VIỆT CỘNG ANH HÙNG HAY LÀ DUN DẾ? HÃY XEM NAM HÀN
Tờ Nhân dân nhật báo bản điện tử ngày 18/4 dẫn nguồn tin hãng thông tấn Yonhap - Nam Hàn cho biết, tòa án địa phương Incheon - Nam Hàn sẽ đưa ra xét xử viên thuyền trưởng người Trung Cộng đã đâm chết một cảnh sát biển nước này.
Phiên tòa đặc biệt này dự kiến bắt đầu lúc 10h sáng mai, 19/4. Trước đó giới truyền thông Seoul đã loan tin, viện kiểm sát Incheon đã đề xuất mức án tử hình dành cho viên thuyền trưởng 43 tuổi này.
Tàu tuần tra Nam Hàn áp sát tàu cá Trung Cộng
Ngoài thuyền trưởng họ Trịnh bị đề xuất khung hình phạt cao nhất - tử hình, 8 thuyền viên còn lại của tàu Lỗ Văn Ngư - Trung Cộng cũng sẽ bị đưa ra xét xử các tội danh cản trở người thi hành công vụ với các mức án nặng nhẹ khác nhau.
Thuyền trưởng Trung Cộng đâm chết cảnh sát biển Nam Hàn bị giải về Incheon
Một thuyền trưởng khác cũng người Trung Cộng sẽ bị xử lý với tội danh cố ý đâm vào các tàu đang bị (cảnh sát biển Nam Hàn) quản chế. Đối tượng này có thể phải đối mặt với án tù 2 đến 3 năm và phải bồi thường 20 triệu won.
Ngày 12/12 năm ngoái, vụ tấn công tàu cảnh sát biển Nam Hàn xảy ra khi tàu này vây bắt 2 tàu cá Trung Cộng đang "vi phạm chủ quyền lãnh hải của Seoul", và tìm cách giành quyền kiểm soát một tàu có trọng tải 65 tấn, ở vị trí cách đảo Socheong khoảng 85 km về phía tây nam.
Tàu cá Trung Cộng bị áp tải về cảng Incheon sau vụ đụng độ với cảnh sát biển Nam Hàn
Đây là hòn đảo trong chuỗi đảo nằm ở Hoàng Hải, thuộc thành phố Incheon, ở phía tây của Nam Hàn. Nó nằm không xa đường biên giới trên biển giữa Nam Hàn và Bắc Hàn.
Chiếc tàu cá còn lại của Trung Quốc đã đâm thẳng vào tàu chiếc tàu cá bị bắt giữ, 9 ngư dân Trung Cộng sau đó bắt đầu tấn công các cảnh sát biển Nam Hàn.
Hạ sĩ cảnh sát biển Nam Hàn 41 họ Lee bị thuyền trưởng Trung Cộng đâm bằng một mảnh thủy tinh, hạ sĩ Lee qua đời sau khi được đưa tới một bệnh viện ở Incheon .
Một cảnh sát khác 33 tuổi cùng họ Lee cũng bị đâm bị thương ở bụng khi xô xát xảy ra giữa hai bên trong vụ bắt giữ.
Hồng Thuỷ (theo Yonhap, newssc)
TRÚC GIANG *CHIẾN TRANH BẮT ĐẦU TỪ TRÊN KHÔNG GIAN
CHIẾN TRANH BẮT ĐẦU TỪ TRÊN KHÔNG GIAN
1* Mở bài
Kế hoạch trở lại châu Á-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ đã chính thức tạo căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng. Nếu chiến tranh xảy ra, thì cuộc chiến sẽ bắt đầu từ trên không, bởi vì vệ tinh tình báo là con mắt theo dõi và xác định tọa độ của các tàu chiến, xe tăng, những dàn hỏa tiễn, những đội hình tác chiến dưới mặt đất. Đồng thời, lợi hại nhất là hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu, dẫn đường cho các hỏa tiễn và bom tinh khôn. Tất cả đều ở trên trời. Nếu hai phương tiện chiến tranh nầy bị tê liệt, thì vũ khí dưới mặt đất trở thành vô dụng.
Vũ khí Hoa Kỳ hiện đại nhất thế giới, cộng thêm kinh nghiệm xử dụng vũ khí tác chiến, không ai theo kịp, nhưng mức độ phát triển nhanh chóng của Trung Cộng làm cho Hoa Kỳ lo ngại.
Lợi thế của Trung Cộng là họ không bỏ ra những số tiền khổng lồ để làm nghiên cứu, chỉ nhờ vào tài ăn cắp rồi cải tiến, tuy lẹt đẹt phía sau nhưng thật sự là một đe dọa, không những cho Hoa Kỳ và các nước trong khu vực, mà còn đe dọa cho cả nhân loại nữa, vì tham vọng bành trướng bá quyền ngàn năm của Hán tộc.
Kế hoạch trở lại châu Á-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ đã chính thức tạo căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng. Nếu chiến tranh xảy ra, thì cuộc chiến sẽ bắt đầu từ trên không, bởi vì vệ tinh tình báo là con mắt theo dõi và xác định tọa độ của các tàu chiến, xe tăng, những dàn hỏa tiễn, những đội hình tác chiến dưới mặt đất. Đồng thời, lợi hại nhất là hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu, dẫn đường cho các hỏa tiễn và bom tinh khôn. Tất cả đều ở trên trời. Nếu hai phương tiện chiến tranh nầy bị tê liệt, thì vũ khí dưới mặt đất trở thành vô dụng.
Vũ khí Hoa Kỳ hiện đại nhất thế giới, cộng thêm kinh nghiệm xử dụng vũ khí tác chiến, không ai theo kịp, nhưng mức độ phát triển nhanh chóng của Trung Cộng làm cho Hoa Kỳ lo ngại.
Lợi thế của Trung Cộng là họ không bỏ ra những số tiền khổng lồ để làm nghiên cứu, chỉ nhờ vào tài ăn cắp rồi cải tiến, tuy lẹt đẹt phía sau nhưng thật sự là một đe dọa, không những cho Hoa Kỳ và các nước trong khu vực, mà còn đe dọa cho cả nhân loại nữa, vì tham vọng bành trướng bá quyền ngàn năm của Hán tộc.
Trung Cộng đã tăng ngân sách quốc phòng từ 91 tỷ euro của năm 2010, lên tới 183 tỷ euro cho năm 2015, và năm 2012 chi tiêu 100 tỷ đô la cho quân đội..
Hiện tại, cuộc chạy đua vũ trang với Hoa Kỳ rất gay gắt, không những trên mặt đất, mà còn ở ngoài không gian nữa.
Cựu Bộ trưởng QP/HK, ông Robert Gates cho rằng cuộc cạnh tranh đang diễn ra gay gắt trên lãnh vực an ninh mạng, vũ khí hạt nhân và phòng thủ hỏa tiễn.
Nếu chiến tranh xảy ra, thì cuộc chiến sẽ bắt đầu từ bên ngoài bầu khí quyển, tức là vũ trụ, bởi vì, hệ thống dẫn đường cho các hoả tiễn và hệ thống thông tin liên lạc, được điều khiển từ hệ thống định vị toàn cầu.
Hiện tại, Trung Cộng đang xử dụng hệ thống định vị toàn cầu của Hoa Kỳ là GPS (Global Positioning System-GPS). Khi hệ thống GPS bị khóa hay ngừng hoạt động, thì tất cả các hoả tiễn được dẫn đường bằng GPS sẽ trở thành vô dụng.
2* Đạo quân ăn cắp của Trung Cộng
Trước đây, trong một cuộc điều trần hữu thệ, Giám đốc FBI, Robert Mueller và Giám đốc Tình báo Quốc gia James Clapper, đã báo động trước Ủy Ban Tình Báo Thượng Viện HK, về những cuộc tấn công xâm nhập quy mô và gia tăng các binh đoàn tin tặc (Hacker), vào hệ thống các máy tính của các ngành công nghệ HK, mục đích đánh cắp và đánh phá tài liệu.
Công ty an ninh máy tính Symantec thông báo một loạt Virus gọi là Sykipot, phát xuất từ Trung Cộng, đã phát tán, mục đích xâm nhập vào các công nghệ quốc phòng HK.
Năm 2009, đã có hơn 30 công ty HK, từ Yahoo, Adobe, Rackspace đến Northrop Grumman… bị tấn công trầm trọng. Đó là mục đích đánh cắp kỹ thuật, bí mật khoa học, và an ninh quốc phòng HK.
Trung Cộng đang tìm kiếm những bí mật về kỹ thuật tàng hình cho phi cơ và tàu chiến, bí mật hỏa tiễn và nhất là bí mật về phi cơ liên hành tinh (vũ trụ) không người lái, độc nhất vô nhị của HK, đó là chiếc X-37B.
Phản gián HK và Ấn Độ gài bẫy để theo dõi hành tung của Virus, đã khám phá ra sào huyệt của tin tặc, thuộc cấp quốc gia là Trung Cộng. Không những ăn cắp bí mật quân sự, kinh tế của HK, mà TC còn ăn cắp kỹ thuật của châu Âu.
Ngoài ra, TC còn ăn cắp công khai quyền sở hữu trí tuệ và bản quyền của Tây phương nữa.
Nga còn chạy mặt Trung Cộng về nghề ăn cắp thô bạo từ lâu. Mới đây, hôm thứ thứ ba 6-3-2012, Nga đồng ý bán cho Trung Cộng 48 phi cơ tiêm kích (không chiến) Sukhoi với số tiền là 4 tỷ đô la, nhưng với điều kiện là nước nầy không được sao chép, ăn cắp mẫu của Nga. Nga nhất định phải đưa điều kiện ràng buộc nầy vào hợp đồng: “Cấm Trung Cộng sao chép các máy bay nầy, rồi sau đó sản xuất đem bán cho nước thứ ba”. Trung Cộng từ chối. Điều nầy xác nhận ý đồ bất chánh của họ.
Tờ Kommersant đã công khai tố cáo Trung Cộng, đã từng sao chép, ăn cắp nhiều kiểu máy bay của Nga như Su-27, Su-30 và MiG-29. Bị tố cáo trước thế giới là phường ăn cắp, vậy sĩ khí và danh dự dân tộc ở đâu? Thật là vô liêm sĩ.
Viện Nghiên Cứu Hoà Bình QT đặt tại Stockholm, Sipri, đã nhấn mạnh, “Trung Cộng đặc biệt chú ý đến việc chiếm lĩnh công nghệ nước khác, nhằm phát triển ngành công nghiệp vũ khí của họ”.
3* Trung Cộng muốn thoát khỏi sự lệ thuộc vào không gian của Hoa Kỳ
Hiện nay, hệ thống dẫn đường cho hỏa tiễn của Trung Cộng còn lệ thuộc vào hệ thống định vị toàn cầu GPS của Hoa Kỳ.
Bộ QP/HK đang điều hành và kiểm soát hệ thống GPS nầy. Trong trường hợp căng thẳng giữa hai bên, Ngũ Giác Đài có thể không cho TC xử dụng hệ thống nầy, bằng cách gây nhiễu hoặc khóa tần số, thì tất cả hỏa tiễn liên hệ xem như vô dụng
.
Sự lợi hại của hệ thống định vị toàn cầu được thể hiện trong cuộc chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất, năm 1991, hệ thống dẫn đường các hỏa tiễn đã đánh trúng mục tiêu một cách rất chính xác, sai số từ 1 đến 3m. Các ký giả ngoại quốc ở khách sạn không xa mục tiêu có thể thấy rõ hỏa tiễn phóng thẳng vào một chỗ, cho nên họ an tâm quan sát.
Hệ thống GPS còn cung cấp một băng tần tín hiệu rộng rãi, do phủ sóng toàn cầu, nên việc giao thông liên lạc giữa các quốc gia trong liên quân rất dễ dàng.
Kế đó, Trung Cộng lại bị một cú sốc, là không thể xác định được vị trí của hai nhóm hàng không mẫu hạm mà HK đã điều động đến để bảo vệ Đài Loan, cũng thuộc vùng biển của Trung Cộng. Đó là sự kiện Trung Cộng đã bắn hỏa tiễn vào vùng biển Đài Loan và thực hiện những cuộc tập trận đổ bộ, trước cuộc bầu cử tổng thống 3 ngày, để đe dọa người dân Đài Loan, là không được bầu cho ứng cử viên Lý Đăng Huy, vì nghĩ rằng, khi đắc cử tổng thống, ông Huy có thể sẽ tuyên bố Độc lập cho đảo Đài Loan. Nhưng TC thất bại, vì người dân Đài Loan tin tưởng vào sự bảo vệ của HK, nên Lý Đăng Huy đắc cử tổng thống với đa số phiếu.
Vì muốn thoát khỏi sự lệ thuộc vào hệ thống GPS của HK, nên suốt 15 năm qua, TC nổ lực xây dựng riêng cho mình một hệ thống định vị vệ tinh, có tên là Bắc Đẩu (BeiDou).
Khi làm chủ được hệ thống, TC có thể xác định được vị trí, mục tiêu, toạ độ thì mới ngăn chặn tàu chiến HK đi vào vùng biển của họ hoặc vùng biển đang tranh chấp như biển Đông chẳng hạn. Đồng thời, TC cũng có thể xử dụng phi cơ không người lái trong tình trạng căng thẳng với HK.
