Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday, 12 December 2016

HÒA HỢP HÒA GIẢI =30-4-1975=THƠ

TÔ HẢI * HÒA HỢP HÒA GIẢI

HÒA HỢP-HÒA GIẢI?KHÔNG BAO GIỜ! NẾU....

Nhân ngày 30 tháng tư thứ 35 đến ,tớ nằm đọc cả trăm bài viết rất chi là chân thành của nhiều nhà chính tr ị,trí thức, văn nghệ sỹ, nhà báo của "phe thắng", đề xuất với "phe thua".... Tớ cũng chẳng còn muốn nhắc lại những lời nói hay ho và rất... "chính trị" của ông Trần văn Trà là "Người Việt nam không có ai thắng, ai thua. Chỉ có Đé Quốc Mỹ là thua", (được ông Nguyễn Thành Tài,,phó chủ tịch UBND t/p HCM thận trọng nhắc lại nguyên xi vế một ,nhưng bỏ vế hai , trên HTV tối qua.) Tớ chỉ thương cho mấy hạt muối bỏ biển (ý của thi-nhạc sỹ N.T.T) đã không nói hết được những gì là gan ruột của mình về giấc mơ hòa hợp không bao giờ thanh hiện thực,.... mà khăng định rứt khoát về 4 cái chữ hòa giải- hòa hợp như sau : KHÔNG! KHÔNG BAO GIỜ CHUYỆN ĐÓ TRỞ THÀNH HIỆN THỰC! NẾU... Lý do:
-Làm sao có thể hòa giải-hòa hợp với hàng vạn gia đình, con cháu họ khi cha ông họ bị cướp sạch ruộng đất, nhà cửa, bị đấu tố rồi giết hại bằng đủ kiểu dã man như thời Trung Cổ bởi những Đoàn, Đội Cải cách ruộng đất cơ chứ?
-Làm sao có thể hòa giải với cả triệu người vì quá sợ cải cách mà bỏ cả quê hương bản quán mồ mả cha ông,mà bồng bế nhau chay vô Nam ? rồi còn bị người ta tuyên truyền là bị "cưỡng ép,theo Chúa vào Nam"?
-Làm sao có thể hòa giải với hàng triệu gia đình , sau chiến thắng Điện Biên, phải bỏ hết của cải, nhà cửa ,xưởng máy "di cư"vô Nam để tìm tự do.Những người ở lại, thì mất hết sau các đợt cải tạo tư sản, cải tạo nhà đất ,bị tịch thu từ cái máy may đến cửa hàng không quá 3 mét ở các phố hàng Đào, hàng Ngang ,hàng Trống.... và nhiều nhà hơi cao, cửa hơi rộng cũng vị tịch thu hoặc bố trí cho thành phần cốt cán vào ở cho đến nay cũng cấm đòi lại. (Giới văn nghệ cũng có hàng trăm người hoặc mất béng,hoặc "chiếm đóng"tọa hưởng kỳ thành cho tới hôm nay.)Cứ hỏi xem vợ NSND Đặng nhật Minh xem vợ ông ,bà Phương Nghi,có cái nhà to đùng ở phố hàng Chuối bị trưng thu làm trụ sở Hội L H P N V N nay đã đòi được hay chưa? Hỏi hàng vạn người bị kiểm tra hành chính (sau 75) chỉ vì có nhà cao hơn 2 tầng (!?) nên bị tịch thu chỉ bằng một lệnh mồm xem có ai được xin lỗi và trả lại cùng với tủ lạnh, tivi có sẵn trong nhà, mà người ta khuân từ vùng mới "giải phóng" ra , chứ chẳng chiếm đoạt , bóc lột của ai xem. Có ai đuợc trả lại chưa?Tớ tin là chưa vì tớ có ông anh họ ,Tô Ninh, chẳng phải tư sản, chẳng phải địa chủ mà còn là cựu chiến binh -cựu nhà báo nữa cũng bị "đánh" một cách bất hợp pháp như thế ,đến nay gần chết vẫn...chưa được trả lại ngôi nhà Hàng Bông Nhuộm! Làm sao hòa giải với ông ấy chứ?
-Làm sao hòa giải với con cháu những người văn nghệ sỹ, trí thức bị đi tù không án, không thời hạn, thậm chí ra tù cũng chết dần chết mòn cả thể xác lẫn sự nghiệp ,dù hôm nay có đền bù một cái giải thưởng này nọ kèm theo tí tiền còm nhưng không một lời xin lỗi!! Tớ không tin con cái, cháu chắt họ thôi căm thù đâu!
-Làm sao có thể hòa giảỉ với hàng triệu gia đình có cha,ông là sỹ quan phía "bên kia"bị đánh lừa bằng những lời hứa hẹn kiểu ông Trần văn Trà "Người Việt Nam không ai thắng ai thua,Chỉ có Đế Quốc Mỹ là thua thôi!",đã hồ hởi (?) đi "học tập mang theo lương thực 10- 20" ngày để rồi bị đi mút mùa ở các trại cải tạo nơi rừng sâu nước độc,để ỏ nhà vợ con bị xua đi kinh tế mới... và không ít người đã mất xác cho đến nay, bao gia đình vẫn phải về tìm hài cốt ở những nơi chồng, cha họ đã từng bị "học tập",dưới danh nghĩa "khúc ruột ngàn dặm" một cách đắng cay va mai mỉa...
-Làm sao có thể hòa giải-hòa hợp với những người phải bỏ nước ra đi ,sống ở quê người, những người bị làm mồi cho cá mập đại dương, cho lũ cướp biển, bỏ lại tất cả của cải ,nhà cửa, xe cộ cho mấy ông cán bộ lấy làm chiến lợi phẩm ? Cho đến tận hôm nay ,mỗi lần về "du lịch thăm quê"nhìn ngôi nhà mình ,cửa hàng mình, xưởng máy mình nay đã trở thành "của riêng" của mấy ông cán bộ c s đang làm chủ hợp pháp có đầy đủ giấy đỏ ,giấy hồng mà chỉ dám đi qua mà chửi đổng? (Riêng giới văn nghệ sỹ ,cho tới hôm nay cũng được làm chủ ít nhất cả trăm villa của những "kẻ thua phải bỏ chay",có vị do "bán đi kiếm cái nhà ngoại ô" nay đã có trong tay cả mấy ngàn cây vàng. Các vị này muốn hòa giải bằng cách trả lại cho các khổ chủ hợp pháp của các tài sản kia để tiến tới hòa giải-hòa hợp không? Chắc chắn là KHÔNG !
Và còn hàng ngàn,hàng vạn thứ chủ trương, hành động gây thù, gây oán ngàn đời không rửa sạch nữa ,xảy ra suốt hơn 60 năm tớ sống và làm việc trong kinh hoàng và sợ hãi thường trực nữa.....Cho nên tớ mới nghĩ rằng:
CHỈ KHI NÀO,NHỮNG KẺ GÂY NÊN THÙ HẬN NHÌN RA LÀ MÌNH CÓ TỘI THÌ MAY RA SỰ HẬN THÙ MỚI ĐƯỢC DẦN DẦN ĐƯỢC NGUÔI NGOAI.
Cụ thể giấc mơ của tớ là :Có một ngày nào đó nước ta có một vài ông to dám nói ra những gì các ông Goóc-Ba-Chốp, En-Xin ,Putin và gần đây cả Medvedev nữẵ ĐÃ NÓI VÀ LÀM thì chẳng cần hô hào,mọi người sẽ lại gần nhau để tìm ra cách hòa hợp hòa giải....Bằng không thì...không bao giờ có ,với cái kiểu CHO PHÉP ĐỰOC HÒA GIẢI, cả!
Tớ cũng mong ước các vị nào đó có vai trò nặng kí trong "Đảng- Chính- Phủ"hãy tuyên bố đột phá (như Khơ-rút-xốp ở Đai Hội XX ấy)
"ĐẢNG của chúng tôi đã hoàn thành xuất sắc nhệm vụ giải phóng dân tộc,nay trước nhiệm vụ xây dựng đất nước,đưa cuộc các mạng kinh tế,khoa học,xã hội và nhân văn lên tầm cao mới,chúng tôi thấy không đủ tài năng và trí tuệ.Vậy xin nhường quyền lãnh đạo đất nước cho mọi nhân tài không phân biệt chính kiến,tôn giáo,đảng phái.... ra lãnh đạo đất nước bằng một cuộc tuyển cử thật sự công bằng,văn minh"..
Chỉ lúc ấy,mọi giấc mơ về hòa giải-hòa hợp mới thực sự bắt đầu. Bằng không thì đúng như anh Nguyễn Trọng Tạo,"Làm sao để không còn 30 tháng 4 CHỈ LÀ NHỮNG HẠT MUỐI BỎ BỂ MÀ THÔI!
*

SUY NGHĨ VỀ 30-4-1975



Xin gởi đến quý vị bài mới và trân trọng giới thiệu đến qúy vị bài viết của hai chị Liên Vũ và Nguyễn Lê Thanh Trúc hướng về 35 cộng sản chiếm miền Nam. Xin tiếp tay phổ biến rộng rãi.
Nguyễn Quang Duy
Bài thứ nhất
35 Năm Đối Kháng.
Với lịch sử giai đọan 35 năm vừa qua (1975-2010) dù ngắn nhưng là một giai đọan cực suy của dân tộc Việt Nam, một giai đọan mà người Việt phải đối kháng với thể chế độc quyền tòan trị cộng sản, lúc theo Liên Sô lúc theo Trung Quốc. Tại sao lại không phải là đối lập ? Đối lập chỉ tồn tại và phát triển dưới thể chế tự do. Cả người cầm quyền, người đối lập và người dân đều phải dựa trên Hiến pháp để dòm chừng, để lên tiếng, để kiểm sóat và cạnh tranh lẫn nhau.

Có đối lập các chính sách cũ sẽ được hòan chỉnh hơn, hay dựa trên nền tảng Hiến Pháp để đề ra những chính sách mới ưu việt hơn. Nhờ đối lập những thành qủa của thể chế dân chủ được tối ưu trong hòan cảnh và điều kiện của từng quốc gia. Nói tóm lại đối lập đưa xã hội, dân tộc, đất nước ngày một thăng tiến. Thể chế cộng sản ngược lại đề ra việc tiêu diệt cái cũ để xây dựng cái mới. Mới và cũ bao gồm từ văn hóa, văn học, nghệ thuật, kinh tế, xã hội, … đến con ngừơi.


Cái mới lẽ ra phải tốt đẹp hơn cái cũ, thực tế đã chứng minh ngược lại và kết quả là sự sụp đổ của hầu hết các quốc gia bị cộng sản chiếm đóng. Dưới chế độ cộng sản mọi quyết định trọng đại lại đều đến từ một cá nhân hay một nhóm cầm quyền. Không có đối lập, không dân chủ, người dân bắt buộc phải tuân theo các nghị quyết các quyết định do đảng đề ra. Thậm chí người dân còn phải tuân theo các lệ làng do cán bộ địa phương đề ra. Không tuân theo sẽ bị khép vào thành phần phản động, phản cách mạng và bị đẩy về phía đối kháng. Dưới thể chế cộng sản Việt Nam , cái mới gồm tư tưởng, phương cách suy nghĩ và hành động lúc thì theo Trung Quốc lúc lại theo Liên Sô . 35 năm đối kháng có thể được chia làm 2 giai đọan: giai đọan ĐCSVN theo Liên Sô (1975-89) và giai đọan theo Trung Quốc (1989-2010). Giai đọan ĐCSVN theo Liên Sô (1975-89).


Trước 1975, Việt Nam Cộng Hòa là một chiến trường cho hai khối tự do và cộng sản thử bom đạn. Trong khi Hoa Kỳ rút chạy thì Liên Sô, Trung Quốc cùng tòan Khối Cộng sản lại quyết tâm tài trợ cộng sản Bắc Việt xâm lấn miền Nam. Cộng sản Bắc Việt thì bất chấp mọi hiệp định quốc tế đã ký trước đây vượt vĩ tuyến 17 thôn tính miền Nam . Dẫn đến ngày 30/4/1975. Để xây dựng một thể chế mới gồm những con người mới, dân miền Nam bị khép là ngụy quân, ngụy quyền, ngụy dân. Các trại tù được dựng lên khắp nơi nhằm “cải tạo” xã hội ngụy. Các khu kinh tế mới được dựng lên để đẩy ngụy dân khỏi các thành phố, dành chỗ cho cán bộ từ Bắc vào. Các tà sách ngăn sông cấm chợ, đánh tư sản mại bản, quốc doanh hóa, hợp tác hóa công nông nghiệp nhằm biến miền Nam thành miền Bắc rập theo khuôn khổ mô hình kinh tế và chính trị Liên Sô . Về văn học, văn nghệ, nghệ thuật và hình thức bề ngòai xã hội miền Bắc trước 1975 lại giống như một xã hội Trung Hoa thu nhỏ.


Chỉ cần xem lại sách báo, báo chí hay phim ảnh trước đây bạn sẽ thấy ngay từ cách ăn mặc, cách hành xử, lời ca, điệu nhạc, đến phong cách hành văn đều xuất phát từ hay bị ảnh hưởng nặng nề của Trung Quốc . Do hai đảng cộng sản Việt Nam - Trung Quốc sau 1975 đã trở thành kẻ thù không đội trời chung . ĐCSVN vì thế muốn thóat khỏi ảnh hưởng của văn hóa cách mạng kiểu Trung cộng. Nhưng vẫn mang tính chất cưỡng bức áp đặt nhằm phục vụ tuyên truyền cho đảng cộng sản. Vì thế trong nước vẫn tồn tại nền văn học nghệ thuật đối kháng chống lại sự áp đặt của ĐCSVN lên nền văn học nước nhà. Vừa thóat ra khỏi chiến tranh, ĐCS lại tiếp tục sử dụng bạo lực cách mạng, dùng chuyên chính vô sản để đàn áp mọi suy nghĩ, mọi tiếng nói khác biệt. Việt Nam từ Bắc xuống Nam trở thành một nhà tù. Một vài cán bộ cấp dưới bất đồng phải lén núp “xé rào” nhà tù làm ngược lại các sách lược của đảng. Xé rào là cụm từ do chính những đảng viên xé rào đặt ra. Trong giai đọan này, ĐCSVN nhận một nguồn viện trợ dồi dào từ Liên Sô để biến Việt Nam thành một chư hầu thực hiện vai trò quốc tế tại Á Châu .


Từ 1979 đến 1989, ĐCSVN đã đưa đất nước vào 2 cuộc chiến tranh nội bộ các đảng cộng sản: xâm lấn Cam Bốt ở miền Nam và chiến tranh biên giới với Trung Quốc tại miền Bắc. Hằng trăm ngàn thanh niên đã bỏ mình trong hai cuộc chiến. Hằng trăm ngàn người khác đã trở thành những thương binh tàn phế một phần cơ thể. Ảnh hương đến tinh thần hàng triệu gia đình Việt Nam , ảnh hưởng này vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Nhiều phần đất, phần biển do ông cha để lại hiện nay vẫn còn bị Trung cộng chiếm đóng và được ĐCSVN chính thức công nhận sự chiếm đóng. Sự phản kháng rõ nét nhất là hàng triệu người trên con thuyền nhỏ hay bằng mọi phương tiện rời miền Bắc sau 1954 và sau 1975 đã bỏ nước ra đi. Đa số những người bỏ nước ra đi vẫn tiếp tục đối kháng với ĐCS một cách mạnh mẽ trên mảnh đất tái cư. Cũng có người từ hải ngọai trở về chiến đấu cho tự do.


Để đương đầu với chuyên chính, giai đọan này những người chống cộng phải chọn gắn liền giữa đấu tranh chính trị và vũ trang. Vì thể chế cộng sản đi ngược với chiều tiến hóa của nhân lọai và đi ngược với lòng người, nên dân tộc các quốc gia Đông Âu và Liên Sô đã lần lượt đứng lên giành lại quyền tự quyết dân tộc. Các lực lượng đối kháng Việt Nam phần bị đàn áp, phần không tiên đóan trước sự sụp đổ của chế độ cộng sản Âu châu, phần thiếu thông tin, thiếu liên kết nên gần như đứng ngòai cuộc thay đổi tòan cầu, không thể hướng dẫn quần chúng đẩy mạnh tiến trình dân chủ cho Việt Nam. Giai đọan ĐCSVN theo Trung Quốc (1989-2010).
Đứng trứơc khủng hỏang và lo sợ sự sụp đổ, Đại Hội lần thứ VI ĐCS Việt Nam đã phải chấp nhận đổi mới thay vì chết. ĐCS một mặt phải cởi trói kinh tế, giao thương với các quốc gia tự do, mặt khác phải vội vàng thần phục Trung Quốc lấy chỗ dựa tiếp tục đàn áp mọi nỗ lực đối kháng. Nhờ cởi trói kinh tế, một phần người Việt đã nhanh chóng thoát khỏi cảnh đói nghèo. Nhưng để hướng đến một đời sống vật chất cũng như tinh thần cao hơn thì giáo dục và huấn luyện kỹ năng là hai yếu tố quan trọng lại không được ĐCS để ý tới. Đa số lao động Việt Nam vẫn chỉ dựa vào nông nghiệp, vào kỹ nghệ đơn thuần, du lịch và vào việc tận dụng tài nguyên thiên nhiên. Trong thời gian gần đây do trình độ quản lý kinh tế yếu kém, Việt Nam đang quay lại thời kỳ với mức lạm phát phi mã, nhiều lần phải phá giá đồng tiền, đầu tư và xuất cảng sút giảm, nạn thất nghiệp gia tăng, nợ quốc tế càng ngày càng chồng chất… đa phần dân chúng đã nghèo lại nghèo thêm.


Thiếu quyền lực chính trị, quyền lợi kinh tế của dân chúng gần như không được quan tâm. Việc tận dụng tài nguyên quốc gia và lệ thuộc vay mượn thế giới là một cách ăn cướp của các thế hệ con cháu chúng ta. Trong khi ấy để kiểm sóat chính trị, nhiều xí nghiệp quốc doanh được cổ phần hoá đã lọt vào tay của một số đảng viên cao cấp hay gia đình, tạo nên một tầng lớp đại gia tư bản đỏ. Tầng lớp này nắm cả độc quyền kinh tế lẫn chính trị nên càng ngày càng trở nên giàu có và quyền thế. Hố ngăn cách giữa thiểu số này và đa số dân chúng nghèo khổ đang ngày một sâu hơn.

Chênh lệch giàu nghèo, sự bất bình đẳng đang đào sâu các tiềm ẩn đối kháng, đến mức độ không kềm hãm được sẽ là nguyên nhân cho mọi biến động xã hội - chính trị. Thiếu quyền lực chính trị dân Việt cũng trở thành nạn nhân của quốc nạn tham nhũng. Thêm vào đó một cuộc khủng hỏang tòan diện đang càng ngày càng lan rộng trên mọi lãnh vực đến mọi tầng lớp xã hội. Sự bất mãn càng ngày càng bộc phát để đến một lúc nào sẽ phải bùng nổ.


Đảng cộng sản còn luôn phải đối đầu với hàng loạt các cuộc đình công đòi tăng lương đòi bảo đảm quyền lao động. Những cuộc biểu tình chống tham nhũng, chống bất công trong việc qủan lý đất đai và một cao trào đòi đất của giáo hội Công giáo và các tôn giáo khác đã bị đảng cộng sản cướp đi sau khi chiếm được chính quyền. Nhiều cuộc biểu tình đòi tự do tôn giáo hay của đồng bào sắc tộc chống lại áp bức bất công. Dẹp được cuộc biểu tình này thì xẩy ra cuộc biểu tình khác. Các cuộc biểu tình thì càng ngày càng thu hút được nhiều người hơn, có tổ chức hơn và xẩy ra gần thủ đô Hà Nội hơn. Chuyện gì sẽ xảy ra khi mọi người đồng tâm đứng lên đòi lại quyền tự quyết dân tộc.


Khi mức độ đối kháng của các tầng lớp dân chúng càng ngày càng nâng cao, ĐCS lại phải lộ rõ bản chất buôn dân bán nước. Nhiều phần lãnh thổ, lãnh hải do ông cha ta để lại đã được ĐCS chính thức trao cho Trung Quốc . Nhà cầm quyền Việt Nam đã để mặc cho Quân Đội Trung Quốc bắn, bắt, cướp tàu, đòi tiền chuộc khi các ngư dân Việt Nam đánh bắt trên vùng lãnh hải Việt Nam. Khi các anh chị sinh viên biểu tình xác định “Hòang Sa Trường Sa Biển Đông là của Việt Nam ” lại bị công an cộng sản xuống tay đàn áp. Người dân đã mất cả quyền được yêu nước được chống xâm lăng . Đảng CS còn chủ trương để Trung Quốc tiến hành khai thác bauxite Tây Nguyên dù đã gặp phản đối mạnh mẽ cả trong lẫn ngoài đảng. Việc này đã tạo ra một cao trào phản kháng từ tầng lớp trí thức trong nước. Lần đầu tiên hằng ngàn trí thức đã công khai ký tên phản kháng một chủ trương đã được Bộ Chính Trị ĐCS thông qua.

Gần đây lại đến việc các nhà cầm quyền địa phương cho Trung Quốc mứơn rừng Việt Nam mà quên đi quyền lợi của dân tộc luôn bị nước này nhòm ngó. Việc này tạo thêm một khoảng cách giữa những người yêu nước chân chính và tập đòan lãnh đạo cộng sản buôn dân bán nước. Sự kiện Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS) tự gỉai thể là thí dụ đối kháng mạnh mẽ nhất của tầng lớp trí thức Việt Nam . Viện được xem là một bầu trí tuệ của Việt Nam . Đa số các thành viên của Viện đã tích cực đóng góp trong quá trình đổi mới kinh tế sau Đại Hội VI . Viện tập trung nghiên cứu về kinh tế, giáo dục, y tế, xã hội… khổ nỗi dưới sự cầm quyền của đảng Cộng sản, Việt Nam càng ngày càng lâm vào khủng hoảng toàn diện, đời sống dân chúng thì mỗi ngày một tệ hại hơn. Kết quả những công trình nghiên cứu thường phơi bày sự thật rất trái ngược với luận điệu tuyên truyền của đảng. Để họ phải ra Quyết Định 97 bịt miệng các thành viên trong Viện. Phản kháng lại các thành viên Viện đã quyết định tự giải thể, nhưng tuyên bố cá nhân sẽ tiếp tục phản biện các chính sách sai trái của nhà cầm quyền Việt Nam .

Báo chí một công cụ của đảng cộng sản, thế mà trong thời gian qua nhiều nhà báo bị tạm giam, bị bắt hay mất việc, nhiều Tổng biên tập bị thay đổi, nhiều tờ báo bị đóng cửa cũng chỉ vì thông tin trung thực khách quan và toàn diện phản lại các tuyên truyền chính thống do ĐCS đề ra. Trong thời gian gần đây các cụm từ “diễn tiến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” càng ngày càng được nhà cầm quyền cộng sản sử dụng một cách thường xuyên hơn trên các Nghị Quyết, các cơ quan truyền thông báo chí. Việc làm này tự nó cho thấy ĐCS đang lo sợ những thách thức độc quyền cai trị từ bên trong hệ thống. Trong khi các lực lượng đấu tranh cho dân chủ đã công khai từ bỏ đấu tranh vũ trang thì ĐCS lại lo sợ quân đội sẽ đứng về phiá người dân để giành lại các quyền tự do cho dân tộc. ĐCS lo sợ vì đa số cán bộ trung và cao cấp trong quân đội đều trưởng thành trong cuộc chiến tại Cam Bốt và cuộc chiến chống bá quyền Trung Quốc. Trưởng thành trong chiến tranh họ có cách nhìn và suy nghĩ rất khác với thiểu số cầm quyền cộng sản. Trong khi tập đòan lãnh đạo lại càng ngày càng cấu kết với Trung Quốc đi ngược quyền lợi dân tộc.

Về phong trào Cách Mạng, thêm vào các tổ chức đảng phái chính trị thành lập từ trước, ngày 8-4-2006 Khối 8406 được thành lập. Khối là một tổ chức quần chúng đấu tranh với “mục tiêu giải thể chế độ cộng sản độc tài toàn trị, giành lại các quyền tự do dân chủ cho dân tộc Việt Nam bằng đường lối bất bạo động”. Từ chỉ gồm 118 thành viên ban đầu, nay đã tăng lên hàng chục ngàn thành viên gồm đủ mọi tầng lớp, mọi tổ chức đấu tranh ở khắp nơi trong và ngòai nước. Khối đã được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế công nhận. Lo sợ trước sự phát triển của lực lượng đối kháng nhiều thành viên trong Khối đã cộng sản bắt bớ, tù đày, cô lập.
Trong thời đại thông tin tòan cầu, mạng lưới thông tin hải ngọai không phải chỉ thực hiện vai trò thông tin đại chúng, còn tạo một môi trường để những cá nhân, những lực lượng đối kháng trong và ngòai nước tìm hiểu và tôn trọng sự khác biệt nhằm hướng đến việc kết hợp đẩy mạnh cuộc đấu tranh cho tự do và dân chủ tại Việt Nam. 35 năm là một giai đọan đủ dài để các tổ chức đối kháng trửơng thành và chủ động hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Sắp tới Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Úc châu sẽ tổ chức một Nghị Hội Người Việt Tự Do Trên Toàn Thế Giới. Mục đích của Nghị Hội là để kết hợp các cá nhân, các hội đòan, đòan thể, các đảng phái trong cộng đồng người Việt trên tòan thế giới, tạo thế liên kết, đồng nhất phương cách đấu tranh và phân công tác. Để từ đó mọi người Việt yêu chuộng tự do trên tòan thế giới chủ động dồn tổng lực tấn công đánh đổ chế độ độc tài cộng sản.
Bài viết này sẽ được trình bày trong “Đêm thắp nến tri ân các chiến sỹ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 30-4-2010” tại Victoria (Úc châu). 35 năm là một khỏang thời gian thật dài trong một đời người. Nhiều người chào đời sau 1975 ngày nay đã trở thành người đại diện cho Phong trào Dân chủ như luật sư Lê Thị Công Nhân, hay đại diện cho Cộng đồng như ông Nguyễn văn Bon, chủ tịch Cộng đồng tại Victoria, trưởng ban tổ chức đêm nay. Được biết “Đêm Thắp Nến” sẽ có sự hiện diện của nhiều bạn trẻ và sinh viên tại Victoria, nhiều bạn sau đó sẽ nhập đòan người hướng về Canberra cho “Đêm Tâm Tình Tuổi Trẻ”. Tương lai cộng đồng và đất nước thuộc về các bạn.

Nguyễn Quang Duy Melbourne, Úc Đại Lợi
28/4/2010




Bài thứ hai

Nhân Biến Cố 30/4: Bạn Trẻ Chúng Ta Làm Gì Cho Tổ Quốc Việt Nam?



Kính thưa tất cả quí vị quan khách hiện diện nơi đây,
Hôm nay nhân tưởng niệm biến cố đau thương 30/4, con xin được phép thay mặt cho các bạn trẻ tại Victoria kính gởi lời tri ân đến các bậc tiền bối: các ông, các bác, các cô chú đã chiến đấu cho độc lập, tự do, chủ quyền và vẹn toàn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam, chống lại bè lũ độc tài toàn trị mệnh danh là CSVN, thực chất chỉ là một bọn Mafia đỏ bán nước “hèn với giặc ác với dân”, đã và đang từ từ dâng cúng đất biển của đất nước cho thiên triều phương bắc của chúng. Chúng con cũng không quên những chiến sĩ QLVNCH, hiện đang sống tại hải ngoại, hoặc còn tại quê nhà: các ông, các bác, các chú thương phế binh đã hy sinh rất nhiều, ngay cả chính một phần thân thể của họ cho lý tưởng tự do, hiện nay đang bị đám cầm quyền CSVN ngược đãi, phải sống lây lất trên mảnh đất quê hương mình, xin cho chúng con nghiêng mình cám ơn họ.

Thế hệ trẻ chúng con hôm nay, tuy sống lưu vong nơi xứ người nhưng trái tim và tâm trí luôn luôn hướng về quê hương Việt Nam đặc biệt trước mối hiểm hoạ mất nước, trước dã tâm của bọn bá quyền Bắc Kinh và trước thái độ ươn hèn của cái gọi là nhà nước CSVN. Vì lý do này chúng con cùng tất cả người dân VN trong & ngoài nước càng cảm nhận ngày tưởng niệm 30/4 mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng và khẩn thiết hơn bao giờ hết.
Thế kỷ này là thế kỷ của chúng con vì vậy xin quý vị cho chúng con đôi lời với các bạn trẻ VN:
Các bạn trẻ hỡi, xin hãy can đảm đứng lên làm lịch sử, vì đây là một phần trách nhiệm của chúng ta, chỉ có chính chúng ta phải chủ động và vận động các bạn trẻ, sinh viên khác để nâng cao tinh thần và sức mạnh cho các bạn trẻ trong nước, cổ võ họ giành lại tiếng nói của mình. Tháo bỏ cái hàng rào bưng bít thông tin, đòi lại quyền tự do, dân chủ, nhân quyền mà đáng lẽ các bạn và người dân đã phải được hưởng từ lâu. Quyền tự do thành lập nhóm, gia nhập hội đoàn sinh viên trí thức, hội đoàn tôn giáo, học hỏi, trao dồi, chia sẻ và tiếp thu kiến thức mới, tự do thành lập nghiệp đoàn, công đoàn thực sự bảo vệ quyền lợi công nhân, tự do ngôn luận trên diễn đàn, báo chí, các phương tiện truyền thông trong nước, thông tin tức trên mạng v.v… Hãy cùng nhau vượt qua nỗi sợ hãi và nói lên sự thật. Quyết tâm hướng về tương lai tốt đẹp hơn, đoàn kết và yêu thương, cùng nhau xây dựng một nước VN độc lập, tự do, dân chủ và nhân quyền.


Cũng chính vì lý do này, một lần nữa xin các bạn trẻ đầy nhiệt huyết và bằng lương tâm của chính mình, hãy cùng tiếp tay, đóng góp thêm một phần tiếng nói, hành động trong tầm tay của mình cùng với các bậc ông bà, các bác, các cô chú cùng toàn thể anh chị em trong khối 8406 giúp thúc đẩy sự thay đổi cho một VN tươi sáng thêm mau chóng và mạnh mẽ hơn.
Các nhà đấu tranh cho dân chủ trong nước với 2 tấm gương tiêu biểu là Linh mục Nguyễn Văn Lý và Luật sư Lê Thị Công Nhân, là những người rất can đảm chấp nhận hy sinh chính bản thân mình để đòi lại những quyền căn bản cho toàn thể dân tộc. Cô LTCN lúc vừa mới ra tù đã nhắn nhủ lại với chúng ta: ‘Tôi chỉ có thể làm được cái nhiệm vụ bé nhỏ của tôi, tôi không thể làm nhiệm vụ của 90 triệu người dân VN, kể cả 3 triệu người Việt hải ngoại’. Đây là lời nhắn nhủ rất quan trọng và đầy trách nhiệm trên mỗi người con Việt Nam, đặc biệt cho thế hệ trẻ. Chúng ta hãy tiếp tay với cô vận động và kêu gọi các bạn trẻ trong nước hãy can đảm đứng lên bằng mọi cách phù hợp và thích ứng với điều kiện và tình huống của mỗi người.


Nguy cơ mất nước vào tay bọn bành trưóng Bắc Kinh đã gần kề. Những sự kiện xảy ra trong hơn 60 năm qua, kể từ khi có đảng CSVN từ việc dâng hiến biển đảo, đất đai cho quan thầy phương Bắc, đến việc cho bọn chúng tự do đem người của chúng khai thác bừa bãi bô xít ở Tây Nguyên, mà thực chất bọn công nhân này chính là những tên lính giả dạng, những tay súng sẵn sàng xâm chiếm VN khi thời cơ chín mùi. Tất cả những nguy cơ này cũng chỉ vì chúng ta đã thờ ơ với đất nước để cho một nhóm lãnh đạo CSVN tác oai tác quái trên quê hương, coi đất nước VN là của riêng của chúng, dân tộc VN là nô lệ của bọn chúng. Đã đến lúc chúng ta không thể ngoảnh mặt làm ngơ nếu không muốn một đất nước nô lệ.


Dân tộc Việt Nam ta nghìn năm lịch sử oai hùng, chúng ta sẽ không cúi đầu trước bất cứ thế lực nào đe doạ từ bên ngoài.
Có thể các bạn chỉ nghĩ đây là giấc mơ nhưng nếu chúng ta nuôi nấng và nung nóng nó, với cùng chung một ý chí và sức mạnh, giấc mơ sẽ thành hiện thực.
Khối 8406 trong và ngoài nước đang phát động và thúc đẩy một cao trào dấy lên lòng yêu nước để biến đổi giấc mơ thành sự thật. Với một phương thức đấu tranh bất bạo động, sức mạnh không có từ bạo lực. Sức mạnh đến từ sự can đảm và niềm tin, lòng quyết tâm cùng với sự đoàn kết, do đó Khối 8406 trong nước rất cần sự ủng hộ của toàn thể dân tộc, dư luận toàn thế giới, đặc biệt sự yểm trợ của người Việt hải ngoại cả về tinh thần lẫn vật chất. Vì thế nhu cầu phát triển của Khối tại các địa phương hải ngoại là một điều cần thiết.


Đây cũng là lý do chính để Khối 8406 Victoria được thành lập và phát triển. Sau đây, tôi xin giới thiệu sơ lược về Khối 8406 – Victoria:
Khối 8406 Victoria là một nhóm độc lập, sinh họat song song với Cộng Đồng, tuyệt đối tôn trọng nội quy của CĐNVTD Úc Châu. Khối đang phát triển để mời gọi quí vị tham gia. Sự tham gia của chúng ta sẽ chia sẻ gánh nặng đấu tranh cho tự do tại quê nhà mà Ban Chấp Hành Cộng Đồng đang gánh vác. Chúng ta sẽ thực hiện các đêm cầu nguyện hay thắp nến cho tự do. Một buổi lễ lớn có đông người vận động và cổ võ, sẽ chùn bước bọn csvn và nâng cao tinh thần cho người dân trong và ngòai nước. Chúng ta sẽ vận động chính giới Úc và đồng bào yểm trợ Phong trào đấu tranh cho dân chủ, rút ngắn ngày Tự Do cho dân tộc chúng ta. Một con én không làm nên mùa xuân, nhóm anh chị em chúng tôi tiếp tục kêu gọi quí vị, đặc biệt các bạn trẻ hãy bỏ chút thì giờ để quan tâm đến tình hình đất nước và dấn thân cho Tổ Quốc Việt Nam.

Các anh chị trong Khối sẽ chuyển tờ leaflet có đăng các thông tin cần thiết, và nếu quí vị, các bạn trẻ nào muốn tham gia xin liên lạc qua các thành viên trong khối: Liên Vũ (maytrang2020@hotmail.com); Phùng Mai (phungmai871@yahoo.com.au) hay

Nguyễn Quang Duy (
duyact@yahoo.com.au), hoặc quí vị có thể lên mạng/internet ghi danh qua Web site : http://8406vic.blogspot.com.


Xin nhấn mạnh với quí vị cùng các bạn trẻ rằng: Xin đừng lo lắng hoặc sợ hãi về kiến thức chính trị. Không ai dám tự hào mình có đầy đủ kiến thức đâu. Vả lại thời cuộc ngày nay biến đổi rất nhanh, do đó tình hình chính trị cũng biến đổi từng ngày. Người làm chính trị phải biết tuỳ cơ ứng biến. Nhưng chúng ta có làm chính trị đâu. Có thể nói chúng ta đang làm nghĩa vụ của một người VN. Nghĩa vụ khi mình cảm thấy có trách nhiệm phải làm một cái gì cho đất nước. Như thế cần tấm lòng là đủ. (Chính anh Phương Duy cùng các anh chị trong nhóm đã khuyên & nhắn nhủ tôi câu nói này, rất cảm động & đầy ý nghĩa cho nên hôm nay tôi cũng xin mạn phép gởi lại câu nói này đến các bạn trẻ chúng ta).
Xin chân thành cám ơn quý vị và kính chúc tất cả qui vị sống khoẻ mạnh và tràn đầy nghị lực để tiếp tục yểm trợ cho công cuộc đấu tranh giành lại tự do, dân chủ và nhân quyền cho người dân Viêt Nam.
Liên Vũ
Thành Viên Khối 8406
Melbourne 30/4/2010

Bài thứ Ba
Tâm Tình của người con thuộc thế hệ thứ hai Tưởng Niệm 35 năm Mất Nước


35 năm qua cộng đồng Việt nam chúng ta đã định cư , thành công trên xứ người rạng rỡ tông môn, nhưng cũng không kém phần chua xót khi nghĩ về Quê Hương Việt Nam thì không ít người trong chúng ta, phải gục đầu tủi hổ cho thân phận nước Việt Nam yêu dấu đang trong tay loài qủy đỏ cộng nô.
35 năm mất Nước Người Việt Quốc Gia chỉ chấm dứt một trận chiến 30/04/1975, nhưng cuộc chiến vẫn chưa chấm dứt mà chỉ chuyển biến sang một cục diện mới , là sự đấu tranh toàn diện cho chính nghĩa cho dân chủ và nền độc lập tự do thật sự của Dân Tộc Việt Nam.
35 năm dòng lịch sử Việt Nam bị hoen ố vẩn đục , Dân Tộc Việt Nam bị chà đạp ô nhục ! Quốc nhục cũng bỡi bọn phản Quốc cộng sản Việt nam cõng rắn cắn gà nhà cam tâm làm chư hầu cho Trung cộng, và chính điều này đã cho ta thấy Nước Việt Nam chưa có độc lập, không có dân chủ và tự do.

Việt Cộng là bọn hèn hạ ác độc như quái thú ! Chúng đã giết chết biết bao nhiêu thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam , chúng vắt cạn kiệt hết tất cả năng lực của con dân Việt Nam , bằng những màn buôn bán nô lệ với chiêu bài ‘xuất khẩu nhân công’ đi lao động nước ngoài, buôn bán trẻ em và phụ nữ ,Nước Việt Nam bị ô nhục , chỉ có lấy cây rừng làm bút và nước biển làm mực mới viết lên được hết tội ác của cộng sản Việt Nam.


Hôm nay tưởng niệm 35 Quốc hận, nơi đất khách quê người , đã trở thành quê hương thứ hai của chúng ta những người Việt Quốc Gia , chúng ta đã có được 4 thế hệ hiện diện nơi đây ( thế hệ thứ nhất, một rưỡi , thứ hai và thứ ba) , chỉ mong sao 4 thế hệ hiện tại này chúng ta có thể nào nắm tay nhau tạo nên một thành trì vững chắc , để bảo vệ cộng đồng người Việt Tự Do tại hải ngoại không để cho nghị quyết 36 xâm nhập, sự đoàn kết của chúng ta sẽ chống lại sự đánh phá của Việt cộng, và sự phá rối của Việt gian gây xáo trộn trong hàng ngũ những người Việt Quốc Gia không cộng sản.


Nếu trong chúng ta những ai có còn sự dị biệt còn câu nệ ‘cái tôi’ của chính mình , không bỏ đi được bản ngã ích kỷ nhỏ nhen , hơn thua nhau bỡi câu nói việc làm ,thì chắc rằng chúng ta sẽ lại giận hờn nhau , xa cách nhau và tự mình chia rẽ mình , Việt cộng không lo chống mà chống Cộng Đồng để rồi chính mình ‘bỏ ngỏ’ cho đảng cộng sản Việt Nam và tay sai của chúng, lúc ấy Việt cộng sẽ đánh thẳng vào cộng đồng Người Việt Quốc Gia của chúng ta ở hải ngoại và phá nát Cộng Đồng Người Việt Tự Do của chúng ta.


Kính thưa qúy Ông Bà cô bác anh chị em, trước khi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam có thể “ngư ông đắc lợi” thì chúng con những người con nhỏ bé của thế hệ thứ hai thứ ba này, xin tha thiết kêu gọi sự đoàn kết , cảm thông và chia sẽ của tất cả đồng bào , những người Việt Nam Quốc Gia không cộng sản ; hãy để một bên những “áo mão cân đai” “những bằng cấp” hay ‘giai cấp’ , ‘giàu hay nghèo’,hoặc kinh nghiệm xương máu nhiều hay ít , hiểu Việt cộng ít hay nhiều..tất cả những điều đó rất đáng qúy nhưng xin hãy để một bên , mà chỉ xin nhìn nhau qua lá cờ Vàng Ba sọc đỏ lá cờ Quốc Gia Không Cộng sản, màu cờ như da vàng máu đỏ..và Mẹ Việt Nam ơi ..chúng con vẫn còn đây .. và chúng con cùng nhau nắm chặt tay nhau , không phân biệt tuổi tác chỉ biết vì chính nghĩa và vì bảo tồn dân tộc Việt Nam , cho dù sanh đẻ trên xứ người nơi đâu , dòng máu chúng con đang chảy vẫn là dòng máu Việt Nam muôn đời bất khuất. Nếu có chăng sự khác biệt duy nhất ở đây là “Tôi là người Quốc Gia không cộng sản, và anh là tên Việt cộng thì tôi sẽ chống”, chúng ta chống đảng cộng sản chứ không chống Dân Tộc Việt Nam .
Hỡi các bạn trẻ của thế hệ tương lai hãy đứng lên gánh vác cộng đồng hỡi đồng bào yêu dấu hãy nắm chặt tay nhau xây dựng cộng đồng Việt Nam bền vững, Một Cộng Đồng Người Việt Tự Do Quốc Gia Không Cộng Sản, đầy chính nghĩa để mỗi chúng ta không hổ thẹn với hồn thiêng sông núi, với Những người anh hùng đã nằm xuống cho hai chữ Dân chủ cho hai chữ Tự Do !!
Trân Trọng
Nguyễn Lê Thanh Trúc
Melbourne 23/04/2010
Melbourne 30/4/2010
*

Wednesday, April 28, 2010


TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN,* THÂN PHẬN CON NỢ VIỆT NAM TRƯỚC CHỦ NỢ TRUNG QUỐC



THÂN PHẬN CON NỢ VIỆT NAM TRƯỚC CHỦ NỢ TRUNG QUỐC  
 
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế http://viettudan. net  
 
  Cách đây chừng trên 20 năm, có phong trào các nước đã Kỹ nghệ hóa MUA NỢ lại các nước nghèo chưa mở mang ở Phi Châu và Nam Mỹ. Khi Chính quyền những nước nghèo có những món nợ chồng chất, họ tìm cách bán những món nợ ấy. Phải chăng việc các nước giầu mua nợ (nhận nợ dùm) là một hành động bác ái, thương người ? Về tiền bạc, rất hiếm người hoặc không có ai dễ dàng trở thành mạnh thường quân mà không có hậu ý. Cái hậu ý ở đây là bắt con nợ phải nhường những nguồn lợi Kinh tế lớn gấp mấy lần giá trị của món nọ mà họ mua dùm.  Tôi xin kể ra đây một tỉ dụ cụ thể để dễ hiểu. Cách đây 20 năm, tôi làm Cố vấn Tài chánh cho Group BONGO tại Congo. Sang Brazaville, tôi chứng kiến một Hợp đồng Mua Nợ giữa Nhật và Congo. Chính phủ Congo không có tiền để trả nợ. Một Công ty lớn của Nhật mua lại món nợ ấy với điều kiện là Chính phủ Congo nhường cho Công ty Nhật cả một vùng rừng phía Bắc nước Congo để Nhật khai thác gỗ qúy. Đối với Chính phủ Congo, thì đây là việc họ làm với Nhật mà Dân chúng không biết gì cả. 
 
Có thể Chính phủ còn nói với Dân rằng đây là việc khai thác tài nguyên rừng mà người Nhật làm ích lợi cho xứ sở. .   Việt Nam con nợ của Tầu Tại Việt Nam, chúng ta cũng thường nghe trong dân gian có những chuyện con nợ nghèo quá, phải gả chính con gái nhỏ để làm vợ cho chủ nợ. CSVN, trong những năm gần đây, thiếu hụt Ngân sách trầm trọng. 
 
Cuộc Khủng hỏang Tài chánh/ Kinh tế Thế giới làm cho đầu tư nước ngòai thụt xuống 82%(Tài liệu:Bài viết của phóng viên Asia Sentinel Consulting). Xuất cảng hàng hóa giảm 60%. Ngay cả giữa Trung quốc và Việt Nam, cán cân thương mại cũng thua lỗ: Năm 2008, Việt Nam xuất cảng sang Trung quốc trị giá USD.4 tỉ, trong khi đó nhập cảng từ Trung quốc tới USD.15 tỉ. Việt Nam muốn đi vay nợ từ những nước khác, nhưng trong hòan cảnh Khủng hỏang Tài chánh/Kinh tế, các nước khác cũng gặp khó khăn, làm sao cho vay được. Trong hòan cảnh như vậy, chỉ còn đi làm đầy tớ cho Tầu, bán cả vợ con cho Tầu để nhận làm con nợ.  Tầu là chủ nợ cho Việt Nam Chủ nợ thường có những lo lắng về trường hợp con nợ ăn qụyt. Ở đọan trên, chúng tôi nói rằng nhiều nước, nhất là Tây phương, rất ngại ngùng cho Việt Nam vay nợ, một phần là vì cuộc Khủng hỏang hiện nay, nhưng một phần quan trọng nữa là sợ CSVN qụyt nợ. Làm trong lãnh vực Tài chánh, chúng tôi đã nghe một số Ngân hàng gia nói rằng họ có thể cho Phi châu vay, nhưng nói đến cho Việt Nam vay, thì họ rất lo ngại.
 
