CA DAO MỚI
CA DAO
Việt nam có một ông già
Râu dài, tóc bạc tên là Chí Minh
Ông hay uống rượu một mình
Khi buồn lại rủ Trường Chinh uống cùng
Say sưa ông nói lung tung:
Việt Nam mình sẽ sánh cùng năm châu
- Này ông, chuyện ấy còn lâu!!!
Câu
ca dao nêu trên có lẽ được sáng tác và lưu hành tại miền Bắc từ
ngày ông Hồ Chí Minh còn có thể ngồi lai rai uống rượu và ăn nói
lung tung, tức là trước cái ngày ông được nhân dân ca tụng bằng hai
câu ca dao khác cũng chẳng kém mùi “phản động”: “bác Hồ ta thật vẻ vang, đang từ khỏe mạnh chuyển sang… từ trần”.
Phải
công nhận tác giả câu ca dao tả bác uống rượu, và cả những người
góp phần khẩu truyền câu ca dao, quả là trông xa thấy rộng. Ngay từ
bốn, năm thập niên trước, khi đảng cộng sản Việt Nam nói riêng và
cộng sản quốc tế nói chung đang làm mưa làm gió trên quả địa cầu,
những người dân ấy đã đủ sáng suốt để vỗ vai bác, dù là vỗ vai bằng chữ
nghĩa, mà bảo bác rằng “Này ông, chuyện ấy còn lâu!”.
Quả
thật, cho đến hôm nay, dưới sự lãnh đạo của cộng sản, chuyện Việt
Nam có thể sánh vai cùng cộng đồng nhân loại vẫn còn lâu, lâu lắm.
Trong suốt hơn nửa thế kỷ kể từ ngày cai trị miền Bắc và ba thập
niên từ lúc cưỡng chiếm miền Nam, cộng sản Việt Nam đã gieo rắc muôn
vàn tang thương cho dân tộc. Biết bao tiếng kêu đau đớn và phẫn uất của
nhân dân đã vang lên trong suốt chiều dài lịch sử này. Trong số ấy,
nhiều tiếng kêu đã cô đọng thành những câu ca dao thật độc đáo.
Tự
ngàn xưa, cổ nhân đã nhận định là muốn tìm hiểu bản chất một chế độ
thì chỉ cần xét tinh thần của người dân sống trong chế độ. Tuy
nhiên, làm thế nào để biết được tinh thần người dân? Để trả lời câu
hỏi, các cụ dậy rằng “dễ lắm, tinh thần người dân luôn luôn được phản
ảnh qua thơ và nhạc lưu truyền trong dân gian”. Cũng vì vậy mà cụ
Khổng đã bảo “thanh âm chí đạo dữ chính thông hỹ”, tức là “đạo thanh
âm tương thông với chính trị”, và cụ nói rõ rằng “thơ nhạc gốc ở
tình cảm, mà tình cảm gốc ở chính trị”. Từ quan niệm này, cụ đã san
định Kinh Thi, gồm hơn ba trăm bài thơ mà đa số là những bài thơ
“quốc phong”, tức thơ của dân gian, về đời vua Văn nhà Chu (1186 đến
1135 trước Tây Lịch) để mô tả xu hướng chính trị và luân lý của xã
hội thời bấy giờ.
Hôm
nay, 30 năm sau ngày miền Nam đổi chủ, bắt chước cổ nhân, người
viết xin dùng những câu ca dao được lưu truyền tại Việt Nam kể từ
biến cố tháng tư năm 75 để minh họa bức tranh xã hội chủ nghĩa và
tâm trạng người dân trong suốt 30 năm qua. Trong số những câu ca dao
này, có những câu ta thán đầy thê lương ảo não, có những câu trào
phúng “bề ngoài cười nụ, bề trong khóc thầm”, có những câu châm biếm
chua cay, và có cả những tiếng mắng chửi vô cùng hằn học. Có thể
nói tất cả những câu ca dao ấy là một hình thức phản kháng, một thứ
vũ khí đấu tranh của người dân thấp cổ bé miệng trước sự áp bức của
bạo quyền.
Cũng
xin nói thêm, người viết rời quê hương trong ngày cuối cùng của
cuộc chiến và cho đến hôm nay, sau 30 năm tỵ nạn nơi đất khách, vẫn
chưa về thăm lại quê nhà để đi “thực tế” (mượn tạm ngôn từ của cộng
sản) một chuyến. Vì vậy, những câu ca dao trích dẫn trong bài là
những câu hoặc đã sưu tầm được trên sách báo và trên mạng lưới điện
toán, hoặc do những người đã từng sống nhiều năm với cộng sản kể lại
khi đến định cư tại xứ người, hoặc do các thân hữu về thăm Việt Nam
mang sang làm “quà lưu niệm”.
Đến
hôm nay, có lẽ những người di tản đợt đầu tiên từ gần 30 năm trước
vẫn còn nhớ đôi câu thơ phát xuất tại miền Nam sau ngày Sài Gòn đổi
chủ. Vâng, chúng ta đã nghe nhắc đến đôi câu ấy trong những năm
tháng đầu xa quê hương. Nghe mà dạ bùi ngùi. Nghe mà lòng chua xót:
Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do
Câu
thơ đánh dấu sư kiện, tại Sài Gòn, nhà cầm quyền cộng sản đổi tên
đường Công Lý thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa và đường Tự Do thành Đồng
Khởi. Ở một ý nghĩa khác, công lý đã chết tức tưởi và tự do thì đã
vội vã ra đi.
Và đôi câu khác cũng được phổ biến khá rộng rãi trên mọi miền đất nước, từ sông Bến Hải đến tận mũi Cà Mau:
Dép râu dẫm nát đời son trẻ
Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai
Đau đớn thay:
Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội
Việt Cộng về thành làm tội dân ta
Ba
mươi năm bị làm tội làm tình, quãng thời gian dài gấp đôi đoạn
đường luân lạc của Thúy Kiều thuở trước. Từ ngày ấy đến hôm nay, bao
nhiêu hàng nước mắt đã lăn dài trên gò má người dân cùng khổ.
Đổi tiền và học tập cải tạo
Một
thời gian ngắn sau khi tống giam hàng trăm ngàn quân nhân công chức
chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào cái gọi là trại cải tạo, nhà cầm quyền đã
ban lệnh đổi tiền để tước đoạt tài sản người dân miền Nam. Có lẽ
những người dân miền Nam từng sống dưới chế độ cộng sản còn nhớ là
chỉ trong vòng 10 năm kể từ ngày chiếm miền Nam, cộng sản đã ba lần
đổi tiền. Lần thứ nhất vào ngày 2 tháng 9 năm 1975 theo tỷ giá quy
định là 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa đổi lấy một đồng Giải Phóng, có
nghĩa là năm đồng tiền cũ đổi lấy một xu tiền mới. Thêm nữa, mỗi hộ,
tức mỗi gia đình, chỉ được đổi tối đa 200 đồng tiền mới, tức
100.000 đồng tiền cũ bất kể hộ có bao nhiêu nhân khẩu. Có nhiều
người, ngay sau khi đổi tiền, cầm những tờ giấy bạc mới đứng khóc nức
nở, khóc mùi mẫn nơi vệ đường.
Vì vậy, người dân có câu ca dao:
Năm đồng đổi lấy một xu
Thằng khôn đi học, thằng ngu làm thày
“Đi học” ở đây tức là bị học tập cải tạo còn “thày” tức cán bộ cộng sản phụ trách giảng dậy tại các trại cải tạo.
Cả nước thiếu ăn
Sau
khi chiếm miền Nam, cộng sản xóa bỏ quyền tư hữu, áp đặt chế độ bao
cấp như tại miền Bắc và phát tem phiếu để người dân xếp hàng mua nhu
yếu phẩm tại mậu dịch, mà nhu yếu phẩm thì lúc có lúc không. Lúc bấy
giờ dân miền Nam mới thấm thía hai câu nhại Kiều của người miền Bắc
từ đầu thập niên 60:
Bắt phanh trần phải phanh trần
Cho may ô mới được phần may ô
(nguyên văn: “bắt phong trần phải phong trần,
cho thanh cao mới được phần thanh cao“).
và
Từ khi ta có Bác Hồ
Nhân dân chẳng được ăn no ngày nào
Vài
tháng sau, vật giá gia tăng một mức khủng khiếp. Rau muống là thức
ăn chính của người dân. Có câu ca dao chơi chữ khá độc đáo mô tả tình
trạng này:
Lương chồng, lương vợ, lương con
Đi ba buổi chợ chỉ còn lương tâm
Lương tâm đem chặt ra hầm
Với rau muống luộc khen thầm là ngon
Vài
tháng sau nữa, lạm phát trở thành “siêu phi mã”. Lương tháng trung
bình một công nhân viên khoảng 60 đồng tiền mới, chỉ mua được 30 bó
rau muống. Người dân bèn réo tên ba lãnh tụ cao cấp nhất của đảng:
Anh Đồng, anh Duẩn, anh Chinh
Ba anh có biết dân tình cho không?
Rau muống nửa bó một đồng
Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân
Rồi
dân không còn đủ gạo để ăn với rau muống vì nhà cầm quyền thu gom
gạo để trả nợ chiến tranh. Ngoại trừ những cán bộ trung cấp và cao cấp
trong đảng, gần như cả nước đã phải nhai sắn thay cơm:
Ai sinh ra cái củ mì?
Hỏi : Để làm gì? Đáp : Để mà ăn!
Nước nhà mãi mãi khó khăn
Dân mình mãi mãi phải ăn củ mì
Ăn
sắn, ăn mì, và đi dự các buổi học tập tại địa phương để hoan hô
đảng và đả đảo Mỹ Ngụy là thời biểu bó buộc của người dân miền Nam lúc
ấy:
Dân đói mà đảng thì no
Sức đâu ủng hộ, hoan hô suốt ngày
Đảng béo mà dân thì gầy
Độn bắp, độn sắn biết ngày nào thôi?
Chỉ
đôi ba năm sau, ngô sắn cũng dần cạn, nhà cầm quyền cầu viện các
đàn anh Đông Âu và được đàn anh viện trợ hữu nghị cho một món thực phẩm
họ thường dùng cho ngựa ăn. Đó là bo bo, thứ thực phẩm được nhà nước
cường điệu gọi là "cao lương". Trong suốt một thời gian dài cả nước
vêu mồm ra mà thi nhau nhai thứ cao lương này. Dù có ninh kỹ và
nhai kỹ đến đâu thì bo bo vẫn là thứ hạt bao tử con người không thể
tiêu hóa nổi, ăn thế nào thì ra thế nấy. Bởi vậy người dân có ca dao
rằng:
Hoan hô độc lập tự do
Để cho tớ nhá bo bo sái hàm
và:
Nhân dân thì chẳng cần lo
Nhà nước lo sẵn bo bo mỗi ngày
Hãy chăm tay cấy tay cầy
Nhịn ăn nhịn mặc chờ ngày vinh quang
Khi
truyền miệng câu ca dao nêu trên, người dân miền Nam hóm hỉnh đọc
trại chữ "l" thành "n" để chế nhạo các cán bộ miền Bắc phát âm sai hai
chữ này. Vì vậy câu ca dao bỗng dưng mang một ý nghĩa khá khôi hài:
Nhân dân thì chẳng cần "no"
Nhà nước "no" sẵn bo bo mỗi ngày
Mùa
hè năm 1980, nhằm mục đích tuyên truyền, cộng sản Việt Nam đã khẩn
cầu Liên Xô cho Phạm Tuân làm “lơ” phi thuyền, tháp tùng phi hành gia
Victor Gorbatco trong chuyến bay vào vũ trụ trên con tầu Liên Hợp. Lúc
bấy giờ đang đói vêu vì thiếu ăn, nhân dân bèn có câu:
Một thằng lên vũ trụ
Trăm thằng đi Mút Cu (Moscow)
Nghìn thằng chè chén lu bù
Để dân bảy mươi triệu đói thò cu ra ngoài
Có người tức quá nên hoạnh họe:
Nhân dân thiếu gạo thiếu mì
Mày vào vũ trụ làm gì hở Tuân???
Và người khác thực tế hơn:
Ai lên vũ trụ thì lên
Còn tôi ở lại ghi tên mua mì
Thiếu mặc
Tình
hình miền Nam trong những năm đầu tiên bị chiếm đóng thật thê thảm.
Người dân đã không đủ ăn thì làm sao đủ mặc. Mỗi năm, một người chỉ
được mua vài thước vải xấu theo giá chính thức từ mậu dịch. Bởi vậy,
dân gian có câu ca dao cười ra nước mắt:
Một năm hai thước vải thô
Nếu đem may áo cụ Hồ ló ra
May áo thì hở lá đa
Chị em thiếu vải hóa ra lõa lồ
Vội đem cất ảnh bác Hồ
Sợ rằng bác thấy tô hô bác thèm
và:
Có áo mà chẳng có quần
Lấy gì hạnh phúc hỡi dân cụ Hồ?
Có đói mà chẳng có no
Lấy gì độc lập, tự do hỡi người?
Thiếu đủ thứ
Trong
chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không những người dân thiếu ăn
thiếu mặc mà là thiếu đủ thứ, từ các nhu yếu phẩm cho đến tự do và
hạnh phúc:
Ở với Hồ Chí Minh
Cây đinh phải đăng ký
Trái bí cũng sắp hàng
Khoai lang cần tem phiếu
Thuốc điếu phải mua bông
Lấy chồng nên cai đẻ
Bán lẻ chạy công an
Lang thang đi cải tạo
Hết gạo ăn bo bo
Học trò không có tập
Độc Lập với Tự Do
Nằm co mà Hạnh Phúc!
Tuy
đã biến cả nước thành một nhà tù khổng lồ, đảng vẫn hạn chế sự đi
lại của người dân. Muốn đi từ tỉnh này sang tỉnh khác, người dân phải
xin giấy phép của chính quyền địa phương:
Mang danh Dân Chủ Cộng Hòa
Đi ra khỏi tỉnh phải qua cửa quyền
Xuất trình giấy phép liên miên
Chứng từ thị thực ở miền nào qua
Tình trạng này đã phát sinh một bài ca dao trào phúng, được phổ biến trên khắp các miền đất nước:
Trăm năm trong cõi người ta
Ở đâu cũng được đi ra đi vào
Xa xôi như xứ Bồ Đào
Người ta cũng được đi vào đi ra
Đen đủi như Ăng Gô La
Người ta cũng được đi ra đi vào
Chậm tiến như ở nước Lào
Người ta cũng được đi vào đi ra
Chỉ riêng có ở nước ta
Người ta không được đi ra đi vào
Trong
những nạn nhân của chế độ, có cả những cựu cán binh cộng sản đã hưu
trí, đặc biệt là những cán bộ tập kết miền Nam. Đó là những múi chanh
đã bị đảng vắt hết nước. Vì vậy, văn học dân gian có câu:
Đầu đường đại tá vá xe
Cuối đường trung tá bán chè đậu đen
Giữa đường thiếu tá rao kem
Có những người còn ở trong hoàn cảnh nghiệt ngã hơn:
Ngày xưa chống Mỹ chống Tây
Ngày nay chống gậy ăn mày áo cơm
Kinh tế mới và thanh niên xung phong
Với
sự hiểu biết thiển cận về kinh tế cộng thêm một ý thức hệ bệnh
hoạn, năm 1976, các lãnh tụ của đảng cho thành lập những khu kinh tế mới
tại những vùng rừng thiêng nước độc. Chỉ nội trong một năm, nhà cầm
quyền đã đày khoảng 1,4 triệu người dân miền Nam đến sinh sống tại
những khu hoang vu này, trong số đó có 700.000 dân Sài Gòn, hầu hết
thuộc gia đình quân nhân, công chức chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Bài ca
dao dưới đây thuật lại hoàn cảnh đau lòng của những người bị lưu
đày lúc bấy giờ:
Đuổi dân ra khỏi cửa nhà
Bắt đi kinh tế thật là xót xa
Không sao sống được cho qua
Nên đành lại phải trở ra Sài Gòn
Chẳng ai giúp đỡ chăm nom
Cùng nhau vất vưởng, lom khom vỉa hè
Màn sương chiếu đất phủ che
Sinh ra bệnh tật khò khè ốm đau
Nhưng mà có sống được đâu
Bộ đội kéo đến hàng xâu xúc liền
Chúng đem bỏ tại Tam Biên
Rừng sâu núi thẳm oan khiên buộc vào
Sáu ngàn nhân mạng năm nào
Thảy đều chết đói, biết bao nhục hình
Tháng
3 năm 1976, nhà cầm quyền phát động phong trào thanh niên xung
phong để cưỡng ép sinh viên học sinh về miền quê công tác, chủ yếu là
đào kinh. Có một câu ca dao khá ngộ nghĩnh, được truyền bá trong các
đoàn thanh niên xung phong miền Nam lúc bấy giờ. Câu ca dao tuy
mắng mỏ tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhưng gói ghém sự tiếc nuối
những ngày tháng cũ:
Mồ cha thằng Thiệu rời dinh
Để tao ở lại đào kinh mỗi ngày
Chuyện dài Hợp Tác Xã
Với
chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa, cộng sản đã truất quyền tư hữu
đất đai và các phương tiện sản xuất khỏi tay nông dân qua hình thức hợp
tác xã tập thể. Qua hình thức này, nhà nước kiểm soát việc phân
phối thực phẩm bằng cách thu mua và ấn định thuế khóa.
Câu chuyện nêu sau biểu lộ sự vô trách nhiệm của giới lãnh đạo đảng:
Vào
thập niên 1990, nhà nước thúc dục người dân, nhất là dân miền
Trung, bỏ trồng lúa để trồng mía làm đường. Tuy nhiên, sau khi ông
Fidel Castro đến thăm Việt Nam, các nhà lãnh đạo đảng hứa giúp Cuba
bằng cách nhập khẩu đường mía nước này vào thị trường Việt Nam. Sau đó,
nhà nước thực hiện lời hứa, nhập khẩu đường Cuba suốt mấy năm liền.
Hậu quả là nông dân trồng mía bị sạt nghiệp vì số mía thu hoạch phải
bán tống bán tháo hoặc vứt bỏ. Vì vậy, người dân phẫn uất truyền
miệng bài ca dao sau:
Bắt trồng mà chẳng thu mua
Tại sao đảng nỡ dối lừa nhân dân?
Tiền cầy, tiền giống, tiền phân
Một trăm thứ thuế đổ thân gầy gò
Dân đói mà đảng thì no
Kêu trời, kêu đất, kêu Hồ chí Minh!
Không những chỉ bị lỗ nặng vì trồng mía, người nông dân còn bị lao đao nhiều lần khác vì phải nghe lời nhà nước:
Trồng mía, trồng ớt, trồng hành
Vì nghe lời đảng mà thành bể niêu
Trồng tiêu rồi lại trồng điều
Vì nghe lời đảng mà niêu tan tành
Năm
1992, trong một bài viết tố cáo những sai lầm của cộng sản Việt
Nam, thượng tọa Thích Quảng Độ thuật lại một câu chuyện thú vị ngài
đã chứng kiến trong thời gian 10 năm bị quản thúc tại xã Vũ Đoài,
tỉnh Thái Bình, từ 1982 đến 1992. Lúc bấy giờ, các cụ già tại địa
phương này bị xung vào đội trồng cây của hợp tác xã để trồng cây lấy
điểm, cứ trồng năm cây thì được một điểm, đủ để đổi lấy một lạng
thóc. Khổ nỗi các cụ tuổi cao, sức kém, đã trồng không kỹ lại thiếu
chăm sóc vì “cha chung không ai khóc”, nên cây trồng chỉ vài tuần
sau là úa héo. Các em bé chăn trâu cho hợp tác xã mới làm vè trêu
các cụ:
Hoan hô các cụ trồng cây
Mười cây chết chín, một cây gật gù
Nghe các cháu trêu, các cụ bèn phản pháo lại:
Các cháu có mắt như mù
Mười cây chết tiệt, gật gù ở đâu?
Chỉ một thời gian ngắn sau, hai câu đối đáp hài hước nêu trên đã trở thành ca dao thời đại mới.
Ấy
thế mà cứ vài ba tháng, đảng lại phát động chiến dịch thi đua cho
các hợp tác xã và thúc dục người dân làm việc bằng hai bằng ba theo lời
khuyên của ông Hồ từ những ngày còn chiến tranh. Người dân bực quá
nên có câu:
Thi đua làm việc bằng hai
Để cho cán bộ mua đài mua xe
Thi đua làm việc bằng ba
Để cho cán bộ xây nhà lát sân
Có người còn nhạo báng:
Thi đua ta quyết tiến lên
Tiến lên ta quyết tiến lên hàng đầu
Hàng đầu... rồi... tiến... về... đâu?
Nhiều phụ nữ đã từng trải qua lắm gian nan, khổ cực với hợp tác xã mà chẳng “ăn cái giải rút gì”, tức quá bèn văng tục:
Đi làm hợp tác hợp te
Không đủ miếng giẻ mà che cái l..
Xã hội bất công
Điều
nghịch lý là trong xã hội chủ nghĩa, một mặt đảng tuyên bố đấu
tranh cho công bằng xã hội thì mặt khác, các nhà lãnh đạo lại tự cho
mình hưởng những quyền lợi đặc biệt. Tại Hà Nội, người dân chua
chát truyền khẩu những câu ca dao sau:
Tôn Đản là chợ vua, quan
Vân Hồ là chợ những gian, nịnh thần
Đồng Xuân là chợ thương nhân
Vỉa hè là chợ "nhân dân anh hùng"
Lãnh đạo giả dối
Có
thể nói, trong hơn 50 năm qua, cộng sản Việt Nam cai trị đất nước
bằng các thủ đoạn lừa bịp và dối trá. Trong một bài viết với nhan đề
Nhật Ký Rồng Rắn được phổ biến ra hải ngoại đầu năm 2001, ông Trần
Độ, cựu trung tướng quân đội Nhân Dân của cộng sản, đã tố cáo thủ
đoạn này qua những lời lẽ sau:
“Nói
thì ‘dân chủ, vì dân’ mà làm thì chuyên chính phát xít. Cái đặc
điểm đó cũng có nghĩa là nói dối, nói láo, lừa bịp, trò hề, ‘nói vậy
mà không phải vậy’.
Suốt
ngày đóng trò, cả năm đóng trò. Ở đâu cũng thấy các vai hề, ở đâu
cũng thấy các trò lừa bịp. Suốt ngày đêm, suốt năm tháng cũng lúc
nào cũng chỉ nghe thấy những lời nói dối, nói lừa.
Chế độ này bắt mọi người phải đóng trò, bắt tất cả trẻ con phải đóng trò, bắt nhiều người già phải đóng trò
Đặc điểm này đã góp phần quyết định vào việc tạo ra và hình thành một xã hội dối lừa: lãnh đạo dối lừa, đảng dối lừa”.
Tại Việt Nam, một trong những cơ quan mang tiếng nhất về chuyện có nói thành không, không nói ra có là nha khí tượng:
Bảo nắng mà trời lại mưa
Mấy thằng khí tượng đoán bừa hại tao
Trời làm một trận mưa rào
Mấy thằng khí tượng làm tao ướt rồi
Ấy
thế mà theo người dân, nghệ thuật nói khoác của nha khí tượng còn
kém xa những lãnh tụ cộng sản. Dưới triều đại Lê Duẩn, người có bí danh
“Anh Ba”, thì kẻ đoạt quán quân về nói khoác lại chính là đồng chí
tổng bí thư. Vì vậy, dân gian phát sinh ra câu ví von:
Thứ nhất anh Ba, nhì Nha Khí Tượng
Câu ca dao thời đại sau đây đã nói lên bản chất dối trá và hợm hĩnh của đảng:
Mất mùa là bởi thiên tai
Được mùa là bởi thiên tài đảng ta
Bỏ nước ra đi
Có
thể nói người Việt Nam là người vô cùng quyến luyến với quê cha đất
tổ. Tuy nhiên, khi miền Nam bị đặt dưới sự cai trị của cộng sản,
hàng triệu người dân đã buộc lòng phải bỏ nước ra đi. Chồng lìa vợ,
con xa mẹ xa cha. Trong những năm tháng ấy, kể sao cho xiết những
đau đớn của sinh ly, của “lệ rơi thấm đá”.
Thuở trước, kho tàng ca dao của dân tộc có câu:
Có con mà gả chồng gần
Có bát canh cần nó cũng mang qua
Có con mà gả chồng xa
Một là mất giỗ, hai là mất con
Khi
phong trào vượt biên bùng nổ vào cuối thập niên 1970, dân miền Nam
đã cải biên bài ca dao nêu trên thành những câu thật dí dỏm:
Có con mà gả chồng gần
Nửa đêm xe đạp mang phần cho cha
Có con mà gả chồng xa
Tháng tháng nó gửi đô la kìn kìn
Lúc
bấy giờ, người dân bảo nhau câu “cái cột đèn nếu nó biết đi, nó
cũng vượt biên, chứ đừng nói con người”. Đâu đâu, người ta cũng bàn
về chuyện vượt biên. Ngay cả những cặp tình nhân, hôm nay còn gặp
nhau, nhưng ngày mai có thể sẽ ngàn trùng cách biệt. Có một câu ca
dao khá văn chương diễn tả tâm trạng của những kẻ yêu nhau thuở ấy:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Canh khuya thao thức mạn thuyền
Biết người quân tử vượt biên chốn nào?
Đất
nước tang thương, kẻ ở người đi, lòng người ly tán, tất cả tội lỗi
dĩ nhiên phát xuất từ bác Hồ, như câu ca dao thời đại:
Bác Hồ chết phải giờ trùng
Nên bầy con cháu dở khùng dở điên
Thằng tỉnh thì đã vượt biên
Những đứa ở lại chẳng điên cũng khùng
Đổi mới
Trước
cảnh suy thoái trầm trọng sau nhiều năm rập khuôn một cách máy móc
mô hình xã hội chủ nghĩa theo Liên Xô; nên để sống còn, đại hội VI của
đảng năm 1986 phải đưa ra chính sách đổi mới, bãi bỏ chế độ bao cấp,
và chấp nhận một nền kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế thì hô hào
đổi mới nhưng chính trị thì dĩ nhiên vẫn là chuyện độc quyền của
đảng. Cụm từ “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
bỗng một sớm một chiều được phát sinh.
Lúc
bấy giờ Đỗ Mười là tổng bí thư đảng, Lê Đức Anh là chủ tịch nước,
còn Võ Văn Kiệt là thủ tướng. Vì vậy, người dân kháo nhau rằng:
Ông Anh, ông Kiệt, ông Mười
Dở khóc, dở cười biết chọn ông nao?
Ông nào, ông nảo, ông nao
Một đồng một cốt làm sao bây giờ?
"Cửa mở", phải có giấy tờ
"Đổi mới" nhìn lại vẫn thờ mấy ông
Đèn cù cứ chạy lòng vòng
Dân chủ cái còng, độc lập đói ăn
Hạnh phúc chú cuội cung trăng!
Tham nhũng
Trong
lịch sử nhân loại, độc tài về chính trị bao giờ cũng sinh ra tham
nhũng. Trước kia niềm mơ ước của một công dân xã hội chủ nghĩa là làm
thế nào để đạt được 4Đ, tức là được vào “đảng”, để có thể ký cóp những
khoản hối lộ cỏn con mà tậu một chiếc xe “đạp”, một cái “đài”
(radio), và một ”đồng hồ” đeo tay (đảng, đạp, đài, đồng). Tuy nhiên,
chỉ vài năm sau đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa dẫn đến sự tham nhũng công khai khiến các đảng viên đang
nắm quyền trở thành giới tư bản đỏ với tài sản lên đến hàng triệu mỹ
kim. Vì vậy, dân mình có những câu ca dao:
Công nhân, vợ ốm con côi
Lãnh đạo nhà gác, xe hơi bộn bề
Bao giờ cho hết trò hề?
và:
Nhà ai giàu bằng nhà cán bộ?
Hộ nào sang bằng hộ đảng viên?
Dân tình thất đảo bát điên
Đảng viên mặc sức vung tiền vui chơi
Tuy
sở hữu những tài sản kếch sù trong lúc quần chúng còn thiếu cơm
thiếu áo, các đảng viên cầm quyền vẫn tiếp tục lải nhải điệp khúc “nhân
dân là chủ, đảng là đầy tớ”. Nghe câu ví con này, các “ông chủ” bèn
sôi máu lên mà sáng tác bốn câu ca dao sau:
Ai về qua tỉnh Nam Hà
Xem lũ đầy tớ xây nhà bê tông.
Tớ ơi, mày có biết không?
Chúng ông làm chủ mà không bằng mày!
Trước
đổi mới, các “ngài đầy tớ” thường chỉ nhận một “thù lao” (hối lộ)
khá khiêm nhượng từ những “ông chủ” (rất nghèo). Chẳng hạn như đối với
các cán bộ điện lực, điều kiện để các ông mắc điện cho các gia đình ở
nông thôn nhiều khi chỉ là một buổi tiệc nhậu có thịt gà thịt lợn:
Muốn cho điện sáng về nhà
Ruột lợn ruột gà phải nối đến nơi
Tuy
nhiên, sau đổi mới, các đảng viên cầm quyền khôn ra, chỉ nhận hối
lộ bằng các phong bì nhè nhẹ. Bởi vậy dân gian có ca dao rằng:
Phong lan, phong chức, phong bì
Trong ba thứ ấy, thứ gì quý hơn?
Phong lan ngắm mãi cũng buồn
Phong chức thì phải cúi luồn vào ra
Chỉ còn cái phong thứ ba
Mở ra thơm nức, cả nhà cùng vui
Đối
với các ông thanh tra của đảng, mỗi khi đến làm việc ở cơ quan hoặc
địa phương nào mà được trao tay một chiếc phong bì thì các ông sẽ
biến mọi thứ tiêu cực thành tích cực ngay. Chứng kiến tệ trạng này,
người dân bèn sáng tác hai câu ca dao với cách chơi chữ cả Việt lẫn
Anh đầy nghệ thuật:
Thanh “cha”, thanh mẹ, thanh gì?
Hễ có phong bì thì nó “thanh kiu” (thank you)
Năm
1996, một tờ báo phát hành tại Đà Nẵng đã “in chui” được hai câu ca
dao sau đây để nói lên bản chất đảng cộng sản trong thời kỳ đổi
mới:
Đảng ta là đảng thần tiên
Đa lô thì được, đa nguyên thì đừng.
Khi nói lái, “thần tiên” là “thân tiền” và “đa lô” thành “đô la”. Quả là hai câu độc đáo.
Hiện
nay, nấc thang giá trị trong xã hội Việt Nam được định đoạt bởi
đồng tiền như bài vè được lưu truyền trong dân gian từ nhiều năm
qua:
Tiền là Tiên là Phật
Là sức bật con ngưòi
Là nụ cười tuổi trẻ
Là sức khỏe ngưới già
Là cái đà danh vọng
Là cái lọng che thân
Là cán cân công lý
Đồng tiền là… hết ý!
Một
chuyện khá khôi hài nói lên tính tráo trở của người cộng sản là
trước kia, nhà cầm quyền kết án người vượt biên là Việt gian, là phản
bội tổ quốc. Dân vượt biên bị bắt là bị tống vào nhà giam, hoặc bị
đầy vào trại cải tạo. Thậm chí, có người còn bị công an xử bắn ngay
tại nơi bị bắt. Tuy nhiên, sau đổi mới, đảng đã tha thiết mời gọi
Việt kiều về du lịch và bỏ vốn đầu tư tại Việt Nam. Không những thế,
đảng còn ví von đồng bào hải ngoại là khúc ruột ngoài ngàn dặm của
tổ quốc. Trước sự đổi trắng thay đen này, dân gian bèn có câu:
Ngày đi, đảng gọi “Việt gian”
Ngày về thì đảng chuyển sang “Việt kiều”
Chưa đi: phản động trăm chiều
Đi rồi: thành khúc ruột yêu ngàn trùng
Song song với việc chiêu dụ Việt kiều, đảng ngày càng tỏ thái đô
lấy lòng Hoa Kỳ để được hưởng lợi lộc kinh tế. Tháng 11 năm 2000, khi
nhà nước đang tất bật “lo ngày không đủ tranh thủ lo đêm” để “chiêu
đãi” tổng thống Clinton và phái đoàn Hoa Kỳ trong chuyến viếng thăm
Việt Nam thì người dân rỉ tai nhau rằng:
Ngày xưa chửi Mỹ hơn người
Ngày nay nịnh Mỹ chẳng ai bằng mình
Xã hội xuống cấp
Có
thể nói sách lược kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa đã soi mòn truyền thống đạo đức của dân tộc một cách trầm
trọng. Năm 1996, bà Nguyễn Thị Hằng, thứ trưởng bộ Lao Động, Thương
Binh và Xã Hội cho biết cả nước có ít nhất 76.900 gái mại dâm. Tuy
nhiên, cũng trong năm ấy, theo lời một viên chức cao cấp trong đảng tiết
lộ với báo chí ngoại quốc thì chỉ riêng tại Sài Gòn đã có khoảng
300.000 phụ nữ hành nghề không vốn này, vượt xa số thống kê chính
thức của giới cầm quyền. Đến nay, đã gần 9 năm trôi qua, số gái mại
dâm tại Việt Nam có lẽ còn tăng cao nhiều hơn nữa?
Trong
những năm qua, ca dao tân thời của xã hội chủ nghĩa không hiếm
những câu tương tự như câu tả cảnh bến Ninh Kiều ở Cần Thơ như sau:
Chiều chiều trên bến Ninh Kiều
Dưới chân tượng bác, đĩ nhiều hơn dân
Nếu
trước năm 1975 tại miền Nam chỉ có một loại dịch vụ “ôm” là bia ôm
xuất hiện lác đác một cách bất hợp pháp tại một vài thành phố lớn, thì
hiện nay nhan nhản trên khắp các nẻo đường đất nước, ngoài bia ôm,
người dân có thể thưởng thức đủ thứ dịch vụ “ôm” hợp với túi tiền
từng người như cà phê ôm, chè ôm, cháo ôm, phở ôm, sổ xố ôm, hớt tóc
ôm, tắm ôm, xem video ôm, ngủ ôm, câu cá ôm, v.v. Thậm chí có nhiều
tiệm may còn tặng thêm món hàng đo quần áo ôm cho các đấng mày râu.
Tuy
nhiên, bia ôm vẫn là dịch vụ phổ biến nhất, như câu ca dao nêu sau,
nghe đồn được phát xuất từ một quán bia ôm gần Văn Miếu ở Hà Nội,
nơi đặt những tấm bia đá khắc tên các ông nghè, tức tiến sĩ thuở
xưa:
Trăm năm bia đá cũng mòn
Bia chai cũng vỡ, chỉ còn bia ôm
Nền
giáo dục thì xuống cấp một cách thê thảm. Đây là điều hiển nhiên vì
nhà giáo là những người bị hất hủi đến cùng cực trong cái gọi là xã hội
chủ nghĩa:
Thày giáo lãnh lương ba đồng
Làm sao sống nổi mà không đi thồ
Nhiều thày phải đạp xích lô
Làm sao xây dựng tiền đồ học sinh
và thê thảm hơn:
Cô giáo phải bán bia ôm
Ôm phải học trò, ăn nói sao đây?
Điều
đau xót và tủi nhục nhất của dân tộc trong những năm gần đây là
dưới sự cai trị của những bộ óc “ưu việt, đỉnh cao trí tuệ”, nhiều phụ
nữ miền Nam phải chấp thuận lấy người ngoại quốc, hầu hết là người
Đài Loan và Nam Hàn, để có thể thoát cảnh đói nghèo. Tại xứ người,
đa số bị đối xử như những nô lệ tình dục. Chứng kiến cảnh đau lòng
này, các chàng trai đất Việt đành bùi ngùi than thở:
Tiếc thay cây quế còn soan
Để cho đám mọi Đài Loan nó trèo
và:
Tìm em như thể tìm chim
Chim bay biển Bắc, anh tìm biển Đông
Tìm chi cho phải mất công
Đài Loan, Hàn Quốc em dông mất rồi
Châm biếm và chỉ trích lãnh tụ
Là
nạn nhân của sự cai trị bạo tàn, người dân, nhất là dân miền Nam,
đã phải cậy đến một thứ khí giới đặc biệt để chống lại kẻ mạnh là thi ca
trào phúng. Trong suốt 30 năm, nhiều lãnh tụ cộng sản đã trở thành
đối tượng để nhân dân “xả xú bắp” bằng ca dao châm biếm. Trong những
ông này, ngoại trừ ông Hồ, ba ông bị nhắc đến nhiều nhất là tổng bí
thư Lê Duẩn, chủ tịch quốc hội Trường Chinh, và thủ tướng Phạm Văn
Đồng, tức những người lãnh đạo cao nhất của đảng trong 10 năm đầu
tiên kể từ khi miền Nam thất thủ, thời kỳ bị xem là đen tối nhất của
lịch sử dân tộc cận đại.
Với ông Hồ, có khi ca dao là một bài châm biếm về khả năng lãnh đạo:
Trách ai sinh thứ họ Hồ
Để cho cả nước như đồ vất đi
Có khi là một bài mỉa mai về tư cách và đạo đức, như chuyện bác “ăn ốc” xong rồi bắt đàn em “đổ vỏ”:
Bác Hồ đại trí, đại hiền
Chơi Minh Khai chán, gá liền Hồng Phong
Minh Khai phận gái chữ tòng
Bác Hồ sái nhất, Hồng Phong sái nhì
Còn về ba ông Đồng, Duẩn, Chinh thì thoạt đầu là những lời tố cáo như:
Ông Đồng, ông Duẩn, ông Chinh
Vì ba ông ấy, dân mình lầm than
Rồi đến sự căm phẫn:
Trường Chinh, Lê Duẩn, Văn Đồng
Cả ba đồng lòng giết chết con tôi
Cuối cùng là niềm mơ ước:
Trường Chinh, Lê Duẩn, Văn Đồng
Ba thằng cùng béo, vặt lông thằng nào?
- Vặt lông cả đám cho tao!
Có
một chuyện khá khôi hài xẩy ra trong nội bộ đảng cộng sản vào
năm1983. Lúc bấy giờ đại tướng Võ Nguyên Giáp bị phe Lê Duẩn và Lê Đức
Thọ làm nhục, tước hết binh quyền và giao nhiệm vụ phụ trách “sinh
đẻ có kế hoạch”. Trước hoàn cảnh dở khóc dở cười của đại tướng,
người dân có câu ca dao chế diễu:
Ngày xưa đại tướng cầm quân
Ngay nay đại tướng cầm quần chị em
Còn những chị em… vui tính hơn thì khúc khích rỉ tai nhau mà bảo rằng:
Khi xưa trấn thủ lưu đồn
Bây giờ đại tướng bịt l.. chúng em
Cuối
tháng 6 năm 1991, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của đảng
bầu ông Đỗ Mười làm tổng bí thư và cử ra một ban chấp hành trung ương
đảng gồm 146 ủy viên. Sau đại hội, có mấy ông công dân rỗi việc, mò
mẫm sưu tra lý lịch của 146 ngài đỉnh cao trí tuệ này thì cả nước
mới hay chỉ 10 phần trăm đạt được thành tích vẻ vang là đã hoàn tất
bậc trung học. Đặc biệt, đồng chí tổng bí thư thì hoặc tự bỏ học
hoặc bị đuổi học từ năm lớp ba. Bởi vậy, dân gian có câu ca dao khen
đồng chí rằng:
Giỏi a đồng chí Đỗ Mười
Lớp ba chưa đỗ đã ngồi bí thư
Một
trong những thành tích đáng tủi hổ của cộng sản Việt là ồ ạt xuất
khẩu nhân công sang làm lao động tại xứ người vì không tạo nổi công ăn
việc làm cho người dân. Chỉ trong năm 2004, nhà cầm quyền đã đưa gần
70.000 người dân đi làm thuê tại các nước ngoài, hầu hết đến Đài
Loan, Nam Hàn, và Mã Lai là những nước có nền kinh tế còn kém Việt
Nam thời chưa bị họa cộng sản ở nửa thế kỷ trước. Tại những xí
nghiệp thuộc những nước này, người nhân công Việt Nam bị đối xử như
những nô lệ của thời đại mới. Dân gian bèn có câu châm biếm:
Vẻ vang thay lãnh tụ ta
Đem dân xuất khẩu bán ra nước ngoài
So
sánh với thực dân Pháp thuở xưa, đảng cộng sản Việt Nam hôm nay tệ
hại hơn nhiều về thành tích bóc lột nhân dân và chiếm đoạt tài nguyên
đất nước:
Ngày xưa giặc Pháp mộ phu
Ngày nay đảng bán dân ngu lấy tiền
Đảng ta là đảng cầm quyền
Đảng bán ruộng đất lấy tiền đảng tiêu
Không
những thế, để bảo đảm chiếc ghế lãnh đạo, những ông lớn của đảng
còn đang tâm nhượng một phần lãnh thổ quốc gia cho Trung Quốc. Điển
hình là các hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, cùng một giải
đất rộng lớn bao gồm ải Nam Quan và thác Bản Giốc ở cực Bắc nước ta.
Các câu ca dao nêu sau nói lên lòng phẫn uất của nhân dân trước sự
kiện này:
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Cúi đầu dâng đảo Trường Sa cho Tầu
và:
Tiên sư cộng sản Việt Nam
Cuối đời bán cả giang san nước nhà
Tương lai về đâu?
Nhiều
người Việt ở hải ngoại từng về thăm quê hương trong những năm gần
đây cho rằng Việt Nam đã tiến một bước khá dài kể từ đổi mới, và ánh
sáng ngày một sáng hơn ở cuối đường hầm. Tuy nhiên, đây chỉ là một
nhận định phiến diện căn cứ trên sự phát triển tại các thành phố
lớn. Đồng ý là trong gần hai thập niên qua, sau khi cộng sản trả lại
phần nào quyền tư hữu cho người dân và chấp nhận tự do kinh doanh có
giới hạn, nền kinh tế đã tăng trưởng khoảng bẩy, tám phần trăm mỗi
năm. Con số này quả là to lớn với những nước đã phát triển nhưng
không thể gọi là đáng khích lệ đối với những nước đang cố vươn lên
từ nền kinh tế lạc hậu và đang sở hữu một khối lượng nhân công quá
rẻ so với những quốc gia khác. Ngoài ra, phần lớn sự phát triển hiện
nay bắt nguồn từ khoản “viện trợ” của “khúc ruột ngoài ngàn dặm”,
tức số tiền các Việt kiều gửi về cho thân nhân và đầu tư ở Việt Nam,
cũng như tiêu pha trong các chuyến về thăm quê hương. Con số này đã
lên đến hơn ba tỉ mỹ kim trong năm 2004.
Thêm
nữa, điều đáng nói là tại Việt Nam, tài sản quốc gia không được
phân chia đồng đều vì hầu hết ở trong tay các cán bộ cao cấp và giới
tư bản đỏ liên minh kinh tế với họ. Đại đa số nhân dân, nhất là
những người ở nông thôn, còn thiếu ăn thiếu mặc một cách trầm trọng.
Nước ta bị sa vào vòng luẩn quẩn không lối thoát. Có quyền thì có
tiền và khi có tiền thì giữ được quyền. Điều nghịch lý là vài thập
niên sau khi vỗ ngực huênh hoang là đã tiêu diệt được chế độ phong
kiến, thì ngày hôm nay, cộng sản đã biến xã hội Việt Nam trở nên
phong kiến hơn bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử. Đau đớn nhất là
dưới sự cai trị của đảng, tham nhũng đã dần dần trở thành một giá
trị tiêu cực của nền văn hóa dân tộc, một tệ trạng không phải một
sớm một chiều có thể diệt trừ, kể cả khi chế độ cộng sản đã cáo
chung.
Dưới
ngọn cờ chỉ đạo xã hội chủ nghĩa, Việt Nam sẽ đi về đâu? Người dân
sẽ ấm no hơn chăng, sẽ hạnh phúc hơn chăng? Bốn, năm thập niên về trước,
dân gian đã vỗ vai ông Hồ mà bảo “này ông, chuyện ấy còn lâu”.
Câu nói ấy vẫn chính xác và sẽ còn chính xác cho đến ngày nào Việt
Nam còn bị đặt dưới sự cai trị của cộng sản. Chẳng tin, cứ hỏi ông Lê
Nin thì biết.
Ơ hay, sao lại có chuyện Lê Nin ở đây? Ông ấy đã “đang từ khỏe mạnh chuyển sang từ trần” từ hơn tám thập niên rồi cơ mà!
Câu chuyện như sau:
Năm
1985, cộng sản Việt Nam cho xây tượng đài Lê Nin cao đến 5,2 thước
trong công viên Chi Lăng, gần quảng trường Ba Đình, tại Hà Nội. Ngay
sau khi tượng được khánh thành, người dân Hà Nội có bài ca dao nhại
theo lời một bài vè ca tụng Lê Nin của thi nô Tố Hữu. Bài ca dao
của nhân dân như sau:
Ông Lê Nin ở nước Nga
Sao ông lại đến vườn hoa nước này?
Ông ưỡn ngực, ông chỉ tay
Ông xem như thể nước này của ông
Ít
lâu sau, cộng sản Liên Xô sụp đổ, người dân bèn “hồ hởi” đọc cho
nhau nghe bản hiệu đính của bài ca dao trên. Mỗi lần đọc xong lại cùng
cười hô hố một cách cực kỳ… phản động:
Lê Nin quê ở nước Nga
Cớ sao lại đứng vườn hoa nước này?
Ông vênh mặt, ông chỉ tay:
- Tự do, hạnh phúc lũ mày còn xa
Kìa xem gương của nước Nga
Bẩy mươi năm lẻ có ra đếch gì!
Đấy, ông Lê Nin nói đấy: “tự do, hạnh phúc lũ mày còn xa”. Quả là hơn sáu thập niên sau khi chết, đến ngày cộng sản Liên Xô tan rã, ông Lê Nin mới sáng mắt ra.
Ngày
hôm nay, gần hết tháng giêng năm 2005, tin tức từ bên nhà cho biết
dịch cúm gà đã tái bùng nổ tại 23 tỉnh. Đúng một năm trước, bệnh
dịch này đã hoành hành trên khắp đất nước khiến nhiều người thiệt
mạng. Ngay sau khi dịch gà lắng đọng thì dịch heo lại bộc phát tại
miền Nam gây biết bao thiệt hại cho dân nghèo. Trước sự kiện này, người
dân đã khẩu truyền cho nhau một câu ca dao thật đặc sắc:
Dịch heo nối tiếp dịch gà
Bao giờ dịch đảng cho bà con vui
Bao
giờ thì bà con mới được vui? Căn cứ vào một câu ca dao thuộc loại
sấm truyền được lưu hành trong dân gian từ vài thập niên trước thì ngày
ấy không còn xa lắm đâu:
Bao giờ Hồ cạn, Đồng khô
Chinh rơi, Giáp rách, cơ đồ mới yên
Xét
về khía cạnh nghệ thuật, câu sấm truyền quả là đắt giá vì “hồ”,
“đồng”, “chinh”, và “giáp” hiểu theo nghĩa đen là “ao hồ”, “đồng ruộng”,
“cái chiêng” và “áo giáp”. Theo nghĩa bóng thì bao giờ các ông Hồ
Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, và Võ Nguyên Giáp về chầu ông
tổ Mác thì bà con cả nước mới có thể an vui. Đến nay, trong số này
chỉ còn ông Giáp, nhưng đại tướng nhà ta đã 94 tuổi, như ngọn đèn
dầu leo lét trước gió, có muốn “cầm quần chị em” như thuở trước thì
cũng chẳng còn đủ sức mà cầm. Cái ngày “Giáp rách” chắc chắn sẽ xẩy
đến chỉ trong nay mai.
* * *
Trong
kho tàng văn chương truyền khẩu Việt Nam, đa số những câu ca dao
được truyền đến hôm nay là những câu hoặc gói ghém tình cảm con
người, nhất là tình yêu nam nữ, hoặc ca ngợi hình ảnh đất nước. Rất
ít câu ta thán về sự bạo ngược của chế độ cũng như chỉ trích và châm
biếm giới cầm quyền như những câu ca dao thời xã hội chủ nghĩa. Điều
này chứng tỏ cộng sản là chế độ gây nhiều tang thương nhất cho dân tộc
chúng ta kể từ ngày lập quốc.
Tuy
nhiên, khi lật bất cứ tác phẩm sưu tầm ca dao nào được xuất bản tại
Việt Nam trong 30 năm qua, chúng ta không bao giờ bắt gặp những câu
mang nội dung tương tự những câu trích dẫn trong bài này. Những câu
ca dao thời hiện đại được đăng trong những tác phẩm ấy là những câu
ca tụng bác và đảng, ca tụng cuộc kháng chiến chống Pháp, và cuộc chiến
chống Mỹ Ngụy. Dĩ nhiên, những câu này được sáng tác bởi lũ bồi bút
của chế độ. Vì vậy, ngoài sự hiện diện trong tác phẩm, chúng không
hề được lưu truyền trong dân gian. Đây là một lừa bịp trâng tráo của
đảng và lũ bồi bút.
Một
thí dụ điển hình là năm 1977, ông Vũ Ngọc Phan hoàn tất việc sưu
tập và trước tác quyển “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam”, trong đó
có bao gồm phần “Ca dao chống Mỹ cứu nước”, với nhiều câu vè ca ngợi
bác và đảng, dài đến 40 trang sách. Tác phẩm này đã được nhà cầm
quyền cho in đến 10 lần tính đến năm 1994. Tuy nhiên, với bản tính lương
thiện hiếm thấy so với những người cầm bút khác đã và đang phục vụ
chế độ, ông Vũ Ngọc Phan đã cẩn thận ghi tên tác giả của từng bài vè
trong phần chống Mỹ cứu nước. Là một học giả thành danh từ đầu thập
niên 40, dĩ nhiên ông thừa hiểu ca dao là một bài thơ ngắn (thường
là lục bát) từ hai câu trở lên do một người làm ra, rồi qua miệng
từng người, dần dần được sửa đổi (một cách ngẫu nhiên) cho đến khi
được hoàn chỉnh, tức khi đã phản ảnh đích thực được tâm lý quần
chúng. Như vậy, tác giả của ca dao chính là dân gian. Một bài thơ
hay vè có ghi tên tác giả không thể là một bài ca dao. Có lẽ tuy
hiểu như vậy, nhưng ông Vũ Ngọc Phan vẫn phải bao gồm những bài vè này
trong phần ca dao chống Mỹ để thỏa mãn yêu cầu của những người lãnh
đạo đảng.
Người
viết hy vọng rằng ở một thời điểm không xa, sẽ có những vị thiết
tha với văn hóa dân tộc bỏ công san định các câu ca dao đã lưu hành
trong suốt thời gian Việt Nam bị đặt dưới ách cộng sản để ghi lại
trong những tác phẩm xuất bản tại hải ngoại. Những câu ca dao “ngoài
luồng” này mới thực sự có giá trị về cả hai phương diện văn học và lịch
sử. Mai sau, khi đọc những tác phẩm ấy, những thế hệ tương lai có
thể phần nào hiểu được nỗi khổ đau cha ông họ đã phải gánh chịu, để
họ có cơ hội được làm người. Những tác phẩm ấy cũng sẽ khiến các nhà
cầm quyền (không cộng sản) sau này phải đắn đo hơn khi cai trị đất
nước, nếu không muốn trở thành “ngàn năm bia miệng” như những người
cầm quyền trong năm thập niên qua.
Và,
cuối cùng, người viết cũng hy vọng rằng những thế hệ tương lai ấy,
họ sẽ không phải khổ sở đánh vật với miếng cơm manh áo như cha ông
chúng bây giờ, họ cũng không phải đón nhận, không phải truyền đi
những câu ca dao có những giọt lệ đau xót ẩn dấu trong tiếng cười,
như những câu ca dao đăng trong bài viết.
Những
thế hệ tương lai ấy, họ sẽ có thời giờ, nhiều thời giờ là khác, để
đọc những câu ca dao thắm thiết tình cảm của dân tộc, họ sẽ rung
động (đến xúc động) khi bắt gặp những câu như “Đá mòn nhưng dạ chẳng
mòn, Tào Khê nước chẩy vẫn còn trơ trơ”.
Và họ sẽ cảm thấy yêu dân tộc hơn, yêu quê huơng hơn: yêu nồng nàn và tha thiết.
Nguyễn Ngọc Bảo
24 tháng 1 năm 2005
Sunday, April 22, 2012
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Có
kẻ lập-luận rằng chính Phật-Giáo tranh-đấu lật đổ Đệ Nhất Cộng Hòa rồi
lại tiếp-tục tranh-dấu dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, đưa đến mất nước vào
Ngày 30 Tháng 4 Năm 1975 [sic].
Lê Xuân Nhuận đã sưu-tập được một số sự-kiện & tài-liệu
lịch-sử, chứng-minh rằng vụ sụp đổ của VNCH vào Tháng Tư Đen năm 1975
không phải là do Phật Giáo gây nên, mà do một thế-lực khác, không chỉ ở trong phạm-vi quốc-gia mà cả ở trên bình-diện quốc-tế, suốt từ 1968 cho đến 1975 (không kể Do-Thái, Trung-Cộng, Hoa-Kỳ).khổ 5.5”x8.5”
NGUYỄN KHÔI * SƠN LA KÝ SỰ 3
Bài 27 . LẨU XÁ
Rượu cần (lẩu xá - rượu của người Xá “Khơ Mú”) là thứ rượu ủ men (không cất = lẩu xiêu). *Men lá gồm các thứ quả bơ, mắk cái, củ riềng, lá trầu không, quả ớt…giã nhuyễn với gạo tấm, sau đó nắm thành từng miếng tròn dẹt như bánh rán, đem ủ trong đống rơm, xếp từng lớp đều nhau từ 15 - 20 ngày có mùi men bốc lên đem phơi, để gác bếp khô. Khi dùng giã nhỏ rắc vào cơm rượu. Mỗi mẻ rượu cần 7 - 9 bánh. *
Cái rượu: Vỏ sắn khô gọt ra ngâm suối 3 ngày đêm cho hết mùi bồ hóng và độc tố ở sắn, vớt lên phơi khô trộn với trấu lẫn tấm đưa lên “chõ” (dụng cụ đồ hấp, đồ cho chín, đổ ra mẹt để nguội đem men rắc trộn đều, tiếp tục ủ bằng lá chuối hoặc lá rừng (bó nhum, bỏ cá) để rượu bốc men rổi bỏ vào chum (ché) lấy lá chuối hoặc mảnh ny long bịt kín (để hở thì rượu sẽ bị chua) - sau 25 - 30 ngày thì có thể dùng được, để càng lâu thì rượu càng đặc, càng ngọt. Ngoài sắn khô, còn làm bằng ngô, ý dĩ, củ dong riềng, chuối, dừa, củ mài…
*VĂN HÓA RƯỢU CẦN: Rượu cần (lẩu xá) còn có tên là lẩu kép (rượu trấu), lẩu pẳng (rượu ống), lẩu co (rượu cây) rất đậm ngọt. Rượu Thái Sơn La: 1kg gạo + 2kg trấu + ½ lạng men. Ủ 5 - 7 ngày. Khi uống: Mở nắp, đổ nước lã sạch vào ngâm 1 phút cho ngấm, cắm cần vào và đổ nước (sừng trâu) liên tục khi ta hút… uống đông vui: 1 hũ từ 10 - 12 bạn bè coi như là anh em “lẩu khay cáy khả” (rượu mở là thịt gà…). Khi chum rượu lẩu xá đã mở là trống, khèn, cồng chiêng hòa theo các điệu “khắp”, múa xòe dập dìu say sưa tới sáng. Bên hũ rượu cần là nơi hội tụ mọi cộng đồng mường bản, chân thành, đoàn kết, bình đẳng, không phân biệt ai với ai. * Lẩu Xá chính hiệu: Tháng 11/1993, Nguyễn Khôi tôi tháp tùng đoàn đại biểu Hội đồng dân tộc của Quốc hội do B.S Y Ngông Niêk đăm (chủ tịch) làm trưởng đoàn sang thăm hữu nghị nước CHDCND Lào.
Ngày 25/2/1993 Đoàn Việt Nam lên vùng Lào Thâng, Lào Sủng ở tỉnh Luông Phạ Bang giáp với Sơn La. Ở bên Lào: Người Lào Lùm (Thái) là ở vùng thấp, đông nhất. Thứ nhì là Lào Thâng (rẻo giữa) chủ yếu là người Khơ Mú. Thứ 3 là Lào Sủng (Mèo, H’mông) ở vùng cao. “Xá” là tên gọi miệt thị với người Khơ Mú của giới quý tộc Thái Sơn La xưa.
Thật là dân dã: Trên một bãi đất rộng, các chum “lẩu xá” được bày ra, khèn Hmông (khèn lên man điệu) cất lên các điệu múa Khơ Mú rất phong phú và đặc sắc đan xen với các đợt hút rượu cần với kiểu uống 2 người đủ đầy 2 sừng trâu (ống rót nước lã pha thêm vào chum rượu) - nước rượu râm ran cay ngọt chảy từ cổ họng vào tới dạ dày làm bừng tỉnh cả người (đúng là một liều thuốc tăng lực mạnh hơn cả “bò húc” của Thái Lan). Thật là vui như tết, trong cuộc vui say đoàn kết, người người hòa đồng với nhau tưởng như không còn phân biệt dân tộc, không còn Quốc gia, người với người là bạn, là đồng chí anh em cùng chung cuộc sống thanh bình./.
Đường lên Tây Bắc xa xôi Nếp nhà sàn thấp thoáng * Đường lên Tây Bắc quanh co Tiếng chim rừng đây đó… (Nhạc sỹ Văn An) Có 3 đường lên Tây Bắc theo 3 nẻo: - Nẻo thông thường (năm 1963) đi từ bến Kim Liên (liền công viên Thống Nhất và hồ Bảy mẫu) qua thị xã Hà Đông theo Quốc lộ 6… - Đường đi chiến dịch Điện Biên Phủ (1953 - 1954) đi từ Yên Bái - Nghĩa Lộ qua đèo Lũng Lô sang Phù Yên… - Đường nhánh đi từ Hà Nội qua Hưng Hóa - Thanh Sơn (Phú Thọ) vượt đèo Cón vào Phù Yên theo đường 13 qua Sông Đà. * Sau khi qua bản Song Pe (xem vợ chồng A Phủ) sang đò bến Ta Khoa, lên đèo Chẹn, tới chân đèo Chiềng Đông tụt xuống Cò Nòi (đường 6) lên TX Sơn La.
1. NẺO QUỐC LỘ 6: Quốc lộ 6 đi từ Hà Nội - Sơn La - Điện Biên dài 504km, điểm đầu là cầu sông Nhuệ (TX Hà Đông) là km số 0, điểm cuối là TX Mường Lay. *Cầu sông Nhuệ - TX Hòa Bình 63km (đêm ngủ ở Hòa Bình hay chợ Bờ) - ở đoạn quốc lộ 6 này có đài kỷ niệm anh hùng Cù Chính Lan đánh xe tăng Pháp năm (1953). - Từ cây số 65 TX Hòa Bình đến TX Sơn La 256Km - Sơn La - Tuần Giáo 56km - Tuần Giáo - Mường Lay 100km
Thời Pháp (trước 1945) Quốc lộ 6 chỉ hết địa phận tỉnh Hòa Bình, sang tới địa phận Sơn La là đường 41 (xã Chiềng Yên): Khởi đầu cây số 0 là chỗ suối Rút đổ vào sông Đà, đi một chặng tới cây số 22 (năm 1963) ô tô sáng đi từ Hòa Bình hay chợ Bờ lên tới cây số 22 (Sơn La) là trạm Công an kiểm tra giấy tờ và nghỉ ăn trưa, có cửa hàng mậu dịch Quốc doanh. Ăn trưa xong đi lên ngược dốc tới đỉnh Đèo 46 (cây số 46) cao khoảng 1500m ngang núi Tam Đảo -
Đây là bản Mèo (Hmông) đỉnh núi sương mù, nước suối giữa tháng 4 dương lịch nhúng lạnh buốt tay; tại đây cũng có 1 cửa hàng Mậu dịch Quốc doanh (vùng cao) nơi hội tụ dân bản đến mua hàng gặp gỡ khá đông vui. Xe ô tô ca (giá 12đồng/ từ bến Kim Liên Hà Nội lên tới Sơn La, cây số 302 km đầu cầu Trắng bắc trên suối Nậm La qua thị xã tới bản Xẳng (xã Chiềng Xôm) chui qua gầm đèo Cao Pha đổ xuống Nậm Bú (xã Mường Bú rồi tới Sông Đà chỗ bến Tạ Bú).
Từ đỉnh đèo 46, xe ô tô xuống dốc một mạch suốt xã Lõng Luông (Mèo) tới chân đèo là bản Hang Trùng (mường) cây số 58, rồi tới vườn Đào - cây số 64 có cửa hàng Bưu điện, trụ sở Sư đoàn 335, 1 đội của nông trường Mộc Châu (sau này thêm nông trường bò sữa Sao Đỏ ở cạnh đấy). Chợ Thảo Nguyên cùng Phố Thảo Nguyên đông vui, thấy máy cày, máy kéo biểu tượng của Chủ nghĩa xã hội hồi những năm 60 của thế kỷ 20 “anh đi khai phá miền Tây”, 4 giờ chiều xe tới thị trấn huyện lỵ Mộc Châu đông vui. 1 bàn ăn thịnh soạn, mất độ 1đồng (0,3đồng/1kg gạo) đủ bia rượu, thịt bò xào. Nhà trọ Quốc doanh đủ chăn đệm (đêm Mộc Châu mùa hè cũng dưới 20oC).
Sáng hôm sau, ăn phở 5 hào, xe ngược đi Yên Châu, tới cây số 82 là hết địa phận nông trường Mộc Châu, xuống 1 cái đèo nhỏ vào đất Tú Nang, cứ thế xe đi 1 bên núi, 1 bên suối Sập, 11 giờ tới thị trấn Yên Châu nóng bức như mùa hè dưới xuôi, chuối, muỗm, đường phên… bày đầy các “Quán” tự giác bên đường. Đến đoạn suối có cầu đi vào thị trấn là thấy chị em tắm truồng ngập sâu dưới suối… Cơm trưa ở Yên Châu, xong vượt đèo Chiềng Đông xuống Cò Nòi, Hát lót vượt dốc Mường Hồng vào khu sân bay Na Sản… khoảng 2 - 3 giờ chiều là tới thị xã. Thị xã Sơn La hồi 1963 - 1965 các tòa nhà đang xây, lô nhà 2 tầng chân đồi Khau cả là dành cho cơ quan, phía dưới đường Tô Hiệu là các dãy nhà cấp 4 cho cán bộ công nhân viên. Thời đó cơ quan biên chế còn ít người (Ty Nông nghiệp tất cả có 21 người). Thời đó Quốc lộ 6 đi 1 xe/ 1 luồng, rải đá dăm, cấp phối - đi từ Hà Nội - Sơn La mất 2 ngày rưỡi (qua nẻo Suối Rút - chợ Bờ, nay đã là lòng hồ sông Đà), nay đi mất có 6 tiếng đồng hồ.
2. NẺO QUA ĐÈO LỦNG LÔ “Cho tới đầu năm 1953, Quốc lộ 13A (tức Quốc lộ 37 ngay nay) mới được khởi công để cho Tướng Giáp đưa quân lên đánh Pháp, ở Nà Sản…, con đường nối từ ngã 3 Vực Tuần qua Thượng Bằng La (Văn Chấn, Yên Bái) lên đèo Lũng Lô”.
“Đèo Lũng Lô anh hò chị hát” (Thơ Tố Hữu) Từ đèo Lũng Lô qua Phù Yên, qua Sông Đà vượt đèo Chẹn ra Cò Noi (Sơn La). Từ ấy mới thực sự có con đường nối từ chiến khu Việt Bắc sang Tây Bắc và cũng là con đường huyết mạch của từng đoàn từng đoàn bộ đội - dân công lên đánh Pháp giải phóng Lai Châu - Điện Biên Phủ (1953 - 1954) làm chấn động địa cầu.
“Đường lên Tây Bắc quanh co” chính là đi lối này. “Lũng Lô”, tên bản địa là “Trảng nương hoang giữa rừng cây cổ thụ”. Đèo Lũng Lô ngăn cách hai tỉnh Yên Bái - Sơn La, đỉnh đèo ngợp trong sương mù bao phủ, bốn mùa ẩm ướt, nước chảy qua đường đá gồ ghề.
Trước ngày hình thành đường 13A, Lũng Lô chỉ là một con đường mòn men theo triền núi, rất ít người qua lại. Thi thoảng mới có dân bản Cơi (Phù Yên) và bản Dạ (Văn Chấn) qua lại thăm nhau hoặc đi săn muông thú, vào rừng đèo lấy song mây, đào củ mài trong những ngày giáp hạt. Người Mường ở vùng này gọi là đèo Lũng Lô (lỗ thủng) với hình tượng là trên đỉnh đèo mây mù trắng, nhìn từ chân đèo lên đỉnh xuyên qua một lối mòn dưới tán cây cổ thụ thì thấy như một cái lỗ thủng trên trời cao? Cũng có ý kiến giải thích “lũng” là thung lũng, “lô” là cây lau?
Trước ngày giải phóng Tây Bắc (1953) Lũng Lô thuộc khu du kích Mường Thải (Phù Yên) đánh quân Pháp rất kiên cường. Giặc Pháp và tay sai ở Phù Yên sợ không dám bén mảng đến. (theo Đinh Chanh - văn nghệ Sơn La “suối reo” số 6/2004). 3. Nẻo qua đèo Cón giữa Thanh Sơn (Phú Thọ) và Phù Yên (Sơn La) là thêm 1 đường chính phụ trợ cho Quốc lộ 6.
Quốc lộ 6 tới địa điểm Cò Nòi (co là cây, Noi, có lẽ đọc chệch “loi” là mậy loi, một loại nứa nhỏ bằng ngón tay dùng đan phên liếp thưng nhà)…đây là “rốn bom” do tàu bay B26 của Pháp dội bom chặn đường quân ta lên Điện Biên, ở đấy có tượng đài TNXP. Con đường 13A (nay là đường 37) từ đèo Lũng Lô qua rừng ông Giáp ra Cò Nòi xưa qua đoạn núi Pu chạng hảy (dốc voi khóc) vượt hẻm dốc đá Suối Cao (Bắc Yên) ra bến Tạ Khoa (nay đã có cầu) qua pha Sông Đà lên đèo chẹn.
4, Đường lên Tây Bắc thời Lê Trịnh : Theo Lê Qúy Đôn trong “Kiến văn tiểu lục” thì một dải sông Đà có 8 châu (huyện). 8 châu thuộc Phủ Gia Hưng là Phù Yên, Mộc Châu, Đà Bắc, Thuận Châu, Mai Sơn, Mai Châu, Sơn La và An Châu. 3 châu thuộc phủ Điện Biên là Ninh Biên, Lai Châu và Tuần Giáo. 3 châu thuộc phủ An Tây là Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai và Luân Châu. Đường đi từ Thăng Long lên thì Châu Phù Hoa (nay là Phù Yên) đi mất 6 ngày;
Châu Mộc; 8 ngày; châu Mai Sơn; 10 ngày; châu Mai Sơn có các động (Mường Bản) là Trình ban (Chiềng Ban), Trình chanh (Mường chanh). - Châu Sơn La đi mất 12 ngày, có một xứ gọi là “hang cá” (chính là bản Bó Cá có cầu đá ở TX Sơn La), có mỏ yết Ong (Hiếu Chai - Mường Chai). - Lên Châu Thuận (Mường Muổi) hết 12 ngày.
- Châu Quỳnh Nhai, thổ âm gọi là Mường Chăn (Mường Chiên) đi lên mất 20 ngày có mỏ đồng Vạn Bằng, Vạn Ma. - Lai Châu, thồ âm là Mường Lễ (Mường Lay) đi đường 22 ngày phong tục sân vật giống như Quỳnh Nhai (cũng là người Thái trắng). - Châu Tuần Giáo: Thổ âm là Mường Quay (Mường Quài = con trâu) đi mất 18 ngày. - Chây Tuy Phụ: Thổ âm là Mường Tè Hồ Chí Minh viết: Đi đường mới thấy gian lao Núi cao rồi lại núi cao trập trùng “Đường lên Tây Bắc” quả thật là như vậy. 7/3/2012 - NK
Chua chụ xướng chua bók ban Pan Péng xướng pan bók khẳm (Đời son trẻ như hoa ban Đời thương như hoa khẳm). Hoa Ban Tây Bắc là biểu tượng, là tín hiệu nghệ thuật đặc thù biểu hiện bản sắc văn hóa của thiên nhiên và con người Sơn La - Tây Bắc. Nó là loài hòa kỳ diệu gắn bó mật thiết giữa thiên nhiên với đời sống con người… Nó là món ăn ngon (hoa ngọt), là hình tượng thơ tượng trưng cho những ước mơ, tâm hồn trẻ trung (mùa xuân) tính cách cao đẹp, mối tình thủy chung của con người. Tết xong:
Hoa đào đỏ, hoa mơ, hoa mận nở trắng các lối đi khắp các bản mường, và gió lào ù ù bốc lửa, trời hanh khô đến khó chịu - ngày 4 mùa: Sớm xuân, trưa hè, chiều thu, đêm đông, đang mùa đốt nương, khát khao cháy bỏng trời đất và lòng người thì đột nhiên qua một đêm tất cả các cánh rừng đều trắng ngát hoa Ban
- Toàn bộ cây là hoa (lá mới nhú) cây đơm hoa, mát thơm dịu ngọt… Thật là cái đẹp, cái ngọt, cái mát trời cho giữa ngày tháng 3 nắng nóng ngột ngạt. “Mùa hòa Người đàn bà Mặt đỏ phừng Đủ sức vác ông chồng Chạy phăm phăm lên núi. Mùa hoa Người đàn ông Mệt như chiếc áo rũ Vừa vịn rào vừa ngái ngủ” - Y Phương. Đó là mùa động tình (tìm bạn) của con Nai, con hoẵng, mùa của ân ái lứa đôi. Cây Ban thuộc họ Mưồng, thân gỗ “bộp” cao 5 - 6 mét, hoa trắng hay tím 5 cánh bướm. Trong 5 cánh có 1 cách chủ (cánh chúa):
Tựa như 4 cách kia nhưng trên cái nền trắng hồng hoặc tím phớt của cả bông hoa, cánh chúa có thêm những kẻ xanh, tím, hồng (màu sắc cầu vồng) mềm mại trải dọc theo cánh hoa tạo thành những đường nét hình khối rất lạ mắt. Nếu nhìn xa thì mỗi bông hoa Ban giống như một nàng Bướm mà cánh chúa và nhị hoa là thân và vòi bướm, 4 cánh còn lại là 4 cánh bướm, cả chùm hoa Ban là cả một đàn bướm bay rập rờn trong gió xuân nhẹ nhàng - cánh Ban chúa tạo hồn cho sắc hoa là vậy. Cây Ban ở Sơn La thường mọc trong các phiêng đá lồi đầu, những triền núi khô cằn mà cây vẫn phát triển xanh tốt.
Ở nhiều nơi như Lào, Malaysia, Nam Ninh (Quảng Tây - Trung Quốc) không thiếu cây Ban nhưng khi nở hoa thì cây vẫn xanh, hoa thưa nên không độc đáo như rừng Ban Tây Bắc Việt Nam. Tất cả cành trơ khẳng khiu qua một mùa đông sương muối (dưới 0oc về đêm), sang xuân là “Ban pún” lấm tấm mầm non của nụ và lộc. Chúng đang chờ những cơn mưa đầu mùa (để gieo ngô, trồng sắn) để hút lấy cái hơi ẩm của trời đất, hút lấy hơi Xuân ấm nóng (của gió Lào) mà nở bung. “Và em ơi, một đêm xuân Hoa Ban bừng nở tần ngần chào em ”.
“Nghĩ đến em đi đường sông chỉ thấy đá vồng chỉ thấy hoa Đào, hoa Ban, hoa Vông rụng đầy dòng trôi…” Lúc hoa Ban tàn để lại quả non trong đám lá xanh mới nảy mầm lúc cuối mùa xuân, báo hiệu mùa làm nương rẫy mới. Hoa Ban tàn anh hãy tra ngô Hoa Ban làm quả anh hãy dọn nương tra lúa. Cây Ban là cây “chỉ thị”: Đất nào cằn, cạn kiệt màu mỡ là xuất hiện cây Ban. Kinh nghiệm dân gian Thái: Nhìn Ban nở để dự đoán thời tiết mùa màng trong năm “năm nào vào đúng tuần cữ Ban nở rộ đều một lượt trắng ngát cả rừng, hai bên bờ suối là năm ấy mưa không dai quá, nắng không dữ, ít lũ lụt, ít hạn hán (mưa thuận gió hòa) mùa màng tươi tốt thu hoạch lúa ngô đầy bồ.
Về món rau mùa khô (cuối xuân) thì hoa Ban cả một rừng, dân bản tha hồ đi hái về “đồ” lên thay rau, phơi khô trữ ăn dần, hoa Ban làm nộm. Ăn hoa Ban như ăn 1 vị thuốc (trị kiết lỵ), giải nhiệt, lợi sữa, giải độc. Hạt Ban già rang lên ăn thơm ngậy. Rễ Ban đỏ chữa dạ dày, gan. Lá ban nấu để rửa vết thương, sát trùng. Song hau hặc căn báu mau Ban bók Báu hên mua bók Ban xia Báu tính bươn tính pi Sướng pi cánh nọng hau hặc nhám lằng (Đôi ta yêu nhau không tính mùa Ban nở Không thấy ngày Ban tàn Không tính tháng, không tính năm Mãi mãi như mùa ban đầu đôi ta yêu nhau).
