Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday, 12 December 2016

NGUYỄN VĂN SÂM=TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN=

THƠ NGUYỄN VĂN SÂM

*

Nói với đứa cháu nhỏ mới sanh.
Cháu sanh ra trên đất nước nầy
Hưởng đầy đủ mọi thứ Tự Do, tiện nghi thừa mứa
Đừng tưởng rằng khi không mà có
Ông bà và các đấng sanh thành ra cháu trãi bao gian khổ
mới đến được bến bờ hôm nay
nhờ sự mở rộng vòng tay của những người ở đây, thân ái
khi đồng chủng bên kia thù hằn rẻ rúng
mọi phương tiện sinh tồn bị giới hạn, bao vây,
đuổi khỏi nơi làm việc, bắt thảy lên rừng
tự đào giếng tìm nước bằng cái xuổng cùn,
thuốc men cậy nhờ mấy thứ lá cây cỏ dại
những bữa ăn chỉ toàn khoai sắn
bên dĩa muối xả hay chút nước muối mằn mặn chế pha
(Kinh tế mới, tương lai ngụy quân, ngụy quyền)
đánh lừa khẩu vị đưa cay bằng vài ba trái ớt
Rừng chiều năm sáu giờ mặt trời cũng biến mất
Cả thành phố cúp điện dài dài
Nơi nơi tối tăm ngự trị
Công an khu vực hằng bữa kêu lên ậm oẹ xử lý
Chuyện nầy chuyện kia cố ý hành dân
Vải tính từng tấc, gạo đong từng cân
Phải đi
Phải đi
Phải đi
“ Cột đèn biết di chuyển chắc nó cũng ra biển từ lâu
Dãi dầu sóng nước nhiều phen.
Ngục tù đòn bọng hai ba lượt.

(kinh tế mới trở về)
Vẫn phải quyết ra khơi, dù biết chắc hiểm nguy đói khát
Thèm từ củ khoai đèo, đọt rau úa tới ly nước chín để nguội qua đêm.
Vét chút đường cặn còn lại dưới đáy thùng lóc lăn trong xó lường ghe ngập nước
Đứa bé - người sanh thành ra con sau nầy- mê sảng trong hầm tàu hôi dầu nồng nặc
Qua mấy ngày ói tới mật xanh
Giựt mình thức dậy khóc bù loa:
Cây cà-rem của con sao ba giựt mất?
Cả nhà cầu mong trong mặt trỏm lơ đầy nước mắt
đừng ai để nước trùng dương làm thủy mộ
và cá ngàn khơi theo hộ tang[1]!
Đến được bờ bến Tự do
Thỉnh thoảng cả nhà vẫn còn nửa đêm thức dậy bàng hoàng
Tưởng như vẫn đương ở tại quê nhà, trong vòng rào trại láng
(đi tìm tự do)

Âu lo, hồi hộp ngại ngày mai hừng sáng,
Lại những cú đá đạp thù hằn dành cho người bỏ nước vượt biên.
Con ơi, quê hương rối loạn triền miên, kẻ thua người thắng
Người thắng điều hành theo cách thế vô tâm thì kẻ thua ở lại chỉ thêm lòng đau xót!
Những đứa bé vô tư phải đi ăn cắp, ăn xin, đánh giày, moi đống rác
Thập thò đứng chờ người lớp mới ăn thừa để húp một chút nước còn sót lạị trong tô trôi nổi mấy cọng tăm.
Bác sĩ kỹ sư ngồi sửa xe đạp lề đường, bơm gas xó chợ, đạp ba bánh, chạy xích lô
thân ngọc ngà đứng chào khách trong công viên, thập thò gốc cây cuối phố ,
đàn bà bó thịt, nịt gạo trong quần lấm lét mỗi lần xe qua trạm,
những thằng nhóc cở con mình rờ rẫm xét tra quát tháo..
muôn nhà bửa đói bửa no.
cột trụ gia đình biền biệt tù giam cải tạo
hơn ba mươi năm rồi nhắc lại vẫn thấy mắt cay xè, trái tim quặn thắt.
Ông tâm niệm đặt sinh mạng gia đình trên may rủi chuyến đi .
Điểm đến phải là nơi vô cùng trân quí,
Không chỉ cầu thực tha phương
lăn lóc xứ người năm này tháng nọ làm tên tỵ nạn
Như chùm gởi, như thiêu thân, như ốc mượn hồn
cho rong rêu bám đời vô định
loanh quanh trong ích kỷ tỵ hiềm
Mà sống phải làm những gì có ích cho đời không vụ lợi bản thân.
(trẻ Việt tại Mỹ)

ước vọng phai lần theo tháng năm,
thời gian trôi và thời cuộc xoay vần.
ông thất vọng về chính mình quá đổi
tự an ủi chưa làm chuyện gì để lương tâm hối lỗi
Trong suốt cuộc đời phải ray rức mình hơn
Khi con thành nhơn,
Chắc ông không còn nữa!
Chỉ để lại lời dặn dò
Sống xứng đáng cho ra người mang hai dòng lịch sử.
Quê hương là nơi con sinh trưởng học hành
Là nơi con lớn lên thành người thời đại
Hòa đồng với dân bản xứ
Ngước mặt tự hào rằng mình và họ chẳng khác gì nhau..
Nhưng máu dòng giống vẫn tiềm tàng mãi mãi
trong huyết quản,trong màu da khác loại.
Dù con ở đâu trên thế giới này
cũng vẫn là người Việt Nam
Hãy nhớ điều đó con ơi, đừng phủi tay chối bỏ
Đừng lạnh lùng xa lạ với người cùng dân tộc sống xa quê
Hãy thương dân mình lưu lạc khắp muôn nơi
không bóp chẹt bủn xỉn kiếm chút lời từ công lao vất vả
của đồng hương mưu sinh trên xứ lạ
Hãy thông cảm với những tính toán chi li của đồng bào trong nước.
Khi vòi vỉnh, xin chút bạc tiền đề phòng ốm đau bệnh tật thiên tai.
Hãy kết nối bạn bè với người Việt tha hương tứ xứ hôm nay
họ cũng héo ruột như ông cha con khi nhớ về đất xưa quê cũ
Về kỹ niệm tuổi thơ một thời chiến tranh, bão lũ
(Bà Bảy, Ông Tư ở Việt Nam)

nay đà xa cách ngàn trùng
Về bạn bè hàng xóm, bà Bảy, ông Tư..
Về họ hàng gần xa những người muôn năm trước
Hãy biết đau buồn vì đất đảo, núi rừng, vùng biển, tài nguyên
của tiền nhân bao ngàn năm để lại.
bị mất dần vào tay quân phương Bắc tham lam
Nổi nhục của người không còn Tổ Quốc
Đau đớn lắm con ơi!
Sống trên đất Mỹ
Phải biết tự do nầy ôi sao là quí
Bao xương máu xưa xây dựng tạo nên.
sống lương thiện, xứng đáng công dân, ông cho rằng chưa đủ,
Khi cần thiết,
Phải biết xã thân bão vệ.
vì con ơi!
Nhờ đất nước nầy cưu mang ưu đãi
Bao triệu người gốc Việt như con
mới có được hôm nay.
Cơm no, áo ấm, suy nghĩ Tự do và tấm lòng nhân ái
Phải yêu quí nơi mình sanh ra và yêu cả đồng bào ở bên kia nửa vòng trái đất
Ông sẽ đau buồn nếu suối vàng nhìn thấy
lũ cháu nhỏ lớn lên bê tha, không thành đạt
đánh mất tấm lòng và không thông thạo tiếng Việt Nam…
Nguyễn Văn Sâm
Sinh nhật lần thứ 70/2010.


[1] Viên Linh- Thủy Mộ Quan: Chỉ cá trùng dương theo hộ tang. Viên Linh là nhà thơ nổi tiếng trước 1975, hiện hoạt động văn nghệ ở Hoa Kỳ.
*

Sunday, March 21, 2010


TRƯƠNG TẤN THÀNH * TRUYỆN VƯỢT BIÊN


*

TRẠI BÀ BÈO, TRẠI TÙ VƯỢT BIÊN

Trương Tấn Thành


Tác giả Trương Tấn Thành, ngụ tại Lacey, WA. Tốt nghiệp MA, ngành giáo dục năm 2000, hiện là trợ giáo cho trường dạy người da đỏ và giảng viên parttime cho Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA.
Vượt biên bị bắt ở Bà Bèo Ngày đi tan tác, ngày về đau thương
Nếu ở trên đời này có địa ngục thật sự thì đó là trại cải tạo lao động của cộng sản, có cái tên quái gở dành cho người vượt biển : Bà Bèo.

Trại Bà Bèo thuộc tỉnh Tiền Giang, nếu tôi không lầm thì thuộc diện "miệt thứ" kinh làng Bảy. Tôi được "diễm phúc" rơi vào cái địa ngục này khoảng năm 88. Trại này được lập ở giữa một cánh đồng sình lầy nước phèn đầy cỏ lát như một hàng rào thiên nhiên ngăn cản tù nhân trốn trại một cách vô cùng hữu hiệu, nhất là dân quen sống ở đô thị. Ngoài ra trên cánh đồng sình lầy đó còn có cây "chà là" đầy gai nhọn cứa sát chân người tù mới bị đi lao động bên ngoài. Đây là một trại tù thật sự vì người bị nhốt có bị kêu án. Thường thì tù vượt biển bị kêu một năm cải tạo nhưng nếu không biết chỗ lo lót thì hơn một năm là chuyện thường. Tính ra từ ngày tôi bị bắt đến ngày tôi được thả là một năm rưỡi. Ngoài ra trại còn nhốt rất nhiều tội phạm hình sự và tệ nạn xã hội như gái điếm, hút sách.



Chuyến tàu vượt biển của tôi khi ra cửa Vàm Láng thì bị tàu của bọn công an biên phòng rượt theo bắn và bắt lại. Ngồi trong ghe mà tôi nghe đạn ghim "bup bụp" vào thành. Có hai người bị thương. Toàn ghe bị bắt dồn lên xe chở hàng chờ về trạm tạm giam Tà Niên. Bọn công an nhìn chúng tôi bằng cặp mắt thù hằn và luôn miệng quát tháo:

- Cho tụi bây hết vượt biên!

Trại tạm giam cũng có cái tên quái gở: Tà Niên, mới được xây, tường vôi còn mới. Vừa xuống xe tụi tôi lục tục kéo vào sân trại sắp hàng để bị lục xét. Lúc đó tôi mang theo một chiếc khâu vàng một chỉ tôi vội tìm cách dấu nó vào làn chỉ rách trên nắp túi áo là nơi an toàn nhất. Sau đó chúng phân thành nam nữ và đem bọn tôi đi nhốt riêng.

Nhốt chung với tôi là một thanh niên trẻ rất vui tính, hoạt bát và dễ mến. Anh mới vừa đi thanh niên xung phong về và là con của một sĩ quan Cộng hòa tên là Quốc. Anh có óc khôi hài đầy ý vị. Đây là một câu chuyện về chủ nghĩa cộng sản có tính châm biếm cao độ anh kể mà tôi còn nhớ mãi. Đó là một tranh biếm họa về cái nghèo đói của người dân dưới chế độ cộng sản. Họa sĩ biếm họa vẽ hình hậu môn của một nông dân ở miền Bắc đóng đầy mạng nhện. Bạn biết tại sao rồi chứ gì? Vì có gì ăn đâu mà ị ra… nên mạng nhện phủ kín "đường ra, lối vào"!





Thật là đáng cười ra nước mắt. Phòng giam thì chật đến độ ngộp thở. Mỗi ngày người bị nhốt chỉ được ra ngoài hành lang có cửa sắt bao quanh hai lần chừng năm phút vào buổi sáng và vào buổi chiều. Hơi người và không khí tù hãm thật ngộp ngạt trong phòng giam làm ai nấy thấy nặng nề, khó thở vô cùng. Tôi thường phải ngồi gần cánh cửa sắt chỗ khe hở để hít chút không khí ngoài trời.

Ở trại tạm giam này đi ị mà cũng có thằng theo coi phân! Thật đấy. Mỗi lần có đám bị nhốt vào, ngay ngày đầu tiên sau khi ai đi cầu vào thùng gỗ đều có thằng ăn-ten trong nó bươi đống phân xem có ai nuốt vàng, cà rá gì không? Chế độ ăn uống trong trại thì khỏi nó. Chỉ có chén cơm và canh "toàn quốc". Đây cũng là lối chơi chữ của anh bạn trẻ đầy óc…móc lò của tôi. "Toàn" đây có nghĩa tất cả là vậy và "quốc" đây hiểu theo nghĩa nước H2O thiệt! Cho nên đây là thứ canh toàn là nước mà không có cái, họa chăng chỉ có vài cọng rau lang, rau muống và khoai lang về gởi xuống nhà bếp luộc để ăn dặm thêm. Tôi và Quốc vì ít tiền nên mỗi khi rau muống mua về tụi tôi xin lấy gốc để mà ăn sống. Còn khi khoai lang chia xong tụi tôi gom lấy vỏ vớt ra để….ăn cho đỡ thèm.

Trong phòng ai ngồi chỗ nấy ít dám nói chuyện với người cùng chuyến về chuyến đi của mình vì sợ tụi ăn-ten nó nghe báo cáo lên thì đời thêm khốn khổ. Vả lại lúc đó đầu óc đang hoang mang lo nghĩ cách để trả lời khi bị lên "làm việc" về chuyến đi của mình (hai từ "làm việc" và "làm tốt" bị cán bộ cộng sản "cưỡng hiếp" một cách thật dốt nát và khôi hài).

