TÔ HẢI * HÒA HỢP HÒA GIẢI
HÒA HỢP-HÒA GIẢI?KHÔNG BAO GIỜ! NẾU....
Nhân ngày 30 tháng tư thứ 35 đến ,tớ nằm đọc cả trăm bài viết rất chi
là chân thành của nhiều nhà chính tr ị,trí thức, văn nghệ sỹ, nhà báo
của "phe thắng", đề xuất với "phe thua".... Tớ cũng chẳng còn muốn nhắc
lại những lời nói hay ho và rất... "chính trị" của ông Trần văn Trà là
"Người Việt nam không có ai thắng, ai thua. Chỉ có Đé Quốc Mỹ là
thua", (được ông Nguyễn Thành Tài,,phó chủ tịch UBND t/p HCM thận
trọng nhắc lại nguyên xi vế một ,nhưng bỏ vế hai , trên HTV tối qua.)
Tớ chỉ thương cho mấy hạt muối bỏ biển (ý của thi-nhạc sỹ N.T.T) đã
không nói hết được những gì là gan ruột của mình về giấc mơ hòa hợp
không bao giờ thanh hiện thực,.... mà khăng định rứt khoát về 4 cái chữ
hòa giải- hòa hợp như sau : KHÔNG! KHÔNG BAO GIỜ CHUYỆN ĐÓ TRỞ THÀNH
HIỆN THỰC! NẾU... Lý do:
-Làm sao có thể hòa giải-hòa hợp với hàng vạn gia đình, con cháu họ
khi cha ông họ bị cướp sạch ruộng đất, nhà cửa, bị đấu tố rồi giết hại
bằng đủ kiểu dã man như thời Trung Cổ bởi những Đoàn, Đội Cải cách
ruộng đất cơ chứ?
-Làm sao có thể hòa giải với cả triệu người vì quá sợ cải cách mà bỏ cả
quê hương bản quán mồ mả cha ông,mà bồng bế nhau chay vô Nam ? rồi còn
bị người ta tuyên truyền là bị "cưỡng ép,theo Chúa vào Nam"?
-Làm sao có thể hòa giải với hàng triệu gia đình , sau chiến thắng
Điện Biên, phải bỏ hết của cải, nhà cửa ,xưởng máy "di cư"vô Nam để
tìm tự do.Những người ở lại, thì mất hết sau các đợt cải tạo tư sản,
cải tạo nhà đất ,bị tịch thu từ cái máy may đến cửa hàng không quá 3
mét ở các phố hàng Đào, hàng Ngang ,hàng Trống.... và nhiều nhà hơi
cao, cửa hơi rộng cũng vị tịch thu hoặc bố trí cho thành phần cốt cán
vào ở cho đến nay cũng cấm đòi lại. (Giới văn nghệ cũng có hàng trăm
người hoặc mất béng,hoặc "chiếm đóng"tọa hưởng kỳ thành cho tới hôm
nay.)Cứ hỏi xem vợ NSND Đặng nhật Minh xem vợ ông ,bà Phương Nghi,có
cái nhà to đùng ở phố hàng Chuối bị trưng thu làm trụ sở Hội L H P N V
N nay đã đòi được hay chưa? Hỏi hàng vạn người bị kiểm tra hành chính
(sau 75) chỉ vì có nhà cao hơn 2 tầng (!?) nên bị tịch thu chỉ bằng
một lệnh mồm xem có ai được xin lỗi và trả lại cùng với tủ lạnh, tivi
có sẵn trong nhà, mà người ta khuân từ vùng mới "giải phóng" ra , chứ
chẳng chiếm đoạt , bóc lột của ai xem. Có ai đuợc trả lại chưa?Tớ tin
là chưa vì tớ có ông anh họ ,Tô Ninh, chẳng phải tư sản, chẳng phải địa
chủ mà còn là cựu chiến binh -cựu nhà báo nữa cũng bị "đánh" một cách
bất hợp pháp như thế ,đến nay gần chết vẫn...chưa được trả lại ngôi nhà
Hàng Bông Nhuộm! Làm sao hòa giải với ông ấy chứ?
-Làm sao hòa giải với con cháu những người văn nghệ sỹ, trí thức bị
đi tù không án, không thời hạn, thậm chí ra tù cũng chết dần chết mòn
cả thể xác lẫn sự nghiệp ,dù hôm nay có đền bù một cái giải thưởng này
nọ kèm theo tí tiền còm nhưng không một lời xin lỗi!! Tớ không tin con
cái, cháu chắt họ thôi căm thù đâu!
-Làm sao có thể hòa giảỉ với hàng triệu gia đình có cha,ông là sỹ
quan phía "bên kia"bị đánh lừa bằng những lời hứa hẹn kiểu ông Trần văn
Trà "Người Việt Nam không ai thắng ai thua,Chỉ có Đế Quốc Mỹ là thua
thôi!",đã hồ hởi (?) đi "học tập mang theo lương thực 10- 20" ngày để
rồi bị đi mút mùa ở các trại cải tạo nơi rừng sâu nước độc,để ỏ nhà vợ
con bị xua đi kinh tế mới... và không ít người đã mất xác cho đến nay,
bao gia đình vẫn phải về tìm hài cốt ở những nơi chồng, cha họ đã từng
bị "học tập",dưới danh nghĩa "khúc ruột ngàn dặm" một cách đắng cay va
mai mỉa...
-Làm sao có thể hòa giải-hòa hợp với những người phải bỏ nước ra
đi ,sống ở quê người, những người bị làm mồi cho cá mập đại dương, cho
lũ cướp biển, bỏ lại tất cả của cải ,nhà cửa, xe cộ cho mấy ông cán bộ
lấy làm chiến lợi phẩm ? Cho đến tận hôm nay ,mỗi lần về "du lịch thăm
quê"nhìn ngôi nhà mình ,cửa hàng mình, xưởng máy mình nay đã trở thành
"của riêng" của mấy ông cán bộ c s đang làm chủ hợp pháp có đầy đủ giấy
đỏ ,giấy hồng mà chỉ dám đi qua mà chửi đổng? (Riêng giới văn nghệ sỹ
,cho tới hôm nay cũng được làm chủ ít nhất cả trăm villa của những "kẻ
thua phải bỏ chay",có vị do "bán đi kiếm cái nhà ngoại ô" nay đã có
trong tay cả mấy ngàn cây vàng. Các vị này muốn hòa giải bằng cách trả
lại cho các khổ chủ hợp pháp của các tài sản kia để tiến tới hòa
giải-hòa hợp không? Chắc chắn là KHÔNG !
Và còn hàng ngàn,hàng vạn thứ chủ trương, hành động gây thù, gây
oán ngàn đời không rửa sạch nữa ,xảy ra suốt hơn 60 năm tớ sống và làm
việc trong kinh hoàng và sợ hãi thường trực nữa.....Cho nên tớ mới
nghĩ rằng:
CHỈ KHI NÀO,NHỮNG KẺ GÂY NÊN THÙ HẬN NHÌN RA LÀ MÌNH CÓ TỘI THÌ MAY RA SỰ HẬN THÙ MỚI ĐƯỢC DẦN DẦN ĐƯỢC NGUÔI NGOAI.
Cụ
thể giấc mơ của tớ là :Có một ngày nào đó nước ta có một vài ông to
dám nói ra những gì các ông Goóc-Ba-Chốp, En-Xin ,Putin và gần đây cả
Medvedev nữẵ ĐÃ NÓI VÀ LÀM thì chẳng cần hô hào,mọi người sẽ lại gần
nhau để tìm ra cách hòa hợp hòa giải....Bằng không thì...không bao giờ
có ,với cái kiểu CHO PHÉP ĐỰOC HÒA GIẢI, cả!
Tớ
cũng mong ước các vị nào đó có vai trò nặng kí trong "Đảng- Chính-
Phủ"hãy tuyên bố đột phá (như Khơ-rút-xốp ở Đai Hội XX ấy)
"ĐẢNG của chúng tôi đã hoàn thành xuất sắc nhệm vụ giải phóng dân
tộc,nay trước nhiệm vụ xây dựng đất nước,đưa cuộc các mạng kinh tế,khoa
học,xã hội và nhân văn lên tầm cao mới,chúng tôi thấy không đủ tài
năng và trí tuệ.Vậy xin nhường quyền lãnh đạo đất nước cho mọi nhân tài
không phân biệt chính kiến,tôn giáo,đảng phái.... ra lãnh đạo đất nước
bằng một cuộc tuyển cử thật sự công bằng,văn minh"..
Chỉ lúc ấy,mọi giấc mơ về hòa giải-hòa hợp mới thực sự bắt đầu. Bằng không thì đúng như anh Nguyễn Trọng Tạo,"Làm sao để không còn 30 tháng 4 CHỈ LÀ NHỮNG HẠT MUỐI BỎ BỂ MÀ THÔI!
*
SUY NGHĨ VỀ 30-4-1975
Xin
gởi đến quý vị bài mới và trân trọng giới thiệu đến qúy vị bài viết
của hai chị Liên Vũ và Nguyễn Lê Thanh Trúc hướng về 35 cộng sản chiếm
miền Nam. Xin tiếp tay phổ biến rộng rãi.
Bài thứ nhất
35 Năm Đối Kháng.
Với
lịch sử giai đọan 35 năm vừa qua (1975-2010) dù ngắn nhưng là một giai
đọan cực suy của dân tộc Việt Nam, một giai đọan mà người Việt phải
đối kháng với thể chế độc quyền tòan trị cộng sản, lúc theo Liên Sô lúc
theo Trung Quốc. Tại sao lại không phải là đối lập ? Đối lập chỉ
tồn tại và phát triển dưới thể chế tự do. Cả người cầm quyền, người đối
lập và người dân đều phải dựa trên Hiến pháp để dòm chừng, để lên
tiếng, để kiểm sóat và cạnh tranh lẫn nhau.
Có đối lập các chính sách cũ sẽ được hòan chỉnh hơn, hay dựa trên nền tảng Hiến Pháp để đề ra những chính sách mới ưu việt hơn. Nhờ đối lập những thành qủa của thể chế dân chủ được tối ưu trong hòan cảnh và điều kiện của từng quốc gia. Nói tóm lại đối lập đưa xã hội, dân tộc, đất nước ngày một thăng tiến. Thể chế cộng sản ngược lại đề ra việc tiêu diệt cái cũ để xây dựng cái mới. Mới và cũ bao gồm từ văn hóa, văn học, nghệ thuật, kinh tế, xã hội, … đến con ngừơi.
Cái mới lẽ ra phải tốt đẹp hơn cái cũ, thực tế đã chứng minh ngược lại và kết quả là sự sụp đổ của hầu hết các quốc gia bị cộng sản chiếm đóng. Dưới chế độ cộng sản mọi quyết định trọng đại lại đều đến từ một cá nhân hay một nhóm cầm quyền. Không có đối lập, không dân chủ, người dân bắt buộc phải tuân theo các nghị quyết các quyết định do đảng đề ra. Thậm chí người dân còn phải tuân theo các lệ làng do cán bộ địa phương đề ra. Không tuân theo sẽ bị khép vào thành phần phản động, phản cách mạng và bị đẩy về phía đối kháng. Dưới thể chế cộng sản Việt Nam , cái mới gồm tư tưởng, phương cách suy nghĩ và hành động lúc thì theo Trung Quốc lúc lại theo Liên Sô . 35 năm đối kháng có thể được chia làm 2 giai đọan: giai đọan ĐCSVN theo Liên Sô (1975-89) và giai đọan theo Trung Quốc (1989-2010). Giai đọan ĐCSVN theo Liên Sô (1975-89).
Trước 1975, Việt Nam Cộng Hòa là một chiến trường cho hai khối tự do và cộng sản thử bom đạn. Trong khi Hoa Kỳ rút chạy thì Liên Sô, Trung Quốc cùng tòan Khối Cộng sản lại quyết tâm tài trợ cộng sản Bắc Việt xâm lấn miền Nam. Cộng sản Bắc Việt thì bất chấp mọi hiệp định quốc tế đã ký trước đây vượt vĩ tuyến 17 thôn tính miền Nam . Dẫn đến ngày 30/4/1975. Để xây dựng một thể chế mới gồm những con người mới, dân miền Nam bị khép là ngụy quân, ngụy quyền, ngụy dân. Các trại tù được dựng lên khắp nơi nhằm “cải tạo” xã hội ngụy. Các khu kinh tế mới được dựng lên để đẩy ngụy dân khỏi các thành phố, dành chỗ cho cán bộ từ Bắc vào. Các tà sách ngăn sông cấm chợ, đánh tư sản mại bản, quốc doanh hóa, hợp tác hóa công nông nghiệp nhằm biến miền Nam thành miền Bắc rập theo khuôn khổ mô hình kinh tế và chính trị Liên Sô . Về văn học, văn nghệ, nghệ thuật và hình thức bề ngòai xã hội miền Bắc trước 1975 lại giống như một xã hội Trung Hoa thu nhỏ.
Chỉ cần xem lại sách báo, báo chí hay phim ảnh trước đây bạn sẽ thấy ngay từ cách ăn mặc, cách hành xử, lời ca, điệu nhạc, đến phong cách hành văn đều xuất phát từ hay bị ảnh hưởng nặng nề của Trung Quốc . Do hai đảng cộng sản Việt Nam - Trung Quốc sau 1975 đã trở thành kẻ thù không đội trời chung . ĐCSVN vì thế muốn thóat khỏi ảnh hưởng của văn hóa cách mạng kiểu Trung cộng. Nhưng vẫn mang tính chất cưỡng bức áp đặt nhằm phục vụ tuyên truyền cho đảng cộng sản. Vì thế trong nước vẫn tồn tại nền văn học nghệ thuật đối kháng chống lại sự áp đặt của ĐCSVN lên nền văn học nước nhà. Vừa thóat ra khỏi chiến tranh, ĐCS lại tiếp tục sử dụng bạo lực cách mạng, dùng chuyên chính vô sản để đàn áp mọi suy nghĩ, mọi tiếng nói khác biệt. Việt Nam từ Bắc xuống Nam trở thành một nhà tù. Một vài cán bộ cấp dưới bất đồng phải lén núp “xé rào” nhà tù làm ngược lại các sách lược của đảng. Xé rào là cụm từ do chính những đảng viên xé rào đặt ra. Trong giai đọan này, ĐCSVN nhận một nguồn viện trợ dồi dào từ Liên Sô để biến Việt Nam thành một chư hầu thực hiện vai trò quốc tế tại Á Châu .
Từ 1979 đến 1989, ĐCSVN đã đưa đất nước vào 2 cuộc chiến tranh nội bộ các đảng cộng sản: xâm lấn Cam Bốt ở miền Nam và chiến tranh biên giới với Trung Quốc tại miền Bắc. Hằng trăm ngàn thanh niên đã bỏ mình trong hai cuộc chiến. Hằng trăm ngàn người khác đã trở thành những thương binh tàn phế một phần cơ thể. Ảnh hương đến tinh thần hàng triệu gia đình Việt Nam , ảnh hưởng này vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Nhiều phần đất, phần biển do ông cha để lại hiện nay vẫn còn bị Trung cộng chiếm đóng và được ĐCSVN chính thức công nhận sự chiếm đóng. Sự phản kháng rõ nét nhất là hàng triệu người trên con thuyền nhỏ hay bằng mọi phương tiện rời miền Bắc sau 1954 và sau 1975 đã bỏ nước ra đi. Đa số những người bỏ nước ra đi vẫn tiếp tục đối kháng với ĐCS một cách mạnh mẽ trên mảnh đất tái cư. Cũng có người từ hải ngọai trở về chiến đấu cho tự do.
Để đương đầu với chuyên chính, giai đọan này những người chống cộng phải chọn gắn liền giữa đấu tranh chính trị và vũ trang. Vì thể chế cộng sản đi ngược với chiều tiến hóa của nhân lọai và đi ngược với lòng người, nên dân tộc các quốc gia Đông Âu và Liên Sô đã lần lượt đứng lên giành lại quyền tự quyết dân tộc. Các lực lượng đối kháng Việt Nam phần bị đàn áp, phần không tiên đóan trước sự sụp đổ của chế độ cộng sản Âu châu, phần thiếu thông tin, thiếu liên kết nên gần như đứng ngòai cuộc thay đổi tòan cầu, không thể hướng dẫn quần chúng đẩy mạnh tiến trình dân chủ cho Việt Nam. Giai đọan ĐCSVN theo Trung Quốc (1989-2010).
Có đối lập các chính sách cũ sẽ được hòan chỉnh hơn, hay dựa trên nền tảng Hiến Pháp để đề ra những chính sách mới ưu việt hơn. Nhờ đối lập những thành qủa của thể chế dân chủ được tối ưu trong hòan cảnh và điều kiện của từng quốc gia. Nói tóm lại đối lập đưa xã hội, dân tộc, đất nước ngày một thăng tiến. Thể chế cộng sản ngược lại đề ra việc tiêu diệt cái cũ để xây dựng cái mới. Mới và cũ bao gồm từ văn hóa, văn học, nghệ thuật, kinh tế, xã hội, … đến con ngừơi.
Cái mới lẽ ra phải tốt đẹp hơn cái cũ, thực tế đã chứng minh ngược lại và kết quả là sự sụp đổ của hầu hết các quốc gia bị cộng sản chiếm đóng. Dưới chế độ cộng sản mọi quyết định trọng đại lại đều đến từ một cá nhân hay một nhóm cầm quyền. Không có đối lập, không dân chủ, người dân bắt buộc phải tuân theo các nghị quyết các quyết định do đảng đề ra. Thậm chí người dân còn phải tuân theo các lệ làng do cán bộ địa phương đề ra. Không tuân theo sẽ bị khép vào thành phần phản động, phản cách mạng và bị đẩy về phía đối kháng. Dưới thể chế cộng sản Việt Nam , cái mới gồm tư tưởng, phương cách suy nghĩ và hành động lúc thì theo Trung Quốc lúc lại theo Liên Sô . 35 năm đối kháng có thể được chia làm 2 giai đọan: giai đọan ĐCSVN theo Liên Sô (1975-89) và giai đọan theo Trung Quốc (1989-2010). Giai đọan ĐCSVN theo Liên Sô (1975-89).
Trước 1975, Việt Nam Cộng Hòa là một chiến trường cho hai khối tự do và cộng sản thử bom đạn. Trong khi Hoa Kỳ rút chạy thì Liên Sô, Trung Quốc cùng tòan Khối Cộng sản lại quyết tâm tài trợ cộng sản Bắc Việt xâm lấn miền Nam. Cộng sản Bắc Việt thì bất chấp mọi hiệp định quốc tế đã ký trước đây vượt vĩ tuyến 17 thôn tính miền Nam . Dẫn đến ngày 30/4/1975. Để xây dựng một thể chế mới gồm những con người mới, dân miền Nam bị khép là ngụy quân, ngụy quyền, ngụy dân. Các trại tù được dựng lên khắp nơi nhằm “cải tạo” xã hội ngụy. Các khu kinh tế mới được dựng lên để đẩy ngụy dân khỏi các thành phố, dành chỗ cho cán bộ từ Bắc vào. Các tà sách ngăn sông cấm chợ, đánh tư sản mại bản, quốc doanh hóa, hợp tác hóa công nông nghiệp nhằm biến miền Nam thành miền Bắc rập theo khuôn khổ mô hình kinh tế và chính trị Liên Sô . Về văn học, văn nghệ, nghệ thuật và hình thức bề ngòai xã hội miền Bắc trước 1975 lại giống như một xã hội Trung Hoa thu nhỏ.
Chỉ cần xem lại sách báo, báo chí hay phim ảnh trước đây bạn sẽ thấy ngay từ cách ăn mặc, cách hành xử, lời ca, điệu nhạc, đến phong cách hành văn đều xuất phát từ hay bị ảnh hưởng nặng nề của Trung Quốc . Do hai đảng cộng sản Việt Nam - Trung Quốc sau 1975 đã trở thành kẻ thù không đội trời chung . ĐCSVN vì thế muốn thóat khỏi ảnh hưởng của văn hóa cách mạng kiểu Trung cộng. Nhưng vẫn mang tính chất cưỡng bức áp đặt nhằm phục vụ tuyên truyền cho đảng cộng sản. Vì thế trong nước vẫn tồn tại nền văn học nghệ thuật đối kháng chống lại sự áp đặt của ĐCSVN lên nền văn học nước nhà. Vừa thóat ra khỏi chiến tranh, ĐCS lại tiếp tục sử dụng bạo lực cách mạng, dùng chuyên chính vô sản để đàn áp mọi suy nghĩ, mọi tiếng nói khác biệt. Việt Nam từ Bắc xuống Nam trở thành một nhà tù. Một vài cán bộ cấp dưới bất đồng phải lén núp “xé rào” nhà tù làm ngược lại các sách lược của đảng. Xé rào là cụm từ do chính những đảng viên xé rào đặt ra. Trong giai đọan này, ĐCSVN nhận một nguồn viện trợ dồi dào từ Liên Sô để biến Việt Nam thành một chư hầu thực hiện vai trò quốc tế tại Á Châu .
Từ 1979 đến 1989, ĐCSVN đã đưa đất nước vào 2 cuộc chiến tranh nội bộ các đảng cộng sản: xâm lấn Cam Bốt ở miền Nam và chiến tranh biên giới với Trung Quốc tại miền Bắc. Hằng trăm ngàn thanh niên đã bỏ mình trong hai cuộc chiến. Hằng trăm ngàn người khác đã trở thành những thương binh tàn phế một phần cơ thể. Ảnh hương đến tinh thần hàng triệu gia đình Việt Nam , ảnh hưởng này vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Nhiều phần đất, phần biển do ông cha để lại hiện nay vẫn còn bị Trung cộng chiếm đóng và được ĐCSVN chính thức công nhận sự chiếm đóng. Sự phản kháng rõ nét nhất là hàng triệu người trên con thuyền nhỏ hay bằng mọi phương tiện rời miền Bắc sau 1954 và sau 1975 đã bỏ nước ra đi. Đa số những người bỏ nước ra đi vẫn tiếp tục đối kháng với ĐCS một cách mạnh mẽ trên mảnh đất tái cư. Cũng có người từ hải ngọai trở về chiến đấu cho tự do.
Để đương đầu với chuyên chính, giai đọan này những người chống cộng phải chọn gắn liền giữa đấu tranh chính trị và vũ trang. Vì thể chế cộng sản đi ngược với chiều tiến hóa của nhân lọai và đi ngược với lòng người, nên dân tộc các quốc gia Đông Âu và Liên Sô đã lần lượt đứng lên giành lại quyền tự quyết dân tộc. Các lực lượng đối kháng Việt Nam phần bị đàn áp, phần không tiên đóan trước sự sụp đổ của chế độ cộng sản Âu châu, phần thiếu thông tin, thiếu liên kết nên gần như đứng ngòai cuộc thay đổi tòan cầu, không thể hướng dẫn quần chúng đẩy mạnh tiến trình dân chủ cho Việt Nam. Giai đọan ĐCSVN theo Trung Quốc (1989-2010).
Đứng
trứơc khủng hỏang và lo sợ sự sụp đổ, Đại Hội lần thứ VI ĐCS Việt Nam
đã phải chấp nhận đổi mới thay vì chết. ĐCS một mặt phải cởi trói kinh
tế, giao thương với các quốc gia tự do, mặt khác phải vội vàng thần
phục Trung Quốc lấy chỗ dựa tiếp tục đàn áp mọi nỗ lực đối kháng.
Nhờ cởi trói kinh tế, một phần người Việt đã nhanh chóng thoát khỏi
cảnh đói nghèo. Nhưng để hướng đến một đời sống vật chất cũng như tinh
thần cao hơn thì giáo dục và huấn luyện kỹ năng là hai yếu tố quan
trọng lại không được ĐCS để ý tới. Đa số lao động Việt Nam vẫn chỉ dựa
vào nông nghiệp, vào kỹ nghệ đơn thuần, du lịch và vào việc tận dụng
tài nguyên thiên nhiên. Trong thời gian gần đây do trình độ quản lý
kinh tế yếu kém, Việt Nam đang quay lại thời kỳ với mức lạm phát phi
mã, nhiều lần phải phá giá đồng tiền, đầu tư và xuất cảng sút giảm, nạn
thất nghiệp gia tăng, nợ quốc tế càng ngày càng chồng chất… đa phần
dân chúng đã nghèo lại nghèo thêm.
Thiếu quyền lực chính trị, quyền lợi kinh tế của dân chúng gần như không được quan tâm. Việc tận dụng tài nguyên quốc gia và lệ thuộc vay mượn thế giới là một cách ăn cướp của các thế hệ con cháu chúng ta. Trong khi ấy để kiểm sóat chính trị, nhiều xí nghiệp quốc doanh được cổ phần hoá đã lọt vào tay của một số đảng viên cao cấp hay gia đình, tạo nên một tầng lớp đại gia tư bản đỏ. Tầng lớp này nắm cả độc quyền kinh tế lẫn chính trị nên càng ngày càng trở nên giàu có và quyền thế. Hố ngăn cách giữa thiểu số này và đa số dân chúng nghèo khổ đang ngày một sâu hơn.
Chênh lệch giàu nghèo, sự bất bình đẳng đang đào sâu các tiềm ẩn đối kháng, đến mức độ không kềm hãm được sẽ là nguyên nhân cho mọi biến động xã hội - chính trị. Thiếu quyền lực chính trị dân Việt cũng trở thành nạn nhân của quốc nạn tham nhũng. Thêm vào đó một cuộc khủng hỏang tòan diện đang càng ngày càng lan rộng trên mọi lãnh vực đến mọi tầng lớp xã hội. Sự bất mãn càng ngày càng bộc phát để đến một lúc nào sẽ phải bùng nổ.
Đảng cộng sản còn luôn phải đối đầu với hàng loạt các cuộc đình công đòi tăng lương đòi bảo đảm quyền lao động. Những cuộc biểu tình chống tham nhũng, chống bất công trong việc qủan lý đất đai và một cao trào đòi đất của giáo hội Công giáo và các tôn giáo khác đã bị đảng cộng sản cướp đi sau khi chiếm được chính quyền. Nhiều cuộc biểu tình đòi tự do tôn giáo hay của đồng bào sắc tộc chống lại áp bức bất công. Dẹp được cuộc biểu tình này thì xẩy ra cuộc biểu tình khác. Các cuộc biểu tình thì càng ngày càng thu hút được nhiều người hơn, có tổ chức hơn và xẩy ra gần thủ đô Hà Nội hơn. Chuyện gì sẽ xảy ra khi mọi người đồng tâm đứng lên đòi lại quyền tự quyết dân tộc.
Khi mức độ đối kháng của các tầng lớp dân chúng càng ngày càng nâng cao, ĐCS lại phải lộ rõ bản chất buôn dân bán nước. Nhiều phần lãnh thổ, lãnh hải do ông cha ta để lại đã được ĐCS chính thức trao cho Trung Quốc . Nhà cầm quyền Việt Nam đã để mặc cho Quân Đội Trung Quốc bắn, bắt, cướp tàu, đòi tiền chuộc khi các ngư dân Việt Nam đánh bắt trên vùng lãnh hải Việt Nam. Khi các anh chị sinh viên biểu tình xác định “Hòang Sa Trường Sa Biển Đông là của Việt Nam ” lại bị công an cộng sản xuống tay đàn áp. Người dân đã mất cả quyền được yêu nước được chống xâm lăng . Đảng CS còn chủ trương để Trung Quốc tiến hành khai thác bauxite Tây Nguyên dù đã gặp phản đối mạnh mẽ cả trong lẫn ngoài đảng. Việc này đã tạo ra một cao trào phản kháng từ tầng lớp trí thức trong nước. Lần đầu tiên hằng ngàn trí thức đã công khai ký tên phản kháng một chủ trương đã được Bộ Chính Trị ĐCS thông qua.
Gần đây lại đến việc các nhà cầm quyền địa phương cho Trung Quốc mứơn rừng Việt Nam mà quên đi quyền lợi của dân tộc luôn bị nước này nhòm ngó. Việc này tạo thêm một khoảng cách giữa những người yêu nước chân chính và tập đòan lãnh đạo cộng sản buôn dân bán nước. Sự kiện Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS) tự gỉai thể là thí dụ đối kháng mạnh mẽ nhất của tầng lớp trí thức Việt Nam . Viện được xem là một bầu trí tuệ của Việt Nam . Đa số các thành viên của Viện đã tích cực đóng góp trong quá trình đổi mới kinh tế sau Đại Hội VI . Viện tập trung nghiên cứu về kinh tế, giáo dục, y tế, xã hội… khổ nỗi dưới sự cầm quyền của đảng Cộng sản, Việt Nam càng ngày càng lâm vào khủng hoảng toàn diện, đời sống dân chúng thì mỗi ngày một tệ hại hơn. Kết quả những công trình nghiên cứu thường phơi bày sự thật rất trái ngược với luận điệu tuyên truyền của đảng. Để họ phải ra Quyết Định 97 bịt miệng các thành viên trong Viện. Phản kháng lại các thành viên Viện đã quyết định tự giải thể, nhưng tuyên bố cá nhân sẽ tiếp tục phản biện các chính sách sai trái của nhà cầm quyền Việt Nam .
Thiếu quyền lực chính trị, quyền lợi kinh tế của dân chúng gần như không được quan tâm. Việc tận dụng tài nguyên quốc gia và lệ thuộc vay mượn thế giới là một cách ăn cướp của các thế hệ con cháu chúng ta. Trong khi ấy để kiểm sóat chính trị, nhiều xí nghiệp quốc doanh được cổ phần hoá đã lọt vào tay của một số đảng viên cao cấp hay gia đình, tạo nên một tầng lớp đại gia tư bản đỏ. Tầng lớp này nắm cả độc quyền kinh tế lẫn chính trị nên càng ngày càng trở nên giàu có và quyền thế. Hố ngăn cách giữa thiểu số này và đa số dân chúng nghèo khổ đang ngày một sâu hơn.
Chênh lệch giàu nghèo, sự bất bình đẳng đang đào sâu các tiềm ẩn đối kháng, đến mức độ không kềm hãm được sẽ là nguyên nhân cho mọi biến động xã hội - chính trị. Thiếu quyền lực chính trị dân Việt cũng trở thành nạn nhân của quốc nạn tham nhũng. Thêm vào đó một cuộc khủng hỏang tòan diện đang càng ngày càng lan rộng trên mọi lãnh vực đến mọi tầng lớp xã hội. Sự bất mãn càng ngày càng bộc phát để đến một lúc nào sẽ phải bùng nổ.
Đảng cộng sản còn luôn phải đối đầu với hàng loạt các cuộc đình công đòi tăng lương đòi bảo đảm quyền lao động. Những cuộc biểu tình chống tham nhũng, chống bất công trong việc qủan lý đất đai và một cao trào đòi đất của giáo hội Công giáo và các tôn giáo khác đã bị đảng cộng sản cướp đi sau khi chiếm được chính quyền. Nhiều cuộc biểu tình đòi tự do tôn giáo hay của đồng bào sắc tộc chống lại áp bức bất công. Dẹp được cuộc biểu tình này thì xẩy ra cuộc biểu tình khác. Các cuộc biểu tình thì càng ngày càng thu hút được nhiều người hơn, có tổ chức hơn và xẩy ra gần thủ đô Hà Nội hơn. Chuyện gì sẽ xảy ra khi mọi người đồng tâm đứng lên đòi lại quyền tự quyết dân tộc.
Khi mức độ đối kháng của các tầng lớp dân chúng càng ngày càng nâng cao, ĐCS lại phải lộ rõ bản chất buôn dân bán nước. Nhiều phần lãnh thổ, lãnh hải do ông cha ta để lại đã được ĐCS chính thức trao cho Trung Quốc . Nhà cầm quyền Việt Nam đã để mặc cho Quân Đội Trung Quốc bắn, bắt, cướp tàu, đòi tiền chuộc khi các ngư dân Việt Nam đánh bắt trên vùng lãnh hải Việt Nam. Khi các anh chị sinh viên biểu tình xác định “Hòang Sa Trường Sa Biển Đông là của Việt Nam ” lại bị công an cộng sản xuống tay đàn áp. Người dân đã mất cả quyền được yêu nước được chống xâm lăng . Đảng CS còn chủ trương để Trung Quốc tiến hành khai thác bauxite Tây Nguyên dù đã gặp phản đối mạnh mẽ cả trong lẫn ngoài đảng. Việc này đã tạo ra một cao trào phản kháng từ tầng lớp trí thức trong nước. Lần đầu tiên hằng ngàn trí thức đã công khai ký tên phản kháng một chủ trương đã được Bộ Chính Trị ĐCS thông qua.
Gần đây lại đến việc các nhà cầm quyền địa phương cho Trung Quốc mứơn rừng Việt Nam mà quên đi quyền lợi của dân tộc luôn bị nước này nhòm ngó. Việc này tạo thêm một khoảng cách giữa những người yêu nước chân chính và tập đòan lãnh đạo cộng sản buôn dân bán nước. Sự kiện Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS) tự gỉai thể là thí dụ đối kháng mạnh mẽ nhất của tầng lớp trí thức Việt Nam . Viện được xem là một bầu trí tuệ của Việt Nam . Đa số các thành viên của Viện đã tích cực đóng góp trong quá trình đổi mới kinh tế sau Đại Hội VI . Viện tập trung nghiên cứu về kinh tế, giáo dục, y tế, xã hội… khổ nỗi dưới sự cầm quyền của đảng Cộng sản, Việt Nam càng ngày càng lâm vào khủng hoảng toàn diện, đời sống dân chúng thì mỗi ngày một tệ hại hơn. Kết quả những công trình nghiên cứu thường phơi bày sự thật rất trái ngược với luận điệu tuyên truyền của đảng. Để họ phải ra Quyết Định 97 bịt miệng các thành viên trong Viện. Phản kháng lại các thành viên Viện đã quyết định tự giải thể, nhưng tuyên bố cá nhân sẽ tiếp tục phản biện các chính sách sai trái của nhà cầm quyền Việt Nam .
Về
phong trào Cách Mạng, thêm vào các tổ chức đảng phái chính trị thành
lập từ trước, ngày 8-4-2006 Khối 8406 được thành lập. Khối là một tổ
chức quần chúng đấu tranh với “mục tiêu giải thể chế độ cộng sản độc
tài toàn trị, giành lại các quyền tự do dân chủ cho dân tộc Việt Nam
bằng đường lối bất bạo động”. Từ chỉ gồm 118 thành viên ban đầu, nay đã
tăng lên hàng chục ngàn thành viên gồm đủ mọi tầng lớp, mọi tổ chức
đấu tranh ở khắp nơi trong và ngòai nước. Khối đã được nhiều quốc gia
và tổ chức quốc tế công nhận. Lo sợ trước sự phát triển của lực lượng
đối kháng nhiều thành viên trong Khối đã cộng sản bắt bớ, tù đày, cô
lập.
Trong thời đại thông tin tòan cầu, mạng lưới thông tin hải ngọai không phải chỉ thực hiện vai trò thông tin đại chúng, còn tạo một môi trường để những cá nhân, những lực lượng đối kháng trong và ngòai nước tìm hiểu và tôn trọng sự khác biệt nhằm hướng đến việc kết hợp đẩy mạnh cuộc đấu tranh cho tự do và dân chủ tại Việt Nam. 35 năm là một giai đọan đủ dài để các tổ chức đối kháng trửơng thành và chủ động hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Sắp tới Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Úc châu sẽ tổ chức một Nghị Hội Người Việt Tự Do Trên Toàn Thế Giới. Mục đích của Nghị Hội là để kết hợp các cá nhân, các hội đòan, đòan thể, các đảng phái trong cộng đồng người Việt trên tòan thế giới, tạo thế liên kết, đồng nhất phương cách đấu tranh và phân công tác. Để từ đó mọi người Việt yêu chuộng tự do trên tòan thế giới chủ động dồn tổng lực tấn công đánh đổ chế độ độc tài cộng sản.
Bài viết này sẽ được trình bày trong “Đêm thắp nến tri ân các chiến sỹ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 30-4-2010” tại Victoria (Úc châu). 35 năm là một khỏang thời gian thật dài trong một đời người. Nhiều người chào đời sau 1975 ngày nay đã trở thành người đại diện cho Phong trào Dân chủ như luật sư Lê Thị Công Nhân, hay đại diện cho Cộng đồng như ông Nguyễn văn Bon, chủ tịch Cộng đồng tại Victoria, trưởng ban tổ chức đêm nay. Được biết “Đêm Thắp Nến” sẽ có sự hiện diện của nhiều bạn trẻ và sinh viên tại Victoria, nhiều bạn sau đó sẽ nhập đòan người hướng về Canberra cho “Đêm Tâm Tình Tuổi Trẻ”. Tương lai cộng đồng và đất nước thuộc về các bạn.
Trong thời đại thông tin tòan cầu, mạng lưới thông tin hải ngọai không phải chỉ thực hiện vai trò thông tin đại chúng, còn tạo một môi trường để những cá nhân, những lực lượng đối kháng trong và ngòai nước tìm hiểu và tôn trọng sự khác biệt nhằm hướng đến việc kết hợp đẩy mạnh cuộc đấu tranh cho tự do và dân chủ tại Việt Nam. 35 năm là một giai đọan đủ dài để các tổ chức đối kháng trửơng thành và chủ động hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Sắp tới Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Úc châu sẽ tổ chức một Nghị Hội Người Việt Tự Do Trên Toàn Thế Giới. Mục đích của Nghị Hội là để kết hợp các cá nhân, các hội đòan, đòan thể, các đảng phái trong cộng đồng người Việt trên tòan thế giới, tạo thế liên kết, đồng nhất phương cách đấu tranh và phân công tác. Để từ đó mọi người Việt yêu chuộng tự do trên tòan thế giới chủ động dồn tổng lực tấn công đánh đổ chế độ độc tài cộng sản.
Bài viết này sẽ được trình bày trong “Đêm thắp nến tri ân các chiến sỹ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 30-4-2010” tại Victoria (Úc châu). 35 năm là một khỏang thời gian thật dài trong một đời người. Nhiều người chào đời sau 1975 ngày nay đã trở thành người đại diện cho Phong trào Dân chủ như luật sư Lê Thị Công Nhân, hay đại diện cho Cộng đồng như ông Nguyễn văn Bon, chủ tịch Cộng đồng tại Victoria, trưởng ban tổ chức đêm nay. Được biết “Đêm Thắp Nến” sẽ có sự hiện diện của nhiều bạn trẻ và sinh viên tại Victoria, nhiều bạn sau đó sẽ nhập đòan người hướng về Canberra cho “Đêm Tâm Tình Tuổi Trẻ”. Tương lai cộng đồng và đất nước thuộc về các bạn.
28/4/2010
Bài thứ hai
Nhân Biến Cố 30/4: Bạn Trẻ Chúng Ta Làm Gì Cho Tổ Quốc Việt Nam?
Kính thưa tất cả quí vị quan khách hiện diện nơi đây,
Hôm
nay nhân tưởng niệm biến cố đau thương 30/4, con xin được phép thay
mặt cho các bạn trẻ tại Victoria kính gởi lời tri ân đến các bậc tiền
bối: các ông, các bác, các cô chú đã chiến đấu cho độc lập, tự do, chủ
quyền và vẹn toàn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam, chống lại bè lũ độc
tài toàn trị mệnh danh là CSVN, thực chất chỉ là một bọn Mafia đỏ bán
nước “hèn với giặc ác với dân”, đã và đang từ từ dâng cúng đất biển của
đất nước cho thiên triều phương bắc của chúng. Chúng con cũng không
quên những chiến sĩ QLVNCH, hiện đang sống tại hải ngoại, hoặc còn tại
quê nhà: các ông, các bác, các chú thương phế binh đã hy sinh rất
nhiều, ngay cả chính một phần thân thể của họ cho lý tưởng tự do, hiện
nay đang bị đám cầm quyền CSVN ngược đãi, phải sống lây lất trên mảnh
đất quê hương mình, xin cho chúng con nghiêng mình cám ơn họ.
Thế
hệ trẻ chúng con hôm nay, tuy sống lưu vong nơi xứ người nhưng trái
tim và tâm trí luôn luôn hướng về quê hương Việt Nam đặc biệt trước mối
hiểm hoạ mất nước, trước dã tâm của bọn bá quyền Bắc Kinh và trước
thái độ ươn hèn của cái gọi là nhà nước CSVN. Vì lý do này chúng con
cùng tất cả người dân VN trong & ngoài nước càng cảm nhận ngày
tưởng niệm 30/4 mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng và khẩn thiết hơn
bao giờ hết.
Thế kỷ này là thế kỷ của chúng con vì vậy xin quý vị cho chúng con đôi lời với các bạn trẻ VN:
Các
bạn trẻ hỡi, xin hãy can đảm đứng lên làm lịch sử, vì đây là một phần
trách nhiệm của chúng ta, chỉ có chính chúng ta phải chủ động và vận
động các bạn trẻ, sinh viên khác để nâng cao tinh thần và sức mạnh cho
các bạn trẻ trong nước, cổ võ họ giành lại tiếng nói của mình. Tháo bỏ
cái hàng rào bưng bít thông tin, đòi lại quyền tự do, dân chủ, nhân
quyền mà đáng lẽ các bạn và người dân đã phải được hưởng từ lâu. Quyền
tự do thành lập nhóm, gia nhập hội đoàn sinh viên trí thức, hội đoàn
tôn giáo, học hỏi, trao dồi, chia sẻ và tiếp thu kiến thức mới, tự do
thành lập nghiệp đoàn, công đoàn thực sự bảo vệ quyền lợi công nhân, tự
do ngôn luận trên diễn đàn, báo chí, các phương tiện truyền thông
trong nước, thông tin tức trên mạng v.v… Hãy cùng nhau vượt qua nỗi sợ
hãi và nói lên sự thật. Quyết tâm hướng về tương lai tốt đẹp hơn, đoàn
kết và yêu thương, cùng nhau xây dựng một nước VN độc lập, tự do, dân
chủ và nhân quyền.
Cũng
chính vì lý do này, một lần nữa xin các bạn trẻ đầy nhiệt huyết và
bằng lương tâm của chính mình, hãy cùng tiếp tay, đóng góp thêm một
phần tiếng nói, hành động trong tầm tay của mình cùng với các bậc ông
bà, các bác, các cô chú cùng toàn thể anh chị em trong khối 8406 giúp
thúc đẩy sự thay đổi cho một VN tươi sáng thêm mau chóng và mạnh mẽ
hơn.
Các
nhà đấu tranh cho dân chủ trong nước với 2 tấm gương tiêu biểu là Linh
mục Nguyễn Văn Lý và Luật sư Lê Thị Công Nhân, là những người rất can
đảm chấp nhận hy sinh chính bản thân mình để đòi lại những quyền căn
bản cho toàn thể dân tộc. Cô LTCN lúc vừa mới ra tù đã nhắn nhủ lại
với chúng ta: ‘Tôi chỉ có thể làm được cái nhiệm vụ bé nhỏ của tôi,
tôi không thể làm nhiệm vụ của 90 triệu người dân VN, kể cả 3 triệu
người Việt hải ngoại’. Đây là lời nhắn nhủ rất quan trọng và đầy
trách nhiệm trên mỗi người con Việt Nam, đặc biệt cho thế hệ trẻ.
Chúng ta hãy tiếp tay với cô vận động và kêu gọi các bạn trẻ trong nước
hãy can đảm đứng lên bằng mọi cách phù hợp và thích ứng với điều kiện
và tình huống của mỗi người.
Nguy
cơ mất nước vào tay bọn bành trưóng Bắc Kinh đã gần kề. Những sự kiện
xảy ra trong hơn 60 năm qua, kể từ khi có đảng CSVN từ việc dâng hiến
biển đảo, đất đai cho quan thầy phương Bắc, đến việc cho bọn chúng tự
do đem người của chúng khai thác bừa bãi bô xít ở Tây Nguyên, mà thực
chất bọn công nhân này chính là những tên lính giả dạng, những tay súng
sẵn sàng xâm chiếm VN khi thời cơ chín mùi. Tất cả những nguy cơ này
cũng chỉ vì chúng ta đã thờ ơ với đất nước để cho một nhóm lãnh đạo
CSVN tác oai tác quái trên quê hương, coi đất nước VN là của riêng của
chúng, dân tộc VN là nô lệ của bọn chúng. Đã đến lúc chúng ta không thể
ngoảnh mặt làm ngơ nếu không muốn một đất nước nô lệ.
Dân tộc Việt Nam ta nghìn năm lịch sử oai hùng, chúng ta sẽ không cúi đầu trước bất cứ thế lực nào đe doạ từ bên ngoài.
Có
thể các bạn chỉ nghĩ đây là giấc mơ nhưng nếu chúng ta nuôi nấng và
nung nóng nó, với cùng chung một ý chí và sức mạnh, giấc mơ sẽ thành
hiện thực.
Khối
8406 trong và ngoài nước đang phát động và thúc đẩy một cao trào dấy
lên lòng yêu nước để biến đổi giấc mơ thành sự thật. Với một phương
thức đấu tranh bất bạo động, sức mạnh không có từ bạo lực. Sức mạnh
đến từ sự can đảm và niềm tin, lòng quyết tâm cùng với sự đoàn kết, do
đó Khối 8406 trong nước rất cần sự ủng hộ của toàn thể dân tộc, dư luận
toàn thế giới, đặc biệt sự yểm trợ của người Việt hải ngoại cả về tinh
thần lẫn vật chất. Vì thế nhu cầu phát triển của Khối tại các địa
phương hải ngoại là một điều cần thiết.
Đây
cũng là lý do chính để Khối 8406 Victoria được thành lập và phát
triển. Sau đây, tôi xin giới thiệu sơ lược về Khối 8406 – Victoria:
Khối
8406 Victoria là một nhóm độc lập, sinh họat song song với Cộng Đồng,
tuyệt đối tôn trọng nội quy của CĐNVTD Úc Châu. Khối đang phát triển
để mời gọi quí vị tham gia. Sự tham gia của chúng ta sẽ chia sẻ gánh
nặng đấu tranh cho tự do tại quê nhà mà Ban Chấp Hành Cộng Đồng đang
gánh vác. Chúng ta sẽ thực hiện các đêm cầu nguyện hay thắp nến cho tự
do. Một buổi lễ lớn có đông người vận động và cổ võ, sẽ chùn bước bọn
csvn và nâng cao tinh thần cho người dân trong và ngòai nước. Chúng ta
sẽ vận động chính giới Úc và đồng bào yểm trợ Phong trào đấu tranh cho
dân chủ, rút ngắn ngày Tự Do cho dân tộc chúng ta. Một con én không làm
nên mùa xuân, nhóm anh chị em chúng tôi tiếp tục kêu gọi quí vị, đặc
biệt các bạn trẻ hãy bỏ chút thì giờ để quan tâm đến tình hình đất nước
và dấn thân cho Tổ Quốc Việt Nam.
Các
anh chị trong Khối sẽ chuyển tờ leaflet có đăng các thông tin cần
thiết, và nếu quí vị, các bạn trẻ nào muốn tham gia xin liên lạc qua
các thành viên trong khối: Liên Vũ (maytrang2020@hotmail.com); Phùng Mai (phungmai871@yahoo.com.au) hay
Nguyễn Quang Duy (duyact@yahoo.com.au), hoặc quí vị có thể lên mạng/internet ghi danh qua Web site : http://8406vic.blogspot.com.
Nguyễn Quang Duy (duyact@yahoo.com.au), hoặc quí vị có thể lên mạng/internet ghi danh qua Web site : http://8406vic.blogspot.com.
Xin
nhấn mạnh với quí vị cùng các bạn trẻ rằng: Xin đừng lo lắng hoặc sợ
hãi về kiến thức chính trị. Không ai dám tự hào mình có đầy đủ kiến
thức đâu. Vả lại thời cuộc ngày nay biến đổi rất nhanh, do đó tình hình
chính trị cũng biến đổi từng ngày. Người làm chính trị phải biết tuỳ
cơ ứng biến. Nhưng chúng ta có làm chính trị đâu. Có thể nói chúng ta
đang làm nghĩa vụ của một người VN. Nghĩa vụ khi mình cảm thấy có trách
nhiệm phải làm một cái gì cho đất nước. Như thế cần tấm lòng là đủ.
(Chính anh Phương Duy cùng các anh chị trong nhóm đã khuyên & nhắn
nhủ tôi câu nói này, rất cảm động & đầy ý nghĩa cho nên hôm nay tôi
cũng xin mạn phép gởi lại câu nói này đến các bạn trẻ chúng ta).
Xin
chân thành cám ơn quý vị và kính chúc tất cả qui vị sống khoẻ mạnh và
tràn đầy nghị lực để tiếp tục yểm trợ cho công cuộc đấu tranh giành lại
tự do, dân chủ và nhân quyền cho người dân Viêt Nam.
Liên Vũ
Thành Viên Khối 8406
Melbourne 30/4/2010
Bài thứ Ba
Tâm Tình của người con thuộc thế hệ thứ hai Tưởng Niệm 35 năm Mất Nước
35
năm qua cộng đồng Việt nam chúng ta đã định cư , thành công trên xứ
người rạng rỡ tông môn, nhưng cũng không kém phần chua xót khi nghĩ về
Quê Hương Việt Nam thì không ít người trong chúng ta, phải gục đầu tủi
hổ cho thân phận nước Việt Nam yêu dấu đang trong tay loài qủy đỏ cộng nô.
35 năm mất Nước Người Việt Quốc Gia chỉ chấm dứt một trận chiến 30/04/1975, nhưng cuộc chiến vẫn chưa
chấm dứt mà chỉ chuyển biến sang một cục diện mới , là sự đấu tranh
toàn diện cho chính nghĩa cho dân chủ và nền độc lập tự do thật sự của
Dân Tộc Việt Nam.
35
năm dòng lịch sử Việt Nam bị hoen ố vẩn đục , Dân Tộc Việt Nam bị chà
đạp ô nhục ! Quốc nhục cũng bỡi bọn phản Quốc cộng sản Việt nam cõng
rắn cắn gà nhà cam tâm làm chư hầu cho Trung cộng, và chính điều này đã
cho ta thấy Nước Việt Nam chưa có độc lập, không có dân chủ và tự do.
Việt
Cộng là bọn hèn hạ ác độc như quái thú ! Chúng đã giết chết biết bao
nhiêu thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam , chúng vắt cạn kiệt hết tất cả
năng lực của con dân Việt Nam , bằng những màn buôn bán nô lệ với chiêu
bài ‘xuất khẩu nhân công’ đi lao động nước ngoài, buôn bán trẻ em và
phụ nữ ,Nước Việt Nam bị ô nhục , chỉ có lấy cây rừng làm bút và nước
biển làm mực mới viết lên được hết tội ác của cộng sản Việt Nam.
Hôm
nay tưởng niệm 35 Quốc hận, nơi đất khách quê người , đã trở thành quê
hương thứ hai của chúng ta những người Việt Quốc Gia , chúng ta đã có
được 4 thế hệ hiện diện nơi đây ( thế hệ thứ nhất, một rưỡi , thứ hai
và thứ ba) , chỉ mong sao 4 thế hệ hiện tại này chúng ta có thể nào nắm
tay nhau tạo nên một thành trì vững chắc , để bảo vệ cộng đồng người Việt Tự Do tại hải ngoại không để cho nghị quyết 36 xâm nhập, sự đoàn kết của chúng ta sẽ chống
lại sự đánh phá của Việt cộng, và sự phá rối của Việt gian gây xáo
trộn trong hàng ngũ những người Việt Quốc Gia không cộng sản.
Nếu
trong chúng ta những ai có còn sự dị biệt còn câu nệ ‘cái tôi’ của
chính mình , không bỏ đi được bản ngã ích kỷ nhỏ nhen , hơn thua nhau
bỡi câu nói việc làm ,thì chắc rằng chúng ta sẽ lại giận hờn nhau , xa
cách nhau và tự mình chia rẽ mình , Việt cộng không lo chống mà chống
Cộng Đồng để rồi chính mình ‘bỏ ngỏ’ cho đảng cộng sản Việt Nam và tay sai của chúng, lúc ấy Việt cộng sẽ đánh thẳng vào cộng đồng Người Việt Quốc Gia của chúng ta ở hải ngoại và phá nát Cộng Đồng Người Việt Tự Do của chúng ta.
Kính
thưa qúy Ông Bà cô bác anh chị em, trước khi nhà cầm quyền cộng sản
Việt Nam có thể “ngư ông đắc lợi” thì chúng con những người con nhỏ bé
của thế hệ thứ hai thứ ba này, xin tha thiết kêu gọi sự đoàn kết , cảm
thông và chia sẽ của tất cả đồng bào , những người Việt Nam Quốc Gia
không cộng sản ; hãy để một bên những “áo mão cân đai” “những bằng cấp”
hay ‘giai cấp’ , ‘giàu hay nghèo’,hoặc kinh nghiệm xương máu nhiều hay
ít , hiểu Việt cộng ít hay nhiều..tất cả những điều đó rất đáng qúy
nhưng xin hãy để một bên , mà chỉ xin nhìn nhau qua lá cờ Vàng Ba sọc đỏ lá cờ Quốc Gia Không Cộng sản, màu cờ như da vàng máu đỏ..và Mẹ
Việt Nam ơi ..chúng con vẫn còn đây .. và chúng con cùng nhau nắm chặt
tay nhau , không phân biệt tuổi tác chỉ biết vì chính nghĩa và vì bảo
tồn dân tộc Việt Nam , cho dù sanh đẻ trên xứ người nơi đâu , dòng máu
chúng con đang chảy vẫn là dòng máu Việt Nam muôn đời bất khuất. Nếu có
chăng sự khác biệt duy nhất ở đây là “Tôi là người Quốc Gia không cộng
sản, và anh là tên Việt cộng thì tôi sẽ chống”, chúng ta chống đảng
cộng sản chứ không chống Dân Tộc Việt Nam .
Hỡi
các bạn trẻ của thế hệ tương lai hãy đứng lên gánh vác cộng đồng hỡi
đồng bào yêu dấu hãy nắm chặt tay nhau xây dựng cộng đồng Việt Nam bền
vững, Một Cộng Đồng Người Việt Tự Do Quốc Gia Không Cộng Sản,
đầy chính nghĩa để mỗi chúng ta không hổ thẹn với hồn thiêng sông núi,
với Những người anh hùng đã nằm xuống cho hai chữ Dân chủ cho hai chữ
Tự Do !!
Trân Trọng
Nguyễn Lê Thanh Trúc
Melbourne 23/04/2010
Melbourne 30/4/2010
*
Wednesday, April 28, 2010
TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN,* THÂN PHẬN CON NỢ VIỆT NAM TRƯỚC CHỦ NỢ TRUNG QUỐC
THÂN PHẬN CON NỢ VIỆT NAM TRƯỚC CHỦ NỢ TRUNG QUỐC
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế http://viettudan. net
Cách đây chừng trên 20 năm, có phong trào các nước đã Kỹ nghệ hóa MUA
NỢ lại các nước nghèo chưa mở mang ở Phi Châu và Nam Mỹ. Khi Chính quyền
những nước nghèo có những món nợ chồng chất, họ tìm cách bán những món
nợ ấy. Phải chăng việc các nước giầu mua nợ (nhận nợ dùm) là một hành
động bác ái, thương người ? Về tiền bạc, rất hiếm người hoặc không có ai
dễ dàng trở thành mạnh thường quân mà không có hậu ý. Cái hậu ý ở đây
là bắt con nợ phải nhường những nguồn lợi Kinh tế lớn gấp mấy lần giá
trị của món nọ mà họ mua dùm. Tôi xin kể ra đây một tỉ dụ cụ thể để dễ
hiểu. Cách đây 20 năm, tôi làm Cố vấn Tài chánh cho Group BONGO tại
Congo. Sang Brazaville, tôi chứng kiến một Hợp đồng Mua Nợ giữa Nhật và
Congo. Chính phủ Congo không có tiền để trả nợ. Một Công ty lớn của Nhật
mua lại món nợ ấy với điều kiện là Chính phủ Congo nhường cho Công ty
Nhật cả một vùng rừng phía Bắc nước Congo để Nhật khai thác gỗ qúy. Đối
với Chính phủ Congo, thì đây là việc họ làm với Nhật mà Dân chúng không
biết gì cả.
Có thể Chính phủ còn nói với Dân rằng đây là việc khai thác tài nguyên
rừng mà người Nhật làm ích lợi cho xứ sở. . Việt Nam con nợ của Tầu
Tại Việt Nam, chúng ta cũng thường nghe trong dân gian có những chuyện
con nợ nghèo quá, phải gả chính con gái nhỏ để làm vợ cho chủ nợ. CSVN,
trong những năm gần đây, thiếu hụt Ngân sách trầm trọng.
Cuộc Khủng hỏang Tài chánh/ Kinh tế Thế giới làm cho đầu tư nước ngòai
thụt xuống 82%(Tài liệu:Bài viết của phóng viên Asia Sentinel
Consulting). Xuất cảng hàng hóa giảm 60%. Ngay cả giữa Trung quốc và
Việt Nam, cán cân thương mại cũng thua lỗ: Năm 2008, Việt Nam xuất cảng
sang Trung quốc trị giá USD.4 tỉ, trong khi đó nhập cảng từ Trung quốc
tới USD.15 tỉ. Việt Nam muốn đi vay nợ từ những nước khác, nhưng trong
hòan cảnh Khủng hỏang Tài chánh/Kinh tế, các nước khác cũng gặp khó
khăn, làm sao cho vay được. Trong hòan cảnh như vậy, chỉ còn đi làm đầy
tớ cho Tầu, bán cả vợ con cho Tầu để nhận làm con nợ. Tầu là chủ nợ cho
Việt Nam Chủ nợ thường có những lo lắng về trường hợp con nợ ăn qụyt. Ở
đọan trên, chúng tôi nói rằng nhiều nước, nhất là Tây phương, rất ngại
ngùng cho Việt Nam vay nợ, một phần là vì cuộc Khủng hỏang hiện nay,
nhưng một phần quan trọng nữa là sợ CSVN qụyt nợ. Làm trong lãnh vực Tài
chánh, chúng tôi đã nghe một số Ngân hàng gia nói rằng họ có thể cho
Phi châu vay, nhưng nói đến cho Việt Nam vay, thì họ rất lo ngại.
Cái lý do là nếu Việt Nam ăn qụyt, thì họ khó kiện cáo về luật lệ đối
với Việt Nam. Ngược lại, Trung quốc sẵn sàng cho Việt Nam vay nợ vì họ
có những thuận lợi chắc chắn sau đây: => Trung quốc cho Việt Nam vay
nợ không phải bằng tiền mặt, mà bàng hàng hóa và nhân công. Trung quốc
đang cần xuất cảng hàng hóa, nhân công và thiết bị dư thừa. => Trung
quốc bắt Việt Nam phải cho những nhượng địa để khái thác tài nguyên làm
bảo chứng cho những món nợ mà họ cho vay. Trung quốc nắm phần chắc Việt
Nam trả nợ trước bàng tài nguyên khi cho vay bằng hàng hóa mà họ muốn
xuất cảng. => Trong trường hợp Việt Nam lật lọng muốn ăn qụyt nợ, thì
Trung quốc có quân đội mạnh đã bao vây Biển và sát trên đất liền để
tràn sang bắt phải trả nợ. Trung quốc không cần phải kiện cáo luật lệ gì
với Việt Nam, mà dùng sức mạnh quân sự giải quyết.
Tương quan Chủ nợ—Con nợ Không phải chỉ có tương quan hai CƠ CHẾ mà
CSVN cần Tầu che chở, mà cái tương quan tệ hại nhất là giữa Con nợ mất
hết độc lập và Chủ nợ hống hách chủ trương xâm lăng Việt Nam. Tương quan
này cắt nghĩa: (i) Tại sao Việt Nam dành cho Tầu khai thác tài nguyên;
(ii) Tại sao mất Biển Đông, Hòang Sa/Trường Sa mà không dám than; (iii)
Tại sao dành những Dự án cho Tầu; (iv) Tại sao Ngư dân Việt Nam bị Tầu
bắt mà không dám nói; (v) Tại sao biết khai thác Bôxit Tây nguyên có hại
mà vẫn cúi đầu để cho Tâu làm; (vi) Tại sao nhân công Tầu tràn vào Việt
Nam trong khi đó dân nghèo VN thất nghiệp; (vii) Tại sao cấm giới trẻ
VN không được tỏ lòng yêu nước; (viii) Tại sao bắt những Blogers nói
đụng đến Tầu; (ix) Tại sao cấm những Trí thức Việt Nam như IDS phải câm
miệng ? Tất cả chỉ vì tính đê hèn, vô liêm sỉ, mất hết sĩ diện của con
nợ CSVN trước chủ nợ Tầu luôn tìm mọi cách xâm lăng Việt Nam.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN,
THƠ THANH THANH
*
VƯỢT BIỂN
Giữa đêm lén dậy dòm khe hở
Nhìn những can-nhân bị bắt về.
Tiếng khóc thơ nhi làm nghẹn thở;
Trái tim thắt bóp nhói đau tê .
Kìa, người thiếu-phụ bồng con dại;
Đứa lớn lưng đìu, tay dắt em.
Ánh mắt nhìn con đầy ái-ngại:
Một bầu đen tối mấy trời lem...
Cuộc đời như một trò may rủi;
Không được thì thua, lẽ hiển-nhiên:
Vốn sạch, sòng tan, tay trắng phủi;
Hướng lai tâm-sự đối sầu miên...
Ngó người tự thấy mình trong cuộc,
Không khóc mà sao lệ bỗng trào !
Tình-cảm vô-hình mà trói buộc
Cho cùng hạnh-phúc, tận thương-đau !
Hôm kia, nàng soạn xong hành-lý,
Chỉ chọn mang theo cái tối-cần:
Trước mắt, đàn con là của qúy,
Một phần xương thịt chính châu-thân.
Hôm qua, nàng mặc cho con ấm,
Buộc tóc, trùm khăn, kín cả người;
Lũ trẻ mừng như ăn trái cấm
(Không cho ai biết chuyến "đi chơi")
Hôm nay, tất cả dầm sương giá,
Mũi buốt xuyên thâu tận đáy lòng.
Đám nhỏ ngỡ-ngàng "Sao thế, má?"
Nghẹn-ngào nàng biết nói sao xong!
Nàng đi tìm sống cho ra sống,
Cho bản-thân và cho các con:
Không chỉ cơm canh và áo xống,
Mà còn... chí cả với lòng son...
Những ai cất bước lên đường trước?
Ai gặp duyên may, mộng ước thành?
Ai gửi xương tàn về đáy nước?
Và ai ... mai mốt sẽ xuyên ranh?
Thời-gian tưới tắt bao nhiêu lửa,
Quét sạch tàn tro bếp củi rừng...
Nhưng, những hỏa-sơn còn mãi thở:
Lửa lòng âm-ỷ thuở nào ngưng!
Người đi, không nói bằng lời nói,
Mà nói xuyên qua việc dám làm:
Bản án tuyên trên đầu hổ sói!
Vết thương lở giữa óc phu phàm!
Nhưng đàn con dại làm sao hiểu ?
Từ độ đông về, đã mấy xuân!
Đứa mới nhi-nhô hồn ấu-tiểu,
Đứa chưa kết hạt bụi trong trần!
Ngày mai mới thấy thân tù-tội,
Chúng sẽ buồn hơn kiếp chó hoang:
Chấp-nhận đêm đen là dạ-hội,
Biết đâu địa-ngục với thiên-đàng!
Ngày kia, nhiễm thói đời điên-đảo,
Chúng sẽ căm-thù chính mẫu-thân:
Chẳng chịu an-tâm đời "thiện-hảo",
Kéo con cùng kẹt cảnh gian-truân!
Hỡi người thiếu-phụ không quen biết!
Tôi khóc trong này, nàng biết chi!
Nàng khổ từ đây cùng cốt-huyết,
Từ lâu ... tôi khổ... với thê-nhi ...
Trại Kho Đạn (Chợ Cồn) Đà Nẵng 80-81
THANH-THANH
VƯỢT BIỂN
Giữa đêm lén dậy dòm khe hở
Nhìn những can-nhân bị bắt về.
Tiếng khóc thơ nhi làm nghẹn thở;
Trái tim thắt bóp nhói đau tê .
Kìa, người thiếu-phụ bồng con dại;
Đứa lớn lưng đìu, tay dắt em.
Ánh mắt nhìn con đầy ái-ngại:
Một bầu đen tối mấy trời lem...
Cuộc đời như một trò may rủi;
Không được thì thua, lẽ hiển-nhiên:
Vốn sạch, sòng tan, tay trắng phủi;
Hướng lai tâm-sự đối sầu miên...
Ngó người tự thấy mình trong cuộc,
Không khóc mà sao lệ bỗng trào !
Tình-cảm vô-hình mà trói buộc
Cho cùng hạnh-phúc, tận thương-đau !
Hôm kia, nàng soạn xong hành-lý,
Chỉ chọn mang theo cái tối-cần:
Trước mắt, đàn con là của qúy,
Một phần xương thịt chính châu-thân.
Hôm qua, nàng mặc cho con ấm,
Buộc tóc, trùm khăn, kín cả người;
Lũ trẻ mừng như ăn trái cấm
(Không cho ai biết chuyến "đi chơi")
Hôm nay, tất cả dầm sương giá,
Mũi buốt xuyên thâu tận đáy lòng.
Đám nhỏ ngỡ-ngàng "Sao thế, má?"
Nghẹn-ngào nàng biết nói sao xong!
Nàng đi tìm sống cho ra sống,
Cho bản-thân và cho các con:
Không chỉ cơm canh và áo xống,
Mà còn... chí cả với lòng son...
Những ai cất bước lên đường trước?
Ai gặp duyên may, mộng ước thành?
Ai gửi xương tàn về đáy nước?
Và ai ... mai mốt sẽ xuyên ranh?
Thời-gian tưới tắt bao nhiêu lửa,
Quét sạch tàn tro bếp củi rừng...
Nhưng, những hỏa-sơn còn mãi thở:
Lửa lòng âm-ỷ thuở nào ngưng!
Người đi, không nói bằng lời nói,
Mà nói xuyên qua việc dám làm:
Bản án tuyên trên đầu hổ sói!
Vết thương lở giữa óc phu phàm!
Nhưng đàn con dại làm sao hiểu ?
Từ độ đông về, đã mấy xuân!
Đứa mới nhi-nhô hồn ấu-tiểu,
Đứa chưa kết hạt bụi trong trần!
Ngày mai mới thấy thân tù-tội,
Chúng sẽ buồn hơn kiếp chó hoang:
Chấp-nhận đêm đen là dạ-hội,
Biết đâu địa-ngục với thiên-đàng!
Ngày kia, nhiễm thói đời điên-đảo,
Chúng sẽ căm-thù chính mẫu-thân:
Chẳng chịu an-tâm đời "thiện-hảo",
Kéo con cùng kẹt cảnh gian-truân!
Hỡi người thiếu-phụ không quen biết!
Tôi khóc trong này, nàng biết chi!
Nàng khổ từ đây cùng cốt-huyết,
Từ lâu ... tôi khổ... với thê-nhi ...
Trại Kho Đạn (Chợ Cồn) Đà Nẵng 80-81
THANH-THANH
Tuesday, April 27, 2010
NGỌC CHÂU * KÝ
Nhìn Lại Mình Sau 35 Năm Tỵ Nạn,
Từ Tháng 4-1975
Ngọc Châu
(Là một đoản văn tự thuật nên không sao tránh khỏi đề cập đến "cái tôi đáng ghét", mong quý độc giả thông càm! -- NC_M/Ger)
Thắm thoát mà tôi đã xa quê hương, xa Việt Nam mến yêu 35 năm, kể từ đầu tháng tư 1975 oan nghiệt!
Ba mươi lăm năm trôi qua nhanh như thoi đưa, như là một giấc mơ khi nhìn lại mình giờ đây tóc đã bạc nhưng so với nước Đức là nơi tôi đang định cư với tư cách một người tỵ nạn chính trị thì nghiệt ngã, buồn đau, áp bức, tù đày… vẫn còn hiện hữu trên quê hương mặc dầu Việt Nam (VN) đã thống nhất từ đó, 15 năm trước Đức!
Ba mươi lăm năm rồi mà người Việt đi vẫn đi, tuy không còn bằng cách vượt biển hay vượt biên như sau 30-04-1975 nhưng đồng hương cũng đã tìm ra nhiều cơ hội khác để "rời Việt Nam" qua diện đoàn tụ gia đình (vợ, chồng, con cháu) hay kết hôn với người nước ngoài, miễn làm sao rời xa được nơi mệnh danh là “thiên đàng xã hội chủ nghĩa”, trốn khỏi được cái “thiên đàng cộng sản” là mừng như một lần được hồi sinh. Trong khi đó ngược lại thì dân Đông Đức (DDR) chẳng thấy ai trốn chạy vì Cộng Hoà Liên Bang Đức (BRD) đã làm chủ một Đức quốc thống nhất sau khi cộng sản DDR bị giải thể.
Người dân Đông Đức chẳng những không lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rún mà trái lại họ còn ở lại, vượt qua bao nhiêu khó khăn để cùng nhau nổ lực xây dựng một nước Đức hùng cường, tự do, dân chủ. Khác với Việt Nam, biến cố Thống Nhất Đất Nước của Đức không đổ một giọt máu nào của đồng bào vô tội cả!
Đức không tiêu hủy hàng triệu tài nguyên trí tuệ và nhân lực của “Quốc Gia Dân Tộc“ trong những trại tù khổ sai ‘‘học tập cải tạo“ và cũng không để lại các tệ nạn xã hội xấu xa tiêu biểu nhất của thế kỷ mà vẫn giữ được sự vẹn toàn lãnh thổ và đã xây dựng một xã hội ôn hoà, nhân bản đầy tình yêu thương đồng loại. Vì vậy 20 năm sau khi thống nhất cả thế giới đang nhìn nước Đức với lòng thiện cảm và đầy khâm phục.
Chừng đó thôi cũng đủ để chứng minh một cách rõ ràng rằng những ai từng yêu chuộng Tự Do đều không thể sống dưới chế độ cộng sản gian manh, tàn bạo. Minh chứng cho sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản cách hùng hồn nhất là sự sụp đổ của cộng sản Đông Đức cũ, của cả khối cộng sản Ðông Âu và tiếp theo là đàn anh Nga Sô vào cuối thập niên 1980!
Hôm nay tôi chỉ muốn ghi lại đây vài ý tưởng chợt thoáng về liên quan
chút ít đến cuộc đời tỵ nạn của mình và xin được nói sơ về "cái tôi
đáng ghét" qua bài tạp ghi ngắn này! Là một bài ngắn mang tích cách tự
thuật nên chắc chắn khó tránh khỏi được cái nhìn chủ quan có thể làm
phật lòng ai đó qua sự diễn đạt tư tưởng rất trung thật của mình, vì
thế mong tất cả hoan hỉ cho!
Tôi nói riêng đã may mắn đón nhận được rất nhiều "tình cờ" trong cuộc đời. Ngẫu nhiên đầu tiên là dù không bao giờ nghĩ đến nhưng … tôi đã được phép của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà thời đó cho xuất dương du học sau khi xong Tú Tài II, giữa lúc quê hương ngập chìm trong binh lửa trước tham vọng cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam (NVN) do cộng sản miền Bắc chủ xướng với sự giúp đỡ về mọi mặt của Nga, Tàu và khối cộng sản nói chung!
Tôi nói riêng đã may mắn đón nhận được rất nhiều "tình cờ" trong cuộc đời. Ngẫu nhiên đầu tiên là dù không bao giờ nghĩ đến nhưng … tôi đã được phép của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà thời đó cho xuất dương du học sau khi xong Tú Tài II, giữa lúc quê hương ngập chìm trong binh lửa trước tham vọng cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam (NVN) do cộng sản miền Bắc chủ xướng với sự giúp đỡ về mọi mặt của Nga, Tàu và khối cộng sản nói chung!
Đầu tháng 03-1975 tôi về thăm quê hương và gia đình nhưng lúc ấy chiến
trường VN sôi động, người dân miền Nam bối rối, lo âu nên tôi đành
phải rời VN sớm hơn dự tính. Lại thêm một "tình cờ" nữa, tôi may mắn
đã rời Sài Gòn vào đầu tháng 04-1975, vì vài tuần sau đó, Nam Việt Nam
thất thủ. Nếu không chắc tôi cũng sẽ phải chọn đường vượt biên hoặc
vượt biển như bao đồng hương khác, sau 30-04-1975.
Có thể nói cuộc đời của những du học sinh thời Việt Nam Cộng Hòa như
tôi trải qua khá nhiều truân chuyên từ dạo ấy, sau tháng tư đen 1975,
từ khi cộng sản Bắc Việt ngự trị miền Nam Việt Nam. Khác với quyết
định đi tìm Tự Do, đi tìm sự sống trên cái chết qua hình thức vượt
biên vượt biển của đồng hương, chúng tôi may mắn hơn, đơn thuần chỉ
phải chọn lựa một trong hai: về Việt Nam hay ở lại nước ngoài. Nếu
quyết định về VN thì phải cuối đầu phục tùng nhóm sinh viên đoàn kết
và toà đại sứ Việt Cộng. Còn ngược lại nếu quyết định ở lại nước ngoài
thì phải chấp nhận xa quê hương, xa gia đình, bạn bè anh em và không
biết khi nào mới gặp lại!
Cuối cùng, riêng tôi đã có một quyết định "xin tỵ nạn chính trị", dù tuổi và kinh nghiệm đời của mình lúc đó chẳng là bao. Cũng không phải là những người từng phục vụ trong quân đội hoặc tham chính thời VNCH; chưa từng bị cộng sản bắt bớ giam cầm hay đã “bị tra tấn dã man và nếm mùi học tập cải tạo của cộng sản“ nên muốn được "tỵ nạn" những sinh viên du học phải chứng minh cho chính quyền Đức lúc đó rõ lý do là tại sao không muốn hồi hương v.v…
Trong thời gian chuyển tiếp kể từ khi nộp đơn chúng tôi từ những người
tuy có quốc gia, gia đình bỗng nhiên trở thành những kẻ "vô tổ quốc"
vì đã nhận được sổ thông hành mang tên như vậy. Cơ quan hữu trách Đức
cứu xét hồ sơ xin tỵ nạn khá lâu, có người chờ đến 2-3 năm nhưng cuối
cùng tôi đã nhận được sổ thông hành tỵ nạn.
Điều làm chúng tôi đau lòng nhất là trong sổ thông hành tỵ nạn này có
ghi câu "được phép đi khắp nơi, nhưng trừ Việt Nam", nơi mình sinh ra
và lớn lên. Vâng, điều kiện tỵ nạn là vậy vì dễ hiểu thôi, đã viện dẫn
"gặp khó khăn với nhà cầm quyền cộng sản" để xin tỵ nạn thì thật là
quá mâu thuẩn nếu mình về Việt Nam và lại ra đi an toàn phải không?
Khó khăn ban đầu sau 30-04-1975 xem như đã vượt qua, được chỗ tạm
dung. Chưa hết, vấn đề sinh kế cũng làm chúng tôi xính vính thời gian
khi mà tình trạng kinh tế lúc bấy giờ đang bị khủng hoảng trầm trọng.
Có lẽ thánh nhân đãi ngộ nên tôi đón nhận thêm ngẫu nhiên, may mắn khác trong hoàn cảnh lúc đó sau khi cầm sổ thông hành tỵ nạn trong tay. Được thâu nhận vào làm việc thuộc phần hành "nghiên cứu và phát triển, trọng điểm là phát triển" cho hãng rất nổi tiếng trên thế giới, nên tôi nói riêng cảm thấy an tâm từ đó nhưng buồn ray rức vì nỗi nhớ nhà và tủi thân cho kiếp sống tha hương, ăn nhờ ở đậu của mình.
Có lẽ thánh nhân đãi ngộ nên tôi đón nhận thêm ngẫu nhiên, may mắn khác trong hoàn cảnh lúc đó sau khi cầm sổ thông hành tỵ nạn trong tay. Được thâu nhận vào làm việc thuộc phần hành "nghiên cứu và phát triển, trọng điểm là phát triển" cho hãng rất nổi tiếng trên thế giới, nên tôi nói riêng cảm thấy an tâm từ đó nhưng buồn ray rức vì nỗi nhớ nhà và tủi thân cho kiếp sống tha hương, ăn nhờ ở đậu của mình.
Tôi như con chim lạc đàn, trong thức ngủ vẫn ước mơ có ngày tìm về tổ
ấm. Với thông hành tỵ nạn, chúng tôi nói chung được quyền sống và đi
làm như dân bản xứ, chỉ khác điều là không được phép bầu cử.
Cuối thập niên 70, phong trào tỵ nạn lên cao. Người Việt được thâu nhận vào Đức rất dễ dàng mà không phải qua những thủ tục rườm rà hay khó khăn như chúng tôi trước đó. Ai thuộc diện "boat people" tự động được cấp thông hành tỵ nạn khi đến Đức, không cần cứu xét gì cả! Thỉnh thoảng gặp đồng hương thuộc diện này chúng tôi có trò chuyện. Hết kể những cuộc vượt biên vượt biển thật hải hùng thì họ xoay ra than chuyện khó khăn về hội nhập hay khi học tiếng Đức…
Cuối thập niên 70, phong trào tỵ nạn lên cao. Người Việt được thâu nhận vào Đức rất dễ dàng mà không phải qua những thủ tục rườm rà hay khó khăn như chúng tôi trước đó. Ai thuộc diện "boat people" tự động được cấp thông hành tỵ nạn khi đến Đức, không cần cứu xét gì cả! Thỉnh thoảng gặp đồng hương thuộc diện này chúng tôi có trò chuyện. Hết kể những cuộc vượt biên vượt biển thật hải hùng thì họ xoay ra than chuyện khó khăn về hội nhập hay khi học tiếng Đức…
Đôi khi họ đề cập đến chuyện nhập tịch, viện dẫn có quốc tịch đi đó
đây làm việc dễ dàng hơn. Tôi chỉ nghe và ghi nhận. Khi được hỏi thì
tôi cũng chỉ trả lời là vẫn còn mang sổ thông hành tỵ nạn, dù ở đây
lâu gấp mấy lần cũng như thường hay đi nước ngoài vì lý do nghề nghiệp
thời đó. Thú thật, đã đi công tác Bắc Âu, Pháp, Áo, Ý, thăm thân nhân
ở Úc, Mỹ, Anh nhưng ít gặp trở ngại, chỉ tội mất thì giờ chờ lâu hơn
tại các phi trường so với những ai có quốc tịch Đức mà thôi.
Thế rồi những đồng hương qua sau tôi lần lượt xin nhập tịch Đức. Riêng tôi vẫn giữ sổ thông hành tỵ nạn cho đến năm 1994. Thêm một tình cờ khác làm tôi thay đổi ý định và … xin vào quốc tịch xứ người, một quyết định không đơn giản sau nhiều đêm dài trằn trọc suy nghĩ.
Thế rồi những đồng hương qua sau tôi lần lượt xin nhập tịch Đức. Riêng tôi vẫn giữ sổ thông hành tỵ nạn cho đến năm 1994. Thêm một tình cờ khác làm tôi thay đổi ý định và … xin vào quốc tịch xứ người, một quyết định không đơn giản sau nhiều đêm dài trằn trọc suy nghĩ.
… Số là trong chuyến công tác đi miền Nam nước Pháp cho hãng vào cuối
hạ 1993, tôi gặp trở ngại ngay tại phi trường. Bạn đồng nghiệp ra
ngoài cỗng đứng chờ còn tôi vì thấy trong thông hành tỵ nạn để quốc
tịch Việt Nam nên nhân viên phi trường nghi ngờ, lý do Pháp "đón nhận
bất đắc dĩ người Việt sang Pháp không hợp lệ" và tìm cách định cư tại
đó. Phải giải thích khá dài giòng, nói là có vé máy bay khứ hồi, ngủ ở
khách sạn do hãng giữ chỗ v.v… thì họ mới bằng lòng cho đi. Mấy người
bạn Đức thấy vậy chọc quê quá xá nên sau đó …. tôi mới có ý định xin
nhập tịch Đức, nộp đơn vào cuối năm 1993.
Nói đến đây cho tôi vòng vo thêm một tí. Hoàn thành đủ thủ tục giấy tờ đòi hỏi từ phía Đức đem nộp, thì được nhân viên chỉ cho đống hồ sơ trước mặt và nói, hồ sơ ông hôm nay nằm dưới cùng. Đến khi được duyệt xét chắc cũng nửa năm sau. Nghe vậy tôi giật mình. Hỏi thêm thì bà nhân viên mách nước phải làm thế này thế kia thì may ra được ưu tiên hơn.
Tôi xin hãng cấp cho giấy phải công tác ngoại quốc nên nộp vào thì hồ sơ tôi không còn nằm hạng chót nữa. Lại thêm một ngẫu nhiên tốt đến với tôi. Chưa hết. Cái khó khăn mà tôi phải đương đầu giải quyết là việc phải nộp cho chính quyền Đức giấy từ bỏ quốc tịch Việt Nam.
Thế là một cuộc bút chiến xảy ra giữa tôi bà bộ nội vụ tiểu bang Bayern liên tục trong vài tháng. Tôi đã viện dẫn không liên hệ gì hết với toà đại sứ Việt cộng từ 30- 4 -1975 nhưng chẳng nhằm nhò gì, họ khư khư nói, bây giờ Việt Nam đã cấp giấy thôi quốc tịch rồi, không có không được.
Thế là tôi đành cắn răng viết thư cho toà đại sứ Việt cộng. Tuy nhiên
tôi nghịch ngợm nên viết thư toàn bằng tiếng Đức với nhân viên sứ
quán. Có lần điện thoại lên hỏi sự việc đến đâu sau hơn 6 tháng chờ
đợi, thì họ nói "vòng vo" làm tôi cảm thấy khó chịu nên cuối cùng tôi
viết thư (cũng bằng tiếng Đức) lên cho biết VÌ chính quyền ĐỨC yêu câù
chứ thật ra tôi chẳng muốn liên hệ gi cùng quý vị cả và nếu không cho
tôi thôi quốc tịch thì trả lời cho biết qua thư.
Một bản sao (Copy) tôi gởi cho bộ nội vụ Đức để kính tường vì trong trường hợp như vậy tôi sẽ được nhập tịch, mà không cần giấy chứng minh thôi quốc tịch Việt Nam. Chắc thấy tôi cứng rắn quá nên vài tuần sau tôi nhận được giấy từ bỏ quốc tịch, dễ hiểu thôi… vì nếu không cấp thì tòa đại sứ mất toi hơn hai ngàn Đức Mã là lệ phí mà tôi phải trả cho cái giấy từ bỏ quốc tịch Việt Nam, một số tiền không nhỏ!
Trong thời gian chờ đợi giấy tờ từ toà đại sứ Việt cộng tôi được giấy chấp nhận cho phép nhập tịch Đức. Nộp thêm chứng minh thư cho thôi quốc tịch VN là tôi được gọi ra nhận sổ thông hành Đức ít lâu sau đó. Xứ tôi ở không rườm rà như các quốc gia khác, làm lễ rình rang khi nhập tịch.
Ra sở ngoại kiều ký giấy nhận sổ thông hành, nộp pass tỵ nạn cũ và nhận thông hành Đức là xong, sau khi trả lệ phí cho sở ngoại kiều mà nếu tính ra thì quá rẽ, chỉ bằng 1/10 số tiền phải đóng cho toà đại sứ Việt cộng để có được giấy từ bỏ quốc tịch Việt Nam.
Một điểm khác xin nói thêm nhờ theo học Đại Học Đức và ở đây trên 15 năm (theo luật thời đó) nên tôi khỏi phải thi khoá Đức ngữ thành ra tiết kiệm được thêm chút ít tài chánh.
Vậy là tôi, một kẻ da vàng tóc đen, mũi tẹt trở thành công dân Đức từ
giữa năm 1994, sau 26 năm kể từ khi tôi đặt chân đến xứ Đức lạnh lẽo
này. Có thể nói chỉ trên giấy tờ vì ra đường dưới con mắt của người
dân bản xứ chúng tôi vẫn là một người ngoại quốc dựa theo màu da và
hình dáng, không hơn không kém. Cũng vì "thành dân Đức bất đắc dĩ" mà
con trai đầu lòng tôi đã phải bị động viên, gọi đi quân dịch khi mới
vừa vào học Đai Học lục cá nguyệt hai có hai ngày và sau 10 tháng quân
trường mới về học lại; không như ở Mỹ là sinh viên đi lính vài năm để
được học bỗng hay trợ cấp vào Uni học.
Thời gian cứ thế mà trôi, đời sống tôi thật sự chẳng có gì thay đổi,
chỉ khác là đã đi bầu nghị sĩ quốc hội, nghị viên tiểu bang và đại
diện làng xã được vài lần trong suốt 16 năm qua, kể từ khi tôi mang
quốc tịch Đức. Tôi vẫn đi làm như bao người khác, thi hành đúng bổn
phận “một người Đức mới“ và cảm thấy mình đang chia sẻ với dân bản xứ,
với quốc gia đã cưu mang mình!
Thỉnh thoảng gặp lại đồng hương, những người vượt biên, vượt biển
trước đây và tuy đến sau nhưng đã nhập tịch Đức trước chúng tôi thì
tôi nhận thấy có nhiều thay đổi. Họ đi lui tới về Việt Nam với nhiều
lý do …, những lý do giải thích mà mọi người - trừ những ai thiếu may
mắn đã bỏ mình trên con đường đi tìm Tự Do - đều có thể sử dụng trong
trường hợp "về thăm quê hương".
Có người gặp tôi lần đầu biết là thành phần đi du học thời Việt Nam
Cộng Hòa hỏi anh về VN chưa, nói Việt Nam giờ thế này thế kia ... tôi
chỉ cười nói chưa dù có đủ khả năng. Nghe vậy họ nhìn… rồi đổi sang đề
tài khác. Một lần, gặp vài người quen trong giới tỵ nạn hỏi: sao anh
có xin Visa về VN, được cấp chưa v.v… tôi tỉnh bơ trả lời. "tôi đâu có
bao giờ liên hệ với sứ quán Việt cộng xin chiếu khán (Visa) đâu mà
chờ với đợi, mà cho với không cho…"!
Vâng, 35 năm rồi kể từ khi tôi đặt chân tại Sài Gòn lần cuối hay đúng
hơn kể từ khi tôi "trốn chạy vào đầu tháng tư 1975" trong chuyến về
thăm gia đình với dự tính ở lại ba tháng để đi thăm bà con từ Sài Gòn
ra Huế thì tôi đã để lại quê hương yêu dấu của mình đàng sau lưng từ
dạo ấy. Tôi đang chôn chân xứ người, vẫn làm thợ khách và chờ ngày về
hưu.
Tuy nhớ nhung muôn vàn Việt Nam quê tôi nhưng chỉ biết ngậm ngùi thương nhớ, vẫn
hằng ước mong một ngày về mà Việt Nam thật sự có đầy đủ tự do, dân
chủ và nhân quyền. Tôi nghĩ mình không thể nào cam tâm cúi đầu xin
phép để được du lịch, để được cho phép về thăm quê hương của
chính mình trong hoàn cảnh hiện tại mà chắc chắn tôi sẽ phải tự hổ
thẹn với lương tâm nếu tôi làm việc này bởi vì một khi mà tôi với hơn
25 tuổi đầu, có thể nói là quá trưởng thành đã quyết định xin tỵ nạn,
xin chọn nước Đức làm quê hương thứ hai và lý do được nêu ra rất rõ
ràng: "vì tôi không chấp nhận chế độ cộng sản".
Tôi chẳng phải là đứa bé lên năm! Một đứa bé chừng ấy tuổi nếu ai đưa cho nó hai miếng bánh chắc chắn nó sẽ tự chọn cái nào thấy ngon hơn. Khi chọn lựa cho mình “con đường để đi“ sau 30-04-1975, tuy còn quá trẻ, chỉ mới hơn 25 tuổi và vừa tốt nghiệp Đại Học xong nhưng chẳng ai ép bắt tôi phải làm theo ý họ.
Chính tôi phải có một sự lựa chọn dứt khoát.
Tôi đã bỏ tất cả để chọn cho cuộc đời mình hai chữ “TỰ DO“!
Bút mực còn đó, giấy tờ và chữ ký quả quyết rằng đã khai đúng sự thật khi nộp đơn xin tỵ nạn còn đó. Tôi không thể nào dối lòng, dối mình được!
Nhìn lại mình thì tôi, một cựu du học sinh thời Việt Nam Cộng Hoà
không hổ thẹn gì hết. Tôi quan niệm rất thực tế: "Đất lành chim đậu".
Ngày đêm vẫn thiết tha mơ ước được dịp "Tung cánh chim tìm về tổ ấm"
nhưng rất tiếc tôi vẫn còn là
con chim lạc đàn, đang tha phương và vẫn còn giữ vững tư cách của một
người tỵ nạn chính trị sau 35 năm đổi đời, theo đúng nghĩa của nó vì đã
không chấp nhận chế độ chuyên chính vô sản sau khi cộng sản cưỡng
chiếm miền Nam Việt Nam nên tạm “ Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương“!
Ngọc Châu_M / Đức quốc
(ghi vội lại vài ý tưởng chợt về nhân ngày 30-04-2010)
NGỌC CHÂU
Sunday, April 25, 2010
RFA * 30-4-75
*
35 năm sau, những chiến binh cả 2 miền Nam-Bắc
Đỗ Hiếu, phóng viên RFA
35 năm sau, những chiến binh cả 2 miền Nam-Bắc
Đỗ Hiếu, phóng viên RFA
2010-04-25
Những chiến binh thuộc hai Miền Nam-Bắc, những người đã từng là đối thủ, kẻ thù của nhau trong suốt cuộc chiến, 35 năm sau họ nói gì?
AFP PHOTO/Aude GENET
Biến
cố 34-4-1975 được xem là “một sự đổi đời” khiến hàng triệu người phải
vượt thoát tìm tự do, trong cái chết gần kề, ngoài biển cả mênh mông.
Hàng triệu người khác bị cầm tù, bị xua đuổi khỏi thành thị, bị bần
cùng hóa, bị tước đoạt quyền sống.
Đáp lời mời của Ban Việt Ngữ, hai cựu sĩ quan Không Quân và Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, một cựu sĩ quan Quân Đội Nhân Dân và một cựu đảng viên Cộng Sản từng được cử du học Đông Âu, trình bày những suy nghĩ của mình đối với hiện tình đất nước, sau khi đã dứt tiếng súng từ 35 năm qua; hòa bình được vãn hồi, kinh tế đang phát triển, xã hội ổn định, tuy nhiên người dân Việt cho rằng vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, được chính những chiến binh của hai miền Nam-Bắc nêu lên với RFA.
“Về mặt chủ quyền: Giáp ranh biên giới Ải Nam Quan, Thác Bản Dốc và các hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa đều bị Trung Quốc cướp mất. Trên Internet tố cáo Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận hối lộ trên trăm triệu đô la cho Trung Quốc khai thác Bô Xít tại Cao Nguyên.
Về mặt xã hội: Việt Nam đàn áp một cách khốc liệt các nhà tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền, luôn cả các nhà tu hành đòi tự do tôn giáo, bắt cầm tù và tra tấn trong các nhà giam. Chưa có một chính phủ nào, luôn cả thời thực dân đế quốc đô hộ, cũng chưa bằng thời nay do cộng sản cai trị; không có luật pháp, chỉ có luật rừng do họ dựng nên để đè đầu người dân Việt Nam.
Cộng sản Việt Nam cho xuất khẩu lao động đem dân đi làm nô lệ cho quốc tế, hạ nhân phẩm người phụ nữ Việt Nam, buôn bán phụ nữ làm vợ cho người Đài Loan, Đại Hàn, và có nhiều người phải làm vợ cho cả gia đình cha con và anh em. Trẻ em 8, 10 tuổi thì đưa sang Campuchia cho vào các động mãi dâm làm gái với khách thập phương.
Về giai cấp: Số đông dân chúng quá nghèo, thành phần giai cấp lãnh đạo thì quá giàu, một bữa tiệc gần cả trăm ngàn đô la, một chai rượu ngoại cả ngàn đô, nhà cao cửa rộng, như nhà của cựu Tổng Bí Thư Lê khả Phiêu đã phô bày trên Internet.
Lời nói của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm” là một câu nói bất hủ muôn đời! Cộng Sản miền Bắc xâm lăng miền Nam, không xem dân miền Nam là tình ruột thịt anh em mà đối đãi như kẻ thù cần tiêu diệt. Đảng cộng sản phải giải tán, để cho nhân dân Việt Nam tự do bầu lấy một chính quyền do Dân, phục vụ Dân và lập quyền Dân.”
“Tôi lúc này như ngọn nến mong manh trước gió, tắt lúc nào chưa biết, những lời nói của tôi là điều tôi nói thật. Cuộc chiến đấu giải phóng Miền Nam đối với tôi, khi sắp sửa ra đi với các cụ rồi, tôi chỉ đau lòng là cuộc chiến đấu đó là “nồi da xáo thịt”, hai anh em xông vào bắn giết lẫn nhau. Một bên là người Mỹ cho kẹo cao su với khẩu AR 15, một bên là Tàu với Liên Xô cho một gói lương khô với khẩu AK 47, cứ thế mà hai thằng anh em ruột, cùng máu đỏ, da vàng, cùng bà mẹ Âu Cơ sinh ra, xông vào chém giết lẫn nhau.
Tôi chỉ thấy nỗi đau là cái giá hy sinh của đồng đội tôi, và kể cả các ông nữa, tôi không biết gọi như thế nào, là những người đồng đội, hai bên cùng vì Tổ quốc của mình mà bắn giết lẫn nhau. Đến bây giờ chỉ có điều là tôi thất vọng quá, có thế thôi, tôi sắp ra đi rồi, tôi không cần gì nữa, còn tôi thất vọng vì nó rồi, đồng đội của tôi chiến đấu chết nhiều quá. Những lời hô hào của họ thì đều đẹp đẽ cả, chẳng gây cho tôi một cái hy vọng gì cả, một chút hy vọng nào cả, tôi không chờ được nữa. Thế là công lao của tôi là công cóc rồi, không chờ được cái ngày ấy nữa đâu. Nhân dân ta thì vẫn khổ quá, không hy vọng gì cả.”
“Tập đoàn lãnh đạo đảng cộng sản đưa đất nước vào tình cảnh mà không một người Việt Nam yêu nước nào cảm thấy hài lòng, hãnh diện vì áp dụng chính sách bất dung và chọn lầm đồng minh. Hòa bình đến, nhưng, hy vọng về đất nước thanh bình, hết hận thù để cùng chung sức phát triển đã bị chính sách bất dung làm triệt tiêu có hệ thống các yếu tố góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Sách vở như chiếc túi khôn của loài người vốn tích lũy vô số kinh nghiệm bị đảng cộng sản Việt Nam đốt sạch nhằm cắt đứt sự liên hệ giữa thế hệ trẻ với sinh lực dân tộc. Chính sách bất dung dấy lên làn sóng vượt biên, thuyền nhân từ Bắc chí Nam đã vét cạn chất xám cần thiết cho công cuộc xây dựng đất nước phú cường.
Do đó, tập đoàn lãnh đạo Hà Nội phải dựa vào đồng minh để tồn tại đã khắc sâu những vết hằn đau đớn lên cơ thể Việt Nam. Việt Nam chọn Liên Xô làm đồng minh nên cho Mạc Tư Khoa toàn quyền sử dụng hải cảng Cam Ranh từ năm 1979 đến 2004. Áp dụng chính sách hợp-tác-hóa đã dẫn dân tộc đến bờ vực nạn đói năm 1985. Việt Nam xua quân vào Xứ Chùa Tháp năm 1979 đã kích thích Bắc Kinh mở cuộc chiến tranh biên giới khốc liệt vào năm 1979.
Liên Xô tan rã, Hà Nội lại muối mặt cầu cạnh Bắc Kinh nên phải làm quà bằng các Hiệp định về biên giới và Vịnh Bắc Bộ. Từ đó, Việt Nam có một mô hình kinh tế tư bản man dại thời đại Karl Marx, cộng với kiểu kinh tế thân hữu đã bị thế giới ruồng bỏ. Vì áp dụng mô hình lạc hậu nên đến năm 2009, lợi tức bình quân chỉ có 1,000 USD. Từ 1963 đến 1995, Nam Hàn đã nâng lợi tức bình quân từ 100 lên tới 10,000 USD.
Việt Nam đang từng phút, từng giờ đứng trước mối đe dọa mọi mặt của người đồng minh “môi hở răng lạnh”. Chỉ có dân tộc Việt Nam đồng lòng mới giải tỏa được chứ không thể trông chờ vào nhà nước ù lì và bất lực.”
“Ra đi du học tại Ba Lan tôi mới bắt đầu hiểu thực chất của chế độ cộng sản là gì, tôi có rất nhiều anh chị em trực tiếp tham gia vào quân đội, có những người đã hy sinh, có những người hiện nay là thương binh. Sau này, ngày càng tìm hiểu thì tôi thấy đó là một cuộc nồi da xáo thịt của người Việt Nam đánh nhau. Người hưởng lợi chính là đảng cộng sản Việt Nam. Năm 1945 thì họ cướp chính quyền tại Miền Bắc, khi đất nước chia thành hai miền sau hiệp định Geneve, họ lại bắt đầu phát động cuộc chiến tranh gọi là giải phóng Miền Nam, thực chất là họ muốn thu quyền lực về một mối, tôi rất thất vọng về chính quyền hiện nay.
Thật ra ý đồ của Hà Nội là thâu tóm tất cả chính quyền về tay người cộng sản, nhưng phải nhìn vào thực tế của đất nước, nhìn vào hạnh phúc của nhân dân mà phấn đấu. Thật ra từ năm 1975 đến nay, những người cầm quyền chỉ chăm chú vào quyền lợi của đảng cộng sản cũng như bản thân người cầm quyền, còn người dân vẫn là nô lệ trên đất nước mình. Cái nô lệ ở đây không chỉ nói riêng về kinh tế mà trên các mặt, người dân có quyền nói, biểu hiện chính kiến, cách nhìn của mình, nhưng dưới chế độ cộng sản họ bị nô dịch tất cả các mặt. Về kinh tế thì chính quyền cho cái gì thì dân được cái nấy, như việc hợp tác hóa, rồi sau này các chính sách khác về kinh tế là ngăn sông cấm chợ, cấm buôn bán, cải tạo công thương nghiệp, chỉ để phục vụ một nhóm nhỏ trong chính quyền.
Qua những góp ý của các cựu chiến binh của hai miền Nam Bắc thì 35 năm sau khi chiến tranh kết thúc Việt Nam vẫn chưa thực hiện được chủ trương “độc lập, tự do, hạnh phúc” được ghi trên quốc uy của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cũng là mục tiêu do đảng cộng sản đề ra, từ khi lên nắm chánh quyền hồi năm 1945.
35 năm sau khi hòa bình được vãn hồi, mặc dù được Hà Nội đã được kết nạp vào WTO, là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, là chủ tịch luân phiên của ASEAN, nhưng công luận vẫn cho là Việt Nam thiếu tự do, dân chủ, không có tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, không có nhân quyền và nằm trong danh sách những quốc gia có thu nhập thấp kém trên thế giới và trong khu vực Châu Á.
Đáp lời mời của Ban Việt Ngữ, hai cựu sĩ quan Không Quân và Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, một cựu sĩ quan Quân Đội Nhân Dân và một cựu đảng viên Cộng Sản từng được cử du học Đông Âu, trình bày những suy nghĩ của mình đối với hiện tình đất nước, sau khi đã dứt tiếng súng từ 35 năm qua; hòa bình được vãn hồi, kinh tế đang phát triển, xã hội ổn định, tuy nhiên người dân Việt cho rằng vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, được chính những chiến binh của hai miền Nam-Bắc nêu lên với RFA.
Fact box | |
|
Tự do, dân chủ, độc lập?
Một quân nhân Không Quân miền Nam có gần 25 năm thâm niên công vụ, cựu tù nhân cải tạo với 7 năm tù, từ California, ông Nguyễn Thanh Liêm phân tích về tình hình đất nước:“Về mặt chủ quyền: Giáp ranh biên giới Ải Nam Quan, Thác Bản Dốc và các hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa đều bị Trung Quốc cướp mất. Trên Internet tố cáo Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận hối lộ trên trăm triệu đô la cho Trung Quốc khai thác Bô Xít tại Cao Nguyên.
Về mặt xã hội: Việt Nam đàn áp một cách khốc liệt các nhà tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền, luôn cả các nhà tu hành đòi tự do tôn giáo, bắt cầm tù và tra tấn trong các nhà giam. Chưa có một chính phủ nào, luôn cả thời thực dân đế quốc đô hộ, cũng chưa bằng thời nay do cộng sản cai trị; không có luật pháp, chỉ có luật rừng do họ dựng nên để đè đầu người dân Việt Nam.
Cộng sản Việt Nam cho xuất khẩu lao động đem dân đi làm nô lệ cho quốc tế, hạ nhân phẩm người phụ nữ Việt Nam, buôn bán phụ nữ làm vợ cho người Đài Loan, Đại Hàn, và có nhiều người phải làm vợ cho cả gia đình cha con và anh em. Trẻ em 8, 10 tuổi thì đưa sang Campuchia cho vào các động mãi dâm làm gái với khách thập phương.
Về giai cấp: Số đông dân chúng quá nghèo, thành phần giai cấp lãnh đạo thì quá giàu, một bữa tiệc gần cả trăm ngàn đô la, một chai rượu ngoại cả ngàn đô, nhà cao cửa rộng, như nhà của cựu Tổng Bí Thư Lê khả Phiêu đã phô bày trên Internet.
Lời nói của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm” là một câu nói bất hủ muôn đời! Cộng Sản miền Bắc xâm lăng miền Nam, không xem dân miền Nam là tình ruột thịt anh em mà đối đãi như kẻ thù cần tiêu diệt. Đảng cộng sản phải giải tán, để cho nhân dân Việt Nam tự do bầu lấy một chính quyền do Dân, phục vụ Dân và lập quyền Dân.”