4* Hệ thống định vị Bắc Đẩu (The BeiDou Navigation System)
Ngày 27-12-2011, phát ngôn viên Ran Cheng cho biết, Trung Cộng khẳng định rằng, hệ thống định vị vệ tinh Bắc Đẩu, tự tạo, đã bắt đầu hoạt động trong nổ lực chấm dứt sự lệ thuộc vào vệ tinh của nước ngoài.
Bắc Đẩu sẽ cung cấp dịch vụ dẫn đường trong khu vực nước Trung Hoa trong năm 2012 và trên toàn cầu vào năm 2020.
4.1. Bắc Đẩu 1
Bắc Đẩu 1, gồm 3 vệ tinh phủ sóng địa phương, trên khu vực nước Tàu, được xử dụng vào ngày 27-12-2011.
4.2. Bắc Đẩu 2.
Hệ thống Bắc Đẩu 2, còn gọi là Compass. Là hệ thống định vị toàn cầu với 35 vệ tinh, đang trên đường xây dựng, dự trù sẽ hoàn thành vào năm 2020. Mức độ chính xác hiện tại là 25m và đang cải thiện để còn sai biệt trong vòng 10m.
Trung Cộng dùng hỏa tiễn Trường Chinh 3, để đưa các vệ tinh vào quỹ đạo. Hiện nay, đã có 11 vệ tinh được đặt vào quỹ đạo, cách mặt đất 21,150km. Như vậy, còn 24 vệ tinh nữa sẽ được đặt vào hệ thống Bắc Đẩu.
Các khoa học gia Trung Cộng cho biết, từ năm 2011 đến 2015, họ sẽ có 100 vụ phóng để đưa 100 vệ tinh các loại vào vũ trụ.
Hệ thống Bắc Đẩu toàn cầu dự liệu sẽ đưa vào xử dụng năm 2020.
5* Hệ thống định vị toàn cầu GPS của Hoa Kỳ
Hệ thống định vị toàn cầu GPS (Global Positioning System) là hệ thống xác định vị trí trên mặt trái đất, bằng hệ thống 24 vệ tinh nhân tạo, đặt trên một quỹ đạo ở ngoài bầu khí quyển của quả địa cầu. Hệ thống do Bộ QP/HK thiết kế, xây dựng, điều khiển và quản lý.
Trong cùng một thời điểm, 3 vệ tinh trong hệ thống, cùng xác định tọa độ của bất cứ một điểm nào trên mặt quả đất nầy, rồi truyền tín hiệu xuống các trạm thu nhận dưới đất.
Kể từ năm 1980, chính phủ Hoa Kỳ cho phép mọi người trên thế giới, không kể quốc tịch, được xử dụng miễn phí một số công dụng của GPS. GPS hoạt động trong mọi thời tiết, 24 giờ trong một ngày.
5.1. Sự hoạt động của GPS
24 vệ tinh bay vòng quanh trái đất 2 lần trong một ngày, theo một đường đi (quỹ đạo) được điều khiển một cách rất chính xác. 3 vệ tinh trong hệ thống cùng phát tín hiệu về một tọa độ xuống mặt đất, được các máy thu tiếp nhận, với độ sai biệt từ 1 đến 3m.
5.1.1. Ba thành phần của hệ thống GPS
1. Phần không gian
2. Phần kiểm soát
3. Phần xử dụng
Không Quân Hoa Kỳ phụ trách làm phát triển, điều hành và bảo trì 2 thành phần, là không gian và kiểm soát.Từ quỹ đạo cách mặt đất 20,200km, các vệ tinh truyền tín hiệu từ vũ trụ xuống mặt địa cầu, được các máy thu tín hiệu GPS, làm những con toán vô cùng phức tạp, để xác định vị trí không gian 3 chiều: kinh độ, vĩ độ và chiều cao vào thời điểm đó. Những tính toán phức tạp về trạng thái thời tiết của bầu khí quyển, có tác động vào tốc độ của tín hiệu, như độ ẩm, giông bão, các lớp mây…
Bầu khí quyển, nói chung là bầu không khí bao trùm quả đất, gồm nhiều thứ khí khác nhau và hơi nước, được giữ lại bởi sức hút của trái đất. Độ cao 120km được coi là ranh giới giữa bầu khí quyễn và khoảng không vũ trụ bên ngoài.
1). Phần không gian của hệ thống GPS
24 vệ tinh nằm trên một quỹ đạo, xoay chung quanh trái đất. Chúng được điều khiển luôn luôn cách mặt đất 20,200km. Sự chuyển động rất ổn định và quay 2 vòng trái đất trong 24 giờ, với tốc độ 7,000 miles/giờ. Các vệ tinh được sắp xếp làm sao cho những máy thu dưới đất, luôn luôn nhìn thấy 4 vệ tinh ở bất cứ ở một thời điểm nào.
Vệ tinh hoạt động được, nhờ năng lượng mặt trời và những nguồn pin, accu chứa điện khi không có ánh sáng mặt trời, tức là lúc gọi là ban đêm. 2). Phần kiểm soát của hệ thống GPS
Mục đích của phần kiểm soát là điều khiển cho các vệ tinh đi theo đúng quỹ đạo đã ấn định (20,200km)
Có 5 trạm kiểm soát ở rải rác khắp nơi trên trái đất, trong đó, 4 trạm tự động và một trạm trung tâm. Ngoài ra, còn có một trạm trung tâm dự phòng, và 6 trạm kiểm soát chuyên biệt.
Đường bay của các vệ tinh được ghi lại ở 13 trạm, đa số là ở HK, một số ở các nước: Anh, Argentina, Ecuador, Bahrain và Úc. Phương tiện gởi đi và nhận tín hiệu nhờ những anten chão to lớn.
3). Phần xử dụng hệ thống GPS
Phần xử dụng bao gồm những máy móc, thiết bị thu nhận tín hiệu của hệ thống GPS và những chuyên viên xử dụng những máy móc, thiết bị đó.
Một số đặc điểm
-Vệ tinh đầu tiên được phóng lên năm 1978
- Hệ thống hoàn chỉnh năm 1994
- Mỗi vệ tinh hoạt động tối đa là 10 năm
-Vệ tinh GPS nặng 1,500kg, dài 5m, các tấm thu năng lượng mặt trời rộng 7m2.
Ứng dụng trong quân sự
Trong quân sự, GPS dẫn đường các loại vũ khí như sau:
- Bom thông minh JDAM (Joint Direct Attack Munition), gồm các loại GBU-31. (GBU=Guided Bomb Unit)
- Hỏa tiễn không đối đất (Air-to-Surface Missile-ASM hay Air-to-Ground Missile-AGM)
- Hỏa tiễn tấn công đất liền (như Tomahawk)
- Hỏa tiễn hành trình (Cruise missile) và đạn đạo (Ballistic Missile)
- Hỏa tiễn đất đối đất.(Surface-to-Surface Missile-SSM)
6* Trung Cộng chạy đua trong chương trình không gian
6.1. Trạm không gian Thiên Cung 1
Ngày 29-9-2011, hỏa tiễn Trường Chinh 2F đã mang trạm không gian nhỏ (space module) Thiên Cung 1 (Tiangong 1) vào quỹ đạo, thực hiện những thí nghiệm chuẩn bị cho việc thiết lập một trạm không gian to lớn hơn, có người ở bán thường xuyên ngoài vũ trụ vào năm 2020.
6.2. Tàu vũ trụ Thần Châu 8
Ngày 1-11-2011, tàu vũ trụ (spacecraft) Thần Châu 8 (Shenzhou-8), không người lái, được phóng lên để ráp nối với trạm không gian nhỏ Thiên Cung 1, chuẩn bị cho Thần Châu 9, 10, có người lái, ráp nối vào Thiên Cung 1.
Chương trình không gian của Trung Cộng nhằm thiết lập một trạm vũ trụ có người ở, bắt đầu từ Thiên Cung 1, 2, và Thiên Cung 3. Những con tàu vũ trụ (phi thuyền không gian) sẽ lần lượt mang người và thiết bị lên không gian, để thực hiện những thí nghiệm, tiến tới chương trình lên mặt trăng của Trung Cộng.
Ngày 9-1-2012, với hỏa tiễn (tên lửa) Trường Chinh 4, TC đã phóng thành công, đưa vệ tinh Tư Nguyên 3 (Ziyuan 3) vào một quỹ đạo cách mặt đất 500km.
Đây là lần thứ 156 loại hỏa tiễn Trường Chinh mang các vệ tinh vào vũ trụ.
Giám đốc Chương Trình Không Gian, Triệu Tiểu Tân, cho biết, trong năm 2011, TC đã có 19 lần phóng, đưa 21 tàu vũ trụ (Spacecraft) và vệ tinh (Satellite), đứng hàng thứ hai thế giới về số lần phóng. Ông nầy cho biết, mục tiêu năm 2011-2015 là 100 lần phóng, sẽ đưa 100 vệ tinh các loại vào vũ trụ.
7* Mở màn chiến tranh không gian
7.1. Trung Cộng xác nhận đã bắn hạ vệ tinh
Bước đầu chuẩn bị cho cuộc chiến tranh vũ trụ là bắn hạ vệ tinh của địch, bao gồm những vệ tinh do thám, nhưng quan trọng nhất là phá hủy hệ thống định vị toàn cầu, để làm vô hiệu hóa hệ thống dẫn đường các loại hỏa tiễn và bom tinh khôn.
Ngày 23-1-2007, phát ngôn viên TC, Liu Jianchao xác nhận, TC đã tiến hành thử nghiệm hỏa tiễn để bắn hạ một vệ tinh. Tuy nhiên, “TC cam kết sẽ dùng khoảng không vũ trụ vào mục đích hòa bình”.
Hội Đồng An Ninh QG/HK phổ biến, ngày 23-1-2007, TC đã dùng hỏa tiễn đạn đạo (Ballistic Missile) tầm trung, phóng từ mặt đất, để phá hủy một vệ tinh thời tiết của họ, cách mặt đất 850km. Điều nầy chứng tỏ rằng, trong tay TC có những thông số về độ cao, vận tốc và tọa độ của vệ tinh. Việc TC bắn hạ vệ tinh đã làm cho các nước phương Tây phản đối. Mỹ, Anh, Nhật, Úc đã ra tuyên bố phản đối.
Các khoa học gia HK công bố, vụ bắn hạ vệ tinh của TC đã tạo ra 800 mảnh vở, đường kính lớn hơn 10cm, và 40,000 mảnh vụng đường kính từ 1 đến 10cm.
7.2. Hoa Kỳ đã bắn hạ vệ tinh năm 1985
Năm 1985, trong chương trình Chiến Tranh Các Vì Sao (Stars war), hỏa tiễn HK đã bắn một phát, hạ được vệ tinh có tên là Solwin. Gần đây, HK chuyển sang kỹ thuật mới, có tên là “Vũ khí dùng năng lượng trực tiếp”, dùng tia Laser trên không gian để làm tê liệt vệ tinh. Cách nầy không tạo ra những mảnh vụng, có thể nguy hại các trạm không gian có người ở, và làm hại các vệ tinh khác.
Nói về việc bắn hạ vệ tinh, thì HK đã có khả năng nầy trước TC là 22 năm, với 2 loại vũ khí khác nhau.
Về hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu, thì HK cũng đã xử dụng trước TC thời gian 26 năm.
Và mới đây, HK lại có khả năng làm thay đổi quỹ đạo của hệ thống vị tinh định vị toàn cầu GPS, chuyển sang con đường đi khác hơn con số 20,200km, việc nầy khiến cho các nhà khoa học dưới đất, khó tính toán một cách chính xác về vị trí của các vệ tinh trong hệ thống.
Như thế, việc bắn hạ vệ tinh của TC còn thua HK rất xa. Đó là chưa kể sự lợi hại của tàu vũ trụ con thoi không người lái X-37B của HK.
8* Thế thượng phong của Hoa Kỳ trong không gian
8.1. Sứ mạng bí mật của tàu không gian con thoi không người lái X-37B của Hoa Kỳ
Hồi tháng 4 năm 2010, tàu không gian (phi thuyền vũ trụ) con thoi không người lái X-37B được Không Lực HK (USAF) phóng vào quỹ đạo tầm thấp 300km cách mặt đất.
Bí ẩn bao quanh tàu quỹ đạo con thoi (Shuttle Orbiter) nầy, khi Bộ Quốc phòng HK cương quyết từ chối bàn luận về sứ mạng của nó. Nhưng theo tạp chí Spaceflight, thì người ta dự đoán con tàu nầy bay vòng quanh trái đất, để theo dõi trạm không gian nhỏ (Space module) Thiên Cung 1, được xem như phòng thí nghiệm mới của Trung Cộng.
X-37B được đánh giá là sự kết hợp hoàn hảo giữa phi cơ quân sự và tàu vũ trụ, cho phép nó thực hiện được mọi nhiệm vụ trong khoảng thời gian hơn 9 tháng (270 ngày) ngoài vũ trụ.
Ưu điểm của X-37B là nó có thể bay chung quanh quả đất với nhiều quỹ đạo khác nhau, cho nên rất khó phát hiện, đồng thời xem như không thể bị bắn hạ.
Các nhà khoa học châu Âu và HK theo dõi sát chuyến bay, thì thấy nó theo đường bay của trạm không gian Thiên Cung 1, được TC phóng lên bằng hỏa tiễn Trường Chinh 2F vào ngày 29-9-2011.
