KINH TẾ TRUNG QUỐC
Tại Trung Quốc,
600 doanh nghiệp kêu gọi chính phủ giúp đỡ
Ngân hàng Trung ương giảm lãi suất, nhưng do các món nợ khó đòi, các ngân hàng Trung Quốc không muốn tiếp tục cho vay (REUTERS)
Các tin xấu dồn dập xẩy ra đối với nền kinh tế Trung Quốc.
Trong quý 2 năm nay, tăng trưởng chỉ đạt 7,6%, mức thấp nhất kể từ 3 năm
qua. Sau các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nay đến lượt một số công ty lớn
không còn đủ tiền để thanh toán trả nợ, khiến các ngân hàng cho vay phải
hoảng sợ.
« Vụ này làm người ta nhớ lại cuộc khủng hoảng nợ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Ôn Châu, hồi mùa hè năm ngoái. Tuy nhiên, lần này, không chỉ có những doanh nghiệp vừa và nhỏ kêu cứu và đặc biệt là vụ việc lại xẩy ra bên bờ hồ Hàng Châu, thành phố của các triệu phú Trung Quốc, ở phía nam Thượng Hải.
600 doanh nghiệp đã đưa ra lời kêu gọi khẩn thiết đối với chính quyền tỉnh Chiết giang. Trong đó có một số cơ sở nằm trong số 500 doanh nghiệp lớn nhất Trung Quốc. Các doanh nghiệp không còn tiền để trả nợ, các ngân hàng cho vay hoảng sợ.
Ngày 14/06 vừa qua, cảnh sát Hàng Châu đã bắt giữ chủ tịch tập đoàn bất động sản Trung Giang. Doanh nghiệp này không còn đủ khả năng để trả các khoản nợ lên tới hàng trăm tỷ nhân dân tệ.
Công ty sản xuất dây điện Hổ Bài phải thanh toán 80 triệu nhân dân tệ (hơn 10 triệu euros) cho Ngân hàng Trung Quốc và Ngân hàng Hoa Hạ.
Thế rồi, đến lượt cơ sở đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp bị bốn ngân hàng đòi thanh toán khoảng 100 tỷ nhân dân tệ. Do vậy, các doanh nghiệp liên quan đã đề nghị chính quyền cho phép tạm ngưng trả nợ và không giảm mức cung cấp tín dụng, trong vòng 3 năm.
Lời kêu gọi này cũng là dấu hiệu cho thấy việc giảm lãi suất mà Ngân hàng Trung ương Trung Quốc quyết định không đủ để thúc đẩy các ngân hàng tiếp tục cho vay. Giống như ở Ôn Châu năm ngoái, chính quyền trung ương có thể phải can thiệp để giúp cho các doanh nghiệp không bị phá sản ».
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20120718-tai-trung-quoc-600-doanh-nghiep-keu-goi-chinh-phu-giup-do
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Trung Quốc giảm trong 6 tháng đầu năm nay
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Trung Quốc đã giảm 3% trong 6 tháng đầu năm nay, so với cùng thời kỳ này năm ngoái
REUTERS
Bộ Thương mại Trung Quốc, ngày hôm nay, 17/07/2012, thông báo
là trong sáu tháng đầu năm nay, đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào
Trung Quốc đã giảm 3%, so với cùng thời kỳ này năm ngoái.
Theo đại diện của bộ Thương mại Trung Quốc, tổng số vốn của
nước ngoài đầu tư trực tiếp trong sáu tháng đầu năm 2012 chỉ đạt mức
59,1 tỷ đô la. Trong sáu tháng đầu năm 2011, con số này lên tới 60,89 tỷ
đô la.
Bắc Kinh đưa ra một số nguyên nhân : « Nhịp độ phục hồi kinh tế thế
giới vẫn còn chậm và vẫn tồn tại nhiều bất trắc », đặc biệt là châu Âu
còn phải tiếp tục giải quyết cuộc khủng hoảng nợ công.
Mặt khác, chi phí sản xuất tại Trung Quốc ngày càng cao và các biện
pháp chống đầu cơ trên thị trường bất động sản cũng góp phần làm giảm
khối lượng đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc.
Chỉ tính riêng trong tháng Sáu, đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào
Trung Quốc đã giảm tới 6,9% tính theo tỷ lệ cả năm, cụ thể tổng đầu tư
trực tiếp của nước ngoài trong tháng này là 12 tỷ đô la.
Đầu tư của 10 quốc gia và lãnh thổ như Nhật Bản, Hồng Kông, Macao,
Đài Loan…) đã giảm 2,8% trong sáu tháng đầu năm 2012, so với cùng thời
kỳ này năm ngoái. Còn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Trung Quốc giảm
3,2%.
Vẫn liên quan đến kinh tế, cơ quan thẩm định tài chính quốc tế Fitch
duy trì dự báo tăng trưởng của Trung Quốc trong năm nay là 8%. Để đạt
được tỷ lệ này, Trung Quốc phải có mức tăng trưởng trong sáu tháng cuối
năm 2012 là 8,1%, tính theo tỷ lệ cả năm, bởi vì trong sáu tháng đầu năm
nay, tăng trưởng của Trung Quốc chỉ là 7,8%.
KHOA HỌC
Các bản đồ về bộ não trong lớp học về Thiền tại Hội Thiền Tánh không Paris, Noisy le Grand, 7/6/2011. RFI/Trọng Thành
Từ nửa cuối thế kỷ XX trở lại đây, có nhiều người trong giới tu
hành Phật giáo hướng đến các khoa học về con người, đặc biệt là khoa
học về thần kinh não bộ để tìm trong đó những cơ sở thực chứng khách
quan của con đường rèn luyện nội tâm. Tạp chí được phát lần đầu tiên vào
ngày 08/06/2011.
Những phát triển mới trong nghiên cứu khoa học về bộ não và
nhất là các kỹ thuật đo lường và chụp ảnh những hoạt động của não cho
phép một số nhà tu hành đặt mình vào vị trí đối tượng nghiên cứu của
khoa học thần kinh.
Chúng tôi có duyên được gặp Thiền sư Thích Thông Triệt, thiền chủ Thiền viện Tánh không (Hoa Kỳ) nhân dịp ông qua Pháp giảng dậy. Thiền sư Thích Thông Triệt là người đã rất nhiều năm đeo đuổi ước vọng dùng các hiểu biết khoa học để soi sáng quá trình tu tập. Thiền sư là soạn giả cuốn sách « Thiền dưới ánh sáng khoa học », ấn hành năm 2010 (sách được dịch qua Pháp ngữ với tựa đề "Zen sous l'éclairage de la science" và Anh ngữ "Zen in the light of science”).
Cuốn sách này mô tả lại các thực nghiệm với các máy đo điện não đồ và cộng hưởng từ, mà các nhà não học thuộc trường đại học Tubingen (Đức) tiến hành trong vòng 5 năm (2006-2010) trên đối tượng là bản thân Thiền sư và các Thiền sinh theo học kỹ thuật Thiền Tánh Không.
Trước khi
ông lên máy bay trở về Hoa Kỳ, chúng tôi có dịp được gặp Thiền sư Thích
Thông Triệt tại thiền đường Hội thiền Tánh không Paris (Association
Méditation Sùnyatà). Sau đây là những lời giải thích mà Thiền sư đã dành
cho chúng tôi về chủ đề này.
RFI : Xin kính chào Thiền sư. Hôm nay có dịp được Thiền sư cho phép gặp mặt và nhận lời nói chuyện với Đài, và qua Đài chuyển tiếng nói đến những thính giả, những người Việt Nam, hoặc những người nghe và hiểu tiếng Việt, để biết được con đường tu hành của đạo Phật dưới sự soi sáng của khoa học thần kinh hiện đại. Cụ thể là tu tập theo pháp môn « Thiền » và những tác động của nó đến đời sống hàng ngày của mình, và để nó giúp mình giải quyết các vấn đề khó khăn, mà nhiều người tự bản thân còn lúng túng chưa biết giải quyết ra sao trước những trở ngại tinh thần, tâm lý, sức khỏe bệnh tật. Theo Thiền sư, pháp môn Thiền có thể đem lại những gì cho những người bình thường bị rơi vào trạng thái như vậy ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Trước hết, chúng tôi cám ơn anh Trọng Thành, đại diện cho Đài phát thanh Quốc tế Pháp đặt câu hỏi. Chúng tôi xin trả lời rằng, Thiền là do Đức Phật Thích Ca, Ngài đã tự tu và tự mình kinh nghiệm được những gì mà Ngài đã khắc khoải trước đó. Sau đó, Ngài đã thành tựu. Ngài dạy lại, và pháp môn Ngài dạy lại đó thực sự là pháp môn tu Thiền. Mà Thiền của Đức Phật nhắm làm sao giúp con người điều chỉnh lại nhận thức của mình. Vì chính nhận thức đó đưa đến cho con người khổ não, trầm luân, hay là giải thoát.
Thành ra, khi hướng dẫn người thực hành Thiền, chúng tôi nhắm khai triển những phần nào mà làm cho con người được hài hòa thân tâm của mình, và phát huy được trí tuệ tâm linh của chính mình. Cho nên phần đó, chúng tôi thường dẫn chứng bằng « Pháp » mà Đức Phật đã thành tựu được. Đó là pháp thở. Từ nơi pháp thở đó, chúng ta có khả năng điều chỉnh lại được sự rối loạn bên trong não bộ của chúng ta. Phần đó sẽ được giải thích hơn, nếu mà người đọc có nhu cầu.
Tìm ra cơ chế để « vọng tưởng » không xuất hiện
RFI : Thưa Thiền sư, Thiền sư có thể giải thích vì sao Thiền sư đã đi tìm những cơ sở khoa học và đặc biệt là cơ sở về bộ não con người để mà phối hợp với các biện pháp trong đạo Phật, do Phật truyền lại ? Vì sao Thiền sư quyết định làm như vậy ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng rồi. Nếu không biết chức năng của các bộ phận trong não bộ của mình, mà cứ thực hành thì một ngày nào đó sẽ bị bệnh tâm thể.
RFI : Thiền sư có thể cho một ví dụ để những người đang tập, hay quan tâm đến chuyện này có thể dễ hiểu. Tức là, khi tập thiền sai lạc thì bị mắc những bệnh gì ?
Chúng tôi có duyên được gặp Thiền sư Thích Thông Triệt, thiền chủ Thiền viện Tánh không (Hoa Kỳ) nhân dịp ông qua Pháp giảng dậy. Thiền sư Thích Thông Triệt là người đã rất nhiều năm đeo đuổi ước vọng dùng các hiểu biết khoa học để soi sáng quá trình tu tập. Thiền sư là soạn giả cuốn sách « Thiền dưới ánh sáng khoa học », ấn hành năm 2010 (sách được dịch qua Pháp ngữ với tựa đề "Zen sous l'éclairage de la science" và Anh ngữ "Zen in the light of science”).
Cuốn sách này mô tả lại các thực nghiệm với các máy đo điện não đồ và cộng hưởng từ, mà các nhà não học thuộc trường đại học Tubingen (Đức) tiến hành trong vòng 5 năm (2006-2010) trên đối tượng là bản thân Thiền sư và các Thiền sinh theo học kỹ thuật Thiền Tánh Không.
RFI : Xin kính chào Thiền sư. Hôm nay có dịp được Thiền sư cho phép gặp mặt và nhận lời nói chuyện với Đài, và qua Đài chuyển tiếng nói đến những thính giả, những người Việt Nam, hoặc những người nghe và hiểu tiếng Việt, để biết được con đường tu hành của đạo Phật dưới sự soi sáng của khoa học thần kinh hiện đại. Cụ thể là tu tập theo pháp môn « Thiền » và những tác động của nó đến đời sống hàng ngày của mình, và để nó giúp mình giải quyết các vấn đề khó khăn, mà nhiều người tự bản thân còn lúng túng chưa biết giải quyết ra sao trước những trở ngại tinh thần, tâm lý, sức khỏe bệnh tật. Theo Thiền sư, pháp môn Thiền có thể đem lại những gì cho những người bình thường bị rơi vào trạng thái như vậy ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Trước hết, chúng tôi cám ơn anh Trọng Thành, đại diện cho Đài phát thanh Quốc tế Pháp đặt câu hỏi. Chúng tôi xin trả lời rằng, Thiền là do Đức Phật Thích Ca, Ngài đã tự tu và tự mình kinh nghiệm được những gì mà Ngài đã khắc khoải trước đó. Sau đó, Ngài đã thành tựu. Ngài dạy lại, và pháp môn Ngài dạy lại đó thực sự là pháp môn tu Thiền. Mà Thiền của Đức Phật nhắm làm sao giúp con người điều chỉnh lại nhận thức của mình. Vì chính nhận thức đó đưa đến cho con người khổ não, trầm luân, hay là giải thoát.
Thành ra, khi hướng dẫn người thực hành Thiền, chúng tôi nhắm khai triển những phần nào mà làm cho con người được hài hòa thân tâm của mình, và phát huy được trí tuệ tâm linh của chính mình. Cho nên phần đó, chúng tôi thường dẫn chứng bằng « Pháp » mà Đức Phật đã thành tựu được. Đó là pháp thở. Từ nơi pháp thở đó, chúng ta có khả năng điều chỉnh lại được sự rối loạn bên trong não bộ của chúng ta. Phần đó sẽ được giải thích hơn, nếu mà người đọc có nhu cầu.
Tìm ra cơ chế để « vọng tưởng » không xuất hiện
RFI : Thưa Thiền sư, Thiền sư có thể giải thích vì sao Thiền sư đã đi tìm những cơ sở khoa học và đặc biệt là cơ sở về bộ não con người để mà phối hợp với các biện pháp trong đạo Phật, do Phật truyền lại ? Vì sao Thiền sư quyết định làm như vậy ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Điều này nói ra nó hơi
dài. Nhưng nếu mà em muốn nghe, thì chúng tôi sẽ nói ra. Ngày nay, Thiền
thật sự là một môn tu cũ rồi, nhưng mà nó lại trở nên mới. Lý do là,
Thiền đã có trên thế gian này hơn 2.500 năm rồi. Tức là sau khi Đức Phật
thành đạo, bằng Thiền. Ngài dạy lại các phương pháp của ngài cũng bằng
Thiền.
Nhưng mà vì nó khó quá, nên người này chế ra phương pháp này, người
kia chế ra phương pháp kia. Mục đích để làm cho tâm mình nó yên lặng
thôi. Thành ra, những cái chế đó ấy, các sáng tạo, sáng chế đó làm cho
Thiền càng thêm rối bời thêm ra. Mỗi người làm theo ý mình, rốt cuộc nó
loạn ra. Có cả triệu (phương pháp), chứ không phải ngàn đâu. Trải qua 25
thế kỷ rồi, người thực hành Thiền rất khó khăn. Đứng trước rừng Thiền,
một cánh rừng già dày đặc, muốn vô làm sao vô đây.
Chính bản thân tôi ngày xưa cũng vậy đấy. Chúng tôi đã thất bại khi
áp dụng các phương pháp cũ. Đó là người ta giảng sao mình làm theo vậy.
Nhưng rồi, có điều bật ra từ trong não chúng tôi, chúng tôi tự giải đáp
trong não mình. Tức là đừng có « nói thầm » ! Nói thầm hoài thì « vọng tưởng »
có hoài. Vì chủ trương của Thiền là dập tắt vọng tưởng, tức là những ý
nghĩ miên man trong đầu khởi lên lên. Người này chế ra cách này, người
kia chế ra cách kia để dập tắt vọng tưởng. Chúng tôi làm đủ hết mọi
cách, nhưng không làm sao dừng được những sự « nói thầm » trong đầu của chúng tôi. Thực sự lúc đó, chúng tôi không biết đó là sự « nói thầm », chúng tôi cho rằng, đó là « vọng tưởng » thôi. Nhưng rút cục chúng tôi nhận ra rằng : A ! Cái gọi là « vọng tưởng » chính là sự « nói thầm
» trong não mình đó. Bây giờ phải làm sao cho yên lặng cái đó đi thì
mới được. Từ đó chúng tôi thực tập bằng cách không nói thầm.
RFI : Xin cắt ngang ở đây để Thiền sư giúp giải thích : « nói thầm » thì những biểu hiện ra sao, và tác hại của nó như thế nào ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Khi nói thầm, đó là cơ chế của « tưởng ». Trong não bộ của mình, nó có một cơ chế … Nhưng hồi đó, chúng tôi không biết cơ chế não bộ. Từ trong đầu nó khởi lên cái « niệm
». Nói qua nói lại với nhau. Tức là mình nói qua nói lại với mình về
một chuyện gì đó do những hình ảnh trong tâm mình khởi lên. Mình chạy
theo hình ảnh đó để mình nói, nói rồi, tâm xúc cảm mình nó đi theo hình
ảnh đó. Thành ra nội tâm không bao giờ yên lặng được.
RFI : Cái nói thầm như Thiền sư nói có thể chuyển sang diễn đạt khác là đối thoại bên trong có đúng không ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng rồi, từ chỗ nói
thầm ban đầu, rồi đối thoại thầm lặng bên trong không bao giờ dứt. Thành
ra, từ chuyện không có gì hết bắt đầu mình vẽ ra, mình sợ hãi, mình
phiền muộn, mình giận tức luôn nữa. Nhiều khi « nó » xúi mình
giết người ta đi, hay làm những chuyện tầm bậy, tầm bạ. Vì sự đối thoại
thầm lặng đó đấy. Khi chúng tôi phát hiện lối đó, chúng tôi áp dụng cách
không nói thầm
Kinh nghiệm tu tập trong trại cải tạo
RFI : Thiền sư phát hiện điều này vào thời điểm
nào và có phải là trước khi Thiền sư bước vào nghiên cứu não đồ và các
cấu trúc não liên quan đến quá trình Thiền ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng rồi, lúc đó là vào năm 1982, khi
tôi ở ngoài Bắc, tại trại Thanh Liệt. Chúng tôi phát hiện được rằng : Ồ,
cái « niệm » (hay vọng tưởng) mà mình muốn dừng lại đó chính
là từ sự nói thầm, khi dừng sự nói thầm thì cái niệm dừng, cái vọng
tưởng dừng. Từ đó chúng tôi hiểu rằng không nói thầm thì dẹp tan các
vọng tưởng. Từ đó chúng tôi trở nên an tịnh nội tâm được. Từ đó chúng
tôi dụng công tu.
Hai năm đầu, từ năm 1975 đến năm 1977, chúng tôi « được »
người ta nói là già 80 tuổi, thực sự lúc đó chúng tôi chỉ hơn 40 tuổi
thôi. Chúng tôi không biết sao mình già mà mới có hai năm thôi. Rồi,
chúng tôi tiếp tục riết cho tới năm 1982, khi chúng tôi ra miền Bắc. Thì
chúng tôi nhận ra rằng : sự đối thoại thầm lặng hay sự nói thầm trong
não của chúng tôi nó đưa đến thân tâm tàn tạ.
RFI : Lúc đó, có thể nói là Thiền sư đang ở
trong trại cải tạo. Phải chăng điều kiện khắc nghiệt và khổ sở, cô lập
trong trại như vậy khiến Thiền sư rơi vào trạng thái này ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Không phải, lúc đó
chúng tôi ở trong trại cải tạo như vậy, nhưng lúc đó nó là điều kiện
thích hợp cho việc tu hành của chúng tôi, vì chúng tôi đâu có tiếp xúc
với bên ngoài nữa. Đó là một điều kiện thuận lợi cho việc tu Thiền của
mình thôi. Tu Thiền là để dừng vọng tưởng, nhưng lúc đó tôi không biết
đấy là gì. Khi mà tôi nhận ra được vọng tưởng là sự nói thầm, điểm mấu
chốt, thì chúng tôi thực hành để làm sao làm chủ được sự nói thầm đó.
Cho nên chúng tôi nói rằng, cái mà Thiền tông gọi là « diệt vọng » thì không đúng, mà mình phải làm chủ vọng tưởng mới được.
Từ khi chúng tôi áp dụng cách không nói thầm trong não, thì trở nên
một cậu thanh niên đẹp, trẻ, mà không phải là ông già 80 nữa. Bằng chứng
là khi ông cán bộ đưa chúng tôi về Hà Tây, thì chúng tôi thấy rằng,
những người kia như những con khỉ già, hốc hác. Ông cán bộ nói rằng,
trong số các anh đây, anh này này ở đây lâu mà sao lại hồng hào. Nghe
như thế, chúng tôi nói, à, như thế, chúng tôi thực hành đúng rồi đó.
Đúng như thế nào, cái « nước » gì giúp cho tôi, thì thực sự chưa biết được. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng, phải có cái chất gì, cái « nước
» gì trong đầu chúng tôi tiết ra đó để làm cho tôi được trẻ, trong
sáng. Đấy là cái ý tưởng đầu tiên nó ghi trong đầu tôi là như thế.
Hiểu biết khoa học về não giúp cho thời gian tu tập được rút ngắn
RFI : Như thế là, bắt đầu từ cái kinh nghiệm đầu
tiên mà Thiền sư cảm nhận được vào thời điểm năm 1982, đấy là khởi điểm
mà Thiền sư tiếp tục đi về hướng nghiên cứu về quan hệ giữa bộ não và
quá trình Thiền. Thiền sư có thể nói một cách rất đơn giản để thính giả
bình thường có thể hiểu được là, nghiên cứu về não tạo điều kiện như thế
nào cho việc hiểu về cơ chế của Thiền ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Nếu hiểu biết về cơ chế
của não bộ, thì một là mình thực hành mà không sợ sai lạc. Thứ hai là
mình đốt được thời gian, thu ngắn được thời gian. Thay vì mình phải thực
hành để khắc chế vọng tưởng, hay làm cho vọng tưởng không khởi lên nữa,
thì mình không cần. Mình chỉ đi vào cơ chế là : không khởi niệm vọng
tưởng nữa.
Trong não bộ cần phân biệt hai vùng. Vùng phía trước và vùng phía sau. Vùng phía sau theo thuật ngữ Thiền gọi là cơ chế của « Tánh giác
». Mình đi vào cơ chế này mà thực hành thì lẹ hơn là vào cơ chế phía
trước. Ở phía trước, bên não phải là ý thức, bên trái là ý căn, ý trí
năng. Bộ phận đó là thuộc về « tâm đời », tâm của người phàm phu, cứ dính mắc chuyện này, chuyện kia đó.
Chúng tôi nói rằng, cho mày nằm yên đó đi, tao đi vào ngõ này thôi. Chúng tôi « pha » (tức « bỏ qua » – tiếng địa phương Nam Bộ) cái vùng phía trước và đi thẳng vào phía sau. Phía sau là cơ chế của « Tánh giác
». Đi thẳng vào vùng phía sau thì phải biết các đặc tính của nó, chức
năng của nó là gì. (Cơ chế đó) là biết mà không có lời nói thầm.
Cho nên bây giờ chúng tôi hướng dẫn Thiền, chúng tôi « pha »
(bỏ). Chúng tôi biết rằng chúng ta có cơ chế phía trước như vậy, mà cơ
chế này nó dính mắc, do những truyền thống nó ghi sâu đậm trong tâm
mình, những day rứt nội tâm của mình nó tiềm tàng trong đó, những đam mê
của mình nó tiềm tàng trong đó. Thế thì bây giờ một lúc làm sao mình
gạt được những cái tâm đó được. Cho nên chúng tôi nói, thôi (cái vùng
phía trước) cứ nằm yên đấy đi, chúng tôi hướng dẫn người thực hành đi
thẳng vào cơ chế của « Tánh giác ».
Chúng tôi dạy học trò, nhưng lúc đó chúng tôi dạy nhưng chưa chứng
minh được qua chụp hình não bộ. Phải đợi đến năm 2006, chúng tôi mời nhờ
các học trò của chúng tôi ở bên Đức, liên lạc với các nhà não học ở bên
Đức, hai ông Erb và Sitaram. Cho đến khi chụp hình não bộ được, thì
chúng tôi mới biết cụ thể các vùng đó nằm ở đâu. Bây giờ chúng tôi hướng
dẫn người thực hành Thiền đi thẳng vào cơ chế phía sau để làm sao làm
yên lặng được nội tâm mình, mà mình không mất nhiều thời gian.
Như hôm qua, chúng tôi giảng dạy ở Poitiers, toàn là những người mới
không, chưa bao giờ học Thiền. Cho họ vô, họ đi thẳng. Và họ thấy họ
điều khiển được trạng thái rối bời của tâm họ. Nên chúng tôi thấy rằng,
ngày nay, mình thực hành Thiền không mất nhiều thời gian. Ban đầu cần
phải chỉ cho họ biết các vùng cụ thể cái đã. Bởi người ta có kiến thức,
nó khác hơn Việt Nam mình. Tại Việt Nam, chúng tôi nghĩ rằng có nhiều
người đi học Thiền không có đủ kiến thức khoa học về bộ não.
Trong một cuốn sách, chúng tôi có viết rằng, sau này nếu được, trong
một trường trung học tại Việt Nam, ở lớp 10 nên cho học trò học Thiền để
có khái niệm, thì thực hành dễ hơn. Lớp 10 thì có kiến thức (…).
RFI : Thưa Thiền sư, vừa rồi Thiền sư có nói đến
buổi giảng tại Poitiers, trong vòng có hai ngày, người ta đã có thể có ý
thức về chuyện đó rồi ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Người ta làm được, chứ không phải có ý thức. Người ta làm được liền.
RFI : Cụ thể là làm được gì ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Thí dụ chúng tôi dạy họ
phương pháp thở, chỉ ở bước 1, bước 2 thôi. Những ý nghĩ trong đầu họ
dừng hết tất cả. Chúng tôi hỏi, các vị có nói thầm trong đầu không ? Trả
lời không có. Từ đó chúng tôi hướng dẫn họ thêm nữa. Chỉ có hai ngày
thôi, chúng tôi hướng dẫn họ về lý thuyết và thực hành, họ làm được,
khỏe khoắn, vui vẻ, điều chỉnh được bệnh tâm thể của họ. Thí dụ như,
bệnh huyết áp, tim mạch rối loạn.
Các bệnh cao huyết áp, cao máu mỡ và rối loạn nhịp tim
RFI : Thưa Thiền sư, có những bệnh gì, mà trong
quá trình Thiền sư giảng dạy, và hướng dẫn những người thực hành theo để
có thể chữa được bệnh đó một cách nhanh chóng và hiệu quả?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Bệnh tim mạch, thí dụ
như cao máu (cao huyết áp), cao máu mỡ, rối loạn nhịp tim, là nhanh
chóng có hiệu quả liền tức khắc. Khi hướng dẫn Thiền, chúng tôi cho họ
ghi lên bệnh của mình, nhưng không ghi tên của họ. Khi hết xong đưa cho
chúng tôi, chúng tôi xếp loại. Ví dụ như có người bị mất ngủ kinh niên.
Tôi mới giải thích, mất ngủ kinh niên là do trung tâm « giữ giờ
» trong não bộ nó bị rối loạn. Ví dụ như chúng tôi hướng dẫn một cô
nhìn bóng đen để điều chỉnh trung tâm giữ giờ đó. Khi nhìn bóng đen, cái
đường con mắt đi vô nó đi ngang qua hạch nhân điều chỉnh việc ngủ thức
của mình (tuyến tùng có hai tên gọi là "épiphyse" hay "glande pinéale"). Hạch nhân đó tiết ra chất melatonin.
RFI : Khi nghe Thiền sư mô tả quá trình chữa
bệnh như vậy, nghe Thiền sư giống như một bác sĩ tâm lý. Có câu hỏi đặt
ra là, giữa phương pháp Thiền theo đạo Phật và phương pháp chữa bệnh tâm
lý rất hiện đại như vậy có gì liên hệ với nhau cụ thể là trong trường
hợp kể trên ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Phật dạy phương pháp
nhìn ánh sáng. Ánh sáng này có thể là đèn hay nắng. Đường đi ánh sáng vô
đâu ? Nhìn ánh sáng nắng thì nó vô mắt mình vào võng mạc (rétine), đi
theo các đường chéo như hình như cái nón đó, rồi chạy lên đụng tuyến
tùng. Tuyến tùng nó mới tiết ra serotonin, hay là melatonin nữa. Từ
chất đó mà nó điều chỉnh bệnh mất ngủ hay bệnh trầm cảm. Như vậy, chúng
tôi kết hợp với khoa học để đối chiếu lại. À, Phật dậy trong kinh đó,
bây giờ hỏi vì sao nó điều chỉnh được ? Đó là nhờ những chất mà chúng
tôi gọi là các « nước sinh hóa học ».
RFI : Thiền sư có thể nói về những cái bệnh mà
Thiền sư nói là Thiền chữa rất là tốt, ví dụ như các bệnh về mỡ máu, hay
bệnh tim mạch, … cụ thể như thế nào ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Phật dậy mình cách thở. Khi thở vô, mũi mình có hai cái que (tức là bộ phận "bulbes olfactifs"
hay hành khứu giác). (Thở vô) hai cái que đụng thẳng vô khu dưới đồi
của mình, là Hypothalamus. Mà Hypothalamus là trung tâm tâm lý, tình cảm
của mình đó. Rối loạn cũng nó, mà an ổn cũng nó, mà thánh thiện cũng nó
luôn. Bằng hít thở vô nó đụng vào hai que đó liền, bằng tín hiệu nó
đụng vào vùng dưới đồi liền. Đụng vô dưới đồi làm yên lặng nội tâm. Kế
bên dưới đồi có trung tâm sợ hãi và điều khiển xúc cảm của mình nữa.
RFI : Cái vùng này tên khoa học là gì ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Amygdala. Nếu tập thở
vô như vậy, nó đụng vào thần kinh đối giao cảm. Ở tận cùng của đầu dây
thần kinh đối giao cảm thì tiết ra chất acetylcholine. Mà chính cái
acetylcholine có vai trò điều khiển tim mạch. Một mặt nữa là thần kinh
đối giao cảm khi trở về đụng vào thần kinh sọ não, thì nó đụng vào một
hệ thần kinh khác, gọi là thần kinh phế vị, mà phế vị liên hệ đến phổi
với nội tạng, hay là cả gan nữa. Nhờ thế mà nó điều chỉnh lại. Thành ra
mình hít thở là mình tác động cùng một lúc vào ba hệ thống, đó là hệ
thần kinh đối giao cảm, hệ thần kinh phế vị, và cái thứ ba thông qua hệ
thần kinh đối giao cảm mà nó đụng được vào acetylcholine. Acetylcholine
có ở nhiều nơi lắm. Từ cuống não cũng có, từ Dưới đồi cũng có, từ vùng
thân thọ ở hai bên não bầu cũng có nữa. (…) Nhờ như thế mình mới ngừa được sốc ("strok",
tức tai biến mạch máu não), điều chỉnh được tim mạch, máu mỡ. Lý do là
acetylcholine khắc chế hai chất, đó là các chất (có thể) làm mình bị máu
mỡ, là norepinephrine với epinephrine (hay còn gọi là noradrenaline và
adrenaline).
RFI : Thiền sư nói như thế nghe như nếu ai đó có
ý muốn thực hành phương pháp thiền này thì dường như có khả năng chữa
được tất cả mọi bệnh. Nghe có vẻ như trong tầm tay mà không cần phải đi
bệnh viện, không cần đến hiệu thuốc ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng vậy, nhưng không
phải nó chữa được tất cả mọi bệnh đâu. Bệnh nào ra bệnh đó. Ví dụ như
bệnh cần có acetylcholine, thì thở theo lối để làm acetylcholine.
Ngày nay, từ rối loạn não bộ nó dẫn đến nhiều bệnh khác. Ví dụ như
bệnh trầm cảm, bệnh mất ký ức. Kể cả bệnh tiểu đường cũng do não bộ rối
loạn. Vấn đề thiền là để làm gì ? Là để điều chỉnh hệ thống hoạt động
của não bộ. Từ đó chúng tôi đưa ra phương pháp gọi là sự tương tác giữa
Tâm – Pháp – Não Bộ đối với Thân Tâm và Trí tuệ Tâm linh của con người.
Hiểu biết về cơ chế của bộ não giúp người tập Thiền tránh được các sai lầm
RFI : Vừa rồi Thiền sư giải thích với các thính
giả không biết gì về đạo Phật cả. Đối với những người đã đi xa hơn rồi,
bắt đầu bước vào, họ muốn đi cao hơn nhưng họ còn lúng túng giữa các
pháp môn khác nhau. Vậy Thiền sư có thể nói để riêng với những người đó
được không ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Thực sự cái thiền nó
khó, nhưng cũng không khó. Khó là như thế này : khó là vì người thực
hành không gặp một người đã kinh nghiệm thiền để hướng dẫn mình. (Nhiều
người không có kinh nghiệm) hướng dẫn theo sở ý của họ. Nếu theo như
vậy, có thể mắc bệnh tâm thể. Đấy là điều khó. Còn dễ là nếu biết được
chức năng của hai vùng não thì mình làm được hết. Mình cô lập vùng phía
trước hay là đi vô vùng phía sau. Nhưng nhận ra chức năng của mỗi vùng
là làm được. Muốn nhận ra được chức năng của mỗi vùng, phải có người có
hiểu biết về não bộ. Ngày nay, có người biết về não bộ (là các nhà khoa
học), nhưng họ không « thực hành » được. (…)
RFI : Tức là họ không phải là người sử dụng các hiểu
biết tâm linh để tác động vào các vùng mà họ biết về mặt giải phẫu và
mặt nghiên cứu, đúng không ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Lấy thí dụ như trong não bộ có một vùng rất hay gọi là vùng Wernicke (Vùng ngôn ngữ : hiểu, đọc, viết và ký ức ngôn ngữ).
RFI : Nó nằm ở đâu ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Nằm ở vùng Dưới não, khoa học gọi là vùng Ngôn ngữ thứ nhất. Nhưng các nhà khoa học đâu có biết cách « thực hành » được vùng đó. Điều đó khó. Còn mình, « người thực hành » thì biết, thực hành được, nhưng không biết chỗ nào để mà chỉ. Thành ra hai cái đó khác nhau.
RFI : Khi mình biết cách sử dụng khu vực này, thì có ý nghĩa gì ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Mình biết để đi cho lẹ,
thay vì đi lòng vòng. Đi vùng khác thì cũng được nhưng lâu hơn. Vì sao,
vì vùng này liên hệ đến vùng giữa não của mình nữa (vùng Gian não).
Điều quan trọng nhất là làm sao điều khiển được cuống dưới đồi.
RFI : Tức là vùng Wernicke điều khiển được vùng Dưới đồi ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Không, nó không điều khiển mà tác động vào thẳng.
RFI : Như vậy, những điều Thiền sư nói có phải
liên quan đến một hệ thống mà Thiền sư nói trong nghiên cứu của Thiền sư
với các nhà khoa học ở Đức, về hệ thống Viền não ? Phải chăng Thiền sư
muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nó trong quá trình tu tập thiền ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng vậy, trong tu thiền, hệ thống Viền não rất quan trọng. Là vì toàn bộ « tâm » của con người nằm trong này.
RFI : Bình thường, mình gọi là « tâm » hay «
tinh thần », nếu mà không biết thì không hiểu nó nằm chỗ nào trong cơ
thể, nhưng nếu theo Thiền sư và các nhà khoa học cộng tác, sau khi
nghiên cứu, có thể chỉ ra vị trí của nó ?Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng rồi. Nếu không biết chức năng của các bộ phận trong não bộ của mình, mà cứ thực hành thì một ngày nào đó sẽ bị bệnh tâm thể.
RFI : Thiền sư có thể cho một ví dụ để những người đang tập, hay quan tâm đến chuyện này có thể dễ hiểu. Tức là, khi tập thiền sai lạc thì bị mắc những bệnh gì ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Người ta gọi là « tẩu hỏa nhập ma
» đó. Thứ nhất là mắc bệnh cao máu, cao máu mỡ, tiểu đường, đó là ba
thứ bệnh thông thường nhất mà mình dễ gặp. Rồi lần lần nó lên nữa là
bệnh trầm cảm, bệnh mất ký ức.
Do mình thực hành sai lạc. Mình thực hành miên mật, nhưng sai lạc.
Thay vì đừng tập trung tư tưởng vào đối tượng, thì mình cứ tập trung.
Bên não phải mình sử dụng này, tập trung như vậy là mình tác động vào hệ
giao cảm thần kinh. Mà đầu dây của các dây thần kinh giao cảm có tiết
ra một chất hóa học là norepinephrine (còn gọi là noradrenaline). Khi
chất này được tiết ra rồi thì nó đi theo máu, vô tuyến thượng thận, bắt
đầu đến phần ruột thượng thận (phần giữa của tuyến thượng thận/glande
médullosurrénale), thì nó tiết ra epinephrine (adrenaline). Nếu hai chất
này bị tiết ra mãi mãi, thì một là tim mạch bị rối loạn, đường máu cao,
và cuối cùng mất ký ức luôn. Do epinephrine trong tuyến thượng thận nó
tiết hoài thì tác động vào vỏ thượng thận thì ra cortisol. Mà cortisol
ra hoài thì mất ký ức (trí nhớ). Vì chất này theo máu lên não bó chặt tế
bào não vùng ký ức khiến chúng chết. Sự tương tác này chúng tôi gọi là
tương tác dây chuyền Tâm – Pháp – Não Bộ đối với Thân Tâm và Trí tuệ tâm
linh của con người là như thế.
Điều cơ bản là acetylcholine được tiết ra thì norepinephrine bị dẹp.
(…) Khi mình yên lặng được thì hệ đối giao cảm hoạt động, các đầu dây
của hệ này sẽ tiết ra acetylcholine (…) giúp cho chúng ta được cân bằng
và hài hòa. Cái thuật ngữ của Thiền gọi là hài hòa, chính là mình hài
hòa được các chất sinh hóa học trong não bộ của mình.
RFI : Xin cảm tạ Thiền sư đã dành thời gian quý báu của Thiền sư giúp thính giả hiểu biểt hơn về Thiền.
http://www.viet.rfi.fr/cong-dong/20110608-nhung-loi-ich-cua-tap-thien-duoi-anh-sang-cua-khoa-hoc-ve-bo-naoChi tiết mới về người châu Mỹ đầu tiên
CỠ CHỮ
13.07.2012
Hai phúc trình
khoa học công bố trong tuần này tiết lộ những thông tin mới về những con
người đầu tiên định cư tại Tây Bán Cầu, lật đổ những gì vẫn được tin là
đúng cho tới bây giờ.
Phân tích DNA của các thổ dân châu Mỹ cho thấy tổ tiên của họ đến Tây Bán Cầu trong cuộc di dân duy nhất, băng qua một dãi đất nối liền Siberia với Alaska cách đây ít nhất 15 ngàn năm.
Tuy nhiên, một cuộc phân tích rộng rãi hơn, đăng trên tạp chí Nature, cho thấy thổ dân châu Mỹ đã đến đây định cư theo 3 đợt di dân.
Hậu duệ của đợt di dân thứ nhì và thứ ba vẫn lưu lại ở các vùng Bắc Cực, trong khi hậu duệ của đợt thứ nhất di chuyển tới điểm cực Nam của Nam Mỹ.
Những chứng cứ sớm nhất về sự hiện diện của những người châu Mỹ đầu tiên có niên đại cách đây 13 ngàn năm - gồm có đá hay xương mài nhọn, và các dụng cụ bằng ngà voi tìm thấy gần Clovis, bang New Mexico.
Kết quả một cuộc nghiên cứu mới được đăng trên tạp chí Science, đưa niên đại này lùi thêm hơn một nghìn năm.
Một toán khảo cổ quốc tế đã dùng bức xạ cácbon để định năm và thử DNA trên đầu nhọn các mũi tên bằng đá núi lửa, và phân người khô tìm thấy trong những hang động Paisley ở bang Oregon, để chứng minh rằng những người đến từ một nền văn hóa khác biệt và cổ xưa hơn Clovis, cũng đã lập cư tại châu Mỹ.
Phân tích DNA của các thổ dân châu Mỹ cho thấy tổ tiên của họ đến Tây Bán Cầu trong cuộc di dân duy nhất, băng qua một dãi đất nối liền Siberia với Alaska cách đây ít nhất 15 ngàn năm.
Tuy nhiên, một cuộc phân tích rộng rãi hơn, đăng trên tạp chí Nature, cho thấy thổ dân châu Mỹ đã đến đây định cư theo 3 đợt di dân.
Hậu duệ của đợt di dân thứ nhì và thứ ba vẫn lưu lại ở các vùng Bắc Cực, trong khi hậu duệ của đợt thứ nhất di chuyển tới điểm cực Nam của Nam Mỹ.
Những chứng cứ sớm nhất về sự hiện diện của những người châu Mỹ đầu tiên có niên đại cách đây 13 ngàn năm - gồm có đá hay xương mài nhọn, và các dụng cụ bằng ngà voi tìm thấy gần Clovis, bang New Mexico.
Kết quả một cuộc nghiên cứu mới được đăng trên tạp chí Science, đưa niên đại này lùi thêm hơn một nghìn năm.
Một toán khảo cổ quốc tế đã dùng bức xạ cácbon để định năm và thử DNA trên đầu nhọn các mũi tên bằng đá núi lửa, và phân người khô tìm thấy trong những hang động Paisley ở bang Oregon, để chứng minh rằng những người đến từ một nền văn hóa khác biệt và cổ xưa hơn Clovis, cũng đã lập cư tại châu Mỹ.
VẺ VANG PHỤ NỮ VIỆT NAM
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
vinh danh một phụ nữ Việt
Chị Ðỗ Minh Thùy mới đây được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh là cựu sinh viên xuất sắc nhất của tháng Bảy
Ngoại
trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đã tuyên dương chị Ðỗ Minh Thùy (người
mặc áo dài màu vàng), trong một cuộc họp mặt nhân kỷ niệm 20 năm chương
trình Fulbright Việt Nam.
Học chuyên ngành
tiếng Anh và lại có niềm đam mê viết lách, Ðỗ Minh Thùy đã tận dụng được
cả hai lợi thế đó khi được tuyển vào làm việc tại một tạp chí của Mỹ,
Tạp chí Time, ở Việt Nam hồi đầu những năm 2000. Nhưng không dừng lại ở
một công việc mà có lẽ nhiều bạn trẻ mơ ước tại một tạp chí nước ngoài
danh tiếng, Thùy vẫn muốn được mở rộng kiến thức và muốn được đào tạo
bài bản về nghề làm báo, chính vì vậy mà khi biết chương trình Fulbright
có học bổng dành cho ngành báo chí, chị đã quyết tâm xin học bổng cao
học và đã được lựa chọn vào học thạc sĩ báo chí tại trường đại học
Indiana vào năm 2004.
Trong thời gian học tại đó, chị nhận ra có một sự khác biệt cơ bản giữa việc dạy và học báo chí ở Mỹ và ở Việt Nam, chị nói: “Khi học bên đó thày cô dậy cho tôi nhiều kiến thức, nhưng đồng thời họ cũng yêu cầu sinh viên phải thực hành những gì đã học. Ví dụ giảng viên dạy viết của tôi ngay từ những ngày đầu tiên đã yêu cầu sinh viên phải viết một bài và làm ra một tờ báo của chính lớp học đó. Những bài tập mà cô hướng dẫn trên lớp thì sau đó cũng được áp dụng ngay để làm sao sinh viên có thể thực hành luôn. Tôi thấy đó là điều mà ở Việt Nam trong các chương trình học nói chung, và các chương trình học báo chí nói riêng thì dường như vẫn còn thiếu.”
Chính những sự khác biệt trong môi trường giáo dục của Mỹ đã thôi thúc Thùy muốn truyền đạt lại những kinh nghiệm và kiến thức mà mình học được cho các nhà báo trẻ và các em sinh viên ở Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp thạc sĩ ngành báo chí ở Mỹ trở về Việt Nam, chị đã cùng một số cựu sinh viên đã từng theo học ở Hoa Kỳ lập nên dự án mang tên ‘Chương trình Nâng cao Năng lực Nhà báo trẻ Việt Nam’ vào năm 2009.
Hoạt động chính của chương trình là thiết kế các khóa học nhằm nâng cao năng lực viết bài, đưa tin, kinh nghiệm trong việc khai thác, thu thập, xử lý thông tin, viết tin bài, phóng sự ảnh, nâng cao nhận thức về các vấn đề liên quan đến đạo đức nghề nghiệp cũng như tính chuyên nghiệp. Chị Thùy cho biết chương trình cũng thường xuyên mời các nhà báo kỳ cựu của Việt Nam, như nhà báo Huy Ðức, bút danh Osin, và cả các nhà báo của các tờ báo nước ngoài tới chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn. Ngoài ra, chương trình cũng thường tổ chức những chuyến đi thực tế cho các nhà báo trẻ để họ có thể tiếp xúc với những vấn đề nổi cộm đang được xã hội quan tâm.
Theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, kể từ khi thành lập, dự án đã thực hiện 41 khóa tập huấn cho hàng ngàn nhà báo trẻ và sinh viên báo chí ở Việt Nam. Cũng nhờ có chương trình huấn luyện này mà một mạng lưới mới kết nối các nhà báo trẻ ở Việt Nam đã ra đời để ủng hộ cho vấn đề đạo đức nghề nghiệp và nâng cao tính chuyên nghiệp của ngành báo chí của Việt Nam.
Chị Ðỗ Minh Thùy mới đây đã được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh là cựu sinh viên xuất sắc nhất của tháng 7 để công nhận sự tận tâm của chị trong việc nâng cao tiêu chuẩn và đạo đức nghề nghiệp của ngành báo chí Việt Nam.
Trong chuyến thăm Việt Nam vừa qua, đích thân Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đã tuyên dương chị Thùy trong một buổi họp mặt nhân kỷ niệm 20 năm chương trình Fulbright Việt Nam. Bà Clinton nói: “Ðỗ Minh Thùy đã nhận được học bổng Fulbright để học báo chí ở Indiana. Sau khi học xong, cô ấy nhận thấy rằng các nhà báo như mình ở Việt Nam xứng đáng tiếp cận với những kinh nghiệm và kỹ năng mà cô ấy học được ở Mỹ. Cô ấy cùng với những người bạn khác đã tạo ra một chương trình đào tạo và huấn luyện cho các nhà báo trẻ. Những khóa huấn luyện cô ấy tổ chức thu hút tới 2.300 bạn trẻ ở cả Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Một học bổng cho một cá nhân giờ đây đã có hiệu ứng dây chuyền trong một lĩnh vực riêng biệt ra toàn xã hội.”
Phát biểu cảm tưởng về việc được vinh danh này, chị Thùy khiêm tốn nói: “Tôi
cũng rất bất ngờ khi được chọn là cựu sinh viên xuất sắc của tháng Bảy,
cũng như được bà Ngoại trưởng đề cập đến trong cuộc gặp với các cựu
thành viên chương trình Fulbright. Ðây là một vinh dự rất lớn và tôi
nghĩ rằng vinh dự này không phải chỉ của riêng tôi mà tôi muốn gửi sự
ghi nhận này tới tất cả các anh chị thành viên đã tham gia dự án từ
những ngày đầu. Các anh, các chị đã đóng góp một phần rất lớn. Mặc dù
đây là sự ghi nhận cá nhân, nhưng tôi muốn nói rằng thành công đó không
phải là nỗ lực của riêng bản thân tôi, mà còn là của tất cả nhóm trong
suốt thời gian qua, và tôi cũng chỉ là người đại diện mà thôi.”
Nói về lĩnh vực báo chí ở Việt Nam, vấn đề được nhiều người quan tâm không chỉ có đạo đức nghề nghiệp hay sự chuyên nghiệp của các ký giả, mà vấn đề tự do báo chí cũng luôn được các nhà quan sát và các tổ chức quốc tế đề cập đến. Trong báo cáo về Tự do Báo chí Toàn cầu năm 2011, tổ chức Freedom House nhận xét Việt Nam vẫn không có tự do báo chí, trong khi Báo cáo về nhân quyền năm 2011 của Bộ Ngoại giao Mỹ nhận định rằng tất cả báo chí, đài truyền thanh và truyền hình trong nước vẫn do chính phủ hoặc các tổ chức quần chúng kiểm soát và các hãng tin tức, truyền thông tư nhân vẫn bị cấm thành lập.
Khi được hỏi ý kiến về nhận định này với tư cách là người đã từng tiếp xúc với cả hai nền báo chí Mỹ và Việt Nam, chị Thùy cho biết: “Tôi nghĩ khi người ta tiến hành báo cáo hay điều tra nào đó thì người ta đã có cơ sở nhất định như đối tượng phỏng vấn hay làm điều tra, vì vậy báo cáo đó dựa trên kết quả mà họ thu được. Tôi không biết họ lấy mẫu điều tra như thế nào nên tôi không thể nói báo cáo đó đúng 100% hay là sai. Nhưng tôi may mắn được tiếp xúc với hai nền báo chí, ở Hoa Kỳ thì nhà báo có được sự tự do nhất định khi họ viết bài và họ được bảo vệ. Ở Việt Nam, tôi nghĩ rằng các cơ quan nhà nước, chính phủ cũng đang cố gắng hướng tới để làm sao bảo vệ quyền tự do ngôn luận của nhà báo nói riêng và người dân nói chung.”
Cũng theo chị Thùy, tự nhân hóa báo chí là xu hướng tất yếu mà Việt Nam sẽ đi theo, chị nói: “Báo chí tư nhân thì cũng đã manh nha xuất hiện ở Việt Nam. Ở Việt Nam mà muốn ra một tờ báo nào đó thì bao giờ cũng phải dưới một cơ quan nào đó, rồi cơ quan đó có thể thực hiện tờ báo đó hay để tư nhân làm, và điều này thì đã có rồi. Tôi nghĩ rằng sớm hay muộn thì đây cũng là một xu hướng chung mà Việt Nam cũng cần phải tiến tới. Nếu điều đó là tốt thì chúng ta không có gì phải sợ hay ngăn cản cả.”
Ðược biết, hàng tháng, Bộ phận đặc trách các vấn đề của cựu sinh viên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đều công nhận thành tích của một cựu sinh viên xuất sắc. Trong suốt tháng Bảy này, chị Ðỗ Minh Thùy sẽ được vinh danh trên trang web của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ dành cho hơn một triệu cựu sinh viên mà Bộ đã tài trợ học bổng trên khắp thế giới.
Quí vị có thể tìm hiểu thêm về dự án của chị Thùy tại: evj.vn.
Trong thời gian học tại đó, chị nhận ra có một sự khác biệt cơ bản giữa việc dạy và học báo chí ở Mỹ và ở Việt Nam, chị nói: “Khi học bên đó thày cô dậy cho tôi nhiều kiến thức, nhưng đồng thời họ cũng yêu cầu sinh viên phải thực hành những gì đã học. Ví dụ giảng viên dạy viết của tôi ngay từ những ngày đầu tiên đã yêu cầu sinh viên phải viết một bài và làm ra một tờ báo của chính lớp học đó. Những bài tập mà cô hướng dẫn trên lớp thì sau đó cũng được áp dụng ngay để làm sao sinh viên có thể thực hành luôn. Tôi thấy đó là điều mà ở Việt Nam trong các chương trình học nói chung, và các chương trình học báo chí nói riêng thì dường như vẫn còn thiếu.”
Chính những sự khác biệt trong môi trường giáo dục của Mỹ đã thôi thúc Thùy muốn truyền đạt lại những kinh nghiệm và kiến thức mà mình học được cho các nhà báo trẻ và các em sinh viên ở Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp thạc sĩ ngành báo chí ở Mỹ trở về Việt Nam, chị đã cùng một số cựu sinh viên đã từng theo học ở Hoa Kỳ lập nên dự án mang tên ‘Chương trình Nâng cao Năng lực Nhà báo trẻ Việt Nam’ vào năm 2009.
Hoạt động chính của chương trình là thiết kế các khóa học nhằm nâng cao năng lực viết bài, đưa tin, kinh nghiệm trong việc khai thác, thu thập, xử lý thông tin, viết tin bài, phóng sự ảnh, nâng cao nhận thức về các vấn đề liên quan đến đạo đức nghề nghiệp cũng như tính chuyên nghiệp. Chị Thùy cho biết chương trình cũng thường xuyên mời các nhà báo kỳ cựu của Việt Nam, như nhà báo Huy Ðức, bút danh Osin, và cả các nhà báo của các tờ báo nước ngoài tới chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn. Ngoài ra, chương trình cũng thường tổ chức những chuyến đi thực tế cho các nhà báo trẻ để họ có thể tiếp xúc với những vấn đề nổi cộm đang được xã hội quan tâm.
Theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, kể từ khi thành lập, dự án đã thực hiện 41 khóa tập huấn cho hàng ngàn nhà báo trẻ và sinh viên báo chí ở Việt Nam. Cũng nhờ có chương trình huấn luyện này mà một mạng lưới mới kết nối các nhà báo trẻ ở Việt Nam đã ra đời để ủng hộ cho vấn đề đạo đức nghề nghiệp và nâng cao tính chuyên nghiệp của ngành báo chí của Việt Nam.
Chị Ðỗ Minh Thùy mới đây đã được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh là cựu sinh viên xuất sắc nhất của tháng 7 để công nhận sự tận tâm của chị trong việc nâng cao tiêu chuẩn và đạo đức nghề nghiệp của ngành báo chí Việt Nam.
Trong chuyến thăm Việt Nam vừa qua, đích thân Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đã tuyên dương chị Thùy trong một buổi họp mặt nhân kỷ niệm 20 năm chương trình Fulbright Việt Nam. Bà Clinton nói: “Ðỗ Minh Thùy đã nhận được học bổng Fulbright để học báo chí ở Indiana. Sau khi học xong, cô ấy nhận thấy rằng các nhà báo như mình ở Việt Nam xứng đáng tiếp cận với những kinh nghiệm và kỹ năng mà cô ấy học được ở Mỹ. Cô ấy cùng với những người bạn khác đã tạo ra một chương trình đào tạo và huấn luyện cho các nhà báo trẻ. Những khóa huấn luyện cô ấy tổ chức thu hút tới 2.300 bạn trẻ ở cả Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Một học bổng cho một cá nhân giờ đây đã có hiệu ứng dây chuyền trong một lĩnh vực riêng biệt ra toàn xã hội.”
Chị Ðỗ Minh Thùy cùng các đồng nghiệp và học viên.
Nói về lĩnh vực báo chí ở Việt Nam, vấn đề được nhiều người quan tâm không chỉ có đạo đức nghề nghiệp hay sự chuyên nghiệp của các ký giả, mà vấn đề tự do báo chí cũng luôn được các nhà quan sát và các tổ chức quốc tế đề cập đến. Trong báo cáo về Tự do Báo chí Toàn cầu năm 2011, tổ chức Freedom House nhận xét Việt Nam vẫn không có tự do báo chí, trong khi Báo cáo về nhân quyền năm 2011 của Bộ Ngoại giao Mỹ nhận định rằng tất cả báo chí, đài truyền thanh và truyền hình trong nước vẫn do chính phủ hoặc các tổ chức quần chúng kiểm soát và các hãng tin tức, truyền thông tư nhân vẫn bị cấm thành lập.
Khi được hỏi ý kiến về nhận định này với tư cách là người đã từng tiếp xúc với cả hai nền báo chí Mỹ và Việt Nam, chị Thùy cho biết: “Tôi nghĩ khi người ta tiến hành báo cáo hay điều tra nào đó thì người ta đã có cơ sở nhất định như đối tượng phỏng vấn hay làm điều tra, vì vậy báo cáo đó dựa trên kết quả mà họ thu được. Tôi không biết họ lấy mẫu điều tra như thế nào nên tôi không thể nói báo cáo đó đúng 100% hay là sai. Nhưng tôi may mắn được tiếp xúc với hai nền báo chí, ở Hoa Kỳ thì nhà báo có được sự tự do nhất định khi họ viết bài và họ được bảo vệ. Ở Việt Nam, tôi nghĩ rằng các cơ quan nhà nước, chính phủ cũng đang cố gắng hướng tới để làm sao bảo vệ quyền tự do ngôn luận của nhà báo nói riêng và người dân nói chung.”
Cũng theo chị Thùy, tự nhân hóa báo chí là xu hướng tất yếu mà Việt Nam sẽ đi theo, chị nói: “Báo chí tư nhân thì cũng đã manh nha xuất hiện ở Việt Nam. Ở Việt Nam mà muốn ra một tờ báo nào đó thì bao giờ cũng phải dưới một cơ quan nào đó, rồi cơ quan đó có thể thực hiện tờ báo đó hay để tư nhân làm, và điều này thì đã có rồi. Tôi nghĩ rằng sớm hay muộn thì đây cũng là một xu hướng chung mà Việt Nam cũng cần phải tiến tới. Nếu điều đó là tốt thì chúng ta không có gì phải sợ hay ngăn cản cả.”
Ðược biết, hàng tháng, Bộ phận đặc trách các vấn đề của cựu sinh viên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đều công nhận thành tích của một cựu sinh viên xuất sắc. Trong suốt tháng Bảy này, chị Ðỗ Minh Thùy sẽ được vinh danh trên trang web của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ dành cho hơn một triệu cựu sinh viên mà Bộ đã tài trợ học bổng trên khắp thế giới.
Quí vị có thể tìm hiểu thêm về dự án của chị Thùy tại: evj.vn.
Cô gái Việt thay đổi Luật an toàn xe bus tại Mỹ
Hiền Vy, thông tín viên RFA
2012-07-16
Trong thời gian gần bốn năm, trên dưới hai mươi lần đến thủ đô Hoa Thịnh đốn để vận động "Dự Luật tăng cường An Toàn cho xe chở hành khách".
AFP photo
Ngày 6 tháng Bảy vừa qua, cô Lê Yến Chi đã được toại nguyện khi tổng thống Obama ký ban hành điều luật này. Lý do nào đã khiến một cô gái Việt tại Houston làm được việc này?
Người thân bị nạn
Trên đường đi dự Đại Hội Thánh Mẫu tại Dòng Đồng Công ở Carthage, thuộc tiểu bang Missouri vào tháng Tám năm 2008, một trong bốn chiếc xe Bus chở những giáo dân người Việt Houston và vùng phụ cận đã bị tai nạn thảm khốc tại Sherman, một thị trấn phía Bắc thành phố Dallas, tiểu bang Texas. Tai nạn này gây tử vong cho 17 giáo dân và nhiều người khác bị thương tích. Một trong số 17 người bị thiệt mạng là bà Lâm Sở Tường, mẹ của cô Lê Yến Chi, một tiến sĩ ngành tâm lý xã hội, hiện đang làm việc tại Houston.Sinh ra và lớn lên tại Houston, Yến Chi là con gái út trong một gia đình có hai người con của đôi vợ chồng tị nạn cộng sản năm 1975. Bố cô qua đời trong một ca mổ tim khi cô vừa 7 tuổi và người anh 8 tuổi, lúc mẹ cô mới 39 tuổi. Bà Tường đã ở vậy nuôi hai con khôn lớn. Bà là một nhân viên sở Xã Hội, và là một con chiên ngoan đạo. Bà đã dành nhiều thời gian để sinh hoạt trong các giáo xứ. Mỗi năm Bà cùng nhiều giáo dân khác đi dự Lễ Thánh Mẫu. Cô Yến Chi cho biết cô thường đi cùng với Mẹ nhưng năm 2008, vì mới có việc làm tại Galveston, sau một thời gian dài học tiến sĩ tại Hawaii, nên cô không tham dự.
Đã bốn năm trôi qua, nhưng với giọng nói đầy nước mắt khi nhắc đến cái chết của thân mẫu, Yến Chi cho biết cô vận động điều luật này vì cô không muốn thấy gia đình khác phải trải qua những mất mát lớn lao mà anh em cô đã gặp phải :
"Con rất là thương Mẹ, con thấy mất Mẹ giống như vậy, ai mà chịu nổi. Con không muốn có những người khác phải chịu cảnh khổ đau như con nên con cố gắng làm việc này để tránh chuyện tương tự xảy ra cho gia đình khác ..."
Cô nói thêm là tai nạn thảm khốc đó đã làm nhiều gia đình người Việt đau khổ nhưng vì ai cũng bận rộn với công việc và gia đình, mà cô lúc đó thì còn độc thân nên có nhiều thì giờ hơn những người khác, vì vậy cô vận động dự luật tăng cường an toàn cho xe chở hành khách. Cô cho biết lúc sinh tiền, mẹ cô thường giúp đỡ người khác và cô đã hứa trước di ảnh của Mẹ là sẽ không để cái chết của Mẹ cô trở thành vô nghĩa:
"Nhiều gia đình bị ảnh hưởng vì tai nạn này. Mẹ con là người luôn luôn giúp đỡ người khác nên con phải làm việc này vì con thương Mẹ, không muốn cái chết của Mẹ là senseless hay in vain ..."
Để giữ được lời hứa với vong linh thân mẫu, ngay sau tang lễ của Mẹ, Yến Chi bắt đầu tìm hiểu nguyên nhân gây ra tai nạn cho chiếc xe đã chở mẹ cô. Khi biết được đã có nhiều khiếm khuyết trong chiếc xe đó trên bản tường trình của Ủy ban kiểm soát an toàn giao thông (The National Transportation Safety Board), như là; tài xế có lượng cocaine và rượu trong máu mà có thể là người tài xế này vừa mới xử dụng ma túy khoảng một tiếng đồng hồ trước khi bắt đầu lái xe; công ty cho mướn xe này đã từng bị ngưng hoạt động vì vi phạm luật nhưng mới mở lại dưới cái tên khác, hay là nơi kiểm soát xe (inspection) đã không trang bị đầy đủ dụng cụ để làm việc này vv... Yến Chi liên lạc với các vị dân cử để tìm hiểu thêm.
Cô đã được những vị dân cử của Texas như thượng nghị sĩ Kay Baily Hitchison, dân biểu Sheila Jackson Lee cùng vài vị dân cử của các tiểu bang khác nữa,đỡ đầu dự luật này:
"Con gặp thượng nghị sĩ Kay Baily Hitchison của Texas, thượng nghị sĩ Sherrod Brown của Ohio ..."
Dự luật này đã được đệ trình với lưỡng viện trước đó nhưng mãi cho đến ngày 29 tháng Sáu năm 2012, mới được Quốc Hội thông qua và Tổng Thống ký ban hành vào ngày 6 tháng Bảy. Với điều luật mới này, xe chở hành khách phải có dây cài an toàn, trần xe và cửa sổ phải an toàn hơn và đặc biệt là tài xế lái xe chở hành khách phải được kiểm soát cũng như được huấn luyện kỹ lưỡng hơn:
"Phải có seat belt cho passengers, có anti-ejection glazing on the windows... Tài xế lái xe phải khám sức khỏe ..."
Luật này cũng buộc chủ hãng cho thuê xe khi mở thương vụ mới, phải khai báo nếu trong quá khứ đã từng có công ty bị đóng cửa vì vi phạm luật giao thông.
"Mấy companies mà đã bị đóng cửa mà bây giờ mở công ty khác thì phải điền vào đơn những chi tiết đó ..."
Một mình vận động
Mặc dù một mình vận động cho điều luật này, cô Yến Chi nói rằng sở dĩ có được kết quả như vậy là do chính mẹ cô luôn ở bên cạnh để giúp cô có đủ nghị lực trong ròng rã 4 năm trời để vận động. Chính mẹ cô giúp cô biến đau khổ của mình thành những công ích cho người khác, thay vì bị buồn đau đánh gục: "Con biết là con không tự mình làm được việc này mà là do Mẹ giúp con có sức mạnh để làm, tại vì cái này mà một người làm thì thấy nhiều quá. Làm sao mà một cá nhân có thể thuyết phục được Quốc Hội Mỹ, mà đặc biệt cá nhân đó lại là một người Việt! Có lẽ do con nói được tiếng Mỹ, và nói từ từ nên người ta nghe, chứ con thấy mình không là cái gì cả. Con lấy nỗi buồn mất Mẹ để làm được điều hữu ích cho người khác chứ không để cái buồn làm mình té xuống."Được hỏi nếu trường hợp tai nạn xảy ra tại Việt Nam mà có những nguyên do vì bất cẩn như chiếc xe đã chở mẹ cô thì cô có nghĩ là có người sẽ vận động để thay đổi gì không, Yến Chi nói rằng vì Việt Nam không có tự do nên có lẽ sẽ không có ai vận động dự luật một mình như cô đã làm:
"Nếu mà trường hợp này xảy ra bên Việt Nam chắc không có ai làm gì đâu, tại vì Việt Nam không có tự do thì không có ai làm như vậy."
Nhưng theo cô, nếu nhiều người cùng đứng lên làm việc với nhau thì có thể sẽ làm cho chính quyền quan tâm và thay đổi:
"... because there are lots of bad situation in VietNam I would think that people need to stand together and work together..."
Trước tin vui Tổng Thống Obama ký ban hành luật mới về an toàn cho xe chở hành kháck, linh mục Đỗ Đình Bảng, người có mối thâm giao với gia đình Yến Chi trên dưới 40 năm nay cho biết, là ông rất ngạc nhiên khi dự luật do Yến Chi vận động được trở thành luật:
"Tôi rất ngạc nhiên nhưng đây cũng là cái gương cho chính tôi, bởi vì nhiều khi mình không có nghĩ là sẽ thành công nhưng cuối cùng rồi thì hôm nay chúng ta thấy là một vài tuần nữa cái luật này sẽ được phổ biến. Như vậy thì là một điều rất hay và là một điểm son cho tuổi trẻ Việt Nam. Sang bên này, được cái nền giáo dục mới thì đã biết phát triển cái tinh thần gia đình giữa mẹ con, giữa ông bà con cháu và đời mình phát triển đường lối của người Mỹ. Điều đó rất đáng khen."
Và bà Lâm Muội, em gái của mẹ Yến Chi cũng cho biết là bà vô cùng hãnh diện về việc làm của cháu bà:
"Tôi rất hãnh diện. Tôi biết cháu làm như vậy nhưng tôi rất bất ngờ khi hay tin là dự luật đó đã thành luật rồi. Cháu đã làm được một việc lớn như vậy. Một mình mà đi lên Washington D.C. cả 20 lần trong vòng gần 4 năm để hoàn thành công việc đó thì tôi thấy cháu thật là xứng đáng đã thành công."
Chúng ta thường nghe nói "Một con Én không làm nổi mùa Xuân" nhưng với sự kiên trì và lòng yêu kính đấng sinh thành đã khuất, một cô gái Việt đã thành công trong việc thay đổi được luật an toàn cho xe chở hành khách tại Hoa Kỳ.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/motor-coach-safety-in-us-hv-07162012132505.html
THƠ PHẠM ĐỨC NHÌ
Một Bài Thơ Không Tựa
tự do như muối
hạnh phúc như đường
khi còn đang ăn đủ miếng ngọt miếng ngon
khó thấy giá trị của hạt đường hạt muối.
tôi sống ở Miền Nam
nhìn dòng đời trôi nổi
nở lại tàn
bao nhiêu mùa hoa
hai nền Cộng Hòa
một cuộc chiến tranh dài đẫm máu.
hạnh phúc như đường
khi còn đang ăn đủ miếng ngọt miếng ngon
khó thấy giá trị của hạt đường hạt muối.
tôi sống ở Miền Nam
nhìn dòng đời trôi nổi
nở lại tàn
bao nhiêu mùa hoa
hai nền Cộng Hòa
một cuộc chiến tranh dài đẫm máu.
tôi đã dốc lòng chiến đấu
bảo vệ tự do
dưới lá cờ
nền vàng ba sọc đỏ.
tiếc thay trong đội ngũ
chúng tôi có ít những Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam
mà lại khá nhiều Nguyễn Vĩnh Nghi, Nguyễn Văn Toàn
nên lính mất niềm tin
dân chán nản
những kẻ có lòng
lắc đầu ngao ngán.
rồi nước Mỹ đồng minh, xưa là bạn
nay trở mặt lọc lừa
quên lời hứa năm xưa
bỏ mặc “tiền đồn của thế giới tự do”
thất thủ.
kẻ thù đưa tôi lưu đày biệt xứ
rồi khua chiêng gióng trống ăn mừng
đám trí thức, sinh viên, học sinh
xưa trốn vô bưng
mơ một thiên đường trên trái đất
nay ngồi trên khán đài nghếch mặt
“Thiên đường đang ở trong tầm tay”
Má Hai
xưa đào hầm nuôi cán bộ
nay hớn hở
“Tụi nó dzià mình chắc có tương lai”
bà Tám con chết trận Đồng Xoài
hãnh diện lãnh bằng gia đình liệt sĩ
những nhà văn, nhà thơ, xưa chống “cuộc chiến tranh phi lý”
(đâm sau lưng người lính Cộng Hòa)
nay chìa bút ra
xin viết bài ngợi ca chế độ mới
đám thanh niên xưa trốn chui trốn nhủi
ở hậu phương
xanh mặt khi nghe nhắc tới chiến trường
nay tự nhận đã yêu thầm cách mạng
những người dân bình thường
xưa gặp lính khi ghét khi thương
lúc buồn ngồi chửi đổng
“Tao chửi cả thằng Tổng Thống
xá gì lính tráng tụi bay”
nay cũng ngập ngừng vỗ tay
nhưng mắt nhìn quanh lấm lét
họ chưa có câu trả lời dứt khoát
muốn đợi một thời gian.
sau vài năm
cuộc hôn nhân qua tuần trăng mật
đã đầy nước mắt
và những tiếng nấc nghẹn ngào
đám trí thức vô bưng năm nào
tức giận thấy mình bị bội phản
buông lời phản kháng
kẻ vô khám Chí Hòa
người bị quản thúc tại gia
đưổi gà cho vợ
thiên đường ước mơ sụp đổ.
má Hai
đã quen dần với bo bo, với sắn với khoai
như người dân Miền Bắc
những cán bộ xưa má nuôi trong hầm bí mật
đã ra lệnh bắt má mấy lần
má không đủ ăn
lấy đâu đóng thuế?
bà Tám ôm tấm bằng Gia Đình Liệt Sĩ
bụng đói meo
làng trên xóm dưới ai cũng nghèo
tình người hiếm hơn hồi đó
bà ra mộ con ngồi nhổ cỏ
khóc thầm.
những văn nhân
một thời phản chiến
“ngộ biến tòng quyền”
cố bẻ cong ngòi bút
nhưng với văn thơ, với nhạc
quen phóng túng tự do
sao chịu nổi gông xiềng
lại tiếc những ngày trời rộng thênh thang
múa bút.
đám thanh niên hèn, khoác lác
tưởng được chế độ mới tin dùng
bị đi lao động quốc phòng
thanh niên xung phong
làm việc không công nơi rừng sâu nước độc
cháy da vàng mắt
đói lòng.
những người dân
xưa chửi vung chửi vít
nay im thin thít
chẳng dám hé môi
một số kẻ lỡ lời
bị đi “tù không án”
khi cán bộ xưng tụng bác Hồ, ca ngợi Đảng
họ cao giọng hoan hô
vỗ tay thật to
nhưng bụng thầm ao ước được sống lại những ngày xưa cũ!
sau ba mươi tháng tư, đớn đau tủi hổ
là gia đình người lính Cộng Hòa
kể bị cướp nhà
người bị cướp đất
con bị đuổi học
vợ mất sở làm
chồng đi tù biệt tăm
đi họp, cán bộ Cộng Sản mỉa mai nhiếc móc
ra đường bị lườm dọc nguýt ngang.
đến khi ruộng vô tập đoàn
gạo vải sữa đường bán theo tiêu chuẩn
nhà máy công ty hãng xưởng
trờ thành quốc doanh
công an khu vực đầy quyền hành
thực thi chính sách nhân dân hộ khẩu
người dân chịu đời không thấu
mà chẳng dám than vãn kêu ca
bấy giờ gia đình người lính Cộng Hòa
mới nhận được những tia nhìn thiện cảm
nghĩ đến con, đến chồng, đến cha
trong nhà tù Cộng Sản
họ hãnh diện ngẩng đầu.
hôm nay giữa trời cao
được thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ
phất phới bay trong gió
tôi muốn khóc thật to
tôi muốn hét lên
“Đây hạnh phúc! Đây tự do”
mà thuở nào tôi đã buông tay đánh mất
để phải chôn tháng năm tươi đẹp nhất
của cuộc đời
trong các trại tù rải rác khắp nơi
trên đất nước.
họ hàng tôi, đồng bào tôi
những ai không đi được
mấy chục năm trường
gánh chịu đau thương
uất hận tủi hờn
nhìn quê hương tan nát.
được thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ
phất phới bay trong gió
tôi muốn khóc thật to
tôi muốn hét lên
“Đây hạnh phúc! Đây tự do”
mà thuở nào tôi đã buông tay đánh mất
để phải chôn tháng năm tươi đẹp nhất
của cuộc đời
trong các trại tù rải rác khắp nơi
trên đất nước.
họ hàng tôi, đồng bào tôi
những ai không đi được
mấy chục năm trường
gánh chịu đau thương
uất hận tủi hờn
nhìn quê hương tan nát.
mẹ Việt Nam ơi ! Những đứa con lưu lạc
đã nhận rõ lỗi lầm
đang đấu tranh âm thầm
cho một ngày quang phục.
sẽ còn nhiều khó nhọc
để dành lại giang san
từ tay bọn Cộng Sản tham tàn
nhưng kìa! Phất phới bay trong gió
vẫn như ngày nào
lá cờ vàng ba sọc đỏ
mà sao hôm nay chính nghĩa sáng ngời
chẳng cần một lời luận bàn lý giải
để dành lại giang san
từ tay bọn Cộng Sản tham tàn
nhưng kìa! Phất phới bay trong gió
vẫn như ngày nào
lá cờ vàng ba sọc đỏ
mà sao hôm nay chính nghĩa sáng ngời
chẳng cần một lời luận bàn lý giải
tôi đứng lặng nhìn, lòng khoan khoái
lá cờ vẫn còn đây
thì quê hương ơi! sẽ có một ngày.
lá cờ vẫn còn đây
thì quê hương ơi! sẽ có một ngày.
Viết tại San Leon sau một lần dự lễ dựng
kỳ đài tại Houston.
Phạm Đức Nhì
kỳ đài tại Houston.
Phạm Đức Nhì
TRUYỆN PHẠM HỒNG ÂN
Số đào hoa
Tôi đến Mỹ hơn
mười năm, trải qua đủ nghề, nếu tính số cũng đến hơn chục việc làm khác nhau,
từ bồi bàn, giúp việc chợ, cho đến làm chủ, nói chung là thượng vàng hạ cám.
Nhưng nghề nào cũng đem tôi đến gần đàn bà. Đúng là số mạng thì phải.
Hồi còn ở Việt Nam, ông thầy bói lấy quẻ tử vi cho tôi phán, “Số ông đào hoa nghiệp chướng, xoay đủ nghề, vận hạn tứ phương, nếu không khéo “con đàn cháu đống”. Lôi thôi còn bị cắt của qúy không chừng!” Tôi nghe mà tá hỏa tam tinh. vội cãi lại, thầy nói làm sao chứ! Tôi người lùn xấu trai thế này, ăn nói thì cộc lốc, làm sao mà đào hoa cho nổi? Ông thày bói nhìn tôi lạnh lùng rồi nói, tôi chỉ suy diễn theo lá số tử vi của ông mà đoán. Còn bây giờ cho tôi xin tiền! Đã đến lượt người khác…
Hồi còn ở Việt Nam, ông thầy bói lấy quẻ tử vi cho tôi phán, “Số ông đào hoa nghiệp chướng, xoay đủ nghề, vận hạn tứ phương, nếu không khéo “con đàn cháu đống”. Lôi thôi còn bị cắt của qúy không chừng!” Tôi nghe mà tá hỏa tam tinh. vội cãi lại, thầy nói làm sao chứ! Tôi người lùn xấu trai thế này, ăn nói thì cộc lốc, làm sao mà đào hoa cho nổi? Ông thày bói nhìn tôi lạnh lùng rồi nói, tôi chỉ suy diễn theo lá số tử vi của ông mà đoán. Còn bây giờ cho tôi xin tiền! Đã đến lượt người khác…
Coi lại mình, thấy chỉ được cái tướng lực điền… vậy mà Việt Nam cũng đã
nhiều cô đem lòng yêu tôi vì tính thật thà ngay thẳng. Giao dịch buôn bán với
các cô, tôi luôn nói mình đã có vợ đẹp con ngoan, để tránh nạn đào hoa ám khí,
thế mà họ vẫn thương, bất kể vợ con. Có cô còn bảo chấp nhận yêu đơn
phương không lo hậu qủa… Cô ta thì không lo mà chính tôi thì “rét”, đành cao
bay xa chạy, không dám tơ vương léng phéng, có ngày “thân bại danh liệt” thì
khổ.
Sang được xứ Mỹ, tôi mừng vì nghĩ đổi đời rồi, chắc mình thoát được kiếp nạn đào hoa. Thổ thần mỗi nơi mỗi khác, đất Mỹ sẽ là khắc tinh của số phận, vì ở đây nhà nào biết nhà lấy, ai hơi sức đâu mà đi ăn qùa vặt….
Tôi làm chủ một hãng đóng furniture kiêm thêm nghề construction. Ở xưởng mộc bụi cứ mù mịt. Nhưng tôi luôn ăn mặc đứng đắn, giầy tây, quần áo chỉnh tề như người đi dự tiệc. Vì cứ nghĩ ăn mặc lịch sự, là tôn trọng người khác. Công việc thì vô chừng, lúc thì ở hãng có khi ở nhà của khách hàng để đôn đốc thợ làm việc… Thường tôi ít cần phải động đến tay chân. Tuy vậy, cũng có ngày việc ít, thì chỉ mình tôi làm những việc nhẹ, câu giờ để gia chủ khỏi nghĩ rằng mình bỏ job mà làm ở chỗ khác…
Có hôm đến nhà một phụ nữ Mỹ trắng đang làm dở dang cái Patio phía sau nhà cho cô ta, theo như lịch hẹn, để hoàn tất công việc. Như mọi khi không cần báo trước, tôi đi cửa bên hông vì không muốn làm phiền cô phải ra mở cửa phía trước. Vừa bước tới hồ bơi phía hông nhà, tôi nhìn thấy cô Mỹ trắng chủ nhà đeo kiếng đen, nằm khỏa thân phơi nắng trên một chiếc ghế dài… Tôi lung túng, xấu hổ tính quay trở ra ngoài! Thì giọng cô gọi dật ngược. Tom come here! (Tôi tên là Tâm tiếng Việt) Tôi ngại qúa! Nhưng vui sướng vì được cô nàng khỏa thân gọi đến gần… Tôi vội nói Sorry! Sorry! Mam. Nhưng mặt vẫn quay về hướng khác không dám nhìn thẳng vào cô ta…
Nhưng cô ta đứng dậy, quấn khăn phía dưới đi về phía tôi. Oh! That Ok! Don't worry about me! Cô tiếp., nói mà như ra lệnh. Tom, Look at me!