Thất vọng
Kế đó, một cựu sĩ quan Quân Đội Nhân Dân, nhiều năm chiến đấu ngoài mặt trận từng chứng kiến bao đồng đội gục ngã, hy sinh máu xương để thực hiện chiêu bài “Giải Phóng Miền Nam” do Hà Nội chủ trương, ông Vũ Cao Quận nói lên niềm tâm sự của mình, được gói gọn qua hai chữ “thất vọng”:“Tôi lúc này như ngọn nến mong manh trước gió, tắt lúc nào chưa biết, những lời nói của tôi là điều tôi nói thật. Cuộc chiến đấu giải phóng Miền Nam đối với tôi, khi sắp sửa ra đi với các cụ rồi, tôi chỉ đau lòng là cuộc chiến đấu đó là “nồi da xáo thịt”, hai anh em xông vào bắn giết lẫn nhau. Một bên là người Mỹ cho kẹo cao su với khẩu AR 15, một bên là Tàu với Liên Xô cho một gói lương khô với khẩu AK 47, cứ thế mà hai thằng anh em ruột, cùng máu đỏ, da vàng, cùng bà mẹ Âu Cơ sinh ra, xông vào chém giết lẫn nhau.
Chúng tôi chẳng giải phóng Miền Nam làm gì, và Miền Nam cũng chẳng cần chúng tôi giải phóng.Chúng tôi chẳng giải phóng Miền Nam làm gì, và Miền Nam cũng chẳng cần chúng tôi giải phóng. Cái chuyện đó đã qua lâu lắm rồi mà tôi thì già yếu quá, chỉ trả lời tóm tắt thế thôi.
Ông Vũ Cao Quận
Tôi chỉ thấy nỗi đau là cái giá hy sinh của đồng đội tôi, và kể cả các ông nữa, tôi không biết gọi như thế nào, là những người đồng đội, hai bên cùng vì Tổ quốc của mình mà bắn giết lẫn nhau. Đến bây giờ chỉ có điều là tôi thất vọng quá, có thế thôi, tôi sắp ra đi rồi, tôi không cần gì nữa, còn tôi thất vọng vì nó rồi, đồng đội của tôi chiến đấu chết nhiều quá. Những lời hô hào của họ thì đều đẹp đẽ cả, chẳng gây cho tôi một cái hy vọng gì cả, một chút hy vọng nào cả, tôi không chờ được nữa. Thế là công lao của tôi là công cóc rồi, không chờ được cái ngày ấy nữa đâu. Nhân dân ta thì vẫn khổ quá, không hy vọng gì cả.”
Đâu rồi lợi thế 35 năm?
Với cái nhìn của một nhà phân tích thời sự, bình luận chính trị, một cựu sĩ quan Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, ông Đại Dương đưa ra nhận xét của ông về chính sách của Hà Nội, trong hơn 3 thập niên qua, cùng các hậu quả được thể hiện rõ, hôm nay:“Tập đoàn lãnh đạo đảng cộng sản đưa đất nước vào tình cảnh mà không một người Việt Nam yêu nước nào cảm thấy hài lòng, hãnh diện vì áp dụng chính sách bất dung và chọn lầm đồng minh. Hòa bình đến, nhưng, hy vọng về đất nước thanh bình, hết hận thù để cùng chung sức phát triển đã bị chính sách bất dung làm triệt tiêu có hệ thống các yếu tố góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Sách vở như chiếc túi khôn của loài người vốn tích lũy vô số kinh nghiệm bị đảng cộng sản Việt Nam đốt sạch nhằm cắt đứt sự liên hệ giữa thế hệ trẻ với sinh lực dân tộc. Chính sách bất dung dấy lên làn sóng vượt biên, thuyền nhân từ Bắc chí Nam đã vét cạn chất xám cần thiết cho công cuộc xây dựng đất nước phú cường.
Do đó, tập đoàn lãnh đạo Hà Nội phải dựa vào đồng minh để tồn tại đã khắc sâu những vết hằn đau đớn lên cơ thể Việt Nam. Việt Nam chọn Liên Xô làm đồng minh nên cho Mạc Tư Khoa toàn quyền sử dụng hải cảng Cam Ranh từ năm 1979 đến 2004. Áp dụng chính sách hợp-tác-hóa đã dẫn dân tộc đến bờ vực nạn đói năm 1985. Việt Nam xua quân vào Xứ Chùa Tháp năm 1979 đã kích thích Bắc Kinh mở cuộc chiến tranh biên giới khốc liệt vào năm 1979.
Liên Xô tan rã, Hà Nội lại muối mặt cầu cạnh Bắc Kinh nên phải làm quà bằng các Hiệp định về biên giới và Vịnh Bắc Bộ. Từ đó, Việt Nam có một mô hình kinh tế tư bản man dại thời đại Karl Marx, cộng với kiểu kinh tế thân hữu đã bị thế giới ruồng bỏ. Vì áp dụng mô hình lạc hậu nên đến năm 2009, lợi tức bình quân chỉ có 1,000 USD. Từ 1963 đến 1995, Nam Hàn đã nâng lợi tức bình quân từ 100 lên tới 10,000 USD.
Việt Nam đang từng phút, từng giờ đứng trước mối đe dọa mọi mặt của người đồng minh “môi hở răng lạnh”. Chỉ có dân tộc Việt Nam đồng lòng mới giải tỏa được chứ không thể trông chờ vào nhà nước ù lì và bất lực.”
Thực chất của chế độ cộng sản
Một cựu đảng viên cộng sản, du học tại Ba Lan rồi trở về nước phục vụ, nay sinh sống tại thủ đô Vác Sa Va, tiếp tục đấu tranh cho quyền lợi giới lao động Việt Nam ở hải ngoại, ông Trần Ngọc Thành giải thích vì sao ông rời bỏ hàng ngũ đảng cộng sản Việt Nam:“Ra đi du học tại Ba Lan tôi mới bắt đầu hiểu thực chất của chế độ cộng sản là gì, tôi có rất nhiều anh chị em trực tiếp tham gia vào quân đội, có những người đã hy sinh, có những người hiện nay là thương binh. Sau này, ngày càng tìm hiểu thì tôi thấy đó là một cuộc nồi da xáo thịt của người Việt Nam đánh nhau. Người hưởng lợi chính là đảng cộng sản Việt Nam. Năm 1945 thì họ cướp chính quyền tại Miền Bắc, khi đất nước chia thành hai miền sau hiệp định Geneve, họ lại bắt đầu phát động cuộc chiến tranh gọi là giải phóng Miền Nam, thực chất là họ muốn thu quyền lực về một mối, tôi rất thất vọng về chính quyền hiện nay.
Thật ra ý đồ của Hà Nội là thâu tóm tất cả chính quyền về tay người cộng sản, nhưng phải nhìn vào thực tế của đất nước, nhìn vào hạnh phúc của nhân dân mà phấn đấu. Thật ra từ năm 1975 đến nay, những người cầm quyền chỉ chăm chú vào quyền lợi của đảng cộng sản cũng như bản thân người cầm quyền, còn người dân vẫn là nô lệ trên đất nước mình. Cái nô lệ ở đây không chỉ nói riêng về kinh tế mà trên các mặt, người dân có quyền nói, biểu hiện chính kiến, cách nhìn của mình, nhưng dưới chế độ cộng sản họ bị nô dịch tất cả các mặt. Về kinh tế thì chính quyền cho cái gì thì dân được cái nấy, như việc hợp tác hóa, rồi sau này các chính sách khác về kinh tế là ngăn sông cấm chợ, cấm buôn bán, cải tạo công thương nghiệp, chỉ để phục vụ một nhóm nhỏ trong chính quyền.
Thật ra thì tôi không trả thẻ đảng mà tôi vất thẻ đảng, vì những người làm chủ đất nước hiện nay, thực sự chỉ là tôi tớ cho một số đảng viên cao cấp. Phần lớn người lao động hiện nay xuất thân từ nông thôn hay thành thị, từ trước tới nay bị phân biệt đối xử, về cả kinh tế lẫn mặt chính trị. Sự sụp đổ của chế độ cộng sản, thay đổi chính trị tại Đông Âu là điều cần phải thay đổi để làm cho đất nước đi lên. Tôi thấy rằng, mục tiêu của chúng ta hiện nay là làm sao cho đại bộ phận người Việt Nam được no ấm.”
Qua những góp ý của các cựu chiến binh của hai miền Nam Bắc thì 35 năm sau khi chiến tranh kết thúc Việt Nam vẫn chưa thực hiện được chủ trương “độc lập, tự do, hạnh phúc” được ghi trên quốc uy của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cũng là mục tiêu do đảng cộng sản đề ra, từ khi lên nắm chánh quyền hồi năm 1945.
35 năm sau khi hòa bình được vãn hồi, mặc dù được Hà Nội đã được kết nạp vào WTO, là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, là chủ tịch luân phiên của ASEAN, nhưng công luận vẫn cho là Việt Nam thiếu tự do, dân chủ, không có tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, không có nhân quyền và nằm trong danh sách những quốc gia có thu nhập thấp kém trên thế giới và trong khu vực Châu Á.
Theo dòng thời sự:
- Đâu rồi lợi thế 35 năm?
- Tham nhũng bất tận tại Việt Nam
- Việt Nam tiếp tục bắt bớ, sách nhiễu các nhà dân chủ
- Đạo đức suy đồi hay thủ đoạn chính trị? (Phần 1)
- Việt Nam đang thụt lùi về tự do tôn giáo?
- Hiệp định Vịnh Bắc Bộ 2000 và đảo Bạch Long Vĩ
- Nông dân sau 35 năm “đổi đời”?
- Cho nước ngoài thuê rừng, lợi bất cập hại
- Thẳng tay với Đồng bào, nhún nhượng với Bắc Kinh?
- Hoàng Sa và Trường Sa có còn là của Việt Nam?
- Việt Nam ngày nay: kẻ ăn không hết, người lần không ra
Copyright © 1998-2010 Radio Free Asia. All rights reserved.
HOÀNG HẢI THỦY * NGUYỄN NGỌC LOAN
LTS.
Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan là một
chiến sĩ quốc gia anh dũng. Ông là một võ tướng cho nên có những hành
động ngang tàng. Người Mỹ cũng như dư luận quốc tế đã phê phán việc ông
bắn một tên Việt cộng. Người Mỹ nhân đạo ư? Sự thật đa số dân chúng trên
thế giới bị bưng bít về những hành vi của cộng sản mà họ chỉ thấy những
điều không đẹp của xã hội miền Nam. Dẫu sao, tướng Loan đã giết một kẻ
địch đang lúc xảy ra một trận chiến nguy kịch trong khi Việt Cộng giết
Trúc Khê, Khái Hưng, Huỳnh giáo chủ, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm , các
nông dân trong CCRD, và nhân dân thành phố Huế trong mậu thân là những
người dân không tấc sắt? Họ có biết không và lên tiếng cho nhũng nạn
nhân này với tư cách những nhà bình luận công bằng?
Trước 1965, mấy ai lên tiếng về viêc Stalin giết nhân dân Liên Xô và đảng viên cộng sản, nhất là việc Stalin giết cả nhà và các đồng chí của Trotsky, và sau khi Mao chết, những ai đã lên tiếng kết án Mao giết hàng triệu nhân dân Trung Quốc! Sau 1975, cộng sản Việt Nam đã giết công khai hoặc âm thầm các sĩ quan VNCH, nhưng không thấy ai lên tiếng kết án cộng sản dã man.Như vậy có công bằng không? Không những thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan thiệt thòi mà cả miền Nam ta cũng bị đối xử bất công.
Trong khi một số tướng tá, văn nghệ sĩ và nhà tu hành chạy theo cộng sản, thì gương mặt Nguyễn Ngọc Loan trở thành một khuôn mặt sáng ngời, có nhiều điểm đáng khen ngơi.
Trước 1965, mấy ai lên tiếng về viêc Stalin giết nhân dân Liên Xô và đảng viên cộng sản, nhất là việc Stalin giết cả nhà và các đồng chí của Trotsky, và sau khi Mao chết, những ai đã lên tiếng kết án Mao giết hàng triệu nhân dân Trung Quốc! Sau 1975, cộng sản Việt Nam đã giết công khai hoặc âm thầm các sĩ quan VNCH, nhưng không thấy ai lên tiếng kết án cộng sản dã man.Như vậy có công bằng không? Không những thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan thiệt thòi mà cả miền Nam ta cũng bị đối xử bất công.
Trong khi một số tướng tá, văn nghệ sĩ và nhà tu hành chạy theo cộng sản, thì gương mặt Nguyễn Ngọc Loan trở thành một khuôn mặt sáng ngời, có nhiều điểm đáng khen ngơi.
Ông Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan
Tướng Nguyễn Ngọc Loan xử bắn tại trận tên Việt Cộng ác ôn từng giết nhiều người trong trận Việt Cộng đánh vào Sài Gòn Tết Mậu Thân.
Hình được trích trong quyển NAM : A Photographic History của 2 tác giả Leo J. Daugherty và Gregory Louis Mattson. Đây là lời dưới hình bằng tiếng Mỹ:
The head of Sout h Vietnam’s National Police, Brigadier General Nguyen Ngoc Loan, execut ed
a capture Viet Cong officer in a Saigon street. Loan had just learned
that the Viet Cong had killed a fellow police officer and his completed
family. Captured on film and in this photograph, this horrifyng image
shocked public opinion in the United States ,
bringing the atrocities of the war home to them to become a matter of
public interest. This image, taken by AP photographer Eddie Adams,
earned the photographer a Pulitzer Prize in 1969.
Phỏng dịch: Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh
Sát Quốc Gia Vịêt Nam, xử tử một tên Việt Cộng bị bắt trong một đường
phố ở Sài Gòn. Tướng Nguyễn Ngọc Loan vừa mới biết tên Việt Cộng đã giết
một sĩ quan cảnh sát và giết tất cả vợ con ông sĩ quan. Được ghi lên
phim, và trên bức hình này, hình ảnh ghê rợn trong hình làm công luận
Hoa Kỳ xúc động, bức hình cho dân Mỹ thấy cảnh tàn ác của chiến tranh và
làm họ chú ý đến cuộc chiến Việt Nam .
Bức hình do Eddie Adams, Phóng viên Nhiếp Ảnh của AP (Associated Press)
chụp, đã làm cho Eddie Adams được Giải Pulitzer năm 1969.
Trang 574, Tập Ảnh NAM ,
in bức hình thứ hai của Tướng Nguyễn Ngọc Loan. Trong hình, trước mặt
ông Tướng là bà Nguyễn Ngọc Loan. Đây là lời tiếng Mỹ đăng dưới hình:
The former Sout h Vietnamese National Police Chief Nguyen Ngoc Loan with his wife in the burger, pizza, and Vietnamese restaurant he managed in Burke , Washington after escaping Vietnam . Honest Vietnamese officials and soldiers settling in the U.S.
were often forced to take quite menials jobs as unlike others, they
were innocent of corruption and therefore had no money waiting in
overseas accounts.
Phỏng dịch: Ông Nguyễn Ngọc Loan, Cựu Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát
Quốc Gia Việt Nam, với bà vợ ông trong một tiệm burger, pizza và hàng ăn
Việt Nam ông bà mở ở thị trấn Burke, gần Washington D.C. Những viên
chức và quân nhân Việt Nam lương thiện định cư ở Hoa Kỳ thường phải làm
những công việc tay chân không như một số người Việt khác. Những người
Việt lương thiện ấy không tham nhũng, không thối nát nên họ không có
tiền để sẵn trong những trương mục ngân hàng ở nước ngoài.
———-
Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ tưởng niệm Tử Sĩ Trận MẬU THÂN
Đó là lời cầu nguyện của Mục sư – Cựu Chiến Binh Marcus Evans tại Bệnh
viện VA North Texas Health Care System của Hội Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ tại
thành phố Dallas, Texas trưa Ngày Mồng Ba Tết Bính Tuất, tức Thứ Ba 31
Tháng Giêng năm 2006, để vinh danh chiến công của các Cựu Chiến Binh Hoa
Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa trong trận chiến Tết Mậu Thân. Mục sư xin Đấng
Toàn Năng ban phúc lành cho những chiến binh còn sống, cho những người
vợ, những quả phụ và con cháu của những chiến binh đã hy sinh trong trận
đánh xẩy ra 38 năm trước.
Tôi, một người Việt mất nước sống buồn ở xứ người, đọc bài báo tưởng niệm, vinh danh các Cựu Chiến Binh Chiến Tranh Việt Nam với niềm ngậm ngùi và kiêu hãnh.
Ngậm ngùi vì 38 năm sau trận đánh những chiến binh mới được vinh danh,
kiêu hãnh vì trong đời tôi, tôi được thấy ngày người thế giới sáng mắt,
sáng lòng, nhìn thấy sự thật là Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, và
Quân Đội Hoa Kỳ, “đã không thua” trong Chiến Tranh Việt Nam, những hy
sinh máu xương của những chiến binh Việt, Mỹ trên đất nước Việt Nam
không phải là vô ích. Vì những hy sinh ấy Chủ nghĩa Cộng Sản bị tiêu
vong, mãi mãi tiêu vong, ngàn ngàn triệu triệu kiếp không bao giờ bọn
đảng viên cộng sản còn có thể làm người thế giới đau khổ, đọa đầy. Trận
Chiến Tranh Việt Nam góp một phần sức công phá làm cho cái gọi là Liên
Xô Thành Trì Vô Sản Quốc Tế của bọn Nga Cộng sụp đổ tan tành, làm cho
nhân dân các nước Đông Âu có thể vùng lên đập phá những gông cùm cộng
sản, làm cho những tượng đồng, tượng đá, tượng gỗ, tượng xi-mo Lê-nin,
Sịt-ta-lin bị kéo đổ, hạ xuống, cưa đầu, kéo ra cho nằm ở bãi rác.
Trong những đêm cuối năm, ở xứ người Kỳ Hoa Đất Trích, tôi đọc những bài
viết về Trận Tết Mậu Thân và những người dự trận đánh ấy.
Mời quí vị đọc bài viết về Cố Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, đăng trong:
CON ONG. Bán Nguyệt San ấn hành ở Houston , Texas . Số 179. Tháng 2, 2006. Bài “Đón Xuân này tôi nhớ Xuân xưa.” Người viết Cao Hồng Lê.
Sáng Mồng 2 Tết Mậu Thân, Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu họp,
Tướng Nguyễn Ngọc Loan thuyết trình về tình hình chiến sự, Tướng Nguyễn
Cao Kỳ, bay trực thăng, tới họp..
Sau Tướng NN Loan là phần thuyết trình của Đaị Tá Tư Lệnh Biệt Khu Thủ
Đô. Đại Tá nói tới một tin mà ở Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu
nhiều người đã nghe nói. Đó là tin Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp Binh của ta ở
Gò Vấp bị địch tấn công, quân ta phản công mạnh nên bọn VC đã phải tháo
lui. Kho Đạn Gò Vấp bị một tiểu đoàn đặc công VC đánh vào. Đúng lúc bọn
VC kéo vào Kho Đạn thì vị sĩ quan Trực Kho Đạn cho phát động hệ thống
phá hoại. Kho đạn nổ tung, cả một tiểu đoàn đặc công VC chết tan xác.
Ông Trung Úy Quân Cụ Trực Kho Đạn, người cho Kho Đạn phát nổ, bị sức ép
của hàng ngàn tấn đạn làm cho miệng, mũi, tai trào máu, khó lòng sống
sót, dù ông được tải thương về ngay Tổng Y Viện Cộng Hòa cứu cấp. Nghe
nói đến đây, tự nhiên Tướng Loan tỏ vẻ khác lạ, ông đứng lên, nói:
- Ê! Kỳ! Cho “moa” mượn trực thăng “moa” bay xuống Gò Vấp. Muời phút “moa” về liền!
Không đợi Tướng Kỳ trả lời, Tướng Loan đi ngay ra khỏi phòng. Đaị Tá Trưởng Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu, chạy theo, nói với:
- Thiếu Tuớng! Cho tôi gửi một người theo ông.
Ông Đại Tá đưa cho tôi cái máy Truyền Tin HT1, máy to, nặng nhưng cách
xử dụng cũng giống như cái hand phone bây giờ. Ông nói với tôi:
- “Toa” chịu khó đi theo ông Sáu Lèo, coi tình hình ở đó ra sao, có gì gọi về cho “moa” biết ngay.
Chuyện được sai đi cấp kỳ như vậy đối với tôi đã quá quen. Ông Đại tá là
niên trưởng Võ Bị của tôi, tôi đã làm việc dưới quyền ông lâu ngày rồi,
tôi cầm ngay cái máy truyền tin, chạy theo Tướng Loan ra phi cơ trực
thăng. Chỉ 2 phút sau trực thăng đáp xuống sân Kho Đạn Gò Vấp. Ở đó một
Đaị Đội Dù đã tái chiếm từ hôm qua. Đạn trong kho đã nổ hết. Xác bọn VC
tan tành thành những mảnh thịt xương vụn, súng AK gẫy còng queo, rải rác
khắp nơi.
Sau khi xem Kho Đạn, Tướng Loan đi sang Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp cạnh đó.
Trụ sở Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp không bị tổn hại gì nhiều, ngoài một lổ
hổng lớn do đạn SKZ phá, nhưng VC không vào được trong Trụ sở vì Binh sĩ
Thiết Giáp tập trung hoả lực bắn vào bít lỗ trống gọi là “Đột Phá Khẩu
của VC”. Các đơn vị xe tăng đều đi đánh giặc xa cả, bao nhiêu lực lượng
binh sĩ ở căn cứ đều tập trung bảo vệ Bộ Chỉ Huy, thành ra việc phòng
thủ Traị Gia Binh Thiết Giáp ở ngay bên cạnh Bộ Chỉ Huy không được vững
mạnh, bọn VC đã xông vào Trại Gia Binh, bắn giết một số vợ con binh sĩ
ta.
Một Trung Úy Thiết Giáp đưa Tướng NN Loan vào Trại Gia Binh để ông Tướng
thấy cảnh vợ con binh sĩ ta bị VC sát hại. Sau khi đến thăm một số nhà
binh sĩ có người bị VC giết, nhiều xác người chưa được mang đi, còn quàn
tại chỗ, Tướng Loan nói ông có người bạn cùng khóa là Đại Tá Tuấn, Binh
Chủng Thiết Giáp, đã giải ngũ nhưng không có nhà riêng ở ngoài thành
phố, nên cả gia đình vẫn ở trong Trại Gia Binh này. Ông bảo ông Trung Úy
Thiết Giáp đưa ông tới nhà Đại Tá Tuấn. Tôi đi theo đến một hầm trú ẩn.
Hầm này vốn là cái xác của chiếc xe M113 đã phế thải, Đại Tá Tuấn xin
về đặt bên cạnh nhà, đắp thêm bao cát bên ngoài, cho vợ con ông làm hầm
tránh pháo kích của bọn VC.
Khi mở cửa hầm ra thì… tôi rởn tóc gáy trước cảnh tôi nhìn thấy: Cả gia
đình Đại Tá Tuấn vẫn còn nằm trong hầm. Máu ngập cao cả chục phân tây,
kín cả cái sàn xe thiết vận xa phế thải. Trong vũng máu là 8 xác chết,
đủ cả đàn ông, đàn bà, trẻ con, người nào cũng bị chém đầu lìa khỏi cổ.
Cả đến đứa cháu ngoại, mới 3 tuổi của Đại tá Tuấn về ăn Tết với ông
Ngoại cũng bị VC chặt đầu.
Tướng NN Loan đứng nhìn thảm cảnh. Ông lặng người, không nói được lời
nào! Rồi ông đứng nghiêm, giơ tay chào vĩnh biệt gia đình Đại Tá Tuấn.
Trên trực thăng bay trở về Bộ Tổng Tham Mưu, Tướng Loan, mặt tái xám,
hai mắt ông đỏ ngầu. Ông chỉ nói một câu mà, đến nay gần 40 năm, tôi còn
nhớ:
- Đ.. Cụ thằng nào từ nay bắt được Việt Cộng còn cho nó làm tù binh.
Về đến Bộ Tổng Tham Mưu, Tướng Loan không vào Trung Tâm Hành Quân, ông
lên xe jeep đi ngay đến chỗ có VC. Phần tôi, tôi vào phòng báo cáo với
các vị đang họp những gì tôi thấy ở Kho Đạn Gò Vấp và ở Bộ Chỉ Huy Thiết
Giáp. Còn xúc động vì những hình ảnh ghê rợn, thảm khốc nên tôi nói lập
cà lập cập, không rõ ràng chút nào. Đaị Tá C, Trưởng Ban 2 của Trung
Tâm Hành Quân hỏi tôi có chụp được tấm hình nào không? Khi biết tôi
không đem theo máy ảnh, ông cho nhân viên của ông đi Gò Vấp chụp hình
ngay.
Không biết những tấm hình đó bây giờ ở đâu? Nếu có những tấm hình đó bây
giờ thì đó là những chứng tích chứng tỏ sự bạo tàn ghê rợn của bọn cán
binh CS khi chúng vào được một trại gia binh của Quân Đội ta ở Sài Gòn
trong trận Tết Mậu Thân.
Hai ngày sau, khi Lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến đánh phá một hang ổ của VC
ở trong chùa Ấn Quang, bắt sống được ở đây tên Thượng tá VC chỉ huy
cánh quân đánh vào Kho Đạn Gò Vấp. Sau khi hỏi cung sơ qua, binh sĩ ta
trói tay nó, dẫn giải về traị tù binh. Đọc đường tên VC đó gặp Tướng
Loan. Và cái gì đã xảy ra thì cả thế giới đều biết do người phóng viên
nhiếp ảnh Mỹ chụp được tấm hình giật gân Tướng NN Loan dí súng vào đầu
tên VC mặt hung ác, ngu đần, bận áo sơ-mi ca-rô. Nhờ tấm hình này mà
người phóng viên Mỹ nổi danh. Cũng vì cái hình này mà Tướng Loan đã bị
một số người Mỹ chụp cho cái mũ “Killer”. (.. .. .. )
Khi là Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, là cái chỗ “Ho ra Bạc,
Khạc ra Tiền”, Tướng NN Loan không bị báo chí thời đó, và ngay cả bây
giờ, cho tên vào Băng Tham Nhũng Đệ Nhị Cộng Hòa. Việc ông xử tử tại
trận tên VC, như ông nói: “Tôi làm nhiệm vụ của tôi..” thì đúng quá còn
gì nữa. Nghe nói quí vị thân nhân của Tướng NN Loan đã phải chịu nhiều
khổ tâm vì người ta xét đoán lầm ông Tướng qua bức hình ông xử tử tên VC
trong trận Tết Mậu Thân. Xin quí vị thân nhân của Tướng Nguyễn Ngọc
Loan coi bài tưởng niệm này là “Một Vòng Hoa Muộn, Một Nén Hương Thêm”
cầu chúc anh hồn Cố Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan yên nghỉ nơi miền an
lạc; xin Bà Quả Phụ Nguyễn Ngọc Loan nhận cho sự kính trọng Cố Thiếu
Tướng của tôi, một tên lính bại trận mà không chết, và sự phân ưu muộn
màng của tôi với quí gia đình.
Cao Hồng Lê
(Trích trong cuốn CHIẾN SỬ QLVNCH)
Còn nhớ trong những ngày lửa binh Mậu Thân đợt 1 và đợt 2 ở vùng Sài Gòn - Gia Định -Chợ Lớn, có một vị tướng dáng vóc nhỏ bé trong chiếc áo giáp đen sạm khói súng, đã xông xáo giữa những làn đạn chằng chịt đỏ lửa, trong tiếng AK và tiếng B40 nổ rền trời. Ông ôm cây súng M16 đứng xổng lưng trên tuyến đầu, chiến đấu và bắn về phía quân địch như bất cứ một người chiến sĩ khinh binh dũng cảm nào của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Vị Tướng mà đã đi vào huyền thoại quân lực và chiến sử Việt Nam, chính là Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, Chỉ Huy Trưởng Tình Báo và An Ninh Quân Đội, cựu Tư Lệnh Phó Không Quân QLVNCH.
Cuộc đời của Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan là cả một tấm gương sáng. Là một phi công ưu tú của quân chủng Không Quân, người đã có hàng ngàn giờ bay trên nhiều loại phi cơ oanh tạc chiến đấu, sự dũng cảm phi thường của ông đã đưa ông lên đến chức vụ cao tột Tư Lệnh Phó Không Quân Việt Nam Cộng Hòa trong những năm 1960 sau cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Chính là người đã dẫn đầu những phi đoàn Bắc phạt A1 Skyraider nằm trong khuôn khổ chiến dịch "Mũi Tên Lửa " (Flamming Dart) ngày 11.2.1965, dũng mãnh lao xuyên qua những làn đạn phòng không kinh khủng của giặc bắn phá hang ổ địch và những địa điểm tàng trữ các phương tiện chiến tranh mà từ đó Hà Nội trang bị cho binh đội của họ tràn qua vĩ tuyến 17 tàn sát đồng bào miền Nam. Trong những giây phút lơ lửng giữa sự sống và cái chết trên bầu trời miền Bắc, những chiếc A1 do Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan chỉ huy đã đánh những chùm bom chính xác rải lên đầu bọn cuồng khấu. Để cho chúng biết rằng, dù những chiếc A1 bay chậm và lỗi thời, không thể nào địch nổi những chiếc MIG 17, 19, 21 phản lực cơ tối tân mà Nga Sô và Trung Cộng đã viện trợ cho Không Quân Bắc Việt, những người trai anh dũng của Việt Nam Cộng Hòa vẫn quyết tâm chiến đấu cho sự sống còn của dân tộc. Trong một phi vụ vượt vĩ tuyến, có một lần Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan đã phải đau xót nhìn chiếc phi cơ của anh hùng Thiếu Tá Phạm Phú Quốc trúng đạn giặc và nổ bùng thành một chiếc hoa lửa đỏ giữa bầu trời xanh thẳm.
Sau những chiến công lừng lẫy trên bầu trời miền Bắc và sau khi chiến dịch "Mũi Tên Lửa" chấm dứt, Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan được vinh thăng Chuẩn Tướng và được điều động về làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương và Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia cùng lèo lái con thuyền quốc gia kể từ ngày 19.6.1965, sau khi đã gạt bỏ được Đại Tướng Nguyễn Khánh ra khỏi chức vụ Thủ Tướng Chính Phủ, vì những yếu kém và bất lực của ông này. Ngày 19.6 từ đó được chọn là "Ngày Quân Lực", biểu trưng của ngày mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tái lập trật tự và điều hành guồng máy quốc gia. Trong những năm đó, Chuẩn Tướng Loan được sự tín nhiệm của Thiếu Tướng Kỳ, đã là một vị tướng hết sức mẫn cán, ông thẳng tay bố ráp và truy lùng bọn cộng sản nằm vùng, bọn tình báo địch xâm nhập đô thành.
Cảnh Sát Quốc Gia của ta trong thời kỳ đó đã hốt được nhiều mẻ lớn. Là một vị tướng năng nổ, ông đã được chính phủ cử ra Trung cùng một số tướng lãnh tài năng khác bình định vụ biến động Phật giáo trong năm 1966. Ngoài Vùng I tình hình vô cùng rối ren với sự khuấy động của Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, sự bất tuân phục của ông này vì sự tranh giành quyền lực với chính phủ trung ương, và sự quá khích của những thành phần Phật giáo. Có đến một trung đoàn quân đội ngoài Vùng I tham gia phe ly khai. Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan, với sự giúp sức của các cấp quân sự thuộc binh chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Giáp, đã nhanh chóng bình định được tình thế, với một sự thiệt hại về nhân mạng và vật chất ở mức tối thiểu ngoài sự mong đợi của chính phủ trung ương. Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi được cho đi Hoa Kỳ. Cơn sóng gió tưởng chừng có thể làm ngửa nghiêng đất nước và mối hiểm họa binh đội cộng sản lăm le tràn xuống nuốt lấy Việt Nam Cộng Hòa đã được những viên tướng tài giỏi nhất của Việt Nam Cộng Hòa san bằng. Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan được vinh thăng Thiếu Tướng.
Với quyền lực to lớn, với ánh hào quang và những phương tiện vật chất dồi dào ấy, đáng lẽ ông phải vun vén cho riêng cá nhân mình một cái gì đó. Nhưng kỳ diệu và đáng kính phục biết ngần nào, cuộc sống của người bình dị và đơn sơ quá, người không có tài sản gì đáng giá. Ở giữa một xã hội vật chất phù phiếm và đua tranh, chung quanh ông đầy dẫy những tấm gương tham nhũng của những yếu nhân tai to mặt bự, với những cảnh ăn chơi xa hoa trụy lạc thâu đêm suốt sáng, thì tấm gương thanh liêm của người cùng với một số hiếm hoi các tướng lãnh khác giống như những viên ngọc quí nằm trong mớ tro củi bẩn thỉu. Ông không lấy của công làm của tư, không có biệt thự riêng, chỉ ở nhà của chính phủ cấp cho, một chiếc xe Jeep, một chiếc áo giáp, một cây súng và một trái tim dành cho nước non.
Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan sinh ngày 11.12.1930 tại Huế, khi vào lính ông được gửi đi học Khóa 1 Trường Võ Khoa Thủ Đức. Tốt nghiệp Thủ Đức, tân sĩ quan Nguyễn Ngọc Loan về phục vụ trong Lực Lượng Xung Kích Việt-Pháp năm 1952. Nhưng đến năm sau ông lại được gửi đi thụ huấn khóa phi công tại Trường Không Quân Salon De Provence tại Pháp và trở thành người phi công lái khu trục cơ đầu tiên của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa kể từ năm 1956. Khoảng đầu những năm 1960 ông nhận nhiệm vụ làm Chỉ Huy Trưởng Phi Đoàn 2 Quân Sát đóng tại Nha Trang. Bốn năm sau, Đại Tá tân thăng Nguyễn Ngọc Loan được tín nhiệm chức vụ cao quí tột bậc quân chủng, Tư Lệnh Phó Không Quân VNCH. Bắt đầu từ năm 1965, Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan được điều về làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội, Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo. Một thời gian sau ông được vinh thăng Thiếu Tướng.
Một trong những câu chuyện vẫn còn được những thuộc cấp kể cho nhau nghe về lòng độ lượng và thương yêu thuộc cấp của Thiếu Tướng Loan. Một đám cận vệ của "Anh Sáu"(chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia và Cảnh Sát Dã Chiến kính trọng và mến thương gọi Tướng Loan, dĩ nhiên là gọi sau lưng. Đứng nghiêm trình diện trước mặt người dù không có tội gì cũng đã thấy muốn...vãi đái trong quần, ở đó mà anh Sáu với lại anh Năm) đang ngồi binh xập xám ở phòng ngoài của Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, Tướng Loan đang nằm lim dim nghỉ trên một cái sofa ở phòng trong. Bọn "nhỏ" mê mẩn sát phạt nhau hung quá không nhận ra "Anh Sáu" đã thức giấc lúc nào và đang nhẹ nhàng như một con báo lướt ra khỏi cửa phòng. Người đứng nhìn đám đàn em thân thiết, tủm tỉm cười và nghĩ ra một trò chơi nhỏ mà sẽ làm cho mấy thằng em lên ruột lên gan chút chơi. Con người kinh khủng đó cũng có khiếu khôi hài lạnh quá đi. Ông lẳng lặng biến mất ra khỏi Tổng Nha CSQG, leo lên chiếc Jeep cùng tài xế nhấn ga dọt mất. Mãi một lúc sau, có một anh lính tình cờ nhìn vào bên trong, chiếc sofa trống trơn, Tướng Loan đã biến mất. Đám cận vệ nhốn nháo, mặt mũi xanh mét như tàu lá chuối vứt bài tứ tung la hoảng :" Ổng đi mất tiêu rồi! ". Cả bọn hối hả quơ súng ống chạy túa ra như bị ma rượt. Thiếu Tướng Loan dũng cảm trên chiến trường, nhưng cũng rất dồi dào tình yêu thương thuộc cấp. Khi thuộc cấp lầm lỗi, ông không trừng trị họ bằng những phương cách thô bạo, mà ông chỉ làm cho họ cảm phục quyết định và tự thấy xấu hổ trước vị chỉ huy của mình, từ đó họ sẽ sửa chữa và làm những công việc tốt đẹp để chuộc lỗi.
-- Ke Si Bac Ha (ke_si_bac_ha@yahoo.com), September 21, 2004
RFA * 30 THÁNG 4 -1975
Ảnh của Trần Khiêm:
Một khía cạnh khác trong sự kiện “Giải Phóng Miền Nam”
Trân Văn, phóng viên RFA
2010-04-24
Trong 35 năm qua, tuy đã có khá nhiều tài liệu, phim, ảnh liên quan đến giai đoạn cuối của cuộc chiến giữa hai miền Nam – Bắc được các bên có liên quan công bố, song người ta tin rằng, vì nhiều lý do, vẫn còn nhiều tài liệu, phim, ảnh khác về giai đoạn này chưa được bạch hóa.
Một trong những nguồn tư liệu thuộc dạng đó là bộ ảnh khoảng 200 tấm
của ông Trần Khiêm, từng là cựu phóng viên của hãng truyền hình CBS và
hãng ABC News của Hoa Kỳ tại Việt Nam, trước tháng 4 năm 1975.
Bộ ảnh vừa kể ghi lại những hình ảnh liên quan đến sự kiện Quân Đoàn 1
của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, cũng như dân chúng rút khỏi Huế và Đà
Nẵng hồi cuối tháng 3 năm 1975, để rồi một tháng sau đó tới lượt Sài
Gòn thất thủ.
Nhân dịp ông Trần Khiêm, 78 tuổi, quyết định trưng bày bộ ảnh này tại
nhật báo Việt Herald, Nam California, Trân Văn đã phỏng vấn ông Trần
Khiêm...
Hình ảnh về một sự thật khác
Đã có khá nhiều bài viết, tài liệu, thậm chí tiểu thuyết, tường thuật
về cuộc triệt thoái của quân đội và dân chúng miền Nam khỏi Huế, rồi
Đà Nẵng hồi hạ tuần tháng 3 năm 1975, song phim, ảnh ghi lại các diễn
biến liên quan đến sự kiện này không nhiều. Cũng vì vậy, bộ ảnh của
ông Trần Khiêm trở thành đặc biệt.
Bộ ảnh khắc họa chi tiết Huế ra sao khi cuộc triệt thoái diễn ra và Đà
Nẵng hỗn loạn, ngổn ngang thế nào vào những ngày cuối cùng của tháng 3
năm 1975.
Một phần chạy về cửa Thuận An để tàu hải quân đón về Đà Nẵng, một phần thì đi thuyền, đi ghe vào Đà Nẵng, một phần nữa - phần chính là dân chúng rút về Đà Nẵng tị nạn qua con đường đèo Hải Vân.Ông Trần Khiêm
Bộ ảnh này cho thấy một điểm đáng chú ý là trong cuộc triệt thoái đó,
không chỉ có quân đội Việt Nam Cộng Hòa rút khỏi Huế và Đà Nẵng. Đi
theo họ còn rất đông thường dân. Việc hàng chục ngàn người cả lính lẫn
dân ngồi xe, đi bộ, gồng gánh tài sản, con cái, thậm chí dắt cả trâu
bò rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả ông bà, cha mẹ, nói lên nhiều
điều mà bút mực không thể diễn đạt thấu đáo.
Bộ ảnh còn minh họa các thảm cảnh xảy ra tại bãi biển Mỹ Khê, Đà Nẵng
vào những ngày cuối cùng của tháng 3 năm 1975, vốn đã được nhiều bài
viết, tài liệu, tiểu thuyết đề cập. Sau khi xem qua bộ ảnh này, chúng
tôi đã đề nghị ông Trần Khiêm, tác giả bộ ảnh, dành cho thính giả của
Đài Á Châu Tự Do ít phút:
Trân Văn: Ông đã thấy những gì vào thời điểm Quân Đoàn I phải bỏ Huế để rút vào Đà Nẵng?
Ông Trần Khiêm: Sự thật mà nói thì dân chúng và quân đội rất ngạc nhiên không hiểu tại sao.
Trước khi rút thì tôi có gặp Trung tướng Ngô Quang Trưởng một lần với ông Phó lãnh sự Mỹ ở Đà Nẵng. Trung tướng có nói rằng: “Chúng tôi không để mất Đà Nẵng vì chúng tôi có lệnh giữ từ đèo Hải Vân về phía Nam”. Ông hỏi tôi là: “Sao, có đi không?”. Tôi nói: “Nếu mà Trung tướng ở lại thì chắc tôi cũng phải ở lại”... nhưng mà không ngờ mất nhanh đến thế!
Khi Trung tướng về Đà Nẵng rồi thì đến ngày 20 dân chúng Huế bắt đầu
tán loạn, mạnh người nào người đó đi. Tôi nghĩ do Thủy Quân Lục Chiến
và Nhảy Dù rút ra khỏi Huế nên dân chúng hoảng hốt mà chạy theo. Một
phần chạy về cửa Thuận An để tàu hải quân đón về Đà Nẵng, một phần thì
đi thuyền, đi ghe vào Đà Nẵng, một phần nữa - phần chính là dân chúng
rút về Đà Nẵng tị nạn qua con đường đèo Hải Vân.
Trân Văn: Ông nói dân chúng là tất cả dân chúng hay một phần dân chúng?
Ông Trần Khiêm: Tôi không xác nhận được. Những vùng ở thôn quê
thì người ta không di tản nhưng mà thành phố Huế thì di tản 100%.
Bằng chứng là tôi đã ghi nhận được bằng hình ảnh thành phố Huế bỏ
trống.
Trân Văn: Thưa ông, ở thời điểm đó, phía bên kia đánh vào
Huế chưa, hay cuộc rút lui bắt đầu do Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến
rút ra khỏi Huế?
Ông Trần Khiêm: Lý do dân chúng hoảng hốt, dân chúng chạy vì Thủy Quân Lục Chiến với Nhảy Dù đã bỏ thành phố Huế mà rút đi trước.
Bóng ma trong quá khứ
Trân Văn: Trước đó, vào thời điểm đó và sau này, người ta
vẫn nói rằng cuộc chiến do miền Bắc khởi xướng là cuộc chiến Giải
Phóng Miền Nam, chống xâm lược Mỹ và chính quyền tay sai, thế thì tại
sao dân chúng, vốn dĩ là đối tượng được giải phóng lại bỏ đi như thế?
Ông Trần Khiêm: Theo thiển ý của tôi, tôi nghĩ cái đó rất là
phức tạp. Ngày đó có một phần dân chúng chờ đón Việt Cộng, một phần
thì sẵn sàng chạy. Hai phe rõ ràng như vậy nhưng mà phe ở thành phố,
phe mà người ta đi một cách mạnh mẽ là vì ảnh hưởng của Mậu Thân
(1968).
Trân Văn: Điều gì đã xảy ra vào thời điểm Mậu Thân ở tại Huế?
Ông Trần Khiêm: Quân giải phóng đã giết nhiều người quá thành
ra dân chúng sợ. Dân chúng sợ đến nỗi nghe nói chạy là chạy thôi,
chẳng cần suy nghĩ nữa, tại vì những người còn sống sau Mậu Thân ở Huế
thì sống một cách là sợ hãi, chết lúc nào không biết, giống như là
đàn anh, đàn chị, đàn cha của họ đã bị chết đó nên họ sợ lắm.
Trân Văn: Số người chết năm Mậu Thân tại Huế khoảng bao nhiêu?
Ông Trần Khiêm: Theo người ta đồn miệng thì là 12.000 người nhưng mà theo tài liệu, báo chí thì vào khoảng 7.000 người.
Fact box | |
|
Trân Văn: Họ chết như thế nào?
Ông Trần Khiêm: Việt Cộng dẫn họ ra bãi cát và bắt họ
tự đào hầm, lấy dao chặt đầu với lấy cuốc đánh vào đầu trước khi đạp
xuống hố. Người nhà đi kiếm, đi ngang qua đó nghe dưới hầm rên và đất
rung lên.
Trân Văn: Ông có mặt tại Huế vào năm 1968?
Ông Trần Khiêm: Tôi có mặt ở Huế vào sáng Mùng 2 Tết 1968, lúc đang đánh nhau.
Trân Văn: Đó là sau khi cuộc thảm sát đã diễn ra hay cuộc thảm sát đang diễn ra?
Ông Trần Khiêm: Sau khi cuộc thảm sát đã diễn ra rồi tôi mới tới.
Trân Văn: Thời điểm 1968 ông đến Huế vì lý do gì?
Ông Trần Khiêm: Vì là phóng viên được chỉ định đi.
Trân Văn: Như vậy cuộc thảm sát Tết Mậu Thân là chuyện có thật?
Ông Trần Khiêm: Một trăm phần trăm có thật. Khi đào xác lên tôi còn quay phim, chụp hình được nữa.
Trân Văn: Theo ông thì sự kiện dân chúng Huế bỏ xứ vào Nam
là có nguyên nhân sâu xa từ những ấn tượng kinh hoàng mà họ đã từng
chứng kiến, đã từng biết vào năm 1968?
Ông Trần Khiêm: Thưa ông đúng vậy, chắc chắn 100% lòng dân Huế là như vậy đó.
Trân Văn: Ông là người Huế?
Ông Trần Khiêm: Tôi là người Huế.
Thà chết chứ không muốn được “giải phóng”
Trân Văn: Thưa ông, bây giờ quay trở lại với sự kiện năm
1975, khi mà lực lượng Dù và Thủy Quân Lục Chiến rút khỏi Huế, người
dân đi theo như thế nào? Ông đã thấy những gì?
Ông Trần Khiêm: Đa số dân đi theo Thủy Quân Lục Chiến, với Dù,
với quân đội là mượn đường để đi theo lính. Sự thật thì họ cũng chẳng
muốn đi theo lính vì đi theo lính có thể bị phục kích nhưng mà họ phải
theo, coi như lính mở đường cho dân chúng đi.
Trân Văn: Trong những tấm ảnh ông chụp ở thời điểm đó, tôi
thấy có khá nhiều phụ nữ, khá nhiều trẻ em bị thương và bị chết. Tại
sao họ lại bị thương và bị chết?
Ông Trần Khiêm: Lúc đó khi dân chúng chạy lẫn lộn với lính. Sự
thật là lính chạy thì dân chạy theo. Họ đi không định hướng hoặc phải
đi bao nhiêu ngày hoặc phải đi như thế nào, đường mở rồi là đi thôi
nhưng mà không ngờ là Việt Cộng chận lính.
Quân giải phóng đã giết nhiều người quá thành ra dân chúng sợ.Ông Trần Khiêm
Trân Văn: Trên đường ông đi từ Huế vào Đà Nẵng cùng với lính và dân thì có khoảng bao nhiêu cuộc phục kích đã xảy ra?
Ông Trần Khiêm: Tôi chứng kiến được hai cuộc phục kích, một
xảy ra ở Đá Bạc, Huế, trước khi lên đèo. Cuộc phục kích chớp nhoáng
thôi nhưng cũng làm thiệt hại một số lính Thủy Quân Lục Chiến và một
số dân. Rồi hai ngày hôm sau, khi mà đoàn quân bắt đầu xuống đèo Hải
Vân thì...
Trân Văn: Đoàn quân hay đoàn người ?
Ông Trần Khiêm: Đoàn người! Cả lính và dân cùng đi, gần xuống
đèo Liên Chiểu thì bị pháo kích và họ bắt đầu tấn công thêm một lần
nữa. Lần này là lần lớn nhứt, thành ra các vị đã thấy trong hình, đàn
bà, trẻ con và lính chết cũng khá nhiều.
Trân Văn: Như vậy là họ pháo vào đoàn người bằng đại bác và tấn công trực diện bằng bộ binh?
Ông Trần Khiêm: Họ không dùng đại bác nhưng mà họ dùng mortier (súng cối) 82mm, 81mm và B-40.
Trân Văn: Bắn trực diện vào đoàn người?
Ông Trần Khiêm: Bắn trực diện. Họ ở hai bên đèo, đoàn người đang đi ở giữa đường, thành ra khó chống đỡ lắm.
Trân Văn: Nạn nhân chủ yếu sau những cuộc phục kích đó là ai? Là lính hay là dân?
Ông Trần Khiêm: Là lính. Họ không nghĩ là giết dân. Họ muốn
chặn dân ở lại thôi, họ không cho đi theo lính hoặc là không muốn bỏ
trống thành phố, tại vì họ nghĩ rằng, nếu chiếm được đất mà không
chiếm được người thì cũng vô ích thôi. Nên chi cả hai trận đánh đó mục
đích là chận dân lại ở với họ thôi.
Trân Văn: Thế còn Đà Nẵng thì sao? Khi đoàn người rút về đến Đà Nẵng thì tình hình Đà Nẵng vào thời điểm đó như thế nào?
Ông Trần Khiêm: Khi mà lính vào Đà Nẵng thì thành phố rất là
hỗn loạn, đông nghịt người. Người nào cũng biết là thế nào cũng mất Đà
Nẵng rồi thành ra người nào cũng lo kiếm phương tiện.
Từ ngày 25 cho tới 28, sân bay Đà Nẵng là một sự lộn xộn không thể nói
được. Một phần thì pháo kích, một phần thì dân chúng đổ xô vào sân
bay, máy bay không đáp được. Một lần máy bay đáp được thì coi như máy
bay bị ăn cướp, người ta tha hồ dắt nhau lên, đến nỗi có nhiều người
kẹp vào chân máy bay để ra đi.
Còn thuyền thì như là thương thuyền Trường Thành, dân chúng tràn lên
không ai có thể cản được, đến nỗi con thuyền nghiêng gần chìm, quan
tàu phải nói, một là bỏ con thuyền, hai là quý vị muốn chạy thì phải
bớt người xuống. Những người nào không lên được thì chịu thôi.
Trân Văn: Trong tình trạng hỗn loạn đó thì nạn nhân chủ yếu là đối tượng nào?
Ông Trần Khiêm: Lúc đó thì cả dân và cả lính giống nhau.
Trân Văn: Hồi nãy, trong phần đầu cuộc trò chuyện, ông có
nói, sở dĩ dân chúng thành phố Huế bỏ đi vì họ bị ám ảnh bởi cuộc thảm
sát đã từng xảy ra vào Tết Mậu Thân, năm 1968, Đà Nẵng thì chưa từng
có cuộc thảm sát nào như thế. Vậy tại sao dân chúng Đà Nẵng cũng muốn
bỏ đi để dẫn đến tình trạng là mọi người tranh giành nhau phương tiện,
nhằm tìm cách thoát ra khỏi Đà Nẵng?
Ông Trần Khiêm: Miền Trung có sự liên hệ dây chuyền: Huế - Đà
Nẵng - Quảng Trị. Ví dụ như năm 1972, Quảng Trị mất thì dân chúng
Quảng Trị dồn vô Huế. Bây giờ Huế mất thì dân chúng Huế dồn vô Đà
Nẵng. Đà Nẵng cũng nhiều rồi mà dồn thêm cả hai tỉnh miền Trung là cả
Huế cả Quảng Trị thì là quá nhiều rồi, thành ra vì lẽ đó ...
Trân Văn: Nói chung, theo ông sở dĩ cuộc di tản trở thành
hỗn loạn, sở dĩ có tình trạng người ta giành giật phương tiện để thoát
ra khỏi Đà Nẵng là vì người ta sợ phải sống chung, sợ sự hiện diện
của quân đội Bắc Việt?
Ông Trần Khiêm: Cái đó thì tôi không khẳng định, tôi không dám
nói nhưng mà hầu hết là người ta sợ chuyện sẽ xảy ra lần thứ hai như
Mậu Thân.
Một phần thì pháo kích, một phần thì dân chúng đổ xô vào sân bay, máy bay không đáp được. Một lần máy bay đáp được thì coi như máy bay bị ăn cướp, người ta tha hồ dắt nhau lên, đến nỗi có nhiều người kẹp vào chân máy bay để ra đi.Ông Trần Khiêm
Trân Văn: Trong những ảnh ông chụp và là những tấm ảnh lần
đầu được công bố, người ta thấy bãi biển Mỹ Khê ở Đà Nẵng rất hỗn loạn
và sau đó thì hết sức ngổn ngang.
Điều gì là ấn tượng đậm nhất cho ông trong giai đoạn cuối tháng 3 năm 1975?
Ông Trần Khiêm: Sự kiện làm cho tôi khủng khiếp nhứt, không làm
sao tôi quên được là từ ngày 28 cho đến ngày 29 tháng 3, tôi chứng
kiến trẻ con và dân chúng rớt xuống sông nhiều quá, khi giành nhau để
leo lên con thuyền. Họ rớt xuống sông trong đêm tối và nước chảy xiết
quá, rồi trôi mất, người ta chỉ đứng trên tàu khóc lóc và la ó thôi
chứ không làm gì được cả.
Vào lúc 2 giờ 30 chiều ngày 28, con tàu bắt đầu rời bến mang theo 12.000 người đi về Nam ...
Trân Văn: Tại sao theo đoàn người di tản từ Huế vào đến Đà
Nẵng, tận mắt chứng kiến nhiều thảm cảnh trên con đường di tản nhưng
ông lại không công bố những hình ảnh ông đã chụp, phải đợi cho đến
ngày hôm nay ?
Ông Trần Khiêm: Thưa anh, đó là nỗi khổ tâm của tôi. Tôi mà
“show” (trưng bày) lên thì coi như bôi nhục chính phủ... Vì vậy mà tôi
nghiến răng, tôi giữ cho đến ngày hôm nay.
Đã 35 năm qua rồi, nó nguội lạnh rồi, tôi khơi lại một tí để cho con
cháu nó biết là mình khổ như vậy, mới có sự ra đi như thế này. Mình
phải trả giá thật đắt. Cha ông chúngta phải trả giá quá đắt.
Theo dự tính, cuộc triển lãm bộ ảnh ghi lại những hình ảnh liên quan
đến sự kiện quân đội Việt Nam Cộng Hòa, cũng như dân chúng rút khỏi
Huế và Đà Nẵng hồi cuối tháng 3 năm 1975 của ông Trần Khiêm sẽ diễn ra
trong ba ngày, từ 30 tháng 4 đến 2 tháng 5, tại hội trường nhật báo
Việt Herald, Nam California, Hoa Kỳ.
Quý vị có thể xem qua một số hình ảnh trong bộ ảnh này trên trang web của Ban Việt ngữ Đài Á châu Tự do.
Theo dòng thời sự:
- Hồi ức tuần lễ cuối cùng ở Sài Gòn, 30/4/1975 kết thúc chiến tranh VN
- Đâu rồi lợi thế 35 năm?
- Quốc Hội California thông qua nghị quyết “Tuần lễ Tưởng niệm Tháng 4 Đen”
- Chuyện chưa kể của người lái trực thăng di tản
- Mốc lịch sử 30-4-1975 và những kỳ vọng cho đất nước
- Cái giá của Tự Do
- “Ai Đã Giết Người Dân Huế?” Câu Hỏi 40 Năm Chưa Trả Lời
- Huế, 25 ngày kinh hoàng của 40 năm trước
- Hành trình đi theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam của một số trí thức miền Nam(phần 1)
- Huế, 40 năm sau Tết Mậu Thân, vết thương vẫn chưa lành
- Copyright © 1998-2010 Radio Free Asia. All rights reserved.
- http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Khiem-tran-and-the-pictures-never-show-about-vietnam-war-tvan-04242010105257.html
THƠ Ý NGA
NGƯỜI “MAY” ÁO QUAN
Viết thay nén hương đưa tiễn một Người Lính.
Tôi là lính ra tù không manh áo
Vượt qua bao lửa máu tìm bình an,
Mưu sinh nghề đánh bóng những áo… quan
Đổi bát gạo nuôi đàn con nheo nhóc.
Mỗi chiếc “áo” làm ra tôi đều khóc
Nhớ bạn bè đất Bắc da bọc xương
Chiếu rách tìm, dù nhỏ hẹp tầm thường
Cũng không có bọc xác thân cùng cực.
Tay xóc dằm, gò từng manh… ký ức
Đóng, đục, cưa cho người lạ nằm vừa,
Lót vải êm bao hòm gỗ cài hoa
Và nước mắt cứ ứa… ngày bi lụy.
Tôi sáng, tối gò từng manh gỗ quý
Thương bạn thân, những thằng đã ra đi
Xót vợ hiền tần tảo bao hiểm nguy
Nuôi con dại chờ chồng, không thấy mặt.
Ngày em mất trời mưa râm bi đát
Hai thằng con ráp những mảnh ván giường
Giữa ruộng nương “kinh tế mới”, thắp hương
Nhường mẹ… ngủ bình an nơi cõi Phật.
Tôi may áo, áo cho người hoàn tất
Mà dân tôi áo rách đỏ “thiên đường”
Người lạ xa, thân được tẩm thơm hương
Xong một áo, áo nào tôi cũng khóc!
Tôi may áo bằng mưu toan đại cuộc
Buộc thân tàn phải âm ỷ lòng son
Dạy các con: -Chiếc Áo Mộng chưa tròn
Còn ấm áp, phải yêu hoài Tổ Quốc!
Ý Nga, 2.1.2010.
EM ƠI! MẸ ĐI TÌM… BA RỒI!
Kính dâng hương linh Nhạc Mẫu
Anh mất mẹ, mùa đông buồn áo não
Giọt lệ nào diễn tả hết lòng đau?
Nghĩa ân sâu… ngân nốt nhạc nghẹn ngào
Anh mất Mẹ! Từ nay xa vĩnh viễn!
Mới thăm viếng, còn nghe lời trìu mến
Lời mắng yêu còn thơm tựa hương hoa
Mà giờ đây Thân Mẫu về trời xa
Thế là hết! Mẹ tìm… Ba, thong thả.
Đường Sinh-Tử, lẽ huyền vi sự sống
Em này em! Có ai cưỡng được không?
Em này em! Tiễn Mẹ, nghe mềm lòng
Chiều gió lộng, hướng nào anh thưa gửi????
Ý Nga.
LAM VI DAO * BIDONG
Những Kỷ Niệm Bidong
by Lamvi Dao.
“Đã có nhiều lần thức dậy trong đêm khuya, những ngày mưa lớn nhỏ, hoặc là những ngày nắng chói chang, tôi muốn gào thét lên: Pulau Bidong. Tôi muốn kêu tên Pulau Bidong thật to và mãi mãi. Tôi muốn kêu tên những người bạn cũ: Hân ơi, Trang ơi, Nhật ơi, Đạt ơi, các bạn đâu rồi? Tôi muốn cầm lại cái xô nước Supply, cái chén, cái muỗng, uống một gụm suối mát. Và tôi muốn quay lại với những hình bóng xưa, những âm thanh năm nào, cảnh vật xưa: hàng dừa, mái tôn, hạt cát. Tôi mong đợi ngày đó sẽ đặt chân lên cầu Jetty, ôm Bidong vào lòng, và sẽ nói “Bidong, anh đã về đây.”
Tuy tôi không phải là người cuối cùng rời khỏi Bidong nhưng trong lòng lúc nào cũng hướng về hòn đảo dấu yêu này qua những năm tháng lớn lên ở Mỹ. Vâng, không khác gì các bạn, trong lòng tôi có rất nhiều kỷ niệm khó mà quên được suốt thời gian “vacation” ở Bidong. Những kỷ niệm đó cứ lẩn quẩn đâu đây mặc dầu tôi đã xa Bidong vào một buổi sáng ngày nào. Có nhiều khi nhắm mắt, tôi cứ tưởng là mình vẫn còn ở Bidong. Gió thổi những lá dừa xào xạc.
Bidong, tuy xa nhưng anh vẫn nhớTội nghiệp em đêm khóc một mìnhKhông bến không tàu như ngày xưa đóChỉ có gió mưa, nắng cháy da người.(Lâmvi 2003, USA)
Vì để tiếp tục hành trình về “miền đất Freedom”, chúng ta đã tạm giã từ Bidong qua những ngày đầu sống xa quê hương, những ngày lênh đênh trên biển cả. Có người chỉ sống 1 hoặc 2 tháng với Bidong, nhưng cũng có người đã từng sống hơn 5 năm trên hòn đảo này. Nhưng chỉ cần một ngày ở với Bidong, chúng ta đã có biết bao ký ức với hòn đảo và với những đồng bào cùng chung số phận.
…Bidong giờ này ra sao rồi? Em có phải đang sống với những cây dừa cao vời vợi, với những ngôi mộ thiếu người chăm sóc, và những cái giếng đầu ngỏ longhouse hôm nào. Chắc em đã thiếu hẳng đi những âm thanh quen thuộc vào những buổi sáng và những cảnh chiếc tàu cập bến sau 4, 5 ngày lênh đênh trên biển Thái Bình Dương…từ Việt Nam..Bidong, tôi nhớ em nhiều lắm!Lâmvi,
Khi hồi tượng lại những cảnh Bidong, tôi cảm thấy mình như là cậu bé 14-15 tuổi của ngày nào trên một hòn đảo hoang dại. Cậu bé đó đã có những chuỗi ngày vui vẻ nhất trong đời suốt gần 3 năm “nằm chung với rệp, muỗi và chuột”. Tuy sống trong một hoàn cảnh rất là eo hẹp so với hiện tại, cậu ta ngày nào cũng vui vẻ với đời sống Bidong: xếp hàng lấy nước Supply, xếp hàng ở Khối Tiếp Liệu, học Anh ngữ, tham gia Thiếu Nhi Thánh Thể, đá banh, tắm biển, tắm suối, lên núi đốn củi, ăn mì gói …
Đối với cậu ta, những chuỗi ngày này là thời gian thoải mái và cũng là thời gian quí báu nhất của một đời người vì cậu đã nghe, nhìn và học hỏi những gì mà “15 năm sống trên nước Mỹ cũng không bằng 3 năm sống trên đảo”. Một cuộc sống có một không hai trên thế gian này đã dạy cậu ta những bài học đời xứng đáng.Sáng ăn mì gói, trưa có mẹ nấu cơm, chiều thì ra biển đá banh, câu cá, săn mựt, tới tối thì cùng các bạn tụ hợp ngoài biển cát mà tâm sự táng dóc. Hồi đó thật là vui đấy! Đời sống vô tư không lo âu chuyện gì cả. Nếu có đói bụng trước khi đi ngủ, một hay hai gói mì sẽ làm cậu ta thấy sảng khoái vô cùng. Còn nếu mà có đường thì hết chổ chê luôn, chúng ta sẽ có một nồi chè đậu xanh vừa thổi vừa ăn.
Cuộc sống hằng ngày của cậu bé ở đảo Bidong cứ như thế, cho đến khi có những chuyến tàu rời đảo mà lòng cậu thấy bâng khuâng, bịnh rịnh. Cậu bé chia tay từng thằng bạn, cô bạn được định cư nước thứ ba tại cầu Jetty và nhiều lần cậu bé ấy đã nhủ thầm “Không biết khi nào chúng mình sẽ gặp lại nhau, khi nào đây?”.
“Ngày mai em đi,biển nhớ tên em gọi vềgọi hồn liễu rũ lê thêgọi bờ cát trắng hoang vu…”
Tomorrow as you leave,the sea misses and recalls your name to return…Calling of your soul like a trailing willowCalling the white-sand bank in the wilderness(Bển Nhớ – Trịnh Công Sơn)
Thằng Đạt đi Na Uy, con Nhật đi Hoà Lan, con Hà đi Thụy Sĩ, thằng Hân, con Trang thì đi Mỹ. Còn thằng Sáu mập? bị trả về Việt Nam cùng với bố nó. Cứ như thế mà bạn bè cậu ta ở đâu cũng có trên trái đất này. Sáu mập, giờ này mày ra sao?
Và một ngày kia, cậu bé đó cũng phải giã từ Bidong: lòng buồn biết bao. Định mệnh của những người ở lại vẫn còn đỏ đen sau ngày đóng cửa đảo. Ngôi nhà thờ kia đã dạy cậu ta biết bao điều chân lý. Tiếng chuông chùa vẫn còn vang bên tai.À, nhớ ra rồi, khi đêm về, chuột bò đầy đường, con nào con nấy bự như con mèo vậy. Nếu có mèo trên đảo, chắc là các chú mèo không sống được bao lâu với bầy chuột “đảo”, chỉ có cách là chạy lên núi làm mưa làm gió với các chú chuột rừng mà thôi. Nhưng mà ai bảo có nhiều chuột là xấu đâu. Nhờ vì vậy mà gia đình cậu ta có thêm sữa, mì gói, đậu xanh và đường.
Các bạn có biết không, khi đêm về mọi người đang trong giấc ngũ, cậu bé đó cùng với chú Nam, trở thành những tay thiện xạ cao thủ mà chuột thấy là hoảng sợ chạy toán loạn. Cháu một cây súng, chú một cây súng, hai chú cháu đã bắn hạ từng con chuột trong khi chúng còn đang phân vân tự hỏi “hai thằng không ngũ, mà đang làm chi vậy?”. Chỉ cần hai giây thôi: 1 giây, 2 giây, mũi tên xuyên qua mình những chú chuột. Có chạy cũng bằng thừa thôi, vì mũi tên đã được buột giây, thế là chú cháu kéo mũi tên lại và lại có một chiến lợi phẩm nữa để đem đi đổi lấy đồ ăn.
Cũng vì vậy mà có một lần chú Nam bắn hụt một con chuột, mũi tên đâm lủng cái nồi cơm của một người nào đó ở chung longhouse. Qua ngày sau, chú Nam hì hụt lấp lại cái nồi đó cho người ta. Cậu bé đó cũng đâu chịu thua, Có lần, cậu ta bắng lủng cái thùng nước của người nào đó trong khu thanh nữ (Women Zone). Hên là các bà đang ngũ say, nên cậu ta âm thầm rút mũi tên ra, lẻn về nhà, mặc kệ cái thùng nước lủng ấy. Thật là xấu hổ!
*
Posted by sontrung at 6:59 PM 0 comments
Labels: BÊN KIA B
by Lamvi Dao.
“Đã có nhiều lần thức dậy trong đêm khuya, những ngày mưa lớn nhỏ, hoặc là những ngày nắng chói chang, tôi muốn gào thét lên: Pulau Bidong. Tôi muốn kêu tên Pulau Bidong thật to và mãi mãi. Tôi muốn kêu tên những người bạn cũ: Hân ơi, Trang ơi, Nhật ơi, Đạt ơi, các bạn đâu rồi? Tôi muốn cầm lại cái xô nước Supply, cái chén, cái muỗng, uống một gụm suối mát. Và tôi muốn quay lại với những hình bóng xưa, những âm thanh năm nào, cảnh vật xưa: hàng dừa, mái tôn, hạt cát. Tôi mong đợi ngày đó sẽ đặt chân lên cầu Jetty, ôm Bidong vào lòng, và sẽ nói “Bidong, anh đã về đây.”
Tuy tôi không phải là người cuối cùng rời khỏi Bidong nhưng trong lòng lúc nào cũng hướng về hòn đảo dấu yêu này qua những năm tháng lớn lên ở Mỹ. Vâng, không khác gì các bạn, trong lòng tôi có rất nhiều kỷ niệm khó mà quên được suốt thời gian “vacation” ở Bidong. Những kỷ niệm đó cứ lẩn quẩn đâu đây mặc dầu tôi đã xa Bidong vào một buổi sáng ngày nào. Có nhiều khi nhắm mắt, tôi cứ tưởng là mình vẫn còn ở Bidong. Gió thổi những lá dừa xào xạc.
Bidong, tuy xa nhưng anh vẫn nhớTội nghiệp em đêm khóc một mìnhKhông bến không tàu như ngày xưa đóChỉ có gió mưa, nắng cháy da người.(Lâmvi 2003, USA)
Vì để tiếp tục hành trình về “miền đất Freedom”, chúng ta đã tạm giã từ Bidong qua những ngày đầu sống xa quê hương, những ngày lênh đênh trên biển cả. Có người chỉ sống 1 hoặc 2 tháng với Bidong, nhưng cũng có người đã từng sống hơn 5 năm trên hòn đảo này. Nhưng chỉ cần một ngày ở với Bidong, chúng ta đã có biết bao ký ức với hòn đảo và với những đồng bào cùng chung số phận.
…Bidong giờ này ra sao rồi? Em có phải đang sống với những cây dừa cao vời vợi, với những ngôi mộ thiếu người chăm sóc, và những cái giếng đầu ngỏ longhouse hôm nào. Chắc em đã thiếu hẳng đi những âm thanh quen thuộc vào những buổi sáng và những cảnh chiếc tàu cập bến sau 4, 5 ngày lênh đênh trên biển Thái Bình Dương…từ Việt Nam..Bidong, tôi nhớ em nhiều lắm!Lâmvi,
Khi hồi tượng lại những cảnh Bidong, tôi cảm thấy mình như là cậu bé 14-15 tuổi của ngày nào trên một hòn đảo hoang dại. Cậu bé đó đã có những chuỗi ngày vui vẻ nhất trong đời suốt gần 3 năm “nằm chung với rệp, muỗi và chuột”. Tuy sống trong một hoàn cảnh rất là eo hẹp so với hiện tại, cậu ta ngày nào cũng vui vẻ với đời sống Bidong: xếp hàng lấy nước Supply, xếp hàng ở Khối Tiếp Liệu, học Anh ngữ, tham gia Thiếu Nhi Thánh Thể, đá banh, tắm biển, tắm suối, lên núi đốn củi, ăn mì gói …
Đối với cậu ta, những chuỗi ngày này là thời gian thoải mái và cũng là thời gian quí báu nhất của một đời người vì cậu đã nghe, nhìn và học hỏi những gì mà “15 năm sống trên nước Mỹ cũng không bằng 3 năm sống trên đảo”. Một cuộc sống có một không hai trên thế gian này đã dạy cậu ta những bài học đời xứng đáng.Sáng ăn mì gói, trưa có mẹ nấu cơm, chiều thì ra biển đá banh, câu cá, săn mựt, tới tối thì cùng các bạn tụ hợp ngoài biển cát mà tâm sự táng dóc. Hồi đó thật là vui đấy! Đời sống vô tư không lo âu chuyện gì cả. Nếu có đói bụng trước khi đi ngủ, một hay hai gói mì sẽ làm cậu ta thấy sảng khoái vô cùng. Còn nếu mà có đường thì hết chổ chê luôn, chúng ta sẽ có một nồi chè đậu xanh vừa thổi vừa ăn.
Cuộc sống hằng ngày của cậu bé ở đảo Bidong cứ như thế, cho đến khi có những chuyến tàu rời đảo mà lòng cậu thấy bâng khuâng, bịnh rịnh. Cậu bé chia tay từng thằng bạn, cô bạn được định cư nước thứ ba tại cầu Jetty và nhiều lần cậu bé ấy đã nhủ thầm “Không biết khi nào chúng mình sẽ gặp lại nhau, khi nào đây?”.
“Ngày mai em đi,biển nhớ tên em gọi vềgọi hồn liễu rũ lê thêgọi bờ cát trắng hoang vu…”
Tomorrow as you leave,the sea misses and recalls your name to return…Calling of your soul like a trailing willowCalling the white-sand bank in the wilderness(Bển Nhớ – Trịnh Công Sơn)
Thằng Đạt đi Na Uy, con Nhật đi Hoà Lan, con Hà đi Thụy Sĩ, thằng Hân, con Trang thì đi Mỹ. Còn thằng Sáu mập? bị trả về Việt Nam cùng với bố nó. Cứ như thế mà bạn bè cậu ta ở đâu cũng có trên trái đất này. Sáu mập, giờ này mày ra sao?
Và một ngày kia, cậu bé đó cũng phải giã từ Bidong: lòng buồn biết bao. Định mệnh của những người ở lại vẫn còn đỏ đen sau ngày đóng cửa đảo. Ngôi nhà thờ kia đã dạy cậu ta biết bao điều chân lý. Tiếng chuông chùa vẫn còn vang bên tai.À, nhớ ra rồi, khi đêm về, chuột bò đầy đường, con nào con nấy bự như con mèo vậy. Nếu có mèo trên đảo, chắc là các chú mèo không sống được bao lâu với bầy chuột “đảo”, chỉ có cách là chạy lên núi làm mưa làm gió với các chú chuột rừng mà thôi. Nhưng mà ai bảo có nhiều chuột là xấu đâu. Nhờ vì vậy mà gia đình cậu ta có thêm sữa, mì gói, đậu xanh và đường.
Các bạn có biết không, khi đêm về mọi người đang trong giấc ngũ, cậu bé đó cùng với chú Nam, trở thành những tay thiện xạ cao thủ mà chuột thấy là hoảng sợ chạy toán loạn. Cháu một cây súng, chú một cây súng, hai chú cháu đã bắn hạ từng con chuột trong khi chúng còn đang phân vân tự hỏi “hai thằng không ngũ, mà đang làm chi vậy?”. Chỉ cần hai giây thôi: 1 giây, 2 giây, mũi tên xuyên qua mình những chú chuột. Có chạy cũng bằng thừa thôi, vì mũi tên đã được buột giây, thế là chú cháu kéo mũi tên lại và lại có một chiến lợi phẩm nữa để đem đi đổi lấy đồ ăn.
Cũng vì vậy mà có một lần chú Nam bắn hụt một con chuột, mũi tên đâm lủng cái nồi cơm của một người nào đó ở chung longhouse. Qua ngày sau, chú Nam hì hụt lấp lại cái nồi đó cho người ta. Cậu bé đó cũng đâu chịu thua, Có lần, cậu ta bắng lủng cái thùng nước của người nào đó trong khu thanh nữ (Women Zone). Hên là các bà đang ngũ say, nên cậu ta âm thầm rút mũi tên ra, lẻn về nhà, mặc kệ cái thùng nước lủng ấy. Thật là xấu hổ!
*
Tháng ngày trên Pulau BidongTúy BạchƯớc mơ đến đảo Pulau Bidong an toàn
như một giấc chiêm bao được thành sự thật. Có biết bao người ra đi nhưng
chưa bao giờ đến, mất biệt tăm hơi. Tôi không thể diễn tả hết cảm xúc
của mình về những gì đã xảy ra trong hành trình vượt biển gian nguy này.
Ðôi khi, nhìn ra biển khơi, sóng vỗ rì rào không ngừng nghỉ. Tôi thiết
nghĩ, hơi thở con người ta lúc nào cũng phải điều hòa theo nhịp đập của
con tim. Sóng biển sẽ không bao giờ ngừng chuyển động. Hơi thở loài
người khi ngưng đập nghĩa là ta phải từ giã cõi đời này. Biển mà không
dồn dập thôi thúc bởi những lượn sóng muôn trùng thì không còn được gọi
là biển mênh mông nữa, mà là con sông hiền hòa phẳng lặng.Bầu trời vẫn
trong xanh lồng trong những đám mây bàng bạc lững lờ trôi trên đỉnh đầu.
Rất đẹp và nên thơ. Khi lênh đênh trên biển cả bao la, tôi chẳng thấy
lòng mình mơ mộng chút nào hết. Có lẽ lúc đó, đầu óc hoang mang lo sợ
của tôi không có thời giờ để ngắm nghía bâng quơ mà chỉ thấy cái chết và
sự sợ hãi đeo đuổi bám sát theo mình như đang hù dọa sẽ đem tôi nạp
mạng cho vua Thủy Tề.Giờ đây, ngồi trên bãi cát vàng mịn màng của đảo
Bidong, tâm trạng của tôi thật sự thanh thản như đang bay bổng trên
thiên thai vì vừa được sống lại từ cõi chết.Tôi được cho về ở chung nhà
với bốn trẻ nhỏ sẽ đi định cư nước Pháp, trong khu B, nơi có màn ảnh
chiếu phim giải trí trên đảo. Khu B nằm gần văn phòng Task Force của
lính Mã Lai. Từ đây chỉ cần vài bước thì ra tới chợ, rất tiện lợi. Ba
ngày đầu đặt chân lên đảo tôi bị say đất chỉ muốn nôn ói, đi đứng chao
đảo lật nhào vì bị chóng mặt, đầu óc cứ quay cuồng như vòng tròn xoay ba
trăm sáu mươi độ.Những ngày bồng bềnh trên biển thì ói ra tới mật xanh
mật vàng vì say sóng. Ðó là phản ứng bất ngờ khi người vừa từ đất liền
yên bình, bây giờ lại nằm ở vị thế ngã nghiêng chồng chành. Khi đặt chân
lên bờ thì trạng thái trái ngược lại, được gọi là bị say đất. Tôi nằm
mẹp suốt ba ngày liền, không đi đứng gì được vì đất trời múa may trước
mặt mình. Bọn trẻ chung nhà thấu hiểu nỗi khổ này vì chúng cũng đã trải
qua tâm trạng dập dùi như tôi khi vừa đặt chân lên đảo lúc xưa. Bé gái
khoảng mười lăm tuổi đã nấu cơm cho tôi ăn lót dạ, nhưng tôi nào có ăn
được gì đâu. Cơn chóng mặt hoành hành như chong chóng quay vù vù trước
ngọn gió bão giông. Tôi chỉ cố nằm nhắm mắt thiêm thiếp ngủ cho qua khỏi
ba ngày điên đảo. Cái bụng của tôi cũng không biết đói là gì. Có lẽ,
bao tử cũng còn co thắt lại y như những ngày đói rã rời trên biển.Mọi
người vừa nhập đảo phải lo thủ tục xin đi định cư nên thời gian sáng
chiều đều bận rộn ở văn phòng cao ủy. Nơi đó có phái đoàn Cao Ủy làm
việc để biết rõ nguyện vọng và tình trạng của mỗi người.Ba ngày bay bổng
lơ lững trên mây đã qua, mọi người trên ghe bắt đầu ra văn phòng cao ủy
tị nạn xúc tiến thủ tục đi định cư. Thời gian sàn lọc để được vào Mỹ là
khó nhất, có người phải chờ vài năm để được đi theo diện “ hốt rác “ vì
không nằm trong diện ưu tiên của Mỹ. Những người có gia đình thì chính
phủ Úc cho định cư nhanh hơn. Canada xét duyệt khó khăn vì bệnh trạng
phải được kiểm tra rất kỹ lưỡng. Chụp hình phổi là điều tiên quyết phải
có và phổi phải thật tốt, không dấu vết gì mới được Canada chấp nhận
đinh cư vì xứ quá lạnh rất nguy hiểm cho người có phổi bị yếu.Trên đảo
Bidong có bệnh viện Sick Bay do chính phủ New Zealand đài thọ, bỏ tiền
ra xây cất. Hội Hồng thập Tự của New Zealand cũng đề cử một người ở lại
coi sóc Sick Bay . Người phụ trách thường trực để giải quyết mọi vấn đề
của Sick Bay là một y tá người Tân Tây Lan. Y tá này cũng la nữ tu có
trách nhiệm trông coi Sick Bay với nhiệm kỳ là hai năm.Ban ngày, mỗi khi
văn phòng đảo loan tin trên loa phóng thanh có ghe đang tiến vô bờ thì
mọi người trong tất cả các khu đều đổ xô, túa tràn ra văn phòng trại để
kiếm tìm người thân. Bãi biển ồn ào nhộn nhịp khi có ghe nhập đảo. Ðêm
trôi qua êm đềm, bóng tối bao trùm tĩnh mịt, cánh gió rượt đuổi nhau
không mệt mõi trên đảo. Cảm giác không khí Saigon còn ràn rụa trong tôi
nhưng giây phút này nó đã thật sự xa tầm tay và không thể vói tới được
nữa. Vầng trăng trên vòm trời đen trong, lấp lánh những vì sao rơi rụng
sẽ là chứng nhân thầm lặng - giã từ Quê Mẹ.Trên đảo, đá đồi chập chùng
rất khó đi đi lại lại nên ai ở đâu thì nằm yên trong nhà. Những cây dừa
cao chót ngót, cong vẹo uốn mình theo cơn gió biển dạt dào. Thân cây ốm
nhỏ khẳng khiu như không đứng vững với đêm thâu, lắc lư chao đảo làm rơi
rụng những trái dừa tội nghiệp khi sức bám víu quá yếu ớt, đành buông
xuôi xuống đất.Thỉnh thoảng nghe tiếng động ... rầm rầm . Sáng ra mới
biết trái dừa buồn thỉu buồn thiu thả mình vô lối. Nếu vô tình trúng
ngay đầu người nào thì có thể chết ... dể dàng.Ông bà mình có câu: “
Trời kêu ai nấy dạ ”!Có những đêm khuya vắng lặng, ngoài tiếng sóng vỗ
rì rào và tiếng rít tru tréo của gió biển, loa phóng thanh loan tin inh
ỏi: “Có ghe cập bến, xin mời các bạn trong văn phòng trại lên làm việc”.
Sáng sớm mọi người lại đổ xô, túa ra văn phòng trại để dọ tìm tên người
quen vừa đến đêm qua. Danh sách tên họ quê quán, nơi ghe phát xuất được
dán trên vách để mọi người biết được tin tức nóng hổi.Thường thường Cao
ủy tị nạn từ Kuala Lumpur theo tàu Blue Dark vào đảo, đem theo danh
sách định cư và được phóng thanh vào mổi buổi sáng thứ bảy .– Chú ý ...
chú ý!– Danh sách rời đảo - danh sách rời đảo.- Mỹ.- Úc.- Canada.
v.v...Buổi sáng những ngày có người rời đảo, văn phòng trại đều cho phát
thanh trên loa thật lớn bài nhạc “Biển nhớ “ thật buồn nghe não nuột
chia ly. Người ra đi định cư, mừng vui khôn tả. Người ở lại buồn nhớ ray
rức người ra đi. Nỗi buồn này đôi khi cũng là cái buồn cho chính thân
phận bấp bênh của mình chưa được quốc gia nào đón nhận cho đi định cư.
Tôi cũng chứng kiến một số người nằm ù lì trên đảo bốn hay năm năm mà
vẫn chưa được bất cứ một quốc gia thứ ba nào chấp nhận. Họ khao khát
ngày rời đảo như người du mục trên sa mạc luôn mãi kiếm tìm ốc đảo để
xin được hớp vài giọt nước mát ngọt ngào trong cơn đói khát gần như gục
ngã vì đuối sức.Thời gian trên đảo cũng có nhiều chuyện vui buồn xảy ra
trước mắt mình. Có những chuyện thật linh thiêng xảy ra giữa lòng đại
dương sâu thẳm. Có lẽ, huyền bí này chỉ được giải thích bằng tâm linh mà
khi nghe xong mình phải công nhận có linh hồn. Không thể chối cãi là
trên thế gian trần tục này vẫn có những oan hồn vất vưỡng cho ta những
báo mộng lành để tránh nguy hiểm trên đoạn đường hải hành sắp đến.Một
chiếc ghe xuất phát từ Nha Trang ra khơi được ba ngày thì gặp bão lớn.
Sóng biển cao chất ngất vài chục thước, rơi xuống phủ ngập đầu, đánh đổ
vào chiếc ghe mong manh không chút thương tâm. Mỗi khi sóng chuyển động
quay cuồng, ghe bị hốt theo lên đỉnh đầu con sóng rồi lại bị vùi dập
chìm sâu dưới đáy tận cùng của con sóng đang giận dữ hung hăng. Giây
phút đó ghe nằm sâu trong lòng đại dương. Văng vẳng bên tai, mọi người
trên ghe đều nghe tiếng khóc lóc rên rỉ lạnh quá , than thở ai oán ...
cứu mạng .... và cũng có những tiếng hát hò ... ầu ơ ru con ngủ!Âm thanh
đó đến từ đâu khi chung quanh chỉ là sóng xoay xoáy cuồng điên giữa
lòng biển sâu thăm thẳm ?.!Tất cả đều là những oan hồn ở cõi âm bên kia
thế giới!!Sau khi vượt thoát được cơn thập tử nhất sinh, tôi lúc nào
cũng nghĩ mình đã được những đấng thiêng liêng cứu mạng cho sống lại một
lần nữa. Cuộc đời rất ư là ý nghĩa đối với tôi bây giờ. Những buổi
chiều mỏi mắt nhìn ra biển khơi, khúc phim hãi hùng dần dần quay lại
từng chi tiết thương đau. Những con sóng bạc đầu to lớn, đập mạnh vào bờ
gào thét rồi tự mình tan rã thụt lùi ra đại dương lạnh ngắt, buồn cho
thân phận bọt bèo tạm bợ.Ầm ầm tiếng sóng bâng khuâng đưa tôi trở về
thực tại và trước mắt là vùng trời sáng ngời sắc hồng đang vẽ vời những
con đường hoa mộng, lót thảm cỏ thơm, sắp sửa trồng xuống những thân cây
đời bôn ba vạn nẻo. Cây sẽ đâm chồi xanh lá , tàng xoe tròn gom bóng
mát, sum suê cành nhánh chằng chịt đan vào nhau vươn lên ngàn tia hy
vọng, đơm kết nụ hoa yêu đời, nở sanh trái ngọt ngào hun đút những hạt
giống tốt tươi. Trăm ngàn cây đời bé tí, nhỏ nhắn xinh xắn thông minh
được gieo trồng trên phần đất nhiều hứa hẹn và rất phì nhiêu. Trên mặt
đất chan hòa màu mỡ, những cây đời bé con này sẽ vươn cao với thân hình
ươm tròn sức sống.Lớp trẻ với bao kỳ vọng của cha mẹ sẽ sừng sững đứng
vững giữa trời xứ lạ, không sợ một sức ép khổ đau nào mà Cha Mẹ mình
phải trải qua và gánh chịu trên bước đường gian nguy đi tìm mạch sống
!!Ngày rời đảo, tôi thật vui mừng nhưng lòng có chút bùi ngùi với hòn
đảo cô quạnh nằm lạc loài chơ vơ như đứa con trôi dạt bị bỏ rơi của dãy
đất liền chắc nịt phồn hoa trong kia . Như hiểu được cùng một tâm trạng
bị bỏ rơi này, hòn đảo Pulau Bidong hiền từ nhân ái đã mở cửa lòng ôm
trọn những thân phận tha hương với đôi chân liêu xiêu lạc lỏng giữa trời
bến lạ. Nhiều đêm dài tá túc trong những căn nhà đơn sơ giản dị nhưng
trong lòng mọi thuyền nhân vẫn trào dâng một niềm diễm phúc trời ban cho
- Chúng ta vẫn còn đây !!!Ngày rời đảo đã đến!Tôi đang chờ xuống tàu
Blue Dark để đi về Kuala Lumpur .Văng vẳng bên tai tôi một bảng nhạc
nghe thân quen. Tôi đứng trên cầu Jetty chờ đợi , bài “ Biển nhớ “ sao
buồn quá, có lẽ rất thích hợp trong hoàn cảnh bịn rịn này cũng như để
vẫy tay chào biệt vùng đất tạm dung đã nuôi sống những thân cây khô héo
gần như úa tàn vì mỏi mòn kiệt sức. Những thân xác gầy gò khô cằn, có
khi chỉ còn là những bộ xương biết đi đã được vun tưới và tắm ướt bằng
những dòng nước mát ngọt ngào diệu kỳ trên đảo Bidong, dần dần được hồi
sinh theo nhịp thở thời gian. Những sợi nước hy vọng tuôn chảy trong
từng tế bào, mạch máu người tha hương làm xanh mát kiếp nhân sinh vừa
được cứu sống, tồn tại sau bao bão giông của phong ba cuộc đời .Ngoảnh
nhìn lại hành trình vượt biển đã trải qua, tất cả thuyền nhân có cùng
tâm trạng ly hương đều phải tri ân trời cao biển lớn đã bao dung mở rộng
vòng tay thiêng liêng để che chở cho chúng ta được sống sót sau lần
thập tử nhất sinh.Xin chào biệt Pulau Bidong!Xin cám ơn những hạt cát
vàng dễ thương trên đảo đã cho đôi chân lạc bước dẫm lên để tôi cảm nhận
được cái mịn màng tuyệt diệu, cái yên bình thanh thản.Rung cảm này tuy
vô hình trừu tượng nhưng tôi đã phải trả giá bằng cả tánh mạng của mình
trên biển ... để đi tìm.Pulau Bidong là ngưỡng thiên đàng mà tôi phải đi
qua để có thể bước vào cuộc đời mới.Một trang sách mới được lật qua.Ðó
là khung trời Tự Do.Sẽ nhớ mãi hết kiếp này!!Ngày mai em đibiển nhớ tên
em gọi vềgọi hồn liễu rũ lê thêgọi bờ cát trắng đêm khuyaNgày mai em
điđồi núi nghiêng nghiêng đợi chờsỏi đá trông em từng giờnghe buồn nhịp
chân bơ vơNgày mai em đibiển nhớ em quay về nguồngọi trùng dương gió
ngập hồnbàn tay chắn gió mưa sangNgày mai em đithành phố mắt đêm đèn
mờhồn lẻ nghiêng vai gọi buồnnghe ngoài biển động buồn hơnHôm nào em
vềbàn tay buông lối ngỏđàn lên cung phím chờsầu lên đây hoang vuNgày mai
em đibiển nhớ tên em gọi vềtriều sương ướt đẫm cơn mêtrời cao níu bước
sơn khêNgày mai em đicồn đá rêu phong rủ buồnđèn phố nghe mưa tủi
hờnnghe ngoài trời giăng mây tuônNgày mai em đibiển có bâng khuâng gọi
thầmngày mưa tháng nắng còn buồnbàn tay nghe ngóng tin sangNgày mai em
đithành phố mắt đêm đèn vàngnửa bóng xuân qua ngập ngừngnghe trời gió
lộng mà thương.Túy BạchFountain Valley - Nam CaliforniaViết cho tháng 4 -
2009
Copyright © 2008Posted by sontrung at 6:59 PM 0 comments
Labels: BÊN KIA B
Saturday, April 24, 2010
TRẦN BÌNH NAM * CHÍNH LUẬN
Suy nghĩ tản mạn về ngày 30 tháng 4
Trần Bình Nam
www.tranbinhnam.com
Trần Bình Nam
Ba
mươi lăm năm trước, vào ngày 30-4, cuộc chiến tranh nóng Bắc - Nam kéo
dài 10 năm (1965-1975) chấm dứt. Hàng trăm ngàn người Việt Nam bỏ
nước ra đi. Sĩ quan, công chức cao cấp của chế độ miền Nam đi tù, tạo
nên cảnh ly tán trong gia đình và xã hội. Đó là hậu quả của chiến
tranh mà lịch sử nước nào cũng có lần phải trải qua. Nếu hôm nay, sau
35 năm hòa bình, chính quyền cộng sản đã thành công xây dựng một nước
Việt Nam phồn thịnh, bên trong có nội lực bảo vệ quốc gia, bên ngoài
được sự kính nể của thế giới thì có lẽ những người Việt không may (hay
may mắn tùy theo quan niệm mỗi người) sống xa quê hương sẽ chấp nhận
cơn đau của lịch sử, yên tâm xây dựng tương lai cho con cháu ở nước
ngoài, và lòng cùng hướng về quê hương đất nước.
Không
may, Việt Nam hôm nay không được như vậy. Xã hội xuống cấp trong mọi
lĩnh vực từ y tế, giáo dục đến đạo đức, dân tình ly tán, uy tín trên
trường quốc tế suy đồi, và sự vẹn toàn lãnh thổ đang bị đe dọa. Với
biển rộng, sông dài, núi non hùng vĩ, đất đai thiên nhiên phong phú và
con người không thua kém Nam Hàn, Đài Loan, Singapore, Mã Lai … mà sau
35 hòa bình chúng ta không làm được như các nước đó đã làm thì hiển
nhiên người cộng sản Việt Nam đã thất bại trong công cuộc xây dựng đất
nước phú cường như mục tiêu “độc lập, tự do, hạnh phúc” họ nêu ra từ
những ngày đầu của cuộc đấu tranh giành độc lập.
Về phía người quốc gia không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản rời bỏ quê hương thì sau 35 năm sống trong môi trường tự do dân chủ, thành công cá nhân thì có nhưng thành công tập thể thì không. Hơn 3 triệu người Việt sống ở hải ngoại chưa xây đựng được sức mạnh cộng đồng có khả năng ảnh hưởng đến thái độ và chính sách của người cầm quyền trong nước. Như vậy sự bế tắc của đất nước Việt Nam hôm nay không phải chỉ do người cộng sản bất tài hay người quốc gia bất trí mà có thể còn do những lý do khác sâu xa hơn. Người ta thường nói đến hậu quả của cuộc chiến tranh 9 năm giành độc lập (1945-1954) và tiếp theo là cuộc chiến tranh Bắc – Nam quá dài và quá đẫm máu như một trong những lý do chính.
Nhưng chiến tranh Triều Tiên 1950 -1953 cũng khốc liệt và sự tàn phá trong trận Thế giới Chiến tranh II cũng đã để lại một nước Nhật hoang tàn. Thế nhưng sau vài chục năm Nam Hàn và Nhật Bản đã có thể hồi sinh. Vì vậy cần tìm nguyên nhân của vấn nạn Việt Nam hôm nay trong chính con người Việt Nam chứ không nên đi tìm đâu xa xôi trong “chủ nghĩa”, trong “chiến tranh lạnh” hay trong thế kẹt “nước lớn, nước nhỏ” Về con người chúng ta có nhiều khuyết điểm hơn là ưu điểm. Khuyết điểm này do giòng giống hay là hậu quả của một nền giáo dục thiếu căn bản quá lâu qua nhiều thế kỷ ? Câu trả lời xin dành cho các nhà nghiên cứu. Một điều chúng ta có thể khẳng định rằng, dân tộc Việt Nam là một dân tộc thông minh, cần cù, chịu thương chịu khó. Rất tiếc hình như nhiều người Việt Nam chỉ biết đầu tư sự thông minh và tính cần cù cho cá nhân chứ không đầu tư cho tương lai của đất nước. Do đó chúng ta thiếu người lãnh đạo có tầm vóc.
Chúng ta có tinh thần vọng ngoại và ít tin tưởng vào chính mình. Chúng ta chạy theo những cái đang lên và coi thường những thế lực đang xuống. Nói đơn giản chúng ta không có cái nhìn xa, và do đó chúng ta không có chính sách. Vào đầu thế kỷ 20, trước sự du nhập của văn hóa phương Tây và sự lu mờ của nước Trung Hoa phương Bắc người trí thức Việt Nam chúng ta chỉ biết cóp nhặt văn hóa châu Âu vô điều kiện và chúng ta coi thường người Tàu đang lép vế trước sức mạnh cơ khí Tây phương.
Chúng ta quên phức sự thật là văn hóa Trung quốc đã yên vị lâu đời trong đầu mỗi người Việt. Và chỉ chờ thời điểm (như hôm nay) là họ nắm cổ toàn bộ vận mạng của nước Việt Nam. Lãnh đạo quân sự và chính trị của Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam có nhiều khuyết điểm đưa đến thất bại, nhưng chưa chắc quyết định chiến lược can thiệp của người Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam là một quyết định sai lầm. Nhưng phía miền Nam chúng ta – vì thiếu người tài, vì thiếu chí - đã không lợi dụng cơ hội để xây dựng một miền Nam tự túc về kinh tế và đặt một nền móng cho sự canh tân đất nước. Cho nên khi người Mỹ nhận ra rằng miền Nam không phải là một đồng minh có bản lãnh họ đi tìm một sách lược khác và bỏ rơi chúng ta một cách tàn nhẫn
Về phía người quốc gia không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản rời bỏ quê hương thì sau 35 năm sống trong môi trường tự do dân chủ, thành công cá nhân thì có nhưng thành công tập thể thì không. Hơn 3 triệu người Việt sống ở hải ngoại chưa xây đựng được sức mạnh cộng đồng có khả năng ảnh hưởng đến thái độ và chính sách của người cầm quyền trong nước. Như vậy sự bế tắc của đất nước Việt Nam hôm nay không phải chỉ do người cộng sản bất tài hay người quốc gia bất trí mà có thể còn do những lý do khác sâu xa hơn. Người ta thường nói đến hậu quả của cuộc chiến tranh 9 năm giành độc lập (1945-1954) và tiếp theo là cuộc chiến tranh Bắc – Nam quá dài và quá đẫm máu như một trong những lý do chính.
Nhưng chiến tranh Triều Tiên 1950 -1953 cũng khốc liệt và sự tàn phá trong trận Thế giới Chiến tranh II cũng đã để lại một nước Nhật hoang tàn. Thế nhưng sau vài chục năm Nam Hàn và Nhật Bản đã có thể hồi sinh. Vì vậy cần tìm nguyên nhân của vấn nạn Việt Nam hôm nay trong chính con người Việt Nam chứ không nên đi tìm đâu xa xôi trong “chủ nghĩa”, trong “chiến tranh lạnh” hay trong thế kẹt “nước lớn, nước nhỏ” Về con người chúng ta có nhiều khuyết điểm hơn là ưu điểm. Khuyết điểm này do giòng giống hay là hậu quả của một nền giáo dục thiếu căn bản quá lâu qua nhiều thế kỷ ? Câu trả lời xin dành cho các nhà nghiên cứu. Một điều chúng ta có thể khẳng định rằng, dân tộc Việt Nam là một dân tộc thông minh, cần cù, chịu thương chịu khó. Rất tiếc hình như nhiều người Việt Nam chỉ biết đầu tư sự thông minh và tính cần cù cho cá nhân chứ không đầu tư cho tương lai của đất nước. Do đó chúng ta thiếu người lãnh đạo có tầm vóc.
Chúng ta có tinh thần vọng ngoại và ít tin tưởng vào chính mình. Chúng ta chạy theo những cái đang lên và coi thường những thế lực đang xuống. Nói đơn giản chúng ta không có cái nhìn xa, và do đó chúng ta không có chính sách. Vào đầu thế kỷ 20, trước sự du nhập của văn hóa phương Tây và sự lu mờ của nước Trung Hoa phương Bắc người trí thức Việt Nam chúng ta chỉ biết cóp nhặt văn hóa châu Âu vô điều kiện và chúng ta coi thường người Tàu đang lép vế trước sức mạnh cơ khí Tây phương.
Chúng ta quên phức sự thật là văn hóa Trung quốc đã yên vị lâu đời trong đầu mỗi người Việt. Và chỉ chờ thời điểm (như hôm nay) là họ nắm cổ toàn bộ vận mạng của nước Việt Nam. Lãnh đạo quân sự và chính trị của Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam có nhiều khuyết điểm đưa đến thất bại, nhưng chưa chắc quyết định chiến lược can thiệp của người Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam là một quyết định sai lầm. Nhưng phía miền Nam chúng ta – vì thiếu người tài, vì thiếu chí - đã không lợi dụng cơ hội để xây dựng một miền Nam tự túc về kinh tế và đặt một nền móng cho sự canh tân đất nước. Cho nên khi người Mỹ nhận ra rằng miền Nam không phải là một đồng minh có bản lãnh họ đi tìm một sách lược khác và bỏ rơi chúng ta một cách tàn nhẫn
Miền
Bắc Việt Nam cũng không khá gì hơn. Hà Nội chạy theo một lý thuyết
kinh tế lỗi thời làm thui chột kinh tế miền Bắc, và trước áp lực của
Liên bang Xô viết dồn mọi tiềm năng nhân lực cho cuộc chiến bành trướng
chủ nghĩa mà họ nhất định phải thắng “dù phải đốt cháy cả dãyTrường
Sơn!”
Miền
Bắc toàn thắng. Việt Nam thống nhất trong điêu tàn. Và khi người đồng
minh Liên bang Xô viết sụp đổ không đủ sức viện trợ kinh tế như Hà Nội
chờ đợi Việt Nam chỉ còn một con đường là lệ thuộc vào Trung quốc.
Và
loay hoay, sau 35 năm hòa bình, Việt Nam lại rơi một hoàn cảnh của
những ngày đầu của cuộc chiến tranh lạnh: lần này kẹt giữa Hoa Kỳ và
Trung quốc.
Bài
học gì người Việt Nam cần rút ra hôm nay, đứng trước thế kỷ 21 mới bắt
đầu được một thập niên và hứa hẹn nhiều biến chuyển quan trọng có thể
quyết định sự mất hay còn của Việt Nam trên bản đồ thế giới? Biến
chuyển lớn nhất của thế kỷ 21 là quyết tâm trở thành siêu cường của
Trung quốc và cuộc đụng độ khó tránh khỏi giữa Hoa Kỳ với Trung quốc.
Biến chuyển này sẽ chi phối mọi sinh hoạt chính trị và kinh tế trên
toàn thế giới trong thế kỷ này.
Việt
Nam nằm ngay trên chiến trường nhỏ là chiến trường Đông Nam Á và nếu
không khôn khéo rút bài học cũ chúng ta lại sẽ biến thành một thứ tiền
đồn. Quan sát tình hình Á châu và Đông Nam Á ai cũng đồng ý rằng Việt
Nam đang bị Trung quốc đe dọa bởi một chương trình xâm thực có bài bản
và Việt Nam đang rơi vào đôi cánh tay thủ đoạn của Trung quốc. Chính
sách nào để Việt Nam tồn tại như một quốc gia độc lập? Trong thế kỷ
trước mắt Việt Nam không có con đường nào khác hơn là liên kết với các
quốc gia trong vùng chủ yếu là Ấn Độ, Nhật Bản và khối Asean, nhưng
quan trọng hơn hết là một chính sách ngọai giao khéo léo đối với Trung
quốc và Hoa Kỳ. Cả hai khối thế lực này đều cần Việt Nam để chuẩn bị
cho cuộc so kiếm thư hùng của thế kỷ.
Nhưng
muốn có một chính sách, Việt Nam cần hai điều kiện. Thứ nhất là khả
năng tự lực trong khung cảnh mới của thế giới. Tự lực đây không phải là
chỉ có đầy đủ cái ăn và cái mặc mà phải có tiềm năng kỹ nghệ và sản
xuất.
