Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday, 13 December 2016

HA NOI =ẢI NAM QUAN=

VĂN HOÁ VIỆT NAM

*



Cung CáchNgười Hà Nội bây giờ

Nguyễn Hữu Thời



Lời người viết:
Tôi sinh trưởng và lớn lên ở miền Trung, và có vợ người miền Bắc (Hà Nội). Nỗi ước mơ của tôi là có dịp về thăm quê vợ ở Hà nội; nhưng tiếc thay đã 38 năm kết hôn với nàng, tôi vẫn chưa đạt được ý nguyện. Nhân có anh bạn thân mới về thăm Hà Nội trở lại Hoa kỳ. Anh có đến thăm tôi, và kể chuyện về thăm Hà Nội. Tôi náo nức nghe anh kể, và trung thực thuật lại không thêm bớt, để hầu bạn đọc.



- Anh biết không. Tôi ăn mặc cốt sạch sẽ, thoải mái chứ không phải cho sang trọng, ăn diện bên ngòai khi đi ra phố. Tới Hà nội, tôi về ngụ tại nhà ông anh ruột tôi, chị dâu tôi người Hà nội. Anh chị tôi có chương trình cho tôi đi thăm viếng Hà nội ngày hôm sau. Nhưng tôi tranh thủ thời gian, muốn đi loanh quanh gần nhà trước đã. Tắm rửa thay quần áo xong, tôi mượn chiếcxe đạp của đứa cháu đạp lẫn quẫn quanh khu phố gần nhà cho giãn gân cốt, và quan sát quanh đó xem có gì lạ không.


Đi mấy quãng đường, tôi thấy có cái tiệm ăn bên ngòai để nhiều chậu hoa, cây kiểng trông hấp dẫn quá. Tò mò, tôi cẩn thận khóa xe, và bước vào tính kiếm cái gì ăn lót dạ. Một cô có lẽ là nhân viên nhà hàng, mặc áo dài xanh có hoa thêu nơi ngực, đứng cạnh một cậu con trai, mặc đồng phục nhà hàng. Cả hai nhìn tôi chăm chú từ đầu đến chân, cô gái bước lại gần, mặt cứ vênh lên, cất tiếng hỏi:

- Bác vào đây tìm ai?

- Xin lỗi, chứ đây không phải là nhà hàng ăn sao cô?

- Ờ! Nhà hàng ăn đấy, nhưng bác đi lộn chỗ rồi.

- Sao lạ vậy?

- Chúng tôi nghĩ Bác không đủ "tiêu chuẩn để phục vụ".

Trong lòng tôi thấy lạ lắm nhưng cũng cố hỏi để nghe thử cô bé nói gì nữa. Trong bụng tôi nghĩ, không lẽ ở Việt nam hiện nay còn kỳ thị hơn thời nội chiến Nam Bắc ở Mỹ cách đây hơn 200 năm trước sao! Tôi nhỏ nhẹ hỏi:

- Xin cô vui lòng giải thích: Tại sao tôi lại không đủ tiêu chuẩn để phục vụ?

Cô nhà hàng chưa kịp trả lời thì bên phải cửa phòng xịch mở, một người đàn ông bước ra, tay cầm xấp giấy, mặc bộ vest đen, áo sơ-mi trắng, cổ thắt nơ,để râu mép, chân mang giày da bóng láng; tiến lại chỗ tôi và hất hàm bảo:

- Nhà hàng nầy chỉ bán cho Việt kiều, khách Ngoại, và cán bộ nhà nước có đặt bàn trước.

- À! Ra là thế.

Không lẽ, tôi nói tôi là Việt kiều đây. Khi không lại xưng danh tánh ra làm gì... Người Việt trong nước hay người Việt ở nước ngoài cũng là cùng một dân tộc, một màu da, một tiếng nói mà. Sao có sự phân biệt lạ lùng như vậy. Hình như một số người ở Hà nội bây giờ họ quan niệm Việt kiều là phải mập mạp, phương phi, trắng trẻo, bụng to, nhiều đô la, ăn mặc sang trọng, tiêu tiền như quăng qua cửa sổ.

Họ đâu có biết rằng ở Mỹ dù làm bất cứ một việc gì đi nữa, một giờ đáng một giờ, và phải làm việc hết sức mình mới mong đạt được kết quả. Dù là người chủ cũng vất vả không thua gì công nhân. Các người trong tiệm nhìn thấy tôi gầy ốm, nước da lại đen, những ngón tay sần sùi, thô kệch, lại ăn mặc quá đơn giản, nếu không muốn nói là lôi thôi, áo bỏ ra ngòai, lè phè, chân mang dép Nhật cho mát, họ không muốn tiếp tôi chăng!

Tôi thấy cũng không thiết ăn uống nữa, nên chào họ rồi lặng lẽ quay lưng ra cửa, tay trái vừa giơ lên vừa kéo cánh cửa để bước ra đường. Tôi loáng thoáng nghe sau lưng tiếng nói trống không; giọng đàn ông còn rất trẻ, có lẽ của cậu đứng gần cô gái lúc nãy:

- Nhìn cái "thằng " đó tiền bạc đâu mà đòi vào đây ăn. Ăn rồi nó "lỉnh" ngay đấy. Mình laị phải bận gọi công an. Tụi đó chỉ có ăn khoai thì có! Rõ "phén" cho rồi!

Tôi xem như không nghe biết gì, và cứ bước ra chỗ để chiếc xe đạp lúc nãy mà trong lòng nghĩ ngợi lung lắm. Tôi cứ ngỡ là tôi đã đi lạc vào một xứ lạ không phải là quê hương Việt Nam ! Tôi là người Việt nam mà! Dù tôi ở Mỹ đã gần ba mươi năm rồi, nhưng những cử chỉ, những suy nghĩ, những thức ăn uống, những tập tục, tập quán hàng ngày đâu có gì thay đổi mấy trong tôi đâu!

Cậu làm việc trong nhà hàng nói câu vừa rồi, gọi tôi bằng "thằng" tuổi tác chắccũng nhỏ hơn cháu Út nhà tôi (31 tuổi). Tôi chán ngán bước lại chỗ để chiếc xe đạp lúc nãy tính đạp xe về nhà, không đi nữa, nhưng tôi không thấy chiếc xe đạp đâu, nó không có cánh mà đã bay đi rồi! Tôi nghĩ hay là tôi lầm chỗ,chắc hồi nãy mình để chỗ đàng kia. Tôi vội bước qua chỗ tôi vừa nghĩ thì gặp ngay cô bán gánh trái cây, tuổi chừng 25, 27 đang ngồi trên cái đòn gánh để dưới đất, hai chân xoạt ra, chàng hảng, thoải mái, nếu cô ấy mặc váy thì thấy rõ cái quần lót, may mà cô mặc quần dài; đang móc tiền ra lẩm nhẫm đếm.

Tôi bước lại gần, ôn tồn và lễ phép hỏi:

- Xin lỗi cô. Hồi nãy trước khi vào nhà hàng tôi vừa nói, vừa lấy tay chỉ vô nhà hàng, tôi dựng chiếc xe đạp gần đây. Cô có thấy ai tới lấy không nhỉ?

Cô ngưng đếm, mặt cương lên, ngẩng nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên như nhìn người từ hành tinh lạ, mắt láy nháy, miệng phát ra câu trả lời nhát gừng, giọng bực tức, đặc sệt, nặng thật khó nghe.

- Rõ hỏi vớ vẩn! Ai ăn không ngồi rồi ra đây ngồi gác xe cho bác phỏng! Xéo đi cho khuất mắt bà.

Tôi ngạc nhiên và nghĩ rằng vì mình thật thà hỏi thẳng, có thể cô ấy hiểu lầm tôi nghi ngờ gì chăng nên cô nổi nóng chóng như vậy. Tôi nói lời xin lỗi và tính quay đi. Cô không đáp lại, và chăm chú tiếp tục đếm bạc, xem như không có tôi còn đứng đấy, mồm nói đay nghiến: "Tiên sư nhà chúng bay! Bà đẻ ra con mà con tính "chũm" với bà hả. Tờ nầy hai ngàn mà con cứ cãi với bà là đã trả tờ năm ngàn. Đồ thối. Quỉ có tha thì Ma cũng bắt. Ngày mai sẽ biết tay bà."

Tôi quả thật không hiểu cô đang rủa ai, và nói với ai. Tiếng "chũm" nghĩa là gì! Tôi chán chường lặng lẽ bỏ đi, chậm rãi thả bộ về nhà.






Tôi đi lạc vào khu có nhiều cửa hàng bán đồ kỷ niệm cho khách du lịch, và chú ý đến một cửa hàng bên ngoài trang hoàng rất là kiểu cọ, hấp dẫn. Tôi bước vào. Cô bán hàng ăn mặc rất thời trang không thua gì các cô bán hàng son phấn trong các cửa tiệm Macye's, Boadways ở Mỹ. Nét mặt thật đẹp giống như người mẫu hay tài tử xi-nê, tuổi cỡ mười chín, hai mươi. Thấy tôi, cô vội bước lại, tươicười, vồn vã hỏi, giọng nói nhẹ nhàng, êm ả, ru ngủ, dịu dàng, ngọt ngào như mía đường Quảng ngãi. Cô ta nhỏ nhẹ, thỏ thẻ:

"-Chào anh! Anh cần mua gì để em chọn hộ."

Tôi nghĩ có lẽ mình đã đến tuổi ngễnh ngãng nên nghe lầm chăng hay cô đang hỏi cậu thanh niên nào đang đứng gần đây. Tôi nhìn quanh quất thấy không có ai, biết là cô ta nói với mình nên vờ như không nghe. Tôi cảm thấy vừa ngượng, vừa buồn cười, tuổi mình chỉ còn hai năm nữa là tới tuổi hưu (65).

Sao cô ấy gọi mình bằng anh nhỉ? Bộ mình còn trẻ lắm sao! Tôi đâu có nhuộm tóc, tôi vẫn để đầu tóc hoa râm kia mà. Tôi với lấy cái xấc tay đàn bà mân mê, săm soi, tính mua về làm quà cho bà xã Nghiệp. Cô bán hàng thấy vậy bước lại gần hơn, mùi son phấn thơm thơm dễ chịu:

- "Kìa! Anh ! nào để em chọn hộ cho."

Cô lăng xăng giới thiệu cái nầy, món kia và cứ bảo tôi mua đi. Cô tính giá hời cho. Cuối cùng cô chọn cho tôi đươc một cái xắc tay khá đẹp và dẫn tôi đến quầy trả tiền. Cô thu ngân nơi quầy hàng nở nụ cười thật tươi, hỏi han, chào đón như người thân từ thuở nào, lâu năm không gặp. Đột nhiên cô hỏi:

- Anh trả tiền đô hay tiền nội.

Tôi ngỡ ngàng đáp:

- Tiền đô! Tôi chưa có thời giờ đổi ra tiền Việt Nam.

- Được!. Tốt lắm! Lần sau anh nhớ ghé lại cửa hàng em nhé!

Tôi móc ví trả tiền, và lẩm cẩm thầm nghĩ rằng sao hai cô nầy biết mình là Việt kiều nên mới hỏi mình trả tiền đô hay tiền nội, nhưng sao những người ở nhà hàng ăn lúc nãy không nhận ra mình là Việt kiều nhỉ? Trả tiền xong, tôi chào hai cô, tay cầm cái xắc tay dợm bưóc ra ngòai. Cô bán hàng tiễn tôi và nói cho tôi vừa đủ nghe:

- Cạnh đây có chỗ "Tươi Mát", xin mời anh vào thưởng thức. Chủ là bạn em.

- Cảm ơn cô. Tôi vừa mới uống nước giải khát xong.

Tôi tiếp tục bước ra ngòai đường liền nghe tiếng cười khúc khích lẫn tiếng nói của cô tính tiền: "Cái lão già ấy "Liễn" rồi. Lão ta còn không biết "Tươi Mát" là gì! Mầy tốn công mời mọc cũng vô ích thôi". Tôi thật không hiểu nổi, mới vài phút trước đây các cô rất thân mật gọi tôi bằng anh làm tôi ngượng quá, và tỏ ra vui vẻ, săn đón, chỉ có mấy phút sau thôi, họ gọi tôi là lão già, và dùng tiếng lóng làm tôi không hiểu gì cả. Tôi lững thững, lếch thếch hỏi đường thả bộ về nhà, vừa bước tới cửa đã thấy anh chị tôi đứng chờ nơi đó trông vẻ nóng ruột lắm. Chị dâu tôi lo lắng:

- Tôi biết chú đi lạc rồi. Sao không điện thoại về nhà?

Tôi kể lại hết chuyện đi vào nhà hàng, chuyện mất xe đạp, gặp cô bán trái cây, cô bán hàng và cô thu ngân ở tiệm bán đồ kỷ niệm v..v…Cả nhà đều cười bò lăn ra, và tôi cũng thắc mắc hỏi anh chị tôi những chữ mà tôi vừa mới nghe được như: Lỉnh, Phén, Chũm, Tươi Mát, Liễn v…v…. Anh tôi giảii thích:

- Bây giờ dân ở đây họ chế ra nhiều tiếng lóng mới lắm. Chú ở ngọai quốc lâu năm nên không rõ đó thôi. Lỉnh là bỏ đi, lén lút đi, lẩn đi (ý muốn nói là ăn giựt không trả tiền bỏ đi) Phén là cút đi, đuổi đi, Chũm là lừa gạt hay nói dối. Tươi Mát là chơi gái. Còn Liễn là bất lực, là liệt dương. Còn thái độ họ đối với chú thì cũng tùy theo đối tượng thôi. Chú tiêu xài đô-la cho thật nhiều, diện đồ cho thật kẻng thì trước mặt họ, chú là Vua đấy. Thôi! Chúng ta vào ăn cơm nói chuyện.

Trong bữa ăn tôi hỏi anh tôi:

- Hồi còn đi học, em đọc trong sách báo thấy nói, và trong thực tế cũng đã gặp, cũng đã quen những người Hà nội trước năm 75 ở Sài gòn, và bây giờ ở Mỹ, họ thanh lịch lắm, ăn nói dịu dàng, ngọt ngào, cư xử rất là khả ái, cảm tình. Bạn thân em có vợ người Hà nội, chị ấy hiền lành, nhu mì, khuôn phép, nói năng dễ nghe lắm khác hẵn những người Hà Nội mà em đã gặp hôm nay ở ngòai phố.

Anh đang vui vẻ, bỗng nét mặt chùng hẳn xuống , đặt đôi đũa xuống bàn, ngẩng mặt nhìn vào khoảng không, đôi mắt xa xăm, giọng buồn buồn anh trả lời:

- Ấy là những người Hà nội trước năm 1954 đó chú. Sau hiệp định Geneve tháng 7 năm 1954, một số lớn họ đã di cư vào Nam , một số quá vãng hoặc vì sinh kế hay vì lý do gì đó họ đã đi ra khỏi Hà nội từ lâu rồi. Hà nội bây giờ chỉ còn lại một số ít người như xưa thôi. Đa số những người Hà nội giờ đây là từ các tỉnh, các vùng quê về lập nghiệp đó chú ạ. Số còn lại là cán bộ các cấp từ các nơi đổi về.

Anh tôi không nói gì nữa, đứng dậy nói lời xin lỗi mọi người, là đã dùng bữa xong, và bước vào nhà trong. Anh tôi đi rồi, chị dâu tôi lên tiếng nói:

- Biết bao giờ mình có lại được những người Hà nội năm xưa… chú nhỉ!


