GIAO CHI SAN JOSE * VÕ ĐẠI TÔN
*
VIÊN GẠCH LÓT ÐƯỜNG
Trên
con đường đó vẫn cần rất nhiều viên gạch lót đường. Trong đó, chúng
ta đã có sẵn một viên gạch bất khuất. Viên gạch lót đường mang họ Võ.
Tháng 4 năm nay, chúng tôi lại mời ông Võ Ðại Tôn qua Mỹ.
*
VIÊN GẠCH LÓT ÐƯỜNG
Giao Chỉ, San Jose
Ngày
xưa, thi sĩ Nguyên Sa gọi ông là Kinh Kha. Trên báo Ðời số đặc biệt
năm 1982 xuất bản ở quận Cam, nhà văn Hư Trúc gọi ông là Mặt Trời
Không Bao Giờ Lặn. Ðồng bào Việt ở Úc Châu gọi ông là Chiến Sĩ. Báo
chí Hoa Kỳ gọi ông là Người Tù Anh Hùng. Trên tờ báo lớn ở miền Tây
Úc, ký giả nổi tiếng Norman Aisbett gọi ông là Ðại Tá Cô Ðơn. Trong
quân đội tên ông là Võ Ðại Tôn, với bí danh Wòng-A-Lìn. Ngoài văn giới
ông mang bút hiệu Hoàng Phong Linh. Và sau cùng, khi tìm đường gai
góc mà đi, ông tự coi mình là Viên Gạch Lót Ðường.
Với
chuyến trở về vào đầu thập niên 80, viên gạch quý của chúng ta được
sản xuất tại miền đất Quảng anh hùng đã làm nên lịch sử. Khi tin tức
về cuộc họp báo tại Hà Nội ngày 13-07-1982 được loan báo trên hầu hết
các hệ thống truyền thông thế giới, đồng bào Việt Nam hải ngoại lập
tức coi Võ Ðại Tôn như là một biểu tượng chung của người quốc gia đang
tìm đường quang phục quê hương.
Ðoạn
phim ngắn của truyền hình Nhật Bản đã làm nhỏ lệ biết bao khán giả
xen lẫn niềm hãnh diện vốn đã vắng bóng từ lâu. Từ màn ảnh nhỏ, Võ Ðại
Tôn xuất hiện vĩ đại, bất khuất. Một trận thư hùng đã mở màn. Một bên
là toàn thể bộ máy cầm quyền, cao ngạo, hùng mạnh, khốc liệt và vô
cùng hiểm độc. Một bên là người tù biệt giam, cô đơn, đói khát, tuyệt
vọng. Ðây là cuộc chiến của một người chống một chế độ trước ống kính
của truyền hình, máy ảnh và những cây bút ghi chép đại diện cho hàng
trăm cơ sở truyền thông trong và ngoài nước. Trong số này có trên 10
phóng viên ngoại quốc đã được Hà Nội triệu tập khẩn cấp từ Vọng Các
qua. Không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra. Trong khi đó, nhà cầm quyền Hà
Nội úp mở nói rằng sẽ cho trình diện một gián điệp của Hoa Kỳ và của
tình báo Thái, xâm nhập vào làm công tác phá hoại Việt Nam .
Từ
loa phóng thanh, tiếng viên Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa Thông Tin Cộng Sản
Hà Nội, Lê Thành Công, chủ tọa và điều hợp buổi họp báo vang lên: Ðây là tên tay sai của trung ương tình báo Hoa Kỳ CIA.
Với
gương mặt khắc khổ và cặp mắt cương nghị, người đàn ông họ Võ, sinh
năm 1936 tại Ðà Nẵng cúi đầu chào cử tọa. Tiếp theo ông đứng lên phía
sau một chiếc bàn gỗ ghé đầu xuống micro: Tôi,
Võ Ðại Tôn, chỉ huy trưởng Chí Nguyện Ðoàn Phục Quốc, tôi xác nhận
hoàn toàn chịu trách nhiện về dự mưu xâm nhập Việt Nam...Tôi xin các
nhà báo vì lương tâm chức nghiệp của người cầm bút, xin hãy tường thuật
trung thực.
Một
cách gián tiếp, Võ đại Tôn bác bỏ vai trò của trung ương tình báo Hoa
Kỳ. Ông xác nhận đã là người chủ dộng và chấp nhận tất cả mọi hậu
quả. Như chúng ta đã thấy, hậu quả tàn khốc nhất là ông đã làm mất mặt
toàn thể guồng máy công an và tình báo Hà Nội. Sau khi thấy Võ đại
Tôn nói không đúng bài bản dự trù là sẽ thành khẩn thú nhận tội lỗi,
lập tức cộng sản cúp điện, và lôi ông vào.
Sau
đó khán giả không được thấy hình ảnh tiếp theo. Bình luận gia của đài
truyền hình cho biết là người ta đã đem ông Võ đi và cuộc họp báo
chấm dứt. Cuộc chiến đã ngưng ở đây. Một người đã thắng một chế độ.
Kinh Kha của Việt Nam đã hoàn tất sứ mạng và không ai nghĩ rằng người tráng sĩ đó lại có ngày trở về.
Trần Bình Trọng của lịch sử Việt Nam, lúc sa cơ trong tay giặc đã bày tỏ tâm nguyện không làm vương đất Bắc. Người chiến sĩ họ Võ ra đi năm 1975, trở về năm 1981 vỏn vẹn với hai chiến hữu, sa cơ ở miền biên giới, đã đành quyết một lòng làm quỷ nước Nam.
Sau này, khi đã xin tỵ nạn tại Pháp, nguyên đại tá cộng sản Bùi Tín
kể lại rằng năm 82 Võ đại Tôn đã đem chính thân xác ra hy sinh để đánh
lừa cả bộ chính trị Hà Nội một quả vô tiền khoáng hậu. Ai cũng biết
rằng ông đã phải trả giá cho cuộc họp báo quốc tế phi thường như thế
nào.
Tại
San Jose, những thước phim ngắn trên truyền hình Nhật Bản được in ra
phổ biến trong cộng đồng và một cuộc biểu dương hàng ngàn người đã
được tổ chức tại công viên St James
Từ
đó đến nay, giữa ngục tù Cộng Sản, ông Tôn đã đếm được 10 năm 1 tháng
và 17 ngày. Báo chí ở Úc nói rằng: Mr. Võ có một trí nhớ sắc bén như
lưỡi dao cạo. Ông nhớ rằng với trọn năm tù đầu tiên ông bị đánh suốt
45 ngày. Biệt giam trong một xà lim 3 thước và 2 thước rưỡi. Suốt 10
năm ông đã bị đánh đập 96 lần.
Sau ngày 13-7-1982 ,
khắp thế giới nói đến Võ Ðại Tôn, nhưng cũng từ ngày ấy không một ai
biết thêm tin tức gì về viên gạch lót đường yêu quý đó nữa.
Tại Úc châu, tiểu bang New South Wales , nơi cộng đồng Việt Nam thân yêu mà ông từ giã, vẫn mòn mỏi chờ đợi là một người vợ trẻ và đứa con trai 3 tuổi.
Năm
1990, khi có cơ hội qua Úc châu thăm bà Võ Ðại Tôn, chúng tôi đã tìm
thấy một gia đình rất bình thường như bất cứ một gia đình tỵ nạn nào
của cộng đồng Việt Nam .
Bà Tuyết Mai, vợ Võ Ðại Tôn đi làm công chức và thay chồng nuôi con.
Trong căn nhà nhỏ bé, có treo một tấm chân dung vĩ đại của người chồng
và người cha ngàn trùng xa cách. Trở về Hoa Kỳ, chúng tôi đã bắt đầu
công cuộc vận động với các giới lập pháp Hoa Kỳ, kể cả việc gửi người
trong phái đoàn về đấu tranh với Hà Nội. Cuối thập niên 80, các hội
đoàn tại San Jose hòa nhịp với người Việt toàn thế giới cùng lên tiếng đấu tranh cho tù tập trung “Lao Cải”. Tên của Phan nhật Nam
và Võ đại Tôn dược nhắc nhở nhiều lần. Sau đó, đại diện cơ quan IRCC
là ông phó giám đốc Nguyễn đức Lâm trong phái đoàn quốc hội California
đã về Sài gòn trong sứ mạng thăm dò với cùng muc đích của bộ ngoại
giao Hoa Kỳ. Cũng vào thời gian đó, Phan Nhật Nam vừa được tự do và
IRCC đã có dịp phỏng vấn trực tiếp ông tại Sài Gòn đem về phát lại trên
radio San Jose. Nhưng trường hợp Võ đại Tôn hy vọng rất mong manh.
Ðối với gia đình của ông Tôn, tin tức ghi nhận được ngày 13-7-1982
cũng là tin tức chính thức cuối cùng. Ít nhất cho đến 9 năm sau, với
sự vận động rất tích cực của chính phủ Úc Ðại Lợi, Hà Nội đã cho phép
ông nhận quà và gửi thư về. Rồi đến áp lực chung của toàn thế giới và
sự lưu tâm đặc biệt của Úc châu. Sau cùng Cộng Sản Việt Nam quyết định trả tự do cho ông Võ Ðại Tôn ngày 10-12-1991 .
Ông
trở về Úc châu với cả một cộng đồng thân yêu chào đón. Với người vợ
đỏ mắt chờ mong và đứa con trai mà người cha như là một huyền thoại.
Hà Nội đã giam giữ ông trên 10 năm, từ 72 kg xuống còn 48 kg. Thân
hình tiều tụy trông già hơn 20 tuổi. Tuy nhiên, trí óc sắc bén còn nhớ
hàng trăm bài thơ dài ngắn và 3 cuốn sách mà ông đã viết bằng ký ức
trong thời gian biệt giam, vì không có ánh đèn và giấy bút. Ngay như
cuốn hồi ký Tắm Máu Đen (đường về quê hương và cuộc chiến cô đơn trong
lao tù Hà Nội) dày hơn 500 trang, ngay sau khi ra khỏi tù trở về
Sydney, đã được đánh máy trong vòng một tuần lễ và phát hành ngay tại
Úc, 1992. Tái bản tại Hoa Kỳ năm 2000. Như vậy là, sau cùng người
chiến sĩ xuất thân từ biệt kích đã có nhiều lần đảm nhận nhiều công
tác tình báo đặc biệt, nay đã trở về. Lần cuối cùng ông đi vào lòng
địch không hề có lệnh công tác mà cũng không có được một tiểu đội xung
kích. Nếu không kể toán lính kháng chiến Lào hộ tống đã tan hàng, thì
thầy trò chỉ vỏn vẹn có 3 người. Một người là Vũ Ðình Khoa đã hy sinh
tại chỗ, một người thứ hai đã bị bắt cùng một lượt với Võ Ðại Tôn và
được thả năm 1987.
Năm
1981, khi ông Võ Ðại Tôn lên tiếng với toàn thế giới là ông đang tìm
đường trở về quang phục quê hương, trong chúng ta đã có nhiều người
bày tỏ sự hoài nghi rất hợp lý.
Dứt
bỏ cuộc sống ổn định, bỏ gia đình vợ con đơn chiếc để tìm con đường
về mịt mù vô vọng. Quyết định này không dễ gì thực hiện. Mở cuộc thánh
chiến cô đơn để chống chế độ Hà Nội lúc đó còn đầy đủ sắt máu và
phong độ vào thập niên 80, rõ ràng đối với nhiều người thì đây là một
hành động không khôn ngoan và thiếu thực tế.
Nhưng
chúng ta không thể lấy tri thức của mọi người mà đo lòng của một
người. Không thể lấy bụng dạ của thường nhân mà đo lòng chiến sĩ. Và
không thể lấy đất mà đo với gạch. Vì vậy mới có Võ Ðại Tôn. Con người
này khi đi làm anh hùng thể hiện sứ mạng lịch sử, quả thực đã thiếu sự
khôn ngoan của đa số bình thường. Chúng ta đâu có biết ông đã nghĩ gì
khi quyết “Tìm đường gai góc mà đi”.
Tháng
4 năm 1992, miền đất ấm California đã có dịp chào đón Võ Ðại Tôn trên
đường từ Úc Châu qua Hoa Kỳ. Lúc đó phong độ vẫn quả cảm quyết liệt,
nhưng già dặn chín chắn hơn. Chúng ta thường có thói quen dành hết
lòng thương yêu thành kính cho những người liệt sĩ ra đi vĩnh viễn vào
cõi vô cùng. Trong khi đó cộng đồng và quê hương thực sự rất cần
những anh hùng còn tồn tại.
Hai mươi năm trước San Jose
đã lên tiếng cảm ơn đất Quảng đã sản xuất ra một Võ Ðại Tôn trước sau
như một. Chúng ta đã ca ngợi cộng đồng Việt tại Úc châu có được một
Võ Ðại Tôn hơn một lần bước chân đi, lẫm liệt đường hoàng.
Con
đường đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền dù trong hoàn cảnh
nào cũng luôn luôn mở rộng trong một cuộc chiến mới đầy hy vọng cho
quê hương và dân tộc.
Trên
con đường đó vẫn cần rất nhiều viên gạch lót đường. Trong đó, chúng
ta đã có sẵn một viên gạch bất khuất. Viên gạch lót đường mang họ Võ.
Tháng 4 năm nay, chúng tôi lại mời ông Võ Ðại Tôn qua Mỹ.
Ngày thứ bẩy 15 tháng 5-2010 lúc 1 giờ trưa ông sẽ có dịp gặp gỡ đồng hương và chiến hữu tại San Jose . Tại hội trường Santa Clara County số 90 W. Hedding. Ông sẽ giới thiệu những cuốn sách mới viết xong, trong đó có cuốn hồi ký “Tuổi thơ và chiến tranh”
và quan trọng hơn hết là ông sẽ trải rộng tâm tình với bà con San
Jose, nơi cũng đã trải tấm lòng ra với ông suốt 30 năm qua.
Rồi
một tuần sau, đến ngày chủ nhật 23 tháng 5-2010 trong chương trình
văn nghệ 35 năm nhìn lại tại đại hí viện CPA, nhà thơ Hoàng Phong
Linh, bút hiệu văn nghệ của Võ Ðại Tôn sẽ cất tiếng hát lời thơ do
chính ông sáng tác (Nguyễn Ánh 9 phổ nhạc) :” Mẹ Việt Nam ơi, chúng con vẫn còn đây...
Tháng tư 1975, cách đây 35 năm miền Nam đã có biết bao nhiêu anh hùng tuẫn tiết. Tình cờ chúng tôi ghi nhận được tướng Nguyễn Khoa Nam của đất Thần kinh, Trung Việt. Tướng Lê Nguyên Vỹ, quê Sơn Tây, Bắc Việt và tướng Lê văn Hưng , Nam Việt. Quả thực anh hùng ở khắp mọi nơi và hào kiệt thời nào cũng có.
Trên
con đướng đấu tranh phục quốc Trần văn Bá về từ Âu Châu, Hoàng cơ
Minh về từ Mỹ Châu và Võ Ðại Tôn về từ Úc Châu. Trên sân khấu lịch sử
35 năm nhìn lại ngày 23 tháng 5-2010, chúng tôi ước mong có đại diện
sinh viên Trần Văn Bá, có người con trai của tướng Hoàng cơ Minh. Liệt
sĩ Trần văn Bá đã bị cộng sản xử tử hình tại Sài Gòn. Ðề đốc Hoàng cơ
Minh đã hy sinh miền biên giới. Ta nỡ lòng nào đề một mình viên gạch
lót đường cô đơn Võ Đại Tôn đứng đó mà hát rằng:” Mẹ Việt Nam ơi, chúng con vẫn còn đây...
Giao Chỉ - San Jose.
4.2010*
TRẦN BÌNH NAM * TÌNH DỤC & GIÁO HỘI
*
Vị trí của người phụ nữ trong giáo hội Công giáo La Mã
Lời nói đầu:
*
Vị trí của người phụ nữ trong giáo hội Công giáo La Mã
Vấn
đề tu sĩ giáo hội Công giáo vi phạm tình dục tại Boston, Hoa Kỳ bùng
nổ năm 2002. Giáo hội Công giáo đã tìm cách giải quyết, và vấn đề lắng
xuống một thời gian. Gần đây vấn đề lại xuất hiện và đụng chạm đến đức
Giáo hoàng Benedict về phong cách ngài giải quyết vấn đề vi phạm tình
dục của các linh mục trong thời gian ngài còn là Hồng Y. Tờ tuần báo
NEWSWEEK số ngày 12 tháng Tư, 2010 qua bài viết “A Woman’s place is in
the Church” của bà Lisa Miller đã phân tích cặn kẽ nguyên nhân và hậu
quả của vấn đề tu sĩ và tình dục, và phương thức giải quyết. Tôi xin
lược dịch sau đây.
** Trần Bình Nam **
** Trần Bình Nam **
--:o0o:--
Giáo hội Công giáo La mã là một định chế gồm đa số đàn
ông tồn tại lâu đời và vững bền nhất thế giới. Giáo hội đang tìm cách
gỉải quyết một vấn đề nội bộ: Một số linh mục vi phạm tình dục với trẻ
em và con chiên. Trong mấy chục năm qua các vị linh mục tại
Hoa Kỳ, Âu châu, Ireland, Brazil và nhiều nơi khác đã gợi tình dục và
hiếp dâm trẻ em tại nơi cắm trại, trên xe, trong phòng ngủ hay tại
phòng xưng tội. Một số rất ít nạn nhân trẻ em này đã có can đảm tiết lộ
với mẹ hay chị. Và một số các bà mẹ, bà chị này đã trình với các vị
giám mục xin giải quyết thì đều bị các vị giám mục lờ đi và khuyên nên
im đi thì hơn. Trước sự vi phạm tình dục trong Giáo hội,
người phụ nữ luôn luôn được khuyên bảo nên nhẫn nhục chịu đựng. Họ cầu
nguyện xin đức Mẹ cứu giúp cũng không được đáp lại. Kết quả,
các nam tu sĩ trong Giáo hội được giao phó giải quyết vấn đề tế nhị
này bị mất uy tín. Các viên chức tôn giáo này hình như không thông
cảm được sự đau khổ của con chiên. Tại các buổi giảng đạo nếu cần nói
lời xin lỗi con chiên họ đã xin lỗi một cách máy móc. Người
ta không quên hình ảnh đức Hồng y Timothy Dolan tại Palm Sunday ở New
York lên án sự vi phạm tình dục tại giáo đường của ngài với cung cách
một ông giám đốc đại công ty (dạy bảo nhân viên). Một đoạn phim YouTube
khác cho thấy đức Hồng y Sean Brady tại Ireland, nơi – trong 40 năm
liền – có 15.000 trẻ em bị các tu sĩ xâm phạm tình dục thản nhiên bác
bỏ mọi lời yêu cầu ông từ chức của con chiên. Và mới đây
khi tờ New York Times tiết lộ rằng Đức Giáo hoàng Benedict XVI (khi
ngài còn là Hồng y Joseph Ratzinger ngồi tại Vatican phụ trách việc
giải quyết sự vi phạm tình dục trong Giáo hội) đã không cách chức một
linh mục vi phạm tình dục với 200 đứa trẻ điếc tại Winconsin, ngài đã
gạt đi và cho rằng báo chí có ác ý. Ngài nói rằng “không vì tin đồn và
dư luận mà mất đức tin”. Thái độ chung cho thấy đức Giáo hoàng và các
phụ tá của ngài (Hồng y, Giám mục) chưa hiệp thông với nỗi đau của con
chiên. Vấn đề cốt lõi không phải là - như nhiều người ngoài
giáo hội tin - giáo hội không hiểu nỗi khổ của con chiên vì họ là những
người sống độc thân (celibacy) và vì lối sống quá cách biệt quần chúng
của họ.
Thật ra, lý do chính vì các vị Hồng y và Giám mục sống trong tháp ngà của một giáo hội khép kín theo mẫu mực của thời Tiền Khai Sáng (pre-Enlightenment) trước thế kỷ thứ 18, không bị - và không muốn bị - ảnh hưởng bởi cuộc cách mạng dân chủ tại Pháp và tại Hoa Kỳ. Về phương diện luân lý Giáo hội đặt quyền lợi của Giáo hội trên quyền lợi của cá nhân và xem sự tiến bộ là một hiện tượng đe dọa Giáo hội. Người Tây phương coi trọng sự tự do cá nhận nên bức rức khi thấy Giáo hội xem sự gắn bó với Giáo hội là trên hết. Hai bên không gặp nhau vì vậy. Vì không coi trọng sự tiến bộ xã hội, Giáo hội không quan tâm đúng mức vai trò của người phụ nữ trong lực lượng sản xuất và những gì phụ nữ đã đóng góp và phục vụ đời sống công cọng. Tại Hoa Kỳ có 30 triệu phụ nữ làm việc toàn thời gian.
Tại Âu châu 60 triệu. Cách đây 50 năm, các người chủ chăn các nhánh Tin Lành đã tìm cách ngăn chận bước tiến của phụ nữ nhưng không thành công. Nhóm Lutheran tại Đan Mạch đã cho phép phụ nữ trở thành mục sư năm 1948 . Tại Hoa Kỳ người phụ nữ đầu tiên được phong mục sư năm 1976 thuộc giáo phái Episcopalian. Thế nhưng trong Giáo hội Công giáo các tu sĩ vẫn sống và làm việc như họ đã làm cả nghìn năm nay. Không lập gia đình, không thân mật, không quan hệ nghề nghiệp với phụ nữ, và không hề biết về đời sống gia đình và con cái của con chiên. Và khi một tu sĩ Công giáo rời khỏi xứ đạo, họ càng bị cách biệt trong tháp ngà hơn nữa. Bà Elaine Pagels, giáo sư về tôn giáo tại đại học Princeton nói rằng: “Giáo hội hoàn tòan không quan tâm gì đến sự an toàn của trẻ em (trước sự xâm phạm tình dục của các tu sĩ). Đối với chúng ta đó là một thái độ đứng ngoài sinh hoạt xã hội thật khó giải thích.
Nhưng quả thật các tu sĩ giáo hội không muốn sinh hoạt hài hòa với xã hội.” Đã đến lúc Vatican thực hiện những gì Giáo hội phán dạy. Công Đồng II họp đầu thập niên 1960 đã có nỗ lực hội nhập lối sống cũ xưa với đời sống mới. Qua văn bản của Công Đồng II, Giáo hội đã công nhận vị trí của người phụ nữ trong xã hộị một cách minh bạch rằng: “Người phụ nữ đã có một vai trò quan trọng trong xã hội như chưa từng có về ảnh hưởng, tác dụng cũng như quyền lực. Do đó đã đến lúc người phụ nữ có thể làm những công tác của Phúc Âm để cứu vãn nhân loại đang đi xuống.” Năm 1988, đức Giáo Hoàng John Paul II, trong một lá thư nhan đề Mulieris Dignitatem (On the Dignity of Women – Giá trị cao quý của người phụ nữ ) đã đề cao sự quan trọng của người phụ nữ đối với Giáo hội. Tuy nhiên 6 năm sau, ngài không quên nhắc lại Giáo hội chưa thể cho phép phụ nữ thụ phong linh mục.
Sự khác biệt giữa nguyên tắc và thực tế của Giáo hội quá rõ ràng. Tại Hoa Kỳ 60% người đi nhà thờ là phụ nữ, và số tiền 6 tỉ mỹ kim thu được mỗi năm sau các buổi lễ do đa số phụ nữ cho. Thế nhưng người phụ nữ không có một chỗ đứng nào trong bộ máy quyền lực của Giáo hội. Tại Vatican, số phụ nữ có một chức vụ nào đó có thể đếm trên đầu ngón tay. Phụ nữ cũng rất ít được giữ các chức vụ điều hành quan trọng tại các giáo phận. Và mặc dù số nữ tu nhiều gấp bội số linh mục, ít ai thấy sự có mặt của họ. Đến nổi gần đây khi một nhóm nữ tu lên tiếng về vấn đề cải tổ hệ thống bảo hiểm sức khỏe, dư luận mới nhớ ra là có một tập thể các nữ tu trong Giáo hội. Bà Kathleen McChesney, một viên chức FBI có nhiệm vụ điều tra các vụ vi phạm tình dục trong Giáo hội Công giáo sau các vụ tố cáo tại Boston năm 2002 nhận xét rằng: “Tại Vatican không có một phụ nữ nào tham dự vào cuộc điều tra này.
Vatican xem đây là chuyện của đàn ông.” Tháng Ba vừa qua, bà Kerry Robinson, giám đốc cơ sở National Leadership Rondtable, một cơ sở gồm các nhà kinh doanh Hoa Kỳ lập ra với mục đích thuyết phục Giáo hội áp dụng nguyên tắc kinh doanh vào sự điều hành Giáo hội, đã cùng với một số phụ nữ khác đi Vatican để nói chuyện với các vị Hồng y. Bà Robinson nói: “Người phụ nữ trẻ tuổi nào trong thế giới kinh doanh cũng có thể nhìn thấy cơ hội thăng tiến của mình. Và họ rất khó chịu khi không thấy một cơ hội thăng tiến nào như vậy trong Giáo hội. Giáo hội thấy như mình không liên quan gì đến phụ nữ, và do đó thấy không liên quan gì đến con cái của họ.” Bà Robinson nhận xét thêm: “Dư luận cho rằng có vấn nạn vi phạm tình dục là vì Giáo hội chỉ toàn đàn ông: đàn ông gây nên tội lỗi, đàn ông che dấu và đàn ông duy trì. Cho nên cách tốt nhất là cho thêm nhiều phụ nữ vào sinh hoạt của Giáo hội”
Nhưng để phụ nữ tham gia vào công cuộc bài trừ tệ nạn vi phạm tình dục cũng không phải là phương thuốc hiệu nghiệm nhất. Lịch sử chứng minh rằng người phụ nữ có quyền lực trong tay cũng tàn bạo và hư đốn như đàn ông. Nhưng rõ ràng là các giới chức của Giáo hội đã đáp ứng một cách chậm chạp khi vụ vi phạm tình dục năm 2002 tại Hoa Kỳ được phanh phui. Giáo hội đã giải quyết theo cung cách bảo vệ quyền lợi và uy tín của Giáo hội hơn là bênh vực quyền lợi của trẻ em trước công lý. Mục sư Marie M. Fortune thuộc nhánh Tin Lành United Church of Christ, người sáng lập Viện Faith Trust Institute nhằm mục đích bài trừ sự vi phạm tình dục của giới tu sĩ nói rằng: “Giáo hội Công giáo có thể đưa các vị linh mục vi phạm tình dục ra khỏi hệ thống Giáo hội và lột áo dòng của họ.”
Nhưng Giáo hội không làm như vậy vì Giáo hội là một hội “của đàn ông” cực kỳ bảo thủ sinh hoạt ngoài lề đời sống của con chiên. Chúng ta ai cũng biết (và các cuộc nghiên cứu cũng chứng minh như vậy) rằng một nhóm người sinh hoạt riêng biệt, không có cơ chế kiểm soát thì trước sau cũng làm bậy. Trong cuốn sách: “The Company He keeps: A History of White College Fraternities”, ông Nicolas Syrett tiết lộ rằng 70 đến 90% các vụ hiếp dâm tập thể tại các đại học là do các thành viên của các hội toàn nam sinh viên (các Fraternities). Tuy nhiên giáo sư Syrett lưu ý rằng “nam thành viên trong các Fraternities làm tình với bao nhiêu thiếu nữ không ai chê trách, trong khi Giáo hội tuyệt đối cấm đoán tình dục.”
Ông Syrett kết luận, trong cả hai trường hợp “người đàn ông được khuyến khích để nghĩ rằng họ có uu tiên hơn phụ nữ, và nếu Giáo hội không trừng phạt các tu sĩ vi phạm tình dục thì các trẻ em bị lợi dụng có thể có cảm tưởng rằng những gì các tu sĩ làm chưa hẵn là sai trái.” Ông Richard Sipe, một tu sĩ hoàn tục có 30 năm nghiên cứu và đo lường kết quả của chương trình gíáo dục tình dục của Giáo hội kết luân rằng: “Giới tu sĩ tự cho mình là một tầng lớp riêng biệt có đặc ân.” Chúa Jesus không hề dạy rằng vai trò của người phụ nữ đối với Giáo hội của Chúa là thứ yếu. Là chủ chăn của một tập thể nhỏ có tinh thần tiến bộ, Chúa Jesus khuyến khích mọi thành phần tham dự, trong đó có phụ nữ đã có gia đình hay còn độc thân. Và kinh Phúc Âm nói người phụ nữ có một vai trò quan trọng.
Phụ nữ là người đầu tiên chứng kiến Chúa sống lại và rao truyền tin lành lại cho các đệ tử phái nam. Người ta tin rằng phụ nữ đã đóng một vai trò quan trọng trong Giáo hội trong thời kỳ sơ khai. Trong một lá thư gởi cho cư dân thành La Mã viết khoảng năm 50, thánh Paul có nói đến phụ tá (deacon) Phoebe, và những phụ tá khác như Prisca, Tryphena và Tryphosa. Toàn là phụ nữ. Trong thư thánh Paul có nhắc đến tên một vị thánh khác (trong 12 vị thánh giúp Chúa truyền bá Phúc Âm) là bà Junia. Tuy nhiên nếu cho rằng trong một hai thế kỷ đầu tiên của Giáo hội Công giáo là thời đại hoàng kim của phụ nữ thì hẵn không đúng. Trong thời gian đó, người phụ nữ vẫn được xem là công dân hạng hai cần được đàn ông kiểm soát. Vào thế kỷ thứ hai nhà truyền giáo Clement of Alexandria nói, mặc dù trên thực tế hàng giáo phẩm và ngay cả các đức
Giáo hoàng đều có vợ, người phụ nữ có khả năng khơi động tình dục nơi người đàn ông làm cho họ bị liệt vào thành phần mê hoặc người khác vào vòng tội lỗi (như Eve), và đồng lõa với quỹ Satan. Vào thế kỷ thứ 12, nỗ lực tách biệt đàn ông với đàn bà trong Giáo hội hoàn tất. Từ năm 1139 hàng giáo phẩm phải sống độc thân trở thành quy luật. Tại các đại học lớn tại Âu châu, nơi người trí thức Công giáo nghiên cứu triết học, toán học, thiên văn học, khoa học, văn chương và thần học người phụ nữ hoàn toàn bị gạt ra ngoài các sinh hoạt này. Vào thời đó một người phụ nữ chỉ có thể nổi danh khi trở thành một nhà tiên tri hay một nhà thần bí học, và giới giáo phẩm xem người phụ nữ đó là đồ bỏ.
Giáo sư Kevin Schultz, một sử gia tại viện đại học Illinois ở Chicago giải thích rằng Giáo hội Công giáo chống lại tinh thần cá nhân, cái động lực làm nên cuộc cách mạng Pháp và Hoa Kỳ. Để chống lại tinh thần cá nhân giáo hội Công giáo cho làm sống lại thuyết Thomas Aquinas, đặc biệt điểm ông nhấn mạnh đến sự cần thiết đặt quyền lợi cộng đồng lên trên quyền lợi cá nhân, và dùng thuyết Aquinas để chống lại cái mà Giáo hội gọi là văn minh đồi trụy. Giáo sư Schultz giải thích rằng thuyết Thomas Aquinas “tạo ra tinh thần chúng-ta-và-các-anh (us-versus-them) che chắn Vatican bằng một bức tường thành kiên cố và bí mật làm cho đức Giáo hoàng trở thành môt nhân vật toàn năng”
Có lẽ cách gỉải thích của giáo sư Kevin Schultz là cách giải thích tốt nhất hiện tượng xa cách giữa Giáo hội và quần chúng tiến bộ. Trong một thế giới mà cá nhân trở thành vô nghĩa trước tập thể, những ý tưởng cứng nhắc – có thể tốt hay xấu - có khi trở thành nguyên tắc của đạo lý . Sự nâng Giáo hội lên tầm cao nhất giải thích tại sao một giáo hội có sứ mệnh phục vụ cho người bệnh tật và kẻ nghèo khó lại có thể quyết định không cho phép dùng condom để phòng ngừa sự lây lan của bệnh AID. Nó giải thích tại sao một giáo hội vốn coi gia đình là nền tảng lại có thể cấm các bà mẹ dùng thuốc ngừa thai.
Và cũng giải thích tại sao một vị giám mục khi đối diện với một linh mục vi phạm tình dục với trẻ em trong giáo phận của mình có thể ngoãnh mặt đi không báo cáo với cảnh sát. Để phá vỡ bức tường cách ly Giáo hội với quần chúng cần làm sống lại tinh thần của Công Đồng Vatican II. Đức Giáo hoàng John XXIII tuyên bố: “Tôi muốn mở rộng cánh cửa sổ Gíáo hội để chúng ta có thể nhìn ra ngoài và con chiên có thể nhìn vào trong.” Và bước đầu tiên là tiếp cận với phụ nữ. Hơn 60% tín đồ Công giáo Hoa Kỳ ủng hộ ý kiến phong linh mục cho phụ nữ, nhưng những kẻ bảo thủ vẫn chưa đồng ý. Tại Hoa Kỳ số người tự nguyện đi tu để trở thành linh mục càng ngày càng ít, trong khi có đến 80% phụ nữ làm việc trong các giáo phận, cho nên việc phụ nữ trở thành linh mục chỉ là vấn đề thời gian.
Bà Eileen McCafferty DiFranc, một trong khoảng 100 người phụ nữ Hoa Kỳ nói rằng nhóm của bà đã được thụ phong linh mục bởi “một vị giám mục của tòa thánh La Mã”. Bà McCafferty đã bị Giáo hội khai trừ, nhưng bà không chấp nhận quyết định của Giáo hội. Bà nói “chúa Jesus không hề nói đàn bà không được làm linh mục”. Tại Hoa Kỳ sự vi phạm tình dục tại các giáo phận giảm nhờ hoạt động của nhóm bà McChesne. Bà đã khuyến cáo thành lập tại mỗi giáo phận một ủy ban cố vấn tình dục gồm những chuyên viên và những người thật sự quan tâm đến sự an toàn của trẻ em. Bà McChesney nghĩ rằng các giáo phận trên thế giới và nhất là tại Vatican đều cần có một ủy ban như vậy.
Bà nói: “Đức Giáo hoàng Benedict nên có một ủy ban cố vấn không phải chỉ toàn tu sĩ mà nên gồm chuyên viên về vi phạm tình dục đối với trẻ em, chuyên viên điều tra và chuyên viên giải quyết vấn đề.” Và nếu các chuyên viên này là phụ nữ thì càng tốt. Trong chuyến du hành qua Vatican, bà Kerry Robinson khéo léo lưu ý các vị Hồng y rằng từ lâu tại các buổi buổi lễ các linh mục không còn mang các chuyện liên quan đến phụ nữ trong kinh Phúc Âm và trong Cựu Ước ra đọc. Bà ngạc nhiên thấy nhiều vị Hồng y không biết có việc đó. Bà Robinson nói “Các vị Hồng y tham dự các khóa lễ hằng ngày nhưng họ không bao giờ tự hỏi người phụ nữ đi lễ mỗi ngày Chủ Nhật nghĩ gì.” Nếu những câu chuyện về phụ nữ trong Kinh Thánh không được nhắc nhỡ tới thì người phụ nữ dần dà sẽ không xem mình là một phần của Giáo hội. Họ sẽ bỏ Giáo hội và mang theo con cái của mình.
Trần Bình Nam (lược dịch) April 29, 2010
binhnam@sbcglobal.net
Thật ra, lý do chính vì các vị Hồng y và Giám mục sống trong tháp ngà của một giáo hội khép kín theo mẫu mực của thời Tiền Khai Sáng (pre-Enlightenment) trước thế kỷ thứ 18, không bị - và không muốn bị - ảnh hưởng bởi cuộc cách mạng dân chủ tại Pháp và tại Hoa Kỳ. Về phương diện luân lý Giáo hội đặt quyền lợi của Giáo hội trên quyền lợi của cá nhân và xem sự tiến bộ là một hiện tượng đe dọa Giáo hội. Người Tây phương coi trọng sự tự do cá nhận nên bức rức khi thấy Giáo hội xem sự gắn bó với Giáo hội là trên hết. Hai bên không gặp nhau vì vậy. Vì không coi trọng sự tiến bộ xã hội, Giáo hội không quan tâm đúng mức vai trò của người phụ nữ trong lực lượng sản xuất và những gì phụ nữ đã đóng góp và phục vụ đời sống công cọng. Tại Hoa Kỳ có 30 triệu phụ nữ làm việc toàn thời gian.
Tại Âu châu 60 triệu. Cách đây 50 năm, các người chủ chăn các nhánh Tin Lành đã tìm cách ngăn chận bước tiến của phụ nữ nhưng không thành công. Nhóm Lutheran tại Đan Mạch đã cho phép phụ nữ trở thành mục sư năm 1948 . Tại Hoa Kỳ người phụ nữ đầu tiên được phong mục sư năm 1976 thuộc giáo phái Episcopalian. Thế nhưng trong Giáo hội Công giáo các tu sĩ vẫn sống và làm việc như họ đã làm cả nghìn năm nay. Không lập gia đình, không thân mật, không quan hệ nghề nghiệp với phụ nữ, và không hề biết về đời sống gia đình và con cái của con chiên. Và khi một tu sĩ Công giáo rời khỏi xứ đạo, họ càng bị cách biệt trong tháp ngà hơn nữa. Bà Elaine Pagels, giáo sư về tôn giáo tại đại học Princeton nói rằng: “Giáo hội hoàn tòan không quan tâm gì đến sự an toàn của trẻ em (trước sự xâm phạm tình dục của các tu sĩ). Đối với chúng ta đó là một thái độ đứng ngoài sinh hoạt xã hội thật khó giải thích.
Nhưng quả thật các tu sĩ giáo hội không muốn sinh hoạt hài hòa với xã hội.” Đã đến lúc Vatican thực hiện những gì Giáo hội phán dạy. Công Đồng II họp đầu thập niên 1960 đã có nỗ lực hội nhập lối sống cũ xưa với đời sống mới. Qua văn bản của Công Đồng II, Giáo hội đã công nhận vị trí của người phụ nữ trong xã hộị một cách minh bạch rằng: “Người phụ nữ đã có một vai trò quan trọng trong xã hội như chưa từng có về ảnh hưởng, tác dụng cũng như quyền lực. Do đó đã đến lúc người phụ nữ có thể làm những công tác của Phúc Âm để cứu vãn nhân loại đang đi xuống.” Năm 1988, đức Giáo Hoàng John Paul II, trong một lá thư nhan đề Mulieris Dignitatem (On the Dignity of Women – Giá trị cao quý của người phụ nữ ) đã đề cao sự quan trọng của người phụ nữ đối với Giáo hội. Tuy nhiên 6 năm sau, ngài không quên nhắc lại Giáo hội chưa thể cho phép phụ nữ thụ phong linh mục.
Sự khác biệt giữa nguyên tắc và thực tế của Giáo hội quá rõ ràng. Tại Hoa Kỳ 60% người đi nhà thờ là phụ nữ, và số tiền 6 tỉ mỹ kim thu được mỗi năm sau các buổi lễ do đa số phụ nữ cho. Thế nhưng người phụ nữ không có một chỗ đứng nào trong bộ máy quyền lực của Giáo hội. Tại Vatican, số phụ nữ có một chức vụ nào đó có thể đếm trên đầu ngón tay. Phụ nữ cũng rất ít được giữ các chức vụ điều hành quan trọng tại các giáo phận. Và mặc dù số nữ tu nhiều gấp bội số linh mục, ít ai thấy sự có mặt của họ. Đến nổi gần đây khi một nhóm nữ tu lên tiếng về vấn đề cải tổ hệ thống bảo hiểm sức khỏe, dư luận mới nhớ ra là có một tập thể các nữ tu trong Giáo hội. Bà Kathleen McChesney, một viên chức FBI có nhiệm vụ điều tra các vụ vi phạm tình dục trong Giáo hội Công giáo sau các vụ tố cáo tại Boston năm 2002 nhận xét rằng: “Tại Vatican không có một phụ nữ nào tham dự vào cuộc điều tra này.
Vatican xem đây là chuyện của đàn ông.” Tháng Ba vừa qua, bà Kerry Robinson, giám đốc cơ sở National Leadership Rondtable, một cơ sở gồm các nhà kinh doanh Hoa Kỳ lập ra với mục đích thuyết phục Giáo hội áp dụng nguyên tắc kinh doanh vào sự điều hành Giáo hội, đã cùng với một số phụ nữ khác đi Vatican để nói chuyện với các vị Hồng y. Bà Robinson nói: “Người phụ nữ trẻ tuổi nào trong thế giới kinh doanh cũng có thể nhìn thấy cơ hội thăng tiến của mình. Và họ rất khó chịu khi không thấy một cơ hội thăng tiến nào như vậy trong Giáo hội. Giáo hội thấy như mình không liên quan gì đến phụ nữ, và do đó thấy không liên quan gì đến con cái của họ.” Bà Robinson nhận xét thêm: “Dư luận cho rằng có vấn nạn vi phạm tình dục là vì Giáo hội chỉ toàn đàn ông: đàn ông gây nên tội lỗi, đàn ông che dấu và đàn ông duy trì. Cho nên cách tốt nhất là cho thêm nhiều phụ nữ vào sinh hoạt của Giáo hội”
Nhưng để phụ nữ tham gia vào công cuộc bài trừ tệ nạn vi phạm tình dục cũng không phải là phương thuốc hiệu nghiệm nhất. Lịch sử chứng minh rằng người phụ nữ có quyền lực trong tay cũng tàn bạo và hư đốn như đàn ông. Nhưng rõ ràng là các giới chức của Giáo hội đã đáp ứng một cách chậm chạp khi vụ vi phạm tình dục năm 2002 tại Hoa Kỳ được phanh phui. Giáo hội đã giải quyết theo cung cách bảo vệ quyền lợi và uy tín của Giáo hội hơn là bênh vực quyền lợi của trẻ em trước công lý. Mục sư Marie M. Fortune thuộc nhánh Tin Lành United Church of Christ, người sáng lập Viện Faith Trust Institute nhằm mục đích bài trừ sự vi phạm tình dục của giới tu sĩ nói rằng: “Giáo hội Công giáo có thể đưa các vị linh mục vi phạm tình dục ra khỏi hệ thống Giáo hội và lột áo dòng của họ.”
Nhưng Giáo hội không làm như vậy vì Giáo hội là một hội “của đàn ông” cực kỳ bảo thủ sinh hoạt ngoài lề đời sống của con chiên. Chúng ta ai cũng biết (và các cuộc nghiên cứu cũng chứng minh như vậy) rằng một nhóm người sinh hoạt riêng biệt, không có cơ chế kiểm soát thì trước sau cũng làm bậy. Trong cuốn sách: “The Company He keeps: A History of White College Fraternities”, ông Nicolas Syrett tiết lộ rằng 70 đến 90% các vụ hiếp dâm tập thể tại các đại học là do các thành viên của các hội toàn nam sinh viên (các Fraternities). Tuy nhiên giáo sư Syrett lưu ý rằng “nam thành viên trong các Fraternities làm tình với bao nhiêu thiếu nữ không ai chê trách, trong khi Giáo hội tuyệt đối cấm đoán tình dục.”
Ông Syrett kết luận, trong cả hai trường hợp “người đàn ông được khuyến khích để nghĩ rằng họ có uu tiên hơn phụ nữ, và nếu Giáo hội không trừng phạt các tu sĩ vi phạm tình dục thì các trẻ em bị lợi dụng có thể có cảm tưởng rằng những gì các tu sĩ làm chưa hẵn là sai trái.” Ông Richard Sipe, một tu sĩ hoàn tục có 30 năm nghiên cứu và đo lường kết quả của chương trình gíáo dục tình dục của Giáo hội kết luân rằng: “Giới tu sĩ tự cho mình là một tầng lớp riêng biệt có đặc ân.” Chúa Jesus không hề dạy rằng vai trò của người phụ nữ đối với Giáo hội của Chúa là thứ yếu. Là chủ chăn của một tập thể nhỏ có tinh thần tiến bộ, Chúa Jesus khuyến khích mọi thành phần tham dự, trong đó có phụ nữ đã có gia đình hay còn độc thân. Và kinh Phúc Âm nói người phụ nữ có một vai trò quan trọng.
Phụ nữ là người đầu tiên chứng kiến Chúa sống lại và rao truyền tin lành lại cho các đệ tử phái nam. Người ta tin rằng phụ nữ đã đóng một vai trò quan trọng trong Giáo hội trong thời kỳ sơ khai. Trong một lá thư gởi cho cư dân thành La Mã viết khoảng năm 50, thánh Paul có nói đến phụ tá (deacon) Phoebe, và những phụ tá khác như Prisca, Tryphena và Tryphosa. Toàn là phụ nữ. Trong thư thánh Paul có nhắc đến tên một vị thánh khác (trong 12 vị thánh giúp Chúa truyền bá Phúc Âm) là bà Junia. Tuy nhiên nếu cho rằng trong một hai thế kỷ đầu tiên của Giáo hội Công giáo là thời đại hoàng kim của phụ nữ thì hẵn không đúng. Trong thời gian đó, người phụ nữ vẫn được xem là công dân hạng hai cần được đàn ông kiểm soát. Vào thế kỷ thứ hai nhà truyền giáo Clement of Alexandria nói, mặc dù trên thực tế hàng giáo phẩm và ngay cả các đức
Giáo hoàng đều có vợ, người phụ nữ có khả năng khơi động tình dục nơi người đàn ông làm cho họ bị liệt vào thành phần mê hoặc người khác vào vòng tội lỗi (như Eve), và đồng lõa với quỹ Satan. Vào thế kỷ thứ 12, nỗ lực tách biệt đàn ông với đàn bà trong Giáo hội hoàn tất. Từ năm 1139 hàng giáo phẩm phải sống độc thân trở thành quy luật. Tại các đại học lớn tại Âu châu, nơi người trí thức Công giáo nghiên cứu triết học, toán học, thiên văn học, khoa học, văn chương và thần học người phụ nữ hoàn toàn bị gạt ra ngoài các sinh hoạt này. Vào thời đó một người phụ nữ chỉ có thể nổi danh khi trở thành một nhà tiên tri hay một nhà thần bí học, và giới giáo phẩm xem người phụ nữ đó là đồ bỏ.
Giáo sư Kevin Schultz, một sử gia tại viện đại học Illinois ở Chicago giải thích rằng Giáo hội Công giáo chống lại tinh thần cá nhân, cái động lực làm nên cuộc cách mạng Pháp và Hoa Kỳ. Để chống lại tinh thần cá nhân giáo hội Công giáo cho làm sống lại thuyết Thomas Aquinas, đặc biệt điểm ông nhấn mạnh đến sự cần thiết đặt quyền lợi cộng đồng lên trên quyền lợi cá nhân, và dùng thuyết Aquinas để chống lại cái mà Giáo hội gọi là văn minh đồi trụy. Giáo sư Schultz giải thích rằng thuyết Thomas Aquinas “tạo ra tinh thần chúng-ta-và-các-anh (us-versus-them) che chắn Vatican bằng một bức tường thành kiên cố và bí mật làm cho đức Giáo hoàng trở thành môt nhân vật toàn năng”
Có lẽ cách gỉải thích của giáo sư Kevin Schultz là cách giải thích tốt nhất hiện tượng xa cách giữa Giáo hội và quần chúng tiến bộ. Trong một thế giới mà cá nhân trở thành vô nghĩa trước tập thể, những ý tưởng cứng nhắc – có thể tốt hay xấu - có khi trở thành nguyên tắc của đạo lý . Sự nâng Giáo hội lên tầm cao nhất giải thích tại sao một giáo hội có sứ mệnh phục vụ cho người bệnh tật và kẻ nghèo khó lại có thể quyết định không cho phép dùng condom để phòng ngừa sự lây lan của bệnh AID. Nó giải thích tại sao một giáo hội vốn coi gia đình là nền tảng lại có thể cấm các bà mẹ dùng thuốc ngừa thai.
Và cũng giải thích tại sao một vị giám mục khi đối diện với một linh mục vi phạm tình dục với trẻ em trong giáo phận của mình có thể ngoãnh mặt đi không báo cáo với cảnh sát. Để phá vỡ bức tường cách ly Giáo hội với quần chúng cần làm sống lại tinh thần của Công Đồng Vatican II. Đức Giáo hoàng John XXIII tuyên bố: “Tôi muốn mở rộng cánh cửa sổ Gíáo hội để chúng ta có thể nhìn ra ngoài và con chiên có thể nhìn vào trong.” Và bước đầu tiên là tiếp cận với phụ nữ. Hơn 60% tín đồ Công giáo Hoa Kỳ ủng hộ ý kiến phong linh mục cho phụ nữ, nhưng những kẻ bảo thủ vẫn chưa đồng ý. Tại Hoa Kỳ số người tự nguyện đi tu để trở thành linh mục càng ngày càng ít, trong khi có đến 80% phụ nữ làm việc trong các giáo phận, cho nên việc phụ nữ trở thành linh mục chỉ là vấn đề thời gian.
Bà Eileen McCafferty DiFranc, một trong khoảng 100 người phụ nữ Hoa Kỳ nói rằng nhóm của bà đã được thụ phong linh mục bởi “một vị giám mục của tòa thánh La Mã”. Bà McCafferty đã bị Giáo hội khai trừ, nhưng bà không chấp nhận quyết định của Giáo hội. Bà nói “chúa Jesus không hề nói đàn bà không được làm linh mục”. Tại Hoa Kỳ sự vi phạm tình dục tại các giáo phận giảm nhờ hoạt động của nhóm bà McChesne. Bà đã khuyến cáo thành lập tại mỗi giáo phận một ủy ban cố vấn tình dục gồm những chuyên viên và những người thật sự quan tâm đến sự an toàn của trẻ em. Bà McChesney nghĩ rằng các giáo phận trên thế giới và nhất là tại Vatican đều cần có một ủy ban như vậy.
Bà nói: “Đức Giáo hoàng Benedict nên có một ủy ban cố vấn không phải chỉ toàn tu sĩ mà nên gồm chuyên viên về vi phạm tình dục đối với trẻ em, chuyên viên điều tra và chuyên viên giải quyết vấn đề.” Và nếu các chuyên viên này là phụ nữ thì càng tốt. Trong chuyến du hành qua Vatican, bà Kerry Robinson khéo léo lưu ý các vị Hồng y rằng từ lâu tại các buổi buổi lễ các linh mục không còn mang các chuyện liên quan đến phụ nữ trong kinh Phúc Âm và trong Cựu Ước ra đọc. Bà ngạc nhiên thấy nhiều vị Hồng y không biết có việc đó. Bà Robinson nói “Các vị Hồng y tham dự các khóa lễ hằng ngày nhưng họ không bao giờ tự hỏi người phụ nữ đi lễ mỗi ngày Chủ Nhật nghĩ gì.” Nếu những câu chuyện về phụ nữ trong Kinh Thánh không được nhắc nhỡ tới thì người phụ nữ dần dà sẽ không xem mình là một phần của Giáo hội. Họ sẽ bỏ Giáo hội và mang theo con cái của mình.
Trần Bình Nam (lược dịch) April 29, 2010
binhnam@sbcglobal.net
THƯ CỦA THIẾU TƯỚNG NGUYỄN HỮU ANH
*
Tướng CSVN Nguyễn Hữu Anh lên tiếng:
Lá thư khẩn gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Lá thư khẩn gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tiếp
tục hai lão tướng Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh, Thiếu tướng
Nguyễn Hữu Anh, một trong số lão thành cách mạng, lại gửi đến cho BVN
nhờ thông qua phương tiện internet chuyển đến bạn đọc rộng rãi lá thư
ông gửi UB thường vụ QH kiến nghị giải quyết khẩn cấp việc 10 tỉnh bán
rừng đầu nguồn cho Trung Quốc. BVN trân trọng giới thiệu với quý bạn
những dòng tâm huyết của ông.
Bauxite Việt Nam
Bauxite Việt Nam
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Kính gửi: ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
Trong một thời gian ngắn, ở một không gian khá rộng trên địa bàn 10 tỉnh, miền Bắc có, miền Trung – Tây Nguyên có, miền Nam có, có cả những địa bàn hiểm yếu về quốc phòng, an ninh, kinh tế, 10 tỉnh đã cho trên 10 doanh nghiệp nước ngoài chủ yếu là Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông thuê dài hạn (50 năm) đất rừng có cả rừng đầu nguồn để họ kinh doanh rừng, với diện tích trên 305.000 hecta = 3050 cây số vuông tương đương diện tích đất một tỉnh như Hà Nam.
Trong một thời gian ngắn, ở một không gian khá rộng trên địa bàn 10 tỉnh, miền Bắc có, miền Trung – Tây Nguyên có, miền Nam có, có cả những địa bàn hiểm yếu về quốc phòng, an ninh, kinh tế, 10 tỉnh đã cho trên 10 doanh nghiệp nước ngoài chủ yếu là Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông thuê dài hạn (50 năm) đất rừng có cả rừng đầu nguồn để họ kinh doanh rừng, với diện tích trên 305.000 hecta = 3050 cây số vuông tương đương diện tích đất một tỉnh như Hà Nam.
Việt Nam đất đã hẹp, người lại đông, vài ba chục năm nữa dân số có thể lên tới 120 triệu người, dân
miền núi, dân nông thôn lấy đất ở đâu để canh tác? Một việc làm động
trời vậy mà các ông Chánh văn phòng UBND và Giám đốc sở kế hoạch đầu
tư Lạng Sơn còn dám cao giọng nói là không có gì đáng lo ngại! Đã thẩm định kỹ càng! đã cân nhắc lợi hại! Không vi phạm gì chủ trương chính sách chung.