Thứ
hai là một lớp người lãnh đạo có “tâm” và có “chí” qua sự đào tạo
những con người Việt Nam. Cần sửa đổi hệ thống giáo dục, trước hết từ
cấp Sơ học cho đến cấp Trung Học hướng về những khái niệm yêu người,
yêu đất nước, biết quý trọng những giá trị Việt Nam, những ý niệm sơ
đẳng phổ cập về dân chủ, đạo đức và tự do tín ngưỡng, quan hệ giữa tôn
giáo và dân tộc. Và nền giáo dục này cần được làm gương bởi lãnh đạo
các cấp. Cấp đại học cần hướng về giáo dục thực tế, liên kết chặt chẽ
sinh hoạt đại học với các cơ sở sản xuất lớn để khuyến khích sáng kiến
khoa học kỹ thuật và khả năng phát minh. Chính sách của Việt Nam là sẵn
sàng làm Thợ để sẽ làm Thầy, và sự chuyển nhượng khoa học kỹ thuật qua
các cơ sở nước ngoài đầu tư tại Việt Nam phải là một chính sách quốc
gia. Sau 35 năm hòa bình, Việt Nam chưa hoàn hồn vì cơn bão của thế
kỷ 20, thì nay lại đang đứng trước sự đe dọa của một cơn bão khác hứa
hẹn có sức tàn phá hơn.
Nhưng
không phải chúng ta không có con đường thoát hiểm. Nếu chúng ta biết
học bài học tự cường của nước Nhật, biết học bài học đùm bọc yêu thương
nhau trong tinh thần “bầu ơi thương lấy bí cùng” của nước Đức, và trên
hết – người cầm quyền - biết huy động nội lực dân tộc qua một chương
trình chấn hưng văn hóa có nội dung tôn trọng dân chủ và nhân quyền ./.
Trần Bình Nam April 21, 2010
THANH THANH * THƠ SONG NGỮ
*
BỐ THƯƠNG YÊU
Việt-hóa bài "Dear Daddy" của LINH tại bức tường "Vietnam Veterans Memorial" ở thủ-đô Hoa-Thịnh-Đốn, Hoa-Kỳ.
Thắp cho con sáu ngọn đèn cầy
(Sài Gòn thất-thủ đúng hôm nay!) Con và ảnh bố ôm vào ngực, "Giặc!" Mẹ thì-thầm: "Bố ghét cay!"
Mẹ hỏi: Con ưng học tiếng Anh?
"Bố con là Mỹ - một hùng-binh: Đèo cao, lũng thấp, Khe Sanh nọ Ngang dọc sa-trường, chết liệt-oanh!
Từ xứ tôn thờ Thần Tự-Do --
Hoa-Kỳ -- Bố đến Việt Nam ta Giúp Miền Nam chống quân Miền Bắc Vào cướp quê mình -- đất gấm hoa!"
Gục dưới mưa dầm, trại khổ-lao,
Mẹ qua đời: thiếu thuốc, cơm, rau! Chỉ vì "vượt biển" mong qua Mỹ -- Nơi Bố sinh-thành -- Thảm biết bao!
Từ đó, đời con sống bạt-phiêu,
Khóc thương Bố+Mẹ, lệ khô triều! Hằng ngày chỉ biết trong tâm-tưởng Khấn-nguyện linh-hồn Bố+Mẹ yêu!
Lén mở nghe tin tự nước ngoài:
Danh thơm của Bố khắc linh-đài . Tự-hào: con có cha -- là Bố Vị-Nghiã hy-sinh cứu mọi người!
THANH-THANH
|
DEAR DADDY
(from "Offerings at the Wall")
In dedication to our beloved Vietnam War Veterans
Mother hurriedly lit my six candles
on the day Saigon fell. She embraced me and your portrait, whispering: "Dad used to say war was hell." Mother asked if I liked to learn English "'cause your Dad was a handsome American; He died bravely in a fierce battle on the hills or down the valleys on Khe Sanh. He came to Vietnam from America where he Statue of Liberty stands, helping the South stop the North from stealing the precious piece of lands." Mother died in the rain at a labor camp 'cause there was no food or medicine. She was caught for "escaping to America" where you, Daddy, were growing. I was left a living outcast -- tears dried from missing you, Mom, Dad -- holding onto your spirits each day: That's all your child has had. I secretly heard on the shotwave you name is on the Viet Veteran Wall. Proud of you, Dad! You had died for Freedom and Justice for all.
LINH
|
Friday, April 23, 2010
THƠ CHIẾN ĐẤU CỦA CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM
*
Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa
Thưa quí vị,
Bài thơ "Gởi súng cho tao" từng gây chấn động cho mọi người cách đây đã khá lâu. Hôm nay, xin chuyển lại bài thơ này cùng những bài thơ trả lời (cũng có thể gọi là xướng họa như trong thơ văn ngày xưa). Những bài thơ trả lời này cũng được viết lên từ những con tim rướm máu, không kém phần bi phẩn và hùng tráng.
Xin đừng quên những cựu chiến sĩ, thương phế binh VNCH vẫn còn "lạc loài" trên chính quê hương của mình
Cầu mong những đại bàng hải ngoại không bị ràng buộc bởi nội quy "không hoạt động chính trị" để mạnh dạn yểm trợ cho những "cựu chiến hữu" của chúng ta trong những ngày tháng tới.
Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa
GỬI SÚNG CHO TAO
Nguyễn Cung Thương
Sài Gòn - Việt Nam
Tao cụt một chân, mất một tay
Nhưng còn một tay
Để viết thơ dùm cho thằng mù hai mắt
Nghe nói ở xứ người chúng mày "cày" như trâu
Nhưng không quên Đồng Đội
Chia đô la cho chúng tao, như chia máu ngày nào ...
Tao cũng sớt cho mấy thằng bạn: Phế Binh Việt Cộng !
Chúng cũng què đui sứt mẻ như nhau
Bởi Đảng của chúng bây giờ là lũ đầu trâu...
Có điều tao không thể hiểu
Bao nhiêu năm qua
Chúng mày cứ mãi dặn dò
Thế giới văn minh, đừng làm gì bạo động
Liệu chúng mày có thể hòa hợp được không
Với lũ kên kên, hổ báo?
Những con thú cực kỳ giàu có
Mang "thẻ đỏ, tim đen"
Nợ Nga, sợ Tầu, lạy Mỹ
Với Quan Thầy cung cúc tận tụy
Quay về đàn áp dân đen
Chúng đóng đinh Chúa Jesus lần nữa
Bịt miệng Cha, trói Phật, nhốt Sư, quản lý Chùa
Chúng tao lê lết trên thành phố Cáo Hồ
Nên biết rất rõ từng tên đại ác
Trên bàn tiệc máu xương dân tộc
Nhà hàng nào chúng cũng ăn nhậu
Bé gái nào cũng bị chúng mua trinh
Chúng ta sẽ tỉa từng thằng.
Đất nước cần nhiều "quốc táng"
Bớt được mạng thằng Cộng Sản nào
Thì địa ngục xã hội chủ nghĩa này
Còn có chút sáng láng hơn.
Hãy gửi tiền cho những nhà tu
Để họ mở cửa nhà tù
Còn chúng tao là chiến sĩ
Hãy gửi về cho chúng tao vũ khí
Thằng cụt tay sẽ chỉ cho thằng mù mắt bấm cò
Thằng còn chân sẽ cõng thằng què quặt
Trận chiến sau cùng này, sẽ không có Dương Văn Minh.
Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa
Bài đáp 1: KHÔNG THỂ GỬI
Lê Khắc Anh Hào
Thưa anh Nguyễn Cung Thương,
Đạn thù trên mặt trận ngày nào
Nay anh chỉ còn một tay ...
Tôi ở bên này
Đọc thơ anh mà rượu ngọt hóa cay
Mà gục đầu tủi hận.
Tôi còn đủ 2 tay
Và tôi còn cả hai chân
Mà cứ ngại ngần không cầm cây súng
Nợ kiếm cung
Tôi gác bỏ bên trời sau ngày Sài Gòn vỡ vụn
Lận đận lao đao
Anh viết câu thơ như sông núi thét gào:
“Gửi súng cho tao!”
Để anh chiến đấu bằng vết đau còn lại
Mà không ngần ngừ, không e ngại
Dũng sĩ hề !
Ôi! lòng ta tê tái
Mái tóc sương pha.
“Ta là ai
Mà cúi mặt trước tương lai
Khi tổ quốc đang thét gào lời sông núi ?”
Viết dòng thơ, tôi sờ đầu, nhục tủi
Vì không gửi được cây súng nào
Khi bạn mình giục:
“Gửi Súng Cho Tao!”
“Gửi Súng Cho Tao!”
"Gửi Súng Cho Tao!”
Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa
Bài đáp 2: GỬI CHẤT NỔ CHO MÀY
Trần Phương Đông
Đọc những dòng thư mày mà lòng tao quặn thắt
Đời chúng mình cuối cùng phải như thế này sao ?
Mày bên đó lê la những ngày tháng hư hao
Tao bên này lăn lóc trên con đường cơm áo.
Hãy "Gởi Súng Cho Ta " như một lời cảnh cáo:
Chúng mày quên cả rồi Tổ Quốc lẫn Quê Hương
Quê hương đó có máu tươi và có cả thịt xương
Của đồng đội, của bạn bè đã hy sinh nằm xuống.
"Gởi Súng Cho Tao" đã làm nhiều thằng luống cuống
Chúng mải mê lợi danh mà quên mẹ mất chuyện này
Cám ơn mày với những lời nhắn nhủ thật là hay
Để những thằng vong tình biết giật mình bừng tỉnh dậy.
Tao sẽ gởi cho mày những căm hờn không che đậy
Của trái tim đầy vết thương đã thoi thóp từ lâu
Tao không gởi cho mày súng như mày hỏi đâu
Mà tao gởi cho mày bằng những thùng thuốc nổ.
Hãy ôm chúng, xông vào lũ bạo tàn bằng tấm lòng cuồng nộ
Và tao cũng sẽ về cùng mày để đi trọn chuyến đi này
Cuộc đời nào rồi cũng qua như gió thổi mây bay
Thì tiếc làm con mẹ gì cuộc sống nhiều tủi hổ.
Sống vui được sao khi toàn dân nghèo nàn cùng khổ
Còn thân phận chúng mình như những miếng giẻ rách giữa đời
Chờ đó ... tao sẽ về cùng mày để hoàn tất một cuộc chơi
Và cho trọn cuộc tình của những thằng gọi nhau là đồng đội.
Và cũng để một lần cúi đầu tạ tội
Với quê hương và tổ quốc của mình
Với bạn bè, với những oan khuất anh linh
Để đi trọn con đường vinh quang của những người mang tên là Lính
Hãy ôm chất nổ giết sạch bọn giặc thù không cần toan tính
Thằng nào rồi thì cũng một lần chết vậy thôi
Hãy chết thật vinh quang cho người lính được lên ngôi
Chờ đó đi.. mai tao về với những thùng thuốc nổ.....
Mai về tạ tội Quê Hương
Cùng nhau đi trọn đoạn đường chiến binh
Sống lỡ nhục chết phải vinh
Cho dòng máu Lính thắm tình Việt Nam.
Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa
Bài đáp 3: Không Tên
Mường Giang
Thơ anh viết như muôn ngàn nhát kiếm
Khiến cho ta thêm tan nát cuộc đời
Bao hận tủi theo thời gian tắt lịm
Nay tuôn về như sóng cuộn mưa rơi
Ta muốn cào cho trái tim lũng nát
Muốn gào to cho vỡ cả tinh cầu
Muốn tự hủy cho tan đời tàn tật
Sống một đời mang trọn kiếp thương đau
Mấy chục năm những ngày dài biệt xứ
Ta về đầy mang nỗi buồn lê thê
Ngày hành xác, đêm về ôm mặt khóc
Đời sa cơ bao nhiêu nỗi chán phè
Ngày hai buổi cúi đầu ăn ngấu nghiến
Mắt nhắm nghiền không dám ngó thịt cơm
Khi nghĩ tới, niềm đau những lính trận
Cũng vì ai phải chuốc nỗi hận hờn
Ta đến đây khô cằn thân mất nước
Đời xanh xao, mờ bước kiếp không nhà
Những toan tính mờ dần trong biển nhục
Tiếng hẹn thề rên nghẹn khắp gần xa
Gặp những kẻ ngày xưa quen gào thét
Bước giầy sô làm rung chuyển giặc thù
Ta tìm đến xin chút tình trai Việt
Để sưởi tình trong cõi tạm hoang vu
Họ nhìn ta rồi bỗng cười cuồng nhói
Mắt long lanh theo tiếng nhạc dập dồn
Ta xin chút tình của người đồng đội
Lại cho ta buồn nản với cô đơn.
Gặp vài kẻ mặt tô đầy son phấn
Môi nhi nhô kẹo, với giọng ỡm ờ
Ngực mông đùi cho ta thêm tủi phận
Họ đi rồi và ta đứng cô đơn.
Họ dập dìu se sua trên đất khách
Đem trái tim rao bán giữ chợ đời
Cho ta nhớ người còn trong vùng địch
Đang dần mòn gục chết với tương lai.
Gạp vài kẻ véo von lòng nhân ái
Ta tìm đến xin một chút tình người
Để an ủi những ngày thừa còn lại
Của cánh chim chờ thét gió tung trời
Nhưng họ cho ta lọc lừa tráo chác
Nghĩa đồng hương nhắc tới lại thêm buồn
Tao ngao ngán cho tình đời đen bạc
Về gục đầu trong men đắng tìm quên.
Ta trách ta, sao vẫn còn nặng nợ
Trong khi ai cũng say giấc miên trường
Ai cũng vui vì đất trời rộng mở
Ai cũng cười nghe ta nhắc quê hương...
Ôi quê hương! giờ đang nằm thoi thóp
Đang hờn căm dẫy thoát lửa bạo tàn
Đang chờ người muôn phương về sum họp
Để chung lòng giết giặc, cứu giang san.
Ôi ! trong ta hận thù cao ngút mắt
Luôn dập dồn như sóng cuộn cuồng phong
Bao năm qua giam đời trong đáy huyệt
Giờ thét vang như chim được xổ lồng
Ta nhớ quê hương những ngày sắp mất
Ta thương nhiều qua từng giấc chiêm bao
Quê ta giờ khổ đau và tan nát
Lửa thù dâng, cao vút tận trời cao
Ta đã vẽ trong đợi chờ thê thiết
Những lâu đài của Mẹ đẹp như thơ
Ta sẽ chiêu hồn những tên phản bội
Đang lạc lầm trong phù phiếm hư vô...
Nhưng ta chỉ là lính già tàn phế
Sống ngu ngơ như cây đứng giữa đường
Thì có gì để gửi về cho bạn
Cùng góp phần quang phục lại quê hương?
Thì ra ta cũng là phường hèn nhát
Quên những ngày xưa liều thân đấu tranh
Giờ mới biết bỏ nhà đi trốn giặc
Chỉ để cho ta ngày tháng an lành.
Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa
Bài đáp 4: Tao Không Gửi Súng
Mũ Nâu 11
Gửi Nguyễn Cung Thương như mội lời tạ tội.
Đọc thơ mày...
... buổi trưa hè nắng cháy
Tao nghe hồn chết lịm giữa mùa Đông
Thấy xót xa cay đắng trong lòng
Khi mày bảo chúng tao gửi súng.
Mày nói đúng,
Quả thật mày nói đúng!
Làm sao hòa hợp được với lũ sài lang
Lũ chó trâu, bạo ngược hung tàn
Chỉ biết sống trên máu xương đồng loại?
Mấy mươi năm, chúng ra công phá hoại
Mảnh giang san gấm vóc của cha ông
Đất miền Bắc, biển miền Đông
Chúng dâng cúng cho quan thầy Trung Cộng.
Lũ Tầu đỏ bắt giết đân đen
Chúng rút đầu câm họng.
Cha, Thầy mới mở lời
Chúng hùng hổ ra tay
Khiếu nại kêu oan, chúng thẳng tay đọa đầy
Coi mạng sống con người như cỏ rác.
Mọi người ngó lơ trước bao tội ác
Hiệp Định Hoà Bình vừa ký ở Genève
Ngoảnh mặt đi, chúng xé cái vèo
Văn bản Paris, chúng đem ra chùi đít...
Cả thế giới,
Cả nhân loại đều im thin thít.
Mặc tình chúng lộng giả thành chân.
Mở miệng ra là nói nghĩa nhân,
Nhưng rặt một phường buôn dân bán nước.
Thế mà...
Có lắm kẻ, ngày xưa từng ăn trên ngồi trước
Từng hùng hồn tuyên bố: Sẽ vì nước hy sinh
Nhưng than ôi!
Đến nay, bỗng khúm núm hạ mình
Để xin được làm chó săn,
Liếm gót giầy giặc Cộng (Cao Kỳ)
Có những thằng,
Áo cao mũ rộng
Bằng cấp đầy mình, kiến thức mênh mông
Mà một câu nói đơn giản cũng chẳng chịu thuộc lòng:
"Hãy nhìn, chứ đừng nghe những gì Cộng Sản nói"
Xuống tầu ra đi, chúng thảm thương thật tội
Mặt mũi xanh xao, quần áo tả tơi
Còn bị lũ đầu trâu chửi mắng nặng lời
"Bọn đĩ điếm chỉ ôm chân đế quốc".
Nay được đám lưu manh xoa đầu
Gọi "Việt Kiều yêu nước"
Vội đem tiền về mở tổ hợp đầu tư
Rồi nhanh nhẩu hoan hô - bác đảng - nhuyễn nhừ
Cùng một giuộc: trâu tầm trâu, mã tầm mã
Họ có thấy chăng?
Những người chết,
Cũng bị đào mồ cuốc mã
Lấy đất, bán đất chia nhau
Tranh thủ làm giầu
Chúng vơ vét cả tiết trinh em nhỏ...
Nghe mày hỏi, tao gục đầu xấu hổ
Súng đạn đâu mà gửi cho mày đây?
Ngoài một chút sắt son nặng trĩu lòng này.
Chắc mày hiểu vì sao:
"Tao không gửi súng..."
Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa
Bài đáp 5: Để Nó Cho Tao
Đoàn Trọng Hiếu
Đọc thư mày, lòng tao đau quặn
Thằng cụt thằng lành cùng trăn trở như nhau
Nhớ mùa hè đỏ lửa năm nao
Thằng lính biệt động trấn ngọn đồi gió
Mày, thằng lính dù An Lộc
Nhảy vào tăng viện cho tao.
Được lệnh bàn giao, tao kéo quân vào thành phố
Không quên chỉ cho mày bìa rừng cao su đỏ
Giặc chốt dày đặc, mày bảo: "để đó tao lo"
Sau 3 tháng tử thủ
Tao ở lại Bình Long, mày ra vùng hỏa tuyến
Mãi đến Tháng Tư đen, vẫn chẳng được tin nhau
Tao vào tù, rồi lưu vong nơi hải ngoại
Nay bỗng được thư mày lời bi hùng thống thiết
Mày bảo gởi súng cho mày, tao không đành đoạn
Vì cuộc chiến bây giờ không cần đến súng đạn
Mà cần đến trái tim rực lửa yêu thương
Mang lý tưởng Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền
Đến tận hang cùng ngõ hẽm...
Khi mọi người dân đều ý thức
Đó là ngày giặc Cộng phải vùi chôn
Nhiệm vụ của mày cùng dân oan
Là đi biểu tình khiếu kiện
Cùng công nhân bãi thị đình công
Còn nhiệm vụ của tao ở ngoài này
Là vận động chính giới nước ngoài
Vận động đồng bào hải ngoại.
Tao đang ứng chiến ở sân bay
Chờ đến giờ G nhảy vào New York
Biểu tình chống thằng Nguyễn Tấn Dũng
Tao yêu cầu mày, để nó cho tao
Cuộc chiến này không có tên Dương Văn Minh,
Nhưng vẫn có Nguyễn Cung Thương và Đoàn Trọng Hiếu
Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa
Bài đáp 6: TAO VẪN CÒN ĐÂY
(Nguyễn Quân, một người lính VNCH)
Đáp lời chiến hữu Nguyễn Cung Thương
Tao đã nghe tiếng gọi trong đêm trường
Như tiếng thét ngập tràn tình đồng đội
Tiếng kêu cua mầy cũng là tiếng uất hận của quê hương
Mầy cần súng đạn, không cần nỗi xót thương
Tao còn nhớ những đêm phục kích trong rừng
Dưới ánh trăng xanh xuyên kẽ lá
Mầy và tao chia nhau bắn tỉa
Từng tên quân giặc xâm lăng
Những trận xung phong xáp lá cà diệt địch
Đánh cho tan tác
Đánh cho quân thù kinh hồn vỡ mật
Bây giờ tụi mình buông súng thật sao
Nhưng tụi mình chưa giải ngũ được đâu
Ai anh hùng
Ai hào kiệt
Ai đã trả nợ núi sông
Trận chiến tàn nhưng cuộc chiến vẫn chưa xong
Nơi quê cũ, bóng quân thù tràn ngập
Mỗi một thằng đáng nhận trăm viên đạn
Để đền bồi tội lỗi chúng đang mang.
Đem tổ quốc núi sông ra dâng bán
Rước quân thù giẫm nát quê hương
Bán trẻ thơ phụ nữ cho ngoại bang
Cướp của dân oan
Banh da xẻ thịt giang san
Hùa nhau cắn xé quê cha đất tổ.
Mầy còn nhớ một lời của huynh trưởng
Không chấp nhận, không sống chung
Với loài quỷ đỏ
Không bao giờ nói chuyện hoà giải hoà hợp
Với chúng nó
Mầy với tao là những thằng lính trận mạc
Đối diện quân thù
Chỉ có hai tiếng: XUNG PHONG ! Một tiếng: SÁT !
Tiếng thét oai hùng, từng vang dội non cao rừng thẳm.
Hẹn một ngày tụi mình đào lỗ đem chôn
Những thằng chóp bu cộng sản
Cùng chủ nghĩa ngoại lai,
Đưa dân tộc trở lại bình minh tươi sáng.
Tụi mầy còn đó, tụi tao còn đây
Chung vai sát cánh thề quang phục quê hương
Môt lần nữa, mầy và tao sẽ có mặt
Trong đoàn quân xung kích, dưới bóng cờ vàng
Nắm tay nhau cùng hát khúc khải-hoàn-ca.
*
Ý KIẾN BẠN ĐỌC
Đọc những vần thơ lệ tuôn trào ,
Thật đẹp thay hai tiếng mầy, tao,
Thân thương quá ! tấm chân tình đồng đội ,
Đã bao năm theo dòng đời trôi nổi ,
Kẻ phương trời ,người góc bể ,chân mây,
Bỗng chợt nghe hai tiếng tao ,mầy,
Như gợi lại một chút tình đã mất,
Như tìm lại ,một tình yêu rất thật,
Đôi phút ,giây được sống với chính mình,
Của một thời trai trẻ chiến chinh,
Tuyệt ! tuyêt! quá tao,mầy gặp nhau nhé!
Dù vẫn biết ,thời gian có âm thầm lặng lẽ,
Và tuổi đời đã chồng chất thêm cao ,
Ngày gặp nhau ,mình vẫn gọi mầy ,tao,
Xưng hô vậy, thật thân ,thương mầy nhỉ!
Tao sẽ cười vui ,khi mầy gọi tao là thằng khỉ,
Rượu cay nồng làm sống lại mảnh trời xưa...
Kể nhau nghe ,phần còn lại chút đời thừa ,
Gom góp lại ,hiến dâng cho quê mẹ.
Để Sài Gòn vẫn là Sài Gòn hoa lệ,
vĩnh viễn cười ngạo nghễ mãi ngàn sau.
Quyen Tran
*
NGŨ TƯỚNG ANH HÙNG
An Lộc anh hùng sáng giá ông !
Lê Văn Hưng, địch nể vô cùng.
Bẩy hai tử thủ Bình Long,
Quý Mão tuẫn tiết Tướng hùng lưu danh.
Lê Nguyên Vỹ hiếm quý rành rành
Vận nước lâm nguy quyết tử nhanh
Mèo kêu thảm thiết xa gần (Qúy Mão)
Theo Phan Thanh Giản Tướng Quân Sử Vàng,
Tướng Khoa Nam rỏ ràng cao cả
Giặc ngập tràn bí quá tử vong
Tháng Tư vận nước xoay vần !
Tướng quân tuẫn tiết đâu cần vinh thân
Trai hùng khí phách Trần Văn Hai
Biến cố ba mươi dũng cảm tài
Biển người tràn ngập ôi thôi
Tướng hùng tuẫn tiết Sử thời ghi danh
Phạm Văn Phú nhỉệm vụ thi hành
Tổng Thống truyền mau lệnh rút quân
“Sinh vi tướng tử vi thần” !
Độc dược kết liễi toàn dân nhớ đời.
Lê Đắc
*
Anh Nguyễn Cung Thương ơi , Anh Nguyễn Cung Thương !
Đọc thư anh mà lòng em rướm máu.
Nhớ những ngày này của ba mươi lăm Năm trôi qua.
Súng không Đạn lấy gì mà Chiến Đấu.
Súng bị Gảy ôm một trời Uất Hận .
Kêu làm sao cho Thấu Trời Xanh.
Hởi Đại Bàng ! Hởi Những Đàn Anh !
Chúng Tôi Thà Chết Quyết Không Hàng Cộng Phỉ.
Nhìn Bạn Bè Anh Dủng Hy Sinh.
Rơi Máu Lệ với lời Thề Phục Hận .
Nhưng hởi ơi vận Nước đả tới hồi Mạc Lộ.
Đành lổi hẹn với Bạn bè Đồng Đội.
Lê thân gầy đi khắp Non Sông .
Tìm Minh Chúa mài Gươm Phục Hận .
Bước đường cùng đành xa Quê Mẹ.
Với lời thề sẻ Quang Phục Quê Hương.
Xa Quê Hương Lang Thang Cầu Thực.
Mới Thấm Thía nổi Nhục Mất Quê Hương .
Nuôi Chí Lớn mai này Phục Quốc.
Nhưng Chuyện Lớn chưa thành đành làm chuyện Nhỏ.
Chia Đô La anh em sống lây lất qua ngày .
Mong Các cho Anh Giử Tấm thân tới ngày đó.
Ngày Quang Phục Quê Hương Ngày đó rất Huy Hoàng.
Và đó củng là ngày Đại Hội của Đoàn Quân Cọp Biển Oai Hùng....
Nguyễn Phước
181513296
Copyright 2005 - 2010 © Take2Tango. All Rights Reserved.
*
Thưa quí vị,
Bài thơ "Gởi súng cho tao" từng gây chấn động cho mọi người cách đây đã khá lâu. Hôm nay, xin chuyển lại bài thơ này cùng những bài thơ trả lời (cũng có thể gọi là xướng họa như trong thơ văn ngày xưa). Những bài thơ trả lời này cũng được viết lên từ những con tim rướm máu, không kém phần bi phẩn và hùng tráng.
Xin đừng quên những cựu chiến sĩ, thương phế binh VNCH vẫn còn "lạc loài" trên chính quê hương của mình
Cầu mong những đại bàng hải ngoại không bị ràng buộc bởi nội quy "không hoạt động chính trị" để mạnh dạn yểm trợ cho những "cựu chiến hữu" của chúng ta trong những ngày tháng tới.
Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa
GỬI SÚNG CHO TAO
Nguyễn Cung Thương
Sài Gòn - Việt Nam
Tao cụt một chân, mất một tay
Nhưng còn một tay
Để viết thơ dùm cho thằng mù hai mắt
Nghe nói ở xứ người chúng mày "cày" như trâu
Nhưng không quên Đồng Đội
Chia đô la cho chúng tao, như chia máu ngày nào ...
Tao cũng sớt cho mấy thằng bạn: Phế Binh Việt Cộng !
Chúng cũng què đui sứt mẻ như nhau
Bởi Đảng của chúng bây giờ là lũ đầu trâu...
Có điều tao không thể hiểu
Bao nhiêu năm qua
Chúng mày cứ mãi dặn dò
Thế giới văn minh, đừng làm gì bạo động
Liệu chúng mày có thể hòa hợp được không
Với lũ kên kên, hổ báo?
Những con thú cực kỳ giàu có
Mang "thẻ đỏ, tim đen"
Nợ Nga, sợ Tầu, lạy Mỹ
Với Quan Thầy cung cúc tận tụy
Quay về đàn áp dân đen
Chúng đóng đinh Chúa Jesus lần nữa
Bịt miệng Cha, trói Phật, nhốt Sư, quản lý Chùa
Chúng tao lê lết trên thành phố Cáo Hồ
Nên biết rất rõ từng tên đại ác
Trên bàn tiệc máu xương dân tộc
Nhà hàng nào chúng cũng ăn nhậu
Bé gái nào cũng bị chúng mua trinh
Chúng ta sẽ tỉa từng thằng.
Đất nước cần nhiều "quốc táng"
Bớt được mạng thằng Cộng Sản nào
Thì địa ngục xã hội chủ nghĩa này
Còn có chút sáng láng hơn.
Hãy gửi tiền cho những nhà tu
Để họ mở cửa nhà tù
Còn chúng tao là chiến sĩ
Hãy gửi về cho chúng tao vũ khí
Thằng cụt tay sẽ chỉ cho thằng mù mắt bấm cò
Thằng còn chân sẽ cõng thằng què quặt
Trận chiến sau cùng này, sẽ không có Dương Văn Minh.
Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa
Bài đáp 1: KHÔNG THỂ GỬI
Lê Khắc Anh Hào
Thưa anh Nguyễn Cung Thương,
Đạn thù trên mặt trận ngày nào
Nay anh chỉ còn một tay ...
Tôi ở bên này
Đọc thơ anh mà rượu ngọt hóa cay
Mà gục đầu tủi hận.
Tôi còn đủ 2 tay
Và tôi còn cả hai chân
Mà cứ ngại ngần không cầm cây súng
Nợ kiếm cung
Tôi gác bỏ bên trời sau ngày Sài Gòn vỡ vụn
Lận đận lao đao
Anh viết câu thơ như sông núi thét gào:
“Gửi súng cho tao!”
Để anh chiến đấu bằng vết đau còn lại
Mà không ngần ngừ, không e ngại
Dũng sĩ hề !
Ôi! lòng ta tê tái
Mái tóc sương pha.
“Ta là ai
Mà cúi mặt trước tương lai
Khi tổ quốc đang thét gào lời sông núi ?”
Viết dòng thơ, tôi sờ đầu, nhục tủi
Vì không gửi được cây súng nào
Khi bạn mình giục:
“Gửi Súng Cho Tao!”
“Gửi Súng Cho Tao!”
"Gửi Súng Cho Tao!”
Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa
Bài đáp 2: GỬI CHẤT NỔ CHO MÀY
Trần Phương Đông
Đọc những dòng thư mày mà lòng tao quặn thắt
Đời chúng mình cuối cùng phải như thế này sao ?
Mày bên đó lê la những ngày tháng hư hao
Tao bên này lăn lóc trên con đường cơm áo.
Hãy "Gởi Súng Cho Ta " như một lời cảnh cáo:
Chúng mày quên cả rồi Tổ Quốc lẫn Quê Hương
Quê hương đó có máu tươi và có cả thịt xương
Của đồng đội, của bạn bè đã hy sinh nằm xuống.
"Gởi Súng Cho Tao" đã làm nhiều thằng luống cuống
Chúng mải mê lợi danh mà quên mẹ mất chuyện này
Cám ơn mày với những lời nhắn nhủ thật là hay
Để những thằng vong tình biết giật mình bừng tỉnh dậy.
Tao sẽ gởi cho mày những căm hờn không che đậy
Của trái tim đầy vết thương đã thoi thóp từ lâu
Tao không gởi cho mày súng như mày hỏi đâu
Mà tao gởi cho mày bằng những thùng thuốc nổ.
Hãy ôm chúng, xông vào lũ bạo tàn bằng tấm lòng cuồng nộ
Và tao cũng sẽ về cùng mày để đi trọn chuyến đi này
Cuộc đời nào rồi cũng qua như gió thổi mây bay
Thì tiếc làm con mẹ gì cuộc sống nhiều tủi hổ.
Sống vui được sao khi toàn dân nghèo nàn cùng khổ
Còn thân phận chúng mình như những miếng giẻ rách giữa đời
Chờ đó ... tao sẽ về cùng mày để hoàn tất một cuộc chơi
Và cho trọn cuộc tình của những thằng gọi nhau là đồng đội.
Và cũng để một lần cúi đầu tạ tội
Với quê hương và tổ quốc của mình
Với bạn bè, với những oan khuất anh linh
Để đi trọn con đường vinh quang của những người mang tên là Lính
Hãy ôm chất nổ giết sạch bọn giặc thù không cần toan tính
Thằng nào rồi thì cũng một lần chết vậy thôi
Hãy chết thật vinh quang cho người lính được lên ngôi
Chờ đó đi.. mai tao về với những thùng thuốc nổ.....
Mai về tạ tội Quê Hương
Cùng nhau đi trọn đoạn đường chiến binh
Sống lỡ nhục chết phải vinh
Cho dòng máu Lính thắm tình Việt Nam.
Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa
Bài đáp 3: Không Tên
Mường Giang
Thơ anh viết như muôn ngàn nhát kiếm
Khiến cho ta thêm tan nát cuộc đời
Bao hận tủi theo thời gian tắt lịm
Nay tuôn về như sóng cuộn mưa rơi
Ta muốn cào cho trái tim lũng nát
Muốn gào to cho vỡ cả tinh cầu
Muốn tự hủy cho tan đời tàn tật
Sống một đời mang trọn kiếp thương đau
Mấy chục năm những ngày dài biệt xứ
Ta về đầy mang nỗi buồn lê thê
Ngày hành xác, đêm về ôm mặt khóc
Đời sa cơ bao nhiêu nỗi chán phè
Ngày hai buổi cúi đầu ăn ngấu nghiến
Mắt nhắm nghiền không dám ngó thịt cơm
Khi nghĩ tới, niềm đau những lính trận
Cũng vì ai phải chuốc nỗi hận hờn
Ta đến đây khô cằn thân mất nước
Đời xanh xao, mờ bước kiếp không nhà
Những toan tính mờ dần trong biển nhục
Tiếng hẹn thề rên nghẹn khắp gần xa
Gặp những kẻ ngày xưa quen gào thét
Bước giầy sô làm rung chuyển giặc thù
Ta tìm đến xin chút tình trai Việt
Để sưởi tình trong cõi tạm hoang vu
Họ nhìn ta rồi bỗng cười cuồng nhói
Mắt long lanh theo tiếng nhạc dập dồn
Ta xin chút tình của người đồng đội
Lại cho ta buồn nản với cô đơn.
Gặp vài kẻ mặt tô đầy son phấn
Môi nhi nhô kẹo, với giọng ỡm ờ
Ngực mông đùi cho ta thêm tủi phận
Họ đi rồi và ta đứng cô đơn.
Họ dập dìu se sua trên đất khách
Đem trái tim rao bán giữ chợ đời
Cho ta nhớ người còn trong vùng địch
Đang dần mòn gục chết với tương lai.
Gạp vài kẻ véo von lòng nhân ái
Ta tìm đến xin một chút tình người
Để an ủi những ngày thừa còn lại
Của cánh chim chờ thét gió tung trời
Nhưng họ cho ta lọc lừa tráo chác
Nghĩa đồng hương nhắc tới lại thêm buồn
Tao ngao ngán cho tình đời đen bạc
Về gục đầu trong men đắng tìm quên.
Ta trách ta, sao vẫn còn nặng nợ
Trong khi ai cũng say giấc miên trường
Ai cũng vui vì đất trời rộng mở
Ai cũng cười nghe ta nhắc quê hương...
Ôi quê hương! giờ đang nằm thoi thóp
Đang hờn căm dẫy thoát lửa bạo tàn
Đang chờ người muôn phương về sum họp
Để chung lòng giết giặc, cứu giang san.
Ôi ! trong ta hận thù cao ngút mắt
Luôn dập dồn như sóng cuộn cuồng phong
Bao năm qua giam đời trong đáy huyệt
Giờ thét vang như chim được xổ lồng
Ta nhớ quê hương những ngày sắp mất
Ta thương nhiều qua từng giấc chiêm bao
Quê ta giờ khổ đau và tan nát
Lửa thù dâng, cao vút tận trời cao
Ta đã vẽ trong đợi chờ thê thiết
Những lâu đài của Mẹ đẹp như thơ
Ta sẽ chiêu hồn những tên phản bội
Đang lạc lầm trong phù phiếm hư vô...
Nhưng ta chỉ là lính già tàn phế
Sống ngu ngơ như cây đứng giữa đường
Thì có gì để gửi về cho bạn
Cùng góp phần quang phục lại quê hương?
Thì ra ta cũng là phường hèn nhát
Quên những ngày xưa liều thân đấu tranh
Giờ mới biết bỏ nhà đi trốn giặc
Chỉ để cho ta ngày tháng an lành.
Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa
Bài đáp 4: Tao Không Gửi Súng
Mũ Nâu 11
Gửi Nguyễn Cung Thương như mội lời tạ tội.
Đọc thơ mày...
... buổi trưa hè nắng cháy
Tao nghe hồn chết lịm giữa mùa Đông
Thấy xót xa cay đắng trong lòng
Khi mày bảo chúng tao gửi súng.
Mày nói đúng,
Quả thật mày nói đúng!
Làm sao hòa hợp được với lũ sài lang
Lũ chó trâu, bạo ngược hung tàn
Chỉ biết sống trên máu xương đồng loại?
Mấy mươi năm, chúng ra công phá hoại
Mảnh giang san gấm vóc của cha ông
Đất miền Bắc, biển miền Đông
Chúng dâng cúng cho quan thầy Trung Cộng.
Lũ Tầu đỏ bắt giết đân đen
Chúng rút đầu câm họng.
Cha, Thầy mới mở lời
Chúng hùng hổ ra tay
Khiếu nại kêu oan, chúng thẳng tay đọa đầy
Coi mạng sống con người như cỏ rác.
Mọi người ngó lơ trước bao tội ác
Hiệp Định Hoà Bình vừa ký ở Genève
Ngoảnh mặt đi, chúng xé cái vèo
Văn bản Paris, chúng đem ra chùi đít...
Cả thế giới,
Cả nhân loại đều im thin thít.
Mặc tình chúng lộng giả thành chân.
Mở miệng ra là nói nghĩa nhân,
Nhưng rặt một phường buôn dân bán nước.
Thế mà...
Có lắm kẻ, ngày xưa từng ăn trên ngồi trước
Từng hùng hồn tuyên bố: Sẽ vì nước hy sinh
Nhưng than ôi!
Đến nay, bỗng khúm núm hạ mình
Để xin được làm chó săn,
Liếm gót giầy giặc Cộng (Cao Kỳ)
Có những thằng,
Áo cao mũ rộng
Bằng cấp đầy mình, kiến thức mênh mông
Mà một câu nói đơn giản cũng chẳng chịu thuộc lòng:
"Hãy nhìn, chứ đừng nghe những gì Cộng Sản nói"
Xuống tầu ra đi, chúng thảm thương thật tội
Mặt mũi xanh xao, quần áo tả tơi
Còn bị lũ đầu trâu chửi mắng nặng lời
"Bọn đĩ điếm chỉ ôm chân đế quốc".
Nay được đám lưu manh xoa đầu
Gọi "Việt Kiều yêu nước"
Vội đem tiền về mở tổ hợp đầu tư
Rồi nhanh nhẩu hoan hô - bác đảng - nhuyễn nhừ
Cùng một giuộc: trâu tầm trâu, mã tầm mã
Họ có thấy chăng?
Những người chết,
Cũng bị đào mồ cuốc mã
Lấy đất, bán đất chia nhau
Tranh thủ làm giầu
Chúng vơ vét cả tiết trinh em nhỏ...
Nghe mày hỏi, tao gục đầu xấu hổ
Súng đạn đâu mà gửi cho mày đây?
Ngoài một chút sắt son nặng trĩu lòng này.
Chắc mày hiểu vì sao:
"Tao không gửi súng..."
Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa
Bài đáp 5: Để Nó Cho Tao
Đoàn Trọng Hiếu
Đọc thư mày, lòng tao đau quặn
Thằng cụt thằng lành cùng trăn trở như nhau
Nhớ mùa hè đỏ lửa năm nao
Thằng lính biệt động trấn ngọn đồi gió
Mày, thằng lính dù An Lộc
Nhảy vào tăng viện cho tao.
Được lệnh bàn giao, tao kéo quân vào thành phố
Không quên chỉ cho mày bìa rừng cao su đỏ
Giặc chốt dày đặc, mày bảo: "để đó tao lo"
Sau 3 tháng tử thủ
Tao ở lại Bình Long, mày ra vùng hỏa tuyến
Mãi đến Tháng Tư đen, vẫn chẳng được tin nhau
Tao vào tù, rồi lưu vong nơi hải ngoại
Nay bỗng được thư mày lời bi hùng thống thiết
Mày bảo gởi súng cho mày, tao không đành đoạn
Vì cuộc chiến bây giờ không cần đến súng đạn
Mà cần đến trái tim rực lửa yêu thương
Mang lý tưởng Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền
Đến tận hang cùng ngõ hẽm...
Khi mọi người dân đều ý thức
Đó là ngày giặc Cộng phải vùi chôn
Nhiệm vụ của mày cùng dân oan
Là đi biểu tình khiếu kiện
Cùng công nhân bãi thị đình công
Còn nhiệm vụ của tao ở ngoài này
Là vận động chính giới nước ngoài
Vận động đồng bào hải ngoại.
Tao đang ứng chiến ở sân bay
Chờ đến giờ G nhảy vào New York
Biểu tình chống thằng Nguyễn Tấn Dũng
Tao yêu cầu mày, để nó cho tao
Cuộc chiến này không có tên Dương Văn Minh,
Nhưng vẫn có Nguyễn Cung Thương và Đoàn Trọng Hiếu
Quốc Hận và Những Bài Thơ Rực Lửa
Bài đáp 6: TAO VẪN CÒN ĐÂY
(Nguyễn Quân, một người lính VNCH)
Đáp lời chiến hữu Nguyễn Cung Thương
Tao đã nghe tiếng gọi trong đêm trường
Như tiếng thét ngập tràn tình đồng đội
Tiếng kêu cua mầy cũng là tiếng uất hận của quê hương
Mầy cần súng đạn, không cần nỗi xót thương
Tao còn nhớ những đêm phục kích trong rừng
Dưới ánh trăng xanh xuyên kẽ lá
Mầy và tao chia nhau bắn tỉa
Từng tên quân giặc xâm lăng
Những trận xung phong xáp lá cà diệt địch
Đánh cho tan tác
Đánh cho quân thù kinh hồn vỡ mật
Bây giờ tụi mình buông súng thật sao
Nhưng tụi mình chưa giải ngũ được đâu
Ai anh hùng
Ai hào kiệt
Ai đã trả nợ núi sông
Trận chiến tàn nhưng cuộc chiến vẫn chưa xong
Nơi quê cũ, bóng quân thù tràn ngập
Mỗi một thằng đáng nhận trăm viên đạn
Để đền bồi tội lỗi chúng đang mang.
Đem tổ quốc núi sông ra dâng bán
Rước quân thù giẫm nát quê hương
Bán trẻ thơ phụ nữ cho ngoại bang
Cướp của dân oan
Banh da xẻ thịt giang san
Hùa nhau cắn xé quê cha đất tổ.
Mầy còn nhớ một lời của huynh trưởng
Không chấp nhận, không sống chung
Với loài quỷ đỏ
Không bao giờ nói chuyện hoà giải hoà hợp
Với chúng nó
Mầy với tao là những thằng lính trận mạc
Đối diện quân thù
Chỉ có hai tiếng: XUNG PHONG ! Một tiếng: SÁT !
Tiếng thét oai hùng, từng vang dội non cao rừng thẳm.
Hẹn một ngày tụi mình đào lỗ đem chôn
Những thằng chóp bu cộng sản
Cùng chủ nghĩa ngoại lai,
Đưa dân tộc trở lại bình minh tươi sáng.
Tụi mầy còn đó, tụi tao còn đây
Chung vai sát cánh thề quang phục quê hương
Môt lần nữa, mầy và tao sẽ có mặt
Trong đoàn quân xung kích, dưới bóng cờ vàng
Nắm tay nhau cùng hát khúc khải-hoàn-ca.
*
Ý KIẾN BẠN ĐỌC
Đọc những vần thơ lệ tuôn trào ,
Thật đẹp thay hai tiếng mầy, tao,
Thân thương quá ! tấm chân tình đồng đội ,
Đã bao năm theo dòng đời trôi nổi ,
Kẻ phương trời ,người góc bể ,chân mây,
Bỗng chợt nghe hai tiếng tao ,mầy,
Như gợi lại một chút tình đã mất,
Như tìm lại ,một tình yêu rất thật,
Đôi phút ,giây được sống với chính mình,
Của một thời trai trẻ chiến chinh,
Tuyệt ! tuyêt! quá tao,mầy gặp nhau nhé!
Dù vẫn biết ,thời gian có âm thầm lặng lẽ,
Và tuổi đời đã chồng chất thêm cao ,
Ngày gặp nhau ,mình vẫn gọi mầy ,tao,
Xưng hô vậy, thật thân ,thương mầy nhỉ!
Tao sẽ cười vui ,khi mầy gọi tao là thằng khỉ,
Rượu cay nồng làm sống lại mảnh trời xưa...
Kể nhau nghe ,phần còn lại chút đời thừa ,
Gom góp lại ,hiến dâng cho quê mẹ.
Để Sài Gòn vẫn là Sài Gòn hoa lệ,
vĩnh viễn cười ngạo nghễ mãi ngàn sau.
Quyen Tran
*
NGŨ TƯỚNG ANH HÙNG
An Lộc anh hùng sáng giá ông !
Lê Văn Hưng, địch nể vô cùng.
Bẩy hai tử thủ Bình Long,
Quý Mão tuẫn tiết Tướng hùng lưu danh.
Lê Nguyên Vỹ hiếm quý rành rành
Vận nước lâm nguy quyết tử nhanh
Mèo kêu thảm thiết xa gần (Qúy Mão)
Theo Phan Thanh Giản Tướng Quân Sử Vàng,
Tướng Khoa Nam rỏ ràng cao cả
Giặc ngập tràn bí quá tử vong
Tháng Tư vận nước xoay vần !
Tướng quân tuẫn tiết đâu cần vinh thân
Trai hùng khí phách Trần Văn Hai
Biến cố ba mươi dũng cảm tài
Biển người tràn ngập ôi thôi
Tướng hùng tuẫn tiết Sử thời ghi danh
Phạm Văn Phú nhỉệm vụ thi hành
Tổng Thống truyền mau lệnh rút quân
“Sinh vi tướng tử vi thần” !
Độc dược kết liễi toàn dân nhớ đời.
Lê Đắc
*
Anh Nguyễn Cung Thương ơi , Anh Nguyễn Cung Thương !
Đọc thư anh mà lòng em rướm máu.
Nhớ những ngày này của ba mươi lăm Năm trôi qua.
Súng không Đạn lấy gì mà Chiến Đấu.
Súng bị Gảy ôm một trời Uất Hận .
Kêu làm sao cho Thấu Trời Xanh.
Hởi Đại Bàng ! Hởi Những Đàn Anh !
Chúng Tôi Thà Chết Quyết Không Hàng Cộng Phỉ.
Nhìn Bạn Bè Anh Dủng Hy Sinh.
Rơi Máu Lệ với lời Thề Phục Hận .
Nhưng hởi ơi vận Nước đả tới hồi Mạc Lộ.
Đành lổi hẹn với Bạn bè Đồng Đội.
Lê thân gầy đi khắp Non Sông .
Tìm Minh Chúa mài Gươm Phục Hận .
Bước đường cùng đành xa Quê Mẹ.
Với lời thề sẻ Quang Phục Quê Hương.
Xa Quê Hương Lang Thang Cầu Thực.
Mới Thấm Thía nổi Nhục Mất Quê Hương .
Nuôi Chí Lớn mai này Phục Quốc.
Nhưng Chuyện Lớn chưa thành đành làm chuyện Nhỏ.
Chia Đô La anh em sống lây lất qua ngày .
Mong Các cho Anh Giử Tấm thân tới ngày đó.
Ngày Quang Phục Quê Hương Ngày đó rất Huy Hoàng.
Và đó củng là ngày Đại Hội của Đoàn Quân Cọp Biển Oai Hùng....
Nguyễn Phước
181513296
Copyright 2005 - 2010 © Take2Tango. All Rights Reserved.
*
GIAO CHỈ SAN JOSE * GIỚI THIỆU NGÀN GIỌT LỆ RƠI
30 tháng Tư – 31 năm sau: Chuyện đời thành tiểu thuyết – Tiểu thuyết thành chuyện phim NGÀN GIỌT LỆ RƠI
Giao Chỉ – San Jose 2006, Apr 20, 2006
Lời
nói đầu: Sau 30 năm cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam đã có nhiều hoàn cảnh
éo le trong cuộc sống. Cuộc binh đao giữa hai miền Nam Bắc, giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ đưa đến cảnh gia đình chia cắt. Câu chuyện được ghi lại
lần này là một nhà chia đôi ngả. Cha và con trai theo miền Bắc. Mẹ và
5 con theo miền Nam. Câu chuyện thật và đầy đủ tình tiết để dựng nên
một cuốn phim làm di sản cho đời sau.
Phim ảnh Hoa Kỳ thường hay phỏng theo các cuốn tiểu thuyết hoặc ký sự dựa theo chuyện có thật đã xảy ra.
Nếu người Việt chúng ta làm một cuốn phim tại hải ngoại để có thị trường phải là phim nói Anh ngữ, có cái vai Mỹ – Việt, tình tiết éo le, hấp dẫn, pha chút màu sắc điệp viên với các giây phút lo sợ kịch tính. Đồng thời có những lúc vai chính phải ray rứt nội tâm.
Màn ảnh chiếu gần, diễn tả bằng nét mặt.
Sự lựa chọn giữa lý tưởng và bổn phận của các vai chính làm cho chuyện phim đóng mở, lôi cuốn khán giả. Nội dung cần có cơ hội để lấy ngoại cảnh từ Việt Nam, Nhật Bản, Hạ Uy Di, Hoa kỳ và Âu châu.
Vai chính đi từ những phân cảnh của gia đình Việt Nam trong chiến tranh đến các buổi tiếp tân của ngoại giao đoàn tại các quốc gia Tây phương. Từ các phòng ăn tráng lệ tại các câu lạc bộ sĩ quan Hoa Kỳ cho đến các chiến khu ở rừng già Nam Bộ. Từ văn phòng của bộ ngoại giao chính phủ cộng sản Việt Nam đến cơ sở tình báo của Hải quân trong Ngũ Giác Đài. Một chuyện phim như thế mà phỏng theo một câu chuyện hồi ký có thực thì vô cùng lý thú. Có thể tìm thấy không? Trên thực tế chuyện này đã xảy ra.
Chúng ta có thể tìm được câu chuyện tình tiết như vậy với nội dung bao gồm cuộc chiến Quốc Cộng giữa Việt Nam với Việt Nam. Giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Câu chuyện gián điệp thực sự xảy ra đã được kể trong cuốn hồi ký của một phụ nữ.
Người đàn bà viết cuốn sách này tên là Đặng Mỹ Dung và cuốn sách này tựa đề là Ngàn Giọt Lệ Rơi. Nguyên tác Anh ngữ là A Thousand Tears Falling. Bà Yung Krall sáng tác theo thể tự truyện dựa vào cuộc đời của cha mẹ rồi đến chính cuộc đời của tác giả. Tất cả mọi danh tính đều giữ nguyên như là một sử liệu.
Dựa theo tác phẩm này, chúng tôi viết bản phác họa cho một cuốn phim tương lai của cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại.
Đây là phim truyện về một người chủ gia đình theo kháng chiến rồi đi tập kết 54 trở thành nhân viên cao cấp trong chính phủ cộng sản. Người vợ ở lại miền Nam trong vùng quốc gia rồi di tản qua Hoa Kỳ. Bà đã từ chối không về sống với chồng ở Việt Nam. Sau khi đất nước thống nhất, con cái mỗi người theo một ngả.
Tiếp theo cuộc chiến Quốc Cộng tiếp tục bàn giao cho thế hệ thứ hai. Tác giả là con gái trong gia đình đã thành hôn với một sĩ quan hải quân Mỹ. Trong hoàn cảnh éo le, cô gái đã trở thành gián điệp nhị trùng. Một bên là cha ruột, một bên là chồng. Đứng giữa hai phe thù nghịch nhưng tác giả thực sự làm việc cho phía Hoa Kỳ. Đã góp phần phá vỡ âm mưu của Hà Nội cài người vào Bộ Ngoại Giao tại Hoa Thịnh Đốn.
Chuyện thật đã xảy ra tại Mỹ vào cuối thập niên 70.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, phe quốc gia và đồng minh Hoa Kỳ thường bị phía cộng sản cài người nằm thật sâu vào các cơ quan của ta nhưng phe ta chưa hề có được những đòn gián điệp đáng kể lừa được đối phương.
Câu chuyện Ngàn Giọt Lệ Rơi là một biệt lệ đặc biệt cần được biết đến, cần được nhắc lại và cần được đóng thành phim.
Cảm khích với nội dung của tác phẩm, chúng tôi xin giới thiệu với quý vị sau đây là câu chuyện về một cuốn phim tương lai, nhân dịp 31 năm sau kể từ tháng 4-1975.
***PHÁC HỌA CHUYỆN PHIM “NGÀN GIỌT LỆ RƠI”
“A thousand Tears Falling” bắt đầu từ ngoại cảnh tại Nhật Bản. Thời gian lúc đó là tháng 6-1975, không gian là tại phòng tiếp tân của đại khách sạn Nhật Bản tại Đông Kinh.
Tại đây, một hội nghị quốc tế với các nước Đông Nam Á đang diễn ra. Ông Đặng Văn Minh là trưởng phái đoàn của nước cộng sản Việt Nam vừa chiến thắng Sài Gòn 2 tháng trước, đến dự hội nghị với niềm tự hào và được sự lưu ý của báo chí thế giới.
Tuy nhiên, cũng vào chiều hôm đó tại Đông Kinh, người cán bộ cao cấp của phe cộng sản gặp lại con gái sau 23 năm xa cách.
Từ hình ảnh trong đại sảnh của khách sạn quốc tế tại Tokyo, phía trước treo cờ các nước dự hội nghị có cờ đỏ sao vàng. Hình ảnh vị trưởng phái đoàn rạng rỡ tươi cười mở đầu cuốn phim để tiếp đến hình ảnh chiến khu với cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Ông Minh sinh năm 1909 tại Vĩnh Long, đi theo Kháng Chiến và trở thành nhân viên cao cấp của Mặt Trận. Năm 1954, ông dẫn con trai lớn là Đặng Văn Khôi ra Bắc. Vợ ông Minh là bà Trần Thị Phàm và 5 con nhỏ ở lại miền Nam. Khi chia tay hẹn 2 năm trở lại nhưng thật sự phải hơn 20 năm sau người cộng sản mới vào được Sài Gòn thì lúc đó đã biết bao nhiêu vật đổi sao rời.
Người con trưởng theo bố ra Bắc đã trở thành sĩ quan ưu tú của quân đội nhân dân được gửi đi Nga học về hỏa tiễn phòng không năm 1968.
Đến năm 1975, ông Minh trong khi vẫn một lòng trung thành với chế độ và trở nên cán bộ cao cấp ngành ngoại giao thì người con trưởng Đặng Văn Khôi có thái độ chống chiến tranh nên đã bị sa thải khỏi quân đội miền Bắc.
Tại miền Nam, người con trai thứ của ông bà là Đặng Hải Vân, lúc ông tập kết chỉ có 5 tuổi sau này đã trở thành phi công của Không Quân Cộng Hòa. Nhưng không may Hải Vân đã bị thiệt mạng trong một phi vụ bay huấn luyện tại Hoa Kỳ lúc 21 tuổi. Chị Đặng Mỹ Dung là con thứ tư của ông bà đã thành hôn với đại úy phi công của Hải Quân Hoa Kỳ tại Sài Gòn và năm 75 gia đình sống tại Hawaii.
Cuộc sống thơ mộng và bình yên của ông Krall và bà Mỹ Dung hoàn toàn thay đổi từ tháng 4-1975.
Cũng vào tháng 4-1975, lúc đó cha của bà Dung là ông Minh đang làm đại sứ cộng sản Hà Nội tại Nga Sô, mẹ của bà và đứa em út thì kẹt ở Sài Gòn.
Với bao năm xa cách, với quan niệm về cuộc sống khác biệt, bà Phàm vợ ông Minh không hề có ý muốn ở lại Sài Gòn để chờ đoàn tụ với chồng. Đặng Mỹ Dung liền yêu cầu thiếu tá Krall tìm cách về Sài Gòn đón gia đình bà qua Mỹ.
Khi ông Krall qua Sài Gòn đã lâu mà chưa có tin tức gì. Tại Hawaii, bà Đặng Mỹ Dung lo sợ đã nói chuyện trực tiếp qua điện thoại cầu cứu với đề đốc Gaylor, tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương tại Trân Châu Cảng.
Lời nói chỉ vắn tắt báo cáo chuyện chồng bà về Sài Gòn để lo cứu gia đình sao chưa thấy qua, nhưng bà nói thêm một tin tức động trời bà là con gái của đại sứ cộng sản Việt Nam tại Mạc Tư Khoa.
Lập tức guồng máy quân báo của Hải Quân Hoa Kỳ chuyển động và cả FBI lẫn CIA nhập cuộc.
Hệ thống tình báo Mỹ ghi nhận ngay đây là một đầu mối vô cùng quan trọng mà tại sao lâu nay không ai biết. Ngay cả lúc hồ sơ thành hôn của vị sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ cũng không ai lưu ý đến mối liên hệ huyết tộc quan trọng của cô dâu nước Mỹ có đầu mối Hà Nội. Họ cứ tưởng đây là cô gái thuần túy Sài Gòn.
Tiếp theo khi chuyến bay chở mẹ và em gái út của Đặng Mỹ Dung ra khỏi Việt Nam do CIA Sài Gòn trực tiếp sắp đặt thì một khế ước bất thành văn đã bắt đầu. Mỹ Dung nợ khối tình báo Mỹ một yêu cầu. Cuộc đời điệp viên khởi sự.
Khi bà Minh đã yên ổn tại Hoa Kỳ thì hơn 60 ngày sau Mỹ Dung dắt con nhỏ qua Nhật Bản thăm thân phụ đã hơn 20 năm xa cách. Guồng máy tình báo của thế giới tự do mở chiến dịch để Con Chim Xanh với Ngàn Giọt Lệ lên đường công tác.
Bây giờ xin mời khán giả trở lại Đông Kinh của tháng 6-1976.
Cánh cửa phòng họp riêng của đại sảnh Tokyo hé mở, một cán bộ ngoại giao của Hà Nội bước vào trình với thủ trưởng Đặng Quang Minh: “Thưa đồng chí thủ trưởng, bà Việt kiều ở Mỹ và đứa con lai đã có hẹn xin vào gặp.”
Ông Minh vẫn còn đang xem hồ sơ hội nghị, nói mà không nhìn lên: “Đây là đại diện Hội Việt Kiều Yêu Nước đến để động viên và mừng đất nước thống nhất.
Đồng chí mời vào đi.”
Đặng Lệ Dung bước vào cùng con gái nhỏ nép một bên.
Hơn 20 năm qua, lúc thân phụ ra đi, cô là đứa bé con. Giờ đây, đứa cháu ngoại lai Mỹ xinh đẹp của ông mắt mở to nhìn người đàn ông xa lạ mà e ngại.
Cuộc gặp gỡ riêng tư nhưng hết sức khách sáo. Cả cha con đều phải đóng kịch dù rằng trong lòng như lửa đốt.
Trước khi chia tay, ông Minh nói nhỏ với con gái là sẽ thu xếp để gặp lại người vợ cũ là bà Phàm đã hiện di tản qua Hoa Kỳ.
Sau cuộc gặp gỡ lần đầu tiên vào tháng 6-1975, cuộc đấu tranh chiến tranh chính trị, tình báo và ngoại giao giữa hai cha con bắt đầu. Một bên là Việt Nam cộng sản đã thống nhất và một bên là guồng máy tình báo Hoa Kỳ.
Cả hai bên đều tìm cách mua chuộc lẫn nhau. Cuốn phim Ngàn Giọt Lệ Rơi thực sự sẽ có cả hàng trăm phân cảnh hết sức độc đáo để dàn dựng.
Thủ trưởng Đặng Quang Minh về báo cáo lên bộ chính trị và được đồng ý cho phép qua Paris gặp lại vợ con. Ông dự trù sẽ thuyết phục để đưa vợ con trở về Hà Nội dưới hình thức chiến thắng ngoại giao sau khi tuyên bố là gia đình ông ở Sài Gòn đã bị Hoa Kỳ áp đảo bắt phải di tản. Hà Nội chắc chắn một lần nữa sẽ đạt được một thành tích đánh bại Hoa Kỳ trên diễn đàn dư luận quốc tế.
Phía Hoa Kỳ, Hoa Thịnh Đốn đã cho phép CIA giúp đỡ hai mẹ con bà Minh qua Pháp để bắt nhịp cầu làm việc trực tiếp với tòa đại sứ cộng sản Việt Nam tại Paris. Tình báo Mỹ chấp nhận nhập cuộc.
Tuy nhiên, cuộc đấu tranh chính trị giữa cộng sản và Hoa Kỳ đã trở thành một mối xung đột và mâu thuẫn trong nội bộ gia đình họ Đặng, vượt ra khỏi tầm tay của những thế lực đằng sau từ cả hai bên.
Ông Minh hết lòng thuyết phục bà vợ tao khang trở về với một đất nước nay đã thanh bình, độc lập, thống nhất và hoàn toàn chiến thắng. Ông thề thốt lấy cả cuộc đời ra để bảo đảm cho sự an toàn của bà và người con út cùng đi với bà.
Nhưng bà Minh vẫn còn dè đặt và sau cùng quyết định ở lại Hoa Kỳ. Một quyết định sáng suốt mà ngày nay bà vẫn cho là hết sức may mắn.
Trong thời gian đó, phe cộng sản hết lòng chiều chuộng móc nối với Đặng Mỹ Dung với hy vọng cô sẽ thuyết phục bà mẹ. Và hơn nữa, dù bà Minh chưa muốn về Hà Nội nhưng Mỹ Dung với ảnh hưởng sẵn có trong quân đội Mỹ, có thể dễ dàng trở thành một nguồn tin đáng giá và tốt nhất là chuyển hộ các tài liệu trên đường hàng không từ Hoa Thịnh Đốn qua Paris.
Con Chim Xanh của Ngàn Giọt Lệ Rơi luôn luôn sẵn sàng hợp tác như là người cảm tình với phe chiến thắng mà thân phụ của cô cũng góp phần.
Dần dân Mỹ Dung gián tiếp trở thành một phụ nữ Việt Nam yêu nước kết hôn với người Mỹ những vẫn hồn nhiên đóng góp công tác cho chính phủ Hà Nội và các tổ chức thân Cộng.
Cũng vào thời điểm đó, sinh viên thân cộng Trương Đình Hùng là con của luật sư Trương Đình Dzu đang hoạt động cho tình báo cộng sản. Hùng du học Mỹ trước 1975 và tiếp tục ở lại Hoa Kỳ móc nối lấy tin tức từ Bộ Ngoại Giao. Hùng rất tin tưởng ở sự thân hữu chặt chẽ của Mỹ Dung với Hà Nội và tòa đại sứ cộng sản Việt Nam tại Pháp.
Ronald Humphrey là nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ được phép đọc tài liệu tối mật.
Lúc còn ở Việt Nam, Humphrey lấy cháu gái Võ Thị Định, một nữ cán bộ quân sự của Giải Phóng Miền Nam. Hà Nội đưa điều kiện nếu Ronald muốn cho phép đem vợ qua Mỹ phải lấy hồ sơ mật của Bộ Ngoại Giao Mỹ trao cho Trương Đình Hùng.
Trương Đình Hùng nhờ Đặng Mỹ Dung chuyển tài liệu cho cộng sản qua tòa đại sứ Việt Nam tại Paris đưa tài liệu cho Việt cộng. Tài liệu Humphrey đưa ra qua tay Hùng đến Mỹ Dung thì CIA đổi thành tài liệu giả để chuyển qua Pháp.
Khi chính phủ Hoa Kỳ quyết định truy tố Trương Đình Hùng và Humphrey thì cần có Mỹ Dung ra làm nhân chứng. Nếu như thế là cuộc đời gián điệp sẽ chấm dứt và đồng thời bà chấp nhận mọi rủi ro thách đố về sau.
Đây là một quyết định khó khăn đối với một phụ nữ. Lần đưa mẹ ra khỏi Việt Nam, Mỹ Dung đã phải trả giá bằng cách bước vào con đường chông gai của nữ điệp viên. Lần này lại thêm một thử thách mới.
Sau cùng Mỹ Dung yêu cầu chính phủ Mỹ phải cam kết đưa cha và anh bà được vào Mỹ, trước khi phiên tòa bắt đầu.
Việc này sẽ được thu xếp trước khi vụ gián điệp tại Bộ Ngoại Giao được chuyển qua tòa án. Hồ sơ cam kết mật đưa lên tổng thống Carter xin chấp thuận. Guồng máy tình báo Hoa Kỳ lại mở chiến dịch mới.
Bà Mỹ Dung viết thư cho Lê Duẩn, tổng thư ký và Nguyễn Duy Trinh bộ trưởng ngoại giao Hà Nội xin cho cha là Đăng Quang Minh qua London gặp gia đình vợ con vì bà Minh bị bệnh nan y có thể chết.
Giáng Sinh năm 1977, Hà Nội chấp thuận cho ông Minh xuất ngoại. Trong hai tuần lễ bên cha, cả hai chị em bà Mỹ Dung thuyết phục ông Minh đi Mỹ nhưng không thành công.
Cuộc tranh luận, phân giải trong gia tộc với nghĩa phu thê, và tình cha con của một gia đình Quốc Cộng đã kéo dài suốt mùa Giáng Sinh tại thủ đô sương mù London năm 1977.
Ông Minh đã dành cả cuộc đời đi theo con đường của ông, đêm nằm trằn trọc cùng phòng với đứa cháu ngoại thân yêu.
Bà Minh suốt thời gian nghe con gái và chồng tranh luận mệt nhoài nên đã nói những lời sau cùng trước khi chia tay đôi ngả. Bà yêu cầu chồng và các con từ nay chấm dứt tranh luận, cãi cọ qua lại về chính trị, về chủ thuyết, và tương lai. Hãy ngồi với nhau lần cuối trong tình huyết tộc rồi đường ai nấy đi.
Cuộc chia tay của hai phe đấu tranh chiến tranh chính trị trong một gia đình bây giờ chỉ còn toàn nước mắt của “Ngàn giọt lệ rơi.”
Sau cuộc họp mặt Giáng Sinh lịch sử 1977 của gia đình họ Đặng, Hoa Kỳ quyết định đưa vụ án ra ánh sáng. Chính phủ Mỹ truy tố Trương Đình Hùng và Ronald Humphrey mỗi người bị tù 15 năm. Cả hệ thống ngoại giao của cộng sản Hà Nội bị lung lay, rung động từ đại sứ Đinh Bá Thi tại Liên Hiệp Quốc cho đến đại sứ Đặng Văn Sung tại Paris.
Câu chuyện gián điệp nữ Đặng Mỹ Dung được viết lại thành ký sự bằng Anh ngữ nhưng CIA đã yêu cầu bỏ đi gần 200 trang trước khi in. Một ngày nào đó bản Việt ngữ sẽ phát hành đầy đủ hơn để chúng ta biết rõ về một gia đình Quốc Cộng đã chia ly, đoàn tụ và vĩnh biệt ra sao.
Về sau ông Đặng Quang Minh sống độc thân tại Hà Nội, thỉnh thoảng đi thăm mộ con trai là thiếu úy Đặng Hải Vân của KQVNCH tại miền Nam. Ông mất năm 1986, hưởng thọ được 77 tuổi.
Đặng Văn Khôi, người con trai lớn theo ông tập kết ra Bắc có đến chào cha trước khi vượt biên, hiện sống ở miền Đông Hoa Kỳ. Từ một sĩ quan của đơn vị phòng không quân đội nhân dân đã du học bên Nga, nay ông trở thành người tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Ông sống độc thân, năm nay 67 tuổi.
Bà Minh sống với vợ chồng Đặng Mỹ Dung đã về hưu. Khi được tin chồng chết, bà không muốn về chịu tang dưới nghi lễ của đảng cộng sản. Một lòng kiên quyết, bà muốn để cho chồng đi trọn con đường ông lựa chọn.
Ông chết trong lòng đất quê hương, nơi có mộ phần của con trai ông là sĩ quan miền Nam. Bà Minh qua đời khi nước Mỹ bước vào thế kỷ thứ 21. Có thể ông bà đã cùng đứa con trai đoàn tụ ở một nơi không còn khác biệt về ý thức hệ.
Cuốn sách A Thousand Tears Falling hiện được một số giáo sư Hoa Kỳ dùng để dạy cho các trường trung học. Còn cuốn phim A Thousand Tears Falling của Giao Chỉ thì đang dự thảo. Cũng mới chỉ là một ý kiến mà thôi. Chỉ sợ rằng để lâu quá thời gian sẽ làm cho nước mắt đã khô hết cả mất rồi. Nhưng dù lâu hay mau, câu chuyện Ngàn Giọt Lệ Rơi sẽ rất xứng đáng để quay thành phim. Và hàng triệu giọt nước mắt sẽ chan hòa rạp hát. Vì vậy chúng tôi xin kể lại chuyện này nhân ngày 30 tháng 4-2006, ba mươi mốt năm sau.
Giao Chỉ – San Jose 2006
Phim ảnh Hoa Kỳ thường hay phỏng theo các cuốn tiểu thuyết hoặc ký sự dựa theo chuyện có thật đã xảy ra.
Nếu người Việt chúng ta làm một cuốn phim tại hải ngoại để có thị trường phải là phim nói Anh ngữ, có cái vai Mỹ – Việt, tình tiết éo le, hấp dẫn, pha chút màu sắc điệp viên với các giây phút lo sợ kịch tính. Đồng thời có những lúc vai chính phải ray rứt nội tâm.
Màn ảnh chiếu gần, diễn tả bằng nét mặt.
Sự lựa chọn giữa lý tưởng và bổn phận của các vai chính làm cho chuyện phim đóng mở, lôi cuốn khán giả. Nội dung cần có cơ hội để lấy ngoại cảnh từ Việt Nam, Nhật Bản, Hạ Uy Di, Hoa kỳ và Âu châu.
Vai chính đi từ những phân cảnh của gia đình Việt Nam trong chiến tranh đến các buổi tiếp tân của ngoại giao đoàn tại các quốc gia Tây phương. Từ các phòng ăn tráng lệ tại các câu lạc bộ sĩ quan Hoa Kỳ cho đến các chiến khu ở rừng già Nam Bộ. Từ văn phòng của bộ ngoại giao chính phủ cộng sản Việt Nam đến cơ sở tình báo của Hải quân trong Ngũ Giác Đài. Một chuyện phim như thế mà phỏng theo một câu chuyện hồi ký có thực thì vô cùng lý thú. Có thể tìm thấy không? Trên thực tế chuyện này đã xảy ra.
Chúng ta có thể tìm được câu chuyện tình tiết như vậy với nội dung bao gồm cuộc chiến Quốc Cộng giữa Việt Nam với Việt Nam. Giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Câu chuyện gián điệp thực sự xảy ra đã được kể trong cuốn hồi ký của một phụ nữ.
Người đàn bà viết cuốn sách này tên là Đặng Mỹ Dung và cuốn sách này tựa đề là Ngàn Giọt Lệ Rơi. Nguyên tác Anh ngữ là A Thousand Tears Falling. Bà Yung Krall sáng tác theo thể tự truyện dựa vào cuộc đời của cha mẹ rồi đến chính cuộc đời của tác giả. Tất cả mọi danh tính đều giữ nguyên như là một sử liệu.
Dựa theo tác phẩm này, chúng tôi viết bản phác họa cho một cuốn phim tương lai của cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại.
Đây là phim truyện về một người chủ gia đình theo kháng chiến rồi đi tập kết 54 trở thành nhân viên cao cấp trong chính phủ cộng sản. Người vợ ở lại miền Nam trong vùng quốc gia rồi di tản qua Hoa Kỳ. Bà đã từ chối không về sống với chồng ở Việt Nam. Sau khi đất nước thống nhất, con cái mỗi người theo một ngả.
Tiếp theo cuộc chiến Quốc Cộng tiếp tục bàn giao cho thế hệ thứ hai. Tác giả là con gái trong gia đình đã thành hôn với một sĩ quan hải quân Mỹ. Trong hoàn cảnh éo le, cô gái đã trở thành gián điệp nhị trùng. Một bên là cha ruột, một bên là chồng. Đứng giữa hai phe thù nghịch nhưng tác giả thực sự làm việc cho phía Hoa Kỳ. Đã góp phần phá vỡ âm mưu của Hà Nội cài người vào Bộ Ngoại Giao tại Hoa Thịnh Đốn.
Chuyện thật đã xảy ra tại Mỹ vào cuối thập niên 70.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, phe quốc gia và đồng minh Hoa Kỳ thường bị phía cộng sản cài người nằm thật sâu vào các cơ quan của ta nhưng phe ta chưa hề có được những đòn gián điệp đáng kể lừa được đối phương.
Câu chuyện Ngàn Giọt Lệ Rơi là một biệt lệ đặc biệt cần được biết đến, cần được nhắc lại và cần được đóng thành phim.
Cảm khích với nội dung của tác phẩm, chúng tôi xin giới thiệu với quý vị sau đây là câu chuyện về một cuốn phim tương lai, nhân dịp 31 năm sau kể từ tháng 4-1975.
***PHÁC HỌA CHUYỆN PHIM “NGÀN GIỌT LỆ RƠI”
“A thousand Tears Falling” bắt đầu từ ngoại cảnh tại Nhật Bản. Thời gian lúc đó là tháng 6-1975, không gian là tại phòng tiếp tân của đại khách sạn Nhật Bản tại Đông Kinh.
Tại đây, một hội nghị quốc tế với các nước Đông Nam Á đang diễn ra. Ông Đặng Văn Minh là trưởng phái đoàn của nước cộng sản Việt Nam vừa chiến thắng Sài Gòn 2 tháng trước, đến dự hội nghị với niềm tự hào và được sự lưu ý của báo chí thế giới.
Tuy nhiên, cũng vào chiều hôm đó tại Đông Kinh, người cán bộ cao cấp của phe cộng sản gặp lại con gái sau 23 năm xa cách.
Từ hình ảnh trong đại sảnh của khách sạn quốc tế tại Tokyo, phía trước treo cờ các nước dự hội nghị có cờ đỏ sao vàng. Hình ảnh vị trưởng phái đoàn rạng rỡ tươi cười mở đầu cuốn phim để tiếp đến hình ảnh chiến khu với cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Ông Minh sinh năm 1909 tại Vĩnh Long, đi theo Kháng Chiến và trở thành nhân viên cao cấp của Mặt Trận. Năm 1954, ông dẫn con trai lớn là Đặng Văn Khôi ra Bắc. Vợ ông Minh là bà Trần Thị Phàm và 5 con nhỏ ở lại miền Nam. Khi chia tay hẹn 2 năm trở lại nhưng thật sự phải hơn 20 năm sau người cộng sản mới vào được Sài Gòn thì lúc đó đã biết bao nhiêu vật đổi sao rời.
Người con trưởng theo bố ra Bắc đã trở thành sĩ quan ưu tú của quân đội nhân dân được gửi đi Nga học về hỏa tiễn phòng không năm 1968.
Đến năm 1975, ông Minh trong khi vẫn một lòng trung thành với chế độ và trở nên cán bộ cao cấp ngành ngoại giao thì người con trưởng Đặng Văn Khôi có thái độ chống chiến tranh nên đã bị sa thải khỏi quân đội miền Bắc.
Tại miền Nam, người con trai thứ của ông bà là Đặng Hải Vân, lúc ông tập kết chỉ có 5 tuổi sau này đã trở thành phi công của Không Quân Cộng Hòa. Nhưng không may Hải Vân đã bị thiệt mạng trong một phi vụ bay huấn luyện tại Hoa Kỳ lúc 21 tuổi. Chị Đặng Mỹ Dung là con thứ tư của ông bà đã thành hôn với đại úy phi công của Hải Quân Hoa Kỳ tại Sài Gòn và năm 75 gia đình sống tại Hawaii.
Cuộc sống thơ mộng và bình yên của ông Krall và bà Mỹ Dung hoàn toàn thay đổi từ tháng 4-1975.
Cũng vào tháng 4-1975, lúc đó cha của bà Dung là ông Minh đang làm đại sứ cộng sản Hà Nội tại Nga Sô, mẹ của bà và đứa em út thì kẹt ở Sài Gòn.
Với bao năm xa cách, với quan niệm về cuộc sống khác biệt, bà Phàm vợ ông Minh không hề có ý muốn ở lại Sài Gòn để chờ đoàn tụ với chồng. Đặng Mỹ Dung liền yêu cầu thiếu tá Krall tìm cách về Sài Gòn đón gia đình bà qua Mỹ.
Khi ông Krall qua Sài Gòn đã lâu mà chưa có tin tức gì. Tại Hawaii, bà Đặng Mỹ Dung lo sợ đã nói chuyện trực tiếp qua điện thoại cầu cứu với đề đốc Gaylor, tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương tại Trân Châu Cảng.
Lời nói chỉ vắn tắt báo cáo chuyện chồng bà về Sài Gòn để lo cứu gia đình sao chưa thấy qua, nhưng bà nói thêm một tin tức động trời bà là con gái của đại sứ cộng sản Việt Nam tại Mạc Tư Khoa.
Lập tức guồng máy quân báo của Hải Quân Hoa Kỳ chuyển động và cả FBI lẫn CIA nhập cuộc.
Hệ thống tình báo Mỹ ghi nhận ngay đây là một đầu mối vô cùng quan trọng mà tại sao lâu nay không ai biết. Ngay cả lúc hồ sơ thành hôn của vị sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ cũng không ai lưu ý đến mối liên hệ huyết tộc quan trọng của cô dâu nước Mỹ có đầu mối Hà Nội. Họ cứ tưởng đây là cô gái thuần túy Sài Gòn.
Tiếp theo khi chuyến bay chở mẹ và em gái út của Đặng Mỹ Dung ra khỏi Việt Nam do CIA Sài Gòn trực tiếp sắp đặt thì một khế ước bất thành văn đã bắt đầu. Mỹ Dung nợ khối tình báo Mỹ một yêu cầu. Cuộc đời điệp viên khởi sự.
Khi bà Minh đã yên ổn tại Hoa Kỳ thì hơn 60 ngày sau Mỹ Dung dắt con nhỏ qua Nhật Bản thăm thân phụ đã hơn 20 năm xa cách. Guồng máy tình báo của thế giới tự do mở chiến dịch để Con Chim Xanh với Ngàn Giọt Lệ lên đường công tác.
Bây giờ xin mời khán giả trở lại Đông Kinh của tháng 6-1976.
Cánh cửa phòng họp riêng của đại sảnh Tokyo hé mở, một cán bộ ngoại giao của Hà Nội bước vào trình với thủ trưởng Đặng Quang Minh: “Thưa đồng chí thủ trưởng, bà Việt kiều ở Mỹ và đứa con lai đã có hẹn xin vào gặp.”
Ông Minh vẫn còn đang xem hồ sơ hội nghị, nói mà không nhìn lên: “Đây là đại diện Hội Việt Kiều Yêu Nước đến để động viên và mừng đất nước thống nhất.
Đồng chí mời vào đi.”
Đặng Lệ Dung bước vào cùng con gái nhỏ nép một bên.
Hơn 20 năm qua, lúc thân phụ ra đi, cô là đứa bé con. Giờ đây, đứa cháu ngoại lai Mỹ xinh đẹp của ông mắt mở to nhìn người đàn ông xa lạ mà e ngại.
Cuộc gặp gỡ riêng tư nhưng hết sức khách sáo. Cả cha con đều phải đóng kịch dù rằng trong lòng như lửa đốt.
Trước khi chia tay, ông Minh nói nhỏ với con gái là sẽ thu xếp để gặp lại người vợ cũ là bà Phàm đã hiện di tản qua Hoa Kỳ.
Sau cuộc gặp gỡ lần đầu tiên vào tháng 6-1975, cuộc đấu tranh chiến tranh chính trị, tình báo và ngoại giao giữa hai cha con bắt đầu. Một bên là Việt Nam cộng sản đã thống nhất và một bên là guồng máy tình báo Hoa Kỳ.
Cả hai bên đều tìm cách mua chuộc lẫn nhau. Cuốn phim Ngàn Giọt Lệ Rơi thực sự sẽ có cả hàng trăm phân cảnh hết sức độc đáo để dàn dựng.
Thủ trưởng Đặng Quang Minh về báo cáo lên bộ chính trị và được đồng ý cho phép qua Paris gặp lại vợ con. Ông dự trù sẽ thuyết phục để đưa vợ con trở về Hà Nội dưới hình thức chiến thắng ngoại giao sau khi tuyên bố là gia đình ông ở Sài Gòn đã bị Hoa Kỳ áp đảo bắt phải di tản. Hà Nội chắc chắn một lần nữa sẽ đạt được một thành tích đánh bại Hoa Kỳ trên diễn đàn dư luận quốc tế.
Phía Hoa Kỳ, Hoa Thịnh Đốn đã cho phép CIA giúp đỡ hai mẹ con bà Minh qua Pháp để bắt nhịp cầu làm việc trực tiếp với tòa đại sứ cộng sản Việt Nam tại Paris. Tình báo Mỹ chấp nhận nhập cuộc.
Tuy nhiên, cuộc đấu tranh chính trị giữa cộng sản và Hoa Kỳ đã trở thành một mối xung đột và mâu thuẫn trong nội bộ gia đình họ Đặng, vượt ra khỏi tầm tay của những thế lực đằng sau từ cả hai bên.
Ông Minh hết lòng thuyết phục bà vợ tao khang trở về với một đất nước nay đã thanh bình, độc lập, thống nhất và hoàn toàn chiến thắng. Ông thề thốt lấy cả cuộc đời ra để bảo đảm cho sự an toàn của bà và người con út cùng đi với bà.
Nhưng bà Minh vẫn còn dè đặt và sau cùng quyết định ở lại Hoa Kỳ. Một quyết định sáng suốt mà ngày nay bà vẫn cho là hết sức may mắn.
Trong thời gian đó, phe cộng sản hết lòng chiều chuộng móc nối với Đặng Mỹ Dung với hy vọng cô sẽ thuyết phục bà mẹ. Và hơn nữa, dù bà Minh chưa muốn về Hà Nội nhưng Mỹ Dung với ảnh hưởng sẵn có trong quân đội Mỹ, có thể dễ dàng trở thành một nguồn tin đáng giá và tốt nhất là chuyển hộ các tài liệu trên đường hàng không từ Hoa Thịnh Đốn qua Paris.
Con Chim Xanh của Ngàn Giọt Lệ Rơi luôn luôn sẵn sàng hợp tác như là người cảm tình với phe chiến thắng mà thân phụ của cô cũng góp phần.
Dần dân Mỹ Dung gián tiếp trở thành một phụ nữ Việt Nam yêu nước kết hôn với người Mỹ những vẫn hồn nhiên đóng góp công tác cho chính phủ Hà Nội và các tổ chức thân Cộng.
Cũng vào thời điểm đó, sinh viên thân cộng Trương Đình Hùng là con của luật sư Trương Đình Dzu đang hoạt động cho tình báo cộng sản. Hùng du học Mỹ trước 1975 và tiếp tục ở lại Hoa Kỳ móc nối lấy tin tức từ Bộ Ngoại Giao. Hùng rất tin tưởng ở sự thân hữu chặt chẽ của Mỹ Dung với Hà Nội và tòa đại sứ cộng sản Việt Nam tại Pháp.
Ronald Humphrey là nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ được phép đọc tài liệu tối mật.
Lúc còn ở Việt Nam, Humphrey lấy cháu gái Võ Thị Định, một nữ cán bộ quân sự của Giải Phóng Miền Nam. Hà Nội đưa điều kiện nếu Ronald muốn cho phép đem vợ qua Mỹ phải lấy hồ sơ mật của Bộ Ngoại Giao Mỹ trao cho Trương Đình Hùng.
Trương Đình Hùng nhờ Đặng Mỹ Dung chuyển tài liệu cho cộng sản qua tòa đại sứ Việt Nam tại Paris đưa tài liệu cho Việt cộng. Tài liệu Humphrey đưa ra qua tay Hùng đến Mỹ Dung thì CIA đổi thành tài liệu giả để chuyển qua Pháp.
Khi chính phủ Hoa Kỳ quyết định truy tố Trương Đình Hùng và Humphrey thì cần có Mỹ Dung ra làm nhân chứng. Nếu như thế là cuộc đời gián điệp sẽ chấm dứt và đồng thời bà chấp nhận mọi rủi ro thách đố về sau.
Đây là một quyết định khó khăn đối với một phụ nữ. Lần đưa mẹ ra khỏi Việt Nam, Mỹ Dung đã phải trả giá bằng cách bước vào con đường chông gai của nữ điệp viên. Lần này lại thêm một thử thách mới.
Sau cùng Mỹ Dung yêu cầu chính phủ Mỹ phải cam kết đưa cha và anh bà được vào Mỹ, trước khi phiên tòa bắt đầu.
Việc này sẽ được thu xếp trước khi vụ gián điệp tại Bộ Ngoại Giao được chuyển qua tòa án. Hồ sơ cam kết mật đưa lên tổng thống Carter xin chấp thuận. Guồng máy tình báo Hoa Kỳ lại mở chiến dịch mới.
Bà Mỹ Dung viết thư cho Lê Duẩn, tổng thư ký và Nguyễn Duy Trinh bộ trưởng ngoại giao Hà Nội xin cho cha là Đăng Quang Minh qua London gặp gia đình vợ con vì bà Minh bị bệnh nan y có thể chết.
Giáng Sinh năm 1977, Hà Nội chấp thuận cho ông Minh xuất ngoại. Trong hai tuần lễ bên cha, cả hai chị em bà Mỹ Dung thuyết phục ông Minh đi Mỹ nhưng không thành công.
Cuộc tranh luận, phân giải trong gia tộc với nghĩa phu thê, và tình cha con của một gia đình Quốc Cộng đã kéo dài suốt mùa Giáng Sinh tại thủ đô sương mù London năm 1977.
Ông Minh đã dành cả cuộc đời đi theo con đường của ông, đêm nằm trằn trọc cùng phòng với đứa cháu ngoại thân yêu.
Bà Minh suốt thời gian nghe con gái và chồng tranh luận mệt nhoài nên đã nói những lời sau cùng trước khi chia tay đôi ngả. Bà yêu cầu chồng và các con từ nay chấm dứt tranh luận, cãi cọ qua lại về chính trị, về chủ thuyết, và tương lai. Hãy ngồi với nhau lần cuối trong tình huyết tộc rồi đường ai nấy đi.
Cuộc chia tay của hai phe đấu tranh chiến tranh chính trị trong một gia đình bây giờ chỉ còn toàn nước mắt của “Ngàn giọt lệ rơi.”
Sau cuộc họp mặt Giáng Sinh lịch sử 1977 của gia đình họ Đặng, Hoa Kỳ quyết định đưa vụ án ra ánh sáng. Chính phủ Mỹ truy tố Trương Đình Hùng và Ronald Humphrey mỗi người bị tù 15 năm. Cả hệ thống ngoại giao của cộng sản Hà Nội bị lung lay, rung động từ đại sứ Đinh Bá Thi tại Liên Hiệp Quốc cho đến đại sứ Đặng Văn Sung tại Paris.
Câu chuyện gián điệp nữ Đặng Mỹ Dung được viết lại thành ký sự bằng Anh ngữ nhưng CIA đã yêu cầu bỏ đi gần 200 trang trước khi in. Một ngày nào đó bản Việt ngữ sẽ phát hành đầy đủ hơn để chúng ta biết rõ về một gia đình Quốc Cộng đã chia ly, đoàn tụ và vĩnh biệt ra sao.
Về sau ông Đặng Quang Minh sống độc thân tại Hà Nội, thỉnh thoảng đi thăm mộ con trai là thiếu úy Đặng Hải Vân của KQVNCH tại miền Nam. Ông mất năm 1986, hưởng thọ được 77 tuổi.
Đặng Văn Khôi, người con trai lớn theo ông tập kết ra Bắc có đến chào cha trước khi vượt biên, hiện sống ở miền Đông Hoa Kỳ. Từ một sĩ quan của đơn vị phòng không quân đội nhân dân đã du học bên Nga, nay ông trở thành người tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Ông sống độc thân, năm nay 67 tuổi.
Bà Minh sống với vợ chồng Đặng Mỹ Dung đã về hưu. Khi được tin chồng chết, bà không muốn về chịu tang dưới nghi lễ của đảng cộng sản. Một lòng kiên quyết, bà muốn để cho chồng đi trọn con đường ông lựa chọn.
Ông chết trong lòng đất quê hương, nơi có mộ phần của con trai ông là sĩ quan miền Nam. Bà Minh qua đời khi nước Mỹ bước vào thế kỷ thứ 21. Có thể ông bà đã cùng đứa con trai đoàn tụ ở một nơi không còn khác biệt về ý thức hệ.
Cuốn sách A Thousand Tears Falling hiện được một số giáo sư Hoa Kỳ dùng để dạy cho các trường trung học. Còn cuốn phim A Thousand Tears Falling của Giao Chỉ thì đang dự thảo. Cũng mới chỉ là một ý kiến mà thôi. Chỉ sợ rằng để lâu quá thời gian sẽ làm cho nước mắt đã khô hết cả mất rồi. Nhưng dù lâu hay mau, câu chuyện Ngàn Giọt Lệ Rơi sẽ rất xứng đáng để quay thành phim. Và hàng triệu giọt nước mắt sẽ chan hòa rạp hát. Vì vậy chúng tôi xin kể lại chuyện này nhân ngày 30 tháng 4-2006, ba mươi mốt năm sau.
Giao Chỉ – San Jose 2006
NGUYỄN TRUNG LĨNH * LỜI KÊU GỌI VÙNG LÊN DIỆT CỘNG
Toàn dân đồng lòng loại bỏ bọn phản quốc!
Nguyễn Trung Lĩnh
Hà Nội, ngày 03.03.2010
Trong những năm đầu thập kỷ chín mươi của Thế kỷ trước nổi bật là sự kiện: hầu như toàn bộ Lãnh đạo ĐCSVN phải sang Trung Quốc bằng đường bộ và đường sắt theo yêu cầu của Trung Quốc để đến “khấu lạy” Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân và Lãnh đạo Trung Quốc để thỉnh cầu sự hoà bình, hoà thuận, bình thường hoá quan hệ giữa hai bên, kêu gọi Trung Quốc trợ giúp để ĐCSVN, Thể chế do ĐCSVN xây dựng lên không bị sụp đổ.
Đây là hành động mà theo đánh giá của nhiều Đảng viên ĐCSVN cũng như người dân không đảng phái là “hành động nhục nhã nhất từ cổ chí kim của một Triều đình” mang lại cho dân tộc Việt Nam chúng ta. Nguyên nhân là do thời bấy giờ Liên Xô và Hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa sụp đổ thì Lãnh đạo ĐCSVN không còn chỗ bám dựa đành quay sang tìm chỗ bám mới là ĐCS Trung Quốc. Ông Đặng Tiểu Bình cùng lãnh đạo Trung Quốc hiểu vấn đề và nắm được cơ hội quyết hạ nhục Lãnh đạo ĐCSVN và nhân dân Việt Nam. Chúng ta có thể chấp nhận được một Đảng, một nhóm người lãnh đạo đất nước kiểu như thế này không? Rõ ràng là không thể chấp nhận được.
Tiếp theo sau nỗi nhục lớn nhất từ cổ xưa đến nay là việc Lãnh đạo ĐCSVN đã chấp nhận ký kết Hiệp Ước Biên giới trên bộ với Trung Quốc. Theo Hiệp Ước này Việt Nam ta đã để mất khoảng 700 km2 đất liền dọc biên giới phía bắc với Trung Quốc so với Hiệp Ước biên giới của Thực dân Pháp với Nhà Thanh trước kia. Nhiều đảng viên ĐCSVN cũng như nhân dân nói rằng dọc biên giới cách đây 20 năm là đất của chúng ta thì ngày nay đã thụt vào khoảng 1 km đến 2 km suốt dọc theo cả chiều dài biên giới với Trung Quốc trên đất liền. Với Hiệp Ước phân định Vịnh Bắc Bộ thì lại để mất thêm khoảng 1 triệu km2 mặt biển so với trước kia. Nếu tính số tiền mà nước ta đã để mất vào tay Trung Quốc trong vấn đề biên giới phải đến hàng vạn tỷ đô la Mỹ.
Hơn thế nữa nó là vô giá, không thể tính nổi. Có lẽ đây là khoản mà Trung Quốc lấy lại “số nợ” mà Trung Quốc đã giúp chúng ta trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, hay là họ lợi dụng lúc chúng ta yếu, khó khăn, cần tới họ thì họ cố “vặt” chúng ta? Hay là Lãnh đạo ĐCSVN đã bị họ khống chế, mua chuộc bằng tiền và gái rồi? Chúng ta có thể chấp nhận được một Tập thể lãnh đạo đã mang lại cho đất nước và dân tộc ta những kết quả về tiền của và danh dự như trên không? Tất nhiên là không thể chấp nhận được.
Năm 2005 một đoàn ngư dân của Thanh Hoá đánh cá trên vùng biển mà xưa nay dân ta vẫn đi đánh cá đã bị Hải Quân Trung Quốc nã súng làm 5 người chết mà Lãnh đạo đất nước không hề lên tiếng, Lãnh đạo ĐCSVN không hề lên tiếng phản đối để bảo vệ chủ quyền và bảo vệ danh dự cũng như tính mạng của người dân. Gần đây rất nhiều vụ ngư dân ta bị Trung Quốc bắt bớ, làm trò xấu, hành hạ, cướp của một cách ngang nhiên không xem con người ra gì ngay trên địa phận của chúng ta. Ngược lại rất nhiều toán ngư dân Trung Quốc xâm phạm vùng biển của chúng ta, có khi vào sát bờ biển ta chưa đến 50 km.
Thế mà phía chúng ta theo chỉ thị của Bộ Chính Trị ĐCSVN không hề có một hành động bắt phạt nào đáp trả phù hợp. Đây rõ ràng là những hành xử yếu hèn, thấp kém của Ban lãnh đạo ĐCSVN. Đương nhiên là thế lực của chúng ta đang yếu so với Trung Quốc, nhưng không có nghĩa là Ban lãnh đạo đất nước không biết lên tiếng bảo vệ dân mình, bảo vệ quyền lợi của đất nước mình trước một nước láng giềng to lớn. Một mình không bảo vệ nổi thì phải tìm kiếm đồng minh ngay tức khắc, chứ đằng này không chịu tìm kiếm đồng minh mà ngồi yên chịu làm theo ý của Lãnh đạo Trung Quốc, thiệt cho nhân dân mình là không được. Chúng ta không thể chấp nhận được một Đảng, một Ban lãnh đạo đất nước yếu kém và thấp hèn như vậy!
Theo nhiều tin đồn thì người Trung Quốc còn biểu tình ngang nhiên trước sứ quán Trung Quốc ngay trên đất của ta là “Hoàng Sa-Trường Sa là của Trung Quốc” mà Công An chúng ta theo chỉ thị của Bộ Chính Trị không hề giám bắt bớ. Ở nhiều nơi như Hải Phòng, Quảng Ngãi, Quảng Ninh, Tây Nguyên, Nghi Sơn-Thanh Hoá người Trung Quốc đã sang sống hàng 3000-4000 người thành Làng-Xã.
Họ còn ngang nhiên bắt bớ xử án dân ta cho là ảnh hưởng đến quyền lợi của họ, thậm chí đánh đập dân lành trong đêm tối như ở Nghi Sơn, rồi biểu tình trước Công An Huyện mà Công An chúng ta theo chỉ thị của BCT ĐCSVN không hề giám làm gì. Đáng ra mọi hành động trái pháp luật của người nước ngoài trên đất nước ta , vô cớ đánh đập dân ta phải được nghiêm trị theo pháp luật của chúng ta, cầm tù và tống cổ về nước ngay. Có những nơi như ở Hải Phòng người Trung Quốc sống thành từng Làng mà Công An khu vực không dám, ngại kiểm tra giấy tờ để họ thích sống, thích ở bao nhiêu lâu tuỳ ý.
Những nơi Trung Quốc thuê thì họ cho đóng những cột mốc to như cột mốc biên giới không cho bất cứ Người Việt Nam nào vào, ngầm nói rằng đây là “đất của Trung Quốc rồi”. Tình hình hiện nay khẳng định rằng đại đa số các lãnh đạo cao cấp của ĐCSVN, kể cả các Công chức cấp dưới đều sợ Trung Quốc nên không dám công khai lên tiếng phản đối, chống lại bọn làm tay sai cho Trung Quốc ngay trong ĐCSVN. Những kết quả như trên cho thấy chúng ta không thể chấp nhận một Ban lãnh đạo tối cao là BCT ĐCSVN lại để tình hình xảy ra như hiện nay.
Đầu năm 2009 nổi bật là tin Bộ Chính Trị ĐCSVN đã bất chấp dư luận, bất chấp Quốc hội, bất chấp nhân dân ngang nhiên ký kết cho Công ty khai thác quặng Nhôm thô- Bô xit – của Trung Quốc vào Tây Nguyên khai thác với kế hoạch rất lớn với mục đích cung cấp Nhôm thô cho Trung Quốc. Hiện nay hai nhà máy khai thác bô xit Nhôm đã bắt đầu xây dựng và hoạt động. Việc khai thác Nhôm ở Trung Quốc và nhiều nơi trên Thế giới đã chứng tỏ tính kém hiệu quả kinh tế và nguy hại về môi trường. Đành rằng chúng ta cần công nghệ hiện đại về khai thác và sản xuất Nhôm. Nếu vậy chúng ta phải thuê Công ty của Mỹ, Đức hay Nhật gì đó chứ không cần Công ty của Trung Quốc. Hoặc là trước tiên hãy làm một Nhà máy rồi sau đó học hỏi, rút kinh nghiệm xem thế nào hãy làm cái thứ hai. Đằng này BCT ĐCSVN đã ngang nhiên cho Trung Quốc vào vây kín khu vực rộng lớn Người Việt Nam không được vào. Tuỳ ý họ làm gì trong đó không ai biết.
Rất nhiều các Công Trình khác như Nhiệt điện Phả lại, Thuỷ điện ở Quảng Nam, Dây chuyền hai Xi Măng Nghi Sơn v,v, đều do Trung Quốc thắng thầu và họ đưa công nhân của họ vào làm trong khi dân ta còn thiếu việc làm trầm trọng. Tin đồn ở Hà Nội là “Mỗi khi Công ty của Trung Quốc tham gia dự thầu thì có chỉ thị từ Bộ Chính Trị xuống phải cho họ thắng thầu”. Gần đây nổi bật là tin hai vị Tướng về hưu rất có uy tín là Đồng Sỹ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh lên tiếng yêu cầu dừng ngay việc các tỉnh của Việt Nam ta đã cho các công ty của Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông – thực chất đều là Trung Quốc cả – thuê dài hạn 50 năm 264 ngàn hécta rừng dọc biên giới các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Định, Kon-Tum và Bình Dương.
Với số diện tích lớn như vậy mà Trung Quốc họ vây kín, đóng cột mốc, đem dân họ sang sinh sống 50 năm thì rõ ràng thành đất của họ luôn. Điều này không thể chấp nhận được từ góc độ An Ninh Quốc gia và An Ninh môi trường. Hoặc họ sẽ tự do khai thác quặng, chặt cây rừng gây ảnh hướng rất nguy cập về môi trường không thể lường trước được trong khi dân ta mật độ dân số rất đông và đang rất cần đất, cần rừng. Việc này trách nhiệm chính thuộc về Bộ Chính Trị và Ban Chấp hành Trung Ương ĐCSVN. Tại sao Lãnh đạo ĐCSVN, Cơ quan An Ninh Quốc Gia không biết trước mối nguy về An Ninh Quốc gia khi Trung Quốc từng bước tràn người sang và nắm các chốt điểm xung yếu của đất nước? Rồi từ đó họ mở rộng địa bàn hoạt động, lấn dần từng bước trên toàn Quốc, lấn dần trên mọi lĩnh vực của đất nước. Đây là tiến trình xâm lăng và thôn tính nước ta của Trung Quốc. Tôi thiết tưởng những việc trên có chỉ thị từ Bộ Chính Trị ĐCSVN thì cấp Tỉnh mới dám làm.
Từ nhiều năm nay các cán bộ cao cấp của Việt Nam sang Trung Quốc và đi ra nước ngoài đều bị phía Trung Quốc biết trước lộ trình và cho người quan tâm, mua chuộc, khống chế bằng vật chất và quan hệ với phụ nữ rất nguy hiểm. Đây là một cách làm để từng bước khống chế toàn bộ Lãnh đạo nước ta, quy phục dân tộc chúng ta từng bước một, tiến tới xâm lược và thôn tính nước ta hoàn toàn. Những hành động trên là bẩn thiểu của một Quốc gia đối với Quốc gia khác. Nếu chúng ta không có biện pháp bảo vệ cán bộ tuyệt đối an toàn thì có nguy cơ Lãnh đạo nước ta nhanh chóng cuối đầu và làm tay sai cho Trung Quốc trong tương lai gần. Họ sẽ triệt thoái và loại bỏ những ai yêu nước, có tinh thần dân tộc, không muốn cuối đầu nghe theo sự chỉ bảo của Trung Quốc.