Nguyễn Hữu Thời

*

http://www.ledinh.sitesled.com/Bai%20Le%20Dinh%20Huu%20Thoi.html
*

NGUYỄN VĂN LUẬN * HỒI KÝ


*

HỒI KÝ CỦA MỘT NGƯỜI HÀ NỘI (Với bút hiệu tựdo (chữ thường, viết liền) ông Nguyễn Văn Luận là tác giả bài "Người tìm tự do và tượng thần tự do" đã được bình chọn trúng giải chính thức trong giải sơ kết 3 tháng ỹ. Tác giả sinh năm 1937, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Công việc: Technician hãng điện tử ở Mass. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.)

Ông Hòa là cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bị Cộng sản bắt đi tù năm 1975, sang Mỹ theo diện HO. Tôi gặp ông tại một tiệc cưới, trở thành bạn, thường gặp nhau bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương, thời thế, dù trong quá khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ Bắc.
Một lần tới thăm , cháu Thu Lan, con ông Hòa, hỏi tôi :
"Bác ở Hànội mà cũng đi tị nạn à...?"
Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười: "Cái cột đèn mà biết đi , nó cũng đi, ...nữa là bác!"
Thực ra tôi đã không trốn thoát được từ lần đầu "vượt tuyến" vào miền Nam. Rồi thêm nhiều lần nữa và 2 lần "vượt biển", vẫn không thoát. Chịu đủ các "nạn" của chế độ cộng sản trong 27 năm ở lại miền Bắc, tôi không "tị nạn", mà đi tìm Tự Do , trở thành "thuyền nhân ", đến nước Mỹ năm 1982.
Sinh trưởng tại Hànội, những năm đầu sống ở Mỹ, tôi đã gặp nhiều câu hỏi như cháu Thu Lan, có người vì tò mò, có người giễu cợt . Thời gian rồi cũng hiểu nhau.
Tôi hằng suy nghĩ và muốn viết những giòng hồi tưởng, vẽ lại bức tranh Hànội xưa, tặng thế hệ trẻ, và riêng cho những người Hànội di cư.
Người dân sống ở miền Nam trù phú, kể cả hàng triệu người di cư từ miền Bắc, đã không biết được những gì xảy ra tại Hànội, thời người Cộng sản chưa vận com-lê, đeo cà-vạt, phụ nữ không mặc áo dài.
Hiệp định Geneve chia đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng sản, tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hànội đã "di cư" vào miền Nam, bỏ lại Hànội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền mới là Việt Minh, đọc tắt lại thành Vẹm. Vì chưa trưởng thành, tôi đã không hiểu thế nào là ...Vẹm!
Khi họ "tiếp quản" Hànội, tôi đang ở Hải phòng. Dân đông nghịt thành phố, chờ "tầu há mồm" để di cư. Trước Nhà Hát Lớn, vali, hòm gỗ, bao gói xếp la liệt. Lang thang chợ trời, tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở lại. Hiệp định Geneve ghi nước Việt Nam chỉ tạm thời chia cắt, hai năm sau sẽ "Tổng tuyển cử " thống nhất. Ai ngờ Cộng sản miền Bắc "tổng tấn công" miền Nam!
Gia đình lớn của tôi, không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm chủ một hãng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi phải về Hànội học.
Chuyến xe lửa Hànội "tăng bo" tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một đoạn đường vài trăm mét , phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải phòng ùn ùn với hành lý để đi Nam, người đi Hànội là con buôn, mang "xăng" về bán. Những toa tầu chật cứng người và chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tầu, bíu vào thành toa, liều lĩnh , hỗn loạn ...
Tới cầu Long Biên tức là vào Hànội. Tầu lắc lư, người va chạm người. Thằng bé ù chạc 15 tuổi, quắc mắt nhìn tôi: "Đề nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư tưởng..!". Tôi bàng hoàng vì thứ ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt, nghe lần đầu không hiểu , để rồi phải "học tập" suốt 20 năm, "ngoại ngữ cộng sản": đấu tranh, cảnh giác, căm thù và ...tiêu diệt giai cấp! (Thứ ngôn ngữ này ghi trong ngoặc kép).
Hànội im lìm trong tiết đông lạnh giá, người Hànội e dè nghe ngóng từng "chính sách "mới ban hành. "Cán bộ" và "bộ đội" chỉ khác nhau có ngôi sao trên mũ bằng nan tre, phủ lớp vải mầu cỏ úa, gọi là "mũ bộ đội", sau này có tên là "nón cối". Hànội "xuất hiện" đôi dép "Bình Trị Thiên", người Bắc gọi là "dép lốp", ghi vào lịch sử thành "dép râu". Chiếc áo dài duyên dáng, thướt tha của thiếu nữ Hànội được coi là "biểu hiện" của "tư sản, phong kiến", biến mất trong mười mấy năm sau, vì "triệt để cách mạng". Lần đầu tiên , "toàn thể chị em phụ nữ" đều mặc giống nhau : áo "sơ mi", quần đen. Hãn hữu , như đám cưới mới mặc sơ mi trắng vì "cả nước" không có xà phòng.
Chơi vơi trong Hànội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng , Tú tài 2, cùng một số "lớp Chín hậu phương", năm sau sẽ sát nhập thành "hệ mười năm". Số học sinh "lớp Chín" này vào lớp không phải để học, mà là "tổ chức Hiệu đoàn", nhận "chỉ thị của Thành đoàn" rồi "phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!". Họ truy lùng...đốt sách ! Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn "kiểm tra", lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang "tập trung" tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm "phấn khởi", lời hô khẩu hiệu "quyết tâm", và "phát biểu của bí thư Thành đoàn": tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là ..."cực kỳ phản động!". Vào lớp học với những "phê bình, kiểm thảo...cảnh giác, lập trường", tôi đành bỏ học. Chiếc radio Philip, "tự nguyện " mang ra "đồn công an" , thế là hết, gia tài của tôi!
Mất đời học sinh , tôi bắt đầu cuộc sống đọa đày vì "thành phần giai cấp", "sổ hộ khẩu", "tem, phiếu thực phẩm" , "lao động nghĩa vụ hàng tháng". Đây là chính sách dồn ép thanh niên Hànội đi "lao động công trường", miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ bám Hànôi được 2 năm là bị "cắt hộ khẩu", ...đi tù!
Tết đầu tiên sau "tiếp quản", còn được gọi là" sau hòa bình lập lại", Hànội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ , áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ "ít cởi mở", từ "nông thôn" kéo về chiếm nhà người Hànội di cư. Người Hànội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và "chỉ thị": ăn Tết "đơn giản, tiết kiệm". Hàng hóa hiếm dần, "hàng nội" thay cho "hàng ngoại".
Âm thầm, tôi dạo bước bên bờ Hồ Gươm, tối 30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê Húc nhạt nhòa, ảm đạm, đền Ngọc Sơn vắng lặng. Chỉ có Nhà Thủy Tạ, đêm nay có ca nhạc, lần cuối cùng của nghệ sĩ Hànội. Đoàn Chuẩn nhớ thương hát "Gửi người em gái miền Nam", để rồi bị đấu tố là tư sản, rạp xinê Đại Đồng phố Hàng Cót bị "tịch thu". Hoàng Giác ca bài "Bóng ngày qua", thành "tề ngụy", hiệu đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào tổ đan mũ nan, làn mây, sống "tiêu cực" hết đời trong đói nghèo, khốn khổ. Danh ca Minh Đỗ, Ngọc Bảo, nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm gì, sống ra sao, "phân tán", chẳng ai còn gặp nhau, sợ thành "phản động tụ tập".
"Chỉ thị Đảng và Ủy ban Thành" "phổ biến rộng rãi trong quần chúng" là diệt chó. "Toàn dân diệt chó", từ thành thị đến "nông thôn". Gậy gộc, giây thừng, đòn gánh, nện chết hoặc bắt trói, rồi đầu làng, góc phố "liên hoan tập thể". Lý do giết chó , nói là trừ bệnh chó dại, nhưng đó là "chủ trương" , chuẩn bị cho đấu tố "cải tạo tư sản" và "cải cách ruộng đất". Du kích , công an rình mò, "theo dõi", "nắm vững tình hình" không bị lộ bởi chó sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi người nín thở đợi chờ thảm họa.
Hànội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải "cung cấp" một năm theo "từng người trong hộ". Mẹ may thêm chiếc quần "đi lao động " thì con nít cởi truồng. Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ ngơi, có ai ngờ bị quy là "tư sản bóc lột"? nhẹ hơn là "tiểu tư sản", vẫn là "đối tượng của cách mạng".
Nông dân có dăm sào ruộng đất gia truyền vẫn bị quy là "địa chủ cường hào"! Giáo sư Trương văn Minh, hiệu trưởng trường Tây Sơn, ngày đầu "học tập", đã nhẩy lầu, tự tử.
"Tư sản Hànội" di cư hết, chẳng còn bao nhiêu nên "công tác cải tạo được làm "gọn nhẹ" và "thành công vượt mức", nghĩa là mang bắn một, hai người "điển hình", coi là "bọn đầu xỏ" "đầu cơ tích trữ", còn thì "kiểm kê", đánh "thuế hàng hóa", "truy thu", rồi "tịch thu" vì "ngoan cố, chống lại cách mạng!".
Báo, đài hàng ngày tường thuật chuyện đấu tố, kể tội ác địa chủ, theo bài bản của "đội cải cách" về làng, "bắt rễ" "bần cố nông", "chuẩn bị thật tốt", nghĩa là bắt học thuộc lòng "từng điểm" : tội ác địa chủ thì phải có hiếp dâm, đánh đập, bắt con ở đợ, "điển hình" thì mang thai nhi cho vào cối giã, nấu cho lợn ăn, đánh chết tá điền, hiếp vợ sặc máu ...! Một vài vụ, do "Đảng lãnh đạo", "vận động tốt", con gái, con dâu địa chủ, "thoát ly giai cấp", "tích cực" "tố cáo tội ác" của cha mẹ . Cảnh tượng này thật não nùng ! Lời Bác dạy suốt mấy mươi năm : "Trung với Đảng, hiếu với dân ..." là vậy!
"Bần cố nông" cắm biển nhận ruộng được chia, chưa cấy xong hai vụ thì "vào hợp tác", "làm ăn tập thể", ruộng đất lại thu hồi về "cộng sản" .
"Toàn miền Bắc" biết được điều "cơ bản" về Xã hội chủ nghĩa là... nói dối! Mọi người, mọi nhà "thi đua nói dối", nói những gì Đảng nói. Nói dối để sống còn, tránh "đàn áp", lâu rồi thành "nếp sống", cả một thế hệ hoặc lặng câm, hoặc nói dối, vì được "rèn luyện" trong xã hội ngục tù, lấy "công an" làm "nòng cốt" chế độ.
Ở Mỹ, ai hỏi bạn: "How are you?", bạn trả lời: "I'm fine, thank you". Ở miền Bắc, thời đại Hồ chí Minh, "cán bộ" hỏi: "công tác" thế nào?, dù làm nghề bơm xe, vá lốp, người ta trả lời: "...rất phấn khởi, ra sức thi đua, lập thành tích chào mừng... các nước anh em!”
Bị bắt bên bờ sông Bến Hải, giới tuyến chia hai miền Nam Bắc, năm 19 tuổi, tôi bị giong về Lệ Thủy bởi "bộ đội biên phòng", được "tự do" ở trong nhà chị "du kích" hai ngày, đợi đò về Đồng Hới. Trải 9 trại giam nữa thì về tới Hỏa Lò Hànội, vào xà lim. Cảnh tù tội chẳng có gì tươi đẹp , xã hội cũng là một nhà tù, không như báo, đài hằng ngày kêu to "Chế độ ta tươi đẹp".
Cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ, người tù "biến chất", người tứ chiến kéo về, nhận là người Hànội, đói rét triền miên nên cũng "biến chất"! Đối xử lọc lừa, gia đình, bè bạn, họ hàng, "tiếp xúc" với nhau phải "luôn luôn cảnh giác". Hànội đã mất nền lễ giáo cổ xưa, Hànội suy xụp tinh thần vì danh từ "đồng chí"!
Nằm trong xà lim, không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy đoán "tình hình" Ánh diện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá đầu, tôi đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường, "liên lạc" được với Thụy An ở xà lim phía trước.
Thụy An là người Hànội ở lại, "tham gia hoạt động " Nhân Văn Giai Phẩm, đòi tự do cho văn nghệ sĩ, sau chuyển lên rừng, không có ngày về Hànội. Bà đã dùng đũa tre chọc mù một mắt, nói câu khí phách truyền tụng: "Chế độ này chỉ đáng nhìn bằng nửa con mắt!"
Người du lịch Việt Nam , ít có ai lên vùng thượng du xứ Bắc, tỉnh Lào Cai, có trại tù Phong Quang hà khắc, có thung sâu heo hút, có tù chính trị chặt tre vầu theo "định mức chỉ tiêu". Rừng núi bao la, tiếng chim "bắt cô trói cột", nấc lên nức nở, tiếng gà gô, thức giấc, sương mù quanh năm.
Phố Hàng Đào Hànội, vốn là "con đường tư sản", có người trai trẻ tên Kim, học sinh Albert Sarreaut. Học trường Tây thì phải chịu sự "căm thù đế quốc" của Đảng, "đế quốc Pháp" trước kia và "đế quốc Mỹ" sau này. Tù chính trị nhốt lẫn với lưu manh, chưa đủ một năm, Kim Hàng Đào "bất mãn" trở thành Kim Cụt, bị chặt đứt cánh tay đến vai, không thuốc, không "nhà thương" mà vẫn không chết.
Phố Nguyễn công Trứ gần Nhà Rượu, phía Nam Hànội, người thanh niên đẹp trai, có biệt danh Phan Sữa, giỏi đàn guitar, mê nhạc Đoàn Chuẩn, đi tù Phong Quang vì "lãng mạn". Không hành lý nhưng vẫn ôm theo cây đàn guitar. Chỉ vì "tiểu tư sản" , không "tiến bộ" , không có ngày về...! Ba tháng "kỷ luật", Phan Sữa hấp hối, khiêng ra khỏi Cổng Trời cao vút, gió núi mây ngàn, thì tiêu tan giấc mơ Tình nghệ sĩ !
Người già Hànội chết dần, thế hệ thứ hai, "xung phong", "tình nguyện" hoặc bị "tập trung" xa rời Hànội. Bộ công an "quyết tâm quét sạch tàn dư đế quốc, phản động", nên chỉ còn người Hànội từ "kháng chiến" về, "nhất trí tán thành" những gì Đảng ...nói dối !
Tôi may mắn sống sót, dù mang lý lịch "bôi đen chế độ", "âm mưu lật đổ chính quyền", trở thành người "Hànội di cư", 10 năm về Hànội đôi lần, khó khăn vì "trình báo hộ khẩu", "tạm trú tạm vắng". "Kinh nghiệm bản thân" , "phấn đấu vượt qua bao khó khăn , gian khổ", số lần tù đã quên trong trí nhớ, tôi sống tại Hải phòng, vùng biển.
Hải phòng là cơ hội "ngàn năm một thuở" cho người Hànội "vượt biên" khi chính quyền Hànội chống Tầu , xua đuổi "người Hoa" ra biển, khi nước Mỹ và thế giới đón nhận "thuyền nhân" tị nạn.
Năm 1980, tôi vào Sàigòn, thành phố đã mất tên sau "ngày giải phóng miền Nam". Vào Nam, tuy phải lén lút mà đi, nhưng vẫn còn dễ hơn "di chuyển" trong các tỉnh miền Bắc trước đây. Tôi bước trên đường Tự Do, hưởng chút dư hương của Sài gòn cũ, cảnh tượng rồi cũng đổi thay như Hànội đã đổi thay sau 1954 vì "cán ngố" cai trị.
Miền Nam "vượt biển" ào ạt, nghe nói dễ hơn nên tôi vào Sàigòn, tìm manh mối. Gặp cha mẹ ca sĩ Thanh Lan tại nhà, đường Hồ Xuân Hương, gặp cựu sĩ quan Cộng Hòa, anh Minh , anh Ngọc, đường Trần quốc Toản, tù từ miền Bắc trở về. Đường ra biển tính theo "cây", bảy, tám cây mà dễ bị lừa. Chị Thanh Chi (mẹ Thanh Lan) nhìn "nón cối" "ngụy trang" của tôi, mỉm cười: "Trông anh như cán ngố, mà chẳng ngố chút nào!"
"Hànội, trí thức thời Tây, chứ bộ...!. Cả nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở thành diễn viên, kịch sĩ giỏi!"
Về lại Hảiphòng với "giấy giới thiệu" của "Sở giao thông" do "móc ngoặc" với "cán bộ miền Nam" ở Saigòn, tôi đã tìm ra "biện pháp tốt nhất" là những dân chài miền Bắc vùng ven biển. Đã đến lúc câu truyền tụng "Nếu cái cột điện mà biết đi....", dân Bắc "thấm nhuần" nên "nỗ lực" vượt biên.
Năm bốn mươi tư tuổi, tôi tìm được Tự Do, định cư tại Mỹ, học tiếng Anh ngày càng khá, nhưng nói tiếng Việt với đồng hương, vẫn còn pha chút "ngoại ngữ " năm xưa.
Cuộc sống của tôi ở Việt Nam đã đến "mức độ" khốn cùng, nên tan nát, thương đau. Khi đã lang thang "đầu đường xó chợ" thì mới đủ "tiêu chuẩn" "xuống thành phần", lý lịch có thể ghi là "dân nghèo thành thị", nhưng vẫn không bao giờ được vào "công nhân biên chế nhà nước". Tôi mang nhẫn nhục, "kiên trì" sang Mỹ, làm lại cuộc đời nên "đạt kết quả vô cùng tốt đẹp", "đạt được nguyện vọng" hằng ước mơ!
Có người "kêu ca" về "chế độ tư bản" Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất bật hàng ngày, thì xin "thông cảm" với tôi, ngợi ca nước Mỹ đã cho tôi nhân quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa kỳ gốc Việt, hưởng đầy đủ "phúc lợi xã hội", còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về giấc mơ Cộng sản.
Chủ nghĩa Cộng sản xụp đổ rồi. Cộng sản Việt Nam bây giờ "đổi mới". Tiếng "đổi" và "đổ" chỉ khác một chữ "i". Người Việt Nam sẽ cắt đứt chữ "i" , dù phải từ từ, bằng "diễn biến hòa bình". Chế độ Việt cộng "nhất định phải đổ", đó là "quy luật tất yếu của lịch sử nhân loại".
Ôi! "đỉnh cao trí tuệ", một mớ danh từ ...! Crying face smiley emoticon
*