Vậy xin hỏi hai vị quan chức Lạng Sơn và lãnh đạo 10 tỉnh đã cho thuê đất rừng, các vị có đảm bảo với nhân dân tỉnh mình và nhân dân cả nước Việt Nam là doanh nghiệp nước ngoài họ không chạy theo siêu lợi nhuận? Họ không phá hoại đất rừng gây tác động xấu đến trữ lượng nước các hồ chứa, đến cường độ lũ lụt? Họ không lợi dụng liên kết để đưa lao động nước ngoài vào rồi sinh con đẻ cháu thành làng bản? Họ không làm phát sinh mâu thuẫn với quyền lợi thiết thân về đất rừng của nhân dân địa phương? Họ không làm gì ảnh hưởng tới trật tự, an ninh trước mắt cũng như lâu dài?
Là một công dân già, một cử tri nguyên là sĩ quan quân đội đã trải qua 46 năm trong quân ngũ, tôi hầu như đã dành toàn bộ tâm trí, sức lực của đời mình góp một phần nhỏ bé cùng toàn quân, toàn dân giữ vững từng gốc cây, tấc đất các vùng căn cứ địa, mở rộng các vùng giải phóng tiến tới thu hồi toàn bộ vùng trời vùng biển, đất liền, hải đảo, núi rừng của Tổ quốc Việt Nam yêu dấu.
Tim tôi đau nhói khi nghe tin 10 tỉnh cho thuê dài hạn (50 năm) trên 305.000 hecta đất rừng.
Tôi tha thiết đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội hãy vì lợi ích tối cao của dân tộc, với trách nhiệm của một cơ quan quyền lực cao nhất hãy thành lập một đoàn đặc biệt của Quốc hội tiến hành giám sát khẩn cấp việc cho thuê dài hạn đất rừng của 10 tỉnh, có kết luận đúng sai chuẩn xác, có phương hướng cho Chính phủ và chính quyền 10 tỉnh xử lý nghiêm túc, thỏa đáng sự việc nói trên để hạn chế tối đa những hiểm hoạ cho đất nước.
Xin trân trọng kính chào và đặt niềm tin vào Quốc hội
Hà Nội, ngày 27 tháng 02 năm 2010Thiếu tướng Nguyễn Hữu AnhLão thành cách mạng, cán bộ hưu trí
tại phường Hàng Mã
ĐT: 38432021
*
tại phường Hàng Mã
ĐT: 38432021
THƠ THANH THANH
*
THƯ TÙ
Muốn nói cùng em cả vạn điều
Mà rồi chẳng nói được bao nhiêu,
Mặc dù đã định trong tâm trước
Mà gặp nhau là ý bạt phiêu!
Mà rồi chẳng nói được bao nhiêu,
Mặc dù đã định trong tâm trước
Mà gặp nhau là ý bạt phiêu!
Cũng có vài điều có nhớ ra
Mà vì bên cạnh lắm người ta,
Và vì thẳng mặt mà phân-tích
Thì quá... sỗ-sàng, quá... khổ-qua...
Mà vì bên cạnh lắm người ta,
Và vì thẳng mặt mà phân-tích
Thì quá... sỗ-sàng, quá... khổ-qua...
Nên mượn lời thơ để giãi-bày
Nỗi lòng ấp-ủ bấy lâu nay ...
Em ơi, bình-tĩnh nghe anh nói:
Ta hãy vươn lên khỏi cảnh này!
Nỗi lòng ấp-ủ bấy lâu nay ...
Em ơi, bình-tĩnh nghe anh nói:
Ta hãy vươn lên khỏi cảnh này!
Ta đã yêu nhau thuở trẻ-trung,
Xây nên tổ ấm đẹp vô cùng.
Cõi trần ví thử bình-yên cả
Thì đã trọn đời hưởng phúc chung.
Xây nên tổ ấm đẹp vô cùng.
Cõi trần ví thử bình-yên cả
Thì đã trọn đời hưởng phúc chung.
Với bát cơm ngon, tấm áo lành,
Người đời bắt buộc phải đua tranh.
Phũ-phàng cuộc sống làm lem-lấm
"Hai trái tim vàng, một mái tranh".
Người đời bắt buộc phải đua tranh.
Phũ-phàng cuộc sống làm lem-lấm
"Hai trái tim vàng, một mái tranh".
Anh cứ ngây-ngây dại-dại hoài,
Lợi-quyền cấp-chức gác ngoài tai.
Nửa đời mẫn-cán cam cơ-cực,
Đơn độc khư-khư luyện đức+tài (!)
Lợi-quyền cấp-chức gác ngoài tai.
Nửa đời mẫn-cán cam cơ-cực,
Đơn độc khư-khư luyện đức+tài (!)
Anh đã (là khôn hay dại đây?)
Nằm ngoài tất cả mọi vòng vây .
Thức trong giấc ngủ, trong mơ tỉnh;
Bảo-bọc hồn hoa trong xác cây.
Nằm ngoài tất cả mọi vòng vây .
Thức trong giấc ngủ, trong mơ tỉnh;
Bảo-bọc hồn hoa trong xác cây.
Anh đã (đương-nhiên là dại rồi!)
Tự mình đày đọa chính mình thôi!
Lại còn ép-uổng con và vợ
Thiếu-thốn quanh năm chật-vật hoài.
Tự mình đày đọa chính mình thôi!
Lại còn ép-uổng con và vợ
Thiếu-thốn quanh năm chật-vật hoài.
Bạn-lứa: đô-la với hạt xoàn!
Chồng người: đại-phú với cao-quan!
Chồng em thủ-phận nghèo, cô-thế;
Chẳng chịu chen chun, chỉ chịu gàn!
Chồng người: đại-phú với cao-quan!
Chồng em thủ-phận nghèo, cô-thế;
Chẳng chịu chen chun, chỉ chịu gàn!
Đến lúc đem thân đi ở tù
Anh không để lại một đồng xu!
Một mình mọi việc em lo-liệu;
Viễn-ảnh tương-lai quá mịt-mù.
Anh không để lại một đồng xu!
Một mình mọi việc em lo-liệu;
Viễn-ảnh tương-lai quá mịt-mù.
Em đã lo cho con học-hành
Lại còn lo tiếp-tế cho anh.
Hùn hoài tổ-hợp hàng không chạy;
Bụng hiếm khi no, bệnh khó lành!
Lại còn lo tiếp-tế cho anh.
Hùn hoài tổ-hợp hàng không chạy;
Bụng hiếm khi no, bệnh khó lành!
Thân-thích lià xa hoặc mạt-thời;
Gia-tài sự-nghiệp hóa ma-trơi!
Nhà không bán được, người ta chiếm!
Thuế nặng, hàng cao, chạy hụt hơi!
Gia-tài sự-nghiệp hóa ma-trơi!
Nhà không bán được, người ta chiếm!
Thuế nặng, hàng cao, chạy hụt hơi!
Con lớn theo nhau đi lấy chồng,
Còn đàn con nhỏ yếu gia-công.
Em ngày một mệt, đau, gầy, yếu:
Cực-khổ trăm đường, chịu nổi không?
Còn đàn con nhỏ yếu gia-công.
Em ngày một mệt, đau, gầy, yếu:
Cực-khổ trăm đường, chịu nổi không?
Em ạ! Ngày xưa, gái góa chồng:
Ba năm* tang-chế thế là xong!
Khổng Nho nghiêm-nghiệt chuyên vây thắt
Mà đã buông lơi cả một vòng!
Ba năm* tang-chế thế là xong!
Khổng Nho nghiêm-nghiệt chuyên vây thắt
Mà đã buông lơi cả một vòng!
Anh có còn gì để lại đâu?
Cho em: chỉ một khối ưu sầu!
Năm năm* đằng đẵng là thôi hết:
Môi đã phai son, má nhạt mầu!
Cho em: chỉ một khối ưu sầu!
Năm năm* đằng đẵng là thôi hết:
Môi đã phai son, má nhạt mầu!
*Thế mà tác-giả đã bị "cải-tạo" hơn 12 năm!
Anh gửi về em lòng nhớ ơn,
Và lời... tạ tội -- Biết gì hơn!
Cầm như anh đã thành thiên-cổ:
Sông đã vơi khô, núi đã sờn!
Và lời... tạ tội -- Biết gì hơn!
Cầm như anh đã thành thiên-cổ:
Sông đã vơi khô, núi đã sờn!
Hãy gạt anh ra khỏi cuộc đời!
Đừng còn bận-bịu nữa, em ơi!
Vai gầy gánh nợ khôn kham nặng:
Em có toàn-quyền thở, thảnh-thơi!
Đừng còn bận-bịu nữa, em ơi!
Vai gầy gánh nợ khôn kham nặng:
Em có toàn-quyền thở, thảnh-thơi!
Có rẽ chia nào không đớn đau?
Lấy lòng mà hiểu chút lòng nhau:
Chấp-kinh đành phải tòng-quyền vậy!
Lỡ một hành-nhân: lọt cả tàu ...
Lấy lòng mà hiểu chút lòng nhau:
Chấp-kinh đành phải tòng-quyền vậy!
Lỡ một hành-nhân: lọt cả tàu ...
Rồi, một ngày kia... em sẽ quên,
Như hơi gió nhẹ thoảng ngoài hiên,
Bớt buồn rưng-rức trong muôn một
Mới vợi trong anh mối muộn phiền!...
"Nhà Trắng" (Thôn 5) 1980
THANH-THANH
Như hơi gió nhẹ thoảng ngoài hiên,
Bớt buồn rưng-rức trong muôn một
Mới vợi trong anh mối muộn phiền!...
"Nhà Trắng" (Thôn 5) 1980
LS. LÊ MAI ANH * LỊCH SỬ VIỆT NAM
*
Đã mấy năm rồi, tôi mới trở lại thăm Cổ Loa, nơi mà An Dương Vương đắp thành dựng Đô giữ nước hơn hai nghìn năm trước.
Vì tuổi cao, huyết áp cao, chân đau, tôi không thể đi thăm hết các vòng thành vĩ đại đã bị thời gian, nắng, mưa biến thành phế tích. Thành quách xưa nay chỉ còn là hình dáng. Ngồi trên xe, phóng tầm mắt qua các vòng thành nguy nga thuở nào chỉ còn là những lằn đất nhấp nhô mà người dân địa phương đang sử dụng để trồng cây hoặc làm nhà, phục vụ cuộc sống lam lũ hàng trăm đời nay của một vùng cư dân nông nghiệp. Chỉ khi xe vào đến khu trung tâm, tôi mới thấy hàng quán tạm bợ hai bên đường đứng chen lấn, chủ yếu là hàng giải khát, hàng ăn và hàng lưu niệm. Cuộc sống nơi đây nhộn nhịp hẳn nên khách du lịch tương đối đông, các xe con, xe máy, xe ca đậu san sát. Xe buýt từ nội thành đã đến tận nơi.
Đền thờ An Dương Vương và Am Mỵ Châu hương khói nghi ngút. Giếng Ngọc cũng được sửa sang nằm giữa hồ nước trong vắt.
Cũng giống như những khách hành hương khác, sau khi đi thăm các di tích, vào thắp hương trước bàn thờ Đức Vua Thục An Dương Vương và Am Mỵ Châu, tôi ngồi bên đầu Rồng để nghỉ ngơi.
Nhìn cảnh “thành cũ lâu đài bóng tịch dương” của kinh đô Âu Lạc hơn hai ngàn năm trước mà đầu óc tôi miên man nghĩ về một thời bi tráng của dân tộc.
Truyền thuyết kể rằng khoảng giữa thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, Thục Phán sau khi chỉ huy con dân Âu Việt và Lạc Việt đánh bại nhà Tần, một đế chế mạnh nhất thời Trung Hoa cổ đại, giết chết tướng giặc Đỗ Thư, dựng lên nhà nước Âu Lạc, lên ngôi vua, lấy tên là An Dương Vương. Thục An Dương Vương đã trọng dụng tướng quân Cao Lỗ, một vị tướng soái tài ba, một khai quốc công thần, xây thành Cổ Loa, một tòa thành quân sự vĩ đại, chế tạo ra nỏ Liên Châu, một vũ khí rất lợi hại lúc bấy giờ, còn gọi là Nỏ Thần Liên Châu để bảo vệ nền độc lập lâu dài của đất nước.
Nhà Triệu, một vương triều phía Nam Trung Hoa nhiều lần đem quân xâm lược Âu Lạc đều bị thua. An Dương Vương dựa vào sự chỉ huy tài tình của tướng quân Cao Lỗ cùng với thành cao, hào sâu, nỏ thần Liên Châu lợi hại đã đánh bại quân Triệu.
Nhà Triệu biết không thể dùng sức mạnh quân sự để tiêu diệt và khuất phục được nước Âu Lạc cuối cùng phải dùng đến độc kế. Còn thục An Dương Vương thấy quân dân Âu Lạc liên tiếp thắng lợi sinh chủ quan coi thường quân địch. Thế rồi cái gì đến ắt phải đến. Cuối thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, vua nhà Triệu là Triệu Đà cho người thông hiếu với Âu Lạc, cho con trai là Trọng Thủy sang để làm rể Thục An Dương Vương và ở lại Cổ Loa làm con tin. Đi nước cờ này Triệu Đà bắn một mũi tên trúng hai đích là hòa hiếu tạm thời và làm suy yếu nước Âu Lạc, tiến tới thôn tính được Âu Lạc.
Tôi lo, lo cho ba mươi năm, năm mươi năm sau (dĩ nhiên là lúc đó nhiều người của thế hệ hôm nay sẽ không còn nữa) con cháu chúng ta sẽ phải lầm than trong cảnh phụ thuộc, mất độc lập tự do.
Lo lắng cho vận mệnh, tương lai của đất nước không phải là quyền của riêng ai. Nhiều cá nhân muốn làm giàu nhanh chóng đã phải trả giá vì trúng phải viên đạn bọc đường. Biết trước được họa để tránh cho thế hệ sau khỏi phải khổ sở vì cha ông sai lầm chẳng phải là việc nên làm của những người nắm giữ vận mệnh dân tộc lúc này hay sao.
Nhãn: Sử Liệu, Trung Quốc, Võ Nguyên Giáp
*
23/02/2010
Suy ngẫm xuyên qua hơn hai thiên niên kỷ
Lê Mai Anh
Tiếp theo bài viết của hai vị tướng Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh, lần này BVN xin trân trọng đăng bài của Luật sư Lê Mai Anh, một trong số thành viên của Nhóm lão thành cách mạng ở Hà Nội, luận giải về những vấn đề nóng bỏng của đất nước thông qua câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy mà ông vừa có dịp chiêm nghiệm nhân ghé thăm đền Cổ Loa. Một trong những kiến giải của ông khiến chúng tôi hết sức tâm đắc là sự trái ngược giữa ông với nhà thơ Tố Hữu khi ông bênh vực Mỵ Châu, khi ông cho rằng không phải Mỵ Châu “trái tim lầm chỗ để trên đầu” mà chính là do người điều hành đất nước bị mua chuộc, đâm ra lú lẫn, bỏ quên cảnh giác với kẻ thù truyền kiếp phương Bắc, ruồng rẫy vị tướng soái đại tài là Cao Lỗ, và chủ động kết hiếu với kẻ thù, nên đã để xây ra thảm họa 1.000 năm Bắc thuộc cho cả một dân tộc.
Bauxite Việt Nam
Bauxite Việt Nam
- Luật sư Lê Mai Anh
Thành Cổ Loa. (Ảnh: channelvn.net)
Đã mấy năm rồi, tôi mới trở lại thăm Cổ Loa, nơi mà An Dương Vương đắp thành dựng Đô giữ nước hơn hai nghìn năm trước.
Vì tuổi cao, huyết áp cao, chân đau, tôi không thể đi thăm hết các vòng thành vĩ đại đã bị thời gian, nắng, mưa biến thành phế tích. Thành quách xưa nay chỉ còn là hình dáng. Ngồi trên xe, phóng tầm mắt qua các vòng thành nguy nga thuở nào chỉ còn là những lằn đất nhấp nhô mà người dân địa phương đang sử dụng để trồng cây hoặc làm nhà, phục vụ cuộc sống lam lũ hàng trăm đời nay của một vùng cư dân nông nghiệp. Chỉ khi xe vào đến khu trung tâm, tôi mới thấy hàng quán tạm bợ hai bên đường đứng chen lấn, chủ yếu là hàng giải khát, hàng ăn và hàng lưu niệm. Cuộc sống nơi đây nhộn nhịp hẳn nên khách du lịch tương đối đông, các xe con, xe máy, xe ca đậu san sát. Xe buýt từ nội thành đã đến tận nơi.
Đền thờ An Dương Vương và Am Mỵ Châu hương khói nghi ngút. Giếng Ngọc cũng được sửa sang nằm giữa hồ nước trong vắt.
Cũng giống như những khách hành hương khác, sau khi đi thăm các di tích, vào thắp hương trước bàn thờ Đức Vua Thục An Dương Vương và Am Mỵ Châu, tôi ngồi bên đầu Rồng để nghỉ ngơi.
Nhìn cảnh “thành cũ lâu đài bóng tịch dương” của kinh đô Âu Lạc hơn hai ngàn năm trước mà đầu óc tôi miên man nghĩ về một thời bi tráng của dân tộc.
Truyền thuyết kể rằng khoảng giữa thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, Thục Phán sau khi chỉ huy con dân Âu Việt và Lạc Việt đánh bại nhà Tần, một đế chế mạnh nhất thời Trung Hoa cổ đại, giết chết tướng giặc Đỗ Thư, dựng lên nhà nước Âu Lạc, lên ngôi vua, lấy tên là An Dương Vương. Thục An Dương Vương đã trọng dụng tướng quân Cao Lỗ, một vị tướng soái tài ba, một khai quốc công thần, xây thành Cổ Loa, một tòa thành quân sự vĩ đại, chế tạo ra nỏ Liên Châu, một vũ khí rất lợi hại lúc bấy giờ, còn gọi là Nỏ Thần Liên Châu để bảo vệ nền độc lập lâu dài của đất nước.
Nhà Triệu, một vương triều phía Nam Trung Hoa nhiều lần đem quân xâm lược Âu Lạc đều bị thua. An Dương Vương dựa vào sự chỉ huy tài tình của tướng quân Cao Lỗ cùng với thành cao, hào sâu, nỏ thần Liên Châu lợi hại đã đánh bại quân Triệu.
Nhà Triệu biết không thể dùng sức mạnh quân sự để tiêu diệt và khuất phục được nước Âu Lạc cuối cùng phải dùng đến độc kế. Còn thục An Dương Vương thấy quân dân Âu Lạc liên tiếp thắng lợi sinh chủ quan coi thường quân địch. Thế rồi cái gì đến ắt phải đến. Cuối thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, vua nhà Triệu là Triệu Đà cho người thông hiếu với Âu Lạc, cho con trai là Trọng Thủy sang để làm rể Thục An Dương Vương và ở lại Cổ Loa làm con tin. Đi nước cờ này Triệu Đà bắn một mũi tên trúng hai đích là hòa hiếu tạm thời và làm suy yếu nước Âu Lạc, tiến tới thôn tính được Âu Lạc.
Âm mưu thông hiếu quỷ quyệt đó dứt khoát không qua được con mắt nhìn xa của các bậc đại thần nhất là vị khai quốc công thần tài ba lỗi lạc, tướng Cao Lỗ. Ông đã nhiều lần kiên quyết can gián và đã bị An Dương Vương cách chức. Triều đình mất đi một con người thông minh, tài ba. An Dương Vương say sưa với vị thế mới của mình, chủ quan cho rằng nhà Triệu đã từ bỏ âm mưu xâm lược, phải cho con trai sang làm rể, làm con tin. Và chắc chắn trong quá trình thực hiện âm mưu “mưa dầm thấm lâu” của cha con họ Triệu, vua Thục cùng một số đại thần Âu Lạc đều đã được biếu xén mua chuộc bằng những món quà cáp đắt tiền, những sản vật hiếm có, những lợi ích kinh tế đến từ phương Bắc. Đến đây thì đích thứ hai của mũi tên mà nhà Triệu bắn ra đã đạt được. Người của họ giả dạng lái buôn và tùy tùng dần dần lọt vào Hoàng cung Âu Lạc, nghiên cứu rất kỹ các vị trí bố phòng xung yếu của Loa Thành và đánh cắp bí mật chế tạo vũ khí nỏ thần Liên Châu.
Loại được trung thần tài năng, gây mâu thuẫn nội bộ, đưa lực lượng vào trong lòng nước Âu Lạc, đánh cắp được vũ khí chiến lược, nắm giữ được các vị trí tử huyệt, dã tâm xâm lược vốn là bản chất của các thế lực phong kiến Phương Bắc liền bộc lộ ngay tức khắc. Từng đoàn quân xâm lược trùng điệp kéo sang với vũ khí chiến lược của chính người Âu Lạc, cộng với đội quân phản gián, nằm vùng cùng nhất tề nổi dậy. Thế giặc như nước vỡ bờ, ba quân không còn tướng tài thao lược chỉ huy tổ chức chống giặc, kinh thành thất thủ. Thục An Dương Vương chỉ còn kịp đem theo con gái Mỵ Châu vợ Trọng Thủy chạy tháo thân về phía biển Nam. Trong bước đường nguy quẫn, Vua Thục đã trút giận tuốt gươm chém đầu con gái và tự vẫn.
Nhà nước Âu Lạc bị tiêu diệt. Lịch sử dân tộc ta đã phải trả giá bằng một ngàn năm đô hộ của phong kiến Phương Bắc, chỉ vì cái lỗi không nhìn xa trông rộng của kẻ cầm đầu.
Nhà nước Âu Lạc bị tiêu diệt. Lịch sử dân tộc ta đã phải trả giá bằng một ngàn năm đô hộ của phong kiến Phương Bắc, chỉ vì cái lỗi không nhìn xa trông rộng của kẻ cầm đầu.
Ngẫm lại câu chuyện bi tráng của một triều đại phong kiến nước nhà cách đây hai ngàn hai trăm năm, tôi tự hỏi mình: Thục An Dương Vương có công lớn hơn hay có tội lớn hơn với dân tộc này?
Trước hết phải nói rằng: Thục An Dương Vương có công lao rất lớn với dân tộc, chỉ riêng việc chỉ huy cuộc kháng chiến mười năm đánh bại quân xâm lược nhà Tần, một thế lực hùng mạnh nhất bấy giờ, lập nên nhà nước Âu Lạc đã là một mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nó có thể sánh ngang với các cuộc kháng chiến chống Tống, phá Nguyên, đuổi Minh, diệt Thanh của cha ông ta thủa trước và cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ vừa qua. Với việc xây dựng thành công tòa thành quân sự Cổ Loa, chế tạo ra thứ vũ khí lợi hại nhất lúc bấy giờ là nỏ thần Liên Châu, ngăn chặn thành công các cuộc xâm lăng của nhà Triệu cũng là công lao vô cùng to lớn của ông đối với dân tộc.
Một vị quân vương với võ công hiển hách, lập nên một nhà nước hùng mạnh đủ sức đương đầu với thế lực phong kiến siêu cường Phương Bắc suốt 50 năm, có thể nói Thục An Dương Vương là vị vua có công đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Còn tội thì sao? Thục An Dương Vương có tội trong việc nhà nước Âu Lạc bị tiêu diệt hay con gái ông là Mỵ Châu có tội?
Không, Mỵ Châu không có tội tình gì, nàng chỉ là nạn nhân của một mối tình chính trị, một thương vụ thông hiếu mù quáng, phải chịu tiếng oan là giặc trong nhà và bị vua cha chém đầu lúc cùng đường quẫn trí. Phải nói nàng sống đúng với trái tim trong trắng của mình chứ không phải “Trái tim lầm chỗ để trên đầu” (Tố Hữu).
Nhìn bức tượng không đầu và cái chết oan nghiệt của nàng cách đây hơn hai ngàn năm, bất kỳ một vị khách tham quan nào cũng phải ngẹn ngào, thảng thốt. Không ai có đầu óc mà không tỏ lòng oán trách đức vua đã gây ra thảm cảnh mất nước rồi lại đổ lỗi lên đầu con trẻ.
Ai gả Mỵ Châu cho Trong Thủy để thông hiếu với Triệu Đà? Chính là An Dương Vương. Ai không nghe lời can gián của tướng quân Cao Lỗ về chiến lược ngoại giao với nhà Tần? Chính là An Dương Vương. Ai bãi chức tướng quân khai quốc công thần tài ba lỗi lạc Cao Lỗ, để đến khi quân đội không có người chỉ huy như rắn mất đầu phải tháo chạy? Chính là An Dương Vương. Ai đưa Trọng Thủy cùng đội quân đội lốt phục vụ và lái buôn vào thành Cổ Loa? Chính là An Dương Vương.
Vậy thì tại sao con người tài ba lỗi lạc như An Dương Vương lại mắc những sai lầm chết người như vậy? Điều này chỉ có thể lý giải bằng tâm lý say sưa ngủ quên trong chiến thắng. Thói đời xưa nay là vậy, sau một thắng lợi hiển hách, kẻ đứng đầu đất nước thường rất dễ chủ quan khinh địch. Chiến thắng càng lớn chủ quan càng nhiều. nhất là các triều đại không biết đặt vững nền tảng tinh thần trên lòng dân, thường lao nhanh vào ăn chơi hưởng lạc, đội ngũ quan lại thì tham nhũng hà hiếp dân lành, các bậc trung thần bị ruồng bỏ, thậm chí bãi quan cách chức hoặc bị giết hại, nhân dân oán hận, sản xuất đình đốn. Một chế độ được dựng lên những tưởng dài lâu với sông núi, nào ngờ như tòa lâu đài nguy nga nhưng mục ruỗng, chỉ một cơn gió to là sụp đổ.
Còn tội thì sao? Thục An Dương Vương có tội trong việc nhà nước Âu Lạc bị tiêu diệt hay con gái ông là Mỵ Châu có tội?
Không, Mỵ Châu không có tội tình gì, nàng chỉ là nạn nhân của một mối tình chính trị, một thương vụ thông hiếu mù quáng, phải chịu tiếng oan là giặc trong nhà và bị vua cha chém đầu lúc cùng đường quẫn trí. Phải nói nàng sống đúng với trái tim trong trắng của mình chứ không phải “Trái tim lầm chỗ để trên đầu” (Tố Hữu).
Nhìn bức tượng không đầu và cái chết oan nghiệt của nàng cách đây hơn hai ngàn năm, bất kỳ một vị khách tham quan nào cũng phải ngẹn ngào, thảng thốt. Không ai có đầu óc mà không tỏ lòng oán trách đức vua đã gây ra thảm cảnh mất nước rồi lại đổ lỗi lên đầu con trẻ.
Ai gả Mỵ Châu cho Trong Thủy để thông hiếu với Triệu Đà? Chính là An Dương Vương. Ai không nghe lời can gián của tướng quân Cao Lỗ về chiến lược ngoại giao với nhà Tần? Chính là An Dương Vương. Ai bãi chức tướng quân khai quốc công thần tài ba lỗi lạc Cao Lỗ, để đến khi quân đội không có người chỉ huy như rắn mất đầu phải tháo chạy? Chính là An Dương Vương. Ai đưa Trọng Thủy cùng đội quân đội lốt phục vụ và lái buôn vào thành Cổ Loa? Chính là An Dương Vương.
Vậy thì tại sao con người tài ba lỗi lạc như An Dương Vương lại mắc những sai lầm chết người như vậy? Điều này chỉ có thể lý giải bằng tâm lý say sưa ngủ quên trong chiến thắng. Thói đời xưa nay là vậy, sau một thắng lợi hiển hách, kẻ đứng đầu đất nước thường rất dễ chủ quan khinh địch. Chiến thắng càng lớn chủ quan càng nhiều. nhất là các triều đại không biết đặt vững nền tảng tinh thần trên lòng dân, thường lao nhanh vào ăn chơi hưởng lạc, đội ngũ quan lại thì tham nhũng hà hiếp dân lành, các bậc trung thần bị ruồng bỏ, thậm chí bãi quan cách chức hoặc bị giết hại, nhân dân oán hận, sản xuất đình đốn. Một chế độ được dựng lên những tưởng dài lâu với sông núi, nào ngờ như tòa lâu đài nguy nga nhưng mục ruỗng, chỉ một cơn gió to là sụp đổ.
Và kẻ thù phương Bắc chỉ chờ có vậy. Một khi nhìn thấu vào nội tình của triều đình và dân chúng nước ta thì chúng lập tức trờ mặt, biến láng giềng tốt thành ngay kẻ thù, kéo sang đánh úp, mở đầu cho mối thảm họa lớn nhất, một ngàn năm tăm tối của dân tộc ta.
Rõ ràng là:
Một cá nhân sai lầm, tai họa chỉ mình họ chịu.
Một chủ gia đình sai lầm, cả nhà chịu họa.
Một lãnh đạo sai lầm cả quốc gia nghiêng ngửa, trăm họ lầm than.
Bài học nhãn tiền của nhiều dân tộc, qua mọi thời đại nghĩ mà kinh sợ hãi hùng.
Rõ ràng là:
Một cá nhân sai lầm, tai họa chỉ mình họ chịu.
Một chủ gia đình sai lầm, cả nhà chịu họa.
Một lãnh đạo sai lầm cả quốc gia nghiêng ngửa, trăm họ lầm than.
Bài học nhãn tiền của nhiều dân tộc, qua mọi thời đại nghĩ mà kinh sợ hãi hùng.
Tôi trộm nghĩ trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay các nước, các dân tộc, các khu vực phải dựa vào nhau hợp tác, cùng phát triển. Đó là một bước đi tất yếu, không nước nào có thể đứng ngoài và cũng không thể không đổi mới về nhận thức để bắt kịp tình hình. Tuy nhiên do sự phát triển không đồng đều trong thế và lực giữa các nước, nhiều nhà chính trị đã lợi dụng sự hợp tác toàn diện này để phục vụ cho những toan tính chính trị đen tối của họ khi thời cơ đến.
Các cụ ta xưa có câu : “yêu nhau rào dậu cho chắc” , ấy là nói quan hệ hai nhà ở cạnh nhau, muốn êm ấm hòa thuận lâu dài, hãy rành mạch trong mọi việc. Một kinh nghiệm sống để đời, còn đúng đến ngày nay và hẳn là còn đúng đến nhiều đời sau. Suy rộng ra, điều ấy càng rất quan trọng trong mối bang giao giữa các nước vốn có đường biên giới chung. Hai cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam với Campuchia và phía Bắc với Trung Quốc vào thập niên bảy mươi của thế kỷ trước là bài học đắt giá vẫn còn nóng hổi.
Việt Nam – Lào – Campuchia, ba nước Đông Dương sát cánh bên nhau suốt một thế kỷ, đánh Pháp rồi đánh Mỹ. Xương máu củabao thế hệ ba nước đã vun đắp nên tình hữu nghị đặc biệt trên bán đảo Đông Dương. Ấy vậy mà, khi vừa giành được độc lập, những người cộng sản Khơ me đỏ Campuchia chẳng hiểu nghe ai xúi bẩy đã cắm phập lưỡi dao vào sườn những người cộng sản anh em Việt Nam để đòi đất, gây ra cuộc chiến tranh thảm khốc giữa những người đồng chí cùng chung một lý tưởng, cùng chung một chiến hào.
Trong tình cảnh khó khăn, rối ren như vậy, Đảng Cộng Sản Trung Quốc – một Đảng đàn anh, không những không đứng ra hòa giải mà lại phát động một cuộc chiến tranh xâm lược biên giới phía Bắc, để ủng hộ những người Cộng sản Campuchia, vứt phăng khẩu hiệu “Môi hở răng lạnh, máu chảy ruột mềm” của tình hữu nghị “Núi liền núi, sông liền sông” mà hai Đảng đã dày công vun đắp cả nửa thế kỷ. Hậu quả của nó là hàng vạn con em của ba nước phải hy sinh một cách oan nghiệt. Cùng với sự việc này, người Việt Nam buộc phải nhớ đến Hoàng sa. Trong lúc chúng ta đang phải vất vả dồn sức đánh giặc ở đất liền thì người bạn đã thừa cơ cướp gọn hòn đảo này, Người Việt Nam càng quan tâm hơn tới những ứng xử ngang ngược của Trung Quốc tại biển Đông nhất là ở quần đảo Trường Sa hiện nay.
Cho đến nay quan hệ Việt –Trung tuy được coi là đã trở lại bình thường nhưng lãnh thổ, lãnh hải của chúng ta vẫn bị họ chiếm giữ một phần, và họ đang ngày càng lấn lướt một cách ngang ngược trên những phần còn lại. Thân thể Tổ quốc ta vẫn còn rỉ máu, binh lính và nhân dân chúng ta vẫn còn bị giết hại một cách vô lối, tài nguyên vẫn bị họ chiếm đoạt. Do vậy, chúng ta cần hết sức cảnh giác trong “giao lưu hợp tác, hữu nghị 16 chữ vàng”. Nên nhớ rằng sự xâm lăng có thể thực hiện bằng nhiều con đường. Trước tiên thường là mở đường bằng buôn bán, truyền bá văn hóa rồi đến vũ lực trực tiếp.
Một trong những vấn đề nóng hổi hiện nay ở nước ta là dự án khai thác vùng mỏ quặng Bauxte Tây Nguyên. Trong khi mà dự án còn bàn cãi ở Quốc hội và cho đến cuối năm 2009 vẫn chưa được Quốc hội thông quathì Trung Quốc đã đưa hàng trăm người vào vùng Tây Nguyên chiến lược “mái nhà của ba nước Đông Dương”.
Phải chăng đây là đội quân tùy tùng giả dạng theo kế của Triệu Đà cũ. Lạ là một số người lãnh đạo của ta lại cố tình đem xé nhỏ giá trị vốn đầu tư ra thành các tiểu dự án để tránh phải đưa ra Quốc hội thông qua. Một sự lách luật lộ liễu đến thế mà qua mắt được cả một Quốc hội “của dân do dân vì dân” mới là điều kỳ. Người ta hỏi vì động cơ nào mà họ làm được như thế? Liệu có uẩn khúc xấu xa nào của sự liên minh trong ngoài hay không? Ai có thể đảm bảo rằng cuộc hôn nhân kinh tế Bauxite Tây Nguyên không để lại hậu quả như mối tình Mỵ Châu – Trọng Thủy, kể cả khi họ đã trả lại cho chúng ta toàn bộ vùng đất, vùng biển mà họ đang chiếm giữ.
Vào đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có kể lại rằng, vào lúc đó ông là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách khoa học kỹ thuật, đất nước vừa ra khỏi ba cuộc chiến tranh, lại đang bị thế giới cô lập. Cấm vận kinh tế vô cùng khó khăn, rất cần tiền xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một đề án khai thác Bauxite tại Tây Nguyên đã được đề xuất và nhờ các chuyên gia Liên Xô giúp đỡ. Những người cộng sản Liên Xô lúc đó, không vì món lợi mà họ được hưởng từ đề án ấn tượng này mà vì quyền lợi của chính đất nước chúng ta, họ khuyên ta không nên khai thác, cái lợi kinh tế trước mắt không thể bù đắp lại thảm họa môi trường sẽ xảy ra với cả Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ. Bộ Chính trị và Chính phủ lúc đó đã quyết định không khai thác bauxite Tây Nguyên nữa.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một nhà chính trị nhà quân sự thiên tài, một đặc đẳng khai quốc công thần, một huyền thoại sống của dân tộc Việt Nam và thời đại đã nhắc nhở các nhà lãnh đạo của chúng ta “không nên khai thác bauxite Tây Nguyên vì đứng về toàn cục và phát triển bền vững, lâu dài của đất nước, khai thác sẽ gây hậu quả cực kỳ nghiêm trọng về môi trường, về xã hội, về an ninh quốc phòng”. Than ôi! Những lời vàng đá này rút ra từ gan ruột của một thiên tài đã sống trọn một thế kỷ vì nước vì dân mà không được tiếp thu.
Thưa Đại tướng! Hiện giờ một nhóm người nào đó chưa hiểu hết được lời răn dạy của Người nhưng cả dân tộc này, trên 80 triệu con người Việt Nam rất hiểu lòng Người, vì dân tộc Việt Nam đã thấm nhuần từ lâu tinh thần “độc lập hay là chết”, đã phải trả giá cho bài học lịch sử từ hơn hai ngàn năm trước của Vua Thục An Dương Vương, thấu hiểu nỗi đau của Bác Hồ khi người chứng kiến sự phản bội của những người Cộng sản anh em. Lẽ nào một kịch bản Cổ Loa lại để xảy ra lần nữa tại Tây Nguyên hay bất cứ nơi nào trên đất nước này.
Không! Thưa Đại tướng, dù khó khăn đến mấy xin Đại tướng không làm theo tướng quân Cao Lỗ ngày xưa chịu bó tay vì bị cách chức rồi sống bàng quan nhìn cả dân tộc mình chìm trong đau thương. Dù khó khăn đến đâu cũng không để cho những quả bom bùn nằm trên Cao Nguyên thường trực đe dọa đất nước. Bài học thông hiếu mù quáng của Thục An Dương Vương đã đưa cả một dân tộc chìm trong ách nô lệ một ngàn năm vẫn còn nóng hổi đó.
Nhiều nhà khoa học và các bậc lão thành cách mạng cùng những tướng lĩnh lỗi lạc đều đã ra sức can ngăn và về phía Tập đoàn TKV, một kẻ như Đoàn Văn Kiển dám đánh lừa dư luận bằng những lời giải trình mỹ miều cuối cùng đã bị lật tẩy và cách chức. Song chẳng hiểu vì sao dự án vẫn được tiến hành với ý rằng không có gì đáng lo, chúng ta đã nhìn thấy tất cả, mọi cái xấu đã và sẽ được ngăn chặn.
Bây giờ chỉ còn cầu Trời khấn Phật mong sao cho mọi sự được yên lành. Tôi lo, không chỉ lo cho hiện tại trước mắt vì môi trường sẽ bị đầu độc bởi bùn đất đỏ lẫn với những hóa chất độc hại dùng trong quá trình khai thác tràn về các sông suối miền Trung và miền Đông Nam Bộ (Người ta hứa sẽ “xử lý triệt để” khối bùn đỏ khổng lồ ấy bằng hai lớp nilon. Đến con trẻ cũng có thể luận ra được đâu là thật và đâu là lời nói dối. Hãy đợi đấy?!).
Tôi lo, lo cho ba mươi năm, năm mươi năm sau (dĩ nhiên là lúc đó nhiều người của thế hệ hôm nay sẽ không còn nữa) con cháu chúng ta sẽ phải lầm than trong cảnh phụ thuộc, mất độc lập tự do.
Lo lắng cho vận mệnh, tương lai của đất nước không phải là quyền của riêng ai. Nhiều cá nhân muốn làm giàu nhanh chóng đã phải trả giá vì trúng phải viên đạn bọc đường. Biết trước được họa để tránh cho thế hệ sau khỏi phải khổ sở vì cha ông sai lầm chẳng phải là việc nên làm của những người nắm giữ vận mệnh dân tộc lúc này hay sao.
Tôi được biết ở nhiều nước châu Phi, Trung Quốc đến khai thác đồng, bauxite và khoáng sản khác gây ra vô số hậu quả và nợ nần cho những nước chủ nhà khiến họ phụ thuộc ngày càng sâu vào Trung Quốc. Ở Việt Nam thì công nghệ xi măng lò đứng, gang thép Thái Nguyên, mỏ đồng sinh quyền… Đang có nhiều vấn đề về công nghệ, môi trường, cũng bị phụ thuộc và nợ nần vào tay họ.
Vấn đề khai thác Bauxite Tây Nguyên là vấn đề lớn, nguy hại đến sinh mệnh của hàng triệu con người ở miền Trung, Tây Nguyên và Nam Bộ; đồng thời hàng chục dân tộc thiểu số Tây Nguyên đang bị hăm dọa sẽ hủy diệt, nhưng cái lớn hơn là bọn nước lớn với tư tưởng bành trướng như những kẻ cướp có được chỗ ngồi trên nóc nhà ba nước Đông Dương thường xuyên, nền độc lập của cả ba dân tộc bị uy hiếp thì dân chúng không nơm nớp lo sao được. Thế mà vấn đề này chưa được giải quyết thấu đáo thì vấn đề kia đã phát sinh, khiến những ai tỉnh táo vì vận mệnh đất nước càng như ngồi trên lửa bỏng.
Với phát hiện của Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên và Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nay lại nẩy ra cái họa 10 tỉnh biên giới bán rừng đầu nguồn cho Trung Quốc.
Thử hỏi, đứng về mặt luật pháp, có đạo luật nào cho phép bán đất đai của Tổ quốc không thông qua Quốc hội hay không? Một đất nước cai trị bằng luật và đang cố gắng tiến tới một nhà nước pháp quyền, vậymà mọi thứ đều dẫm lên trên luật thì đất nước ấy còn ra thế nào? Thì ra “mối lo Trọng Thủy” bây giờ không chỉ thu hẹp riêng ở Tây Nguyên nữa mà đã lan ra rất nhiều nơi. Rồi đây, như âm binh của Cao Biền, chẳng ai biết những gì ẩn náu trong các cánh rừng đầu nguồn đã bán kia sẽ nổi dậy và kéo về xuôi, chúng ta còn trở tay sao kịp, và liệu những người cầm chịch đất nước có “ngồi mát ăn bát vàng” được hay không?
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Đất nước ta nhân dân ta đã phải đổ xương máu của hàng triệu con người để giành giữ, bảo vệ nền độc lập của mình. Quốc hội cần phải xem xét thận trọng và phải cảnh giác, biểu quyết các vấn đề liên quan đến lãnh thổ và an ninh theo ý chí, nguyện vọng của toàn dân Việt Nam yêu nước. Đó cũng là thực hiện và bảo vệ đạo luật về Quốc hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Đảng Cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, và được thể chế hóa thành luật .
LMA
LMA
HT Mạng Bauxite Việt Nam biên tập.
*
SONG THAO * VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Thầy Chương
Cứ như suy nghĩ thông thường thì một thi sĩ phải có bộ điệu bất
cần đời, ăn mặc phải lôi thôi lếch thếch một chút cho có vẻ
khác người. Niên học 1955-1956 tôi học lớp Đệ Nhị ban Văn
Chương tại trường Chu Văn An Saigon. Giáo sư môn Văn
Chương Việt Nam là thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Giờ Việt văn
đầu niên học, chúng tôi hồi hộp chờ đợi xuất hiện bóng
dáng "phong sương" của thi hào nổi tiếng họ Vũ. Nhưng
người bước vào lớp chẳng như chúng tôi chờ đợi mà là một nhân
vật ăn mặc chải chuốt như một chính khách. Không, phải nói như
một nhà ngoại giao chuyên nghiệp mới đúng.
Áo
sơ mi lụa màu mỡ gà. Quần nâu với hai đường li thẳng tắp. Giầy
da nâu bóng loáng. Mũ phớt màu nâu nhạt. Và một chiếc cà vạt
màu nâu hồng có điểm những nụ hoa nhỏ xíu màu hồng nhạt.
Màu sắc từ trên xuống dưới ăn khớp với nhau một cách rất
nghệ thuật. Như một bức họa. Chưa hết. Một chiếc kẹp cà
vạt mạ vàng cùng với một cặp nút cài măng sét làm cho bộ
quần áo thêm phần "vương giả". Không phải chỉ trong buổi
dạy "ra mắt" học sinh thầy Chương của chúng tôi mới diện
như vậy. Trong suốt năm học lúc nào thầy cũng chải chuốt
một cách lạ thường. Những ngày nóng bức nhất cũng không làm chiếc
cà vạt rời khỏi cổ thầy. Những ngày se lạnh chỉ thêm dịp cho
thầy đóng nguyên một bộ đồ lớn loại sang.
Phải
công nhận là thầy Chương có "gu" ăn mặc. Màu sắc luôn
luôn hài hòa mát dịu. Thầy nổi bật trong phòng giáo sư hồi đó với
phong cách rất mực phong lưu. Luôn luôn từ tốn, lịch sự nhưng
không mất đi vẻ thân mật đối với các giáo sư khác cũng
như đối với học sinh. Nét phong lưu còn rõ ràng hơn khi
thầy ngồi ngất ngưởng trên xích lô đạp tới trường. Thầy
là giáo sư duy nhất tới dậy học bằng xích lô đạp hàng
ngày.
Ông
xích lô đạp chắc không phải cố gắng nhiều khi chở trên xe một
ông khách có sức nặng khiêm nhượng như thầy Chương. Người thầy
mỏng lét. Bộ ngực lép kẹp được chúng tôi gọi là
ngực...Oméga. Oméga là tên một loại đồng hồ đeo tay có
đặc điểm là bề dày của nó rất mỏng. Càng mỏng càng đắt
tiền. Ngực Oméga không phải là ngực "đắt tiền" nhưng là
loại ngực mỏng của người thiếu sức khỏe. Nước da trắng xanh
cùng với khuôn mặt gầy gò rất nhiều vết nhăn quanh miệng và quanh
hai khóe mắt chứng tỏ điều đó. Nghe nói là thầy làm bạn với
nàng tiên nâu nhưng chúng tôi không tìm thấy ở thầy những
dấu hiệu của một người ghiền. Cặp môi không thâm và
không có điệu bộ như một cặp môi đón dọc tẩu, dáng người
không so bại, quần áo không lếch thếch dơ dáy và người
không tỏa ra mùi khét lẹt. Chỉ có cặp mắt hơi lim dim nhưng
là cái lim dim của một thi sĩ thoát tục hơn là cái lim dim mệt mỏi
của một tiên ông.
Nhưng thực ra thầy cũng chẳng dấu cái tình bạn với ả Phù Dung của thầy. Tết năm đó một nhóm trong lớp khoảng mười anh em mặn mòi với văn chương tới nhà tết thầy. Nhà thầy ở trong một ngõ hẻm. Hơn một chục chiếc xe đạp của đám học trò phải loay hoay mãi mới nằm được gọn gàng bên vách nhà mà không cản trở lưu thông trong ngõ. Cửa nhà vừa mở là mùi trầm đã ngạt ngào bay ra. Ánh sáng trong nhà yếu đuối vàng vọt. Chúng tôi lặng lẽ bước vào như đi hành hương. Như có một cái gì thật nghiêm trang bao quanh chúng tôi. Thầy lên tiếng bảo chúng tôi vào. Chúng tôi e dè kéo ghế chia nhau chỗ ngồi. Ghế không đủ cho đám khách đông đảo, chúng tôi phải ngồi bớt trên giường. Giữa thầy với chúng tôi là một bộ bàn đèn. Ngọn đèn dầu lạc còn leo lét cháy. Mùi thơm thuốc phiện phảng phất quanh nhà. Thầy mặc chiếc áo màu đà có khuy cài bên như kiểu áo dài. Áo buông ngang đầu gối. Một chiếc quần dài cũng màu đà.
Nhưng thực ra thầy cũng chẳng dấu cái tình bạn với ả Phù Dung của thầy. Tết năm đó một nhóm trong lớp khoảng mười anh em mặn mòi với văn chương tới nhà tết thầy. Nhà thầy ở trong một ngõ hẻm. Hơn một chục chiếc xe đạp của đám học trò phải loay hoay mãi mới nằm được gọn gàng bên vách nhà mà không cản trở lưu thông trong ngõ. Cửa nhà vừa mở là mùi trầm đã ngạt ngào bay ra. Ánh sáng trong nhà yếu đuối vàng vọt. Chúng tôi lặng lẽ bước vào như đi hành hương. Như có một cái gì thật nghiêm trang bao quanh chúng tôi. Thầy lên tiếng bảo chúng tôi vào. Chúng tôi e dè kéo ghế chia nhau chỗ ngồi. Ghế không đủ cho đám khách đông đảo, chúng tôi phải ngồi bớt trên giường. Giữa thầy với chúng tôi là một bộ bàn đèn. Ngọn đèn dầu lạc còn leo lét cháy. Mùi thơm thuốc phiện phảng phất quanh nhà. Thầy mặc chiếc áo màu đà có khuy cài bên như kiểu áo dài. Áo buông ngang đầu gối. Một chiếc quần dài cũng màu đà.
Trông
thầy như một bậc tu hành ở chốn thiền môn. Chỉ khác là thầy
có mái tóc hoa râm dài rẽ ngôi ngay chính giữa làm cho khuôn mặt
thầy vuông vức sắc cạnh.
Một
anh đại diện anh em đứng dậy chúc tết và trình thầy mấy món quà
tết nho nhỏ. Một lọ trà, một hộp bánh, một túi trái cây. Thầy
nhận và kêu cô ra. Cô vén chiếc màn bằng vải hoa ngăn đôi
phòng khách với phòng trong ra chào hỏi chúng tôi, nói
dăm ba câu chuyện, bầy lễ tết lên bàn thờ rồi rút vào
phòng trong. Thầy bảo chúng tôi rót nước trà uống.
Thầy
trò đàm đạo như bạn bè về thi ca. Thầy nói ròng rã về những
trào lưu thi ca ở Pháp. Câu chuyện xoay về với thực tại. Cái tết
nóng nảy ở miền Nam. Tết mà không có xuân. Thầy trò quay
về với cái tết miền Bắc, nơi mà những kỷ niệm còn mượt mà
trong trí tưởng. Không khí xuân ở chốn quê hương xa xăm
đó sao mà tuyệt diệu. Thầy trò nhắc tới những ngày xuân
cũ bằng những lời bàng bạc nuối tiếc. Hai năm cơm gạo
miền Nam chưa làm dịu được nỗi niềm xa xứ. Nỗi xót xa được
nhắc nhở mỗi ngày khi thầy trò phải đi cổng sau vào học nhờ trong
một căn nhà lầu cũ của trường Pétrus Ký.
Chúng
tôi ngỏ ý cáo từ để thầy nghỉ thì thầy khoát tay bảo chúng
tôi ngồi lại. Thầy lấy mực và một xấp giấy đỏ ra để tặng chữ kỷ
niệm. Không khí vui nhộn hẳn lên. Chúng tôi lật những tập
thơ của thầy ra tìm những câu thích nhất để xin thầy
viết. Có được những câu thơ ưa thích do chính tác giả
viết phải là một kỷ vật thích thú lắm chứ. Nhưng có anh
lại xin thầy một câu đối chữ Hán. Những ông đồ non này
bảo là có đôi câu đối với nét chữ bay bướm như vậy treo trong nhà
ngày tết thì có lý vô cùng. Thầy chỉ khẽ mỉm cười vung tay
viết ra những chữ đẹp như vẽ. Chỉ cần nhìn vào nét chữ
cũng đủ thấy cái tài hoa khôn sánh của thầy. Mỗi chữ lững
lờ như tiềm tàng niềm ngây ngất ẩn dấu. Thấy chữ như
buông thả mà trong chữ dường như có tâm sự riêng.
Trên
đường về tôi cười một mình khi thấy sao mà cảnh tết thầy vừa
rồi giống như cảnh tết thầy của một thời xa lắc xa lơ khi các cụ
đồ nho ngồi dậy học được coi như những bậc quân tử được
mọi người bái phục kính nể. Sự so sánh lẩm cẩm này làm
nẩy sinh ra một câu hỏi. Vì sao thầy lại có một chỗ đứng
riêng biệt trong lòng chúng tôi như vậy? Bởi vì chúng tôi
mến mộ thi tài của thầy? Bởi vì chúng tôi quí trọng tư
cách của thầy? Bởi vì chúng tôi yêu mến thầy? Bởi vì chúng
tôi xót xa cho sức khỏe của thầy? Bởi vì chúng tôi trân trọng cố
gắng truyền đạt kiến thức của thầy? Có lẽ phải cộng tất cả
những cái "bởi vì" này mới có một câu trả lời tạm đầy
đủ.
Đặc
biệt danh cho các giáo sư là nghề của chúng tôi hồi đó. Thầy
Vũ Khắc Khoan nổi tiếng nghiêm khắc, lớp học trong giờ thầy im
phăng phắc như một nguyện đường. Thầy có đôi mắt to và sắc
sảo lạ thường. Chúng tôi đặt cho thầy biệt danh "Cú Vọ".
Thầy Bùi Đình Tuyên dậy Vạn Vật hay kể chuyện nhảm nhí
làm chúng tôi nín thở ngồi nghe. Ưa thì ưa lắm nhưng cũng
tặng cho thầy hỗn danh...Tề Tuyên! Thầy Nguyễn Văn Lộc
dậy Anh Văn người ốm yếu, tay chân lêu nghêu loạng quạng
nhưng lúc nào cũng lên gân làm điệu bộ mạnh bạo ngang tàng được
chúng tôi cảm hứng từ tên một viên tướng thời Quang Trung đặt
cho cái tên "Đô Đốc Lộc". Thầy Giám thị Tự đi đôi giầy đế
da mới tinh mỗi lần vào lớp là khua lóc cóc inh ỏi được
tặng cho biệt danh "Tây Gỗ".
Trong
khung cảnh "nguy hiểm" như vậy mà thầy Chương không có
một biệt danh nào cả kể cũng là một sự lạ. Chúng tôi không nỡ hay
không dám? Có lẽ cả hai. Chúng tôi vừa thương vừa kính thầy.
Thầy thật gần gũi nhưng cũng thật cao xa.
Chương
trình Việt Văn lớp Đệ Nhị ban Văn Chương hồi đó, ngoài phần
thơ văn thế kỷ 19, còn có phần thơ mới. Đây là phần lý thú nhất
của cả thầy lẫn trò. Những nhà thơ trong thời kỳ này từ
Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ đến Đinh Hùng, Anh Thơ, Vũ
Đình Liên...đều là bạn hoặc những người thầy quen biết.