Ngoài hoa Ban, ở Sơn La - Tây Bắc dọc theo các khe suối còn có cây hoa Mạ (hoa ngựa) gắn với sự tích “bó mạ khun chương”: Kể về con ngựa của anh hùng Lạn Chượng khi chết hóa thành bông hoa Mạ, xuân đến nở rực vàng bên bờ suối, đón các cô gái chàng trai đến gặp gỡ tự tình nơi bến tắm bản quê./. 8/3/2012 - NK
Bài 30: CÂY MẮC CHAI
Ở Tây Nguyên, bên Lào có cây Kơnia đặc thù, đã đi vào lời ca tiếng hát, như một biểu tượng của quê hương xứ sở… thì ở vùng Yên Châu - Mường La (Sơn La) có cây Mắc Chai, mà hầu như khắp nước Việt Nam này không đầu có? Đó là một loại cây thuộc họ nhà Muỗm - Xoài, nhưng cao to vượt tầm: Cao vài ba chục mét, gốc hai ba người ôm không xuể, đặc biệt là tán tròn như một quả cầu xanh (lá nhỏ như lá cây Quéo), thường là cao vượt lên trên mọi cây cổ thụ khác, nên trên đường đi Quốc lộ 6 hay bề Bản, từ xa hàng cây số, ta đã trông thấy cái tán quả cầu xanh Mắc Chai in lừng lững trên nền trời xanh cùng bóng núi tím thẫm cao vời vợi như đang chờ đón đợi ta về…
Ở cây Mắc Chai như một điềm nghịch lý của tạo hóa: Cây thì cao to vật vã nhưng quả thì lại bé như quả trứng gà (có khác gì một bà mẹ to béo đẫy đà hết cỡ lại đẻ ra một chú bé tí hon?) - Quả Mắc Chai bé, hạt to chiếm tới 4/5 thể tích quả (thật là vô duyên, ăn chẳng bỏ) nhưng bù lại: Khi quả chín, chỉ một làn gió là nghe tiếng “lộp bộp”, một loạt quả tự rụng, ta nhặt lên bóp vân vê (như trước khi ăn quả vú sữa Miền Nam) rồi cắn đủ có một lỗ, rồi hút lấy nước cùi (bột vàng óng) thì ôi thôi rồi:
Thơm ngon vượt cả nước quả xoài đóng hộp ở sân bay Mun Bai (bên Ấn Độ) mà Nguyễn Khôi tôi có lần Transis (ghé qua) được thưởng thức thơm mát đến lịm người dưới cái nắng 45oc cùng những người dân bản địa da đen như bồ hóng. Thời chiến tranh, ai từ Thuận Châu về thị xã, lên tới đỉnh đèo Sơn La, dựng xe đạp vào gốc Mắc Chai, trải tấm Nylông, giở cơm nắm ra ăn, tu một hơi nước bi đông rồi ngả lưng đánh giấc. Vòm cây Mắc Chai như một cái lọng xanh vừa che mát, vừa che kín mắt bọn giặc trời Mỹ… thế là cứ yên chí nằm nghe chim hót, lũ sóc chuyền cành kiếm quả rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết nữa… và cây Mắc Chai như Mẹ hiền che chở ru cho ta một giấc ngủ bình yên để rồi (lấy sức) lại lên đường ra trận… Cây Mắc Chai như ai đứng đợi Đón ta về ngọt lịm giấc trưa.
Bài 31: ĐÔI NÉT VỀ LỊCH SỬ NGUỒN GỐC THÁI SƠN LA *
Người Thái - mơ hồ trong tên gọi? Gốc gác ở Trung Quốc (trong số 56 dân tộc; với 1,16 triệu người), tên xưa gọi “Thái Lặc” (Tai Lue) - “Dai” (Thái tây song bản nạp) 2 ngôn ngữ là Tày Pong và Thái Đam (Tày đăm). Ngoài ra là tiếng Tráng (choang). Thư tịch cổ gọi Điền Việt, Kim Xì, Hắc Xỉ, Hoa Man, Bạch Y, Bạch Di, Bách Si, Bá Di… Thời Hán quận Ích Châu là của người Thái (xem thất cầm Mạnh Hoạch - Tam Quốc Chí)? Rồi di cư theo dọc sông Lan Thương (Mê Kông) tới Myanma, Lào, Thái Lan, theo sông Hồng xuống Việt Nam. * Người Thái ở Việt Nam: Còn được gọi là Tày Khao (trắng) đăm (đen) Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc. Nguồn gốc: Bách Việt, gồm với nhóm Choang (tráng), Tày, Nùng.
Di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 7 - 13, trung tâm là Mường Theng (Điện Biên), từ đây họ tỏa đi Lào, Thái Lan, bang Shan (Myanma), đông bắc Ấn Độ cũng như ở Nam Việt Nam? (gốc đi từ - xíp xoong păn na). Ở Việt Nam: Đời Lý 1067 có Ngưu Hống (rắn hổ mang - tô tem), chỉ người Thái vào triều Cống, sau 1280 dưới sự cai quản của triều Trần. Các thủ lĩnh Thái được gọi là “Phụ đạo”. - Họ Đèo cai quản các Châu Lai (lay), chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nhan
. - Họ Cầm cai trị Châu Phù Hoa (Phù Yên), Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Châu Luân, Châu Ninh Biên. - Họ Xa cai quản Châu Mộc - Họ Hà cai quản Châu Mai - Họ Bạc ở Châu Thuận - Họ Hoàng ở Châu Việt (Mường Vạt - Yên Châu). Dân số: 2009 có 1.550.423 người Thái (thứ 3 ở Việt Nam) có mặt khắp cả nước. (Sơn La có 572.441 người chiếm 53,2% toàn tỉnh); Nghệ An 295,132 người, Thanh Hóa có 225,336 người; Điện Biên 186,270 người, Lai Châu 119,803 người, Yên Bái 53,104 người, Hòa Bình 31,386 người, Đắc Lắk 17,135 người, Đắk Nông 10,311 người. *
Họ của người Thái: Bạc, Bế, Bua, Bum, Cà (Hà, Kha, Mài, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo, Điều, Điêu, Hà, Hoàng, Khằm, Leo, Lèo, Lềm, (Lâm, Lịm) Lý, Lò, (Lô, La), Lộc (Lục), Lự, Lường, (Lương), Manh, Mè, Nam, Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, phìa, Quàng (Hoàng, Vàng), Quảng, Sầm, Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Tòng (Toòng), Vang, Vi (Vì) Xa (Sa), Xin. - Ngôn ngữ: Nhóm ngôn ngữ gốc Thái của hệ ngôn ngữ Thái - Kađai. - Kinh tế: Nông nghiệp (lúa nước, lúa nếp), các thứ hoa màu, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, dê, cá… đan lát, dệt thổ cẩm, số nơi làm đồ gồm. - Gia đình: Phụ hệ, vợ theo họ chồng, có tục ở rể. Hôn nhân một vợ một chồng. - Tục lệ ma chay: Chết là về Mường trời tiếp tục sống ở thế giới đó. -
Văn hóa: Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết khá phong phú, có chữ viết riêng, có nhiều truyện thơ (sống chụ son sao, khum lú - Nàng ủa, tản chụ xiết xướng…). - Nhà cửa: Người Thái đen có nhà nóc hình mai rùa, chỏm đẩu đốc có khau cút (hoa nhà) rất độc đáo. - Trang phục: Đẹp, nhiều kiểu. Nam giống với người Tày, Nùng, Kinh. Nữ: Thái đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm, đen) cổ áo khác Thái trắng là loại cổ tròn đứng. Đầu đội khăn Piêu thêu hoa văn theo môtyp từng mường. Váy ống (kín) giống Thái trắng, màu đen, cạp gấu váy phía trong nẹp đỏ. Khi lấy chồng tóc búi ngược lên đỉnh đầu “tằng cẩu” (Thái trắng vẫn búi tóc sau gáy).
CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC
Người thái sang ở Sơn La đến nay đã trên 10 thế kỷ nhưng không thấy có dấu vết gì về các công trình kiến trúc gạch, đá…? Có lẽ chỉ có một cầu đá bản Cá bắc qua suối Nậm Cá chảy ra Nậm La ở đầu thị xã ra phía Chiềng Xôm? Và một số khu nhà xây của tỉnh trưởng Sơn La Bạc Cầm Qúy, (sau này trụ sở huyện ủy Thuận Châu, rồi bị bom Mỹ phá hủy hồi 1966 - 1973)… còn không hề thấy Đình, Chùa, đến Miếu gì ở Sơn La đất cũ?
Người Thái ở Sơn La không theo Tôn Giáo nào, chỉ thờ “Phi” (ma tưởng tượng) người chết làm lễ chia của “bỏ mả” là xong, không có giỗ chạp hàng năm, Tang ma có lễ gọi hồn, dẫn hồn về mường trời, xong coi là xong. Nhà ở người Thái: hầu hết là gianh, tre, gỗ, nứa - đục đẽo đơn giản, đa số là không ngăn buồng (2 loài: cột chôn và cột kê) hoàn toàn là vật liệu tự nhiên sẵn có ở rừng núi bản địa. .Người Thái ở Sơn La:
Có 4 ngành (chi): tới 2009 có 58 vạn người. -Thái trắng (Tày đón) cư trú ở Mường Chiên (Quỳnh Nhai), Ngọc Chiến (Mường La). -Thái đen (Tày đăm) ở Thuận Châu, Mường La, Vai Sơn, Yên Châu, Sông Mã. Đặc biệt Thái đen ở Yên Châu lại khác hẳn so với ở vùng trên cả về tiếng nói, ăn mặc, phong cách, tập tuc. Chi (ngành) ở Mộc Châu, họ tự gọi là Thái đỏ (Tay đeng); cũng một chi ấy. Ở Bắc Yên, Phù Yên lại tự xưng là Tay đón (Thái trắng) ở xã Huy Bắc tự gọi là Tay khoong (người khoong) - “khoong” là một địa danh miền Tây Thanh Hóa (nơi họ từng ở ngày xưa).
Nhóm Thái ở Pác Ngà (Bắc Yên) tự gọi là Tay Eng (người Eng) “Eng” cũng là địa danh ở Thanh Hóa. Tay đeng (Thái đỏ Mộc Châu) gốc gác từ Vân Nam qua Lào: từ Luông Pha Bang qua Mường Xáng; Mường Xăm, qua rừng Mường Xén vào đất giao chỉ (đời Lý) thuộc Nghệ An.
Từ Mường xén họ tỏa ra Thanh Hóa qua Hồi Xuân, La Hán vào Mường Mun (Nai Châu) rồi lên Mộc Châu Sơn La. Cuộc di cư này do chúa đất họ Vi Khăm (Vi Vàng dẫn đầu vùng em trai là Vi Ngân (vi bạc): Vi Ngân ở lại M ai Châu, người anh Vi Khăm ngược lên Mường Moóc (Mường Xang - Mộc Châu). Do đi tới nơi đất mới nên:
Ở Mai Châu có bản Lác (bản lạ). Tòng Đậu nguyên âm là Toong Táu (Toong = lá, táu là cây gỗ Táu - cây to, lá to dùng để gói muối, lót xôi khi cúng lễ. Đồng Bảng nguyên âm là “Động Páng” (động: rừng già, rừng cây cổ thụ, Páng là cây chuối rừng, nay ta qua Đồng Bảng vẫn thấy nhiều cây chuối rừng vì đất quanh năm ẩm ướt. Họ “Vi Khăm” sau đổi thành họ Xa (Sa) có 2 truyền thuyết:
- Chúa Vi Khăm vào triều đình (nhà Lê Trịnh) qua cổng thành thì Quan coi cổng thành Thăng Long vấn danh, hỏi họ tên gì ở đàu tới? Do ngôn ngữ bất đồng nên Chúa Vi Khăm trả lời sai ý đi “Tôi là ở xa đến” - Quan nghe ú ớ ghi “Chúa đất họ Xa - nay do chữ nghĩa chính tả lung tung ghi xa = Sa”?
Thuyết 2: Sau khi Chúa đất Vi Khăm qua đời - anh em trong nội tộc tranh giành… người anh thắng thế làm chúa, em phải xuống làm thường dân lấy họ “Vi Văn…” Người anh vì đã thề độc “cụ chí pái sá xịa mưng, mưng nha Pay năm hó phụ” (Tao sẽ từ mày, cạch từ đây không chung Họ nữa). Từ đấy từ (Xá = Sa) thành họ chính của dòng Vi Khăm. Mãi về sau gọi chệch cho nhẹ đi Sá thành Sa… nhưng khi khấn cúng bái vẫn phải xưng là “Chúm mú Vi Khăm ” - (dòng họ Vi Khăm) cho đến ngày nay. *
Quan hệ xã hội Thái: Cơ cấu xã hội cổ truyền là Bản mường hay chế độ Phìa Tạo Tông Tộc gọi là “Đằm”. Mỗi người có 3 quan hệ trọng yếu: - Ải noọng: Nam giới 4 đời trong gia tộc (bên nội): - Nhinh Sao: Tất cả thành viên nữ…a: Tất cả thành viên Nam thuộc họ vợ (bên ngoại).
Bài 32: MƯỜNG TRỜI
Với người Thái: chia vũ trụ thành 3 tầng theo một trục dọc. Trên cùng là Mường Phạ (Mường Trời), ở giữa là Mường Lùm (mường người thấp) và dưới cùng nữa là lòng đất là Mường bọoc đai (Mường của những người lùn sống trong lòng đất). Còn gọi Mường Pha là Mường Bôn nhằm chỉ thế giới ở trên đỉnh đầu - ngoài ra còn gọi là Mường Then (Mường của các Then = thượng đế, thần linh). Người Thái ở Qùy Châu: “theo quan niệm hữu thức của người Thái thì Mường Phạ là nơi cao nhất của vũ trụ, đó là một khoảng rộng màu xanh, hình tròn úp lên mặt đất. Còn đất là một tấm rộng vô hạn mà trời chỉ úp được một phần.
Tầng trên cùng là tầng riêng của các thế lực siêu nhiên, đó là một thế giới hỗn mang, chưa định hình, không rõ ràng, rất ít ảnh hưởng tới cuộc sống của con người. Xuống thấp hơn là Mường Then của các vị thần linh, còn tổ tiên của người Thái thì ở một cỏi riêng khác: Nhóm Tày Thanh gọi là “đẳm chảo”, còn nhóm Tày Dọ (đều ở Nghệ An) thì gọi là “Đẳm Pang”. “Đẳm Chảo”là nơi trú ngụ của người chết theo các dòng họ khác nhau, rồi lại còn phân đẳng cấp:Tầng lớp trên là cho các họ Lò Căm, Hủn Vi, Mừn Quang. Tầng lớp mới là các họ bình dân như Quản Quang, Quản Lự… (có 2 “đăm”:bậc giữa và bậc cuối).
Theo Cầm Trọng thì người Thái đen Sơn La cũng na ná là “đẳm hướn luông” (quý tộc) và “đẳm hướn nọi”cho thường dân. Mường Then là hình ảnh thu nhỏ của thế giới trần gian: Cùng lao động sản xuất, đó là một xã hội giàu có trù phú, ruộng đồng quanh năm tươi tốt, dưới ao cá lội từng đàn, đèn thắp sáng quanh năm. (như thiên đường), vị thần chủ là “Then Luông” (Then lớn) - thường gọi là Pò Then: Cai quản cả thế giới.
Dưới Pò Then là một hệ thống các vị thần giúp việc như Then Ná, Then Ảo, Then Thao Ai, Then Thư ai, quản lý các dòng họ Quý tộc, thấp hơn là Châu Cuống Cảng (họ ở bậc trung) do các Then Thư Noọng cai quản trông coi các họ bình dân… tuy vậy có những dòng họ khác nhau nhưng lại chung 1 Then Ná. Ở Then Ná còn có các Mẹ Náng (bà mụ) là vợ các Then, làm nhiệm vụ Me bẩu (đúc nặn người cho đầu thai xuống trần gian), Me Náng nặn rồi chỉ sang Then Bẩu (khuôn), rồi qua Then Chằng để cân đo số mệnh rồi rơi xuống Then Chẳng cân đo xong rồi tiếp xuống Then Bắc để đi đầu thai…
Trên Then Ná còn có Mẹ Xuổn Ném và Pù Noọng Pả trông coi vườn mệnh và ao cá vía để giữ cho mệnh luôn được bình yên, trên Then Ná có một vườn mệnh trong đó có một máng nước chảy vào ao nuôi cá mệnh (Pa Vẳn) mỗi con tượng trưng cho một mệnh người dưới trần. Nếu nước chảy đều thì hồn khỏe mạnh, con người được bình an, nước không chảy thì cá chết, mệnh người cũng hết. Chính vì vậy: Khi con người lên cao tuổi thường tổ chức lễ “Tum bẩư nho bủn” (lau chài sửa lại vườn mệnh, đặt lại máng nước), để tăng tinh lực và sức sống cho con người. Ở Mường Then còn có nhiều vị thần linh khác: “Then Khúm” trông coi việc thiện, Then Tàng lo làm ra con người và loài vật, Then Bấu lo đúc người, Then Khạt (Then Chằng) đo số mệnh,…
Then Bắc theo dõi sổ số mệnh, Then Kôm quan sát bốn phương trời, Then Cáo quản lý phạm nhân, Then Thùm coi lũ lụt, Then Lốm tạo mưa gió, Then Ú, Then Đá lo xử phạt sát sinh. Tầng cuối cùng của Mường Phạ là nơi ở của các hồn người chết (chết không bình thường) thì phải vào “Mường phi tai sút đuôn” ở gần Mường Lùm - Còn bình thường thì vào Đẳm Chào. Trạm dừng chân đầu tiên do Mo dẫn hồn là Pặc Phắng Kén, nơi trời và trần gian gặp nhau là Táng Cộp “Táng cộp nừng hả phiền” - Chỗ gặp nhau (như kiểu chợ âm phủ) đan xen như cái nan xe kéo sợi, ở đây là trạm tiếp đón nên có nhiều xôi thịt do người trần cúng lễ. Do đó những hồn nghèo đói, chết không bình thường kéo tới đây kiếm ăn - vì thế người Thái rất sợ phải qua nơi này; khi đói loại ma này còn xuống cả Mường Lùm quấy nhiễu.
MƯỜNG NGƯỜI Mường Lùm: Qua tụt khỏi Mường Phạ, xuống dưới là Mường Lùm (cõi người) là mường ở dưới sàn trời “mường tớ cọng lùm phạ”. Lùm là thấp, thung lũng - Còn gọi Mường Piếng (bằng phẳng) = mường bằng phẳng ở dưới gầm mường trời là mường có thật trong vũ trụ luận Thái, đây là thế giới của con người khác biệt về bản chất so với Mường Phạ - Mường Phạ là cõi hư, tâm linh, còn Mường Lùm là cõi thực của con người và các loài vật, là các bản mường của nhiều tộc người (kể cả Kinh, Lào…) và “dân số” của các loại Mường (Phạ, Lùm) bao gồm cả các thế lực siêu nhiên khác, kể cả ma quỷ. Ma quỷ đi lang thang ở các Mường Phi, người thì ở các Mường Côn (có phi pú ở núi cao, phi pá ở mường sâu, phi ngược ở vùng nước xoáy cùng cõi Mường Lùm do con người làm chủ thể).
MƯỜNG BOỌC ĐAI Là “Mường trong lòng đất” của loại người tí hon “Táy boọc đai” đây là ở Quỳ Châu (Nghệ An), còn phía Sơn La - Tây Bắc không có khái niệm này. Đó là thứ “phi đóng kín” hay “phi dóc dách”. “Cờ boọc đai” là cái ống nhỏ cuốn dùng tơ lấy ra từ kén tằm (cái suốt) - Boọc còn có nghĩa là “hoa”, đó là nụ tơ hoa biểu tượng của lũ người tí hon sống dưới lòng đất, đứng đầu là “vua hoa tơ” (Pủa boọc đai). “Phi” với người Thái là gồm cả thần thánh, hồn người chết và cả hồn, vía người đang sống - “Phi” là tín ngưỡng thờ vật hinh, một thứ sơ khai của Tôn giáo. Linh hồn người sống là “phi vẳn”, ở người chết là “phi bướn”, với các thần linh là “phi then”, các tổ sư nghề Mo (phi môn, phi một) rồi phi bản, phi mường, phi pú, phi huổi, phi pá… Thế giới của Phi có ảnh hưởng rất lớn tới thế giới thực của con người (can thiệp, phù hộ) - do đó phải cúng bái cầu khẩn… * * *
Theo Hoàng Nó (Sơn La) thì: Quan niệm về trời đó là Mường Phạ, Mường Bôn hay Mường Then. Có 11 Then gốc gọi là “Then ngồi chõng” (Then năng chóng) và 22 Then anh em (Then Pi Noong), mỗi vị Then là một đấng “sáng tạo” tạo mưa, gió, nắng hạn, lụt… 11 Then gốc, đáng kể là Then Luông (cụ Then già Pú Then Thẩu) hay chủ Tum Vang (như Ngọc Hoàng). Hai là “Then chăng tê ba” - chữ “tê ba” gốc chữ Pali - Sancrít thì Têbra nghiã là “cõi trời” - hư vô ngự trên đỉnh Pha Bôn điều khiển đúc ra người…
Ba là “Then Ban” tạo ra họa phúc, duyên phận, sang giàu… * Tục lệ cúng Then: Có 3 lễ chính: 1. Căm xeng: Báo ngày kiêng cấm 2. Xên kẻ: Cúng giải hạn 3. Xên hươn: Cúng nhà tức tổ tiên Tháng giêng Tạo kiêng kỹ Tháng hai Tạo căm xeng * Đêm của ngày kiêng cấm: Mỗi nhà lấy một bó cỏ gianh, bó lạt, một con dao buộc vào đòn gánh - tượng trưng để phi tổ tiên đem lên sửa chữa nhà cho Then. Đầu đòn gánh treo một túi xôi, gói thịt gà luộc để cho tổ tiên ăn - Đặc biệt bắt 1 con dế mèn đực bỏ vào giỏ để đêm chúng gáy
- Dế Mèn sinh nở vào tháng 7, nó tượng trưng 1 con trâu để tổ tiên dắt lên cày bừa ruộng nhà Then. Còn có việc: Lấy 1 tổ hoang rỗng của ong bò vẽ treo lên mái nhà để báo hiệu nhà tôi đã thực hiện đầy đủ cúng căm xeng. * Xên kẻ: Cúng đầu tháng 2, cụ tổ phải lên chầu Then phục dịch. Làm ở gian giữa nhà có đầu trâu hay đầu gà, phía sau bà Một ngồi, phía trước lót vải trắng đổ gạo nếp thành một đống con, trên đặt 1 quả trứng gà luồn trong 1 vòng tay bạc, xung quanh mâm có đốt nến (sáp ong).
Đọc hát bài Xên do bà Một gòi là “Á ní” mất 1 ngày đêm “lời thỉnh cầu Then xá tội cho tổ tiên, cầu xin phúc lộc”. * Xên hươn còn gọi Ló Liêng tổ chức cúng nhà trong 3 tháng (giêng, hai, ba) vào các ngày 7, 8, 9, âm lịch thành một chuỗi lễ hội đan xen căm xeng - xên kẻ và xên hươn. Xiên hươn là mời tổ tiên về ăn cỗ cuối buổi cúng, ông mo phải cúng cơm rượu để đưa tiễn đưa đi đưa lại để các vị về nơi Mường phi của các hồn.
Bài 33: XỬA CỎM ÁO NGẮN PHỤ NỮ THÁI
Trong trang phục Thái thì cái áo ngắn (Xửa cỏm, xửa cóm) là độc đáo và đặc sắc nổi bật ít dân tộc tạo hình được đẹp như thế. Áo phụ nữ Thái có nhiều kiểu dáng: Áo dài (xửa hí), áo ngắn dài tay có cúc bướm bạc (mắc pém) gọi là xửa cỏm, áo ngắn hở nách là “xửa khép”…
“Xửa cỏm” cổ truyền vừa là lễ phục vừa là thường phục, chỉ khác là về chất liệu vải (vải thường hay tơ lụa, cát bá, sa tanh) khi đi lễ thì quàng thêm tấm thổ cẩm rộng chừng ba bốn mươi phân hơi lệch chéo sang một bên, cách điệu một chút nghệ thuật ở phần hạ bán thân, chỗ ngay thắt lưng “xửa eo” xuống.
Màu sắc xửa cỏm tùy thị hiếu từng người có thể giữ nguyên màu vàng óng của tơ tằm hay nhuộm hồng nhạt hoa đào, xanh thanh thiên, màu tím hay màu nõn chuối… đó là những màu sắc được ưa chuộng (vải tự dệt) mua của người Kinh, người Hán…, còn Váy thì màu đen, đen nhánh, váy lụa thì nhuộm chàm, tím thẫm rồi nhúng bùn ao cho thật đen, thật mượt. Xửa cỏm may thân áo bó sát người, tay áo rộng, từ nách khâu hẹp dần xuống. Gấu áo khâu lót thêm 2 lần vải, rộng chừng ba phân, khâu đột nịt chặt ôm lấy vòng eo thắt đúng lưng long, phần trên đủ ôm lấy bộ ngực nở nang khít khao gây ấn tượng.
Mép gấu áo chỉ đủ chấm tới mép cạp váy, ngang thắt lưng nên khi cử động (cúi xuống hở tí eo lưng, dướn mình hay ngã về phía sau thì hơi hở nude (nuy) chỗ rốn khá gợi cảm. Trước ngực từ tới Rốn là 2 hàng cúc bạc “mắc pém” như một đàn bướm bay dọc trên 2 nẹp tà áo. Về số cúc bướm (mắc pém) có 2 ý kiến:
1. Hàng mắc pém với số lẻ 11 cặp được bố trí khéo léo dày đặc lấp lánh trên ngực phụ nữ Thái - Số lẻ ở đây tượng trưng cho sự vận động, phát triển đi lên (số chẵn tượng trưng cho sự yên tĩnh, không động, không phát triển - những sản phẩm dùng cho phụ nữ đang sống thường thiết kế với số lẻ, còn để cho thế giới hư vô “phi” là số chẵn). Bậc cầu thang để lên xuống nhà này hàng ngày có số lẻ, chỉ làm chẵn khi đưa ma.
2. Hai là: Màu nền tà áo không trùng với màu áo và cúc bạc. Số cúc bao giờ cũng “số chẵn” với ý nghĩa đầy đặn, trọn vẹn dành cho chồng con - khác với những số lẻ trong kiến trúc nhà ở, “lẻ” là sự sinh sôi phát triển. Hai ý kiến trên đều có lý lẻ… Thực tế ở mỗi vùng, mỗi chi (ngành) Thái có quan niệm khác nhau đôi chút - có lẽ là:
* Với con gái chưa chồng thì Xửa Cỏm có số hàng Mắc phém số lẻ. * Khi có chồng con rồi thì xửa cỏm có số hàng cúc bướm số chẵn. Cũng có thể số hàng chẵn hay lẻ phụ thuộc vào chiều dài của áo (áo người cao hay thấp) miễn sao cho nó cân đối hợp lý là đẹp. Xửa cỏm của phụ nữ Thái đen: Cổ áo cạp hai lần vải, khâu đột, cổ đứng có phần gò bó cứng nhắc thì xửa cỏm của chị em Thái trắng lại bẻ tai, chiết giấu mép, vòng cổ rộng hình trái tim mở dài hở đến trước ngực rất mềm mại duyên dáng. Các cô gái rất ưa kiểu xửa cỏm này, còn các “bà xã” khi vẻ đẹp lý tưởng “eo kíu meng nhay” lưng eo con tò vò nữa, thì các chị rất ý tứ khi mặc xửa cỏm đã khéo léo dùng các móng tay ém đẩy lớp mỡ bụng lên (đã qua nhiều lần sinh đẻ) rồi vừa cài cúc bướm nên vẫn tạo được hình dáng thon thả gọn gang.
VÁY THÁI:
Có nhà thơ đã cảm: “Váy em sắm lệch, nhiều khi cũng tình” Váy (xỉn) của phụ nữ Thái màu đen, khâu kín mép kiểu váy ống, vòng ống rộng gấp đôi vòng eo, cạp váy màu trắng, còn độ dài tùy theo cao thấp của người mặc và thường là chùng quá bắp chân. Ở trong gấu váy, chị em cạp thêm một đường viền vải màu đỏ thắm rất cách điệu gợi cảm: Ai đó hát ngất ngư Phố Bản Lũ nghé tơ nhảy giỡn rộn bờ khe Ngọn gió quẩn thổi tung viền váy đỏ Làm ngả nghiêng lơi lả cánh rừng tre. Váy mặc bó sát vào mông, tạo 1 đường cong thật đúng như một nhà Văn Trung Hoa đã khắc họa cái đẹp “phong nhũ phi đồn” (vú nở, mông to) của người phụ nữ đang thì của thời hoạt động tình dục mạnh mẽ, sinh con đẻ cái để nòi giống phát triển và trường tồn.
Khi mặc váy nếp phần thừa quấn vào một bên hông rồi gấp bẻ trở lại đằng trước thành một đường chiết ly thẳng từ eo xuống gấu váy. Tuy thế, nếp gấp này không làm mất đi nét uốn lượn ở phần hạ bán thân của người phụ nữ Thái. Thắt lưng được làm bằng lụa tơ tằm dài gấp 2 lần rưỡi vòng eo, rộng chừng bốn năm phân, màu hoa lý hoặc màu xanh nõn chuối. Hai đầu chính nối thêm 2 mẩu vải màu đỏ chói gây chú ý.
Từ nhỏ các bà, các mẹ đã dạy con cách thắt khăn nơi thắt lưng (xài yêu) để sao “Eo kíu manh po” (thắt đáy lưng con tò vò). Khi thắt lưng thì thắt ngay dưới cạp váy trên hông, mối đằng trước hơi chếch về phía bên hông một chút. Ngày nay, nhiều cô gái đã “cải tiến” dùng dây thắt lưng hoa nhiều màu gấp nếp - không thắt mà quấn giấu mối, trông khá điệu đàng, mảnh dẻ, kiêu sa. (Theo Phan Kiến Giang) Khách quan mà chiêm ngường:
Ngắm phụ nữ Thái với trang phục xửa cỏm ta ngỡ đó là một nàng vệ nữ rất cổ điển mà vẫn hiện đại, bó sát tạo eo, nổi bật các đường cong lý tưởng (như thi hoa hậu)… chị em Thái đã rất táo bạo trong sắp xếp đường nét (gây gợi cảm). Cái váy dài tha thướt xúng xính như muốn kéo dài thêm cho phận hạ bán thân, làm sao chân dài thêm; còn cái xửa cỏm thì cứ như hơi quá ngắn lại ôm xít thân thể vùng trên như dồn nén chật chội, căng phồng như muốn bung ra “bong ra” hiến dâng cho người tình “của em của anh đây mà” rất gần gũi thân thương đầy chất nhục cảm.
Khi may mặc bộ “xửa cỏm”, chị em rất chú ý bố trí phối hợp màu sắc (các tông màu) không diêm dúa, lộng lẫy mà vẫn giản dị, ấm cúng. Váy đen nhánh thêm viền phía trong đỏ ở gấu váy, khi bước đi xao động cùng khăn piêu trên đầu, bộ xà tích bạc ở thắt lưng thật là vừa tạo hình, vừa tạo sắc (hai cái màu nóng tương phản): Màu đỏ ẩn hiện làm cho màu đen thăm thẳm, sâu hơn như ẩn sau đó là vùng “âm” của tình ái… Sự tương phản lung linh sống động ấy trong một tồn tại ở một chỉnh thể thấp nhất, sự hài hòa cân bằng âm dương như “ải cắp êm” (bố với mẹ) đời đời bền vững hội nhập với áo sơ mi, quần Jin hiện đại vẫn không lạc mốt.
KHĂN PIÊU
“Piêu” tiếng Thái nghĩa là “khăn”. Đó là một tấm vải thổ cẩm tự dệt rộng chừng hai gang tay và dài một sải tay, mặt vải sợi dệt thô nhuộm chàm kỹ ngả màu xanh đen, còn nhấn thêm nước vỏ cây Ban cho đen nhánh bóng. Khăn tuy dài nhưng khi đội thì chỉ một đầu khăn vắt trên đỉnh đầu rủ xuống trán và một đầu thả xuống sau lưng dưới gáy, chỉ những phần hở ngoài mới thêu trang trí hai đầu khăn, còn đoạn giữa để nguyên vải chàm thô.
Hai mép đầu Piêu được viền một diềm vải đỏ (hay vải ngũ sắc) kéo sang 2 bên mép cạnh bên bằng một đoạn bằng một nửa chiều rộng khăn, các góc khăn trên mép vải viền được tết chỉ màu thành các “cút Piêu” bằng chỉ nhiều màu thành các vòng tròn nhỏ mỗi đoạn vòng một màu.
Tùy loại Piêu mà tết thành từng nhóm 3 hay 5 hay 7 cút. “Cút Piêu”; hình tượng cây guột ở đoạn chồi là non xoắn hình trôn ốc nó cũng như 2 cái khău cút trên đỉnh đầu hồi nhà. Ô vải vuông ở hai đầu khăn là gương mặt của Piêu, là nơi trổ tài thêu thùa của chị em… Bố cục vuông gấm, vải đỏ thành những ô vuông đồng tâm hay lệch 45o so với ô bao ngoài gần mép đầu khăn gây cảm giác chuyển động như bánh xe quay.
Cũng có khi bao quanh vuông gấm là các ô vuông nhỡ xếp cạnh nhau thành 4 băng dọc theo các cạnh hình vuông, mảng vuông bên trong mới bố cục thành các ô vuông đồng tâm.
Ở lối bố cục tất cả đều là những hình vuông được thêu thành các dải hồi văn các hình móc câu hay tam giác đồi đỉnh, hình răng cưa, hình ô trám, hình đàn khỉ, đàn ngựa đuổi nhau chạy vòng quanh các hình vuông, còn mặt hình vuông trong cùng thì thường thêu những ngôi sao ở cánh hay nhiều cách biến thể. Những hoa văn ấy đều phản ánh hiện thực, song không sao chép tự nhiên mà đã được cách điệu thật khái quát và hình học hóa, số kiểu hoa văn tuy không nhiều, song nhờ kết hợp khéo léo ở từng bàn tay vàng và theo tập quán từng vùng mà vừa mới lạ vừa quen thuộc lại như mở ra vô hạn (theo TS Chu Quang Trứ).
Về màu sắc chỉ thêu thường là màu tươi cơ bản. Piêu Yên Châu sặc sỡ, ưa dùng các màu gốc đối chọi mạnh: Trên nền khăn xanh chàm đen, nổi bật lên là những màu sáng mạnh như đỏ rực, vàng nghệ, vàng chanh, trắng, xanh lá cây, xanh lơ tạo thành sự phối hợp màu khá mạnh bạo. Piêu Điện Biên ít màu hơn thiên về đằm thắm. Khăn Piêu do các cô gái Thái làm ra để dùng, để tặng bạn tình làm quà kỷ niệm, tặng cha mẹ, cô bác, anh chị bên nhà chồng. Khăn Piêu rất tiện dụng: Dùng đội đầu, quấn cổ và khi cần thì buộc làm “địu” để địu con nhỏ. Nó đẹp như câu hát: “Chiếc khăn Piêu Thêu chỉ hồng Theo gió cuốn Bay về đây Dâng trên tay…” Nó chính là nơi lắng đọng tâm hồn (tình yêu) và phẩm chất cao đẹp của người con gái Thái.
8/3/2012 – NK
Bài 34: LỜI ĂN TIẾNG NÓI
Lời ăn tiếng nói trong giao tiếp hàng ngày bộc lộ nhân cách, lối sống (tính cách) của một dân tộc. Nhiều khi chỉ một hiện tượng (một hành xử) cũng đã để người ta có cảm tình hay khó chịu về dân tộc đó. Ví dụ có người nhận xét: Tính cách người Hàn Quốc qua hiện tượng lặng lẽ xếp hàng cả tiếng đồng hồ trước giờ lên máy bay (còn người Nhật thì qua vụ sóng thần và thảm họa nhà máy điện hạt nhân Fucưxima hồi 11/3/2011 từ người dân tới ông Thủ tướng đã hành động, ứng xử như thế nào (qua màn hình ti vi) đủ cho cả thế giới kính phục người xứ mặt trời mọc.
- Người Tàu (Trung Hoa) có một nền văn minh rực rỡ cỡ 5000 năm lịch sử, nhưng khi tiếp cận với số đông cụ thể thì lại thấy như bước vào xã hội thiếu trật tự như “vào đến phòng đợi ở sân bay, đã thấy rất đông người ngồi la liệt trên ghế hoặc dưới đất, nói chuyện ồn ả hoặc ăn uống nhồm nhoàm. Nét nổi bật của người Trung Quốc là ăn to, nói lớn… khi lên máy bay thì xô đẩy chen lấn, la hét chửi bới nhau, rồi giành giật chỗ để hành lý.
Khi đã vào ghế ngồi yên vị rồi là họ bắt đầu mở miệng để chuyện trò, tranh luận to tiếng như một cái chợ”. Hai tính cách nổi bật là: Chen lấn và sẵn sang xâm phạm vào sự riêng tư của người khác. Về đi lại hình như người ta không bao giờ chú ý (nhường đường) hoặc có nhường họ thì cũng không có lời cảm ơn. Về sinh hoạt thì hở cái gì ra là mất cắp, tính vùng miền cục bộ (như ở ta là dân Nghệ Tĩnh) rất mạnh mẽ. Việc khạc nhổ thì người Tàu đứng số một thế giới đến nỗi khi tổ chức Thế vận hội Bắc Kinh (2008…), lãnh đạo phải có chỉ thị cấm khạc nhổ ngoài đường phố Thủ Đô
. - Người Hà Nội: Xưa nổi tiếng là thanh lịch, hào hoa phong nhã, thì nay xuống cấp đáng báo động: Ra đường thấy bất cứ cái gì lạ (như tai nạn xe máy, cãi nhau) là xúm đông xúm đỏ gây tắc nghẽn giao thông. Ăn tục, nói tục thì chắc Tàu cũng phải chào thua: Xô đẩy chen lấn, nói to, trộm cắp…, đái bậy thì thôi rồi.
Tính khoe mẽ, trưởng giả, học làm sang (kể cả tham nhũng) đang trỗi dậy, hoành hành đáng sợ, sự coi thường kỷ cương, luật pháp diễn ra khá phức tạp. Còn về người Thái, qua nhiều năm “cắm bản” Nguyễn Khôi tôi thấy có hai điều nổi bật: Chất phác thật thà (không nói dối = ba vẹo), không trộm cắp (kin lắc); nếu ai mắc phải thì bị cộng đồng dân bản tẩy chay, xua đuổi.
Đặc biệt trong sinh hoạt thường ngày của người Thái là nhẹ nhàng, dịu dàng, rất ít khi to tiếng (vợ chồng ít khi cãi nhau), không đánh mắng trẻ con, phụ nữ (phụ nữ được tôn trọng, yêu quý), trong các bữa liên hoan tiệc tùng diễn ra khá lớp lang, trật tự - khi vui là “hát” (khắp) là xòe (xe) là hút hai sừng trâu rượu cần, là cụng ly vài ba chén rượu cất (lẩu xiêu). Không đồng ý thì nói “đồng ý thôi” một cách nhẹ nhàng
Nói năng vào thưa ra gửi (xo phép), gặp nhau có lời chào “khẳn qua, xiểng qua” cho tặng nhau có lời cảm ơn chân thành và còn hẹn gặp lại. Dân bản sống với nhau kiểu công xã thị tộc nông thôn “tắt lửa, tối đèn”có nhau, chia ngọt sẻ bùi, tình nghĩa thủy chung.
Lời ăn tiếng nói của người Thái được bộc bạch trong “Quăm son Côn” (lòi khuyên răn người). Đó là những câu tục ngữ rất đậm đà bản sắc dân tộc.
- Về mặt “xưng hô” thì: Thẩu hịa me/ Ké hịa lua (Già gọi Mẹ/ vừa gọi Thím) - Ăn xem nồi, ngồi trông hướng, có ý tứ: Năng hảu bấng thí Ní hảu bấng bón (Ngồi phải xem chổ/ đi phải xem nơi) Nung sửa bang nha ngoi táng Nung xỉn hang nha ngoi tu (Mặc áo mỏng (nữ) đừng đứng trước cửa sổ Mặc váy mỏng đừng đứng trước cửa vào ra) Au mia bấng me nai Sự quai bấng me tổn lang (Lấy vợ xem mẹ vợ/mua trâu xem trâu đầu đàn) Thốm nặm sa lai hảu bấng chong (nhổ nước miếng phải xem khe dát) Khong xáu ca đi ca panh nha chăm xảu (thấy người có của quí giá đừng sán đến gần) Cốn tai pợ sốp/cốp tai pợ o (người chết vì cái miệng/ ếch chết do lắm tiếng kêu) Phua mia cu mưng nha va (tình vợ chồng chớ gọi mày tao) Quăm đi phăng cảu sok Quăm hại hí cảu na (chớ lời lành chôn chín tấc Chở lời xấu dài chín xải) Xép khẩu é kin nốt háy Quây khanh né xỉ nột bản (Đói bụng tưởng ăn hết cả chõ (xôi) Buồi cương cứng tưởng địt được (nữ) cả bản. Nha chằm díp nha khịt ton (Khi cầm nắm xôi chấm chớ có Kẹp thêm miếng thức ăn (cá thịt) - tức là đừng ăn tham - xấu. Nhay pay đón mưa đăm (Đừng có đi trắng về đen - ăn ở hai lòng). Nha du chăm nưa xiêu (Đừng có xán vào vợ người khác) Chẩu bái ngắm xiêu ngăm (Mình không nghĩ ngợi, ý tứ gì (vô tư) thì sẽ có người khác nghĩ (nhớ) đến mình). Xin trích một số câu đã trích ra tiếng phố thông: * Người Thái có luật Mường, lệ bản. Có thấp có cao/ biết cao biết thấp. * Nhiều người đắp thành bờ. Một người phá thành thác. * Không được ba hoa Không được nói phét Không được sợ việc Không được lười biếng Không được ngủ sớm Không được dậy trưa… *
Không được nhai chộp choạp Không được cái không bảo có Không được kề cà say rượu Không được đánh vợ
Không được ăn trộm Không được nói dối * Ăn cơm trước khi nuốt phải nhai Giơ dao ba lần mới chém Nghĩ ba lần mới nói * Bố mẹ nuôi không bằng thầy dạy Thầy dậy không bằng tự mình làm nên * Đông con cháu, thiếu gạo ăn Sướng con cu, mù con mắt. Những cái buồn của người Thái: “Con dại, vợ chết, bố mẹ mất sớm, anh em ở xa”
Vợ chồng xa nhau, bỏ nhau, thiếu cơm, thiếu muối Đi thuyền không có mái chèo Lạc rừng trời tối/ cơm không, chẳng có thức ăn. Đêm nằm không có vợ để ôm. Dằm (gai) chọc móng tay / ve cắn lỗ tai. Mắt mù, tai điếc Đào con dúi hang sâu / nói chuyện tình với gái nặng tai. Đắp bờ phải bùn nhão. Ăn không có bạn Ở chẳng có phường Đau bụng không có thuốc Đau mắt, đói chữ chẳng có thầy. Anh em ghét chẳng ai thương. * * *
Lai côn đi/ lai phi pương cáy / lai mạy pên hươn chăn (Nhiều người thì tốt / nhiều ma thì tốn gà - phải cúng / nhiều cây thành nhà đẹp). Đông luông báư mi mạy Chí au săng pên pá (núi rừng to không có cây Thì lấy đâu thành rừng) Lời ăn tiếng nói (tư cách đạo đức Thái) được đúc kết thành tục ngữ, thành luật Mường lệ bản để giáo dục mọi người sống, lao động trở thành những con người tốt, có kỷ cương, có tình nghĩa xây dựng bản mường - đất nước ngày một giàu đẹp. Góc thành Nam Hà Nội 19/4/2011 NK
Bài 35: QUẮM TỐ MƯƠNG
“Truyện kể bản Mường” là một bộ thông sử của tộc người Thái, ngành Thái đen trình bày những sự kiện nửa hư (truyền thuyết) nửa thực qua cuộc “mang gươm đi mở cõi” cách đây khoảng gần nghìn năm của chúa đất Thái đen ở Mường Lò (Nghĩa Lộ). Qua phần huyền thoại … đến lúc Then (trời) cho tạo Tum Hoàng xuống làm chủ vùng đầu sông Nậm Lài, Ao Xe, Nậm Tè (Sông Đà), Nậm Tào (Sông Thao)… rồi tạo Tum Hoàng cho hai em là Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống ăn đất Mường Ôm, Mường Ai ngoài vòm trời, rồi tới dựng Mường Lò Luông, cùng theo có các tay chân họ Lò, Lương, Quàng, Tòng, Lèo… tôn họ Lò làm chủ.
Lúc đó đất Mường Lò đã có người. Mọi (Mường), người Mang cư trú. Xây dựng theo Mường Lò thì Tạo Xuông ở lại lấy vợ sinh ra Tạo Lò, cho Khun Lường làm mo, Tạo Lò làm chúa. Về sau Tạo Xuông cũng trở về quê cũ Mường Ôm, Mường Ai. Tạo Lò lấy vợ sinh ra 7 con trai: Ta Đúc, Ta Đẩu, Lặp Li, Lò Li, Lạng Ngang, Lạng Quang và Lạng Chượng… các con khôn lớn, Tạo Lò chia cho các con đi làm chúa các mường: Tạo Đúc “ăn” Lò Luông, Ta Đẩu “ăn” Lò cha, Lặp Li “ăn” Lò Gia, Lò Li “ăn” Mường Min, Lạng Ngạng “ăn” Mương Vân, Lạng Quang “ăn” Xí Xam, Bản Lọm. Ngoài ra Tạo còn cho bô lão già bản Xửa Cang Ho “ăn” Mường Pục, Mường Mẻng… Rồi các cháu nội được chia đi làm chúa miền đất đầu sông Thao nước đỏ. Riêng con út Lạng Chượng không có Mường để “ăn” - “con út không có ngựa, con út không có Mường” (giàu con út khó con út là thế). '
Lạng Chượng mới bàn với các tay chân giúp việc là các ông ho hé, ông mo, ông nghe… triệu tập binh tướng, dân chúng mở lối đi tìm Mường. Quân đi đến Khau cả, Khau Pục, Mường Min thì tiến thoái lưỡng nan, chúa bèn cúng “pang cha đáp” cầu hồn ông nội là Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống phù hộ. Chọn ngày lành, quân Lạng Chượng đến Mường Lùng - dốc Khau Phạ nhìn thấy cánh đồng rộng (xã Ngọc Chiến bây giờ) bèn dốc quân vượt dốc Xam xíp vào Mường Chiến.
Tạo Mường Chiến khiếp sợ xin gả con gái, Lạng Chượng ưng ý nhận đất Mường Chiến là Mường họ ngoại. Tới Mường Chai, Tạo ở đây sợ phải dâng nhiều trâu. Binh Chúa vượt rừng rậm, qua cầu mây Vạn Tọ, không thuyền bắc cây qua Nậm Tè (Sông Đà)… đến đây vấp phải sự chống cự của người “Xá Cắm Ca” (Khơ Mú) do Tù trưởng Khun Quàng cầm đầu.
Mác Chúa ngắn nên chúa phải chạy, mác Quàng dài nên đuổi Chúa xuống Nậm Tè, bị bắt cạo trọc đầu phơi nắng, binh Chúa chết 800 người gan dạ… Rồi chúa rút binh về Ít Ong (Thủy điện Mường La hôm nay) để tang đồng đội. Rồi sau một thời gian nghỉ dưỡng rút kinh nghiệm chúa Lạng Chượng thắng Khun Quàng chiếm được đất Mường La từ Nặm Bú qua Khau Pha, Kéo Tèo, qua Nặm Cá (Chiềng An), Chiềng Căm (Thị xã), Cọ, Kẹ qua núi Khau Hào lên Mường Muổi (Thuận Châu)… gặp quân Xá của Khun AmPoi ở núi Khau Tù, Khau Cả, quân chúa đánh nhiều lần bị thua… rồi chúa lập mưu “Mỵ Châu - Trọng Thủy”xưa, xin làm rể ĂmPoi… chọn ngày lành chúa mở tiệc chuốc rượu say cho Bố vợ, rồi giết chết đoạt đất Mường Muổi.
Quân Chúa tiến lên Mường Quài (Thiên Giáo) chê đất ở đây ẩm ướt tanh hôi, bé nhỏ, qua Mường Húa, Mường Ẳng tới Mường Phăng chế đất bé trũng như vũng trâu đằm, chim cuốc chạy qua, chim đa đa chạy lại cũng thấy. Quân chúa tiến vào Mường Thanh, đất này thật tốt “nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc” (4 cánh đồng rộng ở Tây Bắc) ở đây Mường rộng lớn, tròn như cạp nong, cong như sừng trâu, cho quân lính phá rừng khai hoang làm ruộng, chia đất thành hai vùng “Xoong Thanh” cho già Nà Lếch làm mo.
Lạng Chượng làm chúa Mường Thanh lấy vợ bản Pe sinh ra Khum Pe, rồi lấy vợ sinh ra Khun Mứn. Khun Pe mất sớm, ông nội đem cháu về nuôi, sau Khun Mứn sinh Tạo Pàn. Chúa Lạng Chượng già rồi mất… cháu tiếp là Tạo Chiêu lên “ăn” đất Mường Lay, Tạo Cằm về Mường Muổi. Cứ tiếp là Tạo Chông, Tạo Thâng, Tạo Quá Lạn, Tạo Chương, Tạo Quạ, Tạo Quạ lấy nàng An Phấư ở Mường Lay làm vợ cả, và Nàng Xơ (người Xá dòng dõi Khun Quàng, ĂmPoi) làm vợ hai. Nàng Xơ sinh ra chúa Lò Lẹt. Lò Lẹt lấy tên hiệu là Ngu Háu (rắn hổ mang) làm chủ đất Mường Muội nhiều năm vào đất triều cống Đại Việt từ đấy.
Cứ thế, cứ thế… ghi chép kéo dài cho tới năm Mầng Cậu (Đinh Hợi -Đồng Khánh nhà Nguyễn năm thứ 2) quân Pháp lên đánh chiếm Mường La (Thị xã). Thời đó Tây tiến lên Pa Tần bị Tạo Điêu Văn Tri đánh cho phải lui về - Mường Lay - Mường La, mãi sau Quan 6 ở Hà Nội sai Pa Vi lên dụ Tạo Tri hàng phục - Thế là 16 châu Thái bị Tây cai trị từ đấy cho đến 7/5/1954 chiến thắng Điện Biên… *
Bản Mường Thái dưới thời thực dân Pháp đô hộ (Thành Thái thứ 2: 1890 - 1954): - Cầm Văn Oai làm chủ Mường Mụa (Mai Sơn) - Ở Mường La: Tây đóng trụ sở (kiểu tỉnh lỵ ở Tạ Bú gọi là Vạn Bú) - Cầm Văn Hoan làm Tuần phủ cai quản 9 châu Thái đen. Cầm Văn Oai ở Mường Mụa kiêm chức Quản đạo Thái đen. Điêu Văn Tri quản đạo vùng Thái trắng. Bạc Cầm Hạc làm tri châu Mường Muổi Hoàng Văn Cấp làm tri châu Mường Vạt Xa Văn Cả làm tri châu Mường Xang. 1/2/1917
Chánh xứ Lô Mét mở trường dạy chữ Quốc ngữ và chữ Tây ở Sơn La. Cũng năm đó chủ Mường La là Cầm Văn Quế lên thay cha là Hoan vừa mất, Hoan làm chủ Mường La 33 năm, khi chết, làm ma mổ 32 trâu và trồng 36 cây heo ở mộ. Năm 1919, Quế làm nhà ngói bắt dân mỗi “xổng” nộp 100 đồng bạc trắng. Năm 1922 Tây bắt dân đổi tiền “cống chảy” lấy tiền “hua cỏm” hẹn một năm phải xong, cứ 3 đồng cống chảy được 1 đồng hua cỏm. Dân mường thời đó túng tiền lắm, họ phải bán gạo, trâu với giá rẻ mạt (trâu mộng 12 đồng/1 con và mua hàng với giá cắt cổ như sợi vải, thuốc lào, 1 kg muối giá 5 hào).
Năm 1931 Tây xây nhà tù Sơn La mở đường cái ô tô đi Tạ Khoa (qua đèo Chẹn), năm 1932 Tây lại mở đường đi Thượng Lào qua rẻo Pa Háng, rồi mở tiếp đoạn Mộc Châu về Suối Rút (đường 41) người Thái gọi đó là đường Pha Lỉ, Pha Tổ… dân phải đi phụ đục núi phá đá nhiều người bị chết - con gái phải gả bán sớm (lấy tiền) Bản mường không yên vui.
Bài 36: TÁY PÚ XẤC
Cùng với “quắm tố Mướng” là truyện Táy Pú Xấc “Người Thái đánh giặc” là một sử thi tầm cỡ về “kể ông cha chinh chiến”… Táy ở đây dùng đa nghĩa, như “trên đường đi” gọi là Táy Tang, qua cầu là Táy Khua, đọc chữ là Táy Xư, kể chuyện là Táy Quắm Tố… Táy nghĩa là kể. Pú là ông nội, người tôn kính như “Bác”, Pú ở đây là ông cha, lãnh tụ, thủ lĩnh. Xấc là chiến tranh: Đi trận là Pay xấc, đánh trộm là tặp xấc, dấy binh là diệt xấc, nổi loạn là xấc phản, giặc ngoại xâm là xấc chinh mương, hay xấc cướp mường, hay xấc pua mương.
Mặt trận là nả xấc, cuộc chiến là Chộ xấc, đi chiếm đất là xấc to mương - “xấc” đánh nhau cả xâm lược lẫn tự vệ. Nội dung thư theo lịch sử của Quắm tố mướng, mở đầu từ Tạo Lò tới Cầm Nho (Kăm nho) là 50 đời. Sử thi viết theo lối hát “khắp” dùng rộng rãi trong sinh hoạt văn hóa đời thường và nghi lễ. Mở đầu là: Cạy hin pẻn ke ma bốc Nộc tót háy tai thẩy Tai thẩy tai ti non Tai cuông côn cuông kon mạy xọk Pú hók lộm khẩu heo Tông Lo Chang nháư tai thót nguông thót nga pạt phạk Tao, u, khong… Ẩy đá dẹp đá tảng lên cạn Chim gõ kiến chết già Chết già tại nơi nằm Chết trong bộng trong cành cây Xọ Cụ Tổ đổ xuống vào mộ đồng Lò Voi lớn chết rụng vòi ngà bên sông Thao, nậm u, MêKông…
Đoạn tả Lò Lạng Chượng đem quân đi đánh chiếm Mường La Mi khỏi kôn pay cón Hảư Ải Ón uôn tang Tốc Xả chi, Xả cha Tốc Mương Bá, Mương Ai Tốc Mương Chai, Mương chiến Tốc Pák chiến ti nặm hăm Tốc Pák Păm ti nặm hạk Pọng cánh quen phăn hủa Phăn hủa hảư kôn xen kôn păn pú bải Có chân sai đi trước Cho Ải Ón dẫn đường Đến Xá chi, Xá cha Đến Mường Bá, Mường Ai Đến Mường Chai, Mường chiến Đến ngủ suối chiến nơi sóng cuộn Đến ngủ suối Păm nơi nước phèn Pọng và Quen (quan và dân) đóng thuyền Đóng thuyền cho quân ức quân nghìn cụ bơi.
Đoạn kết: Bản Lụa (Thuận Châu) Ho Luông Sinh pay xảng / lau diên ké xia tạu Thẩu xia bản xia na Chắng púk hảư Ho Luông Tiên pay kín Đin na Lụa na Lài to đaư coi xảng Hák vá Sen Lộc lau Ké xia tạu Thẩu xia bản xia na Chẩu xáư hảư Pọng An dệt Sen Đin na tạu tin đán Bản Pán Vạy Mo Yên mưa khẩu Bản Té pẩu chiên vạy bấu kha Kọ pưa pang xên phon chu tang mãn hụ Bản Lăng hảư sự Phúc mưa kin Đin Na Lăng to đaư coi xảng Cựt áo quảng hom pay chom tom.
Họ Luông sinh vun đắp Bản Lụa Lại đã già lìa can Khuất lìa bản lìa ruộng Mới để Ho luông Tiên mà vào hưởng ăn Bao đất ruộng Lụa, ruộng Lài hãy quản Nhưng rồi Sen Lộc đã già lìa can Khuất lìa bản lìa ruộng Pọng An được cụ (chúa) cất nhắc làm Sen Bao đất ruộng bản Mòn hãy quản Ruộng trải tận chân lèn Mo yên vào bản Pán Bản thủa ông cha truyền lại không buông Bởi thông thạo mọi đường cúng tế Bản Lăng dành Sự phúc lên “ăn” Bao ruộng đất (ở bản) Lăng hãy quản Lo rộng tính xa dân chúng sum vầy. (Theo Vương Trung).
Bài 37: THIẾT CHẾ XÃ HỘI THÁI XƯA *
Bản (làng): Là đơn vị hành chính nhỏ nhất, là cơ sở của Mường, là nơi cư trú của các gia đình phụ hệ thuộc nhiều dòng họ. Bản trung tâm của Mường gọi là Chiềng (phát âm ở Lào là Xiêng, Xiêng như Chiềng Lề (TX Sơn La) Xiềng Khọ, Xiêng Khoảng. Loại Chiềng thứ 2 là có một bản lớn, tồn tại độc lập không trở thành trung tâm kinh tế - xã hội và chính trị của một Mường nào đó (như Chiềng Đông, Chiềng Sàng, Chiềng Khoi ở Yên Châu) có nơi gọi là Viêng (Viêng Chăn - Lào, Viêng Lán ở Yên Châu). Trong Mường có hai loại Bản:
- Bản của dân tự do (dân páy) - Bản của dân lệ thuộc (dân Thín). Đứng đầu Bản là Tạo Bản (Quan bản) thường là người dòng họ Tạo Mường - (Quý tộc) nắm giữ “Không cha truyền con nối”. Quyền lợi của Tạo bản được cấp 1 số ruộng cấp tùy nơi “khoảng 1000 bó mạ (10.000m2), chức vị thứ 2 là chá bản (chá là nói)” truyền đạt mọi tin tức công việc của bản, ruộng được cấp bằng ½ Tạo Bản, khi thôi chức vụ phải trả lại ruộng. Họ được dân bản đến giúp công xá, biếu xén thịt và sản vật. *
Xổng (Poọng) gồm 3 - 5 bản (như kiểu Tổng, Xã?), đứng đầu là Tạo Xổng thường là quý tộc, ruộng được cấp 2500 bó mạ (25.000m2), dân Xổng phải làm không công cho Tạo (được ăn cơm), dân cũng phải biếu xén Tạo Xổng. Giúp việc Tạo Xổng có Quan Xổng, Chá Xổng… mất uy tín hay chết thì dân bầu lại. * Mường: Gồm nhiều xổng, bản đứng đầu là Tạo Mường. Chết dân bản bầu mới.
Toàn bộ đất đai trong Mường là do Tạo Mường cai quản, gia đình Tạo chỉ “ăn” một đám ruộng là “lương” cấy 5000 bó mạ (50.000m2), dân phải đến làm không công cho Tạo. Theo Quắm tố mướng thì chúa đưa dân đi chiếm đất “có ruộng mới tập trung được dân cư cũng như có nước mới giữ được cá”. Có ruộng đất thì mới có bản Mường.
Từ khi Mường Lò (Văn Chấn, Nghĩa Lộ - quê tổ Thái đen Việt Nam) ra đời từ Tạo Lò thì bản Mường cũng dần dần được tổ chức thành hệ thống. Nhiều bản hợp thành Xổng (Sổng), có nơi gọi là Ngụ (dưới cấp Lý Trưởng “xã”). Một hay ba Lộng (có nơi gọi là Ken) cộng với 3 - 4 Xổng thành một Mường. Từ 4 - 8 mường trở lên thành một “chu”. Các đơn vị từ Chu (Châu), Mường, Lộng, Bản là đơn vị hành chính mà Chu là đơn vị cao nhất (cỡ cấp huyện) của địa phương. Các đơn vị Xổng, Ngụ là dưới Mường Phìa (trực thuộc Phìa). Mỗi Chu (Châu) khi mới xác lập mang tính chất tự trị, không tập quyền thành một tổ chức thống nhất ở địa phương (phong kiến sơ kỳ, có tính cát cứ sứ quân).
BỘ MÁY QUAN CHỨC Ở CÁC CHÂU THÁI SƠN LA - TÂY BẮC
Cánh đồng Mường Lò (Tông Lò) do Tạo Lò đứng đầu khai phá dựng bản, lập mường vào thế kỷ 11 (nhà Lý) đã là nhà nước phong kiến tập quyền) nhưng sử sách Thái không thấy ghi (kể cả sử Việt) vê bộ máy cai trị (quan lại) ở các Châu Thái Tây Bắc.
Theo Quắm Tố Mướng thì khi Mường Lò (mường khởi thủy) ra đời thì có phân chia: Họ Lướng dệt mo Họ Lò dệt Tạo Họ Lường (Lương) làm Thầy mo Họ Lò làm Tạo. Như vậy Tạo Lò làm chủ (Chúa) Mường Lò. Luật Mường đã xác định: Tất cả các thứ (kể cả đất đai) là của Vua, của Tạo - đó là quyền sở hữu Nhà nước. An Nha (Quan Châu) phân quyền ban cấp tất cả các sản vật thiên nhiên trong rừng, trên đất, dưới nước cho các mường phìa, Lộng, Tạo, Bản đều thuộc quyền các quan chức ban cấp chiếm giữ. Ai săn bắn được thú to, cá lớn đều phải trích phần nộp cho An Nha một đùi, cho phìa một đôi thăn, nếu không coi là phá tục lệ bản mường, tùy tội mà xử phạt. Do đó mỗi người dân phải luôn tự răn mình. “Phít nọi sia quai Phít lai bên khỏi É pảo hữ dók mi É khó hữ dók tạo quan” “Sai phạm nhỏ mất trâu Sai phạm lớn thành tôi tớ
Muốn có sẹo thì đùa với gấu Muốn béo (sưng mặt), thì đùa với ong Muốn nghèo khó thì đùa với Tạo Quan” Quy định bổng lộc dành cho các Quan chức ở các Châu Thái Tây Bắc thời phong kiên - thực dân (trước thời giải phóng 1953) là: “Làm chủ vùng đất cai trị / hưởng nương dành ruộng chia / ruộng cày nương cuốc / cuông nhốc pụa làm tôi tớ. Suối cá/ ong vách đá / mật nhung hổ gấu hươu, nai, voi, tê giác tới rừng tre măng quý - dân ai vi phạm đều bị phạt tiền, dân được tham gia cử Tạo, dựng Quan (lời ca cổ”. *
VỀ TÊN GỌI BẢN MƯỜNG
Thường đặt địa danh theo tên sông suối, núi, đất (na, nà) cỏ cây, con gì. Ở Việt Nam có 37 mường Thái chỉ có Mường Ai là có 1 bản. “Mường” nghĩa hẹp là chỉ 1 đơn vị hành chính… “Mường” theo nghĩa rộng là 1 vùng miền, đất nước Quốc gia như Mường Ngô (Trung Quốc, nước Ngô thời Tam Quốc mà Giao Chỉ phụ thuộc), Mường Lá Púa (Mường Việt), Mường trời, Mường Ma, Mường Lùm (lúm) chỉ thiên hạ, cõi đời. Đã có bản Mường là phải có Tạo (chủ mường):
Khột ma Phái mi mương Tánh Mường phái mi Tạo Khai ruộng phải có Mường Dựng mường phải có Tạo Chiềng hay Xiềng (Viêng): Là đơn vị Bản trung tâm của Mường trong (mường cuông). Chữ “chiềng” bao giờ cũng có một tên riêng khác kèm theo để biến thành danh từ riêng.
Ví dụ: Bản Ban là trung tâm của Châu Mường “Mường Mụa” (Mai Sơn) - lúc này chiềng Dong vừa là tên riêng chỉ bản Ban, vừa là tên gọi Mường trọng (trung tâm của Châu mường), đồng thời là tên của cả châu mường Mường Mụa. Châu mường Mường Sang (Mộc Châu) là Chiềng Chu; Châu mường Mường Tấc (Phù Yên) là Chiềng Hoa. Đất Chiềng ở nhiều Châu Mường xưa (Châu Lỵ) thường có hào lũy vây quanh để bảo vệ, hào lũy là (Viềng), từ đó danh từ này nhiều khi trở thành tên của Châu mường - như Viêng Lò, Viêng Chăn (Lào). Châu mường Mường La có Viêng dựng ở bản Giảng (thị xã) nên gọi là Viêng Giảng đồn phòng thủ gọi là “che”, ở Mường La đặt ở bản Ái nên gọi là che Ái ở cách xa 10km. Thời VNDCH phần lớn “Chiềng” được áp sang là “xã”.
Bản Mường trung tâm là Mường trong (Mường Cuông), ở ngoài là Mường Phìa ngoài (Mường Phìa Nọk) - Bản trung tâm của Mường Phìa ngoài cũng gọi là Chiêng (Chiềng), ví dụ: Mường Chanh là mường ngoài của Châu mường Mường Mụa có tên Chiềng Quen, Mường Sại là mường ngoài của Châu mường Mường Muổi (Thuận Châu) có tên là Chiêng Muôn. Sau 1954, ta đổi gán “chiềng” là “xã”. Bộ máy chính quyền các chức dịch phân chia thành hai đẳng cấp rõ rệt: 1. Dòng dõi quý tộc Châu mường gồm họ gốc có tên Lò Cầm (đó là họ Lò to, Lò luông) để phân biệt với Lò bé (Lò bình dân). Họ Lò Cầm phân chia ra các họ: Cầm, Bạc Cầm, Điêu (Đeo, Tao), Hoàng.
Dòng dõi quý tộc Thái có có họ Vi Khăm, Kha Khăm, (Khăm = Căm = Kim = Cầm) phân thành họ Hà, Xa (Sa). Người thuộc họ quý tộc được phép tham gia giữ các chức người đứng đầu Bản, Lọng (Quen), các Phìa và An Nha Châu Mường. 2. Người thuộc ngoài họ quý tộc như Lò, Lường, Cà, Tòng… thì chỉ được phép giữ chức dịch (cấp thấp) là người đứng đầu bản và các ông Quan hàng “Xổng”. Đó là luật tục quy định, người nào đó có thế lực muốn phá vỡ quy định này dù là quý tộc hay bình dân thì đều phải đổi họ gọi là “nhập đẳm”(tư đẳm) - ví dụ họ Vi (bé) muốn làm Phìa, An Nha thì phải đổi thành họ quý tộc Vi (lớn) phải làm khá phức tạp, tốn kém, ngược lại người họ quý tộc muốn làm chức nhỏ như Pằn (xen), mo mường… thì cũng phải đổi họ xuống thành họ Lường, Cà…
Mọi chức dịch trong của bộ máy của Mường Phìa (chế độ Phìa Tạo) đều do An Nha (Chủ Châu (huyện) và Phìa Mường tiến cử, bổ nhiệm. Khi bổ nhiệm xong, họ nghiễm nhiên tổ hợp thành một tổ chức tương đương mang tên “Hội đồng bô lão toàn mường” (Thẩu ké hang mương) do chức ông Păn (xen) hoặc mo đứng đầu). Quan hệ giữa cấp châu mường với bốn mường Phìa ngoài thì không hẳn, theo thứ cấp trên dưới mà theo cơ cấu truyền thống vòng đồng tâm xoay quanh trục. Cơ cấu này quy định: Mường trong với bản trung tâm gọi là Chiềng là Trục, còn các Mường ngoài ở vòng đồng tâm.
Trước thế kỷ 19, các Châu Mường Thái hợp thành khu vực “16 châu Thái” (Xíp hốc Châu Tay) - trong dó có 1 châu mường trung tâm, các châu mường khác tập hợp dưới hình thức thuần phục hay qui phục “Mường Luông” (Mường lớn). Triều đình Trung Ương từ Lý, Trần, Lê, Nguyễn gọi đơn vị Mường Luông là “đại tri châu”, đến năm 1834 vua Minh Mạng đổi (xóa bỏ) chế độ đại Tri Châu và đặt ra các Châu (huyện vùng dân tộc), đặt các Châu Mường Thái thuộc tỉnh Hương Hóa (trung tâm ở Hương Hóa, bên bờ sông Thao, Phú Thọ hiện nay).
Đến năm 1884, đất nước ta mất 6 Châu mường Thái nhập vào bản đồ Trung Quốc theo Hiệp định Thiên Tân ký giữa thực dân Pháp và triều đình Mãn Thanh. Tổ chức xã hội theo các đơn vị Mường xưa là một bước đệm chuyển từ tổ chức thị tộc, bộ lạc nguyên thủy (xã hội Thái gọi là Đẳm) sang tổ chức Quốc gia dân tộc.
Thuộc ngữ “Mường” không còn là như một quốc gia dân tộc nữa, người Thái ở Lào, Thái Lan đã mượn danh từ gốc Pali - SanoKis là Pa Thết để chỉ đất nước (Mường Pa thết Lào) Đấy cũng là lý do, trong dân gian vẫn quen gọi nước Thái Lan là Mường Thay, Lào là Mường Lào. Người Thái ở Việt Nam như chậm hơn mới đi từ Đẳm đến trình đô bản mường (dưới cấp quốc gia) rồi phát triển gia nhập quốc gia dân tộc Việt Nam (Pa thết Việt Nam). (Thái Việt Nam chưa lập “Nhà nước riêng” mới ở dạng tự trị Bản Mường).
QUAN HỆ DÒNG HỌ GIA ĐÌNH VÀ HÔN NHÂN
Người Thái có ba quan hệ về họ hàng: 1. Ải noọng: Gồm anh em, chị em chưa xây dựng gia đình sinh ra từ một (cùng mẹ cùng cha hay khác)- nội tộc 4 đời. 2. Nhinh Sao: Là họ nhà trai hay thuộc khổi Ải noong và rể.
3. Lung Ta: Họ nhà gái (bên ngoại).
Bài 38: KHU TỰ TRỊ THÁI MÈO
Toàn cảnh thị xã Sơn La Ngày 29 - 4 - 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh (VNDCCH) ký sắc lệnh thành lập khu tự trị Thái Mèo (sau đổi là khu tự trị Tây Bắc). Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa V phê chuẩn xóa bỏ cấp khu và hợp nhất 1 số tỉnh. Hội đồng nhân dân khu tự trị Tây Bắc họp ngày 19 - 20/1/1976 tại thị xã Sơn La (thủ phủ khu tự trị) công bố quyết định của Quốc hội (thời Tổng bí thư Lê Duẩn) kết thúc 20 năm tồn tại của khu tự trị. Thành tựu: Theo báo cáo 20 năm hoạt động của khu tự trị Tây Bắc, ngày 19-1-1976 của UBHC khu thì:
1, Về chiến đấu đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ xâm lược.
Toàn khu có 82 xã trực tiếp chiến đấu, 16 xã bắn rơi máy bay mỹ và 21 xã bắt sống giặc lái, sản xuất được giữ vững, huy động 562000 lượt người với 95 nghìn mét khối vật liệu đá đảm bảo giao thông phục vụ chiến đấu. 2, Kinh tế: Từ 1954 thực hiện “cải cách dân chủ” (ở xuôi là cải cách ruộng đất) đã xóa bỏ chế độ bóc lột cuông nhốc (chế độ Phìa Tạo), xóa bỏ ruộng chức, chia ruộng cho nông dân lao động, đã đưa 79% hộ nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp - 50% số HTX lập được kế hoạch sản xuất hàng năm, thực hiện 3 khoán - những HTX tiên tiến như Nậm Mùn, Bản Phủ (Lai Châu), Púng Luông, Cao Đa (Nghĩa Lộ), suối Lìn, Kim Chung (Sơn La)… So với năm 1955 thì sau 20 năm, giá trị sản lượng nông nghiệp tăng 228%, bình quân hàng năm tăng 16%, diện tích trồng lúa tăng gấp 7 lần, diện tích hoa màu tăng 2 lần. Đã có 195 HTX đạt trên 5 tấn thóc/1 ha.
Đã hình thành các vùng sản xuất chuyên canh lớn như bò, chè Mộc Châu, Cam Đường, vùng chè Văn Chấn, vùng lúa lợn Điện Biên, vùng ngô Nà Sản… Hàng năm khai thác 28000 m3 gỗ, 2,5 triệu cây tre nứa, 7000m3 củi, có 13 lâm trường, 50 HTX nghề rừng. Cây chè cả khu có 5000ha thu 7000 - 8000 tấn/ năm. - Về chăn nuôi: Ngay sau ngày giải phóng 1953 - 1954 toàn khu mới có 63.000 con trâu, 28.000 con bò, 5000 ngựa, 137.000 lợn, sau 20 năm phát triển có 140.000 trâu, 43.000 bò, 52.000 ngựa, 313.000 lợn. Hằng năm cung cấp cho miền xuôi: 2000 con trâu, bò cày kéo, trên 2000 tấn trâu bò thịt. Về công nghiệp - thủ công nghiệp: Năm 1955 mới xây dựng được xí nghiệp đầu tiên “cơ khí Thuận Châu” với giá trị sản lượng khoảng 7000đ/năm, (giá 1kg gạo là 3 hào).
Sản xuất công cụ: Từ 1962 phát triển công nghiệp địa phương (điện, cơ khí, vật liệu xây dựng, may mặc, chế biến nông sản…) sản xuất tới trên 40 loại sản phẩm, trị giá 1974 là 25 triệu đồng. 1955 cả khu mới có 1 nhà máy thủy điện 24 KW, chưa có điểm cơ khí nhỏ nào thì sau 20 năm đã có hàng nghìn KW nhiệt điện, 30 trạm thủy điện nhỏ từ 5 50 KW, có 250 điểm cơ khí nhỏ. Giao thông: Đã mở mấy đường ô tô liên tỉnh, xuống tới huyện gần 3000km. Sơn La mở đường lên vùng cao CoMạ, Nghĩa lộ lên Trạm Tấu, Lai Châu lên Mường Tè, xây hàng trăm cầu cống lớn. Đảm bảo cho 1 đầu dân cung cấp hàng năm 6 kg muối; 4 mét vải, 3 kg dầu hỏa.
Giáo dục: Trước 1954: 99% dân mù chữ, chỉ có 25 trường tiểu học với khoảng 750 học sinh. Đến 1974 - 1975 thì đã có 1974 lớp mẫu giáo với 3720 cháu, 2181 lớp vỡ lòng với 49.982 học sinh, 449 trường phổ thông cấp 1 (tiểu học) với 24.989 học sinh, 107 trường cấp 2 (Trung học cơ sở) với 14.461 học sinh và 13 trường PT cấp 3 với 2193 học sinh, có trường dân tộc nội trú (riêng cho con em dân tộc Mèo) có 350 - 400 em theo học từ vỡ lòng đến cấp 2. Y tế: 90% xã có trạm y tế, có 40 bệnh viện và bệnh xá với 2000 giường . Văn hóa văn nghệ được phát triển.
