi được đưa khỏi Việt Nam trong chuyến đi sang Canada năm ấy. Chúng tôi sau đó còn tìm và gặp gỡ những nhà truyền giáo hồi đó và cả viên phi công lái chiếc máy bay đưa chúng tôi tới Canada'.

Câu chuyện đã được tờ Tuổi Trẻ ở Việt Nam đăng tải. Một gia đình ở TP HCM đọc tin này và linh cảm đó là người con lưu lạc của mình. Nhiều cuộc điện thoại, email trao đổi cùng kết quả thử nghiệm ADN năm 2007 đã khẳng định họ là người ruột thịt.

Và hồi cuối tháng Năm 2009, anh Thanh cùng với bố nuôi, vợ và bốn người con của mình đã trở lại TP HCM, hội ngộ với người ruột thịt.

Tuổi Trẻ, tờ báo giúp làm cầu nối đoàn tụ hai cha con sau hơn 30 năm ly tán, viết: 'Thanh Campbell vẫn chưa thể tin được rằng cuối cùng mình đã được trở về đất nước nơi mình sinh ra, đặt chân trên đúng sân bay nơi mình đã được đưa đi vì một sự nhầm lẫn'.

Anh Thanh, nay đã 36 tuổi, kể lại cảm giác đoàn tụ với VOA Việt Ngữ: 'Thú thực là hàng chục năm nay tôi không đi tìm kiếm gia đình của mình, vì cha mẹ nuôi và tôi đều nghĩ rằng bố mẹ ruột của tôi đã qua đời trong chiến tranh. Tôi cứ nghĩ là mình không còn người ruột thịt'.

Anh nói tiếp: 'Khi tôi gặp lại cha và anh em của mình, cảm xúc lúc đó thật khó có thể diễn tả bằng lời. Mọi chuyện cứ như là không có thực vậy. Phải mất một chút thời gian tôi mới có thể xóa bỏ được khoảng cách ban đầu để cảm nhận được tìm cảm của họ. Mọi thứ thật tuyệt vời. Tới giờ này tôi vẫn chưa hoàn toàn tin được là mọi chuyện đã xảy ra'.
Anh Thanh cho biết chuyến đi đã giúp anh chắp nối lại ký ức, hiểu rõ về nguồn cội của mình hơn, cũng như cảm thương số phận của các trẻ em mồ côi ở Việt Nam cũng như trên thế giới.

Tình thương vô điều kiện của cha mẹ nuôi cùng với trải nghiệm cá nhân đã thôi thúc anh Thanh gia nhập ‘Kids Alive International Canada’, tổ chức với ngân quỹ hai triệu đôla đã mang lại mái ấm gia đình cho các em bé mồ côi ở 17 nước khác nhau, trong đó có Haiti, nơi vừa trải qua trận động đất kinh hoàng làm nhiều trẻ em rơi vào cảnh mất cha, mất mẹ.

Anh Thanh cho biết Kids Alive International Canada cũng đã đóng góp công sức, giúp các em nhỏ bị mồ côi vì thảm họa ở Haiti.

Anh cho hay: 'Chúng tôi đã đưa 50 em nhỏ mồ côi Haiti sang các ngôi nhà chúng tôi đã thiết lập ở nước cộng hòa Dominic láng giềng. Chúng tôi có 13 ngôi nhà ở đó, với bố mẹ và anh chị em nuôi. Tại Haiti, chúng tôi có ba ngôi nhà và một trường học. Chúng tôi cũng đã dựng một khu ở tạm để các em được ăn ở và chăm sóc cho tới khi nào các em tìm được cha mẹ nuôi'.
Anh Thanh cũng cho hay rằng anh đang cùng với tổ chức của Canada này thúc đẩy các dự án giúp đỡ trẻ mồ côi ở Việt Nam.

Tới giờ, anh Thanh cho biết vẫn đang tiếp tục tìm kiếm hai người còn lại trong số 57 em bé được đưa đi cùng đợt với mình.

Anh kể lại với VOA Việt Ngữ về hành trình chuyến bay, với hy vọng chút thông tin ít ỏi này sẽ lan tỏa, và giúp tìm được hai người bạn lưu lạc hồi ấy.

Anh Thanh cho biết: 'Họ đưa chúng tôi từ Sài Gòn qua ngả Hong Kong, và một số em bé bị ốm phải ở lại đó. Từ Hong Kong chúng tôi bay sang Vancouver trên chuyến bay của hãng hàng không CPA (Canadian Pacific Airlines). Và tại Vancouver, hai em khác cũng ở lại, còn chúng tôi bay tiếp tới Toronto trên máy bay của hãng hàng không Air Canada. Hai người ở lại Hong Kong cuối cùng cũng đã tới Toronto. Còn chúng tôi tin rằng hai người ở lại Vancouver được đưa và nhận làm con nuôi ở Hoa Kỳ'.
Anh Thanh nói anh luôn hy vọng điều kỳ diệu lại đến với mình. Nếu tìm được hai người này, anh cho biết đó sẽ là điều đáng nhớ nữa trong cuộc đời mình.
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/vietnam-story/Viet-Orphan-Reunification-02-04-2010-83721687.html
*

TIN TỔNG HỢP * CÁN BỘ VÀ CHIẾN BINH VIỆT NAM

**

TIN VOA

Cựu chiến binh, cán bộ CSVN bất mãn nhân kỷ niệm thành lập đảng

Vietnamese walk past giant posters featuring the upcoming national Communist Party Congress of Vietnam in Hanoi
Hình: ASSOCIATED PRESS

Tin liên hệ

Các chiến binh giải phóng và cựu đảng viên Cộng Sản ở Việt Nam mạnh mẽ lên án điều mà họ cho một hệ thống chính trị thối nát với những nhà lãnh đạo đang làm hoen ố nền độc lập quốc gia.

Đó là nhận định của hãng thông tấn Pháp trong bài tường thuật đánh đi từ Hà Nội hôm thứ Sáu.

Bài tường thuật cho biết Tổng bí thư Nông Đức Mạnh của Đảng Cộng Sản Việt Nam hôm thứ ba vừa qua đã đánh dấu lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập đảng với tuyên bố là nhà cầm quyền sẽ ngăn không cho “các thế lực thù địch” lợi dụng vấn đề dân chủ và nhân quyền để phá hoại cuộc cách mạng Việt Nam.

Tuy nhiên, những người chỉ trích nói rằng chính các nhà lãnh đạo hiện nay là những người đã phá hỏng sự nghiệp giải phóng. Những người này cho rằng các nhà lãnh đạo đã lợi dụng quyền hành để phục vụ cho lợi ích riêng và gây phương hại cho nền độc lập của đất nước qua những mối liên hệ với Trung Quốc.

Hãng thông tấn Pháp trích lời Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, nói rằng Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay có đến 3 triệu đảng viên nhưng không có được sức mạnh, lực lượng và sự tin tưởng của thời trước. Ông Vĩnh cho rằng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng Cộng Sản Việt Nam có rất ít đảng viên nhưng đã có đủ sức mạnh để lãnh đạo cuộc nổi dậy giành độc lập.

Ông Vĩnh và những người chỉ trích khác nói rằng dân chúng hiện nay đã mất đi rất nhiều sự tin tưởng vào Đảng vì họ nghĩ rằng Hà Nội quá mềm mỏng đối với Trung Quốc.

Việc chính phủ để cho một công ty của Trung Quốc khai thác bauxite ở vùng Tây Nguyên đã làm bùng ra một làn sóng chỉ trích công khai hiếm có hồi năm ngoái. Nhân vật nổi bật nhất trong số những người chống đối kế hoạch khai thác bauxite là Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, người được xem là anh hùng của chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954.

Bên cạnh đó còn có một phong trào chống đối công khai, đặc biệt là trên internet, đối với điều mà một số người cho là thái độ nhu nhược của chính phủ trong vụ tranh chấp chủ quyền lãnh thổ lãnh hải với Trung Quốc.

Cựu Đại tá Bùi Tín, một nhà báo kỳ cựu của bộ đội Bắc Việt đang sống lưu vong ở Pháp, cho rằng các nhà lãnh đạo hiện nay không có thái độ rõ ràng về các mối quan hệ với Trung Quốc.

Ông Bùi Tín nói với hãng thông tấn Pháp rằng mặc dù đảng Cộng Sản đã đóng một vai trò thiết yếu trong cuộc vận động giành độc lập, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Pháp, các nhà lãnh đạo đảng giờ đây lại đàn áp các nhà trí thức chống lại những mối đe dọa đối với sự toàn vẹn lãnh thổ.

Hồi tháng trước một tòa phúc thẩm đã giữ nguyên các án tù đến 6 năm đối với những nhân vật bất đồng chính kiến bị kết tội có hành vi chống phá nhà nước, trong đó có việc treo biểu ngữ đòi dân chủ. Song song với việc bày tỏ sự chống đối đảng Cộng Sản, các biểu ngữ đó cũng gián tiếp đề cập tới vụ tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông.

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, người từng ngồi tù vào năm 1999 vì kêu gọi cải cách chính trị, nói với hãng thông tấn Pháp rằng các nhà lãnh đạo hiện nay dường như sẵn sàng hy sinh quyền lợi của đất nước và nhân dân để đổi lấy sự trợ giúp và bảo vệ của Trung Quốc để duy trì độc quyền cai trị.

Ông Nguyễn Thanh Giang cho biết xã hội Việt Nam giờ đây giàu có hơn, ngoại giao cởi mở hơn, tình hình nhân quyền cũng tốt hơn trước nhưng giữa người giàu và người nghèo vẫn còn điều mà ông gọi là “một cái hố chênh lệch tàn bạo.” Ông Giang nói một cách mỉa mai rằng “những nhà tư bản đỏ còn giàu hơn giới tư sản phương Tây.”

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, người đã trải qua phần lớn lịch sử đảng Cộng Sản Việt Nam, đề nghị một đường hướng cho tương lai. Ông nói rằng đảng cần phải chấn chỉnh lại, phải trừng trị thẳng tay những đảng viên tham ô, và phải biết lắng nghe nguyện vọng của người dân.

Nguồn: AFP, Interview w/Dr. Nguyen Thanh Giang in Hanoi
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/vietnam/vietnam-communist-party-02-05-2010-83631217.html

*


Đài RFI

Trong bản tin nhan đề " Đảng Cộng sản Việt Nam bị chính giới cách mạng kỳ cựu tố cáo là ''mềm yếu'' trước Trung Quốc" ngày 05/02/2010 của Trọng Nghĩa đài RFI cũng đã theo tin AFP mà bình luận về thái độ một số đảng viên đối với chính quyền cộng sản nhân kỷ niệm 80 thành lập đảng cộng sản.

Một cuộc biểu tình tại Việt Nam trước sứ quán Trung Quốc để phản đối vụ Hoàng Sa (DR)
Một cuộc biểu tình tại Việt Nam trước sứ quán Trung Quốc để phản đối vụ Hoàng Sa (DR)

Cũng như đài VOA, đài RFI cũng viết về ý kiến của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, đại tá Bùi Tín, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang.Theo AFP, nhận định của nhiều người đối với Đảng Cộng sản vào lúc này, thật rõ ràng : họ rất chua xót trước tình hình tham nhũng và lên án giới lãnh đạo làm nhơ nền độc lập vốn đã phải khó khăn lắm mới giành được. Một trong những nguyên nhân chính khiến những chiến sĩ cách mạng lão thành này bất bình là thái độ bị đánh giá là quá mềm yếu của giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay đối với Trung Quốc.
AFP đã nhắc lại một loạt những vụ xử diễn ra trong thời gian gần đây nhắm vào một số nhà ly khai bị buộc tội có hành động chống chính quyền trong đó có việc treo biểu ngữ đòi dân chủ. Các khẩu hiệu này còn gợi đến vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển với Bắc Kinh.
Nhân kỷ niệm 80 năm ngày thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã lên tiếng khẳng định rằng Đảng sẽ ngăn chặn không cho các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ và nhân quyền phá hoại cách mạng của dân tộc.
Thế nhưng, theo hãng AFP, những người phê phán hiện nay đã cho rằng chính các lãnh đạo Việt Nam là tác nhân bóp méo di sản của cách mạng khi sử dụng quyền lực phục vụ lợi ích cá nhân và làm tổn thương nền độc lập của đất nước bằng việc kết thân với Trung Quốc.
http://www.rfi.fr/actuvi/articles/122/article_6768.asp

*

LÝ ĐẠI NGUYÊN

*




BÁN VŨ KHÍ CHO ĐÀI LOAN MỸ TRIỂN KHAI TÂN CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU


Từ ngày bước vào Nhà Trắng, tổng thống Hoakỳ, Barack Obama và chính phủ Dân Chủ của ông đã tỏ dấu theo đuổi chính sách ngọai giao mềm dẻo hòa hoãn, đến độ mềm nhũng với tất cả các nước thân lẫn sơ, ngoại trừ các nhóm khủng bố quốc tế. Nhất là đối với Trungcộng, một chủ nợ khổng lồ của Mỹ thì chính sách ngoại giao nhân quyền của Mỹ đã trở thành nhão nhoét. Khiến cho các nước trong vùng Đông Nam Á và Thái Bình Dương không dám tin vào chủ trương “Trở Lại Á châu” của Mỹ. Chính quyền Quốc Dân Đảng Đài Loan của tổng thống Mã Anh Cửu tiếp tục xiết chặt quan hệ giao thương với Trungcộng. Chính phủ Dân Chủ cánh tả Nhậtbản của thủ tướng Hatoyama, tận tình hòa giải với Bắckinh, và muốn xét lại việc quân đội Mỹ đóng tại Okinawa của Nhật.



Bỗng nhiên ngày 12/01/2010, công ty Google, một tập đoàn internet khổng lồ quốc tế, cho hay: “đã phát hiện những vụ tấn công mạng một cách tinh vi hồi trung tuần tháng 12/09 nhằm vào các tài khoản Gmail của các nhà hoạt động nhân quyền ở Trungquốc, và ít nhất còn có 20 công ty lớn khác cũng bị tin tặc tấn công tương tự”. Google không cụ thể cáo buộc chính phủ Trungcộng, nhưng họ không còn sẵn lòng kiểm duyệt công cụ tìm kiếm các trang mạng được sử dụng tại Trungquốc, google.cn, như chính phủ yêu cầu. Google tuyên bố; “Có thể sẽ chấm dứt hoạt động tại Trungquốc”. Lập tức ngày 13/01/10, ngoại trưởng Mỹ, Hillary Clinton lên tiếng: “Những cáo buộc của Google đặt ra những câu hỏi và quan ngại nghiêm trọng, và muốn nghe một lời giải thích từ Trungquốc”. Ngày14/01/10 phát ngôn nhân Tòa Bạch Ốc, Robert Gibb tuyên bố: “Nhà Trắng ủng hộ quyết định của tập đoàn Google”. Trả lời các ký giả, liệu việc này có làm ảnh hưởng tới quan hệ giữa Hoakỳ và Trungquốc không? Ông Gibb nói: “Tổng thống Obama tin tưởng mạnh mẽ về những quyền phổ quát của mọi người trên toàn cầu, không một quốc gia nào được quyền ngăn chặn”. Ông Neelie Kroes, phụ trách về cạnh tranh của Liên Âu cũng lên tiếng bày tỏ quan ngại đối với chính sách kiểm duyệt Internet của Trungcộng và khẳng định: “Tầm quan trọng của việc một hệ thống mạng mở không bị ngăn chặn”. Công ty Yahoo có phần hùn lớn trong tập đoàn internet Alibaba của Trungcộng, tuyên bố: “Sát cánh với Google”. Xem ra, nếu các tập đoàn Internet quốc tế đồng loạt cùng bỏ chạy khỏi Trungquốc, thì các nhà đầu tư và giao thương quốc tế có còn dám tin tưởng vào hệ thống thông tin một chiều bưng bít của Trungcộng nữa hay không? Trungcộng lập tức rơi vào tình trạng tự cô lập như Liênxô ngày nào.


Trong lúc đó, chính phủ Hoakỳ cương quyết bảo vệ hợp đồng 6,4 tỷ đôla bán vũ khí cho Đài Loan, dù Trungcộng phản ứng điên cuồng đòi trả đũa. Hôm 30/01/10, bộ ngoại giao Mỹ ra thông cáo: “Việc bán vũ khí sẽ đóng góp cho an ninh và ổn định giữa Đàiloan và Trungquốc”. Bắckinh tuyên bố: “sẽ ngưng trao đổi quốc phòng với Washington, xem xét lại việc hợp tác trên nhiều lãnh vực quan trọng, và cấm vận các công ty vũ khí”. Đàiloan hoan nghênh quyết định của Mỹ. Tổng thống Mã Anh Cửu nói: “Hợp đồng bán vũ khí sẽ khiến Đàiloan tự tin hơn để có thêm các hoạt động trao đổi với Trungquốc”. Theo hãng tin Kanwa của Đài Loan cho biết: Những tên lửa Changjin CJ 10 của Trungquốc đã được chuyển tới cho binh đoàn 215 đóng tại Liễu Châu Quảng Tây Trungquốc. Tầm bắn của các tên lửa này từ 1.500 km đến 2.000 km, với tốc độ 3.000 km giờ, có khả năng mang đầu đạn hạt nhân. Khống chế một phạm vi rộng lớn bao gồm Bắc Ânđộ, Đàiloan, Triềutiên, đảo Okinawa Nhật Bản và Việtnam. Cùng lúc, Bắc Hàn liên tục pháo kích vào vùng biển đang còn tranh chấp với Nam Hàn. Tất nhiên trong tình thế này, Nhậtbản không thể bỏ rơi được quân lực Hoakỳ. Các nước trong khu vực Á châu dù muốn hay không, cũng phải lo tăng cường sức mạnh quân sự để tự phòng vệ, và trông vào sức mạnh quân sự Mỹ làm lực cản đối với Trungcộng. Cuộc tập dượt Hảiquân quy mô lớn do Ấnđộ chủ trì, với các nước Áchâu Thái Bình Dương tham dự, kéo dài 4 ngày từ 04/02/10, gồm Australia, Bangladesh, Indonesia, Malaysia, Miến Điện, Singapore, Sri Lanka, Thái Lan. Hải quân Brunei, Philippine, Việtnam và New Zealand chỉ tham gia diễn tập. Trước đó Việtnam đã mua tàu ngầm, máy bay của Nga lên tới 1,8 tỷ đôla. Hình như nhờ vào việc biết trước để mua được vàng với giá rẻ, bán ra lời được 1,7 tỷ đôla. Thế là kéo được Nga vào sân chơi “Chiến Lược Phòng Thủ Toàn Cầu của Mỹ” tại Áchâu.



Ngày 31/01/2010, truyền thông Hoakỳ cho hay, nước này đang đẩy nhanh việc triển khai hệ thống chống phi đạn tại 4 quốc gia vùng vịnh Ba Tư, gồm Qatar, Kuwait, các Tiểu Vương Quốc Ả Rập và Bahrain. Đồng thời tăng cường sự hiện diện của Hảiquân với các tàu đặc biệt có khả năng bắn hạ phi đạn, nhằm áp lực lên Iran. Ngày 03/02/10, tổng thống Iran, Mahmoud Ahmadinejad tuyên bố: “Iran sẵn sàng chuyển uranium ra nước ngoài để tiếp tục làm giầu theo thỏa thuận đã đạt được với phương Tây”. Thế là kéo được Nga và Âuchâu vào sân chơi Trung Cận Đông. Trước đây Iran đã chống lại việc này, nên Mỹ đang vận động đưa ra các biện pháp chế tài mới. Nhưng Trungcộng không đồng ý mạnh tay hơn. Nay Mỹ tỏ dấu hiệu quyết liệt với Trungcộng qua việc tái tục bán vũ khí cho ĐàiLoan, trong khi mối quan hệ giữa Mỹ-Tầu có tranh cãi về vấn đề thương mại và kiểm soát Internet. Cũng như việc tổng thống Obama vẫn tiếp kiến Đức Đạt Lại Lạt Ma, bất chấp sự phản đối của Trungcộng, khiến cho Trungcộng lâm vào thế cô đơn phải lo thủ thế trong chiến lược toàn cầu mới của Mỹ.



Đến đây nhận thấy rằng, dù ông Obama đã bạc đầu về các gói “kích cầu kinh tế”, đánh vật với chương trình “bảo hiểm y tế toàn dân”, xem ra vẫn chưa làm nên cơm cháo gì, vì đây chỉ là sản phẩm của độc đảng Dân Chủ, tự nó đã phạm vào nguyên tắc lưỡng đảng và phạm vào lãnh vực “Quyền Tự Do Cá Nhân Bất Khả Xâm Phạm” của truyền thống và Hiến Pháp Mỹ, nên có thể ông và đảng Dânchủ của ông sẽ bị trả giá rất nặng chưa biết chừng. Nhưng về mặt “Chiến Lược Toàn Cầu” thì nước Mỹ vẫn lừng lững vận hành đi tới. Tổng thống Obama đã biết chọn đại tướng James Jones - thuộc đảng Cộnghòa do TT Bush cha bổ nhiệm làm Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoakỳ - làm cố vấn, cầm đầu Hội Đồng An Ninh Quốc Gia với ban tham mưu gồm 200 nhân viên thượng thặng về chiến lược và chính sách, đông nhất trong các đời tổng thống trước nay. Giữ ông Robert Gates ở lại chức Bộ Trưởng Quốc Phòng, tiếp tục chính sách quốc phòng từ thời TT Bush. Nghĩa là mặt Kinh Tế và Ngoại Giao thì có thể linh động, nhưng về mặt chiến lược an ninh quốc phòng thì không thay đổi. Nước Mỹ vẫn là Siêu Cường Quân Sự Toàn Cầu, sẵn sàng chống khủng bố, ngăn bành trướng và khuyến khích các nước tự phòng vệ để làm cùn nhụt mộng xâm lăng của đế quốc Tầu đỏ. Nhưng các nước Áchâu, trong đó, nhất là Việtnam có tự cứu mình nổi hay không, là do có thực sự Dân Chủ Hoá Chế Độ được hay không mà thôi. Little Saigon ngày 02/02/2010.



*

THƠ NGỌC ẨN




*


Từ ngày các bác vô đây

Lúc mà các bác chưa có vô đây
Cháu chưa có mặt trên đất nước này
Má cháu còn đi đến trường mỗi sáng
Đúng tuổi trăng tròn, đôi má hây hây


Kể từ sau ngày các bác vô đây
Ông ngọai bỗng nhiên bị bắt tù đầy
Bà ngọai nhớ chồng rưng rưng mỗi tối
Má cháu u sầu đánh mất thơ ngây


Ba năm sau ngày các bác vô đây
Một sáng mùa Đông sương trắng giăng đầy
Các bác đến nhà, lưng đeo súng đạn
Bắt má đi làm thủy lợi miền Tây


Một tháng đi làm thủy lợi miền Tây
Má về ốm o thể xác hao gầy
Má ôm ngọai khóc, thì thầm kể lể
- Cán bộ hiếp con, đôi lúc cả bầy !


Rồi cháu ra đời không ba, có má
Ngọai vừa nằm xuống nên má trắng tay
Bán buôn tảo tần má nuôi cháu lớn
Dù không biết rằng ba cháu là ai !


Mười tám năm sau ngày bác vô đây
Tài sản, cửa nhà không cánh mà bay
Má cháu qua đời sau cơn bạo bệnh
Còn gì bán nữa ? Ngòai thân cháu đây


Gần hai mươi năm sau ngày bác vô
Cháu mừơi sáu tuổi thân xác héo khô
Vậy mà phải bán lấy tiền mua gạo
Tính ra sáng chiều - Chỉ đủ một tô !


Ngọc Ẩn


*

TIN BUỒN





Được tin

GIÁO SƯ LÊ VĂN

Nguyên Khoa Trưởng Đại Học Sư Phạm Huế
Nguyên Phó Khoa Trưởng Đại Học Sư Phạm Sàigòn
Nguyên Sáng lập viên Trường Trung Học Kiểu Mẫu, thuộc Đại Học Sư Phạm
Nguyên Hội viên sáng lập Hiệp Hội Văn Hoá Giáo Dục Đông Nam Á (South East Asian Culture and Education Foundation), Hoa Kỳ
Nguyên Chủ biên tập san Dòng Việt, California, Hoa Kỳ
Nguyên Hội viên Hội Đồng Quản Trị, Ban Cố Vấn, Trưởng Ban Sư phạm Giáo dục Viện Việt-Học, California, Hoa Kỳ
Đã thất lộc vào ngày 31 tháng 12 năm 2009 tại Los Angeles, California, Hoa Kỳ
Hưởng thọ 83 tuổi

Chúng tôi xin chia buồn cùng tang quyến
viện Việt Học
và Tạp chí Dòng Việt
Nguyện cầu anh linh Giáo sư được an nghỉ nơi Cõi Vĩnh hằng.


TẠP CHÍ BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG
NGUYỄN THIÊN THỤ

*

Friday, February 5, 2010


NGUYỄN QUÝ ĐÀI * VẤN ĐỀ NÔ LỆ

*

Nguyễn Quý Đại: Nô Lệ Da VàngNguyễn Quý Đại
Lịch sử nô lệ
Lịch sử về nô lệ có trước thời trung cổ, đầu tiên ở đảo Sizilien miền Nam Ý (136-132 trước Công nguyên) nô lệ trao đổi với Đế Quốc La Mã có các danh từ "Eunus, Antiochos“.... Những cuộc chiến đẩm máu trong lịch sử thế giới thường xảy ra. Phe chiến thắng chiếm đoạt tài sản và sinh mạng kẻ bại trận, kể cả đàn bà, trẻ em đều bị bắt làm nô lệ. Giới quý tộc bỏ tiền mua người nghèo về phục vụ. Cách đây hơn 100 năm ở Việt Nam những Điạ chủ giàu có, muốn bảo vệ gia trang, mua hay mướn những người Thượng phục vụ, gác nhà....
Tác phẩm Geschichte der Sklaverei/ History of Slave „Lịch sử nô lệ“ tác giả Sunsanne Everett mô tả cuộc đời người nô lệ thời Trung cổ, từ Á sang Âu đã có phong trào mua bán nô lệ, các dịch vụ chở nô lệ bằng tàu buồm hay áp giải vượt sa mạc Sahara. Trung Hoa có hàng triệu cô gái bị bán làm nô lệ.
Giáo chủ Hồi Giáo Mohammed (570-†632) cầm đầu giáo quyền năm 630 đánh chiếm Mecca. Những người chống đối (Do Thái giáo, Thiên chúa giáo) đều bị tiêu diệt, hàng ngàn đàn ông bị chém đầu, đàn bà bị bắt bán làm nô lệ! Trận chiến thành Troy, Hy lạp (Greeks) xua quân đánh chiếm thành Troy cuả Thổ Nhĩ Kỳ tiếp thu chiến lợi phẩm và bắt những người đẹp như: Briseis, Tecmessa và Chryseis...

Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey) từng có chợ nô lệ Sandal Bedesten, tiểu vương Mehmet xây cất từ năm 1461 tại Istanbul. Chợ nô lệ người Hoà Lan tổ chức ở New Amsterdam (ngày nay là New York). Những thương thuyền lớn người Anh, Bồ Đồ Nha, Tây Ban Nha mua người da đen, thổ dân ở Phi Châu (Neger) làm nô lệ, vì giống người nầy đời sống kém văn minh nhưng có sức mạnh.

Thị trường mua bán thời đó phần lớn ở Hoa Kỳ cần người làm việc tại các đồn điền, nông trại, trồng miá, hái bông vải, kéo xe, đào mỏ.. Thương thuyền Âu Châu chở vũ khí, máy móc, rượu, hàng hoá biến chế rẻ tiền bán cho Phi Châu, và ngược lại mua „người“ từ Phi Châu bán cho Hoa Kỳ, và mua của Hoa Kỳ nguyên liệu hàng hóa, bông vải, đường, caffe ...

Kiếp người nô lệ khổ đau, bị cưỡng ép lao động như trâu bò kéo cày, bị đánh đập, hành hạ, nếu chống lại chủ thì bị xiềng xích, đóng gông. Người bỏ tiền mua nô lệ dùng thỏi thép nung đỏ, đóng dấu trên lưng họ để nhận dạng nếu bỏ trốn.

Đức giáo Hoàng Greogor I (540-†604) đã từng kêu gọi Thế giới ngưng mua bán nô lệ, phải tôn trọng phẩm giá con người mà Thượng Đế đã tạo dựng, không phân biệt màu da sắc tộc…dù Đức Giáo Hoàng kêu gọi nhưng chưa đánh động được lương tâm của thế giới vì con người đầy tham vọng và quyền lực. Từ Thế kỷ 16 đến Thế kỷ 18 hơn 15 triệu người Phi Châu bị bắt bán làm nô lệ, dù ông William Lloyd Garrion từng đứng lên đòi giải phóng cho người da đen. Hiệp Hội chống lại chế độ nô lệ „Anti Slavery Society“ trên báo (The Genius of Universal Emancipation) đấu tranh giải phóng nô lệ.

Thế Kỷ thứ 18 đế quốc Anh chiến thắng Tây Ban Nha, Hiệp Ước Asiento năm 1713 Anh Quốc độc quyền mua bán nô lệ, mỗi năm 5000 người ở Trung và Bắc Mỹ là các nước thuộc điạ của Tây Ban Nha .

Chấm dứt nô lệ ở Âu Châu


Trải qua những biến đổi lịch sử từ 01. 01.1807 Anh Quốc cấm mua bán nô lệ, nếu thương thuyền vi phạm bị phạt tiền vạ 100 Bảng Anh và bỏ tù. Đại Hội Quốc Tế ở Wien/ Vienna 1815 (Áo) các quốc gia phải bỏ chế độ nô lệ: Bồ Đồ Nha / Portugal năm 1817, Pháp và Hòa lan năm 1818. Ba Tây / Brasilien 1826 được độc lập và chấm dứt nô lệ. Ở Âu Châu năm 1820 việc buôn bán nô lệ cáo chung. Hiến pháp Đức ghi đìều 1 đoạn 1 „nhân phẩm con ngưòi bất khả xâm phạm“. Chỉ còn ở Hoa Kỳ kéo dài một thời gian, nội chiến Hoa Kỳ máu của những người nô lệ đổ nhiều và từ đó chế độ nô lệ cũng được giải phóng ở nhiều tiểu bang.