Mọi nơi trong nước đều có tin đồn rằng trong dịp Đại Hội ĐCSVN năm 2001 và 2006 các phái đoàn cao cấp của Trung Quốc và Mỹ bay sang Hà Nội liên tục để “tác động” và “chỉ đạo” công tác nhân sự của ĐCSVN. Điều này báo chí cũng đăng công khai các phái đoàn sang Hà Nội trong các năm đó. Vậy rõ ràng là Lãnh đạo ĐCSVN đã để cho nước ngoài can thiệp vào nội bộ của mình, đồng nghĩa với can thiệp vào nội bộ của Việt Nam ta. Người dân ở Hà Nội còn nói rằng nhiều nhân vật trong Bộ chính trị đã được Trung Quốc giúp đỡ, ủng hộ để có vị trí nên tất nhiên không dám chống lại phía Trung Quốc và tiếp tay cho Trung Quốc xâm lược nước ta. Các Đảng viên ĐCSVN còn nói rằng Ông Nông Đức Mạnh đã nhờ Trung Quốc ủng hộ để được ngồi ghế Tổng Bí Thư hết khoá như hiện nay.
Từ những việc trên tôi thỉnh cầu các cấp có thẩm quyền, các Sỹ quan Công An, Sỹ quan Quân đội và toàn dân Việt Nam ta mấy việc sau:
1) Tổ chức điều tra kết luận để vạch mặt những kẻ đã bị Trung Quốc khống chế, điều khiển, hối lộ và mua chuộc có thể là các Ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Chí Vịnh, v,v. Nếu thật sự ai đó đã bị Trung Quốc khống chế, điều khiển và quy phục làm tay sai cho Trung Quốc thì phải vạch mặt, chấm dứt sự nghiệp chính trị và cho nghỉ hưu ngay, thậm chí bắt giam, truy tố về tội phản Quốc, làm tay sai cho nước ngoài.
2) Điều tra đưa ra ánh sáng, những ai là kẻ chủ mưu, đồng tình trong Bộ Chính Trị đã đồng ý cho Trung Quốc vào Tây Nguyên khai thác Bô-xite? Ai đã gọi điện hay ra lệnh để 10 tỉnh vừa rồi ký cho các doanh nghiệp Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông thuê gần 300 ngàn hécta rừng 50 năm? Những cá nhân nào đã đặt bút ký cho các doanh nghiệp trên thuê đất rừng? Những cá nhân này phạm tội hoặc là làm tay sai cho Trung Quốc, hoặc là không hiểu biết gì, không có thái độ bảo vệ quyền lợi Quốc gia, An Ninh Quốc gia trước hoạ xâm lăng của Trung Quốc và về An Ninh môi trường. Phải cách chức ngay tức khắc những cá nhân chủ mưu để làm gương. Bắt giam và truy tố những kẻ chủ mưu làm tay sai cho nước ngoài.
3) Qua những việc làm tôi nêu trên cho thấy rằng Bộ Chính Trị ĐCSVN là cơ quan tối cao của đất nước, Tổng Bí Thư ĐCSVN là người có quyền cao nhất nước, Chủ Tịch Nước là Chủ Tịch Uỷ Ban An Ninh và Quốc Phòng của đất nước, Thủ Tướng là người trực tiếp điều hành đất nước và các tỉnh sao lại để cho những hành động trên xảy ra mà không biết hay không chống lại, hay lại tiếp tay cho Trung Quốc rồi? Các Quý ngài thật sự chưa hoàn thành nhiệm vụ, không xứng đáng để lãnh đạo đất nước nữa! Tốt nhất nên tất cả cùng rút lui về hưu!
4) Huỷ bỏ tất cả các hợp đồng cho nước ngoài thuê đất rừng ở 10 tỉnh vừa rồi với lý do vi phạm trầm trọng An Ninh Quốc Gia của Việt Nam và An Ninh môi trường. Không thể chậm trễ được!
5) Về hai nhà máy Bô xite nhôm thì nên cẩn thận chắc chắn. Không nên làm thêm nhà máy nào nữa. Không nên mở rộng và làm ào ạt. Làm cốt để lấy công nghệ về nhôm và từ từ tính sau.
6) Kiểm soát chặt chẽ người nước ngoài nhập cư. Đặc biệt người nước ngoài là Công dân Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan. Điều kiện VISA cư trú rõ ràng. Nếu ai vi phạm luật Việt Nam phải xử lý nghiêm minh và trục xuất về nước ngay tức khắc.
7) Ban hành luật xây dựng, xây cột mốc xung quanh khu vực cho nước ngoài thuê. Cấm xây cột mốc quá cỡ. Mọi việc xây dựng, đào đất, đào hầm hay làm gì đó ở Việt Nam phải được Cơ quan thẩm quyền của Việt Nam cho phép. Mọi Công dân Việt Nam đều có quyền vào khu vực nước ngoài thuê để tham quan, xem xét.
8) Kiểm soát lao động nước ngoài chặt chẽ. Tất cả các Công ty và Nhà thầu nước ngoài chỉ được phép thuê lao động nước ngoài mà Người Việt Nam không đáp ứng nổi, không có trình độ chuyên môn đáp ứng với mức lương tối thiểu theo giờ làm đối với từng công việc cụ thể. Một công việc mà Công dân Việt Nam làm được thì bắt buộc phải thuê Người Việt Nam làm. Bất chợt hoặc hàng tháng hay hàng quý kiểm tra giấy phép lao động đối với người nước ngoài. Nếu không có giấy phép lao động hoặc giấy phép lao động không hợp lệ thì phạt chủ sử dụng lao động 200 triệu VNĐ/1 lao động sai phạm. Trục suất ngay tức khắc tất cả những lao động nước ngoài bất hợp pháp.
9) Trường hợp xấu nhất là đại đa số các Thành viên Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung Ương ĐCSVN đã bị Trung Quốc khống chế, điều khiển và mua chuộc bằng tiền, gái và vị trí, đa số các cán bộ cao cấp của ĐCSVN bây giờ sợ mất chức hay không lên được chức nên im lặng, sợ “bàn tay nối dài của Trung Quốc” ở mọi nơi trên nước ta thông qua Tổng Cục 2 thì cách duy nhất là phải chuẩn bị đảo chính quân sự hoặc huy động nhân dân kéo xuống đường biểu tình hạ bệ, bắt giam những kẻ làm tay sai cho nước ngoài.
Không còn con đường nào khác kính thưa toàn thể Đồng bào yêu quý khắp nơi ! Nếu không họ sẽ bán nước, bán dân từng bước cho quân xâm lược mà thôi. Biểu tình và đảo chính lật đổ là cần thiết khi giới cầm quyền quá thối nát, bất tài và làm tay sai cho nước ngoài, tiếp tay cho kẻ thù xâm lăng đất nước chúng ta!
10) Chúng ta rất tôn trọng nhân dân Trung Quốc, luôn cầu mong cho quan hệ thật sự trong sáng và đẹp đẽ giữa hai dân tộc. Song chúng ta không chấp nhận mọi động thái và cử chỉ không lành mạnh trong quan hệ giữa hai bên. Quan hệ tốt với Trung Quốc không có nghĩa là chúng ta phải cuối đầu nghe theo sự chỉ bảo của họ, từng bước nhượng mọi quyền lợi của đất nước và dân tộc ta cho họ, và dân ta làm nô lệ cho họ! Chúng ta không chấp nhận một Nhóm lãnh đạo ngu dốt, tham nhũng thối nát, cuối đầu làm tay sai cho Trung Quốc, nhượng đất, nhượng rừng, nhượng biển rồi tiến tới nhượng cả dân tộc cho Trung Quốc ! Dân tộc Việt Nam ta sẽ không cuối đầu trước bất cứ thế lực nào đe doạ từ bên ngoài!
Đứng trước những việc làm lâu nay của Lãnh đạo ĐCSVN tôi rất bất bình, không thể nào không lên tiếng vì đất nước và dân tộc chúng ta! Kính mong những Đảng viên ĐCSVN, Công chức nhà nước, Sỹ quan Quân đội và Công An còn lương tâm và lương tri hãy dũng cảm hành động mạnh mẽ vì đất nước của chúng ta ! Đường cùng toàn dân phải kéo xuống Quảng Trường Trung Tâm trên khắp 63 Tỉnh-Thành hoặc Quân đội đảo chính để xoá bỏ một Bộ phận của Bộ Chính Trị và Ban Chấp Hành ĐCSVN nhu nhược, bất tài, tham nhũng, thối nát và làm tay sai cho Trung Quốc như hiện nay ! Rất mong toàn thể Đồng Bào khắp nơi hưởng ứng và hành động gấp rút!
Hà Nội, ngày 03.03.2010
Người viết : Nguyễn Trung Lĩnh.
ĐC: Phố Lạc Trung, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Email: Trunglinh67@ yahoo.com.
(TB: Rất hân hạnh được gửi tới các cháu học sinh phổ thông, thanh niên, sinh viên, công nhân, nông dân và những người dân bình thường trên khắp mọi miền của đất nước).
NGUYỄN THI THANH DƯƠNG * GIẤC MỘNG DÀI
GIẤC MỘNG DÀI
Nguyễn Thị Thanh Dương
Tôi vừa về đến nhà là bố tôi hỏi ngay:
- Thủ tục đã xong xuôi chưa con?
- Xong cả rồi bố ạ, bên ấy ông Mấn chỉ đợi phỏng vấn thôi.
Ông Mấn là chú của
bố tôi, người mà tôi phải gọi bằng ông trẻ. Ông đang sống ở miền Bắc
Việt Nam , và bố tôi đang làm thủ tục bảo lãnh chú sang Mỹ theo diện
du lịch.
Sau năm 1975, bố tôi phải đi “Học tập cải tạo” ròng rã 8 năm trời. Ra
tù, về nhà bố tôi sống khép kín cho qua ngày, vả lại, một người sĩ
quan chế độ cũ đi tù về, chẳng có cơ hội nào để vươn lên trong xã hội
mới cả. Cho tới khi có chương trình HO, cho những người tù cải tạo
được định cư tại Mỹ, thế là cả nhà tôi đi Mỹ.
Cuộc sống mới nơi xứ người đã phục hồi lại con người thật của bố tôi,
bố mẹ đã đi làm, nuôi chúng tôi ăn học, cuộc sống dần dần ổn định mọi
bề.
Năm 2000 bố mẹ và
tôi lần đầu tiên về thăm quê hương Việt Nam , hay nói cho đúng hơn là
về miền Bắc để tìm lại người thân. Bố đã gặp lại người mà bố muốn gặp,
đó là ông Mấn, vì bố đã nghe tin ông vẫn còn đang sống ngay tại làng
quê cũ.
Ký
ức tuổi thơ của bố vẫn còn những kỷ niệm đẹp với ông chú, thuở còn
trai trẻ, chú Mấn đã bỏ làng, đi buôn bán phương xa, từ buôn bè trên
sông đến buôn hàng chuyến đủ loại thượng vàng hạ cám, miễn là cuộc đời
được giang hồ tứ xứ.
Đi xa
như thế, mỗi lần trở về làng, dù lời lãi hay không, chú Mấn đều mang
quà về cho nhà, bố tôi là cháu ruột, cũng được nếm đủ loại quà bánh của
chú, ngon như bánh cốm, bánh xu xê, bánh đậu xanh, bánh khảo của Hải
Dương, hay tầm thường thì có những cục kẹo lạc, kẹo vừng hay kẹo bột
ngọt ngào mà trẻ con nào không ưa thích !
Bố đã nhìn ông chú
bằng ánh mắt kính phục và ngưỡng mộ, đôi chân chú khoẻ, đi hoài mà
không biết mỏi, không chịu quay về làng quê ở hẳn như gia đình mong
muốn. Ngoài quà bánh, chú Mấn còn có nhiều câu chuyện kể cho lũ cháu
trẻ ranh làm chúng nó mê mẩn, bố tôi thích nhất những câu chuyện chú
Mấn đi buôn bè trên sông, thả gỗ từ thượng nguồn xuôi về hạ nguồn, có
khi gặp nước lũ, bè trôi, những người buôn bè phải chống trả với phong
ba bão táp, những hình ảnh ấy hồi hộp và ly kỳ hơn trong phim truyện.
Đến nỗi bố đã từng mơ, lớn lên sẽ đi buôn bè, giang hồ dọc ngang như
chú Mấn.
Chú Mấn rất hào
phóng, nhiều lúc chú đã dúi tiền cho bố tôi, bảo tao cho mày, cất đi
mà tiêu, đừng cho bố mẹ mày biết. Những đồng tiền ngày đó đối với bố
tôi đã lớn biết bao.
Chúng
tôi đến nhà con gái ông Mấn, họ bảo ông đang ở căn lều ngoài nghĩa
địa, ông thích ở riêng, khỏi phiền con cháu, mà nhà chúng nó cũng
chẳng phải là một căn nhà nên ông chẳng chen chân vào làm gì, rồi lại
mang tiếng ở nhà con rể.
Đứa
cháu ngoại của ông dẫn chúng tôi đến căn lều, cô hơn 20 tuổi mà trình
độ, kiến thức của cô vẫn ngô nghê như một đứa trẻ bậc Tiểu học, làm như
từ hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ, cô chỉ từ làng quê này đi kinh tế mới
Lào Cai, và trở lại làng, nên chẳng biết gì hơn ngoài núi rừng và đồng
ruộng
Huyền thoại về “chú Mấn” cũng làm tôi thích thú và khao khát được
gặp ông bằng xương bằng thịt. Bây giờ “chú Mấn” là một ông già 73
tuổi, ông to cao như cây cổ thụ, nước da nâu sẫm của người nông dân cả
ngày phơi mặt ngoài đồng. Ông Mấn dựng một túp lều nhỏ ngay tại nghĩa
địa, sống một mình, ngoài thì giờ làm vườn, làm ruộng, ông về lều
thảnh thơi ngồi uống rượu như một kẻ nhàn du.
Khi tôi hỏi ông ở
một mình nơi nghĩa địa ông có sợ ma không? Thì ông Mấn coi như đó là
một câu hỏi ngớ ngẩn, ông bảo ma sợ ông chứ ông sợ gì nó!
Ông
có một đứa con gái, hai vợ chồng nó nghèo xơ xác, căn nhà ọp ẹp dựng ở
ven đê, mùa mưa con đường đê dấy lên bùn sình như bột nhão, đặt chân
xuống bùn, dở lên để đi bước nữa thật là vất vả và khó khăn, vợ chồng
chị đã từng đi kinh tế mới ở Lào Cai, chẳng thể sống nổi lại kéo nhau
về làng cũ với căn bệnh sốt rét, nay ốm mai đau, tiền bạc không có,
ruộng vườn trắng tay, đành phải ra đê mà ở là vậy.
Sau này cũng đơn lên
đơn xuống các cấp xã, huyện, mới xin được một mẩu đất ruộng xấu nhất
cuối làng, để cày cấy lấy hạt gạo đổ vào mồm, tuy không đủ no nhưng có
còn hơn không. Vợ chồng chị đều ốm yếu, con thơ nhếch nhác, nên ông
Mấn đã phải xông pha ,mang hết sức lực ra, đổ mồ hôi trên ruộng vườn để
phụ giúp con cháu suốt bao nhiêu năm nay, ngoài ra ông còn sẵn sàng
làm thuê cuốc mướn cho những nhà khác nữa.
Khác với lòng mong ước và sự tưởng tượng của tôi. Ông Mấn không hề vồ
vập hay xúc cảm với bố tôi, thằng cháu nhỏ năm xưa ông từng âu yếm
cho quà và cho tiền, ông nhìn chúng tôi bằng ánh mắt không thiện cảm
cho lắm, ánh mắt ấy như nói rằng, lũ chúng tôi đã chạy theo “Mỹ Nguỵ”
chẳng tốt lành hay ho gì.
Suốt câu chuyện, ông
kiêu ngạo và hãnh diện khoe đất nước Việt Nam sau cuộc chiến thắng
vinh quang 1975, đã dần dần đổi mới và tiến lên. Cụ thể là ngôi làng
này, con đường làng bụi đất và gồ ghề khi xưa nay đã được tráng nhựa,
nhiều nhà gạch xây lên và có điện thắp sáng, có ti vi, có đài radio,
dân không phải nghe tin tức bằng cái loa ở trụ sở ấp nữa…
Dĩ nhiên, không phải
cả làng ai cũng khá giả như thế, bằng chứng là nhà con gái ông và ông
vẫn chưa có những thứ ấy. Nhưng ông Mấn vẫn khẳng định chắc như đinh
đóng cột, trong tương lai nhà nhà sẽ no ấm hơn, cuộc sống tiện nghi
đầy đủ hơn, xã hội chủ nghĩa sẽ đi đến đỉnh cao của thành công và
quang vinh.
Ông Mấn khoe thêm,
cuộc sống bây giờ dân chủ, ai có tiền thì cứ việc ăn ngon mặc đẹp,
không như dạo xưa, giết một con gà để ăn cũng phải lén lút, dấu diếm sợ
hàng xóm phê bình.
Tội
nghiệp ông! Đã trải qua những năm dài đăng đẳng đói ăn, thiếu mặc của
miền Bắc trong thời kỳ chiến tranh, đã quen với những vùi dập của cơ
chế bao cấp thị trường, gạo, thịt, nhu yếu phẩm mua bằng tem phiếu.
Nay được hưởng một chút tiện nghi rất sơ đẳng, rất bình thường, đã cho
là đổi mới vĩ đại, đã hài lòng mãn nguyện.
Chúng tôi được biết ông Mấn đã là đảng viên, đang lãnh lương hưu trí,
số tiền hưu cho một anh bộ đội quèn chẳng là bao, nhưng nó khẳng định
cái giá trị công lao của anh đã đóng góp cho đảng và nhà nước.
Bố
tôi và tôi đều thất vọng về “chú Mấn” ngày xưa, bố mẹ đã biếu ông Mấn
một số tiền và đặc biệt là một cái áo ấm bằng da mà chính tay bố đã
mua cho ông, vì bố đã biết mùa Đông đất Bắc mưa phùn gió bấc lạnh thế
nào!
Tuy
ông Mấn có ý chê trách chúng tôi theo “Mỹ Nguỵ”, nhưng ông không chê
những món quà của “Mỹ Ngụỵ”, ông cẩn thận gấp những đồng tiền đô la bỏ
vào túi và mặc thử cái áo ấm to dày với vẻ hài lòng. Tôi liếc nhìn
quanh căn lều chông chênh, trống toang toác của ông, bốn bề gió lộng
giữa bãi tha ma, làm sao mà không lạnh!
Về tới Mỹ, nghĩ đi nghĩ lại, bố tôi vẫn thương “chú Mấn”, ở cái tuổi
già bên Mỹ đã được nghỉ ngơi, an hưởng đời sống đầy đủ từ vật chất
đến y tế thuốc men, thì ông Mấn vẫn cơ cực làm công việc nặng nhọc, mà
đời sống vẫn thiếu thốn mọi bề, chỉ có những giấc mộng của ông thì đầy
ắp những ấm no, giàu đẹp. Không biết giấc mộng sẽ kéo dài tới bao lâu?
Và ông có còn sống để mà hưởng không hay phải đợi đầu thai kiếp khác?
Mỗi
năm sau đó, chúng tôi vẫn gởi tiền về cho ông Mấn, dù bất đồng ý
kiến, nhưng chẳng ai nỡ nhìn người thân của mình ở tuổi già gần đất xa
trời vẫn loay hoay đánh vật với cuộc sống để kiếm cơm cháo qua ngày
như thế !
Cô
cháu ngoại của ông Mấn thỉnh thoảng viết thư cho chúng tôi, kể về ông,
năm nay ông 79 tuổi rồi, không còn khoẻ như hồi chúng tôi về thăm
nữa. Bố tôi ngậm ngùi thương cho ông, và có ý định làm bảo lãnh cho
ông Mấn sang Mỹ thăm thân nhân, coi như một món quà bất ngờ cho ông.
Một con người từng yêu thích ngang dọc một thời, đây là cơ hội ông
không thể bỏ qua, dù ông chưa tin tụi Mỹ cho lắm.
*** *** ****
Ba tháng sau, ông
Mấn của chúng tôi đã đặt chân đến Mỹ, ông như người từ cung trăng vừa
rơi xuống mặt đất này, cái phi trường, nơi ông vừa ra khỏi máy bay đã
làm ông choáng váng, ông bảo nó to đẹp cực kỳ mà ông chưa bao giờ
tưởng tượng được.
Rồi đường xá, xe
cộ…Trời ơi, thì ra có đất nước giàu có và tiện nghi cao cấp vượt bực
đến vậy! ông bảo có nằm mơ ông cũng không thấy, ông đi từ ngạc nhiên
này đến ngạc nhiên khác, mỗi ngày ông biết thêm những điều mà ông cho
là từ “vô lý” đến “đại vô lý” không thể tin được.
Ai đời, một người
khách lạ đến từ nước khác, một nước theo xã hội chủ nghĩa như ông, mà
chẳng cần phải khai báo, đăng ký tạm trú với chính quyền địa phương gì
cả, tự do dân chủ đến độ ông không tin nổi !
Ai đời, người già,
người tàn tật, dù không sinh đẻ ở Mỹ, dù chưa đi làm ngày nào trên đất
Mỹ, chỉ được thân nhân bảo lãnh sang đây, cũng được hưởng tiền trợ
cấp và bảo hiểm sức khoẻ !
Ông bảo nước Mỹ giàu
có quá hoá…ngu ! Chúng nó bảo lãnh nhau sang đây, được nước chủ nhà
cho định cư là qúy rồi, thì vợ chồng, con cái chúng nó phải nuôi nhau,
lo cho nhau, việc gì nhà nước phải đứng ra trợ cấp?
Đã thế, tiền trợ cấp
hàng tháng được gởi tới tận nhà, không bao giờ trễ nãi hay sai sót,
trong khi ở làng quê ông, có chuyện gì cần đến xã, đến huyện thì thật
là nhiêu khê, với đầy đủ giấy tờ, chứng cớ trong tay mà phải chầu
chực, xin xỏ, có khi vẫn không xong.
Đây là những bài học dân chủ lần đầu tiên ông học được trong đời .
Hai
tháng ở Mỹ, ông đã lên cân, khoẻ mạnh hẳn ra và vui vẻ thư thái, có lẽ
vì ông được ăn uống đầy đủ, không phải vác cuốc ra đồng mỗi ngày, và
nhất là ông đã cảm nhận một đời sống tự do, thoải mái?.
Dường như ông thấy
thời gian trôi quá nhanh, ông chưa muốn trở về làng quê, dù đôi lúc
ông cũng nhớ con nhớ cháu, dòng máu giang hồ đang trổi dậy trong người
ông, y như ngày xưa, ông trôi dạt đó đây, thú vui phương xa đã níu giữ
bước chân ông.
Ông
Mấn đến Mỹ với chiếc áo ấm to dày mà ngày xưa bố mẹ tôi đã mang từ Mỹ
về để tặng ông, chắc đây là chiếc áo ông quý lắm và chỉ mặc khi có
chuyện “đại sự” nên trông vẫn còn tốt. Nhưng bố tôi vẫn bảo ông bỏ đi
và dẫn ông đi sắm vài bộ đồ khác ở chợ Wal- Mart.
Ông
Mấn tưởng đây là cửa hàng quần áo sang trọng bậc nhất thế giới mà ông
đã hân hạnh được vào, dù bố tôi đã nói là cửa tiệm bình dân, nhưng ông
nào tin, cứ cho là bố tôi khiêm nhường hay nói đùa.
Ba
tháng du lịch của ông Mấn trôi qua, tới ngày ông phải trở về Việt Nam .
Chúng tôi sắm cho ông hai va li đầy những quần áo và quà cáp.
Cả
nhà ra phi trường tiễn ông, trước khi đi vào trong cổng, ông đã nắm tay
bố tôi, ân cần, thân thiện như “chú Mấn” ngày xưa, và rưng rưng:
-
Năm xưa cháu về Việt Nam , chú đã tuyên truyền cho cháu một thiên
đường trong mộng, nhưng vẫn không bằng một góc cái hiện tại này, thực
tế này, mà các cháu đang được hưởng. Gẫm lại, cùng một kiếp người mà
đời chú và con cháu của chú đã gánh chịu bao nhiêu thiệt thòi. Cả thời
tuổi trẻ, chú từng đi xa, đây là một chuyến đi xa đẹp nhất và có ý
nghĩa nhất trong cuộc đời chú.
Rồi ông cười nhếch mép, vừa đùa vừa tủi thân:
- Kiếp sau, chú vẫn
sẽ là một thằng thích giang hồ, xa xứ. Nhưng chú mong sẽ bước tới bất
cứ miền nào, vùng đất nào có tự do, dân chủ và no ấm như nước Mỹ này.
Máy bay cất cánh,
mang ông Mấn trở về Việt Nam, về ngôi làng quê, nơi có con đường tráng
nhựa, có những căn nhà gạch, có ánh điện, có ti vi, có đài…
Nhưng chắc chắn giấc mộng dài của ông về một đất nước xã hội chủ nghĩa thì không còn nữa.
Nguyễn Thị Thanh Dương
NGUYỄN VĨNH LONG HỒ * BẢN TỐ CÁO TỘI ÁC CỘNG SẢN
*
Tội Ác Cộng Sản Việt Nam Trong Biến Cố Làng Ba Chúc, An Giang Tháng 4/1978
VOI 3,574 DONG BAO VIET NAM VO TOI DA BI THAM SAT
NGUYỄN VĨNH LONG HỒ
*
PHẦN I
THÁNG 4 NĂM 2009. Kỷ niệm đúng 31 năm, ngày dân làng BA CHÚC, tỉnh An Giang bị thảm sát vào tháng 4 năm 1978. Hơn 3.157 đồng bào ruột thịt bị tàn sát dã man đã chìm vào trong quên lãng. Tôi xin mở lại hồ sơ tố cáo tội ác bọn CSVN đã nhúng tay trong biến cố ghê tởm nầy, để đồng bào trong và ngoài nước nhận định. Xin đa tạ quý vị!
Vào cuối tháng 5 năm 1999. Tôi có nhận được lá thư đề ngày 21 tháng 5 năm 1999 của ông TRẦN H. (xin dấu tên) - cựu sĩ quan QĐVNCH - sinh quán tại xã BA CHÚC, tố cáo tội ác bọn CSVN giết người tập thể tại làng BA CHÚC, tỉnh AN GIANG. Từ đó, tôi phối kiểm các tài liệu trong và ngoài nước, tình hình biên giới phía Tây Nam 1978 - 1979 và các dữ kiện do những nhân chứng còn sống tại Hoa Kỳ cung cấp. Và tôi xin mở lại hồ sơ vụ án, đưa “sự cố” nầy ra trước ánh sáng để CĐVNHN và đồng bào trong nước biết thêm về tội ác tày trời, giết người tập thể còn dã man, tàn bạo và khủng khiếp hơn cả TẾT MẬU THÂN 1968. Nạn nhân gồm 3.574 nguoi, cả đàn bà, trẻ con Việt Nam lẫn Cam Bốt bị thảm sát tại các CHÙA, TRƯỜNG HỌC tại làng Ba Chúc cách biên giới VIỆT - MIÊN khoảng 7 cây số và chỉ trong vòng một đêm 18 tháng 4 năm 1978. Cái dã man và vô nhân đạo của bọn Lãnh đạo Đảng CSVN đã đem những bộ hài cốt của những nạn nhân do chúng thảm sát, đem trưng bày trong các hộp kính để gây ảo giác căm thù giữa hai dân tộc VIỆT NAM – KAMPUCHEA.
Ảnh nơi phòng trưng bày cuộc thảm sát tại khu Nhà Mồ Ba Chúc.
VỊ TRÍ NHÀ MỒ BA CHÚC
Căn cứ vào hình ảnh và sự mô tả trên mạng saigonnet ngày 4/ 21 /2004: Nhà mồ Ba Chúc, Chùa Phi Lai và Chùa Tam Bửu là những di tích được nhà nước công nhận là di tích vào năm 1980 là một địa điểm ghi dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pôn - Pốt qua 11 ngày (từ 18/ 4/ 1978 đến ngày 29/ 4/ 1978) đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã Ba Chúc. Nhà mồ Ba Chúc có hình lục giác, mỗi trụ cột đỡ mái nhà được kiến trúc hình tượng như bàn tay đẫm máu, đang vươn thẳng lên. Bên trong nhà mồ là một khung hộp bằng kính tám cạnh, chứa đựng 1.159 bộ hài cốt được phân thành nhiều loại khác nhau như: độ tuổi, giới tính...Nhà mồ được xây dựng giữa hai ngôi chùa Phi Lai và Tam Bửu, đây là hai ngôi chùa do các tín đồ của đạo Hiếu Nghĩa dựng lên và cũng chính nơi đây đã trở thành nơi chứng kiến những tội ác của chúng và những chứng tích đó vẫn còn in dấu cho đến ngày nay.
Sau khi phối kiểm và phân tách “Câu chuyện làng BA CHÚC ở biên giới MIÊN - VIỆT” của ông HOÀNG QUÝ (mạng lenduong. net ngày 5/02/2004), chi tiết về cụm nhà mồ BA CHÚC kể trên và thơ tố cáo của ông TRẦN H. Một điểm trùng hợp rất quan trọng là ông TRẦN H, và ông HOÀNG QUÝ đều xác nhận là tất cả nạn nhân đều bị thảm sát tại CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC .
Ông TRẦN H. viết: “... CSVN đưa sư đoàn 30 CSBV án ngữ dầy đặc dọc biên giới Miên Việt tỉnh Châu Đốc cũ. Chiều đến thì bọn cán bộ và bộ đội Cộng sản bắt dân vào CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC ngủ để chúng bảo vệ. Nửa đêm, dân ngủ mê, chúng giả bộ đội Miên tấn công vào chùa và trường học bằng lựu đạn, cổng ngoài khóa chặc. Sau đó, chúng nổi lửa đốt sạch làm hằng ngàn dân vô tội phải chết oan uổn dưới bàn tay vô thần của CSVN. Nhứt là tại làng Ba Chúc thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, có trên 3.000 người bị chúng viết tập thể. Nay chúng cho xây một ngôi nhà kiến để chứa đống xương vô định chất cao bằng đầu...(ngưng trích)
Ông HOÀNG QUÝ viết: “...Thời cuộc đã biến chuyển khôn lường, sau đó chính 2 lực lượng anh em nầy quay mũi súng vào nhau, lực lượng vũ trang của Khờ me đỏ đã tấn công vào làng Ba Chúc, cách biên giới khoảng 4 dậm, vào ngày 18 / 4/ 1978...Tổng cộng có 3.157cả người Việt Nam lẫn Cam bốt bị thảm sát tại các CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC tại Việt Nam. Những cuộc tấn công khác tương tự như trường hợp nầy là những lý do mà CS VN nêu lên để xua quân tiến chiếm Cam Bốt vào cuối năm đó...(ngưng trích).
Trong bài viết “WHEN THE KHMER ROUGE CAME IN VIETNAM” của James Pringle đăng trong International Herald Tribune, số ra ngày Jan 7, 2004 có thuật lại lời của chứng nhân, bà Hà Thị Nga nói: “Trong một ngôi chùa, tôi thấy 40 nạn nhân sợ hãi trốn dưới bàn thờ, trước khi bị giết bằng lựu đạn.” (In a temple, I saw where 40 terrified victims hid under the alter before being killed by grenades). Bà Hà Thị Nga có phải là một người được chánh quyền dàn dựng đưa ra trả lời phóng viên James Pringgle? Tại sao bà biết con chính xác là 40 người trốn dưới bàn thờ? Trừ phi họ đúng xếp hàng cho bà điểm danh trước khi chun dưới bàn thờ. Tôi là người sống ở miền Tây, thăm viếng nhiều chừa chiền, không một ngôi chùa nào có một cái bàn thờ khổng lồ có sức chứa 40 người trốn dưới đó. Tập trung trốn dưới bàn thờ, chẳng khác nào cho bọn Khmer Đỏ biết: “Lạy ông con trốn ở bụi nầy!”
Một điểm trùng hợp rất quan trọng là cả hai ông Trần H. và Hoàng Quý và chứng nhân đều xác nhận là tất cả các nạn nhân đều bị thảm sát tại CHÙA & TRƯỜNG HỌC. Và thời gian xảy ra vào ngày 18/ 4/ 1978 và không thấy ông Hoàng Quý nói cuộc thảm sát kéo dài đến ngày nào, giống như chi tiết về cụm nhà mồ Ba Chúc kéo dài đến 11 ngày từ 18/ 4/ 1978 đến ngày 29/ 4/ 1978. Tìm hiểu những nguyên chính đưa đến việc bọn CSVN đã tắm máu dân làng Ba Chúc như sau:
TÌNH HÌNH NỘI BỘ VIỆT NAM – KAMPUCHEA SAU 1975
Theo sự tiết lộ của Hoàng Tùng - Tổng biên tập báo Nhân Dân - và là Ủy viên BCT/TƯ Đảng CSVN: Bắc Bộ Phủ đã có ý đồ chiếm đóng Cam Bốt từ năm 1970 - 1972. Cuối năm 1976, Đại Hội IV Đảng Lao Động đổi thành Đảng CSVN dưới sự giám sát của lý thuyết gia MIKHAI A. SUSLOV - Trưởng phái đoàn Sô Viết - thì hầu hết các Ủy viên Bộ Chính Trị đã nối đuôi Lê Duẩn thần phục Mạc Tư Khoa. Đại hội IV của Đảng CSVN chấp nhận đề án của Lê Duẩn xúc tiến việc thành lập LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG bằng cách thuyết phục và nếu cần dùng áp lực quân sự để buộc Cam Bốt và Lào gia nhập. Sau Đại Hội IV, Lê Duẩn và BCT/TƯ/Đảng CSVN nhận định rằng: Việt Nam nằm trong quỹ đạo của Liên Sô là đối lập với Trung Quốc và sự liên kết giữa Trung Quốc và Cam Bốt sẽ áp lực quân sự nặng nề tại vùng biên giới phía Tây Nam.
CUỘC XUNG ĐỘT VŨ TRANG VÙNG BIÊN GIỚI PHÍA TÂY NAM
KAMPUCHEA TẤN CÔNG VIỆT NAM LẦN THỨ NHẤT NĂM 1977
Tháng 3 năm 1977: Ieng Sary - Ngoại trưởng Khmer Đỏ - sang Bắc Kinh nối lại quan hệ thân thiết cũ. Trong buổi tiếp tân có Lý Tiên Niệm - Phó Thủ Tướng - và Tướng Vương Thăng Long - Tổng Tham mưu phó QĐNDTQ - khoản đãi phái đoàn Kampuchea cho thấy sự hợp gắn bó giữa hai nước.
Tháng 4 năm 1977: Trong buổi tiếp tân tại Tòa Đại Sứ Kampuchea, Ngoại trưởng Hoàng Hoa công khai tuyên bố: “Nước Kampuchea đang bị kẻ thù phá hoại và Trung Quốc sẽ sát cánh với những dân tộc nhỏ yếu chống lại những hành động can thiệp và gây hấn của các lân bang”. Nhận được sự hậu thuẩn của Trung Quốc. Hai tuần sau, đúng vào ngày Việt Nam tưng bừng kỹ niệm năm thứ hai “Mùa Xuân Đại Thắng 1975”. Quân đội Kampuchea bất thần mở cuộc tấn công qui mô vào những làng xã và những thị trấn dọc biên giới tỉnh An Giang, và sau đó rút về bên kia bên giới.
KAMPUCHEA TẤN CÔNG LẦN THỨ HAI VÀO TÂY NINH
Ngày 27 tháng 9 năm 1977: Tên đồ tể Pôn - Pốt lên đài phát thanh đọc diễn văn dài 5 tiếng đồng hồ, chính thức xác nhận vai trò lãnh đạo của mình và tổ chức ANGKA là Đảng Cộng Sản Kampuchea. Một ngày sau khi ra mắt. Pôn - Pốt lên đường đi Bắc Kinh và Bình Nhưỡng. Lần đầu tiên đi công du với tư cách là Chủ tịch Đảng và Thủ Tướng. Pôn - Pốt được đón tiếp trọng thể. Cờ và biểu ngữ giăng đầy Thiên An Môn.
Ba ngày trước đó, để chứng tỏ quyết tâm chống Việt Nam của mình đối với Trung Quốc. Pôn - Pốt ra lệnh cho Quân Khu Đông tấn công vào lãnh thổ Việt Nam thuộc tỉnh Tây Ninh. Việt Nam tự hạn chế, không cho quân đội vượt biên phản công, đồng thời cách chức Tướng Tư lệnh quá khích TRẦN VĂN TRÀ và Tướng LÊ ĐỨC ANH thay thế. Trong bài viết The continuing conflict in Southeast Asia của David Miller đăng trong cuốn THE VIETNAM WAR ghi nhận: “Nhiều đồng bào địa phương đã chạy thoát, nhưng Hà Nội quả quyết người Kampuchea thảm sát 2.000 thường dân” (Many local residents fled, but an official Hanoi communique alleged that kampucheans had massacred some 2,000 civilians).
Sau đó, một mặt Đảng CSVN gởi điện văn chúc mừng lễ ra mắt Đảng CS Kampuchea, một mặt bí mật gởi Phan Hiền sang Bắc Kinh nhờ Trung Quốc dàn xếp cho gặp phái đoàn Kampuchea. Cuộc tiếp xúc không đi đến đâu. BCT/ ĐẢNG CS Trung Quốc đều nhất trí ủng hộ Khmer Đỏ. Trung Quốc bắt đầu chở vũ khí và chiến cụ ồ ạt tới cảng Komphong Som để trang bị tận răng cho quân đội kampuchea. CSVN buộc phải đứng hẳn về phía Liên Sô tìm cách phản công chống lại Khmer Đỏ quyết liệt hơn. Tập đoàn Lãnh đạo CSVN đã sai lầm một chiến lược quan trọng: “Nước xa không cứu được lửa gần”.
QUÂN ĐỘI VNCS PHẢN CÔNG KAMPUCHEA CUỐI NĂM 1977
Vào những ngày cuối năm 1977. Lực lượng vũ trang QĐND/VNCS mở những trận tấn công thăm dò vào sâu trong lãnh thổ Kampuchea. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước bị cắt đứt và công khai hóa tranh chấp lãnh thổ và hai bên điều động thêm lực lượng vũ trang tăng cường hệ thống phòng thủ dọc biên giới. Nhưng, phía Việt Nam bị Quốc tế tố cáo và lên án xâm lăng Kampuchea, quân đội viễn chinh VNCS buộc phải rút về nước vào ngày 6 tháng 1 năm 1978.
KAMPUCHEA TẤN CÔNG LẦN THỨ 3 VÀO ĐẦU NĂM 1978
Đầu tháng giêng 1978: Tại vùng biên giới cực Nam. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn 2 và 210 của Quân Khu Tây Kampuchea đã tấn công và chiếm đóng các xã Phú Cường, Khánh An, Khánh Bình và các huyện Hồng Ngự và Hà Tiên thuộc lãnh thổ Quân Khu IX Việt Nam. Và đây là cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam lần cuối cùng, vì họ sẽ chẳng còn cơ hội nào vượt biên tấn công vào Việt Nam nữa. Tướng TRẦN NGHIÊM nguyên là Tư Lệnh Phó của LÊ ĐỨC ANH. Sau khi Lê Đức Anh thay Trần văn Trà. Tướng Trần Nghiêm được đề bạt lên làm Tư lệnh Quân Khu IX, chịu trách nhiệm điều động 3 sư đoàn chính quy cơ hữu, gồm các Sư đoàn 4, 8 và 330 cùng với 2 trung đoàn chủ lực cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp. Sư đoàn 341 do tướng Vũ Cao làm Tư Lệnh được điều từ Quân Khu VII đến tăng phái cho Q.Khu IX cùng với sự yểm trợ của không quân, pháo binh, thiết giáp...với lực lượng áp đảo và hùng hậu như vậy, mà phải mất 2 tháng phản công mới đánh bật sư đoàn 2 và 210 của Kampuchea ra khỏi biên giới và tái chiếm lại lãnh thổ đã mất.
Đầu tháng 3 năm 1978: Tình hình biên giới phía Tây Nam hoàn toàn yên tỉnh. Sư đoàn 341 được trả về Quân khu VII sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Tướng Trần Nghiêm tái phối trí 3 sư đoàn 4, 8 và 330 cùng hai trung đoàn cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp vào nhiệm vụ phòng thủ diện địa. Riêng sư đoàn 330 được chỉ định thành lập tuyến phòng thủ an ninh lãnh thổ huyện TRI TÔN.
KAMPUCHEA KHI SƯ ĐOÀN 2 VÀ 210 RÚT VỀ BÊN BIÊN GIỚI
Bắt đầu từ tháng năm 1978 và những tháng sau đó. Cuộc thanh trừng nội bộ ở Quân Khu Đông càng ngày càng trở nên gây gắt và lên đến cao điểm vào ngày 24 tháng 5 năm 1978, lực lượng của KE PAULK - Bí thư Khu ủy Trung tâm của Khmer Đỏ - thuộc Quân khu Trung Ương kéo đến SOUNG, bao vây tổng hành dinh của Quân khu Đông, bắt giam tất cả sĩ quan chỉ huy và nhiều cuộc chạm súng đã xảy ra giữa đôi bên. Sau cuộc thanh trừng, sư đoàn 4 coi như bị xóa sổ, các sư đoàn 3, 5, 280 còn lại bị suy yếu hẳn.
BCT/TƯ Đảng CSVN không bỏ lở cơ hội ngàn vàng, triệt để khai thác nhược điểm của địch là sự xâu xé nội bộ và mâu thuẩn hàng ngũ của Khmer Đỏ theo đúng sách lược của Lenine: “Phải chộp ngay cơ hội chia rẽ của địch”, bằng cách ráo riết chuẩn bị chuẩn bị “tâm lý quần chúng” và “dư luận Quốc tế” . Rõ ràng, bọn Đảng CSVN đã đạo diễn tấn tảm kịch cực kỳ dã man, tàn bạo và ghê tởm: tắm máu 3.157 đồng bào vô tội, đa số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo trong đêm 18 /4/ 1978 rồi đổ tội cho bọn đồ tể Khmer Đỏ gây ra. Độc chiêu “ném đá dấu tay”, rồi dở trò “mèo khóc chuột” của bọn CSVN đã thành công trong âm mưu tạo ra kẻ thù Khmer Đỏ bằng xương bằng thịt để kích động lòng căm thù chủng tộc Việt Nam - Kampuchea, rồi triệt để khai thác sức mạnh của lòng căm thù của quần chúng vào mục tiêu chánh trị và quân sự để chuẩn bị xâm lăng Kampuchea.
Tất cả bộ máy chiến tranh tâm lý của bọn CSVN được động viên vào việc tuyên truyền rầm rộ. Những cuộc biểu tình, hội thảo diễn ra khắp nơi, các đài phát thanh, phát hình trong nước mở tối đa công xuất lên án bọn diệt chủng Pôn Pốt đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã Ba Chúc để tranh thủ dư luận Quốc tế, có chứng cớ hẳn hòi, chớ không phải tố cáo vu vơ như lần quân Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ tỉnh Tây Ninh thảm sát 2.000 thường dân. Quân đội CSVN xua quân tấn công Kampuchea chỉ vì lý do tự vệ chánh đáng, chớ không phải xâm lăng Kampuchea như đã từng bị lên án trước đó.
NGÀY 15/ 6/ 1978, chiến dịch tấn công Kampuchea mở màng. Các sư đoàn chính quy 7, 9 và 341 cùng với các đơn vị yểm trợ hùng hậu tràn qua biên giới Việt - Miên, chiếm đóng một phần lãnh thổ sâu trong nội địa Kampuchea từ 10 đến 40 km, trong đó có quận Prasaut. Lúc đó nhằm mùa mưa. Kampuchea tăng cường thêm nhiều sư đoàn từ trong nội địa ra biên giới để phản công. Từ Prasaut, quân xâm lược CSVN phải lùi về Chipru...
Hài cốt ở Nhà mồ Ba Chúc
DẤU ĐẦU LÒI ĐUÔI
6 ĐIỂM CHỨNG MINH TỘI ÁC CỦA CSVN TRƯỚC
DƯ LUẬN QUỐC TẾ VÀ ĐỒNG BÀO TRONG & NGOÀI NƯỚC
• ĐIỂM MỘT: Không thấy chánh quyền địa phương đề cập đến con số thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản của nhân dân sau 3 lần lực lượng Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là 2 tháng đầu năm 1978 là thời gian quần thảo dữ dội giữa 4 sư đoàn + 2 trung đoàn cơ động CSVN để đánh bật sư đoàn 2 và 210 của Kampuchea ra hỏi biên giới. Điều đó đã chứng minh rằng: Đồng bào MNVN đã tích lủy quá nhiều kinh nghiệm “chạy giặc”. Giặc Tây đi bố, giặc Việt Minh CS giết người đoạt của, giặc Miên nổi dậy “cáp duồn”... nên phản ứng của họ vô cùng bén nhạy. Mỗi khi có biến động là nhà nhà báo động bằng đủ mọi phương tiện như gõ mõ, thùng thiếc, gióng trống, khua chiên, nồi niêu, xoong chảo...để kịp thời bồng bế con cái chạy giặc. Họ không bao giờ chịu nằm yên trong nhà, ngoan ngoãn chờ bọn Khmer Đỏ đến lùa họ đi. Và một điều chắc chắn là khi họ nhận diện binh lính của Khmer Đỏ, họ sẽ chạy bung ra, chạy bán sống bán chết giống như hồi Tết MẬU THÂN 1968, dân MNVN chạy giặc Việt Cộng, dễ dầu gì bọn Khmer Đỏ có đủ lực lượng tập trung dân làng Ba Chúc vào các CHÙA & TRƯỜNG HỌC một cách dễ dàng để tàn sát tập thể. Hơn nữa, địa thế làng Ba Chúc dưới chân núi TƯỢNG và bên kia là núi DÀI, một địa thế lý tưởng cho đồng bào lẫn trốn dễ dàng.
• ĐIỂM HAI: Những vị cao niên nào sống ở Miền Tây Nam Bộ thuộc các tỉnh Châu Đốc, Vĩnh Long, Trà vinh, Sóc Trăng chắc chưa quên những cuộc nổi dậy bất thần đầy chết chóc của những đồng bào Việt gốc Miên sống trong các sóc vùng sâu. Và danh từ “Miên dậy” là tiếng báo động khẩn cấp đồng bào Việt gọi nhau chạy lánh nạn. Những người Miên từ trong các sóc đồng loạt ùa ra, tay cầm phảng, cuốc xẻng, rựa...tay kia cầm chai rượu “phất xạ” (uống rượu), họ ào ạt xông vào các xóm làng của đồng bào ta như cơn gió lốc, rượt đuổi dân làng chạy tán loạn. Họ vừa chạy vừa thét : “Dơ! Cáp duồn! Bòn ơi!...” (Nào! Giết tụi Việt! Bây ơi!...” Trong cơn say rượu, say máu, họ gặp đàn bà chém theo đàn bà, trẻ con đâm theo trẻ con...gặp đâu giết đó. Bọn diệt chủng Khmer Đỏ cũng thế! Một khi tràn qua biên giới Việt Nam, họ đâu có lòng nhân đạo đến độ phải tập trung đồng bào ta vào các chùa chiền để đọc kinh cầu nguyện trước khi hành quyết, hoặc dồn trẻ con vào các trường học vì sợ trẻ chết xuống âm phủ thành những con ma mù chữ?
• ĐIỂM BA: Nếu như muốn cưỡng bách trên 3, 4 ngàn người sống rải rác trong làng Ba Chúc với một địa thế hiểm trở như thế, cách biên giới Việt - Miên khoảng 7 km và cách con kinh Vĩnh Tế khoảng 5 km. Chúng tôi nghĩ, bọn diệt chủng Pôn Pốt phải huy động bao nhiêu sư đoàn Khmer Đỏ mới làm nổi việc đó? Và làm thế nào những sư đoàn nầy lọt qua tuyến phòng thủ biên giới Tây Nam dầy đặc của 3 sư đoàn chính quy 4, 8 và 330 của QĐND và 2 trung đoàn cơ động tỉnh với lực lượng yểm trợ hùng hậu gồm: thiết giáp, pháo binh và không quân đóng tại căn cứ Trà Nóc? Và hơn thế nữa, bọn Khmer Đỏ làm thế nào kéo dài cuộc thảm sát dân làng Ba Chúc trong suốt 11 ngày đêm mà không có cuộc chạm súng nào với các đơn vị chủ lực CSVN phòng thủ biên giới kể trên, trừ phi các đơn vị nầyï nhận được lệnh của BCT/ T.Ư/ Đảng “án binh bất động”, để mặc cho bọn Khmer Đỏ mặc sức giết đồng bào ta? Không có tổn thất về nhân mạng được ghi nhận cho cả hai phía Khmer Đỏ và bộ đội biên phòng CS ( có đánh đấm gì đâu mà có tổn thất chứ!), chỉ có trên 3.000 đồng bào bị thảm sát mà thôi. Tưởng cũng xin nhắc lại: Trước 30/4/1975, Quân Đoàn IV và Quân khu 4 chỉ có 3 sư đoàn chủ lực 7, 9 và 21 / BB và nếu như 3 sư đoàn nầy được phối trí, tập trung vào nhiệm vụ phòng thủ biên giới phía Tây Nam thì chưa chắc một con chuột chui qua lọt, đừng nói chi một đơn vị nhỏ của quân xâm lược CSBV.
• ĐIỂM BỐN: Thời điểm bọn Khmer Đỏ thảm sát dân làng Ba Chúc từ 18 /4 /1978 đến 29 /4 /1978 lại càng không hợp lý. Vì trong thời gian đó, ở bên kia biên giới, cuộc thanh trừng nội bộ đang xảy ra gay gắt và quyết liệt ở Quân Khu Đông sắp lên đến cao điểm. Làm sao Pôn Pốt có thể điều động lực lượng Khmer Đỏ vượt biên tấn công Việt Nam?
• ĐIỂM NĂM: Người nông dân Việt Nam nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng, họ chỉ di dân vào các điểm tập trung dưới sự bảo vệ an ninh của quân đội VNCH. Hệ thống “Ấp chiến lược” được thiết lập trong thời chiến tranh là một thí dụ cụ thể. Điều nầy phải là cán bộ địa phương và bộ đội CSVN mới có thể tập trung dân làng Ba Chúc vào các CHÙA & TRƯỜNG HỌC đã chỉ định sẵn theo kế hoạch để ra tay tàn sát đồng loạt. Và sư đoàn 30 (tên gọi tắt của đồng bào địa phương) chính là sư đoàn 330 chỉ định cuộc giết người tập thể nầy vào đêm 18 /4 /1978. Vì SĐ 330 được thành lập tại MNVN trước khi tập kết ra Bắc do Tướng Đồng văn Cống làm Tư lệnh thì dân làng Ba Chúc mới có lòng tin đi theo chúng vào các chùa và trường học để được chúng bảo vệ an ninh. Sau đó, chúng khóa chặt cửa lại. Chờ khi đem đến, bộ đội CSVN đội lốt quân Khmer Đỏ kéo đến giết sạch, đốt sạch đúng như lời tố cáo của ông Trần H. và đó sự thật không thể chối cải. Hiện nay, một vài nhân chứng còn sống sót như bà Trần thị C, ông Nguyễn văn Ch...và một nhân chứng quan trọng là một thầy giáo cấp 2 ở kinh Vĩnh Tế họ Trần (xin dấu tên) đã dám nói lên sự thật với đồng bào nên bị sa thải khỏi nhiệm sở và bị tên Giám Đốc Công An tỉnh An Giang - bí danh Sáu Nhỏ - bắt giam 2 năm để cảnh cáo.
• ĐIỂM SÁU: Tại sao bọn CSVN mở cuộc thảm sát tập thể dân làng Ba Chúc, cách biên giới đến 7 km? Trước năm 1975, có ai đặt chân lần đầu đến Ba Chúc dưới chân làng Ba Chúc dưới chân núi Tượng và bên kia núi Dài, đều ngạc nhiên trước hết là nhìn đâu đâu cũng thấy chùa và đa số chùa nào cũng giữ theo truyền thống là tường xây bằng gạch nhưng mái lợp lá. Riêng tại làng Ba Chúc có khoảng 15.000 tín đồ Bửu Sơn kỳ Hương thờ vị Giáo Tổ Đức Phật Thầy Tây An, lấy giáo lý PGHH do Đức Huỳnh Giáo Chủ đề xướng: Tứ Ân, Bát Nhẫn và tám Điều Răn của Đức Thầy để tu thân. Điều nầy chúng minh dã tâm của bọn CSVN vừa tiêu diệt tín đồ PGHH, vừa đốt luôn các chùa chiền, nơi tín đồ PGHH thờ phượng đấng thiêng liêng, rồi đổ tội diệt chủng cho bọn Khmer Đỏ đã biến mất về phía bên kia biên giới, thế là xong! Những việc giết người tập thể là sách lược của bọn CSVN, có tính toán tinh vi và được thực hiện từng bước theo kế hoạch được dàn dựng hẳn hoi. Đây là độc chiêu “nhất tiển hạ song điêu” của bọn CSVN.
PHẦN II
Nội dung và chi tiết PHẦN I kể trên, tôi đã đúc kết lại thành một bài viết với chủ đề: “Mở lại hồ sơ CSVN thảm sát 3,157 đồng bào làng Ba Chúc, tỉnh An Giang đêm 18/ 4/ 1978” đã được đưa lên mạng Người Việt Online ngày 3 tháng 5 năm 2004 lúc 2:59 PM.
Sau khi bài viết nầy đã được đưa lên mạng thì đúng 7 ngày sau, ông LỤC TÙNG từ trong nước, viết một phóng sự - ghi chép với tựa đề “BA CHÚC NGÀY 16 THÁNG 3...” đưa lên báo Lao Động số 131, ngày 10 tháng 5 năm 2004. Xin tóm lược vài điểm chính của bài báo nầy:
• Nơi đây, đúng 3 năm sau ngày thống nhất đất nước, bè lũ diệt chủng Pôn - Pốt đã xua quân vượt biên giết 3.574 thường dân bằng những hình thức dã man, như: Người lớn, chúng dùng búa đập đầu, dao cắt cổ; trẻ em thì nắm hai chân xé ra, hoặc đập đầu vào gốc cây, nếu chưa chết thì quăng lên cao, sau đó vươn lưỡi lê lên hứng. Riêng với phụ nữ, trước khi dùng lưỡi lê xẻo vú, hay thọc cây tầm vông, cọc trâm bầu vào cửa mình cho chết, chúng lột quần áo ra rồi thay nhau hãm hiếp tập thể”. Để tưởng nhớ những người dân vô tội, hằng năm vào ngày 16 tháng 3 A.L, chính quyền và nhân dân nơi đây tổ chức ngày giỗ hội. Giỗ hội lần thứ 26 năm nay nhằm ngày 4. 5. Tôi (Lục Tùng) lật sổ tay, đoạn ghi lại số liệu của ỦY BAN TRUNG ƯƠNG ĐIỀU TRA TỘI ÁC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC trong 11 ngày đêm từ 14 đến 25/ 4 /1978. bè lũ Pôn - Pốt đã sát hại tổng cộng 3.574 thường dân.
• Trên đường dẫn chúng tôi (Lục Tùng) đến nhà bà Hà thị Nga, một trong số 3 người sống sót trong tầm diệt chũng, ông Trần Văn Nhi - nguyên Phó Chủ Tịch thị trấn Ba Chúc - không nén được xúc động nói: “Tôi đã đi qua hai cuộc chiến tranh, đánh Pháp, đuổi mỹ, nhưng chưa bao giờ thấy cảnh người ta dùng súng đạn để giết hơn 200 người dân đang cầu nguyện trong chùa như lần ấy...” Theo lời ông Nhi, sau nạn diệt chủng Ba Chúc giống như một bãi đất hoang tàn, toàn xã có 3.574 người bị sát hại, trong đó có 100 hộ bị giết sạch...
• Ông Lục Tùng mô tả ngày giỗ hội như sau: “Hôm nay ngày giỗ hội 16 tháng 3...”, vị chánh bái vừa cất giọng, cả không gian tỉnh lặng đột nhiên vỡ tung bởi tiếng nấc nghẹn ngào xen lẫn những tấm thân ngã quỵ...”(ngưng trích). Nhưng, tấm hình ghi lại một góc nhà mồ ngày giỗ hội thật tương phản, chỉ đếm được có 7 người đứng bên cạnh khung hộp kính hình bát giác, chứa đựng 1.159 bộ hài cốt của nạn nhân.
LỜI BÀN:
Theo lời kể của ông Lục Tùng thì tội ác thảm sát đồng bào ta tại xã Ba Chúc của bọn Khmer Đỏ là tội ác “trời không dung đất không tha” nên Đảng CSVN phải cho xây cụm nhà mồ Ba Chúc là địa điểm ghi dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pôn Pốt cũng đúng thôi! Nhưng vẫn còn kém xa, nếu đem so sánh với tội ác vô cùng dã man của quân xâm lược Trung Cộng thảm sát đồng bào ta tại xã Đề Thám là một xã ngoại ô của thị xã Cao Bằng, nơi giáp với tỉnh Quảng Tây, khu vực có nghĩa trang “liệt sĩ Long Châu” chôn lính Trung Cộng đã tử trận tại Việt Nam. Thị xã Cao Bằng là một trong những khu vực bị quân xâm lược Trung Cộng tàn phá nặng nề nhất. Tất cả bệnh viện, trường học, chùa chiền, đền thờ đều bị phá hủy tan hoang thành bình địa trước khi rút quân khỏi Việt Nam trong cuộc chiến tranh giới biên giới vào tháng 2 năm 1979. Đây cũng là nơi có nhiều thường dân bị quân xâm lược Trung Cộng tàn sát nhiều nhất. Họ chết vì đạn pháo, bị chặt đầu, mổ bụng, phụ nữ bị hãm hiếp tập thể cho đến chết, trẻ con bị ném xuống giếng... Nơi nầy, thay vì BCT/T.Ư/ Đảng CSVN cho xây cụm nhà mồ Đề Thám để đánh dấu tội ác man rợ của quân xâm lược Trung Cộng mới phải. Ngược lại, bọn CS Hà Nội lại cho in sách ca tụng quân xâm lược Trung Cộng giết hại đồng bào và tàn phá 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta. Và mới đây, ai đó đã đặt một vòng hoa tại nghĩa trang liệt sĩ Long Châu, bốc mùi thúi hoắc: “ĐẢNG ỦY, HĐND, UBND, UBMTTQ XÃ ĐỀ THÁM ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN CÁC LIỆT SĨ TRUNG QUỐC.”
YẾU TỐ THỜI GIAN “TIỀN HẬU BẤT NHẤT”
Theo ông Lục Tùng, khu vực nhà mồ Ba Chúc được BỘ VĂN HÓA XẾP HẠNG CẤP QUỐC GIA, con số nạn nhân là 3.574 người và thời gian bắt đầu cuộc thảm sát kéo dài 11 ngày đêm từ 14 đến 25/ 4 /1978 do Ủy Ban Trưng ương Điều tra Tội ác Chiến tranh Xâm lược ghi nhận. Nhưng, tại sao bọn lãnh đạo CSVN lại ghi nhận móc thời gian từ 18 đến 29/ 4/ 1978 (sai biệt trước và sau 4 ngày) để làm gì?
Một câu hỏi được đặt ra: Thời gian chính xác xảy ra cuộc thảm sát 3.157 (hay 3.574) đồng bào vô tội làng Ba Chúc, tỉnh An Giang vào ngày 14 hay ngày 18 tháng 4 năm 1978? Chánh quyền CSVN phải biết rõ điều nầy hơn ai hết!
Cần phải nói rõ thêm là khoảng thời gian từ 14/4 đến 18/4 D.L đều rơi vào ngày LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CHOL-CHNAM-THMAY CỦA DÂN TỘC KAMPUCHEA. Chắc chắn khoảng thời gian đó, tên đồ tể Pôn - Pốt và quân Khmer Đỏ không bao giờ khai sát giới, tàn sát 3.574 dân làng Ba Chúc trong các chùa chiềng.
LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CHOL-CHNAM-THMAY
Là lễ mừng năm mới, lễ hội trọng đại và thiêng liêng nhất trong năm của người Kampuchea (tương tự như Tết Nguyên Đán của người VN). Lễ hội chính thức bắt đầu từ 1 đến 3 tháng Chét theo Phật Lịch, rơi vào ngày 14/4 Dương lịch (năm nhuận thì bắt đầu vào ngày 13/4). Trong 3 ngày lễ hội (năm nhuận là 4 ngày) mang đậm nét văn hóa Phật Giáo Tiểu Thừa, từ thời gian gắn liền với Phật Lịch, địa điểm tổ chức tại các chùa và nghi thức tụng kinh cầu phước, dâng cơm cho sư sãi và chủ tế hành lễ là các vị sư sãi, nên ngoài ý nghĩa chúc mừng năm mới, còn là làm phước của đồng bào Kampuchea.
Lễ hội còn có ý nghĩa tống tiễn mùa nắng, bước sang thời kỳ có mưa để kịp thời vụ. Bà con tiễn đưa thần TÊVÊDA CŨ (thần coi sóc cũ), đón thần TÊVÊDA MỚI. Trong dịp nầy, ngoài cúng lễ, bà con thường hỏi thăm nhau và chúc mừng lẫn nhau. Buổi tối có đốt pháo thăng thiên. Ban ngày tham dự các trò chơi như thả diều, đánh quay lửa...Trai gái trong làng múa Roam Vông, Lâm Thol, hát Dù Kê, chọi trâu...Vì vậy, tôi dám khẳng định rằng:
• Cho dù tên đồ tể Pôn - Pốt và quân Khmer Đỏ dù có khát máu đến đâu, cũng không vượt biên tấn công làng Ba Chúc, khai sát giới, tàn sát 3.574 dân lành vô tội trong 4 ngày lễ hội truyền thống CHOI-CHNAM-THMAY của dân tộc Kampuchea. Việc ông Trần văn Nhi cáo buộc quân Khmer Đỏ dùng súng đạn để giết hơn 200 người dân đang cầu nguyện trong chùa nhằm che đậy tội ác diệt chủng của quân đội CSVN mà thôi.
• Dân tộc Kampuchea theo Phật Giáo Tiểu Thừa. Họ kính trọng sư sãi một cách tuyệt đối. Ngôi chùa là trung tâm sinh hoạt văn hóa theo nghi lễ cổ truyền, nơi tổ chức các lễ hội hàng năm, là nơi tàng trử trử kinh Phật. Bản thân người dân Kampuchea cũng phải trải qua một thời gian niên thiếu ở trong chùa để học giáo lý nhà Phật, đạo lý làm người trước khi ra đời. Cho nên, bộ đội CSVN tập trung dân làng Ba Chúc vào các chùa chiềng để tàn sát tập thể rồi vu oan, giá họa cho quân diệt chủng Khmer Đó là một hành động ngu xuẩn, thiếu khôn ngoan, vì ngôi chùa đối với người Kampuchea là đền thiêng, bọn diệt chủng Khmer Đỏ không bao giờ dám giết người trong các ngôi chùa, rồi phóng hỏa đốt chùa như bọn Lảnh đạo CSVN đã tưởng tượng. Hành động giết người tập thể dã man nầy chỉ có bộ đội CSVN vô thần mới dám làm, như chúng đã làm trong biến cố TẾT MẬU THÂN1968 tại HUẾ.
Những vụ giết người tập thể như vậy, giải thích theo ngôn từ của TROTSKY: “Chẳng có ai là đao phủ, chỉ có nạn nhân.” Đúng vậy, cho dù nhân chứng có thấy mặt đao phủ thật sự là bộ đội CSVN, cải trang thành quân Khmer Đỏ, họ có dám đứng tố giác hay không? Không ai còn lạ gì thủ đoạn “giết người bịt miệng” của bọn CSVN. Làm sao những người được chánh quyền CSVN địa phương đưa ra làm nhân chứng, liệu họ có dám nói lên sự thật hay không? Chỉ cần một cái gật đầu, xác nhận bọn CSVN là lũ giết người thì đã toi mạng rồi!
KẾT LUẬN
Chúng tôi hy vọng “ỦY BAN TRUY TỐ TỘI PHẠM CHỐNG NHÂN LOẠI” tiến hành thu thập các tài liệu để làm sáng tỏ về vụ thảm sát nầy và mở lại: “HỒ SƠ CSVN THẢM SÁT 3.574 ĐỒNG BÀO TẠI LÀNG BA CHÚC, TỈNH AN GIANG TRONG THÁNG 4/ 1978” để truy tố tội ác diệt chủng của bọn lãnh đạo Đảng CSVN ra trước TÒA ÁN QUỐC TẾ LAHAY để đền tội.
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Chiến tranh Đông Dương 3 của Hoàng Dung.
- Nửa tháng trong miền Thất Sơn của Nguyễn văn Hầu
- Tài liệu giải mật về cuộc chiến Hoa Việt của Lâm Lễ Trinh
- Thư tố cáo tội ác bọn CSVN của ông Trần H.
- Câu chuyện ngôi làng Ba Chúc ở biên giới Miên Việt của Hoàng Quý
- Ba Chúc ngày 16 tháng 3...Phóng sự của Lục Tùng.
- When the Khmer Rouge came to kill in Vietnam của James Pringle
*
VOI 3,574 DONG BAO VIET NAM VO TOI DA BI THAM SAT
NGUYỄN VĨNH LONG HỒ
*
PHẦN I
THÁNG 4 NĂM 2009. Kỷ niệm đúng 31 năm, ngày dân làng BA CHÚC, tỉnh An Giang bị thảm sát vào tháng 4 năm 1978. Hơn 3.157 đồng bào ruột thịt bị tàn sát dã man đã chìm vào trong quên lãng. Tôi xin mở lại hồ sơ tố cáo tội ác bọn CSVN đã nhúng tay trong biến cố ghê tởm nầy, để đồng bào trong và ngoài nước nhận định. Xin đa tạ quý vị!
Vào cuối tháng 5 năm 1999. Tôi có nhận được lá thư đề ngày 21 tháng 5 năm 1999 của ông TRẦN H. (xin dấu tên) - cựu sĩ quan QĐVNCH - sinh quán tại xã BA CHÚC, tố cáo tội ác bọn CSVN giết người tập thể tại làng BA CHÚC, tỉnh AN GIANG. Từ đó, tôi phối kiểm các tài liệu trong và ngoài nước, tình hình biên giới phía Tây Nam 1978 - 1979 và các dữ kiện do những nhân chứng còn sống tại Hoa Kỳ cung cấp. Và tôi xin mở lại hồ sơ vụ án, đưa “sự cố” nầy ra trước ánh sáng để CĐVNHN và đồng bào trong nước biết thêm về tội ác tày trời, giết người tập thể còn dã man, tàn bạo và khủng khiếp hơn cả TẾT MẬU THÂN 1968. Nạn nhân gồm 3.574 nguoi, cả đàn bà, trẻ con Việt Nam lẫn Cam Bốt bị thảm sát tại các CHÙA, TRƯỜNG HỌC tại làng Ba Chúc cách biên giới VIỆT - MIÊN khoảng 7 cây số và chỉ trong vòng một đêm 18 tháng 4 năm 1978. Cái dã man và vô nhân đạo của bọn Lãnh đạo Đảng CSVN đã đem những bộ hài cốt của những nạn nhân do chúng thảm sát, đem trưng bày trong các hộp kính để gây ảo giác căm thù giữa hai dân tộc VIỆT NAM – KAMPUCHEA.
Ảnh nơi phòng trưng bày cuộc thảm sát tại khu Nhà Mồ Ba Chúc.
VỊ TRÍ NHÀ MỒ BA CHÚC
Căn cứ vào hình ảnh và sự mô tả trên mạng saigonnet ngày 4/ 21 /2004: Nhà mồ Ba Chúc, Chùa Phi Lai và Chùa Tam Bửu là những di tích được nhà nước công nhận là di tích vào năm 1980 là một địa điểm ghi dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pôn - Pốt qua 11 ngày (từ 18/ 4/ 1978 đến ngày 29/ 4/ 1978) đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã Ba Chúc. Nhà mồ Ba Chúc có hình lục giác, mỗi trụ cột đỡ mái nhà được kiến trúc hình tượng như bàn tay đẫm máu, đang vươn thẳng lên. Bên trong nhà mồ là một khung hộp bằng kính tám cạnh, chứa đựng 1.159 bộ hài cốt được phân thành nhiều loại khác nhau như: độ tuổi, giới tính...Nhà mồ được xây dựng giữa hai ngôi chùa Phi Lai và Tam Bửu, đây là hai ngôi chùa do các tín đồ của đạo Hiếu Nghĩa dựng lên và cũng chính nơi đây đã trở thành nơi chứng kiến những tội ác của chúng và những chứng tích đó vẫn còn in dấu cho đến ngày nay.
Sau khi phối kiểm và phân tách “Câu chuyện làng BA CHÚC ở biên giới MIÊN - VIỆT” của ông HOÀNG QUÝ (mạng lenduong. net ngày 5/02/2004), chi tiết về cụm nhà mồ BA CHÚC kể trên và thơ tố cáo của ông TRẦN H. Một điểm trùng hợp rất quan trọng là ông TRẦN H, và ông HOÀNG QUÝ đều xác nhận là tất cả nạn nhân đều bị thảm sát tại CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC .
Ông TRẦN H. viết: “... CSVN đưa sư đoàn 30 CSBV án ngữ dầy đặc dọc biên giới Miên Việt tỉnh Châu Đốc cũ. Chiều đến thì bọn cán bộ và bộ đội Cộng sản bắt dân vào CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC ngủ để chúng bảo vệ. Nửa đêm, dân ngủ mê, chúng giả bộ đội Miên tấn công vào chùa và trường học bằng lựu đạn, cổng ngoài khóa chặc. Sau đó, chúng nổi lửa đốt sạch làm hằng ngàn dân vô tội phải chết oan uổn dưới bàn tay vô thần của CSVN. Nhứt là tại làng Ba Chúc thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, có trên 3.000 người bị chúng viết tập thể. Nay chúng cho xây một ngôi nhà kiến để chứa đống xương vô định chất cao bằng đầu...(ngưng trích)
Ông HOÀNG QUÝ viết: “...Thời cuộc đã biến chuyển khôn lường, sau đó chính 2 lực lượng anh em nầy quay mũi súng vào nhau, lực lượng vũ trang của Khờ me đỏ đã tấn công vào làng Ba Chúc, cách biên giới khoảng 4 dậm, vào ngày 18 / 4/ 1978...Tổng cộng có 3.157cả người Việt Nam lẫn Cam bốt bị thảm sát tại các CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC tại Việt Nam. Những cuộc tấn công khác tương tự như trường hợp nầy là những lý do mà CS VN nêu lên để xua quân tiến chiếm Cam Bốt vào cuối năm đó...(ngưng trích).
Trong bài viết “WHEN THE KHMER ROUGE CAME IN VIETNAM” của James Pringle đăng trong International Herald Tribune, số ra ngày Jan 7, 2004 có thuật lại lời của chứng nhân, bà Hà Thị Nga nói: “Trong một ngôi chùa, tôi thấy 40 nạn nhân sợ hãi trốn dưới bàn thờ, trước khi bị giết bằng lựu đạn.” (In a temple, I saw where 40 terrified victims hid under the alter before being killed by grenades). Bà Hà Thị Nga có phải là một người được chánh quyền dàn dựng đưa ra trả lời phóng viên James Pringgle? Tại sao bà biết con chính xác là 40 người trốn dưới bàn thờ? Trừ phi họ đúng xếp hàng cho bà điểm danh trước khi chun dưới bàn thờ. Tôi là người sống ở miền Tây, thăm viếng nhiều chừa chiền, không một ngôi chùa nào có một cái bàn thờ khổng lồ có sức chứa 40 người trốn dưới đó. Tập trung trốn dưới bàn thờ, chẳng khác nào cho bọn Khmer Đỏ biết: “Lạy ông con trốn ở bụi nầy!”
Một điểm trùng hợp rất quan trọng là cả hai ông Trần H. và Hoàng Quý và chứng nhân đều xác nhận là tất cả các nạn nhân đều bị thảm sát tại CHÙA & TRƯỜNG HỌC. Và thời gian xảy ra vào ngày 18/ 4/ 1978 và không thấy ông Hoàng Quý nói cuộc thảm sát kéo dài đến ngày nào, giống như chi tiết về cụm nhà mồ Ba Chúc kéo dài đến 11 ngày từ 18/ 4/ 1978 đến ngày 29/ 4/ 1978. Tìm hiểu những nguyên chính đưa đến việc bọn CSVN đã tắm máu dân làng Ba Chúc như sau:
TÌNH HÌNH NỘI BỘ VIỆT NAM – KAMPUCHEA SAU 1975
Theo sự tiết lộ của Hoàng Tùng - Tổng biên tập báo Nhân Dân - và là Ủy viên BCT/TƯ Đảng CSVN: Bắc Bộ Phủ đã có ý đồ chiếm đóng Cam Bốt từ năm 1970 - 1972. Cuối năm 1976, Đại Hội IV Đảng Lao Động đổi thành Đảng CSVN dưới sự giám sát của lý thuyết gia MIKHAI A. SUSLOV - Trưởng phái đoàn Sô Viết - thì hầu hết các Ủy viên Bộ Chính Trị đã nối đuôi Lê Duẩn thần phục Mạc Tư Khoa. Đại hội IV của Đảng CSVN chấp nhận đề án của Lê Duẩn xúc tiến việc thành lập LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG bằng cách thuyết phục và nếu cần dùng áp lực quân sự để buộc Cam Bốt và Lào gia nhập. Sau Đại Hội IV, Lê Duẩn và BCT/TƯ/Đảng CSVN nhận định rằng: Việt Nam nằm trong quỹ đạo của Liên Sô là đối lập với Trung Quốc và sự liên kết giữa Trung Quốc và Cam Bốt sẽ áp lực quân sự nặng nề tại vùng biên giới phía Tây Nam.
CUỘC XUNG ĐỘT VŨ TRANG VÙNG BIÊN GIỚI PHÍA TÂY NAM
KAMPUCHEA TẤN CÔNG VIỆT NAM LẦN THỨ NHẤT NĂM 1977
Tháng 3 năm 1977: Ieng Sary - Ngoại trưởng Khmer Đỏ - sang Bắc Kinh nối lại quan hệ thân thiết cũ. Trong buổi tiếp tân có Lý Tiên Niệm - Phó Thủ Tướng - và Tướng Vương Thăng Long - Tổng Tham mưu phó QĐNDTQ - khoản đãi phái đoàn Kampuchea cho thấy sự hợp gắn bó giữa hai nước.
Tháng 4 năm 1977: Trong buổi tiếp tân tại Tòa Đại Sứ Kampuchea, Ngoại trưởng Hoàng Hoa công khai tuyên bố: “Nước Kampuchea đang bị kẻ thù phá hoại và Trung Quốc sẽ sát cánh với những dân tộc nhỏ yếu chống lại những hành động can thiệp và gây hấn của các lân bang”. Nhận được sự hậu thuẩn của Trung Quốc. Hai tuần sau, đúng vào ngày Việt Nam tưng bừng kỹ niệm năm thứ hai “Mùa Xuân Đại Thắng 1975”. Quân đội Kampuchea bất thần mở cuộc tấn công qui mô vào những làng xã và những thị trấn dọc biên giới tỉnh An Giang, và sau đó rút về bên kia bên giới.
KAMPUCHEA TẤN CÔNG LẦN THỨ HAI VÀO TÂY NINH
Ngày 27 tháng 9 năm 1977: Tên đồ tể Pôn - Pốt lên đài phát thanh đọc diễn văn dài 5 tiếng đồng hồ, chính thức xác nhận vai trò lãnh đạo của mình và tổ chức ANGKA là Đảng Cộng Sản Kampuchea. Một ngày sau khi ra mắt. Pôn - Pốt lên đường đi Bắc Kinh và Bình Nhưỡng. Lần đầu tiên đi công du với tư cách là Chủ tịch Đảng và Thủ Tướng. Pôn - Pốt được đón tiếp trọng thể. Cờ và biểu ngữ giăng đầy Thiên An Môn.
Ba ngày trước đó, để chứng tỏ quyết tâm chống Việt Nam của mình đối với Trung Quốc. Pôn - Pốt ra lệnh cho Quân Khu Đông tấn công vào lãnh thổ Việt Nam thuộc tỉnh Tây Ninh. Việt Nam tự hạn chế, không cho quân đội vượt biên phản công, đồng thời cách chức Tướng Tư lệnh quá khích TRẦN VĂN TRÀ và Tướng LÊ ĐỨC ANH thay thế. Trong bài viết The continuing conflict in Southeast Asia của David Miller đăng trong cuốn THE VIETNAM WAR ghi nhận: “Nhiều đồng bào địa phương đã chạy thoát, nhưng Hà Nội quả quyết người Kampuchea thảm sát 2.000 thường dân” (Many local residents fled, but an official Hanoi communique alleged that kampucheans had massacred some 2,000 civilians).
Sau đó, một mặt Đảng CSVN gởi điện văn chúc mừng lễ ra mắt Đảng CS Kampuchea, một mặt bí mật gởi Phan Hiền sang Bắc Kinh nhờ Trung Quốc dàn xếp cho gặp phái đoàn Kampuchea. Cuộc tiếp xúc không đi đến đâu. BCT/ ĐẢNG CS Trung Quốc đều nhất trí ủng hộ Khmer Đỏ. Trung Quốc bắt đầu chở vũ khí và chiến cụ ồ ạt tới cảng Komphong Som để trang bị tận răng cho quân đội kampuchea. CSVN buộc phải đứng hẳn về phía Liên Sô tìm cách phản công chống lại Khmer Đỏ quyết liệt hơn. Tập đoàn Lãnh đạo CSVN đã sai lầm một chiến lược quan trọng: “Nước xa không cứu được lửa gần”.
QUÂN ĐỘI VNCS PHẢN CÔNG KAMPUCHEA CUỐI NĂM 1977
Vào những ngày cuối năm 1977. Lực lượng vũ trang QĐND/VNCS mở những trận tấn công thăm dò vào sâu trong lãnh thổ Kampuchea. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước bị cắt đứt và công khai hóa tranh chấp lãnh thổ và hai bên điều động thêm lực lượng vũ trang tăng cường hệ thống phòng thủ dọc biên giới. Nhưng, phía Việt Nam bị Quốc tế tố cáo và lên án xâm lăng Kampuchea, quân đội viễn chinh VNCS buộc phải rút về nước vào ngày 6 tháng 1 năm 1978.
KAMPUCHEA TẤN CÔNG LẦN THỨ 3 VÀO ĐẦU NĂM 1978
Đầu tháng giêng 1978: Tại vùng biên giới cực Nam. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn 2 và 210 của Quân Khu Tây Kampuchea đã tấn công và chiếm đóng các xã Phú Cường, Khánh An, Khánh Bình và các huyện Hồng Ngự và Hà Tiên thuộc lãnh thổ Quân Khu IX Việt Nam. Và đây là cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam lần cuối cùng, vì họ sẽ chẳng còn cơ hội nào vượt biên tấn công vào Việt Nam nữa. Tướng TRẦN NGHIÊM nguyên là Tư Lệnh Phó của LÊ ĐỨC ANH. Sau khi Lê Đức Anh thay Trần văn Trà. Tướng Trần Nghiêm được đề bạt lên làm Tư lệnh Quân Khu IX, chịu trách nhiệm điều động 3 sư đoàn chính quy cơ hữu, gồm các Sư đoàn 4, 8 và 330 cùng với 2 trung đoàn chủ lực cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp. Sư đoàn 341 do tướng Vũ Cao làm Tư Lệnh được điều từ Quân Khu VII đến tăng phái cho Q.Khu IX cùng với sự yểm trợ của không quân, pháo binh, thiết giáp...với lực lượng áp đảo và hùng hậu như vậy, mà phải mất 2 tháng phản công mới đánh bật sư đoàn 2 và 210 của Kampuchea ra khỏi biên giới và tái chiếm lại lãnh thổ đã mất.
Đầu tháng 3 năm 1978: Tình hình biên giới phía Tây Nam hoàn toàn yên tỉnh. Sư đoàn 341 được trả về Quân khu VII sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Tướng Trần Nghiêm tái phối trí 3 sư đoàn 4, 8 và 330 cùng hai trung đoàn cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp vào nhiệm vụ phòng thủ diện địa. Riêng sư đoàn 330 được chỉ định thành lập tuyến phòng thủ an ninh lãnh thổ huyện TRI TÔN.
KAMPUCHEA KHI SƯ ĐOÀN 2 VÀ 210 RÚT VỀ BÊN BIÊN GIỚI
Bắt đầu từ tháng năm 1978 và những tháng sau đó. Cuộc thanh trừng nội bộ ở Quân Khu Đông càng ngày càng trở nên gây gắt và lên đến cao điểm vào ngày 24 tháng 5 năm 1978, lực lượng của KE PAULK - Bí thư Khu ủy Trung tâm của Khmer Đỏ - thuộc Quân khu Trung Ương kéo đến SOUNG, bao vây tổng hành dinh của Quân khu Đông, bắt giam tất cả sĩ quan chỉ huy và nhiều cuộc chạm súng đã xảy ra giữa đôi bên. Sau cuộc thanh trừng, sư đoàn 4 coi như bị xóa sổ, các sư đoàn 3, 5, 280 còn lại bị suy yếu hẳn.
BCT/TƯ Đảng CSVN không bỏ lở cơ hội ngàn vàng, triệt để khai thác nhược điểm của địch là sự xâu xé nội bộ và mâu thuẩn hàng ngũ của Khmer Đỏ theo đúng sách lược của Lenine: “Phải chộp ngay cơ hội chia rẽ của địch”, bằng cách ráo riết chuẩn bị chuẩn bị “tâm lý quần chúng” và “dư luận Quốc tế” . Rõ ràng, bọn Đảng CSVN đã đạo diễn tấn tảm kịch cực kỳ dã man, tàn bạo và ghê tởm: tắm máu 3.157 đồng bào vô tội, đa số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo trong đêm 18 /4/ 1978 rồi đổ tội cho bọn đồ tể Khmer Đỏ gây ra. Độc chiêu “ném đá dấu tay”, rồi dở trò “mèo khóc chuột” của bọn CSVN đã thành công trong âm mưu tạo ra kẻ thù Khmer Đỏ bằng xương bằng thịt để kích động lòng căm thù chủng tộc Việt Nam - Kampuchea, rồi triệt để khai thác sức mạnh của lòng căm thù của quần chúng vào mục tiêu chánh trị và quân sự để chuẩn bị xâm lăng Kampuchea.
Tất cả bộ máy chiến tranh tâm lý của bọn CSVN được động viên vào việc tuyên truyền rầm rộ. Những cuộc biểu tình, hội thảo diễn ra khắp nơi, các đài phát thanh, phát hình trong nước mở tối đa công xuất lên án bọn diệt chủng Pôn Pốt đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã Ba Chúc để tranh thủ dư luận Quốc tế, có chứng cớ hẳn hòi, chớ không phải tố cáo vu vơ như lần quân Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ tỉnh Tây Ninh thảm sát 2.000 thường dân. Quân đội CSVN xua quân tấn công Kampuchea chỉ vì lý do tự vệ chánh đáng, chớ không phải xâm lăng Kampuchea như đã từng bị lên án trước đó.
NGÀY 15/ 6/ 1978, chiến dịch tấn công Kampuchea mở màng. Các sư đoàn chính quy 7, 9 và 341 cùng với các đơn vị yểm trợ hùng hậu tràn qua biên giới Việt - Miên, chiếm đóng một phần lãnh thổ sâu trong nội địa Kampuchea từ 10 đến 40 km, trong đó có quận Prasaut. Lúc đó nhằm mùa mưa. Kampuchea tăng cường thêm nhiều sư đoàn từ trong nội địa ra biên giới để phản công. Từ Prasaut, quân xâm lược CSVN phải lùi về Chipru...
Hài cốt ở Nhà mồ Ba Chúc
DẤU ĐẦU LÒI ĐUÔI
6 ĐIỂM CHỨNG MINH TỘI ÁC CỦA CSVN TRƯỚC
DƯ LUẬN QUỐC TẾ VÀ ĐỒNG BÀO TRONG & NGOÀI NƯỚC
• ĐIỂM MỘT: Không thấy chánh quyền địa phương đề cập đến con số thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản của nhân dân sau 3 lần lực lượng Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là 2 tháng đầu năm 1978 là thời gian quần thảo dữ dội giữa 4 sư đoàn + 2 trung đoàn cơ động CSVN để đánh bật sư đoàn 2 và 210 của Kampuchea ra hỏi biên giới. Điều đó đã chứng minh rằng: Đồng bào MNVN đã tích lủy quá nhiều kinh nghiệm “chạy giặc”. Giặc Tây đi bố, giặc Việt Minh CS giết người đoạt của, giặc Miên nổi dậy “cáp duồn”... nên phản ứng của họ vô cùng bén nhạy. Mỗi khi có biến động là nhà nhà báo động bằng đủ mọi phương tiện như gõ mõ, thùng thiếc, gióng trống, khua chiên, nồi niêu, xoong chảo...để kịp thời bồng bế con cái chạy giặc. Họ không bao giờ chịu nằm yên trong nhà, ngoan ngoãn chờ bọn Khmer Đỏ đến lùa họ đi. Và một điều chắc chắn là khi họ nhận diện binh lính của Khmer Đỏ, họ sẽ chạy bung ra, chạy bán sống bán chết giống như hồi Tết MẬU THÂN 1968, dân MNVN chạy giặc Việt Cộng, dễ dầu gì bọn Khmer Đỏ có đủ lực lượng tập trung dân làng Ba Chúc vào các CHÙA & TRƯỜNG HỌC một cách dễ dàng để tàn sát tập thể. Hơn nữa, địa thế làng Ba Chúc dưới chân núi TƯỢNG và bên kia là núi DÀI, một địa thế lý tưởng cho đồng bào lẫn trốn dễ dàng.
• ĐIỂM HAI: Những vị cao niên nào sống ở Miền Tây Nam Bộ thuộc các tỉnh Châu Đốc, Vĩnh Long, Trà vinh, Sóc Trăng chắc chưa quên những cuộc nổi dậy bất thần đầy chết chóc của những đồng bào Việt gốc Miên sống trong các sóc vùng sâu. Và danh từ “Miên dậy” là tiếng báo động khẩn cấp đồng bào Việt gọi nhau chạy lánh nạn. Những người Miên từ trong các sóc đồng loạt ùa ra, tay cầm phảng, cuốc xẻng, rựa...tay kia cầm chai rượu “phất xạ” (uống rượu), họ ào ạt xông vào các xóm làng của đồng bào ta như cơn gió lốc, rượt đuổi dân làng chạy tán loạn. Họ vừa chạy vừa thét : “Dơ! Cáp duồn! Bòn ơi!...” (Nào! Giết tụi Việt! Bây ơi!...” Trong cơn say rượu, say máu, họ gặp đàn bà chém theo đàn bà, trẻ con đâm theo trẻ con...gặp đâu giết đó. Bọn diệt chủng Khmer Đỏ cũng thế! Một khi tràn qua biên giới Việt Nam, họ đâu có lòng nhân đạo đến độ phải tập trung đồng bào ta vào các chùa chiền để đọc kinh cầu nguyện trước khi hành quyết, hoặc dồn trẻ con vào các trường học vì sợ trẻ chết xuống âm phủ thành những con ma mù chữ?
• ĐIỂM BA: Nếu như muốn cưỡng bách trên 3, 4 ngàn người sống rải rác trong làng Ba Chúc với một địa thế hiểm trở như thế, cách biên giới Việt - Miên khoảng 7 km và cách con kinh Vĩnh Tế khoảng 5 km. Chúng tôi nghĩ, bọn diệt chủng Pôn Pốt phải huy động bao nhiêu sư đoàn Khmer Đỏ mới làm nổi việc đó? Và làm thế nào những sư đoàn nầy lọt qua tuyến phòng thủ biên giới Tây Nam dầy đặc của 3 sư đoàn chính quy 4, 8 và 330 của QĐND và 2 trung đoàn cơ động tỉnh với lực lượng yểm trợ hùng hậu gồm: thiết giáp, pháo binh và không quân đóng tại căn cứ Trà Nóc? Và hơn thế nữa, bọn Khmer Đỏ làm thế nào kéo dài cuộc thảm sát dân làng Ba Chúc trong suốt 11 ngày đêm mà không có cuộc chạm súng nào với các đơn vị chủ lực CSVN phòng thủ biên giới kể trên, trừ phi các đơn vị nầyï nhận được lệnh của BCT/ T.Ư/ Đảng “án binh bất động”, để mặc cho bọn Khmer Đỏ mặc sức giết đồng bào ta? Không có tổn thất về nhân mạng được ghi nhận cho cả hai phía Khmer Đỏ và bộ đội biên phòng CS ( có đánh đấm gì đâu mà có tổn thất chứ!), chỉ có trên 3.000 đồng bào bị thảm sát mà thôi. Tưởng cũng xin nhắc lại: Trước 30/4/1975, Quân Đoàn IV và Quân khu 4 chỉ có 3 sư đoàn chủ lực 7, 9 và 21 / BB và nếu như 3 sư đoàn nầy được phối trí, tập trung vào nhiệm vụ phòng thủ biên giới phía Tây Nam thì chưa chắc một con chuột chui qua lọt, đừng nói chi một đơn vị nhỏ của quân xâm lược CSBV.
• ĐIỂM BỐN: Thời điểm bọn Khmer Đỏ thảm sát dân làng Ba Chúc từ 18 /4 /1978 đến 29 /4 /1978 lại càng không hợp lý. Vì trong thời gian đó, ở bên kia biên giới, cuộc thanh trừng nội bộ đang xảy ra gay gắt và quyết liệt ở Quân Khu Đông sắp lên đến cao điểm. Làm sao Pôn Pốt có thể điều động lực lượng Khmer Đỏ vượt biên tấn công Việt Nam?
• ĐIỂM NĂM: Người nông dân Việt Nam nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng, họ chỉ di dân vào các điểm tập trung dưới sự bảo vệ an ninh của quân đội VNCH. Hệ thống “Ấp chiến lược” được thiết lập trong thời chiến tranh là một thí dụ cụ thể. Điều nầy phải là cán bộ địa phương và bộ đội CSVN mới có thể tập trung dân làng Ba Chúc vào các CHÙA & TRƯỜNG HỌC đã chỉ định sẵn theo kế hoạch để ra tay tàn sát đồng loạt. Và sư đoàn 30 (tên gọi tắt của đồng bào địa phương) chính là sư đoàn 330 chỉ định cuộc giết người tập thể nầy vào đêm 18 /4 /1978. Vì SĐ 330 được thành lập tại MNVN trước khi tập kết ra Bắc do Tướng Đồng văn Cống làm Tư lệnh thì dân làng Ba Chúc mới có lòng tin đi theo chúng vào các chùa và trường học để được chúng bảo vệ an ninh. Sau đó, chúng khóa chặt cửa lại. Chờ khi đem đến, bộ đội CSVN đội lốt quân Khmer Đỏ kéo đến giết sạch, đốt sạch đúng như lời tố cáo của ông Trần H. và đó sự thật không thể chối cải. Hiện nay, một vài nhân chứng còn sống sót như bà Trần thị C, ông Nguyễn văn Ch...và một nhân chứng quan trọng là một thầy giáo cấp 2 ở kinh Vĩnh Tế họ Trần (xin dấu tên) đã dám nói lên sự thật với đồng bào nên bị sa thải khỏi nhiệm sở và bị tên Giám Đốc Công An tỉnh An Giang - bí danh Sáu Nhỏ - bắt giam 2 năm để cảnh cáo.
• ĐIỂM SÁU: Tại sao bọn CSVN mở cuộc thảm sát tập thể dân làng Ba Chúc, cách biên giới đến 7 km? Trước năm 1975, có ai đặt chân lần đầu đến Ba Chúc dưới chân làng Ba Chúc dưới chân núi Tượng và bên kia núi Dài, đều ngạc nhiên trước hết là nhìn đâu đâu cũng thấy chùa và đa số chùa nào cũng giữ theo truyền thống là tường xây bằng gạch nhưng mái lợp lá. Riêng tại làng Ba Chúc có khoảng 15.000 tín đồ Bửu Sơn kỳ Hương thờ vị Giáo Tổ Đức Phật Thầy Tây An, lấy giáo lý PGHH do Đức Huỳnh Giáo Chủ đề xướng: Tứ Ân, Bát Nhẫn và tám Điều Răn của Đức Thầy để tu thân. Điều nầy chúng minh dã tâm của bọn CSVN vừa tiêu diệt tín đồ PGHH, vừa đốt luôn các chùa chiền, nơi tín đồ PGHH thờ phượng đấng thiêng liêng, rồi đổ tội diệt chủng cho bọn Khmer Đỏ đã biến mất về phía bên kia biên giới, thế là xong! Những việc giết người tập thể là sách lược của bọn CSVN, có tính toán tinh vi và được thực hiện từng bước theo kế hoạch được dàn dựng hẳn hoi. Đây là độc chiêu “nhất tiển hạ song điêu” của bọn CSVN.
PHẦN II
Nội dung và chi tiết PHẦN I kể trên, tôi đã đúc kết lại thành một bài viết với chủ đề: “Mở lại hồ sơ CSVN thảm sát 3,157 đồng bào làng Ba Chúc, tỉnh An Giang đêm 18/ 4/ 1978” đã được đưa lên mạng Người Việt Online ngày 3 tháng 5 năm 2004 lúc 2:59 PM.
Sau khi bài viết nầy đã được đưa lên mạng thì đúng 7 ngày sau, ông LỤC TÙNG từ trong nước, viết một phóng sự - ghi chép với tựa đề “BA CHÚC NGÀY 16 THÁNG 3...” đưa lên báo Lao Động số 131, ngày 10 tháng 5 năm 2004. Xin tóm lược vài điểm chính của bài báo nầy:
• Nơi đây, đúng 3 năm sau ngày thống nhất đất nước, bè lũ diệt chủng Pôn - Pốt đã xua quân vượt biên giết 3.574 thường dân bằng những hình thức dã man, như: Người lớn, chúng dùng búa đập đầu, dao cắt cổ; trẻ em thì nắm hai chân xé ra, hoặc đập đầu vào gốc cây, nếu chưa chết thì quăng lên cao, sau đó vươn lưỡi lê lên hứng. Riêng với phụ nữ, trước khi dùng lưỡi lê xẻo vú, hay thọc cây tầm vông, cọc trâm bầu vào cửa mình cho chết, chúng lột quần áo ra rồi thay nhau hãm hiếp tập thể”. Để tưởng nhớ những người dân vô tội, hằng năm vào ngày 16 tháng 3 A.L, chính quyền và nhân dân nơi đây tổ chức ngày giỗ hội. Giỗ hội lần thứ 26 năm nay nhằm ngày 4. 5. Tôi (Lục Tùng) lật sổ tay, đoạn ghi lại số liệu của ỦY BAN TRUNG ƯƠNG ĐIỀU TRA TỘI ÁC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC trong 11 ngày đêm từ 14 đến 25/ 4 /1978. bè lũ Pôn - Pốt đã sát hại tổng cộng 3.574 thường dân.
• Trên đường dẫn chúng tôi (Lục Tùng) đến nhà bà Hà thị Nga, một trong số 3 người sống sót trong tầm diệt chũng, ông Trần Văn Nhi - nguyên Phó Chủ Tịch thị trấn Ba Chúc - không nén được xúc động nói: “Tôi đã đi qua hai cuộc chiến tranh, đánh Pháp, đuổi mỹ, nhưng chưa bao giờ thấy cảnh người ta dùng súng đạn để giết hơn 200 người dân đang cầu nguyện trong chùa như lần ấy...” Theo lời ông Nhi, sau nạn diệt chủng Ba Chúc giống như một bãi đất hoang tàn, toàn xã có 3.574 người bị sát hại, trong đó có 100 hộ bị giết sạch...
• Ông Lục Tùng mô tả ngày giỗ hội như sau: “Hôm nay ngày giỗ hội 16 tháng 3...”, vị chánh bái vừa cất giọng, cả không gian tỉnh lặng đột nhiên vỡ tung bởi tiếng nấc nghẹn ngào xen lẫn những tấm thân ngã quỵ...”(ngưng trích). Nhưng, tấm hình ghi lại một góc nhà mồ ngày giỗ hội thật tương phản, chỉ đếm được có 7 người đứng bên cạnh khung hộp kính hình bát giác, chứa đựng 1.159 bộ hài cốt của nạn nhân.
LỜI BÀN:
Theo lời kể của ông Lục Tùng thì tội ác thảm sát đồng bào ta tại xã Ba Chúc của bọn Khmer Đỏ là tội ác “trời không dung đất không tha” nên Đảng CSVN phải cho xây cụm nhà mồ Ba Chúc là địa điểm ghi dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pôn Pốt cũng đúng thôi! Nhưng vẫn còn kém xa, nếu đem so sánh với tội ác vô cùng dã man của quân xâm lược Trung Cộng thảm sát đồng bào ta tại xã Đề Thám là một xã ngoại ô của thị xã Cao Bằng, nơi giáp với tỉnh Quảng Tây, khu vực có nghĩa trang “liệt sĩ Long Châu” chôn lính Trung Cộng đã tử trận tại Việt Nam. Thị xã Cao Bằng là một trong những khu vực bị quân xâm lược Trung Cộng tàn phá nặng nề nhất. Tất cả bệnh viện, trường học, chùa chiền, đền thờ đều bị phá hủy tan hoang thành bình địa trước khi rút quân khỏi Việt Nam trong cuộc chiến tranh giới biên giới vào tháng 2 năm 1979. Đây cũng là nơi có nhiều thường dân bị quân xâm lược Trung Cộng tàn sát nhiều nhất. Họ chết vì đạn pháo, bị chặt đầu, mổ bụng, phụ nữ bị hãm hiếp tập thể cho đến chết, trẻ con bị ném xuống giếng... Nơi nầy, thay vì BCT/T.Ư/ Đảng CSVN cho xây cụm nhà mồ Đề Thám để đánh dấu tội ác man rợ của quân xâm lược Trung Cộng mới phải. Ngược lại, bọn CS Hà Nội lại cho in sách ca tụng quân xâm lược Trung Cộng giết hại đồng bào và tàn phá 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta. Và mới đây, ai đó đã đặt một vòng hoa tại nghĩa trang liệt sĩ Long Châu, bốc mùi thúi hoắc: “ĐẢNG ỦY, HĐND, UBND, UBMTTQ XÃ ĐỀ THÁM ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN CÁC LIỆT SĨ TRUNG QUỐC.”
YẾU TỐ THỜI GIAN “TIỀN HẬU BẤT NHẤT”
Theo ông Lục Tùng, khu vực nhà mồ Ba Chúc được BỘ VĂN HÓA XẾP HẠNG CẤP QUỐC GIA, con số nạn nhân là 3.574 người và thời gian bắt đầu cuộc thảm sát kéo dài 11 ngày đêm từ 14 đến 25/ 4 /1978 do Ủy Ban Trưng ương Điều tra Tội ác Chiến tranh Xâm lược ghi nhận. Nhưng, tại sao bọn lãnh đạo CSVN lại ghi nhận móc thời gian từ 18 đến 29/ 4/ 1978 (sai biệt trước và sau 4 ngày) để làm gì?
Một câu hỏi được đặt ra: Thời gian chính xác xảy ra cuộc thảm sát 3.157 (hay 3.574) đồng bào vô tội làng Ba Chúc, tỉnh An Giang vào ngày 14 hay ngày 18 tháng 4 năm 1978? Chánh quyền CSVN phải biết rõ điều nầy hơn ai hết!
Cần phải nói rõ thêm là khoảng thời gian từ 14/4 đến 18/4 D.L đều rơi vào ngày LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CHOL-CHNAM-THMAY CỦA DÂN TỘC KAMPUCHEA. Chắc chắn khoảng thời gian đó, tên đồ tể Pôn - Pốt và quân Khmer Đỏ không bao giờ khai sát giới, tàn sát 3.574 dân làng Ba Chúc trong các chùa chiềng.
LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CHOL-CHNAM-THMAY
Là lễ mừng năm mới, lễ hội trọng đại và thiêng liêng nhất trong năm của người Kampuchea (tương tự như Tết Nguyên Đán của người VN). Lễ hội chính thức bắt đầu từ 1 đến 3 tháng Chét theo Phật Lịch, rơi vào ngày 14/4 Dương lịch (năm nhuận thì bắt đầu vào ngày 13/4). Trong 3 ngày lễ hội (năm nhuận là 4 ngày) mang đậm nét văn hóa Phật Giáo Tiểu Thừa, từ thời gian gắn liền với Phật Lịch, địa điểm tổ chức tại các chùa và nghi thức tụng kinh cầu phước, dâng cơm cho sư sãi và chủ tế hành lễ là các vị sư sãi, nên ngoài ý nghĩa chúc mừng năm mới, còn là làm phước của đồng bào Kampuchea.
Lễ hội còn có ý nghĩa tống tiễn mùa nắng, bước sang thời kỳ có mưa để kịp thời vụ. Bà con tiễn đưa thần TÊVÊDA CŨ (thần coi sóc cũ), đón thần TÊVÊDA MỚI. Trong dịp nầy, ngoài cúng lễ, bà con thường hỏi thăm nhau và chúc mừng lẫn nhau. Buổi tối có đốt pháo thăng thiên. Ban ngày tham dự các trò chơi như thả diều, đánh quay lửa...Trai gái trong làng múa Roam Vông, Lâm Thol, hát Dù Kê, chọi trâu...Vì vậy, tôi dám khẳng định rằng:
• Cho dù tên đồ tể Pôn - Pốt và quân Khmer Đỏ dù có khát máu đến đâu, cũng không vượt biên tấn công làng Ba Chúc, khai sát giới, tàn sát 3.574 dân lành vô tội trong 4 ngày lễ hội truyền thống CHOI-CHNAM-THMAY của dân tộc Kampuchea. Việc ông Trần văn Nhi cáo buộc quân Khmer Đỏ dùng súng đạn để giết hơn 200 người dân đang cầu nguyện trong chùa nhằm che đậy tội ác diệt chủng của quân đội CSVN mà thôi.