Y HỌC & TÂM LÝ

*

Vì sao anh ta ngoại tình ?
KHUYẾT DANH
Một vị giáo sư đã có 30 năm kinh nghiệm trong ngành y dặn sinh viên: "Khi chữa bệnh liệt dương cho người ta, trước hết các anh phải hỏi liệt dương với ai?".
Học trò ngơ ngác bảo nhau: "Tưởng đã bị liệt dương thì với ai chả liệt?". Thầy phá lên cười: "Liệt dương với vợ thì đừng chữa cho phí thuốc. Bởi vì với vợ thì ai chả liệt. Kể cả tôi".
Nhiều bà vợ vô cùng kinh ngạc khi phát hiện chồng có bồ. Có bà theo dõi phục kích bắt quả tang ở nhà nghỉ. Cô bồ trẻ nhanh chân chuồn mất chỉ còn ông chồng già lúng túng bị bà tóm được. Một tay bà túm cổ áo chồng, một tay vỗ đồm độp: "Của nhà không có à? Tôi có để ông thiếu thốn gì không? Tại sao máy nhà chạy chưa hết công suất lại đi chạy máy người?". Ông chồng cứ đứng ngây ra miệng há hốc không trả lời được.
Có bà đến tận nơi, gặp tận mắt kẻ địch, lại càng không thể nào hiểu nổi. Giá như chồng họ kiếm được người nào tài giỏi hơn, nhan sắc hơn, đã đi một nhẽ. Họ lạ lùng tự hỏi: "Nó hơn mình ở chỗ nào?". Nhan sắc không, tài cán không, tiền bạc không, mà có khi cả tuổi trẻ cũng không. Có chị vừa uất ức vì bị chồng phản bội, vừa thấy mình bị xúc phạm ghê gớm. Họ đề nghị chuyên gia tâm lý giải thích tại sao lại như vậy? Phần lớn phụ nữ không thể lý giải được điều này nhưng bất cứ ai là đàn ông đều không lấy thế làm lạ.
Nhà tâm lý học Trung Hoa, Điều Vũ Canh, trong cuốn "Những bí mật của đàn ông" khẳng định: "Một người đàn ông dù đã có người yêu hay vợ đẹp vẫn có thể ngủ với người đàn bà không lấy gì làm đẹp. Khi nghe nói hoặc những trường hợp như vậy, bạn thường quy nguyên nhân là do mối quan hệ vợ chồng đã xấu đi. Nhưng đó không phải là nguyên nhân thực sự của vấn đề. Sở dĩ một người đàn ông có thể lên giường với đối tác khác, không phải vì người đó hơn vợ anh ta mà chỉ vì đó là... người khác".

Ông cho rằng: "Mới lạ là chất xúc tác cực mạnh với ham muốn tình dục của đàn ông. Rất nhiều người có lối suy nghĩ đó, không loại trừ người đàn ông của bạn. Hãy tin điều tôi nói, vì tôi cũng là đàn ông". Phải chăng thám hiểm, khám phá là gien di truyền của đàn ông. Từ Magielan đi vòng quanh thế giới đến Christophe Colomb phát hiện ra châu Mỹ không có ai là đàn bà. Ham thích khám phá cái lạ như ngấm vào trong máu đàn ông.

Từ đứa trẻ con trai mới nứt mắt ra đã phá cả đồ chơi ra xem bên trong có gì mà lại chạy được? Trong khi hầu như chẳng có bé gái nào làm thế với đồ chơi của mình. Hiếm khi có phụ nữ đang hạnh phúc đủ đầy trong hôn nhân mà còn ngoại tình. Thường họ chỉ "ăn nem" khi không có tình yêu trong hôn nhân hoặc bị chồng "ăn chả" nên cũng làm thế để "trả thù". Thế nhưng có người bắt gặp đàn ông ngoại tình rành rành vẫn cố cãi: "Vô lý, vợ anh ta trông "ngon" thế, đời nào anh ta lại ngoại tình với một kẻ như thế". Họ chưa hiểu gì về đàn ông cả.
Có một ông kiến trúc sư nổi tiếng nuôi một thằng bé để nó giúp việc nấu nướng vì vợ ông cũng bận đi công việc suốt ngày. Một hôm nhân lúc vắng vẻ chỉ có hai thầy trò ngồi chơi với nhau, thằng bé hỏi thật: "Con thấy bà nhà đẹp thế mà sao ông còn cứ bồ bịch lăng nhăng bắt con nói dối bà, nhỡ bà biết thì con chết". Ông ta hỏi nó: "Theo mày thì các món ăn mày làm hàng ngày, món nào tao thích nhất?". Thằng bé trả lời ngay: "Món gà rán". "Thế thì chiều nay cho tao ăn gà rán". Hôm sau thằng bé lại hỏi: "Bữa nay ông muốn ăn món gì?". Chủ lại nói: "Gà rán". Được 3 hôm ăn toàn gà rán thì thằng bé phải thốt lên kinh ngạc: "Ông ăn mãi gà rán mà không biết chán à?". Lúc bấy giờ ông ta mới nhìn nó: "Mày thấy chưa? Đó là chính mày đã trả lời câu hỏi của mày mấy hôm trước đấy!".
Lăng nhăng cũng chỉ nhất thời
Suy cho cùng sống ở trên đời chẳng ai không thích cái mới lạ. Nhưng có lẽ đàn bà thích áo quần, trang sức mới nhiều hơn, còn cái thích nhất của đàn ông là của lạ. Làm ăn chiêu đãi nhau, cho dù cao lương mỹ vị gì nhưng chưa có cái đó thì như vẫn còn thiếu. Từ lâu, một nhà nho có tên tuổi ở nước ta đã tự bạch:
"Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó hại ta
Chừa được thứ nào hay thứ ấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà?"
Có chị đứng soi gương một lúc lấy làm tự mãn, quay ra thách chồng: "Có giỏi tìm đâu được đứa nào hơn gái này thì cho đi đấy!". Có lẽ chị nghĩ rằng, chồng mình lấy được mình đã là tốt số quá rồi, làm gì anh ta có sức với cao hơn được nữa. Chị không biết rằng, đàn ông có thể không với cao hơn được nhưng biết đâu họ lại với... xuống.
Một chị có chồng làm giám đốc một doanh nghiệp. Thấy chồng có những biểu hiện khả nghi trong mối quan hệ với một bạn hàng nữ, chị đã ngờ ngợ. Nhưng lại nghĩ có lẽ chỉ vì mình quá yêu chồng nên sinh ra ghen tuông vớ vẩn thế thôi. Tuy nhiên chị cũng trút niềm tâm sự với cô em ruột. Nghe xong, cô em bật cười khanh khách: "Có mà điên! Vô tư mà nói, mụ ấy không thể sánh với chị về bất cứ mặt nào". Thế mà đến khi bắt được quả tang mới biết chuyện phi lý đó lại có thật.
Hẳn bạn sẽ thất vọng trước phẩm chất thấp hèn này của đàn ông, vì nó rất gần với bản năng sinh dục của động vật. Nhưng trong thế giới tự nhiên, chính nhờ dục vọng vô cùng tận của giống đực khiến nó giao phối với càng nhiều con cái càng tốt mà giống loài mới nảy nở sinh sôi, tồn tại đến bây giờ. Nếu mỗi con đực cứ chung thủy suốt đời vói một con cái thì biết đâu nhiều loài đã tuyệt chủng từ lâu rồi.
Tuy nhiên do xã hội loài người có những quy tắc đạo đức khiến đàn ông không thể hành động tùy tiện như động vật nhưng dầu sao tính hiếu kỳ về giới, cũng như sự ham muốn của lạ vẫn là những đặc tính di truyền đã được tạo hoá cài đặt trong gien của họ từ thượng cổ rồi. Tính hiếu kỳ mãnh liệt này với tình yêu là hai lĩnh vực khác nhau, nhiều khi giữa chúng không có liên hệ nào hết.
Sống ở đời không có cái gì mới mà cứ mới mãi. Phần lớn chuyện lăng nhăng của đàn ông chỉ có tính nhất thời. Các nhà tâm lý cũng gọi là ngoại tình nhưng xếp vào dạng ngoại tình đột xuất. Những người đàn ông này không phải là chán vợ hay có ý định "đổi đời" mà thực ra chỉ là có cơ hội thì "ăn vụng" và nếu bị vợ phát hiện, họ thường tỏ ra rất ăn năn hối lỗi. Tuy nhiên, có những người vợ không chấp nhận sự hối cải đó, kiên quyết đòi ly hôn và không ít cuộc hôn nhân đã tan vỡ vì thế.
Tất nhiên, nếu cho qua chuyện này một cách dễ dàng, e có ngày ngựa lại quen đường cũ. Bởi vậy, cách ứng xử của người vợ như thế nào còn tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, vào mức độ khoan dung của người phụ nữ cũng như người chồng có sự hối cải hay không? Điều quan trọng là đừng để sau một thời gian, cơn nóng giận lắng xuống mới thấy mình khờ khạo, đem chồng nộp cho đối phương hoặc để mất người đàn ông về cơ bản là người chồng, người cha tốt, làm cho con cái cũng phải hứng chịu nhiều nỗi thiệt thòi.
*


Saturday, November 28, 2009


TIN TỨC * VAN HÓA XÃ HỘI VIỆT NAM


Tình trạng tồi tệ ở các bệnh viện Việt Nam

E-mail Print PDF

Saigon: theo bản tin của VnExpress. Net thì tình trạng của các bệnh viện Việt Nam ngày thêm tồi tệ.

Tình cảnh bệnh nhân nằm ghép, nằm cáng la liệt ngoài hành lang các bệnh viện đã trở nên phổ biến. Khảo sát của VnExpress.net cho thấy, thời gian gần đây, hiện tượng các bệnh viện ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Saigon quá tải với 2-3 người một giường đã trở nên rất quen thuộc.
Thậm chí các phòng cấp cứu Nhi có tới 3-4 trẻ cùng một chiếu. Tại Khoa Chấn thương, chỉnh hình, Bệnh viện Việt Đức, trong ngày 23/11, có khoảng 40-50 bệnh nhân phải nằm cáng ngoài hành lang.

Bác sĩ Ngô Văn Toàn, Chủ nhiệm khoa Chấn thương chỉnh hình (Bệnh viện Việt Đức) cho biết: "Bệnh nhân bị tai nạn, nhanh chóng đến viện, các bác sĩ cũng nhanh chóng cấp cứu băng bó. Thế nhưng rồi vẫn phải đợi, đợi để có bàn mổ. Còn đợi bao lâu thì bác sĩ cũng không thể trả lời được".

Theo lời ông, bệnh nhân gãy chân, lòi xương cũng vẫn phải đợi mổ vì có nhiều ca nặng hơn bẹp óc, vỡ tim cần được mổ trước. Mổ xong rồi, bệnh nhân cần giường nằm, cần nơi yên tĩnh để tĩnh dưỡng thì vẫn phải nằm cáng, ngoài hành lang.

Tình trạng quá tải trên cũng tương tự tại Viện Các bệnh truyền và nhiệt đới quốc gia. Từ tầng 2 lên tầng 4, bệnh nhân nằm la liệt ngoài hành lang, chủ yếu là bệnh nhân sốt xuất huyết.
Số phòng khám tại đây đã tăng từ 2 lên 6 phòng, thế nhưng ngay ở ngoài cửa phòng khám Viện vẫn phải dán thông báo ưu tiên "những người có yếu tố nguy cơ, bị biến chứng nặng khám trước", chứ không đợi theo thứ tự như trước.

Bệnh viện Nhi Trung ương cũng luôn trong tình trạng quá tải. Các khoa bình thường cũng phải ghép 2-3 cháu một giường. Tại các phòng cấp cứu có khi ghép đến 4-5 cháu.