Năm 1860 Abraham Lincoln (1809 -†1865), được bầu làm Tổng Thống thứ 16 Hoa Kỳ, từ năm 1862 người nô lệ được giải phóng ở các thành phố phiá Đông, đến năm 1867 theo điều 13 Hiến Pháp Hoa Kỳ từ ngày 18.12.1865 chấm đứt chế độ nô lệ. Tổng thống Lincoln từng nói: “Vì không muốn làm một kẻ nô lệ nên tôi cũng sẽ không làm chủ nô lệ. Điều này diễn đạt ý tưởng của tôi về Dân Chủ. Bất cứ điều gì khác hơn thế, dù khác ít hay khác nhiều, đều chẳng phải là dân chủ.” Lần đầu tại New Orleans người nô lệ được tham gia bỏ phiếu.. Năm 1965 mục sư Tin lành Martin Luther King (1929 -†1968) người nhận giải Nobel hòa bình năm 1964. tiếp tục đấu tranh cho sự bình đẳng của người da đen ở các tiểu bang Montgomery, Alabana .. .

Thời đại văn minh tiến bộ, chế độ nô lệ không còn phổ biến như xưa, Quyền lực không còn là phương tiện tuyệt đối bắt người làm nô lệ, nhưng thế lực đồng tiền vẫn là phương tiện vô biên cho đến nay. Dựa trên một số tài liệu, thì việc buôn người là một kỷ nghệ trị giá lên đến 40 tỉ đô la? Chợ nô lệ được trá hình dưới nhiều hình thức khác nhau, bọn gian thương khai thác triệt để, là món hàng không vốn, đắc giá nhất bởi vậy nạn buôn người và nô lệ vẫn tồn tại ở thế kỷ thứ 21


Công Ước Genève ngày 25. 09.1926 về việc ngăn cấm, phòng ngừa và trừng phạt mọi hình thức mua bán nô lệ. Từ trước đến nay thế giới đã có hàng chục Công ước, Hiệp định bổ túc cấm nạn mua bán, khai thác nô lệ trong các lãnh vực cưỡng bức trẻ em lao động, mại dâm vv...Thời đệ nhị thế chiến, quân đội Nhật Bản đã bắt đàn bà Đại Hàn làm nô lệ sinh lý. Mặc dù chính phủ Nhật đã xin lỗi Đại Hàn, nhưng vết mực đen đau thương cho thân phận đàn bà Đại Hàn còn sống sót khó có thể phôi pha

Theo tổ chức Quốc Tế Di Dân trụ sở tại Genève cho biết hàng năm có khoảng từ 250.000 đến 300.000 trẻ em đàn bà từ khối Sô Viết bị bán qua các nước Tây Âu. Quỹ Bảo Trợ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) tổng kết hàng năm trên thế giới đến 2 triệu trẻ em bị mua bán về tình dục, riêng các nước Á Châu (Campuchia, Lào, Miến Điện, Thái lan và Việt Nam ) người Việt chiếm một phần nửa? buôn bán phụ nữ, trẻ em để phục vụ cho ngành mại dâm dưới nhiều hình thức khác nhau. Nếu muốn hạn chế, kiểm soát chặt chẻ ngăn chận buôn bán người, phải cần sự hợp tác của nhiều quốc gia trên thế giới.

Nô lệ mới

Việt Nam trải qua nhiều khổ đau vì chiến tranh tàn phá. Năm 1945 gần triệu người miền Bắc chết đói, nhưng không có người Việt nào rời bỏ quê hương. Năm 1975 người ta vui mừng thống nhất đất nước, chấm dứt chiến tranh đem lại thanh bình cho dân tộc. Niềm vui chưa trọn hàng trăm ngàn quan chức chế độ VNCH bị bắt tập trung cải tạo, những năm dài trên cao nguyên núi rừng từ Nam ra Bắc, đời sống trong các trại cải tạo đọa đày giống như người dưới thời nô lệ! Những tù nhân chính trị may mắn còn sống, Từ năm 1990 được chính phủ Hoa Kỳ nhận qua chương trình H.O. (Humanitarian Operations), „tù nhân nô lệ„ được giải phóng. Tổng Thống Lyndon Bainer Johnson (1908-†1973) năm 1965 nhắc lại thời kỳ còn nô lệ ở Hoa Kỳ „tự do chưa đủ.. vết thương nô lệ từ trăm năm qua chưa thể lành được..“

Hòa bình hơn 3 thập niên, tưởng đất nước yên vui „đổi mới“ kinh tế phát triển thì xã hội phải văn minh, tốt đẹp hơn, nhưng nhìn lại thân phận đàn bà Việt Nam trở thành món hàng giải trí rẻ tiền cho thiên hạ. Dù với hình thức kết hôn, nhưng thực tế đàn bà VN bị bán cho những đàn ông ngoại quốc dốt nát, ít học, bệnh hoạn… nhiều bài báo đã viết về trường hợp nầy. Những đàn ông ở xứ họ không thể tìm ra vợ hoặc muốn tìm người giúp việc nên họ để dành tiền, vàng sang Việt Nam tìm đàn bà. Xã hội Trung Hoa còn ảnh hưởng phong kiến trọng Nam hơn Nữ, sinh con gái họ đã vức ra đường như con vật chả ai để ý tới (tuần báo Stern của Đức đã lên án và chụp hình hài nhi là con gái bị bỏ bên đường), gây ra nạn trai thừa gái thiếu, nên họ đổ xô đi tìm vợ VN

Thận phận đàn bà Việt Nam

Trường hợp rao bán phụ nữ Việt Nam trên Internet của ebay Taiwan gây dư luận về việc buôn người bất hợp pháp vi phạm nhân quyền, phẩm giá phụ nữ Việt Nam bị tổn thương. Tin này gây dư luận ở Đài Loan. Các Hội Nữ Quyền ở Mỹ, Úc và người Việt Nam tị nạn đều phản đối, nhưng Hội Phụ Nữ Việt Nam ở quốc nội vẫn im lặng?

Sài Gòn hiện nay là thành phố đông dân hơn 8 triệu người. Dù số thống kê chưa chính xác, nhưng người ta ước tính trong số 8 triệu người Sài Gòn có hơn 1 triệu người từ các vùng quê nghèo đến Sài Gòn mưu sinh. Trong số dân nhập cư này, đa phần là phụ nữ, họ vào Sài Gòn với giấc mơ đổi đời, nhiều người mưu sinh bằng những việc lương thiện, đánh đổi mồ hôi để kiếm ăn hàng ngày, cũng nhiều người bị đưa đẩy vào đường tội lỗi. Những tệ hại và khốn nạn với dịch vụ „chợ buôn người“ dưới dạng „lấy chồng ngoại quốc“. Ở Singapore mấy thiếu nữ Việt Nam ngồi trong những phòng kính để khách qua lại lựa chọn như một món hàng ở khu thương mãi.

Thân phận gái quê lên thành phố cũng nhiều đắng cay, vì nhẹ dạ bị dụ dỗ bán qua biên giới Trung Hoa, Campuchia, Lào, Thái… để làm việc. Nhưng thực tế phần lớn họ bị lừa, buộc nạn nhân phải làm việc trong các động mại dâm. Đời sống lặng lẽ như những chiếc bóng, những chiếc bóng chờ một ngày trôi qua khi màn đêm buông xuống ra đường sống kiếp phù du…

Hơn 100 ngàn phụ nữ Việt nam làm dâu xứ người, có bao nhiêu người hạnh phúc? ngôn ngữ phong tục là bức tường ngăn cách! nhiều cô bị bỏ đói, đánh đập, phục vụ sinh lý cho cả gia đình, sống bơ vơ xứ người phải bán mình như nàng Kiều! làm việc nhà từ sáng đến tối như người nô lệ. Chúng ta phải chạnh lòng và tủi nhục cho thân phận đàn bà Việt Nam xấu số, mời theo dõi phóng sự tại Đài loan:




Một số phụ nữ Việt lấy chồng Hàn Quốc đã tự tử, hoặc bị đánh tới chết mà nhiều vụ được kể trên báo chí đã gây xúc động cho dư luận mấy năm qua. Theo một bản tin của báo Anh ngữ Korea Herald ngày 23 tháng 12 năm 2009, chỉ kể từ tháng 11, 2006 là thời gian cơ quan này được thành lập cho đến hết tháng 10, 2009 tin trên tường thuật, 40.4% các người gọi cầu cứu là phụ nữ Việt Nam (28,417 lần gọi). Các quốc gia trên thế giới xuất cảng máy móc, hàng hoá.. Sau năm 1975 nhà cầm quyền Việt nam „xuất khẩu lao động“ sang các nước thuộc khối Xã Hội Chủ Nghiã Đông Âu để trả nợ chiến tranh. Nhưng chủ trương đó đến nay không ngừng mà còn tiếp tục xuất cảng người ra các vùng Đông Nam Á như Đại Hàn, Mã Lai, Nhật Bản, Singapore, Hồng kông, Nam Dương và cả các nước Á Rập...

Việt nam với tài nguyên giàu có "rừng vàng bể bạc“, không thiếu nhân tài, giới trẻ góp sức phát triển xây dựng một nước hùng mạnh, phú cường, không thua gì Nhật hay Đại Hàn, nhưng tiếc thay nhà nước không chú trọng đến việc khai thác nhân tài. Người Việt phải đi lao động xứ người thật khổ, làm những việc mà người bản xứ chê, bị kỳ thị, cô lập, đánh đập, trường hợp một số người lao động tại Mã Lai gặp khó khăn, không rành ngoại ngữ, họ lảnh lương không đúng hợp đồng, lý do là phía Việt Nam xuất khẩu lao động chỉ tìm cách đưa nhiều người sang để kiếm tiền, mà không chú ý tới các điều kiện lao động Theo Cục quản lý Lao động ngoài nước của CSVN, hiện có hơn 500 ngàn người Việt đang lao động tại hơn 30 quốc gia trên thế giới. Ở một số nước mới có người Việt lao động bắt đầu từ năm 2005 như Đài Loan, Nhật Bản, Đại Hàn và Mã Lai thì ngoại tệ chủ yếu tập trung chuyển về những khu vực nông thôn. Đây là những thị trường “xuất cảng lao động” lớn của VN. Năm 2010 sẽ có đến 85.000 người chính thức đi lao động... Tâm sự của một công nhân làm việc ở Malaysia:

"Do là các công ty của mình ở nhà, cứ đưa đẩy người sang để mà lấy phần trăm, cứ đưa người sang ào ào nhưng công việc lại chẳng đâu vào đâu cả. Bức tranh lộn xộn về lao động xuất khẩu Việt Nam, không chỉ tại Malaysia mà còn ở nhiều nước khác, cho thấy sự phối hợp và quản lý của các cơ quan chủ quản là rất yếu, nếu không muốn nói tới tình trạng đem con bỏ chợ. Thế cho nên những người lao động Việt Nam, vỡ mộng làm giàu nơi xứ người, giờ đây không biết bấu víu vào đâu. ... „

Ngoại tệ chuyển về VN hàng năm tăng liên tục và tăng rõ rệt trong 10 năm qua. Năm 2000 được 1 tỷ USD, năm 2001 tăng lên 1.5 tỷ USD, năm 2002 lên hơn 2 tỷ USD, năm 2003 2.6 tỷ USD, năm 2004 3.8 tỷ USD, năm 2005 lên gần 4 tỷ USD, năm 2006 nhảy vọt lên 5.2 tỷ USD, năm 2007 lên trên 6 tỷ USD và năm 2008 đạt kỷ lục 7.2 tỷ USD. cuối tháng 12 năm 2009 lượng kiều hối chuyển về VN chỉ được 6.283 tỉ USD, giảm 12,8% so với năm 2008. Nhìn lại 19 năm qua, từ khi những đồng tiền đầu tiên của Việt kiều được gửi về VN qua đường chính thức kể từ năm 1991, đến nay con số này đã vượt quá 30 tỷ USD chiếm hơn 70% số vốn Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài (FDI - Foreign Direct Investment) tính từ năm 1988 và cao gấp rưỡi nguồn vốn Viện Trợ Phát Triển Kinh Tế (ODA - Official Development Assistance) được giải ngân từ năm 1993. (Năm hết Tết đến tính sổ kiều hối với CSVN Trần Việt Trình )

Đời sống Việt nam ngày nay đua theo vật chất, nguời có quyền lực thì giàu sang, các đại gia, công tử tiền tiêu không hết thành phố Hà Nội, Saigon không thiếu các loại xe đắt giá nhất thế giới như: Rolls Royce, Mercedes, BMW.. người nghèo thì nghèo tận cùng xã hội, nghèo rớt mồng tơi! Thế hệ trẻ không nhìn thấy tương lại, nhiều gia đình muốn con mình ra nước ngoài làm việc, mong thu nhập cao hơn để giúp gia đình theo kinh tế thị trường...Bọn buôn người nhờ thế lực bao che, tổ chức đưa người ra nước ngoaì. Tại các nước Đông Âu (trước kia thuộc khối xã hội chủ nghiã) đã từ bỏ thiên đường cộng sản, nhưng lề lối làm việc còn ảnh hưởng dưới thời cộng sản, kẻ hở luật pháp chưa được tôn trọng, nhiều đường giây buôn người. Nhiều người ở quê nhà tưởng sang xứ người dễ làm giàu, nhờ bản tính cần mẫn siêng năng! bán tài sản ruộng vườn để đủ tiền nợp cho các dịch vụ ra nước ngoài làm việc, đến Nga và từ đó sang Ba lan, Tiệp Khắc... hy vọng tìm đời sống như ước mơ. Đến nơi những gì hưá hẹn trở thành hư ảo, đứng trước hoàn cảnh nan giải tiến thối lưỡng nan, bị đem con bỏ chợ „hết xôi rồi việc“ tiền đã bỏ tuí bọn buôn người lẫn trốn .. Nhiều người bơ vơ không giấy tờ hợp pháp phải sống chui rúc làm đủ các thứ việc, đồng lương bị bóc lột, trở thành nô lệ kêu trời không thấu. Mùa đông ở Âu Châu giá lạnh nhưng ở cảng Calais các khu rừng Téteghem, Grande Synthe, Angres bên Pháp có nhiều người Việt Nam sống bất hợp pháp chịu cảnh đói khổ mong tìm một nơi nương tựa có việc làm gởi tiền về trả nợ bên quê nhà ....
Theo loạt bài phóng sự "người rừng" của ông Huỳnh Tân. Mùa đông năm nay khá lạnh đôi khi nhiệt độ -20 độ C. Chúng ta phải thông cảm nỗi khổ của những người lẫn trốn trong rừng vì đói lạnh, thiếu vệ sinh lo sợ bị ức hiếp … Họ là nạn nhân bị các tổ chức buôn người hứa hẹn tìm kiếm công ăn việc làm, với lương cao 5000€ hàng tháng,(chú thích: tiền lương nầy chỉ những người tốt nghiệp đại học làm lâu năm chưa trừ thuế, lao động VN không rành ngôn ngữ, không nghề nghiệp không có giấy phép làm việc, nếu người ta thuê làm lậu thuế tốt bụng lắm họ trả tối đa 5€ một giờ). Những người sống ở các khu rừng biên giới Pháp, chờ cơ hội để nhảy xe tải sang Anh tìm việc! Sau cơn khủng hoảng kinh tế không riêng gì ở Anh mà các quốc gia khác cũng không tránh được nạn thất nghiệp gia tăng. Nếu may mắn vào được nước Anh không phải dễ tìm được việc làm hợp pháp! Tương lai là những ngày dài đen tối, tâm sự của „người rừng“ được gởi gắm qua những dòng thơ buồn man mác, đọc hết bài thơ dài tôi không thể cầm được nước mắt , Họ là nạn nhân có thể chết đói, chết lạnh giữa xã hội văn minh dư thừa vật chất!

Người Việt ở Campuchia


Nội chiến Kampuchia năm 1975, Khmer đỏ do Pol Pot lãnh đạo (thân Trung Quốc) chiến thắng, giết hàng triệu người vô tội phơi xương trắng ruộng đồng. Năm 1979 chính quyến CSVN đưa quân đội giúp Heng Samrin chống lại Pol Pot & đóng quân cho đến 1989. Trong thời gian trên nhiều người Việt được sự bảo trợ của quân đội sang lập nghiệp, tại Phnom Penh và các thành phố, làng mạc khác. Ngày nay nhiều du khách Tây Phương đến thăm Angkor kỳ quan thế giới tráng lệ. Xứ Chùa Tháp nhưng đời sống hổn độn, đạo đức suy đồi, ở đâu cũng có quán bia ôm, những động mại dâm ở Svay Pak là những em gái vị thành niên phần lớn người Việt Nam đến từ các tỉnh phiá nam. Tệ nạn mại dâm do tổ chức buôn người về vùng quê Việt Nam dụ dỗ con gái nhà nghèo sang Campuchia làm việc có nhiều tiền hơn, đến nơi bị bán trinh cho người Tàu và buộc làm việc tiếp khách mua vui, công việc kinh tởm, không đạo đức vi phạm nhân quyền.
Trường hợp cô Sina Vann tên thật là Nguyễn Thị Bích, quê ở Cần Thơ. Năm mười ba tuổi, Nguyễn Thị Bích bị một bà hàng xóm gạt dẫn sang Kampuchia, bán vào động mãi dâm. Cô được tổ chức Somaly Mam Foundation cứu thoát.. Tháng Mười năm 2009, Sina Vann đến Hoa Kỳ để nhận giải thưởng Frederick Douglas vì nổ lực tự phục hồi bản thân và quyết tâm chống nạn buôn người mà cô từng là nạn nhân.



Đần năm 2010 hãng AAP (Australian Assciated Press) cho biết tổ chức The Grey Mann trụ sở ở Brisbane đã cứu thoát được 2 em bé Việt Nam bị bắt làm nô lệ tình dục, không biết còn bao nhiêu trẻ em đang phải sống kiếp người nô lệ của điạ ngục trần gian. Chúng ta nếu có dịp trở về thăm Singapore, Indonesia, Malaysia phải chạnh lòng ngao ngán thấy những cô gái Việt Nam trẻ đẹp ăn mặc hở hang đứng đường làm nghề buôn hương bán phần. Họ đến đây trong những hoàn cảnh khác nhau, tìm chồng ngoại quốc vì hoàn cảnh gia đình…nhiều cô tuổi vị thành niên bị bọn buôn người lừa dối, hứa hẹn giúp cho đi học nghề, nhưng thật ra đến nơi bị khống chế bởi bọn má mì và du đảng ép buộc làm nghề „đi khách“.

Nhìn lại lịch sử Việt nam qua các Triều đại các đấng nữ nhi như hai chị em Bà Trưng bà Triệu, Cô Giang, Cô Bắc đã làm vang danh lịch sử giống nòi. Ngày nay đàn bà Việt Nam phải bán thân khắp nơi làm nô lệ! Trẻ thơ Việt Nam bị đọa đày, ai là người quan tâm khi đang còn mãi mê, sa đoạ, vơ vét cho đầy túi tham hãy thức tỉnh nhân tâm giải phóng cho tuổi thơ Việt Nam! chấm dứt vi phạm nhân quyền... cựu Tổng thống George.W. Bush đã tuyên báo :

"Chúng ta phải chứng tỏ sức mạnh mới trong việc chống lại một tệ nạn cũ. Gần 2 thế kỷ sau khi dẹp bỏ nạn mua bán nô lệ, và hơn một thế kỷ sau khi chế độ nô lệ bị chính thức khai tử ở các cứ địa cuối cùng của nó, không thể để cho nạn mua bán người vì bất cứ mục đích nào nẩy nở trong thời đại của chúng ta".

Là người Việt ở khắp nơi trên thế giới cũng như trong nước, chúng ta phải làm gì cho dân tộc sớm thoát khỏi cảnh nghèo đói lạc hậu? chấm dứt trình trạng buôn người "nô lệ". Năm mới Canh Dần hy vọng ánh sáng đến đẩy lui bóng tối đang bao phủ quê hương nước Việt.

Nguyễn Quý Đại

Tài liệu tham khảo: Geschicthte der Sklaverei tác giả Susanne Evertt NxB Becchtermünz http://www.take2tango.com/n3ws/nguyen-quy-dai-no-le-da-vang-9538
*


SƠN TRUNG * VIỆT NAM XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG



XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG, VÀ CÁC HÌNH THỨC BUÔN NGƯỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM



I. LỊCH SỬ BUÔN DÂN TẠI VIỆT NAM

Đảng cộng sản luôn rêu rao tranh đấu cho vô sản, nào là phục vụ nhân dân, vì nhân dân, cho nhân dân nhưng thực tế là buôn dân, bán nước.

Sau 1975, Đảng Cộng sản chủ trương cho người dân miền Bắc ưu tiên việc xuất khẩu lao động. (XKLĐ). Nhân dân đi đã đành mà cán bộ cũng xếp hàng xin đi. Lúc này đi lao động tại khối Cộng sản như Nga, Hung, Tiệp . . .cho nên phong trào này được gọi bằng một danh từ mỹ miều là " lao động xã hội chủ nghĩa" hoặc "hợp tác lao động " chứ không phải mộ phu hay bán người!

Mục đích của Việt Nam là bắt dân đi trả nợ các nước XHCN. Người lao động bị bóc lột vì một phần lương được khấu trừ để trả nợ quốc tế, một phần phải nộp cho bọn đầu gấu đảng cộng sản. Tuy vậy, phải có thế mạnh, phải là cán bộ hay con em cán bộ mới được đi. Có lẽ đi Liên Xô cũng sung sướng cho nên khi về ai nấy đều mang tủ lạnh, máy may, xe gắn máy, xe đạp, nồi, niêu, song chảo về và mặt mũi phớn phở hẳn ra. Dương Thu Hương đã nói đến việc xuất cảng laọ động trong Những Thiên Đường Mù mà nhân vật chính là Cậu Chính, một con người điển hình của chế độ cộng sản.

Phải thật lâu, người trong Nam mới được vinh hạnh đi lao động XHCN. Việc xuất cảng lao động này làm cho Liên Xô nhận rõ con người XHCN Việt Nam. Đất nước họ yên lành thì người Việt Nam sang làm đảo lộn mọi sự. Xin kể ba chiêu độc đáo của đa số con người XHCN Việt Nam anh hùng và trí tuệ.

Chiêu thứ nhất, người Việt Nam theo thói quen mua gạo tổ ở Việt Nam, trong khi dân Liên Xô trời lạnh ngủ đến 8, 9 giờ mới dậy, thì phe ta sắp hàng từ 6, 7 giờ sáng mua sạch hàng khiến cho các ông bà cô cậu Liên Xô không còn hàng mua nữa. Chiêu thứ hai, người Việt Nam hối lộ các cửa hàng cho nên bao nhiêu hàng hóa tốt biến khỏi kho hàng, khiến cho các ông Tây xếp hàng cả ngày mà đành phải trở về tay không!

Cái chiêu thứ ba là Việt Nam làm hàng mạo hóa như quần bò (Jean ), áo phong là hàng mà người Nga thích nhất, và nhiều hàng khác. Nhưng mang được vài bữa là hỏng, là rách, là phai mực. ..Từ đó người Liên Xô khinh bỉ người Việt Nam mà không coi là đồng chí anh em nữa.

Khi tôi sang Canada năm 1995, gặp gỡ những người Liên Xô thì họ nhìn tôi bằng cặp mắt khinh bỉ và thù hận mà thù hận thì nhiều hơn là khinh bỉ! Con sâu làm rầu nồi canh! Tôi biết tôi phải lãnh cái "tội tổ tông" và "tội đồng bào"! Nhưng biết làm sao!

Sau khi Liên Xô và Đông Âu tan rã, những người lao động cán bộ và con em cán bộ gốc XHCN lại bỏ XHCN mà chạy sang các nước tư bản.

Thời Pháp thuộc, khoảng đầu thế kỷ XX, người Pháp đã tuyển công nhân đi làm ở Tân Đảo (Nouvelle-Calédonie) và Tân thế giới ( Vanuatu). Nay thì Cộng sản Việt Nam thay thế Pháp mộ phu đi khắp thế giới.

II. MỤC ĐÍCH BUÔN DÂN


Mỗi thời đại có một danh từ khác nhau. Thời thực dân gọi là mộ phu, nghĩa là chiêu mộ lao động. Thực dân đem lao động đi trong và ngoài nước. Mục đích là dùng lao động để khai thác thuộc địa, đặc biệt là trong nông nghiệp. Bọn thực dân bắt dân da đen sang Mỹ làm nô lệ cũng trong mục đích này. Thời này, bọn thực dân dùng súng đạn để cướp đất và bắt nô lệ. Sau này, người ta không bắt nô lệ mà dùng những hình thức tinh vi hơn. Dù sao đi nữa, cũng đi đến việc buôn bán nô lệ bằng cách này hay cách khác để thu lợi nhuận.

Ngày nay, việc đưa lao động hay buôn người ra nước ngoài đã trở thành một dịch vụ bí mật và công khai. Nhiều nước đã làm việc này như Phi Luật Tân, nhưng họ làm khác Việt Nam. Họ ăn lời vừa phải, họ để cho người lao động có thể sống. Thí dụ người công nhân viên chức quân chủ và tư bản để cho dân ăn no để có sức làm việc, còn trong chế độ cộng sản, công nhân viên lương chỉ đủ sống trong mười ngày hay nửa tháng.. Họ cũng còn nhân đạo cho nên ít nhất tù nhân cũng có bát cơm còn tù nhân cộng sản chỉ ăn khoai sắn do tù trồng lấy mà lại không được ăn no..

Trong mọi cách thức kinh doanh và cai trị, Việt Nam luôn mang tính bóc lột, lừa đảo, man rợ và bất nhân.

Trong việc mộ phu, thực dân và cộng sản có ba điểm khác nhau. Điểm thứ nhất việc mộ phu thời thực dân là do tư nhân người Pháp, chính quyền thực dân không đứng ra lãnh đạo còn nay thỉ đảng cộng sản lãnh đạo việc buôn nô lệ. Điểm thứ hai dân nghèo muốn đi thì đi, không phải trả lệ phí, không phải hối lộ, nay thì vô sản phải chi nhiều thứ cho cộng sản. Điểm thứ ba là người đi lao động thời thực dân được chủ trả trước một số tiền nay thì cộng sản trấn lột trước khi lao công bước chân lên tàu!

Các công ty xuất cảng lao động hay giới thiệu việc làm ở các nước có ba đặc tính:
+Chi phí dịch vụ hợp lý, không có nạn trung gian đưa cao tiền môi giới.
+Lao động được hướng dẫn về nhiều thứ như ngôn ngữ, kỹ thuật và văn hóa nước chủ nhà.
+Công ty nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng

Nói chung, họ có pháp luật và tình người. Còn cộng sản thì độc tài, độc quyền cho nên họ mặc tình thao túng. Họ vì lợi mà bóc lột và lừa dối nhân dân. Vì không có báo chí, vì không đa đảng, vì không có luật pháp và vì tham nhũng, đảng cộng sản đã cướp bóc và lường gạt người lao động.

Quân chủ và tư bản đều chủ trương quân bình công ích và tư lợi, trong khi cộng sản tuyên bố hy sinh cá nhân cho đoàn thể nhưng thực tế họ làm ngược lại. Stalin, Mao, Hồ chỉ nghĩ đến cá nhân, và hầu hết bọn cộng sản trên thế giới đều là những lãnh chúa, những đế vương quyền hành vô cùng rộng lớn mà toàn thể nhân dân là nô lệ.

Cộng sản ban hành mọi chủ trương, chính sách đều nhắm lợi ích cho riêng một nhóm người, cho giai cấp mới. Mục đích xuất khẩu lao động, mục đích buôn dân bán nước cũng vì tư lợi của gia đình chúng, phe nhóm chúng mà bóc lột vô cùng dã man, đẩy người lao động vào cảnh khốn cùng và con đường chết.


III. CÁC TỔ CHỨC

Cộng sản bao giờ cũng có hai mặt: mặt trái và mặt phải, mặt công khai và mặt bí mật. Về mặt công khai, cộng sản cho phép gia quyến và thủ hạ lập ra các công ty, gọi là xuất khẩu lao động (XKLĐ), giới thiệu hôn nhân. Ngoài ra họ còn làm những việc mờ ám như đưa người di dân lậu, buôn lậu, trồng cỏ, buôn bán xì ke ma túy, tổ chức bán dâm. . .Tất cả đều là dịch vụ buôn người, là sự nghiệp buôn dân bán nước. là vét cạn kiệt sức lao động con người, là cướp bóc trắng trợn, là đày đọa con người một cách dã man.


Mặc Lâm trong bài phóng sự "Đâu là thực tế của vấn đề Lao động Xuất khẩu?" trên RFA cho biết theo những số liệu chính thức của Sở Lao Động và Thương Binh Xã Hội Thành Phố Hồ Chí Minh thì hiện nay trên địa bàn thành phố có 52 công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, trong đó có 8 công ty thuộc quyền quản lý của UBND Thành Phố Hồ Chí Minh số còn lại thuộc quyền quản lý của các bộ ngành đoàn thể thuộc trung ương và các UBND các tỉnh thành phố. Tuy nhiên rất nhiều công ty tư nhân không thuộc sự quản lý của nhà nước kinh doanh lĩnh vực xuất khẩu lao động vì đây là một dịch vụ không tốn kém tiền đầu tư nhưng nguồn lợi thu vào rất đáng kể.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Labour_export_and_its_seriuos_confront_MLam-20070403.html

Tờ Thông Tin Pháp Luật ngày 11-12- 2009 cho biết cả nước hiện nay cả nước có hơn 150 doanh nghiệp có chức năng XKLĐ, các doanh nghiệp này mở các trung tâm và cơ sở một cách tràn lan và không có sự giám sát, kiểm tra chặt chẽ từ các doanh nghiệp, khiến cho tình trạng vi phạm pháp luật xảy ra ngày càng phổ biến
http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/12/11/4210/


IV. CỘNG SẢN VIỆT NAM CẮT CỔ DÂN LAO ĐỘNGNhư đã trình bày ở trên, các công ty khác nhau đã tùy tiện nâng giá, khiến cho người dân phải cầm thế, bán nhà, đất và mang công mắc nợ. Ngày xưa, cộng sản đề cao lao động. Cộng sản ghét nhất những người ngồi không hưởng lợi, trong đó, tư bản, địa chủ,. ., là bị kết tội nặng. Cộng sản cũng kết tội bọn mại bản, tức là bọn trung gian ăn lời. Trong kháng chiến, cộng sản đã giết các tay mại bản. Nay thì trong hàng ngũ cộng sản nổi lên hàng hàng lớp lớp mại bản, là bọn trung gian ăn lời. Trong dịch vụ buôn người, ngoài các tay thân tín của các ông tổng bí thư, chủ tịch, thủ tướng, đại tướng, bộ trưởng, làm giám đốc các công ty, còn có những hạng trung gian các cấp và bọn lưu manh ăn theo. Xuống mỗi cấp là giá dịch vụ tăng lên vì họ đòi thêm tiền môi giới . Mỗi lao động đã phải mắc số nợ khoảng mười lăm, hai chục ngàn đô . Như vậy người lao động phải tích lũy bao lâu mới trả xong nợ? Giá cả càng đẩy lên cao, tàn ác hơn thời thực dân. Vì nghèo đói, vì bị dụ dỗ, người dân Việt Nam đã bị cộng sản bóc lột tàn nhẫn, không còn đường sống.