Sang được xứ Mỹ, tôi mừng vì nghĩ đổi đời rồi, chắc mình thoát được kiếp nạn đào hoa. Thổ thần mỗi nơi mỗi khác, đất Mỹ sẽ là khắc tinh của số phận, vì ở đây nhà nào biết nhà lấy, ai hơi sức đâu mà đi ăn qùa vặt….
Tôi làm chủ một hãng đóng furniture kiêm thêm nghề construction. Ở xưởng mộc bụi cứ mù mịt. Nhưng tôi luôn ăn mặc đứng đắn, giầy tây, quần áo chỉnh tề như người đi dự tiệc. Vì cứ nghĩ ăn mặc lịch sự, là tôn trọng người khác. Công việc thì vô chừng, lúc thì ở hãng có khi ở nhà của khách hàng để đôn đốc thợ làm việc… Thường tôi ít cần phải động đến tay chân. Tuy vậy, cũng có ngày việc ít, thì chỉ mình tôi làm những việc nhẹ, câu giờ để gia chủ khỏi nghĩ rằng mình bỏ job mà làm ở chỗ khác…
Có hôm đến nhà một phụ nữ Mỹ trắng đang làm dở dang cái Patio phía sau nhà cho cô ta, theo như lịch hẹn, để hoàn tất công việc. Như mọi khi không cần báo trước, tôi đi cửa bên hông vì không muốn làm phiền cô phải ra mở cửa phía trước. Vừa bước tới hồ bơi phía hông nhà, tôi nhìn thấy cô Mỹ trắng chủ nhà đeo kiếng đen, nằm khỏa thân phơi nắng trên một chiếc ghế dài… Tôi lung túng, xấu hổ tính quay trở ra ngoài! Thì giọng cô gọi dật ngược. Tom come here! (Tôi tên là Tâm tiếng Việt) Tôi ngại qúa! Nhưng vui sướng vì được cô nàng khỏa thân gọi đến gần… Tôi vội nói Sorry! Sorry! Mam. Nhưng mặt vẫn quay về hướng khác không dám nhìn thẳng vào cô ta…
Nhưng cô ta đứng dậy, quấn khăn phía dưới đi về phía tôi. Oh! That Ok! Don't worry about me! Cô tiếp., nói mà như ra lệnh. Tom, Look at me!
Hình minh họa
Tôi mượn cơ hôi bạo gan tới gần, coi cô Mỹ cởi trần đường nét mỹ miều ra sao?
Vì, thú thật là từ trước tới giờ tôi chưa hề thấy một phụ nữ Mỹ trần như nhộng
như thế này bao giờ! Đúng là một ngày được “Tổ đãi.”
Cô nàng hài lòng ra mạt khi thấy tôi vâng lời. Kìa, tấm thân ngọc ngà của cô, từ
cổ thấy tàn nhang lốm đốm tràn xuống đến ngực, trông cứ như nồi cơm gạo đỏ pha
với gạo trắng mà hồi bé mẹ tôi cho chúng tôi ăn độn để cứu đói. Ngực nàng như
hai qủa cam dúm dó để khô lâu ngày, với hai đầu núm như hai hạt đậu phộng sống
khô, mà vợ tôi để quên trong tủ mấy tháng không kịp ăn.
Thấy núi non phong cảnh coi cũng không có gì xuất sắc, tôi tỉnh bơ nhìn vào mắt
nàng nói, Let's me finish my job today, mam….
Ok! No problem! Tom, Get back to your work! Rồi nàng lững thững trở lại chỗ ghế nằm
xuống phơi nắng tiếp, cởi hết khăn cuốn người, đổi thế nằm xấp chổng mông lên
trời. Thú thật là khi nằm xấp, nước da trắng, các đường cong của cơ thể nàng
trông rất gợi cảm. Cứ một lúc nàng lại đổi tư thế nằm khiến tôi không sao tập
trung được, công việc chậm hẳn lại. Dù sao, tôi cố đánh bài lờ! tự nhủ là chẳng
thèm để ý làm gì! Lại tự nhủ nó còn nợ mình ba ngàn, lắng quắng tiền mất tật
mang, có khi vào tù như chơi! Thôi thì lo việc cho xong, tơ vương làm gì?
Đang cố làm ra vẻ mải mê với công việc, bỗng thấy cô nàng bật dậy, với
khăn tắm quấn quanh người rồi lại yểu điệu tới bên tôi. Tom do you love sex?
Quá đột ngột với câu hỏi bất ngờ.. Yes! Of course! Tôi trả lời. Vậy là cô nàng
kể lể chồng nàng là một tay làm ăn quanh năm xa nhà, để nàng ở nhà một mình rất
cô đơn và buồn chán. Nàng còn than “Tôi cũng là con người giống như anh
cũng thích sex và cần sự săn sóc yêu thương… ”
Nghe cô tả oán, nhìn cái khăn tắm hờ hững trên người, thật dễ mủi lòng.
Nhưng tôi vẫn lên gân, tự nhủ phải coi chừng, không thể để “sa chước cám
dỗ”, làm ra vẻ bình tĩnh nói. I'm very busy right now! I have to finish for two
more house. Có thể vì tâm trạng cứ sợ bị cô nàng gài bẫy, nên tôi thú thật là
cũng chẳng hứng thú gì lắm. Thôi thì “lực bất tòng tâm,” tôi vội cáo lui…Hẹn
ngày khác đến lấy tiền công còn lại, rồi chuồn…
Hình minh họa
Rồi công việc cứ cuốn lấy tôi hết nhà này rồi đến nhà khác, Mỹ, Mễ, Việt, Ấn
Độ, Trung hoa, Đại hàn. Tôi là người luôn được người khách hàng giới thiệu cho
nhau, chứ không bao giờ phải quảng cáo trên báo. Khách hàng nào, tôi cũng luôn
cố gắng làm họ vừa lòng, “vui lòng khách đến vừa lòng khách đi”. Khách
của tôi không thiếu những người đặc biệt danh giá và thành đạt, trong số này có
ông luật sư người Trung hoa có văn phòng ở San Francico.
Ông này một tay có tới năm bà vợ thì tôi đã lần lượt sửa chữa nhà cho bốn bà vợ
của ông ấy… Lạ một điều hình như có hai bà cùng chơi thân với nhau. Nhưng không
thấy ghen… Cứ đến nhà cô vợ nào của ông để sửa chữa. Ông đều dặn kỹ tôi, không
được nói tôi đã và đang sửa nhà cho các bà vợ khác của ông ấy… Bà nào cũng một
cơ ngơi rộng rãi. Mỗi bà một giang sơn, một mình nuôi con nhỏ, tùy theo độ quen
biết lâu dài. Bà lớn thì con đã lớn khoảng mười lăm mười sáu tuổi, bà bé nhất
thì đang mang bầu sắp sanh. Bà nào cũng trẻ đẹp, lịch sự, ăn nói dịu dàng và
hiền thục, luôn tử tế với đám thợ của tôi. Tôi không dám tiết lộ với bất cứ
người thợ nào về ông khách đa tình đã mướn tôi làm cai thầu sửa nhà cho
các bà vợ. Đôi khi, tôi còn cố để ý học ông ta vài chiêu về cách xử sự, sao cho
êm đẹp giữa các bà… Rồi lòng thầm phục ông sát đất.
Nghĩ mà tủi cho số phận mình, cũng số đào hoa mà sao... Nhưng thôi thôi,
chỉ cần nhớ lời ông thầy bói “Lôi thôi bị cắt của qúy, không chừng!” là
tôi đã khiếp sợ! Nhờ vậy mà đã nhiều phen vượt thoát được biết bao bẫy tình.
Hình minh họa
Nhưng rồi, chuyện gì phải đến thì tự nó cũng đến. Từ đầu tháng Hai,
chúng tôi nhận làm tại căn nhà cho cô vợ bé thứ năm của ông luật sư. Cô này là
người ViệtNam,
vừa trẻ vừa đẹp, có vẻ là cô vợ được ông luật sư cưng chiều nhất. Vì cùng
là người Việt nên cô dành cho chúng tôi những cảm tình đặc biệt!
Căn nhà tọa lạc trên một qủa đồi, nhìn xuống thàng phố San Jose, rất đẹp khi nhìn hoàng hôn chiều
tàn. Các ánh đèn điện lấp lánh khi đón màn đêm buông xuống trông rất hữu tình…
Cách design bên trong nhà, cô đều mời tôi góp ý. Tôi hết lòng hướng dẫn, và trở
nên rất thân tình. Vài ngày trước, cô mời tôi ở lại dùng trà tiêu khiển, tâm sự
với tôi về quê hương xứ Huế của cô, rồi còn đọc cho tôi nghe cả những bài thơ
tình của nhiều thi sĩ trứ danh nữa.
Công việc sửa nhà đang tiếp tục thì đụng ngày mưa bão. Hôm ấy trời âm u rồi
mưa nặng hạt… ảnh hưởng bão từ Alaska
thổi tới. Những cơn gió giật mạnh khiến công việc sửa chữa ngoài nhà bị đình
trệ. Các ông thợ của tôi xin phép về sớm…
Sau khi đám thợ về, tôi đi vào nhà xin phép về sớm! Vì qúa quen, tôi gõ cửa rồi
bước vào đứng ở hall way nói to. Hello! Hello! Xin phép bà chủ tôi về!
Bỗng có tiếng từ trên lầu nói vọng xuống, Anh Tâm ơi! Lên đây giúp em!
Tôi bước vội lên cầu thang hướng về phía có tiếng gọi, rồi nói. Có gì đấy
Hellen? Nhưng tôi vội nói tiếp vọng vào các phòng phía bên phải. Trời mưa công
việc phải tạm dừng. Chào chị tôi về đây!
Hình minh họa
Tiếng của Hellen vẫn từ master bedroom tiếp tục lập lại. Anh Tâm
ơi! Vào đây giúp em…
Tôi bước vội tới cửa phòng gõ nhẹ, rồi đẩy cửa bước vào… Tôi khựng lại vì thấy
Hellen mặc chiếc áo ngủ mỏng tanh, nhìn xuyên suốt thấy cơ thể bên trong, trông
cứ như một nàng tiên trong phim bộ về Đường Minh Hoàng. Thấy tình hình “khẩn
trương”, tôi vội xin lỗi, định thối lui, nhưng Hellen đã tiến tới bên, giữ tôi
lại, rồi ôm chầm lấy tôi!
Qúa bất ngờ! Không biết phản ứng ra sao, muốn thoát thân cũng không sao đẩy
nàng ra được. Tiếng mưa gió ngoài trời càng làm hương thơm cuồng nhiệt từ nàng
thêm ấm áp. Dần dà tôi thấy mình, thay vì chống cự tìm đường thoát thân thì
lại phấn khích rồi bất chấp. Rồi cứ như Tôn Ngộ Không trong
truyện Tây Du Ký trộm Đào Tiên chẳng còn nhớ gì tới vòng Kim Cô khóa trên đầu
bởi Phật tổ nữa.
Hình minh họa
Hôm đó tôi về nhà muộn. Buồn, vui, lẫn lộn. Mặc cảm tội lỗi vì phản bội, tôi ba hoa hết chuyện này đến chuyện khác, nịnh vợ làm đủ chuyện cố lấp liếm đi tội lỗi của mình. thỉnh thoảng ôm thằng con út nựng cho vợ vui lòng…
Hình minh họa
Lên giường ngủ, tôi lại ôm đầu hối hận, rồi lại tự thầm trách mình! Sao không có bản lĩnh dứt khoát vượt qua cơn cám dỗ? Tôi đờ đẫn cả người, muốn vui mà vui không được, bỗng dưng cười hạnh phúc nhưng rồi lại tắt ngay! Bao nhiêu lo âu, ưu phiền bắt đầu dồn đến! Không hiểu khi ông luật sư biết, sẽ thanh toán tôi thế nào? Hellen nghĩ thế nào về tôi? Vợ con biết sẽ làm gì với tôi? Ngày mai gặp Hellen sẽ phải nói gì? Đủ thứ câu hỏi, dằn vặt, ăn năn, sợ hãi làm tôi mệt nhoài…
Rồi bỗng nhiên, tôi nghe thấy tiếng “Rầm! Rầm! Tôi giật mình choàng dậy! Cửa phòng ngủ của tôi bật tung ra! Tôi thấy ông luật sư người Trung Hoa mặt hầm hầm xông vào phòng, với hai người lạ mặt khác… Trên tay ông cầm khẩu súng. Ông tiến nhanh về phía tôi nói một tràng tiếng Tàu, mặt đỏ bừng có vẻ điên tiết với tôi chuyện gì! Tôi ú ớ, định hỏi ông việc gì? Nhưng ngay tức khắc, ông dí súng vào đầu tôi, rồi hét lớn, Get down! I kill you! Hai thằng lạ mặt xông lên căng hai chân tôi ra!... Tôi sợ qúa cứ cố hét lên! Mà không sao hét được! Tôi vùng vẫy kêu cứu nhưng không ra hơi! Tôi chợt nghĩ đến vợ tôi nằm bên cạnh cố quay qua kêu vợ cứu tôi! Nhưng không thể được… Thình lình tôi nhìn thấy chính bà vợ tôi đang đứng ở góc giường cầm con dao sắc bén xăm xăm nhìn vào chiếc đồng hồ qủa lắc dưới bụng của tôi. Tôi như hiểu ra được ý định của nàng! Tôi hét lên thật to kêu cứu! Kìa, con dao trên tay nàng đang tiến gần, tiến gần... Vung tay, tôi đấm loạn xạ, cố vùng ra khỏi cơn hiểm nguy! Một tiếng hét lớn vang lên.
Hình minh họa
Đó là tiếng hét của bà vợ. Tiếng hét cũng làm tôi choàng tỉnh! Cửa phòng ngủ vẫn đóng kín. Không thấy tay luật sư tàu. Mồ hôi toát ra như tắm. Tôi vội mở mền đắp, kiểm soát lại chiếc đồng hồ qủa lắc sinh học của mình coi thế nào? Sờ thì vẫn còn nguyên… Tự trấn tĩnh mình, tôi hiểu tôi vừa mơ ác mộng! Thật hú hồn!
Bên cạnh tôi, bà vợ đang ôm mặt. Nhớ là trong giấc mơ thấy nàng cầm dao tính cắt của qúy của tôi, tôi liếc vội, nhìn tay nàng, coi có cầm gì không? May quá. Không thấy dao. Tay nàng đang ôm mặt. Đúng chỉ là giấc mơ.
Hình minh họa
Anh làm gì lạ vậy? Sao đấm em mạnh thế? Tôi giải thích, anh nằm mơ bị cướp em ạ! Nên chống trả… rồi ôm nàng dỗ dành. Nàng vẫn đang xoa xoa trên mặt chỗ bị đấm, rồi trách, sao anh mơ mà đấm mạnh thế! Tím cả mặt em rồi! Hay là trả thù em cái gì? Tôi xấu hổ qúa! Miệng vẫn run nói lắp bắp thế em có sao không?
Dỗ dành hồi lâu mới được nằm xuống ngủ lại. Nhìn qua vợ, tôi nói xin lỗi xin lỗi không biết lần thứ mấy, rồi hôn nhẹ trên môi chúc nàng ngủ ngon…
Trước khi chìm lại vào giấc ngủ, tôi lại nhớ lời ông thầy bói và cẩn thận quay nghiêng người qua một bên, kẹp chặt kim đồng hồ, tay khóa thủ thế.
Tuyết Phong
Số Đào Hoa PHẠM HỒNG ÂN
Cách đây vài năm, tình cờ
ngao du trên Phố Ảo (online), tôi bỗng bắt gặp một trang Web sáng tác thơ văn
có một tên rất trữ tình : http://trinhnu.net/. Thấy trang Web có nhiều người
làm thơ thời trước, tôi liền gia nhập Member, rồi post lên một bài thơ nói về
trận bão tuyết ở Chicago, khi tôi chứng kiến tận mắt lúc đi thăm thằng con
cách đây vài năm.....
PHẠM HỒNG ÂN
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0224
ÂM DƯƠNG TRONG THIÊN NHIÊN
NGHỆ THUẬT NHẬT BẢN
Nghệ thuật Chàm- Ninh Thuận |
Nghệ thuật Chàm- Ninh Thuận
Trong mỗi ngôi tháp của Mỹ Sơn đều có Linga và Yoni, phần lớn đã bị hủy hoại, chỉ còn bộ Linga - Yoni ở tháp chính là còn tìm lại được. Hướng dẫn viên kể họ đã tìm thấy một mảnh lớn của bệ đá Yoni trong nhà một người dân, anh này lấy về để làm đá mài dao.
Núi Sập-An giang
3
|
anh Linga o Shore Temple(Mamalipuram,Nam An Dô),xây vào thê ky thu 7
Con dây là linga và Yoni o thanh dia My Son(thê ky thu 4) |
KINH TẾ VIỆT NAM
Cảnh giác trước thống kê nhà nước'
Cập nhật: 15:09 GMT - thứ hai, 16 tháng 7, 2012
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam mới đây thông báo số nợ xấu gần gấp đôi con số thống đốc Nguyễn
Văn Bình thông báo trước đó.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Vào ngày 7/7, chính NHNN đưa ra con số nợ xấu mà họ mô tả là theo báo cáo của các tổ chức tín dụng là hơn 117.000 tỷ đồng, chiếm 4,47% so với tổng dư nợ.
BBC ngày 16/7 đã có cuộc phỏng vấn với ông Raphael Cecchni, trưởng nhóm chuyên gia kinh tế của hãng phân tích rủi ro đầu tư Châu Á đóng tại Bỉ về vấn đề nợ xấu của Việt Nam.
BBC: Thanh tra Ngân hàng Nhà nước vừa cập nhật thông số nợ xấu cao gấp hai lần thông số Ngân hàng Nhà nước đưa ra chỉ một thời gian ngắn trước đó. Ông có bình luận gì trước điều này ?
Raphael Cecchni: Trước đến giờ chúng tôi đều hết sức cảnh giác với các thông số kinh tế tài chính mà Việt Nam đưa ra, dù là từ nguồn chính thống hay không. Các con số thống kê từ hệ thống ngân hàng lẫn các doanh nghiệp lâu nay đều thiếu minh bạch và không có độ tin cậy cao.
Báo cáo được cập nhật gần đây nhất đã cao hơn hẳn so với con số được công bố trước đó và tôi nghĩ là tiến gần với thông số nợ xấu thực tại Việt Nam hơn.
Tuy nhiên, sự thiếu thống nhất trong công tác khai báo thống kê tại các ngân hàng, công ty tại Việt Nam đang làm dấy lên sự lộn xộn và khiến tình hình tài chính trở nên rất khó để đánh giá.
"Sự gia tăng đối với con số nợ xấu đang ngày càng làm lộ rõ những điểm yếu trong hệ thống của Việt Nam và sẽ làm ảnh hưởng đến niềm tin vốn đã bị xói mòn vào nền kinh tế Việt Nam"
Trước khi những thông số nợ xấu được công bố, có một điều rõ ràng đó là những con số trước đó hoàn toàn thấp hơn với thực tế.
Sự mở rộng tín dụng liên tục, chủ yếu tập trung vào các Tập đoàn Nhà Nước kinh doanh thua lỗ; những chính sách quản lí rủi ro yếu kém; sự tập trung các khoản vốn vay vào các dự án có hiệu quả thấp, nhất là đối với lĩnh vực bất động sản là những nguyên nhân chính cho nợ xấu tại Việt Nam.
Thị trường bất động sản là một trong những vấn đề lớn vì khu vực này chịu trách nhiệm đối với phần lớn các khoản nợ xấu.
Thêm vào đó, khủng hoảng kinh tế thế giới rõ ràng đã gây khó khăn trong việc trả nợ của các công ty, và vì thế khiến các khoản nợ không phát huy được tác dụng.
Đây là thời điểm khó khăn đối với các nhà đầu tư tại các khu vực kinh tế đang hội nhập phát triển.
Tại Việt Nam, môi trường đầu tư đã được cải thiện hơn từ năm 2011 nhờ sự tiến bộ trong công tác quản lí kinh tế, trong đó nhấn mạnh ổn định vĩ mô.
Tuy nhiên, sự gia tăng đối với con số nợ xấu đang ngày càng làm lộ rõ những điểm yếu trong hệ thống của Việt Nam và sẽ làm ảnh hưởng đến niềm tin vốn đã bị xói mòn vào nền kinh tế Việt Nam. Sự suy giảm rõ rệt đối với đầu tư từ nước ngoài (FDI) năm 2012 là bằng chứng cho điều này.
Những khó khăn đến từ ngành ngân hàng đại diện cho rủi ro đối với sự ổn định kinh tế lúc này đến vào một thời điểm bất lợi, khi vốn đầu tư đang tìm về những nơi an toàn.
BBC: Những cách giải quyết ngắn hạn và dài hạn nào mà ông cho là hợp lí cho vấn đề nợ xấu tại Việt Nam ?
Trong thời điểm ngắn hạn, một cuộc cải tổ ngành ngân hàng cần được tiến hành nhanh chóng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa rồi đã ra quyết định xây dựng một công ty quản lí tài sản để mua và xử lí nợ xấu.
Một số giải pháp khác cũng cần được thực hiện, trong đó có việc tái huy động vốn các ngân hàng và thống nhất ngành ngân hàng qua việc sát nhập, mua lại.
Trong lúc đó, cần phải đẩy mạnh tầm quan trọng của việc duy trì hạn chế với các đối tượng vay thiếu trách nhiệm, chủ yếu là ở lĩnh vực bất động sản. Tuy nhiên cũng cần phải tung ra các khoản viện trợ cần thiết để trợ giúp năng lực trả nợ cho đúng đối tượng.
Trong tương lai dài, tôi cho rằng cần củng cố các cơ cấu giám sát và luật định, kiến thức và khả năng quản lý rủi ro của ngành ngân hàng.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/07/120716_bad_debt_interview.shtml
VN giải quyết nợ xấu thế nào?
Cập nhật: 11:24 GMT - thứ hai, 16 tháng 7, 2012
Trong khi Chính phủ và
Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam ra sức trấn an dư luận rằng nợ xấu đang
không ở mức đáng lo và đổ lỗi nợ xấu cho khủng hoảng kinh tế, giới quan
sát đang hoài nghi trước khả năng giải quyết vấn đề qua kế hoạch mua lại
nợ xấu của chính phủ nước này.
Theo thông báo của Chính phủ Việt Nam, Bộ tài
chính sẽ mua những món nợ xấu được đảm bảo từ các ngân hàng thương mại
để giúp cải thiện tình hình tại các ngân hàng này, trong kế hoạch cải
cách ngành Ngân hàng từ nay đến năm 2015 được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
phê duyệt.Hoài nghi
"Việt Nam vẫn không rõ phải định giá nợ xấu như thế nào. Đồng thời Chính phủ Việt Nam không đủ tiền để hấp thụ quá nhiều"
Các bài liên quan
Geoffrey Cain, nhà bình luận của Tờ Foreign Policy viết trong bài "Chấm dứt sự kì diệu Việt Nam" ngày 12/7: ”Thay vì cải cách nền kinh tế, Chính phủ Việt Nam đang đưa ra những cách giải quyết không có gì mới: kế hoạch xây dựng một Công ty mua bán nợ với số vốn 4,8 tỷ đôla để đối phó với các khoản nợ.”
“Tuy nhiên điều này chỉ có nghĩa là lại có thêm một bộ máy quan liêu đặt trong một hệ thống bảo trợ giữa những lãnh đạo cấp cao, các ngân hàng và các công ty”
Số vốn 4,8 tỷ đôla được rót vào công ty mua bán nợ chỉ bằng chưa đến một nửa tổng số nợ xấu 9,96 tỷ đôla được Cơ quan Thanh tra giám sát Ngân hàng công bố ngày 12/7.
Ông Alain Cany, Chủ tịch phòng thương mại Châu Âu tại Việt Nam bình luận với báo chí :”Việt Nam vẫn không rõ phải định giá nợ xấu như thế nào. Đồng thời Chính phủ Việt Nam không đủ tiền để hấp thụ quá nhiều.”
“Có lẽ chính phủ sẽ không thể mua nợ xấu với 100% giá trị nợ mà dựa vào giá trị khối tài sản đảm bảo,” – Ông Cany nói thêm.
Ngay cả trong tháng Năm, các nghiên cứu của giới quan sát trên thế giới đã tỏ vẻ hoài nghi về mức độ trung thực của con số thống kê nợ xấu mà Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam đưa ra.
“Các khoản nợ xấu thực tế của Việt Nam phải cao hơn mức được đưa ra đến ba, bốn lần và chắc chắn nợ xấu sẽ tiếp tục tăng” – Tờ Capital Economics viết.
Cũng có những ý kiến khác so sánh tình hình kinh tế Việt Nam với Nhật vào thời điểm năm 2000 để thể hiện quan ngại việc mua và bán nợ không thể giải quyết vấn đề nợ xấu.
Vào năm 2000, đứng trước những khoản nợ xấu chồng chất lên đến hàng triệu yên khi bong bong bất động sản Nhật bị vỡ, chính phủ nước này đã cố gắng bơm hàng triệu yên vào các ngân hàng lớn để tạo ra các quĩ đầu tư nhằm mua lại nợ xấu.
Tuy nhiên giải pháp này đã hoàn toàn thất bại và cuối cùng, chính phủ Nhật đã phải giải quyết vấn đề bằng việc ép tất cả những ngân hàng yếu kém phải đóng cửa.
Lựa chọn giải pháp
“Để giải quyết nợ xấu, ngân hàng cho vay cần phải có biện pháp giám sát đảm bảo bên được vay sử dụng nguồn vốn theo đúng qui ước,” Giám đốc điều hành chi nhánh Ngân hàng phát triển Châu Á tại Việt Nam ông Tomyuki Kimura cho biết trong buổi phỏng vấn với báo chí.Một giải pháp nữa mà ông này đề nghị, đó là biến các khoản nợ thành các khoản vốn gắn liền với tái cơ cấu doanh nghiệp, vốn là một giải pháp mà ông cho rằng sẽ là khá phổ biến trong tương lai đối với ngành ngân hàng.
“Đây là giải pháp nhằm tái cơ cấu doanh nghiệp qua các biện pháp như xóa bỏ một số khoảng lãi suất, tái định thời hạn nợ, thay đổi giao ước cho vay và hỗ trợ các nguồn tài chính cần thiết để giúp các khách hàng của họ phục hồi”. Ông Kimura thêm.
Một số ý kiến khác đề xuất việc tái huy động vốn vay nợ. Điều này có nghĩa là huy động thêm vốn vay để hỗ trợ việc trả nợ cũ. Tuy nhiên điều này là khá nguy hiểm vì khó phân biệt được giữa việc tái huy động để giấu nợ xấu và tái huy động để tăng cường hoạt động kinh doanh.
Các chuyên gia trong nước lại có ý kiến rằng, Ngân hàng Nhà Nước cần xem xét giảm lãi suất tái cấp vốn xuống để hỗ trợ các Ngân hàng. Các ngân hàng đồng thời cũng nên giảm lãi cho doanh nghiệp để cùng tồn tại.
Giới đánh giá cho rằng, dù là lựa chọn bất kì giải pháp nào, Việt Nam cần cực kì thận trọng và đảm bảo rằng qui trình tiến hành được thực hiện một cách rõ ràng, minh bạch.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2012/07/120713_vnbaddebt.shtml
Nợ xấu tăng 'là do chính phủ'
Cập nhật: 15:28 GMT - thứ ba, 10 tháng 7, 2012
Một thành viên của Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính tiền tệ Quốc gia nói về các nguyên nhân dẫn tới nợ xấu lớn ở Việt Nam.
Ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ
Thương mại, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính tiền tệ Quốc
gia, được dẫn lời nói tại một diễn đàn trực tuyến vào đầu tuần này rằng
nguyên nhân trước tiên là do “Chính phủ quản lý lỏng lẻo”.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Bình luận được đưa ra tại buổi Bấm giao lưu trực tuyến giữa các chuyên gia kinh tế và ngân hàng do Thời báo Kinh tế Việt Nam tổ chức vào ngày 09/07 trong bối cảnh đã có trên 26.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động tại Việt Nam trong sáu tháng đầu năm nay và nợ xấu tăng cao so với năm ngoái.
Theo quy định của các cơ quan tài chính quốc tế thì những khoản nợ vay quá 90 ngày và khả năng trả nợ cả gốc và lãi bị nghi ngờ được bị xếp vào loại nợ xấu.
"Để giải quyết vấn đề nợ xấu cần làm rõ tổng số nợ xấu, số nợ xấu trong từng ngành kinh tế, bất động sản, chứng khoán, trong từng ngân hàng"
Kinh tế gia Lê Đăng Doanh
“Tỷ lệ nợ xấu mà các công ty xếp hạng tín dụng quốc tế đưa ra cao hơn nhiều so với tỷ lệ nợ xấu mà chúng ta tự xác định, thí dụ Fitch đã đưa ra tỷ lệ nợ xấu 13%. Các chuyên gia Việt Nam đưa ra tỷ lệ nợ xấu khác nhau từ 8 - 14%”.
“Để giải quyết vấn đề nợ xấu cần làm rõ tổng số nợ xấu, số nợ xấu trong từng ngành kinh tế, bất động sản, chứng khoán, trong từng ngân hàng”, ông Doanh nói thêm.
Ông Doanh cũng phê phán cách điều hành của chính phủ theo chính sách mà ông gọi là "có tính tình thế, thay đổi giật cục, đột ngột, khó dự đoán và làm cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong đầu tư và kinh doanh".
Ông Doanh nhắc lại hai nguyên nhân là “tư duy nhiệm kỳ” và “lợi ích nhóm” mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra tại Hội nghị 3 Ban chấp hành Trung ương.
‘Cục máu đông’
"Người ta coi đó là “cục máu đông” rất nguy hiểm của huyết mạch của nền kinh tế. Vì vậy, các ngân hàng đều rất sợ", ông Trương Đình Tuyển nhận xét.
Cựu Bộ trưởng Thương mại cũng liên hệ tới bong bóng bất đọng sản vỡ vào những năm cuối thập kỷ 80, đầu 90 của thế ký trước tại Nhật dẫn đến nợ xấu chiếm đến 9% tổng dư nợ và rằng cuộc tranh luận dai dẳng (có lấy tiền thuế của dân để xử lý nợ xấu hay không) gây tác động dai dẳng đến nền kinh tế.
"Hiện nay có một số dự kiến, một số phương án khác nhau để giải quyết nợ xấu song chưa có quyết định cuối cùng của Chính phủ", ông Tuyển nói thêm.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy việc xử lý nợ xấu khá tốn kém, phải đi liền với việc cải cách mạnh mẽ hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp.
Trong cuộc trao đổi với bạn đọc trên mạng, ông Võ Trí Thành từ Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nhận định cho điều ông gọi là sự hoài nghi của thị trường vẫn còn khiến việc khởi động phát triển kinh vẫn còn khó khăn.
"Về tổng thể, kinh tế Việt Nam năm nay rất dễ tổn thương, dù có vượt qua được khó khăn thì nhìn chung cả năm vẫn còn rất khó khăn", ông Thành nói.
Trả lời phỏng vấn với BBC vào đầu tuần này, chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành tỏ ra quan ngại về thực trạng nợ xấu trong khối ngân hàng tại Việt Nam và khuyến cáo Ngân hàng Nhà nước nên có động thái mà ông gọi là "thanh tra kiểm tra như thế nào cho chính xác".
Trong cuộc phỏng vấn với BBC Tiếng Việt ngày 09/07/2012, ông Thành đặt câu hỏi rằng hệ thống ngân hàng thương mại có chịu khai báo một cách trung thực hay không.
"Những con số đưa ra là chưa có đủ độ tin cậy", ông Thành nói thêm.
Ông Thành cũng bình luận rằng theo một số nhà nghiên cứu khách quan thì số nợ xấu có thể lên tới hơn 14% trong khi giải trình trước quốc hội mới đây, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Bình nói số nợ xấu trên toàn hệ thống lên tới 10%.
Ông Thành cảnh báo trong trường hợp nợ xấu lên tới 25% của GDP thì có thể xem Việt Nam có nguy cơ khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2012/07/120710_vn_bad_debt.shtml
TIN BIỂN ĐÔNG
Clinton ‘phá bĩnh’
Cập nhật: 13:59 GMT - chủ nhật, 15 tháng 7, 2012
Hãng tin Tân Hoa Xã của Trung
Quốc hôm thứ Bảy ngày 14/7 đã đăng bài xã luận chỉ trích
chuyến Á du mới đây của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton là gây
căng thẳng trên Biển Đông.
Dưới tiêu đề ‘Sự can dự của Mỹ không có
lợi cho ổn định của khu vực châu Á-Thái Bình Dương’, Tân Hoa Xã
cho rằng việc Clinton ‘nhúng mũi’ vào Biển Đông ‘một lần nữa
làm dậy sóng Nam Hải’.‘Bao vây ngoại giao’
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Theo Tân Hoa Xã thì chuyến công du của bà Clinton đến một loạt nước láng giềng của Trung Quốc như Afghanistan, Nhật Bản, Mông Cổ, Việt Nam, Lào và Campuchia là ‘chẳng gì khác hơn mà hiển nhiên là bao vây ngoại giao’ đối với Trung Quốc.
Tân Hoa Xã cáo buộc ngoại trưởng Mỹ đã ‘chõ mũi’ vào vấn đề Biển Đông với việc nhiều lần nhấn mạnh lợi ích của Mỹ trên vùng biển này và công khai hậu thuẫn các quốc gia Asean đơn lẻ ‘làm phức tạp thêm tranh chấp’.
"Trong nhiều thập nhiên qua, vấn đề Nam Hải đại thể vẫn yên ổn vì Trung Quốc và các quốc gia có tranh chấp khác đều tìm kiếm giải pháp dựa trên sự đàm phán hữu hảo song phương."
Tân Hoa Xã
“Trong nhiều thập nhiên qua, vấn đề Nam Hải đại thể vẫn yên ổn vì Trung Quốc và các quốc gia có tranh chấp khác đều tìm kiếm giải pháp dựa trên sự đàm phán hữu hảo song phương,” bài xã luận viết.
Tuy nhiên kể từ khi Ngoại trưởng Clinton loan báo rằng Washington có ‘lợi ích quốc gia’ ở Biển Đông và sẽ quay trở lại châu Á thì ‘căng thẳng đã ngầm sục sôi’.
Bài báo đưa ra các dẫn chứng cho việc căng thẳng bùng phát là Philippines ‘đòi chủ quyền ở Hoàng Nham Đảo’, ‘trò hề của Nhật Bản để mua lại Điếu Ngư Đảo’ và ‘Viêṭ Nam thực thi một đạo luật khẳng định chủ quyền đối với các quần đảo Tây Sa và Nam Sa’.
“Nhiều sự việc đã chứng tỏ rằng trên vấn đề Nam Hải đã có những đổi thay to lớn kể từ khi Washington ‘xoay trục’ quân sự và kinh tế về phía châu Á – một chiến lược mà nhiều người cho rằng là nỗ lực của Mỹ nhằm kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực,” bài báo cáo buộc.
‘Hành động một chiều’
Theo phân tích của Tân Hoa Xã thì mặc dù
‘Hoa Kỳ một mặt tuyên bố không đứng về phía ai nhưng mặt khác
họ lại có những hành động một chiều’.
Tân Hoa Xã viện dẫn việc Washington ‘không
những tiến hành tập trận chung với Philippines mà còn bán hai
chiến hạm lớp Hamilton cho nước này’ kể từ khi bùng phát cuộc
đối đầu ở bãi cạn Scarborough hồi tháng Tư để chứng minh cho
lập luận trên.
Một bằng chứng nữa, theo Tân Hoa Xã, là
việc Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ mới đây loan báo thay đổi cán cân
sự hiện diện của hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương và Đại Tây
Dương theo tỷ lệ 5-5 như hiện nay thành 6-4 nghiêng về Thái Bình
Dương cho đến năm 2020.
“Tục ngữ Trung Quốc có câu ‘Cây muốn lặng
mà gió chẳng đừng’. Mặc dù Trung Quốc đã cố gắng kiềm chế
và nhấn mạnh giải quyết tranh chấp bằng con đường ngoại giao
nhưng một số nước vẫn tiếp tục thách thức Trung Quốc mà điều
này chắc chắn có liên quan với việc tái can dự của Washington
vào khu vực,” bài xã luận cáo buộc.
"Washington nên hiểu rằng quay trở lại châu Á bằng cách diễu võ giương oai về quân sự, can thiệp về ngoại giao trong các tranh chấp song phương là sai lầm và thiển cận."
Tân Hoa Xã
Cũng theo Tân Hoa Xã, thì Bắc Kinh ‘hoan
nghênh’ việc chuyển hướng của chính quyền Tổng thống Barack
Obama sang châu Á-Thái Bình Dương ‘miễn là điều này có lợi cho
hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực’.
Tuy nhiên, những gì xảy ra hai năm qua đã
cho thấy kết quả ‘rõ ràng là đi ngược lại ổn định khu vực’,
Tân Hoa Xã nhận định.
“Washington nên hiểu rằng quay trở lại châu
Á bằng cách diễu võ giương oai về quân sự, can thiệp về ngoại
giao trong các tranh chấp song phương là sai lầm và thiển cận,”
bài xã luận viết.
“Sai lầm vì nó tạo điều kiện cho đối đầu
thay vì hợp tác mà điều này thì không có lợi cho sự phát
triển của châu Á và cũng đi ngược lại lợi ích lâu dài của
Mỹ.”
Bài xã luận kết luận rằng Mỹ nên làm
việc nhiều hơn để thúc đẩy ‘hợp tác cùng có lợi’ còn hơn là
‘gây rối loạn cho hòa bình và phát triển’ của khu vực châu
Á-Thái Bình Dương.
Bất lực trước sự lộng hành của Trung Quốc
Thanh Quang, phóng viên RFA
2012-07-16
Dù Phương Bắc chứng tỏ không cần che giấu hành động ngày càng gây hấn, xâm chiếm ở Biển Đông – nhất là đối với lãnh hải Việt Nam, nhưng những hành động ấy xem chừng như trở nên ráo riết mạnh mẽ đáng ngại sau khi Quốc Hội Việt Nam thông qua Luật Biển khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Photo news.cn
Và hiện nay, điểm ngày càng rõ nét là hành động của Bắc Kinh có thể nhằm đưa Việt Nam vào cái thế “đụng đầu khó tránh” – nói theo lời blogger Tiến Hồng.
Trong mấy ngày nay, báo chí trong nước mạnh mẽ báo động “Lại thêm một hành vi gây hấn mới của Trung Quốc trên Biển Đông”, hay “Trung Quốc gây hấn, đưa 30 tàu cá đến Trường Sa”, hoặc “Tàu cá hay là đội tiền trạm chiến tranh?”.
Blogger Thu Thuỷ đề cập tới các báo in, báo mạng Việt Nam “trong luồng lẫn ngoài luồng” đều “hết sức bực bội” trước hành động khiêu khích gia tăng của Trung Quốc: Điều cùng lúc 30 chiếc tàu cá tới gọi là “làm nhiệm vụ” và đánh bắt ở vùng Trường Sa của Việt Nam dù chính Bắc Kinh trước đó đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt trong thời gian từ tháng 5 tới tháng 8 này để bảo vệ “mùa cá đẻ”.
Tân Hoa Xã và báo chí khác của Trung Quốc gần như đồng loạt đề cập tới “lễ khởi hành rầm rộ” tại cảng Tam Á, đưa một đoàn tàu mà họ mô tả là “hoạt động đánh bắt quy mô nhất kể từ nhiều năm
nay”, có tàu ngư chính hộ tống, xuống xâm phạm ngư trường gần đảo Chữa Thập – mà Trung Quốc gọi là đảo Vĩnh Thử - của Việt Nam thuộc quần đảo Trường Sa.
“lễ khởi hành rầm rộ” tại cảng Tam Á, đưa một đoàn tàu mà họ mô tả là “hoạt động đánh bắt quy mô nhất kể từ nhiều năm nay”, có tàu ngư chính hộ tống, xuống xâm phạm ngư trường gần đảo Chữa Thập – mà Trung Quốc gọi là đảo Vĩnh Thử - của Việt Nam thuộc quần đảo Trường Sa.Được biết trong số 30 chiếc tàu vỏ thép 140 tấn này có một tàu tiếp tế hạng nặng 3.000 tấn lo cung cấp dầu, nước, nhu yếu phẩm kiêm thu mua, chế biến thuỷ sản tại chỗ, trong hành động xâm lấn lãnh hải mà phía Hoa Lục khoe là một chiến dịch đánh bắt với sự tham dự đầy đủ của các tàu ngư chính, các đài thông tin trên bộ, các cơ quan liên hệ để
“kịp thời ứng phó với những tình huống bất ngờ” nhằm bảo vệ việc đánh cá trái phép của họ.
Qua bài “Bảo vệ ngư dân là bảo vệ chủ quyền” đất nước, tác giả Tống Văn Công lưu ý:
Trong tình hình Trung Quốc đơn phương gây hấn trên Biển Đông, ngư dân không chỉ là lực lượng đi đầu hoạt động khai thác thủy sản mà còn có vai trò khẳng định chủ quyền biển đảo…Họ là những dân binh không có vũ khí, chỉ có trái tim nóng hổi dòng máu Việt, dám làm “cột mốc sống” trên lãnh hải thiêng liêng. Do đó, bảo vệ ngư dân có ý nghĩa là bảo vệ chủ quyền quốc gia.
...ngư dân không chỉ là lực lượng đi đầu hoạt động khai thác thủy sản mà còn có vai trò khẳng định chủ quyền biển đảo. Họ là những dân binh không có vũ khí, chỉ có trái tim nóng hổi dòng máu Việt, dám làm “cột mốc sống” trên lãnh hải thiêng liêng. Do đó, bảo vệ ngư dân có ý nghĩa là bảo vệ chủ quyền quốc giaCâu hỏi từng được nêu lên nhưng xem chừng như chưa có câu trả lời rằng ngư dân Việt Nam được bảo vệ ra sao ?
Tống Văn Công
Các lực lượng của Việt Nam, từ cảnh sát biển, biên phòng, hải quân, không quân cho tới các quan chức hữu trách có bảo vệ ngư dân bị phía Trung Quốc tấn công, bắn giết, đánh đập, trấn lột thuỷ sản, bắt cóc đòi tiền chuộc…hay không ?
Báo Sàigòn Tiếp thị trích dẫn lời một ngư dân thuộc huyện Lý Sơn, Quảng Ngãi, cho biết “cứ ra biển cách đất liền mấy chục hải lý là gặp nhan nhản tàu cá Trung Quốc. Hải hùng nhất là cách tàu Trung Quốc đánh cá…hàng chục tàu dàn hàng ngang trên biển, cào tất tần tật cá, tôm, cua cùng các loải hải sản”, cào cả lưới của ngư dân Việt Nam.
Blogger Hồ Cương Quyết, tức André Manras, cho biết:
Tôi đã phỏng vấn rất nhiều người ở đảo Lý Sơn, Bình Châu về những chuyến đi ra biển đầy gian nan của chồng con họ. Có gia đình bây giờ không còn ai chăm sóc và chị vợ phải
vừa làm mẹ vừa làm cha. Ông chồng chết vì Trung Quốc bắn và xác mất luôn không tìm ra. Nhiều gia đình rất đau khổ vì không thể kiếm ăn trên vùng biển Hoàng Sa là vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam… Tôi nghĩ rằng nếu nhà nước Việt Nam có một người lãnh đạo xứng đáng thì phải hết sức bảo vệ ngư dân. Muốn làm vừa lòng Trung Quốc?
Nhưng, trong khi nhà nước chưa có hành động cụ thể nào chứng tỏ “bảo
vệ ngư dân”, thì người dân yêu nước biểu tình chống Trung Quốc xâm lược
lại bị nhà nước tiếp tục thẳng tay đàn áp. Nếu cách đây chưa lâu, tướng
Nguyễn Chí Vịnh khi đi sứ sang Tàu long trọng cam kết với Trung Nam Hải
rằng “kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam” và “dứt
khoát không để sự việc tái diễn”, thì hồi thứ Sáu ( 13 tháng 7) tuần
rồi, một quan chức khác của Việt Nam, ông Nguyễn Thế Thảo, Chủ tịch Uỷ
ban Nhân dân TP Hà Nội, lưu ý tại kỳ họp bế mạc của Hội đồng Nhân dân TP
Hà Nội cũng về tình trạng “tập trung đông người” kéo về Hà Nội “theo
chỉ đạo của đối tượng xấu”.
...tướng Nguyễn Chí Vịnh khi đi sứ sang Tàu long trọng cam kết với Trung Nam Hải rằng “kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam” và “dứt khoát không để sự việc tái diễn
Blogger Người Buôn Gió phản ứng rằng sự ngang ngược của Trung Quốc
khiến những kẻ trong nước muốn chỉ trích biểu tình phải “nín thinh chờ
cơ hội”, vì sợ “bị lộ bản chất thân Tàu”. Nhưng, vẫn theo Người Buôn
Gió, “một chính khách có tầm cỡ, lão luyện như Nguyễn Thế Thảo…chọn thời
điểm để bộc lộ quan điểm của mình”, “tranh thủ lời phát biểu về các vấn
đề mà các đại biểu quan tâm đề trình bày cái quan tâm của ông ta. Đó là
dân biểu tình, khiếu kiện” tại Hà Nội, mà “trọng tâm của chủ tịch
Nguyễn Thế Thảo là phê phán, chỉ tích biểu tình”, phân tích rằng những
người biểu tình, khiến kiện là bị thế lực thù địch, cơ hội xúi giục, dù
ông ta không nói nguyên nhân nào khiến dân chúng phải biểu tình. Theo
Blogger Người Buôn Gió thì “ Đáng ra nếu đổ cho người dân đi khiếu kiện
là do thế lực thù địch xúi giục như quan điểm suy diễn của ông Thảo, thì
công bằng phải nói những kẻ tạo ra nguyên nhân khiến dân chúng đi biểu
tình, khiếu kiện là thế lực đại thù địch”. Và blogger này nhận xét:
Ở bên kia biên giới chắc chắn có những cái gật gù hài lòng vì một
quan chức lớn nhất thủ đô Việt Nam đã bày tỏ thái độ mở màn như vậy, sau
một tuần im ắng của ngôn luận Việt Nam với các cuộc biểu tình. Lý do
bởi loạt gây hấn của Trung Quốc tại biển Đông và trên bàn hội nghị bộ
trưởng ngoại
giao các nước Đông Nam Á.
...trọng tâm của chủ tịch Nguyễn Thế Thảo là phê phán, chỉ tích biểu tình”, phân tích rằng những người biểu tình, khiến kiện là bị thế lực thù địch, cơ hội xúi giục, dù ông ta không nói nguyên nhân nào khiến dân chúng phải biểu tình.
Khi nêu lên câu hỏi có phải “Ông Nguyễn Thế Thảo bị Trung Quốc lợi dụng !?”, blogger Nguyễn Tường Thuỵ phân tích:
Nói về ý mới, ông Thảo cho rằng, vừa qua, những người nông dân
khiếu kiện về đất đai bị lợi dụng tham gia vào cuộc biểu tình chống
Trung Quốc để gây phức tạp về an ninh – trật tự. Ai xúi giục, lôi kéo họ
đây? Họ biểu tình chống Trung Quốc là trách nhiệm công dân của họ.
Không thể nói những người dân oan không có tình yêu đối với Tổ quốc.
Việc họ bị cướp đất, đi đấu tranh đòi quyền lợi và việc đi biểu tình
chống Trung Quốc là hai chuyện khác nhau. Cảm phục những người nông dân
vừa bị cướp đất, vừa bị đánh mà vẫn không quên trách nhiệm của một con
dân nước Việt. Còn ý cũ, vẫn là những luận điệu mà chính quyền, báo chí
nói ra rả từ hơn một năm nay. Đó là việc gán cho những người biểu tình
bị thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị lợi dụng, lôi kéo, kích
động. Nói thế, ông Thảo đã đứng ở vị trí bề trên mà nhìn xuống dưới, coi
thường những người biểu tình. Ông làm như thể họ là những người không
hiểu biết nên dễ bị lợi dụng, còn ông mới là người kiên định. Nói thế là
ông đã xúc phạm đến họ. Họ không còn là bầy cừu để cho kẻ khác chăn
dắt. Xin hỏi ông, tại sao ông không lợi dụng họ mà lại nhường sân cho
cái thằng vô hình nào đó...Và, khi ông nhận xét về những người biểu tình
như thế, khi ông chủ trương không để dân bị xúi giục tụ tập biểu tình,
ông có nghĩ rằng ông đang bị Trung Quốc nó lợi dụng không?
Blogger Hồ Cương Quyết lên tiếng với lãnh đạo Việt Nam rằng đã đến
lúc họ phải chọn con đường của họ trước cuộc tấn công đang tăng của
Trung Quốc nhắm vào đất nước và các tài nguyên Việt Nam, chống lại nhân
dân và tương lai của dân tộc Việt. Blogger Hồ Cương Quyết cảnh báo rằng
“Tình thế đang ngày càng nghiêm trọng chẳng còn chừa chỗ cho những bào
chữa, cho chỉ những tuyên bố về nguyên tắc, cho những chần chừ tránh né,
cho những cuộc thăm viếng hữu nghị dối trá. Gỡ mặt nạ xuống đi mà chọn
lấy chỗ đứng rõ ràng và tỏ rõ mình là ai”.
Qua bài “Trông người mà ngẫm đến ta”, TS Nguyễn Minh Hoà cũng báo
động về 2 bức tranh tương phản khiến rất có lợi cho Trung Quốc mà rất có
hại cho Việt Nam, qua đó, “nhà cầm quyền Trung Quốc thành công trong
chiến dịch tuyên truyền không chỉ với người bình dân mà cả với giới trí
thức và phần nào thành công trên trường quốc tế” trong khi “có một thực
tế không phủ nhận được là truyền thông về vấn đề Biển Đông của ta rất
yếu ớt”.
Tình thế đang ngày càng nghiêm trọng chẳng còn chừa chỗ cho những bào chữa, cho chỉ những tuyên bố về nguyên tắc, cho những chần chừ tránh né, cho những cuộc thăm viếng hữu nghị dối trá. Gỡ mặt nạ xuống đi mà chọn lấy chỗ đứng rõ ràng và tỏ rõ mình là ai
Blogger Hồ Cương Quyết
Theo TS Nguyễn Minh Hoà thì nếu ai đến Trung Quốc hay có điều kiện
xem báo chí, các chương trình truyền hình, radio của Trung Quốc phát đi
bằng nhiều thứ tiếng khác nhau thì mới thấy Bắc Kinh “đang huy động có
chủ đích toàn bộ sức mạnh của bộ máy truyền thông đại chúng với tần số,
tần suất rất cao, dày đặc, phủ sóng rộng khắp để tuyên trường về chủ
quyền biển đảo của Trung Quốc”. Thậm chí họ đưa vấn đề trên các diễn đàn
quốc tế, đưa vào giáo trình, cho các học giả hàng đầu xuất hiện thường
xuyên trên hệ thống truyền hình để “tung ra các luận điệu, trưng ra các
bằng chứng” gọi là lịch sử rằng Biển Đông là của họ. TS Nguyễn Minh Hoà
báo động:
Họ đã đạt được mục đích. Bằng chứng là hầu hết người Trung Quốc
lục địa và người Trung Quốc hải ngoại đều hiểu rằng những gì Việt Nam,
Philippines đang làm là không “phải đạo”, là “phi nghĩa” và chuẩn bị gây
hấn với Trung Quốc… Nhà cầm quyền Trung Quốc thành công trong chiến
dịch tuyên truyền không chỉ với người bình dân mà cả với giới trí thức
và phần nào thành công trên trường quốc tế.
Thế còn phía Việt Nam thì sao ? Theo TS Nguyễn Minh Hoà thì “Rõ ràng
chúng ta có chính nghĩa, có rất nhiều bằng chứng về lịch sử, địa lý, dân
số và pháp lý về Hoàng Sa, Trường Sa nhưng thử hỏi bao nhiêu người dân
được nghe, được thấy nó trên báo chí và đặc biệt là trên truyền hình”.
TS Nguyễn Minh Hoà nhận xét:
Người dân yêu đất nước, người dân phẫn nộ trước sự lộng hành, lộng
ngôn của Trung Quốc, nhưng tình cảm máu thịt đó không thể chỉ xuất phát
từ trái tim mà cần phải được nuôi dưỡng bằng sự thật chân lý, bằng kiến
thức và sự hiểu biết. Ngay cả các trí thức Việt Nam nếu không được
trang bị những kiến thức như thế rất khó nói trong các hội nghị, hội
thảo quốc tế. Thật tiếc là những thông tin tối cần thiết như thế lại
không được trình bày ngọn ngành hàng đêm trên truyền hình quốc gia (chứ
không phải như là một điểm tin hay một thông báo ngắn gọn). Lẽ nào vì
thời gian phát sóng một giờ quá đắt, lẽ nào các nhà khoa học của chúng
ta không tự tin và không đủ kiến thức?...
Thanh Quang cảm ơn quý vị vừa theo dõi Tạp chí Điểm Blog hôm nay, và mong gặp lại quý vị trong chương trình kỳ tới.
VN vẫn chủ trương đàn áp biểu tình chống TQ
Gia Minh, biên tập viên RFA
2012-07-02
Biểu tình chống Trung Quốc có hành động ngang ngược vi phạm chủ quyền của Việt Nam, cũng như ủng hộ Luật Biển mà Quốc hội thông qua diễn ra tại Hà Nội và Sài Gòn hôm ngày 1 tháng 7.
AFP
Ngăn chặn
Cảnh sát khu vực, an ninh tại hai nơi Hà Nội và Sài Gòn trong những ngày trước khi diễn ra họat động biểu tình theo như kêu gọi xúât hiện trên mạng đã đến tại gia đình của nhiều biểu tình viên của năm ngóai để nhắc nhở, cảnh báo họ không nên tham gia biểu tình vào ngày 1 tháng 7.
Cô Nguyễn Hòang Vi cho biết việc gia đình bị theo dõi và cô phải rời nhà vài hôm trước để ngày 1 có thể
cùng biểu tình với người khác tại trung tâm Sài Gòn:
Cô Nguyễn Hòang Vi
"Em về nhà mẹ báo mới biết có khỏang chục người canh từ hôm qua đến hôm nay, cả đêm cũng canh. Nhưng em đã ra khỏi nhà từ hôm thứ sáu rồi. Em ở chung với chị Hằng và anh Chí Đức. Hai người đi trước bị bắt nhưng em đi sau nên không bị bắt."
Anh Nguyễn Chí Đức, một biểu tình viên và bản thân là một Đảng Viên Đảng CSVN, trong một lần biểu tình hồi năm ngóai đã bị bắt đưa lên xe búyt và một sĩ quan công an đạp vào mặt, trong dịp này cũng bị cảnh sát khu vực đến gia đình làm việc như anh cho biết:
"Họ dùng công an thành phố Hà Nội, nhưng ở cùng xóm nên biết nhau. Họ mời sáng ‘hôm ấy’ đi uống cà phê nhưng em xác nhận với họ sáng ‘hôm ấy’ không ra Bờ Hồ, và thề danh dự luôn; vì sự thực em không ở Hà Nội mà ở Sài Gòn."
Sách nhỉễu
Dù thực hiện được ý muốn là vào Sài Gòn để rồi cùng một số đồng bào khác ở miền Nam đi tuần hành biểu tình, nhưng rồi anh Nguyễn Chí Đức cuối cùng bị công an ngăn trở họat động của bản thân qua việc bị bắt đi làm việc khi đang đi cùng một biểu tình viên có tiếng khác là bà Bùi thị Minh Hằng.Anh kể lại ngày làm việc 1 tháng 7 với cơ quan chức năng tại Sài Gòn:
"Vào đấy lẽ ra em đi một mình nhưng có chị Bùi Hằng ra đón, và sau đó về ở nhà trọ. Sáng hôm sau 5 giờ sáng hai chị em đi ra ga thì có một nhóm người mặc thường phục khống chế bắt taxi đưa vào một đồn công an.5 giờ sáng hai chị em đi ra ga thì có một nhóm người mặc thường phục khống chế bắt taxi đưa vào một đồn công an. Sau đó họ bắt đưa chị Hằng về lại Vũng Tàu, em cũng muốn đi theo nhưng người ta không cho.Anh Nguyễn Chí Đức
Sau đó họ bắt đưa chị Hằng về lại Vũng Tàu, em cũng muốn đi theo nhưng người ta không cho. Ở lại thì em về nhà trọ để lấy đồ. Công an nói muốn lấy đồ phải lập biên bản tại phòng trọ. Nhưng em không muốn vì một mình ‘đơn thương, độc mã’, trong khi họ đông người; nên phải tránh trường hợp họ dựng ‘bằng chứng’ giả đối với mình.
Em bảo họ phải lên công an phường để làm việc cho đàng hòang. Họ đồng ý đi lên phường. Ở phường họ làm việc chủ yếu về mối quan hệ của em với chị Bùi Hằng.
Lúc đầu họ chưa biết em là ai, nhưng làm việc rõ ràng nên em đưa chứng minh thư ra, và họ biết là Nguyễn Chí Đức. Đối với họ, họ thấy nguy hiểm quá nên tiếp tục câu lưu chứ không cho ra về ngay.
Lúc đầu họ nghĩ xong việc thì cho ra, nhưng không ngờ. Vì cũng có một số anh em khác ở Hà Nội cũng muốn vào chi viện; họ giữ chân đến 3 giờ. Nói chung cũng vui vẻ thôi, chẳng có nạt nộ đàn áp. Nạt nộ đàn áp với em không được vì em rất rắn.
Đến lúc 3 giờ họ yêu cầu em về Hà Nội luôn, nhưng em nói đi đâu là quyền của tôi; còn nếu các anh thấy tôi làm việc gì phi pháp thì có lệnh bắt khẩn cấp. Đó là một, còn nếu muốn tôi hợp tác làm chuyện gì A,B,C… thì phải có giấy triệu tập; còn không phải thả tôi ra.
Họ vận động em phải về Hà Nội ngay, thậm chí họ còn bảo sẽ mua vé tàu cho em về, nhưng em không đồng ý nói đi đâu là quyền của tôi. Sau khi động viên, rồi ‘xa luân chiến’, một người đưa em ra một chỗ nào đó và em ‘tùy nghi di tản’."
Ông Hùynh Công Thuận, một blogger bị an ninh theo dõi chặt nhưng cũng ra đuợc đến gần đòan người biểu tình, nhưng rồi ông đã bị lực lượng chức năng cố thu điện thọai và đưa ông đi làm việc như lời ông kể sau khi làm việc ra:
"Họ bắt tôi đưa vào Phường Bến Thành, mới vừa ra hồi 5 giờ. Tôi đưa xếp tôi đi bằng xe hơi vòng vòng, và khi đến khách sạn New World tôi đậu ở đó, quay kiếng xuống. Có mấy thằng thanh niên nhào vào giựt điện thọai của tôi. Tôi la làng lên.
Lúc đó có công an sắc phục và công an giao thông đến yêu cầu tôi đưa giấy tờ và mời tôi về phường. Vô trong đó chỉ ngồi không chứ không làm gì hết. Hôm nay biểu tình nhiều quá và họ thấy tôi ở ngòai quận nhất nên họ không đồng ý chứ không có gì hết trơn".
Một người xưng tên là Anh Hai Sài Gòn, chứng kiến việc một số nguời bị công an bắt đưa lên xe ngay khi đòan tuần hành xuất phát, cũng như việc ông bị những người mặc thường phục lên tiếng cấm ông chụp hình, quay phim cảnh bắt bớ và biểu tình:
"Khỏang 8:30’ có một chiếc xe 15 chỗ, mang biển số 53LD-0310 chạy tới đậu. Có lực lượng mặc áo vàng, có lực lượng mặc áo xanh, an ninh… tất cả rất đông từ từ tiến lại và vào bắt một ông sư râu dài bạc, và chừng 5-6 thanh niên nữa tống lên xe.
Tôi đứng cách mấy chục mét và đứng trên bậc cao bao cây xanh.
Đứng đó tôi lấy máy bấm sẵn ra định chụp thì có hai ‘thằng’ mặc đồ giống đám bụi đời hỏi tôi ở bên lực lượng nào, tôi nói không lực lượng nào hết và họ nói ‘anh không được chụp hình’." Riêng cô Nguyễn Hòang Vi thì tham gia đuợc cuộc tuần hành tại trung tâm Sài Gòn cho đến khi giải tán; thế nhưng khi lên xe cùng một số bạn bè ra về thì bị công an giao thông chặn xe hai lần và bị đưa về đồn công an làm việc.
Vào lúc 7 giờ khi vừa về đến nhà chừng 10 phút, chúng tôi liên lạc đuợc với cô và cô cho biết:
"Lúc vào họ trấn áp tụi em bằng vũ lực, họ bẻ tay em giựt điện thọai vì có nước ngòai gọi về. Em giật lại và họ xô đẩy hết vào phòng bên trong.
Với hành xử lấy điện thọai của em, khi yêu cầu làm việc em nói phải trả điện thọai và giải thích vì sao đưa tụi em vào phường, chứ không có chuyện em phải trả lời câu hỏi của họ. Lý do em đang đi đường thì bị họ cưỡng chế vào phường, em không có gì phải làm việc với họ cả."
Lúc vào họ trấn áp tụi em bằng vũ lực, họ bẻ tay em giựt điện thọai vì có nước ngòai gọi về.Ngay sau khi có tin một số người tham gia biểu tình bị công an, an ninh bắt và mời đi làm việc, Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch, lên tiếng về tình hình đó. Ông Phill Robertson, phó giám đốc phụ trách Châu Á của HRW phát biểu:
Cô Nguyễn Hòang Vi
"Hành động của công an, cảnh sát chống lại người biểu tình ở Hà Nội và Sài Gòn hôm 1 tháng 7 một lần nữa cho thấy chính quyền Việt Nam có những phản ứng theo kiểu phản ứng phản xạ có điều kiện là sách nhiễu và ngăn cản bất cứ hình thức phản đối ôn hòa nào, bất kể vì lý do và vấn đề gì.
Thật khôi hài đáng buồn là những người dân ủng hộ chính phủ về chính sách đối với Trung Quốc cũng phải đối mặt với vô số áp lực của công an…"
Bản thân cô Nguyễn Hòang Vi cũng như người xưng danh Hai Sài gòn, và Đảng viên Nguyễn Chí Đức đều tỏ ra rất bức xúc về việc các quyền tự do căn bản của họ như đi lại, hội họp bị các lực lượng công an, cảnh sát, dân quân… vi phạm một cách trắng trợn.
Họ cho biết trong khi làm việc với những cán bộ công an họ đều yêu cầu phải tôn trọng những quyền đó, và họ còn nói sẽ có đơn tố cáo vì đã bắt giữ người một cách vô cớ, không hề có một lý do gì chính đáng cả.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/haras-beca-ant-chi-pro-07022012083128.html
Không ai có thể bịt miệng cả một dân tộc
(Luis Aragon)
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2012-07-15
Chúa Nhật 15 tháng 7 tuần này không có biểu tình tại Hà Nội như hai Chủ Nhật trước đây. Phải chăng lời tuyên bố của chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo đã làm chùn bước những người từ trước đến nay vẫn thường xuyên tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc?
Photo AFP/Hoang Đình Nam
Mặc Lâm có thêm chi tiết về câu hỏi này.
Vấn đề xâm lược của Trung Quốc đối với chủ quyền biển đảo Việt Nam là rõ ràng và không thể tranh cãi. Các hy sinh của người lính của cả hai chế độ cho thấy điều đó. Hoàng Sa năm 1974, Gạc Ma năm 1988 là những bằng chứng không thể chối cãi trước công luận quốc tế về hành động xâm lược giết người của Trung Quốc. Máu đã đổ xuống trên hai vùng đất này và nhân dân Việt Nam với quyết tâm chống xâm lăng không thể không tiếp tục đổ máu nếu Trung Quốc tiếp tục xâm lược Việt Nam cho dù dưới hình thức nào đi nữa.
Sự chống đối rực lửa ấy đã thể hiện qua nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc mà nhiều nhất là tại Hà Nội vào mỗi Chúa Nhật đã tăng thêm ý thức cảnh giác cho người dân cả nước về mưu toan mới xâm chiếm Biển Đông vì tài nguyên dầu hỏa đã khiến Trung Quốc bất chấp công luận quốc tế. Chỉ sau vài tuần, người biểu tình đã chạm một làn sóng mạnh bạo thậm chí tàn nhẫn của cơ quan an ninh, dân phòng khi đàn áp thẳng tay những công dân yêu nước xuống đường ấy.
Xuống đường, xuống đường….
Phong trào xuống đường biểu tình chống Trung Quốc được một người Việt gốc Pháp tham dự nhiệt tình, đó là ông Andre Menras. Cái tên Việt Nam Hồ Cương Quyết của ông đã được rất nhiều người Việt biết tới trong các đoàn biểu tình tại TP Hồ Chí Minh, ông cho biết tại sao mình đi biểu tình: “Bây giờ tôi đã trở thành một công dân Việt Nam có nghĩa là trách nhiệm và nghĩa vụ của tôi là bảo vệ quốc gia Việt Nam, bảo vệ dân tộc Việt Nam, vì vậy khi một nước khác là Trung Quốc xâm lược Việt Nam thì tôi phải xuống đường lên tiếng tố cáo họ.Bây giờ tôi đã trở thành một công dân Việt Nam có nghĩa là trách nhiệm và nghĩa vụ của tôi là bảo vệ quốc gia Việt Nam, bảo vệ dân tộc Việt Nam, vì vậy khi một nước khác là Trung Quốc xâm lược Việt Nam thì tôi phải xuống đường lên tiếng tố cáo họ.Tuy rất hòa bình nhưng cương quyết và để biểu tỏ tôi sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. Hồi xưa tôi đã bị tù, tôi đã chịu khổ cũng vì một số anh chị em sinh viên học sinh trong phong trào hồi xưa chống xâm lược của Mỹ thì bây giờ tôi tiếp tục nắm lá cờ của Việt Nam chống cuộc xâm lược mới có thể nguy hiểm hơn cả hồi xưa là cuộc xâm lược của Trung Quốc.”
Ô. Andre Hồ Cương Quyết
Ban đầu người biểu tình nghĩ rằng nhà nước sợ cơn sóng Hoa Lài nhân cơ hội biểu tình chống Trung Quốc sẽ tràn vào Việt Nam nhưng ngày qua ngày không có dấu hiệu nào của một cuộc cách mạng tương tự như thế có thể xảy ra tại Việt Nam. Tuy nhiên sự đàn áp người biểu tình vẫn không có chiều hướng thuyên giảm, trái lại ngày một tinh vi và táo bạo hơn.
Lời hứa khó hiểu
Người dân trên thế giới nếu nghe được câu chuyện Trung Quốc bị
nhân dân Việt Nam biểu tình chống đối lại có khả năng ra lệnh cho lãnh
đạo Hà Nội cấm người dân đi biểu tình chống mình thì sẽ không ai tin và
cho là chuyện tiếu lâm chính trị.
Vậy mà việc này lại xảy ra trên giấy trắng mực đen khi Thượng tướng
Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Quốc phòng của Việt Nam đã long trọng hứa
với Bắc Kinh là “kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam” và “dứt khoát không để sự việc tái diễn.”
Nếu cấm đoán mà không nêu được lý do chính đáng thì dư luận sẽ nổi
giận và vì vậy chiều 13 tháng 7 mới đây, ông Nguyễn Thế Thảo, chủ tịch
UBND thành phố Hà Nội trong một cuộc họp Hội đồng Nhân dân Thành phố đã
nêu lý do mà ông cho là chính đáng để chính thức ra lệnh cấm các cuộc
biểu tình mà ông gọi là do thế lực thù địch đứng phía sau kích động xúi
giục, ông Thảo nói:
“Gần đây xuất hiện tình trạng tập trung đông người kéo về Hà Nội
khiếu kiện có tổ chức theo sự chỉ đạo của đối tượng xấu lợi dụng tình
hình trên các thế lực thù địch và số cơ hội chính trị đã kích động người
dân, nhất là số người đi khiếu kiện ở các địa phương biểu tình để gây
áp lực với chính quyền phải giải quyết những khiếu nại, yêu sách.
Trước tình hình như vậy đồng thời với việc tăng cường thực hiện
các biện pháp khôi phục phát triển sản xuất kinh doanh giải quyết việc
làm, bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm lợi ích chính đáng của dân, thành
phố sẽ tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp tuyên truyền vận động
đấu tranh về chính trị, về tư tưởng, về hành chính pháp luật, để phối
hợp chặt chẽ các lực lượng tại các địa phương, nhằm giữ vững an ninh
chính trị, đảm bảo tuyệt đối an toàn trật tự trên địa bàn thành phố, tạo
môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo cuộc sống
bình yên của nhân dân.
Thực tế những người biểu tình họ rất trật tự ôn hòa và nếu như có phản động thì công an họ đã tìm ra. Thế mà ông ấy nghĩ ngay đến chỗ phản động, xúi giục thì ông dựa vào đâu để ông ấy nói điều đó?
Thạc sĩ Đào Tiến Thi
Ngoài việc khiếu kiện về đất đai, trong hai tuần vừa qua vào ngày
Chủ Nhật tại trung tâm thành phố đã diễn ra những cuộc tụ tập biểu tình
chống Trung Quốc có những hành động xâm phạm chủ quyền biển đảo của ta,
tuy nhiên đa số những người tham gia là những người khiếu kiện về đất
đai, bị lợi dụng để gây phức tạp về an ninh trật tự.”
Phản ứng trước tuyên bố này là một làn sóng căm phẫn trong cộng đồng
mạng. Có người không ngần ngại cho rằng ông Thảo đang có hành vi bán
nước vì đã tiếp tay bịt miệng người biểu tình không cho họ tỏ rõ ý chí
chống xâm lược. Thạc sĩ Đào Tiến Thi một người có nhiều bài viết mạnh mẽ
chống lại việc này cho biết:
“Tôi là người theo dõi việc này rất nhiều và việc ông Nguyễn Thế
Thảo nói tôi rất bức xúc và cũng đã có nhiều ý kiến phản ứng. Ở đây cái
sai của ông Nguyễn Thế Thảo là tự nhiên kết tội người biểu tình mà không
dựa trên bất cứ điều gì cả. Thực tế những người biểu tình họ rất trật
tự ôn hòa và nếu như có phản động thì công an họ đã tìm ra. Thế mà ông
ấy nghĩ ngay đến chỗ phản động, xúi giục thì ông dựa vào đâu để ông ấy
nói điều đó? Đó là điều tôi thấy rất bất bình.
Việc thứ hai, trước sự xâm phạm rất láo xược của Trung Quốc và đất
nước đang trong tình thế lâm nguy hiểm nghèo như thế này, ông Thảo là
người có trọng trách lớn là chủ tịch thành phố, thủ đô mà ông không lo
gì về việc chống xâm lược. Ông không có một đau xót gì, không có một
giận dữ gì đối với kẻ xâm lược. Ông không đau xót gì trước tình trạng
chủ quyền đất nước bị xâm phạm. Không đau xót gì trước nguy cơ mất nước
ông bỏ qua tất cả mọi chuyện đó thì không thể chấp nhận.”
Vẫn là hòa bình và hợp tác
Ông Nguyễn Thế Thảo xác nhận chủ trương của nhà nước về việc đối
phó với Trung Quốc trong đó mục tiêu chính vẫn là hòa bình và coi trọng
việc hợp tác hữu nghị giữa hai nước, ông nói:
“Chủ trương của đảng và nhà nước ta là cương quyết bảo vệ vững
chắc chủ quyền lãnh thổ đồng thời ra sức gìn giữ môi trường hòa bình ổn
định để xây dựng và phát triển đất nước. Nhà nước ta kiên trì sử dụng
biện pháp hòa bình, sử dụng tổng hợp các biện pháp đấu tranh chính trị,
ngoại giao, pháp lý.
Chúng ta rất coi trọng việc duy trì và thúc đẩy quan hệ hữu nghị
hợp tác với Trung Quốc. Thực hiện nhất quán chủ trương trên và từ tình
hình thực tiễn UBND thành phố yêu cầu các cấp các ngành cần làm tốt hơn
nữa công tác tuyên truyền vận động để người dân hiểu rõ, không bị các
phần tử xấu, cơ hội chính trị xúi giục xuống đường tụ tập biểu tình gây
rối mất trật tự an ninh của thủ đô.”
Thạc sĩ Đào Tiến Thi nhận xét về những lập luận này như sau:
“Chúng tôi có thể thông cảm cho ông là ông có thể không nói được
trong lúc này vì lý do gì đó. Thế nhưng ông không thể nào có thái độ cấm
nhân dân đối với kẻ xâm lược. Ông dựa vào đâu mà dám kết luận chuyện
biểu tình là do phản động xúi giục kích động? Ông lôi ra vài người phản
động thử xem nào? Tôi tin rằng nếu có thì công an họ đã làm.
Phải nói là 11 cuộc biểu tình từ năm ngoái chống Trung Quốc còn
trong năm nay thì đã hai cuộc tại Hà Nội, không có một dấu hiệu nào là
của phản động cả. Nếu có thì công an người ta đã làm và báo chí đã làm
um sùm rồi bởi vì người ta cố tìm và với hệ thống công an lớn như thế
thì không có một ông phản động nào lọt vào cả.
Việc mà ông Thảo và một số người nói tôi nghĩ là để trấn áp biểu
tình nên ông ấy cố nói như thế thôi vì ông ta không thể nào chứng minh
được những gì ông ấy nói.”
Không ai có thể bịt miệng cả một dân tộc
Người dân đã phần nào thấy được sức ép mạnh mẽ của Trung Quốc đè
chặt trên vai của chính quyền Việt Nam. Sức ép ấy có người cho rằng do
kinh tế và quân sự của Việt Nam bị lép vế. Nhưng cũng không ít người cáo
buộc hệ thống cầm quyền sở dĩ im lặng vì đã bị mua chuộc, không chế
bằng nhiều cách trong đó những đồng tiền bất chính nhận từ Trung Quốc
trong các hợp đồng, dự án to lớn và Bắc kinh lấy đó làm bằng chứng, sẵn
sàng dùng vào việc bịt miệng một số người tay trót nhúng chàm khi giao
hảo với Trung Quốc.
Tuy nhiên rất nhiều người không nằm trong hai luồng ý kiến này. Họ
khẳng định rằng cách đối phó với người biểu tình một cách khó hiểu xuất
phát từ tâm thế nô lệ của chính quyền mặc dù ngoài miệng họ luôn luôn
kêu gọi chống ngoại xâm bằng tất cả sức lực của người dân.
Trên tấm bia ghi công liệt sĩ Yên Bái có khắc lại một câu bất hủ của
Luis Aragon viết vào tháng 6-1930 trên Báo Công đoàn Paris về cuộc khởi
nghĩa Yên Bái sau khi Nguyễn Thái Học và các đồng chí trong đó có người
anh hùng Phó Đức Chính bị chém đầu vào ngày 17 tháng 6 năm 1930 như sau:
“Đây là điều nhắc nhở ta rằng
Không thể bịt miệng một dân tộc
Mà người ta không thể khuất phục
Bằng lưỡi kiếm của đao phủ.”
Không thể bịt miệng một dân tộc
Mà người ta không thể khuất phục
Bằng lưỡi kiếm của đao phủ.”
Dư luận so sánh câu văn bất hủ này nếu áp dụng vào trường hợp của ông
Nguyễn Thế Thảo cũng không phải là quá khập khiểng. Mặc dù lý do phản
động xúi dục đã làm cuộc biểu tình hôm Chúa Nhật 15 tháng 7 không thể
xảy ra, nhưng để bịt miệng cả một dân tộc trước họa ngoại xâm từ Trung
Quốc thì chỉ mình ông Thảo chắc chắn là không thể.
Xét cho cùng lưỡi kiếm của đao phủ thực dân có khác gì với miệng lưỡi
của chính quyền khi cố dập tắt tiếng nói bất khuất của người dân nước
mình. Lịch sử đã chứng minh ai đi ngược với nguyện vọng của thời đại sẽ
bị đào thải. Điều này chưa bao giờ sai chỉ có thời gian nhanh hay chậm
mà thôi.
CƠM VIỆT NAM
Cùng qúy vị,
Có hai yếu tố chính tạo thành món ăn của mỗi dân tộc trên thế giới: sản phẩm có sẵn trong nước và nền văn hóa chính của người dân trong nước ấy.
Tuy nhiên, mỗi nước có nhiều vùng khác nhau về địa lý, chất đất, khí hậu, lượng nước, và sinh vật (thú vật và cây trái) khiến cho mỗi vùng trong nước có thể có những sản phẩm địa phương khác biệt. Đồng thời, người dân sống trong một vùng có thể có một nền văn hóa riêng tư trong vùng ấy. Những yếu tố này khiến xuất hiện những "món ăn vùng" đặc biệt tại những vùng trong cùng một nước.
Ở Việt Nam, quan niệm về "vùng" và "văn hóa trong vùng" được thấy rõ trong 10 "món cơm" khác nhau dưới đây. Mỗi "món cơm" gồm có cơm--có thể được nấu theo những cách khác nhau-- và những "món ăn" đi kèm với cơm để tạo thành "món cơm" thật "đẹp," thật "ngon miệng," thật "địa phương" và thật "văn hóa vùng."
Chúc qúy vị chọn "món cơm" ngon ưa thích hôm nay!
1. Cơm lam
Cơm lam là loại cơm được làm từ gạo (thường là gạo nếp) cùng một số nguyên liệu khác, cho vào ống tre, giang, nứa v.v. và nướng chín trên lửa.
Cơm lam bỏ trong những ống tre, đốt trực tiếp
trên lửa, khi ăn chẻ bỏ lớp cháy đen bên ngoài. Cơm lam ăn ngon, lạ
miệng, hương vị khác hẳn cơm thường, chỉ cần bỏ ống cơm ra đó thấy mùi
thơm rất hấp dẫn. Bẻ miếng cơm lam, chấm muối vừng hoặc muối lạc cho vào
miệng, ta sẽ thấy ngon, thơm, dẻo, rất đậm đà, ngoài hương thơm của gạo
nếp còn thoảng hương vị thơm thơm của nứa rừng qua lửa.
Cơm Lam là món cơm đặc trưng của các dân tộc vùng Tây Bắc Việt Nam, Tây Nguyên.