Những bài giảng vì vậy đã vượt ra ngoài khuôn khổ một bài
giảng giáo khoa. Những bài thơ trữ tình, diễm tuyệt đã
tạo dịp cho thầy quay về với tuổi trẻ của thầy. Chúng tôi đã chứng
kiến một thầy Chương sôi nổi, lãng mạn, tha thiết với thơ
văn của bạn hữu. Những kỷ niệm tràn ứ trong thầy tỏa ra
thành những lời giảng trau chuốt, mặn mà, đầy xúc cảm.
Xuân Diệu không phải chỉ là một Xuân Diệu gói kín trong
thơ mà là một Xuân Diệu cuồng nhiệt, vội v, đam mê như
đang đứng trước chúng tôi. Đinh Hùng cũng thoát ra ngoài những
khuôn chữ để trở nên một con người sống động, tình tứ trong
những lời nói đam mê xúc động của thầy. Và rồi những thơ
của Thế Lữ, Văn Cao, Huy Cận...đều có xương, có thịt, có
máu qua những lời giảng miên man đầy ắp hoài niệm của
thầy.
Thầy
đi quanh lớp bằng những bước chân nhẹ nhàng, đầu nghểnh cao,
mắt xa vắng, giảng bài bằng cái giọng nhừa nhựa thanh thanh. Có
những lúc mắt thầy như nhắm hẳn lại, đầu lắc lắc từng
chặp. Những lúc đó thầy như thoát hồn bay về một trời thơ
nào đó. Thầy say thơ. Thầy ngâm thơ như một người đồng
thiếp. Như không còn thầy. Như không có trò. Như không
phải là một lớp học. Chỉ có một cõi thơ lồng lộng bát
ngát. Chúng tôi cũng thấm thơ. Vô cùng nồng nàn là những giòng thơ
đất Việt. Chỉ có tiếng chuông báo hết giờ học mới có thể kéo
thầy trò ra khỏi cơn mê văn chương.
Nhưng
khi thầy Chương giảng thơ Vũ Hoàng Chương thì thầy lại có một
phong thái khác hẳn. Có một cái gì sường sượng nơi thầy. Thầy
như cố tách rời cái ông thi sĩ họ Vũ ra khỏi cái ông giáo
sư họ Vũ đang đứng trước mặt chúng tôi. Để nói về cái ông
thi sĩ họ Vũ thầy dùng ngôi thứ ba. Tác giả viết thế
này, thi sĩ viết thế kia...Làm như chẳng có gì dính dáng
tới thầy cả. Sự "từ chối bản ngã" đó lúc đầu làm chúng tôi
ngỡ ngàng nhưng khi quen rồi thì thấy có cái gì là lạ
ngộ nghĩnh. In tuồng như thầy đang chơi trò trốn tìm với thi
sĩ họ Vũ. Giọng thầy cố gắng làm như xa cách nhưng tâm hồn thầy
như muốn trở lại với những giây phút cầm bút viết nên
những vần điệu đang được giảng dậy. Thi tài của thầy đặt
thầy vào một tình huống hơi éo le. Và thầy phải vất vả
với sự chèo kéo của đôi bên.
Nhưng
khi thầy ngâm thơ của thầy thì lại là chuyện khác. Giọng ngâm
của thầy tha thiết hơn bao giờ hết. Hồn thơ năm cũ như vất vưởng
trong giọng ngâm tạo nên niềm hứng khởi lạ lùng. Thầy trò
như hòa tan trong nhạc điệu của thơ. Tôi còn nhớ mi ci
giọng say sưa cuồng nhiệt của thầy khi ngâm bài "Tối Tân
Hôn" trong đó có những câu:
Gió bỗng đổi chiều trên táp xuống
Nặng trĩu hai vai nàng cố gượng
Thắt vòng tay ghì riết lưng ta
Nhưng luồng run chạy khắp thịt da ngà
Run vì sợ hay vì ngây ngất?
Ta chẳng biết nhưng rồi ta chóng mặt
Toàn thân lạnh ngắt!
Thuyền chìm sâu sâu mai bể hư vô
Mà hương ngát đâu đây còn phảng phất
Mà bên tai đàn sáo vẫn mơ hồ
Nặng trĩu hai vai nàng cố gượng
Thắt vòng tay ghì riết lưng ta
Nhưng luồng run chạy khắp thịt da ngà
Run vì sợ hay vì ngây ngất?
Ta chẳng biết nhưng rồi ta chóng mặt
Toàn thân lạnh ngắt!
Thuyền chìm sâu sâu mai bể hư vô
Mà hương ngát đâu đây còn phảng phất
Mà bên tai đàn sáo vẫn mơ hồ
Ngửa trơng ln cung Quế tít m xa
Dần dần khuất
Dưới chân ta
Thuyền my sĩng lật
Không gian vừa sụp đổ chung quanh
Một trời đêm xiêu rụng tan tành
Dần dần khuất
Dưới chân ta
Thuyền my sĩng lật
Không gian vừa sụp đổ chung quanh
Một trời đêm xiêu rụng tan tành
Dư hưởng yếu từng giây
Dư hươngdần lỗng nhạt
Trong tay níu đôi thân liền sát
Nhè nhẹ rơi vào lớp sóng khinh thanh
Sao lìa ngôi, phương hướng ngã bên mình
Cơn lốc nổi!
Đàn tiên thôi gọi
Âm thầm xa bặt tiếng tiêu
Những mê man say uống miệng người yêu
Ta cũng như nàng,
Cảnh mộng chốn bồng lai đâu nhớ tới.
Dư hươngdần lỗng nhạt
Trong tay níu đôi thân liền sát
Nhè nhẹ rơi vào lớp sóng khinh thanh
Sao lìa ngôi, phương hướng ngã bên mình
Cơn lốc nổi!
Đàn tiên thôi gọi
Âm thầm xa bặt tiếng tiêu
Những mê man say uống miệng người yêu
Ta cũng như nàng,
Cảnh mộng chốn bồng lai đâu nhớ tới.
Hai xác thịt lẫn vào nhau mê mải
Chút thơ ngây còn lại cũng vừa chôn
Lúc tỉnh dậy bùn nhơ nơi hạ giới
Đã dâng lên ngập quá nửa linh hồn!
Chút thơ ngây còn lại cũng vừa chôn
Lúc tỉnh dậy bùn nhơ nơi hạ giới
Đã dâng lên ngập quá nửa linh hồn!
Vừa
ngâm xong thầy nhỏ nhẹ "tự thú" là khi làm bài thơ này
thi sĩ chưa hề biết đàn bà! Thỉnh thoảng thầy vẫn tiết lộ cho
chúng tôi những điều bất ngờ như vậy. Một lần khác thầy ngâm bài
thơ "Say đi em" vẽ ra một cách sống động khung cảnh một vũ
trường:
Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi thân
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió,
Không biết nữa, màu xanh hay sắc đỏ
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta
Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi thân
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió,
Không biết nữa, màu xanh hay sắc đỏ
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta
Nghe
xong chúng tôi nghĩ thầy là một khách sành điệu rất từng trải
trong chốn ăn chơi. Nhưng thầy thản nhiên "phụ đề": khi
làm bài thơ này tác giả không hề biết khiêu vũ!
Chốc
đó mà bốn chục năm đã trôi qua. Kiểm điểm lại trong đám chúng
tôi chỉ có hai người theo nghiệp của thầy. Anh Nguyễn Thiệu Hùng
bút hiệu Mai Trung Tĩnh và anh Lê Đức Vượng bút hiệu
Vương Đức Lệ. Hai anh đã in chung tập thơ "40 bài thơ Mai
Trung Tĩnh và Vương Đức Lệ" và tập thơ này đã đoạt giải
thưởng Văn Chương Toàn Quốc năm 1961.
Cả hai anh đều đã bị Cộng Sản đầy ải trong ngục tù tại Saigon cùng với một số nhà văn nhà thơ khác trong nhóm Diễn Đàn Tự Do của Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt. Anh Mai Trung Tĩnh được thả năm 1994 mang bệnh tim, mù một mắt và sưng gan do hậu quả của những năm lao tù. Ngày 7 tháng 6 năm 1995, anh cùng vợ và hai con đã tới Hoa Kỳ và mất tại Virginia vào lúc 2 giờ sáng ngày 20 tháng 2 năm 2002 vì di chứng của những bệnh cũ. Anh Vương Đức Lệ cũng được sang được Hoa Kỳ rất muộn, nhiều năm sau khi thoát khỏi lao tù. Tôi nghĩ tới thầy với những ngày lao tù bệnh tật dưới chế độ Cộng Sản, nghĩ tới cái chết tức tưởi của thầy chỉ ít ngày sau khi được thả vì quá đau yếu. Cả thầy lẫn trò đều chung nỗi truân chuyên của những người làm văn nghệ gặp cơn gió chướng.
Cả hai anh đều đã bị Cộng Sản đầy ải trong ngục tù tại Saigon cùng với một số nhà văn nhà thơ khác trong nhóm Diễn Đàn Tự Do của Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt. Anh Mai Trung Tĩnh được thả năm 1994 mang bệnh tim, mù một mắt và sưng gan do hậu quả của những năm lao tù. Ngày 7 tháng 6 năm 1995, anh cùng vợ và hai con đã tới Hoa Kỳ và mất tại Virginia vào lúc 2 giờ sáng ngày 20 tháng 2 năm 2002 vì di chứng của những bệnh cũ. Anh Vương Đức Lệ cũng được sang được Hoa Kỳ rất muộn, nhiều năm sau khi thoát khỏi lao tù. Tôi nghĩ tới thầy với những ngày lao tù bệnh tật dưới chế độ Cộng Sản, nghĩ tới cái chết tức tưởi của thầy chỉ ít ngày sau khi được thả vì quá đau yếu. Cả thầy lẫn trò đều chung nỗi truân chuyên của những người làm văn nghệ gặp cơn gió chướng.
2/1991
*
HOÀNG QUỐC HẢI .* VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Gặp bà Thục Oanh - nhớ thi tài Vũ Hoàng Chương
Bài viết được đăng lúc 3:26:25 PM, 18.11.2009
HOÀNG QUỐC HẢI
Tình cờ và cũng là may mắn nữa, vào Sài Gòn lần này tôi được gặp bà góa phụ Vũ Hoàng Chương, tức bà Thục Oanh ở nhà ông Trần Mai Châu, nơi đường Tự Đức cũ. Nhà ở xế ngôi trường Trần Văn Ơn vài chục mét.
Ông Trần Mai Châu là nhà giáo về hưu. Ông là dịch giả tập “Thơ Pháp thế kỷ 19”, đoạt giải văn học dịch Hội Nhà văn Việt Nam năm 1997. Và ông cùng với nhà thơ quá cố Trần Dần, nhà triết học Vũ Hoàng Địch (em trai nhà thơ lớn đã quá cố Vũ Hoàng Chương) lập ra nhóm “Dạ Đài”. Tờ "Dạ Đài” là tiếng nói tiêu biểu của nhóm, mới in được số 1, đang chuẩn bị ra số 2 thì Toàn quốc kháng chiến (1946) đành bỏ, và mỗi người một nẻo suốt 9 năm dài kháng chiến.
Từ lâu tôi đã nghe nữ sĩ Ngân Giang nói về thân thế của Vũ quân. Nhất là tài nội trợ của bà Thục Oanh. Bà nói nhiều lần đến chơi với nhà thơ Vũ Hoàng Chương nơi phố Hàng Điếu, khi ông còn ở Hà Nội. Hai người mải nói chuyện thơ phú, chẳng để ý đến thời gian, Bà Thục Oanh sau khi pha trà rồi ý tứ ngồi cạnh nữ sĩ Ngân Giang. Nhưng bà lui ra ngoài lúc nào chẳng ai hay. Và tới lúc Vũ quân mệt mỏi, vừa đói thuốc vừa đói cơm, thi sĩ đứng dậy đi loanh quanh trong phòng, cũng là lúc bà Thục Oanh bê ra một mâm cơm thịnh soạn. Nữ sĩ Ngân Giang cho tới nay vẫn chưa hết ngạc nhiên: “Tôi không hiểu chị ấy đi chợ và làm cơm vào lúc nào? Bởi tôi có cảm giác như lúc nào Thục Oanh cũng ngồi cạnh tôi”.
Bà Thục Oanh đã ngoài 70 tuổi, dáng người mảnh khảnh. Tóc để buông, tấn áo dài màu trang nhã hợp với tuổi của bà. Ở bà, phảng phất nét đẹp tinh tế của các cô gái Hà Nội cách đây già nửa thế kỷ. Bà là em ruột của nhà thơ tài danh Đinh Hùng.
Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Vỹ, Trần Huyền Trân, Ngân Giang, Lê Văn Trương... là một trong những nhóm các bậc văn tài được đương thời mến mộ. Trong đó, Lê Văn Trương là người lớn tuổi hơn cả. Và nơi ông có phong thái một người hùng, một người hào hiệp và trượng nghĩa kiểu Mạnh Thường quân. Nhà ông lúc nào cũng đầy ắp khách.
Vũ Hoàng Chương trước yêu Tố Uyển. Tố Uyển phụ ông đi lấy chồng. Ngày cưới vào 12 tháng 6. Ông làm bài “Mười hai tháng sáu” để khóc cho mối tình tan vỡ. Trong đó có những khổ thơ rất thống thiết, chứng tỏ ông không chỉ là một đấng tài hoa, mà còn là một tài năng trác việt.
“Tháng sáu, mười hai, từ đây nhé
Chung đôi, từ đây nhé lìa đôi !
Em xa lạ quá, đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi.
Men khói đêm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu, ghi mười hai,
Tình ta, ta tiếc! cuồng, ta khóc.
Tố của Hoàng nay Tố của ai?...”
Theo nhà văn Mạc Lân (con trai nhà văn quá cố Lê Văn Trương) thì bài này lúc đầu có tựa đề “Kiều Thu đệ nhất khúc”. Còn bài khóc thứ hai với tựa đề “Kiều Thu đệ nhị khúc”. Cả hai bài, anh Mạc Lân đều đọc thuộc lòng cho tôi nghe. Vào dịp khác, tôi sẽ trở lại bài thơ này và mối giao hảo giữa nhà thơ Vũ Hoàng Chương với gia đình nhà văn Lê Văn Trương.
Trong mối giao tình của các bậc văn thi sĩ mà ta quen gọi là “lớp tiền chiến”, quả thật có nhiều điều muốn nói. Trước hết là về văn tài của họ. Sau đó là tấm lòng của họ đối với bạn bè và thời thế.
Qua trao đổi, tôi được biết bà Thục Oanh hiện sống rất thanh bạch, nếu không nói là thanh bần với con người trai lớn của bà. Và chỉ bằng một suất lương giáo viên trung học của anh.
Trước 1975, Vũ Hoàng Chương sống tàm tạm, là nhờ ở sự tần tảo và cần kiệm của bà Thục Oanh. Nhà nghèo thế mà khi ông Vũ Hoàng Địch (em trai nhà thơ) vào thăm sau 30.4.1975, Vũ Hoàng Chương còn có gom góp đủ tiền mua được mười mét gấm, gởi tặng nữ sĩ Ngân Giang ngoài Hà Nội.
Thật là tinh tế, tại sao ông không gởi cho nữ sĩ chiếc quạt hay một vật dụng vào khác, thiết thực hơn. Bởi vì, ông biết Ngân Giang là một nữ sĩ đài các. Vào thập kỷ sáu mươi, bảy mươi, phải quét lá làm củi đun. Mở quán bán nước trà xanh với vốn đăng ký 5 đông bạc, ở cận bến sông.
“Quán nước bên sông cuối phố nghèo
Miếng trầu bát nước có bao nhiêu...”
(Thơ Ngân Giang)
Ấy vậy mà khi tiếp khách thơ, nữ sĩ vẫn cứ xài trầm, kiểu cách như trong thơ bà :
“Khơi đỉnh trầm lên kìa thái giám
Cho hương tỏa quyện điệu tì bà...”
Với bà, dường như trầm là hương vị của thơ.
Bà Ngân Giang kể tiếp: “... Ý anh ấy gởi cho tôi mười mét gấm, là để tôi may áo. Mà lại là gấm mầu nâu nữa. Tôi hiểu như là Vũ quân khuyên tôi hãy dẹp bỏ lòng trần, trở về với Phật. Tôi không thể làm theo ý anh được. Bởi lẽ gạo ăn hàng ngày còn thiếu, sao có thể mặc áo gấm. Con cái còn trông cậy cả nơi mình, làm sao mà rảnh rang miền tục lụy. Thế là tôi đành phải bán mười mét gấm đó, mua được 5 yến gạo, và còn đủ tiền may một bộ quần áo thường. Nói ra điều này, tôi thấy tủi cho mình, và cũng tội cho vong linh của Vũ quân lắm!”.
Cái tình nghệ sĩ thương nhau nặng sâu là vậy đó. Tôi còn được biết, thi sĩ Vũ Hoàng Chương chơi rất thân với nhà giáo Trần Mai Châu. Cũng dễ hiểu, vì ông Trần Mai Châu cùng ông Vũ Hoàng Địch (em ruột Vũ Hoàng Chương) đã là bạn rất thân với nhau từ thuở “Dạ Đài”.
Tôi đã được nghe đôi lần bác Trần Mai Châu đánh giá rất cao các thi phẩm của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Và ngay trong buổi tao ngộ này, nhiều người nói về Vũ Hoàng Chương, như nói về một nhà thơ lớn. Các vị tuổi cao, nhưng nhớ và thuộc thơ của Vũ Hoàng Chương, có lẽ chẳng ai chịu nhường ai.
Tuy nhiên, nhớ được những bài thơ chưa được in của Vũ Hoàng Chương, có lẽ bác Trần Mai Châu là đệ nhất. Hai người bạn vong niên này trân trọng nhau, tựa như nhà thơ Trần Lê Văn lưu giữ tác phẩm của nhà thơ quá cố Quang Dũng vậy.
Nhà thơ Quang Dũng mỗi lần làm được bài thơ mới, đều ghé đọc cho nhà thơ Trần Lê Văn nghe. Biết tính bạn, mỗi lần như vậy, nhà thơ Trần Lê Văn đều lấy sổ tay ra chép. Có lần nhà thơ Quang Dũng gặp lại người yêu từ thuở còn trai trẻ. Lục vấn những kỷ niệm xưa, ông viết được bài thơ “Vườn ổi” rất hay. Sợ phu nhân đọc được thì mệt lắm, ông đốt bài thơ ấy đi. Sực nhớ vẫn còn một bản nơi sổ tay của nhà thơ Trần Lê Văn, ông bèn gặp nhà thơ Trần Lê Văn đòi lại. Nhà thơ Trần Lê Văn hỏi:
- Ông đòi làm gì?
Tần ngần một lát, Quang Dũng khẽ nói:
- Mình đốt đi, kẻo bà xã đọc được lại phiền ra.
Nhà thơ Trần lê Văn nhất định không trả. Và sau khi nhà hơ Quang Dũng mất, ông đã đưa bài “Vườn ổi” vào “Tuyển tập thơ Quang Dũng”
(Bút tích của Vũ Hoàng Chương - Ảnh: tienphong.vn)
Những thi phẫm của thi sĩ quá cố Vũ Hoàng Chương mà bác Trần Mai Châu lưu giữ được, phần nhiều không có tựa đề. Tôi chép lại một trong những bài đó. Bài thơ lập tứ từ bài “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu đời Đường:
Đã bao giờ có hạc vàng đâu
Mà có người tiên để có lầu
Tưởng hạc vàng đi, mây trắng ở
Lầm Thôi Hiệu trước Nguyễn Du sau
Hạc chưa thoát khỏi mê hồn kịch
Tiên vẫn nằm trong vạn cổ sầu
Trăng gió hão huyền như khói sóng
Nồi kê chửa chín nghĩ càng đau.
Nghe nói sinh thời đại thi tiên Lý Bạch có ghé lầu Hoàng Hạc; thấy cảnh đẹp định viết một bài tức cảnh, chợt nhìn thấy bài thơ của Thôi Hiệu đề trên vách; ông buồn bã thốt lên:
“Trước mắt có cảnh đẹp mà không tả được
Bởi đã có thơ của Thôi Hiệu trên vách rồi!”.
Thật ra Nguyễn Du viết “Hoàng Hạc lâu” không phải để so tài với Thôi Hiệu, mà chính là ông tự giải tỏa nỗi niềm. Hãy nghe ông tự sự:
“...Trung tình vô hạn bảng thùy tố?
Minh nguyệt thanh phong đã bất tri”.
“...Tình trong lòng vô hạn, bầy tỏ cùng ai được?
Trăng trong gió mát cũng chẳng biết.”
Trở lại những thi phẩm cuối cùng của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, viết vài ngày trước khi ông vĩnh biệt thế gian. Bà Thục Oanh với vẻ buồn sâu lắng. Dường như bà đang nhớ lại những gì về ông trong những ngày cuối. Giọng rầu rầu, bà kể:
“Tôi nhớ, bữa ấy nhằm ngày 9 tháng 9 năm Ất Mão (13.10.1975) anh ấy cảm thấy trong người hơi dễ chịu, thế là ngồi vào bàn viết. Một lát anh ấy lại về giường nằm. Tôi ngó vào bàn, thấy anh đã viết xong bài thơ. Đây là nguyên ý của anh ấy, kể cả những chữ viết hoa ở giữa dòng:
Trùng cửu thơ trao
bè Mây đã nát Thu - phong từ,
trùng cửu thơ còn trao ngất ngư.
tháng Cuối mùa Trăng ngày Hội hữu,
năm Đầu gác bút động Hoa lư,
thơ không thoái vị, trà say khướt,
người vẫn đăng cao, mộng ngọt lừ.
Nam- Bắc sương in đầy bóng nhạn,
may ra bệnh cũng xuống dần ư.
9.9 Ất Mão
Đấy là sau những ngày anh ấy đi học tập về, người rất yếu. Tôi cứ ngỡ anh ấy “đi” lúc nào không biết. Thế nhưng kỳ lạ thật. Sau bài “Trùng cửu”, bệnh anh ấy giảm hẳn. Tinh thần phấn chấn hẳn lên. Vài ngày sau đã lò đò đi thăm bạn. Có nhẽ người đầu tiên anh ấy đến thăm là ông Trần Mai Châu.
Thế nhưng tới giữa năm sau (1976), anh ấy lại ngả bệnh. Thật ra thì nhà tôi không có bệnh gì trầm trọng. Anh ấy vốn đã mảnh sức, nay lại suy nhược. Và rất buồn chán. Hay nói về cái chết. Lo cho những năm tháng cuối đời tôi, sau khi anh ấy ra đi, sẽ cô đơn như thế nào.
Tôi nhớ bữa ấy vào khoảng chiều ngày 9 (lại ngày 9) tháng 8 năm Bính Thìn (2.10.1976). Vũ gọi tôi lại gần, với giọng nhẹ nhàng, anh bảo:
- Này mình, ngày mai Mùng mười tháng Tám là ngày giỗ Nguyễn Du đấy. Mình đi kiếm ít hoa trái về để mai anh làm giỗ Nguyễn.
Sớm hôm sau, tôi bầy hoa, bánh và ít trái cây lên bàn thờ, pha thêm ấm trà cúng. Tôi vừa xong các việc thì anh đã áo quần tề chỉnh, đứng trước bàn thờ, tự tay thắp nhang, rót trà. Và anh khấn Nguyễn Du bằng thơ.
Nghe giọng anh xúc động, khiến tôi rơi nước mắt. Tôi cảm như có sự hiện diện của cả Nguyễn Du nữa. Lạ lắm, lúc ấy tôi không nghĩ Nguyễn Du đã khuất từ hơn hai trăm năm, mà chỉ nghĩ tới một người khách của anh Vũ vừa đến thăm nhà mình. Thay vì sợ hãi, tôi thấy lòng ấm áp.
Nguyên văn bài thơ Vũ khấn như sau:
Đọc lại người xưa
Văn tự hà tằng vi ngã dụng
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên.
Nguyễn Du
Chẳng dùng chi được nhân tài
Thân này lụy áo cơm ai bất ngờ
Phút giây chết điếng hồn thơ
Nét đau mặt chữ bây giờ còn đau
Chắc gì ba trăm năm sau
Đã ai vào nổi cơn sầu nằm đây
Nếu không cơm áo đọa đầy
Như thân nào thịt xương này bỗng dưng
Chết theo vào đến lưng chừng
Say từng mảnh rớt, mê từng khúc rơi
Nửa chiều say ngất mê tơi
Khúc đâu lơ láo mảnh đời Thi vương.
Mấy ngày sau đó, tôi thấy anh hay ngâm bài thất ngôn Đường luật, viết nhân dịp vào thăm Huế từ lâu lắm, nhưng nghe vài lần tôi đã thuộc. Hình như bài này không có tiêu đề.
Anh ấy đã yếu lắm. Nhiều lúc ngâm nghẹn lạc cả giọng, chỉ thấy phát ra những âm thanh rời rạc như tiếng rên đau đớn:
Nửa gánh gươm đàn tới cố đô,(1)
Sông liền mưa tạnh tưởng vào Ngô. (2)
Bìm leo cửa khuyết ai ngờ rứa,
Rồng lẩn mây thành chẳng thấy mô.
Lăng miếu tỉnh chưa hồn cựu mộng,
Vàng son đẹp nhỉ bức dư đồ.
Hồi chuông Thiên Mụ riêng hoài niệm,
Tốt đã vào cung loạn thế cờ.
Ngừng một lát, bà Thục Oanh như nhớ lại, đoạn bà tiếp:
- Sau đó tôi còn thấy anh ấy viết một bài về Nguyễn Thị Lộ, một bài về Hồ Xuân Hương, bài nào cũng da diết lắm.
Bốn ngày sau giỗ Nguyễn Du, tức ngày 14 tháng 8 năm Bính Thìn (7.10.1976), Vũ “đi”!
Tựa như các bậc thiên tài Nguyễn Du, Victor Hugo, sáng tạo đến hơi thở cuối cùng; những bài thơ chót của thi tài Vũ Hoàng Chương, vẫn như những hạt kim cương nặng trĩu tình người và mãi còn tỏa sáng.
Láng Thượng 01.11.1998
H.Q.H
(126/08-99)
Nguồn: http://tapchisonghuong.com.vn/index.php?main=newsdetail&pid=4&catid=17&ID=4128&shname=Gap-ba-Thuc-Oanh-nho-thi-tai-Vu-Hoang-Chuong
PHẠM THỊ NHUNG * VŨ HOÀNG CHƯƠNG
PHẠM THỊ NHUNG
THIÊN TÌNH SỬ CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Tình yêu là một nguồn thi hứng vô tận của loài người, bất luận ở phương trời nào và ở thời điểm nào. Chẳng thế ông cha chúng ta, từ thưở xa xưa, khi chưa có chữ viết đã biết bày tỏ tình yêu qua những câu ca dao truyền khẩu, tuy đơn sơ nhưng đã vô cùng thơ mộng và thắm thiết như:
Một yêu là sự đã liềuMưa mai cũng chịu,nắng chiều cũng cam.hay:
Tóc mai sợi vắn sợi dài,Lấy nhau chẳng đặng,thương hoài ngàn năm.
Trong
văn chương bác học của chúng ta cũng không thiếu những bài thơ tình
diễm tuyệt, như những bài thơ tình của Nguyễn Trãi, Phạm Thái, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Du, Dực Tông, nhưng dù sao phải đợi đến giữa thế kỷ XX,
khi phong trào thơ văn lãng mạn ở nước ta bộc phát và lên cao, trong
khoảng thời gian 1925-1943, thơ mới chiếm ưu thế trên thi đàn, thơ
tình yêu mới thực sự trăm hoa đua nở.
Trong khu rừng của thơ tình yêu buổi ấy, tuy có nhiều kỳ hoa dị thảo nhưng hầu hết được xây dựng trên những mối tình nếu không là hư cấu, mộng ảo, thì cũng chỉ là
những mối tình âm thầm kín đáo hay thoảng qua, hay ngắn ngủi, chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian nào đó với dăm bẩy bài thơ đã là nhiều.
Trong khu rừng của thơ tình yêu buổi ấy, tuy có nhiều kỳ hoa dị thảo nhưng hầu hết được xây dựng trên những mối tình nếu không là hư cấu, mộng ảo, thì cũng chỉ là
những mối tình âm thầm kín đáo hay thoảng qua, hay ngắn ngủi, chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian nào đó với dăm bẩy bài thơ đã là nhiều.
Trong
khi đó, thơ tình yêu của Vũ Hoàng Chương ở một trường hợp khác hẳn.
Có thể nói đây là một thiên tình sử bất tuyệt, rất đỗi thơ mộng nhưng
cũng rất đỗi bi thiết với cả ngàn câu thơ.
Vũ Hoàng Chương đã vì hai chữ chung tình mà bi lụy gần hết cả cuộc đời, làm ta nhớ đến Phạm Thái, một tráng sĩ cuối thế kỷ 18, đang mưu đồ phục Lê, diệt Tây Sơn, mà vì mấy năm lận đận trong bể tình (yêu Trương Quỳnh Như bị trắc trở, sau Quỳnh Như tuyệt mệnh) đã làm tiêu ma cả chí khí. “Ôi chí lớn trong thiên hạ không chứa đầy đôi con mắt mỹ nhân” là thế đó.
Vũ Hoàng Chương đã vì hai chữ chung tình mà bi lụy gần hết cả cuộc đời, làm ta nhớ đến Phạm Thái, một tráng sĩ cuối thế kỷ 18, đang mưu đồ phục Lê, diệt Tây Sơn, mà vì mấy năm lận đận trong bể tình (yêu Trương Quỳnh Như bị trắc trở, sau Quỳnh Như tuyệt mệnh) đã làm tiêu ma cả chí khí. “Ôi chí lớn trong thiên hạ không chứa đầy đôi con mắt mỹ nhân” là thế đó.
Thơ của Vũ Hoàng Chương cũng có những nét đặc biệt. Ông theo Tây học, chịu ảnh hưởng thơ văn lãng mạn Pháp là lẽ tự nhiên; nhưng ông còn là còn người có bản ngã nghệ sĩ Á Đông: Ông giỏi Hán văn, và chịu ảnh hưởng giáo dục nghiêm khắc của thân phụ, một nhà nho bảo thủ, đồng thời ông còn chịu ảnh hưởng của thân mẫu, một tiểu thư vốn dòng khuê các, hay chữ và giỏi đàn tranh. Từ đó, Vũ Hoàng Chương mang tâm hồn của một nghệ sĩ đa tình, mẫn cảm, giàu trí tưởng tượng, tính tình thì hiền lành, tình nghĩa thủy chung. Tất cả, vâng tất cả đó đã bồi cho hồn thơ của Vũ Hoàng Chương thêm mặn nồng thắm thiết.
Ngoài ra, thi sĩ Vũ Hoàng Chương còn có cái tài hoa, cái khả năng thiên phú trong cách dùng chữ, đặt câu, tạo hình, diễn ý và gieo vần điệu, khiến thơ ông đã diễn tả được hết những rung động vi tế nhất trong đời sống nội tâm của con người.
Với con người ấy, với mối tình ấy, với tài năng ấy, Vũ Hoàng Chương đã để lại cho văn học nước nhà nhiều bài thơ tình trác tuyệt , âu cũng là điều dễ hiểu.
1 - TỐ CỦA HOÀNG ƠI , TỐ CỦA ANH !Hồi
đó, vào năm 1935, Hà Nội tuy sống dưới chế độ bảo hộ của thực dân
Pháp nhưng có một bộ mặt rất thanh bình, vui vẻ, trẻ trung. Nhà cầm
quyền đang cố tình dung túng các cuộc ăn chơi phóng túng để người ta
quên đi biến cố đàn áp tàn bạo vừa qua (1), đồng thời để ru ngủ thanh
niên nên các trà đình, tửu điếm, các tiệm nhẩy đầm, các nhà hát ả đào
(còn gọi là hát cô đầu) và các tiệm hút thuốc phiện (2) mọc lên nhan
nhản. Người ta đua nhau ăn diện , nhiều cậu công tử Hà Thành diện đúng
mốt Paris, tay sách can đi bên cạnh các cô gái tân thời, phấp phới áo
dài Lemur Nguyễn Cát Tường (3). Họ dập dìu, tấp nập ra vào nơi các
chợ phiên, các phòng triển lãm tranh ảnh mỹ thuật (do nhóm sinh viên
Cao Đẳng Mỹ Thuật thực hiện).
Báo chí đang hồi bộc phát vì được chính quyền nâng đỡ (4), đúng năm 1935 lệnh kiểm duyệt còn được bãi bỏ, nhưng không phải để người ta bàn chuyện chính trị mà để làm văn nghệ thuần túy.
Ảnh hưởng tư tưởng tự do và văn học lãng mạn Tây phương đã nhuần thấm trong đời sống tình cảm, tư tưởng và bút pháp của những người viết văn, nên trong thi ca cũng như trong tiểu thuyết, từ nội dung đến hình thức đã rất mới mẻ, phóng túng. Đây cũng là lúc nhóm Tự Lực Văn Đoàn đang chủ trương đẩy mạnh phong trào vui sống với ái tình lãng mạn lý tưởng xinh tươi, thơ mộng. Thơ mới đã chiếm ưu thế trên văn đàn và đang đi vào thời thượng của nó.
Hà Nội thời này quả là một Hà Nội đô hội, tân tiến, thanh lịch, trẻ trung và văn nghệ.
Lúc này Vũ Hoàng Chương vừa 19 tuổi, đang theo học ban Tú Tài Pháp tại Trường Trung Học Albert-Sarraut Hà Nội. Vào một chiều chủ nhật rảnh rỗi, Dương Tuệ, bạn học của Hoàng (trong thi ca Vũ Hoàng Chương thường tự xưng như thế) lại chơi và rủ chàng đi thăm Nguyễn Minh Ngải, bạn chung của hai người, đang làm trợ giáo tại nhà bà Tư, dì của Tuệ, ở Phố Cầu Gỗ.
Lần đầu tiên được quen biết gia đình ông bà Tư, Hoàng đã cảm thấy ngay cái không khí cởi mở, thân mật nơi đây mà đã từ lâu chàng thiếu thốn.
Bốn cô cậu học trò của thầy Ngải thật dễ thương, cô bé lớn nhất là Trần Tố Uyển được 14 tuổi, cùng cậu em, kém chị một tuổi, cả hai đang được thầy Ngải luyện thi Bằng Tiểu Học. Ông Tư làm Tham biện nhà giây thép, bà Tư có cửa hàng buôn bán riêng; thấy Hoàng vừa là bạn học của cháu mình lại vừa là bạn của thầy giáo bày trẻ nên cũng có ý vị nể và tiếp đón ân cần.
Hoàng đang sống lẻ loi nơi nhà trọ, thuê của người gác vườn Bách Thảo (gần Trường Albert-Sarraut) trong khi gia đình chàng vẫn sống ở Nam Định, quê nhà; thân phụ chàng, ông Vũ Thiện Thuật, từng nhậm chức Tri Huyện, còn mẹ chàng có cửa hàng buôn bán thóc gạo.
Từ mấy năm nay Hoàng đã có cái tâm trạng bất mãn cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời. Ngoài xã hội ư?
Dân
tộc còn bị nô lệ chưa nhìn thấy lối thoát; trong khi đó, xung quanh
chàng người ta đang bon chen ganh đua giành giật những mảnh bằng to,
mong chiếm địa vị cao để hưởng vinh hoa phú quí mà người Pháp đã cố
tình nhử mồi, mua chuộc. Với bản ngã ưa sầu mộng, nhiều cảm xúc và
thiếu óc thực tế như Hoàng, chốn ấy nhất định không phải là nơi chàng
đeo đuổi, mà còn cảm thấy quá xa lạ là đằng khác. Còn gia đình ư? Cha
chàng là một nhà nho bảo thủ, nghiêm khắc, bấy lâu nay hai cha con đã
có mối bất hòa về chuyện hôn nhân của chàng. Ông Tri huyện chỉ muốn sau
khi Hoàng học xong sẽ đi hỏi cô con gái một vị quan Bố chánh, bạn
thiết của ông cho chàng. Hoàng đã theo Tây học, những tư tưởng tự do cá
nhân, giải phóng tình cảm đã nẩy mầm, bén rễ trong tim óc của chàng,
làm sao chàng có thể nghe lời? Mỗi lần cha con nhắc đến chuyện này,
sấm sét lại nổi lên.
Thế là trước sự trống rỗng của một cuộc đời không lý tưởng, trước sự chán chường của hoàn cảnh cá nhân và gia đình, Hoàng trở thành một con người mang tâm trạng bất mãn, cô đơn như một kẻ bị lưu đầy, lạc lõng giữa cuộc đời:
Riêng tôi sống cuộc đời vô vị Khắc nỗi buồn u uẩn từ lâu.........
Ôm khối hận gia đình trĩu nặngTôi căm hờn thù ghét hôn nhân.
Nhìn đời bằng con mắt bi phẫn như thế, thử hỏi còn sinh thú đâu nữa mà trông tìm, chờ đợi.
Tôi ngao ngán thờ ơ, khinh bỉHết. Không hy vọng, chẳng mong cầu.
Nhìn đời bằng con mắt bi phẫn như thế, thử hỏi còn sinh thú đâu nữa mà trông tìm, chờ đợi.
Giờ
đây, mỗi khi Vũ Hoàng Chương thấy chán đời thì không khí vui vẻ, thân
ái của gia đình ông bà Tư lại hiện ra và Hoàng lại muốn đến thăm thầy
giáo Ngải... hai lần, ba lần, bốn lần! Rồi trở thành thông lệ. Cô bé
Tố hồi này đã đỗ Bằng Tiểu Học, nàng đã rời Trường Ecole des Jeunes
Filles Brieux (sau đổi thành Trường Tiểu Học Hàng Cót) để vào Trung
Học Sainte Marie. Với sở trường về Anh văn, Hoàng nghiễm nhiên trở
thành cố vấn đắc lực cho hai chị em Tố Uyển về môn sinh ngữ này trong
những năm đầu bực trung học, vì thầy Ngải chỉ kèm cho chị em nàng về
toán và Pháp văn.
Chủ nhật nào tới chơi, gặp kỳ nhà có hội tổ tôm thì Hoàng lại đến đứng sau lưng bà Tư “gà nước”; chàng thường có những nước bài cao, tỏ ra thông minh, đôi khi bà Tư lại nhường chân cho Hoàng chơi bài thay mình. Chẳng bao lâu Hoàng trở nên người bạn thân của tất cả gia đình. Chàng được giữ lại ăn cơm và khi làm được bài thơ nào đắc ý, chàng vội đem đến khoe rồi đọc cho cả nhà nghe. Có nhiều hôm Hoàng ở lại khá muộn để giảng bài cho chị em Tố. Tình cảm quyến luyến giữa Hoàng và Tố nẩy nở một cách tự nhiên quá, hồn nhiên quá nên gia đình Tố chẳng một ai để ý:
Nhà đông người vui nhộn Chẳng ai còn nhớ ra Nơi này anh có mặt Vì đâu từ bao giờ.
Mà
chính Hoàng cũng không hay. Cho đến một ngày kia, vì bận học, đã lâu
Hoàng không lại thăm gia đình ông bà Tư, chàng bỗng cảm thấy nhớ nhung
cô bé, con người có cái vẻ em xinh kiều diễm thiên nhiên. Sự ý thức
được tình cảm xa nhau mà nhớ nhung này khiến Vũ Hoàng Chương như sực
tỉnh, tự bấy lâu nay chàng thường có cái trạng thái tâm hồn lâng lâng,
yêu đời, sống nửa mơ nửa thực, và đôi khi còn như lưu luyến một cái
gì mà chàng chưa kịp nhận biết, thì nay chàng mới sáng ra, rồi hồi hộp
tự hỏi:
Chập chờn bến thực hay nguồn mơ Hay chính bâng khuâng là ái tình?
Chập chờn bến thực hay nguồn mơ Hay chính bâng khuâng là ái tình?
Đồng thời, chàng khám phá ra lý do vì đâu chàng đã năng lui tới nhà Tố:
Kèm cho cả nhà học
Đã có thầy giáo riêng. Anh qua lại khuya sớm Chỉ vì anh yêu em!Kèm cho cả nhà học
Hoàng
đã tìm được hương vị của cuộc đời, lòng chàng cảm thấy ngây ngất và
dâng lên một niềm mơ ước thiết tha là sẽ được cùng ai chung sống trong
hạnh phúc lứa đôi:
Cho đến lúc vì em tôi được Thấy mùa xuân thoảng vị men say Tôi khao khát rồi tôi mơ ước Chén rượu tương lai hạnh phúc đầy.
Cho đến lúc vì em tôi được Thấy mùa xuân thoảng vị men say Tôi khao khát rồi tôi mơ ước Chén rượu tương lai hạnh phúc đầy.
Nhưng
khi ước muốn chung đôi vừa lóe lên trong tâm trí thì Hoàng ý thức
ngay rằng đó quả là điều không nên thực hiện. Tại sao thế? Vì người
yêu của chàng còn trong trắng ngây thơ quá:
Ôi Kiều Thu hồn em trong sạchVui sống yêu đời tuổi trẻ thơHam mê chúng bạn mê đèn sáchKhông chút mây buồn gợn giấc mơ.(Kiều Thu là tên chàng đặt cho người yêu)
Ôi Kiều Thu hồn em trong sạchVui sống yêu đời tuổi trẻ thơHam mê chúng bạn mê đèn sáchKhông chút mây buồn gợn giấc mơ.(Kiều Thu là tên chàng đặt cho người yêu)
Trong
khi chàng vẫn chỉ là kẻ lạc lõng giữa cuộc đời với bao nỗi buồn đau
tủi hận, làm sao chàng có thể đem lại được hạnh phúc cho người chàng
yêu. Thế là ước muốn yêu đương chung đôi vừa nhen nhúm đã vội dấu kín,
chôn chặt tận đáy lòng:
Vì anh vẫn ước chẳng bao giờEm hiểu tình ta nhắc chuyện xưa.Anh sợ đời anh đầy lệ tủiKhông làm vui được em ngây thơ.
Vì anh vẫn ước chẳng bao giờEm hiểu tình ta nhắc chuyện xưa.Anh sợ đời anh đầy lệ tủiKhông làm vui được em ngây thơ.
Ngày lại ngày, chàng vẫn êm đềm đi bên cạnh cuộc sống thơ ngây của nàng, song là cái êm đềm trên mặt nước có sóng ngầm:
Anh vẫn như chiếc bóngQua lại bước êm runhưng:
Thịt da nào gợn sóngVang dội tên Kiều Thu !và:
Kín tiếng nhưng lòng riêng xôn xaoAi thấy phong ba nơi bể hồn.
Anh vẫn như chiếc bóngQua lại bước êm runhưng:
Thịt da nào gợn sóngVang dội tên Kiều Thu !và:
Kín tiếng nhưng lòng riêng xôn xaoAi thấy phong ba nơi bể hồn.
Chúng
ta cũng hiểu, theo tâm lý học, khi con người càng cố gắng che dấu
tình cảm lộ ra bên ngoài bao nhiêu, thì sự dồn nén lại khiến đời sống
tình cảm bên trong càng thêm mãnh liệt bấy nhiêu. Chính vì sự khao
khát chung đôi không dám thổ lộ cùng ai nên nó đã lẩn vào trong tiềm
thức của Hoàng, rồi một đêm nào đó, nó hiện lên trong giấc mơ để giải
tỏa cho nỗi lòng khắc khoải bấy lâu. Chỉ trong mơ, Vũ Hoàng Chương mới
sống thực như lòng mình, và chàng đã say sưa giãi bầy hết chân tình
cùng ai:
Xuân đắm trong mơ một buổi chiều Bên em anh thấy sóng lòng xiêu Mê man giãi hết tình u ẩn Trong lúc điên rồ anh quá yêu.
Xuân đắm trong mơ một buổi chiều Bên em anh thấy sóng lòng xiêu Mê man giãi hết tình u ẩn Trong lúc điên rồ anh quá yêu.
Em cười chế riễu: “Anh thường bảo Ưa kiếp giang hồ sống lẻ loi . Sao anh nghĩ đến tình duyên sớm Gạn hỏi chiều nay chuyện lứa đôi”.
Cũng
vì sự khao khát được yêu nên trong thơ Hoàng còn thấy nàng Tố cười
cợt nhưng cũng đã cảm động rơi lệ. Đối với Hoàng thế là đủ, chàng đã
mãn nguyện, điều gì chàng muốn biết, đã biết. Giọi nước mắt ấy đã tố
cáo nàng đã yêu chàng (dù chỉ trong mơ thôi đấy nhé!)
Hỡi ơi một phút giây huyền ảo Đủ giẹp lòng anh sóng gió yên Anh sẽ trầm luân ngàn kiếp nhớ Cho dẫu ngày mai em lãng quên.
Hỡi ơi một phút giây huyền ảo Đủ giẹp lòng anh sóng gió yên Anh sẽ trầm luân ngàn kiếp nhớ Cho dẫu ngày mai em lãng quên.
Cuộc sống tạm yên phận như thế êm trôi như mơ:
Tháng năm dìu diu trôi mơ màng
Tháng năm dìu diu trôi mơ màng
Nàng
Tố vẫn sống yên ấm trong vòng tay thương yêu của gia đình, và Vũ
Hoàng Chương vẫn nhận được tình cảm quyến luyến đặc biệt của nàng dành
riêng cho chàng:
Coi chàng hơn bạn thiết Coi chàng hơn anh trai.
Coi chàng hơn bạn thiết Coi chàng hơn anh trai.
Cho đến một ngày kia Hoàng chợt nhận thấy cuộc sống của người yêu đã bắt đầu có sự đổi khác:
Em chẳng còn ham chơi, như trướcNhịp máu rung trời nước đâu đâuCó khi ngồi lặng giờ lâuVẩn vơ nét bút, đường khâu ngại ngùng.Xiết bao vẻ thẹn thùng e lệTrong làn thu cô bé năm xưa.
Em chẳng còn ham chơi, như trướcNhịp máu rung trời nước đâu đâuCó khi ngồi lặng giờ lâuVẩn vơ nét bút, đường khâu ngại ngùng.Xiết bao vẻ thẹn thùng e lệTrong làn thu cô bé năm xưa.
Mầm
mống báo hiệu của tuổi dậy thì nơi người thiếu nữ thế là đã rõ. Vũ
Hoàng Chương dù hiểu rằng con người ta cũng như vạn vật làm sao thoát
được luật vô thường, biến dịch của trời đất; thời gian trôi mau, sẽ
cuốn phăng đi tuổi xanh thơ mộng của người yêu và nàng sẽ đổi thay:
Khi bức rèm tuổi xanh mơ mộngĐã cuốn dần theo thời gian mau chóngLòng em thay đổi.
Khi bức rèm tuổi xanh mơ mộngĐã cuốn dần theo thời gian mau chóngLòng em thay đổi.
Nghĩ
tới đó, Vũ Hoàng Chương hoảng sợ... Có cái tâm trạng hoảng sợ này
cũng vì chàng biết chắc một ngày rất gần thôi, người yêu của chàng sẽ
trở thành một thiếu nữ tuyệt sắc, một ước mơ của cuộc đời và nàng sẽ
bị cuộc đời lôi cuốn theo:
Khi cô bé hôm nayChưa một ai ca tụng mê sayĐã trở thành trang thiếu nữCó phép thu hồn trong sóng thu tình tứKhi vẻ phong lưu tuyệt sắc của giai nhân:Đã điểm nên tranh, đã dệt nên vầnĐã rung lên muôn lời ca điệu hát.
Khi cô bé hôm nayChưa một ai ca tụng mê sayĐã trở thành trang thiếu nữCó phép thu hồn trong sóng thu tình tứKhi vẻ phong lưu tuyệt sắc của giai nhân:Đã điểm nên tranh, đã dệt nên vầnĐã rung lên muôn lời ca điệu hát.
Tương
lai chưa xảy ra, mà cũng mới chỉ là dự phóng của Hoàng thôi, chàng đã
tự đầy ải mình trong nỗi khổ đau của kẻ bị lãng quên:
Khi ấy, khi đời em đầy mộng tưởng
Như thủy trào dâng biển lớn mênh mông Đắm đuối trong tương lai, những giờ vui sẽ hưởng Không biết em còn nhớ đến tôi không?
Khi ấy, khi đời em đầy mộng tưởng
Như thủy trào dâng biển lớn mênh mông Đắm đuối trong tương lai, những giờ vui sẽ hưởng Không biết em còn nhớ đến tôi không?
Hoàng
không hề có mặc cảm thấp kém, thua sút thiên hạ, không thể với tới
được Tố mà đành cam phận con giun đất, hướng vọng về ngôi sao ở tận
mãi trên trời cao. Không, chàng học giỏi, thông minh, chính gia đình
Tố đã xác nhận điều này. Chàng đang theo học ban Tú tài Pháp ở trường
Trung Học Albert Sarraut, chàng đủ sức đỗ, và quả năm sau (1937) chàng
đã lấy được bằng Tú Tài Pháp ban toán; chàng cũng dư sức để giật lấy
mảnh bằng Cử nhân Luật như ai nếu chàng muốn, để trở thành mẫu người
ước mơ của xã hội thời ấy. Nhưng nếu thế Vũ Hoàng Chương đã chẳng còn
là thi sĩ Vũ Hoàng Chương của chúng ta nữa .
Hoàng tự biết mình không thể nào trở thành một ông Tri huyện đạo mạo, quyền thế, xét nét dân đen; chàng cũng không thể nào là một Luật sư tài danh đanh thép, hùng biện xoay không thành có, cãi có thành không; chàng không thể là gì gì nữa trong cái xã hội đầy phiền toái này, có nghĩa là chàng sẽ không thể đem lại hạnh phúc cho người chàng yêu. Vì ý thức rõ rệt như thế nên Vũ Hoàng Chương đã quyết định rời Tố đi xa. Chàng chấp nhận mọi thiệt thòi để người yêu sau này sẽ được hưởng hạnh phúc trong cuộc đời của nàng.
Nhưng vừa rời Tố ra đi Hoàng đã rơi ngay vào cái tâm trạng bơ vơ, trôi giạt thưở nào. Nói khác đi, chàng lại tự đầy ải mình trong kiếp đau thương của một kẻ đi đầy giữa cuộc đời:
Tôi lại bơ vơ đường quạnh vắng Chiếc lá khô tàn mặc gió đem. Ôi một kẻ đi đầy tuyệt vọng Suốt đời số mệnh chẳng buông tha.
Chàng chỉ còn biết tự an ủi bằng chút kỷ niệm vang bóng của những ngày đã qua:
Tôi theo đuổi chút gì vang bóng Yêu, vui, hồi hộp những ngày qua.
Tôi theo đuổi chút gì vang bóng Yêu, vui, hồi hộp những ngày qua.
Rồi
chính ý thức đau thương phải xa rời người yêu đã làm hoàng rộn lên
lòng thương xót đối với thế nhân, trong đó có người chàng yêu. Thế
nhân ngoài kia đang ngụp lặn trong thứ hạnh phúc xây dựng trên tài sắc
danh lợi những thứ phù du ấy một mai không còn nữa, con người dễ trở
nên tệ bạc, bội phản. Đã có bao nhiêu và sẽ còn bao nhiêu nạn nhân của
tình đời đen bạc này? Từ sự thương xót đó Hoàng đã tìm ra được niềm
vui trong ý nghĩa hy sinh:
Để gượng sống so dây thi nhạc Cao dâng lời thảm khúc bi ca Cho rung động loài người tệ bạc Cũng vì em, tình của đôi ta.
Để gượng sống so dây thi nhạc Cao dâng lời thảm khúc bi ca Cho rung động loài người tệ bạc Cũng vì em, tình của đôi ta.
Nói
rõ hơn, nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã tìm được thú đau thương trong sự
thiệt thòi thương đau của mình, nói như giáo sư Lê Tuyên trong Chinh
Phụ Ngâm Và Tâm Thức Lãng Mạn Của Kẻ Lưu Đầy (6): “Có đau thương mới
làm sáng được thiên đường của tình yêu”. Quả vậy, vì chính sự thiệt
thòi đau thương ấy đã làm tỏ rõ được tình yêu cao thượng của Hoàng, nó
sẽ giúp cảm hóa lòng người, làm khơi dậy được tình yêu chung thủy nơi
họ. Những điều này đã đem lại cho Hoàng niềm hạnh phúc, tự mãn.
Nhưng đã là tình yêu đích thực thuộc về thế giới thiêng liêng, huyền nhiệm của tâm hồn, và thế giới phức tạp chủ quan của tình cảm con người thì dễ đâu đem những lý luận thuộc về lý trí khách quan mà thuyết phục, mà giải quyết được. Thế nên, tuy dứt khoát bỏ ra đi, xa hẳn người yêu để nàng được yên sống trong thế giới của nàng, Vũ Hoàng Chương vẫn không nguôi được lòng thương nhớ, tưởng vọng ; mỗi giờ phút phải xa nàng là mỗi giờ phút khắc khoải, đớn đau:
Tự nhủ sống là quên, anh vẫn muốnĐem tháng ngày khâu kín vết chia ly.Nhưng mỗi phút thời gian đưa thép nhọnMáu thầm rơi mỗi phút đáy tim si.
Để chống chọi với nỗi nhớ nhung, đau thương của mình, Vũ Hoàng Chương đã tìm quên bằng mọi cách.
Chàng đắm mình trong những cuộc ăn chơi trác táng, hết gái, lại đến thuốc phiện, chàng tự chôn vùi nhân phẩm để mong nàng sẽ khinh rẻ, hắt hủi; tự ái có bị tổn thương va chạm, chàng mới có thể quên được nàng:
Anh lại muốn đắm mình trong trác táng Giữa mê ly đầy xác thịt kiêu sa. Nhưng mỗi lúc đêm tàn trời hửng sáng Anh khóc mùa trinh bạch sớm tiêu ma. Và anh cũng muốn thiêu hồn trong lửa đỏ Lượm tàn tro vang bóng gửi xa đem Nhưng mỗi lúc buông tay liều mặc gió Anh nhớ ngày thơ mộng sống bên em.