Vì nghèo khổ không việc làm, và vì nghe theo những tuyên truyền xảo trá của cộng sản, dân chúng đã đua nhau đi lao động, lấy chồng Đài, chồng Hàn làm gái ở khắp nơi và nhập cư bất hợp pháp.

Cũng theo RFA trong bài trên, trung bình mỗi lao động nộp đơn xin đi lao động nước ngoài phải nộp cho công ty 1200 đôla và nhiều phí phụ thu khác như phí huấn luyện ngoại ngữ, phí huấn luyện chức năng làm việc, khám sức khỏe...

Nhân viên Công ty Hướng Dương cho đài RFA biết :Trong số tiền họ nộp trước khi đi là khỏang hơn 5000 đôla, đã bao gồm hai năm phí quản lý của Việt Nam theo quy định của Bộ cho những người đi lao động nước ngoài dù nước nào chăng nữa thì phải nộp phí này một năm là một tháng lương cơ bản. Sang bên kia thì các bạn sẽ phải chịu khấu trừ những khoảng theo quy định của Đài Loan chẳng hạn như tiền khám sức khỏe định kỳ cứ mỗi ba năm thì khám 4 lần, tiền bảo hiểm y tế, tiền phí dịch vụ Đài Loan.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Labour_export_and_its_seriuos_confront_MLam-20070403.html


Báo TTLC cho biết tổng các khoản phí thu của người lao động trước khi đi là 6.500-7.000 USD/người, gồm phí làm thủ tục tại Mỹ, phí môi giới, dịch vụ, vé máy bay khứ hồi theo qui định hiện hành. Ngoài ra, nhằm hạn chế lao động bỏ trốn, các doanh nghiệp sẽ đặt thêm mức thu tiền đặt cọc "chống trốn" khoảng 15.000 USD/người.
http://www.ttlc.vn/modules.php?name=News&opcase=detailsnews&mid=782&mcid=323&sub=&menuid=

Tờ Vật giá.com ngày 22/08/2008 cho biết như sau:
Khi được trúng tuyển, người lao động sẽ phải đóng các khoản chi phí theo quy định khoảng 12.000 đô la Úc (phía đối tác hỗ trợ 1.000 đô la Úc trau dồi kỹ năng và ngoại ngữ);
http://www.vatgia.com/hoidap/4502/39117/dieu-kien-de-duoc-di-lao-dong-xuat-khau-o-my-va-uc.html

Như vậy, người vô sản muốn đi lao động kiếm tiền hay tư sản đỏ muốn di dân chuyển tiền sang Mỹ it nhất phải nộp mỗi người cho giai cấp thống trị hay bọn buôn người trên 20 ngàn đô.Đó là một số tiền mà người bình thường ở Canada và Mỹ khó lòng dành dụm được trong một kiếp người! Tội nghiệp quá, bọn lưu manh ở Việt Nam đã trấn lột người vô sản Việt Nam!

Nếu ai đó đặt ra câu hỏi: Dù đặt ra tiền " chống trốn", công nhân có trốn không? Và một số trở về Việt Nam, công ty có trả tiền không? Tôi nghĩ rằng không!

Ngày nay, dịch vụ buôn người không còn thịnh thế nữa. Các tay đầu gấu Việt Nam nay thu nhập kém. Họ đã trả giấy phép kinh doanh vì họ không muốn phải trả lại tiền cho công nhân về trước thời hạn!
Tờ Sài Gòn Giải Phóng online đưa tin:
Trao đổi với PV Báo SGGP ngày 28-1 -2010, ông Đào Công Hải, Phó cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ LĐTB-XH), cho biết, tính cả số Doanh nghiệp (DN) bị rút giấy phép xuất khẩu lao động vì vi phạm và số DN
tự nguyện trả lại giấy phép, đến thời điểm này, đã có khoảng 25 DN rút khỏi lĩnh vực XKLĐ. . .Ông Hải khẳng định, theo quy định của luật thì mặc dù các DN đã trả giấy phép hoạt động để chuyển sang lĩnh vực khác nhưng vẫn phải chịu hoàn toàn trách nhiệm cũng như nghĩa vụ với người lao động đã được ghi trong hợp đồng cho đến khi người lao động về nước http://www.sggp.org.vn/xahoi/2010/1/217227/

Luật Việt Nam, giấy tờ Việt Nam lại là chuyện khác. Cộng sản dùng quyền thế, mưu mẹo gian manh, và trắng trợn vi phạm luật lệ do chúng đề ra, do chúng hứa hẹn bởi vì đảng và lưu manh là một. Nay thì người cộng sản đóng vai chủ nhân tư bản bóc lột. và bóc lột tàn tệ hơn thực dân! Lẽ dĩ nhiên đảng cộng sản không công khai ra mặt mà cho chân tay đứng ra tổ chức các công ty buôn người. Bên cạnh việc này, bộ máy chính quyền và công an bao che. Tệ đoan này xảy ra bao nhiêu năm với các vụ tham nhũng, cướp tài sản quốc gia và tài sản tư nhân, nhưng báo chí cộng sản im tiếng. Vì dư luận quốc ngoại sôi nổi, vài tờ báo cộng sản đành phải đóng vai ngụy quân tử kết án các công ty mà không dám vạch mặt cộng sản gian ác đã buôn dân, bán nước.

Quốc tế và hải ngoại đã lên tiếng về việc cộng sản Việt Nam buôn người. Tiếng kêu vang dậy khắp nơi cho nên báo chí trong nước phải lên tiếng gọi rằng là!
Tạp chí điện tử "NGƯỜI LAO ĐỘNG" của Liên Đoàn Lao Động thành phố HCM, ra ngày 6-2-2010, với nhan đề Người lao động bị “bóp cổ”, nội dung như sau:

Phải mạnh tay xử lý những doanh nghiệp lợi dụng thu phí cao của người lao động

So với lao động các nước cùng khu vực Đông Nam Á, lao động VN đi làm việc ở nước ngoài đang phải gánh chịu chi phí cao nhất. Tình trạng doanh nghiệp (DN) xuất khẩu lao động (XKLĐ) thu phí tràn lan, lạm thu, trục lợi đã đẩy chi phí lên cao. Không phải ngẫu nhiên mà giám đốc một trung tâm đào tạo lao động XKLĐ đã ví von rằng: “Làm XKLĐ lời như... buôn súng!”.http://www.nld.com.vn/20091026104216853P0C1051/nguoi-lao-dong-bi-bop-co.htm

Ảnh: N.DUY


Đừng tin gì những điều cộng sản nói. Trong thế giới cộng sản, lý thuyết và thực tế là hai chuyện khác nhau. Về lý thuyết thì Việt Nam nhân dân làm chủ , người vô sản lãnh đạo đất nước và tổ quốc được độc lập, nhân dân tự do, hạnh phúc nhưng thực tế không phải vậy. Một thí dụ nhỏ. Xe bị vi phạm giao thông, công an phạt một giấy là một ngàn đồng Việt Nam. Nghe ra rất nhẹ nhưng Công an thi hành biên phạt một lần 30 giấy, 50 giấy phạt ngàn đồng. Cũng vậy, nếu ai tin vào pháp luật, báo chí cộng sản đều lầm to.


Tờ báo Người Lao động cũng nói đến Luật về người lao động (NLĐ) VN và thực tế như sau:
đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và các văn bản pháp luật hiện hành quy định cụ thể chi phí NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo từng thị trường. Thế nhưng chi phí thực tế mà họ bỏ ra thường cao hơn nhiều lần so với quy định. Ở Đài Loan, thị trường NLĐ bị thu vô tội vạ nhất với khoản chi phí môi giới từ 3.000 – 4.000 USD/người, cao gấp đôi quy định.

Nếu cộng phí dịch vụ, lý lịch tư pháp, khám sức khỏe, tiền vé máy bay, lệ phí visa, chi phí đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cần thiết... thì tổng chi phí NLĐ nộp trước khi sang Đài Loan khoảng 6.000 – 7.000 USD/người. Với mức chi phí này, phải mất một nửa thời hạn làm việc theo hợp đồng, NLĐ mới tích lũy được thu nhập để bù đắp chi phí.



Tờ báo trên cũng nói đến việc đi lao động ở Nhật Bản, công nhân đã bị bọn cộng sản bóc lột trắng trợn nhưng công an, chính quyền và bộ Lao Động cũng chỉ là một bọn ăn chia với nhau:

Ở thị trường Nhật Bản, theo quy định của nước này, lao động nước ngoài vào Nhật Bản theo chương trình tu nghiệp và thực tập kỹ thuật (gọi chung là chương trình tu nghiệp sinh – TNS) được chủ sử dụng lao động đài thọ một lượt vé máy bay, chi phí đào tạo ngoại ngữ, nơi ở, chu cấp dụng cụ sinh hoạt... Nhưng thực tế, để được sang Nhật Bản, chi phí một lao động phải bỏ ra khoảng 90 triệu đồng; chưa kể khoản tiền bảo lãnh hoặc tiền thế chấp, giấy tờ nhà đất thế chấp... trị giá từ 150 triệu đến 200 triệu đồng.

Tờ báo trên cũng nói đến thị trường Úc và Canada , người dân cũng bị cắt cổ mổ bụng vì bị lừa vào tròng:

Ở thị trường khác, nhất là thị trường mới, NLĐ phải nộp mức phí cao ngất ngưởng. Mức thu một lao động sang thị trường Canada, Úc hiện đang được các DN XKLĐ áp dụng xấp xỉ 200 triệu đồng/người, trong đó chỉ riêng phí môi giới đã hơn 5.000 USD. Ở Mỹ, chi phí này lên đến khoảng 13.000 - 15.000 USD, trong đó phí môi giới từ 8.000 – 10.000 USD/người, tùy đơn hàng.

Tờ Người Lao Động cũng cho biết :

Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã từng lên án những mặt trái của di cư quốc tế, nổi cộm là tình trạng lợi dụng buôn người và bóc lột thông qua hình thức hợp tác XKLĐ. Để ngăn chặn tình trạng này, nhiều nước, lãnh thổ tiếp nhận lao động đã đưa ra những chính sách, quy định có lợi hơn cho lao động nước ngoài.


Tại Hàn Quốc, chương trình TNS đã được thay thế bằng chương trình cấp phép lao động EPS giúp NLĐ VN sang Hàn Quốc chỉ mất khoảng 700 USD thay vì 4.000 – 5.000 USD như trước.

Chính quyền Đài Loan cũng siết chặt quản lý bằng quy định mới áp dụng từ tháng 9 – 2009; theo đó buộc các tổ chức cung ứng, tiếp nhận lao động vào Đài Loan phải thực hiện đúng cam kết chi phí do VN và Đài Loan thống nhất; không được lợi dụng o ép NLĐ ký những khoản vay không có thật để thu phí bất hợp pháp.

Nếu làm đúng quy định thì mức phí của một lao động sang Đài Loan chỉ khoảng 3.000 USD – 4.000 USD, thay vì 6.000 – 7.000 USD như hiện tại.


Quốc tế đã ngăn chận việc buôn người, xuất cảng lao động nhưng ở Việt Nam bọn cộng sản vẫn thừa mánh khoé gian dối mà qua mặt quốc tế. Các nạn nhân trước khi đi đã nộp tiền cho chúng rồi, không ai kiểm soát và điều tra được!



V. CỘNG SẢN VIỆT NAM LƯỜNG GẠT

Mục đích cộng sản ngày nay là làm giàu bất chấp thủ đoạn. Chúng chủ trương độc đảng là muốn cướp tài sản nhân dân, bóc lột và khủng bố nhân dân. Từ trước đến nay, cộng sản chuyên lừa bịp. Một mặt chúng theo Marx chỉ trích tư bản bóc lột, nói xấu Âu Mỹ nhưng mặt khác chúng lại tuyên truyền cho việc XKLD, nào là tư bản lương cao, đời sống ở tư bản sung sướng. Ở đâu chúng cũng tuyên tuyền dụ dỗ, như ở ngoại quốc lương tối thiểu 4, 5 ngàn đô một tháng, hoặc 5 hay 6 trăm triệu Việt Nam mỗi năm. Ở Việt Nam, tư sản đỏ trong tay có hàng triêu, hàng tỷ đô la, sáu bảy biệt thự, năm mười công ty, còn dân nghèo khó kiếm việc làm giáo viên cấp ba lương hàng tháng khoảng 700 ngàn VN, công nhân khoảng nửa triệu, nghe nói lương Âu Mỹ mỗi tháng 40, 50 triệu Việt Nam ai mà không ham?

Sự thực là ở các nước tư bản không phải ai cũng giàu. Tiến sĩ, kỹ sư thất nghiệp cả đống nhất là thời kỳ kinh tế toàn cầu suy sụp. Tốt nghiệp đại học ở Canada thịnh thời là 40 ngàn mỗi năm. Ở Mỹ có người lương hàng năm một trăm hai trăm ngàn đô nhưng thuế hết một nửa, tiền nhà, tiền y tế cũng khá nặng. Lại nữa, công việc lúc có lúc không, không ai bảo đảm dài lâu.

Tại các nước tư bản, xin việc không phải dễ, nay vào buổi kinh tế khủng hoảng, công việc lại càng hiếm hoi. Có những ngành nghề đã chết hay chết gần 90% như ngành hightech. Thung Lũng Hoa Vàng California đã trở thành thung lũng chết. Và hầu hết, các công ty điện toán đều đóng cửa chuyển sang Trung Quốc, và các kỹ sư computer ở Âu, Mỹ thất nghiệp .Bao lâu nay, Mỹ, Canada, Pháp Đức, Nga, số thất nghiệp mỗi nước lên hàng chục triệu người, làm sao bảo đảm rằng công nhân ra nước ngoài có thể làm trong hai, ba năm? Thường là sau ba tháng làm thử, công nhân có thể bị thải nếu làm kém.



Phải làm trên sáu tháng hay một năm mới có tiền thất nghiệp. Tiền thất nghiệp thường chỉ kéo dài khoảng sáu tháng hoặc một năm. Đời sống ngoại quốc tự do và sung sướng hơn Việt Nam nếu có việc làm nhưng chi phí đời sống đắt đỏ so với Việt Nam. Những người bình thường, mỗi người mỗi tháng phải chi tiền nhà khoảng 4 trăm đô, tiền ăn tối thiểu 2, ba trăm, tiền xe khoảng năm trăm (chưa kể bảo hiểm, và tiền sửa chữa), tiền điện khoảng một trăm đô. Chừng đó đã khoảng ngàn rưỡi đô. Nếu mua nhà, mua xe, học đại học thì mắc nợ ngân hàng, mỗi tháng it nhất cũng phải trả thêm một ngàn hay ngàn rưỡi trong hai, ba mươi năm. Phải lương cao và hai vợ chồng đi làm thì mới cáng đáng nổi. Vì nhiều món phải trả tiền, phải thanh toán cho nên không ai dư tiền. Đa số lương ở Canada khoảng ngàn rưỡi, hai ngàn một tháng. Như vậy chỉ là đủ ăn. Nêu bị bệnh, nếu có đám cưới, tháng đó e ngân quỹ gia đình thâm thủng!

Lẽ dĩ nhiên bên cạnh những người bình thường làm đủ ăn, hoặc thiếu ít nhiều, có những người ăn ra làm nên, thành triệu phú. Cộng sản luôn lừa dối, luôn ăn cướp tiền của và thân xác nhân dân, đặc biệt là dân lao động. Họ vẽ ra những thiên đường, thiên đường cộng sản và thiên đường tư bản để lừa dân. Họ chỉ cần dân nghe theo lời đường mật của họ, đóng tiền cho họ, rồi sau đó mặc kệ, đúng là " sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi".

Nếu một người lao động sang đây dư được một tháng một hai trăm đô là giỏi, làm sao có tiền cho gia đình , và tiền trả nợ mười lăm, hai chục ngàn cho cộng sản? Làm sao đưa vợ con ra ngoại quốc như lời hứa hẹn của mấy ông Vẹm? Và làm sao hái trái trong ba tuần đã gửi về nhà ngàn rưỡi đô la?

Trong dịch vụ buôn người này, cộng sản thi hành nhiều điều mà cốt lõi là những việc sau:
+Luôn luôn dối trá. Họ không sợ bị pháp luật trừng trị vì họ có thế lãnh tụ đàng sau mà phần lớn là tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng, đại tướng, bộ trưởng, chủ tịch, bí thư tỉnh, thành ủy. .
+Tuyên truyền rằng Úc, Mỹ, Canada, mỗi năm thu nhập tối thiểu năm trăm, sáu trăm triệu Việt Nam, và họ nghĩ rằng mỗi lao động sẽ dễ dàng nộp cho họ một trăm, hay hai trăm triệu Việt Nam trước khi ra đi! Người lao động đâu biết rằng con số năm trăm triệu, sáu trăm triệu thu nhập là những lời đối trá của cộng sản. Nước ta là nước nông nghiệp, ta nên biết rằng nông nghiệp là có thời vụ. Mà công nghiệp, thương nghiệp cũng vậy. Nhất là ngày nay, kinh tế hoàn cầu suy sụp, ai bảo đảm công việc dài lâu dù là nông nghiệp hay công thương nghiệp. Dân ta vì nghèo đói, vì thiếu báo chí trung thực cho nên dễ bị cộng sản lừa dối trong chiến tranh và hòa bình.

+Cộng sản hứa hẹn hão huyền. Những hứa hẹn , những bản hợp đồng, những tin tức của cộng sản là dối trá. Làm sao có số lương hai ba chục đô một giờ? Làm sao lương tháng khởi đầu ba ngàn, năm ngàn? Làm sao đi lao động mà có thể đem vợ con đi theo? Ai lo doanh trại chứa hàng mấy trăm công nhân như báo cộng sản loan tin? Khi lên máy bay, cộng sản mới bắt người lao động ký hợp đồng. Nhiều người ký hơp đồng mà khi ra máy bay mới biết bị gạt đủ thứ. . .

+Cộng sản chi cần thu tiền, sau đó cuộc sống các công nhân ra sao họ không cần biết.
+Cộng sản mượn cớ lập công ty để mượn tiền ngân hàng mà bỏ túi.
+Cộng sản lập công ty là để đưa người nhập cư lậu, để hoạt động gián điệp, buôn bán nô lệ, trồng cỏ, buôn lậu. . ..
+Cộng sản có nhiều mánh gian trá như không có giấy phép lập công ty mà cứ lập công ty, không hay chưa có giấy phép của Việt nam và Mỹ, Úc, Nhật mà cứ quảng cáo và thu tiền.
+Du học sinh, hôn nhân thực ra cũng là một cách XKLĐ, là một cách buôn người. . .


Quan chức Việt Nam và báo chí cộng sản đã tích cực quảng cáo , tích cực đóng góp vào việc dối trá của việc buôn người này.

Tờ VnExpress ngày Thứ năm, 27/10/2005, lấy tin tờ Tuổi Trẻ quảng cáo đi lao động Mỹ như sau:
10 lao động đầu tiên của Việt Nam vừa được Chính phủ Mỹ cấp visa lao động có thời hạn tại Mỹ (visa H-2A). Công việc của họ là thu hoạch quả macadamia, thời gian 10 tiếng một ngày, 6 ngày một tuần. Tiền lương mỗi giờ 9,75 USD và trả theo tuần bằng thẻ tín dụng.
Chị Phan Thị Bích Liên (phường 7, quận Phú Nhuận, TP HCM) cho biết, anh Nguyễn Thanh Long, chồng chị, là một trong 10 lao động Việt Nam đầu tiên vừa được tiếp nhận sang làm việc tại Mỹ. Qua số điện thoại do chị Liên cung cấp, anh Long kể: nhóm anh gồm 10 người, quê Hà Tĩnh, Nam Định, Hải Dương, Hà Nội và TP HCM, xuất cảnh ngày 29/9 sang Mỹ để làm việc cho Tập đoàn sản xuất nông nghiệp Global Horizons Incorporated (GHI) theo một hợp đồng có thời hạn 1 năm và có thể gia hạn đến 3 năm.
Nơi làm việc là Kanu, một hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo Hawaii, dân cư thưa thớt, nhưng trang trại bạt ngàn. Nhóm của anh Long được đưa về khu ký túc xá khang trang gồm 300 chỗ, được Tập đoàn GHI xây dựng sẵn để chuẩn bị tiếp nhận lao động Việt Nam. Chỗ ở tại đây rất rộng rãi, thoáng mát, được trang bị đầy đủ điện, nước, bếp gas, tủ lạnh, dụng cụ nhà bếp... Cách chỗ ở không xa là khu ký túc xá của lao động Thái Lan và Mexico. Khí hậu ở đây khá giống với Việt Nam.
Công việc của nhóm lao động Việt Nam là thu hoạch quả macadamia (một loại trái cây vừa có thể dùng làm thực phẩm, vừa có thể bào chế mỹ phẩm và dược phẩm). Công việc đơn giản, ngoài tiền ăn (khoảng 4 USD/ngày), lao động không phải chi phí thêm bất cứ khoản nào. Sau 3 tuần làm việc, anh Long đã chuyển những đồng tiền đầu tiên về nhà, trung bình mỗi người trên 1.500 USD. http://www.vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2005/10/3B9E3798/
Ngày 16-6-2006, tờ Giao Thông Vận Tải Việt Nam đưa tin về việc Việt Nam đưa người sang Mỹ và Nhật. Họ phỏng vấn ông Trịnh Vĩnh Hội và được trả lời: Global Horizons Inc (GHI) là một trong những nghiệp đoàn của Mỹ được phép tuyển dụng lao động ngoại quốc làm việc có thời vụ trong ngành nông nghiệp cho các chủ trang trại Mỹ. Đây là một nghiệp đoàn thực, một nhu cầu công việc thực và một kế hoạch cần tuyển dụng thực và rất lớn.
http://www.giaothongvantai.com.vn/Desktop.aspx/News/du-lich-thi-truong/My_con_can_rat_nhieu_lao_dong_Viet_Nam/




Tờ VnEconomy tháng 1-2007 đưa tin bộ Lao động - Thương binh và Xã hội vừa đồng ý cho hai đơn vị trong nước đưa lao động sang Mỹ làm việc thí điểm... Lương 5.000 USD/tháng, thời hạn 1-3 năm Theo bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn - Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc AIC, công ty này đã có một vài đơn hàng với đối tác đưa lao động sang Mỹ làm việc ở lĩnh vực hàn, cắt cỏ, trang trại (hái cam)... Để đủ tiêu chuẩn sang Mỹ làm việc, lao động phải trong độ tuổi từ 20-40, đã lập gia đình. Lương tháng của lao động từ 5.000 USD trở lên, chi phí đi xuất khẩu lao động tuỳ thuộc vào mức lương. Đặc biệt, trong một nhóm lao động cùng quốc tịch, cùng làm một nơi thì chỉ cần 1, 2 người biết tiếng Anh để phiên dịch cho cả nhóm. Tờ báo này cũng cho biết Cộng sản Việt Nam đặt ra lệ phí "chống trốn" là 15 ngàn đô!
http://vneconomy.vn/72953P5C11/sap-xuat-khau-lao-dong-sang-my.htm

Tờ Vậtgiá.com ngày 22 tháng 8-2008 quảng cáo cho việc đi Úc:
thu nhập khoảng 480 - 600 triệu đồng Việt Nam/năm. Ngoài ra, người lao động sẽ được mang theo gia đình qua Úc và sẽ được bố trí làm việc (đối với vợ - chồng) và học hành đối với con cái (từ lớp 12 trở xuống sẽ được miễn phí).

Điều kiện: Nam, nữ tuổi từ 21 - 45. OSC hiện đang tuyển dụng nhiều lao động qua Úc, trong đó ưu tiên thợ làm bếp. Những người muốn đi XKLĐ qua Úc hiện đang ở (hay tạm trú) tại TP.HCM có thể liên hệ: OSC Việt Nam, 92 Calmette, quận 1, TP.HCM; điện thoại: (08) 215920 - 9144593.http://www.vatgia.com/hoidap/4502/39117/dieu-kien-de-duoc-di-lao-dong-xuat-khau-o-my-va-uc.html

Trái với tin trên, một vài tờ báo tiếng Việt ở Hoa Kỳ đã cảnh báo dư luận về những thông tin không đúng sự thực trong thông báo của hai công ty xuất khẩu lao động Việt Nam.

Tờ báo điện tử MAIYEUEM viết:
Tờ Ngày Nay, ra ở Houston, Texas số 01.02.2007 cho rằng Công Ty Cổ Phần Tiến Bộ Quốc Tế (AIC) và Trung Tâm Xuất Khẩu Lao Động Viracimex đã thông báo không đúng về chuyện đưa người sang Mỹ lao động. Ví dụ như họ nói rằng cần tuyển công nhân sang Mỹ hái cam, cắt cỏ thợ hàn với lương tháng 5.000 đôla ngoài lệ phí chưa biết. Ngoài ra ai đi còn phải đóng tiền thế chân 15.000 đôla. Ngoài hai cơ quan AIC và Viracimex, công ty TNHH Úc Việt đã thu lệ phí từ 5000 đến 8.000 Mỹ kim để đưa người Việt sang Thái Lan học Anh văn chờ ngày đi Mỹ lao động.

Tờ báo trên trích thuật tờ báo Tuổi Trẻ cho biết nhiều người sang Thái Lan đóng học phí rồi mới biết mình bị lừa nên lập tức đòi bồi hoàn. Ngày 8 tháng 1 vừa qua Đại sứ quán Hoa Kỳ là đã mở cuộc họp báo để đính chính những thông tin sai lạc của hai cơ quan AIC và Viracimex.
Ông Jeffrey C.Schwenk, trưởng bộ phận Lãnh sự, ông P. Matthew Gillen, trưởng phòng chiếu khán không di dân (non-immigrant visa) và bà Mary Ann Russell trưởng ban Di Trú và Nhập Tịch nói chính phủ Mỹ và Việt Nam chưa ký một thỏa thuận nào về xuất khẩu lao động.
Phía Hoa Kỳ theo họ cũng không làm việc với tổ chức môi giới hay xuất khẩu lao động nào tại Việt Nam mà sẽ làm việc trực tiếp với từng người, từng hồ sơ. Ngoài lệ phí visa (100 Mỹ kim) sứ quán sẽ không thu bất cứ lệ phí nào khác.
Nhưng chỉ một ngày sau cuộc họp báo của Sứ quán Mỹ tức ngày 09-02, Cục trưởng Cục Quản Lý Lao Động Ngoài Nước thuộc Bộ Lao Động–Thương Binh và Xã Hội cho báo chí biết chính phủ Việt Nam vừa cho phép đưa người lao động sang Mỹ làm việc và giao cho hai doanh nghiệp phụ trách việc này sau khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phổ biến công văn 883/VPCP-VX. . .

Báo Tuổi Trẻ trong bài “Thêm Một Chiêu Lừa Xuất Khẩu Lao Động: Giấc mơ Mỹ trên đất Thái” (11/02/07) đã có bài về chuyện lừa đảo xuất khẩu lao động sang Mỹ mà họ nói là của công ty TNHH Úc Việt, có trụ sở tại quận Tân Bình, Saigon và Trung Tâm Anh ngữ ESI ở Bangkokhttp://www.tin247.com/lua_dao_xuat_khau_lao_dong_sang_my-1-166549.html
Trong năm 2007 sao có nhiều chuyện lạ như vậy? Lao động Việt nam mới làm việc đã có lương cao hơn kỹ sư Mỹ ư?Không lẽ tòa đại sứ Mỹ nói sai? Nhiều người cho rằng thủ tướng ký công văn 883/VPCP-VX là để cứu bồ khỏi sập tiệm. Nhưng trong báo chí và chúng ta có ai thấy công văn 883/VPCP-VX ? Thủ tướng Việt Nam có lên tiếng xác nhận đâu! Nhưng chúng ta cũng nên cẩn thận, vì người ta bảo thủ tướng Việt Nam ký công văn cho phép chứ không đề cập việc Mỹ đồng ý hay không! Còn phát ngôn các công ty nói ra thì ta nên hiểu đó là dự tính, là giấc của họ trong việc buôn người sang Mỹ.
Có lẽ năm 2007, giấc mơ " quy mã " của cộng sản chưa thành. Trong tờ Giao Thông vận tải, ông Trịnh Vĩnh Hội cho biết:
Việc tạm dừng chưa đưa lao động sang Mỹ không phải đóng cửa mà là tạm ngừng để lựa chọn doanh nghiệp có đầy đủ uy tín và trách nhiệm trước người lao động và trước cả hai chính phủ. Việc này không những bảo đảm cơ hội cho doanh nghiệp khi tiếp cận với thị trường mới mà còn bảo đảm quyền được làm việc cho người lao động.Theo tôi được biết, phía Việt Nam đang tiếp tục hợp tác với cơ quan chức năng, cụ thể sẽ có đoàn sang Mỹ để khảo sát.http://www.giaothongvantai.com.vn/Desktop.aspx/News/du-lich-thi-truong/My_con_can_rat_nhieu_lao_dong_Viet_Nam/

Gần giữa năm 2007, giấc mơ " quy mã" chỉ là thí điểm do chính phủ cho phép. Tin 247.com theo báo Tuổi Trẻ cho biết trao đổi về việc đưa lao động sang Mỹ, ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, Phó cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội), cho biết đến thời điểm này Chính phủ mới cho phép (về nguyên tắc) hai đơn vị được thí điểm tuyển chọn, đưa lao động đi làm việc ở Mỹ. Đó là Công ty cổ phần Tiến Bộ Quốc Tế (AIC, 75 Âu Cơ, Hà Nội) và Trung tâm Phát triển việc làm và xuất khẩu lao động (thuộc Tổng công ty Xuất nhập khẩu và cung ứng vật tư thiết bị đường sắt - Viracimex, ở TP HCM). Hai đơn vị này được phép tuyển thí điểm đưa tám thợ hàn đi làm việc tại Mỹ.
http://www.tin247.com/lua_dao_xuat_khau_lao_dong_sang_my-1-166549.html

Con số lúc thí điểm rất khiêm nhường nhưng nhiều người đã sa bẫy! Đa số dân Bắc ghét Mỹ nhưng lại thích học tiếng Anh và đi làm ở các nước tư bản, đặc biệt là Nhật, Đài Loan, Đại Hàn Úc, Canada và Mỹ! Vì vậy mà giá cả những nơi này rất cao!