• Dân tộc Kampuchea theo Phật Giáo Tiểu Thừa. Họ kính trọng sư sãi một cách tuyệt đối. Ngôi chùa là trung tâm sinh hoạt văn hóa theo nghi lễ cổ truyền, nơi tổ chức các lễ hội hàng năm, là nơi tàng trử trử kinh Phật. Bản thân người dân Kampuchea cũng phải trải qua một thời gian niên thiếu ở trong chùa để học giáo lý nhà Phật, đạo lý làm người trước khi ra đời. Cho nên, bộ đội CSVN tập trung dân làng Ba Chúc vào các chùa chiềng để tàn sát tập thể rồi vu oan, giá họa cho quân diệt chủng Khmer Đó là một hành động ngu xuẩn, thiếu khôn ngoan, vì ngôi chùa đối với người Kampuchea là đền thiêng, bọn diệt chủng Khmer Đỏ không bao giờ dám giết người trong các ngôi chùa, rồi phóng hỏa đốt chùa như bọn Lảnh đạo CSVN đã tưởng tượng. Hành động giết người tập thể dã man nầy chỉ có bộ đội CSVN vô thần mới dám làm, như chúng đã làm trong biến cố TẾT MẬU THÂN1968 tại HUẾ.
Những vụ giết người tập thể như vậy, giải thích theo ngôn từ của TROTSKY: “Chẳng có ai là đao phủ, chỉ có nạn nhân.” Đúng vậy, cho dù nhân chứng có thấy mặt đao phủ thật sự là bộ đội CSVN, cải trang thành quân Khmer Đỏ, họ có dám đứng tố giác hay không? Không ai còn lạ gì thủ đoạn “giết người bịt miệng” của bọn CSVN. Làm sao những người được chánh quyền CSVN địa phương đưa ra làm nhân chứng, liệu họ có dám nói lên sự thật hay không? Chỉ cần một cái gật đầu, xác nhận bọn CSVN là lũ giết người thì đã toi mạng rồi!
KẾT LUẬN
Chúng tôi hy vọng “ỦY BAN TRUY TỐ TỘI PHẠM CHỐNG NHÂN LOẠI” tiến hành thu thập các tài liệu để làm sáng tỏ về vụ thảm sát nầy và mở lại: “HỒ SƠ CSVN THẢM SÁT 3.574 ĐỒNG BÀO TẠI LÀNG BA CHÚC, TỈNH AN GIANG TRONG THÁNG 4/ 1978” để truy tố tội ác diệt chủng của bọn lãnh đạo Đảng CSVN ra trước TÒA ÁN QUỐC TẾ LAHAY để đền tội.
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Chiến tranh Đông Dương 3 của Hoàng Dung.
- Nửa tháng trong miền Thất Sơn của Nguyễn văn Hầu
- Tài liệu giải mật về cuộc chiến Hoa Việt của Lâm Lễ Trinh
- Thư tố cáo tội ác bọn CSVN của ông Trần H.
- Câu chuyện ngôi làng Ba Chúc ở biên giới Miên Việt của Hoàng Quý
- Ba Chúc ngày 16 tháng 3...Phóng sự của Lục Tùng.
- When the Khmer Rouge came to kill in Vietnam của James Pringle
BÀ LÊ VĂN HƯNG * THÁNG 4-1975
Bà Lê Văn Hưng, nhũ danh Phạm Thị Kim Hoàng
Từ chàng ra đi lưng khoác chiến y,
và hồn nương bóng quốc kỳ
Nàng ngừng con thoi có khi nhớ chàng.
Có muốn gì đâu! Lệ thắm tơ vàng.
Chàng ngồi trên yên mơ bóng dáng em
mịt mù sau đám khói tên.
Bâng khuâng mắt nhìn tay kiếm.
Không sao dấu đôi lệ hiền….
(Chinh phụ ca – Phạm Duy)
Ngày 21/4/1975, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, tôi còn nhớ rõ lời ông Thiệu nói:
- “Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ”.
Lời tuyên bố của ông Thiệu đã gây cho tôi sự xúc động. Thế rồi lời tuyên bố ấy cũng đã bay theo gió, khi số lớn cấp chỉ huy trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đã vỗ cánh chim bay sang ngoại quốc, tìm nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà, dân tộc và quân đội đang chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời, Thiếu Tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ, Phú. Nhắc đến đây tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào.
Ôi tiếng súng nổ rền vang trên khắp lãnh thổ. Mùa hè năm 1972, nhà văn Phan Nhật Nam đã mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè cuối đầy yêu đương. Mùa hè tận cùng vực thẳm. Còn mùa hè 30/4/1975 bi thương thê thảm ngần nào? Chúng ta còn đủ ngôn từ để diễn tả tận cùng nỗi thương tâm kinh hoàng của sinh ly, từ biệt, cuống cuồng ấy không? Tin thất trận từ các Vùng 1,2,3 bay về dồn dập. Có những nơi chưa đánh đã bỏ cho địch tràn vào. Cũng có nơi quyết liều tử chiến. Thảm thương thay, cuộc rút quân hỗn loạn bi đát chưa từng có trong lịch sử và quân sử.
Đài VOA và BBC tuyên bố những tin thất bại nặng nề về phía QLVNCH khiến lòng dân càng thêm khiếp đảm. Những đoàn quân thất trận, tả tơi manh giáp, không người chỉ huy, cuống quýt chạy như đàn vịt bị săn đuổi. Tinh thần binh sĩ rối loạn hoang mang tột độ. Họ thì thào bảo nhau:
- “Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Đại Tướng Viên đã cao bay xa chạy, còn đánh đấm gì nữa. Ông Tướng này, ông Tỉnh nọ, đã trốn đi ngoại quốc, chúng ta còn đánh làm gì”. Họ còn hỏi nhau:
- “Bao nhiêu năm chúng ta chiến đấu cho tổ quốc, hay chiến đấu cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá nhân của ai đây?”
Mất người chỉ huy, những quân nhân như rắn không đầu, rối rít, tan rã. Lại có những câu hỏi:
- “Quân không Tướng chỉ huy thì sao?” Có những kẻ chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê bai:
- “Có những ông Tướng mà biết đánh giặc cái gì! Chỉ có lính đánh để các ông Tướng hưởng”.
Lời phê bình của những kẻ bất mãn hay những kẻ có tâm địa hạn hẹp, thật chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho dù có những vị Tướng bê bối, làm cho quân đội bị nhục, thì cũng có những vị Tướng trong sạch đức độ, lỗi lạc, tài ba, đáng cho dân quân khâm phục. Những phần tử bất mãn ấy đã vô tình hay cố ý không thấy việc tối quan hệ của sự hỗ tương, hỗ trợ, giữa các Tướng Lãnh, Sĩ Quan, và Binh Sĩ thật cần thiết cho quân đội và quốc gia như thế nào. Đối với những vị cao minh, hiểu biết giá trị hy sinh của những người tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu cảm tạ, tri ân.
Có nhiều người đã nêu lên câu hỏi với tôi:
- “Tại sao Tướng Nam, Tướng Hưng chết làm chi cho uổng? Tại sao các ông Tướng ấy không tiếp tục chiến đấu? Tại sao các ông không trốn sang ngoại quốc?”
Lại có người nghiêm khắc trách tôi:
- “Bà thật dở. Nếu là tôi, tôi quyết liệt can ngăn không để cho các ông ấy chết. Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành bỏ vợ con lại sao?”
Ngay cả vài vị phu nhân của các Tướng Lãnh, hoặc còn ở trong tù, hoặc đã an nhàn nơi xứ người, cũng thốt ra những lời chỉ trích tôi. Nghe những lời phê bình ấy, tim tôi đau nhói. Tôi tôn trọng sự nhận xét “theo tầm hiểu biết của họ”. Tôi ngán ngẩm không trả lời, chỉ mỉm cười lắc đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng. Lên tiếng để tạ ân những người đang âm thầm chiến đấu ở Việt Nam, để tạ ân những người hùng can đảm đã, đang, và sẽ tiếp tục đánh đuổi Cộng Sản cứu quê hương, để trả lời những người đã nêu lên nhiều câu hỏi đó. Tôi trân trọng xin những vị nào đã có những lời chỉ trích nên bình tâm suy nghĩ lại, trước khi phán đoán vì… những vị Tướng Lãnh bách chiến bách thắng lại lẽ nào chịu xuôi tay nhục nhã trước nghịch cảnh, trước kẻ thù? Những vị Tướng đã từng xông pha trong mưa đạn, bao lần thử thách với tử thần, với nhiều chiến công từ cấp bậc nhỏ lên tới hàng Tướng Lãnh, đã từng khắc phục gian nguy, xoay ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng trên khắp mặt trận, lẽ nào những vị Tướng ấy chỉ nghe hai tiếng “buông súng” rồi giản dị xuôi tay tự sát hay sao?
Viết đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: Thưa toàn thể quý vị sĩ quan QLVNCH. Ngày quý vị nhận lãnh chiếc mũ sĩ quan của trường Võ Bị, quý vị còn nhớ sáu chữ gì trên chiếc mũ ấy không? Sáu chữ mà quý vị trịnh trọng đội lên đầu là: “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”. Ngày mãn khóa sĩ quan với những lời tuyên thệ, quý vị hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm niệm ai lại chẳng thuộc lòng? Những vị bỏ nước ra đi trước binh biến, những vị ở lại bị sắp hàng vào trại tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, vì thật tình tôi không dám có lời phê phán nào. Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về cái chết của hai vị Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng. Hai vị Tướng này đã ba lần từ chối lời mời di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ, cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên cố vấn Mỹ hối thúc, đợi chờ không được, sau cùng chán nản và buồn bã bỏ đi.
Trước đó, vào ngày 29/4/1975, lời tuyên bố của Vũ Văn Mẫu và Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sàigòn ra lệnh tất cả người Mỹ phải rời Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, thì chính là lúc “kế hoạch hành quân mật của hai Tướng Nam Hưng đã hoàn tất.”
Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người thay thế Tướng Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối tới tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông Hạnh đã dùng tình cảm chiến hữu, dùng nghĩa đàn anh thân thuộc, khẩn khoản yêu cầu Tướng Hưng về hợp tác với Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh. Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc đó muốn đò xét thái độ của hai Tướng Vùng 4 như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc điện đàm với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tướng Hưng đã luôn khẳng định:
- “Không hợp tác với Dương Văn Minh. Không đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến cùng”.
Khi Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi vì hoàn cảnh đắm chìm của vận mệnh đất nước, trước nhiều áp lực nên cụ Hương đã trao quyền lại cho Dương Văn Minh, để rồi “ông Tướng hai lần làm đổ nát quê hương, ố hoen lịch sử này, hạ mình ký tên dâng nước Việt Nam cho Cộng Sản.” Vị Tướng Lãnh trấn thủ một vùng, tùy hoàn cảnh đất nước, và tình hình chiến sự địa phương, trọn quyền quyết định, xoay chuyển thế cờ, không cần phải tuân lệnh một cách máy móc theo cấp chỉ huy đầu não đã trốn hết, thì còn chờ lịnh ai? Phải tuân lịnh ai? Tóm lại, lúc đó lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh và lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Hạnh đã không được Tướng Nam và Tướng Hưng đáp ứng.
Viết đến đây, tôi xúc động lạ thường. Tôi nghẹn ngào rơi lệ nhớ đến một số sĩ quan binh sĩ đã bật khóc khi nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Anh em đã ôm lá cờ tổ quốc, ôm khẩu súng vào lòng nức nở. Có những chi khu trưởng và những đồn trưởng nhất định không chịu đầu hàng. Họ đã tử thủ đến viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để kết liễu đời mình. Cấp bậc của những anh em ấy không cao, chỉ chỉ huy khu nhỏ, hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh thần tranh đấu của anh em cao cả và oai hùng thế đấy.
Trong khi Sàigòn bỏ ngỏ đầu hàng thì Cần Thơ vẫn an ninh tuyệt đối. Kế hoạch hành quân đã thảo xong. Vũ khí lương thực đạn dược sẵn sàng. Tất cả đều chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ đưa về các tuyến chiến đấu. Kế hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong lịnh mật quân hành đó. Vùng 4 có nhiều địa thế chiến lược, có thể kéo dài cuộc chiến thêm một thời gian. Bởi lúc đó, cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa có một đồn nào, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh ở Vùng 4 đã lọt vào tay giặc Cộng.
Nhưng, Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1974, dân chúng nhốn nháo hoang mang. Đã có một số binh sĩ bỏ ngũ. Tại thị xã, cảnh náo loạn đáng buồn chưa từng có đã xảy ra. Từng nhóm đông đảo bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu đã ra tay cướp giật tài sản ở các cơ sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân đã bỏ trống, bất chấp tiếng súng nổ can thiệp của cảnh sát duy trì an ninh trật tự công cộng. Chúng cướp giật, đập phá, hò hét như lũ điên. Chắc chắn trong số này có bọn Cộng Sản nằm vùng có ý đồ gây rối loạn áp đảo tinh thần binh sĩ.
Lúc ấy Tướng Nam và Tướng Hưng vẫn còn liên lạc với các cánh quân chạm địch. Nhiều cánh quân nồng cốt được đưa về thị xã Cần Thơ để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn, nằm chung quanh vòng đai Alpha. Từ 2 giờ đến 4 giờ chiều ngày 30 tháng 4, giờ đã điểm. Đúng theo kế hoạch lệnh hành quân bắt đầu. Nhưng hỡi ôi, khi liên lạc đến các cấp chỉ huy của các đơn vị thì mới hay họ chưa biết tý gì về kế hoạch, chưa rục rịch chi hết, ngoài việc thay đổi các cuộc bố trí từ sáng đến giờ phút này.
Tìm kiếm Đại Tá an ninh, người đã lãnh nhiệm vụ phân phối phóng đồ và lệnh hành quân mật đến các đơn vị, thì mới vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đã đưa vợ con tìm đường tẩu thoát sau khi ném tất cả mật lệnh vào tay vị Đại Úy dưới quyền. Ông này cũng đã cuốn gói trốn theo ông Đại Tá đàn anh, cho có thầy, có trò. Các phóng đồ và lệnh hành quân mật cũng đã biến mất. Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng tức uất không sao tả nổi. Tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào khi hồi tưởng lại vẻ bối rối của Thiếu Tướng Nam và sự đau khổ thất vọng của Hưng. Những đường gân trán nổi vòng lên, răng cắn chặt, biểu lộ sự đau đớn và chịu đựng kinh hồn. Người đập tay đánh ầm xuống bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp thật tinh vi bị kẻ phản bội hèn nhát làm gãy đổ bất ngờ. Hưng ngước mắt nhìn tôi như muốn hỏi:
- “Có đồng ý đem con lánh nạn không?”
Tôi cương quyết từ chối. Tôi không cầu an ích kỷ, tìm sống riêng, bỏ mặc người trong cảnh dầu sôi lửa đỏ. Tôi nhất định ở lại, cùng chịu hoạn nạn, cùng liều chết. Hưng hỏi tôi:
- “Thành công là điều chúng ta mong ước, nhưng rủi thất bại, em định liệu lẽ nào?”
Tôi đáp:
- “Thì cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không muốn một ai trong chúng ta lọt vào tay Cộng Sản”.
Và để khỏi phải sa vào tay giặc Cộng, tôi bình tĩnh thu xếp cái chết sắp tới cho mẹ con tôi, đường giải thóat cuối cùng của chúng tôi. 4g45 chiều ngày 30/4/75, Tướng Hưng rời bỏ văn phòng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, về bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi tạm trú. Hưng không muốn chứng kiến cảnh bàn giao ô nhục sắp tới giữa Thiếu Tướng Nam và tên Thiếu Tá Việt Cộng Hoàng Văn Thạch. Năm giờ rưỡi chiều khi Hoàng Văn Thạch tiến vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn là lúc Hưng gọi máy liên lạc với Tướng Mạch Văn Trường, ra lệnh đưa hai chi đội thiết giáp tới án ngữ ở dinh Tỉnh Trưởng để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 21 mới về đóng nơi đây. Sau đó Hưng tiếp tục liên lạc với các đơn vị đang tiếp tục chạm súng ở các tiểu khu. Đồng thời Hưng mời Tướng Mạch Văn Trường cùng các đơn vị trưởng ở chung quanh vòng đai thị xã Cần Thơ về họp. 6g30 chiều, khi các vị sĩ quan vừa ra đến cổng, có một toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ đang chực sẵn, gồm khoảng 10 người. Họ xin gặp Tướng Hưng, với tư cách đại diện dân chúng thị xã, yêu cầu:
- “Chúng tôi biết Thiếu Tướng không bao giờ chịu khuất phục. Nhưng xin Thiếu Tướng đừng phản công. Chỉ một tiếng lệnh của Thiếu Tướng phản công, Việt Cộng sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xã. Cần Thơ sẽ nát tan, thành bình địa như An Lộc. Dù sao, vận nước đã như thế này rồi, xin Thiếu Tướng hãy vì dân chúng, bảo toàn mạng sống của dân, dẹp bỏ tánh khí khái, can cường…”.
Nghe họ nói, tôi cảm thấy đau lòng lẫn khó chịu. Tôi cũng không ngạc nhiên về lời yêu cầu đó. Bởi mới tuần lễ trước, Việt Cộng đã pháo kích nặng nề vào khu Cầu Đôi, cách Bộ Tư Lệnh không xa, gây thiệt hại cao về nhân mạng và tài sản của đồng bào. Dân chúng Cần Thơ còn khiếp đảm. Hưng như đứng chết lặng trước lời yêu cầu ấy. Một lát sau, Hưng cố gượng nở nụ cười trả lời:
- “Xin các ông yên lòng. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh gây thiệt hại cho dân chúng”.
Toán người ấy ra về. Hưng quay sang hỏi tôi:
- “Em còn nhớ tấm gương cụ Phan Thanh Giản? Bị mất ba tỉnh miền đông, rồi cũng vì dân chúng mà cụ Phan đã nhún mình nhường thêm ba tỉnh miền tây cho quân Pháp. Cụ Phan không nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng không để mất tiết tháo, không thể bó tay làm nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh Giản đành nhịn ăn rồi uống thuốc độc quyên sinh”.
Trầm ngâm vài giây, Hưng tiếp:
- “Thà chết chứ đâu thể bó tay trơ mắt nhìn Việt Cộng tràn vào”.
6g45 chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện thoại cho Hưng, hỏi tình hình các nơi. Hưng báo với Tướng Nam về việc đại diện dân chúng thị xã đến yêu cầu thẳng với Hưng. Hưng cũng cho Tướng Nam biết đặc lệnh truyền tin mới nhất sẽ giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng Nam cho Hưng hay là ông đã cho thu băng lời kêu gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ cho đài Cần thơ phát thanh. Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thêm một lần nữa, sự gây đổ đau lòng. Đài Cần Thơ bị nội ứng trước đó, khoảng một giờ, viên giám đốc đài bị uy hiếp, thay vì phát thanh cuốn băng của Thiếu Tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có lời kêu gọi của Thiếu Tá Cộng Sản Hoàng Văn Thạch. Khoảng mười phút sau, đài mới phát thanh cuốn băng của Tướng Nam. Muộn màng rồi. Không còn níu kéo được sự tin tưởng nơi dân chúng và binh sĩ được nữa. Hàng ngũ các đơn vị đã thưa thớt lại càng thêm thưa thớt.
7g30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn phòng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe hết sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh:
- “Hoàng, em đã hiểu sự thất bại do các nguyên nhân sau đây: Vị Đại Tá không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của Tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xã Cần Thơ”.
Quắc đôi mắt sáng, Hưng nhìn tôi dằn giọng:
- “Em phải sống ở lại nuôi con”.
Tôi hoảng hốt:
- “Kìa mình, sao mình đổi ý?”
- “Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con.”
- “Nhưng không thể để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay mình làm chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho con. Chờ em một chút, chúng ta cùng chết một lúc”.
- “Không thể được. Cha mẹ không thể giết con. Anh van mình. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quý vinh hoa địa vị hãy đề phòng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng chịu cúi lòn, nhục nhã để nuôi con và cũng nuôi luôn ý chí để có ngày còn phục hận cho đất nước chúng ta”.
- “Nếu vì con, mình thương con, sao mình không đi ngoại quốc?”
Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nhìn tôi trách móc:
- “Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?”
Biết mình vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi:
- “Xin mình tha thứ. Chẳng qua vì quá thương mình nên em mới nói thế”.
Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh:
- “Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không bao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ tìm sống riêng mình sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ thì rút cũng không kịp nữa, vì vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực thì không cầm cự được lâu. Đã muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, thì gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào”.
Tôi phát run lên hỏi:
- “Nhưng mình ơi, còn em? em phải làm gì trong lúc này?”
Nắm chặt tay tôi, Hưng nói:
- “Vợ chồng tình nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em tuy chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ý chí kình ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhã để nuôi con, để phục hận cho quê hương. Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. Vì anh, vì con, vì nợ nước, tình nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van mình, anh van mình”.
Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết ấy:
- “Vâng, em xin nghe lời mình”.
Hưng sợ tôi đổi ý, tiếp lời thúc giục:
- “Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi”.
- “Em xin hứa. Em xin hứa mình ơi. Nhưng xin cho em hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo mình chứ?”
Hưng suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ý, và ra lệnh cho tôi:
- “Em mời má và đem các con lên lầu gặp anh”.
Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ vẫn dựng ở góc phòng. Tôi vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói:
- “Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ mình hãy giữ nó”.
Chúng tôi nhìn nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi:
- “Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên”.
Khi mẹ tôi và các con lên văn phòng, Hưng nói rõ cho mẹ tôi hiểu vì sao người phải chết và tôi phải sống.
Vâng lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ còn tụ họp dưới nhà lên văn phòng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ phút từ biệt sanh ly giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau. Hưng dõng dạc nói:
- “Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh đã biết, cuộc hành quân chưa chi đã bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là vì dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích bừa bãi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa là ghét bỏ. Rầy la để mến thương nhau, để xây dựng nhau. Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm, nếu có. Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, thì phải chết theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân, bỏ nước, trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hãy về với gia đình, vợ con. Nhớ rõ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung dưới bất cứ hình thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh”.
Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Đến bên Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi gấm:
- “Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả”.
Mọi người đều đứng yên không ai nói lên được lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi, yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra ngoài. Không ai chịu đi. Hưng phải xô từng người ra cửa. Tôi van xin:
- “Mình cho em ở lại chứng kiến mình chết”.
Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn phòng đóng chật cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa:
- “Nghĩa trở lại với tôi”.
Tôi bảo Giêng tìm dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8g45 tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời của chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đã chết. Giêng run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách mình nhường tôi chạy vào phòng trước. Hưng ngả người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay dang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rẩy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi:
- “Mình, mình ơi! Mình còn lời gì dặn dò em nữa không?”
Hưng không còn trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở:
- “Thiếu Tướng! Trời ơi, Thiếu Tướng!”
Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào khóc:
- “Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!”
Tôi bảo Giêng:
- “Nói Hòa đưa Hải, Hà, Quốc lên nhìn xác ba lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào chũng phải ngăn chận Việt Cộng”.
Tôi đi tìm đầu đạn và đuôi đạn. Còn khẩu súng, lạ lùng thay không biết ở đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap dấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lià xác, với ý chí cuối cùng, người còn bình tĩnh nhét khẩu súng, dấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc động, quên lời hứa, tự sát theo. Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân ba, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở tròn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi.
Nghĩa điện thoại khắp nơi tìm Thiếu Tướng Nam, không thấy trả lời. Tôi vội vã mở đặc lịnh truyền tin, lên máy gọi liên lạc với Thiếu Tướng. Lúc ra máy, chỉnh tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói rặc mùi Cộng Sản trên các tần số thuộc đơn vị của chúng ta. Lũ Việt cộng, ngày 30 tháng 4, tràn vào nhà. Phương cương quyết chận chúng ở cầu thang. Chín giờ rưỡi, 30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang:
- “Alô, Alô, ai đây?”
- “Dạ thưa chị đó à? Hồ Ngọc Cẩn đây”.
Tôi bàng hoàng:
- “Anh Cẩn! Có chuyện chi cần không?”
Tôi cố gắng giữ giọng nói cho bình thường, để Cẩn không nhận biết sự việc xảy ra. Trong điện thoại, về phía Cẩn, tôi có nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm ầm. Cẩn hỏi:
- “Thiếu Tướng đâu chị? Cho tôi gặp ông một chút”.
Tôi lúng túng vài giây:
- “Ông đang điều động quân ngoài kia”.
- “Chị chạy ra trình Thiếu Tướng, tôi cần gặp. Trung Úy Nghĩa đâu chị?”
- “Nghĩa đang ở bên cạnh Thiếu Tướng. Cẩn chờ một chút nhé”.
Tôi áp chặt ống điện thoại vào ngực. Mím môi, nhìn xác Hưng rồi nhìn sang Nghĩa tôi hỏi:
- “Đại Tá Cẩn đòi gặp Thiếu Tướng, làm sao bây giờ Nghĩa?”
Nghĩa lúng túng:
- “Cô nói Thiếu Tướng chết rồi”.
- “Không thể nói như vậy được. Đại Tá Cẩn đang cự chiến với Việt Cộng”.
Trí óc tôi chợt lóe sáng phi thường. Tôi muốn Cẩn chiến đấu anh hùng. Sống anh hùng. Chết anh hùng. Tôi đưa máy lên giọng quyết liệt:
- “Thiếu Tướng không thể vào được. Cẩn cần gì cứ nói. Tình hình ở Chương Thiện ra sao? Anh còn đủ sức chiến đấu không? Tinh thần binh sĩ thế nào? Địch ra sao?”
- “Tụi nó dần tụi tui quá. Tinh thần anh em vẫn cao. Chị hỏi Thiếu Tướng còn giữ y lịnh không?”
- “Cẩn vui lòng chờ chút”.
Tôi lại áp chặt ống điện thoại vào ngực. Cắn chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu lời Cẩn hỏi. Trong tích tắc tôi biết khó cứu vãn tình thế. Nhưng tôi muốn Hồ Ngọc Cẩn phải luôn hiên ngang hào hùng. Tôi quyết định:
- “Alô. Cẩn nghe đây: Lịnh Thiếu Tướng. Ông hỏi Cẩn có sẵn sàng tử chiến?”
Cẩn đáp thật nhanh:
- “Lúc nào cũng sẵn sàng, chớ chị!”
- “Tốt lắm, vậy thì y lịnh”.
- “Dạ, cám ơn chị”.
Tôi buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước mắt trào ra, tôi kêu nho nhỏ:
- “Vĩnh biệt Cẩn. Vĩnh biệt Cẩn!”
“Anh Cẩn ơi, hồn linh anh có phảng phất đâu đay, khi tôi ngồi viết lại những dòng này, nước mắt rơi trên giấy, Anh có biết cho rằng trả lời điện thoại với anh rồi, tôi đau khổ tột cùng không? Tha thứ cho tôi!” Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, anh đã hiên ngang hào hùng đến giờ phút chót của cuộc đời. Hiểu rõ Hưng, hiểu rõ tôi, bên kia thế giới không thù hận, chắc anh hiểu rõ tâm trạng của tôi lúc bấy giờ, hẳn anh tha thứ cho tôi?
Kính thưa toàn thể quý vị thuộc thân bằng quyến thuộc của Đại Tá Cẩn. Kính thưa quý vị đã đọc những giòng chữ này. Xin quý vị chớ trách tôi sao dám quyết định. Ngộ biến tùng quyền. Tướng Hưng đã chết. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam chưa liên lạc được. Vợ người lính nghĩa quân trưởng đồn, khi Việt Cộng tấn công, chồng chị bị tử thương, chị đã thay chồng phản công ác liệt. Tôi không thể để một người như Hồ Ngọc Cẩn đưa tay đầu hàng, hạ mình trước Việt Cộng vào dinh tỉnh trưởng Chương Thiện.
11 giờ đêm ngày 30 tháng 4, 1975. Điện thoại lại reo. Lần này, chính giọng của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam:
- “Alô, chị Hưng!”
Tôi vừa khóc, vừa đáp lời Thiếu Tướng:
- “Thưa Thiếu Tướng…”
Giọng Tướng Nam buồn bã u uất:
- “Tôi biết rồi, chị Hưng, tôi chia buồn với chị, nghe chị Hưng”.
Tôi vẫn nức nở:
- “Thiếu Tướng nghĩ sao về kế hoạch đã gãy đổ?”
- “Hưng đã nói với chị hết rồi hả? Đành vậy thôi. Không phải lỗi chúng ta hèn nhát hay bỏ cuộc. Sự sụp đổ không cứu vãn được vì lệnh hành quân không được Đại Tá… thi hành, phóng đồ và lệnh không tới tay các đơn vị trưởng, lời yêu cầu của dân chúng, lời kêu gọi của tôi quá muộn màng, không hiệu quả, khó cứu vãn nổi tình hình”.
Nói đến đây, Thiếu Tướng Nam hỏi tôi:
- “Chị biết vụ đài phát thanh bị nội ứng chứ?”
- “Thưa biết. Hưng cũng bảo tôi như Thiếu Tướng vậy. Bây giờ Thiếu Tướng định liệu lẽ nào, có định phản công không?”
- “Chị quên còn dân chúng sao? Cộng Sản coi rẻ mạng dân, còn mình thì… Đàng chị thế nào?”
- “Thưa Thiếu Tướng, chúng nó đã tràn đầy dưới nhà. Có vài tên định nhào lên, nhưng bị Giêng cương quyết đuổi xuống. Hiện chúng đang thu dọn tài sản”.
- “Còn mấy chú đâu hết?”
- “Chỉ có Nghĩa và vài ba người lính ở lại. Còn tất cả đã bỏ đi hết. Hưng đã chết rồi, tôi không màng đến tài sản. Miễn là chúng đừng đụng đến xác Hưng”
- “Chị tẩm liệm Hưng chưa?”
- “Thưa chưa. Vừa tắm rửa, thay quần áo xong thì Thiếu Tướng gọi tới”.
- “Chị nên tẩm liệm Hưng ngay đi. Tôi sợ không còn kịp. chúng nó sẽ không để yên”.
- “Thiếu Tướng còn dạy thêm điều gì không? Chẳng lẽ Thiếu Tướng chịu đầu hàng thật sao?”
Người thở dài trong máy. Người nói những lời mà đến chết tôi cũng sẽ không quên:
- “Số phận Việt Nam khốn nạn thế đó, chị Hưng ơi! Tôi và Hưng đã sắp đặt tỉ mỉ, hoàn tất kế hoạch xong xuôi, còn bị phản bội giờ chót”.
Người chép miệng thở dài:
- “Thôi chị Hưng ơi”.
Bỗng giọng người trầm xuống, ngậm ngùi:
- “Hưng chết rồi, chắc tôi cũng chết! Chúng tôi làm Tướng mà không giữ được nước thì phải chết theo nước”.
Giọng người bình tĩnh và rắn rỏi:
- “Cố gắng can đảm lên nhé chị Hưng. Chị phải sống vì mấy đứa nhỏ. Đêm nay có gì nguy cấp, nhớ gọi tôi. Nếu gọi không được, dặn Nghĩa gọi Thụy, lấy mật mã mới”.
- “Dạ, cám ơn Thiếu Tướng”.
Nói chuyện với Thiếu Tướng xong, tôi bước ra lan can nhìn xuống. Dưới sân, sĩ quan và lính tráng đã đi hết. Trừ có Nghĩa còn ở lại. Cổng rào bỏ ngỏ. Gió thổi đong đưa cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt bi ai. Mảnh trăng cuối tuần 19 tháng 3 âm lịch chênh chếch soi, vẻ ảm đạm thê lương như xót thương cho số phận Việt Nam Cộng Hòa, cho trò đời bể dâu hưng phế.
Viết đến đây, tôi nhớ lại từng lời của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, của Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương thiện Hồ Ngọc Cẩn. Trọn đời tôi, làm sao tôi có thể quên giọng nói gấp rút của anh Cẩn, giọng trầm buồn của Tướng Nam.
7 giờ sáng ngày 1 tháng 5, năm 1975. Vừa tụng dứt đoạn kinh Sám Tỉnh Thế trong nghi thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng nấc sau lưng. Quay lại, chính là Trung Tá Tùng, bác sĩ trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho biết phải trở lại Quân Y Viện ngay vì Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tự sát, xác còn nằm tại Quân Y Viện. Tướng Nam đã bắn vào thái dương, lúc 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975. Cho đến chết, mắt Tướng Nam vẫn mở trừng trừng, uất hận, miệng người há hốc, đớn đau. Sau cuộc điện đàm với người, tôi đã linh cảm, biết trước chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng báo tin, tôi xúc động vô cùng, tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y Viện, nơi Tướng Nam còn nằm đó, cầu nguyện:
- Xin Thiếu Tướng tha thứ. Tôi không dám bỏ xác Hưng để đến vuốt mắt Thiếu Tướng và lo việc tẩm liệm cho Thiếu Tướng. Bây giờ linh hồn của Thiếu Tướng đã gặp Hưng, xin linh thiêng phò hộ cho mẹ con tôi thoát khỏi tay Cộng Sản. Xin thương xót cho quê hương, cho dân tộc chúng ta. Xin thương xót cho toàn thể anh em binh sĩ.
Trung Úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người. Trung Úy Thành, vị ân nhân can đảm đặc biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan đó. Thành đã mời được Trung Tá Bia đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân nhân trong cơn biến loạn ấy, trọn đời tôi xin ghi khắc ơn sâu. 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975, các sĩ quan quân đoàn, mặc thường phục, đến viếng xác Hưng. Mầu nhiệm thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ, trong thoáng chốc, mắt Hưng hé mở, nhìn lên. Và từ trong đôi mắt người chết, có hai giòng lệ chảy. Mặt người chợt đỏ bừng lên.
Người khóc cho quê hương đất nước bắt đầu đắm chìm trong điêu linh. Người khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho đến lúc chết, hai Tướng Nam và Hưng chỉ phân tách nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch của hai người chớ không ai lên tiếng nặng lời trách móc vị Đại Tá kia. Xin quý vị hiểu rõ giùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự của hai ông, vợ con và gia đình hai ông. Trong hoàn cảnh căng thẳng của đất nước, khi lòng người mất niềm tin, hai ông cũng như nhiều người khác, thật sự đáng thương hơn đáng trách. Không hiểu hai ông có đi thoát, hay bị bắt ở lại.
Vận nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người dù đánh đổi cả vận mệnh cũng không nâng đỡ nổi tòa nhà Việt Nam đang sụp đổ tang thương. Nhưng, một ngày chúng ta còn mang trong người dòng máu của dân tộc Lạc Hồng, còn hít thở được khí trời, là một ngày chúng ta còn nợ nần quê hương. Đó là món nợ thiêng liêng và cao quý mà ngôn từ loài người chưa thể diễn tả được sát nghĩa, và thật đúng ý. Sao chúng ta không noi gương oanh liệt của tổ tiên, của cha ông, nối tiếp ý chí bất khuất của tiền nhân, để trang trải món nợ ân tình đó? Sao chúng ta cứ lo chê bai, công kích, hãm hại, đạp chà nhau, để rồi vô tình làm lợi cho bọn cướp nước Cộng Sản?
Đọc những gì tôi kể ở đoạn trên, những vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đã hiểu tất cả sự thật vì sao Tướng Nam và Tướng Hưng đã phải tự sát để bảo tồn tiết tháo. Không ai đem việc thành bại luận anh hùng. Cũng chớ bao giờ lấy tâm địa tiểu nhân để đo lòng người quân tử. Chúng ta, những người còn sống, những người Việt Nam ở trong nước hay lưu vong khắp bốn phương trời, chúng ta phải tự nêu lên câu hỏi: Chúng ta đã làm được gì cho đừng hổ thẹn với những người đã nằm xuống?
Họ đã nằm xuống không phải là vì họ hèn nhát! Họ đã nằm xuống là vì muốn bảo toàn sáu chữ mà họ từng mang trên đầu: Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm. Nếu chưa làm được gì cho quê hương, xin hãy thận trọng lời phê phán vô ý thức. Đừng vô tình thành tàn nhẫn sỉ nhục những người dám chết cho tổ quốc.
CỰU CHIẾN BINH MỸ * NGƯỜI CON GÁI VIỆT NAM
Nguyễn Vạn Lý
Tấm Ảnh Người Con Gái Việt Nam
Ðây chỉ là một tấm ảnh nhỏ, sờn cũ từ nhiều thập kỷ rồi. Nhưng tấm ảnh nhỏ bé ấy kể lại một câu chuyện ly kỳ và cảm động, và ám ảnh một chiến binh Mỹ tại Việt Nam trên 30 năm - cái hình ảnh một cô gái nhỏ chưa hề quen biết đã dẫn người cựu chiến binh Mỹ làm một cuộc hành trình trở lại Việt Nam, để hàn gắn đau thương quá khứ và tìm sự bình yên cho tâm hồn mình.
Ðối với Rich Luttrell, người cựu chiến binh Mỹ, thì đi tìm một người con gái trong ảnh là một việc làm khó khăn nhất trong đời ông. Ông ngồi nhìn rừng già bên dưới chiếc Boeing 747, thần kinh căng thẳng với những xúc cảm đè nén. Nhưng tất cả những gì Rich có thể trông thấy là tấm ảnh ấy. Hình ảnh người con gái nhỏ ấy có gì mạnh mẽ đến nỗi Rich phải trở lại Việt Nam?
Cô gái nhỏ ấy là ai? Tại sao Rich không thể chịu đựng được nỗi buồn bã của đôi mắt cô gái trong tấm ảnh? Rich thú nhận, "Mỗi khi tôi nhìn lại tấm ảnh, tôi dường như bị mê hoặc. Tôi cảm thấy đúng như thế kể từ ngày ấy, trong một cánh rừng già cách nước Mỹ nửa vòng trái đất." Ðó là cái giây phút mà một hành động thời chiến đã tạo cho Rich một gánh nặng trong suốt 33 năm.
Năm 1967, Rich Luttrell gia nhập quân đội, khi là một thiếu niên 17 tuổi. Ðây là một cơ hội cho Rich thoát cảnh nghèo trong một khu gia cư rẻ tiền tại Illinois. Ông bỗng thấy mình trưởng thành, có được hai đôi giầy ống, một đôi giầy mới, và những quân phục mới. Trong đời ông, chưa bao giờ ông có nhiều quần áo như thế trong một lần. Ông nghèo, nhưng có lòng ái quốc. Ông quyết định ra đi và gia nhập Chiến đoàn dù 101. Giống như nhiều thanh niên khác, Rich được huấn luyện cho cuộc chiến tại Việt Nam.
Ngày Rich tới đơn vị, chiếc trực thăng hạ cánh xuống một khu rừng già tại Việt Nam, và ông trông thấy những người thuộc trung đội ông đứng đó - cũng trạc tuổi ông. Có những người trông rất ngầu - nhất là mắt họ. Ông hoảng sợ kêu lên, "Lạy Chúa, con sẽ phải đường đầu với những gì ở đây?"
Rich đã được huấn luyện như mọi người, để chiến đấu trong điều kiện của địch quân, nghĩa là phải chiến đấu du kích - đêm đi nằm phục kích, lùng và diệt địch. Lúc ấy Rich chỉ vừa mới 18 tuổi. Chàng thiếu niên bé bỏng từ khu gia cư rẻ tiền tại Illinois bỗng thấy mình ở trong một hoàn cảnh mà không một sự huấn luyện nào đủ sửa soạn cho rừng già Việt Nam. Tại đây trời nóng hoặc mưa, hoặc cả mưa và nóng. Không có nhà cửa, không giường chiếu, không nghỉ ngơi, và không ngừng sợ hãi. Rich chỉ là một thiếu niên gầy gò, vai đeo chiếc ba lô to hơn lưng, và phải học điều luật căn bản đầu tiên: phải tiếp tục tiến bước, tiến bước và tiến bước mãi.
Có những lúc Rich phải trèo núi, và muốn chảy nước mắt và kêu lên, "Lạy Chúa, xin dừng lại. Con không thể đi được nữa. Và chúng tôi vẫn cứ phải tiểp tục như thế, từ sáng sớm tới đêm tối. Tôi nghĩ tôi sẽ phải làm gì khi đụng trận? Tôi không thể di chuyển được nữa. Tôi quá mệt. Tôi sẽ làm sao nếu gặp địch quân? Tôi chưa sẵn sàng cho một trận đánh."
Và một ngày đặc biệt đã làm thay đổi tất cả. Hôm ấy nóng như thường lệ, giống như mặc áo choàng đứng trong một phòng bốc hơi nóng vậy. Rich không biết địch quân chỉ cách ông vài thước trong rừng già.
Rich kể lại, "Từ khóe mắt tôi trông thấy một động đậy. Tôi có thể trông thấy một binh sĩ Việt Cộng ngồi tựa vào khẩu AK 47. Ðây là lần đầu tiên tôi trông thấy một lính Việt Cộng. Suốt đời tôi tôi chưa bao giờ trông thấy họ."
Rich mới 18 tuổi, và bỗng nhiên vô cùng sợ hãi, người như đóng băng lại. Ông biết không thể không làm gì, và ông phải có phản ứng, phải làm một cái gì. Ðấy là quyết định của Rich. Ông ở trong tầm đạn của địch quân. Cái chết chỉ cách một nhịp tim đập. Rich quay lại và nhìn thẳng mặt người lính Việt Cộng. Ông kể lại, "Dường như chúng tôi chăm chú nhìn nhau một lúc lâu. Và rồi giống như một chuyển động chậm, tôi bóp cò súng tự động của tôi. Tên địch ngã gục xuống. Ngay sau đó là một trận đụng độ dữ dằn. Tôi chưa đủ kinh nghiệm để nhào xuống đất. Và có một người nào đó giúp tôi, đẩy tôi nằm xuống."
Rich có thể nhận thức rằng người lính Việt Cộng ấy đã có thể giết chết ông trước khi ông trông thấy hắn. Rich công nhận, "Chắc chắn như vậy. Và cho tới bây giờ tôi vẫn lấy làm lạ, và tự hỏi tại sao hắn không bắn tôi?"
Nhưng đó không phải là điều ám ảnh Rich nhiều năm sau đó. Không phải là súng nổ, và cũng không phải việc giết người. Ngoài chiến trường thì lúc nào cũng có quá nhiều súng nổ và người chết.
° ° °
Chàng thanh niên 18 tuổi Rich Luttrell cuối cùng đã đụng địch quân và thoát chết. Người lính Việt Cộng ấy đáng lẽ ra đã giết Rich rồi. Nhưng kết quả ngược lại. Rich toát mồ hôi, chất adrenalin tỏa ra khắp người và cảm thấy như không đứng vững nữa, vì hành động vừa giết người.
Thiếu kinh nghiệm, Rich tỏ ra rất xúc động sau vụ giết người lần đầu tiên, và kinh hoàng thấy các bạn đồng đội đi tìm kỷ vật trên xác địch quân. Có người cúi xuống rút ví của tên địch vừa mới bị Rich bắn chết. Một mẩu giấy rơi ra; Rich cúi xuống nhặt lên: đó là một tấm ảnh nhỏ nhô ra một nửa, trông giống khuôn mặt một cô gái nhỏ có mái tóc dài. Rich rút tấm ảnh ra, chỉ to bằng một con tem. Ðó là ảnh một người lính và một cô gái nhỏ. Họ là ai? Phải chăng đó là người lính Việt Cộng đã chết? Có phải người lính là bố cô gái không?
Rich quyết định giữ tấm ảnh ấy. Ðúng ra, ông ngồi xuống, cúi nhìn người lính chết và nhìn tấm ảnh, rồi lại nhìn mặt anh ta. Hai người trong tấm ảnh quá trang nghiêm, quá buồn. Phải chăng họ chụp tấm ảnh này ngay trước khi họ từ giã nhau - trước khi người lính bỏ con gái ở lại, để ra đi và để bị Rich bắn chết. Rich cảm thấy đau đớn lắm. Nhưng chỉ trong vài phút, trung đội của Rich phải di chuyển. Rich nhét tấm ảnh vào ví.
Cái gì đã khiến Rich phải giữ tấm ảnh? Rich trả lời, "Tôi không biết. Tôi đã suy nghĩ cả triệu lần rồi. Cái phần đầu tiên tôi trông thấy trong tấm ảnh là cô gái, và cô ta có một cái gì buồn bã lắm."
Nhưng Rich không phải là một người lính bất đắc dĩ, không muốn giao chiến chiến với địch quân. Nếu Rich muốn sống thoát khỏi cuộc chiến, ông phải học cách giết người mà không hối tiếc, và Rich đã trở thành một chiến binh như thế.
Tại cái nơi ghê gớm ấy, Rich mau lẹ trở nên cứng cỏi. Cuối cùng Rich là người được giao nhiệm vụ giải tỏa những đường hầm của địch quân. Ông trở nên thiện nghệ cận chiến. Rich đã nhìn thấy các bạn đồng đội tử trận. Ông quen giết địch quân, và cầu nguyện được thoát chết. Một lần trong đêm tối trên một ngọn đồi, đạn pháo kích nổ quanh mình và nghe thấy bạn đồng đội la hét và bị tan xác, Rich đưa ba lô lên che đầu và cầu nguyện, "Lạy Chúa, xin cho con đừng trúng đạn." Rich không nghĩ ông có thể tiếp tục được như thế trong sáu tháng nữa.
Khi Rich chỉ còn 20 ngày nữa là được trở về Mỹ thì ông gặp nạn. Ðơn vị ông bị phục kích; ông được giao nhiệm vụ xông ra cứu một đồng đội bị bắn hạ. Trong lúc cứu bạn đồng đội, Rich bị trúng đạn vào lưng, và chính vết thương này giúp Rich được hồi hương sớm. Trong lúc ông được đưa lên trực thăng tải thương, Rich cảm thấy có lỗi, và bị dằn vặt vì những câu hỏi, Ta bỏ đi đâu? Ta sẽ làm gì? Ta bỏ dồng đội lại hay sao?
Rich hồi hương với một hộp đầy huân chương, và kết hôn với Carole, một người bạn gái tại quê nhà. Thập niên 60 nhường chỗ cho thập niên 70; ông không bao giờ nói về cuộc chiến ấy. Thời đại đã thay đổi. Rich có đời sống riêng - hai người con gái, một việc làm tốt tại Sở Cựu Chiến Binh Illinois. Ông cố gắng quên cuộc chiến Việt Nam, và tập trung vào tương lai với Carole.
Carole nói, "Chồng tôi thực sự không nói về chiến tranh Việt Nam trong nhiều năm. Ðó là một cái gì chồng tôi muốn giữ rất riêng tư và giấu kín."
Rich có thể trốn tránh cuộc chiến, nhưng không không thể trốn tránh được cô gái nhỏ mà ông mang trong ví. Thực sự đã có một ràng buộc đặc biệt giữa Rich và cô gái trong tấm ảnh. Ðây là một điều lạ lùng. Rich đã chứng kiến và đã quên nhiều kinh hoàng trong cuộc chiến, nhưng khuôn mặt của cô gái trong tấm ảnh cứ tiếp tục ám ảnh tâm trí ông. Tấm ảnh nặng không tới một gam mà đè nặng tâm trí ông một cách khủng khiếp.
Vào mùa Giáng Sinh, các con gái ông thường hỏi mẹ mua quà gì cho Rich, và quà tặng ông thường nhận lại là ví da. Hàng ngày người ta thường rút ví ra để trả tiền bằng tiền mặt hoặc bằng credit card, và mỗi lần như thế, Rich lại có dịp kéo tấm ảnh nhỏ ra. Ðối với Rich thì đó là một cô gái tội nghiệp, đã không còn bố chỉ vì ông.
Rich biết nếu ông không giữ tấm ảnh thì ông đã không có những ý nghĩ tội lỗi này. Rich xác nhận, "Tôi hoàn toàn đồng ý. Sau nhiều năm tôi thành thực nói là đã có nhiều lần tôi hối tiếc đã giữ tấm ảnh ấy."
Carole rất thông cảm và ủng hộ chồng, nhưng bà thấy chồng muốn thoát khỏi ám ảnh ấy thì phải vất tấm ảnh ấy đi. Một lần bà hỏi chồng, "Tại sao anh không vất bỏ tấm ảnh? Hãy liệng bỏ nó đi, loại nó khỏi cuộc đời anh, để anh có thể quên và tiếp tục sống."
Nhưng Rich không thể liệng bỏ hoặc hủy hoại tấm ảnh được. Ông biết ông phải làm một cách đặc biệt nào đó, phải làm một cách trong kính trọng và danh dự, bởi vì ông nghĩ người lính ấy là một người can đảm.
Năm 1989, hơn hai mươi năm sau khi từ Việt Nam trở về, việc giải quyết tấm ảnh đã rõ ràng và cấp bách. Rich và Carole nghỉ phép hàng năm. Hai người quyết định đi thăm Bức Tường Kỷ Niệm Chiến Binh Việt Nam tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Tại đó Rich biết mình phải làm gì với tấm ảnh nhỏ cũ kỹ này. Rich nghĩ rằng cách tốt nhất là bỏ tấm ảnh tại Bức Tường.
Ngồi trong khách sạn, Rich quyết định phải làm cho đúng. Ông ngồi trên giường với một tập giấy trong tay. Ông suy nghĩ tìm cách nói chuyện với người lính trong tấm ảnh. Trong vài phút, Rich viết xong một lá thư ngắn, gồm có một vài điều ông vẫn từng muốn nói. Ông viết:
"Thưa ông, trong suốt 22 năm nay, tôi giữ ảnh ông trong ví. Hôm ấy tôi mới có 18 tuổi, khi chúng ta trông thấy nhau trên con đường mòn gần Chu Lai, Việt Nam. Xin tha thứ cho tôi đã giết ông. Ðã nhiều lần trong những năm qua, tôi nhìn ảnh ông và người con gái tôi đoán là con ông. Mỗi lần tim tôi bừng cháy với nỗi đau tội lỗi. Xin ông tha thứ cho tôi."
Mỗi khi Rich đọc lại những hàng chữ trên đây, và ngay cả bây giờ, ông lại cảm thấy một cái gì. Ngày hôm sau, Rich đặt tấm ảnh và lá thư ngắn ấy tại chân Bức Tường, bên dưới tên của 58,000 binh sĩ Mỹ tử trận tại Việt Nam. Rich nói, "Hành động ấy giống như sự đứng nghiêm chào lần cuối cùng. Người lính ấy chết vì chiến đấu cho niềm tin của ông ta. Và đây là một cách vinh danh và tôn kính ông ta."
Vào lúc ấy hai người không còn là kẻ thù nữa. Rich nói, "Ông ta không còn là kẻ thù nữa, mà là một người bạn. Giống như chào vĩnh biệt một người bạn. Vào lúc đó, giống như tôi vừa chấm dứt một trận đánh, buông ba lô xuống để nghi ngơi. Cái gánh nặng tôi mang nay không còn nữa." Phải, tất cả đã mất rồi, và Rich bây giờ cảm thấy nhẹ nhõm, tự do và thoải mái.
Làm thế nào Rich biết được sức mạnh thực sự của tấm ảnh nhỏ bé ấy, của cô gái nhỏ có đuôi tóc, mà bây giờ không còn nhỏ nữa?
° ° °
Tấm ảnh của Rich đã mất rồi. Mặc cảm tội lỗi cũng mất luôn. Cái gánh nặng đã được vất bỏ tại Bức Tường hùng vĩ ấy. Và trở lại Illinois, Rich và Carole bắt đầu cuộc đời mới, sau khi nghe lời khuyên của vợ loại bỏ tấm ảnh để tránh cái tâm trạng ngã lòng mỗi khi trông thấy tấm ảnh. Rich vất bỏ tấm ảnh năm 1989.
Hoặc Rich tưởng đã có thể vất bỏ được. Hàng ngày, hàng trăm người bỏ lại nhiều kỷ vật tại Bức Tường này. Và mọi vật kỷ niệm, dù tầm thường hay thiêng liêng, đều được nhân viên của công viên thu thập lại - kể cả tấm ảnh nhỏ và lá thư xin lỗi của Rich. Tấm ảnh ấy tình cờ nằm trên cùng của một cái hộp, và nằm ngửa lên. Và cũng tình cờ Duery Felton, một cựu chiến binh Mỹ khác, trông thấy. Durey hiểu ngay đây là một cái gì khác thường.
Duery là quản lý phòng sưu tập tại đài Kỷ Niệm Chiến Binh Việt Nam. Ông tự hỏi tấm ảnh này là gì, và cầm lên xem. Ông đã từng trông thấy đủ thứ tại Bức Tường, nhưng chưa bao giờ thấy ảnh một binh sĩ địch quân. Ông vui sướng trông thấy bộ quân phục màu xanh lá cây ấy.
Trong hơn 30 năm Duery chưa bao giờ trông thấy bộ quân phục màu xanh ấy. Một câu hỏi hiện lên trong tâm trí ông "Người con gái này là ai? Có phải là con gái hay cháu gái của người linh Việt Cộng này?"
Rồi Duery đọc lá thư xin lỗi của Rich. Ông nhớ lại khi còn chiến đấu tại Việt Nam, ông đã từng giúp khiêng xác đồng đội, những bao đựng xác và những ponchos. Ông đọc lá thư về việc giết người ấy. Thực là khó khăn khi phải làm quyết định ấy, một duyết định chỉ làm trong vài giây đồng hồ, nhưng người ta sẽ phải ân hận suốt đời. Durey cảm thấy có một cái gì an ủi, khi được biết có người cũng trải qua kinh nghiệm ấy, và viết lại lên giấy.
Duery dùng lá thư xin lỗi và tấm ảnh của Rich trong các cuộc trưng bầy về Bức Tường, dậy cho thế hệ mới về chiến tranh, và chiến đấu trong chiến tranh có hậu quả gì cho con người. Tấm ảnh ám ảnh Rich bao nhiêu năm, bây giờ lại mê hoặc một cựu chiến binh Việt Nam khác.
Cái gì trong tấm ảnh ấy mạnh mẽ đến nỗi bây giờ đến lượt Duery phải ôm giữ nó và không bỏ đi được? Có thể tấm ảnh đã vang vọng lên trong tâm thần của Duery, và gây một hậu quả sâu xa cho ông.
Dĩ nhiên tại Rochester Illinois, Rich không biết gì về Duery. Rich tiếp tục cuộc đời của ông. Ông chứng kiến hai con gái trưởng thành và sinh con đẻ cái. Bây giờ ông cưng chiều hai cô cháu ngoại của ông. Ông tìm cách đưa người con gái trong tấm ảnh ra khỏi tâm trí ông.
Nhưng người con gái ấy bây giờ lại ám ảnh Duery Felton. Khi một nhà xuất bản yêu cầu Duery giúp in ra một ấn bản về Bức Tường, ông biết rằng ông phải đưa tấm ảnh của cô gái và lá thư xin lỗi vào ấn bản ấy. Duery nói, "Tấm ảnh này ám ảnh tôi nhiều năm, và tôi không biết cô ta là ai."
Cuốn sách có tựa là "Của Dâng Hiến Tại Bức Tường" và in tấm ảnh và lá thư xin lỗi của Rich. Ðây là một cuốn sách đơn giản, trình bày những hình ảnh, những ám ảnh, những kỷ niệm và lòng kính trọng của những người có liên hệ với Bức Tường. Một hôm cuốn sách này xuất hiện trên bàn giấy của dân biểu tiểu bang Ron Stephens. Stephens lật từng trang cuốn sách, và tới một trang đặc biệt có một tấm ảnh mà ông chưa từng trông thấy, và bỗng nhiên ông bị xúc động mạnh. Ông chợt nhận thức ông biết người lính ấy, ông biết tấm ảnh ấy.
Làm thế nào ông Stephens biết được tấm ảnh ấy? Ông ta chưa bao giờ nhìn thấy tấm ảnh, nhưng ông đã nghe người bạn thân là Rich kể nhiều lần. Stephens nói, "Tôi thực sự tuột xuống khỏi Bức Tường, và ngồi phiá sau Bức Tường cầm tấm ảnh này và biết nó là tấm ảnh của Rich. Tôi biết câu chuyện Rich bỏ tấm ảnh tại chân Bức Tường. Chúng tôi nói về chuyện này nhiều lần rồi."
Năm 1996, bảy năm sau khi Rich nghĩ có thể chào vĩnh biệt tấm ảnh lần cuối cùng, thì ông Stephens vội vã lái xe lại ngay văn phòng của Rich. Rich đang họp với một người nào đó, nhưng Stepehns xen vào và nói, "Tôi cần nói chuyện với anh," và đặt cuốn sách lên bàn của Rich, và yêu cầu Rich mở trang 53.
Rich mở trang 53 của cuốn sách, và trước mắt ông là tấm ảnh và lá thư xin lỗi gửi người lính Việt Cộng ông bỏ lại bên Bức Tường. Rich lập tức xúc động và bật khóc. Vẫn tấm ảnh người con gái ấy, và đôi mắt buồn bã chăm chú nhìn ông, không chịu quay đi chỗ khác. Rich có cảm tưởng như người con gái muốn buộc tội ông. Lúc ấy Rich như ở trong một cơn ác mộng, và muốn hỏi cô gái muốn gì ở ông.
Nỗi ám ảnh cũ bây giờ trở lại với Rich, mạnh mẽ hơn bao giờ. Rich biết ông phải lấy lại tấm ảnh. Thế là Rich liên lạc với Durey, người cũng đang bị tấm ảnh ám ảnh. Durey bay từ Hoa Thịnh Ðốn tới Illinois, và tận tay trao trả Rich tấm ảnh. Thực là một truyện kỳ lạ. Hai người đàn ông không quen biết nhau, chưa từng gặp nhau, nay ôm nhau khóc vì một cô gái nhỏ mà cả hai đều không biết.
Rich cầm lấy tấm ảnh, và tâm hồn ông là một vết thương tái phát. Ông biết ông phải tìm cách hàn gắn vết thương này. Một buổi tối ông cho vợ biết đây có thể là một sự huyền bí hoặc là định mệnh. Nhưng dù là gì, ông cảm thấy ông phải trả lại tấm ảnh này, có nghĩa là ông sẽ đi tìm người con gái trong tấm ảnh và gia đình người lính Việt Cộng đã bị ông giết.
Nếu như ông biết người con gái ở đâu thì công việc dễ dàng quá, chỉ việc bỏ tấm ảnh vào phong bì và gửi tấm ảnh này ra khỏi cuộc đời của ông. Nhưng ông không làm thế được. Ông không biết tên và địa chỉ người con gái. Ông không có một ý niệm bây giờ người con gái trông như thế nào.
Carole cố gắng khuyên nhủ ông đây là một việc không đơn giản và không thể thực hiện được. Ông không thể đi Việt Nam tìm người con gái được, vì ông không biết tiếng Việt, không quen một ai tại Việt Nam. Ngay tìm một người tại Hoa Kỳ cũng đã khó khăn lắm rồi, huống chi tìm một người hoàn toàn xa lạ cách đây hơn 30 năm, già hơn 30 tuổi trong một quốc gia hoàn toàn khác lạ, nhất là quốc gia ấy từng có thái độ thù nghịch với Hoa Kỳ.
Ðây là những lý do đúng và hợp lý để loại bỏ ý định của Rich. Bà vợ nhấn mạnh, "Nếu chồng tôi quyết định thực hiện ý định thì ông ấy cứ việc tự đi mà làm. Tôi không cản trở chồng tôi. Nhưng tôi nói với chồng tôi việc này không thể làm được, hãy bỏ cuộc và quên đi, không đáng làm đâu. Tôi thực sự đã chán ngấy chuyện này rồi."
Carole công nhận bà đã chán nghe chuyện về tấm ảnh này rồi. Ðây chỉ là một sự ám ảnh. Carole cũng bị đau đớn như Rich vậy, mặc dù lý do khác nhau. Cái mà Carole ao uớc là Rich cỏ thể quên được nỗi ám ảnh và tìm được sự bằng an của tâm hồn.
° ° °
Tấm ảnh của hai bố con người lính Việt Cộng đã âm thầm làm nhiệm vụ trong nhiều năm. Nhưng bây giờ nó gây hứng khởi cho một việc làm được coi là không thể thực hiện được. Rich chỉ muốn được cô gái ấy buông tha, và Rich sẽ cố gắng tìm cô ta, nếu đó là điều cô gái ấy muốn.
Rich không biết tên và địa chỉ cô gái, và bây giờ hình dáng cô ta trông thế nào, bao nhiêu tuổi, và nhất là cô ta còn sống không? Nhưng Rich biết ông phải tìm ra người con gái. Rich nghĩ nếu ông công khai cho mọi người biết ông đang tìm cô gái thì có lợi hơn. Vì thế Rich trả lời một cuộc phỏng vấn cho tờ báo St. Louis Post Dispatch, và câu chuyện được đăng lên trang nhất của tờ Post Dispatch.
Rich cứ tiến hành dự định. Ông gấp bài báo ấy, nhét vào một phong bì cùng với một lá thư gửi cho Ðại sứ Hà Nội tại Hoa Thinh Ðốn. Rich giải thích với ông Ðại sứ rằng ông muốn một sự giúp đỡ để tìm ra người con gái, và gia đình người lính trong tấm ảnh. Ông dại sứ hứa chuyển tài liệu về Hà Nội và cho biết phải có phép lạ mới có kết quả.
Giống như tìm kiếm một cây kim trong đống rơm. Ðây là một quốc gia có 80 triệu dân. Chính Rich cũng không tin tưởng lắm. Rich thực tình không hy vọng sẽ có kết quả. Từ đáy lòng ông đã không tin tưởng, nhưng ông biết đây là một việc phải làm. It nhất ông phải thử cho biết.
Và thế là một bản sao của tấm ảnh được gửi tới Hà Nội, tại đấy chủ bút một tờ báo nhận thấy đây là một truyện hấp dẫn. Ông ta cho đăng tấm ảnh với lời kêu gọi “Có ai biết những người này không?”
Nếu bài báo ở Hà Nội không đạt mục tiêu ngay thì nó cũng âm thầm tạo ra kết quả. Báo chí có hai công dụng: công dụng thứ nhất là thông tin, và công dụng thứ hai là trở thành báo cũ để gói hàng. Chính công dụng thứ hai này đã đưa tới két quả.
Một người ở Hà Nội gửi một món quà về quê biếu mẹ. Ông ta dùng cái tờ báo đăng tấm ảnh của Rich để gói món quà, và gửi về cho bà mẹ ở một niềm quê xa. Tuy thế câu chuyện cũng có thể chấm dứt ở đây - nếu không vì một tình cờ, bài báo đó đã về đúng chỗ.
Mảnh giấy báo gói đồ ấy về tới một làng quê xa Hà Nội, tại đó bà mẹ mở gói đồ của con, và trên tờ giấy báo nhàu nát, hình ảnh người lính Việt Cộng đập vào mắt bà gìa. Bà ta biết người trong tấm ảnh. Thế là bà ta cầm tờ báo đi tới một thôn xóm nhỏ bé, và bảo cho chị em một nhà kia biết tấm ảnh là bố của họ.
Thật là một điều không tưởng, giống như tấm ảnh nhất định không chấp nhận bị từ chối. Trái với mọi khó khăn tưởng như không qua được, tấm ảnh như một mũi tên trúng đích.
Từ Mỹ quốc cách xa ba ngàn dặm, Rich sẵn sàng chờ đợi lâu dài hơn nữa. Nhưng chỉ vài tuần sau, một lá thư của Ðại sứ Hà Nội tới hộp thư của ông. Lá thư đó viết:
“Có một người tên là Nguyễn Văn Huệ viết thư cho biết ông ta tin rằng tấm ảnh của ông chính là ảnh của thân phụ ông ta, và người con gái nhỏ ấy là chị ông ta.”
Ba mươi năm sau khi trông thấy tấm ảnh lần đầu, cuối cùng Rich biết người con gái ấy còn sống. Trong suốt cuộc đời, người con gái ấy ở cùng một chỗ. Như vậy Rich đã tìm thấy người con gái ấy, tên là Lan, và đã có con cái.
Thực là không ngờ đối với Rich. Thoạt đầu ông không thể tin kết quả mau lẹ như vậy. Rich rất xúc động và tự hỏi không biết những người con này có thú ghét ông vì đã giết cha họ không. Ông bắt đầu lo lắng hai người con có thể hiểu lầm về việc ông tham chiến tại Việt Nam. Rich rất cởi mở và thành thực. Vì trong thư của người con có nói tới tội lỗi và lòng hối tiếc của ông. Ông thấy cần phải bày tỏ cho họ biết có sự khác biệt giữa tội lỗi và hối tiếc. Rich mang trong lòng một mặc cảm tội lỗi nào đó vì cái hành động giết cha của họ, nhưng ông không hề có một hối tiếc nào với tư cách của một quân nhân, cũng không hối tiếc đã tham chiến tại Việt Nam. Và ông nghĩ rằng điều quan trọng là họ phải hiểu như thế.
Rich mong đợi gì ở hai người con này? Dẫu sao ông cũng đã giết cha họ. Ông không mong đợi gì, không biết họ thù ghét và tức giận ông hay không. Người con gái mất bố ấy cảm thấy thế nào? Nàng có coi ông như một con quái vật trong những năm ấy không? Con gái của ông sẽ nghĩ thế nào về một người đã giết ông?
Rich không có nhiều thời giờ suy nghĩ về phản ứng của hai người con này vì một lá thư thứ hai đến với ông. Lần này chính cô gái trong tấm ảnh viết cho ông. Ông vội chạy đi tìm người thông dịch. Lá thư viết:
“Kính gửi ông Richard, đứa nhỏ mà ông đã chăm sóc qua tấm ảnh trong hơn 30 năm bây giờ đã trưởng thành rồi. Dứa nhỏ ấy đã trải qua nhiều đau khổ trong tuổi thơ ấu vì đã mất bố và nhớ thương bố. Tôi hy vọng ông sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho gia đình tôi.”
Niềm vui và hạnh phúc? Rich vô cùng kinh ngạc. Như vậy cô gái đã tha thứ cho Rich? Nhưng tin vui vừa nhận được thì tất cả dường như rơi vào tuyệt vọng. Sau một cuộc điều tra nội bộ, chính phủ Hà Nội kết luận thân phụ của Nguyễn Thị Lan không thể là người trong tấm ảnh, bởi vì hồ sơ quân đội chứng minh thân phụ cô ta không tử trận tại nơi Rich nhớ đã bắn chết ông ta.
Rồi ba gia đình khác cho Rich biết tấm ảnh ấy là của họ. Người trong ảnh là bố họ, chứ không phải là bố của Nguyễn Thị Lan.
Làm sao Rich có thể biết chắc tin nào đúng. Người Việt Nam không giữ được hồ sơ thật chính xác. Có khoảng 3 triệu người Việt chết trong cuộc chiến mà tới nay vẫn còn 300,000 lính Việt Cộng được coi là mất tích.
Nhưng rồi có một lá thư nữa xác định niềm tin của Rich đã đạt tới kết cục. Ðó là thư của một đồng đội của người lính trong ảnh, một người quen biết thân phụ của Nguyễn Thị Lan kể từ khi hai người còn nhỏ, và đã chiến đấu bên nhau. Người ấy đoan chắc người trong tấm ảnh là cha của Nguyễn Thị Lan.
Bây giờ Rich rất tin vào kết quả cuối cùng. Khi sự việc đã sáng tỏ, Rich trao đổi nhiều thư từ với gia đình, và đi đến quyết định trao trả lại tấm ảnh cho gia đình người chết. Thoạt dầu Rich định gửi trả lại bằng thư, nhưng rồi cuối cùng Rich hiểu. Chính ông phải bay sang Việt Nam, mang theo tấm ảnh ấy. Ông nghĩ đây là điều ông cần làm và phải làm.
Nhưng làm thế nào Rich có thể đương đầu với Việt Nam, với cô gái và gia đình cô ta? Chính Rich có thể nào nhìn tận mặt kẻ đã giết cha mình trong chiến tranh không? Rich không biết câu trả lời. Ông nhận rằng có một sự nguy hiểm, không biết gia đình người tử sĩ sẽ phản ứng thế nào.
° ° °
Việc gặp gia đình người lính Việt Cộng không dễ dàng đối với Rich. Nhưng chính tại đây vào mùa xuân năm 2000, Rich sửa soạn đương đầu với quá khứ. Ông cảm thấy bị cuốn trôi theo sự việc, như thể ông bị chi phối bởi câu chuyên mà chính ông khởi đầu. Ðôi khi Rich thấy khó hiểu, nhưng vẫn nghĩ rằng đây là việc chính đáng mà ông phải làm.
Nhiều năm trước ông đã thề không bao giờ trở lại Việt Nam nữa. Ông đã chứng kiến quá nhiều cảnh bắn giết, quá nhiều kinh hoàng. Tất cả những đau khổ ấy phản chiếu trong tấm ảnh nhỏ ấy.
Tấm ảnh ấy có lẽ chụp tại một tiệm ảnh địa phương nào đó, tại dó người lính cùng chụp với người con gái để làm kỷ niệm cho cha nhớ con và con nhớ cha, khi ông ta ra đi chiến đấu. Giống như một vật có đời sống, tấm ảnh ấy đi từ một binh sĩ tử trận trên một con đường mòn, tới một người lính Mỹ, đài kỷ niệm chiến tranh, một cuốn sách, một chiếc ví, và tới một gói trên đuờng hồi hương.
Rich và Carole lên máy bay. Không còn đường rút lui nữa. Ðối với Rich, cuộc hành trình này sẽ đánh dấu sự khởi dầu của một chấm dứt. Sự chấm dứt một nỗi ám ảnh trên 30 năm của một tấm ảnh người lính Việt Cộng và con gái.
Không có gì ám ảnh hơn là khuôn mặt cô gái, mà Rich biết bây giờ không còn giống như thế nữa. Nhưng chính Rich cũng đã thay đổi và ngay cả Việt Nam nữa. Ðối với Rich, Việt Nam vừa xa lạ vừa gần gũi. Trên tất ca, nó là cái gì làm căng thẳng trí óc. Ngày hôm trước khi gặp nhau, Rich rất căng thẳng. Ông nói, “Tôi thà phải ra trận còn hơn phải gặp cô gái này.”
Ðó là một ngày thứ Tư u ám tại Hà Nội. Trời có vẻ sắp mưa trong lúc Rich bước lên một chiếc xe van để làm một chuyến đi hai giờ rưỡi tới làng của Lan. Chiếc xe chạy qua một vùng rất xa lạ, qua những chợ dầy những khuôn mặt ngạc nhiên trông thấy một đám du khách và người Mỹ tóc bạc này.
Càng gần tới làng, trên xe van Rich càng bồn chồn cựa quậy. Rồi bỗng nhiên, Rich và Carole tới nơi. Ðây chính là nơi người lính ảm đạm nghiêm trang ấy từng sống và có con cái. Ðây là nơi người lính ấy không bao giờ trở lại.
Rich hoang mang, Và sau dó bước qua một bức tường đá, Rich trông thấy người đàn bà. Rich tin chắc đã trông thấy người đàn bà này rồi. Rich phải mất vài phút để lấy lại bình tĩnh, rồi tiến lại phía người đàn bà. Và bây giờ hai người đối diện nhau. Hai người chưa từng thấy nhau bao giờ. Trong vài giây, hai người không biết nó gì. Họ là hai người thân mật nhưng xa lạ. Ông lập lại câu nói tiếng Việt mà ông đã học thuộc lòng:
“Hôm nay tôi trả lại tấm ảnh của cô và cha cô mà tôi đã giữ 33 năm. Xin tha thứ cho tôi.”
Cuối cùng tất cả tuôn ra - như một sự giải thoát đau đớn kinh hoàng. Dường như ngay lúc này người con gái cuối cùng đã có thể chịu được sự đau khổ, khóc gọi người cha mà cô không thực sự biết rõ.
Cô ôm lấy Rich và khóc. Cô ôm chặt lấy Rich như thể Rich chính là cha cô, cuối cùng đã trở về từ cuộc chiến. Người em cô cho biết cả hai chị em dị đoan tin rằng linh hồn người cha sống qua Rich. Ðối với họ, ngày hôm nay linh hồn cha của họ đã trở về với họ.
Cả làng tuôn ra xem tấm ảnh trả lại. Thực ra đó là một đại gia đình, tất cả làng thương tiếc người tử sĩ. Họ biết điều ấy có ý nghĩa như thế nào đối với Lan, và tấm ảnh đã gây xúc động cho mọi người.
Người ta có thể trả lại thế nào một cái gì mạnh mẽ như tấm ảnh ấy? Một lần Rich đã nghĩ tới một nghi thức trang trọng, nhưng cuối cùng chỉ là một câu nói đơn giản của Rich, “Nói cho cô ấy biết đây là tấm ảnh tôi lấy từ ví của cha cô ấy cái ngày tôi bắn chết ông ta, và hôm nay tôi mang trả lại.”
Người con gái nhỏ ấy nay đã 40 tuổi, và đây là lần đầu cô ta cầm được hình mình và hình cha trong tay. Cô ta vùi mặt vào hình ảnh người bố. Ðây là lúc cô ta có thể nhìn bố gần nhất kể từ khi cô lên 6 tuổi và người bố ra đi. Như thể tất cả gánh nặng đã hoán chuyển trong khi tấm ảnh nhỏ này truyền tay. Bây giờ chính Rich là người an ủi Lan.
Ðây là tấm ảnh duy nhất và đầu tiên của người lính Nguyễn Trọng Ngoạn mà con cái có được. Lan và người em tên Huệ đặt tấm ảnh lên bàn thờ cha mẹ. Rich cũng tham dự nghi lễ cầu nguyện trước bàn thờ.
Rich nói, “Thân phụ của họ là một cguời can đảm, và ông chết là một chiến sĩ can trường. Ông ta không bị đau đớn. Tôi rất tiếc.”
Lan và Rich ôm nhau khóc. Hiển nhiên bây giờ Lan đã tha thứ cho Rich. Và trong những giờ sau đó, Rich trở nên gần như một người trong gia đình. Rich có dịp gặp lại bạn đồng đội của người lính đã chết, và những kẻ thù cũ trao đổi những kỷ niệm chiến tranh, như thể họ là đồng đội cùng chiến đấu bên nhau, trong cái góc nhỏ bé này của thế giới, nơi có những mộ bia ghi tên những chiến binh Bắc Việt không trở về.
Nhưng có lẽ còn có một cái gì đáng kể hơn nữa. Một cái gì trong Rich, bây giờ đã thay đổi 33 năm sau khi Rich bóp cò súng trong khu rừng già nóng nực ấy, trong cái ngày khó hiểu ấy. Bây giờ Rich đã tự tha thứ cho mình.
Rich bước đi, tự nhủ việc này “quá khó.” Rất khó cho Rich trở lại được đây, và cũng quá khó cho Rich từ giã nơi đây. Rich và Lan ôm nhau từ biệt. Trở lại xe van, Rich bật lên khóc.
Ba mươi ba năm trước đây, Rich tới quốc gia này để tham chiến. Hôm nay ông trở lại để tìm hoà bình. Ông bỏ lại tấm ảnh và cả một hồn ma nữa. Cái ám ảnh của cô gái cuối cùng đã mất đi, thay thế bằng hình ảnh một người đàn bà vẫn còn sống sau cái chết của thân phụ, và cũng đã tha thứ cái người đã giết cha mình.
Tấm ảnh đem Rich và Lan lại gần nhau và có thể giúp họ liên kết với nhau nữa. Rich cho biết ông sẽ liên lạc với Lan và gia đình. Ông cũng hy vọng câu chuyện ông đã đương dầu với quá khứ có thể giúp những cựu chiến binh khác đương đầu được với hoàn cảnh của họ. Nhiều cựu chiến binh đã trở lại Việt Nam 25 năm sau khi cuộc chiến chấm dứt.
Ðối với Rich trở lại Việt Nam với tấm ảnh ấy giống như trở lại dự trận đánh cuối cùng. Và bây giờ chuyến trở lại Việt Nam đem lại cho Rich nhiều an ủi. Ông bây giờ đã trút được gánh nặng.
Gần một năm sau Rich vẫn còn mang trong lòng cái giây phút cuối cùng ấy, giống như một lá bùa may mắn, cái giây phút thay đổi của đời ông. Ông nói, “Khi tôi cầm tay và ôm cô ta, tôi cảm thấy như bỏ ba lô xuống và nghỉ ngơi, mọi thứ đều xong cả rồi.”
Rich vẫn chưa hiểu được - làm thế nào ông đã giết một người, mà lại chiếm được cảm tình gia đình của người ông đã giết? Làm thế nào những đau khổ trong những năm ấy, bỗng nhiên biến mất một cách giản dị như thế.
Trước khi trở lại Việt Nam, Rich không thể che giấu những mối lo lắng ông cảm thấy về Việt Nam - những nỗi đau buồn về tấm ảnh tội lỗi - những cảm xúc như thế thật là rõ ràng tại Việt Nam. Bây giờ những cảm giác ấy đâu? Rich nghĩ rằng ngay khi ông trông thấy người con gái ấy, các cảm giác ấy biến mất. Chính cô gái là người giải tỏa những cảm giác tội lỗi của ông.
Hai bên vẫn trao đổi thư tín, Rich và chị em Lan và Huệ. Huệ, người con trai viết cho Rich, “Trong thời gian ông viếng thăm gia đình tôi, mọi người trong làng nhận thấy ông là người rất tốt và tử tế. Khi ông rời Việt Nam, tôi cảm thấy như cha tôi đã trở về.”
Trong một thời gian lâu dài, một góc tim của Rich buồn bã lạnh lẽo. Bây giờ trái tim ấy hân hoan ấm áp trở lại. Ông nói, “Bây giờ chỉ là niềm vui, không còn đau buồn nữa.”
Hành động đầy thiện tâm của Rich không những giúp Rich thoát khỏi nỗi ám ảnh khôn nguôi trong suốt 33 năm, mà còn đem lại an ủi lớn lao cho hai người con của người lính Việt Cộng đã bị Rich bắn chết, vào một ngày mùa hạ trong khu rừng già ấy. Những tâm hồn một thời phong ba bão táp, nay đã có thể yên nghỉ.
Nguyễn Vạn Lý
(Viết theo tài liệu của Truyền Hình Mỹ)
http://vietmessenger.com/books/?title=motchienbinhmyvatamanhmotnguoicongaivietnam
*
LỜI BÌNH CỦA VẠN MỘC CƯ SĨ
Chiến tranh là phải cầm súng, phải giết.Nhưng trong cuộc tàn sát có những trái tim và hành động khác nhau. Truyện trên thể hiện đúng một phần tâm trạng người Mỹ sau chiến tranh. Một số đã trở lại Việt Nam, Một số đã giúp người Việt Nam trên đường tị nạn và giúp người Việt tại Việt Nam hàn gắn vết thương chiến tranh. Thế nhưng có cán bộ và binh sĩ cộng sản nào hối hận về việc giết cha anh họ trong chiến tranh , Cải cách Ruộng Đất. Ai đã sát hại Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Trần Văn Thạch? Ai giết Huỳnh giáo chủ, Hồ Văn Ngà? Ai giết các đảng viên VNQD đảng, Đại Việt đảng?Ai giết đồng bào thành phố HUế? Ai giết đồng bào trên đường Quảng Trị Huế? Ai đầy ải các chiến sĩ VNCH? Họ có hối hận không? Họ suy nghĩ gì không? Người Trung Quốc bắt Nhật Bản xin lỗi nhân dân Trung Quốc trong cuộc đệ nhị thế chiến, nhưng người Trung Quốc nay xâm lược Tây Tạng, Mông Cổ, Tân Cương và Việt Nam cùng gây đau khổ cho dân Phi Châu.Đặng Tiểu Bình bị Mao đày đọa và bọn tứ nhân bang đã ném con trai Đặng từ lầu cao xuống đất nhưng khi Đặng lên vẫn giữ thể chế chính trị, lực lượng công an và quân sự tàn sát Thiên An môn, kìm kẹp nhân dân Trung Quốc. Những người Việt Cộng và Trung Cộng này có ăn năn, hối hận, có chút nhân đạo trong suy tư và trong hành động không? Người Đức và thực dân Anh Pháp giết người nhưng không giết đồng bào họ, nhất là không giết những người theo họ.Còn cộng sản giết đồng bào họ, đảng viên họ, và những người không chống đối họ. Dẫu sao thì người cộng sản tàn ác gấp trăm ngàn lần thực dân, đế quốc và phát xít!
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0134
ROBERT F. TURNER * VIETNAM
...những người công kích chế độ này đã bị Hà Nội đánh lừa...
Giáo
sư Robert F. Turner tốt nghiệp tiến sĩ về cả sư phạm lẫn chuyên môn
về luật khoa từ Đại học Luật khoa Virginia School of Law, là nơi mà
ông thành lập Trung tâm Nghiên cứu An ninh Luật pháp vào năm 1981. Ông
chú ý đến Việt Nam từ khi học Cao học tại Đại học Indiana, với một
luận văn dài 450 trang - đoạt giải danh dự - về cuộc chiến Việt Nam và
từ khi thường xuyên tranh luận với các lãnh tụ phản chiến trên đất
Mỹ.
Được
động viên vào Lục quân Hoa Kỳ năm 1968, tức là sau trận Mậu Thân, ông
Turner tình nguyện qua Việt Nam. Dù là sĩ quan bộ binh, trong hai
chuyến phục vụ tại đây, ông làm việc bên toà Đại sứ Hoa Kỳ với nhiệm
vụ là Sĩ quan Phụ tá các Chương trình Đặc biệt của Phòng "Bắc Việt và
Việt Cộng" trong cơ quan JUSPAO. Từ 1968 đến 1975, ông đã năm lần qua
Đông Dương, hoạt động nhiều nơi ở miền Nam Việt Nam và cả Lào cùng Cam
Bốt.
Ông
đang thuyết giảng cho cấp cử nhân đến tiến sĩ về chiến tranh tại Đại
học Virginia và Trường Hải quân Hoa Kỳ, nơi ông là Giáo sư Danh dự về
Luật pháp Quốc tế. Giáo sư Robert Turner là tác giả hoặc đã biên tập
của hơn một chục cuốn sách, kể cả những cuốn nổi tiếng như "Vietnamese
Communism", "The Real Lessons of the Vietnam War" và "To Oppose Any
Foe".
Ngày
28 tháng Tư tới đây, cùng ba học giả khác của Hoa Kỳ, Giáo sư Robert
Turner sẽ là thuyết trình viên trong cuộc Hội luận Quốc tế về cuộc
chiến Việt Nam - "The Century Old Vietnam War Puzzle - What are the
Missing Pieces?" do Hội Ái Hữu Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại tổ chức
tại Rose Center của thành phố Westminster. Đề tài tham luận của ông là
"Hậu quả của việc Hoa Kỳ bỏ rơi Đông Dương". Để chuẩn bị, ông đã liên
lạc với ban tổ chức từ nhiều tháng nay. Trong một điện thư rất dài,
Giáo sư Turner có nhắc tới một số kỷ niệm của 35 năm trước... Chúng ta
hãy cùng nhau chia sẻ kỷ niệm này, với lời tri ân dành cho nhiều
người Mỹ có lòng.
Theo ý tôi, Việt Nam là một cuộc chiến tranh cần thiết.
Tôi có thể bắt đầu bằng mấy lời "amen", ủng hộ quan điểm nhiều người đã đưa ra và có lẽ trình bày câu chuyện tôi đã nói với Bùi Công Tường trên chuyến xe đi từ Bến Tre về Sàigon vào một buổi tối đó khi tôi hỏi anh ta về ông Diệm. Anh ta trả lời là các đảng viên cao cấp (của Đảng Cộng Sản Việt Nam) coi ông Diệm là nhà ái quốc lớn - tương tự như Hồ Chí Minh - nhưng họ phải xuyên tạc với dư luận quần chúng vì ông Diệm không chấp nhận quyền lãnh đạo của Đảng.
Tôi có thể bắt đầu bằng mấy lời "amen", ủng hộ quan điểm nhiều người đã đưa ra và có lẽ trình bày câu chuyện tôi đã nói với Bùi Công Tường trên chuyến xe đi từ Bến Tre về Sàigon vào một buổi tối đó khi tôi hỏi anh ta về ông Diệm. Anh ta trả lời là các đảng viên cao cấp (của Đảng Cộng Sản Việt Nam) coi ông Diệm là nhà ái quốc lớn - tương tự như Hồ Chí Minh - nhưng họ phải xuyên tạc với dư luận quần chúng vì ông Diệm không chấp nhận quyền lãnh đạo của Đảng.
Tất nhiên là tôi thấy thoải mái khi trình bày về những gì mình biết.
Tôi đã mất nhiều thời giờ tìm hiểu về những lời cáo buộc chế độ của ông Thiệu là vi phạm nhân quyền (quyền tự do báo chí, bầu cử, chế độ lao tù, v.v...) và có nhiều tấm hình cho thấy là những người công kích chế độ này đã bị Hà Nội đánh lừa. (Tôi có phỏng vấn Linh mục Chân Tín và bà Ngô Bá Thành tại Sàigon vào tháng Năm năm 1974. Đại sứ Graham Martin đã trích dẫn ít nhất một cuộc phỏng vấn này trong buổi điều trần trước Ủy ban Ngoại giao của Quốc hội vào cuối năm đó. Và đấy là một lần hiếm hoi trong hai năm cuối của cuộc chiến mà tôi được thấy ông Martin thật sự mỉm cười).
Tôi đã mất nhiều thời giờ tìm hiểu về những lời cáo buộc chế độ của ông Thiệu là vi phạm nhân quyền (quyền tự do báo chí, bầu cử, chế độ lao tù, v.v...) và có nhiều tấm hình cho thấy là những người công kích chế độ này đã bị Hà Nội đánh lừa. (Tôi có phỏng vấn Linh mục Chân Tín và bà Ngô Bá Thành tại Sàigon vào tháng Năm năm 1974. Đại sứ Graham Martin đã trích dẫn ít nhất một cuộc phỏng vấn này trong buổi điều trần trước Ủy ban Ngoại giao của Quốc hội vào cuối năm đó. Và đấy là một lần hiếm hoi trong hai năm cuối của cuộc chiến mà tôi được thấy ông Martin thật sự mỉm cười).
Cuối Tháng Tư năm 1975, tôi đang ở trong Toà Đại sứ khi ông Graham
Martin bước ra khỏi văn phòng. Thấy tôi ở ngoài, ông mời tôi vào bàn
giấy. Ông Đại sứ đóng cửa lại và trong 20-30 phút ông đã "xả ra" những
uất ức - phê phán hầu hết mọi người tại thủ đô Washington và nhấn
mạnh rằng Hoa Kỳ phải có trách nhiệm tinh thần với người dân miền Nam
Việt Nam. Tôi đồng cảm với sự giận dữ của ông, nhưng cũng vui là mình
lắng tai cho ông có dịp trút bớt những dồn nén mà cả hai đều cùng chia
sẻ. Nhiều người đã đả kích ông, nhưng trong các cuốn sách của tôi,
Đại sứ Martin là một vị anh hùng tương đối hiếm hoi của nước Mỹ trong
mấy tuần cuối cùng đó.
Nhìn bất cứ nơi nào, tôi thấy Hoa Kỳ đã bội phản những đối tác hay viên chức Việt Nam.
Nhìn bất cứ nơi nào, tôi thấy Hoa Kỳ đã bội phản những đối tác hay viên chức Việt Nam.
Cơ
quan USIA (Thông tin của Toà Đại sứ) đã nói với những người Việt Nam
quan trọng nhất về các điểm bốc ở một số nơi nhất định trong những
ngày cuối cùng, và bảo đảm là sẽ có trực thăng đưa họ và gia đình tới
nơi an toàn. Nhưng trực thăng lại tới nơi khác để bốc người Mỹ.
Đồng
nghiệp và thông dịch viên của tôi trong hai chuyến phục vụ là Nguyễn
Van Qui (không có bỏ dấu) đang ở trong Bệnh viện Seventh Day Adventist
Hospital (Bệnh viện 3 Dã chiến) để tuyệt vọng chiến đấu với bệnh ung
thư khi các bác sĩ (Mỹ) tới thăm và cho thuốc vào một buổi chiều. Họ
nói với ông ta là sáng sau sẽ quay lại - rồi lên máy bay đi Dodge
City.
Tôi ở đó với một nhóm người Mỹ từ Tiểu bang Michigan đã nhận trẻ Việt lai Mỹ làm con nuôi. Họ cần người biết rõ về Việt Nam để vượt qua các trở ngại hành chánh mà kịp cứu lấy bầy trẻ. (Thống đốc Miliken đã ban bố chánh sách "cửa ngỏ", rằng tiểu bang Michigan của ông sẽ tìm nơi định cư cho bất cứ trẻ mồ côi nào mà chúng tôi đem về được). Phần lớn công việc của tôi khi ấy là giúp họ tiếp xúc với Toà Đại sứ và Chính phủ Việt Nam và dường như là mỗi khi mình sẵn sàng đi thì lại thấy một người Mỹ hay một người Việt khác đang muốn bay tới bến bờ tự do như nhóm người vừa thoát hôm trước.
Tôi ở đó với một nhóm người Mỹ từ Tiểu bang Michigan đã nhận trẻ Việt lai Mỹ làm con nuôi. Họ cần người biết rõ về Việt Nam để vượt qua các trở ngại hành chánh mà kịp cứu lấy bầy trẻ. (Thống đốc Miliken đã ban bố chánh sách "cửa ngỏ", rằng tiểu bang Michigan của ông sẽ tìm nơi định cư cho bất cứ trẻ mồ côi nào mà chúng tôi đem về được). Phần lớn công việc của tôi khi ấy là giúp họ tiếp xúc với Toà Đại sứ và Chính phủ Việt Nam và dường như là mỗi khi mình sẵn sàng đi thì lại thấy một người Mỹ hay một người Việt khác đang muốn bay tới bến bờ tự do như nhóm người vừa thoát hôm trước.
Tôi
ở lại chứng kiến những người Mỹ mà tôi đưa đi đã tới hết cô nhi viện
này tới viện dục anh khác với lời hứa hẹn cấp cứu. "Đừng lo, chúng tôi
sẽ bốc mọi trẻ qua Mỹ, đưa chúng vào các gia đình tử tế". Nhiều bậc
phụ huynh người Việt tìm gặp những người Mỹ này, van xin họ đưa dùm
con cái tới Mỹ trước khi Cộng sản vào. Ngay giờ này - 35 năm sau - tôi
còn ứa lệ khi nhớ tới sự xúc động của những người đã phải mất những
gì họ quý nhất - con cái - trong niềm hy vọng là chúng sẽ có một cuộc
sống khá hơn ở ngoài vòng chiến tranh và cộng sản.
Thế
rồi một buổi tối, những người Mỹ "anh hùng" ấy nghe đồn rằng người
Việt sẽ bắt đầu giết họ vì bị bội phản. Ngày hôm sau, họ bảo tôi là họ
sẽ bay đi Hong Kong và đợi... đợi gì? Đợi tình hình Sàigòn sẽ sáng
sủa hơn? Tôi không còn nghe thấy gì về họ nữa, và những đứa trẻ đã
được hứa hẹn cứu vớt đành ở lại đó - mà lo lấy thân.
Năm trước đó, tôi đã qua lại Cam Bốt nhiều lần và biết rằng tình hình nơi đó còn tệ hơn tại Việt Nam. Vì vậy, trong khi dân Michigan đang phối hợp việc cứu trẻ tại Saigon thì tôi dành ngày nghỉ qua phối hợp việc cứu trẻ tại Nam Vang. Tôi có một nhóm mà tụi tôi thời đó gọi là "chiêu đãi viên" (với loại nghiệp vụ mà tôi không biết, như cho trẻ ăn hoặc thay tã lót) đã tình nguyện giúp đỡ trong các phi vụ C-130 chở gạo tới và hôm sau bốc về Sàigon một máy bay đầy nhóc trẻ em, thay vì bay về không. Nhưng Quốc hội ở nhà đã hạn chế số nhân viên được tới Cam Bốt nên tôi muốn vào là có người ở đó phải ra để nhường chỗ! Và cả chuyện ấy chỉ là ưu tiên rất nhỏ.
Trước khi tôi xin được giải tỏa sự hạn chế này thì mọi chuyện đều tan tành. Ông George Jacobson, do Đại sứ Graham Martin yêu cầu bố trí chuyến bay đầu tiên của tôi vào Nam Vang, có lần gửi công văn tới khách sạn của tôi, rằng phải chấm dứt. Trên đường tới Sứ quán để nói chuyện với ông ta về vụ này thì tôi thấy tựa đề in trên trang nhất của tờ Saigon Post.
Năm trước đó, tôi đã qua lại Cam Bốt nhiều lần và biết rằng tình hình nơi đó còn tệ hơn tại Việt Nam. Vì vậy, trong khi dân Michigan đang phối hợp việc cứu trẻ tại Saigon thì tôi dành ngày nghỉ qua phối hợp việc cứu trẻ tại Nam Vang. Tôi có một nhóm mà tụi tôi thời đó gọi là "chiêu đãi viên" (với loại nghiệp vụ mà tôi không biết, như cho trẻ ăn hoặc thay tã lót) đã tình nguyện giúp đỡ trong các phi vụ C-130 chở gạo tới và hôm sau bốc về Sàigon một máy bay đầy nhóc trẻ em, thay vì bay về không. Nhưng Quốc hội ở nhà đã hạn chế số nhân viên được tới Cam Bốt nên tôi muốn vào là có người ở đó phải ra để nhường chỗ! Và cả chuyện ấy chỉ là ưu tiên rất nhỏ.
Trước khi tôi xin được giải tỏa sự hạn chế này thì mọi chuyện đều tan tành. Ông George Jacobson, do Đại sứ Graham Martin yêu cầu bố trí chuyến bay đầu tiên của tôi vào Nam Vang, có lần gửi công văn tới khách sạn của tôi, rằng phải chấm dứt. Trên đường tới Sứ quán để nói chuyện với ông ta về vụ này thì tôi thấy tựa đề in trên trang nhất của tờ Saigon Post.
Vài ngày sau, tờ Post loan tiếp những chuyện mà tôi biết trước là sẽ xảy ra....
Mỗi khi thấy một sinh viên Cam Bốt, Việt Nam hay Á Châu bước lên bục nhận bằng tốt nghiệp, tôi lại cố ghìm nước mắt. Vì biết rằng nếu mình khéo hơn và sớm hơn, hàng trăm đứa trẻ Cam Bốt bé tí xíu đã có cơ hội tới Hoa Kỳ và có thể được giáo dục và có cuộc sống tươi vui. Thay vào đó và nhờ "phong trào hòa bình" và Quốc hội Mỹ, chúng ta đã bội ước lời hứa long trọng của mình và nhiều triệu người bị tàn sát.
Tôi thật ân hận. Đã có lúc tôi hy vọng rằng những kỷ niệm này - cảnh cha mẹ hốt hoảng, lạy van ai đó cứu lấy con mình trước khi cộng sản vào, những đứa trẻ mồ côi bất lực, và mấy triệu người mà Hoa Kỳ đã cam kết bảo vệ - cũng sẽ phai mờ cùng năm tháng. Chuyện ấy không xảy ra, và tôi biết là sẽ đem theo những hình ảnh đó xuống huyệt.
Mỗi khi thấy một sinh viên Cam Bốt, Việt Nam hay Á Châu bước lên bục nhận bằng tốt nghiệp, tôi lại cố ghìm nước mắt. Vì biết rằng nếu mình khéo hơn và sớm hơn, hàng trăm đứa trẻ Cam Bốt bé tí xíu đã có cơ hội tới Hoa Kỳ và có thể được giáo dục và có cuộc sống tươi vui. Thay vào đó và nhờ "phong trào hòa bình" và Quốc hội Mỹ, chúng ta đã bội ước lời hứa long trọng của mình và nhiều triệu người bị tàn sát.
Tôi thật ân hận. Đã có lúc tôi hy vọng rằng những kỷ niệm này - cảnh cha mẹ hốt hoảng, lạy van ai đó cứu lấy con mình trước khi cộng sản vào, những đứa trẻ mồ côi bất lực, và mấy triệu người mà Hoa Kỳ đã cam kết bảo vệ - cũng sẽ phai mờ cùng năm tháng. Chuyện ấy không xảy ra, và tôi biết là sẽ đem theo những hình ảnh đó xuống huyệt.
Xin
Thượng Đế cứu vớt linh hồn của các nạn nhân - kể cả 58.196 người Mỹ
đã hy sinh đến tuyệt đối cho một lý tưởng cao đẹp. Xin Thượng Đế hãy
ban phước lành cho những người bị bỏ lại để sống dưới ách độc tài, và
trong nhiều trường hợp, dưới nạn diệt chủng. Và xin Ngài độ trì những
người đã đến được xứ này, cùng con cháu của họ, để trả lại món nợ bội
ước bằng cách làm Hoa Kỳ là một nơi đáng sống hơn cho mọi người trong
chúng ta.
Nhưng,
nếu có một chút công lý thì những kẻ như John Kerry, Ted Kennedy,
Franck Church, Clifford Case, J. William Fulbright và một lũ khác nữa,
sẽ phải mục nát dưới Địa Ngục. (Tôi xin lỗi. Có lẽ vì quên mất lời
nguyện của mình).
GIÁO SƯ ROBERT F. TURNER
Monday, April 19, 2010
TS. DƯ PHƯỚC LONG *TỘI ÁC CỘNG SẢN
BẢN CÁO TRẠNG CỘNG SẢN
Tiến Sĩ Patrick Dư Phước Long (1919- 2000)sinh tại Đà Nẵng thân phụ là ông Dư Phước Thuận là một công chức cao cấp thời Pháp thuộc trong ngành Quan Thuế. Tiến Sĩ Patrick Dư Phước Long tốt nghiệp Đại Học Georgetown và theo học tiếp lên cao học tại Đại Học Johns Hopkins.
Năm 1980, từ Hoa Thịnh Đốn ông về cư ngụ tại Thung Lũng Hoa Vàng cho đến ngày ra đi. Ông Dư Phước Long đã được Sở Quản Chế Quận Hạt Santa Clara biểu dương về sự thành công tốt đẹp với “chương trình cố vấn, xây dựng và hướng dẫn thanh thiếu niên Việt và các cộng đồng Á Châu khác (cùng với cha mẹ các em) tại các Trại Cải Huấn của Quận Hạt trong suốt 10 năm qua.
Tác phẩm nổi tiếng của ông Long,9 dược nhiều người biết đến là cuốn “Bụi Đời Cali”
Năm 1995, Trường Đại Học Norththeastern University, Boston đã xuất bản cuốn sách ông Long viết về trẻ bụi đời và băng đảng Việt Nam tại Mỹ dược khắp thế giới hoan nghênh (The Dream Shattered: Vietnamese Gangs in America, 1995-1997.)
Năm 1995, Trường Đại Học Norththeastern University, Boston đã xuất bản cuốn sách ông Long viết về trẻ bụi đời và băng đảng Việt Nam tại Mỹ dược khắp thế giới hoan nghênh (The Dream Shattered: Vietnamese Gangs in America, 1995-1997.)
Tiến
sĩ Patrick Dư Phước Long được Đặc San Avenue Asia xuất bản tại Nữu Ước
năm 1997 liệt vào danh sách 500 người Mỹ gốc Á Châu có uy tín nhất tại
nước Mỹ.
Trân trọng kính chuyển bài tham luận rất hữu lí của Ts DƯ Phước Long để QUÝ VỊ trong cũng như ngoài nước tham khảo, góp ý và phổ biến rộng rãi.
Sau
65 đất nước bị băng hoại bởi chế độ cộng sản phi nhân bản, bán nước,
phản dân tộc, chúng ta phải làm gì để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, Tổ Quốc
Việt Nam sớm thoát khỏi ách thống trị độc tài của CSVN và toàn dân có
Nhân Quyền, Tự Do, Dân Chủ, Đa Nguyên Đa Đảng thật sự.
Bài
tham luận này rất cần để phổ biến khắp thế giới thẩm tường, yêu cầu
QUÝ VỊ vui lòng giúp đở dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức....
BẢN CÁO TRẠNG 50 NĂM TỘI ÁC CỘNG SẢN VIỆT-NAM
DẪN NHẬP
Muốn
kể hết những tội ác của CSVN từ thập niên 1930 tới nay, cần phải hàng
vạn trang giấy, chứ không phải chỉ với vỏn vẹn năm mười trang. Tuy
nhiên, trong đời sống hàng ngày, với thì giờ hạn hẹp của chúng ta, công
việc đó xin dành cho các sử gia với thì giờ rộng rãi của họ.
Chắc chắn nhiều sử gia Việt Nam
hay ngoại quốc sẽ làm công việc này trong một tương lai không xa. Nếu
thì giờ cho phép, hoặc vì nhu cầu cần phải làm công việc này sớm sủa,
thì tác giả cũng xin đóng góp.
Trong
hoàn cảnh sinh hoạt hiện nay mà thì giờ được đo bằng tiền bạc, chúng
tôi xin phép chỉ giới hạn bài tham luận nầy trong phạm vi những sự kiện
đang diễn ra trước mắt mọi người, trong và ngoài nước từ 1975 tới nay,
với sự chú trọng đặc biệt vào các cuộc Tranh Đấu cho Hòa Bình Công Lý
và nhân quyền, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng và các dân quyền,
trong một chế độ cai trị tự mệnh danh là độc lập và tự do; trong khi đó
chế độ cai trị lại là chế độ cộng sản độc tài đảng trị.
Nhờ
sự thông đồng với nước ngoài, CSVN đã thực hiện được quyền thống trị
toàn lãnh thổ VN, và đã lùa 70 triệu dân vào một đường hầm đen tối,
kinh hoàng, khủng khiếp nhất từ cổ chí kim.
Thay
vì đem lại "cơm áo" và "hạnh phu'c" cho toàn dân như họ đã từng dùng
làm khẩn hiệu rêu rao tranh đấu mị dân, các lãnh tụ CSVN đã chủ trương
ngang nhiên chà đạp nhân quyền và dân quyền, giam cầm, áp bức, khủng bố
các tu sĩ, văn nghệ sĩ, trí thức và bất cứ những ai chủ trương dân chủ
đa nguyên, đa đảng, kể cả những người tự coi là "lương thiện" và thức
thời thuộc chế độ.