Ngoài anh bạn trẻ dễ mến tên Quốc ra con một nhân vật rất đặc biệt bị nhốt chung với tôi, cụ Bính. Lúc bị bắt cụ phải hơn 60 tuổi, người nhỏ và gầy đét như con mắm nhưng sức khỏe và tinh thần vô cùng khỏe mạnh. Trước khi xuống ghe chuyến này cụ làm "nghề" chở củi bằng xe thồ ở Long Khánh. Cụ phát biểu một câu xanh dờn "thả tôi ra tôi tìm cách đi nữa". Thật đáng nể! Mà không đáng nể sao được vì cụ sinh ra ở cùng quê với "uncle Ho" của cộng sản. Mỗi lần bị ra ngoài lao động thấy cụ vác mấy cây tràm cong lưng cóng róng thấy thật là thảm hại. Rồi mấy tuần sau tụi tôi bị chuyển xuống địa ngục của trần gian: Trại Bà Bèo ở kinh làng thứ bảy.

Tôi còn nhớ hôm chuyển xuống Bà Bèo lúc đó nhằm mùa lụt, xe tới cổng tội nhân xuống sắp hàng ngoài cổng để điểm số. Tôi nhìn trại mà thấy hãi hùng. Lúc đó trời mưa lâm râm, bầu trời xám xịt. Hàng rào bằng cây tràm trước cửa trại trông như những trại hồi thời trung cổ với đầu vạt nhọn chỉa lên trời, phía trên có một chòi canh có mũi cây AK đang chăm chăm chỉa xuống. Dưới chân tôi là sình đen ướt nhèm nhẹp "Ôi thật là đời đen như đất bùn".

Sau khi điểm số xong cửa cổng mở ra để đón "em mới".

Vừa bước vào bên trong một cảnh tượng….u minh "quả không hỗ với tiếng đồn" bày ra trước mắt tôi. Ngay trước mắt tôi là một sân rộng ngập đầy nước. Trong các dãy trại hình chữ U vuông góc nằm lộn ngược đáy ở bên trên, mái lá cửa bằng phên tre lố nhố người trong ánh đuốc như ma trơi. Thật không thể tưởng tượng nỗi là ở cuối thế kỷ hai mươi lại có những nơi bán khai như vầy! Lúc đó đang có lụt nên sân giữa ngập nước lấp xấp.

Ngay ngày hôm sau tụi tôi phải ra đứng làm dây chuyền người nam có nữ có, ngày này qua ngày nọ cả tháng trời làm chuyện khổ dịch đó. Tội nhất là mấy người tù nữ vượt biển con nhà thành phố giờ phải chân không đứng dưới mưa, dưới sình để làm cái khổ dịch của tù nhân. Tôi còn nhớ là mình bị đưa vào đội 2 lao động, đội trưởng tên Tín. Hắn ta là một thanh niên khỏe mạnh con của một sĩ quan Cộng Hòa đi vượt biển bị bắt và vì lao động tiên tiến nên được cử làm đội trưởng chỉ huy tù đi làm nô lệ cho trại. Căn trại tôi ở cũng như các đội khác có một cái sân để đan chiếu và đánh dây. Nó làm bằng đất sình trộn rơm. Chỉ có một cửa ra vào hai bên vách là chỗ tù nằm.

Đội trưởng có chõng ngủ riêng nơi cửa ra vào còn bọn tù nằm chung với nhau trên ván lót. Mé hai bên vách có treo ván làm kệ. Còn cho chính giữa thì để đồ đạc trên đầu nằm. Mỗi đêm đều cắt phiên tù thức tới sáng để canh chừng trốn trại. Giới nghiêm ban đêm lúc tám giờ, cửa đóng tới sáng. Chắc bạn đặt câu hỏi còn việc đi vệ sinh ban đêm thì sao? Xin thưa là anh tù nào cũng thủ một bình plastic có khoét lỗ để nửa đêm có mắc thì tiểu vào đó đặng đi đổ vào hố để trồng rau. Còn đi ị thì sao? Bọc nylon là "cái bồn cầu" đó bạn à! Cho nên vào những ngày có thăm nuôi số người bị chột bụng rất nhiều và mỗi lần có người đi ị thì phải bịt mũi mà chịu. Một điều kinh tởm nữa là những bọc nylon đựng phân đó cũng có tù đi lấy để phơi cho trại nữa.

Đội tôi ở chia làm tổ tương đối sướng như: đan chiếu, tổ quấn sợi gai, tổ nhuộm lác chiếu và đông nhất và khổ nhất là tổ lao động ngoài trại. Ngoài ra trại chuyên về đánh dây bằng loại "cỏ bàng" để làm dây quấn thành thảm.

Cây cỏ bàng mọc rất nhiều ở ngoài đồng sình lầy chung quanh trại, cao cở đầu người, bên trong ruột rộng. Trại có toán đi nhổ cây bàng về để phơi cho khô rồi có toán giã bàng cho đẹp để cho tù đánh thành sợi có chỉ tiêu cho mỗi ngày. Người đi nhổ phải dùng tay mặt quấn một nắm cỏ bàng cho thật chặt rồi giựt thật mạnh để làm sao đứt bựt nó lên mà gốc vẫn còn nằm dưới sình. Trại cấm không được dùng liềm hái vì làm vậy cây bàng sẽ chết mất đi tài nguyên của trại. Ai đi nhổ cỏ bàng đầu tiên tay đều bị cứa chảy máy vì không quen nắm chặt cây bàng nên bị cạnh của cỏ bàng bén như lưỡi dao cạo xé nát cạnh bàn tay. Chi tiêu là hai bó bàng phải đúng thước tấc, nếu không thì bị "phế" bỏ, hôm sau phải nhổ bù. Sau khi nhổ xong phải dùng dây ghịt lại cho chặt thành bó cỡ hơn hai vòng gang tay rồi cõng về trại xa nhiều cây số còn phải lội qua đồng sình lầy.


Tôi chỉ đi nhổ bàng một ngày mà đêm đó tôi bị quị ngã vì quá sức mình và rồi bị loại khỏi ra toán nhổ bàng. Sau đó tôi được chiếu cố đưa ra tổ đánh sợi dây để dệt chiếu tổ dây có chừng sáu cái "máy" đạp bằng chân. Người xe đay chân đạp tay liên tục cho sợi đay đã chãi nhỏ vào để se thành sợi với chỉ tiêu đề ra mỗi ngày. Đay được mua về thành bó là vỏ của cây đay cứng như khô mực. Khi nhận phần bó võ đay người đánh đay phải đem ngâm xuống kinh trước một đêm. Ngày hôm sau vớt lên dùng dao lạng đi phần vỏ cứng sần sùi để lấy phần mỏng mềm. Kế đó lại phải đem phần võ đã lạng mỏng đó đưa vào bàn lượt có răng bằng sắt để "chãi" vỏ đay ra thành những sợi nhỏ dài.

Hôm nào bị một đợt vỏ đay cụt lại vừa xấu, vừa già thì thật là khốn nạn. Sợi cứng thì sẽ bị rối hoài, sợi cụt ngắn thì phải tiếp sợi liền tay. Nếu ngồi vào được guồng se còn tốt và đợt đay tốt người đánh có thể xong chỉ tiêu lúc hơn hai giờ trưa có thì giờ đi tắm giặt nấu nướng trong khi đám lao động ngoài còn đang dầm mình dưới đất bùn bị mấy tên trưởng toán chửi mắng là chây lười.

Tôi vốn chân tay vụng về chỉ biết cầm phấn và cầm viết nên đánh đay bị rối hoài và luôn luôn xong sau cùng. Thay vì đay là một loại lao động… nhẹ thì đối với tôi nó lại thành một loại khổ dịch. Cuối cùng tôi lại bị đá ra lao động ngoài.

Mới đầu, tôi bị lùa đi trồng cây bạch đàn, một loại cây họ hàng của khuynh diệp.

Mới sáng năm giờ rưỡi tiếng kẻng đã gõ liên hồi. Mọi người trong toán bỏ cà men, chén ra để được phát phần cơm trong ngày. Thường là chỉ đầy một chén nhỏ và vài con khô mắm và một giá canh rau. Bắt đầu điểm số xong là sắp hàng ra cổng.

Từ trại ra đến chỗ trồng phải lội qua mấy cánh đồng xấp nước, kinh rạch mà tù nhân phải nhảy ùm xuống nước lạnh buốt như một đàn vịt bị xua xuống ao để tiếp tục đi như chạy tới chỗ trồng. Vừa đói lại vừa phải nhảy xuống nước lạnh mà ai nấy vẫn phải nhảy xuống trèo lên như những cái xác không hồn.

Một trong những lần đau khổ nhất của đời tù là lần tôi phải đi đắp "đại lộ kinh hoàng". Đây là một đại lộ thật sự vì bề rộng xe hơi có thể chạy được. Bề cao hơn thước mốt và toàn là bằng đất sình. Một công trình do "nước sông, công tù" đầy ngu ngốc nhất của đám cộng sản nhà quê. Nó nối xã này với xã nào đó và được chánh quyền địa phương ký hợp đồng với trại lấy công tù để hưởng tiền. Toàn thanh niên trong trại dồn vào công trình quái đản đó.

Cách làm là khởi đầu đắp lộ từ gần đến xa mất cả hơn tháng trời. Cọc tiêu được cắm ngay trung tâm của con lộ sau đó từng toán tù được phân ra để chịu trách nhiệm đắp từng đoạn. Sau khi san bằng làm sạch cây cỏ trên mặt đất, toán đắp đầu bị chia thành khu để dùng leng, một thứ sẻng lưỡi dài, để xắn đất hai bên lên thành từng mảng lớn. Người đào thay cho người đứng kế của dây chuyền rồi cứ thế thẩy chuyền nhau để quăng vào nơi con lộ sẽ thành hình.

Càng về chiều càng đói và càng mỏi mệt mỗi tảng đất sình đến tay tôi là một khối sắt. Lưng tôi còng gấp xuống mỗi lần đón tảng sình.

Thỉnh thoảng tên trưởng toán lại cầm một cây que dài để đi kiểm soát "chất lượng" của con lộ. Nó sọt cây que xuống hết nơi này đến nơi nọ để xem nơi nào không đắp kín chặt đất sình, bị "rộng ruột" thì nó "phế" liền. Thế là anh em trong toán lại hì hục sữa chữa đến chiều tối mới xong trong khi mọi toán khác đã ra về từ lâu.

Lúc đầu còn gần từ từ sau con lộ dài ra đi phải sớm hơn mà về thì phải muộn hơn. Có khi về chỉ kịp ra kinh rửa sình và gụt rửa quần áo thì đã đến giờ kẻng tối giới nghiêm vào trại. Khi đào thì ăn uống tại chỗ và đái ị cũng… tại chỗ. Không được phép đi nơi khác.

Lính trại ngồi trên bờ đê cầm súng nhìn chăm chăm. Dưới nước bọn trưởng toán lội qua lội lại quát tháo, đôn đốc đám tù đang cong lưng đào xắn. Có lần tên cán bộ trại đứng trông coi con lộ ra xem, lúc đó trời đã nhá nhem tối. Anh em yêu cầu trưởng toán xin về trại vì muỗi cắn quá thì hắn nói một câu thật không phải là người "muỗi cắn các anh chứ đâu phải cắn tui".

Sau khi con lộ đắp xong, có lần tụi tôi đi qua thì thấy nhiều khúc của con lộ kinh hoàng đó bị sạt lỡ xe bò cũng không qua được. Thật là đỉnh cao của trí tuệ….ngu si. Sau đó nhờ có chút tài đàn tôi được vào ban văn nghệ ở không chơi đàn phục vụ cho những đêm văn nghệ mà… mọi người đều chửi vào mỗi cuối tuần. Trại không muốn cho tù ở không chút nào nên dù cho ban ngày tù đã đi lao động mệt mỏi đêm vào cuối tuần còn phải thường xuyên ra sân ngồi giữa trời, gục lên gục xuống để nghe "văn nghệ" dù tuồng cải lương diễn hoài đến ai cũng thuộc và những ca sĩ trại lên…rộng những bài ca phải được trại cho phép hát đến điếc con ráy!

Vào toán văn nghệ tôi khỏi phải đi lao động ngoài và được sống những chuỗi ngày nhàn nhã. Có lần còn được đi ăn đám cưới của cán bộ ở một xã nào đó với kết quả là anh ca sĩ trong đoàn trốn về Saigon mất mẹ. Nhưng rồi bỗng đâu tai họa lại đến với tôi.

Số là hôm đó tên cán bộ coi về lao động trong trại thình lình đi xuống trại thấy mấy tên kép cà chớn trong đoàn cải lương đánh cờ, cười giỡn, chửi thề trong giờ lao động nên hắn phạt cả tổ văn nghệ trong đó có tôi đi lao động ngoài cho bỏ ghét! Lúc đó trại hợp đồng với một xã ở hóc bà tó nào đó xuống cát do ghe chài chở tới để làm nền cho công trình xây dựng gì đó. Tôi lại bị đày ra theo toán lao động để xuống cát.

Toán xuống cát được ghe trại chở tới địa điểm rồi nhốt trong một căn nhà chật ních để mỗi ngày đội cát từ ghe xuống đổ làm nền. Ghe chở cát đậu ở bờ sông với hai miếng ván bắt từ ghe xuống bờ. Một miếng làm đường đi lên, miếng kia làm đường để đội cát xuống. Mấy tên mạnh thì đứng xúc cát đổ vào thúng, tên khác chuyền thúng để thẩy lên vai cho người kế đội thúng cát đi xuống đổ. Cứ đi lên rồi đội cát lên vai đi xuống từ sáng đến ba bốn giờ chiều cả hơn một tháng như vậy. Tối về chỉ kịp đi vệ sinh rồi bị nhốt vào căn nhà tù nằm ngủ đạp lên mặt lên mũi nhau để lãnh cơm ăn dưới ánh đèn dầu, chờ đến khổ dịch hôm sau.

Cứ đi lên đi xuống với thúng cát trên vai riết rồi tôi như một cái máy không còn biết gì khác hơn là mong cho cát mau hết để được trở về trại. Lúc này thật không còn gì đúng hơn là câu "nước sông, công tù". Nước nào trên thế giới sợ nuôi tù chứ dưới chế độ cộng sản thì tù nuôi cán bộ trại. Chuyến bị đày này tôi thật đúng nghĩa bị bầm dập.