Tờ VẬTGIÁ.COM ngày 10 tháng 12-2008 trả lời người hỏi về việc XKLD tại Mỹ :
Bộ LĐTB&XH cho phép thí điểm xuất khẩu lao động sang Mỹ làm việc. Đến nay, các doanh nghiệp XKLĐ VN đã đưa được 23 lao động VN đầu tiên sang Mỹ. Trong đó có 21 lao động của Công ty cổ phần XKLĐ, thương mại và dịch vụ (TTLC - Tổng công ty Công nghiệp ôtô VN) và 2 lao động của Công ty cổ phần Tiến bộ Quốc tế (AIC - Bộ Giao thông vận tải) đã đến làm việc tại Mỹ.
http://www.vatgia.com/hoidap/4502/63547/co-duoc-xuat-khau-lao-dong-sang-my-ko.html

Tại Việt Nam có hai hạng lừa đảo. Hạng lừa đảo chính thức là chính quyền cộng sản ẩn nấp dưới các công ty. Hạng lừa đảo thứ hai là cá nhân.Thực ra hạng này cũng chỉ là ăn theo hạng trên , thủ hạ của bọn cộng sản mà thôi!
Còn theo thống kê của Công an Hà Nội, từ đầu năm 2006 đến tháng 6-2007, chỉ tính riêng trên địa bàn TP Hà Nội, đã xảy ra 71 vụ án, liên quan đến 119 đối tượng lừa đảo đưa người đi lao động ở nước ngoài, với 2.118 nạn nhân và số tiền bị lừa đảo lên đến trên 53 tỉ đồng. Trong 4 tháng qua, lừa đảo XKLĐ vẫn thường xuyên xảy ra, tập trung nhiều ở các tỉnh, thành phía Bắc


Tình trạng lừa đảo xảy ra nhiều ở các thị trường tiềm năng, có thu nhập cao đang thực hiện thí điểm như Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Úc, Canada... Đáng chú ý là hơn 80% vụ lừa đảo trong thời gian qua đều nhắm vào đối tượng có nhu cầu đi làm việc ở Hàn Quốc.http://www.viet.no/forum/viewtopic.php?t=1667">http://tintuc.xalo.vn/00271484734/xuat_khau_lao_dong_thi_truong_cang_mo_cang_de_bi_lua.html


Trong bài Liên Minh CAMSA Cảnh Giác Một Số Công Ty Môi Giới có đoạn
Hiện nay ở Việt Nam có hơn 150 công ty xuất khẩu lao động, tên chính thức là doanh nghiệp dịch vụ, được phép tuyển dụng và đưa người đi lao động ở nước ngoài. Các công ty này nhiều khi thành lập chi nhánh để hoạt động ở các vùng khác nhau và sử dụng hệ thống “cò”, những cá nhân hoạt động riêng lẻ, để đi vào các vùng sâu tuyển người. Nhiều công ty đã vi phạm trầm trọng luật về tuyển và đưa người đi lao động ngoài nước. Chẳng hạn có nhiều công nhân đã phải trả tiền phí trước khi ký hợp đồng, khi mà Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn chuyển thẳng tiền công nhân vay mượn cho công ty xuất khẩu lao động để trả tiền phí dù công nhân chưa đặt bút ký hợp đồng.

Trong nhiều trường hợp, công nhân không được đọc bản hợp đồng và cũng không được giữ một bản sao. Nhiều lên máy bay rồi công nhân bị bắt phải ký một hợp đồng khác, gọi là hợp đồng "ngoại", với những điều khoản rất khác so với hợp đồng ký trong nước (hợp đồng nội); lúc ấy công nhân không có cách nào khác hơn là nhắm mắt đưa chân và ký dù biết là thiệt thòi cho mình. Lại cũng có những trường hợp công nhân ghi danh đi lao động ở một quốc gia nhưng ngày ra phi trường mới vỡ lẽ là bị đưa đi một quốc gia khác; họ không có quyền thoái thác mà phải tiếp tục lên đường đi nước ngoài lao động. Cũng có người không hề có tên trong danh sách đã được công ty đưa đi lao động. “Đó là chưa kể thái độ tắc trách của nhiều công ty xuất khẩu lao động. Khi công nhân lâm nạn và gọi về công ty cầu cứu, thì công ty tảng lờ, không giải quyết” http://www.machsong.org/modules.php?name=News&file=article&sid=16615.


VI. BUÔN DÂN, SỰ NGHIỆP VĨ ĐẠI

Cộng sản thường không thành thật trong việc kê khai và tuyên bố các con số. Bao giờ cộng sản cũng dối trá, tuyên truyền và lường gạt. Trong khi chờ đợi, ta tạm dùng những số liệu hiện có.

Hiện nay, tờ Người Lao Động cho biết từ năm 2007 đến nay, cả nước chỉ có khoảng 300 người được đưa sang ba thị trường mới nói trên và hằng năm chỉ có khoảng 70.000 lao động VN ra nước ngoài làm việc, trong khi tờ Việt Nam News Network ở trên cho biết con số riêng ở Đài Loan vào 9/2004 là 80.890!

Theo tờ Lao Động và Thương Binh Xã hội, trong bài "Hợp tác lao động với nước ngoài – 30 năm hội nhập và phát triển", chỉ tính riêng từ năm 2003 đến 2009, bình quân mỗi năm Việt Nam đưa được gần 77.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Số ngoại tệ mà người Việt Nam qua con đường XKLĐ gửi về nước hàng năm đạt 1,7 tỷ USD, và hiện nay có khoảng 500.000 lao động và chuyên gia Việt Nam đang làm việc tại 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có 50% số lao động được đào tạo. http://www.molisa.gov.vn/news/detail/tabid/75/newsid/50583/seo/Hoi-nghi-dai-bieu-can-bo-cong-chuc-co-quan-Bo-Lao-dong-Thuong-binh-va-Xa-hoi/language/vi-VN/Default.aspx

+Tờ VIỆT BF cho biết năm 2008, bản tin của Financial Times loan tin Bulgaria cần ít nhất từ 80,000 đến 100,000 công nhân cho nhiều lãnh vực khác nhau ngay Mùa Hè 2008. Các loại công việc từ việc tay chân cho các dự án xây dựng đến các việc kỹ thuật cao.
Tờ báo trên cũng cho biết khoảng 120,000 công nhân Việt Nam đang lao động chân tay ở Mã Lai nằm trong trường hợp này.http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=49479
Tin VOA - Ả Rập Saudi dự trù thu nhận khoảng 50000 lao động Việt nam trong năm 2006
http://www.tudovis.com/vis_forums/forum27/3505.html.
+Tạp chí Việt Vùng Vịnh và các tạp chí khác theo tin Cục quản lý Lao động ngoài nước của CSVN, hiện có gần 500 ngàn người Việt đang lao động tại hơn 30 quốc gia trên thế giới. Ở một số nước mới có người Việt lao động bắt đầu từ năm 2005 như Đài Loan, Nhật Bản, Đại Hàn và Mã Lai . Đây là những thị trường “xuất cảng lao động” lớn của VN trong những năm gần đây. http://www.vietvungvinh.com/Portal.asp?goto=VietNam/2010/20100122_04.htm

Cục Quản lý Lao Động cho biết có nửa triệu người nhưng cộng sản không bao giờ nói thực. Họ nói nửa triệu thì thật tế có thể một, hai triệu kể cả đi công khai và đi chui, đi lao động và làm nghề mãi dâm, trộm cướp, trồng cần sa. . .


Tờ Sai Gòn Giải Phóng online loan tin ngày 28-1-2010, tại Hà Nội, Bộ LĐTB-XH cho biết, sau 30 năm hợp tác lao động với nước ngoài, hiện nay cả nước đang có khoảng 500.000 lao động và chuyên gia làm việc tại 40 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hàng năm, lao động xuất khẩu gửi về nước khoảng 1,7 tỷ USD.http://www.sggp.org.vn/xahoi/2010/1/217227/

Sau 1975, cộng sản đưa ra bao thủ đoạn lừa đảo. Họ tổ chức làm giấy giả lên máy bay. Một vài gia đình nộp tiền cho họ, lên máy bay Mỹ nhưng kết cuộc vừa lên máy bay bị Mỹ đuổi xuống mà trở về nhà! Họ tổ chức đưa người ra ngoại quốc bằng máy bay nhưng đến Lào hay Miên hay Huế, Hà Nội thì hạ cánh. Thế là tiền mất tật mang! Nay thì nhiều tổ chức đưa người nhập cảnh sang Mỹ, Canada, Nhật Bản, Đài Loan, Sigapore, Malaysia, Anh, Pháp, Ba lan, Tiệp Khắc.. . bằng nhiều danh xưng và nhiều cách thức nào là xuất khẩu lao động, hôn nhân, du sinh, du lịch, xuất cảnh công khai và xuất cảnh bất hợp pháp.

Cộng sản ăn đơn ăn kép. Mỗi năm họ được 1,5 tỷ tiền gửi về nhà, cộng thêm tiền công nhân nộp trước khi đi. Các nạn nhân cho biết họ phải nộp 10 ngàn, hai chục ngàn đô. Cứ tính nửa triệu người, mỗi người năm ngàn đô, con số lên tới hai tỷ rưỡi Mỹ kim! Tổng cộng khoảng 4 tỷ Mỹ kim! Cộng sản lãi to trong sự nghiệp buôn dân bán nước!



VII. TÌNH TRẠNG NHỮNG NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở NƯỚC NGOÀI

Ngày nay, kỹ nghệ XKLĐ đang bế tắc. Lý do chính là kinh tế suy thoái trên toàn cầu.Ngoài ra còn có những lý do khác như người Việt Nam kỹ thuật non làm hư hỏng máy móc và sản phẩm của chủ nhà, người Việt Nam phạm tội ác, uống rượu, đánh lộn, trồng cần sa. . .Khắp nơi từ Nga, Đông Âu, Malaysia, Đài Loan , Đại Hàn.. . ta thấy người Việt Nam bỏ trốn, hoặc bị cho nghỉ việc sớm. Dù khổ một số không về vì không tiền mua vé. Một số không muốn về vì chưa trả xong nợ, hoặc về Việt Nam tương lai đen tối hơn.


Tạp chí CAND.COM ( Công an nhân dân ) ngày 7-2-2010 viết như sau về tình trạng XKLD
Trong năm 2009, thị trường xuất khẩu lao động Việt Nam bị suy sụp vì nhiều lý do nhưng có hai lý do chính:
+Quốc gia chủ nhà lâm cảnh kinh tế khủng hoảng.
+Khách Việt Nam quậy phá.

Trong bài "Xuất khẩu lao động Việt Nam thời kinh tế suy thoái" 2:50, 15/02/2009 có đoạn:
Không những thế, để hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp cho lao động bản địa, mới đây Ủy ban Lao động Đài Loan quyết định thu hẹp số lượng lao động nước ngoài. Theo đó sẽ tạm dừng tiếp nhận mới lao động nước ngoài đối với ngành sản xuất chế tạo có chế độ 3 ca. Ước tính năm 2009, các nhà máy xí nghiệp ở Đài Loan sẽ giảm bớt 3 vạn lao động nước ngoài. Tại Malaysia, Chính phủ nước này cũng đang phải thực hiện chính sách tiết kiệm, cắt giảm đầu tư vào các dự án liên quan đến nhà ở và quốc phòng. Chính phủ Malaysia đang tìm cách giảm số lượng lao động nước ngoài vào từ nay cho đến năm 2010, mỗi năm 400 nghìn người. Với Hàn Quốc, do tình hình sản xuất của các doanh nghiệp Hàn Quốc đang gặp nhiều khó khăn, phải giảm nhu cầu tuyển dụng lao động nước ngoài nên cuối năm 2008, Bộ Lao động Hàn Quốc quyết định không tổ chức đợt 2 kiểm tra tiếng Hàn cho lao động nước ngoài.

Bài trên cũng viết:
Năm 2009, mục tiêu mà Quốc hội đặt ra là sẽ đưa 90.000 người đi làm việc ở nước ngoài. Đây sẽ là cái đích không dễ dàng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế khiến nhiều hợp đồng xuất khẩu lao động từ đối tác nước ngoài đã bị thu hẹp về số lượng tuyển dụng. Những thị trường mà số lượng vẫn ổn định thì lại có xu hướng giảm lương.

Tờ báo này viết về tình trạng công nhân Việt Nam tại Qatar như sau:
chỉ một thời gian ngắn sang đây, lao động Việt Nam đã mất điểm do quá nhiều vi phạm, từ trộm cắp, đánh nhau, nấu rượu lậu... vì vậy cuối năm 2007, Qatar đã tạm ngừng cấp visa cho lao động Việt Nam để chấn chỉnh http://ca.cand.com.vn/news/
Trần Đức Tường trong bài "Xuất cảng lao động hay bán dân đi làm nô lệ(VNN) của tờ Việt Nam News Network cho biết con số lao động tại Đài Loan và tình cảnh của họ như sau:

Tiếp xúc với những chị em lao động bị xuất cảng sang Đài Loan, các phóng viên báo chí đã được biết là vì nghèo khổ, vì không có công ăn việc làm trong vùng của họ, nên họ đã phải vay chạy một số tiền khá lớn hàng ngàn đô la Mỹ để đặt cọc và để được "xuất cảng" đi lao động ở nước ngoài. Những nạn nhân đang tá túc tại nhà thờ của linh mục Nguyển Văn Hùng cho biết, khi còn ở trong nước, họ cũng đã nghe qua những khổ nhục, bạc đãi, hành hạ mà công nhân phải gánh chịu khi sang Đài Loan. Nhưng họ cam lòng, nhắm mắt ra đi. Họ nghĩ rằng dù sao thì cũng còn khá hơn kiếp sống họ đang lê lết nơi quê nhà. Khốn nỗi, cực khổ thì còn chịu được; nhưng nhục nhã thì họ không thể chịu được. Vì thế, theo những con số chính quyền Đài Loan thì "đến cuối tháng 9/2004, có 80.890 đang làm việc tại Đài Loan, trong đó có 7.935 người bỏ trốn." Đài Loan đã hăm dọa sẽ ngưng việc nhập cảng lao động Việt Nam nếu tình trạng bỏ trốn tiếp diễn. . . .Dư luận vô cùng thương xót, phẫn nộ. Như một định mệnh, chị em phụ nữ" dù là công nhân trong các xí nghiệp hay người giúp việc trong các gia đình Đài Loan, là những người bị gánh chịu nhiều tai họa nhất. Họ bị bắt làm việc bất kể giờ giấc. Những kẻ thuê mướn họ tha hồ chửi mắng, đánh đập họ một cách tàn nhẫn. Mang thương tật, họ không được đưa đi cứu chữa... Họ đã bị bỏ đói, bị khóa nhốt... Nhưng khốn nạn hơn hết là họ thường bị gia chủ và đàn ông trong nhà hãm hiếp tập thể. Họ bị mang bán đi, bán lại như nô lệ thời trung cổ. Nhiều người tới mức cùng quẫn của sự khổ ải, nhục nhã đã nhẩy từ lầu cao xuống đất tự vận.


Hoa kỳ là một nước giàu mạnh tuy nhiên cộng sản đã cấu kết với lưu manh Mỹ để bóc lột công nhân Việt Nam.Tờ ViệtWN viết :

Trong kế hoạch xuất cảng lao động của Việt Nam, Hoa Kỳ là một thị trường béo bở. Từ năm 1999 Việt Nam đã có kế hoạch đưa người lao động vào Hoa Kỳ, khởi đầu với nhóm 250 công nhân đưa đến đảo American Samoa. Số công nhân này bị bóc lột và ức hiếp nặng nề. Cuối năm 2000 họ được cơ quan công lực Hoa Kỳ giải cứu. Phối hợp với chính phủ Hoa Kỳ, UBCNVB giúp nhiều nạn nhân định cư ở Hoa Kỳ và làm thủ tục cho họ ở lại Hoa Kỳ làm nhân chứng. Chính phủ Liên Bang Hoa Kỳ sau đó đã truy tố chủ sử dụng lao động--ông ta bị tuyên án 40 năm tù về tội buôn người. Đồng thời toà thượng thẩm của đảo American Samoa xử hai công ty xuất khẩu lao động quốc doanh phải bồi thường $3.5 triệu Mỹ kim cho các nạn nhân; cho đến nay chính phủ Việt Nam vẫn lờ đi khoản bồi thường này.
http://vietwn.com/forum/showthread.php?t=87800

Phóng viên Thanh Quang đài RFA 29/1/2009 viết như sau:

Trước hết, chúng tôi biết được có cả ngàn đồng bào của chúng ta đã bị mất việc, đã bị sa thải ở các quốc gia như Cộng Hoà Tiệp (Czech), ở tại Đài Loan, cũng như ở Mã Lai và nhiều quốc gia khác nữa. Những công nhân bị sa thải như vậy đã không được sự trợ giúp nào cả của phía chủ sử dụng lao động; họ hoàn toàn bị bỏ rơi, họ bị đẩy ra ngoài, không được vào ở các khu ký túc xá nữa.

Thành ra bây giờ họ là những người vô gia cư. Và họ không hề được một đồng lương trợ giúp nào về vấn đề thất nghiệp hết, thành ra họ hoàn toàn trắng tay và phải đi xin ăn chỗ này chỗ kia, sống nhờ vã và sống lậu với những người bạn của mình ở những ký túc xá khác cho tới khi bị phát hiện và bị trục xuất nữa. Thành ra đó là cả một vấn nạn rất là lớn, đặc biệt ở thủ đô Praha của Cộng Hoà Tiệp thì hiện nay tình trạng này rất là trầm trọng.

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng trả lời Thanh Quang về việc này như sau:

Họ không được đưa về nước, đó mới là điều oái oăm, là bởi vì họ không có tiền để trả vé máy bay về nước. Thật ra ở trong hợp đồng khi mà họ ký kết ở Việt Nam với công ty môi giới Việt Nam thì trong hợp đồng có điều khoản là tiến phí dịch vụ mà họ đóng cho công ty môi giới có bao gồm cả việc can thiệp trong trường hợp công nhân bị nghỉ việc không phải do lỗi của họ thì công ty môi giới có nhiệm vụ thứ nhất là phải can thiệp, trợ giúp;

Thứ hai là phải trả tiền vé máy bay để đưa họ về nước; thứ ba là phải hoàn trả lại cho công nhân một phần phí dịch vụ cũng như là tiền ký quỹ dựa trên tỷ lệ thời gian mà họ đã thực hiện hợp đồng, chẳng hạn như họ hứa là 3 năm theo hợp đồng, nhưng mà chỉ một năm thôi thì họ bị sa thải không phải vì lỗi của họ thì công ty môi gới phải trả lại 2/3 tiền ký quỹ cũng như là tiền dịch vụ phí.

Thế nhưng, các công ty môi giới Việt Nam hoàn toàn bỏ rơi họ, thành ra các công nhân sau khi bị sa thải thì họ đứng đường, họ không nhận được một sự trợ giúp nào cả.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/The-problems-of-Vietnams-export-workers-TQuang-02112009164011.html


Đây là hoàn cảnh cô Trương Thị Thúy Nga ở Hà Tĩnh:

Qua sự giới thiệu của người quen, bố Nga, người có thời gian đi xuất khẩu lao động dạng thuyền viên nghề cá, cũng xin đi làm xây dựng tại Nga. Để xoay được 5.700 USD chi phí cho Nga và 3.000 USD chi phí cho bố, gia đình đã phải thế chấp sổ đỏ, vay mượn họ hàng, người quen. Cuối năm 2008, hai bố con lần lượt xuất cảnh, mang theo hy vọng kiếm đủ tiền nuôi 3 đứa em Nga ăn học thành tài.
Sang đến Đài Loan, mới học việc một tuần thì Công ty Ân Mậu, nơi Nga làm việc, tuyên bố thu hẹp sản xuất, cắt giảm nhân công vì không có đơn hàng. Mất 3 tháng chờ đợi, mỗi tháng nhận lương cơ bản 17.280 đài tệ (khoảng 8,5 triệu đồng Việt Nam), đầu tháng 2, Nga cùng nhóm bạn phải về nước. "Bố em mới đi xuất khẩu sang Nga được hơn 2 tháng, cũng gọi điện về nói ngành xây dựng không có việc nên sắp phải về", Nga kể.
Nga cho biết, gia đình như đang ngồi trên đống lửa khi con nợ hối thúc, trong khi phía công ty đưa đi Đài Loan thông báo chỉ thanh toán được 3.400 USD. "Em chưa biết làm gì bây giờ, khủng hoảng kinh tế toàn cầu, xin việc trong nước rất khó khăn. Mà có xin được thì với người không có nghề như em, thu nhập cao lắm cũng chỉ 1-1,5 triệu đồng, làm sao có thể bù đắp khoản chi phí đã mất khi đi xuất khẩu", giọng Nga rưng rưng.

Cũng giống Nga, nhóm bạn 10 người cùng xuất cảnh sang Đài Loan vào tháng 10/2008, cùng đi qua Công ty Cổ phần tiến bộ quốc tế (AIC), đều thấp thỏm lo âu. Một lao động quê Hải Dương cho biết: "Hoang mang không có tiền về trả nợ, có bạn đã trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp tại Đài Loan. Còn em, gia đình động viên về. Nhưng về tới nhà thì mấy mẹ con ôm nhau khóc, ngày ngày ngóng tiền thanh lý hợp đồng để sớm trả khoản vay nặng lãi. Giờ em sợ nhất là chủ nợ đến đòi tiền".http://www.vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2009/02/3BA0B817/


Đây là hoàn cảnh một số lao động tại Nga. Đài BBC trong bài " Lao động Việt quyết "bám trụ" tại Czech" đưa tin 36 Lao động VN ở Nga gửi thư kêu cứu (Monday, 15 June 2009)



36 lao động đang vật vờ ở Trung tâm thương mại Emeral (Moscow), Nga chờ ngày về.

Chỉ tính riêng trong hai năm 2007-2008, cộng đồng người Việt định cư tại nước này gồm khoảng 45 ngàn người đã đón nhận thêm 15 ngàn lao động mới từ trong nước sang.
Tuy nhiên, làn sóng khủng hoảng kinh tế toàn cầu bùng nổ đúng thời gian này đã khiến cho rất nhiều người trong số họ, lâm vào cảnh mất việc làm.
Chính phủ Czech đưa ra chương trình hồi hương tự nguyện gồm hai giai đoạn, theo đó những người tự nguyện về nước được trao vé máy bay và tiền hỗ trợ, với số tiền là 500 euro cho những người về từ tháng Hai đến tháng Sáu 2009, và 300 euro nếu về từ tháng Bảy tới tháng Mười Hai 2009.Tuy nhiên đợt đầu chỉ có200 người ghi tên về, còn đợt hai it hơn. Theo ông Lê Minh Cầu nói tuy khó khăn nhưng tâm lý chung ai cũng muốn cố gắng trụ lại để tìm kiếm tương lai, đặc biệt là để bù đắp cho những khoản chi phí lớn mà họ phải bỏ ra để sang được tới Czech.

BBC lấy tin từ Báo Lao Động, cho biết công nhân Chu Văn Quân (quê ở Yên Phong, Bắc Ninh), kể rằng: Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2009, Công ty APC của Nga không thanh toán tiền lương cho công nhân Việt Nam và họ phải tự bươn chải kiếm sống qua ngày.36 công nhân này được Tổng Công Ty Thép Việt Nam k‎ý hợp đồng với Công ty APC của Nga và đưa sang Nga trong hai đợt (cuối tháng 12/2008 và đầu tháng 1/2009 để làm việc trong ngành xây dựng.
Trong 5 tháng qua, Công ty APC không thanh toán tiền lương cho công nhân Việt Nam, cũng không có bảo hiểm y tế, bảo hiểm lao động… và công ty APC tìm mọi cách bắt lỗi, quy trách nhiệm và phạt tiền nhằm nhanh chóng chấm dứt hợp đồng.Bản tin này cho biết công nhân bị trừ lương vì làm hư hỏng máy và và sản phẩm của họ và cuối cùng sa thải http://rfvn.net/?p=10
Tại Mỹ, công nhân Việt Nam cũng gặp khó khăn.Tờ ViệtWN viết về vụ 38 công nhân làm thợ hàn tại hãng đóng tàu Southwest Shipyard thuộc vùng Pasadena, Texas. Họ đã phải đóng khoản tiền phí dịch vụ từ $6 ngàn rưởi đến $15 ngàn Mỹ kim cho các công ty xuất khẩu lao động Việt Nam. Họ được hứa hẹn việc làm cho 30 tháng, tối thiểu 50 giờ một tuần, ở mức lương $15 Mỹ kim một giờ cho 40 giờ đầu tiên và thêm 50% cho những giờ làm phụ trội.
Tuy nhiên mới chỉ làm việc được tám tháng, họ được thông báo là không được gia hạn chiếu khán và phải hồi hương. Trên một chục công nhân chấp nhận hồi hương và một số bỏ trốn đi các tiểu bang khác; còn 20 công nhân ở lại Houston thì đã cầu cứu sự can thiệp của các tổ chức trong cộng đồng Việt.http://vietwn.com/forum/showthread.php?t=87800

Việt Nam hứa 30 tháng hay Mỹ hứa? Việc này có lẽ là âm mưu của cộng sản đưa người trong đó có tư sản đỏ, điệp viên CS qua Mỹ để họ ở lại trên đất Mỹ bằng cách này hay cách khác .

VIII. NHẬP CƯ LẬU

Phần lớn người Việt chán cộng sản độc tài và nghèo đói nên bỏ nước mà đi, ngay cả dân XHCN. Đúng là " cột đèn cũng muốn bỏ nước ra đi"! Nay thì nhiều cách ra đi. Nào đi lao động, đi du học, kết hôn, đi chui.

Nếu họ đi lậu qua Đông Âu hay Anh Pháp rất nguy hiểm.Họ có biết đâu họ phải vượt bao nhiêu hiểm nguy để sang Đông Đức, Ba Lan, Tiệp khắc. Họ đã bán nhà cửa, ruộng nương, nợ hàng ngàn hay hàng chục ngàn Mỹ kim .

Dù ở các nước Nga, Tiệp, Ba Lan hay Mỹ, Canada, đã nhiều năm các nước này đang lún sâu vào kinh tế khủng hoảng, nhiều người bị mất việc. Cuộc sống ở tư bản khá hơn xứ cộng sản , đa số dân có đủ ăn, không nghèo đói như ở Việt Nam nhưng không phải ai cũng dư năm, mười ngàn đô, hai chục ngàn đô! Nợ mười ngàn đô, mười lăm ngàn đô làm sao trả hết nếu không kiếm được việc làm? Nhân dân nghèo Việt Nam đã bị bọn cộng sản lừa đảo, chúng bắt nhân dân đóng hàng ngàn đô la cho chúng mà lâm vào chỗ chết!


Lại nữa, ra ngoại quốc bằng diện nào cũng phải có giấy tờ chính thức. Người Việt Nam thường dùng nhiều cách:
+Đi du lịch rồi ở lại
+Đi lao động rồi trốn ra ngoài
+Giả hôn nhân rồi trốn đi
+Làm sinh viên du học rồi không về.

Mặc dầu ở Âu Mỹ không có cảnh sát nửa đêm đến soát hộ khẩu nhưng sống bất hợp pháp đều rất khổ. Nếu không có việc làm, cac công nhân sẽ bị bọn lưu manh đưa vào các động điếm hay băng trộm cướp, ma túy. Cuối cùng cũng sẽ bị tù tội. Lại nữa, bản thân của nữ còn bị hãm hiếp, giết hại, đánh đập, và cả nam nữ bị bắt làm nô lệ hoặc lấy nội tạng đem bán.

Rất nhiều vụ đưa người nhập cảnh bất hợp pháp tại Sigapore, Malaysia, Đài Loan, Nga, Tiệp, Hung, Pháp, Anh, Mỹ. ..rồi họ bị bắt làm nô lệ như trường hợp Đài BBC loan tin ngày 12-2-2010 trong bài "Lãnh án nặng vì đưa lậu người


Vũ Văn Hạnh và Vũ Thị Đức
Tòa nói Hạnh và Đức sẽ bị trục xuất
Tòa án ở Northampton tuyên án công dân Anh gốc Việt, Vũ Văn Hạnh, 40 tuổi, 11 năm tù vì nhiều tội danh liên quan đến việc đưa lậu cả trăm người vào nước Anh.Vũ Thị Đức 37 tuổi, bảo lãnh em cùng cha khác mẹ là Vũ Văn Hạnh, sau tổ chức đưa người nhập lậu Anh quốc. Một nạn nhân tên Lê Đức nhập cư lậu năm 2000 khai rằng những ngưồi này phải nộp 20 ngàn bảng Anh, còn anh phải làm móng tay trong bảy năm không lương. Anh bị đánh đập nên trình cảnh sát.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/02/100212_humantraffickersjailed.shtml

Việc buôn người và nhập cảnh trái phép đã có từ lâu. Trước đây, dân châu Phi đã trốn qua các nước Âu châu như Pháp, Đức, Anh. Chính những con người văn hóa cao, giàu sang của Âu Mỹ đã nhúng tay vào việc buôn bán người và đưa di dân lậu.