Chính trị: Có 17 đại biểu Quốc hội khóa V (trong đó 13 là dân tộc thiểu số), bộ máy UBHC các cấp: Số cán bộ người daan tộc chiếm 76 - 80% (số cán bộ dân tộc 20 năm tăng từ 865 lên 9575 người, số có trình độ trung học, đại học là 934 người trong số 8722 người), số cán bộ lãnh đạo các cấp từ 375 người (1955) lên 4324 người (1974). Trích báo cáo do ông Lò Văn Hặc Chủ tịch UBHC khu tự trọ Tây Bắc trình bày./.
Bài 39: LUẬT TỤC THÁI
Luật tục Thái là một luật lệ bản Mường thời phong kiến sơ kỳ với uy quyền rất lớn của chúa đất mà cao nhất là An Nha (1 châu) Luật tục Thái phân biệt rạch ròi với 47 loại người và 17 loại tội phạm trong xã hội. Luật tục quan tâm cả các đấng thần linh, môi trường thiên nhiên, nó có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ của con người đối với thiên nhiên, trời đất, núi sông, rừng rú. Đây là cơ sở để thi hành công lý, ngăn ngừa tội ác, là đạo lý làm người. Mỗi Mường (Châu) có luật tục riêng. - Phần đạo làm người: là những quy ước ứng xử cá nhân - Phần tục lệ cưới xin - Tang ma………….ví dụ
LUẬT LỆ NGƯỜI THÁI ĐEN Ở THUẬN CHÂU Mở đầu: nói chút về lịch sử người Thái theo Quắm Tố Mướng. 1. Ranh giới đất Mường Muổi: Tục ngữ có câu “Mườnng Muổi rộng phía sông Mã, Mường La rộng phía Sông Đà”. Mường chia ra các Xổng (ngũ), lộng, quen. Châu Mường Muổi có 5 mường Phìa: - Mường Muổi (Chiềng Pha) là mường trong mường, vua kinh gọi là Xuân Mai. Các mường phìa phía ngoài có: *
Mường Lầm phía sông Mã, vua kinh gọi là Nam Trịnh * Mường Sại phía Sông Đà, vua kinh gọi là xã Khinh Khoái. * Mường Piêng (xã Thanh Bình) * Chiềng Pấc (Trịnh Bắc) Mỗi một Mường Phìa chia nhiều bản, nhiều Giáp. Giáp nào ở xa Mường thì gọi là “lộng”, lộng bé thì gọi là Quen.
Mỗi một Mường Phìa chia thành nhiều xổng (vua kinh gọi là Ngũ) người Thái quen gọi là Xổng Ngụ. Mường trong Mường Muổi có 4 xổng ngụ, ngõ Mường phía ngoài có 3 xổng ngụ. 2, Phong cấp bậc hàng châu được xếp đặt theo lệ như sau:
- An Nha là gốc của Bản Mường (Tri Châu) giúp việc có Phìa Thổ (thư lại) phìa thông (thông lại). Mường phìa có Phìa Lý (vua kinh gọi là Lý trưởng); phìa phó (phó lý) 2 phìa này coi trông bản Mường mình. Có 8 chức ông ở Xổng (vua kinh gọi là kỳ mục) từ ông xen (pằn) đến tận ông chá hườn. Có ông mo, ông nghè, ông chang, giúp quản lý luật lệ, cúng tế. 3, Quyề n lợi bổng lộc các quan chức. An Nha ăn 10 mẫu ruộng trong phạm vi bản chiềng đi (chiềng ly), thu “thóc lười” (tô thuế) của dân hàng Châu: mỗi mẫu phải nộp một tạ thóc. Án Nha có 9 bản nhốc (làm dịch vụ)
Thư lại ăn 6 mẫu ruộng Chiềng Đi hưởng 3 bản nhốc. Thông lại ăn 5 mẫu ruộng Chiềng Đi, 3 bản nhốc. Phìa lý (lý trưởng) ăn 5 mẫu ruộng, phó lý ăn 3 mẫu ruộng. Ông xen đứng đầu Xổng Pằn ăn 8 mẫu Ông Pọng đứng đầu Xổng Pọng ăn 6 mẫu Ông Ho Luông đứng đầu Xổng Ho Luông ăn 4 mẫu ruộng Ông Pọng Cang đứng đầu Xổng Phọng Cang ăn 3 mẫu ruộng Ông quan xư (ho cang) ăn 2 mẫu (giúp việc ông Xổng Phọng Caug) Ông Ho Hé ở bản Lăng ăn 2 mẫu giúp việc ông Xổng Pằn. Ông Pụa ở bản Púng ăn 2 mẫu giúp việc ông Xổng Pọng.
Ông Chá hươn ở bản Lẹng ăn 2 mẫu giúp việc ông Xổng Ho Luông. Khi Phìa xức nộp thuế thì ông Xổng phải xức đến quan bản, quan bản bổ xuống đầu dân Mường phải nộp đầy đủ. Khi Phìa xức phu phen xuống đến xổng nào, thì ông Xổng xức Quan bản cắt phiên đi phu từng nhà…ông Xổng dẫn phu nộp cho Phìa Lúc nào An Nha, phìa cần gì thì gọi ông Xổng tới hầu Mỗi xổng có: Quan pách: về tư pháp (ăn 1,5 mẫu) các pách xông chia làm quan các bản
Dưới quan pách mỗi xổng có 2 giúp việc là Quan Phòng Dưới quan phòng mỗi xổng còn có 2 Quan chiềng quản lý việc xây dựng nhà cửa, đốc thuế, mường phai, cúng mường, Quan chiêng ở xổng nào thì do người ở đó làm …vv…
Mỗi bản có quan bản (tạo bản) giúp việc có chá bản, 1 bản có 7-8 mẫu thì quan bản được 3,5-4 sào. Ở Mường Muối ngoài 4 xổng ở trong Mường còn có 5 lộng (Mướng É, Mường Bán, bản Pịn, Muội Nọi, Chiềng Đa) mỗi Lộng có 1 Tạo Lộng. Mỗi Lộng có bản Quen (Ken), do 1 Tạo Quan đứng đầu 4, Lệ xin làm chức dịch: Ai có tên Quảng, tên xự (được Bản mường) đặt cho thì mới được phép xin làm Quan bản, đi từ thấp lên cao, có “tiền xin chức” nộp cho An Nha (tri châu). 5, Về kiện cáo, phạt vạ: Án Nha có quyền phạt vạ thu từ 1,2 nến đến 12 nén bạc Thư lại được phạt vạ từ 1,2 - 6 nén bạc Quan chiềng, quan chá, quan bản được phép An nha (phạt vạ thu 5 đồng cân đến 4,4 lạng bạc). 6, Quy định về phu phen tay dịch 7, Về bắn súng nhầm, làm cháy nhà, do đi săn bắn nhầm chết người, phải góp tang ma:
- Dựng 1 cây “heo” có 20 vải cờ - Mổ 1 con trâu tang lễ - Tiền xuống nước, xuống lửa 3 lạng bạc - Tiền đắp cản nước mắt 1,3 nén bạc Làm cháy nhà mình để lây sang nhà khác bị phạt: 3 lạng, 2 trâu 8, Săn được thú to phải biếu xén: - Đùi to sau biếu An Nha, các phìa - Thịt thăn to biếu ông Xen - Đường thịt thăn trong biếu ông Pọng - Thăn treo biếu ông Ho Luông ..vv… 9, v.v làm cuông nhốc: quy định như sau: Những bản phải làm cuông nhốc trong mường làm theo Luật định, bản ở xa ở xổng nào thì làm cho xổng đó. Các chức dịch phải dẫn dân cuông nhốc bản mỉnh được đi vỡ hoang, làm thủy lợi, lập bản.
Người Xá Khao (Kháng) ở bản nào đều phải là cuông nhốc ở đó. Người Mèo không phải làm cuông nhốc nhưng phải nộp thuế, nộp lợn gà cúng tế ở mường. 10, V.v làm cho người (nữ) bị chửa hoang và chửa trước khi thành vợ: - Án Nha, thư lại thông lại bị tội này cũng bị phạt 12 nén bạc, làm trước (ăn cơm trước kẻng) bị phạt 6 nén. - Con chức dịch (Tạo và nàng) đi chơi bị làm chửa, phạt 6 nén bạc Đàn bà góa nhà Án Nha phìa tạo tội chửa hoang phạt 12 nén bạc. - Ai đó ngoại tình: phạt 12 nén bạc - Làm chửa không chịu lấy (kể cả gái) bị phạt cho cả 2 phía. - Quan chức bị phạt được An Nha giảm ½ số bạc. 11. Xử phạt trộm cắp: - Ăn cắp hoa màu phạt 1,2 nén bạc, nếu là con nhà chức dịch thì bị tăng gấp 2
- Ăn cắp thóc lúa: đền gấp 2, phạt 1,2 nén bạc. - Ăn cắp trâu bắt làm tôi đòi (nô lệ) cho Phìa Tạo, nếu không phải phạt gấp 3 lần (3 trâu) 12. Ngoại tình: - Vợ ngoại tình: nếu chồng bắt được có quyền giết chết, đánh đập kể cả tình nhân, không coi bị án mạng, kiện thì được 12 nén bạc - Đàn ông ngoại tình: bị chồng người ta đánh giết cũng không bị tội, kiện bị phạt 12 nén bạc. 13. Bổng lộc cho các quan trong phòng cúng lễ:
- Ông Mo ở bản Pán hưởng 3 mẫu ruộng, lấy người 2 bản làm nhốc - Ông Nghè ở bản Pán hưởng 1 mẫu ruộng và 1 bản làm nhốc… 14. Đất nước, rừng và cúng lễ: Mường bản chỗ nào mà chẳng có ma (phi) phù hộ: cấm không được vi phạm những nơi sông, núi, ao thiêng… 15. Cúng Mường: tục lệ quy định là: 1/- Xên cha (lễ cúng Mường) là lớn nhất thuộc lệ hàng Châu Mường, tổ chức vào ngày “cúng nhà” cho An Nha… 2/ Xên Mường: lễ có 1 trâu, 1 bò, 5 lợn, 1 chó, 1 vịt, 32 gà + rau quả…lễ ở gian “tạy” của nhà An Nha. 3/, Xên kẻ khó Mường (cúng giải hạn cho Mường): 1 trâu, 3 lợn, 10 gà, 1 chó cúng ở nơi “cửa hồn chiềng” phía “cửa xen” phía trên Mường mé cuối dòng suối. 4/, Cúng hồn chiềng: Cỡ như trên làm ở “cửa hồn chiềng” phía “cửa pọng”.
5/, Cúng tiễn tối tớ ma nhà:…. Dựng lều ở sân nhà An Nha. 6/, Lễ cúng điều lành. 7/, Tế đen trắng: 2 trâu 1đen/1 trắng cúng hồn Mường và họ ngoại Tạo ĂmPoi. 8/, Tế ở cửa suối Muội: Cửa sông Nặm Muội là nơi có khu rừng già nguyên sinh ở Mường Sại. Đó là nơi cụ chủ “Ngu Háu Cầm Lò Lẹt” đã dựng nhà cúng tế tổ họ Tạo - tổ tông người Thái đen: 1 trâu đen. 16. Lễ cúng cho mỗi người, mỗi nhà.
Bài 40: QUAN CHỨC VÀ TRÍ THỨC
Người Thái ở Sơn La, trước 1962 (tái lập tỉnh) coi như chiếm số đông nhất. Thời phong kiến tầng lớp quý tộc, thầy mo đều được học hành, có chữ nghĩa…nên Phìa Tạo và con em họ thường vừa là chức sắc (hay sẽ làm chức sắc) vừa là trí thức ở địa phương. Thời Lê Trịnh, triều đình đặt chức “phụ đạo” để cái quản các Châu Mường. - Châu Phù Hoa (Phù Yên): Phụ đạo là Cầm Nhân Đôi, sau con là Cầm Nhân Cai kế tập. - Châu Mộc; phụ đạo là Xa Văn Phấn (tổ tiên là Xa Khả Tham, làm quan Đại tư mã hồi đầu nhà Lê). - Châu Mai: Phụ đạo là Hà Công Ứng, sau con là Hà Công Bình kế tập. - Châu Mai Sơn: Phụ đạo Cầm Nhâm Tuần - Châu Sơn La: Phụ đạo Cầm Nhân Mang. - Châu Thuân: Phụ đạo là Bạc Cầm Chính. - Châu Quỳnh Mai: Phụ đạo là Điêu Chính Thiêm. - Thời xã hội chủ nghĩa (sau 1955…) về tri thức ở Sơn La nổi bật có 1/ - Gia đình nhà thơ Cầm Biêu vốn là thầy giáo, sau làm trưởng ty văn hóa, em trai là Phó giáo sư - Tiến sỹ Cầm Cường, giảng viên Đại học tổng hợp Hà Nội, ông có nhiều công trình giá trị về Dân tộc học.
Em trai là: Đạo diễn nổi tiếng Cầm Kỷ với các film “Chom và Sa”, “Trở về Xam Sao”. Con trai là Tiến sĩ ngành ngân hàng Cầm Kiên, phó giám đốc Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam. 2/ - Nhà dân tộc học Cầm Trọng: với tác phẩm nổi tiếng “Người Thái ở Tây bắc Việt Nam” và nhiều tác phẩm khác. 3/ - Hoàng Nó (Cầm Văn Lượng) - nhà giáo nhà thơ - làm tới chức Bí thư tỉnh ủy Sơn La, ủy viên trung ương Đảng CSVN. 4/ - Cầm Ngoan: Phó chủ tịch khu, chủ tịch UBHC Nghĩa Lộ, Sơn La, phó chủ tịch Quốc Hội. 5/ - Cầm Liên (Cầm Văn Yêu) - Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La 6/ - Nhà văn Sa Phong Ba (Sa Viết Sọi) sinh 1948, Thái ở Cao Đa (Bắc Yên) Hội Viên Hội nhà văn Việt Nam, có nhiều truyện ngắn đặc sắc.
7/ - Điêu Chính Ngâu, Thái trắng Quỳnh Nhai, dịch đầu tiên ra tiếng phổ thông “Sống chụ son sao” (Tiễn dặn người yêu). 8/ - Nhà thơ Cầm Hùng (1945) quê Chiềng Xôm (Thị xã Sơn La) thượng tá, chủ tịch Hội văn học nghệ thuật tỉnh Sơn La. 9/ - Nhà nghiên cứu văn nghệ dân gian Hoàng Trần Nghịch (1934) quê Sông Mã, đại học, có nhiều tác phẩm sưu tầm, nghiên cứu dịch thuật. 10/ - Nhà thơ Lò Vũ Vân (1943) Thái, Noong Đa (Bắc Yên). 11/ - Họa sĩ Lò An Quang (Bản Cọ, TX) 12/ - Nhạc sĩ Cầm Bích 13/ - Nhạc sĩ Cầm Minh Thuận (1944) Phù Yên, có “giao hưởng bài ca Tây Bắc” “Liên khúc tiễn dặn người yêu”.
14/ - Nhà thơ Vương Trung (Lường Vương Trung) Mường É, Thuận Châu - 1938 - Hội viên hội nhà văn VN. Tác phẩm: Ing Éng (thơ), Mối tình Mường Sinh (tiểu thuyết), dịch Táy Pú Xấc, Chương Han. 15/ - Nhà thơ Lò Văn Cậy (1928-1994) quê Sốp Cộp (Sông Mã) Hội viên hội nhà văn Việt Nam. Có tuyển tập thơ Lò Văn Cậy. 16/ - Nhà thơ Lò Văn E (1933-1995) quê Sốp Cộp. 17/ - Phó giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Lương (1944) Thái Phù Yên, chủ nhiệm bộ môn Dân tộc học, khoa sử Đại học Quốc gia có nhiều công trình về dân tộc học.
18/ - Nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa (nữ, hát) 19/ - Phát thanh viên VTV1 Cà Kỳ Vọng (Người bản Phiêng Ngùa). Đặc điểm: Các quan chức ở Sơn La xưa và nay đứng đầu bản Mường, xã, huyện, tỉnh thường là trí thức người bản địa (Thái, Mèo), có uy tín với nhân dân, có năng lực quản lý (cai trị) có tín nhiệm với trung ương. Từ sau khi tái lập tỉnh các vị như Hoàng Nó (Bí thư tỉnh ủy), Cầm Liên (chủ tịch UBND tỉnh), Cần Ngoan (Chủ tịch UBND tỉnh Kiêm phó chủ tịch Quốc hội), Thào Xuân Sùng (HMông, Bí thư tỉnh ủy), Tòng Thị Phóng (Bí thư tỉnh ủy rồi là ủy viên Bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội), Lù Văn Que (phó chủ tịch UBND tỉnh, thứ trưởng UB dân tộc của chính phủ); các tướng như Lò Văn Nhài, Cầm Xuân Ế…, các anh hùng liệt sỹ như Lò Văn Giá, Chu Văn Thịnh là những tấm gương tiêu biểu, niềm tự hào của nhân dân các dân tộc Sơn La qua 2 cuộc kháng chiến và xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp.
Bài 41 TANG LỄ THÁI
Nghi thức chung: nhà nào có người mất, báo Trưởng tộc đến chủ trì, chọn 1 nhóm dâu rể đến túc trực - rồi phát tang. Chết, rất kiêng kỹ ngày “mão” đó là ngày con Ong, ngày vất vả - nếu chết vào ngày này là phải đắp chiếu coi như còn sống (Kiểu ở xuôi để cưới chạy tang) chờ hôm sau mới coi là “chết”.
Ngoài ra còn kỵ ngày Hợi, phải đợi giờ Dần làm giờ chết để trị các loại ma (phí). Sau khi tắt thở: con cháu vuốt mắt, tắm nước lá thơm, thay quần áo mới nhất rồi khâu vài đồng bạc trắng vào cổ áo (khót ngân khót có sửa) và vào 2 mông quần, khâu phía đầu mảnh vải căng trên cây nêu (co cao) ngoài mộ.
Cây nêu làm bằng cây tre cao 5-7 mét dựng hướng về Nậm toóc tát (thác đầu nguồn) có cành ngang để treo áo người quá cố (đàn ông áo đỏ, đàn bà áo dài) trên dọc cây nêu có dải vải màu trắng và đen ở giữa có mảng thổ cẩm, đối với người già, dải vải dài 7 xải, tuổi trung niên 3 sải rộng 1 gang tay, đó là cờ ma (mạng lỉu heo). Trên cây cao buộc con ngựa gỗ “ngày về trời theo cánh ngựa bay”, hướng về đầu thác nước để hồn có ngựa cưỡi bay về trời. Bên cạnh cây nêu buộc 1 máng nứa có thóc có cỏ cho ngựa (gỗ) ăn.
Riêng hồn người thì không phải đem theo thức ăn vì đã có ông thầy Mo cúng bái “làm tang” (dẫn nhập hồn vào Mường ma) “Pết cáy Xam háp bung, Xam háp khẩu nặm pay toi” (gà vịt 3 gánh, cơm nước 3 gánh đem theo nồi). Cây nêu bên mộ sau 1 tháng tự đổ là điềm tốt nghĩa là hồn đã về trời (người kinh là sau 49 ngày cúng cơm) chưa đổ là gở với gia chủ, nên do đó khi chon cây nêu phải chọn người biết làm, gần gũi với tang chủ. Khi khâm niệm (cộn pang) phải có 2 mảnh thổ cẩm lót dọc 2 sườn xác - quần áo buộc dọc xác và có dây buộc hộ tro hỏa táng (sai chaư).
Mỗi con đẻ có 1 bộ quần áo để vào cái “sa” đặt bên quan tài, con dâu thì mỗi người 1 dải vải trắng vắt buông phía trên quan tài, con trai được đứng trước ngực người quá cố, con gái ngồi ngang thân quan tài, con dâu đội khăn chóp trắng, áo đen dài, khẩu vải thổ cẩm đỏ vào tà áo ngồi phục bên cửa vào của nhà sàn.
Không được đến gần nơi quan thi hài. Khách viếng, con dâu ngồi phục cảm ơn tiễn khách, cơm trưa và chiều cúng thủ lợn, 4 chân, tim gan, rể phải đưa cỗ vào cúng bố mẹ vợ, không có thì cháu rể thay, cỗ có 3 mâm, mâm gạo và hoa quả, mâm vịt luộc, mâm lợn luộc: mỗi mâm có 4 chén nước, 6 chén rượu và 50 xải vải trắng gấp gọn đặt trên 1 thang tre, con rể cả khấn “ông, bà đi, chúng tôi con cháu đã lo được mâm cỗ, xin nhà ngoại nhận cho”.
Sau đó trải tấm vải trắng lên quan tài, trên đó có những miếng vải nhỏ như đuôi cá viết chữ Thái kể công đức người quá cố, cầu mong ông (bà) phù hộ. Xong xuôi bên rể nâng vải lên đầu làm cẩu cho hồn đi qua tới khi ông mo đọc hết bài cúng. Sau khi viếng, cúng…đem thi hài đi hỏa tang. Xác được bó vải đặt trên 1 cái kiệu tre khiêng ra gò đất cao cạnh Paheo (nghĩa địa - rừng ma) chất củi xung quanh đổ thêm dầu hỏa rồi châm lửa đốt, tro xương cho vào 1 chum nhỏ đem chon vào huyệt mộ… Tục ngữ có câu “cốc cồ lộn báư bên/ vên tai báư hụ” (không tự nhìn thấy gáy mình/ ngày chết không ai biết trước), sinh có hẹn, tử bất kỳ là vậy!
Bài 42 CỔ TÍCH
1, Tháp Mường Và: ở Sốp Cộp (huyện mới tách từ huyện Sông Mã, là Tháp của dân tộc Lào). 2, Đền thờ vua Lê Thái Tông (1423-1442) và văn bia Quế lâm ngự chế. Là vua trẻ anh minh, vua đã 2 lần thân chinh lên Sơn La dẹp loạn phản nghịch. Vào tháng 3 năm canh thân 1440 và 1441 trên vách đá (núi) nhìn xuống cánh đồng Chiềng An có khắc 1 bài thơ chữ Hán “Quế Lâm Ngự Chế” nhằm khẳng định sự toàn vẹn lãnh thổ và mong thiên hạ thái bình. Trải qua 500 năm chữ khắc vào đá còn rõ nét ở cửa Động La.
Đền thơ vua Lê Thái Tông mang dáng dấp đền cổ Việt Nam (khởi công 9/2001, khánh thành 22/1/2003) để ghi công đức vua và là nguyện vọng chính đáng của nhân dân Thành phố Sơn La hôm nay ở tổ 2, phường Chiềng Lề. Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì 2 năm 1440 và 1441 vua Lê Thái Tông đi đánh tên phản nghịch Nghiễm ở Châu Thuận Ma, đem quân theo người Ai Lao (Lào) làm phản. Vua thân chinh điều khiển 6 quân tới trị nó. Thượng Nghiễm kế cùng lực tận, dâng voi xin hàng.
Ta thương nó quỳ bò không mang vũ khí, không nỡ chém, bàn tha tội cho nó, rồi đem quân trở về, để lại bài thơ khắc trên vách hang Thẳm báo kế: Nghĩ đến người xa đêm khổ tâm, Thổ tù sao lại dám quên thân Thế gian đã có anh hùng chúa, Thiên hạ ai tha kẻ nghịch thần…
Đường xá khó khăn đừng cậy hiểm, Hang cùng đá ấm áp hơi xuân Yên được dân lành nhơ nhớp hết, Dân xa được hưởng tấm lòng nhân. (Năm đầu niên hiệu Đại Bảo) Canh thân 1440. Nguyên văn chữ Hán là: Bộ chẩm lưu tâm niệm viễn chân, Man tù hà sự tốc vong thân. Thế gian nhược hữu anh hùng chủ, Thiên hạ thùy dung phản nghịch thần. Ồ đạo duyên vân không thị hiềm, Âm nhai rương noãn kỷ diên xuân. Cách trừ ô nhiễm an dân thiện Nhẫn sử hà mạnh ngoại chí nhân.
3, Di tích nhà tù Sơn La trên đồi Khau Cả (Thành phố Sơn La): Pháp xây dựng năm 1908, giai đoạn 1930 - 1945 chúng giam cầm đày ải 1007 lượt chiến sĩ cách mạng Việt Nam với các tên tuổi lớn như các ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Trần Huy Liệu, Lê Thanh Nghị, Song Hào, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Cơ Thạch, Mai Chí Thọ, Trần Quốc Hoàn, Hoàng Tùng, Tô Hiệu. 4, Nghĩa trang liệt sỹ Tô Hiệu và các liệt sỹ hi sinh ở nhà tù Sơn La, ở thân đèo Khau Cả phía quốc lộ 6 lên Thuận Châu (Xem thơ “Qua thăm gốc ổi” của Trần Huy Liêu).
5, Sân bay Nà Sản: Tháng 10/1952 quân đội ta bao vây tấn công đợt 3 vào Nà sản…đã làm quân Pháp mở ra bài học để Đại tướng Henrie Navare hi vọng sử dụng căn cứ mạnh, có yểm hộ của máy bay và lấy mẫu từ 1 căn cứ ở Miến Điện của quân Anh để xây dựng cứ điểm Điện Biên Phủ “dụ” tướng Giáp lên quyết chiến…(căn cứ Nà Sản là để ngăn quân ta tiến công quân Pháp ở Lào). Ngày 9 - 8 - 1953 quân Pháp rút khỏi Nà sản bằng không vận sau 1 thời gian cầm cự.
6, Ngã ba Cò Nòi: 1 địa danh đã đi vào trang sử vàng chói lọi của TNXPVN, nơi có đài tưởng niệm 100 chiến sĩ TNXP hi sinh, tại đây để phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. 7, Di tích cách mạng Lào ở bản Lao Khô, Xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu.
Bài 43. ĐÈO PHA ĐIN
Nơi trời ghé xuống hôn mặt đất Núi vồng lên ôm ấp mây trời Cứ như thể ta bay vào bát ngát Giữa đất trời hạnh phúc sóng đôi (NK)- Tên đèo Phạ là trời, Địa là đất, hàm nghĩa đây là nơi tiếp giáp giữa đất và trời trên QL 6 từ Thuận Châu Sơn La đi Tuần Giáo (Lai Châu) ở cây số 360 - 392, đèo dài 32 km, điểm cao nhất 1648 mét, nơi có cột truyền hình nặng 70 tấn, chịu sức gió 200km/h; dốc đèo 10% - 19%.
Ở chiến dịch Điện Biên Phủ đoạn đường trên đèo Pha Đin phía ta có 8000 thanh niên xung phong “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, suốt 48 ngày đêm máy bay Pháp dội bom chặn đường lên của quân ta. Từ năm 2006 - 2009 sửa Quốc lộ 6, đèo cũ được bỏ (tránh), làm đường mới ở độ cao thấp hơn phía trái Quốc lộ 6 cũ, cao khoảng 1000m (thấp hơn cũ 200 - 400m) xe cộ đi lại dẽ dàng. Đèo Pha Đin có thể coi là thắng cảnh “đệ nhất hùng quan” của Sơn La - Tây Bắc nắng gió, sương mù, mây ngợp luôn, mát lạnh, thanh sạch như 1 cõi thần tiên khi ta lên tới đỉch. 10/3/2012.
Bài 44: SUỐI, MÓ NƯỚC NÓNG
1, Suối nước nóng Bản Mòng (Thành phố Sơn La) cách trung tâm thành phố 6 km về phía Tây Nam có suối nước nóng bản Mòng, nhiệt độ là 38oc nhiều chất khoáng tốt cho điều trị khớp, thần kinh… 2, Suối nước nóng Ngọc Chiến ở độ cao 1800m/s mặt biển, nơi cư trú 3 dân tộc: Thái trắng, Hmông, LaHa nơi nhiều Táo mèo (Sơn tra). Có mỏ nước nóng chảy qua bản Lướt, tắm gội đẹp da. 3, Mỏ nước thần ở bản Miềng, xã Mường Lèo, rất ấm từ núi chảy ra, tắm chữa bệnh. 4, Chỗ bản Ít tong (huyện lỵ Mường La) cũng có 1 khúc suối nước nóng, mùa đông bốc hơi nghi ngút, nóng gần 50o đượm mùi khoáng: tắm, uống đều thấy khỏe hẳn ra.
Bài 45 LỄ HỘI LUNG TA
Người Thái trắng (Quỳnh Nhài và các noi) thường thì vào chiều 30 tết âm lịch…coi như thời điểm chuyển giao từ năm cũ sang năm mới. Mọi nhà chuẩn bị tết, còn cá nhân thì tắm gội mặc quần áo mới, tiếng chiêng trống vang lên đón tết…mọi người trong bản ra suối, sông thăm gia “lễ gội đầu”, coi đây là lễ hội mở đầu cho 1 năm mới, đó là để rửa trôi đi những cái vất vả, bệnh tật, những điều không may mắn của năm cũ, tống tiễn tai ương theo dòng nước đi mãi không lặp lại…đồng thời cho con người sức khỏe, năm mới tốt lành, gặp điều hay, làm ăn phát đạt.
Để chuẩn bị cho lễ hội gội đầu trước đó cả tuần chị em đã vo gạo nếp lấy nước, đổ vào cái nồi cất giữ để cho càng lên mùi chua càng tốt. Đó là nước gội cho phụ nữ. Nồi nước tắm là nồi nước thơm của cây mùi già. Còn cánh đàn ông gội nước bồ kết nướng ai nấy áo cóm, váy đẹp cùng chiêng trống kéo ra bờ suối, bờ sông. Chị em cởi trần, kéo cạp váy lên phía trên ngực che vú, cúi đầu buông tóc tiến hành gội từ nước gạo nếp chua, nước lá thơm, nồi xõa theo dòng nước…
Đàn ông thì quần cộc, cởi trần gội,…Ngoài ra cánh đàn ông còn mang súng kíp ra bờ sông bắn nổ to vài phát tiễn năm cũ đón năm mới hòa trong tiếng chiêng trống ấm vui của cả bản. Gốc gác sự tích của “lễ hội Lung ta” (lễ hội gội đầu) là trong buổi lễ: Ông Mo còn hát kể về công lao của nữ tướng Nàng Han xưa (con gái 1 Tạo Mường) cầm quân đánh tan giặc ngoại xâm, đuổi chúng tới tận cõi Mường Xo (Phong Thổ - Lai Châu)…Dẹp xong giặc; cho quân sỹ nghỉ ngơi, tắm gội trên dòng Nậm Te (Sông Đà) để ăn mừng chiến thắng…vì thế người Thái Trắng vùng Sông Đà đến nay vẫn còn lưu lại phong tục này - đó là lễ hội lung ta (xuống bến nước làm lễ gội đầu) vừa là tẩy trần sạch sẽ vừa là để tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc…
Bài 46 DU LỊCH MỘC CHÂU
Cao nguyên Mộc Châu ở độ cao 1050m so với mặt biển, cách Hà Nội gần 194 km (quốc lộ 6), rộng khoảng 25 km, dài 80 km với 16000 ha đồng cỏ, mùa hè mát mẻ (20oc) mùa đông rét đậm, khô ráo, mù sương… Đây là vùng lý tưởng để nuôi bò sữa (toàn vùng đã nuôi 7200 con, công ty hò sữa Mộc Châu có 3514 con, đạt sản lượng 3200 tấn sữa tươi/năm, toàn vùng trên 7000 con đạt trên 28.000 tấn/năm, năng suất 20,5kg/con/ngày). Đây là những đồi chè nối tiếp nhau bát ngát, ta cứ ngỡ tới vùng chè Cameron Highland ở Malaysia?
Từ thị trấn nông trường, tới Tân Lập, Cờ đỏ đi vào Ngũ động bản Ôn là những sóng đồi chè xanh tươi…toàn vùng có tới 3200 ha chè (toàn Sơn La khoảng trên 4000ha) đó là chè Phiêng Khoài (Yên Châu), chè Nà Sản, Phiêng Cầm (Mai Sơn), chè Phòng Lái, chiềng pha (Thuận Châu), chè Tà Xùa (Bắc Yên); ở Mộc Châu có 6 công ty - nhà máy chè…trồng và chế biến các loại chè San Tuyết, trà Ô Long, trà Kim Tuyên…tổng số trên 3000 ha các loại, trong đó hơn 2700 ha đạt năng suất cao 74,1 tạ/ha. Mộc Châu đang là nơi du lịch lý tưởng của người Hà Nội đến với vùng khí hậu ôn đới gần nhất: 194 km, đi ô tô mất 3 giờ đồng hồ. Đó là các điểm: - Đông Sơn Mộc Hương, nằm ngay trung tâm thị trấn nông trường với diện tích 6915 mét vuông, từ quốc lộ 6 đi vào có 150 mét, qua 240 bậc tới cửa hang, di tích người xưa 3000 - 3500 năm.
- Thác Dải Yếm (thác Nàng) thuộc bản Vắt, khởi nguồn từ 2 khe nước Bó co lắm và Bó tá cháu chảy ra thành suối Vắt, qua 5 km hòa vào suối Bó Sập giáp biên giới Việt Lào chảy về phía Yên Châu tạo ra thác dải yếm mùa mưa, thác rộng 70m. - Rừng thác sải yếm đi ngược quốc lộ 43, khoảng 600 m rẽ sang 1 hẻm đi 300m là vào bản Vặt (Thái) khá phát triển nghề dệt Thổ Cẩm - ở đây có lễ hội xe chá, ẩm thực trên hồ Noong Buông.
- Thắng cảnh đỉnh núi Phiêng Luông cao 1500m (ngang Tam Đảo) trên đỉnh là 1 bãi bằng sông cỡ 10 ha tha hồ hóng gió trông mây vùng biên giới Việt Lào. - Ngoài ra còn tham quan rừng thông Mộc Châu, thác Thái Hưng, chùa Chiền Viên. Mùa xuân đẹp nào hơn vườn đào Lõng luông, hoa mơ hoa mận ở vùng Mèo Vân Hồ?
- Ẩm thực: Các cửa hàng ở thị trấn có các món “lợn cắp nách” “đặc sản gà dai” lẩu dê nấu ngải cứu - các món nướng Thái, Lẩu xá, cơm lam, xôi thơm…. Có thể nói Mộc Châu - miền xanh thẳm cao vời vợi lưng trời, 1 viên ngọc bích ở địa đầu miền Tây Bắc của Tổ Quốc đó là vùng nông thôn miền núi ngàn đời hoang sơ dân dã đang công nghiệp hiện đại hóa ở 1 trình độ cao…đến đây để ta vừa hoài niệm bâng khuâng, vừa hứng khởi trông về tương lai tươi sáng và tràn trề hi vọng….
Bài 47 NGƯỜI BẮN HỔ
Tháng 6/1963, vào huyện Sông Mã (vùng biên giới Việt Lào) và tôi được các anh ở đây kể câu chuyện “anh Sáng bắn Hổ”.
Số là hồi 1952 - 1953, vùng này là hậu địch, Việt Minh ta mới xây dựng được khu căn cứ nhỏ với 1 đội du kích tuyên truyền vũ trang…anh em phải ở lán trong rừng, luôn di chuyển để tránh địch, ăn thì nhờ lấy trộm gạo ở mả mấy người mới chết ngoài Paheo (rừng ma), đào củ mài, hái rau rừng đợ bữa qua ngày.
Trong đội có anh Lò Văn Sáng vác súng kíp vào rừng tìm con don, con dím, con lợn rừng…Thế là vào 1 đêm anh đến phục sau gốc cây bên bờ hồ, chờ lũ lợn về uống nước, khoảng 10 - 11 giờ khuya, đám lợn vài con ủn ỉn đổ về ao (hồ), 1 ông ba mươi (hổ) to đùng, cỡ con bò tháu cũng khẽ khàng bước ra “rình” vồ chú lợn choai (chắc mẩn, 1 bữa ngon), gốc cây anh Sáng nằm phục cách hổ độ 7 mét…
Đúng lúc Hổ vồ lợn thì anh Sáng cũng bất thần nổ súng…một phát xuyên táo chết tươi 2 chú Hổ và lợn. Thật là hi hữu “trời cho” may và tài, bình tĩnh chớp thời cơ… Thế là 1 tiếng “hú” đồng đội anh chay ra: người vác lợn, người khiêng hổ về căn cứ được 1 phen liên hoan xả láng… Tiếng lành đồn xa “anh Lò Văn Sáng người bắn hổ” làm vang danh tiếng tăm đội du kích, làm bọn Pháp và tay sai hết hồn mỗi khi quân ta tập kích đánh giặc trừ gian…cho đến ngày giải phóng.
Sau này, anh Sáng tham gia công tác thoát ly, hồi 1962 - 1963…anh Sáng đã trở thành Bác Lò Văn Sáng, chủ tịch ủy ban hành chính huyện Sông Mã: 1 vị chủ tịch râu tóc bạc phơ, cao ráo, cường tráng (đẹp lão) thông minh tháo vát, ung dung thư thái dẫn dắt (lãnh đạo) nông dân huyện sông Mã cùng cả nước tiến lên xã hội chủ nghĩa.
Tháng 8/1983, sau khi đi họp Quốc hội kỳ giữa năm (tháng 6, về…bác Cầm Ngoan, chủ tịch UBND tỉnh Sơn La, phó chủ tịch Quốc hội) goi tôi (NK) ra thì thầm: anh sang bảo anh Thường (trưởng ty lâm nghiệp) 2 anh em vào sông Mã chỉ huy trạm kiểm lâm cùng đồn biên phòng đi săn lấy 1 con voi rừng để đón chủ tịch Trường Chinh sắp tới (vào dịp 2/9 lên thăm tỉnh). (1) Thế là NK tôi cùng anh Nguyễn Xuân Thường (khoảng 52 tuổi hơn NK 7 tuổi, người Mường ở Yên Lập - Phú Thọ sang công tác hậu địch xa nhà từ hồi 1950, hồi 1963 làm bí thư kiêm phó chủ tịch huyện Sông Mã, Bác Lò Văn Sáng làm chủ tịch) lên 1 xe u oát, cùng khoảng 5 kg Keo Mậu dịch quốc doanh đem theo để làm quà cho bọn trẻ các nhà thân quen (chẳng biết có đứa nào là “con gửi” của bí thư huyện ủy cũ hay không, có trời mới biết?). Đường dài 120km, qua 7 khúc suối (1 xe đi trên lòng suối), mất trên 10 tiếng đồng hồ thì tới Bản Địa bên này bờ sông Mã, vào ở nhà chủ tịch xã Nà Nghịu, cũng là trung tâm thị trấn huyện Ly.
Điện thoại réo Hạt trưởng kiểm lâm (quân của trưởng ty lâm nghiệp) và thượng úy đồn trưởng biên phòng về nhận lệnh… Xong, cả tối 2 anh em cùng chủ tịch xã, mới thêm cả phó chủ tịch huyện phụ trách nông nghiệp: 4 anh em, 2 con vịt, ít cá sông, 1 hũ rượu cần, 1 chai lẩu xiêu “hảo hán nớ” - au hảnh nớ…cạn chén bõ bao ngày xa cách (hồi tháng 6/1963, NK Tôi cách đấy 20 năm, hồi mới ra trường, xung phong vào Sông Mã làm quân anh Thường xuống chỉ đạo sản xuất ở xã Nà Nghịu…nên cả 2 anh em đều là người cũ, bạn cũ xa lâu mới về… cuộc Kin lẩu (cuộc rượu) tới khoảng 11giờ đêm thì có tiếng vó ngựa lộc cộc của hạt trưởng kiểm lâm chạy về:
Báo cáo 2 anh đã trông thấy voi. - Ừ thế thì tốt, ngồi xuống, ta au hảnh (cạn chén) vài choác để lấy khí thế… Chiều tối hôm sau, mấy anh em đang ngồi hàn huyên trao đổi xây dựng vùng cánh kiến Sông Mã, xử lý vấn đề sấy Long Nhãn của bà con khai hoang Hưng Yên nên như thế nào?... thì có tiếng xe đạp (hồi này chưa có xe máy) của thượng úy trưởng đồn biên phòng chạy về báo cáo: -
Thưa 2 anh, bọn chúng em phối hợp với kiểm lâm đã tiếp cận voi, con này voi đực, ngà còn nhỏ, cỡ 7 - 8 tạ… - Được, cứ thế mà triển khai… Sáng hôm sau: Hạt trưởng kiểm lâm cùng phó chủ tịch huyện đến: - Báo cáo 2 anh em, nếu bắn được voi bọn em dự kiến ăn chia như sau: 2 đùi sau, lá gan, vòi và ngà xin gửi 2 anh về biếu tỉnh - còn lại: một ít huyện ủy, 1 ít ủy ban, còn lại chia đều đầu người ở hạt kiểm lâm và đồn biên phòng.
- Thế cũng được; các cậu xuống tận nơi xem anh em chúng nó “săn” thế nào, phải chắc ăn đấy… Chờ 2 ngày, bặt tin Đến ngày chờ thứ 3 thì cả 2 hạt trưởng và trưởng đồn hớt hải chạy về: - Báo cáo 2 anh, voi nó đánh hơi thấy không lành, nó sợ, chạy về Lào (bên kia biên giới) mất rồi…
Ôi, thế là cụt vòi, thế là hết chiều ni voi đi mãi… Thật là vô vọng - 2 anh em (NK tôi và anh Nguyễn Xuân Thường) không ai nói với ai câu gì, chia tay huyện còn dặn với 2 chú em: - Các cậu cứ tiếp tục theo dõi bám sát trận địa, phát hiện thấy voi thì “điện” ngay ra tỉnh…
Bữa tiệc chiêu đãi chủ tịch Trường chinh lên thăm cán bộ, nhân dân tỉnh Sơn La năm ấy diễn ra bình thường, Chủ tịch tuổi đã cao, ăn kiêng, không uống rượu, tính cụ vốn là tiết kiệm (ăn uống đơn giản như Bác Hồ) nên các vị quan chức đầu tỉnh bữa ấy cũng không dám “hảo hán nớ” - “au hảnh nớ”… Và chú voi (săn hụt) chắc là đang quay vòi vung vít như nhắn sang bên của biên giới:
- Vua chúa bây giờ có ý thức bảo vê động vật hiếm quý, không ai được ăn thịt voi đâu nhé. Chuyện thật như đùa vậy! Hà Nội, 11 - 3 - 2012 NK (1)Lúc này NK đang làm Thư ký Đ/c chủ tịch tỉnh
Bài 49 XÒE THÁI
Múa xòe, còn có tên “xòe khăm khen” (múa cầm tay), có từ xưa có 32 điệu, nổi tiếng nhất là xòe phong Thổ, xòe Mường Lò. Phổ cập là điệu “khắm khen” mọi người nắm tay nhau quay vòng tròn, biểu hiện cho tình đoàn kết; điệu “khắm khăm mới lẩu” tức là nâng khăm mời rượu tỏ lòng yêu quý và mến khách; điệu “đổn hôn” tức tiến, lùi nhào về phía trước ý nói trời đất dù có bão giông, sống gió nhưng tình cảm con người với nhau thì luôn gắn chặt; Điệu “phá xí” tức bỏ bốn, tượng trưng cho 4 phương trời đoàn kết giao lưu; điệu “nhôm khăn” tức tung khăn thể hiện niềm vui mừng mùa màng thắng lợi, xây nhà mới, sinh thêm con cháu, cưới xin… Ở vùng Mộc Châu - Mai Châu (Tày Đeng) có các điệu xòe chá, xòe ồng bổng, xòe kiếm, xòe đánh máng…
Xòe ông Bổng là 1 điệu múa xưa, động tác đơn giản, mọi người cầm tay nhau nhảy nhót xung quanh đống lửa theo nhịp “hò huậy, hò huây” mừng thắng lợi giòn giã sau cuộc đi săn về hoặc xung quanh vò rượu cần mừng nhà mới. Đặc điểm xòe này: trang phục bình thường chỉ có đàn ông xòe, “nhạc” miệng là tự hô, cổ vũ người xem, vui nhộn phóng khoáng.
Điệu xòe “đánh máng” dành cho nữ giới, cứ 3 cặp mỗi cặp dùng 2 chày gỗ gõ vào máng dùng để giã gạo, tạo ra tiếng chày giòn chắc, nhịp điệu mỗi lúc 1 mạnh…cùng trống chiêng rộn rã. Các điệu xòe (xe) được các nghệ nhân dân gian xây dựng (32 điệu) luôn mang bóng dáng gần gũi với dân bản như “xe cúp” (múa nón), xe tẳng chai (múa chai), xe kếp phắc (hái rau), xe cáp (múa sạp)… Các điệu xòe vòng sôi nổi bao nhiêu thì các điệu xòe đơn, xòe tốp lại tinh tế duyên dáng bấy nhiêu - với triết lý âm dương: trời đất, nước - lửa và ý nghĩa nhân sinh cao cả ẩn chứa kỳ ảo trong các điệu xòe Thái từ xưa tới nay trong các cuộc vui liên hoan, lễ hội.
Từ xưa người Thái đã làm “Pí” (sáo) để thổi chơi, gửi gắm nỗi niềm qua nốt nhạc tiếng sáo giữa núi rừng mênh mông đèo heo hút, là công cụ để “pay ỉn sao” nói tiếng lòng vào con tim người mà mình theo đuổi… 1, Pí tam lay (pí nốc ống) cấu trúc gồm 2 phần: phần 1 là ống phát âm nối với ống 2 làn phần khuếch thanh, ống 2 đôi khi được lắp thêm 1 gáo tre (to) để tăng độ vang của âm thanh. 2, Pí lào nọi (sáo lào nhỏ): y hệt phần 1 của pí tam lay, bằng cây nứa tép, tuy khác là 1 hàng âm 6 lỗ. Xuất xứ: từ “pí” (sáo) có lẽ từ “pép” hoặc pép phan (pép hoẵng) do tục đi săn hoẵng (từ pép đẻ ra pí cùng đồng âm). Trong đêm khuya ở rừng vẳng lên tiếng Hoẵng kêu (Hoẵng giác) đó là lúc con đực đi tìm con cái để bắt chước tiếng Hoẵng gọi bạn tình phải chăng vậy “pí” chỉ là 1 ống nứa tép mà véo von mà “bếp nhà sàn, tiếng pí thổi say mê” là thế? Ngoài sáo còn có KHÈN…
Xứ Thái, có thể nói là xứ sở của hát thơ (khắp xư).
Vốn thơ ca cổ truyền từ các tập biên niên sử “Quắm tố mướng” hoặc sử thi “Tày pú xấc” cho đến các truyện thơ tình như Sống chụ son sao, Khun lú, Náng Ủa, Tản chụ xiết xương, sử thi chương Han….với các bài thơ, ca dao đều được dùng để “khắp” (hát)…. Bước đầu đã có làn điệu “lòng bản” và cách hát riêng cho mỗi loại bài thơ, xét theo hình thái sinh hoạt âm nhạc phân ra làm 2 hệ - theo Dương Đình Minh Sơn thì: - Hệ tín ngưỡng “hát thơ mo” do giới mo then hát khi cúng tế lễ.
- Hệ dân gian: hát kể chuyện tự sự, hát thơ tình, hát ví, hát hò trên sông, hát ru, hát đồng dao……vv…. Ở người Thái 2 chữ “thơ ca” quả là đầy đủ và ý nghĩa “Thơ để giải bầy nỗi lòng, ca (hát) để ngâm vài lời thơ gửi đến những cõi lòng ai đó”.
Thơ Thái là 1 thứ “kinh thi” bản địa, hồn quê hòa đồng với thiên nhiên trời đất. Thơ dân gian Thái có 1 khối lượng đồ sộ với các truyện thơ, sử thi như đã nói ở trên đã trở thành các tác phẩm thơ cổ điển nổi tiếng. Thơ đương đại của các tác giả Thái Sơn La (thời cách mạng xã hội chủ nghĩa) thường dùng lời thơ để hát (khắp xư) nói lên chí khí vươn lên của dân tộc mình, làm chủ bản Mường, cùng nhau đoàn kết các dân tộc anh em dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đất nước ngày 1 giàu mạnh - xin dẫn 1 số bài mới:
HÀO QUANG KHẨU CẢ (tác giả tự dịch) Từ xa xưa ông cha đặt tên Khau cả (1) Là nói lên: - Rắn hơn sắt thép, cứng quá kim cương giống gieo trồng mọi đất xanh tươi cho lúa chín hạt, quả ngọt nuôi người. Giặc Pháp muốn mượn oai hùng của núi, đặt trung tâm thống trị tỉnh ta và thành nơi diệt nguồn anh hùng đất nước.
Nhưng: Khâu Cả là lò luyện con người gang thép chặt tan xiềng xích của thực dân, góp hun đúc những Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu và bao chiến sĩ/ những trái tim của cách mạng tỏa khắp non sông: chặt tan xiềng xích của thực dân Pháp, phong kiến/ góp phần đánh thắng hai đế quốc to. Đồi Khâu Cả cùng sóng cao cả nước giải phóng mình, xóa phu, thuế, nguột cuông. Dựng chính quyền cùng cả nước Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc/ hào quang khâu cả vượt chín tầng/ mây như ánh sáng soi đường cho ta bay bổng. Sơn La, 9/7/1998 Hoàng Nó (Cầm Văn Lường - 1925 đã mất)- quê Chiềng Ban, Mai Sơn.
(1) đồi Khâu Cả: ngọn núi (đồi) ở giữa thị xã Sơn La, nơi trước 1945 Pháp xây dinh công xứ (tỉnh trưởng) và nhà tù liền kề. Sau là trụ sở UBHC khu tự trị Tây Bắc, nay là trụ sở UBND tỉnh Sơn La. ĐÔI BỜ THƯƠNG NHỚ Mặt trời đi qua sàn nhà người thương Hạt nắng còn vương bên thềm cửa sổ Hoàng hôn đi mặt trời không rủ Để anh buồn trong nỗi nhớ hoàng hôn. Anh mượn gió gửi lời câu thương nhớ Mộc mạc thôi, tiếng hát tự bao giờ Mười sẽ quên và chín sẽ quên “Sông Mã cạn bằng đĩa mới quên” Chín lần quên để ngàn lần thương nhớ! Anh là con thuyền trôi trong dòng sông đôi mắt Để đôi bờ bên nhớ bên thương 6/1997 Hà Trường Giang (1950) Quê huyện sông Mã - Sơn La VÀNG VÀ THƠ Một câu thơ, một hàng vàng Cân coi thử, ai nặng hơn ai? Nem công, chả quế ăn vội Không hóc cũng cay! Cà dưa, tương ớt nhai lâu hóa ngọt Anh kiếm vàng chỉ bằng nước bọt Tôi làm thơ mệt óc, mỏi tim Cái gì giữ mãi hương thơm Vàng bằng bọt dễ tan theo bọt Thơ bằng tim, đậm mãi trong tim Cầm Biêu (1920-1997) Quê Mường Chanh - Mai Sơn LỜI MẸ Yêu nhau bằng lời nói Mẹ bảo chưa đủ Bằng mân khiêng cỗ nặng Mẹ bảo cũng chưa no Vội đón sau đón trước Cành vướng sợi tơ lòng Mẹ bảo! Hãy lấy ngày làm gang để đếm Lấy tháng làm sải để đo tấc lòng Mưa to có cùng nhau hứng? Mặt trời làm tấm gương soi Soi vào khuôn mặt Soi vào lòng dạ tim gan Ốm đau, ai tránh khỏi đôi lần Giầu nghèo có lúc cánh cửa kẹp ngón tay Đắng, ngọt, chua, cay, nhạt… Đầu lưỡi nếm cho rành Tự đáy lòng mình “cân đong” Xử sự công bằng 1983 Lò Văn Cậy (1928 - 1994) Quê Sốp Cộp - Sông Mã HOA RỪNG Thấy em lượm bông vạt nương chân núi Như đứng giữa dải ngân hà Anh vứt bó cây, chạy ngay tới Chẳng đợi em ưng ý Anh cứ mà lượm theo. Mới đầu anh lượm cây này, em lượm cây kia Rồi lượm chung cây Lượm chung cành Lượm cả tay nhau. Mặt trời bảo về, ta chưa muốn Ta trốn mặt trời dưới rặng vừng bên nương Tắm trong hương hoa vừng thơm ngát Gió ngàn ru nghiêng ngả vừng xanh Tia trời chiều vuốt ve áo hoa em lay động Hàng cúc bạc long lanh Ngực em mười đôi cúc bướm Có mười đôi bóng anh lẫn mười đôi bóng hoa vừng Ngực rực hồng tia nắng Ngực ngấn đầy hương hoa. Vương Trung (1938) ÁNH CHỚP TRỜI XA Mưa rơi trên núi Giảng? Chớp lóe sáng chân mây! Ai phơi gì sàn ngoài quên dọn. Mau dọn! Cụ bà vừa nhắc cháu vừa than: - Tháng 5, tháng trời buồn, không buồn Tháng 6, lặng mưa dông - Sao dông (1) “Rồng chọi rồng” ngày đêm không ngớt. Cất tiếng cười hai cháu cầm tay - Ánh lửa hàn nhà máy, Bà ơi! (1) Tục ngữ: Tháng 5: trời buồn Tháng 6: trời kiêng mưa Sơn La 19 - 5 - 1979 Lò Văn E (1933 - 1995) Quê Sốp Cộp - Sông Mã NHỚ CON Có điều gì sánh được Mẹ nhớ con Thương từ những lỗi lầm Mưa lâm thâm mà lòng mẹ thành bão Nắng lên rồi nỗi nhớ hóa là mây Tình yêu của mẹ là trái chín trên cây Để cho con bốn mùa hương vị ngọt thật đắm say 11 - 1992 Cầm Thị Phụi (Phó chủ tịch HĐND tỉnh) ĐÊM HỘI MÚA XÒE Tiếng trống, tiếng cồng vang giục giã Như chắp cánh niềm vui bay cao Cả “Khuống” mường bỗng dưng nghiêng ngả Với vòng xòe nhún nhẩy say sưa Đôi chân thon thon quen theo lối nương. Đôi chân bè đạp mòn lối ruộng Quyện bên nhau rập rình “Khắm xéo” quàng trên áo cóm Tất cả rung lên, cả rừng hoa chao đảo Cái dùi gỗ băm trên mặt trống Rền như giông, như sấm “Họa…họa…Huệ…Huệ…” Cả vòng xòe cuồng lên Theo nhịp trống, nhịp tim Tung chân nhảy hết mình, hết sức “Đàn bướm” cúc muốn bay khỏi ngực Chiếc mũ nồi, cũng chực bay theo Vòng xòe quay, quay mãi không ngừng Lương Văn Tộ (1946) Quê Sông Mã - Sơn La CÂY BAN TRÊN RỪNG (Tác giả tự dịch) Ào ào bãi xoáy Đá lăn, cây đổ Thân sâng, gốc sở ngổn ngang Một cây Ban đứng điềm nhiên Cạnh lối lên nương làm cỏ Hỏi giông, hỏi gió Sao Ban kia vẫn bình yên phận thường? Cây ban rằng: “hòa tình yêu” Trắng trong tuổi trẻ Chung thủy tận già Lửa mường đất gốc, chưa thành than (thì không thể chết Gió dập thân, cành, chưa tan tành em vẫn tươi xanh) Một cây Ban Đứng trên nương Lò Xuân Thương (1936) Quê Púng Tra - Thuận Châu CHIỀU BẾN VẠN (1) Bến cũ đâu hỡi sông? Bến ở trong lòng nước Miệt mài ngày đêm chảy Về Hòa Bình khơi xa. Bản tình ca bất tận Gập ghềnh đá nơi đâu? Ở trong lòng nước ấy Với biển hồ phẳng lặng Xóa những dòng vách ngăn. Và mai lên Ngược xuôi Thuyền đánh cá Và chiều buông Sương giăng tròn Trăng xóa Còi tàu vang xa, vang xa Bến Vạn Yên 1995 Hoàng Bạch Long 1949 Quê Huy Thượng - Phù Yên (1) Bến Vạn Yên: Phố nhỏ Vạn Yên, bên bến Sông Đà, xã Tân Phong, Phù Yên ….xưa là Sông Đà ghềnh thác, nay là Hồ Thủy điện mênh mông. KHOẢNG XANH Gió Lào mang hơi lửa Hun sém cả trưa hè Cháy khét tiếng ve Rừng tre trơ trụi lá Con chim vội vã sà xuống khe trốn Sợi nắng muốn chăng đan mặt cỏ Nhưng chẳng sao, chẳng sao cả Trái đất đã quen mùi khắc nghiệt!
Đến con kiến cũng còn phải ung dung thư thái Miệt mài tha mồi về tổ Ai như quả bứa chín vàng mơ Trong trẻo giữa trưa hè Thời gian nhòa vào im lắng Một khoảng không trống vắng Vỗ ào vào cánh xanh Lò Vũ Vân 1943 Quê Bắc Yên - Sơn La XUÂN BẢN THÀN Tết Ở bản Thàn Cái vui Sôi lên từ hũ rượu cần Bụng trống Vú chiêng Rung lên Cả mái sàn chao đảo Đỉnh núi cao lúc lắc cái đầu Măng vầu Măng sặt Dỏng tai đón mưa rơi Xuân 1996
Lò Vũ Vân BIỂN Ở THẢO NGUYÊN Ở độ cao một nghìn năm mươi mét Rất xa biển nên thèm nghe sóng biển Mượn gió ngàn làm sóng vỗ lao xao Ước có biển nên gom mây về làm biển Biển Thảo Nguyên biển trắng vỗ mênh mông Đảo là những ngọn thông, chóp núi Cho thuyền chim đi về neo đậu Thảo nguyên xanh đắm mình trong màn huyền ảo Đưa ta về thời xưa cổ tích Dưới đại dương lộng lẫy thủy cung? Biển Thảo Nguyên chỉ trong trưa khoảnh khắc Bỗng chốc tan - biển biến về đâu? Ánh nắng vàng chuốt ngọc lên lá Lại trong veo, ngời sắc Thảo Nguyên. Thảo Nguyên Mộc Châu hè 1997 Lò Vũ Vân NHỚ VỀ PHỐ VẠN Chúng tôi dân tứ xứ Gặp nhau ở nơi đây Dựng nên một Phố nhỏ Phố Vạn Yên, Vạn Yên (1) Anh Phúc Kiến, Quảng Đông (2)
Tôi Mường Bi, Mường Động (3) Còn chị hay mơ mộng Theo chồng lên nơi đây Là dân Nam Định đó (4) Một dãy phố nhỏ thôi Bao dòng đời đã chảy Tụ về Phố nhỏ này Nhớ bến Vạn thuở ấy Thuyền đuôi én ngược xuôi Ai đi xuống chợ Bờ Ai ngược dòng Đà Giang Lên Mường Chiên, Mường Ét Dòng sông vẫn êm trôi Nối phố nhỏ của tôi Với bao bờ thương nhớ Ơi bến Vạn, phố Vạn Phố của chúng tôi đó Mùa đông heo hút gió Tết về câu đối đỏ Tiếng pháo lại rộ vang Tiếng chuông điểm đình Ang (7) Tiếng trống vang đình Hán Hồn thiên cổ bay về Bản làng trong khói hương Mùa hè nóng rát bỏng Những cây phượng trước ngõ Lại cháy đỏ màu hoa…
Nay phố đã đi xa Chìm đáy nước sông Đà Ôi phố núi nho nhỏ Phố của chúng tôi đó Vẫn cháy màu phượng đỏ Trong lòng mỗi chúng tôi Rồi một ngày không xa Hoa phượng lại rực đỏ Trên phố mới nguy nga Tôi lại viết bài ca Về bến Vạn, phố Vạn Phố của hoa phượng đỏ Thắm mãi bên sông Đà 6/1996 (1) Bến phố Vạn Yên (Tân Phong, Phù Yên) (2) 2 tỉnh của quê gốc người Hoa (3) Thuộc Hòa Bình quê người Mường (4) Chợ Bờ (Hòa Bình), nay chìm dưới hồ (5) Thuộc Quỳnh Nhai (6) Đình Ang, Đình Hán là 2 ngôi đình thuộc xã Tâm Phong Nhà thơ Đinh Tân (1942) Dân tộc Mường Quê Tân Phong, Phù Yên, Sơn La CÁC DÂN TỘC Ở SƠN LA Điều tra dân số 1/4/1999: Toàn tỉnh có 882.077 người (đến 1/4/2009 có 1.08.641 người). Có 12 dân tộc anh em. Thái 482.985 Người chiếm 54,7 % Kinh 153.646 Người chiếm 17,42% Hmông 114.578 Người chiếm 13,00% Mường 71.906 Người chiếm 8,15% Các dân tộc khác
Người chiếm 6,73% Trình độ dân trí tính đến 2002: Tỉ lệ biết chữ 70,8% Học sinh phổ thông 220.430 em Giáo viên 10.209 người Thầy thuốc (y, bác sỹ) 26 người/1 bệnh viện
LỜI CUỐI SÁCH
“Sơn La ký sự” gồm 51 bài tùy bút, hồi ức, thơ, sưu tầm, ghi chép về xứ Thái một thời NK đã sống, nhằm để con cháu, bạn bè, ai đó đọc xong “ờ Sơn La, người Thái nó là như thế…” để thêm yêu cái xứ sở “Sơn La âm u núi khuất trong sương mù” rồi “nước Sơn La, ma Hòa Bình” ngày xưa nó bí ẩn, lạ lẫm, đáng sợ làm sao? Năm 1962 (vừa tái lập tỉnh) Sơn La mới có 18 vạn dân, chủ yếu là người Thái, sau 1975, nhất là sau 1986 người xuôi (Thái Bình, Hưng Yên…) lên ồ ạt, đến nay 2009 dân số toàn tỉnh 10.080.641 trong đó dân tộc Thái trên 48 vạn người. Mọi phong tục tập quán kể cả tiếng nói chữ viết Thái đang bị “hòa nhập” hòa tan, bị lai ghép đã dần mai một. SOS là thế… Để kết cuốn sách này, có lẽ hay hơn là nhờ Chế Lan Viên nói hộ: “Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương? Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!”
Góc thành nam Hà Nội 11.3.2012 NGUYỄN KHÔI
MỤC LỤC Số
Trang 1 Lời thưa
2 Bản quê yêu dấu
3 Cơm Bản (Văn)
4 Cơm Bản (thơ)
5 Canh Bon (thơ)
6 Ngủ Bản
7 Sơn La xưa
8 Sông Chó
9 Đám cưới Thái
10 Cầu vào Bản
11 Tiếng mõ trâu (thơ)
12 Núi Mường Hung - Dòng sông Mã
13 Bóng núi (thơ)
14 Nhớ Mường Hung (thơ)
15 Xuân biên cương
16 Chiều bản nhỏ (thơ)
17 Tắm ở bản
18 Lễ Tằng Cẩu
19 Tục đẻ ngồi
20 Nhà sàn bếp lửa (thơ)
21 Sông Đà hùng vĩ
22 Bến Tạ Bú (thơ)
23 Cây đào Tô Hiệu - Ai trồng?
24 Nhà sàn Thái
25 Gái Thái
26 Pí pặp (thơ)
27 Tên một số món ăn
28 Lẩu xá
29 Đường lên Tây Bắc
30 Cây Mắc Chai
31 Hoa Ban
32 Lịch sử nguồn gốc Thái
33 Mường trời, Mường người
34 Xửa cỏm, Váy Thái khăn Piêu
35 Quắm tố Mướng
36 Lời ăn tiếng nói
37 Táy Pú xấc
38 Thiết chế xã hội Thái
39 Khu tự trị Thái Mèo
40 Luật tục Thái
41 Quan chức và trí thức
42 Tang lễ Thái
43 Cổ tích
44 Đèo Pha Đin
45 Suối mó nước nóng
46 Lễ hội Lung ta
47 Du lịch Mộc Châu
48 Người bắn Hổ
49 Câu chuyện săn Voi
50 Xòe Thái
51 Nhạc Khí Thái
52 Thơ Ca Thái
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0214
Sunday, April 22, 2012
NGUYỄN KHÔI * SƠN LA KÝ SỰ 2
Bài 11: NÚI MƯỜNG HUNG DÒNG SÔNG MÃ
Con sông Mã chảy đến đây chừng như chững lại, mở rộng bồi đắp đôi bờ thành cánh đồng của Chiềng Cang, Mường Hung. Núi ở đây không cao lắm nhưng trên đỉnh có mây phủ với rừng đại ngàn ngút tới Thượng Lào (Hủa Phăn). Bản nhà ở đây đông vui trù phú với những ruộng lúa, bãi dâu xanh biếc, con gái ở đây da trắng nõn nà…
Ấy là vào hồi tháng 10/1953 có một chàng trai Thanh Hóa (Lê Gia Hợp) Đội viên Đội vũ trang tuyên truyền (Việt Minh) đã đi sâu vào vùng hậu địch, tới đây “cắm bản” để xây dựng cơ sở kháng chiến chống Pháp ở vùng biên giới Việt Lào. Ai ngờ, chàng ta lại là một thi sĩ, là cán bộ “bí mật” sống giữa lòng dân “3 cùng” với đồng bào, trước cảnh đẹp, người xinh… hồn thơ anh ta thấm đượm các khúc hát “khắp” - tình ca Tây Bắc viết theo kiểu ví von (anh là/ em là…). Thế là một bài thơ tự nhiên xuất thần: (Mường Hung = mường trong sáng)
NÚI MƯỜNG HUNG DÒNG SÔNG MÃ
Anh là núi Mường Hung
Em là dòng sông Mã
Sông nhiều rêu, nhiều cá
Núi nhiều thú, nhiều măng
Chiều bóng anh che sông
Sớm mắt em lóng lánh
Sáo cành cây anh thổi vang lanh lảnh
Gió lùa qua miệng anh lại mỉn cười
Giữa lòng em thuyền độc mộc ngược xuôi
Như trăm nỗi băn khoăn khi đến tuổi
Nếu trời làm em sóng nổi
Anh ngả mình ngăn lại lúc phong ba
Em là búp bông trắng
Anh là ngọn lúa vàng
Thi nhau lớn đẹp nương
Tỏa mùi thơm cùng nghe chim hót
Em cứ về nhà trước
Đợi anh ở bên khuông
Anh là no lòng Mường
Em làm vui ấm bản
Nếu con gấu dẫm gẫy cành bông trắng
Lá lúa anh sẽ cưa đứt chân
Nếu lúa này chuột khỉ dám đến ăn
Sơ bông em sẽ bay mù mắt nó
Anh là rừng thẳm
Em là suối sâu
Cây rừng anh làm cầu
Bắc ngang lên lòng suối
Hoa rừng nở đỏ chói
Soi bóng xuống lòng em
Suối chảy quanh ấp rừng vắng ngày đêm
Cây gỗ lớn là tay anh vững chắc
Nếu hùm qua suối em thành thác
Nếu sói về rừng anh sẽ thành chông
Quyết chẳng chịu đau lòng
Đời chúng ta rừng núi
Suối em phá tan bóng tối
Em ngoan chảy thành dòng sông Mã Mường Hung
10/1953 Cầm Giang
Bài thơ chép tay, được gửi qua “giao thông” về hậu phương… với bút danh Cẩm Giang (ý là quê vùng Cẩm Thủy - Thanh Hóa bên dòng sông Mã hạ lưu)… nhưng khi đến tay cô đánh máy (ở căn cứ báo chí) thì cô này phát hiện cái phi lý ở cái tên tác giả - ở Sơn La có họ Cầm, họ Lò… chứ làm gì có họ Cẩm? thế là cuối bài thơ in ra được đề tác giả Cầm Giang.
Bài thơ sau đó được nhạc sỹ Bùi Đức Hạnh phổ nhạc thành bài “Tình ca Tây Bắc” nổi tiếng trở thành “khu ca” của đài phát thanh Tây Bắc một thời. (Nhạc sỹ thực ra chỉ lấy 1 số câu, còn là mô phỏng thơ Cầm Giang mà thôi). Bài thơ thực ra cũng chưa hay lắm, nếu so với “Tình sông núi” của Trần Mai Ninh, “Đèo cả” của Hữu Loan thì cón cách xa mấy quăng dao. Bài thơ viết theo kiểu ví von của Trường ca Tản chụ xiết xương (tâm tình người yêu): Trai đáp/ gái đáp nên có giọng điệu dân ca Thái, để người đọc dễ tưởng đây là 1 tác giả dân tộc Thái.
Có câu sáng giá: “Giữa lòng em thuyền độc mộc ngược xuôi” Làm ta nhớ lại từ hồi 1936, Lưu Trọng Lư đã viết: “Mắt em là một dòng sông Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em” Rồi các câu khá ấn tượng mới mẻ: Anh làm no lòng Mường Em làm vui ấm bản Đoạn dưới “ký sự” kiểu thơ tuyên truyền hô khẩu hiệu của thời kháng chiến chống Pháp (mà Bùi Ninh Quốc, Phạm Tiến Duật sau này với “đường ra trận mùa này đẹp lắm” đã vượt trên cả Tố Hữu, tất nhiên là dưới tầng Chế Lan Viên).
Tuy vậy, xét về bố cục cấu bài thơ (mở đầu, thân bài, kết luận) thì tài hoa thơ Cầm Giang so các cây viết thời 1946 -1954 ở Tây Bắc thì Cầm Giang vẫn là số 1. Hai câu kết có thể nói là Đẹp, khá đắt: Để anh lớn mãi thành núi Mường Hung Em ngoan chảy thành dòng sông Mã. Đó cũng là cái “bất tử” của một tứ thơ lạ “đẹp” cùng với quê hương xứ sở. Năm 1961, NXB Văn học có in cho Cầm Giang tập thơ “Rừng trắng hoa Ban” gồm 30 bài, bài viết sớm nhất “Quả còn” Lai Châu 7/1950, bài cuối “mở lò thông gió” 1959 ở Mỏ Cẩm Thái Nguyên… xem kỹ chỉ có 1 bài đáng giá ở trên mà thôi. Thơ khó là vậy 3/3/2012
Em đi bóng núi nghiêng theo
Bụi tung vó ngựa qua đèo mù sương
Từ anh về với bản mường
Với trông bóng núi dặm đường em đi
NK.
Bài 13: NHỚ MƯỜNG HUNG (Nhớ anh Cầm Giang)
Mường Hung sáng núi xanh soi sóng biếc Em vớt rêu thả mượt tóc thung mây
Con cá măng nào hay sông biên giới
Tiếng khèn Lào sang chợ thổi nồng say
Trai Mường Hung thả bay thuyền đuôi én
Vài tay chèo tới Xiềng Khọ - Sầm Nưa
Sắm đồ cưới anh chở về - đúng hẹn
Vòng bạc trao lấp lánh dưới trăng mờ
Từ xa cách bản quê về Hà Nội
Đêm nằm mơ thác đổ trắng ngang trời;
Sớm mai dậy nhớ mây hồng đỉnh núi
Tiếng gà rừng vang động cả hồn tôi.
NK-
Bài 14:XUÂN BIÊN CƯƠNG
Sơn La xuân ở dài hơn
Tháng tư còn trắng hoa Ban trên rừng
Mà đây nắng hạ chói bừng
Chiềng Khương hoa Gạo đỏ lừng bến sông
Biên giới Việt Lào 6/1963 NK-
Chiều vắng vẻ lặng tờ nơi bản nhỏ
Người đi nương, ra ruộng chưa về
Chỉ lũ trẻ đùa nô trên bến tắm
Và một chàng “cắm bản” lắng hồn quê.
Con gà đẻ trứng xong kêu “cộc tác”
Con Vện nằm canh cửa mắt lơ mơ
Mặt suối xanh in bóng cầu vừa bắc
Cọn bên đồng cuốn nước xối như mưa…
Chiều bản nhỏ ngàn xưa đời vẫn thế
Cứ yên vui cùng xứ sở thanh bình
Không giặc giã, gươm trên tường nằm nghỉ
Ngựa lỏng cương thả bộ dọc dòng kênh.
Ai đấy nhỉ một mình nơi thôn dã
Để nhớ ai ngoài phố thị ồn ào
Hẹn một buổi đón về thăm bản nhỏ
Cùng vào rừng hái nấm mé đèo cao.
NK-
BÀI 16. TẮM Ở BẢN
Bản người Thái (ở lưng núi) không có ao như làng người Kinh (ở đồng bằng)… nhưng việc tắm rửa cho sạch sẽ thân mình thì người Thái ăn đứt người Kinh là cái chắc. Ở bản có 3 cách tắm rửa: - Một là nơi “mó nước” đầu bản: Đó là nơi có ống nước tự chảy dẫn qua ống máng tre từ trên nguồn đổ về trong sạch tuôn suốt ngày đêm… thường có 2 ống: một bên nam, một bên nữ. Ngăn cách 2 bên là một phên nứa để bên nào bên ấy “tắm truồng” thoải mái.
Thường thì 3, 4 giờ chiều mùa hè, dân bản đi nương, ra ruộng về, tất cả tới mó nước đầu bản là “kẻ xuộng xựa” (cởi quần áo “tắm”). Chị em thường là ý tứ ngồi xổm, khép đùi, áo được cởi vắt trên con sào bên cạnh, váy được dâng lên đỉnh đầu, ngực lưng hứng vào ống nước đang chảy, 2 tay xoa kỳ cọ thoải mái, đúng như “da trắng vỗ bì bạch”, vú để tự do (là của trời cho) ai thấy cũng chẳng sao. Cánh đàn ông thì “truồng” 100% chuyện trò cười đùa rôm rả… thật cứ như nơi vườn địa đàng buổi ban đầu con người còn chưa biết xấu hổ (nả hại) - tức là khi người nữ chưa ăn trái cấm (theo lời xui của con rắn “quỷ sa tăng”) nên tất cả đều rất vô tư, tắm truồng chung 1 mó nước, thỏa thích ngắm thân hình khỏa thân của nhau mà trong lòng không gợn chút dục vọng thú tính để dẫn đến tội lỗi?...
- Hai là: Tắm suối (vắng vẻ là tắm truồng) - Ba là: Tắm sông Chị em thường là ngồi ngâm mình dưới nước, váy để trên đỉnh đầu hoặc váy để trên bờ. Khi tắm ở sông suối, chị em thường kết hợp gội đầu, thả làn tóc mây xòa theo dòng nước, rồi đứng dậy, vung quay tít cứ như một điệu múa tóc thật là điệu đàng của các tiên nữ trên mường trời.