Trong
khi chế độ lừa dối phỉnh gạt dư luận trong và ngoài nước bằng những
thủ đoạn và những chiêu bài chính trị ngoạn mục và hấp dẫn, CSVN vẫn
tiến hành những cuộc bắt bớ giam cầm khủng bố các tôn giáo tại Nam Việt
Nam trong 17 năm qua, mà nỗi bật nhất là Thiên Chuá Cơ Đốc Giáo và
Phật Giáo, song song với những cuộc bắt bớ giam cầm tù đầy các văn nghệ
sĩ và những người dóng lên "tiếng nói dân tộc".
Trong
khi đó thì xã hội Việt Nam ngày càng dài dài xuống dốc thê thảm, bi
đát trong tất cả mọi lãnh vực, từ kinh tế đến xã hội, từ văn hóa đến
giáo dục, từ nội trị đến ngoại giao, quốc phòng. Nạn tham nhũng, bóc
lột, độc tài địa phương, cường hào ác bá, trộm cắp của công, của tư,
lan tràn tạo nên một chướng khí trong hơi thở biến cho Việt Nam thành
một xã hội băng hoại và bệnh hoạn trong một quốc gia què quặt trong
lĩnh vực quốc phòng và đối ngoại. Trong hai lĩnh vực này, chính quyền
CSVN đã và đang lâm vào cái thế vừa vô cùng lúng túng vừa nhục nhã chỉ
thấy ở các nước bại trận.
Xét cho cùng, CSVN đã bắt dân tộc Việt Nam
phải gánh chịu cái nhục mất đất trên biên giới và mất đảo ở ngoài khơi
vì sự hoàn toàn bất lực và hoàn toàn thất bại của họ trong nhiệm vụ
chống ngoại xâm trên mặt trận chính trị quân sự.
I/ ĐẤU TRANH CHO HÒA BÌNH, CÔNG LÝ VÀ NHÂN QUYỀN.
Hòa
bình, công lý và nhân quyền là ba điều kiện tất yếu cho sự sinh tồn
của mỗi con người, mỗi đạo giáo và mỗi dân tộc. Không một chế độ cai
trị nào tồn tại lâu dài nếu thiếu một trong ba điều kiện tất yếu này.
Với
ý thức đó, chúng tôi xin dâng lên Đức Thánh Cha và các hàng Giáo Phẩm
Giáo Hội, đặc biệt là Giáo Phẩm Việt Nam tại Tòa Thánh, lời cảm tạ chân
thành của chúng tôi, vì Giáo Hội đã cùng với các tôn giáo Việt Nam
khác triệu tập ba ngày hội để, theo lời Đức Ông Trần Văn Hoài, "cầu
nguyện hòa bình cho VN và phát huy ý chí chung và thỏa mãn khát vọng
hòa bình, công lý chân thật nhanh chóng được thể hiện trên quê hương,
hầu cho những nổi khổ đau của toàn thể đồng bào chúng ta sớm chấm dứt."
Cuộc họp mặt dự tính trên nói lên một cách hùng hồn thực trạng là từ 17 năm qua tại Việt Nam
ta không có công lý, nhân quyền lại càng không có, mà chỉ có một nền
hòa bình nằm trên họng súng. Những biện pháp khủng bố tinh thần, tâm lý
trong 17 năm nay vẫn tiếp tục đè nặng trên dân chúng, trên các tôn
giáo, trên các văn nghệ sĩ, trí thức tự do. Công an vẫn tiếp tục canh
chừng, rình rập, theo dõi mọi người dân và khách ngoại quốc, khi gần
khi xa, tùy lúc. Trong khi đảng CSVN tuyên bố cho người dân được phép
chỉ trích thì những người ngay thật đứng lên đòi hỏi dân chủ đa nguyên
liền bị bỏ tù.
Sau đây là một số những trường hợp vi phạm nhân quyền và dân quyền của chánh quyền cộng sản mệnh danh là Xã Hội Chủ Nghĩa:
*
Những nhà tù công khai hay bí mật hãy còn giam giữ nhiều tu sĩ các tôn
giáo, một số nhân viên thuộc chế độ Cộng Hòa, và những người tranh đấu
ôn hòa cho tự do tín ngưỡng và lý tưởng dân chủ.
Trong
số những chính trị phạm hiện đang bị cầm tù hay bị quản thúc có Bác Sĩ
Nguyễn Đan Quế (một thành viên của tổ chức Ân Xá Quốc Tế), BS. Nguyễn
Lạng, LS Đoàn Thanh Liêm, các ông Hồ Thái Bạch (nhân sĩ Cao Đài ),
Nguyễn Van Hạnh, các LM Lê Văn Vàng , Trần Đình Thụ, GS. Đoàn Việt Hoạt,
cựu Trung úy Phi Công Lý Tống, Nhà Văn Phan văn Thức, các Đại Đức
Thích Trí Siêu và Thích Tuệ Sỹ, Nhà Văn Doãn Quốc Sĩ, nhiều đảng viên
Quốc Dân Đảng và Đại Việt, nhiều người bị gọi là "tù cải tạo" và ngay
cả Nguyễn Hộ, chủ tịch Câu Lạc Bộ Kháng Chiến của những người CS miền
Nam.
* Theo một
cựu đảng viên cao cấp CSVN thì ngoài những người bị oan trái "có tên
tuổi", còn hàng vạn trường hợp người dân thấp cổ bé họng bị bắt oan, bị
bỏ tù oan, bị nhục hình, bị ép cung... thì, cũng theo lời cựu đảng
viên này, "không sao kể xiết."
* Có những xã có trên 200 hương chức mỗi xã lộng hành sâu dân, mọt nước, cơ hội;
*
Có hàng nghìn oan ức chồng chất ở nông thôn trước sự hà hiếp của cán
bộ, công an xã, phường đè nặng trên cuộc sống của dân quê;
* Hàng nghìn vụ kiện về nhà cửa, vườn, ruộng, đất, bị một số cán bộ đảng viên có chức quyền ở địa phương cưỡng đoạt của dân;
*
Hàng vạn đơn kêu gọi công lý chất đống từ năm nầy sang năm khác mà
không ai giải quyết đã gây nên oán thù, ghê tởm và tuyệt vọng cho vô
vàn người dân không được ai bênh vực;
*
Trong lĩnh vực giáo dục, những cuộc tuyển chọn học sinh, sinh viên
phải chiếu theo tiêu chuẩn gia đình để gạt bỏ những con em mà cha mẹ
không phải là đảng viên. Đồng thời, những học sinh được tuyển chọn phải
liên hệ đến ba hay bốn thế hệ trước, cha mẹ có công hay không trong
cuộc chiến tranh của cộng sản;
*
CSVN đã viện cớ "công lớn" để hành động vi phạm nhân quyền và dân
quyền, "thu góp tài sản, và quyền lợi của dân vào tay phe cánh họ, và
che lấp biết bao tội ác tầy trời liên quan đến hàng chục triệu gia đình
lương thiện". Nói về những vi phạm nhân quyền của cộng sản, một cựu
đảng viên cộng sản đã nhìn nhận: Đây là tấn bi kịch mang tầm vóc thời
đại kéo dài hơn nữa thế kỹ."
*
Những người cộng sản còn có ít nhiều nhân cách và tự trọng đều nhận
thấy rằng sự lừa dối và bất công và chế độ quan liêu hà khắc vi phạm
nhân quyền của CSVN trong gần 50 năm qua đã đem lại vô số bất hạnh cho
nhân dân. Tất cả những phần tử cộng sản này đều tin rằng chế độ không
có bộ mặt con người của CSVN "Ắt sẽ bị sự trừng phạt nghiêm khắc nhất
của quần chúng.".
*
Theo những nhà phê bình xã hội thì CSVN áp dụng một chế độ phản nhân
quyền, trong đó họ không tôn trọng cá tính của con người, không tôn
trọng quyền lợi chính đáng của nhân dân, coi thường nhân phẩm, "hạ thấp
con người xuống, con số không hèn hạ để tồn tại và phát triển trên sự
gian dối, và thi hành đạo đức giả (hypocrisy) .
Trên
mặt trận tranh đấu nhân quyền, Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế (AXQT) trước đây,
trong năm 1992, có cho hay CSVN vẫn tiếp tục vi phạm nhân quyền bằng
hành động bắt giam, hoặc xét xử không đúng tinh thần công pháp quốc tế
những người VN đã lên tiếng chống đối Nhà Nước CS, theo đường lối bất
bạo động. Trong số những nạn nhân đó có những người sau đây: .
* Luật sư Nguyễn Khắc Chính, bị giam từ 1975 tới nay mà không hề đem ra xét xử;
* Luật sư Nguyễn Sĩ Bình, từ Hoa K ỳ về, và 16 người khác bị bắt vào tháng tư 1992;
Ngoài
ra, AXQT còn lên tiếng phản đối về những xét xử bất công, như trườg
hợp đối với L.S Đoàn Thanh Liêm, ông Nguyễn Ngọc Đạt, và Trịnh văn
Thương.
* Ngày
10-9-92, Đại diện của 328 đoàn thể, các cơ quan truyền thông VN và
nhiều nhân vật nổi tiếng của Hoa K ỳ và các nước trên thế giới đã tập
hợp trước trụ sở Liên Hiệp Quốc, Nữu Ước, phát động phong trào đòi trả
tự do cho những tù nhân chính trị hay còn bị CSVN giam cầm vì họ đã vận
động nhân quyền cho nhân dân VN. Trong dịp này 24 người đã tự nguyện
tuyệt thực trong 48 tiếng đồng hồ. Phát ngôn nhân của buổi nết-tinh đã
trưng ra danh sách của 275 tù nhân chính trị đượcc biết chắc còn bị
CSVN giam giử tại những trại tù "cải tạo".
Ban
tổ chức đã gặp đại diện Văn Phòng LHQ để trao bản danh sách, Khiếu Nại
của H.T. Thích Huyền Quang và Văn Thư của Đảng Nhân Dân Hành Động.
Cuộc vận động này do Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng VN đứng ra
điều hợp.
II/ CUỘC ĐẤU TRANH CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM CHO TỰ DO TÍN NGƯỠNG VÀ CÔNG LÝ
* Kể từ năm 1945, CSVN đã cưỡng bách giáo dân và giáo sĩ Công Giáo Việt Nam tham gia các tổ chức đảng và chính quyền cộng sản.
*
Sau năm 1975, nhóm Công Giáo thiên tả đã có những hành động nhằm bắt
buộc giáo dân phải dựng lên một Ũy Ban Công Giáo Yêu Nước để gia nhập
Mặt Trận Tổ Quốc. Ũy Ban đó được lập theo mô thức Ũy Ban Liên Lạc Công
Giáo do cộng sản Việt Nam đẻ ra tại miền Bắc. Vì sáng kiến không được
các giáo phận Miền Nam tán đồng nên các tu sĩ và giáo dân thiên tả đã
quay sang thành lập Ũy Ban Vận Động Công Giáo.
*
Vào cuối năm 1983, Đức Tổng Giám Mục Địa Phận Huế, Nguyễn Kim Điền,
tuyên bố trong một bức thư gởi cho Linh Mục Nguyễn Thế Vinh, Chủ Tịch
Đại Hội Toàn Quốc Giáo Dân thân cộng tố cáo: " Ai cũng biết Lực lượng
bành trướng từ phưong Bắc đã và đang tìm cách phá hoại đất nước chúng
ta."
* Ngoài một
thiểu số Linh Mục thân cộng, Cộng Sản Việt Nam chưa dụ dỗ hoặc ép buộc
được một vị Giám mục Việt Nam nào làm tay sai cho họ trong ý đồ tổ chức
một giáo hội Công Giáo Việt Nam tự trị.
* Tháng Tư 1984, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền khẳng định với nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam :
"Tôi phải tuân giử 1uật Giáo Hội của tôi, nên tôi không thể làm cách
khác... Tức là tôi không thể chấp hành luật pháp của Nhà Nước Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam .
*
Cũng vào năm 1984 sở Bảo Vệ Chính Trị (SBC) của nhà nước CSVN đã có
những hành động phá hoại Giáo Hội Công Giáo Việt Nam như sau:
+ Hốt gọn các Nhà Dòng ở Thủ Đức, trong đó có Dòng Chúa Cứu Thế;
+ Hốt Dòng Tên ở Sài Gòn;
+ Hốt Dòng Providence ở Cần Thơ.
Trong những năm trước đó, Cộng Sản Việt Nam cũng đã có những hành động tương tự đối với các tôn giáo khác:
+ Hốt sạch Nhóm Phật Giáo Hòa Hảo năm 1981;
+ Hốt sạch Nhóm Cao Đài năm 1982;
+ Hốt sạch một số mục sư và tín hữu Tin Lành năm 1983.
Và cũng trong năm 1983, Cộng Sản Việt Nam
tấn công thêm vào thành trì của Phật Giáo. Sài Gòn sôi nổi về vụ Hòa
Thượng Trí Thủ chết bất đắc kỳ tử, và vì phẩn uất trước việc Cộng Sản
Việt Nam bắt giam Ni cô Trí Hải, Đại Đức Thích Tuệ Sĩ và Thích Trí Siêu
Lê Mạnh Thác.
*
Sau 30 - 4 - 75, 31 Linh mục tại Long Xuyên bị chính quyền cộng sản
buộc phải ngưng thi hành chức vụ. Một số các Linh mục khác bị bắt, như
Linh Mục Chu Quang Tào , Linh Mục Vũ Tuấn, Linh Mục Vũ Trọng Trí, Linh
Mục Văn Chi, v. v.
*
Ngày 8 - 6 - 88, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền đột ngột từ trần
một cách bí mật. Ngài đã bị Việt Cộng giam lỏng trong nhiều năm vì công
khai chống lại chính sách đàn áp tôn giáo của Cộng Sản Việt Nam :
+
Ngày 15 - 4 - 77, Ngài phát biểu trong buổi họp của Mặt Trận Tổ Quốc
Bình Trị Thiên về việc Cộng Sản Việt Nam bắt giử sáu Thượng Tọa thuộc
PGVN Thống Nhất, Ấn Quang ngày 6 - 4 - 77: "Tôi xin chia buồn và thông
cảm với tôn giáo bạn, vì chính tôi cũng trải qua một cảnh tượng như vậy
trong vụ Vinh Sơn". Trong buổi họp đó, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim
Điền còn cho biết thêm:
"Các
lễ nghi bị hạn chế; các linh mục không được phép đi lại phục vụ đồng
bào tại nhiều nơi như vùng kinh tế mới. Một số nhà thờ bị cấm làm lễ,
hay bị chiếm... ".
"
Trong hai năm qua, thú thật người công dân Công Giáo chúng tôi cảm
thấy sao đâu, ở đâu, làm gì cũng bị nghi ngờ chèn ép. Học sinh ở trường
thì cứ nghe những bài chống đối Công Giáo, mạ lị Công Giáo..."
" Tôi chịu lao tù và chết để bênh vực Nhân Quyền và Công Lý."
*
Trong hai năm nay, Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận bị bắt buộc sống lưu
vong và không cho phép về Việt Nam mặc dù Ngài là Phó Tổng Giám Mục địa
phận Sài Gòn với quyền thay thế Tổng Giám Mục . Trước đó Ngài bị biệt
giam tại miền Bắc VN và bị tước đoạt mọi quyền tự do căn bản cũng như
quyền tự do hành đạo.
Trước
năm 1975 và sau năm 1954, Giáo Hội Công Giáo miền Bắc Việt Nam đã bị
đàn áp, ngăn cản, làm khó dễ đủ điều nhưng các vị giám mục, linh mục và
tu sĩ cũng như giáo dân vẫn cương quyết kiên trì giử đạo và bất cộng
tác với nhà nước CSVN.
*
Trước tính hình Công Giáo, nói riêng, và các tôn giáo khác, nói chung,
tức là toàn dân Việt Nam, đang bị áp chế tù đầy, không được hưởng cuộc
sống an cư hòa bình và không được công lý bảo vệ dưới gông cùm của nhà
nước Cộng Sản Việt Nam, không được quyền tự do hành đạo, giử đạo, nhân
quyền và dân quyền bị vi phạm...
Văn Phòng Trung Ương Tông Đồ Mục Vụ Việt Nam Hải Ngoại đã đứng ra tổ chức Ngày Cầu Nguyện Hòa Bình và Công Lý cho Việt Nam .
Đây là một hành động mà tất cả mọi người chúng ta đều ngưỡng phục và
tri ân, vì đây là dịp để các tôn giáo liên kết với nhau để cầu nguyện
các Đấng Tối Cao giúp cho quê hương Việt Nam cùng các giáo hội sớm đạt
được một đời sống hòa bình, tự do, công chính và đạo đức, và cũng là
dịp để các tôn giáo nói lên tinh thần đoàn kết và huynh đệ giữa các anh
em đồng bào trong và ngoài nước để cùng bắt tay tranh đấu cho nhân
quyền, Tự Do Tín Ngưỡng và Công Lý cho dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam và các tín đồ các tôn giáo đã bị CSVN đàn áp.
Ngày
thứ bẩy 28 tháng 9 năm 1992, một Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo đã được
tổ chức tại San Jose, California, Hoa Kỳ, với hàng ngàn người tham dự.
Theo lời tiết lộ của Ban Tổ Chức, thì tại Việt Nam
hiện có 5 nhà sư đã tình nguyện tự thiêu để phản đối nhà cầm quyền
CSVN về sự đàn áp tôn giáo và sang đoạt tài sản giáo hội của họ. Họ
cũng lên tiếng yêu cầu CSVN phải thi hành những đòi hỏi của Hòa Thượng
Thích Huyền Quang và đặc biệt phải chịu trách nhiệm về an ninh của cựu
Phi Công Trung Úy Lý Tống và những người bị bắt bớ, giam cầm trái phép
khác.
Ngoài
hai tôn giáo chính là Công Giáo và Phật Giáo bị CSVN đàn áp, bách hại
thô bạo, các tôn giáo khác như Tin Lành, Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài …
cũng bị chung số phận. Lịch sử của đảng Cộng Sản Việt Nam và Lịch sử
Cận Đại Việt Nam là một ấn tích, một cáo trạng ghi rõ tội đồ của những
người Cộng Sản Việt Nam đối với dân tộc, tổ quốc và các tôn giáo.
Nhưng, như bất cứ một bạo quyền nào, Cộng Sản Việt Nam
cũng sẽ bị cáo chung hoặc bị tiêu diệt. Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế
đang băng hoại, sụp đổ khắp nơi. Sau Đông Âu và Liên Sô, chắc chắn phải
là Cộng Sản Việt Nam, Trung Quốc, Cuba, Bắc Hàn... Chúng tôi thành
târn ghi nhận công sức của Đức Thánh Cha, của Giáo Hội Công Giáo trong
tiến trình làm biến đổi tình hình thế giới hiện nay. Chúng tôi kính xin
Đức Thánh Cha, anh ern Công Giáo , đặc biệt là anh em Công Giáo Việt
Nam hãy tiếp tục cùng chúng tôi cầu nguyện để cho toàn nhân loại nói
chung và đất nước Việt Nam, nói riêng, sớm được giải thoát khỏi chế độ
phi nhân cộng sản, đúng như lời tiên báo năm 1917 tại Fatima.
II/ MỘT NỀN KINH TẾ PHẢN KINH TẾ
Khi xét tình trạng xã hội và kinh tế của nhân dân Việt Nam
từ hơn 17 năm qua, ta thấy rằng số phận dân tộc ta quả là vô phước. Vì
một nguyên nhân mà ai cũng hiểu, ngoại trừ nhữg lãnh tụ cộng sản giáo
điều, ngoan cố, lạc hậu, không tưởng. Họ nhân danh một chủ thuyết ngoại
lai không thích ứng với địa lý và văn hóa Việt Nam, đưa đến sự kềm kẹp
con người và tiêu diệt mọi tiềm năng sáng tạo và phát huy năng khiếu
mà Thượng Đế ban cho. Với xương máu của hàng triệu đồng bào đã đổ ra
trong 50 năm qua, họ đã dựng lên một xã hội vô nhân quyền, phi nhân, vô
đạo và một nền kinh tế giống như một bộ máy bất toàn thiếu sót nhiều
bộ phận khiến cho bộ máy không tác động được. Sau đây là một số những
yếu tố hoạc những bộ phận cho đến nay hãy còn thiếu sót:
*
Việt Nam không có luật về bất động sản (Real estate law). Do do các
ngân hàng ngoại quốc tài trợ địa ốc không hoạt động được. Đây là trở
ngại chính cho các dự án xây cất;
* Lối làm ăn giao thương ở Việt Nam không có tiêu chuẩn và nguyên tắc, nên rất nguy hiểm cho các nhà đầu tư và thương nhân ngoại quốc;
* Không có những đạo luật và định chế pháp lý rõ rệt về bằng khoán và chứng khoán;
*
Lề lối làm ăn tại Việt Nam từ thập niên 1970 là "tiền trao, cháo múc"
và "thủ tục đầu tiên" (nói lái là: Tiền đâu). Lắm khi tiền mất tật còn!
* Mọi việc thương lượng với các cơ quan công quyền đều đi cửa sau;
Thêm vào đó:
*
Phép vua thua lệ làng, tức là quyền quyết định tối hậu thuộc các chức
sắc xã, quận, và cán bộ; lệnh trung ương không có hiệu lực.
*
Không có sách lược nhà nước giúp việc nghiên cứu thị trường trên quy
mô toàn quốc, nên chỉ có được những hệ thống phân phối từng vùng nhỏ,
và từng địa phương; và do đó, không có hệ thống đại diện hoặc đại lý
hữu hiệu;
* Không có tiện nghi bảo trì sửa chữa máy móc "after sale services";
*
Các nguồn cung cấp sản phẩm, hàng hóa không đều đặn, không đúng hẹn,
không đúng tiêu chuẩn phẩm chất số lượng, và các điều kiện thỏa thuận
khác trong hợp đồng;
* Hệ thống đường sá và xe lửa hư hỏng, không bảo trì nên quá tồi tệ;
* Không có hệ thống phân phối nhu yếu phẩm toàn quốc;
* Truyền thông báo chí bị Đảng kiểm soát chặt chẽ;
* Các nhà đầu tư ngoại quốc không được cho xem các kế hoạch hiện đại hoá quốc gia, nếu có;
* Cộng Sản Việt Nam không dứt khoát dẹp bỏ nhũng tư tưởng và quan niệm kinh tế Mác xít;
* Không có một nền tảng pháp lý hạ tầng cơ sở cho cuộc sinh hoạt và điều hợp kinh tế và xã hội;
* Cộng Sản Việt Nam không chấm dứt chế độ cai trị bằng luật pháp để thay thế cho đảng lệnh;
* Cộng Sản Việt Nam không thiết lập một hệ thống pháp lý triệt để tôn trọng tư hữu tài sản;
* Không có một cuộc tái cấu trúc hệ thống giá cả và lực lượng công nhân;
* Không tích cực thể hiện và phát huy hệ thống kinh tế thị trường.
* Cộng Sản Việt Nam
hiện đang bối rối điên đầu trước bài toán nhân dụng vì bất lực trong
việc tạo công ăn việc làm cho hàng triệu tay thợ. Tổng số lực lượng lao
động Việt Nam
là gần 30 triệu. Thị trường nhân dụng mỗi năm phải tiếp 1.5 triệu công
nhân. Ngoài ra, còn có một số người sau đây mà Cộng sản Việt Nam phải tạo công ăn việc làm, nhà ở cho họ:
- Hàng vạn binh sĩ giải ngũ từ Cao Miên về,
- Trên một triệu di dân sẹ bị đuổi từ Cao Miên về,
- Hàng vạn thuyền nhân từ các trại tỵ nạn Đông Nam Á bị cưỡng bách hồi hương,
- Năm trăm nghìn người Việt gốc Hoa bị Trung Cộng trả về,
- Hàng vạn công nhân bị các nước cộng sản cũ ở Đông Âu đuổi về,
- Hàng trăm nghìn binh sĩ thuộc quân lực Cộng Sản (1.6 triệu quân) bị giải ngũ.
-
Mặt khác, hàng năm có hàng vạn sinh viên tốt nghiệp, thành tài ở các
trường đại học tổng hợp, công nghiệp, trung học. Hầu hết không tìm được
việc làm, hoặc việc làm không hợp với chuyên môn học ở trường, hoặc vì
khả năng dưới trình độ tối thiểu.
Tất
cả những nhân lực nói trên phải làm bất cứ việc gì để khỏi đói, kể cả
đi buôn lậu, lên rừng tìm vàng, hoặc hoạt động trong lĩnh vực kinh tế
không chính thức với những nghề linh tinh nhằm sống qua ngày không nhất
thiết bất hợp pháp. Đó là khu vực vô dạng của những nguời làm kinh tế
cá thể. Còn những người hoàn toàn ở vào thế vô
kế khả thi thì suốt ngày la cà các quán cà phê hoặc lang thang trên các
vỉa hè phố. Bao nhiêu kiến thức học hỏi ở trường đều trả lại cho thầy.
Với
một nền kinh tế kiệt quệ, với lệnh cấm vận của Hoa Kỳ, với nền quản lý
bất lực, với tinh thần chống đối đề kháng thụ động của nhân dân, Cộng
Sản Việt Nam làm sao giải quyết nổi nan đề kinh tế và nhân dụng hiện
nay đang đè nặng trên họ trên đất nước và nhân dân?
*
Đậu phộng, mía, dầu ăn, đường không tìm được người tiêu thụ vì lẽ gía
xuất khẩu cao, còn gạo thì chỉ xuất khẩu được 7 trăm nghìn tấn; tất cả
vì gía không cạnh tranh được với nông sản cuả các nước láng giềng. Nông
gia bị sản phẩm ứ đọng đầy kho.
*
Biên giới Việt Hoa mở rộng cửa để vui lòng đại ca Trung Cộng, nên hàng
lậu thuế nhân cơ hội tràn ngập khắp các nơi, với giá rẻ hơn hàng sản
xuất trong nước và hàng nhập cảng khác. Một lý do khác là nền quản lý
kinh tế kỹ nghệ bất lực. Chất lượng và năng suất lao động Việt Nam không
đương đầu nổi với hàng Trung Cộng. Chưa bao giờ trên thị trường Việt
Nam lại có nhiều hàng Trung Cộng như hiện nay (70%). Trước
đây ba năm, hàng Thái chiếm đến khoảng 70% trên thị trường, hàng Trung
Cộng hầu như không có. Nay hàng Thái chỉ còn chừng 30%. Đây là lần
khốn đốn thứ hai của hàng nội địa, sau khi bi khốn đốn trước nạn hàng
Thái tràn ngập thị trường Việt Nam vào năm 1989.
*
Một số lý do căn bản khác cho sự thất bại của hàng nội hoá là không có
chính sách toàn diện về sản xuất nội hóa, gồm có: Luật thương mãi,
luật đầu tư trong nước, hệ thống thuế khoá, tín dụng, tiền tệ, ngoại
hối, ngân hàng, hạ từng cơ sở khả dụng như đường sá, cầu cống, điện,
nước, v. v..
* Hệ thống tín dụng ngoại quốc tại Việt Nam thất bại trước tình hình kinh tế kiệt quệ và lối điều hành kinh tế theo luật rừng tại Việt Nam . Mới đây, một số công ty ngoại quốc phải đóng cửa hoặc ngưng hoặt động, trong đó có: Quỹ đầu Tư Tín Dụng Lyon Pháp Quốc, Công ty Indochina Hotels, và Lloyds Bank of Fund Management and Asia Securities.
Trước đây mấy tháng, các nhà đầu tư Anh đã rút về 7.5 tỷ Mỹ Kim, không đầu tư tại VN nữa, vì những lý do nêu trên.
III/ MỘT XÃ HỘI BĂNG HOẠI ĐANG SỤP ĐỔ
Phác hoạ bức tranh xã hội Việt Nam
là công việc dễ dàng của những người sống tại chỗ, hàng ngày chứng
kiến và quan sát những màn hỉ nội ái ố chung quanh mình. Với chúng tôi,
khi muốn mô tả sinh hoạt xã hội hàng ngày ở quê nhà, tất nhiên phải
căn cứ vào những nhân chứng, những tài liệu sách báo Việt Nam và những
đồng bào sang định cư tại Mỹ trong những năm, tháng qua. Những bức
tranh xã hội dưới đây xuất xứ từ nguồn cung cấp đó:
*
Theo nhận xét của những người đã từng ở trong nước, trong đó có những
nguời trước đây là những thành phần cao cấp của chế độ cộng hòa xã hội
chủ nghĩa, thì tham nhũng, đặc quyền đặc lợi gắn liền với chế độ độc
quyền lãnh đạo cuả Đảng Cộng Sản Việt Nam, đưa tới hiện trạng thất
nghiệp lan tràn, phụ nữ bán dâm, trẻ con thất học, bỏ học, đi bụi đời,
băng đảng, những người có ăn học có khả năng không được tin dùng ngày
càng đói rách;
* Tham nhũng tại Việt Nam
là biểu tượng của một nước có nền văn hoá thấp. Các nhu cầu văn hoá đã
thay đổi... Nền văn hoá hiện đang xuống cấp không kìm lại được... Có
những nhu cầu văn hoá hết sức vô văn hoá, nên đã lũng đoạn nền văn hoá.
Chính điều này đã tạo ra càng ngày càng nhiều tệ nạn xã hội. Số người
thất nghiệp và khiếm dụng quá cao đưa tới tình trạng băng hoại đạo lý;
*
Những liên hệ gia đình, xã hội ngày càng thêm lỏng lẻo. Phụ huynh
không còn khả năng nuôi hoặc dạy con cái; có khi phải nhắm mắt để chúng
đi kiếm tiền về nuôi cha mẹ.
*
Tham nhũng dưới chế độ cai trị độc quyền của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa
ngày càng khoa học và tinh vi, được phát huy theo ba hệ thống: Tham
nhũng có hình tháp, từ cấp trung ưong xuống; tham nhũng theo mặt bằng,
giữa các đồng nghiệp và qua những móc ngoặc; và tham nhũng lẻ giữa cá
nhân; tùy trường hợp mà áp dụng đúng mức.
Theo
lời một người tự xưng là "nhà giáo nhân dân" thì "tình trạng tham
nhũng ở Việt Nam ngày nay lan tràn, lại có nhiều băng phiệt
(bandocrats) từ cấp trung ương đến tỉnh, hoặc từ tỉnh đến xá, ở ngành
nầy hay ngành nọ. Lực lượng nó hùng hậu, lại có phép thần thông biến
hoá. Đến đỗi cho tới nay Quốc Hội cũng phải chịu chào thua!". Môt cựu
đảng viên cộng sản than thở: "Khi lòng tham đã lan tràn từ trên xuống
dưới, đạo lý không còn, mà thiếu hẳn pháp lý để kềm chế dục vọng thì xã
hội mặc sức băng hoại." .
* Đi đôi với nạn tham nhũng 1à nạn trộm cắp tái sản nhà nước. Ví dụ, trong ba tháng đầu năm 1992, có 1.092 vụ đổ bể. Thất thoát của dân mất 17 tỷ đồng. Theo những người biết rõ nội vụ thi thì phạm là những cán bộ cao cấp.
Nếu
không trộm cắp của công thì lạm dụng chức vụ. Một "vali" (tín hàm)
ngoại giao bị khui ra tại một phi trường Đông Âu bên trong chứa 800
quần jean và 2.000 đồng hồ điện tử, là của một... đảng ủy viên.
* Gần đây, một người Việt đã nhận hàng của gia đình gửi biếu gồm 1.200 máy cày và 65 Ti Vi màu;
*
Và cũng gần đây, hàng chục tàu của một số đơn vị vận tải đường biển
thuộc các tổ chức kinh tế nhà nuớc đã tham gia chở hàng lậu với quy mô
lớn, một số đã bị tầu Trung Cộng chận bắt, cướp hết hàng hóa;
*
Trên con đường buôn lậu từ Cao Miên , trong sáu tháng đầu năm nay có
những món hàng sau đây được chuyển qua các tỉnh biên giới: 4.000 xe hơi, 1.700 đầu máy video, 60.400 xe gắng máy, 10.300 ti vi màu, 29.000 radio - cassettes;
* Đó là những bức tranh chìm. Còn về bức tranh nổi là những cảnh tượng não lòng thương tâm trên các hè phố. Đây là những cảnh màn trời chiếu đất của những cặp vợ chồng, những thanh thiếu niên trong hoàn cảnh sống vô gia cư homeless;
Khách
qua đường thấy hè phố Hà Nội, hè phố Sài Gòn không còn là hè phố nữa,
mà là nơi ăn uống, nơi bán hàng, nơi giặt dũ, nơi đánh bạc, nơi phóng
uế, và cũng là nơi ngủ nghỉ, bán dâm nữa.
*
Theo tin tức báo chí cộng sản ở Sài Gòn mới đây thì "hiện tượng mãi
dâm và du đãng tại Sài Gòn đang gia tăng dữ dội''. Gần như nơi nào trời
bắt đầu tối là có bóng gái ăn sương thấp thoáng. Các băng đảng hoành
hành ở bất cứ chỗ nào trong thành phố... Hầu hết các tên cướp trẻ đều
xuất thân từ những gia đình giàu có, khá giả, con cán bộ.
*
Tại trung tâm Sài Gòn, nạn trộm cướp diễn ra gần như công khai. Nạn
nhân thường là người ngoại quốc và Việt Kiều về thăm nhà. Thủ phạm là
dân bụi.
* Một nỗi
đau lòng khác là một số vợ sĩ quan, viên chức bị "đi cải tạo", sau khi
đã xài hết tiền, bán hết của, đã phải bán mình cho khách làng chơi, mà
hầu hết là những cán bộ Miền Bắc vào, để lấy tiền nuôi gia đình.
Nguyên
nhân duy nhất của nạn băng đảng, trộm cướp: Bị bế tắc trong lối sống,
không có lý tưởng, sống thác loạn, dâm đãng, bao lực... Họ sống theo
những hình ảnh thường thấy trong các phim giang hồ, xã hội đen của Hồng
Kông giống như thanh thiếu niên đi bụi ở Mỹ , Canada .
*
Vì một số đông gia đình sống nhờ kinh tế đen, kinh tế vô dạng còn kinh
tế tạo công ăn việc làm thì chỉ thoả mãn được một phần nhỏ của thị
trường nhân dụng, nên chi trong số đông đảo người thất nghiệp có một số
phụ nữ trẻ tuổi phải bất đắc dĩ hành nghề mãi dâm để nuôi sống bản thân
và nuôi gia đình.
Với
số du khách, thương nhân ngoại quốc, Việt kiều về thăm nhà càng đông,
số phụ nữ buôn hương bán phấn cũng do đó tăng theo. Ngoài nhũng thanh
lâu ra, tất cả các vũ trường, các khách sạn, từ cỡ lớn tới cỡ mini,
phòng trọ, các quán cà phê đều có gái mại dâm, với tiết mục mệnh danh là
"lúc 0 giờ".
*
Tại Sài Gòn, Hà Nội và các đô thị, mãi dâm và ciné, video khiêu dâm đã
trỡ thành những kỹ nghệ phát triển có hệ thống đạt tới qui mô toàn
quốc.
* Các "chiến
sĩ an ninh" trên đường phố nghèo đói quá đành làm liều: Có khi chận bắt
xe gắn máy lại mượn cớ hỏi giấy tờ, nhưng kỳ thực chỉ để kiếm mấy điếu
thuốc thơm, hoặc vài nghìn đồng về cho vợ mua gạo. Theo những cựu đảng
viên cộng sản thì những giới người nói trên không thể sinh sống một
cách bình thường lành mạnh "vì cơ chế quan liêu, bảo thủ, vô trách
nhiệm, tình trạng bất công xã hội lan tràn khắp nơi". Do đó, có những
câu ca dao thời đại sau đây:
Đầu đường, thiếu tá bơm xe;
Cuối đường, trung tá bán chè đậu đen;
Giữa đường, đại tá rao kem...
* Có những phụ nữ lao động, phụ nữ trí thức phải lén lút bán mình để sống qua ngày trong tủi nhục;
*
Có hàng vạn thanh thiếu niên chán đời, lâm vào ngõ cụt, thất nghiệp,
thành tích bất hảo đã mượn xì ke ma túy, trò "chơi mê, xì cọt", ngoài
cocaine và heroin để "quên". Những thanh niên băng đảng đầu trọc dùi lỗ
"xí ngầu" trên tay bằng thuốc lá cháy đỏ, rồi phá cho những chỗ châm
loét to thành những lỗ lớn. Họ gọi đó là "trò chơi hành xác". Có những
thanh niên khoét tới 36 lỗ lớn bằng đồng xu trên cánh tay mình;
*
Trẻ em gầy ốm nhỏ bé hơn trẻ ern ngày xua. Tỷ lệ chết sơ sinh lên tới
6%. Những đứa còn sống thì bị còi xương vi thiếu ăn, chứ chưa nói tới
chất dinh dưỡng. Các bà mẹ sau khi sanh con không có sữa cho con bú.
* Có tới 40% cư dân trong những vùng thôn quê có nguy cơ bị bệnh sốt rét mỗi năm.
IV/ NỀN GIÁO DỤC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA: GIÁO VlÊN BỎ NGHỀ, HỌC SINH ĐI BỤI
Trong
xã hội truyền thống VN, giáo sư là người phải được kính trọng hơn cha
mẹ Quân, Sư, Phụ; và con em học sinh là tươg lai đất nước. Tuy nhiên,
giá trị văn hóa của bậc thầy và giá trị tương lai của tuổi trẻ VN dường
như giờ đây đã bị các giá trị văn hoá CS và XHCN đạp đổ. Sự tuyển mộ
giáo chức cũng như sự chọn lọc học sinh đều phải tuân theo những tiêu
chuẩn chính trị cách mạng và ý thức mác-xít.
Chánh
sách trên đã đưa tới hậu quả là trình độ học vấn văn hoá, nói chung,
của các giáo sư, giáo viên đã xuống cấp rất thấp, và mức độ năng khiếu
của khối học sinh càng xuống thấp hơn, ví sự gạn lọc theo tiêu chuẩn
thành phần xã hội.
Trong
hoàn cảnh đó, đi đôi với một nền kinh tế ngày càng tê liệt, sĩ số học
sinh bỏ học tăng theo nhịp độ lên lớp. Còn giáo sư thì bỏ nghề dài dài.
* Thầy giáo, cô
giáo sống khốn đốn thiếu trước hụt sau, lương tháng chỉ đủ sống trong
một tuần. Học sinh thối chí như thầy. Trường học cũng buồn theo. Đức
tính hiếu học truyền thống dừng lại ở cổng trường. Tính chung, đã có
trên 70 nghìn giáo viên bỏ dạy, đi làm nghề khác, mong khá hơn.
Cơn khủng hoảng giáo dục thấy rõ nhất trong giới trí thức vì đồng lương quá thấp, mỗi tháng chỉ đủ để mua 25 tô phở.
Thầy giáo lĩnh lương ba đồng;
Làm sao sống nổi mà không đi thồ.
Có thầy phải đạp xích lô;
Làm sao xây dựng tiền đồ (học sinh) Việt Nam ?
Cô giáo phải bán bia ôm;
Ôm phải học trò ăn nói sao đây?
Có
những giáo viên không làm những việc phụ nói trên, nhưng cũng xoay xở
làm thêm những việc khác để đủ sống, như: bán bánh kẹo cho học sinh,
bán vế số, bán thuốc điếu, giữ xe đạp, đi may mướn, bán cà phê, nước
ngọt;
Theo nhận xét
của người trong nước thì tình trạng giáo chức đang tan ra từng mảnh.
Mặc dù lương tháng chỉ bằng 25 tô phở, nhưng nhà nước cũng không trả
đủ. Tại 19 tỉnh miền Nam , Nhà Nước thiếu lương giáo chức tới 17 tỉ đồng;
*
Trong khi các nước tân tiến dành 7 tới 10% tổng sản lượng quốc gia cho
giáo dục thì VN chỉ dành 2.8% (1988). Giới quan sát còn nói thêm rằng
nạn tham nhũng cũng đóng góp vào sự suy sụp của nền giáo dục.
Tuy nói là trường công lập, nhưng con em học sinh cũng vẫn phải đóng góp mỗi tháng vào cơ sở trường và lương giáo chức:
Học sinh các lớp 4, 5 và 6: đóng 1.5 kí gạo mỗi tháng
Học sinh Cấp Hai: đóng 2 ki gạo mỗi tháng
Học sinh Cấp Ba: đóng 3 ki gạo mỗi tháng
Học sinh mẫu giáo: đóng tiền
Nhiều học sinh phải bỏ học vì không có gạo để đóng.
* Trình độ lãnh đạo giáo dục khác hẵn trước năm 1975. Một thí dụ:
Theo
như mọi người biết thì Viện Trưởng Đại Học Cần Thơ, một đảng viên cs
từ thập niên 40, chưa học hết chương trình tiểu học;
*
Hơn 80% các hiệu trưởng các trường kỹ thuật cấp tỉnh đều là những
người bộ đội giải ngũ, mà tài năng duy nhất là "sự cuồng tín";
* Những nhà lãnh đạo nầy điều khiển học đường bằng kỷ luật sắt;
*
Thành phần giáo chức gồm đa số đảng viên tự coi là những nhà truyên
giáo của đảng. Đa số xuất thân từ những gia đình công nhân hoặc nông
dân được đào tạo cấp tốc trong những lớp học tối;
*
Trong ngành giáo dục huấn nghiệp, ưu tiên được dành cho các nghề thực
dụng, thiên về tay chân mà bỏ rơi ngành khoa học căn bản và những ngành
khoa học lý thuyết;
* Tại Sài Gòn có lối 50 nghìn con em từ 6 tớ 14 tuổi chưa bao giờ tới trường (thất học).
* Nói chung, trên 20% trẻ em chưa biết đọc biết viết;
*
Trên 30% trẻ em hầu hết ở nông thôn bỏ học ở cấp tiểu học. Khi chế độ
khoán sản được thi hành ở nông thôn (80 - 82) học sinh tiểu học bỏ học
để ra đồng làm việc. Khi buôn bán được cởi mở ở đô thị, học sinh đại
học và trung học cũng bỏ trường rất nhiều (88 - 89). Hai hiện tượng này
giải thích tại sao trong lúc dân số gia tăng thì số người đi học lại
giảm;
* Số trường
đào tạo công nhân kỹ thuật giảm từ 360 trường vào năm 1982 xuống còn
275 trong năm 1987. Số sinh viên từ 245 nghìn vào năm 1980 xuống còn
120 nghìn năm 1987. Lý do: Chương trình học không phù hợp với các cơ
hội kinh tế; học vấn và kỹ năng chuyên môn học được không đáp ứng nhu
cầu lợi tức và mức sống cá nhân;
*
Tỷ lệ ghi tên và tỷ lệ bỏ học: 80 - 85% trẻ em từ 6 tới 10 tuổi ghi
tên đi học (15% mù chữ). Trong số nầy, 40% bỏ học trước khi lên lớp 5.
* Số còn lại học hết tiểu học. Lên đến trung học thì 50% số nầy bỏ học trước khi lên Cấp Hai.
Đến
đây, chúng ta thấy rõ tại sao báo chí CS báo động là hiện tượng mãi
dâm và du đãng tại Sài Gòn gia tăng dữ dội... Băng đảng hoành hành ở
bất cứ chổ nào trong thành phố... Hầu hết các tên cướp trẻ đều xuất
thân từ những gia đình giàu có, khá giả, con cán bộ... Tại trung tâm
Sài Gòn nạn trộm cướp diễn ra gần như công khai...
- Không phải chỉ bởi những trẻ em thất học, mà cũng còn bởi những thanh thiếu niên bỏ học, đi bụi, đi băng đảng.
Những
tình trạng và hiện tượng nêu ra ở trên về nền giáo dục Xã Hội Chủ
Nghĩa cho thấy rằng nền giáo dục VN đang tuột dốc một cách vô cùng nguy
hiểm. Giáo sư, giáo viên giải nghệ, sinh vien học sinh bỏ học với mục
đích chung là để tìm đường sống, dù sống bằng cách nào. Từ quyết định
đó, họ đi vào một trong hai con đường: con đường làm ăn lương thiện,
hoặc con đường kiếm tiền chớp nhoáng đâm đạp, chụp giựt đa số là phải
chọn con đường nầy, tức là con đường băng hoại sụp đổ của xã hội VN,
một con đường mà nhu cầu mưu sinh sống còn bắt buộc một số đông người
phải đi.
Cả
xã hội lẫn giáo dục đang sụp đổ. Nhiệm vụ khẩn thiết của người Việt
còn tha thiết cứu nước cứu nòi là phải phục hồi ngay những giá trị tinh
thần và những truyền thống văn hóa đạo nghĩa của xã hội VN, để lấy
những giá trị và truyền thống nầy làm nền móng cho công cuộc xây dựng
lại gia đình, xã hội, dân trí và kinh tế của dân tộc. Đó là mục tiêu
tiên yếu của nền giáo dục công dân VN trong thời hậu CS.
V/ NHỮNG THẢM BẠI CỦA SÁCH LƯỢC ĐỐl NGOẠI VIỆT NAM CỘNG SẢN
Giống
như những chế độ bắt đầu sụp đổ, chế độ CSVN đã từ mấy năm nay lâm vào
điều có thể được gọi là khủng hoảng niềm tin (crisis of confidence).
Trong cuộc khủng hoảng nầy cái phạm vi thân tín trong nội bộ thiểu số
lãnh đạo chính quyền ngày càng thu hẹp lại. Nói một cách khác, những
nhà lãnh đạo đó càng ngày càng thêm nghi ngờ càng nhiều người trong các
cơ quan, các bộ, trong quân đội, v.v..
Trên
đây là lý do khiến CSVN không dám phản ứng chống trả Trung Cộng khi họ
chiếm các hòn đảo có mỏ dầu và khí đốt trên quần đảo Tây Sa và Trường
Sa, và khi quân Trung Cộng tràn vào lãnh thổ dời mốc biên giới vào bên
trong lãnh thổ VN. Vì CSVN không dám tin quân đội và hải quân của họ.
Bị
cô thế sau khi các chế độ cộng sản Đông Âu sụp đổ, CSVN hoảng sợ, bám
vào bất cứ vật gì họ vớ được để khỏi chết đuối. Họ đã bám vào đồng chí
đại ca Trung Cộng. Ngày nay họ đang lâm vào cảnh gái ngồi phải cọc. Đã
suy tôn; rồi chửi bới, mạt sát thậm tệ; bây giờ lại ca tụng suy tôn trở
lại. Há miệng mắc quai, họ đành nín chịu, và bắt dân tộc VN phải chịu
nhục mất nước, mất đảo.
Trước
sự suy nhược ý chí và sự tê liệt quân sự quốc phòng của CSVN, bất cứ
nưóc láng giềng nào cũng thấy dễ dàng đặt lại vấn đề biên giới, và
giành đất, giành đảo. Theo chân Trung Cộng là Cao Miên. Mới đây, tất cả
bốn phe liên hiệp tại nước nầy đều tán thành sáng kiến của Khmer Đỏ
đồi đuổi người Việt định cư tại Cao Miên và trên Đảo Thọ Chu (gần Vịnh
Thái Lan) về nước, và xác định lại biên giới Việt Miên, có nơi họ nói
là đã lấn thêm vào lãnh thổ Cao Miên tới 50 cây số. Chưa chi CSVN đã
đồng ý sẽ cứu xét. Với cái thế yếu hèn của chánh sách đối ngoại hiện
nay của CSVN, chắc sẽ còn một vài nước láng giềng khác sẽ luồng gió bẻ
măng, lên tiếng đòi sự thay đổi hải phận hoặc biên giới. Nghe chừng như
tổ chức Thượng Miên Trung và Miên Bắc đã bắt đầu lên tiếng đặt vấn đề
tự trị với nhà cầm quyền CSVN.
Sau khi giành được chính quyền tại Miền Nam
, và vì không có đủ hiểu biết về chính trị, ngoại giao, và trong cơn
say chiến thắng, CSVN đã lên cường điệu đòi Hoa K ỳ bồi thường chiến
tranh. Thái độ hống hách nầy đã được Hoa K ỳ trả lời thích đáng và đưa
tới hậu quả là nền kinh tế tài chánh của CSVN giống như một cái xác
không có xương sống. Nhân dân VN trong hơn 17 năm nay phải gánh chịu
hậu quả nầy, chứ không phải giới lãnh đạo CSVN.
*
Không những không trả món tiền mà CSVN gọi là "tiền bồi thường chiến
tranh", mà trái lại, Hoa K ỳ còn thi hành lệnh cấm vận đối vơí CSVN,
khiến cho nền kinh tế VN ngày càng khốn đốn vì không có ngoại tệ làm
tiêu chuẩn đổi chác quốc tế: Đồng Mỹ Kim. Lý do khiến Hoa K ỳ phát động
các cuộc chiến tranh kinh tế tài chánh ngay sau khi miền Nam thất thủ
chính là chế độ Cộng Sản độc tài phản dân chủ, phản nhân quyền, đàn áp
tôn giáo và nhân dân, chà đạp nhân phẩm. Bang giao và mậu dịch với CSVN
có nghĩa là giúp củng cố và tăng cường rnột chế độ cộng sản nằm ngay
bên cạnh một khổng lồ cộng sản đó là Trung Cộng; và xa hơn nữa là Bắc
Hàn; bên nầy đất liền là Thái Cộng; còn bên kia biển Đông là Phi Cộng.
*
Gần đây, Trung Cộng đã ngang nhiên coi quần đảo Trưòng Sa là lãnh thổ
của mình và đơn phương ký hợp đồng thăm dò mỏ dầu hỏa và khí đốt tại
Quần Đảo Tây Sa (mà sử sách VN gọi là Trường Sa) với Công Ty Crestone,
Hoa Kỳ, hồi tháng 6, 1992. Trường Sa ( Spratly Islands ) và Hoàng Sa ( Paracels Islands
) là hai quần đảo thuộc chủ quyền VN. Hai quần đảo nầy đã được ghi
chép trong lịch sử VN như là lãnh thổ chính thức của VN từ 1833, nhưng
đã được phát hiện từ thế kỷ 15. Ngày 14 tháng 9, 1958, thủ
tướng VNDCCH, Phạm Văn Đồng ký văn thư công nhận hai quần đảo nầy
thuộc hải phận Trung Hoa. Hồi đó, chính phủ CSVN không phải là chính
phủ của toàn lãnh thổ VN. Do đó, hành động của CS Bắc Việt không có giá
trị pháp lý.
Vì
món nợ võ khí, cố vấn, huấn luyện, xương máu lính Trung Cộng; vì quyết
chiến thắng để thống trị nhân dân VN dưới chế độ CS độc tài chuyên chế
để đưa nhân dân VN vào địa ngục trần gian ngày nay, nên CSVN, từ 1958,
đã đem giao hai quần đảo đó cho Trung Cộng để trừ nợ.
*
Hồi muà hè 1992, theo đài BBC, một số các nhà đầu tư Anh đã quyết định
rút ra số vốn bỏ vào đầu tư tại VN là 7,5 tỷ Mỹ Kim. Lý do dĩ nhiên là
VN không có hoà bình thật sự, tức là không có ổn định chính trị thực
sự, một nền kinh tế khập khểng, tài chánh không có vàng và ngoại tệ bảo
đảm, v.v.
* Sách
lược đố ngoại CSVN đang nếm một mùi thất bại ngoại giao thê thảm khác.
Giới quan sát chưa thấy CSVN có một hành động nào trước quyết định của
Đại biểu LHQ dẫn độ, trả về VN những Việt Kiều nào bị ngưòi Miên và
chính phủ Miên phát giác đem nạp cho LHQ.
Chiến
dịch "cáp duồng" đã được phát động. Lãnh tụ Khmer Đỏ Khiêu Samphang
nói rằng "Hà Nội đã mang vao lãnh thổ Khmer hơn hai triệu dân với ý đồ
đồng hóa dân Khmer."
Hồi
năm 1970, chính quyền Lon Nol đã ra lệnh tàn sát người Việt ở tại 4
tỉnh và vùng Biển Hồ. Xác người Việt bị giết trôi đầy trên sông Mekong.
Hiện nay, Việt Kiều tại Cao Miên nói rằng họ rất sợ người Khmer thuộc
các phe nhóm (bốn phe) sẽ tàn sát họ vì kỳ thị chủng tộc. Họ lên tiếng
oán trách là "Hà Nội đã mang con bỏ chợ." Đây rõ ràng thêm một bằng
chứng về sự bất lực và thảm bại của sách lược đối ngoại của CSVN. Riêng
sự thất bại này sẽ đưa lại những "Killing fields" khác nữa trên lãnh
thổ Khmer, mà nạn nhân lần này là hàng trăm nghìn đồng bào ta.
Giải
pháp duy nhất để VN thoát khỏi cuộc khủng hoảng cực độ về kinh tế, tài
chánh, kỹ thuật, ngoại giao, xã hội hiện nay là quyết định thiết lập
bang giao giữa Hoa K ỳ và CSVN. Tuy nhiên, nan đề đối với Hoa K ỳ là
nếu không bang giao thì nhân dân Việt Nam
sẽ tiếp tục chìm sâu dưới vực thẳm kinh tế, đói rách khốn khổ. Nhưng
nếu bang giao thì chế độ độc CSVN sẽ tồn tại, sẽ phát triển trở lại, và
sẽ bắt đầu chi phối và lãnh đạo các đảng cộng sản ở Lào, Miên, Thái,
Mã, Phi v.v... Đó là hậu họa dành cho Hoa K ỳ.
Chỉ có một đường lối để đem dân tộc VN ra khỏi hoàn cảnh bi thảm, cái
vòng luẩn quẩn hiện nay là dẹp bỏ chế độ CSVN, bằng cách này hay cách
khác, và trong một kỳ hạn sớm nhất.
VI/ 50 NĂM PHI PHẠM SINH MẠNG, TÀN PHÁ ĐẤT NƯỚC
Phí Phạm Sinh Mạng
Phí Phạm Nguồn Nhân Lực
Phí Phạm Tài Nguyên Quốc Gia
Phí Phạm Tài Sản Quốc Gia
(The Hidden Killing Fields)
Từ
xưa tới nay, tự cổ chí kim, chưa có một giới người nào phí phạm sinh
mạng đồng bào mình, tiêu diệt các nguồn nhân lực, lãng phí các tài
nguyên và tài sản quốc gia cho bằng những người lãnh đạo CSVN.
Theo
nhận xét chung về những thành công của người CS, thì ta phải nói rằng
họ rất thành công trong những sách lược tàn sát, giam cầm, tra tấn hàng
triệu triệu người dân vô tội trên khắp bốn biển năm châu. Đồng thời họ
ra sức triệt hạ các tôn giáo Đông, Tây, phá hoại các nền văn hóa nhân
bản và đã dựng lên những thành trì hận thù, đào những hố chia rẽ giữa
những người cùng trong một nước, một gia đình. Để thực hiện ý đồ độc
tôn, độc quyền cai trị, người cộng sản còn tiến hành những chính sách
vô nhân đạo, chà đạp nhân quyền và nhân phẩm.
Chủ
trương trên đây, họ đã và hiện đang thi hành tại VN 50 năm qua và đang
ra sức tiếp tục thi hành trong những giờ phút mà lẽ ra họ phải vì dân,
vì nước mà chấm dứt từ nhiều năm trước. Họ đang ngồi giữa những núi
xương, sông máu của hàng triệu người dân vô tội, những anh hùng liệt sĩ
vị quốc vong thân, những người đã bỏ mình vì chính nghĩa và lý tưởng
tự do dân chủ, và giữa những tiếng kêu than oan hận của hàng triệu đồng
bào hiện đang thất nghiệp, thất học, thất chí, và sống cảnh bần hàn
đói rách chưa từng có trên đất nước VN. Sau đây là bản liệt kê để giúp
cho những người lãnh đạo CSVN nhớ lại những oan hồn, những tiếng kêu
than rên xiết đó là ai và từ đâu tới:
* Trên 2.000.000 thường dân và binh sĩ chết vì chiêu bài "cứu quốc" của Việt Minh từ năm 1945 tới giữa năm 1954;
*
47.000 người Bắc Việt đã bị bắn chết trước các tòa án nhân dân hoặc bị
tố khổ, bị cô lập để chết đói, và tự tử, gây đau khổ, khốn đốn cho
hàng trăm nghìn người thân quyến của họ, trong việc thi hành Chương
Trình Cải Cách Ruộng Đất trong thập niên 1950. Cuốn phim "Chúng Tôi
Muốn sống" của Nhà Đạo diễn Vĩnh Noãn đã khiến CSVN phải chấm dứt cuộc
tàn sát đồng bào miền Bắc:
Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho Đảng bền lâu cùng rập bước,
Thờ Mao Chủ Tịch chung lòng;
Thờ Sít Ta Linh bất diệt!
(Tố Hữu)
* 1,600,000 thường dân Miền Nam VN bị VC tàn sát trong thời kỳ chiến tranh từ 1962 đến đầu 1975;
* 10,000 hoặc hơn thường dân miền Nam bị Việt Cộng tàn sát trong vụ tấn công Mậu Thân, 1968;
* 20,000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa tử trận trong vụ tấn công Tết Mậu Thân;
* 100,000 binh si MTGPMN và CS Bắc Việt tử trận trong vụ tấn công Tết Mậu Thân;
* 300,000 binh sĩ của cả hai bên VNCH, VC và thường dân chết từ tháng giêng đến đầu tháng 5, 1975;
*
500,000 (hay hơn) thuyền nhân tử nạn trên biển Đông (bị bắn chìm, bị
lật tàu, bị hải tặc giết, hoặc đói, bệnh) từ 1978 tới 1992. Với Phương
Án số 2, CSVN đã tổ chức người vượt biên để thu vàng vào ngân quỹ. Mọi
người vượt biên định giá từ 1 tới 3 lượng. Nhiều tàu đánh cá chở gấp 2,
3 lần khả năng, bị lật chìm, hoặc bị binh sĩ VC bắn ra từ trên bờ,
nhất là ngoài khơi Rạch Giá và Vũng Tàu;
* 70,000 tới 80,000 tù nhân chính trị chết trong các trại giam của CSVN từ 1975;
* Hàng trăm tù nhân chính trị trốn trại bị bắn chết hay chết trong rừng;
*
100,000 hay hơn binh sĩ CSVN tử trận và bị giết tại Cao Miên ; có
những số binh sĩ CSVN tử trận mỗi ngày nhiều hơn là số binh sĩ CSVN
chết mỗi ngày trong chiến tranh chống VNCH. Theo lời một quan sát viên
CSVN thì những mộ chôn lính chí nguyện rãi rộng từ bến sỏi (Tây Ninh)
đến Hồng Ngự, từ ngoại ô PhnomPenh đến Xiêm Rệp và Battambang, ở Pai
Lin, Xằm Lốt. Mỗi ngày từ 10 tới 30 binh sĩ CSVN chết về mìn. Hầu hết
những chí nguyện quân miễn cưỡng này là thanh niên Miền Nam . Không một người nào là con cái các đảng viên Cộng Sản;
*
20,000 Việt kiều hay hơn nữa bị giết (cáp duồng) ở Cao Miên từ 1975
tới nay. Trong những tháng sắp tới lại sẽ có nhiều Việt Kiều ở Cao Miên
bị giết trong chiến dịch Cáp Duồng;
* Hàng trăm ngàn người chết tại các vùng kinh tế mới, vì bệnh hay vì đói rét;
* Hàng chục nghìn người chết vì điện giựt, mìn , tàu chìm, thú rừng, bảo lụt vì đê điều không được bảo trì hoặc tăng cường;
*
Và hiện nay hàng vạn người Việt đang bị khủng bố, sát hại, rượt đuổi
và nhục mạ tại các nước Đông Âu, Đức, Cao Miên , Hồng Kông và các trại
tỵ nạn Đông Nam Á
Những
con số thống kê về số người vì chiến tranh độc quyền "cứu quốc" của
CSVN mà bức tử có thể cao hơn nữa, nếu ta nhớ hết, và nhớ ngược trở lại
từ 1930, khi CS Đông Dương bắt đầu cuộc giết hại dân lành với vụ Nghệ
An Sô Viết, từ 1945.
Nếu
không có chiến tranh độc quyền của CSVN thì đã không xãy ra những vụ
tàn sát quy mô, những vụ phí phạm sinh mạng, nhân tài và vật lực như ta
thấy ở trên.
*
Hiện nay tại VN có hơn một triệu thương phế binh CS (chưa kể thương phế
binh VNCH) sống cơ cực không được cứu trợ hoạc săn sóc y tế;
*
Nhiều văn nghệ sĩ bị sa bẫy Nhân Văn Giải Phẩm hồi thập niên 1950 -
1960 và từ sau 1975 bị phê bình đàn áp, bóp nghẹt, theo lệnh Đảng;
* Chánh sách triệt hạ tôn giáo đã làm suy yếu, kiệt quệ tiềm lực của dân tộc;
*
Chánh sách trả thù nham hiểm đã làm mai một hàng vạn nhân tài, chuyên
viên, kỹ thuật gia, trí thức vô giá để kiến thiết quốc gia và tiến tới
dân chủ. Còn những người có khả năng không bị tù đầy ngược đãi thì đã
lần lượt vượt biên tìm tự do, hoặc đau ốm bệnh tật mà chết hoặc thành
phế nhân;
* Một cựu
đảng viên cộng sản đã vạch rõ ràng "tài sản đất nước bị phung phí. VN
bị liệt vào hàng mấy nước nghèo nhất thế giớ trong khi đất nước có dồi
dào tài nguyên thiên nhiên, nhiều tài nguyên nhân dụng và chất xám.
"Chiến lợi phẩm bị phá tan, bị rơi vãi, bị chiếm đoạt bởi các ngành,
các địa phương, vào túi cá nhân."
*
Những người không tìm ra công ăn việc làm đã phải lên núi, vào rừng
tìm vàng, tìm đá quí, hoặc tháo gở những gạch đá của những thành quách
cổ, những pho tượng cổ, những di tích lịch sử để bán lấy tiền sống qua
ngày.
*
Các khu rừng, và những cây cối ven rừng núi đã bị các quản giáo CSVN
bắt tù chính trị phải đi đốn về làm củi nấu ăn, cất trại, hoặc bán ra,
đã gây nên nạn đất chuồi, đất lở, nước lũ, tràn xuống gây lụt lội, trôi
nhà, sập đường. Voi và cá thú rừng khác ra tàn phá nhà cửa vườn ruộng
và giết chết dân lành. Theo ước tính của chính giới chức CSVN thì những
khu rừng bị tàn phá trong 17 năm qua lên tới 65% hoặc 75% diện tích
rừng VN.
VII/ MỘT LỜI KÊU GỌI KHẨN THIẾT
Qua
những chương trước, ta đã thấy rõ ràng từ năm 1945 đến năm 1992, ngót
nữa thế kỹ, CSVN đã gây không biết bao nhiêu là tai ương thảm cảnh,
thảm kịch cho người dân VN, đã gây vô vàn tội ác, đã phí phạm hàng
triệu sinh mạng nhân danh độc lập, tự do, hạnh phúc, nhân danh giải
phóng, để rồi từ 17 năm qua, nhân dân có lẽ chỉ thấy độc lập nhưng mất
tự do, mất hạnh phúc; chỉ thấy giải phóng kèm theo một chế độ độc tài
đảng trị, kỳ thị và chia rẽ Bắc, Nam, giai cấp hơn bao giờ hết!
Tại
một công viên Huế có một khẩu hiệu viết lại lời tuyên bố của Hồ Chí
Minh "Không có gì quí hơn độc lập tự do" nhưng có người nào đó đã bí
mật lấy sơn bôi đi tất cả các chữ khác, chỉ để lại 3 chữ "không có gì".
Đồng thời CSVN đã
phí phạm tài nguyên nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, di sản quốc gia,
gây phá sản cho nền kinh tế, cho cương thường đạo nghĩa, cho truyền
thống dân tộc và suy đồi cho bốn nghìn năm văn hiến.
Ai
ai cũng tự hỏi và hỏi nhau: Có phải những lãnh tụ cộng sản VN kia ngu
chăng? Hay là họ run sợ, đã lỡ cỡi lưng cọp? Hay là họ cứ ù lì riết sẽ
được việc? Hay là họ còn ham quyền ham lợi? Hay là họ quá tự ái kiểu
quân tử Tàu? Không có một câu trả lời riêng rẽ nào mà ổn cả. Mà có thể
tất cả những câu trả lời đó gộp lại mới may ra đúng.
Dù
sao thì đối tượng trên hết là 70 triệu dân VN đang khao khát tự do,
dân chủ, nhân quyền, đang đói rách và sống trong sự hổ thẹn, tủi nhục
với thế giới văn minh dân chủ, tân tiến.
Kinh
nghiệm 17 năm qua đã cho thấy rõ ràng là những con người tự do như
chúng ta đây đã thực sự tỏ ra bất lực trước bạo quyền CSVN. Tình trạng
này đã khiến cho các giới chân tu thấy rằng ngoài cố gắng thế tục, con
người cần phải nhờ cậy quyền năng của các đấng thiêng liêng mới thành
tựu được chính nghĩa tự do, công lý và nhân quyền.
Ba
ngày hội họp cầu nguyện, theo lời Đức Ông Trần Văn Hoài là "dấu chứng
của đức tin vào khả năng của tâm hồn có thể thay đổi được vận mệnh của
nước nhà, có thể thực hiện được một nền hòa bình chân thật, (không phải
nền hòa bình của nghĩa trang, của nhà tù, mà là) nền hòa bình trong đó
người hòa với người và thuận ý trời, để toàn dân được hạnh phúc, phát
huy được giá trị nhân phẩm của mình.".
Cuộc
chiến tranh của CSVN dưới chiêu bài giải phóng đã gây chết chóc, tang
tóc cho hàng triệu người để đi đến kết quả là cả một nền kinh tế sụp
đổ, cả một dân tộc sụp đổ, cả một nền văn hóa đạo lý sụp đổ. Người CSVN
nhân danh giải phóng, thống nhất nước nhà để giam cầm đầy đọa hàng
trăm nghìn người gây đau thương tủi nhục cho hàng triệu gia đình.
Nước Việt Nam
thống nhất của Hồ Chí Minh, sau 17 năm đã càng thêm nghèo đói, với sự
gia tang ngày càng dữ dội nạn cờ bạc, đĩ điếm, tham nhũng, hối lộ. Nước
Việt Nam ngày nay đã thành một hỏa ngục. Những người cộng sản cũ cũng phải kêu than lên rằng tại Việt Nam
ngày nay "người ta hối hả bon chen, hối hả kiếm chác. Người ta vội
vàng chụp giựt nhà cửa, biệt thự, vị trí, cho con cái đi học, xuất khẩu
lao động, đi Tây, mua bán hàng hiếm, hàng phân phối. Mọi cái có đi có
lại, qua thư trao tay, qua thư móc ngoặc".
Trong
khi đó, họ "tiếp tục giết hại nhân dân, hũy diệt văn hóa, triệt hại
tôn giáo, tiêu diệt nhân tài, phá hoại quốc sản, bần cùng hóa cả một
dân tộc".
Người
cộng sản Việt Nam đang tìm đủ mọi cách để củng cố quyền hành, địa vị và
quyền lợi của họ và tập đoàn thống trị bằng cách ve vãn chiều chuộng,
mua chuộc đồng chí đàn anh Trung cộng và các nhà đầu tư, thương nhân
ngoại quốc. Họ bán bừa bãi các tài sản quốc gia, đá quí, ngọc quí, cổ
vật cho người ngoại quốc để phòng thân. Trên tay họ bưng dâng những cơ
hội đầu tư vô giá cho nước ngoài trên những đĩa bạc, nhưng cả thân mình
họ ngâm trong những giếng nước mắt của 70 triệu người dân đói khổ, đau
xót tủi nhục. Nếu trước năm 1975, những bàn tay cộng sản trên thế giới
đã vấy máu VN thì ngày mai đây những bàn tay của những nhà đầu tư và
thương nhân ngoại quốc sẽ có thể vấy máu và nước mắt của hàng triệu
người Việt Nam
đau khổ. Họ cũng có thể nhìn thấy những giọt nước mắt này trong những
ly nước, trong những chán súp của họ tại các khách sạn, các nhà hàng,
các phòng trà Việt Nam .
Dư
luận người Việt trong mấy mươi năm qua đã thấy, và nay thì chính những
người cộng sản đã giác ngộ cũng nhìn nhận rằng cộng sản Việt Nam là kẻ có tội với quốc dân.
- Chính họ đã từ bỏ con đường dân tộc để phục vụ quyền lợi nước ngoài;
-
Chính họ đã làm cho VN trở thành một trong năm nước nghèo nhất thế
giới, trong khi VN có đủ tài nguyên thiên nhiên và người Việt có thừa
xảo năng. Cả nước phải ngữa tay xin ngoại viện.
- Chính họ đã giết 47,000 nông dân vô tội trong cuộc cải cách ruộng đất;
- Chính họ đã giết hại và gây chết chóc cho 5,000,000 người dân Việt từ năm 1945 tới nay;
Là
những người con của nước Việt, chúng tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế và
các nhà đầu tư hãy giúp nhân dân Việt Nam chấm dứt một chế độ vô nhân,
một chế độ thiếu hẵn tình người, nếu quý vị không còn muốn chứng kiến
những thảm cảnh xã hội, những thảm cảnh gia đình và suối lệ của người
Việt Nam đau khổ, tủi nhục, đói rách và bị cướp mất nhân cách của họ
nữa. Vì những sự kiện nêu trên, chúng tôi tha thiết kêu gọi tất cả các
chính phủ trên thế giới và các nhà đầu tư quốc tế hãy tạm thời ngưng
chỉ mọi hoạt động đầu tư, mọi hợp tác, mọi thương nghị với chính phủ
CHXHCNVN cho đến giờ phút mà nhân quyền, tự do tín ngưỡng và công bằng
được tôn trọng và bảo đảm bởi luật pháp và chính phủ; chúng tôi kêu gọi
chính phủ Hoa K ỳ hãy tiếp tục thi hành lệnh cấm vận và chỉ bãi bỏ
lệnh cấm vận và bang giao với chính phủ cộng sản Việt Nam khi nào các
nguyện vọng chính đáng của dân tộc Việt Nam, như trình bày ở trên, được
thỏa mãn.
Một
chính phủ Cộng Sản Việt Nam gây chết chóc cho 5 triệu sinh mạng trong
chiến tranh, một chính phủ chịu trách nhiệm về cảnh nghèo đói cùng cực
của một dân tộc dồi dào tài năng, xảo năng, một chính phủ tạo ra một
nền kinh tế què quặt, một nền giáo dục phá sản, và một xã hội sụp đổ...
không thể ngang nhiên tự tại và được sự hợp tác và giúp đở của các
nước văn minh, dân chủ cho đến giờ phút chính phủ đó thực tâm, nghiêm
chỉnh thay đổi hoàn toàn tận gốc, đi theo chiều hướng các xã hội tân
tiến, thực hiện dân chủ đa nguyên, tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhân
quyền và dân quyền.
Đó mới là hành động giúp dân tộc Việt Nam
tiến tới một nền hòa bình lâu bền, một xã hội ổn định để quốc tế có
thể đến đầu tư và giao thương lâu dài. Và chỉ có hành động đó mới mang
lại kết quả mong muốn.
Trong
cuộc gặp gở, trong thân tình tín hữu, chúng tôi cũng kính khẩn thiết
khẩn cầu Đức Thánh Cha và các hàng Giáo Phẩm Tòa Thánh hãy cầu nguyện
Ơn Trên và dùng ảnh hưởng và uy tín của mình để giải quyết nguyện vọng
cho dân tộc Việt Nam, giúp dân tộc Việt Nam ra khỏi cái vực thẳm kinh
tế, bàn tay đàn áp tôn giáo, những hành động vi phạm nhân quyền và chà
đạp nhân phẩm, mà nhân dân Việt Nam là nạn nhân từ nhiều năm nay.
TS. Dư Phước Long
Sunday, April 18, 2010
THƠ HOÀI HƯƠNG
Ta Chẳng Về Chi
Bạn hỏi ta sao chẳng trở về
Về chơi nối lại mối tình quê
Theo bạn bên nhà giờ vui lắm
Tha hồ du hí, sướng hả hê!
Ta nghe bạn tả, dạ nao nao
Bao năm biệt xứ nhớ làm sao
Vẫn hằng mơ ước về quê cũ
Cho thỏa chờ mong tự thuở nào
Nhưng rồi nghĩ lại ta chẳng về
Xá gì một phút chốc đam mê!
Để rồi phải thấy bao ngang trái
Bao nỗi tang thương luống não nề
Bạn trách bao người đã hồi hương
Cứ ngồi tiếc nuối với vấn vương!
Ta đã ra đi trong hận tủi
Về chi gợi dĩ vãng đau thương
Bạn rủ ta về thăm phố phường
Thăm mái nhà xưa, những người thương
Nhà xưa bị chiếm còn đâu nữa
Người thương thời tản mác bốn phương
Bạn bảo quê hương giờ thanh bình
Danh lam, thắng cảnh thật đẹp xinh
Lòng ta còn đâu mà du ngoạn
Khi thấy bên đường cảnh điêu linh
Bạn giục tội gì không về chơi
Đất nước giờ đây đổi thay rồi
Ta thấy vẫn ngục tù, bắt bớ
Đàn áp không ai được hé môi
Bạn nói về đi ăn đã đời!
Sao ta có thể nuốt cho trôi
Khi thấy chung quanh bao đứa bé
Chẳng có miếng ăn, đứng chực chờ
Bạn kể ta nghe rất mê hồn!
Các em mơn mởn, hãy còn son
Ta thấy xót thương thân nhi nữ
Mới từng ấy tuổi phải bán trôn
Bạn khuyên lo sướng cho thân mình
Dại gì để ý chuyện linh tinh!
Ta chẳng thể nào câm nín được
Trước sự trái tai, cảnh bất bình
Bạn có thể vui thú nhởn nhơ?
Mặc ai rên xiết, cứ làm ngơ
Ta không nỡ sống trên đau khổ
Ôm mối hoài hương ở xứ người.
***
http://thangtien.de/index.php?option=com_content&task=view&id=1766&Itemid=396Bạn hỏi ta sao chẳng trở về
Về chơi nối lại mối tình quê
Theo bạn bên nhà giờ vui lắm
Tha hồ du hí, sướng hả hê!
Ta nghe bạn tả, dạ nao nao
Bao năm biệt xứ nhớ làm sao
Vẫn hằng mơ ước về quê cũ
Cho thỏa chờ mong tự thuở nào
Nhưng rồi nghĩ lại ta chẳng về
Xá gì một phút chốc đam mê!
Để rồi phải thấy bao ngang trái
Bao nỗi tang thương luống não nề
Bạn trách bao người đã hồi hương
Cứ ngồi tiếc nuối với vấn vương!
Ta đã ra đi trong hận tủi
Về chi gợi dĩ vãng đau thương
Bạn rủ ta về thăm phố phường
Thăm mái nhà xưa, những người thương
Nhà xưa bị chiếm còn đâu nữa
Người thương thời tản mác bốn phương
Bạn bảo quê hương giờ thanh bình
Danh lam, thắng cảnh thật đẹp xinh
Lòng ta còn đâu mà du ngoạn
Khi thấy bên đường cảnh điêu linh
Bạn giục tội gì không về chơi
Đất nước giờ đây đổi thay rồi
Ta thấy vẫn ngục tù, bắt bớ
Đàn áp không ai được hé môi
Bạn nói về đi ăn đã đời!
Sao ta có thể nuốt cho trôi
Khi thấy chung quanh bao đứa bé
Chẳng có miếng ăn, đứng chực chờ
Bạn kể ta nghe rất mê hồn!
Các em mơn mởn, hãy còn son
Ta thấy xót thương thân nhi nữ
Mới từng ấy tuổi phải bán trôn
Bạn khuyên lo sướng cho thân mình
Dại gì để ý chuyện linh tinh!
Ta chẳng thể nào câm nín được
Trước sự trái tai, cảnh bất bình
Bạn có thể vui thú nhởn nhơ?
Mặc ai rên xiết, cứ làm ngơ
Ta không nỡ sống trên đau khổ
Ôm mối hoài hương ở xứ người.
***
THƠ THANH THANH
CHÚ TÂM
Tháng Tư Đen, trên quốc-lộ kinh-hoàng,
Tăng cộng-sản xéo bừa dân chạy giặc.
Trong những xác nạn-nhân phường quốc-tặc
Có một bà bỏ lại ... đứa con thơ .
Tăng cộng-sản xéo bừa dân chạy giặc.
Trong những xác nạn-nhân phường quốc-tặc
Có một bà bỏ lại ... đứa con thơ .
Chú tên Tâm, năm tuổi, sống bơ-vơ,
Được Tỉnh-Hội nhận vào chùa bảo dưỡng.
Lòng vốn Phật mà thân lâm nghiệp-chướng;
Kẻ tan nhà, người mất nước: như nhau .
Được Tỉnh-Hội nhận vào chùa bảo dưỡng.
Lòng vốn Phật mà thân lâm nghiệp-chướng;
Kẻ tan nhà, người mất nước: như nhau .
Tí tuổi đầu, an phận với dưa rau,
Cũng bị bắt, để... điều-tra lý-lịch!
Chúng hạch-hỏi, nghi là con của ... "địch"
Khiến qúy Thầy khai hộ-khẩu khôn thông!
Cũng bị bắt, để... điều-tra lý-lịch!
Chúng hạch-hỏi, nghi là con của ... "địch"
Khiến qúy Thầy khai hộ-khẩu khôn thông!
Rồi Công-An vào, đội lốt nâu-sồng,
Đuổi số lớn tăng ni ra khỏi Viện.
Chánh Đại Diện thành bình-phong "đại biện":
"Thiếu-nhi" Tâm bị cấm học "nghề" tu!
Đuổi số lớn tăng ni ra khỏi Viện.
Chánh Đại Diện thành bình-phong "đại biện":
"Thiếu-nhi" Tâm bị cấm học "nghề" tu!
Chú theo Thầy Khuôn-Hội xuống ven khu,
Học đọc viết: phải quàng khăn đỏ máu;
Nhưng học đạo-nghĩa: Thầy khuyên dạy cháu
Sống trọn lành Bi Trí Dũng phương-châm...
Học đọc viết: phải quàng khăn đỏ máu;
Nhưng học đạo-nghĩa: Thầy khuyên dạy cháu
Sống trọn lành Bi Trí Dũng phương-châm...
"Cải-tạo" về, sau đó mười ba năm,
Tôi đến viếng, "chú Tâm" vừa bị bắt:
Chú chống việc qua Miên làm ngoại-tặc
("Nghiã-vụ" mà! Tu-sĩ cũng không tha!)...
Tôi đến viếng, "chú Tâm" vừa bị bắt:
Chú chống việc qua Miên làm ngoại-tặc
("Nghiã-vụ" mà! Tu-sĩ cũng không tha!)...
Nay, ở nước người, thương nhớ quê ta,
Xem phim báo, cuộc xuống đường ở Huế**,
Thấy trong số tăng đồ (sao giống thế?)
Có một nhà sư trẻ -- Thích Từ Tâm?
Xem phim báo, cuộc xuống đường ở Huế**,
Thấy trong số tăng đồ (sao giống thế?)
Có một nhà sư trẻ -- Thích Từ Tâm?
Vâng, dân mình đâu phải điếc, mù, câm?
Đã dị-ứng, loại-trừ bao nọc độc:
Đã dị-ứng, loại-trừ bao nọc độc:
Một ngàn năm không đồng dòng Hán-tộc!
Một trăm năm không hoá giống Gô-loa!
Trùng Mác+Lê không thể nhiễm đầu ta!
Một trăm năm không hoá giống Gô-loa!
Trùng Mác+Lê không thể nhiễm đầu ta!
Hải-nội, hải-ngoại, mọi ngành, mọi đạo,
Đã đứng dậy, quyết trừ gian, diệt bạo,
Đã đứng dậy, quyết trừ gian, diệt bạo,
Cho đồng-bào an+lạc -- Chú Tâm ơi !
THANH-THANH
SƠN TRUNG * CHÍNH TRỊ
*
CUỘC ĐẤU TRANH MỚI CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Sơn Trung
Trên thế giới, có lẽ chưa có dân tộc nào điêu linh khốn khổ như dân tộc Việt Nam. Nước Việt Nam nghèo lại luôn luôn bị chiến tranh tàn phá , hết ngoại xâm lại đến nội chiến. Tại họa gần nhất cho Việt Nam và thế giới là hiểm họa cộng sản. Lực lượng cộng sản chiếm cứ khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Đây là cuộc thế chiến,và cũng là một cuộc chiến tranh ý thức hệ, bao gồm chiến trạnh lạnh và nóng. Việt Nam, Miên, Lào, Triều Tiên cùng chung số phận.
Thế giới chia làm hai phe: phe tự do và phe cộng sản. Nước ta một nửa theo cộng sản, một nửa theo quốc gia. Cuộc chiến tại Việt Nam đã kết thúc sau 30 năm khói lửa với chiến thắng của thế giới cộng sản. Mỹ thất bại hay Mỹ rút lui theo một kế hoạch nào? Cuộc tranh luận chưa chấm dứt .Phe cộng sản nói rằng họ chiến thắng trong khi người Mỹ thì cúi đầu im lặng!
Mỹ thất bại hay Mỹ rút lui có kế hoạch? Câu hỏi chưa có giải đáp nhưng rõ rệt là Việt Nam cộng hòa đã bị bỏ rơi, đã bị cài vào cái thế bại trận như Mỹ chấm dứt viện trợ tiền bạc, vũ khí cho VNCH. Trong những ngày cuối cùng, quân VNCH chỉ còn xăng chỉ để làm nóng máy bay và xe tăng, đạn dược chỉ còn vài viên. Có nơi, người Mỹ ra lệnh quân Cộng Hòa bắn lên trời cho hết viện đạn cuối cùng.
Dẫu sao, quân dân miền Nam chỉ là con tốt, con pháo, con mã bị hy sinh cho ý đồ của cường quốc. Chúng ta không thoát được số phận nhược tiểu trong cuộc chiến toàn cầu.
I.QUỐC NỘI
A. CÁC NGUY CƠ CHO VIỆT NAM
Hai tai họa đã và đảng xảy đến cho dân tộc Việt Nam, đó là nạn cộng sản Việt Nam và nạn thực dân Trung Quốc
1. Nạn cộng sản.
Ngày nay cộng sản đổi mới nhưng chúng chỉ đổi mới kinh tế nghĩa là buôn bán với tư bản và công khai làm giàu phi pháp, nhưng chính trị , văn hóa vẫn theo lề lối cũ.
Tai nạn cộng sản bao gồm những điểm sau:
a. Vô pháp luật: cộng sản có pháp luật nhưng là là bề ngoài, còn thực tế cộng sản coi khinh pháp luật, chúng muốn bắt ai là tùy thích, chúng dung túng cho đảng viên ăn cắp, cướp đất đai của nhân dân và của các giáo hội. Chúng công khai tham nhũng, mà không hề bị trừng trị.
b. Phi dân chủ: Chúng tuyên bố lập ra chế độ dân chủ cộng ( Việt Nam dân chủ cộng hòa, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) nhưng thực chất là phát xít và Mafia.Quốc hội chỉ là bù nhìn, nhân dân mất hết tự do, dân chủ.
c. Phản quốc hại dân:
Cộng sản Việt Nam bán đất đai và biển cho ngoại bang. Muôn sự khởi từ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh đã cam tâm làm nô lệ Nga Tàu.
2. Nạn thực dân:
Trước đây cộng sản huyênh hoang tuyên truyền sẽ xây dựng một thế giới hoà bình, thịnh vượng, không giai cấp, xóa tan biên cương quốc gia.Thực tế thì trái ngược. Cộng sản càng tạo ra nhiều giai cấp, cộng sản bóc lột toàn dân mà trong đó nặng nề nhất là công nhân, nông dân. Cộng sản Nga Tàu đã trở nên những lực lượng thực dân đế quốc tàn bạo hơn Anh, Pháp, Mỹ, vì trong lịch sử thế giới, Cộng sản giết người nhiều nhất, hơn cả Đức quốc xã,
Đầu thế kỷ XXI, Liên Xô và Đông Âu tan rã, . .Trung Quốc nhảy lên thay thế vai trò chủ nhân thế giới cộng sản. Và sau khi đổi mới, Trung quốc trở nên mạnh hơn trước, Trung quốc đã xâm lăng Việt Nam, đàn áp Tây Tạng, Mông Cổ, và đã xâm lược kinh tế ở Phi châu và nhiều nước khác. Ngày nay, Trung Quốc đã đem binh cướp đất, cướp biển Việt Nam, đồng thời chúng còn bắt bọn Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh ký kết các bản hiếp ước bất bình đảng, dâng đất, hiến biển cho Trung Quốc.
B. TƯƠNG LAI CỦA VIỆT NAM
1. Nạn Cộng sản
Chủ nghĩa cộng sản đã bóc lột nhân dân, gây nên khoảng cách biệt lớn lao trong xã hội Việt Nam. Tài sản và quyền lợi quốc gia lọt vào một số lãnh đạo gian tham trong khi dân chúng khốn khổ.Nhân dân mất tự do, nhà văn, nhà báo , các lãnh tụ tôn giáo cương trực và chánh nghĩa và các nhà tranh đấu cho dân chủ bị đàn áp, Đây là một tai họa mà nhân dân Việt Nam phải triệt để thủ tiêu để xây dựng một xã hội tự do, dân chủ thật sự.
2.Tại họa đế quốc xâm lược
Trước sự đầu hàng của bọn Lê Chiêu Thống, nhân dân ta cần có một Quang Trung đánh tan quân Trung Quốc để làm hai nhiệm vụ một lúc là phản đế và diệt cộng.
Một hoặc cả nhiều sự kiện có thể xảy ra:
a. Trung Quốc áp dụng chiến thuật tàm thực hay xâm lược gián tiếp.:
b. Trung quốc đem quân trực tiếp chiếm đóng Việt Nam
c. Trước thì gián tiếp, sau sẽ xâm lược trực tiếp: Đó cũng là trường hợp Liên Xô xâm chiếm Đông Âu trước đây.
Trong các trường hợp trên, nhân dân Việt Nam có thể phản ứng bằng nhiều cách:
+Cúi đầu làm nô lệ Trung Quốc
+Chống đối bất bạo động
+Bạo động:
Ở đây nhân dân ta có thể dùng mọi phương cách đấu tranh từ chính trị, kinh tế cho đến quân sự. Về quân sự, nhân dân ta có thể áp dụng du kích chiến.Việc này có thể đưa đến lật đổ chính phủ cộng sản tay sai Trung Quốc để thiết lập một chính thể tự do, dân chủ. Có thể nhân dân ta lập chiến khu, lập tân chính phủ chống Việt cộng và Trung Cộng.
II.QUỐC NGOẠI
Ở đây, chúng ta nói đến thế giới tự do đối với Trung Quốc và đồng bào hải ngoại đối với cộng sản.
Hiện nay, nhiều dấu hiệu tỏ ra Trung Cộng đã nhượng bộ, nhất là trong cuôc hội nghi thượng đỉnh tại Mỹ, Hồ Cẩm Đào đã ủng hộ việc trừng phạt Iran.Nhưng sự nhượng bộ trên là thực tâm hay chỉ là che đậy một kế hoạch tấn công chớp nhoáng để cho Mỹ không kịp trở tay?
Sớm hay muộn thì chúng ta sẽ rõ.
Nếu người Việt Nam yêu nước thì phải sẵn sàng trong vận hội mới. Thời gian sẽ không xa.Người Việt Nam chỉ có chọn trong hai con đường: theo Trung Cộng hay theo Mỹ. Những kẻ theo Trung Cộng như Hồ Chí Minh, Hoàng Văn Hoa, Phạm Văn Đồng là phản bội tổ quốc, phản bội công lao tiền nhân đã bình Tống, đả Nguyên và diệt Thanh để giành độc lập. Theo cộng sản rõ ràng là phản quốc, hại dân, cam tâm làm tôi mọi Trung Quốc. Đồng minh với Mỹ là con đường cứu nước giúp dân, và xây dựng đất nước tự do, dân chủ và giàu mạnh như Phi Luật Tân, Singapore, Thái Lan, Nam Hàn, Đài Loan. Còn tôi tớ cho Trung Quốc là theo số phận nghèo khổ và nô lệ mất nước của Bắc Hàn, Mông Cổ.
*
CUỘC ĐẤU TRANH MỚI CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Sơn Trung
Trên thế giới, có lẽ chưa có dân tộc nào điêu linh khốn khổ như dân tộc Việt Nam. Nước Việt Nam nghèo lại luôn luôn bị chiến tranh tàn phá , hết ngoại xâm lại đến nội chiến. Tại họa gần nhất cho Việt Nam và thế giới là hiểm họa cộng sản. Lực lượng cộng sản chiếm cứ khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Đây là cuộc thế chiến,và cũng là một cuộc chiến tranh ý thức hệ, bao gồm chiến trạnh lạnh và nóng. Việt Nam, Miên, Lào, Triều Tiên cùng chung số phận.
Thế giới chia làm hai phe: phe tự do và phe cộng sản. Nước ta một nửa theo cộng sản, một nửa theo quốc gia. Cuộc chiến tại Việt Nam đã kết thúc sau 30 năm khói lửa với chiến thắng của thế giới cộng sản. Mỹ thất bại hay Mỹ rút lui theo một kế hoạch nào? Cuộc tranh luận chưa chấm dứt .Phe cộng sản nói rằng họ chiến thắng trong khi người Mỹ thì cúi đầu im lặng!
Mỹ thất bại hay Mỹ rút lui có kế hoạch? Câu hỏi chưa có giải đáp nhưng rõ rệt là Việt Nam cộng hòa đã bị bỏ rơi, đã bị cài vào cái thế bại trận như Mỹ chấm dứt viện trợ tiền bạc, vũ khí cho VNCH. Trong những ngày cuối cùng, quân VNCH chỉ còn xăng chỉ để làm nóng máy bay và xe tăng, đạn dược chỉ còn vài viên. Có nơi, người Mỹ ra lệnh quân Cộng Hòa bắn lên trời cho hết viện đạn cuối cùng.
Dẫu sao, quân dân miền Nam chỉ là con tốt, con pháo, con mã bị hy sinh cho ý đồ của cường quốc. Chúng ta không thoát được số phận nhược tiểu trong cuộc chiến toàn cầu.
Hơn
ba mươi năm trôi qua, nay tình thế lại đổi khác. Đã có gió và mưa
nhưng những đám mây đen đang dần dần xuất hiện ở chân trời báo hiệu
một cơn bão tố kinh hồn khác sẽ đến.Sau khi thắng Mỹ, thống nhất đất
nước, người cộng sản Việt Nam tự hào đánh thắng bốn cường quốc trên thế
giới:Nhật, Pháp, Mỹ và Trung quốc, và họ nghĩ rằng đất nước Việt Nam
từ 1975 sẽ vĩnh viễn hòa bình, độc lập. Họ mặc sức thao túng tài sản
quốc gia, họ coi khinh nhân dân vì không ai dám chống đối và không có
thế lực nào ủng hộ cho cuộc nổi dậy của nhân dân. Họ đã tự đắc và họ đã
lầm.Họ đánh con hổ nhưng lại rước con sư tử vào nhà. Đánh thắng Mỹ tại
Triều Tiên, Việt Nam chỉ là giai đoạn một của chiến lược toàn cầu của
Trung Quốc. Trung Quốc sẽ thi hành giai đoạn hai là nuốt trọn Việt Nam
và xâm chiếm thế giới . Chống Pháp Mỹ chỉ là giai đoan buông câu thả
lưới, bây giờ là giai đoạn thu hoạch hoa lợi, họ sẽ kéo lưới, sẽ giật
cần câu, bắt con cá cộng sản Việt Nam trong bao năm đã cắn câu, đã mắc
lưới!
I.QUỐC NỘI
A. CÁC NGUY CƠ CHO VIỆT NAM
Hai tai họa đã và đảng xảy đến cho dân tộc Việt Nam, đó là nạn cộng sản Việt Nam và nạn thực dân Trung Quốc
1. Nạn cộng sản.
Ngày nay cộng sản đổi mới nhưng chúng chỉ đổi mới kinh tế nghĩa là buôn bán với tư bản và công khai làm giàu phi pháp, nhưng chính trị , văn hóa vẫn theo lề lối cũ.
Tai nạn cộng sản bao gồm những điểm sau:
a. Vô pháp luật: cộng sản có pháp luật nhưng là là bề ngoài, còn thực tế cộng sản coi khinh pháp luật, chúng muốn bắt ai là tùy thích, chúng dung túng cho đảng viên ăn cắp, cướp đất đai của nhân dân và của các giáo hội. Chúng công khai tham nhũng, mà không hề bị trừng trị.
b. Phi dân chủ: Chúng tuyên bố lập ra chế độ dân chủ cộng ( Việt Nam dân chủ cộng hòa, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) nhưng thực chất là phát xít và Mafia.Quốc hội chỉ là bù nhìn, nhân dân mất hết tự do, dân chủ.
c. Phản quốc hại dân:
Cộng sản Việt Nam bán đất đai và biển cho ngoại bang. Muôn sự khởi từ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh đã cam tâm làm nô lệ Nga Tàu.
2. Nạn thực dân:
Trước đây cộng sản huyênh hoang tuyên truyền sẽ xây dựng một thế giới hoà bình, thịnh vượng, không giai cấp, xóa tan biên cương quốc gia.Thực tế thì trái ngược. Cộng sản càng tạo ra nhiều giai cấp, cộng sản bóc lột toàn dân mà trong đó nặng nề nhất là công nhân, nông dân. Cộng sản Nga Tàu đã trở nên những lực lượng thực dân đế quốc tàn bạo hơn Anh, Pháp, Mỹ, vì trong lịch sử thế giới, Cộng sản giết người nhiều nhất, hơn cả Đức quốc xã,
Đầu thế kỷ XXI, Liên Xô và Đông Âu tan rã, . .Trung Quốc nhảy lên thay thế vai trò chủ nhân thế giới cộng sản. Và sau khi đổi mới, Trung quốc trở nên mạnh hơn trước, Trung quốc đã xâm lăng Việt Nam, đàn áp Tây Tạng, Mông Cổ, và đã xâm lược kinh tế ở Phi châu và nhiều nước khác. Ngày nay, Trung Quốc đã đem binh cướp đất, cướp biển Việt Nam, đồng thời chúng còn bắt bọn Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh ký kết các bản hiếp ước bất bình đảng, dâng đất, hiến biển cho Trung Quốc.
B. TƯƠNG LAI CỦA VIỆT NAM
1. Nạn Cộng sản
Chủ nghĩa cộng sản đã bóc lột nhân dân, gây nên khoảng cách biệt lớn lao trong xã hội Việt Nam. Tài sản và quyền lợi quốc gia lọt vào một số lãnh đạo gian tham trong khi dân chúng khốn khổ.Nhân dân mất tự do, nhà văn, nhà báo , các lãnh tụ tôn giáo cương trực và chánh nghĩa và các nhà tranh đấu cho dân chủ bị đàn áp, Đây là một tai họa mà nhân dân Việt Nam phải triệt để thủ tiêu để xây dựng một xã hội tự do, dân chủ thật sự.
2.Tại họa đế quốc xâm lược
Trước sự đầu hàng của bọn Lê Chiêu Thống, nhân dân ta cần có một Quang Trung đánh tan quân Trung Quốc để làm hai nhiệm vụ một lúc là phản đế và diệt cộng.
Một hoặc cả nhiều sự kiện có thể xảy ra:
a. Trung Quốc áp dụng chiến thuật tàm thực hay xâm lược gián tiếp.:
b. Trung quốc đem quân trực tiếp chiếm đóng Việt Nam
c. Trước thì gián tiếp, sau sẽ xâm lược trực tiếp: Đó cũng là trường hợp Liên Xô xâm chiếm Đông Âu trước đây.
Trong các trường hợp trên, nhân dân Việt Nam có thể phản ứng bằng nhiều cách:
+Cúi đầu làm nô lệ Trung Quốc
+Chống đối bất bạo động
+Bạo động:
Ở đây nhân dân ta có thể dùng mọi phương cách đấu tranh từ chính trị, kinh tế cho đến quân sự. Về quân sự, nhân dân ta có thể áp dụng du kích chiến.Việc này có thể đưa đến lật đổ chính phủ cộng sản tay sai Trung Quốc để thiết lập một chính thể tự do, dân chủ. Có thể nhân dân ta lập chiến khu, lập tân chính phủ chống Việt cộng và Trung Cộng.
Như
trên đã nói, nhân dân Việt Nam luôn bị nạn ngoại xâm và nội chiến.
Cuộc tranh đấu trước đã chấm dứt nay thì nhân dân Việt Nam lại phải lên
đường tranh đấu lần nữa. Cuộc tranh đấu này khó khăn hơn trước vì
trước mắt cộng sản Việt Nam tàn ác, Trung Cộng hung bạo và lưu manh. Dù
không ai ủng hộ, chúng ta phải tranh đấu đấu để tồn tại bằng mọi cách
dù là âm thầm hoặc công khai. Một số chiến sĩ đã lên đường sau 1975
như Huyền Quang, Quảng Độ, Võ Văn Ái, Thích Thiện Tâm, Nguyễn Văn Lý,
Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang, Lê Thị Công Nhân, Trần Khải Thanh Thủy .
.Chúng ta hy vọng lực lượng dân chủ ngày càng vững mạnh để giải phóng
dân tộc Việt Nam khỏi ách cộng sản.Trước 1975, một nữa người theo cộng
sản vì họ chưa có kinh nghiệm về cộng sản. Lúc bấy giờ một số theo cộng
sản, nay thì họ đã thấy rõ cộng sản cướp tài sản nhân dân và bán nước,
làm cho đời sống nhân dân khổ sở hơn trước thì họ sẽ không còn ủng hộ
cộng sản. Và còn đường duy nhất trước mặt phải đi là con đường độc lập
tự do và dân chủ.
Cộng sản độc tài, tàn ác tham nhũng thì còn tệ hại hơn quân chủ và tư bản, thực dân.Một số nhân dân Việt Nam đã ý thức về tai họa cộng sản . Người quốc gia đã chọn một trong hai đường là tự do và cộng sản. Thực dân Pháp tàn ác nhưng còn có nhiều tính nhân đạo. Thực dân Pháp đã không trả thù những nhà chính trị chống Pháp mà còn cho họ đất sống và chỗ đứng trong xã hội như Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Sĩ Giác nhưng cộng sản thì giết hại những chiến hữu của họ và giam giữ những người quay về với họ như trường hợp con tàu Việt Nam Thương Tín. Hữu Loan,Trần Độ , Nguyễn Chí Thiện và Vũ Thư Hiên đã xác nhận điều này. Người quốc gia như Trần Trọng Kim, Nhất Linh, Vũ Hồng Khanh, Trần Văn Tuyên đã phải về vùng quốc gia chính là vì điểm này.
Trước đây một số người cộng sản đã giác ngộ như Trần Xuân Bách, Trần Độ, Trần Thư, Nguyễn Kiến Giang lên tiếng phản đối chế độ cộng sản phi dân chủ và tham nhũng, tàn ác. Và nay một số người cộng sản đã lên tiếng về việc cộng sản Việt Nam bán nước và Trung Cộng xâm lược. Những ai một thời theo cộng sản về ghét tư bản bóc lột , mơ về một thiên dường cộng sản và độc lập thì nay họ sẽ thấy cộng sản bóc lột hơn tư bản, thực dân, đế quốc tư bản tử tế hơn đế quốc cộng sản. Ông bà ta đã hiểu rõ tâm lý con người và lịch sử xã hội:
"Ở gần nhà giàu mỏi răng ăn cốm,
Ở gần anh kẻ trộm, ốm thân (đau lưng) chịu đòn"
Tục ngữ ta cũng có câu:
"Làm đây tớ cho nhà quan còn hơn làm bạn với kẻ cướp"
Hoặc "Làm đầy tớ cho nhà giàu còn hơn làm thầy thằng dốt"
Cuộc đời chỉ là tương đối, giữa thằng chột và thằng mù, cô thiếu nữ chắc phải chọn thằng chột!
Trong cuộc bang giao Hoa Việt trước đây cho đến bây giờ ,Trung Cộng là bọn cướp tàn ác, bọn lưu manh gian trá, chúng là kẻ thù truyền kiếp của nhân dân ta chứ không phải là đồng chí anh em như ông Hồ đã tuyên bố!Ông Hồ một là ngu hoặc là gian nịnh, phỉnh phờ trong thương vu bán nước..
Nay thì nhân dân Việt Nam đã rõ chủ nghĩa cộng sản là lý thuyết gian dối, Trung quốc là bọn xâm lược thì phải tỏ rõ lập trường và thái độ, nghĩa là phải tiêu diệt một lúc hai tai họa là cộng sản và Trung Cộng.
Cộng sản độc tài, tàn ác tham nhũng thì còn tệ hại hơn quân chủ và tư bản, thực dân.Một số nhân dân Việt Nam đã ý thức về tai họa cộng sản . Người quốc gia đã chọn một trong hai đường là tự do và cộng sản. Thực dân Pháp tàn ác nhưng còn có nhiều tính nhân đạo. Thực dân Pháp đã không trả thù những nhà chính trị chống Pháp mà còn cho họ đất sống và chỗ đứng trong xã hội như Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Sĩ Giác nhưng cộng sản thì giết hại những chiến hữu của họ và giam giữ những người quay về với họ như trường hợp con tàu Việt Nam Thương Tín. Hữu Loan,Trần Độ , Nguyễn Chí Thiện và Vũ Thư Hiên đã xác nhận điều này. Người quốc gia như Trần Trọng Kim, Nhất Linh, Vũ Hồng Khanh, Trần Văn Tuyên đã phải về vùng quốc gia chính là vì điểm này.