C. Chocat và con trai Benjamin (Ảnh : AFP)

C. Chocat và con trai Benjamin
(Ảnh : AFP)



Ngày 5/2 bà Christiane Chocat, dân biểu hội đồng thành phố Lumigny Nesles-Ormeaux, vùng Seine-et-Marne, ngoại ô Paris đã bị tư pháp Anh Quốc tuyên án 3 năm tù giam vì đã tham gia vào việc chuyên chở 16 người Việt nhập cư trái phép vào nước này. Con trai bà Chocat là Benjamin, 20 tuổi, bị phạt tù 5 năm với tội danh đưa người nhập cư trái phép để kiếm tiền.

Từ Portsmouth, thông tín viên Adrien Moss tường trình.

« Cả hai người đã bị bắt ngày 01/10/2009, tại Portsmouth, lúc nhập cảnh vào Anh từ một chuyến tàu từ Pháp sang. Họ lái một chiếc xe tải nhỏ chở hơn một chục người nhập cư trái phép.

Những người này ngồi trong một chiếc thùng gỗ cao khoảng 1,2 mét, chỉ ăn đường và ngậm gừng để lấy sức trong một chuyến hành trình 7 tiếng đồng hồ, từ Paris sang Anh Quốc. Thùng xe được khoan thủng nhiều lỗ để họ có thể thở được. Bà Chocat trực tiếp lái xe. Cảnh sát Anh phát hiện ra có người trốn trong xe khi nhìn thấy hơi nước đọng trên các cửa kính của thành xe.

Cả hai mẹ con bà Chocat đã nhận tội trước thẩm phán, do vậy, theo luật pháp của Anh Quốc, thì không cần phải mở phiên xét xử nữa và tòa đã tuyên án ngay lập tức. Bà Chocat bị ba năm tù giam, Benjamin, con trai của bà bị kết án 5 năm tù. Theo tư pháp Anh Quốc, thì bà Chocat đã tỏ ra tận tụy giúp con không đúng chỗ và đúng lúc. Nếu vụ việc trót lọt, Benjamin sẽ nhận được một khoản tiền 24 ngàn Euro khi quay lại Pháp.
http://www.rfi.fr/actuvi/articles/122/article_6784.asp
Cộng sản là một lũ tàn ác, không bao giờ biết thương dân yêu nước. Họ chỉ biết quyền lực và tiền bạc. Họ đem con bỏ chợ. Sau khi chiếm Kampuchia, Việt nam thi hành chính sách thực dân, đem khoảng một triệu dân mà phần lớn là dân XHCN sang Kampuchia. Các báo chí hải ngoại nói tình trạng nghèo khổ của người Việt tại Kampuchia nào là bán dâm, bán con. . .nhưng thực tế họ là những thực dân Việt Nam. Nay thì cộng sản Việt Nam bỏ mặc họ bên đó. Nếu mai đây có vụ " cáp duồng" nữa, cộng sản Việt Nam cũng làm ngơ vì mấy ông tướng một số nay sắp xuống lỗ, một số thì quá mập, không còn thích đánh đấm nữa! Sau khi Đông Âu và Liên xô tan rã, cộng sản cũng để mặc cho họ muốn đi đâu thì đi. Đức đòi hồi hương những người lao động và nhập cư bất hợp pháp. Việt Nam trâng tráo đòi tiền mới đưa người về! Ôi, những người lao động XHCN này là cán bộ, là con em XHCN, là đích thực "khúc ruột ngàn dặm" sao không thương họ với? Sao không đưa họ về để xây dựng XHCN giàu sang và tươi đẹp?

VNEXPRESS loan tin như sau:
Lần đầu tiên, lực lượng an ninh đường biên của EU là Frontex hỗ trợ tài chính để một nhóm người Việt ở Đức và Ba Lan về nước. Đối với nhiều người trong số họ, cuộc trở về nhà này chấm dứt hành trình dài và gian khổ. Họ đã trả những khoản tiền rất lớn để được sang Đức nhưng đơn xin tị nạn của họ bị bác bỏ.

Bị những kẻ môi giới lừa gạt, nhiều người Việt từ bỏ mọi thứ nơi quê nhà để sang Đức và rồi bị từ chối cho tị nạn. . . .Dọc các bãi đỗ xe lại là một nhóm đàn ông Việt Nam khác và câu chuyện của họ khác hẳn. Những người này bán thuốc lá lậu. Sắc phục cùng ánh đèn lóe sáng trên nóc xe của cảnh sát là nỗi kinh hoàng. Họ sẵn sàng liều chết băng qua đường hoặc các thanh ray tàu điện ngầm để chạy trốn.http://www.vnexpress.net/GL/The-gioi/Nguoi-Viet-5-chau/2009/06/3BA0FE2F/


IX. THỊ TRƯỜNG HÔN NHÂN TÌNH DỤC .
Cộng sản ngày nay chủ trương buôn người vì đây là một thị trường dễ kiếm ăn nhất. Bên cạnh kỹ nghệ XKLD, cộng sản còn phát triển thị trường tình dục trong và ngoài nước.

Tờ VietBF cho hay giới tội phạm buôn bán người tại Việt Nam không chỉ nhắm vào các đối tượng phụ nữ và trẻ em, mà còn cả vào nam giới để khai thác sức lao động và bán nội tạng.
Tờ Viêt BF cũng viết rằng tin của Bernama và của Tân Hoa Xã cho hay Văn Phòng Ban Chỉ Đạo 130/CP của Việt Nam tiết lộ trong một hội nghị rằng người ta ước tính là đã xảy ra các vụ buôn bán khoảng 2,800 phụ nữ và trẻ em trong khoảng thời gian từ năm 2005 tới tháng 6 năm 2008. http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=61447Tin trong nước, tháng giêng năm 2006, bộ công an Hà Nội cho biết khoảng 6000 người bị đưa ra nước ngoài hành nghề mại dâmhttp://www.tudovis.com/vis_forums/forum27/3505.html
Đài VOA cho biết theo một báo cáo của Cục Cảnh sát Điều tra tội phạm về Trật tự Xã hội của Bộ Công an Việt Nam, chỉ tính trong 6 tháng đầu năm 2009, đã xảy ra 191 vụ mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới, với 362 đối tượng được xác định là có dính dáng đến hoạt động môi giới, mua bán và 417 người là nạn nhân của nạn buôn người.

Những phụ nữ và em gái này đã bị bán đi khắp nơi như Campuchia, Trung Quốc, Thái Lan, Hong Kong, Macau, Malaysia, Đài Loan, Nam Triều Tiên, v.v. nơi họ bị cưỡng bức lao động hoặc bị bán vào các nhà chứa và bị ép làm nô lệ tình dục.

Đặc biệt rất nhiều phụ nữ Việt Nam ở các tỉnh An Giang, Kiên Giang và Đồng Tháp bị bán sang Campuchia. Hồi năm 2004, cảnh sát Campuchia ước tính có tới 50 ngàn em gái bị bán vào các nhà chứa ở nước này, trong đó có rất nhiều em là người Việt Nam. Tổ chức Nhân quyền Thế giới và UNICEF ước tính rằng 1/3 số gái mại dâm ở Campuchia ở độ tuổi dưới 18, trong đó đa số là các em gái người Việt Nam. http://www1.voanews.com/vietnamese/news/women/a-19-2009-10-23-voa25-81426302.html

Tờ Truyền thanh Mạch sống viết rằng Đại Sứ Lagon cho biết việc chống nạn buôn người là một việc làm rất khó khăn, được ông tóm gọn vào ba phần chính: Trừng phạt kẻ môi giới, giúp đỡ nạn nhân, và tìm ra biện pháp ngăn ngừa. Ông chia sẻ: Khoảng 800 ngàn người được buôn bán qua biên giới mỗi năm, 80 % những người này là phụ nữ, và hơn một nửa là trẻ em. Con số này không kể hàng triệu người bị bán thành nô lệ tình dục hay cưỡng bách lao động ngay trong nước mình”. Khi được hỏi về tình trạng buôn người tại Việt Nam, Đại Sứ Mark Lagon đã đơn cử một trường hợp cụ thể, là vào tháng 9 năm 2008, tại Jordan, ông đã gặp khoảng 200 người lao động đến từ VN.

Theo ước tính của cơ quan UNICEF và các tổ chức khác, có khoảng 400,000 phụ nữ và trẻ em Việt Nam đã bị bán ra nước ngoài, hầu hết là sau khi chấm dứt Chiến Tranh . Nhiều phụ nữ, trẻ em Việt Nam bị bán qua Căm Bốt, Trung Hoa, Đài Loan, Nam Hàn, và Thái Lan để phục vụ trong các nhà chứa, lao động cưỡng bức trong các xí nghiệp, hay làm đầy tớ tư nhân.http://tvvn.org/forum/showwiki.php?title=Island:4228
Việc hôn nhân với chồng Đài, chồng Hàn cũng là một hình thức buôn người bao hàm kỹ nghệ tình dục.


Tờ Việt Báo loan tin tại Cần Thơ, con số phụ nữ lấy chồng Đài, chồng Hàn gia tăng. Tờ Việt Báo tháng 12-2000 cho biết từ năm 1995 đến nay, toàn tỉnh có 3.780 phụ nữ lấy chồng người nước ngoài, trong đó có 2.391 trường hợp kết hôn với người Đài Loan. Riêng trong năm nay (tính đến hết tháng 11/2000), có hơn 1.800 phụ nữ kết hôn với người nước ngoài, tăng trên 600 trường hợp so với năm trước. Trong đó có 29 trường hợp phải trở về nước do bị ngược đãi.
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh đã giáo dục được 26 đối tượng môi giới bán phụ nữ bỏ nghề, thuyết phục 121 gia đình từ bỏ ý định bán con.Thanh Niên 20/12.
Việt Báo (Theo_VnExpress.net).http://vietbao.vn/Xa-hoi/Can-Tho-So-phu-nu-lay-chon

Cũng tờ Việt Báo loan tin ngày 15/6, UBND TP Cần Thơ đã tổ chức hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện chương trình phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em. Từ năm 2004 - 2006, Cần Thơ phát hiện có 27 phụ nữ và 1 trẻ em bị bán ra nước ngoài, chủ yếu là qua Campuchia. Có 2.485 trường hợp phụ nữ kết hôn với người nước ngoài, trong đó có 1.920 trường hợp kết hôn với người Đài Loan (chiếm 77,26%), 228 trường hợp kết hôn với người Hàn Quốc; 158 trường hợp kết hôn với người Mỹ.http://vietbao.vn/Xa-hoi/Can-Tho-3-nam-gan-2.500-phu-nu-lay-chong-nuoc-ngoai/45242727/157/


Bộ LĐ-TB&XH đưa ra tại hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2009 của Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ về tình hình xuất khẩu lao động và phụ nữ lấy chồng nước ngoài, và kết quả là tại đồng bằng sông Cửu Long Phụ nữ lấy chồng “ngoại” nhiều gấp 4 lần đi XKLĐ (Dân trí) - Từ năm 2006 đến nay khu vực Tây Nam Bộ có 70.000 phụ nữ lấy chồng nước ngoài, nhưng chỉ có gần 16.500 lao động nữ xuất khẩu chủ yếu sang các nước Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, các nước Trung Đông.http://tinmoi.phanvien.com/197/dbscl-phu-nu-lay-chong-ngoai-nhieu-gap-4-lan-di-xkld.html..
Chúng ta chưa có con số về phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài, chồng Hàn trên toàn quốc.

Tờ VNN (V ietnamNews Network) cho biết thống kê của Bộ Công An CSVN, từ năm 1998 đến nay, có 10,711 phụ nữ Việt Nam vượt biên "trái phép" ra nước ngoài lấy chồng. Theo một bản phúc trình nhân một hội nghị về phụ nữ Việt lấy chồng ngoại quốc cách đây hai tuần lễ, lối 180.000 phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài hoặc lấy người Việt định cư ở nước ngoài. Trong tổng số vừa kể khoảng phân nửa là lấy chồng Đài Loan.
http://www.vnn-news.com/spip.php?breve6692



Con số phụ nữ Việt lấy chồng Hàn ít hơn là lấy chồng Đài Số các cuộc hôn nhân giữa đàn ông Hàn Quốc và phụ nữ Việt Nam tăng vọt từ 95 năm 2000 lên 5.822 năm 2005, vượt xa so với Đài Loan là 3.212.( The Chosun IlboNgày 27-3-2008)
http://hoangquang.wordpress.com/tag/anhbasam/
Việc xuất khẩu lao động là một hiện tượng phức tạp, nó là đem người lao động, những nó cũng là buôn người, đưa phụ nữ và thiếu nhi vào đường phục vụ thị trường tình dục. Xuất khẩu lao động nửa triệu người xuất khẩu cho thị trường tình dục cũng khoảng nửa triệu người. Cộng sản đã thu lợi trên xương máu nhân dân nghèo!


Nói tóm lại, cộng sản gian ác, bóc lột nhân dân một cách tàn tệ. Cuối thế kỷ XX, loài người đã qua cơn mê, đã nhận thức Marx lừa gạt, cộng sản bóc lột nặng nề hơn tư bản. Ôi Marx, ôi Mao và Hồ! Đâu rồi những lời kêu gào đấu tranh cho vô sản? San bằng bất công xã hội? Đâu rồi những người thương nước yêu dân? Họ đi đâu cả mà bây giờ rõ mặt một lũ bán nước buôn dân!

Sơn Trung

*
Xin quý vị đọc thêm:

Monday, January 11, 2010


CỘNG ĐỒNG VIỆT NAM TRÊN THẾ GIỚI

và xem các băng sau đây:

*


*

*


*

*







HUY PHƯƠNG * CỘNG SẢN VIỆT NAM BÁN NGƯỜI

*


Các Anh Có Hãnh Diện Không
Thứ Tư, Ngày 27 Tháng 1 Năm 2010
Huy Phương


Trong bài “Đêm Của Những Cánh Bướm Việt Ở Malaysia” tuần trước trên một tờ báo ở Little Saigon, ký giả Đông Bàn đã vô tình nhắc lại câu nói của giới taxi Kuala Lumpur, “Con gái Việt Nam đẹp lắm!” Khốn nạn thay câu nói này cũng đã phát ra từ cửa miệng chủ tịch VC Nguyễn Minh Triết trước đây. Thủy, một “cánh bướm đêm” tại Beach Club đã cay đắng hỏi lại những người ký giả cùng quê hương với cô : “Người ta nói vậy, các anh có hãnh diện không?”
Câu hỏi này đáng cho chúng ta chảy nước mắt. Lẽ cố nhiên câu trả lời là trăm nghìn lần không! Nhưng có một bọn người hãnh diện với câu rao mời trên, đó là những cái mặt mo như Nguyễn Minh Triết. Mặt mo vì không biết đến nỗi đau xót của thân phận đàn bà, là chị, là em, là đồng bào ruột thịt của chúng ta, vì vô phúc, phải sống dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam, “đem thân cho thiên hạ mua cười” từ xứ sở này đến quốc gia khác. Chúng tôi đánh giá nhân cách của một “con đĩ” hơn các chính khách của đảng VC nhiều, vì họ còn biết liêm sỉ, còn biết thế nào là tủi nhục cho mình và cho đất nước hơn các ông.
Chuyện khổ đau của phụ nữ Việt Nam và cũng là điều ô nhục của cả dân tộc từ lâu nay đã được các cơ quan truyền thông hải ngoại kể cả trong nước thông tin đầy đủ, tuy vậy nhà cầm quyền Cộng Sản trong nước vẫn ngủ yên ù lì như những con gấu mùa đông, không hề biết đến xót xa, khổ đau của đồng loại. Nói ra thì cũng chuyện thường tình, mà không nói ra, phải nuốt điều uất nghẹn vào lòng cũng là điều không chịu được.
Chỉ trong năm 2000, có khoảng nửa triệu phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị bán qua Trung Hoa, Macao, Đại Hàn, Cao Miên, Thái Lan và nhiều nước khác. Năm 2003 phụ nữ VN bị đăng bán đấu giá trên Ebay Taiwan Website với giá bắt đầu là $5,400.
Riêng trong năm 2005, theo bản tin của cơ quan UNICEF và Bộ Tư Pháp Việt Nam cho biết có 400,000 phụ nữ và trẻ em Việt nam bị bán ra ngoại quốc (10% của tổng số nạn nhân khắp thế giới, trong khi dân số VN chỉ hơn 1% dân số thế giới). Cũng trong năm này, nhiều thiếu nữ VN bị đem ra trưng bày như món hàng sale, ngồi trong những tủ kính để khách qua lại lựa chọn ở Trade Fair ở Singapore.
Chỉ tính riêng con số phụ nữ Việt lấy chồng Đài Loan là bao nhiêu? Theo thống kê chính thức Hà Nội, tính đến cuối năm 2003, có hơn 65.000 phụ nữ Việt Nam được cấp giấp phép (!) nhập cảnh vào Đài Loan để "làm dâu...", nhưng theo đại diện của chính phủ Đài Loan ở Sàigòn trong thời gian đó, thì "Hiện nay có khoảng 77,000 cô dâu Việt Nam tại Đài Loan. Dự tính trong khoảng hai năm nữa con số cô dâu Việt Nam tại Đài Loan sẽ lên tới khoảng 100.000 người”. Chỉ riêng tại Cần Thơ mỗi năm có khoảng 2.500 phụ nữ lấy chồng Đài Loan, đó là con số thống kê từ năm 2000 đến 2004, được chính Hội Phụ Nữ Cần Thơ nêu ra. Con số ấy tính đến năm 2010 là bao nhiêu?

Đàn ông ngoại quốc có thể bỏ tiền mua phụ nữ Việt Nam đem về nước làm người giúp việc không công kiêm nô lệ tình dục, hay cả hai. Tại các cơ sở môi giới, đàn bà đôi khi cầm bảng số đi trình diễn, hay cởi trần truồng cho người mua chọn lựa. Trên danh nghĩa là đi lấy chồng ngoại nhưng khi cô dâu đã theo chồng ra ngoại quốc, họ đã trở thành nô lệ bị giam giữ, không có quyền đi lại vì không có giấy tờ tuỳ thân, họ cũng có thể làm "đĩ" cho cả gia đình hay bị mua đi bán lại như một món hàng để tiếp tục sa chân vào những ổ mãi dâm. Đau đớn hơn là số trẻ em Việt Nam hiện nay đang ở trong các động điếm tại Phnom Penh, Kampuchea trong 15 ngàn gái mãi dâm, 52% là thiếu nữ và trẻ em Việt Nam.
Theo nguồn tin địa phương Prague, Tiệp Khắc được hãng thông tấn Việt Nam thuật lại chỉ trong vòng thời gian 15 tháng, các tổ chức mãi dâm đã đưa khoảng 50 cô gái Việt vào nước này. Các cô gái này phải trả từ $5,000 để được đưa lậu từ Việt Nam sang với các hứa hẹn là giúp họ tìm được việc làm tại Đông Âu. Họ có biết trước là sẽ bị đưa vào hang động của các tổ chức mãi dâm hay không, hay dù biết trước, thì đó cũng là lối thoát tốt đẹp nhất mà họ đã chọn để khỏi sống với VC.
Cảnh tượng hàng trăm cô gái xếp hàng cho bọn đàn ông Đại Hàn, Đài Loan đến xem mắt, lựa chọn đã là chuyện thường tình ở Saigon, đâu có gì mới lạ, không gây khó chịu hay làm ai động lòng xúc cảm. Cả một hệ thống làm tiền trên thân xác còm cõi của những cô gái đáng thương này, từ ma cô, công an, cảnh sát, nhân viên phường khóm cho đến các tổ chức làm giấy tờ xuất cảnh, khám bệnh, chích ngừa... dưới sự toa rập đồng loã của chính quyền trung ương VC. Đây là một dịch vụ béo bở lâu nay được thả nổi, được chính phủ VC kiểm soát hoặc được địa phương cố tình làm ngơ để chia chác, thủ lợi. Nhưng nay VC đi xa thêm một bước, khi loan báo, lần đầu tiên VN sẽ thành lập một công ty “tư vấn hôn nhân quốc tế” tại Saigon nhằm “bảo vệ quyền lợi của phụ nữ”, nghĩa là nhà nước sẽ điều hành chính thức việc bán phụ nữ ra nước ngoài ở đợ hay làm đĩ.
Tại Việt Nam, nạn mãi dâm bị coi là bất hợp pháp nhưng trên thực tế, tình trạng gái chơi, gái gọi dưới nhiều hình thức, công khai hay giấu kín đã lan tràn, phổ biến. Từ các thành phố lớn cho đến những vùng nông thôn, rừng núi, bãi biển xa xôi ở đâu cũng có nạn mãi dâm. Cuối năm 2002, chính phủ VC nói là Việt Nam có 14 ngàn gái mại dâm, nhưng con số do giới truyền thông ước tính lại là 37 ngàn người. Con số này, chính quyền lấy ở đâu, phải chăng là trên những con số do địa phương báo cáo lấy lệ hay con số đã đưa vào trại “phục hồi nhân phẩm”? Trong đất nước Việt Nam từ Nam chí Bắc, đâu là không có đĩ điếm, đâu là không có các dịch vụ “ôm”. Phụ nữ Việt Nam hẳn là món hàng rẻ nhất thế giới? "Con gái Việt Nam đẹp lắm! Nhưng con gái Việt Nam cũng rẻ lắm!" -“Người ta nói vậy, các anh có hãnh diện không?”
Con gái Việt Nam quả tình là đẹp, chẳng đẹp sao dám đem phô bày dưới nhãn hiệu “Duyên Dáng Việt Nam” đi trình diễn khắp nơi, không đẹp sao dám tổ chức hoa hậu toàn cầu, hoa hậu quốc gia, hoa hậu Biển, hoa hậu Núi mà người bỏ cả vài nghìn đô la để mua vé vào xem? Con gái Việt Nam đẹp lắm, không đẹp sao đàn ông tứ xứ đều nghe lời quảng cáo của ma cô Nguyễn Minh Triết, đổ xô đến Việt Nam để mua dâm hay đem về làm vợ?
Sao số phận đàn bà con gái Việt Nam lại ra nông nỗi này? Tại sao đến nay lại có hiện tượng cả một phong trào con gái Việt Nam coi rẻ nhân phẩm mình, đổ xô chạy theo đồng tiền, ra đi lấy chồng xứ lạ hay tự nguyện bán thân ngay ở trong nước. Ca sĩ, người mẫu, hoa hậu, sinh viên đại học đều có thể là gái bao, gái gọi. Vì sao trước khi Cộng Sản vào miền Nam con gái lấy Mỹ, lấy Phi, lấy Tây... đều bị xã hội lên án và coi rẻ. Còn bây giờ con gái lấy Đài Loan, Đại Hàn đều hãnh diện, tự hào. Người ta nêu ra những nguyên nhân kinh tế: làm đĩ, lấy chồng ngoại quốc là vì gia đình khó khăn (78,94%), thất nghiệp (65,5%), cần tiền để giải quyết những nhu cầu trước mắt (62,56%), và do tâm lý hãnh diện được lấy chồng ngoại quốc (47,1%).

Tôi mạn phép xin nhắc lại, lời một đứa bé Việt Nam ăn xin ca cẩm, mà tôi đã viết trên trang này: “Ngoại ơi ngoại! Ngoại cho con 5,000 đồng, con cầu nguyện Bà cho con gái ngoại lấy được chồng Đài Loan! Ngoại ơi ngoại! Ngoại cho con 5,000 đồng, con…" Chỉ có một xã hội nền đạo đức suy đồi mới xẩy ra những thảm hoạ như thế.

“Con gái Việt Nam đẹp lắm! Người ta nói vậy, các anh có hãnh diện không?” Qua cuộc đời bất hạnh, khốn nạn của những người con gái Việt Nam sinh lầm trong chế độ, phải bán thân đi mười phương, câu hỏi này đáng ném vào mặt bọn lãnh tụ hôm nay. Câu hỏi khiến cho những người còn chút liêm sỉ phải đau lòng, nhưng bọn chúng thì không. Tôi xin lập lại : “Chúng tôi đánh giá nhân cách của một “con đĩ” hơn các chính khách VC nhiều, vì họ còn biết liêm sỉ, còn biết thế nào là tủi nhục cho mình và cho đất nước hơn các ông”.

HUY PHƯƠNG

*

VŨ ĐÔNG HÀ * TRUYỆN NGĂN *


*



Vũ Đông Hà

Lục bình trên dòng kinh đen


Mỗi sáng vào khoảng 9 giờ, khi chiếc xe hốt rác trỗi bản nhạc Für Elise chạy quanh xóm, khi cụ già ở khoảng sân um tùm cỏ bên kia con kinh đầy rác vừa xong thế Taiji cuối cùng, và bà Hui Xin tưới xong những chậu kiểng xếp dọc theo lề đi, thì cô gái bước ra khỏi nhà. Nhìn lên ban công gác trọ chỗ tôi ngồi, cô gái vẫy tay cười.