Nhà biên tập David Baker của tạp chí Spaceflight khẳng định, việc bay song song giữa X-37B và Thiên Cung 1 là một điều hết sức rõ ràng.
Không Lực HK cho biết, X-37B có mục đích thực hiện những thí nghiệm công nghiệp mới.
Bà Joan Johnson-Freese, giám đốc Viện Nghiên Cứu Đại học Chiến Tranh Hải Quân ở Newport, Rhode Island, cho rằng, chắc chắn là X-37B thực hiện sứ mạng quân sự vì nó có thể bay đến bất cứ một địa điểm nào, để thực hiện công tác gián điệp một cách dễ dàng, vì hiện tại, chưa có một vệ tinh hay một hỏa tiễn nào có thể bay theo ý muốn được cả. Vì thế, người ta lo ngại X-37B sẽ mở ra một kỷ nguyên chạy đua vũ trang ngoài không gian.
Nhiệm vụ và phí tổn của X-37B tuyệt đối được giữ bí mật, tuy nhiên, các chuyên viên cho rằng nó là một phương tiện gia tăng hệ thống chiến đấu và hệ thống yểm trợ vũ khí.
Cũng có những cáo buộc, cho rằng HK đã quân sự hóa vũ trụ.
Tom Burghardt của tờ Global Research phát biểu, với dũng sĩ không gian X-37B, HK có ý đồ chiếm lĩnh và chế ngự không gian, bằng khả năng làm tê liệt, phá hỏng hoặc tiêu diệt vệ tinh của các quốc gia khác, để thực hiện mộng bá chủ vũ trụ của HK.
Tóm lại, mặc dù chính phủ HK giữ bí mật về X-37B, nhưng các khoa học gia đều công nhận rằng nó phục vụ cho mục đích quân sự trong vũ trụ. Đó là thứ vũ khí tối tân nhất mà chưa có quốc gia nào theo kịp.
X-37B có những khả năng như sau:
- Tiêu diệt các vệ tinh địch.
- Đánh cắp tài liệu từ các vệ tinh khác, bằng cách bay đến gần để thu nhận tín hiệu do vệ tinh phát ra chuyển về mặt đất.
- Tiêu diệt hỏa tiễn địch để bảo vệ hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu GPS của HK.
- Khả năng bắn hỏa tiễn và ném bom từ vũ trụ xuyên qua bầu khí quyển, xuống mặt đất trong thời gian 1 giờ sau khi cất cánh, và ở trên không suốt hơn 9 tháng.
Dũng sĩ X-37B đang làm chúa tể vũ trụ, và trong chiến tranh thời nay, ai làm chủ không gian là người chiến thắng.
8.2. Tàu không gian con thoi không người lái X-37B
X-37B cũng được gọi là tàu thử nghiệm quỹ đạo (Orbital Test Vehicle-OTV) được đặt tên là Thần Ưng, trông giống như phi thuyền con thoi (Space Shuttle) nhưng nhỏ hơn 4 lần. Được phóng thẳng đứng và trở về trái đất, hạ cánh hàng ngang như phi cơ thường ở bất cứ đường băng nào.
X-37B được sản xuất theo đơn đặt hàng của Không Lực Hoa Kỳ.
Dài 8.9m. Sải cánh 4.5m. Cao 2.9m. Nặng 4,990kg. Khoang chứa hàng kích cở 2.1m x 1.2m. Được phóng bằng hỏa tiễn mang Atlas V. Quỹ đạo bay là 300km cách mặt đất. Bay quanh trái đất trong thời gian trên 270 ngày (9 tháng).
Hai cánh hình tam giác, phần đuôi có cánh phụ hình chữ V. Vận tốc 28,200km/giờ (25 lần cao hơn vận tốc âm thanh). Xử dụng năng lượng mặt trời và nguồn pin, accu Lithium-ion.
Chuyến bay thí nghiệm đầu tiên ngày 7-4-2006, cất cánh tại căn cứ Edwards, California, bay trong bầu khí quyển của trái đất. Bầu khí quyển là lớp không khí bao bọc chung quanh trái đất, gồm nhiều thứ khí khác nhau và hơi nước. Bên ngoài bầu khí quyển là không gian hay là vũ trụ. Độ cao 120km được coi là ranh giới giữa bầu khí quyển và vũ trụ.
Sau đó, 2 chuyến bay thử nghiệm nữa vào tháng 8 và tháng 9 năm 2006.
Cuối cùng, ngày 22-4-2010, chiếc X-37B được phóng vào vũ trụ bằng hỏa tiễn Atlas tại Cape Canaveral, Florida.
8.3. Chương trình bí mật Refly
Năm 1980. Chương trình bí mật Refly được giao cho công ty Rockwell khởi động.
Tháng 12 năm 1991. Dự án được NASA chuyển giao cho công ty Boeing thực hiện.
Ngày 13-12-2004. Dự án không gian quân sự nầy được giao cho Cơ Quan Phát Triển Bộ Quốc Phòng DARPA (Defense Advanced Research Projects Agency-DARPA).
8.3.1. Sứ mạng USA-212 (22-4-2010 – 3-12-2010)
Sứ mạng USA-212 là chuyến bay đầu tiên của tàu quỹ đạo (Orbital Test Vehicle-OTV), được phóng thẳng đứng, hạ cánh hàng ngang (Vertical-take off, horizontal-landing), được hỏa tiễn đẩy Atlas V 501, tại Cape Canaveral, FL vào ngày 22-4-2010. Nhiệm vụ con tàu không được tiết lộ.
Các quan sát viên tài tử theo dõi, và nhận thấy con tàu ở quỹ đạo cách mặt đất Canada 422km. Ngày 29-7-2010, họ không còn thấy con tàu, vì nó thay đổi quỹ đạo.
Sự theo dõi xác nhận, con tàu bay trên 47 quỹ đạo khác nhau.
Chuyên viên William Scott cho rằng X-37B thực hiện những chiến dịch quân sự và xử dụng các loại vũ khí trong không gian.
8.3.2. Sứ mạng USA-226
Sứ mạng USA-226 bắt đầu cất cánh ngày 5-3-2011, được hỏa tiễn đẩy Atlas V 026 phóng đi tại Cape Canaveral, FL.
Đến ngày 29-11-2011, phát ngôn viên Không quân cho biết, nhiệm vụ của tàu con thoi nầy được gia hạn thêm một thời gian nữa, và hiện nay, nó đang bay trên quỹ đạo để thực hiện những cuộc thí nghiệm của Bộ QP/HK.
Mỹ sẽ nâng cấp hệ thống định vị toàn cầu. Chính phủ Mỹ đã quyết định chi 5,5 tỷ USD cho dự án chế tạo những vệ tinh định vị thế hệ mới. Block III, tên của thế hệ vệ tinh tiếp theo, sẽ được thiết kế để làm tăng mức độ chính xác, tin cậy và phạm vi hoạt động của GPS.
Hiện tại GPS có thể xác định vị trí của một người ở ngoài trời với sai số tối đa 3 m. Với các vệ tinh Block III, sai số tối đa của GPS ở ngoài trời sẽ chỉ còn 1 m, đồng thời khả năng định vị trong nhà cũng tăng.
Quá trình phóng các vệ tinh để nâng cấp sẽ bắt đầu từ năm 2013 và kết thúc vào năm 2014.
9* Kết
Trong hiện tại, hệ thống dẫn đường các vũ khí của Trung Cộng còn lệ thuộc vào hệ thống định vị toàn cầu GPS của HK. Khi tình hình căng thẳng, HK có thể khoá hệ thống, thì toàn bộ hỏa tiễn dẫn đường của TC trở thành vô dụng.Trong trường hợp TC dùng hỏa tiễn bắn hạ vệ tinh của HK, thì với hệ thống đánh chặn hỏa tiễn AEGIS, hệ thống phòng thủ hỏa tiễn chiến lược, hệ thống chiến tranh điện tử, HK có thừa khả năng bẻ gãy mọi tấn công của TC. Đó là chưa kể sự lợi hạicủa dũng sĩ Thần Ưng X-37B đang làm chủ không gian.
Trong chiến tranh vũ trụ, TC chưa theo kịp HK. Chiến tranh dưới mặt đất cũng vậy, lực lượng quân sự của TC còn kém HK rất xa, về hỏa tiễn mang đầu đạn hạt nhân, cũng như về Hải quân. Mặc dù TC đã tăng ngân sách quốc phòng lên tới 100 tỷ hoặc con số thật, cao hơn nữa, thì cũng còn kém HK. Ngân sách QP/HK từ 739.3 tỷ USD, bị cắt giảm còn 525 tỷ, cũng còn hơn TC.
Các quan chức Hoa Kỳ cho rằng: “Nổ lực tăng tốc quân sự của Trung Cộng, còn cả một đường dài phía trước, để có đủ sức mạnh quân sự, có thể đối đầu với Hoa Kỳ”.
Thật vậy, kỹ thuật quân sự do ăn cắp, thì luôn luôn lẹt đẹt đi sau thiên hạ, là lẻ đương nhiên.
Thủ tướng Ôn Gia Bảo cho biết, Trung Cộng cần phát triển sức mạnh quân sự chỉ để chiến thắng cuộc chiến tranh cục bộ mà thôi. Chiến tranh cục bộ là ăn hiếp các nước nhỏ trong khu vực. Làm sao mà so với Hoa Kỳ cho được?
Trúc Giang
Minnesota ngày 13-3-2012
Minnesota ngày 13-3-2012
VƯƠNG MỘNG LONG * ÔNG GIÁO DẠY SỬ
Ông giáo sư dạy Sử
Tác giả- Vương Mộng Long
Tác giả- Vương Mộng Long
- Cựu học sinh Trung-Học Trần Quý Cáp, Hội-An.
- Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam.
- Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.
- Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam ra Bắc.
- Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington, USA.
- Năm 2003 tốt nghiệp University of Washington, cấp bằng B.A SocialSciences and Communication.
- Gia cảnh hiện nay: Một vợ, 4 con, 1 cháu nội, 3 cháu ngoại.
Một chiều cuối năm 1998 tôi vào Trường University of Washington (UW) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ xe bên bến Bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều. Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community College (Shoreline C. C.).
So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ.Thật là, không có gì diễn tả nổi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học.Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full-time, đi học full-time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quater) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full-time để thúc đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.
Một niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang, thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh lớp History 274 “U.S. and Vietnam”.
Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt-Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.
Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những Thạc Sĩ, Tiến Sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.
Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi nhiều.
Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo-Dục Hoa-Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà thày đã chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý.Trong hai phần ba thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt-Minh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt -Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ của Đế-Quốc Pháp.
Thầy khẳng định rằng, chính phủ Hoa-Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Đông-Dưong lần thứ hai (1954-1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái chiếm Đông-Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.
Chúng tôi đã được cho xem những đoạn phim cũ về trận Điện-Biên Phủ, về Hiệp- Định Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như Plei-Me, Khe- Sanh, Kontum, Bình-Long, Long-Khánh vân vân... chúng tôi chỉ được thấy những cảnh thương vong của quân đội Đồng-Minh và Việt-Nam-Cộng-Hòa. Trận Mậu-Thân, chỉ là cảnh ...nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt-Cộng. Tôi chưa nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt-Nam Cộng-Hòa. Thầy mô tả Quân- Lực Việt-Nam Cộng-Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt-Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân sách Quốc- Phòng Hoa-Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Đã có đôi lần tôi dơ tay nêu ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dày cộm,
“Book said!”
Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng.
Thầy hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời 1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa-Kỳ vào chỗ chết.
Kết quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid-Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.
Cả hai bài đều lãnh điểm KHÔNG (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thày. Ngặt một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của tôi sẽ thành mây khói.
Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử Tổng Thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà Tiểu-Bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Đảng Dân-Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!
Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Đúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Để thoát thân, từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.
Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt-Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì ra.Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử-Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà Việt-Nam Cộng-Hòa đã thực hiện được. Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi vui mừng và cẩn thận photo copy những c thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài liệu mà ông đã dùng để trợ huấn.Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, B, C khoanh. Sau đó thày giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại, thày sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng.Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ,
- Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?
Thầy Dan niềm nở,
- Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.
Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng,
- Thưa giáo sư, tôi là một người Việt-Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân-Đội Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt-Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang.Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gổm cả cái Thung Lũng Ia-Drang đó.
Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo chí, truyền thanh, và truyền hình.Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ.Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.
Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt Động Quân Việt-Nam Cộng- Hòa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại tá Hoa-Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt-Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu.Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa-Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng-Sản Quốc-Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những c liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến-Tranh Việt-Nam. Từ đó, tên Việt-Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ đức độ anh minh.
Chính tên sát nhân này và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ Cộng-Sản là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp-Định Geneve năm 1954, và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay Cộng-Sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Đồng-Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa, cho rằng quân Đồng-Minh tàn ác.
Nếu thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng Tư năm 1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt-Cộng lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi Việt-Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng Tư năm 1974.
Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi,
- Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.
Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với tôi,
- Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm. Tôi không ngần ngại, tiếp lời,
- Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt-Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt. Tôi tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây-Nguyên, và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban-Mê-Thuột, Pleiku, Plei-Me, Đức-Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây-Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi,
“Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?”
Tôi cứ tình thực trả lời,
Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak-Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Đường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường-Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn-Thám săn tin dọc biên giới Việt-Miên-Lào từ Khâm-Đức tới Bu-Prang vào những năm 1972-1973.
Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã áp dụng trong trận Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975. Trận Xuân-Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cá nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù.Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.
Và sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã chết vì tổ quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng,
“Trời ơi!”
Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt-Nam Cộng-Hòa ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng Tư năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re-Education Camp” mà ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi truyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cùng những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.
Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt-Nam. Tháng 7 năm 1954 gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh Cộng-Sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp-Định Geneve năm đó, hai miền Nam, Bắc Việt-Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam . Quân đội và nhân dân Việt-Nam Cộng-Hòa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Đồng-Minh vào Việt - Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.
Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt-Nam- Hóa chiến tranh, còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Đồng-Minh bàn giao lại.Để chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân Việt-Nam Cộng-Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam-Bốt trong chiến dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái là con số 2,
- Đây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê-Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên-Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi đã đánh chiếm thành phố Ba-Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những
năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.
Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà -Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn Plei-Me do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm. Plei-Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Để chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?
Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa-Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt-Nam năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang làm việc. Đây là lời của anh ấy,
“Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ Everett , Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách dơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng xưởng nào cũng không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này. Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm rồi.”
Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt-Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối với Việt-Nam Cộng-Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa-Kỳ đối với nước tôi.Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,
-Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt-Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?
- Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!
- Cậu bé Việt-Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu của nó bị điểm KHÔNG (0) vì nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam. Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua;tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết những đều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.
Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,
- Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt-Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa-Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.
Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt,
“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”
Đêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân-Đoàn II hòa tấu.
Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm (4.00).
Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A. A. nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm,
“Long! I’m proud of you!”
Đến lúc bà Hiệu Trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về sân khấu,
“My soldier! I’m loving you!”
Ông là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân vật chính trong phim “Người Dơi”.
Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.
Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những giòng này (2011) hàng chục ngàn học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,
“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”
Seattle tháng 7 năm 2011
Vương Mộng Long-K20
TRẦN ĐỨC ANH SƠN * HUẾ, TRÒ CHƠI VÀ THÚ TIÊU KHIỂN 2
TRÒ CHƠI VÀ THÚ TIÊU KHIỂN CỦA NGƯỜI HUẾ 2
TRẦN ĐỨC ANH SƠN *
CÁC TRÒ ĐỎ ĐEN KHÁC
như: tứ sắc, bài xẹp, tổ tôm, kiệu, tài bàn, mạt chượt, bài vụ, xóc dĩa... Ðó là
những trò giải trí nặng tính sát phạt, cao thấp, du nhập từ những vùng khác,
đặc biệt từ Trung Hoa và miền Bắc Việt Nam. Vì thế, cách chơi, sự thưởng
phạt đều tương tự.
- Bài tứ sắc và bài xẹp: Đều dùng chung một bộ bài, thường gọi là bài
tứ sắc, nhưng khác luật chơi. Các quân bài gồm: tướng - sĩ - tượng - xe - pháo
- mã - tốt. Mỗi quân bài có 16 lá gồm 4 lá màu xanh lục; 4 lá màu đỏ; 4 lá
màu vàng và 4 lá màu trắng. Bảy quân bài có tổng cộng 112 lá bài.
Ảnh 28: Chơi tứ sắc - Ảnh Đào Hoa Nữ
- Tổ tôm và kiệu: Đều dùng chung bộ bài tổ tôm. Bộ tổ tôm cũng gồm
3 pho: văn, vạn, sách. Mỗi pho có 9 quân bài từ nhất cho đến cửu. Mỗi quân
bài có 3 lá bài như nhau. Ngoài ra có thêm hàng yêu đỏ gồm 3 quân bài: chi
chi, cung thang và ông lão. Mỗi quân bài trong hàng yêu đỏ này gồm 4 con
bài giống nhau. Tổng cộng là 120 con bài. Tổ tôm thì chơi năm người, trong
khi kiệu có thể chơi hai, ba hay bốn người đều được.
53
Ảnh 29: Chơi bài kiệu
- Tài bàn và mạt chượt: Cũng dùng các quân bài như trong bộ tổ tôm
nhưng thay vì làm bằng giấy thì chúng được làm bằng sừng hay nhựa. Tài bàn
chỉ chơi ba người, trong khi mạt chượt thì chơi bốn người. Riêng bộ mạt
chượt có thêm các quân bài: trung, phát, bạch, đông, tây, nam, bắc. Sau này
người ta bổ sung thêm vào bộ mạt chượt 16 quân bài mới gọi là bốn “bộ hoa”
gồm: tổng-đồng-vạn-sách; hoa-nguyên-hỷ-hợp; xuân-hạ-thu-đông; mai-lancúc-
trúc, khiến cho trò này ngày một hấp dẫn hơn, thú vị hơn.
Ảnh 30: Bộ mạt chượt người Huế thường chơi
54
- Bài vụ: Đây là một trò chơi dân gian rất phổ biến trong các làng quê
xứ Huế, thường được tổ chức trong các dịp Tết đến, xuân về. Trò chơi này thể
hiện nét văn hóa đặc trưng của cư dân nông nghiệp thông qua sự xuất hiện
hình vẽ các con vật trên con vụ và trên bàn chơi bài vụ.
Bộ đồ chơi bài vụ gồm một con vụ làm bằng gỗ và chiếc bàn chơi
bằng giấy có vẽ hình tám con vật rất quen thuộc với người nông dân là: heo
(lợn) đen, voi trắng, trâu xanh, ếch vàng, ngựa đỏ, rùa vàng, tôm xanh và cá
vàng và một bộ tô - dĩa để xoay con vụ. Con vụ là một khối gỗ nhỏ hình lăng
trụ tám mặt, mỗi mặt có vẽ hình một trong tám con vật như trên bài chơi bằng
giấy; hai đầu con vụ có gắn hai chiếc đinh gỗ để nhà cái cầm và xoay vụ. Con
vụ được đặt trên chiếc dĩa sứ, phía trên có chiếc tô sứ úp kín con vụ khi nó
đang xoay.
Ảnh 31: Bộ đồ chơi bài vụ
Tết đến, người ta chọn những khoảnh đất bằng phẳng đầu làng hay
đầu ngõ xóm để tổ chức chơi bài vụ. Nhà cái, cũng là một người dân trong
cộng đồng, bày chiếc bàn giấy, con vụ và bộ tô - dĩa xoay vụ trên chiếc chiếu
trải giữa khoảng trống là có thể bắt đầu trò chơi bài vụ. Người chơi cũng là
những người dân lối xóm, sẽ đặt tiền vào hình vẽ con vật mà mình ưa thích có
trên mặt bàn chơi bàn giấy. Sau khi người chơi lựa chọn và đặt cược hoàn tất,
nhà cái sẽ xoay con vụ trên lòng dĩa, sau đó dùng chiếc tô sứ úp lên con vụ
đang xoay. Trong lúc con vụ đang xoay, người chơi có thể đặt thêm hoặc di
chuyển tiền đã đặt đến hình các con vật khác. Sau khi người chơi đã hoàn tất
việc đặt cược tiền và con vụ đã ngừng xoay, nhà cái sẽ nhấc chiếc tô lên khỏi
55
dĩa và hô tên con vật xuất hiện ở mặt trên con vụ. Người chơi nào đặt cược
tiền vào hình con vật đó sẽ được nhà cái “chung” tiền theo tỉ lệ đặt 1 ăn 6.
Những người đặt cược sai với hình con vật xuất hiện trên mặt chiếc vụ thì sẽ
mất số tiền đó vào tay nhà cái.
Bài vụ là một trò chơi có tính đỏ đen và chỉ xuất hiện trong những dịp
đặt biệt như Tết nhứt, hội hè. Về sau, nhiều cung nữ trong hoàng cung triều
Nguyễn cũng du nhập trò bài vụ vào chơi trong cung để giải khuây trong
những đêm dài mòn mỏi chờ đợi sự đoái thương của các đấng quân vương.
Ảnh 32: Chơi bài vụ trong chương trình Đêm Hoàng Cung
56
III. TRÒ GIẢI TRÍ VÀ TIÊU KHIỂN MANG TÍNH CÁ NHÂN
CHƠI NON BỘ
Chơi non bộ không phải là một thú vui của riêng người Huế, càng
không phải là do người Huế khai sinh. Song có một điều cần phải ghi nhận
rằng Huế là nơi có số người chơi non bộ nhiều vào hạng nhất, nhì Việt Nam.
Nguyên do là vì non bộ thường gắn với nhà vườn, mà nhà vườn chính là một
đặc trưng văn hóa của xứ Huế. Non bộ hiện diện nhiều nơi trên đất Huế: trong
cung vua, phủ chúa; trong lăng tẩm của các vị hoàng đề triều Nguyễn; trong
những ngôi nhà vườn miệt Kim Long, An Cựu, Vỹ Dạ...; trong cả những ngôi
nhà cao tầng nơi phố xá đông người.
Nhiều người Huế chơi non bộ, nhưng cách chơi và cách hiểu non bộ ở
Huế không giống nhau. Với người này, non bộ là sự vận dụng của thuật
phong thủy trong một không gian cụ thể. Với người kia, non bộ đơn giản là
một phần của nghệ thuật tạo hình hay nghệ thuật trang trí ngoài trời. Song
chiếm số đông vẫn là những người coi việc chơi non bộ như một trò giải trí
thuần túy và dựa vào các tích tuồng xưa để tạo cho mình những hòn non bộ
ưng ý.
Ảnh 33: Non bộ phía trước Trường Du Tạ ở cung Diên Thọ
57
Huế có những nơi có non bộ đẹp nổi tiếng, như ở cung Trường Sanh,
Trường Du Tạ trong cung Diên Thọ, hồ Kim Thủy (Ðại Nội); hồ Tịnh Tâm,
vườn Trường Thanh (Thành Nội), đảo Tịnh Khiêm (lăng Tự Ðức), chùa Thiên
Mụ (hòn Linh Phong). Huế cũng có người say mê non bộ như ông Bửu
Nghiêu (thường gọi là mệ Nho) ở chợ Cống, người đã lập hẳn cả một vườn
đá, đủ muôn hình vạn trạng trong khu vườn của mình và dành trọn một đời
cho thú vui ấy.
Ảnh 34: Non bộ phía trước Duyệt Thị Đường
Nhiều người Huế coi việc tạo một hòn non bộ trong vườn nhà như là
một yếu tố để cân bằng âm dương hay có chức năng trấn yểm theo phong
thuỷ. Ðó là những hòn non bộ được xây dựng ngay trước lối dẫn vào một ngôi
nhà, có tác dụng như một bức trấn phong, đảm bảo cho ngôi nhà tránh được
những điều bất lợi đến từ bên ngoài.
Chỗ khác thì coi non bộ như là một tiểu vũ trụ, như một hình thức sắp
xếp không gian theo ý muốn chủ quan của con người, tạo nên các vùng đất
linh kiệt hay chốn tiên cảnh dựa theo truyền thuyết và giai thoại: non bộ trên
đảo Bồng Lai (hồ Tịnh Tâm) tượng trưng cho ngũ nhạc (năm ngọn núi thiêng
của Trung Quốc); non bộ ở Trường Du Tạ (cung Diên Thọ) tượng trưng cho
tứ trấn, trấn yểm bốn phương: đông - tây - nam - bắc...
58
Khi tạo một hòn non bộ, người ta thường gắn thêm một số nhân vật và
đồ vật dựa theo các điển tích xưa: tượng ông già ngồi câu dựa theo tích Thái
Công điếu Vị (Khương Tử Nha ngồi câu danh vọng bên sông Vị); tượng hai
người, một trẻ, một già, ngồi đánh cờ, nhắc tích Triệu Khuông Dẫn gán núi
cho Trần Ðoàn để trừ nợ thua cờ trước khi trở thành Tống Thái Tổ; hay tượng
ông già ngồi nhìn đàn dê đang leo lên mỏm núi, nhắc tích Tô Vũ mục Hồ
dương (Tô Vũ chăn dê cho rợ Hồ).
Non bộ Huế cũng thường có nhiều tháp, đa số tháp đều 13 tầng.
Những ngọn tháp này tượng trưng hai ý nghĩa: thứ nhất là để cầu mong điều
tốt lành, vì nơi xây tháp được coi là một thánh địa để người ta tới cầu phúc,
cầu an; thứ hai là để trấn yểm.
Về mặt tạo hình những người chơi non bộ ở Huế thường tránh những
điểm sau:
- Thứ nhất là tránh xuyên tâm, tức là các hang động giả trên non bộ
không được thông từ trước ra sau. Non bộ được coi là một cái trấn phong, mà
xuyên tâm thì sẽ có gió lọt vào, vai trò trấn phong không còn nữa. Non bộ là
một hòn núi thu nhỏ, nếu có lổ thủng, coi như hòn núi đó bị mất linh khí.
- Thứ hai là những ngọn núi trên non bộ Huế thường không làm nhọn.
Non bộ cần có tính vững chãi trong khi cái nhọn không cho người ta cảm giác
vững chãi. Ðó cũng là một trong những lý do khiến nhà Nguyễn chọn núi
Ngự Bình, bằng phẳng hơn, làm tiền án cho Kinh Thành Huế, chứ không phải
là núi Kim Phụng, dù cho Kim Phụng cao hơn và hùng vĩ hơn Ngự Bình.