Chàng đắm mình trong những cuộc ăn chơi trác táng, hết gái, lại đến thuốc phiện, chàng tự chôn vùi nhân phẩm để mong nàng sẽ khinh rẻ, hắt hủi; tự ái có bị tổn thương va chạm, chàng mới có thể quên được nàng:
Anh lại muốn đắm mình trong trác táng Giữa mê ly đầy xác thịt kiêu sa. Nhưng mỗi lúc đêm tàn trời hửng sáng Anh khóc mùa trinh bạch sớm tiêu ma. Và anh cũng muốn thiêu hồn trong lửa đỏ Lượm tàn tro vang bóng gửi xa đem Nhưng mỗi lúc buông tay liều mặc gió Anh nhớ ngày thơ mộng sống bên em.
Có
ngờ đâu chính những kỷ niệm thơ mộng trong những ngày Hoàng được sống
gần gụi bên người chàng yêu đã làm sống dậy tình yêu trinh bạch thuở
ban đầu của chàng, và những hình ảnh ngây thơ trong sáng của nàng Tố
đã vô tình trở thành chiếc phao cứu nạn, giúp chàng thoát khỏi sự sa
lầy trong cuộc sống trụy lạc.
Những thú ăn chơi trác táng đã không thể giúp cho Vũ Hoàng Chương nguôi ngoai được nỗi đau khổ phải xa Tố, chàng bèn tìm quên trong kiếp sống giang hồ.
Nhưng đi đâu? Hết Na Sầm rồi Thanh Hóa, Lạng Sơn, nơi nào chàng cũng chỉ nhìn thấy ngoài trời một màu ảm đạm, còn trong lòng thì “nung nấu lòng dưa héo mòn”, chỉ vì:
Làm sao quên được tình ai Chàng Lưu còn nẻo Thiên Thai còn tìm.
Thế là nhà thơ của chúng ta đành xếp giáp tính chuyện quay về:
Mai anh bỏ kiếp giang hồ lại Đáy biển vừa rung động mũi kim Phải gắng thêu xong đường chỉ dở Uyên ương liền cánh mãi đôi chim.
Mai anh bỏ kiếp giang hồ lại Đáy biển vừa rung động mũi kim Phải gắng thêu xong đường chỉ dở Uyên ương liền cánh mãi đôi chim.
Ý
tưởng trở về phen này quyết tìm mọi cách để tiếp tục xây dựng tình
yêu cùng Tố, lo thực hiện mộng ước chung đôi với Tố vừa xuất hiện
trong tâm trí Vũ Hoàng Chương, thì mầu nhiệm thay tình yêu hạnh phúc
nơi chàng liền được hồi sinh. Không chỉ hồn chàng phơi phới mà tất cả
vạn vật được phóng nhìn qua con mắt yêu đời của chàng cũng như đổi
khác. Chúng không còn là những hiện tượng thiên nhiên vô hồn đơn giản
thực hữu nữa, mà đã trở nên sinh động vô cùng, chúng cũng đang ngan
ngát một mầu yêu:
Có một mùa thu đẹp chẳng ngờ Mây chiều giải lụa, sớm giăng tơ, Nắng thanh bình cũng vàng như bướm Hoa cũng vàng như nguyệt trẻ thơ.
Có một mùa thu đẹp chẳng ngờ Mây chiều giải lụa, sớm giăng tơ, Nắng thanh bình cũng vàng như bướm Hoa cũng vàng như nguyệt trẻ thơ.
Và
giờ đây chuỗi ngày hạnh phúc của tình yêu lứa đôi mới thực sự bắt
đầu. Đó là năm 1938, lúc này gia đình Tố đã rời phố Cầu Gỗ, dọn nhà về
phố Kỳ Đồng (tức Capitaine Bruisseau). Hạnh phúc tràn đầy quá, Vũ
Hoàng Chương đã phải thú nhận:
Bao nhiêu là chuyện thần tiên quá Nhẩy múa thi trong giấc mộng đầu.
Bao nhiêu là chuyện thần tiên quá Nhẩy múa thi trong giấc mộng đầu.
Tình
yêu của Vũ Hoàng Chương và Tố Uyển khởi đi từ lòng cảm mến hồn nhiên
của tuổi trẻ, do hoàn cảnh thân cận tạo nên đã đành; đây còn là tình
yêu thơ mộng, đồng điệu của đôi thanh niên nam nữ tính tình đằm thắm
đa cảm, vừa lớn lên, lại theo Tây học, chịu ảnh hưởng tư tưởng tự do,
giải phóng tình cảm cá nhân của văn chương Pháp. Nay tình yêu có điều
kiện nẩy nở, hẳn là một cơ hội tốt để tâm hồn họ rung động và tạo ra
biết bao mỹ cảm. Và trong bao nhiêu vốn sống tươi rói của cuộc tình
đầu này, Vũ Hoàng Chương đã biết ghi nhận lấy những khoảnh khắc nên
thơ nhất để thể hiện thành thi ca. Đây ta hãy nghe nhà thơ kể lại:
Nào những bữa cơm thân mật trong gia đình:
Những chiều đông rét mướt Cả nhà ngồi vây quanh Bàn ăn khói nghi ngút Bên em vẫn có anh. Nào những buổi đón học:
Em biết anh chờ em ngã ba Trường Thi, Ngõ Huyện vắng người qua Đi chung một quãng, chiều tan học Chẳng nói yêu mà yêu thiết tha.Nào những lúc trao thư:
Em biết anh chờ em ngã tư Hàng Khay, Hàng Trống để trao thư. Lời yêu chẳng viết nhưng trong ý Ta đã cùng chia một động từ.Hay những khi hờn dỗi:
Bài toán khó em hỏi Trêu cợt anh lắc đầu. Em hỏi thầy giáo chứ Anh biết làm toán đâu. Em giận không cười nữa Thôi thế anh về đi Trời! Anh về sao được!
Nào những bữa cơm thân mật trong gia đình:
Những chiều đông rét mướt Cả nhà ngồi vây quanh Bàn ăn khói nghi ngút Bên em vẫn có anh. Nào những buổi đón học:
Em biết anh chờ em ngã ba Trường Thi, Ngõ Huyện vắng người qua Đi chung một quãng, chiều tan học Chẳng nói yêu mà yêu thiết tha.Nào những lúc trao thư:
Em biết anh chờ em ngã tư Hàng Khay, Hàng Trống để trao thư. Lời yêu chẳng viết nhưng trong ý Ta đã cùng chia một động từ.Hay những khi hờn dỗi:
Bài toán khó em hỏi Trêu cợt anh lắc đầu. Em hỏi thầy giáo chứ Anh biết làm toán đâu. Em giận không cười nữa Thôi thế anh về đi Trời! Anh về sao được!
Thế rồi lại một phen Vũ Hoàng Chương phải ỉ ôi xin lỗi, nhưng cuối cùng thì “giận nhau càng yêu thêm”.
Tình yêu của Hoàng và Tố còn được nuôi dưỡng trong hương vị của văn chương. Thời bấy giờ trên các sách báo, những tiểu thuyết tình lãng mạn thơ mộng như Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng, Đôi Bạn của Nhất Linh... hay những bài thơ tình ảo mộng hay thiết tha, phóng túng của Hàn Mạc Tử, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Xuân Diệu... đang là những món ăn tinh thần thời thượng của giới trẻ. Trong thế giới tình cảm riêng của Hoàng và Tố, chàng cũng đang say sưa sáng tác không biết bao nhiêu vần thơ tình thắm thiết để tặng nàng:
Kiều Thu ơi thơ viết Trăm nghìn vần cho em Cũng chỉ là tiếng đập Từ sâu thẳm trái tim.
Tình yêu của Hoàng và Tố còn được nuôi dưỡng trong hương vị của văn chương. Thời bấy giờ trên các sách báo, những tiểu thuyết tình lãng mạn thơ mộng như Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng, Đôi Bạn của Nhất Linh... hay những bài thơ tình ảo mộng hay thiết tha, phóng túng của Hàn Mạc Tử, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Xuân Diệu... đang là những món ăn tinh thần thời thượng của giới trẻ. Trong thế giới tình cảm riêng của Hoàng và Tố, chàng cũng đang say sưa sáng tác không biết bao nhiêu vần thơ tình thắm thiết để tặng nàng:
Kiều Thu ơi thơ viết Trăm nghìn vần cho em Cũng chỉ là tiếng đập Từ sâu thẳm trái tim.
Tiếng
lòng thành thật bao giờ cũng dễ làm cảm động đối tượng, hơn nữa, Vũ
Hoàng Chương còn hiểu rất rõ hiệu lực những dòng thơ tình của chàng
đối với người yêu như thế nào:
Giòng chữ nghe ẩn hiện Ngọt ngào trên đôi môi Nồng say như gió biển Lùa trong nhịp máu trôi.
Giòng chữ nghe ẩn hiện Ngọt ngào trên đôi môi Nồng say như gió biển Lùa trong nhịp máu trôi.
Hậu quả tất nhiên đã đến với nàng Tố là:
Đủ các môn em học Mỗi bài cả trăm lần. Nhưng vang dội tim óc Toàn lời thơ ái ân!
Đủ các môn em học Mỗi bài cả trăm lần. Nhưng vang dội tim óc Toàn lời thơ ái ân!
Cuộc
tình ấy còn được tô bồi bởi trí tưởng tượng phong phú của thi sĩ, thế
nên nhiều khi từ cuộc sống hiện thực tác giả đã đi vào mộng lúc nào
không hay. Thực với mộng quyện lẫn vào nhau, phụ họa, tô điểm cho
nhau. Mộng nhờ có thực mà trở nên sinh động, có hồn. Thực cũng cần có
mộng để thêm thi vị, nên thơ.
Dù thực hay mộng, ta thấy Vũ Hoàng Chương đã thực sự được sống những giây phút hạnh phúc nhất trong tình yêu lứa đôi của loài người.
Dù thực hay mộng, ta thấy Vũ Hoàng Chương đã thực sự được sống những giây phút hạnh phúc nhất trong tình yêu lứa đôi của loài người.
Này đây những lúc cùng sánh bước dạo phố:
Ai biết chiều nay sánh bước Hàng Ngang, Hàng Trống, Hàng Khay Cả một trời anh mơ ước Mở trong tà áo em bay.Này đây chuyến đi chơi Hải Dương :
Mau xuống đò thôi kẻo mợ trông Gió lên, đò nhỏ xiêu chân sóng Vừa gỡ tay ra, vội nắm tay Đứng sát vai nhau liền cả bóng Tình ta ai gỡ nổi từ đây.Này đây là chuyến du xuân :
Theo gió xuân lên đường Ngọc Hà Nẻo về tươi nắng trại hàng hoa. Đến vườn Bách Thảo, anh reo khẽ: -Thượng uyển này riêng của chúng ta !
Đêm hôm ấy ra về, Vũ Hoàng Chương còn cảm thấy hồn mình ngây ngất mãi:
Đưa em về phố tạm chia tay Trở lại vườn khuya anh vẫn say. Trên đỉnh tình yêu hồn chót vót Tha hồ cọp hú lộng hơi may.
Đưa em về phố tạm chia tay Trở lại vườn khuya anh vẫn say. Trên đỉnh tình yêu hồn chót vót Tha hồ cọp hú lộng hơi may.
Tuy
vậy giữa hai người, tình yêu vẫn chưa một lần được lên tiếng chính
thức, được thú tội, vì nàng còn kiêu kỳ lắm, và chàng thi sĩ của chúng
ta cũng đâu có chịu thua:
Hai bên cùng kiêu kỳ như nhau E dè như nhau nên nghi ngờ Không ai cho ai lời yêu đầu Anh làm vô tình, em ngây thơ.
Hai bên cùng kiêu kỳ như nhau E dè như nhau nên nghi ngờ Không ai cho ai lời yêu đầu Anh làm vô tình, em ngây thơ.
Nhưng họ đóng vai trò ấy vụng về lắm, rõ là:
Đôi tim đóng then mà hớ hênh Đôi hồn kín bưng mà trống trênh.
Đôi tim đóng then mà hớ hênh Đôi hồn kín bưng mà trống trênh.
Thật
thế, nàng Tố chẳng cần phải viện đến giác quan thứ sáu bén nhậy của
người con gái nàng cũng dư biết tiếng lòng của ai, vì cái nhìn “đăm
đắm” cùng những hành động săn đón và những bài thơ mơ yêu của chàng .
Nhưng còn Vũ Hoàng Chương, chàng có đoán biết được tình ý của người yêu không? Có chứ, bằng nhiều cách lắm, trước hết là chính những cử chỉ hữu tình của nàng đã tự tố cáo tình yêu của nàng dành cho chàng :
Em đã nao lòng anh mê man Đuôi mắt, đầu môi tình chứa chan.
Nhưng còn Vũ Hoàng Chương, chàng có đoán biết được tình ý của người yêu không? Có chứ, bằng nhiều cách lắm, trước hết là chính những cử chỉ hữu tình của nàng đã tự tố cáo tình yêu của nàng dành cho chàng :
Em đã nao lòng anh mê man Đuôi mắt, đầu môi tình chứa chan.
Tình
yêu cũng như hương thơm của hoa, dù có dấu dưới hang cùng, hốc thẳm
nào, hương thơm của nó vẫn tỏa thoát ra bên ngoài, những kẻ cố tình
tìm hoa vẫn có thể dõi theo “dấu hương” mà tìm tới.
Sau nữa là nhờ sự mẫn cảm đặc biệt của nhà thơ, Vũ Hoàng Chương đã khám phá ra tiếng lòng thầm kín của người yêu, qua một vài điệu bộ, hành động và phản ứng của nàng , như:
Qua ánh mắt:
Đường về nhà quanh co thơm ngát Em nhìn anh chưa nhạt còn mê.Qua ánh mắt của người yêu, Hoàng đã hiểu là nàng muốn nói với chàng:
Đời em chẳng có anh sao được Lời nói say như một chén thề.Qua giọng nói thân thương, nũng nịu của ai kia, Hoàng cũng đã đoán được thâm tình trao gửi của nàng:
Em nói- Để em cài lại tóc Mà như trọn vẹn một đời trao.
Sau nữa là nhờ sự mẫn cảm đặc biệt của nhà thơ, Vũ Hoàng Chương đã khám phá ra tiếng lòng thầm kín của người yêu, qua một vài điệu bộ, hành động và phản ứng của nàng , như:
Qua ánh mắt:
Đường về nhà quanh co thơm ngát Em nhìn anh chưa nhạt còn mê.Qua ánh mắt của người yêu, Hoàng đã hiểu là nàng muốn nói với chàng:
Đời em chẳng có anh sao được Lời nói say như một chén thề.Qua giọng nói thân thương, nũng nịu của ai kia, Hoàng cũng đã đoán được thâm tình trao gửi của nàng:
Em nói- Để em cài lại tóc Mà như trọn vẹn một đời trao.
Lại như qua cử chỉ cúi đầu và phản ứng đỏ má:
Thấy anh đăm đắm nhìn Cúi đầu em đỏ má.
Thấy anh đăm đắm nhìn Cúi đầu em đỏ má.
Từ đó Hoàng đã nhìn ra tâm ý của người yêu:
Như hiểu niềm van xin
Như hẹn cho tất cả.
Như hiểu niềm van xin
Như hẹn cho tất cả.
Còn nữa, Vũ Hoàng Chương còn khám phá ra tình cảm của nàng dành cho chàng bằng lối lý luận rất trữ tình.
Đó là những cử chỉ” làm duyên” :
Bao nhiêu cử chỉ làm duyên ấy Đã mách tình em đủ lắm rồi. - Em đừng chối vô ích “ Làm duyên” là” yêu” rồi !
Đó là những cử chỉ” làm duyên” :
Bao nhiêu cử chỉ làm duyên ấy Đã mách tình em đủ lắm rồi. - Em đừng chối vô ích “ Làm duyên” là” yêu” rồi !
Đó là tiếng reo “thích nhỉ”:
Anh bảo em cố học Rồi mai chung một nghề. Chapa rừng núi đẹp Là chỗ ta đi chơi. Em reo thích nhỉ như vừa được Sống trước say sưa một quãng đời. - Cũng đừng chối vô ích “Thích nhỉ” là” yêu” rồi !Đó là sự” hờn dỗi” :
Một lá thư nhỏ nhắn Của cô nào không biết Anh cất trong túi áo Ngồi bên em đánh rơi Em vô tình bắt được Hờn dỗi mấy hôm trời. Nhưng đâu có phải anh lơ đễnh Anh muốn thử lòng em đấy thôi. - Càng chối càng vô ích “Hờn dỗi” là “yêu” rồi !
Anh bảo em cố học Rồi mai chung một nghề. Chapa rừng núi đẹp Là chỗ ta đi chơi. Em reo thích nhỉ như vừa được Sống trước say sưa một quãng đời. - Cũng đừng chối vô ích “Thích nhỉ” là” yêu” rồi !Đó là sự” hờn dỗi” :
Một lá thư nhỏ nhắn Của cô nào không biết Anh cất trong túi áo Ngồi bên em đánh rơi Em vô tình bắt được Hờn dỗi mấy hôm trời. Nhưng đâu có phải anh lơ đễnh Anh muốn thử lòng em đấy thôi. - Càng chối càng vô ích “Hờn dỗi” là “yêu” rồi !
Cùng
với những khám phá trên, nhà thơ của chúng ta còn đưa ra một lý luận
rất lô gích, rất hợp, tình hợp lý để được yên tâm sống trong hạnh phúc
tuyệt vời của tình yêu lứa đôi:
Bao nhiêu năm gần gũi Bao nhiêu ngày bên nhau. Anh có phải là sắt Em có là gỗ đâu. Nụ cười đuôi mắt say sưa ấy Đã hẹn yêu anh đến bạc đầu.
Bao nhiêu năm gần gũi Bao nhiêu ngày bên nhau. Anh có phải là sắt Em có là gỗ đâu. Nụ cười đuôi mắt say sưa ấy Đã hẹn yêu anh đến bạc đầu.
Thế
nên Vũ Hoàng Chương đã chấp nhận tình yêu mà không cần nàng phải hứa
hẹn, thề thốt gì, và còn cho đấy là sắc thái riêng của một tình yêu êm
đẹp tuyệt vời:
Không cần phải hẹn hứa Không cần nói yêu nhau. Không yêu mà vẫn là yêu đấy Êm đẹp làm sao giấc mộng đầu !
Không cần phải hẹn hứa Không cần nói yêu nhau. Không yêu mà vẫn là yêu đấy Êm đẹp làm sao giấc mộng đầu !
2- TỐ CỦA HOÀNG ƠI HỠI NHỚ THƯƠNG!Thời
gian êm trôi cho đến chuỗi ngày Tố Uyển sửa soạn đi thi Trung học.
Mỗi chủ nhật thầy giáo Ngải soạn đề thi thử về toán và pháp văn thì Vũ
Hoàng Chương cũng tất bật lo soạn đề thi thử về Anh văn cho hai chị
em Tố. Nhiều tối ghé chơi, nhưng rồi chàng lại nấn ná ở lại tới khuya
để giảng thêm bài cho chị em nàng:
Mùa thi rối gương lược Anh sửa soạn cho em Ngay từ nửa tháng trước Ngồi khuya đêm lại đêm. ... Anh ngồi bên học giúp Cho em mau thuộc bài.Không biết lối học thi như thế có làm cho nàng Tố “mau thuộc bài” thật không, nhưng chúng ta biết chắc chắn là nhà thơ của chúng ta rất hạnh phúc :
Thời gian rót hạnh phúc Bao nhiêu đêm ngồi kề Bấy nhiêu vòng khăng khít Buộc đôi hồn si mê.Rồi ngày thi tới, những buổi nàng đi thi, dù đã có bác xe đưa đón, Vũ Hoàng Chương vẫn không bao giờ vắng mặt:
Đưa nhau ríu rít đón nhau về Ngày lại ngày cho tình càng mê.Ngày Vũ Hoàng Chương đi xem bảng cho Tố Uyển cũng để lại một kỷ niệm đẹp khó quên trong lòng chàng. Thấy tên nàng đỗ, Vũ Hoàng Chương vui mừng khôn xiết vội phóng xe về nhà người yêu, chàng vừa thấy bà Tư đứng nơi cửa ra vào, dù chưa kịp gác xe vào vỉa hè, chàng đã vội rối rít báo tin vui — Tố đỡ rồi! -Tố đỗ rồi! Chàng reo to quá đến cả xóm đều nghe thấy.
Đó là giữa năm 1939, lúc này Tố Uyển đã được 18 tuổi, đang ở cái tuổi thanh xuân mơn mởn đào tơ của người con gái. Nàng đẹp nổi tiếng, trong tác phẩm “Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi” xuất bản tại Mỹ Quốc, 1990, Tạ Tỵ cũng phải công nhận điều này.
Đây cũng là lúc đang có phong trào kén chồng theo quan điểm “phi cao đẳng bất thành phu phụ” của các cô gái gia thế Hà thành. Mấy cô bạn học của Tố hầu hết đã nhận trầu cau của các ông Bác sĩ, Luật sư đâu đấy cả rồi. Tố Uyển cũng có nhiều chàng trai danh giá “rắp ranh bắn sẻ”, và bà Tư rất hãnh diện về con gái. Nhưng vì đã có thiện cảm với Vũ Hoàng Chương, bà Tư còn biết nhà thơ yêu con gái mình tha thiết, bà thương nhà thơ hơn nữa ở điểm khi tiếp xúc với họ hàng nội ngoại của ông bà, Vũ Hoàng Chương đều thưa gửi -cô -dì -chú –bác... theo như chị em Tố, như chàng đã là người nhà của gia đình bà.
Mùa thi rối gương lược Anh sửa soạn cho em Ngay từ nửa tháng trước Ngồi khuya đêm lại đêm. ... Anh ngồi bên học giúp Cho em mau thuộc bài.Không biết lối học thi như thế có làm cho nàng Tố “mau thuộc bài” thật không, nhưng chúng ta biết chắc chắn là nhà thơ của chúng ta rất hạnh phúc :
Thời gian rót hạnh phúc Bao nhiêu đêm ngồi kề Bấy nhiêu vòng khăng khít Buộc đôi hồn si mê.Rồi ngày thi tới, những buổi nàng đi thi, dù đã có bác xe đưa đón, Vũ Hoàng Chương vẫn không bao giờ vắng mặt:
Đưa nhau ríu rít đón nhau về Ngày lại ngày cho tình càng mê.Ngày Vũ Hoàng Chương đi xem bảng cho Tố Uyển cũng để lại một kỷ niệm đẹp khó quên trong lòng chàng. Thấy tên nàng đỗ, Vũ Hoàng Chương vui mừng khôn xiết vội phóng xe về nhà người yêu, chàng vừa thấy bà Tư đứng nơi cửa ra vào, dù chưa kịp gác xe vào vỉa hè, chàng đã vội rối rít báo tin vui — Tố đỡ rồi! -Tố đỗ rồi! Chàng reo to quá đến cả xóm đều nghe thấy.
Đó là giữa năm 1939, lúc này Tố Uyển đã được 18 tuổi, đang ở cái tuổi thanh xuân mơn mởn đào tơ của người con gái. Nàng đẹp nổi tiếng, trong tác phẩm “Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi” xuất bản tại Mỹ Quốc, 1990, Tạ Tỵ cũng phải công nhận điều này.
Đây cũng là lúc đang có phong trào kén chồng theo quan điểm “phi cao đẳng bất thành phu phụ” của các cô gái gia thế Hà thành. Mấy cô bạn học của Tố hầu hết đã nhận trầu cau của các ông Bác sĩ, Luật sư đâu đấy cả rồi. Tố Uyển cũng có nhiều chàng trai danh giá “rắp ranh bắn sẻ”, và bà Tư rất hãnh diện về con gái. Nhưng vì đã có thiện cảm với Vũ Hoàng Chương, bà Tư còn biết nhà thơ yêu con gái mình tha thiết, bà thương nhà thơ hơn nữa ở điểm khi tiếp xúc với họ hàng nội ngoại của ông bà, Vũ Hoàng Chương đều thưa gửi -cô -dì -chú –bác... theo như chị em Tố, như chàng đã là người nhà của gia đình bà.
Ngoài
ra bà cũng đoán biết phần nào tình ý của con gái nên bà không nề gì
nhà thơ vẫn còn lẹt đẹt ở năm thứ nhất trường Luật (Vũ Hoàng Chương
chỉ ghi danh rồi đi học phất phơ vài buổi, chàng không thấy hợp nên có
học gì đâu mà thi với đỗ!). Bà vẫn có ý tác thành cho đôi trẻ nên vợ
nên chồng, vì bà đã dự tính, sau này gả con cho nhà thơ rồi bà sẽ cho
“hai đứa” đi Pháp du học.
Riêng Vũ Hoàng Chương, chàng cũng hiểu đã đến lúc phải về thưa chuyện với cha mẹ đem trầu cau đến xin Tố cho mình. Ngờ đâu dông bão đã xảy ra, ông bà Tri huyện đã giận Vũ Hoàng Chương không chịu đi hỏi con gái quan Bố chánh theo ý muốn của ông bà, nên đã thẳng tay gạt bỏ chuyện xin đi cầu hôn của con. Ông bà chê Tố là học trò trẻ con, lại theo Tây học nhăng nhít, không thể về làm dâu một gia đình nề nếp quan cách như gia đình ông bà; còn bà Tư, mẹ của Tố, là dân buôn bán (bà Tư hồi đó đang có cửa hàng xuất nhập cảng giấy) lại quá trẻ (mới có ba mươi tám tuổi), không xứng thông gia!
Bao nhiêu mộng ước đang đến hồi đẹp nhất, cao điểm nhất nay bỗng bị cha mẹ phản đối quyết liệt đã khiến Vũ Hoàng Chương choáng váng, đớn đau; chàng còn vô cùng khổ sở và ngượng ngùng khi nghĩ đến gia đình Tố Uyển, vì chàng biết giải thích ra sao? Biết nói gì bây giờ? Thế là chàng trốn luôn, không dám bén mảng đến nhà Tố nữa.
Riêng Vũ Hoàng Chương, chàng cũng hiểu đã đến lúc phải về thưa chuyện với cha mẹ đem trầu cau đến xin Tố cho mình. Ngờ đâu dông bão đã xảy ra, ông bà Tri huyện đã giận Vũ Hoàng Chương không chịu đi hỏi con gái quan Bố chánh theo ý muốn của ông bà, nên đã thẳng tay gạt bỏ chuyện xin đi cầu hôn của con. Ông bà chê Tố là học trò trẻ con, lại theo Tây học nhăng nhít, không thể về làm dâu một gia đình nề nếp quan cách như gia đình ông bà; còn bà Tư, mẹ của Tố, là dân buôn bán (bà Tư hồi đó đang có cửa hàng xuất nhập cảng giấy) lại quá trẻ (mới có ba mươi tám tuổi), không xứng thông gia!
Bao nhiêu mộng ước đang đến hồi đẹp nhất, cao điểm nhất nay bỗng bị cha mẹ phản đối quyết liệt đã khiến Vũ Hoàng Chương choáng váng, đớn đau; chàng còn vô cùng khổ sở và ngượng ngùng khi nghĩ đến gia đình Tố Uyển, vì chàng biết giải thích ra sao? Biết nói gì bây giờ? Thế là chàng trốn luôn, không dám bén mảng đến nhà Tố nữa.
Duyên tình thì trắc trở lại không được gặp mặt người yêu, Vũ Hoàng Chương làm sao tránh khỏi buồn khổ. Chàng chỉ còn một cách là cố gắng tìm quên, và chàng đã tìm quên trong những thú say sưa. Chúng ta hãy nghe nhà thơ nói về cái say nhẩy đầm và say rượu xem chàng có thành công hay không?
Ánh đèn tha thướtLưng mềm não nuột dáng tơHàng chân lả lướtĐê mê hồn gửi cánh tay hờ.
Âm ba gờn gợn nhỏ Ánh sáng phai phai dần Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân Lui đôi vai, tiến đôi chân Riết đôi tay, ngả đôi thân Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió Không biết nữa mầu xanh hay sắc đỏ Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta. Say đi em, say đi em Say cho lơi lả ánh đèn Cho cung bậc ngả nghiêng điên rồ xác thịt Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết! Ta quá say rồi sắc ngả, mầu trôi Gian phòng không đứng vững Có ai ghì hư ảnh sát kề môi.
Những
đoạn thơ trong bài “Mời Say” trên được in trong thi tập “Thơ Say”,
tác phẩm đầu tay của Vũ Hoàng Chương, xuất bản vào năm 1940 tại Hà
Nội, đã cho chúng ta thấy nghệ thuật độc đáo của bài thơ này chính là ở
chỗ tác giả như không cố ý làm nghệ thuật, nhà thơ cứ để cho những
cảm giác và cảm xúc của mình trào ra thành thơ, lướt trên đầu ngọn
bút. Cái tài hoa, cái duyên dáng trong thơ Vũ Hoàng Chương lộ ra rất
rõ trong những từ ngữ gợi tả hình ảnh, ánh sáng, mầu sắc, âm thanh,
cảm giác và cảm xúc; sau nữa là nhạc điệu của bài thơ uyển chuyển,
thanh thoát vô cùng, tất cả đã giúp vào việc dẫn khởi đưa tâm hồn
người thưởng ngoạn đi vào thế giới chuếnh choáng men say, chập chờn
trong vũ điệu “tango” phóng túng (tango de fantaisie) và bồng bềnh
trong tiếng nhạc, mờ ảo trong ánh sáng...
Trở lại với Vũ Hoàng Chương, ta thấy cho đến lúc dù chàng đã say mèm, “say không còn biết chi đời”, đến gần như vô tri, vô giác thế mà trong tiềm thức của nhà thơ, mối sầu vẫn sừng sững như thành, không làm sao sụp đổ :
Trong men cháy giác quan vừa bén lửaSay không còn biết chi đời.Nhưng em ơi đất trời nghiêng ngửaMà trước mắt thành sầu chưa sụp đổĐất trời nghiêng ngửaThành sầu không sụp đổ em ơi!
Không
biết đã từng có ai mượn cách say men, say khói mà quên được sầu
không, riêng Vũ Hoàng Chương chàng thấy mình càng say bao nhiêu thì
mối sầu lại như càng thấm thía, càng lắng sâu bấy nhiêu:
Có ai say để quên sầu Lòng ta lảo đảo càng sâu vết buồn.
Có ai say để quên sầu Lòng ta lảo đảo càng sâu vết buồn.
Lại
nói đến gia đình bà Tư, sau ngày Tố Uyển thi đỗ bằng Trung Học Đệ
Nhất Cấp, gia đình ông bà Tư hơi lấy làm lạ vì không thấy Vũ Hoàng
Chương lại chơi như trước, thời gian này kéo dài có đến cả nửa năm.
Rồi một hôm cô Viên, em họ Vũ Hoàng Chương, đồng thời cũng là bạn của
Tố lại chơi, cho biết tự sự. Gia đình bà Tư bị va chạm tự ái nên rất
bực mình, và được biết Vũ Hoàng Chương đã bỏ học đi làm phó kiểm soát
viên sở Hỏa Xa Đông Dương. Ít lâu sau lại thấy Hoàng thỉnh thoảng ghé
thăm, biết Hoàng vẫn níu hy vọng, không muốn cắt đứt. Gia đình Tố tuy
giận ông bà Tri Huyện, nhưng nhìn thấy Hoàng thì lại thương nên có ý
nấn ná đợi chờ. Trong thời gian này Vũ Hoàng Chương và Tố Uyển tuyệt
nhiên không gặp nhau riêng lần nào.
Bà Tư đã có lần gọi Vũ Hoàng Chương ra nói chuyện, bà cho biết bà sẵn sàng gả Tố cho chàng, nhưng điều kiện tiên quyết là ông bà Tri huyện phải đến xin hỏi cưới đàng hoàng.
Lẽ tất nhiên là phải như vậy, vì ảnh hưởng Nho giáo còn nặng nề trong xã hội Việt Nam ta thưở ấy. Thế là vì danh giá gia đình, vì danh giá của Tố, ông bà Tư không thể chấp nhận gả con cho Vũ Hoàng Chương mà không có sự đồng ý của cha mẹ chàng.
Thấm thoát đã gần hai năm trôi qua, không thấy ông bà Tri huyện thăm viếng hay đánh tiếng gì, và những tháng sau cùng Vũ Hoàng Chương cũng bặt tăm luôn, ông bà Tư hiểu là chuyện chờ đợi không đi đến đâu, và cũng vì tự ái, ông bà bèn hết lời khuyên giải Tố để nàng hiểu rằng, nàng đã 20 tuổi rồi, đã đứng tuổi rồi, (thời đó con gái 20 tuổi đã cho là già, sắp ế chồng!), nay bao nhiêu người danh giá hỏi không nhận lời đi, đến khi quá lứa lỡ thì lấy ai được nữa! Và Vũ Hoàng Chương chắc cũng chẳng yêu tha thiết gì Tố, nếu không, chàng phải cố gắng học hành để tỏ ra xứng đáng với nàng chứ? Nhất là đã từ lâu Vũ Hoàng Chương chỉ thỉnh thoảng ghé thăm phất phơ chứ không tỏ ra tha thiết thân tình như xưa nữa.
Tố là gái mới lớn, thấy Vũ Hoàng Chương cũng xứng đáng lại yêu mình tha thiết, làm bao nhiêu thơ ca tụng mình, bảo sao nàng không cảm động? Và Tố đã yêu lại Vũ Hoàng Chương, điều đó không thể phủ nhận, nhưng nàng tất nhiên không yêu si mê như chàng đã yêu nàng. Nay thấy chàng hờ hững, cha mẹ chàng lại chê nàng không chịu đi hỏi, tự ái của một cô gái vừa đẹp, vừa học giỏi lại con nhà giàu bị quá tổn thương, làm sao nàng không buồn tủi? Nàng lại thương mẹ, biết mẹ lo lắng cho mình, nên cuối cùng nàng đã nghe lời, chấp nhận tìm hiểu ông Cương là người vừa đỗ Cử Nhân Luật mà bà nội nàng đã có ý chọn cho. Sau ba bốn lần gặp gỡ, Tố chưa yêu ông Cương nhưng cũng thấy chẳng có gì để phản đối, mẹ ông Cương lại thúc giục, thế là gia đình nàng cho tiến hành lễ Trạm ngõ (khoảng tháng 3,1941).
Đúng một tháng sau, bà huyện, mẹ Vũ Hoàng Chương cùng với cụ mẹ chồng cô em gái ông huyện đến thăm ông bà Tư, ướm lời hỏi Tố cho Vũ Hoàng Chương, nếu bằng lòng thì nhà trai sẽ đưa lễ vật.
Hỡi ơi, đến lúc ông bà huyện kịp nhìn thấu nỗi lòng của con, biết thương con thì đã muộn rồi, đã lỡ làng hết rồi.
Khi Vũ Hoàng Chương biết tin Tố Uyển đã nhận trầu cau của người khác thì quá thất vọng, lâu đài tình ái sụp đổ tan tành. Trước kia chỉ là sự cản trở của cha mẹ thì chàng còn có thể thuyết phục, nay nàng đã nhận lời người ta thì vô phương rồi. Quá bất mãn trước thực tại phũ phàng:
Tình đã mấtSự nghiệp khôngCuộc đời chẳng chí hướng
Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóngXô về Đông hay giạt đến non ĐoàiXa mặt đất giữa vô cùng cao rộngLòng cô đơn cay đắng họa dần vơi.
Vũ Hoàng Chương mang tâm trạng lạc loài, chơ vơ, u uất của một kẻ đầu thai lầm thế kỷ, bị lưu đầy giữa cuộc đời kiêu bạc; nơi đây không phải là chốn cho những người có tâm hồn mơ mộng, giản dị như chàng dung thân, và chàng mong được thoát đi, đến một phương trời xa vời, thanh thản nào đó :
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷMột đôi người u uất nỗi chơ vơ.Đời kiêu bạc không dung hồn giản dịThuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ.
Tưởng đâu Vũ Hoàng Chương đã gặp Baudelaire qua bài Élévations:
Envole-toi bien loin de ces miasmes morbidesVa te purifier dans l’air supérieurEt bois, comme une pure et divine liqueurLe feu clair qui remplit les espaces limpides.
Nhưng không hẳn thế, Baudelaire mang tâm trạng của kẻ bị lưu đầy trong một thế giới đầy phiền muộn và chồng chất những khổ đau, và nhà thơ này mong mỏi được sống trong một thế giới tràn ngập ánh sáng và thanh tịnh:
Derrière les ennuis et les vastes chagrins Qui chargent de leurs poids l'existence brumeuse. Heureux celui qui peut d'une aile vigoureuse S'élancer vers les champs lumineux et sereins
(Còn tiếp)
PHẠM THỊ NHUNG (Paris)
THIÊN TÌNH SỬ CỦA
THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
(Tiếp theo Cỏ Thơm số 34)
Vũ Hoàng Chương trái lại, chỉ mong một cuộc sống giản dị, thanh thoát:
Thuyền ơi thuyền, xin ghé bến hoang sơ!
Cho đến ngày cưới Tố Uyển — ngày 12 tháng 6 năm Tân tị (1941) — phải nói là tới ngày hôm đó nỗi đau thương bi phẫn của Vũ Hoàng Chương mới thực sự bùng nổ mãnh liệt, như vết thương mưng mủ lâu ngày nay bật vỡ, máu mủ tung tóe.
Ba tháng trước đó, dù biết Tố đã nhận trầu cau của người ta, sẽ là vợ của người ta, dù gì Tố vẫn chưa hoàn toàn thuộc về người ta, nhưng hôm nay, ngày nàng bước lên xe hoa về nhà chồng, Vũ Hoàng Chương đã thực sự mất nàng:
Là thế, là thôi, là thế đó
Mười năm thôi thế mộng tan tành!
-Tình ta, ta tiếc cuồng ta khóc
Tố của Hoàng, nay Tố của ai?
THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
(Tiếp theo Cỏ Thơm số 34)
Vũ Hoàng Chương trái lại, chỉ mong một cuộc sống giản dị, thanh thoát:
Thuyền ơi thuyền, xin ghé bến hoang sơ!
Cho đến ngày cưới Tố Uyển — ngày 12 tháng 6 năm Tân tị (1941) — phải nói là tới ngày hôm đó nỗi đau thương bi phẫn của Vũ Hoàng Chương mới thực sự bùng nổ mãnh liệt, như vết thương mưng mủ lâu ngày nay bật vỡ, máu mủ tung tóe.
Ba tháng trước đó, dù biết Tố đã nhận trầu cau của người ta, sẽ là vợ của người ta, dù gì Tố vẫn chưa hoàn toàn thuộc về người ta, nhưng hôm nay, ngày nàng bước lên xe hoa về nhà chồng, Vũ Hoàng Chương đã thực sự mất nàng:
Là thế, là thôi, là thế đó
Mười năm thôi thế mộng tan tành!
-Tình ta, ta tiếc cuồng ta khóc
Tố của Hoàng, nay Tố của ai?
Về
phương diện lý trí, Vũ Hoàng Chương rất hiểu, chàng là kẻ mộng mơ,
luôn luôn cảm thấy xa lạ, lạc lõng với cuộc đời, chàng không thể nào
hội nhập hoàn toàn vào cuộc sống của thế nhân để trở thành ước mơ của
cuộc đời, chàng đã bỏ thi Luật chẳng là một bằng cớ đó sao? Như thế,
chàng không thể đem lại hạnh phúc cho người yêu - người của cuộc đời -
Và chàng đã chẳng từng bỏ đi xa để Tố được yên thân sống cuộc đời của
nàng đó sao? Vậy nay, nàng đi lấy chồng chỉ là một lẽ tất nhiên thôi.
Nhưng về phương diện tình cảm, Vũ Hoàng Chương trăm ngàn lần không bao giờ chấp nhận điều này. Chàng đã yêu nàng bằng mối tình tuyệt đối, chàng đã yêu nàng với tất cả tâm hồn trong trắng và tấm tình si mê của mình:
Cũng như lúc mảnh hồn trong trắng
Với tình si trao hết cho em.
Và chàng đã tự hứa với mình:
Cho đến ngày tận thế
Tình ta như buổi đầu
“Anh yêu em” ba chữ
Cùng trời đất dài lâu.
Nhưng về phương diện tình cảm, Vũ Hoàng Chương trăm ngàn lần không bao giờ chấp nhận điều này. Chàng đã yêu nàng bằng mối tình tuyệt đối, chàng đã yêu nàng với tất cả tâm hồn trong trắng và tấm tình si mê của mình:
Cũng như lúc mảnh hồn trong trắng
Với tình si trao hết cho em.
Và chàng đã tự hứa với mình:
Cho đến ngày tận thế
Tình ta như buổi đầu
“Anh yêu em” ba chữ
Cùng trời đất dài lâu.
Chính vì nhà thơ cứ đinh ninh nàng Tố cũng chung tình, cũng chung thủy như chàng, nàng đã là của chàng và sẽ mãi mãi là của riêng chàng, nên chuyện Tố lấy chồng đã là một biến cố khốc liệt đối với chàng. Ý tưởng mất người yêu vĩnh viễn này thảm thiết đến nỗi làm Vũ Hoàng Chương nhiều lúc tưởng điên dại. Rồi những xúc cảm từ trái tim quá đau khổ ấy đã tuôn trào ra đầu ngọn bút thành những dòng thơ trữ tình cuồng nhiệt, nói như Musset (9)
C’est le coeur qui parle et qui soupire
Lorsque la main écrit, c’est le coeur qui se fond.
Và chính những xúc cảm đau thương hiện thực này đã làm nên không khí bài thơ « Mười Hai Tháng Sáu »:
Trăng của ai trăng một phương
Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường
Ờ đêm tháng sáu mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương!
Là thế là thôi là thế đó
Mười năm thôi thế mộng tan tành
Mười năm trăng cũ ai nguyền ước?
Tố của Hoàng ơi, Tố của anh !
Tháng sáu mười hai từ đây nhé
Chung đôi — Từ đây nhé lìa đôi
Em xa lạ quá đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi !
Men khói đêm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu ghi mười hai
Tình ta, ta tiếc, cuồng ta khóc
Tố của Hoàng, nay Tố của ai?
Tay gõ vào bia mười ngón rập
Mười năm theo máu hận trào rơi
Học làm Trang tử thiêu cơ nghiệp
Khúc Cổ Bồn ca gõ hát chơi
Bia đề tháng sáu ghi mười hai
Tình ta, ta tiếc, cuồng ta khóc
Tố của Hoàng, nay Tố của ai?
Tay gõ vào bia mười ngón rập
Mười năm theo máu hận trào rơi
Học làm Trang tử thiêu cơ nghiệp
Khúc Cổ Bồn ca gõ hát chơi
Kiều Thu hề! Tố em ơi
Ta đang lửa đốt tơi bời mái Tây
Hàm ca nhịp gõ khói bay
Hồ xừ xang xế bàn tay điên cuồng.
Kiều Thu hề! Trọn kiếp thương
Sâu cao ngùn ngụt mây dường tơ khô.
Xừ xang xế xự xang hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên.
Kiêu Thu hề! Tố hỡi em
Nghiên chân rốn bể mà xem lửa bùng.
Xế hồ xang, khói mờ rung
Nhịp vươn sầu tỏa năm cung ngút ngàn.
Ta đang lửa đốt tơi bời mái Tây
Hàm ca nhịp gõ khói bay
Hồ xừ xang xế bàn tay điên cuồng.
Kiều Thu hề! Trọn kiếp thương
Sâu cao ngùn ngụt mây dường tơ khô.
Xừ xang xế xự xang hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên.
Kiêu Thu hề! Tố hỡi em
Nghiên chân rốn bể mà xem lửa bùng.
Xế hồ xang, khói mờ rung
Nhịp vươn sầu tỏa năm cung ngút ngàn.
Những
lời thơ ở đoạn đầu trong bài «Mười Hai Tháng Sáu» đã cho chúng ta tận
thấy nỗi đau thương thống thiết, tiếc hận khôn nguôi, uất ức nghẹn
ngào của Vũ Hoàng Chương cứ theo từng đợt, từng đợt thổn thức của cõi
lòng mà nấc lên thành tiếng:
Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương!
Tố của Hoàng ơi, Tố của anh!
Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi!
Tố của Hoàng, nay Tố của ai?
Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương!
Tố của Hoàng ơi, Tố của anh!
Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi!
Tố của Hoàng, nay Tố của ai?
Sang
đến đoạn hai của bài thơ thì mối sầu hận kia đã đến lúc kết đọng lại,
Vũ Hoàng Chương tưởng chừng có thể dựng thành mồ, và ngày mười hai
tháng sáu, ngày Tố Uyển lên xe hoa về nhà chồng đã như một vết dao
chém quá sâu vào trái tim của nhà thơ, vết thương này đối với chàng
không thể nào phai lạt, dường như đã khắc thành bia. Sự giầu tưởng
tượng đó đã kích thích thêm cho xúc cảm, khiến cho nỗi uất hận, thương
đau tăng thêm mãi. Khi mối xúc cảm tăng lên đến mức độ nào đó nó sẽ
làm cho nhà thơ như say, như mê, như cuồng dại đi, bất chợt chàng như
kẻ nhập đồng, cao hứng gõ tay vào bia mà ca khúc “Cổ Bồn”. Chàng học
đòi Trang Tử (đời Chu) thuở nào, sau khi biết vợ bội phản, nàng quá
xấu hổ đã thắt cổ tự tận. Trang Tử lấy tay gõ vào chậu đồng mà ca,
than cho tình đời đen bạc, đoạn thiêu đốt hết cơ nghiệp rồi bỏ đi xa.
Vũ Hoàng Chương cũng đang mang tâm trạng đau khổ và thái độ chán
chường ấy của Trang Tử.
Những từ ngữ biểu cảm dồn dập trong bài thơ « Mười Hai Tháng Sáu » như: - tay gõ mười ngón rập - máu hận trào rơi - lữa đốt tơi bời - nhịp gõ bàn tay điên cuồng - sầu cao - nhịp gõ điên rồ - lữa bùng - nhịp vươn - sầu tỏa - năm cung ngút ngàn; với những tiếng “hề” trong:
Kiều Thu hề! Tố em ơi
Kiều Thu hề! trọn kiếp thương
Cùng những nốt nhạc:
Hồ -xang - xế -xự -xang - hồ
và:
Xế - hồ - xang
Đệm vào đã tạo nên cái không khí hơi man dại của đoạn thơ. Nhờ đó đã cực tả được cái vẻ chuếch choáng của một kẻ thần trí nửa điên, nửa dại, nửa cuồng tâm... vừa gõ nhịp vừa ca một cách mê man, đến nỗi mười đầu ngón tay rập nát mà không hay. Vẫn biết đây là một lối nói cường điệu, nhưng Vũ Hoàng Chương đã tạo được cho ta cái cảm tưởng chỉ có cái đau về thể xác như thế mới diễn tả hết được cái đau về tinh thần của tác giả lúc ấy. Đây cũng là trường hợp của Thúy Kiều khi phải hầu đàn Hồ Tôn Hiến là kẻ vừa lừa giết Từ Hải, chồng nàng:
Một cung gió thắm mùa sầu
Bốn giây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
(Kiều, Nguyễn Du).
Những từ ngữ biểu cảm dồn dập trong bài thơ « Mười Hai Tháng Sáu » như: - tay gõ mười ngón rập - máu hận trào rơi - lữa đốt tơi bời - nhịp gõ bàn tay điên cuồng - sầu cao - nhịp gõ điên rồ - lữa bùng - nhịp vươn - sầu tỏa - năm cung ngút ngàn; với những tiếng “hề” trong:
Kiều Thu hề! Tố em ơi
Kiều Thu hề! trọn kiếp thương
Cùng những nốt nhạc:
Hồ -xang - xế -xự -xang - hồ
và:
Xế - hồ - xang
Đệm vào đã tạo nên cái không khí hơi man dại của đoạn thơ. Nhờ đó đã cực tả được cái vẻ chuếch choáng của một kẻ thần trí nửa điên, nửa dại, nửa cuồng tâm... vừa gõ nhịp vừa ca một cách mê man, đến nỗi mười đầu ngón tay rập nát mà không hay. Vẫn biết đây là một lối nói cường điệu, nhưng Vũ Hoàng Chương đã tạo được cho ta cái cảm tưởng chỉ có cái đau về thể xác như thế mới diễn tả hết được cái đau về tinh thần của tác giả lúc ấy. Đây cũng là trường hợp của Thúy Kiều khi phải hầu đàn Hồ Tôn Hiến là kẻ vừa lừa giết Từ Hải, chồng nàng:
Một cung gió thắm mùa sầu
Bốn giây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
(Kiều, Nguyễn Du).
Tóm
lại, bài thơ « Mười Hai Tháng Sáu » này cũng ở trường hợp như bài «
Mời Say ». Chính cảm xúc đã làm nên nghệ thuật. Ở đây những xúc cảm
đau thương của Vũ Hoàng Chương đã thoát ra thành thơ, đó là tiếng thơ
hay nhất của tác giả, rõ là những lời tuyệt diệu là lời đau thương như
Afred de Musset đã nói: “le chants désespérés sont les chants les
plus beaux”
(Nuit de Mai).
(Nuit de Mai).
Một
thời gian sau, cơn thống khổ đã dịu bớt, Vũ Hoàng Chương vì là con
người có bản tính mềm yếu, thiếu nghị lực nên thay vì xông xáo vào đời
hoạt động để tìm quên, nhà thơ của chúng ta lại tự đầy ải mình trong
cảnh sống cô đơn với đầy mặc cảm:
Đêm nay đây hồn xế nẻo thu tàn
Khóc chia lìa ai níu gọi thời gian
Ta chỉ biết nằm nghe tình hấp hối.
Mất người yêu, cuộc đời Vũ Hoàng Chương chỉ còn là một màu ảm đạm thê lương với những đêm dài bất tận và mưa buồn da diết.
Trăng rụng nửa vời
Đêm mờ trọn kiếp
Và
Đây mưa bay mờ chậm bước đêm dài
Đêm bất tận đêm liền đêm kế tiếp.
Đêm nay đây hồn xế nẻo thu tàn
Khóc chia lìa ai níu gọi thời gian
Ta chỉ biết nằm nghe tình hấp hối.
Mất người yêu, cuộc đời Vũ Hoàng Chương chỉ còn là một màu ảm đạm thê lương với những đêm dài bất tận và mưa buồn da diết.
Trăng rụng nửa vời
Đêm mờ trọn kiếp
Và
Đây mưa bay mờ chậm bước đêm dài
Đêm bất tận đêm liền đêm kế tiếp.
Vũ Hoàng Chương cố tìm những cơn say để mong quên đi nỗi sầu đơn chiếc nhưng cũng chỉ vô ích mà thôi.
Say đã gắng để quên sầu lẽ gối
Mưa mưa hoài rượu chẳng ấm lòng đau.
Và
Lá rơi rơi nằm bệnh mây tuần mùa
Say chẳng ngắn những đêm dằng dặc nhớ.
Nhà thơ quay ra cầu mộng:
Hỡi năm tháng hãy đưa đường giấc điệp...
Nhiều đêm nằm trằn trọc mãi mộng cũng chẳng đến:
- Nghiêng đĩa đĩa vơi
Không thành giấc điệp
và
- Mưa gió tàn đêm mộng chẳng thành.
Mà dẫu may mắn mộng có thành nhưng mộng muôn đời vẫn chỉ là không:
Mộng bâng quơ hò hẹn cũng là hư.
Nên chẳng thoả được tấm lòng khao khát nhớ thương ai, nhà thơ của chúng ta trở về sống với những kỷ niệm cũ mà kỷ niệm gần gũi nhất, thực hữu nhất chính là mấy lá thư này đây.
Yêu một khắc để mang sầu trọn kiếp
Tình mười năm còn lại mấy tờ thư.
Say đã gắng để quên sầu lẽ gối
Mưa mưa hoài rượu chẳng ấm lòng đau.
Và
Lá rơi rơi nằm bệnh mây tuần mùa
Say chẳng ngắn những đêm dằng dặc nhớ.
Nhà thơ quay ra cầu mộng:
Hỡi năm tháng hãy đưa đường giấc điệp...
Nhiều đêm nằm trằn trọc mãi mộng cũng chẳng đến:
- Nghiêng đĩa đĩa vơi
Không thành giấc điệp
và
- Mưa gió tàn đêm mộng chẳng thành.
Mà dẫu may mắn mộng có thành nhưng mộng muôn đời vẫn chỉ là không:
Mộng bâng quơ hò hẹn cũng là hư.
Nên chẳng thoả được tấm lòng khao khát nhớ thương ai, nhà thơ của chúng ta trở về sống với những kỷ niệm cũ mà kỷ niệm gần gũi nhất, thực hữu nhất chính là mấy lá thư này đây.
Yêu một khắc để mang sầu trọn kiếp
Tình mười năm còn lại mấy tờ thư.
Một thoáng hạnh phúc xưa lại trở về:
Lá thư tình xưa nhớ lúc trao tay
Còn e ấp thuở duyên vừa mới bén.
Lá thư tình xưa nhớ lúc trao tay
Còn e ấp thuở duyên vừa mới bén.
Thương
thay lá thư vỏn vẹn có mấy dòng chữ đơn sơ, sự thật chỉ là đôi ba tờ
giấy ghi lại những câu hỏi về Anh văn mà Tố muốn nhờ Vũ Hoàng Chương
giảng hộ, nhưng dù sao những nét chữ của người yêu vẫn là một kỷ vật
thiêng liêng đối với chàng. Và chàng vẫn muốn cố tìm ra những gì thầm
kín ẩn nấp sau mươi hàng chữ kia:
Mười hàng chữ đơn sơ, ồ ngượng ngập
E dè sao mười hàng chữ đơn sơ.