Theo báo cáo của Bộ Y tế, tại các bệnh viện tuyến trung ương, công suất sử dụng giường bệnh từ 200 đến 250%. Ở tuyến trên, mức quá tải của các bệnh viện khoảng 130%, thậm chí có nơi đến gần 300% như những chuyên khoa Huyết học và truyền máu, u bướu...
Theo Bộ trưởng Bộ Y tế, nguyên nhân của tình trạng quá tải một phần là hiện cả nước mới chỉ có 18 giường bệnh trên mười ngàn dân. Năng lực tuyến y tế cơ sở còn hạn chế. Nhiều bệnh viện tuyến huyện đã xuống cấp, trang thiết bị lạc hậu, thiếu thốn.
Last Updated ( Wednesday, 25 November 2009 01:33 )





*
TIN BBC
Phi công Vietnam Airlines nhận buôn lậu
Vietnam Airlines
Không chỉ tiếp viên mà cả phi công Vietnam Airlines cũng chuyển lậu tiền
Truyền thông Nhật Bản đưa tin phi công Vietnam Airlines đã thú nhận với cơ quan điều tra Nhật Bản dính líu tới đường dây buôn lậu nhiều loại hàng hoá ra vào Nhật Bản.
Tờ Yomiuri Shimbun cho hay phi công Đặng Xuân Hợp, 33 tuổi, nhân viên hãng hàng không Vietnam Airlines đã thú nhận với cơ quan điều tra nhận tiền để vận chuyển các hàng hoá bị đánh cắp từ Nhật Bản về Việt Nam.
Một ban điều tra đặc biệt của Nhật Bản mới đây đã được thành lập, bao gồm 14 chuyên viên đến từ các cơ quan cảnh sát từ Yamaguchi, Saitama và Hyogo, nhằm điều tra đường dây buôn lậu có liên quan tới phi công có quốc tịch Việt Nam này.
Phi công Hợp đã bị bắt giữ vào tháng 12 do bị nghi ngờ tiếp tay chuyển hàng ăn cắp của các nhóm tội phạm người Việt hoạt động tại Nhật Bản. Phi công này sau đó đã nhận được cáo buộc chính thức vì hành vi phạm pháp vào hôm 7 tháng Giêng.
Phi công Hải được truyền thông Nhật trích dẫn nói tất cả các đồng nghiệp của phi công này đều nhận tiền vận chuyển như vậy.
Theo cơ quan điều tra Nhật Bản, các phi công và các tiếp viên của Vietnam Airlines thường vận chuyển các khối lượng lớn bất thường hành lý mỗi khi tới Nhật Bản.
'Mang đồ kỷ niệm'
Lý do của các nhân viên phi hành đoàn và đoàn tiếp viên đưa ra trước hải quan Nhật là họ mang theo đồ kỷ niệm (souvenirs).
Tuy nhiên, qua điều tra, cảnh sát và hải quan Nhật còn tin rằng một số nhân viên Vietnam Airlines đã nhập lậu vào Nhật bản các loại thuỷ sản đắt tiền như lươn ướp lạnh, sau đó họ rời Nhật với các khối lượng lớn đồ mỹ phẩm khi bay trở lại Việt Nam.
Hồi tháng Tư năm ngoái, Vietnam Airlines đã sa thải hai tiếp viên vì chuyển lậu một lượng lớn ngoại tệ vào nước láng giềng của Nhật Bản là Hàn Quốc.
Hai tiếp viên Nguyễn Quý Hiển và Nguyễn Hoàng Hương Xuân được biết đã thừa nhận đã mang 300.000 đôla Mỹ trong hành lý xách tay vào Hàn Quốc hôm 19.03.2008.
Không chỉ ở tuyến bay Đông Á, hồi tháng 04/2008, một phi công Việt Nam của Vietnam Airlines đã bị bắt tại Úc do chuyển lậu gần 4 triệu đôla Mỹ ra khỏi Australia. Trong hai năm 2005 và 2006, viên phi công này đã 17 lần mang tiền trót lọt qua các cửa kiểm tra.
Trong một động thái khác, hồi cuối năm 2007, Vietnam Airlines đã thuyên chuyển công tác hai tiếp viên vì phát hiện họ chuyển tiền trái phép vào Việt Nam.



*
TIN VOA

Tiếp viên Vietnam Airlines bị cáo buộc lấy 12,000 đôla của khách

23/11/2009


Vietnam Airlines
Tiếp viên hãng hàng không Vietnam Airlines bị cáo buộc đánh cắp 12,000 đô la của hành khách.

Báo điện tử The Dailay Telegraph hôm nay cho hay 3 tiếp viên của hãng hàng không này bị tình nghi là đã ăn cắp tiền trong túi xách tay của hành khách.

Bản tin trích dẫn lời một phát ngôn viên của hãng hàng không Vietnam Airlines nói rằng một hành khách cho biết trên chuyến bay VN279 từ Hà nội đi Đồng Hới, Quảng Bình, ông ta để một túi xách tay trong đó có 200 triệu đồng Việt Nam, tương đương hơn 12,000 đô la, trong khoang đựng hành lý phía trên ghế ngồi. Thế nhưng khi máy bay đáp đến phi trường Đồng Hới thì số tiền của ông đã không cánh mà bay.

Theo bản tin điện tử www.fly.co.uk của Anh, sau khi hành khách này khiếu nại mất tiền, phi hành đoàn đã tiến hành tìm kiếm số tiền bị mất trong khi chuyến bay vẫn tiếp tục tiến về thành phố Hồ Chí Minh.

Khi đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất, số tiền mặt đó được tìm thấy dưới ghế ngồi số 4C, đây không phải là ghế mà vị hành khách tố cáo mất tiền đã ngồi. Số tiền đã được trả lại cho người bị mất.

Vị hành khách nói với đại diện hãng hàng không rằng trong suốt chuyến bay đi Đồng Hới, các tiếp viên quanh quẩn khu vực ông ngồi rất nhiều lần.

Giới hữu trách đang tiến hành điều tra vụ việc.

Nguồn: The Daily Telegraph, www.fly.co.uk
*
Hàn Quốc bắt 3 tiếp viên VN Airlines nghi ngờ buôn lậu vàng

medium_VN_88917772_airlines.jpgHÀ NỘI (TH) - Ba tiếp viên phi hành của hãng hàng không quốc doanh Vietnam Airlines bị bắt giữ ở Hàn Quốc vì tình nghi buôn lậu vàng.
Theo một số nguồn tin được viên chức Vietnam Airlines nhìn nhận, 3 tiếp viên phi hành (gồm 2 nam và một nữ) của chuyến bay VN937 từ Seoul về Hà Nội sáng sớm ngày 12 Tháng Mười Một, 2009 đã bị cảnh sát phi cảng bắt giữ. Cảnh sát khám xét hành lý của những người này thấy có nhiều trang sức quý trọng lượng tổng cộng lên tới 20 lượng vàng.
Ba người vừa kể chỉ bị tạm giữ và số vàng bị giữ lại để điều tra nguồn gốc cũng như những người liên quan.
Thành phố Hà Nội từ cuối tuần qua đang lên cơn sốt vàng. Rất nhiều người giầu có hoặc đầu tư vàng đã rút tiền từ các ngân hàng để mua vàng tích trữ. Tình trạng này xảy ra khi giá vàng trên thị trường thế giới tiếp tục lên cao hơn trong khi có những tin đồn đồng bạc ở Việt Nam sẽ được phá giá mạnh hơn. Giá vàng ở Hà Nội cao hơn giá vàng thế giới trên dưới $200 USD tùy thời kỳ nên đẻ ra dịch vụ nhập cảng lậu vàng về Việt Nam kiếm lời.. . .

Những năm gần đây, cả tiếp viên và phi công của VN Airlines trên các đường bay quốc tế mang nhiều tai tiếng từ buôn lậu vàng, đá quí, điện thoại di động, chuyển hàng ăn cắp đến tiếp tay rửa tiền buôn lậu ma túy.
Cuối Tháng Mười Hai, 2008, phi công Ðặng Xuân Hợp, 33 tuổi, đã bị cảnh sát phi trường Tokyo bắt giữ vì nghi vận chuyển hàng hóa ăn cắp từ các cửa tiệm bách hóa, tiệm thuốc tây tại nhiều thành phố nước Nhật. Liên quan tới ông này là một số hơn 50 người Việt Nam đủ mọi thành phần từ du sinh đến nhân viên Hàng Không VN. Khai với cảnh sát, ông này nói “ai cũng làm như vậy.”

Ông Hợp khai với cảnh sát điều tra rằng ông không phải là chủ hàng mà chỉ là người làm nhiệm vụ chuyển ăn công dịch vụ mỗi lần $100 đô la.
Tháng Tư 2008, VN Airlines đã phải sa thải hai tiếp viên tên Nguyễn Quý Hiển và Nguyễn Hoàng Hương vì chuyển lậu một lượng lớn ngoại tệ từ Việt Nam sang Nhật và Hàn Quốc. Trong hành lý của Hiển và Hương, ngày 19 Tháng Ba, 2008, cảnh sát Hàn quốc thấy có tới 300 ngàn đô la trong hành lý.

Cũng tin trong đầu Tháng Tư 2008, một phi công VN Airlines bị bắt ở Úc khi bị khám phá chuyển lậu gần 4 triệu đô la Mỹ ra khỏi nước Úc mà người ta nghi là vụ rửa tiền buôn lậu ma túy. Trong 2 năm 2005 và 2006, phi công này đã mang trót lọt 17 lần tiền chuyển lậu qua các trạm kiểm soát.
Theo thông lệ, phi công và tiếp viên phi hành trên các đường bay quốc tế không bị khám xét chặt chẽ nghiêm ngặt như hành khách tại các trạm Hải Quan.
Năm 2005 khi xảy ra vụ công ty Ðông Nam của Việt kiều Pháp tên Nguyễn Gia Thiều bị cáo buộc buôn lậu và nhập nội bất hợp pháp điện thoại di động vào Việt Nam, 23 tiếp viên VN Airline bị cáo buộc liên quan đến đường dây này. (TN)

*


**



ĐOÀN DỰ * VAN HÓA XÃ HỘI VIỆT NAM


*

"Nghề" ca sĩ tại Việt Nam

E-mail Print PDF
Thưa quý bạn, tại Việt Nam, nghề ca sĩ là nghề hái ra tiền - tiền bạc như nước, một ngày có thể kiếm vài chục triệu đồng trong mươi mười lăm phút nếu là ca sĩ nổi tiếng hoặc khá nổi tiếng. Tuy nhiên, nghề này cũng có nhiều lộn xộn. Lộn xộn giữa ca sĩ với ca sĩ do ghen ghét nhau. Lộn xộn giữa ca sĩ với ông bầu hoặc bà bầu về chuyện tiền bạc. Lộn xộn giữa ca sĩ với nhạc sĩ do tranh giành bản nhạc, người này muốn độc quyền, người kia cũng muốn độc quyền. Và, cuối cùng là lộn xộn về tình cảm, người này "ô-môi", người nọ ô-môi ("ô-môi" là từ Việt hóa của hai tiếng "homo", tức homosexual, đồng tính luyến ái hoặc tình dục cùng phái). Chúng tôi hy vọng bài này sẽ trình bày hầu quý bạn "biểu nhất lãm đương đại ca nhân chi nghệ nghiệp" - một cái nhìn thoáng qua về nghề ca sĩ hiện tại trong nước. Xin mời quý bạn thưởng thức...

Ca sĩ và người quản lý
Gần như một quy luật, đã là ca sĩ xuất hiện được vài lần trước công chúng thì... phải có bầu - bầu đây là người quản lý kêu là ông bầu hay bà bầu. Bầu có nhiều dạng, có khi chỉ "bầu" về mặt truyền thông, tức liên lạc với nơi nọ nơi kia để ca sĩ được dịp xuất hiện trước công chúng ; "bầu" về việc tạo hình tượng tốt đẹp cho ca sĩ đối với các "fans"; "bầu" về việc tìm và ký kết các show cho ca sĩ, kể cả việc ra nước ngoài trình diễn.


Cũng có khi bầu lo tất cả mọi việc đối với ca sĩ, nửa như người đỡ đầu, nửa như vị quân sư, nửa như người cai quản ca sĩ. Ở mỗi địa vị khác nhau, ông hay bà bầu nhận được tiền đài thọ khác nhau, ví dụ bầu về mặt truyền thông (tìm cơ hội trình diễn cho ca sĩ) thì có thể ăn lương tháng hoặc tối đa là 10% tính trên cát-sê của ca sĩ. Còn bầu theo kiểu cai quản thì có thể ăn tới 20% trên tổng số tiền cát-sê của ca sĩ. Nhẩm tính, chúng ta thấy, bầu theo kiểu cai quản là một nghề có thể kiếm tiền nhiều đến mức đáng nể! Chúng ta thử coi việc tiền bạc như sau:

Một ca sĩ mới nổi, chỉ hát ở thành phố, mỗi show (2 bài) giá khoảng 6 triệu đồng/show. Nếu ca sĩ hát cho cùng một ông chủ tại 2 tụ điểm khác nhau thì giá bớt đi, còn 4 triệu đồng/show/mỗi tụ điểm. Show đi tỉnh thường từ 15-17 triệu đồng/show, mọi chi phí đi lại và ăn ở ca sĩ phải chịu. Các ca sĩ hạng "sao sáng chói" hiện đang ăn khách bậc nhất trong nước hiện nay như Mỹ Tâm, Đàm Vĩnh Hưng, Quang Dũng, Quang Linh... nếu hát tại Sài Gòn thì tiền cát-sê là 30 triệu đồng/show, còn nếu đi tỉnh hoặc hát tại một lễ hội, một cuộc tổ chức nào đó, người ta mời cốt để lấy tiếng thì 60 triệu đồng/show.


Trước đây, khi ca sĩ Tuấn Ngọc chưa về hát tại Việt Nam, các ông bầu có mời về để lấy tiếng, nghe nói Tuấn Ngọc đòi tới 4,000 Mỹ kim/show; nếu tính theo tỉ giá hiện nay là khoảng 70 triệu đến 72 triệu đồng/show, kèm theo điều kiện ông bầu phải chịu tiền vé máy bay, tiền phí tổn ăn ở trong khách sạn v.v... Người ta chịu thua, giá tối đa lúc đó chỉ vào khoảng 3,000 Mỹ kim/show là hết mức, không kèm theo các điều kiện khác. Xem ra, lúc mới về nước, Tuấn Ngọc hát ăn khách ngang với Mỹ Tâm, Đàm Vĩnh Hưng, Quang Dũng v.v... nhưng bây giờ thì có kém đi

Khi còn đang ăn khách với những lời mời hấp dẫn thì ca sĩ có thể "cày" đến 23 đêm trong một tháng. Đó là chưa kể đến ca sĩ còn thu được một lượng tiền lớn từ tác quyền ở tổng đài cung cấp nhạc chuông hoặc quảng cáo trên đài truyền hình. Một bài hát nổi tiếng trong giới trẻ như "Chiếc khăn gió ấm" thì mỗi tháng đem về cho ca sĩ vài chục triệu tiền nhạc chuông và vài chục triệu tiền quảng cáo là điều bình thường. Rõ ràng, làm "bầu" theo kiểu đỡ đầu ca sĩ, thu nhập từ vài chục triệu đến hàng trăm triệu/tháng cũng không có gì là lạ.



Tuy nhiên, cái gì cũng có giá của nó. Ca sĩ thường tìm đến người quản lý nếu người đó đáp ứng một trong hai yếu tố: hoặc, có mối quan hệ rộng rãi với giới truyền thông và các chủ tụ điểm ca nhạc; hoặc, là "đại gia" cực kỳ giàu có.
Đối với ông bầu có sức mạnh hoặc nhiều tiền bạc, ca sĩ sợ một phép. Ông bầu nói gì như một lệnh truyền. Ví dụ: một chàng ca sĩ trẻ khá nổi tiếng đang ngồi tí tởn, gác chân lên bàn trong quán cà phê nói chuyện điện thoại. Ông bầu vô tình bước vào, trông thấy, nói một câu gọn lỏn: "Người hay khỉ mà ngồi kiểu đó?" Ngay lập tức, chàng ca sĩ vội vàng bỏ chân xuống, thái độ líu ríu như cậu học trò bị cô giáo mắng!

Còn đối với ông hay bà bầu chỉ có quan hệ về lương bổng thì thông thường, mối liên quan giữa ca sĩ với ông bà bầu chỉ êm đẹp được lúc đầu. Cách đây mấy tháng, ca sĩ Bảo Thy - một nữ ca sĩ được các "fans" trẻ tuổi phong cho cái tên rất mỹ miều là "Công chúa bong bóng" (đây cũng là tên ca khúc rất nổi tiếng cô hát độc quyền) - có mời một số nhà báo thân quen đến để nghe cô vạch tội "bà bầu" của mình (cái này các nhà báo khoái lắm vì có đề tài để đăng lên báo, trang ca nhạc hoặc nhịp sống trẻ).