Tôi gặp Trang hôm Chủ nhật, một ngày sau khi tôi đến Chung Li. Mặt trời buổi sáng chưa qua khỏi đỉnh cây sung mà trời đã oi bức. Lúc ấy tôi ngồi ở ghế đá cạnh đình làng, loay hoay chụp hình những người đàn bà Đài đang thắp nhang vái lạy Quan Công. Một bóng dáng chắc chắn không phải là người bản xứ lọt vào khung nhìn máy ảnh tôi. Bỏ máy xuống, nhìn lên tôi hỏi: em Việt Nam hở?
Trang 26 tuổi. Lần cuối nắm tay mẹ trước khi làm cô dâu theo ông Cheng về Đài là ngày sinh nhật thứ 18 của Trang. “Sinh nhật em dễ nhớ lắm, ngày hai tháng mười hai.” Trang cười nói với tôi vào sáng Chủ nhật tuần sau. “Em nhớ hồi mới qua, trời cuối năm ở đây lạnh hết biết luôn. Em dân Cà Mau cả đời đâu biết lạnh kiểu này. Em trùm mền, nhớ má khóc cả tuần.” Có thể nói Trang là một trong những cô dâu Đài Loan thời “tiền trạm” và tương đối nhiều may mắn so với những cô dâu khác. Đó là theo lời của Trang. Sáng Trang dậy lúc 6 giờ, làm điểm tâm cho ông chồng, bà mẹ chồng, hai đứa con riêng của ông Cheng, giặt quần áo và phơi trên những sào tre gắn từ cửa sổ chĩa ra đường. “Ngày nào cũng phải giặt chớ nếu không hổng có chỗ phơi“. 9 giờ sáng Trang rời nhà ra chợ phụ bà em gái ông Cheng bán cá đến chiều. Nấu ăn tối, chuẩn bị sẵn cơm trưa ngày hôm sau, dọn cơm, rửa chén, quét nhà, tắm cho bà mẹ chồng, chùi rửa nhà cầu, Trang lên giường là ngày đã qua ngày. “Lúc đó ông chồng em ngủ mất tiêu rồi, hổng biết ổng lấy em qua đây làm gì.” Trang cười nói. “Cứ vậy đó anh, từ thứ Hai cho tới thứ Bảy. Chủ nhật bà Li nghỉ bán hàng nên em được nghỉ theo. Anh muốn gặp mấy đứa cô dâu với ô sin để tìm hiểu sự tình hở? Hi hi, anh hên gặp em là thổ địa ở đây. Để tuần tới em dắt anh đi. Chủ nhật nghe. Anh tới mà chưa thấy em thì cứ ngồi đó chụp hình mấy bà Tàu và chờ em“.
Lệ và Thi là dân Long Xuyên. “Con này nó mới qua được hai năm, tình cảnh nó cũng bi đát lắm. Lệ, mày kể cho ảnh nghe đi“. Lệ ngồi bó gối một hồi lâu. Tôi nhìn quanh căn phòng nhỏ mà Lệ được một cô dâu khác đã bỏ chồng ra riêng cho ở tạm. Im lặng chờ. “Khác với chị Trang, thằng chồng của em nó còn trẻ, lái tắc xi. Lúc mới qua nó nghỉ một ngày lái xe chở em đi chơi núi, chơi biển. Được đâu hai tuần thì nó dắt một con nhỏ Đài khác về phòng. Sau đó em mới biết trước đây con này là bồ của nó. Tụi nó gây lộn nhau sao đó, thằng chồng em nó nổi sùng qua Việt Nam cưới em. Bây giờ tụi nó làm lành với nhau và thằng chồng em kéo con bồ nó về sống chung luôn. Tối nào thằng chồng em cũng bắt em làm chuyện đó với hai đứa nó. Rồi còn quay phim nữa. Em không chịu thì cả hai đứa nó xúm vào đánh đập em tàn nhẫn. Lúc đó, em ở bên Đài Trung, không có điện thoại di động, không biết tiếng Hoa, không quen ai, em không biết làm sao. Hai tháng sau thì em có bầu“.
Những ngày khởi đầu của dịch vụ cô dâu, mỗi chú rể Đài thường phải trả cho công ty môi giới Đài và Việt từ sáu ngàn tới mười ngàn đô. Sau khi khấu trừ các chi phí trả cho môi giới, chi phí đám cưới, gia đình của cô dâu còn được hai tới ba ngàn đô. Khi con số cô dâu gia tăng hơn tới gần 100 ngàn người thì giá cả cũng theo đà đi xuống. Gia đình của cô dâu nhiều khi không được đồng nào và chỉ mong con gái của mình có cơ hội ra nước ngoài làm ăn có tiền gởi về. Nhiều chú rể Đài sau này không cần phải trả trước chi phí mà chỉ cần trả góp sau khi cưới vợ về.
Lúc biết em có bầu thì nó không còn bắt em làm chuyện đó nữa. Nhưng em phải chứng kiến cảnh tụi nó với nhau mỗi đêm. Nhà nhỏ xíu chỉ có một phòng ngủ anh à. Có lần em ra bếp nằm ngủ thì nó lôi em vào và sau đó mua ổ khóa khóa cửa luôn. Lúc em sanh con xong thì chuyện cũ lại tiếp tục. Em chịu không nổi nên đành bỏ con trốn đi“. Còn em thì sao, em qua đây mấy năm rồi? Tôi quay sang hỏi chuyện cô gái ngồi cạnh Lệ. “Nó mới qua có mấy tháng hà anh“. Lệ trả lời giùm cho Thi. “Nó là em gái út của em, mới 17 tuổi hà. Nó chỉ tới thăm em bữa nay. Chồng nó già khụ rồi anh. Không có tiền nên ký giấy trả góp cho tụi môi giới. Bây giờ ông già bắt nó đi chạy bàn ở karaoke để trả nợ cho ổng. Ổng nói trả nợ xong hết thì ổng mới cho gởi tiền về nhà“.
Tôi nhìn hai chị em vừa xót thương vừa không hiểu nổi. Hỏi Lệ là biết qua đây khổ sở, bị đối xử như nô lệ mà lại còn kéo em gái mình qua. Lệ trả lời bằng những câu chuyện về đời sống hoàn toàn không có gì ở quê mình. Những người đàn ông đã rời khỏi mảnh đất không còn gì để mà sống. Những đứa con gái tới tuổi mười bảy, mười tám là bỏ cái làng không còn gì mơ ước để mà đi. Lấy chồng Đài đã trở thành con đường thoát. Chỉ còn đâu vài đứa trai làng buồn bã nhìn người bạn gái từ thời thơ ấu leo lên chiếc xe hơi với gã đàn ông Trung Hoa già nua, để lại đằng sau một đám bụi mù. Vài đứa may mắn, được nhà chồng cho ra ngoài đi làm, dành dụm một khoản tiền riêng gởi về, cha mẹ thay nhà mái tranh thành nhà ngói đỏ. Những bà mẹ nhà mái tranh khác, thúc giục đứa con gái vừa đủ tuổi đi ra khách sạn đứng xếp hàng.
Lúc tôi tới nơi thì đã có hơn 50 cô gái Việt Nam đang đứng xếp hàng và hơn 10 người đàn ông Đài Loan tới từng cô ngắm nghía, sờ soạng“. Anh bạn người Đài tên Ken ngồi trầm ngâm kể. Anh là người về Việt Nam dự trù cưới vợ theo lời mời gọi quảng cáo của công ty môi giới. Là một tín đồ Công giáo, anh đồng ý gặp tôi qua sự giới thiệu của một linh mục để thuật lại những gì anh đã chứng kiến. “Những cô gái này đều rất trẻ và son phấn không che giấu được nét nhà quê, chất phác và dáng vẻ ngượng ngập của họ. Nhưng có lẽ tôi mới là người ngượng ngùng và xấu hổ nhất lúc đó. Nhìn những người Đài bản xứ của tôi ngắm nghía, sờ mó các cô gái ấy và cười với nhau hô hố mà tôi hổ thẹn“. Ken nói sau lần đó, anh về lại khách sạn và không đi nữa.
Nhưng những người Đài khác ở cùng chỗ trọ đã kể cho anh nghe những chuyến “cô dâu ra mắt” ấy như thế nào. Có những nơi, đám môi giới bắt cả 100 cô gái Việt Nam xếp hàng, không một mảnh vải trên thân để những gã đàn ông lựa chọn. Có nơi, nhiều cô gái xếp hàng đứng ngoài hành lang chờ đến phiên mình. Có những cô gái được chọn là chú rể tiến hành ngay đám cưới. Có cô sau đó phải đi với chú rể tương lai, gọi là để tìm hiểu nhau thêm, ở nhà hàng lẫn khách sạn. Không hài lòng thì trở lại chọn cô khác. Có chú rể cố tình trải qua nhiều vòng chọn lựa chỉ vì thích thú những màn miễn phí này. “Những cô gái Đài ngày hôm nay trông được một chút thì không bao giờ đoái hoài tới những người đàn ông trung bình như tôi“. Ken tiếp tục kể. “Thấy những bảng trên xa lộ quảng cáo dịch vụ kết hôn, nhìn hình ảnh những cô gái Việt Nam dễ thương, tôi muốn kiếm một người vợ trước khi quá muộn. Tôi cũng đã quá 30 rồi. Nhưng tôi không ngờ con người lại bị đối xử như con vật như thế. Tôi về lại Đài Loan không vợ mà còn mất hết tiền vì công ty môi giới không chịu trả. Họ nói hoặc là tôi lấy đại một cô hoặc là không được gì hết. Tôi không đi kiện tụng ai được vì tôi nộp tiền và ký giấy cho họ, tôi chẳng có gì hết. Tôi cũng không dám nói với ai vì không dám đụng đến đám xã hội đen“.
Có nhiều loại chú rể Đài lấy vợ Việt khác nhau. Ken là một đóa sen trong ao bùn. Đa số những người đàn ông Đài qua Việt Nam lấy vợ là những người không lấy được vợ Đài. Nói khác hơn là phụ nữ Đài họ chê. Đài Loan bên trong là một xã hội kỳ thị giữa những tầng lớp khác nhau. Lái tắc xi ăn trầu thì khó mà lấy được những cô gái trẻ sinh viên mới ra trường. Bên cạnh, người Đài cũng kỳ thị với những người gốc Việt cô dâu, gốc Phi ô sin, ngay cả người từ Lục địa đến. Vì thế một người đàn ông Đài Loan thành công cũng không muốn lấy phụ nữ Việt Nam dù đó là phụ nữ đẹp. Phụ nữ Đài Loan không đẹp như các tài tử đóng phim. Những người đàn ông bị gái Đài chê mà lại thích vợ đẹp và qua Việt Nam lấy vợ, vì thế, là những tài xế tắc xi miệng ăn trầu ngồm ngoàm, là những ông già lụm khụm, là bảy tên chồng du đãng gom tiền lại cưới một cô dâu đem về chia nhau làm tình, là đám xã hội đen buôn người cho ổ chứa. Và là những người tàn tật.
Lúc về tới nhà em mới biết người em cưới không phải là chồng em. Cái tên đàn ông trẻ trung làm đám cưới bên Việt Nam bây giờ nó gọi em là má. Ba nó mới thiệt là chồng em“. Sao vậy? Chứ hồi ở bển em không biết sao? “Sao biết được! Tụi công ty môi giới nó đưa giấy tờ tên họ chữ Hoa em có biết đứa nào là đứa nào. Và em ký thôi. Được người cưới là mừng hết lớn rồi anh. Còn được đám cưới linh đình. Nó còn cho má em ba ngàn đô. Ai mà ngờ được anh. Qua đây mới biết là tên trong giấy tờ là tên của ba nó. Ổng già hơn 60 và bị tàn tật, không cử động đi đứng gì được. Đi ăn, đi tắm, đi tiêu, đi tiểu gì cũng phải có người chăm sóc. Trước đây, mỗi tháng nó trả 20000 Đài tệ để mướn người tới nhà làm mấy chuyện đó. Bây giờ thì là em. Nó bỏ ra tổng cộng 7000 đô Mỹ để lừa cưới em cho ba nó, tính ra chưa tới một năm là nó huề vốn. Còn lại là em phải làm kiếp ô sin không lương cho ông chồng già tới khi ổng chết“.
Buổi chiều về tôi và Trang đi bộ dọc theo bờ con kinh nước đen. Hai anh em không nói gì nhiều với nhau. Trang như đoán được tâm trạng của tôi nên ráng an ủi: “Anh đừng buồn, tụi nó có khổ lắm thì cũng 5 năm là có thể vào quốc tịch. Lúc đó đứa nào cũng bỏ mấy thằng chồng cà chớn. Tuần tới em dắt anh tới chỗ mấy đứa loại đó. Chuyện con Lệ kéo thêm con Thi anh cũng đừng trách nó. Đứa nào qua đây khấm khá thì nổ như lựu đạn về bên nhà, đứa bị đánh đập, giày vò thì giấu. Anh biết tại sao tụi nó phải giấu không? Có đứa sợ ba má nó buồn. Có đứa sợ ba má nó chưởi là không biết chìu chồng, thua con Tư hàng xóm mỗi tháng gởi tiền về mấy trăm. Có đứa thì sợ bị quê vì trước khi đi tuyên bố huênh hoang. Nên ở nhà cứ tưởng tụi em qua đây yên bề yên bến và thúc hối những đứa còn lại ra đi. Anh nói tụi em khổ còn hơn nô lệ. Em thì thấy ở nhà còn khổ hơn. Nói chung tụi em biết sống chai lì và quen. Như cái mùi nước kinh này, riết rồi em cũng quen không còn khó chịu như những ngày đầu mới tới“.
Tôi nghe Trang nói mà đầu óc cứ lan man với những mảnh đời tôi mới gặp. Tôi nhớ lại hình ảnh của cô bé Vi mà Trang dẫn tôi vào thăm ở bệnh viện lúc trưa. Vi vừa sống đời của một món đồ chơi tình dục trong vai trò cô dâu, vừa sống đời của một ô sin ở đợ. Gia đình chồng của Vi tổng cộng 14 người, sống nhung nhúc trong một căn nhà chật hẹp. Từ sáng tới chiều Vi hùng hục làm hết mọi chuyện của một người đi ở. Đến chiều, khi cả nhà ăn uống xong thì Vi phải tới xưởng làm đồ nhựa của chồng để làm ca đêm. Khuya về, Vi phải phục vụ người chồng và nửa đêm đều đặn thức giấc để dìu ông già chồng đi vệ sinh. Mỗi ngày được nhắm mắt bốn tiếng, Vi đã ngủ gật trên giàn máy cắt nhựa và bị cắt mất đi bàn tay phải. Tôi về lại gác trọ và ra sau ban công ngồi. Vẫn chưa quen được mùi kinh hôi thối cuốn theo con gió làm xào xạc tàu lá chuối rách cạnh nhà.
Chủ nhật sau gặp Trang tôi kể Trang nghe chuyện một cô gái ô sin mà cha linh mục dẫn tôi đến gặp để giúp đỡ. Trước khi kể, tôi cũng nói trước với Trang là chuyện anh kể lại có nhiều điều khó nghe nhưng Trang lớn rồi, chắc không sao. Trang cười nói em đã nghe nhiều chuyện lắm, chuyện anh chưa chắc “mặn” bằng chuyện em nghe đâu.
Kim đi làm ô sin, bị người chủ hiếp. Kim trốn được chạy tới chỗ cha nhờ giúp đỡ và cha khuyên là phải kiện người chủ ra tòa. Luật sư cần nó viết bảng tường trình sự việc nhưng Kim không muốn cha làm chuyện đó. Kim cũng đang khủng hoảng tinh thần mạnh lắm, may ra con giúp được nó“. Vị linh mục dặn dò tôi vào buổi sáng trên đường đến gặp Kim.
Khác với những cô dâu mà tôi đã gặp, Kim đã hơn 30 tuổi. Ngồi trò chuyện với Kim tới trưa, tôi chỉ hỏi toàn chuyện thời Kim đi học. Kim kể tôi nghe những ngày đi buôn từ Tây Ninh, tới Mộc Bài sang tận Phnôm Pênh và đã học tiếng Miên lẫn tiếng Hoa như thế nào. Kim tiều tụy, mắt sưng đỏ nhưng vẫn còn đâu đó hình ảnh của một người phụ nữ xinh đẹp. Cho đến sau khi ăn trưa xong, Kim mới cảm thấy gần gũi để kể chuyện của Kim cho tôi nghe và qua đó nhờ tôi viết giùm bài tường trình cho luật sư đệ trình trước tòa.
Chủ em là giám đốc một công ty nhỏ. Nhà chỉ có hai cha con. Ông chủ và ba của ổng. Cả ngày em ở nhà dọn dẹp và hầu hạ ông già. Ổng tuổi cũng cỡ ngoại em. Nhiều khi đi ra đi vào, ổng cứ tìm cách cọ quẹt người em“. Rồi em có về nói lại với ông chủ không? Tôi hỏi. Kim lắc đầu. “Em chưa kịp nói thì tối ông chủ về đã xông vào giường em. Phòng em trước đó là một cái gian chứa đồ nhỏ trên sân thượng. Không có chốt cài cũng không có khóa. Em chống cự thì ông chủ không nói gì chỉ bỏ đi. Cứ thế hết đêm này tới đêm khác. Em phải chờ tới hai, ba giờ sáng, lúc chắc chắn ông chủ đã ngủ thì em mới yên tâm đi nằm. Tháng trước, không biết sao em buồn ngủ quá, đồng thời em đang có tháng nên nghĩ chắc không sao. Cho nên lúc ông chủ vào phòng đè chặt lên người em, em thức giấc, chống trả một hồi lâu thì đuối sức. Em khóc lóc van xin, nói em đang có tháng ổng cũng không nghe“. Kim vừa kể vừa khóc. Có lúc tôi thấy Kim rùng mình. Kim dừng lại và nói thôi anh, em không kể được nữa. Tôi nói Kim nghỉ một chút để tôi đánh máy lại những ghi chép ngắn thành bài viết. Một lát Kim trở lại ngồi đối diện với tôi, cúi đầu ngập ngừng: “Thật ra có một lần trước đó ổng sắp hiếp được em. Nhưng ổng không làm được vì ổng… tới trước khi ổng cởi được quần lót của ổng.” Tôi ngừng đánh máy, tránh nhìn Kim và hỏi Kim nhớ lại cho kỹ, những điều này khó nói nhưng khi ra tòa luật sư của phía bên kia sẽ vặn hỏi Kim. Làm sao Kim biết là ổng như vậy khi ổng còn mặt quần lót. Tôi viết lại một cách gãy gọn như vậy nhưng lúc đó tôi đã lúng túng nói không thành câu. Cả hai anh em đều ngượng ngùng. Kim khóc sướt mướt. Tới cuối ngày tôi mới viết xong bản tường trình cho Kim. Lần gặp lại sau đó Kim tâm sự, “khi em kể lại cho anh, em có cảm giác đau đớn và ghê tởm không khác gì lúc chuyện xảy ra“.
Chủ nhật một tuần trước khi rời Đài Loan, tôi cùng với Trang lên Đài Bắc ghé thăm nhà thờ của cha linh mục và khu chợ nơi đông đúc các cô dâu Việt Nam đang ở như Trang đã hứa. Đi xuyên qua đường chợ đông người, lạc lõng đứng một mình bán rau là một cô gái Việt Nam làm dâu xứ người với nụ cười và đôi mắt mà suốt đời tôi không bao giờ quên. Quán Bình Minh là một tiệm nhỏ. Chủ Việt, khách cũng Việt. Toàn là phụ nữ. Theo Trang, đa số các cô ở đây đã đến Đài nhiều năm. Có cô còn ở với chồng. Nhiều cô đã bỏ chồng. Vừa ngồi xuống tôi đã chứng kiến thêm một cảnh đời mới. “Đ.m mày biết không, tối hôm qua tao gọi về bà già, đ.m. nói chưa hết câu bả đã đòi gởi tiền…” Một cô dâu khác tiếp lời “thì đ.m. mày cả mấy tháng rồi mày không gởi bả chửi là phải. Đ.m. mày đi đánh bài, cào một cái trăm đô, đ.m…” Cha linh mục nhìn tôi cười, quay sang hai cô gái nói, thôi nghe, có cha đây làm ơn bớt nói mặn một chút. Trang cũng cười với tôi, “chưởi thề là phong trào mới đó anh, đứa nào ở cái chợ này cũng chửi thề, càng chửi càng thấy sướng“. Cô chủ cũng là đầu bếp cũng là tiếp viên đem nước tới tiếp lời “đời này không chửi thì làm gì cha“. Cô nhìn linh mục cười. Lân la ngồi quán hơn một giờ tôi lại nghe thêm về những mảnh đời khác. Chuyện cô gái vừa tới phi trường là bị đám xã hội đen chở thẳng về nhà gái, có cô sau đó bị đưa qua Quảng Châu. Chuyện cô gái sau vài tháng thì chồng bán lại cho người khác, có cô bị bán hơn một lần. Chuyện cô gái bị em chồng, cha chồng thay phiên nhau làm nhục mỗi tối. Mỗi câu chuyện được kể lại bằng những tiếng chửi thề giòn tan đ.m đời tụi em nó chó đẻ vậy đó anh.
Trang, tôi, và vài cô dâu kéo nhau về nhà xứ của cha. Các linh mục Việt Nam ở Đài có thú tiêu khiển nuôi chim. Vị linh mục tôi ghé thăm cũng vậy. Ùa vào chỗ ở của cha, các cô dâu đã ào ào nắc nẻ: “cha cho tụi con vào thăm chim cha; trời ơi chim cha bây giờ sao lớn dữ dzậy; hi hi, cha cho con tắm chim cha nghe…” Linh mục nhìn tôi cười hiền: “Tụi nó vậy đó con, miễn sao tụi nó còn cười là cha vui rồi. Có người trách cha sao quá dễ dãi với tụi nó. Cha thì biết tụi nó không còn tha thiết gì với lễ nghĩa nữa. Đời đã làm cho tụi nó chai lì. Thôi, miễn sao tụi nó cảm thấy gần gũi cha để có gì cha giúp tụi nó là được rồi“.
Buổi chiều tôi ghé văn phòng Bộ Xã hội Đài Loan. Tiếp tôi là một nhân viên phụ nữ người Đài dáng vẻ hách dịch hỏi tôi cần gì. Tôi kể về tình cảnh của những phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài. Chưa đầy câu chuyện bà ta đã ngắt lời: anh cần tôi giúp gì? Cố gắng dằn cơn giận, tôi nói với bà ấy tôi nghĩ bà mới là người cần giúp; theo thống kê của chính cơ quan bà đang làm việc, thì hiện nay ở Đài có hơn một trăm ngàn cô dâu Việt Nam. Chồng của họ là những người già nua, hoặc ít học, say sưa và đánh đập vợ con. Những người vợ Đài mới này không nói tiếng Hoa, cô lập trong xã hội đang sống; mỗi cuộc hôn nhân dẫn đến trung bình là hai đứa con; những đứa con trong một gia đình tan nát, bố mẹ như vậy thì chúng sẽ là hai trăm ngàn công dân Đài Loan hư đốn trong tương lai mà xã hội của bà phải giải quyết. Và con số sẽ không dừng lại ở một trăm, hai trăm ngàn. Mỗi cô dâu đem lại lợi nhuận cho môi giới Đài lẫn Việt trung bình ba ngàn đô. Nhân lên là ba trăm triệu đô. Một dịch vụ không cần nhiều nhân viên, phòng ốc, chỉ cần những con người làm vật buôn bán, đem lại lợi nhuận khổng lồ như thế thì nó sẽ tiếp diễn… Tôi nói nhiều, nói không kịp dừng để thở. Bà nhân viên xã hội nhìn tôi. Tôi biết, qua ánh mắt nhìn, bà ta chưa bao giờ nghĩ tới những chuyện đó.
Tôi rời Đài Loan mang theo mùi nước kinh nồng thối, mang theo những buổi tối ngồi trên căn gác nhìn theo bóng đứa em hợp tác lao động vừa mới kết nghĩa ngả dài trên lòng đường đi về lại công ty, mang theo những buổi sáng ngồi chờ đứa em gái đi ngang vẫy tay cười. Tôi rời Đài Loan mang theo hình ảnh những đứa bé Đài gốc Việt nheo nhóc. Và những cánh lục bình nổi trôi trên dòng kinh đen. Chuyện cô dâu cũng như những chuyện tang thương của đất nước, có lúc bùng lên rồi cũng lắng xuống và mất hút trong những lo toan đời sống của từng người. Nhưng mỗi ngày trôi qua, vẫn còn đó những đêm có cô gái nằm trên nhà kho sân thượng trằn trọc ngó chừng ra cửa, những bàn tay ngủ gục bị cắt đứt, những cuốn phim nô lệ tình dục tiếp tục quay, và những vết tím bầm trên mắt trên môi.
Tôi rời Đài Loan mang theo lời của Trang: Anh nói tụi em khổ còn hơn nô lệ. Em thì thấy ở nhà còn khổ hơn. Lời nói ấy đã dẫn đến một bước ngoặt của đời tôi.

© 2010 Vũ Đông Hà

NGUYỄN THẾ HOÀNG * TRUYỆN NGẮN

*
Mất Trắng
Đêm về sáng thật yên tỉnh. Hồng trở mình thức giấc. Nàng cảm thấy trong người ê ẩm mệt nhừ. Căn phòng vắng, chìm sâu. Chiếc quạt trần chạy vù vù, đều đặn trên trần nhà nhìn như muốn chóng mặt. Đồng hồ trên tường phía trước mặt đã hơn 4 giờ sáng. Hồng kéo chiếc mền len lên kín toàn thân. Trong giây phút nàng thoáng chút ngỡ ngàng. Toàn cơ thể không một mảnh vải che thân. Bên cạnh Hồng, gã đàn ông đang ngủ vùi, cơ thể co quắp, trần truồng phát tởm. Giấc ngủ của gã hồn nhiên, say sưa, thỏa mãn. Bất giác Hồng rùng mình khi ngỡ rằng gã đàn ông này là chồng ! Chồng à !!? Sao lại là chồng được nhỉ ? Trông gã già đáng tuổi cha chú mà ! Gương mặt gã béo phệ, chảy dài.


Các bắp thịt trên cơ thể gã un lên, cùng cái bụng to tròn lẵn đang rung rinh theo hơi thở đều đặn. Trông thật gớm ghiếc trước đống thịt ung úc biết cử động đã chiếm đoạt hồn xác của nàng thật thô bỉ. Hồng nhớ rất rõ đã hai lần gã làm tình với nàng trên chiếc giường ngủ này trong căn phòng của khách sạn lúc đầu hôm và giữa khuya. Hàng rào ngôn ngữ đã làm tê liệt những cảm giác ân ái. Gã chỉ hành động theo lớp lang, theo dục vọng sôi sục từng cơn trong cơ thể úc núc của gã. Gã hung hãn, táo bạo và ào ạt như con hổ vồ mồi khiến cho Hồng hết sức đau đớn vừa tủi nhục, chỉ biết chịu đựng và chết lịm từng hồi trong bắt buộc và chấp nhận lần đầu tiên trong đời bên cạnh một người đàn ông xa lạ.

Hồng như muốn khóc và cảm thấy ghê tởm, uất hận. Nàng xoay mình ra phía ngoài không còn đủ can đảm nhìn gã. Hồng cần một sự yên tỉnh. Sự thật rất phũ phàng không như Hồng tưởng, đã được những gì khi đã mất hết. Những gì đã diễn tiến quá nhanh, không báo trước, không có sự chuẩn bị cũng vì sự nghèo hèn cơ cực. Gia đình Hồng rất nghèo, nghèo lắm. Mảnh vườn nhỏ là nguồn sống duy nhất của gia đình cũng đã bán. Hai công đất trồng hoa màu đã được cầm thế hai tháng nay để lấy tiền chạy thuốc cho mẹ đang mang căn bệnh ung thư đến hồi nguy kịch. Giờ chỉ còn mái nhà nhỏ nằm sâu trong vùng quê Tiền Giang và cũng có thể sẽ mang đi cầm thế để lo cho mẹ.


Hồng may mắn vừa tốt nghiệp trung học phổ thông, không tiền học thêm, đành ở nhà kiếm việc làm. Nàng đã mất một số tiền lớn để có được một chân thư ký ngân hàng trong thành phố. Với đồng lương khiêm tốn ít oi vẫn chưa đủ hai bữa ăn no trong gia đình.


Ông Năm, cha Hồng đã lớn tuổi già nua, đất, vườn đã không còn, hằng ngày phải đi làm thuê cho người dân trong vùng, ngày có, ngày không. Đứa em gái của Hồng đã phải nghỉ học để làm đủ mọi thứ việc phụ giúp. Hai đứa em trai cắp sách đến trường, tiền sách vở, đóng góp này nọ cho nhà trường không tìm đâu ra nên việc học dở dang, đành ở nhà hái rau, bắt ốc, hoặc rong chơi lêu lổng đầu thôn đến cuối xóm.

Mẹ Hồng nằm liệt giường đã hơn năm nay, mỗi ngày một gầy yếu, xanh xao. Tiền thuốc, tiền bác sĩ là một vấn nạn, nên bà nằm đó hàng ngày để chờ đợi cái chết từ từ đến.



Hồng may mắn có đuợc nhan sắc khả ái, cơ thể tròn lẳn, đầy đặn của tuổi xuân. Nàng vẫn đang có những ước mơ của người con gái đang trưởng thành. Hằng ngày nàng phải gò lưng trên chiếc xe đạp từ trong quê ra thành phố để làm việc. Giấc mơ có được một chiếc xe gắn máy như bạn bè để làm phương tiện di chuyển cho đở bớt cực nhọc, nhưng thật xa vời ngoài tầm tay. Giờ rảnh, Hồng nhận may gia công, thêu máy và cặm cụi hằng đêm để thêm thu nhập cũng chẳng thấy khá hơn. Căn bệnh của người mẹ ngày thêm trầm trọng.


Trước những khó khăn trong gia đình, Hồng vẫn đang có một niềm tin mãnh liệt bằng công sức mình và tin tưởng số mệnh và cơ trời có thể một lúc nào đó sẽ khá hơn. Hồng nghĩ rằng cuộc đời không có gì là khổ mà cũng chẳng có gì là sướng, tất cả, con người phải gánh vác để hoàn thành trách nhiệm trong danh dự. Hồng suy nghĩ để tạo một niềm tin và sức mạnh nghị lực hầu chịu đựng trước hoàn cảnh gia đình trong lúc khó khăn. Nhưng ông Năm, cha nàng lại nghĩ khác. Ông quá đau khổ nhìn người vợ đã bao năm chung sống đang nằm thoi thóp trên giường bệnh. Ông ước ao có được một số tiền lớn để đưa vợ đi Saigon chữa trị. Làm thế nào và bằng mọi cách để có tiền là điều ray rứt triền miên trong tâm trí ông.

Một hôm sau bữa cơm chiều, ông tỏ bày suy nghĩ của mình với con gái - Hồng à ! Mẹ mày không được đưa đi Saigon chữa bệnh, tao nghĩ bả sẽ chết mất. Mẹ mày chết tao làm sao sống nổi hả Hồng .Hồng buồn rầu khi nghe cha than vắn thở dài :

- Biết làm sao bây giờ ?! Con nghĩ ai thương cho mình vay một số tiền rồi mình làm kiếm trả lại. Nghĩ cũng khó.


Ông Năm hậm hực ;- Không dễ gì...ai mà cho mượn. Bệnh của mẹ mày cần một số tiền lớn mới mong được con ơi



Vậy thì đào đâu ra. Con nghĩ chẳng còn cách nào nữa cả.Ông Năm lại thở dài thườn thượt, nét mặt đăm chiêu tư lự. Hồi lâu ông đã thấy như đã đến lúc bày tỏ ý định với con. Ông Năm nhìn Hồng đang ngồi, hai tay ôm mặt gục trên đầu gối trông dáng vẻ bất lực thảm hại.
- Hồng à, mày nên lấy chồng để có tiền chữa bệnh cho mẹ mày. Mày biết không - Lấy chồng là sao ba ?- Hồng ngạc nhiên - Con lấy chồng gia đình bỏ cho ai. Má con đang bệnh nặng cần phải có con trong gia đình.

- Lấy chồng Đại hàn - Ông Năm nói nhanh - Lấy tụi nó sung sướng, giàu sang. Đầu trên, xóm dưới cũng đã có mấy gia đình có con gái lấy chồng Đại hàn, Đài loan, mày không thấy sao ? Nghe lời tao để cho mẹ mày được sống thêm vài năm nũa. Mày phải lấy chồng. Mọi việc tao đã suy tính đâu vào đó rồi.

Hồng lắc đầu từ chối, van xin nhiều lần, nhưng ông Năm gằn giọng ra lệnh :
- Mày không được cãi lời cha mẹ. Mày có thấy mẹ mày đang rên la và đau đớn từng cơn hằng ngày đó không ? Làm con phải thương cha thương mẹ chứ. Gia bần tri hiếu tử. Quốc loạn thức trung thần. Mày hiểu chưa ? Tao đã quyết định phải cứu nguy gia đình này. Mày ừ một tiếng là tao có hai ngàn đô la trong tay để đưa mẹ mày đi chữa bệnh. Nghe chưa con ?


Hồng chẳng biết phải làm thế nào trước quyết định tối hậu của gia đình đã làm cho nàng hụt hẫng chới với. Dịch lấy chồng Đài loan, Đại hàn, Miên, Lèo, Tàu, Nhật, Ma cao, Hón kóng gì đó... mà Hồng đã từng nghe thấy đâu có tốt lành gì đâu. Mười người hết chín người phải chuốc lấy ân hận, nhục nhã, thân tàn ma dại. Nàng cảm thấy gớm ghiếc, chua xót và xấu hổ cho thân phận người phụ nữ Việt Nam trong cái xã hội nhiễu nhương đảo điên hôm nay. Hồng cố tránh không muốn nghe, không muốn biết, không muốn nhìn thấy hiện trạng đồi bại của thời đại. Vậy mà bây giờ Hồng lại không tránh khỏi. Căn bệnh trầm trọng đang sắp kết thúc cuộc sống của người mẹ già thân yêu, cảnh nghèo khó của gia đình và quyết định tối hậu của người cha đang làm cho Hồng phân vân không còn lối thoát. Không muốn cũng không được. Mà muốn thì...ôi thôi..!! mười hai bến nước chẳng trong trẻo gì, đều vẩn đục, dập vùi tan nát những ước mơ của tuổi xuân.


Hôm sau, ông Năm giục Hồng làm đơn xin nghỉ việc để chuẩn bị lấy chồng, cho dù Hồng vẫn van xin nhưng ông Năm không lay chuyển ý định. Cuối cùng thì Hồng đành chấp nhận trước sự cưỡng bách không một lý giải của gia đình đang trên đà suy sụp.


Vài ngày sau đó, một buổi trưa bà Tuyết chẳng ai xa lạ cũng là dân trong thành phố này chuyên nghề môi giới dịch vụ lấy chồng nước ngoài đã đến nhà Hồng dẫn theo một lão đàn ông Đại hàn lớn tuổi, béo phệ xưng Yoonun Sacomoki. Cùng đi còn có thêm một người đàn bà Hàn quốc lớn tuổi Misano Hoon. Ông Năm vui vẻ tiếp ba người khách đến nhà với mục đích xem mặt "cô dâu". Hồng được gọi ra trình diện với mọi người. Vừa thấy nàng, Yoonun Sacomoki cười đắc ý và chấp nhận ngay.