Theo văn hóa của người Việt cho rằng nồi đất là nồi nấu ăn ngon nhất. Gạo Tám mà nấu bằng nồi đồng hoặc bằng các thứ nồi khác đều không thể có hương vị như nấu bằng niêu đất.
Tương truyền, cơm cháy Ninh Bình được hình thành hơn 100 năm (từ cuối thế kỷ 19), do một chàng thanh niên người Ninh Bình tên là Hoàng Thăng học được và phát triển từ một món ăn của người Hoa, sau đó mở rất nhiều tiệm ăn ở Hà Nội lẫn Ninh Bình. Từ đó món cơm cháy được lưu truyền, phát triển và trở thành một đặc sản của vùng đất Cố đô.
2. Cơm niêu đập
Theo văn hóa của người Việt cho rằng nồi đất là nồi nấu ăn ngon nhất. Gạo Tám mà nấu bằng nồi đồng hoặc bằng các thứ nồi khác đều không thể có hương vị như nấu bằng niêu đất.
Cái niêu đất nung nâu sẫm be bé, miệng hơi khum
to hơn tô canh một chút đậy nắp kín với đôi đũa cả gác một bên. Ăn cơm
đập ở các nhà hàng, khi niêu cơm được bê lên, người phục vụ mới gõ nhẹ
chiếc búa nhỏ vào niêu, những mảnh đất nung vỡ vụn rơi xuống đất còn lại
trên tay là ổ cơm chín mịn màng ở giữa nhưng chung quanh là một lớp
cháy ròn đều vàng mỏng.
Thường, cơm niêu được ăn kèm với cá kho tộ, cà pháo chấm mắm tôm, canh cua mồng tơi...
3. Cơm cháy - Ninh Bình
Tương truyền, cơm cháy Ninh Bình được hình thành hơn 100 năm (từ cuối thế kỷ 19), do một chàng thanh niên người Ninh Bình tên là Hoàng Thăng học được và phát triển từ một món ăn của người Hoa, sau đó mở rất nhiều tiệm ăn ở Hà Nội lẫn Ninh Bình. Từ đó món cơm cháy được lưu truyền, phát triển và trở thành một đặc sản của vùng đất Cố đô.
Để làm món cơm cháy thơm ngon, người Ninh Bình
dùng gạo nếp hương, chọn hạt gạo tròn và trong để nấu. Khi nấu phải nấu
bằng than củi và dùng nồi gang thì mới có miếng cơm cháy vàng thơm, vừa
dẻo vừa ngon. Cháy lấy ra từ nồi mang ra phơi từ hai đến ba nắng. Cơm
cháy cần được bảo quản nơi kho dáo, tuyệt đối tránh ẩm mốc, lúc gần ăn
thì mới mang ra chiên giòn. Nếu chiên để qua buổi hay qua ngày thì cơm
đều bị hôi dầu, ăn sẽ không ngon.
Ăn cùng cơm cháy có thể là thịt bò, tim, cật lợn
xào với các loại rau như hành tây, nấm rơm, cà rốt và cà chua... ăn đến
đâu, chan lên miếng cơm cháy đến đó. Miếng cơm kêu xèo xèo, bốc khói,
toả ra mùi thơm. Khi ăn, cơm giòn tơi, chứa nhiều hương vị của món ăn
thập cẩm nóng sốt mà đậm đà.
Người Việt Nam bao giờ cũng ăn cơm nóng, còn cơm hến của xứ Huế lại được chế biến từ cơm nguội đánh tơi nhưng cơm hến được nấu từ thứ gạo ngon nên mềm dẻo. Ăn cơm hến tưởng như là một món trộn với những nguyên liệu phong phú mà đơn giản như cơm nguội cùng hến luộc, nước hến, hoa chuối thái rối, khế chua, rau răm...
Cơm Âm phủ là một món ăn có từ lâu đời của đất cố đô, rất đậm "chất Huế" gồm nhiều nguyên liệu tạo thành, đa màu đa sắc nhưng lại rất bình dân. Cái tên nghe rất lạ, tạo cho thực khách vẻ "sờ sợ" nhưng lại là một món ngon độc đáo trong nghệ thuật ẩm thực Huế.
4. Cơm hến - Huế
Người Việt Nam bao giờ cũng ăn cơm nóng, còn cơm hến của xứ Huế lại được chế biến từ cơm nguội đánh tơi nhưng cơm hến được nấu từ thứ gạo ngon nên mềm dẻo. Ăn cơm hến tưởng như là một món trộn với những nguyên liệu phong phú mà đơn giản như cơm nguội cùng hến luộc, nước hến, hoa chuối thái rối, khế chua, rau răm...
Cơm hến hòa cùng vị bùi của đậu phộng, vị cay của ớt, vị đậm đà của mắm ruốc, tạo nên một món thanh đạm.
Cơm hến là món ăn cay, cay chảy nước mắt, cay
toát mồ hôi. Cơm của cơm hến là cơm nguội, mùi ruốc mặn nồng thơm nức
mũi, vị chua thanh của khế, mùi thơm ngây ngất của rau thơm, chuối bắp,
bạc hà, vị ngọt đằm thắm của nước hến, béo ngậy của tóp mỡ, vị cay đến
xé lưỡi, đến phỏng miệng của ớt tương... Người ăn cơm hến đôi lúc vẫn
chưa vừa lòng với món ớt tương cay nồng sẵn có, còn cắn thêm trái ớt
tươi" rồi xì xụp, xuýt xoa hít hà cho nước mắt nhỏ giọt, mới thấm thía
được cái ngon của cơm hến.
5. Cơm Âm phủ - Huế
Cơm Âm phủ là một món ăn có từ lâu đời của đất cố đô, rất đậm "chất Huế" gồm nhiều nguyên liệu tạo thành, đa màu đa sắc nhưng lại rất bình dân. Cái tên nghe rất lạ, tạo cho thực khách vẻ "sờ sợ" nhưng lại là một món ngon độc đáo trong nghệ thuật ẩm thực Huế.
Cơm Âm phủ gồm các nguyên liệu như: cơm trắng,
tôm, thịt nướng, chả lụa, trứng tráng, rau thơm, dưa leo, đồ chua... ,
cách làm cũng khá công phu. Cơm là thành phần chính nên việc chọn gạo để
nấu là rất quan trọng. Để cơm ngon phải chọn gạo thơm, có chất lượng
tốt.
Cơm Âm phủ có trong bốn mùa. Nếu có dịp đến thành
phố Festival Huế, đắm chìm trong khung cảnh thơ mộng của nơi đây, du
khách hãy thưởng thức món cơm đậm chất Huế này.
6. Cơm gà - Hội An
Chưa ăn cơm gà xem như chưa tới Hội An. Cách nói có phần cường điệu ấy có lẽ xuất phát từ lòng tự hào khi đề cập đến cơm gà - một thứ hương vị quê nhà bình dị, khó quên của người dân phố Hội.
Cơm gà đơn giản là cơm nấu ăn với gà luộc nhưng
cái đặc sắc là những yếu tố trong món ăn bình dị này như cơm, gà, nước
chấm, đồ chua ăn kèm đều mang hương vị, phong cách ẩm thực rất riêng của
miền Trung.
Cái đặc biệt của món cơm gà xứ Hội bắt nguồn từ
nét riêng của cách chế biến thịt gà theo "gu" miền Trung, nghĩa là gà xé
nhỏ, bóp thấm với hành tây, rau răm và gia vị. Cái khéo của người làm
là khiến miếng thịt mang thơm thơm, cay cay nhưng vẫn không bở thịt và
mất mùi gà.
Nước dùng gà được dùng để nấu cơm nên hạt cơm
không trắng mà ánh một sắc vàng nhẹ, căng tròn, ngọt lịm vị gà. Với
phong cách nhỏ nhẹ của người miền Trung, món cơm gà được bày trong chiếc
đĩa nhỏ chỉ đủ làm lưng bụng thực khách. Đĩa cơm thường trang trí thêm
ít lá bạc hà, rau răm, những lát hành tây trắng nõn, tương ớt đỏ tươi,
muối tiêu lấm chấm, ăn kèm với loại tương ớt sền sệt, cay xé lưỡi theo
khẩu vị của người địa phương.
Có một cách khác làm món cơm gà, nhưng người vùng
Tam Kỳ - Quảng Nam hay Đà Nẵng mới thường chế biến theo cách này. Thịt
gà không xé sợi mà chặt thành từng miếng vừa phải, vàng ươm. Gà không
chỉ luộc, đôi khi còn được chiên giòn.
Cơm tấm bì sườn chả
7. Cơm Tấm - Sài Gòn
Cơm tấm bì sườn chả
Cơm tấm vốn là món đặc sản truyền thống của người
dân miền Nam mà đặc biệt là người Sài Gòn. Xưa kia, người dân thường sử
dụng món ăn này trong bữa sáng, vừa đơn giản mà thuận tiện. Nhưng nay,
món cơm tấm độc đáo này được dùng trong nhiều cửa hàng, quán xá, nhà
hàng, khách sạn như một món cơm chính trong bữa trưa, tối...
Cơm tấm là món ăn độc đáo bởi lẽ đây thứ cơm được
nấu từ những hạt gạo vỡ nhỏ, vụn. Những mảnh hạt gạo vỡ được sàng riêng
và nấu chín lên bằng bếp củi.
Cơm tấm có hương vị thật nhẹ nhàng nhưng rất đặc
biệt và hấp dẫn người thưởng thức. Một đĩa cơm tấm ăn kèm với sườn, bì,
chả, trứng và nước mắm sẽ khiến cho các vị giác của bạn phải trầm trồ
bởi vị ngon mà không ngấy.
Xứ dừa Bến Tre không chỉ nổi tiếng với các sản phẩm kẹo dừa, rượu dừa, qua bàn tay tinh tế của người dân nơi đây biến món cơm dân dã hằng ngày trở thành một đặc sản lạ lẫm với người ăn bằng món cơm dừa.
8. Cơm Dừa - Bến Tre
Xứ dừa Bến Tre không chỉ nổi tiếng với các sản phẩm kẹo dừa, rượu dừa, qua bàn tay tinh tế của người dân nơi đây biến món cơm dân dã hằng ngày trở thành một đặc sản lạ lẫm với người ăn bằng món cơm dừa.
Nấu cơm dừa cầu kỳ. Để được món cơm dừa ngon phải
mất gần hai giờ đồng hồ. Những trái dừa xiêm được cắt ngang một phần
trên đầu quả dừa để trút nước ra và dùng miếng cắt đó như cái nắp để đậy
lại. Gạo ngon vo sạch bằng nước rồi sau đó vo lại nước cuối cùng bằng
nước dừa, để ráo nước. Cho gạo vào trong trái dừa rồi đổ lượng nước dừa
vào vừa đủ, đậy nắp lại cho kín.
Cơm dừa nấu với nước dừa được hấp cách thủy trong
nồi nên hương thơm, vị ngọt đều kết đọng lại trong mỗi hạt cơm. Khi cơm
chín hơi ngả màu vàng nhạt do bị thấm hơi dầu từ cơm quả dừa. Cơm dừa
ăn có vị beo béo nên ăn nóng mới ngon.
Cái thú khi ăn cơm dừa là ăn trực tiếp trên trái
dừa, không phải ăn bằng chén. Với trái dừa xinh xắn trắng ngà, mùi thơm
của dừa hòa quyện cùng làn khói bốc lên làm cho tất cả các giác quan đều
hưởng trọn vẹn hương vị của món ăn.
9. Cơm nị
Cơm nị một món ăn truyền thống của người Chăm,
Châu Giang, An Giang. Cơm nị thường là gạo nấu với sữa nhưng có người
lại thích thêm nho khô vào để tăng thêm khẩu vị.
Người Chăm hay ăn Cơm nị với cà púa là món ăn
được chế biến từ thịt bò rất độc đáo. Hai món ăn này thường bổ sung cho
nhau tạo nên hương vị độc đáo và cầu kỳ mang khẩu vị người Chăm.
Cơm nị - cà púa mang mùi ngọt béo của sữa, vị bùi
của đậu phộng, vị mặn ngọt của thịt bò cùng với vị cay xè của ớt, vị
ngọt của nho khô làm ngẩn ngơ lòng thực khách. Tất cả đem lại cho người
ăn một cảm giác thơm ngon, thật lạ miệng, no bụng mà chẳng thấy ngán.
10. Cơm Ghẹ - Phú Quốc
Cơm ghẹ là món ăn ngon, giàu chất đạm, vị lạ đặc trưng rất ấn tượng và cũng rất khó quên khi đặt chân đến Phú Quốc.
Thành
phần chính của cơm xào ghẹ Phú Quốc là cơm trắng, thịt ghẹ bóc sẵn,
hành tây xắt lát mỏng, tỏi, ít tương cà vàng, dầu ăn. Thịt ghẹ khoảng
300g bỏ vào chảo xào sau khi phi tỏi vàng cùng với hành tây, cơm trắng
khoảng một ký cho năm người dùng. Tương cà giúp cho món ăn có màu sắc
đẹp, nêm gia vị vào để có hương vị ngon, khi chế biến cũng thể dùng hạt
nêm Knorr thay thế cho gia vị.
Cơm xào ghẹ Phú Quốc khi
chế biến có màu vàng ươm cũa tơ vàng óng ánh rất đẹp. Cơm khi xào xong
được ăn kèm với dưa leo xắt nhuyễn,
rau tươi, cà chua xắt lát dùng với nước mắm pha chế sẵn. CHÙA MÍA -SƠN TÂY
Kỳ lạ ngôi chùa đạn bắn không trúng, nước lũ không tới thềm
Cả vùng Sơn Tây (Hà Nội) nước ngập mênh mông, nhà cửa ruộng vườn chìm trong biển nước. Nhưng người dân sống gần Chùa Mía vẫn bình yên vô sự bởi nước chỉ bò đến cổng Đông, phải 700-800m nữa mới tới cửa Tam quan chùa
. Cõi Phật tâm linh che chở người đời Ký ức của
cụ bà tuổi ngót chín mươi vẫn còn lưu giữ như in trận lụt kinh hoàng do
vỡ đê sông Hồng năm 1945. Với đôi mắt tinh, cụ Hoàng ngừng nhai trầu hồi
tưởng lại trận đại hồng thủy năm ấy: “Nghe tin vỡ đê, lại đúng năm cả
nước gặp nạn chết đói. Lo và sợ lắm! Cả dân làng dừng việc chạy chợ,
kiếm ăn, tất tả về làng tránh lũ”. Lúc đó nước lũ kéo về, tiếng nước,
tiếng mưa gầm réo, nhưng thật kỳ lạ, nước chỉ bò qua cổng làng, chảy
chậm dần rồi dừng lại giữa con dốc trước cổng Đông.Đường đi vào vẫn khô
ráo như thường.
" Năm đó, ngoài mấy con nghé, con bê, lũ gà hoảng
loạn không chạy được bị nước cuốn trôi, còn người già, người trẻ trong
làng bình yên vô sự. Dường như một bàn tay vô hình nào đó chở che!”, cụ
Hoàng ngẫm nghĩ, cất tiếng như tự nói với mình. Theo sự hướng dẫn của cụ
Hoàng, chúng tôi đi trên con đường, ngày xưa nghe nói đắp bằng đất đỏ,
dốc lên dốc xuống quanh co, nay uốn thẳng rải nhựa dẫn lối lên ngôi chùa
kỳ lạ này.
Thế đất cao, chúng tôi phải ngước lên nhìn mới
đụng cửa Tam quan. Xin phép Sư thầy trụ trì, chúng tôi bước vào cõi
Phật. Hai bên Đại hùng Bảo điện trước ban Tam Bảo, hai tượng Hộ Pháp
sừng sững uy nghi. Ông Nguyễn Quốc Quân, một người giữ gien giống gà Mía
quý hiếm nổi tiếng cả vùng mời chúng tôi về nhà chơi và kể lại câu
chuyện liên quan tới ngôi chùa và hai ông hộ pháp. Chuyện cũng ly kỳ
không kém trận đại hồng thủy năm nào.
Ông Quân kể, năm 1947, Pháp mở trận càn lên vùng
đất Mía. Súng mooc-chê bắn đì đùng. Làng bên nhiều người thiệt mạng.
Những ngôi nhà đá ong bị đạn bắn thủng, tróc lở. Đất đá bị sới tung vung
lên trời rào rào. Dân làng Đông Sàng lũ lượt kéo lên chùa Mía, ẩn nấp
sau lưng hai ông Hộ Pháp. Lạ một điều, đạn giặc như bị bàn tay vô hình
đẩy lạc hướng và không một viên nào rơi vào nổi không gian của chùa, nên
không có ai bị thương”. Tượng Phật chùa Mía mỗi pho một vẻ, thân thiện
như dáng vẻ đời thường.
Trẻ con vào chùa nhìn Phật, đêm không mơ mấc mộng
mị. Ông Đức Lợi một thư pháp gia của làng cho biết: “Mỗi độ Tết về, tôi
kê bàn viết thư pháp chữ Hán trước cửa chùa lại trầm ngâm nhớ về tuổi
ấu thơ. Hồi ấy, cứ ra vườn chùa hái chiếc lá na, ấp lên quyển sách trên
tay ông La Hán rồi đọc, bỗng thông minh, học hành minh mẫn hẳn”. Dường
như người dân quê nơi đây đều có những kỷ niệm về ngôi chùa thân thuộc
vùng quê họ.
Có thể hỏi bất cứ ai, từ già đến trẻ, chúng tôi
cũng có được thông tin về chùa, về tượng phật trong chùa. Chuông chùa
hai tỉnh cùng nghe Chùa Mía không chỉ đặc biệt bởi nước lũ bò không tới
thềm, đạn bắn không trúng vì nhờ tượng Phật mà còn đặc biệt bởi chiếc
chuông có độ ngân xa không đâu bằng.
Ai đến nơi này cũng phải công nhận, mỗi chiều, từ
đỉnh tháp, từng tiếng chuông ngân xa, vượt đất Sơn Tây, bay qua sóng
gió sông Hồng vọng đến đất Phú thọ... Một hồi chuông hai tỉnh cùng nghe.
Sở dĩ chuông có độ ngân vang lớn như vậy là bởi, thứ nhất nó được làm
từ chất liệu đồng cực tốt với một công thức pha chế đặc biệt. Hơn nữa,
chùa có vị trí cao, trên đỉnh một ngọn đồi cao nhất trong vùng, chuông
lại được đặt trong ngôi tháp vươn vút trời xanh...
Chùa Mía còn đặc biệt hơn bởi huyền thoại về bà chúa Mía.
Chuyện kể rằng, vào khoảng thế kỷ 17, ngôi chùa cổ này vốn có tên chữ
“Sùng Nghiêm Tự” bị hư hỏng, điêu tàn đổ nát. Lúc bấy giờ Cung phi Ngọc Dung còn gọi là Ngô Thị Ngọc Diệu, trong một chuyến du ngoạn qua đây, được dân Đông Sàng đón mời vào thăm.
Vốn người làng Nam Nguyễn (Nam An), là phi tần
được sủng ái trong phủ chúa Trịnh Tráng (1623-1657), Cung phi Ngọc Dung
từng giúp người dân trong vùng xây chùa, xây chợ, mở bến đò Hà Tân thông
thương kinh tế, văn hóa hai vùng Sơn Tây - Phú Thọ nên tôn sùng bà là
“Bà chùa Mía”.
Thấy chùa Sung Nghiêm Tự hư hại quá nhiều, vào
năm 1632, bà đã đứng ra khuyến mộ thiện nam tín nữ các làng Đông Sàng,
Mông Phụ, Cam Thịnh, Cam Toàn… và các làng thuộc Tổng Mía cũ cùng tôn
tạo lại. Từ đó, ngôi chùa được người dân tôn kính gọi là chùa Mía. Trải
qua năm tháng, Chùa Mía được tu bổ nhiều lần, nhưng về quy mô, kiến
trúc vẫn được giữ gần như nguyên vẹn. Tấm bia dưới gác chuông ghi năm
Vĩnh Tộ thứ ba (1621) nói khá kỹ về việc lập nên và tu sửa chùa.
Từ những năm đầu đất nước hòa bình, Chùa Mía đã
được công nhận Danh lam thắng cảnh. Tháng 5/2006, ngôi chùa tiếp tục
được Thành hội Phật giáo TP HCM kết hợp với Trung tâm Sách kỷ lục Việt
Namcông nhận là Ngôi chùa chùa lưu giữ nhiều tượng nghệ thuật nhất Việt
Nam.
Chùa có đến 287 pho tượng thờ, trong đó có 174 tượng bằng đất nung sơn son thếp vàng, 107 tượng mộc và sáu pho tượng bằng đồng...
Chùa Mía nằm trên đỉnh một ngọn đồi cao nhất trong vùng
Trận lũ kỷ lục vẫn in hằn trong
trí nhớ cụa Hoàng. Điều cụ thấy lạ lùng nhất là nước lũ dù có lớn đấy
mấy cũng không bò lên đến thềm chùa Mía
Ngồi chùa Mía linh thiêng, bảo vệ người dân nơi đây tránh thiên tai
Ngôi chùa đã được xếp hạng danh lam thắng cảnh
Lúc giặc đến, cả làng núp sau hai ông hộ pháp trong chùa, không ai bị thương
TRUYỆN TRẦN MỘNG LÂM
Tôi
Không Phải dân Bắc.
Trần Mộng
Lâm.
Trên giấy tờ, tôi sinh
ra tại tỉnh Nam Định,.
Trên thực tế, tôi nói
tiếng Việt giọng bắc, không uốn lưỡi khi phát âm những tiếng bắt đầu bằng tr.
Những chữ bắt đầu bằng v, tôi nói rất rõ, nhưng may mắn không lầm chữ l với chữ
n.
Nhưng tôi không phải
người Bắc.
Hiệp định Genève đưa
tôi vào miền Nam rất sớm, ngay khi tôi vừa lên Trung Học.
Tôi lớn lên tại miền
Nam, học theo chương trình bộ Giáo Dục Miền Nam, đọc sách miền Nam, học và thành
tài tại Miền Nam.
Trong những năm sống
tại Miền Nam, tôi nổi trôi theo những thăng trầm của miền Nam. Tôi biết thế nào
là Bình Xuyên, thế nào là Đệ nhất Cộng Hòa, ông Diệm, ông Nhu, ông Thục, rồi sau
đó, ông Khánh, ông Thiệu, ông Kỳ, ông Trí Quang, ông Tâm Châu, ông Dương Văn
Minh...v.v
Lớn lên, như tất cả
những người thanh niên miền Nam, tôi đi lính.
Khi nhập ngũ, tôi thấy
mình làm rất đúng, trốn lính mới là làm sai, là hèn nhát.
Sau 7 năm quân ngũ,
Miền Nam bại trận.
Kẻ thắng trận Miền Bắc
đưa chúng tôi vào tù. Trong tù tội, người ta sỉ nhục chúng tôi đủ điều, nào là
quân bán nước, nào là “ngụy”, nào là bọn “hiếp dâm đàn bà, thủ tiêu con
nít”...v.v.
Câu chuyện của đời tôi
sau đó cũng như cuộc đời của rất nhiều người thanh niên Miền Nam, sau tù tôi, là
vượt biên, là trại tỵ nạn tại Mã Lai, là làm lại cuộc đời từ con số không, là
kiếp lưu đầy nơi đất người.
Năm nay, bước vào lớp
tuổi cổ lai hy, nhìn lại cuộc đời mình, tôi nhận thấy một điều, là tuy được sinh
ra tại Miền Bắc, tôi không phải là người Bắc, hiểu theo cái nghĩa Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa của Cộng Sản.
Tổ Quốc của tôi Cộng
Hòa Miền Nam Việt Nam.
Kể từ sau hiệp định
Genève năm 1974, người Việt sống tại Miền Nam và
Miền Bắc không cùng một văn hóa.
Họ cùng một nguồn gốc,
tôi đồng ý.
Nhưng người Anh và
người Mỹ, người Úc, cũng cùng một nguồn gốc.
Người Pháp và người dân
Québec, nơi tôi định cư, cũng cùng một nguồn gốc.
Nhưng không ai có thể
nói người Mỹ là người Anh, người Québec là người Pháp.
Tôi là người Miền Nam,
tuy tôi nói giọng bắc.
Một anh tập kết, là
người Bắc, tuy anh ta nói giọng nam.
Dù người ta có lý luận
trên lý thuyết thế nào chăng nữa, với tôi, biến cố 1975 chỉ là một quốc gia thôn
tính một quốc gia khác. Thử tưởng tượng Nước Anh đem quân qua đánh Hoa Kỳ rồi
gọi dân Hoa Kỳ là “ngụy”.
Không, tôi không phải
là người Bắc.
Dân Sài Gòn không phải
dân Bắc.
Gọi Sài Gòn là Thành Phố Hồ
Chí Minh, bắt dân Sài Gòn chịu sự độc tài đảng trị, không nhân quyền, không dân
quyền, không tam quyền phân lập (lập pháp, hành pháp, tư pháp), thực là ép nhau
quá đáng. Văn Hóa Miền Nam không phải như vậy. Rồi đây, người Miền Nam sẽ phải
nổi dậy để bảo vệ văn hóa của mình, làm những gì người Hồng Kông đang làm.
Miền Nam sẽ giải phóng
Miền Bắc, vì văn hóa Miền Nam tốt đẹp, văn minh hơn.
Trần Mộng
Lâm.
CHARLIE NGUYỄN * TÔN GIÁO
Doc de hieu them ve SU THAT TON GIAO.
Nếu là một con chiên thì sẽ có suy nghĩ thế nào sau khi đọc bài nầy.
Vài nét sơ lược về thân thế của Charlie Nguyễn:Tên thật là Bùi-Văn-Chấn, sinh năm 1937 tại Ninh-Cường, thuộc Bùi-Chu, tỉnh Nam-Định.Đậu Cử Nhân Luật Khoa tại Saigon năm 1962.Làm việc tại Công-Quản Hỏa-Xa Việt-Nam trong 3 năm sau khi ra trường. Giữ các chức vụ:Đại diện Giám-Đốc Hỏa-Xa tại Đà-Nẵng (1963-64)Trưởng Ty Khai Thác Hỏa-Xa (Saigon-Phan Thiết)Tháng 4 năm 1965 được gọi nhập ngũ, theo học khóa 20 Sỹ Quan Trừ Bị Thủ Đức.Từ 1966 đến tháng 4/1975: phục vụ ngành Quân-Pháp, Bộ Quốc-Phòng, với tư cách thẩm phán quân sự:- Thẩm phán Công Tố, Tòa Mặt Trận Vùng 4 (Cần-Thơ)- Dự Thẩm Tòa Án Quân Sự Saigon- Thiếu Tá Thẩm Phán Công Tố, Tòa Mặt Trận vùng 3 và Biệt Khu Thủ Đô (Saigon)Sau 1975, đi tù cải tạo ở Yên-Báy, Vĩnh-Phú và Xuân-Lộc.Được trả tự do tháng 8-1984.Qua Mỹ cùng gia đình đầu năm 1991 theo diện H.O. và định cư tại Houston, Texas từ đó đến nay.Charlie Nguyễn xuất thân đạo dòng, gia đình Công Giáo chính cống từ đời các nhà truyền giáo mới đến truyền đạo ở xứ Ninh Cường, Bùi Chu (thế kỷ 16).
Vài lời tâm huyết của tác giả:Đây là bản thảo trên computer do tôi in ra để gửi đến một số giới chức cao cấp hữu trách của Giáo hội Công Giáo có liên quan trực tiếp đến những vấn đề đã được nêu ra trong bản thảo này. Mặc dầu Giới Tu Sĩ Công Giáo Việt Nam nói chung là đối tượng phê bình chính yếu tôi nhắm tới, nhưng tôi không coi họ là thù địch.
Nhiều người trong họ vẫn luôn luôn là những người bạn thân thiết và là anh em ruột thịt của tôi. Tôi chỉ ước mong các anh em bạn hữu Công Giáo và xin quý vị hãy coi đây như một bản tường trình giải bày tâm sự của tôi đến quý vị. Đứng trên cương vị quốc gia dân tộc thì đây là một việc "đóng cửa bảo nhau".
Nếu chỉ đứng trên lập trường thuần túy tôn giáo thì đây là một hành vi "mở cửa bảo nhau", nhưng dầu sao chăng nữa tôi với quý vị Tu Sĩ Công Giáo vẫn là "người nhà" với nhau mà thôi. Chẳng qua nói thật mất lòng chứ tôi không hề có một thù oán riêng tư nào với quí vị.
Tôi chỉ chống lại những điều sai trái của Giáo Hội Công Giáo chứ tôi không chống đồng bào Công Giáo, trong đó có tổ tiên, ông bà cha mẹ, vợ con, anh chị em ruột thịt, bà con dòng họ thân thích nội ngoại và 95% bạn bè thân thiết của tôi đều là Ki Tô Hữu!
Mọi người thân yêu nhất của tôi đều đang có niềm tin Công Giáo. Tôi không có một lý do nào để căm thù cái đạo gốc của mình. Tuy nhiên, tôi không thể nào chấp nhận được cái thói cao ngạo láo xược của đại đa số tu sĩ Công Giáo luôn luôn cho rằng chỉ có Công Giáo là duy nhất thánh thiện, duy nhất đúng đắn. Họ gọi mọi tôn giáo khác là các đạo thờ quỉ.
Sự thật chẳng có tôn giáo nào thờ quỉ cả vì theo giáo lý Công Giáo Quỉ là kẻ bị Chúa phạt đày xuống hỏa ngục. Như vậy, quỉ là kẻ thất bại và bị tước đoạt mọi quyền năng. Liệu có ai ngu xuẩn để tôn thờ một kẻ không còn quyền năng gì mà còn đang bị giam trong lửa hỏa ngục?
Các tu sĩ Công Giáo thường có thói quen gọi các đạo khác là "bụt thần ma quỉ" chẳng qua chỉ muốn dùng danh từ này để nhục mạ các tôn giáo khác, nhất là để nhục mạ đạo Phật.
Nếu các tôn giáo khác có ai gọi Công Giáo là đạo thờ quỉ, chắc chắn Công Giáo sẽ gây thánh chiến thật thảm khốc chống lại tôn giáo đó. Vậy mà trong các sách kinh Công Giáo vẫn còn chình ình rất nhiều những câu kinh nhục mạ các tôn giáo khác. Thật là một sự tự cao tự đại một cách trơ trẻn và không sáng suốt.
Sự tự cao tự đại đó ai cũng có thể nhận thấy rõ ràng khiến cho các tu sĩ Công Giáo không thể chối cãi. Nhưng cái tội ác của giáo hội Công Giáo ở chỗ đã nhân danh cái quyền tự phong là "độc quyền chân lý" để tàn sát các đạo khác bằng các cuộc "thánh chiến" [Chiến tranh là chết người, là đau khổ thì không thể gọi là thánh được.] đẫm máu và bằng các tòa án tôn giáo đưa hàng triệu người lên dàn hỏa để thiêu sống trong nhiều thế kỷ qua là một tội ác không thể không nguyền rủa.
Sau 40 năm chuyên nghiên cứu về Kitô Giáo, giáo sư cựu linh mục Công Giáo gốc Ái Nhĩ Lan John Dominic Crossan, đã từng được giải thưởng của Hàn Lâm Viện Hoa Kỳ, tác giả tác phẩm best sellers "The Historical Jesus" và "Who is Jesus" đã viết về giáo hội Công Giáo như sau: "Con đường độc đạo chỉ có ta là duy nhất tuyệt đối đúng có nghĩa là tất cả nọi người khác đều phải chết". (One way I alone can be absolutely right is for all others to be dead – "Who is Jesus" Harper – Collines 1996, page 30).
Công Giáo La Mã có quyền gì mà dám nhân danh thần linh để hủy diệt mọi người không chấp nhận các tín điều bậy bạ vô luân của Công Giáo. Bề ngoài, các tín đồ Công giáo – Tin lành đều suy tôn Jesus lên làm Thiên Chúa toàn năng, nhưng bọn lãnh đạo tối cao của các tín đồ đáng thương đó thật sự chỉ coi Jesus như một hình nộm. Nói đúng hơn, Jesus chỉ là một tấm bình phong do bọn đế quốc dựng lên để chúng núp phía sau lợi dụng trong mưu đồ thâu đoạt quyền lực và của cải vật chất.
Trong các thế kỷ từ 4 đến 7, đế quốc La mã Byzantine đã xử dụng Jesus và cây thập giá của ông ta làm lá cờ xâm lược Âu châu và Bắc Phi. Trong những thế kỷ kế tiếp, các bạo chúa Công giáo như Clovis, Charlemagne đã dùng bạo lực để ép buộc các nước Âu châu phải theo đạo. Bất cứ ai bất tuân lệnh đều bị tàn sát dã man. Chính vì thế mà nhiều nước Âu châu đã trở thành những nước toàn tòng Công giáo.
Tuy nhiên, bắt đầu từ cuối thế kỷ 18 với sự xuất hiện của Phong trào Soi sáng (Enlightenment Movement) các nước Tây phương bắt đầu tỉnh ngộ và đạo Công giáo cũng bắt đầu đi vào con đường suy thoái.
CÁCH LÀM TIỀN CỦA VATICANTiếp sau quyền lực là Tiền. Tiền là mối quan tâm hàng đầu của Vatican vì dành quyền là để chiếm độc quyền làm tiền. Các bộ óc siêu đẳng về tài chánh được xử dụng tìm mọi cách để làm giàu: ban các chức thánh, bán ơn đại xá Tòa Thánh, ơn tha tội (indulgence) cho người chết trong lễ cầu hồn, tổ chức hành hương, tổ chức năm thánh (jubilee) bán thánh tích v.v...
Trong năm thánh 1300 (the jubilee year of 1300) tiền bán ơn tha tội cho người chết gồm cả tiền mặt và vàng bạc nữ trang nhiều đến nỗi Tòa Thánh phải cho các tu sĩ dùng cào để cào thành đống tại Đền Thánh Phêrô. Thế kỷ 13 được coi là thế kỷ sáng chói của Tòa Thánh về phương diện tài chánh. Tòa Thánh sản xuất nhiều thánh tích giả để đem bán đấu giá.
Thậm chí có cả chiếc răng sữa và miếng da qui đầu của Chúa Jesus! Có cả tã lót và bình sữa Đức Mẹ dùng nuôi Chúa lúc nhỏ. Tổng số đinh và gỗ thu lượm tại Jerusalem được gán cho là gỗ của thập giá và đinh đóng vào tay chân Chúa nhiều đến nỗi có thể dùng đóng chiến hạm!
Chúa chỉ bị đâm cạnh sườn bằng một cây giáo, vậy mà Tòa Thánh chính thức bán đấu giá tới 3 cái! Các sử gia đã phải gọi Giáo Hội Công Giáo là giáo hội đói tiền (A money-hungry church). Giáo hội đã biến Núi Sọ của Chúa thành NÚI VÀNG: Church turn Golgotha (mountain of Skulls) into Golconda (mountain of gold).
Nguyên nhân thúc đẩy các thập tự quân đi đánh các nước Hồi Giáo là lòng ham muốn chiếm đoạt tài sản của họ. Sử gia Lloyld Graham viết trong The Deceptions and Myths of the Bible, trang 472: "Núi vàng biến thành chiến trường của thập tự quân.
Động cơ chính yếu là lòng thèm muốn của dân Âu Châu đối với sự giàu có huy hoàng của người Ả Rập" (Golcond was turned into battleground of the Crusades. The real motivation was hungry Europe’s envy of the wealth and splendor of Araby).
Sử gia Lloyld kết luận: "Sử gia sau tôi sẽ viết một cuốn sử khác tựa đề là: Sự suy đồi và sụp đổ của giáo hội Công Giáo". (Another historian will write another book and he will call it: The Decline and Fall of the Roman Church).
Từ ngày Constantine lập ra đạo Công Giáo, giáo hội đã mau chóng trở thành giàu có ngoài sức tưởng tượng. Thời Trung cổ, giáo hội là sở hữu chủ các thành phố tại Âu châu. Tất cả các quốc gia Công Giáo đều buộc dân chúng phải nộp thuế cho Tòa Thánh. Năm 1170, Giáo Hoàng Alexander II ra đạo luật buộc mọi khế ước, di chúc phải được tu sĩ thị thực và thu lệ phí mới có giá trị.
Việc bán ơn đại xá (tha tội cho linh hồn người chết) là một nguồn thu nhập khổng lồ của Vatican. Dân Ái Nhĩ Lan có câu tục ngữ: "Tiền nhiều lễ lớn, tiền ít lễ nhỏ, không tiền không lễ" (High money high mass, low money low mass, no money no mass). Đến thế kỷ 19, dư luận Âu Châu cho rằng có rất nhiều linh hồn đã bị lãng quên (forgotten souls in Purgatory) cần phải được Tòa Thánh cầu nguyện tập thể cho họ.
Do đó, Tòa Thánh lập ra Lễ Các Thánh vào ngày 2 tháng 11 hằng năm để cầu cho các vong hồn không có thân nhân nộp tiền xin lễ ở các nhà thờ! Lễ Các Thánh bắt đầu có từ 1856.
Để các đồng đạo Việt Nam của tôi có một cái nhìn khái quát về guồng máy đầu não điều khiển giáo hội, về các biến cố lịch sử cận đại của thế giới có liên hệ đến Tòa Thánh và nhất là các giáo hoàng có liên hệ đến chiến tranh Việt Nam như Pio XII, Gioan XXIII, Paul VI, Jean Paul II, tôi xin tóm lược tác phẩm Vicars of Christ – The Dark Side of The Papacy [Tác phẩm này có dành một chương viết về các giáo hoàng dâm loạn đăng trong cuốn "Tại sao không theo đạo Chúa" tập 1.]
Của cựu Linh Mục dòng Tên Peter de Rosa do Crown Book Editions xuất bản năm 1988. Đây là một tác phẩm best-seller (bán chạy nhất) trong nhiều năm của một tác giả được báo chí gọi là siêu điệp viên quốc tế về thâm cung bí sử của Vatican.
Ký giả Paul Hofman của New York Times, tờ nhật báo lớn nhất thế giới, đã định cư tại Rome từ năm 1938 và làm việc tại đây liên tục trong 35 năm liền với tư cách ký giả chuyên nghiệp kiêm siêu điệp viên quốc tế.
Ông trở thành "bạn thân" của hầu hết các giới chức cao cấp tại Vatican qua các triều đại giáo hoàng từ Pio XII (38-39) cho đến đương kim giáo hoàng John Paul II. Giới ký giả quốc tế gọi ông là "The Vatican Watcher" hoặc "The Vatican Insider" có nghĩa là điệp viên nằm vùng tại Vatican .
Ông viết nhiều tác phẩm giá trị về Vatican như "Rome: The Sweet Temptuous Life", "O Vatican, A Slight Wicked View of The Holy See" và tác phẩm độc đáo mang tựa đề La Tinh "Octopus Dei" có nghĩa là "Con Bạch Tuộc của Đức Chúa Trời".
Qua các tác phẩm của ông, người đọc được biết rất nhiều chuyện thuộc loại thâm cung bí sử của Vatican . Ở đây chúng tôi xin tổng hợp các tác phẩm trên của ông và chỉ thuật lại mấy nét điển hình về quốc gia đô thị (State City ) có một không hai này của thế giới.
- Về phương diện thần quyền, Vatican là thủ đô của một đế quốc tinh thần bao gồm gần một tỷ thần dân là các tín đồ Công Giáo La Mã rải rác khắp năm châu. Giáo hoàng là hoàng đế, các hồng y là hoàng tử, 4000 giám mục là các cán bộ cao cấp, 400.000 cán bộ hạ tầng cơ sở được mệnh danh là "linh mục", tương đương với cấp "manager" trong các đại công ty. Ngoài ra, Vatican còn có một đội ngũ gồm 1 triệu nữ tu, phần đông hành nghề dạy học, y tá và sản xuất các mặt hàng tiểu công nghệ.
- Về phương diện thế quyền, Vatican là một tiểu quốc, giáo hoàng là quốc trưởng với 450 cư dân, tuy nhiên chỉ có 280 cư dân mang quốc tịch Vatican mà thôi. Vatican là lãnh thổ quốc gia nhỏ nhất thế giới, diện tích vỏn vẹn 44 hectares (bằng 1/6 Monaco) nhưng có quốc kỳ, quốc ca riêng biệt và có liên hệ ngoại giao trên cấp bậc đại sứ với hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Tổng số các nhân viên phục vụ thường xuyên cho Vatican gồm có 4500 người sống rải rác chung quanh Rome (quét đường, cắt cỏ, xây cất sửa chữa lầu đài dinh thự...). Vatican cung cấp lợi tức cho 3 triệu dân Rome qua ngành du lịch của khách hành hương, ngành sản xuất các ảnh tượng và các dụng cụ làm lễ của tu sĩ. Nếu vì lý do nào đó Vatican bị sụp đổ, hậu quả trước mắt là 3 triệu dân Rome sẽ bị thất nghiệp!
Vatican là sở hữu chủ của một tài sản khổng lồ lên tới nhiều ngàn tỷ đô la. Tại Ý, Vatican là địa chủ lớn nhất. Cho nên Vatican khó có thể chui lọt qua cổng Thiên Đàng vì Chúa đã phán "Kẻ giàu vào nước Thiên Đàng còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim". Vatican City có 50 cung điện gồm 1000 phòng có máy lạnh, 977 cầu thang, 12.000 cửa sổ, 5 nhà thờ lớn và 11 viện bảo tàng, một tiệm thuốc tây, một ty bưu điện, 2 phi trường, 350 mét đường xe lửa và một đài phát thanh cổ nhất thế giới.
Mỗi hồng y được cấp một xe limousine màu xanh đậm, mỗi tháng được lãnh pay-check 1500 đô la và được chính phủ Ý miễn các thứ thuế.
Giáo hoàng có phi cơ phản lực riêng để đi xa. Muốn đi gần, ngài chỉ cần nhấc phone là không lực Ý phái trực thăng tới liền.Văn phòng làm việc của giáo hoàng ngày nay là lâu đài Apostolic (Lâu Đài Tông Đồ) được xây cách đây một ngàn năm.
Trong những thế kỷ đầu sau Công nguyên, Kitô Giáo không có giáo hoàng và chính thánh Phêrô cũng chẳng được làm giáo hòang ngày nào. Ngài có vợ có con và rất nghèo, không có nỗi một chỉ vàng làm nhẫn cho tín đồ hôn tay.
Tính ngài vốn bình dân vì ngài cả đời chỉ chuyên đánh cá trên hồ Galilee nên không muốn mọi người cúi chào mình. Sách Tông Đồ Công Vụ thuật chuyện: Một hôm Phêrô đến nhà Cornelius, chủ nhà quì mọp xuống tỏ vẻ kính trọng. Phêrô nâng chủ nhà dậy và nói: "Hãy đứng dậy, tôi chỉ là người thường thôi" (Stand up, I myself am a man - Act 10: 25-26).
Công trường Thánh Phêrô là một công trường quốc tế. Đây là nơi hành hương mà hàng tỷ người mong ước được đến đó một lần trong đời chỉ để quì gối xuống sân đá đón nhận phép lành tòa thánh của giáo hoàng giơ tay lên ban xuống từ khung cửa sổ tòa lâu đài Apostolic! Đây là những show được trình diễn quanh năm. Không có một tôn giáo nào trên thế giới có thể có được những show độc đáo và thường xuyên như vậy.
Ký giả Paul Hofman cho biết những show này đều được dàn dựng để trình diễn (tailor-made show for video) nhằm mục đích làm nổi bật vai trò của "Người Khổng Lồ Ngồi Sau Cửa Sổ!". Cũng từ cái cửa sổ này, giáo hoàng giống như con rùa lâu lâu lại thò đầu ra để công bố tín điều hoặc ban huấn thị cho toàn thể Hội Thánh. Từ hơn ngàn năm qua, các giáo hoàng đều tự cho mình là kẻ duy nhất trên hoàn cầu có thẩm quyền xác định hay phủ nhận mọi giá trị tinh thần tối hậu (Pope is the only one on earth to proclaim ultimate moral values).
Nhưng tất cả đều chỉ là những màn kịch. Người thực sự cai trị giáo hội không phải là giáo hoàng mà là CURIA tức "Văn phòng Điều khiển Giáo hội" gồm toàn những chuyên viên thuộc mọi lãnh vực. Những người điều khiển CURIA lại là những người dấu mặt (faceless) thuộc siêu quyền lực.
Các thành viên của CURIA đều là đàn ông. Vatican không chấp nhận cho đàn bà làm linh mục hoăc cho giữ một chức vụ nào trong Tòa Thánh. Lý do rất chính đáng là Chúa ngày xưa cũng chỉ chọn các thánh Tông đồ đều là đàn ông cả. Thật vậy, chẳng có một việc nào quan trọng của Chúa và của Hội Thánh có thể tin cậy mà giao cho cái đám đàn bà vô tích sự được !
Theo thống kê thì Vatican có khoảng 900 triệu tín đồ, nhưng trên thực tế số tín đồ Công Giáo La Mã hiện nay thực ra chỉ còn vài trăm triệu thôi. Giáo dân tại các nước giàu có như Mỹ, Anh, Pháp, Đức và các nước có trình độ văn hóa cao đều rất ghét Vatican và khinh bỉ giáo hoàng ra mặt. Chỉ những nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha (Philippines và Việt Nam - Ch. Ng.) trình độ giáo dân hãy còn thấp kém nên vẫn kính sợ giáo hoàng như xưa!
Ngày nay, giáo hoàng đi đâu cũng sợ bị phản đối và ám sát nên phải chui vào xe bọc sắt với những tấm kiếng chắn đạn. Thực ra, chính giáo hoàng cũng không còn tin tưởng vào sự che chở quan phòng của Thiên Chúa nữa! Xe chắn đạn của giáo hoàng được gọi là "The Pope Mobile" hiệu Mercedes, kiểu station-wagon, mang bảng số viết tắt là SCV (Stato Citta del Vaticano). Người Pháp chế diễu đọc là "Si Christ Voyait-çà" (Ước gì Chúa Kitô nhìn thấy nó).
Những tước hiệu bịp bợm của giáo hoàngVào một buối sáng tinh sương trong tháng Giêng năm 1995, một đám đông khổng lồ chưa từng thấy, khoảng trên 5 triệu người, từ khắp năm Châu đã tụ hội tại thành phố Manila (thủ đô của Philipines) để xem một buổi lễ Mi-sa ngòai trời của Giáo hoàng John Paull II.
Ngoài sự háo hức cuồng tín, đám đông còn bị thôi thúc bởi óc tò mò nên họ đã chen lấn xô đẩy nhau để được nhìn thấy “vị cha chung” của họ bằng xương băng thịt. Nhiều người bị thương phải đưa vào bệnh viện cấp cứu. Chỉ có một số ít tu sĩ và giáo dân chọn lọc được phép gần Giáo hoàng mà thôi. Chung quanh giáo hoàng là một đội ngũ công an, mật vụ, cảnh sát và đủ loại nhân viên an ninh lên tới cả chục ngàn người!
Hàng triệu tín đồ đáng thương đành phải mon men đến gần các loa phóng thanh gắn rải rác khắp nơi trong thành phố để nghe giọng nói tiếng Anh pha giọng Ba Lan của giáo hoàng. Ngoài 5 triệu tín đồ có mặt tại thành phố này còn có hàng trăm triệu tín đồ trên khắp thế giới đang theo dõi buổi lệ này qua radio và truyền hình trực tiếp.
Cuộc công du của giáo hoàng tại Philippines lần này chỉ là một trong hàng trăm chuyến công du của ngài tới các nơi khác trên thế giới. Giáo hoàng tới đâu thì khung cảnh cũng tương tự như vậy.
Điều đó đủ cho thấy giáo hoàng là người có ảnh hưởng chính trị lớn nhất trên hành tinh của chúng ta. Điều đáng chú ý là dù cho giáo hoàng trẻ hay già, dù mang quốc tịch Ý hay Ba Lan, dù đặc tính các nhân của giáo hoàng ra sao chăng nữa... tất cả đều không thành vấn đề.
Điều quan trọng hơn hết đã khiến cho giáo hoàng được những đám đông tín đồ cuồng nhiệt tôn sùng chỉ vì tin rằng giáo hoàng là người duy nhất trên thế gian có quyền “Đại diện Chúa Ki-tô” (Vicar of Christ) và “kế nhiệm thánh Phê-rô” (Sucessor of St. Peter). Đó là hai tước hiệu (titles) quan trọng nhất trong hơn một tá những tước hiệu của giáo hoàng.
Nhưng tất cả chỉ là những màn kịch được đạo diễn bời bọn Mafia chuyên nghiệp về tôn giáo. Tất cả những gì chúng ta thấy được chì là cái vỏ bên ngoài hào nhoáng của một giáo hội tội lỗi tự nhận là thánh thiện. Cái bề ngoài hào nhoáng đó không phải đã được tạo thành trong một sớm một chiều mà là kết quả do nhiều công trình sáng tạo của những bộ óc lưu manh siêu việt trong 17 thế kỷ qua!
Những tước hiệu “kế vị thánh Phê-rô” và “đại diện Chúa Ki-tô” của giáo hoàng do đâu mà ra và bắt đầu từ bao giờ? Những tước hiệu đó có nguồn gốc lương thiện chân chính hay chỉ là những trò gian manh bịp bợm? Vatican đã thổi phồng những tước hiệu đó nhằm mục đích gì và bọn chúng đã khai thác những tước hiệu này để gây tội ác như thế nào cho nhân loại? Bài viềt này dực trên những sự kiện lịch sử nhằm đưa ra những lời giải đáp cho những vấn đề nêu trên.
GIÁO HỘI GIAN ÁCTrên đời này chẳng có tôn giáo nào cao hơn Lẽ Thật vì Lẽ Thật là chân lý hằng cửu. Cũng chẳng có tình nào cao đẹp hơn tình người với người, chứ không phải chỉ yêu Thiên Chúa, chà đạp con người như các tu sĩ của Vatican.
Cả cái hệ thống tu sĩ của Vatcian là một tổ chức vĩ đại của những kẻ đạo đức giả. Chúng dựng lên thần linh quái đản là Thiên Chúa Ba Ngôi rồi nhân danh Thần Linh để khủng bố loài người và giết hại trên 200.000.000 sinh mạng vô tội trong 16 thế kỷ qua. Họ là cha đẻ ra các tai họa khủng khiếp cho loài người qua các chế độ nô lệ, chủ nghĩa diệt chủng Do Thái, chủ nghĩa phát Xít, chủ nghĩa Quốc Xã, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa kỳ thị phụ nữ, kỳ thị tôn giáo, kỳ thị chủng tộc và thậm chí cả chủ nghĩa Cộng Sản.
Năm 1917, Vatican đã viện trợ cho đảng Bolshervik của Lenin 660 triệu đô la (trị giá bằng nhiều tỷ đô la ngày nay) để Cộng Sản lật Nga Hoàng và diệt Chính Thống Giáo cho Vatican. Người Tây Phương có quá nhiều kinh nghiệm về Vatican nên đã gọi nó bằng một danh từ rất tượng hình và nhiều ý nghĩa, đó là Con Bạch Tuộc của Đức Chúa Trời (Octopus Dei).
Sở dĩ mọi tổ chức tội ác còn tồn tại trên thế giới ngày nay là vì cái đầu của con bạch tuộc là Vatican vẫn còn tồn tại. Chỉ khi nào cái đầu của con bạch tuộc chết đi thì các cái vòi của nó là các thứ chủ nghĩa tội ác mới thật sự bị tiêu diệt.
Tất cả các cuộc chiến đấu của nhân loại ngày nay chỉ qui vào một cuộc chiến đấu duy nhất, đó là cuộc chiến đấu của những người thiện lành chống lại những thế lực tội ác do Vatican ngấm ngầm lãnh đạo. Con bạch tuộc khổng lồ Công Giáo La Mã cũng là đầu não của mọi hình thức khủng bố: Tòa án dị giáo với các dàn hỏa thiêu sống con người, bắt cóc ban đêm và đủ kiểu tra tấn hết sức dã man không kể xiết.
Muốn hiểu tòa án dị giáo của Vatican kinh khủng như thế nào xin hãy đọc The Inquisition, Hammer of Heresy của Edward Burman, 254 trang. Dorset Press NY. 1992. Ngay trang đầu của cuốn sách, tác giả viết: "Tòa án dị giáo đồng nghĩa với khủng bố, bắt người ban đêm và đủ thứ tra tấn". Nó cũng được mô tả trong The Pit and The Pendulum của Edgar Poe, trong kịch Opera của Don Alhambra, trong những chuyện kinh dị của Gilber, Sullivan, Verdi và cả trong thơ của Tennyson..." The (Inquisition is synonymous with terror, noctural arrest and torture...)
Các tổ chức giáo hội là nguyên nhân gây ra thảm họa cho loài người chúng ta. Giáo hội tạo ra những ốc đảo tôn giáo chia rẽ con người. Các ốc đảo tôn giáo đó tranh chấp nhau để dành tín đồ nhằm tụ bè kết đảng không ngoài mục đích củng cố quyền lực cho các tu sĩ lưu manh của nhiều tôn giáo chứ cũng chẳng riêng gì của Công Giáo La Mã.
Tự do tín ngưỡng (Freedom of beliefs) là một hình thức của tự do tư tưởng không có nghĩa là tự do thành lập giáo hội. Mọi người đều có thể có tín ngưỡng (niềm tin) của riêng mình nhưng không nhất thiết phải có giáo hội. Tín ngưỡng là niềm tin trong lòng, còn giáo hội là một tổ chức có hệ thống tu sĩ chỉ huy và với những đoàn thể được đoàn ngũ hóa để theo đuổi những mục tiêu nặng về thế tục hơn là tâm linh tôn giáo. Giáo hội là định chế chính trị lũng đoạn quốc gia và chia rẽ dân tộc. Muốn bảo toàn sự thống nhất quốc gia và hạnh phúc dân tộc, việc cần thiết là phải xóa bỏ mọi tổ chức giáo hội, không phân biệt là của tôn giáo nào.
Sở dĩ Công Giáo La Mã đã biến thành một tổ chức tội ác lớn nhất lịch sử loài người chính vì nó đã tiêu diệt các chi phái Kitô để thành lập một giáo hội duy nhất do đế quốc lãnh đạo. Trước thế kỷ thứ 4, Kitô Giáo đã có nhiều chi phái chủ trương không thành lập giáo hội, không xây nhà thờ mà chỉ có phòng hội, không thờ ảnh tượng và không có giáo lý cứng nhắc.
Giáo phái Macionism gọi Jehovah của đạo Do Thái là quỉ. Họ tin rằng Thiên Chúa thật phải là Thiên Chúa của Tình Thương (Real God: God of Love).
Qua 16 thế kỷ gieo rắc khủng bố cho loài người, tội ác chồng chất của Công Giáo La Mã đã cao ngất như núi. Đã đến lúc cái giáo hội của tội ác này phải đền tội và phải chết. Mới đây, nữ tu sĩ Angelica là người đứng đầu hệ thống truyền hình Công Gíao Mỹ "Eternal World Television Network" có 55 triệu khán giả tại 38 quốc gia có hệ thống tiếp vận của nó, đã tuyên bố trong một talk-show rằng: Thế giới Công Giáo không thể tránh khỏi đại thảm họa. Ngày tận thế của nó chỉ trong tầm tay. (Its end times are at hand).Charlie NguyễnViệt Quốc Trịnh
Vô Thường
Posted by
vanhoa
at
10:39 PM
No comments:
Sự kiện nhà sư Thích Quảng Hiển (trụ trì chùa Trung Tiết) trong chuyến hành hương lên chùa Ngoạ Vân (Đông Triều, Quảng Ninh) tình cờ nhặt được chiếc hộp quý màu vàng có niên đại từ thời Trần đã làm xôn xao xao dư luận. Nhưng những ngày qua, hàng loạt tin đồn về việc chiếc hộp bỗng dưng bị mất nắp, ngay trước thời điểm bàn giao cho UBND huyện Đông Triều bỗng dưng xuất hiện làm dư luận xôn xao.
Nhà sư Thích Quảng Hiển người đã tìm thấy chiếc hộp cổ bằng vàng.
Theo lời thuyết phục của người cháu, ông Việt liên lạc với đài truyền hình và kể lại câu chuyện của mình, cũng như tỏ ý muốn xem lại chương trình có hình ảnh người thanh niên giống ông.
Dân Làm Báo (12 giờ 30 sáng thứ Bảy - 14 tháng 7) - Tối thứ Sáu ngày 13 tháng 7, khoảng 40-50 bạn bè của các blogger Trịnh Kim Tiến, Trăng Đêm, Bùi Minh Hằng đã đến tham dự sinh nhật của 3 người tại quán Hương Đồng 4 quận Bình Thạnh. Khoảng 20 an ninh / côn đồ thường phục "quen mặt" đã kéo đến và sau đó đã bám theo, khủng bố, đập xe và gây thương tích cho một số blogger trên đường về.
TRÚC GIANG * TRUNG CỘNG & MỸ
Trung Cộng Khó Thoát Khỏi Thiên La Địa Võng Của Hoa Kỳ
Trúc Giang
1* Mở bài
Tại hội nghị Đối Thoại Shangri-La, Singapore, hồi đầu tháng 6 năm 2012, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Leon Panetta đã tiết lộ, một số vũ khí mới sẽ được triển khai tại châu Á – Thái Bình Dương trong chiến lược “Tái cân bằng lực lượng quân sự” của Tổng Thống Barack Obama.
“Tái cân bằng lực lượng” là cụm từ dùng để che giấu hành động “bao vây” và “kềm chế” của Hoa Kỳ (HK) đối với Trung Cộng (TC) mà thôi, bởi vì trên thực tế, lực lượng quân sự của TC chưa bao giờ ngang bằng với lực lượng của HK. Về hải quân (HQ), TC thua kém HK rõ rệt. Về vũ trụ, HK đang làm chủ không gian với tàu không gian con thoi không người lái X-37B. Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo (United States Cyber Command-USCYBERCOM) đang được thành lập để tiến hành cuộc chiến tranh mạng (Cyberwar) chống lại TC.
Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương (USPACOM) với hai hạm đội là Hạm Đội 7 và Hạm Đội 3 sẽ được tăng cường lên thành 6 hàng không mẫu hạm, và đặc biệt là những vũ khí hiện đại nhất sẽ được bố trí trên vòng đai bao vây TC, cho thấy nước nầy khó thoát khỏi thiên la địa võng của HK.
2* Bày thiên la địa võng
Thiên la địa võng là vòng vây bủa kín tất cả các phía, không có đường ra, không có lối thoát.
2.1. Căn cứ Hoa Kỳ trên thế giới
Hàng năm, HK chi ra khoảng 250 tỷ đô la để duy trì sự hiện diện quân sự trên toàn cầu. Theo báo cáo của Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế CSIS (Center for Strategic and International Studies-CSIS), thì hệ thống quân sự bao gồm công khai và bí mật của Mỹ ở nước ngoài lên tới 1,000 căn cứ, chưa kể những căn cứ tạm trú.
Mỗi năm, con số quân nhân đồng phục Mỹ ở nước ngoài là 250,000 và số nhân viên dân sự tương đương đi cùng. Ngoài ra, còn 50,000 người địa phương phục vụ nhiều công việc khác nhau tại các căn Mỹ.
Thượng Viện yêu cầu chính quyền Obama rút gọn và đóng cửa phần lớn các căn cứ ở nước ngoài, để binh sĩ được trở về nhà, và giảm chi phí. Nhưng Tổng Thống Obama và các viên chức quốc phòng và ngoại giao cho rằng, những căn cứ đó quan trọng hàng đầu, là biểu tượng sức mạnh của HK trên thế giới. Đó là một bộ phận làm phát triển lợi ích cho Mỹ, đồng thời cũng cố mối quan hệ và niềm tin của các đồng minh, qua duy trì sự lãnh đạo của HK trên thế giới.
2.2. Hoa Kỳ xử dụng 3 căn cứ ở Philippines
Ngày 4-6-2012, Thứ Trưởng Quốc Phòng Philippines, ông Honorio Azcueta cho báo chí biết: “Quân đội Mỹ, tàu chiến và phi cơ, một lần nữa có thể xử dụng những căn cứ trước đây của họ ở Subic, Zambales và Clark Field. Đó là điều chúng ta mong muốn để tăng cuờng tập trận và tương tác”.
Ông Honorio Azcueta lên tiếng “chào mời” như thế trong cuộc gặp gỡ với đại tướng Martin Dempsey, Chủ Tịch Hội Đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân HK, tại Manila.
Năm 1992, Thượng Viện Philippines đã quyết định không gia hạn cho HK được xử dụng các căn cứ trên nước họ. Nói rõ ra là đuổi Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ mang vũ khí hạt nhân đến Philippines
Ngày 9-6-2012, ông Retano Reyes, một nhà hoạt động chính trị, lên tiếng cảnh báo, là HK sẽ mang vũ khí hạt nhân đến Philippines, một điều mà Hiến Pháp của nước nầy cấm, để bảo vệ chính sách phi vũ khí hạt nhân của họ. Phần lớn những tàu chiến HK đều có trang bị vũ khí hạt nhân, nên rất khó kiểm soát, trước đây trong chiến tranh Việt Nam, HK thừa nhận là đã lưu trữ vũ khí nguyên tử ở những căn cứ đó, đã có một tiền lệ như thế, thì khó tránh được lần thứ hai. HK giữ bí mật thì làm sao mà biết được.
Tóm lại, vũ khí hạt nhân có thể đến khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
2.3. Hoa Kỳ có kế hoạch bí mật ở căn cứ Thái Lan chống Trung Cộng
Có tin đồn về việc Bộ QP/HK có một kế hoạch bí mật nhắm vào TC ở căn cứ hải quân U-Tapao, mà chính phủ Thái vừa cho phép cơ quan Hàng Không và Vũ Trụ NASA của HK được xử dụng.
Tướng Martin E. Dempsey đã lên tiếng bác bỏ những tin đồn đó, ông khẳng định, NASA dùng căn cứ U-Tapao vào công tác nghiên cứu khí quyển, gồm khí hậu và mây ở khu vực ĐNÁ. NASA sẽ đặt một số phi cơ ở đó để phục vụ nghiên cứu. Tướng Dempsey cũng cho biết, Bộ QP/HK không có liên quan gì đến công việc thuần túy dân sự của NASA cả. Tuy nhiên, Bộ QP/HK cũng đang thảo luận với các giới chức quân sự Thái về việc thiết lập một Trung Tâm Nhân Đạo và Cứu Trợ Thảm Hoạ ở U-Tapao.
Tin đồn còn cho biết, Thái Lan cho HK xử dụng căn cứ đó để đổi lấy hộ chiếu nhập cảnh vào HK của cựu thủ tướng Thaksin Shinawatra, là anh của nữ Thủ Tướng hiện nay, Yingluck Shinawatra.
Có thể U-Tapao sẽ là một bộ phận của Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo (USCYBERCOM), một đơn vị thuần túy dân sự của HK.
Việc Bộ QP/HK thiết lập Trung Tâm Nhân Đạo ở U-Tapao kể ra cũng lạ thật.
2.4. Hoa Kỳ đóng “đồn kiểm soát” ở eo biển Malacca
Tại Hội Nghị Shangri-La, (Shangri-La là tên của khách sạn tổ chức hội nghị, ở Singapore), ông Leon Panetta đã hội đàm với người đồng cấp là Bộ Trưởng Quốc Phòng Singapore, ông Ng Eng Hen, đã đạt được một thoả thuận, cho phép HK được đưa 4 tàu chiến tấn công ven biển LCS (Littoral Combat Ship) được đến đồn trú tại vùng biển Singapore, được xem như một “trạm kiểm soát” việc ra vào của tàu bè quốc tế đi qua eo biển Malacca, bởi vì, nước Singapore nằm ngay cửa ra vào của eo biển nhộn nhịp nhất nhì thế giới nầy. Đó là tuyến hàng hải mà nhiều lần HK xem như lợi ích của quốc gia Mỹ.
4 chiếc tuần duyên hạm tối tân nhất là USS Freedom LCS-1 và USS Independence LCS-2, kỹ thuật siêu tàng hình, tốc độ cao, 56km/giờ, tầm hoạt động xa, 3,500 hải lý (6,400Km), sẽ luân phiên nhau đến đồn trú 10 tháng rồi sẽ được thay thế bằng chiến hạm hiện đại hơn.
Chuyên gia an ninh biển Singapore, ông Ristian Atriandi Supriyanto, nêu nhận định: “kế hoạch nầy của Mỹ chính là “trọng tâm biển” của chiến lược HK, vì nó nằm ngay tâm điểm hàng hải châu Á, án ngữ và kiểm soát tuyến hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới. Việc bố trí các chiến hạm hiện đại nhất nầy tại Singapore phản ảnh chủ trương chuyển trọng tâm biển về châu Á - Thái Bình Dương của HK”.
Với 40 người trên chiến hạm không thể đóng quân cố định được. LCS được thiết kế để tác chiến gần bờ, đặc biệt là kỹ thuật siêu tàng hình cho phép xâm nhập, phá hủy chiến thuật chống tiếp cận (Anti-Access/Area Denial-A2/AD) của Trung Cộng.
2.5. Tại sao Việt Nam không cho Hoa Kỳ thuê cảng Cam Ranh?
GS Chu Yin, trường Quan Hệ QT cho biết 3 lý do tại sao VN không cho HK thuê cảng Cam Ranh, như sau:
Thứ nhất
Mặc dù TC và HK có nhiều cạnh tranh và xung đột, nhưng là 2 nước được hưởng lợi nhiều nhất trong nền kinh tế toàn cầu. Lợi ích kinh tế nầy không thể tách rời HK và TC ra, nó khác với sự đối đầu giữa HK và Liên Xô trước kia.
Có nghĩa là TC và HK sẽ không đánh nhau chí tử, như thế, TC sẽ rảnh tay trừng phạt sự “phản bội” của VN.
Thứ hai
Những căn cứ tại Philippines, Thái Lan, Singapore, Nhật, Nam Hàn, Úc đủ để cho HK duy trì chiến lược quân sự ở ĐNÁ, đủ sức kềm chế TC, do đó, Cam Ranh không còn giá trị chiến lược bậc nhất đối với HK. Nếu VN cho HK thuê Cam Ranh thì xúc phạm nặng nề đối với TC, sẽ có hại cho VN nhiều hơn có lợi.
Thứ ba
Việt Nam lệ thuộc kinh tế vào TC, nên không dám hành động đưa đến thù địch.
Hiện nay, HK không chủ trương thiết lập căn cứ ở nước ngoài. Sự hợp tác VN-HK đã được xác định, nhưng không có mục đích tái lập căn cứ quân sự, mà chỉ tập trung vào quan hệ đối tác với các nước trong khu vực, giúp các nước nầy nâng cao năng lực để có đủ khả năng tự bảo vệ. Ông Panetta xác nhận điều nầy như sau: “Chỉ có sự lớn mạnh của VN và Philippines thì khu vực ĐNÁ mới được ổn định.”
Về Cam Ranh, ông Panetta nói với Phùng Quang Thanh trong cuộc họp báo như sau: “Cam Ranh là một cảng quan trọng, nếu VN có ý định cải thiện, nâng cấp, mà cần sự giúp đở, thì HK sẵn sàng hỗ trợ.” Phùng Quang Thanh đáp trả: “VN đã có kế hoạch, chiến lược và nguồn lực để phát triển Cam Ranh. Tàu không vũ trang của HK có thể tiếp tục ra vào và neo đậu tại Cam Ranh”.
2.6. Hoa Kỳ không mở căn cứ thường trực tại châu Á
Mặc dù tăng cường lực lượng quân sự ở châu Á-TBD, nhưng HK sẽ không mở thêm những căn cứ mới.
“Chính quyền Mỹ đang triển khai một chiến lược rất mới tại châu Á-TBD, thay vì lập căn cứ lớn, Mỹ sẽ đưa các lực lượng, chiến hạm, phi cơ, binh sĩ đến tham gia các nhiệm vụ tạm thời như tập trận chung, huấn luyện và tác chiến chung.” Bộ trưởng Panetta cho biết thêm: “Chiến lược mới nầy chỉ có thể thực hiện được, khi các nước đối tác đồng ý cho lực lượng Mỹ xử dụng bến cảng, sân bay và các cơ sở khác. HK đang đối diện với sức ép về ngân sách, nên phương pháp ít tốn kém nầy tốt hơn là lập căn cứ thường trực”.
Như vậy, nếu VN muốn nhờ HK bảo vệ, thì phải cho HK xử dụng Cam Ranh.
Mới đây, HK đưa 4,500 binh sĩ luân phiên nhau đến tập trận chung với Philippines và đã đưa 3 chiến hạm đến tập trận với Indonesia.
3* Lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương
3.1. Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương
Hoa Kỳ có 6 bộ tư lệnh khu vực và mới thành lập thêm Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo là 7, trong đó, BTL/TBD (PACOM) là mạnh nhất, với hai hạm đội, là Hạm Đội 7 và Hạm Đội 3.
Căn cứ BTL/TBD đặt tại Honolulu, Hawaii. Hệ thống chỉ huy, từ Tổng Thống qua Bộ Trưởng QP đến người cầm đầu BTL hiện thời là đô đốc Samuel J. Locklear (Từ 9-3-2012 - hiện tại)
3.1.1. Nhiệm vụ Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương
Bộ Tư Lệnh TBD có nhiệm vụ bảo vệ các quốc gia có hiệp ước với HK, gồm có:
- HK-Philippines (1952)
- HK-Australia-New Zealand (1952)
- Hoa Kỳ-Nam Hàn (1954)
- Hoa Kỳ-Nhật Bản (1960)
- Nhiệm vụ bảo vệ Đài Loan
3.1.2. Lực lượng quân sự của Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương
Bộ Tư Lệnh TBD có 2 hạm đội: Hạm Đội 7 và Hạm Đội 3. Lực lượng căn bản của 2 hạm đội là:
- 120 chiến hạm đủ loại (HĐ 7: 60)
- 700 phi cơ các loại (HĐ 7: 350)
- 120,000 nhân sự HQ&TQLC (HĐ 7: 60,000)
Trường hợp gia tăng lên thành 6 hàng không mẫu hạm thì những con số căn bản sẽ tăng theo, nhưng sức mạnh thật sự là những vũ khí vô cùng hiện đại của HK.
3.2. Vũ khí hiện đại tiền tỷ đô la ở Thái Bình Dương
1.Phi cơ chiến đấu tàng hình đa năng thế hệ 5 duy nhất, được đưa vào xử dụng là chiếc F-35, giá 236 triệu USD/chiếc
2.Phi cơ tàng hình ném bom tầm xa thế hệ mới, B-2, tốc độ siêu thanh, có thể ném bom hạt nhân. Giá 929 triệu USD/chiếc
3.Phi cơ Boeing P-8 Poseidon, tuần tra hàng hải, tiêu diệt tàu ngầm bằng bom và hoả tiễn, giá 220 triệu USD/chiếc.
4.Nổi bật nhất là tàu ngầm tấn công lớp Virginia, có khả năng hoạt động cả ở vùng nước sâu và vùng nước cạn. Chạy bằng năng lượng hạt nhân, cực kỳ êm, lặng lẽ, có khả năng phóng hoả tiễn hành trình (Cruise missile) tấn công mặt đất là Tomahawk và hoả tiễn hành trình Harpoon tấn công biển, nhắm vào tàu nổi, tàu ngầm. Giá 2.4 tỷ USD/chiếc.
Chiếc tàu ngầm siêu hiện đại nầy đã có mặt ở căn cứ Subic, Philippines, trong thời gian có căng thẳng giữa TC-Philippines ở Bãi Cạn Scarborough vừa qua.
5. Tuần duyên hạm tối tân LCS. Là tàu chiến đấu gần bờ, tàng hình, tốc độ 56km/giờ. Không xử dụng chân vịt (Propeller) và bánh lái, mà dùng ống hơi nước điều khiển, nên có thể áp sát bờ biển và cũng có thể chạy trên sông.
Hai tàu LCS (Littoral Combat Ship) được xử dụng là USS Independence LCS-2 và USS Freedom LCS-1. Khả năng tàng hình tối ưu, hoả lực cực mạnh, đuôi tàu có sàn đáp và chứa 2 trực thăng diệt tàu ngầm SH-60 Seahawk và 4 xe bọc thép hoặc xe humvee, xem như tàu đổ bộ mini. Loại tàu nầy được triển khai ở eo biển Malacca, Singapore.
6. Siêu khu trục hạm tàng hình Zumwalt DDG-1000. Năm 2014, HK sẽ đưa tàu khu trục nầy vào TBD.
Những vũ khí hạng nhất nầy đủ sức khắc chế Trung Cộng, ông Panetta khẳng định: “Các loại vũ khí nầy sẽ cho phép HK được tự do hoạt động trong những khu vực bị ngăn chặn”. Cụm từ “khu vực bị ngăn chặn” được hiểu là chiến thuật tạo vùng “cấm tiếp cận” (A2/AS=Anti-Access/Area Denial) của TC. Như vậy, chiến hạm LCS và Zumwalt là khắc tinh của A2/AD.
3.3. Siêu chiến hạm tàng hình Zumwalt DDG-1000
Hồi tháng 4 năm 2012, truyền thông Mỹ gây chấn động thế giới khi loan tin HQ/HK sẽ triển khai tàu khu trục (Destroyer) tàng hình trên TBD trong năm 2014. Giá mỗi chiếc là 3.8 tỷ USD.
Đô đốc Jonathan Greenert, Tham Mưu Trưởng HQ/HK tuyên bố: “Với khả năng tàng hình, hệ thống định vị bằng siêu âm, có khả năng phi thường về năng lực tấn công, không cần nhiều người điều khiển. Đây là tương lai của chúng ta”.
3.3.1. Chiến hạm của thế kỷ 21
Sau 5 năm tranh cãi, cuối cùng, ngày 15-9-2011 HQ/HK đã ký hợp đồng với công ty General Dynamics để chế tạo khu trục hạm Zumwalt DDG-1000, được gọi là “chiến hạm tàng hình đa năng” hay “chiến hạm thế kỷ 21.”
Siêu chiến hạm nầy có khả năng đột nhập, áp sát vào bờ biển mà hầu như không bị phát hiện, chủ yếu là tấn công mặt đất.
HQ/HK có lợi thế về vùng nước sâu, mà vũ khí của TC thì được bố trí ở vùng nước cạn, nên chiếc Zumwalt được sản xuất để đáp ứng khả năng khắc chế TC bằng cách bẻ gãy chiến thuật chống tiếp cận A2/AD của TC.
3.3.2. Đặc tính kỹ thuật của chiếc Zumwalt DDG-1000
Tàu DDG-1000 được đặt theo tên của Đô đốc Elmo Russell “Bud”Zumwalt Jr..
- Chiều dài. 182m, dài hơn tất cả các tàu khu trục hiện có.
- Mũi tàu. Mũi tàu hoàn toàn khác với thiết kế truyền thống là cao, trái lại chiếc Zumwalt có mũi tàu thấp, để bảo đảm tàng hình và tránh cho tàu lắc lư khi bị sóng đánh vào mũi tàu.
- Vỏ tàu. Vỏ tàu xuyên sóng, không để lại đường rẻ nước.
- Đuôi tàu. Có sàn đáp và chứa 2 trực thăng diệt tàu ngầm SH-60 Seahawk và 3 trực thăng không người lái. Không có những cột anten lộ thiên, mà toàn bộ hệ thống radar được thiết kế bên trong tháp. Động cơ đẩy chạy bằng điện nên rất êm.
3.3.3. Vũ khí trang bị
- Hệ thống định vị siêu âm
- Bệ phóng hoả tiễn đa năng. Có thể phóng nhiều hỏa tiễn khác nhau mà không cần điều chỉnh chương trình về phần mềm (Software). Phóng hoả tiễn tinh khôn tấn công mặt đất Tomahawk.
- Súng phóng hỏa tiễn tiên tiến AGS (Advanced Gun System) là một cuộc cách mạng trong ngành pháo binh, 4 khẩu súng nầy có hoả lực tương đương với một tiểu đoàn pháo binh.
Mỗi viên đạn 155mm là một hỏa tiễn được dẫn đường bằng hệ thống tấn công mặt đất tầm xa LRLAP (Long Range Land Attack Projectile), bắn xa 154km, độ chính xác sai biệt trong một chu vi 50m.
Súng AGS vận hành tự động. Thùng đạn chứa 750 hỏa tiễn, mỗi trái nặng 11kg. Hệ thống nạp đạn tự động, bắn ra 10 phát trong một phút. Chiếc Zumwalt được trang bị 2 khẩu AGS, phóng thẳng đứng. Nòng súng có thể quay vòng tròn 360 độ và được hạ xuống dưới boong tàu.
Trung Cộng không có phản ứng chính thức nào, tuy nhiên, có một viên tướng giễu cợt cho rằng, chỉ cần một chiếc ghe chứa đầy chất nổ thả trôi theo lục bình cũng đủ sức chôn chiếc tàu đó xuống đáy biển.
4* Phá vở chiến thuật chống tiếp cận của Trung Cộng
Chiến thuật chống tiếp cận (Anti-Access/Area Denial-A2/AD) là dùng tầm hoạt động xa của hoả tiễn, cùng với hệ thống radar và các thiết bị báo động sớm, lập ra một khu vực để ngăn chặn, khiến cho tàu địch không dám xâm phạm vào tầm sát hại của vũ khí phòng thủ.
Vùng chống tiếp cận của TC được đặt ra trong tầm sát hại của hỏa tiễn Đông Phong 21 (DF-21) được xem là “sát thủ tàu sân bay”, vì thế HKMH HK không dám đến gần. Giờ đây, HK có 3 thứ vũ khí khắc tinh của vùng chống tiếp cận, là tàu ngầm lớp Virginia, tàu tuần duyên LCS và Zumwalt, bằng cách bịt miệng, vô hiệu hoá hỏa tiễn sát thủ tàu sân bay DF-21.
5* Phá vở chiến thuật tấn công Đài Loan của Trung Cộng
Chiến thuật chống HK trong việc bảo vệ Đài Loan, hay tấn công HK trên TBD, bắt đầu bằng cuộc tấn công trên mạng của chiến tranh không gian ảo (Cyberwar). Theo kế hoạch, TC sẽ tấn công vào hệ thống máy tính của BTL/TBD và của các công ty tiếp vận cho Đài Loan, để làm trì trệ việc phản ứng kịp thời giải cứu đảo quốc nầy.
Để phá vỡ kế hoạch đó, HK đã thiết lập Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo (USCYBERCOM) và có thể sẽ đặt một bộ phận ở căn cứ U-Tapao của Thái Lan.
Như vậy, hai chiến thuật của TC, một dùng hoả tiển sát thủ tàu sân bay, một là dùng chiến tranh không gian ảo, bị khắc chế và phá vở bởi chiến lược “Tái cân bằng lực lượng quân sự” của Tổng Thống Obama.