Mà, người "bầu" của Bảo Thy lại là một nhà báo nữ khá quen thuộc. Các phóng viên âm nhạc-kịch trường nói với nhau rằng chuẩn bị đi nghe chửi lộn. Quả nhiên, sau khi các nhà báo đã yên vị, uống nước, ăn bánh và nhận mỗi người một gói quà nho nhỏ, Bảo Thy bắt đầu gọi điện thoại cho cô bầu của mình, bật loa để mọi người cùng nghe và... chửi như "hát hay", có lẽ còn mãnh liệt hơn cả hát trên sân khấu nữa. Bên kia cũng bắt đầu phản công. Nội dung của cuộc chửi lộn này đầu mối là do vấn đề tiền bạc, hai bên không vừa mày vừa mặt với nhau sao đó. Không hiểu hai cô nghĩ thế nào nhưng các nhà báo tham dự cuộc chửi nhau thì nói rằng họ rất thấm thía câu nói đầu lưỡi trong giới nghệ sĩ: "Càng dính líu nhiều tới tiền bạc càng chửi nhau hăng".

Tất nhiên, mối quan hệ giữa Bảo Thy và cô "bầu" của mình chấm dứt ở đấy. Dù sao, đó vẫn có thể được coi là một cuộc chia tay trong hòa bình, hai bên chỉ chửi nhau thôi chứ chẳng ai thuê người thanh toán ai cả. Có những cuộc đổ vỡ giữa ca sĩ và người bầu của mình mang đậm tính cách "xã hội đen", kiểu như Thanh Thảo với cô học trò của mình là Trương Quỳnh Anh và Sơn Ca với Vũ Quốc Bình...

Nữ ca sĩ Thanh Thảo mở Công ty đào tạo ca sĩ, Music Box Entertainment, số lượng các học viên trẻ đến học khá nhiều (học phí tính từ vài chục triệu tới hàng trăm triệu vì các học viên hầu hết đều là con nhà giàu và ai cũng mơ ước trở thành ca sĩ), trong đó có Trương Quỳnh Anh, một nữ diễn viên rất ít tên tuổi, đã đóng một vài cuốn phim, người gốc Nha Trang. Trương Quỳnh Anh muốn nhảy sang làm ca sĩ nên đến học nghề với Thanh Thảo để được Thanh Thảo lăng-xê. Thanh Thảo bắt đầu đưa Quỳnh Anh lên sân khấu với vài bản nhạc như Một ngày không có em, Chuyện tình yêu, Tình án, Sóng gió cuộc đời...


Cho đến khi Thanh Thảo nâng đỡ để làm album nhạc Cô đơn thì không hiểu sao Quỳnh Anh lại nhảy sang nhờ "thầy" Vũ Quốc Bình và "thầy" đạo diễn cho cô học viên trong lò Music Box này vác luôn bản nhạc Cô đơn do Thanh Thảo đã mua bản quyền với tác giả là một nhạc sĩ trẻ mới vào nghề tên Quỳnh Như, xúi Quỳnh Anh vừa làm album vừa lên sân khấu. Thanh Thảo tức, chửi cho Quỳnh Anh một trận trên internet và gọi điện thoại cho cha mẹ Quỳnh Anh, đe dọa là sẽ thuê xã hội đen "xử" cô học trò phản bội. Cha mẹ Quỳnh Anh bèn đưa lời đe dọa đó lên internet và nói sẽ đi kiện. Thanh Thảo bèn đấu dịu và nói là mình quá nóng. Câu chuyện đó chưa biết sẽ kết thúc ra sao...

Nữ ca sĩ Sơn Ca vừa là học trò vừa nhận nhạc sĩ kiêm ông bầu Vũ Quốc Bình làm bố nuôi, và cái tên "Sơn Ca" cũng do Quốc Bình đặt từ tên chính thức của cô: Nguyễn Thiên Sơn Ca. Thân thiết như thế nhưng khi quyền lợi bị đụng chạm, không còn vừa mày vừa mặt với nhau nữa, Sơn Ca cũng đòi thuê xã hội đen "làm thịt" ông thầy...

Có một câu hỏi mà rất nhiều người thắc mắc là quyền lực thật sự trong làng giải trí Việt Nam tập trung vào tay ai? Hiển nhiên, có nhiều người đang thao túng nhưng chắc chắn không phải là các ca sĩ.
Đầu tiên, quyền lực hạng nhì nằm trong tay các nhạc sĩ đang có những bài hát ăn khách. Có dịp chứng kiến các ca sĩ trẻ năn nỉ ỉ ôi những nhạc sĩ này viết giúp họ một bài hát chúng ta mới hiểu rõ được quyền lực của nhạc sĩ. Theo nhận xét của một bầu sô thì hai nhạc sĩ trẻ viết dòng nhạc thị trường quyền lực nhất hiện nay là Nguyễn Văn Chung - nhạc sĩ đang là tâm điểm nghi án "cầm nhầm" nhạc Thái Lan với ca khúc "Vầng trăng khóc"; và nhạc sĩ Nguyễn Hồng Thuận. Chính bầu sô này cũng từng bị Nguyễn Văn Chung cho uống thuốc đắng buộc phải im lặng.



Dẫu vậy, quyền lực chính vẫn tập trung toàn bộ vào tay các ông chủ ca sĩ thật sự, tức là những người đủ tiền để biến một kẻ vô danh thành một ông hoàng sân khấu. Và, khi ca sĩ dám phản bội lại ông, điều này đồng nghĩa với việc họ sẽ phải lãnh những hậu quả nghiêm trọng.
Ông bầu quyền lực nhất trong giới ca sĩ chính là Hoàng Tuấn với người mà ông ta đào tạo là nam ca sĩ Đan Trường. Sự thành công của Đan Trường minh chứng cho tài năng cũng như khả năng tiền bạc khủng khiếp của Hoàng Tuấn.

Tháng 11-1997, Hoàng Tuấn chính thức trở thành ông bầu của Đan Trường và bắt đầu làm nhiều người khó chịu vì những cách làm kỳ cục. Làng nhạc vốn dĩ quen cách làm việc trực tiếp với ca sĩ từ việc giới thiệu bài hát, mời biểu diễn đến thương lượng giá cả. Thói quen tự nhiên bị phá lệ vì một người đứng phía sau ca sĩ, dù ca sĩ không tên tuổi, và đòi thâu tóm mọi quan hệ của ca sĩ này. Tuy nhiên, chuyện khó chịu nho nhỏ đó không trở thành vấn đề khi Đan Trường chỉ là ca sĩ chưa tên tuổi, "ăn theo" sự nổi tiếng của Lam Trường. Không bao lâu, mọi người để ý đến việc ca sĩ Đan Trường cùng bầu sô Hoàng Tuấn quyết đòi đến cùng tiền bản quyền... một tấm hình. Thế là cái tên Đan Trường trở nên nổi tiếng.

Vì cách làm việc quá lạ lẫm, thầy trò Hoàng Tuấn-Đan Trường gần như không được người trong giới ủng hộ. Rất nhiều nghi ngờ cho rằng Hoàng Tuấn ăn phần trăm biểu diễn của Đan Trường rất cao, khoảng 70-80%. Rồi chuyện Hoàng Tuấn quản lý Đan Trường khắt khe đến nỗi hăm dọa ai đụng đến Đan Trường sẽ xử theo kiểu... xã hội đen! Hay việc lựa chọn ca sĩ nam cho Hoàng Tuấn Production với gu phải đẹp trai, cao ráo, đã gieo thêm những điều tiếng. Thậm chí, trong năm 2001, Hoàng Tuấn bị "dập" te tua hàng chục kỳ trên một tờ báo ở Hà Nội mà vẫn không "chết" như mọi người dự đoán. Chuyện đó đã trở thành kỳ tích trong làng nhạc cả nước. Không nhường bước, Hoàng Tuấn còn gây chiến với Kim Lợi Studio và ca sĩ Phương Thanh. Gần đây nhất, Đan Trường đã tuyên bố sẽ hát trong live show Trái tim bình yên, cũng là cách làm sống lại cái tên Đan Trường đã cũ.

Tay trắng dựng cơ nghiệp
Khi mọi người để ý đến cái tên Đan Trường cũng là lúc xuất hiện câu hỏi Hoàng Tuấn là ai? Mọi người chỉ biết đơn giản Hoàng Tuấn đã từng đi lao động ở nước ngoài về, đã từng học biểu diễn ở Cộng hòa Séc. Hết. Và Hoàng Tuấn cũng không tiết lộ nhiều về cuộc đời mình trước khi trở thành ông bầu thành công nhất Việt Nam hiện nay. Chỉ biết, từ số vốn nhỏ nhoi ban đầu cộng với cách làm táo bạo, dám thử nghiệm, Hoàng Tuấn đã dư tiền mua xe hơi, xây nhà, nuôi bộ máy cồng kềnh của Hoàng Tuấn Production, vung tiền ra làm ba live shows cho Đan Trường, và còn được nhiều bằng khen vì công tác từ thiện.

Đến tận bây giờ, những "pháp thuật" của Hoàng Tuấn trong việc đẩy tên tuổi và làm nóng hình ảnh ca sĩ mỗi ngày càng được nhiều người quan tâm. Có thể liệt kê hàng loạt những việc: Hoàng Tuấn là người đầu tiên làm poster ca sĩ, xây dựng nhóm múa riêng, làm vỏ đĩa màu thay màu đen truyền thống, mua độc quyền bài hát, thành lập Câu lạc bộ fans thu hút hơn 29.000 thành viên tham gia, tổ chức hệ thống phát hành băng đĩa trên toàn quốc và ra cả nước ngoài... Tất cả đều do Hoàng Tuấn điều hành.


Thoát ra khỏi những lời đồn đại trên, đến nay Hoàng Tuấn đang được nhìn nhận lại như một manager thành công nhất trong nước. Bằng chứng là đã có rất nhiều ca sĩ hoặc gia đình ca sĩ nhờ Hoàng Tuấn làm manager vì tin rằng nếu được Tuấn làm bầu thì sẽ thành công. Gần đây, hai ca sĩ chuyên nghiệp và già dặn trong nghề, là Phương Thanh và Hồng Nhung, đã chính thức nhờ Hoàng Tuấn làm manager. Đề nghị của ca sĩ Hồng Nhung đang được Hoàng Tuấn suy nghĩ kỹ trước khi quyết định. Còn Phương Thanh hy vọng Hoàng Tuấn giúp đỡ thực hiện các live shows trong tương lai.



Tất nhiên, chung quanh mối quan hệ tốt đẹp giữa ông bầu và nam ca sĩ luôn có những xì xầm bất thường. Nhưng, điều không thể phủ nhận là chính ông bầu này đã mang lại cho Đan Trường rất nhiều thứ. Sau Hoàng Tuấn, có lẽ, chỉ có Quang Huy là làm được chuyện này qua việc làm manager cho Ưng Hoàng Phúc.

"Tội ác" và trừng phạt
Khi ca sĩ đã từng đoạt giải trong cuộc thi "Sao Mai-Điểm Hẹn" Cao Thái Sơn về đầu quân cho ông bầu Hoàng Tuấn, nhiều người nghĩ rằng Cao Thái Sơn sẽ nhanh chóng biến thành một ngôi sao mới trong làng giải trí Việt Nam. Tuy nhiên, mối quan hệ này đã nhanh chóng rạn nứt khi album đầu tiên của Hoàng Tuấn làm cho Cao Thái Sơn ra đời. Và khi chia tay ông bầu quyền lực này, Cao Thái Sơn lặng lẽ rút khỏi đất Sài Gòn để trở về Hà Nội. Phải nhiều năm sau nữa anh mới rón rén quay lại Sài Gòn và chọn hình tượng sexy lung tung để thu hút sự chú ý của khán giả.

Có luồng ý kiến cho rằng ông bầu Hoàng Tuấn đã chặn hết cửa để Cao Thái Sơn có thể trình diễn tại Sài Gòn. Nhưng, sự thật không hẳn là thế. Vì với "con gà vàng" Đan Trường, ông bầu này có quá nhiều thứ bận tâm hơn việc quan sát "con gà mới" chưa tên tuổi như Cao Thái Sơn. Tuy nhiên, những người "cao thượng" như ông bầu Hoàng Tuấn là không nhiều, đặc biệt với những ông chủ của các công ty độc quyền ca sĩ.

Việc ăn chia
Theo tỉ lệ ăn chia hiện tại, một ca sĩ chưa tên tuổi được ông bầu hoặc một công ty đầu tư mọi mặt trên con đường chinh phục khán giả với tên gọi rất "hoành tráng" là "ca sĩ độc quyền", thì năm đầu tiên ca sĩ chỉ được nhận 20% tiền cát-sê, năm thứ hai là 30%, năm thứ ba là 40%, năm thứ tư là 50%... Trước đây, một đại gia từng tuyên bố là để lăng-xê một nữ ca sĩ, ông đã tốn khoảng 1 tỉ đồng. Hiện nay, giá tiền để lăng-xê một ca sĩ cao hơn như thế rất nhiều. Một tỉ đồng, chỉ đủ để làm vài chuyện quảng cáo lặt vặt mà thôi.

Chấp nhận làm ca sĩ độc quyền của công ty hoặc ông bầu, ca sĩ độc quyền không còn được sống theo ý mình. Tất cả đều được quy định bởi ông bầu hoặc công ty, từ chuyện tiếp xúc với ai, mấy giờ phải tắt điện thoại và đi ngủ, nên trả lời báo chí như thế nào v.v... ca sĩ độc quyền không khác gì một con rối bị giật dây. Thậm chí, ca sĩ độc quyền còn bị cấm không được quyền yêu người này hoặc làm quen với người kia. Nếu vi phạm hợp đồng, thì cứ theo đó mà trừ tiền cát-sê tùy theo lỗi nhỏ hay lớn. Một lần, giám đốc một công ty thám tử kể với các nhà báo rằng công ty anh nhận một hợp đồng theo dõi anh chàng ca sĩ độc quyền của công ty X, 24/24 giờ, để ngăn chặn chuyện anh đang tán tỉnh một nữ diễn viên. Chính vì đời sống mệt mỏi như vậy, nên khi có cơ hội, ca sĩ lập tức ra đi. Và đương nhiên, cuộc ra đi nào cũng phải trả giá rất đắt.

Chuyện của "Tim"
Căng thẳng nhất trong mối quan hệ giữa công ty và ca sĩ độc quyền ở thời điểm này là giữa nam ca sĩ có nghệ danh là "Tim" và Công ty Thiên Thy với ông bầu nhiều chiêu Nhất Trung. Sau một thời gian làm việc chung với nhau, phía Thiên Thy muốn biến Tim và nữ ca sĩ kiêm diễn viên điện ảnh Minh Hằng thành một hiện tượng kiểu Bi (Rain) ở Hàn Quốc hay F4 của Đài Loan. Và khi mọi chuyện đang xuôi chèo mát mái vì Tim và Minh Hằng đang thu hút một lượng lớn người hâm mộ thuộc tuổi teen thì bỗng dưng nam ca sĩ này tuyên bố ra đi. Sự ra đi đó khiến ông chủ Nhất Trung nổi giận. Ngay lập tức, Thiên Thy đưa đơn kiện Tim ra tòa, yêu cầu anh bồi hoàn các chi phí đào tạo do tự ý phá vỡ hợp đồng. Con số thiệt hại vì sự ra đi của Tim mà Thiên Thy đưa ra là rất khủng khiếp: 10 tỉ đồng. Đương nhiên, thiệt hại do một mối quan hệ kinh tế thì khó có thể nói trước. Kèm theo số tiền 10 tỉ này, Thiên Thy yêu cầu Tim phải trả lại nghệ danh "Tim" do công ty đã đặt. (Trước khi về với Thiên Thy, tên của nam ca sĩ Tim là Cát Vũ).