Mầu mực tươi xanh ngát ý mong chờ
Tình hé nụ bừng thơm trong nếp giấy.
Mười hàng chữ đơn sơ, ồ ngượng ngập
E dè sao mười hàng chữ đơn sơ.
Mầu mực tươi xanh ngát ý mong chờ
Tình hé nụ bừng thơm trong nếp giấy.
Khi những dòng chữ đơn sơ này không đủ sưởi ấm cõi lòng băng giá của mình, Vũ Hoàng Chương thao thức với câu hỏi:
Gấm the nào từ buổi lạnh lùng nhau
Vàng son đã thay mầu đôi mắt biếc?
Gấm the nào từ buổi lạnh lùng nhau
Vàng son đã thay mầu đôi mắt biếc?
Hỏi
như thế là nhà thơ có ý níu kéo lấy chút hy vọng rằng người xưa vẫn
còn yêu mình. Lòng nhớ nhung được thể bùng dậy mãnh liệt, chàng tha
thiết mong gặp nàng, nhưng rồi lại băn khoăn:
Đường trần muôn vạn ngã ba
Nhớ nhung muốn gặp biết là có nên?
Đường trần muôn vạn ngã ba
Nhớ nhung muốn gặp biết là có nên?
Trăm
vạn lần là không nên rồi, nàng đã là gái có chồng, mình chẳng nên
quấy rầy hạnh phúc của nàng nữa, nhưng tình cảm lại có những lý lẽ
riêng của nó, thế là nhà thơ tình si đáng thương của chúng ta liền mò
đến tận Quế Dương, thuộc tỉnh Bắc Ninh, nơi chồng Tố đang tại chức Tri
huyện (khoảng những năm 1942 — 1943), không chỉ một lần mà nhà thơ đã
mò đến đó nhiều lần, chàng thường đứng ở quán nước, gần dinh Tri
huyện, hy vọng nàng Tố vô tình đi ra để chàng được nhìn lại nàng, người
yêu “ngàn kiếp” của chàng. Chàng chỉ dám nhìn thôi, chứ nào có quấy
rầy hạnh phúc của ai đâu. Và chắc chắn ít nhất đã có một lần Vũ Hoàng
Chương được toại nguyện; hôm đó xe hơi chở Tố vừa vút ra khỏi dinh,
tiến về Hà nội, vô tình quay lại qua kính chiếu hậu, Tố Uyển đã nhìn
thấy nhà thơ đang đứng ở đầu quán nước, ngơ ngẩn nhìn theo.
Nàng đã tâm sự với gia đình là không dám bảo tài xế ngừng lại vì sợ chồng nghi kỵ và thiên hạ dị nghị. Đó là lẽ tất nhiên, nhưng trong lời tâm sự ấy chẳng đã lộ ra một phần nào tình cảm của nàng đối với nhà thơ của chúng ta hay sao?
Hết đến Quế Dương, Vũ Hoàng Chương lại trở về tha thẩn trên những con đường cũ, mong sống lại những giờ phút yêu thương, thơ mộng xưa:
Ôi chốn này xưa vai sánh vai
Trán cao hoài vọng, tóc buông cài.
..................................
Hồ gươm sóng lụa bờ tơ liễu
Hàng Trống, Hàng Khay rộn bước người
Sách vở lên hương, trầm ngát nẻo
Hoa soan, hoa phượng chói màu tươi.
..............................
Tay trong tay nắm, tình trong mắt
..................................
Hoa gấm cùng mờ dệt cuộc đời.
Ngờ đâu lòng người đã đổi thay, tất cả mộng ước thời quá vãng đã trở thành không tưởng:
Thế mà tan tác mười năm mộng
Có kẻ ra đi chẳng một lời.
Chỉ còn đây một thực tại đau thương là hồn thơ thổn thức của thi nhân với bao nỗi luyến nhớ, ngậm ngùi:
Nửa kiếp lênh đênh đường phố cũ
Riêng mình thương nhớ tuổi hai mươi.
..........................
Hàng Khay, Hàng Trống hoa nào rụng
Mầu tím thờ ơ vạt áo ai !
Nàng đã tâm sự với gia đình là không dám bảo tài xế ngừng lại vì sợ chồng nghi kỵ và thiên hạ dị nghị. Đó là lẽ tất nhiên, nhưng trong lời tâm sự ấy chẳng đã lộ ra một phần nào tình cảm của nàng đối với nhà thơ của chúng ta hay sao?
Hết đến Quế Dương, Vũ Hoàng Chương lại trở về tha thẩn trên những con đường cũ, mong sống lại những giờ phút yêu thương, thơ mộng xưa:
Ôi chốn này xưa vai sánh vai
Trán cao hoài vọng, tóc buông cài.
..................................
Hồ gươm sóng lụa bờ tơ liễu
Hàng Trống, Hàng Khay rộn bước người
Sách vở lên hương, trầm ngát nẻo
Hoa soan, hoa phượng chói màu tươi.
..............................
Tay trong tay nắm, tình trong mắt
..................................
Hoa gấm cùng mờ dệt cuộc đời.
Ngờ đâu lòng người đã đổi thay, tất cả mộng ước thời quá vãng đã trở thành không tưởng:
Thế mà tan tác mười năm mộng
Có kẻ ra đi chẳng một lời.
Chỉ còn đây một thực tại đau thương là hồn thơ thổn thức của thi nhân với bao nỗi luyến nhớ, ngậm ngùi:
Nửa kiếp lênh đênh đường phố cũ
Riêng mình thương nhớ tuổi hai mươi.
..........................
Hàng Khay, Hàng Trống hoa nào rụng
Mầu tím thờ ơ vạt áo ai !
Năm
1954 khói lửa triền miên rồi biến cố chia đôi đất nước xẩy ra. Vũ
Hoàng Chương theo đoàn người di cư vào Nam mà lòng không yên, chàng
những thấp thỏm lo lắng cho hạnh phúc của người yêu:
Trăng nhà ai tròn khuyết?
Trong lúc mà:
Thời cơ nhỏ nhiễu nhương
Hà nội thắt vòng đai tuế nguyệt
Sừng sững dựng bức thành mây lữa dệt.
Xa xách hơn bao giờ hết
Non Nùng cấm địa một phương.
Trăng nhà ai tròn khuyết?
Trong lúc mà:
Thời cơ nhỏ nhiễu nhương
Hà nội thắt vòng đai tuế nguyệt
Sừng sững dựng bức thành mây lữa dệt.
Xa xách hơn bao giờ hết
Non Nùng cấm địa một phương.
Thôi
rồi từ đây Hoàng có muốn biết tin tức hay muốn gặp lại Tố cũng không
thể được nữa. Hồi còn ở Hà nội, Tố tuy đã đi lấy chồng nhưng những
lúc:
Thoắt thôi gợn sóng điên rồ nhớ thương.
Thoắt thôi gợn sóng điên rồ nhớ thương.
Hoàng
còn có thể hỏi thăm về nàng qua gia đình và bạn bè nàng, hay đến tận
nơi nàng sống để may ra được nhìn lại nàng như hồi ở Quế Dương; hơn
nữa chàng có thể gửi những nỗi nhớ niềm thương của mình đến ai qua
những bài thơ tình đăng báo hay in trong thi tập được xuất bản, hay
qua cả những vở kịch trình diễn trên sân khấu như chàng đã từng đóng
vai Hoàng Lang, vai chính trong vở “Vân Muội”, một gã thư sinh si tình
lúc nào cũng chỉ mơ màng tơ tưởng tới “mối tình xưa, mộng cũ với hình
ai”, diễn tại Nhà Hát Lớn Hà Nội ngày 12-12-1942. Hồi đó báo chí đã
bàn tán sôi nổi về mối tình của Vũ Hoàng Chương với người con gái mang
tên đệm Tố. Có ký giả còn tưởng tượng ra cảnh nàng Tố đi xem kịch cảm
động quá đến ngất xỉu, người nhà phải dìu về.
Như
thế, tiếng lòng của chàng đã gửi được đến người yêu dù nàng không
trực nhận và chàng chẳng bao giờ có hồi âm, nhưng cái tâm lý và cái
nhu cầu tình cảm “phải gửi và được nhận” của chàng cũng đã được thoả
mãn phần nào. Vậy là Tố Uyển dù đã lấy chồng, tuy xa mà gần, vì Vũ
Hoàng Chương vẫn liên lạc được với nàng trong cách điệu riêng của
chàng.
Kể từ ngày nhà thơ vào Nam thì sự cách trở không gian ghê gớm quá, không chỉ xa xôi hàng bao nhiêu ngàn dậm mà giữa hai chiến tuyến Quốc Cộng còn bị bủa vây với bom đạn, chiến lũy, bằng cách nào nhà thơ có thể vượt qua để thấy lại được người xưa?
Vuốt đâu xuyên chiến lũy
Cách đâu vượt sa trường?
Kể từ ngày nhà thơ vào Nam thì sự cách trở không gian ghê gớm quá, không chỉ xa xôi hàng bao nhiêu ngàn dậm mà giữa hai chiến tuyến Quốc Cộng còn bị bủa vây với bom đạn, chiến lũy, bằng cách nào nhà thơ có thể vượt qua để thấy lại được người xưa?
Vuốt đâu xuyên chiến lũy
Cách đâu vượt sa trường?
Sự
cách trở không gian đã vô vàn khó khăn như vậy, sự cách trở trong đời
sống tâm tư mới càng thảm não hơn. Vì giờ đây tiếng kêu nhớ thương
của chàng dù bằng cách nào đi nữa cũng không thể tới được người Hà
nội. Chúng ta hẳn còn nhớ sau khi bức màn sắt buông xuống, “Tấm thiếp
giao tình Nam Bắc” với vài hàng chữ hỏi thăm sức khoẻ được in sẵn cũng
chỉ xuất hiện một thời gian ngắn, sau đó Nam Bắc hoàn toàn tuyệt
đường liên lạc.
Thế là từ nay, nỗi lòng chỉ mình chàng chàng biết, mình chàng chàng hay:
Tiếng kêu ném ngược đường kinh tuyến
Chỉ thấy vòng quanh trở lại thôi.
Thế là từ nay, nỗi lòng chỉ mình chàng chàng biết, mình chàng chàng hay:
Tiếng kêu ném ngược đường kinh tuyến
Chỉ thấy vòng quanh trở lại thôi.
Họa
có tìm được nhau trong men khói hay trong chiêm bao thì khi tỉnh giấc
lại càng thêm trằn trọc khổ sở, nước mắt chứa chan, vì đó chỉ là
những hình ảnh lờ mờ, hư ảo, đứt đoạn không thể làm thoả mãn được ai.
Tìm nhau trong khói men cuồng tuý
Nửa giấc mành tương, loạn sóng tương.
Quê tình hoang đảo mờ sương
Chiêm bao càng khổ chiếu giường phong ba!
Ôi quê tình xưa, nơi chàng vẫn hãnh diện là chốn đẹp nhất, nên thơ nhất:
Ôi khu rừng bách thảo
Quán trọ đời thư sinh
Hươu nai hoa cỏ đẹp
Nhưng bằng đâu quê tình.
Vì đó là chốn chàng hằng lui tới, và đã được tận hưởng cái hạnh phúc ríu rít bên người chàng thương :
Chim xanh qua lại muôn ngàn chuyến
Bao nhiêu là anh ơi! em ơi!
Tìm nhau trong khói men cuồng tuý
Nửa giấc mành tương, loạn sóng tương.
Quê tình hoang đảo mờ sương
Chiêm bao càng khổ chiếu giường phong ba!
Ôi quê tình xưa, nơi chàng vẫn hãnh diện là chốn đẹp nhất, nên thơ nhất:
Ôi khu rừng bách thảo
Quán trọ đời thư sinh
Hươu nai hoa cỏ đẹp
Nhưng bằng đâu quê tình.
Vì đó là chốn chàng hằng lui tới, và đã được tận hưởng cái hạnh phúc ríu rít bên người chàng thương :
Chim xanh qua lại muôn ngàn chuyến
Bao nhiêu là anh ơi! em ơi!
Nhưng
giờ đây chàng và nàng đã lạc nhau rồi, đã thật sự mất nhau rồi, quê
tình chỉ còn là một “hoang đảo mờ sương”, xót xa biết bao nhiêu, tiếc
nuối biết dường nào!
Cuối cùng, Vũ Hoàng Chương chỉ còn một cách an ủi duy nhất là để hồn mơ về những kỷ niệm xưa. Có điều đáng kể là thời gian xa cách đằng đẳng đã mấy chục năm và không gian xa cách vời vợi hàng bao nhiêu ngàn dặm, hơn nữa cuộc đời của mỗi người đều đã có quá nhiều đổi thay, biến cải, thế mà kỷ niệm hiện ra trong thơ Vũ Hoàng Chương từ những năm 1954 đến 1967 vẫn tươi rói, sống động như chuyện vừa mới xảy ra. Chàng đã nhớ từng chi tiết, nhớ ngọn ngành, nhớ một cách say sưa, đã làm sống dậy cả một thời dĩ vãng thuở nào:
Trời cố đô cao vút
Tuổi mười lăm, hai mươi
Cuối cùng, Vũ Hoàng Chương chỉ còn một cách an ủi duy nhất là để hồn mơ về những kỷ niệm xưa. Có điều đáng kể là thời gian xa cách đằng đẳng đã mấy chục năm và không gian xa cách vời vợi hàng bao nhiêu ngàn dặm, hơn nữa cuộc đời của mỗi người đều đã có quá nhiều đổi thay, biến cải, thế mà kỷ niệm hiện ra trong thơ Vũ Hoàng Chương từ những năm 1954 đến 1967 vẫn tươi rói, sống động như chuyện vừa mới xảy ra. Chàng đã nhớ từng chi tiết, nhớ ngọn ngành, nhớ một cách say sưa, đã làm sống dậy cả một thời dĩ vãng thuở nào:
Trời cố đô cao vút
Tuổi mười lăm, hai mươi
Giữa
thời thanh bình của Hà nội năm xưa ấy, có một đôi thanh niên nam nữ
rất trẻ, kẻ 15, người 20 tuổi, họ bắt đầu bước vào cuộc tình. Chàng
thi sĩ Vũ Hoàng Chương đang mơ yêu này đã có những hành động rất lãng
mạn, quán trọ của chàng ở ven rừng Bách Thảo, nhiều khi nhớ người yêu
chàng cao hứng vào rừng gọi to tên nàng cho vang dội cả không gian;
chàng mong tiếng gọi của mình sẽ len lỏi qua bao phố phường sấm uất,
qua bao hàng cây rậm rạp mà lọt vào tận bức rèm tơ của nàng, bắt nàng
phải xao xuyến cảm động:
Anh là gã thư sinh vườn Bách thảo
Giữa cỏ hoa muông thú gọi tên người
Cho bay xuống tận phố phường đông đảo
Chen cánh hoa xoan, hoa gạo
Rèm tơ ý nguyệt đầy vơi.
Anh là gã thư sinh vườn Bách thảo
Giữa cỏ hoa muông thú gọi tên người
Cho bay xuống tận phố phường đông đảo
Chen cánh hoa xoan, hoa gạo
Rèm tơ ý nguyệt đầy vơi.
Nào
những buổi Vũ Hoàng Chương không có giờ học, được rảnh rỗi một chút
là chàng vội phóng xe đến cổng trường Tố chờ đợi, chỉ để được nhìn
thấy nàng từ xa, trên chiếc xe tay bốn buổi học đưa đón nàng đi về :
Đón đưa buổi học xa vời bước chân.
Đón đưa buổi học xa vời bước chân.
Và
phải đợi cho đến lúc thân tình lắm, Vũ Hoàng Chương mới dám đôi khi
vượt xe đạp lên, đi song song với xe tay chở nàng một quãng đường, để
được trao đổi với nàng một vài câu nói bâng quơ, trong khi mộng hồn đôi
trẻ cùng phơi phới:
Học tan chiều mỗi người
Đón nhau tận cổng trường.
Hai xe cùng giong ruổi
Hồn mơ về một phương.
Học tan chiều mỗi người
Đón nhau tận cổng trường.
Hai xe cùng giong ruổi
Hồn mơ về một phương.
Có
lần anh xe về đã mách bà Tư -“Cậu Chương cứ đi theo xe cô”. Bà Tư còn
mắc buôn bán nên không để ý, có thật thế không, hay chính vì thâm tâm
bà đã cảm mến nhà thơ nên bà lờ đi cho đôi trẻ được thân nhau? Và con
đường ấy, con đường đón học ấy, đã trở thành thiên đường trong ký ức
của chàng:
Ôi đẹp nhất con đường
Cửa Đông về Cầu Gỗ
Nắng đào cây lá vương
Men xuân ngập hè phố.
Ôi đẹp nhất con đường
Cửa Đông về Cầu Gỗ
Nắng đào cây lá vương
Men xuân ngập hè phố.
Nào những buổi đưa nàng đi thi, chàng mua hoa cài lên tóc người yêu để lấy hên và khích lệ :
Cài hoa lên tóc còn buông xõa
Chàng nhủ người yêu - Chớ sợ gì !
Cài hoa lên tóc còn buông xõa
Chàng nhủ người yêu - Chớ sợ gì !
Khi người yêu “vui như Tết” vào trường thi rồi, còn chàng:
Chàng đợi nàng trong vườn Bách thảo
Như trong huyền thoại của đông phương.
Như trong huyền thoại của đông phương.
Kỷ
niệm sống dậy mãnh liệt như vậy đủ chứng tỏ rằng dù trong cuộc sống
thực tế hiện hữu, Vũ Hoàng Chương có phải sống xa cách người yêu,
nhưng trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn chàng, chàng vẫn sống với
hạnh phúc chung đôi và vẫn không ngừng ấp ủ mộng ước chung đôi:
Biết chăng còn khúc gọi đôi
Con chim phượng ấy dành ngôi cho Hoàng?
Biết chăng còn khúc gọi đôi
Con chim phượng ấy dành ngôi cho Hoàng?
Câu
hỏi “biết chăng” nhà thơ đã để thoát ra cái tâm trạng khắc khoải, băn
khoăn, lo lắng cho chuyện tình của mình, vì đã mấy chục năm trường
cách biệt, không biết nàng có còn nhớ đến chàng không? Có còn dành
ngôi vị thiêng liêng cho chàng không?
Thương thay nhà thơ đã đi qua ba phần tư cuộc đời, đã xa người yêu gần cả ba mươi năm mà chàng vẫn chưa an phận được chuyện tình của mình, vẫn chưa đành lòng chấp nhận cuộc sống “xẻ đôi” với nàng:
Vầng trăng hiện khoé thu xanh
Từ bao lâu vẫn chưa đành xé đôi.
Thương thay nhà thơ đã đi qua ba phần tư cuộc đời, đã xa người yêu gần cả ba mươi năm mà chàng vẫn chưa an phận được chuyện tình của mình, vẫn chưa đành lòng chấp nhận cuộc sống “xẻ đôi” với nàng:
Vầng trăng hiện khoé thu xanh
Từ bao lâu vẫn chưa đành xé đôi.
Quá
khứ đã tuyệt đường sinh lộ, mà tương lai cũng chẳng lối đi về, niềm
khát khao được sum vầy với người yêu đã khiến Vũ Hoàng Chương đành
trông chờ ở một chuyện không tưởng, đó là ngày tận thế :
Trái đất rồi hôm nào vỡ toang
Thịt xương tro bụi không phân biệt
Anh sẽ dìu em mắt mở choàng .
Trái đất rồi hôm nào vỡ toang
Thịt xương tro bụi không phân biệt
Anh sẽ dìu em mắt mở choàng .
Khi
tất cả loài người đang trong cơn tan hoang, mờ mịt của ngày tận thế,
chàng sẽ mở mắt thật to để tìm nàng, dìu nàng đến một thế giới tinh
khôi, nơi không còn một ai có thể tới quấy rầy mộng ước chung đôi của
họ nữa:
Mơ hoa mộng gấm bừng tươi
Một hành tinh mới, hai người yêu xưa.
Mơ hoa mộng gấm bừng tươi
Một hành tinh mới, hai người yêu xưa.
Đó
chính là một thứ hy vọng trong tuyệt vọng vậy. Bẩy câu thơ trên trong
bài “Gấm Hoa” được in trong tập “Cành Mai Trắng Mộng” của Vũ Hoàng
Chương, xuất bản tại Saigon năm 1968, tôi đã thầm hỏi: - Phải chăng
thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã khép thiên tình sử của ông ở đây?
3 - TỐ CỦA HOÀNG XƯA , TỐ CỦA TÔI !
Một cơ duyên lại đến. Cuộc hạnh ngộ giữa thi sĩ Vũ Hoàng Chương và
chúng tôi đã xảy ra trong một trường hợp khá hi hữu. Chỉ có hai chữ
hạnh ngộ mới diễn tả được hết ý nghĩa của cuộc gặp gỡ này.
Đó là một chiều tháng năm, cuối niên khóa 1971-1972, tôi được cử đi chấm thi Khả Năng Sư Phạm tại một trường Trung học bên Gia Định. Đây là một kỳ thi chỉ có tính cách hình thức, cốt để hợp thức hoá cho một số giáo sư Đệ Nhất Cấp dạy giờ muốn chính thức vào ngạch.
Hôm ấy tôi được chỉ định chấm thi cùng nhóm với Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương, mỗi nhóm chỉ có hai giáo sư. Sự gặp gỡ này quả là một bất ngờ lý thú đối với tôi, vì tuy đã từng gặp nhà thơ khá nhiều lần trong các kỳ chấm thi Tú Tài và thi Văn Chương Phụ Nữ nhưng tôi chưa có cơ hội nào thuận tiện để làm quen. Tiếp đó, một bất ngờ thứ hai xẩy ra, lý thú không kém là chuyện anh chàng thí sinh hôm ấy lại chọn bài thơ “Mười Hai Tháng Sáu” của thi sĩ Vũ Hoàng Chương làm bài giảng thi.
Đó là một chiều tháng năm, cuối niên khóa 1971-1972, tôi được cử đi chấm thi Khả Năng Sư Phạm tại một trường Trung học bên Gia Định. Đây là một kỳ thi chỉ có tính cách hình thức, cốt để hợp thức hoá cho một số giáo sư Đệ Nhất Cấp dạy giờ muốn chính thức vào ngạch.
Hôm ấy tôi được chỉ định chấm thi cùng nhóm với Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương, mỗi nhóm chỉ có hai giáo sư. Sự gặp gỡ này quả là một bất ngờ lý thú đối với tôi, vì tuy đã từng gặp nhà thơ khá nhiều lần trong các kỳ chấm thi Tú Tài và thi Văn Chương Phụ Nữ nhưng tôi chưa có cơ hội nào thuận tiện để làm quen. Tiếp đó, một bất ngờ thứ hai xẩy ra, lý thú không kém là chuyện anh chàng thí sinh hôm ấy lại chọn bài thơ “Mười Hai Tháng Sáu” của thi sĩ Vũ Hoàng Chương làm bài giảng thi.
Khi Vũ Hoàng Chương và tôi vào lớp, vừa ngồi yên chỗ nơi cuối phòng thì anh chàng thí sinh đến chào rồi đặt trên bàn chúng tôi bài thơ “Mười Hai Tháng Sáu”, đoạn quay lên bảng ngay để bắt đầu bài giảng thi, chứng tỏ anh ta không hề biết vị nam giám khảo của anh lại chính là tác giả bài thơ diễm tình đầy nước mắt kia.
Nhìn Vũ Hoàng Chương, tôi thấy nhà thơ có vẻ trầm tư, vì tôn trọng sự im lặng đầy ý nghĩa này, tôi không dám gây một động tĩnh nào, chỉ lắng nghe tiếng giảng bài của anh chàng thí sinh đang vang lên đều đều trong gian phòng vắng chỉ có ba chúng tôi ở đó. Cho tới khi anh ta giảng đến phần hình thức thì thi sĩ Vũ Hoàng Chương quay sang phía tôi nói khẽ: -“Bà có thấy người ta nói hơi quá không?” Tôi hiểu ý nhà thơ muốn nhắc tới chuyện người thí sinh đã mạt sát nàng Tố của ông hơi kỹ. Tôi gật đầu, mỉm cười nói: “Tại trong thơ ông có ý oán trách”, rồi tôi tiếp: “Có oan cho bà Tố Uyển”. Tôi thấy nhà thơ nhướng mắt nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, vì sao tôi lại rõ tên tuổi người yêu của ông và lại đưa ra một nhận xét như thế.
Cũng nhờ bài giảng thi hôm đó nhắc đến mối hận tình của Vũ Hoàng Chương nên tôi mới thừa dịp gợi lại chuyện xưa. Tôi phải giải thích ngay, vì tình bạn thân giữa cụ Tư và mẹ tôi nên tôi đã biết khá rõ về hoàn cảnh của bà Tố khi lấy chồng. -” Bà Tố không phải là người tham đó bỏ đăng”, tôi đã nói với Vũ Hoàng Chương như thế, rồi giải thích thêm: -“Bà Tố đã chờ đợi trong hai năm mà gia đình ông không tới hỏi. Hai bên thật sự cũng chưa có hẹn ước gì, bà Tố lấy quyền gì, lấy tư cách gì để chờ đợi? Nên sau phải nghe lời cha mẹ mà lấy chồng.”
Tôi không nhớ hôm đó Vũ Hoàng Chương đã nói những gì, cũng vì nhà thơ nói khẽ quá tôi nghe không rõ, chỉ biết rằng trước khi ra về, ông nhắc đi nhắc lại hai tiếng “cám ơn”, “cám ơn”. Từ đó về sau tôi không có dịp gặp lại thi sĩ Vũ Hoàng Chương nữa, rồi biến cố bảy mươi nhăm xảy ra, chúng tôi đi Pháp, câu chuyện tâm tình kia cũng rơi vào quên lãng.
Tình cờ một hôm tôi tới Thư Viện Diên Hồng, được đọc bài thơ “Tố Của Hoàng Ơi” trong thi tập “Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau” của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, do Rừng Trúc xuất bản tại Paris năm 1974, có lời đề tựa của thi sĩ Thi Vũ. Bài thơ có ghi ngày sáng tác: 12 tháng 06 năm Nhâm Tý (1972). Nghĩa là chỉ sau buổi hạnh ngộ giữa thi sĩ Vũ Hoàng Chương và chúng tôi (phải kể cả vị giáo sư thí sinh buổi đó nữa) có hai tháng.
Tôi vội vàng tìm hiểu ý thơ và sung sướng thấy rằng thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã tìm được sự bình an cho tâm hồn, nếu không muốn nói một cách lạc quan là nhà thơ đã tìm lại được hạnh phúc tuyệt vời của tình yêu lứa đôi trong niềm tin yêu và hy vọng. Sau đây là bài thơ “Tố của Hoàng ơi”:
Năm mười hai tháng ai không biết
Đã tháng nào không tháng sáu chưa
Tháng có ba mươi ngày để giết
Ngày mười hai vẫn sống như xưa.
Lịch treo trước ngực kêu thành tiếng
Chẳng tiếng nào nghe khác tiếng mưa
Rả rích từ hôm con én liệng
Vào lồng son, tủi áng mây đưa.
Chẳng tiếng nào nghe khác tiếng mưa
Rả rích từ hôm con én liệng
Vào lồng son, tủi áng mây đưa.
Thời gian từng giọt buông theo máu
Lại trở về, không gọi cũng thưa.
Còn đó mười hai, còn tháng sáu
Ba mươi năm lẻ vẫn chưa vừa!
Còn khóc trong tim này bất tuyệt
Dường như rối loạn cả đường tơ.
Trăng nhà ai vẫn là trăng khuyết
Đứng sững từ đêm ấy đến giờ !
Lại trở về, không gọi cũng thưa.
Còn đó mười hai, còn tháng sáu
Ba mươi năm lẻ vẫn chưa vừa!
Còn khóc trong tim này bất tuyệt
Dường như rối loạn cả đường tơ.
Trăng nhà ai vẫn là trăng khuyết
Đứng sững từ đêm ấy đến giờ !
Ngày mai ngày mốt anh nằm xuống
Ngọc đọng cơn sầu nửa kiếp thơ
Đập nát ra cho trời đất uống
Thì em sẽ rụng khỏi đêm mờ.
***
Phút giây trăng một phương tròn lại
Rồi từ hoà tan rượu đắng mơ
Cùng nhịp tim trôi vào tận cõi
Không ngày, không tháng, không bơ vơ.
Ngọc đọng cơn sầu nửa kiếp thơ
Đập nát ra cho trời đất uống
Thì em sẽ rụng khỏi đêm mờ.
***
Phút giây trăng một phương tròn lại
Rồi từ hoà tan rượu đắng mơ
Cùng nhịp tim trôi vào tận cõi
Không ngày, không tháng, không bơ vơ.
Mười hai tháng sáu cung hồ xế
Một mối tình si một mối thù
Giây phút cũng tan thành biển lệ
Trả cho cát bụi nhé Kiều Thu !
12 tháng 6 Nhâm Tý (1972)
Một mối tình si một mối thù
Giây phút cũng tan thành biển lệ
Trả cho cát bụi nhé Kiều Thu !
12 tháng 6 Nhâm Tý (1972)
“Tố Của Hoàng Ơi” là bài thơ nối điệu cho bài “Mười Hai Tháng Sáu” (đã trình bày ở trên). Hai bài này làm cách nhau đúng 31 năm (1972 — 1941).
Để tạo nên cái hình thức nối tiếp cho bài thơ trước, Vũ Hoàng Chương trong bài thơ sau đã dùng lại một số thuật ngữ cũ như:
Tố của Hoàng ơi - Mười hai tháng sáu - Tháng sáu mười hai - Cung hồ xế
Và hình ảnh biểu tượng là -Trăng
Trong văn chương việt Nam, trăng vẫn được dùng làm biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi. Trăng tròn để chỉ sự sum họp và hạnh phúc (thí dụ: Đèn khuya chung bóng, trăng tròn sánh vai— Kiều, Nguyễn Du)
Trăng khuyết để chỉ sự chia lìa, cô đơn, sầu muộn (thí dụ: Vầng trăng ai xẻ làm đôi nửa in gối chiếc, nửa soi dậm trường.-Kiều, Nguyễn Du).
Trong văn chương việt Nam, trăng vẫn được dùng làm biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi. Trăng tròn để chỉ sự sum họp và hạnh phúc (thí dụ: Đèn khuya chung bóng, trăng tròn sánh vai— Kiều, Nguyễn Du)
Trăng khuyết để chỉ sự chia lìa, cô đơn, sầu muộn (thí dụ: Vầng trăng ai xẻ làm đôi nửa in gối chiếc, nửa soi dậm trường.-Kiều, Nguyễn Du).
Như vậy hai bài thơ “Mười Hai Tháng Sáu” và “Tố Của Hoàng Ơi” đã có hình thức tương tự nhau, nhưng nội dung đã có nhiều chuyển biến quan trọng.
Bài thơ “Tố Của Hoàng Ơi” chia là hai phần rõ rệt.
Phần I gồm 5 đoạn đầu:
Đoạn 1 và 2 nói về nỗi đau hận triền miên và tủi buồn mênh mang của tác giả từ khi người yêu “bị ép” đi lấy chồng:
Năm mười hai tháng ai không biết
Đã tháng nào không tháng sáu chưa
Tháng có ba mươi ngày để giết
Ngày mười hai vẫn sống như xưa.
Lịch treo trước ngực kêu thành tiếng
Chẳng tiếng nào nghe khác tiếng mưa
Rả rích từ hôm con én liệng
Vào lồng son, tủi áng mây đưa.
Chẳng tiếng nào nghe khác tiếng mưa
Rả rích từ hôm con én liệng
Vào lồng son, tủi áng mây đưa.
Vũ
Hoàng Chương không chỉ đau buồn cho riêng mình mà nhà thơ còn tưởng
tượng ra thân phận của người yêu, nàng như con “chim én” bé bỏng, yếu
đuối bị đôi tay tàn bạo của cuộc đời “liệng” một cách tàn nhẫn không
chút cảm thương (cảm thông và xót thương) vào “lồng son”. Lồng có đẹp
đến mấy nhưng bị tù túng thì làm sao chim kia hạnh phúc được. Chim én
chỉ sung sướng khi nó được tự do bay lượn ngoài khoảng trời mây cao
rộng thênh thang kia. Ý Vũ Hoàng Chương muốn nói, nàng Tố chỉ có thể
hạnh phúc trong tình yêu của chàng.
Đoạn 3: xác định nỗi đau khổ kéo dài của tác giả từ ngày nàng Tố đi lấy chồng đến nay.
Thời gian từng giọt buông theo máu
Lại trở về, không gọi cũng thưa.
Còn đó mười hai, còn tháng sáu
Ba mươi năm lẻ vẫn chưa vừa !
Thời gian từng giọt buông theo máu
Lại trở về, không gọi cũng thưa.
Còn đó mười hai, còn tháng sáu
Ba mươi năm lẻ vẫn chưa vừa !
Tuy chỉ là một đoạn chuyển tiếp nhưng Vũ Hoàng Chương lại hữu tình nhắc đến cuộc hạnh ngộ giữa chúng tôi:
-Không gọi cũng thưa
Tác giả muốn nói, mối hận hình của ông, chúng tôi dù không nhắc ông vẫn nhớ mà.
Sau đó là đoạn 4, Vũ Hoàng Chương tỏ ra rất xúc động và đau buồn xót thương khôn xiết đến “rối loạn cả đường tơ” chỉ vì nghĩ rằng người yêu lấy chồng đã không có hạnh phúc:
Còn khóc trong tim này bất tuyệt
Dường như rối loạn cả đường tơ.
Trăng nhà ai vẫn là trăng khuyết
Đứng sững từ đêm ấy đến giờ !
-Không gọi cũng thưa
Tác giả muốn nói, mối hận hình của ông, chúng tôi dù không nhắc ông vẫn nhớ mà.
Sau đó là đoạn 4, Vũ Hoàng Chương tỏ ra rất xúc động và đau buồn xót thương khôn xiết đến “rối loạn cả đường tơ” chỉ vì nghĩ rằng người yêu lấy chồng đã không có hạnh phúc:
Còn khóc trong tim này bất tuyệt
Dường như rối loạn cả đường tơ.
Trăng nhà ai vẫn là trăng khuyết
Đứng sững từ đêm ấy đến giờ !
Đứng
sững là đứng dừng lại cấp thời, đờ ra, biểu lộ một phản ứng, một thái
độ bất mãn, chống lại những gì vừa xẩy đến cho mình.
Sự tưởng tượng của Vũ Hoàng Chương ra cảnh đau thương của người yêu khi bị ép đi lấy chồng như ”con én bị liệng vào lồng son”, hay cảnh không hạnh phúc trong cuộc hôn nhân của nàng như “vầng trăng khuyết”, “đứng sững từ đêm ấy đến giờ” do lòng quá thương yêu lo lắng xót xa của tác giả mà ra, chứ chắc gì trong cuộc sống hiện thực nàng Tố đã đau khổ như vậy? (có khi còn trái lại, nàng Tố rất được hạnh phúc bên chồng con?)
Và như thế, Vũ Hoàng Chương không chỉ đau thương cho số phận hẩm hiu lẻ loi của riêng mình mà còn cho cả thân phận không hạnh phúc của người yêu. Chàng đã đau thương cho cả hai, vì vậy, nỗi thương đau ở đây đã tăng lên gấp đôi, trở thành thống thiết trong đoạn 5.
Sự tưởng tượng của Vũ Hoàng Chương ra cảnh đau thương của người yêu khi bị ép đi lấy chồng như ”con én bị liệng vào lồng son”, hay cảnh không hạnh phúc trong cuộc hôn nhân của nàng như “vầng trăng khuyết”, “đứng sững từ đêm ấy đến giờ” do lòng quá thương yêu lo lắng xót xa của tác giả mà ra, chứ chắc gì trong cuộc sống hiện thực nàng Tố đã đau khổ như vậy? (có khi còn trái lại, nàng Tố rất được hạnh phúc bên chồng con?)
Và như thế, Vũ Hoàng Chương không chỉ đau thương cho số phận hẩm hiu lẻ loi của riêng mình mà còn cho cả thân phận không hạnh phúc của người yêu. Chàng đã đau thương cho cả hai, vì vậy, nỗi thương đau ở đây đã tăng lên gấp đôi, trở thành thống thiết trong đoạn 5.
Vũ Hoàng Chương và người yêu cứ phải sầu khổ trong cuộc sống chia lìa như thế thì chàng uất lắm, chàng hận lắm, nhưng đây là uất là hận đời — Đời tàn nhẫn quá, người ta đã nhân danh gia đình lễ giáo, quan niệm xã hội, lý trí, ngay cả không gian và thời gian nữa, tất cả đã phụ họa nhau để chia uyên rẽ thúy, để ngăn cách tình yêu đôi lứa. Mối hận đời này nhà thơ tưởng chừng đến chết cũng không tan được, nó uất kết lại thành một khối ngọc như trái tim hóa đá của chàng Trương Chi trong truyện cổ tích dân gian :
Ngày mai ngày mốt anh nằm xuống
Ngọc đọng cơn sầu nửa kiếp thơ
Phải đập nát khối tình hận này cho tan hòa vào trời đất, chàng mới tiếp xúc được với người yêu, nhờ đó giải thoát cho nàng khỏi cảnh sống âm thầm tủi buồn của một kiếp sao cô đơn trong đêm trường mờ mịt.
Đập nát ra cho trời đất uống
Thì em sẽ rụng khỏi đêm mờ.
Phần II gồm 2 đoạn thơ chót:
Sau khi Vũ Hoàng Chương đã nhìn ra nguyên nhân vì đâu nàng Tố đi lấy chồng: nàng bị ép buộc ; và nàng đã bất mãn, nàng không hạnh phúc. Suy ra từ đây, nhà thơ tất nhiên đi đến kết luận:
- Nàng không bội tình, nàng không có tội (nàng bị ép buộc, nàng là nạn nhân của hoàn cảnh.)
- Và nàng Tố vẫn yêu chàng(nên mới bất mãn và không hạnh phúc khi lấy chồng).
Do đó ý bài thơ ở phần II mở ra vừa thanh thoát, vừa lạc quan: Sự hiểu biết thông cảm làm hóa giải mọi đau thương, hờn oán:
Giây phút trăng một phương tròn lại
Rồi tự hoà tan rượu đắng mơ
Cùng nhịp tim trôi vào tận cõi
Không ngày, không tháng, không bơ vơ.
Mười hai tháng sáu cung hồ xế
Một mối tình si một mối thù
Giây phút cũng tan thành biển lệ
Trả cho cát bụi nhé Kiều Thu!
Sau khi Vũ Hoàng Chương đã nhìn ra nguyên nhân vì đâu nàng Tố đi lấy chồng: nàng bị ép buộc ; và nàng đã bất mãn, nàng không hạnh phúc. Suy ra từ đây, nhà thơ tất nhiên đi đến kết luận:
- Nàng không bội tình, nàng không có tội (nàng bị ép buộc, nàng là nạn nhân của hoàn cảnh.)
- Và nàng Tố vẫn yêu chàng(nên mới bất mãn và không hạnh phúc khi lấy chồng).
Do đó ý bài thơ ở phần II mở ra vừa thanh thoát, vừa lạc quan: Sự hiểu biết thông cảm làm hóa giải mọi đau thương, hờn oán:
Giây phút trăng một phương tròn lại
Rồi tự hoà tan rượu đắng mơ
Cùng nhịp tim trôi vào tận cõi
Không ngày, không tháng, không bơ vơ.
Mười hai tháng sáu cung hồ xế
Một mối tình si một mối thù
Giây phút cũng tan thành biển lệ
Trả cho cát bụi nhé Kiều Thu!
Vũ
Hoàng Chương tin tưởng tới thời điểm nào đó trong một kiếp lai sinh,
hai kẻ yêu xưa tìm lại được nhau, sum vầy trong hạnh phúc lứa đôi:
Trăng một phương tròn lại
Đó là một thứ hạnh phúc tuyệt vời của hai trái tim cùng hòa hợp, cùng đập chung một nhịp:
Cùng nhịp tim trôi về tận cõi
Cõi đó là cõi gì?
Không ngày, không tháng, không bơ vơ
Đó chính là thiên đường của hạnh phúc lứa đôi, không còn bị những giới hạn bởi thời gian như ngày 12 tháng 6 đau thương trước kia chia cách nữa, ở đó không bao giờ họ còn bị bơ vơ, cô độc .
Trăng một phương tròn lại
Đó là một thứ hạnh phúc tuyệt vời của hai trái tim cùng hòa hợp, cùng đập chung một nhịp:
Cùng nhịp tim trôi về tận cõi
Cõi đó là cõi gì?
Không ngày, không tháng, không bơ vơ
Đó chính là thiên đường của hạnh phúc lứa đôi, không còn bị những giới hạn bởi thời gian như ngày 12 tháng 6 đau thương trước kia chia cách nữa, ở đó không bao giờ họ còn bị bơ vơ, cô độc .
Sang đoạn thơ chót, Vũ Hoàng Chương nhớ lại ngày mười hai tháng sáu đau thương trước kia, ngày Tố lên xe hoa về nhà chống, và thú nhận có những giây phút chàng đã thù hận nàng. Chả vì hồi đó nhà thơ chưa nhìn ra nguyên nhân mà chỉ thấy có kết quả ở trước mắt. Kết quả đó là gì? Là nàng Tố đã phụ bạc tấm tình si mê thiết thạch của tác giả ; nhà thơ không thể ngờ được và cứ ấm ức mãi là tại sao hai người đã yêu nhau, đã có bao nhiêu kỷ niệm thắm thiết với nhau như thế mà nàng Tố lại nỡ đành lòng bỏ rơi chàng đi lấy người khác. Cũng vì quá yêu, quá tin tưởng nên nhà thơ mới uất, mới hận đến thành thù, và chàng đã trút cái thù đó lên đầu người yêu:
Mười hai tháng sáu cung hồ xế
Một mối tình si một mối thù.
Một mối tình si một mối thù.
Thù mà vẫn yêu, yêu mà vẫn thù, đó là tất cả cái rắc rối của con tim người ta.
Nhưng giờ đây họ đã hiểu nhau, đã tìm lại được nhau trong tâm hồn rồi thì bao nhiêu những khổ hận, uất ức cũ sẽ được tan ra thành biển lệ, sẽ tự giải tỏa dần (Chúng ta cũng biết, nước mắt tuy là biểu tượng của khổ đau nhưng một khi ta đã khóc được, nước mắt đã chảy ra được thì cũng chính là lúc những khổ đau được thoát ra, được vơi nhẹ đi). Vì thế những gì thuộc về cuộc tình đau thương cũ, tác giả xin trả lại hết cho đời với lòng nhẹ nhàng, không còn bợn chút muộn phiền:
Giây phút cũng tan thành biển lệ
Trả cho cát bụi nhé Kiều Thu !
Nhưng giờ đây họ đã hiểu nhau, đã tìm lại được nhau trong tâm hồn rồi thì bao nhiêu những khổ hận, uất ức cũ sẽ được tan ra thành biển lệ, sẽ tự giải tỏa dần (Chúng ta cũng biết, nước mắt tuy là biểu tượng của khổ đau nhưng một khi ta đã khóc được, nước mắt đã chảy ra được thì cũng chính là lúc những khổ đau được thoát ra, được vơi nhẹ đi). Vì thế những gì thuộc về cuộc tình đau thương cũ, tác giả xin trả lại hết cho đời với lòng nhẹ nhàng, không còn bợn chút muộn phiền:
Giây phút cũng tan thành biển lệ
Trả cho cát bụi nhé Kiều Thu !
Hai
câu thơ cuối cùng này đã biểu lộ cái tâm thanh thản của tác giả khi
nhìn lại những kỷ niệm của cuộc tình đau thương cũ, nó làm cho ta nhớ
đến hai câu thơ bất hủ trong bài Le Souvenir của Musset:
Je n’aurais jamais cru que l’on put tant souffrir
D’une telle blessure, et que sa cicatrice fut si douce à sentir.
(Tôi không bao giờ ngờ được rằng người ta lại có thể đau đớn vì một vết thương đến thế, và cái sẹo của nó lại cảm thấy dịu êm như vậy).
Je n’aurais jamais cru que l’on put tant souffrir
D’une telle blessure, et que sa cicatrice fut si douce à sentir.
(Tôi không bao giờ ngờ được rằng người ta lại có thể đau đớn vì một vết thương đến thế, và cái sẹo của nó lại cảm thấy dịu êm như vậy).
Tóm
lại bài thơ Tố của Hoàng ơi cho ta thấy, Vũ Hoàng Chương đã tìm được
sự an vui trong tâm hồn, đã chấp nhận, đã ổn định được cuộc tình dang
dở hiện tại của mình, và tin tưởng chờ đợi ở một kiếp lai sinh nào đó,
chàng sẽ được sum họp cùng người yêu xưa trong hạnh phúc lứa đôi.
Đây không còn là một ước mộng viển vông như xưa, chờ đợi ở một ngày tận thế không bao giờ tới, mà là một niềm tin có sở cứ, vì tác giả là một người rất am tường giáo lý nhà Phật, cũng như tất cả những ai theo Phật, hiểu rõ thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật, đều tin rằng, những kẻ yêu nhau, từng tạo ra nhiều duyên nghiệp gắn bó thì trong một kiếp luân hồi nào đó, khi cơ duyên đầy đủ, họ sẽ được gặp lại nhau, vui vầy bên nhau cho nguyện ước được viên thành.
Đây không còn là một ước mộng viển vông như xưa, chờ đợi ở một ngày tận thế không bao giờ tới, mà là một niềm tin có sở cứ, vì tác giả là một người rất am tường giáo lý nhà Phật, cũng như tất cả những ai theo Phật, hiểu rõ thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật, đều tin rằng, những kẻ yêu nhau, từng tạo ra nhiều duyên nghiệp gắn bó thì trong một kiếp luân hồi nào đó, khi cơ duyên đầy đủ, họ sẽ được gặp lại nhau, vui vầy bên nhau cho nguyện ước được viên thành.
***
Sau
khi đã trình bày thiên tình sử của thi sĩ Vũ Hoàng Chương qua mấy
chục bài thơ được sáng tác rải rác trong gần suốt cuộc đời của tác
giả, chúng ta phải công nhận rằng trong văn học sử nước nhà chưa bao
giờ có một nhà thơ nào lại viết về tình yêu cá biệt của mình một cách
say sưa, chân thành, sâu sắc, tế nhị, kỳ thú và phong phú đến thế.
Với ngòi bút nhiều bay bướm, khi tự sự dí dỏm, khi trữ tình dào dạt cảm xúc, Vũ Hoàng Chương đã phơi bày trung thực đủ mọi thanh điệu về tình yêu của mình: từ vui đến buồn, từ mừng đến giận, từ thương đến hận, từ sướng đến khổ, từ tốt đến xấu, từ cao thượng đến nhỏ nhen. Ông đã đưa chúng ta vào thế giới sâu thẳm, phức tạp nhưng cũng vô cùng kỳ diệu của tâm hồn và của trái tim mình. Như thế, Vũ Hoàng Chương đã làm hết tính cách của một nhà thơ tình lãng mạn rồi vậy.
Với ngòi bút nhiều bay bướm, khi tự sự dí dỏm, khi trữ tình dào dạt cảm xúc, Vũ Hoàng Chương đã phơi bày trung thực đủ mọi thanh điệu về tình yêu của mình: từ vui đến buồn, từ mừng đến giận, từ thương đến hận, từ sướng đến khổ, từ tốt đến xấu, từ cao thượng đến nhỏ nhen. Ông đã đưa chúng ta vào thế giới sâu thẳm, phức tạp nhưng cũng vô cùng kỳ diệu của tâm hồn và của trái tim mình. Như thế, Vũ Hoàng Chương đã làm hết tính cách của một nhà thơ tình lãng mạn rồi vậy.
Hơn nữa, Vũ Hoàng Chương không chỉ dừng lại ở những nét hiện thực mà còn dẫn ta đến những triết lý sâu sắc nhưng cũng rất nhân bản của tình yêu con người. Theo thi sĩ Vũ Hoàng Chương, tình yêu đích thực sẽ bất diệt cùng trời đất:
Cho đến ngày tận thế
Tình ta như buổi đầu
“Anh yêu em” ba chữ
Cùng trời đất dài lâu.
Và
hạnh phúc đích thực của tình yêu lứa đôi phải là sự đoàn tụ, sự hợp
nhất — “trăng một phương tròn lại” — và đồng thời còn phải là sự đồng
điệu, sự hòa hợp của hai tâm hồn “cùng nhịp tim”, nói như thi hào Ấn Độ
Tagore:
“Toujours un et toujours deux, c’est le chant de l’amour”.
(Luôn luôn một và luôn luôn hai, đó là tiếng hát của tình yêu).
“Toujours un et toujours deux, c’est le chant de l’amour”.
(Luôn luôn một và luôn luôn hai, đó là tiếng hát của tình yêu).
Chú Thích(1)
Năm 1930, Nguyễn Thái Học và mười hai người liệt sĩ VN Quốc Dân Đảng
khác phải lên đoạn đầu đài ở Yên Bái, và còn biết bao cuộc bắt bớ, tù
đầy xẩy ra liên tiếp trong hai năm 1929-1930.
(2) Khoảng thời gian 1925-1945, đi hát ả đào, hay đi hút thuốc phiện đã trở thành một thói của thời thượng, nhất là đối với giới văn nghệ sĩ, nên thi ca văn nghệ đã có nhiều cơ hội xuất hiện ở những nơi ấy.
(3) Áo dài tân thời do họa sĩ Nguyễn Cát Tường, biệt hiệu Lemur chủ xướng, được báo Phong Hóa (1934) giới thiệu và nhiệt liệt cổ vũ.
(4) Riêng đệ nhất bán niên 1933, trong nước có đến 27 tờ báo được phép ra đời.
(5) Lamartine (1790-1869) được kể là người đã sáng tác những bài thơ lãng mạn đầu tiên trong văn học Pháp. Bài Isolement trong thi tập Méditations Poétiques I (1820).
(6) Chinh Phụ Ngâm và Tâm Thức Lãng Mạn Của Kẻ Lưu Đầy của GS Lê Tuyên vừa được văn nghệ xb tại Hoa Kỳ, 1988.
(7) Hồi còn thân với gia đình Tố, nhiều khi vui chuyện, Vũ Hoàng Chương thường nói nghề dạy học là nghề thích hợp nhất cho cả chàng lẫn nàng.
(8) Baudelaire (1821-1867) tuy không ở trong trường phái lãng mạn (romantisme) nhưng là người mở đầu cho trường phái tượng trưng (symbolisme), và có ảnh hưởng lớn đến cả thi ca Pháp hiện đại. Mấy câu thơ dẫn chứng trích trong tập Les Fleurs du Mal, xb tại Paris, 1861.
(9) Musset (1810-1857) được mệnh danh là nhà thơ của trái tim, ông thuộc trường phái lãng mạn, 2 câu thơ dẫn chứng được trích từ tác phẩm Namoura, xb tại Paris, 1832.
(10) Trích thơ Vũ Hoàng Chương
Anh sẽ trầm luân ngàn kiếp nhớ
Cho dẫu ngày mai em lãng quên.
(2) Khoảng thời gian 1925-1945, đi hát ả đào, hay đi hút thuốc phiện đã trở thành một thói của thời thượng, nhất là đối với giới văn nghệ sĩ, nên thi ca văn nghệ đã có nhiều cơ hội xuất hiện ở những nơi ấy.
(3) Áo dài tân thời do họa sĩ Nguyễn Cát Tường, biệt hiệu Lemur chủ xướng, được báo Phong Hóa (1934) giới thiệu và nhiệt liệt cổ vũ.
(4) Riêng đệ nhất bán niên 1933, trong nước có đến 27 tờ báo được phép ra đời.
(5) Lamartine (1790-1869) được kể là người đã sáng tác những bài thơ lãng mạn đầu tiên trong văn học Pháp. Bài Isolement trong thi tập Méditations Poétiques I (1820).
(6) Chinh Phụ Ngâm và Tâm Thức Lãng Mạn Của Kẻ Lưu Đầy của GS Lê Tuyên vừa được văn nghệ xb tại Hoa Kỳ, 1988.
(7) Hồi còn thân với gia đình Tố, nhiều khi vui chuyện, Vũ Hoàng Chương thường nói nghề dạy học là nghề thích hợp nhất cho cả chàng lẫn nàng.
(8) Baudelaire (1821-1867) tuy không ở trong trường phái lãng mạn (romantisme) nhưng là người mở đầu cho trường phái tượng trưng (symbolisme), và có ảnh hưởng lớn đến cả thi ca Pháp hiện đại. Mấy câu thơ dẫn chứng trích trong tập Les Fleurs du Mal, xb tại Paris, 1861.
(9) Musset (1810-1857) được mệnh danh là nhà thơ của trái tim, ông thuộc trường phái lãng mạn, 2 câu thơ dẫn chứng được trích từ tác phẩm Namoura, xb tại Paris, 1832.
(10) Trích thơ Vũ Hoàng Chương
Anh sẽ trầm luân ngàn kiếp nhớ
Cho dẫu ngày mai em lãng quên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Huyền Không, Câu Chuyện Về Thi Ca, Phật học Viện Quốc tế xb, Mỹ Quốc 1981
Hoài Thanh Hoài Chân, Thi Nhân Việt Nam (1932-1941), Đông Nam Á xb, Hà Nội 1943.