6* Quan điểm của Hoa Kỳ về Biển Đông
4 nội dung căn bản.
1. Mỹ có lợi ích quốc gia tại Biển Đông, đặc biệt là an ninh hàng hải, chủ yếu là từ eo biển Malacca.
2. Mỹ không đứng về phe nào trong việc tranh chấp chủ quyền, nhưng ủng hộ giải quyết bằng đàm phán hoà bình, ngoại giao đa phương, trên căn bản luật pháp quốc tế. Đặc biệt là Mỹ cam kết bảo vệ các quốc gia có hiệp ước với HK, như Philippines, Nam Hàn, Nhật Bản, Úc, New Zealand, và bảo vệ Đài Loan.
Bao nhiêu điều đó cho thấy HK có lý do để không đứng ngoải tranh chấp ở Biển Đông. Và cũng cho thấy, HK có thể đứng ngoài trong trường hợp TC dạy cho CSVN một bài học thứ hai, nếu như CSVN không chính thức lập quan hệ quốc phòng cụ thể với HK.
3. Mỹ tăng cường HQ vì trọng tâm kinh tế toàn cầu di chuyển về khu vực ĐNÁ, vì Mỹ có quyền lợi ở đây, nên điều chỉnh việc tập trung lực lượng quân sự là việc bình thường, không phải nhắm vào Trung Cộng.
4. Trong chuyến công du châu Á lần nầy, Bộ Trưởng QP/HK Panetta khẳng định cam kết bảo vệ các đồng minh của HK, đồng thời cũng mong muốn hợp tác với Trung Công.
7* Hoa Kỳ chủ trương “3 hơn” ở châu Á-Thái Bình Dương
Ngày 7-6-2012, trong cuộc họp báo, tướng Martin Dempsey cho biết, việc chuyển quân đến châu Á-TBD dựa trên nguyên tắc 3 hơn: Quan tâm hơn. Cam kết nhiều hơn. Chất lượng hơn.
Binh sĩ Mỹ sẽ luân phiên nhau, hơn là đóng quân tại căn cứ cố định.
Philippines, Thái Lan và Singapore đã có đóng góp tích cực và muốn chia xẻ trách nhiệm quốc phòng lớn hơn.
Hoa Kỳ khuyến khích khối ASEAN đóng vai trò tích cực hơn.
8* Kết
Chiến lược “tái cân bằng lực lượng quân sự” của Hoa Kỳ lợi hại thật, cho thấy Trung Cộng khó thoát khỏi thiên la địa võng mà Tổng Thống Obama đã bày ra.
Những căn cứ hoả tiễn của Hoa Kỳ, từ Alaska, Hạm Đội 3 ở Bắc TBD, Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, đảo Guam, Honolulu (Hawaii), Philippines, Úc, Thái Lan, đến Singapore, và từ 6 hàng không mẫu hạm nằm trên vành đai bao vây, đều chỉa hoả lực vào một mục tiêu cố định là Bắc Kinh, cho thấy TC chạy trời không khỏi nắng.
Ví dụ như một trận chiến xảy ra, thì ngoài vũ trụ, tàu con thoi không người lái X-37B, đang làm chủ không gian, làm tê liệt hệ thống định vị toàn cầu (GPS) của TC, thì hoả tiễn “sát thủ HKMH” DF-21 hoàn toàn vô dụng. Thêm vào đó, X-37B cũng có khả năng phóng hỏa tiễn xuống Bắc Kinh, đồng thời 3 siêu vũ khí tàng hình phá hủy chiến thuật “vùng cấm tiếp cận” của TC và nhất là từ 12 vị trí trên vòng đai bao vây, cùng khai hỏa một lúc nhắm vào Hoa Lục thì TC có ba đầu 6 tay cũng đành chịu, vì không thể phản công cùng một lúc đến 12 vị trí ở nhiều phương hướng khác nhau được.
Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo của HK nhập trận, phen nầy anh ba Tàu chết chắc. Hay ít ra cũng không còn lớn lối hăm he các nước nhỏ trong khu vực nữa.
Trúc Giang
Minnesota ngày 22-6-2012
Tại hội nghị Đối Thoại Shangri-La, Singapore, hồi đầu tháng 6 năm 2012, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Leon Panetta đã tiết lộ, một số vũ khí mới sẽ được triển khai tại châu Á – Thái Bình Dương trong chiến lược “Tái cân bằng lực lượng quân sự” của Tổng Thống Barack Obama.
“Tái cân bằng lực lượng” là cụm từ dùng để che giấu hành động “bao vây” và “kềm chế” của Hoa Kỳ (HK) đối với Trung Cộng (TC) mà thôi, bởi vì trên thực tế, lực lượng quân sự của TC chưa bao giờ ngang bằng với lực lượng của HK. Về hải quân (HQ), TC thua kém HK rõ rệt. Về vũ trụ, HK đang làm chủ không gian với tàu không gian con thoi không người lái X-37B. Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo (United States Cyber Command-USCYBERCOM) đang được thành lập để tiến hành cuộc chiến tranh mạng (Cyberwar) chống lại TC.
Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương (USPACOM) với hai hạm đội là Hạm Đội 7 và Hạm Đội 3 sẽ được tăng cường lên thành 6 hàng không mẫu hạm, và đặc biệt là những vũ khí hiện đại nhất sẽ được bố trí trên vòng đai bao vây TC, cho thấy nước nầy khó thoát khỏi thiên la địa võng của HK.
2* Bày thiên la địa võng
Thiên la địa võng là vòng vây bủa kín tất cả các phía, không có đường ra, không có lối thoát.
2.1. Căn cứ Hoa Kỳ trên thế giới
Hàng năm, HK chi ra khoảng 250 tỷ đô la để duy trì sự hiện diện quân sự trên toàn cầu. Theo báo cáo của Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế CSIS (Center for Strategic and International Studies-CSIS), thì hệ thống quân sự bao gồm công khai và bí mật của Mỹ ở nước ngoài lên tới 1,000 căn cứ, chưa kể những căn cứ tạm trú.
Mỗi năm, con số quân nhân đồng phục Mỹ ở nước ngoài là 250,000 và số nhân viên dân sự tương đương đi cùng. Ngoài ra, còn 50,000 người địa phương phục vụ nhiều công việc khác nhau tại các căn Mỹ.
Thượng Viện yêu cầu chính quyền Obama rút gọn và đóng cửa phần lớn các căn cứ ở nước ngoài, để binh sĩ được trở về nhà, và giảm chi phí. Nhưng Tổng Thống Obama và các viên chức quốc phòng và ngoại giao cho rằng, những căn cứ đó quan trọng hàng đầu, là biểu tượng sức mạnh của HK trên thế giới. Đó là một bộ phận làm phát triển lợi ích cho Mỹ, đồng thời cũng cố mối quan hệ và niềm tin của các đồng minh, qua duy trì sự lãnh đạo của HK trên thế giới.
2.2. Hoa Kỳ xử dụng 3 căn cứ ở Philippines
Ngày 4-6-2012, Thứ Trưởng Quốc Phòng Philippines, ông Honorio Azcueta cho báo chí biết: “Quân đội Mỹ, tàu chiến và phi cơ, một lần nữa có thể xử dụng những căn cứ trước đây của họ ở Subic, Zambales và Clark Field. Đó là điều chúng ta mong muốn để tăng cuờng tập trận và tương tác”.
Ông Honorio Azcueta lên tiếng “chào mời” như thế trong cuộc gặp gỡ với đại tướng Martin Dempsey, Chủ Tịch Hội Đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân HK, tại Manila.
Năm 1992, Thượng Viện Philippines đã quyết định không gia hạn cho HK được xử dụng các căn cứ trên nước họ. Nói rõ ra là đuổi Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ mang vũ khí hạt nhân đến Philippines
Ngày 9-6-2012, ông Retano Reyes, một nhà hoạt động chính trị, lên tiếng cảnh báo, là HK sẽ mang vũ khí hạt nhân đến Philippines, một điều mà Hiến Pháp của nước nầy cấm, để bảo vệ chính sách phi vũ khí hạt nhân của họ. Phần lớn những tàu chiến HK đều có trang bị vũ khí hạt nhân, nên rất khó kiểm soát, trước đây trong chiến tranh Việt Nam, HK thừa nhận là đã lưu trữ vũ khí nguyên tử ở những căn cứ đó, đã có một tiền lệ như thế, thì khó tránh được lần thứ hai. HK giữ bí mật thì làm sao mà biết được.
Tóm lại, vũ khí hạt nhân có thể đến khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
2.3. Hoa Kỳ có kế hoạch bí mật ở căn cứ Thái Lan chống Trung Cộng
Có tin đồn về việc Bộ QP/HK có một kế hoạch bí mật nhắm vào TC ở căn cứ hải quân U-Tapao, mà chính phủ Thái vừa cho phép cơ quan Hàng Không và Vũ Trụ NASA của HK được xử dụng.
Tướng Martin E. Dempsey đã lên tiếng bác bỏ những tin đồn đó, ông khẳng định, NASA dùng căn cứ U-Tapao vào công tác nghiên cứu khí quyển, gồm khí hậu và mây ở khu vực ĐNÁ. NASA sẽ đặt một số phi cơ ở đó để phục vụ nghiên cứu. Tướng Dempsey cũng cho biết, Bộ QP/HK không có liên quan gì đến công việc thuần túy dân sự của NASA cả. Tuy nhiên, Bộ QP/HK cũng đang thảo luận với các giới chức quân sự Thái về việc thiết lập một Trung Tâm Nhân Đạo và Cứu Trợ Thảm Hoạ ở U-Tapao.
Tin đồn còn cho biết, Thái Lan cho HK xử dụng căn cứ đó để đổi lấy hộ chiếu nhập cảnh vào HK của cựu thủ tướng Thaksin Shinawatra, là anh của nữ Thủ Tướng hiện nay, Yingluck Shinawatra.
Có thể U-Tapao sẽ là một bộ phận của Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo (USCYBERCOM), một đơn vị thuần túy dân sự của HK.
Việc Bộ QP/HK thiết lập Trung Tâm Nhân Đạo ở U-Tapao kể ra cũng lạ thật.
2.4. Hoa Kỳ đóng “đồn kiểm soát” ở eo biển Malacca
Tại Hội Nghị Shangri-La, (Shangri-La là tên của khách sạn tổ chức hội nghị, ở Singapore), ông Leon Panetta đã hội đàm với người đồng cấp là Bộ Trưởng Quốc Phòng Singapore, ông Ng Eng Hen, đã đạt được một thoả thuận, cho phép HK được đưa 4 tàu chiến tấn công ven biển LCS (Littoral Combat Ship) được đến đồn trú tại vùng biển Singapore, được xem như một “trạm kiểm soát” việc ra vào của tàu bè quốc tế đi qua eo biển Malacca, bởi vì, nước Singapore nằm ngay cửa ra vào của eo biển nhộn nhịp nhất nhì thế giới nầy. Đó là tuyến hàng hải mà nhiều lần HK xem như lợi ích của quốc gia Mỹ.
4 chiếc tuần duyên hạm tối tân nhất là USS Freedom LCS-1 và USS Independence LCS-2, kỹ thuật siêu tàng hình, tốc độ cao, 56km/giờ, tầm hoạt động xa, 3,500 hải lý (6,400Km), sẽ luân phiên nhau đến đồn trú 10 tháng rồi sẽ được thay thế bằng chiến hạm hiện đại hơn.
Chuyên gia an ninh biển Singapore, ông Ristian Atriandi Supriyanto, nêu nhận định: “kế hoạch nầy của Mỹ chính là “trọng tâm biển” của chiến lược HK, vì nó nằm ngay tâm điểm hàng hải châu Á, án ngữ và kiểm soát tuyến hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới. Việc bố trí các chiến hạm hiện đại nhất nầy tại Singapore phản ảnh chủ trương chuyển trọng tâm biển về châu Á - Thái Bình Dương của HK”.
Với 40 người trên chiến hạm không thể đóng quân cố định được. LCS được thiết kế để tác chiến gần bờ, đặc biệt là kỹ thuật siêu tàng hình cho phép xâm nhập, phá hủy chiến thuật chống tiếp cận (Anti-Access/Area Denial-A2/AD) của Trung Cộng.
2.5. Tại sao Việt Nam không cho Hoa Kỳ thuê cảng Cam Ranh?
GS Chu Yin, trường Quan Hệ QT cho biết 3 lý do tại sao VN không cho HK thuê cảng Cam Ranh, như sau:
Thứ nhất
Mặc dù TC và HK có nhiều cạnh tranh và xung đột, nhưng là 2 nước được hưởng lợi nhiều nhất trong nền kinh tế toàn cầu. Lợi ích kinh tế nầy không thể tách rời HK và TC ra, nó khác với sự đối đầu giữa HK và Liên Xô trước kia.
Có nghĩa là TC và HK sẽ không đánh nhau chí tử, như thế, TC sẽ rảnh tay trừng phạt sự “phản bội” của VN.
Thứ hai
Những căn cứ tại Philippines, Thái Lan, Singapore, Nhật, Nam Hàn, Úc đủ để cho HK duy trì chiến lược quân sự ở ĐNÁ, đủ sức kềm chế TC, do đó, Cam Ranh không còn giá trị chiến lược bậc nhất đối với HK. Nếu VN cho HK thuê Cam Ranh thì xúc phạm nặng nề đối với TC, sẽ có hại cho VN nhiều hơn có lợi.
Thứ ba
Việt Nam lệ thuộc kinh tế vào TC, nên không dám hành động đưa đến thù địch.
Hiện nay, HK không chủ trương thiết lập căn cứ ở nước ngoài. Sự hợp tác VN-HK đã được xác định, nhưng không có mục đích tái lập căn cứ quân sự, mà chỉ tập trung vào quan hệ đối tác với các nước trong khu vực, giúp các nước nầy nâng cao năng lực để có đủ khả năng tự bảo vệ. Ông Panetta xác nhận điều nầy như sau: “Chỉ có sự lớn mạnh của VN và Philippines thì khu vực ĐNÁ mới được ổn định.”
Về Cam Ranh, ông Panetta nói với Phùng Quang Thanh trong cuộc họp báo như sau: “Cam Ranh là một cảng quan trọng, nếu VN có ý định cải thiện, nâng cấp, mà cần sự giúp đở, thì HK sẵn sàng hỗ trợ.” Phùng Quang Thanh đáp trả: “VN đã có kế hoạch, chiến lược và nguồn lực để phát triển Cam Ranh. Tàu không vũ trang của HK có thể tiếp tục ra vào và neo đậu tại Cam Ranh”.
2.6. Hoa Kỳ không mở căn cứ thường trực tại châu Á
Mặc dù tăng cường lực lượng quân sự ở châu Á-TBD, nhưng HK sẽ không mở thêm những căn cứ mới.
“Chính quyền Mỹ đang triển khai một chiến lược rất mới tại châu Á-TBD, thay vì lập căn cứ lớn, Mỹ sẽ đưa các lực lượng, chiến hạm, phi cơ, binh sĩ đến tham gia các nhiệm vụ tạm thời như tập trận chung, huấn luyện và tác chiến chung.” Bộ trưởng Panetta cho biết thêm: “Chiến lược mới nầy chỉ có thể thực hiện được, khi các nước đối tác đồng ý cho lực lượng Mỹ xử dụng bến cảng, sân bay và các cơ sở khác. HK đang đối diện với sức ép về ngân sách, nên phương pháp ít tốn kém nầy tốt hơn là lập căn cứ thường trực”.
Như vậy, nếu VN muốn nhờ HK bảo vệ, thì phải cho HK xử dụng Cam Ranh.
Mới đây, HK đưa 4,500 binh sĩ luân phiên nhau đến tập trận chung với Philippines và đã đưa 3 chiến hạm đến tập trận với Indonesia.
3* Lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương
3.1. Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương
Hoa Kỳ có 6 bộ tư lệnh khu vực và mới thành lập thêm Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo là 7, trong đó, BTL/TBD (PACOM) là mạnh nhất, với hai hạm đội, là Hạm Đội 7 và Hạm Đội 3.
Căn cứ BTL/TBD đặt tại Honolulu, Hawaii. Hệ thống chỉ huy, từ Tổng Thống qua Bộ Trưởng QP đến người cầm đầu BTL hiện thời là đô đốc Samuel J. Locklear (Từ 9-3-2012 - hiện tại)
3.1.1. Nhiệm vụ Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương
Bộ Tư Lệnh TBD có nhiệm vụ bảo vệ các quốc gia có hiệp ước với HK, gồm có:
- HK-Philippines (1952)
- HK-Australia-New Zealand (1952)
- Hoa Kỳ-Nam Hàn (1954)
- Hoa Kỳ-Nhật Bản (1960)
- Nhiệm vụ bảo vệ Đài Loan
3.1.2. Lực lượng quân sự của Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương
Bộ Tư Lệnh TBD có 2 hạm đội: Hạm Đội 7 và Hạm Đội 3. Lực lượng căn bản của 2 hạm đội là:
- 120 chiến hạm đủ loại (HĐ 7: 60)
- 700 phi cơ các loại (HĐ 7: 350)
- 120,000 nhân sự HQ&TQLC (HĐ 7: 60,000)
Trường hợp gia tăng lên thành 6 hàng không mẫu hạm thì những con số căn bản sẽ tăng theo, nhưng sức mạnh thật sự là những vũ khí vô cùng hiện đại của HK.
3.2. Vũ khí hiện đại tiền tỷ đô la ở Thái Bình Dương
1.Phi cơ chiến đấu tàng hình đa năng thế hệ 5 duy nhất, được đưa vào xử dụng là chiếc F-35, giá 236 triệu USD/chiếc
2.Phi cơ tàng hình ném bom tầm xa thế hệ mới, B-2, tốc độ siêu thanh, có thể ném bom hạt nhân. Giá 929 triệu USD/chiếc
3.Phi cơ Boeing P-8 Poseidon, tuần tra hàng hải, tiêu diệt tàu ngầm bằng bom và hoả tiễn, giá 220 triệu USD/chiếc.
4.Nổi bật nhất là tàu ngầm tấn công lớp Virginia, có khả năng hoạt động cả ở vùng nước sâu và vùng nước cạn. Chạy bằng năng lượng hạt nhân, cực kỳ êm, lặng lẽ, có khả năng phóng hoả tiễn hành trình (Cruise missile) tấn công mặt đất là Tomahawk và hoả tiễn hành trình Harpoon tấn công biển, nhắm vào tàu nổi, tàu ngầm. Giá 2.4 tỷ USD/chiếc.
Chiếc tàu ngầm siêu hiện đại nầy đã có mặt ở căn cứ Subic, Philippines, trong thời gian có căng thẳng giữa TC-Philippines ở Bãi Cạn Scarborough vừa qua.
5. Tuần duyên hạm tối tân LCS. Là tàu chiến đấu gần bờ, tàng hình, tốc độ 56km/giờ. Không xử dụng chân vịt (Propeller) và bánh lái, mà dùng ống hơi nước điều khiển, nên có thể áp sát bờ biển và cũng có thể chạy trên sông.
Hai tàu LCS (Littoral Combat Ship) được xử dụng là USS Independence LCS-2 và USS Freedom LCS-1. Khả năng tàng hình tối ưu, hoả lực cực mạnh, đuôi tàu có sàn đáp và chứa 2 trực thăng diệt tàu ngầm SH-60 Seahawk và 4 xe bọc thép hoặc xe humvee, xem như tàu đổ bộ mini. Loại tàu nầy được triển khai ở eo biển Malacca, Singapore.
6. Siêu khu trục hạm tàng hình Zumwalt DDG-1000. Năm 2014, HK sẽ đưa tàu khu trục nầy vào TBD.
Những vũ khí hạng nhất nầy đủ sức khắc chế Trung Cộng, ông Panetta khẳng định: “Các loại vũ khí nầy sẽ cho phép HK được tự do hoạt động trong những khu vực bị ngăn chặn”. Cụm từ “khu vực bị ngăn chặn” được hiểu là chiến thuật tạo vùng “cấm tiếp cận” (A2/AS=Anti-Access/Area Denial) của TC. Như vậy, chiến hạm LCS và Zumwalt là khắc tinh của A2/AD.
3.3. Siêu chiến hạm tàng hình Zumwalt DDG-1000
Hồi tháng 4 năm 2012, truyền thông Mỹ gây chấn động thế giới khi loan tin HQ/HK sẽ triển khai tàu khu trục (Destroyer) tàng hình trên TBD trong năm 2014. Giá mỗi chiếc là 3.8 tỷ USD.
Đô đốc Jonathan Greenert, Tham Mưu Trưởng HQ/HK tuyên bố: “Với khả năng tàng hình, hệ thống định vị bằng siêu âm, có khả năng phi thường về năng lực tấn công, không cần nhiều người điều khiển. Đây là tương lai của chúng ta”.
3.3.1. Chiến hạm của thế kỷ 21
Sau 5 năm tranh cãi, cuối cùng, ngày 15-9-2011 HQ/HK đã ký hợp đồng với công ty General Dynamics để chế tạo khu trục hạm Zumwalt DDG-1000, được gọi là “chiến hạm tàng hình đa năng” hay “chiến hạm thế kỷ 21.”
Siêu chiến hạm nầy có khả năng đột nhập, áp sát vào bờ biển mà hầu như không bị phát hiện, chủ yếu là tấn công mặt đất.
HQ/HK có lợi thế về vùng nước sâu, mà vũ khí của TC thì được bố trí ở vùng nước cạn, nên chiếc Zumwalt được sản xuất để đáp ứng khả năng khắc chế TC bằng cách bẻ gãy chiến thuật chống tiếp cận A2/AD của TC.
3.3.2. Đặc tính kỹ thuật của chiếc Zumwalt DDG-1000
Tàu DDG-1000 được đặt theo tên của Đô đốc Elmo Russell “Bud”Zumwalt Jr..
- Chiều dài. 182m, dài hơn tất cả các tàu khu trục hiện có.
- Mũi tàu. Mũi tàu hoàn toàn khác với thiết kế truyền thống là cao, trái lại chiếc Zumwalt có mũi tàu thấp, để bảo đảm tàng hình và tránh cho tàu lắc lư khi bị sóng đánh vào mũi tàu.
- Vỏ tàu. Vỏ tàu xuyên sóng, không để lại đường rẻ nước.
- Đuôi tàu. Có sàn đáp và chứa 2 trực thăng diệt tàu ngầm SH-60 Seahawk và 3 trực thăng không người lái. Không có những cột anten lộ thiên, mà toàn bộ hệ thống radar được thiết kế bên trong tháp. Động cơ đẩy chạy bằng điện nên rất êm.
3.3.3. Vũ khí trang bị
- Hệ thống định vị siêu âm
- Bệ phóng hoả tiễn đa năng. Có thể phóng nhiều hỏa tiễn khác nhau mà không cần điều chỉnh chương trình về phần mềm (Software). Phóng hoả tiễn tinh khôn tấn công mặt đất Tomahawk.
- Súng phóng hỏa tiễn tiên tiến AGS (Advanced Gun System) là một cuộc cách mạng trong ngành pháo binh, 4 khẩu súng nầy có hoả lực tương đương với một tiểu đoàn pháo binh.
Mỗi viên đạn 155mm là một hỏa tiễn được dẫn đường bằng hệ thống tấn công mặt đất tầm xa LRLAP (Long Range Land Attack Projectile), bắn xa 154km, độ chính xác sai biệt trong một chu vi 50m.
Súng AGS vận hành tự động. Thùng đạn chứa 750 hỏa tiễn, mỗi trái nặng 11kg. Hệ thống nạp đạn tự động, bắn ra 10 phát trong một phút. Chiếc Zumwalt được trang bị 2 khẩu AGS, phóng thẳng đứng. Nòng súng có thể quay vòng tròn 360 độ và được hạ xuống dưới boong tàu.
Trung Cộng không có phản ứng chính thức nào, tuy nhiên, có một viên tướng giễu cợt cho rằng, chỉ cần một chiếc ghe chứa đầy chất nổ thả trôi theo lục bình cũng đủ sức chôn chiếc tàu đó xuống đáy biển.
4* Phá vở chiến thuật chống tiếp cận của Trung Cộng
Chiến thuật chống tiếp cận (Anti-Access/Area Denial-A2/AD) là dùng tầm hoạt động xa của hoả tiễn, cùng với hệ thống radar và các thiết bị báo động sớm, lập ra một khu vực để ngăn chặn, khiến cho tàu địch không dám xâm phạm vào tầm sát hại của vũ khí phòng thủ.
Vùng chống tiếp cận của TC được đặt ra trong tầm sát hại của hỏa tiễn Đông Phong 21 (DF-21) được xem là “sát thủ tàu sân bay”, vì thế HKMH HK không dám đến gần. Giờ đây, HK có 3 thứ vũ khí khắc tinh của vùng chống tiếp cận, là tàu ngầm lớp Virginia, tàu tuần duyên LCS và Zumwalt, bằng cách bịt miệng, vô hiệu hoá hỏa tiễn sát thủ tàu sân bay DF-21.
5* Phá vở chiến thuật tấn công Đài Loan của Trung Cộng
Chiến thuật chống HK trong việc bảo vệ Đài Loan, hay tấn công HK trên TBD, bắt đầu bằng cuộc tấn công trên mạng của chiến tranh không gian ảo (Cyberwar). Theo kế hoạch, TC sẽ tấn công vào hệ thống máy tính của BTL/TBD và của các công ty tiếp vận cho Đài Loan, để làm trì trệ việc phản ứng kịp thời giải cứu đảo quốc nầy.
Để phá vỡ kế hoạch đó, HK đã thiết lập Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo (USCYBERCOM) và có thể sẽ đặt một bộ phận ở căn cứ U-Tapao của Thái Lan.
Như vậy, hai chiến thuật của TC, một dùng hoả tiển sát thủ tàu sân bay, một là dùng chiến tranh không gian ảo, bị khắc chế và phá vở bởi chiến lược “Tái cân bằng lực lượng quân sự” của Tổng Thống Obama.
6* Quan điểm của Hoa Kỳ về Biển Đông
4 nội dung căn bản.
1. Mỹ có lợi ích quốc gia tại Biển Đông, đặc biệt là an ninh hàng hải, chủ yếu là từ eo biển Malacca.
2. Mỹ không đứng về phe nào trong việc tranh chấp chủ quyền, nhưng ủng hộ giải quyết bằng đàm phán hoà bình, ngoại giao đa phương, trên căn bản luật pháp quốc tế. Đặc biệt là Mỹ cam kết bảo vệ các quốc gia có hiệp ước với HK, như Philippines, Nam Hàn, Nhật Bản, Úc, New Zealand, và bảo vệ Đài Loan.
Bao nhiêu điều đó cho thấy HK có lý do để không đứng ngoải tranh chấp ở Biển Đông. Và cũng cho thấy, HK có thể đứng ngoài trong trường hợp TC dạy cho CSVN một bài học thứ hai, nếu như CSVN không chính thức lập quan hệ quốc phòng cụ thể với HK.
3. Mỹ tăng cường HQ vì trọng tâm kinh tế toàn cầu di chuyển về khu vực ĐNÁ, vì Mỹ có quyền lợi ở đây, nên điều chỉnh việc tập trung lực lượng quân sự là việc bình thường, không phải nhắm vào Trung Cộng.
4. Trong chuyến công du châu Á lần nầy, Bộ Trưởng QP/HK Panetta khẳng định cam kết bảo vệ các đồng minh của HK, đồng thời cũng mong muốn hợp tác với Trung Công.
7* Hoa Kỳ chủ trương “3 hơn” ở châu Á-Thái Bình Dương
Ngày 7-6-2012, trong cuộc họp báo, tướng Martin Dempsey cho biết, việc chuyển quân đến châu Á-TBD dựa trên nguyên tắc 3 hơn: Quan tâm hơn. Cam kết nhiều hơn. Chất lượng hơn.
Binh sĩ Mỹ sẽ luân phiên nhau, hơn là đóng quân tại căn cứ cố định.
Philippines, Thái Lan và Singapore đã có đóng góp tích cực và muốn chia xẻ trách nhiệm quốc phòng lớn hơn.
Hoa Kỳ khuyến khích khối ASEAN đóng vai trò tích cực hơn.
8* Kết
Chiến lược “tái cân bằng lực lượng quân sự” của Hoa Kỳ lợi hại thật, cho thấy Trung Cộng khó thoát khỏi thiên la địa võng mà Tổng Thống Obama đã bày ra.
Những căn cứ hoả tiễn của Hoa Kỳ, từ Alaska, Hạm Đội 3 ở Bắc TBD, Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, đảo Guam, Honolulu (Hawaii), Philippines, Úc, Thái Lan, đến Singapore, và từ 6 hàng không mẫu hạm nằm trên vành đai bao vây, đều chỉa hoả lực vào một mục tiêu cố định là Bắc Kinh, cho thấy TC chạy trời không khỏi nắng.
Ví dụ như một trận chiến xảy ra, thì ngoài vũ trụ, tàu con thoi không người lái X-37B, đang làm chủ không gian, làm tê liệt hệ thống định vị toàn cầu (GPS) của TC, thì hoả tiễn “sát thủ HKMH” DF-21 hoàn toàn vô dụng. Thêm vào đó, X-37B cũng có khả năng phóng hỏa tiễn xuống Bắc Kinh, đồng thời 3 siêu vũ khí tàng hình phá hủy chiến thuật “vùng cấm tiếp cận” của TC và nhất là từ 12 vị trí trên vòng đai bao vây, cùng khai hỏa một lúc nhắm vào Hoa Lục thì TC có ba đầu 6 tay cũng đành chịu, vì không thể phản công cùng một lúc đến 12 vị trí ở nhiều phương hướng khác nhau được.
Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo của HK nhập trận, phen nầy anh ba Tàu chết chắc. Hay ít ra cũng không còn lớn lối hăm he các nước nhỏ trong khu vực nữa.
Trúc Giang
Minnesota ngày 22-6-2012
TRÚC GIANG * TRUNG CỘNG & MỸ
Trung Cộng Khó Thoát Khỏi Thiên La Địa Võng Của Hoa Kỳ
Trúc Giang
1* Mở bài
Tại hội nghị Đối Thoại Shangri-La, Singapore, hồi đầu tháng 6 năm 2012, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Leon Panetta đã tiết lộ, một số vũ khí mới sẽ được triển khai tại châu Á – Thái Bình Dương trong chiến lược “Tái cân bằng lực lượng quân sự” của Tổng Thống Barack Obama.
“Tái cân bằng lực lượng” là cụm từ dùng để che giấu hành động “bao vây” và “kềm chế” của Hoa Kỳ (HK) đối với Trung Cộng (TC) mà thôi, bởi vì trên thực tế, lực lượng quân sự của TC chưa bao giờ ngang bằng với lực lượng của HK. Về hải quân (HQ), TC thua kém HK rõ rệt. Về vũ trụ, HK đang làm chủ không gian với tàu không gian con thoi không người lái X-37B. Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo (United States Cyber Command-USCYBERCOM) đang được thành lập để tiến hành cuộc chiến tranh mạng (Cyberwar) chống lại TC.
Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương (USPACOM) với hai hạm đội là Hạm Đội 7 và Hạm Đội 3 sẽ được tăng cường lên thành 6 hàng không mẫu hạm, và đặc biệt là những vũ khí hiện đại nhất sẽ được bố trí trên vòng đai bao vây TC, cho thấy nước nầy khó thoát khỏi thiên la địa võng của HK.
2* Bày thiên la địa võng
Thiên la địa võng là vòng vây bủa kín tất cả các phía, không có đường ra, không có lối thoát.
2.1. Căn cứ Hoa Kỳ trên thế giới
Hàng năm, HK chi ra khoảng 250 tỷ đô la để duy trì sự hiện diện quân sự trên toàn cầu. Theo báo cáo của Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế CSIS (Center for Strategic and International Studies-CSIS), thì hệ thống quân sự bao gồm công khai và bí mật của Mỹ ở nước ngoài lên tới 1,000 căn cứ, chưa kể những căn cứ tạm trú.
Mỗi năm, con số quân nhân đồng phục Mỹ ở nước ngoài là 250,000 và số nhân viên dân sự tương đương đi cùng. Ngoài ra, còn 50,000 người địa phương phục vụ nhiều công việc khác nhau tại các căn Mỹ.
Thượng Viện yêu cầu chính quyền Obama rút gọn và đóng cửa phần lớn các căn cứ ở nước ngoài, để binh sĩ được trở về nhà, và giảm chi phí. Nhưng Tổng Thống Obama và các viên chức quốc phòng và ngoại giao cho rằng, những căn cứ đó quan trọng hàng đầu, là biểu tượng sức mạnh của HK trên thế giới. Đó là một bộ phận làm phát triển lợi ích cho Mỹ, đồng thời cũng cố mối quan hệ và niềm tin của các đồng minh, qua duy trì sự lãnh đạo của HK trên thế giới.
2.2. Hoa Kỳ xử dụng 3 căn cứ ở Philippines
Ngày 4-6-2012, Thứ Trưởng Quốc Phòng Philippines, ông Honorio Azcueta cho báo chí biết: “Quân đội Mỹ, tàu chiến và phi cơ, một lần nữa có thể xử dụng những căn cứ trước đây của họ ở Subic, Zambales và Clark Field. Đó là điều chúng ta mong muốn để tăng cuờng tập trận và tương tác”.
Ông Honorio Azcueta lên tiếng “chào mời” như thế trong cuộc gặp gỡ với đại tướng Martin Dempsey, Chủ Tịch Hội Đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân HK, tại Manila.
Năm 1992, Thượng Viện Philippines đã quyết định không gia hạn cho HK được xử dụng các căn cứ trên nước họ. Nói rõ ra là đuổi Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ mang vũ khí hạt nhân đến Philippines
Ngày 9-6-2012, ông Retano Reyes, một nhà hoạt động chính trị, lên tiếng cảnh báo, là HK sẽ mang vũ khí hạt nhân đến Philippines, một điều mà Hiến Pháp của nước nầy cấm, để bảo vệ chính sách phi vũ khí hạt nhân của họ. Phần lớn những tàu chiến HK đều có trang bị vũ khí hạt nhân, nên rất khó kiểm soát, trước đây trong chiến tranh Việt Nam, HK thừa nhận là đã lưu trữ vũ khí nguyên tử ở những căn cứ đó, đã có một tiền lệ như thế, thì khó tránh được lần thứ hai. HK giữ bí mật thì làm sao mà biết được.
Tóm lại, vũ khí hạt nhân có thể đến khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
2.3. Hoa Kỳ có kế hoạch bí mật ở căn cứ Thái Lan chống Trung Cộng
Có tin đồn về việc Bộ QP/HK có một kế hoạch bí mật nhắm vào TC ở căn cứ hải quân U-Tapao, mà chính phủ Thái vừa cho phép cơ quan Hàng Không và Vũ Trụ NASA của HK được xử dụng.
Tướng Martin E. Dempsey đã lên tiếng bác bỏ những tin đồn đó, ông khẳng định, NASA dùng căn cứ U-Tapao vào công tác nghiên cứu khí quyển, gồm khí hậu và mây ở khu vực ĐNÁ. NASA sẽ đặt một số phi cơ ở đó để phục vụ nghiên cứu. Tướng Dempsey cũng cho biết, Bộ QP/HK không có liên quan gì đến công việc thuần túy dân sự của NASA cả. Tuy nhiên, Bộ QP/HK cũng đang thảo luận với các giới chức quân sự Thái về việc thiết lập một Trung Tâm Nhân Đạo và Cứu Trợ Thảm Hoạ ở U-Tapao.
Tin đồn còn cho biết, Thái Lan cho HK xử dụng căn cứ đó để đổi lấy hộ chiếu nhập cảnh vào HK của cựu thủ tướng Thaksin Shinawatra, là anh của nữ Thủ Tướng hiện nay, Yingluck Shinawatra.
Có thể U-Tapao sẽ là một bộ phận của Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo (USCYBERCOM), một đơn vị thuần túy dân sự của HK.
Việc Bộ QP/HK thiết lập Trung Tâm Nhân Đạo ở U-Tapao kể ra cũng lạ thật.
2.4. Hoa Kỳ đóng “đồn kiểm soát” ở eo biển Malacca
Tại Hội Nghị Shangri-La, (Shangri-La là tên của khách sạn tổ chức hội nghị, ở Singapore), ông Leon Panetta đã hội đàm với người đồng cấp là Bộ Trưởng Quốc Phòng Singapore, ông Ng Eng Hen, đã đạt được một thoả thuận, cho phép HK được đưa 4 tàu chiến tấn công ven biển LCS (Littoral Combat Ship) được đến đồn trú tại vùng biển Singapore, được xem như một “trạm kiểm soát” việc ra vào của tàu bè quốc tế đi qua eo biển Malacca, bởi vì, nước Singapore nằm ngay cửa ra vào của eo biển nhộn nhịp nhất nhì thế giới nầy. Đó là tuyến hàng hải mà nhiều lần HK xem như lợi ích của quốc gia Mỹ.
4 chiếc tuần duyên hạm tối tân nhất là USS Freedom LCS-1 và USS Independence LCS-2, kỹ thuật siêu tàng hình, tốc độ cao, 56km/giờ, tầm hoạt động xa, 3,500 hải lý (6,400Km), sẽ luân phiên nhau đến đồn trú 10 tháng rồi sẽ được thay thế bằng chiến hạm hiện đại hơn.
Chuyên gia an ninh biển Singapore, ông Ristian Atriandi Supriyanto, nêu nhận định: “kế hoạch nầy của Mỹ chính là “trọng tâm biển” của chiến lược HK, vì nó nằm ngay tâm điểm hàng hải châu Á, án ngữ và kiểm soát tuyến hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới. Việc bố trí các chiến hạm hiện đại nhất nầy tại Singapore phản ảnh chủ trương chuyển trọng tâm biển về châu Á - Thái Bình Dương của HK”.
Với 40 người trên chiến hạm không thể đóng quân cố định được. LCS được thiết kế để tác chiến gần bờ, đặc biệt là kỹ thuật siêu tàng hình cho phép xâm nhập, phá hủy chiến thuật chống tiếp cận (Anti-Access/Area Denial-A2/AD) của Trung Cộng.
2.5. Tại sao Việt Nam không cho Hoa Kỳ thuê cảng Cam Ranh?
GS Chu Yin, trường Quan Hệ QT cho biết 3 lý do tại sao VN không cho HK thuê cảng Cam Ranh, như sau:
Thứ nhất
Mặc dù TC và HK có nhiều cạnh tranh và xung đột, nhưng là 2 nước được hưởng lợi nhiều nhất trong nền kinh tế toàn cầu. Lợi ích kinh tế nầy không thể tách rời HK và TC ra, nó khác với sự đối đầu giữa HK và Liên Xô trước kia.
Có nghĩa là TC và HK sẽ không đánh nhau chí tử, như thế, TC sẽ rảnh tay trừng phạt sự “phản bội” của VN.
Thứ hai
Những căn cứ tại Philippines, Thái Lan, Singapore, Nhật, Nam Hàn, Úc đủ để cho HK duy trì chiến lược quân sự ở ĐNÁ, đủ sức kềm chế TC, do đó, Cam Ranh không còn giá trị chiến lược bậc nhất đối với HK. Nếu VN cho HK thuê Cam Ranh thì xúc phạm nặng nề đối với TC, sẽ có hại cho VN nhiều hơn có lợi.
Thứ ba
Việt Nam lệ thuộc kinh tế vào TC, nên không dám hành động đưa đến thù địch.
Hiện nay, HK không chủ trương thiết lập căn cứ ở nước ngoài. Sự hợp tác VN-HK đã được xác định, nhưng không có mục đích tái lập căn cứ quân sự, mà chỉ tập trung vào quan hệ đối tác với các nước trong khu vực, giúp các nước nầy nâng cao năng lực để có đủ khả năng tự bảo vệ. Ông Panetta xác nhận điều nầy như sau: “Chỉ có sự lớn mạnh của VN và Philippines thì khu vực ĐNÁ mới được ổn định.”
Về Cam Ranh, ông Panetta nói với Phùng Quang Thanh trong cuộc họp báo như sau: “Cam Ranh là một cảng quan trọng, nếu VN có ý định cải thiện, nâng cấp, mà cần sự giúp đở, thì HK sẵn sàng hỗ trợ.” Phùng Quang Thanh đáp trả: “VN đã có kế hoạch, chiến lược và nguồn lực để phát triển Cam Ranh. Tàu không vũ trang của HK có thể tiếp tục ra vào và neo đậu tại Cam Ranh”.
2.6. Hoa Kỳ không mở căn cứ thường trực tại châu Á
Mặc dù tăng cường lực lượng quân sự ở châu Á-TBD, nhưng HK sẽ không mở thêm những căn cứ mới.
“Chính quyền Mỹ đang triển khai một chiến lược rất mới tại châu Á-TBD, thay vì lập căn cứ lớn, Mỹ sẽ đưa các lực lượng, chiến hạm, phi cơ, binh sĩ đến tham gia các nhiệm vụ tạm thời như tập trận chung, huấn luyện và tác chiến chung.” Bộ trưởng Panetta cho biết thêm: “Chiến lược mới nầy chỉ có thể thực hiện được, khi các nước đối tác đồng ý cho lực lượng Mỹ xử dụng bến cảng, sân bay và các cơ sở khác. HK đang đối diện với sức ép về ngân sách, nên phương pháp ít tốn kém nầy tốt hơn là lập căn cứ thường trực”.
Như vậy, nếu VN muốn nhờ HK bảo vệ, thì phải cho HK xử dụng Cam Ranh.
Mới đây, HK đưa 4,500 binh sĩ luân phiên nhau đến tập trận chung với Philippines và đã đưa 3 chiến hạm đến tập trận với Indonesia.
3* Lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương
3.1. Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương
Hoa Kỳ có 6 bộ tư lệnh khu vực và mới thành lập thêm Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo là 7, trong đó, BTL/TBD (PACOM) là mạnh nhất, với hai hạm đội, là Hạm Đội 7 và Hạm Đội 3.
Căn cứ BTL/TBD đặt tại Honolulu, Hawaii. Hệ thống chỉ huy, từ Tổng Thống qua Bộ Trưởng QP đến người cầm đầu BTL hiện thời là đô đốc Samuel J. Locklear (Từ 9-3-2012 - hiện tại)
3.1.1. Nhiệm vụ Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương
Bộ Tư Lệnh TBD có nhiệm vụ bảo vệ các quốc gia có hiệp ước với HK, gồm có:
- HK-Philippines (1952)
- HK-Australia-New Zealand (1952)
- Hoa Kỳ-Nam Hàn (1954)
- Hoa Kỳ-Nhật Bản (1960)
- Nhiệm vụ bảo vệ Đài Loan
3.1.2. Lực lượng quân sự của Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương
Bộ Tư Lệnh TBD có 2 hạm đội: Hạm Đội 7 và Hạm Đội 3. Lực lượng căn bản của 2 hạm đội là:
- 120 chiến hạm đủ loại (HĐ 7: 60)
- 700 phi cơ các loại (HĐ 7: 350)
- 120,000 nhân sự HQ&TQLC (HĐ 7: 60,000)
Trường hợp gia tăng lên thành 6 hàng không mẫu hạm thì những con số căn bản sẽ tăng theo, nhưng sức mạnh thật sự là những vũ khí vô cùng hiện đại của HK.
3.2. Vũ khí hiện đại tiền tỷ đô la ở Thái Bình Dương
1.Phi cơ chiến đấu tàng hình đa năng thế hệ 5 duy nhất, được đưa vào xử dụng là chiếc F-35, giá 236 triệu USD/chiếc
2.Phi cơ tàng hình ném bom tầm xa thế hệ mới, B-2, tốc độ siêu thanh, có thể ném bom hạt nhân. Giá 929 triệu USD/chiếc
3.Phi cơ Boeing P-8 Poseidon, tuần tra hàng hải, tiêu diệt tàu ngầm bằng bom và hoả tiễn, giá 220 triệu USD/chiếc.
4.Nổi bật nhất là tàu ngầm tấn công lớp Virginia, có khả năng hoạt động cả ở vùng nước sâu và vùng nước cạn. Chạy bằng năng lượng hạt nhân, cực kỳ êm, lặng lẽ, có khả năng phóng hoả tiễn hành trình (Cruise missile) tấn công mặt đất là Tomahawk và hoả tiễn hành trình Harpoon tấn công biển, nhắm vào tàu nổi, tàu ngầm. Giá 2.4 tỷ USD/chiếc.
Chiếc tàu ngầm siêu hiện đại nầy đã có mặt ở căn cứ Subic, Philippines, trong thời gian có căng thẳng giữa TC-Philippines ở Bãi Cạn Scarborough vừa qua.
5. Tuần duyên hạm tối tân LCS. Là tàu chiến đấu gần bờ, tàng hình, tốc độ 56km/giờ. Không xử dụng chân vịt (Propeller) và bánh lái, mà dùng ống hơi nước điều khiển, nên có thể áp sát bờ biển và cũng có thể chạy trên sông.
Hai tàu LCS (Littoral Combat Ship) được xử dụng là USS Independence LCS-2 và USS Freedom LCS-1. Khả năng tàng hình tối ưu, hoả lực cực mạnh, đuôi tàu có sàn đáp và chứa 2 trực thăng diệt tàu ngầm SH-60 Seahawk và 4 xe bọc thép hoặc xe humvee, xem như tàu đổ bộ mini. Loại tàu nầy được triển khai ở eo biển Malacca, Singapore.
6. Siêu khu trục hạm tàng hình Zumwalt DDG-1000. Năm 2014, HK sẽ đưa tàu khu trục nầy vào TBD.
Những vũ khí hạng nhất nầy đủ sức khắc chế Trung Cộng, ông Panetta khẳng định: “Các loại vũ khí nầy sẽ cho phép HK được tự do hoạt động trong những khu vực bị ngăn chặn”. Cụm từ “khu vực bị ngăn chặn” được hiểu là chiến thuật tạo vùng “cấm tiếp cận” (A2/AS=Anti-Access/Area Denial) của TC. Như vậy, chiến hạm LCS và Zumwalt là khắc tinh của A2/AD.
3.3. Siêu chiến hạm tàng hình Zumwalt DDG-1000
Hồi tháng 4 năm 2012, truyền thông Mỹ gây chấn động thế giới khi loan tin HQ/HK sẽ triển khai tàu khu trục (Destroyer) tàng hình trên TBD trong năm 2014. Giá mỗi chiếc là 3.8 tỷ USD.
Đô đốc Jonathan Greenert, Tham Mưu Trưởng HQ/HK tuyên bố: “Với khả năng tàng hình, hệ thống định vị bằng siêu âm, có khả năng phi thường về năng lực tấn công, không cần nhiều người điều khiển. Đây là tương lai của chúng ta”.
3.3.1. Chiến hạm của thế kỷ 21
Sau 5 năm tranh cãi, cuối cùng, ngày 15-9-2011 HQ/HK đã ký hợp đồng với công ty General Dynamics để chế tạo khu trục hạm Zumwalt DDG-1000, được gọi là “chiến hạm tàng hình đa năng” hay “chiến hạm thế kỷ 21.”
Siêu chiến hạm nầy có khả năng đột nhập, áp sát vào bờ biển mà hầu như không bị phát hiện, chủ yếu là tấn công mặt đất.
HQ/HK có lợi thế về vùng nước sâu, mà vũ khí của TC thì được bố trí ở vùng nước cạn, nên chiếc Zumwalt được sản xuất để đáp ứng khả năng khắc chế TC bằng cách bẻ gãy chiến thuật chống tiếp cận A2/AD của TC.
3.3.2. Đặc tính kỹ thuật của chiếc Zumwalt DDG-1000
Tàu DDG-1000 được đặt theo tên của Đô đốc Elmo Russell “Bud”Zumwalt Jr..
- Chiều dài. 182m, dài hơn tất cả các tàu khu trục hiện có.
- Mũi tàu. Mũi tàu hoàn toàn khác với thiết kế truyền thống là cao, trái lại chiếc Zumwalt có mũi tàu thấp, để bảo đảm tàng hình và tránh cho tàu lắc lư khi bị sóng đánh vào mũi tàu.
- Vỏ tàu. Vỏ tàu xuyên sóng, không để lại đường rẻ nước.
- Đuôi tàu. Có sàn đáp và chứa 2 trực thăng diệt tàu ngầm SH-60 Seahawk và 3 trực thăng không người lái. Không có những cột anten lộ thiên, mà toàn bộ hệ thống radar được thiết kế bên trong tháp. Động cơ đẩy chạy bằng điện nên rất êm.
3.3.3. Vũ khí trang bị
- Hệ thống định vị siêu âm
- Bệ phóng hoả tiễn đa năng. Có thể phóng nhiều hỏa tiễn khác nhau mà không cần điều chỉnh chương trình về phần mềm (Software). Phóng hoả tiễn tinh khôn tấn công mặt đất Tomahawk.
- Súng phóng hỏa tiễn tiên tiến AGS (Advanced Gun System) là một cuộc cách mạng trong ngành pháo binh, 4 khẩu súng nầy có hoả lực tương đương với một tiểu đoàn pháo binh.
Mỗi viên đạn 155mm là một hỏa tiễn được dẫn đường bằng hệ thống tấn công mặt đất tầm xa LRLAP (Long Range Land Attack Projectile), bắn xa 154km, độ chính xác sai biệt trong một chu vi 50m.
Súng AGS vận hành tự động. Thùng đạn chứa 750 hỏa tiễn, mỗi trái nặng 11kg. Hệ thống nạp đạn tự động, bắn ra 10 phát trong một phút. Chiếc Zumwalt được trang bị 2 khẩu AGS, phóng thẳng đứng. Nòng súng có thể quay vòng tròn 360 độ và được hạ xuống dưới boong tàu.
Trung Cộng không có phản ứng chính thức nào, tuy nhiên, có một viên tướng giễu cợt cho rằng, chỉ cần một chiếc ghe chứa đầy chất nổ thả trôi theo lục bình cũng đủ sức chôn chiếc tàu đó xuống đáy biển.
4* Phá vở chiến thuật chống tiếp cận của Trung Cộng
Chiến thuật chống tiếp cận (Anti-Access/Area Denial-A2/AD) là dùng tầm hoạt động xa của hoả tiễn, cùng với hệ thống radar và các thiết bị báo động sớm, lập ra một khu vực để ngăn chặn, khiến cho tàu địch không dám xâm phạm vào tầm sát hại của vũ khí phòng thủ.
Vùng chống tiếp cận của TC được đặt ra trong tầm sát hại của hỏa tiễn Đông Phong 21 (DF-21) được xem là “sát thủ tàu sân bay”, vì thế HKMH HK không dám đến gần. Giờ đây, HK có 3 thứ vũ khí khắc tinh của vùng chống tiếp cận, là tàu ngầm lớp Virginia, tàu tuần duyên LCS và Zumwalt, bằng cách bịt miệng, vô hiệu hoá hỏa tiễn sát thủ tàu sân bay DF-21.
5* Phá vở chiến thuật tấn công Đài Loan của Trung Cộng
Chiến thuật chống HK trong việc bảo vệ Đài Loan, hay tấn công HK trên TBD, bắt đầu bằng cuộc tấn công trên mạng của chiến tranh không gian ảo (Cyberwar). Theo kế hoạch, TC sẽ tấn công vào hệ thống máy tính của BTL/TBD và của các công ty tiếp vận cho Đài Loan, để làm trì trệ việc phản ứng kịp thời giải cứu đảo quốc nầy.
Để phá vỡ kế hoạch đó, HK đã thiết lập Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo (USCYBERCOM) và có thể sẽ đặt một bộ phận ở căn cứ U-Tapao của Thái Lan.
Như vậy, hai chiến thuật của TC, một dùng hoả tiển sát thủ tàu sân bay, một là dùng chiến tranh không gian ảo, bị khắc chế và phá vở bởi chiến lược “Tái cân bằng lực lượng quân sự” của Tổng Thống Obama.
6* Quan điểm của Hoa Kỳ về Biển Đông
4 nội dung căn bản.
1. Mỹ có lợi ích quốc gia tại Biển Đông, đặc biệt là an ninh hàng hải, chủ yếu là từ eo biển Malacca.
2. Mỹ không đứng về phe nào trong việc tranh chấp chủ quyền, nhưng ủng hộ giải quyết bằng đàm phán hoà bình, ngoại giao đa phương, trên căn bản luật pháp quốc tế. Đặc biệt là Mỹ cam kết bảo vệ các quốc gia có hiệp ước với HK, như Philippines, Nam Hàn, Nhật Bản, Úc, New Zealand, và bảo vệ Đài Loan.
Bao nhiêu điều đó cho thấy HK có lý do để không đứng ngoải tranh chấp ở Biển Đông. Và cũng cho thấy, HK có thể đứng ngoài trong trường hợp TC dạy cho CSVN một bài học thứ hai, nếu như CSVN không chính thức lập quan hệ quốc phòng cụ thể với HK.
3. Mỹ tăng cường HQ vì trọng tâm kinh tế toàn cầu di chuyển về khu vực ĐNÁ, vì Mỹ có quyền lợi ở đây, nên điều chỉnh việc tập trung lực lượng quân sự là việc bình thường, không phải nhắm vào Trung Cộng.
4. Trong chuyến công du châu Á lần nầy, Bộ Trưởng QP/HK Panetta khẳng định cam kết bảo vệ các đồng minh của HK, đồng thời cũng mong muốn hợp tác với Trung Công.
7* Hoa Kỳ chủ trương “3 hơn” ở châu Á-Thái Bình Dương
Ngày 7-6-2012, trong cuộc họp báo, tướng Martin Dempsey cho biết, việc chuyển quân đến châu Á-TBD dựa trên nguyên tắc 3 hơn: Quan tâm hơn. Cam kết nhiều hơn. Chất lượng hơn.
Binh sĩ Mỹ sẽ luân phiên nhau, hơn là đóng quân tại căn cứ cố định.
Philippines, Thái Lan và Singapore đã có đóng góp tích cực và muốn chia xẻ trách nhiệm quốc phòng lớn hơn.
Hoa Kỳ khuyến khích khối ASEAN đóng vai trò tích cực hơn.
8* Kết
Chiến lược “tái cân bằng lực lượng quân sự” của Hoa Kỳ lợi hại thật, cho thấy Trung Cộng khó thoát khỏi thiên la địa võng mà Tổng Thống Obama đã bày ra.
Những căn cứ hoả tiễn của Hoa Kỳ, từ Alaska, Hạm Đội 3 ở Bắc TBD, Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, đảo Guam, Honolulu (Hawaii), Philippines, Úc, Thái Lan, đến Singapore, và từ 6 hàng không mẫu hạm nằm trên vành đai bao vây, đều chỉa hoả lực vào một mục tiêu cố định là Bắc Kinh, cho thấy TC chạy trời không khỏi nắng.
Ví dụ như một trận chiến xảy ra, thì ngoài vũ trụ, tàu con thoi không người lái X-37B, đang làm chủ không gian, làm tê liệt hệ thống định vị toàn cầu (GPS) của TC, thì hoả tiễn “sát thủ HKMH” DF-21 hoàn toàn vô dụng. Thêm vào đó, X-37B cũng có khả năng phóng hỏa tiễn xuống Bắc Kinh, đồng thời 3 siêu vũ khí tàng hình phá hủy chiến thuật “vùng cấm tiếp cận” của TC và nhất là từ 12 vị trí trên vòng đai bao vây, cùng khai hỏa một lúc nhắm vào Hoa Lục thì TC có ba đầu 6 tay cũng đành chịu, vì không thể phản công cùng một lúc đến 12 vị trí ở nhiều phương hướng khác nhau được.
Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo của HK nhập trận, phen nầy anh ba Tàu chết chắc. Hay ít ra cũng không còn lớn lối hăm he các nước nhỏ trong khu vực nữa.
Trúc Giang
Minnesota ngày 22-6-2012
Tại hội nghị Đối Thoại Shangri-La, Singapore, hồi đầu tháng 6 năm 2012, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Leon Panetta đã tiết lộ, một số vũ khí mới sẽ được triển khai tại châu Á – Thái Bình Dương trong chiến lược “Tái cân bằng lực lượng quân sự” của Tổng Thống Barack Obama.
“Tái cân bằng lực lượng” là cụm từ dùng để che giấu hành động “bao vây” và “kềm chế” của Hoa Kỳ (HK) đối với Trung Cộng (TC) mà thôi, bởi vì trên thực tế, lực lượng quân sự của TC chưa bao giờ ngang bằng với lực lượng của HK. Về hải quân (HQ), TC thua kém HK rõ rệt. Về vũ trụ, HK đang làm chủ không gian với tàu không gian con thoi không người lái X-37B. Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo (United States Cyber Command-USCYBERCOM) đang được thành lập để tiến hành cuộc chiến tranh mạng (Cyberwar) chống lại TC.
Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương (USPACOM) với hai hạm đội là Hạm Đội 7 và Hạm Đội 3 sẽ được tăng cường lên thành 6 hàng không mẫu hạm, và đặc biệt là những vũ khí hiện đại nhất sẽ được bố trí trên vòng đai bao vây TC, cho thấy nước nầy khó thoát khỏi thiên la địa võng của HK.
2* Bày thiên la địa võng
Thiên la địa võng là vòng vây bủa kín tất cả các phía, không có đường ra, không có lối thoát.
2.1. Căn cứ Hoa Kỳ trên thế giới
Hàng năm, HK chi ra khoảng 250 tỷ đô la để duy trì sự hiện diện quân sự trên toàn cầu. Theo báo cáo của Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế CSIS (Center for Strategic and International Studies-CSIS), thì hệ thống quân sự bao gồm công khai và bí mật của Mỹ ở nước ngoài lên tới 1,000 căn cứ, chưa kể những căn cứ tạm trú.
Mỗi năm, con số quân nhân đồng phục Mỹ ở nước ngoài là 250,000 và số nhân viên dân sự tương đương đi cùng. Ngoài ra, còn 50,000 người địa phương phục vụ nhiều công việc khác nhau tại các căn Mỹ.
Thượng Viện yêu cầu chính quyền Obama rút gọn và đóng cửa phần lớn các căn cứ ở nước ngoài, để binh sĩ được trở về nhà, và giảm chi phí. Nhưng Tổng Thống Obama và các viên chức quốc phòng và ngoại giao cho rằng, những căn cứ đó quan trọng hàng đầu, là biểu tượng sức mạnh của HK trên thế giới. Đó là một bộ phận làm phát triển lợi ích cho Mỹ, đồng thời cũng cố mối quan hệ và niềm tin của các đồng minh, qua duy trì sự lãnh đạo của HK trên thế giới.
2.2. Hoa Kỳ xử dụng 3 căn cứ ở Philippines
Ngày 4-6-2012, Thứ Trưởng Quốc Phòng Philippines, ông Honorio Azcueta cho báo chí biết: “Quân đội Mỹ, tàu chiến và phi cơ, một lần nữa có thể xử dụng những căn cứ trước đây của họ ở Subic, Zambales và Clark Field. Đó là điều chúng ta mong muốn để tăng cuờng tập trận và tương tác”.
Ông Honorio Azcueta lên tiếng “chào mời” như thế trong cuộc gặp gỡ với đại tướng Martin Dempsey, Chủ Tịch Hội Đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân HK, tại Manila.
Năm 1992, Thượng Viện Philippines đã quyết định không gia hạn cho HK được xử dụng các căn cứ trên nước họ. Nói rõ ra là đuổi Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ mang vũ khí hạt nhân đến Philippines
Ngày 9-6-2012, ông Retano Reyes, một nhà hoạt động chính trị, lên tiếng cảnh báo, là HK sẽ mang vũ khí hạt nhân đến Philippines, một điều mà Hiến Pháp của nước nầy cấm, để bảo vệ chính sách phi vũ khí hạt nhân của họ. Phần lớn những tàu chiến HK đều có trang bị vũ khí hạt nhân, nên rất khó kiểm soát, trước đây trong chiến tranh Việt Nam, HK thừa nhận là đã lưu trữ vũ khí nguyên tử ở những căn cứ đó, đã có một tiền lệ như thế, thì khó tránh được lần thứ hai. HK giữ bí mật thì làm sao mà biết được.
Tóm lại, vũ khí hạt nhân có thể đến khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
2.3. Hoa Kỳ có kế hoạch bí mật ở căn cứ Thái Lan chống Trung Cộng
Có tin đồn về việc Bộ QP/HK có một kế hoạch bí mật nhắm vào TC ở căn cứ hải quân U-Tapao, mà chính phủ Thái vừa cho phép cơ quan Hàng Không và Vũ Trụ NASA của HK được xử dụng.
Tướng Martin E. Dempsey đã lên tiếng bác bỏ những tin đồn đó, ông khẳng định, NASA dùng căn cứ U-Tapao vào công tác nghiên cứu khí quyển, gồm khí hậu và mây ở khu vực ĐNÁ. NASA sẽ đặt một số phi cơ ở đó để phục vụ nghiên cứu. Tướng Dempsey cũng cho biết, Bộ QP/HK không có liên quan gì đến công việc thuần túy dân sự của NASA cả. Tuy nhiên, Bộ QP/HK cũng đang thảo luận với các giới chức quân sự Thái về việc thiết lập một Trung Tâm Nhân Đạo và Cứu Trợ Thảm Hoạ ở U-Tapao.
Tin đồn còn cho biết, Thái Lan cho HK xử dụng căn cứ đó để đổi lấy hộ chiếu nhập cảnh vào HK của cựu thủ tướng Thaksin Shinawatra, là anh của nữ Thủ Tướng hiện nay, Yingluck Shinawatra.
Có thể U-Tapao sẽ là một bộ phận của Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo (USCYBERCOM), một đơn vị thuần túy dân sự của HK.
Việc Bộ QP/HK thiết lập Trung Tâm Nhân Đạo ở U-Tapao kể ra cũng lạ thật.
2.4. Hoa Kỳ đóng “đồn kiểm soát” ở eo biển Malacca
Tại Hội Nghị Shangri-La, (Shangri-La là tên của khách sạn tổ chức hội nghị, ở Singapore), ông Leon Panetta đã hội đàm với người đồng cấp là Bộ Trưởng Quốc Phòng Singapore, ông Ng Eng Hen, đã đạt được một thoả thuận, cho phép HK được đưa 4 tàu chiến tấn công ven biển LCS (Littoral Combat Ship) được đến đồn trú tại vùng biển Singapore, được xem như một “trạm kiểm soát” việc ra vào của tàu bè quốc tế đi qua eo biển Malacca, bởi vì, nước Singapore nằm ngay cửa ra vào của eo biển nhộn nhịp nhất nhì thế giới nầy. Đó là tuyến hàng hải mà nhiều lần HK xem như lợi ích của quốc gia Mỹ.
4 chiếc tuần duyên hạm tối tân nhất là USS Freedom LCS-1 và USS Independence LCS-2, kỹ thuật siêu tàng hình, tốc độ cao, 56km/giờ, tầm hoạt động xa, 3,500 hải lý (6,400Km), sẽ luân phiên nhau đến đồn trú 10 tháng rồi sẽ được thay thế bằng chiến hạm hiện đại hơn.
Chuyên gia an ninh biển Singapore, ông Ristian Atriandi Supriyanto, nêu nhận định: “kế hoạch nầy của Mỹ chính là “trọng tâm biển” của chiến lược HK, vì nó nằm ngay tâm điểm hàng hải châu Á, án ngữ và kiểm soát tuyến hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới. Việc bố trí các chiến hạm hiện đại nhất nầy tại Singapore phản ảnh chủ trương chuyển trọng tâm biển về châu Á - Thái Bình Dương của HK”.
Với 40 người trên chiến hạm không thể đóng quân cố định được. LCS được thiết kế để tác chiến gần bờ, đặc biệt là kỹ thuật siêu tàng hình cho phép xâm nhập, phá hủy chiến thuật chống tiếp cận (Anti-Access/Area Denial-A2/AD) của Trung Cộng.
2.5. Tại sao Việt Nam không cho Hoa Kỳ thuê cảng Cam Ranh?
GS Chu Yin, trường Quan Hệ QT cho biết 3 lý do tại sao VN không cho HK thuê cảng Cam Ranh, như sau:
Thứ nhất
Mặc dù TC và HK có nhiều cạnh tranh và xung đột, nhưng là 2 nước được hưởng lợi nhiều nhất trong nền kinh tế toàn cầu. Lợi ích kinh tế nầy không thể tách rời HK và TC ra, nó khác với sự đối đầu giữa HK và Liên Xô trước kia.
Có nghĩa là TC và HK sẽ không đánh nhau chí tử, như thế, TC sẽ rảnh tay trừng phạt sự “phản bội” của VN.
Thứ hai
Những căn cứ tại Philippines, Thái Lan, Singapore, Nhật, Nam Hàn, Úc đủ để cho HK duy trì chiến lược quân sự ở ĐNÁ, đủ sức kềm chế TC, do đó, Cam Ranh không còn giá trị chiến lược bậc nhất đối với HK. Nếu VN cho HK thuê Cam Ranh thì xúc phạm nặng nề đối với TC, sẽ có hại cho VN nhiều hơn có lợi.
Thứ ba
Việt Nam lệ thuộc kinh tế vào TC, nên không dám hành động đưa đến thù địch.
Hiện nay, HK không chủ trương thiết lập căn cứ ở nước ngoài. Sự hợp tác VN-HK đã được xác định, nhưng không có mục đích tái lập căn cứ quân sự, mà chỉ tập trung vào quan hệ đối tác với các nước trong khu vực, giúp các nước nầy nâng cao năng lực để có đủ khả năng tự bảo vệ. Ông Panetta xác nhận điều nầy như sau: “Chỉ có sự lớn mạnh của VN và Philippines thì khu vực ĐNÁ mới được ổn định.”
Về Cam Ranh, ông Panetta nói với Phùng Quang Thanh trong cuộc họp báo như sau: “Cam Ranh là một cảng quan trọng, nếu VN có ý định cải thiện, nâng cấp, mà cần sự giúp đở, thì HK sẵn sàng hỗ trợ.” Phùng Quang Thanh đáp trả: “VN đã có kế hoạch, chiến lược và nguồn lực để phát triển Cam Ranh. Tàu không vũ trang của HK có thể tiếp tục ra vào và neo đậu tại Cam Ranh”.
2.6. Hoa Kỳ không mở căn cứ thường trực tại châu Á
Mặc dù tăng cường lực lượng quân sự ở châu Á-TBD, nhưng HK sẽ không mở thêm những căn cứ mới.
“Chính quyền Mỹ đang triển khai một chiến lược rất mới tại châu Á-TBD, thay vì lập căn cứ lớn, Mỹ sẽ đưa các lực lượng, chiến hạm, phi cơ, binh sĩ đến tham gia các nhiệm vụ tạm thời như tập trận chung, huấn luyện và tác chiến chung.” Bộ trưởng Panetta cho biết thêm: “Chiến lược mới nầy chỉ có thể thực hiện được, khi các nước đối tác đồng ý cho lực lượng Mỹ xử dụng bến cảng, sân bay và các cơ sở khác. HK đang đối diện với sức ép về ngân sách, nên phương pháp ít tốn kém nầy tốt hơn là lập căn cứ thường trực”.
Như vậy, nếu VN muốn nhờ HK bảo vệ, thì phải cho HK xử dụng Cam Ranh.
Mới đây, HK đưa 4,500 binh sĩ luân phiên nhau đến tập trận chung với Philippines và đã đưa 3 chiến hạm đến tập trận với Indonesia.
3* Lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương
3.1. Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương
Hoa Kỳ có 6 bộ tư lệnh khu vực và mới thành lập thêm Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo là 7, trong đó, BTL/TBD (PACOM) là mạnh nhất, với hai hạm đội, là Hạm Đội 7 và Hạm Đội 3.
Căn cứ BTL/TBD đặt tại Honolulu, Hawaii. Hệ thống chỉ huy, từ Tổng Thống qua Bộ Trưởng QP đến người cầm đầu BTL hiện thời là đô đốc Samuel J. Locklear (Từ 9-3-2012 - hiện tại)
3.1.1. Nhiệm vụ Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương
Bộ Tư Lệnh TBD có nhiệm vụ bảo vệ các quốc gia có hiệp ước với HK, gồm có:
- HK-Philippines (1952)
- HK-Australia-New Zealand (1952)
- Hoa Kỳ-Nam Hàn (1954)
- Hoa Kỳ-Nhật Bản (1960)
- Nhiệm vụ bảo vệ Đài Loan
3.1.2. Lực lượng quân sự của Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương
Bộ Tư Lệnh TBD có 2 hạm đội: Hạm Đội 7 và Hạm Đội 3. Lực lượng căn bản của 2 hạm đội là:
- 120 chiến hạm đủ loại (HĐ 7: 60)
- 700 phi cơ các loại (HĐ 7: 350)
- 120,000 nhân sự HQ&TQLC (HĐ 7: 60,000)
Trường hợp gia tăng lên thành 6 hàng không mẫu hạm thì những con số căn bản sẽ tăng theo, nhưng sức mạnh thật sự là những vũ khí vô cùng hiện đại của HK.
3.2. Vũ khí hiện đại tiền tỷ đô la ở Thái Bình Dương
1.Phi cơ chiến đấu tàng hình đa năng thế hệ 5 duy nhất, được đưa vào xử dụng là chiếc F-35, giá 236 triệu USD/chiếc
2.Phi cơ tàng hình ném bom tầm xa thế hệ mới, B-2, tốc độ siêu thanh, có thể ném bom hạt nhân. Giá 929 triệu USD/chiếc
3.Phi cơ Boeing P-8 Poseidon, tuần tra hàng hải, tiêu diệt tàu ngầm bằng bom và hoả tiễn, giá 220 triệu USD/chiếc.
4.Nổi bật nhất là tàu ngầm tấn công lớp Virginia, có khả năng hoạt động cả ở vùng nước sâu và vùng nước cạn. Chạy bằng năng lượng hạt nhân, cực kỳ êm, lặng lẽ, có khả năng phóng hoả tiễn hành trình (Cruise missile) tấn công mặt đất là Tomahawk và hoả tiễn hành trình Harpoon tấn công biển, nhắm vào tàu nổi, tàu ngầm. Giá 2.4 tỷ USD/chiếc.
Chiếc tàu ngầm siêu hiện đại nầy đã có mặt ở căn cứ Subic, Philippines, trong thời gian có căng thẳng giữa TC-Philippines ở Bãi Cạn Scarborough vừa qua.
5. Tuần duyên hạm tối tân LCS. Là tàu chiến đấu gần bờ, tàng hình, tốc độ 56km/giờ. Không xử dụng chân vịt (Propeller) và bánh lái, mà dùng ống hơi nước điều khiển, nên có thể áp sát bờ biển và cũng có thể chạy trên sông.
Hai tàu LCS (Littoral Combat Ship) được xử dụng là USS Independence LCS-2 và USS Freedom LCS-1. Khả năng tàng hình tối ưu, hoả lực cực mạnh, đuôi tàu có sàn đáp và chứa 2 trực thăng diệt tàu ngầm SH-60 Seahawk và 4 xe bọc thép hoặc xe humvee, xem như tàu đổ bộ mini. Loại tàu nầy được triển khai ở eo biển Malacca, Singapore.
6. Siêu khu trục hạm tàng hình Zumwalt DDG-1000. Năm 2014, HK sẽ đưa tàu khu trục nầy vào TBD.
Những vũ khí hạng nhất nầy đủ sức khắc chế Trung Cộng, ông Panetta khẳng định: “Các loại vũ khí nầy sẽ cho phép HK được tự do hoạt động trong những khu vực bị ngăn chặn”. Cụm từ “khu vực bị ngăn chặn” được hiểu là chiến thuật tạo vùng “cấm tiếp cận” (A2/AS=Anti-Access/Area Denial) của TC. Như vậy, chiến hạm LCS và Zumwalt là khắc tinh của A2/AD.
3.3. Siêu chiến hạm tàng hình Zumwalt DDG-1000
Hồi tháng 4 năm 2012, truyền thông Mỹ gây chấn động thế giới khi loan tin HQ/HK sẽ triển khai tàu khu trục (Destroyer) tàng hình trên TBD trong năm 2014. Giá mỗi chiếc là 3.8 tỷ USD.
Đô đốc Jonathan Greenert, Tham Mưu Trưởng HQ/HK tuyên bố: “Với khả năng tàng hình, hệ thống định vị bằng siêu âm, có khả năng phi thường về năng lực tấn công, không cần nhiều người điều khiển. Đây là tương lai của chúng ta”.
3.3.1. Chiến hạm của thế kỷ 21
Sau 5 năm tranh cãi, cuối cùng, ngày 15-9-2011 HQ/HK đã ký hợp đồng với công ty General Dynamics để chế tạo khu trục hạm Zumwalt DDG-1000, được gọi là “chiến hạm tàng hình đa năng” hay “chiến hạm thế kỷ 21.”
Siêu chiến hạm nầy có khả năng đột nhập, áp sát vào bờ biển mà hầu như không bị phát hiện, chủ yếu là tấn công mặt đất.
HQ/HK có lợi thế về vùng nước sâu, mà vũ khí của TC thì được bố trí ở vùng nước cạn, nên chiếc Zumwalt được sản xuất để đáp ứng khả năng khắc chế TC bằng cách bẻ gãy chiến thuật chống tiếp cận A2/AD của TC.
3.3.2. Đặc tính kỹ thuật của chiếc Zumwalt DDG-1000
Tàu DDG-1000 được đặt theo tên của Đô đốc Elmo Russell “Bud”Zumwalt Jr..
- Chiều dài. 182m, dài hơn tất cả các tàu khu trục hiện có.
- Mũi tàu. Mũi tàu hoàn toàn khác với thiết kế truyền thống là cao, trái lại chiếc Zumwalt có mũi tàu thấp, để bảo đảm tàng hình và tránh cho tàu lắc lư khi bị sóng đánh vào mũi tàu.
- Vỏ tàu. Vỏ tàu xuyên sóng, không để lại đường rẻ nước.
- Đuôi tàu. Có sàn đáp và chứa 2 trực thăng diệt tàu ngầm SH-60 Seahawk và 3 trực thăng không người lái. Không có những cột anten lộ thiên, mà toàn bộ hệ thống radar được thiết kế bên trong tháp. Động cơ đẩy chạy bằng điện nên rất êm.
3.3.3. Vũ khí trang bị
- Hệ thống định vị siêu âm
- Bệ phóng hoả tiễn đa năng. Có thể phóng nhiều hỏa tiễn khác nhau mà không cần điều chỉnh chương trình về phần mềm (Software). Phóng hoả tiễn tinh khôn tấn công mặt đất Tomahawk.
- Súng phóng hỏa tiễn tiên tiến AGS (Advanced Gun System) là một cuộc cách mạng trong ngành pháo binh, 4 khẩu súng nầy có hoả lực tương đương với một tiểu đoàn pháo binh.
Mỗi viên đạn 155mm là một hỏa tiễn được dẫn đường bằng hệ thống tấn công mặt đất tầm xa LRLAP (Long Range Land Attack Projectile), bắn xa 154km, độ chính xác sai biệt trong một chu vi 50m.
Súng AGS vận hành tự động. Thùng đạn chứa 750 hỏa tiễn, mỗi trái nặng 11kg. Hệ thống nạp đạn tự động, bắn ra 10 phát trong một phút. Chiếc Zumwalt được trang bị 2 khẩu AGS, phóng thẳng đứng. Nòng súng có thể quay vòng tròn 360 độ và được hạ xuống dưới boong tàu.
Trung Cộng không có phản ứng chính thức nào, tuy nhiên, có một viên tướng giễu cợt cho rằng, chỉ cần một chiếc ghe chứa đầy chất nổ thả trôi theo lục bình cũng đủ sức chôn chiếc tàu đó xuống đáy biển.
4* Phá vở chiến thuật chống tiếp cận của Trung Cộng
Chiến thuật chống tiếp cận (Anti-Access/Area Denial-A2/AD) là dùng tầm hoạt động xa của hoả tiễn, cùng với hệ thống radar và các thiết bị báo động sớm, lập ra một khu vực để ngăn chặn, khiến cho tàu địch không dám xâm phạm vào tầm sát hại của vũ khí phòng thủ.
Vùng chống tiếp cận của TC được đặt ra trong tầm sát hại của hỏa tiễn Đông Phong 21 (DF-21) được xem là “sát thủ tàu sân bay”, vì thế HKMH HK không dám đến gần. Giờ đây, HK có 3 thứ vũ khí khắc tinh của vùng chống tiếp cận, là tàu ngầm lớp Virginia, tàu tuần duyên LCS và Zumwalt, bằng cách bịt miệng, vô hiệu hoá hỏa tiễn sát thủ tàu sân bay DF-21.
5* Phá vở chiến thuật tấn công Đài Loan của Trung Cộng
Chiến thuật chống HK trong việc bảo vệ Đài Loan, hay tấn công HK trên TBD, bắt đầu bằng cuộc tấn công trên mạng của chiến tranh không gian ảo (Cyberwar). Theo kế hoạch, TC sẽ tấn công vào hệ thống máy tính của BTL/TBD và của các công ty tiếp vận cho Đài Loan, để làm trì trệ việc phản ứng kịp thời giải cứu đảo quốc nầy.
Để phá vỡ kế hoạch đó, HK đã thiết lập Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo (USCYBERCOM) và có thể sẽ đặt một bộ phận ở căn cứ U-Tapao của Thái Lan.
Như vậy, hai chiến thuật của TC, một dùng hoả tiển sát thủ tàu sân bay, một là dùng chiến tranh không gian ảo, bị khắc chế và phá vở bởi chiến lược “Tái cân bằng lực lượng quân sự” của Tổng Thống Obama.
6* Quan điểm của Hoa Kỳ về Biển Đông
4 nội dung căn bản.
1. Mỹ có lợi ích quốc gia tại Biển Đông, đặc biệt là an ninh hàng hải, chủ yếu là từ eo biển Malacca.
2. Mỹ không đứng về phe nào trong việc tranh chấp chủ quyền, nhưng ủng hộ giải quyết bằng đàm phán hoà bình, ngoại giao đa phương, trên căn bản luật pháp quốc tế. Đặc biệt là Mỹ cam kết bảo vệ các quốc gia có hiệp ước với HK, như Philippines, Nam Hàn, Nhật Bản, Úc, New Zealand, và bảo vệ Đài Loan.
Bao nhiêu điều đó cho thấy HK có lý do để không đứng ngoải tranh chấp ở Biển Đông. Và cũng cho thấy, HK có thể đứng ngoài trong trường hợp TC dạy cho CSVN một bài học thứ hai, nếu như CSVN không chính thức lập quan hệ quốc phòng cụ thể với HK.