Trước đây một số người cộng sản đã giác ngộ như Trần Xuân Bách, Trần Độ, Trần Thư, Nguyễn Kiến Giang lên tiếng phản đối chế độ cộng sản phi dân chủ và tham nhũng, tàn ác. Và nay một số người cộng sản đã lên tiếng về việc cộng sản Việt Nam bán nước và Trung Cộng xâm lược. Những ai một thời theo cộng sản về ghét tư bản bóc lột , mơ về một thiên dường cộng sản và độc lập thì nay họ sẽ thấy cộng sản bóc lột hơn tư bản, thực dân, đế quốc tư bản tử tế hơn đế quốc cộng sản. Ông bà ta đã hiểu rõ tâm lý con người và lịch sử xã hội:
"Ở gần nhà giàu mỏi răng ăn cốm,
Ở gần anh kẻ trộm, ốm thân (đau lưng) chịu đòn"
Tục ngữ ta cũng có câu:
"Làm đây tớ cho nhà quan còn hơn làm bạn với kẻ cướp"
Hoặc "Làm đầy tớ cho nhà giàu còn hơn làm thầy thằng dốt"
Cuộc đời chỉ là tương đối, giữa thằng chột và thằng mù, cô thiếu nữ chắc phải chọn thằng chột!
Trong cuộc bang giao Hoa Việt trước đây cho đến bây giờ ,Trung Cộng là bọn cướp tàn ác, bọn lưu manh gian trá, chúng là kẻ thù truyền kiếp của nhân dân ta chứ không phải là đồng chí anh em như ông Hồ đã tuyên bố!Ông Hồ một là ngu hoặc là gian nịnh, phỉnh phờ trong thương vu bán nước..
Nay thì nhân dân Việt Nam đã rõ chủ nghĩa cộng sản là lý thuyết gian dối, Trung quốc là bọn xâm lược thì phải tỏ rõ lập trường và thái độ, nghĩa là phải tiêu diệt một lúc hai tai họa là cộng sản và Trung Cộng.
II.QUỐC NGOẠI
Ở đây, chúng ta nói đến thế giới tự do đối với Trung Quốc và đồng bào hải ngoại đối với cộng sản.
Hiện nay, nhiều dấu hiệu tỏ ra Trung Cộng đã nhượng bộ, nhất là trong cuôc hội nghi thượng đỉnh tại Mỹ, Hồ Cẩm Đào đã ủng hộ việc trừng phạt Iran.Nhưng sự nhượng bộ trên là thực tâm hay chỉ là che đậy một kế hoạch tấn công chớp nhoáng để cho Mỹ không kịp trở tay?
Sớm hay muộn thì chúng ta sẽ rõ.
Trong
trường hợp Mỹ phải đánh Trung Cộng, thì người Việt Nam quốc nội và
hải ngoại phải tiếp sức với Mỹ để tiêu diệt Trung Cộng và Việt cộng vì
đây là cơ hội tốt cho cách mạng Việt Nam trong việc bảo vệ độc lập cho
tổ quốc và tự do, dân chủ cho nhân dân. Trừ một số còn mang nặng tư
tưởng " chống Mỹ cứu nước"
thì ghét Mỹ, ghét tư bản bóc lột, ghét Việt kiều, tất nhiêu họ theo ông
Hồ mà ca tụng Trung Quốc vĩ đại, Hồ Cẩm Đào anh minh, và coi bọn đế
quốc Trung cộng là đồng chí anh em. Trong khi Trần Hưng Đạo chống quân
Nguyên thì cũng có Trần Ích Tắc theo quân Nguyên, việc này không
phải là lạ .
Lòng yêu
nước, yêu tổ quốc phải luôn luôn là một, nhưng đường lối chính trị là
phải thay đổi chiến thuật theo từng hoàn cảnh. Theo Trung Quốc, thờ chủ
nghĩa cộng sản là chỉ bảo vệ quyền lợi của một số quan chức cộng sản.
Giữa đảng cộng sản và đất nước Việt Nam, nhân dân chọn ai? Theo cộng
sản, theo Trung Cộng là mất nước và cũng mất đảng. Đảng Cộng sản bây
giờ là một khối ung thư phải cắt bỏ.Đảng chỉ là một danh từ mơ hồ vô
nghiã, thực tế là quyền lợi của một nhóm chóp bu, hạ sẵn sàng làm các
việc gian ác, phi đạo nghĩa để thực hiện giàu sang và quyền lực.
Những ai nếu thật lòng yêu nước, yêu nhân dân, phải nhận thức các điều sau:
+Chủ nghĩa cộng sản là một sự lường gạt, là con đường sai lầm, vi phạm nhân quyền.
+Trung Cộng hay Nga đều là thực dân, đế quốc, nhưng gian ác hơn hết là bọn Trung Cộng.
+Nước ta nhỏ, ta không thể một mình chống Trung Cộng. Ta phải liên minh với các nước Á châu và các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Ngoảnh đi ngoảnh lại, trên thế giới hiện nay, chỉ có Mỹ là có thể đương đầu với Trung Cộng. Nga nghèo và ở xa, dại gì gây chiến tranh với Trung Quốc chỉ vì nước Việt Nam nhỏ bé và nghèo nàn. Trước 1979, Lê Duẩn ỷ vào hiệp ước quân sự với Nga mà chửi Trung Cộng và xâm chiếm Kampuchia, nhưng khi Trung Quốc đánh Trung Quốc thì Nga làm thinh. Hiện nay, Nga chỉ ve vuốt Việt Nam để bán vũ khí mà lấy tiền, còn Việt Nam sống hay chết họ không quan tâm.Trái lại, Nga có thể theo Trung Cộng đánh Mỹ vì gần đây Trung Cộng và Nga đã ký kết hiệp ước liên minh. Nga, Trung Cộng và khối Ả Rập có thể bắt tay đánh Mỹ.
+Trước đây trong vụ Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Pháp đã muốn bắt tay với Trung Quốc mà cai trị Việt Nam, Pháp thèm muốn Việt nam nhưng không dám một mình chống Trung Quốc, ngoại trừ trường hợp bát quốc liên quân như thời cuối Mãn Thanh.
+Chủ nghĩa cộng sản là một sự lường gạt, là con đường sai lầm, vi phạm nhân quyền.
+Trung Cộng hay Nga đều là thực dân, đế quốc, nhưng gian ác hơn hết là bọn Trung Cộng.
+Nước ta nhỏ, ta không thể một mình chống Trung Cộng. Ta phải liên minh với các nước Á châu và các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Ngoảnh đi ngoảnh lại, trên thế giới hiện nay, chỉ có Mỹ là có thể đương đầu với Trung Cộng. Nga nghèo và ở xa, dại gì gây chiến tranh với Trung Quốc chỉ vì nước Việt Nam nhỏ bé và nghèo nàn. Trước 1979, Lê Duẩn ỷ vào hiệp ước quân sự với Nga mà chửi Trung Cộng và xâm chiếm Kampuchia, nhưng khi Trung Quốc đánh Trung Quốc thì Nga làm thinh. Hiện nay, Nga chỉ ve vuốt Việt Nam để bán vũ khí mà lấy tiền, còn Việt Nam sống hay chết họ không quan tâm.Trái lại, Nga có thể theo Trung Cộng đánh Mỹ vì gần đây Trung Cộng và Nga đã ký kết hiệp ước liên minh. Nga, Trung Cộng và khối Ả Rập có thể bắt tay đánh Mỹ.
+Trước đây trong vụ Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Pháp đã muốn bắt tay với Trung Quốc mà cai trị Việt Nam, Pháp thèm muốn Việt nam nhưng không dám một mình chống Trung Quốc, ngoại trừ trường hợp bát quốc liên quân như thời cuối Mãn Thanh.
Cuộc chiến Mỹ Hoa xảy ra không?
Nếu cuộc chiến này không xảy ra thì trước sau Việt Nam cũng mất về tay Trung Cộng theo kiểu tàm thực hay cai trị gián tiếp theo kiểu dùng cộng sản Việt Nam cai trị nhân dân Việt Nam.
Nếu chiến tranh Mỹ Hoa xảy ra thì chúng ta sẽ có cơ hội đòi lại đất và biển của ta.
Chính lúc này, tại hải ngoại, chúng ta có thể sẽ lập chính phủ, lập quân đội để cứu nước. Thanh niên Việt Nam có thể tham gia trong quân đội đồng minh Anh, Mỹ, Úc, Canada, hoặc ta lập quân đội riêng đem về chiến đấu tại Việt Nam bên cạnh quân đồng minh.
Chúng ta sẽ lập quốc hội để soạn thảo hiến pháp, đặt nền móng dân chủ để khi Việt Nam được giải phóng, ta sẽ khỏi mất thì giờ cho việc soạn thảo pháp luật.
Nếu cuộc chiến này không xảy ra thì trước sau Việt Nam cũng mất về tay Trung Cộng theo kiểu tàm thực hay cai trị gián tiếp theo kiểu dùng cộng sản Việt Nam cai trị nhân dân Việt Nam.
Nếu chiến tranh Mỹ Hoa xảy ra thì chúng ta sẽ có cơ hội đòi lại đất và biển của ta.
Chính lúc này, tại hải ngoại, chúng ta có thể sẽ lập chính phủ, lập quân đội để cứu nước. Thanh niên Việt Nam có thể tham gia trong quân đội đồng minh Anh, Mỹ, Úc, Canada, hoặc ta lập quân đội riêng đem về chiến đấu tại Việt Nam bên cạnh quân đồng minh.
Chúng ta sẽ lập quốc hội để soạn thảo hiến pháp, đặt nền móng dân chủ để khi Việt Nam được giải phóng, ta sẽ khỏi mất thì giờ cho việc soạn thảo pháp luật.
Đây
là cơ hội duy nhất để diệt đế quốc Trung Hoa và tiêu trừ cộng sản.
Chúng ta sẽ đoàn kết với nhân dân quốc nội, ủng hộ quốc nội chống
Trung Cộng và Việt Cộng. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy người Mỹ đã
thất bại trong việc ép phe quốc gia ngồi chung với cộng sản. Nhưng lúc
đó tình hình khác bây giờ. Lúc đó tư bản và cộng sản liên minh chống
phát xít cho nên người Mỹ nghĩ như thế, còn bây giờ tư bản và cộng sản
hai phe khác nhau, cộng sản và tự do không thể hợp tác. Chỉ có cơ
hội này ta mới thủ tiêu chủ nghĩa cộng sản và đế quốc cộng sản để xây
dựng tự do, dân chủ cho Việt Nam.
Nếu người Việt Nam yêu nước thì phải sẵn sàng trong vận hội mới. Thời gian sẽ không xa.Người Việt Nam chỉ có chọn trong hai con đường: theo Trung Cộng hay theo Mỹ. Những kẻ theo Trung Cộng như Hồ Chí Minh, Hoàng Văn Hoa, Phạm Văn Đồng là phản bội tổ quốc, phản bội công lao tiền nhân đã bình Tống, đả Nguyên và diệt Thanh để giành độc lập. Theo cộng sản rõ ràng là phản quốc, hại dân, cam tâm làm tôi mọi Trung Quốc. Đồng minh với Mỹ là con đường cứu nước giúp dân, và xây dựng đất nước tự do, dân chủ và giàu mạnh như Phi Luật Tân, Singapore, Thái Lan, Nam Hàn, Đài Loan. Còn tôi tớ cho Trung Quốc là theo số phận nghèo khổ và nô lệ mất nước của Bắc Hàn, Mông Cổ.
*
Saturday, April 17, 2010
THƠ SƠN TRUNG
*
NHẬT KÝ THÁNG TƯ
NHẬT KÝ THÁNG TƯ
Tháng hai, tháng ba,mùa xuân buồn
Huế, Đà Nẵng,Buôn Mê Thuột...
Đã biến thành sa mạc, rừng hoang
Với bao nhiêu đạn bom và xác chết không nguyên vẹn.
Cộng quân đã tiến gần thành phố...
Tại Sàigòn, hàng ngàn người ,hàng vạn ngưòi
Bao quanh tòa đại sứ Mỹ ...
Để cầu xin ân huệ cuối cùng.
Ngày 27, 28 tháng tư,
Có những chuyến tàu ra đi
Có những người bị đạp xuống biển
Có những người bám vào trực thăng
Bị chém đứt tay
Có những nhà tu hành
Cũng tranh giành
Một chỗ ngồi trong địa ngục
Có những bà mẹ cười khóc
Ôm đứa con đã chêt bốn năm ngày.
Có những người tuyệt vọng.
Đi lang thang trên thành phố không đèn.
Đường Tự Do, Lê Lợi không còn quán cà phê
Trước rạp ci nê :" Cơn Đại Hồng Thủy" vài đứa trẻ bơ vơ.
Những Bình Khang , những Xóm Mới vắng khách giang hồ.
Những người bạn thân mến,
Đã đến giã từ...
Những cột đèn âm u
Của thế giới địa ngục
Đứng rời rã trong đêm lao tù
Đêm 29 tháng tư
Cộng quân pháo kích vào thành phố
Lửa cháy, nhà đổ!
Và sáng 30 tháng tư,
Cộng quân đã vào thành phố
Chúng đi trên những chiếc xe tăng
Mặt mũi hung hăng,
Chúng chĩa súng bắt dân hoan hô rầm rộ...
Lịch sử đã sang trang,
Những dòng chữ đen đúa, nghệch ngoạc
Những chủ nhân ông mới từ rừng sâu tiền sử
Và từ trong hang
Những quỷ dữ
Những quỷ nhập tràng
Đi cướp bóc các tư gia
Các ngân hàng
Các cơ quan, các kho tàng
Chúng chia nhau những căn nhà,những biệt thự
Những xe Suzuki, Honda
Tú Xương, Thanh Quan, Đồng Khánh, Rex
Cư xá Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Kim, Thanh Đa
Đâu đâu cũng thấy dép râu, nón cối
Những đàn bò trong thành phố hoàng hôn...
Nhân dân tôi trở thành nô lệ
Hoặc trở thành những kẻ không hồn
Một nửa ngồi tù, một nửa thất nghiệp
Đọa đày, đói rách
Tất cả chúng tôi trở thành những con chuột bạch
Cho những kẻ ngu si hống hách
Tự xưng trí tuệ và anh hùng
Làm thí nghiệm hay làm trò chơi dối trá
Anh em chúng tôi
Một số cúi đầu
Một số đứng lên quật khởi
Vinh Sơn,Lê Quốc Quân,Trần Văn Bá
Một số xuyên rừng sâu
Một số vượt biển cả
Một số người đã chết ở Trường Sơn, Tam Biên
Một số bỏ xác trong miệng cá
Một số chết trong nhà tù
Nhưng hàng vạn người đã đứng lên
Thái Bình , Xuân Lộc, chùa Thiên Mụ
Quảng Độ, Huyền Quang,
Là những con người bất khuất
Chúng tôi đã viết thành lịch sử
Và sẽ viết nên những trang oai hùng
Của Lê Lợi, Quang Trung
Đấu tranh cho tự do và dân chủ
Xây dựng Việt Nam hùng cường
*
BÍCH HUYỀN * TƯỞNG NIỆM 30-4-1975
TƯỞNG NIỆM NGÀY VONG QUỐC 30-4-1975
I. KHÓC BẠN TÙ VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM CỘNG HÒA
1. Ðại Tá Hồ Hồng Nam (Tổng Cục CTCT)Khoá 3/TVBQGVN
Vừa được tha về năm 1978 thì chết tại bệnh viện.
2.Th. Tá Ðoàn Kỳ Long (Tổng Nha Cảnh Sát)Khoá 10/TVBQGVN
Chết tại Trại Tù số 4 Xã Yên Lâm, Huyện Thiếu Yên, Thanh Hóa năm 79.
3.Th. Tá Mã Thành Nghĩa (Tiểu Ðoàn 411 ÐPQ)Khóa 10/TVBQGVN
Tuẫn tiết cùng với vợ, để lại con thơ tại nhà ở Bạc Liêu
4.Th. Tá Nguyễn Hữu Ðăng (Quận Trưởng) Khóa 13/TVBQGVN Chết tại Trại Tù K1, Tân Lập Vĩnh Phú năm 1979
5.Ðại Uý Nguyễn Thành LongKhóa 14/TVBQGVN
Bị biệt giam rồi tự tử chết tại Nhà Tù Suối Máu năm 1978.
6.Th. Tá Tôn Thất LuânKhóa 14/TVBQGVN
Chết ở ngoài Bắc không rõ năm.
7.Th. Tá Ðỗ Hữu TướcKhóa 14/TVBQGVN
Chết tại Trại Tù Lạng Sơn.
8.Tr/Tá Phạm Văn NghymKhóa 18/TVBQGVN
Chết tại trại tù Hoàng Liên Sơn
9.Th/Tá Vũ Văn Kiêm (Trưởng Phòng 3 Tiểu Khu Gia Ðịnh)Khóa 17/TVBQGVNVượt ngục mất tích tại Trại Tù Bù Gia Mập Tháng 5, 1977. Tin tức do vợ là Vũ Nguyệt Ánh cung cấp.
10.Ðàm Ðình LoanKhóa 19/TVBQGVNChết tại Trại Tù Miền Bắc.
11.Th.Tá Nguyễn Ðức Nhị Khoá 19/TVBQGVNKiên giam chết tại Trại Tù Tân Lập, Vĩnh Phú năm 1981
12..Nguyễn Văn Sinh Khoá 19/TVBQGVNVượt ngục ở Bù Gia Mập rồi mất tích.
13. Tr. Tá Huỳnh Như XuânKhoá 19/TVBQGVNChết tại trại tù Miền Bắc không rõ năm
14.Thiếu Tá Trần Văn Hợp (T. Ðoàn Trưởng TÐ2 TQLC)Khoá 19/TVBQGVNChết vì ngộ độc tại Trại 5 Kiên Thành, Ngòi Lao, Yên Báy năm 1978.Nguyễn Ngọc CangKhoá 20/TVBQGVNChết tại Trại Tù Hoàng Liên Sơn.
15. Th. Tá Huỳnh Túy Viên (Quận Trưởng Ðầm Dơi)Khóa 20/TVBQGVNBị cộng sản tử hình bằng cách cho người móc mắt ngay tại quận lỵ Tháng 5, 1975.
16.Thiếu tá Hoàng trọng KhuêKhóa 21/TVBQGVN Tử hình tại Huế ( Phục Quốc)Ð/U Trịnh lan PhươngKhóa 21/TVBQGVNTự sát tại Phủ Tổng Thống
17.Th/ Tá Ðỗ công HàoKhóa 21/TVBQGVNTự sát tại BTL/QÐ1Ðoàn Văn Xương (Hải Quân)Khoá 22/TVBQGVNBị đánh chết sau khi vượt ngục tại Trại 6 Nghệ Tĩnh.
18.Th/úy Nguyễn Hoàng HùngKhoá 23/TVBQGVNTù 7 năm vượt biển rồi mất tích với cả gia đình năm 1983.
19.Tr/úy Nguyễn Ngọc Bửu (Ðại Ðội Trưởng TQLC)Khóa 25/TVBQGVN Vượt ngục Xuân Phước bị bắn chết tại Ấp Tây Sơn , Ðắc Lắc ngày 19-11-80.
20.Tr/úy Lý Công Pẩu (AET)Khóa 26/TVBQGVN Tử hình tại Trảng Lón Tây Ninh 1975
21.Th/úy Trần Hữu SơnKhóa 28/TVBQGVN Bị giết khi vượt trại
22.Th/úy Trương Tráng NguyênKhóa 29/TVBQGVN Uống 16 viên thuốc ngủ tự vận chết tại Trại Tù Ấp Vàng , Sóc Trăng
23.Th/úy Trương Ðăng HậuCSVSQ//TVBQGVN Chết tại Trại Tù Hà Tây năm 1988.
24.Ð/úy Hoàng Trọng KhuêVõ Bị Quốc Gia Bị xử bắn tại Huế năm 1975.
25.Th/Tá Phan Ngọc Lương (SÐ1/BB)CSVSQ//TVBQGVN Tổ chức phục quốc bị tử hình tại Chín Hầm, Huế năm 1979.
26.Tr/úy Nguyễn Ngọc Trụ Huấn Luyện Viên/TVBQGVN Bị xử bắn tại Trại An Dưỡng Biên Hòa năm 1977
27.Tr/úy Nguyễn Văn ChungHuấn Luyện Viên/TVBQGVN Chết tại Trại Tù Nghệ Tĩnh không rõ năm.
II.NHÀ TÙ CỘNG SẢN
Cái án tù vô hạn định không hề tuyên bố đang chính thức được thi hành để hủy diệt dần mòn số phận toàn thể Sĩ Quan của 1 quân đội thua trận vì bị Đồng Minh phản bội.
Trước khi chuyển tù từ các nơi tập trung ở Saigon về Long Giao, cán bộ Việt cộng phụ trách công tác tuyên bố:”nhờ chính sách khoan hồng đại lượng của cách mạng hôm nay các anh được đưa đến 1 địa điểm đầy đủ điều kiện thuận lợi để học tập cải tạo...”, tới nơi mới thấy địa điểm đầy đủ điều kiện thuận lợi là 1 chỗ không có lấy một cái cầu tiêu, không 1 miếng ván lót nằm.
Thêm chuyện lạ khó tin nhưng có thật với nhân chứng gồm hàng trăm ngàn người đi ở tù, đó là ở tù phải đóng tiền cơm! Chỉ sau khi đến Long Giao tới ngày thứ hai, toàn thể tù nhân bị bọn cai tù bắt nộp tiền cơm. Chúng biết thóp ai cũng mang theo vài ngàn để phòng thân nên vét trọn được một mẻ rất khá.
Đểu cáng là tuy đóng tiền cơm, nhưng hàng ngày nhà bếp tù chỉ được phát gạo mục rỗng ruột. Thứ gạo bỏ vào nước vo nổi nhiều hơn chìm. Kết quả sau một thời gian ngắn, rất nhiều người bị mắc bệnh phù vì thiếu sinh tố B1. Chân người bệnh sưng mọng lên gấp hai ba lần khiến cho việc đi lại thật khó khăn. Dã man hơn nữa, có khi Việt cộng còn phát ra những bao gạo trộn đầy đất cát.
Thứ gạo này khi nấu thành cơm cả trại đều nhăn mặt người nghĩ cách đổ đầy nước vào nửa chén cơm rồi lấy đũa khuấy thật mạnh cho sạn cát lắng xuống nhưng cũng không thể nào lọc được.
Cơm và đất cát đã dính bết vào nhau rồi. Cả ngày hôm đó cơm tù còn nguyên. Anh em đợi bọn cai tù xuống nói rõ sự việc, nhưng bọn này nghe xong thản nhiên trả lời :
- Các anh phải khắc phục.
Bệnh tật phát sinh trong trại tù mỗi ngày một tăng. Phụ trách y tế trại là một con y tá vườn. Con này mới bò từ rừng ra sau ngày 30-4-75. Hàng ngày nó ngồi vênh váo bên trong khuôn cửa sổ căn nhà dùng làm trạm y tế để làm việc.
Tù bệnh buổi sáng đến ngồi chờ bên ngoài lần lượt tới khai. Bất cứ bệnh gì, con này cũng khủng khỉnh cho toa điều trị 1 cách quái đản. Giữa năm 1975 không ai có thể ngờ y tá Việt cộng lại có cách chữa bệnh bán khai đến như vậy :
- Bệnh gì?
- Tôi bị phù, người mỏi mệt, đau nhức toàn thân.
- Xuống nhà bếp xin nước vo gạo đun lên mà uống.
-...?!?
- Bệnh gì?
- Tôi bị tiêu chảy.
- Tiêu chảy ra làm sao?
- Tôi bị đi cầu nhiều lần trong ngày.
- Nhịn ăn, ra chỗ hàng rào, hái lá ổi đun lên mà uống.
-...
- Bệnh gì?
- Chân tôi bị lưỡi cuốc văng vào làm độc có mủ nhiều ngày nay rồi.
Thằng Quản giáo, cai tù trực tiếp coi mỗi buồng, sau khi nghe báo cáo thiếu hai người. Mặt nó tái đi. Tuy nhiên nó cũng vào tận nơi xem xét lại chỗ nằm của 2 người. Sau đó nó chạy về Bộ chỉ huy Trại rồi trở xuống ngay với thằng cán bộ an ninh. Hai thằng chia nhau tém gọn tất cả đồ đạc của tù trốn.
Tối hôm đó cả buồng 5 phải ngồi sinh hoạt kiểm điểm, dưới sự theo dõi và chất vấn của thằng Quản giáo.
Mọi người đến phiên phát biểu ý kiến đều cả quyết xác nhận không hề hay biết gì về âm mưu của hai người trốn trại.
Thằng quản giáo cố nén tức giận thông báo phịa: “Tôi cho các anh biết 2 tên phản động trốn trại bị bắt lại rồi. Hiện nay trại đang có biện pháp xử lý 2 tên này. Các anh lấy đó làm gương. Đừng bao giờ dại dột mà trốn trại. Các anh có trốn cũng không thể nào thoát được. Vì khắp nơi nhân dân ta đều là tai mắt của Đảng và nhà nước.”
Mặc dù bọn cai tù Việt cộng hết sức dọa nạt để ngăn chặn nạn trốn trại, nhưng không bao lâu một vụ trốn trại đông hơn trước lại xẩy ra. Lần này anh em ở nhiều buồng đặt kế hoạch chung nhưng họ lại thiếu may mắn hơn 2 người lần trước.
Sau vài ngày, xảy ra vụ thứ hai. Cả trại chứng kiến cảnh ba người bị dẫn giải về. Cả 3 quần áo rách tả tơi, tay bị trói quặt về phía sau bằng dây kẽm gai, mặt mày sưng húp, bầm máu. Họ đi không còn vững, lúc nào cũng chỉ chực ngã chúi về phía trước.
Sau khi được nhá cho mọi người thấy, họ bị nhốt ngay vào những cái cũi tù mà muốn ngồi dậy phải cúi đầu thật thấp. Anh em dò hỏi mới hay toán vượt ngục thất bại gồm 7 người. Bốn người đã bị bắn chết trong rừng. Ba người còn lại không bị bắn nốt vì sau khi tra tấn họ chết đi sống lại nhiều lần, bọn cai tù thấy rồi cũng chết, nên mang về trại để dằn mặt những người khác.
Lần này các đội tù không bị bắt sinh hoạt kiểm điểm về việc trốn trại nữa. Bọn cai tù sợ phản tác dụng nếu công khai hóa liên tục những tin tức loại này.
Tuy nhiên thằng quản giáo vẫn lên giọng răn đe: “Hiện nay trong trại ta vẫn còn những kẻ ngoan cố, chúng muốn coi thường luật pháp XHCN, đang âm mưu trốn trại để tiếp tục chống phá cách mạng. Nhưng không được đâu. Kẻ nào có ý đồ làm những chuyện dại dột đó sẽ bị trừng trị đích đáng như các anh đã thấy. Bốn tên cực kỳ phản động, chống đối đến cùng đã bị chính nhân dân ta bắn hạ. Ba tên còn lại nhờ vệ binh can thiệp kịp thời đưa về trại. Nếu những tên này biết ăn năn thật tâm hối cải thì sẽ được hưởng chính sách khoan hồng. Đây là lần chót để các anh suy nghĩ học tập cho tốt.”
Khoan hồng đâu không thấy, chỉ thấy vài ngày sau hai người trong cũi đã chết tại chỗ. Còn 1 người nằm mê man, bất tỉnh không ăn không uống nổi nữa, bọn cai tù nói là cho đi viện, nhưng có lẽ là viện dưới âm ty.
Lần này bọn cai tù có vẻ yên tâm vì cả 7 người trốn trại đều bị chúng bắn hạ hoặc tra tấn đánh đập rồi cũng chết luôn trong cũi. Biện pháp đó tưởng đâu đã bóp chết được phong trào trốn trại. Trái lại vẫn có những anh em tiếp tục quyết tâm tự cứu. Trước sự gan lì này, bọn cai tù chơi trò khác.
Chúng bày ra tòa án, cố tạo không khí nghiêm trọng để xử người trốn trại. Một buổi sáng cả trại nghỉ lao động. Từng đội sắp hàng cạnh nhau trước loa phóng thanh trực tiếp truyền thanh phiên xử Đại úy Thịnh tội âm mưu trốn trại.
Riêng thành phần “chức sắc” gồm các lán trưởng, tổ trưởng tù được tham dự tận mắt phiên tòa tại bộ chỉ huy trại. Nhưng xử cái gì nữa, phiên tòa chưa bắt đầu, đã có 1 chiếc xe Molotova chở cỗ quan tài đưa vào trại.
Mọi người nhìn nhau : “xong rồi!” và đúng như thế. Cuối cùng bản án được một thằng Việt cộng mặt đầy sát khí ngồi bàn chánh án tuyên ra 2 chữ vắn gọn: “Tử hình!”. Đại Úy Thịnh bị mang ra bắn trước sự chứng kiến bắt buộc của đồng đội.
Thấm thoát 1 năm tù trôi qua ở trại Long Giao với tất cả 3 lần tù nhân phải làm bản tự khai. Lần nào để tù nghỉ lao động làm công việc này, tên trại trưởng cũng khoác lác phủ đầu : “Hồ sơ lý lịch của các anh, cách mạng đã có đầy đủ. Bây giờ trại chỉ muốn coi xem các anh có thực thà khai báo lại hay không. Căn cứ vào lời khai của các anh, trại sẽ đánh giá chính xác thiện chí học tập cải tạo từng người”.
Sự thực thì bọn Việt cộng chẳng biết cách nào để biết rõ lý lịch từng người trong số hàng trăm ngàn tù chúng giam giữ. Thế nhưng chúng lại rất muốn biết để có yếu tố phân loại, biên chế nhằm áp dụng đúng tiêu chuẩn những biện pháp thích đáng hơn đối với mỗi thành phần.
Hòng chắc ăn, chúng bắt tù khai đi khai lại 3 lần lý lịch của từng người với cùng các câu hỏi giống nhau để khai thác mọi kẽ hở sai biệt nếu có trong lý lịch bất cứ người nào. Sau đó căn cứ vào hồ sơ lý lịch này chúng thực hiện kế hoạch chuyển trại qui mô.
Một nửa số tù đã được chuyển khỏi trại. Những người còn lại đang hoang mang lo lắng thì có lệnh tập trung lên sân Bộ chỉ huy trại để thằng trại trưởng làm việc :
- Hôm nay tôi thông báo cho các anh biết 1 việc hết sức quan trọng để chuẩn bị. Các anh sẽ được đưa tới 1 nơi khác có đầy đủ điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc đi học tập cải tạo. Bây giờ các đội trở về lán thu xếp tư trang cho thật gọn chờ quản giáo xuống hướng dẫn di chuyển.
Hàng ngàn tù nhìn nhau hỡi ôi : Lại đến một nơi có nhiều điều kiện thuận lợi hơn nữa!
Cái thuận lợi sơ khởi của lần này là tù được đi tàu thủy, con tàu có tên Sông Hương rất đẹp, nhưng đã được bọn cai tù Việt cộng biến thành 1 cái địa ngục nổi kinh hoàng.
Tù từ nhiều nơi cùng lúc được đưa tới Tân Cảng Saigon để tàu chở ra Bắc. Trên boong tàu 1 cửa cầu thang nhỏ được mở ra để tù xuống hầm. Giòng người nối đuôi nhau tụt xuống liên tục suốt từ chiều đến nửa đêm mới hết.
Mới đầu người xuống trước còn duỗi chân ra được, nhưng dần dần tất cả phải co chân lại mới đủ chỗ ngồi. Phần cuối khoang chừa lại 1 khoảng nhỏ để làm nơi đại và tiểu tiện.
Chỉ sang đến ngày thứ hai là phân và nước tiểu đã bắt đầu chảy ngược lại phía người ngồi. Nắp cầu thang trổ lên boong lúc nào cũng đóng chặt. Cứ như thế hàng ngàn người đã không đủ khí trời mà thở, lại còn phải hít thêm mùi phân và nước tiểu càng lúc càng nồng nặc.
Ngày nào cũng có vài người ngất xỉu. Xỉu thì nằm đó cho đến khi tắt thở. Anh em chung quanh la hét kêu cấp cứu nhưng khoảng vài tiếng đồng hồ sau nắp thang mới mở để cho 4 người ngộp thở khiêng người hết thở lên boong tàu.
Thế rồi các xác chết kia được quăng xuống biển, 1 nơi sạch sẽ mát mẻ hơn dưới hầm tàu, chỗ những cái xác sống đang chịu cực hình ngồi trên cức đái sình thối.
Cái thuận lợi kế tiếp là đi xe lửa Bắc Việt. Tàu vừa cập cảng Hải Phòng, tù được dồn thốc tháo từ địa ngục nổi sang địa ngục lăn. Mỗi toa xe địa ngục này có 2 thằng Việt cộng cầm súng kềm tù leo lên.
Khi toa đã chật cứng, 2 cái lưỡi lê được dùng để bắt buộc những người ngồi gần cửa phải rướn người bật ngửa ra phía sau lòi chỗ cho người đang chờ dưới đất lên tiếp.
Trong toa người nọ phải ngồi đè lên người kia mới đủ chỗ chứa hết số tù quy định cho mỗi toa. Cửa toa được kéo lại khóa chặt. Trong bóng đêm mù đặc, chuyến tàu đen đưa tù về nẻo Yên Bái. Tới ga khi cửa mỗi toa mở ra cho tù xuống, những người yếu sức quá đã chết ngộp từ bao giờ.
Cái thuận lợi sau cùng và lâu dài nhất là tù được đưa lên địa phận Hoàng Liên Sơn, 1 nơi rừng sâu nước độc vào bậc nhất miền Bắc VN. Ở đây không có người, không có nhà, không có đường đi lối lại mà chỉ có muỗi, vắt, đỉa, bọ cạp và rắn rết.
Tù phải tự tay dựng lấy nhà giam chính mình. Nguyên vật liệu là gỗ, tre, giây rừng. Dụng cụ gồm vài con dao rựa với mấy cái cưa cùn. Tuyệt nhiên không hề có 1 cây đinh hay cọng kẽm nào!
Thằng trại trưởng chưa có trại luôn mồm đốc thúc : “Trách nhiệm trước mắt ta là xây dựng trại. Tất cả các anh phải phấn đấu tích cực nhanh chóng hoàn thành công tác được giao phó sớm chừng nào hay chừng nấy.”
Trong sự thiếu thốn dụng cụ vật liệu quá đáng mỗi khi tù gặp trở ngại hỏi thêm bất cứ thứ gì cũng được đáp ứng bằng mồm ngay :”Các anh phải biết lao động sáng tạo chứ. Phải biết tự tạo ra phương tiện mà dùng chứ. Phải biết khắc phục chứ”.
Bài thuốc khắc phục đã được cai tù mang ra xử dụng trong mọi trường hợp cần cung ứng bất cứ thứ gì hiện đang thiếu thốn. Khắc phục không hơn không kém nghĩa là chẳng có gì ngoài sức lao động của con người, con vật lao động đúng nghĩa nhất dưới chế độ Cộng sản.
Sau khi có được những cái thuận lợi đặc biệt vừa kể, tù bắt đầu nhận bản án khổ sai biệt xứ đồng đều nhau. Ngay khi trại giam vừa hoàn tất, cai tù qui định chỉ tiêu lao động mới: “Kể từ nay hàng ngày mỗi người các anh phải mang về cho trại một cây gỗ dài ít nhất 5m, đường kính ít nhất 30 phân. Hôm nào có lệnh lấy vầu (một loại tre cực lớn), mỗi người hai cây dài 10m, đường kính ngọn không dưới 10 phân. Trại vừa nhận đủ số dao rừng để phát cho các anh đi lao động mỗi người 1 con. Buổi chiều công tác xong, anh nào trực đội, tập trung dao mang trả kho. Ai làm mất phải chịu trách nhiệm hoàn toàn và sẽ được xử lý thích đáng. Đây là công tác trại giao cho các anh để học tập cải tạo. Vậy anh nào tỏ ra chây lười lao động, cố tình không hoàn tất chỉ tiêu, trại sẽ áp dụng biện pháp cắt phần ăn mỗi ngày.”
Xa xa, sân ga Bình Triệu dưới những ngọn đèn vàng vọt không đủ sáng, cảnh tượng vô cùng hỗn độn. Người đi, kẻ lại, người mang, kẻ vác... xô đẩy, chen lấn nhau. Tiếng la hét, tiếng gọi nhau í ới trên một khoảnh đất gồ ghề, tăm tối. Tôi cũng vừa từ đám đông đó lên đây. Bọn cán bộ nhà nước được lên tàu trước từ ga Phạm Ngũ Lão, trên những toa riêng hoặc những toa có giường nằm...
”Thật may, nếu không có Dim đi tin thì làm sao mình còn đủ hành lý!” Lần đầu tiên tôi thấy Dim khỏe quá! Hai tay hai túi xách nặng, cồng kềnh, chen đám đông phăng phăng mở lối cho tôi lên tàu. Bọn cướp giật trà trộn giựt xách tay, rạch ví, móc túi. Tiếng la thất thanh. tiếng chửi thề. Tiếng khóc, tiếng gọi nhau... tất cả tạo thành một âm thanh hỗn loạn. Thần kinh tôi như muốn đứt ra. Hai chị em chỉ kịp bám lấy song sắt của toa tàu là đã như có người đẩy lên rồi. “Kìa! Nó giựt đồng hồ của tôi!” “trời ơi! ví của tôi đâu mất rồi!” Mặc kệ. Mạnh ai nấy chen. Chân tôi bị dẫm lên đau điếng. Áo quânÀn tôi tả tơi, xốc xếch, đầu tóc rối bời.
Giờ đây, tôi ngồi trên tàu, dưới kia cảnh tượng vẫn đang tiếp diễn...
Tiếng còi hú vang báo hiệu sắp đến giờ khởi hành. Tiếng còi dài văng vẳng trong đêm tối. Ngày xưa còn bé, tôi đã từng được học những bài văn tả cảnh sân ga. Niềm vui sum họp, nỗi buồn chia ly. Tiếng còi tàu lanh lảnh âm vang trong lòng tùy theo tâm trạng của mỗi người. Lòng tôi hôm nay, tiếng còn nghe ghê rợn quá! Như tiếng rú, tiếng thét đe dọa những con người thất thế - như tôi - một thân một mình đi thăm nuôi chồng “học tập cải tạo” tại một nơi rừng sâu, nước độc tận cùng miền Bắc.
Không có một bóng người đứng trên thềm ga đưa tin. Không có một ngọn đèn vàng lẻ bóng hắt hiu, như tiếng hát của nữ ca sĩ Thanh Thúy u buồn ngày nào trong một ca khúc tin đưa nào đó... Xa rồi, chỉ có hàng ngàn con người lam lũ, hối hả, vội vàng trên sân ga giành giựt tranh nhau từng miếng cơm sạn mốc, từng manh áo rách.
”Giấy tờ đâu? Mở túi này ra!” Giọng hách dịch của tên kiểm soát. Rồi những khuôn mặt lạnh lùng của toán công an kinh tế phía sau. Một tên nghênh ngang cầm đèn pin, bất kể rọi vào cả mắt hành khách. Một tên cầm chiếc gậy ngắn, xấc xược thọc thọc vào hành lý của khách... Đến lượt tôi: “Giáo viên. Về Bắc nghỉ hè à? A, đi thăm nuôi chồng học tập cải tạo. Thăm nuôi tù thì nói mẹ nó ra đi. Học tập học tiếc cái nỗi gì với cái bọn ngụy ác ôn đó. Thôi, khỏi xét.” Lẽ dĩ nhiên, xét làm gì ba cái đồ lương thực. Họ muốn bắt những con buôn. Tôi cố nén tức giận, tủi hờn, mừng rỡ nhận lại tờ giấy phép, không có tờ giấy này tôi không thể vượt qua mọi cửa ải từ Nam ra Bắc. Chạy chọt hàng bao nhiêu nơi, chờ đợi hàng bao nhiêu ngày, tôi mới có được mảnh giấy đen thui này đây.
Họ di chuyển xuống hàng ghế dưới, tiếp tục hạch sách, lục lọi. Và hành khách tiếp tục năn nỉ, van xin. Hàng hóa nào có nhiều nhặn gì cho cam! Chục mét vải. Dăm gói bột ngọt. Rổ rá nhựa, xô xách nước. Bình nước mắm... Vậy mà có người vẫn khóc ngất khi bị tịch thu. Nồi cơm độn mì, độn khoai tay chỉ mong vào tiền lời nhỏ nhoi đã mất cả rồi.
Tiếng máy xình xịch. tiếng còi tàu rú lên từng hồi như thúc giục, như đồng lõa với những việc làm sai trái trên con tàu mang tên Thống Nhất Bắc Nam.
Bên ngoài trời tối, không một ánh sao. Sương khuya lạnh buốt. Vài con đom đóm lập lòe. Chung quanh tôi, mọi người đều đã nằm ngủ la liệt. Người trải miếng ni-lông dưới chân ghế chật hẹp, người nằm ngả nghiêng trên đồ đạc, ngổn ngang chật cả lối đi. Võng mắc chi chít. Tiếng ngáy, tiếng thở mệt nhọc vang lên. Tôi mệt mỏi tựa đầu vào thành ghế gỗ. Có lẽ chỉ còn có một mình tôi thao thức nên thấy đường dài. Nhớ mẹ, nhớ con, nhớ nhà.
Thế là tôi đã phải xa nhà, xa những người thân yêu, vượt mấy ngàn cây số, đi đến một nơi xa lạ. Làm sao tránh khỏi lo âu? “thân gái dặm trường”, lời nói người xưa thật đúng tâm trạng của tôi bây giờ.
Cũng trên quãng đường này, trong toa xe lửa của một thời xa lắc - thuở còn đi học - ánh mắt long lanh, giọng cười ròn rã reo vui suốt cuộc hành trình. Trại hè Nha Trang. trại hè Thống Nhất Huế. Trại hè sinh viên Huế-Saigon Đà Lạt. Mỗi mùa hè là một mùa tưng bừng hứa hẹn. Còn đâu nữa những tiếng cười khúc khích, tinh nghịch của các bạn tôi trong những đêm không ngủ? Các bạn học cũ của tôi, giờ phiêu bạt nơi đâu? Phạm Hữu Lộc, Bùi Thức Phước, Nguyễn Long Hải, Duy Trác... trong những trại tập trung cải tạo của Cộng Sản. Ấu Oanh, Hoàng Oanh, Ngọc Diệp, Kim Oanh... bán đứng buôn chạy quần áo cũ, thuốc tây. Hồng Thủy, Hồng Hảo, Ngọc Tâm, Hương Kiều Loan... ngàn trùng cách biệt.
Tôi cố quên đi những gương mặt đang say men chiến thắng Nguyn Đắc Xuân, Cao Thị Quế Hương, Kim Tuyến. Tôi ngậm ngùi thương tiếc Lê Hữu Bôi, bị thảm sát trong biến cố Tết Mậu Thân 1968 tại Huế. Bốn năm “giải phóng miền Nam” rồi, bốn năm quay cuồng, vật lộn với cuốc sống mới, có bao giờ được một vài phút suy tư?
Qua mỗi lần tàu ghé một sân ga, bất kể ngày đêm, hàng hóa rỡ xuống, chất lên nhanh chóng gọn nhẹ. Bọn chỉ huy đoàn tàu kết hợp cùng bọn công an kinh tế buôn bán thì còn sợ gì ai xét. Trong khi những người dân, hàng chỉ có một chút xíu thôi mà vẫn bị dòm ngó, hoạch họe đủ điều.
Những giỏ soài Nha Trang của vợ chồng chú bộ đội ngồi trước mặt tôi đã biến mất. Những giỏ soài treo toòng teng trên đầu, những giỏ soài la liệt dưới sàn tàu đều trống trơn. Càng đi xa hơn thì hành lý trên tàu càng vơi nên hành khách còn có lối đi. Hành khách buôn dọc đường. Xã hội chủ nghĩa cấm buôn bán cá thể mà hầu như cả nước đều buôn. Cán bộ công nhân viên mua được nửa ký đường, lon sữa, mươi gam bột ngọt mỗi tháng đều mang ra chợ bán cho người buôn, kiếm chút tiền bù đắp vào đồng lương ít ỏi. Cũng nhờ đó mà tôi mới mua được những thực phẩm thăm nuôi chồng. Tôi thở dài ngao ngán cho kiếp sống đói nghèo.
Tàu càng rời xa miền Nam, làng mạc càng hiu hắt. Bốn năm tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội là đây? Đồng ruộng khô cằn, xóm làng xơ xác. Con tàu đưa tôi vượt qua vĩ tuyến 17, tới miền Trung “ôi, quê hương xứ dân gầy” của nhạc sĩ Phạm Duy. Dân không chân lấm tay bùn - vì đồng ruộng bỏ hoang - mà sao đen đủi. Gương mặt ngơ ngơ ngẩn ngẩn, đứng trước những thau nước chờ khách trên tàu xuống mua rửa mặt, rửa chân.
Một bà cụ lưng còng xuống, manh áo vá không đủ che thân, xách ấm nước đi bán rong. Đường tàu mỗi lúc một xấu, nhất là Thanh Hóa. Con tàu tròng tranh nghiêng ngả. Đồ đạc rơi đổ cả vào người.
Làng quê miền Bắc kia sao? Tôi ngờ mình đang nằm mơ. Bởi hiện thực quá phũ phàng.
“Việt Nam đất nước ta ơi,
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn...”
Miền Bắc hai mươi năm xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân dân đi vào con đường làm ăn tập thể. Đồng ruộng xóa mờ ranh giới, bao la bát ngát thẳng cánh cò bay... Chỉ là hình ảnh tưởng tượng của cán bộ vẽ ra, khi tuyên truyền, khoác lác với dân miền Nam. Trước mắt tôi... đồng khô, nắng cháy. Xa xa xóm làng hoang vắng. Quán nước bên đường che bằng một mái tranh cũ nát, chiếc chõng tre lỏng chỏng một vài món quà lặt vặt: viên kẹo bột vàng, trái chuôi thâm đen. Điếu cầy tre, ấm nước, ly trà cũ bẩn... Mỗi lần tàu ngừng, hành khách tranh nhau mua từng bát cơm khô cứng, lèo tèo một ít rau xào...
Tôi đến Ga Hàng Cỏ - Hà Nội sau ba ngày, ba đêm trên tàu như một người bị tra tấn. Rã rời, mệt mỏi. Hà Nội hiện ra trong mắt tôi với tất cả sự nghèo nàn, lạc hậu. Đèn đường vàng vọt. Trong nhà, ánh điện lù mù nhưng tôi vẫn nhìn thấy nhà nhà ngồi quanh mâm cơm để dưới đất. Đó là hình ảnh đầu tiên về Hà Nội.
Nhà anh chị tôi ở tầng thứ tư của một khu nhà tập thể vùng Kim Liên. Chỉ là một phòng nhỏ hai mươi mét vuông. Độc nhất một cái giường cũ mọt dành cho bố mẹ và đứa con út còn bé. Hai đứa con lớn học đại học nằm dưới đất. Kệ sách vở đụng trần nhà. Dưới gầm giường lỉnh kỉnh bát chén, nồi niêu, xô nước. Gia đình anh chị tôi điển hình cho giới trí thức Hà Nội: chồng, cán bộ nghiên cứu khoa học, vợ bác sĩ. Tôi rùng mình lo sợ tương lai.
Hà Nội với những con đường nhỏ hẹp, đầy ổ gà, bụi bậm. Hà Nội với nhà cửa cũ nát, xiêu vẹo. Hà Nội với con người nhâng nhâng, nháo nháo, chửi thề nói tục. Không phải một thủ đô văn minh lịch sự như theo lời những cái máy nói đã mạt sát Sàigon, ca tụng Hà Nội - mà trong những buổi học tập chính trị ròng rã qua năm tháng, chúng tôi đã phải nghe. Hà Nội trong ký ức tôi, trong thơ, trong nhạc... chỉ là hư ảo.
Lên ga Bình Triệu, xuống ga Hàng Cỏ: kinh hoàng. Tiếp tục cuộc hành trình, tôi đáp tàu đi Vĩnh Phú. Ga nhỏ, người đông. Mùi hôi thối dưới đất, mùi mồ hôi nồng nặc trong ánh nắng hè gay gắt. Tôi muốn nôn oẹ. Lại bị hạch sách, nạt nộ khi làm thủ tục để được lên tàu. Lại chen lấn, xô đẩy. Tôi chạy mãi tìm cửa lên tàu. Toa nào cũng chật cứng người. Cuối cùng chỉ còn giành được một chỗ đứng ở cuối nơi toa tàu nối nhau. Khi con tàu ra khỏi thành phố, một số thanh niên leo lên nóc, tôi mới có một chỗ để ngồi bó gối.
”Ban nãy tao leo lên toa chở lợn, gà. Bị đuổi xuống.”
”Xã hội này là súc vật sướng hơn!”
Tôi nghe tuổi trẻ miền Bắc nói chuyện như thế.
Gió thổi mát lạnh. Trời vần vũ cơn mưa. Cứ ngồi như thế này cho đến tối hay sao? Thế rồi sức chịu đựng của tôi vẫn vượt qua những trận mưa trời làm ướt sũng toàn thân, những trận mưa than từ ống khói tàu nhả xuống. Cũng may là than đá, nếu không biết bao nhiêu hành khách kém may mắn không được ngồi trong toa như tôi sẽ bị nhuộm đen như thế nào?
Con tàu nặng nềđi qua những cánh rừng cọ xác xơ, những đồi chè cằn cỗi thưa thớt dưới cơn nắng cháy.
“Đẹp vô cùng Tổ Quốc ta ơi,
Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca...”
Tôi không hiểu sao Tố Hữu lại có thể làm được những câu thơ với những hình ảnh tươi đẹp như thế?
Ga Ấm Thượng là trạm cuối cùng, tôi xuống. Nơi đây chỉ là một túp lều tranh vách nát giữa vùng đất đìu hiu của miền thượng du Bắc Việt. Bốn bề hiu hắt, vắng vẻ. Trời chập choạng tối. Ánh đèn dầu leo lắt run rẩy như muốn tắtlàm tăng thêm vẻ hoang vu.
Tôi sẽ ở lại đây một đêm.
Sau một ngày dài ngồi bó gối trên tàu, tôi muốn ngả lưng trên chiếc giường tre ọp ẹp có trải manh chiếu nát. Những con rệp lâu ngày bị đói rủ nhau ra tung hoành làm tôi phải bật dậy suốt đêm. Sáng sớm đã có tiếng xì xầm ở bên ngoài. Dân quanh vùng lén mang chuối, gạo, gà... bán cho những người thăm nuôi tù. Họ giành nhau để được tên cán bộ nhà ga phân phối khuân vác từng thùng lương thực xuống thuyền để lấy tiền công.
Sang đò ngang, lại chuyển đò dọc. Tiền khuân vác, tiền chuyên chở, bao nhiêu cũng phải trả.
Con thuyền cũ chòng chành vì nặng hành lý. Khách trên thuyền chỉ có khoảng năm người. Từ Saigon hay từ các tỉnh miền Nam đi thăm nuôi. Thuyền không có mái. Hơi nóng từ trên trời giội xuống, từ dưới nước bốc lên. Tôi như muốn ngất lịm đi vì say sóng. Đây là con sông Lô trong nhạc Văn Cao. Không có tiếng hò, tiếng hát trên sông. Chỉ có tiếng mái chèo đập nước, tiếng sóng vỗ ì oạp vào mạn thuyền. Hai bên bờ sông, chỉ toàn là cây dại. Hoàn toàn im lặng.
Khi mặt trời đứng bóng, thuyền cập bến đò Ngọc. Trái với tên bến Ngọc, bến đò này toàn sỏi đá lởm chởm. Từ bờ sông lên tới đường đi, chúng tôi phải trèo lên từng phiến đá sắc cạnh. Phụ nhau kéo đồ đạc lên rồi ngồi chờ xe trâu tới thuê chở chuyển đồ vào trại.
Tôi ngồi tựa lưng vào một gốc cây khô. Bên kia sông, không một mái nhà. Cỏ cây chằng chịt. Phía sau lưng, hoang vắng. Một lối đi nhỏ mất hút sau rặng cây rậm rạp. Đứa bé trai khoảng trên mười tuổi, không biết từ đâu xuất hiện. Chiếc quần ngắn cũ chắp vá đủ màu bọc ngoài đôi chân gầy guộc. Lấm lét nhìn chung quanh, nó đến gần chúng tôi, khẽ nói:
”Cho nhà cháu vác vào trại nhá! Tiền công rẻ hơn xe trâu.”
”Trại có gần đây không hả cháu? Đi chừng bao lâu? ...”
Chợt thằng bé chạy vụt vào lùm cây.
”Này, chị kia, nói chuyện gì với nó thế?”
Tên công an, mặt non choẹt, vác súng đi tới: “Gia đình nhà đó “nà” bọn “nười” lao động. Không chịu sản xuất, chỉ định “nàm” thuê.”
Đưa đôi mắt nhìn khắp lượt có vẻ đe dọa, hắn hất hàm nói tiếp: “Đợi đấy. Sẽ có xe của Hợp tác xã phục vụ. Ai không tuân lệnh, cúp thăm nuôi.”
”Việt Nam tham dự Thế Vận Hội mang về ba cúp: Cúp điện, cúp nước, cúp lương thực. Giờ đây lại sắp lãnh thêm một cái cúp nữa.” Tiếng thì thầm, rúc rích của hai thanh niên đi cùng chuyến.
Tiếng lọc cọc từ xa mỗi lúc một gần. Xe trâu đến. Những mảnh cây ngang dọc sơ sài đóng vào nhau. Bốn bánh xe đẽo bằng gỗ. Sợi dây thừng lớn nối từ cổ xe vào mình một con trâu già. Cán bộ hợp tác xã nhảy xuống khỏi xe. Chúng mời nhau điếu thuốc lá Thủ Đô. Lương thực được chúng tôi khuân chất lên xe. Bao nhiêu thùng là bấy nhiêu tiền. Thùng to, nhỏ giá chở khác nhau. Tên cán bộ ngồi trên một thùng đồ vững vàng nhất. Chiếc roi mây quất nhẹ vào mình trâu để con trâu bước đi. Ngươì thăm nuôi lẽo đẽo đi bộ theo sau. Trời nắng. Đường gồ ghề những đá. Người và vật lê bước nặng nhọc. Đi, đi mãi... Sâu tít vào rừng. Đường vòng vèo tưởng như không có lối ra. Qua những con suối cạn, ì ạch mãi chúng tôi mới đẩy được xe qua. Tên cán bộ ngừng lại cho con trâu nghỉ mệt. Dãi nhớt đầy miệng, trâu thở phì phò. Tội nghiệp cho cả trâu. Tội nghiệp cho cả người thăm nuôi. Cổ tôi khô. Đầu nhức như búa bổ. Tôi ngồi vật xuống cỏ...
Trời đã xế chiều, ánh nắng nhạt dần. Người và vật vẫn tiếp tục cuộc hành trình trong yên lặng. Có tiếng lá khô vỡ vụn. Không phải tiếng xào xạc của lá cây rơi rụng. Không phải tiếng chân chạy của thú rừng.
Cặp mắt tôi như sáng lên. Một toán người bẻ lá đi ra. Có người thân quen không nhỉ? Bộ quân phục của binh chủng thủy quân lục chiến dù phai màu theo năm tháng, dù bị rách vá bởi kiếp đọa đầy, vẫn không làm mất đi vẻ thông minh sáng sủa của những người tù. Vai vác cuốc, tay cầm xẻng, bi đông nước lủng lẳng thắt lưng, các anh nhìn chúng tôi với ánh mắt cảm thông, chia sẻ.
Tên công an thấp bé ôm súng chạy xộc lên phía trước. Tôi đi sát bờ cỏ, len lén rắc kẹo lên lối đi. Những mảnh giấy cuộn tròn thật nhỏ vội vàng chuyền tay. Lời nhắn gửi của các anh gửi về Saigon.
Quãng đường rộng hơn, bằng phẳng. Đó đây, thấp thoáng mái nhà. Tôi gặp Ngô Kim Thái, bạn học cũ Trưng Vương đi trở ra. Chúng tôi chỉ kịp chào hỏi nhau vài ba câu. Sắp tới K5. “K1 hả? Còn đi lâu lắm...”
Xe trâu mỗi lúc một nhẹ hơn khi ghé qua một K. Tôi là người cuối cùng, đi vào K có con số nhỏ nhất. Lố nhố vài người đến trước đứng trên thềm. Mọi người nhanh nhẹn phụ giúp chuyển đồ trong khi tôi trả tiền xe.
Xếp đồ vào phòng qui định, tôi chỉ kịp nhận giường chiếu là buông mình nằm mê mệt.
”Chị! Dậy đi chị! Không trình giấy, ngày mai làm sao được gặp?”
Nghe đến giấy tờ, tôi bật người lên. Quên cả nhức đầu. Tú, người lay gọi tôi, có gương mặt trái soan, còn rất trẻ. Tú đi chuyến tàu đêm, đến đây từ sáng.
”Phòng tắm ở đâu?”
”Phòng tắm hả?” Tú cười chỉ về hướng sau nhà.
”Mấy tấm phên che không kín. Có còn hơn không. Nhưng nước bẩn lắm. Phải xuống tít dưới kia lấy nước ở suối. Em có mua được một cái xô. Cho chị mượn đó.” Tôi cảm ơn người bạn mới.
”Trước anh làm gì?”
”Chiến tranh chính trị.”
”Cấp bậc?”
”Trung tá. Chức vụ luôn nhé! Tham mưu trưởng trường Đại Học chiến tranh chính trị Đà Lạt.”
”Chết, chức to quá! Chồng em cũng chiến tranh chính trị. Cấp úy nhỏ nhất thôi. Mà chị ơi, đúng rồi! Chính trị tội nặng nhất. Họ gọi là thành phần ác ôn, tập trung tại K1. Không biết họ nhốt mấy ổng có gần đây không nhỉ?” Tú thì thầm. “Họ cấm không cho người thăm nuôi ra khỏi khu này, cho nên... em chẳng biết gì hơn.”
Tôi nhìn quanh, Vẫn cỏ cây chằng chịt. Chỉ có hàng rào chung quanh khu tiếp tân này là được cắt xén cẩn thận, ngay ngắn. Ngôi nhà ba gian. Tường cây, mái bằng lá cỏ khô, nền đất. Hai gian dành cho thân nhân. Khoảng sân nhỏ với những bồn hoa, luống cây cảnh xếp bằng sỏi đá đơn sơ. Khung cảnh nơi đây chắc chắn phải có bàn tay của những người tù. Lòng tôi chùng xuống. Ngậm ngùi. Phía xa là nhà bếp. Trong ánh lửa bập bùng, thấp thoáng bóng người mẹ già, người vợ trẻ lui cui đun nấu thức ăn tươi cho ngày mai. Thịt gà kho gừng, thịt bằm ớt rang khô. Bát canh rau, thịt kho trứng... Những món ăn quen thuộc như chìm vào quên lãng - vì bên ngoài cũng thiếu thốn, có được ăn đâu?
”Chị có nhìn thấy những cây nhang cắm trên cành cây phía đằng kia không? Của một bà phòng bên cạnh. Ổng chết lâu rồi.”
Tôi lạnh người. Sáng nay mới biết. Dã man. Để người ta lặn lội ra đây?
Đêm xuống. Bao trùm núi rừng. Tôi thao thức không ngủ. Lo lắng. Chỉ mong trời sáng. Cuối cùng tôi cũng thiếp đi được một chút để rồi được đánh thức bởi tiếng khua động của mọi người chung quanh.
Giây phút chờ đợi như kéo dài. Hơn tám giờ, hai tên công an ôm giấy tờ đến, lững thững trong khi mọi người nôn nóng. Gọi tên ai, người đó mới được vào phòng đợi.
”Con chị tên gì?”
Kỳ quá! Hôm qua đã ghi rồi mà. Người đàn bà ấy đã đứng tuổi, đi cùng chuyến đò với tôi. Tên công an thì chưa đến hai mươi tuổi. Bà đáng tuổi bà, tuổi mẹ hắn.
”Thưa ông...”
”Này, chị phải bỏ ngay cái giọng quan niêu phong kiến ấy đi nhá!”
Giọng rụt rè: “Thưa anh...”
”Ai anh em gì với cái nhà chị?”
Tiếng nói cất lên như một tiếng thở dài:
”Thế bây giờ tôi phải gọi như thế nào đây?”
”Gọi nà cán bộ. Báo cáo cán bộ. Biết chưa?”
Lần lượt mỗi người vào như bị hỏi cung. Mỗi người bị tên công an vặn vẹo, nạt nộ. Gian phòng nhỏ hẹp, chỉ đủ kê một cái bàn nhỏ ở góc cửa ra vào, tên công an ngồi làm cái việc hỏi cung. Một cái bàn dài, rộng kê ở giữa. Thân nhân ngồi một dãy. Phía bàn đối diện dành cho tù nhân. Vị trí của mỗi người tùy theo sự sắp xếp của công an.
Và giây phút chờ mong đã đến. Người thân của chúng tôi đã được giải tới. Mọi người trong phòng nhốn nháo. Người ngồi bên trong đứng lên để được nhìn rõ hơn. Những người tù thong dong bước tới mỗi lúc một gần. Quần áo mang trên người còn nguyên nếp gấp. Quần áo mang theo, nhưng lần này sao rộng thùng thình như đi mượn. Cặp mắt ai cũng sáng lên khi nhận ra người thân yêu.
Tên công an áp giải bắt xếp hàng ở dưới sân. Hắn hất hàm cho từng người vào. Hơn bốn năm xa cách, chúng tôi nhận ra ngay những nét thay đổi của nhau. Thời gian và khổ cực. Cuộc sống bên ngoài cũng chẳng mấy tự do. Khóc thì sẽ bị đuổi ra. Nhưng những giọt nước mắt vẫn lặng lẽ rơi.
Năm phút. Mười phút. Thời gian trôi nhanh. Gần hết giờ thăm. Những câu hỏi, câu trả lời lạc lõng. Toàn những chuyện đã viết trong thư. Đôi mắt tên công an gườm gườm. Mấy cái gai nhọn lúc nào cũng muốn đâm vào da thịt.
Đi suốt cả chiều dài đất nước để có được mười lăm phút gặp nhau. Quà sắp lên xe trâu. Tôi nhìn theo chồng đứng vào hàng để giải về. Chúng tôi theo ra cổng, nhưng chỉ được đứng bên hàng giậu nhìn theo cho đến khi toán người đã khuất vào lùm cây.
“Cùng trông lại mà cũng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”
Thuở còn đi học, nghe cô Tỉnh giảng Kiều say mê. Nhưng chỉ thích Chinh Phụ Ngâm, để rồi ngày nay phải mang nỗi buồn cô phụ. Tôi nuốt nước mắt nghẹn ngào. Bỗng dưng vạn vật mờ tất cả.
Bích Huyền
Hết
I. KHÓC BẠN TÙ VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM CỘNG HÒA
1. Ðại Tá Hồ Hồng Nam (Tổng Cục CTCT)Khoá 3/TVBQGVN
Vừa được tha về năm 1978 thì chết tại bệnh viện.
2.Th. Tá Ðoàn Kỳ Long (Tổng Nha Cảnh Sát)Khoá 10/TVBQGVN
Chết tại Trại Tù số 4 Xã Yên Lâm, Huyện Thiếu Yên, Thanh Hóa năm 79.
3.Th. Tá Mã Thành Nghĩa (Tiểu Ðoàn 411 ÐPQ)Khóa 10/TVBQGVN
Tuẫn tiết cùng với vợ, để lại con thơ tại nhà ở Bạc Liêu
4.Th. Tá Nguyễn Hữu Ðăng (Quận Trưởng) Khóa 13/TVBQGVN Chết tại Trại Tù K1, Tân Lập Vĩnh Phú năm 1979
5.Ðại Uý Nguyễn Thành LongKhóa 14/TVBQGVN
Bị biệt giam rồi tự tử chết tại Nhà Tù Suối Máu năm 1978.
6.Th. Tá Tôn Thất LuânKhóa 14/TVBQGVN
Chết ở ngoài Bắc không rõ năm.
7.Th. Tá Ðỗ Hữu TướcKhóa 14/TVBQGVN
Chết tại Trại Tù Lạng Sơn.
8.Tr/Tá Phạm Văn NghymKhóa 18/TVBQGVN
Chết tại trại tù Hoàng Liên Sơn
9.Th/Tá Vũ Văn Kiêm (Trưởng Phòng 3 Tiểu Khu Gia Ðịnh)Khóa 17/TVBQGVNVượt ngục mất tích tại Trại Tù Bù Gia Mập Tháng 5, 1977. Tin tức do vợ là Vũ Nguyệt Ánh cung cấp.
10.Ðàm Ðình LoanKhóa 19/TVBQGVNChết tại Trại Tù Miền Bắc.
11.Th.Tá Nguyễn Ðức Nhị Khoá 19/TVBQGVNKiên giam chết tại Trại Tù Tân Lập, Vĩnh Phú năm 1981
12..Nguyễn Văn Sinh Khoá 19/TVBQGVNVượt ngục ở Bù Gia Mập rồi mất tích.
13. Tr. Tá Huỳnh Như XuânKhoá 19/TVBQGVNChết tại trại tù Miền Bắc không rõ năm
14.Thiếu Tá Trần Văn Hợp (T. Ðoàn Trưởng TÐ2 TQLC)Khoá 19/TVBQGVNChết vì ngộ độc tại Trại 5 Kiên Thành, Ngòi Lao, Yên Báy năm 1978.Nguyễn Ngọc CangKhoá 20/TVBQGVNChết tại Trại Tù Hoàng Liên Sơn.
15. Th. Tá Huỳnh Túy Viên (Quận Trưởng Ðầm Dơi)Khóa 20/TVBQGVNBị cộng sản tử hình bằng cách cho người móc mắt ngay tại quận lỵ Tháng 5, 1975.
16.Thiếu tá Hoàng trọng KhuêKhóa 21/TVBQGVN Tử hình tại Huế ( Phục Quốc)Ð/U Trịnh lan PhươngKhóa 21/TVBQGVNTự sát tại Phủ Tổng Thống
17.Th/ Tá Ðỗ công HàoKhóa 21/TVBQGVNTự sát tại BTL/QÐ1Ðoàn Văn Xương (Hải Quân)Khoá 22/TVBQGVNBị đánh chết sau khi vượt ngục tại Trại 6 Nghệ Tĩnh.
18.Th/úy Nguyễn Hoàng HùngKhoá 23/TVBQGVNTù 7 năm vượt biển rồi mất tích với cả gia đình năm 1983.
19.Tr/úy Nguyễn Ngọc Bửu (Ðại Ðội Trưởng TQLC)Khóa 25/TVBQGVN Vượt ngục Xuân Phước bị bắn chết tại Ấp Tây Sơn , Ðắc Lắc ngày 19-11-80.
20.Tr/úy Lý Công Pẩu (AET)Khóa 26/TVBQGVN Tử hình tại Trảng Lón Tây Ninh 1975
21.Th/úy Trần Hữu SơnKhóa 28/TVBQGVN Bị giết khi vượt trại
22.Th/úy Trương Tráng NguyênKhóa 29/TVBQGVN Uống 16 viên thuốc ngủ tự vận chết tại Trại Tù Ấp Vàng , Sóc Trăng
23.Th/úy Trương Ðăng HậuCSVSQ//TVBQGVN Chết tại Trại Tù Hà Tây năm 1988.
24.Ð/úy Hoàng Trọng KhuêVõ Bị Quốc Gia Bị xử bắn tại Huế năm 1975.
25.Th/Tá Phan Ngọc Lương (SÐ1/BB)CSVSQ//TVBQGVN Tổ chức phục quốc bị tử hình tại Chín Hầm, Huế năm 1979.
26.Tr/úy Nguyễn Ngọc Trụ Huấn Luyện Viên/TVBQGVN Bị xử bắn tại Trại An Dưỡng Biên Hòa năm 1977
27.Tr/úy Nguyễn Văn ChungHuấn Luyện Viên/TVBQGVN Chết tại Trại Tù Nghệ Tĩnh không rõ năm.
II.NHÀ TÙ CỘNG SẢN
Cai tù Việt Cộng - Phần 1
Như
hàng ngàn nhà tù khác, Việt cộng đã dựng lên sau khi chiếm được miền
Nam Việt Nam, ngày cuối cùng của hạn kỳ 10 ngày do chính chúng quy định
cho Sĩ Quan cấp Úy đi “học tập cải tạo” đã qua tại nhà tù Long Giao.
Nỗi hoài nghi về sự lừa gạt của Việt cộng càng ngày càng trở thành
chính xác khi tuần thứ 10 cũng đã qua luôn.Cái án tù vô hạn định không hề tuyên bố đang chính thức được thi hành để hủy diệt dần mòn số phận toàn thể Sĩ Quan của 1 quân đội thua trận vì bị Đồng Minh phản bội.
Trước khi chuyển tù từ các nơi tập trung ở Saigon về Long Giao, cán bộ Việt cộng phụ trách công tác tuyên bố:”nhờ chính sách khoan hồng đại lượng của cách mạng hôm nay các anh được đưa đến 1 địa điểm đầy đủ điều kiện thuận lợi để học tập cải tạo...”, tới nơi mới thấy địa điểm đầy đủ điều kiện thuận lợi là 1 chỗ không có lấy một cái cầu tiêu, không 1 miếng ván lót nằm.
Thêm chuyện lạ khó tin nhưng có thật với nhân chứng gồm hàng trăm ngàn người đi ở tù, đó là ở tù phải đóng tiền cơm! Chỉ sau khi đến Long Giao tới ngày thứ hai, toàn thể tù nhân bị bọn cai tù bắt nộp tiền cơm. Chúng biết thóp ai cũng mang theo vài ngàn để phòng thân nên vét trọn được một mẻ rất khá.
Đểu cáng là tuy đóng tiền cơm, nhưng hàng ngày nhà bếp tù chỉ được phát gạo mục rỗng ruột. Thứ gạo bỏ vào nước vo nổi nhiều hơn chìm. Kết quả sau một thời gian ngắn, rất nhiều người bị mắc bệnh phù vì thiếu sinh tố B1. Chân người bệnh sưng mọng lên gấp hai ba lần khiến cho việc đi lại thật khó khăn. Dã man hơn nữa, có khi Việt cộng còn phát ra những bao gạo trộn đầy đất cát.
Thứ gạo này khi nấu thành cơm cả trại đều nhăn mặt người nghĩ cách đổ đầy nước vào nửa chén cơm rồi lấy đũa khuấy thật mạnh cho sạn cát lắng xuống nhưng cũng không thể nào lọc được.
Cơm và đất cát đã dính bết vào nhau rồi. Cả ngày hôm đó cơm tù còn nguyên. Anh em đợi bọn cai tù xuống nói rõ sự việc, nhưng bọn này nghe xong thản nhiên trả lời :
- Các anh phải khắc phục.
Bệnh tật phát sinh trong trại tù mỗi ngày một tăng. Phụ trách y tế trại là một con y tá vườn. Con này mới bò từ rừng ra sau ngày 30-4-75. Hàng ngày nó ngồi vênh váo bên trong khuôn cửa sổ căn nhà dùng làm trạm y tế để làm việc.
Tù bệnh buổi sáng đến ngồi chờ bên ngoài lần lượt tới khai. Bất cứ bệnh gì, con này cũng khủng khỉnh cho toa điều trị 1 cách quái đản. Giữa năm 1975 không ai có thể ngờ y tá Việt cộng lại có cách chữa bệnh bán khai đến như vậy :
- Bệnh gì?
- Tôi bị phù, người mỏi mệt, đau nhức toàn thân.
- Xuống nhà bếp xin nước vo gạo đun lên mà uống.
-...?!?
- Bệnh gì?
- Tôi bị tiêu chảy.
- Tiêu chảy ra làm sao?
- Tôi bị đi cầu nhiều lần trong ngày.
- Nhịn ăn, ra chỗ hàng rào, hái lá ổi đun lên mà uống.
-...
- Bệnh gì?
- Chân tôi bị lưỡi cuốc văng vào làm độc có mủ nhiều ngày nay rồi.
Thằng Quản giáo, cai tù trực tiếp coi mỗi buồng, sau khi nghe báo cáo thiếu hai người. Mặt nó tái đi. Tuy nhiên nó cũng vào tận nơi xem xét lại chỗ nằm của 2 người. Sau đó nó chạy về Bộ chỉ huy Trại rồi trở xuống ngay với thằng cán bộ an ninh. Hai thằng chia nhau tém gọn tất cả đồ đạc của tù trốn.
Tối hôm đó cả buồng 5 phải ngồi sinh hoạt kiểm điểm, dưới sự theo dõi và chất vấn của thằng Quản giáo.
Mọi người đến phiên phát biểu ý kiến đều cả quyết xác nhận không hề hay biết gì về âm mưu của hai người trốn trại.
Thằng quản giáo cố nén tức giận thông báo phịa: “Tôi cho các anh biết 2 tên phản động trốn trại bị bắt lại rồi. Hiện nay trại đang có biện pháp xử lý 2 tên này. Các anh lấy đó làm gương. Đừng bao giờ dại dột mà trốn trại. Các anh có trốn cũng không thể nào thoát được. Vì khắp nơi nhân dân ta đều là tai mắt của Đảng và nhà nước.”
Mặc dù bọn cai tù Việt cộng hết sức dọa nạt để ngăn chặn nạn trốn trại, nhưng không bao lâu một vụ trốn trại đông hơn trước lại xẩy ra. Lần này anh em ở nhiều buồng đặt kế hoạch chung nhưng họ lại thiếu may mắn hơn 2 người lần trước.
Sau vài ngày, xảy ra vụ thứ hai. Cả trại chứng kiến cảnh ba người bị dẫn giải về. Cả 3 quần áo rách tả tơi, tay bị trói quặt về phía sau bằng dây kẽm gai, mặt mày sưng húp, bầm máu. Họ đi không còn vững, lúc nào cũng chỉ chực ngã chúi về phía trước.
Sau khi được nhá cho mọi người thấy, họ bị nhốt ngay vào những cái cũi tù mà muốn ngồi dậy phải cúi đầu thật thấp. Anh em dò hỏi mới hay toán vượt ngục thất bại gồm 7 người. Bốn người đã bị bắn chết trong rừng. Ba người còn lại không bị bắn nốt vì sau khi tra tấn họ chết đi sống lại nhiều lần, bọn cai tù thấy rồi cũng chết, nên mang về trại để dằn mặt những người khác.
Lần này các đội tù không bị bắt sinh hoạt kiểm điểm về việc trốn trại nữa. Bọn cai tù sợ phản tác dụng nếu công khai hóa liên tục những tin tức loại này.
Tuy nhiên thằng quản giáo vẫn lên giọng răn đe: “Hiện nay trong trại ta vẫn còn những kẻ ngoan cố, chúng muốn coi thường luật pháp XHCN, đang âm mưu trốn trại để tiếp tục chống phá cách mạng. Nhưng không được đâu. Kẻ nào có ý đồ làm những chuyện dại dột đó sẽ bị trừng trị đích đáng như các anh đã thấy. Bốn tên cực kỳ phản động, chống đối đến cùng đã bị chính nhân dân ta bắn hạ. Ba tên còn lại nhờ vệ binh can thiệp kịp thời đưa về trại. Nếu những tên này biết ăn năn thật tâm hối cải thì sẽ được hưởng chính sách khoan hồng. Đây là lần chót để các anh suy nghĩ học tập cho tốt.”
Khoan hồng đâu không thấy, chỉ thấy vài ngày sau hai người trong cũi đã chết tại chỗ. Còn 1 người nằm mê man, bất tỉnh không ăn không uống nổi nữa, bọn cai tù nói là cho đi viện, nhưng có lẽ là viện dưới âm ty.
Lần này bọn cai tù có vẻ yên tâm vì cả 7 người trốn trại đều bị chúng bắn hạ hoặc tra tấn đánh đập rồi cũng chết luôn trong cũi. Biện pháp đó tưởng đâu đã bóp chết được phong trào trốn trại. Trái lại vẫn có những anh em tiếp tục quyết tâm tự cứu. Trước sự gan lì này, bọn cai tù chơi trò khác.
Chúng bày ra tòa án, cố tạo không khí nghiêm trọng để xử người trốn trại. Một buổi sáng cả trại nghỉ lao động. Từng đội sắp hàng cạnh nhau trước loa phóng thanh trực tiếp truyền thanh phiên xử Đại úy Thịnh tội âm mưu trốn trại.
Riêng thành phần “chức sắc” gồm các lán trưởng, tổ trưởng tù được tham dự tận mắt phiên tòa tại bộ chỉ huy trại. Nhưng xử cái gì nữa, phiên tòa chưa bắt đầu, đã có 1 chiếc xe Molotova chở cỗ quan tài đưa vào trại.
Mọi người nhìn nhau : “xong rồi!” và đúng như thế. Cuối cùng bản án được một thằng Việt cộng mặt đầy sát khí ngồi bàn chánh án tuyên ra 2 chữ vắn gọn: “Tử hình!”. Đại Úy Thịnh bị mang ra bắn trước sự chứng kiến bắt buộc của đồng đội.
Thấm thoát 1 năm tù trôi qua ở trại Long Giao với tất cả 3 lần tù nhân phải làm bản tự khai. Lần nào để tù nghỉ lao động làm công việc này, tên trại trưởng cũng khoác lác phủ đầu : “Hồ sơ lý lịch của các anh, cách mạng đã có đầy đủ. Bây giờ trại chỉ muốn coi xem các anh có thực thà khai báo lại hay không. Căn cứ vào lời khai của các anh, trại sẽ đánh giá chính xác thiện chí học tập cải tạo từng người”.
Sự thực thì bọn Việt cộng chẳng biết cách nào để biết rõ lý lịch từng người trong số hàng trăm ngàn tù chúng giam giữ. Thế nhưng chúng lại rất muốn biết để có yếu tố phân loại, biên chế nhằm áp dụng đúng tiêu chuẩn những biện pháp thích đáng hơn đối với mỗi thành phần.
Hòng chắc ăn, chúng bắt tù khai đi khai lại 3 lần lý lịch của từng người với cùng các câu hỏi giống nhau để khai thác mọi kẽ hở sai biệt nếu có trong lý lịch bất cứ người nào. Sau đó căn cứ vào hồ sơ lý lịch này chúng thực hiện kế hoạch chuyển trại qui mô.
Một nửa số tù đã được chuyển khỏi trại. Những người còn lại đang hoang mang lo lắng thì có lệnh tập trung lên sân Bộ chỉ huy trại để thằng trại trưởng làm việc :
- Hôm nay tôi thông báo cho các anh biết 1 việc hết sức quan trọng để chuẩn bị. Các anh sẽ được đưa tới 1 nơi khác có đầy đủ điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc đi học tập cải tạo. Bây giờ các đội trở về lán thu xếp tư trang cho thật gọn chờ quản giáo xuống hướng dẫn di chuyển.
Hàng ngàn tù nhìn nhau hỡi ôi : Lại đến một nơi có nhiều điều kiện thuận lợi hơn nữa!
Cái thuận lợi sơ khởi của lần này là tù được đi tàu thủy, con tàu có tên Sông Hương rất đẹp, nhưng đã được bọn cai tù Việt cộng biến thành 1 cái địa ngục nổi kinh hoàng.
Tù từ nhiều nơi cùng lúc được đưa tới Tân Cảng Saigon để tàu chở ra Bắc. Trên boong tàu 1 cửa cầu thang nhỏ được mở ra để tù xuống hầm. Giòng người nối đuôi nhau tụt xuống liên tục suốt từ chiều đến nửa đêm mới hết.
Mới đầu người xuống trước còn duỗi chân ra được, nhưng dần dần tất cả phải co chân lại mới đủ chỗ ngồi. Phần cuối khoang chừa lại 1 khoảng nhỏ để làm nơi đại và tiểu tiện.
Chỉ sang đến ngày thứ hai là phân và nước tiểu đã bắt đầu chảy ngược lại phía người ngồi. Nắp cầu thang trổ lên boong lúc nào cũng đóng chặt. Cứ như thế hàng ngàn người đã không đủ khí trời mà thở, lại còn phải hít thêm mùi phân và nước tiểu càng lúc càng nồng nặc.
Ngày nào cũng có vài người ngất xỉu. Xỉu thì nằm đó cho đến khi tắt thở. Anh em chung quanh la hét kêu cấp cứu nhưng khoảng vài tiếng đồng hồ sau nắp thang mới mở để cho 4 người ngộp thở khiêng người hết thở lên boong tàu.
Thế rồi các xác chết kia được quăng xuống biển, 1 nơi sạch sẽ mát mẻ hơn dưới hầm tàu, chỗ những cái xác sống đang chịu cực hình ngồi trên cức đái sình thối.
Cái thuận lợi kế tiếp là đi xe lửa Bắc Việt. Tàu vừa cập cảng Hải Phòng, tù được dồn thốc tháo từ địa ngục nổi sang địa ngục lăn. Mỗi toa xe địa ngục này có 2 thằng Việt cộng cầm súng kềm tù leo lên.
Khi toa đã chật cứng, 2 cái lưỡi lê được dùng để bắt buộc những người ngồi gần cửa phải rướn người bật ngửa ra phía sau lòi chỗ cho người đang chờ dưới đất lên tiếp.
Trong toa người nọ phải ngồi đè lên người kia mới đủ chỗ chứa hết số tù quy định cho mỗi toa. Cửa toa được kéo lại khóa chặt. Trong bóng đêm mù đặc, chuyến tàu đen đưa tù về nẻo Yên Bái. Tới ga khi cửa mỗi toa mở ra cho tù xuống, những người yếu sức quá đã chết ngộp từ bao giờ.
Cái thuận lợi sau cùng và lâu dài nhất là tù được đưa lên địa phận Hoàng Liên Sơn, 1 nơi rừng sâu nước độc vào bậc nhất miền Bắc VN. Ở đây không có người, không có nhà, không có đường đi lối lại mà chỉ có muỗi, vắt, đỉa, bọ cạp và rắn rết.
Tù phải tự tay dựng lấy nhà giam chính mình. Nguyên vật liệu là gỗ, tre, giây rừng. Dụng cụ gồm vài con dao rựa với mấy cái cưa cùn. Tuyệt nhiên không hề có 1 cây đinh hay cọng kẽm nào!
Thằng trại trưởng chưa có trại luôn mồm đốc thúc : “Trách nhiệm trước mắt ta là xây dựng trại. Tất cả các anh phải phấn đấu tích cực nhanh chóng hoàn thành công tác được giao phó sớm chừng nào hay chừng nấy.”
Trong sự thiếu thốn dụng cụ vật liệu quá đáng mỗi khi tù gặp trở ngại hỏi thêm bất cứ thứ gì cũng được đáp ứng bằng mồm ngay :”Các anh phải biết lao động sáng tạo chứ. Phải biết tự tạo ra phương tiện mà dùng chứ. Phải biết khắc phục chứ”.
Bài thuốc khắc phục đã được cai tù mang ra xử dụng trong mọi trường hợp cần cung ứng bất cứ thứ gì hiện đang thiếu thốn. Khắc phục không hơn không kém nghĩa là chẳng có gì ngoài sức lao động của con người, con vật lao động đúng nghĩa nhất dưới chế độ Cộng sản.
Sau khi có được những cái thuận lợi đặc biệt vừa kể, tù bắt đầu nhận bản án khổ sai biệt xứ đồng đều nhau. Ngay khi trại giam vừa hoàn tất, cai tù qui định chỉ tiêu lao động mới: “Kể từ nay hàng ngày mỗi người các anh phải mang về cho trại một cây gỗ dài ít nhất 5m, đường kính ít nhất 30 phân. Hôm nào có lệnh lấy vầu (một loại tre cực lớn), mỗi người hai cây dài 10m, đường kính ngọn không dưới 10 phân. Trại vừa nhận đủ số dao rừng để phát cho các anh đi lao động mỗi người 1 con. Buổi chiều công tác xong, anh nào trực đội, tập trung dao mang trả kho. Ai làm mất phải chịu trách nhiệm hoàn toàn và sẽ được xử lý thích đáng. Đây là công tác trại giao cho các anh để học tập cải tạo. Vậy anh nào tỏ ra chây lười lao động, cố tình không hoàn tất chỉ tiêu, trại sẽ áp dụng biện pháp cắt phần ăn mỗi ngày.”
PHẦN 2
Đường ra Vĩnh Phú
Ngồi trong toa của con tàu Thống Nhất, tôi vẫn chưa hoàn hồn.
tay khư khư ôm chặt chiếc túi xách trong lòng, tôi nhìn theo Dim đang
cố len lỏi tìm lối ra giữa những người đang đứng lố nhố tranh giành
nhau xếp đồ đạc. Gần ra tới cửa, Dim còn ngoảnh lại nhìn tôi, đôi mắt
đỏ hoe. Tôi cũng khóc. Nước mắt tôi làm nhòa đi hình ảnh Dim trong giây
phút ngắn hai chị em chia tay nhau. Dim như bị xô xuống khỏi con
tàu...Xa xa, sân ga Bình Triệu dưới những ngọn đèn vàng vọt không đủ sáng, cảnh tượng vô cùng hỗn độn. Người đi, kẻ lại, người mang, kẻ vác... xô đẩy, chen lấn nhau. Tiếng la hét, tiếng gọi nhau í ới trên một khoảnh đất gồ ghề, tăm tối. Tôi cũng vừa từ đám đông đó lên đây. Bọn cán bộ nhà nước được lên tàu trước từ ga Phạm Ngũ Lão, trên những toa riêng hoặc những toa có giường nằm...
”Thật may, nếu không có Dim đi tin thì làm sao mình còn đủ hành lý!” Lần đầu tiên tôi thấy Dim khỏe quá! Hai tay hai túi xách nặng, cồng kềnh, chen đám đông phăng phăng mở lối cho tôi lên tàu. Bọn cướp giật trà trộn giựt xách tay, rạch ví, móc túi. Tiếng la thất thanh. tiếng chửi thề. Tiếng khóc, tiếng gọi nhau... tất cả tạo thành một âm thanh hỗn loạn. Thần kinh tôi như muốn đứt ra. Hai chị em chỉ kịp bám lấy song sắt của toa tàu là đã như có người đẩy lên rồi. “Kìa! Nó giựt đồng hồ của tôi!” “trời ơi! ví của tôi đâu mất rồi!” Mặc kệ. Mạnh ai nấy chen. Chân tôi bị dẫm lên đau điếng. Áo quânÀn tôi tả tơi, xốc xếch, đầu tóc rối bời.
Giờ đây, tôi ngồi trên tàu, dưới kia cảnh tượng vẫn đang tiếp diễn...
Tiếng còi hú vang báo hiệu sắp đến giờ khởi hành. Tiếng còi dài văng vẳng trong đêm tối. Ngày xưa còn bé, tôi đã từng được học những bài văn tả cảnh sân ga. Niềm vui sum họp, nỗi buồn chia ly. Tiếng còi tàu lanh lảnh âm vang trong lòng tùy theo tâm trạng của mỗi người. Lòng tôi hôm nay, tiếng còn nghe ghê rợn quá! Như tiếng rú, tiếng thét đe dọa những con người thất thế - như tôi - một thân một mình đi thăm nuôi chồng “học tập cải tạo” tại một nơi rừng sâu, nước độc tận cùng miền Bắc.
Không có một bóng người đứng trên thềm ga đưa tin. Không có một ngọn đèn vàng lẻ bóng hắt hiu, như tiếng hát của nữ ca sĩ Thanh Thúy u buồn ngày nào trong một ca khúc tin đưa nào đó... Xa rồi, chỉ có hàng ngàn con người lam lũ, hối hả, vội vàng trên sân ga giành giựt tranh nhau từng miếng cơm sạn mốc, từng manh áo rách.
”Giấy tờ đâu? Mở túi này ra!” Giọng hách dịch của tên kiểm soát. Rồi những khuôn mặt lạnh lùng của toán công an kinh tế phía sau. Một tên nghênh ngang cầm đèn pin, bất kể rọi vào cả mắt hành khách. Một tên cầm chiếc gậy ngắn, xấc xược thọc thọc vào hành lý của khách... Đến lượt tôi: “Giáo viên. Về Bắc nghỉ hè à? A, đi thăm nuôi chồng học tập cải tạo. Thăm nuôi tù thì nói mẹ nó ra đi. Học tập học tiếc cái nỗi gì với cái bọn ngụy ác ôn đó. Thôi, khỏi xét.” Lẽ dĩ nhiên, xét làm gì ba cái đồ lương thực. Họ muốn bắt những con buôn. Tôi cố nén tức giận, tủi hờn, mừng rỡ nhận lại tờ giấy phép, không có tờ giấy này tôi không thể vượt qua mọi cửa ải từ Nam ra Bắc. Chạy chọt hàng bao nhiêu nơi, chờ đợi hàng bao nhiêu ngày, tôi mới có được mảnh giấy đen thui này đây.
Họ di chuyển xuống hàng ghế dưới, tiếp tục hạch sách, lục lọi. Và hành khách tiếp tục năn nỉ, van xin. Hàng hóa nào có nhiều nhặn gì cho cam! Chục mét vải. Dăm gói bột ngọt. Rổ rá nhựa, xô xách nước. Bình nước mắm... Vậy mà có người vẫn khóc ngất khi bị tịch thu. Nồi cơm độn mì, độn khoai tay chỉ mong vào tiền lời nhỏ nhoi đã mất cả rồi.
Tiếng máy xình xịch. tiếng còi tàu rú lên từng hồi như thúc giục, như đồng lõa với những việc làm sai trái trên con tàu mang tên Thống Nhất Bắc Nam.
Bên ngoài trời tối, không một ánh sao. Sương khuya lạnh buốt. Vài con đom đóm lập lòe. Chung quanh tôi, mọi người đều đã nằm ngủ la liệt. Người trải miếng ni-lông dưới chân ghế chật hẹp, người nằm ngả nghiêng trên đồ đạc, ngổn ngang chật cả lối đi. Võng mắc chi chít. Tiếng ngáy, tiếng thở mệt nhọc vang lên. Tôi mệt mỏi tựa đầu vào thành ghế gỗ. Có lẽ chỉ còn có một mình tôi thao thức nên thấy đường dài. Nhớ mẹ, nhớ con, nhớ nhà.
Thế là tôi đã phải xa nhà, xa những người thân yêu, vượt mấy ngàn cây số, đi đến một nơi xa lạ. Làm sao tránh khỏi lo âu? “thân gái dặm trường”, lời nói người xưa thật đúng tâm trạng của tôi bây giờ.
Cũng trên quãng đường này, trong toa xe lửa của một thời xa lắc - thuở còn đi học - ánh mắt long lanh, giọng cười ròn rã reo vui suốt cuộc hành trình. Trại hè Nha Trang. trại hè Thống Nhất Huế. Trại hè sinh viên Huế-Saigon Đà Lạt. Mỗi mùa hè là một mùa tưng bừng hứa hẹn. Còn đâu nữa những tiếng cười khúc khích, tinh nghịch của các bạn tôi trong những đêm không ngủ? Các bạn học cũ của tôi, giờ phiêu bạt nơi đâu? Phạm Hữu Lộc, Bùi Thức Phước, Nguyễn Long Hải, Duy Trác... trong những trại tập trung cải tạo của Cộng Sản. Ấu Oanh, Hoàng Oanh, Ngọc Diệp, Kim Oanh... bán đứng buôn chạy quần áo cũ, thuốc tây. Hồng Thủy, Hồng Hảo, Ngọc Tâm, Hương Kiều Loan... ngàn trùng cách biệt.
Tôi cố quên đi những gương mặt đang say men chiến thắng Nguyn Đắc Xuân, Cao Thị Quế Hương, Kim Tuyến. Tôi ngậm ngùi thương tiếc Lê Hữu Bôi, bị thảm sát trong biến cố Tết Mậu Thân 1968 tại Huế. Bốn năm “giải phóng miền Nam” rồi, bốn năm quay cuồng, vật lộn với cuốc sống mới, có bao giờ được một vài phút suy tư?
Qua mỗi lần tàu ghé một sân ga, bất kể ngày đêm, hàng hóa rỡ xuống, chất lên nhanh chóng gọn nhẹ. Bọn chỉ huy đoàn tàu kết hợp cùng bọn công an kinh tế buôn bán thì còn sợ gì ai xét. Trong khi những người dân, hàng chỉ có một chút xíu thôi mà vẫn bị dòm ngó, hoạch họe đủ điều.
Những giỏ soài Nha Trang của vợ chồng chú bộ đội ngồi trước mặt tôi đã biến mất. Những giỏ soài treo toòng teng trên đầu, những giỏ soài la liệt dưới sàn tàu đều trống trơn. Càng đi xa hơn thì hành lý trên tàu càng vơi nên hành khách còn có lối đi. Hành khách buôn dọc đường. Xã hội chủ nghĩa cấm buôn bán cá thể mà hầu như cả nước đều buôn. Cán bộ công nhân viên mua được nửa ký đường, lon sữa, mươi gam bột ngọt mỗi tháng đều mang ra chợ bán cho người buôn, kiếm chút tiền bù đắp vào đồng lương ít ỏi. Cũng nhờ đó mà tôi mới mua được những thực phẩm thăm nuôi chồng. Tôi thở dài ngao ngán cho kiếp sống đói nghèo.
Tàu càng rời xa miền Nam, làng mạc càng hiu hắt. Bốn năm tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội là đây? Đồng ruộng khô cằn, xóm làng xơ xác. Con tàu đưa tôi vượt qua vĩ tuyến 17, tới miền Trung “ôi, quê hương xứ dân gầy” của nhạc sĩ Phạm Duy. Dân không chân lấm tay bùn - vì đồng ruộng bỏ hoang - mà sao đen đủi. Gương mặt ngơ ngơ ngẩn ngẩn, đứng trước những thau nước chờ khách trên tàu xuống mua rửa mặt, rửa chân.
Một bà cụ lưng còng xuống, manh áo vá không đủ che thân, xách ấm nước đi bán rong. Đường tàu mỗi lúc một xấu, nhất là Thanh Hóa. Con tàu tròng tranh nghiêng ngả. Đồ đạc rơi đổ cả vào người.
Làng quê miền Bắc kia sao? Tôi ngờ mình đang nằm mơ. Bởi hiện thực quá phũ phàng.
“Việt Nam đất nước ta ơi,
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn...”
Miền Bắc hai mươi năm xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân dân đi vào con đường làm ăn tập thể. Đồng ruộng xóa mờ ranh giới, bao la bát ngát thẳng cánh cò bay... Chỉ là hình ảnh tưởng tượng của cán bộ vẽ ra, khi tuyên truyền, khoác lác với dân miền Nam. Trước mắt tôi... đồng khô, nắng cháy. Xa xa xóm làng hoang vắng. Quán nước bên đường che bằng một mái tranh cũ nát, chiếc chõng tre lỏng chỏng một vài món quà lặt vặt: viên kẹo bột vàng, trái chuôi thâm đen. Điếu cầy tre, ấm nước, ly trà cũ bẩn... Mỗi lần tàu ngừng, hành khách tranh nhau mua từng bát cơm khô cứng, lèo tèo một ít rau xào...
Tôi đến Ga Hàng Cỏ - Hà Nội sau ba ngày, ba đêm trên tàu như một người bị tra tấn. Rã rời, mệt mỏi. Hà Nội hiện ra trong mắt tôi với tất cả sự nghèo nàn, lạc hậu. Đèn đường vàng vọt. Trong nhà, ánh điện lù mù nhưng tôi vẫn nhìn thấy nhà nhà ngồi quanh mâm cơm để dưới đất. Đó là hình ảnh đầu tiên về Hà Nội.
Nhà anh chị tôi ở tầng thứ tư của một khu nhà tập thể vùng Kim Liên. Chỉ là một phòng nhỏ hai mươi mét vuông. Độc nhất một cái giường cũ mọt dành cho bố mẹ và đứa con út còn bé. Hai đứa con lớn học đại học nằm dưới đất. Kệ sách vở đụng trần nhà. Dưới gầm giường lỉnh kỉnh bát chén, nồi niêu, xô nước. Gia đình anh chị tôi điển hình cho giới trí thức Hà Nội: chồng, cán bộ nghiên cứu khoa học, vợ bác sĩ. Tôi rùng mình lo sợ tương lai.
Hà Nội với những con đường nhỏ hẹp, đầy ổ gà, bụi bậm. Hà Nội với nhà cửa cũ nát, xiêu vẹo. Hà Nội với con người nhâng nhâng, nháo nháo, chửi thề nói tục. Không phải một thủ đô văn minh lịch sự như theo lời những cái máy nói đã mạt sát Sàigon, ca tụng Hà Nội - mà trong những buổi học tập chính trị ròng rã qua năm tháng, chúng tôi đã phải nghe. Hà Nội trong ký ức tôi, trong thơ, trong nhạc... chỉ là hư ảo.
Lên ga Bình Triệu, xuống ga Hàng Cỏ: kinh hoàng. Tiếp tục cuộc hành trình, tôi đáp tàu đi Vĩnh Phú. Ga nhỏ, người đông. Mùi hôi thối dưới đất, mùi mồ hôi nồng nặc trong ánh nắng hè gay gắt. Tôi muốn nôn oẹ. Lại bị hạch sách, nạt nộ khi làm thủ tục để được lên tàu. Lại chen lấn, xô đẩy. Tôi chạy mãi tìm cửa lên tàu. Toa nào cũng chật cứng người. Cuối cùng chỉ còn giành được một chỗ đứng ở cuối nơi toa tàu nối nhau. Khi con tàu ra khỏi thành phố, một số thanh niên leo lên nóc, tôi mới có một chỗ để ngồi bó gối.
”Ban nãy tao leo lên toa chở lợn, gà. Bị đuổi xuống.”
”Xã hội này là súc vật sướng hơn!”
Tôi nghe tuổi trẻ miền Bắc nói chuyện như thế.
Gió thổi mát lạnh. Trời vần vũ cơn mưa. Cứ ngồi như thế này cho đến tối hay sao? Thế rồi sức chịu đựng của tôi vẫn vượt qua những trận mưa trời làm ướt sũng toàn thân, những trận mưa than từ ống khói tàu nhả xuống. Cũng may là than đá, nếu không biết bao nhiêu hành khách kém may mắn không được ngồi trong toa như tôi sẽ bị nhuộm đen như thế nào?
Con tàu nặng nềđi qua những cánh rừng cọ xác xơ, những đồi chè cằn cỗi thưa thớt dưới cơn nắng cháy.
“Đẹp vô cùng Tổ Quốc ta ơi,
Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca...”
Tôi không hiểu sao Tố Hữu lại có thể làm được những câu thơ với những hình ảnh tươi đẹp như thế?
Ga Ấm Thượng là trạm cuối cùng, tôi xuống. Nơi đây chỉ là một túp lều tranh vách nát giữa vùng đất đìu hiu của miền thượng du Bắc Việt. Bốn bề hiu hắt, vắng vẻ. Trời chập choạng tối. Ánh đèn dầu leo lắt run rẩy như muốn tắtlàm tăng thêm vẻ hoang vu.
Tôi sẽ ở lại đây một đêm.
Sau một ngày dài ngồi bó gối trên tàu, tôi muốn ngả lưng trên chiếc giường tre ọp ẹp có trải manh chiếu nát. Những con rệp lâu ngày bị đói rủ nhau ra tung hoành làm tôi phải bật dậy suốt đêm. Sáng sớm đã có tiếng xì xầm ở bên ngoài. Dân quanh vùng lén mang chuối, gạo, gà... bán cho những người thăm nuôi tù. Họ giành nhau để được tên cán bộ nhà ga phân phối khuân vác từng thùng lương thực xuống thuyền để lấy tiền công.
Sang đò ngang, lại chuyển đò dọc. Tiền khuân vác, tiền chuyên chở, bao nhiêu cũng phải trả.
Con thuyền cũ chòng chành vì nặng hành lý. Khách trên thuyền chỉ có khoảng năm người. Từ Saigon hay từ các tỉnh miền Nam đi thăm nuôi. Thuyền không có mái. Hơi nóng từ trên trời giội xuống, từ dưới nước bốc lên. Tôi như muốn ngất lịm đi vì say sóng. Đây là con sông Lô trong nhạc Văn Cao. Không có tiếng hò, tiếng hát trên sông. Chỉ có tiếng mái chèo đập nước, tiếng sóng vỗ ì oạp vào mạn thuyền. Hai bên bờ sông, chỉ toàn là cây dại. Hoàn toàn im lặng.
Khi mặt trời đứng bóng, thuyền cập bến đò Ngọc. Trái với tên bến Ngọc, bến đò này toàn sỏi đá lởm chởm. Từ bờ sông lên tới đường đi, chúng tôi phải trèo lên từng phiến đá sắc cạnh. Phụ nhau kéo đồ đạc lên rồi ngồi chờ xe trâu tới thuê chở chuyển đồ vào trại.
Tôi ngồi tựa lưng vào một gốc cây khô. Bên kia sông, không một mái nhà. Cỏ cây chằng chịt. Phía sau lưng, hoang vắng. Một lối đi nhỏ mất hút sau rặng cây rậm rạp. Đứa bé trai khoảng trên mười tuổi, không biết từ đâu xuất hiện. Chiếc quần ngắn cũ chắp vá đủ màu bọc ngoài đôi chân gầy guộc. Lấm lét nhìn chung quanh, nó đến gần chúng tôi, khẽ nói:
”Cho nhà cháu vác vào trại nhá! Tiền công rẻ hơn xe trâu.”
”Trại có gần đây không hả cháu? Đi chừng bao lâu? ...”
Chợt thằng bé chạy vụt vào lùm cây.
”Này, chị kia, nói chuyện gì với nó thế?”
Tên công an, mặt non choẹt, vác súng đi tới: “Gia đình nhà đó “nà” bọn “nười” lao động. Không chịu sản xuất, chỉ định “nàm” thuê.”
Đưa đôi mắt nhìn khắp lượt có vẻ đe dọa, hắn hất hàm nói tiếp: “Đợi đấy. Sẽ có xe của Hợp tác xã phục vụ. Ai không tuân lệnh, cúp thăm nuôi.”