Đến đây xin được nói về thân phận người tù phái nữ ở cái trại khốn nạn này.

Tôi nghĩ rằng thật là một bất công và bài này trở thành vô ý nghĩa nếu không viết lại những gì các phụ nữ phải tủi nhục trải qua trên đường trốn chạy cộng sản. Trước tiên xin được nói về nơi ăn chốn ở cho tù nữ trong trại.

Tù nữ vượt biển ở chung với tù nữ tệ nạn xã hội trong một căn nhà làm bằng vách sình trộn rơm và mái lá cỏ tranh. Căn nhà tù lớn lúc nào cũng chật người nhất là những lúc người ta vượt biển nhiều vào những mùa biển êm sóng. Có nghĩa là….bao nhiêu người nó đều chứa được hết! Trời nóng, người đông phương tiện vệ sinh không có, đối với người tù nữ thì đây không phải là địa ngục mà là hơn một địa ngục. Chiều chiều họ chỉ được đưa ra nơi tắm giặt ở con kinh trong trại mà "nhà tắm" được che bằng những tấm phên lá lộ thiên.

Ở trại này có nuôi cá vồ, một loại cá tra, mà thức ăn chính là …phân của tù! Cầu cá này được dựng trên ao bằng những cây tràm và che vách bằng lá dừa nước. Từ bờ đất vào cầu tù phải đi qua một cầu tre tương tựa như cầu khỉ bắc ngang bằng thân cây tràm khẳng khiu và vô cùng trơn trợt khi mưa xuống. Mỗi ngày tù nữ được cho đi trước tù nam. Khi tất cả phải đi một lượt, xắp hàng ra cổng có trưởng toán dẫn và báo cáo số tù cho tên lính canh ở lối đi ra cầu. Đi vệ sinh thứ cầu cá vồ này thật là một sự sỉ nhục cho tù nữ. Mỗi lần phân rơi xuống cầu cá vồ lại bu lại đớp quay nước làm văng bắn cả lên người đi cầu! Vậy mà nó lại được bọn cán bộ gọi là "nếp sống văn minh" đó!

Vào những ngày trời mưa, đất sình trở nên trơn trợt mà phải đi qua cái cầu khỉ đúng nghĩa đó để vào cầu nếu không cẩn thận thì trợt té xuống ao dễ như chơi. Khổ nhất là vào những ngày có thăm nuôi có chất béo và thức ăn lạ chứ không phải chỉ cơm rau và cá khô như thường ngày vào bao tử thì xấp hàng để được tới phiên mình ngồi được vào cầu là cả một cực hình thô bỉ. Rồi khi cá lớn trại cho lưới lên để bán cho tù với số lượng bắt buộc tù phải mua (đây là lối "làm kinh tế rất khoa học và đầy nhân đạo' của bọn coi tù của trại). Đa số đem cho tù hình sự hết vì họ không có thăm nuôi nên phải ăn cái thứ gọi là "cá kít" đó. Tôi còn nhớ cái ngày cá đem về đội ngoài cầu kinh nơi làm cá bay mùi thối ai nấy phải bịt mũi rán mà ăn. Ai cũng nghĩ tù nữ thì chỉ có bị nhốt rồi chờ ngày thả nhưng ở trại này thì còn khuya! Không phải ngày về mà một năm mới về và phải đánh dây, đan chiếu, làm thảm thấy….bác luôn.

Tù nữ hình sự phải đánh dây sau đó đem nhuộm và kết thành thảm bán. Tù nữ vượt biển không phải đánh dây như tù nữ hình sự nhưng phải đan đón. Đánh dây đây là đánh dây cỏ bàng như đã nói trên. Mỗi ngày chỉ tiêu là khoảng mười sáu sải tay. Tù nữ đánh dây chỉ tiêu ngắn hơn tù nam.

Cỏ bàng sau khi nhổ về được toán lao động nhẹ gồm người tù già và tàn tật, gọi là "toán lao động nhẹ" đem phơi cho úa rồi đưa qua toán giã bàng cho dẹp ra để đánh dây. Bàng được nắm thành bó nhỏ đưa lên một tảng đá xanh rồi nện bằng một chày gỗ cho dẹp ra sau đó phân đi cho tù đánh dây. Dây được đánh theo kiểu thắt bím tóc nhưng sợi bàn to cứng và phải nhúng nước liên tục cho mềm.

Khởi đầu người đánh ngồi bệt dưới đất dùng hai ngón chân kẹp lấy cái gút đầu tiên của sợi dây rồi đánh một khúc dài cỡ bằng một sãi tay. Sau đó đứng lên cột vào cột gỗ trong sân căn trại tiếp tục đánh cho hết chỉ tiêu (một căn nhà trại có khoảng 10 gốc cột). Hai ngón tay của người đánh thường bị thâm đen vì mũ bàng và bị đỏ cứng vì bị co sát quá nhiều khi thắt dây mỗi ngày. Sau khi đánh xong còn phải "cắt râu" là những cọng bàng tủa ra hai bên dây bằng một con dao quắm nhỏ mới tạm gọi là xong. Chưa hết khi xong còn phải đưa dây lên kho để được "nghiệm thu" về thước tấc và kỹ thuật xem mắt dây có đều hay không gọi là xong! Nhiều người vụng tay, chịu đau không thấu, buổi tối cửa trại tù đóng còn phải đánh tiếp phòng cho tới giờ giới nghiêm. Nếu không đủ chỉ tiêu thì phải chịu hình phạt là đi móc đất sình để đắp trại.

Tôi đã chứng kiến nhiều nữ tù bị ngâm nước móc sình cả ngày vì đánh "không đạt chỉ tiêu". Có nhiều người thà đi móc sình còn hơn bị dây "đè" dây "quấn" mỗi ngày dù là phụ nữ! Cái lối bóc lột người mà ta thường biết "vắt chanh bỏ vỏ" phải nói là chẳng thấm vào đâu với đâu với cái thứ bóc lột độc hại hơn đó là "vắt chanh rồi ăn luôn vỏ" này của trại tù vượt biển.

Còn trăm ngàn cay đắng và tủi nhục nữa của người tù vượt biên ở trại Bà Bèo mà trên đây chỉ là một vài sự kiện chính mà tôi còn nhớ được. Tôi ghi lại đây để bạn đọc thấy rõ sự vô nhân đạo của các trại tù cộng sản mà biết đâu chừng cũng có vị đã từng bị rơi vào địa ngục này. Tôi cũng ghi lại đây vì nghĩ rằng nói lên sự thật là bổn phận của mọi người, trong đó có tôi.

TRƯƠNG TẤN THÀNH
*

PHẠM HOÀNG CHƯƠNG * KÝ

*
CỐ HƯƠNG 35 NĂM SAU

Phạm Hoàng Chương

Phạm Hoàng Chương nay về hưu, an cư tại Riverside. Sau đây là bài viết đặc biệt của ông nhân dịp 35 năm Ngày Miền Nam sụp đổ 1975-2010.


1975
Ăn tết xong, khoảng tháng hai, tháng ba, cả trường Duy Tân tôi dạy xôn xao tin Việt cộng đánh chiếm Kontum, Pleiku, rồi Ban mê thuột, địch lăm le chuẩn bị tràn xuống Nhatrang... Anh Lực mới lên nắm chức Tân hiệu trưởng được mấy tuần, không dấu nỗi vẻ rầu rĩ lo âu. Tiệm sách tôi chưa bao giờ bán báo đắt như lúc ấy, mới 10 giờ sáng đã sạch nhẵn không còn tờ nào. Cả thành phố Phanrang dân chúng nhốn nháo với những tin đồn rúng động chết người: Mỹ bỏ VN, Thiệu Kỳ bỏ chạy, VC sắp chiếm miền Nam...




Mới hồi đầu năm, vô số sâu bọ trên rừng hàng hàng lớp lớp đua nhau lúc nhúc tản cư bò xuống biển, băng qua đường quốc lộ bị xe cán chết hết lớp này tới lớp khác, dân đã hoang mang không biết điềm gì, kế đến hòn Đá Dao cao mười mấy thước trên núi Đá Chồng, quê ông Thiệu, tự dưng sụp lăn ra đât, để mặc cho hòn Mặt Quỷ (tượng trưng cho Cọng Sản) bên kia làng Dư khánh ngạo nghễ khinh khỉnh nhìn qua. Người nói Mỹ bỏ rơi Việt Nam, ông Thiệu giao miền Trung và cao nguyên cho Việt cộïng, rút về giữ Saigon. Kẻ nói ông Thiệu bằng mọi giá giữ lại từ Ninh thuận trở vô Nam, vì Ninh thuận là quê hương của ổng, mồ mả ông bà còn chôn ở đó.

Qua đầu tháng Tư thì tin tức từng ngày càng lúc càng sôi động. Sư đoàn 1 tan hàng. Dân chúng Huế hoảng hốt bỏ nhà chạy vào Đà nẵng. Việt cộng chiếm Huế trong vòng một ngày, rồi hai ngày sau, nghe đài BBC nói Đà nẵng thất thủ luôn. Một ngày sau, Quảng Nam mất. Sợ bom đạn, pháo kích, tôi cho vợ bế con nhỏ chạy trước ra đảo Cam ranh, ở nhà ông bà nhạc cho an toàn. Người ta kháo nhau về đội quân vùng 1 vùng 2 tan hàng bỏ ngũ từ Huế tơi tả chạy, dân chúng bỏ nhà bỏ cửa, bồng bế chạy theo lính vào Nam, dọc đường cướp bóc hãm hiếp chết chóc xảy ra nhan nhản. Việt Cọng hầu như mỗi ngày chiếm lấy một tỉnh, quân đội bên ta chưa đánh đã chạy, cởi bỏ quân phục chạy trước cả dân. Cuối tháng 3, Qui nhơn, Tuy hòa mất. Tôi hoảng quá. Tiệm sách còn đầy hàng hóa sách vở, phân vân không biết nên giao nhà cho con bé giúp việc liều bỏ chạy vô Saigon hay ở lại giữ của. Sáng ngày 1 tháng 4, anh bạn kỹ sư ở nhà đối diện chạy qua đập cửa nhà tôi hốt hoảng:

-Anh Chương ơi, cả thành phố người ta bỏ chạy rồi. Nghe nói đại tá Tự, tỉnh trưởng Ninh thuận bỏ trốn vô Phan thiết. Mình phải đi gấp chứ không kịp nữa. Loạn lạc chết chóc tới nơi...

Thế là tôi không còn đắn đo suy nghĩ nữa, gói 50 ngàn bạc nhét dưới chân, mang giầy vô, cầm cái xắc tay đựng một hai bộ đồ và ít đồ quí, giao chìa khóa nhà cho con nhỏ người làm, xách Honda chở Chính vô Phan thiết, không kịp ghé nhà má báo tin. Chính nói ở Saigon, nhiều nhà giàu biết tin sắp mất nước, đã lên tàu rời khỏi VN ra khơi, có tàu Mỹ đón. Dọc đường vô Phan thiết, hai đứa gặp vô số dân quân tản cư, những kho xăng, tiệm thuốc tây bị cướp phá, xe cộ hết xăng bỏ lăn lóc dọc đường, những xác chết khẳng khiu ở bờ sông. Vừa tới Phan thiết thì thành phố bị pháo kích ầm ầm, cuống cuồng xách xe chạy trốn chui trốn nhủi. Đường bộ vô Saigon bị chận vì hai bên giao tranh, đánh nhau ở đâu trong Xuân lộc, đường thủy thì ghe thuyền đầy lính tráng hung dữ, lăm lăm súng ống giành nhau cướp để vô Vũng tàu sớm, bắn nhau chéo chéo, không cho dân lên. Tôi và Chính đành phải xách xe trở về Phanrang, hai bên đường im lìm vắng ngắt thấy sợ.



Tiểu khu Ninh thuận lúc đó đã bỏ ngỏ, tàn quân và dân chúng xông vào kho cướp súng đạn uy hiếp các tiệm buôn trong phố. Thành phố tan hoang, xơ xác. Hiệu buôn quần áo tơ lụa lớn của mẹ tôi bị bắn vỡ các tủ kính loảng xoảng, dân cả trăm người kéo nhau vô nhà hôi của ào ào. Tôi ở Phan thiết về thì mọi sự đã xong, má đứng trước nhà dang tay phân trần, mếu máo khóc.



Ngày 2 tháng tư, VC khựng lại ở Camranh. địch và ta giao tranh nhau ở Ba ngòi dằng co nhiều ngày. Chắc ông Thiệu ra lệnh cho giữ Ninh thuận bằng mọi giá, nên lính Ninh thuận liều chết chiến đấu rất hăng. Tiệm sách tôi may mắn còn nguyên, không ai thèm cướp sách. Tôi thở dài nằm nhà, phó mặc cho số mệnh. Thôi, ai sao mình vậy, con người có số, chỉ biết thầm cầu nguyện Ơn Trên. Lúc đó lại có tin đồn VC chiếm xong miền Nam sẽ thủ tiêu 1 triệu công chức quân nhân VNCH, như họ đã từng làm ở Huế Tết Mậu thân. Cầu cơ cố thi sĩ Hàn Mạc Tử xuống xin cứu giúp, chú Hàn khuyên mọi người ai ở đâu, cứ ở yên đó, đừng vọng động chạy tới chạy lui mà nguy hiểm, đây là Cộng nghiệp, mọi sự ở Trên đã an bài đâu vào đó cả rồi.