 
 Cái lý do là nếu Việt Nam ăn qụyt, thì họ khó kiện cáo về luật lệ đối với Việt Nam. Ngược lại, Trung quốc sẵn sàng cho Việt Nam vay nợ vì họ có những thuận lợi chắc chắn sau đây: => Trung quốc cho Việt Nam vay nợ không phải bằng tiền mặt, mà bàng hàng hóa và nhân công. Trung quốc đang cần xuất cảng hàng hóa, nhân công và thiết bị dư thừa. => Trung quốc bắt Việt Nam phải cho những nhượng địa để khái thác tài nguyên làm bảo chứng cho những món nợ mà họ cho vay. Trung quốc nắm phần chắc Việt Nam trả nợ trước bàng tài nguyên khi cho vay bằng hàng hóa mà họ muốn xuất cảng. => Trong trường hợp Việt Nam lật lọng muốn ăn qụyt nợ, thì Trung quốc có quân đội mạnh đã bao vây Biển và sát trên đất liền để tràn sang bắt phải trả nợ. Trung quốc không cần phải kiện cáo luật lệ gì với Việt Nam, mà dùng sức mạnh quân sự giải quyết. 
 
 Tương quan Chủ nợ—Con nợ Không phải chỉ có tương quan hai CƠ CHẾ mà CSVN cần Tầu che chở, mà cái tương quan tệ hại nhất là giữa Con nợ mất hết độc lập và Chủ nợ hống hách chủ trương xâm lăng Việt Nam. Tương quan này cắt nghĩa:  (i) Tại sao Việt Nam dành cho Tầu khai thác tài nguyên; (ii) Tại sao mất Biển Đông, Hòang Sa/Trường Sa mà không dám than; (iii) Tại sao dành những Dự án cho Tầu; (iv) Tại sao Ngư dân Việt Nam bị Tầu bắt mà không dám nói; (v) Tại sao biết khai thác Bôxit Tây nguyên có hại mà vẫn cúi đầu để cho Tâu làm; (vi) Tại sao nhân công Tầu tràn vào Việt Nam trong khi đó dân nghèo VN thất nghiệp; (vii) Tại sao cấm giới trẻ VN không được tỏ lòng yêu nước; (viii) Tại sao bắt những Blogers nói đụng đến Tầu; (ix) Tại sao cấm những Trí thức Việt Nam như IDS phải câm miệng ?  Tất cả chỉ vì tính đê hèn, vô liêm sỉ, mất hết sĩ diện của con nợ CSVN trước chủ nợ Tầu luôn tìm mọi cách xâm lăng Việt Nam. 
 Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN,

THƠ THANH THANH

*

VƯỢT BIỂN


Giữa đêm lén dậy dòm khe hở
Nhìn những can-nhân bị bắt về.
Tiếng khóc thơ nhi làm nghẹn thở;
Trái tim thắt bóp nhói đau tê .
Kìa, người thiếu-phụ bồng con dại;

Đứa lớn lưng đìu, tay dắt em.
Ánh mắt nhìn con đầy ái-ngại:
Một bầu đen tối mấy trời lem...
Cuộc đời như một trò may rủi;
Không được thì thua, lẽ hiển-nhiên:
Vốn sạch, sòng tan, tay trắng phủi;
Hướng lai tâm-sự đối sầu miên...
Ngó người tự thấy mình trong cuộc,
Không khóc mà sao lệ bỗng trào !
Tình-cảm vô-hình mà trói buộc
Cho cùng hạnh-phúc, tận thương-đau !
Hôm kia, nàng soạn xong hành-lý,
Chỉ chọn mang theo cái tối-cần:
Trước mắt, đàn con là của qúy,
Một phần xương thịt chính châu-thân.
Hôm qua, nàng mặc cho con ấm,
Buộc tóc, trùm khăn, kín cả người;
Lũ trẻ mừng như ăn trái cấm
(Không cho ai biết chuyến "đi chơi")
Hôm nay, tất cả dầm sương giá,
Mũi buốt xuyên thâu tận đáy lòng.
Đám nhỏ ngỡ-ngàng "Sao thế, má?"
Nghẹn-ngào nàng biết nói sao xong!
Nàng đi tìm sống cho ra sống,
Cho bản-thân và cho các con:
Không chỉ cơm canh và áo xống,
Mà còn... chí cả với lòng son...
Những ai cất bước lên đường trước?
Ai gặp duyên may, mộng ước thành?
Ai gửi xương tàn về đáy nước?
Và ai ... mai mốt sẽ xuyên ranh?
Thời-gian tưới tắt bao nhiêu lửa,
Quét sạch tàn tro bếp củi rừng...
Nhưng, những hỏa-sơn còn mãi thở:
Lửa lòng âm-ỷ thuở nào ngưng!
Người đi, không nói bằng lời nói,
Mà nói xuyên qua việc dám làm:
Bản án tuyên trên đầu hổ sói!
Vết thương lở giữa óc phu phàm!
Nhưng đàn con dại làm sao hiểu ?
Từ độ đông về, đã mấy xuân!
Đứa mới nhi-nhô hồn ấu-tiểu,
Đứa chưa kết hạt bụi trong trần!
Ngày mai mới thấy thân tù-tội,
Chúng sẽ buồn hơn kiếp chó hoang:
Chấp-nhận đêm đen là dạ-hội,
Biết đâu địa-ngục với thiên-đàng!
Ngày kia, nhiễm thói đời điên-đảo,
Chúng sẽ căm-thù chính mẫu-thân:
Chẳng chịu an-tâm đời "thiện-hảo",
Kéo con cùng kẹt cảnh gian-truân!
Hỡi người thiếu-phụ không quen biết!
Tôi khóc trong này, nàng biết chi!
Nàng khổ từ đây cùng cốt-huyết,
Từ lâu ... tôi khổ... với thê-nhi ...
Trại Kho Đạn (Chợ Cồn) Đà Nẵng 80-81
THANH-THANH



Tuesday, April 27, 2010


NGỌC CHÂU * KÝ


Nhìn Lại Mình Sau 35 Năm Tỵ Nạn,
Từ Tháng 4-1975


Ngọc Châu
(Là một đoản văn tự thuật nên không sao tránh khỏi đề cập đến "cái tôi đáng ghét", mong quý độc giả thông càm! -- NC_M/Ger)

Thắm thoát mà tôi đã xa quê hương, xa Việt Nam mến yêu 35 năm, kể từ đầu tháng tư 1975 oan nghiệt!

Ba mươi lăm năm trôi qua nhanh như thoi đưa, như là một giấc mơ khi nhìn lại mình giờ đây tóc đã bạc nhưng so với nước Đức là nơi tôi đang định cư với tư cách một người tỵ nạn chính trị thì nghiệt ngã, buồn đau, áp bức, tù đày… vẫn còn hiện hữu trên quê hương mặc dầu Việt Nam (VN) đã thống nhất từ đó, 15 năm trước Đức!

Ba mươi lăm năm rồi mà người Việt đi vẫn đi, tuy không còn bằng cách vượt biển hay vượt biên như sau 30-04-1975 nhưng đồng hương cũng đã tìm ra nhiều cơ hội khác để "rời Việt Nam" qua diện đoàn tụ gia đình (vợ, chồng, con cháu) hay kết hôn với người nước ngoài, miễn làm sao rời xa được nơi mệnh danh là “thiên đàng xã hội chủ nghĩa”, trốn khỏi được cái “thiên đàng cộng sản” là mừng như một lần được hồi sinh. Trong khi đó ngược lại thì dân Đông Đức (DDR) chẳng thấy ai trốn chạy vì Cộng Hoà Liên Bang Đức (BRD) đã làm chủ một Đức quốc thống nhất sau khi cộng sản DDR bị giải thể.

Người dân Đông Đức chẳng những không lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rún mà trái lại họ còn ở lại, vượt qua bao nhiêu khó khăn để cùng nhau nổ lực xây dựng một nước Đức hùng cường, tự do, dân chủ. Khác với Việt Nam, biến cố Thống Nhất Đất Nước của Đức không đổ một giọt máu nào của đồng bào vô tội cả!

Đức không tiêu hủy hàng triệu tài nguyên trí tuệ và nhân lực của “Quốc Gia Dân Tộc“ trong những trại tù khổ sai ‘‘học tập cải tạo“ và cũng không để lại các tệ nạn xã hội xấu xa tiêu biểu nhất của thế kỷ mà vẫn giữ được sự vẹn toàn lãnh thổ và đã xây dựng một xã hội ôn hoà, nhân bản đầy tình yêu thương đồng loại. Vì vậy 20 năm sau khi thống nhất cả thế giới đang nhìn nước Đức với lòng thiện cảm và đầy khâm phục.

Chừng đó thôi cũng đủ để chứng minh một cách rõ ràng rằng những ai từng yêu chuộng Tự Do đều không thể sống dưới chế độ cộng sản gian manh, tàn bạo. Minh chứng cho sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản cách hùng hồn nhất là sự sụp đổ của cộng sản Đông Đức cũ, của cả khối cộng sản Ðông Âu và tiếp theo là đàn anh Nga Sô vào cuối thập niên 1980!

Hôm nay tôi chỉ muốn ghi lại đây vài ý tưởng chợt thoáng về liên quan chút ít đến cuộc đời tỵ nạn của mình và xin được nói sơ về "cái tôi đáng ghét" qua bài tạp ghi ngắn này! Là một bài ngắn mang tích cách tự thuật nên chắc chắn khó tránh khỏi được cái nhìn chủ quan có thể làm phật lòng ai đó qua sự diễn đạt tư tưởng rất trung thật của mình, vì thế mong tất cả hoan hỉ cho!

Tôi nói riêng đã may mắn đón nhận được rất nhiều "tình cờ" trong cuộc đời. Ngẫu nhiên đầu tiên là dù không bao giờ nghĩ đến nhưng … tôi đã được phép của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà thời đó cho xuất dương du học sau khi xong Tú Tài II, giữa lúc quê hương ngập chìm trong binh lửa trước tham vọng cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam (NVN) do cộng sản miền Bắc chủ xướng với sự giúp đỡ về mọi mặt của Nga, Tàu và khối cộng sản nói chung!

Đầu tháng 03-1975 tôi về thăm quê hương và gia đình nhưng lúc ấy chiến trường VN sôi động, người dân miền Nam bối rối, lo âu nên tôi đành phải rời VN sớm hơn dự tính. Lại thêm một "tình cờ" nữa, tôi may mắn đã rời Sài Gòn vào đầu tháng 04-1975, vì vài tuần sau đó, Nam Việt Nam thất thủ. Nếu không chắc tôi cũng sẽ phải chọn đường vượt biên hoặc vượt biển như bao đồng hương khác, sau 30-04-1975.

Có thể nói cuộc đời của những du học sinh thời Việt Nam Cộng Hòa như tôi trải qua khá nhiều truân chuyên từ dạo ấy, sau tháng tư đen 1975, từ khi cộng sản Bắc Việt ngự trị miền Nam Việt Nam. Khác với quyết định đi tìm Tự Do, đi tìm sự sống trên cái chết qua hình thức vượt biên vượt biển của đồng hương, chúng tôi may mắn hơn, đơn thuần chỉ phải chọn lựa một trong hai: về Việt Nam hay ở lại nước ngoài. Nếu quyết định về VN thì phải cuối đầu phục tùng nhóm sinh viên đoàn kết và toà đại sứ Việt Cộng. Còn ngược lại nếu quyết định ở lại nước ngoài thì phải chấp nhận xa quê hương, xa gia đình, bạn bè anh em và không biết khi nào mới gặp lại!

Cuối cùng, riêng tôi đã có một quyết định "xin tỵ nạn chính trị", dù tuổi và kinh nghiệm đời của mình lúc đó chẳng là bao. Cũng không phải là những người từng phục vụ trong quân đội hoặc tham chính thời VNCH; chưa từng bị cộng sản bắt bớ giam cầm hay đã “bị tra tấn dã man và nếm mùi học tập cải tạo của cộng sản“ nên muốn được "tỵ nạn" những sinh viên du học phải chứng minh cho chính quyền Đức lúc đó rõ lý do là tại sao không muốn hồi hương v.v…

Trong thời gian chuyển tiếp kể từ khi nộp đơn chúng tôi từ những người tuy có quốc gia, gia đình bỗng nhiên trở thành những kẻ "vô tổ quốc" vì đã nhận được sổ thông hành mang tên như vậy. Cơ quan hữu trách Đức cứu xét hồ sơ xin tỵ nạn khá lâu, có người chờ đến 2-3 năm nhưng cuối cùng tôi đã nhận được sổ thông hành tỵ nạn.

Điều làm chúng tôi đau lòng nhất là trong sổ thông hành tỵ nạn này có ghi câu "được phép đi khắp nơi, nhưng trừ Việt Nam", nơi mình sinh ra và lớn lên. Vâng, điều kiện tỵ nạn là vậy vì dễ hiểu thôi, đã viện dẫn "gặp khó khăn với nhà cầm quyền cộng sản" để xin tỵ nạn thì thật là quá mâu thuẩn nếu mình về Việt Nam và lại ra đi an toàn phải không? Khó khăn ban đầu sau 30-04-1975 xem như đã vượt qua, được chỗ tạm dung. Chưa hết, vấn đề sinh kế cũng làm chúng tôi xính vính thời gian khi mà tình trạng kinh tế lúc bấy giờ đang bị khủng hoảng trầm trọng.

Có lẽ thánh nhân đãi ngộ nên tôi đón nhận thêm ngẫu nhiên, may mắn khác trong hoàn cảnh lúc đó sau khi cầm sổ thông hành tỵ nạn trong tay. Được thâu nhận vào làm việc thuộc phần hành "nghiên cứu và phát triển, trọng điểm là phát triển" cho hãng rất nổi tiếng trên thế giới, nên tôi nói riêng cảm thấy an tâm từ đó nhưng buồn ray rức vì nỗi nhớ nhà và tủi thân cho kiếp sống tha hương, ăn nhờ ở đậu của mình.

Tôi như con chim lạc đàn, trong thức ngủ vẫn ước mơ có ngày tìm về tổ ấm. Với thông hành tỵ nạn, chúng tôi nói chung được quyền sống và đi làm như dân bản xứ, chỉ khác điều là không được phép bầu cử.

Cuối thập niên 70, phong trào tỵ nạn lên cao. Người Việt được thâu nhận vào Đức rất dễ dàng mà không phải qua những thủ tục rườm rà hay khó khăn như chúng tôi trước đó. Ai thuộc diện "boat people" tự động được cấp thông hành tỵ nạn khi đến Đức, không cần cứu xét gì cả! Thỉnh thoảng gặp đồng hương thuộc diện này chúng tôi có trò chuyện. Hết kể những cuộc vượt biên vượt biển thật hải hùng thì họ xoay ra than chuyện khó khăn về hội nhập hay khi học tiếng Đức…

Đôi khi họ đề cập đến chuyện nhập tịch, viện dẫn có quốc tịch đi đó đây làm việc dễ dàng hơn. Tôi chỉ nghe và ghi nhận. Khi được hỏi thì tôi cũng chỉ trả lời là vẫn còn mang sổ thông hành tỵ nạn, dù ở đây lâu gấp mấy lần cũng như thường hay đi nước ngoài vì lý do nghề nghiệp thời đó. Thú thật, đã đi công tác Bắc Âu, Pháp, Áo, Ý, thăm thân nhân ở Úc, Mỹ, Anh nhưng ít gặp trở ngại, chỉ tội mất thì giờ chờ lâu hơn tại các phi trường so với những ai có quốc tịch Đức mà thôi.

Thế rồi những đồng hương qua sau tôi lần lượt xin nhập tịch Đức. Riêng tôi vẫn giữ sổ thông hành tỵ nạn cho đến năm 1994. Thêm một tình cờ khác làm tôi thay đổi ý định và … xin vào quốc tịch xứ người, một quyết định không đơn giản sau nhiều đêm dài trằn trọc suy nghĩ.

… Số là trong chuyến công tác đi miền Nam nước Pháp cho hãng vào cuối hạ 1993, tôi gặp trở ngại ngay tại phi trường. Bạn đồng nghiệp ra ngoài cỗng đứng chờ còn tôi vì thấy trong thông hành tỵ nạn để quốc tịch Việt Nam nên nhân viên phi trường nghi ngờ, lý do Pháp "đón nhận bất đắc dĩ người Việt sang Pháp không hợp lệ" và tìm cách định cư tại đó. Phải giải thích khá dài giòng, nói là có vé máy bay khứ hồi, ngủ ở khách sạn do hãng giữ chỗ v.v… thì họ mới bằng lòng cho đi. Mấy người bạn Đức thấy vậy chọc quê quá xá nên sau đó …. tôi mới có ý định xin nhập tịch Đức, nộp đơn vào cuối năm 1993.

Nói đến đây cho tôi vòng vo thêm một tí. Hoàn thành đủ thủ tục giấy tờ đòi hỏi từ phía Đức đem nộp, thì được nhân viên chỉ cho đống hồ sơ trước mặt và nói, hồ sơ ông hôm nay nằm dưới cùng. Đến khi được duyệt xét chắc cũng nửa năm sau. Nghe vậy tôi giật mình. Hỏi thêm thì bà nhân viên mách nước phải làm thế này thế kia thì may ra được ưu tiên hơn.

Tôi xin hãng cấp cho giấy phải công tác ngoại quốc nên nộp vào thì hồ sơ tôi không còn nằm hạng chót nữa. Lại thêm một ngẫu nhiên tốt đến với tôi. Chưa hết. Cái khó khăn mà tôi phải đương đầu giải quyết là việc phải nộp cho chính quyền Đức giấy từ bỏ quốc tịch Việt Nam.

Thế là một cuộc bút chiến xảy ra giữa tôi bà bộ nội vụ tiểu bang Bayern liên tục trong vài tháng. Tôi đã viện dẫn không liên hệ gì hết với toà đại sứ Việt cộng từ 30- 4 -1975 nhưng chẳng nhằm nhò gì, họ khư khư nói, bây giờ Việt Nam đã cấp giấy thôi quốc tịch rồi, không có không được.

Thế là tôi đành cắn răng viết thư cho toà đại sứ Việt cộng. Tuy nhiên tôi nghịch ngợm nên viết thư toàn bằng tiếng Đức với nhân viên sứ quán. Có lần điện thoại lên hỏi sự việc đến đâu sau hơn 6 tháng chờ đợi, thì họ nói "vòng vo" làm tôi cảm thấy khó chịu nên cuối cùng tôi viết thư (cũng bằng tiếng Đức) lên cho biết VÌ chính quyền ĐỨC yêu câù chứ thật ra tôi chẳng muốn liên hệ gi cùng quý vị cả và nếu không cho tôi thôi quốc tịch thì trả lời cho biết qua thư.

Một bản sao (Copy) tôi gởi cho bộ nội vụ Đức để kính tường vì trong trường hợp như vậy tôi sẽ được nhập tịch, mà không cần giấy chứng minh thôi quốc tịch Việt Nam. Chắc thấy tôi cứng rắn quá nên vài tuần sau tôi nhận được giấy từ bỏ quốc tịch, dễ hiểu thôi… vì nếu không cấp thì tòa đại sứ mất toi hơn hai ngàn Đức Mã là lệ phí mà tôi phải trả cho cái giấy từ bỏ quốc tịch Việt Nam, một số tiền không nhỏ!

Trong thời gian chờ đợi giấy tờ từ toà đại sứ Việt cộng tôi được giấy chấp nhận cho phép nhập tịch Đức. Nộp thêm chứng minh thư cho thôi quốc tịch VN là tôi được gọi ra nhận sổ thông hành Đức ít lâu sau đó. Xứ tôi ở không rườm rà như các quốc gia khác, làm lễ rình rang khi nhập tịch.

Ra sở ngoại kiều ký giấy nhận sổ thông hành, nộp pass tỵ nạn cũ và nhận thông hành Đức là xong, sau khi trả lệ phí cho sở ngoại kiều mà nếu tính ra thì quá rẽ, chỉ bằng 1/10 số tiền phải đóng cho toà đại sứ Việt cộng để có được giấy từ bỏ quốc tịch Việt Nam.

Một điểm khác xin nói thêm nhờ theo học Đại Học Đức và ở đây trên 15 năm (theo luật thời đó) nên tôi khỏi phải thi khoá Đức ngữ thành ra tiết kiệm được thêm chút ít tài chánh.

Vậy là tôi, một kẻ da vàng tóc đen, mũi tẹt trở thành công dân Đức từ giữa năm 1994, sau 26 năm kể từ khi tôi đặt chân đến xứ Đức lạnh lẽo này. Có thể nói chỉ trên giấy tờ vì ra đường dưới con mắt của người dân bản xứ chúng tôi vẫn là một người ngoại quốc dựa theo màu da và hình dáng, không hơn không kém. Cũng vì "thành dân Đức bất đắc dĩ" mà con trai đầu lòng tôi đã phải bị động viên, gọi đi quân dịch khi mới vừa vào học Đai Học lục cá nguyệt hai có hai ngày và sau 10 tháng quân trường mới về học lại; không như ở Mỹ là sinh viên đi lính vài năm để được học bỗng hay trợ cấp vào Uni học.

Thời gian cứ thế mà trôi, đời sống tôi thật sự chẳng có gì thay đổi, chỉ khác là đã đi bầu nghị sĩ quốc hội, nghị viên tiểu bang và đại diện làng xã được vài lần trong suốt 16 năm qua, kể từ khi tôi mang quốc tịch Đức. Tôi vẫn đi làm như bao người khác, thi hành đúng bổn phận “một người Đức mới“ và cảm thấy mình đang chia sẻ với dân bản xứ, với quốc gia đã cưu mang mình!

Thỉnh thoảng gặp lại đồng hương, những người vượt biên, vượt biển trước đây và tuy đến sau nhưng đã nhập tịch Đức trước chúng tôi thì tôi nhận thấy có nhiều thay đổi. Họ đi lui tới về Việt Nam với nhiều lý do …, những lý do giải thích mà mọi người - trừ những ai thiếu may mắn đã bỏ mình trên con đường đi tìm Tự Do - đều có thể sử dụng trong trường hợp "về thăm quê hương".

Có người gặp tôi lần đầu biết là thành phần đi du học thời Việt Nam Cộng Hòa hỏi anh về VN chưa, nói Việt Nam giờ thế này thế kia ... tôi chỉ cười nói chưa dù có đủ khả năng. Nghe vậy họ nhìn… rồi đổi sang đề tài khác. Một lần, gặp vài người quen trong giới tỵ nạn hỏi: sao anh có xin Visa về VN, được cấp chưa v.v… tôi tỉnh bơ trả lời. "tôi đâu có bao giờ liên hệ với sứ quán Việt cộng xin chiếu khán (Visa) đâu mà chờ với đợi, mà cho với không cho…"!

Vâng, 35 năm rồi kể từ khi tôi đặt chân tại Sài Gòn lần cuối hay đúng hơn kể từ khi tôi "trốn chạy vào đầu tháng tư 1975" trong chuyến về thăm gia đình với dự tính ở lại ba tháng để đi thăm bà con từ Sài Gòn ra Huế thì tôi đã để lại quê hương yêu dấu của mình đàng sau lưng từ dạo ấy. Tôi đang chôn chân xứ người, vẫn làm thợ khách và chờ ngày về hưu.

Tuy nhớ nhung muôn vàn Việt Nam quê tôi nhưng chỉ biết ngậm ngùi thương nhớ, vẫn hằng ước mong một ngày về mà Việt Nam thật sự có đầy đủ tự do, dân chủ và nhân quyền. Tôi nghĩ mình không thể nào cam tâm cúi đầu xin phép để được du lịch, để được cho phép về thăm quê hương của chính mình trong hoàn cảnh hiện tại mà chắc chắn tôi sẽ phải tự hổ thẹn với lương tâm nếu tôi làm việc này bởi vì một khi mà tôi với hơn 25 tuổi đầu, có thể nói là quá trưởng thành đã quyết định xin tỵ nạn, xin chọn nước Đức làm quê hương thứ hai và lý do được nêu ra rất rõ ràng: "vì tôi không chấp nhận chế độ cộng sản".

Tôi chẳng phải là đứa bé lên năm! Một đứa bé chừng ấy tuổi nếu ai đưa cho nó hai miếng bánh chắc chắn nó sẽ tự chọn cái nào thấy ngon hơn. Khi chọn lựa cho mình “con đường để đi“ sau 30-04-1975, tuy còn quá trẻ, chỉ mới hơn 25 tuổi và vừa tốt nghiệp Đại Học xong nhưng chẳng ai ép bắt tôi phải làm theo ý họ.

Chính tôi phải có một sự lựa chọn dứt khoát.
Tôi đã bỏ tất cả để chọn cho cuộc đời mình hai chữ “TỰ DO“!

Bút mực còn đó, giấy tờ và chữ ký quả quyết rằng đã khai đúng sự thật khi nộp đơn xin tỵ nạn còn đó. Tôi không thể nào dối lòng, dối mình được!

Nhìn lại mình thì tôi, một cựu du học sinh thời Việt Nam Cộng Hoà không hổ thẹn gì hết. Tôi quan niệm rất thực tế: "Đất lành chim đậu". Ngày đêm vẫn thiết tha mơ ước được dịp "Tung cánh chim tìm về tổ ấm" nhưng rất tiếc tôi vẫn còn là con chim lạc đàn, đang tha phương và vẫn còn giữ vững tư cách của một người tỵ nạn chính trị sau 35 năm đổi đời, theo đúng nghĩa của nó vì đã không chấp nhận chế độ chuyên chính vô sản sau khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam nên tạm “ Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương“!

Ngọc Châu_M / Đức quốc
(ghi vội lại vài ý tưởng chợt về nhân ngày 30-04-2010)
NGỌC CHÂU


Sunday, April 25, 2010


RFA * 30-4-75

*

35 năm sau, những chiến binh cả 2 miền Nam-Bắc


Đỗ Hiếu, phóng viên RFA
2010-04-25
Những chiến binh thuộc hai Miền Nam-Bắc, những người đã từng là đối thủ, kẻ thù của nhau trong suốt cuộc chiến, 35 năm sau họ nói gì?



AFP PHOTO/Aude GENET
Phát triển kinh tế nhưng vẫn còn khoảng cách giàu nghèo.
Biến cố 34-4-1975 được xem là “một sự đổi đời” khiến hàng triệu người phải vượt thoát tìm tự do, trong cái chết gần kề, ngoài biển cả mênh mông. Hàng triệu người khác bị cầm tù, bị xua đuổi khỏi thành thị, bị bần cùng hóa, bị tước đoạt quyền sống.
Đáp lời mời của Ban Việt Ngữ, hai cựu sĩ quan Không Quân và Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, một cựu sĩ quan Quân Đội Nhân Dân và một cựu đảng viên Cộng Sản từng được cử du học Đông Âu, trình bày những suy nghĩ của mình đối với hiện tình đất nước, sau khi đã dứt tiếng súng từ 35 năm qua; hòa bình được vãn hồi, kinh tế đang phát triển, xã hội ổn định, tuy nhiên người dân Việt cho rằng vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, được chính những chiến binh của hai miền Nam-Bắc nêu lên với RFA.
Fact box
- Việt Nam - Dân số: 85.789.573,
- Chính trị:theo chế độ xã hội chủ nghĩa, một đảng duy nhất là Đảng CSVN,
- lợi tức bình quân 1,060 US dollars.

Tự do, dân chủ, độc lập?

Một quân nhân Không Quân miền Nam có gần 25 năm thâm niên công vụ, cựu tù nhân cải tạo với 7 năm tù, từ California, ông Nguyễn Thanh Liêm phân tích về tình hình đất nước:
Về mặt chủ quyền: Giáp ranh biên giới Ải Nam Quan, Thác Bản Dốc và các hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa đều bị Trung Quốc cướp mất. Trên Internet tố cáo Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận hối lộ trên trăm triệu đô la cho Trung Quốc khai thác Bô Xít tại Cao Nguyên.
Về mặt xã hội: Việt Nam đàn áp một cách khốc liệt các nhà tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền, luôn cả các nhà tu hành đòi tự do tôn giáo, bắt cầm tù và tra tấn trong các nhà giam. Chưa có một chính phủ nào, luôn cả thời thực dân đế quốc đô hộ, cũng chưa bằng thời nay do cộng sản cai trị; không có luật pháp, chỉ có luật rừng do họ dựng nên để đè đầu người dân Việt Nam.
Cộng sản Việt Nam cho xuất khẩu lao động đem dân đi làm nô lệ cho quốc tế, hạ nhân phẩm người phụ nữ Việt Nam, buôn bán phụ nữ làm vợ cho người Đài Loan, Đại Hàn, và có nhiều người phải làm vợ cho cả gia đình cha con và anh em. Trẻ em 8, 10 tuổi thì đưa sang Campuchia cho vào các động mãi dâm làm gái với khách thập phương.
Về giai cấp: Số đông dân chúng quá nghèo, thành phần giai cấp lãnh đạo thì quá giàu, một bữa tiệc gần cả trăm ngàn đô la, một chai rượu ngoại cả ngàn đô, nhà cao cửa rộng, như nhà của cựu Tổng Bí Thư Lê khả Phiêu đã phô bày trên Internet.



Một lọat các nhà đấu tranh cho dân chủ bị đưa ra xét xử gần đây
Một lọat các nhà đấu tranh cho dân chủ bị đưa ra xét xử gần đây


Lời nói của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm” là một câu nói bất hủ muôn đời! Cộng Sản miền Bắc xâm lăng miền Nam, không xem dân miền Nam là tình ruột thịt anh em mà đối đãi như kẻ thù cần tiêu diệt. Đảng cộng sản phải giải tán, để cho nhân dân Việt Nam tự do bầu lấy một chính quyền do Dân, phục vụ Dân và lập quyền Dân.”

Thất vọng

Kế đó, một cựu sĩ quan Quân Đội Nhân Dân, nhiều năm chiến đấu ngoài mặt trận từng chứng kiến bao đồng đội gục ngã, hy sinh máu xương để thực hiện chiêu bài “Giải Phóng Miền Nam” do Hà Nội chủ trương, ông Vũ Cao Quận nói lên niềm tâm sự của mình, được gói gọn qua hai chữ “thất vọng”:
“Tôi lúc này như ngọn nến mong manh trước gió, tắt lúc nào chưa biết, những lời nói của tôi là điều tôi nói thật. Cuộc chiến đấu giải phóng Miền Nam đối với tôi, khi sắp sửa ra đi với các cụ rồi, tôi chỉ đau lòng là cuộc chiến đấu đó là “nồi da xáo thịt”, hai anh em xông vào bắn giết lẫn nhau. Một bên là người Mỹ cho kẹo cao su với khẩu AR 15, một bên là Tàu với Liên Xô cho một gói lương khô với khẩu AK 47, cứ thế mà hai thằng anh em ruột, cùng máu đỏ, da vàng, cùng bà mẹ Âu Cơ sinh ra, xông vào chém giết lẫn nhau.
Chúng tôi chẳng giải phóng Miền Nam làm gì, và Miền Nam cũng chẳng cần chúng tôi giải phóng.
Ông Vũ Cao Quận
Chúng tôi chẳng giải phóng Miền Nam làm gì, và Miền Nam cũng chẳng cần chúng tôi giải phóng. Cái chuyện đó đã qua lâu lắm rồi mà tôi thì già yếu quá, chỉ trả lời tóm tắt thế thôi.
Tôi chỉ thấy nỗi đau là cái giá hy sinh của đồng đội tôi, và kể cả các ông nữa, tôi không biết gọi như thế nào, là những người đồng đội, hai bên cùng vì Tổ quốc của mình mà bắn giết lẫn nhau. Đến bây giờ chỉ có điều là tôi thất vọng quá, có thế thôi, tôi sắp ra đi rồi, tôi không cần gì nữa, còn tôi thất vọng vì nó rồi, đồng đội của tôi chiến đấu chết nhiều quá. Những lời hô hào của họ thì đều đẹp đẽ cả, chẳng gây cho tôi một cái hy vọng gì cả, một chút hy vọng nào cả, tôi không chờ được nữa. Thế là công lao của tôi là công cóc rồi, không chờ được cái ngày ấy nữa đâu. Nhân dân ta thì vẫn khổ quá, không hy vọng gì cả.”

Đâu rồi lợi thế 35 năm?

Với cái nhìn của một nhà phân tích thời sự, bình luận chính trị, một cựu sĩ quan Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, ông Đại Dương đưa ra nhận xét của ông về chính sách của Hà Nội, trong hơn 3 thập niên qua, cùng các hậu quả được thể hiện rõ, hôm nay:



Bản đồ hình lưỡi bò do Trung Quốc công bố xác định chủ quyền trên  biển Đông. Photo courtesy of nguoiviettynan.net
Bản đồ hình lưỡi bò do Trung Quốc công bố xác định chủ quyền trên biển Đông. Photo courtesy of nguoiviettynan.net


“Tập đoàn lãnh đạo đảng cộng sản đưa đất nước vào tình cảnh mà không một người Việt Nam yêu nước nào cảm thấy hài lòng, hãnh diện vì áp dụng chính sách bất dung và chọn lầm đồng minh. Hòa bình đến, nhưng, hy vọng về đất nước thanh bình, hết hận thù để cùng chung sức phát triển đã bị chính sách bất dung làm triệt tiêu có hệ thống các yếu tố góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Sách vở như chiếc túi khôn của loài người vốn tích lũy vô số kinh nghiệm bị đảng cộng sản Việt Nam đốt sạch nhằm cắt đứt sự liên hệ giữa thế hệ trẻ với sinh lực dân tộc. Chính sách bất dung dấy lên làn sóng vượt biên, thuyền nhân từ Bắc chí Nam đã vét cạn chất xám cần thiết cho công cuộc xây dựng đất nước phú cường.



Do đó, tập đoàn lãnh đạo Hà Nội phải dựa vào đồng minh để tồn tại đã khắc sâu những vết hằn đau đớn lên cơ thể Việt Nam. Việt Nam chọn Liên Xô làm đồng minh nên cho Mạc Tư Khoa toàn quyền sử dụng hải cảng Cam Ranh từ năm 1979 đến 2004. Áp dụng chính sách hợp-tác-hóa đã dẫn dân tộc đến bờ vực nạn đói năm 1985. Việt Nam xua quân vào Xứ Chùa Tháp năm 1979 đã kích thích Bắc Kinh mở cuộc chiến tranh biên giới khốc liệt vào năm 1979.
Liên Xô tan rã, Hà Nội lại muối mặt cầu cạnh Bắc Kinh nên phải làm quà bằng các Hiệp định về biên giới và Vịnh Bắc Bộ. Từ đó, Việt Nam có một mô hình kinh tế tư bản man dại thời đại Karl Marx, cộng với kiểu kinh tế thân hữu đã bị thế giới ruồng bỏ. Vì áp dụng mô hình lạc hậu nên đến năm 2009, lợi tức bình quân chỉ có 1,000 USD. Từ 1963 đến 1995, Nam Hàn đã nâng lợi tức bình quân từ 100 lên tới 10,000 USD.

Việt Nam đang từng phút, từng giờ đứng trước mối đe dọa mọi mặt của người đồng minh “môi hở răng lạnh”. Chỉ có dân tộc Việt Nam đồng lòng mới giải tỏa được chứ không thể trông chờ vào nhà nước ù lì và bất lực.”

Thực chất của chế độ cộng sản

Một cựu đảng viên cộng sản, du học tại Ba Lan rồi trở về nước phục vụ, nay sinh sống tại thủ đô Vác Sa Va, tiếp tục đấu tranh cho quyền lợi giới lao động Việt Nam ở hải ngoại, ông Trần Ngọc Thành giải thích vì sao ông rời bỏ hàng ngũ đảng cộng sản Việt Nam:

“Ra đi du học tại Ba Lan tôi mới bắt đầu hiểu thực chất của chế độ cộng sản là gì, tôi có rất nhiều anh chị em trực tiếp tham gia vào quân đội, có những người đã hy sinh, có những người hiện nay là thương binh. Sau này, ngày càng tìm hiểu thì tôi thấy đó là một cuộc nồi da xáo thịt của người Việt Nam đánh nhau. Người hưởng lợi chính là đảng cộng sản Việt Nam. Năm 1945 thì họ cướp chính quyền tại Miền Bắc, khi đất nước chia thành hai miền sau hiệp định Geneve, họ lại bắt đầu phát động cuộc chiến tranh gọi là giải phóng Miền Nam, thực chất là họ muốn thu quyền lực về một mối, tôi rất thất vọng về chính quyền hiện nay.


Những căn nhà sang trọng nhiều từng
Những căn nhà sang trọng nhiều từng lầu chung quanh nhà bác Phiêu đều là của các lãnh tụ cao cấp tướng tá


Thật ra ý đồ của Hà Nội là thâu tóm tất cả chính quyền về tay người cộng sản, nhưng phải nhìn vào thực tế của đất nước, nhìn vào hạnh phúc của nhân dân mà phấn đấu. Thật ra từ năm 1975 đến nay, những người cầm quyền chỉ chăm chú vào quyền lợi của đảng cộng sản cũng như bản thân người cầm quyền, còn người dân vẫn là nô lệ trên đất nước mình. Cái nô lệ ở đây không chỉ nói riêng về kinh tế mà trên các mặt, người dân có quyền nói, biểu hiện chính kiến, cách nhìn của mình, nhưng dưới chế độ cộng sản họ bị nô dịch tất cả các mặt. Về kinh tế thì chính quyền cho cái gì thì dân được cái nấy, như việc hợp tác hóa, rồi sau này các chính sách khác về kinh tế là ngăn sông cấm chợ, cấm buôn bán, cải tạo công thương nghiệp, chỉ để phục vụ một nhóm nhỏ trong chính quyền.

Thật ra thì tôi không trả thẻ đảng mà tôi vất thẻ đảng, vì những người làm chủ đất nước hiện nay, thực sự chỉ là tôi tớ cho một số đảng viên cao cấp. Phần lớn người lao động hiện nay xuất thân từ nông thôn hay thành thị, từ trước tới nay bị phân biệt đối xử, về cả kinh tế lẫn mặt chính trị. Sự sụp đổ của chế độ cộng sản, thay đổi chính trị tại Đông Âu là điều cần phải thay đổi để làm cho đất nước đi lên. Tôi thấy rằng, mục tiêu của chúng ta hiện nay là làm sao cho đại bộ phận người Việt Nam được no ấm.”
Qua những góp ý của các cựu chiến binh của hai miền Nam Bắc thì 35 năm sau khi chiến tranh kết thúc Việt Nam vẫn chưa thực hiện được chủ trương “độc lập, tự do, hạnh phúc” được ghi trên quốc uy của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cũng là mục tiêu do đảng cộng sản đề ra, từ khi lên nắm chánh quyền hồi năm 1945.
35 năm sau khi hòa bình được vãn hồi, mặc dù được Hà Nội đã được kết nạp vào WTO, là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, là chủ tịch luân phiên của ASEAN, nhưng công luận vẫn cho là Việt Nam thiếu tự do, dân chủ, không có tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, không có nhân quyền và nằm trong danh sách những quốc gia có thu nhập thấp kém trên thế giới và trong khu vực Châu Á.

Theo dòng thời sự:


HOÀNG HẢI THỦY * NGUYỄN NGỌC LOAN



LTS.

Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan là một chiến sĩ quốc gia anh dũng. Ông là một võ tướng cho nên có những hành động ngang tàng. Người Mỹ cũng như dư luận quốc tế đã phê phán việc ông bắn một tên Việt cộng. Người Mỹ nhân đạo ư? Sự thật đa số dân chúng trên thế giới bị bưng bít về những hành vi của cộng sản mà họ chỉ thấy những điều không đẹp của xã hội miền Nam. Dẫu sao, tướng Loan đã giết một kẻ địch đang lúc xảy ra một trận chiến nguy kịch trong khi Việt Cộng giết Trúc Khê, Khái Hưng, Huỳnh giáo chủ, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm , các nông dân trong CCRD, và nhân dân thành phố Huế trong mậu thân là những người dân không tấc sắt? Họ có biết không và lên tiếng cho nhũng nạn nhân này với tư cách những nhà bình luận công bằng?

Trước 1965, mấy ai lên tiếng về viêc Stalin giết nhân dân Liên Xô và đảng viên cộng sản, nhất là việc Stalin giết cả nhà và các đồng chí của Trotsky, và sau khi Mao chết, những ai đã lên tiếng kết án Mao giết hàng triệu nhân dân Trung Quốc! Sau 1975, cộng sản Việt Nam đã giết công khai hoặc âm thầm các sĩ quan VNCH, nhưng không thấy ai lên tiếng kết án cộng sản dã man.Như vậy có công bằng không? Không những thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan thiệt thòi mà cả miền Nam ta cũng bị đối xử bất công.

Trong khi một số tướng tá, văn nghệ sĩ và nhà tu hành chạy theo cộng sản, thì gương mặt Nguyễn Ngọc Loan trở thành một khuôn mặt sáng ngời, có nhiều điểm đáng khen ngơi.




Ông Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan

Tướng Nguyễn Ngọc Loan xử bắn tại trận tên Việt Cộng ác ôn từng giết nhiều người trong trận Việt Cộng đánh vào Sài Gòn Tết Mậu Thân.



Hình được trích trong quyển NAM: A Photographic History của 2 tác giả Leo J. Daugherty và Gregory Louis Mattson. Đây là lời dưới hình bằng tiếng Mỹ:
The head of South Vietnam’s National Police, Brigadier General Nguyen Ngoc Loan, executed a capture Viet Cong officer in a Saigon street. Loan had just learned that the Viet Cong had killed a fellow police officer and his completed family. Captured on film and in this photograph, this horrifyng image shocked public opinion in the United States, bringing the atrocities of the war home to them to become a matter of public interest. This image, taken by AP photographer Eddie Adams, earned the photographer a Pulitzer Prize in 1969.

Phỏng dịch: Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia Vịêt Nam, xử tử một tên Việt Cộng bị bắt trong một đường phố ở Sài Gòn. Tướng Nguyễn Ngọc Loan vừa mới biết tên Việt Cộng đã giết một sĩ quan cảnh sát và giết tất cả vợ con ông sĩ quan. Được ghi lên phim, và trên bức hình này, hình ảnh ghê rợn trong hình làm công luận Hoa Kỳ xúc động, bức hình cho dân Mỹ thấy cảnh tàn ác của chiến tranh và làm họ chú ý đến cuộc chiến Việt Nam. Bức hình do Eddie Adams, Phóng viên Nhiếp Ảnh của AP (Associated Press) chụp, đã làm cho Eddie Adams được Giải Pulitzer năm 1969.