3. Mỹ tăng cường HQ vì trọng tâm kinh tế toàn cầu di chuyển về khu vực ĐNÁ, vì Mỹ có quyền lợi ở đây, nên điều chỉnh việc tập trung lực lượng quân sự là việc bình thường, không phải nhắm vào Trung Cộng.
4. Trong chuyến công du châu Á lần nầy, Bộ Trưởng QP/HK Panetta khẳng định cam kết bảo vệ các đồng minh của HK, đồng thời cũng mong muốn hợp tác với Trung Công.
7* Hoa Kỳ chủ trương “3 hơn” ở châu Á-Thái Bình Dương
Ngày 7-6-2012, trong cuộc họp báo, tướng Martin Dempsey cho biết, việc chuyển quân đến châu Á-TBD dựa trên nguyên tắc 3 hơn: Quan tâm hơn. Cam kết nhiều hơn. Chất lượng hơn.
Binh sĩ Mỹ sẽ luân phiên nhau, hơn là đóng quân tại căn cứ cố định.
Philippines, Thái Lan và Singapore đã có đóng góp tích cực và muốn chia xẻ trách nhiệm quốc phòng lớn hơn.
Hoa Kỳ khuyến khích khối ASEAN đóng vai trò tích cực hơn.
8* Kết
Chiến lược “tái cân bằng lực lượng quân sự” của Hoa Kỳ lợi hại thật, cho thấy Trung Cộng khó thoát khỏi thiên la địa võng mà Tổng Thống Obama đã bày ra.
Những căn cứ hoả tiễn của Hoa Kỳ, từ Alaska, Hạm Đội 3 ở Bắc TBD, Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, đảo Guam, Honolulu (Hawaii), Philippines, Úc, Thái Lan, đến Singapore, và từ 6 hàng không mẫu hạm nằm trên vành đai bao vây, đều chỉa hoả lực vào một mục tiêu cố định là Bắc Kinh, cho thấy TC chạy trời không khỏi nắng.
Ví dụ như một trận chiến xảy ra, thì ngoài vũ trụ, tàu con thoi không người lái X-37B, đang làm chủ không gian, làm tê liệt hệ thống định vị toàn cầu (GPS) của TC, thì hoả tiễn “sát thủ HKMH” DF-21 hoàn toàn vô dụng. Thêm vào đó, X-37B cũng có khả năng phóng hỏa tiễn xuống Bắc Kinh, đồng thời 3 siêu vũ khí tàng hình phá hủy chiến thuật “vùng cấm tiếp cận” của TC và nhất là từ 12 vị trí trên vòng đai bao vây, cùng khai hỏa một lúc nhắm vào Hoa Lục thì TC có ba đầu 6 tay cũng đành chịu, vì không thể phản công cùng một lúc đến 12 vị trí ở nhiều phương hướng khác nhau được.
Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo của HK nhập trận, phen nầy anh ba Tàu chết chắc. Hay ít ra cũng không còn lớn lối hăm he các nước nhỏ trong khu vực nữa.
Trúc Giang
Minnesota ngày 22-6-2012
CỔ VẬT ĐỜI TRẦN
Nhà sư tình cờ nhặt được báu vật hộp vàng hoa sen đời Trần
Sự kiện nhà sư Thích Quảng Hiển (trụ trì chùa Trung Tiết) trong chuyến hành hương lên chùa Ngoạ Vân (Đông Triều, Quảng Ninh) tình cờ nhặt được chiếc hộp quý màu vàng có niên đại từ thời Trần đã làm xôn xao xao dư luận. Nhưng những ngày qua, hàng loạt tin đồn về việc chiếc hộp bỗng dưng bị mất nắp, ngay trước thời điểm bàn giao cho UBND huyện Đông Triều bỗng dưng xuất hiện làm dư luận xôn xao.
Nhân duyên từ giấc mơ lạ
Tiếp
PV, nhà sư Thích Quang Hiển - trụ trì chùa Trung Tiết, Đông Triều
(Quảng Ninh) - người nhặt được chiếc hộp kể lại: Ngày 21/6, trên đường
hành hương đến cụm di tích Ngọa Vân, chân sư vấp phải một vật cứng. Vì
đường đang thi công, có rất nhiều đá nằm ngổn ngang nên sư không để ý và
cùng các tăng ni phật tử tiếp tục hành trình. Đi khoảng 10m, linh cảm
có điều khác lạ, thầy quay lại, thì ra vật vừa bỏ qua không phải là đá
mà là một chiếc hộp nhỏ màu nâu. Nhà sư mang ra suối rửa sạch lớp bụi
bẩn thì thấy hộp tỏa ra thứ ánh sáng màu vàng.
Nhấp
một ngụm nước, sư chậm rãi kể tiếp: “Chùa Trung Tiết (nơi sư làm trụ
trì) được xây dựng từ thời Trần. Ngoài thờ Phật, chùa còn thờ hai vị cận
thần của vua Trần Anh Tông là Đặng Tảo và Lê Chung. Theo Đại Việt sử ký
toàn thư: Năm 1320, sau khi vua Trần Anh Tông mất, nhà Trần đã đưa linh
cữu vua về an táng ở Thái Lăng thuộc Yên Sinh (Đông Triều). Sau này,
vua Trần Nghệ Tông tới Yên Sinh bái yết lăng mộ của các vị Tiên đế.
Tưởng nhớ công lao của hai người bề tôi, vua Trần Nhân Tông đã cho tu
sửa chùa và ban tên chùa là Trung Tiết tự. Trải qua gần 700 năm với
nhiều biến động của thiên nhiên, lịch sử, chùa bị xuống cấp nghiêm
trọng.
Cách
đây 3 năm, rất nhiều đêm tôi nằm mơ thấy có một ông già râu tóc bạc phơ
đi vào chùa đưa cho tôi một túi vàng và nói là để sửa chữa chùa. Thời
gian qua đi, nhưng tôi chẳng thấy có ai đưa cho mình túi vàng nào cả.
Nay lại vô tình bắt gặp chiếc hộp bằng vàng này, có lẽ đó là điềm báo
của 3 năm về trước và có lẽ cũng là cơ duyên để tôi tìm thấy chiếc hộp
ngày hôm nay”.
Chiếc hộp quý được xác định là cổ vật thời Trần.
Xác
định đây là chiếc hộp không chỉ có giá trị về mặt vật chất mà có thể nó
còn mang dáng dấp của một vật có niên đại từ rất xa xưa nên sư Hiển
quyết định giao chiếc hộp mình vừa nhặt được cho UBND huyện Đông Triều.
Hành trình bí ẩn của chiếc nắp hộp.
Sư
Hiển cho biết lúc mới nhặt được chiếc hộp còn nguyên nắp, trên đường
lên chùa Ngoạ Vân nhiều người mong muốn được chiêm ngưỡng chiếc hộp nên
ông đã đưa cho họ xem. Khi xuống núi, trước lúc bàn giao hiện vật cho
cán bộ của UBND huyện Đông Triều thì sư thầy phát hiện, nắp của chiếc
hộp bỗng dưng biến mất.
Theo
sư thầy Hiển, trong lúc di chuyển đoàn hành hương có đi qua một đoạn
rừng và một khúc suối, đường khó đi nắp của chiếc hộp có thể bị rơi mất.
Mọi thông tin về chiếc nắp hộp cổ bằng vàng trở thànhõ một ẩn số đối
với các tăng ni phật tử trong đoàn hành hương. Những tin đồn huyền bí về
chiếc hộp cổ lan truyền lại càng làm tăng thêm sự thần kỳ của chiếc
hộp. Các cơ quan chức năng của Đông Triều cũng tích cực vào cuộc để hoàn
lại nguyên trạng báu vật quý thời Trần.
Tuy
nhiên, đến ngày 3/7, thì chiếc nắp hộp đột xuất hiện trở lại cùng nhà
sư Thích Quang Hiển. Tại trụ sở UBND huyện Đông Triều, đích thân sư thầy
đã bàn giao tiếp cho cán bộ quản lý nắp của chiếc hộp quý. Nhưng lý do
vì sao chiếc nắp hộp bỗng dưng biến mất và thầy Hiển đã thu về được như
thế nào, thì hiện vẫn là ẩn số chưa được cả thầy Hiển lẫn bất kỳ ai tiết
lộ.
Nhà sư Thích Quảng Hiển người đã tìm thấy chiếc hộp cổ bằng vàng.
Nhà sư Thích Quảng Hiển người đã tìm thấy chiếc hộp cổ bằng vàng.
Trao
đổi với PV, ông Vũ Văn Học, Chủ tịch UBND huyện Đông Triều cho biết:
“Hiện chiếc hộp cổ nguyên vẹn đang được Công an huyện Đông Triều cất
giữ và bảo quản. Dự kiến, UBND huyện Đông Triều sẽ lập phòng trưng bày
giới thiệu các hiện vật cổ đời Trần tại khu di tích lịch sử nhà Trần tại
Đông Triều, trong đó có chiếc hộp cổ bằng vàng nói trên để du khách tới
đây hành hương, tham quan có thể được chiêm ngưỡng, tìm hiểu thêm”.
Chiếc hộp là cổ vật thời Trần
Khi
tiếp nhận chiếc hộp quý, UBND huyện Đông Triều (Quảng Ninh) đã mời Thạc
sĩ Nguyễn Văn Anh - cán bộ Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành (Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam) về nghiên cứu, xác định giá trị hiện vật. Theo giá
trị khảo cổ: "Hộp có hình quả bí gồm 11 múi, mô phỏng một đoá hoa sen.
Giữa nắp là một đài sen được tạo tác rất công phu với 4 lớp, diềm cánh
xếp vòng tròn đồng tâm chạm khắc rất tinh xảo với hoạ tiết là loại hoa
văn rất đặc trưng của văn hóa đời Trần. Hộp được làm bằng kim loại
vàng, có trọng lượng tương đương khoảng 15,04 chỉ vàng, đường kính miệng
4,9cm, đường kính đế 3,3cm, cao 3,3cm. Đây là hiện vật duy nhất bằng
vàng niên đại này được tìm thấy, nên có thể được coi là một cổ vật quý
cả về giá trị vật chất lẫn giá trị khảo cổ”.
|
Theo Đức Bằng - NĐT
Đọc thêm tin liên quan:
Phát hiện bảo vật thời Trần ở chùa Yên Tử
Trong
khi thi công mở rộng đường từ Trại Lốc lên di tích chùa Ngoạ Vân trên
núi Yên Tử (H.Đông Triều, Quảng Ninh), nhà sư Thích Quảng Hiển đã phát
hiện một chiếc hộp hình hoa sen bằng vàng có từ nhà Trần.
Nơi
phát hiện bảo vật này là khu vực Suối 1, thuộc xã An Sinh. Chiếc hộp
phát lộ do máy xúc thi công đào ra từ sườn một quả đồi thấp.
Sau khi phát hiện chiếc hộp quý, nhà sư Thích Quảng Hiển đã giao cho UBND H.Đông Triều quản lý.
Theo
các nhà khoa học của Trung tâm nghiên cứu kinh thành, bảo vật hình hoa
sen chắc chắn có niên đại từ thời Trần, khoảng thế kỷ 14.
Cái
tên “hộp hình hoa sen” do các nhà nghiên cứu Trung tâm nghiên cứu kinh
thành đặt dựa theo mô phỏng hình 11 quả núi nổi hình cánh sen trên thân
hộp.
Theo tiến sĩ Bùi Minh Trí, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu kinh thành, chiếc hộp được chia thành 2 phần: nắp và thân.
Chiều
cao toàn thân là 4,20 cm. Trong đó phần thân cao 2,84-3,20 cm, chân đế
cao 0,60 cm; đường kính miệng 4,90 cm, đường kính thân (chỗ lớn nhất)
5,10 cm, đường kính chân đế 3,50 cm.
KÝ TIỂU TỬ
Mũ Bảo-hiểm
Tiểu Tử
Posted on 12/07/2012 by Mỹ Đức
Mũ
bảo hiểm – hồi thời trước gọi là ” Mũ An Toàn ” – là loại mũ dùng để
bảo vệ cái đầu khi làm việc ở các công trường hay khi chạy xe mô-tô hay
xe gắnmáy. Phải nói cho rõ để thấy vào thời nào người ta cũng … coi
trọng cái đầu . Nhứt là sau nầy – nghĩa là sau 1975 – ở Việt Nam, mấy
cha cách mạng càng coi cái đầu có ” ký lô ” hơn … những thứ gì khác trên
cơ thể con người !
Bằng cớ là một hôm, thay vì … tập trung trí tụê để giải quyết vấn đề kẹt xe triền miên trong thành phố ( Bây giờ gọi là ” Ùn tắc giao thông ” nghe
rất văn vẻ huê dạng ! ) chánh quyền bỗng … khạc ra sáng kiến bắt những
người chay xe gắn máy hay xe mô-tô ( Bây giờ gọi là “Tham gia lưu thông”
, nghe có … trình độ văn hóa hơn ! ) phải đội nón ” BảoHiểm ” !
Cái khó
hiểu là không phải bị bắt buộc đội mũ bảo hỉêm khi anh trèo lên xe để …
tham gia lưu thông ở bất cứ trên con đường nào, mà chỉ phải
đội mũ trên những ” tuyến đường ” do nhà nước ấn định thôi ! Có nghĩa là
ngoài những tuyến đường được ấn định, ở những con đường khác không có
gì … nguy hiểm hết ! Có té cũng không sợ … bể đầu ! Xem tin dưới đây :
Thành
ra , người dân đi đâu bằng xe gắn máy hay xe mô-tô phải … lận lưng bản
danh sách những tuyến đường bắt buộc đội mũ bảo hiểm để đi cho đúng,
tránh bị phạt ! Và bởi vì không phải lúc nào cũng đi vào” tuyến đường đội mũ ” nên có nhiều người không mua mũ mà khi cần thì mượn đỡ của bạn bè ! Do đó mới có “dịch vụ” cho mướn mũ bảo hiểm ở mỗi đầu tuyến đường đội mũ !
Cho mướn là làm như sau :
-
ở đầu đường “đội mũ “, những người làm dịch vụ nầy đặt cái bàn nhỏ để
để mũ. Ở cuối con đường cũng có một cái bàn như vậy của đồng bọn .
-
mình ghé vào muớn mũ , ngoài tiền mướn nộp ngay ở đó , mình phải đóng
tiền … ” thế chưn ” cho cái nón. Khi chạy đến cuối đường , mình ghé vào
bàn ” dịch vụ ” trả nón rồi lấy lại tiền thế chưn .
Mỗi
tuyến đường chỉ có một ê-kíp dịch vụ nên chuyện mướn nón chẳng có gì
rắc rối. Có lẽ bọn ” làm ăn dịch vụ” nầy đã … khoanh vùng chia nhau
trước nên chuyện mướn nón đã trở thành chuyện … bình thường ! Tuy nhiên,
cũng có trường hợp ngoại lệ như sau , do thằng con tôi kể lại :
Thằng
con lớn của tôi về Việt Nam làm đám ma cho bà nội nó, sau đó, nó nhờ
một thằng bạn nó chở Honda đi thăm bạn bè ở Sài Gòn . Ở một tuyến đường ,
thằng bạn nó ghé vào mướn nón . Tiền bạc xong , tụi nó đội nón, đi
.Thằng con tôi để ý thấy có một thằng nhỏ cởi xe gắn máy cứ chạy kè kè
theo hoài, sanh nghi nên nó bấm thằng bạn nó, nói nhỏ :” Ê ! Coi chừng
thằng nhỏ ! Nó cứ kè theo tự nảy giờ ! “.
Thằng bạn trả lời : ” Ờ ! Để
coi nó muốn gì ? Mầydòm chừng nghen ! “. Đến cuối đường, thằng nhỏ tấp
vô, nói : ” Hai chú cho tui xin lại nón “. Vừa nói nó vừa đưa xấp tiền
thế chân. Thì ra, nó là người của dịch vụ tuyến đường nầy ! Hỏi tại sao
nó không đặt bàn dịch vụ như ở những nơi khác ? Thằng nhỏ chỉ cái bàn kê
dưới gốc cây gần đó, nói : “Trướcđây có chớ ! Nhưng tụi tui bị bọn đó
chiếm chỗ làm ăn ! Họ là gia đình liệt sĩ nên tụi tôi coi như …thí cô
hồn ! Bây giờ , thà tốn chút xăng chạy tới chạy lui mà có việc làm chớ
bây giờ biết làm khỉ gì hả mấy chú ? “. Những trường hợp ngoại lệ như
vậy ở Việt Nam thiếu gì ! Chuyện bình thường thôi !
Mũ bảo hiểm từ từ rồi cũng thành thông dụng ! Làm như cứ đội lên là …chuyện gì rồi cũng qua ! Đây, hãy xem vài trường hợp khá … “ấn tượng” :
Khoét lỗ cho mát
Đội nón bảo hiểm để đi khi nước lụt , sợ té xuống nước bị … bể đầu !
Đội nón bảo hiểm để vô chùa , tội lỗi … đầy đầu sợ Phật quở !
Đội nón bảo hiểm để chăn trâu, đúng là cha nầy muốn kêu ngạo Nhà Nước !
* * *
Những
chuyện trên đây xảy ra cách nay cũng năm sáu năm. Bây giờ ở ViệtNam
chắc khá hơn nhiều : ai ai cũng biết sử dụng mũ bảo hiểm , kể cả các cấp
lãnh đạo Đảng và Nhà Nước ! Đừng cười ! Không phải họ … chạy Honda nên
cần đội nón, mà vì họ đang … ” đi dây chánh trị ” như trong gánh xiệc,
mất thăng bằng đâm đầu té xuống lúc nào không biết, phải … nâng cao cảnh
giác đội mũ bảo hiểm cho ăn chắc !
Xin kể sơ những nguy hiểm của họ bây giờ :
- bao lâu nay họ cứ … vắt vẻo một cách mù mờ trên cái “Đỉnh cao trí tuệ của loài người ” ,
bây giờ mới thấy cái đỉnh đó không có chân, nghĩa là nó sẽ ngả xuống
bất cứ lúc nào ! Vậy là “ta” tuột xuống thôi, mà phải ” tuột nhanh cơ”
để tránh … tai nạn lao động và phải đội mũ bảo hiểm nữa !
-
bây giờ, ngoài miệng họ cứ nói oang oang ” phải chống những thế lực thù
địch nước ngoài ” , chớ thật ra, cái sợ của các lãnh tụ là mấy thằng
đồng chí ! Chúng nó luôn rình rập để đá mình ra khỏi chỗ mình ngồi để …
cướp cái ghế về cho chúng ! Tiên sư chúng nó ! Mới hôm nào sau khi “nhất
trí” ở đại hội và ôm hun thắm thiết khi chia tay, nay đã vội trở cờ !
Vì vậy, lãnh tụ nào cũng thủ một cái nón bảo hiểm ! Thì ra “ Cái nghề … lãnh tụ , thế mà nguy hiểm đấy! Vỡ đầu lúc nào chả biết ! “.
Nghe
nói Tập Đoàn Doanh Thương gì đó của gia đình một lãnh tụ cao cấp
củaViệt Nam đang nhập cảng mũ bảo hiểm loại… xịn, mắc tiền . Chắc không
phải để bán cho nhân dân ! Thiên hạ đồn rằng cán bộ không thèm đội … nón
cối nữa ( Bị chê là quê mùa, lạc hậu! ) từ khi có … phong trào đội mũ
bảo hiểm trong giới cầm quyền!
TÌM ĐƯỢC CON
Tìm được
con thất lạc sau 32 năm, nhờ xem TV
Ngọc Lan/Người Việt
GLENDALE, California (NV)
- Một ông Việt Nam
vừa tìm được đứa con trai sau 32 năm thất lạc trên đường vượt biển, nhờ
xem một chương trình truyền hình ở Việt Nam, trong một câu chuyện giống
như chỉ có trên màn ảnh.
Ông Ngô Văn Việt (trái) và con trai Ngô Văn Ðảm (Buff) gặp lại tại Thái Lan sau 32 năm thất lạc trên hành trình vượt biên. (Hình: Linda Ngô cung cấp) |
“Sau khi lục soát từng người, họ bảo mình xuống trở lại tàu nhỏ trước,
còn lại sáu đứa bé họ sẽ ẵm trả lại sau. Nhưng họ chỉ trả lại có bốn đứa,
còn lại đứa con trai 3 tháng rưỡi tuổi và đứa con gái 11 tháng tuổi của
người em thì họ chặt dây tàu chạy mất.”
Ông Ngô Văn Việt, cư dân Glendale, kể lại giây phút đứa con trai trên
Ngô Văn Ðảm của ông bị người chủ tàu Thái Lan bắt đi vào một ngày của
Tháng Ba, 1981 trên đường vượt biên.
Sau hơn ba thập niên, khi mọi sự tìm kiếm đứa con tội nghiệp tưởng
chừng như vô vọng thì người cha đau khổ này lại gặp được người con trai
ngày nào trong một tình cờ đến kỳ lạ.
Kết quả thử DNA trùng khớp và sự hội ngộ của cả gia đình ông bà Ngô Văn
Ngô cùng Buff, tên hiện thời của cậu bé bị bắt năm xưa, vào ngày Thứ Năm,
19 Tháng Bảy, tới đây là câu chuyện cảm động cho những ai từng rơi vào
hoàn cảnh nghiệt ngã này, trên hành trình tìm kiếm tự do.
Mất con trên đường vượt biên
Lý do để ông Ngô Văn Việt có niềm tin rằng đứa con trai tên Ngô Văn Ðảm
của mình còn sống và muốn đi tìm lại nó từ bao nhiêu năm qua chính là vì
“người chủ tàu Thái Lan khi đó thấy nó dễ thương, muốn xin nó nhưng mình
không cho, nên họ bắt luôn.”
Theo lời kể của ông Việt, từ Phú Quốc, vợ chồng ông cùng bốn người con,
trong đó Ðảm là út, cùng với gia đình các anh em họ hàng xuống tàu đi vượt
biên năm 1981.
Khi ra đến Vịnh Thái Lan, tàu của ông được một tàu đánh cá Thái Lan
vớt.
Ông Việt nhớ lại, “Lúc đó, qua cách ra dấu thì mình hiểu là họ còn phải
đánh cá một ngày một đêm nữa mới vô bờ. Tuy nhiên, lúc nửa đêm, họ lập kế
dọn cơm ra trước mũi tàu, kêu tất cả mọi người ra đó ăn.”
“Ăn xong, họ không cho ai quay trở vào bên trong tàu nữa mà yêu cầu
phải tát nước chiếc tàu nhỏ của tụi tôi. Sau khi lục soát từng người, họ
bảo mình xuống trở lại tàu nhỏ trước, còn lại sáu đứa bé ở trong cabin thì
họ sẽ ẵm trả lại sau. Nhưng họ chỉ trả lại có bốn đứa, còn lại đứa con
trai tôi 3 tháng rưỡi tuổi và đứa con gái của người em, 11 tháng tuổi, thì
họ chặt dây tàu chạy mất. Nghĩa là họ cố tình bắt con và cháu tôi.” Ông
Việt tiếp tục kể.
Bất ngờ trước tình cảnh đó, người cha “chỉ còn biết khóc.” Trong khi
người mẹ “coi như chết đứng luôn rồi, hết biết mình mẩy gì hết.”
Bà Lê Kim Hoàng, (Kim Lê), vợ ông Việt, nhớ lại cảm xúc của mình vào
thời khắc ấy, “Con mình đang còn ẵm bồng cho bú mà tự dưng bị bắt mất đi
như vậy thì coi như hết biết gì rồi, không biết mình mấy tuổi luôn.”
“Suốt một thời gian, tôi ăn không được, ngủ không được, buồn khổ lắm vì
có cảnh nào bằng cảnh mất con đâu cô!” Bà Kim kể lại bằng giọng chân chất
của người Phú Quốc. “Phải chi nó đau yếu bệnh hoạn mất thì không nói gì,
đằng này nó đang còn sân sẩn mà bị bắt như vậy thì mình cũng muốn chết
theo nó được.”
Tuy nhiên, với những ai từng là thuyền nhân, có lẽ sẽ dễ dàng hiểu hơn
tâm trạng những ngày tiếp theo đó của ông bà Việt.
Ông tâm sự, “Ði chung với nhau mà con bị bắt như vậy thì làm sao mà
không đau buồn. Nhưng lúc nhìn tàu bị phá nước vào, thấy mình cận kề cái
chết thì lại nghĩ phải chi họ bắt hết những đứa bé vô tội kia thì biết đâu
tụi nó còn có cơ may sống sót. Cho nên thật sự khi đó tôi bị dằn vặt giữa
hai tâm trạng, lúc thì thương tiếc đau đớn, lúc lại cảm thấy đó là điều
may mắn. Khó nói lắm.”
Bà Kim cũng cùng suy nghĩ như chồng, “Lúc đến đảo cực khổ quá thì tôi
mới thấy nỗi buồn mất con mới nguôi ngoai, quên dần.”
Hành trình tìm con 20 năm trước
Dù cho có nguôi ngoai, quên dần, nhưng đứa con là núm ruột, là máu
thịt, thì làm sao hình ảnh đứa bé hơn 3 tháng tuổi phút chốc bị tước khỏi
vòng tay cha mẹ có thể vĩnh viễn biến mất khỏi tâm trí của đấng sinh
thành?
Hơn 10 năm đến Mỹ, khi cuộc sống bắt đầu ổn định, ông Việt bắt đầu hành
trình đi tìm lại đứa con tội nghiệp của mình, khi đó là năm 1993.
Ông nhớ lại, “Nói là đi tìm nhưng cũng có biết nơi đâu mà đi, vì họ bắt
mình là giữa biển. Thành ra tôi cứ qua Thái Lan rồi đưa tin lên báo, rồi
nhờ những người Thái biết tiếng Việt đi cùng. Tôi in những tờ rơi, đi đến
những bến cảng để đưa cho những người theo ghe đánh cá thử xem họ có biết
gì không. Mà khi đó thông tin rất là ngắn, thành thử cũng khó. Nhưng đi
thì cứ đi thôi.”
“Khi đó đi mình cũng không xác định được loại tàu mà họ cho mình leo
lên là tàu gì, ở đâu. Mình không hiểu dạng tàu lớn đánh từ đâu, nơi nào
thì có loại tàu đó. Thành ra những nơi mình tìm đến cũng không chính xác
lắm. Rồi đăng báo cũng rất là tốn tiền.” Người cha kể lại lần đầu tìm
con.
Ông
Ngô Văn Việt (trái) và con trai Ngô Văn Ðảm (Buff) lúc đi thử DNA
tại Songkhla, Thái Lan, ngày 18 Tháng Sáu. (Hình: Linda Ngô cung
cấp) |
Theo lời ông, “lúc đó cũng có nhiều người gọi đến, nhưng họ đều yêu cầu
đưa tiền trước thì họ mới cho biết tin tức. Tuy nhiên, những người bạn
Thái của tôi không đồng ý. Họ cho rằng cho hay trước để lấy tiền thì không
khi nào là tin chính xác nên họ không chịu nhận. Thế là đành trở về.”
Không tìm ra một dấu vết gì về đứa con, đứa cháu ở lần thứ nhất, khoảng
bốn năm sau, ông Việt lại cùng người em họ của mình đi tìm con một lần
nữa.
Kết quả vẫn là con số không.
“Tôi đi tìm và không muốn bỏ cuộc vì tôi nghĩ nó vẫn còn sống. Vì tôi
tin là họ bắt hai đứa bé này về để nuôi chứ không phải để sát hại nó, do
ngay từ đầu họ đã tỏ vẻ yêu thích nó rồi. Chỉ là vì mình không biết nó ở
đâu thôi, chưa biết cách nào mà tìm thôi.” Ông Việt chia sẻ niềm tin của
mình.
Hy vọng từ một bài viết trên nhật báo Người Việt
Sau hai lần tìm con vô vọng, ông Việt những tưởng mình phải chấp nhận
bỏ cuộc, vì ông thực sự không biết phải bắt đầu như thế nào.
Vậy mà gần 15 năm sau, một bài báo được đăng trên nhật báo Người Việt
nhân ngày lễ Thanksgiving 2011 mang tên “Vượt biên, bị cướp biển, thất
lạc: Cha và con đoàn tụ” đã làm bừng lên trong vợ chồng ông Việt niềm hy
vọng.
Sau khi đọc bài viết về hành trình ông Trương Văn Hào ở Rochester, New
York, đi tìm được người con trai tên Samart Khumkham (tức Trương Văn Khai)
tại một tỉnh xa xôi của Thái Lan sau 34 năm thất lạc, ông Việt liên lạc
với tác giả bài báo để xin số điện thoại của ông Hào.
Tháng Hai vừa qua, ông Hào, người đàn ông may mắn tìm được đứa con thất
lạc sau năm lần tìm kiếm, cùng ông Ngô trở lại Thái Lan, bắt đầu cuộc tìm
kiếm dấu tích Ngô Văn Ðảm trong 16 ngày.
Ông Việt kể, “Gặp anh Hào là một sự may mắn. Tất cả những gì anh Hào
trải qua, ảnh hướng dẫn lại. Qua đó gặp chính quyền Thái Lan, hội Social
Development đã giúp mình rất tích cực, họ bỏ công và của ra giúp mình.
Mình đi tới đâu họ cho xe chở mình đi tới đó, nhân viên họ cũng theo mình
đi. Tin tức đó lan truyền ra khắp nơi.”
Tuy nhiên, không có một phản hồi nào về những thông tin mà ông Việt và
ông Hào đưa ra.
Sau 16 ngày lặn lội ở Thái Lan, qua nhiều tỉnh, tìm kiếm nhiều làng,
ông Việt trở về Kiên Giang thăm người mẹ đang bệnh, trước khi quay trở về
Mỹ, không chút manh mối trong tay.
Cùng thời điểm đó, tại Việt Nam, một chương trình truyền hình có tên
“Như Chưa Hề Có Cuộc Chia Ly,” chiếu hình ảnh một phụ nữ người Mỹ gốc Việt
sinh sống tại California, cũng từ Mỹ trở về Thái Lan, tìm kiếm đứa con
trai bị thất lạc trên đường vượt biên lúc cậu bé 5 tuổi thông qua sự giúp
đỡ của đội tìm kiếm Sài Gòn Buổi Sớm.
Tuy nhiên, người thanh niên Thái gốc Việt tên Buff mà những người thực
hiện chương trình đó tìm ra lại không trùng khớp kết quả thử DNA với người
phụ nữ kia đang đi tìm.
Người mẹ tìm con thất vọng.
Ðứa con tìm kiếm cội nguồn thất vọng.
Và người cha tìm con ba lần càng thất vọng hơn.
Ðiều kỳ lạ ngẫu nhiên
Cuộc đời luôn có những điều kỳ lạ xảy ra một cách tình cờ, ngẫu
nhiên.
40 ngày sau khi từ Việt Nam trở về Mỹ thì ông Việt lại phải quay về
Việt Nam do mẹ ông bệnh nặng.
“Một tuần sau khi ở Việt Nam chăm sóc má tôi thì có đứa cháu cho tôi
biết có coi chương trình 'Như Chưa Hề Có Cuộc Chia Ly' và thấy có một
người thanh niên gốc Việt muốn đi tìm lại cha mẹ của mình, nhìn rất giống
tôi.” Ông Việt tiếp tục câu chuyện.
Gia đình ông bà Ngô Văn Việt và Kim Lê cùng các con dâu rể tại Glendale, California. (Hình: Linda Ngô cung cấp) |
Theo lời thuyết phục của người cháu, ông Việt liên lạc với đài truyền hình và kể lại câu chuyện của mình, cũng như tỏ ý muốn xem lại chương trình có hình ảnh người thanh niên giống ông.
Họ gửi cho ông đường link vào trang web coi lại chương trình có người
thanh niên Thái gốc Việt đó.
Ông Việt kể bằng sự xúc động lẫn vui mừng, “Khi tôi mở trang web đó ra,
vừa nhìn thấy hình ảnh người con trai tên Buff đó, tôi xác nhận ngay rằng
đó chính là con tôi. Vì gương mặt nó giống tôi dữ lắm. Tôi không thể tin
tưởng được là tại sao lại có người giống tôi một cách kỳ lạ như vậy. Nên
tôi cảm giác rằng nó là con mình liền. Tôi nhìn hình ảnh nó bước từ trong
ra và kêu lên trong đầu trời ơi sao anh chàng này giống tôi lạ kỳ.”
Không chỉ vậy, theo lời ông Việt, “cả làng ở đây đổ xô về coi thì ai
cũng xác nhận là 100% nó chứ không ai khác hơn.”
Tại California, bà Kim Lê cũng vào trang web đó để xem.
“Vừa mới nhìn thấy nó tôi nhận ra liền. Cảm thấy rợn người hết trơn,
nhận ra được liền vì nó giống ổng quá! Tôi mừng lắm. Coi như suốt ngày đó
không làm gì được hết, cứ mở tới mở lui. Mừng khóc luôn vì mình tìm con
lâu quá rồi mà.” Bà Kim nhớ lại giây phút nhìn thấy hình ảnh người con
trai sau 32 năm bặt tin.
Tại Việt Nam, sau khi tiên đoán đó là đứa con mình đang tìm kiếm, ông
Việt cùng những người thực hiện chương trình “Như Chưa Hề Có Cuộc Chia Ly”
và đội tìm kiếm Sài Gòn Buổi Sớm sang Thái Lan tìm lại người thanh niên
tên Buff.
Hội ngộ sau 32 năm
Ngày 17 Tháng Sáu, ông Việt cùng mọi người đến Thái Lan để thực hiện
việc thử DNA.
Nói về lần đầu tiên gặp gỡ người mà ông Việt cho là con trai mình tại
Songkhla, người cha này cho biết: “Hôm đầu gặp nhau do ngôn ngữ bất đồng
nên mình có sự cảm xúc, nhưng lời nói từ người này qua người kia thông
dịch nên nó không có tác động mạnh như mình nói trực tiếp với nhau. Sau
khi nó nhìn hình, rồi nhìn tôi, còn tôi sau khi tìm dấu vết trên mặt của
nó, thì tất cả dấu vết đều có hết, như dấu vành tai bị gãy của nó cũng như
anh em nó đều giống tôi hết. Tôi nhìn và biết nó là con mình. Nhưng để
chắc chắn thì vẫn phải thử DNA thôi.”
Sau khi lấy mẫu thử DNA, người thanh niên 32 tuổi, đang làm quản lý cho
một công ty thu mua hải sản, vẫn ở lại Songkhla, còn ông Việt phải quay
trở về Bangkok theo yêu cầu của chính quyền Thái Lan “vì sự an toàn cho
ông.”
Ngày 21 Tháng Sáu, có lẽ là ngày mà ông Việt Ngô cũng như những người
trong gia đình ông không bao giờ quên được khi bác sĩ của bệnh viện báo
cho ông Việt biết kết quả thử DNA của ông và Buff hoàn toàn khớp với
nhau.
“Lúc đó không chỉ tôi mà những ai có mặt tại đó đều nhảy lên muốn đụng
trần nhà luôn. Mừng quá mà!” Ông Việt cười sảng khoái.
Bà Kim Lê nói, “Hổm rày mừng nên ăn ngủ gì cũng không được hết. Trong
đầu tôi cứ mong riết đến ngày về bển gặp nó. Tối nằm cứ nghĩ hồi xưa nó
còn nhỏ, rồi lại hình dung bây giờ nó lớn mình gặp nó thì làm sao. Cứ vậy
mà suy nghĩ hoài.”
Không chỉ vậy, niềm vui của người mẹ này còn biểu lộ qua việc “đi làm
thôi, về nhà là cứ mở cái link có hình nó lên coi hoài. Cứ coi đến khúc có
hình nó thì bấm đứng một chỗ để nhìn luôn. Nhìn mặt nhìn mày nhìn mũi nhìn
mắt, nhìn đủ thứ hết.”
“Tôi vui lắm. Không ngờ sau mấy chục năm lại có niềm vui như thế này.
Khi làm việc thì thôi, lúc ngưng ngang lại nhớ nó. Tôi trông đến ngày gặp
lại con mình.” Người mẹ hạnh phúc chia sẻ.
Ngày 19 Tháng Bảy tới đây, Ngô Văn Ðảm, tức Buff, sẽ từ Thái Lan bay về
Việt Nam để gặp những người thân thiết của mình, cho thỏa ước mơ “đi tìm
cội nguồn” vì theo lời Ðảm nói với cha mình, “Trong làng ai cũng nói nó là
người Việt Nam, mà chính nó biết nó là người Việt Nam nhưng không nghĩ cha
nó là cha nuôi, mà chỉ nghĩ ba nó lấy một người Việt Nam và sanh ra nó có
gốc Việt Nam. Nó chỉ biết một điều nó là người gốc Việt và muốn đi tìm gốc
tích của mình.”
Chia sẻ câu chuyện này, ông Việt nói, “Tôi muốn kể lại câu chuyện này
để những người có hoàn cảnh tương tự như tôi có lòng tin để còn tiếp tục
tìm kiếm. Bởi vì tôi biết, sau lưng tôi còn nhiều người lắm.”
CÔNG AN TÀN ÁC
An ninh côn đồ hành hung các blogger ngay trên đường phố lớn ở Sài Gòn
Dân Làm Báo (12 giờ 30 sáng thứ Bảy - 14 tháng 7) - Tối thứ Sáu ngày 13 tháng 7, khoảng 40-50 bạn bè của các blogger Trịnh Kim Tiến, Trăng Đêm, Bùi Minh Hằng đã đến tham dự sinh nhật của 3 người tại quán Hương Đồng 4 quận Bình Thạnh. Khoảng 20 an ninh / côn đồ thường phục "quen mặt" đã kéo đến và sau đó đã bám theo, khủng bố, đập xe và gây thương tích cho một số blogger trên đường về.
Blogger Nguyễn Hoàng Vi, người đã bị an
ninh trấn áp và bắt giam trong ngày biểu tình 1 tháng 7, đã bị an ninh canh gác
hàng ngày quanh nhà và bám sát khi Vi đến thăm mẹ ở bệnh viện và đến dự tiệc
sinh nhật với bạn bè.
Khi an ninh đến nơi, thấy các bạn đang vui
sinh nhật với nhau thì đã gọi thêm những "côn đồ thường phục" khác đến để "tiếp
viện". Có khoảng gần 20 công an bày binh bố trận khắp các bàn chung quanh, rình
rập và lén lút chụp hình.
Đã quen với những hành vi theo dõi, khủng
bố tinh thần và gây hấn mọi người vẫn bình thản coi như không có chuyện
gì.
Đến khoảng 10:30 tối thì các bạn ra về sau
khi gửi đến Kim Tiến, Bùi Hằng, Trăng Đêm những lời chúc sinh nhật bình an và
hạnh phúc.
Tuy nhiên, bình an và hạnh phúc đã không
đến được khi cuộc sống của người dân nằm trong tay an ninh côn đồ. Nhóm các bạn
Vi, Quyết, chị Dương Thị Tân (vợ cũ của blogger Điếu Cày - Nguyễn Văn Hải), chị
Bùi Hằng và bạn Lee Nguyễn đã bị 8 mật vụ, an ninh mặt thường phục bám theo xe
ngay khi rời khỏi quán.
Khi xe vừa khởi động và đi trên đường Đinh
Tiên Hoàng, Q. Bình Thạnh thì 8 tên an ninh này đã ép xe và kiếm chuyện gây sự.
Mọi người chạy chậm và an ninh đã đập nát kiếng xe bên hông phải phía
sau.
Ngồi phía sau xe là Bùi Hằng, Lee Nguyễn
và Nguyễn Hoàng Vi.
Kiếng văng gây thương tích vào mọi người
và làm sây sát chảy máu. Vi thì bị ở chân, tay, mặt.
Blogger và những thương tích do an ninh
côn đồ gây ra lúc đập kính xe
Trước tình trạng đó, bạn Quyết và mọi
người quyết định không dừng xe và chạy tiếp vì đây những hành xử này nhất định
là côn đồ, có thể tạo thương vong cho những người trên xe. Do đó các bạn đã tìm
cách kiếm một đồn công an tấp vào để giải quyết.
Đám an ninh côn đồ 8 người vẫn tiếp tục
đuổi theo.
Khi các bạn dừng xe, tấp vào lề dừng lại
hỏi dân thì đám côn đồ đã đập nát tiếp cửa kính xe phía sau. Người đi đường bu
lại xem nhưng trước sự hung dữ của 8 an ninh côn đồ này, không ai dám can
thiệp.
Khi nghe các bạn hỏi người dân đồn công an
gần nhất ở đâu, một tên côn đồ đã nói: "Tao là công an nè. Tụi mày ngon
gọi công an đi!" nhằm mục đích làm cho người dân đi đường sợ, không dám
can thiệp. Sau đó tên côn đồ này còn ghé sát mặt vào của kính xe bể tìm cách gây
sự thêm.
Mọi người thấy vậy tìm cách chạy tiếp để
kiếm đồn công an. Khi xe chạy ngang qua Doanh trại QĐND Bộ tư lệnh Quân khu 7
nằm trên đường Hoàng Văn Thụ thì các bạn tấp vào để kêu cứu, hy vọng các chiến
sỹ QĐND sẽ can thiệp chuyện côn đồ đang hành hung trấn áp dân
lành.
2 người lính canh ra hỏi chuyện nhưng an
ninh không bỏ chạy, chỉ đậu cách đó vài mét và gọi điện thoại.
Một lúc sau một người chỉ huy bộ đội ra
nói với nhóm rằng ông ta đã gọi công an và chuyện này phải để công an giải
quyết, bộ đội không liên quan.
Cả nhóm đành phải chạy tiếp trong sự bám
sát của an ninh côn đồ.
Trong sự lo ngại đến tính mạng của mình,
các bạn đã quyết định tấp vào khách sạn gần đó để thuê phòng cho chị Bùi Hằng ở
qua đêm. Chị Bùi Hằng đang ở khách sạn số 200, đường Hoàng Văn Thụ ,Quận
Tân Bình , TP Sài GònMỗi người về đến nhà thì đã giữa khuya với nhiều vết thương
trên người.
Bên cạnh Chị Dương Thị Tân, Bùi Hằng, Vi,
Quyết và Lee Nguyen, blogger Hành Nhân, Luật sư Lê Trần Luật cũng bị an ninh côn
đồ bám theo trên đường về nhà. Tuy nhiên, Hành Nhân và Lê Trần Luật đã chạy vòng
vòng và cắt đuôi được đám côn đồ.
http://danlambaovn.blogspot.fr/2012/07/ninh-con-o-hanh-hung-cac-blogger.html
http://danlambaovn.blogspot.fr/2012/07/ninh-con-o-hanh-hung-cac-blogger.html
XUONG
DUONG
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 224
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0224
Lễ hội Carnaval có lẽ vui, nhưng không lạ với hàng trăm ngàn người đứng dọc hai bên đường. Tuy nhiên, với chị Loan, đây là lần đâu tiên chị được tham dự một Carnaval bằng mắt thấy, tai nghe chứ không phải qua màn ảnh truyền hình. Chị Loan đến từ VN, đi qua Pháp du lịch và tình cờ được nhìn thấy một lễ hội vui nhộn và đầy thú vị. Chị chia sẻ :
Tên gọi của tập tài liệu: “Lựa chọn
thành công”, phần nào nói lên niềm tin của những giáo sư tham gia soạn
thảo, rằng sự phát triển của Việt Nam hoàn toàn nằm trong những sự lựa
chọn trong tầm tay của Chính phủ.
Cuộc gặp gỡ được báo chí trong nước ca ngợi là cởi mở, thẳng thắn và mang lại nhiều hi vọng phát triển cho Việt Nam.
Tuy nhiên cho đến ngày hôm nay, trước thực trạng kinh tế xã hội Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng những chiến lược cùng các lời cảnh báo mà nhóm nghiên cứu gồm các vị David Dapice, Dwight Perkins, Nguyễn Xuân Thành, Vũ Thành Tự Anh, Huỳnh Thế Du, Jonathan R. Pincus, Anthony Saich, Benjamin H. Wilkinson đưa ra đã bị phớt lờ.
“Sự ưu ái của Nhà Nước đối với các công ty dựa vào các mối quan hệ chính trị hơn là kết quả thành công trong kinh doanh”.
“Các doanh nghiệp này vẫn được hỗ trợ vốn dù thua lỗ liên tiếp và chậm chạp trong việc nâng cao chất lượng kinh doanh vì tầm nhìn hẹp và không phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh.”
“Nếu như không có hệ thống kiểm soát đủ mạnh và
khả năng phân tán rủi ro hiệu quả thì sẽ dẫn đến những khoản vay và đầu
tư quá mức của các tập đoàn này,” theo lời trích dẫn tập tài liệu.
Bốn năm sau, Việt Nam chìm ngập trong các vụ tai tiếng từ sự đổ bể của các doanh nghiệp nhà nước với thiệt hại lên đến hàng trăm ngàn tỉ, gấp nhiều lần gói hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ trong năm 2012.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung – Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung Ương nhận xét về doanh nghiệp nhà nước là “Lời ăn, lỗ cũng ăn và dân chịu.”
“Các nhóm đặc quyền này sẽ tiếp tục ngăn cản Việt Nam trong công cuộc cải cách, ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh và hạn chế kết quả tăng trưởng của Việt Nam,” nhóm nghiên cứu Harvard viết.
Khi ở Pháp, Nguyễn Tất Thành tiếm danh hiệu Nguyễn Ái Quốc của Nguyễn Thế Truyền, Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường. Sau đó ông qua Nga rồi sang Trung Quốc. Một tài liệu báo đảng cộng sản đã cho ta biết 169 tên và bút hiệu của Nguyễn Tất Thành.Trong thời gian 1924- 1941, hoạt động tại Trung Quốc, ông dùng nhiều tên như Công Nhân, Vícto, V, K, Đông Dương, Quac.E. Wen, K.V, Tống Văn Sơ, New Man, Li Nốp, Teng Man Huon, Hồ Quang, D.C. Lin, Lâm Tam Xuyên, Ông Trần, Bình Sơn, Đi Đông; Cúng Sáu Sán, Già Thu... Tên Hồ Chí Minh được dùng từ 1942 .(1)
Tuy nhiên, vài tài liệu nói tên Hồ Chí Minh được dùng từ 1940.
I. CÁC TÀI LIỆU VỀ HỒ CHÍ MINH TRƯỚC NĂM 2000
Sau khi sang Trung Quốc, Nguyễn Tất Thành cũng tiếm danh một lần nữa. Lúc bấy giờ sau vụ Sô Viết Nghệ Tĩnh 1930, cái tên Nguyễn Ái Quốc và danh hiệu cộng sản đã làm dân ta kinh hồn khiếp vía cho nên ông phải thay đổi danh tính để lừa đảo nhân dân Việt Nam. Việc này cũng có mục đích giúp ông tránh được sự theo dõi của Anh, Pháp. Vì vậy, ông lấy tên là Hồ Chí Minh, Hồ Quang. Hồ Chí Minh, Hồ Quang là bí danh của Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng Việt Nam, đã theo Phan Bội Châu Đông Du.
Từ lâu, cuộc đời hoạt động của Nguyễn Tất Thành có nhiều bí ẩn, có nhiều sự kiện, nhiều năm tháng không rõ ràng, không phải vài năm mà mười năm từ 1931-1941 cho nên Sophie Quinn Judge gọi là "the missing years" (những năm mất tích).Ta có thể chia thành hai loại:
+2.Về lai lịch và nhân dạng Hồ Chí Minh, trong tác phẩm " TỪ THỰC DÂN ĐẾN CỘNG SẢN, Hoàng văn Chí viết về vụ Nguyễn Ái Quốc mất tích:
Về phần ông Hồ thì ông bị người Anh bắt ở Hồng Kông cuối năm 1931. Được tha, có lẽ là vào khoảng năm 1932 (không có tài liệu đích xác về ngày ông được tha) ông đi Singapore, bị bắt tại đấy rồi điệu trở về Hồng Kông. Vì bị bệnh lao, hoặc khai là vậy, ông được đưa về bệnh viện rồi đột nhiên ông mất tích. Chính quyền Anh ở Hồng Kông không hề tuyên bố về việc ông Hồ đã biến mất trong trường hợp như thế nào, nhưng có dư luận ngờ rằng ông đã bí mật thoả thuận với mật thám Anh là nếu để ông thoát, ông sẽ giúp họ một việc quan trọng nào đó. Việc này cũng rất có thể vì trước kia ông Hồ đã từng thoả thuận như vậy với mật thám Pháp (Chương 2). Báo Daily Worker, cơ quan của Đảng Cộng sản Anh đăng một tin vắn tắt, nói ông Hồ đã chết vì bệnh lao trong khám đường Hồng Kông nên cả mật thám Pháp lẫn cộng sản Việt Nam đều tin là thực. Năm 1933, mật thám Pháp ghi vào hồ sơ Nguyễn Ái Quốc là đã chết ở Hồng Kông. Không ai biết ông Hồ đi đâu, nhưng có điều chắc là từ ngày ông biến khỏi Hồng Kông cho đến năm 1941 ông im hơi lặng tiếng trên trường chính trị, không hề liên lạc với Đảng Cộng sản Đông Dương . (Phần II, ch.3)
Hoàng Văn Chí cũng nói đến việc Nguyễn Ái Quốc đến nhà Nguyễn Khánh Toàn năm 1941. Người ta cũng đưa giả thuyết là ông Hồ đã bị “cấm cố” tại một địa điểm nào đó trong nội địa Liên Xô từ 1933 đến 1941. ..(Phần II, ch.3)
Hoàng Văn Chí đã nói đến nhân dạng của ông Hồ theo mật thám Pháp:
Khi nghe tin đồn này, sở Mật thám Pháp đã lập tức lục lại hồ sơ để
tìm ảnh Nguyễn Ái Quốc. Theo hồ sơ chính thức thì Nguyễn Ái Quốc đã chết
ở Hồng Kông năm 1933. Khi đem so sánh bức ảnh đã phai nhạt của Nguyễn
Ái Quốc với những tấm ảnh của ông Hồ bán đầy đường Hà Nội, sở Mật thám
Pháp mới biết họ Nguyễn vẫn còn sống, và sau 10 năm ẩn náu trong bóng
tối đã trở lại chính trường dưới cái tên Hồ Chí Minh. Các chuyên viên sở
Mật thám Pháp quyết đoán Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc mặc dầu
sau 20 năm gian khổ, vóc dáng và nét mặt họ Nguyễn có thay đổi rất
nhiều. Bằng cớ là vành tai phải của hai bức ảnh đều nhọn, trong khi tai
bên trái vẫn đều đặn. Nhưng ông Hồ cứ chối như Cuội, nói rằng mình không
phải là Nguyễn Ái Quốc. Ngay cả khi tướng Salan, đại diện Pháp dự cuộc
đàm phán năm 1946, hỏi thẳng vào mặt ông Hồ, ông vẫn một mực chối cãi......Việc này được phơi bày công khai năm
1958 khi một phái đoàn nhân viên sứ quán các nước xã hội chủ nghĩa viếng
thăm quê hương ông Hồ. Sau cuộc viếng thăm, báo chí Hà Nội đã thú nhận
ông Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc. Tạp chí Tranh ảnh Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
do Việt Nam Thông tấn xã (Bắc Việt) ấn hành, trong số tháng 8 năm 1960,
có đăng bức ảnh Nguyễn Ái Quốc với dòng chữ chú thích “Đồng chí Nguyễn
Ái Quốc (Hồ Chí Minh) năm 30 tuổi, đang bôn ba hoạt động ở hải ngoại”. (Phần II, Ch.3)
+3.Trong hồi ký " BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1945-1965 , linh mục Cao Văn Luận dẫn lời mật thám Pháp
"Nếu tôi nhớ không lầm thì hình như ông này tên là Paul Arnoux, từng làm chánh sở mật thám tại Đông Dương dưới thời quan toàn quyền Decoux. Ông có một trí nhớ phi thường. Những phạm nhân quan trọng một lần qua mắt ông đủ để ông nhớ mãi. Sau này để xác nhận Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc chỉ là một, chính quyền Pháp đã nhờ đến ông đi nhìn mặt Hồ Chí Minh. Cái chi tiết làm cho ông Arnoux cam đoan Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Văn Ba, Lão Woong, bác Trần chỉ là một người, là cái tai của họ Hồ."( 7)
II. HỒ TUẤN HÙNG
Năm 2008, Hồ Tuấn Hùng đã xuất bản tác phẩm
" HỒ CHÍ MINH SINH BÌNH KHẢO" do Bạch Tượng Văn Hoá ở Đài Loan xuất bản lần thứ nhất tháng 11 năm 2008, tổng cộng 342 trang với nhiều hình ảnh, nội dung khẳng định Hồ Chí Minh (1890-1969), chỉ là một người Đài Loan giả dạng người Việt lãnh đạo đảng Cộng Sản.
Một vị thầy thuốc họ Hà người Miêu Lật sang Đài Loan chơi cũng cho hay: Năm 1945, ông ta đi theo quân đội Quốc Dân Đảng sang Hà Nội [tức quân đội của Lư Hán sang tiếp thu và giải giới quân đội Nhật], có nghe phong thanh từ một người bán thịt lợn cho hay là Hồ Chí Minh gốc người Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan. [HCMSBK, trang 17] .
Hồ Tuấn Hùng còn đi tìm các thư tín liên quan đến bệnh lao của NAQ.
Hồ Tuấn Hùng cho biết nhiều vấn đề:
+ Ho lao ra máu trong tình trạng thuốc men khoảng 1930 tại Nga là một xứ vô cùng lạnh lẽo, thì khó mà sống. Nhất là sau khi trốn thoát, phải ẩn náu, phải liên tiếp đi nhiều thì vô cùng bất lợi cho một kẻ bị bệnh lao, vốn cần an tĩnh, cần bác sĩ săn sóc và cần cóđầy đủ thuốc men.
+Theo Hồ Tuấn Hùng, có tin đồn rằng Luật sư Frank Loseby cố ý đưa tin NAQ chết là muốn tung hỏa mù để NAQ dễ dàng trốn thoát.. NAQ trốn thoát là do Cơ quan Mật vụ Anh tìm cách bí mật thả Nguyễn Ái Quốc có lẽ là vì NAQ đã hứa hen cộng tác với Cơ quan Mật vụ Anh như Hoàng Văn Chí viết. Đây là một kế thâm độc của Mật vụ các nước. Họ chiêu dụ người đối phương, họ thấy NAQ sắp chết nên thả ra để tìm đường dây cộng sản, họ mượn tay Nga thủ tiêu NAQ...Việc này đã xảy ra cho NAQ trước đây cũng như cho các điệp viên. Khi về Nga và bặt tăm gần 10 năm có lẽ NAQ bị Stalin nghi ngờ giam ở đâu đó.
Đây cũng là điều thông thường trong chế độ cộng sản, những điệp viên, những đảng viên bị bắt rồi được kẻ thù phóng thích thì được đảng ưu ái giữ lại thẩm tra tra thừa chết thiếu sống, có thể bị xử tử vì bị nghi là phản bội, là tiết lộ tin tức, là cộng tác với kẻ thù. ( Xem ĐOÀN DUY THÀNH * HỒI KÝ ) (2). Nếu NAQ bi Stalin nghi thì e khó sống sót trong bàn tay sắt của KGB vì chủ trương giết lầm hơn bỏ sót của cộng sản mà khởi đầu từ Nga.
Đây là lời bình luận và hình của Chân Mây:
Những ý kiến trên khác nhau, nhưng dẫu sao cũng đưa đến một ý kiến thống nhất là có Hồ Chí Minh giả mạo.
It lâu, HCM bị bệnh, lại được đưa qua Trung Quốc, nằm tại Nhà điều dưỡng Trung
ương Ngọc Tuyền Sơn ở Bắc Kinh dưỡng bệnh trong hơn nửa năm.
Gần đây, một người lớn lên trong thiên đàng XHCN đã viết cảm xúc của mình trong ngày " bác đi xa" . Đó là Mẹ Nấm trong bài "Đâu Mới Là Sự Thật?"
+8. Có tin thông báo cháu của HCM về thăm Đài Loan:
Trong các bài báo phản đối Hồ Tuấn Hùng đáng kể nhất là bài của Bùi Tín. Ông Bùi Tín vốn mang hàm đại tá, là cựu quan lớn của triều Hồ, sau sang Paris, mang nhãn hiệu "nhân vật bất đồng chính kiến". Ông đã viết nhiều tác phẩm công kích cựu chúa nhưng qua bài "Những luận điệu hoang tưởng, bịa đặt ", chúng ta thấy "bác Hồ vẫn sống mãi trong trái tim" ông, và "không ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn ông"! Ông tức giận vì có kẻ dám "xúc phạm rất ngang nhiên và tuỳ tiện ông Hồ, coi người lãnh đạo đảng CS Việt nam không ra gì"...Các tác phẩm ông viết trước đây là mặt giả, nay mới là "Mặt Thật" của Thành Tín!
Ông viết như sau:
Theo tôi đây là một chuyện dựng đứng, bịa đặt, hoang tưởng, không có gì là nghiên cứu khoa học nghiêm chỉnh cả. Tôi đưa ra vài dẫn chứng: sau khi ông Hồ về ở Hà Nội Tháng 8-1945, bà Thanh, chị ruột ông Hồ, ra gặp ông, hai người lập tức nhận ra nhau, và ông Hồ trở lại nói hoàn toàn giọng Nghệ An, với âm sắc riêng của vùng Thanh Chương - Nam Đàn, hỏi thăm rất nhiều người trong họ đã chết và còn sống.
Bà Thanh còn nhìn hai tai ông, mũi và cằm ông, nói: "đúng là tai, mũi và cằm của thằng Coong thời trẻ".
Rồi năm 1957, khi ông Hồ về thăm quê cũ ở Kim Liên, ông đi ngay vào ngõ bên trái nhà ông khi xưa, không đi vào cổng mới làm sau này, sau đó tự ông sang lò rèn phía trái để hỏi thăm các cụ ở lò rèn xa xưa, nơi ông thường qua lại khi còn bé.
Làm sao một người Tàu quê ở đảo Đài Loan lại có thể nói tiếng Nghệ An, lại theo thổ âm Nam Đàn, và nhập vai trọn vẹn là em ruột bà Thanh, và về quê Kim Liên xa lạ, lại am hiểu địa hình và nhân vật làng quê cũ xa xưa thuần thục đến như vậy!
(HCM, LXXIII)
Người viết chỉ là thường dân, không phải tướng tá, cũng không hề qua một lớp huấn luyện về an ninh tình báo của chính quyền nào, chỉ là một kẻ ham mê tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết trinh thám. Nhưng với óc suy luận, xin được phép hỏi và trả lời những câu hỏi trên của ông. Chắc ông cũng đã biết it nhiều về KGB, về phản gián chứ không là một thư sinh ngây thơ vì nghe nói thuở thiếu thời ông đã làm sát thủ hay lãnh đạo sát thủ như Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Văn Cao...
(1). Vậy khi bà Thanh ra thăm HCM, ông có ở đó không mà biết rành đến thế? Ông có được vinh dự kề cận " bác " như Vũ Đình Huỳnh,Vũ Kỳ hay Hoàng Tùng không? Năm 1945, ông chắc chỉ là cậu thanh niên 18 tuổi, mới vào dân quân, bộ đội địa phương hay chánh quy ở nơi nào? Có được ở gần Hà Nội không? Phúc đức nhà ông, con quan lớn nhà đại phong kiến mà được khang ninh là điều hiếm có, hơn nữa còn vinh thăng đạì tá, ắt hẳn phấn đấu phi thường. Nhưng thành công là sau này, còn tháng 8-1945, tôi nghĩ ông còn chạy vòng ngoài, chưa được đặt chân vào Chủ tịch phủ. Hay là lúc này, cậu Bùi Tín thường xuyên theo cha vào thăm "bác"?
(2). Tôi đã nghe đi nghe lại các cuộn băng ghi âm thanh của "bác", tôi thấy "bác" không nói đúng giọng Thanh Chương - Nam Đàn của Nghệ An.
Phùng Cung nói đúng, Xạ phang, Mán, Thổ cũng là dân vùng gần Quảng Đông, là giống người Hẹ, người Khách gia...
Tuy nhiên bàn về việc này cũng không chính xác vì người ta đi biệt xứ lâu năm thì giọng nói có khác. Bảo rằng giọng ông Hồ đúng giọng Nghệ An thì e không đúng. Ông chỉ nói lơ lớ Nghệ An.
Hơn nữa, cái giọng của HCM trong các băng có thể là do các tài tử đóng, dù có giống giọng của "bác", cũng không phải giọng Nghệ An.
3. Bùi Tín nói rằng ông Hồ là người Nghệ an, là Nguyễn Sinh Cung cho nên đã nhận đúng đường đi lối vào nhà! Ông làm đến đại tá lại "ngây thơ cụ" như thế sao? Chuyện này dễ ợt. Ban ngày hay ban đêm, "bác Đài Loan " cải trang đi theo hướng dẫn của thủ hạ, một hai lần là nhớ ngay!
Và tiếng nói cũng vậy, luyện tập vài năm là được. Không đúng 90% thì cũng được 60% là đủ xài. Có phải thiên hạ đều là mật thám đâu mà sợ họ phát giác!Chúng ta há không nghe cô Ỷ Lan người Anh nói giọng Huế sao? Và biết bao ca sĩ ngoại quốc hát tiếng Việt, ca vọng cổ?
(4). Nếu ông Đài Loan sửa mặt mũi, tóc tai, có đủ các vết thẹo, và thuộc lòng các chuyện thời trẻ, các nhân vật trong gia đình thì không có gì lạ lùng trong thế giới trinh thám. Người ta sưu tra rồi cho gián điệp học thuộc lòng là xong ngay. Có gì đâu trò trẻ con đó mà ca tụng thần thánh!
Tiếp theo, Bùi Tín viết như sau:
Để cố tô vẽ một điều hoang tưởng thành sự thật, nhà xuất bản Đài loan khoe rằng tác giả là nhà nghiên cứu lịch sử nghiêm chỉnh(!), có 30 năm là giáo sư ở Khoa sử Đại học Quốc gia Đài loan, người cùng dân tộc Miêu Lật với ông Hồ Tập Chương ( là ông Hồ giả), đã nghiên cứu kỹ các hồ sơ của Anh, Nhật, Trung hoa, Việt nam trong nhiều năm trời...
Họ làm như thế để làm gì ? Để bán sách? Một giả thuyết nữa, hay là những người có tư tưởng bành trướng Đại Hán bên Tàu muốn chuẩn bị tư tưởng cho dân Việt để - trong một tương lai gần hay xa, Việt nam sẽ "tình nguyện" một cách cưỡng bức thành một tỉnh của Trung quốc, với một lãnh tụ vốn dĩ là một người Trung quốc đặc sệt 100 % chánh hiệu(!).
Dù ra ngoại quốc nhiều năm và tỏ ra là con người giác ngộ, sự thật Bùi Tín vẫn mang nhiều ô uế, và độc hại của cộng sản. Ông cũng như Lê Đức Thọ, Lê Duẩn, Đinh Đức Thiện khinh miệt trí thức, chê bai bằng cấp và sự học hành nghiên cứu của phe tư bản.
Cái bệnh vô sản mà kiêu căng đã thấm vào cốt tủy ủa họ từ trước 1945 cho đến nay. Trương Tửu ngày xưa chỉ học tiểu học, học lỏm bỏm Mác Lê, trong khi phê phán Truyện Kiều, đã nói rằng những ai không biết Duy Vật Biện Chứng Pháp là ngu, còn ai biết Duy Vật Biện chứng pháp là thông minh tài giỏi. Kết quả gần cuối đời,ông đã thấy cái tài giỏi của Mác Lê nó áp dụng trực tiếp vào ông. Rồi sau 1975, các đồng chí vĩ đại tuyên bố họ đã tốt nghiệp đại học chống Mỹ, các ông tiến sĩ Âu Mỹ là đồ bỏ. Trên thế giới này, chỉ có giống cộng sản là ưu việt, là trí tuệ đỉnh cao của loài người. Đó là cái tính tự đắc, tự cao mà các cụ ta gọi là "tiểu nhân đăc chí tiếu hi hi". Ngoài ra họ cũng cho họ yêu nước. Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học đều sai lầm, không thông minh và yêu nước bằng họ. Sau 30-4-1975, một số người ra đi theo chương trình HO, các ông Công an và bộ Nội vụ Cộng sản đã nhìn đám sĩ quan
" ngụy" và gia đình họ bằng cặp mắt khinh bỉ và họ đã ra mặt bậc thầy dạy dỗ đám này lòng yêu nước bằng cách bắt họ nghe bản nhạc " Quê hương là chùm khế ngọt" trước khi lên máy bay! Kiêu căng nhất là Trần Văn Trà. Thắng miền Nam, Trần Văn Trà cho đó là công lao của ông, và ông thẳng cánh chê bọn trung ương đảng ngu dốt hèn nhát trong đó có các bậc đàn anh của ông như Lê Duẩn, Lê ĐứcThọ. Lãnh tụ của họ, họ còn coi khinh huống hồ tướng tá, bộ trưởng, tiến sĩ miền Nam! Cái kiêu căng, hợm hĩnh của HCM đã truyền sang con cháu ông gột rửa bao nước biển Đông cũng không sạch. Họ đề cao họ tận mây xanh trong khi vu cáo đối phương bằng trăm ngàn cách. HCM đã vu cáo nhóm đệ tứ Quốc tế ăn tiền của Đức, vu cáo nông dân nghèo là địa chủ bóc lột, vu cáo nhân dân là tay sai thực dân và cho đàn em mặc tình chém giết, Họ vu Võ Phiến lãnh đạo văn nghệ phản động ở Mỹ, và chúng ta là tay sai của Mỹ, ăn tiền của Mỹ...Nay xem văn Bùi Tín thì cũng thấy "ngựa quen đường cũ", chưa bỏ được truyền thống tâng bốc phe ta và mạ lị vu khống người trái ý mình! Cũng theo thói quen cộng sản, ông vu khống, và mai mỉa rằng nhà xuất và tác giả là hoang tưởng, vụ lợi (để bán sách), và khoe khoang rằng tác giả là nhà nghiên cứu lịch sử nghiêm chỉnh(!), có 30 năm là giáo sư ở Khoa sử Đại học Quốc gia Đài loan, người cùng dân tộc Miêu Lật với ông Hồ Tập Chương ( là ông Hồ giả), đã nghiên cứu kỹ các hồ sơ của Anh, Nhật, Trung hoa, Việt nam trong nhiều năm trời... (Trong khi đó NAQ, HCM làm bao điều gian dối, họ vẫn ca tụng không tiếc lời. Ai thẳng thắn vạch những sai trái là họ nổi thịnh nộ !)
Đi xa hơn nữa, ông vu khống Hồ Tuấn Hùng vbà nhà xuất bản làm tay sai cho Đại Hán bành trướng. Chúng ta không nghĩ như vậy. Tác phẩm của Hồ Tuấn Hùng là một tố cáo âm mưu gian xảo của Đệ tam quốc tế, trong đó có Trung Cộng đã tìm những mưu mánh gian xảo để xâm chiếm Việt Nam trong đó có việc cho một người Miêu Lật đóng vai Nguyễn Ái Quốc để khống chế VIệt Nam và ký các văn kiện bất bình đẳng nhằm giao Việt Nam cho Trung Cộng. Như vậy là Hồ Tuấn Hùng nói lên sự thật lịch sử và chống tư tưởng và âm mưu Đại Hán xâm lược chứ không phải làm tay sai cho Trung Cộng như bao người Việt đã không theo Lê Lợi, Quang Trung mà theo Trần Ich Tắc, Chiêu Thống, Hoàng Văn Hoan..
Hồ Tuấn Hùng đã cho ta biết sự thật về Hồ Chí Minh giả mạo , và thâm kế của Nga Tàu trong âm mưu xâm lược Việt Nam và thế giới. Trong tương lại sẽ có những hồi ký tố cáo HCM giả mạo, và việc dùng DNA sẽ xác nhận sự thực. Ngày đó sẽ không xa.
Ngày 27-10-1953 tôi từ Côn Đảo về Sài Gòn cùng với ông Bùi Văn Phái hơn 60 tuổi, bằng tàu của Hồng Thập tự Quốc tế. ..
Khoảng 20-11-1953 tôi ra đến Khu căn cứ của Thành uỷ Hải Phòng ở huyện Quỳnh Côi, Thái Bình, được Văn phòng Thành uỷ thu xếp cho ở tại nhà chú Siêu thôn Đồn Xá, Quỳnh Côi. Còn Văn phòng Thành uỷ ở thôn An Phú cách chỗ tôi ở khoảng 1 km. Đón tôi tại trạm giao thông của Thành uỷ tại Quỳnh Côi có đồng chí Vũ Kính, ... Một vài anh em được tha, hoặc vượt ngục ra trước tôi đều phải ở rất xa Thành uỷ. Chỉ có mình tôi được ở gần cơ quan Thành uỷ. Sau khoảng một tuần nghỉ ngơi cho lại sức, tôi bước vào giai đoạn thẩm tra việc bị bắt, bị tù... Thành uỷ lập riêng một tổ thẩm tra do đồng chí Hoàng Mậu, Khu uỷ viên Khu uỷ Tả Ngạn, Bí thư Thành uỷ Hải Phòng làm tổ trưởng (cựu tù chính trị Côn Đảo thời kì 1930-1936); đồng chí Lê Thành Dương, Phó ban Tổ chức Thành uỷ và đồng chí Đào Luyện, Trưởng phòng chính trị Ti Công an làm uỷ viên. Trong hơn hai tháng thẩm tra, tôi chỉ ở nhà chú Siêu thôn Đồn Xá, trừ 3 ngày phải di chuyển sang Hải Dương vì có tin địch tấn công vào Thái Bình phải tạm lánh sang huyện Ninh Giang, Hải Dương. ( ĐOÀN DUY THÀNH * HỒI KÝ I)
CỘNG ĐỒNG VIỆT NAM TẠI PARIS
Cộng Ðồng Việt Nam tại Pháp tham gia Lễ Hội Nhiệt Đới Paris 07/07/2012
****
Dáng đứng Việt Nam trong Carnaval Tropical de
Paris
Tác Giả: Tường An / RFA
Bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc là thao thức của cộng đồng người Việt hải ngoại từ bao nhiêu năm nay.
Mùa hè tại Âu châu nói chung và tại Paris nói riêng với những lễ hội
truyền thống như Đêm trắng, Ngày Âm nhạc, Carnaval..v.v… đã thu hút đông
đảo người tham gia.
Những tà áo dài trên thướt tha giữa Paris. Photo Tuong An, RFA
|
Trong đó lễ Carnaval với nhiều mầu sắc khác lạ đã làm thích thú giới
thưởng ngoạn. Carnaval năm nay đặc biệt có sự tham gia lần đầu tiên của
cộng đồng người Việt tại Pháp. Tường An gửi về một vài hình ảnh của sắc
màu Việt Nam trong lễ hội Carnaval 2012 tại Paris.
Cộng đồng người Việt tham gia Carnaval 2012
Mùa hè Âu châu bắt đầu bằng những cơn mưa rào như những cơn mưa bóng
mây ở VN, nó đến và đi cũng thật nhanh làm người Việt xa quê liên tưởng
đến câu thơ của một thời áo trắng :
« Trời mưa thì mặc trời mưa,
Anh che nón lá anh đưa em về »
Những chiếc nón lá nhẹ như tơ liễu, giản đơn nhưng hữu ích của người
nông dân VN hôm nay cũng đã góp mặt bên cạnh những sắc màu rực rỡ của
những bộ trang phục Brazil, Columbia, Tahiti…v.v…. những chiếc nón
khiêm tốn một cách rất VN ấy được tôn vinh thêm bởi những chiếc áo dài,
áo tứ thân, áo bà ba trong bức tranh Việt Nam có mặt trong lễ hội
Carnaval Tropical de Paris năm 2012.
Đám cưới Việt Nam với y phục cổ truyền. Photo Tuong An, RFA |
Lễ hội Carnaval được tổ chức từ 11 năm nay bởi Tòa thị chính Paris
trong những ngày bắt đầu vào mùa hè với sự tham gia của hầu hết các sắc
dân ngoại quốc đang sống tại Pháp, để nói lên sự giàu có và đa văn hóa
của thành phố Paris. Thế nhưng, chỉ năm nay mới bắt đầu có sự tham gia
chính thức của cộng đồng người Việt sống tại Pháp. « Chính thức » là vì
carnaval năm trước chỉ có một cặp trai gái Việt Nam tham gia, lẻ loi
giữa một rừng sắc màu của các dân tộc khác. Năm nay, với sự kêu gọi của
anh Oscar Nghĩa Phạm, chủ tịch của nhóm Harmony’s day, tập thể người
Việt tại Pháp đã nhiệt tình đáp ứng như một thông điệp của sự hội nhập
vào dòng chảy đa văn hóa của thành phố Paris.
Coi như phái đoàn VN là thành công. Lúc đầu qua bao nhiêu là cực
khổ của các anh chị vì cộng đồng VN biết rất trể, chỉ làm có 2 tháng
thôi, người nào cũng đi làm hết, tối về phải thức khuya đến 1-2 giờ để
gửi mails, tổ chức (Chị Yến Vương)
Cái tên Harmony’s day cũng đã nói lên phần nào ý nghĩa của nó, từ
nhiều năm nay, nhóm đã được thành lập bởi một số người với nhiều chủng
tộc khác nhau đang sống tại Paris và hoạt động thuần về văn hóa. Anh
Oscar Nghĩa Phạm đã sống hơn nửa đời người ở Pháp, tuy nói tiếng Việt
không còn nhuần nhuyễn, nhưng anh vẫn ước mong đem văn hóa Việt Nam hội
nhập vào xã hội đa văn hóa của Paris, anh cho biết mục đích của anh khi
thành lập nhóm Harmony’s day :
« Harmony’s day là một hội để họp lại tất cả các văn hóa của tất cả
các chủng tộc để chia sẻ với nhau về văn hóa, khi nào văn hóa hợp với
nhau thì các dân tộc ít căng thẳng hơn. Vì thế tôi muốn lập ra hội
Harmony’s day »
Sự bắt đầu nào cũng khó khăn, nhất là văn hóa Carnaval lại không phải
là một văn hóa quen thuộc với người Việt. Nói đến Carnaval là nói đến
những điệu nhạc rập rờn, sống động, với kèn trống rôm rã mà người nghe
cũng phải khua chân, múa bụng. Nói đến carnaval là nói đến những màu sắc
rực rỡ của các loại y phục lạ lẫm, đến những chiếc nón lông chim,
những bộ y phục hở hang, những vũ khúc múa bụng..v.v.., trong khi nói
đến văn hóa VN là nói đến những câu hò, tiếng hát dịu dàng, những bộ y
phục kín đáo, những điệu vũ thướt tha. Thế nhưng, văn hóa là một ngôi
nhà mà những khác biệt đều có thể hội tụ để làm phong phú thêm những căn
phòng còn đóng kín. Cánh cửa ấy hôm nay đã mở để thấy những nét rất
duyên dáng của bức tranh Việt Nam với 3 chủ đề : Hai Bà Trưng, Đám cưới
nhà quê, Đàn tranh.
Chị Yến Vương, một cựu học sinh Gia Long, góp mặt trong phần trình
diễn của hai bà Trưng, lần đầu tiên tham gia lễ hội Carnaval, với chị là
một kinh nghiệm không thể nào quên. Rất tự hào và cũng rất khiêm
nhường, chị cho biết cảm tưởng của mình :
Diễn lại cảnh Bà Triệu. Photo Tuong An, RFA |
« Lần trình diễn này đã trình diễn mấy lần cho cộng đồng VN xem rồi,
đây là màn « Anh thư nước Việt » và đứng đầu là xe hoa của hai Bà Trưng.
Hôm nay nói chung rất là hài lòng. Coi như phái đoàn VN là thành công.
Lúc đầu qua bao nhiêu là cực khổ của các anh chị vì cộng đồng VN biết
rất trể, chỉ làm có 2 tháng thôi, người nào cũng đi làm hết, tối về phải
thức khuya đến 1-2 giờ để gửi mails, tổ chức.v.v… Mới đầu chỉ có mấy
người thôi, về sau, khi quyết định làm nên cố gắng. Đây là sự thành công
của tất cả các anh chị trong cộng đồng VN và đặc biệt là cám ơn anh
Nghĩa và cám ơn các anh chị đã chung lo để cho Carnaval được thành công
ngày hôm nay. »
Harmony’s day là một hội để họp lại tất cả các văn hóa của tất cả
các chủng tộc để chia sẻ với nhau về văn hóa, khi nào văn hóa hợp với
nhau thì các dân tộc ít căng thẳng hơn. Vì thế tôi muốn lập ra hội
Harmony’s day
( Anh Oscar Nghĩa)
( Anh Oscar Nghĩa)
Trời mưa thì mặc trời mưa, đoàn người vẫn tiến về phía trước, các vũ
công vẫn tươi cười lắc bụng trước khán đài để các giám khảo chấm điểm.
Năm nay, nữ hoàng của Carnaval Tropical de Paris là cô Isabelle đến từ
Guadeloup đã khai mạc lễ hội tại place de Nation. Brazil không hổ danh
là xứ sở Carnaval với những màn múa bụng hấp dẫn, sắc dân Miyo với sáng
kiến lạ lẫm trong những chiếc áo kết bằng những nút chai nhiều màu sắc.
Lễ hội Carnaval năm nay với 49 phái đoàn gồm 5300 người, đại diện cho
22 quốc gia. Khởi hành từ place de Nation và trở về đó sau một đoạn
đường dài 4700 mét. Năm nay, số người xem khoảng 200.000 người, ít hơn
năm ngoái ( 450.000 người) có lẽ vì thời tiết không chiều lòng người,
những chiếc áo dài thướt tha thỉnh thoảng cũng phải chạy trốn những cơn
mưa bất chợt.