Ngày 5 tây, dân Đalạt kéo nhau xe cộ đủ loại ồ ạt tản cư xuống Phanrang, mang theo rau quả hái non, hàng hóa, gia súc, của cải, tài sản, trải chiếu nằm bừa bãi ngoài đường phố. Người ta bày bán tống tháo ngoài đường từng đống bông cải trắng , cà rốt, rau cải nhổ vội trên Đalạt xuống, vót vét được đồng nào hay đồng nấy để còn tiếp tục chạy vô Saigon, nếu như Camranh thất thủ. Một chủ tiệm sách vô tiệm tôi năn nỉ xin mua giùm cho một xe hơi đầy nhóc vở tập 100 trang mới tinh từ trên Dalat chở xuống với giá rẽ mạt, để rảnh tay chạy tiếp vô Saigon. Tôi tiếc rẽ lắc đầu. Thân tôi còn chưa biết chết sống thế nào, tiệm tôi còn chưa biết có được an toàn không, nắm tiền đi liền khúc ruột, lúc này phải lo thủ, tiền đâu mà mua trữ vở tập cho mùa thu nhập học tới. Sau đó mấy ngày thì nghe bên ta phi đoàn đánh sập cầu Tân Mỹ để chận VC trên Đalạt xuống.

Nhưng rồi sau cùng, Camranh cũng thất thủ sau 15 ngày cầm cự anh dũng, xe tăng với lính bộ đội VC trẻ măng, đội nón tai bèo, ngơ ngác tiến vào thành phố. Giáo chức tụi tôi nhận tháng lương cuối kể từ ngày đó, ngoan ngoãn theo lệnh đi học tập chính trị mỗi ngày để giảng dạy lại cho học sinh. Tôi sống trong phập phồng lo lắng cho đến tháng 8 thì cùng với tất cả các giáo sư biệt phái khác được lệnh đi học cải tạo ở Sông Mao, cùng với nhiều thành phần quân dân cán chính khác.

1976-1985
Tết năm đó, trong tù, tôi được mẹ và vợ vô thăm nuôi, báo tin đổi tiền 500 cũ ăn một đồng tiền mới, nhiều nhà giàu ở Saigon thất điên bát đảo, có người nhảy lầu tự tử. Đúng một năm sau, được phóng thích về với gia đình, tôi theo đúng phương châm "Lao động là vinh quang", "Tư bản là bóc lột" học trong trại, dẹp bỏ mua bán, hai vợ chồng kéo nhau ra lò gạch Nhơn Hòa ông Hai Lô làm công nhân để tỏ ra "giác ngộ", được sớm trả "quyền công dân". Nghe tin một số bà con ở Saigon bỏ nước đi từ 30 tháng tư qua Mỹ, vài người bạn cũ vượt biên thành công. Nghe như chuyện cổ tích, không bao giờ dám nghĩ mình có đủ can đảm và điều kiện bỏ nước ra đi an toàn như họ.

Cờ Mặt trận giải phóng miền Nam và bài quốc ca của họ xuất hiện mấy tháng rồi tự nhiên biến mất, chỉ còn lại bài quốc ca và cờ đỏ sao vàng miền Bắc. Trong năm 76 , nhà cửa tài sản của "ngụy quân" cấp bậc đại úy trở lên, các thành phần có "nợ máu" với nhân dân, các nhà giàu bỏ chạy đều bị tịch thu, phân phát cho cán bộ ngoài Bắc vô ở. Mẹ tôi giữ 6 cái nhà cho thuê giùm bà cô họ tôi ngoài Bắc 21 năm nay bị Ủy ban quân quản tịch thu hết cho cán bộ cao cấp ở, cô chú tôi là đảng viên chạy vào làm đơn xin xỏ mãi không được, chán nản bỏ về Bắc lại.

Rồi đăng ký hộ khẩu. Dân chúng phải khai báo tài sản, từ cái radio, xe Honda, cho đến vàng bạc cất trữ. Ai ở xa tới tạm trú phải ra đồn khai báo công an. Muốn ra khỏi tỉnh phải làm đơn xin phép. Xe hàng đói meo vì không ai dám đi khỏi tỉnh, trừ mấy tay buôn chuyến biết cách hối lộ cho công an giao thông. Từ thời Pháp thuộc tới giờ, làm gì có chuyện ngăn sông cấm chợ lạ lùng như vậy, ai nấy gặp nhau cũng xầm xì bất mãn. Nhiều gia đình công chức quân nhân chế độ cũ thất nghiệp đói nhăn răng, sống vất va vất vưởng, bị lùa đi kinh tế mới, lên rừng thiêng nước độc, bịnh tật không có thuốc men, chết nhiều lắm.

Thấy dân còn nhiều người giàu, qua năm 77, nhà nước lại cho đổi tiền một lần nữa, để dễ cai trị hơn. Dân đói, còn hơi sức đâu mà chống đối, cái bao tử phải lệ thuộc tem phiếu nhà nước thì làm sao mà bướng bỉnh được....Nghe nói nhiều người dại dột bồng bột tham gia các phong trào phục quốc cò mồi, bị tóm bỏ tù chung thân. Thành phố đầy dẫy những bộ xương biết đi, quần áo cũ rách, những con người còm cõi đạp xe, cầm cuốc, mặt mày buồn bã khô khan vô vọng. Thiên hạ bị bắt đi làm thủy lợi một năm 30 ngày, ai có tiền thì cho mướn người đi thế. Đàn bà con đông, chồng đi cải tạo, có người khóc mong sao cho Trời sập chết hết cho rồi, sống chi mà khổ như con chó. Có một dạo, trong nhà nhìn ra đường thấy nhiều chuyến xe bịt bùng nhốt lính ngụy học cải tạo chạy qua, đâu như dời trại tù, hay di chuyển tù ra Bắc, dân chúng kéo ra đứng coi hai bên đường, xầm xì thương xót, có nhiều người mua bánh trái chạy tới, lấm lét canh chừng bộ đội, dúi nhét quà, tiền vào tay người tù. Năm 79 lại có nhiều đoàn xe tăng thiết giáp của Nga ngày đêm từ trong Nam chạy ra Bắc, nhiều xe tải chở lính bộ đội trang bị súng ống, mặt mày nghiêm trọng. Có người rỉ tai VC đang đánh nhau với Trung quốc ở Lạng Sơn, Lào Cai.


Có người rành hơn, nói Lê Duẩn phủi ơn Tàu viện trợ vũ khí đánh Mỹ lúc trước, chạy theo Nga, nên Tàu "dạy cho một bài học". Nghe nói hai bên đều chết ngang nhau, nhiều tỉnh phía Bắc bị cướp phá tan hoang. Người quen gặp nhau tâm sự mong cho Tàu thắng để Lực lượng phục quốc thừa cơ nổi lên đánh giành lại miền Nam. Nghe đồn có nhiều tù nhân "ngụy" được Tàu giải phóng khỏi trại tù, mang về Tàu thả cho tự do đi, Mỹ bốc qua Mỹ.... Trước 75 tôi có đứa học trò là con ông Khu trưởng khu phố tôi ở, nên ông tin cậy giao cho làm Tổ phó nhân dân, dẫn dân đi làm thủy lợi, chỉ huy dân phường Kinh Dinh tranh đua với các phường khác đắp đập, đắp đê trên mạn Sông Pha, được bằng khen hạng nhất. Nhờ vậy mà "được" đi cùng với công an khu vực nửa đêm tới nhà mấy người xay cà phê lậu trong xóm, lập biên bản, ký tên.



Được đi họp với chức sắc. Lại nằm trong Ban giảng dạy các lớp Bình dân ban đêm, được miễn đi thủy lợi. Môt tuần vài ba đêm, khu trưởng khu phó chọn nhà một người nào đó, cho người tới từng nhà bắt dân trong phố phải "đi họp", tới ngồi chồm hổm bên rãnh cống hôi, muỗi cắn lia chia, chịu trận nghe lải nhải những điều ở trên đưa xuống đến phát ngấy, dân ngáp lên ngáp xuống, không ai buồn dơ tay phát biểu ý kiến. Chính quyền gài "ăng ten" vô trong dân, đủ mọi thành phần, trường học, chợ búa, công nhân...để thu lượm tin tức chống đối, phản động. Lại có nạn mấy bà phụ nữ thợ thuyền dốt nát được đưa lên nắm chút quyền hành, hống hách hạnh họe dân lành trong xóm phường, rình rập báo cáo lấy điểm, hù dọa bắt đi kinh tế mới, ôi thôi người dân mang đủ thứ tròng vô cổ, kêu Trời không thấu.

Thời đó như thời các nước Âu châu bị Đức quốc xã chiếm đóng, dân chúng nghi kỵ nhau, ai giàu có ăn sung mặc sướng coi như có tội, ra đường thấy mặt mấy người "cách mạng 30 tháng tư" lật đật cúi chào, sợ bị thù oán hãm hại. Quán xá đóng im ỉm, gánh xôi, hàng quà nhỏ xíu cũng bị công an xô đuổi, nhu yếu phẩm, đồ dùng, thức ăn khan hiếm, dân phải ăn độn bo bo, khoai sắn, bột mì.Tôi may còn 500 cuốn sách dạy vỡ lòng, dụng cụ học sinh, hàng hóa, lén lút bán lần ra ăn, bám lấy các ngành tổ hợp thợ mộc, điêu khắc, trồng thuốc Nam cho có công ăn việc làm che mắt công an, rồi túng cùng phải mua xích lô đạp trong thành phố sống qua ngày, chứ bên ngoài có biết bao gia đình bạn bè người quen lăn lóc bữa đói bữa no, bần cùng thê thảm.


Tôi còn may, có thằng em họ làm lớn ngoài Hànội vô thăm, dặn riêng tuyệt đối bất cứ giá nào cũng phải bám lấy thành phố mà sống, đừng đi kinh tế mới, đi kinh tế là mất hộ khẩu, là chết đói. Nó kể ngoài Bắc hồi 54 cũng làm vậy, nhưng họ chỉ rầm rộ làm dữ một thời gian rồi thôi. Ai nhẫn nhục khéo luồn lách thì sống, ai dại dột nóng nảy thì chết. Có lần nghe anh Dự, giáo viên cấp 2, dẫn vợ ba con vô lục tỉnh làm ăn không xong bỏ chạy về lại Phanrang, hết sạch tiền, được bạn cũ cho ở nhờ nhà bếp phía sau, chưa biết giúp đỡ cách nào cho anh thì ít hôm sau đã nghe anh bỏ thuốc độc vô chuối ép mấy đứa con ăn chết cho nhẹ gánh nợ, rồi hoảng sợ bỏ trốn mất, bỏ lại chị vợ kêu gào khóc lóc thảm thiết ở nhà thương, phường xã ém nhẹm cấm phổ biến tin thảm, sợ dân bức xúc.. Tôi sững sờ cả mấy tuần.

Rồi nghe tin gia đình tiệm buôn Quý Ký tổ chức vượt biên ở Ninh chữ, lọt được ra khơi, nhưng lại bị tàu Liên Xô vớt, đem về Vũng Tàu giao cho nhà nước, bị nhốt tù cả đám. Kế lại xảy ra vụ anh Trợ, hiệu trưởng tiểu học, tham gia Phục quốc nửa đêm công an vô nhà còng tay bắt đưa đi nhốt tù chung thân, chị vợ sau đó tuyệt vọng bỏ thuốc chuột vào nồi chè đầu độc lũ con 6 đứa, may mà hàng xóm tri hô cứu kịp. Những chuyện thương tâm như vậy nhiều lắm, suốt 8 năm dài còn kẹt ở Phanrang, tôi không làm sao nhớ hết....

Năm 79, 80, tự nhiên phong trào vượt biển từ Nam chí Bắc rầm rộ nổi lên một lượt với chính sách nhà nước cho người Hoa nộp vàng đi bán chính thức. Nghe tin Phòng, một người bạn, đi chết chìm ngoài biển, bỏ lại vợ 3 con. Nhà tôi hên, ba đứa em gái đi chui, lọt cả ba. Tôi có mấy chỗ quen rủ đi, nhưng thấy con gái mới sinh còn bé xíu, không nỡ, lo cho các em đi trước, lâu lâu nghe người này người kia trong phố đi lọt, trong bụng nôn nao bần thần. Có lần đạp xích lô chở trúng khách từ Saigon ra Phanrang vựợt biên, khách rủ cho đi theo không, tôi biết chưa tới thời cơ, đều từ chối hết, an bần lạc đạo, nghiên cứu tử vi, kinh Phật. Kham khổ cúi đầu chịu đựng, bứt rau dền dại ở bờ bụi đem về luộc, tiện tặn mua tôm cá cặn cọt lúc chợ tan, mua khoai độn gạo, đem về cho vợ nấu nướng nuôi con qua ngày.


Trong nhà có cái gì giá trị đem bán hết, chắt chiu mua từng chỉ vàng dấu cất, chỉ còn mỗi cái bàn giấy, cái tủ áo cao 2 mét bằng sắt mấy người thầu rác Sở Mỹ bán ra ngày xưa là còn đáng giá, còn lại toàn các mảnh gỗ ghép lại làm bàn tiếp khách, cái bàn tròn ọp ẹp sứt ốc làm bàn ăn, hai cái ghế bành rách da làm furniture. Để nhà cửa sơ sài đạm bạc như vậy cho công an thấy mình nghèo không nảy lòng tham, và có ra đi bỏ lại cũng không tiếc. Bọn công an khu vực cứ tự tiện thường xuyên vào nhà rình mò quan sát, hai mắt láo liên, có lúc nhìn chòng chọc vào mặt mình để dò xét tư tưởng thầm kín, tôi tức cười cứ thản nhiên tỉnh bơ mặc kệ. Một lần đưa người bạn ra bến xe về Saigon, thằng công an người dân tộc Tày tưởng bở, từ xa chạy xộc tới, quát hỏi: "Anh kia, đi đâu, có giấy tờ xin phép không?", tôi đủng đỉnh cười nhạt trả lời: "Đi đâu mà đi? Tiền đâu mà đi đâu? Tiễn bạn ra xe một chút thôi, có gì mà nhặng lên thế?" Nó bẽn lẽn đi mất.