Trang 574, Tập Ảnh NAM, in bức hình thứ hai của Tướng Nguyễn Ngọc Loan. Trong hình, trước mặt ông Tướng là bà Nguyễn Ngọc Loan. Đây là lời tiếng Mỹ đăng dưới hình:
The former South Vietnamese National Police Chief Nguyen Ngoc Loan with his wife in the burger, pizza, and Vietnamese restaurant he managed in Burke, Washington after escaping Vietnam. Honest Vietnamese officials and soldiers settling in the U.S. were often forced to take quite menials jobs as unlike others, they were innocent of corruption and therefore had no money waiting in overseas accounts.
Phỏng dịch: Ông Nguyễn Ngọc Loan, Cựu Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam, với bà vợ ông trong một tiệm burger, pizza và hàng ăn Việt Nam ông bà mở ở thị trấn Burke, gần Washington D.C. Những viên chức và quân nhân Việt Nam lương thiện định cư ở Hoa Kỳ thường phải làm những công việc tay chân không như một số người Việt khác. Những người Việt lương thiện ấy không tham nhũng, không thối nát nên họ không có tiền để sẵn trong những trương mục ngân hàng ở nước ngoài.
———-
Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ tưởng niệm Tử Sĩ Trận MẬU THÂN
DALLAS, Texas — “Almighty Father, we are gathered here today to celebrate and honor the brave warriors who served in Vietnam and who fought to bring us victory during The Tet Offensive. Bless all who served or who died to protect our nation and its values, founded on the bedrock of Thy Word. Bless and reward their spouses, widows and children.,”
Đó là lời cầu nguyện của Mục sư – Cựu Chiến Binh Marcus Evans tại Bệnh viện VA North Texas Health Care System của Hội Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ tại thành phố Dallas, Texas trưa Ngày Mồng Ba Tết Bính Tuất, tức Thứ Ba 31 Tháng Giêng năm 2006, để vinh danh chiến công của các Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa trong trận chiến Tết Mậu Thân. Mục sư xin Đấng Toàn Năng ban phúc lành cho những chiến binh còn sống, cho những người vợ, những quả phụ và con cháu của những chiến binh đã hy sinh trong trận đánh xẩy ra 38 năm trước.
Tôi, một người Việt mất nước sống buồn ở xứ người, đọc bài báo tưởng niệm, vinh danh các Cựu Chiến Binh Chiến Tranh Việt Nam với niềm ngậm ngùi và kiêu hãnh.
Ngậm ngùi vì 38 năm sau trận đánh những chiến binh mới được vinh danh, kiêu hãnh vì trong đời tôi, tôi được thấy ngày người thế giới sáng mắt, sáng lòng, nhìn thấy sự thật là Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, và Quân Đội Hoa Kỳ, “đã không thua” trong Chiến Tranh Việt Nam, những hy sinh máu xương của những chiến binh Việt, Mỹ trên đất nước Việt Nam không phải là vô ích. Vì những hy sinh ấy Chủ nghĩa Cộng Sản bị tiêu vong, mãi mãi tiêu vong, ngàn ngàn triệu triệu kiếp không bao giờ bọn đảng viên cộng sản còn có thể làm người thế giới đau khổ, đọa đầy. Trận Chiến Tranh Việt Nam góp một phần sức công phá làm cho cái gọi là Liên Xô Thành Trì Vô Sản Quốc Tế của bọn Nga Cộng sụp đổ tan tành, làm cho nhân dân các nước Đông Âu có thể vùng lên đập phá những gông cùm cộng sản, làm cho những tượng đồng, tượng đá, tượng gỗ, tượng xi-mo Lê-nin, Sịt-ta-lin bị kéo đổ, hạ xuống, cưa đầu, kéo ra cho nằm ở bãi rác.
Trong những đêm cuối năm, ở xứ người Kỳ Hoa Đất Trích, tôi đọc những bài viết về Trận Tết Mậu Thân và những người dự trận đánh ấy.
Mời quí vị đọc bài viết về Cố Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, đăng trong:
CON ONG. Bán Nguyệt San ấn hành ở Houston, Texas. Số 179. Tháng 2, 2006. Bài “Đón Xuân này tôi nhớ Xuân xưa.” Người viết Cao Hồng Lê.
Sáng Mồng 2 Tết Mậu Thân, Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu họp, Tướng Nguyễn Ngọc Loan thuyết trình về tình hình chiến sự, Tướng Nguyễn Cao Kỳ, bay trực thăng, tới họp..
Sau Tướng NN Loan là phần thuyết trình của Đaị Tá Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Đại Tá nói tới một tin mà ở Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu nhiều người đã nghe nói. Đó là tin Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp Binh của ta ở Gò Vấp bị địch tấn công, quân ta phản công mạnh nên bọn VC đã phải tháo lui. Kho Đạn Gò Vấp bị một tiểu đoàn đặc công VC đánh vào. Đúng lúc bọn VC kéo vào Kho Đạn thì vị sĩ quan Trực Kho Đạn cho phát động hệ thống phá hoại. Kho đạn nổ tung, cả một tiểu đoàn đặc công VC chết tan xác. Ông Trung Úy Quân Cụ Trực Kho Đạn, người cho Kho Đạn phát nổ, bị sức ép của hàng ngàn tấn đạn làm cho miệng, mũi, tai trào máu, khó lòng sống sót, dù ông được tải thương về ngay Tổng Y Viện Cộng Hòa cứu cấp. Nghe nói đến đây, tự nhiên Tướng Loan tỏ vẻ khác lạ, ông đứng lên, nói:
- Ê! Kỳ! Cho “moa” mượn trực thăng “moa” bay xuống Gò Vấp. Muời phút “moa” về liền!
Không đợi Tướng Kỳ trả lời, Tướng Loan đi ngay ra khỏi phòng. Đaị Tá Trưởng Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu, chạy theo, nói với:
- Thiếu Tuớng! Cho tôi gửi một người theo ông.
Ông Đại Tá đưa cho tôi cái máy Truyền Tin HT1, máy to, nặng nhưng cách xử dụng cũng giống như cái hand phone bây giờ. Ông nói với tôi:
- “Toa” chịu khó đi theo ông Sáu Lèo, coi tình hình ở đó ra sao, có gì gọi về cho “moa” biết ngay.
Chuyện được sai đi cấp kỳ như vậy đối với tôi đã quá quen. Ông Đại tá là niên trưởng Võ Bị của tôi, tôi đã làm việc dưới quyền ông lâu ngày rồi, tôi cầm ngay cái máy truyền tin, chạy theo Tướng Loan ra phi cơ trực thăng. Chỉ 2 phút sau trực thăng đáp xuống sân Kho Đạn Gò Vấp. Ở đó một Đaị Đội Dù đã tái chiếm từ hôm qua. Đạn trong kho đã nổ hết. Xác bọn VC tan tành thành những mảnh thịt xương vụn, súng AK gẫy còng queo, rải rác khắp nơi.
Sau khi xem Kho Đạn, Tướng Loan đi sang Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp cạnh đó. Trụ sở Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp không bị tổn hại gì nhiều, ngoài một lổ hổng lớn do đạn SKZ phá, nhưng VC không vào được trong Trụ sở vì Binh sĩ Thiết Giáp tập trung hoả lực bắn vào bít lỗ trống gọi là “Đột Phá Khẩu của VC”. Các đơn vị xe tăng đều đi đánh giặc xa cả, bao nhiêu lực lượng binh sĩ ở căn cứ đều tập trung bảo vệ Bộ Chỉ Huy, thành ra việc phòng thủ Traị Gia Binh Thiết Giáp ở ngay bên cạnh Bộ Chỉ Huy không được vững mạnh, bọn VC đã xông vào Trại Gia Binh, bắn giết một số vợ con binh sĩ ta.
Một Trung Úy Thiết Giáp đưa Tướng NN Loan vào Trại Gia Binh để ông Tướng thấy cảnh vợ con binh sĩ ta bị VC sát hại. Sau khi đến thăm một số nhà binh sĩ có người bị VC giết, nhiều xác người chưa được mang đi, còn quàn tại chỗ, Tướng Loan nói ông có người bạn cùng khóa là Đại Tá Tuấn, Binh Chủng Thiết Giáp, đã giải ngũ nhưng không có nhà riêng ở ngoài thành phố, nên cả gia đình vẫn ở trong Trại Gia Binh này. Ông bảo ông Trung Úy Thiết Giáp đưa ông tới nhà Đại Tá Tuấn. Tôi đi theo đến một hầm trú ẩn. Hầm này vốn là cái xác của chiếc xe M113 đã phế thải, Đại Tá Tuấn xin về đặt bên cạnh nhà, đắp thêm bao cát bên ngoài, cho vợ con ông làm hầm tránh pháo kích của bọn VC.
Khi mở cửa hầm ra thì… tôi rởn tóc gáy trước cảnh tôi nhìn thấy: Cả gia đình Đại Tá Tuấn vẫn còn nằm trong hầm. Máu ngập cao cả chục phân tây, kín cả cái sàn xe thiết vận xa phế thải. Trong vũng máu là 8 xác chết, đủ cả đàn ông, đàn bà, trẻ con, người nào cũng bị chém đầu lìa khỏi cổ. Cả đến đứa cháu ngoại, mới 3 tuổi của Đại tá Tuấn về ăn Tết với ông Ngoại cũng bị VC chặt đầu.
Tướng NN Loan đứng nhìn thảm cảnh. Ông lặng người, không nói được lời nào! Rồi ông đứng nghiêm, giơ tay chào vĩnh biệt gia đình Đại Tá Tuấn.
Trên trực thăng bay trở về Bộ Tổng Tham Mưu, Tướng Loan, mặt tái xám, hai mắt ông đỏ ngầu. Ông chỉ nói một câu mà, đến nay gần 40 năm, tôi còn nhớ:
- Đ.. Cụ thằng nào từ nay bắt được Việt Cộng còn cho nó làm tù binh.
Về đến Bộ Tổng Tham Mưu, Tướng Loan không vào Trung Tâm Hành Quân, ông lên xe jeep đi ngay đến chỗ có VC. Phần tôi, tôi vào phòng báo cáo với các vị đang họp những gì tôi thấy ở Kho Đạn Gò Vấp và ở Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp. Còn xúc động vì những hình ảnh ghê rợn, thảm khốc nên tôi nói lập cà lập cập, không rõ ràng chút nào. Đaị Tá C, Trưởng Ban 2 của Trung Tâm Hành Quân hỏi tôi có chụp được tấm hình nào không? Khi biết tôi không đem theo máy ảnh, ông cho nhân viên của ông đi Gò Vấp chụp hình ngay.
Không biết những tấm hình đó bây giờ ở đâu? Nếu có những tấm hình đó bây giờ thì đó là những chứng tích chứng tỏ sự bạo tàn ghê rợn của bọn cán binh CS khi chúng vào được một trại gia binh của Quân Đội ta ở Sài Gòn trong trận Tết Mậu Thân.
Hai ngày sau, khi Lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến đánh phá một hang ổ của VC ở trong chùa Ấn Quang, bắt sống được ở đây tên Thượng tá VC chỉ huy cánh quân đánh vào Kho Đạn Gò Vấp. Sau khi hỏi cung sơ qua, binh sĩ ta trói tay nó, dẫn giải về traị tù binh. Đọc đường tên VC đó gặp Tướng Loan. Và cái gì đã xảy ra thì cả thế giới đều biết do người phóng viên nhiếp ảnh Mỹ chụp được tấm hình giật gân Tướng NN Loan dí súng vào đầu tên VC mặt hung ác, ngu đần, bận áo sơ-mi ca-rô. Nhờ tấm hình này mà người phóng viên Mỹ nổi danh. Cũng vì cái hình này mà Tướng Loan đã bị một số người Mỹ chụp cho cái mũ “Killer”. (.. .. .. )
Khi là Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, là cái chỗ “Ho ra Bạc, Khạc ra Tiền”, Tướng NN Loan không bị báo chí thời đó, và ngay cả bây giờ, cho tên vào Băng Tham Nhũng Đệ Nhị Cộng Hòa. Việc ông xử tử tại trận tên VC, như ông nói: “Tôi làm nhiệm vụ của tôi..” thì đúng quá còn gì nữa. Nghe nói quí vị thân nhân của Tướng NN Loan đã phải chịu nhiều khổ tâm vì người ta xét đoán lầm ông Tướng qua bức hình ông xử tử tên VC trong trận Tết Mậu Thân. Xin quí vị thân nhân của Tướng Nguyễn Ngọc Loan coi bài tưởng niệm này là “Một Vòng Hoa Muộn, Một Nén Hương Thêm” cầu chúc anh hồn Cố Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan yên nghỉ nơi miền an lạc; xin Bà Quả Phụ Nguyễn Ngọc Loan nhận cho sự kính trọng Cố Thiếu Tướng của tôi, một tên lính bại trận mà không chết, và sự phân ưu muộn màng của tôi với quí gia đình.

Cao Hồng Lê

*

(Trích trong cuốn CHIẾN SỬ QLVNCH)

Còn nhớ trong những ngày lửa binh Mậu Thân đợt 1 và đợt 2 ở vùng Sài Gòn - Gia Định -Chợ Lớn, có một vị tướng dáng vóc nhỏ bé trong chiếc áo giáp đen sạm khói súng, đã xông xáo giữa những làn đạn chằng chịt đỏ lửa, trong tiếng AK và tiếng B40 nổ rền trời. Ông ôm cây súng M16 đứng xổng lưng trên tuyến đầu, chiến đấu và bắn về phía quân địch như bất cứ một người chiến sĩ khinh binh dũng cảm nào của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Vị Tướng mà đã đi vào huyền thoại quân lực và chiến sử Việt Nam, chính là Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, Chỉ Huy Trưởng Tình Báo và An Ninh Quân Đội, cựu Tư Lệnh Phó Không Quân QLVNCH.

Cuộc đời của Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan là cả một tấm gương sáng. Là một phi công ưu tú của quân chủng Không Quân, người đã có hàng ngàn giờ bay trên nhiều loại phi cơ oanh tạc chiến đấu, sự dũng cảm phi thường của ông đã đưa ông lên đến chức vụ cao tột Tư Lệnh Phó Không Quân Việt Nam Cộng Hòa trong những năm 1960 sau cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Chính là người đã dẫn đầu những phi đoàn Bắc phạt A1 Skyraider nằm trong khuôn khổ chiến dịch "Mũi Tên Lửa " (Flamming Dart) ngày 11.2.1965, dũng mãnh lao xuyên qua những làn đạn phòng không kinh khủng của giặc bắn phá hang ổ địch và những địa điểm tàng trữ các phương tiện chiến tranh mà từ đó Hà Nội trang bị cho binh đội của họ tràn qua vĩ tuyến 17 tàn sát đồng bào miền Nam. Trong những giây phút lơ lửng giữa sự sống và cái chết trên bầu trời miền Bắc, những chiếc A1 do Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan chỉ huy đã đánh những chùm bom chính xác rải lên đầu bọn cuồng khấu. Để cho chúng biết rằng, dù những chiếc A1 bay chậm và lỗi thời, không thể nào địch nổi những chiếc MIG 17, 19, 21 phản lực cơ tối tân mà Nga Sô và Trung Cộng đã viện trợ cho Không Quân Bắc Việt, những người trai anh dũng của Việt Nam Cộng Hòa vẫn quyết tâm chiến đấu cho sự sống còn của dân tộc. Trong một phi vụ vượt vĩ tuyến, có một lần Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan đã phải đau xót nhìn chiếc phi cơ của anh hùng Thiếu Tá Phạm Phú Quốc trúng đạn giặc và nổ bùng thành một chiếc hoa lửa đỏ giữa bầu trời xanh thẳm.

Sau những chiến công lừng lẫy trên bầu trời miền Bắc và sau khi chiến dịch "Mũi Tên Lửa" chấm dứt, Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan được vinh thăng Chuẩn Tướng và được điều động về làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương và Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia cùng lèo lái con thuyền quốc gia kể từ ngày 19.6.1965, sau khi đã gạt bỏ được Đại Tướng Nguyễn Khánh ra khỏi chức vụ Thủ Tướng Chính Phủ, vì những yếu kém và bất lực của ông này. Ngày 19.6 từ đó được chọn là "Ngày Quân Lực", biểu trưng của ngày mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tái lập trật tự và điều hành guồng máy quốc gia. Trong những năm đó, Chuẩn Tướng Loan được sự tín nhiệm của Thiếu Tướng Kỳ, đã là một vị tướng hết sức mẫn cán, ông thẳng tay bố ráp và truy lùng bọn cộng sản nằm vùng, bọn tình báo địch xâm nhập đô thành.

Cảnh Sát Quốc Gia của ta trong thời kỳ đó đã hốt được nhiều mẻ lớn. Là một vị tướng năng nổ, ông đã được chính phủ cử ra Trung cùng một số tướng lãnh tài năng khác bình định vụ biến động Phật giáo trong năm 1966. Ngoài Vùng I tình hình vô cùng rối ren với sự khuấy động của Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, sự bất tuân phục của ông này vì sự tranh giành quyền lực với chính phủ trung ương, và sự quá khích của những thành phần Phật giáo. Có đến một trung đoàn quân đội ngoài Vùng I tham gia phe ly khai. Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan, với sự giúp sức của các cấp quân sự thuộc binh chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Giáp, đã nhanh chóng bình định được tình thế, với một sự thiệt hại về nhân mạng và vật chất ở mức tối thiểu ngoài sự mong đợi của chính phủ trung ương. Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi được cho đi Hoa Kỳ. Cơn sóng gió tưởng chừng có thể làm ngửa nghiêng đất nước và mối hiểm họa binh đội cộng sản lăm le tràn xuống nuốt lấy Việt Nam Cộng Hòa đã được những viên tướng tài giỏi nhất của Việt Nam Cộng Hòa san bằng. Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan được vinh thăng Thiếu Tướng.

Với quyền lực to lớn, với ánh hào quang và những phương tiện vật chất dồi dào ấy, đáng lẽ ông phải vun vén cho riêng cá nhân mình một cái gì đó. Nhưng kỳ diệu và đáng kính phục biết ngần nào, cuộc sống của người bình dị và đơn sơ quá, người không có tài sản gì đáng giá. Ở giữa một xã hội vật chất phù phiếm và đua tranh, chung quanh ông đầy dẫy những tấm gương tham nhũng của những yếu nhân tai to mặt bự, với những cảnh ăn chơi xa hoa trụy lạc thâu đêm suốt sáng, thì tấm gương thanh liêm của người cùng với một số hiếm hoi các tướng lãnh khác giống như những viên ngọc quí nằm trong mớ tro củi bẩn thỉu. Ông không lấy của công làm của tư, không có biệt thự riêng, chỉ ở nhà của chính phủ cấp cho, một chiếc xe Jeep, một chiếc áo giáp, một cây súng và một trái tim dành cho nước non.

Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan sinh ngày 11.12.1930 tại Huế, khi vào lính ông được gửi đi học Khóa 1 Trường Võ Khoa Thủ Đức. Tốt nghiệp Thủ Đức, tân sĩ quan Nguyễn Ngọc Loan về phục vụ trong Lực Lượng Xung Kích Việt-Pháp năm 1952. Nhưng đến năm sau ông lại được gửi đi thụ huấn khóa phi công tại Trường Không Quân Salon De Provence tại Pháp và trở thành người phi công lái khu trục cơ đầu tiên của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa kể từ năm 1956. Khoảng đầu những năm 1960 ông nhận nhiệm vụ làm Chỉ Huy Trưởng Phi Đoàn 2 Quân Sát đóng tại Nha Trang. Bốn năm sau, Đại Tá tân thăng Nguyễn Ngọc Loan được tín nhiệm chức vụ cao quí tột bậc quân chủng, Tư Lệnh Phó Không Quân VNCH. Bắt đầu từ năm 1965, Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan được điều về làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội, Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo. Một thời gian sau ông được vinh thăng Thiếu Tướng.

Một trong những câu chuyện vẫn còn được những thuộc cấp kể cho nhau nghe về lòng độ lượng và thương yêu thuộc cấp của Thiếu Tướng Loan. Một đám cận vệ của "Anh Sáu"(chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia và Cảnh Sát Dã Chiến kính trọng và mến thương gọi Tướng Loan, dĩ nhiên là gọi sau lưng. Đứng nghiêm trình diện trước mặt người dù không có tội gì cũng đã thấy muốn...vãi đái trong quần, ở đó mà anh Sáu với lại anh Năm) đang ngồi binh xập xám ở phòng ngoài của Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, Tướng Loan đang nằm lim dim nghỉ trên một cái sofa ở phòng trong. Bọn "nhỏ" mê mẩn sát phạt nhau hung quá không nhận ra "Anh Sáu" đã thức giấc lúc nào và đang nhẹ nhàng như một con báo lướt ra khỏi cửa phòng. Người đứng nhìn đám đàn em thân thiết, tủm tỉm cười và nghĩ ra một trò chơi nhỏ mà sẽ làm cho mấy thằng em lên ruột lên gan chút chơi. Con người kinh khủng đó cũng có khiếu khôi hài lạnh quá đi. Ông lẳng lặng biến mất ra khỏi Tổng Nha CSQG, leo lên chiếc Jeep cùng tài xế nhấn ga dọt mất. Mãi một lúc sau, có một anh lính tình cờ nhìn vào bên trong, chiếc sofa trống trơn, Tướng Loan đã biến mất. Đám cận vệ nhốn nháo, mặt mũi xanh mét như tàu lá chuối vứt bài tứ tung la hoảng :" Ổng đi mất tiêu rồi! ". Cả bọn hối hả quơ súng ống chạy túa ra như bị ma rượt. Thiếu Tướng Loan dũng cảm trên chiến trường, nhưng cũng rất dồi dào tình yêu thương thuộc cấp. Khi thuộc cấp lầm lỗi, ông không trừng trị họ bằng những phương cách thô bạo, mà ông chỉ làm cho họ cảm phục quyết định và tự thấy xấu hổ trước vị chỉ huy của mình, từ đó họ sẽ sửa chữa và làm những công việc tốt đẹp để chuộc lỗi.

-- Ke Si Bac Ha (ke_si_bac_ha@yahoo.com), September 21, 2004


RFA * 30 THÁNG 4 -1975



Ảnh của Trần Khiêm:

Một khía cạnh khác trong sự kiện “Giải Phóng Miền Nam”
2010-04-24
Trong 35 năm qua, tuy đã có khá nhiều tài liệu, phim, ảnh liên quan đến giai đoạn cuối của cuộc chiến giữa hai miền Nam – Bắc được các bên có liên quan công bố, song người ta tin rằng, vì nhiều lý do, vẫn còn nhiều tài liệu, phim, ảnh khác về giai đoạn này chưa được bạch hóa.

Một trong những nguồn tư liệu thuộc dạng đó là bộ ảnh khoảng 200 tấm của ông Trần Khiêm, từng là cựu phóng viên của hãng truyền hình CBS và hãng ABC News của Hoa Kỳ tại Việt Nam, trước tháng 4 năm 1975.
Bộ ảnh vừa kể ghi lại những hình ảnh liên quan đến sự kiện Quân Đoàn 1 của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, cũng như dân chúng rút khỏi Huế và Đà Nẵng hồi cuối tháng 3 năm 1975, để rồi một tháng sau đó tới lượt Sài Gòn thất thủ.
Nhân dịp ông Trần Khiêm, 78 tuổi, quyết định trưng bày bộ ảnh này tại nhật báo Việt Herald, Nam California, Trân Văn đã phỏng vấn ông Trần Khiêm...

Hình ảnh về một sự thật khác

Đã có khá nhiều bài viết, tài liệu, thậm chí tiểu thuyết, tường thuật về cuộc triệt thoái của quân đội và dân chúng miền Nam khỏi Huế, rồi Đà Nẵng hồi hạ tuần tháng 3 năm 1975, song phim, ảnh ghi lại các diễn biến liên quan đến sự kiện này không nhiều. Cũng vì vậy, bộ ảnh của ông Trần Khiêm trở thành đặc biệt.
Bộ ảnh khắc họa chi tiết Huế ra sao khi cuộc triệt thoái diễn ra và Đà Nẵng hỗn loạn, ngổn ngang thế nào vào những ngày cuối cùng của tháng 3 năm 1975.
Một phần chạy về cửa Thuận An để tàu hải quân đón về Đà Nẵng, một phần thì đi thuyền, đi ghe vào Đà Nẵng, một phần nữa - phần chính là dân chúng rút về Đà Nẵng tị nạn qua con đường đèo Hải Vân.
Ông Trần Khiêm
Bộ ảnh này cho thấy một điểm đáng chú ý là trong cuộc triệt thoái đó, không chỉ có quân đội Việt Nam Cộng Hòa rút khỏi Huế và Đà Nẵng. Đi theo họ còn rất đông thường dân. Việc hàng chục ngàn người cả lính lẫn dân ngồi xe, đi bộ, gồng gánh tài sản, con cái, thậm chí dắt cả trâu bò rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả ông bà, cha mẹ, nói lên nhiều điều mà bút mực không thể diễn đạt thấu đáo.
Bộ ảnh còn minh họa các thảm cảnh xảy ra tại bãi biển Mỹ Khê, Đà Nẵng vào những ngày cuối cùng của tháng 3 năm 1975, vốn đã được nhiều bài viết, tài liệu, tiểu thuyết đề cập. Sau khi xem qua bộ ảnh này, chúng tôi đã đề nghị ông Trần Khiêm, tác giả bộ ảnh, dành cho thính giả của Đài Á Châu Tự Do ít phút:
Trân Văn: Ông đã thấy những gì vào thời điểm Quân Đoàn I phải bỏ Huế để rút vào Đà Nẵng?
Ông Trần Khiêm: Sự thật mà nói thì dân chúng và quân đội rất ngạc nhiên không hiểu tại sao.
Trước khi rút thì tôi có gặp Trung tướng Ngô Quang Trưởng một lần với ông Phó lãnh sự Mỹ ở Đà Nẵng. Trung tướng có nói rằng: “Chúng tôi không để mất Đà Nẵng vì chúng tôi có lệnh giữ từ đèo Hải Vân về phía Nam”. Ông hỏi tôi là: “Sao, có đi không?”. Tôi nói: “Nếu mà Trung tướng ở lại thì chắc tôi cũng phải ở lại”... nhưng mà không ngờ mất nhanh đến thế!
Khi Trung tướng về Đà Nẵng rồi thì đến ngày 20 dân chúng Huế bắt đầu tán loạn, mạnh người nào người đó đi. Tôi nghĩ do Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù rút ra khỏi Huế nên dân chúng hoảng hốt mà chạy theo. Một phần chạy về cửa Thuận An để tàu hải quân đón về Đà Nẵng, một phần thì đi thuyền, đi ghe vào Đà Nẵng, một phần nữa - phần chính là dân chúng rút về Đà Nẵng tị nạn qua con đường đèo Hải Vân.
Trân Văn: Ông nói dân chúng là tất cả dân chúng hay một phần dân chúng?
Ông Trần Khiêm: Tôi không xác nhận được. Những vùng ở thôn quê thì người ta không di tản nhưng mà thành phố Huế thì di tản 100%. Bằng chứng là tôi đã ghi nhận được bằng hình ảnh thành phố Huế bỏ trống.
Trân Văn: Thưa ông, ở thời điểm đó, phía bên kia đánh vào Huế chưa, hay cuộc rút lui bắt đầu do Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến rút ra khỏi Huế?
Ông Trần Khiêm: Lý do dân chúng hoảng hốt, dân chúng chạy vì Thủy Quân Lục Chiến với Nhảy Dù đã bỏ thành phố Huế mà rút đi trước.

Bóng ma trong quá khứ

Trân Văn: Trước đó, vào thời điểm đó và sau này, người ta vẫn nói rằng cuộc chiến do miền Bắc khởi xướng là cuộc chiến Giải Phóng Miền Nam, chống xâm lược Mỹ và chính quyền tay sai, thế thì tại sao dân chúng, vốn dĩ là đối tượng được giải phóng lại bỏ đi như thế?
Ông Trần Khiêm: Theo thiển ý của tôi, tôi nghĩ cái đó rất là phức tạp. Ngày đó có một phần dân chúng chờ đón Việt Cộng, một phần thì sẵn sàng chạy. Hai phe rõ ràng như vậy nhưng mà phe ở thành phố, phe mà người ta đi một cách mạnh mẽ là vì ảnh hưởng của Mậu Thân (1968).
Trân Văn: Điều gì đã xảy ra vào thời điểm Mậu Thân ở tại Huế?
Ông Trần Khiêm: Quân giải phóng đã giết nhiều người quá thành ra dân chúng sợ. Dân chúng sợ đến nỗi nghe nói chạy là chạy thôi, chẳng cần suy nghĩ nữa, tại vì những người còn sống sau Mậu Thân ở Huế thì sống một cách là sợ hãi, chết lúc nào không biết, giống như là đàn anh, đàn chị, đàn cha của họ đã bị chết đó nên họ sợ lắm.
Trân Văn: Số người chết năm Mậu Thân tại Huế khoảng bao nhiêu?
Ông Trần Khiêm: Theo người ta đồn miệng thì là 12.000 người nhưng mà theo tài liệu, báo chí thì vào khoảng 7.000 người.
Fact box
- Chiến dịch Mùa Xuân 1975 bắt đầu từ ngày 4 tháng 1 và kết thúc ngày 30 tháng 4 năm 1975.
- Mặt trận Huế-Đà Nẵng bắt đầu từ 21 tháng 3 đến 29 tháng 3.
- Có khoảng 587.000 thường dân Việt Nam chết trong cuộc chiến.
Trân Văn: Họ chết như thế nào?
Ông Trần Khiêm: Việt Cộng dẫn họ ra bãi cát và bắt họ tự đào hầm, lấy dao chặt đầu với lấy cuốc đánh vào đầu trước khi đạp xuống hố. Người nhà đi kiếm, đi ngang qua đó nghe dưới hầm rên và đất rung lên.
Trân Văn: Ông có mặt tại Huế vào năm 1968?
Ông Trần Khiêm: Tôi có mặt ở Huế vào sáng Mùng 2 Tết 1968, lúc đang đánh nhau.
Trân Văn: Đó là sau khi cuộc thảm sát đã diễn ra hay cuộc thảm sát đang diễn ra?
Ông Trần Khiêm: Sau khi cuộc thảm sát đã diễn ra rồi tôi mới tới.
Trân Văn: Thời điểm 1968 ông đến Huế vì lý do gì?
Ông Trần Khiêm: Vì là phóng viên được chỉ định đi.
Trân Văn: Như vậy cuộc thảm sát Tết Mậu Thân là chuyện có thật?
Ông Trần Khiêm: Một trăm phần trăm có thật. Khi đào xác lên tôi còn quay phim, chụp hình được nữa.
Trân Văn: Theo ông thì sự kiện dân chúng Huế bỏ xứ vào Nam là có nguyên nhân sâu xa từ những ấn tượng kinh hoàng mà họ đã từng chứng kiến, đã từng biết vào năm 1968?
Ông Trần Khiêm: Thưa ông đúng vậy, chắc chắn 100% lòng dân Huế là như vậy đó.
Trân Văn: Ông là người Huế?
Ông Trần Khiêm: Tôi là người Huế.

Thà chết chứ không muốn được “giải phóng”

Trân Văn: Thưa ông, bây giờ quay trở lại với sự kiện năm 1975, khi mà lực lượng Dù và Thủy Quân Lục Chiến rút khỏi Huế, người dân đi theo như thế nào? Ông đã thấy những gì?
Ông Trần Khiêm: Đa số dân đi theo Thủy Quân Lục Chiến, với Dù, với quân đội là mượn đường để đi theo lính. Sự thật thì họ cũng chẳng muốn đi theo lính vì đi theo lính có thể bị phục kích nhưng mà họ phải theo, coi như lính mở đường cho dân chúng đi.
Trân Văn: Trong những tấm ảnh ông chụp ở thời điểm đó, tôi thấy có khá nhiều phụ nữ, khá nhiều trẻ em bị thương và bị chết. Tại sao họ lại bị thương và bị chết?
Ông Trần Khiêm: Lúc đó khi dân chúng chạy lẫn lộn với lính. Sự thật là lính chạy thì dân chạy theo. Họ đi không định hướng hoặc phải đi bao nhiêu ngày hoặc phải đi như thế nào, đường mở rồi là đi thôi nhưng mà không ngờ là Việt Cộng chận lính.
Quân giải phóng đã giết nhiều người quá thành ra dân chúng sợ.
Ông Trần Khiêm
Trân Văn: Trên đường ông đi từ Huế vào Đà Nẵng cùng với lính và dân thì có khoảng bao nhiêu cuộc phục kích đã xảy ra?
Ông Trần Khiêm: Tôi chứng kiến được hai cuộc phục kích, một xảy ra ở Đá Bạc, Huế, trước khi lên đèo. Cuộc phục kích chớp nhoáng thôi nhưng cũng làm thiệt hại một số lính Thủy Quân Lục Chiến và một số dân. Rồi hai ngày hôm sau, khi mà đoàn quân bắt đầu xuống đèo Hải Vân thì...
Trân Văn: Đoàn quân hay đoàn người ?
Ông Trần Khiêm: Đoàn người! Cả lính và dân cùng đi, gần xuống đèo Liên Chiểu thì bị pháo kích và họ bắt đầu tấn công thêm một lần nữa. Lần này là lần lớn nhứt, thành ra các vị đã thấy trong hình, đàn bà, trẻ con và lính chết cũng khá nhiều.
Trân Văn: Như vậy là họ pháo vào đoàn người bằng đại bác và tấn công trực diện bằng bộ binh?
Ông Trần Khiêm: Họ không dùng đại bác nhưng mà họ dùng mortier (súng cối) 82mm, 81mm và B-40.
Trân Văn: Bắn trực diện vào đoàn người?
Ông Trần Khiêm: Bắn trực diện. Họ ở hai bên đèo, đoàn người đang đi ở giữa đường, thành ra khó chống đỡ lắm.
Trân Văn: Nạn nhân chủ yếu sau những cuộc phục kích đó là ai? Là lính hay là dân?
Ông Trần Khiêm: Là lính. Họ không nghĩ là giết dân. Họ muốn chặn dân ở lại thôi, họ không cho đi theo lính hoặc là không muốn bỏ trống thành phố, tại vì họ nghĩ rằng, nếu chiếm được đất mà không chiếm được người thì cũng vô ích thôi. Nên chi cả hai trận đánh đó mục đích là chận dân lại ở với họ thôi.
Trân Văn: Thế còn Đà Nẵng thì sao? Khi đoàn người rút về đến Đà Nẵng thì tình hình Đà Nẵng vào thời điểm đó như thế nào?
Ông Trần Khiêm: Khi mà lính vào Đà Nẵng thì thành phố rất là hỗn loạn, đông nghịt người. Người nào cũng biết là thế nào cũng mất Đà Nẵng rồi thành ra người nào cũng lo kiếm phương tiện.
Từ ngày 25 cho tới 28, sân bay Đà Nẵng là một sự lộn xộn không thể nói được. Một phần thì pháo kích, một phần thì dân chúng đổ xô vào sân bay, máy bay không đáp được. Một lần máy bay đáp được thì coi như máy bay bị ăn cướp, người ta tha hồ dắt nhau lên, đến nỗi có nhiều người kẹp vào chân máy bay để ra đi.
Còn thuyền thì như là thương thuyền Trường Thành, dân chúng tràn lên không ai có thể cản được, đến nỗi con thuyền nghiêng gần chìm, quan tàu phải nói, một là bỏ con thuyền, hai là quý vị muốn chạy thì phải bớt người xuống. Những người nào không lên được thì chịu thôi.
Trân Văn: Trong tình trạng hỗn loạn đó thì nạn nhân chủ yếu là đối tượng nào?
Ông Trần Khiêm: Lúc đó thì cả dân và cả lính giống nhau.
Trân Văn: Hồi nãy, trong phần đầu cuộc trò chuyện, ông có nói, sở dĩ dân chúng thành phố Huế bỏ đi vì họ bị ám ảnh bởi cuộc thảm sát đã từng xảy ra vào Tết Mậu Thân, năm 1968, Đà Nẵng thì chưa từng có cuộc thảm sát nào như thế. Vậy tại sao dân chúng Đà Nẵng cũng muốn bỏ đi để dẫn đến tình trạng là mọi người tranh giành nhau phương tiện, nhằm tìm cách thoát ra khỏi Đà Nẵng?
Ông Trần Khiêm: Miền Trung có sự liên hệ dây chuyền: Huế - Đà Nẵng - Quảng Trị. Ví dụ như năm 1972, Quảng Trị mất thì dân chúng Quảng Trị dồn vô Huế. Bây giờ Huế mất thì dân chúng Huế dồn vô Đà Nẵng. Đà Nẵng cũng nhiều rồi mà dồn thêm cả hai tỉnh miền Trung là cả Huế cả Quảng Trị thì là quá nhiều rồi, thành ra vì lẽ đó ...
Trân Văn: Nói chung, theo ông sở dĩ cuộc di tản trở thành hỗn loạn, sở dĩ có tình trạng người ta giành giật phương tiện để thoát ra khỏi Đà Nẵng là vì người ta sợ phải sống chung, sợ sự hiện diện của quân đội Bắc Việt?
Ông Trần Khiêm: Cái đó thì tôi không khẳng định, tôi không dám nói nhưng mà hầu hết là người ta sợ chuyện sẽ xảy ra lần thứ hai như Mậu Thân.
Một phần thì pháo kích, một phần thì dân chúng đổ xô vào sân bay, máy bay không đáp được. Một lần máy bay đáp được thì coi như máy bay bị ăn cướp, người ta tha hồ dắt nhau lên, đến nỗi có nhiều người kẹp vào chân máy bay để ra đi.
Ông Trần Khiêm
Trân Văn: Trong những ảnh ông chụp và là những tấm ảnh lần đầu được công bố, người ta thấy bãi biển Mỹ Khê ở Đà Nẵng rất hỗn loạn và sau đó thì hết sức ngổn ngang.
Điều gì là ấn tượng đậm nhất cho ông trong giai đoạn cuối tháng 3 năm 1975?
Ông Trần Khiêm: Sự kiện làm cho tôi khủng khiếp nhứt, không làm sao tôi quên được là từ ngày 28 cho đến ngày 29 tháng 3, tôi chứng kiến trẻ con và dân chúng rớt xuống sông nhiều quá, khi giành nhau để leo lên con thuyền. Họ rớt xuống sông trong đêm tối và nước chảy xiết quá, rồi trôi mất, người ta chỉ đứng trên tàu khóc lóc và la ó thôi chứ không làm gì được cả.
Vào lúc 2 giờ 30 chiều ngày 28, con tàu bắt đầu rời bến mang theo 12.000 người đi về Nam ...
Trân Văn: Tại sao theo đoàn người di tản từ Huế vào đến Đà Nẵng, tận mắt chứng kiến nhiều thảm cảnh trên con đường di tản nhưng ông lại không công bố những hình ảnh ông đã chụp, phải đợi cho đến ngày hôm nay ?
Ông Trần Khiêm: Thưa anh, đó là nỗi khổ tâm của tôi. Tôi mà “show” (trưng bày) lên thì coi như bôi nhục chính phủ... Vì vậy mà tôi nghiến răng, tôi giữ cho đến ngày hôm nay.
Đã 35 năm qua rồi, nó nguội lạnh rồi, tôi khơi lại một tí để cho con cháu nó biết là mình khổ như vậy, mới có sự ra đi như thế này. Mình phải trả giá thật đắt. Cha ông chúngta phải trả giá quá đắt.
Theo dự tính, cuộc triển lãm bộ ảnh ghi lại những hình ảnh liên quan đến sự kiện quân đội Việt Nam Cộng Hòa, cũng như dân chúng rút khỏi Huế và Đà Nẵng hồi cuối tháng 3 năm 1975 của ông Trần Khiêm sẽ diễn ra trong ba ngày, từ 30 tháng 4 đến 2 tháng 5, tại hội trường nhật báo Việt Herald, Nam California, Hoa Kỳ.
Quý vị có thể xem qua một số hình ảnh trong bộ ảnh này trên trang web của Ban Việt ngữ Đài Á châu Tự do.

Theo dòng thời sự:



THƠ Ý NGA




NGƯỜI “MAY” ÁO QUAN

Viết thay nén hương đưa tiễn một Người Lính.
Tôi là lính ra tù không manh áo
Vượt qua bao lửa máu tìm bình an,
Mưu sinh nghề đánh bóng những áo… quan

Đổi bát gạo nuôi đàn con nheo nhóc.
Mỗi chiếc “áo” làm ra tôi đều khóc
Nhớ bạn bè đất Bắc da bọc xương
Chiếu rách tìm, dù nhỏ hẹp tầm thường
Cũng không có bọc xác thân cùng cực.
Tay xóc dằm, gò từng manh… ký ức
Đóng, đục, cưa cho người lạ nằm vừa,
Lót vải êm bao hòm gỗ cài hoa
Và nước mắt cứ ứa… ngày bi lụy.
Tôi sáng, tối gò từng manh gỗ quý
Thương bạn thân, những thằng đã ra đi
Xót vợ hiền tần tảo bao hiểm nguy
Nuôi con dại chờ chồng, không thấy mặt.
Ngày em mất trời mưa râm bi đát
Hai thằng con ráp những mảnh ván giường
Giữa ruộng nương “kinh tế mới”, thắp hương
Nhường mẹ… ngủ bình an nơi cõi Phật.
Tôi may áo, áo cho người hoàn tất
Mà dân tôi áo rách đỏ “thiên đường”
Người lạ xa, thân được tẩm thơm hương
Xong một áo, áo nào tôi cũng khóc!
Tôi may áo bằng mưu toan đại cuộc
Buộc thân tàn phải âm ỷ lòng son
Dạy các con: -Chiếc Áo Mộng chưa tròn
Còn ấm áp, phải yêu hoài Tổ Quốc!
Ý Nga, 2.1.2010.
EM ƠI! MẸ ĐI TÌM… BA RỒI!
Kính dâng hương linh Nhạc Mẫu
Anh mất mẹ, mùa đông buồn áo não
Giọt lệ nào diễn tả hết lòng đau?

Nghĩa ân sâu… ngân nốt nhạc nghẹn ngào
Anh mất Mẹ! Từ nay xa vĩnh viễn!
Mới thăm viếng, còn nghe lời trìu mến
Lời mắng yêu còn thơm tựa hương hoa
Mà giờ đây Thân Mẫu về trời xa
Thế là hết! Mẹ tìm… Ba, thong thả.
Đường Sinh-Tử, lẽ huyền vi sự sống
Em này em! Có ai cưỡng được không?
Em này em! Tiễn Mẹ, nghe mềm lòng
Chiều gió lộng, hướng nào anh thưa gửi????
Ý Nga.


LAM VI DAO * BIDONG

Những Kỷ Niệm Bidong

by Lamvi Dao.

“Đã có nhiều lần thức dậy trong đêm khuya, những ngày mưa lớn nhỏ, hoặc là những ngày nắng chói chang, tôi muốn gào thét lên: Pulau Bidong. Tôi muốn kêu tên Pulau Bidong thật to và mãi mãi. Tôi muốn kêu tên những người bạn cũ: Hân ơi, Trang ơi, Nhật ơi, Đạt ơi, các bạn đâu rồi? Tôi muốn cầm lại cái xô nước Supply, cái chén, cái muỗng, uống một gụm suối mát. Và tôi muốn quay lại với những hình bóng xưa, những âm thanh năm nào, cảnh vật xưa: hàng dừa, mái tôn, hạt cát. Tôi mong đợi ngày đó sẽ đặt chân lên cầu Jetty, ôm Bidong vào lòng, và sẽ nói “Bidong, anh đã về đây.”
Tuy tôi không phải là người cuối cùng rời khỏi Bidong nhưng trong lòng lúc nào cũng hướng về hòn đảo dấu yêu này qua những năm tháng lớn lên ở Mỹ. Vâng, không khác gì các bạn, trong lòng tôi có rất nhiều kỷ niệm khó mà quên được suốt thời gian “vacation” ở Bidong. Những kỷ niệm đó cứ lẩn quẩn đâu đây mặc dầu tôi đã xa Bidong vào một buổi sáng ngày nào. Có nhiều khi nhắm mắt, tôi cứ tưởng là mình vẫn còn ở Bidong. Gió thổi những lá dừa xào xạc.
Bidong, tuy xa nhưng anh vẫn nhớTội nghiệp em đêm khóc một mìnhKhông bến không tàu như ngày xưa đóChỉ có gió mưa, nắng cháy da người.(Lâmvi 2003, USA)

Vì để tiếp tục hành trình về “miền đất Freedom”, chúng ta đã tạm giã từ Bidong qua những ngày đầu sống xa quê hương, những ngày lênh đênh trên biển cả. Có người chỉ sống 1 hoặc 2 tháng với Bidong, nhưng cũng có người đã từng sống hơn 5 năm trên hòn đảo này. Nhưng chỉ cần một ngày ở với Bidong, chúng ta đã có biết bao ký ức với hòn đảo và với những đồng bào cùng chung số phận.
…Bidong giờ này ra sao rồi? Em có phải đang sống với những cây dừa cao vời vợi, với những ngôi mộ thiếu người chăm sóc, và những cái giếng đầu ngỏ longhouse hôm nào. Chắc em đã thiếu hẳng đi những âm thanh quen thuộc vào những buổi sáng và những cảnh chiếc tàu cập bến sau 4, 5 ngày lênh đênh trên biển Thái Bình Dương…từ Việt Nam..Bidong, tôi nhớ em nhiều lắm!Lâmvi,
Khi hồi tượng lại những cảnh Bidong, tôi cảm thấy mình như là cậu bé 14-15 tuổi của ngày nào trên một hòn đảo hoang dại. Cậu bé đó đã có những chuỗi ngày vui vẻ nhất trong đời suốt gần 3 năm “nằm chung với rệp, muỗi và chuột”. Tuy sống trong một hoàn cảnh rất là eo hẹp so với hiện tại, cậu ta ngày nào cũng vui vẻ với đời sống Bidong: xếp hàng lấy nước Supply, xếp hàng ở Khối Tiếp Liệu, học Anh ngữ, tham gia Thiếu Nhi Thánh Thể, đá banh, tắm biển, tắm suối, lên núi đốn củi, ăn mì gói …
Đối với cậu ta, những chuỗi ngày này là thời gian thoải mái và cũng là thời gian quí báu nhất của một đời người vì cậu đã nghe, nhìn và học hỏi những gì mà “15 năm sống trên nước Mỹ cũng không bằng 3 năm sống trên đảo”. Một cuộc sống có một không hai trên thế gian này đã dạy cậu ta những bài học đời xứng đáng.Sáng ăn mì gói, trưa có mẹ nấu cơm, chiều thì ra biển đá banh, câu cá, săn mựt, tới tối thì cùng các bạn tụ hợp ngoài biển cát mà tâm sự táng dóc. Hồi đó thật là vui đấy! Đời sống vô tư không lo âu chuyện gì cả. Nếu có đói bụng trước khi đi ngủ, một hay hai gói mì sẽ làm cậu ta thấy sảng khoái vô cùng. Còn nếu mà có đường thì hết chổ chê luôn, chúng ta sẽ có một nồi chè đậu xanh vừa thổi vừa ăn.