Với yêu cầu trả tên, Tim tuyên bố anh "không trả" và cho biết Thiên Thy đang âm thầm đào tạo một "Tim giả'", còn anh mới là "Tim thiệt 100%". Về số tiền 10 tỉ đồng, phía Tim cũng đã chuẩn bị luật sư để bênh vực. Mọi chuyện đang chờ phán quyết của Tòa án.
Tuy nhiên, việc kiện cáo như vậy chưa phải là tất cả. Rời bỏ Thiên Thy, nam ca sĩ Tim cứ nghĩ với lượng khán giả trẻ ái mộ đông đảo của mình, chẳng mấy chốc anh sẽ thành danh trong làng giải trí mà không cần có sự giúp đỡ của ai hết. Nhưng ca sĩ này đã lầm. Đột ngột, tất cả các lời mời anh trình diễn trước đó đều biến mất. Hầu như những chương trình ca nhạc đều vắng bặt Tim. Dân trong giới tin rằng có sự can thiệp của ông bầu Nhất Trung để "không cho kẻ phản bội có đất đứng trên sân khấu".


Đến đường cùng, ca sĩ này dò dẫm về tỉnh hát. Nhưng, về tỉnh cũng không yên. Một nam ca sĩ kể rằng trong chuyến đi trình diễn ở Lâm Đồng, Gia Lai và Huế, Tim cùng đi với đoàn. Theo dự tính, nam ca sĩ này sẽ trình diễn tất cả các đêm ca nhạc mà đoàn đã xin được giấy phép do Sở Văn hóa- Thể thao-Du lịch của ba tỉnh nói trên cấp. Tuy nhiên, cứ sắp chuẩn bị diễn thì buổi sáng, cơ quan văn hóa tỉnh lại thông báo nam ca sĩ Tim không thể trình diễn đêm nay do đang vướng vào một vụ kiện tụng gì đó mà phía công ty cũ của anh đã có công văn yêu cầu Sở Văn hóa-Thể thao-Du lịch tỉnh can thiệp.


Buộc lòng, bầu sô của chuyến lưu diễn phải khuyên Tim trở về Sài Gòn trước đoàn để khỏi xảy ra những chuyện không hay tương tự. "Vậy bây giờ cậu ca sĩ ấy sống như thế nào?", các phóng viên hỏi, người bạn trả lời: "Nó khổ lắm anh ạ, lâu lâu trốn được tay quản lý cũ đi hát bậy bạ kiếm sống thôi. Nó bị truy cùng diệt tận rồi!". Đó là câu trả lời mà hầu như các ca sĩ thân cô thế cô đều biết khi chơi cuộc chơi trong làng giải trí Việt Nam.
(Hình 6: ca sĩ Tim)

Chuyện đồng tính luyến ái
Có khi, những ông chủ hoặc bà chủ không yêu cầu nam hoặc nữ ca sĩ phải kiếm lợi cho mình trên phương diện tiền bạc mà chỉ đòi hỏi họ "đền đáp lại tình yêu". Hàng loạt những chuyện đồng tính luyến ái liên quan giữa nam ca sĩ này với người đỡ đầu kia, giữa nữ ca sĩ nọ với bà bầu kia... được đồn đại hằng ngày trong làng giải trí. Nhiều người nói rằng họ nổi da gà khi thấy ông anh ôm ông em hôn môi thắm thiết ngay sau cánh gà.


Nữ ca sĩ trẻ tuổi, lừng lẫy danh tiếng cả về tài năng, nhan sắc lẫn tính tình dễ thương "ruột để ngoài da" nọ, khi mới tốt nghiệp hàng đầu khoa Thanh nhạc tại Học viện Âm nhạc-Kịch nghệ TP.HCM (chỗ này không thể để là Sài Gòn vì sợ lầm lẫn với trước năm 1975, xin quý vị độc giả thông cảm), chưa có một chút tiếng tăm nào, được một cô "không thèm lấy chồng", nổi tiếng về nghề làm bánh mì và bánh ngọt, tỉ phú tại Sài Gòn đỡ đầu, người ta nói cả hai đều "lesbian" nhưng ít ai tin, đa số đều cho rằng cô bánh mì "đại tỉ phú gia" thì lesbian thứ thiệt, còn cô nữ ca sĩ chỉ là đền ơn đáp nghĩa mà thôi.



Kể cả anh chàng ca sĩ "tóc xịt keo dựng chơm chởm theo kiểu cách riêng", ăn khách nhất trong nước hiện cũng vậy. Trước đây anh đã từng đoạt giải thưởng cao trong cuộc thi Tiếng Hát Truyền Hình tổ chức hằng năm của Đài truyền hình Sài Gòn, nhưng vì nghèo nên ngoài 30 tuổi vẫn chưa làm nên sự nghiệp. Đùng một cái, anh được một danh hài ở bên Mỹ hạp nhãn, bỏ tiền ra giúp đỡ. Tiền có sức mạnh vô biên, đã biến con người đầy khả năng nhưng lận đận đó thành một ca sĩ danh tiếng như ngày nay. Khi được hỏi về "mối tình" giữa anh và đại danh hài, anh nói rằng anh vẫn biết ơn người đã cưu mang mình, không bao giờ dám quên.

Ngoài ra, còn rất nhiều, rất nhiều những ví dụ tương tự về chuyện "ô-môi". Người ta nói có tới 90% các nam ca sĩ là ô-môi, và khoảng 40% các nữ ca sĩ là "lét" (lesbian). Tuy nhiên, giới trẻ Việt Nam vốn dễ tính, họ chỉ đồn đại chơi cho vui vậy thôi chứ không phân biệt người này là ô-môi thứ thiệt, người kia ô-môi theo phong trào hay người nọ ô-môi do hoàn cảnh, muốn bước lên nấc thang danh vọng thì phải chấp nhận.

- Đoàn Dự ghi chép
*

CỘNG SẢN VIỆT NAM BÁN NƯỚC

*

Ô NHỤC ẢI NAM QUAN!
Ven trời góc biển buồn chim cá
Dạn gió dày sương tủi nước non
Thượng Tân Thị
Bi thương thay cho lịch sử Việt Nam!
Từng cây số trên quê hương là từng giòng máu lệ, máu của cha ông ngăn thù và máu của hai miền huynh đệ chan hòa vào nhau trong hoan lạc dành cho Quốc tế Cộng Sản. Và đang trở về đây là những bước chân âm thầm của ngàn năm nô lệ. Kết qủa từ công cuộc nhuộm đỏ mạo danh “độc lập, tự do, hạnh phúc” theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đồng bọn.

Hãy tiếp tục nhìn những gì mà CSVN đang ra sức thực hiện: “Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan không thuộc lãnh thổ Việt Nam!”. Họ cố chối bỏ lịch sử Việt Nam và ra sức tranh cãi, biện luận với dân Việt thay cho Trung Cộng. Ô nhục! Từ quan đến quân, CSVN chỉ là một lũ tôi mọi dâng đất, dâng biển của tổ tiên cho ngoại bang bằng văn tự công hàm, hiện rõ hình hài là một bọn quái thai chưa từng có trong lịch sử nhân loại!

Chấp bút cho đề tài “Ải Nam Quan”, thay vì tranh luận bằng văn chương, tôi sẽ sử dụng giá trị của những tư liệu bằng hình ảnh. Bởi vì, đã có rất nhiều nghiên cứu công phu của các tác giả yêu nước Việt nồng nàn đã là qúa đủ để khẳng định “Ải Nam Quan là của Việt Nam! Ải Nam Quan thuộc về Trung Cộng là do sự hiến dâng của Đảng CSVN!”. Những hình ảnh sẽ lưu lại đây để cho con cháu chúng ta hiểu rõ hơn niềm bi thương của đất nước, chỉ cho các em bọn bán nước hiện đại là ai. Để rồi không còn ngày phải tôn thờ hình Hồ-Mao và màu cờ máu chỉ còn là một kỷ niệm buồn. Rất buồn!
Hãy xác tin rằng: “Nước Việt của em từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau” là mãi mãi!
Chương INHỮNG HÌNH ẢNH LỊCH SỬ
Trong chương này, việc sắp đặt hình ảnh về Ải Nam Quan sẽ dựa theo sự thay đổi của lối kiến trúc v.v. mà phân chia thành các nhóm hình theo ký tự A,B,C…Để sự diễn tả rõ ràng hơn, những hình ảnh bên phía Trung Cộng (hoặc Trung Quốc theo thời đại) sẽ gọi là “Trấn Nam Quan” “Mục Nam Quan” v.v…; ngược lại, nhũng hình ảnh bên phía Việt Nam sẽ gọi là Ải Nam Quan hoặc cổng Nam Quan theo đúng tinh thần lịch sử. Phân chia như sau.
- Nhóm A: họa đồ “Trấn Nam Quan” của Trung Quốc (đánh số A1 đến A4)
- Nhóm B: có chung kiến trúc (đánh số B1 đến B4)
- Nhóm C: có chung kiến trúc (đánh số C1 đến C4)
- Nhóm D: có chung kiến trúc (đánh số D1 đến D2)
- Nhóm E: không xác định (E1 đến E3)
- Nhóm F: hình quân sự và bản đồ (đánh số F1 đến F6)
- Nhóm Phụ ảnh: Một số phụ ảnh bất định sẽ đưa trực tiếp vào nơi hình cần thêm minh họa.

Diễn tả1, Nhóm hình A:Trước hết, ta có hai bức họa theo lối sơn thủy về hình ảnh “Trấn Nam Quan” trong đời nhà Thanh (Trung Quốc). Niên đại của cả hai được cho rằng họa vào đời vua Ung Chính khi xảy ra cuộc chiến Trung-Pháp (1884-1885)
A1. “Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (1)

Còn gọi là “Thanh Quân Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (Họa đồ bố trí phòng thủ Trấn Nam Quan của quân Thanh). Đây là bức họa các vị trí đóng quân của nhà Thanh nơi Trấn Nam Quan bên trong nội địa Trung Quốc. Địa hình đồi núi khái lược. Cổng ra vào với Ải Nam Quan của Việt Nam nằm tại cạnh phải của bức họa (có đóng khung).

A2. “Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (2)
Các vị trí đóng quân của nhà Thanh nhìn từ hướng Việt Nam. Không hiểu tại sao bố cục của bức họa này lại rất giống với bố cục trên bưu ảnh (tham khảo hình B1) do người Pháp chụp vào đầu TK20 (hoặc cuối TK19?) . Có thể bức họa này dựa theo tài liệu của người Pháp mà vẽ ra. Giá trị của bức họa này so với bưu ảnh (B1) là do sự quan sát của người Trung Quốc vào thời đại cũ nên ta thấy được kiến trúc nguyên thủy của Ải Nam Quan bên phía Việt Nam. Ta thấy có một cổng lớn, hai bên cổng là hai dãy tường thành dâng cao nhưng bị cắt ở hai bên lưng núi. Một khoảng sau cổng mới đến phần cổng có mái ngói. Từ phần cổng mái ngói này có dãy tường thành chạy dài lên đỉnh núi. Đó là phần Trung Quốc. Các điểm này tương xứng với bưu ảnh (B1).

A3. “Trấn Nam Quan Đại Chiến”
\
Minh họa cảnh giao chiến giữa quân Pháp và quân Thanh tại cổng Nam Quan vào năm 1885. Niên đại của bức họa không rõ nhưng ta thấy tường thành có kiến trúc giống cổng Ải Nam Quan của hình A2.

A4. “Trấn Nam Quan Đại Lâu Đồ”
Mô tả cảnh quân Pháp rút quân và binh lực quân Thanh tại Trấn NamQuan. Hãy quan sát vị trí cổng theo khung hướng dẫn trong hình.
2, Nhóm hình B:
Bưu thiếp (Carte Postale) phong cảnh Ải Nam Quan do người Pháp thực hiện vào đầu thế kỷ 20. Các nhật ấn sưu tầm được trên bưu thiếp sử dụng từ năm 1908-1912.
B1. Ải Nam Quan nhìn từ độ cao ở Đồng Đăng

Vẫn dựa theo tường thành phía Việt Nam là hai đoạn ngắn nhưng phần cổng đã thay đổi thành cổng nhỏ. Phía Trung Quốc là cổng lớn và cao hơn, thiết kế hai mái ngói và tường thành chạy dài lên núi giống các bức họa đã nêu trên. Có lẽ sau giao tranh vào năm 1885. Cổng phía Việt Nam đã bị phá hủy nên được xây lại không còn qui mô như xưa.
Khoảng trống đến phần cổng phía Trung Quốc là vùng cảnh giới của hai bên vì dựa theo hình phía bên Trung Quốc ta sẽ thấy có sự đối xứng (tham khảo nhóm hình C).
Phụ ảnh:(B1) Ảnh màu để xác nhận hai phần mái ngói đỏ.


B2. Ải Nam Quan nhìn từ hướng Đồng Đăng

Ta nhận thấy sự cao thấp của hai phía cổng và cánh phải của tường thành phía Việt nam cũng dừng ở ngang núi theo như họa đồ Trung Quốc (A1). Ở góc phải phía dưới hình là một ụ trắng phủ cỏ xanh, dấu tích lô cốt của quân đội Pháp (tham khảo hình F1 sẽ thấy rõ vị trí lô cốt nhìn từ bên Trung Quốc).

B3. Bang giao tại Ải Nam Quan
Quan sát các nhân vật trong hình, ta thấy ở cạnh trái có binh lính Việt Nam đứng thành hàng dài. Giữa cổng đi ra là hàng phu khiêng kiệu đội nón vải rộng vành của quân nhà Thanh (chở quan viên?). Ở cạnh phải của hình có những người nhà Thanh đội nón và kết tóc đuôi sam. Có lẽ đang diễn ra một sự kiện nào đó trong lịch sử bang giao tại Ải Nam Quan.

B4. Cổng Ải Nam Quan
Cổng đóng then gài, cỏ mọc cao ngất ngưỡng. Hoang tạnh. Trong lời nhắn trên bưu thiếp cho ta biết cổng được tu phục vào năm 1908. Nhật ấn “Lạng Sơn”. Xác nhận bờ tường thành chỉ còn dấu thang bậc đi lên để so sánh với tường thành phía bên Trung Quốc (nhóm hình C).
Phụ ảnh: Đường lên Ải Nam Quan từ Đồng Đăng
3, Nhóm hình C
C1. Trấn Nam Quan (1)
Nhìn từ bên Trung Quốc. Kiến trúc ở đây đã khác. Phần mái ngói lớn phía dưới đã mất, chỉ còn lại phần mái ngói bên trên và cấu trúc mái cũng khác. Chỉ có dãy tường thành là vẫn chạy dài lên trên. Cạnh trái trên đỉnh núi có doanh trại. Phía dưới trước mặt cổng có cụm nhà ngói. Kiến trúc thay đổi có lẽ do sự phá hủy trong cuộc “Khởi nghĩa Trấn Nam Quan” do Tôn Trung Sơn lãnh đạo vào năm 1907. Để dễ phân biệt với nhóm hình chụp từ phía Việt Nam ta sẽ quan sát thêm sự khác nhau của địa hình đồi núi.