- Thứ ba, những con dốc quanh co trên hòn non bộ thì không bao giờ
lên đến đỉnh núi. Ðỉnh tượng trưng cho chân lý và chân lý là con đường
thẳng, không phải đường cong. Vả lại mấy ai đã đạt tới chân lý mà dám làm
cho mình một con đường lên tới đỉnh.
Một hòn non bộ được đánh giá là đẹp phải đạt đến tính cân đối, vững
chãi, toàn vẹn, có trước có sau, tránh được những điều kiêng kỵ trên đây. Thứ
hai, là các tích tuồng ở trên non bộ phải là những tích hay, tích hiền, không
phải là tích xấu, tích ác. Thứ ba hòn non bộ ấy được đặt trong một khung cảnh
phù hợp, tương xứng với tầm vóc và không gian xung quanh. Một hòn non bộ
to lớn, đặt trong một khuôn viên chật hẹp thì không thể gọi là đẹp được.
Người Huế có điều kiện chơi non bộ vì họ có một không gian cư trú rộng hơn
người xứ khác. Nhà ở Huế thường có vườn, có sân nên việc tạo lập một hòn
non bộ dễ dàng hơn và tránh được nhược điểm nói trên.
Chơi non bộ là một cách tìm về với thiên nhiên. Ðó là một thú tiêu
khiển tĩnh lặng, không xô bồ, huyên náo như những trò giải trí khác nên phù
hợp với tính cách của những người trầm tĩnh, kín đáo, mà đức tính đó chính là
nét đặc trưng của người Huế. Non bộ là một phần nhỏ của hoa viên, là một
59
bức tranh sơn thủy thu nhỏ trong ngôi nhà vườn xứ Huế và là cảm quan nghệ
thuật của và tư tưởng của chủ nhân ngôi nhà ấy. Vì thế, khi ngắm một hòn
non bộ, người tinh ý có thể hiểu được một phần tính cách của chủ nhân.
THÚ CHƠI HOA KIỂNG
Huế được mệnh danh là thành phố vườn, nhờ vào những vườn cây
trong các cung điện, lăng tẩm, chùa chiền, phủ đệ, trong các khu dân cư và
trên đường phố. Ðặc trưng ấy hình thành từ lối sống gắn bó với thiên nhiên,
hòa mình với thiên nhiên của con người xứ Huế và đó cũng là tiền đề cho một
thú tiêu khiển có truyền thống và phổ biến ở Huế. Ðó là thú chơi hoa kiểng.
Nhà ở Huế đa phần là nhà vườn, nên chủ nhân có không gian thuận lợi
để chơi hoa kiểng. Hầu như ngôi nhà nào cũng có một vài loại hoa và cây
kiểng mà chủ nhân yêu thích. Trong đó hoa mai là loài hoa được người Huế,
từ nông thôn đến thành thị, yêu thích. Hoa mai có mặt trong hầu hết các ngôi
chùa ở Huế và phụ cận; trong cung điện, lăng tẩm của vua chúa triều Nguyễn;
trong các phủ đệ, tư dinh của giới hoàng thân quốc thích và quan lại đương
triều. Hoa mai được trồng ở trước sân, sau vườn, hay trên những vùng đất đồi
ở Dương Xuân, Long Thọ. Thậm chí ở những vùng cồn cát của các huyện
Phong Ðiền, Quảng Ðiền cũng có hoa mai. Mai thường được trồng từ hai cây
trở lên, tránh trồng một cây (do kiêng chữ mai một).
Hoa hồng, người Huế gọi là bông hường vì kiêng húy vua Tự Ðức,
cũng là một loại hoa được trồng nhiều ở Huế. Trong các ngôi chùa như chùa
Huyền Không, chùa Từ Hiếu, hay trong vườn An Hiên, hồng được trồng
thành vườn với hàng chục loại khác nhau. Có những người chơi hồng chuyên
nghiệp như gia đình ông C.X.D. ở đường Chi Lăng, là những nơi nhập các
giống hoa hồng từ các vùng khác về ươm, chiết, lai giống mới để cung cấp
cho những người chơi hồng ở Huế. Ngoài ra, lan cũng được những người chơi
hoa kiểng ở Thừa Thiên Huế yêu thích, dù đó là một loài hoa đòi hỏi sự chăm
sóc đặc biệt. Các vị sư ở chùa Huyền Không còn tạo lập một vườn lan với gần
200 loại khác nhau, bốn mùa đều có hoa nở, khiến khách vãng cảnh chùa phải
ngẩn ngơ, thèm muốn.
Khi đô thị ngày một sầm uất hơn, không gian cho những người lập
vườn xứ Huế bị thu hẹp thì nhiều người Huế tìm đến với nghệ thuật bonsai,
cây kiểng. Trên những ngôi nhà cao tầng người ta tạo ra những khoảng không
gian khiêm tốn để chơi cây kiểng. Ðó là những gốc tùng, bách, mai... cổ thụ
khéo léo thu mình trong những chiếc chậu xinh xắn, hay những loại thảo mộc
tầm thường như sanh, bồ đề, tràm... qua bàn tay chăm sóc và tạo tác con
người đã trở thành những tác phẩm nghệ thuật giàu sức sống và đầy triết lý.
Người chơi cây kiểng đã chủ động tạo cho cây những dáng, những thế tùy
60
thích, rồi đặt theo những dáng, thế ấy như: phụ tử, huynh đệ, phu thê, long
thăng, phụng vũ, tam đa, ngũ phúc... Cây kiểng kiểu bonsai không chỉ được
trồng trong những nơi có không gian hạn chế mà còn xuất hiện trong các cung
điện, lăng tẩm triều Nguyễn, chứng tỏ đó cũng là một thú vui được tầng lớp
quyền quý quan tâm.
Ảnh 35: Chăm sóc hoa kiểng - Ảnh Đào Hoa Nữ
Có thể nói, thú chơi hoa và cây kiểng trong các tầng lớp người Huế đã
góp phần tạo cho vùng đất này một thần thái riêng biệt, một không gian đô thị
đầy sắc xanh và tràn ngập hương hoa. Thú vui này cũng đóng góp vào việc
duy trì đặc trưng thành phố vườn như một nét riêng của đất thần kinh.
THÚ NGỦ ĐÒ
Thừa Thiên Huế có nhiều sông nhưng chỉ có con sông Hương mới
khai sinh nên thú ngủ đò, vốn rất quyến rũ nhưng cũng đầy tai tiếng. Dòng
Hương Giang gắn bó với nhiều trò giải trí của xứ thần kinh, nhưng với riêng
thú ngủ đò thì sự gắn bó đó thật là đặc biệt vì không có dòng sông, con đò thì
lấy đâu ra thú ngủ đò.
Huế xưa là kinh đô, cũng là nơi gặp gỡ của bao tao nhân mặc khách từ
mọi miền đổ về. Họ là những sĩ tử Bắc Hà hay những công tử vùng sông nước
Nam Bộ, khăn gói về kinh mong kiếm cho mình một chỗ đứng trên quan lộ
nhờ nghiệp thi cử. Họ cũng là những kẻ giang hồ, thích rày đây mai đó cho
thỏa chí tang bồng. Có khi họ là quan lại tứ phương về kinh tại chức, sống xa
61
gia đình, thiếu vắng hơi ấm phụ nữ. Cùng với họ là những ông hoàng, những
cậu ấm đất thần kinh, lớn lên trong vòng cương tỏa của luân lý Nho gia,
nhưng lại mang trong người một tâm hồn lãng tử , nay muốn phá bĩnh, đi tìm
chút tự do phóng khoáng ngoài sự răn dạy của thánh hiền và gia tộc. Tất cả
hạng người ấy đã khai sinh nên thú ngủ đò.
Gọi là ngủ đò nhưng có ai xuống đò để ngủ bao giờ. Khách xuống đò
là để nghe đàn ca xướng hát, để ngâm vịnh thơ ca, để tìm kiếm bạn tri âm, tri
kỉ, hay để được thao thức trong khoang thuyền với cô gái Huế bởi những câu
chuyện thâu đêm của nàng, mà dân Huế vẫn quen gọi là chuyện canh trường.
Rồi từ những vui thú tao nhã ấy mới thai nghén nên cái trần tục khiến khách
xuống đò phải nao lòng trước thú mua hoa bán nguyệt. Vì thế mà sau này
trong giới ngủ đò mới hình thành nên các cụm từ “ngủ chay”, “ngủ mặn” để
nói về mức độ và tính chất của những chuyến xuống đò.
Ảnh 36: Con đò xứ Huế - Ảnh Đào Hoa Nữ
Khách đò thuở trước lịch lãm và nho nhã lắm. Hành trang mang
xuống đò của họ không chỉ là niềm đam mê lạc thú, mà cả một hồn thơ lai
láng, một trí tuệ uyên thâm và niềm háo hức muốn trải nghiệm một đêm trên
dòng sông của trăng, của thơ và của nhạc. Khách hiếm khi xuống đò một
mình mà thường đi với một, hai người bạn. Lúc con thuyền rời bến, ngược
dòng Hương đi về phía Kim Long, Thiên Mụ là lúc những sử tích, những giai
thoại về dòng sông và những địa danh ven bờ được khơi dậy. Ðó là những bài
học lịch sử và địa dư lý thú và lãng mạn nhất mà khách đò được học trong
đời. Nó hấp dẫn bởi giọng Huế ngọt ngào của người kỹ nữ sông Hương, bởi
khung cảnh thi vị của một đêm trăng, bởi cảm giác được bồng bềnh trên sông
62
nước với những con sóng lao xao ru vỗ mạn thuyền và tiếng mái chèo khua
nước róc rách.
Ảnh 37: Buông neo - Ảnh Đào Hoa Nữ
Con đò dừng lại, buông neo và một giọng hò mái nhì cất lên lan dài
trên mặt sóng. Người ta nghe trong giọng hò ấy những nỗi niềm của thân
kiếp; những sử tích về cuộc đời của nàng công chúa biết dứt tình riêng để
mang hoà bình, và cả một phần giang sơn, về cho tổ quốc...khiến lòng lãng
khách bùng lên mối cảm thông sâu sắc và cả một nỗi buồn vô cớ nhưng da
diết. Giọng hò chợt tan biến vào thinh không, cũng bất ngờ như lúc nó ngân
lên. Thay vào đó là tiếng dây cuốn neo xé nước roàn roạt. Con đò quay mũi
63
về xuôi trong tiếng thủ thỉ kể chuyện canh trường của phận nữ trong khoang
đò. Rồi khách đò đi vào giấc mộng lúc nào không hay. Ðến khi người con gái
đẩy liếp bước ra trước mũi đò, vẫy gọi chiếc thuyền nan tới bán hàng ăn cho
khách đò lót dạ, thì bình minh cũng vừa ló dạng trước bến Ðông Ba. Và khách
cũng đã trải qua một đêm ngủ đò trên dòng Hương thơ mộng
Tuy nhiên, cái tạo nên sức thu hút của thú ngủ đò lại nằm ngoài những
đam mê thức giả và bặt thiệp đó. Nó ở vào một phía khác của đời thường,
được diễn tả bằng hai chữ hoan lạc, mà khách đò vẫn quen gọi là “ngủ mặn”.
Khi bước chân viễn chinh của quân đội Pháp đưa cuộc chiến tranh ra khắp
vùng nông thôn ven đô sau khi đã tái chiếm cố đô Huế, thì những người dân
quê ở ngoại ô Huế cũng bắt đầu những cuộc di dân vô nội thành tạo nên một
áp lực về dân cư và việc làm nơi đất cố đô. Ðám kỷ nữ sông Hương được bổ
sung thêm những cô gái đến từ nơi thôn dã và khách đò cũng được mở rộng
đối tượng ra đám lính viễn chinh và bản xứ trong quân đội Pháp (và sau đó là
lính Mỹ và lính quân đội Sài Gòn). Thú ngủ đò từ đó phát triển sang một
hướng khác, trần tục hơn nhưng cũng sôi động hơn.
Con đò xứ Huế có những nét khác biệt so với con thuyền các xứ khác.
Ðò Huế không to tròn nhưng ghe bầu Nam Bộ, không lớn và trống trải, thông
suốt từ mũi đến lái như con thuyền xứ Quảng, không ngắn và bẹt như con
thuyền Nghệ An. Ðò Huế thon dài, được ghép từ năm mảnh ván, phần lái và
mũi vút cao để giảm bớt sức cản của nước. Ðò Huế có mui hình vòm, đan
bằng tre khác với thuyền mui phẳng các xứ khác dùng để chở hàng hóa. Con
đò Huế có ba phần: trước mũi là một khoảng không gian rộng và thoáng. Ðó
là nơi để du khách hóng mát, ngắm trăng. Khoang giữa có mui vòm, sàn gỗ
ván bào nhẵn, trải chiếu hoa với đôi gối thêu, là chổ dành cho khách và “hoa”.
Sau cùng là khoang dành riêng cho gia đình chủ đò. Ðò Huế là ngôi nhà di
động trên mặt nước, phù hợp với cuộc sống trôi nổi của cư dân sông nước.
Những khi không có khách thuê đò, khoang giữa sẽ là nơi nghỉ ngơi của con
cái chủ đò, còn khoang trong cùng kín đáo hơn, dành cho cha mẹ của chúng.