Cuộc sống hằng ngày của cậu bé ở đảo Bidong cứ như thế, cho đến khi có những chuyến tàu rời đảo mà lòng cậu thấy bâng khuâng, bịnh rịnh. Cậu bé chia tay từng thằng bạn, cô bạn được định cư nước thứ ba tại cầu Jetty và nhiều lần cậu bé ấy đã nhủ thầm “Không biết khi nào chúng mình sẽ gặp lại nhau, khi nào đây?”.
“Ngày mai em đi,biển nhớ tên em gọi vềgọi hồn liễu rũ lê thêgọi bờ cát trắng hoang vu…”
Tomorrow as you leave,the sea misses and recalls your name to return…Calling of your soul like a trailing willowCalling the white-sand bank in the wilderness(Bển Nhớ – Trịnh Công Sơn)
Thằng Đạt đi Na Uy, con Nhật đi Hoà Lan, con Hà đi Thụy Sĩ, thằng Hân, con Trang thì đi Mỹ. Còn thằng Sáu mập? bị trả về Việt Nam cùng với bố nó. Cứ như thế mà bạn bè cậu ta ở đâu cũng có trên trái đất này. Sáu mập, giờ này mày ra sao?
Và một ngày kia, cậu bé đó cũng phải giã từ Bidong: lòng buồn biết bao. Định mệnh của những người ở lại vẫn còn đỏ đen sau ngày đóng cửa đảo. Ngôi nhà thờ kia đã dạy cậu ta biết bao điều chân lý. Tiếng chuông chùa vẫn còn vang bên tai.À, nhớ ra rồi, khi đêm về, chuột bò đầy đường, con nào con nấy bự như con mèo vậy. Nếu có mèo trên đảo, chắc là các chú mèo không sống được bao lâu với bầy chuột “đảo”, chỉ có cách là chạy lên núi làm mưa làm gió với các chú chuột rừng mà thôi. Nhưng mà ai bảo có nhiều chuột là xấu đâu. Nhờ vì vậy mà gia đình cậu ta có thêm sữa, mì gói, đậu xanh và đường.
Các bạn có biết không, khi đêm về mọi người đang trong giấc ngũ, cậu bé đó cùng với chú Nam, trở thành những tay thiện xạ cao thủ mà chuột thấy là hoảng sợ chạy toán loạn. Cháu một cây súng, chú một cây súng, hai chú cháu đã bắn hạ từng con chuột trong khi chúng còn đang phân vân tự hỏi “hai thằng không ngũ, mà đang làm chi vậy?”. Chỉ cần hai giây thôi: 1 giây, 2 giây, mũi tên xuyên qua mình những chú chuột. Có chạy cũng bằng thừa thôi, vì mũi tên đã được buột giây, thế là chú cháu kéo mũi tên lại và lại có một chiến lợi phẩm nữa để đem đi đổi lấy đồ ăn.
Cũng vì vậy mà có một lần chú Nam bắn hụt một con chuột, mũi tên đâm lủng cái nồi cơm của một người nào đó ở chung longhouse. Qua ngày sau, chú Nam hì hụt lấp lại cái nồi đó cho người ta. Cậu bé đó cũng đâu chịu thua, Có lần, cậu ta bắng lủng cái thùng nước của người nào đó trong khu thanh nữ (Women Zone). Hên là các bà đang ngũ say, nên cậu ta âm thầm rút mũi tên ra, lẻn về nhà, mặc kệ cái thùng nước lủng ấy. Thật là xấu hổ!
*

Tháng ngày trên Pulau BidongTúy BạchƯớc mơ đến đảo Pulau Bidong an toàn như một giấc chiêm bao được thành sự thật. Có biết bao người ra đi nhưng chưa bao giờ đến, mất biệt tăm hơi. Tôi không thể diễn tả hết cảm xúc của mình về những gì đã xảy ra trong hành trình vượt biển gian nguy này. Ðôi khi, nhìn ra biển khơi, sóng vỗ rì rào không ngừng nghỉ. Tôi thiết nghĩ, hơi thở con người ta lúc nào cũng phải điều hòa theo nhịp đập của con tim. Sóng biển sẽ không bao giờ ngừng chuyển động. Hơi thở loài người khi ngưng đập nghĩa là ta phải từ giã cõi đời này. Biển mà không dồn dập thôi thúc bởi những lượn sóng muôn trùng thì không còn được gọi là biển mênh mông nữa, mà là con sông hiền hòa phẳng lặng.Bầu trời vẫn trong xanh lồng trong những đám mây bàng bạc lững lờ trôi trên đỉnh đầu. Rất đẹp và nên thơ. Khi lênh đênh trên biển cả bao la, tôi chẳng thấy lòng mình mơ mộng chút nào hết. Có lẽ lúc đó, đầu óc hoang mang lo sợ của tôi không có thời giờ để ngắm nghía bâng quơ mà chỉ thấy cái chết và sự sợ hãi đeo đuổi bám sát theo mình như đang hù dọa sẽ đem tôi nạp mạng cho vua Thủy Tề.Giờ đây, ngồi trên bãi cát vàng mịn màng của đảo Bidong, tâm trạng của tôi thật sự thanh thản như đang bay bổng trên thiên thai vì vừa được sống lại từ cõi chết.Tôi được cho về ở chung nhà với bốn trẻ nhỏ sẽ đi định cư nước Pháp, trong khu B, nơi có màn ảnh chiếu phim giải trí trên đảo. Khu B nằm gần văn phòng Task Force của lính Mã Lai. Từ đây chỉ cần vài bước thì ra tới chợ, rất tiện lợi. Ba ngày đầu đặt chân lên đảo tôi bị say đất chỉ muốn nôn ói, đi đứng chao đảo lật nhào vì bị chóng mặt, đầu óc cứ quay cuồng như vòng tròn xoay ba trăm sáu mươi độ.Những ngày bồng bềnh trên biển thì ói ra tới mật xanh mật vàng vì say sóng. Ðó là phản ứng bất ngờ khi người vừa từ đất liền yên bình, bây giờ lại nằm ở vị thế ngã nghiêng chồng chành. Khi đặt chân lên bờ thì trạng thái trái ngược lại, được gọi là bị say đất. Tôi nằm mẹp suốt ba ngày liền, không đi đứng gì được vì đất trời múa may trước mặt mình. Bọn trẻ chung nhà thấu hiểu nỗi khổ này vì chúng cũng đã trải qua tâm trạng dập dùi như tôi khi vừa đặt chân lên đảo lúc xưa. Bé gái khoảng mười lăm tuổi đã nấu cơm cho tôi ăn lót dạ, nhưng tôi nào có ăn được gì đâu. Cơn chóng mặt hoành hành như chong chóng quay vù vù trước ngọn gió bão giông. Tôi chỉ cố nằm nhắm mắt thiêm thiếp ngủ cho qua khỏi ba ngày điên đảo. Cái bụng của tôi cũng không biết đói là gì. Có lẽ, bao tử cũng còn co thắt lại y như những ngày đói rã rời trên biển.Mọi người vừa nhập đảo phải lo thủ tục xin đi định cư nên thời gian sáng chiều đều bận rộn ở văn phòng cao ủy. Nơi đó có phái đoàn Cao Ủy làm việc để biết rõ nguyện vọng và tình trạng của mỗi người.Ba ngày bay bổng lơ lững trên mây đã qua, mọi người trên ghe bắt đầu ra văn phòng cao ủy tị nạn xúc tiến thủ tục đi định cư. Thời gian sàn lọc để được vào Mỹ là khó nhất, có người phải chờ vài năm để được đi theo diện “ hốt rác “ vì không nằm trong diện ưu tiên của Mỹ. Những người có gia đình thì chính phủ Úc cho định cư nhanh hơn. Canada xét duyệt khó khăn vì bệnh trạng phải được kiểm tra rất kỹ lưỡng. Chụp hình phổi là điều tiên quyết phải có và phổi phải thật tốt, không dấu vết gì mới được Canada chấp nhận đinh cư vì xứ quá lạnh rất nguy hiểm cho người có phổi bị yếu.Trên đảo Bidong có bệnh viện Sick Bay do chính phủ New Zealand đài thọ, bỏ tiền ra xây cất. Hội Hồng thập Tự của New Zealand cũng đề cử một người ở lại coi sóc Sick Bay . Người phụ trách thường trực để giải quyết mọi vấn đề của Sick Bay là một y tá người Tân Tây Lan. Y tá này cũng la nữ tu có trách nhiệm trông coi Sick Bay với nhiệm kỳ là hai năm.Ban ngày, mỗi khi văn phòng đảo loan tin trên loa phóng thanh có ghe đang tiến vô bờ thì mọi người trong tất cả các khu đều đổ xô, túa tràn ra văn phòng trại để kiếm tìm người thân. Bãi biển ồn ào nhộn nhịp khi có ghe nhập đảo. Ðêm trôi qua êm đềm, bóng tối bao trùm tĩnh mịt, cánh gió rượt đuổi nhau không mệt mõi trên đảo. Cảm giác không khí Saigon còn ràn rụa trong tôi nhưng giây phút này nó đã thật sự xa tầm tay và không thể vói tới được nữa. Vầng trăng trên vòm trời đen trong, lấp lánh những vì sao rơi rụng sẽ là chứng nhân thầm lặng - giã từ Quê Mẹ.Trên đảo, đá đồi chập chùng rất khó đi đi lại lại nên ai ở đâu thì nằm yên trong nhà. Những cây dừa cao chót ngót, cong vẹo uốn mình theo cơn gió biển dạt dào. Thân cây ốm nhỏ khẳng khiu như không đứng vững với đêm thâu, lắc lư chao đảo làm rơi rụng những trái dừa tội nghiệp khi sức bám víu quá yếu ớt, đành buông xuôi xuống đất.Thỉnh thoảng nghe tiếng động ... rầm rầm . Sáng ra mới biết trái dừa buồn thỉu buồn thiu thả mình vô lối. Nếu vô tình trúng ngay đầu người nào thì có thể chết ... dể dàng.Ông bà mình có câu: “ Trời kêu ai nấy dạ ”!Có những đêm khuya vắng lặng, ngoài tiếng sóng vỗ rì rào và tiếng rít tru tréo của gió biển, loa phóng thanh loan tin inh ỏi: “Có ghe cập bến, xin mời các bạn trong văn phòng trại lên làm việc”. Sáng sớm mọi người lại đổ xô, túa ra văn phòng trại để dọ tìm tên người quen vừa đến đêm qua. Danh sách tên họ quê quán, nơi ghe phát xuất được dán trên vách để mọi người biết được tin tức nóng hổi.Thường thường Cao ủy tị nạn từ Kuala Lumpur theo tàu Blue Dark vào đảo, đem theo danh sách định cư và được phóng thanh vào mổi buổi sáng thứ bảy .– Chú ý ... chú ý!– Danh sách rời đảo - danh sách rời đảo.- Mỹ.- Úc.- Canada. v.v...Buổi sáng những ngày có người rời đảo, văn phòng trại đều cho phát thanh trên loa thật lớn bài nhạc “Biển nhớ “ thật buồn nghe não nuột chia ly. Người ra đi định cư, mừng vui khôn tả. Người ở lại buồn nhớ ray rức người ra đi. Nỗi buồn này đôi khi cũng là cái buồn cho chính thân phận bấp bênh của mình chưa được quốc gia nào đón nhận cho đi định cư. Tôi cũng chứng kiến một số người nằm ù lì trên đảo bốn hay năm năm mà vẫn chưa được bất cứ một quốc gia thứ ba nào chấp nhận. Họ khao khát ngày rời đảo như người du mục trên sa mạc luôn mãi kiếm tìm ốc đảo để xin được hớp vài giọt nước mát ngọt ngào trong cơn đói khát gần như gục ngã vì đuối sức.Thời gian trên đảo cũng có nhiều chuyện vui buồn xảy ra trước mắt mình. Có những chuyện thật linh thiêng xảy ra giữa lòng đại dương sâu thẳm. Có lẽ, huyền bí này chỉ được giải thích bằng tâm linh mà khi nghe xong mình phải công nhận có linh hồn. Không thể chối cãi là trên thế gian trần tục này vẫn có những oan hồn vất vưỡng cho ta những báo mộng lành để tránh nguy hiểm trên đoạn đường hải hành sắp đến.Một chiếc ghe xuất phát từ Nha Trang ra khơi được ba ngày thì gặp bão lớn. Sóng biển cao chất ngất vài chục thước, rơi xuống phủ ngập đầu, đánh đổ vào chiếc ghe mong manh không chút thương tâm. Mỗi khi sóng chuyển động quay cuồng, ghe bị hốt theo lên đỉnh đầu con sóng rồi lại bị vùi dập chìm sâu dưới đáy tận cùng của con sóng đang giận dữ hung hăng. Giây phút đó ghe nằm sâu trong lòng đại dương. Văng vẳng bên tai, mọi người trên ghe đều nghe tiếng khóc lóc rên rỉ lạnh quá , than thở ai oán ... cứu mạng .... và cũng có những tiếng hát hò ... ầu ơ ru con ngủ!Âm thanh đó đến từ đâu khi chung quanh chỉ là sóng xoay xoáy cuồng điên giữa lòng biển sâu thăm thẳm ?.!Tất cả đều là những oan hồn ở cõi âm bên kia thế giới!!Sau khi vượt thoát được cơn thập tử nhất sinh, tôi lúc nào cũng nghĩ mình đã được những đấng thiêng liêng cứu mạng cho sống lại một lần nữa. Cuộc đời rất ư là ý nghĩa đối với tôi bây giờ. Những buổi chiều mỏi mắt nhìn ra biển khơi, khúc phim hãi hùng dần dần quay lại từng chi tiết thương đau. Những con sóng bạc đầu to lớn, đập mạnh vào bờ gào thét rồi tự mình tan rã thụt lùi ra đại dương lạnh ngắt, buồn cho thân phận bọt bèo tạm bợ.Ầm ầm tiếng sóng bâng khuâng đưa tôi trở về thực tại và trước mắt là vùng trời sáng ngời sắc hồng đang vẽ vời những con đường hoa mộng, lót thảm cỏ thơm, sắp sửa trồng xuống những thân cây đời bôn ba vạn nẻo. Cây sẽ đâm chồi xanh lá , tàng xoe tròn gom bóng mát, sum suê cành nhánh chằng chịt đan vào nhau vươn lên ngàn tia hy vọng, đơm kết nụ hoa yêu đời, nở sanh trái ngọt ngào hun đút những hạt giống tốt tươi. Trăm ngàn cây đời bé tí, nhỏ nhắn xinh xắn thông minh được gieo trồng trên phần đất nhiều hứa hẹn và rất phì nhiêu. Trên mặt đất chan hòa màu mỡ, những cây đời bé con này sẽ vươn cao với thân hình ươm tròn sức sống.Lớp trẻ với bao kỳ vọng của cha mẹ sẽ sừng sững đứng vững giữa trời xứ lạ, không sợ một sức ép khổ đau nào mà Cha Mẹ mình phải trải qua và gánh chịu trên bước đường gian nguy đi tìm mạch sống !!Ngày rời đảo, tôi thật vui mừng nhưng lòng có chút bùi ngùi với hòn đảo cô quạnh nằm lạc loài chơ vơ như đứa con trôi dạt bị bỏ rơi của dãy đất liền chắc nịt phồn hoa trong kia . Như hiểu được cùng một tâm trạng bị bỏ rơi này, hòn đảo Pulau Bidong hiền từ nhân ái đã mở cửa lòng ôm trọn những thân phận tha hương với đôi chân liêu xiêu lạc lỏng giữa trời bến lạ. Nhiều đêm dài tá túc trong những căn nhà đơn sơ giản dị nhưng trong lòng mọi thuyền nhân vẫn trào dâng một niềm diễm phúc trời ban cho - Chúng ta vẫn còn đây !!!Ngày rời đảo đã đến!Tôi đang chờ xuống tàu Blue Dark để đi về Kuala Lumpur .Văng vẳng bên tai tôi một bảng nhạc nghe thân quen. Tôi đứng trên cầu Jetty chờ đợi , bài “ Biển nhớ “ sao buồn quá, có lẽ rất thích hợp trong hoàn cảnh bịn rịn này cũng như để vẫy tay chào biệt vùng đất tạm dung đã nuôi sống những thân cây khô héo gần như úa tàn vì mỏi mòn kiệt sức. Những thân xác gầy gò khô cằn, có khi chỉ còn là những bộ xương biết đi đã được vun tưới và tắm ướt bằng những dòng nước mát ngọt ngào diệu kỳ trên đảo Bidong, dần dần được hồi sinh theo nhịp thở thời gian. Những sợi nước hy vọng tuôn chảy trong từng tế bào, mạch máu người tha hương làm xanh mát kiếp nhân sinh vừa được cứu sống, tồn tại sau bao bão giông của phong ba cuộc đời .Ngoảnh nhìn lại hành trình vượt biển đã trải qua, tất cả thuyền nhân có cùng tâm trạng ly hương đều phải tri ân trời cao biển lớn đã bao dung mở rộng vòng tay thiêng liêng để che chở cho chúng ta được sống sót sau lần thập tử nhất sinh.Xin chào biệt Pulau Bidong!Xin cám ơn những hạt cát vàng dễ thương trên đảo đã cho đôi chân lạc bước dẫm lên để tôi cảm nhận được cái mịn màng tuyệt diệu, cái yên bình thanh thản.Rung cảm này tuy vô hình trừu tượng nhưng tôi đã phải trả giá bằng cả tánh mạng của mình trên biển ... để đi tìm.Pulau Bidong là ngưỡng thiên đàng mà tôi phải đi qua để có thể bước vào cuộc đời mới.Một trang sách mới được lật qua.Ðó là khung trời Tự Do.Sẽ nhớ mãi hết kiếp này!!Ngày mai em đibiển nhớ tên em gọi vềgọi hồn liễu rũ lê thêgọi bờ cát trắng đêm khuyaNgày mai em điđồi núi nghiêng nghiêng đợi chờsỏi đá trông em từng giờnghe buồn nhịp chân bơ vơNgày mai em đibiển nhớ em quay về nguồngọi trùng dương gió ngập hồnbàn tay chắn gió mưa sangNgày mai em đithành phố mắt đêm đèn mờhồn lẻ nghiêng vai gọi buồnnghe ngoài biển động buồn hơnHôm nào em vềbàn tay buông lối ngỏđàn lên cung phím chờsầu lên đây hoang vuNgày mai em đibiển nhớ tên em gọi vềtriều sương ướt đẫm cơn mêtrời cao níu bước sơn khêNgày mai em đicồn đá rêu phong rủ buồnđèn phố nghe mưa tủi hờnnghe ngoài trời giăng mây tuônNgày mai em đibiển có bâng khuâng gọi thầmngày mưa tháng nắng còn buồnbàn tay nghe ngóng tin sangNgày mai em đithành phố mắt đêm đèn vàngnửa bóng xuân qua ngập ngừngnghe trời gió lộng mà thương.Túy BạchFountain Valley - Nam CaliforniaViết cho tháng 4 - 2009
Copyright © 2008


Posted by sontrung at 6:59 PM 0 comments
Labels:

Saturday, April 24, 2010


TRẦN BÌNH NAM * CHÍNH LUẬN

Suy nghĩ tản mạn về ngày 30 tháng 4

Trần Bình Nam
Ba mươi lăm năm trước, vào ngày 30-4, cuộc chiến tranh nóng Bắc - Nam kéo dài 10 năm (1965-1975) chấm dứt. Hàng trăm ngàn người Việt Nam bỏ nước ra đi. Sĩ quan, công chức cao cấp của chế độ miền Nam đi tù, tạo nên cảnh ly tán trong gia đình và xã hội. Đó là hậu quả của chiến tranh mà lịch sử nước nào cũng có lần phải trải qua. Nếu hôm nay, sau 35 năm hòa bình, chính quyền cộng sản đã thành công xây dựng một nước Việt Nam phồn thịnh, bên trong có nội lực bảo vệ quốc gia, bên ngoài được sự kính nể của thế giới thì có lẽ những người Việt không may (hay may mắn tùy theo quan niệm mỗi người) sống xa quê hương sẽ chấp nhận cơn đau của lịch sử, yên tâm xây dựng tương lai cho con cháu ở nước ngoài, và lòng cùng hướng về quê hương đất nước.

Không may, Việt Nam hôm nay không được như vậy. Xã hội xuống cấp trong mọi lĩnh vực từ y tế, giáo dục đến đạo đức, dân tình ly tán, uy tín trên trường quốc tế suy đồi, và sự vẹn toàn lãnh thổ đang bị đe dọa. Với biển rộng, sông dài, núi non hùng vĩ, đất đai thiên nhiên phong phú và con người không thua kém Nam Hàn, Đài Loan, Singapore, Mã Lai … mà sau 35 hòa bình chúng ta không làm được như các nước đó đã làm thì hiển nhiên người cộng sản Việt Nam đã thất bại trong công cuộc xây dựng đất nước phú cường như mục tiêu “độc lập, tự do, hạnh phúc” họ nêu ra từ những ngày đầu của cuộc đấu tranh giành độc lập.


Về phía người quốc gia không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản rời bỏ quê hương thì sau 35 năm sống trong môi trường tự do dân chủ, thành công cá nhân thì có nhưng thành công tập thể thì không. Hơn 3 triệu người Việt sống ở hải ngoại chưa xây đựng được sức mạnh cộng đồng có khả năng ảnh hưởng đến thái độ và chính sách của người cầm quyền trong nước. Như vậy sự bế tắc của đất nước Việt Nam hôm nay không phải chỉ do người cộng sản bất tài hay người quốc gia bất trí mà có thể còn do những lý do khác sâu xa hơn. Người ta thường nói đến hậu quả của cuộc chiến tranh 9 năm giành độc lập (1945-1954) và tiếp theo là cuộc chiến tranh Bắc – Nam quá dài và quá đẫm máu như một trong những lý do chính.


Nhưng chiến tranh Triều Tiên 1950 -1953 cũng khốc liệt và sự tàn phá trong trận Thế giới Chiến tranh II cũng đã để lại một nước Nhật hoang tàn. Thế nhưng sau vài chục năm Nam Hàn và Nhật Bản đã có thể hồi sinh. Vì vậy cần tìm nguyên nhân của vấn nạn Việt Nam hôm nay trong chính con người Việt Nam chứ không nên đi tìm đâu xa xôi trong “chủ nghĩa”, trong “chiến tranh lạnh” hay trong thế kẹt “nước lớn, nước nhỏ” Về con người chúng ta có nhiều khuyết điểm hơn là ưu điểm. Khuyết điểm này do giòng giống hay là hậu quả của một nền giáo dục thiếu căn bản quá lâu qua nhiều thế kỷ ? Câu trả lời xin dành cho các nhà nghiên cứu. Một điều chúng ta có thể khẳng định rằng, dân tộc Việt Nam là một dân tộc thông minh, cần cù, chịu thương chịu khó. Rất tiếc hình như nhiều người Việt Nam chỉ biết đầu tư sự thông minh và tính cần cù cho cá nhân chứ không đầu tư cho tương lai của đất nước. Do đó chúng ta thiếu người lãnh đạo có tầm vóc.



Chúng ta có tinh thần vọng ngoại và ít tin tưởng vào chính mình. Chúng ta chạy theo những cái đang lên và coi thường những thế lực đang xuống. Nói đơn giản chúng ta không có cái nhìn xa, và do đó chúng ta không có chính sách. Vào đầu thế kỷ 20, trước sự du nhập của văn hóa phương Tây và sự lu mờ của nước Trung Hoa phương Bắc người trí thức Việt Nam chúng ta chỉ biết cóp nhặt văn hóa châu Âu vô điều kiện và chúng ta coi thường người Tàu đang lép vế trước sức mạnh cơ khí Tây phương.


Chúng ta quên phức sự thật là văn hóa Trung quốc đã yên vị lâu đời trong đầu mỗi người Việt. Và chỉ chờ thời điểm (như hôm nay) là họ nắm cổ toàn bộ vận mạng của nước Việt Nam. Lãnh đạo quân sự và chính trị của Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam có nhiều khuyết điểm đưa đến thất bại, nhưng chưa chắc quyết định chiến lược can thiệp của người Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam là một quyết định sai lầm. Nhưng phía miền Nam chúng ta – vì thiếu người tài, vì thiếu chí - đã không lợi dụng cơ hội để xây dựng một miền Nam tự túc về kinh tế và đặt một nền móng cho sự canh tân đất nước. Cho nên khi người Mỹ nhận ra rằng miền Nam không phải là một đồng minh có bản lãnh họ đi tìm một sách lược khác và bỏ rơi chúng ta một cách tàn nhẫn

Miền Bắc Việt Nam cũng không khá gì hơn. Hà Nội chạy theo một lý thuyết kinh tế lỗi thời làm thui chột kinh tế miền Bắc, và trước áp lực của Liên bang Xô viết dồn mọi tiềm năng nhân lực cho cuộc chiến bành trướng chủ nghĩa mà họ nhất định phải thắng “dù phải đốt cháy cả dãyTrường Sơn!”
Miền Bắc toàn thắng. Việt Nam thống nhất trong điêu tàn. Và khi người đồng minh Liên bang Xô viết sụp đổ không đủ sức viện trợ kinh tế như Hà Nội chờ đợi Việt Nam chỉ còn một con đường là lệ thuộc vào Trung quốc.
Và loay hoay, sau 35 năm hòa bình, Việt Nam lại rơi một hoàn cảnh của những ngày đầu của cuộc chiến tranh lạnh: lần này kẹt giữa Hoa Kỳ và Trung quốc.
Bài học gì người Việt Nam cần rút ra hôm nay, đứng trước thế kỷ 21 mới bắt đầu được một thập niên và hứa hẹn nhiều biến chuyển quan trọng có thể quyết định sự mất hay còn của Việt Nam trên bản đồ thế giới? Biến chuyển lớn nhất của thế kỷ 21 là quyết tâm trở thành siêu cường của Trung quốc và cuộc đụng độ khó tránh khỏi giữa Hoa Kỳ với Trung quốc. Biến chuyển này sẽ chi phối mọi sinh hoạt chính trị và kinh tế trên toàn thế giới trong thế kỷ này.

Việt Nam nằm ngay trên chiến trường nhỏ là chiến trường Đông Nam Á và nếu không khôn khéo rút bài học cũ chúng ta lại sẽ biến thành một thứ tiền đồn. Quan sát tình hình Á châu và Đông Nam Á ai cũng đồng ý rằng Việt Nam đang bị Trung quốc đe dọa bởi một chương trình xâm thực có bài bản và Việt Nam đang rơi vào đôi cánh tay thủ đoạn của Trung quốc. Chính sách nào để Việt Nam tồn tại như một quốc gia độc lập? Trong thế kỷ trước mắt Việt Nam không có con đường nào khác hơn là liên kết với các quốc gia trong vùng chủ yếu là Ấn Độ, Nhật Bản và khối Asean, nhưng quan trọng hơn hết là một chính sách ngọai giao khéo léo đối với Trung quốc và Hoa Kỳ. Cả hai khối thế lực này đều cần Việt Nam để chuẩn bị cho cuộc so kiếm thư hùng của thế kỷ.

Nhưng muốn có một chính sách, Việt Nam cần hai điều kiện. Thứ nhất là khả năng tự lực trong khung cảnh mới của thế giới. Tự lực đây không phải là chỉ có đầy đủ cái ăn và cái mặc mà phải có tiềm năng kỹ nghệ và sản xuất.


Thứ hai là một lớp người lãnh đạo có “tâm” và có “chí” qua sự đào tạo những con người Việt Nam. Cần sửa đổi hệ thống giáo dục, trước hết từ cấp Sơ học cho đến cấp Trung Học hướng về những khái niệm yêu người, yêu đất nước, biết quý trọng những giá trị Việt Nam, những ý niệm sơ đẳng phổ cập về dân chủ, đạo đức và tự do tín ngưỡng, quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc. Và nền giáo dục này cần được làm gương bởi lãnh đạo các cấp. Cấp đại học cần hướng về giáo dục thực tế, liên kết chặt chẽ sinh hoạt đại học với các cơ sở sản xuất lớn để khuyến khích sáng kiến khoa học kỹ thuật và khả năng phát minh. Chính sách của Việt Nam là sẵn sàng làm Thợ để sẽ làm Thầy, và sự chuyển nhượng khoa học kỹ thuật qua các cơ sở nước ngoài đầu tư tại Việt Nam phải là một chính sách quốc gia. Sau 35 năm hòa bình, Việt Nam chưa hoàn hồn vì cơn bão của thế kỷ 20, thì nay lại đang đứng trước sự đe dọa của một cơn bão khác hứa hẹn có sức tàn phá hơn.
Nhưng không phải chúng ta không có con đường thoát hiểm. Nếu chúng ta biết học bài học tự cường của nước Nhật, biết học bài học đùm bọc yêu thương nhau trong tinh thần “bầu ơi thương lấy bí cùng” của nước Đức, và trên hết – người cầm quyền - biết huy động nội lực dân tộc qua một chương trình chấn hưng văn hóa có nội dung tôn trọng dân chủ và nhân quyền ./. Trần Bình Nam April 21, 2010

www.tranbinhnam.com

THANH THANH * THƠ SONG NGỮ

*

BỐ THƯƠNG YÊU
Việt-hóa bài "Dear Daddy" của LINH tại bức tường "Vietnam Veterans Memorial" ở thủ-đô Hoa-Thịnh-Đốn, Hoa-Kỳ.





Thắp cho con sáu ngọn đèn cầy
(Sài Gòn thất-thủ đúng hôm nay!)
Con và ảnh bố ôm vào ngực,
"Giặc!" Mẹ thì-thầm: "Bố ghét cay!"
Mẹ hỏi: Con ưng học tiếng Anh?
"Bố con là Mỹ - một hùng-binh:
Đèo cao, lũng thấp, Khe Sanh nọ
Ngang dọc sa-trường, chết liệt-oanh!
Từ xứ tôn thờ Thần Tự-Do --
Hoa-Kỳ -- Bố đến Việt Nam ta
Giúp Miền Nam chống quân Miền Bắc
Vào cướp quê mình -- đất gấm hoa!"
Gục dưới mưa dầm, trại khổ-lao,
Mẹ qua đời: thiếu thuốc, cơm, rau!
Chỉ vì "vượt biển" mong qua Mỹ --
Nơi Bố sinh-thành -- Thảm biết bao!
Từ đó, đời con sống bạt-phiêu,
Khóc thương Bố+Mẹ, lệ khô triều!
Hằng ngày chỉ biết trong tâm-tưởng
Khấn-nguyện linh-hồn Bố+Mẹ yêu!
Lén mở nghe tin tự nước ngoài:
Danh thơm của Bố khắc linh-đài .
Tự-hào: con có cha -- là Bố
Vị-Nghiã hy-sinh
cứu mọi người!
THANH-THANH
DEAR DADDY
(from "Offerings at the Wall")
In dedication to our beloved Vietnam War Veterans
Mother hurriedly lit my six candles
on the day Saigon fell.
She embraced me and your portrait,
whispering: "Dad used to say war was hell."

Mother asked if I liked to learn English
"'cause your Dad was a handsome American;
He died bravely in a fierce battle
on the hills or down the valleys on Khe Sanh.

He came to Vietnam from America
where he Statue of Liberty stands,
helping the South stop the North
from stealing the precious piece of lands."

Mother died in the rain at a labor camp
'cause there was no food or medicine.
She was caught for "escaping to America"
where you, Daddy, were growing.

I was left a living outcast --
tears dried from missing you, Mom, Dad --
holding onto your spirits each day:
That's all your child has had.

I secretly heard on the shotwave
you name is on the Viet Veteran Wall.
Proud of you, Dad!
You had died for Freedom and Justice for all.
LINH

Friday, April 23, 2010


THƠ CHIẾN ĐẤU CỦA CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM

*



Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa

Thưa quí vị,

Bài thơ "Gởi súng cho tao" từng gây chấn động cho mọi người cách đây đã khá lâu. Hôm nay, xin chuyển lại bài thơ này cùng những bài thơ trả lời (cũng có thể gọi là xướng họa như trong thơ văn ngày xưa). Những bài thơ trả lời này cũng được viết lên từ những con tim rướm máu, không kém phần bi phẩn và hùng tráng.

Xin đừng quên những cựu chiến sĩ, thương phế binh VNCH vẫn còn "lạc loài" trên chính quê hương của mình

Cầu mong những đại bàng hải ngoại không bị ràng buộc bởi nội quy "không hoạt động chính trị" để mạnh dạn yểm trợ cho những "cựu chiến hữu" của chúng ta trong những ngày tháng tới.

Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa

GỬI SÚNG CHO TAO

Nguyễn Cung Thương
Sài Gòn - Việt Nam

Tao cụt một chân, mất một tay
Nhưng còn một tay
Để viết thơ dùm cho thằng mù hai mắt
Nghe nói ở xứ người chúng mày "cày" như trâu
Nhưng không quên Đồng Đội
Chia đô la cho chúng tao, như chia máu ngày nào ...
Tao cũng sớt cho mấy thằng bạn: Phế Binh Việt Cộng !
Chúng cũng què đui sứt mẻ như nhau
Bởi Đảng của chúng bây giờ là lũ đầu trâu...

Có điều tao không thể hiểu
Bao nhiêu năm qua
Chúng mày cứ mãi dặn dò
Thế giới văn minh, đừng làm gì bạo động
Liệu chúng mày có thể hòa hợp được không
Với lũ kên kên, hổ báo?
Những con thú cực kỳ giàu có
Mang "thẻ đỏ, tim đen"
Nợ Nga, sợ Tầu, lạy Mỹ
Với Quan Thầy cung cúc tận tụy
Quay về đàn áp dân đen
Chúng đóng đinh Chúa Jesus lần nữa
Bịt miệng Cha, trói Phật, nhốt Sư, quản lý Chùa

Chúng tao lê lết trên thành phố Cáo Hồ
Nên biết rất rõ từng tên đại ác
Trên bàn tiệc máu xương dân tộc
Nhà hàng nào chúng cũng ăn nhậu
Bé gái nào cũng bị chúng mua trinh
Chúng ta sẽ tỉa từng thằng.
Đất nước cần nhiều "quốc táng"
Bớt được mạng thằng Cộng Sản nào
Thì địa ngục xã hội chủ nghĩa này
Còn có chút sáng láng hơn.

Hãy gửi tiền cho những nhà tu
Để họ mở cửa nhà tù
Còn chúng tao là chiến sĩ
Hãy gửi về cho chúng tao vũ khí
Thằng cụt tay sẽ chỉ cho thằng mù mắt bấm cò
Thằng còn chân sẽ cõng thằng què quặt
Trận chiến sau cùng này, sẽ không có Dương Văn Minh.

Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa

Bài đáp 1: KHÔNG THỂ GỬI

Lê Khắc Anh Hào

Thưa anh Nguyễn Cung Thương,
Đạn thù trên mặt trận ngày nào
Nay anh chỉ còn một tay ...
Tôi ở bên này
Đọc thơ anh mà rượu ngọt hóa cay
Mà gục đầu tủi hận.
Tôi còn đủ 2 tay
Và tôi còn cả hai chân
Mà cứ ngại ngần không cầm cây súng
Nợ kiếm cung
Tôi gác bỏ bên trời sau ngày Sài Gòn vỡ vụn
Lận đận lao đao
Anh viết câu thơ như sông núi thét gào:
“Gửi súng cho tao!”
Để anh chiến đấu bằng vết đau còn lại
Mà không ngần ngừ, không e ngại
Dũng sĩ hề !
Ôi! lòng ta tê tái
Mái tóc sương pha.
“Ta là ai
Mà cúi mặt trước tương lai
Khi tổ quốc đang thét gào lời sông núi ?”
Viết dòng thơ, tôi sờ đầu, nhục tủi
Vì không gửi được cây súng nào
Khi bạn mình giục:
“Gửi Súng Cho Tao!”
“Gửi Súng Cho Tao!”
"Gửi Súng Cho Tao!”

Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa

Bài đáp 2: GỬI CHẤT NỔ CHO MÀY

Trần Phương Đông

Đọc những dòng thư mày mà lòng tao quặn thắt
Đời chúng mình cuối cùng phải như thế này sao ?
Mày bên đó lê la những ngày tháng hư hao
Tao bên này lăn lóc trên con đường cơm áo.

Hãy "Gởi Súng Cho Ta " như một lời cảnh cáo:
Chúng mày quên cả rồi Tổ Quốc lẫn Quê Hương
Quê hương đó có máu tươi và có cả thịt xương
Của đồng đội, của bạn bè đã hy sinh nằm xuống.

"Gởi Súng Cho Tao" đã làm nhiều thằng luống cuống
Chúng mải mê lợi danh mà quên mẹ mất chuyện này
Cám ơn mày với những lời nhắn nhủ thật là hay
Để những thằng vong tình biết giật mình bừng tỉnh dậy.

Tao sẽ gởi cho mày những căm hờn không che đậy
Của trái tim đầy vết thương đã thoi thóp từ lâu
Tao không gởi cho mày súng như mày hỏi đâu
Mà tao gởi cho mày bằng những thùng thuốc nổ.

Hãy ôm chúng, xông vào lũ bạo tàn bằng tấm lòng cuồng nộ
Và tao cũng sẽ về cùng mày để đi trọn chuyến đi này
Cuộc đời nào rồi cũng qua như gió thổi mây bay
Thì tiếc làm con mẹ gì cuộc sống nhiều tủi hổ.

Sống vui được sao khi toàn dân nghèo nàn cùng khổ
Còn thân phận chúng mình như những miếng giẻ rách giữa đời
Chờ đó ... tao sẽ về cùng mày để hoàn tất một cuộc chơi
Và cho trọn cuộc tình của những thằng gọi nhau là đồng đội.

Và cũng để một lần cúi đầu tạ tội
Với quê hương và tổ quốc của mình
Với bạn bè, với những oan khuất anh linh
Để đi trọn con đường vinh quang của những người mang tên là Lính

Hãy ôm chất nổ giết sạch bọn giặc thù không cần toan tính
Thằng nào rồi thì cũng một lần chết vậy thôi
Hãy chết thật vinh quang cho người lính được lên ngôi
Chờ đó đi.. mai tao về với những thùng thuốc nổ.....

Mai về tạ tội Quê Hương
Cùng nhau đi trọn đoạn đường chiến binh

Sống lỡ nhục chết phải vinh
Cho dòng máu Lính thắm tình Việt Nam.

Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa

Bài đáp 3: Không Tên

Mường Giang

Thơ anh viết như muôn ngàn nhát kiếm
Khiến cho ta thêm tan nát cuộc đời
Bao hận tủi theo thời gian tắt lịm
Nay tuôn về như sóng cuộn mưa rơi

Ta muốn cào cho trái tim lũng nát
Muốn gào to cho vỡ cả tinh cầu
Muốn tự hủy cho tan đời tàn tật
Sống một đời mang trọn kiếp thương đau

Mấy chục năm những ngày dài biệt xứ
Ta về đầy mang nỗi buồn lê thê
Ngày hành xác, đêm về ôm mặt khóc
Đời sa cơ bao nhiêu nỗi chán phè

Ngày hai buổi cúi đầu ăn ngấu nghiến
Mắt nhắm nghiền không dám ngó thịt cơm
Khi nghĩ tới, niềm đau những lính trận
Cũng vì ai phải chuốc nỗi hận hờn

Ta đến đây khô cằn thân mất nước
Đời xanh xao, mờ bước kiếp không nhà
Những toan tính mờ dần trong biển nhục
Tiếng hẹn thề rên nghẹn khắp gần xa

Gặp những kẻ ngày xưa quen gào thét
Bước giầy sô làm rung chuyển giặc thù
Ta tìm đến xin chút tình trai Việt
Để sưởi tình trong cõi tạm hoang vu

Họ nhìn ta rồi bỗng cười cuồng nhói
Mắt long lanh theo tiếng nhạc dập dồn
Ta xin chút tình của người đồng đội
Lại cho ta buồn nản với cô đơn.

Gặp vài kẻ mặt tô đầy son phấn
Môi nhi nhô kẹo, với giọng ỡm ờ
Ngực mông đùi cho ta thêm tủi phận
Họ đi rồi và ta đứng cô đơn.

Họ dập dìu se sua trên đất khách
Đem trái tim rao bán giữ chợ đời
Cho ta nhớ người còn trong vùng địch
Đang dần mòn gục chết với tương lai.

Gạp vài kẻ véo von lòng nhân ái
Ta tìm đến xin một chút tình người
Để an ủi những ngày thừa còn lại
Của cánh chim chờ thét gió tung trời

Nhưng họ cho ta lọc lừa tráo chác
Nghĩa đồng hương nhắc tới lại thêm buồn
Tao ngao ngán cho tình đời đen bạc
Về gục đầu trong men đắng tìm quên.

Ta trách ta, sao vẫn còn nặng nợ
Trong khi ai cũng say giấc miên trường
Ai cũng vui vì đất trời rộng mở
Ai cũng cười nghe ta nhắc quê hương...

Ôi quê hương! giờ đang nằm thoi thóp
Đang hờn căm dẫy thoát lửa bạo tàn
Đang chờ người muôn phương về sum họp
Để chung lòng giết giặc, cứu giang san.

Ôi ! trong ta hận thù cao ngút mắt
Luôn dập dồn như sóng cuộn cuồng phong
Bao năm qua giam đời trong đáy huyệt
Giờ thét vang như chim được xổ lồng

Ta nhớ quê hương những ngày sắp mất
Ta thương nhiều qua từng giấc chiêm bao
Quê ta giờ khổ đau và tan nát
Lửa thù dâng, cao vút tận trời cao

Ta đã vẽ trong đợi chờ thê thiết
Những lâu đài của Mẹ đẹp như thơ
Ta sẽ chiêu hồn những tên phản bội
Đang lạc lầm trong phù phiếm hư vô...

Nhưng ta chỉ là lính già tàn phế
Sống ngu ngơ như cây đứng giữa đường
Thì có gì để gửi về cho bạn
Cùng góp phần quang phục lại quê hương?

Thì ra ta cũng là phường hèn nhát
Quên những ngày xưa liều thân đấu tranh
Giờ mới biết bỏ nhà đi trốn giặc
Chỉ để cho ta ngày tháng an lành.

Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa

Bài đáp 4: Tao Không Gửi Súng

Mũ Nâu 11

Gửi Nguyễn Cung Thương như mội lời tạ tội.

Đọc thơ mày...
... buổi trưa hè nắng cháy
Tao nghe hồn chết lịm giữa mùa Đông
Thấy xót xa cay đắng trong lòng
Khi mày bảo chúng tao gửi súng.

Mày nói đúng,
Quả thật mày nói đúng!
Làm sao hòa hợp được với lũ sài lang
Lũ chó trâu, bạo ngược hung tàn
Chỉ biết sống trên máu xương đồng loại?

Mấy mươi năm, chúng ra công phá hoại
Mảnh giang san gấm vóc của cha ông
Đất miền Bắc, biển miền Đông
Chúng dâng cúng cho quan thầy Trung Cộng.

Lũ Tầu đỏ bắt giết đân đen
Chúng rút đầu câm họng.
Cha, Thầy mới mở lời
Chúng hùng hổ ra tay
Khiếu nại kêu oan, chúng thẳng tay đọa đầy
Coi mạng sống con người như cỏ rác.

Mọi người ngó lơ trước bao tội ác
Hiệp Định Hoà Bình vừa ký ở Genève
Ngoảnh mặt đi, chúng xé cái vèo
Văn bản Paris, chúng đem ra chùi đít...

Cả thế giới,
Cả nhân loại đều im thin thít.
Mặc tình chúng lộng giả thành chân.
Mở miệng ra là nói nghĩa nhân,
Nhưng rặt một phường buôn dân bán nước.

Thế mà...
Có lắm kẻ, ngày xưa từng ăn trên ngồi trước
Từng hùng hồn tuyên bố: Sẽ vì nước hy sinh
Nhưng than ôi!
Đến nay, bỗng khúm núm hạ mình
Để xin được làm chó săn,

Liếm gót giầy giặc Cộng (Cao Kỳ)

Có những thằng,
Áo cao mũ rộng
Bằng cấp đầy mình, kiến thức mênh mông
Mà một câu nói đơn giản cũng chẳng chịu thuộc lòng:
"Hãy nhìn, chứ đừng nghe những gì Cộng Sản nói"

Xuống tầu ra đi, chúng thảm thương thật tội
Mặt mũi xanh xao, quần áo tả tơi
Còn bị lũ đầu trâu chửi mắng nặng lời
"Bọn đĩ điếm chỉ ôm chân đế quốc".

Nay được đám lưu manh xoa đầu
Gọi "Việt Kiều yêu nước"
Vội đem tiền về mở tổ hợp đầu tư
Rồi nhanh nhẩu hoan hô - bác đảng - nhuyễn nhừ
Cùng một giuộc: trâu tầm trâu, mã tầm mã

Họ có thấy chăng?
Những người chết,
Cũng bị đào mồ cuốc mã
Lấy đất, bán đất chia nhau
Tranh thủ làm giầu
Chúng vơ vét cả tiết trinh em nhỏ...

Nghe mày hỏi, tao gục đầu xấu hổ
Súng đạn đâu mà gửi cho mày đây?
Ngoài một chút sắt son nặng trĩu lòng này.
Chắc mày hiểu vì sao:
"Tao không gửi súng..."

Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa

Bài đáp 5: Để Nó Cho Tao

Đoàn Trọng Hiếu

Đọc thư mày, lòng tao đau quặn
Thằng cụt thằng lành cùng trăn trở như nhau
Nhớ mùa hè đỏ lửa năm nao
Thằng lính biệt động trấn ngọn đồi gió
Mày, thằng lính dù An Lộc
Nhảy vào tăng viện cho tao.
Được lệnh bàn giao, tao kéo quân vào thành phố
Không quên chỉ cho mày bìa rừng cao su đỏ
Giặc chốt dày đặc, mày bảo: "để đó tao lo"

Sau 3 tháng tử thủ
Tao ở lại Bình Long, mày ra vùng hỏa tuyến
Mãi đến Tháng Tư đen, vẫn chẳng được tin nhau
Tao vào tù, rồi lưu vong nơi hải ngoại
Nay bỗng được thư mày lời bi hùng thống thiết
Mày bảo gởi súng cho mày, tao không đành đoạn
Vì cuộc chiến bây giờ không cần đến súng đạn
Mà cần đến trái tim rực lửa yêu thương
Mang lý tưởng Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền
Đến tận hang cùng ngõ hẽm...

Khi mọi người dân đều ý thức
Đó là ngày giặc Cộng phải vùi chôn
Nhiệm vụ của mày cùng dân oan
Là đi biểu tình khiếu kiện
Cùng công nhân bãi thị đình công
Còn nhiệm vụ của tao ở ngoài này
Là vận động chính giới nước ngoài
Vận động đồng bào hải ngoại.