Nhịp cầu kết nối giúp người Việt lại gần nhau hơn
Là phái đoàn thứ 21 trong 49 đoàn diễn hành. Phái đoàn VN gồm 165
người với rất nhiều áo dài và nón lá. Những cô gái trẻ trung xinh xắn
trong chiếc áo bà ba, đầu đội thúng, hấp dẫn quan khách với màn múa
kiếm của bà Trưng, bà Triệu, nhạc cảnh cô dâu, chú rễ làng quê trong
tiếng đàn tranh, tiếng sáo và tiếng trống làng, nhóm ca Favic với các
ông Tây bà Đầm xúng xính trong y phục VN cũng góp mặt, Tây sơn biểu diễn
ngọn võ cổ truyền. Dáng đứng Việt Nam sống động và ngoạn mục trong lễ
hội Carnaval 2012, khách xem hai bên đường trầm trồ và không thiếu lời
khen. Anh Oscar Nghĩa rất vui với sự hiện diện của phái đoàn Việt nam
năm nay trong lễ hội mùa hè này và cho biết cảm nghĩ của mình :
...cám ơn tất cả những người bạn VN đã xung phong bỏ sức tham gia
rất nhiệt tình để có kết quả trong ngày Carnaval Tropical de Paris
2012. Và tôi cũng mong đó là một thông điệp, một nhịp cầu để nối những
người VN lại gần nhau hơn...( Anh Oscar Nghĩa)
« Thứ nhất là đã nhiều năm tôi tổ chức Carnaval nhưng chưa lần [Các
cô gái Việt Nam trong bô áo ] nào có người VN tham dự, đây là lần đầu
tiên có phái đoàn người VN hải ngoại tham dự nên tôi rất vui và hãnh
diện. Sự có mặt của người VN chính là điều tôi mong muốn từ lâu. Cảm
nghĩ thứ nhì của tôi là cám ơn tất cả những người bạn VN đã xung phong
bỏ sức tham gia rất nhiệt tình để có kết quả trong ngày Carnaval
Tropical de Paris 2012. Và tôi cũng mong đó là một thông điệp, một nhịp
cầu để nối những người VN lại gần nhau hơn nữa để cùng song song và tiến
bước đi lên theo đà tiến bộ về mọi mặt để không thua kém bất cứ một
quốc gia nào. »
Lễ hội Carnaval có lẽ vui, nhưng không lạ với hàng trăm ngàn người đứng dọc hai bên đường. Tuy nhiên, với chị Loan, đây là lần đâu tiên chị được tham dự một Carnaval bằng mắt thấy, tai nghe chứ không phải qua màn ảnh truyền hình. Chị Loan đến từ VN, đi qua Pháp du lịch và tình cờ được nhìn thấy một lễ hội vui nhộn và đầy thú vị. Chị chia sẻ :
« Em thấy rất là vui và lạ mắt nữa tại vì Việt Nam cũng chưa bao giờ
từng được xem. Thấy rất là vui và phấn khởi nữa. Mình nhìn lại truyền
thống của nước nhà mình đó, thấy cũng rất là hay. Mấy anh chị bên đây mà
tổ chức được như vậy là quý lắm đó. Thấy vui mà xúc động thiệt đó. Tại
vì đi vòng vòng để tìm chổ mấy anh chị trình diễn, tự nhiên thấy tà áo
dài , cái nói « rồi rồi, Việt Nam rồi, Việt Nam rồi ! » Rất là mừng ,
làm như mình tìm lại được cái gì đó thân thương ! »
Mấy anh chị bên đây mà tổ chức được như vậy là quý lắm đó. Thấy
vui mà xúc động thiệt đó. Tại vì đi vòng vòng để tìm chổ mấy anh chị
trình diễn, tự nhiên thấy tà áo dài , cái nói « rồi rồi, Việt Nam rồi,
Việt Nam rồi ! » Rất là mừng , làm như mình tìm lại được cái gì đó thân
thương ! » ( Chị Loan đến từ VN)
Phái đoàn cuối cùng trình diễn trước khán đài đã đi qua, nhưng tiếng
trống, tiếng kèn còn vang vọng trên đường phố Paris, còn đọng lại những
âm hưởng trong lòng của mọi người. Mệt mỏi, nhưng hài lòng, anh Oscar
Nghĩa Phạm cho biết công việc bảo tồn và truyền bá văn hóa cho nhau là
một hành trình để xóa mờ ranh giới giữa các dân tộc, đem người gần lại
với người và như thế, con người có thể sống chung hài hòa. Anh chia sẻ
về những dự định trong tương lai và mong muốn có sự kết hợp của các cộng
đồng người Việt tại các nước khác trên thế giới vào ngày Văn hóa năm
2013 sẽ được tổ chức tại công trường Hòa Bình, dưới chân tháp Eiffel :
« Về hoạt động tương lai thì tôi đã chuẩn bị để làm một ngày Văn hóa
quốc tế tại Place Trocadero vào tháng 6 năm 2013. Tôi xin mời năm tới,
những phái đoàn văn hóa của Hoa Kỳ, Canada và các nước khác đến để cùng
tổ chức và chia sẻ nền văn hóa của người Việt sống tại Hoa Kỳ, Canada và
các nước khác với tôi. »
Bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc là thao thức của cộng đồng người
Việt hải ngoại từ bao nhiêu năm nay. Tất nhiên nó đòi hỏi sự phấn đấu
của từng cá nhân, mỗi gia đình để nền văn hóa Lạc Việt không bị tan
loãng vào quá trình hội nhập của nền văn hóa sở tại.
2012-07-09
2012-07-09
KINH TẾ VIỆT NAM
Cập nhật: 13:13 GMT - thứ tư, 11 tháng 7, 2012
Cuốn 'cẩm nang' cho
chiến lược phát triển Việt Nam kèm cảnh báo về hậu quả của đường lối
hiện tại của Việt Nam mà các giáo sư Havard trao tận tay Thủ Tướng
Nguyễn Tấn Dũng đến nay vẫn bị bỏ qua và không được công bố trước công
chúng.
Hai năm sau khi nhậm chức, vào năm 2008, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tìm đến Trường Kennedy thuộc Đại Học Harvard
để tham vấn về một chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn 2011-
2020 qua “Chương Trình Châu Á” của Đại học này.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Cuộc gặp gỡ được báo chí trong nước ca ngợi là cởi mở, thẳng thắn và mang lại nhiều hi vọng phát triển cho Việt Nam.
Tuy nhiên cho đến ngày hôm nay, trước thực trạng kinh tế xã hội Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng những chiến lược cùng các lời cảnh báo mà nhóm nghiên cứu gồm các vị David Dapice, Dwight Perkins, Nguyễn Xuân Thành, Vũ Thành Tự Anh, Huỳnh Thế Du, Jonathan R. Pincus, Anthony Saich, Benjamin H. Wilkinson đưa ra đã bị phớt lờ.
Các nhóm đặc quyền
Bốn năm trước, nhóm giáo sư Harvard đã cảnh báo trước hậu quả từ sự trục lợi của các nhóm đặc quyền có ảnh hưởng chính trị lớn đang biến của công thành của riêng khiến chất lượng đầu tư công vào các Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) không hiệu quả, làm mất đi nguồn lực vươn lên của Việt Nam trong lúc nền kinh tế lẫn người dân vẫn phải chịu gánh nặng kinh phí.“Sự ưu ái của Nhà Nước đối với các công ty dựa vào các mối quan hệ chính trị hơn là kết quả thành công trong kinh doanh”.
“Các doanh nghiệp này vẫn được hỗ trợ vốn dù thua lỗ liên tiếp và chậm chạp trong việc nâng cao chất lượng kinh doanh vì tầm nhìn hẹp và không phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh.”
"Nhà Nước sẽ trở nên “quá tải” trong vai trò quản lí của mình."
Bốn năm sau, Việt Nam chìm ngập trong các vụ tai tiếng từ sự đổ bể của các doanh nghiệp nhà nước với thiệt hại lên đến hàng trăm ngàn tỉ, gấp nhiều lần gói hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ trong năm 2012.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung – Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung Ương nhận xét về doanh nghiệp nhà nước là “Lời ăn, lỗ cũng ăn và dân chịu.”
“Các nhóm đặc quyền này sẽ tiếp tục ngăn cản Việt Nam trong công cuộc cải cách, ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh và hạn chế kết quả tăng trưởng của Việt Nam,” nhóm nghiên cứu Harvard viết.
Quản lí yếu kém
“Hệ thống quản lí yếu kém đã luôn là nguyên nhân dẫn đến các nguồn đầu tư được sử dụng không đúng lúc, đúng nơi.”
“Lạm phát là kết quả từ những chính sách sai lầm
của chính phủ, chủ yếu xuất phát từ yếu kém trong điều hành kinh tế vĩ
mô và hoạt động đầu tư công kém hiệu quả.” – Trích dẫn tập tài liệu.
Với quyền lực tập trung chủ yếu vào các nhóm đặc
quyền nói trên, tập tài liệu đã cảnh báo Nhà Nước sẽ trở nên “quá tải”
trong vai trò quản lí của mình.
Sự quá tải này tạo cơ hội cho doanh nghiệp nhà
nước thả sức phớt lờ chủ trương của Nhà Nước yêu cầu họ tập trung vào
những ngành chiến lược và thay vào đó, mở rộng hoạt động kinh doanh sang
nhiều lĩnh vực, đồng thời tạo ra các công ty độc quyền trong nước để
ngăn chặn cạnh tranh từ công ty nước ngoài.
Quả thực, vụ tai tiếng Vinalines và Vinashin và
mức lạm phát lên đến 22% năm ngoái được giới quan sát cho là sự cao trào
của trạng thái quá tải và yếu kém trong công tác quản lí.
“Quản lí yếu kém đồng thời cũng giúp người giàu
tránh không phải trả những khoản thuế ... Khi nguồn thu quan trọng của
ngân sách bị xói mòn thì nhà nước sẽ không đủ tiền tài trợ cho chi tiêu
công”
“Sự tự do hóa tài chính cũng xảy ra quá sớm
trong khi hệ thống tài chính được thiết kế không thích hợp và chưa rõ
ràng. Điều này tạo cơ hội cho hiện tượng đầu cơ và tạo các bong bóng tài
sản.” – Nhóm giáo sư Havard cảnh báo.
Trên thực tế, sự vỡ bong bóng của thị trường
chứng khoán Việt Nam đóng góp bởi các giao dịch nội gián và hiện tượng
đầu cơ đã chứng minh những cảnh báo này là đúng.
Nghị Quyết số 11 được Chính Phủ đưa ra nhằm
“chữa cháy” dường như đã quá muộn màng, khi các báo cáo năm 2012 cho
thấy nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với khối
Bấm
nợ xấu khổng lồ trong bối cảnh doanh nghiệp thay nhau phá sản và hiểm họa tiềm tàng từ những món nợ khủng từ các doanh nghiệp nhà nước.
Khủng hoảng giáo dục
"Sự thất bại của ngành giáo dục không những kìm hãm sự phát triển của quốc gia mà còn duy trì sự bất công bằng trong xã hội"
Nhóm giáo sư Harvard viết: ”Các quốc gia cạnh
tranh trên cơ sở lao động rẻ không thể vượt qua mức thu nhập trung bình
thấp. Các quốc gia này phải chật vật để có được một tỉ lệ lợi nhuận mỏng
manh trong khi thị trường thế giới ngày càng trở nên tinh vi, thâm dụng
vốn và công nghệ hơn.”
Thật vậy, trong suốt những năm gần đây, giới
quan sát đang cho rằng lao động giá rẻ hiện tại đang là nguyên nhân
khiến Việt Nam phải đối mặt với “bẫy thu nhập trung bình”, khi nền kinh
tế bị kìm hãm bởi mức thu nhập thấp của người dân.
Tuy nhiên chất lượng giáo dục đứng vào bậc thấp
nhất so với các nước đang phát triển đồng khu vực hiện sẽ không đủ giúp
Việt Nam sản sinh ra những lao động chất lượng cao hơn để thay đổi điều
ấy.
“Số lượng, chất lượng giảng viên hết sức hạn chế
và hơn phân nửa sinh viên ra trường tại Việt Nam không được làm đúng
ngành đào tạo."
“Một điều đáng ngạc nhiên hơn, đó là tỉ lệ ngân
sách dành cho giáo dục trong GDP của Việt Nam là khá cao so với các nước
trong khu vực. Vậy tiền đi đâu ? Phải chăng đã bị “nuốt chửng” bởi cơ
chế hiện nay ?”
“Dưới hệ thống quản trị hiện tại, các trường đã
không có đủ quyền tự chủ để chuyên môn hóa sâu, cạnh tranh trên cơ sở
chất lượng phù hợp như cầu thị trường”
“Với một hệ thống quản trị như vậy, đổ thêm tiền
vào chỉ là giải pháp tình thế, mà không giải quyết được những vấn đề cơ
bản nhất của giáo dục Việt Nam” – Trích dẫn tập tài liệu.
Thiếu công bằng
Tập tài liệu đã chỉ ra thất bại của Chính phủ Việt Nam trong việc duy trì một xã hội công bằng.
Nhóm giáo sư Havard cho rằng, mức độ tiếp cận
với nền giáo dục của người giàu nghèo vẫn còn cách rất xa nhau, và sự
thất bại của ngành giáo dục không những kìm hãm sự phát triển của quốc
gia mà còn duy trì sự bất công bằng trong xã hội.
Tập tài liệu cũng đã nhắm đến những bất công trong vấn đề đất đai.
“Tại Việt Nam, quá trình chuyển đổi đất từ nông
nghiệp sang công nghiệp và đô thị đang làm một số người trong đó có các
quan chức giàu lên một cách nhanh chóng, trong khi khiến nhiều nông dân
trở nên thực sự vô sản.”
Nhóm giáo sư này cũng đã so sánh vấn đề tái tổ
chức đất nông nghiệp giữa Việt Nam với hai nước phát triển bậc nhất
trong khu vực là Hàn Quốc và Đài Loan:
“Trong quá trình tổ chức lại đất nông nghiệp ở
hai nước này, nông dân có thể bán lại đất của mình khi họ muốn với giá
công bằng chứ không bị cưỡng bức phải tái định cư và nhận tiền đền bù
thấp hơn giá trị thực”
Hai vụ bạo động tại Văn Giang và Tiên Lãng gần
tại Việt Nam đã chứng minh sự phớt lờ của chính phủ Việt Nam trước những
lời cảnh báo này, đồng thời cho thấy thực trạng bất công rõ rệt có xu
hướng tăng cao giữa người nông dân và người giàu trong đó có các nhóm
đặc quyền.
Cải cách cần thiết
Các giáo sư Harvard đã chỉ ra sáu lĩnh vực chính sách mà Việt Nam cần cải cách, dựa theo sự thành công của các nước Đông Á:
Giáo dục: Cần công
khai các ngân sách nhà nước dành cho giáo dục để tránh lãng phí và kém
hiệu quả. Tiến độ thực hiện cải cách giáo dục đại học phải được thúc đẩy
nhằm tận dụng lợi ích của đầu tư nước ngoài.
Cơ sở hạ tầng: Cần yêu
cầu EVN chấm dứt ngay hoạt động đầu cơ, không nằm trong ngành kinh
doanh chính nhằm tập trung vốn và nhân lực vào việc cung cấp năng lượng.
Hội đồng thẩm định đầu tư độc lập cần được đưa
ra nhằm tránh các hạng mục đầu tư kém hiệu quả bằng cách sử dụng các ý
kiến khách quan.
Minh bạch hóa các qui định về đất đai cần được tiến hành để đảm bảo một thị trường bất động sản công bằng và có tính cạnh tranh.
Các thành phố cần được đầu tư có hiệu quả để phục vụ cho mục đích dân sinh.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Phân bổ nguồn lực giữa khu vực nhà nước và dân doanh dựa vào hiệu quả
trong khả năng sử dụng, đồng thời kết quả kiểm toán của tất cả các công
ty phải được thực hiện bởi những cơ quan kiểm toán độc lập.
"Sáu mảng chính cần cải cách: Giáo dục, Cơ sở hạ tầng, Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, Hệ thống tài chính, Hiệu lực của Nhà Nước, Công bằng"
Hệ thống tài chính: Giảm lạm phát bằng cách nâng cao chất lượng quản lí vĩ mô và tăng cường hiệu quả đầu tư công.
Biến ngân hàng Nhà Nước Việt Nam thành một ngân hàng độc lập về mặt tài chính, nhân sự, công cụ và mục tiêu.
Hiệu lực của Nhà Nước:
Loại bỏ những chính sách hoang đường không có khả năng thực hiện và hệ
thống tuyển dụng nhân sự dựa vào thâm niên, lòng trung thành và xuất
thân hiện nay để tuyển dụng người tài.
Khuyến khích tính phê phán trong nội bộ chính phủ và sự giám sát từ bên ngoài qua báo chí.
Theo đuổi định hướng cải cách một cách quyết
liệt, nhằm tránh những sai lầm của Đông Nam Á, tận dụng cơ hội hiên tại
và đáp ứng kỳ vọng của nhân dân về sự phát triển đất nước.
Công bằng: Cải thiện chất lượng giáo dục, y tế, khả năng sở hữu nhà cho người dân thành thị để tạo một xã hội công bằng thực sự.
Trợ cấp cho hoạt động đào tạo nghề để giúp người dân đứng vững trước các biến động thị trường.
Tiếp tục nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn để
tăng chất lượng sinh sống của đại bộ phận người dân Việt Nam cũng nhu
tăng năng suất và giá trị cho sản phẩm nông nghiệp.
Thêm về tin này
Các bài liên quan
NGUYỄN THIÊN THỤ * HỒ CHÍ MINH
HỒ CHÍ MINH LÀ AI?
Trước
khi đi sâu vào chương này, chúng ta nên ôn lại tình hình Việt Nam và
thế giới . Năm 1904, Nhật Nga chiến tranh, Nhật thắng lợi khiến cho
những nước bị thực dân, đế quốc Anh, Pháp đô hộ nức lòng tin tưởng công
cuộc canh tân. Trong thời gian này, Phan Bội Châu khởi xướng phong trào
Duy Tân và Đông Du. Các chiến sĩ cách mạng sang Nhật, Trung Quốc, Thái
Lan và Pháp hoạt động cách mạng. Lúc này tình thần quốc gia lên cao,
chưa có mầm móng cộng sản, cho nên chưa có sự phân biệt Quốc Cộng như
sau này. Cụ Phan Chu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Phan Bội
Châu, Hồ Học Lãm xem những người đồng hương là đồng chí. Hơn nữa bọn
này khéo nịnh hót, lợi dụng tình đồng xứ Nghệ An, ăn dầm ở dề, và sống
bám vào các cụ, vốn cũng chẳng giàu có gì. Thương hại chúng, và cũng vì
tình đồng bào, các cụ cưu mang chúng, xem Nguyễn Tất Thành như con
cháu, cho nên bị Nguyễn Tất Thành và đồng bọn cộng sản Hoàng Văn Hoan,
Phạm Văn Đồng xâm nhập nội bộ rồi lừa đảo.
Khi ở Pháp, Nguyễn Tất Thành tiếm danh hiệu Nguyễn Ái Quốc của Nguyễn Thế Truyền, Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường. Sau đó ông qua Nga rồi sang Trung Quốc. Một tài liệu báo đảng cộng sản đã cho ta biết 169 tên và bút hiệu của Nguyễn Tất Thành.Trong thời gian 1924- 1941, hoạt động tại Trung Quốc, ông dùng nhiều tên như Công Nhân, Vícto, V, K, Đông Dương, Quac.E. Wen, K.V, Tống Văn Sơ, New Man, Li Nốp, Teng Man Huon, Hồ Quang, D.C. Lin, Lâm Tam Xuyên, Ông Trần, Bình Sơn, Đi Đông; Cúng Sáu Sán, Già Thu... Tên Hồ Chí Minh được dùng từ 1942 .(1)
Tuy nhiên, vài tài liệu nói tên Hồ Chí Minh được dùng từ 1940.
I. CÁC TÀI LIỆU VỀ HỒ CHÍ MINH TRƯỚC NĂM 2000
Sau khi sang Trung Quốc, Nguyễn Tất Thành cũng tiếm danh một lần nữa. Lúc bấy giờ sau vụ Sô Viết Nghệ Tĩnh 1930, cái tên Nguyễn Ái Quốc và danh hiệu cộng sản đã làm dân ta kinh hồn khiếp vía cho nên ông phải thay đổi danh tính để lừa đảo nhân dân Việt Nam. Việc này cũng có mục đích giúp ông tránh được sự theo dõi của Anh, Pháp. Vì vậy, ông lấy tên là Hồ Chí Minh, Hồ Quang. Hồ Chí Minh, Hồ Quang là bí danh của Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng Việt Nam, đã theo Phan Bội Châu Đông Du.
Hồ Học Lãm ( 1883?-1942), tự
Hinh Sơn, quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông có họ
hàng gần với nhà cách mạng Hồ Tùng Mậu, là cháu đích tôn của cụ Hồ Bá
Ôn.
Ông nội là Hồ Bá Ôn, án sát tỉnh Nam Định, hy sinh năm 1883 trong trận đánh chống Pháp giữ thành Nam Định. Con cả của cụ Hồ Bá Ôn là Hồ Bá Kiện tham gia phong trào Văn Thân, bị Pháp bắt giam rồi bắn chết ở Lao Bảo. Con thứ hai là Hồ Thúc Linh đậu cử nhân, cũng hưởng ứng phong trào chống Pháp nên bị thực dân Pháp bắt giam và tra tấn. Ông Hồ Học Lãm là con của liệt sĩ Hồ Bá Trị và bà Trần Thị Trâm, Thân phụ mất sớm vì bị thực dân Pháp giết hại năm 1885, ông và người anh Hồ Xuân Kiên do một tay thân mẫu nuôi nấng và giáo dục. Bà vốn là con gái Tiến sĩ Trần Hữu Dực, Tri phủ Vĩnh Tường; là một nhà hoạt động nổi tiếng từ thời Cần Vương, một cánh tay đắc lực của Phan Đình Phùng trong cuộc khởi nghĩa Vụ Quang, từng cùng với chí sĩ Thân Sơn Ngô Quảng sang Xiêm La mua súng cho nghĩa quân kháng Pháp. Do bà thường sắm vai buôn lụa để hoạt động nên có tên là "bà Lụa". Bà cũng là mẹ đỡ đầu của cô Chiêu Thanh (tức Nguyễn Thị Thanh, chị ruột của Nguyễn Tất Thành).
Do ảnh hưởng từ sự giáo dục của thân mẫu, ông sớm ý thức về lòng yêu nước, năm 1908, hưởng ứng phong trào Đông du, phong trào Duy tân, ông du học sang Nhật. Khi các du học sinh Việt Nam ở Nhật bị trục xuất, ông sang Trung Quốc vào học Trường Võ bị Bắc Kinh.
Tốt nghiệp, trở thành một sĩ quan cao cấp trong quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu, nhưng trong lòng ông vẫn hướng về tổ quốc. Nhà ông là cơ sở đón tiếp các chiến sĩ cách mạng Việt Nam đến bàn việc cứu nước, giải phóng dân tộc. Một số nhà cách mạng từng lưu trú tại nhà ông như Hoàng Văn Hoan, Lê Thiết Hùng...
Năm 1936, ông tham gia tổ chức Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội của hoàng thân Cường Để , và năm 1937, lấy bí danh Hồ Chí Minh và dùng tiền riêng để ra một tờ tạp chí nhỏ bằng chữ Hán lấy tên là Việt Thanh. Năm 1938, Lý Thụy lấy bi danh Hồ Quang sai bọn đàn em là Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp), Lý Quang Hoa (Hoàng Văn Hoan) len lõi để phá hoại.
Năm 1940, Hồ Học Lãm ốm nặng, phải nằm bệnh viện tại Quế Lâm. Lý Thụy thấy danh Hồ Chí Minh , Hồ Quang và tổ chức Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội là có ảnh hưởng lớn trong các nhà cách mạng và quốc dân Việt Nam cho nên Lý Thụy cũng tiếm danh Hồ Chí Minh vàViệt Nam Độc lập Đồng minh Hội.(Wikipedia)
HOÀNG VĂN HOAN trong " Giọt Nước Trong Biển Cả" đã thuật việc ông buổi đầu sang TrungQuốc đã tìm đến nhà ông Hồ Học Lãm :
Nguyên ông Hồ Học Lãm là người cùng làng với tôi, cháu cụ Hồ Bá ôn, án sát tỉnh Nam Định, hy sinh năm 1883 trong khi chống Pháp để giữ thành Nam Định. Ông cũng là chú của đồng chí Hồ Tùng Mậu, và mẹ ông là bà Lụa, một người tích cực tham gia cách mạng trong thời kỳ Văn Thân, đã từng bị bắt giam và bị tra tấn rất tàn nhẫn mà vẫn không chịu khuất phục. Lúc 16, 17 tuổi, tôi thường hay đến nhà bà cụ, nghe chuyện cách mạng, vì vậy tình hình trong nhà đó, tôi rất hiểu biết. Khi gặp ông Hồ Học Lãm là tự nhiên nói đến tình hình gia đình, tình hình làng xóm, tình hình trong nước và sự dặn dò của bà cụ trong trường hợp đi ra ngoài có dịp gặp ông. Qua một hồi trò chuyện, ông Hồ đã biết rõ về tôi và khuyên tôi cứ yên tâm ở nhà ông....Ông không phải là cộng sản, điều này Quốc dân đảng Trung Quốc biết rõ trăm phần trăm. Ông đứng ra lập Việt Minh trong lúc này đối với chúng ta mà nói là một sự che chở rất có hiệu lực.....
Vào khoảng tháng 10 năm 1940, khi chúng tôi đến Quế Lâm thì Bác đã ở đó. Ông Hồ Học Lãm cũng đã được xếp đặt đến chữa ở bệnh viện Quế Lâm rồi. Chúng tôi thường bí mật gặp Bác ở Biện sự xứ Bát lộ quân để báo cáo và xin chỉ thị về cách hoạt động.
Vấn đề đầu tiên là vấn đề lấy danh nghĩa gì để hoạt động? Bác chủ trương lấy danh nghĩa Việt Nam độc lập đồng minh hội, và mời ông Hồ Học Lãm đứng ra chủ trì để chúng ta dựa vào nó mà hoạt động. Chủ trương đó xuất phát từ chỗ Việt Minh là một tổ chức mà trước kia đã cùng với ông Hồ Học Lãm không phải là cộng sản mà lại thật lòng ủng hộ chúng ta, nếu ông đứng ra sẽ được nhiều điều thuận lợi.
Lời của Hoàng Văn Hoan cho ta biết bọn ông ăn dầm nằm dề tại nhà cụ Hồ Học Lãm, tuy nhiên, Hoàng Văn Hoan đề cao Nguyễn Tất Thành, nói xấu tổ chức cách mạng quốc gia, và không nói rõ việc cộng sản xâm nhập và tiếm danh tên Hồ Chí Minh và VIệt Nam Độc Lập Đồng Minh hội của cụ Hồ Học Lãm.
LS. Nguyễn Văn Chức cho biết:
Trần Gia Phụng theo Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí,( sđd. t. 168) và Chính Đạo, Hồ Chí Minh, ( tập 2, Houston : Nxb. Văn Hoá, 1993, tr 281) đi đến nhận định:
Nguyên tại Nam Kinh (Tàu), Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng Việt Nam, đã lập ra Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh. Khi đến Hồ Nam năm 1937, Hồ Học Lãm lấy bí danh là Hồ Chí Minh .Năm 1938, Nguyễn Sinh Cung, lúc đó lấy bí danh là Hồ Quang, từ Liên Xô qua Tàu lần thứ ba. Theo lệnh của Hồ Quang, những đảng viên cộng sản như Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp), Lý Quang Hoa (Hoàng Văn Hoan) ... len lỏi vào hàng ngũ của Hồ Học Lãm. Hồ Học Lãm già yếu, ít hoạt động. Các đảng viên cộng sản liền núp dưới danh hiệu Việt Minh để hoạt động cho đảng CS, rồi dần dần chiếm dụng danh xưng nầy. Thủ lãnh Hồ Quang, cũng chiếm dụng luôn bí danh thủ lãnh Hồ Chí Minh từ năm 1942. (HCM, LXXII)
Về điểm này, bài của Tâm Việt đã đi đến cội nguồn tên Hồ Chí Minh:
Ông nội là Hồ Bá Ôn, án sát tỉnh Nam Định, hy sinh năm 1883 trong trận đánh chống Pháp giữ thành Nam Định. Con cả của cụ Hồ Bá Ôn là Hồ Bá Kiện tham gia phong trào Văn Thân, bị Pháp bắt giam rồi bắn chết ở Lao Bảo. Con thứ hai là Hồ Thúc Linh đậu cử nhân, cũng hưởng ứng phong trào chống Pháp nên bị thực dân Pháp bắt giam và tra tấn. Ông Hồ Học Lãm là con của liệt sĩ Hồ Bá Trị và bà Trần Thị Trâm, Thân phụ mất sớm vì bị thực dân Pháp giết hại năm 1885, ông và người anh Hồ Xuân Kiên do một tay thân mẫu nuôi nấng và giáo dục. Bà vốn là con gái Tiến sĩ Trần Hữu Dực, Tri phủ Vĩnh Tường; là một nhà hoạt động nổi tiếng từ thời Cần Vương, một cánh tay đắc lực của Phan Đình Phùng trong cuộc khởi nghĩa Vụ Quang, từng cùng với chí sĩ Thân Sơn Ngô Quảng sang Xiêm La mua súng cho nghĩa quân kháng Pháp. Do bà thường sắm vai buôn lụa để hoạt động nên có tên là "bà Lụa". Bà cũng là mẹ đỡ đầu của cô Chiêu Thanh (tức Nguyễn Thị Thanh, chị ruột của Nguyễn Tất Thành).
Do ảnh hưởng từ sự giáo dục của thân mẫu, ông sớm ý thức về lòng yêu nước, năm 1908, hưởng ứng phong trào Đông du, phong trào Duy tân, ông du học sang Nhật. Khi các du học sinh Việt Nam ở Nhật bị trục xuất, ông sang Trung Quốc vào học Trường Võ bị Bắc Kinh.
Tốt nghiệp, trở thành một sĩ quan cao cấp trong quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu, nhưng trong lòng ông vẫn hướng về tổ quốc. Nhà ông là cơ sở đón tiếp các chiến sĩ cách mạng Việt Nam đến bàn việc cứu nước, giải phóng dân tộc. Một số nhà cách mạng từng lưu trú tại nhà ông như Hoàng Văn Hoan, Lê Thiết Hùng...
Năm 1936, ông tham gia tổ chức Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội của hoàng thân Cường Để , và năm 1937, lấy bí danh Hồ Chí Minh và dùng tiền riêng để ra một tờ tạp chí nhỏ bằng chữ Hán lấy tên là Việt Thanh. Năm 1938, Lý Thụy lấy bi danh Hồ Quang sai bọn đàn em là Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp), Lý Quang Hoa (Hoàng Văn Hoan) len lõi để phá hoại.
Năm 1940, Hồ Học Lãm ốm nặng, phải nằm bệnh viện tại Quế Lâm. Lý Thụy thấy danh Hồ Chí Minh , Hồ Quang và tổ chức Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội là có ảnh hưởng lớn trong các nhà cách mạng và quốc dân Việt Nam cho nên Lý Thụy cũng tiếm danh Hồ Chí Minh vàViệt Nam Độc lập Đồng minh Hội.(Wikipedia)
HOÀNG VĂN HOAN trong " Giọt Nước Trong Biển Cả" đã thuật việc ông buổi đầu sang TrungQuốc đã tìm đến nhà ông Hồ Học Lãm :
Nguyên ông Hồ Học Lãm là người cùng làng với tôi, cháu cụ Hồ Bá ôn, án sát tỉnh Nam Định, hy sinh năm 1883 trong khi chống Pháp để giữ thành Nam Định. Ông cũng là chú của đồng chí Hồ Tùng Mậu, và mẹ ông là bà Lụa, một người tích cực tham gia cách mạng trong thời kỳ Văn Thân, đã từng bị bắt giam và bị tra tấn rất tàn nhẫn mà vẫn không chịu khuất phục. Lúc 16, 17 tuổi, tôi thường hay đến nhà bà cụ, nghe chuyện cách mạng, vì vậy tình hình trong nhà đó, tôi rất hiểu biết. Khi gặp ông Hồ Học Lãm là tự nhiên nói đến tình hình gia đình, tình hình làng xóm, tình hình trong nước và sự dặn dò của bà cụ trong trường hợp đi ra ngoài có dịp gặp ông. Qua một hồi trò chuyện, ông Hồ đã biết rõ về tôi và khuyên tôi cứ yên tâm ở nhà ông....Ông không phải là cộng sản, điều này Quốc dân đảng Trung Quốc biết rõ trăm phần trăm. Ông đứng ra lập Việt Minh trong lúc này đối với chúng ta mà nói là một sự che chở rất có hiệu lực.....
Vào khoảng tháng 10 năm 1940, khi chúng tôi đến Quế Lâm thì Bác đã ở đó. Ông Hồ Học Lãm cũng đã được xếp đặt đến chữa ở bệnh viện Quế Lâm rồi. Chúng tôi thường bí mật gặp Bác ở Biện sự xứ Bát lộ quân để báo cáo và xin chỉ thị về cách hoạt động.
Vấn đề đầu tiên là vấn đề lấy danh nghĩa gì để hoạt động? Bác chủ trương lấy danh nghĩa Việt Nam độc lập đồng minh hội, và mời ông Hồ Học Lãm đứng ra chủ trì để chúng ta dựa vào nó mà hoạt động. Chủ trương đó xuất phát từ chỗ Việt Minh là một tổ chức mà trước kia đã cùng với ông Hồ Học Lãm không phải là cộng sản mà lại thật lòng ủng hộ chúng ta, nếu ông đứng ra sẽ được nhiều điều thuận lợi.
Lời của Hoàng Văn Hoan cho ta biết bọn ông ăn dầm nằm dề tại nhà cụ Hồ Học Lãm, tuy nhiên, Hoàng Văn Hoan đề cao Nguyễn Tất Thành, nói xấu tổ chức cách mạng quốc gia, và không nói rõ việc cộng sản xâm nhập và tiếm danh tên Hồ Chí Minh và VIệt Nam Độc Lập Đồng Minh hội của cụ Hồ Học Lãm.
LS. Nguyễn Văn Chức cho biết:
Ngày 20/06/1940, Pháp bị Đức đánh bại ở Âu
Châu, Nguyễãn Ái Quốc triệu tập đại hội đảng tại Côn Minh, sửa soạn về nước
cướp chính quyền.
Tưởng cũng nên nhắc lại : tại Trung Hoa
lúc đó, có những tổ chức cách mạng sau đây của người Việt quốc gia lưu vong
:
1. Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội do cụ Hồ Học Lãm chủ trì.2. Việt Nam Giải Phóng Đồng Minh Hội do cụ Trương Bội Công chủ trì.3. Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, do cụ Nguyễn Hải Thần chủ trì.
Mượn danh nghĩa chống Pháp dành độc lập,
Nguyễn Ái Quốc đã xâm nhập được những tổ chức nói trên. Thành công ngoạn
mục nhất của y là đã cướp danh xưng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (của cụ
Hồ Học Lãm) để đặt tên cho một tổ chức cộng sản của y.
Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của cụ Hồ
Học Lãm đã bị bỏ mất chữ Hội, để trở thành Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi
tắt Việt Minh, một tổ chức võ trang tuyên truyền với võ khí do Trung Cộng
cấp phát và cán bộ do Trung Cộng đào tạo.
Về vụ thành lập mặt trận Việt Minh, Võ
Nguyên Giáp viết như sau :
“Tháng 05/1941, Người chủ trì Hội Nghị
Trung Ương lần thứ 8 [...] Hội Nghị đề ra chủ trương thành lập mặt trận
rộng rãi lấy tên là Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Mặt
Trận Việt Minh” (Tư Tưởng Hồ Chí Minh Và Con Đuờng Cách Mạng VN, tr. 32). (2)Trần Gia Phụng theo Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí,( sđd. t. 168) và Chính Đạo, Hồ Chí Minh, ( tập 2, Houston : Nxb. Văn Hoá, 1993, tr 281) đi đến nhận định:
Nguyên tại Nam Kinh (Tàu), Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng Việt Nam, đã lập ra Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh. Khi đến Hồ Nam năm 1937, Hồ Học Lãm lấy bí danh là Hồ Chí Minh .Năm 1938, Nguyễn Sinh Cung, lúc đó lấy bí danh là Hồ Quang, từ Liên Xô qua Tàu lần thứ ba. Theo lệnh của Hồ Quang, những đảng viên cộng sản như Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp), Lý Quang Hoa (Hoàng Văn Hoan) ... len lỏi vào hàng ngũ của Hồ Học Lãm. Hồ Học Lãm già yếu, ít hoạt động. Các đảng viên cộng sản liền núp dưới danh hiệu Việt Minh để hoạt động cho đảng CS, rồi dần dần chiếm dụng danh xưng nầy. Thủ lãnh Hồ Quang, cũng chiếm dụng luôn bí danh thủ lãnh Hồ Chí Minh từ năm 1942. (HCM, LXXII)
Về điểm này, bài của Tâm Việt đã đi đến cội nguồn tên Hồ Chí Minh:
Trong quyển "Anh Thư Nước Việt Từ Lập Quốc Đến Hiện Đại" (Khai
Trí,1969, 288 tr.) tác giả Phương Lan viết về một vị anh thư tham gia
cách mạng vào đầu thế kỷ 20 là bà Ngô Thị Khôn Nghi như sau (trang 238):
“Bà
Ngô Thị Khôn Nghi, con gái cụ Ngô Quảng, một nhà Tiền bối cách mạng,
một tướng lãnh xuất sắc trong nghĩa quân Cần Vương và Quang Phục ở làng
Tam Đa, tổng Vạn Trình, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Bao phen vào sanh
ra tử, qua nhiều lần thất bại, cụ Ngô Quảng phải bôn tẩu qua Xiêm rồi
thất lộc ở đó. Cụ qua Xiêm đặng một năm, thì cụ có được hai người con,
một trai một gái. Chị gái tức là Khôn Nghi, em trai tên Ngô Chính Học,
được đoàn thể cách mạng đem sang Tàu cả hai”.
Trong cái chương của sách đã dẫn, tác giả Phương Lan cẩn thận đặt phụ đề là Ngô Thị Khôn Nghi Vợ Cụ Hồ Chí Minh Thật và viết tiếp: “Bà
Khôn Nghi qua Tàu cũng vào trường học, sau đó kết duyên cùng cụ Hồ Học
Lãm. Bao nhiêu năm cụ Lãm hoạt động cách mạng Việt Nam, ở Tàu bao nhiêu
năm thì bà Khôn Nghi cùng hoạt động cách mạng ở bên cạnh chồng và nhiều
đồng chí khác. Nhóm làm cách mạng Việt Nam ở Tàu, không ai không biết
gia đình này, từ người quốc gia cho tới người Cộng sản.”
Cụ Hồ Chí Minh thật đó, tức là Hồ Học Lãm, là con của Án Sát Hồ Bá Ôn,
người đã hy sinh như một Liệt Sĩ Dân Tộc vì đã chiến đấu đến cùng khi
Pháp đánh thành Nam Định năm 1883. Hồ Học Lãm tham gia phong trào Đông
Du và Duy Tân do Phan Bội Châu lãnh đạo, sang Nhật du học rồi trở về
Tàu, gia nhập Quân đội Trung Hoa QDĐ, mang quân hàm trung tá, là thành
viên sáng lập VNCMĐMH năm 1936. Khi Hồ Học Lãm qua đời, thì nhân vật
Nguyễn Tất Thành Nguyễn Ái Quốc xử dụng ba chứng minh thư của Hồ Học Lãm
mang tên Hồ Chí Minh để che dấu tông tích cộng sản của mình, để tiện
việc di chuyển trên đất Tàu và xài luôn tên Hồ Chí Minh (vì vào lúc đó,
Trung Hoa Dân Quốc dưới quyền Tổng Thống Tưởng Giới Thạch đã từ bỏ chính
sách Liên Nga Dung Cộng nên không chấp nhận cộng sản).(
Trước
đây, Nguyễn Tất Thành đã ăn ở nhà cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường
rồi lừa đảo các cụ. Lần này, bọn Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Tất Thành cũng
ăn ở nhà cụ Hồ Học Lãm, xâm nhập tổ chức của cụ Hồ Học Lãm rồi tiếm danh
hiệu của cụ và tổ chức của cụ. Và sau đó, họ ăn ở nhà bà Cát Thanh Long
(Thái Nguyên) rồi giết bà ấy. Toàn là làm những viết bất nghĩa, bất
nhân của bọn cướp bóc, côn đồ, chứ không phải là nhà cách mạng như họ
từng vỗ ngực xưng xe!
Theo Trần Quốc Vượng, như đã nói ở chương trước về gia tộc Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Sinh Cung là cháu dòng Hồ Sĩ Tạo cho nên ông lấy họ Hồ. Cũng có giả thuyết nói ông yêu Nguyễn Thị Minh Khai nên lấy tên Hồ Chí Minh. Nguyễn Sinh Cung không lãng mạn và không có óc gia tộc, tổ tiên như người ta tưởng. Nhất là sau này, một Nguyễn Tất Thành giả thì lại không cần đến những điều ấy!Cái quan trọng của ông là danh lợi, là thủ đoạn cướp quyền, cướp danh, cướp hiệu của người khác để lòe bịp thiên hạ. Như vậy là hai lần, Nguyễn Tất Thành và cộng sản đã tiếm danh của các bậc tiền bối hữu danh.
Tóm
lại,
Nguyễn Tất Thành đã lợi dụng lòng yêu nước của
người quốc gia để làm lợi cho ông và đảng cộng sản. Quả thật Nguyễn Tất
Thành một đời tiếm danh, đoạt lợi và lừa dối nhân dân Việt Nam.
Theo Trần Quốc Vượng, như đã nói ở chương trước về gia tộc Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Sinh Cung là cháu dòng Hồ Sĩ Tạo cho nên ông lấy họ Hồ. Cũng có giả thuyết nói ông yêu Nguyễn Thị Minh Khai nên lấy tên Hồ Chí Minh. Nguyễn Sinh Cung không lãng mạn và không có óc gia tộc, tổ tiên như người ta tưởng. Nhất là sau này, một Nguyễn Tất Thành giả thì lại không cần đến những điều ấy!Cái quan trọng của ông là danh lợi, là thủ đoạn cướp quyền, cướp danh, cướp hiệu của người khác để lòe bịp thiên hạ. Như vậy là hai lần, Nguyễn Tất Thành và cộng sản đã tiếm danh của các bậc tiền bối hữu danh.
Từ lâu, cuộc đời hoạt động của Nguyễn Tất Thành có nhiều bí ẩn, có nhiều sự kiện, nhiều năm tháng không rõ ràng, không phải vài năm mà mười năm từ 1931-1941 cho nên Sophie Quinn Judge gọi là "the missing years" (những năm mất tích).Ta có thể chia thành hai loại:
1.Tin rằng Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc là một.
+1.Trước
năm 2000, nhiều tài liệu đã viết về Hồ Chí Minh, phần lớn là tài liệu
của Cộng sản Việt Nam và cộng sản quốc tế. Một số học giả đã tìm hiểu về
Hồ Chí Minh nhưng không tìm ra những ngọn ngành sâu kín bởi vì cộng sản
bao giờ cũng ẩn giấu hành tung, và thêu dệt, bịa đặt nhiều chuyện để
che giấu sự thực đôi khi phũ phàng. Đó là sự khác biệt giữa các nhân vật
quốc gia, quân chủ, tư bản và cộng sản. Hơn nữa, sự bưng bít có tính
cách quốc tế, mọi âm mưu tráo đổi, giả mạo là do quốc tế cộng sản chủ
trương, mà đầu não là Stalin và tổ chức Comintern của ông.+2.Về lai lịch và nhân dạng Hồ Chí Minh, trong tác phẩm " TỪ THỰC DÂN ĐẾN CỘNG SẢN, Hoàng văn Chí viết về vụ Nguyễn Ái Quốc mất tích:
Về phần ông Hồ thì ông bị người Anh bắt ở Hồng Kông cuối năm 1931. Được tha, có lẽ là vào khoảng năm 1932 (không có tài liệu đích xác về ngày ông được tha) ông đi Singapore, bị bắt tại đấy rồi điệu trở về Hồng Kông. Vì bị bệnh lao, hoặc khai là vậy, ông được đưa về bệnh viện rồi đột nhiên ông mất tích. Chính quyền Anh ở Hồng Kông không hề tuyên bố về việc ông Hồ đã biến mất trong trường hợp như thế nào, nhưng có dư luận ngờ rằng ông đã bí mật thoả thuận với mật thám Anh là nếu để ông thoát, ông sẽ giúp họ một việc quan trọng nào đó. Việc này cũng rất có thể vì trước kia ông Hồ đã từng thoả thuận như vậy với mật thám Pháp (Chương 2). Báo Daily Worker, cơ quan của Đảng Cộng sản Anh đăng một tin vắn tắt, nói ông Hồ đã chết vì bệnh lao trong khám đường Hồng Kông nên cả mật thám Pháp lẫn cộng sản Việt Nam đều tin là thực. Năm 1933, mật thám Pháp ghi vào hồ sơ Nguyễn Ái Quốc là đã chết ở Hồng Kông. Không ai biết ông Hồ đi đâu, nhưng có điều chắc là từ ngày ông biến khỏi Hồng Kông cho đến năm 1941 ông im hơi lặng tiếng trên trường chính trị, không hề liên lạc với Đảng Cộng sản Đông Dương . (Phần II, ch.3)
Hoàng Văn Chí cũng nói đến việc Nguyễn Ái Quốc đến nhà Nguyễn Khánh Toàn năm 1941. Người ta cũng đưa giả thuyết là ông Hồ đã bị “cấm cố” tại một địa điểm nào đó trong nội địa Liên Xô từ 1933 đến 1941. ..(Phần II, ch.3)
Hoàng Văn Chí đã nói đến nhân dạng của ông Hồ theo mật thám Pháp:
Dư luận bàn tán về lý lịch ông Hồ Chí Minh, nhất là các nhân viên
trong tân chính phủ hồi ấy lại càng băn khoăn hơn, và tất cả đều nóng
lòng muốn biết rõ ông Hồ là ai và tên thật là gì. Nhưng rồi cũng chẳng
phải chờ lâu, vì chỉ mấy hôm sau bắt đầu có tin đồn Hồ Chí Minh là tên
mới của Nguyễn Ái Quốc, con người bí mật đã từng “khai sinh ra Đảng Cộng
sản Việt Nam”.
+3.Trong hồi ký " BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1945-1965 , linh mục Cao Văn Luận dẫn lời mật thám Pháp
"Nếu tôi nhớ không lầm thì hình như ông này tên là Paul Arnoux, từng làm chánh sở mật thám tại Đông Dương dưới thời quan toàn quyền Decoux. Ông có một trí nhớ phi thường. Những phạm nhân quan trọng một lần qua mắt ông đủ để ông nhớ mãi. Sau này để xác nhận Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc chỉ là một, chính quyền Pháp đã nhờ đến ông đi nhìn mặt Hồ Chí Minh. Cái chi tiết làm cho ông Arnoux cam đoan Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Văn Ba, Lão Woong, bác Trần chỉ là một người, là cái tai của họ Hồ."( 7)
2.Tin rằng Nguyễn Ái Quốc đã chết.
+1.Sophie Quinn Judge có viết trong tác phẩm
‘HCM - những năm tháng mất tích 1919-1941’ đặc biệt trong chương 6 lấy thẳng
chuyện HCM "chết ở HongKong và được chôn ở Mạc tư Khoa " làm
tựa, đưa ra nghi vấn đối với "điều bí ẩn trong sự sống và chết của
HCM".
Nghi vấn của Sophie Quinn Judge có y cứ vào những
thông tin từ báo chí truyền thông thời bấy giờ không thể xác định
được vì chẳng hề có tư liệu bằng chứng nào cả. Song, năm ấy thật sự có những tờ
báo của đảng CS quốc tế, thay nhau loan bố tin NAQ chết vì lao phổi. Như là báo
Chân Lí của đảng CS quốc tế, báo Nhân Đạo của đảng CS Pháp, báo Công nhân của
đảng CS Anh quốc và nhóm sinh viên VN của đại học Đông Phương ở Mạc tư khoa còn
cử hành lễ truy điệu NAQ từ trần, đảng CS quốc tế phái cả đại biểu đến chia
buồn.
+2.Trang 74-75 trong sách "HCM tại TQ"
của giáo sư sử học Đài Loan Tưởng Vĩnh Kính có chép:
Đầu năm 1932 Nguyễn Ái Quốc đến Singapore, lại
bị chính quyền Anh bắt đưa về lại HongKong rồi từ đó mất tích, chính quyền Anh
không hề nói ra tình trạng mất tích, Sau khi mất tích, báo chí khắp nơi loan bố
NAQ bệnh phổi nặng và chết trong ngục. Những tờ báo này, bao gồm luôn cả báo
của chính quyền Pháp Việt thực dân lúc bấy giờ, cùng với các cơ quan báo chí
của các nước CS …(các tờ báo như trên) đều tuyên truyền NAQ đã bệnh chết
+3.Sách HCM Truyện (HCM - a Life) của giáo sư
William Duiker trang 209 và 212 ghi:
Vào ngày 11 tháng 8 năm 1932 CS quốc tế trong tờ
Công nhân nhật báo phát hành ở London loan tin NAQ đã chết trong tù. ……
II. HỒ TUẤN HÙNG
Năm 2008, Hồ Tuấn Hùng đã xuất bản tác phẩm
" HỒ CHÍ MINH SINH BÌNH KHẢO" do Bạch Tượng Văn Hoá ở Đài Loan xuất bản lần thứ nhất tháng 11 năm 2008, tổng cộng 342 trang với nhiều hình ảnh, nội dung khẳng định Hồ Chí Minh (1890-1969), chỉ là một người Đài Loan giả dạng người Việt lãnh đạo đảng Cộng Sản.
Đây
là một khám phá mới vô cùng khó khăn vì đa số " ngựa quen đường cũ", đã
theo "tín ngưỡng "xưa, sùng bái "thần tượng " cũ mất rồi cho nên có
phải người phủ nhận nhẹ nhàng, có kẻ chống đối ra mặt.
Hồ Tuấn Hùng sinh năm 1948, người Miêu Lật, Đài Loan, tốt nghiệp
ban Sử trường đại học quốc gia Đài Loan, đã từng dạy học gần 30 năm.Tác phẩm
gồm 6 thiên:
Thiên thứ nhất: Màn kịch thay long đổi phượng .
Sự thật về cái chết của Nguyễn Ái Quốc
Nguyên uỷ của việc Nguyễn Ái Quốc chết rồi sống lại
Thiên thứ hai: Việc thật giả của kế Kim Thiền Thoát Xác
Thiên thứ ba: Những năm tháng phiêu bạt giang hồ (Phiêu bạc lưu lãng đích tuế nguyệt)
Hồ Chí Minh tại Trung Quốc (Hồ Chí Minh tại Trung Quốc) (1938-1945)
Thiên thứ tư: Khúc tình ca nhân duyên đầy đau khổ (Hôn nhân luyến tình đích bi ca)
Thiên thứ năm: Bản văn Nhật Ký Trong Tù và bản di chúc.
Thiên thứ sáu: Lời kết.
Thiên thứ ba: Những năm tháng phiêu bạt giang hồ (Phiêu bạc lưu lãng đích tuế nguyệt)
Hồ Chí Minh tại Trung Quốc (Hồ Chí Minh tại Trung Quốc) (1938-1945)
Thiên thứ tư: Khúc tình ca nhân duyên đầy đau khổ (Hôn nhân luyến tình đích bi ca)
Thiên thứ năm: Bản văn Nhật Ký Trong Tù và bản di chúc.
Thiên thứ sáu: Lời kết.
III. NGUYÊN NHÂN THÚC ĐẨY TÁC GIẢ VIẾT "HỒ CHÍ MINH SINH BÌNH
KHẢO":
Nguồn gốc là tin đồn trong dân chúng Đài Loan .
Trước đây vào khoảng thập niên 1960... cũng đã có một
đảng viên Quốc Dân Đảng, trong một kỳ tế tổ từng hỏi cha tôi: "Hồ Chí Minh
là người liên hệ với các ông thế nào?" đủ biết lúc ấy đã có tin đồn Hồ Chí
Minh là người Miêu Lật nhưng chỉ lưu truyền trong họ Hồ gốc Miêu Lật, Quảng
Đông mà thôi.
Một vị thầy thuốc họ Hà người Miêu Lật sang Đài Loan chơi cũng cho hay: Năm 1945, ông ta đi theo quân đội Quốc Dân Đảng sang Hà Nội [tức quân đội của Lư Hán sang tiếp thu và giải giới quân đội Nhật], có nghe phong thanh từ một người bán thịt lợn cho hay là Hồ Chí Minh gốc người Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan. [HCMSBK, trang 17] .
Sử gia đi khám phá sử tích nhiều khi do tình cờ , nhiều khi do
truyền thuyết dân gian, nhiều khi là do sách vở đời trước như Kinh Thánh ghi lại. Công việc
của Hồ Tấn Hùng cũng là việc thường của sử gia.
Từ tin đồn trong dân chúng, Hồ Tuấn Hùng khẳng định rằng Hồ
Chí Minh [ Nguyễn Ái Quốc] đã chết từ năm 1932 vì bệnh lao, theo báo cáo của
nhà đương cục Anh tại Hương Cảng là đúng sự thực và sau đó là Hồ Tập Chương,
một người Đài Loan đồng tộc với tác giả giả dạng theo cái kế mà người Trung Hoa
gọi là "thâu long chuyển phượng" và "kim thiền thoát xác".
IV. NHỮNG KHÓ KHĂN KHI NGHIÊU CỨU VỀ NGUYỄN ÁI QUỐC (HỒ CHÍ
MINH)
Trước tiên, Hồ Tuấn Hùng nêu lên những khó khăn khi nghiên cứu:
Người ta biết năm 1932, Nguyễn Ái Quốc chết, sau đó bặt tăm, không tìm ra mối
manh cho nên một số đã theo tin Cộng sản quốc tế và cộng sản Việt Nam loan
truyền Nguyễn Ái Quốc vẫn còn sống và đóng vai Hồ Chí Minh:
Những nhà văn (sử gia) viết tiểu sử nghiên cứu
về Hồ Chí Minh, tuy đối với những (sách vở)
ghi chép về cuộc đời của Nguyễn Ái
Quốc sau năm 1932 rất ư ngờ vực, thậm chí nảy sinh hoài nghi về thân
phận của
ông. Song dù có nghi ngờ đến đâu đi nữa (các sử gia này) vẫn không có
cách nào
tiến thêm bước nữa trong việc xác thực cái chết của Nguyễn Ái Quốc, địa
điểm
chôn cất, mà ngay cả bối cảnh thân phận của Hồ Tập Chương người tiếp tục
thay
thế Nguyễn Ái Quốc ra sao đều mù mịt không biết. Do đó những học giả
chuyên gia
nghiên cứu về Hồ Chí Minh cuối cùng chỉ đành chọn dùng những tư liệu của
chính
phủ Việt Nam như "Cuộc đời Hồ Chí Minh" (tựa tiếng Trung: HCM truyện,
HCM- a life) hay "Những tài liệu lịch sử liên quan đến Hồ Chí
Minh" ..v..v... để hợp lí hóa rằng Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc.
Bởi thế, càng truyền càng sai làm cho thân phận thực sự của Hồ Chí Minh
và câu
chuyện về cuộc đời của ông thật giả khó phân, để lại cho người đời quá
nhiều
điều bí ẩn và nghi hoặc.
V. NHỮNG CHỨNG CỚ BỊ CỘNG SẢN BÓP MÉO:
Hồ Tuấn Hùng đưa ra những chứng cớ sau:
Khi đã kiểm nghiệm sâu sát tận tường những ghi
chép về cuộc đời Hồ Chí Minh từ 1933 đến 1945 thì có không ít chứng cứ nghịch
lý với những sự thật đã xảy ra và (nhiều chứng cứ cho thấy) sự thật lịch sử về
Hồ Chí Minh đã bị cắt xén bóp méo. Ví dụ như là
(1) vào năm 1933, người từ Hạ Môn (Xiamen) đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa không hề phải là Nguyễn Ái Quốc mà là một người khác.
(2) Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh mỗi người có những chuyện tình và hôn nhân khác nhau.
(3) Tác phẩm Nhật ký trong tù không phải của Nguyễn Ái Quốc viết. ... tất cả đều rõ ràng dễ thấy, lại còn có nhiều Nguyễn Ái Quốc bị coi như là Hồ Chí Minh, sự thật được dẫn chứng không hề mâu thuẫn đủ để cho thấy Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Ái Quốc. Hai người vốn không là một.
Do đó chứng thực Nguyễn Ái Quốc đã thật sự chết vào năm 1932. Đã chết rồi mà sống lại là do có người cố ý âm mưu bày trò "mượn xác hoàn hồn", "chuyển hoa ghép cây" (lật lờ đánh lận con đen).(Chương 1)
(1) vào năm 1933, người từ Hạ Môn (Xiamen) đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa không hề phải là Nguyễn Ái Quốc mà là một người khác.
(2) Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh mỗi người có những chuyện tình và hôn nhân khác nhau.
(3) Tác phẩm Nhật ký trong tù không phải của Nguyễn Ái Quốc viết. ... tất cả đều rõ ràng dễ thấy, lại còn có nhiều Nguyễn Ái Quốc bị coi như là Hồ Chí Minh, sự thật được dẫn chứng không hề mâu thuẫn đủ để cho thấy Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Ái Quốc. Hai người vốn không là một.
Do đó chứng thực Nguyễn Ái Quốc đã thật sự chết vào năm 1932. Đã chết rồi mà sống lại là do có người cố ý âm mưu bày trò "mượn xác hoàn hồn", "chuyển hoa ghép cây" (lật lờ đánh lận con đen).(Chương 1)
VI. NGUYÊN DO CÁI CHẾT CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
TRONG NĂM 1932: HO LAO
Tác giả tin rằng Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh ho lao năm 1932,
vì lúc này các báo chí cộng sản đã loan tin và sinh viên cộng sản Việt
Nam tại Mạc Tư Khoa đã làm tang lễ Nguyễn Ái Quốc:
Nguyễn Ái Quốc có bệnh phổi lâu năm, vào tháng 6
năm 1931 bị cảnh sát HongKong bắt và chuyển đến bệnh viện của nhà tù để điều
trị. Đầu năm 1932 có tin đồn bị mất tích tung ra từ Hồng Kông, khoảng tháng 7
tháng 8 giới truyền thông báo chí đưa tin bị chết vì bệnh ho lao. Những tin này
rất phổ biến mà mọi người vào năm đó đều biết.
Báo chí thời bấy giờ của Hồng Kông, Anh Quốc,
Pháp và Nga Sô đều tung tin sau khi Nguyễn Ái Quốc từ Singapore trở lại Hồng
Kông không rõ nguyên nhân vì đâu mất tích rồi sau bệnh chết. Sinh viên Việt Nam
ở Đại học Đông Phương Mạc Tư Khoa (Moscow) còn đặc biệt làm lễ truy điệu và
tang lễ cho ông và đảng CS quốc tế phái cả người đến chia buồn.
Trong tài liệu hồ sơ của NAQ năm 1933 của Cảnh
sát an ninh Pháp cũng ghi rõ ràng NAQ bệnh chết đến nỗi 10 năm sau tình báo
viên của Pháp báo cáo với chính phủ thực dân rằng Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở
biên giới Trung-Việt. Chính phủ trả lời: "Vô lí, cái thằng điên đưa tin
bậy bạ, đầu thập niên 30 (1930) NAQ đã chết ở Hồng Kông rồi!"
Những tài liệu nguyên thuỷ về sự việc trên vẫn
còn rành rành trước mắt và đều được báo chí thời đó ghi chép, là tư liệu lịch
sử đầu tiên nắm giữ sự thật mà mọi người lúc ấy đều không nghi ngờ gì nữa.
Trong vòng mười năm đó (1932-1941) Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn mất tích, không có
một dấu vết gì trên "sân khấu lịch sử".
Trong mười năm đó tất cả ghi chép về bất kỳ hoạt
động nào của Nguyễn AQ đều là của một HCM tự xưng là Nguyễn ái Quốc. mà là
những tư liệu được quay lại bổ túc thêm sau này. ..
Y cứ hồi kí của đảng viên Việt Cộng Lí Đức Phương: "Năm
1925-1927 NAQ ở Quảng Châu 900 ngày lao lực hơn bình thường, làm việc cả ngày
lẫn đêm, đem chất lên ắt nhiều như núi, từ sáng 5 giờ làm đến 2 giờ
khuya.
Sức khoẻ không tốt, ho rất nhiều, có khi ho ra
cả máu." Năm 1930 từ tháng 7 đến tháng 9 NAQ gửi 6 lá thư cho Viễn Đông
Cục kể rõ việc mình bị hành bởi cơn bệnh lao phổi.
Ông đem bệnh tình diễn tả như sau: "Phổi
rất khó chịu, lại ho ra máu, thân thể rất là hư nhược mệt mỏi." Cuối tháng
11 năm 1931 NAQ viết thư gửi đồng chí Lâm Đức Thụ trong Liên minh thanh niên
cách mạng rằng: "Thân thể tôi sức khoẻ đã đến hồi đáng ngại, thường xuyên
ho ra máu. Cứ thế tiếp tục tôi e phải chết trong tù mất thôi." Năm 1932
tình báo của Anh Quốc Long Paul lúc dùng thủy phi cơ giúp đỡ NAQ trốn khỏi
HongKong thấy: " NAQ rất yếu, chẳng ngừng ho hen, chừng như không còn đủ
sức để nói chuyện."
Những gì ghi trên đây đều là kể trước lúc NAQ từ
Hongkong trốn đi Thượng Hải, với bệnh tình nghiêm trọng như thế kia khi phải
trải qua bao gian khổ lúc đi thuyền, lúc đi thuỷ phi cơ liệu có thể chịu đựng
được không?
Huống hồ gì sau khi lên bờ, đảng Quốc dân ở
Thượng Hải cùng với cảnh sát ở tô giới của Anh và Pháp như cọp chăm chăm canh
chừng tất cả hoạt động của đảng CS, NAQ cũng sẽ tự nhiên không dám lộ mặt đi
tìm nơi cứu chữa bệnh tình, chỉ có thể cố gắng chịu đựng đến Mạc Tư Khoa.
Chuyện bệnh chết ở Mạc Tư Khoa là khá có thể vậy.
Vì thế, báo chí của đảng CS các nước sau khi tờ
báo Chân Lí của Liên bang Sô Viết đưa tin trước tiên thì đến tờ NHân Đạo của
đảng CS Pháp, tờ Công nhân của đảng CS Anh thay phiên nhau liên tiếp trong
tháng 7 tháng 8 năm 1932 báo tin NAQ chết vì bệnh lao phổi và du học sinh Vn
tại Nga cử hành tang lễ cho NAQ.
Theo đây suy luận "NAQ bệnh chết trên đường
đến Mạc Tư Khoa và được mai táng ở Mạc Tư Khoa" thì có thể xác nhận là sự
thật, tuyệt chẳng phải là cái chết giả như HCM biện minh đó chỉ là cái cớ để dễ
bề đào vong thì có thể dễ dàng chôn vùi chân tướng của sự thật.
HCMinh sau hơn 10 năm (xuất hiện trở lại) phủ
nhận mình chết vì ho lao, biện minh rằng năm ấy vì phương tiện muốn đào vong
nên cố ý ngụy tạo tin đã bệnh chết. Những cấp cao của đảng CS quốc tế, Trung
Cộng và Việt Cộng một mặt toàn lực che đậy những hoạt động của HCM (Hồ Tập
Chương) từ năm 1929 đến 1933, một mặt không ngừng truyền tin giả rằng HCM tức
là Nguyến Ái Quốc để làm NAQ sống lại trên sân khấu lịch sử.
Ví dụ vào năm 1933 vì để tạo ấn tượng giả rằng
NAQ vẫn còn sống mà tung tin NAQ cùng với người bạn Pháp Paul Vaillant
Couturier gặp gỡ nhau tại Thượng Hải với ý đồ muốn người đời tin là NAQ vào năm
1933 vẫn hoạt động ở Thượng Hải diễn thành màn "chuyển hoa ghép cây".
Muời năm sau khi NAQ bệnh chết, ngày 6 tháng 6 năm 1941 Hồ Chí Minh lần đầu
tiên xuất hiện công khai với tên NAQ phát biểu thư hiệu triệu toàn quốc đồng
bào, kêu gọi nhân dân VN đứng lên cách mạng làm tròn nhiệm vụ xây dựng độc lập
cho đất nước.
Từ đó, NAQ vốn im lặng trong mười năm
trường, đã bị thế nhân quên rồi trong ý thức chợt hồi sinh và xuất hiện trở lại
trên sân khấu lịch sử. Và rồi HCM đem chuyện đời của mình những ngày tháng
"chuyển hoa ghép cây" sau khi NAQ đã chết ngụy biện rằng:
"Mùa xuân năm 1932 sau khi mất tích ở
HongKong, trốn đến Hạ Môn dưỡng bịnh nửa năm. Đầu năm 1933 từ Hạ Môn đến Thượng
Hải, cùng năm ấy mùa xuân từ Thượng Hải đến Mạc Tư Khoa." Từ ấy, ve sầu
thoát xác tạo nên một HCM - tức là nhân sinh mới của NAQ...(Chương I)
VII. NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ HỒ TẬP CHƯƠNG
Hồ Tập Chương sinh
năm 1901 (năm Minh Trị thứ 34 của Đài Loan) ngày 11 tháng 10 âm lịch. (trang 103)
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 (hai người cách nhau 11 tuổi).Phụ
thân Hồ Tập Chương là Hồ Dần Lượng, những năm đầu Quốc dân cũng từng mở trường
dạy học tại quê nhà.Vào đầu năm 1939, Hồ Tập Chương gặp người em ruột là Hồ Tập Dưỡng lần cuối cùng, sau đó thì không
nhận được tin tức gì của gia đình nữa.
Nhân vì nhiệm vụ công tác (của HTC) với NAQ rất
trùng nhau, lại đã từng tham gia trong việc trù bị thành lập đảng CSVN. Đảng CS
quốc tế mới yêu cầu HTC thay thế thân phận của NAQ, tiếp tục tham dự vận động
giải phóng của đảng CSVN. Hồ Tập Chương với bí danh P.C Lin từng thọ 5 năm giáo
dục cải tạo của đảng CS quốc tế, có bí danh Hồ Quang, mà Nguyễn Ái Quốc cũng có bí danh P.C.Lin và Hồ Quang.
Hồ sơ ghi chép về bệnh tình của NAQ và HCM
Hồ
sơ bệnh lý của hai người khác nhau. NAQ bị lao, còn HCM (Hồ Tâp Chương)
bênh tim. Bênh lao của NAQ đã trình bày ở trên. Đây nói về bệnh lý của
HCM.
Chủ tịch đoàn trung ương Việt Nam đặc biệt công bố: "Chủ tịch Hồ Chí Minh bệnh tim nghiêm trọng đã từ trần ngày 3 tháng 9 năm 1969 lúc 9 giờ 47 phút." Đây quả thật là một điều dối trá, tin Nguyễn Ái Quốc tháng 8 năm 1932 được truyền ra chết vì lao phổi nghiêm trọng, mà Hồ Chí Minh trong 37 năm sau không hề thấy có một ghi chép nào về sự điều trị bệnh tình ho lao rồi lại chết vì bệnh tim trầm trọng.
Chủ tịch đoàn trung ương Việt Nam đặc biệt công bố: "Chủ tịch Hồ Chí Minh bệnh tim nghiêm trọng đã từ trần ngày 3 tháng 9 năm 1969 lúc 9 giờ 47 phút." Đây quả thật là một điều dối trá, tin Nguyễn Ái Quốc tháng 8 năm 1932 được truyền ra chết vì lao phổi nghiêm trọng, mà Hồ Chí Minh trong 37 năm sau không hề thấy có một ghi chép nào về sự điều trị bệnh tình ho lao rồi lại chết vì bệnh tim trầm trọng.
Đây là một chuyện rất ư kỳ lạ! Để tìm giải thích
hợp lí hơn, mùa hạ năm 1932 NAQ xác định chết vì bệnh lao, HCM tháng 9 năm 1969
chết vì bệnh tim, (tác giả) lấy năm 1933 làm thời gian phân điểm, nhìn rõ lại
và so sánh hai thời gian trước và sau đã phát hiện ra quả nhiên tình trạng sức
khoẻ được ghi chép không đồng.(Thiên I, Ch.1)
Qua các tài liệu, ta thấy tin tức không thống nhất, lúc thì bảo là chết tại nhà tù
Hongkong năm 1932, lúc lại nói Nguyễn Ái Quốc chết tại Mạc Tư Khoa cuối năm
1932? Lúc thì bảo là cộng sản tung tin, lúc thì bảo là mật thám Anh và Pháp
tung tin? Mật vụ Anh thả Nguyễn Ái Quốc để làm gì? Tài liệu về bệnh lao thì quá
đủ nhưng có chữa lành không? Nhưng NAQ chết thì chôn tại đâu? Ai biết và có tài liệu nào ghi
chép, chúng ta hoàn toàn hụt hẫng.
Lỗi này do sử liệu, không do tác giả. Cả hai phía đều tung hỏa mù
cho nên vô cùng tối tăm, khiến chúng ta cũng bối rối.
Hồ Tuấn Hùng cho biết nhiều vấn đề:
+ Ho lao ra máu trong tình trạng thuốc men khoảng 1930 tại Nga là một xứ vô cùng lạnh lẽo, thì khó mà sống. Nhất là sau khi trốn thoát, phải ẩn náu, phải liên tiếp đi nhiều thì vô cùng bất lợi cho một kẻ bị bệnh lao, vốn cần an tĩnh, cần bác sĩ săn sóc và cần cóđầy đủ thuốc men.
+Theo Hồ Tuấn Hùng, có tin đồn rằng Luật sư Frank Loseby cố ý đưa tin NAQ chết là muốn tung hỏa mù để NAQ dễ dàng trốn thoát.. NAQ trốn thoát là do Cơ quan Mật vụ Anh tìm cách bí mật thả Nguyễn Ái Quốc có lẽ là vì NAQ đã hứa hen cộng tác với Cơ quan Mật vụ Anh như Hoàng Văn Chí viết. Đây là một kế thâm độc của Mật vụ các nước. Họ chiêu dụ người đối phương, họ thấy NAQ sắp chết nên thả ra để tìm đường dây cộng sản, họ mượn tay Nga thủ tiêu NAQ...Việc này đã xảy ra cho NAQ trước đây cũng như cho các điệp viên. Khi về Nga và bặt tăm gần 10 năm có lẽ NAQ bị Stalin nghi ngờ giam ở đâu đó.
Đây cũng là điều thông thường trong chế độ cộng sản, những điệp viên, những đảng viên bị bắt rồi được kẻ thù phóng thích thì được đảng ưu ái giữ lại thẩm tra tra thừa chết thiếu sống, có thể bị xử tử vì bị nghi là phản bội, là tiết lộ tin tức, là cộng tác với kẻ thù. ( Xem ĐOÀN DUY THÀNH * HỒI KÝ ) (2). Nếu NAQ bi Stalin nghi thì e khó sống sót trong bàn tay sắt của KGB vì chủ trương giết lầm hơn bỏ sót của cộng sản mà khởi đầu từ Nga.
V. HÌNH ẢNH NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ HỒ CHÍ MINH
Tiếp theo, tác giả trình bày một số hình ảnh của Hồ Tập Chương và
Nguyễn Ái Quốc. Nhìn qua các hình của Hồ Chí Minh ta thấy có nhiều điểm khác
nhau , khó tin là một người. Phải chăng đó là những người khác nhau hay một
người mà qua năm tháng đã có nhiều thay đổi. Việc này, người thường khó biết.
Phải là tay an ninh chuyên về nhân dạng, chữ ký, dấu tay và xét ADN thì mới
chính xác.
Hồ Tuấn Hùng đưa ra những hình ảnh sau:
Hồ Tuấn Hùng đưa ra những hình ảnh sau:
Ảnh hồ sơ của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương
và Hồ Tuấn Hùng có những nhận xét sau:
1. Tấm ảnh này từ sách của William J. Duiker, HCM chụp tại Mạc tư khoa năm 1934.
2. Ảnh Thân phụ của Hồ Tập Chương, Hồ Dần Lượng (do người nhà cung cấp)
3. Ảnh này do Andred Roth chụp tại Bắc Việt năm 1946, trong sách Tân Việt Nam.
4. Ảnh này chụp tại Bắc Việt năm 1954 trong sách "Vĩ nhân chính trị khai sáng thời đại - HCM, bản tiếng Trung.
Hai câu dưới đây là thông tin nhi trích thêm để mọi người biết xíu xiu về tuổi tác HTC với NAQ.
(Trang 100) - Hồ Tập Chương sinh năm 1901 (năm Minh Trị thứ 34 của Đài Loan) ngày 11 tháng 10 âm lịch. (Trang 103) Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 (hai người cách nhau 11 tuổi)( Thiên I, ch.1)
Không biết khoa thẩm mỹ trước đệ nhị thế chiến có sửa được tai, mũi, mắt, tạo vết thẹo không? Nếu khoảng 1930, Nga có được tài giải phẩu thẩm mỹ thì chúng ta lầm chết thôi! Xem ảnh Hồ Chí Minh khoảng 1945, ta thấy mặt mũi khác nhau. Ông Hồ khoảng 1945 có tai lép, mặt mũi như quỷ đói, lộ vẻ nham hiểm, còn ông Hồ sau này tai to, tai vễnh, mặt béo, tướng mạo hiền hậu. Phải chăng sau này ăn uống sung sướng mà thành ra khác trước hay đó là nhân dạng khác nhau của những người khác nhau đội lốt Hồ Chí Minh để đánh lừa quốc dân?
Tuy nhiên, với những hình ảnh của Hồ Tuấn Hùng và của lịch sử Việt Nam, ta có cảm giác có những ông Hồ khác nhau tại Việt Nam như nhiều người đã lên tiếng tố cáo những mặt Hồ Chí Minh giả mạo. Nhã Thanh Sử đã đưa ra những nhận định:
"Hồ Chí Minh" không phải là một người, mà tất cả là "5 người gồm 1 Thật và 4 Giả".
(HCM, XXI)
(hình 3,4,5 và 6 từ
trái dọc xuống và sang cột phải là hình 6 của HCM trước năm 1933, phần chú thích
ở dưới)(Trang 108)
[Theo tác giả]: Nếu từ diện mạo bên ngoài của
bức ảnh để phân biệt thân phận của một người thì theo nhận xét chủ quan của cá nhân
tôi, nhất là khi tấm ảnh cách nhau một hai thập kỷ, muốn phân biệt Nguyễn Ái Quốc
và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau thì có lẽ rất khó khăn, đặt biệt là khi người
phương tây nhìn người phương đông càng không dễ dàng gì (thấy sự khác biệt).
Khuôn mặt bề ngoài của một người dù theo thời gian có đổi thay nhiều đi chăng nữa nhưng hình dạng và đường cong của đôi tai tuyệt đối không dễ thay đổi. Riêng về các đường cong và phần trái tai của Nguyễn Ái Quôc và Hồ Chí Minh thổ lộ nhiều điểm khác nhau rất rõ ràng, và có thể dùng đó làm bằng chứng rằng hai người thân phận khác nhau. Mời độc giả xem kỷ và nhận dạng.
Khuôn mặt bề ngoài của một người dù theo thời gian có đổi thay nhiều đi chăng nữa nhưng hình dạng và đường cong của đôi tai tuyệt đối không dễ thay đổi. Riêng về các đường cong và phần trái tai của Nguyễn Ái Quôc và Hồ Chí Minh thổ lộ nhiều điểm khác nhau rất rõ ràng, và có thể dùng đó làm bằng chứng rằng hai người thân phận khác nhau. Mời độc giả xem kỷ và nhận dạng.
Tấm ảnh trong hồ sơ của Nguyễn Ái
Quốc phía bên phải (William Duiker, Hồ Chí Minh truyện) chưa ghi rõ thời gian xuất
xứ. Còn trong cuốn "Các nguyên thủ quốc gia nước ngoài tại Trung Quốc trong cuộc
chiến chống Nhật" của sử gia Trung Quốc Tào Tấn Kiệt có ghi chú là ảnh chụp tại
Quảng Châu vào mùa xuân năm 1925. Tấm ảnh này cùng với tấm ảnh của Hồ Tập Chương
phía bên trái thường xuyên xuất hiện bên nhau để hỗ trợ cho sự liên kết diện mạo
bên ngoài của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương).
Như hình trên: bên trái là Nguyễn Ái Quốc, bên phải là Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) [hình trang 109 đầu tiên trong entry này]. Người viết cho rằng tấm ảnh này của Nguyễn Ái Quốc thật ra là tấm ảnh giả, đặc biệt là tai bên trái sự sai lệch rất rõ ràng. Vì ý đồ muốn tạo sự liên kết giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (để cho thấy hai người) là một nên mượn dùng tấm ảnh của Hồ Tập Chương chụp tại Mạc Tư Khoa năm 1934. Song qua sự đối chiếu so sánh từ nhiều tấm ảnh của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) thấy được hai người diện mạo bên ngoài có nhiều khác biệt. (coi hình 1 và 2 + chú thích)
Như hình trên: bên trái là Nguyễn Ái Quốc, bên phải là Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) [hình trang 109 đầu tiên trong entry này]. Người viết cho rằng tấm ảnh này của Nguyễn Ái Quốc thật ra là tấm ảnh giả, đặc biệt là tai bên trái sự sai lệch rất rõ ràng. Vì ý đồ muốn tạo sự liên kết giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (để cho thấy hai người) là một nên mượn dùng tấm ảnh của Hồ Tập Chương chụp tại Mạc Tư Khoa năm 1934. Song qua sự đối chiếu so sánh từ nhiều tấm ảnh của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) thấy được hai người diện mạo bên ngoài có nhiều khác biệt. (coi hình 1 và 2 + chú thích)
Chú thích hình ảnh trang 109,
110
1. Bức ảnh này được
chụp ở Pháp, 1923, sách về HCM của William J. Duiker
2. Như trên tại Liên
bang Nga Sô
3. Tấm này có nghi vấn,
không ghi chú thời gian xuất xứ. do William chụp
4. Tấm ảnh này của NAQ
chụp lại từ Viện triển lãm HCM tại VN
5. Tranh vẽ của thân
phụ của NAQ - Nguyễn Sinh Huy - từ cuốn Cuộc đời HCM của William J. Duiker.
6. Tấm ảnh này chụp
tại Liên bang Nga Sô năm 1924 từ sách HCM những năm tháng mất tích 1919-1941 (HCM
the missing year 1919-1941) của thẩm phán Sophie Quinn.
(hình HCM sau năm 1933, hình
1,2,3 và 4 từ cột trái dọc xuống rồi sang phải)
Trang 1111. Tấm ảnh này từ sách của William J. Duiker, HCM chụp tại Mạc tư khoa năm 1934.
2. Ảnh Thân phụ của Hồ Tập Chương, Hồ Dần Lượng (do người nhà cung cấp)
3. Ảnh này do Andred Roth chụp tại Bắc Việt năm 1946, trong sách Tân Việt Nam.