C2. Trấn Nam Quan (2)

Mặt bằng của Trấn Nam Quan. Bờ tường thành chia theo lô khác với hình thang bậc bên phía Việt Nam. Ta thấy rõ bên phía Trung Quốc cũng có khoảng cách so với cổng lớn (Quan). Một án tường trắng đối diện cổng là theo lối phong thủy ngày xưa tránh sự dòm ngó thẳng vào nhà mình từ phía bên ngoài (ngay trong các kiến trúc cổ của Việt Nam từ đình làng đến lăng miếu ta sẽ nhận ra điểm này). Theo sử liệu Trung Cộng, cụm nhà nhỏ phía trước cổng lớn (nơi có hai nhân vật áo trắng đang đứng) là miếu thờ Quan Công gọi là Quan Đế Miếu và Đền Chiêu Trung. Sau đó vào năm 1896 trong chương trình khảo sát biên giới giữa Trung-Pháp đã xây trên nền này một văn phòng quản lý cùng với 9 điểm khác trên biên giới Trung-Việt. Năm 1914 xây lại lần hai thành kiến trúc nhà lầu kiểu Pháp nên còn gọi là “Pháp Lầu” hoặc “Pháp Quốc Lầu” vẫn còn tồn tại cho đến nay.

C3. Toàn cảnh Trấn Nam Quan

Có một khu trại và hai dãy nhà mái lá cách xa với cổng lớn ở cạnh tâm phải của hình. “Trấn Nam Quan” là đây! Khởi nghĩa Tôn Trung Sơn là đây! Khu di tích này giờ chỉ còn là ruộng nước, gọi là “khu di chỉ Trấn Nam Quan Khởi Nghĩa”. Các khung trong hình dùng để xác định vị trí so với hình C4.

C4. Trấn Nam Quan (3)

Trên bưu thiếp có tiêu đề “NAM QUAN (Chine) – Le Village” rõ ràng đây là khu làng mạc (Trấn) trong đất Trung Quốc. So sánh các khung vị trí với hình C3:
Dãy nhà lá và con đường đất ở giữa, trước mặt là cụm nhà ngói và tán cây. Ngang ở tâm trái của hình là bờ tường thành. Phía góc phải là vách núi đá (đá vôi?) trắng.
Chữ “Trấn” trong văn tự trung Quốc có rất nhiều nghĩa, như “trấn giữ”, “trấn áp”, “trấn tĩnh”, “trấn địa”…v.v. đều là chỉ việc gìn giữ, ổn định. “Trấn” còn là một đơn vị hành chính sau cấp huyện có từ thời xưa tại Trung Quốc (đơn vị hành chính Việt Nam thời xưa cũng thường sử dụng). Trong một số sử sách Việt Nam có nói “Trấn Nam Quan” nằm trong nội địa Trung Quốc. Thì đây, “Trấn Nam Quan” đã xác định là những hình này! Khối nhà lợp mái ngói ta sẽ hiểu là khu nhà quan binh, hai dãy nhà lá là khu dân cư dựa theo binh đội để có cuộc sinh hoạt yên bình. “Trấn” là khu phố nhỏ, làng mạc. Đừng làm lệch lạc lịch sử và đừng theo luận điệu của bọn bán nước mà cho rằng “Ải Nam Quan phải gọi là Bắc Quan”. Chữ “Nam Quan” là do Trung Quốc kiêng kỵ Việt Nam nên không muốn gọi là “Đại Nam Quan” mà thôi. Chữ “Quan” là chiếc cổng qua lại. “Đại Nam Quan” hay “Nam Quan” là cửa ngõ giao thiệp với nước Việt Nam. Hai bên đã thủ lễ với nhau bằng khoảng trống ở hai bên cổng lớn. Theo sử liệu, sau chiến tranh Trung-Pháp thì nhà Thanh đã chiếm giữ cổng lớn và buộc phía Việt nam phải cách xa cổng là 100 thước. Việc này ta thấy tương đương với khoảng cách của hai cổng trong nhóm hình B.

4, Nhóm hình D
D1. Cổng Nam Quan (1)

Đây là một kiến trúc khác hẳn so với các nhóm hình trên. Có vẻ sơ sài vì đã mất hẳn phần kiến trúc phía trên trong cuộc nội chiến tại Trung Cộng vào năm 1949. Ta thấy có dáng một nhân vật đang cầm súng. Tiêu đề trên bưu thiếp “NAM QUAN (Tonkin)…” đây là bên phía Việt Nam khi qua cổng nhỏ để đứng sát với cổng lớn (vào lúc này có lẽ kiến trúc cổng nhỏ cũng đã mất). Theo sử liệu Trung Cộng, trong cuộc giao tranh vào năm 1949 thì toàn bộ phần trên cổng đã bị phá hoại hoàn toàn (tham khảo hình E2).

D2. Cổng Nam Quan (2)
Hình đăng trên tạp chí “National Geographic” do GS Nguyễn Văn Canh đưa lên mạng và không rõ niên đại. Một số bạn nghi ngờ bức ảnh này không chính xác với hình ảnh của Ải Nam Quan. Tuy nhiên so sánh với hình D1, ta đã thấy kiến trúc cùng kiểu của hai hình. Tại đây, dãy tường thành chạy lên cao đến vách núi trắng tương ứng với hình C3-C4, có thể xác định là hình được chụp từ cao điểm bên phía Việt Nam.

5, Nhóm hình E
E1. Không xác định (1)


Một hình ngôi chùa trên đường đi Long Châu nơi có cổng giao thiệp với Việt Nam là Bình Nhi Quan. Cùng với Nam Quan và Bình Nhi Quan còn có Thủy Khẩu Quan là 3 cổng quan yếu để vào đất Việt Nam nên gọi chung là “Tam Quan”, có khi cổng Nam Quan còn gọi là riêng là “Tam Quan” do ở vị trí quan trọng hàng đầu so với hai cổng Bình Nhi-Thủy Khẩu. Nơi hình này có tiêu đề “Chine - NAM QUAN – Loc Hang Thiap”. Chưa rõ chữ “Loc Hang Thiap” là gì nhưng hình xác định là Nam Quan trên đất Trung Quốc, có phải là một ngôi chùa trong “Trấn Nam Quan” hay không? Hay là thuộc Trấn Bình Nhi Quan?

E2. Không xác định (2)

Quân đội Trung Cộng đứng trên tường thành giương cờ trong cuộc chiến thắng quân Tưởng Giới Thạch vào ngày 11.12.1949 tuyên bố giải phóng Quảng Tây. Thế tường thấp với cổng và trên mặt tường cổng có chữ “Trấn Nam Quan”.

Phụ ảnh E2: Hình chụp chính diện của Trấn Nam Quan trong ngày giải phóng Quảng Tây tháng 12.1949. Trên mặt tường cổng thành ta thấy rõ chữ “Trấn Nam Quan”. (phòng trưng bầy lịch sử Hữu Nghị Quan)


E3. Không xác định (3)
Quân đội Trung Cộng đứng trước cổng nhỏ có khắc chữ “Trấn Nam Quan”. Không rõ niên đại của hình. Chung với hình E2, có lẽ đây là “Trấn Nam Quan” mà tôi đã giải thích (mục 3, nhóm hình C).

6, Nhóm hình F
F1. Toàn cảnh Ải Nam Quan


Do trinh sát quân Nhật Bản chụp vào tháng 6 năm 1940 trước khi tiến hành “cuộc chiến 3 ngày” nhằm đạt mục đích đưa quân vào lãnh thổ Đông Dương. Hình được mô tả: “…thấy được đường xe lửa Lao Cai-Côn Minh. Lại có đường xe ô-tô từ Đồng Đăng lên tận Trấn Nam Quan. Bờ tường thành này bên trong là đất Trung Quốc, ngay bên ngoài là Bắc bộ Đông Dương”.
Từ cao điểm như trong hình ta thấy rõ vị trí lô cốt như đã xem qua hình B2. Có khả năng lô cốt đã xây dựng trên một nền kiến trúc cổ xưa của Việt Nam . Và còn “Suối Phi Khanh” nơi thấm lệ của Nguyễn Trãi, có ai nhận ra chưa?…Nước mắt!
Phụ ảnh F1: Liên quân Pháp-Việt (trường Sĩ quan Đồng Đăng)



Những người bảo vệ Ải Nam Quan thất thủ trước quân Nhật (25.09.1940)

F2. Cột Mốc Số 18


Do quân đội Nhật Bản chụp tháng 7 năm 1940 ngay tại tường thành Trấn Nam Quan. Cột mốc số 18 lịch sử xác định biên giới Trung-Việt vào năm 1887. Xác định lãnh thổ bảo hộ của thực dân Pháp tại Đông Dương và cũng là khởi điểm Nam tiến của quân đội Thiên Hoàng giao tranh với các nước Châu Âu.
Trên Cột mốc số 18 ta đọc được: “Trung Việt Quốc Giới, Trấn Nam Quan Ngoại, Đệ Thập Bát Hiệu - No.18 FRONTIERE”

F3. Bản đồ vị trí Trấn Nam Quan và cột mốc số 18



Do chính quyền Tưởng Giới Thạch họa vào năm Dân Quốc 13 (1925). Khu vực Trấn Nam Quan và cột mốc số 18 (có đóng khung)

F4. Hữu Nghị Quan
(tên gọi cổng Nam Quan do Trung Cộng đặt ra vào năm 1965)



Đây là một bằng chứng sống động nhất cho kết qủa “bác cháu ta cùng giữ nước” trong thời cộng sản cầm quyền tại Việt Nam. Ảnh do cựu chiến binh Trung Cộng (tham gia chiến tranh biên giới Trung-Việt 1979) chụp vào năm 2005. Các vạch và khung đánh dẩu trên ảnh là của tác giả ảnh và được giải thích như sau.
“Hình trên là từ trên núi Kim Kê chụp xuống. Bên trái là Hữu Nghị Quan, vòng tròn màu vàng là cao điểm tranh chấp Trung-Việt, hiện thời do quân ta khống chế; Vùng màu xanh lá cây hình tam giác là khu vực gài địa lôi. Vạch dài màu tím là con đường sắt qua lại với Đồng Đăng. Vùng trắng giữa hình có hai cửa đường hầm là điểm cuối của cao tốc Nam Ninh đến Bằng Tường”
Nguyên văn:
上图]这是在金鸡山上往下拍的。左侧是友谊关,黄圈部分为中越有争议的高地,目前为我军控制;草绿色的三角为雷区 ,蓝线是通往同登的铁路。图片中间灰白处有两个遂道洞口为南宁至凭祥高速公路的终点站。
Tham khảo tại đây:
http://military.china.com/zh_cn/hist...2461442_1.html


Tôi xin thuyết minh thêm. Núi Kim Kê là cao điểm chiến lược nằm ở cánh trái cổng Nam Quan, ngay vị trí chụp ảnh của tên cựu chiến binh này chính là đất Việt Nam. Khu vực tam giác trong hình chính là khu vực của cột cây số Km0 của Việt Nam là nơi mà vào đầu tháng 7.2007, phía Trung Cộng đã tuyên bố hoàn tất gỡ bỏ tấm đạn địa lôi (mìn) cuối cùng, bảo đảm thông thương an toàn cho “vùng Hữu Nghị, Hòa bình vạn tuế!”. Trong các hình ảnh của chương tiếp theo ta sẽ rõ hơn về vị trí này. Ở đây ta đã có khái niệm về việc Ải Nam Quan đã mất trong cự ly ra sao! Việc mất lãnh thổ qủa là nghiêm trọng! không phải là 100m, 150m, hoặc 200m. Cự ly trong hình có thể tính bằng Km! Hai lỗ đen gần giữa tâm hình là đường ra vào của cao tốc Nam-Hữu (Nam Ninh-Hữu Nghị Quan với chiều dài 179.2 Km. Nam Hữu khởi công vào ngày 28.04.2003 và chính thức khai thông vào ngày 28.12.2005, cũng là đường quốc lộ số 322 của Trung Cộng với điểm tận cùng giáp với Km0 của QL1 Việt Nam. Một âm mưu mới hơn đang hình thành!).
Như ta thấy, cả một vùng đồi núi của Việt Nam đã bị Trung Cộng ngang nhiên san bằng và xây dựng công trình trong nhiều năm, vẫn không hề có một chút phản ứng nào của bọn cầm quyền CSVN. Hay nói đúng hơn là đã có một sự thỏa thuận nhượng Ải Nam Quan từ hàng chục năm trước?

F5. Ảnh chụp vệ tinh vị trí của Hữu Nghị Quan



Khu vực Hữu Nghị Quan (đóng khung) so với đường biên giới Trung-Việt màu vàng. Ảnh do cựu chiến binh Trung Cộng thiết kế để mô tả lại chiến trận biên giới Trung-việt năm 1979. Lúc này, Hữu Nghị Quan đã nằm sâu trong đất Trung Cộng từ đời…Hồ Chí Minh!
Chương IIKẺ BÁN ẢI NAM QUAN VÀ KM ZÉRO Ô NHỤC!
Kẻ bán Ải Nam Quan là ai?
Kẻ bán Ải Nam Quan và bán luôn cả cơ đồ dân tộc Việt Nam cho Trung Cộng chính là Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Máu bán nước ăn sâu vào từng đời của bọn lãnh đạo CSVN. Để chứng minh rõ ràng những tội lỗi của bọn bán nước buôn dân này vẫn còn những hình ảnh làm tang chứng. Hãy tiếp tục xem…
- Giai đoạn 1938-1945, Hồ Chí Minh hoạt động “cách mạng” tại Quảng Tây.
- Năm 1945 thực hiện cướp chính quyền tại Việt Nam.
- Năm 1950 tiếp tục sang Trung Cộng mưu cầu viện trợ vũ khí lương thực kháng Pháp.
Hình G1. HCM bí mật sang Quảng Tây ngày 16.01.1950


HCM bí mật sang Quảng Tây ngày 16.01.1950. HCM là người trùm khăn đứng thứ hai bên phải hình)
Việc qua lại giữa hai Đảng CS Trung-Việt liên tục diễn ra tại cổng Nam Quan. Tháng 10 năm 1953, Chánh Vụ Viện Trung Cộng đổi tên cổng Nam Quan thành “Mục Nam Quan” (chữ “Mục” có nghĩa là: hòa thuận, hòa hợp, thân mật, thân thiết…), đồng thời cả hai chính phủ Trung-Việt thành lập Ủy Ban Cửa Khẩu Mục Nam Quan. Cùng năm, thỏa thuận theo Chánh Vụ Viện Trung Cộng, Việt Nam mở cửa tự do cho hai cửa khẩu Bình Nhi – Nam Quan. Năm 1953 đã có 276.000 lượt qua lại cổng Nam Quan giữa hai bên.

Hình G2. HCM bang giao với TC tại cổng Nam Quan trong những năm 1950

- Tháng 2 năm 1954, hai bên chính phủ Hà Nội-Bắc Kinh soạn ra “Hiệp Định Mậu Dịch Biên Giới”.
- Ngày 26.09.1954, Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu CSVN xuất phát từ cổng Nam Quan tham dự hội nghị tại Nam Ninh.
- Ngày 10.11.1954, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VN là Phạm Văn Đồng đi từ cổng Nam Quan sang Bằng Tường tiếp tục đi Bắc Kinh ra mắt Chu Ân Lai.
Hình G3. Phạm Văn Đồng ra mắt Chu Ân Lai
- Ngày 26.02.1955, khánh thành tuyến đường sắt Hà Nội-Trấn Nam Quan. Hồ Chí Minh đọc diễn văn chúc mừng tại cổng Nam Quan.
Hình G4. HCM và CÂL yến tiệc xa hoa tại Bắc Kinh tháng 06/1955
- Tháng 12.1958, hai huyện Ninh Minh, Long Tân kết hợp với Bằng Tường (Trấn Bằng Tường) thành lập huyện Mục Nam.
- CSVN phản ứng! Ngày 27.04 đến 02.05.1959, Trung-Việt hội nghị vấn đề biên giới tại Bằng Tường. Ngày 10.05.1959, chính phủ Trung Cộng quyết định xóa bỏ đơn vị “huyện Mục Nam”. Ninh Minh, Long Tân , Bằng Tường trở về đơn vị hành chính cũ.
- Ngày 04.09.1959, Chu Ân Lai đáp máy bay đến Bằng Tường hội đàm cùng Hồ Chí Minh vấn đề biên giới Trung-Việt.
- Năm 1960, Phạm Văn Đồng trồng cây si để làm mốc cho Km0 của Việt Nam.
Hình G5. Cây si do PVĐ trồng (???)