Tao đang ứng chiến ở sân bay
Chờ đến giờ G nhảy vào New York
Biểu tình chống thằng Nguyễn Tấn Dũng
Tao yêu cầu mày, để nó cho tao
Cuộc chiến này không có tên Dương Văn Minh,
Nhưng vẫn có Nguyễn Cung Thương và Đoàn Trọng Hiếu

Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa

Bài đáp 6: TAO VẪN CÒN ĐÂY

(Nguyễn Quân, một người lính VNCH)

Đáp lời chiến hữu Nguyễn Cung Thương
Tao đã nghe tiếng gọi trong đêm trường
Như tiếng thét ngập tràn tình đồng đội
Tiếng kêu cua mầy cũng là tiếng uất hận của quê hương
Mầy cần súng đạn, không cần nỗi xót thương

Tao còn nhớ những đêm phục kích trong rừng
Dưới ánh trăng xanh xuyên kẽ lá
Mầy và tao chia nhau bắn tỉa
Từng tên quân giặc xâm lăng

Những trận xung phong xáp lá cà diệt địch
Đánh cho tan tác
Đánh cho quân thù kinh hồn vỡ mật
Bây giờ tụi mình buông súng thật sao
Nhưng tụi mình chưa giải ngũ được đâu

Ai anh hùng
Ai hào kiệt
Ai đã trả nợ núi sông
Trận chiến tàn nhưng cuộc chiến vẫn chưa xong

Nơi quê cũ, bóng quân thù tràn ngập
Mỗi một thằng đáng nhận trăm viên đạn
Để đền bồi tội lỗi chúng đang mang.
Đem tổ quốc núi sông ra dâng bán
Rước quân thù giẫm nát quê hương

Bán trẻ thơ phụ nữ cho ngoại bang
Cướp của dân oan
Banh da xẻ thịt giang san
Hùa nhau cắn xé quê cha đất tổ.

Mầy còn nhớ một lời của huynh trưởng
Không chấp nhận, không sống chung
Với loài quỷ đỏ
Không bao giờ nói chuyện hoà giải hoà hợp
Với chúng nó

Mầy với tao là những thằng lính trận mạc
Đối diện quân thù
Chỉ có hai tiếng: XUNG PHONG ! Một tiếng: SÁT !
Tiếng thét oai hùng, từng vang dội non cao rừng thẳm.

Hẹn một ngày tụi mình đào lỗ đem chôn
Những thằng chóp bu cộng sản
Cùng chủ nghĩa ngoại lai,
Đưa dân tộc trở lại bình minh tươi sáng.

Tụi mầy còn đó, tụi tao còn đây
Chung vai sát cánh thề quang phục quê hương
Môt lần nữa, mầy và tao sẽ có mặt
Trong đoàn quân xung kích, dưới bóng cờ vàng
Nắm tay nhau cùng hát khúc khải-hoàn-ca.


*
Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Đọc những vần thơ lệ tuôn trào ,
Thật đẹp thay hai tiếng mầy, tao,
Thân thương quá ! tấm chân tình đồng đội ,
Đã bao năm theo dòng đời trôi nổi ,
Kẻ phương trời ,người góc bể ,chân mây,
Bỗng chợt nghe hai tiếng tao ,mầy,
Như gợi lại một chút tình đã mất,
Như tìm lại ,một tình yêu rất thật,
Đôi phút ,giây được sống với chính mình,

Của một thời trai trẻ chiến chinh,
Tuyệt ! tuyêt! quá tao,mầy gặp nhau nhé!
Dù vẫn biết ,thời gian có âm thầm lặng lẽ,
Và tuổi đời đã chồng chất thêm cao ,
Ngày gặp nhau ,mình vẫn gọi mầy ,tao,
Xưng hô vậy, thật thân ,thương mầy nhỉ!
Tao sẽ cười vui ,khi mầy gọi tao là thằng khỉ,
Rượu cay nồng làm sống lại mảnh trời xưa...
Kể nhau nghe ,phần còn lại chút đời thừa ,
Gom góp lại ,hiến dâng cho quê mẹ.


Để Sài Gòn vẫn là Sài Gòn hoa lệ,
vĩnh viễn cười ngạo nghễ mãi ngàn sau.
Quyen Tran
*

NGŨ TƯỚNG ANH HÙNG

An Lộc anh hùng sáng giá ông !
Lê Văn Hưng, địch nể vô cùng.
Bẩy hai tử thủ Bình Long,
Quý Mão tuẫn tiết Tướng hùng lưu danh.

Lê Nguyên Vỹ hiếm quý rành rành
Vận nước lâm nguy quyết tử nhanh
Mèo kêu thảm thiết xa gần (Qúy Mão)
Theo Phan Thanh Giản Tướng Quân Sử Vàng,

Tướng Khoa Nam rỏ ràng cao cả
Giặc ngập tràn bí quá tử vong
Tháng Tư vận nước xoay vần !
Tướng quân tuẫn tiết đâu cần vinh thân

Trai hùng khí phách Trần Văn Hai
Biến cố ba mươi dũng cảm tài
Biển người tràn ngập ôi thôi
Tướng hùng tuẫn tiết Sử thời ghi danh

Phạm Văn Phú nhỉệm vụ thi hành
Tổng Thống truyền mau lệnh rút quân
“Sinh vi tướng tử vi thần” !
Độc dược kết liễi toàn dân nhớ đời.


Lê Đắc
*

Anh Nguyễn Cung Thương ơi , Anh Nguyễn Cung Thương !
Đọc thư anh mà lòng em rướm máu.
Nhớ những ngày này của ba mươi lăm Năm trôi qua.
Súng không Đạn lấy gì mà Chiến Đấu.
Súng bị Gảy ôm một trời Uất Hận .
Kêu làm sao cho Thấu Trời Xanh.
Hởi Đại Bàng ! Hởi Những Đàn Anh !
Chúng Tôi Thà Chết Quyết Không Hàng Cộng Phỉ.
Nhìn Bạn Bè Anh Dủng Hy Sinh.
Rơi Máu Lệ với lời Thề Phục Hận .
Nhưng hởi ơi vận Nước đả tới hồi Mạc Lộ.
Đành lổi hẹn với Bạn bè Đồng Đội.
Lê thân gầy đi khắp Non Sông .
Tìm Minh Chúa mài Gươm Phục Hận .
Bước đường cùng đành xa Quê Mẹ.
Với lời thề sẻ Quang Phục Quê Hương.
Xa Quê Hương Lang Thang Cầu Thực.
Mới Thấm Thía nổi Nhục Mất Quê Hương .
Nuôi Chí Lớn mai này Phục Quốc.
Nhưng Chuyện Lớn chưa thành đành làm chuyện Nhỏ.
Chia Đô La anh em sống lây lất qua ngày .
Mong Các cho Anh Giử Tấm thân tới ngày đó.
Ngày Quang Phục Quê Hương Ngày đó rất Huy Hoàng.
Và đó củng là ngày Đại Hội của Đoàn Quân Cọp Biển Oai Hùng....
Nguyễn Phước

181513296
Copyright 2005 - 2010 © Take2Tango. All Rights Reserved.


*

GIAO CHỈ SAN JOSE * GIỚI THIỆU NGÀN GIỌT LỆ RƠI


30 tháng Tư – 31 năm sau: Chuyện đời thành tiểu thuyết – Tiểu thuyết thành chuyện phim NGÀN GIỌT LỆ RƠI
Giao Chỉ – San Jose 2006, Apr 20, 2006



Lời nói đầu: Sau 30 năm cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam đã có nhiều hoàn cảnh éo le trong cuộc sống. Cuộc binh đao giữa hai miền Nam Bắc, giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đưa đến cảnh gia đình chia cắt. Câu chuyện được ghi lại lần này là một nhà chia đôi ngả. Cha và con trai theo miền Bắc. Mẹ và 5 con theo miền Nam. Câu chuyện thật và đầy đủ tình tiết để dựng nên một cuốn phim làm di sản cho đời sau.

Phim ảnh Hoa Kỳ thường hay phỏng theo các cuốn tiểu thuyết hoặc ký sự dựa theo chuyện có thật đã xảy ra.

Nếu người Việt chúng ta làm một cuốn phim tại hải ngoại để có thị trường phải là phim nói Anh ngữ, có cái vai Mỹ – Việt, tình tiết éo le, hấp dẫn, pha chút màu sắc điệp viên với các giây phút lo sợ kịch tính. Đồng thời có những lúc vai chính phải ray rứt nội tâm.

Màn ảnh chiếu gần, diễn tả bằng nét mặt.

Sự lựa chọn giữa lý tưởng và bổn phận của các vai chính làm cho chuyện phim đóng mở, lôi cuốn khán giả. Nội dung cần có cơ hội để lấy ngoại cảnh từ Việt Nam, Nhật Bản, Hạ Uy Di, Hoa kỳ và Âu châu.

Vai chính đi từ những phân cảnh của gia đình Việt Nam trong chiến tranh đến các buổi tiếp tân của ngoại giao đoàn tại các quốc gia Tây phương. Từ các phòng ăn tráng lệ tại các câu lạc bộ sĩ quan Hoa Kỳ cho đến các chiến khu ở rừng già Nam Bộ. Từ văn phòng của bộ ngoại giao chính phủ cộng sản Việt Nam đến cơ sở tình báo của Hải quân trong Ngũ Giác Đài. Một chuyện phim như thế mà phỏng theo một câu chuyện hồi ký có thực thì vô cùng lý thú. Có thể tìm thấy không? Trên thực tế chuyện này đã xảy ra.

Chúng ta có thể tìm được câu chuyện tình tiết như vậy với nội dung bao gồm cuộc chiến Quốc Cộng giữa Việt Nam với Việt Nam. Giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Câu chuyện gián điệp thực sự xảy ra đã được kể trong cuốn hồi ký của một phụ nữ.

Người đàn bà viết cuốn sách này tên là Đặng Mỹ Dung và cuốn sách này tựa đề là Ngàn Giọt Lệ Rơi. Nguyên tác Anh ngữ là A Thousand Tears Falling. Bà Yung Krall sáng tác theo thể tự truyện dựa vào cuộc đời của cha mẹ rồi đến chính cuộc đời của tác giả. Tất cả mọi danh tính đều giữ nguyên như là một sử liệu.
Dựa theo tác phẩm này, chúng tôi viết bản phác họa cho một cuốn phim tương lai của cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại.

Đây là phim truyện về một người chủ gia đình theo kháng chiến rồi đi tập kết 54 trở thành nhân viên cao cấp trong chính phủ cộng sản. Người vợ ở lại miền Nam trong vùng quốc gia rồi di tản qua Hoa Kỳ. Bà đã từ chối không về sống với chồng ở Việt Nam. Sau khi đất nước thống nhất, con cái mỗi người theo một ngả.

Tiếp theo cuộc chiến Quốc Cộng tiếp tục bàn giao cho thế hệ thứ hai. Tác giả là con gái trong gia đình đã thành hôn với một sĩ quan hải quân Mỹ. Trong hoàn cảnh éo le, cô gái đã trở thành gián điệp nhị trùng. Một bên là cha ruột, một bên là chồng. Đứng giữa hai phe thù nghịch nhưng tác giả thực sự làm việc cho phía Hoa Kỳ. Đã góp phần phá vỡ âm mưu của Hà Nội cài người vào Bộ Ngoại Giao tại Hoa Thịnh Đốn.

Chuyện thật đã xảy ra tại Mỹ vào cuối thập niên 70.

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, phe quốc gia và đồng minh Hoa Kỳ thường bị phía cộng sản cài người nằm thật sâu vào các cơ quan của ta nhưng phe ta chưa hề có được những đòn gián điệp đáng kể lừa được đối phương.

Câu chuyện Ngàn Giọt Lệ Rơi là một biệt lệ đặc biệt cần được biết đến, cần được nhắc lại và cần được đóng thành phim.

Cảm khích với nội dung của tác phẩm, chúng tôi xin giới thiệu với quý vị sau đây là câu chuyện về một cuốn phim tương lai, nhân dịp 31 năm sau kể từ tháng 4-1975.

***
PHÁC HỌA CHUYỆN PHIM “NGÀN GIỌT LỆ RƠI”

“A thousand Tears Falling” bắt đầu từ ngoại cảnh tại Nhật Bản. Thời gian lúc đó là tháng 6-1975, không gian là tại phòng tiếp tân của đại khách sạn Nhật Bản tại Đông Kinh.

Tại đây, một hội nghị quốc tế với các nước Đông Nam Á đang diễn ra. Ông Đặng Văn Minh là trưởng phái đoàn của nước cộng sản Việt Nam vừa chiến thắng Sài Gòn 2 tháng trước, đến dự hội nghị với niềm tự hào và được sự lưu ý của báo chí thế giới.

Tuy nhiên, cũng vào chiều hôm đó tại Đông Kinh, người cán bộ cao cấp của phe cộng sản gặp lại con gái sau 23 năm xa cách.

Từ hình ảnh trong đại sảnh của khách sạn quốc tế tại Tokyo, phía trước treo cờ các nước dự hội nghị có cờ đỏ sao vàng. Hình ảnh vị trưởng phái đoàn rạng rỡ tươi cười mở đầu cuốn phim để tiếp đến hình ảnh chiến khu với cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Ông Minh sinh năm 1909 tại Vĩnh Long, đi theo Kháng Chiến và trở thành nhân viên cao cấp của Mặt Trận. Năm 1954, ông dẫn con trai lớn là Đặng Văn Khôi ra Bắc. Vợ ông Minh là bà Trần Thị Phàm và 5 con nhỏ ở lại miền Nam. Khi chia tay hẹn 2 năm trở lại nhưng thật sự phải hơn 20 năm sau người cộng sản mới vào được Sài Gòn thì lúc đó đã biết bao nhiêu vật đổi sao rời.

Người con trưởng theo bố ra Bắc đã trở thành sĩ quan ưu tú của quân đội nhân dân được gửi đi Nga học về hỏa tiễn phòng không năm 1968.

Đến năm 1975, ông Minh trong khi vẫn một lòng trung thành với chế độ và trở nên cán bộ cao cấp ngành ngoại giao thì người con trưởng Đặng Văn Khôi có thái độ chống chiến tranh nên đã bị sa thải khỏi quân đội miền Bắc.

Tại miền Nam, người con trai thứ của ông bà là Đặng Hải Vân, lúc ông tập kết chỉ có 5 tuổi sau này đã trở thành phi công của Không Quân Cộng Hòa. Nhưng không may Hải Vân đã bị thiệt mạng trong một phi vụ bay huấn luyện tại Hoa Kỳ lúc 21 tuổi. Chị Đặng Mỹ Dung là con thứ tư của ông bà đã thành hôn với đại úy phi công của Hải Quân Hoa Kỳ tại Sài Gòn và năm 75 gia đình sống tại Hawaii.

Cuộc sống thơ mộng và bình yên của ông Krall và bà Mỹ Dung hoàn toàn thay đổi từ tháng 4-1975.

Cũng vào tháng 4-1975, lúc đó cha của bà Dung là ông Minh đang làm đại sứ cộng sản Hà Nội tại Nga Sô, mẹ của bà và đứa em út thì kẹt ở Sài Gòn.

Với bao năm xa cách, với quan niệm về cuộc sống khác biệt, bà Phàm vợ ông Minh không hề có ý muốn ở lại Sài Gòn để chờ đoàn tụ với chồng. Đặng Mỹ Dung liền yêu cầu thiếu tá Krall tìm cách về Sài Gòn đón gia đình bà qua Mỹ.

Khi ông Krall qua Sài Gòn đã lâu mà chưa có tin tức gì. Tại Hawaii, bà Đặng Mỹ Dung lo sợ đã nói chuyện trực tiếp qua điện thoại cầu cứu với đề đốc Gaylor, tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương tại Trân Châu Cảng.

Lời nói chỉ vắn tắt báo cáo chuyện chồng bà về Sài Gòn để lo cứu gia đình sao chưa thấy qua, nhưng bà nói thêm một tin tức động trời bà là con gái của đại sứ cộng sản Việt Nam tại Mạc Tư Khoa.

Lập tức guồng máy quân báo của Hải Quân Hoa Kỳ chuyển động và cả FBI lẫn CIA nhập cuộc.

Hệ thống tình báo Mỹ ghi nhận ngay đây là một đầu mối vô cùng quan trọng mà tại sao lâu nay không ai biết. Ngay cả lúc hồ sơ thành hôn của vị sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ cũng không ai lưu ý đến mối liên hệ huyết tộc quan trọng của cô dâu nước Mỹ có đầu mối Hà Nội. Họ cứ tưởng đây là cô gái thuần túy Sài Gòn.

Tiếp theo khi chuyến bay chở mẹ và em gái út của Đặng Mỹ Dung ra khỏi Việt Nam do CIA Sài Gòn trực tiếp sắp đặt thì một khế ước bất thành văn đã bắt đầu. Mỹ Dung nợ khối tình báo Mỹ một yêu cầu. Cuộc đời điệp viên khởi sự.

Khi bà Minh đã yên ổn tại Hoa Kỳ thì hơn 60 ngày sau Mỹ Dung dắt con nhỏ qua Nhật Bản thăm thân phụ đã hơn 20 năm xa cách. Guồng máy tình báo của thế giới tự do mở chiến dịch để Con Chim Xanh với Ngàn Giọt Lệ lên đường công tác.

Bây giờ xin mời khán giả trở lại Đông Kinh của tháng 6-1976.

Cánh cửa phòng họp riêng của đại sảnh Tokyo hé mở, một cán bộ ngoại giao của Hà Nội bước vào trình với thủ trưởng Đặng Quang Minh: “Thưa đồng chí thủ trưởng, bà Việt kiều ở Mỹ và đứa con lai đã có hẹn xin vào gặp.”

Ông Minh vẫn còn đang xem hồ sơ hội nghị, nói mà không nhìn lên: “Đây là đại diện Hội Việt Kiều Yêu Nước đến để động viên và mừng đất nước thống nhất.

Đồng chí mời vào đi.”

Đặng Lệ Dung bước vào cùng con gái nhỏ nép một bên.

Hơn 20 năm qua, lúc thân phụ ra đi, cô là đứa bé con. Giờ đây, đứa cháu ngoại lai Mỹ xinh đẹp của ông mắt mở to nhìn người đàn ông xa lạ mà e ngại.

Cuộc gặp gỡ riêng tư nhưng hết sức khách sáo. Cả cha con đều phải đóng kịch dù rằng trong lòng như lửa đốt.

Trước khi chia tay, ông Minh nói nhỏ với con gái là sẽ thu xếp để gặp lại người vợ cũ là bà Phàm đã hiện di tản qua Hoa Kỳ.

Sau cuộc gặp gỡ lần đầu tiên vào tháng 6-1975, cuộc đấu tranh chiến tranh chính trị, tình báo và ngoại giao giữa hai cha con bắt đầu. Một bên là Việt Nam cộng sản đã thống nhất và một bên là guồng máy tình báo Hoa Kỳ.

Cả hai bên đều tìm cách mua chuộc lẫn nhau. Cuốn phim Ngàn Giọt Lệ Rơi thực sự sẽ có cả hàng trăm phân cảnh hết sức độc đáo để dàn dựng.

Thủ trưởng Đặng Quang Minh về báo cáo lên bộ chính trị và được đồng ý cho phép qua Paris gặp lại vợ con. Ông dự trù sẽ thuyết phục để đưa vợ con trở về Hà Nội dưới hình thức chiến thắng ngoại giao sau khi tuyên bố là gia đình ông ở Sài Gòn đã bị Hoa Kỳ áp đảo bắt phải di tản. Hà Nội chắc chắn một lần nữa sẽ đạt được một thành tích đánh bại Hoa Kỳ trên diễn đàn dư luận quốc tế.

Phía Hoa Kỳ, Hoa Thịnh Đốn đã cho phép CIA giúp đỡ hai mẹ con bà Minh qua Pháp để bắt nhịp cầu làm việc trực tiếp với tòa đại sứ cộng sản Việt Nam tại Paris. Tình báo Mỹ chấp nhận nhập cuộc.

Tuy nhiên, cuộc đấu tranh chính trị giữa cộng sản và Hoa Kỳ đã trở thành một mối xung đột và mâu thuẫn trong nội bộ gia đình họ Đặng, vượt ra khỏi tầm tay của những thế lực đằng sau từ cả hai bên.

Ông Minh hết lòng thuyết phục bà vợ tao khang trở về với một đất nước nay đã thanh bình, độc lập, thống nhất và hoàn toàn chiến thắng. Ông thề thốt lấy cả cuộc đời ra để bảo đảm cho sự an toàn của bà và người con út cùng đi với bà.
Nhưng bà Minh vẫn còn dè đặt và sau cùng quyết định ở lại Hoa Kỳ. Một quyết định sáng suốt mà ngày nay bà vẫn cho là hết sức may mắn.

Trong thời gian đó, phe cộng sản hết lòng chiều chuộng móc nối với Đặng Mỹ Dung với hy vọng cô sẽ thuyết phục bà mẹ. Và hơn nữa, dù bà Minh chưa muốn về Hà Nội nhưng Mỹ Dung với ảnh hưởng sẵn có trong quân đội Mỹ, có thể dễ dàng trở thành một nguồn tin đáng giá và tốt nhất là chuyển hộ các tài liệu trên đường hàng không từ Hoa Thịnh Đốn qua Paris.

Con Chim Xanh của Ngàn Giọt Lệ Rơi luôn luôn sẵn sàng hợp tác như là người cảm tình với phe chiến thắng mà thân phụ của cô cũng góp phần.

Dần dân Mỹ Dung gián tiếp trở thành một phụ nữ Việt Nam yêu nước kết hôn với người Mỹ những vẫn hồn nhiên đóng góp công tác cho chính phủ Hà Nội và các tổ chức thân Cộng.

Cũng vào thời điểm đó, sinh viên thân cộng Trương Đình Hùng là con của luật sư Trương Đình Dzu đang hoạt động cho tình báo cộng sản. Hùng du học Mỹ trước 1975 và tiếp tục ở lại Hoa Kỳ móc nối lấy tin tức từ Bộ Ngoại Giao. Hùng rất tin tưởng ở sự thân hữu chặt chẽ của Mỹ Dung với Hà Nội và tòa đại sứ cộng sản Việt Nam tại Pháp.

Ronald Humphrey là nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ được phép đọc tài liệu tối mật.

Lúc còn ở Việt Nam, Humphrey lấy cháu gái Võ Thị Định, một nữ cán bộ quân sự của Giải Phóng Miền Nam. Hà Nội đưa điều kiện nếu Ronald muốn cho phép đem vợ qua Mỹ phải lấy hồ sơ mật của Bộ Ngoại Giao Mỹ trao cho Trương Đình Hùng.

Trương Đình Hùng nhờ Đặng Mỹ Dung chuyển tài liệu cho cộng sản qua tòa đại sứ Việt Nam tại Paris đưa tài liệu cho Việt cộng. Tài liệu Humphrey đưa ra qua tay Hùng đến Mỹ Dung thì CIA đổi thành tài liệu giả để chuyển qua Pháp.

Khi chính phủ Hoa Kỳ quyết định truy tố Trương Đình Hùng và Humphrey thì cần có Mỹ Dung ra làm nhân chứng. Nếu như thế là cuộc đời gián điệp sẽ chấm dứt và đồng thời bà chấp nhận mọi rủi ro thách đố về sau.

Đây là một quyết định khó khăn đối với một phụ nữ. Lần đưa mẹ ra khỏi Việt Nam, Mỹ Dung đã phải trả giá bằng cách bước vào con đường chông gai của nữ điệp viên. Lần này lại thêm một thử thách mới.

Sau cùng Mỹ Dung yêu cầu chính phủ Mỹ phải cam kết đưa cha và anh bà được vào Mỹ, trước khi phiên tòa bắt đầu.

Việc này sẽ được thu xếp trước khi vụ gián điệp tại Bộ Ngoại Giao được chuyển qua tòa án. Hồ sơ cam kết mật đưa lên tổng thống Carter xin chấp thuận. Guồng máy tình báo Hoa Kỳ lại mở chiến dịch mới.

Bà Mỹ Dung viết thư cho Lê Duẩn, tổng thư ký và Nguyễn Duy Trinh bộ trưởng ngoại giao Hà Nội xin cho cha là Đăng Quang Minh qua London gặp gia đình vợ con vì bà Minh bị bệnh nan y có thể chết.

Giáng Sinh năm 1977, Hà Nội chấp thuận cho ông Minh xuất ngoại. Trong hai tuần lễ bên cha, cả hai chị em bà Mỹ Dung thuyết phục ông Minh đi Mỹ nhưng không thành công.

Cuộc tranh luận, phân giải trong gia tộc với nghĩa phu thê, và tình cha con của một gia đình Quốc Cộng đã kéo dài suốt mùa Giáng Sinh tại thủ đô sương mù London năm 1977.

Ông Minh đã dành cả cuộc đời đi theo con đường của ông, đêm nằm trằn trọc cùng phòng với đứa cháu ngoại thân yêu.

Bà Minh suốt thời gian nghe con gái và chồng tranh luận mệt nhoài nên đã nói những lời sau cùng trước khi chia tay đôi ngả. Bà yêu cầu chồng và các con từ nay chấm dứt tranh luận, cãi cọ qua lại về chính trị, về chủ thuyết, và tương lai. Hãy ngồi với nhau lần cuối trong tình huyết tộc rồi đường ai nấy đi.
Cuộc chia tay của hai phe đấu tranh chiến tranh chính trị trong một gia đình bây giờ chỉ còn toàn nước mắt của “Ngàn giọt lệ rơi.”

Sau cuộc họp mặt Giáng Sinh lịch sử 1977 của gia đình họ Đặng, Hoa Kỳ quyết định đưa vụ án ra ánh sáng. Chính phủ Mỹ truy tố Trương Đình Hùng và Ronald Humphrey mỗi người bị tù 15 năm. Cả hệ thống ngoại giao của cộng sản Hà Nội bị lung lay, rung động từ đại sứ Đinh Bá Thi tại Liên Hiệp Quốc cho đến đại sứ Đặng Văn Sung tại Paris.

Câu chuyện gián điệp nữ Đặng Mỹ Dung được viết lại thành ký sự bằng Anh ngữ nhưng CIA đã yêu cầu bỏ đi gần 200 trang trước khi in. Một ngày nào đó bản Việt ngữ sẽ phát hành đầy đủ hơn để chúng ta biết rõ về một gia đình Quốc Cộng đã chia ly, đoàn tụ và vĩnh biệt ra sao.

Về sau ông Đặng Quang Minh sống độc thân tại Hà Nội, thỉnh thoảng đi thăm mộ con trai là thiếu úy Đặng Hải Vân của KQVNCH tại miền Nam. Ông mất năm 1986, hưởng thọ được 77 tuổi.

Đặng Văn Khôi, người con trai lớn theo ông tập kết ra Bắc có đến chào cha trước khi vượt biên, hiện sống ở miền Đông Hoa Kỳ. Từ một sĩ quan của đơn vị phòng không quân đội nhân dân đã du học bên Nga, nay ông trở thành người tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Ông sống độc thân, năm nay 67 tuổi.

Bà Minh sống với vợ chồng Đặng Mỹ Dung đã về hưu. Khi được tin chồng chết, bà không muốn về chịu tang dưới nghi lễ của đảng cộng sản. Một lòng kiên quyết, bà muốn để cho chồng đi trọn con đường ông lựa chọn.

Ông chết trong lòng đất quê hương, nơi có mộ phần của con trai ông là sĩ quan miền Nam. Bà Minh qua đời khi nước Mỹ bước vào thế kỷ thứ 21. Có thể ông bà đã cùng đứa con trai đoàn tụ ở một nơi không còn khác biệt về ý thức hệ.

Cuốn sách A Thousand Tears Falling hiện được một số giáo sư Hoa Kỳ dùng để dạy cho các trường trung học. Còn cuốn phim A Thousand Tears Falling của Giao Chỉ thì đang dự thảo. Cũng mới chỉ là một ý kiến mà thôi. Chỉ sợ rằng để lâu quá thời gian sẽ làm cho nước mắt đã khô hết cả mất rồi. Nhưng dù lâu hay mau, câu chuyện Ngàn Giọt Lệ Rơi sẽ rất xứng đáng để quay thành phim. Và hàng triệu giọt nước mắt sẽ chan hòa rạp hát. Vì vậy chúng tôi xin kể lại chuyện này nhân ngày 30 tháng 4-2006, ba mươi mốt năm sau.

Giao Chỉ – San Jose 2006


NGUYỄN TRUNG LĨNH * LỜI KÊU GỌI VÙNG LÊN DIỆT CỘNG



Toàn dân đồng lòng loại bỏ bọn phản quốc!
Nguyễn Trung Lĩnh
Hà Nội, ngày 03.03.2010


Trong mấy năm lại đây rất nhiều hành động, chính sách và các tin đồn trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc không làm cho chúng ta hài lòng. Nhiều người hiểu biết và có tấm lòng đối với đất nước và dântộc rất bực mình, xót xa phải lên tiếng như Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, Cựu Phó Thủ Tướng-Trung Tướng Đồng Sỹ Nguyên, Cựu Thiếu Tướng- Chính Uỷ Quân Khu, Bí Thư Tỉnh Uỷ, Đại Sứ Nguyễn Trọng Vĩnh, hàng nhiều vạn trí thức, các Nhà tranh đấu trong và ngoài nước, thanh niên, sinh viên và quần chúng nhân dân lên tiếng bằng nhiều hình thức, tập trung biểu tình phản đối các hành động của Trung Quốc đối với Việt Nam và các biểu hiện, hành động của Lãnh đạo ĐCSVN trước Trung Quốc.


Trong những năm đầu thập kỷ chín mươi của Thế kỷ trước nổi bật là sự kiện: hầu như toàn bộ Lãnh đạo ĐCSVN phải sang Trung Quốc bằng đường bộ và đường sắt theo yêu cầu của Trung Quốc để đến “khấu lạy” Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân và Lãnh đạo Trung Quốc để thỉnh cầu sự hoà bình, hoà thuận, bình thường hoá quan hệ giữa hai bên, kêu gọi Trung Quốc trợ giúp để ĐCSVN, Thể chế do ĐCSVN xây dựng lên không bị sụp đổ.

Đây là hành động mà theo đánh giá của nhiều Đảng viên ĐCSVN cũng như người dân không đảng phái là “hành động nhục nhã nhất từ cổ chí kim của một Triều đình” mang lại cho dân tộc Việt Nam chúng ta. Nguyên nhân là do thời bấy giờ Liên Xô và Hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa sụp đổ thì Lãnh đạo ĐCSVN không còn chỗ bám dựa đành quay sang tìm chỗ bám mới là ĐCS Trung Quốc. Ông Đặng Tiểu Bình cùng lãnh đạo Trung Quốc hiểu vấn đề và nắm được cơ hội quyết hạ nhục Lãnh đạo ĐCSVN và nhân dân Việt Nam. Chúng ta có thể chấp nhận được một Đảng, một nhóm người lãnh đạo đất nước kiểu như thế này không? Rõ ràng là không thể chấp nhận được.


Tiếp theo sau nỗi nhục lớn nhất từ cổ xưa đến nay là việc Lãnh đạo ĐCSVN đã chấp nhận ký kết Hiệp Ước Biên giới trên bộ với Trung Quốc. Theo Hiệp Ước này Việt Nam ta đã để mất khoảng 700 km2 đất liền dọc biên giới phía bắc với Trung Quốc so với Hiệp Ước biên giới của Thực dân Pháp với Nhà Thanh trước kia. Nhiều đảng viên ĐCSVN cũng như nhân dân nói rằng dọc biên giới cách đây 20 năm là đất của chúng ta thì ngày nay đã thụt vào khoảng 1 km đến 2 km suốt dọc theo cả chiều dài biên giới với Trung Quốc trên đất liền. Với Hiệp Ước phân định Vịnh Bắc Bộ thì lại để mất thêm khoảng 1 triệu km2 mặt biển so với trước kia. Nếu tính số tiền mà nước ta đã để mất vào tay Trung Quốc trong vấn đề biên giới phải đến hàng vạn tỷ đô la Mỹ.


Hơn thế nữa nó là vô giá, không thể tính nổi. Có lẽ đây là khoản mà Trung Quốc lấy lại “số nợ” mà Trung Quốc đã giúp chúng ta trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, hay là họ lợi dụng lúc chúng ta yếu, khó khăn, cần tới họ thì họ cố “vặt” chúng ta? Hay là Lãnh đạo ĐCSVN đã bị họ khống chế, mua chuộc bằng tiền và gái rồi? Chúng ta có thể chấp nhận được một Tập thể lãnh đạo đã mang lại cho đất nước và dân tộc ta những kết quả về tiền của và danh dự như trên không? Tất nhiên là không thể chấp nhận được.


Năm 2005 một đoàn ngư dân của Thanh Hoá đánh cá trên vùng biển mà xưa nay dân ta vẫn đi đánh cá đã bị Hải Quân Trung Quốc nã súng làm 5 người chết mà Lãnh đạo đất nước không hề lên tiếng, Lãnh đạo ĐCSVN không hề lên tiếng phản đối để bảo vệ chủ quyền và bảo vệ danh dự cũng như tính mạng của người dân. Gần đây rất nhiều vụ ngư dân ta bị Trung Quốc bắt bớ, làm trò xấu, hành hạ, cướp của một cách ngang nhiên không xem con người ra gì ngay trên địa phận của chúng ta. Ngược lại rất nhiều toán ngư dân Trung Quốc xâm phạm vùng biển của chúng ta, có khi vào sát bờ biển ta chưa đến 50 km.


Thế mà phía chúng ta theo chỉ thị của Bộ Chính Trị ĐCSVN không hề có một hành động bắt phạt nào đáp trả phù hợp. Đây rõ ràng là những hành xử yếu hèn, thấp kém của Ban lãnh đạo ĐCSVN. Đương nhiên là thế lực của chúng ta đang yếu so với Trung Quốc, nhưng không có nghĩa là Ban lãnh đạo đất nước không biết lên tiếng bảo vệ dân mình, bảo vệ quyền lợi của đất nước mình trước một nước láng giềng to lớn. Một mình không bảo vệ nổi thì phải tìm kiếm đồng minh ngay tức khắc, chứ đằng này không chịu tìm kiếm đồng minh mà ngồi yên chịu làm theo ý của Lãnh đạo Trung Quốc, thiệt cho nhân dân mình là không được. Chúng ta không thể chấp nhận được một Đảng, một Ban lãnh đạo đất nước yếu kém và thấp hèn như vậy!


Theo nhiều tin đồn thì người Trung Quốc còn biểu tình ngang nhiên trước sứ quán Trung Quốc ngay trên đất của ta là “Hoàng Sa-Trường Sa là của Trung Quốc” mà Công An chúng ta theo chỉ thị của Bộ Chính Trị không hề giám bắt bớ. Ở nhiều nơi như Hải Phòng, Quảng Ngãi, Quảng Ninh, Tây Nguyên, Nghi Sơn-Thanh Hoá người Trung Quốc đã sang sống hàng 3000-4000 người thành Làng-Xã.


Họ còn ngang nhiên bắt bớ xử án dân ta cho là ảnh hưởng đến quyền lợi của họ, thậm chí đánh đập dân lành trong đêm tối như ở Nghi Sơn, rồi biểu tình trước Công An Huyện mà Công An chúng ta theo chỉ thị của BCT ĐCSVN không hề giám làm gì. Đáng ra mọi hành động trái pháp luật của người nước ngoài trên đất nước ta , vô cớ đánh đập dân ta phải được nghiêm trị theo pháp luật của chúng ta, cầm tù và tống cổ về nước ngay. Có những nơi như ở Hải Phòng người Trung Quốc sống thành từng Làng mà Công An khu vực không dám, ngại kiểm tra giấy tờ để họ thích sống, thích ở bao nhiêu lâu tuỳ ý.


Những nơi Trung Quốc thuê thì họ cho đóng những cột mốc to như cột mốc biên giới không cho bất cứ Người Việt Nam nào vào, ngầm nói rằng đây là “đất của Trung Quốc rồi”. Tình hình hiện nay khẳng định rằng đại đa số các lãnh đạo cao cấp của ĐCSVN, kể cả các Công chức cấp dưới đều sợ Trung Quốc nên không dám công khai lên tiếng phản đối, chống lại bọn làm tay sai cho Trung Quốc ngay trong ĐCSVN. Những kết quả như trên cho thấy chúng ta không thể chấp nhận một Ban lãnh đạo tối cao là BCT ĐCSVN lại để tình hình xảy ra như hiện nay.


Đầu năm 2009 nổi bật là tin Bộ Chính Trị ĐCSVN đã bất chấp dư luận, bất chấp Quốc hội, bất chấp nhân dân ngang nhiên ký kết cho Công ty khai thác quặng Nhôm thô- Bô xit – của Trung Quốc vào Tây Nguyên khai thác với kế hoạch rất lớn với mục đích cung cấp Nhôm thô cho Trung Quốc. Hiện nay hai nhà máy khai thác bô xit Nhôm đã bắt đầu xây dựng và hoạt động. Việc khai thác Nhôm ở Trung Quốc và nhiều nơi trên Thế giới đã chứng tỏ tính kém hiệu quả kinh tế và nguy hại về môi trường. Đành rằng chúng ta cần công nghệ hiện đại về khai thác và sản xuất Nhôm. Nếu vậy chúng ta phải thuê Công ty của Mỹ, Đức hay Nhật gì đó chứ không cần Công ty của Trung Quốc. Hoặc là trước tiên hãy làm một Nhà máy rồi sau đó học hỏi, rút kinh nghiệm xem thế nào hãy làm cái thứ hai. Đằng này BCT ĐCSVN đã ngang nhiên cho Trung Quốc vào vây kín khu vực rộng lớn Người Việt Nam không được vào. Tuỳ ý họ làm gì trong đó không ai biết.


Rất nhiều các Công Trình khác như Nhiệt điện Phả lại, Thuỷ điện ở Quảng Nam, Dây chuyền hai Xi Măng Nghi Sơn v,v, đều do Trung Quốc thắng thầu và họ đưa công nhân của họ vào làm trong khi dân ta còn thiếu việc làm trầm trọng. Tin đồn ở Hà Nội là “Mỗi khi Công ty của Trung Quốc tham gia dự thầu thì có chỉ thị từ Bộ Chính Trị xuống phải cho họ thắng thầu”. Gần đây nổi bật là tin hai vị Tướng về hưu rất có uy tín là Đồng Sỹ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh lên tiếng yêu cầu dừng ngay việc các tỉnh của Việt Nam ta đã cho các công ty của Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông – thực chất đều là Trung Quốc cả – thuê dài hạn 50 năm 264 ngàn hécta rừng dọc biên giới các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Định, Kon-Tum và Bình Dương.

Với số diện tích lớn như vậy mà Trung Quốc họ vây kín, đóng cột mốc, đem dân họ sang sinh sống 50 năm thì rõ ràng thành đất của họ luôn. Điều này không thể chấp nhận được từ góc độ An Ninh Quốc gia và An Ninh môi trường. Hoặc họ sẽ tự do khai thác quặng, chặt cây rừng gây ảnh hướng rất nguy cập về môi trường không thể lường trước được trong khi dân ta mật độ dân số rất đông và đang rất cần đất, cần rừng. Việc này trách nhiệm chính thuộc về Bộ Chính Trị và Ban Chấp hành Trung Ương ĐCSVN. Tại sao Lãnh đạo ĐCSVN, Cơ quan An Ninh Quốc Gia không biết trước mối nguy về An Ninh Quốc gia khi Trung Quốc từng bước tràn người sang và nắm các chốt điểm xung yếu của đất nước? Rồi từ đó họ mở rộng địa bàn hoạt động, lấn dần từng bước trên toàn Quốc, lấn dần trên mọi lĩnh vực của đất nước. Đây là tiến trình xâm lăng và thôn tính nước ta của Trung Quốc. Tôi thiết tưởng những việc trên có chỉ thị từ Bộ Chính Trị ĐCSVN thì cấp Tỉnh mới dám làm.



Từ nhiều năm nay các cán bộ cao cấp của Việt Nam sang Trung Quốc và đi ra nước ngoài đều bị phía Trung Quốc biết trước lộ trình và cho người quan tâm, mua chuộc, khống chế bằng vật chất và quan hệ với phụ nữ rất nguy hiểm. Đây là một cách làm để từng bước khống chế toàn bộ Lãnh đạo nước ta, quy phục dân tộc chúng ta từng bước một, tiến tới xâm lược và thôn tính nước ta hoàn toàn. Những hành động trên là bẩn thiểu của một Quốc gia đối với Quốc gia khác. Nếu chúng ta không có biện pháp bảo vệ cán bộ tuyệt đối an toàn thì có nguy cơ Lãnh đạo nước ta nhanh chóng cuối đầu và làm tay sai cho Trung Quốc trong tương lai gần. Họ sẽ triệt thoái và loại bỏ những ai yêu nước, có tinh thần dân tộc, không muốn cuối đầu nghe theo sự chỉ bảo của Trung Quốc.


Mọi nơi trong nước đều có tin đồn rằng trong dịp Đại Hội ĐCSVN năm 2001 và 2006 các phái đoàn cao cấp của Trung Quốc và Mỹ bay sang Hà Nội liên tục để “tác động” và “chỉ đạo” công tác nhân sự của ĐCSVN. Điều này báo chí cũng đăng công khai các phái đoàn sang Hà Nội trong các năm đó. Vậy rõ ràng là Lãnh đạo ĐCSVN đã để cho nước ngoài can thiệp vào nội bộ của mình, đồng nghĩa với can thiệp vào nội bộ của Việt Nam ta. Người dân ở Hà Nội còn nói rằng nhiều nhân vật trong Bộ chính trị đã được Trung Quốc giúp đỡ, ủng hộ để có vị trí nên tất nhiên không dám chống lại phía Trung Quốc và tiếp tay cho Trung Quốc xâm lược nước ta. Các Đảng viên ĐCSVN còn nói rằng Ông Nông Đức Mạnh đã nhờ Trung Quốc ủng hộ để được ngồi ghế Tổng Bí Thư hết khoá như hiện nay.


Từ những việc trên tôi thỉnh cầu các cấp có thẩm quyền, các Sỹ quan Công An, Sỹ quan Quân đội và toàn dân Việt Nam ta mấy việc sau:
1) Tổ chức điều tra kết luận để vạch mặt những kẻ đã bị Trung Quốc khống chế, điều khiển, hối lộ và mua chuộc có thể là các Ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Chí Vịnh, v,v. Nếu thật sự ai đó đã bị Trung Quốc khống chế, điều khiển và quy phục làm tay sai cho Trung Quốc thì phải vạch mặt, chấm dứt sự nghiệp chính trị và cho nghỉ hưu ngay, thậm chí bắt giam, truy tố về tội phản Quốc, làm tay sai cho nước ngoài.


2) Điều tra đưa ra ánh sáng, những ai là kẻ chủ mưu, đồng tình trong Bộ Chính Trị đã đồng ý cho Trung Quốc vào Tây Nguyên khai thác Bô-xite? Ai đã gọi điện hay ra lệnh để 10 tỉnh vừa rồi ký cho các doanh nghiệp Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông thuê gần 300 ngàn hécta rừng 50 năm? Những cá nhân nào đã đặt bút ký cho các doanh nghiệp trên thuê đất rừng? Những cá nhân này phạm tội hoặc là làm tay sai cho Trung Quốc, hoặc là không hiểu biết gì, không có thái độ bảo vệ quyền lợi Quốc gia, An Ninh Quốc gia trước hoạ xâm lăng của Trung Quốc và về An Ninh môi trường. Phải cách chức ngay tức khắc những cá nhân chủ mưu để làm gương. Bắt giam và truy tố những kẻ chủ mưu làm tay sai cho nước ngoài.


3) Qua những việc làm tôi nêu trên cho thấy rằng Bộ Chính Trị ĐCSVN là cơ quan tối cao của đất nước, Tổng Bí Thư ĐCSVN là người có quyền cao nhất nước, Chủ Tịch Nước là Chủ Tịch Uỷ Ban An Ninh và Quốc Phòng của đất nước, Thủ Tướng là người trực tiếp điều hành đất nước và các tỉnh sao lại để cho những hành động trên xảy ra mà không biết hay không chống lại, hay lại tiếp tay cho Trung Quốc rồi? Các Quý ngài thật sự chưa hoàn thành nhiệm vụ, không xứng đáng để lãnh đạo đất nước nữa! Tốt nhất nên tất cả cùng rút lui về hưu!



4) Huỷ bỏ tất cả các hợp đồng cho nước ngoài thuê đất rừng ở 10 tỉnh vừa rồi với lý do vi phạm trầm trọng An Ninh Quốc Gia của Việt Nam và An Ninh môi trường. Không thể chậm trễ được!
5) Về hai nhà máy Bô xite nhôm thì nên cẩn thận chắc chắn. Không nên làm thêm nhà máy nào nữa. Không nên mở rộng và làm ào ạt. Làm cốt để lấy công nghệ về nhôm và từ từ tính sau.
6) Kiểm soát chặt chẽ người nước ngoài nhập cư. Đặc biệt người nước ngoài là Công dân Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan. Điều kiện VISA cư trú rõ ràng. Nếu ai vi phạm luật Việt Nam phải xử lý nghiêm minh và trục xuất về nước ngay tức khắc.


7) Ban hành luật xây dựng, xây cột mốc xung quanh khu vực cho nước ngoài thuê. Cấm xây cột mốc quá cỡ. Mọi việc xây dựng, đào đất, đào hầm hay làm gì đó ở Việt Nam phải được Cơ quan thẩm quyền của Việt Nam cho phép. Mọi Công dân Việt Nam đều có quyền vào khu vực nước ngoài thuê để tham quan, xem xét.


8) Kiểm soát lao động nước ngoài chặt chẽ. Tất cả các Công ty và Nhà thầu nước ngoài chỉ được phép thuê lao động nước ngoài mà Người Việt Nam không đáp ứng nổi, không có trình độ chuyên môn đáp ứng với mức lương tối thiểu theo giờ làm đối với từng công việc cụ thể. Một công việc mà Công dân Việt Nam làm được thì bắt buộc phải thuê Người Việt Nam làm. Bất chợt hoặc hàng tháng hay hàng quý kiểm tra giấy phép lao động đối với người nước ngoài. Nếu không có giấy phép lao động hoặc giấy phép lao động không hợp lệ thì phạt chủ sử dụng lao động 200 triệu VNĐ/1 lao động sai phạm. Trục suất ngay tức khắc tất cả những lao động nước ngoài bất hợp pháp.