Lê Kim Ngân, Võ Thu Tinh, Nguyễn Tường Minh, Văn học Việt Nam Thế kỷ thứ XIX, Văn Hiệp xb, Sài Gòn 1943
Lê Tuyên, Chinh Phụ Ngâm và Tâm Thức Lãng Mạn Của Kẻ Lưu Đầy, Văn Nghệ xb, California, Mỹ Quốc 1988
Max Milner, Le Romantisme (1820-1843), Arthaud xb, Paris 1973
Nguyễn Quảng Tuân và Phạm Thi Nhung cùng một số bạn tốt nghiệp ĐHSP, Quốc Văn 12ABCD, Trường Thi xb, Sài Gòn 1974
Paul Van Tieghem, Le Romantisme Dans La Littérature Eurpéenne, Editions Albin Michel, Paris 1948
Phạm Thế Ngũ, Lịch Sử Văn Học Việt Nam Tân Biên Giản Ước, Quốc HoÏc Tùng Thư xb, Sài Gòn 1969
Tạ Tị, Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đã Đi Qua Đời Tôi, Mỹ Quốc 1990
Trần Tuấn Kiệt, Thi Ca Việt Nam Hiện Đại, Sông Mới xb, Sài Gòn 1965
Uyên Thảo, Thơ Việt Nam Hiện Đại (1900-1960), Đại Nam xb, Sài Gòn 1969
Huyền Không, Câu Chuyện Về Thi Ca, Phật học Viện Quốc tế xb, Mỹ Quốc 1981
Hoài Thanh Hoài Chân, Thi Nhân Việt Nam (1932-1941), Đông Nam Á xb, Hà Nội 1943.
Lê Kim Ngân, Võ Thu Tinh, Nguyễn Tường Minh, Văn học Việt Nam Thế kỷ thứ XIX, Văn Hiệp xb, Sài Gòn 1943
Lê Tuyên, Chinh Phụ Ngâm và Tâm Thức Lãng Mạn Của Kẻ Lưu Đầy, Văn Nghệ xb, California, Mỹ Quốc 1988
Max Milner, Le Romantisme (1820-1843), Arthaud xb, Paris 1973
Nguyễn Quảng Tuân và Phạm Thi Nhung cùng một số bạn tốt nghiệp ĐHSP, Quốc Văn 12ABCD, Trường Thi xb, Sài Gòn 1974
Paul Van Tieghem, Le Romantisme Dans La Littérature Eurpéenne, Editions Albin Michel, Paris 1948
Phạm Thế Ngũ, Lịch Sử Văn Học Việt Nam Tân Biên Giản Ước, Quốc HoÏc Tùng Thư xb, Sài Gòn 1969
Tạ Tị, Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đã Đi Qua Đời Tôi, Mỹ Quốc 1990
Trần Tuấn Kiệt, Thi Ca Việt Nam Hiện Đại, Sông Mới xb, Sài Gòn 1965
Uyên Thảo, Thơ Việt Nam Hiện Đại (1900-1960), Đại Nam xb, Sài Gòn 1969
TIỂU SỬ VŨ HOÀNG CHƯƠNGThi
sĩ Vũ Hoàng Chương sinh ngày 14 tháng 5 năm 1915 tại Nam Định. Chính
quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, tỉnh Hưng yên.
Thân phụ là một nhà nho khoa bảng, từng nhậm chức Tri huyện.
Thuở nhỏ Vũ Hoàng Chương theo học chữ Hán, lớn lên theo Tây học và ông đã thành danh tại thủ đô Hà Nội.
1930: ông học ban trung học Albert Sarraut Hà Nội. Sau khi thi đỗ Tú tài ban toán năm 1937, ông ghi danh học Đại học Luật khoa.
1939: Vũ Hoàng Chương bỏ học ra làm phó kiểm soát viên sở Hỏa Xa Đông Dương và bắt đầu bước vào thi đàn.
1942: Vũ Hoàng Chương xuống Hải Phòng dạy học; và cùng với Chu Ngọc, Nguyễn Bính lập ra ban kịch Hà Nội;
1944: lập gia đình với Đinh thị Thục Oanh, chị ruột của thi sĩ Đinh Hùng.
1948: trong lúc toàn dân tham gia kháng chiến chống Pháp, Vũ Hoàng Chương đã đóng góp theo khả năng của mình bằng những bài thơ đề cao lòng ái quốc, viết chung với Đoàn Văn Cừ trong tập Thơ Lửa, được cơ quan kháng chiến khu ba (Thái Nguyên) xuất bản.
1954: hiệp định Genève chia đôi đất nước, phân biệt ranh giới Quốc Cộng, Vũ Hoàng Chương theo phe Quốc Gia, vào Nam tiếp tục nghề dạy học và theo đuổi nghiệp thơ.
Sau biến cố 1975, Vũ Hoàng Chương ở lại, bị bắt giam tại khám Chí Hòa năm 1976, ông chỉ được tha về khi đã quá kiệt sức, vài ngày sau đó nhà thơ tạ thế, nhằm ngày mùng 6-9-1976 tại Sài Gòn (14 tháng 8 Âm lịch).
Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ lớn trong văn học sử hiện đại Việt Nam, ông đã có nhiều thi phẩm xuất bản nhất so với các bạn đồng thời: 16 tác phẩm, chưa kể những sách được tái bản hay được dịch ra Đức ngữ, Anh ngữ, hay Pháp ngữ.
Thân phụ là một nhà nho khoa bảng, từng nhậm chức Tri huyện.
Thuở nhỏ Vũ Hoàng Chương theo học chữ Hán, lớn lên theo Tây học và ông đã thành danh tại thủ đô Hà Nội.
1930: ông học ban trung học Albert Sarraut Hà Nội. Sau khi thi đỗ Tú tài ban toán năm 1937, ông ghi danh học Đại học Luật khoa.
1939: Vũ Hoàng Chương bỏ học ra làm phó kiểm soát viên sở Hỏa Xa Đông Dương và bắt đầu bước vào thi đàn.
1942: Vũ Hoàng Chương xuống Hải Phòng dạy học; và cùng với Chu Ngọc, Nguyễn Bính lập ra ban kịch Hà Nội;
1944: lập gia đình với Đinh thị Thục Oanh, chị ruột của thi sĩ Đinh Hùng.
1948: trong lúc toàn dân tham gia kháng chiến chống Pháp, Vũ Hoàng Chương đã đóng góp theo khả năng của mình bằng những bài thơ đề cao lòng ái quốc, viết chung với Đoàn Văn Cừ trong tập Thơ Lửa, được cơ quan kháng chiến khu ba (Thái Nguyên) xuất bản.
1954: hiệp định Genève chia đôi đất nước, phân biệt ranh giới Quốc Cộng, Vũ Hoàng Chương theo phe Quốc Gia, vào Nam tiếp tục nghề dạy học và theo đuổi nghiệp thơ.
Sau biến cố 1975, Vũ Hoàng Chương ở lại, bị bắt giam tại khám Chí Hòa năm 1976, ông chỉ được tha về khi đã quá kiệt sức, vài ngày sau đó nhà thơ tạ thế, nhằm ngày mùng 6-9-1976 tại Sài Gòn (14 tháng 8 Âm lịch).
Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ lớn trong văn học sử hiện đại Việt Nam, ông đã có nhiều thi phẩm xuất bản nhất so với các bạn đồng thời: 16 tác phẩm, chưa kể những sách được tái bản hay được dịch ra Đức ngữ, Anh ngữ, hay Pháp ngữ.
TÁC PHẨM CỦA VŨ HOÀNG CHƯƠNG
**
**
Thi Tập:
- Thơ Say, Công Lực xb, Hà Nội 1940; Nguyễn Đình Vượng tái bản, saigon1971
- Mây, Đời Nay xb, Hà Nội 1943
- Thơ Lửa (viết chung với Đoàn Văn Cừ). Cơ quan kháng chiến khu 3 xb., Thái nguyên 1948
- Rừng Phong, Phạm văn Tươi xb, Sài Gòn, 1954
- Hoa Đăng, Văn Hữu Á Châu xb, Sài Gòn, 1959
- Trời Một Phương, Sài Gòn, 1962
- Lửa Từ Bi, Thanh Tăng xb, Sài Gòn, 1963
- Ánh Trăng Đạo, Nha Tuyên Úy Phật Giáo xb, Sài Gòn, 1966
- Bút Nở Hoa Đàm, Sài Gòn, 1967
- Cành Mai Trắng Mộng,Văn Uyển xb, Sài Gòn, 1968
- Ta Đợi Em Từ 30 Năm, An Tiêm xb, Sài Gòn, 1970
- Ngôi Quán, Sài Gòn, 1970
- Đời Vắng Em Rồi Say Với Ai (Gồm 17 bài thơ tuổi học trò cộng nhiều bài tình yêu từ 1955 trở đi), Lửa Thiêng xb, Sài Gòn 1971
- Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau (có bài Tố Của Hoàng Ơi), Rừng Trúc xb, Paris 1974
** Thi Tập với các bản dịch Anh, Pháp, Đức ngữ:
- Communion (Cảm thông, dịch Anh văn), Nguyễn khang phiên dịch và xb, Sài Gòn 1960
- Les 28 étoiles tức Tâm Tình Người Đẹp (dịch Pháp ngữ, do một nữ sĩ người Bỉ dịch) Nguyễn Khang xb, 1961
- Poèmes Choisis (Thi Tuyển) dịch Pháp ngữ, Nguyễn Khang xb, Sài Gòn 1963
- Die Achtundzwaning Sterne Nhị Thập Bát Tú dịch Đức ngữ, Hoffmann Und Campe xb, Hamburg , 1966.
- Nouveaux Poèmes (Tân Thi), Sài Gòn 1974
- Thơ Say, Công Lực xb, Hà Nội 1940; Nguyễn Đình Vượng tái bản, saigon1971
- Mây, Đời Nay xb, Hà Nội 1943
- Thơ Lửa (viết chung với Đoàn Văn Cừ). Cơ quan kháng chiến khu 3 xb., Thái nguyên 1948
- Rừng Phong, Phạm văn Tươi xb, Sài Gòn, 1954
- Hoa Đăng, Văn Hữu Á Châu xb, Sài Gòn, 1959
- Trời Một Phương, Sài Gòn, 1962
- Lửa Từ Bi, Thanh Tăng xb, Sài Gòn, 1963
- Ánh Trăng Đạo, Nha Tuyên Úy Phật Giáo xb, Sài Gòn, 1966
- Bút Nở Hoa Đàm, Sài Gòn, 1967
- Cành Mai Trắng Mộng,Văn Uyển xb, Sài Gòn, 1968
- Ta Đợi Em Từ 30 Năm, An Tiêm xb, Sài Gòn, 1970
- Ngôi Quán, Sài Gòn, 1970
- Đời Vắng Em Rồi Say Với Ai (Gồm 17 bài thơ tuổi học trò cộng nhiều bài tình yêu từ 1955 trở đi), Lửa Thiêng xb, Sài Gòn 1971
- Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau (có bài Tố Của Hoàng Ơi), Rừng Trúc xb, Paris 1974
** Thi Tập với các bản dịch Anh, Pháp, Đức ngữ:
- Communion (Cảm thông, dịch Anh văn), Nguyễn khang phiên dịch và xb, Sài Gòn 1960
- Les 28 étoiles tức Tâm Tình Người Đẹp (dịch Pháp ngữ, do một nữ sĩ người Bỉ dịch) Nguyễn Khang xb, 1961
- Poèmes Choisis (Thi Tuyển) dịch Pháp ngữ, Nguyễn Khang xb, Sài Gòn 1963
- Die Achtundzwaning Sterne Nhị Thập Bát Tú dịch Đức ngữ, Hoffmann Und Campe xb, Hamburg , 1966.
- Nouveaux Poèmes (Tân Thi), Sài Gòn 1974
** Kịch Thơ :
- Vân Muội, Trương Chi, Hồng Diệp, Anh Hoa xb, Hà Nội 1944
- Tâm Sự Kẻ Sang Tần, Tự Do xb, Sài Gòn 1961
** Tùy Bút
- Loạn Trung Bút, Sài Gòn 1970
** Hồi Ký :
- Ta Đã Làm Chi Đời Ta, Trương Vĩnh Ký xb, Sài Gòn 1974
- Vân Muội, Trương Chi, Hồng Diệp, Anh Hoa xb, Hà Nội 1944
- Tâm Sự Kẻ Sang Tần, Tự Do xb, Sài Gòn 1961
** Tùy Bút
- Loạn Trung Bút, Sài Gòn 1970
** Hồi Ký :
- Ta Đã Làm Chi Đời Ta, Trương Vĩnh Ký xb, Sài Gòn 1974
PHẠM THỊ NHUNG
(France)
(France)
Tạp chí Cỏ Thơm (Paris) số 34 và số 36
http://cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=808&Itemid=49
*
http://cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=808&Itemid=49
*
LINH THẢO * VŨ HOÀNG CHƯƠNG
LINH THẢO * VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Linh Thảo
Vũ Hoàng Chương có một lượng thơ khá lớn với nhiều tập thơ ra đời từ thời tiền chiến (phong trào thơ mới 1932-40) và thời hậu chiến (sau 1954). Tập thơ đầu của ông là THƠ SAY (1940), sau là Mây (do ĐỜI NAY xuất bản).
Khoảng năm 1943, nhà xuất bản Đời Nay xuất bản một Giai Phẩm Xuân có đăng vở kịch thơ VÂN MUỘI của ông.
Năm 1954, ông từ Bắc di cư vào Nam và xuất bản các tập thơ RỪNG PHONG, HOA ĐĂNG, CHÚNG TA MẤT HẾT CHỈ CÒN NHAU... Một số thơ mà ông liệt vào loại NHỊ THẬP BÁT TÚ, được đăng trên các tạp chí ở miền Nam. Nhị thập bát tú là những bài thơ làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt (4 câu 7 chữ) có tất cả 28 chữ, nên gọi là Nhị thập bát tú (28 vì sao).
Một tập thơ được các môn sinh tập trung các bài thơ tình của ông hồi trẻ và xuất bản ở hải ngoại sau năm 1975 là: TA ĐỢI EM TỪ BA MƯƠI NĂM.
Cũng sau năm 1975, ở Hoa Kỳ, nhà xuất bản Xuân Thu đã in lại VÂN MUỘI, cùng các tập thơ: CẢM THÔNG, ĐỜI VẮNG EM RỒI SAY VỚI AI, TÂM SỰ KẺ SANG TẦN, LOẠN TRUNG BÚT.
Vũ Hoàng Chương là một trong số ít nhà thơ sành Hán văn, thích thư họa, nên ông đã từng làm thơ, dịch thơ, làm câu đối bằng chữ Hán.
Trước năm 1945, ông vào Nam dậy học, và sinh hoạt văn nghê.. Sau năm 1975, ông bị đưa đi học cải tạo và mất sau đó không bao lâu đi được tha.
Ở đây, người viết không đề cập đến Vũ Hoàng Chương qua số lượng thơ lớn cới nhiều tập thơ đã xuất bản của ông. Chỉ nhắc đến một ít bài hay vần thơ lẻ của ông, Việt văn lẫn Hán văn, mà ít người biết đến, không nhớ hay do thơ đăng rải rác đây đó trên các báo mà không được tập trung vào một tác phẩm nhất đi.nh.
Trước hết, thử phát họa đôi nét về con người Vũ Hoàng Chương. Thời xưa, hồi còn trẻ, ông đam mê nhiều thứ: rượu, thuốc phiện, ả đào, khiêu vũ... Những cái đam mê này cũng chỉ để tìm những nguồn cảm hứng cho thơ theo cái "mốt" của thời đại bấy giờ. Bài SAY ĐI EM, QUÊN, NGHE HÁT được trích dẫn trong tập THI NHÂN VIỆT NAM là tiêu biểụ
Sau năm 1975 vào Nam, có lẽ vì là nhà giáo, ông không còn có cái đam mê thời trước, mà chỉ có cái đam mê sáng tác thi ca, và có cái cốt cách, phong độ của kẻ sĩ.
Thơ Vũ Hoàng Chương rất đa dạng: thơ tình, thơ hoài cổ, thơ triết lý... mặt nào cũng có phong vị riêng, rất Vũ Hoàng Chương.
Điều đáng nói là cái phong độ kẻ sĩ của ông đã biểu lộ rất mực, sau năm 1975, trong một buổi họp văn nghệ do Thanh Nghị, một nhà văn từ bưng về thành, tổ chức để ca tụng Tố Hữu, về hai câu thơ trong bài "ĐỜI ĐỜI NHỚ ÔNG": "Thương cha thương mẹ thương chồng, Thương mình thương một thương ông thương mười". Được mời phát biểu ý kiến, Vũ Hoàng Chương đã chê hai câu thơ đó là không chân thật khi đặt lời ấy vào miệng một bà mẹ Việt Nam, cũng như vào miệng con trẻ khi tập nói: "Tiếng đầu lòng con gọi Stalin." Ông cho đó là loại "thơ thợ", thơ tuyên truyền, không có gì đáng gọi là thơ hay, trong lúc các văn nghệ sĩ khác như Thanh Nghị, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên và những người khác đều hết lời khen Tố Hữu đã có những câu thơ tuyệt tác, "xuất thần khẩu chiếm" đó.
Cũng nên biết rằng Vũ Hoàng Chương là một thi sĩ đồng thời với Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, cùng là những tài danh trong làng thơ mới, nhưng lại được Nhất Linh, chủ soái Tự Lực Văn Đoàn, gọi là "Thi Vương" (vua thơ) .
Có lẽ vì lời phát biểu "ươn ngạnh", không xu phụ nhà lãnh đạo văn nghệ miền Bắc, nên sau đó Vũ Hoàng Chương đã bị đưa đi cải tạo tư tưởng.
Trong tù, ông đã làm bài thơ khí khái:
Thấm thoát vào đây tháng đã tròn
Lông hồng gieo xuống nặng bằng non
Một manh chiếu lỉa hồn ngây ngất
Ba chén cơm rau xác mỏi mòn
Ngày tới bữa ăn càng nhớ vợ
Đêm về giấc ngủ lại thương con
Bao nhiêu nước chảy qua cầu nữa
Chẳng dễ gì phai một tấm son.
Vào dịp Tết Bính Thìn - 1976, khi chưa đi cải tạo, sống dưới chế độ mới, "trong khoảng thời gian tranh tối tranh sáng của thời sư.... Lúc ấy, buổi hỗn quân hỗn quan, lúc thú vật đội lốt người, tác yêu tác quái", như Nguyễn Mạnh Trinh đã viết, Vũ Hoàng Chương có bài thơ VỊNH BỨC TRANH GÀ LỢN, với ngụ ý châm biếm sâu sắc:
Sáng chưa sáng hẳn tối không đành
Gà lợn om xòm rối bức tranh
Rằng vách có tai thơ có họa
Biết lòng ai đỏ mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh
Qua hai bài thơ trên, Vũ Hoàng Chương có thái độ "khinh thế ngạo vật" trước thời cuộc biến thiên của nước nhà. Ông không là một kẻ khiếp nhược, chẳng tỏ vẻ gì lo sợ trước nghịch cảnh, như nhận định sau đây của Nguyễn Huệ Chi, một nhà văn miền Bắc, dù ông này vẫn phục tài và có cảm tình với Vũ Hoàng Chương:
"Đã từng sống trong không khí cải cách ruộng đất đợt V, hồi 1955 ở khi IV, tôi thấu hiểu nỗi sợ đến khủng khiếp về một cái gì không ra ngô ra khoai, về sự chờ đợi trong nặng nề khắc khoải, phải đếm từng giây phút một cho bớt cô đơn lạnh lẽo mà Vũ Hoàng Chương đã từng sống..." (sic)
Một số bài thơ của Vũ Hoàng Chương có tính chất thời sự, có lẽ ông chỉ cảm khái nhất thờị Chủ yếu thơ ông là thơ tình. Song thơ tình Vũ Hoàng Chương thời hậu chiến khác thơ tình thời tiền chiến, có ngôn ngữ chau chuốt, điêu luyện với giọng thơ phóng khoáng, tài hoa, có phong thái "thơ cẩm tú đàn anh họ Lý" của thi ca Đường, Tống:
Trở gót quê say ngược Suối Điều
Nét hoa mờ tỏ sóng phiêu diêu
Lên tiên về tục thương Từ Thức
Lấy giả làm chân học Thúy Kiều
Một số thơ khác của Vũ Hoàng Chương mang nét đấu tranh, do biến chuyển xã hội, thời Đệ Nhất Cộng Hòa:
Giờ điểm lâu rồi hỡi Tuổi Xanh
Có nghe nét chữ réo tung hoành
Có nghe giòng mực sôi trên giấy
Nhịp bốn nghìn thu Sử Đấu Tranh
Đáp tiếng nghìn xưa thề chiến đấu
Quên thân giằng cướp lấy sơn hà
Đứng lên đòi lại bằng xương máu
Sông núi vàng son của chúng ta
và trong vụ Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, bảo vệ Phật Pháp:
Thương chúng sanh trầm luân bể khổ
Người sẽ phăng đêm tối đất đầy
Bước ra ngồi nhập định hướng về tây
Gọi hết lửa vào xương da bỏ ngõ...
Về sau, thơ Vũ Hoàng Chương chuyển sang địa hạt triết lý với NHỊ THẬP BÁT TÚ:
Ta ngắm trông vào cái chính ta
Hồn xanh trong nếp áo thu già
Tay kia từng níu trời cao mãi
Nay chống ô chờ đất nở hoa
Ngày song thất 1963 (7-7-63), Nhất Linh tự hủy mình, như Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, để phản đối nhà Ngô kết án ông là phản loạn, Việt Nam đã khóc nhà văn cách mạng qua hai câu đối chữ Hán:
- Sổ thập niên bút mặc thành danh, nhất khả đoạn nhị khả tuyệt, nhi tam bất hủ
- Song thất dạ vân tiêu lạc phượng, tiên Phong hóa hậu Văn hóa, ư trung lập ngôn
Tạm dịch:
Mấy chục năm bút mực lừng danh, một dễ đứt hai dễ mất, mà ba còn mãi
Đêm bảy bảy trời mưa rớt phượng, trước Phong hóa sau Văn hóa ngôn luận để đời
Ghi chú hai câu đối nhiều ý nghĩa này:
1/ một, hai = bút mực, ba = danh
2/ Nhất = Nhất Linh, Nhị = Nhị Linh (bút hiệu Khái Hưng), Tam = Tam Linh ( bút hiệu khác của Nhất Linh và Nguyễn Tường Tam (tên Nhất Linh).
3/ đoạn, tuyệt = cũng là tên ĐOẠN TUYỆT, một tác phẩm của Nhất Linh
4/ phượng = chỉ Nhất Linh, mà cũng là tên nhà xuất bản Phượng Giang, kế tiếp nhà xuất bản đời Nay, do Nhất Linh chủ trương.
5/ Phong hóa = tờ báo có trước Ngày Nay (thập niên 1930) của Nhất Linh.
6/ Văn hóa = tức tạp chí VĂN HÓA NGÀY NAY do Nhất Linh chủ trương, cùng với nhà xuất bản Phượng Giang, vào thập niên 1950.
Vốn sành chữ Hán, Vũ Hoàng Chương từng dịch bài LIÊU TRAI ĐỀ TỪ của Vương Ngư Dương ở sách LIÊU TRAI CHÍ DỊ của Bồ Tùng Linh:
Cô vọng ngôn chi vọng thính chi
Đậu bằng qua giá vũ như ty
Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ
Ái thính thu phần quỷ xướng thi
THƠ ĐỀ SÁCH LIÊU TRAI:
Nói bứa bừa đây nghe bứa bừa
Dây dưa giàn đậu phới tơ mưa
Chuyện đời chừng đã đầy ngao ngán
Thích lắng mồ thu quỷ đọc thơ
Cách dịch thơ của Vũ Hoàng Chương rất phóng túng, ít chịu gò bó theo nguyên tác, kể cả từng chữ, câu và luôn cả ý. Ngôn ngữ dịch của ông khá đặc biệt, kênh kiệu mà tân kỳ (bứa bừa, phới tơ mưa).
Với bài TAM THƯỚNG HẢI VÂN dưới đây, của Trần Bích San, ông đã đảo thứ tự trên dưới hầu hết số câu và dịch rất thoát, dùng chữ khéo, tuy có phần không sát lời thơ nguyên tác, và vẫn diễn rất đạt và mở rộng cái ý tưởng hàm súc của tác giả (nhất là những câu 3-4, 5-6).
Tam niên tam thướng Hải Vân đài
Nhất điểu thân khinh độc vãng hồi
Thảo thụ bán không đê nhật nguyệt
Kiền không trích nhãn tiểu trần ai
Văn vô sơn thủy vô kỳ khí
Nhân bất phong sương vị lão tài
Hưu đạo tần Quan chinh lộ hiểm
Mã đầu hoa tận đới yên khai
BA LẦN VƯỢT HẢI VÂN
Ba năm vượt ải đã ba lần
Nhẹ cánh chim trời dạo Hải Vân
Ngắm rộng kiền khôn coi cũng bé
Lên cao nhật nguyệt tưởng đâu gần
Gió sương như búa tài thêm chuốt
Hồ bể làm nghiên bút mới thần
Đầu ngựa rừng hoa chen khói nở
Cười ai kêu hiểm lối sang Tần
Vũ Hoàng Chương đã dịch:
Xưa hạc vàng bay ngút bóng người
Đây lầu Hoàng hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc đi đi mất
Trắng một màu mây vạn vạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống đâu quê quán
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi
Bài dịch này cùng vẫn theo lối dịch không đi sát nguyên tắc. Vũ Hoàng Chương không chịu phụ thuộc triệt để lời thơ của tác giả, chỉ tạo ngữ khí và ngữ cảnh riêng của mình để diễn dịch thơ của ngườị Có thể nói đây là một cách chuyển tác bài thơ này sang bài thơ khác với những ý chính được lưu giữ lại.
Thơ chữ hán của Vũ Hoàng Chương cũng rất điêu luyện. Mở đầu thi phẩm RỪNG PHONG ông có hai câu thơ:
Lãnh quế trầm hương thương hải nguyệt
Loạn bồng tâm đới bạch vân thu
và ông tự dịch:
Quế lạnh hương chìm trong bể biếc
Cỏ bồng mây trắng rối lòng thu
Vẫn lối dịch phóng khoáng, đảo lộn trật tự trong câu nguyên tác để diễn ý thợ Có thể hiểu câu thơ trên:
Trăng biển xanh lặng quế chìm hương
Mây thu trắng rối bồng trĩu dạ
Năm Ất Mão (1975) vào đêm trừ tịch, Vũ Hoàng Chương đã sáng tác bài thơ chữ Hán KHAI XUÂN THẠCH KHÚC với nhiều điển tích khó hiểu:
Tường vân mãn tọa tọa bôi minh
Hy chúc xuân khai dạ bán quỳnh
Đông liễu Tây đào song tận mỹ
Tần tang Yên thảo nhất hồi thanh
Tần giao cố quốc hoài kim phấn
Tự hữu cuồng ngôn xuất thạch bình
Đồi ngoạ dữ sa trường tuý ngoạ
Cổ lai thuỳ giả chiếm cao danh
Dịch: KHÚC THẦM ĐẦU XUÂN
Mây vờn quanh chỗ chén lung linh
Vui chúc đầu xuân mọi tốt lành
Tây liễu Đông đào đôi vẻ đẹp
Tần dâu Yên cỏ một màu xanh
Phấn hương nước cũ dù mang dạ
Vách đá lời ngông đã vọng tình
Nát rượu cùng say lăn chiến địa
Xưa nay ai đã vượt hơn danh?
(Thiên Nhất Phương dịch)
Bài này bộc lộ ít nhiều tâm sự của tác giả giữa buổi giao thời năm 1975. Hai câu cuối tác giả vẫn tự cho mình là một kẻ "đồi ngoạ" (đồi nhiên tuý ngoạ = say quá nằm liều) tức là một văn nhân bất đắc dĩ.
o0o
Nhắc đến Vũ Hoàng Chương, người mà Nhất Linh đã phong thì "thi vương" và một nhà văn sau này (Nguyễn mạnh Trinh) gọi là "ngôi sao Bắc đẩu" trên thi đàn Việt Nam.
Thực vậy, Vũ Hoàng Chương là nhà thơ tài hoa, phóng dật cả trong lối sống và trong sáng tác thi cạ Hơn nữa, ông còn là một kẻ sĩ, "uy vũ bất năng khuất", để rồi phải nhận lãnh cái chết sau một thời gian bị giam giữ trong tù.
Hồi trước, vào năm 1963, Vũ Hoàng Chương đã tôn vinh Nhất Linh Nguyễn Tường Tam (với câu đối dẫn trên), thì sau này ông cũng bất hủ với sự nghiệp "lập ngôn" của ông.
TẠ TỴ * VŨ HOÀNG CHƯƠNG
TẠ TỴ * VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Tạ Tỵ
Mười khuôn mặt văn nghệ
Vũ Hoàng Chương
Vũ Hoàng Chương: Làm thơ. Sinh ngày: 5-5-1916 tại Nam Định (Bắc Việt, theo giấy khai sinh). Năm sinh đúng: 1915, năm Ất Mão, tháng 4, mồng Một. Chánh quán: Làng Phù Ủng, tỉnh Hưng Yên (Bắc Việt)
Tác phẩm: Thơ say 1940, Vân Muội (kịch thơ) 1942, Mây (thơ) 1943, Vân Muội, Trương Chi, Hồng Điệp (kịch thơ) 1944, Thơ lửa (cùng với Đoàn Văn Cừ - Liên khúc 3),Tâm sự kẻ sang Tần (kịch thơ) 1951, Rừng phong (thơ) 1954, Hoa đăng (thơ) 1959, Tâm tình người đẹp (thơ Nhị thập bát tú) 1961, Trời một phương (thơ), Thi tuyển (Poèmes choisis) tựa của Simone Kuhnen de la Coeuillerie 1963, Lửa từ bi (thơ) 1963, Ánh trăng đạo (thơ) 1966, Bút nở hoa đàm (thơ) 1967, Cành mai trắng mộng (thơ) 1968, Nouveaux Poèmes (Tân Thi) 1970, Ta đợi em từ ba mươi năm (thơ) 1970, Loạn trung bút (tạp văn) 1970
Vũ Hoàng Chương
Tiếng thở dài của phương Đông trầm mặc
Nói đến Vũ Hoàng Chương là nói đến dòng thời gian xa thẳm trước tầm mắt, là nhắc nhở đến vùng bao la như lớp khí quyển vây quanh trái đất tạo nên ứ đọng với từng ngón hoài nghi, với niềm dằn vặt khôn nguôi giữa sự bứt rời và níu kéo trong một thể xác nửa mệt lả vì yêu thương, nửa giận hờn nỗi thất bại của tâm linh trước sự chia lìa của Thơ với Thực tại.
Sinh ra đời dưới một ngôi sao tốt, từ nhỏ, Vũ được bọc đùm trong nhung lụa, được dạy dỗ ở cả hai phía, Tây học và Hán học. Vũ đã hấp thụ văn học Tây phương đồng thời do sự giáo huấn của bà mẹ, Vũ cũng say mê Đông phương và sớm suy tư triết thuyết Lão, Trang với cổ thư Trung Quốc.
Sự ám ảnh của thời đại hoàng kim chìm khuất với vóc dáng chàng Tư Mã áo xanh trên bờ sông Dương Tử, hay khuôn mặt nàng ca kỹ bén Tầm Dương “tay ôm đàn che nửa mặt hoa”… đã làm phai mờ tất cả kích thước các nhà thơ lớn Tây phương: Hugo, Lamartine, Musset, Baudelaire, Verlaine, Rimbaud đang chiếu sáng trên vòm trời thi ca Việt Nam khoảng 1935-43 với từng người thơ chịu ảnh hưởng sâu đậm kỹ thuật, nhất là tư tưởng vay mượn của nền thi ca miền tóc vàng, tuyết trắng.
Vũ là tượng hình đứng cô liêu trong vòm trời quá khứ. Ánh sáng của ngọn hải đăng le lói giữa đêm khuya mịt mùng sóng vỗ, Vũ lắng nghe hồn mình trải rộng trên mỗi con nước đại dương và thầm ước sẽ tìm được trong sự luân lưu đó, chút hơi thở của người xưa vọng đến. Nhưng ánh sáng của ngọn hải đăng vẫn le lói hằng đêm và đại dương cứ luân lưu theo chu kỳ miên viễn, hơi thở của quá khứ trôi đi biền biệt không để lại vết tích gì trong vũ trụ bao la, có chăng chỉ còn lại niềm tưởng vọng giữa sự-sống-hôm-nay gửi về cõi-chết-hôm-qua bằng môi trường suy cảm. Vũ đã suy cảm và lựa chọn khổ đau, với đam mê huỷ diệt. Vũ khước từ cái công danh phú quý mà đời đã trao tặng sau những năm đèn sách, để tự dấn thân vào thế giới thi ca, tức là mang lấy nghiệp. Sự “đầu thai lầm thế kỷ” mà Vũ đã viết ra, hét to lên trong cơn mê loạn của thể xác, trong nỗi vò xé của tâm linh trước cuộc sống nghẽn lối, trước cơn bi phẫn của con chim bị trúng tên rã cánh, nhìn trời cao mà không vút lên được, nhìn trái ngọt mà không vừa an hưởng, nhìn thân phận trôi đi, trôi đi như ảo ảnh để nuối tiếc giấc mơ thành bướm thuở nào.
Thế đó, dòng sông với ngần ấy tê liệt, ngần ấy giận hờn trong một xã hội đốn mạt, trong một quốc gia nô vong, Vũ cảm thấy mình đã nhiễm độc và để giải độc, Vũ tìm quên trong chiều sâu của ảo giá, của men khói. Ở đó, Vũ đón nhận về phần mình tất cả đau thương, qua từng sợi khói lung linh, qua lời hò hẹn chênh vênh, qua tình yêu gục mặt, qua niềm tin đổ vỡ để thoát vào cảm thông với hơi thở mỏi mòn. Vũ tiếp thu những giá trị bi thương ấy, những nghẹn ngào câm tiếng ấy bằng niềm sảng khoái vỡ bờ. Vũ từ bỏ thực tại như từ bỏ chính bản thân. Vũ lững thững đi vào xứ Mộng. Trong cõi mông lung của tiềm thức, từng hình ảnh xa lìa, khắc khoải bám riết lấy suy tư, xiết chặt thân phận Vũ vào chiếc nôi bằng tơ có móc đầy gai nhọn. Sự lìa bỏ bản thân, lìa bỏ thực tại phải được coi như những chứng tích, mỗi ngày mỗi nối hằn như vết roi định mệnh.
Hành trình vào thế giới thi ca của Vũ, người ta không thể không xuyên qua bản chất thực thể của Vũ với tấm lòng rộng mở, với ý hướng chói loà chiếu rọi vào mỗi dòng, mỗi chữ để cùng đau, niềm đau tâm sự! Vũ, mẫu người thơ đặc biệt, không giống với bất cứ thi nhân nào đã và đang có mặt. Vũ làm thơ để cất lên lời chào, tiếng khóc. Vũ làm thơ để trối trăng ý tình, để tiếp nối hơi thở gửi từ kiếp trước. Cái đau, Vũ khóc ngất trong thơ không phải cái đau của Huy Cận với “Chàng là con một người mẹ hay sầu. Nên trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ”. Không, không, cái đau của Vũ cao rộng và siêu thoát. Nó có đấy, nhưng nó cũng vô vàn xa vời như chiếc bóng hồ ly, như tiếng nhạc lênh đênh dội từ cung Hằng thăm thẳm. Phong độ trong thơ Vũ là phong độ của cánh chim hồng hộc bay suốt vạn dặm dài, qua bao nhiêu không gian ước định. Thơ Vũ hiện diện như loài hoa quý, ngạo nghễ rung rung từng cánh mỏng cho phấn hương tan vào thinh không gửi đến mọi phương trời, mọi góc cạnh tâm tư đang chới với trong mê muội, trong dục vọng thấp hèn giữa cuộc sống buông trôi.
Hành trình vào thơ Vũ, mỗi con người tự cảm thấy lâng lâng như lạc vào giấc mơ kỳ thú. Thời gian, không gian xáo trộn, quỷ với người là tình nhân, gỗ đá cũng mặc áo linh hồn. Nhưng muốn hiểu thơ Vũ đến cùng, người ta phải tìm hiểu cả cái dòng sống phức tạp xuyên qua từng khía cạnh ngọt ngào và cay đắng, đã làm Vũ chết điếng sầu đau, tê rời cảm xúc.
Tình yêu và đam mê
Đi vào tình yêu là đi vào nguồn vui đau khổ. Từ khung trời hy vọng đổ sang vùng địa ngục tối tăm. Từ ánh mắt sáng ngời do lửa yêu đương thắp sáng đến nấm mộ u uất dựng lên giữa cõi sống như một sỉ nhục. Khuôn mặt người đàn bà mang tên Kiều Thu mà Vũ đã ôm ấp mười năm, mười năm nhen nhúm với ước vọng, với chờ đợi não nề, với dặm dài mệt mỏi. Kiều Thu, Kiều Thu hỡi! Người đàn bà may mắn đã được Vũ khóc trong thơ, đã được Vũ vuốt ve với vần điệu gấm nhung, đã được Vũ tôn lên ngai thờ Nữ Sắc, nàng có biết chăng, dung nhan đó đã trở thành bất tử. Người đàn bà ấy giờ đây đang có mặt ở phương nào, đang ẩn mình trong góc cạnh nào của cuộc sống, sung sướng hay khổ đau, đã già hay còn trẻ, hãy ngẩng mặt lên đón nhận nơi đây lời chúc tụng.
Tình yêu mà Vũ đã gửi tặng lầm nơi không phải thứ tình yêu qua nhanh như gió thổi, như lằn chớp ngang trời. Nó day dứt sượng sùng. Nó tái tê cuồng dại đến nỗi Vũ phải kêu la:
“Yêu sai lỡ để mang sầu trọn kiếp
Tình mười năm còn lại mấy tờ thư!”
Biết rằng thất bại và biết được giá trị khổ đau, Vũ muốn tìm quên bằng cách đắm chìm thân phận vào trời say, nhưng không được:
“Say đã gắng để khuây sầu lẻ gối
Mưa, mưa hoài rượu chẳng ấm lòng đau
Gấm thế nào từ buổi lạnh lùng nhau
Vàng son có thay màu đôi mắt biếc?
Tình đã rời đi riêng mình tưởng tiếc
Thôi rồi đây chiều xuống giấc mơ xưa
Lá, lá rơi nằm bệnh mấy tuần mưa
Say chẳng ngắn những đêm dằng dặc nhớ…”.
(Lá thư ngày trước, Mây)
Như thế đó, tình yêu đối với Vũ là hình phạt nặng nề hơn ân thưởng. Những khuôn mặt đàn bà đi qua đời Vũ, được Vũ nhắc đến trong tác phẩm, đều chập chờn như những bóng ma. Cô gái tóc vàng đến từ miền tuyết trắng hay ả ca kỹ nổi danh phòng Dạ-lạc cũng chỉ là hư ảnh. Vết thương tình ái làm Vũ nhức nhối đến bây giờ, trong buổi xế chiều của cuộc đời, vẫn là Kiều Thu. Nó là ung thư đục khoét ở chiều sâu cơ thể. Nó làm cho con người chết mỏi mòn vì ám ảnh, sầu đau. Vũ mang vết thương đó đi lang thang trên mọi nẻo đường đời như mang một số kiếp phụ thuộc.
“Trăng của nhà ai Trăng một phương
Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường
Ở đêm tháng sáu mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương…”
Ngày 12 tháng 6 là ngày người yêu sang ngang. Sự dứt bỏ này làm tổn thương đến danh dự người trai ngoài hai mươi tuổi. Nhưng nàng bỏ ta không phải là hết. Ta vẫn mê nàng. Ta là gã si tình ngàn kiếp:
“Tháng sáu mười hai từ đây nhé
Chung đôi từ đấy nhé lìa đôi
Em xa lạ quá đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa Tố của tôi…”
Rồi Vũ thét ngất:
“Kiều Thu hề Tố em ơi
Ta đương lửa đốt tơi bời mái Tây
Hàm ca nhịp gõ khói bay
Hò Xừ Xang Xế bàn tay điên cuồng
Kiều Thu hề trọn kiếp thương
Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô
Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên…”
(Mười hai tháng sáu, Mây)
Niềm bi thảm của tình yêu cứ kéo lê trong tâm linh Vũ như vết hằn khổ nhục. Khuôn mặt và vóc dáng người đàn bà đó đã gây nên ấn tượng khốc liệt làm Vũ choáng váng đến run sợ. Chính vì không đủ can đảm, Vũ chạy trốn thất vọng đi tìm đam mê để giết nỗi buồn dằng dặc. Vũ dìm đời mình vào dòng sông Mê khoái cảm. Vần điệu trong thơ Vũ ngất ngư như ủ say men khói, lãng đãng lạc vào cõi u huyền mộng mị.
Thi phẩm Mây chào đời năm 1943 là thi phẩm sáng chói nhất của Vũ, vì ở giai đoạn này, Vũ đã sống trọn vẹn với hơi thở thi ca, với quê Nâu lửa đóm bằng máu và hồn. Vũ thiêu dần thân xác chẳng những với ngọn dạ đăng chập chờn hoa bấc mà còn đắm say tiếng cầm ca, sênh phách rộn ràng trong từng đêm dài cửa Ô đau khổ. Vũ muốn xé tan thân phận mình và tiêu huỷ cái số kiếp bi đát để tìm về giải thoát, sự giải thoát nào đó có mầu nhiệm hay không, Vũ chẳng cần biết. Vũ nhìn chòng chọc vào cõi Hư Vô mong soi tỏ bản chất mình qua đốm lửa lung linh mờ ảo.
Ngày rồi đêm, khúc vui, cung buồn cứ đuổi theo nhau chạy luồn trong huyết quản Vũ để biến Vũ thành một tù nhân của đam mê vọng tưởng. Niềm thương nhớ chắc chẳng bao giờ nguôi, từng nỗi khắc khoải, phân vân hiện hình trong thơ Vũ như chứng minh sự buông thả lênh đênh của một tâm hồn đã quá no đầy oan nghiệt:
“Phơi phới linh hồn lỏng khóa then
Say nghe giọt nhựa khóc bên đèn
Mê ly cả một trời Đông Á
Sực tỉnh trong lòng nấm mộ đen…”.
(Hơi tàn Đông Á, Mây)
Ảnh hưởng và đối thoại
Tâm hồn Vũ là những sợi dây tơ được căng thẳng trên vòm trời ảo mộng. Một hơi gió, một chớp mắt, một va chạm cỏn con cũng đủ làm cho đường dây rung lên nức nở. Vũ treo cuộc sống của mình trên những sợi dây mong manh đó và để mặc cho âm hưởng reo vang tự đáy lòng cô độc. Vũ không nhìn vào cuộc đời có đây để tìm vị trí thực thể của mình. Vũ xoay mặt đối diện với quá khứ, đối diện với những ước mơ tự ngàn xưa xa vút. Sự đối diện này tạo cho Vũ niềm tin tưởng vì Vũ cho rằng đã tìm thấy ở vóc dáng dĩ vãng, cái-qua-rồi, hình ảnh bản thân hiện rõ trong lăng kính tâm tư. Vũ vẽ lại tiền thân bằng vần điệu. Cả một vòm trời nặng trĩu mây mù, Vũ dùng tâm linh chiếu sáng để nối lại đường dây giao cảm, để khoả lấp sai biệt của khoảng cách vô cùng rộng lớn. Vũ mơ giấc mơ thành bướm của Trang Chu và dõi theo từng bước chân khoảng khoát của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Bạch Cư Dị. Vũ say mê bờ liễu Hàng Châu lả lướt, hoặc sóng nước xanh rờn vỗ bên Tầm Dương, hoặc nét nguy nga, cao trọng của lầu Hoàng Hạc ngàn năm sững bóng. Vũ chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền thi ca Trung Quốc thuở thịnh Đường và mê triết thuyết Vô Vi của Lão Tử. Cái “Có” cái “Không” phải chăng là mầu nhiệm? Đêm đêm Vũ thường đốt đèn lên trang sách hỏi người xưa về Ý Thức Huyền Vi để mong tìm ra lối thoát cho bản ngã, tài năng:
“Phải chăng muôn kiếp nặng nề
Từ Hư Không lại trở về Không Hư
Lẽ nào mộng cả thôi ư?
Người ơi! Giọt bể chứa dư tang điền…”
(Bài ca siêu thoát, Rừng phong)
Không tin vào giá trị của cuộc sống, Vũ nghiêng về hoài cảm. Từ hoài cảm tiến tới hờn giận sự hiện diện của thực tại nhức nhối, nhơ bẩn. Vũ vượt lên, thoát mình vào ảo giác, trộn lẫn cái “Còn”, cái “Mất”, cái “Có”, cái “Không” để đi vào quan niệm bi thương, giận dỗi. Vũ vẫy vùng trong mớ hư ảnh, kêu gọi từng hình thể xa vời trở về đối thoại.
Vũ cho rằng, cuộc đời hiện hữu không phải là chỗ đứng của mình nên thay vì đối thoại với người sống, Vũ trò chuyện với những vóc dáng mơ hồ chạy lởn vởn trong tiềm thức, hay ẩn hiện sau mỗi cơn say dài men khói. Từng chấm sáng lân tinh xoay quanh đốm lửa hắt hiu toả hương mê hoặc. Vũ gọi về tâm sự! Vũ dìu nhẹ thời gian trở ngược vòng vận chuyển. Vũ mơ về thời đại hoàng kim xênh xang nhạc ngựa, gỗ, đá giao duyên. Vũ đối thoại với linh hồn, ma quỷ bằng lời thơ tiếc nuối:
“Khí thiêng chừng sớm lìa nhân thế
Dương thịnh rồi chăng Âm đã suy
Quạnh quẽ thu phân thơ bặt tiếng
Lầu hoang chìm dấu cỏ hồ ly
Còn đâu thuở ấy niềm khăng khít
Quỷ với người chung một mái nhà
Trăng bạn, hoa em trầm mối lái
Đèn khuya dìu dặt bóng yêu ma…”
(Cảm thông, Mây)
Ma quỷ, Hồ ly đối với Vũ như những người bạn chí thiết. Vũ trao đổi tâm sự với chúng như trò chuyện với các danh nhân, cao sĩ. Vũ mặc áo linh hồn cho gỗ, đá, cỏ, cây.
“Ai đó – Phải chăng hồn cỏ cây
Bấc thơm dầu quánh nhựa hây hây
Dầu vơi bấc mỏng manh gây
Bước chân vào bợ ngợ
Hoa đèn lung lay…”
(Nửa truyện Hồ ly, Mây)
Nhưng niềm cảm khái của Vũ không nhất thiết phải đứng nguyên ở vị trí tiếc thương quá khứ với giấc mộng đẹp qua đi không bao giờ trở lại, đôi khi, nó vùng lên hào khí. Sự vùng lên để chứng tỏ một thái độ và cũng để tìm không khí mới cho cuộc đối thoại, vì đối thoại không hẳn là phải chung thuỷ với một lập luận, chính thực để hiểu thêm những điểm khác biệt với chính mình. Từ truyện người tráng sĩ Kinh Kha với đường gươm lỡ dở không thành việc lớn, với tiếng sáo u buồn của Cao Tiệm Ly tiếc thương người bạn đời, đến vị anh hùng ái vải đất Quy Nhơn đã làm đẹp lòng Vũ bằng vần điệu gieo vàng, chuốt ngọc.
“Hãy dừng lại thời gian
Trả lời ta! Có phải,
Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải
Dưới vầng dương thiêu đốt quan san
Lớp hưng phế xô nghiêng triều đại…
Mà chí lớn dọc ngang
Mà nghiệp lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Vẫn ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn…”
(Bài ca Bình Bắc, Hoa Đăng)
Đó, tâm hồn Vũ rung lên từng cung bậc uyển chuyển, nhịp nhàng. Tình yêu, hồi tưởng, đam mê, đau khổ, hờn giận đã bủa vây dòng sông nội tâm Vũ, biến Vũ thành một biểu tượng đặc biệt trong thế giới thi ca hiện đại.
Niềm cô đơn và dung nhan
Mỗi con người là một hoang đảo, nếu không có sự liên hệ do cuộc sống tạo nên để ràng buộc nhau trở thành xã hội, quốc gia hay nhân loại. Từ thuở sơ sinh, thanh âm thứ nhất chào đời là tiếng khóc chứ không phải nụ cười. Cái vòng sinh, lão, bệnh, tử như mỗi dây oan nghiệt thắt chặt mỗi cá nhân vào nghiệp chướng không để ai thoát khỏi. Vũ vào đời với từng bước nhỏ nhẹ, với thân phận tiền oan. Màu áo xanh Tư Mã, Vũ khoác lên vai mỏng manh như một biểu hiệu cố định, đồng thời Vũ cũng mang luôn niềm cô đơn giữa đời sống – một đời sống nô vong – đang đuổi theo sự an hưởng vật chất trước mặt, hay gục đầu trong vũng lầy hoàn cảnh. Vũ ngẩn ngơ giữa cõi đời với túi hành trang chất đầy hoài vọng lẫn bi thương. Vũ hoài vọng đến một khung trời bỏ ngỏ có bướm vàng, lá thắm tình tự suốt bốn mùa giao hưởng, ở đây, con người được tự do trút bỏ mọi câu thúc hình hài, nhởn nhơ giữa muốn tiếng đàn ca, với thiên tiên vui múa Nghê Thường. Vũ có thể tâm sự trực tiếp với “gỗ danh sĩ”, “đá thuyền quyên” như thuở nào trái đất mới hình thành mầm sống. Nhưng Vũ đã sinh ra giữa thời đại cơ khí, giữa hoàn cảnh phức tạp của xã hội Việt Nam nô lệ, nên hoài vọng và niềm bi thương ấy bị dồn nén vào trong để kết tụ thành khối đau buồn dằng dặc. Vũ nhìn lên vòm cao rồi cúi mặt xuống đất. Vũ không tìm thấy lối thoát ngoài thi ca. Vũ cô đơn. Mọi cánh cửa đều khép chặt trước mặt. Ba chiều không gian đã đóng kín, Vũ đành đốt tâm tư để mở một chiều riêng cho mình. Ấy đó, niềm cô đơn mà Vũ đã mang trọn kiếp người bật khóc trong thơ:
“Ai biết gì đâu một cuộc đời
Nhớ thương hờn hận chẳng hề nguôi
Chẳng thương xuân sớm phai màu tóc
Chẳng nhớ mình đang sống kiếp người
Chẳng đắp non cao hờn chót vót
Chẳng thương mà biến hận đầy vơi
Hỏi chi sự nghiệp cùng thân thế
Sông núi – kìa xem – đã lở bồi…”
(Giấc mơ tái tạo, Trời một phương)
Từ hờn, hận Vũ đi vào bi phẫn:
“Ai đó mách giùm ta với
Quần gót thế nhân như đàn quạ kia chăng
Hay như mây cao đơn chiếc cánh chim bằng
Ấp úng cân đai hề trôi giam tài năng
Vỡ mộng buông câu hề kho trời gió trăng…”
(Tuý hậu cuồng ngâm, Mây)
Chính vì cô đơn quá đỗi nên Vũ bi quan, muốn rẫy bỏ nguồn sống đi tìm dung nhan cõi chết. Vũ phác hoạ cõi chết như một đổ vỡ toàn diện. Con người, sự vật mất hẳn. Ý thức về cõi chết là ý thức thực tế: mỗi người đều muốn có được cái chết yên lành cho riêng mình. Vũ không nghĩ thế. Vũ hình dung cõi chết như huỷ diệt, một tai nạn hãi hùng khủng khiếp với phi thuyền gãy lái, với trận lụt Hồng Thuỷ do cơn mưa đổ tự trời cao không bao giờ tạnh, hoặc cái chết do chính tim óc mình đòi ly khai với thể xác. Cõi chết mà Vũ tin rằng không ai được cứu rỗi dù Ma Vương hay Phật Như Lai, dù quỷ Sa-tăng hay Chúa Trời! Các vị thần linh đều bất lực vì cái chết này do chính con người tạo ra, con người phải chấp nhận hậu quả. Nói đến cái chết là nói đến niềm hoài nghi cuộc sống. Vũ nói về nó cũng tha thiết, cũng chìm đắm như nói chuyện yêu thương. Một đôi khi sự giả tưởng đưa suy nghĩ đi quá trớn, phóng đại ý nghĩa thực tế, mặc dầu trong thực tế có đôi lúc ngẫu hợp, nhưng nó không mang giá trị tuyệt đối. Nó cần thời gian và chứng nghiệm.
Vậy cõi chết Vũ hình dung thấy, phác hoạ ra, chỉ là ảo tưởng, nếu vạn nhất có thật, chắc chắn không phải là cõi chết con người thèm khát hay tình nguyện. Có chăng, nó chỉ liên hệ đến một mình Vũ với ưu tư thầm kín:
“Cả trái tim tôi
Cũng đòi biệt thế
Nó quyết đi tìm Thượng Đế
Trên con đường không giới hạn bằng tiếng khóc trong nôi
Và điếu văn trước mồ
Nó hy vọng sẽ đích thân làm nhạc trưởng
Đánh nhịp tưng bừng cho nước lửa hoà âm trắng đen hợp xướng
Cho bản đồng ca ảo tưởng
Hiện hữu vang lừng sân khấu Hư Vô…”
(Thản nhiên, Trời một phương)
Và cơn mưa không bao giờ tạnh:
“Còn mưa rồi sẽ đến vô cùng
Khối nước đè lên bẹp Thuỷ cung
Ngũ đại dương thành tên gọi hão
Năm châu vùi xuống đáy mồ chung”.