Lúc đó, đầu 1982, nhà nước thiếu tiền, nên ở Phường bắt đầu có chủ trương mới, cho dân buôn bán nhỏ để đánh thuế lấy tiền trả lương công chức. Thấy họ đang nhận đơn mấy người xin mua bán nhỏ, tôi xúi vợ đứng tên xin bán tạp hóa, may sao Trời thương, đơn được chấp thuận. Bán buôn được mấy tháng có chút tiền vô thì tôi lại bị Công an giao thông địa phương cấm đạp xích lô, lý do trí thức mà giả đò làm nghề "hạ tiện" bêu riếu chế độ, bèn bán rẽ xe, ở nhà phụ vợ giữ con bán hàng, bắt đầu để ý tìm mối ra đi. Họ bô bô nói "Lao động là vinh quang", mà lao động kiểu đạp xích lô thì lại bị cấm, đúng là cái lý của kẻ mạnh, muốn nói sao nói. Ở Saigon thiếu gì thày giáo bỏ nghề đạp xe, mạnh ai nấy sống, ai mà để ý tới, tỉnh nhỏ ít người thì "đầy tớ nhân dân" lại chiếu cố quá kỹ...Tổ trưởng, láng giềng, xích lô bạn, công an khu vực theo dõi dữ lắm, nhưng tôi lè phè tỉnh bơ, bỏ tiền mướn thợ hồ xây sửa nhà cửa, ra vô thong thả, không ai có thể ngờ được là mình đang mưu tính chuyện gì.

Thế rồi khi nhân duyên hội đủ đưa đến, tử vi mình có "Thân cư Di", số đi thì phải đi, cãi cũng không được. Có người thân tổ chức lo sẵn ghe, mình chỉ nhảy lên, đi theo. Mang theo đứa con trai đầu 10 tuổi, năm 1983. Bỏ lại 2 mẹ con. Thời buổi lúc đó không dám liều đi cả nhà được, chỉ đi 50/50, để nếu có "bể " thì còn quay về nhà an toàn không ai biết.

1985-1995

Cuối năm 84, tôi đặt chân lên đất Mỹ tự do, sau hơn một năm ở trại Chimawan Hongkong và Bataan ở Phi. Ở đảo, liên lạc thư về nhà, mừng biết nhà không sao, công an chỉ tới nhà mắng nhiếc, gạch tên 2 cha con khỏi hộ khẩu, chứ vợ con không bị ép đi kinh tế mới. Chương trình thất bại thê thảm, nhiều người lên đó đói rách, lâm bệnh bỏ về thành phố lê la ở nhờ ở đậu, xin ăn đầy đường. Nhân dân ta thán khắp nơi, công an cán bộ cũng đói, làm bậy, ăn cắp tài sản nhà nước, bóc lột của dân, lai rai bị sa thải. Qua 85, đọc báo thấy bên Tàu đói nghèo thê thảm, Đặng tiểu Bình phải bắt chước Tây Phương, "đổi mới" kinh tế để sống còn, cho tư nhân buôn bán nhỏ và đảng viên kinh doanh để xả bớt căng thẳng.


Tôi làm đơn bảo lãnh vợ con từ đầu 85, nhưng Việtnam và Mỹ lúc đó quan hệ còn nhiều gay cấn lắm nên hồ sơ nằm ỳ một chỗ. Hồi đó chưa có đường dây tư nhân gửi tiền về cho thân nhân ở VN, phải mua vải vóc, thuốc tây đóng thùng gửi về bưu điện địa phương cho gia đình ra nhận về, rồi bán lấy tiền chia nhau tiêu. Vợ ở nhà viết thư qua cho hay đã dẹp mua bán vì có quá nhiều người mở tiệm, giao con gửi bên bà nội, đi làm Hợp tác xã làm Xì dầu trên chùa Tỉnh hội ngày hai bữa cho yên thân. Một năm đi làm phải lo gửi tiền về cho vợ và mẹ ba bốn lần lấy tiền chi dụng.

Năm 87, nghe nói VN thấy Tàu đổi mới thành công, bắt chước chuyển qua kinh tế tư bản, nhưng vẫn tự ái không dám dùng danh từ "tư bản", để mặc cho dân chúng tự do buôn bán cá thể, không dùng điệp khúc "buôn bán là bóc lột" nữa. Việt nam phải đổi mới thôi, vì nếu không đổi mới thì chết, chết từ đảng viên cao cấp ở trên chết xuống thằng dân khố rách áo ôm bên dưới. Hợp tác xã bán gạo và nhu yếu phẩm đóng cửa. Hợp tác xã các ngành nghề thất bại, cũng lần lượt giải thể. Nhà nông được trả ruộng đất lại làm tư, đóng thuế. Thợ may, thợ mộc, thợ hồ trở lại làm chủ, tiệm buôn hai bên phố mọc ra như nấm, nhưng bên cạnh lối làm ăn cá thể bắt đóng thuế cho nhà nước, vẫn còn hệ thống quốc doanh "ăn hại đái nát" được nhà nước trợ cấp nuôi dưỡng song song. Lương nhà giáo, công nhân viên thấp quá không đủ sống, nhiều người bỏ làm nhà nước, tìm cách dạy tư, sữa chữa máy móc, chạy xe thồ, đi buôn ...



Bác sĩ được quyền mở lại phòng mạch tư, dược sĩ mở tiệm thuốc riêng. Hai vợ chồng em gái nhỏ tôi, giáo viên cấp 3, bỏ dạy, biến mặt tiền căn phố lớn mẹ tôi ở thành tiệm bán sửa đồ điện, radio, máy hát, quạt máy,Tivi, tủ lạnh. Ban đầu vốn ít, bán ít, sửa nhiều. Dần dần buôn bán phát đạt, thấy dân chúng có tiền đua nhau sắm sửa, xây nhà mới, xài toàn đồ điện trong nhà, sắm Tivi, tủ lạnh...phải mua nhiều đồ, khuếch trương lớn, mướn thêm thợ, nhận làm đại lý Samsung, có lúc thầu bắt điện cho cả một làng Chàm ở Như Ngọc. Mấy năm sau, mua thêm một căn phố nữa, mở tiệm chuyên sửa Tivi, máy hát và bán computer, qua 95 lại mua thêm ngôi nhà lầu mới cất, ở đường Trung tâm chạy xuống biển, bán computers cho công sở, cho theo kịp với thời đại Internet đang bắt đầu phổ biến rộng rãi toàn cầu.

Năm 89, như một phép lạ Trời cho, bức tường Bá Linh sụp đổ, kéo theo một loạt các nước Đông Âu nổi lên giành độc lập, khai tử hoàn toàn chế độ cộng sản. Cả một Đế quốc Xã hội chủ nghĩa Liên Xô xây dựng 70 năm, giết chết bao nhiêu triệu người dân oan uổng, sụp đổ tan tành trong một tháng, làm Trung quốc và chư hầu Việt nam mất chỗ tựa, kinh hoàng chới với suốt mấy năm liền. Ai cũng hy vọng vụ này làm nhà nước "mở mắt" ra, chuyển đổi qua thể chế dân chủ tự do như các nước Âu Mỹ cho dân nhờ, nhưng mà họ chỉ "đổi mới nửa vời", đổi mới kinh tế, chứ nhứt quyết không đổi mới chính trị. Chóp bu Đảng nhất định nắm giữ quyền hành, dùng bè lũ công an làm tay sai để cai trị kềm kẹp người dân. Quyền hành gắn liền với lợi lộc, làm chóa mắt con người vô thần duy vật dốt nát. Lòng tham con người không đáy, quyền hành tiền bạc quân đội đang ở trong tay, cờ tới tay ai người đó phất, dễ dầu gì mà nhả ra cho người khác ăn.

Cuối năm 90, sau 7 năm chờ đợi, bà xã mang con gái tôi sang Mỹ đoàn tụ. Vợ chồng, cha con, anh em ngỡ ngàng nhìn nhau mếu máo thương cảm vui mừng. Phong trào H.O. cũng bắt đầu nở rộ . Em gái lớn tôi dẹp hết buôn bán đang hồi phát đạt, đem con theo chồng "ngụy quân" qua Cali năm 92, bắt đầu gầy lại cuộc đời mới.

1995-2005
Qua giai đoạn này, chánh sách "bế quan tỏa cảng" ngu muội 20 năm qua được nhà nước mở mắt ra, đã bãi bỏ hoàn toàn. Đánh hơi giá trị của đồng đô la Mỹ, nhà nước tìm cách ngoại giao với các nước Tây phương giàu có. Việt kiều gửi tiền về nước ào ào. Đời sống vật chất ở Việt nam có mòi dễ thở dần dần. Dân biển đua nhau phát triển kỹ nghệ nuôi tôm xuất khẩu. Dân núi trồng cà phê, hạt điều. Phanrang cũng lớn mạnh. Nhà nước thu mua gạo, thổ sản, tôm cá trong nước bán qua Thái lan, Thái lan làm trung gian, đóng nhãn hiệu bán qua Mỹ. Liên hệ giữa Việt và Mỹ không gay cấn nữa, cải thiện từ từ, nhưng hai bên vẫn còn dè dặt. Việt Nam tranh đấu nhờ cậy các nước bạn xin cho được vô WTO để được bán hàng thẳng qua Mỹ. Đời sống kinh tế trong nước cải thiện rõ rệt. Một phần Việt kiều ở ngoại quốc làm ăn có tiền dồn gửi tiền về cho thân nhân cha mẹ, một phần dân chúng trong nước được tự do làm ăn mua bán đi lại dễ dàng hơn xưa nhiều, nên nhà cửa, ty sở, dinh thự mọc lên như nấm.

Việt kiều bắt đầu bay về nước thăm gia đình. Ở Việt nam cũng có người xin được "visa" qua Mỹ chơi. Dân chúng đua nhau học tiếng Anh, ở Saigon Đại học mở lại phân khoa Luật, dạy môn điện toán computer. Trường dạy Anh ngữ mọc ra la liệt, ngoại quốc bắt đầu bỏ tiền ra đầu tư ở Việtnam trong nhiều lãnh vực khác nhau. Bán bảo hiểm sức khỏe, nhân thọ, mở ngân hàng, hãng thuốc tây, bán computer, xe gắn máy, xưởng ráp xe máy... Các luật sư được mở văn phòng. Sân bay Nội bài và Tân sơn nhất được tân trang. Air Viêt Nam ra đời, mở các đường bay nội địa và Thái lan, Singapore... quảng cáo thắng cảnh VN, phát triển ngành du lịch. Việt kiều về sân bay bị hải quan xét giấy vòi vĩnh hối lộ. Xe chở hàng phải đóng thuế mãi lộ cho công an trạm xét trên đường quốc lộ.


Du khách quốc tế bắt đầu tới Việt nam du lịch, làm thiên hạ đua nhau xây khách sạn 4 sao, 5 sao, "nhà nghỉ", đủ loại thượng vàng hạ cám, kéo theo dịch vụ mãi dâm đĩ điếm. Các thắng cảnh, cung điện nhà vua ở Hànội và Huế được trùng tu để lôi cuốn du khách. Hội an, Nhatrang, và Mũi Né cũng đặc biệt được khai thác để thu hút ngoại tệ. Nhà nước hợp tác quốc tế khai thác dầu thô ở Vũng Tàu, bán dầu đổi lấy xăng. Ở Phanrang Tháp chàm có năm bảy cây xăng mọc ra. Đường xá mở mang nhiều, bắt chước Mỹ cũng vẽ vạch trắng chia "lane", gắn đèn xanh đèn đỏ, nhưng ít người đi xe tôn trọng luật lệ, tai nạn giao thông xảy ra như cơm bữa.

Năm 99, tôi về chơi lần đầu thấy Phanrang thay đổi nhiều, có khi đi lạc, phải ngừng hỏi đường. Xe gắn máy của Nhật, Tàu và Nam Hàn nhập cảng ồ ạt, chạy đầy đường, lác đác có cả xe hơi sang trọng. Saigon Hànội tràn ngập xe cộ đủ hiệu, đi bộ một mình nhiều khi không dám băng qua đường. Đang đi trên vỉa hè phố Hàng Bông, đột nhiên cả chục xe máy dưới đường gầm rú ào ào túa lên chạy tung tóe, hoảng kinh hồn vía. Các tiệm ăn nhậu cao cấp, phòng trà, cà phê ôm, quán rượu, đấm bóp, tắm hơi, mở ra nhan nhản, đầy nghẹt khách. Công an xuất cảnh gửi giấy mời tôi tới chơi, nhã nhặn hỏi han, ve vuốt, khuyến khích đầu tư, tôi chỉ ậm ừ cười. Ngày xưa họ cho mình vượt biên là bám đít Mỹ ăn bơ thừa sữa cặn, bây giờ lại thân mật chiều chuộng, gọi là "núm ruột ngàn dậm", thật là trơ trẽn hết chỗ nói.


Chùa chiền, thánh đường họ cho hành lễ trở lại để khỏi bị quốc tế công kích, nhưng vẫn ngấm ngầm theo dõi nhất cử nhất động. Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ không chịu sáp nhập với Giáo hội Quốc doanh, bị bắt bớ, giam lỏng. Chức sắc Hòa Hảo bị đánh đập. Mục sư Tin lành bị tra tấn. Linh mục Thiên chúa cũng bị cũng bị làm khó dễ nhưng chưa dám áp bức quá đáng vì còn ngại ảnh hưởng của Tòa thánh Vatican.


Năm 2000 tôi mua nhà ở Cali. Hai năm sau, làm đơn bảo lãnh mẹ qua Mỹ chơi 6 tháng. Mọi sự đều dễ dàng. Khác xa thời kỳ 80, 85, ai ra khỏi nước rồi coi như hết đường trở lại, người ở VN đừng hòng mong gặp lại người đi Mỹ. Năm 2004 tôi lại về quê thăm nhà, lại thấy đổi khác. Việt Mỹ đã lập lại bang giao chính thức nên Việt kiều có quốc tịch Mỹ được Tòa Lãnh Sự Mỹ ở VN bảo vệ, tha hồ đi du lịch từ Nam ra Bắc không bị khó dễ. Các quan chức và nhà giàu trong nước đua nhau gửi con cái qua Mỹ, Úc, Singapore, du học càng lúc càng nhiều.