”Việt Nam tham dự Thế Vận Hội mang về ba cúp: Cúp điện, cúp nước, cúp lương thực. Giờ đây lại sắp lãnh thêm một cái cúp nữa.” Tiếng thì thầm, rúc rích của hai thanh niên đi cùng chuyến.
Tiếng lọc cọc từ xa mỗi lúc một gần. Xe trâu đến. Những mảnh cây ngang dọc sơ sài đóng vào nhau. Bốn bánh xe đẽo bằng gỗ. Sợi dây thừng lớn nối từ cổ xe vào mình một con trâu già. Cán bộ hợp tác xã nhảy xuống khỏi xe. Chúng mời nhau điếu thuốc lá Thủ Đô. Lương thực được chúng tôi khuân chất lên xe. Bao nhiêu thùng là bấy nhiêu tiền. Thùng to, nhỏ giá chở khác nhau. Tên cán bộ ngồi trên một thùng đồ vững vàng nhất. Chiếc roi mây quất nhẹ vào mình trâu để con trâu bước đi. Ngươì thăm nuôi lẽo đẽo đi bộ theo sau. Trời nắng. Đường gồ ghề những đá. Người và vật lê bước nặng nhọc. Đi, đi mãi... Sâu tít vào rừng. Đường vòng vèo tưởng như không có lối ra. Qua những con suối cạn, ì ạch mãi chúng tôi mới đẩy được xe qua. Tên cán bộ ngừng lại cho con trâu nghỉ mệt. Dãi nhớt đầy miệng, trâu thở phì phò. Tội nghiệp cho cả trâu. Tội nghiệp cho cả người thăm nuôi. Cổ tôi khô. Đầu nhức như búa bổ. Tôi ngồi vật xuống cỏ...
Trời đã xế chiều, ánh nắng nhạt dần. Người và vật vẫn tiếp tục cuộc hành trình trong yên lặng. Có tiếng lá khô vỡ vụn. Không phải tiếng xào xạc của lá cây rơi rụng. Không phải tiếng chân chạy của thú rừng.
Cặp mắt tôi như sáng lên. Một toán người bẻ lá đi ra. Có người thân quen không nhỉ? Bộ quân phục của binh chủng thủy quân lục chiến dù phai màu theo năm tháng, dù bị rách vá bởi kiếp đọa đầy, vẫn không làm mất đi vẻ thông minh sáng sủa của những người tù. Vai vác cuốc, tay cầm xẻng, bi đông nước lủng lẳng thắt lưng, các anh nhìn chúng tôi với ánh mắt cảm thông, chia sẻ.
Tên công an thấp bé ôm súng chạy xộc lên phía trước. Tôi đi sát bờ cỏ, len lén rắc kẹo lên lối đi. Những mảnh giấy cuộn tròn thật nhỏ vội vàng chuyền tay. Lời nhắn gửi của các anh gửi về Saigon.
Quãng đường rộng hơn, bằng phẳng. Đó đây, thấp thoáng mái nhà. Tôi gặp Ngô Kim Thái, bạn học cũ Trưng Vương đi trở ra. Chúng tôi chỉ kịp chào hỏi nhau vài ba câu. Sắp tới K5. “K1 hả? Còn đi lâu lắm...”
Xe trâu mỗi lúc một nhẹ hơn khi ghé qua một K. Tôi là người cuối cùng, đi vào K có con số nhỏ nhất. Lố nhố vài người đến trước đứng trên thềm. Mọi người nhanh nhẹn phụ giúp chuyển đồ trong khi tôi trả tiền xe.
Xếp đồ vào phòng qui định, tôi chỉ kịp nhận giường chiếu là buông mình nằm mê mệt.
”Chị! Dậy đi chị! Không trình giấy, ngày mai làm sao được gặp?”
Nghe đến giấy tờ, tôi bật người lên. Quên cả nhức đầu. Tú, người lay gọi tôi, có gương mặt trái soan, còn rất trẻ. Tú đi chuyến tàu đêm, đến đây từ sáng.
”Phòng tắm ở đâu?”
”Phòng tắm hả?” Tú cười chỉ về hướng sau nhà.
”Mấy tấm phên che không kín. Có còn hơn không. Nhưng nước bẩn lắm. Phải xuống tít dưới kia lấy nước ở suối. Em có mua được một cái xô. Cho chị mượn đó.” Tôi cảm ơn người bạn mới.
”Trước anh làm gì?”
”Chiến tranh chính trị.”
”Cấp bậc?”
”Trung tá. Chức vụ luôn nhé! Tham mưu trưởng trường Đại Học chiến tranh chính trị Đà Lạt.”
”Chết, chức to quá! Chồng em cũng chiến tranh chính trị. Cấp úy nhỏ nhất thôi. Mà chị ơi, đúng rồi! Chính trị tội nặng nhất. Họ gọi là thành phần ác ôn, tập trung tại K1. Không biết họ nhốt mấy ổng có gần đây không nhỉ?” Tú thì thầm. “Họ cấm không cho người thăm nuôi ra khỏi khu này, cho nên... em chẳng biết gì hơn.”
Tôi nhìn quanh, Vẫn cỏ cây chằng chịt. Chỉ có hàng rào chung quanh khu tiếp tân này là được cắt xén cẩn thận, ngay ngắn. Ngôi nhà ba gian. Tường cây, mái bằng lá cỏ khô, nền đất. Hai gian dành cho thân nhân. Khoảng sân nhỏ với những bồn hoa, luống cây cảnh xếp bằng sỏi đá đơn sơ. Khung cảnh nơi đây chắc chắn phải có bàn tay của những người tù. Lòng tôi chùng xuống. Ngậm ngùi. Phía xa là nhà bếp. Trong ánh lửa bập bùng, thấp thoáng bóng người mẹ già, người vợ trẻ lui cui đun nấu thức ăn tươi cho ngày mai. Thịt gà kho gừng, thịt bằm ớt rang khô. Bát canh rau, thịt kho trứng... Những món ăn quen thuộc như chìm vào quên lãng - vì bên ngoài cũng thiếu thốn, có được ăn đâu?
”Chị có nhìn thấy những cây nhang cắm trên cành cây phía đằng kia không? Của một bà phòng bên cạnh. Ổng chết lâu rồi.”
Tôi lạnh người. Sáng nay mới biết. Dã man. Để người ta lặn lội ra đây?
Đêm xuống. Bao trùm núi rừng. Tôi thao thức không ngủ. Lo lắng. Chỉ mong trời sáng. Cuối cùng tôi cũng thiếp đi được một chút để rồi được đánh thức bởi tiếng khua động của mọi người chung quanh.
Giây phút chờ đợi như kéo dài. Hơn tám giờ, hai tên công an ôm giấy tờ đến, lững thững trong khi mọi người nôn nóng. Gọi tên ai, người đó mới được vào phòng đợi.
”Con chị tên gì?”
Kỳ quá! Hôm qua đã ghi rồi mà. Người đàn bà ấy đã đứng tuổi, đi cùng chuyến đò với tôi. Tên công an thì chưa đến hai mươi tuổi. Bà đáng tuổi bà, tuổi mẹ hắn.
”Thưa ông...”
”Này, chị phải bỏ ngay cái giọng quan niêu phong kiến ấy đi nhá!”
Giọng rụt rè: “Thưa anh...”
”Ai anh em gì với cái nhà chị?”
Tiếng nói cất lên như một tiếng thở dài:
”Thế bây giờ tôi phải gọi như thế nào đây?”
”Gọi nà cán bộ. Báo cáo cán bộ. Biết chưa?”
Lần lượt mỗi người vào như bị hỏi cung. Mỗi người bị tên công an vặn vẹo, nạt nộ. Gian phòng nhỏ hẹp, chỉ đủ kê một cái bàn nhỏ ở góc cửa ra vào, tên công an ngồi làm cái việc hỏi cung. Một cái bàn dài, rộng kê ở giữa. Thân nhân ngồi một dãy. Phía bàn đối diện dành cho tù nhân. Vị trí của mỗi người tùy theo sự sắp xếp của công an.
Và giây phút chờ mong đã đến. Người thân của chúng tôi đã được giải tới. Mọi người trong phòng nhốn nháo. Người ngồi bên trong đứng lên để được nhìn rõ hơn. Những người tù thong dong bước tới mỗi lúc một gần. Quần áo mang trên người còn nguyên nếp gấp. Quần áo mang theo, nhưng lần này sao rộng thùng thình như đi mượn. Cặp mắt ai cũng sáng lên khi nhận ra người thân yêu.
Tên công an áp giải bắt xếp hàng ở dưới sân. Hắn hất hàm cho từng người vào. Hơn bốn năm xa cách, chúng tôi nhận ra ngay những nét thay đổi của nhau. Thời gian và khổ cực. Cuộc sống bên ngoài cũng chẳng mấy tự do. Khóc thì sẽ bị đuổi ra. Nhưng những giọt nước mắt vẫn lặng lẽ rơi.
Năm phút. Mười phút. Thời gian trôi nhanh. Gần hết giờ thăm. Những câu hỏi, câu trả lời lạc lõng. Toàn những chuyện đã viết trong thư. Đôi mắt tên công an gườm gườm. Mấy cái gai nhọn lúc nào cũng muốn đâm vào da thịt.
Đi suốt cả chiều dài đất nước để có được mười lăm phút gặp nhau. Quà sắp lên xe trâu. Tôi nhìn theo chồng đứng vào hàng để giải về. Chúng tôi theo ra cổng, nhưng chỉ được đứng bên hàng giậu nhìn theo cho đến khi toán người đã khuất vào lùm cây.
“Cùng trông lại mà cũng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”
Thuở còn đi học, nghe cô Tỉnh giảng Kiều say mê. Nhưng chỉ thích Chinh Phụ Ngâm, để rồi ngày nay phải mang nỗi buồn cô phụ. Tôi nuốt nước mắt nghẹn ngào. Bỗng dưng vạn vật mờ tất cả.
Bích Huyền
Hết
HỒI KÝ NHÀ TÙ CỘNG SẢN
*
- Dậy! Dậy! Điểm danh!
- Tất cả ra ngoài tập họp!
Khoảng năm phút sau, chúng tôi đã có mặt trên sân trại. Mỗi đội đứng đúng vị trí thường lệ. Có người ngồi bẹp, gục xuống đầu gối ngủ gà ngủ gật.
Mặc dầu đã điểm danh, đã đếm đủ đầu người, tên trưởng trại vẫn đích thân vào trong từng chiếc lán chiếu đèn kiểm soát. Trở ra ngoài, hắn dõng dạc ra lệnh, vẫn một thứ âm thanh lạnh lùng sắt máu :
- Các đồng chí vệ binh triển khai công tác!
Từ bốn góc sân, có những bóng đen nón cối súng dài, lặng lẽ di chuyển. Có tiếng trả lời ngắn gọn :
- Báo cáo, rõ!
Tiếng lách cách lên đạn của toán vệ binh càng khiến tình trạng trở nên căng thẳng. Chúng tôi lo lắng, thầm thì trao đổi với nhau về số phận mình.
- Thủ tiêu chăng?
- Có trời mới biết.
- Suỵt! Suỵt!
Tên trực trại quét một ánh đèn pin, hô lớn :
- Tất cả chú ý, nghiêm!
Hướng về phía tên trưởng trại.
- Báo cáo đồng chí Thủ trưởng. Trại tập họp xong. Chờ lệnh.
- Rõ. Cho tất cả ngồi xuống!
Chúng tôi chỉ chờ có vậy và lại bắt đầu “tọa thiền” gà gật. Khi trật tự vãn hồi, tên trưởng trại dõng dạc tuyên bố :
- Do nhu cầu cách mạng, một số các anh sẽ được điều động đến một vị trí mới. Anh nào được gọi tên sẽ vào nhà thu xếp hành trang, trở ra xếp hàng ngay phía tay trái tôi đây. Nhớ rằng các thứ phải thật gọn nhẹ. Những người khác ngồi yên tại chỗ. Cấm di chuyển, cấm liên hệ. Tuyệt đối yên lặng và trật tự.
Hướng về đám cán bộ và vệ binh :
- Các đồng chí thi hành khẩn trương.
Danh sách chuyển trại khoảng 300 người. Đa số gồm thành phần chiến tranh chính trị, an ninh tình báo. Trong đó dĩ nhiên có tôi, gốc tâm lý chiến, đạo din truyền hình điện ảnh.
Nhà bếp đã được lệnh bí mật sửa soạn cơm nắm từ hồi nào. Bây giờ được phân phát cho những kẻ lên đường. Chúng tôi tức tưởi chia tay nhau. Triệt để yên lặng. Cả đến ánh mắt từ giã cũng không có. Đêm rừng Tây Bắc đen kịt như tương lai của kẻ chiến bại tù đày.
Bị còng từng cặp. Tay xách nách mang. Cứ thế nương vào nhau, vượt mấy cây số đường rừng, tiến ra quốc lộ. Tại đây, đoàn tù dược chất lên mấy chiếc Molotova cà tàng. Trực chỉ phương trời vô định, giữa đêm không trăng sao, dày đặc sương mù.
Trại mới mang bí số K4, gần Phố Lu thuộc tỉnh Lào Cay cũ, chỉ cách biên giới Việt Trung khoảng 10 cây số đường chim bay. Tại đây chúng tôi được gặp một số anh em biệt kích. Có người “nhảy toán” từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Họ thuộc diện rộng. Nghĩa là được tự do di chuyển trong vùng, min là bảo đảm chỉ tiêu lao động do cán bộ khoán. Đối diện trực tiếp với chúng tôi, họ mới tin là Việt Nam Cộng Hòa thực sự đã sụp đổ. Lúc đầu tay bắt mặt mừng, có món gì cũng chiêu đãi mấy “ông thầy” ốm đói.
Tiếc rằng có những “ông thầy” quá sệ. Giành ăn, giành uống, bon chen, bợ đỡ cán bộ. Các đấng biệt kích lắc đầu thất vọng. Sau cùng ngó lơ luôn...
Tôi cũng gặp một số đồng hương Thái Bình gốc “phong kiến, cường hào địa chủ” được đảng chỉ định cư trú tại vùng nầỵ Họ thực tâm ái ngại. Biết tôi cùng quê, có người dám nói thẳng :
- Mòn mỏi chờ các anh Bắc Tiến. Ai ngờ các anh lại bị tụi nó tóm cổ ra đây! Nhưng thôi, cũng được hưởng mấy năm thoải mái. Ráng mà gìn giữ sức khỏe.
Ở đây tôi chỉ muốn nói về Kim Nam. Người nữ văn công cộng sản.
Tại K4, tôi được “biên chế” vào đội 11. Nhiệm vụ chính là xây dựng những con đường tới những trại mới dựng bởi các anh bên biệt kích. Dụng cụ là những bàn tay tù đói và một số xẻng cuốc cũ.
Tiết trời chuyển sang đông. Mùa đông thượng du Bắc Việt đến với đoàn người thiếu dinh dưỡng, teo cơ. Quả là một bản án tử hình, sẵn sàng được thi hành bất cứ lúc nào. Thường vào những tiết đại tiểu hàn, đại tiểu tiết âm lịch, nghĩa trang K4 lại tăng thêm mả mới.
Trong thời kỳ đó. Liên Trại tổ chức một chiến dịch lớn : Mở đường, dựng trại. K4 với K2 hợp đồng đắp một con đường mới dài khoảng 5 km vào cánh đồng mía. K2 là một phân trại giam nữ can phạm hình sự. Đội 11 được tăng cường một số nữ tù. Dịp nầy tôi gặp Kim Nam. Chẳng riêng tôi, mà tất cả đám cải tạo đều trầm trồ chiêm ngưỡng “đóa hoa đen” nổi bật trong đám tù nhân rách rưới, nhếch nhác.
Cô bé khoác một chiếc áo choàng nhung đen nhánh, tương đối còn mới. Chiếc quần Âu đồng màu đúng thời trang Hà Nội. Đặc biệt mái tóc dài buông xõa ngang lưng. Nhìn xa lẫn với sắc áo tưởng như cắt tóc ngắn. Kim Nam có khuôn mặt bầu bĩnh. Nổi bật cặp chân mày dài, cong, mịn, nhỏ như nét mực tàu trên tờ giấy hoa tiên. Đôi mắt hơi xếch, ướt át, long lanh nhìn thẳng vào mắt người đối thoại. Trong đó có chút gì còn lại của ngây thơ, thuần hậu và dễ tin.
Và đôi mắt ấy luôn luôn đồng hành với chiếc miệng nhỏ, với cặp môi mộng hơi bĩu, với hàm răng đều đặn, trắng nuốt mỗi khi cười nói. Chẳng biết nàng giữ gìn bằng cách nào, mà cái lạnh khô của núi rừng Việt Bắc không làm cho làn da bị nứt nẻ. Trái lại vẫn mịn màng, vẫn trắng trẻo.
Và trên đôi gò má, phơn phớt ánh hồng của đóa hoa anh đào chớm nở. Giữa khuôn mặt ấy là chiếc sống mũi cao, thẳng, với đôi cánh mỏng, chúm lại thật duyên dáng bên chóp mũi hình bầu dục tựa túi mật.
Nếu bàn tay Kim Nam có những ngón tay thon dài như những cánh hoa, thì bàn chân trắng hồng của nàng cũng là một tuyệt tác của Hóa Công. Mười ngón là mười nụ hàm tiếu, yểu điệu trên những bước đi.
Qua những phút giải lao ngắn ngủi bên bếp lửa anh nuôi. Được biết nghề nghiệp cũ của nhau - điện ảnh - Kim Nam đã cho tôi rõ đôi nét sơ lược về nàng. Một thiếu nữ Hà Nội xuất thân diễn viên kịch nghệ. Đã được tham dự một vài bộ phim, tuy chưa phải là diễn viên chính.
Mấy tháng trước đây, trong cuộc lưu diễn tại Tây Âu, Kim Nam đã quyết định “chém vè” tỵ nạn chính trị tại Pháp. Việc bất thành, người đẹp văn công bị dẫn độ về Việt Nam, tống giam Hỏa Lò. Và tuần trước được chuyển lên đây thi hành án phạt cải tạo. Nàng cũng cho biết thêm về gia đình :
- Đúng ra bố cháu cũng có mặt trong hàng ngũ các chú ở đây. Bố cháu trước kia là sĩ quan quân đội quốc gia. Năm 1954 bị kẹt lại. Rồi bị chết tại vùng nầy, mất xác. Sở dĩ cháu được tuyển vào đoàn văn công là nhờ sự đỡ đầu và bảo lãnh của ông thân sinh người bạn trai. Ông ấy là cán bộ cao cấp và cũng là bố chồng tương lai của cháu.
- Sao cháu không cầu cứu ông ấy?
- Cháu còn mặt mũi nào nhìn ông ta nữa! Sự nghiệp cách mạng của ông ấy có thể tiêu ma vì việc làm của cháu rồi.
- Thế còn người bạn trai?
- Chính anh ấy khuyên cháu nên tìm đường tiến thân ở một xã hội khác. Nếu thành công, cháu có thể giúp đỡ thiết thực cho mẹ và đám em nhỏ lúc nào cũng thiếu thốn. Riêng anh ấy sẽ cố gắng xin xuất ngoại du học. Chừng đó chúng cháu sẽ tìm lại nhau. Bằng có chuyện gì, anh ấy sẵn sàng hy sinh. Min sao cháu có được cuộc sống phù hợp với con người và khả năng. Bây giờ thì thật là... Ồ sao cháu lại bắt chú gnhe câu chuyện không vui của cháu. Nhất là chú cũng đang...
- Tù như cháu chứ gì! Nhưng thôi, cháu đừng có lo. Nhan sắc và tài nghệ của cháu sẽ cứu cháu. À, cháu bao nhiêu tuổi rồi? Xin lỗi nhé, nghệ sĩ không có tuổi, nhưng chú coi cháu như con nên muốn biết.
- Cám ơn chú, cháu 22 tuổi ta. Biết đâu những ưu điểm chú nói lại là điều hại cháu. Các chú chưa biết hết mặt trái của xã hội nầy đâu.
Buổi chiều hôm ấy, trước khi thu dẹp dụng cụ, tôi được Kim Nam gọi tới một góc vắng. Gió rừng thổi ào ào. Sương giăng bốn phía, lạnh thấu xương. Kim Nam trao vội cho tôi một ống tre bọc kín bằng lá chuối :
- Chắc chú khoái cái nầy. Cháu còn một ít, tặng chú.
Tôi mở ra, cà phê bốc hương ngào ngạt. Tôi nhìn sững cô bé, không nói lên lời. Ly cà phê được mấy anh em chúng tôi chuyền tay nhấm nháp, như uống cả một “ mùa hè đỏ lửa” Kim Nam...
Đêm ấy, 27/12/1977. Đã lâu không có chất nước đen mà đen như đêm trừ tịch. Dẫu chỉ uống mấy ngụm cũng làm tôi trằn trọc suốt đêm. Tôi bật dậy, kiếm mảnh giấy nhỏ, khoác mền xùm xụp bên ánh đèn chai. Phải viết một bài để tặng lại Kim Nam. Chút quà văn nghệ hôm sau. Tiếng gà núi đầu tiên vẳng tới là lúc tôi viết xong câu cuối cùng...
Nhưng bài thơ ấy chẳng bao giờ Kim Nam nhận được. Nàng vắng mặt trong số nữ can phạm tăng cường cho đội làm đường chúng tôi. Cũng như không bao giờ hiện diện nữa trong cõi đời nầy!
Được biết, đêm trước vào lúc tắt đèn đi ngủ. Kim Nam đã lãnh một búa chí tử, bể đầu. Nàng chết tức khắc trên chiếc sạp tre xộc xệch, lạnh lẽo, đầy rệp của trại tù. Tôi ngẩn ngơ như vừa lỡ tay làm bể một chiếc bình cổ. “Con người thế ấy, thác oan thế này”.
Tôi lặng lẽ rút bài thơ giấu trong mình. Châm lửa. Một làn khói nhẹ bay lên. Tàn tro nằm vật vờ giữa lòng bàn tay một lát rồi theo gió bay đi. Thế là hồn thơ theo gió lên trời, theo tàn xuống đất. Biết ở thế giới bên kia, con người bạc mệnh có nhận được chút quà tôi trao gửi?
Theo sự bàn tán của đám nữ tù, Kim Nam chết vì bị ghen tuông. Nữ đội trưởng của Kim Nam, vốn là gái gọi trên các công viên. Vào trại, trở thành tình nhân của một cán bộ Nhưng khi Kim Nam xuất hiện. Tên dê xồm liền “có đó bỏ đăng, có trăng quên đèn”.
Một dư luận khác thì cho rằng Kim Nam chết vì đám tù cũ ngỡ cô bé có nhiều của cải mang theo. Chúng làm áp lực bắt giao nộp. Không được toại nguyện, chúng đe dọa. Sợ Kim Nam tố cáo, chúng liền quyết định thủ tiêu.
Riêng đối với tôi, dù với nguyên nhân nào thì Kim Nam cũng đã chết. Nàng chết, kéo theo một số người khác ở Hà Nội bị thương. Trong đó chắc chắn có người bạn trai. Còn tôi thì cứ thẫn thờ với tâm trạng Nguyễn Bính trong bài thơ “Khóc người trinh nữ”, với kết luận bằng 2 câu Đường thi :
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng,
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.
Hơn 10 năm trôi qua. Giờ nầy có mặt tại Paulo Bidong. Trong những ngày chờ đợi. Tôi giết thì giờ bằng những trang hồi ký mang tên “Trầm tư lục của kẻ chiến bại”. Một đoạn mang tựa đề và cũng là đề tựa của bài thơ.
Viết lên không trung
Em đẹp sao em cũng ở đây
Chim lồng xuân rụng đã bao ngày
Tóc lơi buông dáng kiều đô thị
Cá chậu mơ nguồn sông tiếp mây
Tháng chạp vùng cao buốt giá đông
Cũng chưa phai lạt má em hồng
Áo đơn có ấm bờ vai nhỏ
Sao gót chân son bước ngại ngùng
Suối sâu em đẩy từng xe cát
Đèo dốc ta san phẳng một đường
Đường cát tháng năm đời thiếu ngọt
Lào “cay” sầu “đắng” vị hoài hương
Em nhớ người yêu biệt dưới xuôi
Ta thương bếp lửa lạnh phương trời
Sài Gòn Hà Nội xa xôi lắm
Sương xuống chiều lên người mỗi nơi
Lòng đấy lòng đây bờ bến khác
Cơ hồ chung một ý chờ mong
Tàn năm Bảy Bảy (77) hoa còn nở
Kết đóa thơ gai lên khoảng không.
Hết
Khi các đội đã xuất trại, tôi chống cây gậy ra cửa, đứng nhìn lên sân trại. Giữa sân có đặt ba cái thùng phuy, dùng chứa phân người. Sau một đêm bài tiết của anh em trong trại, phân được xúc từng gánh đem đổ vào thùng. Hàng ngày, người của đội rau xanh sẽ chuyển ba cái thùng này bằng xe cải tiến đến vườn rau. Đổ phân xuống hố, lấp phủ lên một lớp đất. Ủ phân. Một thời gian sau, phân từ màu vàng như đất sét nhão, biến thành màu xám như bùn,đã tới lúc có thể dùng được, xúc lên làm phân bón rất tốt. Phân được chế biến kiểu này gọi là phân Bắc. Mới đầu, anh em đội rau xanh rất tởm phân Bắc, nhưng thời gian lâu dài, tiếp xúc mãi thành quen, thấy cũng không có gì đáng gớm ghiếc, và khám phá ra cái công dụng tuyệt vời của nó. Chỉ cần rau muống nếm một chút phân Bắc, rau trở nên xanh tốt, tăng trưởng rất nhanh.
Từ trong đội cải tạo hình sự, có hai tên cầm que đi đến thùng phuy. Nó bươi móc thứ gì trong đó. Một trong hai tên này, tôi quen. Hồi mới quen, tôi hỏi nó:
- Mày tên gì?
- Ný!
- Tên ngộ quá! Họ gì?
- Nê!
- Cái gì? Làm gì có họ Nê?
- Có chứ! Rất nhiều!Tên họ của cháu: Nê văn Ný.
Tôi chợt hiểu, bật cười:
- Mày nói ngọng. Tên họ của mày là Lê văn Lý.
- Người miền Nam của các chú thường nói thế. Ở đây chúng cháu gọi Nê Văn Ný!
Từ đó trở đi, tôi cũng gọi nó là thằng Ný.
Thấy nó bươi móc trong thùng phuy, tôi kêu lớn:
- Ný! Mày làm cái gì đó?
Nó quay lại nhìn tôi, rồi bỏ cái que, đi lại gặp tôi.
- Hôm nay sao chú được nghỉ?
- Tao bị bong gân chân. Còn mày?
- Cháu chờ để trưa gánh đồ ăn thông tầm cho đội!
- Mày tìm gì trong thùng phân?
- Nhà bếp vừa đổ rác trong ấy. Cháu kiếm chút rau cải vụn. - Ăn uống dơ bẩn, có ngày bỏ mạng con ơi!
- Cháu mang về rửa sạch, cho vào ca cống, đun sôi, vi trùng nào chả chết! Tôi nhìn thân hình gầy gò, cái mặt hốc hác của nó, và nghĩ đến mình. Tôi có khác nó gì đâu. Cùng một hoàn cảnh khốn khó, người ta không cần tỏ lòng trắc ẩn cho nhau. Đứng tần ngần một lúc, nó hỏi:
- Chú có thuốc nào, cho cháu xin một bi!
- Vô đây!
Tôi dẫn nó vào lán, ngắt trong cái bọc nhỏ, cho nó một bi thuốc lào. Rít xong hơi thuốc, nó nói:
- Hôm nay, đội cháu có mấy thằng được chỉ đđịnh nên khung, mổ nợn cho cán bộ bồi dưỡng. Cháu không được đi. Tiếc thật!
- Mổ lợn đâu có gì thích mà mày tiếc?
- Thích chứ! Được xơi thịt!
- Cán bộ cho ăn hả?
- Không. Làm gì có người tốt thế!
- Vậy ăn bằng cách nào?
- Khi được chỉ định đi mổ nợn, thằng nào cũng phải măc hai nớp quần. Nớp trong được bó sát vào bìu dái như cái quần xì của người miền Nam. Đến núc xẻ thịt thì xén vài cục, nén dấu vào quần, dưới bìu dái. Trước khi về, cán bộ bắt đứng xế hàng, mò xét khắp người, nhưng không mò dưới bìu dái. Thế nà thoát!
- Tụi mày tài thật!
- Cách này dùng mãi, bị phát giác. Chúng nó bắt cởi đồ, chỉ còn độc cái quần trong, thò tay sờ vào quần, sờ nắn trong háng, nhột bỏ mẹ. Bắt gặp có dấu thịt, chúng nó dần cho nát đòn và cùm vào nhà kỷ nuật.
- Khó khăn, nguy hiểm như vậy, tụi mày không sợ?
- Trong khó khăn nẩy sinh sáng tạo. Chúng cháu nghĩ ra được cách giấu thịt, chỉ có trời biết.
Nó ngừng lại, chỉ tay vào túi tôi:
- Chú cho cháu thêm bi thuốc!
- Mày có tài thật, đang kể chuyện tới hồi gây cấn là ngừng lại, đòi thứ này, thứ nọ.
Dù cằn nhằn nhưng tôi vẫn ngắt cho nó bi thuốc lào thứ hai. Nó cẩn thận cho bi thuốc vào nỏ điếu, châm mồi lửa, rít một hơi dài...Tôi giục:
- Kể tiếp đi. Cái mánh lới giấu thịt của mày!
- Thằng nào được chỉ định đi mổ lợn, khi trở về đội cũng phải nạp cho thằng đội trưởng hai cục thịt bằng ngón chân cái. Không có, nó thụi vào bụng cho thổ huyết!
- Tao không muốn nghe chuyện thằng đội trưởng của tụi mày. Hãy kể phương pháp dấu thịt mà mày cho rằng sáng tạo.
- Vâng! Phương pháp này không cần phải chuẩn bị đồ nghề gì cả. Lúc xẻ thịt, nếu cán bộ không để ý, cứ xén từng cục, cho vào mồm xơi tươi!
- Ăn thịt sống hả?
- Vâng! Xơi thịt sống thì đã có sao?
- Tụi mày ăn uống như người tiền sử!
- Người tiền sử nà người xứ nào mà ăn uống như chúng cháu?
- Chẳng phải xứ nào cả! Đó là tổ tiên của chúng ta nhiều triệu năm về trước. Khi chưa tìm ra lửa, loài người phải ăn thịt sống.
- Đấy! Họ vẫn khỏe mạnh, sinh tồn đến ngày nay. Cọp beo cũng thế!
- Hãy nói vấn đề lấy thịt. Tụi mày ăn tại chỗ, nhưng làm sao lấy về cho thằng đội trưởng?
- Chúng cháu xén sẵn vài cục, khi có nệnh về nà cho vào mồm nuốt ngay. Bọn cán bộ dù có con mắt thánh cũng không bắt gặp. Xét xong, chúng cháu vội về đội, móc họng, nôn ra niền, nạp đủ số cho thằng đội trưởng.
- Rồi thằng đội trưởng ăn bằng cách nào?
- Hắn rửa cục thịt sạch chất nhớt, cho vào ca cống, đun lên nà có được bữa ăn ngon. Nói xong, thằng Ný đứng dậy:
- Cháu phải về gánh cơm cho đội thông tầm. Cái chân chú đau, không nên đi đứng nhiều.
Nó quay lưng, ra khỏi lán.
Nhìn đôi vai gầy guộc của nó rút lại như đôi vai của người bệnh ho lao, tôi gọi:
- Ný! Mày trở lại lấy vài bi thuốc lào, đêm nay hút cho đỡ lạnh!
Vào những ngày cuối năm, trời bỗng dưng trở lạnh. Mưa phùn lất phất trên những vòm cây. Đồi nương ẩm đục. Ngày hai mưới chín tháng Chạp,đđẽược phép trại trưởng, các đội khỏi phải xuất trại lao động bên ngoài. Thay vào đó, anh em được giao công tác dọn dẹp và làm vệ sinh trong trại, chuẩn bị đón Tết.
Tôi đang ngồi nhổ cỏ dọc theo những chân tường ngăn chia các đội. Thăng Ný đi ra. Hôm nay nó mặc bộ đồ lành lặn, sạch, mặt hiện niềm vui. Tôi nói:
- Chưa Tết mà ngó mày, tao đã thấy mùa xuân!
Nó báo tin:
- Cháu được mẹ từ Vĩnh Yên nên thăm. Bộ đồ này cháu mượn của thằng bạn, để mẹ cháu không nhìn thấy cháu rách. Cháu đang chờ cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi.
- Mày ngon rồi! Vừa có đồ ăn của trại, vừa được mẹ tiếp tế thêm. Tết này mày huy hoàng!
- Vâng! Huy hoàng thật! Cháu không ngờ may mắn đến thế!
Khoảng hai giờ chiều, cán bộ dẫn thằng Ný về trại, tay ôm bụng, mặt nhăn nhó, tái nhợt. Ngờ nó bị trúng gió, tôi theo nó vào lán. Nó năm vật lên sạp, lăn lộn, kêu đau bụng và lạnh. Tôi hỏi mượn mấy thằng bạn của nó ve dầu nóng để cạo gió.
Thằng đội trưởng hình sự đứng nhìn một lúc, nói:
- Chả phải trúng gió đâu! Nó bị bội thực đấy! Móc họng nôn ra là khỏi ngay! Nhiều thằng khác lao nhao:
- Nôn đi! Nôn đi!
Thằng Ný trườn về bìa sạp, rướn cổ, thò đầu ra ngoài, cho ngón tay vào miệng. Có thằng la lớn:
- Hãy khoan!
Và nó chạy ra ngoài, đem vô một cái thau bằng nhựa, bưng thau kề sát miệng thằng Ný:
- Hãy nôn vào đây!
Thằng Ný móc họng, ụa mửa. Đồ ăn lẫn nhớt dãi tuôn trào xuống thau. Thằng bưng thau bóc lên những miếng thịt còn dính lòng thòng nhớt dãi, đưa lên miệng ăn. Một thằng khác đang đói cũng ăn. Có thằng nhăn mặt:
- Gớm quá!
Thằng bưng thau nói:
- Gớm gì? Từ bụng kia sang bụng nọ mà thôi!
Sáng mồng một Tết, mọi người quy tụ ra sân trại coi anh em văn nghệ trình din. Có đàn và trống xập xình vui tai. Tôi gặp thằng Ný đđang lóng ngóng coi hát. Tôi hỏi:
- Mày khỏe hẳn chưa?
- Hôm sau nà khỏe ngay!
- Mẹ mày thăm nuôi, sao tao thấy mày đi vào tay không?
- Nhà cháu nghèo, không có tiền sắm sửa. Thăm nuôi là thăm cho có nệ thế thôi! Mẹ cháu chỉ mang cho cháu một con gà nuộc, và một cân xôi.
- Sao không đem vô trại, để dành ăn từ từ?
- Nếu đem vô trại, mấy thằng đầu gấu, chúng nó giành giựt cả. Thế cháu mới xơi hết tại chỗ!
Tôi trợn mắt:
- Mày ăn một lần hết con gà và cân xôi?
- Vâng! Không còn cách nào khác! Lúc thì dư thừa phải nôn ra, bây giờ thì đói.
Nhìn thằng Ný, tôi thấy nó đang tàn tạ, khô héo dần. Nó không có mùa Xuân.
Hết
http://www.hungviet.org/ncct/ncct3.html
*
Viết lên không trung
Giữa mùa hè 1977.
Vào khoảng nửa đêm một tối không trăng. Trại 1, Liên trại 3, Yên Bái
được đánh thức bởi những bước chân nặng nề của bọn cán bộ. Những ánh đèn
pin lóe lên. Và một giọng nói với thứ thanh âm lùa qua tử thi xoáy vào
lỗ nhĩ đám tù nhân đang ngon giấc sau một ngày lao tác.- Dậy! Dậy! Điểm danh!
- Tất cả ra ngoài tập họp!
Khoảng năm phút sau, chúng tôi đã có mặt trên sân trại. Mỗi đội đứng đúng vị trí thường lệ. Có người ngồi bẹp, gục xuống đầu gối ngủ gà ngủ gật.
Mặc dầu đã điểm danh, đã đếm đủ đầu người, tên trưởng trại vẫn đích thân vào trong từng chiếc lán chiếu đèn kiểm soát. Trở ra ngoài, hắn dõng dạc ra lệnh, vẫn một thứ âm thanh lạnh lùng sắt máu :
- Các đồng chí vệ binh triển khai công tác!
Từ bốn góc sân, có những bóng đen nón cối súng dài, lặng lẽ di chuyển. Có tiếng trả lời ngắn gọn :
- Báo cáo, rõ!
Tiếng lách cách lên đạn của toán vệ binh càng khiến tình trạng trở nên căng thẳng. Chúng tôi lo lắng, thầm thì trao đổi với nhau về số phận mình.
- Thủ tiêu chăng?
- Có trời mới biết.
- Suỵt! Suỵt!
Tên trực trại quét một ánh đèn pin, hô lớn :
- Tất cả chú ý, nghiêm!
Hướng về phía tên trưởng trại.
- Báo cáo đồng chí Thủ trưởng. Trại tập họp xong. Chờ lệnh.
- Rõ. Cho tất cả ngồi xuống!
Chúng tôi chỉ chờ có vậy và lại bắt đầu “tọa thiền” gà gật. Khi trật tự vãn hồi, tên trưởng trại dõng dạc tuyên bố :
- Do nhu cầu cách mạng, một số các anh sẽ được điều động đến một vị trí mới. Anh nào được gọi tên sẽ vào nhà thu xếp hành trang, trở ra xếp hàng ngay phía tay trái tôi đây. Nhớ rằng các thứ phải thật gọn nhẹ. Những người khác ngồi yên tại chỗ. Cấm di chuyển, cấm liên hệ. Tuyệt đối yên lặng và trật tự.
Hướng về đám cán bộ và vệ binh :
- Các đồng chí thi hành khẩn trương.
Danh sách chuyển trại khoảng 300 người. Đa số gồm thành phần chiến tranh chính trị, an ninh tình báo. Trong đó dĩ nhiên có tôi, gốc tâm lý chiến, đạo din truyền hình điện ảnh.
Nhà bếp đã được lệnh bí mật sửa soạn cơm nắm từ hồi nào. Bây giờ được phân phát cho những kẻ lên đường. Chúng tôi tức tưởi chia tay nhau. Triệt để yên lặng. Cả đến ánh mắt từ giã cũng không có. Đêm rừng Tây Bắc đen kịt như tương lai của kẻ chiến bại tù đày.
Bị còng từng cặp. Tay xách nách mang. Cứ thế nương vào nhau, vượt mấy cây số đường rừng, tiến ra quốc lộ. Tại đây, đoàn tù dược chất lên mấy chiếc Molotova cà tàng. Trực chỉ phương trời vô định, giữa đêm không trăng sao, dày đặc sương mù.
*
Trại mới mang bí số K4, gần Phố Lu thuộc tỉnh Lào Cay cũ, chỉ cách biên giới Việt Trung khoảng 10 cây số đường chim bay. Tại đây chúng tôi được gặp một số anh em biệt kích. Có người “nhảy toán” từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Họ thuộc diện rộng. Nghĩa là được tự do di chuyển trong vùng, min là bảo đảm chỉ tiêu lao động do cán bộ khoán. Đối diện trực tiếp với chúng tôi, họ mới tin là Việt Nam Cộng Hòa thực sự đã sụp đổ. Lúc đầu tay bắt mặt mừng, có món gì cũng chiêu đãi mấy “ông thầy” ốm đói.
Tiếc rằng có những “ông thầy” quá sệ. Giành ăn, giành uống, bon chen, bợ đỡ cán bộ. Các đấng biệt kích lắc đầu thất vọng. Sau cùng ngó lơ luôn...
Tôi cũng gặp một số đồng hương Thái Bình gốc “phong kiến, cường hào địa chủ” được đảng chỉ định cư trú tại vùng nầỵ Họ thực tâm ái ngại. Biết tôi cùng quê, có người dám nói thẳng :
- Mòn mỏi chờ các anh Bắc Tiến. Ai ngờ các anh lại bị tụi nó tóm cổ ra đây! Nhưng thôi, cũng được hưởng mấy năm thoải mái. Ráng mà gìn giữ sức khỏe.
*
Ở đây tôi chỉ muốn nói về Kim Nam. Người nữ văn công cộng sản.
Tại K4, tôi được “biên chế” vào đội 11. Nhiệm vụ chính là xây dựng những con đường tới những trại mới dựng bởi các anh bên biệt kích. Dụng cụ là những bàn tay tù đói và một số xẻng cuốc cũ.
Tiết trời chuyển sang đông. Mùa đông thượng du Bắc Việt đến với đoàn người thiếu dinh dưỡng, teo cơ. Quả là một bản án tử hình, sẵn sàng được thi hành bất cứ lúc nào. Thường vào những tiết đại tiểu hàn, đại tiểu tiết âm lịch, nghĩa trang K4 lại tăng thêm mả mới.
Trong thời kỳ đó. Liên Trại tổ chức một chiến dịch lớn : Mở đường, dựng trại. K4 với K2 hợp đồng đắp một con đường mới dài khoảng 5 km vào cánh đồng mía. K2 là một phân trại giam nữ can phạm hình sự. Đội 11 được tăng cường một số nữ tù. Dịp nầy tôi gặp Kim Nam. Chẳng riêng tôi, mà tất cả đám cải tạo đều trầm trồ chiêm ngưỡng “đóa hoa đen” nổi bật trong đám tù nhân rách rưới, nhếch nhác.
Cô bé khoác một chiếc áo choàng nhung đen nhánh, tương đối còn mới. Chiếc quần Âu đồng màu đúng thời trang Hà Nội. Đặc biệt mái tóc dài buông xõa ngang lưng. Nhìn xa lẫn với sắc áo tưởng như cắt tóc ngắn. Kim Nam có khuôn mặt bầu bĩnh. Nổi bật cặp chân mày dài, cong, mịn, nhỏ như nét mực tàu trên tờ giấy hoa tiên. Đôi mắt hơi xếch, ướt át, long lanh nhìn thẳng vào mắt người đối thoại. Trong đó có chút gì còn lại của ngây thơ, thuần hậu và dễ tin.
Và đôi mắt ấy luôn luôn đồng hành với chiếc miệng nhỏ, với cặp môi mộng hơi bĩu, với hàm răng đều đặn, trắng nuốt mỗi khi cười nói. Chẳng biết nàng giữ gìn bằng cách nào, mà cái lạnh khô của núi rừng Việt Bắc không làm cho làn da bị nứt nẻ. Trái lại vẫn mịn màng, vẫn trắng trẻo.
Và trên đôi gò má, phơn phớt ánh hồng của đóa hoa anh đào chớm nở. Giữa khuôn mặt ấy là chiếc sống mũi cao, thẳng, với đôi cánh mỏng, chúm lại thật duyên dáng bên chóp mũi hình bầu dục tựa túi mật.
Nếu bàn tay Kim Nam có những ngón tay thon dài như những cánh hoa, thì bàn chân trắng hồng của nàng cũng là một tuyệt tác của Hóa Công. Mười ngón là mười nụ hàm tiếu, yểu điệu trên những bước đi.
Qua những phút giải lao ngắn ngủi bên bếp lửa anh nuôi. Được biết nghề nghiệp cũ của nhau - điện ảnh - Kim Nam đã cho tôi rõ đôi nét sơ lược về nàng. Một thiếu nữ Hà Nội xuất thân diễn viên kịch nghệ. Đã được tham dự một vài bộ phim, tuy chưa phải là diễn viên chính.
Mấy tháng trước đây, trong cuộc lưu diễn tại Tây Âu, Kim Nam đã quyết định “chém vè” tỵ nạn chính trị tại Pháp. Việc bất thành, người đẹp văn công bị dẫn độ về Việt Nam, tống giam Hỏa Lò. Và tuần trước được chuyển lên đây thi hành án phạt cải tạo. Nàng cũng cho biết thêm về gia đình :
- Đúng ra bố cháu cũng có mặt trong hàng ngũ các chú ở đây. Bố cháu trước kia là sĩ quan quân đội quốc gia. Năm 1954 bị kẹt lại. Rồi bị chết tại vùng nầy, mất xác. Sở dĩ cháu được tuyển vào đoàn văn công là nhờ sự đỡ đầu và bảo lãnh của ông thân sinh người bạn trai. Ông ấy là cán bộ cao cấp và cũng là bố chồng tương lai của cháu.
- Sao cháu không cầu cứu ông ấy?
- Cháu còn mặt mũi nào nhìn ông ta nữa! Sự nghiệp cách mạng của ông ấy có thể tiêu ma vì việc làm của cháu rồi.
- Thế còn người bạn trai?
- Chính anh ấy khuyên cháu nên tìm đường tiến thân ở một xã hội khác. Nếu thành công, cháu có thể giúp đỡ thiết thực cho mẹ và đám em nhỏ lúc nào cũng thiếu thốn. Riêng anh ấy sẽ cố gắng xin xuất ngoại du học. Chừng đó chúng cháu sẽ tìm lại nhau. Bằng có chuyện gì, anh ấy sẵn sàng hy sinh. Min sao cháu có được cuộc sống phù hợp với con người và khả năng. Bây giờ thì thật là... Ồ sao cháu lại bắt chú gnhe câu chuyện không vui của cháu. Nhất là chú cũng đang...
- Tù như cháu chứ gì! Nhưng thôi, cháu đừng có lo. Nhan sắc và tài nghệ của cháu sẽ cứu cháu. À, cháu bao nhiêu tuổi rồi? Xin lỗi nhé, nghệ sĩ không có tuổi, nhưng chú coi cháu như con nên muốn biết.
- Cám ơn chú, cháu 22 tuổi ta. Biết đâu những ưu điểm chú nói lại là điều hại cháu. Các chú chưa biết hết mặt trái của xã hội nầy đâu.
Buổi chiều hôm ấy, trước khi thu dẹp dụng cụ, tôi được Kim Nam gọi tới một góc vắng. Gió rừng thổi ào ào. Sương giăng bốn phía, lạnh thấu xương. Kim Nam trao vội cho tôi một ống tre bọc kín bằng lá chuối :
- Chắc chú khoái cái nầy. Cháu còn một ít, tặng chú.
Tôi mở ra, cà phê bốc hương ngào ngạt. Tôi nhìn sững cô bé, không nói lên lời. Ly cà phê được mấy anh em chúng tôi chuyền tay nhấm nháp, như uống cả một “ mùa hè đỏ lửa” Kim Nam...
Đêm ấy, 27/12/1977. Đã lâu không có chất nước đen mà đen như đêm trừ tịch. Dẫu chỉ uống mấy ngụm cũng làm tôi trằn trọc suốt đêm. Tôi bật dậy, kiếm mảnh giấy nhỏ, khoác mền xùm xụp bên ánh đèn chai. Phải viết một bài để tặng lại Kim Nam. Chút quà văn nghệ hôm sau. Tiếng gà núi đầu tiên vẳng tới là lúc tôi viết xong câu cuối cùng...
Nhưng bài thơ ấy chẳng bao giờ Kim Nam nhận được. Nàng vắng mặt trong số nữ can phạm tăng cường cho đội làm đường chúng tôi. Cũng như không bao giờ hiện diện nữa trong cõi đời nầy!
Được biết, đêm trước vào lúc tắt đèn đi ngủ. Kim Nam đã lãnh một búa chí tử, bể đầu. Nàng chết tức khắc trên chiếc sạp tre xộc xệch, lạnh lẽo, đầy rệp của trại tù. Tôi ngẩn ngơ như vừa lỡ tay làm bể một chiếc bình cổ. “Con người thế ấy, thác oan thế này”.
Tôi lặng lẽ rút bài thơ giấu trong mình. Châm lửa. Một làn khói nhẹ bay lên. Tàn tro nằm vật vờ giữa lòng bàn tay một lát rồi theo gió bay đi. Thế là hồn thơ theo gió lên trời, theo tàn xuống đất. Biết ở thế giới bên kia, con người bạc mệnh có nhận được chút quà tôi trao gửi?
Theo sự bàn tán của đám nữ tù, Kim Nam chết vì bị ghen tuông. Nữ đội trưởng của Kim Nam, vốn là gái gọi trên các công viên. Vào trại, trở thành tình nhân của một cán bộ Nhưng khi Kim Nam xuất hiện. Tên dê xồm liền “có đó bỏ đăng, có trăng quên đèn”.
Một dư luận khác thì cho rằng Kim Nam chết vì đám tù cũ ngỡ cô bé có nhiều của cải mang theo. Chúng làm áp lực bắt giao nộp. Không được toại nguyện, chúng đe dọa. Sợ Kim Nam tố cáo, chúng liền quyết định thủ tiêu.
Riêng đối với tôi, dù với nguyên nhân nào thì Kim Nam cũng đã chết. Nàng chết, kéo theo một số người khác ở Hà Nội bị thương. Trong đó chắc chắn có người bạn trai. Còn tôi thì cứ thẫn thờ với tâm trạng Nguyễn Bính trong bài thơ “Khóc người trinh nữ”, với kết luận bằng 2 câu Đường thi :
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng,
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.
Hơn 10 năm trôi qua. Giờ nầy có mặt tại Paulo Bidong. Trong những ngày chờ đợi. Tôi giết thì giờ bằng những trang hồi ký mang tên “Trầm tư lục của kẻ chiến bại”. Một đoạn mang tựa đề và cũng là đề tựa của bài thơ.
Viết lên không trung
Em đẹp sao em cũng ở đây
Chim lồng xuân rụng đã bao ngày
Tóc lơi buông dáng kiều đô thị
Cá chậu mơ nguồn sông tiếp mây
Tháng chạp vùng cao buốt giá đông
Cũng chưa phai lạt má em hồng
Áo đơn có ấm bờ vai nhỏ
Sao gót chân son bước ngại ngùng
Suối sâu em đẩy từng xe cát
Đèo dốc ta san phẳng một đường
Đường cát tháng năm đời thiếu ngọt
Lào “cay” sầu “đắng” vị hoài hương
Em nhớ người yêu biệt dưới xuôi
Ta thương bếp lửa lạnh phương trời
Sài Gòn Hà Nội xa xôi lắm
Sương xuống chiều lên người mỗi nơi
Lòng đấy lòng đây bờ bến khác
Cơ hồ chung một ý chờ mong
Tàn năm Bảy Bảy (77) hoa còn nở
Kết đóa thơ gai lên khoảng không.
Hết
Chuồng người
Chỉ
còn vài ngày nữa là thu hoạch xong vụ mùa. Tôi được miễn đi lao động,
vì cái chân đau. Hôm qua lúc chuyển lúa vào bồ, tôi vô ý vấp ngã nơi
bậc thềm nhà kho. Mặc dù đã được nắn bóp, sửa trặc, nhưng khớp xương
mắc cá chân vẫn sưng đỏ, đau nhức.Khi các đội đã xuất trại, tôi chống cây gậy ra cửa, đứng nhìn lên sân trại. Giữa sân có đặt ba cái thùng phuy, dùng chứa phân người. Sau một đêm bài tiết của anh em trong trại, phân được xúc từng gánh đem đổ vào thùng. Hàng ngày, người của đội rau xanh sẽ chuyển ba cái thùng này bằng xe cải tiến đến vườn rau. Đổ phân xuống hố, lấp phủ lên một lớp đất. Ủ phân. Một thời gian sau, phân từ màu vàng như đất sét nhão, biến thành màu xám như bùn,đã tới lúc có thể dùng được, xúc lên làm phân bón rất tốt. Phân được chế biến kiểu này gọi là phân Bắc. Mới đầu, anh em đội rau xanh rất tởm phân Bắc, nhưng thời gian lâu dài, tiếp xúc mãi thành quen, thấy cũng không có gì đáng gớm ghiếc, và khám phá ra cái công dụng tuyệt vời của nó. Chỉ cần rau muống nếm một chút phân Bắc, rau trở nên xanh tốt, tăng trưởng rất nhanh.
Từ trong đội cải tạo hình sự, có hai tên cầm que đi đến thùng phuy. Nó bươi móc thứ gì trong đó. Một trong hai tên này, tôi quen. Hồi mới quen, tôi hỏi nó:
- Mày tên gì?
- Ný!
- Tên ngộ quá! Họ gì?
- Nê!
- Cái gì? Làm gì có họ Nê?
- Có chứ! Rất nhiều!Tên họ của cháu: Nê văn Ný.
Tôi chợt hiểu, bật cười:
- Mày nói ngọng. Tên họ của mày là Lê văn Lý.
- Người miền Nam của các chú thường nói thế. Ở đây chúng cháu gọi Nê Văn Ný!
Từ đó trở đi, tôi cũng gọi nó là thằng Ný.
Thấy nó bươi móc trong thùng phuy, tôi kêu lớn:
- Ný! Mày làm cái gì đó?
Nó quay lại nhìn tôi, rồi bỏ cái que, đi lại gặp tôi.
- Hôm nay sao chú được nghỉ?
- Tao bị bong gân chân. Còn mày?
- Cháu chờ để trưa gánh đồ ăn thông tầm cho đội!
- Mày tìm gì trong thùng phân?
- Nhà bếp vừa đổ rác trong ấy. Cháu kiếm chút rau cải vụn. - Ăn uống dơ bẩn, có ngày bỏ mạng con ơi!
- Cháu mang về rửa sạch, cho vào ca cống, đun sôi, vi trùng nào chả chết! Tôi nhìn thân hình gầy gò, cái mặt hốc hác của nó, và nghĩ đến mình. Tôi có khác nó gì đâu. Cùng một hoàn cảnh khốn khó, người ta không cần tỏ lòng trắc ẩn cho nhau. Đứng tần ngần một lúc, nó hỏi:
- Chú có thuốc nào, cho cháu xin một bi!
- Vô đây!
Tôi dẫn nó vào lán, ngắt trong cái bọc nhỏ, cho nó một bi thuốc lào. Rít xong hơi thuốc, nó nói:
- Hôm nay, đội cháu có mấy thằng được chỉ đđịnh nên khung, mổ nợn cho cán bộ bồi dưỡng. Cháu không được đi. Tiếc thật!
- Mổ lợn đâu có gì thích mà mày tiếc?
- Thích chứ! Được xơi thịt!
- Cán bộ cho ăn hả?
- Không. Làm gì có người tốt thế!
- Vậy ăn bằng cách nào?
- Khi được chỉ định đi mổ nợn, thằng nào cũng phải măc hai nớp quần. Nớp trong được bó sát vào bìu dái như cái quần xì của người miền Nam. Đến núc xẻ thịt thì xén vài cục, nén dấu vào quần, dưới bìu dái. Trước khi về, cán bộ bắt đứng xế hàng, mò xét khắp người, nhưng không mò dưới bìu dái. Thế nà thoát!
- Tụi mày tài thật!
- Cách này dùng mãi, bị phát giác. Chúng nó bắt cởi đồ, chỉ còn độc cái quần trong, thò tay sờ vào quần, sờ nắn trong háng, nhột bỏ mẹ. Bắt gặp có dấu thịt, chúng nó dần cho nát đòn và cùm vào nhà kỷ nuật.
- Khó khăn, nguy hiểm như vậy, tụi mày không sợ?
- Trong khó khăn nẩy sinh sáng tạo. Chúng cháu nghĩ ra được cách giấu thịt, chỉ có trời biết.
Nó ngừng lại, chỉ tay vào túi tôi:
- Chú cho cháu thêm bi thuốc!
- Mày có tài thật, đang kể chuyện tới hồi gây cấn là ngừng lại, đòi thứ này, thứ nọ.
Dù cằn nhằn nhưng tôi vẫn ngắt cho nó bi thuốc lào thứ hai. Nó cẩn thận cho bi thuốc vào nỏ điếu, châm mồi lửa, rít một hơi dài...Tôi giục:
- Kể tiếp đi. Cái mánh lới giấu thịt của mày!
- Thằng nào được chỉ định đi mổ lợn, khi trở về đội cũng phải nạp cho thằng đội trưởng hai cục thịt bằng ngón chân cái. Không có, nó thụi vào bụng cho thổ huyết!
- Tao không muốn nghe chuyện thằng đội trưởng của tụi mày. Hãy kể phương pháp dấu thịt mà mày cho rằng sáng tạo.
- Vâng! Phương pháp này không cần phải chuẩn bị đồ nghề gì cả. Lúc xẻ thịt, nếu cán bộ không để ý, cứ xén từng cục, cho vào mồm xơi tươi!
- Ăn thịt sống hả?
- Vâng! Xơi thịt sống thì đã có sao?
- Tụi mày ăn uống như người tiền sử!
- Người tiền sử nà người xứ nào mà ăn uống như chúng cháu?
- Chẳng phải xứ nào cả! Đó là tổ tiên của chúng ta nhiều triệu năm về trước. Khi chưa tìm ra lửa, loài người phải ăn thịt sống.
- Đấy! Họ vẫn khỏe mạnh, sinh tồn đến ngày nay. Cọp beo cũng thế!
- Hãy nói vấn đề lấy thịt. Tụi mày ăn tại chỗ, nhưng làm sao lấy về cho thằng đội trưởng?
- Chúng cháu xén sẵn vài cục, khi có nệnh về nà cho vào mồm nuốt ngay. Bọn cán bộ dù có con mắt thánh cũng không bắt gặp. Xét xong, chúng cháu vội về đội, móc họng, nôn ra niền, nạp đủ số cho thằng đội trưởng.
- Rồi thằng đội trưởng ăn bằng cách nào?
- Hắn rửa cục thịt sạch chất nhớt, cho vào ca cống, đun lên nà có được bữa ăn ngon. Nói xong, thằng Ný đứng dậy:
- Cháu phải về gánh cơm cho đội thông tầm. Cái chân chú đau, không nên đi đứng nhiều.
Nó quay lưng, ra khỏi lán.
Nhìn đôi vai gầy guộc của nó rút lại như đôi vai của người bệnh ho lao, tôi gọi:
- Ný! Mày trở lại lấy vài bi thuốc lào, đêm nay hút cho đỡ lạnh!
Vào những ngày cuối năm, trời bỗng dưng trở lạnh. Mưa phùn lất phất trên những vòm cây. Đồi nương ẩm đục. Ngày hai mưới chín tháng Chạp,đđẽược phép trại trưởng, các đội khỏi phải xuất trại lao động bên ngoài. Thay vào đó, anh em được giao công tác dọn dẹp và làm vệ sinh trong trại, chuẩn bị đón Tết.
Tôi đang ngồi nhổ cỏ dọc theo những chân tường ngăn chia các đội. Thăng Ný đi ra. Hôm nay nó mặc bộ đồ lành lặn, sạch, mặt hiện niềm vui. Tôi nói:
- Chưa Tết mà ngó mày, tao đã thấy mùa xuân!
Nó báo tin:
- Cháu được mẹ từ Vĩnh Yên nên thăm. Bộ đồ này cháu mượn của thằng bạn, để mẹ cháu không nhìn thấy cháu rách. Cháu đang chờ cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi.
- Mày ngon rồi! Vừa có đồ ăn của trại, vừa được mẹ tiếp tế thêm. Tết này mày huy hoàng!
- Vâng! Huy hoàng thật! Cháu không ngờ may mắn đến thế!
Khoảng hai giờ chiều, cán bộ dẫn thằng Ný về trại, tay ôm bụng, mặt nhăn nhó, tái nhợt. Ngờ nó bị trúng gió, tôi theo nó vào lán. Nó năm vật lên sạp, lăn lộn, kêu đau bụng và lạnh. Tôi hỏi mượn mấy thằng bạn của nó ve dầu nóng để cạo gió.
Thằng đội trưởng hình sự đứng nhìn một lúc, nói:
- Chả phải trúng gió đâu! Nó bị bội thực đấy! Móc họng nôn ra là khỏi ngay! Nhiều thằng khác lao nhao:
- Nôn đi! Nôn đi!
Thằng Ný trườn về bìa sạp, rướn cổ, thò đầu ra ngoài, cho ngón tay vào miệng. Có thằng la lớn:
- Hãy khoan!
Và nó chạy ra ngoài, đem vô một cái thau bằng nhựa, bưng thau kề sát miệng thằng Ný:
- Hãy nôn vào đây!
Thằng Ný móc họng, ụa mửa. Đồ ăn lẫn nhớt dãi tuôn trào xuống thau. Thằng bưng thau bóc lên những miếng thịt còn dính lòng thòng nhớt dãi, đưa lên miệng ăn. Một thằng khác đang đói cũng ăn. Có thằng nhăn mặt:
- Gớm quá!
Thằng bưng thau nói:
- Gớm gì? Từ bụng kia sang bụng nọ mà thôi!
Sáng mồng một Tết, mọi người quy tụ ra sân trại coi anh em văn nghệ trình din. Có đàn và trống xập xình vui tai. Tôi gặp thằng Ný đđang lóng ngóng coi hát. Tôi hỏi:
- Mày khỏe hẳn chưa?
- Hôm sau nà khỏe ngay!
- Mẹ mày thăm nuôi, sao tao thấy mày đi vào tay không?
- Nhà cháu nghèo, không có tiền sắm sửa. Thăm nuôi là thăm cho có nệ thế thôi! Mẹ cháu chỉ mang cho cháu một con gà nuộc, và một cân xôi.
- Sao không đem vô trại, để dành ăn từ từ?
- Nếu đem vô trại, mấy thằng đầu gấu, chúng nó giành giựt cả. Thế cháu mới xơi hết tại chỗ!
Tôi trợn mắt:
- Mày ăn một lần hết con gà và cân xôi?
- Vâng! Không còn cách nào khác! Lúc thì dư thừa phải nôn ra, bây giờ thì đói.
Nhìn thằng Ný, tôi thấy nó đang tàn tạ, khô héo dần. Nó không có mùa Xuân.
Hết
http://www.hungviet.org/ncct/ncct3.html
*
LÊ HÙNG * NHÀ TÙ CỘNG SẢN
LÊ HÙNG
Chuyện Trong Tù
(Riêng tặng các cựu tù của các trại tù Cọng Sản ở tỉnh Quảng Nam)
Từ
sau ngày Cọng sản Việt Nam cướp nước, hàng trăm ngàn chiến sĩ Quân
lực Việt Nam Cọng hòa đã bị đưa vào những nhà tù khổ sai, cùng cực.
Bọn CSVN đã không từ chối bất cứ một hành động dã man nào để đàn áp,
đánh đập và bỏ đói để trả thù những người mà bọn chúng gọi là “ngụy
quân, ngụy quyền”! Kết quả của những năm tháng được Bác và Ðảng tận
tình giúp đở để trởû thành “con người mới xã hội chủ nghĩa” ù là không
biết bao nhiêu chiến hữu trong chúng ta đã bỏ mạng trong lao tù CS vì
bị đánh đập, bị đói khát, bị kiệt sức vì lao động khổ sai và cũng
không biết bao nhiêu anh em đã trở thành...”con người mới XHCN”: tàn
phế, điên loạn và xác xơ y như hình ảnh của cái xã hội miền Bắc ngày
nào và cả Việt Nam trong hiện tại.
Ðặc
biệt là, để “hướng dẫn, giảng dạy” những viên chức và Sĩ quan QLVNCH
bị chúng giam cầm, những người đáng bậc Thầy, bậc Cha, Chú của chúng,
CSVN đã chỉ định những tên vô học, mất dạy và non choẹt ra làm cán bộ
quản giáo, cảnh vệ dẫn giải và “giáo viên lên lớp chinh trị”.
Người
ta nói:”Thà làm đầy tớ của người khôn còn hơn làm thầy người ngu”.
Ðàng này chúng tôi lại bị làm “học trò” của kẻ ngu mới chết người!
Chính
vì sự ngu dốt của bọn cán bộ CS trong các trại tù mà đã xảy ra rất
nhiều chuyện cười ra nước mắt của anh em chúng tôi trong những năm
tháng đày đọa như một số chuyện sau đây:
1/ “QUÂN ÐỘI NHÂN DÂN CHẾ TẠO VŨ KHÍ”!
Năm
1976, chúng tôi bị đưa lên vùng núi Hiệp Ðức (Tỉnh Quảng Nam) và bị
giam trong mật khu của liên khu 5 Việt cọng cũ. Thời gian đầu mới lên,
chúng tôi dự một lớp học tập chính trị 15 ngày do những “cán bộ quân
huấn” của bộ chỉ huy Tổng trại 1 Hiệp Ðức phụ trách giảng dạy. Trong
những cán bộ đó có tên Trung tá Trần đình Vọng, mỗi khi giảng bài là
lúc nào hai khóe miệng cũng sùi bột mép trắng xóa trông phát khiếp.
Miệng tên nầy nói rất dẽo và nói như vẹt .
Phảng
phất trong lời nói của y là cả một sự mĩa mai, chua chát nhắm vào
chúng tôi. Lúc nào y cũng đưa ra một câu gì của Tố Hữu hay Hồ chí Minh
nói (mà khổ nỗi, có phải HCM nói đâu mà hễ câu gì của cha ông, tổ
tiên ta ngày xưa nói là y bảo đó là lời của “ Hồ Chủ tịch kính yêu”!
(?). Chẳng hạn những câu ca dao, tục ngữ như “Nhiễu điều phủ lấy giá
gương, người trong một nước phải thươngng nhau cùng”, mà y cũng cho là
của Hồ chí Minh nói!) là y như là mĩa mai chúng tôi bằng một câu quen
thuộc:”Các anh có tin hay không là tùy các anh chứ chúng tôi thì tin
lắm các anh ạ!”.
Một
hôm nhân giảng về bài “Quân đội nhân dân VN anh hùng”, y khoát loát
nói rằng:”Vào năm 2000 chúng ta sẽ chứng kiến một cuộc duyệt binh đại
quy mô mà trong đó toàn bộ vũ khí từ lớn đến nhỏ đều do Quân đội nhân
dân VN chế tạo và sản xuất. Các anh có tin hay không là tùy các anh
nhưng chúng tôi thì tin lắm. Các anh hãy chờ xem!”.
Cả
bọn chúng tôi nhìn nhau mà không dám cười ồ lên cho cái trò khoát
loát không thể tưởng tượng nỗi của tên cán bộ “vẹt” Cọng sản. Ðúng là
xấu hay làm tốt, dốt hay khoe khoang!
2/ “NHẠC BUNGARY LỜI VIỆT”
Trong
thời gian bị giam giữ trong tù, chúng tôi rất thèm nghe và hát những
bản nhạc tình cảm sáng tác trước 1975 nhưng điều đó thật khó mà xảy
ra, bởi vì bọn cán bộ quản giáo và cả mấy tên cảnh vệ (những tên VC
thường dẫn và canh chừng chúng tôi trong lúc đi lao động) lúc nào cũng
theo dõi chúng tôi. Hơn thế nữa, còn một số “ăng-ten” ngay trong hàng
ngũ chúng tôi sẵn sàng báo cáo nếu nghe ai hát “nhạc vàng” (những bản
nhạc sáng tác trước 75 và cả trong thời tiền chiến, bọn CS đều gọi là
nhạc vàng mà theo chúng đánh giá thì đó là loại nhạc mềm yếu, ủy
mị...) và sẽ bị chụp mũ là hát nhạc “phản động” (?).
Chừng
giữa năm 1977, khi một số đông trong chúng tôi bị đưa từ trại Kỳ Sơn
(thuộc Tổng trại 2) xuống Phú Ninh (thuộc huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng
Nam) để phá vườn, phá làng, phá xóm của dân thuộc mấy xã của quận Tam
Kỳ để chúng ngăn con sông Kỳ Trà làm con đập lấy tên là đập Phú Ninh.
Bọn giám thị trại đã gom chúng tôi tập trung ơ ûtrên một ngọn đồi.
Gần
đến ngày Noel năm 1977 không hiểu nhận được nguồn tin gì mà bọn chúng
ra lệnh cho chúng tôi thay nhau canh gác suốt mấy đêm trước và trong
Noel.
Lợi
dụng tình hình thuận lợi nầy (có người của mình gác), chúng tôi dự
định tổ chức một đêm văn nghệ mừng Noel. Sáng ngày 24.12.1977 chúng
tôi bí mật thông báo cho nhau trong khi đi lao động là đêm nay sẽ có
một chương trình “ca hát tự do”.
Suốt
ngày hôm đó cảnh vệ vẫn dẫn chúng tôi đi phá làng (chặt hết tất cả
cây cối � bất kể là cây ăn quả hay là cây công nghiệp � bằng hay cách
mặt đất 40 cm để sau nầy làm lòng hồ chứa nước) của dân như thường lệ.
Chiều tối trở về lán trại, sau khi cơm nước xong, chúng tôi tập trung
tại căn lán ở giữa để khó bị phát hiện hơn (căn lán của bọn cảnh vệ
và quản giáo ở cách chỗ chúng tôi khoảng 300 mét).
Trời
vừa tối, chúng tôi đã bắt đầu chương trình. Ban nhạc gồm có Hồ Dân
Thính (guitar), Nguyễn Ngọc Thuyết (mandoline) và tôi (trống). Có một
điều mandoline và guitar thì có mà trống thì lấy đâu ra! Tôi bèn dùng
cái thùng đạn để dưới đất và dùng gót chân đạp vào thay cho trống
bass. Còn giàn trống trên thì tôi xử dụng tất cả các vật dụng có được
như cái ca uống nước US, cái tô, cái soang hay cái lon guigoz để tạo
ra những âm thanh khác nhau.
Mở
đầu chương trình, chúng tôi vẫn phải hát bài “như có bác H. trong
ngày vui đại thắng” để đánh lừa bọn cảnh vệ VC. Sau đó là những bản
nhạc, những bài hát mà đã lâu lắm chúng tôi thèm hát, thèm đàn và thèm
nghe kinh khủng, được lần lượt, khi thì hát tập thể, khi thì đơn ca.
Số người tập trung mỗi lúc một đông. Số người canh gác lại càng cẩn
thận hơn.
Ðêm
đó chính Hạ Quốc Huy đã ngâm thơ và hát những tác phẩm do chính anh
sáng tác. Hạ Quốc Huy là Thiếu úy TÐ 10 CTCT, là một võ sĩ, thi sĩ,
họa sĩ và cũng là nhạc sĩ. Sau đêm văn nghệ đó, anh đã được gia đình
tổ chức vượt ngục và vượt biên luôn.
Ðến
một lúc, bọn cảnh vệ VC đã nghe âm thanh ồn ào của tiếng hát tập thể,
cọng với âm thanh mhộn nhịp của đủ mọi dụng cụ mà người nghe hòa theo
nên bắt đầu đến kiểm tra. Nhận được tín hiệu từ bên ngoài khi có bọn
cảnh vệ gần tới, ban nhạc chúng tôi liền chuyển ngay qua nhạc VC:”Vùng
lên nhân dân miền Nam anh hùng”...Thế là bọn chúng bỏ đi chỗ khác xem
như những sinh hoạt bình thường của chúng tôi. Thế nhưng cũng có vài
tên quản giáo hay cảnh vệ có máu văn nghệ nên ưa đứng lại nghe và có
tên còn tham gia hát nữa. Kẹt quá! Chẳng lẽ cuộc vui chấm dứt nửa
chừng (mà chấm dứt nửa chừng trong lúc bọn chúng có mặt ở đó thì cũng
bị nghi, mà tiếp tục nữa thì chẳng lẽ nhai đi nhai lại hoài những bản
nhạc VC chán ngấy hàng ngày?). Chúng tôi bèn đổi chiến thuật.
Biết
là đa số bọn quản giáo và cảnh vệ VC đều ngu dốt (có đứa mới học lớp
hai mà làm đại úy, dạy chính trị chúng tôi- xin xem tiếp những mẫu
chuyện kể khác trong loạt bài nầy), nên chúng tôi bắt đầu chuyển qua
chơi nhạc không lời, rồi dần dần thấy bọn chúng vẫn im lặng thưởng
thức, chúng tôi tiến thêm một bước nữa là hát bằng âm điệu là lá la la
mà không phát ra lời. Ví dụ: la la la la la, là la la la la là (tôi
đưa em sang sông...). Thấy cũng vui thú lắm.
Khi
mấy tên VC vẫn “hồ hởi”, “phấn khởi” thưởng thức, chúng tôi biết cái
dốt của chúng nên bạo hơn một chút nữa. Chúng tôi lựa những bản nhạc
không quá phổ biến và không phải ai cũng biết như những bản nhạc của
Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên hay Lê Thương, Ðoàn Chuẩn...và một số bài
hát ca tụng tình yêu ra hát, đàn và giới thiệu thật lớn cho chúng
nghe: “Thưa các bạn, sau đây là bản “Giọt Mưa Trên Lá” nhạc...Bungary
lời Việt (xin lỗi nhạc sĩ Phạm Duy) do bạn ... trình bày. Rồi hàng
loạt những bản nhạc khác được giới thiệu tương tự, khi thì Hungary,
khi thì Ba Lan, Liên Xô, Cuba...miễn sao cứ kêu tên mấy nước Cọng sản
“anh em” của chúng ra là bọn quản giáo hay cảnh vệ tin ngay. Trong
trường hợp nầy chúng tôi đúng là ...súng không sợ điếc! Chứ không phải
điếc, không sợ súng, và không ngờ đêm văn nghệ mừng Giáng Sinh năm ấy
thành công đến thế. Cả trại tù chúng tôi được hưởng một đêm NOEL thật
sung sướng trong lòng vì những gì từ lâu bị cấm nay được công khai
thốt ra. Ðúng là một đêm văn nghệ đáng ghi nhớ
.
3- CỨÙ QUA ÐI, CHẾT TÔI CHỊU!
Năm
1976, bọn CS giam chúng tôi trong một cái trại nằm giữa rừng đầy khí
độc của miền rừng núi tỉnh Quảng Nam. Trại nằm sát một con suối tuy
không lớn và sâu như một con sông nhưng vào những ngày mưa rừng, nước
cuồn cuộn chảy và dâng cao trông khủng khiếp lắm. Thường ngày chúng
tôi phải lội qua con suối đó để leo lên những ngọn đồi nhổ sắn (tức
khoai mì) về làm thực phẩm.
Một
hôm, hai tên cảnh vệ dẫn toán chúng tôi đi nhổ sắn như thường lệ. Vì
hai ngày hôm trước mưa liên miên nên nước suối dâng cao và chảy xiết.
Ða số trong chúng tôi đều không biết bơi. Chỉ có anh nào đã qua các
khóa huấn luyện trong rừng rậm hay tác chiến trong sình lầu ở Mã Lai,
Ðồng Ðế hay Dục Mỹ thì còn không ngán chứ đa số còn lại đều e ngại
không dám qua. Trước hết vì mang giày lính, áo quần đã dày lại còn vá
trăm mảõnh nên nên dày thêm. Rồi nào thì cơm gói, bi- đông, cuốc, dao
và bao tải để đựng sắn nên làm sao mà vượt sông với trang bị lỉnh kỉnh,
nặng nề như thế? Mặc khác, những hòn đá dưới suối lại rất trơn, dễ
trượt chân, mà trượt chân là bị dòng nước cuốn đi ngay nên chúng tôi
bèn năn nỉ tên cảnh vệ cho quay về để ngày mai hãy đi nhưng mặt tên
cảnh vệ VC hầm hầm không nói. Y nhất quyết bảo chúng tôi phải thi hành
lệnh, nhưng chúng tôi vẫn còn ngần ngừ. Nếu qua thì thế nào cũng có
người trượt ngã. Mà đã trượt ngã thì...chẳng có ngày về (dù là về lại
trại tù)!
Thấy
chúng tôi cứ lừng khừng chưa chịu qua, một tên cảnh vệ liền lên đạn,
chĩa họng AK về phía chúng tôi và quát lớn: “Các anh có qua không?
Nước như thế nầy mà sợ cái gì? Hồi chống Mỹ, chúng tôi bị các anh rượt
đuổi, trên đầu bị máy bay các anh bắn xuống, nước còn gấp mấy lần thế
nầy mà chúng tôi còn qua được. Bây giờ các anh qua một cách tự do mà
không qua được hả? Rồi hắn buông một câu sắc gọn:
-Các anh cứ qua đi. Anh nào chết tôi chịu! (?)
Trước
lời nói và họng súng của tên VC không còn một chút tình người đó,
chúng tôi bắt đầu nhúc nhích. Tuy nhiên, chúng tôi cũng tìm cách câu
giờ để xem còn có cách nào khác hơn là phải liều mạng như thế. Trước
hết chúng tôi cởi bỏ bớt áo quần và gói những thứ mang theo lại cho
gọn gàng để có qua cũng đỡ vướng. Nhưng cũng chưa có ai nhúng chân
xuống nước. Cuối cùng chúng tôi đề nghị với tên VC cho người chạy về
trại để lấy sợi giây mây kéo qua trước cho những người qua sau vịn mà
qua. Nhờ thế mà ngày hôm đó không một ai bị chết mặc dầu vẫn có vài
người bị trượt chân nhưng nhờ được vịn sợi giây mây nên chỉ bị ướt áo
quần và thức ăn trôi lềnh bềnh để rồi suốt ngày hôm đó phải lao động
nặng trong lạnh cóng mà không có một hột cơm!
Nếu
không nhờ sợi giây mây do anh em đề nghị giăng qua trước thì hôm đó
tên cảnh vệ VC kia phải “chịu” cái gì khi mà mạng sống của anh em
chúng tôi đã mất?
4- KIỂM ÐIỂMÛ NGƯỜI CHẾT!
Cũng
tại trại 2 Hiệp Ðức (thuộc tổng trại 1) do tên đại úy VC Trần Kim Lội
(Lội, quê ở Gò Nổi, Ðiện Bàn, tỉnh Quảng Nam) làm giám thị trưởng.
Vào
tháng 5. 76, Lội ra lệnh cho chúng tôi chuyển gỗ từ trên rừng về trại
bằng đường sông. Hôm đó nước chảy xiết nên qua những khúc quanh, dòng
nước lại càng xoáy mạnh hơn. Mỗi người phải chuyển một tấm ván dày 20
cm, rộng từ 60 đến 80 cm và dài 3 mét (số ván nầy cũng do các anh em
chúng tôi đã lên rừng hạ và cưa xẽ từ trước) xuôi theo dòng nước mà
đưa về trại bằng cách ôm phía sau tấm ván, dùng hai chân để làm bánh
lái, dùng hai tay và sức mạnh của con người hướng dẫn tấm ván trôi
theo dòng nước và độ cong của con sông.
Ðến
một đoạn con sông con và nước chảy quá mạnh, một người bạn của chúng
tôi, một Trung úy Dược Sĩ, vì không biết bơi và dòng nướcù xoáy nên
anh không làm chủ được hướng đi của tấm ván. Tấm ván đã bị lật, người
điều khiển cũng bị lật theo và dòng nước cùng tấm ván đã nhận chìm anh
bạn xấu số của chúng tôi. Khi bạn bè vớùt lên thì anh chỉ còn một cái
xác mềm nhũn, trắng nhợt và phình trướng vì uống nước quá nhiều.
Sáng
ngày hôm sau, trước khi chôn anh, cả trại đã phải tập họp lại để nghe
tên cán bộ quản giáo trực trại đọc bản kiểm điểm để “giáo dục” người
chết vì lý do: “bất cẩn trong lao động, thiếu tinh thần trách
nhiệm...”!?
Bọn
CS nói vậy chứ ai mà sợ chết để gỗ trôi mất là cũng bị kết án “làm
thất thoát tài sản Xã hội chủ nghĩa” và có biện pháp kỷ luật ngay. (Ðã
có người đói quá, nhổ một củ sắn ăn liền bị kết án là phá hoại nền
kinh tế XHCN). Miệng lưỡi của các tên CS, từ trên xuống dưới, đều nói
sao cũng được!
5-HÁT MÀ CÒN CÓ NGƯỜI NHẮC!
Tháng
8/1978 chúng tôi lại bị chuyển từ Phú Ninh về trại tù An Ðiềm (một
trong hai trại tù nỗi tiếng của CS tại Quảng Nam. Mỗi trại nhốt trên
2000 tù nhân đủ mọi thành phần, kể cả chính trị do bọn công an trực
tiếp “săn sóc”. Kể từ 1978 bọn cầm quyền CS Hà Nội đã chuyển sự quản
lý “ngụy quân, ngụy quyền” như chúng tôi từ Bộ Quốc Phòng qua Bộ Nội
Vụ và giao cho bọn công an trực tiếp cai quản).
Chúng
tôi đến An Ðiềm đúng vào dịp bọn VC đang chuẩn bị chào mừng ngày”
Quốc Khánh” 2 tháng 9 của chúng nên bọn chúng ra lệnh cho chúng tôi
phải đóng góp vào hai đêm văn nghệ cùng với hai khối ï kia. (Kể từ khi
chúng tôi đến trại nầy, bọn giám thị đã chia 2000 tù nhân ra làm ba
khối: Khối “ngụy quyền” gồm những công nhân viên chức làm việc cho
chính phủ VNCH trước 75, kể cả Hạ sĩ quan, Cảnh sát hoặc cán bộ Xây
dựng Nông thôn, Aáp trưởng...; Khối “ngụy quân” gồm các sĩ quan của
QL.VNCH còn bị kẹt lại Việt Nam bị chúng bắt đi “tập trung cải tạo”;
và khối còn lại là khối hình sự gồm những người có án hình sự như giết
người, cướp của, xì ke...
Vì
lần đầu tiên có khối “ngụy quân” nên bọn chúng muốn tổ chức hai đêm
văn nghệ thật xôm trò để làm công tác tâm lý chiến với chúng tôi nên
bọn giám thị đã chấp thuận theo đề nghị của chúng tôi là được nghỉ lao
động một tuần để tập dượt. (Ðối với VC mà để tù nhân nghỉ 1 tuần lao
động là chúng tiếc đứt ruột nhưng vì “lý do chính trị” nên bọn chúng
đành chấp nhận).
Ngược
lại, cũng để chứng tỏ cho bọn giám thị biết rằng bọn chúng tôi thuộc
“đẳng cấp” nào nên chúng tôi cũng soạn một chương trình đặc biệt có
tính nghệ thuật cao. Ngoài những bài đơn ca, hòa tấu, còn có tiết mục
tập dượt công phu nhất là bản hợp xướng nhiều bè do anh Vĩnh Ðiện soạn
nhạc và điều khiển. (Nhạc sĩ Vĩnh Ðiện là sĩ quan hành chánh tài
chánh trước ở Tiểu đoàn 10 CTCT, sau về làm Sĩ quan tài chánh tại Bộ
TL/SÐ 3BB) và cũng nhờ tiết mục nầy mà chúng tôi có cớ để đề nghị bọn
giám thị cho nhiều người trong chúng tôi được nghỉ lao động để tập.
Ðêm
văn nghệ hôm đó chúng tôi đánh giá là đặc sắc hơn những lần ở trại
trước vì có chuẩn bị tập dượt công phu, (chương trình văn nghệ bên
khối “ngụy quyền” do nhạc sĩ Trần Ðình Quân điều khiển cũng không
kém). Thế nhưng trong ngày họp “kiểm điểm công tác” sau đó, chúng tôi
đã bị ban giám thị trại khiển trách nặng nề. Tên giám thị trưởng đã
mắng chúng tôi trong buổi họp như sau: “Tôi không ngờ để cho các anh
một tuần lễ để tập đi tập lại mà vẫn không thưộc bài hát! Các anh mang
danh là “sĩ quan” mà còn thua mấy thằng hình sự. Bọn chúng hát có ai
“nhắc” đâu,mà các anh, cả mấy chục người lên sân khấu còn phải có
người đứng “nhắc” và ra “dấu” mới hát được?(!!!).
Thế
là kể từ đó về sau bọn tôi đã bị ban giám thị chiếu cố và kiếm chuyện
để đánh đập thẳng tay chỉ vì đứng hát mà còn có người đứng “nhắc”
trước mặt”.
6- CÂY THÁNH GIÁ
Cũng
tại trại tù An Ðiềm nầy, ngay trong tuần đầu tiên mới, đến chúng tôi
đã bị buộc phải học “nội quy” của trại. Trong nội quy có rất nhiều
điều cấm, như cấm hát nhạc vàng, cấm nói tiếng nước ngoài, cấm quan hệ
lẫn nhau giữa khối nầy với khối khác vv... Ngoài những điều cấm trên
còn có lệnh cấm thờ cúng, đọc kinh truyền bá tôn giáo trong trại. Vào
một đêm, sau một ngày lao động khổ sai rã rời thân xac, cả đội chúng
tôi phải ngồi sắp hàng để nghe tên quản giáo kiểm điểm đến 10 giờ đêm
vẫn chưa xong và còn hẹn đến mai tiếp tục. Chúng tôi chán đến tột cùng
nhưng cũng phải ngồi im lặng nghe tên quản giáo lải nhải.
Hắn
ta cứ cầm trên tay cái rút dép cao su và một thanh tre đưa lên trước
mặt và đi từ đầu nầy tới đầu kia nhà giam, trước mặt chúng tôi, ngồi
hai hàng đối diện nhau, bất động. Tên quản giáo VC hỏi lớn:”Các anh có
thấy đây là cây Thánh giá không? Các anh có thấy việc làm của anh
Ðặng văn Bi là có tính cách truyền đạo không? Lần khám xét trước, anh
Bi đã cố tình dấu quyển Thánh kinh để giảng đạo (?) . Lần nầy lại cố
tạo ra cái Thánh giá cũng để giảng đạo! Ðã vào đây để cải tạo mà còn
mơ tưởng tới Chúa, tới Phật. Các anh có thấy việc làm của anh Ðặng văn
Bi là sai trái không?”
Tất
cả vẫn im lặng và cười thầm trong bụng, ngoại trừ tiếng “dạ có” của
mấy tay “ăng-ten” đang giữ chức đội trưởng hay thư ký ghi chép biên
bản kiểm điểm.
Nguyên nhân sự việc thật giản dị như sau:
Thiếu
tá Ðặng văn Bi sau hơn 3 năm tù (75-78) vì thiếu tiếp tế của gia đình
( gia đình anh ở tận Sài Gòn) nên anh bị bệnh co rút các khớp xương
(mà lúc đó gọi là thần kinh tọa). Các đầu ngón tay của anh Bi bị cong
lại nên không thể đi lao động nặng được. Anh Bi được ở nhà để dọn dẹp
vệ sinh, lãnh cơm cho anh em. Vì không có chỗ treo quần áo nên anh tạm
dùng một thanh tre ngang kẹp giữa cái rút dép (đôi dép râu của VC làm
bằng lốp và ruột xe hơi, trời mưa đi thường bị tuột quai nên mỗi
người phải tự làm một cái kẹp bằng cật tre vót mỏng hoặc bằng thiết,
nhôm để kẹp đầu quai dép bị tuột và rút lên xuyên qua lỗ của cái đế
dép) tạo thành hình chữ T để móc vào áo. Chỉ có vậy thôi mà khi tên
quản giáo VC đi khám phòng bắt gặp cái móc áo dã chiến của anh Bi đã
chụp mũ cho anh Bi là làm cây Thánh giá để truyền đạo (!) và chúng tôi
đã phải ngồi hai đêm để nghe chúng hạch tội anh Bi và buộc anh phải
ký biên bản nhận tội là “cố ý truyền đạo trong nhà giam”!(?)
Chuyện "Vui" Trong Tù
(Tặng các cựu tù của Quảng-Ðà)
THG
THG
Một năm người có mười hai tháng
Riêng một mình ta, chỉ tháng TƯ.
Riêng một mình ta, chỉ tháng TƯ.
(THANH-NAM)
Ðúng là cái tháng TƯ đầy oan nghiệt, cái tháng mà toàn dân miền Nam không thể nào quên được. Cũng bắt đầu từ tháng nầy, miền Nam rơi vào địa ngục trần gian. Mất hết, mất tất cả...Trên khắp nẽo miền Nam thân
yêu, các trại tù mọc lên như nấm. Bọn chúng tôi phải bị lùa vào các
trại cải tao (đó chỉ là danh từ hoa mỹ để lừa bịp, thật ra chỉ là những
trại tù không hơn không kém). Với thân phận của kẻ chiến bại, là một
dịp để cho bọn Cọng Sản trả đòn thù hận lên chúng tôi - những QUÂN,
CÁN, CHÍNH của chế độ Cọng Hòa, kể cả các Văn nghệ sĩ của miền Nam.
Hàng
ngày chúng tôi phải bị lao động khổ sai, ăn “Peu” làm “Bien”, cái
đói, cái khát cứ bám chặt đời mình. Từ cái đói đó, con người gầy còm,
tiêu hao sức lực, mất hết ý chí và sinh lực, thậm chí, còn bị chúng
chưởi rủa hàng ngày. Chúng vẽ “rắn” thêm chân, vẽ “rồng” thêm cánh,
đầy nanh, đầy vuốt như thể chúng tôi là loài quỷ dữ, chỉ biết bóc lột
và hút máu người dân miền Nam . Sau
những năm tháng dài tù tội, có nhiều người trong chúng tôi chịu đựng
không nỗi đòn thù trên phải bỏ mình một cách oan khiên, tức tưởi.
Những mả cũ, mả mới, trùng trùng, điệp điệp mỗi ngày quanh bìa rừng,
hóc núi. Ðúng là “Rau răm ở lại, chịu lời đắng cay”.
Không
làm sao kể hết được những sự dã man, hèn hạ của CS đối xử với chúng
tôi. Tôi xin ghi lại mấy câu thơ của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã viết
trong trại tù Cọng Sản:
Hitler giết tù còn thua Cọng Sản
Cọng Sản giết tù không cần súng đạn
Không cần lửa điện, lò thiêu
Chỉ cần cho ăn ít, bắt làm nhiều.
Sau
thời gian “Nín thở qua sông” trong các trại tù, chúng tôi cầm cái
“Giấy Tạm Tha” để trở về nhà(có nghĩa là có thể bị bắt lại bất cứ lúc
nào), để trở về trong một nhà tù lớn hơn. Như một người bị vất ra
ngoài lề xã hội, không có thẻ căn cước, không có tên trong tờ khai gia
đình, bị cấm làm rất nhiều nghề, chỉ có nghề “dân biểu” (dân biểu chi
làm nấy) là không bị cấm thôi. Sống một cuộc sống lây lất, tạm bợ của
một giai cấp thấp nhất trong tận cùng giai cấp vì chúng tôi là những
cựu Sĩ quan...ngụy.
Bây giờ được may mắn ở xứ người, tôi xin kể lại vài mẫu chuyện “vui” trong tù để nhớ lại một thời NÍN THỞ QUA SÔNG.
1/ VÌ AI MÀ CHÂN TÔI RA NÔNG NỖI NHƯ RI!
Ngày
thê thảm nhất của đời mình rồi cũng đã đến. Tôi cùng 500 bạn khác bị
đưa đến trại 2 Hiệp Ðức (thuộc Tổng trại 1, Quảng Nam ,
có 5 trại) để lao động. Trại 2 cách Khâm Ðức khoảng 5 km về hướng
đông, nằm giữa một thung lũng được bao vây bởi rặng Trường Sơn. Hằng
ngày chúng tôi đi phát rẫy để trồng sắn (củ mì). Ðặc biệt ở trại nầy có
Khối 1 (đa số là binh chủng Không Quân). Ngoài sự đói khát, lao động
cực nhọc, chúng tôi hàng ngày phải nghe những lời chửơi rủa, mĩa mai,
lên án...đủ điều. Một hôm có tên quản giáo tên Hy, cà thọt đi tới và
đứng trước Khối 1 đang phát rẫy, hắn ta xăn ống quần lên tận háng, lòi
ra những vết sẹo ngang dọc, và nói lớn:
“Nè,
nè! Xem nè...Vì ai mà chân tôi ra nông nỗi như ri! Chính các anh -
những tên giặc lái của đế quốc Mỹ đã bắn tôi. Các anh đâu có thoát
khỏi bàn tay của nhân dân.”
Tưởng
gì, những lời nhục mạï,chửơi bới tương tự như thế nầy chúng tôi đã
nghe quá nhiều, nghe riết rồi cũng quen nhưng trong đám đông, có ai đó
lên tiếng:
-
”Ở đây toàn giặc lái A37, F4, F5... của nhà 1. Cán bộ qua bên nhà 2
hỏi thử xem! Bên đó giặc lái máy bay lên thẳng nhiều lắm.” Hắn ta bỏ
ống quần xuống và bước đi. Tôi hỏi các bạn, mới biết: Năm 1972, hắn ta
lò dò ra bìa rừng ở quận Duy Xuyên, trực thăng của SÐ1 Không Quân
đuổi bắn, hắn bị thương, suýt chết. Bây giờ làm quản giáo của khối 4,
mỗi lần thấy Khối 1 làm ở đâu cũng xấn tới và nói những câu tương tựï
như trên.
2/ CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
Sau
một tháng gọi là “học tập đường lối, chính sách của Ðảng”, cứ mỗi bài
học, chúng tôi trở về mỗi Khối của mình để thảo luận, kiểm điểm bản
thân, kê khai tội ác...Một hôm đến phần có công với cách mạng, ai có
thì khai. Chúng tôi vẫn biết rằng, đối với chúng tôi ở trong trại tù
chỉ có đầy dẫy những tội ác như lá rừng, như nước biển Ðông, nào là”
chống phá cách mạng”, là “công cụ của đế quốc Mỹ”, là “chống lại nhân
dân”...làm sao mà có “công” với cách mạng được. Thế nhưng cũng có hai
ông bạn tôi lần lượt đưa tay ghi “công”:
Anh thứ nhất, Trung úy Ðại Ðội Trưởng Ðịa Phương Quân, Tiểu Khu Quảng Nam :
-
”Mỗi lần cho lính đi phục kích, tôi ra lịnh toán đi phục kích phải đi
nhè nhẹ, không được gây ra tiếng động để...cách mạng ngủ ngon có sức
đi chiến đấu”.
Anh thứ hai, Thiếu úy Tiền sát Viên Pháo Binh phát biểu ghi “công” cũng không kém:
- ”Mỗi lần hướng dẫn phi cơ oanh kích cách mạng, tôi cho bắn khói màu trước để cách mạng biết mà rút lui”.
Chúng
tôi ai nấy nhìn nhau cười thầm. Tên cán bộ quản giáo sau một hồi lâu
đứng phắt dậy, mặt đỏ au như muốn ăn tươi nuốt sống chúng tôi, nói
lớn:
- ”Giỡn mặt với cách mạng hả! Như vậy là có công với cách mạng à?”
Ngay
ngày hôm sau, hai ông bạn “to gan, bạo mồm” đó liền khăn gói vào
nhà...cùm để “cười thầmØ” 2 tuần lễ cho lời phát biểu “tưởng như thật”
của mình.
3/” CON GÀ RÙ”
Ở
tại trại Kỳ Sơn được nửa năm, chúng tôi chuyển xuống Phú Ninh để làm
đập thủy điện. Trong thời gian nầy các khối 1, 2 và 3 luân phiên nhau
đi cuốc đất trồng sắn, vớt sạn dưới lòng sông Kỳ Trà, đi đốn củi ở Ðức
Phú...Một hôm, khối 2 của tôi đi trồng sắn ở các đồi bên kia sông,
dưới cái nắng ùchang chang của mùa hè, anh em chúng tôi phải phơi lư
ng suốt 8 giờ mỗi ngày từ đồi nọ đến đồi kia, bao la bát ngát. Tôi
cùng anh em giăng hàng ngang cuốc đất moi lỗ để anh em phía sau bỏ hom
sắn xuống trồng. Ðang làm với anh em bình thường, thoáng thấy tên
quản giáo Túc đi tới , dừng lại sau lưng tôi, hai tay tôi như chùng
lại, cứ tà tà phang từng lát cuốc xuống đất như người đau mới dậy.
Ðứng chặp lâu, chắc tên Túc ngứa mắt, nói lớn:
-
”Anh Th, anh làm gì giống như CON GÀ RÙ vậy? Anh phấn đấu, năng nổ
lên chứ,ù để còn về với vợ con. Bộ anh không muốn lao động tốt sao?”.
Tôi
nghĩ thầm trong bụng: “ Xưa như trái đất, tốt vớøi không tốt. Tốt
cũng về, xấu cũng về nhưng chưa biết lúc nào về thôi”. Rồi tôi quay
lại nói với hắn:
- ”Hôm nay tôi bị bệnh, cán bộ.”. Tên quản giáo trước khi bỏ đi còn nói:
- ”Lúc nào cũng nghe anh nói bệnh cả. Bệnh gì mà bệnh lắm thế!”.
Hắn đi rồi, anh em nhao nhao chọc tôi: “Ê! GÀ RÙ! GÀ RÙ! Làm đi để sớm về với “má”.
Tôi
nói đùa lại với anh em: “Lao động là vinh quang, không lao động thì
vinh quang hơn”. Cũng may, không có tên ăng-ten nào nghe nên cũng khỏi
đau lưng ngồi nghe kiểm điểm hết đêm nầy sang đêm khác.
Cái
tên “đáng yêu” nầy cũng còn đeo mãi theo tôi khi gặp lại bạn bè ngoài
phố hay trong điện thoại, tên Th thì có kẻ nhớ người quên nhung xưng
là CON GÀ RÙ là anh em nhớ ngay.
Năm 1998, ở Việt Nam có
đứa cháu gọi bằng cậu cưới vợ, tôi có gởi cho cháu chút quà. Sau đám
cưới cháu gởi qua cho cuốn video tape. Cả nhà đang ngồi xem, bỗng tôi
đứng dậy như cái lò xo, nói lớn:
- ”A, cố nhân đây rồi! Cố nhân lại gặp cố nhân”.
Bà Xã và mấy đứa con trố mắt ngạc nhiên nhìn tôi. Tôi bèn giải thích:
-
”Cái tên đội nón cối, mang kiến đen, mặc cái áo kaki Nam Ðịnh 4 túi
đứng bên họ nhà gái là tên quản giáo trại tù Phú Ninhø trước đây đó”.
Vợ tôi nghe vậy, liền phán một câu nghe cũng hả dạ lắm:
- ”Ðã bỏ đi qua đến Mỹ rồi mà cũng còn gặp lại “oan gia”. “Oan gia lại gặp oan gia”.
4/ THƠ VỚI...THẨN
Một
người bạn khác, Nguyễn Thuần quê ở Hội An, Ðại Ðội Trưởng Biệt Ðộng
Quân thuộc Quân Khu I thường hay nằm trên võng nghêu ngao ngâm thơ của
tên bồi bút Tố Hữu làm cho nhiều anh em bực mình, khó chịu:
Stalin! Stalin!
Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!
Hay
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười.
Tôi
lại nghĩ khác vì có nhiều lần nói chuyện với Thuần, tôi biết Thuần là
người không đến nỗi “tệ” lắm mà có ý mĩa mai ngầm tên gia nô Tố Hữu
mà thôi.
Một hôm nghe Thuần cũng ngâm mấy câu thơ đó, tôi buột miệng kêu lên:
- ”Trời ơi là Trời”.
Ða
số anh em đều đọc được cái ý nghĩ trong đầu tôi nên chỉ nhìn tôi cười
thôi nhưng khối trưởng sợ trại biết được nên tổ chức họp kiểm điểm
tôi cho qua chuyện. Trước khi nhận khuyết điểm tôi cũng chống chế vài
câu:
-
”Tôi thường nghe cán bộ nói, nhân dân ta bắt Trời làm mưa, nghiêng
đồng đổ nước...Tôi tưởng có Trời thiệt nên tôi la vậy thôi. Tư bản tin
duy linh là tầm bậy quá. Không có số, không có mạng gì cả. Tôi nhận
khuyết điểm và không la Trời nữa”.
Khối trưởng tuyên bố: “Ði ngủ”
Xem như hòa cả làng.
5/ CŨNG TẠI VÌ...THƠ
Cũng
tại trại Phú Ninh, sau khi chúng tôi đốn củi chất thành khối tại rừng
Ðức Phú, mỗi người phải gánh một gánh củi về cho nhà bếp trại.Trước
khi vô trại, chúng tôi lội xuống bờ sông để tắm, đang tắm tôi nhìn lên
phía trên đường cái, thấy có nhiều “Rau Răm” cũng đang vác cuốc đi về
trại, tôi bỗng đọc câu thơ của tên Tố Hữu ca tụng cái chủ nghĩa xã
hội của hắn:
“Ðường ta rộng thênh thang tám lối”.
Các
bạn quanh tôi hiểu ý, im lặng nhìn bâng quơ lên đường nhưng có một
tay ăng-ten (lâu quá nên quên mất tên) liền đưa tôi ra phê bình kiểm
thảo ngay tối hôm đó, rằng tôi cố ý sửa thơ của cách mạng, rằng tôi
mĩa mai, bôi bát chế độ...bằng cách đọc hai chữ “tám thước” thành “tám
lối”. “Tám lối” nói lái là “tối lắm”.
Biết là đã “sa” vào tình thế có thể bị cùm nên tôi cố ráng gân cổ lên cãi lại:
-
”Anh...nói như vậy là hoàn toàn suy diễn, không đúng. Tôi nghĩ “tám
thước” cũng giống như “tám lối” mà thôi, có thua gì ở các nước tư bản
đâu? Và tôi tố anh ta ngược lại cho bỏ tật “chụp mũ” người khác, đó
cũng là kinh nghiệm đầy mình của chúng tôi khi phản pháo.
- ”Tôi không có ý mĩa mai chế độ, không sửa thơ của cách mạng. Chỉ có anh cố ý suy diễn để sữa thơ, để bôi bát mà thôi”.
Tôi
vẫn giữ lập trường của mình đến cùng, suốt hai đêm như vậy tôi cũng
không nhận khuyết điểm. Khối trưởng bèn trình biên bản lên quản giáo
khối để khỏi chịu trách nhiệm. Ngày hôm sau đang lao động, tên quản
giáo khối kêu tôi ra riêng để “làm việc”, tôi vẫn một mực chối phăng,
chỉ nhận là nhớ lộn “tám thước” thànhø “tám lối” mà thôi, không có ý
sửa thơ, không có ý nói lái để mĩa mai như anh kia đã nói. Sau đó tôi
cũng không nghe ai nhắc đến nữa. Xem như thoát nạn.
No comments:
Post a Comment