Người Thái rất tự hào về cái sạch sẽ da thịt của mình… chị em ngày rửa tới vài lần, lại mặc váy rộng xông xênh, nên thường nói đùa “hi của chúng tao là hi hom (thơm), chứ không bịt kín (xi líp), quần bó chặt như người Kinh chúng mày, nên hi min (thối) lắm bệnh phụ khoa”. Văn minh đô thị hay hoang sơ thôn bản (trở lại cuội nguồn tự nhiên chưa ô nhiễm môi trường) đang là một vấn đề nhức nhối của cái thời công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và con người hình như đang tự đánh mất mình để tiến lên văn minh tàn bạo.
Tắm ở bản (cũng như ở ao làng ngày xưa), chao ôi, đang lùi dần vào dĩ vãng để tắm nước máy đã được xử lý bằng hóa chất (chất độc hóa học diệt khuẩn)…phải chăng ta cũng đang tự “diệt mình” làm biến đổi gen để rồi sinh ra 1 lũ con cháu vô cảm chỉ biết “tiền” và máy móc,vũ khí tiêu diệt, hủy diệt hàng loạt mà thôi….? 4/3/2012.
Bài 17: LỄ TẰNG CẨU
Lễ tẳng cảu (tằng cẩu): Là lễ búi tóc ngược lên đỉnh đầu của phụ nữ Thái đen Sơn La khi lấy chồng. Sau lễ mai mối, chạm ngõ ăn hỏi và lễ cưới, người con gái đã có chồng thì lễ tẳng cảu làm ở nhà gái.
Trong các đồ sính lễ do nhà trai đem sang thường phải có 1 chiếc trâm bạc cài tóc (mản khắt phôm)… người đảm nhiệm làm thường là bà dì, nhà gái có 2 phù dâu trợ lý tiến hành.
Đầu tiên là gội đầu bằng nước vo gạo nếp (để chua) - bẳng nậm khẩu má và nồi nước lá sả, lá bưởi, lá tre… tất cả đem ra bến nước bờ suối giúp cô dâu gội đầu (như một lễ tẩy dơ bẩn trôi theo dòng suối, chỉ còn lại trên đầu phần vía (khoăn hua) thơm tho tốt lành… xong cô dâu về lên phía “tang chan” - khoảng 10 ghế mây (tắng)… cô dâu quay về phía mặt trời mọc, mọi người đứng xung quanh, 2 phù dâu áp sát 2 bên, 1 người nâng đĩa trâm cài tóc.
Bà “Nai tằng cẩu” rút lược sừng đen từ cái “ếp” của mình ra làm vài động tác đưa lên hạ xuống và chải tóc cho cô dâu nhiều lần.
Cuối cùng dùng 2 tay vuốt ngược từ sau gáy, đưa độn tóc đặt vào chính giữa đỉnh đầu và búi tóc “tằng cẩu”… sau khi vuốt nắn lại không còn sợi tóc nào vương lòe xòe, thì cô nâng trâm cài tóc xuyên đúng chỗ để giữa “cẩu”, nổi bật đồng bạc hào hoa văn trắng ở phần đầu của trâm cài tóc chính giữa búi tóc ngược.
Trước đông đủ mọi người, bà Nai cẩu nói: Khắt cẩu đi Vi hoa kiểng Tẳng cảu au phua Té nị pay nả Báu đảy rặm pay nảư Chăư pay ứn luk ơi! Nghĩa là: Gội đầu sạch Chải tóc mượt “Tẳng cảu” lấy chồng Từ giờ này đi Từ nay về sau Không được nước thay dòng Lòng đổi chỗ con ơi! Tiếp theo 2 vợ chồng dắt tay nhau đi qua dọc bàn tiệc đặt dài giữa nhà đã có khách ngồi kín đông vui nâng chén rượu chúc mừng. NK-
Bài 18: TỤC ĐẺ NGỒI CỦA NGƯỜI THÁI *
Đẩy xí phiên xong hắu chắng ó kin khẩu
Cẳư bươn phạ chắng ó kin nốm
Tốc khuổm chắng pên lụ chái
Tốc hai nọng ánh xai phên lụ nhinh phủ ưởi
* 10 tháng chờ đôi ta ra đời ăn cơm 9 tháng đợi đợi đôi ta ra đời bú mẹ Rơi sấp thành bé trai Rơi ngửa em yêu thành bé gái. Khi chuyển dạ, sản phụ được uống nước với cây “mậy phang” (cây tô mộc) có tác dụng cầm máu (có trong rừng hay mua của người Dao, người Hmông). Sản phụ đẻ ngay trong ngăn buồng ngủ của mình trong tư thế ngồi (ghế = tắng), đỡ đẻ thường là mẹ đẻ hay mẹ chồng, hoặc tự xoay xở (nay thì có y tá bản)…
Lễ vật cúng “bà mụ”: 1 con gà trắng, cắt rốn bằng dao cật nứa hơ qua lửa hay nhúng vào nước sôi để sát trùng. Rau thai được gói chôn gần nhà (kín đáo vào ban đêm). Khi trẻ đầy tháng thì cúng “hết hoóng”. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lúng ta (bên ngoại) đến đặt tên cho cháu.
Ta lại về với nhà sàn bếp lửa Một mùa đông ăn củ sắn lùi Vó ngựa phi qua đèo Khau Cả Ngắm sông Đà đổ thác réo sôi Em vẫn đợi ở bên rừng vắng Dải khăn Piêu tung cách bướm hội xòe Ta đi giữa cánh rừng Ban trắng Tiếng chim Tăng Ló vọng hồn quê Từ em đi, anh không về nữa Đầu hồi nhà “khau cút” ngóng chờ ai Đêm mơ về nhà sàn bếp lửa Nghe gió mùa thương nhớ tháng giêng hai. NK-
“Nặm Té hảnh to thú chắng lứm Sông Đà cạn bằng chiếc đũa, hãy quên” * Chúng thủy giai đông tẩu Đà giang độc bắc lưu. Sông Đà (Nậm Te), còn gọi là Sông Bờ hay Đà Giang, Hắc Giang là phụ lưu lớn nhất của Sông Hồng, bắt nguồn từ Vân Nam (TQ) chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Sông Đà dài 910 km (có tài liệu ghi 983km), bên TQ gọi là Lý Tiên Giang do 2 nhánh Bả biên Giang và A Mặc Giang hợp thành…được dịch ra tiếng Châu Âu là sông Đen: Black Rive (Ave), Rivière Noire (Pháp).
Đoạn bên TQ dài 400km từ núi Ngụy Bào, ở huyện tự trị người Di, người Hồi Nguy Sơn phía Nam Châu tự trị dân tộc Bạch Đại Lý chạy theo hướng Đông Nam qua Phổ Nhĩ. Đoạn bên ở Việt Nam dài 527km (có tài liệu ghi 543km), bắt đầu từ huyện Mường Tè (Lai Châu) qua Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình tới huyện Thanh Thủy (Phú Thọ) bên kia là Ba Vì (Hà Tây cũ). Điểm cuối là ngã ba sông Hồng Đà ở huyện Tam Nông (Phú Thọ). Sông Đà cung cấp 31% nước cho sông Hồng. - 1994 - nhà máy thủy điện Hòa Bình, có công suất 1920 MW (8 tổ máy). - 2005 - khởi công thủy điện Sơn La 2400 MW - xong vào 2012, sẽ tiếp ở Lai Châu.
Hồ Sơn La dung tích 9,26 tỉ mét khối nước. Sự hùng vĩ của sông Đà, đó là những ghềnh thác dữ dằn gầm thét âm vang giữa 2 bờ vách đá dựng đứng, như nỗi thù hận nghìn đời giữa trời và đất để hung dữ, để tàn phá, để nhấn chìm tất cả. Năm 1958 Nhà văn Nguyễn Tuân đi thực tế đến với sông Đà, Ông đã ghi lại những cái tên và tính nết của một số thác trong số 73 cái thác có tên trên sông Đà về từ biên giới Việt Trung tới thác Bờ (Hòa Bình): “Cách biên giới TQ phía Vân Nam khoảng mười cây số là thác kẻnh mỏ trên”.
Rồi đến thác La Sa, Hát Vá, Mằn hi, Mằn Lay. Rồi thác Hát Nhạt, Mằn thẳm, Hát No Héo, Kẻng mỏ dưới. Rồi đến Hát Lai ở trên thị xã Lai Châu (Mường Lay) độ 9km. Thuộc thủy phận Sơn La là các thác: Hát pi, hát soong pút, hát soong mon, hát pố, hát kếnh, hát chan, hát moong, hát tiếu; qua hát tiếu (tiếng Thái chữ hát = thác) “qua hát tiếu, rải chiếu mà nằm” coi như về cơ bản đã qua những chỗ nguy hiểm.
Từ Vạn Yên tới Hòa Bình lại xuất hiện một số thác tuy có bớt hùng dữ hơn ở phía trên Lai Châu, Sơn La…đó là những “ga” nước trên sông Đà: Thác Ẻn, Thác Giăng, Bãi chuối, Mó sách, Bãi lời, Bãi lành, mó tôm, mó nàng, Nánh kẹp, Quai chuông, Tà phù, Bãi nai, Ba hòn gươm, phố khủa, gềnh đồng, suối bạc, ổ gà, bái nhạp, cánh cuốn, mèo quen, hang miếng, quần cóc, suối trong, bãi ban, riềm, thác rút, thác mẹ, bãi thằng rồ, mó tuần, suối hoa, hót gió, thác Bờ…
Sau khi các đập thủy điện hoàn thành, tất cả các gềnh thác được nhấn chìm xuống đáy hồ sông Đà mênh mông chia 3 khúc: hồ Hòa Bình (từ thác bờ - Hòa Bình tớ tạ bú - Sơn La) rồi từ đập Pả Vinh - Ít ong (Mường La) tới Nậm nhứn Mường Nhé - Mường Tè - Lai Châu… Từ thời Lê, trong “kiến văn Tiểu Lục”.Bảng nhản Lê Qúy Đôn (1723 - 1872) đã viết: “Thác Bờ ở địa phận Động Dĩ Lý và Hào Tráng thuộc Mộc Châu”,như 1 ngọn núi đứng sừng sững giữa dòng là sông Đà, đá lớn lởm chởm, hàng năm cứ đến ngày 8 - 4 từng đàn cá ngược dòng nước bơi lên, chỉ có vài con cá chép khỏe là vượt được thác bờ (cá vượt vũ môn). Sách “Giao Châu ký” của Tăng Cổn (cuối thế kỷ 9) nhà Đường đô hộ Giao Châu (Tiết độ sứ) - có ghi về sông Đà “có Long Môn”, nước sâu trăm tầm, cá lớn vượt lên được chỗ này sẽ hóa rồng. Trong sách “Sơn đường tứ khảo” gồm 228 quyển và bổ di 12 quyển …
Bành Đại Dực (nhà Minh) biên soạn có chép “sông Long môn ở huyện Mông (Yên Lập - Phú Thọ) phủ Gia Hưng, nước An Nam phát nguyện từ Châu Minh Viễn (Vân Nam), nước sông chảy đến đây, 2 bên bờ cao vót, hiểm trở, tảng đá lớn chắn giữa sông chia làm 3 dòng, sức nước vọt lên cao đến vài trượng, nghe ầm ầm như sấm, thuyền đến đây phải kéo lên bờ mới qua được”. Sườn núi động Hào Tráng ở về phía bờ trái, có khắc 2 bài thơ (ngự thơ) của vua Lê Thái Tổ đi đánh Đèo Cát Hãn: Lê Quý Đôn dịch:
“Gập gềnh đường hiểm chẳng e xa, Dạ sắt khăng khăng mãi đến già Lẽ phải quét quang mây phủ tối, Lòng son san phẳng núi bao la. Biên cương cần tính mưu phòng thủ Xã tắc sao cho vững thái hòa (Hư đạo nguy than tam bách khúc Như kim chỉ tác thuận lưu khan) “Ghềnh thác ba trăm” lời cổ ngữ Từ nay xem chẳng nổi phong ba”. Viết tại ngày tốt, tháng mạnh hạ (tháng tư) năm Thuận Thiên thứ 2 (1429). “Đường lên mường Lễ (Lai Châu) bao xa 170 thác, 130 ghềnh” - Ca dao Cử nhân, thượng thư Phạm Thuận Duật (1825 - 1885) năm 1855 làm tri châu Tuần giáo (lúc ấy thuộc Sơn La, tỉnh Hưng Hóa trong sách “Hưng Hóa ký lược” có chép).
“Châu Đà Bắc ở xã Hào Tráng có bến Vạn Bờ tức sông Long Môn, cùng gọi là “đê long thủy”. Tục truyền rằng đây là nơi “cá vượt vũ môn” hóa Rồng. Hai bên đá chốc đứng, chặn ngang cửa sông, ở giữa có một chỗ đá bị đục thủy (do nước xói mòn) gọi là Ao Vua, đó là nơi vua Lê Thái Tổ đề thơ (1429). Theo tác giả Anh Đức trong bài “xuôi dòng Đà giang trước lúc ngăn sông”, tạp chí Suối Reo - Sơn La 5/2004 thì: “Từ thị xã Lai Châu cũ (Mường Lay) muốn xuôi xuống Quỳnh Nhai, ít nhất phải ngồi thuyền trên 200km, vượt qua trên 10 thác hung dữ với những cái tên hãi hùng như thác Ba Bố, ghềnh Ba Cô, thác Bà Đái, hòn Chông, ghềnh chém sóng… thử thách đầu tiên là thác Ba Bố mùa lũ.
Tuy các dải đá ngầm có bớt nguy hiểm nhưng những con sóng lại cực lớn, dập từng cơn táp mạnh vào mạn thuyền, con thuyền liên tục xô nghiêng chao đảo. Người chưa quen đi sông nước bao giờ thì lúc đó coi mặc cho số phận, còn những người từng trải thì thêm 1 lần trải nghiệm. Qua hết nghềnh thác, mọi người thở phào nhẹ nhõm. Đi từ sáng tới hơn 2 giờ chiều đến được bản Huổi Ca, xã Nậm Mạ, huyện Sìn Hồ (Lai Châu). Rồi tiếp tục xuôi qua: Nậm Lốt, Pờ răng ky của đồng bào Dao, xã Nậm Hăn (Sìn Hồ), rồi tới Pắc Phạ, Pắc Na của đồng bào Hà Nhì, Thái trắng xã Tủa Thàng (Tủa chùa)…
Vào đất Sơn La là bản cũ xã Cà Nang (Quỳnh Nhai) của đồng bào La Há hiện dưới cánh rừng ven suối. Qua huyện lỵ Quỳnh Nhai: Thuyền ghé qua các bến Pá Uôn (nay có cầu), Chiếng Bằng, Văn Pán, Nậm Giôn, Nậm Mu, Liệp Tè… Thác Pá Mu hung dữ mùa cạn, khi nước dâng thì hiền lành là bến đò đưa khách qua sông. Tại Pá Vinh - nơi xây Thủy Điện Sơn La có cây cầu cứng qua sông để thi công… Sau 5 ngày lênh đênh sóng nước, thuyền cập bến Tạ Bú an toàn.!.!.
Bến Tạ Bú một sớm mai mình đến Nước sông sâu xanh biếc tự đáy lòng Hòn cuội trắng soi hồn ta tỏa nắng Theo ngựa thồ sang tận En Ong Ơi thác Chiến, có xuôi thuyền đuôi Én Bản Pha Khinh ai đó hẹn ta về Đêm nay “lẩu xiêu” vui cạn chén Bếp nhà sàn tiếng “Pí” thổi say mê Bến Ta Bú nào có ai ra tắm Để vừng trăng đắm đuối giữa dòng Mình là trai bản Phiêng Ngùa lạ lẫm Đến bến thuyền xuống ngựa ngẩn ngơ trông. Nguyễn Khôi “Nước Sơn La ma Tạ Bú” (cũng có người nói ma Hòa Bình)
Ở khu di tích bảo tàng “nhà tù Sơn La” trên đồi Khau Cả, áp sát dinh Công Sứ (thời Pháp thuộc) nay là trụ sở UBND khu tự trị Tây Bắc, rồi tiếp là trụ sở UBND tỉnh Sơn La. Ở cách cổng nhà tù xưa một quãng có một ô nhỏ “Iđôlê”rộng khoảng 4m2, hình tam giác vuông - xưa có cửa là một phiến gỗ lim dày, vừa để 1 người lọt ra vào. “I đôlê” ở ngay bức tường sau khu thường phạm, bước chân ra là đường hành lang tròn (đường Rông). Năm 1940, nơi đây nhốt 1 người tù Cộng Sản: Anh Tô Hiệu (30 tuổi) nguyên Bí thư Thành ủy Hải Phòng Đảng Cộng sản Đông Dương - quê Xuân Cầu, Văn Giang, Bắc Ninh.
Sau những trận đòn thù của thực dân Pháp ở các nhà tù như Côn Đảo, Hỏa Lò… anh Tô Hiệu đã bị “lao” nặng nên bị nhốt cách ly ở “I đôlê”- lúc này anh Tô Hiệu là Bí thư chi bộ nhà tù, tuy bị đau nặng, lại phải nằm bệ ci ment, nhưng anh vẫn làm việc hết mình… đến ngày 16/7/1944 thì anh trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay các đồng chí của anh. Nhà tù Sơn La do thực dân Pháp xây để nhốt tù chính trị, tường cao, sàn sân láng ci ment, 1 ngọn cỏ không thể mọc được, tường và sân, kể cả đường “nông” đều dầm đá dăm + ci ment (bê tông) dày hàng nửa mét (để đề phòng tù nhân đào hầm tẩu thoát).
Luật lệ canh gác nghiêm ngặt, thường có lính gác đi lại liên tục ngày đêm nên không ai có thể đào bới trồng cây trong sân nhà tù. Sau Cách mạng tháng 8, khoảng năm 1948 (do các đ/c ở đây kể lại) khu di tích nhà tù bị bom Pháp đánh sập, bị bỏ hoang… Sau năm 1954 (hòa bình lập lại) thủ phủ khu tự trị Thái Mèo đặt ở Chiềng Ly (Thị trấn Thuận Châu), tỉnh lỵ Sơn La cũ (Chiềng Lê là một thành phố chết và đổ nát)… thuộc 2 xã Chiềng An, Chiềng Cơi, huyện Mường La (Châu Mường La)… mãi tới năm 1962 mới thành lập thị xã Sơn La: Các cơ quan của khu và tỉnh mới chuyển từ Thuận Châu về thị xã , nhà cửa mới được xây dựng, khu nhà tù vẫn là một phế tích, nay là Thành phố.
Năm 1958, nhà văn Nguyễn Tuân đi thực tế ở Sơn La, trong tùy bút “Sông Đà” nổi tiếng, ở trang 129 - 134, ông có viết thiên “Đào cộng sản” nhân sau khi đến thăm khu phế tích nhà tù Sơn La xưa “tôi dạo hết sân ngoài sân trong, nhìn tường đá, nhìn xi măng cốt sắt, nhìn cây. Có những cây hao hao cây Xoan, và mấy gốc muỗm.
Thế thôi. Tôi biết. Ở đây còn có cây đào, cây đào ông Tô Hiệu”… Rồi nhà văn xuống khu vườn ổi chân đồi Khau Cả viếng mộ anh Tô Hiệu: “Đứng trước mộ đ/c Tô Hiệu nơi rừng ổi, tôi bảo tôi “nơi nghĩa trang tiễn biệt này, cần có đào”…. Đối với bậc lãng mạn cách mạng, lấy hoa đào để thực hiện lên cái vui hoa quả XHCN của Sơn La - Thủ phủ Tây Bắc ngày nay, thấy cần có bóng hoa ấy trên chữ vàng bia đá”. Nhà văn Hoàng Công Khanh (1921 - 2010).
Một bạn tù của anh Tô Hiệu, trong cuốn “Hoa nhạn lại hồng” NXB Văn Học 1992, trang 157 có viết “sau các trận bom Pháp, nhà tù Sơn La chỉ còn cái cổng và cái hầm sâu. Trên quảng đường “rông” gần “I đôlê” bỗng xuất hiện một cây đào rừng (đào phai không ăn quả được) nó lớn nhanh và hoa phớt hồng, sinh thời nhà văn Nguyễn Tuân nhân một dịp lên thăm qua thăm vết tích nhà tù thấy cây đào mọc bên cạnh phòng giam (xưa) anh Tô Hiệu đã vui miệng nói đó là cây đào Tô Hiệu”.
Rồi truyền miệng, báo chí đăng tải, rồi Bảo tàng Sơn La gắn biển “cây đào Tô Hiệu” một huyền thoại thành hiện thực ca ngợi một chiến sỹ cộng sản. Năm 1980 - 1981 tỉnh mới tu bổ lại thành khu di tích bảo tàng cách mạng. Nguyễn Khôi tôi lên công tác Sơn La 21 năm (1963 - 1984) có cái may mắn: Hồi 1966 - 1970 công tác ở Ban Nông nghiệp tỉnh ủy Sơn La, 1978 - 1984 làm thư ký ở văn phòng UBND tỉnh Sơn La, nơi ở và nơi làm việc cách 1 bức tường là sang khu di tích nhà tù, cách chỗ gọi là “cây đào Tô Hiệu” vài chục mét.
Nguyễn Khôi tôi cũng có cái may mắn đã từng được đưa các bác Trần Huy Liệu, Văn Tân đi thăm lại nhà tù… và được nghe các bác kể chuyện đủ thứ về nhà tù. Năm 1984 tôi về công tác ở VPQH và HĐNN, có điều kiện cận kề bác Trường Chinh, Nguyễn Hữu Thọ, Lê Thanh Nghị, Xuân Thủy… lại thường xuyên giúp việc bác Lê Thanh Nghị nên có điều kiện hỏi về chuyện nhà tù Sơn La (vì bác Nghị hồi trước 1945 cũng bị tù ở đây 5 năm cùng các bác Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu, Trần Huy Liệu, Lê Đức Thọ, Xuân Thủy… bác Xuân Thủy, hồi sau làm Phó chủ tịch Quốc Hội).
Qua câu chuyện về cây đào “Tô Hiệu” thì bác Lê Thanh Nghị, Xuân Thủy đều bảo thời trước 1945, nhà tù chưa bị phá thì không thể trồng cây gì ở trong đó được. Sau này, đó là chuyện của Nhà Văn Nguyễn Tuân trong tùy bút Sông Đà với mấy câu lấp lửng “Cây đào ông Tô Hiệu”, rồi sau đó được báo chí “môliphê” như khẳng định… câu chuyện thực là thế, và có lẽ cũng chỉ nên nói là “cây đào bên buồng giam Tô Hiệu”.
Cây đào này (bên cạnh còn nhiều cây đào khác) hiện nay được Bảo tàng Sơn La gắn biển “cây đào Tô Hiệu”… vậy thực là do ai trồng? Đó là do chim rừng, gió núi đem những quả đào dại (đào rừng) mọc đầy trên đồi Khau Cả gieo vào các khe nứt trên sân nhà tù xưa đã vỡ nát, rồi nảy mầm mọc lên thành cây… tất cả đào Sơn La hầu hết là “trời trồng” (mọc tự nhiên) không phải ai tưới tắm gì cả. Hậu thế, do quá yêu tấm gương hy sinh của người chiến sỹ cộng sản Tô Hiệu nên đã gán cho anh thêm cái “tình”: Ho lao rũ rượi chết đến nơi rồi mà vẫn gieo hạt, trồng đào nở hoa cho các thế hệ mai sau. Từ văn học (tùy bút) rồi thành huyền thoại, âu cũng là một tấm lòng, không nên bàn cãi qúa nhiều. Vấn đề là cất cái biển đã ghi tên kia đi… (Rendez César ce qui appartient à césar)./.
Nhà sàn của người Thái - Sơn La - Tây Bắc “hướn hạn phủ táy” là một công trình kiến trúc tài hoa, hòa đồng với thiên nhiên, trời đất cùng vạn vật, có 2 loại: - Nhà sàn khung cột: bộ khung được gá lắp từ các bộ phận rời, bắt đầu từ việc chôn cột (nhà cột chôn - nghèo) “hươn chim mạy”. - Nhà sàn vì kèo “vì cột”: Kèo, cột, xà ngang đã được lắp ráp thành các đơn vị “vì kèo” dựng nối các vì bằng các xà dọc (tiến từ hườn khứ sang kẻ khứ (quá giang = khứ) có hai trụ để đỡ đòn tay (pe hản) là con cung.
Đó là loại nhà “hườn kè khang” (nhà kê hạ). Nhà sàn Thái bao giờ cũng làm số gian lẻ, 2 đầu hồi - “tụp cống” khum khum như mai Rùa, gắn với truyền thuyết thủa khai thiên lấp địa, thần Rùa “Pua tẩu”. Dạy người Thái làm nhà theo hình Rùa đứng. “Khửn song phái/ cái song đay” - mở 2 cửa/ đi 2 cầu thang là “tang chan” và “tang quản”. “Tang chan” ở cuối nhà bên trái dành cho phụ nữ. “Chan” là phần nhà sàn được nối dài ra ngoài trời. Đây là nơi đàn bà trong nhà ngồi nghỉ ngơi chơi lúc nhàn rỗi, thêu thùa, cầu thang phía này thường 9 bậc (9 vía). Cầu thang đầu bên phải “tang quản” dùng cho nam giới; 7 bậc (7 vía).
Có 2 bếp lửa: “chik pháy” phía tang quản dành cho người già. Bếp chính phía tang chan dành cho nấu nướng, phụ nữ. Bếp lửa nhà sàn ở giữa nơi núi rừng âm u được coi như “trái tim bốc lửa” sưởi ấm nuôi dưỡng cả về vật chất, tinh thần cho cả nhà. Gian “quản” có bàn thờ tổ tiên “hỏng hóng” và cột thiêng “sau hẹ”.
Trên cột thiêng có treo hình Rùa bằng gỗ 3 bông lúa “sam huống khẩu” và 3 nhánh rau “thì là” “sam hóm chik” - đó là biểu tượng của tô tem giáo cùng bóng dáng thuyết thiên - địa - nhân. Nhà sàn Thái vừa trang nhã vừa chắc chăn: Hươn đi tẳng cang tèn Hươn én tẳng cang vên Lốm luông pặt bấu chại Lốm hại pặt pấu pay. (Nhà tốt dựng nơi cao ráo Nhà đẹp dựng giữa mường Gió to thổi không xiêu Bão lớn không lay động). *
Sự tích cái Khau cút (hoa nhà) Theo Quắm tố mướng (kề chuyện mường) Thì: Cuộc thiên đi/ đi đường thuyền sợ rơi/ phải chuồn theo đường con don, con dím… Người Thái từ xíp xoong păn na (Vân Nam) đi theo dọc sông Hồng (Nậm Tao - Sông Thao) ra đi vào cuối tuần trăng. Họ đi cứ đoán lũ nhìn vào mặt trăng khuyết ở cuối dãy núi, họ hẹn nhau, hễ ai đến được phương đất nào khi làm nhà thì dựng trên đầu hồi nhà (nóc) một cái dấu hình mặt trăng khuyết để nhận ra đồng tộc - và cái đó gọi là “khao cót” và gọi chệch là “khau cút” = sừng cuộn. Theo tiếng Thái “khao” là trắng, cót là ôm có ý nghĩa là mối hận ly hương. Cái mô típ trang trí nghệ thuật “mặt trăng khuyết” này còn có ở cửa sổ, khăn Piêu…
Khau cút vẽ vân sen/ đầu kèo vẽ vân én/ mái nhà xén chân gianh bằng rui: Đó là tiêu chí nghệ thuật về nhà sàn Thái. Khau cút là 2 thanh gỗ đóng chéo hình chữ X trên đòn nóc “tiêu bôn” trước hết là để chắn gió “pảy lốm” nẹp 2 mái gianh 2 đầu hồi nhà. Những nhà tầng lớp trên xưa còn thêm bông sen cách điệu ở 2 giao điểm 2 tấm gỗ và 8 hình trăng khuyết hướng vào nhau so le trên khau cút. Có nhiều cách hiểu về khau cút: Đó là cặp sừng trâu cách điệu (văn minh lúa nước); Đó là những búp cây Guột (rau dớn)… nhìn thấy nó là ta nhớ bản nhớ mường. Trên bậu cửa thường chạm hình đôi Thuồng luồng (tô ngựa) linh vật làm chủ trên sông suối, biểu tượng cho sức mạnh và gia đình hạnh phúc. *
Các loại khau cút: - Khau cút mải: Là dạng đơn giản nhất chỉ là 2 thanh tre bắt chéo vào nhau, là dấu hiệu nhà của phụ nữ góa bụa (me mải). - Khau quai (sừng trâu), khau pẻ (sừng dê), cút chim may (trăng khuyết) cút nêm (cút lá tre) là dấu hiệu của nhà bình thường. - Khau của pụa (khau cút Vua) dấu hiệu nhà Quan lại, quý tộc gồm 2 miếng ván dài trên 1m, phần chót có đóng 2 miếng gỗ ngang, chia 5 nhánh, mỗi nhánh có gắn hình hoa thị theo số đếm của luật tục làm nhà. - Khau cút căm (khau cút vàng) dưới có thanh gươm, là dấu hiệu của Nhà quý tộc “quan võ”. - Khau cút hoa sen:
Nhà quý tộc lớn. Bố trí nội thất: Tiếp liền vách gian buồng thờ tổ tiên (hóong) là buồng ngủ của chủ nhà, phía chân thường đặt thêm bếp lửa để gia đình sum họp, sưởi ấm… chăn đệm chất đống đặt ở phía đầu ngủ. Vị trí ngủ của các thành viên trong gia đình: Gian giữa “xáo hạch” và “hỏng ly” là gian khách đàn ông ngủ. Đối diện phía dưới là nơi con trai chưa vợ ngủ. Kề cột xáo hạch là vợ chông chủ nhà ngủ. Kế tiếp là vị trí Bố mẹ chủ nhà ngủ, tiếp là vợ chồng con trai ngủ, tiếp là nơi vợ chồng con gái ngủ, rồi đến con gái chưa chồng ngủ.
Con rể không được vào khu vực bố mẹ vợ ngủ, con dâu, con rể không vào khu bố mẹ chồng ngủ. Bố mẹ chồng không vào khu con dâu ngủ. Sợi dây “xảo lỏng luông” là ranh giới (sợi dây linh thiêng) nên người ta chỉ vắt khăn mặt, khăn Piêu lên sợi dây này. Tuyệt đối không vắt quần áo, tối kỵ là váy áo phụ nữ. Con gái chưa chồng Vợ chồng con rể Vợ chồng con trai Bố mẹ (ông bà) Vợ chồng chủ nhà Khách đàn ông *
Các vị trí khác: - Nơi để hạt giống (giàn 2 bếp) - Nơi để ống nước: Dựa vào vách bên phải (thường ngồi quay mặt vào bếp) - Nơi để khung dệt vải: Bên phải sàn xia phía trong nhà hoặc bên trái sàn xia phía ngoài nhà. - Nhà kho: Ở dưới gầm sàn Lễ lên nhà mới: mời Lúng ta (ngoại) châm lửa nhóm củi ở bếp mới, mời mo đọc bài xua đuổi tà ma
Cảm tưởng đầu tiên khi gặp “gái Thái” là nõn nà, sạch sẽ, đẹp, hấp dẫn cả dáng lẫn da. Trang phục đẹp “độc đáo” tạo dáng đi tha thướt, uyển chuyển, làm nổi bật các đường cong gợi cảm nhưng vẫn kín đáo, thắt đáy lưng ong. Tính tình dịu dàng, hiền thục, dễ gần gũi, thực thà, chất phác, nói năng vừa phải. Tình cảm: chân thành, yêu tha thiết, hoạt động tình dục mạnh mẽ, đứng tuổi mà bộ ngực vẫn đầy đặn. “Gái Thái tóc thơm, da trắng, thịt mềm Đôi bầu nhật nguyệt như mộng ước Ru hồn trai lên cõi trời tiên”
Thông minh, hoạt bát, ham học hỏi và nhanh tiếp thu cái mới. Sinh hoạt cộng đồng: dám phát biểu chính kiến, hay hát và hát hay, múa (xòe) giỏi. Chăm chỉ đảm đang, nuôi con khéo, dạy con ngoan. Không đánh con, ít xảy ra cãi nhau (to tiếng), không ăn cắp, không nói dối (ba vẹo). Có tính bình đẳng bình quyền (không tự ti), có chí khí vươn lên (danh ca có nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa; chính trị cấp cao có Tòng Thị Phóng - ủy viên bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội…)
Nhận xét (đánh giá) về “gái Thái” của chính các chàng trai Thái qua “Tản chụ xiết xương” (tâm tình người yêu) với cái lối nói “xiết” (kiểu nói kháy, hơi cường điệu, phóng đại “quá” lên một chút) đã ca ngợi cô gái có vẻ đẹp thông qua lao động: “Xai pánh nhịp lang chủm pên hún nộc dung / phung lang he pến hún luống bin xẻo/. Lả tắt kẻo pên chớp lao vi” (Em khâu vó nên hình chim công /vá chài thành hình lượn con rồng) đưa nhát kéo thành Sao Tua Rua/. Cô gái xinh xắn ở trên sàn khuống khiêm nhường đáp lại:
“Khuống phủ khuôn nhinh khuống nọi, khống ai khái Khuống pai chán dú ngăm nga phả Báu đáng nả chụ pươn má cha đău ná” (Khuống của em, Khuống nhỏ lại xiêu vẹo ở bên sàn ngoài, cớm cành cớm nguội chẳng xứng mặt chàng yêu của người sang chơi). Người Thái có câu “au mia bấng me nai” (lấy vợ thì xem bà mẹ cô ta) ý là “mẹ nào con ấy”…từ lên sáu, lên bảy, bé gái đã được mẹ dạy tập nhặt bông, cán bông, quay xa, kéo sợi, cầm kim chỉ để khi lớn là thông thạo dệt vải vá may, tự tay trồng bông, dệt vải, nhuộm màu, cắt may quần áo, làm chăn gối đệm màu…Phụ nữ Thái còn giỏi trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ dệt thổ cẩm đẹp, thêu piêu…coi đây là các nghề phụ làm ngoài giờ ra ruộng, lên nương, nuôi dạy con cái. Đó là những bàn tay tài hoa, khéo léo:
“Sai pánh khuổn mư sại lẹo chum bok cai Hai mư khoa chum bơk Mường Hỏ Năng dóng dỏ nhịp lụa pên pik bin lá” (Em úp tay trái nở hoa đào Ngữa tay phải thành hoa Mường Hỏ Khép ngồi khâu lụa thành (chim) vỗ cánh bay.
Sự chăm chỉ của các cô gái Thái thức khuya dậy sớm trên khung cửi từ canh ba, canh tư đến tang tảng sáng mới rời khung cửi đi nương, ra ruộng. “Tứn tắm húk kem bươn hai Tứn tắm húk lai kem bươn hai póng hung” (Dậy dệt thổ cẩm cùng trăng sáng Dậy dệt vải hoa cùng trăng tỏ rạng đông).
Người phụ nữ Thái quên ăn quên ngủ làm lụng tận tụy vì chồng con, xã hội… đã tạo ra các sản phẩm thiết thực quý giá… các chàng trai Thái luôn mơ ước kiếm được cô vợ đảm đang, qua lời hát “khắp” đã lý tưởng hóa về việc nàng thêu khăn đào tặng chàng: “Lả tắm phải pên póc nong xe Pánh tắm pé pên khoáng lái lủ Chụ tắm khẳm pên khoáy lai lương Cốn táng phương lướt le chăử hảy”.
(Em dệt sợi thành vóc hoa dâu Em dệt tơ thành gấm hoa vân chéo Dệt thổ cẩm rực rỡ hoa văn Ước được em thêu dệt khăn đào). Như vậy: Gái Thái với vẻ đẹp hình thể (vào loại nhất ở nước ta) thì cái đẹp bên trong, vẻ đẹp nội tâm quả là các cô nàng xinh đẹp để cho ta chiêm ngưỡng và yêu thương hết dạ. 8/3/2012.
Tiếng Pí Pặp lảnh lót Rơi xuống nhà sàn em Nhà sàn em tỏa sáng vừng trăng Tiếng Pí Pặp nỉ non đêm ngày Trải thảm lên thang gỗ chín bậc Rơi vào đáy tim em. Lò Vũ Vân
_________
(1) Pí Pặp: Sáo trúc nhỏ Pí = sáo “páu pí xáư hu quai” thổi sáo vào tai trâu (đàn gãy tai trâu) Pí láo = sáo trúc dài * Nhà thơ Lò Vũ Vân (19 - 8 - 1943) quê bản Noong Đa, Bắc Yên. Ở tổ 8. phường Tô Hiệu. TP Sơn La.
Bài 26: TÊN MỘT SỐ MÓN ĂN THÁI
Người Thái có câu “dệt kin xấư xốp nhăng báu hụ” - làm ăn vào miệng còn không biết thì mọi lời nói chữ nghĩa cũng chỉ là “tô xư tai” (con chữ chết) mà thôi. Theo Vi Liên: 1. Căm khảu (Phần về cơm): Khảu nửng (cơm xôi), khảu lam (cơm lam), khảu tổm (bánh chưng), khảu chảo (cơm thổi), khảu canh (cháo), khẩu chí (cơm nướng)…
Khảu bái pa (cơm cá), khảu bái sáy (cơm độn trứng), khảu bái bay (cơm độn trám đen), khảu bái cưởm (với trám xanh), khẩu bái nậm ỏi (với mật), khẩu nhọm (nhuộm các màu), khảu qua mắn có (độn sắn), khảu qua khảu phảng (độn kê), khẩu qua li tổm (với ý dĩ), khảu qua phứa hom (khoai thơm)… 2. Căm chảm (các loại chấm). *
Le cưa khao (muối trắng), le ướt cưa (muối ớt). * Các loại “chéo”: Chéo khinh hom (gừng), chéo ướt cưa (ớt tỏi), chéo báư líu (lá chanh), chéo hom chi lang (húng chó), chéo inh ki (húng) chéo hom kíp (tỏi), chéo hom pẻn (mùi tàu), chéo phắc chậu (sả), chéo thúa nau (đỗ tương), chéo pa (cá), chéo pu (cua), chéo mẹ (sâu măng), chéo non tó – chéo manh i (nhộng, ve), chéo đẻ mọn (nhộng tăm). *
Các loại mắm: Mẳm ca (cá), mẳm nước, mẳm khụa (nòng nọc), mẳm mẹ (sâu măng), mẳm co đường Pừng (nhộng cây móc), mẳm manh ti (nhộng ve), mẳm manh po (nhộng cánh cam), mẳm tắc ten (châu chấu), mẳm pu (cua), mẳm non tó (nhộng ong), mẳm manh đa (cà cuống), mẳm tô niểng (niềng niểng). *
Các loại nước chấm: Nặm xổm đanh (măng chua), nặm xổm má xim (quả xím), nặm xổm mák (quả bứa), nặm xổm má liu (chanh)… kham bong (quả me), nặm mắm (nước mắm), nặm tôm (mắm tôm), pảnh van (mì chính).
3. Căm kin (phần về các món ăn): * Phau (đốt) – chí (nướng) Các món nướng (pỉnh): Pỉnh họn, pỉnh tộp (cá), pỉnh ho (gói), pỉnh mịnh (hơ), pỉnh mản (xiên), pỉnh mản xót (xiên miếng to). * Các loại lam: Lam nhứa phặc (thịt nạc), lam nhứa hạp hạ (thịt bạc nhạc), lam phắc (rau), lam nó (măng), lam tô họk (con sóc), lam tô ổn (con dúi). *
Các loại “mốc” cá: Gói lá vùi tro nóng: Móc tong (lá), mốc ố (ủ), mốc nhứa đảng (thịt khô), mốc cay (rêu đá), mốc pho, mốc ốt, … * Các loại Ók gồm: Hầm cách thủy: ók năng min, ók nhứa đảng (thịt chó), ók cay (rêu đá), ók tau (tảo), ók bon, ók ốt… *
Các loại nhọk (nghiền nhuyễn): Nhọk mák khừa (cà), nhọk mák thú (đỗ), nhọk năng (da), nhọk nhứa (thịt). * Các loại mọk (tẩm bột hầm cách thủy): Mọk cáy (gà), mọk pa (cá), mọk nhứa (thịt), mọk tô pụng (diều hâu), mọk tô hơn (don), mọk tô mển (dím), mọk cay (rêu đá), mọk hết (nấm), mọk mắk mư (quả chua ngọt). *
Các loại pho (đùm lá vùi nướng): Pho hết côn (nấm rơm), pho cốp (ếch), pho hết hẹk (nấm hương), pho hết khôn cày (nấm da), pho chương tọng (lòng), pho pa (cá). * Các loại nửng (xôi) “đồ”: Nửng táo, nửng xá - đíp (chín tới), nửng pa (cá), nửng phắc kén (rau khúc), nửng man ca (búp sự), nửng pưới (nhừ), nửng nhứa (thịt), nửng mák buốp (mướp), nửng mák pi (hoa chuối), nửng dúak pi (nõn cây chuối rừng)… * Các loại quả:… *
Các loại rau: Đều đem “đồ” mới ăn, phắc cát úp (bắp cải), phắc cát mong (cải xanh), mướk (bồ công anh), khỉ táu (diếp cá), noók (rau má), ngỗm (xương sông), cát đon (cải bẹ), cát choong (cải xoong), ót (rau ngót), xô-ók (dọc mùng), cút nặm (dớn), phắc ở lợt (lá lốt), phắc ven. 4. Các loại lá (lá non và ngon): Bâư mắn co (ngọn sắn), bâư ổi, bâư ngoa, bâư đứa. 5. Các loại măng ăn ghém sống: Nó khá, nó van, nó bới, nó thúa ngọk (đá), nó pửng, nó lau, nó man ca, nó tao, nó vai… 6.
Các loại nấm: Hết bỉ, hết thu nún nặm. 7. Các loại quả thơm: Măk khén (hạt tiêu rừng), măk he (tiêu), măk ớt (ớt). 8. Các loại vỏ: Năng co hăm (vỏ cây hạt dổi) Năng chưa bi mi 9. Các loại quả ăn sau bữa cơm (đét xe): Măk teng (dưa), kiểng (cam), hảu (bứa ngọt), phong mạt (dứa), mắk muông (muỗm), hăm (hạt dổi), liu (chanh), cuổi (chuối), nghe (quýt), na (na), pục van (bưởi ngọt)… 10. Các loại bánh kẹo:…
11. Các loại chụp (nộm): Chụp phắc chiệu (rau bướm), nó (măng)… 12. Nó xổm (măng chua) Nó héo (măng khô chua) Nó hang (măng khô) 13. Các loại củ quả: Mắk ứk (bí đỏ), mắk phặc (bí xanh). 14. Các loại hoa “đồ” chín ăn được: Bók ban (hoa ban), ít ương, thúa (đỗ), tong tay, hởng, nôm nẹ, pip, ứk, khạnh… 15. Các loại gỏi: Cỏi năng (da) cỏi pa (cá), cỏi nhứa (thịt), cỏi xổm (chua), cỏi khôm (đắng)…
16. Năm pịa, nặm bi (mật). 17. Kăm cắp (ghém): * Các loại ghém rau thơm: Hom kim (húng), hon xa au, hon pẻn, hon chỉ, hon kip (tỏi). 18. Căm nặm (phần để các món uống): : Lảu xá chúp (rượu cần mút) : Lẩu xiêu (rượu cất). : Lẩu vạng (rượu cái). Nặm ta (nước lã), lẩu xá nóng (rượu đóng chai), lẩu xong xiêu (cất 2 lần), nặm che (nước chè)… Cơ cấu một bữa ăn (mâm cơm) thường phải có đủ 5 thứ (năm miếng) xếp thứ tự. 1. Căm khảu (về cơm) 2. Căm chảm (về chấm) 3. Căm kin (về món ăn) 4. Căm cắp (về món ghém)
5. Căm nặm (về món uống) Khi sắp xếp mâm cơm: Đặt trước tiên là “đĩa muối ớt” coi như đã có chủ nhà (mi chản hươn) tiếp theo là các món khác. Do thích ăn “xôi nếp thơm” nên cả hệ thống tiếp theo sau cơm (xôi) là các món thức ăn khô (trừ rượu) mùa nào thức ấy. Các món ăn “đồ” (không luộc) nên ăn ngọt đậm (không nhạt)… Bữa cơm Thái quả thật là độc đáo, hấp dẫn, ngon mà như đủ các vị thuốc thu lượm từ rừng núi rất bổ dưỡng cho cơ thể con người./.
NGUYỄN KHÔI * SƠN LA KÝ SỰ 1
SƠN LA KÝ SỰ
NGUYỄN KHÔI
(Ghi chép về Bản cũ, Mường xưa)
LỜI THƯA
Khoảng
thời gian từ 1955 - 1975 thì 18 Châu Mường (huyện miền núi) phía Tây
bắc Việt Nam là khu tự trị Thái Mèo, sau đổi là khu tự trị Tây Bắc. Tổ
chức Nhà nước VNDCCH trên Trung ương là chính phủ ở Thủ đô Hà Nội,
dưới là khu hay tỉnh rồi tới huyện, xã, thôn (bản). Thời đó chính
quyền cơ sở (chiềng - xã) còn rất yếu: Chủ tịch xã, trưởng bản phần
lớn nói tiếng phổ thông (kinh) còn chưa thông, mới võ vẽ đọc thông viết
thạo…Để giúp cơ sở hoạt động có hiệu lực thì cấp tỉnh, huyện thường cử
cán bộ xuống giúp xã “chỉ đạo” (kiểu cố vấn, trợ lý) gọi là “cán bộ
phụ trách xã”, nôm na là “cán bộ cắm bản”, thực hiện “3 cùng” (cùng
ăn, cùng ở, cùng làm với dân bản).
NK tôi sau khi tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp lên Sơn La công tác (1963-1984) ở Ty Nông nghiệp, rồi Ban nông nghiệp tỉnh ủy nên đã có nhiều đợt làm “cán bộ cắm bản”, để lại nhiều kỷ niệm không thể phai mờ…Nay đã ngót 40 năm, xin ghi lại đôi dòng hồi ức “cắm bản” ghi chép về Bản cũ, Mường xưa.
Hà Nội, 28-2-2004
Nguyễn Khôi
NK tôi sau khi tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp lên Sơn La công tác (1963-1984) ở Ty Nông nghiệp, rồi Ban nông nghiệp tỉnh ủy nên đã có nhiều đợt làm “cán bộ cắm bản”, để lại nhiều kỷ niệm không thể phai mờ…Nay đã ngót 40 năm, xin ghi lại đôi dòng hồi ức “cắm bản” ghi chép về Bản cũ, Mường xưa.
Hà Nội, 28-2-2004
Nguyễn Khôi
Bài 1: BẢN QUÊ YÊU DẤU
“Mười
yêu không bằng người tình cũ Mười nhớ không bằng nhớ bản xưa” Thôn
bản là hình ảnh thu nhỏ của xứ sở. Bản (làng) dân tộc Thái đầu tiên khi
tôi đến ở là bản Nà Nghiu bên bờ sông Mã (thượng nguồn). Tiếng Thái có
nghĩa là “bãi cây gạo”.
Đó là mấy chục ngôi nhà sàn (gỗ, tre, nứa, gianh), mái hình mai Rùa, ở 2 đầu hồi có 2 tia “khau cút” (hoa nhà) sơn vôi, kẻ hoa văn đen như 2 cánh chim đang vẫy bay lên rất điệu đàng và rất bản sắc, không ở đâu có ngoài Tây Bắc Việt Nam. Bản Thái, theo truyền thống thiên di từ vùng “xíp xoong păn na” (Vân Nam) sang đây đã trên 10 thế kỷ, theo “Quắm tố mướng” thì bà con “Thái tộc” thời ấy phải đi luồn rừng như con Don, con Dím để tránh cường hào và ác bá Hán tộc và sợ các quan Đại Việt không cho ở nhập cư…Dấu vết “đi đêm” để nhận ra nhau đồng tộc là cái “hoa nhà” (Khau cút) và cái hình mặt trăng lưỡi liềm nơi cửa sổ (đặc trưng của nhà sàn Thái). Bản Thái phổ cập 20 - 30 nhà, 50 - 70 nhà tùy theo số ruộng và nguồn nước để sinh sống.
Đó là mấy chục ngôi nhà sàn (gỗ, tre, nứa, gianh), mái hình mai Rùa, ở 2 đầu hồi có 2 tia “khau cút” (hoa nhà) sơn vôi, kẻ hoa văn đen như 2 cánh chim đang vẫy bay lên rất điệu đàng và rất bản sắc, không ở đâu có ngoài Tây Bắc Việt Nam. Bản Thái, theo truyền thống thiên di từ vùng “xíp xoong păn na” (Vân Nam) sang đây đã trên 10 thế kỷ, theo “Quắm tố mướng” thì bà con “Thái tộc” thời ấy phải đi luồn rừng như con Don, con Dím để tránh cường hào và ác bá Hán tộc và sợ các quan Đại Việt không cho ở nhập cư…Dấu vết “đi đêm” để nhận ra nhau đồng tộc là cái “hoa nhà” (Khau cút) và cái hình mặt trăng lưỡi liềm nơi cửa sổ (đặc trưng của nhà sàn Thái). Bản Thái phổ cập 20 - 30 nhà, 50 - 70 nhà tùy theo số ruộng và nguồn nước để sinh sống.
Bản thường chiếm vị trí đặc trí đứng lưng chừng núi (đồi) để tựa lưng một cách vững chắc, tập quán cư trú “hua mun đin, tin mun nậm” (đầu gối đất, chân đạp nước), phía trên là đỉnh núi, chỏm rừng nơi có nguồn nước (thượng nguồn) chảy về (theo máng) rót vào từng nhà, nơi đỉnh có rừng cây mây ủ tiếp với “Mường trời” (cõi linh thiêng), che chở cho bản làng.
Dưới chân bản thường là sông, suối, cánh đồng…địa điểm bản thuận tiện
cho canh tác (lúa nước, nương rẫy, săn bắt, hái lượm), kinh tế nông
nghiệp dựa vào tự nhiên khá hoàn thiện. Bản Thái: nhà nhà xếp hàng
ngang, từ thấp lên cao, quay quần theo dòng họ (thường có ba đến bốn họ:
Lò, Cầm, Quàng, Cà…) tắt lửa tối đèn có nhau, chỉ cần ai đó săn được 1
con thú nhỏ (con hoẵng, đơm được vài con cá to, là tối đó cả Bản lại
ngất ngư chén “lẩu xiêu” (rượu cất) bên bếp lửa, hát “khắp” (Tản chụ,
xiết xương) đến thâu đêm.
Làng người Kinh là nằm trong lũy tre xanh, trung tâm là ngôi Đình với cây đa bến nước, ao làng. Bản Thái không có cổng, lối vào tứ phía…trung tâm bản thường là “nhà Trường bản” (trưởng thôn) liền đó có ngôi nhà đất, gianh tre vừa làm lớp mẫu giáo vỡ lòng, dạy chữ Thái cho trẻ con (trước khi vào lớp 1 phổ thông) coi như “nhà văn hóa” nơi hội họp của bản. Sinh hoạt cộng đồng bản: quan trọng nhất là tổ chức sản xuất rồi đến sinh hoạt văn hóa (cúng bái, lễ hội). Trưởng bản thường kiêm tổ trưởng sản xuất hoặc chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp (ở quy mô nhỏ).
Làng người Kinh là nằm trong lũy tre xanh, trung tâm là ngôi Đình với cây đa bến nước, ao làng. Bản Thái không có cổng, lối vào tứ phía…trung tâm bản thường là “nhà Trường bản” (trưởng thôn) liền đó có ngôi nhà đất, gianh tre vừa làm lớp mẫu giáo vỡ lòng, dạy chữ Thái cho trẻ con (trước khi vào lớp 1 phổ thông) coi như “nhà văn hóa” nơi hội họp của bản. Sinh hoạt cộng đồng bản: quan trọng nhất là tổ chức sản xuất rồi đến sinh hoạt văn hóa (cúng bái, lễ hội). Trưởng bản thường kiêm tổ trưởng sản xuất hoặc chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp (ở quy mô nhỏ).
Sáng
ra (vào thời điểm tháng 6/mùa hè) khi gà gáy sáng, ngựa trong tàu (hí)
“chàng lụ khươi” (trai ở rể) dậy sớm mài dao cho cả nhà; anh chủ nhà dậy
xem trâu xem ngựa; chị chủ nhà bồng con đang bú sang cho mẹ ôm ru ngủ,
rồi đi xôi lại chõ cơm xôi…xong bốc chia vào từng “cóm khẩu” (giỏ xôi
nhỏ) “ép khẩu” (giỏ xôi lớn). Khoảng 5 giờ tinh mơ “tiếng trống đi làm
vang gốc núi” từ nhà Trưởng bản (tổ trưởng hay chủ nhiệm) đánh 3 hồi
dài, kết thúc bằng 3 tiếng nhằm gọi mọi người lao động (như đã phân
công) hôm nay lên núi Pu Luông làm cỏ lúa nương, ngô nương.
Anh chủ nhà dắt ngựa đi đầu, kéo theo một đoàn trên 10 lao động chính (cả nam lẫn nữ) nối đuôi nhau trên con đường mòn men theo các sườn núi “Khửn Pu “Khửn Pu….” Đi hơn 2 tiếng đồng hồ, mặt trời đã ló phía chân núi đằng đông, dòng sông Mã trông chỉ bằng chiếc đũa là tới những vạt nương rộng, lúa ngô đã lên trên đầu gối tới ngang ngực (đứng cái)…ai nấy: Nam thì phát cây dại, nữ thì cào cỏ nương bằng các cái “chóp”…khí trời mát mẻ, chim hót véo von ở rừng bên, cây cối xanh tươi mơn mởn…khoảng 11 giờ trưa, nắng oi oi, trời đứng bóng, nương rẫy dọn cỏ xem ra đã sạch tinh tươm…tất cả lùi sang lán bìa rừng (lều nương): để phòng mưa nắng, nghỉ ngơi, ăn trưa cơm xôi chấm muối ớt (món chéo) cùng ít rau xôi đem từ nhà, ít thịt khô, cá ướp…cơm ép khẩu phần nhà nào nhà nấy ăn, cũng có phần san sẻ…vui vẻ, vừa ăn vừa chuyện trò rôm rả. Cơm xong cánh nam làm điếu thuốc Lào rồi ngả lưng chợp mắt, cánh nữ thì tranh thủ đan lát, khâu vá hoặc vào bìa rừng kiếm củi, kiếm rau lợn, rau rừng. Từ 1 - 3 giờ thu vén và thu quân “mã hồi”.
Anh chủ nhà dắt ngựa đi đầu, kéo theo một đoàn trên 10 lao động chính (cả nam lẫn nữ) nối đuôi nhau trên con đường mòn men theo các sườn núi “Khửn Pu “Khửn Pu….” Đi hơn 2 tiếng đồng hồ, mặt trời đã ló phía chân núi đằng đông, dòng sông Mã trông chỉ bằng chiếc đũa là tới những vạt nương rộng, lúa ngô đã lên trên đầu gối tới ngang ngực (đứng cái)…ai nấy: Nam thì phát cây dại, nữ thì cào cỏ nương bằng các cái “chóp”…khí trời mát mẻ, chim hót véo von ở rừng bên, cây cối xanh tươi mơn mởn…khoảng 11 giờ trưa, nắng oi oi, trời đứng bóng, nương rẫy dọn cỏ xem ra đã sạch tinh tươm…tất cả lùi sang lán bìa rừng (lều nương): để phòng mưa nắng, nghỉ ngơi, ăn trưa cơm xôi chấm muối ớt (món chéo) cùng ít rau xôi đem từ nhà, ít thịt khô, cá ướp…cơm ép khẩu phần nhà nào nhà nấy ăn, cũng có phần san sẻ…vui vẻ, vừa ăn vừa chuyện trò rôm rả. Cơm xong cánh nam làm điếu thuốc Lào rồi ngả lưng chợp mắt, cánh nữ thì tranh thủ đan lát, khâu vá hoặc vào bìa rừng kiếm củi, kiếm rau lợn, rau rừng. Từ 1 - 3 giờ thu vén và thu quân “mã hồi”.
Về
tới bản, cánh chị em chưa kịp lên nhà đã ra mó nước “kẻ xuộng xựa” (cởi
váy áo) ào ào tắm rửa…cánh đàn ông đem lưới ra sông vây bắt cá. Cuối
chiều: Chị chủ nhà tắm rửa cho con, rồi lo cho lợn gà ăn, cô em gái ra
sông suối hái bon (rau) xúc ốc, chàng rể tắm cho ngựa. Chập tối một lúc 7
- 8 giờ tối cả nhà quây quần bên mâm cơm, thường là món cá nướng (pa
mốc, pa pịnh) thơm ngon, canh bon nấu ốc hay canh cá nấu măng chua. Ăn
xong, bên bếp lửa: cánh đàn ông đan lát, vá lưới, cánh đàn bà dệt vải,
chàng rể ra sông “quăng chài” hoặc đơm “đó”, lũ lợn gà ăn no ngủ kỹ…mọi
thành viên trong gia đình ai nấy về “buồng nằm” của mình đánh giấc…
Từ khoảng 10 - 11 giờ đêm cả bản đã ngủ yên thì cánh trai tơ ở các bản bên “pay ỉn sao” (chơi gái) đem tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng đàn Tính đến “chọc sàn” thức các cô gái tơ (sao) dậy, để “tìm hiểu” bằng các cuộc hát giao duyên bên sàn (phía đầu chan) hay ra sàn “Hạn Khuống” mé rìa bản tình tự thâu đêm. “Chào bản quê thân yêu Nắng mở cửa nhà sàn rộng thêm Cho gái lớn xuống thang sang làm dâu Mường khác Suối chỉ chảy một dòng Xuống núi.. Chao, tôi chưa về thăm bản ngày xưa Nơi tôi ra đời bên bếp lửa Mẹ cắt rốn bằng con dao nứa Cha ru bằng Tản Chụ Xiết Xương Chị tóc mây “tằng cẩu” kết hôn Anh lớn lên: anh đi ra trận…
Từ khoảng 10 - 11 giờ đêm cả bản đã ngủ yên thì cánh trai tơ ở các bản bên “pay ỉn sao” (chơi gái) đem tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng đàn Tính đến “chọc sàn” thức các cô gái tơ (sao) dậy, để “tìm hiểu” bằng các cuộc hát giao duyên bên sàn (phía đầu chan) hay ra sàn “Hạn Khuống” mé rìa bản tình tự thâu đêm. “Chào bản quê thân yêu Nắng mở cửa nhà sàn rộng thêm Cho gái lớn xuống thang sang làm dâu Mường khác Suối chỉ chảy một dòng Xuống núi.. Chao, tôi chưa về thăm bản ngày xưa Nơi tôi ra đời bên bếp lửa Mẹ cắt rốn bằng con dao nứa Cha ru bằng Tản Chụ Xiết Xương Chị tóc mây “tằng cẩu” kết hôn Anh lớn lên: anh đi ra trận…
Tôi
lớn lên, tôi xuống núi đi xa Mẹ cha mất, ngày về mồ đã cỏ…” (Theo La
Quán Miên). Chao, hồn quê ở xuôi là cây đa rợp bóng sân đình, còn hồn ở
bản quê yêu dấu là cái Khau cút (hoa nhà) để ai đó đi lâu trở về từ xa
đã nhìn thấy nó như những cánh chim bay lên mừng vui chào đón đứa con
tha hương còn nhớ trở về. 28/12/2012
“Cơm Tàu, cơm Tây … nhớ về đây cơm bản Nếp xôi thơm, bên bếp lửa em chờ” “Cơm Thái, gái Kinh” câu nói chơi cửa miệng của cán bộ Tây Bắc một thời (cán bộ Kinh thì thèm cơm bản Thái, cán bộ Thái thì khoái lấy gái Kinh). “ăn” uống là điều kiện hàng đầu để tồn tại sự sống.
Bài 2: CƠM BẢN
“Cơm Tàu, cơm Tây … nhớ về đây cơm bản Nếp xôi thơm, bên bếp lửa em chờ” “Cơm Thái, gái Kinh” câu nói chơi cửa miệng của cán bộ Tây Bắc một thời (cán bộ Kinh thì thèm cơm bản Thái, cán bộ Thái thì khoái lấy gái Kinh). “ăn” uống là điều kiện hàng đầu để tồn tại sự sống.
Cơm Thái cổ điển là ăn nếp xôi truyền thống. Đó là các loại gạo nếp
tan, khẩu ma tứn (gạo chó dậy: Cơm xôi thơm quá đến con chó đang ngủ
đánh hơi thấy cũng phải vùng dậy). Gạo nếp ngâm qua đêm, với bàn tay của
các mẹ, các chị vo sạch, để ráo nước, rồi đổ vào một cái Hày” (chõ gỗ:
một khúc thân cây khoét rỗng). Người Thái không có tục “luộc” như người
Kinh (cơm bằng gạo luộc, rau luộc, thịt luộc, mà thường là “xôi” (đồ)
bằng nhiều loại “hày” khác nhau (gỗ cây sung co cổng, co đứa), phần dưới
của dụng cụ đồ xôi là cái “ninh” (biếng mỏ nửng) bằng đồng đúc… nhờ
“xôi” nên thức ăn đậm (không bị nhạt).
Từ gạo nếp, người Thái còn chế biến ra các loại bánh như “khẩu tổm” (bánh tét) Khẩu tổm năm lãng (bánh giò), khẩu cắm (xôi màu), khẩu hang, khẩu lam, khẩu chí (xôi nướng). Khẩu lam trộn sâu măng là đặc sản ngon đặc biệt. Nhân loại có các nền “văn minh thìa dĩa” (Âu Mỹ), “văn minh đũa tre” (Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật, Việt Nam) và “văn minh ăn bốc”… người Thái đen Việt Nam ở Sơn La thì trong mâm cơm: Mỗi người bao giờ cũng có bát con riêng, 1 cái thìa, 1 đôi đũa… riêng ăn cơm nếp xôi thì “bốc” (tay đã rửa sạch); chỉ khi ăn cơm tẻ thì xới ra bát, lấy ăn thì xúc, chứ không quen “và” như người Kinh.
Từ gạo nếp, người Thái còn chế biến ra các loại bánh như “khẩu tổm” (bánh tét) Khẩu tổm năm lãng (bánh giò), khẩu cắm (xôi màu), khẩu hang, khẩu lam, khẩu chí (xôi nướng). Khẩu lam trộn sâu măng là đặc sản ngon đặc biệt. Nhân loại có các nền “văn minh thìa dĩa” (Âu Mỹ), “văn minh đũa tre” (Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật, Việt Nam) và “văn minh ăn bốc”… người Thái đen Việt Nam ở Sơn La thì trong mâm cơm: Mỗi người bao giờ cũng có bát con riêng, 1 cái thìa, 1 đôi đũa… riêng ăn cơm nếp xôi thì “bốc” (tay đã rửa sạch); chỉ khi ăn cơm tẻ thì xới ra bát, lấy ăn thì xúc, chứ không quen “và” như người Kinh.
Ăn
canh thường không “chan” mà dùng thìa múc đưa thẳng vào miệng. Bát chấm
mặn thường là muối ớt cộng mắc khén (hạt tiêu rừng) hoặc bát nước chấm
pha chế (nậm pịa khi ăn thịt trâu, bò, dê). Các món rau trong mâm cơm
Thái: ½ là rau rừng (phắc ven,… có tới 80 loại), số rau trồng ở xuồn
phỏm (vườn gầy)… như rau cải (phắc cát), các loại củ quả bầu bí, mướp,
cà… tất cả đều được đồ chín (nửng) kể cả rêu, măng, mùa xuân có món
“măng đắng”, mộc nhĩ, nấm các loại, canh măng chua (nậm xổm đanh), món
“xổm” ghém, rau sống, rau hoa chuối nộm…
Tục kin xổm (món chua) đủ cả “kin xổm, kin van, kin xúc, kin chip, (chua, ngọt, chín, sống) rồi món “tương thối”. Với người Thái “cơm trắng, khúc cá bạc” là biểu tượng của no đủ hạnh phúc. Các món ngon là “pa pỉnh” (cá nướng kẹp), pa dảng là cá sấy trên dàn bếp, pa mốc (vùi tro), cùng với “pho pa”: Các loại cá tép, trạch, ruột cá lớn gói cùng húng chó, hành sả vùi tro nóng ăn rất thơm ngon, pa óm (cá nấu), pa tổm (cá luộc)… với các loại cá nheo (pa cao), cá quả (pa con), cá trê (pa đúc)… pa cỏi (lên men chua) món gỏi (cỏi hắn) với quan niệm “xép nhứa kin nhứa ma, xép pa kin pa cỏi” (thèm thịt ăn thịt chó, thèm cá ăn cá gỏi).
Các món mắm cá (mẳm pa) mắm tôm (mẳn củng), mắm từ những con bọ nước (mẳn pa dí), mắm tắc ten (châu chấu)… Các món thịt: Như nhứa đảng (hong khói) pỉnh chí (nướng), mản (nướng bằng xiên); thịt con hoẵng (tô phan) làm “lạp” trộn với măng chua, chấm nậm pịa (đoản nước bắt phèo, một thức đặc sản “nhứa quai tộm nậm pịa, thuổi lạp têm chem” (thịt trâu luộc, nậm pịa, bát lạp đầy ắp). Mâm cỗ thường khoái món tiết canh, tiết luộc… ngoài ra có món “nhứa min” (thịt thối): trộn gia vị cho vào ống, đốt chín thành một thứ thịt nhuyễn nặng mùi rất hợp khẩu vị. Các món gia vị thường nhật là ớt, mắc khén (hạt tiêu rừng) củ sả, gừng, riềng, hành tỏi, rau thơm… điển hình là món “chéo” để chấm.
Món canh Thái: Ưa dùng bột gạo để nấu canh, tạo cho canh ngọt sánh. Cơm bản Thái: Thường ngày ăn bữa chính vào buổi tối. Sáng ra ăn lót dạ (bốc ít xôi, chấm muối ớt) bữa trưa thường ăn ở nơi làm việc (ngoài đồng, trên nương. Ăn đơn giản gọn nhẹ gồm xôi, ít rau chấm muối ớt, ít thịt cá khô, nướng…). Bữa ăn tối là bữa cơm đầy đủ các thành viên trong gia đình. “ăn trông nồi ngồi trông hướng” khá trật tự nề nếp (bài bản): Chủ nhà ngồi chính giữa trông ra hướng nhà, phụ nữ ngồi phía trái, trai phía phải, con rể và khách ngồi phía sau (đối diện với chủ nhà). Các món đặc biệt là dành cho trẻ con (nhái nướng, nhái ôm măng, đùi gà, miếng cá ngon). Nếu trong mâm có món thịt gà thì: Đầu, cánh, chân là dành cho ông chủ, lòng cổ xương nấu canh măng chua…
Tục kin xổm (món chua) đủ cả “kin xổm, kin van, kin xúc, kin chip, (chua, ngọt, chín, sống) rồi món “tương thối”. Với người Thái “cơm trắng, khúc cá bạc” là biểu tượng của no đủ hạnh phúc. Các món ngon là “pa pỉnh” (cá nướng kẹp), pa dảng là cá sấy trên dàn bếp, pa mốc (vùi tro), cùng với “pho pa”: Các loại cá tép, trạch, ruột cá lớn gói cùng húng chó, hành sả vùi tro nóng ăn rất thơm ngon, pa óm (cá nấu), pa tổm (cá luộc)… với các loại cá nheo (pa cao), cá quả (pa con), cá trê (pa đúc)… pa cỏi (lên men chua) món gỏi (cỏi hắn) với quan niệm “xép nhứa kin nhứa ma, xép pa kin pa cỏi” (thèm thịt ăn thịt chó, thèm cá ăn cá gỏi).
Các món mắm cá (mẳm pa) mắm tôm (mẳn củng), mắm từ những con bọ nước (mẳn pa dí), mắm tắc ten (châu chấu)… Các món thịt: Như nhứa đảng (hong khói) pỉnh chí (nướng), mản (nướng bằng xiên); thịt con hoẵng (tô phan) làm “lạp” trộn với măng chua, chấm nậm pịa (đoản nước bắt phèo, một thức đặc sản “nhứa quai tộm nậm pịa, thuổi lạp têm chem” (thịt trâu luộc, nậm pịa, bát lạp đầy ắp). Mâm cỗ thường khoái món tiết canh, tiết luộc… ngoài ra có món “nhứa min” (thịt thối): trộn gia vị cho vào ống, đốt chín thành một thứ thịt nhuyễn nặng mùi rất hợp khẩu vị. Các món gia vị thường nhật là ớt, mắc khén (hạt tiêu rừng) củ sả, gừng, riềng, hành tỏi, rau thơm… điển hình là món “chéo” để chấm.
Món canh Thái: Ưa dùng bột gạo để nấu canh, tạo cho canh ngọt sánh. Cơm bản Thái: Thường ngày ăn bữa chính vào buổi tối. Sáng ra ăn lót dạ (bốc ít xôi, chấm muối ớt) bữa trưa thường ăn ở nơi làm việc (ngoài đồng, trên nương. Ăn đơn giản gọn nhẹ gồm xôi, ít rau chấm muối ớt, ít thịt cá khô, nướng…). Bữa ăn tối là bữa cơm đầy đủ các thành viên trong gia đình. “ăn trông nồi ngồi trông hướng” khá trật tự nề nếp (bài bản): Chủ nhà ngồi chính giữa trông ra hướng nhà, phụ nữ ngồi phía trái, trai phía phải, con rể và khách ngồi phía sau (đối diện với chủ nhà). Các món đặc biệt là dành cho trẻ con (nhái nướng, nhái ôm măng, đùi gà, miếng cá ngon). Nếu trong mâm có món thịt gà thì: Đầu, cánh, chân là dành cho ông chủ, lòng cổ xương nấu canh măng chua…
Có khách:
Uống rượu cất (lẩu xiêu) theo ông chủ: 1 chén rượu húp một thìa canh
măng chua… Nói chung bữa cơm bản là bữa cơm bình dân, đạm bạc. Chủ lực
vẫn là món cơm xôi nếp, măng và rau rừng là món hàng ngày, thức ăn chỉ
là đưa đà để ăn được nhiều cơm (no). Tháng 3 ngày tám, thiếu gạo thường
độn thêm sắn (nạo) ngô hoặc ăn thêm củ mài đào trên rừng. Mùa nước lên
có thêm món cá, sang xuân săn được con chim, con don, con dím… bổ sung
cho món ăn…
Thịt lợn, thịt trâu phải là có ma chay, cưới xin, tết nhất, cúng nhà mới… Dẫu sao thì bữa cơn bản Thái thời 1960 ở Sơn La vẫn là bữa ăn no đủ, ngon hơn hẳn bữa ăn thời HTXNN của người Kinh dưới xuôi một thời ăn công điểm là chính.
Cơm Tàu, cơm Tây chẳng tày cơm bản Bát “khẩu hang” tháng 9 mẹ để phần Ăn bít tết, lẩu dê… chẳng chê cá nướng Món canh chua: Tay chị gái hái măng. Ơi cơm bản ta ăn trên sàn gió Cha gật gù nâng chén “lẩu xiêu” Mẹ ân cần gắp trám đen vừa bổ Chị đẩy sang đĩa “chéo”…cười yêu.
Thịt lợn, thịt trâu phải là có ma chay, cưới xin, tết nhất, cúng nhà mới… Dẫu sao thì bữa cơn bản Thái thời 1960 ở Sơn La vẫn là bữa ăn no đủ, ngon hơn hẳn bữa ăn thời HTXNN của người Kinh dưới xuôi một thời ăn công điểm là chính.
Bài 3: CƠM BẢN
Cơm Tàu, cơm Tây chẳng tày cơm bản Bát “khẩu hang” tháng 9 mẹ để phần Ăn bít tết, lẩu dê… chẳng chê cá nướng Món canh chua: Tay chị gái hái măng. Ơi cơm bản ta ăn trên sàn gió Cha gật gù nâng chén “lẩu xiêu” Mẹ ân cần gắp trám đen vừa bổ Chị đẩy sang đĩa “chéo”…cười yêu.
Trên
nhà sàn khi nắng chiều đã tắt Trâu về chuồng mõ lốc cốc tới khuya Lũ
Điêu Điếu ngoài vườn xoài léo nhéo Chõ xôi đơm thơm nức gạo đầu mùa.
Và ai đó vừa đi ngang ngõ Dải khăn Piêu tung vương khói chiều xanh
Rừng trầm mặc, con nai vàng nào “tác” Mùi ấm no bên bếp lửa quây quần
Thuận Châu hè 1965
(Tặng Lò Văn Cậy) (1) Bản Nà Nghịu thời trẻ trai tôi ở Sớm đi nương, chiều chài lưới trên sông Em ra suối hái Bon, xúc ốc Tối ăn canh Bon ngứa cổ, nghẹn ngùng… Em thầm nói: Thương anh Hà Nội Phải ăn cơm mường bản chưa quen Tôi lặng lẽ nắm xôi, chấm muối Húp canh Bon, nhìn đôi mắt đen… Đêm bản nhỏ trăng nhòm cửa liếp Em ngồi trên khung cửi đưa thoi Tôi ngồi tập vót nan đan “lếp” (2) Bếp lửa khuya bốn mắt sáng ngời…
Bài 4: CANH BON
(Tặng Lò Văn Cậy) (1) Bản Nà Nghịu thời trẻ trai tôi ở Sớm đi nương, chiều chài lưới trên sông Em ra suối hái Bon, xúc ốc Tối ăn canh Bon ngứa cổ, nghẹn ngùng… Em thầm nói: Thương anh Hà Nội Phải ăn cơm mường bản chưa quen Tôi lặng lẽ nắm xôi, chấm muối Húp canh Bon, nhìn đôi mắt đen… Đêm bản nhỏ trăng nhòm cửa liếp Em ngồi trên khung cửi đưa thoi Tôi ngồi tập vót nan đan “lếp” (2) Bếp lửa khuya bốn mắt sáng ngời…
Rồi tôi đi biết bao xứ sở Vẫn nhớ về Sông
Mã quê em Chợt thèm món món canh Bon ngứa
cổ Để thưởng người canh cửi đêm đêm.