4. Ảnh này chụp tại Bắc Việt năm 1954 trong sách "Vĩ nhân chính trị khai sáng thời đại - HCM, bản tiếng Trung.
Hai câu dưới đây là thông tin nhi trích thêm để mọi người biết xíu xiu về tuổi tác HTC với NAQ.
(Trang 100) - Hồ Tập Chương sinh năm 1901 (năm Minh Trị thứ 34 của Đài Loan) ngày 11 tháng 10 âm lịch. (Trang 103) Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 (hai người cách nhau 11 tuổi)( Thiên I, ch.1)
Không biết khoa thẩm mỹ trước đệ nhị thế chiến có sửa được tai, mũi, mắt, tạo vết thẹo không? Nếu khoảng 1930, Nga có được tài giải phẩu thẩm mỹ thì chúng ta lầm chết thôi! Xem ảnh Hồ Chí Minh khoảng 1945, ta thấy mặt mũi khác nhau. Ông Hồ khoảng 1945 có tai lép, mặt mũi như quỷ đói, lộ vẻ nham hiểm, còn ông Hồ sau này tai to, tai vễnh, mặt béo, tướng mạo hiền hậu. Phải chăng sau này ăn uống sung sướng mà thành ra khác trước hay đó là nhân dạng khác nhau của những người khác nhau đội lốt Hồ Chí Minh để đánh lừa quốc dân?
Tuy nhiên, với những hình ảnh của Hồ Tuấn Hùng và của lịch sử Việt Nam, ta có cảm giác có những ông Hồ khác nhau tại Việt Nam như nhiều người đã lên tiếng tố cáo những mặt Hồ Chí Minh giả mạo. Nhã Thanh Sử đã đưa ra những nhận định:
"Hồ Chí Minh" không phải là một người, mà tất cả là "5 người gồm 1 Thật và 4 Giả".
1945-1946
|
1946-1953 |
1953-1965
|
1965-1969
|
1969
|
Đây là lời bình luận và hình của Chân Mây:
Sự thật thì có rất nhiều ông HCM, ông Hồ vào năm 1911 đi theo Tàu Pháp kiếm việc đã mất từ năm 1953 , sau đó Trung Quốc ngụy tạo một nhân vật đưa vào VN lãnh đạo, nhân vật nầy tương đối giống ông Hồ nhưng tướng tá mập hơn . Ông Hồ thứ hai đã ra lệnh chôn sống, ném đá chết hằng chục nghìn người lúc bấy giờ . Nhiều gia đình có công với cách mạng trong thời kỳ Điện Biên cũng bị giết không tha . Sau đó thì ông Hồ nầy có lên Đài xin lổi, khóc lóc cho là phong trào Cải Cách Ruộng Đất đi sai đường lối .
Vào năm 1965 ông Hồ thứ hai cũng già nua và chết, lần nữa Trung Quốc lại cho phẩu thuật một người VN tương đối giống ông Hồ để lên ngồi chức chủ tịch . CS lúc bấy giờ đang dấy động phong trào chống Mỹ nên họ không thể đưa tin ông Hồ bị chết được . Ông Hồ thứ 3 không giống lắm, vì khó tìm được một người khác với số tuổi lớn mà giống nhưng ông Hồ nên đảng CS cho thủ tiêu ông Hồ giả thứ 3 vào năm 1969, sau đó họ cho làm tang lễ toàn quốc để che đậy sự việc nầy .
(HCM, XXXV).
Những ý kiến trên khác nhau, nhưng dẫu sao cũng đưa đến một ý kiến thống nhất là có Hồ Chí Minh giả mạo.
VI.HỒ CHÍ MINH ÁI TÌNH LỊCH SỬ
Xem tình sử Hồ Chí Minh, có lẽ nhiều người phải mờ mắt, ù tai vì "bác" có nhiều đàn bà quá. Nhưng Hồ Tuấn Hùng thì khác. Ông bình tĩnh nghiên cứu rồi xếp đặt các hình ảnh trong bộ sưu tập đời "bác", rồi trình bày theo lối biên niên sử :
1 – Năm 1921, NAQ ở trọ tại biệt thự Qua Bách Lâm thủ đô Paris nước Pháp, (Gobelins (avenue des), một đại lộ thuộc Quận XIII, Paris, nơi có nhà riêng của luật sư Phan Văn Trường, cho ông Phan Chu Trinh tá túc, rồi thêm Nguyễn Tất Thành) làm quen với một thiếu nữ người Pháp là cô Briere. Cảnh sát xác nhận cô này là tình nhân của NAQ.
2 – Năm 1925, tại Quảng Châu, NAQ quen biết một thiếu nữ Trung Quốc là Tăng Tuyết Minh, năm 1926 hai người kết hôn. Sau khi kết hôn hai người ở trong biệt thự của Mikhail Borodin. . Từ tháng 4 năm 1927, tuy NAQ đã rời TQ, vẫn còn chưa mất hết dấu tích, chứng cứ là, vào năm 1930, TTM ngẫu nhiên gặp lại chồng ở Hương Cảng nhưng cuối cùng quan hệ giưa hai người vẫn không nối lại.
3 – Năm 1930, tại Hương Cảng, NAQ mang theo từ Việt Nam một người đồng hương đồng thời là người yêu của ông ta tên Nguyễn Thị Minh Khai. Mùa xuân năm 1931, NAQ và NTMK cử hành hôn lễ đơn giản tại nhà khách qua sự chứng kiến của các đồng chí đến từ Tây Cống (Saigon, theo âm Quảng Đông) và Đông Kinh.
4 – Năm 1935, Mạc Tư Khoa triệu tập Hội nghị lần thứ 7- QTCS. Thời gian này NAQ bị bệnh đã qua đời, NTMK với tư cách là vợ của NAQ, khi đến Mạc Tư Khoa, ghi trong tờ khai là đã kết hôn với một người đồng chí có tên PC. Lin. Hội nghị kết thúc, NTMK ở lại Liên Xô, đến phòng đăng ký giá thú làm thủ tục kết hôn với Lê Hồng Phong, là người lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD).
5 – Cuối năm 1944, HCM trở lại căn cứ địa cách mạng Bắc Kỳ. Trong số 18 cán bộ nòng cốt theo HCM về VN có một phụ nữ là Đỗ Thị Lạc . Tại Cao Bằng, HCM và ĐTL sống chung với nhau một thời gian.
6 – Năm 1955, một thiếu nữ xinh đẹp người Nùng, quê Hòa An, Cao Bằng là Nông Thị Xuân (NTX) được cử làm y tá bên cạnh HCM. Hai người sống chung với nhau gần một năm thì cô Xuân sinh hạ một bé trai, lúc đầu gửi Hội Phụ nữ rồi Chu Văn Tấn chăm sóc, sau này thư ký riêng của ông Hồ là Vũ Kỳ bí mật nhận làm con, nuôi dưỡng tại nhà mình.
7 – Năm 1965, nhân việc Đào Chú, một yếu nhân của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đồng thời là bạn thân của HCM viếng thăm Hà Nội, ông Hồ có nhờ Đào Chú tìm giúp một phụ nữ từng quen biết thời trẻ ở Quảng Đông là Lâm Y Lan để nối lại tình xưa nghĩa cũ. Họ Đào trở về TQ báo cáo việc này với Tổng lý Chu Ân Lai, tuy nhiên quan hệ ngoại giao hai nước lúc ấy không còn mặn mà như trước vì cuộc “Đại Cách Mạng văn hóa” nên đề nghị của ông Hồ tạm thời bị xếp lại.(Thiên I, ch.1)
Sau 1950, Tăng Tuyết Minh đọc báo, thấy tiểu sử của Hồ Chí Minh, tưởng là người cũ, bèn tìm cách nối lại, nhưng đảng Cộng sản Trung Quốc không cho TTM gặp HCM vì e đổ bể việc gian trá của họ. Hồ Tuấn Hùng viết:
Trong “Thê thiếp, nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” viết: “Tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc “Nhân Dân Nhật Báo” mới biết người chồng xa cách hơn hai mươi năm là Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước VNDCCH. Bà đã mấy lần gửi thư đến Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh cho Hoàng Văn Hoan nhưng không bao giờ nhận được hồi âm. Sau năm 1954, TTM lại đề nghị với nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa sang Hà Nội gặp HCM nhưng cuối cũng vẫn bị lãnh đạo Trung Cộng cự tuyệt.
Theo tinh thần của bài viết, rõ ràng cho thấy, NAQ của năm 1926 và HCM của năm 1950 là không cùng một người. Trung Cộng và Việt Cộng vì muốn che dấu thân phận thật của HCM nên không dám dể TTM gặp mặt ông ta. Người chủ trì hôn lễ lúc ấy là Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu biết rõ HCM năm 1950 không phải là NAQ (Lý Thụy) năm 1926, chỉ biết giả câm giả điếc, biết rõ TTM đau khổ mà không làm gì được.(Thiên I, ch.1)
VII. KHẢ NĂNG VIẾT VÀ NÓI HOA NGỮ
Xem tình sử Hồ Chí Minh, có lẽ nhiều người phải mờ mắt, ù tai vì "bác" có nhiều đàn bà quá. Nhưng Hồ Tuấn Hùng thì khác. Ông bình tĩnh nghiên cứu rồi xếp đặt các hình ảnh trong bộ sưu tập đời "bác", rồi trình bày theo lối biên niên sử :
1 – Năm 1921, NAQ ở trọ tại biệt thự Qua Bách Lâm thủ đô Paris nước Pháp, (Gobelins (avenue des), một đại lộ thuộc Quận XIII, Paris, nơi có nhà riêng của luật sư Phan Văn Trường, cho ông Phan Chu Trinh tá túc, rồi thêm Nguyễn Tất Thành) làm quen với một thiếu nữ người Pháp là cô Briere. Cảnh sát xác nhận cô này là tình nhân của NAQ.
2 – Năm 1925, tại Quảng Châu, NAQ quen biết một thiếu nữ Trung Quốc là Tăng Tuyết Minh, năm 1926 hai người kết hôn. Sau khi kết hôn hai người ở trong biệt thự của Mikhail Borodin. . Từ tháng 4 năm 1927, tuy NAQ đã rời TQ, vẫn còn chưa mất hết dấu tích, chứng cứ là, vào năm 1930, TTM ngẫu nhiên gặp lại chồng ở Hương Cảng nhưng cuối cùng quan hệ giưa hai người vẫn không nối lại.
3 – Năm 1930, tại Hương Cảng, NAQ mang theo từ Việt Nam một người đồng hương đồng thời là người yêu của ông ta tên Nguyễn Thị Minh Khai. Mùa xuân năm 1931, NAQ và NTMK cử hành hôn lễ đơn giản tại nhà khách qua sự chứng kiến của các đồng chí đến từ Tây Cống (Saigon, theo âm Quảng Đông) và Đông Kinh.
4 – Năm 1935, Mạc Tư Khoa triệu tập Hội nghị lần thứ 7- QTCS. Thời gian này NAQ bị bệnh đã qua đời, NTMK với tư cách là vợ của NAQ, khi đến Mạc Tư Khoa, ghi trong tờ khai là đã kết hôn với một người đồng chí có tên PC. Lin. Hội nghị kết thúc, NTMK ở lại Liên Xô, đến phòng đăng ký giá thú làm thủ tục kết hôn với Lê Hồng Phong, là người lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD).
5 – Cuối năm 1944, HCM trở lại căn cứ địa cách mạng Bắc Kỳ. Trong số 18 cán bộ nòng cốt theo HCM về VN có một phụ nữ là Đỗ Thị Lạc . Tại Cao Bằng, HCM và ĐTL sống chung với nhau một thời gian.
6 – Năm 1955, một thiếu nữ xinh đẹp người Nùng, quê Hòa An, Cao Bằng là Nông Thị Xuân (NTX) được cử làm y tá bên cạnh HCM. Hai người sống chung với nhau gần một năm thì cô Xuân sinh hạ một bé trai, lúc đầu gửi Hội Phụ nữ rồi Chu Văn Tấn chăm sóc, sau này thư ký riêng của ông Hồ là Vũ Kỳ bí mật nhận làm con, nuôi dưỡng tại nhà mình.
7 – Năm 1965, nhân việc Đào Chú, một yếu nhân của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đồng thời là bạn thân của HCM viếng thăm Hà Nội, ông Hồ có nhờ Đào Chú tìm giúp một phụ nữ từng quen biết thời trẻ ở Quảng Đông là Lâm Y Lan để nối lại tình xưa nghĩa cũ. Họ Đào trở về TQ báo cáo việc này với Tổng lý Chu Ân Lai, tuy nhiên quan hệ ngoại giao hai nước lúc ấy không còn mặn mà như trước vì cuộc “Đại Cách Mạng văn hóa” nên đề nghị của ông Hồ tạm thời bị xếp lại.(Thiên I, ch.1)
Sau 1950, Tăng Tuyết Minh đọc báo, thấy tiểu sử của Hồ Chí Minh, tưởng là người cũ, bèn tìm cách nối lại, nhưng đảng Cộng sản Trung Quốc không cho TTM gặp HCM vì e đổ bể việc gian trá của họ. Hồ Tuấn Hùng viết:
Trong “Thê thiếp, nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” viết: “Tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc “Nhân Dân Nhật Báo” mới biết người chồng xa cách hơn hai mươi năm là Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước VNDCCH. Bà đã mấy lần gửi thư đến Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh cho Hoàng Văn Hoan nhưng không bao giờ nhận được hồi âm. Sau năm 1954, TTM lại đề nghị với nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa sang Hà Nội gặp HCM nhưng cuối cũng vẫn bị lãnh đạo Trung Cộng cự tuyệt.
Theo tinh thần của bài viết, rõ ràng cho thấy, NAQ của năm 1926 và HCM của năm 1950 là không cùng một người. Trung Cộng và Việt Cộng vì muốn che dấu thân phận thật của HCM nên không dám dể TTM gặp mặt ông ta. Người chủ trì hôn lễ lúc ấy là Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu biết rõ HCM năm 1950 không phải là NAQ (Lý Thụy) năm 1926, chỉ biết giả câm giả điếc, biết rõ TTM đau khổ mà không làm gì được.(Thiên I, ch.1)
Hồ Chí Minh không nhắc gì đến Tăng Tuyết Minh vì Tăng Tuyết Minh là vợ của Nguyễn Ái Quốc.
Còn chuyện tình Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan là chuyện tình xảy ra cho Hồ Chí Minh trong khoảng 1938.
Hồ Tuấn Hùng thuật lại như sau:
Trong “Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” có đoạn
viết: “Năm 1958, bên bờ sông, tại Hà Nội, hai ông già thong thả buông
cần câu cá, đó chính là Hồ Chí Minh và Đào Chú. Hồ Chí Minh thần sắc
khác thường trịnh trọng nói với Đào Chú: “Trung Quốc có câu ‘Lúc trẻ là
vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và Lâm Y Lan quen biết nhau đã hơn 20 năm,
vì sự nghiệp cách mạng đành gác lại tuổi thanh xuân, giờ muốn đón Y Lan
sang Hà Nội, bí mật cử hành hôn lễ để thỏa nguyện mong ước bấy lâu”.(Thiên I, ch.1)
Nhưng
lúc này, phe Lê Duẩn, Lê Đức Thọ đang khống chế ông Hồ , họ tính đưa
Nguyễn Chí Thanh lên làm chủ tịch, và cho ông già vào ban "nghiên cứu
lịch sử đảng". Bất ngờ, Nguyễn Chí Thanh chết (1967), không biết có phải
do đàn em ông Hồ hạ thủ hay không? Sự xung đột phe phái này phải chăng
Lê Duẩn đã biết rõ âm mưu của Mao muốn khống chế Việt Nam nên đã không
chế ông Hồ rồi hạ màn Hồ Chí Minh vào năm 1969? Họ biết họ đã chịu đựng
một ông Tàu sang Việt Nam làm vua nay lại thêm một hoàng hậu Trung Quốc
nữa thì quá lắm cho nên họ từ chối Lâm Y Lan là phải!
VII. KHẢ NĂNG VIẾT VÀ NÓI HOA NGỮ
Hồ Tuấn Hùng nêu lên nhiều tài liệu cho biết Nguyễn Ái Quốc
và Hồ Chí Minh có trình độ Trung văn khác nhau. Tài liệu ông nêu lên là nhận
xét của những người khác, sau đó ông mới đưa ý kiến riêng mà bình luận.
Trước tiên, Hồ Tuấn Hùng nêu lên một Hồ Chí Minh biểu diễn tài
viết chữ Hán bằng tay chứ không bằng bút lông hay bút sắt. Đó là trường hợp năm
1959 (HCM, CXL), Hồ Chí Minh bí mật thăm Lư Sơn:
Trong Hồ sơ Lư Sơn - Hồ Chí Minh bí mật đến Lư Sơn có ghi chép HCM
dùng ngón tay viết thư pháp: “Bí thư Đảng uỷ Cục quản lý Lư Sơn Lâu Thiệu Minh,
Phó Bí thư Thái Thiệu Ngọc, Giang Vĩnh Đức nghe tin HCM sắp rời Lư Sơn, vội vã
kéo nhau đến biệt thự 394, một là để nghe ý kiến HCM về thái độ tiếp đãi khách,
hai là đề nghị ghi lưu niệm. Nhận xét về cái gì đây? HCM đề nghị mang nghiên
bút để trên bàn. Ông thử bút, cảm thấy ngọn bút hơi nhỏ liền khẽ hỏi:
- Tôi dùng ngón tay viết được không?
- Tôi dùng ngón tay viết được không?
Lâu Thiệu Minh gật đầu lia lịa. HCM thong thả nhúng ngón tay vào nghiên mực,
viết ba chữ lớn: “Lư Sơn hảo” (Lư Sơn tốt) rồi lùi về phía sau hai bước ngắm
nghía. Lâu Thiệu Minh liếc qua, rất khâm phục:
- Thưa Hồ Chủ tịch! Người viết chữ Hán thật tuyệt.
Sau khi viết “Lư Sơn hảo” bằng ngón tay, HCM lại dùng bút tiểu khải viết 10 chữ nhỏ: “Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 1959” vào dòng lạc khoản để kỷ niệm chuyến thăm Lư Sơn.
Căn cứ vào đoạn văn trên thì trình độ thư pháp của HCM thuộc vào loại khá ( Thiên IV, Chương 1,)
- Thưa Hồ Chủ tịch! Người viết chữ Hán thật tuyệt.
Sau khi viết “Lư Sơn hảo” bằng ngón tay, HCM lại dùng bút tiểu khải viết 10 chữ nhỏ: “Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 1959” vào dòng lạc khoản để kỷ niệm chuyến thăm Lư Sơn.
Căn cứ vào đoạn văn trên thì trình độ thư pháp của HCM thuộc vào loại khá ( Thiên IV, Chương 1,)
Cũng đoạn trên, Hồ Tuấn
Hùng đưa ra những nhận xét của những tác giả khác về Trung văn, Hoa ngữ của Hồ
Chí Minh như sau:
William J. Duiker trong Truyện Hồ Chí Minh, trang 143, lại viết:
“Mùa xuân năm 1927, NAQ ở lại Quảng Châu hơn nửa năm, việc trước mắt là ổn định
sinh hoạt, sau đó tìm một người vợ địa phương để học tiếng Trung Quốc”.
Trong cuốn Chu Ân Lai và Trung Quốc hiện đại do Han Suyin (Hàn Tú Anh) viết, Trương Liên Khang dịch, trang 84, 85 có đoạn: “Mùa thu năm 1925, có một thanh niên Việt Nam gầy yếu, tự xưng là Nguyễn Ái Quốc, sau này là Hồ Chí Minh... Lúc ấy Thái Sướng và chồng là Lý Phú Xuân đang ở Quảng Châu, do đó hai người đều quan tâm đến HCM. Lý Phú Xuân và Đặng Dĩnh Siêu sắp xếp chỗ ăn ở cho HCM rất chu đáo, đồng thời còn dạy Hồ tiếng Trung Quốc. Không lâu sau, HCM có thể giao thoại được những câu đơn giản”.
Trong cuốn Chu Ân Lai và Trung Quốc hiện đại do Han Suyin (Hàn Tú Anh) viết, Trương Liên Khang dịch, trang 84, 85 có đoạn: “Mùa thu năm 1925, có một thanh niên Việt Nam gầy yếu, tự xưng là Nguyễn Ái Quốc, sau này là Hồ Chí Minh... Lúc ấy Thái Sướng và chồng là Lý Phú Xuân đang ở Quảng Châu, do đó hai người đều quan tâm đến HCM. Lý Phú Xuân và Đặng Dĩnh Siêu sắp xếp chỗ ăn ở cho HCM rất chu đáo, đồng thời còn dạy Hồ tiếng Trung Quốc. Không lâu sau, HCM có thể giao thoại được những câu đơn giản”.
Từ các tài liệu trên, Hồ Tuấn Hùng đưa đến nhận định:
William J. Duiker cũng như Han Suyin đều viết về HCM, nếu
đem so sánh với việc HCM viết thư pháp bằng ngón tay ở Lư Sơn sau này, thì ta
sẽ thấy trình độ nghe, nói, đọc, viết của ông ta trước đây khác nhau một trời
một vực.
Khảo cứu quá trình học
tập của NAQ, tác giả nhận thấy, cho đến năm 1932, hầu như không thấy ông sử dụng
Hán văn trong các bài viết, chưa nói đến trình độ viết thư pháp chữ Hán. Vì sao
đến năm 1938, sau khi rời Mạc Tư Khoa về vùng biên giới Việt Trung hoạt động,
HCM lại đột nhiên sử dụng Hán văn, viết báo, làm thơ và viết thư pháp một cách
thành thạo? Chúng tôi vô cùng nghi ngờ. Có thật NAQ dùng ngón tay viết thư
pháp? Có thật ông dùng Hán văn viết Nhật ký trong tù? Phải chăng đây là chứng
cứ không thể bác bỏ của thủ thuật “Mượn xác hoàn hồn” (Tá thi hoàn hồn), “Rời
hoa tiếp cây” (Di hoa tiếp mộc)?
Suy nghĩ về việc học của Nguyễn Tất Thành, Hồ Tuấn Hùng
viết:
Về
mặt chính thống, ta thường thấy các nhà viết truyện ký về HCM viết tiểu sử sơ
khởi của ông như sau: “Nguyễn Ái Quốc sinh trưởng trong một gia đình có truyền
thống nho học. Từ nhỏ ông đã được tiếp xúc với nền giáo dục Hán học nên trình
độ ngữ văn Trung Quốc rất cao, làm thơ giỏi, viết thư pháp đẹp”. Mới nghe xem
ra có lý, tuy nhiên, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nước Pháp thực dân đã bắt
đầu khai thác thuộc địa tại Việt Nam, phần lớn các gia đình quan lại hoặc nhà
giàu đều cho con cái sang Pháp du học, đặc biệt là sau khi nhà Nguyễn phế bỏ hệ
thống khoa cử lỗi thời để tuyển chọn nhân tài, thì số người còn lưu luyến với
nền Hán học không đáng là bao. Cách làm của người cha NAQ là một ví dụ điển
hình. Tuy đã từng đỗ đại khoa với học vị Phó Bảng, nhưng ông Nguyễn Sinh Sắc
dường như cũng không muốn NAQ theo đòi nghiệp bút nghiên mà lại tích cực ủng hộ
con trai học tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ.
Dựa trên những ghi chép của William J. Duiker và Sophie Quinn-Judge, NAQ từ năm 21 tuổi trở về trước là thời kỳ lưu lạc, cuộc sống cùng khốn, rất khó có điều kiện ổn định học tập. Chúng tôi dùng phương pháp so sánh quy nạp, thống kê quá trình học tập của NAQ tại Việt Nam như sau:
Việc tiếp thụ giáo dục Hán văn tại các trường tư thục không quá 3 năm và Pháp văn không quá 4 năm. Từ năm 1911 đến năm 1923, NAQ bôn ba hải ngoại từ châu Âu, Bắc Mỹ đến Bắc Phi, trước sau có khoảng 4 năm học Anh ngữ trong các môi trường làm việc vất vả, hoàn toàn không có điều kiện tiếp tục học Hán văn hoặc tiếp xúc với văn hóa Hán. Theo Đặng Dĩnh Siêu, vào thời điểm năm 1925, bà có dạy NAQ học tiếng Trung, đến năm 1926 thì ông ta kết hôn với Tăng Tuyết Minh. Sự việc này đúng là có thực. Nói cách khác, đến năm 1927, trình độ nghe, nói, đọc và viết chữ Hán của NAQ rất hạn chế. Từ năm 1928 đến năm 1932, NAQ bôn tẩu khắp nơi, qua Xiêm La (Thailand), Tân Gia Ba (Singapore), sang châu Âu, rồi lại về Hương Cảng, Thượng Hải, thêm chứng bệnh lao phổi kéo dài, lại bị giam trong ngục, tình trạng sức khỏe hết sức kém, rất khó có đủ điều kiện tiếp tục học chữ Hán.
Từ đó có thể kết luận, trình độ Hán văn của NAQ chỉ dừng lại ở mức độ 3 đến 4 năm cấp tiểu học, tuyệt đối không có khả năng viết báo, tạp chí và những bài nghị luận trường thiên lời văn khúc chiết, đanh thép, không thể là tác giả của Nhật ký trong tù, càng không có khả năng viết thư pháp bút lông hoặc “thư pháp ngón tay” chữ Hán.
Dựa trên những ghi chép của William J. Duiker và Sophie Quinn-Judge, NAQ từ năm 21 tuổi trở về trước là thời kỳ lưu lạc, cuộc sống cùng khốn, rất khó có điều kiện ổn định học tập. Chúng tôi dùng phương pháp so sánh quy nạp, thống kê quá trình học tập của NAQ tại Việt Nam như sau:
Việc tiếp thụ giáo dục Hán văn tại các trường tư thục không quá 3 năm và Pháp văn không quá 4 năm. Từ năm 1911 đến năm 1923, NAQ bôn ba hải ngoại từ châu Âu, Bắc Mỹ đến Bắc Phi, trước sau có khoảng 4 năm học Anh ngữ trong các môi trường làm việc vất vả, hoàn toàn không có điều kiện tiếp tục học Hán văn hoặc tiếp xúc với văn hóa Hán. Theo Đặng Dĩnh Siêu, vào thời điểm năm 1925, bà có dạy NAQ học tiếng Trung, đến năm 1926 thì ông ta kết hôn với Tăng Tuyết Minh. Sự việc này đúng là có thực. Nói cách khác, đến năm 1927, trình độ nghe, nói, đọc và viết chữ Hán của NAQ rất hạn chế. Từ năm 1928 đến năm 1932, NAQ bôn tẩu khắp nơi, qua Xiêm La (Thailand), Tân Gia Ba (Singapore), sang châu Âu, rồi lại về Hương Cảng, Thượng Hải, thêm chứng bệnh lao phổi kéo dài, lại bị giam trong ngục, tình trạng sức khỏe hết sức kém, rất khó có đủ điều kiện tiếp tục học chữ Hán.
Từ đó có thể kết luận, trình độ Hán văn của NAQ chỉ dừng lại ở mức độ 3 đến 4 năm cấp tiểu học, tuyệt đối không có khả năng viết báo, tạp chí và những bài nghị luận trường thiên lời văn khúc chiết, đanh thép, không thể là tác giả của Nhật ký trong tù, càng không có khả năng viết thư pháp bút lông hoặc “thư pháp ngón tay” chữ Hán.
Thấy
Hồ Tuấn Hùng chê NAQ kém Trung văn, nhiều người bực tức, họ cho đó đó
là sự mạ lỵ lãnh tụ "anh minh" của họ, vì đảng đã nói thì ắt trúng:Nguyễn Ái Quốc sinh trưởng trong một gia đình có truyền
thống nho học. Từ nhỏ ông đã được tiếp xúc với nền giáo dục Hán học nên trình
độ ngữ văn Trung Quốc rất cao, làm thơ giỏi, viết thư pháp đẹp"
Đảng nói vậy mà thực tế không phải vậy. Việc học sinh ngữ là một việc rất khó cho những người ngoại quốc, nhất là Trung văn, Hoa ngữ.
Đảng nói vậy mà thực tế không phải vậy. Việc học sinh ngữ là một việc rất khó cho những người ngoại quốc, nhất là Trung văn, Hoa ngữ.
Nhận xét của Hồ Tuấn Hùng rất đúng về sự suy đồi của nền Hán học
tại Việt Nam . Riêng về Nguyễn Tất Thành lại càng đúng. Nhà nghèo, hằng ngày
hai anh em phải lo sinh kế chứ không được học từ lên lên ba, lên bốn như con
cái các nho gia khác như Tản Đà. Hơn nữa, vì sinh kế, Nguyễn Sinh Sắc cũng lang bạt, nào
phải được êm ả ở nhà dạy bảo con cái!
Lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam cho biết khoảng 1901, Nguyễn Tất Thành mới theo cha đi các nơi và được cha dạy Hán tự. Lúc này, Nguyễn Tất Thành ở vào lứa tuổi 11, việc học như thế là quá muộn. Học Hán văn trong ba, bốn năm, học tiếng Pháp và Quốc ngữ cũng ba bốn năm, chưa xong chương trình tiểu học. Học Hán văn như thế thì có là bao. Tản Đà sinh năm 1889, hơn Tất Thành một tuổi, năm 1909 đã đi thi Hương, như vậy về công sức Hán tự, quốc ngữ và chữ Pháp ,Tất Thành thua Tản Đà.
Nhất là tại nước ta, học Hán Việt, chỉ biết chữ như một tử ngữ chứ không thông thạo ngôn ngữ Trung Hoa. Cho nên sang Trung Quốc phải học tiếng Hoa là chuyện đương nhiên. Lẽ tất nhiên, tại nước ta có nhiều người tự học, hay học ít mà gỉỏi Hán văn, nhưng "không thầy đố mầy làm nên", không đến trường, không rèn luyện lâu dài thì không khá lắm đâu.
Quỳnh, Vĩnh, Tố, Tốn xuất thân từ trường Thông ngôn chứ không phải tự học như vài người nhận lầm. Tự học, hoặc học ít mà giỏi thì cũng chỉ đọc hiểu, hoặc viết không sai chính tả, không lâm vào cảnh chữ "quá " hóa ra "ngộ" chữ "tộ " đọc thành "tác". Không phải đỗ cử nhân, tiến sĩ Hán học là viết đại tự được. Đó là một ngành thư pháp tài hoa. Còn viết Hoa văn thành bài nghị luận thì e rất khó. Ngay bây giờ, những tiến sĩ tốt nghiệp ở Mỹ chưa chắc đã thông thạo Anh văn vì họ chuyên về chuyên môn, về khoa học. Tiến sĩ của họ là tiến sĩ khoa học, không phải tiến sĩ văn chương.
Trung văn có hai loại, cổ văn và kim văn. Ít người thông thạo cả hai loại kể cả người Trung Quốc chính cống. Đừng tưởng người Việt Nam đỗ cử nhân, tiến sĩ Hán học là viết giỏi Trung văn. Lương Khải Siêu đã chê văn Phan Bội Châu là cổ, bởi vì các cụ ta viết theo cổ văn chứ chẳng phải kim văn. Vì vậy, Hồ Tuấn Hùng và các tác giả khác chê trình độ Trung văn của Nguyết Tất Thành yếu là đúng. không có gì mà phải tự ái! Trần Tế Xương đã tự phán, tự trào:
Tây tự chẳng biết tây,
Hán tự chẳng biết Hán,
Quốc ngữ cũng mù tịt
Thôi thôi về đi cày!
Trần Tế Xương chỉ có tài thơ nôm còn Anh, Pháp, Hoa đều kém cho nên phải ở nhà xua gà cho vợ. Thế mà lãnh tụ ta vốn liếng Anh, Pháp, Hoa, Nga đều kém mà tung hoành bốn cõi thì cũng nên tự hào mà đừng có buồn giận khi nghe ai chê "con thuyền Nghệ An"!
Lúc Nguyễn Tất Thành cắp sách đi học thì xã hội đã bắt đầu bỏ Hán học, nhưng Trần Tế Xương, Tản Đà, Phan Khôi vẫn học, vẫn thi, còn cụ Nguyễn Sinh Sắc thì mới hơn, tiến bộ hơn, cụ cho con học trường tây để " Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò" như Trần Tế Xương đã cười cợt người đương thời!
Lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam cho biết khoảng 1901, Nguyễn Tất Thành mới theo cha đi các nơi và được cha dạy Hán tự. Lúc này, Nguyễn Tất Thành ở vào lứa tuổi 11, việc học như thế là quá muộn. Học Hán văn trong ba, bốn năm, học tiếng Pháp và Quốc ngữ cũng ba bốn năm, chưa xong chương trình tiểu học. Học Hán văn như thế thì có là bao. Tản Đà sinh năm 1889, hơn Tất Thành một tuổi, năm 1909 đã đi thi Hương, như vậy về công sức Hán tự, quốc ngữ và chữ Pháp ,Tất Thành thua Tản Đà.
Nhất là tại nước ta, học Hán Việt, chỉ biết chữ như một tử ngữ chứ không thông thạo ngôn ngữ Trung Hoa. Cho nên sang Trung Quốc phải học tiếng Hoa là chuyện đương nhiên. Lẽ tất nhiên, tại nước ta có nhiều người tự học, hay học ít mà gỉỏi Hán văn, nhưng "không thầy đố mầy làm nên", không đến trường, không rèn luyện lâu dài thì không khá lắm đâu.
Quỳnh, Vĩnh, Tố, Tốn xuất thân từ trường Thông ngôn chứ không phải tự học như vài người nhận lầm. Tự học, hoặc học ít mà giỏi thì cũng chỉ đọc hiểu, hoặc viết không sai chính tả, không lâm vào cảnh chữ "quá " hóa ra "ngộ" chữ "tộ " đọc thành "tác". Không phải đỗ cử nhân, tiến sĩ Hán học là viết đại tự được. Đó là một ngành thư pháp tài hoa. Còn viết Hoa văn thành bài nghị luận thì e rất khó. Ngay bây giờ, những tiến sĩ tốt nghiệp ở Mỹ chưa chắc đã thông thạo Anh văn vì họ chuyên về chuyên môn, về khoa học. Tiến sĩ của họ là tiến sĩ khoa học, không phải tiến sĩ văn chương.
Trung văn có hai loại, cổ văn và kim văn. Ít người thông thạo cả hai loại kể cả người Trung Quốc chính cống. Đừng tưởng người Việt Nam đỗ cử nhân, tiến sĩ Hán học là viết giỏi Trung văn. Lương Khải Siêu đã chê văn Phan Bội Châu là cổ, bởi vì các cụ ta viết theo cổ văn chứ chẳng phải kim văn. Vì vậy, Hồ Tuấn Hùng và các tác giả khác chê trình độ Trung văn của Nguyết Tất Thành yếu là đúng. không có gì mà phải tự ái! Trần Tế Xương đã tự phán, tự trào:
Tây tự chẳng biết tây,
Hán tự chẳng biết Hán,
Quốc ngữ cũng mù tịt
Thôi thôi về đi cày!
Trần Tế Xương chỉ có tài thơ nôm còn Anh, Pháp, Hoa đều kém cho nên phải ở nhà xua gà cho vợ. Thế mà lãnh tụ ta vốn liếng Anh, Pháp, Hoa, Nga đều kém mà tung hoành bốn cõi thì cũng nên tự hào mà đừng có buồn giận khi nghe ai chê "con thuyền Nghệ An"!
Lúc Nguyễn Tất Thành cắp sách đi học thì xã hội đã bắt đầu bỏ Hán học, nhưng Trần Tế Xương, Tản Đà, Phan Khôi vẫn học, vẫn thi, còn cụ Nguyễn Sinh Sắc thì mới hơn, tiến bộ hơn, cụ cho con học trường tây để " Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò" như Trần Tế Xương đã cười cợt người đương thời!
Nguyễn
Tất Thành học muộn, lại không liên tục và cố định, tâm lại
lo việc kiếm tiền sinh sống cho nên Anh, Pháp, Hoa đều kém là chuyện
đương
nhiên. Ông làm thông ngôn cho Borodin cũng chỉ là chức vụ trên miệng và
trên
giấy tờ, nếu làm thông ngôn thì cũng là nói tiếng bồi như các ông
"partisan" thời Pháp! Nguyễn Tất Thành ở với Borodin chắc là với tư
cách một nhân viên đặc vụ. Nói như thế là để làm
rõ hai nhân vật Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau. và
ở hai hoàn cảnh khác nhau.
Sau khi viết về Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tuấn Hùng viết về Hồ Tập Chương như sau:
Hồ Tập Chương (HTC) lớn lên ở Đài Loan, từ nhỏ đã được giáo dục nền văn hóa Hán, mới 4 tuổi đã được cha anh dạy học thuộc lòng “Bách Gia Tính”, “Thiên Gia Thi”, đọc sách Luận Ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung, và tập viết thư pháp. Mười tuổi, HTC đã bắt đầu học Sơ đẳng rồi Cao đẳng của hệ thống giáo dục Nhật Bản, 20 tuổi tốt nghiệp Cao đẳng công nghiệp Đài Bắc, trình độ tiếng Nhật và tiếng Anh vững vàng. Năm 1929, lúc ấy HTC 29 tuổi, rời Đài Loan đến Thượng Hải, trình độ đọc và viết chữ Hán không thể sai sót, có khả năng viết thư pháp, nói tiếng Khách Gia-Quảng Đông và tiếng Mân Nam-Phúc Kiến lưu loát, còn việc đọc và viết tiếng Anh thì khỏi cần nói đến. Thời kỳ đầu năm 1933, HTC tiếp tục học 5 năm, đã qua lớp huấn luyện đọc và viết tiếng Việt cơ sở và tiếng Pháp cơ sở. Trở lại ý kiến trên, giả thiết thời kỳ tiếp tục học tập này là của NAQ, liệu NAQ có nhu cầu học tập tiếng Việt và tiếng Pháp không? Hiện tại, hồ sơ lưu trữ ở Mạc Tư Khoa chỉ có các bản sao tiếng Việt và tiếng Pháp mà không tìm thấy các bản sao chữ Hán hoặc các bản nháp luyện tập thư pháp chữ Hán. Điều này có thể chứng thực, từ năm 1933 đến năm 1938, người lưu lại tại Mạc Tư Khoa là Hồ Tập Chương chứ không phải Nguyễn Ái Quốc. Huống hồ, thời kỳ này, không thấy NAQ sử dụng Trung văn trong các bài viết đã được công bố, đồng thời cũng chưa từng phát hiện thấy bất cứ một bản thư pháp chữ Hán nào còn lưu lại. Vì sao, từ năm 1938, sau khi rời Mạc Tư Khoa về Trung Quốc, đột nhiên NAQ lại sử dụng Trung văn một cách phổ biến qua hàng loạt bài báo. Chưa hết, ông ta còn làm thơ và viết thư pháp nữa. Nhật ký trong tù và Lư Sơn hảo là hai trong những ví dụ được kể đến.(Thiên V. ch.1)
Đây là một chứng cớ rất vững vàng xác nhận Hồ Tập Chương đội lốt Hồ Chí Minh.
Để phân biệt Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, Hồ Tuấn Hùng đã đưa ra các luận chứng:
-Trước 1932, Nguyễn Ái Quốc không hề viết các bài thơ, bài luận văn bằng Hoa văn.
-Ngục Trung Nhật Ký là tác phẩm của một Khách gia vì nó mang ngôn ngữ địa phương Đài Loan và lịch sử Đài Loan.
Hồ Tuấn Hùng đã nhấn mạnh điểm này:
Có khá nhiều bài thơ trong Nhật ký trong tù được tác giả sử dụng tiếng Khách Gia (trong hệ thống Hán ngữ) sáng tác. Những bài thơ này, nếu dùng tiếng Khách Gia đọc diễn cảm, người nghe sẽ nhanh chóng lĩnh hội được nội dung biếu đạt lẫn tình ý hàm chứa trong đó, chứng tỏ trình độ Hán học của tác giả khá uyên bác, không thể chỉ đọc sách vài ba năm mà viết được. Lại nữa, một số bài thơ, nhất là vào thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan, phải là người từng cư trú tại địa bàn Khách Gia, thấm nhuần tư tưởng, tình cảm cộng đồng dân tộc, mới viết được những câu thơ hàm súc mang đặc trưng văn hóa Khách Gia như vậy.
Tháng 10/1992, giáo sư Hoàng Tranh, Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây, nhận thấy độc giả Trung Quốc đọc cuốn Nhật ký trong tù 134 bài của HCM mới được xuất bản có nhiều chỗ khó hiểu, nhất là những địa danh và từ ngữ diễn đạt. Vì vậy, ông đã tiến hành khảo cứu, đính chính và chú giải, sau đó uỷ nhiệm cho Nhà xuất bản Giáo Dục Quảng Tây ấn hành với nhan đề “Chú giải thơ Nhật ký trong tù”. Cuốn sách lấy văn bản từ Nhật ký trong tù 134 bài của nhà xuất bản Văn học Việt Nam, kèm theo bản đồ minh họa và chú giải.
Tại sao Hoàng Tranh cho là có nhiều chỗ khó hiểu có lẽ là vì tác giả dùng ngôn ngữ điạ phương Đài Loan.
Hồ Tuấn Hùng là người Đài Loan cho nên những nhận xét của ông về văn chương, ngôn ngữ Đài Loan ắt có thẩm quyền. Hơn nữa, trước đây GS Lê Hữu Mục đã chứng minh thơ Ngục Trung Nhật Ký là của người Trung Quốc. Đọc bài viết của GS Lê Hữu Mục và Hồ Tuấn Hùng thì không có gì phải thắc mắc nhiều. Người viết không dám " múa rìu qua mắt thợ".
Người Hẹ, Khách Gia, hay Hakka, là một tộc người Hán có tổ tiên được cho là gốc gác ở khu vực các tỉnh Hà Nam và Sơn Tây ở miền bắc Trung Quốc cách đây 2700 năm. Sau họ đã di cư xuống phía nam tập trung ở các tỉnh Quảng Đông, tây Phúc Kiến, Giang Tây, nam Hồ Nam, Quảng Tây, nam Quý Châu, đông nam Tứ Xuyên, các đảo Hải Nam và Đài Loan. Gần đây có người đưa ra thuyết lý cho rằng người Đài Loan, Quảng Đông đều thuộc giống Bách Việt.
Hồ Tuấn Hùng cũng nêu lên bản di chúc của Hồ Chí Minh. Cả hai bản Ngục Trung Nhật Ký và di chúc đều có vấn đề thiếu trung thực, hay nói thẳng ra là "bất minh", bất chính", "gian trá" vì "đảng" đã sửa chửa, thêm bớt.
Nếu NAQ hay HCM là chủ nhân NTNK thì sao phải đi vòng vo câu chuyện "châu về Hiệp phố" ? Quyển sách này không ghi tên tuổi sao biết người Việt hay người Hoa? Tại sao có người đến Hà Nội trao? Người đó là ai? Ai mà dám vào phủ chủ tịch? hay cơ quan nhà nước? Lẽ nào công an cộng sản không giữ lại, tra hỏi, soát thẻ chứng minh nhân dân? giấy giới thiệu? Sao công an cộng sản lại hiền lành, dễ thương như thế ? GS Lê Hữu Mục viết:
Sau 1945 có một người từ miền núi về Thủ Đô run run giao cho nhà cầm quyền một cuốn sổ tay bìa xanh đã bạc màu, bảo đó có lẽ là tập thơ của một chiến sĩ cách mạng nào đó. Cuốn sổ đuợc trao lại cho Viện Bảo Tàng Cách Mạng Việt Nam cất giữ tại Phòng Mặt Trận Thống Nhất Dân Tộc Phản Đế và Mặt Trận Việt Minh.
Rồi cái gian manh lộ rõ ở trang đầu. Họ sửa chửa lung tung, chỉ câu chuyện " châu về Hiệp Phố " gượng gạo", và sửa chữa 29.8.1932--10.9.1933và 29-8-1942--10.9.1943 . Đó là nói cái bìa, còn bên trong,NTNK cũng như di chúc sửa hết. HCM sửa đi sửa lại, Lê Duẩn sửa tới sửa lui cái di chúc, còn đám Tố Hữu, thì sửa nát NTNK, xem thế là đủ kết luận rằng NTNK không phải của Nguyễn Ái Quốc và có lẽ cũng không phải của Hồ Tập Chương, mà là của một người Trung Quốc nào khác.
GS. Lê Hữu Mục viết:
Chữ viết nhất định cũng không phải của Hồ chí Minh, vì nếu nghi ngờ là của Hồ chí Minh thì những ông Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Vũ Anh đã nhận ra cũng như năm 1943, họ đã nhận ra chữ họ Hồ trong bài. Tân xuất ngục, học đăng sơn (Mới ra tù, tập leo núi). Những đề tài ghi trong cuốn sổ chắc cũng không có gì đặc biệt bởi vì từ 1945 đến 1959, không một chuyên viên nào trong Viện Bảo Tàng Cách Mạng Việt Nam (Viện Louis Finot cũ) đã lưu ý đến nó.
Trần dân Tiên, mà mãi đến nay ta mới biết chính là Hồ chí Minh, ngay từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, đã viết Những mẫu chuyện về
đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, kể khá tỉ mỉ về thời gian Hồ chí Minh bị giam trong các nhà tù ở Quảng Tây, cũng cho biết ở trong tù Hồ có làm
thơ, nhưng Trần dân Tiên không nói đến tập thơ. Tố Hữu trong báo cáo đọc trước đại hội lần thứ hai của đảng, tháng 2.1951, hết lời ca ngợi văn
Hồ Chủ Tịch trong những quyển sách giáo dục tư tuởng, trong những lời hiệu triệu, những bức thư...nhưng hoàn toàn không nói đến truyện, cũng
không nói đến thơ. Không ai biết ‘’bác’’ có tập thơ. Mãi đến năm 1958, sau khi đã dẹp xong vụ Nhân Văn-Giai Phẩm, và để đề phòng những vụ nổi dậy khác có thể bùng nổ bất cứ lúc nào, Trung Ương Đảng Cộng Sản trong đó có ủy viên chính thức Tố Hữu, anh hùng trong vụ dẹp Nhân Văn-Giai Phẩm vừa qua, mới nhận thấy nhu cầu cấp bách là phải tăng cường tập trung quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay lãnh tụ.
Cho đến năm 1958, Hồ Chí Minh chỉ mới viết đƣợc khoảng trên dưới 30 bài văn vần, phần nhiều là những bài vè kháng chiến mà giá trị thi ca khó được những nhà thơ nhà văn như Hoàng Cầm, Trần Dần, Văn Cao, Nguyễn Mạnh Tường chấp nhận. Làm sao cho tổng số các bài thơ đƣợc nhiều hơn gấp đôi gấp ba ?
Làm sao cho các bài thơ thực sự có chất thơ xứng đáng là tập thơ của một người cộng sản vĩ đại, hơn nửa thế kỷ đã không ngừng phấn đấu cho lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa, cho tổ quốc, cho loài nguời ? Thế là họ nghĩ ngay đến cuốn sổ tay vô danh bìa màu xanh, họ kéo nó ra khỏi giấc ngủ
yên lành của nó trong Viện Bảo Tàng Cách Mạng, họ chuẩn bị mọi cách để có thể giao cho nó thi hành một nhiệm vụ lịch sử độc đáo: Nhiệm vụ
khẳng định và đề cao thi tài của lãnh tụ Hồ chí Minh ‘’muôn vàn kính yêu’’.
Ta thử nhìn cuốn sổ tay gần hơn, tờ bìa màu xanh đã bạc màu, vào năm 1945 mà nó đã bạc màu thì cuốn sổ này, nếu là của Hồ chí Minh, thì nó phải ở trong tay ông đã lâu, ít nhất là phải mười, mười lăm năm về trước. Trong đầu cuốn sổ ghi bốn chữ Hán Ngục Trung Nhật Ký dƣới bốn chữ này là hai hàng số 29.8.1932/10.9.1933, không biết là tác giả hay ai ghi, ở dưới hai hàng số là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt vần trắc, kèm theo một hình vẽ hai nắm tay bị xích đang giơ lên cao.
Phần bên trong có tất cả 47 trang ghi hơn 100 bài thơ. Những trang cuối ghi một số mục nhỏ có tính chất thời sự. Tên tác giả hoàn toàn không có.
Viện Văn Học được giao trách nhiệm tổ chức việc dịch tập thơ từ chữ Hán ra tiếng Việt. Nhiều nhà thơ (Tố Hữu, Nam Trân...), nhiều nhà văn (như Đặng Thái Mai, Hoài Thanh) đã tham gia phiên dịch hoặc hiệu đính bản dịch xuôi và dịch thơ. Người đóng góp nhiều nhất là nhà thơ Nam Trân, tác giả Huế. đẹp và thơ (1939), lúc ông là ủy viên ban Chấp Hành Hội Nhà Văn Việt Nam, về công tác tại Viện Văn Học phụ trách tiểu ban dịch tập thơ chữ Hán Ngục Trung Nhật Ký ra tiếng Việt.
Công tác dịch bắt đầu từ năm 1959, đầu năm 1960 thì xong, tác phẩm mang tên Việt Nam là Nhật Ký Trong Tù, tác giả là Hồ chí Minh, phần chữ Hán do Phạm phú Tiết viết, nền vẽ của họa sĩ Nguyễn đỗ Cung, bìa do họa sĩ Phạm Hoàng trình bày, in xong đúng vào dịp mừng Hồ chí Minh 70 tuổi Hoài Thanh cho biết: ‘’Tập Ngục Trung Nhật Ký ngay từ lần đầu đã in trên 50 vạn bản mà vẫn không đủ đáp ứng yêu cầu của ngƣời đọc...Chúng ta không những muốn đọc mà còn muốn nghe ngâm, nghe nói. Từ ngày Ngục Trung Nhật Ký ra đời, đã có hàng ngàn cuộc nói chuyện ở các đơn vi bộ đội, các cơ quan, các hội nghi, các trường học, các xí nghiệp, các hợp tác xã ở khắp nơi. Hàng triệu người đã say sưa nghe thơ Bác. Có ngƣời nghe đi nghe lại đến mấy lần.
Có nhiều người đã khóc vì thuơng Bác muốn cứu mình màphải chịu nhiều khổ nạn...Đó là ở trong nước. Ở ngoài nƣớc, tập thơ vừa ra mắt bạn đọc là liền được dịch, đƣợc giới thiệu, được nhiệt liệt hoan nghênh ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa anh em như Liên Xô, Cu Ba, Đông Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, Lỗ-ma-ni.v.v...hoặc cả ở các nuớc tư bản như Anh, Pháp, Ý, kể cả Mỹ. Tập thơ đã có tác dụng làm xáo trộn nhiều tâm hồn, người ta yên lặng nghe hết những âm vang của tập thơ và nghe những âm vang ấy cứ ngân dài mãi’’.
Từ ngày 19.5.1960 trở đi, tác giả tập thơ Ngục Trung Nhật Ký đã được khẳng định dứt khoát là Hồ Chí Minh, và đây là một thành công vĩ đại của Ban Tuyên Giáo. Ta hãy nghe Viện Văn Học giới thiệu tuyệt tác này của họ: ‘’Đó là cuốn sổ tay của Hồ Chủ Tịch gồm những bài thơ mà Người đã viết trong cảnh lao tù từ mùa Thu 1942 đến mùa Thu 1943’’. (HCM, CXXVII)
Chúng ta phỏng đoán chính Tố Hữu và ban Văn Hóa , Viện Văn Học đã thực hiện công cuộc trau chuốt, để nối liền một NAQ trước 1932 và HCM sau 1941 , nhằm đánh đổ dư luận về NAQ đã chết 1932, đồng thời để đánh bóng ông ông già là giỏi thơ văn, tinh thông Hán học! Tố Hữu là chuyên viên làm hàng giả, làm hàng giả một cách thành thạo và dễ dàng như ông đã tuyên bố: " Giả mà như thiệt khó chi mô"!(3)
Hồ Tuấn Hùng nêu lên việc "đảng" sửa di chúc.
Sau khi viết về Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tuấn Hùng viết về Hồ Tập Chương như sau:
Hồ Tập Chương (HTC) lớn lên ở Đài Loan, từ nhỏ đã được giáo dục nền văn hóa Hán, mới 4 tuổi đã được cha anh dạy học thuộc lòng “Bách Gia Tính”, “Thiên Gia Thi”, đọc sách Luận Ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung, và tập viết thư pháp. Mười tuổi, HTC đã bắt đầu học Sơ đẳng rồi Cao đẳng của hệ thống giáo dục Nhật Bản, 20 tuổi tốt nghiệp Cao đẳng công nghiệp Đài Bắc, trình độ tiếng Nhật và tiếng Anh vững vàng. Năm 1929, lúc ấy HTC 29 tuổi, rời Đài Loan đến Thượng Hải, trình độ đọc và viết chữ Hán không thể sai sót, có khả năng viết thư pháp, nói tiếng Khách Gia-Quảng Đông và tiếng Mân Nam-Phúc Kiến lưu loát, còn việc đọc và viết tiếng Anh thì khỏi cần nói đến. Thời kỳ đầu năm 1933, HTC tiếp tục học 5 năm, đã qua lớp huấn luyện đọc và viết tiếng Việt cơ sở và tiếng Pháp cơ sở. Trở lại ý kiến trên, giả thiết thời kỳ tiếp tục học tập này là của NAQ, liệu NAQ có nhu cầu học tập tiếng Việt và tiếng Pháp không? Hiện tại, hồ sơ lưu trữ ở Mạc Tư Khoa chỉ có các bản sao tiếng Việt và tiếng Pháp mà không tìm thấy các bản sao chữ Hán hoặc các bản nháp luyện tập thư pháp chữ Hán. Điều này có thể chứng thực, từ năm 1933 đến năm 1938, người lưu lại tại Mạc Tư Khoa là Hồ Tập Chương chứ không phải Nguyễn Ái Quốc. Huống hồ, thời kỳ này, không thấy NAQ sử dụng Trung văn trong các bài viết đã được công bố, đồng thời cũng chưa từng phát hiện thấy bất cứ một bản thư pháp chữ Hán nào còn lưu lại. Vì sao, từ năm 1938, sau khi rời Mạc Tư Khoa về Trung Quốc, đột nhiên NAQ lại sử dụng Trung văn một cách phổ biến qua hàng loạt bài báo. Chưa hết, ông ta còn làm thơ và viết thư pháp nữa. Nhật ký trong tù và Lư Sơn hảo là hai trong những ví dụ được kể đến.(Thiên V. ch.1)
Đây là một chứng cớ rất vững vàng xác nhận Hồ Tập Chương đội lốt Hồ Chí Minh.
Để phân biệt Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, Hồ Tuấn Hùng đã đưa ra các luận chứng:
-Trước 1932, Nguyễn Ái Quốc không hề viết các bài thơ, bài luận văn bằng Hoa văn.
-Ngục Trung Nhật Ký là tác phẩm của một Khách gia vì nó mang ngôn ngữ địa phương Đài Loan và lịch sử Đài Loan.
Hồ Tuấn Hùng đã nhấn mạnh điểm này:
Có khá nhiều bài thơ trong Nhật ký trong tù được tác giả sử dụng tiếng Khách Gia (trong hệ thống Hán ngữ) sáng tác. Những bài thơ này, nếu dùng tiếng Khách Gia đọc diễn cảm, người nghe sẽ nhanh chóng lĩnh hội được nội dung biếu đạt lẫn tình ý hàm chứa trong đó, chứng tỏ trình độ Hán học của tác giả khá uyên bác, không thể chỉ đọc sách vài ba năm mà viết được. Lại nữa, một số bài thơ, nhất là vào thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan, phải là người từng cư trú tại địa bàn Khách Gia, thấm nhuần tư tưởng, tình cảm cộng đồng dân tộc, mới viết được những câu thơ hàm súc mang đặc trưng văn hóa Khách Gia như vậy.
Tháng 10/1992, giáo sư Hoàng Tranh, Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây, nhận thấy độc giả Trung Quốc đọc cuốn Nhật ký trong tù 134 bài của HCM mới được xuất bản có nhiều chỗ khó hiểu, nhất là những địa danh và từ ngữ diễn đạt. Vì vậy, ông đã tiến hành khảo cứu, đính chính và chú giải, sau đó uỷ nhiệm cho Nhà xuất bản Giáo Dục Quảng Tây ấn hành với nhan đề “Chú giải thơ Nhật ký trong tù”. Cuốn sách lấy văn bản từ Nhật ký trong tù 134 bài của nhà xuất bản Văn học Việt Nam, kèm theo bản đồ minh họa và chú giải.
Tại sao Hoàng Tranh cho là có nhiều chỗ khó hiểu có lẽ là vì tác giả dùng ngôn ngữ điạ phương Đài Loan.
Hồ Tuấn Hùng là người Đài Loan cho nên những nhận xét của ông về văn chương, ngôn ngữ Đài Loan ắt có thẩm quyền. Hơn nữa, trước đây GS Lê Hữu Mục đã chứng minh thơ Ngục Trung Nhật Ký là của người Trung Quốc. Đọc bài viết của GS Lê Hữu Mục và Hồ Tuấn Hùng thì không có gì phải thắc mắc nhiều. Người viết không dám " múa rìu qua mắt thợ".
Người Hẹ, Khách Gia, hay Hakka, là một tộc người Hán có tổ tiên được cho là gốc gác ở khu vực các tỉnh Hà Nam và Sơn Tây ở miền bắc Trung Quốc cách đây 2700 năm. Sau họ đã di cư xuống phía nam tập trung ở các tỉnh Quảng Đông, tây Phúc Kiến, Giang Tây, nam Hồ Nam, Quảng Tây, nam Quý Châu, đông nam Tứ Xuyên, các đảo Hải Nam và Đài Loan. Gần đây có người đưa ra thuyết lý cho rằng người Đài Loan, Quảng Đông đều thuộc giống Bách Việt.
Hồ Tuấn Hùng cũng nêu lên bản di chúc của Hồ Chí Minh. Cả hai bản Ngục Trung Nhật Ký và di chúc đều có vấn đề thiếu trung thực, hay nói thẳng ra là "bất minh", bất chính", "gian trá" vì "đảng" đã sửa chửa, thêm bớt.
Nếu NAQ hay HCM là chủ nhân NTNK thì sao phải đi vòng vo câu chuyện "châu về Hiệp phố" ? Quyển sách này không ghi tên tuổi sao biết người Việt hay người Hoa? Tại sao có người đến Hà Nội trao? Người đó là ai? Ai mà dám vào phủ chủ tịch? hay cơ quan nhà nước? Lẽ nào công an cộng sản không giữ lại, tra hỏi, soát thẻ chứng minh nhân dân? giấy giới thiệu? Sao công an cộng sản lại hiền lành, dễ thương như thế ? GS Lê Hữu Mục viết:
Sau 1945 có một người từ miền núi về Thủ Đô run run giao cho nhà cầm quyền một cuốn sổ tay bìa xanh đã bạc màu, bảo đó có lẽ là tập thơ của một chiến sĩ cách mạng nào đó. Cuốn sổ đuợc trao lại cho Viện Bảo Tàng Cách Mạng Việt Nam cất giữ tại Phòng Mặt Trận Thống Nhất Dân Tộc Phản Đế và Mặt Trận Việt Minh.
Không
ai biết danh tính người nông dân miền núi đó, cũng không ai nói là lòng
tốt của anh, hay ít nhất chuyến đi xa của anh từ miền núi về đến đồng
bằng, rồi từ đồng bằng về đến Thủ Đô có được đền bù hay không, người ta
cũng không biết đến tên tuổi của nguời đứng ra nhận quyển sổ, ngày nhận
quyển sổ đó, không ai thèm ghi ?
Như
thế là thế nào ? Như thế có nghĩa là cuốn số đó nhất định không mang
tên Hồ chí Minh, nhất định không, bởi vì con ngƣời lúc nào cũng chủ
trương ‘’không có, không thấy, không biết’’ ấy dại gì mà để tên mình vào
một cuốn sổ cho kẻ thù của mình biết. Chữ viết nhất định cũng không
phải của Hồ chí Minh....(HCM, CXXVII)Rồi cái gian manh lộ rõ ở trang đầu. Họ sửa chửa lung tung, chỉ câu chuyện " châu về Hiệp Phố " gượng gạo", và sửa chữa 29.8.1932--10.9.1933và 29-8-1942--10.9.1943 . Đó là nói cái bìa, còn bên trong,NTNK cũng như di chúc sửa hết. HCM sửa đi sửa lại, Lê Duẩn sửa tới sửa lui cái di chúc, còn đám Tố Hữu, thì sửa nát NTNK, xem thế là đủ kết luận rằng NTNK không phải của Nguyễn Ái Quốc và có lẽ cũng không phải của Hồ Tập Chương, mà là của một người Trung Quốc nào khác.
GS. Lê Hữu Mục viết:
Chữ viết nhất định cũng không phải của Hồ chí Minh, vì nếu nghi ngờ là của Hồ chí Minh thì những ông Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Vũ Anh đã nhận ra cũng như năm 1943, họ đã nhận ra chữ họ Hồ trong bài. Tân xuất ngục, học đăng sơn (Mới ra tù, tập leo núi). Những đề tài ghi trong cuốn sổ chắc cũng không có gì đặc biệt bởi vì từ 1945 đến 1959, không một chuyên viên nào trong Viện Bảo Tàng Cách Mạng Việt Nam (Viện Louis Finot cũ) đã lưu ý đến nó.
Trần dân Tiên, mà mãi đến nay ta mới biết chính là Hồ chí Minh, ngay từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, đã viết Những mẫu chuyện về
đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, kể khá tỉ mỉ về thời gian Hồ chí Minh bị giam trong các nhà tù ở Quảng Tây, cũng cho biết ở trong tù Hồ có làm
thơ, nhưng Trần dân Tiên không nói đến tập thơ. Tố Hữu trong báo cáo đọc trước đại hội lần thứ hai của đảng, tháng 2.1951, hết lời ca ngợi văn
Hồ Chủ Tịch trong những quyển sách giáo dục tư tuởng, trong những lời hiệu triệu, những bức thư...nhưng hoàn toàn không nói đến truyện, cũng
không nói đến thơ. Không ai biết ‘’bác’’ có tập thơ. Mãi đến năm 1958, sau khi đã dẹp xong vụ Nhân Văn-Giai Phẩm, và để đề phòng những vụ nổi dậy khác có thể bùng nổ bất cứ lúc nào, Trung Ương Đảng Cộng Sản trong đó có ủy viên chính thức Tố Hữu, anh hùng trong vụ dẹp Nhân Văn-Giai Phẩm vừa qua, mới nhận thấy nhu cầu cấp bách là phải tăng cường tập trung quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay lãnh tụ.
Cho đến năm 1958, Hồ Chí Minh chỉ mới viết đƣợc khoảng trên dưới 30 bài văn vần, phần nhiều là những bài vè kháng chiến mà giá trị thi ca khó được những nhà thơ nhà văn như Hoàng Cầm, Trần Dần, Văn Cao, Nguyễn Mạnh Tường chấp nhận. Làm sao cho tổng số các bài thơ đƣợc nhiều hơn gấp đôi gấp ba ?
Làm sao cho các bài thơ thực sự có chất thơ xứng đáng là tập thơ của một người cộng sản vĩ đại, hơn nửa thế kỷ đã không ngừng phấn đấu cho lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa, cho tổ quốc, cho loài nguời ? Thế là họ nghĩ ngay đến cuốn sổ tay vô danh bìa màu xanh, họ kéo nó ra khỏi giấc ngủ
yên lành của nó trong Viện Bảo Tàng Cách Mạng, họ chuẩn bị mọi cách để có thể giao cho nó thi hành một nhiệm vụ lịch sử độc đáo: Nhiệm vụ
khẳng định và đề cao thi tài của lãnh tụ Hồ chí Minh ‘’muôn vàn kính yêu’’.
Ta thử nhìn cuốn sổ tay gần hơn, tờ bìa màu xanh đã bạc màu, vào năm 1945 mà nó đã bạc màu thì cuốn sổ này, nếu là của Hồ chí Minh, thì nó phải ở trong tay ông đã lâu, ít nhất là phải mười, mười lăm năm về trước. Trong đầu cuốn sổ ghi bốn chữ Hán Ngục Trung Nhật Ký dƣới bốn chữ này là hai hàng số 29.8.1932/10.9.1933, không biết là tác giả hay ai ghi, ở dưới hai hàng số là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt vần trắc, kèm theo một hình vẽ hai nắm tay bị xích đang giơ lên cao.
Phần bên trong có tất cả 47 trang ghi hơn 100 bài thơ. Những trang cuối ghi một số mục nhỏ có tính chất thời sự. Tên tác giả hoàn toàn không có.
Viện Văn Học được giao trách nhiệm tổ chức việc dịch tập thơ từ chữ Hán ra tiếng Việt. Nhiều nhà thơ (Tố Hữu, Nam Trân...), nhiều nhà văn (như Đặng Thái Mai, Hoài Thanh) đã tham gia phiên dịch hoặc hiệu đính bản dịch xuôi và dịch thơ. Người đóng góp nhiều nhất là nhà thơ Nam Trân, tác giả Huế. đẹp và thơ (1939), lúc ông là ủy viên ban Chấp Hành Hội Nhà Văn Việt Nam, về công tác tại Viện Văn Học phụ trách tiểu ban dịch tập thơ chữ Hán Ngục Trung Nhật Ký ra tiếng Việt.
Công tác dịch bắt đầu từ năm 1959, đầu năm 1960 thì xong, tác phẩm mang tên Việt Nam là Nhật Ký Trong Tù, tác giả là Hồ chí Minh, phần chữ Hán do Phạm phú Tiết viết, nền vẽ của họa sĩ Nguyễn đỗ Cung, bìa do họa sĩ Phạm Hoàng trình bày, in xong đúng vào dịp mừng Hồ chí Minh 70 tuổi Hoài Thanh cho biết: ‘’Tập Ngục Trung Nhật Ký ngay từ lần đầu đã in trên 50 vạn bản mà vẫn không đủ đáp ứng yêu cầu của ngƣời đọc...Chúng ta không những muốn đọc mà còn muốn nghe ngâm, nghe nói. Từ ngày Ngục Trung Nhật Ký ra đời, đã có hàng ngàn cuộc nói chuyện ở các đơn vi bộ đội, các cơ quan, các hội nghi, các trường học, các xí nghiệp, các hợp tác xã ở khắp nơi. Hàng triệu người đã say sưa nghe thơ Bác. Có ngƣời nghe đi nghe lại đến mấy lần.
Có nhiều người đã khóc vì thuơng Bác muốn cứu mình màphải chịu nhiều khổ nạn...Đó là ở trong nước. Ở ngoài nƣớc, tập thơ vừa ra mắt bạn đọc là liền được dịch, đƣợc giới thiệu, được nhiệt liệt hoan nghênh ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa anh em như Liên Xô, Cu Ba, Đông Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, Lỗ-ma-ni.v.v...hoặc cả ở các nuớc tư bản như Anh, Pháp, Ý, kể cả Mỹ. Tập thơ đã có tác dụng làm xáo trộn nhiều tâm hồn, người ta yên lặng nghe hết những âm vang của tập thơ và nghe những âm vang ấy cứ ngân dài mãi’’.
Từ ngày 19.5.1960 trở đi, tác giả tập thơ Ngục Trung Nhật Ký đã được khẳng định dứt khoát là Hồ Chí Minh, và đây là một thành công vĩ đại của Ban Tuyên Giáo. Ta hãy nghe Viện Văn Học giới thiệu tuyệt tác này của họ: ‘’Đó là cuốn sổ tay của Hồ Chủ Tịch gồm những bài thơ mà Người đã viết trong cảnh lao tù từ mùa Thu 1942 đến mùa Thu 1943’’. (HCM, CXXVII)
Chúng ta phỏng đoán chính Tố Hữu và ban Văn Hóa , Viện Văn Học đã thực hiện công cuộc trau chuốt, để nối liền một NAQ trước 1932 và HCM sau 1941 , nhằm đánh đổ dư luận về NAQ đã chết 1932, đồng thời để đánh bóng ông ông già là giỏi thơ văn, tinh thông Hán học! Tố Hữu là chuyên viên làm hàng giả, làm hàng giả một cách thành thạo và dễ dàng như ông đã tuyên bố: " Giả mà như thiệt khó chi mô"!(3)
Hồ Tuấn Hùng nêu lên việc "đảng" sửa di chúc.
Bản này viết năm 1969., Hồ Tuấn Hùng nhận định:
Cứ theo logic ngữ nghĩa của đoạn
văn này mà xét, tôi phát hiện thấy dấu vết còn lại khá rõ của câu “Năm nay tôi vừa
69 tuổi” bị sửa thành “Năm nay tôi vừa 79 tuổi”. Như vậy, có khả năng nguyên văn
bản gốc đoạn “Di chúc” này như sau: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, nghĩa là, “Người
thọ 70 xưa nay hiếm”. Năm nay tôi vừa 69 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm”, như
thế , đọc vừa thuận miệng, vừa thuận lý mà lại tránh được sự tối nghĩa.
Cứ tìm trong các bản thảo Hán văn của HCM thì thấy rất rõ, ông không bao giờ viết câu văn lủng củng, mâu thuẫn, đại loại như: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy. Năm nay tôi vừa 79 tuổi”. Huống chi, nội dung “Di chúc” đã phải qua 5 năm chỉnh lý, bổ sung, sửa chữa, không thể có chuyện câu trước câu sau mâu thuẫn với nhau. Từ đó, chúng tôi dự đoán, “Di chúc Hồ Chí Minh, trước tiên được khởi thảo bằng Hán văn, sau đó căn cứ vào bản Hán văn, ông mới dần dần dịch sang tiếng Việt, nên mới được liệt vào loại “văn kiện tuyệt mật” giao cho thư ký riêng Vũ Kỳ bảo quản.
Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, mà Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) sinh ngày 11 tháng 10 năm 1901, chênh nhau 11 tuổi. HCM tạ thế ngày 2 tháng 9 năm 1969, tính ra thì Nguyễn Ái Quốc tròn 79 tuổi, còn Hồ Tập Chương tính cả tuổi mụ mới đủ 69. Đối chiếu với “Di chúc” (“Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, nghĩa là, “Người thọ 70 xưa nay hiếm”. Năm nay tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm”), lại nói: “Khi người ta đã ngoài 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khoẻ càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ”. (Thiên V)
Cứ tìm trong các bản thảo Hán văn của HCM thì thấy rất rõ, ông không bao giờ viết câu văn lủng củng, mâu thuẫn, đại loại như: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy. Năm nay tôi vừa 79 tuổi”. Huống chi, nội dung “Di chúc” đã phải qua 5 năm chỉnh lý, bổ sung, sửa chữa, không thể có chuyện câu trước câu sau mâu thuẫn với nhau. Từ đó, chúng tôi dự đoán, “Di chúc Hồ Chí Minh, trước tiên được khởi thảo bằng Hán văn, sau đó căn cứ vào bản Hán văn, ông mới dần dần dịch sang tiếng Việt, nên mới được liệt vào loại “văn kiện tuyệt mật” giao cho thư ký riêng Vũ Kỳ bảo quản.
Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, mà Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) sinh ngày 11 tháng 10 năm 1901, chênh nhau 11 tuổi. HCM tạ thế ngày 2 tháng 9 năm 1969, tính ra thì Nguyễn Ái Quốc tròn 79 tuổi, còn Hồ Tập Chương tính cả tuổi mụ mới đủ 69. Đối chiếu với “Di chúc” (“Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, nghĩa là, “Người thọ 70 xưa nay hiếm”. Năm nay tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm”), lại nói: “Khi người ta đã ngoài 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khoẻ càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ”. (Thiên V)
Từ
việc này, chúng ta nghĩ lại việc " bác Hồ đòi lấy vợ", lấy Lâm Y Lan,
năm 1958. Ông già 58 tuổi đòi lấy vợ còn dễ nghe hơn ông già 68 tuổi,
mặc dầu tại Âu Mỹ và Trung Đông có những ông bà 80-90 còn kết hôn.
Hồ Tuấn Hùng kể tình sử Hồ Chí Minh- Lâm Y Lan như sau:
Hội nghị Bộ Chính Trị Đảng Lao động Việt Nam
Tại sao ông già không kiếm Lâm Y Lan sớm hơn? Theo đoạn này, HCM tái ngộ LYL trong khoảng thập niên 50. Hơn mười năm xa nhau mà vẫn nhận ra nhau hay sao? Hoặc có sự bố trí, giới thiệu của Trung Cộng? Tại sao không cưới hỏi lúc này mà để đến năm 1958 mới đặt vấn đề? Sự việc xảy ra không ở trong vườn hoa hay trong một phòng ốc kín đáo mà xảy ra công khai giữa hai đảng. Ai bày ra cái lệ " lấy vợ phải thưa trước với đảng và do đảng quyết định "?
Ôi! Chống phong kiến, chống hủ tục để rồi lại đặt ra bao hủ tục làm khổ con người trong đó có nạn nhân Trần Dần? Chuyện đời cũng như hành tung chính trị của các cụ " đạo đức cách mạng" thật khó hiểu!
Dẫu sao, ta cũng thấy mối tình Nguyễn Thanh Linh, Lâm Y Lan là để nối NAQ và HCM làm một.
Lại còn hai bài thơ tặng Trần Canh và Vy Quốc Thanh. Một mặt " đảng " ra sức tô vẽ một Hồ Chí Minh văn chương chữ nghĩa, nhưng mấy bài thơ này thì họ giấu đi hay quên đi? Họ bảo là không tìm thấy. Sao vậy?
Hồ Tuấn Hùng kể tình sử Hồ Chí Minh- Lâm Y Lan như sau:
Dịp may đã đến. Đó là chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch HCM vào ít năm
sau đó. Đào Chú bèn thỉnh cầu Mao Trạch Đông sắp xếp cho ông và nữ cố
nhân Quảng Đông gặp mặt. Mao Chủ tịch lập tức gọi điện cho Bí thư Tỉnh
ủy Quảng Đông - Đào Chú, LYL và những Ủy viên Thường vụ khác về Bắc
Kinh. LYL nhận được tin báo vui mừng đến phát cuồng. HCM kết thúc chuyến
thăm Trung Quốc sắp lên máy bay về nước, bỗng nhiên ông nhìn thấy LYL
vội sải bước đến gần cô, hai tay nắm chặt không nói nên lời. Hai người
nhìn nhau rất lâu, lòng rưng rưng xúc động trào nước mắt. Trước lúc phi
cơ khởi trình, LYL lấy cuốn nhật ký ngày nào đưa trả lại HCM, nhẹ nhàng
bảo: “Không có anh bên cạnh, lâu rồi tôi không ghi nhật ký, xin gửi lại
anh”.
Ủy thác Đào Chú làm mối
Vào một ngày đẹp trời năm 1958, trên bờ sông ở Hà Nội, hai ông già lặng
lẽ buông cần câu. Họ chính là HCM và Đào Chú. Lúc ấy HCM thần sắc có vẻ
khác thường, trịnh trọng nói với Đào Chú: “TQ có câu ‘Lúc trẻ là vợ chồng, về già là bạn’.
Tôi và LYL biết nhau đã hơn hai mươi năm, vì sự nghiệp cách mạng đành
tạm gác tình riêng. Đến nay chúng tôi cũng đã có tuổi, muốn đón LYL sang
Hà Nội, bí mật tổ chức hôn lễ để thỏa ý nguyện từ những năm trước”. Sau
khi về nước, Đào Chú bay đến Bắc Kinh báo cáo sự việc với Trung ương
ĐCSTQ. Chủ tịch Mao Trạch Đông chuyển đạt ý nguyện của HCM đến Tổng lý
Chu Ân Lai. Tại Phủ Thủ tướng Quốc vụ viện, các vị lãnh đạo đều vô cùng
kinh ngạc.
Chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh không nhỏ
Mao chủ tịch trầm ngâm một lúc rồi nói: “Nói cho cùng, chính là chúng ta
đề xướng ra đoạn tình duyên này, hôn nhân tự chủ, nên đáp ứng nguyện
vọng của Hồ Chí Minh, nhưng đây không phải là việc nhỏ, chớ xem thường”.
Hội nghị Bộ Chính Trị Đảng Lao động Việt Nam
Hồ Chí Minh và Lê Duẩn ngồi đối diện nhau, hai bên là các Ủy viên Bộ
Chính Trị. Sự việc được đưa ra nhưng mọi người đều im lặng không nói.
Cuối cùng HCM đập bàn, đứng lên: “Tôi chịu đựng đủ rồi. Thật tình tôi
không nghĩ là sẽ được gặp lại người ta. Tôi có quyền quyết định việc
riêng của mình, vì vậy, đề nghị các đồng chí không nên thuyết phục nữa”.
Lê Duẩn tuy bất bình nhưng chưa dám gây căng thẳng, vẫn bình tĩnh nói:
“Thưa Bác! Bác không nên quá xúc động, phải tính kế lâu dài, nên cân
nhắc kỹ rồi hãy hành động. Chúng tôi can ngăn lúc này là vì lo cho Bác.
Bác từng nói ‘Việt Nam chưa giải phóng thì đời nay, kiếp này tôi không xây dựng gia đình’.
Câu nói ấy có ảnh hưởng rất lớn. Một khi Bác làm trái lời thề thì ý
nghĩa của sự nghiệp thần thánh Giải phóng miền Nam cũng như uy tín ‘cha già dân tộc’
của Bác sẽ bị tổn thương, không những thế uy tín của Đảng ta trước phe
XHCN cũng như cộng đồng quốc tế cũng bị giảm sút”. Thực ra tâm trạng Lê
Duẩn vô cùng mâu thuẫn, ông ta không muốn ép HCM, nhưng vì ở cương vị Bí
thư thứ nhất nên bắt buộc phải tỏ thái độ cứng rắn.
Thiểu số phục tùng đa số
HCM thấy Lê Duẩn nhất quyết can thiệp vào hạnh phúc riêng tư của mình,
không nói nữa mà bảo: “Theo nguyên tắc, thiểu số phục tùng đa số, đề
nghị các đồng chí giơ tay biểu quyết”. Nói rồi ông đưa mắt nhìn sang hai
bên. Ý kiến tán thành và phản đối ngang nhau, riêng Lê Duẩn vẫn ngồi
im. Mọi người đều chăm chú theo dõi thái độ của Bí thư thứ nhất. Lúc ấy
Lê Duẩn mới từ từ nâng tay phải, nhưng đến nửa chừng lại đột nhiên bỏ
thõng xuống, thở dài nói: “Tôi không thể làm mất uy tín của Bác”. Điều
làm Lê Duẩn giật mình là, HCM không nổi trận lôi đình, trái lại, ông chỉ
cười nhạt rồi thong thả rời cuộc họp bước ra ngoài.(Thiên IV. ch.5)
Tại sao ông già không kiếm Lâm Y Lan sớm hơn? Theo đoạn này, HCM tái ngộ LYL trong khoảng thập niên 50. Hơn mười năm xa nhau mà vẫn nhận ra nhau hay sao? Hoặc có sự bố trí, giới thiệu của Trung Cộng? Tại sao không cưới hỏi lúc này mà để đến năm 1958 mới đặt vấn đề? Sự việc xảy ra không ở trong vườn hoa hay trong một phòng ốc kín đáo mà xảy ra công khai giữa hai đảng. Ai bày ra cái lệ " lấy vợ phải thưa trước với đảng và do đảng quyết định "?