9) Trường hợp xấu nhất là đại đa số các Thành viên Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung Ương ĐCSVN đã bị Trung Quốc khống chế, điều khiển và mua chuộc bằng tiền, gái và vị trí, đa số các cán bộ cao cấp của ĐCSVN bây giờ sợ mất chức hay không lên được chức nên im lặng, sợ “bàn tay nối dài của Trung Quốc” ở mọi nơi trên nước ta thông qua Tổng Cục 2 thì cách duy nhất là phải chuẩn bị đảo chính quân sự hoặc huy động nhân dân kéo xuống đường biểu tình hạ bệ, bắt giam những kẻ làm tay sai cho nước ngoài.


Không còn con đường nào khác kính thưa toàn thể Đồng bào yêu quý khắp nơi ! Nếu không họ sẽ bán nước, bán dân từng bước cho quân xâm lược mà thôi. Biểu tình và đảo chính lật đổ là cần thiết khi giới cầm quyền quá thối nát, bất tài và làm tay sai cho nước ngoài, tiếp tay cho kẻ thù xâm lăng đất nước chúng ta!


10) Chúng ta rất tôn trọng nhân dân Trung Quốc, luôn cầu mong cho quan hệ thật sự trong sáng và đẹp đẽ giữa hai dân tộc. Song chúng ta không chấp nhận mọi động thái và cử chỉ không lành mạnh trong quan hệ giữa hai bên. Quan hệ tốt với Trung Quốc không có nghĩa là chúng ta phải cuối đầu nghe theo sự chỉ bảo của họ, từng bước nhượng mọi quyền lợi của đất nước và dân tộc ta cho họ, và dân ta làm nô lệ cho họ! Chúng ta không chấp nhận một Nhóm lãnh đạo ngu dốt, tham nhũng thối nát, cuối đầu làm tay sai cho Trung Quốc, nhượng đất, nhượng rừng, nhượng biển rồi tiến tới nhượng cả dân tộc cho Trung Quốc ! Dân tộc Việt Nam ta sẽ không cuối đầu trước bất cứ thế lực nào đe doạ từ bên ngoài!


Đứng trước những việc làm lâu nay của Lãnh đạo ĐCSVN tôi rất bất bình, không thể nào không lên tiếng vì đất nước và dân tộc chúng ta! Kính mong những Đảng viên ĐCSVN, Công chức nhà nước, Sỹ quan Quân đội và Công An còn lương tâm và lương tri hãy dũng cảm hành động mạnh mẽ vì đất nước của chúng ta ! Đường cùng toàn dân phải kéo xuống Quảng Trường Trung Tâm trên khắp 63 Tỉnh-Thành hoặc Quân đội đảo chính để xoá bỏ một Bộ phận của Bộ Chính Trị và Ban Chấp Hành ĐCSVN nhu nhược, bất tài, tham nhũng, thối nát và làm tay sai cho Trung Quốc như hiện nay ! Rất mong toàn thể Đồng Bào khắp nơi hưởng ứng và hành động gấp rút!


Hà Nội, ngày 03.03.2010
Người viết : Nguyễn Trung Lĩnh.
ĐC: Phố Lạc Trung, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Email: Trunglinh67@ yahoo.com.
(TB: Rất hân hạnh được gửi tới các cháu học sinh phổ thông, thanh niên, sinh viên, công nhân, nông dân và những người dân bình thường trên khắp mọi miền của đất nước).

NGUYỄN THI THANH DƯƠNG * GIẤC MỘNG DÀI




GIẤC MỘNG DÀI
Nguyễn Thị Thanh Dương
 
Tôi vừa về đến nhà là bố tôi hỏi ngay:
- Thủ tục đã xong xuôi chưa con?
- Xong cả rồi bố ạ, bên ấy ông Mấn chỉ đợi phỏng vấn thôi.
Ông Mấn là chú của bố tôi, người mà tôi phải gọi bằng ông trẻ. Ông đang sống ở miền Bắc Việt Nam , và bố tôi đang làm thủ tục bảo lãnh chú sang Mỹ theo diện du lịch.
Sau năm 1975, bố tôi phải đi “Học tập cải tạo” ròng rã 8 năm trời. Ra tù, về nhà bố tôi sống khép kín cho qua ngày, vả lại, một người sĩ quan chế độ cũ đi tù về, chẳng có cơ hội nào để vươn lên trong xã hội mới cả. Cho tới khi có chương trình HO, cho những người tù cải tạo được định cư tại Mỹ, thế là cả nhà tôi đi Mỹ.
Cuộc sống mới nơi xứ người đã phục hồi lại con người thật của bố tôi, bố mẹ đã đi làm, nuôi chúng tôi ăn học, cuộc sống dần dần ổn định mọi bề.
Năm 2000 bố mẹ và tôi lần đầu tiên về thăm quê hương Việt Nam , hay nói cho đúng hơn là về miền Bắc để tìm lại người thân. Bố đã gặp lại người mà bố muốn gặp, đó là ông Mấn, vì bố đã nghe tin ông vẫn còn đang sống ngay tại làng quê cũ.
Ký ức tuổi thơ của bố vẫn còn những kỷ niệm đẹp với ông chú, thuở còn trai trẻ, chú Mấn đã bỏ làng, đi buôn bán phương xa, từ buôn bè trên sông đến buôn hàng chuyến đủ loại thượng vàng hạ cám, miễn là cuộc đời được giang hồ tứ xứ.
Đi xa như thế, mỗi lần trở về làng, dù lời lãi hay không, chú Mấn đều mang quà về cho nhà, bố tôi là cháu ruột, cũng được nếm đủ loại quà bánh của chú, ngon như bánh cốm, bánh xu xê, bánh đậu xanh, bánh khảo của Hải Dương, hay tầm thường thì có những cục kẹo lạc, kẹo vừng hay kẹo bột ngọt ngào mà trẻ con nào không ưa thích !
Bố đã nhìn ông chú bằng ánh mắt kính phục và ngưỡng mộ, đôi chân chú khoẻ, đi hoài mà không biết mỏi, không chịu quay về làng quê ở hẳn như gia đình mong muốn. Ngoài quà bánh, chú Mấn còn có nhiều câu chuyện kể cho lũ cháu trẻ ranh làm chúng nó mê mẩn, bố tôi thích nhất những câu chuyện chú Mấn đi buôn bè trên sông, thả gỗ từ thượng nguồn xuôi về hạ nguồn, có khi gặp nước lũ, bè trôi, những người buôn bè phải chống trả với phong ba bão táp, những hình ảnh ấy hồi hộp và ly kỳ hơn trong phim truyện. Đến nỗi bố đã từng mơ, lớn lên sẽ đi buôn bè, giang hồ dọc ngang như chú Mấn.
Chú Mấn rất hào phóng, nhiều lúc chú đã dúi tiền cho bố tôi, bảo tao cho mày, cất đi mà tiêu, đừng cho bố mẹ mày biết. Những đồng tiền ngày đó đối với bố tôi đã lớn biết bao.
Chúng tôi đến nhà con gái ông Mấn, họ bảo ông đang ở căn lều ngoài nghĩa địa, ông thích ở riêng, khỏi phiền con cháu, mà nhà chúng nó cũng chẳng phải là một căn nhà nên ông chẳng chen chân vào làm gì, rồi lại mang tiếng ở nhà con rể.
Đứa cháu ngoại của ông dẫn chúng tôi đến căn lều, cô hơn 20 tuổi mà trình độ, kiến thức của cô vẫn ngô nghê như một đứa trẻ bậc Tiểu học, làm như từ hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ, cô chỉ từ làng quê này đi kinh tế mới Lào Cai, và trở lại làng, nên chẳng biết gì hơn ngoài núi rừng và đồng ruộng
Huyền thoại về “chú Mấn” cũng làm tôi thích thú và khao khát được gặp ông bằng xương bằng thịt. Bây giờ “chú Mấn” là một ông già 73 tuổi, ông to cao như cây cổ thụ, nước da nâu sẫm của người nông dân cả ngày phơi mặt ngoài đồng. Ông Mấn dựng một túp lều nhỏ ngay tại nghĩa địa, sống một mình, ngoài thì giờ làm vườn, làm ruộng, ông về lều thảnh thơi ngồi uống rượu như một kẻ nhàn du.
Khi tôi hỏi ông ở một mình nơi nghĩa địa ông có sợ ma không? Thì ông Mấn coi như đó là một câu hỏi ngớ ngẩn, ông bảo ma sợ ông chứ ông sợ gì nó!
Ông có một đứa con gái, hai vợ chồng nó nghèo xơ xác, căn nhà ọp ẹp dựng ở ven đê, mùa mưa con đường đê dấy lên bùn sình như bột nhão, đặt chân xuống bùn, dở lên để đi bước nữa thật là vất vả và khó khăn, vợ chồng chị đã từng đi kinh tế mới ở Lào Cai, chẳng thể sống nổi lại kéo nhau về làng cũ với căn bệnh sốt rét, nay ốm mai đau, tiền bạc không có, ruộng vườn trắng tay, đành phải ra đê mà ở là vậy.
Sau này cũng đơn lên đơn xuống các cấp xã, huyện, mới xin được một mẩu đất ruộng xấu nhất cuối làng, để cày cấy lấy hạt gạo đổ vào mồm, tuy không đủ no nhưng có còn hơn không. Vợ chồng chị đều ốm yếu, con thơ nhếch nhác, nên ông Mấn đã phải xông pha ,mang hết sức lực ra, đổ mồ hôi trên ruộng vườn để phụ giúp con cháu suốt bao nhiêu năm nay, ngoài ra ông còn sẵn sàng làm thuê cuốc mướn cho những nhà khác nữa.
Khác với lòng mong ước và sự tưởng tượng của tôi. Ông Mấn không hề vồ vập hay xúc cảm với bố tôi, thằng cháu nhỏ năm xưa ông từng âu yếm cho quà và cho tiền, ông nhìn chúng tôi bằng ánh mắt không thiện cảm cho lắm, ánh mắt ấy như nói rằng, lũ chúng tôi đã chạy theo “Mỹ Nguỵ” chẳng tốt lành hay ho gì.
Suốt câu chuyện, ông kiêu ngạo và hãnh diện khoe đất nước Việt Nam sau cuộc chiến thắng vinh quang 1975, đã dần dần đổi mới và tiến lên. Cụ thể là ngôi làng này, con đường làng bụi đất và gồ ghề khi xưa nay đã được tráng nhựa, nhiều nhà gạch xây lên và có điện thắp sáng, có ti vi, có đài radio, dân không phải nghe tin tức bằng cái loa ở trụ sở ấp nữa…
Dĩ nhiên, không phải cả làng ai cũng khá giả như thế, bằng chứng là nhà con gái ông và ông vẫn chưa có những thứ ấy. Nhưng ông Mấn vẫn khẳng định chắc như đinh đóng cột, trong tương lai nhà nhà sẽ no ấm hơn, cuộc sống tiện nghi đầy đủ hơn, xã hội chủ nghĩa sẽ đi đến đỉnh cao của thành công và quang vinh.
Ông Mấn khoe thêm, cuộc sống bây giờ dân chủ, ai có tiền thì cứ việc ăn ngon mặc đẹp, không như dạo xưa, giết một con gà để ăn cũng phải lén lút, dấu diếm sợ hàng xóm phê bình.
Tội nghiệp ông! Đã trải qua những năm dài đăng đẳng đói ăn, thiếu mặc của miền Bắc trong thời kỳ chiến tranh, đã quen với những vùi dập của cơ chế bao cấp thị trường, gạo, thịt, nhu yếu phẩm mua bằng tem phiếu. Nay được hưởng một chút tiện nghi rất sơ đẳng, rất bình thường, đã cho là đổi mới vĩ đại, đã hài lòng mãn nguyện.
Chúng tôi được biết ông Mấn đã là đảng viên, đang lãnh lương hưu trí, số tiền hưu cho một anh bộ đội quèn chẳng là bao, nhưng nó khẳng định cái giá trị công lao của anh đã đóng góp cho đảng và nhà nước.
Bố tôi và tôi đều thất vọng về “chú Mấn” ngày xưa, bố mẹ đã biếu ông Mấn một số tiền và đặc biệt là một cái áo ấm bằng da mà chính tay bố đã mua cho ông, vì bố đã biết mùa Đông đất Bắc mưa phùn gió bấc lạnh thế nào!
Tuy ông Mấn có ý chê trách chúng tôi theo “Mỹ Nguỵ”, nhưng ông không chê những món quà của “Mỹ Ngụỵ”, ông cẩn thận gấp những đồng tiền đô la bỏ vào túi và mặc thử cái áo ấm to dày với vẻ hài lòng. Tôi liếc nhìn quanh căn lều chông chênh, trống toang toác của ông, bốn bề gió lộng giữa bãi tha ma, làm sao mà không lạnh!
Về tới Mỹ, nghĩ đi nghĩ lại, bố tôi vẫn thương “chú Mấn”, ở cái tuổi già bên Mỹ đã được nghỉ ngơi, an hưởng đời sống đầy đủ từ vật chất đến y tế thuốc men, thì ông Mấn vẫn cơ cực làm công việc nặng nhọc, mà đời sống vẫn thiếu thốn mọi bề, chỉ có những giấc mộng của ông thì đầy ắp những ấm no, giàu đẹp. Không biết giấc mộng sẽ kéo dài tới bao lâu? Và ông có còn sống để mà hưởng không hay phải đợi đầu thai kiếp khác?
Mỗi năm sau đó, chúng tôi vẫn gởi tiền về cho ông Mấn, dù bất đồng ý kiến, nhưng chẳng ai nỡ nhìn người thân của mình ở tuổi già gần đất xa trời vẫn loay hoay đánh vật với cuộc sống để kiếm cơm cháo qua ngày như thế !
Cô cháu ngoại của ông Mấn thỉnh thoảng viết thư cho chúng tôi, kể về ông, năm nay ông 79 tuổi rồi, không còn khoẻ như hồi chúng tôi về thăm nữa. Bố tôi ngậm ngùi thương cho ông, và có ý định làm bảo lãnh cho ông Mấn sang Mỹ thăm thân nhân, coi như một món quà bất ngờ cho ông. Một con người từng yêu thích ngang dọc một thời, đây là cơ hội ông không thể bỏ qua, dù ông chưa tin tụi Mỹ cho lắm.
*** *** ****
Ba tháng sau, ông Mấn của chúng tôi đã đặt chân đến Mỹ, ông như người từ cung trăng vừa rơi xuống mặt đất này, cái phi trường, nơi ông vừa ra khỏi máy bay đã làm ông choáng váng, ông bảo nó to đẹp cực kỳ mà ông chưa bao giờ tưởng tượng được.
Rồi đường xá, xe cộ…Trời ơi, thì ra có đất nước giàu có và tiện nghi cao cấp vượt bực đến vậy! ông bảo có nằm mơ ông cũng không thấy, ông đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, mỗi ngày ông biết thêm những điều mà ông cho là từ “vô lý” đến “đại vô lý” không thể tin được.
Ai đời, một người khách lạ đến từ nước khác, một nước theo xã hội chủ nghĩa như ông, mà chẳng cần phải khai báo, đăng ký tạm trú với chính quyền địa phương gì cả, tự do dân chủ đến độ ông không tin nổi !
Ai đời, người già, người tàn tật, dù không sinh đẻ ở Mỹ, dù chưa đi làm ngày nào trên đất Mỹ, chỉ được thân nhân bảo lãnh sang đây, cũng được hưởng tiền trợ cấp và bảo hiểm sức khoẻ !
Ông bảo nước Mỹ giàu có quá hoá…ngu ! Chúng nó bảo lãnh nhau sang đây, được nước chủ nhà cho định cư là qúy rồi, thì vợ chồng, con cái chúng nó phải nuôi nhau, lo cho nhau, việc gì nhà nước phải đứng ra trợ cấp?
Đã thế, tiền trợ cấp hàng tháng được gởi tới tận nhà, không bao giờ trễ nãi hay sai sót, trong khi ở làng quê ông, có chuyện gì cần đến xã, đến huyện thì thật là nhiêu khê, với đầy đủ giấy tờ, chứng cớ trong tay mà phải chầu chực, xin xỏ, có khi vẫn không xong.
Đây là những bài học dân chủ lần đầu tiên ông học được trong đời .
Hai tháng ở Mỹ, ông đã lên cân, khoẻ mạnh hẳn ra và vui vẻ thư thái, có lẽ vì ông được ăn uống đầy đủ, không phải vác cuốc ra đồng mỗi ngày, và nhất là ông đã cảm nhận một đời sống tự do, thoải mái?.
Dường như ông thấy thời gian trôi quá nhanh, ông chưa muốn trở về làng quê, dù đôi lúc ông cũng nhớ con nhớ cháu, dòng máu giang hồ đang trổi dậy trong người ông, y như ngày xưa, ông trôi dạt đó đây, thú vui phương xa đã níu giữ bước chân ông.
Ông Mấn đến Mỹ với chiếc áo ấm to dày mà ngày xưa bố mẹ tôi đã mang từ Mỹ về để tặng ông, chắc đây là chiếc áo ông quý lắm và chỉ mặc khi có chuyện “đại sự” nên trông vẫn còn tốt. Nhưng bố tôi vẫn bảo ông bỏ đi và dẫn ông đi sắm vài bộ đồ khác ở chợ Wal- Mart.
Ông Mấn tưởng đây là cửa hàng quần áo sang trọng bậc nhất thế giới mà ông đã hân hạnh được vào, dù bố tôi đã nói là cửa tiệm bình dân, nhưng ông nào tin, cứ cho là bố tôi khiêm nhường hay nói đùa.
Ba tháng du lịch của ông Mấn trôi qua, tới ngày ông phải trở về Việt Nam . Chúng tôi sắm cho ông hai va li đầy những quần áo và quà cáp.
Cả nhà ra phi trường tiễn ông, trước khi đi vào trong cổng, ông đã nắm tay bố tôi, ân cần, thân thiện như “chú Mấn” ngày xưa, và rưng rưng:
- Năm xưa cháu về Việt Nam , chú đã tuyên truyền cho cháu một thiên đường trong mộng, nhưng vẫn không bằng một góc cái hiện tại này, thực tế này, mà các cháu đang được hưởng. Gẫm lại, cùng một kiếp người mà đời chú và con cháu của chú đã gánh chịu bao nhiêu thiệt thòi. Cả thời tuổi trẻ, chú từng đi xa, đây là một chuyến đi xa đẹp nhất và có ý nghĩa nhất trong cuộc đời chú.
Rồi ông cười nhếch mép, vừa đùa vừa tủi thân:
- Kiếp sau, chú vẫn sẽ là một thằng thích giang hồ, xa xứ. Nhưng chú mong sẽ bước tới bất cứ miền nào, vùng đất nào có tự do, dân chủ và no ấm như nước Mỹ này.
Máy bay cất cánh, mang ông Mấn trở về Việt Nam, về ngôi làng quê, nơi có con đường tráng nhựa, có những căn nhà gạch, có ánh điện, có ti vi, có đài…
Nhưng chắc chắn giấc mộng dài của ông về một đất nước xã hội chủ nghĩa thì không còn nữa.
Nguyễn Thị Thanh Dương




NGUYỄN VĨNH LONG HỒ * BẢN TỐ CÁO TỘI ÁC CỘNG SẢN

*


Tội Ác Cộng Sản Việt Nam Trong Biến Cố Làng Ba Chúc, An Giang Tháng 4/1978
VOI 3,574 DONG BAO VIET NAM VO TOI DA BI THAM SAT

NGUYỄN VĨNH LONG HỒ

*



PHẦN I
THÁNG 4 NĂM 2009. Kỷ niệm đúng 31 năm, ngày dân làng BA CHÚC, tỉnh An Giang bị thảm sát vào tháng 4 năm 1978. Hơn 3.157 đồng bào ruột thịt bị tàn sát dã man đã chìm vào trong quên lãng. Tôi xin mở lại hồ sơ tố cáo tội ác bọn CSVN đã nhúng tay trong biến cố ghê tởm nầy, để đồng bào trong và ngoài nước nhận định. Xin đa tạ quý vị!
Vào cuối tháng 5 năm 1999. Tôi có nhận được lá thư đề ngày 21 tháng 5 năm 1999 của ông TRẦN H. (xin dấu tên) - cựu sĩ quan QĐVNCH - sinh quán tại xã BA CHÚC, tố cáo tội ác bọn CSVN giết người tập thể tại làng BA CHÚC, tỉnh AN GIANG. Từ đó, tôi phối kiểm các tài liệu trong và ngoài nước, tình hình biên giới phía Tây Nam 1978 - 1979 và các dữ kiện do những nhân chứng còn sống tại Hoa Kỳ cung cấp. Và tôi xin mở lại hồ sơ vụ án, đưa “sự cố” nầy ra trước ánh sáng để CĐVNHN và đồng bào trong nước biết thêm về tội ác tày trời, giết người tập thể còn dã man, tàn bạo và khủng khiếp hơn cả TẾT MẬU THÂN 1968. Nạn nhân gồm 3.574 nguoi, cả đàn bà, trẻ con Việt Nam lẫn Cam Bốt bị thảm sát tại các CHÙA, TRƯỜNG HỌC tại làng Ba Chúc cách biên giới VIỆT - MIÊN khoảng 7 cây số và chỉ trong vòng một đêm 18 tháng 4 năm 1978. Cái dã man và vô nhân đạo của bọn Lãnh đạo Đảng CSVN đã đem những bộ hài cốt của những nạn nhân do chúng thảm sát, đem trưng bày trong các hộp kính để gây ảo giác căm thù giữa hai dân tộc VIỆT NAM – KAMPUCHEA.



Ảnh nơi phòng trưng bày cuộc thảm sát tại khu Nhà Mồ Ba Chúc.
VỊ TRÍ NHÀ MỒ BA CHÚC
Căn cứ vào hình ảnh và sự mô tả trên mạng saigonnet ngày 4/ 21 /2004: Nhà mồ Ba Chúc, Chùa Phi Lai và Chùa Tam Bửu là những di tích được nhà nước công nhận là di tích vào năm 1980 là một địa điểm ghi dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pôn - Pốt qua 11 ngày (từ 18/ 4/ 1978 đến ngày 29/ 4/ 1978) đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã Ba Chúc. Nhà mồ Ba Chúc có hình lục giác, mỗi trụ cột đỡ mái nhà được kiến trúc hình tượng như bàn tay đẫm máu, đang vươn thẳng lên. Bên trong nhà mồ là một khung hộp bằng kính tám cạnh, chứa đựng 1.159 bộ hài cốt được phân thành nhiều loại khác nhau như: độ tuổi, giới tính...Nhà mồ được xây dựng giữa hai ngôi chùa Phi Lai và Tam Bửu, đây là hai ngôi chùa do các tín đồ của đạo Hiếu Nghĩa dựng lên và cũng chính nơi đây đã trở thành nơi chứng kiến những tội ác của chúng và những chứng tích đó vẫn còn in dấu cho đến ngày nay.
Sau khi phối kiểm và phân tách “Câu chuyện làng BA CHÚC ở biên giới MIÊN - VIỆT” của ông HOÀNG QUÝ (mạng lenduong. net ngày 5/02/2004), chi tiết về cụm nhà mồ BA CHÚC kể trên và thơ tố cáo của ông TRẦN H. Một điểm trùng hợp rất quan trọng là ông TRẦN H, và ông HOÀNG QUÝ đều xác nhận là tất cả nạn nhân đều bị thảm sát tại CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC .
Ông TRẦN H. viết: “... CSVN đưa sư đoàn 30 CSBV án ngữ dầy đặc dọc biên giới Miên Việt tỉnh Châu Đốc cũ. Chiều đến thì bọn cán bộ và bộ đội Cộng sản bắt dân vào CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC ngủ để chúng bảo vệ. Nửa đêm, dân ngủ mê, chúng giả bộ đội Miên tấn công vào chùa và trường học bằng lựu đạn, cổng ngoài khóa chặc. Sau đó, chúng nổi lửa đốt sạch làm hằng ngàn dân vô tội phải chết oan uổn dưới bàn tay vô thần của CSVN. Nhứt là tại làng Ba Chúc thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, có trên 3.000 người bị chúng viết tập thể. Nay chúng cho xây một ngôi nhà kiến để chứa đống xương vô định chất cao bằng đầu...(ngưng trích)
Ông HOÀNG QUÝ viết: “...Thời cuộc đã biến chuyển khôn lường, sau đó chính 2 lực lượng anh em nầy quay mũi súng vào nhau, lực lượng vũ trang của Khờ me đỏ đã tấn công vào làng Ba Chúc, cách biên giới khoảng 4 dậm, vào ngày 18 / 4/ 1978...Tổng cộng có 3.157cả người Việt Nam lẫn Cam bốt bị thảm sát tại các CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC tại Việt Nam. Những cuộc tấn công khác tương tự như trường hợp nầy là những lý do mà CS VN nêu lên để xua quân tiến chiếm Cam Bốt vào cuối năm đó...(ngưng trích).


Trong bài viết “WHEN THE KHMER ROUGE CAME IN VIETNAM” của James Pringle đăng trong International Herald Tribune, số ra ngày Jan 7, 2004 có thuật lại lời của chứng nhân, bà Hà Thị Nga nói: “Trong một ngôi chùa, tôi thấy 40 nạn nhân sợ hãi trốn dưới bàn thờ, trước khi bị giết bằng lựu đạn.” (In a temple, I saw where 40 terrified victims hid under the alter before being killed by grenades). Bà Hà Thị Nga có phải là một người được chánh quyền dàn dựng đưa ra trả lời phóng viên James Pringgle? Tại sao bà biết con chính xác là 40 người trốn dưới bàn thờ? Trừ phi họ đúng xếp hàng cho bà điểm danh trước khi chun dưới bàn thờ. Tôi là người sống ở miền Tây, thăm viếng nhiều chừa chiền, không một ngôi chùa nào có một cái bàn thờ khổng lồ có sức chứa 40 người trốn dưới đó. Tập trung trốn dưới bàn thờ, chẳng khác nào cho bọn Khmer Đỏ biết: “Lạy ông con trốn ở bụi nầy!”
Một điểm trùng hợp rất quan trọng là cả hai ông Trần H. và Hoàng Quý và chứng nhân đều xác nhận là tất cả các nạn nhân đều bị thảm sát tại CHÙA & TRƯỜNG HỌC. Và thời gian xảy ra vào ngày 18/ 4/ 1978 và không thấy ông Hoàng Quý nói cuộc thảm sát kéo dài đến ngày nào, giống như chi tiết về cụm nhà mồ Ba Chúc kéo dài đến 11 ngày từ 18/ 4/ 1978 đến ngày 29/ 4/ 1978. Tìm hiểu những nguyên chính đưa đến việc bọn CSVN đã tắm máu dân làng Ba Chúc như sau:

TÌNH HÌNH NỘI BỘ VIỆT NAM – KAMPUCHEA SAU 1975
Theo sự tiết lộ của Hoàng Tùng - Tổng biên tập báo Nhân Dân - và là Ủy viên BCT/TƯ Đảng CSVN: Bắc Bộ Phủ đã có ý đồ chiếm đóng Cam Bốt từ năm 1970 - 1972. Cuối năm 1976, Đại Hội IV Đảng Lao Động đổi thành Đảng CSVN dưới sự giám sát của lý thuyết gia MIKHAI A. SUSLOV - Trưởng phái đoàn Sô Viết - thì hầu hết các Ủy viên Bộ Chính Trị đã nối đuôi Lê Duẩn thần phục Mạc Tư Khoa. Đại hội IV của Đảng CSVN chấp nhận đề án của Lê Duẩn xúc tiến việc thành lập LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG bằng cách thuyết phục và nếu cần dùng áp lực quân sự để buộc Cam Bốt và Lào gia nhập. Sau Đại Hội IV, Lê Duẩn và BCT/TƯ/Đảng CSVN nhận định rằng: Việt Nam nằm trong quỹ đạo của Liên Sô là đối lập với Trung Quốc và sự liên kết giữa Trung Quốc và Cam Bốt sẽ áp lực quân sự nặng nề tại vùng biên giới phía Tây Nam.

CUỘC XUNG ĐỘT VŨ TRANG VÙNG BIÊN GIỚI PHÍA TÂY NAM
KAMPUCHEA TẤN CÔNG VIỆT NAM LẦN THỨ NHẤT NĂM 1977
Tháng 3 năm 1977: Ieng Sary - Ngoại trưởng Khmer Đỏ - sang Bắc Kinh nối lại quan hệ thân thiết cũ. Trong buổi tiếp tân có Lý Tiên Niệm - Phó Thủ Tướng - và Tướng Vương Thăng Long - Tổng Tham mưu phó QĐNDTQ - khoản đãi phái đoàn Kampuchea cho thấy sự hợp gắn bó giữa hai nước.
Tháng 4 năm 1977: Trong buổi tiếp tân tại Tòa Đại Sứ Kampuchea, Ngoại trưởng Hoàng Hoa công khai tuyên bố: “Nước Kampuchea đang bị kẻ thù phá hoại và Trung Quốc sẽ sát cánh với những dân tộc nhỏ yếu chống lại những hành động can thiệp và gây hấn của các lân bang”. Nhận được sự hậu thuẩn của Trung Quốc. Hai tuần sau, đúng vào ngày Việt Nam tưng bừng kỹ niệm năm thứ hai “Mùa Xuân Đại Thắng 1975”. Quân đội Kampuchea bất thần mở cuộc tấn công qui mô vào những làng xã và những thị trấn dọc biên giới tỉnh An Giang, và sau đó rút về bên kia bên giới.

KAMPUCHEA TẤN CÔNG LẦN THỨ HAI VÀO TÂY NINH
Ngày 27 tháng 9 năm 1977: Tên đồ tể Pôn - Pốt lên đài phát thanh đọc diễn văn dài 5 tiếng đồng hồ, chính thức xác nhận vai trò lãnh đạo của mình và tổ chức ANGKA là Đảng Cộng Sản Kampuchea. Một ngày sau khi ra mắt. Pôn - Pốt lên đường đi Bắc Kinh và Bình Nhưỡng. Lần đầu tiên đi công du với tư cách là Chủ tịch Đảng và Thủ Tướng. Pôn - Pốt được đón tiếp trọng thể. Cờ và biểu ngữ giăng đầy Thiên An Môn.
Ba ngày trước đó, để chứng tỏ quyết tâm chống Việt Nam của mình đối với Trung Quốc. Pôn - Pốt ra lệnh cho Quân Khu Đông tấn công vào lãnh thổ Việt Nam thuộc tỉnh Tây Ninh. Việt Nam tự hạn chế, không cho quân đội vượt biên phản công, đồng thời cách chức Tướng Tư lệnh quá khích TRẦN VĂN TRÀ và Tướng LÊ ĐỨC ANH thay thế. Trong bài viết The continuing conflict in Southeast Asia của David Miller đăng trong cuốn THE VIETNAM WAR ghi nhận: “Nhiều đồng bào địa phương đã chạy thoát, nhưng Hà Nội quả quyết người Kampuchea thảm sát 2.000 thường dân” (Many local residents fled, but an official Hanoi communique alleged that kampucheans had massacred some 2,000 civilians).
Sau đó, một mặt Đảng CSVN gởi điện văn chúc mừng lễ ra mắt Đảng CS Kampuchea, một mặt bí mật gởi Phan Hiền sang Bắc Kinh nhờ Trung Quốc dàn xếp cho gặp phái đoàn Kampuchea. Cuộc tiếp xúc không đi đến đâu. BCT/ ĐẢNG CS Trung Quốc đều nhất trí ủng hộ Khmer Đỏ. Trung Quốc bắt đầu chở vũ khí và chiến cụ ồ ạt tới cảng Komphong Som để trang bị tận răng cho quân đội kampuchea. CSVN buộc phải đứng hẳn về phía Liên Sô tìm cách phản công chống lại Khmer Đỏ quyết liệt hơn. Tập đoàn Lãnh đạo CSVN đã sai lầm một chiến lược quan trọng: “Nước xa không cứu được lửa gần”.

QUÂN ĐỘI VNCS PHẢN CÔNG KAMPUCHEA CUỐI NĂM 1977
Vào những ngày cuối năm 1977. Lực lượng vũ trang QĐND/VNCS mở những trận tấn công thăm dò vào sâu trong lãnh thổ Kampuchea. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước bị cắt đứt và công khai hóa tranh chấp lãnh thổ và hai bên điều động thêm lực lượng vũ trang tăng cường hệ thống phòng thủ dọc biên giới. Nhưng, phía Việt Nam bị Quốc tế tố cáo và lên án xâm lăng Kampuchea, quân đội viễn chinh VNCS buộc phải rút về nước vào ngày 6 tháng 1 năm 1978.

KAMPUCHEA TẤN CÔNG LẦN THỨ 3 VÀO ĐẦU NĂM 1978
Đầu tháng giêng 1978: Tại vùng biên giới cực Nam. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn 2 và 210 của Quân Khu Tây Kampuchea đã tấn công và chiếm đóng các xã Phú Cường, Khánh An, Khánh Bình và các huyện Hồng Ngự và Hà Tiên thuộc lãnh thổ Quân Khu IX Việt Nam. Và đây là cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam lần cuối cùng, vì họ sẽ chẳng còn cơ hội nào vượt biên tấn công vào Việt Nam nữa. Tướng TRẦN NGHIÊM nguyên là Tư Lệnh Phó của LÊ ĐỨC ANH. Sau khi Lê Đức Anh thay Trần văn Trà. Tướng Trần Nghiêm được đề bạt lên làm Tư lệnh Quân Khu IX, chịu trách nhiệm điều động 3 sư đoàn chính quy cơ hữu, gồm các Sư đoàn 4, 8 và 330 cùng với 2 trung đoàn chủ lực cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp. Sư đoàn 341 do tướng Vũ Cao làm Tư Lệnh được điều từ Quân Khu VII đến tăng phái cho Q.Khu IX cùng với sự yểm trợ của không quân, pháo binh, thiết giáp...với lực lượng áp đảo và hùng hậu như vậy, mà phải mất 2 tháng phản công mới đánh bật sư đoàn 2 và 210 của Kampuchea ra khỏi biên giới và tái chiếm lại lãnh thổ đã mất.
Đầu tháng 3 năm 1978: Tình hình biên giới phía Tây Nam hoàn toàn yên tỉnh. Sư đoàn 341 được trả về Quân khu VII sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Tướng Trần Nghiêm tái phối trí 3 sư đoàn 4, 8 và 330 cùng hai trung đoàn cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp vào nhiệm vụ phòng thủ diện địa. Riêng sư đoàn 330 được chỉ định thành lập tuyến phòng thủ an ninh lãnh thổ huyện TRI TÔN.

KAMPUCHEA KHI SƯ ĐOÀN 2 VÀ 210 RÚT VỀ BÊN BIÊN GIỚI
Bắt đầu từ tháng năm 1978 và những tháng sau đó. Cuộc thanh trừng nội bộ ở Quân Khu Đông càng ngày càng trở nên gây gắt và lên đến cao điểm vào ngày 24 tháng 5 năm 1978, lực lượng của KE PAULK - Bí thư Khu ủy Trung tâm của Khmer Đỏ - thuộc Quân khu Trung Ương kéo đến SOUNG, bao vây tổng hành dinh của Quân khu Đông, bắt giam tất cả sĩ quan chỉ huy và nhiều cuộc chạm súng đã xảy ra giữa đôi bên. Sau cuộc thanh trừng, sư đoàn 4 coi như bị xóa sổ, các sư đoàn 3, 5, 280 còn lại bị suy yếu hẳn.
BCT/TƯ Đảng CSVN không bỏ lở cơ hội ngàn vàng, triệt để khai thác nhược điểm của địch là sự xâu xé nội bộ và mâu thuẩn hàng ngũ của Khmer Đỏ theo đúng sách lược của Lenine: “Phải chộp ngay cơ hội chia rẽ của địch”, bằng cách ráo riết chuẩn bị chuẩn bị “tâm lý quần chúng” và “dư luận Quốc tế” . Rõ ràng, bọn Đảng CSVN đã đạo diễn tấn tảm kịch cực kỳ dã man, tàn bạo và ghê tởm: tắm máu 3.157 đồng bào vô tội, đa số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo trong đêm 18 /4/ 1978 rồi đổ tội cho bọn đồ tể Khmer Đỏ gây ra. Độc chiêu “ném đá dấu tay”, rồi dở trò “mèo khóc chuột” của bọn CSVN đã thành công trong âm mưu tạo ra kẻ thù Khmer Đỏ bằng xương bằng thịt để kích động lòng căm thù chủng tộc Việt Nam - Kampuchea, rồi triệt để khai thác sức mạnh của lòng căm thù của quần chúng vào mục tiêu chánh trị và quân sự để chuẩn bị xâm lăng Kampuchea.
Tất cả bộ máy chiến tranh tâm lý của bọn CSVN được động viên vào việc tuyên truyền rầm rộ. Những cuộc biểu tình, hội thảo diễn ra khắp nơi, các đài phát thanh, phát hình trong nước mở tối đa công xuất lên án bọn diệt chủng Pôn Pốt đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã Ba Chúc để tranh thủ dư luận Quốc tế, có chứng cớ hẳn hòi, chớ không phải tố cáo vu vơ như lần quân Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ tỉnh Tây Ninh thảm sát 2.000 thường dân. Quân đội CSVN xua quân tấn công Kampuchea chỉ vì lý do tự vệ chánh đáng, chớ không phải xâm lăng Kampuchea như đã từng bị lên án trước đó.
NGÀY 15/ 6/ 1978, chiến dịch tấn công Kampuchea mở màng. Các sư đoàn chính quy 7, 9 và 341 cùng với các đơn vị yểm trợ hùng hậu tràn qua biên giới Việt - Miên, chiếm đóng một phần lãnh thổ sâu trong nội địa Kampuchea từ 10 đến 40 km, trong đó có quận Prasaut. Lúc đó nhằm mùa mưa. Kampuchea tăng cường thêm nhiều sư đoàn từ trong nội địa ra biên giới để phản công. Từ Prasaut, quân xâm lược CSVN phải lùi về Chipru...



Hài cốt ở Nhà mồ Ba Chúc
DẤU ĐẦU LÒI ĐUÔI
6 ĐIỂM CHỨNG MINH TỘI ÁC CỦA CSVN TRƯỚC
DƯ LUẬN QUỐC TẾ VÀ ĐỒNG BÀO TRONG & NGOÀI NƯỚC
• ĐIỂM MỘT: Không thấy chánh quyền địa phương đề cập đến con số thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản của nhân dân sau 3 lần lực lượng Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là 2 tháng đầu năm 1978 là thời gian quần thảo dữ dội giữa 4 sư đoàn + 2 trung đoàn cơ động CSVN để đánh bật sư đoàn 2 và 210 của Kampuchea ra hỏi biên giới. Điều đó đã chứng minh rằng: Đồng bào MNVN đã tích lủy quá nhiều kinh nghiệm “chạy giặc”. Giặc Tây đi bố, giặc Việt Minh CS giết người đoạt của, giặc Miên nổi dậy “cáp duồn”... nên phản ứng của họ vô cùng bén nhạy. Mỗi khi có biến động là nhà nhà báo động bằng đủ mọi phương tiện như gõ mõ, thùng thiếc, gióng trống, khua chiên, nồi niêu, xoong chảo...để kịp thời bồng bế con cái chạy giặc. Họ không bao giờ chịu nằm yên trong nhà, ngoan ngoãn chờ bọn Khmer Đỏ đến lùa họ đi. Và một điều chắc chắn là khi họ nhận diện binh lính của Khmer Đỏ, họ sẽ chạy bung ra, chạy bán sống bán chết giống như hồi Tết MẬU THÂN 1968, dân MNVN chạy giặc Việt Cộng, dễ dầu gì bọn Khmer Đỏ có đủ lực lượng tập trung dân làng Ba Chúc vào các CHÙA & TRƯỜNG HỌC một cách dễ dàng để tàn sát tập thể. Hơn nữa, địa thế làng Ba Chúc dưới chân núi TƯỢNG và bên kia là núi DÀI, một địa thế lý tưởng cho đồng bào lẫn trốn dễ dàng.
• ĐIỂM HAI: Những vị cao niên nào sống ở Miền Tây Nam Bộ thuộc các tỉnh Châu Đốc, Vĩnh Long, Trà vinh, Sóc Trăng chắc chưa quên những cuộc nổi dậy bất thần đầy chết chóc của những đồng bào Việt gốc Miên sống trong các sóc vùng sâu. Và danh từ “Miên dậy” là tiếng báo động khẩn cấp đồng bào Việt gọi nhau chạy lánh nạn. Những người Miên từ trong các sóc đồng loạt ùa ra, tay cầm phảng, cuốc xẻng, rựa...tay kia cầm chai rượu “phất xạ” (uống rượu), họ ào ạt xông vào các xóm làng của đồng bào ta như cơn gió lốc, rượt đuổi dân làng chạy tán loạn. Họ vừa chạy vừa thét : “Dơ! Cáp duồn! Bòn ơi!...” (Nào! Giết tụi Việt! Bây ơi!...” Trong cơn say rượu, say máu, họ gặp đàn bà chém theo đàn bà, trẻ con đâm theo trẻ con...gặp đâu giết đó. Bọn diệt chủng Khmer Đỏ cũng thế! Một khi tràn qua biên giới Việt Nam, họ đâu có lòng nhân đạo đến độ phải tập trung đồng bào ta vào các chùa chiền để đọc kinh cầu nguyện trước khi hành quyết, hoặc dồn trẻ con vào các trường học vì sợ trẻ chết xuống âm phủ thành những con ma mù chữ?
• ĐIỂM BA: Nếu như muốn cưỡng bách trên 3, 4 ngàn người sống rải rác trong làng Ba Chúc với một địa thế hiểm trở như thế, cách biên giới Việt - Miên khoảng 7 km và cách con kinh Vĩnh Tế khoảng 5 km. Chúng tôi nghĩ, bọn diệt chủng Pôn Pốt phải huy động bao nhiêu sư đoàn Khmer Đỏ mới làm nổi việc đó? Và làm thế nào những sư đoàn nầy lọt qua tuyến phòng thủ biên giới Tây Nam dầy đặc của 3 sư đoàn chính quy 4, 8 và 330 của QĐND và 2 trung đoàn cơ động tỉnh với lực lượng yểm trợ hùng hậu gồm: thiết giáp, pháo binh và không quân đóng tại căn cứ Trà Nóc? Và hơn thế nữa, bọn Khmer Đỏ làm thế nào kéo dài cuộc thảm sát dân làng Ba Chúc trong suốt 11 ngày đêm mà không có cuộc chạm súng nào với các đơn vị chủ lực CSVN phòng thủ biên giới kể trên, trừ phi các đơn vị nầyï nhận được lệnh của BCT/ T.Ư/ Đảng “án binh bất động”, để mặc cho bọn Khmer Đỏ mặc sức giết đồng bào ta? Không có tổn thất về nhân mạng được ghi nhận cho cả hai phía Khmer Đỏ và bộ đội biên phòng CS ( có đánh đấm gì đâu mà có tổn thất chứ!), chỉ có trên 3.000 đồng bào bị thảm sát mà thôi. Tưởng cũng xin nhắc lại: Trước 30/4/1975, Quân Đoàn IV và Quân khu 4 chỉ có 3 sư đoàn chủ lực 7, 9 và 21 / BB và nếu như 3 sư đoàn nầy được phối trí, tập trung vào nhiệm vụ phòng thủ biên giới phía Tây Nam thì chưa chắc một con chuột chui qua lọt, đừng nói chi một đơn vị nhỏ của quân xâm lược CSBV.
• ĐIỂM BỐN: Thời điểm bọn Khmer Đỏ thảm sát dân làng Ba Chúc từ 18 /4 /1978 đến 29 /4 /1978 lại càng không hợp lý. Vì trong thời gian đó, ở bên kia biên giới, cuộc thanh trừng nội bộ đang xảy ra gay gắt và quyết liệt ở Quân Khu Đông sắp lên đến cao điểm. Làm sao Pôn Pốt có thể điều động lực lượng Khmer Đỏ vượt biên tấn công Việt Nam?
• ĐIỂM NĂM: Người nông dân Việt Nam nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng, họ chỉ di dân vào các điểm tập trung dưới sự bảo vệ an ninh của quân đội VNCH. Hệ thống “Ấp chiến lược” được thiết lập trong thời chiến tranh là một thí dụ cụ thể. Điều nầy phải là cán bộ địa phương và bộ đội CSVN mới có thể tập trung dân làng Ba Chúc vào các CHÙA & TRƯỜNG HỌC đã chỉ định sẵn theo kế hoạch để ra tay tàn sát đồng loạt. Và sư đoàn 30 (tên gọi tắt của đồng bào địa phương) chính là sư đoàn 330 chỉ định cuộc giết người tập thể nầy vào đêm 18 /4 /1978. Vì SĐ 330 được thành lập tại MNVN trước khi tập kết ra Bắc do Tướng Đồng văn Cống làm Tư lệnh thì dân làng Ba Chúc mới có lòng tin đi theo chúng vào các chùa và trường học để được chúng bảo vệ an ninh. Sau đó, chúng khóa chặt cửa lại. Chờ khi đem đến, bộ đội CSVN đội lốt quân Khmer Đỏ kéo đến giết sạch, đốt sạch đúng như lời tố cáo của ông Trần H. và đó sự thật không thể chối cải. Hiện nay, một vài nhân chứng còn sống sót như bà Trần thị C, ông Nguyễn văn Ch...và một nhân chứng quan trọng là một thầy giáo cấp 2 ở kinh Vĩnh Tế họ Trần (xin dấu tên) đã dám nói lên sự thật với đồng bào nên bị sa thải khỏi nhiệm sở và bị tên Giám Đốc Công An tỉnh An Giang - bí danh Sáu Nhỏ - bắt giam 2 năm để cảnh cáo.
• ĐIỂM SÁU: Tại sao bọn CSVN mở cuộc thảm sát tập thể dân làng Ba Chúc, cách biên giới đến 7 km? Trước năm 1975, có ai đặt chân lần đầu đến Ba Chúc dưới chân làng Ba Chúc dưới chân núi Tượng và bên kia núi Dài, đều ngạc nhiên trước hết là nhìn đâu đâu cũng thấy chùa và đa số chùa nào cũng giữ theo truyền thống là tường xây bằng gạch nhưng mái lợp lá. Riêng tại làng Ba Chúc có khoảng 15.000 tín đồ Bửu Sơn kỳ Hương thờ vị Giáo Tổ Đức Phật Thầy Tây An, lấy giáo lý PGHH do Đức Huỳnh Giáo Chủ đề xướng: Tứ Ân, Bát Nhẫn và tám Điều Răn của Đức Thầy để tu thân. Điều nầy chúng minh dã tâm của bọn CSVN vừa tiêu diệt tín đồ PGHH, vừa đốt luôn các chùa chiền, nơi tín đồ PGHH thờ phượng đấng thiêng liêng, rồi đổ tội diệt chủng cho bọn Khmer Đỏ đã biến mất về phía bên kia biên giới, thế là xong! Những việc giết người tập thể là sách lược của bọn CSVN, có tính toán tinh vi và được thực hiện từng bước theo kế hoạch được dàn dựng hẳn hoi. Đây là độc chiêu “nhất tiển hạ song điêu” của bọn CSVN.