Bà Tuyết xin gia đình cho Hồng đi Saigon chơi với mọi người ngay buổi chiều nay. Bà hứa với ông Năm chừng vài hôm sau công việc xong xuôi là sẽ giao tiền cho ông như đã bàn tính tháng trước. Mọi việc để bà lo, gia đình phải an tâm và tin tưởng ở bà. Bà Tuyết lại khuyến dụ Hồng là nàng hết sức may mắn gặp được chồng giàu. Ông Yoonun là một đại thương gia Hàn quốc độc thân đang có những dịch vụ làm ăn lớn giữa Việt Nam và Hàn quốc. Rồi con sẽ có một cuộc sống hạnh phúc, nhà cao cửa rộng, tiền vào tiền ra, gia đình nở mày nở mặt. Kể từ giờ phút này dì nói điều gì là con phải nghe và làm theo dì, đừng có cãi lại.


Đến Saigon ngay buổi chiều trong ngày, Hồng được đưa đi mua sắm một số quần áo hợp thời trang, giày dép, son phấn, và cổi bỏ ngay lớp y phục quê mùa dân dã, để khoác vào lớp trang phục, trang sức rực rỡ. Hồng đẹp lồng lộng quyến rũ. Sau đó Hồng được đưa đi ăn tối tại một nhà hàng sang trọng. Lúc này Hồng có vẻ như bớt lo sợ, dù sao họ cũng đối xử tốt và bên cạnh còn có bà Tuyết người cùng quê quen biết.


Sau bữa cơm tối thịnh soạn và ngon miệng, lão Yoonun biến mất. Bà Tuyết và Misano đưa Hồng đến một khách sạn và bảo nàng :

Đêm nay con phải ngủ với Yoonun Sacomoki, chồng con, vì ông ấy đã bằng lòng lấy con làm vợ rồi đó. Con thấy không ? Ông Yoonun rất tốt bụng, chưa chi đã lo cho con từng thứ. Rồi con sẽ sung sướng bản thân. Dì và bà Misano ở phòng bên này, không sao cả, đừng sợ. Con hãy tập làm vợ với đại thưong gia giàu có Yoonun ngay bây giờ đi.Hồng dảy nảy van xin
Con không chịu đâu...Chưa gì mà...nhanh vậy ?...ai lại làm như thế. Tội nghiệp con mà dì. Con xin dì thương...con van dì...

Con phải ngủ với Yoonun ngay đêm nay. Ông ấy cần biết con có còn trinh hay không rồi ông ta mới quyết định làm đám cưới. Không được cãi lời.
Hồng tiếp tục van xin nhưng vô vọng.Cuối cùng bà Tuyết đẩy Hồng vào phòng ngủ :- Mày đừng ươn ngạnh cứng đầu con à ! Muốn sung sướng tấm thân phải nghe lời bà. Cứ cố giữ cái "ngàn vàng" để được ích gì hả con..?

;Vừa lúc ấy lão Yoonun xuất hiện bước vào phòng và khóa cửa lại. Gã vênh váo nhìn Hồng trong ánh mắt sòng sọc một cách thèm khát trước cơ thể no tròn đầy khiêu gợi của Hồng.và rất thản nhiên, gã khởi sự trình diễn tấn tuồng nham nhỡ đang băng hoại giữa một xã hội đảo điên biến loạn. Hồng cảm thấy nhức nhối tinh thần tột độ.Thể xác trinh trắng giờ sắp phải bị hoen ố trước nỗi bất lực của cuộc sống. Lúc đầu Hồng đã có những cử chỉ từ chối, thối thoát, tránh né, nhưng trước sức cưỡng bức thô bạo của lão già Đại hàn, Hồng đã không còn đủ sức, đành phải xuôi tay... Thôi hết rồi ! Hết rồi ! Tấm thân trong trắng ngọc ngà đời con gái...đang phải bị vùi dập, phó thác theo định mệnh. Cuộc đời là một thử thách không ngừng trong nhiều ngõ ngách không ai lường trước được. Hãy buông xuôi và tìm quên để được sinh tồn vì bản thân và cho gia đình người thân.

Tiệc cưới đơn giản gấp rút được tổ chức tại nhà hàng sau một tuần lễ Hồng phải ép mình ăn nằm với Yoonun từng mỗi đêm tại khách sạn. Lão già Đại hàn dữ dội và táo bạo kinh quá. Từng đêm Hồng đến phải ngất ngư với lão. Cơ thể mệt nhừ ê ẩm, có hôm Hồng không còn ngồi dậy nổi. Lúc nào lão ta cũng huênh hoang với bà Tuyết rằng lão đã chiếm được chữ trinh của Hồng thật trọn vẹn. Chính đó là điều hên cho cuộc đời làm ăn của lão. Lão khoác lác hứa hẹn đủ điều.

Bà Tuyết và Misano tổ chức tiệc cưới theo qui định của Yoonun.Thực khách tham dự hạn chế, vỏn vẹn chưa tới ba mươi người. Gia đình Hồng gồm có ông Năm, mấy đứa em và vài người thân thuộc. Hồng được trang điểm lộng lẫy trong y phục cô dâu trẻ măng bên cạnh chú rễ già nua, béo phệ để được quay phim chụp hình. Mọi người ăn uống cười nói trong tiệc cưới vô cùng thỏa thích trước nỗi chua xót của Hồng để chúc mừng lão già Đại hàn chiếm được gái tơ Việt Nam.


Yoonoon cười híp mắt sau khi đã đeo vào cổ Hồng sợi dây chuyền bằng vàng tây có mặt hột xoàn lớn, chiếc nhẫn nạm bốn hột xoàn óng ánh, đôi bông tai cũng hột xoàn và một đồng hồ mạ vàng sáng bóng. Lão ghì chặt và hôn Hồng say đắm trước tiếng vỗ tay ào ạt của thực khách. Hồng như biến mất trong vòng tay và cơ thể phì nộm của Yoonun phũ lên người.


Ông Năm tỏ ra rất vui và bằng lòng việc con gái của ông lấy chồng ngoại quốc. Ông thầm cám ơn bà Tuyết và ông con rễ cũng bằng tuổi ông sẽ mang hạnh phúc đến cho gia đình ông. Ông cảm thấy phấn khởi cho sự thành công mà gần tháng nay ông đã dự tính. Thỉnh thoảng ông nói chuyện lia thia với bà môi giới đã giúp cho con gái ông từ chỗ nghèo khó trở thành giàu sang trong nháy mắt. Con gái ông rồi sẽ cai quản tài sản của chồng, thế nào gia đình ông cũng được chia chát chút ít. Mai mốt lão chàng rễ già nua kia qua đời, con gái ông sẽ sở hửu khối tài sản của chồng để lại.

Rồi ông thầm suy tính số nữ trang Hồng đang có trên người cũng đã là một số tiền rất lớn, mà cuộc đời ông chưa bao giờ nghĩ đến để có được. Rồi sau tiệc cưới ông sẽ có trong tay hai ngàn đô la nữa, hơn ba mươi triệu đồng Việt Nam theo như lời hứa của bà Tuyết. Ông nghĩ rằng bà Tuyết cũng sẽ có một số tiền mà ông con rễ của ông trả công. Có tiền ngày mai ngày mốt ông sẽ đưa vợ đi chữa bệnh. Cuộc sống gia đình nghèo khó vất vả sẽ không còn. Ông không phải còn đi làm thuê cơ cực ngày có ngày không. Mấy đứa nhỏ tiếp tục đi học. Nhất định là con gái của ông sẽ cung cấp tiền bạc, sẽ xây nhà, sẽ mua lại ruộng vườn và còn nhiều thứ nữa một khi nó là vợ của đại thương gia Yoonun. Ông Năm mĩm cười mãn nguyện nhìn mọi người trong giữa bữa tiệc với ánh mắt rạng rỡ tràn trề niềm vui trước viễn tượng cuộc đời đang chuyển hướng tốt.

Ông vẩy Hồng đến bên cạnh :
- Mày thấy chưa hả Hồng ? Tao tính đâu là ra đó. Trước đây mày cứ khăng khăng từ chối. Bây giờ thì có ai bằng được như mày lúc này hả con ?
- Hồng lại phân trần :
- Ba chỉ nhìn thấy đó rồi nói đó. Chứ con thấy thế nào đãy. Ông ấy già bằng tuổi ba, ông ấy ghê lắm ba à ! Trời ơi ! con tởm ổng quá.
Ông Năm thầm hiểu ý con gái muốn nói gì rồi và tỏ ý thương xót :
Thôi, thì mày cứ ráng đi, có chết chóc gì đâu mà sợ, già với trẻ. Có tiền là có hạnh phúc, có được tất cả. Cả nhà đang trông vào mày đó Hồng ơi. Mày nghĩ coi, tụi trai tráng ở dưới quê làm gì cho ra hột xoàn để mày đeo. Nghìn đời cũng chưa có nổi. Lúc còn con gái má mày cũng ước hột xoàn làm gì có mà đeo. Tao đâu có tiền sắm cho bả.

Hồng chống chế : Con là con gái mới lớn lên mà ba, con chỉ thích lấy chồng đồng trang lứa. Hơn nữa, con không thích lấy chồng nước ngoài, lại quá lớn tuổi. Thanh niên Việt Nam đâu có thiếu gì, bạn bè rồi chúng cười chê con là ế chồng, đi đâm đầu lấy Đại hàn, Đài loan, Trung quốc, Hồng kông, Kampuchia...toàn là bọn già nua, đui, què, mẻ, sứt, bất lực, ngu dốt, nghèo hèn, đần độn, cụt tay, cụt chân, mất năng lực...Ông Năm nạt ngang :

Mày có im cái mồm không Hồng ? Ông Yoonun là đại thương gia đâu phải dân nghèo. Đại thương gia nhất định là giàu có. Cứ lải nhải mãi chuyện gì đâu không. Người ta khác, mình khác con ạ.

Vừa lúc Yoonun bước đến nắm tay Hồng kéo đi. Ông Năm muốn nói một điều gì đó với ông con rễ mà nói không được, ngôn ngữ bất đồng. Thôi thì cứ ngậm miệng ăn tiền. Ông chỉ cười, nụ cười vừa gượng gạo vừa sượng sùng. Hồng cũng không nói được gì, quay mặt đi như muốn tránh những ánh mắt soi bói nhìn nàng. Yoonun cười lớn nhìn ông Năm với ánh mắt khinh miệt, lão ta xổ một tràng tiếng Hàn dài ngoằn ngoèo nghe chói tai rồi lại ôm choàng lấy Hồng hôn say sưa truớc mặt những người trong gia đình ông Năm. Ông Năm quay mặt đi trước cảnh lộ liễu ấy. Thực khách lại vỗ tay ầm ỉ lẫn tiếng dô ! dô ! nham nhỡ. Bàn tiệc đậm đặc mùi rượu, thuốc lá, pha trộn những giọng cười hô hố của những tên Đại hàn, Đài loan xa lạ. Hồng nghe rờn rợn cả người. Thật ghê tởm, như muốn nôn mửa...!


Tiệc cưới tàn dần sau những ngày tháng kế tiếp Hồng bị giam hãm trong một ngôi nhà ở ngoại ô Saigon. Ngôi nhà có nhiều phòng riêng biệt. Ngoài căn phòng mà Hồng bị nhốt trong đó, bà Tuyết và Misano có một phòng khác. Họ thực sự không ăn ở tại đây, nhưng họ luân phiên có mặt để coi ngó và canh chừng những cô gái lấy chồng Đại hàn, Đài loan cũng đang bị nhốt tại đây.

Hằng ngày Hồng bị bắt buộc học tiếng Hàn do Misano hướng dẫn. Cơm nước ăn ở ngay trong phòng. Hồng cũng như các cô gái ở đây không được ra khỏi nhà, không được tiếp xúc với nhau. Cần điều gì chỉ được hỏi Misano hoặc bà Tuyết, không được tự ý làm bất cứ điều gì mà không xin phép. Lão chồng già Yoonun thường đến ban đêm chỉ để thỏa mãn dục vọng với Hồng cho đến sáng hoặc đến nửa đêm rồi chuồn mất. Có khi lão đến bất ngờ ban ngày nồng nặc mùi rượu và Hồng phải chịu đựng những giờ phút làm tình của lão. Những lúc kề cận bên nhau, chồng nói chồng nghe, vợ nói vợ nghe vì hàng rào ngôn ngữ bất đồng. Hồng thường bị ăn đòn vì những thái độ không vừa ý với Yoonun. Càng ngày Hồng càng bị đối xử tồi tệ.

Hằng tuần Hồng chỉ được nói chuyện điện thoại với gia đình ở quê năm mười phút dưới sự giám sát của bà Tuyết. Những lần đó ông Năm nhắc Hồng nhờ bà Tuyết hỏi số tiền mà Yoonun hứa sau tiệc cưới để đưa mẹ đi chữa bệnh. Bà Tuyết trả lời là ông Yoonun đang kẹt tiền, chịu khó chờ. Chờ rồi chờ mà thôi. Có những lúc Hồng phân vân suy nghĩ về thực tại trước mặt. Trước sau là điều duy nhất nàng đã phải cam tâm bán rẻ tấm thân để mong cứu vớt gia đình, cứu mạng người mẹ. Không lẽ họ lừa dối, dàn cảnh để dụ dỗ chiếm đoạt nàng. Không lẽ họ chia nhau hưởng thụ không những trên thân xác mình mà ngay cả người thân trong gia đình đang trở thành những nạn nhân nghèo đói bần cùng.

Một tháng trôi qua, đột nhiên lão chồng già không đến với Hồng như thường lệ. Hồng cảm thấy có điều gì bất thường đang xảy đến. Hồng lo sợ, quyết gặp bà Tuyết hỏi cho ra lẽ
- Ông Yoonun bận việc gì mà không thấy đến hả dì ?
Ông ấy về nước được tuần rồi. Mà con hỏi làm gì, nhớ ông ấy rồi hả ?
- Chừng nào chồng con trở lại Việt Nam để đưa con về bên ấy ? Sao dì không nhắc ông ấy về dưới quê ký giấy kết hôn mà trong tiệc cưới ông ấy đã hứa, dì còn nhớ chứ
Bà Tuyết giọng đanh đá :
- Mày ngu lắm Hồng ơi ! Lấy thì lấy, mà bỏ thì cứ bỏ. Có ký mười lăm hai mưoi giấy kết hôn cũng bằng thừa con ạ. Mày chẳng có quyền đòi hỏi điều gì. Đúng là mày đồ ngu
Hồng sửng sốt trước lối nói hàng hai, phách lối : Dì nói thế nghĩa là thế nào hả dì ?Bà Tuyết quắc mắt, sừng sộ :- Đồ ngu ! Vậy mà cũng hỏi. Chờ lão chồng già qua mà hỏi.- Chừng nào ông ấy qua hả dì ? Không biết.- Còn số tiền hai ngàn đô la ông ấy hứa chừng nào mới có hả dì ? Má con đang bệnh nặng cần tiền chữa bệnh, dì biết chứ ? Bà Tuyết nổi nóng, gầm lên :- Mẹ mày bệnh thì mẹ mày bệnh đâu can dự gì đến tao hả con kia. Còn chuyện gì thì hãy chờ lão chồng già của mày trở qua mà hỏi. Công việc làm ăn của bọn tao coi như đã trọn gói với mày rồi theo hợp đồng với Yoonun.

Hồng cảm thấy choáng váng chóng mặt. Nàng muốn bật khóc trước sự gian ác của người đời. Hồng bậm môi cố dằn cơn tức giận và nước mắt đang trào ra. Vừa lúc ấy bà Misano bước vào phòng nói nhỏ điều gì với bà Tuyết. Chập sau, bà Tuyết dịu giọng với Hồng :
- Này Hồng, dì nói con nghe nhé. Dì cho con trở về dưới quê tìm vài bạn gái dẫn lên giới thiệu cho dì. Thành công, dì sẽ lo cho con lấy số tiền hai ngàn đô la, lo giấy tờ kết hôn, và lo cho con về với chồng ở Hàn quốc.Hồng nghĩ thầm, à ra chúng nó lại đang dụ khị mình đây. Giờ thì Hồng chẳng còn tin những lời hứa đầu môi chót lưỡi của mấy mụ môi giới này nữa. Nàng uất người nói xối xả :
- Bà đừng có hòng tôi làm điều đó. Chẳng bao giờ và không bao giờ tôi để cho một người con gái nào khác sẽ phải đau khổ lọt vào cái ổ nhền nhện này. Xã hội này đang băng hoại và đảo điên tột cùng bởi những bàn tay nhơ nhớp bẩn thỉu của các bà. Tôi sẽ đi thưa để công lý xét xử.Bà Tuyết trề môi, kênh kiệu :
- Đừng con ạ, thưa với kiện mà làm gì. Ai cũng như ai, ăn thì ăn đồng loạt, có trên có dưới, lấy ai mà xét xử. Tiền mà, ai lại không ham. Đụng đến là tan xương nát thịt đó con ạ.

- Được rồi, bà không thách tôi cũng làm cho bà coi.
Hồng vừa dứt tiếng nói liền bị bề hội đồng, đấm, đá, tát vào mặt mày nàng liên hồi. Hồng không kịp chống đở. Nàng ngã quỵ xuống sàn nhà bất tĩnh. Văng vẳng bên tai tiếng nói của bà Tuyết :- Bà sẽ nhốt mày trong phòng này cho mày chết rục xương để xem mày làm gì cho biết. Đồ phản chủ !

Tiếp theo là giọng cười chát chúa nghe thật rùng rợn.Tiếng khóa cửa bên ngoài lắc cắc và im lặng. Suốt buổi chiều và đêm hôm qua Hồng tỉnh dậy và cảm thấy nhức nhối ê ẩm toàn thân. Bụng đói, đôi môi khô cứng. Lại thêm một ngày nữa đi qua, không được ăn uống, không được làm vệ sinh, không ai hỏi han, tứ bề vắng lặng thật ghê rợn. Hồng như đang bị cách ly với đời sống bên ngoài. Trước thực tế này không lẽ nằm chờ chết, và nàng đang suy tính tìm cách trốn thoát. Nhìn quanh quẩn chung quanh phòng để tìm một tia hy vọng nhỏ nhoi tự cứu bản thân nhưng vô phương. Kêu la, cầu cứu chẳng ai nghe mà còn có thể bị đòn roi, đấm đá. Chắc chắn họ không còn đối xử tình người với nàng trước món đồ mua bán, trục lợi và hưởng thụ.

Hồng quyết liệt liều mạng bằng tất cả sức lực để trốn thoát khi có cơ hội. Phải rời khỏi nơi này ngay để đem số nữ trang mà Yoonun đã đeo vào người Hồng trong tiệc cưới để bán đi chữa bệnh cho mẹ. Số nữ trang đem bán, gia đình sẽ có một số tiền lớn giải quyết mọi chuyện cần thiết. Sau đêm tiệc cưới Hồng đã cẩn thận gói tất cả số nữ trang vào một mảnh vải nhỏ và luôn luôn cất giữ trong người. Nàng biết rằng đó là của riêng mà Yoonun đã tặng cho mình. Thường lệ những lần kề cận với lão già Đại hàn, Hồng chỉ lo ngại Yoonun để ý hỏi đến số nữ trang trong tiệc cưới. Nhưng tuyệt nhiên chuyện ấy không bao giờ xảy ra kể cả hai bà môi giới đang canh chừng kiềm kẹp Hồng. Họ không mảy may chú ý hỏi han, Hồng càng an tâm và vững tin số của có được đã như đánh đổi cuộc đời con gái trong trắng thật rẻ mạt. Thôi thì được gì, mất gì đều do sắp đặt của định mệnh. Thoát khỏi nơi này rồi tìm cách liên lạc với chồng, dù sao một ngày gần nhau cũng là tình nghĩa.

Bảy giờ tối. Hồng miên man trong những suy nghĩ chập chờn thì cơ hội đã đến. Tiếng mở khóa lách cách bên ngoài cửa phòng. Hồng vụt ngồi dậy tiến nhanh tới cửa vừa lúc bà Tuyết bước vào phòng. Hồng vận dụng tất cả sức mạnh bất ngờ xô mạnh bà ta té ngã chúi nhủi vào góc phòng, rồi thoát nhanh ra ngoài, đóng mạnh cánh cửa và khóa lại. Tiếng thét gầm của bà Tuyết vọng ra nghe thật khủng khiếp. Hồng chạy vút ra đường lộ và lẩn nhanh vào đêm tối ẩn mình, lần mò tìm phương tiện về Saigon.

Sau hai ngày Hồng mới về đến quê. Ông Năm và cả nhà mừng rỡ khi thấy Hồng trở về sau gần hai tháng xa nhà. Đến lúc nhìn sắc diện tiều tuỵ của con gái, người gầy rạc, quần áo thốc thếch cả nhà đâm ra lo lắng, xót xa hỏi nàng tới tấp. Những người hàng xóm tò mò kéo đến, ông Năm đóng cửa ngõ và xua đuổi họ về nhà.

Hồng nằm vật xuống giường khóc thãm thiết. Nàng lần lượt kể rõ mọi chuyện. Cuối cùng nàng đưa số nữ trang cho ông Năm và tức tưởi nói trong tiếng khóc:

Cuộc đời của con chỉ còn có bao nhiêu đó. Ngày mai ba đem bán chữa bệnh cho má con. Nếu dư ra thì lo cho gia đình.

Ông Năm buồn buồn cầm gói nữ trang từ tay Hồng và mở ra. Đôi mắt ông sáng lên khi thấy sợi dây chuyền có mặt hột xoàn, chiếc nhẩn nạm bốn hột xoàn nhỏ óng ánh, đôi bông tai cũng hột xoàn mà trong buổi tiệc cưới hơn hai tháng qua ông đã nhìn thấy. Ông cũng đã ước tính nếu bán đi sẽ có được một số tiền lớn ngoài sức tưởng tượng mà suốt cuộc đời ông chưa bao giờ nhìn thấy. Ông Năm đang có suy nghĩ rất nhanh cho những gì sẽ phải làm.

Trên chiếc giường tre ọp ẹp phía bên trong, bà Năm với thân hình gầy đét, vừa nghe nói đến hột xoàn bà cũng ráng gượng ngồi dậy lê từng bước mệt mỏi đến bên cạnh chồng chộp lấy số nữ trang trong tay chồng rồi đưa lên tận mắt để quan sát, nhìn cho rõ.
Tiếng Hồng nghe mệt mỏi :
- Ba à, bây giờ con cảm thấy lo sợ. Bà Tuyết dám đến đây làm giặc với gia đình mình. Chắc chắn như vậy,

Nghe con gái than thở, ông Năm trấn an :
- Có gì phải sợ con mẹ đó. Bà ấy mà đến đây hả, tao báo công an xã đến còng đầu nó về tội hành hung và lường gạt.
Bà Năm ngập ngợ nhìn ông Năm và Hồng :
Sao tui thấy hột xoàn...kỳ cục quá nè ! Dám hột xoàn giả lắm ông ơi ! Cả sợi dây chuyền, chiếc nhẩn và đôi bông nữa.Ông Năm hứ một tiếng trấn áp vợ :
Bà biết gì giả với thiệt. Cả đời bà có nhìn thấy nó đâu mà dám cho nó là giả. Không lẽ ông ấy lại đi lường gạt...mình.
Nghe cha mẹ phân bua hột xoàn giả, thiệt, Hồng giựt mình phân vân. Thật ra thì cả nhà chẳng có ai cả đời nhìn thấy được hột xoàn bao giờ. Hồng như chợt nhớ ra điều gì, nàng nói nhanh :
- Chính bà Tuyết đã nói với con trong tiệc cưới là ông Yoonun đã nhờ bà và Misano đi mua số nữ trang này.
Ông Năm bật ngửa người hốt hoảng :
Thôi rồi !..mà chắc gì...có thể họ dở trò ma giáo....mà không biết ai đây.Ông Năm vội lấy chiếc lá đội lên đầu, réo Hồng :
- Đi ! đi với tao để rõ thiệt hư. Tao nóng lòng muốn biết ngay.
Tại tiệm kim hoàn, người chủ tiệm sau khi xem xét kỹ đã bảo với cha con ông Năm số nữ trang này là đồ giả. Bây giờ ông Năm mới cảm thấy choáng váng. Miệng ông há hốc, đôi môi run run, mắt nhìn trân trân vào số nữ trang mà ông đã đặt hết kỳ vọng. Ông lảo đảo bước ra khỏi tiệm như người mất hồn bên cạnh đứa con gái đáng thương đang khủng hoảng tinh thần không còn nói được lời nào. Trước mặt hai người cảnh vật mờ ảo, lung linh...

Những ngày sau đó, bầu không khí trong gia đình hết sức nặng nề và ảm đạm. Hồng bắt đầu oẹ mửa, triệu chứng có thai, kết quả của một chịu đựng miệt mài từng đêm với lão già Hàn quốc chỉ cố mong sao có được tiền cứu vản gia đình. Trước thãm cảnh gia đình đen tối suy sụp, Hồng hoàn toàn bất lực . Ông Năm mỗi ngày càng ít nói, lầm lì. Hằng ngày ông lặn lội làng trên xóm dưới tìm việc làm. Những lúc rảnh rổi ông uống rượu liên miên giải sầu. Ông tự cảm thấy bất lực trước gian kế tinh vi của người đời. Ông mặc cảm tội lỗi đã trót tiếp tay hãm hại đời con gái của ông cũng chỉ vì cái nghèo, vì luân lý suy đồi của xã hội nhiễu nhương, điên đảo đã nảy sinh những tệ trạng hư hỏng chỉ có dân nghèo hứng chịu triền miên.

Cái thai mỗi ngày mỗi lớn dần làm cho Hồng càng mệt mỏi. Hằng ngày Hồng đạp xe đi khắp các vườn mua góp trái cây chở ra chợ bán. Hồng cố gắng dành dụm tiền để lo sinh nở. Đôi lúc Hồng có suy nghĩ lên Saigon tìm hai bà môi giới hỏi thăm tin tức của chồng xin họ giúp đở vài điều cần thiết, nhưng chỉ suy nghĩ mà không dám thực hiện.Hồng mướn người gọi điện thoại bằng tiếng Hàn, mướn người dịch thư ra tiếng Hàn gởi cho chồng yêu cầu Yoonun qua Việt Nam ký giấy kết hôn, lo đứa con sắp sanh và đưa vợ con về Hàn quốc. Thế nhưng đã mấy lần gọi điện thoại, đã mấy lá thư gởi đi nhưng không được hồi âm. Đã không kết quả gì mà còn phải chi mất một số tiền lớn Hồng phải vay mượn người khác. Có người chỉ dẫn ông Năm và Hồng làm đơn tố cáo, nhưng đơn gởi đi nhiều tháng cũng chưa thấy Nhà Nước hỏi han cứu xét.

Trước cảnh khốn cùng mất trắng của gia đình và bệnh tật trầm trọng không thuốc men, bà Năm qua đời khi Hồng gần đến ngày sanh.

Quá đau đớn cho những cơn uất hận dồn dập phũ chụp xuống gia đình đã không kiềm chế được, vừa nghe tin bà Tuyết từ Saigon về, ông Năm tức tốc tìm đến nhà để vấn tội bà dụ dỗ rồi đánh đập Hồng, vụ nữ trang giả, và nhất là số tiền hai ngàn đô la mà Yoonun hứa cho gia đình ông có thể bà ta cuỗm mất để tất cả đã làm cho gia đình ông mất trắng.

Thấy cha đi một mình, Hồng tất tả chạy theo. Vì sức yếu thế cô, ông Năm đã bị bọn lâu la của bà Tuyết bề hội đồng một trận ngã sấp xuống đất bất tỉnh , mặt mày bê bết máu, thương tích đầy người. Hồng nóng lòng bênh cha, cũng bị bọn chúng đánh đến sẩy thai phải đi nằm bệnh viện.Kết quả giấc mơ đổi đời đã hoàn toàn mất trắng. Giờ đây giữa khu xóm nghèo tăm tối, cứ vào khoảng nửa đêm, dáng ông Năm như một bóng ma trơi, ông ngồi bệch giữa sân nhà gào thét chửi bới. Ông chửi lũ quan to quan bé chăn dắt dân chỉ biết ăn trên ngồi trốc vơ vét đầy túi tham mà không bao giờ đếm xĩa giải quyết những khiếu cáo, khiếu kiện của người dân thấp cổ bé miệng, không ngăn chặn trừng trị và không can thiệp khi người dân bị áp bức khủng bố. Ông chửi cái chế độ mục nát đã dung túng bao che những tệ nạn xã hội, bán trôn nuôi miệng đang tràn lan cùng khắp như một dịch bệnh. Ông chửi lũ cai trị bất lực không ngăn chặn, nghiêm trị và còn toa rập tệ trạng buôn bán, dụ dỗ phụ nữ Việt Nam đi làm nô lệ tình dục ở nước ngoài. Ông chửi ....và ông chửi....một cách vô vọng, vô tội vạ....tiếng chửi bới, gào thét của ông vang vọng trong màn đêm tăm tối, rồi chìm sâu vào bóng đêm, nào ai có biết. Chỉ có Trời biết mà thôi !

Nguyễn Thế Hoàng
http://hay102.com/mat-trang

XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY * XUẤT KHẨU PHỤ NỮ 2



*
TIN ĐAI A CHÂU TỰ DO

Lấy chồng Hàn Quốc
161 cô gái quê VN phải chịu thất vọng vì đang trình diễn kiếm chồng Hàn Quốc thì bị công an TP.HCM phá án, bắt giữ những người môi giới cùng 7 chú rể tương lai .
Các cô dâu hụt sẽ bị buộc trở về nơi cư trú.
Vụ việc xảy ra chiều ngày 3/11 tại Quận 8 TPHCM, Cảnh sát đã bắt quả tang 7 người khách Hàn Quốc đang xem mắt để chọn vợ. Các cô dâu chuẩn bị được gả bán đều trong độ tuổi từ 18 tới 26, là người các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long như Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, An Giang.