(Kiềm toả, Trời một phương)
Sự bừng tỉnh và ý thức khổ đau
Sau mấy chục năm đằng đẵng, Vũ ngụp lặn trong hoài vọng và ước mơ thảng thốt mong tìm siêu thoát. Hình ảnh quá khứ trôi lều bều với dư âm buồn thương lãng đãng ở cuối trời mộng tưởng. Vũ khóc đã khô cong nguồn lệ. Vũ ôm bên lòng một mối hận cùng tháng năm cách trở. Màu áo xanh năm trước đã tàn phai ý mùa Tư Mã. Bến Tầm Dương nào đó, lênh đênh dăm bảy con thuyền nát, vài nàng ca kỹ già của Bồ Tùng Linh thôi về dưới mái Liêu-Trai. Cảm thông ngàn xưa vướng mắc, Vũ bừng tỉnh và nhận thức cuộc sống với giá trị thực thể của nó đi theo nhịp tiến hóa. Vũ không phải sống, phải ăn, phải thở, phải chịu nhiều phiền muộn về vật chất như mọi người. Vũ đau đớn tháo gỡ từng mảnh xiêm tàn vấn vương tâm tưởng. Vũ nhìn thẳng vào cuộc sống ở mỗi góc cạnh suy tư. Vũ chấp nhận thực tại tức là Vũ đã nhìn rõ vị trí kiếp người. Do đấy, lời và ý trong thơ Vũ đã chuyển hướng. Nó trình bày những hình ảnh mới với thể thơ Nhị thập bát tú.
“Cánh tay đô thị vươn dài
Báo hoa cọp gấm tàn phai mộng rừng
Một thời hương sắc trên lưng
Đổ theo dòng suối rưng rưng bóng tà”
(Rừng hết mùa thiêng, Nhị thập bát tú, Tập 2)
Hoặc:
“Dấu mũ trên chữ A
Là chim bay lộn ngược
Trên nền giấy trắng bao la
Trùng dương dịu dàng in lấy bóng
Chim bay dìu mây bay…
....................
Hoả sơn cười sặc sụa
Rung chuyển vòng đai biển Thái Bình
Một lần nữa uốn cong lưỡi lửa
Ngùn ngụt thi nhau tập đánh vần
Một phụ âm và hai nguyên âm…”
(Khai sinh, Trời một phương)
Vần và ý thơ rất mới chẳng những đối với Vũ mà còn làm bỡ ngỡ người quen đọc Vũ với hàng thơ đẹp, reo vang như tiếng vó ngựa đập lưng đèo. Nhưng không phải cứ đổi mới, cứ thoát xác là xong nhiệm vụ, là tước bỏ được mặc cảm. Vũ càng đi sâu vào cái mới bao nhiêu thì niềm khổ đau lại dâng lên bấy nhiêu. Ý thức khổ đau không buông tha con người đã quá chiều ước vọng. Trong cõi mông lung của Vô Cùng, Vũ lại mập mờ nhìn thấy hình ảnh mình thất thểu trên tấm màn vân cẩu. Thời gian cứ trôi bình thản theo nhịp chuyển dịch của Vũ Trụ. Con người cứ mòn mỏi theo tháng năm vô nghĩa. Sự góp mặt tạm bợ này Vũ đã biết, đã suy luận về nó rất nhiều. Bởi vậy, Vũ vẫn coi nguồn khổ não như ân sủng thiêng liêng và giá trị cõi sống không sao thoát được vùng kiềm tở của bẩy dây tình oan nghiệt. Vũ đối diện với lửa bấc hằng đêm để soi tỏ bản thân trước số phận con người lê thê bào ảnh. Vũ uống từng giọt mật đắng chảy qua tâm trí, ngấm vào huyết quản làm khô dần ý sống. Vũ giận dỗi, vùng lên nắm chặt lấy khổ đau mà nguyền rủa. Nhưng tiếng thơ oán hờn vẫn vang lên nhịp điệu thê thiết ngàn kiếp không phai:
“Đo màu mây sớm nét mưa chiều
Đo cả hơi đàn cả tiếng tiêu
Con số ra tay đè nén mãi
Con người phận mỏng đến bao nhiêu”.
(Phương trình số phận, Nhị thập bát tú, Tập 2)
Con người phận mỏng lắm nếu đem so với phương trình vũ trụ. Con người chỉ là “hạt cát bên sông Hằng”, cái chớp mắt, cái vi-ti-sinh-vật đối với thế giới bên ngoài. Khoa học đã chứng nghiệm sự thực bằng phát minh, bằng con số bắt mọi người chấp nhận. Vũ tức giận sự lũng đoạn của khoa học trong địa hạt tâm linh, chính vì vậy, Vũ phải mang ý thức khổ đau, có lẽ, tới khi vắng mặt!
Tiếng thở dài và ý niệm giải thoát
“Từ khi trái đất ra đi
Lệ chia phôi đã xanh rì trùng dương…”
Thơ Vũ là tiếng thở dài của phương Đông trầm mặc. Tiếng thở dài đó cất lên giữa vòm trời rất đỗi buồn thương, ray rứt trong mỗi vần điệu. Sau những cố gắng đi tìm cho chính mình luồng sinh khí mới, nếp suy cảm mới, rốt cuộc, tiếng nói của Vũ vẫn nguyên vẹn là niềm u uất, mệt mỏi, chán chường! Vũ muốn dìm chết dĩ vãng trong Trời-Quên-Lửa-Khói, nhưng sau mỗi cơn say tự dưới đáy vực, Vũ cảm thấy tâm hồn mình càng lún sâu xuống Địa-Ngục-Quá-Khứ. Nó quật ngã Vũ lúc nào nó muốn. Nó là định mệnh. Nó bám riết lấy Vũ với dằn vặt trường miên, với hờn thương vô độ. Nó nhập vào thơ Vũ. Nó chứng minh sự phai tàn của một thế hệ. Nó ghi dấu thời gian như vết xe lướt qua mặt đường lầy lội. Thật vô ích và xiết bao đau đớn, đêm đêm nhìn nhớ thương toả dài theo lửa khói ròi chìm lắng vào Hư-Vô câm tiếng.
Thơ Vũ là cơn đau đứt nối với số phận riêng lẻ. Thơ Vũ không chuyên chở những món hàng hợp thời trang cùng chân dung thê thảm của chiến tranh có đây, hoặc tỏ bày thái độ trước cuộc đời hôm nay. Thơ Vũ đơn côi giữa nguồn sống đang dâng trùng trùng lớp lớp. Chính vì thế thơ Vũ tồn tại.
Niềm chia ly cách trở do núi sông, nhân thế cộng với tháng năm tủi nhục, Vũ đi tìm vùng an nghỉ cho tâm linh. Vũ muốn được giải thoát bằng ý niệm siêu hình, bằng cách phóng hồn vào hư-không-tuyệt-đối. Vũ đi tìm Đạo. Vũ muốn dứt bở cái xác phàm hệ luỵ bởi cơm áo, yêu thương, hờn giận này đi. Cõi sống làm Vũ chán ngán. Vũ đã uống nó đau khổ, hút say phiền muộn! Cuộc đời nào đó có gì cho ta mong đợi?
“Bụi đỏ phai màu nhân sự
Trang đạo lý thơm tho từng nét chữ
Mười ngón tay dan díu cõi Vô hình
Xác tục lâng lâng chờ cơn gió hiển linh
Ai xưa quên ngày tháng hát vong tình
Kìa phương Nam, hoa nở ngát lời kinh
Dằng dặc trầm luân mấy độ
Thuyền ta trôi hề ý ta bay
Sương in bóng nguyệt không mà có
Hay có mà không nhỉ gã say?”…
(Bài ca siêu thoát, Rừng phong)
Ngọn lửa Từ Bi cháy ngùn ngụt giữa đường nhân thế làm sáng ngời cửa Phật, soi đường cho Vũ tìm thấy chân lý cuộc đời. Vũ dâng hiến linh hồn mình cho đấng Thích Ca, cho cõi Vô-Cùng-Siêu-Thoát. Từ lâu, Vũ nghe được tiếng cá thở than, hôm nay, Vũ đã sõi tiếng rừng cây, Vũ chỉ chờ ngày hiểu được bề sâu của lòng đất là thoả nguyện ước mơ cuối đường.
“Nghe được từ lâu cá thở than
Hôm nay mới sõi tiếng cây ngàn
Bao giờ tôi hiểu sâu lòng đất
Là thấy đường lên cõi Niết Bàn”.
(Nhị thập bát tú, Tập 2)
Là đây, niềm hoài vọng của con người Thơ qua bao nhiêu hệ luỵ giờ đây còn lại người gì? Cuộc đời có, không, không, có, nào ai biết được, hay cũng chỉ như:
“Ca trùng lửa đóm
Cũng hoàn phản hư không dù lăng ngà cỏ khâu…”
(Tụng kinh kha)
Cách đây 27 năm, vào buổi tối đầu thu, thành phố Hà Nội vừa lên đèn. Gió từ bờ Hồng Hà thổi nghe thấm lạnh. Những chiếc lá đầu mùa đã thả xuống lề đường làm duyên cho thành phố. Nguyễn Đức Nùng, người bạn cùng trường đưa tôi đến gặp Vũ Hoàng Chương tại một căn nhà cổ, sau đến Bà Kiệu. Đến nơi tôi gặp thêm Đinh Hùng, Lê Trọng Quỹ cùng vài ba bạn khác. Căn nhà thấp, rất thấp, tối om om. Đó đây từng ngọn dạ đăng cháy lập lờ không soi tỏ mỗi khuôn mặt. Tôi được giới thiệu với Vũ và các bạn. Hình ảnh đầu tiên ghi nhận ở Vũ, đến hôm nay còn in rõ trong tôi như vết tích không phai với thời gian, đó là một thanh niên mảnh mai chìm khuất dưới bộ bà ba trắng đã ngả màu, nằm nghiêng bên ngọn dạ đăng ma quái. Vũ đưa mắt nhìn tôi mà tôi tưởng như Vũ nhìn vào khoảng trống. Đôi mắt ấy toát ra ánh sáng kỳ lạ. Nó lóe lên giống tia chớp rồi vụt tắt giữa màu mây nặng trĩu hơi mưa. Vũ nằm bất động như thiếp vào cơn mơ bỏ dở. Hương nha phiến chập chờn quyến rũ. Lát sau nghe chừng đã hả cơn say, Vũ mời tôi vào thăm quê Nâu. Tôi từ chối. Vũ nhếch môi cười – “Toa” không chịu vui với anh em thì đến đây làm gì? Tôi định trả lời, tôi đến vì mê thơ chứ không vì mê khói. Nhưng Nùng đã vội nói – “Moa” biết, nó chỉ thích thể thao và con gái thôi. Mặc nó! Tôi bẽn lẽn ngồi như cậu bé bị kể tội. Lê Trọng Quỹ nằm gần đây, cất tiếng ngâm thơ. Giọng ngâm của Quỹ sang sảng, ấm lạ thường. Tiếng thơ dìu theo khói thuốc gây cho tôi ấn tượng là lạ vì chưa một lần được biết. Quỹ ngâm bài “Mười hai tháng sáu” trong tập Mây của Vũ, do nhà Đời Nay vừa xuất bản. Chính thi phẩm này đã đưa Vũ lên tột đỉnh của trời Thơ thuở ấy. Vũ gõ que sắt vào thành chén giữ nhịp, đôi mắt nhắm lại như không muốn thấy sự vật xung quanh. Tôi biết Vũ đang trở vào giấc ngủ mười năm lỡ dở. Tiếng ngâm của Quỹ vút lên nhưng bị ngăn trở bởi kích thước không gian nhỏ hẹp nơi đây nó dội lại, trở thành chua chát, não nề. Tôi choáng váng rồi thoát mình nhập vào không khí cuồng say lúc nào chẳng biết.
Từ buổi ấy, chúng tôi là bạn. Chúng tôi thường gặp nhau, nhưng không một lần, Vũ mời tôi chung say nữa. Tôi mê thơ Vũ đến nỗi thuộc hết tập Mây lúc nào không hay. Tôi còn thích Vũ ở lối ăn mặc đặc biệt. Vũ thường mặc áo gấm màu lam, đi giày ta, mang khăn xếp, tay cầm quạt và luôn luôn có đem theo cuốn Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh bằng chữ Hán. Vũ đi thất thểu, chậm rãi với phong độ nho gia. Sau đó ít lâu Vũ về quê nhà ở Nam Định.
Bẵng đi một dạo, cho tới năm kháng chiến thứ ba, tôi mới gặp Vũ tại Đống Năm thuộc tỉnh Thái Bình, nhân buổi họp mặt Văn Nghệ. Vũ vẫn thế, chiến tranh không làm Vũ đổi thay từ bản thân tới suy nghĩ. Chiếc áo gấm năm xưa đã phai màu gió bụi trường chinh, nhưng phong cách Vũ vẫn y nguyên. Trong thời gian ấy, Vũ làm thơ một phần để tỏ bày thái độ, một phần để nguôi ngoai tâm sự.
“Mới hôm nào gác Dì Năm
Lời thơ ai đẹp tiếng cầm ai say
Tang thương một cuộc ai bày
Giấc Thiên Thai để trắng tay Lưu Thần
Xa Cố đô vắng cố nhân
Trái tim mềm trĩu hai lần nhớ thương…”
Lần này chính Vũ ngâm cho tôi nghe trong một quán nước bên bờ đê. Giọng ngâm của Vũ ấm đục, thê thiết như vướng nghẹn bởi sương khói quê Nâu. Vũ ngâm thơ như khóc, như hờn tủi, như cơn đau xé ruột.
Qua những giờ giao cảm ngắn ngủi đó, chúng tôi lại chia tay với bùi ngùi cách trở, kháng chiến vẫn kéo dài bước chân tuổi trẻ.
Đến năm 1951, chúng tôi lại thấy nhau ở Hà Nội. Vũ cho biết đang viết vở kịch thơ Tâm sự kẻ sang Tần. Trong vở kịch thơ này Vũ đã gửi gấm tâm sự mình không ít xuyên qua nhân vật Cao Tiệm Ly. Vũ đã viết 6 vở kịch thơ, mới in 4 và 14 thi tập. Trong số có tập Cảm thông do Nguyễn Khang dịch sang Anh ngữ và Nhị thập bát tú được Simone Kuhnen de la Coeuillerie dịch sang Pháp ngữ với lời tựa của thi hào Ý Lionello Fiumi, cùng một tuyển tập cũng do S.K. de la Coeuillerie dịch với minh hoạ của Suzanne Bomhals và phụ bản của Ysabel Beas. Cuốn Tuyển tập được giáo sư André Guimbretière đề tựa. Thơ Vũ đã vượt biên giới để hoà mình với thi ca thế giới.
Nhưng viết về Vũ mà bỏ quên hình ảnh người đàn bà mang tên Oanh – người bạn đời của Vũ – kể như thiếu sót. Người đàn bà ấy nổi danh tài sắc một thời – đã cùng lênh đênh, chìm nổi theo số phận Vũ. Người đàn bà ấy có tình thương yêu vô lượng, có sức chịu đựng phi thường. Sự nghiệp của Vũ hôm nay được thành quả, một phần cũng bởi lòng hy sinh cao cả và ý chí sắt son của tâm hồn khả kính ấy. Trong suốt mười mấy năm thi phẩm, Vũ chỉ nhắc đến tên Oanh có một lần, trong tập Hoa đăng. Nhưng thật ra, bóng dáng ấy phảng phất có mặt trên mọi trang thơ vì nó đã dính liền vào thịt da, vào huyết mạch Vũ từ lâu rồi. Vũ rất nhạy cảm nên dễ giận hờn. Thực phẩm trần gian quá đắng cay, Vũ phải ẩn nấp vào trời Mây để tìm hương vị ngọt ngào cho cuộc sống riêng tư.
Việc nhận diện Vũ Hoàng Chương không mấy khó. Cái khó là viết về người bạn thân. Tôi băn khoăn, phân vân trước khi viết vì tự nghĩ mình không đủ sáng suốt để tìm hiểu Vũ với cái nhìn vô tư chăng?
Nhưng đến lúc này, tôi cảm thấy vơi nhẹ đôi vai.
Trích thơ Vũ Hoàng Chương
Nửa truyện hồ ly
Giàn dưa mưa lất phất
Mênh mông sầu xứ đêm dài
Hư vô động tiếng giày ai
Mình ta buồn dặc dặc
Say giữa hai tờ Liêu Trai
Rún rẩy hoa đèn rung ngọn bấc
Không gian đàn mãi tiếng giày ai
Dầu cạn lưng chừng phao
Sợi nhỏ thon mềm dáng liễu
Hài son phơi phới lửa đào
Khói biếc màu xiêm yểu điệu
Ai đó – phải chăng hồn cỏ cây
Bấc thơm dầu quánh nhựa hây hây
Dầu vơi bấc mỏng manh gầy
Bước chân nào bợ ngợ
Hoa đèn lung lay
Ai đó – phải chăng hồn cỏ cây
Mộ vắng lầu hoang ngơ ngác sợ
Cùng đêm nương về đây
Nửa truyện Hồ Ly trang sách giở
Lung linh tiếng giày.
Dâng tình
Bốn trời sương lạnh
Đường xanh bóng trăng
Lửa đào lung lay phất phới
Thi nhân ôi xin dừng bước lại
Đây Hàng Châu thường mơ ước đêm Hoa Đăng
Đêm Hoa Đăng đường xanh bóng trăng
Đêm Hoa Đăng đèn quanh lối xóm
Đây cầm ca người mộng gái xưa Kim Lăng
Hãy dừng đây Chàng Say
Mà điên cuồng lơi lả
Đón muôn đời thanh sắc ngã trong vòng tay
Nhịp trúc buông khoan
Sóng tơ dồn chậm
Môi nồng tươi da mịn ấm
Liễu xinh xinh thoa dáng liễu cong đôi nét mày
Lũ chúng em chờ Chàng qua chín kiếp
Tình giang hồ phong nhuỵ vẫn nguyên hương
Rượu dâng nồng đây son phấn mười phương
Khói lên biếc và đây hồn tứ xứ
Trên cánh Nhạc đê mê Chàng hãy ngự
Đàn tơ mây theo phách gỗ trầm hương
Nhịp lời ca lơi lả bóng nghê thường
Âm điệu sẽ ru Chàng say đến cuối
Lũ chúng em ca nhi
Đón dâng Chàng một buổi
Nỗi yêu mê cuồng dại nén từ lâu
Rồi mai đây Chàng rong ruổi
Thuyền buộc sông mưa
Ngựa dừng trăng khuyết
Tình nhân thế chua cay người lịch duyệt
Niềm giang hồ tan tác lệ Giang Châu
Xin bẻ thuyền quay hướng
Xin giục ngựa quay đầu
Về cùng chúng em
Buồng xuân chờ cửa ngỏ
Khóm trúc đợi xanh màu
Họp cùng chúng em
Có nàng tiên má hồng nâu
Giúp đôi cánh biếc dâng sầu lên khơi
Hãy dừng đây Chàng Say ơi
Cùng lận đận bên trời một lứa
Đêm Hoa Đăng vắng chàng thoi thóp lửa
Tiếng đàn xênh rời rạc khúc Thiên Thai
Hãy dừng đây sương gió lạnh bên ngoài.
Một phút ngừng say
Bấc trĩu hoa đèn nhựa úa nâu
Phai say nằm khóc mộng ban đầu
Bước chân song sóng vòng tay mở
Dạo ấy người xưa xa lắm đâu
Chớm nụ tiếc cho tình quá ngát
Mà thương trời bể quá cao sâu
Tiếc thương lẻn khói vào tâm trí
Mưa gió tàn đêm lộng quán sầu.
Lá thư ngày trước
Yêu một khắc đế mang sầu trọn kiếp
Tình mười năm còn lại mấy tờ thư
Mộng bâng quơ hò hẹn cũng là hư
Niềm son sắt ngậm ngùi duyên mỏng mảnh
Rượu chẳng ấm mưa hoài chăn chiếu lạnh
Chút hơi tàn lay lắt ngọn đèn khuya
Giấc cô miên rùng rợn nẻo hôn mê
Gió âm tưởng bay về quanh nệm gối
Trong mạch máu chút gì nghe vướng rối
Như tơ tình thắc mắc buổi chia xa
Ngón tay run ghì nét chữ phai nhoà
Hỡi năm tháng hãy đưa đường giấc điệp
Yêu mê thế để mang sầu trọn kiếp
Tình mười năm còn lại chút này đây
Lá thư tình xưa nhớ lúc trao tay
Còn e ấp thuở duyên vừa mới bén
Ai dám viết yêu đương và hứa hẹn
Lần đầu tiên ai dám ký “Em Anh”
Nét thon mềm run rẩy gắng đưa nhanh
Lòng tự thú giữa khi tìm trốn nấp
Mươi hàng chữ đơn sơ ô ngượng ngập
E dè sao mươi hàng chữ đơn sơ
Màu mực xanh tươi ngát ý mong chờ
Tình hé nụ bừng thơm trong nếp giấy
Ôi thân mến nhắc làm chi thuở ấy
Đêm nay đây hồn xế nẻo thu tàn
Khóc chia lìa ai níu gọi than van
Ta chỉ biết nằm nghe tình hấp hối
Say đã gắng để khuây sầu lẻ gối
Mưa mưa hoài rượu chẳng ấm lòng đau
Gấm the nào từ buổi lạnh lùng nhau
Vàng son có thay màu đôi mắt biếc
Tình đã rời đi riêng mình tưởng tiếc
Thôi rồi đây chiều xuống giấc mơ xưa
Lá lá rơi nằm bệnh mấy tuần mưa
Say chẳng ngắn những đêm dằng dặc nhớ
Trăng nào ngọt với duyên nào thắm nở
Áo xiêm nào rực rỡ ngựa xe ai
Đây mưa bay mờ chậm bước đêm dài
Đêm bất tận đêm liền đêm kế tiếp
Yêu sai lỡ để mang sầu trọn kiếp
Tình mười năm còn lại chút này thôi
Lá thư xưa màu mực úa phai rồi
Duyên hẳn thắm ở phương trời đâu đó.
Mười hai tháng sáu
Trăng cửa nhà ai trăng một phương
Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường
Ờ đêm tháng sáu mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương
Là thế là thôi là thế đó
Mười năm thôi thế mộng tan tành
Mười năm trăng cũ ai nguyện ước
Tố của Hoàng ơi Tố của Anh
Tháng sáu mười hai từ đấy nhé
Chung đôi, từ đấy nhé lìa đôi
Em xa lạ quá đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa Tố của tôi
Men khói đêm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu ghi mười hai
Tình ta ta tiếc cuồng ta khóc
Tố của Hoàng nay Tố của Ai
Tay gõ vào bia mười ngón rập
Mười năm theo máu hận trào rơi
Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp
Khúc Cổ Bồn Ca gõ hát chơi
Kiều Thu hề Tố em ơi
Ta đang lửa đốt tơi bời Mái Tây
Hàm Ca nhịp gõ khói bay
Hồ Xừ Xang Xế bàn tay điên cuồng
Kiều Thu hề trọn kiếp thương
Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô
Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên
Kiều Thu hề Tố hỡi em
Nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bùng
Xề Hồ Xang khói mờ rung
Nhịp vươn sầu toả năm cung ngút ngàn.
Tuý hậu cuồng ngâm
Ôi lòng ta sao buồn không nguôi
Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi xuôi
Há vì cơm áo chẳng no lành
Há vì đời không mắt ai xanh
Nhớ thuở không có ta hề đường đi thênh thênh
Kịp khi có ta hề chông gai mông mênh
Cuồng vọng cả mà thôi bốn phương hề vướng mắc
Ba mươi năm trên vai hề trống không bình sinh
Lều nát hề trơ trơ ngõ mưa lầm lội
Trăng lạnh đèn mờ hồn đơn hề le lói
Đọc truyện cố nhân hề lòng ta quặn đau
Gió bụi xôn xao hề thương vay người sau
Càng xót thân mình vô dụng
Thiên hạ chê bai hề lạc nẻo sang giàu
Ta chỉ tiếc cho thân hề vô duyên bấy lâu
Bá Nhạc đời không ai hề ngẩn ngơ vó câu
Gươm sắc uống cho gươm hề Phong Hồ có đâu
Ai đó mách giùm ta với
Quần gót thế nhân hề như đàn quạ kia chăng
Hay như mây cao đơn chiếc hề cánh chim bằng
Ấp úng cân đai hề trói giam tài năng
Võ ruộng buông câu hề kho trời gió trăng
Ôi đường gai góc là bao hề sóng cồn mặt bể
Thương cho tay lái non hề con thuyền lao đao
Tiếc cho cơ hội muộn hề chặt gai được sao
Lá úa cành khô thu đông hề nối gót
Chuếnh choáng giang san hề còn say hát ngao
Mây hồng tím phương tây hề tà huy thoi thóp
Đời sắp tàn chăng hề bấc lu dầu hao
Ngõ hẹp giường tre giấc mơ hề chới với
Thôi hết mùa tươi
Hết thôi chờ đợi
Rượu hề rượu hề giùm quên nhé ngươi
Sao lòng ta đêm nay buồn không thể nguôi
Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi xuôi.
Trích :Tạ Tỵ. Mười khuôn mặt văn nghệ. Nam Chi xuất bản lần thứ nhất, tác giả trình bày hoạt hoạ.Nội dung thủ bút: Ta đợi em từ ba mươi năm Cổng hoa phong nhuỵ hoài trăng rằm Vũ Hoàng Chương 1970 |
Vũ Hoàng Chương: Làm thơ. Sinh ngày: 5-5-1916 tại Nam Định (Bắc Việt, theo giấy khai sinh). Năm sinh đúng: 1915, năm Ất Mão, tháng 4, mồng Một. Chánh quán: Làng Phù Ủng, tỉnh Hưng Yên (Bắc Việt)
Tác phẩm: Thơ say 1940, Vân Muội (kịch thơ) 1942, Mây (thơ) 1943, Vân Muội, Trương Chi, Hồng Điệp (kịch thơ) 1944, Thơ lửa (cùng với Đoàn Văn Cừ - Liên khúc 3),Tâm sự kẻ sang Tần (kịch thơ) 1951, Rừng phong (thơ) 1954, Hoa đăng (thơ) 1959, Tâm tình người đẹp (thơ Nhị thập bát tú) 1961, Trời một phương (thơ), Thi tuyển (Poèmes choisis) tựa của Simone Kuhnen de la Coeuillerie 1963, Lửa từ bi (thơ) 1963, Ánh trăng đạo (thơ) 1966, Bút nở hoa đàm (thơ) 1967, Cành mai trắng mộng (thơ) 1968, Nouveaux Poèmes (Tân Thi) 1970, Ta đợi em từ ba mươi năm (thơ) 1970, Loạn trung bút (tạp văn) 1970
Vũ Hoàng Chương
Tiếng thở dài của phương Đông trầm mặc
“Ôi, Lý Bạch, Trang Chu đường chim nẻo Nguyệt
Đời hoạ còn ta là theo vết người xưa…”
(Vũ Hoàng Chương)
Đời hoạ còn ta là theo vết người xưa…”
(Vũ Hoàng Chương)
Nói đến Vũ Hoàng Chương là nói đến dòng thời gian xa thẳm trước tầm mắt, là nhắc nhở đến vùng bao la như lớp khí quyển vây quanh trái đất tạo nên ứ đọng với từng ngón hoài nghi, với niềm dằn vặt khôn nguôi giữa sự bứt rời và níu kéo trong một thể xác nửa mệt lả vì yêu thương, nửa giận hờn nỗi thất bại của tâm linh trước sự chia lìa của Thơ với Thực tại.
Sinh ra đời dưới một ngôi sao tốt, từ nhỏ, Vũ được bọc đùm trong nhung lụa, được dạy dỗ ở cả hai phía, Tây học và Hán học. Vũ đã hấp thụ văn học Tây phương đồng thời do sự giáo huấn của bà mẹ, Vũ cũng say mê Đông phương và sớm suy tư triết thuyết Lão, Trang với cổ thư Trung Quốc.
Sự ám ảnh của thời đại hoàng kim chìm khuất với vóc dáng chàng Tư Mã áo xanh trên bờ sông Dương Tử, hay khuôn mặt nàng ca kỹ bén Tầm Dương “tay ôm đàn che nửa mặt hoa”… đã làm phai mờ tất cả kích thước các nhà thơ lớn Tây phương: Hugo, Lamartine, Musset, Baudelaire, Verlaine, Rimbaud đang chiếu sáng trên vòm trời thi ca Việt Nam khoảng 1935-43 với từng người thơ chịu ảnh hưởng sâu đậm kỹ thuật, nhất là tư tưởng vay mượn của nền thi ca miền tóc vàng, tuyết trắng.
Vũ là tượng hình đứng cô liêu trong vòm trời quá khứ. Ánh sáng của ngọn hải đăng le lói giữa đêm khuya mịt mùng sóng vỗ, Vũ lắng nghe hồn mình trải rộng trên mỗi con nước đại dương và thầm ước sẽ tìm được trong sự luân lưu đó, chút hơi thở của người xưa vọng đến. Nhưng ánh sáng của ngọn hải đăng vẫn le lói hằng đêm và đại dương cứ luân lưu theo chu kỳ miên viễn, hơi thở của quá khứ trôi đi biền biệt không để lại vết tích gì trong vũ trụ bao la, có chăng chỉ còn lại niềm tưởng vọng giữa sự-sống-hôm-nay gửi về cõi-chết-hôm-qua bằng môi trường suy cảm. Vũ đã suy cảm và lựa chọn khổ đau, với đam mê huỷ diệt. Vũ khước từ cái công danh phú quý mà đời đã trao tặng sau những năm đèn sách, để tự dấn thân vào thế giới thi ca, tức là mang lấy nghiệp. Sự “đầu thai lầm thế kỷ” mà Vũ đã viết ra, hét to lên trong cơn mê loạn của thể xác, trong nỗi vò xé của tâm linh trước cuộc sống nghẽn lối, trước cơn bi phẫn của con chim bị trúng tên rã cánh, nhìn trời cao mà không vút lên được, nhìn trái ngọt mà không vừa an hưởng, nhìn thân phận trôi đi, trôi đi như ảo ảnh để nuối tiếc giấc mơ thành bướm thuở nào.
Thế đó, dòng sông với ngần ấy tê liệt, ngần ấy giận hờn trong một xã hội đốn mạt, trong một quốc gia nô vong, Vũ cảm thấy mình đã nhiễm độc và để giải độc, Vũ tìm quên trong chiều sâu của ảo giá, của men khói. Ở đó, Vũ đón nhận về phần mình tất cả đau thương, qua từng sợi khói lung linh, qua lời hò hẹn chênh vênh, qua tình yêu gục mặt, qua niềm tin đổ vỡ để thoát vào cảm thông với hơi thở mỏi mòn. Vũ tiếp thu những giá trị bi thương ấy, những nghẹn ngào câm tiếng ấy bằng niềm sảng khoái vỡ bờ. Vũ từ bỏ thực tại như từ bỏ chính bản thân. Vũ lững thững đi vào xứ Mộng. Trong cõi mông lung của tiềm thức, từng hình ảnh xa lìa, khắc khoải bám riết lấy suy tư, xiết chặt thân phận Vũ vào chiếc nôi bằng tơ có móc đầy gai nhọn. Sự lìa bỏ bản thân, lìa bỏ thực tại phải được coi như những chứng tích, mỗi ngày mỗi nối hằn như vết roi định mệnh.
Hành trình vào thế giới thi ca của Vũ, người ta không thể không xuyên qua bản chất thực thể của Vũ với tấm lòng rộng mở, với ý hướng chói loà chiếu rọi vào mỗi dòng, mỗi chữ để cùng đau, niềm đau tâm sự! Vũ, mẫu người thơ đặc biệt, không giống với bất cứ thi nhân nào đã và đang có mặt. Vũ làm thơ để cất lên lời chào, tiếng khóc. Vũ làm thơ để trối trăng ý tình, để tiếp nối hơi thở gửi từ kiếp trước. Cái đau, Vũ khóc ngất trong thơ không phải cái đau của Huy Cận với “Chàng là con một người mẹ hay sầu. Nên trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ”. Không, không, cái đau của Vũ cao rộng và siêu thoát. Nó có đấy, nhưng nó cũng vô vàn xa vời như chiếc bóng hồ ly, như tiếng nhạc lênh đênh dội từ cung Hằng thăm thẳm. Phong độ trong thơ Vũ là phong độ của cánh chim hồng hộc bay suốt vạn dặm dài, qua bao nhiêu không gian ước định. Thơ Vũ hiện diện như loài hoa quý, ngạo nghễ rung rung từng cánh mỏng cho phấn hương tan vào thinh không gửi đến mọi phương trời, mọi góc cạnh tâm tư đang chới với trong mê muội, trong dục vọng thấp hèn giữa cuộc sống buông trôi.
Hành trình vào thơ Vũ, mỗi con người tự cảm thấy lâng lâng như lạc vào giấc mơ kỳ thú. Thời gian, không gian xáo trộn, quỷ với người là tình nhân, gỗ đá cũng mặc áo linh hồn. Nhưng muốn hiểu thơ Vũ đến cùng, người ta phải tìm hiểu cả cái dòng sống phức tạp xuyên qua từng khía cạnh ngọt ngào và cay đắng, đã làm Vũ chết điếng sầu đau, tê rời cảm xúc.
Tình yêu và đam mê
Đi vào tình yêu là đi vào nguồn vui đau khổ. Từ khung trời hy vọng đổ sang vùng địa ngục tối tăm. Từ ánh mắt sáng ngời do lửa yêu đương thắp sáng đến nấm mộ u uất dựng lên giữa cõi sống như một sỉ nhục. Khuôn mặt người đàn bà mang tên Kiều Thu mà Vũ đã ôm ấp mười năm, mười năm nhen nhúm với ước vọng, với chờ đợi não nề, với dặm dài mệt mỏi. Kiều Thu, Kiều Thu hỡi! Người đàn bà may mắn đã được Vũ khóc trong thơ, đã được Vũ vuốt ve với vần điệu gấm nhung, đã được Vũ tôn lên ngai thờ Nữ Sắc, nàng có biết chăng, dung nhan đó đã trở thành bất tử. Người đàn bà ấy giờ đây đang có mặt ở phương nào, đang ẩn mình trong góc cạnh nào của cuộc sống, sung sướng hay khổ đau, đã già hay còn trẻ, hãy ngẩng mặt lên đón nhận nơi đây lời chúc tụng.
Tình yêu mà Vũ đã gửi tặng lầm nơi không phải thứ tình yêu qua nhanh như gió thổi, như lằn chớp ngang trời. Nó day dứt sượng sùng. Nó tái tê cuồng dại đến nỗi Vũ phải kêu la:
“Yêu sai lỡ để mang sầu trọn kiếp
Tình mười năm còn lại mấy tờ thư!”
Biết rằng thất bại và biết được giá trị khổ đau, Vũ muốn tìm quên bằng cách đắm chìm thân phận vào trời say, nhưng không được:
“Say đã gắng để khuây sầu lẻ gối
Mưa, mưa hoài rượu chẳng ấm lòng đau
Gấm thế nào từ buổi lạnh lùng nhau
Vàng son có thay màu đôi mắt biếc?
Tình đã rời đi riêng mình tưởng tiếc
Thôi rồi đây chiều xuống giấc mơ xưa
Lá, lá rơi nằm bệnh mấy tuần mưa
Say chẳng ngắn những đêm dằng dặc nhớ…”.
(Lá thư ngày trước, Mây)
Như thế đó, tình yêu đối với Vũ là hình phạt nặng nề hơn ân thưởng. Những khuôn mặt đàn bà đi qua đời Vũ, được Vũ nhắc đến trong tác phẩm, đều chập chờn như những bóng ma. Cô gái tóc vàng đến từ miền tuyết trắng hay ả ca kỹ nổi danh phòng Dạ-lạc cũng chỉ là hư ảnh. Vết thương tình ái làm Vũ nhức nhối đến bây giờ, trong buổi xế chiều của cuộc đời, vẫn là Kiều Thu. Nó là ung thư đục khoét ở chiều sâu cơ thể. Nó làm cho con người chết mỏi mòn vì ám ảnh, sầu đau. Vũ mang vết thương đó đi lang thang trên mọi nẻo đường đời như mang một số kiếp phụ thuộc.
“Trăng của nhà ai Trăng một phương
Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường
Ở đêm tháng sáu mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương…”
Ngày 12 tháng 6 là ngày người yêu sang ngang. Sự dứt bỏ này làm tổn thương đến danh dự người trai ngoài hai mươi tuổi. Nhưng nàng bỏ ta không phải là hết. Ta vẫn mê nàng. Ta là gã si tình ngàn kiếp:
“Tháng sáu mười hai từ đây nhé
Chung đôi từ đấy nhé lìa đôi
Em xa lạ quá đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa Tố của tôi…”
Rồi Vũ thét ngất:
“Kiều Thu hề Tố em ơi
Ta đương lửa đốt tơi bời mái Tây
Hàm ca nhịp gõ khói bay
Hò Xừ Xang Xế bàn tay điên cuồng
Kiều Thu hề trọn kiếp thương
Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô
Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên…”
(Mười hai tháng sáu, Mây)
Niềm bi thảm của tình yêu cứ kéo lê trong tâm linh Vũ như vết hằn khổ nhục. Khuôn mặt và vóc dáng người đàn bà đó đã gây nên ấn tượng khốc liệt làm Vũ choáng váng đến run sợ. Chính vì không đủ can đảm, Vũ chạy trốn thất vọng đi tìm đam mê để giết nỗi buồn dằng dặc. Vũ dìm đời mình vào dòng sông Mê khoái cảm. Vần điệu trong thơ Vũ ngất ngư như ủ say men khói, lãng đãng lạc vào cõi u huyền mộng mị.
Thi phẩm Mây chào đời năm 1943 là thi phẩm sáng chói nhất của Vũ, vì ở giai đoạn này, Vũ đã sống trọn vẹn với hơi thở thi ca, với quê Nâu lửa đóm bằng máu và hồn. Vũ thiêu dần thân xác chẳng những với ngọn dạ đăng chập chờn hoa bấc mà còn đắm say tiếng cầm ca, sênh phách rộn ràng trong từng đêm dài cửa Ô đau khổ. Vũ muốn xé tan thân phận mình và tiêu huỷ cái số kiếp bi đát để tìm về giải thoát, sự giải thoát nào đó có mầu nhiệm hay không, Vũ chẳng cần biết. Vũ nhìn chòng chọc vào cõi Hư Vô mong soi tỏ bản chất mình qua đốm lửa lung linh mờ ảo.
Ngày rồi đêm, khúc vui, cung buồn cứ đuổi theo nhau chạy luồn trong huyết quản Vũ để biến Vũ thành một tù nhân của đam mê vọng tưởng. Niềm thương nhớ chắc chẳng bao giờ nguôi, từng nỗi khắc khoải, phân vân hiện hình trong thơ Vũ như chứng minh sự buông thả lênh đênh của một tâm hồn đã quá no đầy oan nghiệt:
“Phơi phới linh hồn lỏng khóa then
Say nghe giọt nhựa khóc bên đèn
Mê ly cả một trời Đông Á
Sực tỉnh trong lòng nấm mộ đen…”.
(Hơi tàn Đông Á, Mây)
Ảnh hưởng và đối thoại
Tâm hồn Vũ là những sợi dây tơ được căng thẳng trên vòm trời ảo mộng. Một hơi gió, một chớp mắt, một va chạm cỏn con cũng đủ làm cho đường dây rung lên nức nở. Vũ treo cuộc sống của mình trên những sợi dây mong manh đó và để mặc cho âm hưởng reo vang tự đáy lòng cô độc. Vũ không nhìn vào cuộc đời có đây để tìm vị trí thực thể của mình. Vũ xoay mặt đối diện với quá khứ, đối diện với những ước mơ tự ngàn xưa xa vút. Sự đối diện này tạo cho Vũ niềm tin tưởng vì Vũ cho rằng đã tìm thấy ở vóc dáng dĩ vãng, cái-qua-rồi, hình ảnh bản thân hiện rõ trong lăng kính tâm tư. Vũ vẽ lại tiền thân bằng vần điệu. Cả một vòm trời nặng trĩu mây mù, Vũ dùng tâm linh chiếu sáng để nối lại đường dây giao cảm, để khoả lấp sai biệt của khoảng cách vô cùng rộng lớn. Vũ mơ giấc mơ thành bướm của Trang Chu và dõi theo từng bước chân khoảng khoát của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Bạch Cư Dị. Vũ say mê bờ liễu Hàng Châu lả lướt, hoặc sóng nước xanh rờn vỗ bên Tầm Dương, hoặc nét nguy nga, cao trọng của lầu Hoàng Hạc ngàn năm sững bóng. Vũ chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền thi ca Trung Quốc thuở thịnh Đường và mê triết thuyết Vô Vi của Lão Tử. Cái “Có” cái “Không” phải chăng là mầu nhiệm? Đêm đêm Vũ thường đốt đèn lên trang sách hỏi người xưa về Ý Thức Huyền Vi để mong tìm ra lối thoát cho bản ngã, tài năng:
“Phải chăng muôn kiếp nặng nề
Từ Hư Không lại trở về Không Hư
Lẽ nào mộng cả thôi ư?
Người ơi! Giọt bể chứa dư tang điền…”
(Bài ca siêu thoát, Rừng phong)
Không tin vào giá trị của cuộc sống, Vũ nghiêng về hoài cảm. Từ hoài cảm tiến tới hờn giận sự hiện diện của thực tại nhức nhối, nhơ bẩn. Vũ vượt lên, thoát mình vào ảo giác, trộn lẫn cái “Còn”, cái “Mất”, cái “Có”, cái “Không” để đi vào quan niệm bi thương, giận dỗi. Vũ vẫy vùng trong mớ hư ảnh, kêu gọi từng hình thể xa vời trở về đối thoại.
Vũ cho rằng, cuộc đời hiện hữu không phải là chỗ đứng của mình nên thay vì đối thoại với người sống, Vũ trò chuyện với những vóc dáng mơ hồ chạy lởn vởn trong tiềm thức, hay ẩn hiện sau mỗi cơn say dài men khói. Từng chấm sáng lân tinh xoay quanh đốm lửa hắt hiu toả hương mê hoặc. Vũ gọi về tâm sự! Vũ dìu nhẹ thời gian trở ngược vòng vận chuyển. Vũ mơ về thời đại hoàng kim xênh xang nhạc ngựa, gỗ, đá giao duyên. Vũ đối thoại với linh hồn, ma quỷ bằng lời thơ tiếc nuối:
“Khí thiêng chừng sớm lìa nhân thế
Dương thịnh rồi chăng Âm đã suy
Quạnh quẽ thu phân thơ bặt tiếng
Lầu hoang chìm dấu cỏ hồ ly
Còn đâu thuở ấy niềm khăng khít
Quỷ với người chung một mái nhà
Trăng bạn, hoa em trầm mối lái
Đèn khuya dìu dặt bóng yêu ma…”
(Cảm thông, Mây)
Ma quỷ, Hồ ly đối với Vũ như những người bạn chí thiết. Vũ trao đổi tâm sự với chúng như trò chuyện với các danh nhân, cao sĩ. Vũ mặc áo linh hồn cho gỗ, đá, cỏ, cây.
“Ai đó – Phải chăng hồn cỏ cây
Bấc thơm dầu quánh nhựa hây hây
Dầu vơi bấc mỏng manh gây
Bước chân vào bợ ngợ
Hoa đèn lung lay…”
(Nửa truyện Hồ ly, Mây)
Nhưng niềm cảm khái của Vũ không nhất thiết phải đứng nguyên ở vị trí tiếc thương quá khứ với giấc mộng đẹp qua đi không bao giờ trở lại, đôi khi, nó vùng lên hào khí. Sự vùng lên để chứng tỏ một thái độ và cũng để tìm không khí mới cho cuộc đối thoại, vì đối thoại không hẳn là phải chung thuỷ với một lập luận, chính thực để hiểu thêm những điểm khác biệt với chính mình. Từ truyện người tráng sĩ Kinh Kha với đường gươm lỡ dở không thành việc lớn, với tiếng sáo u buồn của Cao Tiệm Ly tiếc thương người bạn đời, đến vị anh hùng ái vải đất Quy Nhơn đã làm đẹp lòng Vũ bằng vần điệu gieo vàng, chuốt ngọc.
“Hãy dừng lại thời gian
Trả lời ta! Có phải,
Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải
Dưới vầng dương thiêu đốt quan san
Lớp hưng phế xô nghiêng triều đại…
Mà chí lớn dọc ngang
Mà nghiệp lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Vẫn ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn…”
(Bài ca Bình Bắc, Hoa Đăng)
Đó, tâm hồn Vũ rung lên từng cung bậc uyển chuyển, nhịp nhàng. Tình yêu, hồi tưởng, đam mê, đau khổ, hờn giận đã bủa vây dòng sông nội tâm Vũ, biến Vũ thành một biểu tượng đặc biệt trong thế giới thi ca hiện đại.
Niềm cô đơn và dung nhan
Mỗi con người là một hoang đảo, nếu không có sự liên hệ do cuộc sống tạo nên để ràng buộc nhau trở thành xã hội, quốc gia hay nhân loại. Từ thuở sơ sinh, thanh âm thứ nhất chào đời là tiếng khóc chứ không phải nụ cười. Cái vòng sinh, lão, bệnh, tử như mỗi dây oan nghiệt thắt chặt mỗi cá nhân vào nghiệp chướng không để ai thoát khỏi. Vũ vào đời với từng bước nhỏ nhẹ, với thân phận tiền oan. Màu áo xanh Tư Mã, Vũ khoác lên vai mỏng manh như một biểu hiệu cố định, đồng thời Vũ cũng mang luôn niềm cô đơn giữa đời sống – một đời sống nô vong – đang đuổi theo sự an hưởng vật chất trước mặt, hay gục đầu trong vũng lầy hoàn cảnh. Vũ ngẩn ngơ giữa cõi đời với túi hành trang chất đầy hoài vọng lẫn bi thương. Vũ hoài vọng đến một khung trời bỏ ngỏ có bướm vàng, lá thắm tình tự suốt bốn mùa giao hưởng, ở đây, con người được tự do trút bỏ mọi câu thúc hình hài, nhởn nhơ giữa muốn tiếng đàn ca, với thiên tiên vui múa Nghê Thường. Vũ có thể tâm sự trực tiếp với “gỗ danh sĩ”, “đá thuyền quyên” như thuở nào trái đất mới hình thành mầm sống. Nhưng Vũ đã sinh ra giữa thời đại cơ khí, giữa hoàn cảnh phức tạp của xã hội Việt Nam nô lệ, nên hoài vọng và niềm bi thương ấy bị dồn nén vào trong để kết tụ thành khối đau buồn dằng dặc. Vũ nhìn lên vòm cao rồi cúi mặt xuống đất. Vũ không tìm thấy lối thoát ngoài thi ca. Vũ cô đơn. Mọi cánh cửa đều khép chặt trước mặt. Ba chiều không gian đã đóng kín, Vũ đành đốt tâm tư để mở một chiều riêng cho mình. Ấy đó, niềm cô đơn mà Vũ đã mang trọn kiếp người bật khóc trong thơ:
“Ai biết gì đâu một cuộc đời
Nhớ thương hờn hận chẳng hề nguôi
Chẳng thương xuân sớm phai màu tóc
Chẳng nhớ mình đang sống kiếp người
Chẳng đắp non cao hờn chót vót
Chẳng thương mà biến hận đầy vơi
Hỏi chi sự nghiệp cùng thân thế
Sông núi – kìa xem – đã lở bồi…”
(Giấc mơ tái tạo, Trời một phương)
Từ hờn, hận Vũ đi vào bi phẫn:
“Ai đó mách giùm ta với
Quần gót thế nhân như đàn quạ kia chăng
Hay như mây cao đơn chiếc cánh chim bằng
Ấp úng cân đai hề trôi giam tài năng
Vỡ mộng buông câu hề kho trời gió trăng…”
(Tuý hậu cuồng ngâm, Mây)
Chính vì cô đơn quá đỗi nên Vũ bi quan, muốn rẫy bỏ nguồn sống đi tìm dung nhan cõi chết. Vũ phác hoạ cõi chết như một đổ vỡ toàn diện. Con người, sự vật mất hẳn. Ý thức về cõi chết là ý thức thực tế: mỗi người đều muốn có được cái chết yên lành cho riêng mình. Vũ không nghĩ thế. Vũ hình dung cõi chết như huỷ diệt, một tai nạn hãi hùng khủng khiếp với phi thuyền gãy lái, với trận lụt Hồng Thuỷ do cơn mưa đổ tự trời cao không bao giờ tạnh, hoặc cái chết do chính tim óc mình đòi ly khai với thể xác. Cõi chết mà Vũ tin rằng không ai được cứu rỗi dù Ma Vương hay Phật Như Lai, dù quỷ Sa-tăng hay Chúa Trời! Các vị thần linh đều bất lực vì cái chết này do chính con người tạo ra, con người phải chấp nhận hậu quả. Nói đến cái chết là nói đến niềm hoài nghi cuộc sống. Vũ nói về nó cũng tha thiết, cũng chìm đắm như nói chuyện yêu thương. Một đôi khi sự giả tưởng đưa suy nghĩ đi quá trớn, phóng đại ý nghĩa thực tế, mặc dầu trong thực tế có đôi lúc ngẫu hợp, nhưng nó không mang giá trị tuyệt đối. Nó cần thời gian và chứng nghiệm.
Vậy cõi chết Vũ hình dung thấy, phác hoạ ra, chỉ là ảo tưởng, nếu vạn nhất có thật, chắc chắn không phải là cõi chết con người thèm khát hay tình nguyện. Có chăng, nó chỉ liên hệ đến một mình Vũ với ưu tư thầm kín:
“Cả trái tim tôi
Cũng đòi biệt thế
Nó quyết đi tìm Thượng Đế
Trên con đường không giới hạn bằng tiếng khóc trong nôi
Và điếu văn trước mồ
Nó hy vọng sẽ đích thân làm nhạc trưởng
Đánh nhịp tưng bừng cho nước lửa hoà âm trắng đen hợp xướng
Cho bản đồng ca ảo tưởng
Hiện hữu vang lừng sân khấu Hư Vô…”
(Thản nhiên, Trời một phương)
Và cơn mưa không bao giờ tạnh:
“Còn mưa rồi sẽ đến vô cùng
Khối nước đè lên bẹp Thuỷ cung
Ngũ đại dương thành tên gọi hão
Năm châu vùi xuống đáy mồ chung”.
(Kiềm toả, Trời một phương)
Sự bừng tỉnh và ý thức khổ đau
Sau mấy chục năm đằng đẵng, Vũ ngụp lặn trong hoài vọng và ước mơ thảng thốt mong tìm siêu thoát. Hình ảnh quá khứ trôi lều bều với dư âm buồn thương lãng đãng ở cuối trời mộng tưởng. Vũ khóc đã khô cong nguồn lệ. Vũ ôm bên lòng một mối hận cùng tháng năm cách trở. Màu áo xanh năm trước đã tàn phai ý mùa Tư Mã. Bến Tầm Dương nào đó, lênh đênh dăm bảy con thuyền nát, vài nàng ca kỹ già của Bồ Tùng Linh thôi về dưới mái Liêu-Trai. Cảm thông ngàn xưa vướng mắc, Vũ bừng tỉnh và nhận thức cuộc sống với giá trị thực thể của nó đi theo nhịp tiến hóa. Vũ không phải sống, phải ăn, phải thở, phải chịu nhiều phiền muộn về vật chất như mọi người. Vũ đau đớn tháo gỡ từng mảnh xiêm tàn vấn vương tâm tưởng. Vũ nhìn thẳng vào cuộc sống ở mỗi góc cạnh suy tư. Vũ chấp nhận thực tại tức là Vũ đã nhìn rõ vị trí kiếp người. Do đấy, lời và ý trong thơ Vũ đã chuyển hướng. Nó trình bày những hình ảnh mới với thể thơ Nhị thập bát tú.
“Cánh tay đô thị vươn dài
Báo hoa cọp gấm tàn phai mộng rừng
Một thời hương sắc trên lưng
Đổ theo dòng suối rưng rưng bóng tà”
(Rừng hết mùa thiêng, Nhị thập bát tú, Tập 2)
Hoặc:
“Dấu mũ trên chữ A
Là chim bay lộn ngược
Trên nền giấy trắng bao la
Trùng dương dịu dàng in lấy bóng
Chim bay dìu mây bay…
....................
Hoả sơn cười sặc sụa
Rung chuyển vòng đai biển Thái Bình
Một lần nữa uốn cong lưỡi lửa
Ngùn ngụt thi nhau tập đánh vần
Một phụ âm và hai nguyên âm…”
(Khai sinh, Trời một phương)
Vần và ý thơ rất mới chẳng những đối với Vũ mà còn làm bỡ ngỡ người quen đọc Vũ với hàng thơ đẹp, reo vang như tiếng vó ngựa đập lưng đèo. Nhưng không phải cứ đổi mới, cứ thoát xác là xong nhiệm vụ, là tước bỏ được mặc cảm. Vũ càng đi sâu vào cái mới bao nhiêu thì niềm khổ đau lại dâng lên bấy nhiêu. Ý thức khổ đau không buông tha con người đã quá chiều ước vọng. Trong cõi mông lung của Vô Cùng, Vũ lại mập mờ nhìn thấy hình ảnh mình thất thểu trên tấm màn vân cẩu. Thời gian cứ trôi bình thản theo nhịp chuyển dịch của Vũ Trụ. Con người cứ mòn mỏi theo tháng năm vô nghĩa. Sự góp mặt tạm bợ này Vũ đã biết, đã suy luận về nó rất nhiều. Bởi vậy, Vũ vẫn coi nguồn khổ não như ân sủng thiêng liêng và giá trị cõi sống không sao thoát được vùng kiềm tở của bẩy dây tình oan nghiệt. Vũ đối diện với lửa bấc hằng đêm để soi tỏ bản thân trước số phận con người lê thê bào ảnh. Vũ uống từng giọt mật đắng chảy qua tâm trí, ngấm vào huyết quản làm khô dần ý sống. Vũ giận dỗi, vùng lên nắm chặt lấy khổ đau mà nguyền rủa. Nhưng tiếng thơ oán hờn vẫn vang lên nhịp điệu thê thiết ngàn kiếp không phai:
“Đo màu mây sớm nét mưa chiều
Đo cả hơi đàn cả tiếng tiêu
Con số ra tay đè nén mãi
Con người phận mỏng đến bao nhiêu”.