PHẦN II
Nội dung và chi tiết PHẦN I kể trên, tôi đã đúc kết lại thành một bài viết với chủ đề: “Mở lại hồ sơ CSVN thảm sát 3,157 đồng bào làng Ba Chúc, tỉnh An Giang đêm 18/ 4/ 1978” đã được đưa lên mạng Người Việt Online ngày 3 tháng 5 năm 2004 lúc 2:59 PM.
Sau khi bài viết nầy đã được đưa lên mạng thì đúng 7 ngày sau, ông LỤC TÙNG từ trong nước, viết một phóng sự - ghi chép với tựa đề “BA CHÚC NGÀY 16 THÁNG 3...” đưa lên báo Lao Động số 131, ngày 10 tháng 5 năm 2004. Xin tóm lược vài điểm chính của bài báo nầy:
• Nơi đây, đúng 3 năm sau ngày thống nhất đất nước, bè lũ diệt chủng Pôn - Pốt đã xua quân vượt biên giết 3.574 thường dân bằng những hình thức dã man, như: Người lớn, chúng dùng búa đập đầu, dao cắt cổ; trẻ em thì nắm hai chân xé ra, hoặc đập đầu vào gốc cây, nếu chưa chết thì quăng lên cao, sau đó vươn lưỡi lê lên hứng. Riêng với phụ nữ, trước khi dùng lưỡi lê xẻo vú, hay thọc cây tầm vông, cọc trâm bầu vào cửa mình cho chết, chúng lột quần áo ra rồi thay nhau hãm hiếp tập thể”. Để tưởng nhớ những người dân vô tội, hằng năm vào ngày 16 tháng 3 A.L, chính quyền và nhân dân nơi đây tổ chức ngày giỗ hội. Giỗ hội lần thứ 26 năm nay nhằm ngày 4. 5. Tôi (Lục Tùng) lật sổ tay, đoạn ghi lại số liệu của ỦY BAN TRUNG ƯƠNG ĐIỀU TRA TỘI ÁC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC trong 11 ngày đêm từ 14 đến 25/ 4 /1978. bè lũ Pôn - Pốt đã sát hại tổng cộng 3.574 thường dân.
• Trên đường dẫn chúng tôi (Lục Tùng) đến nhà bà Hà thị Nga, một trong số 3 người sống sót trong tầm diệt chũng, ông Trần Văn Nhi - nguyên Phó Chủ Tịch thị trấn Ba Chúc - không nén được xúc động nói: “Tôi đã đi qua hai cuộc chiến tranh, đánh Pháp, đuổi mỹ, nhưng chưa bao giờ thấy cảnh người ta dùng súng đạn để giết hơn 200 người dân đang cầu nguyện trong chùa như lần ấy...” Theo lời ông Nhi, sau nạn diệt chủng Ba Chúc giống như một bãi đất hoang tàn, toàn xã có 3.574 người bị sát hại, trong đó có 100 hộ bị giết sạch...
• Ông Lục Tùng mô tả ngày giỗ hội như sau: “Hôm nay ngày giỗ hội 16 tháng 3...”, vị chánh bái vừa cất giọng, cả không gian tỉnh lặng đột nhiên vỡ tung bởi tiếng nấc nghẹn ngào xen lẫn những tấm thân ngã quỵ...”(ngưng trích). Nhưng, tấm hình ghi lại một góc nhà mồ ngày giỗ hội thật tương phản, chỉ đếm được có 7 người đứng bên cạnh khung hộp kính hình bát giác, chứa đựng 1.159 bộ hài cốt của nạn nhân.

LỜI BÀN:
Theo lời kể của ông Lục Tùng thì tội ác thảm sát đồng bào ta tại xã Ba Chúc của bọn Khmer Đỏ là tội ác “trời không dung đất không tha” nên Đảng CSVN phải cho xây cụm nhà mồ Ba Chúc là địa điểm ghi dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pôn Pốt cũng đúng thôi! Nhưng vẫn còn kém xa, nếu đem so sánh với tội ác vô cùng dã man của quân xâm lược Trung Cộng thảm sát đồng bào ta tại xã Đề Thám là một xã ngoại ô của thị xã Cao Bằng, nơi giáp với tỉnh Quảng Tây, khu vực có nghĩa trang “liệt sĩ Long Châu” chôn lính Trung Cộng đã tử trận tại Việt Nam. Thị xã Cao Bằng là một trong những khu vực bị quân xâm lược Trung Cộng tàn phá nặng nề nhất. Tất cả bệnh viện, trường học, chùa chiền, đền thờ đều bị phá hủy tan hoang thành bình địa trước khi rút quân khỏi Việt Nam trong cuộc chiến tranh giới biên giới vào tháng 2 năm 1979. Đây cũng là nơi có nhiều thường dân bị quân xâm lược Trung Cộng tàn sát nhiều nhất. Họ chết vì đạn pháo, bị chặt đầu, mổ bụng, phụ nữ bị hãm hiếp tập thể cho đến chết, trẻ con bị ném xuống giếng... Nơi nầy, thay vì BCT/T.Ư/ Đảng CSVN cho xây cụm nhà mồ Đề Thám để đánh dấu tội ác man rợ của quân xâm lược Trung Cộng mới phải. Ngược lại, bọn CS Hà Nội lại cho in sách ca tụng quân xâm lược Trung Cộng giết hại đồng bào và tàn phá 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta. Và mới đây, ai đó đã đặt một vòng hoa tại nghĩa trang liệt sĩ Long Châu, bốc mùi thúi hoắc: “ĐẢNG ỦY, HĐND, UBND, UBMTTQ XÃ ĐỀ THÁM ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN CÁC LIỆT SĨ TRUNG QUỐC.”

YẾU TỐ THỜI GIAN “TIỀN HẬU BẤT NHẤT”
Theo ông Lục Tùng, khu vực nhà mồ Ba Chúc được BỘ VĂN HÓA XẾP HẠNG CẤP QUỐC GIA, con số nạn nhân là 3.574 người và thời gian bắt đầu cuộc thảm sát kéo dài 11 ngày đêm từ 14 đến 25/ 4 /1978 do Ủy Ban Trưng ương Điều tra Tội ác Chiến tranh Xâm lược ghi nhận. Nhưng, tại sao bọn lãnh đạo CSVN lại ghi nhận móc thời gian từ 18 đến 29/ 4/ 1978 (sai biệt trước và sau 4 ngày) để làm gì?
Một câu hỏi được đặt ra: Thời gian chính xác xảy ra cuộc thảm sát 3.157 (hay 3.574) đồng bào vô tội làng Ba Chúc, tỉnh An Giang vào ngày 14 hay ngày 18 tháng 4 năm 1978? Chánh quyền CSVN phải biết rõ điều nầy hơn ai hết!
Cần phải nói rõ thêm là khoảng thời gian từ 14/4 đến 18/4 D.L đều rơi vào ngày LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CHOL-CHNAM-THMAY CỦA DÂN TỘC KAMPUCHEA. Chắc chắn khoảng thời gian đó, tên đồ tể Pôn - Pốt và quân Khmer Đỏ không bao giờ khai sát giới, tàn sát 3.574 dân làng Ba Chúc trong các chùa chiềng.

LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CHOL-CHNAM-THMAY
Là lễ mừng năm mới, lễ hội trọng đại và thiêng liêng nhất trong năm của người Kampuchea (tương tự như Tết Nguyên Đán của người VN). Lễ hội chính thức bắt đầu từ 1 đến 3 tháng Chét theo Phật Lịch, rơi vào ngày 14/4 Dương lịch (năm nhuận thì bắt đầu vào ngày 13/4). Trong 3 ngày lễ hội (năm nhuận là 4 ngày) mang đậm nét văn hóa Phật Giáo Tiểu Thừa, từ thời gian gắn liền với Phật Lịch, địa điểm tổ chức tại các chùa và nghi thức tụng kinh cầu phước, dâng cơm cho sư sãi và chủ tế hành lễ là các vị sư sãi, nên ngoài ý nghĩa chúc mừng năm mới, còn là làm phước của đồng bào Kampuchea.
Lễ hội còn có ý nghĩa tống tiễn mùa nắng, bước sang thời kỳ có mưa để kịp thời vụ. Bà con tiễn đưa thần TÊVÊDA CŨ (thần coi sóc cũ), đón thần TÊVÊDA MỚI. Trong dịp nầy, ngoài cúng lễ, bà con thường hỏi thăm nhau và chúc mừng lẫn nhau. Buổi tối có đốt pháo thăng thiên. Ban ngày tham dự các trò chơi như thả diều, đánh quay lửa...Trai gái trong làng múa Roam Vông, Lâm Thol, hát Dù Kê, chọi trâu...Vì vậy, tôi dám khẳng định rằng:
• Cho dù tên đồ tể Pôn - Pốt và quân Khmer Đỏ dù có khát máu đến đâu, cũng không vượt biên tấn công làng Ba Chúc, khai sát giới, tàn sát 3.574 dân lành vô tội trong 4 ngày lễ hội truyền thống CHOI-CHNAM-THMAY của dân tộc Kampuchea. Việc ông Trần văn Nhi cáo buộc quân Khmer Đỏ dùng súng đạn để giết hơn 200 người dân đang cầu nguyện trong chùa nhằm che đậy tội ác diệt chủng của quân đội CSVN mà thôi.
• Dân tộc Kampuchea theo Phật Giáo Tiểu Thừa. Họ kính trọng sư sãi một cách tuyệt đối. Ngôi chùa là trung tâm sinh hoạt văn hóa theo nghi lễ cổ truyền, nơi tổ chức các lễ hội hàng năm, là nơi tàng trử trử kinh Phật. Bản thân người dân Kampuchea cũng phải trải qua một thời gian niên thiếu ở trong chùa để học giáo lý nhà Phật, đạo lý làm người trước khi ra đời. Cho nên, bộ đội CSVN tập trung dân làng Ba Chúc vào các chùa chiềng để tàn sát tập thể rồi vu oan, giá họa cho quân diệt chủng Khmer Đó là một hành động ngu xuẩn, thiếu khôn ngoan, vì ngôi chùa đối với người Kampuchea là đền thiêng, bọn diệt chủng Khmer Đỏ không bao giờ dám giết người trong các ngôi chùa, rồi phóng hỏa đốt chùa như bọn Lảnh đạo CSVN đã tưởng tượng. Hành động giết người tập thể dã man nầy chỉ có bộ đội CSVN vô thần mới dám làm, như chúng đã làm trong biến cố TẾT MẬU THÂN1968 tại HUẾ.
Những vụ giết người tập thể như vậy, giải thích theo ngôn từ của TROTSKY: “Chẳng có ai là đao phủ, chỉ có nạn nhân.” Đúng vậy, cho dù nhân chứng có thấy mặt đao phủ thật sự là bộ đội CSVN, cải trang thành quân Khmer Đỏ, họ có dám đứng tố giác hay không? Không ai còn lạ gì thủ đoạn “giết người bịt miệng” của bọn CSVN. Làm sao những người được chánh quyền CSVN địa phương đưa ra làm nhân chứng, liệu họ có dám nói lên sự thật hay không? Chỉ cần một cái gật đầu, xác nhận bọn CSVN là lũ giết người thì đã toi mạng rồi!

KẾT LUẬN
Chúng tôi hy vọng “ỦY BAN TRUY TỐ TỘI PHẠM CHỐNG NHÂN LOẠI” tiến hành thu thập các tài liệu để làm sáng tỏ về vụ thảm sát nầy và mở lại: “HỒ SƠ CSVN THẢM SÁT 3.574 ĐỒNG BÀO TẠI LÀNG BA CHÚC, TỈNH AN GIANG TRONG THÁNG 4/ 1978” để truy tố tội ác diệt chủng của bọn lãnh đạo Đảng CSVN ra trước TÒA ÁN QUỐC TẾ LAHAY để đền tội.

Nguyễn Vĩnh Long Hồ

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Chiến tranh Đông Dương 3 của Hoàng Dung.
- Nửa tháng trong miền Thất Sơn của Nguyễn văn Hầu
- Tài liệu giải mật về cuộc chiến Hoa Việt của Lâm Lễ Trinh
- Thư tố cáo tội ác bọn CSVN của ông Trần H.
- Câu chuyện ngôi làng Ba Chúc ở biên giới Miên Việt của Hoàng Quý
- Ba Chúc ngày 16 tháng 3...Phóng sự của Lục Tùng.
- When the Khmer Rouge came to kill in Vietnam của James Pringle
*

BÀ LÊ VĂN HƯNG * THÁNG 4-1975



Bà Lê Văn Hưng, nhũ danh Phạm Thị Kim Hoàng


Từ chàng ra đi lưng khoác chiến y,
và hồn nương bóng quốc kỳ
Nàng ngừng con thoi có khi nhớ chàng.
Có muốn gì đâu! Lệ thắm tơ vàng.
Chàng ngồi trên yên mơ bóng dáng em
mịt mù sau đám khói tên.
Bâng khuâng mắt nhìn tay kiếm.
Không sao dấu đôi lệ hiền….
(Chinh phụ ca – Phạm Duy)



Ngày 21/4/1975, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, tôi còn nhớ rõ lời ông Thiệu nói:
- “Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ”.
Lời tuyên bố của ông Thiệu đã gây cho tôi sự xúc động. Thế rồi lời tuyên bố ấy cũng đã bay theo gió, khi số lớn cấp chỉ huy trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đã vỗ cánh chim bay sang ngoại quốc, tìm nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà, dân tộc và quân đội đang chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời, Thiếu Tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ, Phú. Nhắc đến đây tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào.



Ôi tiếng súng nổ rền vang trên khắp lãnh thổ. Mùa hè năm 1972, nhà văn Phan Nhật Nam đã mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè cuối đầy yêu đương. Mùa hè tận cùng vực thẳm. Còn mùa hè 30/4/1975 bi thương thê thảm ngần nào? Chúng ta còn đủ ngôn từ để diễn tả tận cùng nỗi thương tâm kinh hoàng của sinh ly, từ biệt, cuống cuồng ấy không? Tin thất trận từ các Vùng 1,2,3 bay về dồn dập. Có những nơi chưa đánh đã bỏ cho địch tràn vào. Cũng có nơi quyết liều tử chiến. Thảm thương thay, cuộc rút quân hỗn loạn bi đát chưa từng có trong lịch sử và quân sử.

Đài VOA và BBC tuyên bố những tin thất bại nặng nề về phía QLVNCH khiến lòng dân càng thêm khiếp đảm. Những đoàn quân thất trận, tả tơi manh giáp, không người chỉ huy, cuống quýt chạy như đàn vịt bị săn đuổi. Tinh thần binh sĩ rối loạn hoang mang tột độ. Họ thì thào bảo nhau:



- “Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Đại Tướng Viên đã cao bay xa chạy, còn đánh đấm gì nữa. Ông Tướng này, ông Tỉnh nọ, đã trốn đi ngoại quốc, chúng ta còn đánh làm gì”. Họ còn hỏi nhau:
- “Bao nhiêu năm chúng ta chiến đấu cho tổ quốc, hay chiến đấu cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá nhân của ai đây?”
Mất người chỉ huy, những quân nhân như rắn không đầu, rối rít, tan rã. Lại có những câu hỏi:
- “Quân không Tướng chỉ huy thì sao?” Có những kẻ chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê bai:
- “Có những ông Tướng mà biết đánh giặc cái gì! Chỉ có lính đánh để các ông Tướng hưởng”.
Lời phê bình của những kẻ bất mãn hay những kẻ có tâm địa hạn hẹp, thật chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho dù có những vị Tướng bê bối, làm cho quân đội bị nhục, thì cũng có những vị Tướng trong sạch đức độ, lỗi lạc, tài ba, đáng cho dân quân khâm phục. Những phần tử bất mãn ấy đã vô tình hay cố ý không thấy việc tối quan hệ của sự hỗ tương, hỗ trợ, giữa các Tướng Lãnh, Sĩ Quan, và Binh Sĩ thật cần thiết cho quân đội và quốc gia như thế nào. Đối với những vị cao minh, hiểu biết giá trị hy sinh của những người tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu cảm tạ, tri ân.

Có nhiều người đã nêu lên câu hỏi với tôi:
- “Tại sao Tướng Nam, Tướng Hưng chết làm chi cho uổng? Tại sao các ông Tướng ấy không tiếp tục chiến đấu? Tại sao các ông không trốn sang ngoại quốc?”
Lại có người nghiêm khắc trách tôi:
- “Bà thật dở. Nếu là tôi, tôi quyết liệt can ngăn không để cho các ông ấy chết. Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành bỏ vợ con lại sao?”
Ngay cả vài vị phu nhân của các Tướng Lãnh, hoặc còn ở trong tù, hoặc đã an nhàn nơi xứ người, cũng thốt ra những lời chỉ trích tôi. Nghe những lời phê bình ấy, tim tôi đau nhói. Tôi tôn trọng sự nhận xét “theo tầm hiểu biết của họ”. Tôi ngán ngẩm không trả lời, chỉ mỉm cười lắc đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng. Lên tiếng để tạ ân những người đang âm thầm chiến đấu ở Việt Nam, để tạ ân những người hùng can đảm đã, đang, và sẽ tiếp tục đánh đuổi Cộng Sản cứu quê hương, để trả lời những người đã nêu lên nhiều câu hỏi đó. Tôi trân trọng xin những vị nào đã có những lời chỉ trích nên bình tâm suy nghĩ lại, trước khi phán đoán vì… những vị Tướng Lãnh bách chiến bách thắng lại lẽ nào chịu xuôi tay nhục nhã trước nghịch cảnh, trước kẻ thù? Những vị Tướng đã từng xông pha trong mưa đạn, bao lần thử thách với tử thần, với nhiều chiến công từ cấp bậc nhỏ lên tới hàng Tướng Lãnh, đã từng khắc phục gian nguy, xoay ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng trên khắp mặt trận, lẽ nào những vị Tướng ấy chỉ nghe hai tiếng “buông súng” rồi giản dị xuôi tay tự sát hay sao?

Viết đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: Thưa toàn thể quý vị sĩ quan QLVNCH. Ngày quý vị nhận lãnh chiếc mũ sĩ quan của trường Võ Bị, quý vị còn nhớ sáu chữ gì trên chiếc mũ ấy không? Sáu chữ mà quý vị trịnh trọng đội lên đầu là: “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”. Ngày mãn khóa sĩ quan với những lời tuyên thệ, quý vị hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm niệm ai lại chẳng thuộc lòng? Những vị bỏ nước ra đi trước binh biến, những vị ở lại bị sắp hàng vào trại tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, vì thật tình tôi không dám có lời phê phán nào. Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về cái chết của hai vị Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng. Hai vị Tướng này đã ba lần từ chối lời mời di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ, cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên cố vấn Mỹ hối thúc, đợi chờ không được, sau cùng chán nản và buồn bã bỏ đi.

Trước đó, vào ngày 29/4/1975, lời tuyên bố của Vũ Văn Mẫu và Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sàigòn ra lệnh tất cả người Mỹ phải rời Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, thì chính là lúc “kế hoạch hành quân mật của hai Tướng Nam Hưng đã hoàn tất.”
Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người thay thế Tướng Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối tới tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông Hạnh đã dùng tình cảm chiến hữu, dùng nghĩa đàn anh thân thuộc, khẩn khoản yêu cầu Tướng Hưng về hợp tác với Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh. Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc đó muốn đò xét thái độ của hai Tướng Vùng 4 như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc điện đàm với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tướng Hưng đã luôn khẳng định:
- “Không hợp tác với Dương Văn Minh. Không đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến cùng”.

Khi Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi vì hoàn cảnh đắm chìm của vận mệnh đất nước, trước nhiều áp lực nên cụ Hương đã trao quyền lại cho Dương Văn Minh, để rồi “ông Tướng hai lần làm đổ nát quê hương, ố hoen lịch sử này, hạ mình ký tên dâng nước Việt Nam cho Cộng Sản.” Vị Tướng Lãnh trấn thủ một vùng, tùy hoàn cảnh đất nước, và tình hình chiến sự địa phương, trọn quyền quyết định, xoay chuyển thế cờ, không cần phải tuân lệnh một cách máy móc theo cấp chỉ huy đầu não đã trốn hết, thì còn chờ lịnh ai? Phải tuân lịnh ai? Tóm lại, lúc đó lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh và lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Hạnh đã không được Tướng Nam và Tướng Hưng đáp ứng.

Viết đến đây, tôi xúc động lạ thường. Tôi nghẹn ngào rơi lệ nhớ đến một số sĩ quan binh sĩ đã bật khóc khi nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Anh em đã ôm lá cờ tổ quốc, ôm khẩu súng vào lòng nức nở. Có những chi khu trưởng và những đồn trưởng nhất định không chịu đầu hàng. Họ đã tử thủ đến viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để kết liễu đời mình. Cấp bậc của những anh em ấy không cao, chỉ chỉ huy khu nhỏ, hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh thần tranh đấu của anh em cao cả và oai hùng thế đấy.
Trong khi Sàigòn bỏ ngỏ đầu hàng thì Cần Thơ vẫn an ninh tuyệt đối. Kế hoạch hành quân đã thảo xong. Vũ khí lương thực đạn dược sẵn sàng. Tất cả đều chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ đưa về các tuyến chiến đấu. Kế hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong lịnh mật quân hành đó. Vùng 4 có nhiều địa thế chiến lược, có thể kéo dài cuộc chiến thêm một thời gian. Bởi lúc đó, cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa có một đồn nào, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh ở Vùng 4 đã lọt vào tay giặc Cộng.

Nhưng, Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1974, dân chúng nhốn nháo hoang mang. Đã có một số binh sĩ bỏ ngũ. Tại thị xã, cảnh náo loạn đáng buồn chưa từng có đã xảy ra. Từng nhóm đông đảo bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu đã ra tay cướp giật tài sản ở các cơ sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân đã bỏ trống, bất chấp tiếng súng nổ can thiệp của cảnh sát duy trì an ninh trật tự công cộng. Chúng cướp giật, đập phá, hò hét như lũ điên. Chắc chắn trong số này có bọn Cộng Sản nằm vùng có ý đồ gây rối loạn áp đảo tinh thần binh sĩ.
Lúc ấy Tướng Nam và Tướng Hưng vẫn còn liên lạc với các cánh quân chạm địch. Nhiều cánh quân nồng cốt được đưa về thị xã Cần Thơ để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn, nằm chung quanh vòng đai Alpha. Từ 2 giờ đến 4 giờ chiều ngày 30 tháng 4, giờ đã điểm. Đúng theo kế hoạch lệnh hành quân bắt đầu. Nhưng hỡi ôi, khi liên lạc đến các cấp chỉ huy của các đơn vị thì mới hay họ chưa biết tý gì về kế hoạch, chưa rục rịch chi hết, ngoài việc thay đổi các cuộc bố trí từ sáng đến giờ phút này.
Tìm kiếm Đại Tá an ninh, người đã lãnh nhiệm vụ phân phối phóng đồ và lệnh hành quân mật đến các đơn vị, thì mới vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đã đưa vợ con tìm đường tẩu thoát sau khi ném tất cả mật lệnh vào tay vị Đại Úy dưới quyền. Ông này cũng đã cuốn gói trốn theo ông Đại Tá đàn anh, cho có thầy, có trò. Các phóng đồ và lệnh hành quân mật cũng đã biến mất. Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng tức uất không sao tả nổi. Tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào khi hồi tưởng lại vẻ bối rối của Thiếu Tướng Nam và sự đau khổ thất vọng của Hưng. Những đường gân trán nổi vòng lên, răng cắn chặt, biểu lộ sự đau đớn và chịu đựng kinh hồn. Người đập tay đánh ầm xuống bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp thật tinh vi bị kẻ phản bội hèn nhát làm gãy đổ bất ngờ. Hưng ngước mắt nhìn tôi như muốn hỏi:
- “Có đồng ý đem con lánh nạn không?”
Tôi cương quyết từ chối. Tôi không cầu an ích kỷ, tìm sống riêng, bỏ mặc người trong cảnh dầu sôi lửa đỏ. Tôi nhất định ở lại, cùng chịu hoạn nạn, cùng liều chết. Hưng hỏi tôi:
- “Thành công là điều chúng ta mong ước, nhưng rủi thất bại, em định liệu lẽ nào?”

Tôi đáp:
- “Thì cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không muốn một ai trong chúng ta lọt vào tay Cộng Sản”.
Và để khỏi phải sa vào tay giặc Cộng, tôi bình tĩnh thu xếp cái chết sắp tới cho mẹ con tôi, đường giải thóat cuối cùng của chúng tôi. 4g45 chiều ngày 30/4/75, Tướng Hưng rời bỏ văn phòng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, về bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi tạm trú. Hưng không muốn chứng kiến cảnh bàn giao ô nhục sắp tới giữa Thiếu Tướng Nam và tên Thiếu Tá Việt Cộng Hoàng Văn Thạch. Năm giờ rưỡi chiều khi Hoàng Văn Thạch tiến vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn là lúc Hưng gọi máy liên lạc với Tướng Mạch Văn Trường, ra lệnh đưa hai chi đội thiết giáp tới án ngữ ở dinh Tỉnh Trưởng để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 21 mới về đóng nơi đây. Sau đó Hưng tiếp tục liên lạc với các đơn vị đang tiếp tục chạm súng ở các tiểu khu. Đồng thời Hưng mời Tướng Mạch Văn Trường cùng các đơn vị trưởng ở chung quanh vòng đai thị xã Cần Thơ về họp. 6g30 chiều, khi các vị sĩ quan vừa ra đến cổng, có một toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ đang chực sẵn, gồm khoảng 10 người. Họ xin gặp Tướng Hưng, với tư cách đại diện dân chúng thị xã, yêu cầu:
- “Chúng tôi biết Thiếu Tướng không bao giờ chịu khuất phục. Nhưng xin Thiếu Tướng đừng phản công. Chỉ một tiếng lệnh của Thiếu Tướng phản công, Việt Cộng sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xã. Cần Thơ sẽ nát tan, thành bình địa như An Lộc. Dù sao, vận nước đã như thế này rồi, xin Thiếu Tướng hãy vì dân chúng, bảo toàn mạng sống của dân, dẹp bỏ tánh khí khái, can cường…”.
Nghe họ nói, tôi cảm thấy đau lòng lẫn khó chịu. Tôi cũng không ngạc nhiên về lời yêu cầu đó. Bởi mới tuần lễ trước, Việt Cộng đã pháo kích nặng nề vào khu Cầu Đôi, cách Bộ Tư Lệnh không xa, gây thiệt hại cao về nhân mạng và tài sản của đồng bào. Dân chúng Cần Thơ còn khiếp đảm. Hưng như đứng chết lặng trước lời yêu cầu ấy. Một lát sau, Hưng cố gượng nở nụ cười trả lời:
- “Xin các ông yên lòng. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh gây thiệt hại cho dân chúng”.
Toán người ấy ra về. Hưng quay sang hỏi tôi:
- “Em còn nhớ tấm gương cụ Phan Thanh Giản? Bị mất ba tỉnh miền đông, rồi cũng vì dân chúng mà cụ Phan đã nhún mình nhường thêm ba tỉnh miền tây cho quân Pháp. Cụ Phan không nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng không để mất tiết tháo, không thể bó tay làm nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh Giản đành nhịn ăn rồi uống thuốc độc quyên sinh”.
Trầm ngâm vài giây, Hưng tiếp:
- “Thà chết chứ đâu thể bó tay trơ mắt nhìn Việt Cộng tràn vào”.

6g45 chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện thoại cho Hưng, hỏi tình hình các nơi. Hưng báo với Tướng Nam về việc đại diện dân chúng thị xã đến yêu cầu thẳng với Hưng. Hưng cũng cho Tướng Nam biết đặc lệnh truyền tin mới nhất sẽ giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng Nam cho Hưng hay là ông đã cho thu băng lời kêu gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ cho đài Cần thơ phát thanh. Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thêm một lần nữa, sự gây đổ đau lòng. Đài Cần Thơ bị nội ứng trước đó, khoảng một giờ, viên giám đốc đài bị uy hiếp, thay vì phát thanh cuốn băng của Thiếu Tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có lời kêu gọi của Thiếu Tá Cộng Sản Hoàng Văn Thạch. Khoảng mười phút sau, đài mới phát thanh cuốn băng của Tướng Nam. Muộn màng rồi. Không còn níu kéo được sự tin tưởng nơi dân chúng và binh sĩ được nữa. Hàng ngũ các đơn vị đã thưa thớt lại càng thêm thưa thớt.
7g30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn phòng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe hết sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh:
- “Hoàng, em đã hiểu sự thất bại do các nguyên nhân sau đây: Vị Đại Tá không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của Tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xã Cần Thơ”.
Quắc đôi mắt sáng, Hưng nhìn tôi dằn giọng:
- “Em phải sống ở lại nuôi con”.

Tôi hoảng hốt:
- “Kìa mình, sao mình đổi ý?”
- “Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con.”
- “Nhưng không thể để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay mình làm chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho con. Chờ em một chút, chúng ta cùng chết một lúc”.
- “Không thể được. Cha mẹ không thể giết con. Anh van mình. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quý vinh hoa địa vị hãy đề phòng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng chịu cúi lòn, nhục nhã để nuôi con và cũng nuôi luôn ý chí để có ngày còn phục hận cho đất nước chúng ta”.
- “Nếu vì con, mình thương con, sao mình không đi ngoại quốc?”
Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nhìn tôi trách móc:
- “Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?”
Biết mình vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi:
- “Xin mình tha thứ. Chẳng qua vì quá thương mình nên em mới nói thế”.
Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh:
- “Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không bao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ tìm sống riêng mình sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ thì rút cũng không kịp nữa, vì vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực thì không cầm cự được lâu. Đã muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, thì gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào”.
Tôi phát run lên hỏi:
- “Nhưng mình ơi, còn em? em phải làm gì trong lúc này?”
Nắm chặt tay tôi, Hưng nói:
- “Vợ chồng tình nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em tuy chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ý chí kình ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhã để nuôi con, để phục hận cho quê hương. Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. Vì anh, vì con, vì nợ nước, tình nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van mình, anh van mình”.
Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết ấy:
- “Vâng, em xin nghe lời mình”.

Hưng sợ tôi đổi ý, tiếp lời thúc giục:
- “Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi”.
- “Em xin hứa. Em xin hứa mình ơi. Nhưng xin cho em hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo mình chứ?”
Hưng suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ý, và ra lệnh cho tôi:
- “Em mời má và đem các con lên lầu gặp anh”.
Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ vẫn dựng ở góc phòng. Tôi vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói:
- “Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ mình hãy giữ nó”.
Chúng tôi nhìn nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi:
- “Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên”.
Khi mẹ tôi và các con lên văn phòng, Hưng nói rõ cho mẹ tôi hiểu vì sao người phải chết và tôi phải sống.
Vâng lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ còn tụ họp dưới nhà lên văn phòng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ phút từ biệt sanh ly giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau. Hưng dõng dạc nói:
- “Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh đã biết, cuộc hành quân chưa chi đã bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là vì dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích bừa bãi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa là ghét bỏ. Rầy la để mến thương nhau, để xây dựng nhau. Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm, nếu có. Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, thì phải chết theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân, bỏ nước, trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hãy về với gia đình, vợ con. Nhớ rõ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung dưới bất cứ hình thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh”.
Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Đến bên Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi gấm:
- “Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả”.
Mọi người đều đứng yên không ai nói lên được lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi, yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra ngoài. Không ai chịu đi. Hưng phải xô từng người ra cửa. Tôi van xin:
- “Mình cho em ở lại chứng kiến mình chết”.
Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn phòng đóng chật cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa:
- “Nghĩa trở lại với tôi”.
Tôi bảo Giêng tìm dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8g45 tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời của chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đã chết. Giêng run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách mình nhường tôi chạy vào phòng trước. Hưng ngả người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay dang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rẩy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi:
- “Mình, mình ơi! Mình còn lời gì dặn dò em nữa không?”
Hưng không còn trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở:
- “Thiếu Tướng! Trời ơi, Thiếu Tướng!”
Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào khóc:
- “Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!”
Tôi bảo Giêng:
- “Nói Hòa đưa Hải, Hà, Quốc lên nhìn xác ba lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào chũng phải ngăn chận Việt Cộng”.
Tôi đi tìm đầu đạn và đuôi đạn. Còn khẩu súng, lạ lùng thay không biết ở đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap dấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lià xác, với ý chí cuối cùng, người còn bình tĩnh nhét khẩu súng, dấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc động, quên lời hứa, tự sát theo. Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân ba, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở tròn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi.
Nghĩa điện thoại khắp nơi tìm Thiếu Tướng Nam, không thấy trả lời. Tôi vội vã mở đặc lịnh truyền tin, lên máy gọi liên lạc với Thiếu Tướng. Lúc ra máy, chỉnh tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói rặc mùi Cộng Sản trên các tần số thuộc đơn vị của chúng ta. Lũ Việt cộng, ngày 30 tháng 4, tràn vào nhà. Phương cương quyết chận chúng ở cầu thang. Chín giờ rưỡi, 30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang:
- “Alô, Alô, ai đây?”
- “Dạ thưa chị đó à? Hồ Ngọc Cẩn đây”.

Tôi bàng hoàng:
- “Anh Cẩn! Có chuyện chi cần không?”
Tôi cố gắng giữ giọng nói cho bình thường, để Cẩn không nhận biết sự việc xảy ra. Trong điện thoại, về phía Cẩn, tôi có nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm ầm. Cẩn hỏi:
- “Thiếu Tướng đâu chị? Cho tôi gặp ông một chút”.

Tôi lúng túng vài giây:
- “Ông đang điều động quân ngoài kia”.
- “Chị chạy ra trình Thiếu Tướng, tôi cần gặp. Trung Úy Nghĩa đâu chị?”
- “Nghĩa đang ở bên cạnh Thiếu Tướng. Cẩn chờ một chút nhé”.
Tôi áp chặt ống điện thoại vào ngực. Mím môi, nhìn xác Hưng rồi nhìn sang Nghĩa tôi hỏi:
- “Đại Tá Cẩn đòi gặp Thiếu Tướng, làm sao bây giờ Nghĩa?”

Nghĩa lúng túng:
- “Cô nói Thiếu Tướng chết rồi”.
- “Không thể nói như vậy được. Đại Tá Cẩn đang cự chiến với Việt Cộng”.
Trí óc tôi chợt lóe sáng phi thường. Tôi muốn Cẩn chiến đấu anh hùng. Sống anh hùng. Chết anh hùng. Tôi đưa máy lên giọng quyết liệt:
- “Thiếu Tướng không thể vào được. Cẩn cần gì cứ nói. Tình hình ở Chương Thiện ra sao? Anh còn đủ sức chiến đấu không? Tinh thần binh sĩ thế nào? Địch ra sao?”
- “Tụi nó dần tụi tui quá. Tinh thần anh em vẫn cao. Chị hỏi Thiếu Tướng còn giữ y lịnh không?”
- “Cẩn vui lòng chờ chút”.
Tôi lại áp chặt ống điện thoại vào ngực. Cắn chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu lời Cẩn hỏi. Trong tích tắc tôi biết khó cứu vãn tình thế. Nhưng tôi muốn Hồ Ngọc Cẩn phải luôn hiên ngang hào hùng. Tôi quyết định:
- “Alô. Cẩn nghe đây: Lịnh Thiếu Tướng. Ông hỏi Cẩn có sẵn sàng tử chiến?”
Cẩn đáp thật nhanh:
- “Lúc nào cũng sẵn sàng, chớ chị!”
- “Tốt lắm, vậy thì y lịnh”.
- “Dạ, cám ơn chị”.
Tôi buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước mắt trào ra, tôi kêu nho nhỏ:
- “Vĩnh biệt Cẩn. Vĩnh biệt Cẩn!”
“Anh Cẩn ơi, hồn linh anh có phảng phất đâu đay, khi tôi ngồi viết lại những dòng này, nước mắt rơi trên giấy, Anh có biết cho rằng trả lời điện thoại với anh rồi, tôi đau khổ tột cùng không? Tha thứ cho tôi!” Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, anh đã hiên ngang hào hùng đến giờ phút chót của cuộc đời. Hiểu rõ Hưng, hiểu rõ tôi, bên kia thế giới không thù hận, chắc anh hiểu rõ tâm trạng của tôi lúc bấy giờ, hẳn anh tha thứ cho tôi?
Kính thưa toàn thể quý vị thuộc thân bằng quyến thuộc của Đại Tá Cẩn. Kính thưa quý vị đã đọc những giòng chữ này. Xin quý vị chớ trách tôi sao dám quyết định. Ngộ biến tùng quyền. Tướng Hưng đã chết. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam chưa liên lạc được. Vợ người lính nghĩa quân trưởng đồn, khi Việt Cộng tấn công, chồng chị bị tử thương, chị đã thay chồng phản công ác liệt. Tôi không thể để một người như Hồ Ngọc Cẩn đưa tay đầu hàng, hạ mình trước Việt Cộng vào dinh tỉnh trưởng Chương Thiện.

11 giờ đêm ngày 30 tháng 4, 1975. Điện thoại lại reo. Lần này, chính giọng của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam:
- “Alô, chị Hưng!”

Tôi vừa khóc, vừa đáp lời Thiếu Tướng:
- “Thưa Thiếu Tướng…”

Giọng Tướng Nam buồn bã u uất:
- “Tôi biết rồi, chị Hưng, tôi chia buồn với chị, nghe chị Hưng”.

Tôi vẫn nức nở:
- “Thiếu Tướng nghĩ sao về kế hoạch đã gãy đổ?”
- “Hưng đã nói với chị hết rồi hả? Đành vậy thôi. Không phải lỗi chúng ta hèn nhát hay bỏ cuộc. Sự sụp đổ không cứu vãn được vì lệnh hành quân không được Đại Tá… thi hành, phóng đồ và lệnh không tới tay các đơn vị trưởng, lời yêu cầu của dân chúng, lời kêu gọi của tôi quá muộn màng, không hiệu quả, khó cứu vãn nổi tình hình”.
Nói đến đây, Thiếu Tướng Nam hỏi tôi:
- “Chị biết vụ đài phát thanh bị nội ứng chứ?”
- “Thưa biết. Hưng cũng bảo tôi như Thiếu Tướng vậy. Bây giờ Thiếu Tướng định liệu lẽ nào, có định phản công không?”
- “Chị quên còn dân chúng sao? Cộng Sản coi rẻ mạng dân, còn mình thì… Đàng chị thế nào?”
- “Thưa Thiếu Tướng, chúng nó đã tràn đầy dưới nhà. Có vài tên định nhào lên, nhưng bị Giêng cương quyết đuổi xuống. Hiện chúng đang thu dọn tài sản”.
- “Còn mấy chú đâu hết?”
- “Chỉ có Nghĩa và vài ba người lính ở lại. Còn tất cả đã bỏ đi hết. Hưng đã chết rồi, tôi không màng đến tài sản. Miễn là chúng đừng đụng đến xác Hưng”
- “Chị tẩm liệm Hưng chưa?”
- “Thưa chưa. Vừa tắm rửa, thay quần áo xong thì Thiếu Tướng gọi tới”.
- “Chị nên tẩm liệm Hưng ngay đi. Tôi sợ không còn kịp. chúng nó sẽ không để yên”.
- “Thiếu Tướng còn dạy thêm điều gì không? Chẳng lẽ Thiếu Tướng chịu đầu hàng thật sao?”
Người thở dài trong máy. Người nói những lời mà đến chết tôi cũng sẽ không quên:
- “Số phận Việt Nam khốn nạn thế đó, chị Hưng ơi! Tôi và Hưng đã sắp đặt tỉ mỉ, hoàn tất kế hoạch xong xuôi, còn bị phản bội giờ chót”.

Người chép miệng thở dài:
- “Thôi chị Hưng ơi”.

Bỗng giọng người trầm xuống, ngậm ngùi:
- “Hưng chết rồi, chắc tôi cũng chết! Chúng tôi làm Tướng mà không giữ được nước thì phải chết theo nước”.
Giọng người bình tĩnh và rắn rỏi:
- “Cố gắng can đảm lên nhé chị Hưng. Chị phải sống vì mấy đứa nhỏ. Đêm nay có gì nguy cấp, nhớ gọi tôi. Nếu gọi không được, dặn Nghĩa gọi Thụy, lấy mật mã mới”.
- “Dạ, cám ơn Thiếu Tướng”.

Nói chuyện với Thiếu Tướng xong, tôi bước ra lan can nhìn xuống. Dưới sân, sĩ quan và lính tráng đã đi hết. Trừ có Nghĩa còn ở lại. Cổng rào bỏ ngỏ. Gió thổi đong đưa cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt bi ai. Mảnh trăng cuối tuần 19 tháng 3 âm lịch chênh chếch soi, vẻ ảm đạm thê lương như xót thương cho số phận Việt Nam Cộng Hòa, cho trò đời bể dâu hưng phế.
Viết đến đây, tôi nhớ lại từng lời của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, của Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương thiện Hồ Ngọc Cẩn. Trọn đời tôi, làm sao tôi có thể quên giọng nói gấp rút của anh Cẩn, giọng trầm buồn của Tướng Nam.
7 giờ sáng ngày 1 tháng 5, năm 1975. Vừa tụng dứt đoạn kinh Sám Tỉnh Thế trong nghi thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng nấc sau lưng. Quay lại, chính là Trung Tá Tùng, bác sĩ trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho biết phải trở lại Quân Y Viện ngay vì Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tự sát, xác còn nằm tại Quân Y Viện. Tướng Nam đã bắn vào thái dương, lúc 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975. Cho đến chết, mắt Tướng Nam vẫn mở trừng trừng, uất hận, miệng người há hốc, đớn đau. Sau cuộc điện đàm với người, tôi đã linh cảm, biết trước chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng báo tin, tôi xúc động vô cùng, tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y Viện, nơi Tướng Nam còn nằm đó, cầu nguyện:
- Xin Thiếu Tướng tha thứ. Tôi không dám bỏ xác Hưng để đến vuốt mắt Thiếu Tướng và lo việc tẩm liệm cho Thiếu Tướng. Bây giờ linh hồn của Thiếu Tướng đã gặp Hưng, xin linh thiêng phò hộ cho mẹ con tôi thoát khỏi tay Cộng Sản. Xin thương xót cho quê hương, cho dân tộc chúng ta. Xin thương xót cho toàn thể anh em binh sĩ.
Trung Úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người. Trung Úy Thành, vị ân nhân can đảm đặc biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan đó. Thành đã mời được Trung Tá Bia đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân nhân trong cơn biến loạn ấy, trọn đời tôi xin ghi khắc ơn sâu. 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975, các sĩ quan quân đoàn, mặc thường phục, đến viếng xác Hưng. Mầu nhiệm thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ, trong thoáng chốc, mắt Hưng hé mở, nhìn lên. Và từ trong đôi mắt người chết, có hai giòng lệ chảy. Mặt người chợt đỏ bừng lên.
Người khóc cho quê hương đất nước bắt đầu đắm chìm trong điêu linh. Người khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho đến lúc chết, hai Tướng Nam và Hưng chỉ phân tách nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch của hai người chớ không ai lên tiếng nặng lời trách móc vị Đại Tá kia. Xin quý vị hiểu rõ giùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự của hai ông, vợ con và gia đình hai ông. Trong hoàn cảnh căng thẳng của đất nước, khi lòng người mất niềm tin, hai ông cũng như nhiều người khác, thật sự đáng thương hơn đáng trách. Không hiểu hai ông có đi thoát, hay bị bắt ở lại.