Người Huế vốn tinh tế nên trong cái thú vui tế nhị này người ta cũng
biểu hiện sự ý tứ của mình bằng việc thiết kế một khoang thuyền riêng, tạo
cho lãng khách một thế giới riêng tư và kín đáo, cũng như họ luôn đưa con đò
đến ẩn khuất nơi một bến vắng, xa hẳn chốn đông người trong những chuyến
đò đêm.
Chuyện ngủ đò thuở trước sao mà lãng mạn và quyến rũ. Những điều
ấy nay đã phôi pha, nhưng dẫu sao đó cũng từng là một thú vui một thời vang
bóng nơi mảnh đất cố đô.
64
PHỤ LỤC
65
PHỤ LỤC 1: MỘT SỐ BÀI BẢN CA HUẾ PHỔ DỤNG Ở HUẾ
CỔ BẢN
1. Vì cuộc diễn kịch ở Lao-kay để lấy tiền giúp nạn dân Nghệ Tĩnh
Ơn ai ơn đồng bạn, vì mối thương hoài
Kịch tân thời, giúp ai xa khơi
Thuật đôi lời, tỏ lòng vì ai
Ta An nam cùng họ chi khác trong ngoài
Đó Trung kỳ, đây miền Lao-kay
Nghìn dặm đường xá nài, nỗi ngậm ngùi, ngậm ngùi!
Tai hại vì đâu? Non sông oán sầu
Thần Thiên đế. Thiên đế cơ cầu
Quanh vùng Nghệ, Nghệ Tĩnh liền nhau
Nắng thiêu đồng mạ, hư hại vườn rau
Dân tình khó khăn, đói cùng nhau
Đâu trận cuồng phong
Mờ mịt lầm cát tung trời
Gần xa bời bời
Gió cuồng phong
Dến miền đường trong
Hung độc, thạch mộc tơi bời
Thôn quê thiệt thòi
Ấy nhiều nơi
Kinh kinh tế
Kinh kinh tế
Kinh tế nguy nàn
Khó làm ăn
Lúc tiền khan
Dân cùng thất nghiệp như số muôn vàn
Cuộc sinh tồn, cậy nhờ cùng nhau
Nhìn người hơn. Ngắm vào ta
Chung lòng hợp dạ
Sum họp giống nhà
Giống Tiên Rồng, may mà...
Đêm trường làm vui
Mướn trò chơi
Ca đôi lời
Chơi bời vui vẻ
Như giãi tâm hoài
Cuộc mua cười
Vì người Việt Nam
Hợp người Bắc, Nam
Người nhiều nơi
Đất Lao-kay
66
Sum vầy ân ái
Nghệ Tĩnh phương trời!17
2. Nói về liệt đại anh hùng nước ta
Dân số hai nhăm triệu, về giống da vàng
Chi Hồng Bàng, họ dòng Hùng Vương
Học cho tường, truyện nhà làm gương
Xưa Văn Lang trường trị, sau trước Chu, Đường
Ấy là đầu, về đời Hồng hoang
Nhiều truyện còn phi thường, mặt anh hường, anh hường
Trưng thị quần thoa. My linh tướng tài
Đời Đông Hán, Hán quan vô loài
Riêng thù chị, lận bận lòng ai
Núi sông thề nguyện
Yên ngựa cành mai
Cơ đồ bá vương, gái tài trai
Sông Bạch Đằng giang
Giồng cọc, là đúng Ngô Quyền
Hoàng Thao chìm thuyền
Sóng vừa yên
Đến hồi Trần - Tiên
Quang Phục, độc mộc tranh cường
Qua sang Tùy, Đường
Có Phùng – Hoan
Đinh Tiên Hoàng
Đinh Tiên Hoàng
Tiên Hoàng oai thần
Lá cờ lau. Thống thần dân. Khai đầu đế nghiệp
Lê, Lý đến Trần
Dịp Yêu - Hồ
Bản đồ về Minh
Một người Lam san
Ngùi lầm than
Đánh mười thu
Gươm vàng Lê Lợi
Lau sạch máu thù
Nọ còn chìm trong hồ
Ngang đời nhà Thanh
Ấy Càn Thanh
Tôn, Tôn Sầm. Tôn, Tôn Sầm
Tôn, Sầm hai gả
Binh mã tung hoành
Động Nam Đình
Trận thành Thăng Long
17 Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà vận văn, Á Châu xuất bản cục, Tư liệu do Võ Quê sưu tầm.
67
Ngọn cờ Quang Trung
Dòng thần minh
Khách tài danh
Nghe nhời ca lý
Bao hạn ân tình18
3. Dan díu chi trần lụy. Rầu héo gan vàng
Nơi hồng trần, mịt mù càng thương
Bậc phi thường, lọ là giầu sang
Công danh kia là nợ, này chớ mơ màng
Có ra gì, hỡi người hoàng lương
Bàn chuyện đời thêm càng, đoạn can tràng, can tràng
Ân hận mà chi, đa mang với đời
Cùng giăng gió, sớm khuya ru hoài
Khi nhàn hạ, bè bạn làm vui
Nước non còn rộng, du lịch là hay
Trên đời như rứa, có là ai? Ấy là ai?
Danh lợi trường trung, trì trục, thêm rối tơ lòng
Kìa ai đèo bòng. Có, thành không
Nhớ từ đời xưa, Tô Tử. Cùng bạn giong thuyền
Nước non còn truyền. Thú thần tiên
Riêng vui lòng, vui lòng giang hồ
Thú tiều ngư, với cầm thư; khi buồn chén rượu, khi tính nước cờ
Cuộc doanh hoàn, kẻ tài người danh; mặc người đua tranh
Chút lòng thanh, đối trời xanh, băng hồ yên lạng chi bợn thế tình
Thiệt là đời, riêng mình
Trên đời là bao? Có là đâu! Trông trông vời
Trông vời thiên cổ, thanh khí tương cầu
Động tâm đầu, tựa làn giăng thâu
Vịnh vài ba câu. Chút tình sâu, nhắn cùng nhau
Tâm tình sau trước
Ôi bạn đa sầu!19
NAM BẰNG
Tâm sự của người đàn bà lúc bị chồng bỏ
Khoan khoan đã, ới anh!
Phụ phàng chi cho lắm
Duyên nợ ba sinh
Đời mình, đã xe sợi tơ mành
Sợi tơ mành
Tào khang, nên cho trọn chút tình
18 Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà vận văn, Á Châu xuất bản cục, Tư liệu do Võ Quê sưu tầm.
19 Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà vận văn, Á Châu xuất bản cục, Tư liệu do Võ Quê sưu tầm.
68
Xin lòng đừng ly
Quyết đá vàng
Trăm đàng thân thiết
Xiết bao ân tình
Đoái thương nước bạc non xanh
Nguyền non nước
Bắc Nam sao đành!
Mặc trò đời
Chi đâu
Nay đượm đà mai phụ
Gạt dòng châu
Than thở đôi câu
Trông lại cùng nhau
Trăm năm bạc đầu20
HÀNH VÂN
1. Tựa văn phòng, tựa văn phòng
Tuyết lạnh giời đông
Ngàn mây tía che kín non sông, bao la mờ mịt
Mòn con mắt trông giời nam bóng nhạn về thưa
Những trạnh lòng thương người tri kỷ
Người chung hội, duyên nợ xa xăm, cái ruột con tằm, dạ sầu trăm đoạn
Ngồi sầu ngâm, sầu ngâm
Hồn man mác. Lẩn khuất bằng chừng
Mong tới cung hằng. Nhắn dì giăng, dì giăng
Lời ước nguyền trông mong dì giăng
Tâm tình lai láng, đêm đêm ngồi tựa bâng khuâng21
2. Nhạn ven trời, nhạn ven trời
Én liệng ngoài khơi
Cầu Ô Thước, ta bước sang chơi, ấy nơi tình tự
Về non Giáp, trông dòng Tương
Sóng rợn rồi sao, nỗi đợi chờ thêm càng thương nhớ
Vòng nợ duyên, vòng nợ duyên
Ngọc Lam điền, hiệp đoàn loan phụng
Hội Thần tiên, thần tiên
Bồng đào, bông lý, ấy nhụy bông hường
Thơm nức bên tường, ấy mùi hượng, mùi hương
Gẩy nhịp đàn, dâng cầu quỳnh hương
Tơ tình lăng líu, líu lăng vì sợi tơ vương22
20 Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà vận văn, Á Châu xuất bản cục, Tư liệu do Võ Quê sưu tầm.
21 Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà vận văn, Á Châu xuất bản cục, Tư liệu do Võ Quê sưu tầm.
69
3. Cảnh Thanh bình Cảnh Thanh bình
Xinh thiệt là xinh
Nhìn đây đó, hương gió thanh thanh
Quang vinh rạng rỡ
Đường ngay chính ta cùng đi vai lại kề vai
Sống cuộc đời muôn người như một
Đường tiến đạt, đường tự do
Xây dựng cơ đồ...
Bảo tồn quốc thổ
Đượm màu hoa quốc gia
Lòng tha thiết dân Việt kiêu hùng
Cháu Lạc con Hồng
Một lòng chung thành công
Kết giải đồng nhân, dân hằng mong
Tinh thần tranh đấu
Khí thiên làm rạng non sông23
NAM AI
Bâng khuâng, nhớ cảnh. Thương người
Trông vời xa vời vợi. Nay bao tuổi đầu xanh
Duyên với nợ lênh đênh.
Trong giấc mộng phù sinh
Nước non chút tình, ta trông cậy ông giời xanh
Kìa hỡi bạn đồng thanh, cách xa thêm sậu mình duyên mình
Xa xôi, có tỏ, cho cùng
Bên lòng đây chờ đợi
Gánh san thuỷ đầy vơi; riêng nặng với ai?
Ai đi? Ai đi nhắn nhe cùng
Người ước mong. Trời trời đông
Chao ôi sương lạnh phòng không
Bấy lâu trong bụi hồng. Ơn sinh dục, thiệt hoài công
Gió mưa ghẹo anh hùng
(Song anh hùng chút lòng bao quản)
Lòng bao quản vì đâu?
Khí thanh tương cầu, nên vịnh một vài câu
Xa nhắn nhủ cùng nhau
Non sông gánh sầu
22 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
276.
23 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
276-277.
70
TỨ ĐẠI CẢNH
1. Chen chân vào, vòng thế nhân
Qua dâu bể, ngẫm nghĩ thêm buồn
Khôn biết ai tri kỷ mà giãi son tấm son
Nay ruột tầm ngày một héo hon, thẹn với nước non
Thương đoá trà, cơn gió bụi bao nỗi trần ai
Ông hoá công cay nghiệt nhường lại ngươi trêu ngươi
Vui gì đời, mà bướm lả ong lơi, cho phấn nhạt hương phai
Đêm thiếp ngồi, nương gối tựa, tay lựa cầm xoang
Nghe tiếng tơ văng vẳng hồ xừ xang xế xang
Khúc đoạn tràng, càng khêu mối thảm thương, mà trăm nỗi ngổn ngang
Người người đâu? Sao mà khéo
Tài danh! Giống đâu đa tình?
Khiến ai trong mộng, giằn giọc năm canh, cho mòn mỏi ngày xanh
Sầu sầu riêng. Tơ lòng, có, là đây!
Vấn vương thế này. Ấy ai trông đợi, mờ mịt mây sương mây
Biết bao, ngán ngao canh dài
Ai đi về, nhắn nhủ cùng ai?
Ai đi về! Nhắn nhủ cùng ai!24
2. Hoa thu cười, trăng thu sáng
Sông Ngân Hán, lai láng lưng trời
Trông hoa động, mường tượng ai như ai
Gương non Đoài, lần gát giữa nhành mai
Dầu đã cạn, phai hương phai...
Quyên kêu dục, châu chan giọt
Đã tư tưởng tai mày tai
Nghiên mài lụy, mài lụy đưa tin mai
Xưa gương dài, đặng chút thơm rơi
Mừng sạch sẽ cân đai
Keo sơn hẹn, trăm năm vẹn
Lan huệ đều tươi
Nay tình trạng, đòi đoạn nguôi khốn nguôi
Nay rồi mai, nay lại rồi mai
Mượn chén mua vui
Trằng trằng ôm cây đợi bóng cho bền quai
Dám sai tấc lòng
Khen cho tài Tạ Dạo vẫn không ai,
Chừng lạc bước thiên thai
Thề ngày xưa, tóc đã chấm ngang vai
Dám sai một lời
Trăng hoa, mấy phen đồi dời
Sự đời, dặng lòng thai khoan thai
24 Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà vận văn, Á Châu xuất bản cục, Tư liệu do Võ Quê sưu tầm.
71
Đua bơi, nước non lâu dài
Khi bầu rượu tiếng đờn thảnh thơi
Khi bầu rượu tiếng đờn thảnh thơi!25
3. Chen chân vào vòng nhân thế
Qua dâu bể, ngẫm nghỉ thêm buồn!
Không biết ai tri kỷ, mà giải tấm lòng son!
Rồi ruột tầm, ngày một héo hon
Cành hổ thẹn với nước non
Thương đóa trà, cơn gió bụi
Bao nhiêu nỗi trần ai!
Ông Hóa công cay nghiệt
Dường lại người trêu người!
Vui chi người, mà bướm lả với ong lơi
Cho phấn lạt với hương phai!
Đêm thiếp ngồi, nương gối tựa, tay dựa cầm xoan
Nghe tiếng tơ vàng vãng họ, xự, xang, xê, xang...