Nhờ hệ thống Internet bắt đầu phát triển càng lúc càng tinh vi, chánh quyền bắt đầu mở rộng trí khôn, bớt kiêu ngạo, người dân, sinh viên mở mang kiến thức, tầm nhìn, có thiện cảm dần với người Mỹ, học hỏi cái khôn của thế giới tự do dân chủ. Nhà nước ngoại giao xin viện trợ, nhưng vẫn kềm kẹp báo chí, ngôn luận trong nước, ém nhẹm nhũng vụ tham nhũng lem nhem của tập đoàn chóp bu, vẫn nhồi sọ sinh viên với mớ giáo điều Mác Lê cũ rich để yêu kính "bác" Hồ, trung thành với "xã hội chủ nghĩa" mà Liên xô đã vứt bỏ.

Tổng thống Clinton qua thăm xã giao, được dân chúng vui mừng chen nhau tiếp đón. Phan văn Khải qua Mỹ, bị người Việt ở Mỹ biểu tình đả đảo. Doanh nhân trong nước cho qua Mỹ tham quan, họp hành rút kinh nghiệm. Nhưng tuyệt đối đàn áp biểu tình, cấm làm chính trị. Công an đàn áp dân biểu tình, sợ bị chụp hình lên báo, thuê dân côn đồ xã hội đen dàn cảnh tung xe, đâm thuê, giết mướn các kẻ chống đối. Bắt bớ, bỏ tù, hăm dọa các nhà tranh đấu dân chủ như bác sĩ Sơn, linh mục Lý, luật sư Đài, Lê thị Công Nhân, tiến sĩ Giang..

Cho dân tự do làm giàu, nhưng không được hội họp bàn tán chính trị. Nhà nước bán, cho thuê đất đai, dinh thự cho ngoại quốc đầu tư. Cán bộ cao cấp lợi dụng chánh sách quy hoạch đât đai, cướp đất của dân hay đền bù rẽ mạt, làm dân đen khiếu nại ra tới Hà nội. Có quyền thì làm ra tiền.Vợ các quan lớn lợi dụng uy chồng, tranh đua kinh tài. Các nhà địa ốc mua rẽ bán đắt, làm giàu mau lẹ. Dịch vụ tổ chức môi giới cho gái nghèo lấy chồng Đài loan, Nam Hàn mọc ra như nấm. Mua con nít gái bán qua các động mãi dâm ở Cambuchia , bị quốc tế phanh phui. Nhà nước xuất khẩu lao động qua Mã lai, Indonesia, Đông Âu, xén bớt lương thợ ...Dịch vụ môi giới cho khách Âu Mỹ xin con mồ côi VN bị tai tiếng lem nhem. Các đường dây kết hôn giả, làm hôn thú giả qua Mỹ sống ngày càng lộ liễu. Nhiều thanh thiếu niên sa vào con đường nghiện ngập ma túy, chơi bời mắc bệnh SIDA.


Con ông cháu cha mua xe hơi de luxe" chạy đua, gây tai nạn, bỏ chạy...Nhưng đó chỉ là cái giàu bề ngoài, chỉ có ở thành phố lớn, của giới đảng viên cán bộ chóp bu và thành phần ăn theo. Có đi về miền quê, miền sâu miền xa, mới thấy cái nghèo đói thê thảm của người dân đồng ruộng, đồi núi thượng du, các dân tộc thiểu số. Chênh lệch giữa giới giàu nghèo càng ngày càng rộng. Nhà nước dùng cò mồi, nhiều thủ đoạn ra sức chiêu dụ "Việt kiều yêu nước" về nước đầu tư, hầu như chẳng ai dám về. Về làm ăn thì tiền mất tật mang, cái gương "Vua chả giò" Trịnh vĩnh Bình ở Hòa lan đem vàng và tiền về đầu tư bị chụp mũ, nhốt tù còn đó. Ba quyền Lập pháp, Hành pháp,Tư pháp nằm cả trong tay Đảng, ai mà dám về?


Quốc hội thì đa số toàn các ông bà "Nghị gật", ngậm miệng ăn tiền. "Đảng cử, dân bầu", dân bị lùa ép đi bỏ phiếu, nếu không công an tới nhà làm khó dễ. Giai cấp cai trị cứ lo làm giàu, không thèm quan tâm tới dân,"sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi". Có nhiều tin đồn trong dân gian rằng chóp bu Đảng và các tham quan giàu sụ, phải rửa tiền, lén lút chuồi tiền ra ngoại quốc, gửi con qua Mỹ du học, mở các ngân khoản bạc tỷ ở ngân hàng Thụy sĩ, mua xe, mua nhà và cơ sở kinh doanh ở Mỹ bằng tiền mặt, phòng khi có biến thì "dông".



Tin tức nhà nước tham nhũng, bất công, đàn áp nhân quyền, tôn giáo, truyền đi nhanh chóng nhờ các bloggers trên Internet, nhờ tiếp sức của báo chí truyền thông hải ngoại online, nhất là ở Mỹ và Úc, đua nhau khai thác bộ mặt xấu xa của CSVN, chuyển tin về quốc nội. Thần tượng Hồ chí Minh sụp đổ trong lòng đại đa số nhân dân, với sự thật nham nhở cùng nhiều chứng cớ rõ ràng về đời tư bị Internet đưa ra ánh sáng. Đối với tất cả các tin đồn "tiêu cực" đó, báo chí, Tivi, truyền thông nhà nước CS một mực tuyên truyền do các "thế lực thù địch hải ngoại" tung ra. Sau đó là đủ loại “nghị quyết” kiều vận, đưa tiền và gián điệp ra hải ngoại lũng đoạn, chia rẽ đánh phá cộng đồng người Việt.

2005-2010
Trong khi báo chí người Việt hải ngoại ở Âu Mỹ và Úc hơn lúc nào hết, phổ biến những điều xấu xa nhục nhã ở Việt nam như qua Bắc kinh hầu hạ nhận lệnh quan thầy, xin xỏ viện trợ Âu Mỹ, luồn cúi nhịn nhục Trung quốc, đàn áp tôn giáo, chà đạp nhân quyền trong nước, ám sát bắt bớ các nhà tranh đấu dân chủ, lực lượng tranh đấu hải ngoại luôn tìm cơ hội vận động quốc hội Âu Mỹ lên án Việt nam độc tài, khiến Nhà nước ta nổi dóa, áp lực các nước Đông nam Á phải đập phá các tượng đài tưởng niệm những thuyền nhân VN chết trên biển Đông và cong cớn phản đối quốc tế không nên can thiệp xen vào nội bộ chính sách Việt nam.



Đây là thời kỳ mà phong trào tranh đấu dân chủ nhân quyền trong nước lên cao tột đỉnh trong suốt 30 năm qua, song song với những vụ tham nhũng khổng lồ vỡ lỡ cả thế giới đều biết (PMU, cá độ bạc triệu, Dự án Xa lộ Đông tây, Air Viêtnam ăn cắp buôn lậu, nhân viên sứ quán buôn lậu sừng tê giác ở Nam phi, in giấy bạc Polymer ở Úc, chiếm đất Xuân lộc chia chác làm của riêng...) những sự kiện nhục quốc thể chưa từng có trong lịch sử VN, đánh động tới lòng ái quốc và lương tâm của người dân yêu nước, ngay cả trong giới đảng viên như tướng Trần Độ, ông Hoàng minh Chính, trung tá Trần anh Kim cũng trả thẻ Đảng, công khai chống đối...



Chưa bao giờ có nhiều nhà tranh đấu dân chủ trong nước bị ra tòa, bỏ tù nhiều như giai đoạn này. Nguyễn tiến Trung, Lê công Định, blogger Điếu Cày, Trần khải Thanh Thủy, các phụ nữ bênh vực cho nông dân bị cướp đất... Phạm thị Thanh Nghiên ngồi nhà treo bảng "Hoàng Sa Trường Sa là của Việt nam" cũng bị bắt nhốt, rồi lôi ra tòa xử 3 năm tù. Thật là tủi nhục cho đất nước bị ngoại bang láng giềng khống chế, chưa bao giờ trong lịch sử có chuyện như thế xảy ra.



Cọng sản Viêt nam ngoan ngoãn để cho Trung quốc đuổi tàu Anh, tàu Mỹ vào biển VN thăm dò dầu mỏ, chiếm hai đảo Hoàng Sa và Trường sa, lấn đất biên giới, lấn chiếm hải phận, bắt cóc, cướp cá, đòi tiền chuộc và bắn chết ngư dân VN trên biển nhà, nhưng lại bỏ tù không thương tiếc các nhà ái quốc trong nước. Công an đàn áp các cuộc biểu tình sinh viên chống đoàn lực sĩ điền kinh Tàu rước đuốc ngang qua Saigon, reo hò biểu tình trước tòa đại sứ Tàu ở Hànội năm 2007. Cựu thủ tướng Võ văn Kiệt đã về hưu, biết rõ sai trái, kêu gọi thay đổi đường lối độc tài thì đột nhiên bệnh lăn ra chết, có tin đồn bị đánh thuốc độc. Ký giả phóng viên có thẻ Đảng của báo Tuổi trẻ do Kiệt đỡ đầu, lỡ đăng tin tham nhũng chóp bu, cũng bị xử án, bỏ tù. Cha Lý bị công an bịt miệng trước Tòa án không cho nói, có ký giả lén chụp được hình, tung ra trên mạng, cả thế giới đều biết, công kích phản đối ầm ỹ, làm Hànội điếng hồn như gái ngồi phải cọc.


Kế đến vụ Nguyễn tấn Dũng cho Tàu đem quân đội và dân thất nghiệp vô khai thác Bâu xít ở Tây nguyên lên đến hàng vạn người, bị tướng Giáp và vô số thành phần trí thức khoa học gia trong nước phản đối nhiều lần không có kết quả. Trên mạng, loan khắp nơi tin đồn Tàu cho Dũng 50 triệu "đô" bỏ ngân hàng Thụy sĩ đổi lấy Tây nguyên. Lại có tin nói Tàu thật ra cốt ý khai thác "uranium"(khô ng phải bâu xít) làm bom nguyên tử. Luật sư Cù hà Huy Vũ nộp đơn kiện thủ tướng Nguyễn tấn Dũng giao Tây nguyên cho Tàu khai thác bâu xít là trái luật, bị Dũng sai công an tới đập phá tường rào trả thù.



Nhiều người tiên đoán có ngày Hải quân Tàu ngoài khơi ở Hoàng Sa sẽ bắn vô, súng đại bác của lính Tàu trên Tây nguyên sẽ bắn xuống, kẹp miền Trung vô giữa, chia VN thành hai mảnh để dễ bề thôn tính. Nhà nước ta ý thức được nguy hiểm của thế giới ảo Internet, môi trường thuận lợi cho sự liên kết phối hợp các thành phần chống đối trong và ngoài nước với nhau, ra sức dùng kỹ thuật "tường lửa" ngăn chận, kiểm soát chặt chẽ các quán cà phê Internet, theo dõi email tư nhân... nhưng họ ngoan cố không hiểu rằng dưới ánh sáng mặt trời, thế kỷ 21, thời đại mà tin học tiến bộ vượt bực từng ngày, không có gì ám muội, xấu xa tồn tại mà không bị phanh phui.



Nhiều chuyện tham ô, bao che nhau từ nhà nước đến tư nhân, từ trên xuống dưới lâu lâu đổ bể, được dân chúng bàn tán xôn xao, nhất là các vụ thầu xây cất. Cầu đường xây lên chưa đầy năm đã nứt lõm, nghiêng vẹo, lủng lỗ, có khi đang xây đã đổ sập, giết chết công nhân, vì tập đoàn toa rập ăn bớt xi măng, sắt thép. Có lần bọn nhà thầu còn dám dùng tre thay cho thép để đúc bê tông, làm cầu sập, cột gãy, thật là quá sức tham tàn độc ác. Vậy mà còn dám vay tiền quốc tế chuẩn bị xây 2 nhà máy nguyên tử lực ở Ninh thuận, biết có an toàn bảo đảm không, hay lại rò rỉ phóng xạ gây nguy hiểm chết người như ở Liên Xô năm nào.




Tham nhũng là hiện tượng nổi bật, nhà nước luôn miệng tuyên bố ưu tiên "giải quyết", nhưng chỉ làm nửa vời. Quan trên nói láo, tham ô, làm sao dạy cho cấp dưới tánh thật thà, đức thanh liêm. Thượng bất nghiêm, hạ tắc loạn, làm sao mà giải quyết? Tố tham nhũng có khi còn bị trả thù, trù dập, người dân cũng chán không thèm tố nữa. Nhưng cũng không còn sợ công an, bắt đầu đoàn kết đánh trả, nhốt cảnh sát, đốt xe công an, làm nhà nước địa phương phải gửi thêm viện binh tới.

Trong khi đó, thì ai cũng thấy rõ đạo đức xã hội trong nước xuống cấp đến mưc báo động. Chương trình học không có môn Đức dục, hay Công dân giáo dục, dạy các giá trị làm người căn bản như hiếu thảo, trách nhiệm, lễ phép, vị tha, trung thành, lương thiện của đạo Khổng. Lý nhân quả báo ứng của đạo Phật, đạo Chúa lại không được tôn trọng, nên tôn ti trật tự đảo lộn, trong dân gian nhan nhản xảy ra những cảnh trò đánh thày, thày đánh trò, hiếp dâm nữ sinh, hiệu trưởng "mua dâm" nữ sinh, con giết cha, mẹ giết con, chồng giết vợ, cháu giết bà, ông già hiếp dâm con nít, cướp giật, lường gạt...