(1) Lò Văn Cậy (1928 - 1944) nhà thơ Thái Quê Sốp Cộp, huyện Sông Mã
(2) “Lếp”: Giỏ đeo bên hông của gái Thái
Người thức giấc giữa mây ngàn gió núi Hồn ngỡ là bay với trăng sao * Về kinh xa bản xa Mường Đêm mơ tiếng suối bên giường chảy quanh. Chao ôi, các cụ ta có câu “đêm năm (bằng) năm ở”… thế thì vào những năm 60 (thế kỷ 20) đêm ngủ ở bản Thái là lý tưởng nhất. Nhà sàn cao ráo, thoáng mát: Đầu gối núi, chân đạp sông… 1 anh bạn tôi (Phạm Văn Cống - quê Thanh Hóa) có 4 câu thơ vui về một thời hoang sơ để nhớ. Về đây công tác xã Chiềng Hoa Đêm đêm nằm gối thác Sông Đà Bởi tiếng Thái Mèo chưa thông thạo Phải người phiên dịch hóa “chuyên gia” (Hóa chuyên gia) *
Cán bộ xuống “cắm bản” được xếp ngủ một gốc “Quản” đệm dày, chăn mới, màn 1 bộ đội xanh lá cây, thì cán bộ ai chả có 1 chiếc để chống muỗi Anôphen (phòng sốt rét), phong tục kiêng màu trắng (có tang) Ngủ bản, đêm thao thức nhớ quê, lên ở cái xứ “trâu gõ mõ, chó trèo thang, nước giã gạo” với tiếng “chàng đêm nện cối đều đều suối xa”, chập chờn với trăng nhòm qua vách liếp… Cách vài mét là màn đen cô em gái chủ nhà tuổi trăng tròn “kẻ xuộng xựa” (ngủ truồng) đêm nóng nhoài ra ngoài màn da thịt trắng ngần như thần vệ nữ. Ngủ bản được nghe tiếng gà gáy sang canh, chim cu gù bên mái, lợn ủn ỉn dưới gầm sàn, ngựa gõ móng trong tàu ngựa, vài tiếng chim cú vang lên phía Pa heo (rừng ma) nghe ghê rợn…
Ngủ bản, khuya khuya khi bếp lửa đã tàn, vợ chồng nhà anh chị chủ yêu nhau làm tình cả mặt sàn nhẹ rung lên phấp phồng hơi thở… Ngủ bản: Phía rừng xa vang về tiếng Nai tác, hoẵng kêu gọi bạn tình xao xuyến hồn trai chưa vợ. Ngủ bản: Con mối vách (Thạch sùng) tặc lưỡi đuổi nhau như đang thở than “ai đó giầu như Vương Khải - Thạch Sùng cũng có phen tường xiêu, mái đổ…” Ngủ bản: Hư hư thực thực, nhớ nhớ quên quên - rồi thiếp đi một giấc thanh thản sau một ngày lao động (đi nương, ra ruộng, đánh lưới trên sông, mệt mỏi, vô tư…) Chao ôi, ai đó ở lầu son gác tía nơi Thủ Đô - Phố thị ồn ào hiểu sao được ngủ bản? Và chao ôi, ai đó nghèo hèn culi, đĩ điếm nơi vỉa hè, gầm cầu có hay đâu ngủ bản?
Chao ôi, sung sướng gì bằng ai đó có tuần trăng mật ở bản? khi đôi lứa thanh tân lặng lẽ chui vào cái buồng màn đen kín mít đó là bóng đêm, huyền diệu “tay quờ tay, chân quặp chân, môi kề môi, thân đè thân với hơi thở nồng, đó là vườn địa đàng nơi nhà sàn bếp lửa “một mái nhà gianh hai trái tim vàng, một con suối nhỏ” để mà yêu, mà hiến dâng, mà thụ hưởng hương vị ngọt ngào thanh xuân bốc lửa…” Ngủ bản, khi yêu đã mệt lử rồi… là êm đềm hơi thở giữa không khí trong lành, thanh bình… mà biết bao người (kể cả tỉ phú) mơ mà đâu dễ có được? Ngủ bản, là duyên phận, là trời cho, như ta được kho báu mà ta đâu đã hiểu được?
Than ôi, tiếc thay, tiếc thay… được mấy ngày ngủ bản?!
Sơn La hiện nay (2012) là tỉnh vùng núi Tây bắc Việt Nam, có diện tích 14,125km2 (= 4,27% tổng diện tích cả nước), có biên giới chung với Lào 250 km, gồm 1 thành phố, 10 huyện với 12 dân tộc. Dân số điều tra 1/4/2009 là 1.080.641 người. Lịch sử: Phần lớn tỉnh Sơn La ngày nay gồm TP Sơn La, huyện Yên Châu, Mộc Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Thuận Châu vào trước năm 1479 là lãnh thổ của Vương Quốc Bồn Nam (gồm cả Tương Dương, Kỳ Sơn của Nghệ An; Quan Hóa, Quan Sơn Mường Lát của Thanh Hóa, tỉnh Hủa Phăn của Lào).
Năm 1479 Sơn La được chính thức nhập vào Đại Việt, thời vua Lê Thánh Tông và thuộc xứ Hưng Hóa. 24/5/1886 thành lập Châu Sơn La (thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa) tách từ Hưng Hóa thành cấp tương với tỉnh. 9.9.1891 thuộc Đạo quan binh 4. 27/2/1892 thành lập tiểu quân khu Vạn Bú gồm 2 phủ, 8 châu. 10/10/1895 thành lập tỉnh Vạn Bú, tỉnh lỵ ở Vạn Bú (Tạ Bú) trên bến sông Đà thuộc huyện Mường La ngày nay. 23/8/1904 đổi tên thành tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ về như bây giờ.
Sau 1946: Pháp chuyển Sơn La cộng với Lai Châu và Phong Thổ lập xứ Thái tự trị, do Bạc cầm Quý làm tỉnh trưởng Sơn La. 1948 - 1953 thuộc LK Việt Bắc do tướng Chu Văn Tấn cầm đầu (Sơn La có 6 huyện Mường La, Thuận Châu, Phù Yên, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu). 1953 - 1955 thuộc khu Tây Bắc. 1955 - 1962 thuộc khu tự trị Thái Mèo. 1962 - 1975 tái lập tỉnh thuộc khu tự trị Tây Bắc: có 7 huyện, thêm Quỳnh Nhai và Sông Mã còn Phù Yên chuyển về tỉnh Nghĩa Lộ.
Bài 5: NGỦ BẢN *
Người thức giấc giữa mây ngàn gió núi Hồn ngỡ là bay với trăng sao * Về kinh xa bản xa Mường Đêm mơ tiếng suối bên giường chảy quanh. Chao ôi, các cụ ta có câu “đêm năm (bằng) năm ở”… thế thì vào những năm 60 (thế kỷ 20) đêm ngủ ở bản Thái là lý tưởng nhất. Nhà sàn cao ráo, thoáng mát: Đầu gối núi, chân đạp sông… 1 anh bạn tôi (Phạm Văn Cống - quê Thanh Hóa) có 4 câu thơ vui về một thời hoang sơ để nhớ. Về đây công tác xã Chiềng Hoa Đêm đêm nằm gối thác Sông Đà Bởi tiếng Thái Mèo chưa thông thạo Phải người phiên dịch hóa “chuyên gia” (Hóa chuyên gia) *
Cán bộ xuống “cắm bản” được xếp ngủ một gốc “Quản” đệm dày, chăn mới, màn 1 bộ đội xanh lá cây, thì cán bộ ai chả có 1 chiếc để chống muỗi Anôphen (phòng sốt rét), phong tục kiêng màu trắng (có tang) Ngủ bản, đêm thao thức nhớ quê, lên ở cái xứ “trâu gõ mõ, chó trèo thang, nước giã gạo” với tiếng “chàng đêm nện cối đều đều suối xa”, chập chờn với trăng nhòm qua vách liếp… Cách vài mét là màn đen cô em gái chủ nhà tuổi trăng tròn “kẻ xuộng xựa” (ngủ truồng) đêm nóng nhoài ra ngoài màn da thịt trắng ngần như thần vệ nữ. Ngủ bản được nghe tiếng gà gáy sang canh, chim cu gù bên mái, lợn ủn ỉn dưới gầm sàn, ngựa gõ móng trong tàu ngựa, vài tiếng chim cú vang lên phía Pa heo (rừng ma) nghe ghê rợn…
Ngủ bản, khuya khuya khi bếp lửa đã tàn, vợ chồng nhà anh chị chủ yêu nhau làm tình cả mặt sàn nhẹ rung lên phấp phồng hơi thở… Ngủ bản: Phía rừng xa vang về tiếng Nai tác, hoẵng kêu gọi bạn tình xao xuyến hồn trai chưa vợ. Ngủ bản: Con mối vách (Thạch sùng) tặc lưỡi đuổi nhau như đang thở than “ai đó giầu như Vương Khải - Thạch Sùng cũng có phen tường xiêu, mái đổ…” Ngủ bản: Hư hư thực thực, nhớ nhớ quên quên - rồi thiếp đi một giấc thanh thản sau một ngày lao động (đi nương, ra ruộng, đánh lưới trên sông, mệt mỏi, vô tư…) Chao ôi, ai đó ở lầu son gác tía nơi Thủ Đô - Phố thị ồn ào hiểu sao được ngủ bản? Và chao ôi, ai đó nghèo hèn culi, đĩ điếm nơi vỉa hè, gầm cầu có hay đâu ngủ bản?
Chao ôi, sung sướng gì bằng ai đó có tuần trăng mật ở bản? khi đôi lứa thanh tân lặng lẽ chui vào cái buồng màn đen kín mít đó là bóng đêm, huyền diệu “tay quờ tay, chân quặp chân, môi kề môi, thân đè thân với hơi thở nồng, đó là vườn địa đàng nơi nhà sàn bếp lửa “một mái nhà gianh hai trái tim vàng, một con suối nhỏ” để mà yêu, mà hiến dâng, mà thụ hưởng hương vị ngọt ngào thanh xuân bốc lửa…” Ngủ bản, khi yêu đã mệt lử rồi… là êm đềm hơi thở giữa không khí trong lành, thanh bình… mà biết bao người (kể cả tỉ phú) mơ mà đâu dễ có được? Ngủ bản, là duyên phận, là trời cho, như ta được kho báu mà ta đâu đã hiểu được?
Than ôi, tiếc thay, tiếc thay… được mấy ngày ngủ bản?!
Bài 6 SƠN LA XƯA
Sơn La hiện nay (2012) là tỉnh vùng núi Tây bắc Việt Nam, có diện tích 14,125km2 (= 4,27% tổng diện tích cả nước), có biên giới chung với Lào 250 km, gồm 1 thành phố, 10 huyện với 12 dân tộc. Dân số điều tra 1/4/2009 là 1.080.641 người. Lịch sử: Phần lớn tỉnh Sơn La ngày nay gồm TP Sơn La, huyện Yên Châu, Mộc Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Thuận Châu vào trước năm 1479 là lãnh thổ của Vương Quốc Bồn Nam (gồm cả Tương Dương, Kỳ Sơn của Nghệ An; Quan Hóa, Quan Sơn Mường Lát của Thanh Hóa, tỉnh Hủa Phăn của Lào).
Năm 1479 Sơn La được chính thức nhập vào Đại Việt, thời vua Lê Thánh Tông và thuộc xứ Hưng Hóa. 24/5/1886 thành lập Châu Sơn La (thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa) tách từ Hưng Hóa thành cấp tương với tỉnh. 9.9.1891 thuộc Đạo quan binh 4. 27/2/1892 thành lập tiểu quân khu Vạn Bú gồm 2 phủ, 8 châu. 10/10/1895 thành lập tỉnh Vạn Bú, tỉnh lỵ ở Vạn Bú (Tạ Bú) trên bến sông Đà thuộc huyện Mường La ngày nay. 23/8/1904 đổi tên thành tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ về như bây giờ.
Sau 1946: Pháp chuyển Sơn La cộng với Lai Châu và Phong Thổ lập xứ Thái tự trị, do Bạc cầm Quý làm tỉnh trưởng Sơn La. 1948 - 1953 thuộc LK Việt Bắc do tướng Chu Văn Tấn cầm đầu (Sơn La có 6 huyện Mường La, Thuận Châu, Phù Yên, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu). 1953 - 1955 thuộc khu Tây Bắc. 1955 - 1962 thuộc khu tự trị Thái Mèo. 1962 - 1975 tái lập tỉnh thuộc khu tự trị Tây Bắc: có 7 huyện, thêm Quỳnh Nhai và Sông Mã còn Phù Yên chuyển về tỉnh Nghĩa Lộ.
Sau
khi giải thể khu tự trị Tây Bắc, Sơn La nhập lại 2 huyện Phù Yên, Bắc
Yên của Nghĩa Lộ giải thể. Sơn La- xứ Thái xưa là 1 vùng biệt lập do
núi non hiểm trở, lại là đường mòn luồn vùng, đi theo dọc 2 bờ sông Đà,
sông Mã, ma thiêng nước độc “nước Sơn La, ma Vạn Bú” ở xuôi chẳng ai lên
đó làm gì. Đó là nơi cai trị của các vị “Chẩu Mường” hướng về vua Lào ở
Luông Pha Bang là chính, thi thoảng có giao lưu với người kinh qua rẻo
Mường Lò (Nghĩa Lộ)… phải chăng do ở biệt lập lâu đời như thế nên người
Thái ở đây còn giữ được khá nguyên vẹn bản sắc dân tộc mình sau 1000 năm
sang Việt Nam cư trú?
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao, sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Đó là đoạn sông Mã (sông Ngựa) ở đoạn giáp ranh từ Sầm Nưa (Lào) đổ vào Thanh Hóa (Mường Lát) kề với Xuân Nha Sơn La… còn đoạn trên gọi theo dân bản địa (Thái) là Nậm Ma (sông Chó). Sông Mã có 2 nguồn: Nguồn thứ nhất từ núi Tuần Giáo (nam tỉnh Điện Biên) chảy theo hướng Tây bắc - đông nam qua huyện sông Mã (Sơn La) rồi qua lãnh thổ Lào. Nguồn thứ 2 từ núi “Pu Xam Sao” (núi 3 cô gái)… cả 2 nguồn này đều đổ về Thanh Hóa từ Sầm Nưa, rồi giao lưu với sông Chu (sông Trâu) đổ ra vịnh Bắc Bộ, tất cả dài 512km, trong đó trên lãnh thổ Việt Nam 410km, qua Lào là 102km. Tên gọi: Dân gian (sông Mã) vì dòng nước chảy xiết như “ngựa phi”. Tuy nhiên theo n/c về từ nguyên học chữ “Mã” là “Mẹ” - nghĩa là sông lớn như. (Ở Lào mè khoỏng = MêKông, ở ta sông Hồng là sông cái). Sử Việt gọi sông Mã là “Lỗi Giang” .Bên Lào là Nậm Mà.
Bài 7: SÔNG CHÓ
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao, sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Đó là đoạn sông Mã (sông Ngựa) ở đoạn giáp ranh từ Sầm Nưa (Lào) đổ vào Thanh Hóa (Mường Lát) kề với Xuân Nha Sơn La… còn đoạn trên gọi theo dân bản địa (Thái) là Nậm Ma (sông Chó). Sông Mã có 2 nguồn: Nguồn thứ nhất từ núi Tuần Giáo (nam tỉnh Điện Biên) chảy theo hướng Tây bắc - đông nam qua huyện sông Mã (Sơn La) rồi qua lãnh thổ Lào. Nguồn thứ 2 từ núi “Pu Xam Sao” (núi 3 cô gái)… cả 2 nguồn này đều đổ về Thanh Hóa từ Sầm Nưa, rồi giao lưu với sông Chu (sông Trâu) đổ ra vịnh Bắc Bộ, tất cả dài 512km, trong đó trên lãnh thổ Việt Nam 410km, qua Lào là 102km. Tên gọi: Dân gian (sông Mã) vì dòng nước chảy xiết như “ngựa phi”. Tuy nhiên theo n/c về từ nguyên học chữ “Mã” là “Mẹ” - nghĩa là sông lớn như. (Ở Lào mè khoỏng = MêKông, ở ta sông Hồng là sông cái). Sử Việt gọi sông Mã là “Lỗi Giang” .Bên Lào là Nậm Mà.
Sơn
La gọi “Nậm Ma” (Mẹ là Êm) “ma” là con chó - có lẽ vì ở thượng nguồn
dốc chảy xiết kêu như chó sủa. Sông Mã chảy về đến Nà Nghịu (huyện Sông
Mã Sơn La) rông cỡ con sông Cầu, 2 bên bớ là đồi núi cao vút không có
đê, dòng sông khúc khuỷu, mùa cạn lòng sông trơ những tảng đá gộc, đã
lồi đầu, có đoạn có thể lội bộ qua được để ta lại nhớ câu “sống chụ”.
* Phôm dú hua lứm cấu chắng lứm chụ Cánh lứm chái nớ! Cẩu chí lứm cánh xíp chí lứm Nậm Ma hảnh to đe chắng lứm * Tóc trên đầu búi ngược (tăng cẩu) hãy Quên bạn tình, hãy quên anh yêu! Chín sắp quên và mười sắp quên Sông Mã cạn bằng lòng đĩa, hãy quên. Mùa cạn này, đêm đêm lũ con trai từ bản Nà Hin bên sông lội tắt sang bản Nà Nghịu “chọc sàn” tìm bạn tình. Đó cũng là mùa các cô gái ra sông vớt rêu (1 món ăn đặc sản): “Sông nhiều rêu, nhiều cá Núi nhiều thú, nhiều măng Chiều bóng anh che sông Sớm mắt em lóng lánh…”
Ngồi ở bên sông ta như thấy cái luân hồi của ta. Tháng 6, mưa lớn thượng nguồn… chiều qua còn như một dòng sông chết (cạn bằng lòng đĩa) mà sớm nay tất cả như bừng lên ầm ầm gầm réo hơn cả tiếng chó sủa, ngựa phi. * Bó Áy Khảm nậm Ma khi khon Nhắng xương pánh hảu mon vậy thả đé nớ! * Hoa Áy dập dờn trôi ngang sông Mã Còn thương nhau xin sắp gối riêng chờ. (Hoa Áy vờn trôi ngang sông Mã Còn thương, tay gối lả riêng chờ) *
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
* Phôm dú hua lứm cấu chắng lứm chụ Cánh lứm chái nớ! Cẩu chí lứm cánh xíp chí lứm Nậm Ma hảnh to đe chắng lứm * Tóc trên đầu búi ngược (tăng cẩu) hãy Quên bạn tình, hãy quên anh yêu! Chín sắp quên và mười sắp quên Sông Mã cạn bằng lòng đĩa, hãy quên. Mùa cạn này, đêm đêm lũ con trai từ bản Nà Hin bên sông lội tắt sang bản Nà Nghịu “chọc sàn” tìm bạn tình. Đó cũng là mùa các cô gái ra sông vớt rêu (1 món ăn đặc sản): “Sông nhiều rêu, nhiều cá Núi nhiều thú, nhiều măng Chiều bóng anh che sông Sớm mắt em lóng lánh…”
Ngồi ở bên sông ta như thấy cái luân hồi của ta. Tháng 6, mưa lớn thượng nguồn… chiều qua còn như một dòng sông chết (cạn bằng lòng đĩa) mà sớm nay tất cả như bừng lên ầm ầm gầm réo hơn cả tiếng chó sủa, ngựa phi. * Bó Áy Khảm nậm Ma khi khon Nhắng xương pánh hảu mon vậy thả đé nớ! * Hoa Áy dập dờn trôi ngang sông Mã Còn thương nhau xin sắp gối riêng chờ. (Hoa Áy vờn trôi ngang sông Mã Còn thương, tay gối lả riêng chờ) *
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Lũ về, sớm mai khi con chim Tăng Ló bên sông réo gọi, các chàng rể (lụ khươi) lò mò lội ven bờ “xem” các cái “đó” mà chàng ta “đặt” tối hôm trước “chờ nước lên” chắc mẩm sẽ vớ được vài con cá măng, cá chiên to hăng nước đầu mùa không may chui vào “đó” (lờ to) làm bữa ngon cho dân bản. Lũ về, mình là trai Đình Bảng, từ Hà Nội lên thượng nguồn Tây Tiến cái gì cũng lạ, cũng bỡ ngỡ, nửa đêm về sáng giật mình nghe sông réo… sớm mai ra bờ sông trông dòng sông chảy xiết, trong lòng lại vang lên khúc Trầm hùng của nhạc sĩ Đỗ Nhuận. “Hồng Hà mênh mông trôi cát tới chân làng quê”…
Còn ở đây thì sông đổ ầm ầm, qua các ghềnh đá đổ thác bọt tung trắng
xóa cứ như bờm đàn ngựa bạch đang phi hết tốc độ xông ra chiến trường
cùng bom rơi pháo nổ vang rền, thật đúng là “Sông Mã gầm lên khúc độc
hành”… Lũ lên nhanh là lũ ống lũ quét cỏ cây hai bờ được một phen dọn
sạch đôi bờ đất chỗ lỡ, chỗ bồi, bãi ngô, ven sông lại được phen tắm phù
sa trồi lên xanh mởn… Sau vài ba tiếng lũ lên cuồng nộ, thượng nguồn
dứt mưa, thì con sông Mã “ngựa phi” lại trở thành Nậm Ma (chó sủa) ào
ào, tấm tắc thân quen như con mực, con vện về nằm ngang dưới chân cầu
thang, thật là: Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về
xuôi 29/2/2012
Bài 8: ĐÁM CƯỚI NGƯỜI THÁI
Ở người Thái: con gái khi lên 13 tuổi, trai 15 tuổi thường tổ chức nhuộm răng đen. Lấy cây “mạy cù”, mọc ở núi đá, đốt lên khói hơ vào miếng mai sắt thành dọt nước, trai gái nắm tay nhau, kể anh chị em. Trai lấy ngón tay miết giọt nước trên mai (cái mai đào đất) tra vào răng gái, gái tra vào răng trai. Sau đó hai người nắm tay nhau xuống thang đến bậc cuối, cùng nhảy xuống. Từ đấy trở thành trai gái thiếu niên. Từ đấy trở đi mới được ra chơi “Hạn Khuống” hát giao duyên tìm hiểu nhau (nghĩa là sang tuổi cập kê):
*Xíp pi ủa chắng dựt pên sao Chái chắng dáo pên báo Xíp xam chắng hụ thi bú Xíp xí chắng hụ hú khẻo xóư chi son sao Pánh há chắng hụ tắt xứa hổm nốm Hụ hom phôn dệt chọng Dóng Khửn khuống đang pháy * Mười tuổi em đang lớn thành gái Anh cũng lớn thành trai 13 tuổi em biết bắt cá suối 14 tuổi biết nhuộm răng đen làm duyên Biết may áo che vú Biết dành tóc làm độn Óng ả lên sàn nhóm lửa Khi 2 người tỏ tình gọi là “ổ báo sao”.
Tiêu chuẩn là con gái phải biết se sợi, dệt vải, con trai phải biết đan lát những đồ dùng trong nhà. Gái sau khi có chồng con phải lo quần áo mặc, chăn đệm nằm cho chồng con. Trai phải lo tự túc đủ các thứ đồ dùng lặt vặt để đựng thóc gạo, rau, thịt cá, đồ dùng nấu cơm.v.v…
Tục cưới xin: Sau khi
trai gái đã tìm hiểu “yêu nhau”, trai nói với bố mẹ đi tìm bà mối đến
thăm dò nhà gái (gọi là pay chóm), thuận thì đi đến: Lễ ăn hỏi: 1 đôi
gà to, vài ba bát gạo, rượu, bánh kẹo, hoa quả đưa sang nhà gái. Ở Quỳnh
Nhai cụ thể là: Đồ lễ dạm hỏi gồm: - Trầu 1 gói, vỏ trầu 1 gói, cau 5
kg - Thuốc lào 1 - 2kg, thuốc lá 1 - 2 tút. - Chè uống 2 - 3kg. -
Bánh kẹo tự chế 5 - 10kg. - Hoa quả 5 - 10kg. - 1 đôi gà (1 trống - 1
mái) 3 - 4kg. - 1 con lợn 45 - 50kg - Gạo nếp thơm (khẩu lương phửng )
15 - 20kg. - Gạo tẻ thơm (khẩu xẻ lạo lựu) 15 - 20kg. - Rượu gạo: 40 -
50 lít. Lễ dạm hỏi: (Lễ tham pặư). Đội hình: 10 chàng trai + 5 cô gái
sang nhà gái phục vụ cỗ bàn. - Thách cưới:
Khá nặng Ở Mường La, Thuận Châu (thời 1900 - 1970) ngoài rượu thịt , còn là 1 máy khâu 5 con bướm (TQ) 1 xe Favorit (980đồng lúc bấy giờ: Lương phó ty có 80đồng)… ngoài ra là: - Trầu 1 gói, vỏ trầu 1 gói, cau 5 kg - Thuốc lào 1 - 2kg. - Thuốc lá 100 - 200 bao. - Bánh kẹo 5 - 10kg. - Đường kính 5 - 10kg - Hoa quả 50 - 100kg. - Lợn béo 1 - 2 tạ - Rượu gạo ngon 200 - 300lít. - Gạo nếp ngon 1 - 2 tạ. - Gạo tẻ ngon 1 - 2 tạ. - Pa dăm (cá sấy rạch sườn) 10 - 20kg. - Pa giẳng (cá sấy nhỏ) 10 - 20 giỏ - Cá mắm 3 - 5kg đựng trong ống nứa. - Cá ướp 3 - 5kg (nhiều ống). Đám cưới được tiến hành trong 3 ngày 3 đêm.
Ngày 1: Chuẩn bị, dặn dò, cống nạp xong. Ngày 2 (đại lễ): Thường nhà trai chọn giờ xuất phát (tránh giờ Dần) lấy giờ Mão (chớ mẩu). Đi tiền trạm là 2 chàng trai “dò đường” tránh điềm xấu (có đám tang) để tránh. Đoàn đưa rể: Ông mối, bà mối, phù rể 2 người khiêng đệm, 1 người vác chiếu (1 cót mây và 1 chiếu cói), 1 người đeo chăn, 2 người khiêng lợn, 2 người khiêng các lồng gà, 2 người khiêng rau và các thực phẩm khác, 1 người gánh các ống cá ướp. Tất cả đều mặc đúng phong tục như áo cóm cúc bạc, áo dài (xửa luông), quần áo Thái nhuộm chàm láng củ nâu.
Riêng chàng rể đeo dao bên hông, vai khoác túi, 1 tay khoác nón Thái. Ông mối đội khăn xếp mặc áo dài the, quần lụa trắng. Bà mối mặc áo dài (xửa luông), tóc quấn vòng hoặc búi sau gáy, (đây là Thái trắng Quỳnh Nhai) pắn cẩu bứt láy. Có đội kèn “pí kẻo” vừa đi vừa đánh trống thổi kèn kèm pháo nổ… gây ồn ào phấn chấn. Nhà gái chọn giờ đón rể (giờ Thìn - chơ xi)… nhưng rể cũng phải được xem lá số hợp “mệnh” với vợ chồng, ông bà nội ngoại (ta nái, pú da). Tục té nước, ném quả me tròn, hạt bông vải vào đoàn nhà trai. 2 chàng phù rể bước lên cầu thang máng hẳư (gian bếp), nhà gái ngăn lối, phải lạy quỳ “xin phép” được giăng tấm vải đỏ ở phía bên khung cửa (gọi là cả hồng) ý chúc phúc nhà gái và báo là nhà đã có rể. Hai bà mối vào cửa ngồi xổm dâng 1 phong bì tiền dâng cưới đặt lên bàn. Nhà gái có 2 bà đại diện (thẩu nái) đem cơi rượu ra làm lễ đón nhận - rồi hai bên hát đối đáp.
Khá nặng Ở Mường La, Thuận Châu (thời 1900 - 1970) ngoài rượu thịt , còn là 1 máy khâu 5 con bướm (TQ) 1 xe Favorit (980đồng lúc bấy giờ: Lương phó ty có 80đồng)… ngoài ra là: - Trầu 1 gói, vỏ trầu 1 gói, cau 5 kg - Thuốc lào 1 - 2kg. - Thuốc lá 100 - 200 bao. - Bánh kẹo 5 - 10kg. - Đường kính 5 - 10kg - Hoa quả 50 - 100kg. - Lợn béo 1 - 2 tạ - Rượu gạo ngon 200 - 300lít. - Gạo nếp ngon 1 - 2 tạ. - Gạo tẻ ngon 1 - 2 tạ. - Pa dăm (cá sấy rạch sườn) 10 - 20kg. - Pa giẳng (cá sấy nhỏ) 10 - 20 giỏ - Cá mắm 3 - 5kg đựng trong ống nứa. - Cá ướp 3 - 5kg (nhiều ống). Đám cưới được tiến hành trong 3 ngày 3 đêm.
Ngày 1: Chuẩn bị, dặn dò, cống nạp xong. Ngày 2 (đại lễ): Thường nhà trai chọn giờ xuất phát (tránh giờ Dần) lấy giờ Mão (chớ mẩu). Đi tiền trạm là 2 chàng trai “dò đường” tránh điềm xấu (có đám tang) để tránh. Đoàn đưa rể: Ông mối, bà mối, phù rể 2 người khiêng đệm, 1 người vác chiếu (1 cót mây và 1 chiếu cói), 1 người đeo chăn, 2 người khiêng lợn, 2 người khiêng các lồng gà, 2 người khiêng rau và các thực phẩm khác, 1 người gánh các ống cá ướp. Tất cả đều mặc đúng phong tục như áo cóm cúc bạc, áo dài (xửa luông), quần áo Thái nhuộm chàm láng củ nâu.
Riêng chàng rể đeo dao bên hông, vai khoác túi, 1 tay khoác nón Thái. Ông mối đội khăn xếp mặc áo dài the, quần lụa trắng. Bà mối mặc áo dài (xửa luông), tóc quấn vòng hoặc búi sau gáy, (đây là Thái trắng Quỳnh Nhai) pắn cẩu bứt láy. Có đội kèn “pí kẻo” vừa đi vừa đánh trống thổi kèn kèm pháo nổ… gây ồn ào phấn chấn. Nhà gái chọn giờ đón rể (giờ Thìn - chơ xi)… nhưng rể cũng phải được xem lá số hợp “mệnh” với vợ chồng, ông bà nội ngoại (ta nái, pú da). Tục té nước, ném quả me tròn, hạt bông vải vào đoàn nhà trai. 2 chàng phù rể bước lên cầu thang máng hẳư (gian bếp), nhà gái ngăn lối, phải lạy quỳ “xin phép” được giăng tấm vải đỏ ở phía bên khung cửa (gọi là cả hồng) ý chúc phúc nhà gái và báo là nhà đã có rể. Hai bà mối vào cửa ngồi xổm dâng 1 phong bì tiền dâng cưới đặt lên bàn. Nhà gái có 2 bà đại diện (thẩu nái) đem cơi rượu ra làm lễ đón nhận - rồi hai bên hát đối đáp.
Lễ cưới linh đình 3 ngày. Rồi rể phải ở rể qua các chặng: - Khươi quản (ngủ một mình ở gian ngoài cùng) sau 1 - 2 năm mới được chung chăn gối (thời gian thử thách) - bị đuổi là mất hết. - Ở rể 1 - 3 năm. Có trường hợp không phải ở rể (do thỏa thuận 2 bên). Lễ thành hôn gọi là “xú phả”: Kết búi tóc ngược “tăng cẩu”: Nhà trai đem đến 1 đôi vòng tay bạc, 2 nhẫn, 1 đôi hoa tai, châm cài tóc và 2 độn tóc gói vào sải thổ cẩm. Lễ tạ ơn mẹ vợ phải có 1 đôi vòng tay bạc và 5 đồng bạc trắng. Biếu bố vợ gọi là tiền “rổ cá, rổ thịt” cùng khoảng lễ đó gọi là “tạ ơn dòng sữa mẹ đã nuôi con và ơn cha đã kiếm cá, thịt về nuôi con khôn lớn”.
Bên nhà gái phải có màn, thường dùng vải dày nhuộm đen chàm, có đệm và chăn gối. Sau khi “tằng cầu” bà nào tốt số thì đưa 2 vợ chồng vào nắm tay nhau trong màn (người Kinh là vào rải chiếu). Lễ cưới Thái tốn kém, ở rể khổ ải như một thời làm nô lệ (cuông nhốc dưới chế chế độ Phìa Tạo).
Bài 9: CẦU VÀO BẢN
“Mường của anh có cầu gang, cầu sắt Bản của em có cầu lim lõi chắc Cầu lõi chắc bắc đôi cho anh qua lại Thăm nhau dù nắng mưa không gì ngại” - Cầm Biêu Chao, “về bản” đúng như nhà thơ của bản đã tả “Bản của em và Mường của ta/ đường đi lại quanh có uốn khúc/ đường đi mãi hết đèo lại dốc/ đường đi qua rừng dướng, luồn rừng giang/ và đi theo con suối về làng/ dòng suối nhỏ chảy quanh bụi nhót/ rồi chảy lọt giàn dưa…”
Chao, bản trước mặt là sông, bên hông bản là suối. Sông buổi sớm như mặt gương phẳng lặng cho ta soi bóng. Sông có đêm nước lên gầm gào như chó sủa… còn suối bên đầu nhà quanh năm trong xanh rì rào thủ thỉ… chiều chiều đón em gái ra hái bon, xúc ốc. Chao, con đường về bản là phải luồn rừng rồi đi dọc bờ sông, lội qua suối đầu bản…
Để dân bản mùa lũ không phải lội suối nguy hiểm … thế là cả bản hò nhau lên núi vào rừng đại ngàn chặt 8 cây lim to lõi chắc, phạt hết cành lá rối xúm nhau “kéo”, đẩy, bắn, bẩy tuột xuống suối “dòng” lôi về bản để bắc cầu qua suối. Trên mặt cầu được lát bằng phen tre đan để cụ già, trẻ con, trâu bò, ngựa đi qua không bị lọt chân… Chao, chiếc cầu gỗ bắc ngang con suối. “Nước suối có lúc cạn lúc lũ Nước trên rừng lúc hiền lúc dữ” - Nông Văn Bút Đó thật là: “ Cầu chúng ta vừa cao vừa chắc Chẳng còn lo nước lũ, suối sâu Cũng đón ông giáo Tiếp sang cầu Để người già mừng khỏi khi mình chết Không biết chữ nào bụng người còn tiếc”.
- Nông Văn Bút
Giữa bản mường núi sông hùng vĩ, rừng xanh tít tới chân trời thì cái cầu gỗ bắc ngang qua con suối rỉ rả vào thẳng tới chân cầu thang nhà sàn đầu bản như là biểu tượng của hồn bản, hồn mường. Chính nơi đây những đêm thu trai gái bản ra đứng trên cầu đàn đúm: thổi khèn, thổi sáo, đánh đàn “tính”, hát giao duyên, ngắm ánh trăng vàng mênh mang trôi theo dòng suối ra ngoài sông âm vang tiếng thác. Chao, chiếc cầu vào bản - cầu gỗ, dân bản tự làm tự bắc cho mình bằng chính vật liệu thiên nhiên của rừng quê, nó thân yêu thánh thiện làm sao, dịu chân, mát mắt vô cùng, nắng mưa đều hiền như bản, thầm lặng thanh bình để ta: “… đi cùng em Cùng em tới Bên kia sông Mã Tìm rêu đá cùng nhau” - Cầm Cường Cầu vào bản thân thương là vậy.
Bài 10: TIẾNG MÕ TRÂU
Chiều về “lốc cốc” mõ trâu
Âm vang tiếng bản bên cầu nước xanh
Khói thơm bếp lửa vờn quanh
Lùa trâu về Púng(1) bên ghềnh ngẩn ngơ.
- NK (1) Púng: thung cỏ
THƠ THANH THANH
Tượng Đài Việt Mỹ tại Houston ( đường Bellaire) Do Họa Sĩ Phạm Thông thực hiện.
ÐÀI TƯỞNG NIỆM VIETNAM WAR MEMORIA
Ðã chung vai sát cánh chống quân thù
Gương Anh Hùng lưu lại mãi ngàn thu
Ngăn sóng đỏ lan tràn gây thống khổ
Gieo rắc đau thương, tang tóc, tội tù,
Họ đã chết cho chúng ta được sống
Có lẽ nào ta lại lãng quên ru ?
Những sáng kiến dựng xây đài kỷ niệm
Ðể đời đời tưởng nhớ các anh linh
Ðáng trân trọng, và rất nên hỗ trợ
Cùng tiếp tay tạo dựng một công trình
Cờ Mỹ Việt, muôn năm còn ngạo nghễ
Cờ Tự Do, cờ Dân Chủ, Hòa Bình
Và hình tượng hai Quân Nhân Mỹ Việt
Là tấm gương cao cả, đã hy sinh...
TỪ PHONG VIETNAM WAR MEMORIAL
This is the image of American and Vietnamese fighters
Who fought the common enemy side by side
For the cause of FREEDOM all over the world,
Setting a heroic example to last forever with pride.
To prevent the Reds from sowing suffering
And creating dolor, bereavement, yoke, thrall,
Our soldiers died for us to survive.
Could we have the heart to ignore them all?
The initiatives to erect the memorial
To eternally memorize those divine
Are worthy of our honoring, supporting
And contributing to the construction so fine.
To admire the two American and Vietnamese flags
Of Freedom and Democracy proudly fly, how nice!
And the image of American and Vietnamese warriors
Is the symbol of such sublime sacrifice...
Translation by THANH-THANH
THƯ TÙ Who fought the common enemy side by side
For the cause of FREEDOM all over the world,
Setting a heroic example to last forever with pride.
To prevent the Reds from sowing suffering
And creating dolor, bereavement, yoke, thrall,
Our soldiers died for us to survive.
Could we have the heart to ignore them all?
The initiatives to erect the memorial
To eternally memorize those divine
Are worthy of our honoring, supporting
And contributing to the construction so fine.
To admire the two American and Vietnamese flags
Of Freedom and Democracy proudly fly, how nice!
And the image of American and Vietnamese warriors
Is the symbol of such sublime sacrifice...
Translation by THANH-THANH
Mà rồi chẳng nói được bao nhiêu,
Mặc dù đã định trong tâm trước
Mà gặp nhau là ý bạt phiêu!
Cũng có vài điều có nhớ ra
Mà vì bên cạnh lắm người ta,
Và vì thẳng mặt mà phân-tích
Thì quá... sỗ-sàng, quá... khổ-qua...
Nên mượn lời thơ để giãi-bày
Nỗi lòng ấp-ủ bấy lâu nay ...
Em ơi, bình-tĩnh nghe anh nói:
Ta hãy vươn lên khỏi cảnh này!
Ta đã yêu nhau thuở trẻ-trung,
Xây nên tổ ấm đẹp vô cùng.
Cõi trần ví thử bình-yên cả
Thì đã trọn đời hưởng phúc chung.
Với bát cơm ngon, tấm áo lành,
Người đời bắt buộc phải đua tranh.
Phũ-phàng cuộc sống làm lem-lấm
"Hai trái tim vàng, một mái tranh".
Anh cứ ngây-ngây dại-dại hoài,
Lợi-quyền cấp-chức gác ngoài tai.
Nửa đời mẫn-cán cam cơ-cực,
Đơn độc khư-khư luyện đức+tài (!)
Anh đã (là khôn hay dại đây?)
Nằm ngoài tất cả mọi vòng vây .
Thức trong giấc ngủ, trong mơ tỉnh;
Bảo-bọc hồn hoa trong xác cây.
Anh đã (đương-nhiên là dại rồi!)
Tự mình đày đọa chính mình thôi!
Lại còn ép-uổng con và vợ
Thiếu-thốn quanh năm chật-vật hoài.
Bạn-lứa: đô-la với hạt xoàn!
Chồng người: đại-phú với cao-quan!
Chồng em thủ-phận nghèo, cô-thế;
Chẳng chịu chen chun, chỉ chịu gàn!
Đến lúc đem thân đi ở tù
Anh không để lại một đồng xu!
Một mình mọi việc em lo-liệu;
Viễn-ảnh tương-lai quá mịt-mù.
Em đã lo cho con học-hành
Lại còn lo tiếp-tế cho anh.
Hùn hoài tổ-hợp hàng không chạy;
Bụng hiếm khi no, bệnh khó lành!
Thân-thích lià xa hoặc mạt-thời;
Gia-tài sự-nghiệp hóa ma-trơi!
Nhà không bán được, người ta chiếm!
Thuế nặng, hàng cao, chạy hụt hơi!
Con lớn theo nhau đi lấy chồng,
Còn đàn con nhỏ yếu gia-công.
Em ngày một mệt, đau, gầy, yếu:
Cực-khổ trăm đường, chịu nổi không?
Em ạ! Ngày xưa, gái góa chồng:
Ba năm* tang-chế thế là xong!
Khổng Nho nghiêm-nghiệt chuyên vây thắt
Mà đã buông lơi cả một vòng!
Anh có còn gì để lại đâu?
Cho em: chỉ một khối ưu sầu!
Năm năm* đằng đẵng là thôi hết:
Môi đã phai son, má nhạt mầu! *
Thế mà tác-giả đã bị "cải-tạo" hơn 12 năm!
Anh gửi về em lòng nhớ ơn,
Và lời... tạ tội -- Biết gì hơn!
Cầm như anh đã thành thiên-cổ:
Sông đã vơi khô, núi đã sờn!
Hãy gạt anh ra khỏi cuộc đời!
Đừng còn bận-bịu nữa, em ơi!
Vai gầy gánh nợ khôn kham nặng:
Em có toàn-quyền thở, thảnh-thơi!
Có rẽ chia nào không đớn đau?
Lấy lòng mà hiểu chút lòng nhau:
Chấp-kinh đành phải tòng-quyền vậy!
Lỡ một hành-nhân: lọt cả tàu ...
Rồi, một ngày kia... em sẽ quên,
Như hơi gió nhẹ thoảng ngoài hiên,
Bớt buồn rưng-rức trong muôn một
Mới vợi trong anh mối muộn phiền!...
"Nhà Trắng" (Thôn 5) 1980
THANH-THANH
TIN THẾ GIỚI
Phải chăng Trung Quốc đang dịu giọng? Quỳnh Chi, phóng viên RFA
2012-04-17
Những căng thẳng tại Biển Đông đặc biệt là giữa Trung Quốc với các nước nằm trong vùng tranh chấp gây ra quan ngại rằng tình hình sẽ ngày càng trở nên căng thẳng.
AFP photo
Tuy
nhiên, theo một số chuyên gia Hoa Kỳ, Trung Quốc đang có phần dịu
giọng. Có lẽ đây là một góc nhìn mới và cần được nêu ra nhằm cung cấp
một cái nhìn tổng quát hơn về sự kiện.
Tỏ thiện chí ngoại giao
Hồi
tháng Ba, tạp chí Các vấn đề đối ngoại Foreign Affairs cho đăng tải
bài viết “Tất cả đều yên lặng ở Biển Nam Trung Hoa” của ông M. Taylor
Fravel, một chuyên gia về Trung Quốc và Đông Á hiện đang công tác tại
viện Công nghệ Massachusetts, nói về thái độ của Trung Quốc trong thời
gian gần đây tại Biển Đông. Đại ý, bài viết nói rằng Trung Quốc đang
dịu giọng hơn tại thủy lộ quan trọng đang bị tranh chấp phức tạp này.
Lý do được ông Taylor đưa ra là vì Trung Quốc muốn khôi phục hình ảnh
của nước này và nhằm ngăn Hoa Kỳ có cớ để can dự sâu hơn vào khu vực
Châu Á Thái Bình Dương.
Xem ra
ông Taylor không phải là người duy nhất có nhận định đó. Tuần trước,
tại Diễn đàn An ninh Toàn cầu năm 2012, do Trung tâm Nghiên cứu Chiến
lược Quốc tế CSIS có trụ sở tại Hoa Kỳ, tổ chức, một số chuyên gia, cựu
giới chức Hoa Kỳ cũng đưa ra lời nhận định tương tự.
Là
một trong các nhân vật được mời nói chuyện tại phần hội thảo về Biển
Đông, Đô đốc Joseph Prueher, cựu đại sứ Hoa Kỳ tại Trung Quốc cho rằng
những vụ đụng độ tại Biển Đông mà ông gọi là biển Nam Trung Hoa trong
những năm trở lại đây có lẽ làm người ta nghĩ rằng căng thẳng sẽ leo
thang ở khu vực nhưng theo ông, tình hình đã khác đi, ít ra trong hai
năm trở lại đây:
“Sự việc và
đã thay đổi trong hai năm gần đây. Trung Quốc đã dịu giọng hơn và ứng
xử theo lối ngoại giao hơn. Tôi nghĩ là họ đã nhận ra rằng họ đã hung
hăng quá nhiều ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Và nước này ngày càng
cho thấy sự hung hãn cũng được kiểm soát”.
Dẫn
chứng cho nhận định của mình, Đô đốc Joseph Prueher cho rằng những
cuộc thăm viếng dày đặc hơn giữa Trung Quốc – Việt Nam; giữa Trung Quốc
– Philippines; và giữa Trung Quốc và một số nước trong khu vực gần đây
cho thấy Bắc Kinh đang tỏ thái độ ngoại giao hơn.
Năm
ngoái, Việt Nam và Trung Quốc đã có ít nhất hai cuộc tiếp xúc quan
trọng được cho là nhằm giải quyết những bất đồng giữa hai nước, trong
đó nêu ra rằng “vấn đề Biển Đông sẽ được giải quyết trong hòa bình”.
Một tháng sau đó, tại diễn đàn Đông Á, Trung Quốc cùng các nước ASEAN
bàn về việc thực hiện Tuyên bố ứng xử trên biển giữa các bên. Mặc dù
bản hướng dẫn thực hiện DOC không đáp ứng lòng mong đợi của nhiều nước
có tranh tranh chấp, đặc biệt là Philippines và các chuyên gia Việt Nam
vì không có tính ràng buộc pháp lý; tuy nhiên, đối với các chuyên gia
Hoa Kỳ, dù là một động thái ngoại giao nhỏ của Trung Quốc cũng được
khuyến khích.
Sự việc và đã thay đổi trong hai năm gần đây. Trung Quốc đã dịu giọng hơn và ứng xử theo lối ngoại giao hơn.Đô đốc Joseph Prueher
Theo
bài viết của ông Taylor Fravel, thời gian gần đây, tờ Nhân dân Nhật
báo, cơ quan ngôn luận của ĐCS Trung Quốc bắt đầu nói tầm quan trọng
của sự hợp tác; và chính phủ Trung Quốc cũng đầu tư tổ chức hội thảo về
biển như buổi Hội thảo về Tự do hàng hải ở Biển Đông.
Khi
hình ảnh Trung Quốc ngày càng xấu đi giữ các nước láng giềng, khi Hoa
Kỳ quyết tâm trở lại Châu Á và ngày càng thắt chặt quan hệ với các đồng
minh và đối tác - cụ thể là tăng cường hợp tác quốc phòng, quân sự với
Úc, Phillipines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam… thì các chuyên gia
nhận định rằng Bắc Kinh bắt đầu dịu giọng để đi một chiến thuật khác. Đô
đốc Joseph Prueher cho rằng Trung Quốc có chiến thuật riêng của họ:
“Trung Quốc có một chiến thuật để quan hệ với các nước khác, bao gồm các nước quyền lực và các nước láng giềng”.
Theo
bài viết “Tất cả đều yên lặng ở Biển Nam Trung Hoa” của tác giả M.
Taylor Fravel, Trung Quốc muốn khôi phục “hình ảnh của một láng giềng
thân thiện và muốn làm suy yếu vai trò lớn hơn của Mỹ trong các bất
đồng và khu vực”.
Chiến thuật của Trung Quốc
Cựu đại sứ Carla Hills, cũng là một chuyên gia về quan hệ Hoa Kỳ -
Trung Quốc, cũng nhận định trong buổi hội thảo về Biển Đông rằng “có lẽ
Trung Quốc đã học được những bài học từ những việc làm trước” và theo
bà:
“Có nhiều vấn đề mà
Trung Quốc cần phải giải quyết trong nước. Và quan hệ với các nước láng
giềng cũng rất quan trọng nên họ phải hết sức cẩn thận”.
Vấn
đề trong nước mà bà Carla đề cập là việc nội an bất ổn của Bắc Kinh
bao gồm từ vấn đề Tây Tạng, khoảng cách giàu nghèo, đến xung đột giữa
nông dân và chính phủ... Và cấp bách nhất là Đại hội Đảng lần thứ 18
sắp diễn ra. Theo Đô đốc Joseph Prueher, đây là thời gian Trung Quốc
cần củng cố quyền lực và muốn ổn định quốc gia.
Nhận
định về khả năng dịu giọng của Trung Quốc có lẽ mang tính thuyết phục
hơn khi các chuyên gia đưa ra việc Trung Quốc không muốn các nước láng
giềng ngày càng tiến về phía Hoa Kỳ. Nhưng những dấu chỉ tích cực trên
đây mà một số cựu giới chức Hoa Kỳ nhìn thấy chưa hẳn thỏa mãn hết
những thắc mắc về hành động hung hăng của Bắc Kinh.
Điển
hình là tại buổi hội thảo về Tự do Hàng hải trên Biển Đông trong Diễn
đàn An ninh Toàn cầu 2012 vừa qua, nhiều câu hỏi đã được đặt ra trong
đó là cuộc đụng độ giữa tàu Bắc Kinh và tàu hải giám Manila vào ngày 8
tháng 4 tại bãi đá ngầm Scarborough mà Trung Quốc gọi là Hoàng Nham. Sự
việc được đánh giá là chưa hết căng thẳng khi phía Philippines hôm
chiều thứ Bảy thông báo tàu hải giám Trung Quốc trở lại sau khi rút đi,
trong khi một máy bay Bắc Kinh cũng bay sát một tàu tuần duyên của
Manila đóng trong vùng. Hành động này của Trung Quốc rất khó khuyết phục
cho tất cả mọi người rằng Bắc Kinh đang dịu giọng. Tuy nhiên, theo cựu
đại sứ Carla Hills thì điểm tích cực là vụ đụng độ không phải là vấn
đề giữa quân đội với quân đội:
“Cần
phải biết rằng Trung Quốc dùng tàu dân dụng để giải quyết cuộc đụng độ
này. Quân đội giải phóng Trung Quốc không được sử dụng trong việc giải
quyết các tranh chấp và lần này cũng vậy. Đây không phải là vấn đề
giữa quân đội các nước với nhau mà là vấn đề ngư chính”.
Cuộc
đụng độ hiện tại chưa có dấu hiệu cho thấy sẽ làm tình huống xấu đi
nhưng vẫn chưa cho thấy nó sẽ lắng xuống. Đặc biệt, trong lúc Hoa Kỳ và
Philippines đang thực hiện cuộc tập trận “Vai kề vai” thì vụ đụng độ
này có thể mang một ý nghĩa mạnh hơn bình thường.
Có nhiều vấn đề mà Trung Quốc cần phải giải quyết trong nước. Và quan hệ với các nước láng giềng cũng rất quan trọng nên họ phải hết sức cẩn thận.
Cựu đại sứ Carla Hills
Cũng
tại phần hội thảo về Biển Đông nằm trong Diễn đàn An ninh Toàn cầu
2012, ông Maurice “Hank” Greenberg, chuyên gia kinh tế Hoa Kỳ tại Trung
Quốc cho biết cần nhận thấy sự thay đổi của Trung Quốc:
“Tôi
không nghĩ là Trung Quốc muốn có một cuộc xung đột lộ liễu. Đó không
phải là lợi ích quốc gia của họ. Tôi tin là ngoại giao mềm mỏng là cách
thức lâu dài”.
Bà Carla còn nói thêm rằng “Đó không có nghĩa là vấn đề đã được giải quyết nhưng nó có nghĩa là có căn bản để thương thuyết”.
Bà Carla còn nói thêm rằng “Đó không có nghĩa là vấn đề đã được giải quyết nhưng nó có nghĩa là có căn bản để thương thuyết”.
Liệu Trung Quốc có dịu giọng hay không hay liệu đây là một chính sách
lâu dài của Trung Quốc, còn là một câu hỏi lớn với nhiều dè dặt. Điển
hình, mặc dù cho rằng Trung Quốc dịu giọng và đây không chỉ là chiến
thuật hòa hoãn, nhưng tác giả Taylor Fravel cũng thận trọng khi nhấn
mạnh ở tựa đề bài viết rằng Trung Quốc hành xử tốt đẹp “ở thời điểm hiện
tại”, ám chỉ một sự không chắc chắn nước này sẽ hành xử thế nào trong
tương lai. Và trước khi những dấu chỉ tích cực có thể được rõ ràng hơn,
cách tốt nhất là tất cả các bên đều thận trọng, đặc biệt là Việt Nam,
một nước có tranh chấp chủ quyền chồng lấn nhiều nhất đối với Trung
Quốc.
Cập nhật: 05:50 GMT - thứ tư, 18 tháng 4, 2012
Một chuyên gia hải quân Hoa Kỳ lạc quan rằng sẽ không xảy ra chiến tranh ở Biển Đông trong tương lai gần.
Bấm Giáo sư Peter A. Dutton,
Giám đốc Viện Nghiên cứu Hàng hải Trung Quốc thuộc Trường Hải quân Hoa
Kỳ (US Naval War College), cũng tái khẳng định Hoa Kỳ không đứng về
nước nào trong tranh chấp lãnh hải.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Trả lời BBC Việt ngữ, ông nói Trung Quốc đã tập trung cho các vấn đề nội bộ hơn là chính sách gây chiến.
Giáo sư Peter A. Dutton: Tôi cho rằng chiến tranh ở Biển Đông sẽ không xảy ra trong tương lai gần vì một số lý do.
Thứ
nhất, mặc dù xung đột giữa Trung Quốc với một hoặc nhiều quốc
gia láng giềng tại Đông Nam Á sẽ chứng kiến việc Trung Quốc có
lợi thế, nhưng chiến tranh chỉ càng gây thêm khó khăn cho Trung Quốc
mà không giải quyết được vấn đề.
Trung
Quốc phải chứng tỏ với thế giới rằng “sự trỗi dậy hòa bình”
không chỉ là khẩu hiệu nhằm giữ được bầu không khí quốc tế có
lợi cho quốc gia này. Chiến tranh sẽ khiến các quốc gia khác,
không riêng gì ở Đông Nam Á mà cả trên thế giới, cảm thấy lo
ngại và gần như chắc chắn rằng sẽ gây ra vấn đề kinh tế cho
Trung Quốc. Chẳng hạn như cấm vận, cộng với việc gia tăng cân
bằng quân sự và thậm chí thêm các thách thức ngoại giao đối
với Trung Quốc.
Ngoài
ra, cũng không có khả năng xảy ra xung đột giữa Trung Quốc và
Hoa Kỳ vì cả hai bên sẽ được ít mà mất nhiều.
Thứ
hai, mặc dù tăng trưởng của Trung Quốc trong vài thập niên qua
thật ấn tượng, nhưng người ta không nên nghĩ rằng đà phát triển
của họ sẽ tiếp tục trên một đường thẳng như vậy trong thập
niên tới.
Nội
bộ Trung Quốc có nhiều khó khăn, như hệ thống an sinh xã hội
yếu kém, một nền dân số đang già đi, thách thức môi trường, bất
ổn xã hội và một hệ thống quản trị khá rời rạc chưa từng
được thử thách vì suy thoái kinh tế.
Chính
phủ Trung Quốc đã sáng suốt lựa chọn việc dồn trọng tâm
hàng đầu cho mục tiêu giải quyết các vấn đề nội bộ hơn là
các chính sách gây chiến.
Tôi
tin rằng điều này có khả năng tiếp tục được duy trì ngay cả
nếu kinh tế Trung Quốc một ngày nào đó trở thành lớn số một thế
giới.
"Chính phủ Trung Quốc đã sáng suốt lựa chọn việc dồn trọng tâm hàng đầu cho mục tiêu giải quyết các vấn đề nội bộ hơn là các chính sách gây chiến. Tôi tin rằng điều này có khả năng tiếp tục được duy trì ngay cả nếu kinh tế Trung Quốc một ngày nào đó trở thành lớn số một thế giới."
Do
đó, tôi lạc quan rằng bất chấp các va chạm lãnh hải sẽ tiếp
tục xảy ra, chúng sẽ không lấn át tầm quan trọng của sự bình
ổn quốc tế.
BBC:Washington
gần đây công bố chính sách chuyển trọng tâm sang châu Á - Thái
Bình Dương. Liệu chiến lược mới này sẽ như thế nào nếu thực
sự có chiến tranh xảy ra ở Biển Đông? Nói cách khác, liệu Hoa
Kỳ sẽ can thiệp?
Các
quan chức Hoa Kỳ, trong đó có Ngoại trưởng Hillary Clinton, đã
nói rõ rằng lợi ích quan trọng của Hoa Kỳ ở châu Á bao gồm sự
tự do lưu thông hàng hải và năng lực hỗ trợ các đồng minh,
bạn hữu và đối tác.
Mặc dù Hoa Kỳ và Trung Quốc đã có một số va chạm, nhưng vấn đề được giải quyết chủ yếu qua đối thoại ngoại giao.
Ngoại
trưởng Clinton và những quan chức khác cũng nói rõ rằng trong
vấn đề tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán, Hoa Kỳ sẽ không
đứng về bên nào. Tuy nhiên, Hoa Kỳ khuyến khích tất cả các bên
giải quyết vấn đề này một cách hoà bình.
Măc
dù thường xuyên xảy ra va chạm, cho đến giờ các bên liên quan
đã không quân sự hóa các tranh chấp này. Đây là điều đáng khích lệ.
Do
Trung Quốc tỏ ra thận trọng không cản trở bất kỳ lợi ích
quan trọng nào của Hoa Kỳ, và vì Hoa Kỳ cũng không đứng về bên
nào trong tranh chấp này, như thế không thể xảy ra xung đột.
Tuy
nhiên, nếu một quốc gia có quan hệ đồng minh về an ninh với Hoa
Kỳ bị tấn công, chính phủ Hoa Kỳ sẽ buộc phải hỗ trợ họ
phòng vệ.
BBC:Dự
kiến tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc, Thi Lang (Varyag), sẽ sớm
hoàn thiện. Liệu nó có kích động một cuộc chạy đua vũ trang trong vùng?
Tôi
cho rằng việc Trung Quốc ra mắt tàu sân bay chắc chắn sẽ ảnh
hưởng đến các quyết định của các quốc gia trong khu vực trong
việc tái cấu trúc ngành hải quân và các lực lượng quân sự
khác của họ.
Nghĩa
là các chính phủ trong khu vực sẽ tìm cách phát triển năng
lực chống tiếp cận, như tàu ngầm, ngư lôi, tên lửa chống hạm,
những vũ khí có thể đe dọa tàu sân bay của Trung Quốc nếu Bắc
Kinh muốn dùng nó để giải quyết các tranh chấp trong khu vực.
Tuy
nhiên, cách thức Trung Quốc sử dụng tàu sân bay cũng sẽ cung cấp
bằng chứng về ý định của họ. Những đánh giá của các quốc gia
khác về ý định của Trung Quốc cũng lại sẽ tác động lớn đến
hành xử của các quốc gia này trong việc xây dựng lực lượng
hải quân, hoặc là sẽ làm leo thang chạy đua vũ khí, hoặc sẽ giúp
sự phát triển quân trang khu vực trở nên ôn hoà hơn.
Châu Á mua vũ khí của Nga nhiều nhất, Trung Quốc là lý do
Cơ quan nhà nước Nga về bán vũ khí cho biết các nước châu Á
là những nước mua kỹ thuật quân sự hàng đầu của Nga, một diễn tiến mà
một số chuyên gia về vũ khí qui trách cho Trung Quốc.
Công ty Rosoboronexport, có đại diện trong phái đoàn Nga dự một cuộc triển lãm vũ khí quốc tế tại Malaysia, nói 43% số xuất khẩu vũ khí của Nga trong năm ngoái là bán cho các nước châu Á.
Viện Nghiên cứu Hòa Bình Quốc Tế Stockholm tháng trước cho biết vùng châu Á Thái Bình Dương chiếm 44% toàn bộ số nhập khẩu vũ khí trên thế giới; 5 nước đứng đầu về nhập khẩu vũ khí từ năm 2007 tới 2011 là Ấn Độ, Nam Triều Tiên, Pakistan, Trung Quốc và Singapore.
Ông Maksim Pyatushkin, phân tích gia các vấn đề quân sự của Nga, nói với VOA tuần này rằng sức mạnh quân sự và kinh tế ngày càng gia tăng của Trung Quốc đã thúc bách các nước lân cận phải nâng cấp thiết bị vũ khí của mình và họ thường nhờ vào Nga để thực hiện điều này.
Ông Pyatushkin cho biết một số vũ khí do Nga chế tạo tinh xảo hơn những loại của Trung Quốc. Ông nói một số nước không đủ ngân khoản để tân trang toàn bộ số vũ khí của họ, nhưng có thể mua một số vũ khí chiến lược nhằm cải thiện khả năng phòng vệ về lâu về dài.
Phó Tổng giám đốc công ty Rosoboronexport cho biết Nga dự trù bán một số lượng lớn trực thăng vũ trang loại Mi-17 cho Ấn Độ. Nga cũng đang thương thảo với Malaysia để bán cho nước này một số phản lực cơ chiến đấu và huấn luyện.
http://www.voanews.com/vietnamese/news/business/east-asia-arms-4-18-12-147969525.html
Công ty Rosoboronexport, có đại diện trong phái đoàn Nga dự một cuộc triển lãm vũ khí quốc tế tại Malaysia, nói 43% số xuất khẩu vũ khí của Nga trong năm ngoái là bán cho các nước châu Á.
Viện Nghiên cứu Hòa Bình Quốc Tế Stockholm tháng trước cho biết vùng châu Á Thái Bình Dương chiếm 44% toàn bộ số nhập khẩu vũ khí trên thế giới; 5 nước đứng đầu về nhập khẩu vũ khí từ năm 2007 tới 2011 là Ấn Độ, Nam Triều Tiên, Pakistan, Trung Quốc và Singapore.
Ông Maksim Pyatushkin, phân tích gia các vấn đề quân sự của Nga, nói với VOA tuần này rằng sức mạnh quân sự và kinh tế ngày càng gia tăng của Trung Quốc đã thúc bách các nước lân cận phải nâng cấp thiết bị vũ khí của mình và họ thường nhờ vào Nga để thực hiện điều này.
Ông Pyatushkin cho biết một số vũ khí do Nga chế tạo tinh xảo hơn những loại của Trung Quốc. Ông nói một số nước không đủ ngân khoản để tân trang toàn bộ số vũ khí của họ, nhưng có thể mua một số vũ khí chiến lược nhằm cải thiện khả năng phòng vệ về lâu về dài.
Phó Tổng giám đốc công ty Rosoboronexport cho biết Nga dự trù bán một số lượng lớn trực thăng vũ trang loại Mi-17 cho Ấn Độ. Nga cũng đang thương thảo với Malaysia để bán cho nước này một số phản lực cơ chiến đấu và huấn luyện.
http://www.voanews.com/vietnamese/news/business/east-asia-arms-4-18-12-147969525.html
Tập trận hải quân Nga Trung nói lên điều gì? Việt Hà, phóng viên RFA, Bangkok
2012-04-18
Bộ Quốc phòng Trung Quốc hôm 17 tháng 4 loan tin nước này chuẩn bị có cuộc tập trận trên biển lần đầu tiên với Nga tại vùng biển Hoàng Hải giáp với Nhật Bản vào cuối tuần này.
RFA/Wikipedia
Trung
Quốc cho biết sẽ gửi 16 tàu chiến và 2 tàu ngầm đến tham dự cuộc tập
trận. Cuộc tập trận này có ý nghĩa thế nào đối với hai nước Nga Trung
và có ảnh hưởng gì trong khu vực? Việt Hà phỏng vấn giáo sư Carl
Thayer, chuyên gia về quốc phòng an ninh Đông Nam Á thuộc học viện Quốc
Phòng Úc.
Nga muốn nhắc nhở uy thế tại Châu Á Thái Bình Dương
Việt Hà: Thưa ông, xin ông cho biết bằng cuộc tập trận sắp tới, Nga và Trung Quốc muốn gửi ra thông điệp gì với các nước trong khu vực?
GS. Carl Thayer: cuộc tập trận này gửi những thông điệp khác nhau đến từng nước trong khu vực. Tôi vừa mới ở Nga về và ông Putin có đọc một bài diễn văn nói rằng Thái Bình Dương là quan trọng, và một số các học giả nhận định rằng con gấu Nga đã thức dậy và đang trở lại trong khu vực. Nga đang muốn có một vai trò tích cực hơn ở vùng châu Á Thái Bình Dương. Nói về vai trò tích cực ở đây tôi muốn nói đến họ đã tham gia vào thượng đỉnh Đông Á. Vì vậy thông điệp mà Nga muốn gửi ra là họ đang là một người chơi trong khu vực mà các nước không nên bỏ qua. Nga là nước cung cấp vũ khí chính cho Trung Quốc bao gồm cả tàu ngầm kilo, máy bay chiến đấu, cho nên hai nước có quan hệ quốc phòng. Cả hai nước đều có quan hệ thông qua tổ chức hợp tác Thượng Hải và họ đã từng tập trận trên bộ trước kia, nhưng chưa bao giờ tập trận trên biển.
Đối với Trung Quốc thì phải nói đến biển Hoàng Hải, họ gửi 16 tàu ra đó và đó là lý do họ không muốn có hàng không mẫu hạm của Mỹ. Bằng cuộc tập trận này, Trung quốc muốn gửi ra thông điệp là các nước có thể vào biển Hoàng hải nếu họ được Trung Quốc mời vào, đó là vùng biển của họ, và họ muốn trưng cho các nước thấy sức mạnh của hải quân Trung Quốc đang sánh cùng với Nga.
Việt Hà: Còn đối với các nước Đông Nam Á vốn đang có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên biển Đông thì sao, thưa ông?
GS. Carl Thayer: Đây là điểm đáng chú ý, Nga cũng là nhà cung cấp vũ khí chính cho Việt nam, bao gồm tàu ngầm dạng kilo, tên lửa chống tàu, và máy bay chiến đấu giống như họ trang bị cho TrungQuốc tất nhiên là Việt Nam có số lượng nhỏ hơn. Nhưng khi công ty dầu khí quốc gia Nga Gazprom bước vào thay thế chỗ cho BP thì cũng nảy sinh vấn đề với Trung Quốc vì Trung Quốc chỉ trích hành động này. Nhưng theo những gì tôi biết được từ các nhà nghiên cứu và phân tích bên Nga thì phía Nga sẽ xây dựng một đường ống dẫn khí đến Trung Quốc và thậm chí tới Nhật Bản, cho nên Nga ở thế mạnh hơn khi đối phó với Trung Quốc. Họ bán vũ khí cho Trung Quốc, rồi họ sẽ cung cấp cho Trung Quốc khí đốt. Vì vậy theo quan điểm của Nga thì Trung Quốc rất khó có thể có những hành động gì mạnh mẽ với Nga và bản thân Nga thì cũng khá im hơi lặng tiếng trong hàng loạt các vấn đề, họ im lặng trong diễn đàn khu vực. Nhiều người không để ý là họ thậm chí còn không gửi bộ trưởng quốc phòng tới hội nghị bộ trưởng quốc phòng khu vực, họ gửi người đứng ở vị trí thứ hai sau bộ trưởng và các nguồn tin thì nói là ông này chỉ ngủ trong các hội nghị mà không tham gia gì. Cho nên câu hỏi tiếp theo là vào thượng đỉnh đông Á sắp tới liệu Nga có bước lên lãnh trách nhiệm đối với an ninh khu vực hay không?
Việt Hà: Đây là lần đầu tiên hai nước Nga và Trung Quốc tập trận chung trên biển, theo ông tại sao hai nước lại chọn tập trận vào lúc này giữa lúc còn nhiều căng thẳng trong khu vực liên quan đến chủ quyền trên các biển?
GS. Carl Thayer: tại sao lại vào lúc này thì tôi không thể đưa ra một câu trả lời cụ thể, vì điều kiện thời tiết khí hậu thuận lợi của năm hay là Trung Quốc đang lên kế hoạch, nhìn ra xung quanh và đưa ra một kế hoạch lâu dài với một loạt các vụ tập trận để cho thấy sức mạnh của mình cho các nước khác biết và để các nước thấy là họ không bị cô lập. Theo tôi thì họ đã lập kế hoạch tập trận cả năm nay rồi và không hẳn là để đối phó với những gì đang diễn ra trong khu vực.
Việt Hà: theo ông thì cuộc tập trận này có thể làm tăng thêm những căng thẳng đang có trong khu vực không?
GS. Carl Thayer: tôi không nghĩ như vậy, tôi nghĩ là báo chí đã thổi phồng quá mức vụ đảo Vành khăn liên quan đến tranh chấp về nguồn cá. Theo tôi thì Trung Quốc sẽ nói là các cuộc tập trận này là vì mục đích gìn giữ hòa bình trong khu vực. Nói như vậy thì Trung quốc không thể vừa tập trận với Nga xong thì lại quay lại và chỉ trích các cuộc tập trận của các nước khác trong khu vực.
Cuộc tập trận diễn ra trong vùng biển của Trung Quốc và cũng không phải trong vùng gây đe dọa, trừ các nước như Nhật bản và Hàn Quốc, còn các nước Đông Nam Á thì chỉ im lặng mà theo dõi bởi vì Mỹ cũng có tập trận trong khu vực thì tại sao các nước khác không được tập trận. Và Trung Quốc cũng đã từng tập trận với các nước khác như với hải quân Úc vào năm ngoái chẳng hạn cho nên cuộc tập trận lần này hoàn toàn bình thừơng và được chấp nhận theo luật pháp quốc tế. Nó không gây thêm căng thẳng cho những căng thẳng hiện đang có trong khu vực nhưng có thể làm người ta nhướn mày và tất nhiên là Nhật bản sẽ phải lo ngại nếu tàu chiến chạm vào vùng biển tranh chấp với nước này. Và Nam Hàn cũng lo ngại do căng thẳng với Bắc Hàn vì vụ chìm tàu hơn một năm về trước và nước này vẫn còn nghĩ về vai trò của Trung Quốc trong vụ chìm tàu này.
Việt Hà: xin cảm ơn ông.
Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/china-russia-fisrt-naval-exercise-04182012055512.html
Nga muốn nhắc nhở uy thế tại Châu Á Thái Bình Dương
Việt Hà: Thưa ông, xin ông cho biết bằng cuộc tập trận sắp tới, Nga và Trung Quốc muốn gửi ra thông điệp gì với các nước trong khu vực?
GS. Carl Thayer: cuộc tập trận này gửi những thông điệp khác nhau đến từng nước trong khu vực. Tôi vừa mới ở Nga về và ông Putin có đọc một bài diễn văn nói rằng Thái Bình Dương là quan trọng, và một số các học giả nhận định rằng con gấu Nga đã thức dậy và đang trở lại trong khu vực. Nga đang muốn có một vai trò tích cực hơn ở vùng châu Á Thái Bình Dương. Nói về vai trò tích cực ở đây tôi muốn nói đến họ đã tham gia vào thượng đỉnh Đông Á. Vì vậy thông điệp mà Nga muốn gửi ra là họ đang là một người chơi trong khu vực mà các nước không nên bỏ qua. Nga là nước cung cấp vũ khí chính cho Trung Quốc bao gồm cả tàu ngầm kilo, máy bay chiến đấu, cho nên hai nước có quan hệ quốc phòng. Cả hai nước đều có quan hệ thông qua tổ chức hợp tác Thượng Hải và họ đã từng tập trận trên bộ trước kia, nhưng chưa bao giờ tập trận trên biển.
Đối với Trung Quốc thì phải nói đến biển Hoàng Hải, họ gửi 16 tàu ra đó và đó là lý do họ không muốn có hàng không mẫu hạm của Mỹ. Bằng cuộc tập trận này, Trung quốc muốn gửi ra thông điệp là các nước có thể vào biển Hoàng hải nếu họ được Trung Quốc mời vào, đó là vùng biển của họ, và họ muốn trưng cho các nước thấy sức mạnh của hải quân Trung Quốc đang sánh cùng với Nga.
...ông Putin có đọc một bài diễn văn nói rằng Thái Bình Dương là quan trọng, và một số các học giả nhận định rằng con gấu Nga đã thức dậy và đang trở lại trong khu vực. Nga đang muốn có một vai trò tích cực hơn ở vùng châu Á Thái Bình Dương.
giáo sư Carl Thayer
Việt Hà: Còn đối với các nước Đông Nam Á vốn đang có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên biển Đông thì sao, thưa ông?
GS. Carl Thayer: Đây là điểm đáng chú ý, Nga cũng là nhà cung cấp vũ khí chính cho Việt nam, bao gồm tàu ngầm dạng kilo, tên lửa chống tàu, và máy bay chiến đấu giống như họ trang bị cho TrungQuốc tất nhiên là Việt Nam có số lượng nhỏ hơn. Nhưng khi công ty dầu khí quốc gia Nga Gazprom bước vào thay thế chỗ cho BP thì cũng nảy sinh vấn đề với Trung Quốc vì Trung Quốc chỉ trích hành động này. Nhưng theo những gì tôi biết được từ các nhà nghiên cứu và phân tích bên Nga thì phía Nga sẽ xây dựng một đường ống dẫn khí đến Trung Quốc và thậm chí tới Nhật Bản, cho nên Nga ở thế mạnh hơn khi đối phó với Trung Quốc. Họ bán vũ khí cho Trung Quốc, rồi họ sẽ cung cấp cho Trung Quốc khí đốt. Vì vậy theo quan điểm của Nga thì Trung Quốc rất khó có thể có những hành động gì mạnh mẽ với Nga và bản thân Nga thì cũng khá im hơi lặng tiếng trong hàng loạt các vấn đề, họ im lặng trong diễn đàn khu vực. Nhiều người không để ý là họ thậm chí còn không gửi bộ trưởng quốc phòng tới hội nghị bộ trưởng quốc phòng khu vực, họ gửi người đứng ở vị trí thứ hai sau bộ trưởng và các nguồn tin thì nói là ông này chỉ ngủ trong các hội nghị mà không tham gia gì. Cho nên câu hỏi tiếp theo là vào thượng đỉnh đông Á sắp tới liệu Nga có bước lên lãnh trách nhiệm đối với an ninh khu vực hay không?