Vận nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người dù đánh đổi cả vận mệnh cũng không nâng đỡ nổi tòa nhà Việt Nam đang sụp đổ tang thương. Nhưng, một ngày chúng ta còn mang trong người dòng máu của dân tộc Lạc Hồng, còn hít thở được khí trời, là một ngày chúng ta còn nợ nần quê hương. Đó là món nợ thiêng liêng và cao quý mà ngôn từ loài người chưa thể diễn tả được sát nghĩa, và thật đúng ý. Sao chúng ta không noi gương oanh liệt của tổ tiên, của cha ông, nối tiếp ý chí bất khuất của tiền nhân, để trang trải món nợ ân tình đó? Sao chúng ta cứ lo chê bai, công kích, hãm hại, đạp chà nhau, để rồi vô tình làm lợi cho bọn cướp nước Cộng Sản?
Đọc những gì tôi kể ở đoạn trên, những vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đã hiểu tất cả sự thật vì sao Tướng Nam và Tướng Hưng đã phải tự sát để bảo tồn tiết tháo. Không ai đem việc thành bại luận anh hùng. Cũng chớ bao giờ lấy tâm địa tiểu nhân để đo lòng người quân tử. Chúng ta, những người còn sống, những người Việt Nam ở trong nước hay lưu vong khắp bốn phương trời, chúng ta phải tự nêu lên câu hỏi: Chúng ta đã làm được gì cho đừng hổ thẹn với những người đã nằm xuống?
Họ đã nằm xuống không phải là vì họ hèn nhát! Họ đã nằm xuống là vì muốn bảo toàn sáu chữ mà họ từng mang trên đầu: Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm. Nếu chưa làm được gì cho quê hương, xin hãy thận trọng lời phê phán vô ý thức. Đừng vô tình thành tàn nhẫn sỉ nhục những người dám chết cho tổ quốc.








CỰU CHIẾN BINH MỸ * NGƯỜI CON GÁI VIỆT NAM



Nguyễn Vạn Lý


Tấm Ảnh Người Con Gái Việt Nam

Ðây chỉ là một tấm ảnh nhỏ, sờn cũ từ nhiều thập kỷ rồi. Nhưng tấm ảnh nhỏ bé ấy kể lại một câu chuyện ly kỳ và cảm động, và ám ảnh một chiến binh Mỹ tại Việt Nam trên 30 năm - cái hình ảnh một cô gái nhỏ chưa hề quen biết đã dẫn người cựu chiến binh Mỹ làm một cuộc hành trình trở lại Việt Nam, để hàn gắn đau thương quá khứ và tìm sự bình yên cho tâm hồn mình.

Ðối với Rich Luttrell, người cựu chiến binh Mỹ, thì đi tìm một người con gái trong ảnh là một việc làm khó khăn nhất trong đời ông. Ông ngồi nhìn rừng già bên dưới chiếc Boeing 747, thần kinh căng thẳng với những xúc cảm đè nén. Nhưng tất cả những gì Rich có thể trông thấy là tấm ảnh ấy. Hình ảnh người con gái nhỏ ấy có gì mạnh mẽ đến nỗi Rich phải trở lại Việt Nam?

Cô gái nhỏ ấy là ai? Tại sao Rich không thể chịu đựng được nỗi buồn bã của đôi mắt cô gái trong tấm ảnh? Rich thú nhận, "Mỗi khi tôi nhìn lại tấm ảnh, tôi dường như bị mê hoặc. Tôi cảm thấy đúng như thế kể từ ngày ấy, trong một cánh rừng già cách nước Mỹ nửa vòng trái đất." Ðó là cái giây phút mà một hành động thời chiến đã tạo cho Rich một gánh nặng trong suốt 33 năm.

Năm 1967, Rich Luttrell gia nhập quân đội, khi là một thiếu niên 17 tuổi. Ðây là một cơ hội cho Rich thoát cảnh nghèo trong một khu gia cư rẻ tiền tại Illinois. Ông bỗng thấy mình trưởng thành, có được hai đôi giầy ống, một đôi giầy mới, và những quân phục mới. Trong đời ông, chưa bao giờ ông có nhiều quần áo như thế trong một lần. Ông nghèo, nhưng có lòng ái quốc. Ông quyết định ra đi và gia nhập Chiến đoàn dù 101. Giống như nhiều thanh niên khác, Rich được huấn luyện cho cuộc chiến tại Việt Nam.

Ngày Rich tới đơn vị, chiếc trực thăng hạ cánh xuống một khu rừng già tại Việt Nam, và ông trông thấy những người thuộc trung đội ông đứng đó - cũng trạc tuổi ông. Có những người trông rất ngầu - nhất là mắt họ. Ông hoảng sợ kêu lên, "Lạy Chúa, con sẽ phải đường đầu với những gì ở đây?"

Rich đã được huấn luyện như mọi người, để chiến đấu trong điều kiện của địch quân, nghĩa là phải chiến đấu du kích - đêm đi nằm phục kích, lùng và diệt địch. Lúc ấy Rich chỉ vừa mới 18 tuổi. Chàng thiếu niên bé bỏng từ khu gia cư rẻ tiền tại Illinois bỗng thấy mình ở trong một hoàn cảnh mà không một sự huấn luyện nào đủ sửa soạn cho rừng già Việt Nam. Tại đây trời nóng hoặc mưa, hoặc cả mưa và nóng. Không có nhà cửa, không giường chiếu, không nghỉ ngơi, và không ngừng sợ hãi. Rich chỉ là một thiếu niên gầy gò, vai đeo chiếc ba lô to hơn lưng, và phải học điều luật căn bản đầu tiên: phải tiếp tục tiến bước, tiến bước và tiến bước mãi.

Có những lúc Rich phải trèo núi, và muốn chảy nước mắt và kêu lên, "Lạy Chúa, xin dừng lại. Con không thể đi được nữa. Và chúng tôi vẫn cứ phải tiểp tục như thế, từ sáng sớm tới đêm tối. Tôi nghĩ tôi sẽ phải làm gì khi đụng trận? Tôi không thể di chuyển được nữa. Tôi quá mệt. Tôi sẽ làm sao nếu gặp địch quân? Tôi chưa sẵn sàng cho một trận đánh."

Và một ngày đặc biệt đã làm thay đổi tất cả. Hôm ấy nóng như thường lệ, giống như mặc áo choàng đứng trong một phòng bốc hơi nóng vậy. Rich không biết địch quân chỉ cách ông vài thước trong rừng già.

Rich kể lại, "Từ khóe mắt tôi trông thấy một động đậy. Tôi có thể trông thấy một binh sĩ Việt Cộng ngồi tựa vào khẩu AK 47. Ðây là lần đầu tiên tôi trông thấy một lính Việt Cộng. Suốt đời tôi tôi chưa bao giờ trông thấy họ."

Rich mới 18 tuổi, và bỗng nhiên vô cùng sợ hãi, người như đóng băng lại. Ông biết không thể không làm gì, và ông phải có phản ứng, phải làm một cái gì. Ðấy là quyết định của Rich. Ông ở trong tầm đạn của địch quân. Cái chết chỉ cách một nhịp tim đập. Rich quay lại và nhìn thẳng mặt người lính Việt Cộng. Ông kể lại, "Dường như chúng tôi chăm chú nhìn nhau một lúc lâu. Và rồi giống như một chuyển động chậm, tôi bóp cò súng tự động của tôi. Tên địch ngã gục xuống. Ngay sau đó là một trận đụng độ dữ dằn. Tôi chưa đủ kinh nghiệm để nhào xuống đất. Và có một người nào đó giúp tôi, đẩy tôi nằm xuống."

Rich có thể nhận thức rằng người lính Việt Cộng ấy đã có thể giết chết ông trước khi ông trông thấy hắn. Rich công nhận, "Chắc chắn như vậy. Và cho tới bây giờ tôi vẫn lấy làm lạ, và tự hỏi tại sao hắn không bắn tôi?"

Nhưng đó không phải là điều ám ảnh Rich nhiều năm sau đó. Không phải là súng nổ, và cũng không phải việc giết người. Ngoài chiến trường thì lúc nào cũng có quá nhiều súng nổ và người chết.
° ° °
Chàng thanh niên 18 tuổi Rich Luttrell cuối cùng đã đụng địch quân và thoát chết. Người lính Việt Cộng ấy đáng lẽ ra đã giết Rich rồi. Nhưng kết quả ngược lại. Rich toát mồ hôi, chất adrenalin tỏa ra khắp người và cảm thấy như không đứng vững nữa, vì hành động vừa giết người.

Thiếu kinh nghiệm, Rich tỏ ra rất xúc động sau vụ giết người lần đầu tiên, và kinh hoàng thấy các bạn đồng đội đi tìm kỷ vật trên xác địch quân. Có người cúi xuống rút ví của tên địch vừa mới bị Rich bắn chết. Một mẩu giấy rơi ra; Rich cúi xuống nhặt lên: đó là một tấm ảnh nhỏ nhô ra một nửa, trông giống khuôn mặt một cô gái nhỏ có mái tóc dài. Rich rút tấm ảnh ra, chỉ to bằng một con tem. Ðó là ảnh một người lính và một cô gái nhỏ. Họ là ai? Phải chăng đó là người lính Việt Cộng đã chết? Có phải người lính là bố cô gái không?

Rich quyết định giữ tấm ảnh ấy. Ðúng ra, ông ngồi xuống, cúi nhìn người lính chết và nhìn tấm ảnh, rồi lại nhìn mặt anh ta. Hai người trong tấm ảnh quá trang nghiêm, quá buồn. Phải chăng họ chụp tấm ảnh này ngay trước khi họ từ giã nhau - trước khi người lính bỏ con gái ở lại, để ra đi và để bị Rich bắn chết. Rich cảm thấy đau đớn lắm. Nhưng chỉ trong vài phút, trung đội của Rich phải di chuyển. Rich nhét tấm ảnh vào ví.

Cái gì đã khiến Rich phải giữ tấm ảnh? Rich trả lời, "Tôi không biết. Tôi đã suy nghĩ cả triệu lần rồi. Cái phần đầu tiên tôi trông thấy trong tấm ảnh là cô gái, và cô ta có một cái gì buồn bã lắm."

Nhưng Rich không phải là một người lính bất đắc dĩ, không muốn giao chiến chiến với địch quân. Nếu Rich muốn sống thoát khỏi cuộc chiến, ông phải học cách giết người mà không hối tiếc, và Rich đã trở thành một chiến binh như thế.

Tại cái nơi ghê gớm ấy, Rich mau lẹ trở nên cứng cỏi. Cuối cùng Rich là người được giao nhiệm vụ giải tỏa những đường hầm của địch quân. Ông trở nên thiện nghệ cận chiến. Rich đã nhìn thấy các bạn đồng đội tử trận. Ông quen giết địch quân, và cầu nguyện được thoát chết. Một lần trong đêm tối trên một ngọn đồi, đạn pháo kích nổ quanh mình và nghe thấy bạn đồng đội la hét và bị tan xác, Rich đưa ba lô lên che đầu và cầu nguyện, "Lạy Chúa, xin cho con đừng trúng đạn." Rich không nghĩ ông có thể tiếp tục được như thế trong sáu tháng nữa.

Khi Rich chỉ còn 20 ngày nữa là được trở về Mỹ thì ông gặp nạn. Ðơn vị ông bị phục kích; ông được giao nhiệm vụ xông ra cứu một đồng đội bị bắn hạ. Trong lúc cứu bạn đồng đội, Rich bị trúng đạn vào lưng, và chính vết thương này giúp Rich được hồi hương sớm. Trong lúc ông được đưa lên trực thăng tải thương, Rich cảm thấy có lỗi, và bị dằn vặt vì những câu hỏi, Ta bỏ đi đâu? Ta sẽ làm gì? Ta bỏ dồng đội lại hay sao?

Rich hồi hương với một hộp đầy huân chương, và kết hôn với Carole, một người bạn gái tại quê nhà. Thập niên 60 nhường chỗ cho thập niên 70; ông không bao giờ nói về cuộc chiến ấy. Thời đại đã thay đổi. Rich có đời sống riêng - hai người con gái, một việc làm tốt tại Sở Cựu Chiến Binh Illinois. Ông cố gắng quên cuộc chiến Việt Nam, và tập trung vào tương lai với Carole.

Carole nói, "Chồng tôi thực sự không nói về chiến tranh Việt Nam trong nhiều năm. Ðó là một cái gì chồng tôi muốn giữ rất riêng tư và giấu kín."

Rich có thể trốn tránh cuộc chiến, nhưng không không thể trốn tránh được cô gái nhỏ mà ông mang trong ví. Thực sự đã có một ràng buộc đặc biệt giữa Rich và cô gái trong tấm ảnh. Ðây là một điều lạ lùng. Rich đã chứng kiến và đã quên nhiều kinh hoàng trong cuộc chiến, nhưng khuôn mặt của cô gái trong tấm ảnh cứ tiếp tục ám ảnh tâm trí ông. Tấm ảnh nặng không tới một gam mà đè nặng tâm trí ông một cách khủng khiếp.

Vào mùa Giáng Sinh, các con gái ông thường hỏi mẹ mua quà gì cho Rich, và quà tặng ông thường nhận lại là ví da. Hàng ngày người ta thường rút ví ra để trả tiền bằng tiền mặt hoặc bằng credit card, và mỗi lần như thế, Rich lại có dịp kéo tấm ảnh nhỏ ra. Ðối với Rich thì đó là một cô gái tội nghiệp, đã không còn bố chỉ vì ông.

Rich biết nếu ông không giữ tấm ảnh thì ông đã không có những ý nghĩ tội lỗi này. Rich xác nhận, "Tôi hoàn toàn đồng ý. Sau nhiều năm tôi thành thực nói là đã có nhiều lần tôi hối tiếc đã giữ tấm ảnh ấy."

Carole rất thông cảm và ủng hộ chồng, nhưng bà thấy chồng muốn thoát khỏi ám ảnh ấy thì phải vất tấm ảnh ấy đi. Một lần bà hỏi chồng, "Tại sao anh không vất bỏ tấm ảnh? Hãy liệng bỏ nó đi, loại nó khỏi cuộc đời anh, để anh có thể quên và tiếp tục sống."

Nhưng Rich không thể liệng bỏ hoặc hủy hoại tấm ảnh được. Ông biết ông phải làm một cách đặc biệt nào đó, phải làm một cách trong kính trọng và danh dự, bởi vì ông nghĩ người lính ấy là một người can đảm.

Năm 1989, hơn hai mươi năm sau khi từ Việt Nam trở về, việc giải quyết tấm ảnh đã rõ ràng và cấp bách. Rich và Carole nghỉ phép hàng năm. Hai người quyết định đi thăm Bức Tường Kỷ Niệm Chiến Binh Việt Nam tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Tại đó Rich biết mình phải làm gì với tấm ảnh nhỏ cũ kỹ này. Rich nghĩ rằng cách tốt nhất là bỏ tấm ảnh tại Bức Tường.

Ngồi trong khách sạn, Rich quyết định phải làm cho đúng. Ông ngồi trên giường với một tập giấy trong tay. Ông suy nghĩ tìm cách nói chuyện với người lính trong tấm ảnh. Trong vài phút, Rich viết xong một lá thư ngắn, gồm có một vài điều ông vẫn từng muốn nói. Ông viết:

"Thưa ông, trong suốt 22 năm nay, tôi giữ ảnh ông trong ví. Hôm ấy tôi mới có 18 tuổi, khi chúng ta trông thấy nhau trên con đường mòn gần Chu Lai, Việt Nam. Xin tha thứ cho tôi đã giết ông. Ðã nhiều lần trong những năm qua, tôi nhìn ảnh ông và người con gái tôi đoán là con ông. Mỗi lần tim tôi bừng cháy với nỗi đau tội lỗi. Xin ông tha thứ cho tôi."

Mỗi khi Rich đọc lại những hàng chữ trên đây, và ngay cả bây giờ, ông lại cảm thấy một cái gì. Ngày hôm sau, Rich đặt tấm ảnh và lá thư ngắn ấy tại chân Bức Tường, bên dưới tên của 58,000 binh sĩ Mỹ tử trận tại Việt Nam. Rich nói, "Hành động ấy giống như sự đứng nghiêm chào lần cuối cùng. Người lính ấy chết vì chiến đấu cho niềm tin của ông ta. Và đây là một cách vinh danh và tôn kính ông ta."

Vào lúc ấy hai người không còn là kẻ thù nữa. Rich nói, "Ông ta không còn là kẻ thù nữa, mà là một người bạn. Giống như chào vĩnh biệt một người bạn. Vào lúc đó, giống như tôi vừa chấm dứt một trận đánh, buông ba lô xuống để nghi ngơi. Cái gánh nặng tôi mang nay không còn nữa." Phải, tất cả đã mất rồi, và Rich bây giờ cảm thấy nhẹ nhõm, tự do và thoải mái.

Làm thế nào Rich biết được sức mạnh thực sự của tấm ảnh nhỏ bé ấy, của cô gái nhỏ có đuôi tóc, mà bây giờ không còn nhỏ nữa?
° ° °
Tấm ảnh của Rich đã mất rồi. Mặc cảm tội lỗi cũng mất luôn. Cái gánh nặng đã được vất bỏ tại Bức Tường hùng vĩ ấy. Và trở lại Illinois, Rich và Carole bắt đầu cuộc đời mới, sau khi nghe lời khuyên của vợ loại bỏ tấm ảnh để tránh cái tâm trạng ngã lòng mỗi khi trông thấy tấm ảnh. Rich vất bỏ tấm ảnh năm 1989.

Hoặc Rich tưởng đã có thể vất bỏ được. Hàng ngày, hàng trăm người bỏ lại nhiều kỷ vật tại Bức Tường này. Và mọi vật kỷ niệm, dù tầm thường hay thiêng liêng, đều được nhân viên của công viên thu thập lại - kể cả tấm ảnh nhỏ và lá thư xin lỗi của Rich. Tấm ảnh ấy tình cờ nằm trên cùng của một cái hộp, và nằm ngửa lên. Và cũng tình cờ Duery Felton, một cựu chiến binh Mỹ khác, trông thấy. Durey hiểu ngay đây là một cái gì khác thường.

Duery là quản lý phòng sưu tập tại đài Kỷ Niệm Chiến Binh Việt Nam. Ông tự hỏi tấm ảnh này là gì, và cầm lên xem. Ông đã từng trông thấy đủ thứ tại Bức Tường, nhưng chưa bao giờ thấy ảnh một binh sĩ địch quân. Ông vui sướng trông thấy bộ quân phục màu xanh lá cây ấy.

Trong hơn 30 năm Duery chưa bao giờ trông thấy bộ quân phục màu xanh ấy. Một câu hỏi hiện lên trong tâm trí ông "Người con gái này là ai? Có phải là con gái hay cháu gái của người linh Việt Cộng này?"

Rồi Duery đọc lá thư xin lỗi của Rich. Ông nhớ lại khi còn chiến đấu tại Việt Nam, ông đã từng giúp khiêng xác đồng đội, những bao đựng xác và những ponchos. Ông đọc lá thư về việc giết người ấy. Thực là khó khăn khi phải làm quyết định ấy, một duyết định chỉ làm trong vài giây đồng hồ, nhưng người ta sẽ phải ân hận suốt đời. Durey cảm thấy có một cái gì an ủi, khi được biết có người cũng trải qua kinh nghiệm ấy, và viết lại lên giấy.

Duery dùng lá thư xin lỗi và tấm ảnh của Rich trong các cuộc trưng bầy về Bức Tường, dậy cho thế hệ mới về chiến tranh, và chiến đấu trong chiến tranh có hậu quả gì cho con người. Tấm ảnh ám ảnh Rich bao nhiêu năm, bây giờ lại mê hoặc một cựu chiến binh Việt Nam khác.

Cái gì trong tấm ảnh ấy mạnh mẽ đến nỗi bây giờ đến lượt Duery phải ôm giữ nó và không bỏ đi được? Có thể tấm ảnh đã vang vọng lên trong tâm thần của Duery, và gây một hậu quả sâu xa cho ông.

Dĩ nhiên tại Rochester Illinois, Rich không biết gì về Duery. Rich tiếp tục cuộc đời của ông. Ông chứng kiến hai con gái trưởng thành và sinh con đẻ cái. Bây giờ ông cưng chiều hai cô cháu ngoại của ông. Ông tìm cách đưa người con gái trong tấm ảnh ra khỏi tâm trí ông.

Nhưng người con gái ấy bây giờ lại ám ảnh Duery Felton. Khi một nhà xuất bản yêu cầu Duery giúp in ra một ấn bản về Bức Tường, ông biết rằng ông phải đưa tấm ảnh của cô gái và lá thư xin lỗi vào ấn bản ấy. Duery nói, "Tấm ảnh này ám ảnh tôi nhiều năm, và tôi không biết cô ta là ai."

Cuốn sách có tựa là "Của Dâng Hiến Tại Bức Tường" và in tấm ảnh và lá thư xin lỗi của Rich. Ðây là một cuốn sách đơn giản, trình bày những hình ảnh, những ám ảnh, những kỷ niệm và lòng kính trọng của những người có liên hệ với Bức Tường. Một hôm cuốn sách này xuất hiện trên bàn giấy của dân biểu tiểu bang Ron Stephens. Stephens lật từng trang cuốn sách, và tới một trang đặc biệt có một tấm ảnh mà ông chưa từng trông thấy, và bỗng nhiên ông bị xúc động mạnh. Ông chợt nhận thức ông biết người lính ấy, ông biết tấm ảnh ấy.

Làm thế nào ông Stephens biết được tấm ảnh ấy? Ông ta chưa bao giờ nhìn thấy tấm ảnh, nhưng ông đã nghe người bạn thân là Rich kể nhiều lần. Stephens nói, "Tôi thực sự tuột xuống khỏi Bức Tường, và ngồi phiá sau Bức Tường cầm tấm ảnh này và biết nó là tấm ảnh của Rich. Tôi biết câu chuyện Rich bỏ tấm ảnh tại chân Bức Tường. Chúng tôi nói về chuyện này nhiều lần rồi."

Năm 1996, bảy năm sau khi Rich nghĩ có thể chào vĩnh biệt tấm ảnh lần cuối cùng, thì ông Stephens vội vã lái xe lại ngay văn phòng của Rich. Rich đang họp với một người nào đó, nhưng Stepehns xen vào và nói, "Tôi cần nói chuyện với anh," và đặt cuốn sách lên bàn của Rich, và yêu cầu Rich mở trang 53.

Rich mở trang 53 của cuốn sách, và trước mắt ông là tấm ảnh và lá thư xin lỗi gửi người lính Việt Cộng ông bỏ lại bên Bức Tường. Rich lập tức xúc động và bật khóc. Vẫn tấm ảnh người con gái ấy, và đôi mắt buồn bã chăm chú nhìn ông, không chịu quay đi chỗ khác. Rich có cảm tưởng như người con gái muốn buộc tội ông. Lúc ấy Rich như ở trong một cơn ác mộng, và muốn hỏi cô gái muốn gì ở ông.

Nỗi ám ảnh cũ bây giờ trở lại với Rich, mạnh mẽ hơn bao giờ. Rich biết ông phải lấy lại tấm ảnh. Thế là Rich liên lạc với Durey, người cũng đang bị tấm ảnh ám ảnh. Durey bay từ Hoa Thịnh Ðốn tới Illinois, và tận tay trao trả Rich tấm ảnh. Thực là một truyện kỳ lạ. Hai người đàn ông không quen biết nhau, chưa từng gặp nhau, nay ôm nhau khóc vì một cô gái nhỏ mà cả hai đều không biết.

Rich cầm lấy tấm ảnh, và tâm hồn ông là một vết thương tái phát. Ông biết ông phải tìm cách hàn gắn vết thương này. Một buổi tối ông cho vợ biết đây có thể là một sự huyền bí hoặc là định mệnh. Nhưng dù là gì, ông cảm thấy ông phải trả lại tấm ảnh này, có nghĩa là ông sẽ đi tìm người con gái trong tấm ảnh và gia đình người lính Việt Cộng đã bị ông giết.

Nếu như ông biết người con gái ở đâu thì công việc dễ dàng quá, chỉ việc bỏ tấm ảnh vào phong bì và gửi tấm ảnh này ra khỏi cuộc đời của ông. Nhưng ông không làm thế được. Ông không biết tên và địa chỉ người con gái. Ông không có một ý niệm bây giờ người con gái trông như thế nào.

Carole cố gắng khuyên nhủ ông đây là một việc không đơn giản và không thể thực hiện được. Ông không thể đi Việt Nam tìm người con gái được, vì ông không biết tiếng Việt, không quen một ai tại Việt Nam. Ngay tìm một người tại Hoa Kỳ cũng đã khó khăn lắm rồi, huống chi tìm một người hoàn toàn xa lạ cách đây hơn 30 năm, già hơn 30 tuổi trong một quốc gia hoàn toàn khác lạ, nhất là quốc gia ấy từng có thái độ thù nghịch với Hoa Kỳ.

Ðây là những lý do đúng và hợp lý để loại bỏ ý định của Rich. Bà vợ nhấn mạnh, "Nếu chồng tôi quyết định thực hiện ý định thì ông ấy cứ việc tự đi mà làm. Tôi không cản trở chồng tôi. Nhưng tôi nói với chồng tôi việc này không thể làm được, hãy bỏ cuộc và quên đi, không đáng làm đâu. Tôi thực sự đã chán ngấy chuyện này rồi."

Carole công nhận bà đã chán nghe chuyện về tấm ảnh này rồi. Ðây chỉ là một sự ám ảnh. Carole cũng bị đau đớn như Rich vậy, mặc dù lý do khác nhau. Cái mà Carole ao uớc là Rich cỏ thể quên được nỗi ám ảnh và tìm được sự bằng an của tâm hồn.
° ° °
Tấm ảnh của hai bố con người lính Việt Cộng đã âm thầm làm nhiệm vụ trong nhiều năm. Nhưng bây giờ nó gây hứng khởi cho một việc làm được coi là không thể thực hiện được. Rich chỉ muốn được cô gái ấy buông tha, và Rich sẽ cố gắng tìm cô ta, nếu đó là điều cô gái ấy muốn.

Rich không biết tên và địa chỉ cô gái, và bây giờ hình dáng cô ta trông thế nào, bao nhiêu tuổi, và nhất là cô ta còn sống không? Nhưng Rich biết ông phải tìm ra người con gái. Rich nghĩ nếu ông công khai cho mọi người biết ông đang tìm cô gái thì có lợi hơn. Vì thế Rich trả lời một cuộc phỏng vấn cho tờ báo St. Louis Post Dispatch, và câu chuyện được đăng lên trang nhất của tờ Post Dispatch.

Rich cứ tiến hành dự định. Ông gấp bài báo ấy, nhét vào một phong bì cùng với một lá thư gửi cho Ðại sứ Hà Nội tại Hoa Thinh Ðốn. Rich giải thích với ông Ðại sứ rằng ông muốn một sự giúp đỡ để tìm ra người con gái, và gia đình người lính trong tấm ảnh. Ông dại sứ hứa chuyển tài liệu về Hà Nội và cho biết phải có phép lạ mới có kết quả.

Giống như tìm kiếm một cây kim trong đống rơm. Ðây là một quốc gia có 80 triệu dân. Chính Rich cũng không tin tưởng lắm. Rich thực tình không hy vọng sẽ có kết quả. Từ đáy lòng ông đã không tin tưởng, nhưng ông biết đây là một việc phải làm. It nhất ông phải thử cho biết.

Và thế là một bản sao của tấm ảnh được gửi tới Hà Nội, tại đấy chủ bút một tờ báo nhận thấy đây là một truyện hấp dẫn. Ông ta cho đăng tấm ảnh với lời kêu gọi “Có ai biết những người này không?”

Nếu bài báo ở Hà Nội không đạt mục tiêu ngay thì nó cũng âm thầm tạo ra kết quả. Báo chí có hai công dụng: công dụng thứ nhất là thông tin, và công dụng thứ hai là trở thành báo cũ để gói hàng. Chính công dụng thứ hai này đã đưa tới két quả.

Một người ở Hà Nội gửi một món quà về quê biếu mẹ. Ông ta dùng cái tờ báo đăng tấm ảnh của Rich để gói món quà, và gửi về cho bà mẹ ở một niềm quê xa. Tuy thế câu chuyện cũng có thể chấm dứt ở đây - nếu không vì một tình cờ, bài báo đó đã về đúng chỗ.

Mảnh giấy báo gói đồ ấy về tới một làng quê xa Hà Nội, tại đó bà mẹ mở gói đồ của con, và trên tờ giấy báo nhàu nát, hình ảnh người lính Việt Cộng đập vào mắt bà gìa. Bà ta biết người trong tấm ảnh. Thế là bà ta cầm tờ báo đi tới một thôn xóm nhỏ bé, và bảo cho chị em một nhà kia biết tấm ảnh là bố của họ.

Thật là một điều không tưởng, giống như tấm ảnh nhất định không chấp nhận bị từ chối. Trái với mọi khó khăn tưởng như không qua được, tấm ảnh như một mũi tên trúng đích.

Từ Mỹ quốc cách xa ba ngàn dặm, Rich sẵn sàng chờ đợi lâu dài hơn nữa. Nhưng chỉ vài tuần sau, một lá thư của Ðại sứ Hà Nội tới hộp thư của ông. Lá thư đó viết:

“Có một người tên là Nguyễn Văn Huệ viết thư cho biết ông ta tin rằng tấm ảnh của ông chính là ảnh của thân phụ ông ta, và người con gái nhỏ ấy là chị ông ta.”

Ba mươi năm sau khi trông thấy tấm ảnh lần đầu, cuối cùng Rich biết người con gái ấy còn sống. Trong suốt cuộc đời, người con gái ấy ở cùng một chỗ. Như vậy Rich đã tìm thấy người con gái ấy, tên là Lan, và đã có con cái.

Thực là không ngờ đối với Rich. Thoạt đầu ông không thể tin kết quả mau lẹ như vậy. Rich rất xúc động và tự hỏi không biết những người con này có thú ghét ông vì đã giết cha họ không. Ông bắt đầu lo lắng hai người con có thể hiểu lầm về việc ông tham chiến tại Việt Nam. Rich rất cởi mở và thành thực. Vì trong thư của người con có nói tới tội lỗi và lòng hối tiếc của ông. Ông thấy cần phải bày tỏ cho họ biết có sự khác biệt giữa tội lỗi và hối tiếc. Rich mang trong lòng một mặc cảm tội lỗi nào đó vì cái hành động giết cha của họ, nhưng ông không hề có một hối tiếc nào với tư cách của một quân nhân, cũng không hối tiếc đã tham chiến tại Việt Nam. Và ông nghĩ rằng điều quan trọng là họ phải hiểu như thế.

Rich mong đợi gì ở hai người con này? Dẫu sao ông cũng đã giết cha họ. Ông không mong đợi gì, không biết họ thù ghét và tức giận ông hay không. Người con gái mất bố ấy cảm thấy thế nào? Nàng có coi ông như một con quái vật trong những năm ấy không? Con gái của ông sẽ nghĩ thế nào về một người đã giết ông?

Rich không có nhiều thời giờ suy nghĩ về phản ứng của hai người con này vì một lá thư thứ hai đến với ông. Lần này chính cô gái trong tấm ảnh viết cho ông. Ông vội chạy đi tìm người thông dịch. Lá thư viết:

“Kính gửi ông Richard, đứa nhỏ mà ông đã chăm sóc qua tấm ảnh trong hơn 30 năm bây giờ đã trưởng thành rồi. Dứa nhỏ ấy đã trải qua nhiều đau khổ trong tuổi thơ ấu vì đã mất bố và nhớ thương bố. Tôi hy vọng ông sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho gia đình tôi.”

Niềm vui và hạnh phúc? Rich vô cùng kinh ngạc. Như vậy cô gái đã tha thứ cho Rich? Nhưng tin vui vừa nhận được thì tất cả dường như rơi vào tuyệt vọng. Sau một cuộc điều tra nội bộ, chính phủ Hà Nội kết luận thân phụ của Nguyễn Thị Lan không thể là người trong tấm ảnh, bởi vì hồ sơ quân đội chứng minh thân phụ cô ta không tử trận tại nơi Rich nhớ đã bắn chết ông ta.

Rồi ba gia đình khác cho Rich biết tấm ảnh ấy là của họ. Người trong ảnh là bố họ, chứ không phải là bố của Nguyễn Thị Lan.

Làm sao Rich có thể biết chắc tin nào đúng. Người Việt Nam không giữ được hồ sơ thật chính xác. Có khoảng 3 triệu người Việt chết trong cuộc chiến mà tới nay vẫn còn 300,000 lính Việt Cộng được coi là mất tích.

Nhưng rồi có một lá thư nữa xác định niềm tin của Rich đã đạt tới kết cục. Ðó là thư của một đồng đội của người lính trong ảnh, một người quen biết thân phụ của Nguyễn Thị Lan kể từ khi hai người còn nhỏ, và đã chiến đấu bên nhau. Người ấy đoan chắc người trong tấm ảnh là cha của Nguyễn Thị Lan.

Bây giờ Rich rất tin vào kết quả cuối cùng. Khi sự việc đã sáng tỏ, Rich trao đổi nhiều thư từ với gia đình, và đi đến quyết định trao trả lại tấm ảnh cho gia đình người chết. Thoạt dầu Rich định gửi trả lại bằng thư, nhưng rồi cuối cùng Rich hiểu. Chính ông phải bay sang Việt Nam, mang theo tấm ảnh ấy. Ông nghĩ đây là điều ông cần làm và phải làm.

Nhưng làm thế nào Rich có thể đương đầu với Việt Nam, với cô gái và gia đình cô ta? Chính Rich có thể nào nhìn tận mặt kẻ đã giết cha mình trong chiến tranh không? Rich không biết câu trả lời. Ông nhận rằng có một sự nguy hiểm, không biết gia đình người tử sĩ sẽ phản ứng thế nào.
° ° °
Việc gặp gia đình người lính Việt Cộng không dễ dàng đối với Rich. Nhưng chính tại đây vào mùa xuân năm 2000, Rich sửa soạn đương đầu với quá khứ. Ông cảm thấy bị cuốn trôi theo sự việc, như thể ông bị chi phối bởi câu chuyên mà chính ông khởi đầu. Ðôi khi Rich thấy khó hiểu, nhưng vẫn nghĩ rằng đây là việc chính đáng mà ông phải làm.

Nhiều năm trước ông đã thề không bao giờ trở lại Việt Nam nữa. Ông đã chứng kiến quá nhiều cảnh bắn giết, quá nhiều kinh hoàng. Tất cả những đau khổ ấy phản chiếu trong tấm ảnh nhỏ ấy.

Tấm ảnh ấy có lẽ chụp tại một tiệm ảnh địa phương nào đó, tại dó người lính cùng chụp với người con gái để làm kỷ niệm cho cha nhớ con và con nhớ cha, khi ông ta ra đi chiến đấu. Giống như một vật có đời sống, tấm ảnh ấy đi từ một binh sĩ tử trận trên một con đường mòn, tới một người lính Mỹ, đài kỷ niệm chiến tranh, một cuốn sách, một chiếc ví, và tới một gói trên đuờng hồi hương.

Rich và Carole lên máy bay. Không còn đường rút lui nữa. Ðối với Rich, cuộc hành trình này sẽ đánh dấu sự khởi dầu của một chấm dứt. Sự chấm dứt một nỗi ám ảnh trên 30 năm của một tấm ảnh người lính Việt Cộng và con gái.

Không có gì ám ảnh hơn là khuôn mặt cô gái, mà Rich biết bây giờ không còn giống như thế nữa. Nhưng chính Rich cũng đã thay đổi và ngay cả Việt Nam nữa. Ðối với Rich, Việt Nam vừa xa lạ vừa gần gũi. Trên tất ca, nó là cái gì làm căng thẳng trí óc. Ngày hôm trước khi gặp nhau, Rich rất căng thẳng. Ông nói, “Tôi thà phải ra trận còn hơn phải gặp cô gái này.”

Ðó là một ngày thứ Tư u ám tại Hà Nội. Trời có vẻ sắp mưa trong lúc Rich bước lên một chiếc xe van để làm một chuyến đi hai giờ rưỡi tới làng của Lan. Chiếc xe chạy qua một vùng rất xa lạ, qua những chợ dầy những khuôn mặt ngạc nhiên trông thấy một đám du khách và người Mỹ tóc bạc này.

Càng gần tới làng, trên xe van Rich càng bồn chồn cựa quậy. Rồi bỗng nhiên, Rich và Carole tới nơi. Ðây chính là nơi người lính ảm đạm nghiêm trang ấy từng sống và có con cái. Ðây là nơi người lính ấy không bao giờ trở lại.

Rich hoang mang, Và sau dó bước qua một bức tường đá, Rich trông thấy người đàn bà. Rich tin chắc đã trông thấy người đàn bà này rồi. Rich phải mất vài phút để lấy lại bình tĩnh, rồi tiến lại phía người đàn bà. Và bây giờ hai người đối diện nhau. Hai người chưa từng thấy nhau bao giờ. Trong vài giây, hai người không biết nó gì. Họ là hai người thân mật nhưng xa lạ. Ông lập lại câu nói tiếng Việt mà ông đã học thuộc lòng:

“Hôm nay tôi trả lại tấm ảnh của cô và cha cô mà tôi đã giữ 33 năm. Xin tha thứ cho tôi.”

Cuối cùng tất cả tuôn ra - như một sự giải thoát đau đớn kinh hoàng. Dường như ngay lúc này người con gái cuối cùng đã có thể chịu được sự đau khổ, khóc gọi người cha mà cô không thực sự biết rõ.

Cô ôm lấy Rich và khóc. Cô ôm chặt lấy Rich như thể Rich chính là cha cô, cuối cùng đã trở về từ cuộc chiến. Người em cô cho biết cả hai chị em dị đoan tin rằng linh hồn người cha sống qua Rich. Ðối với họ, ngày hôm nay linh hồn cha của họ đã trở về với họ.

Cả làng tuôn ra xem tấm ảnh trả lại. Thực ra đó là một đại gia đình, tất cả làng thương tiếc người tử sĩ. Họ biết điều ấy có ý nghĩa như thế nào đối với Lan, và tấm ảnh đã gây xúc động cho mọi người.

Người ta có thể trả lại thế nào một cái gì mạnh mẽ như tấm ảnh ấy? Một lần Rich đã nghĩ tới một nghi thức trang trọng, nhưng cuối cùng chỉ là một câu nói đơn giản của Rich, “Nói cho cô ấy biết đây là tấm ảnh tôi lấy từ ví của cha cô ấy cái ngày tôi bắn chết ông ta, và hôm nay tôi mang trả lại.”

Người con gái nhỏ ấy nay đã 40 tuổi, và đây là lần đầu cô ta cầm được hình mình và hình cha trong tay. Cô ta vùi mặt vào hình ảnh người bố. Ðây là lúc cô ta có thể nhìn bố gần nhất kể từ khi cô lên 6 tuổi và người bố ra đi. Như thể tất cả gánh nặng đã hoán chuyển trong khi tấm ảnh nhỏ này truyền tay. Bây giờ chính Rich là người an ủi Lan.

Ðây là tấm ảnh duy nhất và đầu tiên của người lính Nguyễn Trọng Ngoạn mà con cái có được. Lan và người em tên Huệ đặt tấm ảnh lên bàn thờ cha mẹ. Rich cũng tham dự nghi lễ cầu nguyện trước bàn thờ.

Rich nói, “Thân phụ của họ là một cguời can đảm, và ông chết là một chiến sĩ can trường. Ông ta không bị đau đớn. Tôi rất tiếc.”

Lan và Rich ôm nhau khóc. Hiển nhiên bây giờ Lan đã tha thứ cho Rich. Và trong những giờ sau đó, Rich trở nên gần như một người trong gia đình. Rich có dịp gặp lại bạn đồng đội của người lính đã chết, và những kẻ thù cũ trao đổi những kỷ niệm chiến tranh, như thể họ là đồng đội cùng chiến đấu bên nhau, trong cái góc nhỏ bé này của thế giới, nơi có những mộ bia ghi tên những chiến binh Bắc Việt không trở về.

Nhưng có lẽ còn có một cái gì đáng kể hơn nữa. Một cái gì trong Rich, bây giờ đã thay đổi 33 năm sau khi Rich bóp cò súng trong khu rừng già nóng nực ấy, trong cái ngày khó hiểu ấy. Bây giờ Rich đã tự tha thứ cho mình.

Rich bước đi, tự nhủ việc này “quá khó.” Rất khó cho Rich trở lại được đây, và cũng quá khó cho Rich từ giã nơi đây. Rich và Lan ôm nhau từ biệt. Trở lại xe van, Rich bật lên khóc.

Ba mươi ba năm trước đây, Rich tới quốc gia này để tham chiến. Hôm nay ông trở lại để tìm hoà bình. Ông bỏ lại tấm ảnh và cả một hồn ma nữa. Cái ám ảnh của cô gái cuối cùng đã mất đi, thay thế bằng hình ảnh một người đàn bà vẫn còn sống sau cái chết của thân phụ, và cũng đã tha thứ cái người đã giết cha mình.

Tấm ảnh đem Rich và Lan lại gần nhau và có thể giúp họ liên kết với nhau nữa. Rich cho biết ông sẽ liên lạc với Lan và gia đình. Ông cũng hy vọng câu chuyện ông đã đương dầu với quá khứ có thể giúp những cựu chiến binh khác đương đầu được với hoàn cảnh của họ. Nhiều cựu chiến binh đã trở lại Việt Nam 25 năm sau khi cuộc chiến chấm dứt.

Ðối với Rich trở lại Việt Nam với tấm ảnh ấy giống như trở lại dự trận đánh cuối cùng. Và bây giờ chuyến trở lại Việt Nam đem lại cho Rich nhiều an ủi. Ông bây giờ đã trút được gánh nặng.

Gần một năm sau Rich vẫn còn mang trong lòng cái giây phút cuối cùng ấy, giống như một lá bùa may mắn, cái giây phút thay đổi của đời ông. Ông nói, “Khi tôi cầm tay và ôm cô ta, tôi cảm thấy như bỏ ba lô xuống và nghỉ ngơi, mọi thứ đều xong cả rồi.”

Rich vẫn chưa hiểu được - làm thế nào ông đã giết một người, mà lại chiếm được cảm tình gia đình của người ông đã giết? Làm thế nào những đau khổ trong những năm ấy, bỗng nhiên biến mất một cách giản dị như thế.

Trước khi trở lại Việt Nam, Rich không thể che giấu những mối lo lắng ông cảm thấy về Việt Nam - những nỗi đau buồn về tấm ảnh tội lỗi - những cảm xúc như thế thật là rõ ràng tại Việt Nam. Bây giờ những cảm giác ấy đâu? Rich nghĩ rằng ngay khi ông trông thấy người con gái ấy, các cảm giác ấy biến mất. Chính cô gái là người giải tỏa những cảm giác tội lỗi của ông.

Hai bên vẫn trao đổi thư tín, Rich và chị em Lan và Huệ. Huệ, người con trai viết cho Rich, “Trong thời gian ông viếng thăm gia đình tôi, mọi người trong làng nhận thấy ông là người rất tốt và tử tế. Khi ông rời Việt Nam, tôi cảm thấy như cha tôi đã trở về.”

Trong một thời gian lâu dài, một góc tim của Rich buồn bã lạnh lẽo. Bây giờ trái tim ấy hân hoan ấm áp trở lại. Ông nói, “Bây giờ chỉ là niềm vui, không còn đau buồn nữa.”

Hành động đầy thiện tâm của Rich không những giúp Rich thoát khỏi nỗi ám ảnh khôn nguôi trong suốt 33 năm, mà còn đem lại an ủi lớn lao cho hai người con của người lính Việt Cộng đã bị Rich bắn chết, vào một ngày mùa hạ trong khu rừng già ấy. Những tâm hồn một thời phong ba bão táp, nay đã có thể yên nghỉ.

Nguyễn Vạn Lý


(Viết theo tài liệu của Truyền Hình Mỹ)
http://vietmessenger.com/books/?title=motchienbinhmyvatamanhmotnguoicongaivietnam
*

LỜI BÌNH CỦA VẠN MỘC CƯ SĨ

Chiến tranh là phải cầm súng, phải giết.Nhưng trong cuộc tàn sát có những trái tim và hành động khác nhau. Truyện trên thể hiện đúng một phần tâm trạng người Mỹ sau chiến tranh. Một số đã trở lại Việt Nam, Một số đã giúp người Việt Nam trên đường tị nạn và giúp người Việt tại Việt Nam hàn gắn vết thương chiến tranh. Thế nhưng có cán bộ và binh sĩ cộng sản nào hối hận về việc giết cha anh họ trong chiến tranh , Cải cách Ruộng Đất. Ai đã sát hại Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Trần Văn Thạch? Ai giết Huỳnh giáo chủ, Hồ Văn Ngà? Ai giết các đảng viên VNQD đảng, Đại Việt đảng?Ai giết đồng bào thành phố HUế? Ai giết đồng bào trên đường Quảng Trị Huế? Ai đầy ải các chiến sĩ VNCH? Họ có hối hận không? Họ suy nghĩ gì không? Người Trung Quốc bắt Nhật Bản xin lỗi nhân dân Trung Quốc trong cuộc đệ nhị thế chiến, nhưng người Trung Quốc nay xâm lược Tây Tạng, Mông Cổ, Tân Cương và Việt Nam cùng gây đau khổ cho dân Phi Châu.Đặng Tiểu Bình bị Mao đày đọa và bọn tứ nhân bang đã ném con trai Đặng từ lầu cao xuống đất nhưng khi Đặng lên vẫn giữ thể chế chính trị, lực lượng công an và quân sự tàn sát Thiên An môn, kìm kẹp nhân dân Trung Quốc. Những người Việt Cộng và Trung Cộng này có ăn năn, hối hận, có chút nhân đạo trong suy tư và trong hành động không? Người Đức và thực dân Anh Pháp giết người nhưng không giết đồng bào họ, nhất là không giết những người theo họ.Còn cộng sản giết đồng bào họ, đảng viên họ, và những người không chống đối họ. Dẫu sao thì người cộng sản tàn ác gấp trăm ngàn lần thực dân, đế quốc và phát xít!

No comments:

Post a Comment