Khúc đoạn tràng, càng kêu mối thảm thương
Sầu trăm nỗi ngổn ngang!
Người người đâu, sao lại khéo tài danh?
Giống đâu đa tình
Khiến cho mình trằn trọc đêm thanh
Cho mòn mỏi ngày xanh!
Sầu, sầu riêng, tơ lòng có phải là giây
Vấn vương thế nầy! Ấy ai, ấy ai trông đợi
Mờ mịt, mờ mịt, mây sưng mây
Biết bao, ngán ngao canh chầy
Ai ra về, nhắn nhủ cùng ai
Ai ra về, nhắn nhủ cùng ai26
4. Thương trăng tròn, thương trăng khuyết
Thương tha thiết, trăm mối bên lòng?
Thương đóa hoa vừa nở, dập dìu ong bướm ong
Thương đóa hoa tàn, lạt phấn phai hương
Nào ai kẻ buồn trông?
Thương mây bạc, gió đưa xiêu lạc, không biết về đâu!
Thương nước trôi bèo dạt, bèo dạt trôi nơi nao!
Thương số ba đào, chìm nổi lao đao
Đời vất vả biết là bao?
Thương chim nhạn, đêm đông kiếm bạn
25 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
290.
26 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
290.
72
Bao quản tuyết sương!
Sương tuyết sương dày dạn, tiếng nhạn kêu thảm thương!
Thương kẻ si tình, theo dõi người thương,
Trông mòn mỏi ngày xanh!
Đành đành thương, thông đỉnh Ngự chiều đông
Thông reo não nùng! Gió mưa không ngừng
Nào bạn tác ngày xuân, ai chịu lạnh cùng thông?
Ngùi ngùi thương, ca nhi giữa sông Hương
Véo von gọi tình, năm canh
Năm canh đành phải dầu giãi
Dầu dãi sương gió sương?
Cái thương, sao cứ doanh bên mình
Thương chi trọn trăm nghìn mối thương
Thương đâu vẹn trăm nghìn mối thương!27
LƯU THỦY
1. Kể từ ngày gặp nhau
Trao lời hẹn cho vẹn vàng thau
Dây tơ mành ràng buộc lấy mình
Đêm thu rạng, xui mình chạnh nhớ
Cảm thương người, ngậm ngùi ba thu
Ấy vì ai, canh dài đêm thâu
Xa cách nhau đêm nằm thấy
Thấy, thấy, thấy chiêm bao...
Chiêm bao lại vấn vương bên mình
Mình dực mình đòi cơn
Biết sao đặng, keo sơn mọi đường
Tình thương
Tư Lương đoạn trường
Song cũng nguyện cho vẹn can trường
Ai đen bạc cũng mặc lòng ai
Khuyên cùng bạn chớ phụ trúc mai
Đá non mòn chi sờn dạ ngọc...28
2. Mình, một mình ngồi trông
Bên non Tề, dựa kề dòng sông
Xa, xa chồng, nên nỗi trông chồng
Hai hàng lụy, hai hàng lụy ứa
Ứa hai hàng, lụy càng chứa chan
27 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
290-291.
28 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
275.
73
Chốn trường giang, phương trời mênh mang
Mang, mênh mang, trông rồi thấy
Thấy, thấy quan san
Thấy chim nhạn, xa xa dặm ngàn
Sự tình bên mình ngổn ngang
Trách con Tạo chi chi phụ phàng
Vì đâu, nên câu đoạn trường
Châu, châu lụy, châu lụy khôn hàn
Trăm nghìn giận, càng giận càng thương
Như lời hẹn, đừng thẹn tấc gang
Gánh cương thường xa đường phải nặng29
NAM BÌNH
1. Thương nhau vì nợ tri âm
Mối tình thâm!
Buộc ràng đây đó
Vẫy cuộc ca ngâm
Dưới trần, như đã riêng phần
Để riêng phần!
Mặc duyên may, hay là nợ với nần
Chi bằng ưa ý
Nợ hay duyên, hỏi người thanh khí
Ai là kẻ xoay vần?
Tuổi xuân xanh, chưa từng cái nợ phong trần
Vướng chi vào cuộc ái ân
Càng cay đắng, đắng cay muôn phần
Được như lời ước mong
Cho thỏa tình tư tường
Tưởng rồi trông
Ngồi tựa bên song
Thỏa mùi bông
Vấn vương tơ lòng
Ơi người Việt ơi!
Gặp khi thời lai...
Ngọn đèn kiến thức
Bừng rạng muôn nơi
Trí tài đua kịp theo người
Kịp theo thời sánh chung vai...
Cho xứng mặt giống nòi
Sống đời khang thái...
29 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
276.
74
Bước quang vinh ta càng hăng hái
Thêm vững thêm dài
Hết chông gai... tung cánh bằng
Bay lượn khắp trời
Nhân dân chờ một tương lai...
Mừng nay đến... đến trong mọi người
Vững một niềm an vui...
Đô thị cùng thôn dã đặng hòa hai
Rạng ngời ánh mai... cảnh càng tươi
Ý dân là ý trời30
2. Huyền Trân công chúa
Nước non ngàn dặm ra đi
Cái tình chi?
Mượn màu son phấn
Đến nợ Ô Ly
Đắng cay vì
Đương độ xuân thì
Độ xuân thì!
Cái lương duyên, hay là cái nợ duyên gì?
Má hồng da tuyết
Quyết liều như hoa tàn trăng khuyết
Vàng lộn theo chì!
Khúc ly ca
Sao còn mườn tượng nghe gì!
Thấy chim hồng nhạn bay đi
Tình lai láng, bóng như hoa quì...
Dặn một lời Mân Quân
Nay chuyện mà như nguyện
Đặng vài phân
Vì lợi cho dân
Tình đem lại mà cân
Đắng cay muôn phần!31
3. Gối loan trằn trọc
Gối loan trằn trọc năm canh
Mối sầu đoanh
Lụy hồng lai láng
Vì nợ ba sanh!
Ai xui mình gánh một khối tình!
30 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
278-279.
31 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
279.
75
Gớm ghê cho bấy nhiêu sợi tơ mành
Thương càng thêm rối
Rối trăm vòng, khốn lần ra mối
Thiệt lạ cho đời!
Muốn thôi thương
Song mà chẳng đặng với trời...
Ôi cơ chi gần gủi tấc gang
Niềm ân ái thở than đôi lời!
Nực buồn cười, ông xanh
Đem buộc mình vô cuộc
Nợ én oanh
Dày dặt xuân xanh
Cho thỏa lòng anh
E tan khối tình...32
4. Gắng công chờ đợi sông Tương
Vắng người thương
Nặng tình trăng gió, vì sợi tơ vương
Đâu mà gởi đặng can trường...
Xa xa trông muôn dặm tin hồng
Tin càng thêm vắng
Vắng tin hồng, thêm càng cay đắng
Lấn lựa canh trường
Gánh tương tư
Thôi đà gánh nặng khôn lường
Nhớ khi vành nguyệt tây tương
Càng thêm nhớ, tiếng ai bên tường!
Bắc dịp cầu cho qua,
Xin cậy hồn Tinh Vệ, chị Hằng Nga
Vì tình đợi ta
Chuyện gần xa
Dưới sông Ngân Hà
Đó đây tình nặng ơn sâu
Dắt dìu nhau
Một lòng son sắt, đừng nghĩ đâu đâu
Đá mòn sông cạn, ví dầu
Nghĩa tương cầu
Trăm năm coi như buổi ban đầu
Trên đường ân ái
Thấy chông gai, ta càng hăng hái
Muôn sự xem thường
Nếm chua cay
32 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
281.
76
Nhưng mà hơn mật hơn đường
Ai cho vàng ngọc không ơn
Bằng xây đắp tấm yêu cho tròn!
Đã nặng lời non sông
Đau khổ, là hương vị, của tình chung
Dày dạt khó đong
Nguyện tình không
Dám sai tấc lòng!33
NAM AI
Huyền Trân công chúa
Ngoảnh lui cố quốc, ngập ngừng gót ngọc
Mây phủ kín trời thương, ngơ ngẩn bâng khuâng
Hoa đang độ thanh xuân, dập vùi, cứu nạn muôn dân
Không sánh đặng Chiêu Quân, cho trọn đạo quân thần
Vẻ chi một đóa yêu kiều, diễm lệ
Vàng thau lẫn lộn xót phận hổ hang
Gẫm thân bẽ bàng, kiếp hồng nhan
Duyên nợ dở dang, ôi Phụ Hoàng!
Vì nghĩa giao bang, hiếu trung đôi đàng
Thân ngọc vàng đem vùi cát bụi
Cho rảnh nợ Ô Lý, ngậm ngùi kẻ ở người đi
Cơn nước lửa phò nguy, nát thân sá gì34
33 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn 1960, tr.
282.
34 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn 1960, tr.
282.
77
PHỤ LỤC 2: MỘT SỐ ĐỀ THẢ THƠ DO VĨNH CAO, HẢI TRUNG
VÀ TRẦN ĐỨC ANH SƠN SƯU TẦM VÀ BIÊN SOẠN
CHO CHƯƠNG TRÌNH ĐÊM HOÀNG CUNG
TỔ CHỨC Ở ĐẠI NỘI HUẾ NĂM 2007
Chọn 1 trong 5 phương án: A, B, C, D và E để điền vào vị trí O trong
các câu thơ sau:
Mai sau dầu đến thế nào
Kìa gương nhật nguyệt nọ O quỷ thần
Các chữ gợi ý để thả:
A. dao B. gương C. gươm D. oan E. uy
Đáp án: Đây là câu thơ số 907 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là A. dao.
Xe châu dừng bước cửa ngoài
Rèm trong đã thấy một người O ra
Các chữ gợi ý để thả:
A. sấn B. lọt C. bước D. dìu E. nâng
Đáp án: Đây là câu thơ số 923 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là C. bước.
Mai sau ở chẳng như lời
Trên đầu có O mặt trời rạng soi
Các chữ gợi ý để thả:
A. ánh B. bóng C. lúc D. mãi E. khi
Đáp án: Đây là câu thơ số 1031 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là B. bóng.
Sinh rằng từ thuở tương tri
Tấm riêng riêng những nặng O nước non
Các chữ gợi ý để thả:
A. lòng B. vì C. buồn D. tình E. cùng
Đáp án: Đây là câu thơ số 1329 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là B. vì.
Trăm điều ngang ngữa vì tôi
Thân sau ai chịu tội O ấy cho
Các chữ gợi ý để thả:
A. trời B. tình C. này D. mình E. đời
78
Đáp án: Đây là câu thơ số 1345 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là A. trời.
Sinh rằng: "Hay nói dè chừng,
Lòng đây lòng đó chưa O hay sao?"
Các chữ gợi ý để thả:
A. cùng B. từng C. đồng D. tình E. nồng
Đáp án: Đây là câu thơ số 1361 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là B. từng.
Chiến hòa sắp sẵn hai bài
Cậy tay thầy thợ, mượn O dò la
Các chữ gợi ý để thả:
A. người B. lời C. thời D. tài E. điều
Đáp án: Đây là câu thơ số 1373 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là A. người.
Bây giờ kẻ ngược người xuôi
Biết bao giờ lại nối O nước non
Các chữ gợi ý để thả:
A. tình B. đường C. lời D. cùng E. thành
Đáp án: Đây là câu thơ số 1977 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là C. lời.
Giác Duyên thiệt ý lo lường
Đêm O mới hỏi lại nàng trước sau
Các chữ gợi ý để thả:
A. xuân B. khuya C. thanh D. tàn E. nằm
Đáp án: Đây là câu thơ số 2071 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là B. khuya.
Sâm thương chẳng vẹn chữ tòng
Tai ai O dám phụ lòng cố nhân
Các chữ gợi ý để thả:
A. há B. nào C. đâu D. ai E. chẳng
Đáp án: Đây là câu thơ số 2333 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là A. há.
Nhớ khi lỡ bước sẩy vời
Non vàng O dễ đền bồi tấm thương
79
Các chữ gợi ý để thả:
A. nào B. chẳng C. chưa D. đâu E. há
Đáp án: Đây là câu thơ số 2349 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là C. chưa.
Còn nhiều ân nghĩa với nhau
Cơ duyên nào đã O đâu vội gì?
Các chữ gợi ý để thả:
A. có B. đến C. hết D. thấy E. biết
Đáp án: Đây là câu thơ số 2541 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là C. hết.
Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy O là ta cam lòng
Các chữ gợi ý để thả:
A. mặt B. được C. trước D. thỏa E. thích
Đáp án: Đây là câu thơ số 2349 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là A. mặt.
Từ phen chiếc lá lìa rừng
Thăm tìm luống những O chừng nước mây
Các chữ gợi ý để thả:
A. liệu B. e C. dè D. hỏi E. chẳng
Đáp án: Đây là câu thơ số 2999 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là A. liệu.
Quanh co theo dải giang tân
Khỏi rừng lau đã tới O Phật đường
Các chữ gợi ý để thả:
A. nơi B. sân C. thăm D. chân E. ngôi
Đáp án: Đây là câu thơ số 3009 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là B. sân.
Canh khuya thân gái dặm trường
Phần e đường O phần thương dãi dầu
Các chữ gợi ý để thả:
A. vắng B. sá C. hiểm D. khó E. cách
80
Đáp án: Đây là câu thơ số 2035 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là B. sá.