...theo những gì tôi biết được từ các nhà nghiên cứu và phân tích bên Nga thì phía Nga sẽ xây dựng một đường ống dẫn khí đến Trung Quốc và thậm chí tới Nhật Bản, cho nên Nga ở thế mạnh hơn khi đối phó với Trung Quốc. Họ bán vũ khí cho Trung Quốc, rồi họ sẽ cung cấp cho Trung Quốc khí đốt.
giáo sư Carl Thayer
Việt Hà: Đây là lần đầu tiên hai nước Nga và Trung Quốc tập trận chung trên biển, theo ông tại sao hai nước lại chọn tập trận vào lúc này giữa lúc còn nhiều căng thẳng trong khu vực liên quan đến chủ quyền trên các biển?
GS. Carl Thayer: tại sao lại vào lúc này thì tôi không thể đưa ra một câu trả lời cụ thể, vì điều kiện thời tiết khí hậu thuận lợi của năm hay là Trung Quốc đang lên kế hoạch, nhìn ra xung quanh và đưa ra một kế hoạch lâu dài với một loạt các vụ tập trận để cho thấy sức mạnh của mình cho các nước khác biết và để các nước thấy là họ không bị cô lập. Theo tôi thì họ đã lập kế hoạch tập trận cả năm nay rồi và không hẳn là để đối phó với những gì đang diễn ra trong khu vực.
Việt Hà: theo ông thì cuộc tập trận này có thể làm tăng thêm những căng thẳng đang có trong khu vực không?
Cuộc tập trận diễn ra trong vùng biển của Trung Quốc và cũng không phải trong vùng gây đe dọa, trừ các nước như Nhật bản và Hàn Quốc, còn các nước Đông Nam Á thì chỉ im lặng mà theo dõi bởi vì Mỹ cũng có tập trận trong khu vực thì tại sao các nước khác không được tập trận.
giáo sư Carl Thayer
GS. Carl Thayer: tôi không nghĩ như vậy, tôi nghĩ là báo chí đã thổi phồng quá mức vụ đảo Vành khăn liên quan đến tranh chấp về nguồn cá. Theo tôi thì Trung Quốc sẽ nói là các cuộc tập trận này là vì mục đích gìn giữ hòa bình trong khu vực. Nói như vậy thì Trung quốc không thể vừa tập trận với Nga xong thì lại quay lại và chỉ trích các cuộc tập trận của các nước khác trong khu vực.
Cuộc tập trận diễn ra trong vùng biển của Trung Quốc và cũng không phải trong vùng gây đe dọa, trừ các nước như Nhật bản và Hàn Quốc, còn các nước Đông Nam Á thì chỉ im lặng mà theo dõi bởi vì Mỹ cũng có tập trận trong khu vực thì tại sao các nước khác không được tập trận. Và Trung Quốc cũng đã từng tập trận với các nước khác như với hải quân Úc vào năm ngoái chẳng hạn cho nên cuộc tập trận lần này hoàn toàn bình thừơng và được chấp nhận theo luật pháp quốc tế. Nó không gây thêm căng thẳng cho những căng thẳng hiện đang có trong khu vực nhưng có thể làm người ta nhướn mày và tất nhiên là Nhật bản sẽ phải lo ngại nếu tàu chiến chạm vào vùng biển tranh chấp với nước này. Và Nam Hàn cũng lo ngại do căng thẳng với Bắc Hàn vì vụ chìm tàu hơn một năm về trước và nước này vẫn còn nghĩ về vai trò của Trung Quốc trong vụ chìm tàu này.
Việt Hà: xin cảm ơn ông.
Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/china-russia-fisrt-naval-exercise-04182012055512.html
NGUYỄN XUÂN NGHĨA * TRUNG QUỐC
Vấn Đề Trung Quốc Của Thế Giớivà Của Việt Nam
(04/17/2012)
(LTS:
Bài này thuyết trình tại Hội Thảo Chính Trị: Định Hướng Đấu Tranh Cho
Việt Nam Tự Do ngày Chủ Nhật 15-4-2012 tại Westminster, Califrornia.
Giới thiệu về Kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa:
Trước 1975
- Chủ tịch Tổng hội sinh viên Paris trong thời gian Hòa đàm Paris
- Chuyên viên kinh tế Quỹ Phát triển (tương đương cấp Thứ trưởng trước năm 1975
Sau 1975
- Viết báo và bình luận kinh tế cho hầu hết các Đài quốc tế VOA, RFA, RFI...)
Đáp lời mời của Ban Tổ Chức, chúng tôi xin trước hết có vài cảm nghĩ chủ quan của mình.
Biến cố Tháng Tư 1975 làm thay đổi vận mệnh quốc gia, trong đó, bản thân chúng ta chỉ là mảnh vụn rất nhỏ. Nhưng cũng từ đó, chúng ta đều phải suy nghĩ về đất nước và không chỉ tưởng niệm hoặc luyến tiếc mỗi năm vào dịp Tháng Tư. Chúng ta suy nghĩ về quá khứ với câu hỏi "Tại sao?" - và về tương lai với câu hỏi "Sẽ Ra Sao?"
Không tham gia bất cứ một tổ chức đấu tranh chính trị nào, bản thân chúng tôi kính trọng những người đấu tranh dù có khi không hoàn toàn đồng ý về mọi chuyện. Và càng kính trọng những người đấu tranh vì lý tưởng hơn là vì mơ tưởng sẽ có một vai trò chính trị nào đó trong tương lai.
Cũng vì vậy mà chúng tôi có mặt trên diễn đàn này, như một người nghiên cứu về kinh tế và quan tâm đến Trung Quốc từ nhiều giác độ khác nhau.
Bài tiểu luận rất tóm gọn của chúng tôi sẽ có bốn phần và rất ít con số khô khan, chỉ với ước mong là gợi ý suy tư về chuyện quốc gia và quốc tế.
Trước hết là về bối cảnh chung: "Vì sao Trung Quốc là vấn đề?" Kế tiếp mới là "Vấn đề Trung Quốc của thế giới, và "Vấn đề Trung Quốc của Việt Nam". Sau cùng là phần kết luận, "Vấn đề Trung Quốc của chúng ta" - với vài câu hỏi... nhức đầu.
Chúng tôi xin đầu tiên nói về bối cảnh.
Vì Sao Trung Quốc là Vấn Đề?
Quốc gia nào cũng có những giai đoạn thăng trầm trong lịch sử của từng dân tộc. Trong thế giới gọi là "toàn cầu hóa" ngày nay, hầu hết các quốc gia đều cũng có quan hệ với nhau, về ngoại giao, kinh tế hay an ninh.
Trung Quốc là trường hợp cá biệt vì nhiều di sản của quá khứ.
Sau nhiều thế kỷ là đại cường Á châu và thế giới, Trung Quốc đã trải gần hai thế kỷ lụn bại vì nội loạn từ bên trong và ngoại xâm từ bên ngoài. Những biến cố kéo dài như vậy có ảnh hưởng đến tâm lý của dân tộc, chính yếu là Hán tộc. Vừa tự tôn vừa tự ti có thể là một phản ứng tiêu biểu. Khinh thường mà cũng nghi ngờ và e sợ thiên hạ là cách nói dễ hiểu hơn.
Sau nửa thế kỷ nội loạn triền miên, Trung Quốc chỉ giải quyết xong vấn đề ngoại xâm từ hậu bán thế kỷ 20, vào năm 1949, rồi mất 30 năm điên khùng với bài toán dựng nước. Điên khùng vì sự hoang tưởng của Mao. Cho đến năm 1979, xứ này mới tìm được lối ra nhờ Đặng Tiểu Bình.
Từ đó, trong 30 năm liền, xứ này đã tạm yên với chiến lược tăng trưởng khi mở cửa giao lưu kinh tế với thế giới. Tăng trưởng bằng mọi giá là một cách nói dễ hiểu.
Nhờ dân số đông nhất địa cầu và lại là nước đi sau có thể học được kiến thức và kinh nghiệm các nước đi trước, xứ này sớm thành cường quốc kinh tế. Một quốc gia có trọng lượng kinh tế thứ nhì thế giới. Nhưng người dân thì vẫn thuộc loại "Ba Bê", nghèo như các nước Belarus, Belize hay Bolivia, nếu tính bằng lợi tức đầu người.
Đấy là một mâu thuẫn tâm lý đáng chú ý.
Vì yếu tố lịch sử - và đôi khi văn hóa – Trung Quốc cho rằng thế giới có tội về những tai họa của họ từ thời suy sụp của nhà Mãn Thanh. Và rằng từ nay sự thể sẽ khác. Vì vậy, trong quan hệ với các quốc gia, lãnh đạo xứ này không hề có một chút mặc cảm khi làm những điều mà thế giới không còn chấp nhận nữa. Lãnh đạo Trung Quốc có đầy đủ kiến thức của thế kỷ 21, nhưng hành xử với thủ đoạn trung cổ, theo những nấc thang giá trị đã lỗi thời, mà họ vẫn coi là chính đáng.
Vì vậy, chúng ta mới có vấn đề Trung Quốc.
Về ngoại giao, Trung Quốc là thành viên thường trực và có quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, và cũng tham dự vào hầu hết mọi tổ chức chuyên môn quốc tế. Có quan hệ với gần 200 quốc gia lớn nhỏ trên thế giới, Trung Quốc không hành xử như cường quốc có trách nhiệm về sự yên bình của địa cầu. Khi cần trục lợi thì ngoại giao chỉ là một phương tiện, và đạo lý quốc tế là một chướng ngại mà họ tự cho là có quyền phủ nhận.
Về kinh tế, xứ này cũng có chủ trương lý tài và thực dụng trong mục tiêu tối thượng là trục lợi. Tức là sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để giành phần hơn, kể cả ăn cắp, ăn cướp, bằng luật lệ hoặc qua tình báo, tham nhũng, mua chuộc. Chủ trương phát triển nền tư bản nhà nước cho phép lãnh đạo xứ này sử dụng các doanh nghiệp nhà nước trong tinh thần chiến đấu để ăn cướp. Chúng ta có cả trăm trường hợp minh diễn chuyện này.
Về môi trường, Trung Quốc là một trung tâm gây ô nhiễm toàn cầu mà... bất chấp. Họ không tham gia vào nỗ lực chung của cả thế giới để bảo vệ môi trường sinh sống của nhân loại và bên trong cũng chẳng kiểm soát việc bảo vệ môi sinh vì coi đó là một trở ngại cho tăng trưởng. Tăng trưởng bằng mọi giá là một chủ trương, cái giá ấy, ai sẽ trả, bao giờ trả thì không đáng kể.
Cũng về môi trường, chuyện đáng nói hơn cả là sau khi tấn công Tây Tạng năm 1950 rồi hoàn toàn kiểm soát xứ này từ năm 1959, Trung Quốc đang làm chủ Cao nguyên Tây Tạng và phần lớn của rặng Hy Mã Lạp Sơn đầy băng tuyết. Đây là đỉnh cao nhất thế giới, và một đệ tam cực sau Nam-Bắc cực, trung tâm phát nguyên những con sông lớn nhất Á Châu. Đây cũng là một "tháp nước" của toàn cầu, nơi cung cấp nước ngọt qua mạng lưới sông ngòi nuôi sống hơn một tỷ người dân Á Châu.
Khi kiểm soát Hy Mã Lạp Sơn và Cao nguyên Tây Tạng, Trung Quốc làm chủ nguồn nước của hầu hết các nước Á Châu vây quanh. Và họ điều tiết nguồn nước đó cho mình mà bất kể đến quyền lợi hay sinh mệnh người dân xứ khác, dù là Pakistan, Kyrgyzstan, Ấn Độ, Bangladesh, hay Miến Điện, Thái Lan và ba nước Đông Dương Việt, Miên, Lào. Năm nước sau cùng này đều có thể sống hay chết vì sông Mekong và lưu vực của dòng sông là nơi sinh hoạt của 60 triệu dân.
Trong khi ấy, Cao nguyên Tây Tạng cũng là nơi hủy thải phế vật uranium của kỹ nghệ hạch tâm, theo tiêu chuẩn mất an toàn đặc biệt của Trung Quốc.
Kết hợp ngần ấy chuyện ngoại giao, kinh tế và môi sinh, Trung Quốc còn là vấn đề khi hợp tác, mua chuộc và khuynh đảo các chế độc độc tài và hung đồ của thế giới, miễn là đảm bảo được quyền lợi của mình. Mọi chế độ độc tài còn rơi rớt lại trên thế giới đều là thân chủ của Trung Quốc và được Bắc Kinh bao che, bảo vệ, từ Bắc Hàn đến Việt Nam, từ Sudan tới Iran, Syria...
Sau cùng, về an ninh và quân sự, Trung Quốc tự cho mình quyền bảo vệ luồng giao lưu buôn bán, lần đầu tiên trong lịch sử được mở ra thế giới bên ngoài. Nhưng bảo vệ theo màu sắc Trung Hoa thời cổ. Không chỉ chiếm đóng các lân bang để xây dựng vùng trái độn quân sự như đã từng làm từ thời xưa, Trung Quốc muốn mở rộng vùng trái độn ấy ra bên ngoài, và ra biển.
Từ 20 năm trước, lãnh đạo xứ này đã chuẩn bị việc kiểm soát vùng biển cận duyên hay xanh lục làm vùng trái độn quân sự. Ngày nay, với phương tiện kinh tế dồi dào hơn, Trung Quốc có tham vọng sớm thành cường quốc hải dương với khả năng kiểm soát vùng biển viễn duyên là biển xanh dương. Trong phạm vi đó, cái lưỡi bò chúng ta nghe nói đến chỉ là phần trái độn cận duyên, ở ngoài Đông hải. Trong một tương lai không xa, Trung Quốc sẽ đòi kiểm soát luồng giao lưu từ Bán đảo Á Rập qua Ấn Độ dương nối liền với miền Tây Thái bình dương.
Khi thế giới có một đại cường mới xuất hiện thì quan hệ giữa các nước có thể đảo lộn. Khi đại cường lại là một Trung Quốc có đầy mặc cảm và lối hành xử ngang ngược mà lãnh đạo và người dân lại coi là chính đáng, thế giới sẽ khó yên lành.
Sau phần bối cảnh, chúng ta bước qua phần vấn đề.
Vấn đề Trung Quốc của Thế giới...
Quốc gia nào cũng có thể có những tranh chấp về lãnh thổ với các lân bang.
Trung Quốc là quốc gia có tranh chấp với hầu hết mọi lân bang, cả chục nước, từ Nga qua Ấn Độ đến các nước Đông Nam Á lên tới Nhật Bản... Khi có tranh chấp, quốc gia nào cũng có thể yêu cầu quốc tế tham gia giải quyết hoặc tôn trọng phán quyết của quốc tế. Lãnh đạo Trung Quốc lại không chấp nhận việc thương thảo đa phương trên một diễn đàn quốc tế mà tìm giải pháp song phương với từng nước, theo kiểu cố hữu là vừa dọa vừa dụ vừa mua chuộc hoặc khuynh đảo. Đấy là một vấn đề của thế giới.
Chuyện cái lưỡi bò hoặc khu đặc quyền kinh tế hay Luật biển của Liên hiệp quốc chỉ là mặt nổi của các vấn đề ngoại giao hay pháp lý với Bắc Kinh. Nếu tiến lên khu vực tiếp cận Hy Mã Lạp Sơn và những vùng tranh chấp giữa Pakistan và Ấn Độ tại Kashmir, hoặc giữa Ấn Độ với Trung Quốc chung quanh xứ Nepal, Bhutan cho tới biên giới Miến Điện, người ta còn thấy ra nhiều mối nguy tiềm ẩn từ Trung Quốc, kể cả xung đột giữa hai nước có võ khí hạch tâm là Pakistan và Ấn Độ.
Với phương tiện quân sự lớn lao chưa từng thấy trong lịch sử xứ này, Trung Quốc có thể đổi trị sang loạn ở nhiều nước trên thế giới.
Dĩ nhiên, lãnh đạo Trung Quốc không muốn trực diện gây chiến với các lân bang, nhưng tiến hành chiến tranh theo kiểu khác. Đó là khuynh đảo để gây bất ổn và dùng chính mối nguy bất ổn đó để bắt bí hoặc mua chuộc các nước mà khỏi phải dụng binh. Khi cứ nói đến tương quan lực lượng quân sự giữa Trung Quốc với các nước, dường như người ta chỉ thấy một mặt nổi của vấn đề.
Mặt chìm rất khó nhìn ra và ngăn ngừa là khả năng gây loạn cho xứ khác, để chi phối quan hệ giữa các nước khác với nhau, theo lối có lợi cho Bắc Kinh.
Từ an ninh bước qua chính trị và kinh tế, Trung Quốc là vấn đề cho thế giới khi đưa ra một mô thức xử trí khác, xin gọi là "Đồng thuận Bắc Kinh".
Sau khi chi phối cả thế giới trong nhiều thế kỷ, các nước Tây phương, chủ yếu là Hoa Kỳ và Âu Châu, đã rút tỉa kinh nghiệm chính chiến, thay đổi và tiến tới một giải pháp hòa bình và ổn định hơn. Đó là phát triển kinh tế tự do với sự lãnh đạo chính trị dân chủ trong một xã hội cởi mở mà không ai có độc quyền chân lý. Các định chế quốc tế đều được xây dựng theo ba giá trị tinh thần đó, là tự do, dân chủ và cởi mở để hướng dẫn quy tắc hành xử giữa các nước với nhau.
Trung Quốc phát minh ra giải pháp khác: kinh tế thị trường với vai trò chủ đạo của khu vực nhà nước, dưới sự cai trị của một chế độ độc đảng, và chân lý duy nhất được hiện hữu là của đảng độc quyền. Đó là tóm lược về khái niệm "Đồng thuận Bắc Kinh", mà đa số dư luận chỉ nhìn vào mặt nổi là sức can thiệp chủ động của nhà nước trong kinh tế để đạt tốc độ tăng trưởng cao.
Khi áp dụng khái niệm này trong quan hệ quốc tế, với bộ máy tuyên truyền cùng các dự án đầu tư lẫn thủ thuật hối lộ và khuynh đảo, Trung Quốc đảo lộn luật chơi của thế giới. Phong trào phát huy dân chủ gặp chướng ngại, bị đẩy lui, các chế độ độc tài được bảo vệ, và quốc gia nào cũng muốn đi theo con đường tắt của Trung Quốc là bành trướng khu vực nhà nước vào kinh tế, thu hẹp quy luật thị trường, thoái lui về chế độ bao cấp và bảo hộ mậu dịch....
Trong hoàn cảnh suy trầm kinh tế toàn cầu từ bốn năm nay, giải pháp ngược ngạo của Bắc Kinh bỗng trở thành hấp dẫn cho nhiều người, nhất là các lãnh tụ độc tài, và trong khi Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng, mâu thuẫn giữa các nước với nhau càng dễ xảy ra. Nghĩa là Bắc Kinh càng có cơ hội trục lợi.
Vì vậy, các quốc gia dân chủ đều gặp vấn đề với Trung Quốc, không về kinh tế hay ngoại thương thì về ngoại giao và an ninh. Và càng ở gần xứ này thì càng vất vả. Trong khi vòng đai độc tài không thu hẹp lại mà còn mở rộng thêm nhờ sự hà hơi tiếp sức của Trung Quốc.
Trong cuộc đua giữa thiện và ác, trị và loạn, hòa bình và xung đột, dân chủ và độc tài, minh bạch và mờ án, Trung Quốc trở thành một trung tâm phát huy cái ác.
Nhưng với khẩu hiệu là không xen lấn vào nội bộ xứ khác. Và với thực tế là đối tác kinh tế của rất nhiều quốc gia.
Các nước Âu, Á, Phi, Mỹ gì đều có thể là bạn hàng của doanh nghiệp Trung Quốc, mà bên trong mỗi doanh nghiệp lại có các chi bộ đảng với nhiệm vụ tình báo, báo cáo, kiều vận và gian lận theo đúng chủ trương của đảng. Ngược lại, doanh nghiệp nào, công hay tư, của Trung Quốc cũng đều có quan hệ với hệ thống quốc doanh và vì vậy kế toán sổ sách gì cũng đều là "bí mật quốc gia" nên không được phép phổ biến.
Kết cuộc là từ an ninh, môi sinh đến ngoại giao, kinh tế hay đầu tư, Trung Quốc trở thành vấn đề của thiên hạ mà vì quyền lợi nhất thời, lẫn sự vận động tiền bạc của Bắc Kinh vào hệ thống truyền thông của thế giới, nhiều người không muốn nói ra. Hoặc còn cố tình gây ra ấn tượng sai lạc về Trung Quốc.
Thực tế thì cuộc đua giữa thiện và ác, giữa minh và ám, đang thể hiện ở một tầng rất cao là nhận thức. Trung Quốc tác động vào nhận thức của thiên hạ về chính mình – "một quốc gia mới phát triển sau nhiều thế kỷ là nạn nhân" – và về các nước dân chủ được coi là đối thủ, hay thủ phạm của nhiều tội ác trong lịch sử!
Đó là "thuật quỷ biển" trong kho tàng mưu lược của văn hoá chính trị Trung Hoa.
Chúng ta bước qua một đề mục gần hơn, ở phần ba.
Vấn đề Trung Quốc của Việt Nam
Nói về lịch sử mà ai cũng nhớ, sau khi chiếm đóng Tân Cương năm 1949, khống chế Tây Tạng năm 1950, và bị chặn tại bán đảo Triều Tiên năm 1953, Trung Quốc đã nghĩ tới Việt Nam như một vùng trái độn quân sự cần thiết. Trong thế thủ thì bảo vệ cõi Trung Nguyên và trong thế công thì bành trướng ảnh hưởng xuống vùng Đông Nam Á và ra tới biển nóng ở miền Nam.
May thay, lúc đó họ lại có đảng Cộng sản Việt Nam và giấc mơ tiến hành cách mạng vô sản trên cả nước của Hồ Chí Minh.
Đấy là một trong nhiều nguyên nhân của cuộc tương tàn, với sự tiếp sức của Liên Xô khi tiến hành Chiến tranh lạnh năm 1948 và chủ yếu của Trung Quốc ngay từ những ngày đầu của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa do Mao sáng lập năm 1949. Nối tiếp nhiệm vụ của Hồ Chí Minh từ khi là cán bộ của Đệ tam Quốc tế được gửi về hoạt động tại Đông Nam Á từ năm 1924, xa xưa, đảng Cộng sản Việt Nam tự nhận là mũi xung kích của khối Cộng sản xuống Đông Nam Á, mà việc gọi là giải phóng miền Nam chỉ là một tất yếu.
Nhưng ngoài lý do ý thức hệ dại dột, có một chuyện mà đôi khi chúng ta ít chú ý là về địa dư hình thể, Trung Quốc là một "hải đảo" bị cô lập.
Xứ này bị vây hãm từ cả bốn hướng. Giữa các sa mạc, thảo nguyên hoang vu cùng núi rừng hiểm trở tại ba hướng Nam, Tây và Bắc với biển Thái bình tại hướng Đông, Trung Quốc chỉ có một đường bành trướng trên đất liền. Đó là miền Bắc nước Việt Nam. Lần cuối mà họ thử nghiệm giải pháp đó là vào năm 1979 khi Hà Nội chủ quan tưởng rằng mình đã đánh cho Mỹ cút lại còn vừa ký Thỏa ước Hợp tác và An ninh với Liên Xô vào năm 1978!
Sau đó, Cộng sản Việt Nam có một giai đoạn được gọi là "độc lập" là 10 năm chiếm đóng Kampchia và cứng đầu với Bắc Kinh. Nhưng bị xuất huyết cũng vì sự chiếm đóng ấy, song song cùng việc phá sản vì xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đúng tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Khi bức tường Bá Linh sụp đổ sau vụ khủng hoảng và tàn sát Thiên an môn năm 1989, mọi sự đều đảo lộn.
Liên Xô bắt đầu tan rã, Trung Quốc e sợ nội loạn nên tập trung kiểm soát hệ thống chính trị bên trên cơ chế kinh tế thị trường. Và lãnh đạo Hà Nội như kẻ mồ côi bị mất quan thầy. Vì vậy, việc cứu đảng là một ưu tiên sinh tử từ năm 1991.
Hà Nội trở lại thần phục Trung Quốc, chấm dứt 10 năm độc lập dưới bóng rợp Liên Xô và thực tế tiến hành "đổi mới", nhưng theo mẫu mực Bắc Kinh. Trung Quốc trở lại xu hướng bành trướng cố hữu mà khỏi tốn quân tốn tiền và vẫn đạt kết quả như ý: miền Bắc Việt Nam trở thành vùng trái độn quân sự.
Khi Bắc Kinh mở rộng vùng trái độn ấy ra biển, Đông hải của Việt Nam trở thành ao nhà của Trung Quốc. Biển Việt Nam chỉ là biển Hoa Nam. Lãnh đạo Hà Nội ý thức được việc đó nhưng chấp nhận để bảo vệ quyền lực đảng, nhân đó bảo vệ được quyền lợi của các đảng viên cao cấp.
Nếu có nói rằng họ bán nước để cứu đảng thì không sai.
Hậu quả là mọi vấn đề Trung Quốc của thế giới như đã trình bày ở trên đều đã xuất hiện tại Việt Nam, từ an ninh, ngoại giao qua môi sinh kinh tế, hay ngoại thương.
Ở mặt nổi mà ai cũng thấy dù không được nói ra là nạn lạm thác lâm sản, buôn lậu qua biên giới và hủy hoại môi trường, là tình trạng cạn kiệt của đồng bằng Cửu Long và hiện tượng nước biển ngập mặn cả đồng bằng. Trong khi ấy khu vực chiến lược như cột xương sống của quốc gia là Cao nguyên Trung phần đã rơi vào quỹ đạo Trung Quốc với các dự án bauxite quái quỷ....
Nhưng biểu hiện nghiêm trọng hơn vậy là lập trường của Hà Nội lại rất thân Trung Quốc trong các hồ sơ nóng của thế giới. Hoặc việc Hà Nội tránh nêu vấn đề về Hoàng Sa hay Trường Sa trên diễn đàn quốc tế theo kiểu đa phương mà tìm giải pháp song phương theo quan hệ chủ tớ. Vì vậy mới giấu biến không cho dân chúng được biết về những gì đã thỏa thuận với Bắc Kinh. Và cũng vì vậy, Hà Nội kiểm soát dư luận, cấm đoán việc người dân công khai phản đối sự xâm lược ngang ngược của Trung Quốc và nói nước đôi về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa.
Từ mấy năm qua, người Việt chúng ta đã nói rất nhiều đến vấn đề Trung Quốc của Việt Nam, bài tiểu luận này sẽ không nói thêm. Chúng tôi xin giành thời giờ cho phần cuối, một cách tóm lược với vài câu hỏi không vui.
Vấn đề Trung Quốc của Chúng ta
Đất nước và dân tộc Việt Nam đang gặp vấn đề với Trung Quốc, có thể là nguy ngập hơn vì vị trí lân bang, nhưng cũng không khác nhiều quốc gia Á Châu ở chung quanh. Do đó, vấn đề Trung Quốc của Việt Nam nằm trong khuôn khổ các vấn đề chung của thế giới với Trung Quốc.
Khi nhìn như vậy, Việt Nam thật sự không đơn độc và phải một mình đương cự với Trung Quốc.
Nhưng, khác với trường hợp của các quốc gia kia, vấn đề Trung Quốc của Việt Nam nằm trong tầng lớp lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam. Vấn đề Trung Quốc của Việt Nam nằm tại Hà Nội, là Hà Nội. Đấy là cái khó của dân tộc, một dân tộc dày dạn kinh nghiệm đối phó với Trung Quốc và có thừa ý chí đấu tranh giành độc lập.
Vấn đề Trung Quốc của Việt Nam nằm tại Hà Nội vì đảng Cộng sản đã giải giới người dân, tước đoạt võ khí truyền thống và mãnh liệt nhất của dân tộc là ý chí chống lại tình trạng Hán hóa.
Hà Nội tiến hành chính sách ngu dân qua kiểm soát báo chí và tư tưởng, đưa mọi người vào phản ứng lý tài, phát huy bản năng kinh tế của loại sinh vật hạ đẳng là vặt mũi bỏ mồm và triệt hạ mọi tiềm lực quật khởi. Lãnh đạo Hà Nội hành xử như những quan Tiết độ sứ của Thiên triều Bắc Kinh trong thời Bắc thuộc, thậm chí như những quan Thái thú trời trực trị. Họ đang làm xã hội băng hoại và đẩy người dân vào kiếp nô lệ cho một thiểu số đại gia phe phẩy ở trên.
Muốn giải quyết vấn đề Trung Quốc, người Việt Nam phải giải quyết cái nhân khiến sức dân không được huy động vào nhu cầu bảo vệ nền độc lập, đó là đảng Cộng sản. Ưu tiên của Việt Nam vì vậy là phải tháo gỡ cách ách độ hộ của Trung Quốc do Bộ Chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam đã tròng lên cổ người dân. Tức là giải quyết đảng Cộng sản Việt Nam.
Với các quốc gia khác, Việt Nam phải là thành viên của một nỗ lực đa phương nhằm giải quyết vấn đề Trung Quốc của thế giới. Khi cùng chung một mục tiêu, người ta có thể nói đến chuyện hợp tác, một cách bình đẳng vì lợi ích chung. Vì vậy, vấn đề Trung Quốc của thế giới phải do thế giới giải quyết và Việt Nam sẵn sàng tham gia như một thành viên. Nhưng không là mũi xung kích hay tiền đồn chống Trung Quốc của thế giới.
Chuyện ấy dẫn chúng ta về Hoa Kỳ, dù sao cũng là quốc gia đang buôn bán nhiều nhất với Trung Quốc.
Nhiều người đã quên các bài học bi đát của quá khứ với Hoa Kỳ mà đặt sai vấn đề là nên đứng bên cạnh Hoa Kỳ hay Trung Quốc. Hoặc trong quan hệ song phương Mỹ-Hoa, Việt Nam nên ngả về đâu? Hay là nên khôn ngoan giữ vị trí trung lập?
Thực tế nó phức tạp hơn những gì xảy ra trong chiến tranh lạnh giữa hai khối cộng sản và tự do.
Thực tế là Trung Quốc có vấn đề với Hoa Kỳ, có vấn đề với Nhật Bản, có vấn đề với Ấn Độ, với các nước Đông Nam Á, thậm chí với cả Úc Đại Lợi. Trong một mạng lưới quan hệ song phương chằng chịt đó, như Hoa-Mỹ, Hoa-Nhật, Hoa-Ấn, v.v... Việt Nam đứng ở đâu? Tất nhiên là đứng với người dân, ở vị trí độc lập, chứ không đơn giản là trung lập. Làm sao trung lập trong một quan hệ đa phương?
Việt Nam sẵn sàng hợp tác với thế giới để giải quyết vấn đề Trung Quốc trong những nỗ lực đa phương của quốc tế. Nhưng trước hết phải giải quyết vấn đề Trung Quốc của Việt Nam, hiện nằm tại Hà Nội. Khi nào người dân Việt ở trong và ngoài nước làm cho thế giới hiểu ra sự thể đó – rằng mối nguy của Trung Quốc chính là Hà Nội và Hà Nội mới là vấn đề chứ không là giải pháp – chúng ta đã tiến được một bước khá xa trên chặng đường bảo vệ nền độc lập quốc gia.
Vì vậy, đấu tranh cho dân chủ và cho độc lập là hai mặt không thể tách rời của một sự thể sinh tử cho quốc gia.
Cho đến nay, hình như ta mới chỉ chú ý đến một mặt, là trình trạng thiếu dân chủ hoặc nạn chà đạp nhân quyền tại Việt Nam. Sự thật phũ phàng là các quốc gia trên thế giới, kể cả Hoa Kỳ, đều có thể đang làm ăn với nhiều chế độ độc tài. Với chính quyền các nước này, nhiều khi lời kêu gọi dân chủ của chúng ta lại là sự phiền nhiễu, là chướng ngại cho hợp tác kinh tế và phát triển kinh doanh.
Nếu ta nêu lên hàng loạt vấn đề về môi sinh, nạn hủy hoại nguồn nước, tình trạng cạnh tranh bất chính hoặc nguy cơ lũng đoạn xã hội xuất phát từ Trung Quốc, ngoài sự bành trướng ngang ngược đã trở thành hiển nhiên, thì vì quyền lợi của họ hơn là dân chủ của Việt Nam, các nước có thể quan tâm nhiều hơn đến lập trường của chúng ta.
Muốn như vậy, ngay từ ý thức thì chúng ta nên là giải pháp hơn là một vấn đề cho các nước. Câu hỏi nêu lên ở đây là mình đã tự chuẩn bị như vậy hay chưa?
Sau cùng, Trung Quốc thật ra không mạnh như nhiều người thường nghĩ và còn gặp nguy cơ khủng hoảng, thậm chí tan rã, vì chiến lược phát triển của họ không bền vững, cân đối và có đầy bất công. Khi nước Tầu có loạn như đã từng thấy nhiều lần trong lịch sử, Hà Nội tất sẽ không thể yên.
Khi đó, Việt Nam sẽ ra sao? Khi đó, chúng ta đứng ở đâu? Mà chúng ta là ai?Nguyễn Xuân Nghĩa
Giới thiệu về Kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa:
Trước 1975
- Chủ tịch Tổng hội sinh viên Paris trong thời gian Hòa đàm Paris
- Chuyên viên kinh tế Quỹ Phát triển (tương đương cấp Thứ trưởng trước năm 1975
Sau 1975
- Viết báo và bình luận kinh tế cho hầu hết các Đài quốc tế VOA, RFA, RFI...)
Đáp lời mời của Ban Tổ Chức, chúng tôi xin trước hết có vài cảm nghĩ chủ quan của mình.
Biến cố Tháng Tư 1975 làm thay đổi vận mệnh quốc gia, trong đó, bản thân chúng ta chỉ là mảnh vụn rất nhỏ. Nhưng cũng từ đó, chúng ta đều phải suy nghĩ về đất nước và không chỉ tưởng niệm hoặc luyến tiếc mỗi năm vào dịp Tháng Tư. Chúng ta suy nghĩ về quá khứ với câu hỏi "Tại sao?" - và về tương lai với câu hỏi "Sẽ Ra Sao?"
Không tham gia bất cứ một tổ chức đấu tranh chính trị nào, bản thân chúng tôi kính trọng những người đấu tranh dù có khi không hoàn toàn đồng ý về mọi chuyện. Và càng kính trọng những người đấu tranh vì lý tưởng hơn là vì mơ tưởng sẽ có một vai trò chính trị nào đó trong tương lai.
Cũng vì vậy mà chúng tôi có mặt trên diễn đàn này, như một người nghiên cứu về kinh tế và quan tâm đến Trung Quốc từ nhiều giác độ khác nhau.
Bài tiểu luận rất tóm gọn của chúng tôi sẽ có bốn phần và rất ít con số khô khan, chỉ với ước mong là gợi ý suy tư về chuyện quốc gia và quốc tế.
Trước hết là về bối cảnh chung: "Vì sao Trung Quốc là vấn đề?" Kế tiếp mới là "Vấn đề Trung Quốc của thế giới, và "Vấn đề Trung Quốc của Việt Nam". Sau cùng là phần kết luận, "Vấn đề Trung Quốc của chúng ta" - với vài câu hỏi... nhức đầu.
Chúng tôi xin đầu tiên nói về bối cảnh.
Vì Sao Trung Quốc là Vấn Đề?
Quốc gia nào cũng có những giai đoạn thăng trầm trong lịch sử của từng dân tộc. Trong thế giới gọi là "toàn cầu hóa" ngày nay, hầu hết các quốc gia đều cũng có quan hệ với nhau, về ngoại giao, kinh tế hay an ninh.
Trung Quốc là trường hợp cá biệt vì nhiều di sản của quá khứ.
Sau nhiều thế kỷ là đại cường Á châu và thế giới, Trung Quốc đã trải gần hai thế kỷ lụn bại vì nội loạn từ bên trong và ngoại xâm từ bên ngoài. Những biến cố kéo dài như vậy có ảnh hưởng đến tâm lý của dân tộc, chính yếu là Hán tộc. Vừa tự tôn vừa tự ti có thể là một phản ứng tiêu biểu. Khinh thường mà cũng nghi ngờ và e sợ thiên hạ là cách nói dễ hiểu hơn.
Sau nửa thế kỷ nội loạn triền miên, Trung Quốc chỉ giải quyết xong vấn đề ngoại xâm từ hậu bán thế kỷ 20, vào năm 1949, rồi mất 30 năm điên khùng với bài toán dựng nước. Điên khùng vì sự hoang tưởng của Mao. Cho đến năm 1979, xứ này mới tìm được lối ra nhờ Đặng Tiểu Bình.
Từ đó, trong 30 năm liền, xứ này đã tạm yên với chiến lược tăng trưởng khi mở cửa giao lưu kinh tế với thế giới. Tăng trưởng bằng mọi giá là một cách nói dễ hiểu.
Nhờ dân số đông nhất địa cầu và lại là nước đi sau có thể học được kiến thức và kinh nghiệm các nước đi trước, xứ này sớm thành cường quốc kinh tế. Một quốc gia có trọng lượng kinh tế thứ nhì thế giới. Nhưng người dân thì vẫn thuộc loại "Ba Bê", nghèo như các nước Belarus, Belize hay Bolivia, nếu tính bằng lợi tức đầu người.
Đấy là một mâu thuẫn tâm lý đáng chú ý.
Vì yếu tố lịch sử - và đôi khi văn hóa – Trung Quốc cho rằng thế giới có tội về những tai họa của họ từ thời suy sụp của nhà Mãn Thanh. Và rằng từ nay sự thể sẽ khác. Vì vậy, trong quan hệ với các quốc gia, lãnh đạo xứ này không hề có một chút mặc cảm khi làm những điều mà thế giới không còn chấp nhận nữa. Lãnh đạo Trung Quốc có đầy đủ kiến thức của thế kỷ 21, nhưng hành xử với thủ đoạn trung cổ, theo những nấc thang giá trị đã lỗi thời, mà họ vẫn coi là chính đáng.
Vì vậy, chúng ta mới có vấn đề Trung Quốc.
Về ngoại giao, Trung Quốc là thành viên thường trực và có quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, và cũng tham dự vào hầu hết mọi tổ chức chuyên môn quốc tế. Có quan hệ với gần 200 quốc gia lớn nhỏ trên thế giới, Trung Quốc không hành xử như cường quốc có trách nhiệm về sự yên bình của địa cầu. Khi cần trục lợi thì ngoại giao chỉ là một phương tiện, và đạo lý quốc tế là một chướng ngại mà họ tự cho là có quyền phủ nhận.
Về kinh tế, xứ này cũng có chủ trương lý tài và thực dụng trong mục tiêu tối thượng là trục lợi. Tức là sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để giành phần hơn, kể cả ăn cắp, ăn cướp, bằng luật lệ hoặc qua tình báo, tham nhũng, mua chuộc. Chủ trương phát triển nền tư bản nhà nước cho phép lãnh đạo xứ này sử dụng các doanh nghiệp nhà nước trong tinh thần chiến đấu để ăn cướp. Chúng ta có cả trăm trường hợp minh diễn chuyện này.
Về môi trường, Trung Quốc là một trung tâm gây ô nhiễm toàn cầu mà... bất chấp. Họ không tham gia vào nỗ lực chung của cả thế giới để bảo vệ môi trường sinh sống của nhân loại và bên trong cũng chẳng kiểm soát việc bảo vệ môi sinh vì coi đó là một trở ngại cho tăng trưởng. Tăng trưởng bằng mọi giá là một chủ trương, cái giá ấy, ai sẽ trả, bao giờ trả thì không đáng kể.
Cũng về môi trường, chuyện đáng nói hơn cả là sau khi tấn công Tây Tạng năm 1950 rồi hoàn toàn kiểm soát xứ này từ năm 1959, Trung Quốc đang làm chủ Cao nguyên Tây Tạng và phần lớn của rặng Hy Mã Lạp Sơn đầy băng tuyết. Đây là đỉnh cao nhất thế giới, và một đệ tam cực sau Nam-Bắc cực, trung tâm phát nguyên những con sông lớn nhất Á Châu. Đây cũng là một "tháp nước" của toàn cầu, nơi cung cấp nước ngọt qua mạng lưới sông ngòi nuôi sống hơn một tỷ người dân Á Châu.
Khi kiểm soát Hy Mã Lạp Sơn và Cao nguyên Tây Tạng, Trung Quốc làm chủ nguồn nước của hầu hết các nước Á Châu vây quanh. Và họ điều tiết nguồn nước đó cho mình mà bất kể đến quyền lợi hay sinh mệnh người dân xứ khác, dù là Pakistan, Kyrgyzstan, Ấn Độ, Bangladesh, hay Miến Điện, Thái Lan và ba nước Đông Dương Việt, Miên, Lào. Năm nước sau cùng này đều có thể sống hay chết vì sông Mekong và lưu vực của dòng sông là nơi sinh hoạt của 60 triệu dân.
Trong khi ấy, Cao nguyên Tây Tạng cũng là nơi hủy thải phế vật uranium của kỹ nghệ hạch tâm, theo tiêu chuẩn mất an toàn đặc biệt của Trung Quốc.
Kết hợp ngần ấy chuyện ngoại giao, kinh tế và môi sinh, Trung Quốc còn là vấn đề khi hợp tác, mua chuộc và khuynh đảo các chế độc độc tài và hung đồ của thế giới, miễn là đảm bảo được quyền lợi của mình. Mọi chế độ độc tài còn rơi rớt lại trên thế giới đều là thân chủ của Trung Quốc và được Bắc Kinh bao che, bảo vệ, từ Bắc Hàn đến Việt Nam, từ Sudan tới Iran, Syria...
Sau cùng, về an ninh và quân sự, Trung Quốc tự cho mình quyền bảo vệ luồng giao lưu buôn bán, lần đầu tiên trong lịch sử được mở ra thế giới bên ngoài. Nhưng bảo vệ theo màu sắc Trung Hoa thời cổ. Không chỉ chiếm đóng các lân bang để xây dựng vùng trái độn quân sự như đã từng làm từ thời xưa, Trung Quốc muốn mở rộng vùng trái độn ấy ra bên ngoài, và ra biển.
Từ 20 năm trước, lãnh đạo xứ này đã chuẩn bị việc kiểm soát vùng biển cận duyên hay xanh lục làm vùng trái độn quân sự. Ngày nay, với phương tiện kinh tế dồi dào hơn, Trung Quốc có tham vọng sớm thành cường quốc hải dương với khả năng kiểm soát vùng biển viễn duyên là biển xanh dương. Trong phạm vi đó, cái lưỡi bò chúng ta nghe nói đến chỉ là phần trái độn cận duyên, ở ngoài Đông hải. Trong một tương lai không xa, Trung Quốc sẽ đòi kiểm soát luồng giao lưu từ Bán đảo Á Rập qua Ấn Độ dương nối liền với miền Tây Thái bình dương.
Khi thế giới có một đại cường mới xuất hiện thì quan hệ giữa các nước có thể đảo lộn. Khi đại cường lại là một Trung Quốc có đầy mặc cảm và lối hành xử ngang ngược mà lãnh đạo và người dân lại coi là chính đáng, thế giới sẽ khó yên lành.
Sau phần bối cảnh, chúng ta bước qua phần vấn đề.
Vấn đề Trung Quốc của Thế giới...
Quốc gia nào cũng có thể có những tranh chấp về lãnh thổ với các lân bang.
Trung Quốc là quốc gia có tranh chấp với hầu hết mọi lân bang, cả chục nước, từ Nga qua Ấn Độ đến các nước Đông Nam Á lên tới Nhật Bản... Khi có tranh chấp, quốc gia nào cũng có thể yêu cầu quốc tế tham gia giải quyết hoặc tôn trọng phán quyết của quốc tế. Lãnh đạo Trung Quốc lại không chấp nhận việc thương thảo đa phương trên một diễn đàn quốc tế mà tìm giải pháp song phương với từng nước, theo kiểu cố hữu là vừa dọa vừa dụ vừa mua chuộc hoặc khuynh đảo. Đấy là một vấn đề của thế giới.
Chuyện cái lưỡi bò hoặc khu đặc quyền kinh tế hay Luật biển của Liên hiệp quốc chỉ là mặt nổi của các vấn đề ngoại giao hay pháp lý với Bắc Kinh. Nếu tiến lên khu vực tiếp cận Hy Mã Lạp Sơn và những vùng tranh chấp giữa Pakistan và Ấn Độ tại Kashmir, hoặc giữa Ấn Độ với Trung Quốc chung quanh xứ Nepal, Bhutan cho tới biên giới Miến Điện, người ta còn thấy ra nhiều mối nguy tiềm ẩn từ Trung Quốc, kể cả xung đột giữa hai nước có võ khí hạch tâm là Pakistan và Ấn Độ.
Với phương tiện quân sự lớn lao chưa từng thấy trong lịch sử xứ này, Trung Quốc có thể đổi trị sang loạn ở nhiều nước trên thế giới.
Dĩ nhiên, lãnh đạo Trung Quốc không muốn trực diện gây chiến với các lân bang, nhưng tiến hành chiến tranh theo kiểu khác. Đó là khuynh đảo để gây bất ổn và dùng chính mối nguy bất ổn đó để bắt bí hoặc mua chuộc các nước mà khỏi phải dụng binh. Khi cứ nói đến tương quan lực lượng quân sự giữa Trung Quốc với các nước, dường như người ta chỉ thấy một mặt nổi của vấn đề.
Mặt chìm rất khó nhìn ra và ngăn ngừa là khả năng gây loạn cho xứ khác, để chi phối quan hệ giữa các nước khác với nhau, theo lối có lợi cho Bắc Kinh.
Từ an ninh bước qua chính trị và kinh tế, Trung Quốc là vấn đề cho thế giới khi đưa ra một mô thức xử trí khác, xin gọi là "Đồng thuận Bắc Kinh".
Sau khi chi phối cả thế giới trong nhiều thế kỷ, các nước Tây phương, chủ yếu là Hoa Kỳ và Âu Châu, đã rút tỉa kinh nghiệm chính chiến, thay đổi và tiến tới một giải pháp hòa bình và ổn định hơn. Đó là phát triển kinh tế tự do với sự lãnh đạo chính trị dân chủ trong một xã hội cởi mở mà không ai có độc quyền chân lý. Các định chế quốc tế đều được xây dựng theo ba giá trị tinh thần đó, là tự do, dân chủ và cởi mở để hướng dẫn quy tắc hành xử giữa các nước với nhau.
Trung Quốc phát minh ra giải pháp khác: kinh tế thị trường với vai trò chủ đạo của khu vực nhà nước, dưới sự cai trị của một chế độ độc đảng, và chân lý duy nhất được hiện hữu là của đảng độc quyền. Đó là tóm lược về khái niệm "Đồng thuận Bắc Kinh", mà đa số dư luận chỉ nhìn vào mặt nổi là sức can thiệp chủ động của nhà nước trong kinh tế để đạt tốc độ tăng trưởng cao.
Khi áp dụng khái niệm này trong quan hệ quốc tế, với bộ máy tuyên truyền cùng các dự án đầu tư lẫn thủ thuật hối lộ và khuynh đảo, Trung Quốc đảo lộn luật chơi của thế giới. Phong trào phát huy dân chủ gặp chướng ngại, bị đẩy lui, các chế độ độc tài được bảo vệ, và quốc gia nào cũng muốn đi theo con đường tắt của Trung Quốc là bành trướng khu vực nhà nước vào kinh tế, thu hẹp quy luật thị trường, thoái lui về chế độ bao cấp và bảo hộ mậu dịch....
Trong hoàn cảnh suy trầm kinh tế toàn cầu từ bốn năm nay, giải pháp ngược ngạo của Bắc Kinh bỗng trở thành hấp dẫn cho nhiều người, nhất là các lãnh tụ độc tài, và trong khi Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng, mâu thuẫn giữa các nước với nhau càng dễ xảy ra. Nghĩa là Bắc Kinh càng có cơ hội trục lợi.
Vì vậy, các quốc gia dân chủ đều gặp vấn đề với Trung Quốc, không về kinh tế hay ngoại thương thì về ngoại giao và an ninh. Và càng ở gần xứ này thì càng vất vả. Trong khi vòng đai độc tài không thu hẹp lại mà còn mở rộng thêm nhờ sự hà hơi tiếp sức của Trung Quốc.
Trong cuộc đua giữa thiện và ác, trị và loạn, hòa bình và xung đột, dân chủ và độc tài, minh bạch và mờ án, Trung Quốc trở thành một trung tâm phát huy cái ác.
Nhưng với khẩu hiệu là không xen lấn vào nội bộ xứ khác. Và với thực tế là đối tác kinh tế của rất nhiều quốc gia.
Các nước Âu, Á, Phi, Mỹ gì đều có thể là bạn hàng của doanh nghiệp Trung Quốc, mà bên trong mỗi doanh nghiệp lại có các chi bộ đảng với nhiệm vụ tình báo, báo cáo, kiều vận và gian lận theo đúng chủ trương của đảng. Ngược lại, doanh nghiệp nào, công hay tư, của Trung Quốc cũng đều có quan hệ với hệ thống quốc doanh và vì vậy kế toán sổ sách gì cũng đều là "bí mật quốc gia" nên không được phép phổ biến.
Kết cuộc là từ an ninh, môi sinh đến ngoại giao, kinh tế hay đầu tư, Trung Quốc trở thành vấn đề của thiên hạ mà vì quyền lợi nhất thời, lẫn sự vận động tiền bạc của Bắc Kinh vào hệ thống truyền thông của thế giới, nhiều người không muốn nói ra. Hoặc còn cố tình gây ra ấn tượng sai lạc về Trung Quốc.
Thực tế thì cuộc đua giữa thiện và ác, giữa minh và ám, đang thể hiện ở một tầng rất cao là nhận thức. Trung Quốc tác động vào nhận thức của thiên hạ về chính mình – "một quốc gia mới phát triển sau nhiều thế kỷ là nạn nhân" – và về các nước dân chủ được coi là đối thủ, hay thủ phạm của nhiều tội ác trong lịch sử!
Đó là "thuật quỷ biển" trong kho tàng mưu lược của văn hoá chính trị Trung Hoa.
Chúng ta bước qua một đề mục gần hơn, ở phần ba.
Vấn đề Trung Quốc của Việt Nam
Nói về lịch sử mà ai cũng nhớ, sau khi chiếm đóng Tân Cương năm 1949, khống chế Tây Tạng năm 1950, và bị chặn tại bán đảo Triều Tiên năm 1953, Trung Quốc đã nghĩ tới Việt Nam như một vùng trái độn quân sự cần thiết. Trong thế thủ thì bảo vệ cõi Trung Nguyên và trong thế công thì bành trướng ảnh hưởng xuống vùng Đông Nam Á và ra tới biển nóng ở miền Nam.
May thay, lúc đó họ lại có đảng Cộng sản Việt Nam và giấc mơ tiến hành cách mạng vô sản trên cả nước của Hồ Chí Minh.
Đấy là một trong nhiều nguyên nhân của cuộc tương tàn, với sự tiếp sức của Liên Xô khi tiến hành Chiến tranh lạnh năm 1948 và chủ yếu của Trung Quốc ngay từ những ngày đầu của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa do Mao sáng lập năm 1949. Nối tiếp nhiệm vụ của Hồ Chí Minh từ khi là cán bộ của Đệ tam Quốc tế được gửi về hoạt động tại Đông Nam Á từ năm 1924, xa xưa, đảng Cộng sản Việt Nam tự nhận là mũi xung kích của khối Cộng sản xuống Đông Nam Á, mà việc gọi là giải phóng miền Nam chỉ là một tất yếu.
Nhưng ngoài lý do ý thức hệ dại dột, có một chuyện mà đôi khi chúng ta ít chú ý là về địa dư hình thể, Trung Quốc là một "hải đảo" bị cô lập.
Xứ này bị vây hãm từ cả bốn hướng. Giữa các sa mạc, thảo nguyên hoang vu cùng núi rừng hiểm trở tại ba hướng Nam, Tây và Bắc với biển Thái bình tại hướng Đông, Trung Quốc chỉ có một đường bành trướng trên đất liền. Đó là miền Bắc nước Việt Nam. Lần cuối mà họ thử nghiệm giải pháp đó là vào năm 1979 khi Hà Nội chủ quan tưởng rằng mình đã đánh cho Mỹ cút lại còn vừa ký Thỏa ước Hợp tác và An ninh với Liên Xô vào năm 1978!
Sau đó, Cộng sản Việt Nam có một giai đoạn được gọi là "độc lập" là 10 năm chiếm đóng Kampchia và cứng đầu với Bắc Kinh. Nhưng bị xuất huyết cũng vì sự chiếm đóng ấy, song song cùng việc phá sản vì xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đúng tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Khi bức tường Bá Linh sụp đổ sau vụ khủng hoảng và tàn sát Thiên an môn năm 1989, mọi sự đều đảo lộn.
Liên Xô bắt đầu tan rã, Trung Quốc e sợ nội loạn nên tập trung kiểm soát hệ thống chính trị bên trên cơ chế kinh tế thị trường. Và lãnh đạo Hà Nội như kẻ mồ côi bị mất quan thầy. Vì vậy, việc cứu đảng là một ưu tiên sinh tử từ năm 1991.
Hà Nội trở lại thần phục Trung Quốc, chấm dứt 10 năm độc lập dưới bóng rợp Liên Xô và thực tế tiến hành "đổi mới", nhưng theo mẫu mực Bắc Kinh. Trung Quốc trở lại xu hướng bành trướng cố hữu mà khỏi tốn quân tốn tiền và vẫn đạt kết quả như ý: miền Bắc Việt Nam trở thành vùng trái độn quân sự.
Khi Bắc Kinh mở rộng vùng trái độn ấy ra biển, Đông hải của Việt Nam trở thành ao nhà của Trung Quốc. Biển Việt Nam chỉ là biển Hoa Nam. Lãnh đạo Hà Nội ý thức được việc đó nhưng chấp nhận để bảo vệ quyền lực đảng, nhân đó bảo vệ được quyền lợi của các đảng viên cao cấp.
Nếu có nói rằng họ bán nước để cứu đảng thì không sai.
Hậu quả là mọi vấn đề Trung Quốc của thế giới như đã trình bày ở trên đều đã xuất hiện tại Việt Nam, từ an ninh, ngoại giao qua môi sinh kinh tế, hay ngoại thương.
Ở mặt nổi mà ai cũng thấy dù không được nói ra là nạn lạm thác lâm sản, buôn lậu qua biên giới và hủy hoại môi trường, là tình trạng cạn kiệt của đồng bằng Cửu Long và hiện tượng nước biển ngập mặn cả đồng bằng. Trong khi ấy khu vực chiến lược như cột xương sống của quốc gia là Cao nguyên Trung phần đã rơi vào quỹ đạo Trung Quốc với các dự án bauxite quái quỷ....
Nhưng biểu hiện nghiêm trọng hơn vậy là lập trường của Hà Nội lại rất thân Trung Quốc trong các hồ sơ nóng của thế giới. Hoặc việc Hà Nội tránh nêu vấn đề về Hoàng Sa hay Trường Sa trên diễn đàn quốc tế theo kiểu đa phương mà tìm giải pháp song phương theo quan hệ chủ tớ. Vì vậy mới giấu biến không cho dân chúng được biết về những gì đã thỏa thuận với Bắc Kinh. Và cũng vì vậy, Hà Nội kiểm soát dư luận, cấm đoán việc người dân công khai phản đối sự xâm lược ngang ngược của Trung Quốc và nói nước đôi về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa.
Từ mấy năm qua, người Việt chúng ta đã nói rất nhiều đến vấn đề Trung Quốc của Việt Nam, bài tiểu luận này sẽ không nói thêm. Chúng tôi xin giành thời giờ cho phần cuối, một cách tóm lược với vài câu hỏi không vui.
Vấn đề Trung Quốc của Chúng ta
Đất nước và dân tộc Việt Nam đang gặp vấn đề với Trung Quốc, có thể là nguy ngập hơn vì vị trí lân bang, nhưng cũng không khác nhiều quốc gia Á Châu ở chung quanh. Do đó, vấn đề Trung Quốc của Việt Nam nằm trong khuôn khổ các vấn đề chung của thế giới với Trung Quốc.
Khi nhìn như vậy, Việt Nam thật sự không đơn độc và phải một mình đương cự với Trung Quốc.
Nhưng, khác với trường hợp của các quốc gia kia, vấn đề Trung Quốc của Việt Nam nằm trong tầng lớp lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam. Vấn đề Trung Quốc của Việt Nam nằm tại Hà Nội, là Hà Nội. Đấy là cái khó của dân tộc, một dân tộc dày dạn kinh nghiệm đối phó với Trung Quốc và có thừa ý chí đấu tranh giành độc lập.
Vấn đề Trung Quốc của Việt Nam nằm tại Hà Nội vì đảng Cộng sản đã giải giới người dân, tước đoạt võ khí truyền thống và mãnh liệt nhất của dân tộc là ý chí chống lại tình trạng Hán hóa.
Hà Nội tiến hành chính sách ngu dân qua kiểm soát báo chí và tư tưởng, đưa mọi người vào phản ứng lý tài, phát huy bản năng kinh tế của loại sinh vật hạ đẳng là vặt mũi bỏ mồm và triệt hạ mọi tiềm lực quật khởi. Lãnh đạo Hà Nội hành xử như những quan Tiết độ sứ của Thiên triều Bắc Kinh trong thời Bắc thuộc, thậm chí như những quan Thái thú trời trực trị. Họ đang làm xã hội băng hoại và đẩy người dân vào kiếp nô lệ cho một thiểu số đại gia phe phẩy ở trên.
Muốn giải quyết vấn đề Trung Quốc, người Việt Nam phải giải quyết cái nhân khiến sức dân không được huy động vào nhu cầu bảo vệ nền độc lập, đó là đảng Cộng sản. Ưu tiên của Việt Nam vì vậy là phải tháo gỡ cách ách độ hộ của Trung Quốc do Bộ Chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam đã tròng lên cổ người dân. Tức là giải quyết đảng Cộng sản Việt Nam.
Với các quốc gia khác, Việt Nam phải là thành viên của một nỗ lực đa phương nhằm giải quyết vấn đề Trung Quốc của thế giới. Khi cùng chung một mục tiêu, người ta có thể nói đến chuyện hợp tác, một cách bình đẳng vì lợi ích chung. Vì vậy, vấn đề Trung Quốc của thế giới phải do thế giới giải quyết và Việt Nam sẵn sàng tham gia như một thành viên. Nhưng không là mũi xung kích hay tiền đồn chống Trung Quốc của thế giới.
Chuyện ấy dẫn chúng ta về Hoa Kỳ, dù sao cũng là quốc gia đang buôn bán nhiều nhất với Trung Quốc.
Nhiều người đã quên các bài học bi đát của quá khứ với Hoa Kỳ mà đặt sai vấn đề là nên đứng bên cạnh Hoa Kỳ hay Trung Quốc. Hoặc trong quan hệ song phương Mỹ-Hoa, Việt Nam nên ngả về đâu? Hay là nên khôn ngoan giữ vị trí trung lập?
Thực tế nó phức tạp hơn những gì xảy ra trong chiến tranh lạnh giữa hai khối cộng sản và tự do.
Thực tế là Trung Quốc có vấn đề với Hoa Kỳ, có vấn đề với Nhật Bản, có vấn đề với Ấn Độ, với các nước Đông Nam Á, thậm chí với cả Úc Đại Lợi. Trong một mạng lưới quan hệ song phương chằng chịt đó, như Hoa-Mỹ, Hoa-Nhật, Hoa-Ấn, v.v... Việt Nam đứng ở đâu? Tất nhiên là đứng với người dân, ở vị trí độc lập, chứ không đơn giản là trung lập. Làm sao trung lập trong một quan hệ đa phương?
Việt Nam sẵn sàng hợp tác với thế giới để giải quyết vấn đề Trung Quốc trong những nỗ lực đa phương của quốc tế. Nhưng trước hết phải giải quyết vấn đề Trung Quốc của Việt Nam, hiện nằm tại Hà Nội. Khi nào người dân Việt ở trong và ngoài nước làm cho thế giới hiểu ra sự thể đó – rằng mối nguy của Trung Quốc chính là Hà Nội và Hà Nội mới là vấn đề chứ không là giải pháp – chúng ta đã tiến được một bước khá xa trên chặng đường bảo vệ nền độc lập quốc gia.
Vì vậy, đấu tranh cho dân chủ và cho độc lập là hai mặt không thể tách rời của một sự thể sinh tử cho quốc gia.
Cho đến nay, hình như ta mới chỉ chú ý đến một mặt, là trình trạng thiếu dân chủ hoặc nạn chà đạp nhân quyền tại Việt Nam. Sự thật phũ phàng là các quốc gia trên thế giới, kể cả Hoa Kỳ, đều có thể đang làm ăn với nhiều chế độ độc tài. Với chính quyền các nước này, nhiều khi lời kêu gọi dân chủ của chúng ta lại là sự phiền nhiễu, là chướng ngại cho hợp tác kinh tế và phát triển kinh doanh.
Nếu ta nêu lên hàng loạt vấn đề về môi sinh, nạn hủy hoại nguồn nước, tình trạng cạnh tranh bất chính hoặc nguy cơ lũng đoạn xã hội xuất phát từ Trung Quốc, ngoài sự bành trướng ngang ngược đã trở thành hiển nhiên, thì vì quyền lợi của họ hơn là dân chủ của Việt Nam, các nước có thể quan tâm nhiều hơn đến lập trường của chúng ta.
Muốn như vậy, ngay từ ý thức thì chúng ta nên là giải pháp hơn là một vấn đề cho các nước. Câu hỏi nêu lên ở đây là mình đã tự chuẩn bị như vậy hay chưa?
Sau cùng, Trung Quốc thật ra không mạnh như nhiều người thường nghĩ và còn gặp nguy cơ khủng hoảng, thậm chí tan rã, vì chiến lược phát triển của họ không bền vững, cân đối và có đầy bất công. Khi nước Tầu có loạn như đã từng thấy nhiều lần trong lịch sử, Hà Nội tất sẽ không thể yên.
Khi đó, Việt Nam sẽ ra sao? Khi đó, chúng ta đứng ở đâu? Mà chúng ta là ai?Nguyễn Xuân Nghĩa
KINH TẾ TRUNG QUỐC
Trung Quốc thông báo mở rộng biên độ tỷ giá hối đoái
Trung Quốc mở rộng biên độ tỷ giá nhân dân tệ (AFP)
Hôm
nay 14/04/2012, Ngân hàng trung ương Trung Quốc thông báo mở rộng thêm
0,5 % biên độ tỷ giá hối đoái của đồng nhân dân tệ so với đô la. Biên
độ mới sẽ được áp dụng từ ngày 16/04/2012. Đây là một cử chỉ để đáp ứng
đòi hỏi của quốc tế muốn Trung Quốc nâng giá đơn vị tiền tệ.
Thông
cáo của Ngân hàng trung ương Trung Quốc cho biết là kể từ ngày
16/04/2012 các tổ chức tín dụng được phép mua bán nhân dân tệ và đô la
trong biên độ cộng trừ 1 % - thay vì là 0,5 % như hiện nay- so với tỷ
giá chính thức được ngân hàng Trung ương ấn định.
Biện pháp này nhằm tạo thuận lợi cho đồng nhân dân tệ của Trung Quốc dao động theo luật cung cầu của thị trường. Ngân hàng trung ương Trung Quốc tuy nhiên cam kết tiếp tục « duy trì tỷ giá đồng nhân dân tệ ở mức ổn định cơ bản và quân bình ».
Minh
Anh Theo công bố của Văn phòng thống kê quốc
gia Trung Quốc hôm nay 13/04/2012, mức độ tăng trưởng kinh tế trong
quý I/2012 đạt mức thấp nhất trong vòng ba năm gần đây. Nguyên nhân
chính là do tác động của khủng hoảng nợ công tại châu Âu trong khi mà
tiêu thụ nội địa Trung Quốc chưa thể bù đắp lại được.
Dựa trên kết quả của 3 tháng đầu năm,
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) c
Biện pháp này nhằm tạo thuận lợi cho đồng nhân dân tệ của Trung Quốc dao động theo luật cung cầu của thị trường. Ngân hàng trung ương Trung Quốc tuy nhiên cam kết tiếp tục « duy trì tỷ giá đồng nhân dân tệ ở mức ổn định cơ bản và quân bình ».
Giới quan sát
chờ đợi Bắc Kinh nới lỏng biên độ tỷ giá hối đoái nhưng theo lời một
chuyên gia tài chính thuộc ngân hàng Bank of America – Merrill Lynch,
Trung Quốc đã nới lỏng biên độ mạnh hơn dự kiến. Việc Ngân hàng trung
ương cho phép tỷ giá hối đoái dao động đến 1 % là « một bước tiến quan
trọng để hướng tới một hệ thống tiền tệ mới mà ở đó đồng nhân dân tệ sẽ
được cột chặt vào một rổ tiền tệ » thay vì chỉ căn cứ vào một đơn vị
tiền tệ duy nhất là đồng đô la như hiện tại. Trong hệ thống mới đó,
đồng tiền Trung Quốc sẽ được thả nổi theo luật chơi của thị trường
nhưng với sự kiểm soát của Ngân hàng trung ương.
Một
số nhà phân tích cũng cho rằng việc nới lỏng biên độ tỷ giá hối đoái
vừa được thông báo cho phép Trung Quốc thực hiện cùng lúc hai mục tiêu :
một là bày tỏ thiện chí với cộng đồng quốc tế vào lúc Mỹ và châu Âu
liên tục đòi Bắc Kinh nâng giá đồng nhân dân tệ. Mục tiêu thứ nhì là
trong tương lai Trung Quốc có thể cột chặt đồng tiền quốc gia vào một rổ
tiền tệ với nhiều đơn vị ngoại tệ khác nhau để giảm bớt mức độ rủi ro.
Nhưng
dù thế nào, Trung Quốc cũng sẽ tăng giá đồng nhân dân tệ một cách «
nhỏ giọt », tránh để tác động đến khu vực xuất khẩu. Chính quyền Bắc
Kinh vừa thông báo chỉ số tăng trưởng trong quý 1/2012 ở mức thấp nhất
chưa từng thấy trong gần 3 năm qua. Trung Quốc dự báo tăng trưởng cho
cả năm chỉ đạt 7,5 % thay vì 8 % như đã loan báo.
Mức tăng trưởng kinh tế Trung Quốc thấp nhất trong ba năm gần đây
Một khu trung tâm kinh doanh ở Bắc Kinh. Ảnh chụp ngày 03/04/2012.
REUTERS/Jason Lee
ủa
Trung Quốc trong quý I năm 2012 tăng 8,1% theo nhịp độ hàng năm so với
mức 8,9% của quý IV năm vừa qua và thấp hơn so với mức dự báo là 8,3%.
Nếu như vậy, trong bối cảnh lạm phát tăng nhẹ so với năm 2011, các nhà kinh tế cho rằng không loại trừ khả năng chính quyền Bắc Kinh sẽ đưa ra các biện pháp hỗ trợ kinh tế mới.
Thông tin này ngay tức thì đã có tác động xấu lên các hoạt động tài chính, giá vào đầu phiên giao dịch tại châu Âu sáng nay. Giá chứng khoán, đồng euro và giá dầu thô đã bị rớt mạnh.
Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế cũng nhận thấy có sự tăng trưởng trong sản xuất công nghiệp, bán lẻ và đầu tư bất động sản và trang thiết bị - một trong những đầu tàu chính của nền kinh tế Trung Quốc.
Nhìn chung, các con số đưa ra phù hợp với dự đoán. Theo đánh giá của các nhà phân tích, kinh tế Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục tăng trưởng chậm trong quý II. Họ cho rằng mức tăng trưởng 8% / năm là ngưỡng tối thiểu Trung Quốc phải đạt được nhằm giúp cho Trung Quốc giải quyết việc làm cho khoảng 800 triệu người hàng năm gia nhập thị trường lao động.
Thậm chí, Thủ tướng Ôn Gia Bảo còn lo ngại là Trung Quốc không thể đạt tăng trưởng 8 % như dự báo. GDP của nước này trong năm 2012 có thể chỉ tăng 7,5% cho năm 2012.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20120413-muc-tang-truong-kinh-te-trung-quoc-thap-nhat-trong-vong-ba-nam-gan-day
Nếu như vậy, trong bối cảnh lạm phát tăng nhẹ so với năm 2011, các nhà kinh tế cho rằng không loại trừ khả năng chính quyền Bắc Kinh sẽ đưa ra các biện pháp hỗ trợ kinh tế mới.
Thông tin này ngay tức thì đã có tác động xấu lên các hoạt động tài chính, giá vào đầu phiên giao dịch tại châu Âu sáng nay. Giá chứng khoán, đồng euro và giá dầu thô đã bị rớt mạnh.
Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế cũng nhận thấy có sự tăng trưởng trong sản xuất công nghiệp, bán lẻ và đầu tư bất động sản và trang thiết bị - một trong những đầu tàu chính của nền kinh tế Trung Quốc.
Nhìn chung, các con số đưa ra phù hợp với dự đoán. Theo đánh giá của các nhà phân tích, kinh tế Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục tăng trưởng chậm trong quý II. Họ cho rằng mức tăng trưởng 8% / năm là ngưỡng tối thiểu Trung Quốc phải đạt được nhằm giúp cho Trung Quốc giải quyết việc làm cho khoảng 800 triệu người hàng năm gia nhập thị trường lao động.
Thậm chí, Thủ tướng Ôn Gia Bảo còn lo ngại là Trung Quốc không thể đạt tăng trưởng 8 % như dự báo. GDP của nước này trong năm 2012 có thể chỉ tăng 7,5% cho năm 2012.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20120413-muc-tang-truong-kinh-te-trung-quoc-thap-nhat-trong-vong-ba-nam-gan-day
TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN * KINH TẾ TRUNG CỘNG
Cải Tổ Đau Đớn, Kinh Tế TQ Mới Khỏi Sụp
Kinh tế TQ đang hướng tới hạ cánh gập gềnh vài năm tới
BẮC KINH - Nền kinh tế Trung Quốc đuợc mô tả như là "bất chấp trọng lực" tiêu thụ nhiều năng lượng đã chuyển hướng để giảm tốc độ sau nhiều năm tăng trưởng với tỉ lệ hàng chục. Đồn đoán về khả năng "hạ cánh an toàn" sau mỗi chu kỳ phát triển chỉ hạ giảm khi sức tăng trưởng của Trung Quốc sẽ tái diễn.Tuy nhiên lần này, các yếu tố bên ngoài và nội tại đang củng cố xu huớng xuống dốc. Nhiều nhà chuyên môn báo động: nếu không thực hành các cải tổ đau đớn, khó khăn tệ hại sẽ phát sinh. Dù vậy, giới kinh tế gia có những ý kiến khác nhau về sự sút giảm của kinh tế Trung Quốc.
Những điều tạo ra trường hợp "hạ cánh khó khăn" nay đuợc tin là không thể tránh là khác nhau giữa các phân tích gia tuy điểm chính là tỉ lệ tăng trưởng.
Giáo sư khoa tài chính Franklin Allen của trường Wharton nói "Người ta định nghĩa khác nhau - của tôi là tăng trưởng dưới mức 5%".
Tỉ lệ tăng trưởng của Trung Quốc 3 tháng cuối năm qua đuợc tính là 8.9% sau nhiều tháng chính quyền Bắc Kinh làm dịu lạm phát bằng các cắt giảm tín dụng của ngân hàng, tăng lãi suất, và tăng định mức vốn dự trữ của ngân hàng.
Tại QH hôm 5-3, Thủ Tướng Wen JIabao đề ra chỉ tiêu tăng truởng năm 2012 là 7.5%, là lần đầu tiên dưới 8%, là mức tối thiểu để tạo việc làm và bảo đảm ổn định xã hội.
Tỉ lệ tăng trưởng đề ra trong kế hoạch 5 năm là 7%. Tại 1 cơ quan nghiên cứu Hongkong, kinh tế gia Wei Yao tiên đoán tỉ lệ tăng trưởng năm nay là 8,1%, năm tới là 7.7% và năm 2016 là 7%. Ông này nhận rằng "hạ cánh khó khăn" là khó tránh. Giáo sư Patrick Chovanec của trường đại học Tsinghua tiên đoán kinh tế Trung Quốc đang hướng tới "hạ cánh gập ghềnh" với những trồi sụt trong vài năm tới.
Theo giáo sư Chovanec, Bắc Kinh cần điều chỉnh thị trường bất động sản và chú tâm vào sự tăng trưởng của các hoạt động đưa tới thành quả thật.
Ổn định xã hội sẽ tùy thuộc vào việc chỉnh đốn kinh tế để bảo đảm sức tăng trưởng bền vững, như ám chỉ của 1 phúc trình Tháng 2 của Ngân Hàng Thế Giới.
Chủ tịch Ngân Hàng Thế Giới Robert Zoellick nhận định "Nay là lúc cần thích ứng với các thay đổi lớn trong các nền kinh tế thế giới và quốc nội - như các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết, mô hình tăng trưởng của đất nước họ là không bền vững".
Cuộc chuyển tiếp qua 1 thời kỳ tăng trưởng yếu hơn sẽ có 1 số điểm tương đồng với kinh tế Nhật đầu thập niên 1990 - nhưng điểm dị biệt quan trọng có thể đưa tới những hậu quả xấu của "hạ cánh khó khăn", theo giáo sư Marshall W. Meyer, là Trung Quốc còn rất nhiều người nghèo.
Nhật thì khác, đa số là người trung lưu, có bảo hiểm sức khoẻ và an sinh xã hội. Ông Meyer nói "Đó là khó khăn chính trị".
Bất mãn với lợi tức thấp và dịch vụ xã hội thiếu kém có thể leo thang nếu tăng trưởng lâm vào bế tắc. Theo ông Meyer. Trung Quốc và thế giới đều không muốn thấy hỗn loạn tại Hoa Lục, như đã thấy tại Bắc Phi và Trung Đông vào muà xuân 2011. Hồi giữa Tháng 12, Thủ Tướng Wen JIabao cũng ghi nhận rằng nếu không cải tổ, sẽ thấy bất ổn xã hội tạo ra một đợt Cách Mạng Văn Hoá khác.
Khuyến cáo của Ngân Hàng Thế Giới là bảo đảm sức tăng trưởng tùy thuộc vào nhu cầu tiêu thụ của công chúng hơn là đầu tư vào xây dựng và trang bị về vốn từng là nguồn lực chính của tăng trưởng trong thời gian qua.