Vụ nổi cộm mới đây là vụ đụng chạm tự do tôn giáo mà trong Hiến pháp VN quy định công nhận rõ ràng: đàn áp cướp đất Tam Tòa và đuổi tăng ni môn đồ làng Mai khỏi chùa Bát Nhã mà cả thế giới đều nghe biết và lên tiếng bất mãn... Kế đến, vụ dập phá Thánh giá ở Đồng Chiêm, đả thương đổ máu linh mục giáo dân. Thế giới tự do Âu Mỹ lên án, Hà nội tỉnh bơ, bình chân như vại. Có tin đồn bàn tay "lông lá" của cố vấn Tàu ngay trong Bộ chính trị thúc đẩy.



Thiên hạ đồn có 2 phe trong Bộ chính Trị, phe thân Mỹ, phe thân Tàu, "chơi nhau", nên nhà nước hành xử mâu thuẫn, chuệch choạc. Trong khi đó thì mấy năm nay, thiên tai bão lụt mỗi năm càng tàn phá đất nước nặng nề hơn, làm khổ người dân đen đến cùng tận. Thành phố Hà nội và Saigon chìm đắm ngập lụt trong nước mỗi khi cơn mưa lớn đổ xuống. Nước biển lấn vào đồng bằng lục tỉnh, sắp tràn lên nuốt hết đất đai trù phú miền Nam, vựa lúa lớn nhất Đông nam Á. Sông Cửu long ô nhiễm và Nhị Hà khô cạn lần. Triệu chứng Trời phạt, hay chỉ là hậu quả việc tàn phá môi sinh, hiện tượng thay đổi khí hậu, hâm nóng toàn cầu?

Trong những thay đổi biến động dồn dập trong nước mấy năm qua, biểu lộ lòng khao khát dân chủ tự do của người dân Việt chịu đựng quá nhiều đau khổ, 35 năm sửa sai đổi mới mà đất nước vẫn còn chìm đắm trong nghèo đói, đạo đức người dân lại ngày càng suy đồi, xã hội chỉ biết chạy theo tiền bạc, tôi thường bâng khuâng tự hỏi xã hội đất nước mình đang đi vào ngõ cụt, hay bắt đầu giai đoạn "cùng tắc biến" theo như trong Kinh Dịch nói.

2010
Thế là Tết này, sau 35 năm chế độ cọng sản cai trị người dân, tôi nảy ý về VN ăn Tết để coi lại quê hương mình có gì thay đổi. Nhà cửa, đường xá, xe cộ, kinh doanh rõ ràng là có sầm uất, hiện đại, tiến bộ hơn, so với cả trước 75 thời kỳ chiến tranh Nam Bắc, nhưng con người, đường lối giáo dục đào tạo thế hệ tương lai mất đi tính cách nhân bản và đạo đức của thế hệ trước đây.

Saigon, Hà nội nhà cửa dinh thự mọc lên như nấm.Thành phố tỉnh lẻ như quê tôi cũng lớn lên nhiều lắm, nhà cửa, đường xá chi chit, tiêm buôn sầm uất, những người quen cũ đã già lão, có người đã chết, chỉ còn lác đác năm ba người quen rải rác đó đây, tay bắt mặt mừng, nhắc kỉ nệm cũ, còn toàn là mặt thanh niên thiếu nữ mới lớn, trơ mắt nhìn mình như người xa lạ.

Tục lệ cúng Ông táo ngày 23 tháng chạp vẫn còn nhiều người giữ, áo quần giấy, vàng mã, nải chuối, ly gạo,tách nước... Ngoài phố xe cộ nhộn nhịp, buôn bán sầm uất, nhưng ở hang cùng ngỏ hẽm có nhiều gia đình lao động nghèo suốt năm quần quật làm không đủ ăn.Tết đến, đau buồn tủi hổ không sắm nỗi áo quần, giày dép mới cho con.Trẻ con nghèo giàu gì cũng có cùng một tâm hồn nao nức chờ đón được mặc đồ mới, tiền lì xì mừng tuổi, đốt pháo, mua này mua kia, bỏ tiền đồng binh...Chót sinh vào làm con nhà nghèo, con mồ côi, thì đành chịu, ngồi nhà nhìn ra đường coi thiên hạ xe cộ qua lại, xanh đỏ tím vàng áo quần lộng lẫy du Xuân chúc Tết...

Tôi nhớ lại cái cảm giác nô nức hiếu kỳ của những ngày cuối năm khi còn trong nước. Bây giờ quá quen với phong tục Âu Mỹ mấy chục năm nay, đầu hai thứ tóc, không còn cái cảm giác nao nao của những ngày niên thiếu lúc cuối năm, tuy cố chuẩn bị cho mình cái tinh thần ngày Tết, mà sao nhìn đâu cũng thấy "buồn ơi chào mi", thấy toàn là kỷ niệm, mất mát, người thân khuất bóng, kẻ quen chia lìa, ly tán.

Gia đình tôi như mọi nhà khác trong nước vẫn giữ truyền thống Mồng Một chúc Tết lì xì trong gia đình. Má mặc áo gấm, ngồi ghế trịnh trọng, con cháu lớn nhỏ tề tựu xung quanh. Chín đứa con mà chỉ có ba anh em đứng đó chúc Tết cho mẹ, những đứa khác không về. Xong màn chúc Tết, tất cả vào buồng thờ lạy Phật và ông bà. Kế đó, cả nhà lên xe đi nghĩa trang thăm mộ thắp nhang cho ông bà và ba... Ngày xưa mướn nguyên chiếc xe Lambretta chở cả nhà thật vui, bây giờ thì cứ 2 người ngồi một xe Honda, nối đuôi nhau chạy. Mỗi lần ra thăm mộ là mỗi lần thấy lòng chùng xuống, kỷ niệm xa xưa hiện về khêu gợi mối thương tâm. Đưa mắt nhìn cây cỏ xung quanh mà biết tâm sự cùng ai, tâm tư lan man nhớ lại những mùa Xuân mấy chục năm về trước, những năm hạnh phúc êm đềm gia đình anh em còn đông đủ.


Trên đường về, ghé chùa Tỉnh Hội lễ Phật, cúng tiền phước sương, lì xì hỏi thăm mấy chú tiểu. Qua chùa Diệu Ấn, thăm Sư cô trù trì, ăn miếng mứt gừng, cúng tiền, dạo cảnh. Chùa chiền ngày Xuân bây giờ không được tấp nập, ấm cúng, đông đúc rộn rã như ngày xưa, thời mà các sư các ni được quí trọng. Tôn giáo bây giờ bị trù ếm, bôi nhọ, rình rập, nghi kỵ, Phật tử tín đồ cũng ngại ngùng, ít dám tới chùa, tâm sự với ai. Biết tin ai trong xã hội này. Công an chìm đầy dẫy. Thời nào cũng có những kẻ ươn hèn đốn mạt làm tay sai để hưởng cơm thừa cá cặn của kẻ ác cai trị, không biết khi chết, đầu thai vào súc sanh, địa ngục, hay cảnh giới tối tăm nào.

"Chia để trị " là sách lược của thực dân Pháp ngày xưa, giờ được Đảng dùng lại, vì nó hiệu quả, có lợi cho nhà nước. Về nhà, em gái xuống bếp hâm thức ăn, khui bánh chưng bánh tét, củ kiệu củ cải dưa muối, thịt heo kho nước dừa, dọn lên cả nhà ăn trưa. Má mệt, đi nằm nghỉ, con cháu ai muốn đi đâu thì đi, thăm bạn bè, người quen..

Tôi lái xe Honda xuống biển Bình Sơn, cách thành phố có 2 cây số, hóng gió biển, thấy dân nhà quê áo quần xanh đỏ từ các nơi xa xôi đổ xô về, gửi xe đông nghẹt, y chang như ngày xưa. Muốn mua vé vào xem Hội chợ, ăn uống, xem xiếc, đánh bài, bầu cua cá cọp. Tiếng nhạc ồn ào, tưng bừng, màu sắc trang trí cờ quạt xanh đỏ phất phới trong gió biển thật vui mắt. Cũng muốn gửi xe, bước xuống lăn mình vào dòng người vui nhộn, coi này coi kia, vui lây cái vui của thiên hạ, nhưng kịp hiểu rằng thời của mình không còn nữa. Sẽ chỉ lạc lõng trong biển người mộc mạc dưới kia, gặp toàn những khuôn mặt trẻ mới lớn xa lạ, đào tạo nuôi dưỡng trong một hệ thống giáo điều nhồi sọ, toàn những người chưa hề biết chiến tranh Việt nam là gì, không chút ý niệm gì về nhân quyền, dân chủ, tự do. Sẽ nhớ tiếc thời vàng son tươi đẹp, thời đùm túm bè bạn thân thiết của những ngày niên thiếu xa xưa...


Như thế đó, tôi trở về quê hương ăn Tết, để thấy mình chỉ là người già cô đơn trong biển người trẻ mới lớn thụ động kia, xử dụng những tiếng Việt mới lạ, không biết phép lịch sự và tôn trọng luật lệ như người Tây phương. Không có một biến cố lịch sử chung nào, một hoạt động xã hội chính trị chung nào ràng buộc mình với những người xa lạ đó để trở thành thân quen. Mình như thuộc về một thế giới khác, một xã hội khác, sau khi rời bỏ quê hương gần ba mươi năm qua... Dù có muốn về ở lại quê cũ, nhưng biết sẽ không thể chịu nổi đủ thứ rắc rối, bực mình, khó dễ, mè nheo tiền bạc từ phía công an.

Con chim đã thoát ra khỏi lồng tối, nếm mùi tự do bay nhảy trong ánh sáng rực rỡ của trời cao đất rộng, sao lại có thể chịu chui đầu vào chiếc lồng ọp ẹp hắc ám trở lại.

*

Friday, March 19, 2010


THIẾU TƯỚNG NGUYỄN TRỌNG VĨNH * TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC

Nguyễn Trọng Vĩnh

Cảnh giác với thủ đoạn bành trướng mềm của Trung Quốc







Có thể nói bành trướng là một bản chất bất biến của những người cầm quyền Trung Quốc, một sản phẩm mang tính Đại Hán được kế thừa nguyên vẹn từ thế hệ này sang thế hệ khác và phát triển đến mức ngang ngạnh nhất cùng với Nhà nước Trung Hoa hiện đại

I. Thủ đoạn bành trướng cứng (bằng lực lượng vũ trang) của Nhà nước Trung Hoa thì Việt Nam cảm thấy rõ hơn ai hết. Năm 1974, họ dùng lực lượng mạnh hơn đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam . Năm 1979 họ đem nửa triệu quân xâm lược các tỉnh biên giới Việt Nam, tuy bị quân dân ta phản kích phải rút lui nhưng nhiều điểm cao sát bên kia thì vẫn nằm lỳ và giở chiến thuật lấn đất, đắp bờ kè trên sông, nhổ cột mốc thừa cơ cắm dịch sâu vào đất ta để tranh từng tấc sông ngọn núi của ta, khiến cuộc đàm phán về đường biên giới giữa hai nước biến thành một cuộc đấu tranh giai dẳng kéo dài – có thể nói là dài nhất trong lịch sử mọi cuộc thương thuyết biên giới ở Việt Nam từ trước đến nay – mà sự lỳ lợm ranh ma của đối phương trong việc hoạch định đường biên giới trên thực địa khiến các đoàn công tác của chúng ta nhiều lúc phải đối phó hết sức vất vả (xem Wikipedia: Vấn đề lãnh thổ biên giới Việt Nam – Trung Quốc).

Năm 1988 họ chiếm một số bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa, dùng chiến hạm đánh đắm tàu và giết hại 74 chiến sỹ Việt Nam ra tiếp tế cho quân đồn trú của Việt Nam giữ quần đảo Trường Sa của mình. Họ lại tự ý vẽ một cái “lưỡi bò” xâm phạm hải phận quốc tế và bao chiếm gần hết biển Đông. Như thế mà mồm họ cứ nói rất giẻo là Trung Quốc muốn bắt tay với các nước để xây dựng một thế giới hài hòa, làm sao mà ai nghe được.

Nhắc lại một lần nữa về quần đảo Hoàng Sa. Từ đời vua Minh Mạng thứ 15, đã có sắc chỉ ban cho Đội trưởng Hải đội quân Hoàng Sa, phái Hải đội ra Hoàng Sa tìm kiếm hải sản, coi giữ các đảo và cắm bia khẳng định chủ quyền của nước Đại Nam (Việt Nam ngày nay). Tại đảo Lý Sơn thuộc Quảng Ngãi hiện còn miếu Âm Linh, nơi đó dân chúng và Triều đình tế sống các thành viên Hải đội Hoàng Sa trước khi xuất phát. Thời Pháp thuộc thì Hoàng Sa do một phân đội quân Pháp đóng giữ. Thời Việt Nam Cộng hòa thì Hoàng Sa thuộc quyền cai quản của một phân đội quân VNCH. Thử hỏi có bóng dáng một người Trung Quốc nào trên bãi “cát vàng” này trong suốt những thời kỳ dài như vậy?
Cho dầu Trung Quốc có lục hết mọi kho thư tịch cũng không tìm ra được cứ liệu cổ xưa nào ghi danh Hoàng Sa thuộc lãnh thổ của họ. Ngay cả tấm bản đồ mà tướng Đặng Chung, Tổng binh trấn thủ Quỳnh Nhai (đảo Hải Nam) vẽ cũng ghi Hoàng Sa là thuộc An Nam (Việt Nam). Bí quá, gần đây họ lại bày trò “khảo cổ” khai quật Hoàng Sa “tìm thấy tự liệu văn vật Trung Quốc” hòng chứng minh cái gọi là chủ quyền. Nhưng tư liệu khảo cổ đâu có thể là tiêu chí để xác định chủ quyền quốc gia của bất cứ nước nào. Chưa nói là những “tư liệu văn vật” mà họ rêu rao, có ai chứng minh được là thật hay giả. Sự thật rành rành là vậy mà họ luôn luôn trơ tráo lu loa rằng Tây Sa (Hoàng Sa), Nam Sa (Trường Sa) và Nam Hải (biển Đông) thuộc chủ quyền của TQ “không thể tranh cãi”! Báo chí của Trung Quốc còn nói bừa rằng năm 1974 họ “phản kích” “giành lại” Tây Sa (Hoàng Sa), “đẩy lui” Việt Nam, Malaysia, Philippin “xâm chiếm”, “phá hoại” Nam Sa (Trường Sa) (?!). Rõ là giọng lưỡi kẻ mạnh “vừa ăn cướp vừa la làng”!! Tham vọng bành trướng cứng của TQ còn lộ rõ trên tạp chí Hoàn cầu thời báo ngày 18/03/2009 và trên “Đài Phượng Hoàng” của Trung Quốc ngày 09/12/2009, qua các bài báo của các tác giả Đới Hy, Mã đinh Thịnh, Tống hiếu Quân. Trích một đoạn sau đây:

Quân đội của chúng ta cần thiết lập căn cứ quy mô lớn tại Nam Sa (Trường Sa) để bảo vệ việc phát triển nguồn tài nguyên tại Nam Hải (biển Đông), thiết lập căn cứ quân sự trên quần đảo Nam Sa với các cơ sở dành cho máy bay trực thăng và các loại hình tác chiến khác… Tây sa (Hoàng Sa) có sân bay, máy bay vận tải, chiến đấu, tiếp dầu, có thể hạ, cất cánh tại đây, hệ thống ra-đa tiên tiến, là một căn cứ quân sự lớn, cộng thêm khi Trung Quốc có hàng không mẫu hạm thì toàn bộ khu vực Nam Hải (biển Đông) sẽ nằm trong sự khống chế của Hải quân và không Quân Trung Quốc. Như vậy có thể nhìn thấy tương lại Trung Quốc có thể thu hồi toàn bộ các đảo ở Nam hải rồi”. Dã tâm đến thế mà những người nắm quyền ở Trung Quốc vẫn luôn mồm nói “hữu nghị” ngọt xớt, nhất là đối với Việt Nam để phỉnh phơ những người nhẹ dạ. Ai trong số 85 triệu dân chúng và quan chức nước ta có thể mắc vào “mồi nhử” này được nhỉ?