(Phương trình số phận, Nhị thập bát tú, Tập 2)
Con người phận mỏng lắm nếu đem so với phương trình vũ trụ. Con người chỉ là “hạt cát bên sông Hằng”, cái chớp mắt, cái vi-ti-sinh-vật đối với thế giới bên ngoài. Khoa học đã chứng nghiệm sự thực bằng phát minh, bằng con số bắt mọi người chấp nhận. Vũ tức giận sự lũng đoạn của khoa học trong địa hạt tâm linh, chính vì vậy, Vũ phải mang ý thức khổ đau, có lẽ, tới khi vắng mặt!
Tiếng thở dài và ý niệm giải thoát
“Từ khi trái đất ra đi
Lệ chia phôi đã xanh rì trùng dương…”
Thơ Vũ là tiếng thở dài của phương Đông trầm mặc. Tiếng thở dài đó cất lên giữa vòm trời rất đỗi buồn thương, ray rứt trong mỗi vần điệu. Sau những cố gắng đi tìm cho chính mình luồng sinh khí mới, nếp suy cảm mới, rốt cuộc, tiếng nói của Vũ vẫn nguyên vẹn là niềm u uất, mệt mỏi, chán chường! Vũ muốn dìm chết dĩ vãng trong Trời-Quên-Lửa-Khói, nhưng sau mỗi cơn say tự dưới đáy vực, Vũ cảm thấy tâm hồn mình càng lún sâu xuống Địa-Ngục-Quá-Khứ. Nó quật ngã Vũ lúc nào nó muốn. Nó là định mệnh. Nó bám riết lấy Vũ với dằn vặt trường miên, với hờn thương vô độ. Nó nhập vào thơ Vũ. Nó chứng minh sự phai tàn của một thế hệ. Nó ghi dấu thời gian như vết xe lướt qua mặt đường lầy lội. Thật vô ích và xiết bao đau đớn, đêm đêm nhìn nhớ thương toả dài theo lửa khói ròi chìm lắng vào Hư-Vô câm tiếng.
Thơ Vũ là cơn đau đứt nối với số phận riêng lẻ. Thơ Vũ không chuyên chở những món hàng hợp thời trang cùng chân dung thê thảm của chiến tranh có đây, hoặc tỏ bày thái độ trước cuộc đời hôm nay. Thơ Vũ đơn côi giữa nguồn sống đang dâng trùng trùng lớp lớp. Chính vì thế thơ Vũ tồn tại.
Niềm chia ly cách trở do núi sông, nhân thế cộng với tháng năm tủi nhục, Vũ đi tìm vùng an nghỉ cho tâm linh. Vũ muốn được giải thoát bằng ý niệm siêu hình, bằng cách phóng hồn vào hư-không-tuyệt-đối. Vũ đi tìm Đạo. Vũ muốn dứt bở cái xác phàm hệ luỵ bởi cơm áo, yêu thương, hờn giận này đi. Cõi sống làm Vũ chán ngán. Vũ đã uống nó đau khổ, hút say phiền muộn! Cuộc đời nào đó có gì cho ta mong đợi?
“Bụi đỏ phai màu nhân sự
Trang đạo lý thơm tho từng nét chữ
Mười ngón tay dan díu cõi Vô hình
Xác tục lâng lâng chờ cơn gió hiển linh
Ai xưa quên ngày tháng hát vong tình
Kìa phương Nam, hoa nở ngát lời kinh
Dằng dặc trầm luân mấy độ
Thuyền ta trôi hề ý ta bay
Sương in bóng nguyệt không mà có
Hay có mà không nhỉ gã say?”…
(Bài ca siêu thoát, Rừng phong)
Ngọn lửa Từ Bi cháy ngùn ngụt giữa đường nhân thế làm sáng ngời cửa Phật, soi đường cho Vũ tìm thấy chân lý cuộc đời. Vũ dâng hiến linh hồn mình cho đấng Thích Ca, cho cõi Vô-Cùng-Siêu-Thoát. Từ lâu, Vũ nghe được tiếng cá thở than, hôm nay, Vũ đã sõi tiếng rừng cây, Vũ chỉ chờ ngày hiểu được bề sâu của lòng đất là thoả nguyện ước mơ cuối đường.
“Nghe được từ lâu cá thở than
Hôm nay mới sõi tiếng cây ngàn
Bao giờ tôi hiểu sâu lòng đất
Là thấy đường lên cõi Niết Bàn”.
(Nhị thập bát tú, Tập 2)
Là đây, niềm hoài vọng của con người Thơ qua bao nhiêu hệ luỵ giờ đây còn lại người gì? Cuộc đời có, không, không, có, nào ai biết được, hay cũng chỉ như:
“Ca trùng lửa đóm
Cũng hoàn phản hư không dù lăng ngà cỏ khâu…”
(Tụng kinh kha)
*
Cách đây 27 năm, vào buổi tối đầu thu, thành phố Hà Nội vừa lên đèn. Gió từ bờ Hồng Hà thổi nghe thấm lạnh. Những chiếc lá đầu mùa đã thả xuống lề đường làm duyên cho thành phố. Nguyễn Đức Nùng, người bạn cùng trường đưa tôi đến gặp Vũ Hoàng Chương tại một căn nhà cổ, sau đến Bà Kiệu. Đến nơi tôi gặp thêm Đinh Hùng, Lê Trọng Quỹ cùng vài ba bạn khác. Căn nhà thấp, rất thấp, tối om om. Đó đây từng ngọn dạ đăng cháy lập lờ không soi tỏ mỗi khuôn mặt. Tôi được giới thiệu với Vũ và các bạn. Hình ảnh đầu tiên ghi nhận ở Vũ, đến hôm nay còn in rõ trong tôi như vết tích không phai với thời gian, đó là một thanh niên mảnh mai chìm khuất dưới bộ bà ba trắng đã ngả màu, nằm nghiêng bên ngọn dạ đăng ma quái. Vũ đưa mắt nhìn tôi mà tôi tưởng như Vũ nhìn vào khoảng trống. Đôi mắt ấy toát ra ánh sáng kỳ lạ. Nó lóe lên giống tia chớp rồi vụt tắt giữa màu mây nặng trĩu hơi mưa. Vũ nằm bất động như thiếp vào cơn mơ bỏ dở. Hương nha phiến chập chờn quyến rũ. Lát sau nghe chừng đã hả cơn say, Vũ mời tôi vào thăm quê Nâu. Tôi từ chối. Vũ nhếch môi cười – “Toa” không chịu vui với anh em thì đến đây làm gì? Tôi định trả lời, tôi đến vì mê thơ chứ không vì mê khói. Nhưng Nùng đã vội nói – “Moa” biết, nó chỉ thích thể thao và con gái thôi. Mặc nó! Tôi bẽn lẽn ngồi như cậu bé bị kể tội. Lê Trọng Quỹ nằm gần đây, cất tiếng ngâm thơ. Giọng ngâm của Quỹ sang sảng, ấm lạ thường. Tiếng thơ dìu theo khói thuốc gây cho tôi ấn tượng là lạ vì chưa một lần được biết. Quỹ ngâm bài “Mười hai tháng sáu” trong tập Mây của Vũ, do nhà Đời Nay vừa xuất bản. Chính thi phẩm này đã đưa Vũ lên tột đỉnh của trời Thơ thuở ấy. Vũ gõ que sắt vào thành chén giữ nhịp, đôi mắt nhắm lại như không muốn thấy sự vật xung quanh. Tôi biết Vũ đang trở vào giấc ngủ mười năm lỡ dở. Tiếng ngâm của Quỹ vút lên nhưng bị ngăn trở bởi kích thước không gian nhỏ hẹp nơi đây nó dội lại, trở thành chua chát, não nề. Tôi choáng váng rồi thoát mình nhập vào không khí cuồng say lúc nào chẳng biết.
Từ buổi ấy, chúng tôi là bạn. Chúng tôi thường gặp nhau, nhưng không một lần, Vũ mời tôi chung say nữa. Tôi mê thơ Vũ đến nỗi thuộc hết tập Mây lúc nào không hay. Tôi còn thích Vũ ở lối ăn mặc đặc biệt. Vũ thường mặc áo gấm màu lam, đi giày ta, mang khăn xếp, tay cầm quạt và luôn luôn có đem theo cuốn Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh bằng chữ Hán. Vũ đi thất thểu, chậm rãi với phong độ nho gia. Sau đó ít lâu Vũ về quê nhà ở Nam Định.
Bẵng đi một dạo, cho tới năm kháng chiến thứ ba, tôi mới gặp Vũ tại Đống Năm thuộc tỉnh Thái Bình, nhân buổi họp mặt Văn Nghệ. Vũ vẫn thế, chiến tranh không làm Vũ đổi thay từ bản thân tới suy nghĩ. Chiếc áo gấm năm xưa đã phai màu gió bụi trường chinh, nhưng phong cách Vũ vẫn y nguyên. Trong thời gian ấy, Vũ làm thơ một phần để tỏ bày thái độ, một phần để nguôi ngoai tâm sự.
“Mới hôm nào gác Dì Năm
Lời thơ ai đẹp tiếng cầm ai say
Tang thương một cuộc ai bày
Giấc Thiên Thai để trắng tay Lưu Thần
Xa Cố đô vắng cố nhân
Trái tim mềm trĩu hai lần nhớ thương…”
Lần này chính Vũ ngâm cho tôi nghe trong một quán nước bên bờ đê. Giọng ngâm của Vũ ấm đục, thê thiết như vướng nghẹn bởi sương khói quê Nâu. Vũ ngâm thơ như khóc, như hờn tủi, như cơn đau xé ruột.
Qua những giờ giao cảm ngắn ngủi đó, chúng tôi lại chia tay với bùi ngùi cách trở, kháng chiến vẫn kéo dài bước chân tuổi trẻ.
Đến năm 1951, chúng tôi lại thấy nhau ở Hà Nội. Vũ cho biết đang viết vở kịch thơ Tâm sự kẻ sang Tần. Trong vở kịch thơ này Vũ đã gửi gấm tâm sự mình không ít xuyên qua nhân vật Cao Tiệm Ly. Vũ đã viết 6 vở kịch thơ, mới in 4 và 14 thi tập. Trong số có tập Cảm thông do Nguyễn Khang dịch sang Anh ngữ và Nhị thập bát tú được Simone Kuhnen de la Coeuillerie dịch sang Pháp ngữ với lời tựa của thi hào Ý Lionello Fiumi, cùng một tuyển tập cũng do S.K. de la Coeuillerie dịch với minh hoạ của Suzanne Bomhals và phụ bản của Ysabel Beas. Cuốn Tuyển tập được giáo sư André Guimbretière đề tựa. Thơ Vũ đã vượt biên giới để hoà mình với thi ca thế giới.
Nhưng viết về Vũ mà bỏ quên hình ảnh người đàn bà mang tên Oanh – người bạn đời của Vũ – kể như thiếu sót. Người đàn bà ấy nổi danh tài sắc một thời – đã cùng lênh đênh, chìm nổi theo số phận Vũ. Người đàn bà ấy có tình thương yêu vô lượng, có sức chịu đựng phi thường. Sự nghiệp của Vũ hôm nay được thành quả, một phần cũng bởi lòng hy sinh cao cả và ý chí sắt son của tâm hồn khả kính ấy. Trong suốt mười mấy năm thi phẩm, Vũ chỉ nhắc đến tên Oanh có một lần, trong tập Hoa đăng. Nhưng thật ra, bóng dáng ấy phảng phất có mặt trên mọi trang thơ vì nó đã dính liền vào thịt da, vào huyết mạch Vũ từ lâu rồi. Vũ rất nhạy cảm nên dễ giận hờn. Thực phẩm trần gian quá đắng cay, Vũ phải ẩn nấp vào trời Mây để tìm hương vị ngọt ngào cho cuộc sống riêng tư.
Việc nhận diện Vũ Hoàng Chương không mấy khó. Cái khó là viết về người bạn thân. Tôi băn khoăn, phân vân trước khi viết vì tự nghĩ mình không đủ sáng suốt để tìm hiểu Vũ với cái nhìn vô tư chăng?
Nhưng đến lúc này, tôi cảm thấy vơi nhẹ đôi vai.
Trích thơ Vũ Hoàng Chương
Nửa truyện hồ ly
Giàn dưa mưa lất phất
Mênh mông sầu xứ đêm dài
Hư vô động tiếng giày ai
Mình ta buồn dặc dặc
Say giữa hai tờ Liêu Trai
Rún rẩy hoa đèn rung ngọn bấc
Không gian đàn mãi tiếng giày ai
Dầu cạn lưng chừng phao
Sợi nhỏ thon mềm dáng liễu
Hài son phơi phới lửa đào
Khói biếc màu xiêm yểu điệu
Ai đó – phải chăng hồn cỏ cây
Bấc thơm dầu quánh nhựa hây hây
Dầu vơi bấc mỏng manh gầy
Bước chân nào bợ ngợ
Hoa đèn lung lay
Ai đó – phải chăng hồn cỏ cây
Mộ vắng lầu hoang ngơ ngác sợ
Cùng đêm nương về đây
Nửa truyện Hồ Ly trang sách giở
Lung linh tiếng giày.
Dâng tình
Bốn trời sương lạnh
Đường xanh bóng trăng
Lửa đào lung lay phất phới
Thi nhân ôi xin dừng bước lại
Đây Hàng Châu thường mơ ước đêm Hoa Đăng
Đêm Hoa Đăng đường xanh bóng trăng
Đêm Hoa Đăng đèn quanh lối xóm
Đây cầm ca người mộng gái xưa Kim Lăng
Hãy dừng đây Chàng Say
Mà điên cuồng lơi lả
Đón muôn đời thanh sắc ngã trong vòng tay
Nhịp trúc buông khoan
Sóng tơ dồn chậm
Môi nồng tươi da mịn ấm
Liễu xinh xinh thoa dáng liễu cong đôi nét mày
Lũ chúng em chờ Chàng qua chín kiếp
Tình giang hồ phong nhuỵ vẫn nguyên hương
Rượu dâng nồng đây son phấn mười phương
Khói lên biếc và đây hồn tứ xứ
Trên cánh Nhạc đê mê Chàng hãy ngự
Đàn tơ mây theo phách gỗ trầm hương
Nhịp lời ca lơi lả bóng nghê thường
Âm điệu sẽ ru Chàng say đến cuối
Lũ chúng em ca nhi
Đón dâng Chàng một buổi
Nỗi yêu mê cuồng dại nén từ lâu
Rồi mai đây Chàng rong ruổi
Thuyền buộc sông mưa
Ngựa dừng trăng khuyết
Tình nhân thế chua cay người lịch duyệt
Niềm giang hồ tan tác lệ Giang Châu
Xin bẻ thuyền quay hướng
Xin giục ngựa quay đầu
Về cùng chúng em
Buồng xuân chờ cửa ngỏ
Khóm trúc đợi xanh màu
Họp cùng chúng em
Có nàng tiên má hồng nâu
Giúp đôi cánh biếc dâng sầu lên khơi
Hãy dừng đây Chàng Say ơi
Cùng lận đận bên trời một lứa
Đêm Hoa Đăng vắng chàng thoi thóp lửa
Tiếng đàn xênh rời rạc khúc Thiên Thai
Hãy dừng đây sương gió lạnh bên ngoài.
Một phút ngừng say
Bấc trĩu hoa đèn nhựa úa nâu
Phai say nằm khóc mộng ban đầu
Bước chân song sóng vòng tay mở
Dạo ấy người xưa xa lắm đâu
Chớm nụ tiếc cho tình quá ngát
Mà thương trời bể quá cao sâu
Tiếc thương lẻn khói vào tâm trí
Mưa gió tàn đêm lộng quán sầu.
Lá thư ngày trước
Yêu một khắc đế mang sầu trọn kiếp
Tình mười năm còn lại mấy tờ thư
Mộng bâng quơ hò hẹn cũng là hư
Niềm son sắt ngậm ngùi duyên mỏng mảnh
Rượu chẳng ấm mưa hoài chăn chiếu lạnh
Chút hơi tàn lay lắt ngọn đèn khuya
Giấc cô miên rùng rợn nẻo hôn mê
Gió âm tưởng bay về quanh nệm gối
Trong mạch máu chút gì nghe vướng rối
Như tơ tình thắc mắc buổi chia xa
Ngón tay run ghì nét chữ phai nhoà
Hỡi năm tháng hãy đưa đường giấc điệp
Yêu mê thế để mang sầu trọn kiếp
Tình mười năm còn lại chút này đây
Lá thư tình xưa nhớ lúc trao tay
Còn e ấp thuở duyên vừa mới bén
Ai dám viết yêu đương và hứa hẹn
Lần đầu tiên ai dám ký “Em Anh”
Nét thon mềm run rẩy gắng đưa nhanh
Lòng tự thú giữa khi tìm trốn nấp
Mươi hàng chữ đơn sơ ô ngượng ngập
E dè sao mươi hàng chữ đơn sơ
Màu mực xanh tươi ngát ý mong chờ
Tình hé nụ bừng thơm trong nếp giấy
Ôi thân mến nhắc làm chi thuở ấy
Đêm nay đây hồn xế nẻo thu tàn
Khóc chia lìa ai níu gọi than van
Ta chỉ biết nằm nghe tình hấp hối
Say đã gắng để khuây sầu lẻ gối
Mưa mưa hoài rượu chẳng ấm lòng đau
Gấm the nào từ buổi lạnh lùng nhau
Vàng son có thay màu đôi mắt biếc
Tình đã rời đi riêng mình tưởng tiếc
Thôi rồi đây chiều xuống giấc mơ xưa
Lá lá rơi nằm bệnh mấy tuần mưa
Say chẳng ngắn những đêm dằng dặc nhớ
Trăng nào ngọt với duyên nào thắm nở
Áo xiêm nào rực rỡ ngựa xe ai
Đây mưa bay mờ chậm bước đêm dài
Đêm bất tận đêm liền đêm kế tiếp
Yêu sai lỡ để mang sầu trọn kiếp
Tình mười năm còn lại chút này thôi
Lá thư xưa màu mực úa phai rồi
Duyên hẳn thắm ở phương trời đâu đó.
Mười hai tháng sáu
Trăng cửa nhà ai trăng một phương
Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường
Ờ đêm tháng sáu mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương
Là thế là thôi là thế đó
Mười năm thôi thế mộng tan tành
Mười năm trăng cũ ai nguyện ước
Tố của Hoàng ơi Tố của Anh
Tháng sáu mười hai từ đấy nhé
Chung đôi, từ đấy nhé lìa đôi
Em xa lạ quá đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa Tố của tôi
Men khói đêm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu ghi mười hai
Tình ta ta tiếc cuồng ta khóc
Tố của Hoàng nay Tố của Ai
Tay gõ vào bia mười ngón rập
Mười năm theo máu hận trào rơi
Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp
Khúc Cổ Bồn Ca gõ hát chơi
Kiều Thu hề Tố em ơi
Ta đang lửa đốt tơi bời Mái Tây
Hàm Ca nhịp gõ khói bay
Hồ Xừ Xang Xế bàn tay điên cuồng
Kiều Thu hề trọn kiếp thương
Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô
Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên
Kiều Thu hề Tố hỡi em
Nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bùng
Xề Hồ Xang khói mờ rung
Nhịp vươn sầu toả năm cung ngút ngàn.
Tuý hậu cuồng ngâm
Ôi lòng ta sao buồn không nguôi
Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi xuôi
Há vì cơm áo chẳng no lành
Há vì đời không mắt ai xanh
Nhớ thuở không có ta hề đường đi thênh thênh
Kịp khi có ta hề chông gai mông mênh
Cuồng vọng cả mà thôi bốn phương hề vướng mắc
Ba mươi năm trên vai hề trống không bình sinh
Lều nát hề trơ trơ ngõ mưa lầm lội
Trăng lạnh đèn mờ hồn đơn hề le lói
Đọc truyện cố nhân hề lòng ta quặn đau
Gió bụi xôn xao hề thương vay người sau
Càng xót thân mình vô dụng
Thiên hạ chê bai hề lạc nẻo sang giàu
Ta chỉ tiếc cho thân hề vô duyên bấy lâu
Bá Nhạc đời không ai hề ngẩn ngơ vó câu
Gươm sắc uống cho gươm hề Phong Hồ có đâu
Ai đó mách giùm ta với
Quần gót thế nhân hề như đàn quạ kia chăng
Hay như mây cao đơn chiếc hề cánh chim bằng
Ấp úng cân đai hề trói giam tài năng
Võ ruộng buông câu hề kho trời gió trăng
Ôi đường gai góc là bao hề sóng cồn mặt bể
Thương cho tay lái non hề con thuyền lao đao
Tiếc cho cơ hội muộn hề chặt gai được sao
Lá úa cành khô thu đông hề nối gót
Chuếnh choáng giang san hề còn say hát ngao
Mây hồng tím phương tây hề tà huy thoi thóp
Đời sắp tàn chăng hề bấc lu dầu hao
Ngõ hẹp giường tre giấc mơ hề chới với
Thôi hết mùa tươi
Hết thôi chờ đợi
Rượu hề rượu hề giùm quên nhé ngươi
Sao lòng ta đêm nay buồn không thể nguôi
Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi xuôi.
*
NGUYỄN THIÊN THỤ * VŨ HOÀNG CHƯƠNG
VŨ HOÀNG CHƯƠNG
I.TIỂU SỬ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
I.TIỂU SỬ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Vũ
Hoàng Chương ( 1916 – 1976) sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng
Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnh
Hưng Yên. Thuở nhỏ, ông theo
học chữ Hán ở nhà, rồi học tiểu học tại Nam Định. Năm 1931 vào học
trường Albert Sarraut ở Hà Nội, đỗ Tú tài năm 1937. Năm 1938 ông vào
Trường Luật nhưng chỉ được một năm thì bỏ đi làm Phó Kiểm soát Sở
Hỏa xa Đông Dương, phụ trách đoạn đường Vinh - Na Sầm. Năm 1941, ông
bỏ Sở hỏa xa đi học Cử nhân toán tại Hà Nội, rồi lại bỏ dở để đi dạy ở
Hải Phòng.
Trong suốt thời gian này, ông không ngừng sáng tác thơ và kịch. Sau đó trở về Hà Nội lập Ban kịch Hà Nội cùng Chu Ngọc và Nguyễn Bính. Năm 1942 công diễn vở kịch thơ Vân muội tại Nhà Hát Lớn và gặp gỡ Đinh Thục Oanh, chị ruột nhà thơ Đinh Hùng, thành hôn năm 1944. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, về Nam Định, diễn vở kịch thơ Lên đường của Hoàng Cầm. Kháng chiến toàn quốc nổ ra, đi tản cư cùng gia đình về Thái Bình, làm nghề dạy học. Đến 1950, gặp lúc quân Pháp càn đến, ruồng bắt cả nhà, hồi cư về Hà Nội, dạy toán rồi chuyển sang dạy văn và làm nghề này cho đến 1975.
Năm 1954, Vũ Hoàng Chương vào Sài Gòn, tiếp tục dạy học và sáng tác. Năm 1959 được giải thưởng toàn quốc của chính quyền Việt Nam cộng hòa về tập thơ Hoa đăng. Trong năm này tham dự Hội nghị thi ca quốc tế tại Bỉ. Năm 1964 tham dự Hội nghị Văn bút Á châu họp tại Bangkok. Năm sau, 1965 lại tham dự Hội nghị Văn bút quốc tế họp tại Bled, Nam Tư. Năm 1967, lại tham dự Hội nghị Văn bút quốc tế họp tại Abidjan, thủ đô Côte d'Ivoire. 1969-1973 là Chủ tịch Trung tâm Văn bút Việt Nam thuộc Việt Nam Cộng hòa. Năm 1972 đoạt giải thưởng văn chương toàn quốc của Việt Nam Cộng hòa. Ông còn được vinh danh là "Thi bá" Việt Nam. Ngày 13 tháng 4 năm 1976, ông bị cộng sản bắt giam tại khám Chí Hòa trong chiến dịch khủng bố văn nghệ sĩ miền Nam. Ông bị bệnh nặng được đưa về nhà được 5 ngày thì mất ngày 6 tháng 9 năm 1976 tại Sài Gòn.
TÁC PHẨM
Các tập thơ:
Thơ say (1940)
Mây (1943)Thơ lửa (cùng Đoàn Văn Cừ, 1948) Rừng phong (1954)
Hoa đăng (1959)
Tâm sự kẻ sang Tần (1961) Lửa từ bi (1963)
Ta đợi em từ 30 năm (1970)
Đời vắng em rồi say với ai (1971)
Chúng ta mất hết chỉ còn nhau (1973)
Kịch thơ:
Trương Chi (1944)
Vân muội (1944)
Hồng diệp (1944)
II.CHUYỆN TRÒ CÙNG VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Hôm nay ( xuân canh dần 2010) giở lại các tập tài liệu cũ, tôi tìm thấy bản ghi chép cuộc thăm viếng thi sĩ Vũ Hoàng Chương của tôi. Như vậy là bản ghi chép này đã tồn tại gần nửa thế kỷ mà tôi bỏ quên trong kệ sách, và trong tâm tưởng tôi, tôi cũng đã quên có cuộc gặp gỡ này.
Vũ Hoàng Chương là một thi sĩ lớn của nước ta. Lúc bấy giờ tôi đang nghiên cứu về thơ mới cho nên tôi tìm đến thi sĩ để có một tài liệu sống. Nhưng rồi sau đó, sóng gió nổi dậy tại miền Nam, tôi lui về ẩn dật và bỏ lại các tài liệu vào góc tủ.Bản ghi chép đề Sài gòn ngày 6-4-1974, lúc 5 giờ chiều, tại đường Nguyễn Minh Chiếu, Sàigon. Ông lúc trước sống chung với Đinh Hùng, sau vợ chồng Đông Hồ bảo bọc ông, đưa về sống chung một nhà, tại biệt thự Nguyễn Minh Chiếu. Lúc bấy giờ ông đã ở đây hơn một năm.Năm này, thi sĩ đã 6o tuổi.
Bây giờ tôi cũng nhớ đôi chút chuyện cũ. Tất cả đã phai mờ như trong giấc mộng chỉ còn bản ghi chép là thực và rõ ràng.Tôi nhớ lại khoảng 1964, tôi đến thăm thi sĩ Đông Hồ tại khu hồ tắm Chi Lăng, Gia Định. Rất lâu, mười năm sau, tôi mới gặp Vũ Hoàng Chương. Lúc này thi sĩ Vũ Hoàng Chương ở đường Nguyễn Minh Chiếu gần khu Lăng Cha Cả. Khu này có nhiều biệt thự ẩn nấp sau những hàng cây cổ thụ. Thi sĩ trú ngụ tại biệt thự của Đông Hồ. Biệt thự này có hai nhà. Đông Hồ đã mất, gia đình ở nhà chính. Bên cạnh là một căn nhà nhỏ, gia đình thi sĩ Vũ Hoàng Chương gồm phu nhân và cậu con nuôi tên là Vũ Hoàng Tuân học lớp 12 Chu Văn An ở tại đây.
Sau 1975, bọn nằm vùng Vũ Hạnh và bọn cộng sản Bắc Việt hung hăng thực hiện chính sách khủng bố văn nghệ sĩ miền Nam. Vũ Hạnh đe dọa bà Mộng Tuyết khiến cho Vũ Hoàng Chương phải dọn ra ngoài, không dám gây liên lụy cho gia đình người bạn vàng. Mà rồi kết cuộc, bà Mộng Tuyết cũng phải bỏ biệt thự Nguyễn Minh Chiếu mà về Hà Tiên là nơi quê cũ. Không biết biệt thự này về tay ai.? Đông Hồ chỉ có một gái , trước 1975 dạy học tại Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho.
Vũ Hoàng Chương cho tôi biết ông sinh giờ dần, ngày mồng một, tháng giêng năm ất mão, tại Sơn Nam hạ là quê quán của ông nghè Vị Xuyên . Thân phụ (ông gọi là thầy ) của Vũ Hoàng Chương tên là Vũ Thiện Thuật, quê ở xã Phù Ủng là quê Phạm Ngũ Lão, đậu tú tài, tuổi hợi (1887), nếu còn sống đến lúc này thì được 88 tuổi. Cụ vào trường Sĩ Hoạn (École de madarin) thi Pháp văn, học bốn năm , đỗ thì ra tri huyện, rớt thì làm huấn đạo. Lúc này là khoa thi Hội cuối cùng ,khoa mão (1916), tú tài cũng được thi nhưng cụ không đi. Phan Kế Toại vốn là giáo viên, dạy học hai năm rồi cùng vào học trường Sĩ Hoạn, và ra cùng một khóa với thân phụ Vũ Hoàng Chương. . Thân phụ Vũ Hoàng Chương làm tri huyện ở Nam Định, Thái Bình, sau ở Bắc Giang, mất vì bệnh phổi năm 1941 hưởng dương 55 tuổi, Cụ tính nghiêm khắc, chỉ có một vợ.
Lúc làm tri huyện Thanh Liêm (Hà Nam) ngay tỉnh lỵ, tây đến, có giám binh (đứng đầu lính khố xanh ở tỉnh) đến khám. Lúc bấy giờ mỗi huyện có sáu hoặc bốn lính khố xanh,mỗi tên lính có một khẩu súng, ba viên đạn. Giám binh đến khám súng. Cụ bấy giờ khoảng 30 tuổi, đầu búi tó, chít khăn, để râu. Ông giám binh cấp bậc hạ sĩ, giải ngũ sang lính Thuộc địa ăn nói thô tục. Cụ không chịu được thói hống hách bèn vác ghế đánh tên này. Giám binh về mách quan sứ, cụ cũng làm rapport. Kết cuộc viên giám binh bị đổi đi chỗ khác còn cụ bị huyền chức. Nửa năm sau lại được bổ Tri huyện Trác Ân (Yên Bái) ở miền thượng du. Ông vốn ghét Pháp và không xu nịnh nên làm việc suốt hai mươi năm mà vẫn ở chức tri huyện. Sau cụ về hưu non lấy lý do sức khỏe.
Thân mẫu của ông tuổi hợi, mất năm 1961, tên là Hoàng Thị Sính, quê Vị Xuyên ( Vũ Công), thọ 75 tuổi. Bà ngoại buôn gạo, mua đất cát mà xây dựng cơ đồ, sau xây nhà thờ cụ nghè, nuôi các cháu trong họ. Vũ Hoàng Chương ở với bà ngoại lúc 6 tuổi. Bà nuôi Vũ Hoàng Chương vì bà hiếm cháu. Ông cố ngoại là ông nghè, đỗ khoa thìn, Bà ngoại sinh đuợc một mình thân mẫu thi sĩ, ở góa lúc 23 tuổi, lúc 50 tuổi được vua Khải Định ban bốn chữ "Tiết hạnh khả phong". . Chị ruột mừng câu đối:
"Cờ biển khoa thìn cha để tiếng,
Son vàng chữ tiết chúa ban khen."
Ông nội của Vũ Hoàng Chương tên là Vũ Đạo Trác, rớt tam trường . Ông cố là Vũ Đạo Thông đỗ tú tài hai khoa, làm huấn đạo. Lúc thi sĩ 5 tuổi được ông nội dạy Tam tự kinh, Ngũ ngôn thi, kinh Thi, và tập viết. Về chữ nôm thì lúc nhỏ, thi sĩ đã học Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca. Lúc bảy tuổi, thi sĩ học trường huyện. Trường này có một ông huấn đạo dạy chữ Nho, một ông giáo người Việt dạy chữ Tây, cả huyện chỉ có hai mươi học sinh lớp 5 (élémentaire).Mỗi tháng hai ngày học chữ Hán, còn ra là học chữ Pháp .
Ngày đi học trường huyện, tối lại học chữ Hán do ông nội dạy.Vài năm thì qua lớp Vỡ lòng.Bà cụ cũng dạy thi sĩ chữ Quốc ngữ. Ông cố ngoại (thân phụ của bà nội) là Ngô Thế Vinh ( 1802-1856), tức ông nghè Bái Dương ( huyện Nam Chân, Nam Định ) .Ông đậu tiến sĩ khoa kỷ sửu ( năm Minh Mạng thứ 10 ( 1829), được cử làm chánh chủ khảo thi Hương và ông cũng phạm cái tội của Cao Bá Quát , thành thử bị cách chức , và truất dạnh hiệu tiến sĩ, thu mũ áo, cờ biển. Cụ nghè Bái Dương trở về quê dạy học. Hai mươi năm sau, học trò có kẻ đỗ thám hoa, hoàng giáp . Đời Tự Đức, học trò dâng sớ kêu oan cho thầy, vua Tự Đức cho phục danh hiệu tiến sĩ, bổ làm quan. Lúc đó cụ đã 60 tuổi, không còn tham danh lợi nữa nên dâng biểu về triều xin từ chối. Thân mẫu của thi sĩ cũng học chữ nho mười lăm năm trời. Vũ Hoàng Chương học hai năm mà không khá. Sau Vũ Hoàng Chương theo học cụ Nguyễn Can Mộng về chữ Hán và Pháp văn, Quốc ngữ. Cụ Nguyễn Can Mộng hiệu là Nông Sơn, đỗ phó bảng dạy thi sĩ viết dictée mỗi buổi mười câu.Và học những câu đối thoại thông thường. Học ba năm thi về bên ngoại học lớp nhì, lớp nhất, rồi học trường tỉnh Nam Định.
Vũ Hoàng Chương đỗ tiểu học, đáng lý ông vào trường Bưởi tức là trường trung học Bảo Hộ
( Lycée du Protectorat). Lúc bấy giờ ở Hà Nội có hai trường lớn. Một là trường tây Albert Saurraut, mặc âu phục đắt tiền. Còn trường Bười mặc Việt phục, học bốn năm thi lấy bằng diplome, học hai năm lấy bằng tú tài I, rồi năm sau học thi tú tài toàn phần tức tú tài bản xứ. Còn học Albert Sarraut thì 6 năm thi tú tài Pháp. Năm 1931 thi vào Albert Sarraut thì lớn tuổi. Vào trường Bưởi thì đủ tuổi.Ông học vượt hai năm, học ban văn chương,năm 1935 thi tú tài I, đỗ một mình trong khi có bảy người thi. Lúc bấy giờ trung học chưa phát triển đầy đủ, chỉ có hai ban Văn chương và khoa học. Văn chương thì học Pháp văn, Latin, Anh văn.Đóng học phí một tháng bảy đồng trong khi lương tri huyện 100 đồng, đóng ba tháng là 20 đồng.Anh văn thì ra đề luận tả cảnh mặt trời buổi chiều trên cầu Long Biên. Sử thì học sử La Mã. Ông Lê Công Đắc là người bị báo Phong Hoá chế riễu, ông chỉ đỗ tú tài I. Học sinh it thôi, tây 7, đầm 7, Việt 7, chỉ trượt một hai người , một Pháp, một Việt.
Sau học Philo. Bạn của ông có Nguyễn Hữu Tấn ngoại giao giỏi. Philo có hai lớp. Mỗi lớp 60. Toán một lớp khoảng 30,40. Một người gôố Do Thái tên là Brachet giỏi toán. Nguyễn Nhật Quang thì Pháp Anh xòang nhưng giỏi toán nên sang ban Toán.Sau ông Quang đỗ bình. Ông Lê Văn Tuấn làm chưởng lý. Vũ Văn Cẩn đỗ bác sĩ y khoa và Luật.
Vũ Hoàng Chương khi học tiểu học đã học làm thơ Đường luật, Hát nói, song thất lục bát. Lúc còn học Albert Sarraut, chưa đỗ tú tài (1935) đã làm thơ tình theo thơ mới. Có hai bài thơ làm trong khoảng 1935-1937:
-Ta đợi em từ 30 năm."(in 1940)
-Ta đã làm chi đời ta? (1941-1942)
Tình yêu lúc cô nàng còn bé. Tình yêu ngẫu nhiên mà đến , ông không phải là một người dạy kèm ( précepteur).Lúc đó ông đang học, khoảng 1933 còn ba năm mới thi tú tài, thi sĩ 18 tuổi còn cô kia 12 tuổi. Ông ở trọ ở trên gác, còn gia đình cô ở dưới gác. Cả hai gia đình quen biết nhau.Cô ta sau thi tiểu học, còn cậu em là bạn của Vũ. Cả hai chị em sau đỗ Brevet. Năm sáu năm sau, gia đình cô ta là tiểu công chức, bà cụ buôn bán, cô ta đi lấy chồng, nhà giàu. lên. Chồng chết, bà ta ở một mình, con trai là luật sư, sau bà và con trai sang Pháp.
Sau đó20 năm là những mối tình khác: Kiều Thu, Tố Uyển và Tố Loan.
Lúc bấy giờ phong trào thơ mới phát triển. Thơ Đường, Hát nói có khuôn khổ nhất định. Lục bát thì không ai dám nghĩ. Nhiều bài thơ ý tưởng tây phương quá, mạnh quá. như bài "Hổ nhớ Rừng", Tiếng địch sông Ô". Nguyễn Nhược Pháp nhỏ hơn một tuổi, không cùng học ban Văn chương. Thơ mới có tính cách thành thị.
Ban đầu đa số theo Đường luật nhưng rồi bứt ra khỏi Đường luật. Sau 1940, người ta mới trở lại với nghệ thuật Đông phương. Thơ mới lúc này chịu ảnh hưởng Đường luật rất nhiều nhất là về nhịp điệu. Những bài thơ trong Rừng Phong (1954) mới in, nhưng Bài ca bình Bắc, Đời Vắng Em Rồi thì đã viết trước 1945.
*
Trong suốt thời gian này, ông không ngừng sáng tác thơ và kịch. Sau đó trở về Hà Nội lập Ban kịch Hà Nội cùng Chu Ngọc và Nguyễn Bính. Năm 1942 công diễn vở kịch thơ Vân muội tại Nhà Hát Lớn và gặp gỡ Đinh Thục Oanh, chị ruột nhà thơ Đinh Hùng, thành hôn năm 1944. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, về Nam Định, diễn vở kịch thơ Lên đường của Hoàng Cầm. Kháng chiến toàn quốc nổ ra, đi tản cư cùng gia đình về Thái Bình, làm nghề dạy học. Đến 1950, gặp lúc quân Pháp càn đến, ruồng bắt cả nhà, hồi cư về Hà Nội, dạy toán rồi chuyển sang dạy văn và làm nghề này cho đến 1975.
Năm 1954, Vũ Hoàng Chương vào Sài Gòn, tiếp tục dạy học và sáng tác. Năm 1959 được giải thưởng toàn quốc của chính quyền Việt Nam cộng hòa về tập thơ Hoa đăng. Trong năm này tham dự Hội nghị thi ca quốc tế tại Bỉ. Năm 1964 tham dự Hội nghị Văn bút Á châu họp tại Bangkok. Năm sau, 1965 lại tham dự Hội nghị Văn bút quốc tế họp tại Bled, Nam Tư. Năm 1967, lại tham dự Hội nghị Văn bút quốc tế họp tại Abidjan, thủ đô Côte d'Ivoire. 1969-1973 là Chủ tịch Trung tâm Văn bút Việt Nam thuộc Việt Nam Cộng hòa. Năm 1972 đoạt giải thưởng văn chương toàn quốc của Việt Nam Cộng hòa. Ông còn được vinh danh là "Thi bá" Việt Nam. Ngày 13 tháng 4 năm 1976, ông bị cộng sản bắt giam tại khám Chí Hòa trong chiến dịch khủng bố văn nghệ sĩ miền Nam. Ông bị bệnh nặng được đưa về nhà được 5 ngày thì mất ngày 6 tháng 9 năm 1976 tại Sài Gòn.
TÁC PHẨM
Các tập thơ:
Thơ say (1940)
Mây (1943)Thơ lửa (cùng Đoàn Văn Cừ, 1948) Rừng phong (1954)
Hoa đăng (1959)
Tâm sự kẻ sang Tần (1961) Lửa từ bi (1963)
Ta đợi em từ 30 năm (1970)
Đời vắng em rồi say với ai (1971)
Chúng ta mất hết chỉ còn nhau (1973)
Kịch thơ:
Trương Chi (1944)
Vân muội (1944)
Hồng diệp (1944)
II.CHUYỆN TRÒ CÙNG VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Hôm nay ( xuân canh dần 2010) giở lại các tập tài liệu cũ, tôi tìm thấy bản ghi chép cuộc thăm viếng thi sĩ Vũ Hoàng Chương của tôi. Như vậy là bản ghi chép này đã tồn tại gần nửa thế kỷ mà tôi bỏ quên trong kệ sách, và trong tâm tưởng tôi, tôi cũng đã quên có cuộc gặp gỡ này.
Vũ Hoàng Chương là một thi sĩ lớn của nước ta. Lúc bấy giờ tôi đang nghiên cứu về thơ mới cho nên tôi tìm đến thi sĩ để có một tài liệu sống. Nhưng rồi sau đó, sóng gió nổi dậy tại miền Nam, tôi lui về ẩn dật và bỏ lại các tài liệu vào góc tủ.Bản ghi chép đề Sài gòn ngày 6-4-1974, lúc 5 giờ chiều, tại đường Nguyễn Minh Chiếu, Sàigon. Ông lúc trước sống chung với Đinh Hùng, sau vợ chồng Đông Hồ bảo bọc ông, đưa về sống chung một nhà, tại biệt thự Nguyễn Minh Chiếu. Lúc bấy giờ ông đã ở đây hơn một năm.Năm này, thi sĩ đã 6o tuổi.
Bây giờ tôi cũng nhớ đôi chút chuyện cũ. Tất cả đã phai mờ như trong giấc mộng chỉ còn bản ghi chép là thực và rõ ràng.Tôi nhớ lại khoảng 1964, tôi đến thăm thi sĩ Đông Hồ tại khu hồ tắm Chi Lăng, Gia Định. Rất lâu, mười năm sau, tôi mới gặp Vũ Hoàng Chương. Lúc này thi sĩ Vũ Hoàng Chương ở đường Nguyễn Minh Chiếu gần khu Lăng Cha Cả. Khu này có nhiều biệt thự ẩn nấp sau những hàng cây cổ thụ. Thi sĩ trú ngụ tại biệt thự của Đông Hồ. Biệt thự này có hai nhà. Đông Hồ đã mất, gia đình ở nhà chính. Bên cạnh là một căn nhà nhỏ, gia đình thi sĩ Vũ Hoàng Chương gồm phu nhân và cậu con nuôi tên là Vũ Hoàng Tuân học lớp 12 Chu Văn An ở tại đây.
Sau 1975, bọn nằm vùng Vũ Hạnh và bọn cộng sản Bắc Việt hung hăng thực hiện chính sách khủng bố văn nghệ sĩ miền Nam. Vũ Hạnh đe dọa bà Mộng Tuyết khiến cho Vũ Hoàng Chương phải dọn ra ngoài, không dám gây liên lụy cho gia đình người bạn vàng. Mà rồi kết cuộc, bà Mộng Tuyết cũng phải bỏ biệt thự Nguyễn Minh Chiếu mà về Hà Tiên là nơi quê cũ. Không biết biệt thự này về tay ai.? Đông Hồ chỉ có một gái , trước 1975 dạy học tại Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho.
Vũ Hoàng Chương cho tôi biết ông sinh giờ dần, ngày mồng một, tháng giêng năm ất mão, tại Sơn Nam hạ là quê quán của ông nghè Vị Xuyên . Thân phụ (ông gọi là thầy ) của Vũ Hoàng Chương tên là Vũ Thiện Thuật, quê ở xã Phù Ủng là quê Phạm Ngũ Lão, đậu tú tài, tuổi hợi (1887), nếu còn sống đến lúc này thì được 88 tuổi. Cụ vào trường Sĩ Hoạn (École de madarin) thi Pháp văn, học bốn năm , đỗ thì ra tri huyện, rớt thì làm huấn đạo. Lúc này là khoa thi Hội cuối cùng ,khoa mão (1916), tú tài cũng được thi nhưng cụ không đi. Phan Kế Toại vốn là giáo viên, dạy học hai năm rồi cùng vào học trường Sĩ Hoạn, và ra cùng một khóa với thân phụ Vũ Hoàng Chương. . Thân phụ Vũ Hoàng Chương làm tri huyện ở Nam Định, Thái Bình, sau ở Bắc Giang, mất vì bệnh phổi năm 1941 hưởng dương 55 tuổi, Cụ tính nghiêm khắc, chỉ có một vợ.
Lúc làm tri huyện Thanh Liêm (Hà Nam) ngay tỉnh lỵ, tây đến, có giám binh (đứng đầu lính khố xanh ở tỉnh) đến khám. Lúc bấy giờ mỗi huyện có sáu hoặc bốn lính khố xanh,mỗi tên lính có một khẩu súng, ba viên đạn. Giám binh đến khám súng. Cụ bấy giờ khoảng 30 tuổi, đầu búi tó, chít khăn, để râu. Ông giám binh cấp bậc hạ sĩ, giải ngũ sang lính Thuộc địa ăn nói thô tục. Cụ không chịu được thói hống hách bèn vác ghế đánh tên này. Giám binh về mách quan sứ, cụ cũng làm rapport. Kết cuộc viên giám binh bị đổi đi chỗ khác còn cụ bị huyền chức. Nửa năm sau lại được bổ Tri huyện Trác Ân (Yên Bái) ở miền thượng du. Ông vốn ghét Pháp và không xu nịnh nên làm việc suốt hai mươi năm mà vẫn ở chức tri huyện. Sau cụ về hưu non lấy lý do sức khỏe.
Thân mẫu của ông tuổi hợi, mất năm 1961, tên là Hoàng Thị Sính, quê Vị Xuyên ( Vũ Công), thọ 75 tuổi. Bà ngoại buôn gạo, mua đất cát mà xây dựng cơ đồ, sau xây nhà thờ cụ nghè, nuôi các cháu trong họ. Vũ Hoàng Chương ở với bà ngoại lúc 6 tuổi. Bà nuôi Vũ Hoàng Chương vì bà hiếm cháu. Ông cố ngoại là ông nghè, đỗ khoa thìn, Bà ngoại sinh đuợc một mình thân mẫu thi sĩ, ở góa lúc 23 tuổi, lúc 50 tuổi được vua Khải Định ban bốn chữ "Tiết hạnh khả phong". . Chị ruột mừng câu đối:
"Cờ biển khoa thìn cha để tiếng,
Son vàng chữ tiết chúa ban khen."
Ông nội của Vũ Hoàng Chương tên là Vũ Đạo Trác, rớt tam trường . Ông cố là Vũ Đạo Thông đỗ tú tài hai khoa, làm huấn đạo. Lúc thi sĩ 5 tuổi được ông nội dạy Tam tự kinh, Ngũ ngôn thi, kinh Thi, và tập viết. Về chữ nôm thì lúc nhỏ, thi sĩ đã học Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca. Lúc bảy tuổi, thi sĩ học trường huyện. Trường này có một ông huấn đạo dạy chữ Nho, một ông giáo người Việt dạy chữ Tây, cả huyện chỉ có hai mươi học sinh lớp 5 (élémentaire).Mỗi tháng hai ngày học chữ Hán, còn ra là học chữ Pháp .
Ngày đi học trường huyện, tối lại học chữ Hán do ông nội dạy.Vài năm thì qua lớp Vỡ lòng.Bà cụ cũng dạy thi sĩ chữ Quốc ngữ. Ông cố ngoại (thân phụ của bà nội) là Ngô Thế Vinh ( 1802-1856), tức ông nghè Bái Dương ( huyện Nam Chân, Nam Định ) .Ông đậu tiến sĩ khoa kỷ sửu ( năm Minh Mạng thứ 10 ( 1829), được cử làm chánh chủ khảo thi Hương và ông cũng phạm cái tội của Cao Bá Quát , thành thử bị cách chức , và truất dạnh hiệu tiến sĩ, thu mũ áo, cờ biển. Cụ nghè Bái Dương trở về quê dạy học. Hai mươi năm sau, học trò có kẻ đỗ thám hoa, hoàng giáp . Đời Tự Đức, học trò dâng sớ kêu oan cho thầy, vua Tự Đức cho phục danh hiệu tiến sĩ, bổ làm quan. Lúc đó cụ đã 60 tuổi, không còn tham danh lợi nữa nên dâng biểu về triều xin từ chối. Thân mẫu của thi sĩ cũng học chữ nho mười lăm năm trời. Vũ Hoàng Chương học hai năm mà không khá. Sau Vũ Hoàng Chương theo học cụ Nguyễn Can Mộng về chữ Hán và Pháp văn, Quốc ngữ. Cụ Nguyễn Can Mộng hiệu là Nông Sơn, đỗ phó bảng dạy thi sĩ viết dictée mỗi buổi mười câu.Và học những câu đối thoại thông thường. Học ba năm thi về bên ngoại học lớp nhì, lớp nhất, rồi học trường tỉnh Nam Định.
Vũ Hoàng Chương đỗ tiểu học, đáng lý ông vào trường Bưởi tức là trường trung học Bảo Hộ
( Lycée du Protectorat). Lúc bấy giờ ở Hà Nội có hai trường lớn. Một là trường tây Albert Saurraut, mặc âu phục đắt tiền. Còn trường Bười mặc Việt phục, học bốn năm thi lấy bằng diplome, học hai năm lấy bằng tú tài I, rồi năm sau học thi tú tài toàn phần tức tú tài bản xứ. Còn học Albert Sarraut thì 6 năm thi tú tài Pháp. Năm 1931 thi vào Albert Sarraut thì lớn tuổi. Vào trường Bưởi thì đủ tuổi.Ông học vượt hai năm, học ban văn chương,năm 1935 thi tú tài I, đỗ một mình trong khi có bảy người thi. Lúc bấy giờ trung học chưa phát triển đầy đủ, chỉ có hai ban Văn chương và khoa học. Văn chương thì học Pháp văn, Latin, Anh văn.Đóng học phí một tháng bảy đồng trong khi lương tri huyện 100 đồng, đóng ba tháng là 20 đồng.Anh văn thì ra đề luận tả cảnh mặt trời buổi chiều trên cầu Long Biên. Sử thì học sử La Mã. Ông Lê Công Đắc là người bị báo Phong Hoá chế riễu, ông chỉ đỗ tú tài I. Học sinh it thôi, tây 7, đầm 7, Việt 7, chỉ trượt một hai người , một Pháp, một Việt.
Sau học Philo. Bạn của ông có Nguyễn Hữu Tấn ngoại giao giỏi. Philo có hai lớp. Mỗi lớp 60. Toán một lớp khoảng 30,40. Một người gôố Do Thái tên là Brachet giỏi toán. Nguyễn Nhật Quang thì Pháp Anh xòang nhưng giỏi toán nên sang ban Toán.Sau ông Quang đỗ bình. Ông Lê Văn Tuấn làm chưởng lý. Vũ Văn Cẩn đỗ bác sĩ y khoa và Luật.
Vũ Hoàng Chương khi học tiểu học đã học làm thơ Đường luật, Hát nói, song thất lục bát. Lúc còn học Albert Sarraut, chưa đỗ tú tài (1935) đã làm thơ tình theo thơ mới. Có hai bài thơ làm trong khoảng 1935-1937:
-Ta đợi em từ 30 năm."(in 1940)
-Ta đã làm chi đời ta? (1941-1942)
Tình yêu lúc cô nàng còn bé. Tình yêu ngẫu nhiên mà đến , ông không phải là một người dạy kèm ( précepteur).Lúc đó ông đang học, khoảng 1933 còn ba năm mới thi tú tài, thi sĩ 18 tuổi còn cô kia 12 tuổi. Ông ở trọ ở trên gác, còn gia đình cô ở dưới gác. Cả hai gia đình quen biết nhau.Cô ta sau thi tiểu học, còn cậu em là bạn của Vũ. Cả hai chị em sau đỗ Brevet. Năm sáu năm sau, gia đình cô ta là tiểu công chức, bà cụ buôn bán, cô ta đi lấy chồng, nhà giàu. lên. Chồng chết, bà ta ở một mình, con trai là luật sư, sau bà và con trai sang Pháp.
Sau đó20 năm là những mối tình khác: Kiều Thu, Tố Uyển và Tố Loan.
Lúc bấy giờ phong trào thơ mới phát triển. Thơ Đường, Hát nói có khuôn khổ nhất định. Lục bát thì không ai dám nghĩ. Nhiều bài thơ ý tưởng tây phương quá, mạnh quá. như bài "Hổ nhớ Rừng", Tiếng địch sông Ô". Nguyễn Nhược Pháp nhỏ hơn một tuổi, không cùng học ban Văn chương. Thơ mới có tính cách thành thị.
Ban đầu đa số theo Đường luật nhưng rồi bứt ra khỏi Đường luật. Sau 1940, người ta mới trở lại với nghệ thuật Đông phương. Thơ mới lúc này chịu ảnh hưởng Đường luật rất nhiều nhất là về nhịp điệu. Những bài thơ trong Rừng Phong (1954) mới in, nhưng Bài ca bình Bắc, Đời Vắng Em Rồi thì đã viết trước 1945.
*
No comments:
Post a Comment