Giáo sư Chovanec cho hay thủ thuật dựa vào đầu tư của các công ty quốc doanh không còn hiệu quả. Tại trường đại học John Hopkins, giáo sư Pieter Bottelier nhận thấy thị trường địa ốc tại Trung Quốc là điểm yếu - cơ nguy là sự sụp đổ của thị trường nhà đất tương tự tại Hoa Kỳ và châu Âu trong những năm gần đây.
Ông Bottelier ghi nhận : hoạt động xây dựng nhà cửa là 1 phần lớn trong nền kinh tế Hoa Lục, chiếm 15% GDP và 1 phần lớn lao động nông thôn thiếu chuyên môn, có thể dẫn tới "hạ cánh khó khăn".
BẮC KINH - Nền kinh tế Trung Quốc đuợc mô tả như là "bất chấp trọng lực" tiêu thụ nhiều năng lượng đã chuyển hướng để giảm tốc độ sau nhiều năm tăng trưởng với tỉ lệ hàng chục. Đồn đoán về khả năng "hạ cánh an toàn" sau mỗi chu kỳ phát triển chỉ hạ giảm khi sức tăng trưởng của Trung Quốc sẽ tái diễn.Tuy nhiên lần này, các yếu tố bên ngoài và nội tại đang củng cố xu huớng xuống dốc. Nhiều nhà chuyên môn báo động: nếu không thực hành các cải tổ đau đớn, khó khăn tệ hại sẽ phát sinh. Dù vậy, giới kinh tế gia có những ý kiến khác nhau về sự sút giảm của kinh tế Trung Quốc.
Những điều tạo ra trường hợp "hạ cánh khó khăn" nay đuợc tin là không thể tránh là khác nhau giữa các phân tích gia tuy điểm chính là tỉ lệ tăng trưởng.
Giáo sư khoa tài chính Franklin Allen của trường Wharton nói "Người ta định nghĩa khác nhau - của tôi là tăng trưởng dưới mức 5%".
Tỉ lệ tăng trưởng của Trung Quốc 3 tháng cuối năm qua đuợc tính là 8.9% sau nhiều tháng chính quyền Bắc Kinh làm dịu lạm phát bằng các cắt giảm tín dụng của ngân hàng, tăng lãi suất, và tăng định mức vốn dự trữ của ngân hàng.
Tại QH hôm 5-3, Thủ Tướng Wen JIabao đề ra chỉ tiêu tăng truởng năm 2012 là 7.5%, là lần đầu tiên dưới 8%, là mức tối thiểu để tạo việc làm và bảo đảm ổn định xã hội.
Tỉ lệ tăng trưởng đề ra trong kế hoạch 5 năm là 7%. Tại 1 cơ quan nghiên cứu Hongkong, kinh tế gia Wei Yao tiên đoán tỉ lệ tăng trưởng năm nay là 8,1%, năm tới là 7.7% và năm 2016 là 7%. Ông này nhận rằng "hạ cánh khó khăn" là khó tránh. Giáo sư Patrick Chovanec của trường đại học Tsinghua tiên đoán kinh tế Trung Quốc đang hướng tới "hạ cánh gập ghềnh" với những trồi sụt trong vài năm tới.
Theo giáo sư Chovanec, Bắc Kinh cần điều chỉnh thị trường bất động sản và chú tâm vào sự tăng trưởng của các hoạt động đưa tới thành quả thật.
Ổn định xã hội sẽ tùy thuộc vào việc chỉnh đốn kinh tế để bảo đảm sức tăng trưởng bền vững, như ám chỉ của 1 phúc trình Tháng 2 của Ngân Hàng Thế Giới.
Chủ tịch Ngân Hàng Thế Giới Robert Zoellick nhận định "Nay là lúc cần thích ứng với các thay đổi lớn trong các nền kinh tế thế giới và quốc nội - như các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết, mô hình tăng trưởng của đất nước họ là không bền vững".
Cuộc chuyển tiếp qua 1 thời kỳ tăng trưởng yếu hơn sẽ có 1 số điểm tương đồng với kinh tế Nhật đầu thập niên 1990 - nhưng điểm dị biệt quan trọng có thể đưa tới những hậu quả xấu của "hạ cánh khó khăn", theo giáo sư Marshall W. Meyer, là Trung Quốc còn rất nhiều người nghèo.
Nhật thì khác, đa số là người trung lưu, có bảo hiểm sức khoẻ và an sinh xã hội. Ông Meyer nói "Đó là khó khăn chính trị".
Bất mãn với lợi tức thấp và dịch vụ xã hội thiếu kém có thể leo thang nếu tăng trưởng lâm vào bế tắc. Theo ông Meyer. Trung Quốc và thế giới đều không muốn thấy hỗn loạn tại Hoa Lục, như đã thấy tại Bắc Phi và Trung Đông vào muà xuân 2011. Hồi giữa Tháng 12, Thủ Tướng Wen JIabao cũng ghi nhận rằng nếu không cải tổ, sẽ thấy bất ổn xã hội tạo ra một đợt Cách Mạng Văn Hoá khác.
Khuyến cáo của Ngân Hàng Thế Giới là bảo đảm sức tăng trưởng tùy thuộc vào nhu cầu tiêu thụ của công chúng hơn là đầu tư vào xây dựng và trang bị về vốn từng là nguồn lực chính của tăng trưởng trong thời gian qua.
Giáo sư Chovanec cho hay thủ thuật dựa vào đầu tư của các công ty quốc doanh không còn hiệu quả. Tại trường đại học John Hopkins, giáo sư Pieter Bottelier nhận thấy thị trường địa ốc tại Trung Quốc là điểm yếu - cơ nguy là sự sụp đổ của thị trường nhà đất tương tự tại Hoa Kỳ và châu Âu trong những năm gần đây.
Ông Bottelier ghi nhận : hoạt động xây dựng nhà cửa là 1 phần lớn trong nền kinh tế Hoa Lục, chiếm 15% GDP và 1 phần lớn lao động nông thôn thiếu chuyên môn, có thể dẫn tới "hạ cánh khó khăn".
TQ: TÖØ TUÏT GIOÁC XUAÁT CAÛNG
ÑEÁN CAÛI CAÙCH KINH TEÁ &
THANH TRÖØNG CHÍNH TRÒ
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 22.03.2012
Web: http://VietTUDAN.net
Töø
gaàn hai tuaàn ñeán nay, trong luùc tình hình Kinh teá taïi nhöõng Thò
tröôøng lôùn coù nhöõng trieäu chöùng oån ñònh hoaëc tích cöïc theo
höôùng laáy laïi phaùt trieån, thì hai neàn Kinh teá CSTQ vaø CSVN vaãn
treân ñöôøng tuït gioác. Thöïc vaäy, Hoa kyø thaáy chæ soá tieâu duøng
taêng leân vaø coâng aên vieäc laøm cho daân thaát nghieäp baét ñaàu
ñöôïc taïo ra daàn. Taïi Lieân Aâu, vuï Nôï Coâng Hy Laïp ñöôïc giaûi
quyeát taïm oån ñònh vaø ngöôøi ta ñôõ phaûi chöùng kieán nhöõng cuoäc
Bieåu Tình, Ñình Coâng taïi YÙ, Taây Ban Nha vaø Hy Laïp. Caùc Chính
quyeàn coù giôø nghó ñeán nhöõng bieän phaùp thueá khoùa nhaèm khoâi
phuïc daàn caùn caân Ngaân Saùch. Taïi Nhaät, baûn tin laäp ñi laäp
laïi cuûa Ñaøi Truyeàn Hình EuroNews toái 20.03.2012 cho thaáy nhöõng
con soá do Ngaân Haøng Trung Öông Nhaät ñöa ra chöùng toû nhöõng daáu
hieäu laïc quan treân ñöôøng phuïc hoài Kinh teá. Lieân tieáp taùm
ngaøy gaàn ñaây, nhöõng chæ soá Thò tröôøng Chöùng Khoaùn Lieân Aâu vaø
Hoa kyø taêng leân.
Trong
luùc aáy, Thöông maïi Trung quoác voán lieân tuïc chòu aûnh höôûng suy
thoaùi Maõi Löïc cuûa Hoa kyø vaø Lieân Aâu töø 2008 ñeå xuaát caûng
Trung quoác töø töø xuoáng gioác, thì boãng nhieân tuaàn vöøa roài,
thoáng keâ Nhaø Nöôùc cho thaáy Caùn Caân Thöông Maïi trong thaùng
2/2012 bò thaâm thuït naëng, xuaát caûng cuûa Trung quoác tuït xuoáng
23.6% chæ trong moät thaùng. Ñaây laø ñieåm thôøi söï voâ cuøng noùng
boûng. Ñoù laø moät tieáng seùt. Ñoái vôùi nhöõng ngöôøi
ñaõ töøng theo roõi Kinh teá Trung quoác, nhaát laø töø naêm 2008 ñeán
nay, thì tieáng seùt naøy khoâng laøm ngaïc nhieân vì noù laø haäu quaû
taát nhieân cuûa moät moâ hình Kinh teá cuûa Cô cheá ñoäc taøi Chính
trò naém ñoäc quyeàn Kinh teá. Nhöng ñoái vôùi nhöõng ai ñaõ quaù thoåi
phoàng thaønh quaû Kinh teá Trung quoác leân nhö moät pheùp laï sau
nhieàu thaäp nieân, thì quaû thöïc ñaây laø moät tieáng seùt laøm hoï
böøng tænh giaác moäng vaø môû maét nhìn roõ thöïc teá cuûa Kinh teá
Mafia Nhoùm ñaûng CSTQ cuõng nhö cuûa CSVN.
Tình
traïng tuït gioác xuaát caûng naøy laøm cho Oâng Robert ZOELLICK, Chuû
tòch Ngaân Haøng Theá Giôùi, hoïp baùo taïi Baéc Kinh ngaøy
27.02.2012, vaø Baø Christine LAGARDE, Toång Giaùm Ñoác Quyõ Tieàn Teä
Quoác teá, hoïp baùo cuõng taïi Baéc Kinh ngaøy 18.03.2012, cuøng nhaán
maïnh ñeán vieäc caàn thieát caûi toå chính moâ hình Kinh teá neáu
muoán traùnh ñoå vôõ. Ngöôøi bieát hôn heát veà tình traïng baáp beânh
Kinh teá Trung quoác leä thuoäc vaøo xuaát caûng, ñoù laø Thuû töôùng
OÂN GIA BAÛO. Oâng ñaõ leân tieáng tröôùc Quoác Hoäi töø naêm 2010 vaø
nhaát laø trong tuaàn vöøa roài thaùng 3/2012, laø phaûi caáp baùch
caûi toå Kinh teá.
Nhöng
trong moät moâ hình Kinh teá laøm naåy sinh vaø lan traøn Tham nhuõng
aên reã vaøo töøng nhöõng ñaûng vieân töø nhieàu chuïc naêm nay, vieäc
taùi caáu truùc Kinh teá ñuïng chaïm ñeán nhöõng taøi saûn caù nhaân
ñaûng vieân ñaõ thu goùp ñöôïc qua Tham nhuõng, neân phaûi keøm theo
vieäc thanh tröøng Chính trò, maø BAÏC HY LAI laø moät tæ duï ñieån
hình. Chính TAÄP CAÅM BÌNH, ngöôøi naém quyeàn haønh laõnh ñaïo saép
tôùi, ñaõ phaùt bieåu veà vieäc caàn thieát naøy.
Tình
hình maø chuùng toâi vöøa neâu ra nhö môû ñaàu ñöôïc toùm goïn döôùi
ñaàu ñeà TRUNG QUOÁC:TÖØ TUÏT GIOÁC XUAÁT CAÛNG ÑEÁN CAÛI CAÙCH KINH TEÁ
& THANH TRÖØNG CHÍNH TRÒ. Döôùi ñaàu ñeà naøy, chuùng toâi seõ
baøn nhöõng khía caïnh sau ñaây:
1) Töø phöông dieän Lyù thuyeát vaø Thöïc teá Lòch söû, vieäc ñoå vôõ moâ hình Kinh teá ñoäc taøi laø taát yeáu;
2) Baùo hieäu cuûa Thuû töôùng OÂN GIA BAÛO veà ñoå vôõ moâ hình Kinh teá Trung quoác töø naêm 2010;
3) Ngaân
Haøng Theá Giôùi vaø Quyõ Tieàn Teä Quoác teá hoïp baùo taïi Baéc Kinh
yeâu caàu Trung quoác phaûi caûi toå moâ hình Kinh teá;
4) Lieân tuïc tuït gioác Xuaát caûng Trung quoác, nhaát laø tieáng seùt tuït gioác 23.6% chæ trong thaùng 2/2012;
5) Thuû töôùng OÂN GIA BAÛO thoâi thuùc caáp baùc caûi toå moâ hình Kinh teá Trung quoác baét ñaàu naêm 2012;
6) Thanh tröøng Chính trò taïi Trung quoác, maø BAÏC HY LAI laø ñieån hình, phaûi song haønh vôùi caûi toå Kinh teá;
7) Quan ñieåm cuûa TAÄP CAÅM BÌNH, Laõnh tuï töông lai naém giöõ Kinh teá vaø Chính trò taïi Trung quoác;
8) Lieäu
Trung quoác coù laøm troïn ñöôïc caûi toå moâ hình Kinh teá vaø thanh
tröøng ñöôïc Chính trò, hay vieãn töôïng Töï noå (Implosion) seõ dieãn
ra ?
Moãi khía caïnh treân ñaây laø moät chuû ñeà ñeå chuùng ta coù theå khai trieån daøi.
Trong
phaïm vi giôùi haïn cuûa baøi naøy, chuùng toâi chæ toùm taét yù chính
cuûa moãi khía caïnh ñeå ñoäc giaû coù caùi nhìn toång quaùt vaø söï
lieân keát giöõa nhöõng khía caïnh ñang taïo neân tình traïng baát oån
veà Kinh teá vaø Chính trò taïi Trung quoác hieän nay.
Moãi
khía caïnh trong 8 khía caïnh neâu ra trong danh saùch treân ñaây ñaõ
ñöôïc khai trieån daøi baèng nhöõng cuoán saùch ñaõ xuaát baûn hoaëc
ngaén baèng nhöõng baøi haøng tuaàn trong suoát maáy naêm nay. Chuùng
toâi seõ tieáp tuïc theo roõi tin töùc ñeå khai trieån theâm.
1) Töø phöông dieän Lyù thuyeát vaø Thöïc teá Lòch söû,
vieäc ñoå vôõ moâ hình Kinh teá ñoäc taøi laø taát yeáu
Chuùng
toâi goïi ñaây laø Moâ hình Kinh teá ñoäc taøi. Chuùng toâi ñaõ xuaát
baûn 3 cuoán saùch lieân tieáp trong ba naêm ñeå chöùng minh raèng
treân Lyù thuyeát vaø trong Thöïc teá Lòch söû, nhöõng Moâ hình Kinh
teá ñoäc taøi töï daãn ñeán ñoå vôõ nhö ñieàu taát yeáu.
Naêm
2009, cuoán DÖÙT BOÛ CÔ CHEÁ CSVN ÑEÅ PHAÙT TRIEÅN (Nhaø Xuaát Baûn
DAY & NIGHT, Ventura, California 2009, vôùi 216 trang). Cuoán
saùc trình baày chính yeáu veà Lyù thuyeát cuûa chuû tröông Kinh teá
Taäp quyeàn Chæ huy vaø keát quaû thöïc teá Lòch söû cuûa moâ hình naøy
laø söï suïp ñoå TAÁT YEÁU cuûa Coäng saûn Nga vaø Ñoâng Aâu.
Naêm
2010, cuoán DAÂN CHUÛ HOÙA KINH TEÁ (Nhaø Xuaát Baûn DAY & NIGHT,
Ventura, California 2010, vôùi 305 trang). Cuoán saùch noùi veà moâ
hình Kinh teá Trung quoác, nhaát laø Vieät Nam. Hai moâ hình naøy ñöôïc
goïi baèng teân “Kinh teá Thò tröôøng ñònh höôùng Xaõ Hoäi Chuû
Nghóa), nhöng thöïc ra baûn chaát cuûa noù vaãn laø moâ hình Kinh teá
ñoäc taøi ñöôïc nguïy taïo ñeå coù theå baét tay vôùi Kinh teá Töï do
Thò tröôøng thöïc söï nhaèm thuû lôïi. Vì baûn chaát vaãn laø moâ hình
Kinh teá ñoäc taøi, neân söï baáp beânh vaø suïp ñoå cuûa noù vaãn laø
taát yeáu. Phaûi Daân chuû hoùa ñích thöïc Kinh teá môùi coù phaùt
trieån beàn vöõng.
Naêm
2011, cuoán DAÂN TREÂN ÑÖÔØNG NOÅI DAÄY DÖÙT BOÛ CÔ CHEÁ CSVN (Nhaø
Xuaát Baûn DAY & NIGHT, Ventura, California 2011, vôùi 465 trang).
Cuoán saùch khoâng baøn veà Lyù thuyeát nöõa maø cho thaáy thöïc teá
xuoáng gioác cuûa hai neàn Kinh teá ñoäc taøi CSTQ vaø CSVN. Tình traïng
xuoáng gioác naøy taïo hoá saâu Giaàu—Ngheøo moãi ngaøy moãi traàm
troïng ñaåy quaàn chuùng ngheøo NOÅI DAÄY ñeå döùt boû caùi moâ hình
Kinh teá ñoäc taøi aáy. Söï suïp ñoå vaãn laø taát yeáu. Daân NOÅI DAÄY
ñeå tieáp tay ñaåy Cô cheá ñoäc taøi Kinh teá naøy xuoáng hoá cho mau.
2) Baùo hieäu cuûa Thuû töôùng OÂN GIA BAÛO veà
ñoå vôõ moâ hình Kinh teá Trung quoác töø naêm 2010
Ñaõ
töø naêm 2010, Thuû töôùng OÂN GIA BAÛO khoâng theå khoâng nhìn thaáy
taàm aûnh höôûng cuûa Khuûng hoaûng Taøi chaùnh/Kinh teá Theá giôùi,
nhaát laø Hoa kyø vaø Lieân Aâu, laøm Kinh teá Trung quoác vaãn baáp
beânh, phaûi chao ñao. Vì vaäy, tröôùc Quoác Hoäi Trung quoác hoïp ngaøy
14.03.2010, Oâng Gia Baûo tuyeân boá:
“L’inflation,
plus une redistribution ineùquitable des revenus et la corruption
pourraient affecter la stabiliteù sociale et meâme la stabiliteù du
gouvernement”
(Laïm
phaùt, theâm vaøo ñoù laø moät söï phaân phoái khoâng ñoàng ñeàu
nhöõng thu nhaäp vaø tham nhuõng coù theå taùc haïi ñeán söï oån ñònh
xaõ hoäi vaø ngay caû ñeán söï oån ñònh nhaø nöôùc” (Le Monde 16.03.2010, trang 16).
Vôùi
caâu noùi toùm goïn naøy, Oân Gia Baûo noùi leân caùi moâ hình Kinh
teá Trung quoác mang laïi nhöõng keát quaû ñieån hình sau ñaây:
* Phaân
phoái khoâng ñoàng ñeàu thu nhaäp: Ñoù laø nhöõng nhoùm lôïi ích thoäc
ñaûng caàm quyeàn ñoäc taøi thu vaøo nhieàu cho mình, coøn daân chuùng
ñöôïc chia cho phaàn raát nhoû. Ñoù laø vieäc ñaøo saâu hoá
Giaàu—Ngheøo.
* Tham
nhuõng: Khi maø Cô cheá chuû tröông ñoäc taøi Chính trò naém ñoäc
quyeàn Kinh teá, thì Tham nhuõng taát nhieân naåy sinh vaø lan traøn.
Ñaây laø Tham nhuõng phaùt sinh töø Cô cheá, chöù khoâng phaûi töø loøng
caù nhaân.
* Vieäc
phaân phoái thu nhaäp khoâng ñoàng ñeàu vaø Tham nhuõng seõ ñöa ñeán
baát oån xaõ hoäi vaø nhaø nöôùc. Veà ñieåm naøy, Oân Gia Baûo nhö baùo
tröôùc vieäc caûi toå moâ hình kinh teá vaø thanh tröøng chính trò ñeå
traùnh daân NOÅI DAÄY.
3) Ngaân Haøng Theá Giôùi vaø Quyõ Tieàn Teä Quoác teá hoïp baùo taïi Baéc Kinh
yeâu caàu Trung quoác phaûi caûi toå moâ hình Kinh teá
Hai Toå chöùc Taøi chaùnh vaø Tieàn teä mang taàm aûnh höôûng Theá giôùi ñaõ phaûi hoïp baùo taïi Baéc Kinh ñeå
nhaán maïnh raèng Trung quoác ñaõ ñeán luùc phaûi caûi toå moâ hình
Kinh teá vì ñaõ ñi ñeán khuùc quaët coù theå laøm suïp ñoå toaøn dieän
neàn Kinh teá. Oâng Robert ZOELLICK, Chuû tòch Ngaân Haøng Theá giôùi,
hoïp baùo vaøo cuoái thaùng 2/2012, thì ngaøy 18.03.2012, Baø Christine
LAGARDE, Toång Giaùm ñoác Quyõ Tieàn teä Quoác teá, cuõng hoïp baùo
taïi Baéc Kinh. Hai ngöôøi cuøng ñöa ra nhöõng ñoøi hoûi phaûi caûi
toå moâ hình Kinh teá. Oâng Robert ZOELLICK ñoøi hoûi gay gaét hôn Baø
Chrtistine LAGARDE.
Baûn
Tin cuûa Allison JACKSON (AFP) ñaùnh ñi töø Baéc Kinh ngaøy 27.02.2012
veà cuoäc Hoïp baùo cuûa Oâng Robert ZOELLICK. Theo Baûn Tin naøy,
ñích thaân Chuû tòch Ngaân Haøng Theá Giôùi caûnh caùo Trung quoác veà
tình traïng tuït gioác Kinh teá neáu khoâng kòp thôøi vaø can ñaûm caûi
caùch trong löïa choïn giöõa ñoäc taøi Chính trò vaø Ñoäc quyeàn Kinh
teá. Oâng nhaán maïnh veà vieäc Trung quoác ñang gaëp phaûi moät khuùc
quaët treân ñöôøng phaùt trieån Kinh teá khieán vieäc caûi caùch taän
goác laø moät doøi buoäc khoâng theå traùnh neù. Baûn tin vieát:
“La
Chine a atteint un tournant dans son deùveloppement eùconomique et va
devoir mettre en oeuvre de profondes reùformes, avec un rythme de
croissance qui va diminuer de moitieù en 20 ans, ont estimeù lundi des
experts de la Banque mondiale et du gouvernement“.
“La neùcessiteù de reùformes est indiscutable parce que la Chine est deùsormais aø un tournant de son deùveloppement"
(Trung
quoác tieán ñeán moät khuùc ngoaët trong vieäc phaùt trieån Kinh teá
vaø seõ buoäc phaûi thöïc hieän nhöõng caûi caùch taän chieàu saâu, vôùi
moät ñaø phaùt trieån seõ thuït xuoáng phaân nöûa trong 20 naêm,
nhöõng chuyeân vieân cuûa World Bank vaø cuûa Chính phuû öôùc tính nhö
vaäy ngaøy thöù Hai môùi ñaây).
(Söï
caàn thieát cuûa nhöõng caûi caùch laø ñieàu khoâng theå choái caõi
bôûi vì hieän giôø Trung quoác ñang gaëp khuùc ngoaët trong vieäc phaùt
trieån cuûa mình).
Ñieàu
ñaëc bieät laø Chuû tòch World Bank baùo tröôùc nhöõng trôû ngaïi cuûa
Caûi caùch Kinh teá vaø vieäc thanh tröøng Chính trò
"Les reùformes ne sont pas faciles, souvent elles provoquent des rejets", a dit le preùsident de l'institution internationale.
La
reùsistance pourrait notamment venir des entreprises d'Etat, dont le
rapport veut reùduire les privileøges et le poids eùconomique.”
(Nhöõng caûi caùch khoâng deã daøng, thöôøng noù taïo nhöõng ñoái khaùng, Oâng Chuû tòch cuûa World Bank noùi nhö vaäy.
(Vieäc
choáng ñoái ñeán chính yeáu töø nhöõng Coâng ty Nhaø nöôùc maø baûn
baùo caùo naøy muoán hoï phaûi giaûm ñi nhöõng ñaëc quyeàn vaø troïng
löôïng kinh teá cuûa ho)ï.
4) Lieân tuïc tuït gioác Xuaát caûng Trung quoác,
nhaát laø tieáng seùt tuït gioác 23.6% chæ trong thaùng 2/2012
Ñaøi Truyeàn Hình EuroNews trong ngaøy 01.02.2012 laäp ñi laäp laïi raèng Boä tröôûng Taøi chaùnh Trung quoác tuyeân boá XUAÁT
CAÛNG cuûa Trung quoác ñaõ tuït doác lieân tuïc trong boán thaùng nay.
Ñieàu naøy gaây khoù khaên cho nhöõng vaán ñeà Taøi chaùnh cuûa moät
soá Coâng ty khoâng coù tröôøng voán. Lyù do cuûa tuït doác naøy, theo
oâng, ñoù laø vieäc giaûm ñaët haøng khoâng phaûi chæ töø Hoa kyø,
Lieân Au, maø toång quaùt töø nhöõng Thò tröôøng khaùc.
Nhö
chuùng toâi vieát nhieàu laàn raèng Kinh teá Trung quoác khoâng ñoäc
laäp, maø tuøy thuoäc vaøo caùc Thò tröôøng nöôùc ngoaøi, nhaát laø Hoa
kyø vaø Lieân Aâu. Coù hai lyù do ngoaïi taïi khaùch quan laøm cho tuït
gioác xuaát caûng cuûa Trung quoác:
* Trung
quoác ñaõ khai thaùc Maõi löïc daân chuùng Hoa kyø vaø Lieân Au ñeå
laøm khaû naêng tieâu thuï cuûa hai Thò tröôøng naøy giaûm haún xuoáng.
Vieäc giaûm Maõi löïc naøy tröïc tieáp laøm giaûm mua haøng Trung
quoác, nhaát laø khi chính Trung quoác laøm cho Thöông hieäu Made In
China cuûa mình keùm giaù trò.
* Caùc
Chính phuû Hoa kyø vaø Lieân Aâu, ñeå baûo veä cho Thò tröôøng mình,
baét ñaàu nhöõng Bieän phaùp Che chôû Maäu dòch (Mesures de
Protectionnisme commercial). Tæ duï nhö:
=> Lieân Aâu vaø Hoa kyø môùi thaéng kieän Trung quoác taïi WTO (OMC) veà gian giaûo maäu dòch trong moät soá haøng hoùa.
=> Hoa kyø, Lieân Aâu vaø Nhaät ñang ñe doïa kieän Trung quoác veà ñaàu cô Ñaát hieám
=> Quoác Hoäi vaø TT.OBAMA môùi tuyeân boá taêng thueá treân moät soá maët haøng ñeán töø Trung quoác vaø Vieät Nam.
Vieäc
tuït gioác xuaát caûng naøy ñöa ñeán tieáng SEÙT ngaøy 10.03.2012 veà
thaâm thuûng caùn caân maäu dòch trong thaùng 2/2012 maø chính yeáu laø
do vieäc tuït gioác Xuaát caûng tôùi 23.6% saùnh vôùi thaùng tröôùc.
Kyù giaû Dave SHELLOCK vieát trong tôø Financial Times, ngaøy
13.03.2012, trang 26, nhö sau:
“Figures released over the weekend showed
China’s trade deficit reached $31.5bn in Ferbruary—the biggest since
1998—as exports from the country tumbled 23.6 percent from the previous
month.”
(Nhöõng
con soá thoáng keâ cuoái tuaàn roài cho thaáy thaâm thuûng thöông maïi
Trung quoác ñaït tôùi 31.5 tæ Ño la trong thaùng Hai—thaâm thuûng lôùn
nhaát töø naêm 1998—vì xuaát caûng cuûa Trung quoác tuït xuoáng 23.6%
saùnh vôùi thaùng tröôùc)
Ñaây ñuùng laø tieáng SEÙT ñaùnh treân moâ hình Kinh teá Trung quoác vaäy.
5) Thuû töôùng OÂN GIA BAÛO thoâi thuùc caáp baùch
caûi toå moâ hình Kinh teá Trung quoác baét ñaàu naêm 2012
Sau
nhöõng tuït gioác lieân tieáp xuaát caûng, Oân Gia Baûo ñaõ thoâi
thuùc caûi caùch Kinh teá ngay töø ñaàu naêm 2012. Vaø sau tieáng SEÙT
thaâm thuûng caùn caân Maäu dòch, Oân Gia Baûo coøn hoái thuùc caûi
caùch maïnh hôn tröôùc Quoác Hoäi.
Baûn
Tin naøy cuûa Thoâng Taán Phaùp AFP ñaùnh ñi töø Baéc Kinh ngaøy
21.01.2012. Baûn Tin coù noäi dung thuaät laïi lôøi tuyeân boá cuûa OÂN
GIA BAÛO, Thuû töôùng, trong cuoäc Hoïp nhöõng Laõnh ñaïo cao caáp cuûa
ñaûng vaø Nhaø Nöôùc. On Gia Baûo noùi roõ reät trong naêm Con Roàng
naøy, neàn Kinh teá Trung quoác seõ gaëp nhöõng baáp beânh lôùn nhaát.
Ong noùi neàn Kinh teá Trung quoác buoäc phaûi thay ñoåi ñeå traùnh
nhöõng baáp beânh tuït gioác coù theå ñöa ñeán xaùo troän Xaõ hoäi vaø
Chính trò. Nhöõng baáp beânh aáy laø do söï phaân chia khoâng ñoàng
ñeàu nhöõng keát quaû Kinh teá. Ong nhaán maïnh veà ñieåm naøy bôûi vì
ñoù laø nguoàn goác xaùo troän xaõ hoäi, roài chính trò. Trong tình hình
Khuûng hoaûng Kinh teá hieän nay, nhöõng baáp beânh Kinh teá Trung
quoác caøng bò ñaåy doàn daäp vaø chaát choàng. Vieäc caûi toå neàn Kinh
teá do ñoù laø vaán ñeà caáp thieát nhaát trong naêm Con Roàng. Ong
daãn chöùng ra söï tuït gioác cuûa Kinh teá nhö sau: ñoä taêng tröôûng
10.4% naêm 2010 giaûm xuoáng 9.7% trong Tam caù nguyeät ñaàu cuûa naêm
2011, roài 9.5% Tam caù nguyeät thöù hai, 9.1% Tam caù nguyeät thöù ba
vaø 8.9% Tam caù nguyeät thöù tö. Toùm laïi neàn Kinh teá ñang tuït
gioác vaø vieäc tuït doác seõ maïnh hôn vaø nhanh hôn trong naêm Con
Roàng 2012. Vieäc tuït gioác chaéc chaén taùc ñoäng leân daân chuùng
ñang phaûi chòu caûnh phaân phoái thu nhaäp khoâng ñoàng ñeàu.
Ñôïi
ñeán cuoäc Hoïp tuaàn ñaàu thaùng 3 naøy, OÂN GIA BAÛO nhaéc laïi
tröôùc Quoác Hoäi söï caàn thieát caûi toå moâ hình Kinh teá nhö Oâng
ñaõ töøng baùo tröôùc töø naêm 2010 vaø ñaàu naêm 2012. Laàn naøy Oâng
nhaán maïnh theâm nhöõng ñieåm:
* Coù
theå coù moät cuoäc Caùch Maïng Vaên Hoùa. Tieáng Vaên Hoùa theo yù
nghóa cuûa CSTQ laø Chính trò. Coù theå ñaây laø baùo tröôùc cuoäc thanh
tröøng BAÏC HY LAI.
* Haï möùc Taêng tröôûng Kinh teá xuoáng 7.5%.
Möùc
Taêng tröôûng Kinh teá cuûa Trung quoác thöôøng ñöôïc ca tuïng laø hai
con soá. Nay möùc ñoù ruùt xuoáng coøn 7.5% cho naêm 2012. Vieäc ruùt
möùc Taêng tröôûng naøy khoâng phaûi laø vieäc tuøy thích cuûa Chính
trò Kinh teá do Nhaø Nöôùc quyeát ñònh maø laø vieäc buoäc phaûi haï
xuoáng vì hai lyù do khaùch quan:
=> Ñoái
vôùi Thò tröôøng tieâu thuï nöôùc ngoaøi: Vieäc tuït gioác xuaát caûng
coù nghóa laø baùn haøng ôû Thò tröôøng nöôùc ngoaøi khoâng ñöôïc
nöõa. Neáu vieäc tuït gioác xuaát caûng cöù theo ñaø ñi xuoáng hieän
nay, thì ñaø Taêng tröôûng Kinh teá coøn phaûi haï xuoáng döôùi 7.5%.
=> Ñoái
vôùi Thò tröôøng tieâu thuï noäi ñòa: Maõi löïc coøn raát keùm. Vieäc
taêng Maõi löïc daân noäi ñòa khoâng theå laøm moät sôùm moät chieàu.
Vì vaäy neáu Saûn xuaát vaãn giöõ ôû möùc ñoä cao maø xuaát caûng
giaûm, thì haøng hoùa saûn xuaát ra baùn cho ai. Trung quoác, neáu giöõ
möùc Taêng tröôûng cao, seõ gaëp Khuûng hoûang Surproduction taïo Giaù
caû haï xuoáng thaønh loác xoaùy (Spirale deùflationniste) vaø taøn
phaù heä thoáng saûn xuaát cuûa Trung quoác.
Trung
quoác trong nhöõng naêm tröôøng ñaõ laøm Surprodution veà Ñòa oác. Nay
ñang gaëp caûnh tuït gioác Ñòa oác. Kyù giaû Patti WALDMEIR, töø
Thöôïng Haûi, vieát trong tôø Financial Times ngaøy 19.03.2012, trang 2, nhö sau:
“Home prices in nearly two thirds of China’s big
cities fell in February from the previous month.” (Giaù nhaø cuûa
nhöõng thò traán lôùn Trung quoác ñaõ haï xuoáng gaàn 2/3 trong thaùng
Hai saùnh vôùi thaùng tröôùc.)
6) Thanh tröøng Chính trò taïi Trung quoác, maø BAÏC HY LAI
laø ñieån hình, phaûi song haønh vôùi caûi toå Kinh teá
Chính
Oâng Robert ZOELLICK, Chuû tòch Ngaân Haøng Theá Giôùi, ñaõ baùo
tröôùc nhöõng ñoái khaùng khi coù nhöõng Caûi toå taän goác cuûa moâ
hình Kinh teá. Chính yeáu nhöõng ñoái khaùng aáy ñeán töø nhöõng Coâng
ty Nhaø Nöôùc maø ñöùng ñaàu laø nhöõng Laõnh ñaïo cao caáp cuûa ñaûng.
Trong nhöõng chuïc naêm tröôøng, nhöõng Laõnh ñaïo naøy ñaõ laøm giaàu
cho caù nhaân mình baèng khoâng “phaân phaùt ñoàng ñeàu thu nhaäp “,
baèng Tham nhuõng. Ngaøy nay, caûi caùch moâ hình Kinh teá coù nghóa
laø ñuïng ñeán “noài côm “ cuûa nhöõng Laõnh ñaïo aáy. Ñaây laø söï
phaûn khaùng khoâng ñeán töø daân ngheøo, maø ñeán töø nhöõng quan
chöùc laõnh ñaïo nhaèm baûo veä noài côm cuûa hoï ñaõ thu veùn töø khi
nhaäp ñaûng. Oân Gia Baûo hieåu caùi khoù khaên naøy vaø ñaõ baùo
tröôùc moät cuoäc Caùch Maïng Vaên Hoùa, nghóa laø moät cuoäc Thanh
tröøng Chính trò nhaèm loaïi tröø nhöõng nhoùm “quyeàn lôïi “.
BAÏC
HY LAI, 62 tuoåi, con cuûa Baïc Hy Baïc, cöïu caùch maïng thôøi Mao
Traïch Ñoâng. Baïc Hy Lai ñaõ töøng giöõa chöùc Boä tröôûng Thöông Maïi.
Hieän Oâng laø Bí Thö ñaûng vuøng Chung Kinh vaø laø moät trong 25
ngöôøi thuoäc Boä Chính trò cuûa ñaûng. Baùo chí goïi Oâng laø moät
Maoiste baûo thuû Kyû luaät truyeàn thoáng ñaûng thôøi Mao Traïch Ñoâng,
nghóa laø choáng laïi nhöõng caûi caùch ñi xa kyû luaät ñoäc taøi ñoäc
ñaûng Chính trò. Tham voïng cuûa Baïc Hy Lai laø tieán leân moät trong
9 ngöôøi thuoäc Boä Laõnh ñaïo toái cao cuûa ñaûng vaø nhaø nöôùc.
Con ñöôøng tieán thaân ñang leân nhö vaäy, thì ngaøy 15.03.2012, Oâng
bò caùch chöùc bôûi Uûy Ban Trung öông ñaûng CSTQ.
Theo
bình luaän cuûa moät soá Baùo chí, thì ñaây laø vieäc thanh tröøng
Chính trò nhaèm vaøo nhöõng Laõnh ñaïo coù khaû naêng choáng ñoái laïi
cuoäc caûi caùch Kinh teá saép dieãn ra. Theo Oâng Jean-Luc DOMENACH,
Giaùm ñoác Hoïc Vieän Kho hoïc Chính trò Paris, Baïc Hy Lai coù ngöôøi
ñoái thuû laø WANG YANG, Bí thö ñaûng vuøng Quaûng Ñoâng, moät vuøng
Kinh teá giaàu nhaát cuûa Trung quoác. Theo Oâng Jean-Luc DOMENACH,
vuøng Quaûng Ñoâng chuû tröông muoán “nhöõng
caûi caùch Kinh teá môùi ñaët caên baûn treân Nhaø Nöôùc Phaùp quyeàn”
(veut favoriser de nouvelles reùformes eùconomiques baseùes sur l’Etat
de droit) (Nhaät baùo LE TEMPS (Thuïy só) ngaøy 16.03.2012, trang 4).
7) Quan ñieåm cuûa TAÄP CAÅM BÌNH, Laõnh tuï töông lai
naém giöõ Kinh teá vaø Chính trò taïi Trung quoác
TAÄP CAÅM BÌNH, Phoù Chuû tòch Trung quoác, cuõng ñaõ phaùt bieåu nhöõng nhaän ñònh cuûa mình tröôùc Quoác Hoäi Trung quoác veà
yù höôùng Caûi caùch moâ hình Kinh teá vaø thanh loïc Chính trò. Cuoäc
vieáng thaêm Hoa kyø cuûa Oâng môùi ñaây nhö chöùng toû khuynh höôùng
caûi caùch thaân vôùi Taây phöông. Cuoäc vieáng thaêm naøy ñaõ bò moät
soá caùnh baûo thuû coâng kích.
Chuùng
toâi xin trích laïi ñaây baøi vieát cuûa Kyù giaû TUÙ ANH (RFI) döïa
treân nhöõng baûn tin töø Baéc Kinh (REUTERS/Jason Lee) veà nhöõng
tuyeân boá cuûa TAÄP CAÅM BÌNH tröôùc Quoác Hoäi:
“Phoù
Chuû tòch Trung Quoác Taäp Caän Bình nhaän ñònh laø nhaân daân Trung
Quoác gaàn nhö maát heát tin töôûng vaøo ñaûng Coäng saûn. Lôøi tuyeân
boá naøy môùi ñöôïc coâng boá hoâm nay 16/03/2012 trong boái caûnh tranh
giaønh quyeàn löïc ôû caáp thöôïng taàng cuøng luùc vôùi lôøi caûnh
baùo cuûa Thuû töôùng OÂn Gia Baûo veà nguy cô xaûy ra moät vuï « Caùch
maïng vaên hoùa » nhö trong thaäp nieân 60.
Theo
tuyeân boá cuûa Phoù Chuû tòch Trung Quoác Taäp Caän Bình thì ñaûng
Coäng Saûn maø oâng saép leân laõnh ñaïo vaøo vaøo thaùng tôùi ñaây chæ
laø nôi taäp trung thaønh phaàn giaù aùo tuùi côm caàn phaûi ñöôïc «
trong saïch hoùa ».
Nhöõng
teä naïn trong ñaûng caàm quyeàn suoát hôn 63 naêm taïi Trung Quoác
laø « thieáu lyù töôûng, sa ñoïa, voâ nguyeân taéc vaø voâ traùch
nhieäm ñaõ xaâm nhaäp moïi caáp ñaûng vieân » vôùi nhöõng möùc ñoä
khaùc nhau vaø laøm maát uy tín trong daân chuùng.
Baøi
phaùt bieåu cuûa laõnh ñaïo töông lai Trung Quoác ñöôïc trình baøy
taïi Tröôøng Ñaûng hoài ñaàu thaùng Ba vaø môùi ñöôïc coâng boá hoâm
nay treân baùo ñaûng Caàu Thò, moät ngaøy sau khi xaûy ra vuï thanh
tröøng caùch chöùc Bí thö Thaønh uûy Truøng Khaùnh Baïc Hy Lai, theá
heä « hoaøng töû ñoû ».
Theo
AFP, vaøo luùc taát caû nhöõng chöùc vuï quan troïng taïi Trung Quoác,
töø caáp thaáp nhaát ñeán caáp laõnh ñaïo, töø trong chính quyeàn ñeán
laõnh vöïc kinh teá, xí nghieäp, ñeàu naèm trong tay ñaûng vieân, oâng
Taäp Caän Bình lo ngaïi raèng ñaûng Coäng saûn ñaõ bieán thaønh nôi
chia chaùc ñænh chung. Vaøo ñaûng laø ñeå coù cô hoäi vinh thaân phì
gia, chöù khoâng phaûi vì lyù töôûng hay muïc ñích cao ñeïp phuïng söï
ñaát nöôùc vaø nhaân daân.
Laõnh
ñaïo töông lai cuûa Trung Quoác nhaän ñònh : "Nhieàu ngöôøi gia nhaäp
Ñaûng khoâng phaûi vì chuû nghóa Maùc hay ñeå noã löïc xaây döïng cheá
ñoä xaõ hoäi chuû nghóa theo maøu saéc Trung Hoa, hoaëc laø ñeå chieán
ñaáu cho ñeán gioït maùu cuoái cuøng cho chính nghóa coäng saûn, maø
hoï vaøo Ñaûng vì ñöôïc höôûng ñaëc quyeàn ñaëc lôïi caù nhaân".
Nhaân
vaät saép leân thay Hoà Caåm Ñaøo nhaán maïnh ñeán yeáu toá maø oâng
goïi laø « yù thöùc heä trong saùng » ñeå duy trì « tinh thaàn saùng
taïo vaø tính chieán ñaáu». Sôû dó ñaûng vieân ñaûng Coäng saûn Trung
Quoác bò maát tín nhieäm, bò sa ñoïa laø do « tö töôûng khoâng trong
saùng ».
Caâu hoûi ñaët ra laø laøm caùch naøo ñeå kieán taïo « söï trong saùng » nôi ngöôøi coäng saûn Trung Quoác ?
OÂng
Taäp Caän Bình nhaán maïnh ñeán giaûi phaùp « cuûng coá toå chöùc,
kieåm soaùt vieäc keát naïp ñaûng vieân , taêng cöôøng giaùo duïc vaø
thanh tra ». Sau cuøng laø « thanh loïc haøng nguõ moät caùch kieân
quyeát, khai tröø nhöõng phaàn töû thoaùi hoùa nghieâm troïng khoâng
theá cöùu vaõn ».
Moät
ngaøy sau khi thanh tröøng Baïc Hy Lai, laõnh ñaïo ñaûng Coäng saûn
taïi Truøng Khaùnh, nhöõng lôøi tuyeân boá ñao to buùa lôùn naøy ñöôïc
giôùi quan saùt xem laø daáu hieäu cuûa nhöõng xung khaéc gay gaét trong
noäi boä ñaûng Coäng saûn Trung Quoác.
Theo
giaùo sö Willy Lam, ñaïi hoïc Hoàng Koâng, thì Baïc Hy Lai laø naïn
nhaân cuûa cuoäc tranh giaønh quyeàn löïc giöõa phe xuaát thaân töø
Ñoaøn Thanh nieân Coäng saûn do Hoà Caåm Ñaøo thoáng lónh vaø phe « con
oâng chaùu cha » ñöôïc goïi laø giôùi hoaøng töû ñoû nhö Baïc Hy Lai.
Phaûi
ngaên chaän ñöôïc « phe baûo thuû » thì phe taïm goïi laø « caûi caùch
» môùi coù theå hy voïng keùo daøi ñaëc quyeàn sau khi theá heä Hoà
Caåm Ñaøo vaø OÂn Gia Baûo ra ñi. Thöïc chaát thì caû hai phe ñeàu thi
haønh chính saùch aùp böùc vôùi daân töø hôn 60 naêm qua.
Thuû
töôùng OÂn Gia Baûo coù veû khoâng yeân taâm cho töông lai cuûa cheá
ñoä. Thöù Tö vöøa qua, aùm chæ cuoäc noåi daäy cuûa daân oan laøng OÂ
Khaûm choáng baát coâng vaø tham nhuõng, OÂn Gia Baûo tuyeân boá khoâng
loaïi tröø Trung Quoác seõ gaëp bieán ñoäng maø oâng goïi laø « moät bi
kòch» nhö cuoäc caùch maïng vaên hoùa thôøi Mao neáu khoâng « caûi
caùch » kòp luùc.
Tuy
nhieân, cuõng nhö nhöõng laàn keâu goïi tröôùc, Thuû töôùng Trung
Quoác khoâng noùi roõ laø « caûi caùch gì vaø cuï theå ra sao ».
Chuyeân
gia Jean-Philippe Beja thuoäc Vieän Quan heä Quoác teá Phaùp döï baùo
seõ coøn nhieàu « dieãn bieán » baát ngôø trong thôøi gian tôùi.”
8) Lieäu Trung quoác coù laøm troïn ñöôïc caûi toå moâ hình Kinh teá
vaø thanh tröøng ñöôïc Chính trò, hay vieãn töôïng Töï noå (Implosion) seõ dieãn ra ?
Vieäc
caûi toå taän goác moâ hình Kinh teá Trung quoác seõ gaëp hai caùi
LÖÔÕNG NAN chính yeáu ñöôïc toùm goïn trong caâu noùi cuûa Thuû töôùng
OÂN GIA BAÛO tröôùc Quoác Hoäi naêm 2010 veà chính caùi moâ hình naøy:
“L’inflation,
plus une redistribution ineùquitable des revenus et la corruption
pourraient affecter la stabiliteù sociale et meâme la stabiliteù du
gouvernement” (Laïm phaùt, theâm vaøo ñoù laø moät söï phaân phoái
khoâng ñoàng ñeàu nhöõng thu nhaäp vaø tham nhuõng coù theå taùc haïi
ñeán söï oån ñònh xaõ hoäi vaø ngay caû ñeán söï oån ñònh nhaø nöôùc” (Le Monde 16.03.2010, trang 16).
Caùi LÖÔÕNG NAN thöù nhaát haøm nguï trong nhöõng tieáng: redistribution ineùquitable des revenus. Ñoù laø caùi Löôõng nan naèm chính trong Cô cheá CSTQ hieän haønh. Caùi LÖÔÕNG NAN thöù hai haøm nguï trong moät chöõ: corruption
LÖÔÕNG NAN THÖÙ NHAÁT: redistribution ineùquitable des revenus (phaân phoái khoâng ñoàng ñeàu thu hoaïch.
Ñaûng
vaãn giöõ Chính trò ñoäc taøi naém troïn ñoäc quyeàn Kinh teá, nghóa
laø vaãn giöõ moâ hình Kinh teá ñoäc taøi ñeå thu lôïi Kinh teá cho
nhoùm ñaûng, maø khoâng phaân phoái ñoàng ñeàu giöõa Daân vaø Ñaûng.
Neáu khoâng DAÂN CHUÛ HOÙA Kinh teá thì caùi caùch bieät Giaàu—Ngheøo do
vieäc khoâng phaân phoái ñoàng ñeàu vaãn toàn taïi vaø vaãn lôùn daàn
ñeå coù ngaøy DAÂN NOÅI DAÄY daønh laáy quyeàn lôïi Kinh teá.
=> Neáu
taêng maõi löïc daân chuùng noäi ñòa, daân chuùng giaàu leân, chieám
höõu moät soá nhöõng phöông tieän saûn xuaát vaø ñoøi quyeàn Töï do söû
duïng nhöõng phöông tieän aáy trong sinh hoaït Kinh teá. Phaïm vi chuû
ñaïo Kinh teá cuûa Nhaø Nöôùc bò haïn heïp laïi. Coù theå noùi laø
taêng Maõi löïc cho daân chuùng coù nghóa laø daân chuû hoùa daàn daàn
Kinh teá. Khi Kinh teá ñöôïc daân chuû hoùa, thì söï
phaùt trieån cuûa noù ñoøi hoûi moät Moâi tröôøng Chính trò-Luaät phaùp
DAÂN CHUÛ cho phuø hôïp. Moät neàn Chính trò chuû tröông ñoäc taøi
ñoäc ñaûng taát nhieân khoâng cho daân Maõi löïc, phöông tieän laøm cho
Daân laät ñoå quyeàn löïc ñoäc taøi ñoäc ñaûng cuûa mình.
=> Nhö
ñaõ noùi veà vieäc nôùi roäng tö höõu trong neàn Kinh teá Trung quoác,
nhöng caùi tö höõu naøy laïi chæ daønh cho nhoùm ñaûng vaø nhöõng keû
lieân heä vôùi nhoùm ñaûng bôûi vì chính nhoùm ñaûng naøy vaãn naém quyeàn
löïc Chính trò vaø chuû ñaïo Kinh teá. Phaûi noùi raèng quyeàn tö höõu
naøy laø daønh rieâng cho nhoùm ñaûng coù quyeàn Chính trò ñoäc taøi.
Chính vì vaäy, khi Kinh teá ñöôïc daân chuû hoùa do taêng Maõi löïc vaø
quyeàn Töï do nôùi roäng, thì vieäc quyeàn löïc Chính trò naém ñoäc
quyeàn Kinh teá ñeå thuû lôïi cho nhoùm ñaûng khoâng coùn nöõa, nghóa
laø Cô cheá bò tan raõ.
LÖÔÕNG NAN THÖÙ HAI: corruption (tham nhuõng)
Khi
caùi Cô cheá ñoäc ñaûng ñoäc taøi Chính trò coøn naém ñoäc quyeàn Kinh
teá, thì töï noù laøm phaùt sinh vaø lan traøn Tham nhuõng. Chính caùi
Tham nhuõng naøy taïo nhöõng nhoùm Lôïi ích trong loøng cuûa ñaûng.
Ñaây laø söï baát oån trong chính noäi boä cuûa ñaûng ñeå moät laø
Thanh tröøng chính trò thaønh coâng hai laø phaân taùn Töï noå
(Implosion) nhöõng Laõnh ñaïo ñaûng ra thaønh nhöõng Laõnh chuùa.
Tình
traïng Nôï Coâng cuûa caùc Tænh taïi Trung quoác seõ laø nguoàn tranh
chaáp giöõa caùc vuøng Kinh teá. Chính quyeàn ñòa phöông caùc Tænh laïi
ñoäc taøi vaø tham nhuõng, thì vieäc laïm chi ñeå mang nôï coâng töøng
Tænh taát nhieân xaåy ra. Töø Khuûng hoaûng 2008, nhöõng chöông trình
Kích caàu Kinh teá ñöôïc chia veà caùc Tænh, nhöng vieäc Kích caàu
khoâng ñöôïc thöïc hieän. Nhöõng Chi nhaùnh Ngaân haøng ñòa phöông ñaõ
duøng nhöõng moùn tieàn aáy ñeå cho vay kieám lôøi. Chính quyeàn ñòa
phöông vay tieàn ñeå xaây döïng nhöõng döï aùn nhaø cöûa vaø theá chaáp
baèng chính ñaát ñai thoäc nhaø nöôùc. Vôùi theá chaáp nhö vaäy, thì
khoâng theå naøo tieàn cho vay ñöôïc hoaøn traû.
Theo
thaåm ñònh cuûa ngaân haøng Anh, Standard Chartered nôï coâng cuûa
Trung Quoác hieän leân tôùi 28 000 tyû nhaân daân teä, töùc khoaûng 3
200 tyû euro vaø töông ñöông 68 % toång saûn phaåm noäi ñòa. Ñaùng lo
ngaïi hôn caû laø ngaønh ngaân haøng Trung Quoác ñang naém trong tay
ñeán 9 000 tyû nhaân daân teä nôï khoù ñoøi. Khoaûn tieàn töông ñöông
vôùi 22 % GDP cuûa Trung Quoác .
Taïi
Trung Quoác 3/4 caùc khoaûn chi tieâu coâng coäng laø do caùc chính
quyeàn ñòa phöông taøi trôï vaø chuû yeáu giôùi laõnh ñaïo doàn tieàn
vaøo khu vöïc ñòa oác.
Theo
thoáng keâ chính thöùc, hieän taïi nôï coâng taïi caùc caáp vuøng leân
tôùi 1 250 tyû euro, töông ñöông vôùi 20 % cuûa caûi laøm ra vaø 80 %
khoaûn nôï khoång loà naøy do caùc ngaân haøng Trung Quoác naém giöõ.
Vaán ñeà caøng theâm nghieâm troïng khi bieát raèng, khoái nôï coâng hôn
1200 tyû euro vöøa neâu, treân thöïc teá coù theå cao hôn gaáp ñoâi so
vôùi thoáng keâ chính thöùc.
Theo
nhaän xeùt cuûa giaùo sö ñaïi hoïc Northwestern, Chicago, chuyeân gia
veà kinh teá Trung Quoác, oâng Victor Shil do caùc coâng ty nhaø nöôùc
ñöôïc caùc ngaân haøng quaù öu ñaõi neân ruûi ro nôï khoù ñoøi cuûa
giôùi ngaân haøng laïi caøng cao.
Moät
tieáng noùi uy tín khaùc töø vieän nghieân cöùu kinh teá ñoäc laäp
Unirule taïi Baéc Kinh cuõng cho raèng : Trung Quoác ñang laâm vaøo
"hoäi chöùng Hy Laïp". Tình traïng nôï naàn taïi quoác gia chaâu AÙ naøy
coøn nguy ngaäp hôn caû so vôùi ôû Hoa Kyø vaø chaâu AÂu bôûi leõ caùc
tænh thaønh Trung Quoác, ñaëc bieät laø caùc tænh ngheøo vaø keùm
phaùt trieån ñaõ deã daøng ñöôïc caáp tín duïng ñeå môû mang kinh teá.
Voán ñöôïc doàn cho caùc coâng ty doanh nghieäp nhaø nöôùc nhöng caùc
ñôn vò ñoù laïi laøm aên keùm hieäu quaû.
Cuoái
naêm ngoaùi, chính quyeàn trung öông vì lo ngaïi nôï coâng ôû caáp ñòa
phöông vöôït khoûi taàm kieåm soaùt ñaõ cho tieán haønh moät cuoäc
kieåm toaùn vaø theo ñoù thì nhieàu tænh thaønh ñang bò ñe doïa maát
khaû naêng thanh toaùn. Trong soá ñoù phaûi keå ñeán ñaûo Haûi Nam,
thieân ñöôøng du lòch cuûa caùc nhaø tyû phuù ñoû Trung Quoác.
Caû
hai LÖÔÕNG NAN thöù nhaát vaø LÖÔÕNG NAN thöù hai ñeàu do vieäc duøng
quyeàn chieám ñoaït taøi saûn khoâng ñoàng ñeàu. Ngöôøi ta coù theå
giaûi quyeát deã daøng vieäc phaân chia quyeàn haønh Chính trò ñoäc taøi
hôn keùm. Nhöng giaûi quyeát vieäc phaân chia Taøi saûn cho ñoàng ñeàu
môùi laø vieäc can go. Thöû quan saùt trong caùc Gia ñình, phaân chia
quyeàn haønh Choàng—Vôï khoâng phaûi to tieáng. Nhöng ñuïng ñeán Tieàn
baïc, thì giöõa Vôï—Choâng khoù traùnh nhöõng gay go caõi vaõ !
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 22.03.2012
Web: http://VietTUDAN.net
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0214
THƠ VƯƠNG GIA LÊ
NHỚ SAIGON
Bỗng dưng thấy nhớ Sai gòn,(1)
Cộng Hòa (2) phấn trắng, trăng tròn Văn Khoa (3)
Tưng bừng bao tháng ngày qua,
Trưng Vương trìu mến, thăng hoa chuyện tình.
Sai gòn chiều nắng thủy tinh,(4)
Dìu nhau mưa gió cho tình thanh thanh
Sai gòn cây cỏ tươi xanh,
Bà Trưng ,Thống Nhất như mình với ta.
Sàigon điểm hẹn sao sa,(5)
Dòng người nao nức bao la Bạch Đằng.
Tân Định già trẻ tung tăng,
Tự Do, Lê Lợi sao băng rộn ràng.
Đồng Khánh tấp nập nhịp nhàng,
Bến Thành rực sáng những tràng pháo bông.
Sai gòn như đóa hao hồng,
Yêu Sài gòn lắm phải lòng tình nhân.
Sài gòn hun đúc danh nhân,
Làm nên sự nghiệp hiến dâng quê nhà.
Xin cho lời nhắn gần xa,
Sai gòn muôn sắc "tình là thủy chung". Xuân nhâm thìn 2012.
Vương Gia Lê
(1).
Trước 1975 đại lộ Thống nhất nay là Lê Duẩn; Hai Bà Trưng ( không đổi).
Tự Do( Đồng Khởi), Lê Lợi (không đổi); Cường Để (Tôn Đức Thắng).
(2).Đường Cộng Hòa: Trường Đại Học Sư Phạm thành lập năm 1959.Phấn trắng:nghề dạy học.
(3).Đại Học Văn Khoa xưa ở đường Nguyễn Trung Trực, Lê Thánh Tông , Gia LOng, sau dời về đường Cường Để.
(4). Trời chiều Saigon rất đẹp, rất trong.
(5). Sao sa hay sao băng.
(2).Đường Cộng Hòa: Trường Đại Học Sư Phạm thành lập năm 1959.Phấn trắng:nghề dạy học.
(3).Đại Học Văn Khoa xưa ở đường Nguyễn Trung Trực, Lê Thánh Tông , Gia LOng, sau dời về đường Cường Để.
(4). Trời chiều Saigon rất đẹp, rất trong.
(5). Sao sa hay sao băng.
A SKY OF MISSING SAI GÒN
Hoàng, Trường Sa của nước ta,
A sense of nostalgia reaches my soul
The white chalk of Công Hòa- a moonlit Văn Khoa
Magnificent were the days passed
Trưng Vương anchanted with illustrious love stories.
Saigon- an afernoon of luminous sun,
Strolling hand in hand-rejoicing love,
Saigon of lustrous greenry,
Ba Trưng, Thống Nhất, you and I
Saigon we meet on a starry night rendez vous
A stream of delighted pedestrians along the vast Bach Dang harbor
Tân Định the young and old springing in their steps
Tư Do, Lê Lợi= sea of dancing stars
Đồng Khánh people move in synchronized beats
Bến Thanh beams brightly in the fireworks spectacle
Saigon- my exquisite rose
My heart is deeply taken by you
Saigon breeds luminaries
Who make life a success and enrich Vietnam
Allow me to send my heart felt regard
Saigon of many Hues, Love is devotion
The white chalk of Công Hòa- a moonlit Văn Khoa
Magnificent were the days passed
Trưng Vương anchanted with illustrious love stories.
Saigon- an afernoon of luminous sun,
Strolling hand in hand-rejoicing love,
Saigon of lustrous greenry,
Ba Trưng, Thống Nhất, you and I
Saigon we meet on a starry night rendez vous
A stream of delighted pedestrians along the vast Bach Dang harbor
Tân Định the young and old springing in their steps
Tư Do, Lê Lợi= sea of dancing stars
Đồng Khánh people move in synchronized beats
Bến Thanh beams brightly in the fireworks spectacle
Saigon- my exquisite rose
My heart is deeply taken by you
Saigon breeds luminaries
Who make life a success and enrich Vietnam
Allow me to send my heart felt regard
Saigon of many Hues, Love is devotion
HOÀNG SA, TRƯỜNG SA CHÚNG TA ĐÂU?
Quân Tàu ngạo nghễ đi ra, đi vào.
Hãy đứng lên , hỡi đồng bào!
Tàu Ô tràn ngập núi cao sông dài!
Đánh cho tan nào một ,hai,
Kẻ thù truyền kiếp,ai ai mời vào?
Lyũ bán nước ,loạn cào cào,
Dũng, Hùng, Sang, Trọng(1) - "ghi vào sử xanh"
Hồ Chí Minh tội rành rành,
Toàn dân đói rách- trung thành Mác Lê.
Quả là nhục nhã ê chề
Việt Nam tụt hậu (2)-bón bề năm châu
Lãnh đạo như bầy bò trâu,
Khiến cho Trung Cộng-đè đầu Việt Nam.
Cùng đứng lên đánh cho tan,
Bọn quân xâm lược- khải hoàn ca vang.
Hãy đứng lên đập cho tan,
Tập đoàn bán nước, khải hoàn vang ca
Cho Việt Nam của dân ta, Tự do, dân chủ, nhà nhà ấm no.
Indiana, October 2011
Trường Sơn
___
(1).Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Sinh Hùng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng.
(2). Bảng xếp hạng 2010, 500 đại học không có đại học Việt Nam.
Friday, April 13, 2012
TIN BIỂN ĐÔNG
Báo Đảng TQ dọa 'có biện pháp' với VN
Cập nhật: 16:20 GMT - thứ tư, 11 tháng 4, 2012
Một
ngày sau khi chính phủ Trung Quốc chính thức phản đối dự án
khai thác khí đốt ở bồn trũng Nam Côn Sơn giữa PetroVietnam
và tập đoàn Nga Gazprom, tờ China Daily dẫn lời quan chức Trung
Quốc nói đã có biện pháp ngăn chặn.
Tờ
báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, xuất bản bằng tiếng Anh,
trong bài đăng hôm thứ Tư 11/4 nói Trung Quốc cực lực phản đối
bất cứ quốc gia nào muốn khai thác nguồn lợi dầu khí "trong
các vùng biển của Trung Quốc mà không xin phép".Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
"Chúng tôi đã phản đối chính thức và có biện pháp ngăn chặn các hành động phi pháp này."
Ông Đặng không nói rõ đó là các biện pháp gì.
Hôm thứ Năm 5/4 tập đoàn khí đốt khổng lồ của Nga Gazprom cho hay đã đạt thỏa thuận với Tập đoàn Dầu khí Nhà nước PetroVietnam để cùng khai thác khí đốt tại hai lô 5.2 và 5.3 ngoài khơi Việt Nam.
Cùng lúc, Tổng giám đốc Gazprom Alexey Miller đã có mặt tại Hà Nội và hội kiến lãnh đạo Việt Nam.
Gazprom cho hay hai lô nói trên trong bồn trũng Nam Côn Sơn ngoài khơi Việt Nam có trữ lượng tới 55,6 tỷ mét khối gas và 25 triệu tấn khí ngưng tụ.
Điều đáng chú ý là chính tại hai lô nói trên có các mỏ khí Hải Thạch và Mộc Tinh, mà Trung Quốc đã thành công trong việc tạo áp lực buộc tập đoàn dầu khí Anh BP phải rút khỏi dự án với Việt Nam.
Việc công ty Nga đầu tư vào hai lô này được báo Trung Quốc bình luận là bị Việt Nam 'lôi kéo vào cuộc tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc'.
'Các nước bên ngoài'
Ông Tô Hạo, chuyên gia về Việt Nam tại Viện Quan hệ Quốc tế Trung Quốc, nói trên China Daily rằng Việt Nam muốn mang Nga, một quốc gia 'nằm ngoài khu vực' vào để đối trọng ảnh hưởng của Trung Quốc."Việt Nam luôn luôn thi hành chính sách này (lôi kéo các nước bên ngoài vào tranh chấp Biển Đông) trong khi Điện Kremlin đang muốn khôi phục lại ảnh hưởng của Nga ở Đông Á, bởi vậy không có gì lạ khi hai nước ký thỏa thuận khí nói trên."
Ông Đặ́ng Trọng Hoa từ Tổng cục Biên giới và Hải dương thì nói: "Trung Quốc luôn chủ trương gạt bỏ bất đồng để cùng khai thác nguồn lợi dầu khí trong các vùng biển còn đang tranh chấp. Chúng tôi muốn thảo luận với các bên liên quan để tìm ra một giải pháp toàn diện và hợp lý".
Tuy nhiên, mấu chốt trong tuyên bố 'gác tranh chấp cùng khai thác' của Trung Quốc là nguyên tắc bất di bất dịch về việc Trung Quốc có 'chủ quyền không thể chối cãi' tại các vùng tranh chấp.
Đường 'lưỡi bò' mà Trung Quốc đưa ra với tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông chiếm tới 80% diện tích vùng biển này.
Theo Tổng cục trưởng Đặng, Trung Quốc càng lớn mạnh thì các có nhiều thách thức trong nước và trên trường quốc tế, do đó các ầm ỹ xung quanh tranh chấp Biển Đông cũng là điều dễ hiểu.
Đáp lại tuyên bố rằng Biển Đông 'là của chung và không quốc gia nào được tìm cách độc chiếm' mà Ngoại trưởng Ấn Độ S.M. Krishna đưa ra hôm 6/4, ông Đặng Trọng Hoa nói vấn đề Biển Đông không hề ảnh hưởng tới việc lưu thông hàng hải qua khu vực.
"Một số nước ngoài khu vực muốn thổi phồng vấn đề tự do lưu thông và an ninh tại Biển Đông, sử dụng chúng làm cái cớ để can thiệp [vào trong khu vực] và chúng tôi cực lực phản đối hành động này."
Ông Tô Hạo kết luận rằng cả Trung Quốc và Ấn Độ đều là các quốc gia đang lên ở Á châu, Ấn Độ coi Trung Quốc là đối thủ chiến lược lớn nhất trong khu vực. Tuyên bố của Ngoại trưởng Krishna, theo ông, là động thái làm căng thẳng thêm tranh chấp nhằm kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Thái độ của Nga?
Trong lúc giới chức Việt Nam và Nga không đưa ra bình luận gì về thỏa thuận giữa Gazprom và PetroVietnam, dư luận đặt câu hỏi liệu áp lực từ phía Trung Quốc sẽ có tác động thế nào tới dự án khai thác khí ở hai mỏ Hải Thạch và Mộc Tinh.Liệu Gazprom có xử sự giống như BP đã làm mấy năm trước hay không.
Thông tin không được công bố ra ngoài, nhưng sau bị rò rỉ qua công điện của giới ngoại giao Hoa Kỳ trên Wikileaks cho thấy vào thời điểm trước khi BP quyết định rút lui, công ty này đã bị 'cả Trung Quốc và Việt Nam gây áp lực'.
Một điện tín đánh đi hôm 23/04/2008 từ tòa đại sứ Hoa Kỳ ở London viết: "Chính phủ Trung Quốc đã đe dọa có hành động với tài sản của BP tại Hoa lục nếu như công ty này không ngừng các dự án mới tại các khu vực đang tranh chấp ở Biển Đông".
"Việt Nam luôn luôn thi hành chính sách này (lôi kéo các nước bên ngoài vào tranh chấp Biển Đông) trong khi Điện Kremlin đang muốn khôi phục lại ảnh hưởng của Nga ở Đông Á, bởi vậy không có gì lạ khi hai nước ký thỏa thuận khí nói trên."
Tô Hạo, Viện Quan hệ Quốc tế Trung Quốc
Về phần mình, chính phủ Việt Nam cũng nói với BP rằng các dự án trên bờ của hãng này ở Việt Nam có thể gặp khó khăn nếu BP thuận theo áp lực của Trung Quốc.
Kết quả sau đó là vào tháng 6/2007, BP đã ngừng kế hoạch khảo sát địa chấn tại lô 5.2 "để cho các nước liên quan có cơ hội giải quyết vấn đề".
Tháng 3/2009, BP chính thức rút khỏi hai lô 5.2 và 5.3.
Hai lô này, tại hai mỏ khí Hải Thạch và Mộc Tinh cách bờ 370 km, được phát hiện từ năm 1996, nằm ở khu vực Nam Côn Sơn, giữa Trường Sa và bờ biển Việt Nam.
Trường hợp của BP cho thấy một giải pháp dung hòa trong việc làm ăn của các công ty nước ngoài tại các vùng các bên cùng tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông là rất khó khăn.
Nhiều khi, nó vượt ra ngoài phạm trù kinh tế, và phụ thuộc chủ yếu vào ý chí chính trị của các bên liên quan.
Nga, đồng minh lâu năm và đối tác chính của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, có khá nhiều quyền lợi trong việc duy trì hậu thuẫn cho Hà Nội. Gazprom, tuy có làm ăn với Trung Quốc, nhưng cũng là tập đoàn nhà nước và bị chi phối bới việc hoạch định chính sách của Điện Kremlin.
Bởi vậy, giới bình luận cho rằng tập đoàn này sẽ tỏ thái độ cứng rắn hơn trước áp lực của Trung Quốc.
Điều này chắc chắn sẽ đặt các nhà hoạch định chính sách ở Bắc Kinh trước một bài toán nan giải.
Bấm Trở về đầu trang
Các
quan chức Philippines cho hay một tàu tuần duyên sẽ đến hỗ
trợ cho tàu đô đốc của họ ở bãi cạn Scarborough nơi hai tàu
hải giám Trung Quốc đang bảo vệ các tàu cá của họ khỏi bị
phía Philippines bắt giữ.
“Điều quan trọng là chúng tôi đang nói chuyện với họ để đạt một giải pháp ngoại giao. Giải pháp ngoại giao cần phải hợp lý và khả thi,” ông nói với các phóng viên.
Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario cho biết ông đã cảnh báo đại sứ Trung Quốc ở nước này là bà Mã Cơ Thanh rằng Manila sẽ tự vệ nếu bị khiêu khích trong một cuộc gặp với bà này.
Ông Rosario nói rằng các ngư dân Trung Quốc ‘đã đánh bắt trái phép và đánh bắt những loài trong diện tối nguy’.
Cả hai vị này đều quả quyết vị trí của bãi cạn Scarborough là thuộc chủ quyền của nước nọ.
“Chúng tôi quyết tâm tìm kiếm một giải pháp hòa bình,” Ngoại trưởng Rosario phát biểu trong một cuộc họp báo.
Còn tổng thống nước này Benigno Aquino cho rằng ‘không ai có lợi nếu bạo lực bùng nổ’.
Trong khi đó, một quan chức Bộ ngoại giao Hoa Kỳ phát biểu với điều kiện giấu tên rằng nước này ‘kêu gọi các bên kiềm chế tối đa và tìm kiếm một giải pháp ngoại giao’.
Cuộc đối đầu giữa tàu chiến hai nước bắt đầu hôm Chủ nhật ngày 8/4 khi giới chức Philippines phát hiện tám tàu cá Trung Quốc đang đánh bắt ở bãi cạn này – vốn là một chuỗi các hòn đảo và đảo san hô nhỏ nằm cách Luzon, đảo chính của Philippines, 124 hải lý về phía tây.
Hai tàu hải giám Trung Quốc đã thông qua radio nói với tàu chiến Philippines rằng họ đã xâm phạm lãnh hải của Trung Quốc và yêu cầu tàu chiến này phải rơi đi.
Tuy nhiên, các sỹ quan trên tàu chiến Philippines đã bác bỏ yêu cầu này của phía Trung Quốc và trả lời rằng vùng biển này nằm hoàn toàn trong lãnh hải Philippines, theo nguồn tin từ Hải quân Philippines.
Hôm
thứ Tư ngày 11/4, Tòa đại sứ Trung Quốc ở Manila đã ra một
thông cáo yêu cầu tàu chiến Philippines rời khỏi ‘vùng biển có
tranh chấp’.
Từ Bắc Kinh, người phát ngôn Bộ ngoại giao nước này Lưu Vi Dân cáo buộc Philippines ‘quấy rối’ các ngư dân Trung Quốc và cho biết họ đã có phản đối chính thức với phía Philippines.
“Chúng tôi kêu gọi phía Philippines... đừng tạo thêm rắc rối mới và hãy xây dựng những điều kiện cho mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước,” ông Lưu nói.
Trung Quốc một mực cho rằng các ngư dân đang ở trong vùng đánh bắt truyền thống thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Trong vụ va chạm mới nhất trên Biển Đông này, Philippines đã điều tàu chiến lớn nhất trong hạm đội của họ đến hiện trường ngay lập tức sau khi phát hiện ngư dân Trung Quốc.
Ngay sau đó, hai tàu hải giám của Trung Quốc xuất hiện hôm thứ Ba ngày 10/4 và ngăn chặn không cho tàu chiến Philippines tiếp cận các tàu cá.
- Chia sẻ
- Gửi cho bạn bè
- In trang này
- http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/04/120411_chinadaily_gasdeal.shtm
Philippines điều thêm tàu đối đầu với TQ
Cập nhật: 04:17 GMT - thứ năm, 12 tháng 4, 2012
Philippines
đã triển khai thêm tàu chiến thứ hai hôm thứ Năm ngày 12/4
đến bãi cạn ở Biển Đông nơi đang xảy ra cuộc đối đầu giữa
họ với Trung Quốc xung quanh tám tàu cá Trung Quốc bị tình
nghi đánh bắt trái phép.
Động thái này là nỗ lực của Philippines để khẳng định chủ quyền của họ ở vùng biển này.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Giải pháp hòa bình
Tuy nhiên một quan chức của Bộ ngoại giao Philippines là Raul Hernandez cũng nhấn mạnh rằng nước này mong muốn chấm dứt cuộc đối đầu trong hòa bình và các cuộc đàm phán với các nhà ngoại giao Trung Quốc sẽ tiếp tục.“Điều quan trọng là chúng tôi đang nói chuyện với họ để đạt một giải pháp ngoại giao. Giải pháp ngoại giao cần phải hợp lý và khả thi,” ông nói với các phóng viên.
Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario cho biết ông đã cảnh báo đại sứ Trung Quốc ở nước này là bà Mã Cơ Thanh rằng Manila sẽ tự vệ nếu bị khiêu khích trong một cuộc gặp với bà này.
Ông Rosario nói rằng các ngư dân Trung Quốc ‘đã đánh bắt trái phép và đánh bắt những loài trong diện tối nguy’.
"Chúng tôi quyết tâm tìm kiếm một giải pháp hòa bình."
Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario
“Chúng tôi quyết tâm tìm kiếm một giải pháp hòa bình,” Ngoại trưởng Rosario phát biểu trong một cuộc họp báo.
Còn tổng thống nước này Benigno Aquino cho rằng ‘không ai có lợi nếu bạo lực bùng nổ’.
Trong khi đó, một quan chức Bộ ngoại giao Hoa Kỳ phát biểu với điều kiện giấu tên rằng nước này ‘kêu gọi các bên kiềm chế tối đa và tìm kiếm một giải pháp ngoại giao’.
Cuộc đối đầu giữa tàu chiến hai nước bắt đầu hôm Chủ nhật ngày 8/4 khi giới chức Philippines phát hiện tám tàu cá Trung Quốc đang đánh bắt ở bãi cạn này – vốn là một chuỗi các hòn đảo và đảo san hô nhỏ nằm cách Luzon, đảo chính của Philippines, 124 hải lý về phía tây.
‘Đừng tạo rắc rối’
Manila cáo buộc các ngư dân này đang đánh bắt bất hợp pháp trong vùng biển thuộc chủ quyền của họ bởi vì vùng biển này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý của Philippines theo luật biển quốc tế.Hai tàu hải giám Trung Quốc đã thông qua radio nói với tàu chiến Philippines rằng họ đã xâm phạm lãnh hải của Trung Quốc và yêu cầu tàu chiến này phải rơi đi.
Tuy nhiên, các sỹ quan trên tàu chiến Philippines đã bác bỏ yêu cầu này của phía Trung Quốc và trả lời rằng vùng biển này nằm hoàn toàn trong lãnh hải Philippines, theo nguồn tin từ Hải quân Philippines.
"Chúng tôi kêu gọi phía Philippines... đừng tạo thêm rắc rối mới và hãy xây dựng những điều kiện cho mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước."
Lưu Vi Dân, người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc
Từ Bắc Kinh, người phát ngôn Bộ ngoại giao nước này Lưu Vi Dân cáo buộc Philippines ‘quấy rối’ các ngư dân Trung Quốc và cho biết họ đã có phản đối chính thức với phía Philippines.
“Chúng tôi kêu gọi phía Philippines... đừng tạo thêm rắc rối mới và hãy xây dựng những điều kiện cho mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước,” ông Lưu nói.
Trung Quốc một mực cho rằng các ngư dân đang ở trong vùng đánh bắt truyền thống thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Trong vụ va chạm mới nhất trên Biển Đông này, Philippines đã điều tàu chiến lớn nhất trong hạm đội của họ đến hiện trường ngay lập tức sau khi phát hiện ngư dân Trung Quốc.
Ngay sau đó, hai tàu hải giám của Trung Quốc xuất hiện hôm thứ Ba ngày 10/4 và ngăn chặn không cho tàu chiến Philippines tiếp cận các tàu cá.
KÝ VŨ QUÝ HẠO NHIÊN
Ðến cuối đời, có gì để tiếc?
Vũ Quí Hạo Nhiên
Vũ Quí Hạo Nhiên
Một bài viết của một cô y tá người Úc dạy mình nhiều bài học về lẽ sống ở đời. Bài viết được truyền đi trên Internet, nhiều người bấm “like.”
Có một trang blog chỉ in lại bài này thôi mà cũng được tới 52,000 người bấm nút “like.”
Bài viết mang tựa đề “5 nỗi hối hận của người sắp qua đời,” cho thấy những điều người ta tiếc nuối khi biết mình sắp chết.
Tác giả Bronnie Ware là một nhạc sĩ sáng tác, từng là y tá chuyên điều trị người sắp chết. Ðây là những bệnh nhân biết mình không qua được, không muốn chữa trị nữa mà về nhà chờ ngày ra đi vĩnh viễn.
Trong những ngày đó, cô Ware tới chăm sóc họ, cho họ uống thuốc, và họ trò chuyện với cô.
Cô
nói, “Họ trưởng thành rất nhiều khi họ phải đối mặt với cái chết của
mình.” Khi cô hỏi họ có gì tiếc nuối không, một số câu trả lời cứ trở
lại mãi. Dưới đây là 5 câu thường nghe nhất. Cô Ware hiện đã viết thêm
thành một quyển sách mang tên “THE TOP FIVE REGRETS OF THE DYING,”
nhà xuất bản Balboa Press, có bán trên Amazon.com.
1. “Tôi ước gì tôi có đủ can đảm để sống cho mình, thay vì sống theo ước muốn của người khác.”
Ðây
là điều tiếc nuối lớn nhất, cô Ware nói. Khi sắp qua đời, nhìn lại,
người ta mới thấy mình có những điều ước chưa bao giờ thực hiện. Hầu
hết mọi người còn chưa thực hiện được một nửa điều mình muốn và phải
nhắm mắt ra đi biết rằng đó là do chọn lựa của mình. Cô Ware nói: “Ðiều
quan trọng là thỉnh thoảng phải thực hiện vài điều mình ước mơ. Ðến
lúc mình bệnh thì trễ mất rồi. Sức khỏe là điều kiện để thực hiện
nhiều thứ, mất rồi thì quá trễ.”
2. “Tôi ước gì tôi đừng đi làm quá như vậy.”
Cô
Ware nói gần như bệnh nhân phái nam nào cũng nói vậy. Các ông ấy do
quá quan tâm việc làm, đã lỡ mất thời em bé hay thiếu niên của các con,
lỡ mất tình bạn với người bạn đường. Phụ nữ cũng nuối tiếc như vậy
nhưng ở thế hệ các bệnh nhân của cô Ware, số phụ nữ đi làm thường không
nhiều. Còn đàn ông, thì “tất cả nuối tiếc đã phí đi quá nhiều phần của
cuộc đời cho cuộc chạy giậm chân của sự nghiệp.”
3. “Tôi ước gì tôi có can đảm bày tỏ cảm xúc.”
Nhiều người cố nén cảm xúc để không bị đụng chạm. Kết quả là cuộc đời của họ bị đè nén. Có người còn vì thế mà bị bệnh.
4. “Tôi ước gì tôi giữ liên lạc được với bạn bè.”
Nhiều
người không thực sự biết giá trị của tình bạn cũ cho tới những tuần
cuối đời và nhiều khi không còn kịp tìm lại bạn cũ nữa. Ðời sống bận
bịu, ai cũng có lúc bỏ bê bè bạn. Nhưng khi người ta biết mình sắp
chết, người ta trước tiên hết lo sắp xếp vấn đề tài sản đâu ra đấy,
nhưng nhiều khi họ muốn sắp xếp để giúp đỡ những người họ quan tâm. Rồi
họ lại quá yếu, quá mệt, không làm được việc này. Ðến cuối đời, cái
còn lại chỉ là bạn bè và người thân là quan trọng.
5. “Tôi ước gì tôi cho phép mình được hạnh phúc hơn.”
Ðiều
đáng ngạc nhiên là rất nhiều người nói lên điều này. Nhiều người phải
đến lúc gần ra đi mới thấy là hạnh phúc là một chọn lựa. Nhiều người
cứ sống và làm theo thói quen, để quên đi mất mình có quyền thay đổi
hết để tìm đến hạnh phúc. Ðến lúc nằm trên giường bệnh, nhiều người
lúc đó mới thấy chuyện người khác nghĩ gì, chê bai gì, là chuyện không
quan trọng gì hết. Họ chỉ muốn được vui, được cười, được hạnh phúc.
THƠ SONG NGỮ
NẮNG TRONG TRẠI CẤM HỒNG KÔNG
Nắng tung tăng nhảy múa
Đùa với gió và mây
Từng giọt nắng thơ ngây
Tròn mắt trên vách lá
Em yêu nắng mùa Hạ
Như yêu lá trên cành
Như yêu gió ngọt lành
Như yêu mây màu trắng
Nhưng Hồng Kông sao nắng
Chẳng thấy đẹp chút nào
Nắng bị nhốt trong rào
Không có mây cùng gió
Bàn tay em nho nhỏ
Nâng niu nắng trên tay
Để đợi chờ mai này
Đưa nắng ra trại cấm.
PHẠM TRUNG THÀNH
(1989= 10 tuổi, nay ở Belgium)
The sunshine is cavorting around,
in its play With wind and clouds:
what freedom composition!
I feast my eyes upon each innocent beam, ray,
Like a round eye wide open on the leafy partition. Oh, how much I cherish that summer sunshine?
As I am quite a lot fond of the leaves on the trees;
I also love the sweet wind and to see it run fine
Like the white clouds softly floating in the breeze. But the Hongkong sunshine, to me, is not nice
Especially to all of boat people here these crowds.
Poor sunshine! It cannot get of the cake any slice:
Locked in, with us, it enjoys no wind and clouds. I catch to fondle in each caring though little hand
Each jot of sunshine, like me, the fences cramp.
To await a tomorrow, I will together with it stand,
To take dear sunshine out of this forbidden camp. Translation by THANH-THANH
VƯỢT BIỂN Giữa đêm lén dậy dòm khe hởĐùa với gió và mây
Từng giọt nắng thơ ngây
Tròn mắt trên vách lá
Em yêu nắng mùa Hạ
Như yêu lá trên cành
Như yêu gió ngọt lành
Như yêu mây màu trắng
Nhưng Hồng Kông sao nắng
Chẳng thấy đẹp chút nào
Nắng bị nhốt trong rào
Không có mây cùng gió
Bàn tay em nho nhỏ
Nâng niu nắng trên tay
Để đợi chờ mai này
Đưa nắng ra trại cấm.
PHẠM TRUNG THÀNH
(1989= 10 tuổi, nay ở Belgium)
SUNSHINE IN THE HONGKONG FORBIDDEN CAMP
The sunshine is cavorting around,
in its play With wind and clouds:
what freedom composition!
I feast my eyes upon each innocent beam, ray,
Like a round eye wide open on the leafy partition. Oh, how much I cherish that summer sunshine?
As I am quite a lot fond of the leaves on the trees;
I also love the sweet wind and to see it run fine
Like the white clouds softly floating in the breeze. But the Hongkong sunshine, to me, is not nice
Especially to all of boat people here these crowds.
Poor sunshine! It cannot get of the cake any slice:
Locked in, with us, it enjoys no wind and clouds. I catch to fondle in each caring though little hand
Each jot of sunshine, like me, the fences cramp.
To await a tomorrow, I will together with it stand,
To take dear sunshine out of this forbidden camp. Translation by THANH-THANH
Nhìn những can-nhân bị bắt về.
Tiếng khóc thơ nhi làm nghẹn thở;
Trái tim thắt bóp nhói đau tê .
Kìa, người thiếu-phụ bồng con dại;
Đứa lớn lưng đìu, tay dắt em.
Ánh mắt nhìn con đầy ái-ngại:
Một bầu đen tối mấy trời lem...
Đứa lớn lưng đìu, tay dắt em.
Ánh mắt nhìn con đầy ái-ngại:
Một bầu đen tối mấy trời lem...
Cuộc đời như một trò may rủi;
Không được thì thua, lẽ hiển-nhiên:
Vốn sạch, sòng tan, tay trắng phủi;
Hướng lai tâm-sự đối sầu miên...
Không được thì thua, lẽ hiển-nhiên:
Vốn sạch, sòng tan, tay trắng phủi;
Hướng lai tâm-sự đối sầu miên...
Ngó người tự thấy mình trong cuộc,
Không khóc mà sao lệ bỗng trào !
Tình-cảm vô-hình mà trói buộc
Cho cùng hạnh-phúc, tận thương-đau !
Không khóc mà sao lệ bỗng trào !
Tình-cảm vô-hình mà trói buộc
Cho cùng hạnh-phúc, tận thương-đau !
Hôm kia, nàng soạn xong hành-lý,
Chỉ chọn mang theo cái tối-cần:
Trước mắt, đàn con là của qúy,
Một phần xương thịt chính châu-thân.
Chỉ chọn mang theo cái tối-cần:
Trước mắt, đàn con là của qúy,
Một phần xương thịt chính châu-thân.
Hôm qua, nàng mặc cho con ấm,
Buộc tóc, trùm khăn, kín cả người;
Lũ trẻ mừng như ăn trái cấm
(Không cho ai biết chuyến "đi chơi")
Buộc tóc, trùm khăn, kín cả người;
Lũ trẻ mừng như ăn trái cấm
(Không cho ai biết chuyến "đi chơi")
Hôm nay, tất cả dầm sương giá,
Mũi buốt xuyên thâu tận đáy lòng.
Đám nhỏ ngỡ-ngàng "Sao thế, má?"
Nghẹn-ngào nàng biết nói sao xong!
Mũi buốt xuyên thâu tận đáy lòng.
Đám nhỏ ngỡ-ngàng "Sao thế, má?"
Nghẹn-ngào nàng biết nói sao xong!
Nàng đi tìm sống cho ra sống,
Cho bản-thân và cho các con:
Không chỉ cơm canh và áo xống,
Mà còn... chí cả với lòng son...
Cho bản-thân và cho các con:
Không chỉ cơm canh và áo xống,
Mà còn... chí cả với lòng son...
Những ai cất bước lên đường trước?
Ai gặp duyên may, mộng ước thành?
Ai gửi xương tàn về đáy nước?
Và ai ... mai mốt sẽ xuyên ranh?
Ai gặp duyên may, mộng ước thành?
Ai gửi xương tàn về đáy nước?
Và ai ... mai mốt sẽ xuyên ranh?
Thời-gian tưới tắt bao nhiêu lửa,
Quét sạch tàn tro bếp củi rừng...
Nhưng, những hỏa-sơn còn mãi thở:
Lửa lòng âm-ỷ thuở nào ngưng!
Quét sạch tàn tro bếp củi rừng...
Nhưng, những hỏa-sơn còn mãi thở:
Lửa lòng âm-ỷ thuở nào ngưng!
Người đi, không nói bằng lời nói,
Mà nói xuyên qua việc dám làm:
Bản án tuyên trên đầu hổ sói!
Vết thương lở giữa óc phu phàm!
Mà nói xuyên qua việc dám làm:
Bản án tuyên trên đầu hổ sói!
Vết thương lở giữa óc phu phàm!
Nhưng đàn con dại làm sao hiểu ?
Từ độ đông về, đã mấy xuân!
Đứa mới nhi-nhô hồn ấu-tiểu,
Đứa chưa kết hạt bụi trong trần!
Từ độ đông về, đã mấy xuân!
Đứa mới nhi-nhô hồn ấu-tiểu,
Đứa chưa kết hạt bụi trong trần!
Ngày mai mới thấy thân tù-tội,
Chúng sẽ buồn hơn kiếp chó hoang:
Chấp-nhận đêm đen là dạ-hội,
Biết đâu địa-ngục với thiên-đàng!
Chúng sẽ buồn hơn kiếp chó hoang:
Chấp-nhận đêm đen là dạ-hội,
Biết đâu địa-ngục với thiên-đàng!
Ngày kia, nhiễm thói đời điên-đảo,
Chúng sẽ căm-thù chính mẫu-thân:
Chẳng chịu an-tâm đời "thiện-hảo",
Kéo con cùng kẹt cảnh gian-truân!
Chúng sẽ căm-thù chính mẫu-thân:
Chẳng chịu an-tâm đời "thiện-hảo",
Kéo con cùng kẹt cảnh gian-truân!
Hỡi người thiếu-phụ không quen biết!
Tôi khóc trong này, nàng biết chi!
Nàng khổ từ đây cùng cốt-huyết,
Từ lâu ... tôi khổ... với thê-nhi ...
Tôi khóc trong này, nàng biết chi!
Nàng khổ từ đây cùng cốt-huyết,
Từ lâu ... tôi khổ... với thê-nhi ...
Trại Kho Đạn (Chợ Cồn) Đà Nẵng 80-81
THANH-THANHMÁI TÓC
MÁI TÓC
Cho Vân-Anh
Nàng có mái tóc huyềnĐẹp như tranh thủy-mặc; Đường nét thật dáng duyên, Thật mặn-mà màu sắc. Tóc như múa nghê-thường; Sóng đàn như tóc lướt; Tóc như ướp trầm hương; Tóc như nhung mịn mướt. Khi nàng về với tôi, Nàng thay nhiều kiểu chải; Như mắt, má, và môi: Vui tươi và trẻ mãi . Tôi vuốt dợn tóc êm, Tôi hít mùi tóc thuộc. Nắng biển và sương đêm: Tóc kiêu hào nhập cuộc. Đời rộng cánh bằng+âu; Thanh-bần nên sướng chán. Đôi lứa tưởng còn lâu Mới bạc đầu, hói trán. Nhưng, chớp bể, mưa nguồn! Sắt thép kìm xương thịt: Mắt nàng rát lệ tuôn, Lưỡi tôi tê mật rịt!... Nàng lặn-lội thăm tôi; Tóc trùm khăn lấm bụi; Tôi tránh nhìn mắt, môi; Cổ nghẹn lời tức tủi . Rồi, một hôm (ngỡ-ngàng!) Nàng tháo khăn gỡ rối, Tôi sửng-sốt nhìn nàng: Tóc điểm màu tiêu-muối! Ôi! Mới một thời-gian Mà cồn dâu, bãi bể! Giếng hẹp ếch gào khan; Bức bần nên khổ thể! Mắt nàng đã quầng thâm; Môi khô và má hóp. Nhìn mái tóc hoa-râm, Tim tôi như nghiến bóp! Tóc hết múa nghê-thường! Sóng đàn tóc hết lướt! Tóc hết ướp trầm hương! Tóc hết nhung mịn mướt!
Tôi muốn vuốt tóc nàng,
Nàng thương tôi mặn-nồng,Mà bị đời ngăn cấm! Đành đợi giấc mơ-màng Để sưởi lòng tạm ấm! Vì tôi mà lận đận. Tóc nàng càng trắng bông, Lòng tôi càng uất hận! THANH-THANH |
THƠ TRẦN VĂN LƯƠNG
Hãy chụp giùm tôi
Đừng khoe tôi, hỡi người bạn tài hoa,
Những tấm ảnh mang ra từ địa ngục,
Nơi bạn mới về rong chơi hạnh phúc,
Dù bao người vẫn tủi nhục xót xa.
Nơi bạn mới về rong chơi hạnh phúc,
Dù bao người vẫn tủi nhục xót xa.
Đừng khoe tôi hình ảnh một quê nhà,
Mà bạn nghĩ đang trên đà “đổi mới”,
Những thành thị xưa hiền như bông bưởi,
Nay bỗng dưng rã rượi nét giang hồ.
Mà bạn nghĩ đang trên đà “đổi mới”,
Những thành thị xưa hiền như bông bưởi,
Nay bỗng dưng rã rượi nét giang hồ.
Đừng khoe tôi những cảnh tượng xô bồ,
Những trụy lạc giờ vô phương cứu chữa.
Đất nước đã từ lâu không khói lửa,
Sao rạc rài hơn cả thuở chiến chinh.
Những trụy lạc giờ vô phương cứu chữa.
Đất nước đã từ lâu không khói lửa,
Sao rạc rài hơn cả thuở chiến chinh.
Đừng khoe tôi những yến tiệc linh đình,
Những phố xá ngập phồn vinh giả tạo,
Nơi thiểu số tung tiền như xác pháo,
Khi dân nghèo không muỗng cháo cầm hơi.
Những phố xá ngập phồn vinh giả tạo,
Nơi thiểu số tung tiền như xác pháo,
Khi dân nghèo không muỗng cháo cầm hơi.
Đừng khoe tôi cảnh tụ họp ăn chơi,
Của những kẻ đã một thời chui nhủi,
Bỏ tất cả, trong đêm dài thui thủi,
Ngược xuôi tìm đường xăm xúi vượt biên.
Của những kẻ đã một thời chui nhủi,
Bỏ tất cả, trong đêm dài thui thủi,
Ngược xuôi tìm đường xăm xúi vượt biên.
Đừng khoe tôi những con phố “bưng biền”,
Những quảng cáo, những mặt tiền nham nhở,
Những khách sạn ánh đèn màu rực rỡ,
Trơ trẽn bày, dụ dỗ khách phương xa.
Những quảng cáo, những mặt tiền nham nhở,
Những khách sạn ánh đèn màu rực rỡ,
Trơ trẽn bày, dụ dỗ khách phương xa.
Đừng khoe tôi chốn thờ phượng nguy nga,
Những dinh thự xa hoa nằm choán ngõ,
Những màu sắc lam, vàng, đen, tím, đỏ,
Đang uốn mình theo gió đón hương bay.
Những dinh thự xa hoa nằm choán ngõ,
Những màu sắc lam, vàng, đen, tím, đỏ,
Đang uốn mình theo gió đón hương bay.
Đừng khoe tôi ảnh Hà Nội hôm nay,
Thành phố đã chết từ ngày tháng đó,
Khi bị ép khoác lên màu cờ đỏ,
Khi triệu người phải trốn bỏ vô Nam.
Đừng khoe tôi những cảnh tượng giàu sang,
Đã được bạn tóm càn vô ống kính,
Những hình ảnh mà kẻ thù toan tính,
Muốn tung ra để cố phỉnh gạt người.
Đã được bạn tóm càn vô ống kính,
Những hình ảnh mà kẻ thù toan tính,
Muốn tung ra để cố phỉnh gạt người.
Bạn thân ơi, sao không chụp giùm tôi,
Nỗi thống khổ của triệu người dân Việt,
Nửa thế kỷ trong ngục tù rên xiết,
Oán hờn kia dẫu chết chẳng hề tan.
Nỗi thống khổ của triệu người dân Việt,
Nửa thế kỷ trong ngục tù rên xiết,
Oán hờn kia dẫu chết chẳng hề tan.
Chụp giùm tôi đàn thiếu nữ Việt nam,
Thân trần trụi xếp hàng chờ được lựa,
Hay bầy trẻ mặt chưa phai mùi sữa,
Bị bán làm nô lệ ở phương xa.
Thân trần trụi xếp hàng chờ được lựa,
Hay bầy trẻ mặt chưa phai mùi sữa,
Bị bán làm nô lệ ở phương xa.
Chụp giùm tôi đôi mắt mẹ, mắt cha,
Mà suối lệ chỉ còn là máu đỏ,
Khóc con cháu ra đi từ năm đó,
Biển dập vùi, đà tách ngõ u minh.
Mà suối lệ chỉ còn là máu đỏ,
Khóc con cháu ra đi từ năm đó,
Biển dập vùi, đà tách ngõ u minh.
Chụp giùm tôi số phận những thương binh,
Đã vì nước quên mình trên chiến trận,
Mà giờ đây ôm hận,
Tấm thân tàn lận đận giữa phong ba.
Đã vì nước quên mình trên chiến trận,
Mà giờ đây ôm hận,
Tấm thân tàn lận đận giữa phong ba.
Chụp giùm tôi hình ảnh những cụ già,
Bọn đầu nậu gom ra đường hành khất,
Để đêm đến, nộp hết tiền góp nhặt,
Đổi chén cơm dầm nước mắt nuôi thân.
Bọn đầu nậu gom ra đường hành khất,
Để đêm đến, nộp hết tiền góp nhặt,
Đổi chén cơm dầm nước mắt nuôi thân.
Chụp giùm tôi xác chết những ngư dân,
Bị Tàu giết bao lần trên biển rộng,
Hay những chiếc quan tài chưa kịp đóng,
Chở cha, anh lao động Mã Lai về.
Bị Tàu giết bao lần trên biển rộng,
Hay những chiếc quan tài chưa kịp đóng,
Chở cha, anh lao động Mã Lai về.
Chụp giùm tôi thảm cảnh những dân quê,
Chịu đánh đập chán chê dù vô tội,
Hay cảnh những anh hùng không uốn gối,
Gánh đọa đày trong ngục tối bao la.
Chịu đánh đập chán chê dù vô tội,
Hay cảnh những anh hùng không uốn gối,
Gánh đọa đày trong ngục tối bao la.
Chụp giùm tôi mốc biên giới Việt Hoa,
Lấn vào đất của ông cha để lại,
Hay lãnh thổ cao nguyên còn hoang dại,
Lũ sài lang hèn nhát lạy dâng Tàu.
Lấn vào đất của ông cha để lại,
Hay lãnh thổ cao nguyên còn hoang dại,
Lũ sài lang hèn nhát lạy dâng Tàu.
Chụp giùm tôi những nghĩa địa buồn đau,
Chúng tàn phá, chẳng còn đâu bia mộ.
Kẻ sống sót đã đành cam chịu khổ,
Người chết sao cũng khốn khó trăm đường.
Chúng tàn phá, chẳng còn đâu bia mộ.
Kẻ sống sót đã đành cam chịu khổ,
Người chết sao cũng khốn khó trăm đường.
Hãy chụp giùm tôi hết những tang thương,
Hình ảnh thật một quê hương bất hạnh,
Nơi mà bạn, xưa đêm trường gió lạnh,
Đã căm hờn quyết mạnh dạn ra khơi.
Hình ảnh thật một quê hương bất hạnh,
Nơi mà bạn, xưa đêm trường gió lạnh,
Đã căm hờn quyết mạnh dạn ra khơi.
Mạng sống nhỏ đem phơi đầu sóng dữ.
Rồi tha phương lữ thứ,
Tháng năm dài, quá khứ cũng dần phai.
Lòng người chóng nguôi ngoai,
Tháng Tư đến, có mấy ai còn nhớ!
Trần Văn Lương
Cali, đầu mùa Quốc HậnPHỔ NHẠC VÀ HÁT NGUYỄN HỮU TẤN
Tháng Tư đến, có mấy ai còn nhớ!
Trần Văn Lương
30-4-75 VÀ CÁC TƯỚNG LÃNH VNCH
30-4-75 VÀ CÁC TƯỚNG LÃNH VNCH
Những Vị Tướng Tự Sát :
* Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 (1927-1975)
Vào lúc 11 Giờ 30, ngày 30.04.75, Thiếu Tướng Nam sau khi từ giã các binh sỉ đã tự kết liễu đời mình.
Vào lúc 11 Giờ 30, ngày 30.04.75, Thiếu Tướng Nam sau khi từ giã các binh sỉ đã tự kết liễu đời mình.
* Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 4 (19??-1975 ) Tướng
Hưng đã được vinh danh “Anh Hùng An Lộc” trong mùa hè đỏ lửa 1972 ở
chiến trường An Lộc Bình long. Tướng Hưng đã tự sát vào tối ngày ngày
30.04.75 tại văn phòng riêng ở bộ chỉ huy phụ của Quân đoàn 4 (đồng
thời là nơi gia đình Tướng Hưng tạm cư trú), sau khi nói lời từ giã
với gia đình và bắt tay từ biệt tất cả quân sĩ bảo vệ bộ chỉ huy. Sau
đó, ông đã quay vào văn phòng, khóa chặt cửa và tự sát bằng súng lục
vào lúc 8 giờ 45 phút tối.
* Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh (1933-1975)
Sau khi nhận được lệnh phải đầu hàng, Tướng Vỹ đã tự sát bằng súng lục vào lúc 11 Giờ, ngày 30.04.75 tại tổng hành dinh ở Lai Khê.
Sau khi nhận được lệnh phải đầu hàng, Tướng Vỹ đã tự sát bằng súng lục vào lúc 11 Giờ, ngày 30.04.75 tại tổng hành dinh ở Lai Khê.
*
Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh (1925-1975) Vào
đêm ngày ngày 30.04.75, Thiếu Tướng Hai đã tự sát tại trung tâm Ðồng
Tâm.
* Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 (1928-1975) Thiếu Tướng Phú là người trách nhiệm trong cuộc hành quân triệt thoái quân dân khòi ba tỉnh Cao Nguyên, đã bị thất bại nặng nề và đau đớn nhất trong quân sử cận đại. Tướng Phú tự tử tại nhà vào ngày 30.04.75. * Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn (1940-1975)
* Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 (1928-1975) Thiếu Tướng Phú là người trách nhiệm trong cuộc hành quân triệt thoái quân dân khòi ba tỉnh Cao Nguyên, đã bị thất bại nặng nề và đau đớn nhất trong quân sử cận đại. Tướng Phú tự tử tại nhà vào ngày 30.04.75. * Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn (1940-1975)
Ðại
Tá Hồ ngọc Cẩn đã anh dũng chiến đấu tới cùng và không chịu đầu
hàng. Ðại Tá Cẩn đã bị quân cộng sản đem ra xử trước công cộng và sau
đó bị xử bắn tại chỗ. * Ðại Tá Ðặng Sĩ Vinh
Vào lúc 2 giờ ngày 30.04.75, hai tiếng đồng hồ sau khi Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng, Ðại Tá Vinh, cùng gia đình gồm vợ và bảy người con đã tự tử bằng súng lục.
* Trung-Tá Cảnh-Sát Nguyễn-Văn-Long
Trung-Tá Cảnh-Sát Nguyễn-Văn-Long tuẩn tiết sáng 30-4-75 dưới chân tượng đài Thủy quân lục chiến.
Vào lúc 2 giờ ngày 30.04.75, hai tiếng đồng hồ sau khi Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng, Ðại Tá Vinh, cùng gia đình gồm vợ và bảy người con đã tự tử bằng súng lục.
* Trung-Tá Cảnh-Sát Nguyễn-Văn-Long
Trung-Tá Cảnh-Sát Nguyễn-Văn-Long tuẩn tiết sáng 30-4-75 dưới chân tượng đài Thủy quân lục chiến.
Những Vị Tướng đã rời Việt Nam trước ngày mất nước
01.
Trung Tướng Nguyễn văn Thiệu, Tồng Thống kiêm Tư Lệnh Việt Nam Cọng
Hoà. Lúc từ chức (ngày 21 tháng 4, 1975), ông tuyên bố là ông trở về
quân đội để tiếp tục chiến đấu. Ngày 25,4,1975 ông Thiệu cùng ông
Trần Thiện Khiêm rời Việt Nam trên một chuyến bay do Toà Ðại Sứ Hoa
Kỳ tổ chức.
02 Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng Kiêm Tồng Trưởng Quốc Phòng – từ chức thượng tuần tháng tư 1975 và rời Việt Nam cùng lúc với Nguyễn văn Thiệu .
03 Ðại Tướng Cao văn Viên, Tồng Tham Mưu Trưởng, Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà.
04 Trung Tướng Ðặng văn Quang, Phụ Tá An Ninh Quốc Gia, Phủ Tổng Thống.
05 Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Phụ Tá Tồng Tham Mưu Trưởng, Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà.
06 Trung Tướng Ðồng văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng, Tổng Tham Mưu, Kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.
07 Trung Tướng Trần văn Trung, Tổng Cục Trưởng, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.
08 Trung Tướng Phan Trọng Chinh, Tổng Cục Trưởng, Tổng Cục Quân Huấn.
09 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Ðoàn 1, Quân Khu 1. Người hùng của chiến trường Thành nội Huế hồi Tết Mậu Thân 1968 và chiến trường Huế-Quảng Trị trong trận chiến Mùa Hè đỏ lửa 1972.
10 Trung Tướng Nguyẽn văn Toàn, Tư Lệnh Quân Ðoàn 3, Quân Khu 3.
11 Trung Tướng Nguyẽn văn Minh, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô.
12 Trung Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 1.
13 Thiếu Tướng Hoàng Lạc, Tư Lệnh Phó Quân Khu 1.
14 Chuẩn Tướng Trần văn Nhựt, Tư Lệnh Sư Ðoàn 2 Bộ Binh.
15 Thiếu Tướng Nguyễn duy Hinh, Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 Bộ Binh.
16 Chuẩn Tướng Phan Ðình Niệm, Tư Lệnh Sư Ðoàn 22 Bộ Binh.
17 Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù.
18 Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến.
19 Phó Ðề Ðốc (Trung Tướng) Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân.
20 Trung Tướng Trần văn Minh, Tư Lệnh Không Quân.
21 Thiếu Tướng Võ xuân Lành, Tư Lệnh Phó Không Quân.
22 Chuẩn Tướng Ðổ Kiến Nhiễu, Ðô Trưởng Sài Gòn.
23 Thiếu Tướng Nguyẽn Khắc Bình, Tư Lệnh Cảnh Sát kiêm Ðặc Uỷ Trưởng Tình Báo Trung Ương, cùng các vị Tướng nắm giữ các ngành của lực lượng Cảnh Sát.
02 Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng Kiêm Tồng Trưởng Quốc Phòng – từ chức thượng tuần tháng tư 1975 và rời Việt Nam cùng lúc với Nguyễn văn Thiệu .
03 Ðại Tướng Cao văn Viên, Tồng Tham Mưu Trưởng, Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà.
04 Trung Tướng Ðặng văn Quang, Phụ Tá An Ninh Quốc Gia, Phủ Tổng Thống.
05 Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Phụ Tá Tồng Tham Mưu Trưởng, Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà.
06 Trung Tướng Ðồng văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng, Tổng Tham Mưu, Kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.
07 Trung Tướng Trần văn Trung, Tổng Cục Trưởng, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.
08 Trung Tướng Phan Trọng Chinh, Tổng Cục Trưởng, Tổng Cục Quân Huấn.
09 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Ðoàn 1, Quân Khu 1. Người hùng của chiến trường Thành nội Huế hồi Tết Mậu Thân 1968 và chiến trường Huế-Quảng Trị trong trận chiến Mùa Hè đỏ lửa 1972.
10 Trung Tướng Nguyẽn văn Toàn, Tư Lệnh Quân Ðoàn 3, Quân Khu 3.
11 Trung Tướng Nguyẽn văn Minh, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô.
12 Trung Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 1.
13 Thiếu Tướng Hoàng Lạc, Tư Lệnh Phó Quân Khu 1.
14 Chuẩn Tướng Trần văn Nhựt, Tư Lệnh Sư Ðoàn 2 Bộ Binh.
15 Thiếu Tướng Nguyễn duy Hinh, Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 Bộ Binh.
16 Chuẩn Tướng Phan Ðình Niệm, Tư Lệnh Sư Ðoàn 22 Bộ Binh.
17 Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù.
18 Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến.
19 Phó Ðề Ðốc (Trung Tướng) Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân.
20 Trung Tướng Trần văn Minh, Tư Lệnh Không Quân.
21 Thiếu Tướng Võ xuân Lành, Tư Lệnh Phó Không Quân.
22 Chuẩn Tướng Ðổ Kiến Nhiễu, Ðô Trưởng Sài Gòn.
23 Thiếu Tướng Nguyẽn Khắc Bình, Tư Lệnh Cảnh Sát kiêm Ðặc Uỷ Trưởng Tình Báo Trung Ương, cùng các vị Tướng nắm giữ các ngành của lực lượng Cảnh Sát.
Những Vị Tướng đã rời Việt Nam trong ngày mất nước : 01 Thiếu Tướng Nguyễn cao Kỳ, cựu Tư Lệnh Không, cựu Phó Tổng Thống. Những ngày cuối cùng, ông tuyên bố là sẽ rút về đồng bằng sông Cửu Long tổ chức tử thủ.
02 Trung Tướng Vĩnh Lộc, nhận chức Tồng Tham Mưu Trưởng, Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà lúc 3 giờ chiều 29.04.1975.
03 Chuẩn Tướng Nhuyễn Hữu Tần, Tư Lệnh Sư Ðoàn 4 Không Quân, kiêm Tư Lệnh Không Quân từ ngày 29.04.1975.
04 Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức, nhận chức Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận lúc 5 giờ chiếu 29.04.1975. Khi nhận chức ông nói rằng: Nếu không xong thì ông xuống Cần Thơ đem Liên Ðoàn 7 Công Binh Kiến Tạo lên Thất Sơn (tỉnh Châu Ðốc) tổ chức chiến đấu.
Những Vị Tướng đã bị Kẹt Lại
Những Vị bị Cộng Sản đày đọa trong các trại tù tập trung từ 12 năm đến 17 năm
01 Trung Tướng Nguyễn vĩnh Nghi, Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Ðoàn 3 tại chiến trường Phan Rang, bị bắt khi thất thủ.
02 Chuẩn Tướng Phạm ngọc Sang, Tư Lệnh Sư Ðoàn 6 Không Quân, bị bắt cùng Trung Tướng Nguyễn vĩnh Nghi khi chiến trường Phan Rang thất thủ.
03 Chuẩn Tướng Trần văn Cẩm, Tư Lệnh Phó, Quân Ðoàn 2.
04 Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, Tham Mưu Trưởng Quân Ðoàn 3.
05 Chuẩn Tướng Huỳnh văn Lạc, Tư Lệnh Sư Ðoàn 9 Bộ Binh.
06 Thiếu Tướng Lê minh Ðảo, Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh.
07 Chuẩn Tướng Mạch văn Trường, Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh.
08 Thiếu Tướng Lý tòng Bá, Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh.
09 Ðại Tá Nguyễn Ðình Vinh, Tư Lệnh Phó Quân Khu 4.
10 Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai, Chỉ Huy Trưởng binh chủng Biệt Ðộng Quân.
11 Chuẩn Tướng Phạm duy Chất, Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân Quân Khu 2, chỉ huy cuộc hành quân rút bỏ tỉnh Cao Nguyên hồi tháng 3.1975.
12 Ðại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến.
13 Ðại Tá Lê hữu Ðức, Quyền Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến.
14 Chuẩn Tướng Lê văn Thân, Tư Lệnh Phó Biệt Khu Thủ Ðộ. Nhận chức chiều 29.04.1975.
15 Chuẩn Tướng Lê trung Trực, Trường Cao Ðẳng Quốc Phòng.
16 Ðại Tá Nguyễn xuân Hường, Tư Lệnh Lữ Ðoàn 1 Kỵ Binh.
17 Ðại Tá Nguyễn đức Dung, Tư Lệnh Lữ Ðoàn 2 Kỵ Binh.
18 Chuẩn Tướng Trần quang Khôi, Tư Lệnn Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh.
19 Ðại Tá Trần ngọc Trúc, Tư Lệnh Lữ Ðoàn 4 Kỵ Binh.
20 Thiếu Tưóng Trần bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
21 Chuần Tướng Vũ văn Giai, cựu Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 Bộ Binh.
22 Chuần Tướng Lê văn Tư, cựu Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh.
23 Thiếu Tướng Văn Thành Cao, Tổng Cục Phó Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.
24 Thiếu Tướng Ðoàn văn Quảng, cựu Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Biệt. Chết tại trại tù cải tạo Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh.
25 Trung Tá Bùi thế Dung, Thứ Trưởng Quốc Phòng trong thành phần chánh phủ chưa kịp trình diện.
26 Hải Quân Ðại Tá Nguyễn văn May, Tư Lệnh Vùng 5 Duyên Hải.
27 Hải Quân Ðại Tá Nguyễn bá Trang, Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Nhiệm Thủy Bộ 211.
28 Hải Quân Ðại Tá Nguyễn văn Tấn, Quyền Tư Lệnh Hải Quân vào những giờ cuối cùng.
29 Thiếu Tướng Cảnh Sát Bùi văn Nhu, Tư Lệnh Phó Cảnh Sát. Chết tại trại tù cải tạo Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh.
30 Cựu Thiếu Tướng Huỳnh văn Cao, Nghị Sĩ.
31 Chuần Tướng Hồ trung Hậu, Binh Chủng Nhảy Dù, Chánh Thanh Tra Quân Ðoàn 3.
32 Ðại Tá Nguyễn khắc Tuân nhận chức Tham Mưu Trưởng Tổng Tham Mưu chiều 29.04.1975. Chết tại trại tù cải tạo Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh.
33 Ðại Tá Lại Ðức Chuẩn, Trưởng Phòng Nhất Tổng Tham Mưu
34 Ðại Tá Phạm bá Hoa, Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.
35 Ðại Tá Ngô văn Minh, Tham Mưu Trưởng Biệt Khu Thủ Ðô.
36 Ðại Tá Vũ Ðức Nghiêm.
Những Vị bị Cộng Sản đày đọa trong các trại tù tập trung trên 10 năm
01 Cựu Trung Tướng Nguyễn hữu Có.
02 Cựu Ðề Ðốc Trần văn Chơn.
03 Cựu Thiếu Tướng Nguyễn chấn Á.
04 Cựu Thiếu Tướng Phan Ðình Thứ, Tự Lam Sơn.
05 Ðại tá Ðàm Trung Mộc cưụ Viện Trưởng Học Viện Cảnh Sát QG. Sau 30-4, ông bị giam tại Chí Hòa để rồi tháng 2/1976, ông bị đưa ra Vĩnh Phú rồi về Hà Tây, và ông mất tại đó vào ngày 14/11/1982, thọ 65 tuổi. Những Vị bị Cộng Sản bị giam chưa đến 3 năm 01 Thiếu Tướng Quân Y Vũ ngọc Hoàn, cựu Cục Trưởng Cục Quân Y.
02 Chuẩn Tướng Quân Phạm bá Thanh, Cục Trưởng Cục Quân Y.
03 Ðại Tá Nguyễn văn Lộc, Tư Lệnh Sư Ðoàn 106 Biệt Ðộng Quân. Sư Ðoàn này thành lập vào những ngảy cuối tháng 4.1975 và bảo vệ vùng Phú Lâm, cửa ngõ phía Tây Sài Gòn. Thời gian trong tù chưa đến một năm.
04 Ðại Tá Dương thanh Sơn, em ruột Tổng Thống Dương văn Minh.
TIN THẾ GIỚI
Khả năng xung đột ở Biển Đông?
Cập nhật: 04:26 GMT - thứ năm, 12 tháng 4, 2012
Xoay
quanh câu hỏi liệu sẽ xảy ra chiến tranh vì Biển Đông hay không, BBC
tiếp tục giới thiệu bình luận của hai chuyên gia từ Singapore và Hoa
Kỳ.
Ở Bấm phần một,
BBC đã lắng nghe ý kiến ba chuyên gia quan tâm tranh chấp Biển Đông
hoặc quan hệ Việt - Trung về câu hỏi liệu một cuộc chiến tranh ngắn vì
Biển Đông có sớm xảy ra. Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Tôi không dự đoán hai phía sẽ làm tăng căng thẳng trên Biển Đông đến mức xảy ra một cuộc chiến tranh. Hai phía sẽ tiếp tục ầm ĩ khẳng định chủ quyền ở các đảo. Đồng thời, họ cũng lại tiếp tục thảo luận song phương và qua kênh Asean.
Trung Quốc có những ưu tiên khác như Đài Loan, Tây Tạng, Hoa Kỳ. Hiện nay, vấn đề Biển Đông không đủ lớn để đánh nhau. Trừ phi ngày mai họ tìm thấy nhiều dầu khí để cảm thấy xứng đáng phải có chiến tranh.
Mà ngay cả nếu các nước tìm thấy tài nguyên, thì chiến tranh chưa chắc là giải pháp nhanh chóng hay tốt nhất. Dĩ nhiên, Việt Nam không đủ sức để thắng thuyết phục trong một cuộc hải chiến với Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc cũng gặp những hậu quả ví dụ như quan hệ ngoại giao với Asean.
Ta nên nhớ Trường Sa - khác với Hoàng Sa - liên quan cả những nước khác trong Asean. Trung Quốc cũng phải tính đến Hoa Kỳ đang quan tâm vùng này. Nếu Trung Quốc có bước tiến quân sự, nó sẽ chỉ đẩy các nước Asean lại gần với Hoa Kỳ. Thế nên rốt cuộc, đó sẽ là một cuộc chiến dai dẳng, hỗn độn.
"Dĩ nhiên, Việt Nam không đủ sức để thắng thuyết phục trong một cuộc hải chiến với Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc cũng gặp những hậu quả ví dụ như quan hệ ngoại giao với Asean. "
Tiến sĩ Ang Cheng Guan
Trung Quốc có thể tìm cách lợi dụng các khác biệt trong Asean. Tôi tin rằng vấn đề Biển Đông sẽ là câu chuyện dài, giống như một cuộc cờ.
Không ai đi các nước cờ lớn liều lĩnh trừ phi đã có đầy đủ lợi thế. Vì vậy, nó sẽ phụ thuộc vào hành động của Hoa Kỳ, vào khả năng đoàn kết của Asean. Trong tương lai gần khi Trung Quốc có hàng không mẫu hạm, nó cũng sẽ ảnh hưởng đến các nước cờ.
Tôi không thấy có lý khi so sánh với Georgia. Georgia không thể nào lại so với Asean được.
Tiến sĩ Alexander Vuving, Phó Giáo sư, Asia-Pacific Center for Security Studies (Trung Tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á - Thái Bình Dương)
Tôi không cho rằng Trung Quốc đã sẵn sàng cho chiến tranh, dù là một cuộc chiến nhỏ, ở các vùng biển xung quanh. Đó là một trong các lý do vì sao Thủ tướng Ôn Gia Bảo phải thúc giục quân đội chuẩn bị tốt hơn cho "cuộc chiến cục bộ".
Tuy nhiên, viễn cảnh chiến tranh, có thể theo hình thức chiến tranh chớp nhoáng, ở Biển Đông sẽ gia tăng tùy theo ưu thế của Trung Quốc về cả sức mạnh và lợi ích trong khu vực. Bốn thập niên vừa qua cho ta thấy Trung Quốc hung hăng hơn khi khả năng và lợi ích của các đại cường khác trong vùng tụt giảm đi.
"Trong hai đến ba thập niên tới, một cuộc chiến cục bộ ở Biển Hoa Đông và Biển Đông không thể bị loại trừ."
Tiến sĩ Alexander Vuving
Khi xét khả năng và lợi ích của các đại cường trong vùng (như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga và Ấn Độ), tôi cho rằng viễn cảnh chiến tranh ở Biển Đông và Tây Thái Bình Dương là thấp trong tương lai gần.
Tuy nhiên, trong hai đến ba thập niên tới, một cuộc chiến cục bộ ở Biển Hoa Đông và Biển Đông không thể bị loại trừ. Nghiên cứu của tôi về tăng trưởng kinh tế Trung Quốc (sẽ in trong số tháng Bảy của Asian Politics and Policy) dự báo Trung Quốc sẽ thay Hoa Kỳ để thành nền kinh tế lớn nhất trong giai đoạn 2020-2025.
Dĩ nhiên nó không có nghĩa rằng Trung Quốc sẽ qua mặt Hoa Kỳ về sức mạnh, vì GDP không thể chứng tỏ "sức mạnh cứng". Trong nửa đầu thế kỷ 19, GDP của Anh kém xa Trung Quốc, nhưng Anh đánh thắng Trung Quốc trong hai cuộc chiến Nha Phiến, mở đường cho "thế kỷ ô nhục" của Trung Quốc. Một chỉ số tốt hơn về sức mạnh cứng là "GDP công nghệ cao", tức các dịch vụ tri thức và công nghiệp sản xuất công nghệ cao đem lại giá trị gia tăng. Tôi tính rằng GDP công nghệ cao của Trung Quốc sẽ chỉ bằng 50% của Hoa Kỳ trong khoảng 2017-2025.
Là một cường quốc ở Bắc Mỹ, Hoa Kỳ chỉ có thể tập trung tối đa 70% sức mạnh ở châu Á trong dài hạn. Trung Quốc, ở ngay trung tâm châu Á, có thể dồn hết lực lượng và chú ý cho khu vực. Vì vậy, tôi nghĩ khả năng chiến tranh sẽ cao bắt đầu từ thập niên 2020.
"Mục tiêu của họ là xác lập việc làm chủ vùng biển. Trung Quốc có thể không cần phải thu tóm hết các đảo, đá, bãi ở Trường Sa để đạt mục tiêu đó. Triển khai hàng không mẫu hạm, tàu ngầm, dùng lực lượng phi quân sự và bán quân sự tuần tiễu trên biển, có thể đủ để có sự khống chế trên thực tế ở Biển Đông. "
Tiến sĩ Alexander Vuving
Đa số bình luận về một cuộc chiến Biển Đông cho rằng chiến tranh nhằm "giành lại" đảo ở Trường Sa. Nhưng theo tôi, thay vì tấn công các đảo, Trung Quốc sẽ tấn công các con tàu, thiết bị dầu khí và những mục tiêu không nằm trên đất liền như nhà giàn của Việt Nam. Nhắm đến đất liền có thể bị quy là xâm lược, nhưng tấn công các mục tiêu ngoài đất liền thì có thể không bị nói như vậy.
Tôi nghĩ Trung Quốc có mục tiêu cao hơn là "giành lại các đảo đã mất". Mục tiêu của họ là xác lập việc làm chủ vùng biển. Trung Quốc có thể không cần phải thu tóm hết các đảo, đá, bãi ở Trường Sa để đạt mục tiêu đó. Triển khai hàng không mẫu hạm, tàu ngầm, dùng lực lượng phi quân sự và bán quân sự tuần tiễu trên biển, có thể đủ để có sự khống chế trên thực tế ở Biển Đông. Khi đó, các đảo, đá, bãi mà Việt Nam, Philippines, Malaysia, Đài Loan chiếm ở Trường Sa sẽ chỉ là những bãi đá mà thôi.
Có không cuộc chiến ngắn ở Biển Đông?
Cập nhật: 06:46 GMT - thứ ba, 10 tháng 4, 2012
Câu
hỏi Trung Quốc có tiến hành nổ súng chớp nhoáng để giành các đảo trên
Biển Đông hay không đã được nêu ra trong bài báo mới đây của báo mạng
Asia Times.
Tờ này trích dẫn Bấm ba chuyên gia chia sẻ
ý cho rằng Trung Quốc không mất nhiều nếu xảy ra một cuộc xung đột
ngắn, hạn chế chống lại Philippines hay Việt Nam. Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Tiến sĩ Mark Valencia, Văn phòng nghiên cứu Quốc gia về châu Á (National Bureau of Asian Research), Hoa Kỳ:
Theo tôi, chuyện đó khó xảy ra nhưng cũng không thể hoàn toàn loại trừ.
Tôi phán đoán Trung Quốc sẽ không tấn công quân lực Philippines ở Biển Đông, một phần vì Hiệp định Manila có thể đưa Hoa Kỳ can dự xung đột.
Nhưng nếu công ty dầu hỏa Ấn Độ hay các nước khác tiến hành khoan dầu cho Việt Nam trong vùng mà Trung Quốc xem là của mình, và Việt Nam lại hỗ trợ bằng quân trang, nó có thể dẫn đến một cuộc tấn công nhanh gọn.
Nhưng dĩ nhiên, điều này sẽ cho các nước biết rằng đã đến điểm bước ngoặt và đẩy nhiều nước về phía Mỹ. Một cuộc đấu chính trị Mỹ - Trung nhằm thu phục lòng tin của Đông Nam Á sẽ là thảm họa cho Đông Nam Á, và có thể là cho cả Trung Quốc. Vì thế, tôi mới nói một cuộc chiến là khó xảy ra.
Giáo sư Aileen SP. Baviera, Đại học Philippines:
Quan điểm của tôi là tổn phí chính trị sẽ quá cao cho vùng Đông Á. Nó sẽ thay đổi sâu sắc cấu trúc chính trị khu vực, gồm cả Asean, Asean+3, hội nghị Đông Á, một khi Philippines và Việt Nam cố gắng thuyết phục các bên trong các nhóm này cô lập Trung Quốc.
Ảnh hưởng trước mắt có thể chưa hiện rõ và Trung Quốc, về ngắn hạn, có thể không bị làm sao, trong khi Philippines và Việt Nam chịu thiệt hại. Nhưng không lâu sau đó, các nước mà hiện đang đề phòng Trung Quốc sẽ bắt đầu có hành vi ngăn chặn hoặc cân bằng rõ rệt hơn. Nói cách khác, sẽ có hậu quả nghiêm trọng cho Trung Quốc.
Tôi nghĩ thật sai lầm khi so sánh với Nga và Georgia. Người so sánh có thể ít hiểu biết về an ninh Đông Á/Tây Thái Bình Dương, và cả những liên hệ đang mạnh lên giữa khu vực và Ấn Độ Dương.
Tiến
sĩ Nicholas Khoo, Đại học Otago, New Zealand, tác giả cuốn Collateral
Damage: Sino-Soviet Rivalry and the Termination of the
Sino-Vietnamese Alliance (2011):
Nhìn chung, tôi đồng ý với ông Bấm Steve Tsang và James Holmes. Trung Quốc có khả năng thay đổi tình hình.
Nhưng,
liệu hành động đó có lợi cho Trung Quốc, và vì thế có xảy ra hay
không, thì ít rõ ràng hơn. Có những chi phí lớn cho Trung Quốc nếu can
thiệp quân sự, mà chắc chắn sẽ khiến Mỹ dính líu.
Trước hết, về ngắn hạn, Trung Quốc không thể hoàn toàn chắc rằng Mỹ sẽ không can thiệp.
Thứ
hai, ngay cả nếu một cuộc tấn công nhanh gọn thành công, các hậu quả
lâu dài là có thể thấy trước và gây hại cho một mục tiêu đối ngoại từ
nửa cuối thập niên 1990, tức là bảo đảm với các nước trong vùng rằng
sự trỗi dậy của Trung Quốc là hòa bình và có lợi cho vùng. Việc Trung
Quốc can thiệp để chống lại các nước tranh chấp sẽ củng cố niềm tin,
mà đã gia tăng đáng kể ở các nước trong khu vực từ năm 2009, rằng Mỹ
cần có vai trò lớn hơn trong vùng để cân bằng với Trung Quốc.
Bất
chấp các chi phí này, Trung Quốc có thể lấy quan điểm rằng lợi ích
nhiều hơn tổn phí và vì thế cần can thiệp. Nhưng sự tính toán của Trung
Quốc về vấn đề này không phải một chiều đơn giản như vậy.Mời quý vị đón theo dõi tiếp phần hai với phần trả lời của các chuyên gia từ Singapore và Hoa Kỳ.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/04/120410_smallwars_comment.shtml
Trung Quốc yêu cầu doanh nghiệp nước ngoài không can dự vào tranh chấp Biển Đông
Thủ tướng Nga Vladimir Putin (phải) và đồng nhiệm Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, Matxcơva, 15/12/2009
REUTERS
Theo
tin từ Đài phát thanh Trung Quốc, hôm nay 10/04/2012, phát ngôn viên
Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lưu Vi Dân vừa ra tuyên bố về việc Tập đoàn
Dầu khí Việt Nam gần đây đã liên doanh với Công ty Khí đốt Nga để khai
thác khí thiên nhiên, tại hai lô ngoài khơi vùng biển Việt Nam trên
Biển Đông.
Phát
ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc cho rằng, Bắc Kinh có chủ quyền «
không thể tranh cãi » đối với các đảo và vùng biển chung quanh ở Nam
Hải ( Biển Đông ). Ông Lưu Vi Dân yêu cầu các doanh nghiệp nước ngoài
không dính líu vào tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông « dưới bất cứ
hình thức nào ».
Trong khi đó, Việt Nam hôm qua đã phản đối việc Trung Quốc thử nghiệm tuyến du lịch đến Hoàng Sa.
Hãng tin AFP hôm nay loan tin là chiếc tàu du lịch Coconut Princess của công ty vận tải Hải Hiệp Hải Nam vừa trở về hôm qua sau chuyến hành trình ba ngày để thử nghiệm tuyến du lịch đường biển từ Tam Á, Hải Nam đến đảo Đá Bắc, quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc gọi là Tây Sa.
Theo Tân Hoa Xã, chính quyền tỉnh Hải Nam đang soạn thảo các kế hoạch phát triển du lịch ở quần đảo Hoàng Sa. Đề nghị đầu tiên là các tàu sẽ thả neo tại một trong những đảo của Hoàng Sa, nhưng du khách sẽ vẫn ở trên tàu.
Hôm qua, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị đã tuyên bố là hành động nói trên của Trung Quốc là « bất hợp pháp, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, trái với tinh thần Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông ». Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam yêu cầu Bắc Kinh chấm dứt ngay việc làm này.
Những sự kiện nói trên xảy ra trong bối cảnh quan hệ Việt-Trung đang phần nào căng thẳng trở lại, do vụ Trung Quốc bắt giữ hai tàu cá và 21 ngư dân Lý Sơn để đòi tiền chuộc. Cho tới nay Trung Quốc vẫn chưa thả các ngư dân nói trên, thậm chí không cho gia đình liên lạc với những người bị bắt. Phía Hà Nội đã yêu cầu Bắc Kinh trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện 2 tàu cá và 21 ngư dân này.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20120410-trung-quoc-yeu-cau-cac-doanh-nghiep-nuoc-ngoai-khong-dinh-vao-tranh-chap-chu-quyen-b
Ông
Lưu cho biết phản ứng về việc Tập đoàn khí đốt Nga Gazprom vừa
tuyên bố tham gia dự án khai thác khí ở Biển Đông, tại nơi mà
công ty Anh BP (British Petroleum) từng phải rút lui dưới áp lực
của Trung Quốc.
'Tránh lôi cuốn nước ngoài'
Thông cáo của Gazprom hôm 5/4 cho hay hãng này đã đạt thỏa thuận với Tập đoàn Dầu khí Nhà nước PetroVietnam để cùng khai thác khí đốt tại hai lô 5.2 và 5.3 ngoài khơi Việt Nam.
Hai lô này là nơi có các mỏ khí Hải Thạch và Mộc Tinh, nằm trong bồn trũng Nam Côn Sơn giữa quần đảo Trường Sa và bờ biển Việt Nam. Trung Quốc đã nhiều lần phản đối việc Việt Nam thăm dò khai thác ở khu vực này, mà Bắc Kinh cho là "nằm bên trong hải giới truyền thống" của Trung Quốc.
Ông Lưu Vi Dân nhắc lại Trung Quốc "có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo và vùng biển chung quanh ở Nam Hải".
"Trung Quốc mong các nước đương sự liên quan cùng hành động với Trung Quốc, tránh lôi cuốn nước ngoài khu vực vào tranh chấp," ông nói.
Trong
khi đó, ông Đặng Trung Hoa, Vụ trưởng Vụ Biên giới - Hải dương thuộc
Bộ Ngoại giao Trung Quốc, được Nhân dân Nhật báo dẫn lời Trung Quốc
luôn phản đối việc khai thác dầu khí "không phép" trên lãnh hải Trung
Quốc.
Phát biểu trong dịp giao lưu trực tuyến trên mạng của Nhân dân Nhật báo, ông Đặng Trung Hoa nhắc lại Bắc Kinh luôn "muốn bỏ qua khác biệt để cùng khai thác dầu khí ở vùng biển tranh chấp".
Ông nói tiếp: "Một số nước bên ngoài phóng đại tự do đi lại và an ninh trên Nam Hải. Họ dùng nó làm cớ để can thiệp vào cuộc tranh chấp, và chúng tôi cương quyết phản đối."
Còn ông Chu Hạo, nhà nghiên cứu thuộc Viện quan hệ quốc tế đương đại Trung Quốc, nói thẳng rằng sự kiện Gazprom cho thấy Việt Nam muốn đưa Nga vào để cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông.
"Việt Nam luôn xem đó là chính sách của mình, còn Kremlin muốn lặp lại ảnh hưởng của Nga ở Đông Á, nên dễ hiểu là hai nước lại ký thỏa thuận. Mỗi bên nhận lấy cái mình cần," ông Chu tuyên bố.
Chính phủ và học giả Trung Quốc cũng có những bình luận tương tự hồi đầu tháng khi nói về dự án giữa ONGC-Videsh của Ấn Độ và PetroVietnam.
Trung Quốc nói khoảng 40% của hai lô mà Ấn Độ đang thăm dò nằm trong vùng biển tranh chấp.
Ngoại trưởng Ấn Độ sau đó phản ứng bằng tuyên bố Biển Đông là tài sản chung của thế giới và không nước nào được đòi thống trị.
Ông S.M. Krishna khi được giới phóng viên hỏi về phản đối của Trung Quốc trước dự án khai thác dầu với Việt Nam tại Biển Đông đã nói: "Ấn Độ duy trì quan điểm rằng Biển Đông là tài sản chung của thế giới".
Giới quan sát cũng lưu ý một bài báo trên tờ Đại Đoàn Kết, cơ quan trung ương của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hôm 7/4 ca ngợi thoả thuận hợp tác với Gazprom.
Bấm Bài báo này nói: "Ngày càng nhiều công ty dầu khí của hàng chục quốc gia trên thế giới sẵn sàng hợp tác với Việt Nam và ngày càng có thêm nhiều tin vui về những thành quả của sự hợp tác này cho thấy cộng đồng quốc tế, mà đặc biệt là các doanh nghiệp dầu khí hàng đầu thế giới, tự tin vào chủ quyền và chính nghĩa của Việt Nam trên các khu vực khai thác ở Biển Đông."
Trong khi đó, Việt Nam hôm qua đã phản đối việc Trung Quốc thử nghiệm tuyến du lịch đến Hoàng Sa.
Hãng tin AFP hôm nay loan tin là chiếc tàu du lịch Coconut Princess của công ty vận tải Hải Hiệp Hải Nam vừa trở về hôm qua sau chuyến hành trình ba ngày để thử nghiệm tuyến du lịch đường biển từ Tam Á, Hải Nam đến đảo Đá Bắc, quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc gọi là Tây Sa.
Theo Tân Hoa Xã, chính quyền tỉnh Hải Nam đang soạn thảo các kế hoạch phát triển du lịch ở quần đảo Hoàng Sa. Đề nghị đầu tiên là các tàu sẽ thả neo tại một trong những đảo của Hoàng Sa, nhưng du khách sẽ vẫn ở trên tàu.
Hôm qua, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị đã tuyên bố là hành động nói trên của Trung Quốc là « bất hợp pháp, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, trái với tinh thần Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông ». Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam yêu cầu Bắc Kinh chấm dứt ngay việc làm này.
Những sự kiện nói trên xảy ra trong bối cảnh quan hệ Việt-Trung đang phần nào căng thẳng trở lại, do vụ Trung Quốc bắt giữ hai tàu cá và 21 ngư dân Lý Sơn để đòi tiền chuộc. Cho tới nay Trung Quốc vẫn chưa thả các ngư dân nói trên, thậm chí không cho gia đình liên lạc với những người bị bắt. Phía Hà Nội đã yêu cầu Bắc Kinh trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện 2 tàu cá và 21 ngư dân này.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20120410-trung-quoc-yeu-cau-cac-doanh-nghiep-nuoc-ngoai-khong-dinh-vao-tranh-chap-chu-quyen-b
TQ yêu cầu Nga rút khỏi Biển Đông
Cập nhật: 02:25 GMT - thứ tư, 11 tháng 4, 2012
Trung
Quốc yêu cầu Nga không hợp tác với Việt Nam trong dự án khai thác
khí ở Biển Đông, không lâu sau khi có cảnh cáo tương tự với Ấn Độ.
Người
phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lưu Vi Dân vào ngày 10/4 tuyên
bố nước này mong doanh nghiệp nước ngoài "tôn trọng và ủng hộ nỗ
lực của nước đương sự giải quyết tranh chấp qua đàm phán
song phương, tránh dính líu vào tranh chấp Nam Hải dưới bất cứ
hình thức nào".Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
'Tránh lôi cuốn nước ngoài'
Thông cáo của Gazprom hôm 5/4 cho hay hãng này đã đạt thỏa thuận với Tập đoàn Dầu khí Nhà nước PetroVietnam để cùng khai thác khí đốt tại hai lô 5.2 và 5.3 ngoài khơi Việt Nam.
Hai lô này là nơi có các mỏ khí Hải Thạch và Mộc Tinh, nằm trong bồn trũng Nam Côn Sơn giữa quần đảo Trường Sa và bờ biển Việt Nam. Trung Quốc đã nhiều lần phản đối việc Việt Nam thăm dò khai thác ở khu vực này, mà Bắc Kinh cho là "nằm bên trong hải giới truyền thống" của Trung Quốc.
Ông Lưu Vi Dân nhắc lại Trung Quốc "có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo và vùng biển chung quanh ở Nam Hải".
"Trung Quốc mong các nước đương sự liên quan cùng hành động với Trung Quốc, tránh lôi cuốn nước ngoài khu vực vào tranh chấp," ông nói.
"Trung Quốc mong các nước đương sự liên quan cùng hành động với Trung Quốc, tránh lôi cuốn nước ngoài khu vực vào tranh chấp."
Lưu Vi Dân, phát ngôn viên ngoại giao Trung Quốc
Phát biểu trong dịp giao lưu trực tuyến trên mạng của Nhân dân Nhật báo, ông Đặng Trung Hoa nhắc lại Bắc Kinh luôn "muốn bỏ qua khác biệt để cùng khai thác dầu khí ở vùng biển tranh chấp".
Ông nói tiếp: "Một số nước bên ngoài phóng đại tự do đi lại và an ninh trên Nam Hải. Họ dùng nó làm cớ để can thiệp vào cuộc tranh chấp, và chúng tôi cương quyết phản đối."
Còn ông Chu Hạo, nhà nghiên cứu thuộc Viện quan hệ quốc tế đương đại Trung Quốc, nói thẳng rằng sự kiện Gazprom cho thấy Việt Nam muốn đưa Nga vào để cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông.
"Việt Nam luôn xem đó là chính sách của mình, còn Kremlin muốn lặp lại ảnh hưởng của Nga ở Đông Á, nên dễ hiểu là hai nước lại ký thỏa thuận. Mỗi bên nhận lấy cái mình cần," ông Chu tuyên bố.
Chính phủ và học giả Trung Quốc cũng có những bình luận tương tự hồi đầu tháng khi nói về dự án giữa ONGC-Videsh của Ấn Độ và PetroVietnam.
Trung Quốc nói khoảng 40% của hai lô mà Ấn Độ đang thăm dò nằm trong vùng biển tranh chấp.
Ngoại trưởng Ấn Độ sau đó phản ứng bằng tuyên bố Biển Đông là tài sản chung của thế giới và không nước nào được đòi thống trị.
Ông S.M. Krishna khi được giới phóng viên hỏi về phản đối của Trung Quốc trước dự án khai thác dầu với Việt Nam tại Biển Đông đã nói: "Ấn Độ duy trì quan điểm rằng Biển Đông là tài sản chung của thế giới".
Giới quan sát cũng lưu ý một bài báo trên tờ Đại Đoàn Kết, cơ quan trung ương của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hôm 7/4 ca ngợi thoả thuận hợp tác với Gazprom.
Bấm Bài báo này nói: "Ngày càng nhiều công ty dầu khí của hàng chục quốc gia trên thế giới sẵn sàng hợp tác với Việt Nam và ngày càng có thêm nhiều tin vui về những thành quả của sự hợp tác này cho thấy cộng đồng quốc tế, mà đặc biệt là các doanh nghiệp dầu khí hàng đầu thế giới, tự tin vào chủ quyền và chính nghĩa của Việt Nam trên các khu vực khai thác ở Biển Đông."
Khoảng 700 dân ngoại thành kéo về Hà Nội phản đối trưng thu đất đai
Người dân thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội, tập hợp trước cửa trụ sở Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, 10/04/2012.
Ảnh : anhbasam.wordpress.com
Theo
tin từ Hà Nội, hôm nay 10/04/2012, nhiều đoàn dân nông thôn ở huyện
Đông Anh (Hà Nội) đã tập trung trước trụ sở Mặt Trận Tổ Quốc số 46
đường Tràng Thi, nhờ can thiệp. Họ mang biểu ngữ tố cáo chính quyền địa
phương sử dụng công an và bộ đội cưỡng chế đất đai. Trong suốt những
cuộc biểu tình phản kháng nhiều năm qua, chưa bao giờ dân oan kéo về
thủ đô với một lực lượng đông đảo như vậy.
“nông dân khổ lắm … xã đốt nhà, huyện cướp đất, tỉnh bao che ... trung ương thì đùn đẩy… tình hình nóng như lò than…
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20120410-khoang-700-dan-ngoai-thanh-ha-noi-keo-ve-thu-do-phan-doi-trung-thu-dat-dai
Một
chuyên gia của Mỹ nghĩ rằng có thể xảy ra thêm đấu đá trong nội bộ
đảng Cộng sản Trung Quốc sau khi Ủy viên Bộ Chính trị Bạc Hy Lai bị
cách chức.
Hình: NO CREDIT
Câu
chuyện xoay quanh ông Bạc Hy Lai ồn ào trở lại vào thứ Ba với tin ông
bị tước tất cả vị trí trong đảng và vợ ông, bà Cốc Khai Lai, đang bị
điều tra trong cái chết của một doanh nhân người Anh.
Bản tin chỉ vỏn vẹn hai dòng của Tân Hoa Xã là thông tin chính thức đầu tiên nói về vụ Bạc Hy Lai kể từ khi ông mất chức bí thư Trùng Khánh tháng trước.
Trong một bản tin riêng biệt, Tân Hoa Xã đưa tin bà vợ ông Bạc và một “gia nhân” đã được giải giao cho cơ quan tư pháp vì “bị nghi phạm tội cố ý giết người” trong cái chết của Neil Heywood, một người Anh có quan hệ kinh doanh với gia đình ông Bạc.
Ông Victor Shih, Phó giáo sư môn chính trị Trung Quốc tại trường đại học Northwestern nói vụ này cho thấy có những vết nứt trong bộ mặt thường được đánh bóng là đoàn kết của Trung Quốc.
Theo ông, những gì đang xảy ra gợi ý đang có đấu đá phía sau sân khấu:
“Thực ra ở vào thời điểm này không còn phía sau sân khấu nữa, nhiều chuyện đã thấy công khai. Có thể sẽ có thêm dấu hiệu đấu đá nữa trong những ngày tới.”
Theo ông, câu chuyện xuất phát từ việc ông Vương Lập Quân, Giám đốc Công an dưới quyền ông Bạc xin tỵ nạn với Mỹ đã hé lộ nhiều vết nứt chính trị tại Trung Quốc, và bộ mặt đoàn kết mà lãnh đạo Trung Quốc cố trình bày với thế giới chỉ là bề mặt.
Chính phủ Trung Quốc đã chận tất cả các cuộc truy tầm các từ khóa trên Internet có liên quan đến Bạc Hy Lai, kể cả tin đồn về bà vợ ông có liên can đến cái chết của Heywood.
Sự ngăn chận này tỏ ra vô ích, nó càng làm tăng thêm nhiều tin đồn tràn ngập các trang blog tiếng Hoa.
Sự kiện này này buộc chính phủ Anh phải yêu cầu chính phủ Trung Quốc điều tra cái chết hồi tháng 11 của Heywood. Lúc đầu nhà chức trách nói ông này chết vì chất độc của rượu, sau đó ông được hỏa táng mà không qua giảo nghiệm.
Giáo sư Shih nói ông Bạc được xem là một chính trị gia đầy tham vọng theo cái nghĩa ông dùng nhiều phương pháp để hạ kẻ thù và mua chuộc sự liên minh với các phe phái khác.
Trong quá khứ, mỗi khi có đảng viên cao cấp bị thất sủng, Trung Quốc chỉ cách chức hoặc xử lý nội bộ, chấm dứt.
Nhưng theo giáo sư Shih, lần này thì khác:
“Bởi vì ông Bạc có vị trí của một thái tử và có quen biết lớn, ông và các đồng minh có thể đánh trả và đẩy lui các cáo buộc. Nếu chuyện này trở thành hiện thực, tôi nghĩ rằng trong những ngày tới, chúng ta sẽ chứng kiến nhiều diễn biến lý thú.”
http://www.voanews.com/vietnamese/news/asia/china-bo-xilai-scandal-4-10-12-146915845.html
Bản tin chỉ vỏn vẹn hai dòng của Tân Hoa Xã là thông tin chính thức đầu tiên nói về vụ Bạc Hy Lai kể từ khi ông mất chức bí thư Trùng Khánh tháng trước.
Trong một bản tin riêng biệt, Tân Hoa Xã đưa tin bà vợ ông Bạc và một “gia nhân” đã được giải giao cho cơ quan tư pháp vì “bị nghi phạm tội cố ý giết người” trong cái chết của Neil Heywood, một người Anh có quan hệ kinh doanh với gia đình ông Bạc.
Ông Victor Shih, Phó giáo sư môn chính trị Trung Quốc tại trường đại học Northwestern nói vụ này cho thấy có những vết nứt trong bộ mặt thường được đánh bóng là đoàn kết của Trung Quốc.
Theo ông, những gì đang xảy ra gợi ý đang có đấu đá phía sau sân khấu:
“Thực ra ở vào thời điểm này không còn phía sau sân khấu nữa, nhiều chuyện đã thấy công khai. Có thể sẽ có thêm dấu hiệu đấu đá nữa trong những ngày tới.”
Theo ông, câu chuyện xuất phát từ việc ông Vương Lập Quân, Giám đốc Công an dưới quyền ông Bạc xin tỵ nạn với Mỹ đã hé lộ nhiều vết nứt chính trị tại Trung Quốc, và bộ mặt đoàn kết mà lãnh đạo Trung Quốc cố trình bày với thế giới chỉ là bề mặt.
Chính phủ Trung Quốc đã chận tất cả các cuộc truy tầm các từ khóa trên Internet có liên quan đến Bạc Hy Lai, kể cả tin đồn về bà vợ ông có liên can đến cái chết của Heywood.
Sự ngăn chận này tỏ ra vô ích, nó càng làm tăng thêm nhiều tin đồn tràn ngập các trang blog tiếng Hoa.
Sự kiện này này buộc chính phủ Anh phải yêu cầu chính phủ Trung Quốc điều tra cái chết hồi tháng 11 của Heywood. Lúc đầu nhà chức trách nói ông này chết vì chất độc của rượu, sau đó ông được hỏa táng mà không qua giảo nghiệm.
Giáo sư Shih nói ông Bạc được xem là một chính trị gia đầy tham vọng theo cái nghĩa ông dùng nhiều phương pháp để hạ kẻ thù và mua chuộc sự liên minh với các phe phái khác.
Trong quá khứ, mỗi khi có đảng viên cao cấp bị thất sủng, Trung Quốc chỉ cách chức hoặc xử lý nội bộ, chấm dứt.
Nhưng theo giáo sư Shih, lần này thì khác:
“Bởi vì ông Bạc có vị trí của một thái tử và có quen biết lớn, ông và các đồng minh có thể đánh trả và đẩy lui các cáo buộc. Nếu chuyện này trở thành hiện thực, tôi nghĩ rằng trong những ngày tới, chúng ta sẽ chứng kiến nhiều diễn biến lý thú.”
http://www.voanews.com/vietnamese/news/asia/china-bo-xilai-scandal-4-10-12-146915845.html
No comments:
Post a Comment