II. Song song với bành trướng cứng, dựa vào khối dự trữ ngoại tệ rất lớn, những người cầm quyền Trung Quốc hiện đương triển khai thủ đoạn “bành trướng mềm” (bằng đô la). Họ tung tiền ra mua (hoặc thuê dài hạn 50 năm) đất đai, hầm mỏ, núi rừng của các nước nghèo ở Châu Phi, châu Á. Họ đưa người của họ đến khai thác trồng trọt, khai phá, làm nhà, đem vợ con đến hoặc lấy vợ người bản địa, 50 năm sinh con đẻ cháu sẽ thành những làng Trung Hoa, thị trấn Trung Hoa là lãnh địa của họ trong lòng nước sở tại, vô hình trung quốc gia hữu quan mất đứt một phần lãnh thổ. Khu kinh tế đặc biệt Bò Tèn thuộc tỉnh Luông Nậm Thà của Lào chỉ mấy năm lại đây có casino, khách sạn, nhà nghỉ, các cửa hàng… phần lớn là của người TQ, một số ít người Lào chỉ làm các việc như vệ sinh, dọn dẹp, khuân vác…


Với 97% dân số là người TQ thì tự nhiên huyện Bò Tèn trở thành một thành phố nhỏ của Trung Quốc, còn cựa vào đâu được nữa. Họ viện trợ không hoàn lại cho nước nghèo để được hàm ơn, từ đó dễ xâm nhập và chi phối. Họ còn nham hiểm đến mức “mua” cả người, là những người có chức quyền nào đó, hoặc có vai vế để dễ đàng hoạt động, bằng cách tặng, biếu, đãi đằng, phỉnh nịnh tâng bốc, nếu mua được những người đứng đầu quốc gia – cái đích ngắm lớn nhất của họ – thì họ tha hồ tự tung tự tác. Ở Việt Nam họ đã vào được Tây Nguyên, vị trí chiến lược xung yếu số một của nước ta để khai thác bauxite.


Gần đây họ lại cùng Hồng Kông, Đài Loan mua (hoặc thuê dài hạn 50 năm) 264 ngàn hecta rừng trong đó có cả một phần rừng đầu nguồn, của các tỉnh từ Quảng Ninh đến Bình Dương, nói là để trồng nguyên liệu. Chưa biết họ trồng nguyên liệu gì, có trồng hay không, nhưng đã mua được thì họ tự do chặt phá (trong khi ta phát động trồng rừng). Hàng mấy trăm ngàn hecta rừng nhất là rừng đầu nguồn mà bị chặt phá thì đến mùa mưa, lũ lụt vô cùng lớn chắc chắn sẽ gây tai họa khủng khiếp cho dân, phá hoại đường sá, cầu cống, mùa màng. Mùa khô, nước các sông sẽ cạn kiệt, hoa màu thiếu nước tưới, các công trình thủy điện thiếu nước khó hoạt động. Mặt khác cần phải nghĩ tới việc họ sẽ có thể khai thác tài nguyên khoáng sản quý dưới lòng đất mang về nước họ. Nhưng còn quan trọng hơn nữa là trong các khu rừng rộng lớn ấy sẽ chứa đựng bao nhiêu người Trung Quốc sang khai thác rừng và làm gì nữa, có vũ trang không, ai mà biết được. Trách nhiệm thuộc về ai trong mối hiểm họa vô cùng đáng sợ này? Chưa thấy những người cầm cân nẩy mực có câu trả lời.

Đây không chỉ là hành động bành trướng mà là sự phá hoại kinh tế, phá hoại môi trường, phá hoại đời sống của nhân dân và phá hoại an ninh đất nước một cách gớm ghê, thâm hiểm. Ở đồng bằng và ven biển nước ta, Trung Quốc sẵn sàng bỏ nhiều tiền ra cạnh tranh với các nước, đầu tư xây dựng công trình, xí nghiệp và một khi trúng thầu xây dựng nhiều công trình (trên thực tế họ đã trúng thầu khắp từ Bắc, Trung, Nam, nhưng hình như chưa một cơ quan có trách nhiệm nào thống kê xem con số là bao nhiêu), họ đưa ồ ạt lao động của họ vào, cộng với vô số người Trung Quốc vào theo đường du lịch.

Thế là từ trên rừng đến đồng bằng, ven biển có hàng vạn người Trung Quốc tự do cư trú, đi lại không kiểm soát được, tạo thành đạo quân thứ 5 của những người cầm quyền Trung Quốc. Mối nguy tiềm ẩn ra sao tưởng không cần phân tích cũng đã rõ! Trước những hành động của “Ông láng giềng hữu nghị” trên biển Đông cũng như trên đất liền Việt Nam , hàng triệu người Việt Nam yêu nước đang rất bức xúc và sôi gan. Chúng ta phải làm gì đây? Ngày 25-2-2010 Số 23, ngõ 5, Hoàng Tích Trí, Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội

@Bauxite Vietnam

*

NGUYỄN QUANG DUY * CỜ VÀNG

*

Nguyen Quang Duy


Những Kỷ Niệm Với Lá Cờ Vàng.

Tôi gật đầu chào người cựu chiến binh Úc. Ông hãnh diện chỉ lên ngực tấm huy chương với lá cờ vàng ba sọc đỏ. Thầm bảo là chiến công trong chiến đấu tại Việt Nam.



"
Xin anh cho tôi một lá cờ" người cảnh sát hỏi tôi. Tôi hỏi lại: "Tại sao anh lại muốn lá cờ Việt Nam?" Ông ấy đáp lời: "Cha tôi hy sinh tại nơi này, hôm nay giữ trật tự cho cuộc biểu tình, tôi thấy lá cờ quá đẹp, cho tôi một lá làm kỷ niệm". 30/4 năm ấy, mẹ tôi cẩn thận gấp lá cờ thật nhỏ dấu kỹ dưới đáy giương quần áo. Mẹ tôi mất trước khi tôi hỏi mẹ :"Tại sao mẹ cố giữ lá cờ ?" 1977 - Người chiến sỹ tử thủ thị trấn An Lộc kể tôi nghe lá cờ rách nát đạn thù "đẹp lắm, anh dũng lắm, không hiểu sao mình lại thua trận - 1975".



Người Mỹ rút chạy miền Nam sụp đổ lá cờ là di sản được đòan người tị nạn mang đến năm châu. Lá cờ vàng vẫn là cờ Tổ Quốc Việt Nam trong lòng đòan người di tản. Trong đòan người vừa được vớt trong chuyến hãi hành, tôi chiêm ngưỡng màu vàng của sự sống. Cờ ơi, tự do ơi, xin cám ơn Phật Trời, cám ơn Thượng Đế cho con được sống tự do. "Thị trấn tôi chỉ có một gia đình Việt Nam, nhờ dạy con gia đình ấy tôi biết được lá cờ của các bạn, đẹp vô cùng." Một cô giáo Úc nói với tôi. Tôi chở một gia đình mới đến Úc từ trại tị nạn Hồng Kông tham dự cuộc biểu tình. Sau đó tôi hỏi người chồng: "Chú nghĩ sao về lá cờ vàng ?" Ông trả lời :"Tôi đã chào lá cờ này trước ngày cộng sản vào tiếp thu Hà Nội."


Có thuyết cho rằng lá cờ đã có từ thời hai vua Thành Thái Duy Tân. Cả hai vua bị Pháp lưu đày vì ước mong độc lập và thống nhất Việt Nam. Nhân sỹ Trần văn Ân đại diện miền Nam đề nghị lá cờ. Được đại hội chọn lựa và được Hòang đế Bảo Đại thông qua. Lá cờ là biểu tượng của Quốc Gia Việt Nam Độc lập và thống nhất. Cờ vàng phất phới bay từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Rồi biểu tượng của miền Nam tự do đến ngày người Mỹ rút chạy. Tôi đi giữa đòan người và cờ đòi đài truyền hình SBS chấm dứt việc đưa tin từ cộng sản Việt Nam. Trong một cộng đồng đa nguyên lá cờ vàng cho chúng tôi tình đồng thuận đấu tranh.


Tiểu bang Victoria chúng tôi đang tu chính Nội Quy và sẽ chính thức mang vào Nội Quy, cờ vàng là biểu tượng cho cộng đồng. "Mẹ ơi mai mẹ nói với cô con, con không muốn tô màu lá cờ lấy từ trên mạng xuống, nó không phải là cờ Việt Nam" con trai tôi nói với mẹ nó. Qua mạng tòan cầu tôi biết được, khi biểu tình đồng bào sắc tộc đã sử dụng cờ vàng và đã bị đàn áp dã man.



Tôi nhận được điện thơ từ người con vui mừng gởi đến cha và các cô chú bức hình anh chụp khi Đức Giáo Hòang ban phép cho cờ vàng trong Đại Hội Thanh Niên Công Giáo 2008. Cũng trong dịp Đại Hội này nhà đấu tranh dân chủ Phương Nam Ðỗ Nam Hải đã viết "Lá cờ vàng ba sọc đỏ mỗi khi được đồng bào Việt Nam ta hiện đang sinh sống ở hải ngoại giương cao, chính là biểu trưng cho ý chí và nguyện vọng, cho nỗi khát khao của gần 90 triệu nhân dân Việt Nam ở cả trong và ngoài nước hôm nay. Họ đã và đang dũng cảm, kiên trì đứng lên cùng với đồng bào mình ở trong nước quyết giành lại các quyền tự do dân chủ đã bị Đảng Cộng sản Việt Nam qua nhiều thế hệ ngang nhiên tước đoạt của dân tộc trong suốt gần 63 năm qua (2/9/1945 – 7/2008)".



Ông Hải còn viết: "Một Quốc hội đa đảng của một nước Việt Nam mới nhất định sẽ chọn ra được một bản Hiến pháp đa đảng; chọn ra được Quốc huy, Quốc kỳ, Quốc ca,… cho đất nước."


Trong một cuộc triển lãm tranh, tôi gặp và hứa sẽ gọi điện thọai cho chị. Sáng nay qua điện thọai chị nói với tôi :"Mình không qúy lá cờ mình thì ai qúy thay mình." Đêm về tôi nghĩ lời chị, nhớ những kỷ niệm nho nhỏ về lá cờ Tổ Quốc của tôi, viết để tặng chị Nguyễn thị Bông và tất cả những ai trong trái tim còn trân qúy ngọn cờ. Mỗi chúng ta đều có nhiều kỷ niệm với lá cờ vàng ba sọc đỏ.


Nếu hôm nay chúng ta không tôn vinh cờ vàng thì tương lai khi nước non thóat ngục tù cộng sản, biết mấy ai sẽ chọn làm màu cờ Tổ Quốc Việt Nam.


Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi 12/3/2010
*

THƠ SONG NGỮ

*

Friday, March 19, 2010







*




THE ARROW AND THE SONG

I shot an arrow into the air,
It fell to earth I knew not where,
For so swiftly it flew, the sight
Could not follow it in its flight.

I breathed a song into the air
It fell to earth I knew not where,
For who has sight so keen and strong
That it can follow the flight of a song.

Long, long afterward, in a oak,
I found the arrow still unbroke;
And the song from beginning to end,
I found it again on the lips of a friend.

H. W. LONGFELLOW



MŨI TÊN VÀ LỜI CA

Tôi bắn một mũi tên lên trời,
Chẳng rõ chốn nào mũi nhọn rơi;
Vì chẳng mắt nào nhanh đến độ
Dõi theo cho sát mũi tên trời.

Tôi cất lời ca trong khoảng không,
Chẳng rõ chốn nào điệu hát rung;
Vì chẳng mắt nào tinh đến độ
Nhận ra tiếng hát vút mông lung.

Lâu lắm... tôi tìm được nhánh sên,
Mũi tên cắm xuống: còn y nguyên;
Và tìm lại được lời tôi hát:
Trọn bản, trên môi một bạn hiền.


THANH-THANH

 

No comments:

Post a Comment