Cây si do PVĐ trồng (?) nhìn từ bên phía VN. Vị trí tương ứng với khoảng cách của tường thành cổng Nam Quan cũ bên VN)

Hình G6. Cây si PVĐ nhìn từ bên cổng Hữu Nghị Quan của TC


Hình G7. Cây si PVĐ nhìn từ trên lầu thành Hữu Nghị Quan. Cụm nhà trắng là Hải Quan TC xây lại trên nền "nhà tròn". Xa thẳm bên kia là cột Km0 hiện tại.

- Ngày 09.04.1961, Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh “hội đàm” tại lầu 2 của cổ thành Mục Nam Quan. “Hội đàm” về nội dung gì thì cả hai bên đều không công bố. Chỉ biết rằng cuộc “hội đàm” mờ ám tại Mục Nam Quan của hai lãnh đạo cộng sản Trung-Việt được viết trong sách giáo khoa của bọn Trung Cộng là “mở ra một trang sử mới cho quan hệ Trung-Việt”.

Hình G8. Lầu 2 tại Mục Nam Quan với nguyên trạng cuộc "hội đàm" giữa CÂL và HCM

Hình G9. Bảng vàng ghi lại sự kiện
- Ngày 05.03.1965, Quốc Vụ Viện Trung Cộng và chính phủ CSVN cử hành lễ đổi tên “Mục Nam Quan” thành “Hữu Nghị Quan”. Tham dự phía bên Việt Nam có Tổng lãnh sự VN trú tại Nam Ninh và đoàn chính phủ VN đến từ Lạng Sơn.
…Và kể từ sau đó, chính phủ CSVN đã dâng trọn Ải Nam Quan cho Trung Cộng để tiếp nhận viện trợ vũ khí tiến đánh miền Nam-Việt Nam Cộng Hòa.
Hình G10. Hữu Nghị Quan năm 1965. Biểu ngữ của TC và hình Mao Trạch Đông phơi vào phần lãnh thổ VN




Hình G11. So sánh với hình ảnh Mục Nam Quan năm 1959. Đoàn đại biểu CSTC lễ phép chụp ảnh tại cổng Nam Quan bên phía VN


Hình G12. Năm 1966. Công binh xây dựng đường sắt Trung-Việt tại Hữu Nghị Quan
Năm 1966. Công binh xây dựng đường sắt Trung-Việt tại Hữu Nghị Quan tuyên thệ trước khi vào VN làm nhiệm vụ và Thiết đạo binh: công binh đường sắt TC giả dạng bộ đội VN

Hình G13. Năm 1966. Quân chính qui TC giả dạng bộ đội VN
Năm 1966. Quân chính qui TC giả dạng bộ đội VN tuyên thệ tại Hữu Nghị Quan. Hướng về TC đồng thanh hô lớn: "Quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Nguyện mang vinh quang trở về!". Trong ảnh là Sư đoàn 62 Cao Xạ TC)

Hình G14. Tham gia tra tấn tù binh Mỹ tại VN



Hình G15. Tham gia bắt sống phi công Mỹ tại VN. Người cầm ảnh là cựu chiến binh TC tham chiến tại VN




Hình G16. Huy chương "Đoàn Kết Chiến Thắng Giặc Mỹ" do chính HCM ký tặng hoặc do PVĐ ban thưởng.




Hình G17. Năm 1968, Hồ - Mao đi từ Ải Nam Quan cùng mang vũ khí vào gây tang tóc cho dân miền Nam VN
"Nam man! Ta cho ngươi cơm ăn, áo mặc, ta cho ngươi súng đạn, nhưng chính ngươi đã lấy súng đạn bắn vào da thịt ta!” (người anh em đồng chí TC nói!)

Hình G19. Hoa Kiều tại Việt Nam bị cưỡng chế hồi hương năm 1978.

- Ngày 25.08.1978, khoảng trên 200 quân Việt Nam dùng vũ lực bắt buộc Hoa kiều phải hồi hương đi vào khu vực Hữu Nghị Quan. Lúc 17g30 cùng ngày, ngay trước cổng Hữu Nghị Quan, quân Việt Nam đánh chết 6 người, 82 người bị thương, 15 người chạy thoát. Công tác viên phía Trung Cộng lên tiếng cảnh cáo và xung đột đã xảy ra giữa hai bên cán bộ Trung-Việt. Ba ngày sau, quân Việt Nam tiếp tục tràn lên vùng biên giới tìm kiếm những Hoa kiều đang bỏ trốn… Chiến tranh biên giới Trung-Việt bắt đầu từ đây, cuộc chiến mà Trung Cộng lấy cớ “tự hào” là “Tự Vệ Phản Kích”. Ải Nam Quan thêm một lần nữa chứng kiến xung đột Trung-Việt. Nhưng từ sau cuộc chiến này, Trung Cộng đã đẩy lui lãnh thổ Việt Nam ra khỏi Ải Nam Quan và bỗng xuất hiện cột mốc có tên gọi “Km0” thần thoại, nằm cách xa cổng Nam Quan hàng trăm thước.

Hình G20. Dấu đạn giao tranh Trung-Việt trên khắp tường thành "Hữu Nghị Quan"



Hình G21. Trung Cộng ca khúc khải hoàn trở về cổng Hữu Nghị Quan sau chiến thắng



Hình G22. Trao trả tù binh




- Ngày 28.05.1980, Trung-Việt tiến hành trao trả tù binh tại "Km0" trên đường Đồng Đăng dẫn vào khu vực Hữu Nghị Quan

Hình G23. Phụ ảnh tham khảo "Cột Mốc Số 18" giả mạo (?)



Đây là "Cột Mốc Số 18" mà TC cho rằng đã đặt tại cổng Nam Quan. Khác với "Cột Mốc Số 18" theo Hiệp ước Pháp-Thanh (đã trình bầy nơi chương I). Trên cột mốc này khắc rằng: "BORNE.18 ANNAM-CHINE, Đệ Thập Bát Bài, Đại Pháp Quốc Việt Nam, Đại Trung Hoa Dân Quốc Vân Nam". Lịch sử nào ghi rằng Pháp thay mặt VN ký kết Hiệp ước Biên giới với chính quyền của Tưởng Giới Thạch? Loại cột mốc này là cùng kiểu với cột mốc số 53 tại khu vực Thác Bản Giốc. Những cột mốc thật sự của Hiệp ước Pháp-Thanh đã tiêu biến nơi đâu ? Không ai biết rõ hơn biên giới Trung-Việt bằng Đảng CSVN, nhưng họ có nói gì không về hiện tượng này? Lặng câm! Ta nên nhớ, trong đề cương của Đảng CSVN do HCM soạn ra vào năm 1940 đã chủ trương một cách mù quáng: "Không công nhận bất cứ văn kiện, hiệp ước nào của thực dân Pháp thay mặt VN ký kết với quốc gia khác!"
Sự ra đời của “Km 0” cho đến nay vẫn rất khó hiểu. Theo “truyền thuyết”, “Km 0” ra đời vào năm 1960 và Phạm Văn Đồng đã trồng cây si để đánh dấu vị trí. Có thực sự là PVĐ trồng cây si để đánh dấu vị trí biên giới Trung-Việt hay không? Hay chỉ đơn thuần là việc trồng cây kỷ niệm một sự kiện nào đó? (thói màu mè của CSVN). Năm 1958, chính tay PVĐ đã ký văn bản dâng biển cho Trung Cộng, bản đồ Bắc Việt thì Đảng CSVN dâng cho Trung Cộng vẽ, trong thời điểm lệ thuộc sự viện trợ của Trung Cộng thì làm sao nói chuyện căng thẳng biên giới, lãnh hải được. Còn cây si là cây si nào? Cây si thuộc loại cây nhiệt đới có sức tăng trưởng và phát tán rất nhanh. Không thể nào cho rằng cây si mà PVĐ trồng là cây si đứng sau cột “Km0”. Hãy xem hình (so sánh với cây si trước cổng HNQ ở chương II).

Hình G24



Năm 1979, hai tên Trung Cộng đang chỉ vào vị trí cột mốc “Km0”. Cỏ cây rậm rì, một gốc cây nhỏ phía sau (cây si từ năm 1960?). Phải chăng vị trí cột mốc chẳng phải bị di dời đi hàng trăm thước nào cả. Nó đã nằm đó từ những năm 1960, như một thỏa thuận “hữu nghị” khi HCM dành trọn Ải Nam Quan để tiếp nhận vũ khí của TC gây máu lửa trên miền Nam Việt.

Hình G25. "Km0" trong những năm 1990. Biên phòng VN đứng gác nhưng quay mặt về phía VN. Đáng nể!



Hình G26. "Km0"



"Km0" trong những năm đầu 2000, khi đang xây dựng lại cảnh quan "Hữu Nghị" và kế hoạch cao tốc Nam-Hữu . Lúc này trên cột còn ghi "Hữu Nghị Quan" và "cây si PVĐ" còn đó

Hình G27. "Km0" mất chữ Quan



"Cây si PVĐ" bị đốn bỏ dã man vào năm 2005. Cột mốc cũng chỉ còn chữ "Hữu Nghị". Đảng CSVN không dám nhận thêm chữ "Quan". Xóa bỏ vĩnh viễn lịch sử để làm vừa lòng đàn anh TC!

Hình G28


"Km0" của VN trơ trọi so sánh với bia đá "Nam Cương Quốc Môn" của Trung Cộng phía sau . Ở vị trí này ta không còn thấy cổng Nam Quan!

Hình G29


"Km0" trong những ngày năm 2006. Hành lang trắng bên tay phải dẫn vào khu vực Hải quan TC.

Hình G30



Nhìn sang bên phải để thấy rõ hơn cổng đường hầm cao tốc Nam-Hữu và Cổng kiểm soát của Hải quan TC.

Hình G31



Ngang với "Km0" là giao điểm Quốc lộ 322 (điểm cuối) của TC và Quốc lộ 1A (điểm khởi đầu) của VN!
"Trung Quốc Quốc Đạo 322 Chung Kết Điểm"

Hình G32


Nhìn sang VN. Đi thêm khoảng 100m nữa mới tới Cổng kiểm soát của Hải quan VN. Khoảng cách "thủ lễ" đã xuống dưới chân Ải Nam Quan trong thời cộng sản. Không còn nằm trước mặt cổng Nam Quan như ngày xa xưa. Đúng vậy! Ải Nam Quan nào là của VN? Bọn Ô nhục!
Hàng trăm thước đất của Ải Nam Quan là cả một đoạn đường dài hàng ngàn năm lịch sử của Việt Nam, nơi mà tổ tiên Trung Cộng phải bao lần cay đắng nuốt hận…Đất biển tổ tiên mất qúa dễ dàng! Đảng CSVN vẫn một mực nói như Trung Cộng, công nhận lãnh thổ bắt đầu từ cột “Km0”. Đảng CSVN đã chà đạp lên hồn thiêng sông núi, thay ngọai bang thảm sát dân tộc, giết chết lịch sử quê hương!

Hình G33. Vẫn cười đấy! Hèn mọn, bé nhỏ là thế!



Ngày 18.10.2005, Việt cộng TT Nguyễn Tấn Dũng ra đón khách Trung Cộng ngay tại Km0. Ôi, tư cách của một TT? Hai tay xun xoe chào đón quan thầy Trung Cộng. Không ai trong đám cộng sản thời đại này còn "bản lĩnh" đi qua lại Cổng Nam Quan để đón khách như Hồ Chí Minh của những năm 1950. Vẫn cười đấy! Hèn mọn, bé nhỏ là thế!

Hình G34



Ngày 28.12.2005, cao tốc Nam Hữu chính thức khai thông nối vào khởi điểm Quốc lộ 1A của Việt Nam

Hình G35

Những người dân quê Đồng Đăng bị bắt đứng ra chụp hình ngay tại giao giới biên cảnh Trung-Việt. Họ đứng trên khởi điểm của QL 1A như làm nhân chứng cho lịch sử bán nước của Đảng CSVN. Những khuôn mặt muộn phiền, ngơ ngác.

Hình G36


Ngay cả những đứa bé Trung Cộng mù lòa cũng được nắm tay cho sờ vào thành tích của cha ông chúng!
Còn người Việt Nam? Có ai dám cảm tử cầm máy ảnh ra chụp tại khu vực này hay không? Thi nhân Bùi Minh Quốc bị cấm cố vì tấm hình ôm cột mốc Trung-Viêt. Nhà báo Điếu Cày có mấy tấm chụp tại Thác Bản Giốc mà giờ còn nằm trong Chí Hòa. Và tôi cũng từng bị biên phòng VN hành hung khi tay lăm le chiếc máy ảnh nơi vùng biên cảnh "Hữu Nghị"!

Hình G37



Khách du lịch Trung Cộng thảnh thơi qua lại, nhàn nhã như ở nhà. Chụp hình ư? Chuyện nhỏ! Đố tên biên phòng VN nào dám làm khó dễ!

Hình G38



Bước một bước là qua đến VN! Hai con xẩm trong góc có khung là vị trí của Km0 Ô nhục!

Hình G39



Đứng hai chân trên biên giới!

Hình G40



Và ngồi lên "Km0" của bọn Nam man! Chúng ta là chủ nhân của lãnh thổ VN!

Hình G41



Hải quan hai bên Trung-Việt trao đổi công tác tại Km0 (tháng 04.2007)

Hình G42



Những hoạt động của Trung Cộng tại Ải Nam Quan ngày càng rầm rộ, hoành tráng. Từng đợt học sinh trên các miền được đưa về Hữu Nghị Quan để nghe giáo dục về lòng yêu nước! "Tổ Quốc Tại Ngã Tâm Trung" (Tổ quốc trong tim ta)

Hình G43
Cựu chiến binh trong chiến trận biên giới Trung-Việt hành hương
Thế hệ nào của Việt Nam sẽ được tường tận sự ô nhục này. Việc đòi hỏi Trung Cộng trả lại vùng đất thiêng của tổ quốc Việt Nam không phải dễ dàng! Sẽ lại đổ máu như hàng trăm năm trước!

Hình G44


Tháng 11 năm 2007, kỷ niệm 50 năm thành lập khu tự trị Quảng Tây. Có cả đại biểu VN tham dự, ngồi trên mảnh đất tổ tiên bị ngoại bang xâm chiếm không biết họ nghĩ gi? Hay là họ vẫn cười?
Vận động trong sạch môi trường biên cảnh Trung-Việt. Bản đồ VN đã nối vào khu tự trị Quảng Tây!

...Và rất nhiều hình ảnh khác nữa nhưng tôi sẽ tiếp tục dành cho "Chương III: Du lịch Hữu Nghị Quan"
Phi Khanh hỡi! Người còn ngồi nói những lời xưa?
"Con yêu hỡi chớ xuôi lòng mềm yếu!..."
Chân Mây


*

No comments:

Post a Comment