Theo Lao Động Online, các cô dâu hụt muốn lấy chồng Hàn Quốc, là những người có hoàn cảnh khó khăn muốn lấy chồng ngoại quốc để có cuộc sống khá giả hơn. Những cô gái đáng thương này đã được bọn môi giới tuyển chọn và huấn luyện một thời gian, trước khi ra mắt trong vòng sơ tuyển vào hôm qua.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/vietnamnews/Hochiminh-City-Police-breaks-down-illegal-marriage-mediation-with-161-brides-to-be-and-7-Koreans-11032008194425.html
*




TIN BBC



Cô dâu Việt bị chồng Hàn sát hại
Huỳnh Mai và chồng Hàn Quốc Jangamuke người đánh cô cho tới chết hồi đầu tháng bẩy
Ông Jangamuke đã bị bắt và đang chờ xét xử
Dư luận ở Việt Nam và Hàn Quốc đang bất bình trước vụ một cô dâu Việt Nam bị chồng Hàn Quốc đánh cho tới chết.
Chuyện được đưa lên chương trình truyền hình của Hàn Quốc trong tuần trước để giúp truy tìm thủ phạm là ông Jangamuke.
Sau đó ông này đã bị cảnh sát bắt sau khi họ truy theo số điện thoại mà ông gọi về cho bà chủ ông thuê nhà.
Vụ việc xảy ra hồi đầu tháng bẩy nhưng chỉ đến giữa tháng người ta mới phát hiện được xác cô Hùynh Mai.
''Không riêng người Việt Nam và các tổ chức liên quan tới giúp đỡ phụ nữ nước ngoài mà cả những người dân thường cũng rất phẫn nộ,'' chị Nguyễn Thị Châu, người lấy chồng Hàn Quốc và hiện đang sinh sống tại đây nói với BBC.
''Thứ nhất họ phẫn nộ với người chồng quá tàn nhẫn đối với cô Hùynh Mai. Và họ cũng phẫn nộ với những người môi giới kết hôn, các công ty môi giới không quan tâm tới các cô dâu sau khi cưới.''
Cô Châu nói nếu công ty môi giới cho cô Huỳnh Mai biết trước chồng tương lai của cô ''không nghề, gia thế không có, tính tình nóng nảy'' thì có lẽ đã không xảy ra chuyện.
Cô cũng nói nếu Hùynh Mai biết số điện thoại cần thiết (1577 1366) để gọi nhờ trợ giúp thì cô đã có thể được cứu thoát.
Cũng theo cô Châu nạn bạo hành ở Hàn Quốc nằm ở các nước có mức cao.
''Xã hội Hàn Quốc là xã hội gia trưởng, người đàn ông ở trên trời, người đàn bà ở dưới đất.''
Đám cưới chớp nhoáng
Tờ Tuổi trẻ của Việt Nam nói bố của Hùynh Mai đã đồng ý để cô lấy chồng Hàn Quốc sau khi cô 'năn nỉ' ông và nói rằng sẽ cố gắng gửi tiền về giúp gia đình.
Sau đó từ Kiên Giang, cô đã được đưa lên thành phố Hồ Chí Minh để những người đàn ông Hàn Quốc chọn.

Cô dâu Việt và chồng Hàn
Nhiều cô dâu Việt nhắm mắt lấy chồng mà họ không hề hiểu biết về người mình lấy

Tuổi trẻ viết: ''Trong vòng vài giờ xem mắt ở một nơi không xác định, đám cưới được định lúc 11 giờ trưa ngày 23/12/2006 tại tp HCM.
''Lúc này gia đình của Huỳnh Mai mới hay tin liền thuê xe 15 chỗ tức tốc lên tp HCM những trễ giờ làm lễ.
''Lễ cưới được tổ chức với hai đôi uyên ương khác, cũng là chồng Hàn Quốc. Tiệc chỉ có... hai bàn.
''Ra về gia đình cô dâu được chú rể cho 400 USD, tới cửa bị ''trưởng đoàn'' (môi giới) thu lại 200 USD.''
Sau đó cô Huỳnh Mai đã theo chồng về Hàn Quốc hồi đầu năm nay. Gia đình cô nói với báo chí cô luôn nói tốt về chồng và cuộc sống ở Hàn Quốc khi gọi điện về nhà.
Cho tới nay phía Hàn Quốc chưa có thông báo chính thức về vụ cô Huỳnh Mai bị giết.
Báo Tiền Phong trích lời một quan chức ở Sở Tư Pháp Kiên Giang nói ông chỉ được biết tin qua báo chí.
Tiền Phong cũng thống kê của Sở Tư pháp Kiên Giang nói từ năm 2002 tới nay có gần 1600 công dân kết hôn với người nước ngoài trong đó hơn 600 với công dân Hoa Kỳ, gần 150 với người Úc, hơn 520 với người Đài Loan, gần 190 với công dân Canada...
Số người kết hôn với công dân Hàn Quốc được cho là 35.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2007/08/070815_viet_bride_murder.shtml


TIN BÁO CHÍ ĐẠI HÀN
The Chosun Ilbo

Tại sao phụ nữ Việt Nam lại muốn lấy chồng là nông dân Hàn Quốc ?



Hình trên là của chính báo “Chosun” nầy đưa lên. Hổng biết vô tình hay cố ý, mà làm đau liền một lúc cả tà áo dài và chiếc nón “quốc hồn quốc tuý” của ta ? Một lúc hai ba bốn năm cái nỗi đau. Hay là xứ họ cũng có câu “Thương cho roi cho vọt” ? Mà sao hình mất đầu hết trơn ? Họ “tế nhị”, nhưng mình thì lại nghĩ là họ … chê dân mình hổng còn có cái … “đầu” nữa rồi !?

The Chosun Ilbo

Ngày 27-3-2008



Hiện đang có một trong sáu người đàn ông ở những làng quê chuyên nghề nông và đánh bắt hải sản tại Hàn Quốc lấy một người phụ nữ Việt Nam làm vợ. Một bản báo cáo cho hay 8.027 nông dân và ngư dân đã lấy vợ trong năm 2005, 2.885 tức 35,9% trong số họ lấy vợ ngoại quốc với hơn một nửa (1.535) là người Việt Nam. Điều gì đã thuyết phục được quá nhiều phụ nữ Việt Nam đều theo con đường lấy chồng Hàn Quốc này ? GS Kim Hyun-jae của trường đại học Youngsan University là tác giả của luận văn nghiên cứu đầu tiên về chủ đề này. Với tên gọi “Vấn đề nhập cư của những người phụ nữ Việt Nam tới Hàn Quốc qua con đường hôn nhân,” tài liệu nghiên cứu phân tích những lý do từ viễn cảnh của Việt Nam.

Kim nhấn mạnh rằng hầu hết những người phụ nữ Việt Nam lấy đàn ông Hàn Quốc đều đến từ những làng quê của vùng Châu thổ sông Mekong miền nam Việt Nam. Năm 2005, Sứ quán Hàn Quốc tại Hà Nội ở miền Bắc đã cấp 720 thị thực cho những trường hợp hôn nhân. Số thị thực hôn nhân được cấp bởi tòa lãnh sự tại thành phố Hồ Chí Minh ở phía nam nhiều gấp năm lần, là 3.853.

Những chính sách Đổi Mới của Việt Nam đã cải thiện mạnh mẽ tình hình kinh tế, song khoảng cách giữa vùng thành thị và nông thôn lại gia tăng, với tỉ lệ của năm 2005 là 10% nhóm người thu nhập cao có mức thu gấp 13,5 lần nhóm 10% thu nhập thấp nhất. Ngoài ra vùng Châu thổ sông Mekong còn phải chịu tình trạng mất cân bằng giữa số nam giới và phụ nữ, bởi vì nhiều người đàn ông đã lên các thành phố kiếm việc làm. Năm 2004, số phụ nữ nhiều hơn nam giới ở vùng này là 365.300. Kim cho biết tất cả những vấn đề về kinh tế và xã hội này đẩy những người phụ nữ Việt Nam đi tìm chồng ở nước ngoài.

Được sát nhập từ cuối thế kỷ 17, Châu thổ Mekong có những phong tục tập quán và văn hóa rất khác biệt so với miền Bắc. Nó bao gồm những người Ấn Độ, Hồi giáo, người Pháp, và Mỹ chi phối toàn bộ dòng chảy lịch sử với ảnh hưởng rất ít từ Khổng giáo so với phía bắc và vì vậy có cái nhìn cởi mở hơn trong chuyện lấy người ngoại quốc. Kể từ khi chuyện mõi tiền * trở nên phổ biến, những cuộc hôn nhân được sắp đặt cũng thành quen thuộc hơn.

Lý do thứ ba là từ những thay đổi xã hội tại các quốc gia lân bang. Kể từ năm 2000, hầu hết phụ nữ Việt Nam lấy chồng người nước ngoài là những đàn ông Đài Loan – khoảng 13.863 riêng năm 2000. Đàn ông Đài Loan, cũng như đàn ông Hàn Quốc hiện nay, được giới thiệu tới vài chục hay vài trăm phụ nữ qua các công ty môi giới hôn nhân trong suốt chuyến thăm Việt Nam dài một tuần. Nếu gặp được người phụ nữ mà họ mong muốn, họ có thể đăng ký kết hôn tại đó trước khi trở về nhà cùng cô vợ mới cưới. Song Đài Loan đã phải chịu những vấn đề tương tự với Hàn Quốc hiện đang đối mặt, bao gồm chuyện buôn bán người và bạo lực gia đình, cho nên chính phủ Đài Loan chặt chẽ hơn trong yêu cầu có được quyền công dân, đưa tới tình trạng giảm sút số cuộc hôn nhân như vậy. Những người đàn ông Hàn Quốc đang lấp vào khoảng trống. Số các cuộc hôn nhân giữa đàn ông Hàn Quốc và phụ nữ Việt Nam tăng vọt từ 95 năm 2000 lên 5.822 năm 2005, vượt xa so với Đài Loan là 3.212.

Lý do cuối cùng là sự mê muội văn hóa nhạc pop Hàn Quốc đang ảnh hưởng sâu rộng ở Á châu đã đóng góp vào một phần. Khoảng 100 bộ phim Hàn Quốc đã được phát sóng ở Việt Nam từ năm 1997 đến 2005. Bộ phim “Jewel in the Palace” đã được phát sóng năm lần. Phụ nữ ở những vùng quê Việt Nam, nơi mà hiếm có những tờ báo và tạp chí, thì TV hầu như là phương tiện nối kết duy nhất với thế giới bên ngoài, và họ đã trở nên say mê Hàn Quốc qua các bộ phim nhiều tập. Phương tiện truyền thông ở địa phương đã cảnh báo về tình trạng ảo tưởng về Hàn Quốc đã được những bộ phim này tạo nên.

Kim đang kêu gọi có các giải pháp giúp đỡ những người phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc. “Chính phủ phải phát triển các chương trình dạy tiếng Hàn Quốc cho họ tùy theo trình độ học thức và cung cấp sự trợ giúp để giảm bớt cho họ những khó khăn kinh tế và giúp họ kiếm việc làm,” ông nói.


Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2008

* Nguyên văn “milk money“: bòn rút tiền
http://anhbasam.com/2010/01/06/422-t%E1%BA%A1i-sao-ph%E1%BB%A5-n%E1%BB%AF-vi%E1%BB%87t-nam-l%E1%BA%A1i-mu%E1%BB%91n-l%E1%BA%A5y-ch%E1%BB%93ng-la-nong-dan-han-qu%E1%BB%91c/


LỜI BÌNH CỦA VẠN MỘC CƯ SĨ

Báo Đại Hàn The Chosun Ilbo đã đăng tin về gái Việt lấy chồng Hàn. Họ đăng bức tranh không có đầu là vì tế nhị, nghĩa là không muốn làm xấu mặt các đương sự, mặc dầu đây chỉ là hình gái Việt trên đường phố, không phải các thí sinh dự tuyển lấy chồng Đài, chồng Hàn. Một số phụ nữ Việt Nam biểu tình phản đối và tòa soạn báo Hàn quốc đã xin lỗi. Họ xin lỗi là vì họ lịch sự. Còn Việt Nam thì không bao giờ xin lỗi!

Biểu tình là chỉ vì tự ái, còn vấn đề chính là nên tìm hiểu vấn đề họ nói có đúng không. Họ nói đúng thì phải nhận. Trên báo chí quốc nội, người ta cũng đề cập việc này chứ có ai xuyên tạc đâu! Vấn đề chính là chủ nghĩa Marx xưng xe công bằng nhân đạo, bênh vực vô sản, và xây dựng đất nước gấp mười tư bản, thế mà tại sao để dân khổ sở, phải bỏ thiên đường cộng sản mà đi ra các nước tư bản bóc lột?
Tại sao cộng sản chủ trương buôn người? Như vậy, nhân dân ta nên biểu tình , phải tranh đấu chống cộng sản bóc lột, làm cho nhân dân nghèo đói!

*
*
Bi kịch lấy chồng Hàn Quốc trong 24 giờ

Từ phải sang bà Liên và
Từ phải sang Bà Liên và Oh Moon Sook.
Từ một nông trại ở Hàn Quốc, "chú rể" bay sang Việt Nam rồi được đưa thẳng tới thành phố Mỹ Tho (Tiền Giang) để xem mặt "cô dâu". Một cuộc "đi chơi" để tìm hiểu nhau được những người môi giới sắp xếp sẵn. Khi đó, cô gái bị buộc phải qua đêm với người đàn ông xa lạ.
Chị Đào Thị Thanh Hương uất ức kể: Lúc đó vào khoảng tháng 3/2003, đang làm nhân viên tại một bệnh viện thì chị nghỉ việc để chuẩn bị lấy chồng Hàn Quốc. Sự việc bắt đầu khi bà Nguyễn Thị Liên (sinh năm 1962) ngụ tại hẻm Phước Hải, khu phố 8, đường Lê Thị Hồng Gấm, phường 6, thành phố Mỹ Tho, lân la đến nhà chơi, thấy hình chị và bà Liên đã gợi ý, thuyết phục chị lấy chồng Hàn Quốc. Bà Liên cho biết mình cũng có đứa con gái đã gả sang Hàn Quốc, vì vậy muốn "làm mai" Hương sang bên đó để "có dì, có cháu" và quan trọng hơn là có cuộc sống giàu sang để giúp đỡ gia đình.
Thời điểm đó mẹ Hương đang lâm bệnh. Lúc đầu chị không chịu, nhưng bị thuyết phục mãi thì xiêu lòng. Ngày 30/11/2003, bà Liên dẫn một người đàn ông Hàn Quốc đến nhà Hương để "xem mặt" cô dâu. Cùng đi còn có bà Oh Moon Sook (người Hàn Quốc). Hai bên đã nói chuyện gì với nhau Hương không biết, nhưng sau đó Oh Moon Sook yêu cầu bà Liên xin phép gia đình cho Hương cùng đi TP HCM chơi. Nhưng chiều hôm đó khi đến TP HCM thì không có đi chơi gì cả. Sau khi ăn uống xong thì họ đưa Hương về khách sạn Trường Xuân (đối diện Maximart Cộng Hòa). Tại đây, bà Liên đặt thẳng vấn đề là người đàn ông Hàn Quốc kia "chịu Hương" và yêu cầu chị phải ngủ chung với ông ta. Sau 2 tiếng đồng hồ Hương năn nỉ bà Liên nhưng không được, cuối cùng bà Liên đẩy Hương vào phòng.

Chị Hương bức xúc: "Cho tới thời điểm đó hai bên chỉ mới biết nhau, chưa có thủ tục gì về pháp lý và cũng chưa được gia đình đồng ý. Nhưng cuối cùng tôi đành phải chấp nhận làm đám cưới". Trong tiệc cưới tại nhà hàng Thủy tạ Đầm Sen, chú rể Kang Chan Kyoo trịnh trọng đeo cho cô dâu một chiếc nhẫn có gắn 4 hột xoàn (mỗi hột 3 li 2), một sợi dây chuyền 5 chỉ vàng 18K với mặt hột xoàn 4 li 6 và một đồng hồ mạ vàng. Đám cưới xong chiều 2/12/2003 thì ngay trong đêm đó Kyoo lên máy bay về nước. Hơn 2 tháng sau, Kyoo trở lại Việt Nam và đến Tiền Giang ký giấy kết hôn. Kyoo ở lại với vợ được 3 ngày rồi sau đó chào tạm biệt và... một đi không trở lại.
Sau tiệc cưới khoảng một tháng, chị Hương được Oh Moon Sook gọi lên TP HCM để học tiếng Hàn và bị "giam lỏng" tại lầu 1 của tiệm áo cưới Thái Thảo ở đường Trần Phú, quận 5, với chi phí được Oh Moon Sook đưa là 200.000 đồng/tháng. Tại đây, mọi chuyện ăn uống, sinh hoạt của Hương đều có người lo và không được ra khỏi nhà. Sau đó thì phát sinh mâu thuẫn chuyện tiền bạc giữa Oh Moon Sook và bà Liên. Hương và một cô gái nữa tên Lê Thị Thi (cũng ở Mỹ Tho) được đưa sang nhà của một người tên Kim Chi ở đường Nguyễn Khoái, quận 4. Trong thời gian này Oh Moon Sook đã lấy lại hết nữ trang và yêu cầu chị Hương phải làm môi giới, giới thiệu bạn gái cho Sook, nhưng chị không làm. Vậy là nhiều lần, Hương bị Sook đánh đập. Sợ quá, chị bỏ trốn về Mỹ Tho.
Để liên lạc với chồng, chị Hương đã thuê phiên dịch gọi điện thoại sang Hàn Quốc và đề nghị Kang Chan Kyoo sang đón vợ, nhưng anh ta từ chối. Sau đó, chị viết thư rồi thuê người dịch ra tiếng Hàn gửi cho chồng nhưng chờ hoài cũng không thấy trả lời. Cuối cùng, ngày 16/4/2004 chị quyết định viết đơn tố cáo. Mới đây, Oh Moon Sook đã cử một người tên Trúc làm đại diện đến gặp gia đình Hương xin thương lượng bồi thường với giá 1.000 USD, vì theo bà Trúc thì "mình (ý nói chị Hương) chỉ có nhận thôi chớ đâu có cho lại người ta cái gì!". Chị Hương đồng ý và yêu cầu được gặp mặt chồng để làm thủ tục ly hôn nhưng không được chấp nhận rồi kéo dài đến nay. Thậm chí, đại diện của Oh Moon Sook còn thách thức chị Hương không đồng ý thì cứ đi kiện.
Ông Đào Đình Bắc (cha của chị Hương) cho biết: "Họ có ý đồ lừa gạt mình. Hôm tổ chức tiệc cưới, họ khống chế gia đình chỉ được mời 3 bàn khách và hứa đám cưới xong sẽ cho 1.000 USD, nhưng rồi chẳng có đồng nào. Không những thế, toàn bộ số nữ trang cũng bị họ lừa lấy lại hết sạch. Cũng vì chuyện đau lòng này mà vợ tôi buồn rầu, sinh bệnh rồi mất luôn". Theo ông Bắc thì chỉ riêng chi phí đi lại, làm thủ tục, thuê người phiên dịch, liên lạc điện thoại... tổng cộng đã tốn gần 20 triệu đồng, chưa kể con ông phải mất việc làm.
Sau khi bị tạm giữ tại cơ quan điều tra vì bị tố cáo có hành vi lừa đảo, cưỡng đoạt tài sản, Oh Moon Sook chỉ chấp nhận bồi thường cho nạn nhân số tiền là 500 USD. Trong khi đó theo bản "hợp đồng làm việc" ký ngày 6/1/2004 giữa bà Nguyễn Thị Liên (người môi giới) với một cô gái (lấy chồng Hàn Quốc) tên là Lê Thị Thi đã ghi rõ: "Tôi là Nguyễn Thị Liên, chịu trách nhiệm giới thiệu và làm thủ tục kết hôn quốc tế cho người Hàn Quốc lấy vợ VN. Tôi chịu trách nhiệm hoàn tất mọi thủ tục trong thời gian nhanh nhất với chi phí trọn gói nhận của bên A là 500 đôla Mỹ". Đây cũng là điều làm cho gia đình nạn nhân uất ức, vì trong lúc họ đau khổ thì kẻ môi giới "chịu trách nhiệm" là bà Liên đến nay vẫn sống yên ổn.


(Theo Thanh Niên)
* Tên nạn nhân đã được thay đổi
*
Đua nhau lấy chồng Hàn Quốc

Email In PDF.
Trong khi phong trào lấy chồng Đài Loan tạm lắng xuống, thì lấy chồng Hàn Quốc lại tăng nhiệt ở Cần Thơ. Sáu tháng đầu năm 2005 có 178 cô gái và 6 tháng cuối năm là 201 cô gái lấy chồng Hàn Quốc. Trong khi đó, năm 2004 chỉ có 34 cô gái lấy chồng Hàn Quốc. Đầu năm 2006, số lượng này đang tiếp tục tăng.
Những “xã, ấp Hàn Quốc” ở Cần Thơ

Con số 379 cô gái lấy chồng Hàn Quốc ở Cần Thơ chủ yếu tập trung vào các huyện vùng ven. Đây là những miền quê nghèo. Những xã như Thuận Hưng, Kiên Trung, Tân Lộc (huyện Thốt Nốt), xã Vĩnh Trinh (huyện Vĩnh Thạnh) vốn là “thị trường” của các chú rể Đài Loan trước đây thì hiện nay đã chuyển hướng sang Hàn Quốc một cách nhanh chóng.

Tại xã Thuận Hưng, trong năm 2004 chỉ có 1 cô gái lấy chồng Hàn Quốc thì trong năm 2005 đã có 30 cô. Chưa đầy 2 tháng đầu năm 2006, đã có 15 cô gái xin xác nhận độc thân để lấy chồng Hàn Quốc.

Những người Hàn Quốc mà các cô gái lấy làm chồng thường ở độ tuổi 30-45, tập trung ở các vùng nông thôn có thu nhập thấp, khó có khả năng lấy vợ bản xứ.

Theo cán bộ tư pháp Cần Thơ thì họ nhắm vào vùng nông thôn Việt Nam vì có nhiều cô gái trẻ đẹp. Những cặp dâu Việt rể Hàn thường chênh lệch từ một đến hai … con giáp.

Cô dâu Nguyễn Thị T, 21 tuổi, ở xã Thuận Hưng, đã sánh duyên cùng “chú rể” người Hàn 59 tuổi (chênh lệch nhau 38 tuổi). Các cô dâu thường ở độ tuổi 18 – 25, đa phần có trình độ học vấn cấp một, cấp hai, cá biệt có trường hợp mù chữ.

Những cô gái này không có công ăn việc làm ổn định, nhiều cô sinh sống trong những gia đình không có ruộng đất canh tác.

Hộ ông Trần Văn T ở xã Thuận Hưng, đầu năm 2005 gả cô con gái đầu lòng Trần Thị T cho chàng trai Hàn Quốc. Cô T đi nửa năm thấy khá giả trở về Việt Nam chèo kéo thêm cô em ruột và sau đó là cả cháu ruột (gọi T bằng cô) sang làm dâu xứ Hàn.

Ở những xã như Kiên Trung (Thốt Nốt) hay Vĩnh Trinh (Vĩnh Thạnh) đã có trên dưới 30 cô gái lấy chồng Hàn Quốc. ấp Tân Qưới và ấp Tân Phước 1 là 2 ấp trong xã Thuận Hưng có số lượng các cô gái lấy chồng Hàn Quốc nhiều nhất.

Tại ấp Tân Phước 1, nơi trước đây có nhiều “cụm Đài Loan” thì nay đã xuất hiện thêm “cụm Hàn Quốc” với gần 15 hộ. Và những “cụm Hàn Quốc”, “ấp Hàn Quốc” theo cách gọi dân gian ra đời ngày một nhiều.

Đặc biệt nhất là xã cù lao Tân Lộc (Thốt Nốt) từng được gọi là “xã Đài Loan” những năm trước thì năm 2005 đã có 60 cô gái lấy chồng Hàn Quốc và nhiều người dân địa phương hiện chuyển sang gọi Tân Lộc là “xã Hàn Quốc”.

Đâu là nguyên nhân của sự đột biến?

Thống kê tại Sở Tư pháp Cần Thơ cho thấy 79% các cô gái lấy chồng Hàn Quốc xuất thân từ những gia đình khó khăn, số còn lại do…sở thích.

Kết quả của những cuộc xuất giá bước đầu là khá khả quan: 67% cô gái lấy chồng Hàn Quốc đã giúp đỡ được gia đình. Đa phần các cô dâu được hỏi đều trả lời đang có cuộc sống ổn định và hạnh phúc ở xứ người, chỉ có 18% là bất hạnh.

Anh Phan Văn Tùng, Phó chủ tịch UBND xã Thuận Hưng cho biết: “Gần 10% số hộ trong xã là hộ nghèo , nên các cô gái trẻ và gia đình của họ chọn cách lấy chồng Hàn Quốc”.

Mỗi cuộc kết hôn, các chú rể Hàn Quốc “chi” từ 200 - 320 triệu đồng. Số tiền này qua nhiều trung gian, nhiều chi phí và khi đến tay gia đình cô dâu chỉ còn lại 3-4 triệu đồng.

Tuy nhiên, anh Tùng cho biết, nhiều cô gái lấy chồng Hàn Quốc, mỗi cô mỗi quý (3 tháng) đã gửi về nhà được 20 - 40 triệu đồng, cá biệt có cô gửi về nhà cả trăm triệu đồng.

Như 2 cô gái con ông Trần Văn T ở xã Thuận Hưng chỉ trong một năm đã gửi tiền cho ông cất căn nhà hơn trăm triệu và mua sắm đầy đủ tiện nghi. Việc lấy chồng Hàn Quốc hay Đài Loan với các cô và gia đình các cô không phải là vấn đề lớn.

Nhưng có sự chuyển hướng mau lẹ do tác động khách quan là thời gian gần đây, tại một số nơi ở ĐBSCL, việc kết hôn với người Đài Loan bị xem như một “nạn” và bị lên án nhiều. Bởi vậy, những người dẫn mối quay sang thị trường Hàn Quốc còn đầy tiềm năng.

Thêm nữa, thủ tục đăng ký hết hôn với người Hàn Quốc rất đơn giản. Khi lấy chồng Đài Loan, hai bên trai gái buộc phải có mặt phỏng vấn tại Sở Tư pháp và danh sách phải niêm yết ở nơi cư trú.

Tuy nhiên, khi lấy chồng Hàn Quốc, các cô gái chỉ cần giấy chứng nhận độc thân có chứng thực của xã. Các chú rể có thể đăng ký kết hôn tại Hàn Quốc mà không cần có mặt cô dâu, sau đó gửi hồ sơ đăng ký kết hôn sang Việt Nam.

Tại đây, các cô gái chỉ việc mang hồ sơ đến Sở tư pháp để viết “ghi chú hôn nhân”. Nếu các cặp vợ chồng này làm đăng ký kết hôn tại Lãnh sự quán Hàn Quốc tại Việt Nam thì mỗi cô dâu cũng chỉ cần điền các thông tin cá nhân vào một mẫu giấy in sẵn y như… tuyển dụng lao động.

Nhờ sự “thông thoáng” này các cô gái trẻ rất nhanh chóng được cấp visa để lên máy bay về nhà chồng. Và làn sóng lấy chồng Hàn Quốc vì thế lan nhanh qua các vùng quê…



*Theo số liệu của Sở Tư pháp Cần Thơ, khi số lượng các cô gái lấy chồng Hàn Quốc tăng lên thì số lượng các cô gái lấy chồng Đài Loan giảm rõ rệt, từ 2.744 cuộc kết hôn năm 2000 chỉ còn 1.215 trong năm 2004.

Sáu tháng đầu năm 2005 chỉ có 561 cô gái lấy chồng Đài Loan và 6 tháng cuối năm 2005 chưa có con số thống kê cụ thể nhưng cán bộ tư pháp Cần Thơ khẳng định là còn ít hơn nữa.
(Theo Tiền Phong)

http://hvty.net/tygt/index.php/tan-man/1237-ua-nhau-ly-chng-han-quc.html

*

Họ muốn thoát cảnh nghèo bằng mọi giá

Thứ năm, 27 Tháng tư 2006, 16:55 GMT+7
Nghèo là hèn, là nhục, là gốc của vấn đề này. Ai mà không muốn thoát khỏi cái nghèo. Muốn không còn cảnh cô dâu Việt lấy chồng nước ngoài vì tiền thì chỉ có cách phát triển đất nước, làm đất nước giàu mạnh. (Tâm Lĩnh)

Người gửi: Tâm Lĩnh
Gửi tới: Ban Thế giới

Tiêu đề: cô dâu Việt ở Hàn Quốc
Phải nói rằng, tôi cũng như nhiều người khác, không ai là không bất bình và xấu hổ trước bài báo về chuyện cô dâu Việt lấy chồng ngoại quốc, từ Đài Loan đến Hàn Quốc.
Điều này không chỉ làm xấu hình ảnh người phụ nữ Việt Nam (vốn xưa nay có tiếng là thuỷ chung, đảm đang, thơm thảo) mà còn làm xấu hình ảnh nước Việt Nam ta nói chung. Ai là người đọc bài báo như thế này cũng sẽ có ngay cảm giác không tốt về người Việt Nam.


Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận rõ nguyên nhân của vấn đề. Theo tôi có 2 nguyên nhân chính:
Thứ nhất, nghèo là hèn, là nhục, là gốc của vấn đề này. Ai mà không muốn thoát khỏi cái nghèo. Muốn không còn cảnh cô dâu Việt lấy chồng nước ngoài vì tiền thì chỉ có cách phát triển đất nước, làm đất nước giàu mạnh.
Thứ hai là ham muốn làm giàu bằng nhiều cách, kể cách những cách trái với truyền thống tốt đẹp xưa nay của người phụ nữ Việt Nam. Để thoát nghèo, kiếm được tiền, các cô gái này sẵn sàng kết hôn "giả", chấp nhận chịu đựng muôn vàn khó khăn, thậm chí nhục nhã để có tiền giúp đỡ gia đình.
Sự kém hiểu biết của các cô dâu này, do học thức thấp, do kém thông tin, do các cơ quan có chức năng như Hội phụ nữ, đoàn Thanh niên thiếu trách nhiệm. Chí ít các cơ quan này phải giúp đỡ, cung cấp thông tin để các cô dâu tương lai hiểu được thực trạng của kết hôn như vậy.
Việt Báo (Theo_VnExpress.net)
http://vietbao.vn/Trang-ban-doc/Ho-muon-thoat-canh-ngheo-bang-moi-gia/10955064/481/


*

*
*

No comments:

Post a Comment