Ôi! Chống phong kiến, chống hủ tục để rồi lại đặt ra bao hủ tục làm khổ con người trong đó có nạn nhân Trần Dần? Chuyện đời cũng như hành tung chính trị của các cụ " đạo đức cách mạng" thật khó hiểu!
Dẫu sao, ta cũng thấy mối tình Nguyễn Thanh Linh, Lâm Y Lan là để nối NAQ và HCM làm một.
Lại còn hai bài thơ tặng Trần Canh và Vy Quốc Thanh. Một mặt " đảng " ra sức tô vẽ một Hồ Chí Minh văn chương chữ nghĩa, nhưng mấy bài thơ này thì họ giấu đi hay quên đi? Họ bảo là không tìm thấy. Sao vậy?
Tặng tướng quân Trần Canh thi sao(1)
Huề trượng đăng cao quan trận địa
Vạn trùng sơn ủng vạn trùng vân
Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thệ diệt sài lang xâm lược quân.
Dịch:
Tặng tướng quân Trần Canh (1)
Chống gậy lên non xem trận địa
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy.
贈陳賡將軍詩抄 (二)
香檳美酒夜光杯,欲飲琵琶馬上催
醉臥沙場君莫笑,敵人休放一人回
Tặng tướng quân Trần Canh thi sao (2)
Hương tân mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi.
Dịch:
Tặng tướng quân Trần Canh (2)
Rượu ngọt sâm banh lấp lánh ly
Muốn uống, tỳ bà thúc ngựa phi
Đừng cười say nghỉ nơi trận mạc
Không tha quân địch một tên về.
贈韋國清將軍詩抄
百里尋君未遇君,馬蹄踏碎領頭雲
歸來偶過山梅樹,每朵黃花一點春 Tặng Vi Quốc Thanh tướng quân thi sao
Bách ký tầm quân vị ngộ quân,
Mã đề đạp toái lãnh đầu vân,
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ,
Mỗi đóa hoàng hoa nhất điểm xuân.
Dịch nghĩa:
Tặng Vi Quốc Thanh tướng quân
Trăm dặm đi tìm ông mà chưa gặp ông,
Vó ngựa xéo nát đám mây đầu núi,
Trở về, bỗng đi qua cây mai già trên núi,
Mỗi đóa hoa vàng điểm một nét xuân.
Mãi đến khi các tướng lãnh Trung Quốc viết nhật ký , xuất bản năm 2002 thì họ mới đưa vào Ngục Trung Nhật Ký. Hai bài này viết lúc trận Điện Biên phủ bắt đầu chứ không phải lúc HCM ngồi tù, thế mà họ bỏ vào NTNK. Thiệt là phản động hết sức! ( HỒI KÝ CỐ VẤN TRUNG QUỐC )
Mấy bài thơ này khác những bài thơ trongNTNK vì lời thơ ướt át hơn, lại chịu ảnh hưởng của Đường thi khá nhiều! Phải chăng đây lại là một HCM khác?
Tác phẩm " Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo" của Hồ Tuấn Hùng là một tiếng sét giữa trời làm cho bao nhiêu người kinh tâm táng đởm, nhưng nó cũng gây bất bình ở một số người vì Hồ Tuấn Hùng đã lột mặt nạ của thần tượng họ. Tóm lại, qua công trình khảo cứu của Hồ Tuấn Hùng, chúng ta nhận thấy những điểm quan trọng sau:
+1. Nguyễn Ái Quốc đã chết vì ho lao năm 1932
+2. Người đóng vai Hồ Chí Minh từ sau 1932 là Hồ Tập Chương, sinh năm 1909, nhỏ hơn NAQ 10 tuổi, là người Đài Loan, được Liên Xô huấn luyện đưa về Việt Nam cầm đầu đảng Cộng sản Việt Nam trong âm mưu biến Việt Nam thành tay sai Nga Tàu.
+3. Tìm hồ sơ tại Liên Xô, Hồ Tuấn Hùng thấy trong thời gian 1933 về sau, Hồ Chí Minh học Pháp văn và tiếng Việt. Nếu là người Việt Nam, Hồ Chí Minh không cần phải học hai thứ này, trong khi đó không có giấu tích học Trung văn, tập thư pháp.
+ 4. Trước 1932, NAQ phải học tiếng Hoa, và không thấy có tác phẩm nào viết bằng Trung văn. Thế mà sau 1932, nhất là sau 1945, thơ văn Trung văn xuất hiện rất nhiều. Sự kiện này cho thấy NAQ và HCM là hai người khác nhau.Ta cũng nên biết thêm, tuy giỏi văn thơ Việt Nam và đã học Hán văn nhiều, Trần Tế Xương, Tản Đà, Phan Khôi rất ít khi viết văn thơ chữ Hán!
+5. Truyện tình Nguyễn Thanh Linh, Lâm Y Lan coi như chồng chất lên nhau để buộc NAQ và HCM làm một. Phải chăng NAQ đã chết thật nên Nguyễn Thị Minh Khai lấy Lê Hồng Phong, và NAQ , Hồ Chí Minh là hai người khác nhau cho nên trong đại hội VII cộng đảng Liên Xô, NTMK thờ ơ với HCM? Cộng đảng bào chữa đó là đám cưới giả, nhưng cần gì phải làm đám cưới giả?
+6. NTNK và di chúc có nhiều sửa chữa cho nên mất tính chất chính xác. Tuy nhiên, do sự sửa chữa của cộng đảng, ta thấy rõ NAQ và HCM là hai người khác nhau, và trình độ khác nhau.
Bên cạnh những sự kiện kể trên, chúng ta có thể bổ túc một vài sự kiện khác.
+1. Tại sao sau vụ GS Lê Hữu Mục và Hồ Tuấn Hùng tố cáo, chính phủ và bộ Tuyên truyền cộng sản im lặng rất lâu chứ không hung hãn chửi bới như thường lệ?
+2. Phải chăng Trần Dân Tiên viết về HCM là để đề cao mình, bắt nhà văn nhà báo và nhân dân tôn sùng mình, và cũng để nối NAQ và HCM làm một.
+3.Qua các hình ảnh, ta thấy có nhiều HCM khác nhau. Luận cứ của Hồ Tuấn Hùng củng cố thêm niềm tin có nhiều HCM giả.Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Hoàng Văn Hoan kề cận sao lại không biết. Biết nhưng họ thủ thân "im lặng là vàng".
+ 4.Hoàng Văn Chí cho biết khoảng 1941, HCM đột nhiên xuất hiện tại nhà riêng của Nguyễn Khánh Toàn ở Nga, và Hoàng Văn Chí thuật lại như sau:
Như đã tường thuật trong Chương 3, ông Hồ lên đường sang Trung Hoa vào mùa xuân năm 1941; cùng đi với ông có Nguyễn Khánh Toàn. Nhưng cùng ngồi trên xe lửa, ông Hồ nhận thấy Toàn đã mất hết tác phong cách mạng, một điều mà ông quả thực không ngờ. Trong 15 năm sống ở Moscou, Toàn được hưởng quy chế “chuyên viên ngoại quốc”, sống một cuộc đời thảnh thơi với một số lương to hơn lương người bản xứ. Thấy Toàn ăn uống luôn mồm ông Hồ biết là Toàn đã quen thói phong lưu, không thể nào chịu đựng sự gian khổ của một người cách mạng hoạt động trong bóng tối. Vì vậy nên đặt chân đến Diên An, ông Hồ liền thu xếp với Mao gửi Toàn ở lại và hẹn với Toàn là sẽ nhắn Toàn về khi nào cách mạng thành công. Toàn biết vậy và vui vẻ ở lại. (4)
Đây là HCM viện cớ bắt Nguyễn Khánh Toàn ở lại để bịt miệng. HCM chỉ cần NKT về Diên An và giới thiệu với Trung Cộng đây là HCM là đủ. Vạn sự khởi đầu nan, đưa người bép xép có thể làm lộ chuyện. NKT biết NAQ giả mạo hay không? Biết cũng không dám "tiết lộ bí mật của đảng", là tội đáng phanh thây! Sau này NKT viết nhật ký, nội dung là để giới thiệu NAQ-HCM là một người. Có như vậy, NKT mới được làm thứ trưởng, nếu không thì y đã được đảng đặc cách cho đi mò tôm ở sông Hương hay bón phân cho cây núi Ngự Bình!
+5. HCM muốn giấu thân phận nên không tiếp xúc hoặc lạnh lùng với anh chị. Hoàng Văn Chí viết:
Anh ruột ông Hồ là Nguyễn Tất Đạt, thường gọi là ông Cả Đạt. Ông học tài thi phận nên kiếm ăn bằng nghề gõ đầu trẻ. Năm 1946, nghe tin ông Hồ đã trở thành chủ tịch chính phủ, hay nói đúng hơn, chủ tịch Hồ Chí Minh chính là em ruột ông, ông đáp tàu ra Hà Nội mong gặp em sau hơn 30 năm xa cách. Nhưng hồi ấy ông Hồ còn đang dấu tung tích nên không dám tiếp ông anh ở Bắc Bộ phủ. Ông gửi ông Đạt ở nhà một người đồng hương là ông Mai Ngọc Thiệu, và tối ông đến thăm. Hai anh em trò chuyện hồi lâu, sau đó ông Đạt lẳng lặng về Nghệ. Chừng hai năm sau ông Đạt mất, không có dịp gặp ông Hồ trở lại.( sđd, Phần II, chương 3)
Tâm Trang cho biết HCM chỉ về Nghệ An hai lần, lần đầu 1957, lần thứ hai năm 1961.Bận công vụ, hay sợ lộ tung tích mà về it thế? (HCM, CXXXVIII).
Có tài liệu nói ông Sinh Khiêm ở Hà Nội mà ông HCM cũng chẳng đến thăm. Ông này mất năm 1950 vì lý do gì?Nên nhớ rằng trong khoảng 1946-1950, nhiều người đã bị giết bằng cách này hay cách nọ.
+6.Việc ông bị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ quản thúc khoảng 1963 (theo Nguyễn Văn Trấn, Viết Cho Mẹ và Quốc Hội) phải chăng bọn họ đã biết ông Hồ là "Hán gian"?
+ 7. Nhiều tài liệu khác nhau viết về giờ cuối của HCM. Trước tiên là báo Việt Nam nói về phút cuối của HCM. Họ đề cao HCM yêu dân ca, yêu nước Việt Nam . Nghệ sĩ ưu tú Quỳnh Hoa viết rất chân thành sâu sắc trong bài"Tình yêu Bác Hồ giành cho những khúc dân ca".
Cũng viết về giờ phút cuối của HCM, báo Trung Quốc trong bài "CỰU ĐẠI SỨ TQ TỪNG NHƯ THƯ KÝ RIÊNG VÀ Ở BÊN HỒ CHÍ MINH ĐẾN CUỐI ĐỜI"
Huề trượng đăng cao quan trận địa
Vạn trùng sơn ủng vạn trùng vân
Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thệ diệt sài lang xâm lược quân.
Dịch:
Tặng tướng quân Trần Canh (1)
Chống gậy lên non xem trận địa
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy.
贈陳賡將軍詩抄 (二)
香檳美酒夜光杯,欲飲琵琶馬上催
醉臥沙場君莫笑,敵人休放一人回
Tặng tướng quân Trần Canh thi sao (2)
Hương tân mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi.
Dịch:
Tặng tướng quân Trần Canh (2)
Rượu ngọt sâm banh lấp lánh ly
Muốn uống, tỳ bà thúc ngựa phi
Đừng cười say nghỉ nơi trận mạc
Không tha quân địch một tên về.
贈韋國清將軍詩抄
百里尋君未遇君,馬蹄踏碎領頭雲
歸來偶過山梅樹,每朵黃花一點春 Tặng Vi Quốc Thanh tướng quân thi sao
Bách ký tầm quân vị ngộ quân,
Mã đề đạp toái lãnh đầu vân,
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ,
Mỗi đóa hoàng hoa nhất điểm xuân.
Dịch nghĩa:
Tặng Vi Quốc Thanh tướng quân
Trăm dặm đi tìm ông mà chưa gặp ông,
Vó ngựa xéo nát đám mây đầu núi,
Trở về, bỗng đi qua cây mai già trên núi,
Mỗi đóa hoa vàng điểm một nét xuân.
Mãi đến khi các tướng lãnh Trung Quốc viết nhật ký , xuất bản năm 2002 thì họ mới đưa vào Ngục Trung Nhật Ký. Hai bài này viết lúc trận Điện Biên phủ bắt đầu chứ không phải lúc HCM ngồi tù, thế mà họ bỏ vào NTNK. Thiệt là phản động hết sức! ( HỒI KÝ CỐ VẤN TRUNG QUỐC )
Mấy bài thơ này khác những bài thơ trongNTNK vì lời thơ ướt át hơn, lại chịu ảnh hưởng của Đường thi khá nhiều! Phải chăng đây lại là một HCM khác?
Tác phẩm " Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo" của Hồ Tuấn Hùng là một tiếng sét giữa trời làm cho bao nhiêu người kinh tâm táng đởm, nhưng nó cũng gây bất bình ở một số người vì Hồ Tuấn Hùng đã lột mặt nạ của thần tượng họ. Tóm lại, qua công trình khảo cứu của Hồ Tuấn Hùng, chúng ta nhận thấy những điểm quan trọng sau:
+1. Nguyễn Ái Quốc đã chết vì ho lao năm 1932
+2. Người đóng vai Hồ Chí Minh từ sau 1932 là Hồ Tập Chương, sinh năm 1909, nhỏ hơn NAQ 10 tuổi, là người Đài Loan, được Liên Xô huấn luyện đưa về Việt Nam cầm đầu đảng Cộng sản Việt Nam trong âm mưu biến Việt Nam thành tay sai Nga Tàu.
+3. Tìm hồ sơ tại Liên Xô, Hồ Tuấn Hùng thấy trong thời gian 1933 về sau, Hồ Chí Minh học Pháp văn và tiếng Việt. Nếu là người Việt Nam, Hồ Chí Minh không cần phải học hai thứ này, trong khi đó không có giấu tích học Trung văn, tập thư pháp.
+ 4. Trước 1932, NAQ phải học tiếng Hoa, và không thấy có tác phẩm nào viết bằng Trung văn. Thế mà sau 1932, nhất là sau 1945, thơ văn Trung văn xuất hiện rất nhiều. Sự kiện này cho thấy NAQ và HCM là hai người khác nhau.Ta cũng nên biết thêm, tuy giỏi văn thơ Việt Nam và đã học Hán văn nhiều, Trần Tế Xương, Tản Đà, Phan Khôi rất ít khi viết văn thơ chữ Hán!
+5. Truyện tình Nguyễn Thanh Linh, Lâm Y Lan coi như chồng chất lên nhau để buộc NAQ và HCM làm một. Phải chăng NAQ đã chết thật nên Nguyễn Thị Minh Khai lấy Lê Hồng Phong, và NAQ , Hồ Chí Minh là hai người khác nhau cho nên trong đại hội VII cộng đảng Liên Xô, NTMK thờ ơ với HCM? Cộng đảng bào chữa đó là đám cưới giả, nhưng cần gì phải làm đám cưới giả?
+6. NTNK và di chúc có nhiều sửa chữa cho nên mất tính chất chính xác. Tuy nhiên, do sự sửa chữa của cộng đảng, ta thấy rõ NAQ và HCM là hai người khác nhau, và trình độ khác nhau.
Bên cạnh những sự kiện kể trên, chúng ta có thể bổ túc một vài sự kiện khác.
+1. Tại sao sau vụ GS Lê Hữu Mục và Hồ Tuấn Hùng tố cáo, chính phủ và bộ Tuyên truyền cộng sản im lặng rất lâu chứ không hung hãn chửi bới như thường lệ?
+2. Phải chăng Trần Dân Tiên viết về HCM là để đề cao mình, bắt nhà văn nhà báo và nhân dân tôn sùng mình, và cũng để nối NAQ và HCM làm một.
+3.Qua các hình ảnh, ta thấy có nhiều HCM khác nhau. Luận cứ của Hồ Tuấn Hùng củng cố thêm niềm tin có nhiều HCM giả.Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Hoàng Văn Hoan kề cận sao lại không biết. Biết nhưng họ thủ thân "im lặng là vàng".
+ 4.Hoàng Văn Chí cho biết khoảng 1941, HCM đột nhiên xuất hiện tại nhà riêng của Nguyễn Khánh Toàn ở Nga, và Hoàng Văn Chí thuật lại như sau:
Như đã tường thuật trong Chương 3, ông Hồ lên đường sang Trung Hoa vào mùa xuân năm 1941; cùng đi với ông có Nguyễn Khánh Toàn. Nhưng cùng ngồi trên xe lửa, ông Hồ nhận thấy Toàn đã mất hết tác phong cách mạng, một điều mà ông quả thực không ngờ. Trong 15 năm sống ở Moscou, Toàn được hưởng quy chế “chuyên viên ngoại quốc”, sống một cuộc đời thảnh thơi với một số lương to hơn lương người bản xứ. Thấy Toàn ăn uống luôn mồm ông Hồ biết là Toàn đã quen thói phong lưu, không thể nào chịu đựng sự gian khổ của một người cách mạng hoạt động trong bóng tối. Vì vậy nên đặt chân đến Diên An, ông Hồ liền thu xếp với Mao gửi Toàn ở lại và hẹn với Toàn là sẽ nhắn Toàn về khi nào cách mạng thành công. Toàn biết vậy và vui vẻ ở lại. (4)
Đây là HCM viện cớ bắt Nguyễn Khánh Toàn ở lại để bịt miệng. HCM chỉ cần NKT về Diên An và giới thiệu với Trung Cộng đây là HCM là đủ. Vạn sự khởi đầu nan, đưa người bép xép có thể làm lộ chuyện. NKT biết NAQ giả mạo hay không? Biết cũng không dám "tiết lộ bí mật của đảng", là tội đáng phanh thây! Sau này NKT viết nhật ký, nội dung là để giới thiệu NAQ-HCM là một người. Có như vậy, NKT mới được làm thứ trưởng, nếu không thì y đã được đảng đặc cách cho đi mò tôm ở sông Hương hay bón phân cho cây núi Ngự Bình!
+5. HCM muốn giấu thân phận nên không tiếp xúc hoặc lạnh lùng với anh chị. Hoàng Văn Chí viết:
Anh ruột ông Hồ là Nguyễn Tất Đạt, thường gọi là ông Cả Đạt. Ông học tài thi phận nên kiếm ăn bằng nghề gõ đầu trẻ. Năm 1946, nghe tin ông Hồ đã trở thành chủ tịch chính phủ, hay nói đúng hơn, chủ tịch Hồ Chí Minh chính là em ruột ông, ông đáp tàu ra Hà Nội mong gặp em sau hơn 30 năm xa cách. Nhưng hồi ấy ông Hồ còn đang dấu tung tích nên không dám tiếp ông anh ở Bắc Bộ phủ. Ông gửi ông Đạt ở nhà một người đồng hương là ông Mai Ngọc Thiệu, và tối ông đến thăm. Hai anh em trò chuyện hồi lâu, sau đó ông Đạt lẳng lặng về Nghệ. Chừng hai năm sau ông Đạt mất, không có dịp gặp ông Hồ trở lại.( sđd, Phần II, chương 3)
Tâm Trang cho biết HCM chỉ về Nghệ An hai lần, lần đầu 1957, lần thứ hai năm 1961.Bận công vụ, hay sợ lộ tung tích mà về it thế? (HCM, CXXXVIII).
Có tài liệu nói ông Sinh Khiêm ở Hà Nội mà ông HCM cũng chẳng đến thăm. Ông này mất năm 1950 vì lý do gì?Nên nhớ rằng trong khoảng 1946-1950, nhiều người đã bị giết bằng cách này hay cách nọ.
+6.Việc ông bị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ quản thúc khoảng 1963 (theo Nguyễn Văn Trấn, Viết Cho Mẹ và Quốc Hội) phải chăng bọn họ đã biết ông Hồ là "Hán gian"?
+ 7. Nhiều tài liệu khác nhau viết về giờ cuối của HCM. Trước tiên là báo Việt Nam nói về phút cuối của HCM. Họ đề cao HCM yêu dân ca, yêu nước Việt Nam . Nghệ sĩ ưu tú Quỳnh Hoa viết rất chân thành sâu sắc trong bài"Tình yêu Bác Hồ giành cho những khúc dân ca".
Đã có nhiều công trình nghiên cứu,
nhiều bài báo, lời ca, câu truyện… ngợi ca vẻ đẹp con nguời Hồ Chí Minh - đó
là vẻ đẹp của sự hoàn mỹ nhưng không xa lạ, vĩ đại mà gần gũi thân thương,
toả sáng mà ấm áp hiền hoà. Bản thân Người, cuộc đời của Người là nguồn đề
tài bất tận cho tất thảy những ai khao khát mong muốn cái đẹp “gieo mầm cho sự
sống”.. . Và trước muôn
vàn câu truyện kể về Người, trái tim tôi lại trào lên xúc cảm trước những
phút giây cuối cùng trong cuộc đời Bác – đó là câu truyện về tình yêu của
Người dành cho những khúc hát dân ca. Vào buổi sáng ngày 2/9/1969, đây
là buổi sáng cuối cùng trong cuộc đời 79 mùa xuân của Bác. Bởi sau 9 giờ sáng
hôm ấy Người thực sự bước vào “ cuộc trường chinh nhẹ cánh bay”, để lại cho
nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới một niềm đau thương, mất mát không thể
nào diễn tả nổi bằng mọi ngôn từ.
Không gian của câu truyện cũng chỉ
thu nhỏ trong căn nhà A67. Căn phòng này cách ngôi nhà sàn của Bác chỉ vài
chục bước chân. Trước đó, theo lời đề nghị của bác sỹ, để tiện cho việc theo
dõi, chăm sóc sức khoẻ của Người, ngày 18/8/1969, các đồng chí trong Bộ Chính
trị và những đồng chí trực tiếp chăm sóc Bác đã chuyển Bác xuống ở căn phòng
này.
Sau gần 20 ngày chống chọi với bệnh
tật, Bác đã yếu lắm. Nhưng hễ tỉnh lại là ngay lập tức, Người hỏi thăm tình
hình chiến đấu ở miền Nam, tình hình lũ lụt ở miền Bắc. Người còn dặn các
đồng chí trong Bộ Chính trị phải làm sao tổ chức ngày lễ Quốc khánh thật long
trọng để nhân dân vui, phải bắn pháo hoa cho nhân dân phấn khởi. Trong những
giây phút cuối cùng, đứng giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết,
đối diện với quy luật nghiệt ngã của sự tồn vong Bác vẫn luôn nghĩ cho đồng
bào, cho đất nước mà “ nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Nằm trên giường bệnh,
sáng 2/9, lúc này Người đã rất mệt, mong muốn cuối cùng của Người là được gặp
và thăm đồng bào miền Nam không thực hiện được, hơi thở của người mỗi lúc một
yếu dần. Các đồng chí trong Bộ Chính trị và các bác sỹ không ai nỡ rời xa
Người dù chỉ là một phút. Lần đầu tiên tỉnh lại sau cơn đau, Người nhìn xung
quanh rồi hỏi:
- Trong các chú có ai biết hò Huế
không?
Mọi người lúng túng nhìn nhau, quả
là một tình huống không ai chuẩn bị trước. Thường ngày, Người vẫn thường nói
“ miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”, thêm vào đó Huế vốn là mảnh đất gắn bó
cùng Người suốt một thời gian dài tuổi thơ. Giờ đây, trong những phút cuối
cùng, có lẽ Người mong muốn mang hình ảnh miền Nam yêu thương, hình ảnh núi
Ngự, sông Hương với những kỷ niệm buồn đau theo mình vào cõi vĩnh hằng bất
tử. Nỗi niềm ấy của người dường như ai cũng thấu hiểu, nhưng tìm nghệ sỹ hò
Huế lúc này thật khó.
Lần thứ hai tỉnh lại, Người lại
hỏi. Lúc này giọng người đã yếu hơn nhiều:
- Trong các chú, ai có thể hát cho
Bác nghe một làn điệu ví dặm Nghệ Tĩnh được không?
Thêm một lần nữa sự im lặng và bối
rối bao trùm căn phòng. Câu ví dặm câu hát dân ca xứ Nghệ đã bao bọc và nuôi
dưỡng tâm hồn Người từ thủa lọt lòng. Ngươì lớn lên và đi ra thế giới từ
chiếc nội văn hoá quê hương mặn mòi tình nghĩa ấy. Trước giây phút sắp biệt
ly Người khao khát được nghe, được sống trong hơi ấm quê hương.
Lần thứ ba tỉnh lại, Người ngỏ ý
muốn nghe một khúc dân ca quan họ Bắc Ninh, lần này thật may mắn khi cô y tá
bé nhỏ Ngô Thị Oanh tiến lại gần Bác: “Thưa Bác, cháu xin hát cho Bác nghe
ạ”. Với chất giọng trong trẻo của người con gái Vĩnh Phúc, chị cất lời hát “
Ngươì ở đừng về”.. Căn phòng nhỏ chìm trong tiếng hát. tiếng hát hay tiếng
lòng! Không ai phân biệt được. Chỉ biết rằng lời quan họ sâu lắng, tha thiết
quá. “ Người ơi, người ở đừng về. Mà người ơi, người ở đừng về” đã nói hộ
lòng người. Cô y tá càng hát càng ngẹn ngào, những người xung quanh không ai
cầm được nước mắt. 9 giờ 47 phút ngày 2/9/1969 trái tim vĩ đại của Bác Hồ đã
ngừng đập, để lại muôm vàn tình thưong yêu cho đồng bào cả nước. Sinh ra và lớn
lên từ trong câu hát dân ca, từ điệu ví dặm ầu ơ ngọt ngào đằm thắm của mẹ,
cuối cùng Ngươì thanh thản nhẹ nhàng bước vào cuộc trường sinh bằng âm hưởng
tiếng hát dân ca.
Sau này, trong một bài báo tôi còn
đựơc biết chị Ngô Thị Oanh, cô y tá viện quân y 108, người hát khúc hát dân
ca “ Ngươì ở đừng về” vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời Bác kể lại:
Sau khi chị hát xong, Bác Hồ nhìn chị, chị cảm giác như Bác đang mỉm cười.
Người còn bảo lấy bông hoa hồng bạch trên bàn mang tặng chị. Cử chỉ nhỏ mà ý nghĩa
thật to lớn. Cho đến phút cuối đời, quên cả nỗi đau đang vò xé, Người vẫn
giành trọn niềm yêu thương, sự quan tâm đặc biệt cho mỗi người, đặc biệt là
phụ nữ. Và bông hoa hồng nhỏ bé ấy chị đã ép khô để luôn giữ và xem nó là vật
kỷ niệm thiêng liêng theo chị suốt cả cuộc đời.
(HCM, XXIV)Cũng viết về giờ phút cuối của HCM, báo Trung Quốc trong bài "CỰU ĐẠI SỨ TQ TỪNG NHƯ THƯ KÝ RIÊNG VÀ Ở BÊN HỒ CHÍ MINH ĐẾN CUỐI ĐỜI"
Người
đó là Trương Đức Duy,phiên dịch tiếng Việt có thâm niên của nước ta,
sinh năm 1930 ở Quảng Đông, từng là Hoa kiều học tập tại Việt Nam.Năm
1954, tham gia thành lập Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, phụ trách
phần phiên dịch và điều tra nghiên cứu, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền
Trung Quốc tại Việt Nam.
Năm
1967, Hồ Chí Minh bị bệnh đến Trung Quốc nghỉ dưỡng, Trương Đức Duy làm
phiên dịch theo suốt cả thời gian này. Trong khoảng thời gian 2 năm sau
đó, Trương Đức Duy luôn ở bên Hồ Chí Minh cho đến khi Hồ Chí Minh qua
đời. ...
Trị
liệu được hơn 2 tháng, hiệu quả chữa trị rõ, Hồ Chí Minh rất hài lòng,
vì nhớ đến cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của Việt Nam, nên ngày 1
tháng 7 năm 1967 đã rời Quảng Châu quay về Hà Nội."
Trong
khoảng thời gian 2 năm tiếp đó, Tổ chăm sóc y tế còn từng 3 lần đến Hà
Nội chữa bệnh cho Hồ Chí Minh. Mùa hè năm 1969, Hồ Chí Minh muốn để cho
Tổ chăm sóc y tế được về Trung Quốc nghỉ phép 1 tháng, tiện thể nhờ
Trương Đức Duy mang thư đến cho Thủ tướng Chu Ân Lai luôn.
Vào
trung tuần tháng 8 năm đó, Hồ Chí Minh ra ngoài đi thị sát đột nhiên bị
cảm, dẫn đến viêm phế quản cấp, từng bị choáng mất một lúc. Cả bệnh tim
và bệnh mạch máu não cùng phát, tiếp đến viêm phế quản chuyển thành
viêm phổi cấp.
Bắt
đầu từ ngày 25 tháng 8, Bắc Kinh điều sang thêm liên tiếp 2 tốp chuyên
gia và đội chăm sóc y tế Đông, Tây y…, mang theo các loại thuốc cấp cứu
và dụng cụ đáp chuyên cơ tới Hà Nội. Các thầy thuốc Trung Quốc thay
phiên túc trực ngày đêm bên giường bệnh Hồ Chí Minh, đã dùng một loạt
các biện pháp trị liệu, nhưng đều không thấy có hiệu quả.
“Tôi
còn nhớ rất rõ, trong những ngày tháng cuối cùng ấy, ông cụ tỏ ra rất
yên lặng”. Trương Đức Duy nói, ông luôn ở trước giường Hồ Chí Minh, có
lần Hồ Chí Minh bị hôn mê khi tỉnh lại, nhìn thấy hộ lý Trung Quốc đứng
bên giường còn yêu cầu các cô hát.
Hai cô hộ lý liền khẽ hát bài hát “Ca ngợi xã hội chủ nghĩa” đã quen thuộc với mọi người.
Hồ Chí Minh nghe xong mỉm cười gật đầu, mãn nguyện chìm vào giấc ngủ.
Hồ Chí Minh nghe xong mỉm cười gật đầu, mãn nguyện chìm vào giấc ngủ.
Rạng
sáng ngày 2 tháng 9, Hồ Chí Minh đã không còn tự chủ được hơi thở, tim
ngừng đập hoàn toàn. Các bác sĩ Trung Quốc đã sử dụng mọi loại thiết bị,
nhưng cuối cùng vẫn không thể hồi phục được nhịp tim cho ông cụ.
Ba
tốp chuyên gia chăm sóc y tế do Chu Ân Lai lệnh điều thêm vào ngày hôm
đó còn chưa kịp tới Hà Nội thì tử thần đã cướp đi mất sinh mạng của Hồ
Chí Minh. Đồng hồ điểm đúng 9 giờ 47 phút ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ
Chí Minh đã không vượt qua nổi cái mốc 79 tuổi. (Nguồn: “Báo Pháp chế buổi chiều”)
(HCM, XXIII )Gần đây, một người lớn lên trong thiên đàng XHCN đã viết cảm xúc của mình trong ngày " bác đi xa" . Đó là Mẹ Nấm trong bài "Đâu Mới Là Sự Thật?"
Trong năm học cuối cấp 2, mình có một buổi ngoại khóa tìm hiểu về dân ca - ca dao Việt Nam, cô giáo mình đã hát và giới thiệu bài hát "Lời Bác dặn trước lúc đi xa" - của nhạc sỹ Trần Hoàn - để làm ví dụ minh họa cho giá trị tinh thần vô giá của kho tàng ca dao - tục ngữ - dân ca Việt Nam.
Khi Internet xuất hiện, mình có đọc ở đâu đó bản tin
về việc "nghe nhạc trên giường bệnh của Hồ Chí Minh, nó hoàn toàn trái
ngược với những gì mình được nghe, được học. Mình nhớ là mình có đem
việc này trao đổi với vài người lớn và họ bảo mình thật là vớ vẩn
khi đi tin vào mấy tờ báo "phản động".
Khi search trên Google sự ra đời của nhạc phẩm "Lời Bác
dặn trước lúc đi xa" nó ra thế này:
“Chuyện kể rằng trước lúc Người đi xa... Bác muốn nghe
một đôi làn quan họ. Ôi may sao bỗng có em gái nhỏ... Rồi căn phòng xao
động trong
nước mắt. Những lời ca nức nở tái tê, rằng Người ơi Người ở đừng về...” -
Những ca từ trong bài hát: “Lời Bác dặn trước lúc đi xa” của nhạc sỹ
Trần Hoàn mỗi
khi cất lên đã làm lay động hồn người bao thế hệ kể từ khi Bác Hồ đi xa
mãi mãi.
Nhưng hẳn nhiều người còn chưa rõ, nhân vật “em gái nhỏ” ngoài đời đó là
ai?...
Hạnh phúc bất ngờ
Chúng ta đều biết rằng, ngày 2-9-1969, Bác Hồ - vị Cha già
của dân tộc đã vĩnh biệt đồng bào, đồng chí, mãi mãi đi vào cõi vĩnh hằng. Những
giây phút cuối cùng bên giường bệnh của Người là một câu chuyện thật giàu chất nhân
văn, mỗi lần nghe đến, ai cũng thấy nao lòng. Một trong những câu chuyện lịch sử
thật cảm động này là nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ Trần Hoàn sáng tác ca khúc “Lời
Bác dặn trước lúc đi xa”. Trong ca khúc của Trần Hoàn có nhân vật “em gái nhỏ” đã
hát khúc dân ca trong một hoàn cảnh đặc biệt, chính là chị Ngô Thị Oanh, quê ở vùng
đất bãi Yên Lạc - Vĩnh Phúc, nguyên y tá Viện Quân y 108 (nay là Bệnh viện
Trung ương Quân đội 108).
Về những giờ phút cuối cùng bên Người, chị Ngô Thị Oanh
kể, năm đó, chị vừa tròn 20 tuổi, là y tá công tác tại khoa phòng mổ Bệnh
viện 108. Ngày 22-8-1969, Chính uỷ Viện 108, Lê Đình Lý gọi 4 người, gồm có bác
sĩ chủ nhiệm khoa Nguyễn Xuân Bích, bác sĩ Lê Phúc và 2 y tá Trần Thị Quý và Ngô
Thị Oanh chuẩn bị đi làm nhiệm vụ đặc biệt. Khoảng 18 giờ ngày 23-8, cả đoàn lên
chiếc xe hồng thập tự đi làm nhiệm vụ mà không biết đi đâu. Vào đến Phủ Chủ tịch,
mọi người mới biết được vinh dự vào chăm sóc sức khoẻ Bác. Một lát sau, đồng chí
Vũ Kỳ, thư ký của Bác Hồ đến nói với mọi người trong tổ công tác: “Mấy hôm nay Bác
mệt, cấp trên yêu cầu các cô, các chú đến chăm sóc sức khoẻ Bác”.
Nghe đồng chí Vũ Kỳ phổ biến về nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ
Bác Hồ thì chị Oanh và mọi người... run lên vì hạnh phúc đến quá bất ngờ. Đêm đầu
tiên tại Phủ Chủ tịch, mọi người không ai ngủ được vì niềm hạnh phúc sắp được ở
bên người Cha kính yêu của dân tộc. Sáng hôm sau, đồng chí Vũ Kỳ đưa đoàn vào gặp
Bác. Bác mệt, nằm trên chiếc giường gỗ. Đồng chí Vũ Kỳ vẫy hai chị em gồm
Oanh và Quý đến bên giường, giới thiệu với Bác: “Đây là hai y tá của Bệnh viện Quân
đội 108 vào chăm sóc sức khoẻ Bác”.
Bác xua tay nói: “Chú đừng làm phiền đến các cháu. Còn chiến tranh, để các cháu phục vụ thương bệnh binh. Sức khoẻ Bác chưa đến nỗi...”. Nhưng hai nữ y tá Oanh, Quý vẫn được ở lại phục vụ Bác thường xuyên, cho đến ngày Người ra đi...
Bác xua tay nói: “Chú đừng làm phiền đến các cháu. Còn chiến tranh, để các cháu phục vụ thương bệnh binh. Sức khoẻ Bác chưa đến nỗi...”. Nhưng hai nữ y tá Oanh, Quý vẫn được ở lại phục vụ Bác thường xuyên, cho đến ngày Người ra đi...
“Những lời ca nức nở, tái tê...”
Chị Oanh còn nhớ, sáng sớm 2-9, Đại tướng Võ Nguyên Giáp
vào thăm Bác. Bác hỏi: “Sáng nay các chú tổ chức đồng bào mít-tinh thế nào?” Một
lần, Bác đang hỏi chuyện về vùng quê Yên Lạc, Vĩnh Phúc của chị thì đồng chí Vũ
Kỳ đi vào. Là người giúp việc Bác từ những ngày đầu cách mạng, nên đồng chí Vũ Kỳ
hiểu được tâm nguyện của Bác lúc này. Ông nói với chị Oanh: “Cô có biết hát thì
hát Bác nghe?” Tuy chưa bao giờ hát đơn ca, chỉ thỉnh thoảng tham gia văn nghệ quần
chúng ở đơn vị, nên chị Oanh có vẻ ngập ngừng. Thấy vậy đồng chí Vũ Kỳ động viên:
“Cô cứ mạnh dạn lên”.
Chị Oanh thoáng nghĩ điều hạnh phúc được vào phục vụ
Bác, giờ lại được hát cho Bác nghe, hạnh phúc càng được nhân lên. Chị mạnh dạn xin
phép Bác hát bài: “Chiến sĩ quân y làm theo lời Bác” của nhạc sỹ Đỗ Niệm. Hát xong,
đồng chí Vũ Kỳ động viên: “Cô có thuộc bài dân ca nào thì hát tiếp đi nhé!...”.
Lần này, mạnh dạn hơn, chị Oanh hát bài dân ca quan họ Bắc Ninh: “Người ơi, người
ở đừng về”. Trong tâm trạng bùi ngùi, lo lắng trước sức khoẻ của Người,
chị Oanh chẳng thể hát trọn khúc dân ca, nhưng vẫn được Bác động viên, vỗ tay và
bảo đồng chí Vũ Kỳ lấy bông hồng đang cắm trong lọ tặng chị. Được Bác tặng hoa,
chị Oanh sung sướng và hạnh phúc vô cùng, cứ đứng ngây ra, ấp úng mãi mới nói được
nên lời cảm ơn Bác...
Sau này, trong một lần nhạc sĩ Trần Hoàn được nghe đồng
chí Vũ Kỳ kể câu chuyện về cô y tá hát dâng Bác khúc dân ca quan họ “Người ơi người
ở đừng về”, tâm hồn người nghệ sĩ bỗng dâng trào cảm hứng sáng tác. Không lâu sau
đó bài hát “Lời Bác dặn trước lúc đi xa” ra đời với những cảm xúc thiết tha, lay
động lòng người. Điều đáng nói là dù giai điệu mà hầu như người dân nước Việt nào
cũng thuộc lòng: “Bác muốn nghe một đôi làn quan họ. Ôi may sao bỗng có em gái nhỏ...
Rồi căn phòng xao động trong nước mắt. Những lời ca nức nở tái tê, rằng Người ơi
Người ở đừng về...” mà Nhạc sĩ Trần Hoàn sáng tác ra khi mới chỉ nghe kể về cô gái,
chưa một lần gặp mặt. Một thời gian sau, ông quyết định đi tìm cô gái để thoả mãn
lòng mong mỏi của khán thính giả nghe nhạc. Và nhạc sĩ đã gặp cô tại Viện Quân y
108 trong trang phục nữ chiến sĩ áo trắng...
Bông hồng trắng buổi ấy cùng một vài kỷ vật khác trong những
ngày cuối cùng bên Bác, chị Ngô Thị Oanh giữ gìn như báu vật. Cho đến tận bây giờ,
mỗi lần nghe ca khúc của nhạc sĩ Trần Hoàn, chị lại chan chứa nước mắt..."
Hôm qua, được đọc một bài báo cũng nói về "hoàn cảnh
nghe nhạc" trước lúc ra đi của Hồ Chí Minh, trên trang Quân Đội Nhân Dân
Việt Nam, mình thấy phân vân quá.
Ba lần Bác cười trước lúc đi xa
QĐND - Thứ Hai, 25/01/2010, 20:33 (GMT+7)
“...Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã rời xa chúng ta,
nhưng hình ảnh ba lần nhìn thấy nụ cười hiền hậu của Người mãi khắc sâu trong tôi.
Sự nhẹ nhàng thanh thoát, những ngôn ngữ, cử chỉ thân thiết của Người, tôi luôn
mang theo suốt cuộc đời...”.
Là y tá trưởng của Bệnh viện Bắc Kinh, từ những năm 60 của
thế kỉ trước, tôi làm công tác chăm sóc sức khỏe bên cạnh Thủ tướng Chu Ân Lai.
Tiếp nhận chỉ thị của Thủ tướng Chu Ân Lai, tôi được phân công vào đội ngũ chăm
sóc sức khỏe Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày 24-8-1969, trời Bắc Kinh oi nồng, không một chút gió.
Đêm xuống, tôi giội ào một cái cho mát, chuẩn bị lên giường đi ngủ. Đột nhiên nghe
tiếng gõ cửa dồn dập. Tôi vội dậy mở cửa. Thì ra là người của bệnh viện tới, nói
rằng: “Có việc khẩn, lập tức lên đường”.
.......
Bác mỉm cười sau khúc hát của tôi
Ngày 31-8-1969, bệnh tình của Bác đột nhiên tăng lên. Hôn
mê không tỉnh. Các chuyên gia bình tĩnh, kịp thời đưa ra biện pháp cấp cứu phù hợp.
Bác sĩ Hồ Húc Đông xuyên kim vào tim Bác để bơm thuốc trợ lực tim. Thành công rồi!
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ từ tỉnh lại, Bác mở mắt ra, nhìn khắp một lượt các y, bác
sĩ trong phòng. Mọi người cảm động không nói nên lời. Tổ trưởng Trương Hiếu lại
gần bên Bác, khẽ gọi: "Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, Người thấy trong mình hiện giờ
thế nào? Còn chỗ nào chưa thấy thoải mái?". Bác khẽ lắc đầu, một lúc sau Bác ra
hiệu muốn ăn một chút.
Chiều hôm đó sức khỏe của Bác đã có chuyển biến tốt lên
một chút, Bác nói muốn nghe một câu hát Trung Quốc. Các đồng chí đề nghị tôi
hát. Tôi nói thật là hát cũng không tốt lắm, nhưng để vui lòng Bác, vì tình hữu
nghị Trung-Việt, tôi đã hát một bài hát mà nhiều người thuộc và hát được, bài hát
có nội dung chính là ra khơi xa phải vững tay chèo. Bác nghe xong rất vui, Bác
nở nụ cười hiền từ. Bác nắm nhẹ tay tôi, tặng tôi một bông hoa biểu thị cảm ơn.
Đó là lần thứ ba tôi thấy Bác cười. Và đó cũng là nụ cười cuối cùng của Người.
Sáng ngày 2-9-1969, trái tim Chủ tịch Hồ Chí Minh ngừng
đập. Người đã vĩnh viễn đi xa. Chúng tôi không cầm được nỗi buồn, nước mắt tuôn
trào. Đứng bên giường bệnh của Người, vô cùng buồn thương… và từ biệt Người. Ngày
9-9-1969, toàn bộ tổ chữa trị đã cùng lãnh đạo và nhân dân Việt Nam tham gia lễ
truy điệu được cử hành tại Hội trường Ba Đình. Hai ngày sau chúng tôi rời Hà Nội
về nước. Để ghi nhận công lao của các bác sĩ, y tá trong các tổ y tế đã tham gia
chữa trị cho Bác Hồ, Chính phủ Việt Nam đã tặng nhiều huân chương cao quý cho thành
viên trong tổ y tế.
* Vương Tinh Minh, y tá trưởng Bệnh viện Bắc Kinh, thành
viên Tổ bác sĩ Trung Quốc sang Việt Nam chữa bệnh cho Bác Hồ, tháng 8-1969.
NGUYỄN HÒA biên dịch
(HCM, XXV)
Qua
các tài liệu trên, chúng ta sẽ thấy vô cùng phức tạp. HCM giờ cuối nghe
nhạc Việt hay nhạc Tàu? Tại sao người Trung Quốc "săn sóc" HCM cho đến
phút cuối? Phải chăng sợ bể mánh? Tại sao Việt Nam lại nói khác?Vì họ
cũng phải giấu diếm. Việt Nam ta lúc này sống trong lãnh đạo tập thể, làm ăn tập thể cho nên nói dối cũng là tập thể!
Cả một tập thể dối trá từ HCM, Trần Hoàn, Vũ Kỳ, Quỳnh Hoa,Ngô Thị Oanh
và đảng...đều là một tập thể dối trá, gian lận. Chúng ta ở địa cầu
nhựng sự thực chúng ta đang ở cung Trăng của chú Cuội!
+8. Có tin thông báo cháu của HCM về thăm Đài Loan:
Cháu Nội Hồ Chí Minh Thăm Đài Bắc
Đăng ngày: 04:52 24-01-2010
TAIPEI (VB, Trần Đông Đức) Hồ Chí Minh có vợ con, không phải là
chuyện bí mật đối với các sở tình báo Trung Quốc, Đài Loan, Liên Xô.
Điều này đã được viết trong nhiều sách và tài liệu, mặc dù còn bị bưng
bít ở VN. "Cháu nội của Hồ Chí Minh thăm viếng Đài Loan" là bản tin đặc
biệt của nhà văn Trần Đông Đức, dịch từ công báo Đài Bắc Huyện Phủ,
Trung Ương Xã Đài Loan. Toàn văn bản tin như sau.
Lời giới thiệu: Trong lúc dân Việt Nam trong nước chưa được quyền bàn
tới những bí ẩn về chuyện Tổng bí thư ĐCS Việt Nam Nông Đức Mạnh là con
của Hồ Chí Minh, thì tại Đài Loan - Nhân chuyến viếng thăm của Trần
Phương, con ruột của Nông Đức Mạnh hiện đang làm trưởng uỷ hội dân tộc
thiểu số, xử lý thường vụ quốc tế được báo chí Đài Loan đưa tin "Trần
Phương, cháu nội của lãnh tụ Hồ Chí Minh" một cách rất bình thản.
Thông tin này coi cá nhân của Trần Phương như là một yếu nhân của
Việt Nam đã đến Đài Loan hai lần và người đó là con của Nông Đức Mạnh.
Có dư luận cho rằng Nông Đức Mạnh cũng đã từng để báo chí ngoại quốc
"bắn tiếng" giùm có quan hệ cha con với Hồ Chí Minh và sử dụng lá bài
huyền thoại tinh thần để đạt được mục tiêu chính trị. Đến đời con cháu
cũng làm tương tự.
Báo chí Đài Loan không để ý hoặc cố ý nhấn mạnh chuyện Nông Đức Mạnh
là con ngoại hôn của Hồ Chí Minh. Chúng tôi xin dịch bản tin này lưu trữ
lại trong website của huyện phủ Đài Loan từ tháng trước. Mọi suy đoán
về nhân vật Trần Phương, dụng ý và tham vọng của cha con Nông - Trần xin
giành cho độc giả. Chúng tôi hy vọng có nhiều nhân sĩ trong nước sẽ
kiểm chứng được thông tin về con cái của Nông Đức Mạnh và chức vụ họ
đang nắm tại Việt Nam.
Khi dịch bản tin chúng tôi không có tư liệu để rà soát tên chính xác
của bộ phận cơ quan và chức vụ mà Trần Phương đang nắm giữ, chỉ mô phỏng
địa vị theo bản tin Hoa Ngữ.
Bản tin của Trung Ương Xã, do ký giả Hoàng Húc Thăng tại Đài Bắc Huyện Phủ báo đề ngày 24/09/2004.
Cháu nội của Hồ Chí Minh, Trần Phương tới thăm Huyện Phủ Đài Bắc quan sát sự phát triển thành thị.
Trần Phương, xử lý trưởng uỷ ban dân tộc thiểu số, xử lý thường vụ
quốc tế của Việt Nam hôm nay (09/24/2004) đã tới thăm huyện phủ Đài Bắc.
Phó huyện trưởng Tăng Tham Bảo tiếp đón và giới thiệu kinh nghiệm phát
triển của huyện Đài Bắc. Trần Phương là con của hiện nhiệm tổng bí thư
Nông Đức Mạnh, là nhân viên tiếp ban chính trị góp ý trợ giúp cho phụ
thân của mình. Ông nội của Trần Phương là Hồ Chí Minh, lãnh tụ tinh thần
của Việt Nam. [Tha đích tổ phụ thị Việt Nam tinh thần lãnh tụ Hồ Chí
Minh].
Trần Phương nói rằng vài năm gần đây, người ngoại quốc đầu tư tại
Việt Nam như thương nhân Đài Loan tỉ lệ rất cao. Ông ta nói rằng chính
phủ Việt Nam đặc biệt chú ý đến ba hạng sản nghiệp như cơ giới, điện tử
và nông nghiệp. Đối với hoàn cảnh đầu tư tại Việt Nam, cần nhà cầm quyền
tại Đài Loan có lòng tin, và Trần Phương còn có ý muốn mời thủ trưởng
huyện phủ Đài Bắc đến viếng thăm Việt Nam.
Trần Phương đến Đài Loan lần này là lần thứ hai. Ông ta nói: làng
thôn Việt Nam còn quá bần cùng, so với sự giàu có của nông dân Đài Loan.
Cho nên đặc biệt tới đất này để quan sát tận mắt.
Tăng Tham Bảo kể rằng, trước kia còn làm trong bộ kinh tế, ông ta đã
từng tới Việt Nam, đối với hoàn cảnh đầu tư ổn định (tại Việt Nam),
trước mắt (Đài Loan) đã có nhiều dự án rất thành công.
Qua những lời giới thiệu, Trần Phương hiểu rõ khái lược về huyện phủ
Đài Bắc, chuyến đi này theo ông là tới Đài Loan cốt để học hỏi. Sau khi
về nước, sẽ dự tính tuyển chọn một thành thị nào đó học tập theo hướng
đi của Đài Bắc huyện phủ.
***Ghi chú của người dịch: Huyện Phủ Đài Bắc bao gồm cả thành phố Đài
Bắc, thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan. Việt Nam cũng như
nhiều nước không có ngoại giao với Đài Loan mà thừa nhận Đài Loan là bộ
phân của Trung Quốc theo sức ép của Trung Cộng
http://vn.360plus.yahoo.com/theodore-roosevelt/article?mid=26&fid=-1
Source: http://www.sbtn.net/default.aspx?LangID=38&tabId=193&ArticleID=51194&Page=1
SBTN: Đài Loan Loan Tin Cháu Nội Hồ Chí Minh Thăm Đài Bắc
Date: Aug 05,2010 06:20 pm
Tin
Đài Bắc - Hồ Chí Minh có vợ con, không phải là chuyện bí mật đối với
các sở tình báo Trung Cộng, Đài Loan, Liên Xô. Điều này đã được viết
trong nhiều sách và tài liệu, mặc dù còn bị bưng bít ở Việt Nam. Trong
tuần qua tờ Công báo Đài Bắc đã loan một tin cho biết cháu nội của Hồ
Chí Minh thăm viếng Đài Loan, khi cho rằng Trần Phương là con ruột
của Nông Đức Mạnh hiện đang làm trưởng uỷ hội dân tộc thiểu số, xử lý
thường vụ quốc tế đã đến thăm đảo quốc này, mà báo chí Đài Loan gọi họ
Trần là cháu nội của lãnh tụ Hồ Chí Minh một cách rất bình thản.
Báo chí Đài Loan không để ý hoặc cố ý nhấn mạnh chuyện Nông Đức Mạnh là con ngoại hôn của Hồ Chí Minh, chỉ nói Trần Phương tới thăm Huyện Phủ Đài Bắc quan sát sự phát triển thành thị, và đã được Phó huyện trưởng Tăng Tham Bảo tiếp đón và giới thiệu kinh nghiệm phát triển của huyện Đài Bắc. Bài báo viết rõ ông nội của họ Trần là Hồ Chí Minh, lãnh tụ của đảng Cộng sản Việt Nam. Họ Trần tuyên bố vài năm gần đây, người ngoại quốc đầu tư tại Việt Nam như thương nhân Đài Loan tỉ lệ rất cao, và nói nhà cầm quyền Việt Nam đặc biệt chú ý đến ba hạng sản nghiệp như cơ giới, điện tử và nông nghiệp.
Đối với hoàn cảnh đầu tư tại Việt Nam, cần chính phủ Đài Loan có lòng tin, và Trần Phương còn có ý muốn mời thủ trưởng huyện phủ Đài Bắc đến viếng thăm Việt Nam. Trần Phương đến Đài Loan lần này là lần thứ hai. Mới đây một người con khác của Nông Đức Mạnh là Nông Quốc Tuấn đã được đưa lên làm Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Bắc Giang, phụ trách công tác xây dựng Đảng. Đây là khu vực đã diễn ra cuộc biểu tình của hàng chục ngàn người chống lại Công an, khi chúng lợi dụng quyền lực đã đánh chết một thanh niên tại địa phương chỉ vì lái xe không đội nón an toàn.
Báo chí Đài Loan không để ý hoặc cố ý nhấn mạnh chuyện Nông Đức Mạnh là con ngoại hôn của Hồ Chí Minh, chỉ nói Trần Phương tới thăm Huyện Phủ Đài Bắc quan sát sự phát triển thành thị, và đã được Phó huyện trưởng Tăng Tham Bảo tiếp đón và giới thiệu kinh nghiệm phát triển của huyện Đài Bắc. Bài báo viết rõ ông nội của họ Trần là Hồ Chí Minh, lãnh tụ của đảng Cộng sản Việt Nam. Họ Trần tuyên bố vài năm gần đây, người ngoại quốc đầu tư tại Việt Nam như thương nhân Đài Loan tỉ lệ rất cao, và nói nhà cầm quyền Việt Nam đặc biệt chú ý đến ba hạng sản nghiệp như cơ giới, điện tử và nông nghiệp.
Đối với hoàn cảnh đầu tư tại Việt Nam, cần chính phủ Đài Loan có lòng tin, và Trần Phương còn có ý muốn mời thủ trưởng huyện phủ Đài Bắc đến viếng thăm Việt Nam. Trần Phương đến Đài Loan lần này là lần thứ hai. Mới đây một người con khác của Nông Đức Mạnh là Nông Quốc Tuấn đã được đưa lên làm Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Bắc Giang, phụ trách công tác xây dựng Đảng. Đây là khu vực đã diễn ra cuộc biểu tình của hàng chục ngàn người chống lại Công an, khi chúng lợi dụng quyền lực đã đánh chết một thanh niên tại địa phương chỉ vì lái xe không đội nón an toàn.
Source: http://www.sbtn.net/default.aspx?LangID=38&tabId=193&ArticleID=51194&Page=1
(HCM, XXXVI )
Tin này đã được đài SBTN và các blog loan báo, trong khi đảng Cộng sản Việt Nam im lặng.
Trong các bài báo phản đối Hồ Tuấn Hùng đáng kể nhất là bài của Bùi Tín. Ông Bùi Tín vốn mang hàm đại tá, là cựu quan lớn của triều Hồ, sau sang Paris, mang nhãn hiệu "nhân vật bất đồng chính kiến". Ông đã viết nhiều tác phẩm công kích cựu chúa nhưng qua bài "Những luận điệu hoang tưởng, bịa đặt ", chúng ta thấy "bác Hồ vẫn sống mãi trong trái tim" ông, và "không ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn ông"! Ông tức giận vì có kẻ dám "xúc phạm rất ngang nhiên và tuỳ tiện ông Hồ, coi người lãnh đạo đảng CS Việt nam không ra gì"...Các tác phẩm ông viết trước đây là mặt giả, nay mới là "Mặt Thật" của Thành Tín!
Ông viết như sau:
Theo tôi đây là một chuyện dựng đứng, bịa đặt, hoang tưởng, không có gì là nghiên cứu khoa học nghiêm chỉnh cả. Tôi đưa ra vài dẫn chứng: sau khi ông Hồ về ở Hà Nội Tháng 8-1945, bà Thanh, chị ruột ông Hồ, ra gặp ông, hai người lập tức nhận ra nhau, và ông Hồ trở lại nói hoàn toàn giọng Nghệ An, với âm sắc riêng của vùng Thanh Chương - Nam Đàn, hỏi thăm rất nhiều người trong họ đã chết và còn sống.
Bà Thanh còn nhìn hai tai ông, mũi và cằm ông, nói: "đúng là tai, mũi và cằm của thằng Coong thời trẻ".
Rồi năm 1957, khi ông Hồ về thăm quê cũ ở Kim Liên, ông đi ngay vào ngõ bên trái nhà ông khi xưa, không đi vào cổng mới làm sau này, sau đó tự ông sang lò rèn phía trái để hỏi thăm các cụ ở lò rèn xa xưa, nơi ông thường qua lại khi còn bé.
Làm sao một người Tàu quê ở đảo Đài Loan lại có thể nói tiếng Nghệ An, lại theo thổ âm Nam Đàn, và nhập vai trọn vẹn là em ruột bà Thanh, và về quê Kim Liên xa lạ, lại am hiểu địa hình và nhân vật làng quê cũ xa xưa thuần thục đến như vậy!
(HCM, LXXIII)
Người viết chỉ là thường dân, không phải tướng tá, cũng không hề qua một lớp huấn luyện về an ninh tình báo của chính quyền nào, chỉ là một kẻ ham mê tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết trinh thám. Nhưng với óc suy luận, xin được phép hỏi và trả lời những câu hỏi trên của ông. Chắc ông cũng đã biết it nhiều về KGB, về phản gián chứ không là một thư sinh ngây thơ vì nghe nói thuở thiếu thời ông đã làm sát thủ hay lãnh đạo sát thủ như Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Văn Cao...
(1). Vậy khi bà Thanh ra thăm HCM, ông có ở đó không mà biết rành đến thế? Ông có được vinh dự kề cận " bác " như Vũ Đình Huỳnh,Vũ Kỳ hay Hoàng Tùng không? Năm 1945, ông chắc chỉ là cậu thanh niên 18 tuổi, mới vào dân quân, bộ đội địa phương hay chánh quy ở nơi nào? Có được ở gần Hà Nội không? Phúc đức nhà ông, con quan lớn nhà đại phong kiến mà được khang ninh là điều hiếm có, hơn nữa còn vinh thăng đạì tá, ắt hẳn phấn đấu phi thường. Nhưng thành công là sau này, còn tháng 8-1945, tôi nghĩ ông còn chạy vòng ngoài, chưa được đặt chân vào Chủ tịch phủ. Hay là lúc này, cậu Bùi Tín thường xuyên theo cha vào thăm "bác"?
(2). Tôi đã nghe đi nghe lại các cuộn băng ghi âm thanh của "bác", tôi thấy "bác" không nói đúng giọng Thanh Chương - Nam Đàn của Nghệ An.
Næm 2004, bà Lâm Thu Vân tại Canada cho tái bän tÆp Phùng Cung
dày 375 trang, trong đó truyện Ván c© khai xuân mang tính cách Än dø.
Không gian cûa truyŒn là làng ViŒt, ngø š là ÇÃt nܧc ViŒt Nam. Nhân vÆt chính
trong truyŒn là ông Ba, là hình änh cûa HÒ Chí Minh :
Ông Ba dåt Çi tØ bao gi©,
làm gì, ª Çâu, ch£ng ai bi‰t. NgÜ©i làng ViŒt chÌ thÃy ông Ba b‡ng nhiên xuÃt hiŒn ª làng tØ
trܧc ngày NhÆt Çäo chính Pháp. ..Khi Ãy
ông ba Çã bܧc sang tu°i già, nhÜng còn tráng kiŒn l¡m.! Gi†ng nói cûa ông hÖi
lÖ l§ Xå phang ho¥c mán, Th° . . ( 68)
Phùng Cung nói đúng, Xạ phang, Mán, Thổ cũng là dân vùng gần Quảng Đông, là giống người Hẹ, người Khách gia...
Tuy nhiên bàn về việc này cũng không chính xác vì người ta đi biệt xứ lâu năm thì giọng nói có khác. Bảo rằng giọng ông Hồ đúng giọng Nghệ An thì e không đúng. Ông chỉ nói lơ lớ Nghệ An.
Hơn nữa, cái giọng của HCM trong các băng có thể là do các tài tử đóng, dù có giống giọng của "bác", cũng không phải giọng Nghệ An.
3. Bùi Tín nói rằng ông Hồ là người Nghệ an, là Nguyễn Sinh Cung cho nên đã nhận đúng đường đi lối vào nhà! Ông làm đến đại tá lại "ngây thơ cụ" như thế sao? Chuyện này dễ ợt. Ban ngày hay ban đêm, "bác Đài Loan " cải trang đi theo hướng dẫn của thủ hạ, một hai lần là nhớ ngay!
Và tiếng nói cũng vậy, luyện tập vài năm là được. Không đúng 90% thì cũng được 60% là đủ xài. Có phải thiên hạ đều là mật thám đâu mà sợ họ phát giác!Chúng ta há không nghe cô Ỷ Lan người Anh nói giọng Huế sao? Và biết bao ca sĩ ngoại quốc hát tiếng Việt, ca vọng cổ?
(4). Nếu ông Đài Loan sửa mặt mũi, tóc tai, có đủ các vết thẹo, và thuộc lòng các chuyện thời trẻ, các nhân vật trong gia đình thì không có gì lạ lùng trong thế giới trinh thám. Người ta sưu tra rồi cho gián điệp học thuộc lòng là xong ngay. Có gì đâu trò trẻ con đó mà ca tụng thần thánh!
Không
biết Bùi Tín ngây thơ hay giả ngây thơ?Nếu ông ngây thơ thì làm sao tồn
tại trong chế độ cộng sản mà lên hàm đại tá ư?Đi với bụt mặc áo cà sa,
đi với ma mặc áo giấy. Kinh nghiệm đời của ông tất phải phong phú trong
khu rừng ma quỷ cùng bao sự đời khôn dại.Như vậy lý luận của ông là
không thật với người ông. Thứ hai, lý luận và dẫn chứng chỉ là tưởng
tượng, là gian dối, cốt để biện hộ qua loa để lập thành tích bảo vệ uy
tín lãnh tụ. Ông bảo Hồ Tuấn Hùng dối trá nhưng chính ông mới là dối trá
theo truyền thống dối trá của tập đoàn cộng sản.Thứ ba là lý luận và
dẫn chứng của ông là trái với xã hội. Không lẽ ông theo cộng sản lâu năm
nên đã bị "vô sản hóa' , đánh mất truyền thống gia phong Bùi tộc và
dân tộc Việt Nam. Thông thường khi nhỏ, cha mẹ, anh chị gọi em là thằng
con , nhưng khi con em khôn lớn, trừ khi tức giận, không ai gọi con em
là thằng con. Cha mẹ gọi tôn là anh chị, còn anh chị em cũng gọi tôn là
chú, bác, cậu cô chứ không bao giò gọi bằng thằng dù là dân quê thất
học. Như xem đây đoạn đối thoại trong "Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma" của Nguyễn Khắc Trường:
Đoạn
văn trên là của con người XHCN viết về thời đạiXHCN chứ không phải thực
dân phong kiến, nó mang tính chất truyền thống văn hóa dân tộc mặc dầu
có thời theo lệnh đảng con gọi cha bằng thằng... "thằng địa chủ" và con
xưng" ông" cũng tác phẩm trên:
Vợ con Thủ đang nấu cơm, thấy Hàm, đều chào lễ phép:
- Bác sang chơi ạ
Hàm
chỉ khẽ ờ, rồi tập tễnh bước lên nhà trên. Dù là anh em ruột, Hàm cũng
giữ lề luật không bao giờ vào nhà bếp. Không nói giỗ tết, ngay ngày
thường anh em giúp nhau làm gì, đến bữa cũng chỉ có đàn ông ngồi với
nhau ở nhà trên.
- Bác ở đây chơi, em nấu
cơm bác - Vợ Thủ người sồ sề, mặt rỗ hoa chứ không được mỏng mày hay
hạt như bà Son, nhưng được cái sởi lởi, lên nhà mời.
Ông Hàm xua tay:
- Thôi tôi gặp chú ấy một tý, rồi về ngay có việc.
(ch.4)
Đến lượt mình, Phúc bước ra, mở đầu bằng câu hỏi:
- Địa chủ Đại, mày có biết tao là ai không?
Ông bố đã trả lời thế này:
- Dạ thưa tôi có biết ông, vì tôi đã trót đẻ ra ông!
Đồng chí Hùng Cường đang ngồi bàn chủ tọa phủ chiếc chăn hoa, liền đập bàn đánh rình, đứng dậy:
- Địa chủ Đại không được ăn nói xỏ xiên! Đây chính là bản chất ngoan cố của giai cấp bóc lột.(Ch.1)
Bùi Tín viết :Bà Thanh còn nhìn hai tai ông, mũi và cằm ông, nói: "đúng là tai, mũi và cằm
của thằng Coong thời trẻ". Thông
thường, buổi tái ngộ, hoặc sơ ngộ, không ai nói thế đâu! Nếu hai cha
con đi với nhau, người ta sẽ bảo:" Thằng bé giống tai, mắt bố nó quá"!
Không ai nói ông già tai mắt mũi miệng giống lúc trẻ vì đó là điều tất nhiên, trừ ra khi có sửa đổi dung mạo.
Bà Thanh nói như vậy là khi có ai đó gặp HCM và nói rằng ông Hồ không
giống Nguyễn Tất Thành khi trẻ, thì bà Thanh vì tin tưởng ,vì bị lừa mà
nói vậy.
Điều này cho thấy Bùi
Tín đã sai lầm khi viết đối thọai của bà Thanh. HCM lúc này trên 50, lại
là chủ tịch nước, sao bà Thanh dám gọi là "thằng Coong"?
Bác sĩ Trần Văn Tích đã góp ý với Bùi Tín như sau:
Trong
khi vấn đề ông Hồ Chí Minh vốn người Nghệ An là một sự kiện
lịch sử thì các chuyện do ông Bùi Tín nêu ra lại thuộc loại dật sự. Dật
sự thường là chuyện kể gọn gàng về một sự kiện thú vị, lạ lùng, có ý
nghĩa, ít người biết. Dật sự có thể mang tính chân lý lịch sử nhiều hay
ít. Vua Lê khởi nghĩa đánh quân Minh là một sự kiện lịch sử......Tuy
nhiên, cố gắng nói lên “tiếng nói ngay thật”, tôi xin thành
thực nhận rằng tôi tiếp thu các dật sự do Vũ Phương Đề, Đoàn Thị Điểm kể
một cách trung tính trong khi các dật sự do Trần Dân Tiên, Trần Huy
Liệu, Đặng Xuân Trừng kể thì tôi tiếp thu một cách âm tính. Các dật sự
do ông Bùi Tín kể cũng được bộ não tôi ghi nhận theo cách thứ hai. Tôi
rất tiếc, nhưng biết sao hơn, “rằng quen mất nết đi rồi“. Tuy
nhiên nay được đọc dật sự về chuyện hai tai, hai mắt và cằm của chú bé
hồi nhỏ tên Coong với nhiều chi tiết mới thì tôi chuyển sang tin dật sự
liên hệ hơn trước chút chút. Nhưng chuyện ông Hồ nói tiếng Nghệ An theo
đúng thổ âm Nam Đàn thì tôi lại vẫn chưa có thể tin ông Bùi Tín nhiều
hơn. Với những thủ đoạn độc đáo của các cơ quan phản gián, khi có được
một thời gian dài hằng chục năm, kế hoạch đào tạo ra một người nói đặc
giọng Nghệ An không phải là bất khả thi. Nếu người Tàu bắt cóc vài ba
thanh niên thanh nữ Thanh Chương Nam Đàn rồi đem về cho “tam cùng” với
nhân vật được chỉ định đóng vai ông Hồ thì người lên ngôi Chủ tịch nước
Việt Nam sau này có thể nói đặc giọng Nghệ An lắm. Cựu Thủ tướng nước
Đức Gerhard Schröder có người chị họ tên Renate G. sinh sống trong vùng
Đông Đức cũ và được cơ quan Stasi (Mật vụ Đông Đức) tuyển làm nhân viên
Toán 26, Ban 5, qui tụ mười bốn điệp viên. Chỉ cần hai năm, Stasi rèn
luyện chu đáo, huấn nghệ kỹ lưỡng để bà trở thành một mật báo viên đắc
lực nói lưu loát tiếng Anh đúng giọng Oxford của giới ngoại giao. Phản
gián Bắc Hàn từng bắt cóc nhiều người Nhật Bản để các điệp viên của họ
thực tập sống theo cách Nhật (HCM, XIX)Để cố tô vẽ một điều hoang tưởng thành sự thật, nhà xuất bản Đài loan khoe rằng tác giả là nhà nghiên cứu lịch sử nghiêm chỉnh(!), có 30 năm là giáo sư ở Khoa sử Đại học Quốc gia Đài loan, người cùng dân tộc Miêu Lật với ông Hồ Tập Chương ( là ông Hồ giả), đã nghiên cứu kỹ các hồ sơ của Anh, Nhật, Trung hoa, Việt nam trong nhiều năm trời...
Họ làm như thế để làm gì ? Để bán sách? Một giả thuyết nữa, hay là những người có tư tưởng bành trướng Đại Hán bên Tàu muốn chuẩn bị tư tưởng cho dân Việt để - trong một tương lai gần hay xa, Việt nam sẽ "tình nguyện" một cách cưỡng bức thành một tỉnh của Trung quốc, với một lãnh tụ vốn dĩ là một người Trung quốc đặc sệt 100 % chánh hiệu(!).
Dù ra ngoại quốc nhiều năm và tỏ ra là con người giác ngộ, sự thật Bùi Tín vẫn mang nhiều ô uế, và độc hại của cộng sản. Ông cũng như Lê Đức Thọ, Lê Duẩn, Đinh Đức Thiện khinh miệt trí thức, chê bai bằng cấp và sự học hành nghiên cứu của phe tư bản.
Cái bệnh vô sản mà kiêu căng đã thấm vào cốt tủy ủa họ từ trước 1945 cho đến nay. Trương Tửu ngày xưa chỉ học tiểu học, học lỏm bỏm Mác Lê, trong khi phê phán Truyện Kiều, đã nói rằng những ai không biết Duy Vật Biện Chứng Pháp là ngu, còn ai biết Duy Vật Biện chứng pháp là thông minh tài giỏi. Kết quả gần cuối đời,ông đã thấy cái tài giỏi của Mác Lê nó áp dụng trực tiếp vào ông. Rồi sau 1975, các đồng chí vĩ đại tuyên bố họ đã tốt nghiệp đại học chống Mỹ, các ông tiến sĩ Âu Mỹ là đồ bỏ. Trên thế giới này, chỉ có giống cộng sản là ưu việt, là trí tuệ đỉnh cao của loài người. Đó là cái tính tự đắc, tự cao mà các cụ ta gọi là "tiểu nhân đăc chí tiếu hi hi". Ngoài ra họ cũng cho họ yêu nước. Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học đều sai lầm, không thông minh và yêu nước bằng họ. Sau 30-4-1975, một số người ra đi theo chương trình HO, các ông Công an và bộ Nội vụ Cộng sản đã nhìn đám sĩ quan
" ngụy" và gia đình họ bằng cặp mắt khinh bỉ và họ đã ra mặt bậc thầy dạy dỗ đám này lòng yêu nước bằng cách bắt họ nghe bản nhạc " Quê hương là chùm khế ngọt" trước khi lên máy bay! Kiêu căng nhất là Trần Văn Trà. Thắng miền Nam, Trần Văn Trà cho đó là công lao của ông, và ông thẳng cánh chê bọn trung ương đảng ngu dốt hèn nhát trong đó có các bậc đàn anh của ông như Lê Duẩn, Lê ĐứcThọ. Lãnh tụ của họ, họ còn coi khinh huống hồ tướng tá, bộ trưởng, tiến sĩ miền Nam! Cái kiêu căng, hợm hĩnh của HCM đã truyền sang con cháu ông gột rửa bao nước biển Đông cũng không sạch. Họ đề cao họ tận mây xanh trong khi vu cáo đối phương bằng trăm ngàn cách. HCM đã vu cáo nhóm đệ tứ Quốc tế ăn tiền của Đức, vu cáo nông dân nghèo là địa chủ bóc lột, vu cáo nhân dân là tay sai thực dân và cho đàn em mặc tình chém giết, Họ vu Võ Phiến lãnh đạo văn nghệ phản động ở Mỹ, và chúng ta là tay sai của Mỹ, ăn tiền của Mỹ...Nay xem văn Bùi Tín thì cũng thấy "ngựa quen đường cũ", chưa bỏ được truyền thống tâng bốc phe ta và mạ lị vu khống người trái ý mình! Cũng theo thói quen cộng sản, ông vu khống, và mai mỉa rằng nhà xuất và tác giả là hoang tưởng, vụ lợi (để bán sách), và khoe khoang rằng tác giả là nhà nghiên cứu lịch sử nghiêm chỉnh(!), có 30 năm là giáo sư ở Khoa sử Đại học Quốc gia Đài loan, người cùng dân tộc Miêu Lật với ông Hồ Tập Chương ( là ông Hồ giả), đã nghiên cứu kỹ các hồ sơ của Anh, Nhật, Trung hoa, Việt nam trong nhiều năm trời... (Trong khi đó NAQ, HCM làm bao điều gian dối, họ vẫn ca tụng không tiếc lời. Ai thẳng thắn vạch những sai trái là họ nổi thịnh nộ !)
Đi xa hơn nữa, ông vu khống Hồ Tuấn Hùng vbà nhà xuất bản làm tay sai cho Đại Hán bành trướng. Chúng ta không nghĩ như vậy. Tác phẩm của Hồ Tuấn Hùng là một tố cáo âm mưu gian xảo của Đệ tam quốc tế, trong đó có Trung Cộng đã tìm những mưu mánh gian xảo để xâm chiếm Việt Nam trong đó có việc cho một người Miêu Lật đóng vai Nguyễn Ái Quốc để khống chế VIệt Nam và ký các văn kiện bất bình đẳng nhằm giao Việt Nam cho Trung Cộng. Như vậy là Hồ Tuấn Hùng nói lên sự thật lịch sử và chống tư tưởng và âm mưu Đại Hán xâm lược chứ không phải làm tay sai cho Trung Cộng như bao người Việt đã không theo Lê Lợi, Quang Trung mà theo Trần Ich Tắc, Chiêu Thống, Hoàng Văn Hoan..
Hồ Tuấn Hùng đã cho ta biết sự thật về Hồ Chí Minh giả mạo , và thâm kế của Nga Tàu trong âm mưu xâm lược Việt Nam và thế giới. Trong tương lại sẽ có những hồi ký tố cáo HCM giả mạo, và việc dùng DNA sẽ xác nhận sự thực. Ngày đó sẽ không xa.
____
(1). Hoàng Anh Tuấn. Bác Hồ với Huế .http://bachovoihue.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=6
(2). Wikipedia. Hồ Học Lãm.
(3). Theo Hoàng Văn Hoan tác giả “Giọt Nước
Trong Biển Cả” xuất bản thâp niên 1980, thì suốt thời kỳ hoạt động tại Trung
Hoa, Bác đã được sự giúp đỡ nhiệt tình của cụ Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng
VN có uy tín lớn tại Trung Hoa Dân Quốc lúc đó.
Bác đây là Lý Thụy, tức Hồ Chí Minh. theo Nguyễn Văn Chức,
Năm 1927, chính quyền Trung Hoa Quốc Gia
mở chiến dịch lùng bắt cộng sản. Borodin bỏ chạy về Mạc Tư Khoa. Nguyễn Ái
Quốc bị bắt giam. Nhờ uy tín của cụ Hồ Học Lãm, y đã được phóng thích. Y
trốn về Mạc Tư Khoa, và được Mạc Tư Khoa phái sang Hương Cảng, làm việc dưới
quyền một tên CS Pháp : Hilaire Noulens (sách Tầu ghi là Ngưu Lan). (Nguyễn Văn Chức,HCM,CXXXII)
Ngày 27-10-1953 tôi từ Côn Đảo về Sài Gòn cùng với ông Bùi Văn Phái hơn 60 tuổi, bằng tàu của Hồng Thập tự Quốc tế. ..
Khoảng 20-11-1953 tôi ra đến Khu căn cứ của Thành uỷ Hải Phòng ở huyện Quỳnh Côi, Thái Bình, được Văn phòng Thành uỷ thu xếp cho ở tại nhà chú Siêu thôn Đồn Xá, Quỳnh Côi. Còn Văn phòng Thành uỷ ở thôn An Phú cách chỗ tôi ở khoảng 1 km. Đón tôi tại trạm giao thông của Thành uỷ tại Quỳnh Côi có đồng chí Vũ Kính, ... Một vài anh em được tha, hoặc vượt ngục ra trước tôi đều phải ở rất xa Thành uỷ. Chỉ có mình tôi được ở gần cơ quan Thành uỷ. Sau khoảng một tuần nghỉ ngơi cho lại sức, tôi bước vào giai đoạn thẩm tra việc bị bắt, bị tù... Thành uỷ lập riêng một tổ thẩm tra do đồng chí Hoàng Mậu, Khu uỷ viên Khu uỷ Tả Ngạn, Bí thư Thành uỷ Hải Phòng làm tổ trưởng (cựu tù chính trị Côn Đảo thời kì 1930-1936); đồng chí Lê Thành Dương, Phó ban Tổ chức Thành uỷ và đồng chí Đào Luyện, Trưởng phòng chính trị Ti Công an làm uỷ viên. Trong hơn hai tháng thẩm tra, tôi chỉ ở nhà chú Siêu thôn Đồn Xá, trừ 3 ngày phải di chuyển sang Hải Dương vì có tin địch tấn công vào Thái Bình phải tạm lánh sang huyện Ninh Giang, Hải Dương. ( ĐOÀN DUY THÀNH * HỒI KÝ I)
Xông đất nhà Tố Hữu.
(4). Hoàng Văn Chí. Từ Thực Dân Đến Cộng Sản. Phần II, ch.5)
No comments:
Post a Comment