Hàm Tử, Chương Dương còn O đó
Các chữ gợi ý để thả:
A. đó B. ngóng C. thấy D. nhớ E. mãi
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Thăng Long hoài cổ của Hoàng
Trọng Cẩn in trong tập Hương Bình thi phẩm: Hàm Tử, Chương Dương còn
đó đó. Non sông luống để bụi trần đeo. Đáp án đúng là A. đó.
Cá tôm còn ngại O hào khô
Các chữ gợi ý để thả:
A. lúc B. nỗi C. chốn D. thuở E. với
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Cảnh hồ Tịnh Tâm của Nguyễn
Đôn Dư in trong tập Hương Bình thi phẩm: Thành quách đà ê cơn lửa cháy.
Cá tôm còn ngại nỗi hào khô. Đáp án đúng là B. nỗi.
Nhớ đình Lương Tạ O ngâm thơ
Các chữ gợi ý để thả:
A. lúc B. buổi C. tối D. đứng E. mãi
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Sông Hương lai láng bóng trăng
xưa của Nguyễn Đôn Dư in trong tập Hương Bình thi phẩm: Nhớ bến Văn
Lâu ngồi thưởng nguyệt. Nhớ đình Lương Tạ đứng ngâm thơ. Đáp án đúng
là D. đứng.
Nhuộm đen áo vải O làn bụi
Các chữ gợi ý để thả:
A. muôn B. đôi C. bao D. vài E. không
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Trở lại đất Thần kinh của Huỳnh
Thúc Kháng in trong tập Hương Bình thi phẩm: Nhuộm đen áo vải bao làn
bụi. Tiêu trắng ngày xanh mấy tiếng sanh. Đáp án đúng là C. bao.
Trăm năm bến cũ O còn lưa
Các chữ gợi ý để thả:
A. mãi B. vết C. vẫn D. dấu E. cảnh
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Sông Hương Giang của Hoàng
Ưng Bình in trong tập Hương Bình thi phẩm: Sáu nhịp vòng cung cầu đã
bắc. Trăm năm bến cũ dấu còn lưa. Đáp án đúng là D. dấu.
81
Rêu biếc in O theo bước khách
Các chữ gợi ý để thả:
A. hài B. sương C. đường D. lần E. trăng
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Xuân hứng của Vũ Duy Thanh in
trong Chơi chữ Hán Nôm, những bài thơ độc đáo của Hải Trung (Nxb.
Thuận Hóa, 2003): Rêu biếc in sương tùy bước khách. Hài hoa lỏng lẻo tới
đàn thơ. Đáp án đúng là B. sương.
Dẫu có thương O thời để dạ
Các chữ gợi ý để thả:
A. thầm B. ai C. yêu D. không E. nhau
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Không đề của Tương An Quận
Vương in trong Tâm trạng Tương An Quận Vương: Dẫu có thương không
thời để dạ. Tấm tình chớ khá lậu ai hay. Đáp án đúng là D. không.
Hết nửa ve O mới biết cay
Các chữ gợi ý để thả:
A. rồi B. thời C. lòng D. sau E. sầu
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Uống rượu của Tương An Quận
Vương in trong Tâm trạng Tương An Quận Vương: Chừng ba chung trước
còn khen ngọt. Hết nửa ve sau mới biết cay. Đáp án đúng là D. sau.
Nguyệt rạng O hoa thẹn bóng cây
Các chữ gợi ý để thả:
A. sáng B. tỏ C. chiếu D. rạng E. tỏa
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Tương tư của Tương An Quận
Vương in trong Hương Bình thi phẩm: Xuân đưa ngành liễu nghe tin gió.
Nguyệt rạng rạng hoa thẹn bóng cây. Đáp án đúng là D. rạng.
Lòng ta là những O O cũ
Tự ngàn năm bỗng nghe tiếng loa xưa
Các chữ gợi ý để thả:
A. cung thành B. lâu đài C. rêu phong D. hoang thành E. thành
quách
Đáp án: Đây là những câu thơ trích trong bài thơ Lòng ta là những thành
quách cũ của Vũ Đình Liên in trong tập thơ Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa
Thông tin, Tập 2, trang 244): Trôi đi thuyền! Cứ trôi đi xa nữa. Vỗ trăng
khuya bơi mãi! Chèo mơ. Lòng ta là những thành quách cũ. Tự ngàn năm
bỗng nghe tiếng loa xưa. Đáp án đúng là E. thành quách.
Gầy guộc gió sương tùng Thế Miếu
82
Bẽ bàng trăng nước O Hương Giang
Các chữ gợi ý để thả:
A. cỏ B. trúc C. sóng D. nắng E. phượng
Đáp án: Đây là những câu thơ trích trong bài thơ Viếng thành Huế sau
ngày khói lửa của Quách Tấn in trong tập thơ Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn
hóa Thông tin, Tập 2): Gầy guộc gió sương tùng Thế Miếu. Bẽ bàng trăng
nước trúc Hương Giang. Trông vời Thiên Mụ mây man mác. Lơ lửng
chuông hôm rụng tiếng vàng. Đáp án đúng là B. trúc.
Em đi gót nhẹ O hồn cỏ
Các chữ gợi ý để thả:
A. xanh B. vương C. nghiêng D. say E. lay
Đáp án: Đây là những câu thơ trích trong bài thơ Rất Huế của Huỳnh Văn
Dung in trong tập thơ Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Tập 2): Giữ
chút gì rất Huế mặn mà. Dạ thưa ngọt lịm ai mê say. Em đi gót nhẹ xanh
hồn cỏ. Và hơi thở mềm sương khói bay. Đáp án đúng là A. xanh.
Ngùi ngậm giai nhân khẽ thở dài
Nắng chiều ngả tía O lâu đài
Các chữ gợi ý để thả:
A. bóng B. sắc C. nét D. dáng E. tím
Đáp án: Đây là những câu thơ trích bài thơ Trong đôi mắt Huế của Đông
Hồ in trong tập thơ Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Tập 2): Ngùi
ngậm giai nhân khẽ thở dài. Nắng chiều ngả tía sắc lâu đài. Gượng cười
trong nét vàng son cũ. Như ả cung tần tuổi nhạt phai. Đáp án đúng là B.
sắc.
Da sông mát rải da trời
Đây mùa xuân O trên loài cỏ hoa
Các chữ gợi ý để thả:
A. chín B. ngát C. nở D. bén E. mọng
Đáp án: Đây là những câu thơ trích bài thơ Chiều xuân Trung kỳ của Hồ
Dzếnh in trong tập thơ Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Tập 2):
Chiều xuân qua bến đò đông. Trai tơ khăn lục, gái hồng thắm môi. Da sông
mát rải da trời. Đây mùa xuân bén trên loài cỏ hoa. Đáp án đúng là D. bén
Chao ôi, mong nhớ! Ôi mong nhớ!
Một cánh chim thu lạc cuối O
83
A. ngàn B. đàng C. đàn D. trời E. bầy
Đáp án: Đây là những câu thơ trích bài thơ Xuân của Chế Lan Viên in trong
tập thơ Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Tập 1): Có đứa trẻ thơ
không biết khóc. Vô tình bỗng nổi tiếng cười ran. Chao ôi, mong nhớ! Ôi
mong nhớ! Một cánh chim thu lạc cuối ngàn. Đáp án đúng là A. ngàn.
Tôi nghe xa O làn mây bạc
Rời bóng Kinh Thành lửng thửng đi
Các chữ gợi ý để thả:
A. lắm B. thẳm C. tít D. ngút E. vọng
Đáp án: Đây là những câu thơ trích bài thơ Giao thừa của Trần Huyền Trân
in trong tập thơ Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Tập 1): Ấy lúc
hồn hoa gót trở về. Thả đàn chim mộng xuống đêm khuya. Tôi nghe xa lắm
làn mây bạc. Rời bóng Kinh Thành lửng thửng đi. Đáp án đúng là A. lắm.
Mắt vương vào mắt em thôi
Sao lòng O O nổi trôi như thuyền
Các chữ gợi ý để thả:
A. trỗi sóng B. chao đảo C. chếnh choáng D. chới với E. nghiêng
ngả
Đáp án: Đây là những câu thơ trích bài thơ Sóng của Giang Quân in trong
tập thơ Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam (Nxb. Văn học, Hà Nội, 2000): Sen
tàn để gió lô xô. Hơi thu vỗ sóng Tây Hồ quanh tôi. Mắt vương vào mắt em
thôi. Sao lòng chao đảo nổi trôi như thuyền. Đáp án đúng là B. chao đảo.
Thương màu tím Huế đầy vơi
Sông Hương xanh suốt những lời cho nhau
Các chữ gợi ý để thả:
A. biếc B. ngắt C. suốt D. ngát E. thẳm
Đáp án: Đây là những câu thơ trích bài thơ Nếu như chẳng có sông Hương
của Huy Tập in trong Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Tập 1): Nếu
như chẳng có dòng Hương. Câu thơ xứ Huế giữa đường đánh rơi. Thương
màu tím Huế đầy vơi. Sông Hương xanh suốt những lời cho nhau. Đáp án
đúng là C. suốt.
Cây sầu đông, cây sầu đau
Thương tôi cây cũng O màu hoa râm
Các chữ gợi ý để thả:
A. trổ B. nở C. nhuốm D. ngát E. kết
84
Đáp án: Đây là hai câu trích trong bài thơ Địa chỉ buồn của Hoàng Phủ
Ngọc Tường, in trong tập thơ Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà
Nội, 2004, Tập I): Nhà tôi ở phố Đạm Tiên. Dưới dòng nước chảy bên trên
có cầu. Cây sầu đông, cây sầu đau. Thương tôi cây cũng trổ màu hoa râm.
Đáp án đúng là A. trổ.
O O bờ xa lộ bóng nhà
Các chữ gợi ý để thả:
A. Khói trắng B. Thuyền đỗ C. Sóng trắng D. Mái cũ E. Bến mới
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
của Văn Cao in trong Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội,
2004, Tập I): Như Tử Kỳ nghe nhạc Bá Nha. Em nghe anh dạo khúc thu xa.
Thuyền xuôi về bến mô thuyền hỉ. Sóng trắng bờ xa lộ bóng nhà. Đáp án
đúng là C. Sóng trắng.
Những O O như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
Các chữ gợi ý để thả:
A. cung điện B. đền đài C. lối gạch D. mái ngói E. lăng tẩm
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Tạm biệt của Thu Bồn Dạ thưa
xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2004, Tập I): Bởi vì em dắt anh
lên những ngôi đền cổ. Chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu. Những lăng
tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng. Mặt trời vàng và mắt em nâu.
Đáp án đúng là C. lăng tẩm.
85
PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ ĐỀ ĐỐ THƠ TRẦN ĐỨC ANH SƠN VÀ VĨNH
CAO SƯU TẦM VÀ BIÊN SOẠN CHO CHƯƠNG TRÌNH ĐÊM
HOÀNG CUNG TỔ CHỨC Ở ĐẠI NỘI HUẾ NĂM 2007
橮 吿 儙 頂 橮 琘 幑 吿 儛 頂 幑 秥
搩 沚 媭 衦 橮 幑 琘
Trâu ăn trên đỉnh, trâu no. Bò ăn dưới đỉnh, bò đói,
Nước chảy quanh suối, trâu đói, bò no.
Là cái gì? Đáp án: Cối xay bột
夛 边 些 蘿 边 艚
茹 禥 時 固 茹 腂 時 空
Cây bên ta lá bên Tàu
Nhà sang thì co, nhà giàu thì không
Là cây gì? Đáp án: Cây lọng
有 骨 有 皮 無 有 肉
宜 春 宜 夏 不 宜 冬
Hữu cốt hữu bì vô hữu nhục
Nghi xuân nghi hạ bất nghi đông
Là cái gì? Đáp án: Cái quạt
哶 斏 据 倚 才 亗 疈
邚 姫 坤 椖 瀝 喼 焵
Cong lưng cứ ỷ tài đâm bắn
Lố mắt khôn dò lạch cạn sâu
Là con gì? Đáp án: Con tôm
憽 固 歳 憽 空 別 鏅
岞 空 固 歳 岞 鏅 吁 吁
Mẹ có cánh mẹ chẳng biết bay
Con không có cánh con bay vù vù
Là cái gì? Đáp án: Cung tên
禞 浌 沒 懎
袄 鍯 縷 桃
空 嬹 麻 拯 螙 靭
暛 挦 歇 數 酭 壌 沒 坘
Mình dài một tấc
Áo mặc đề đa
Bác mẹ sinh ra vô ngôn bất ngữ
Đến ngày chí tử mới nói nhất ngôn
86
Là cây gì? Đáp án: Cây pháo
空 歳 麻 鏅 酭 邏 圅
乑 曾 醘 揾 又 過 眡
逍 遙 世 界 懯 怺 禯
歷 覽 初 哰 易 亖 圡
Không cánh mà bay mới lạ đời
Đã từng vượt biển lại qua khơi
Tiêu diêu thế giói ngàn muôn dặm
Lịch lãm xưa nay dễ mấy người
Là cái gì? Đáp án: Tờ báo
坿 靭 闙 亪 澄 歮 翓
宮 簷 貞 於 墨 迎 卬
燯 審 丟 穯 皟 眜 収
旘 抉 衝 耒 蜆 汰 眗
Nghiến răn sấm dậy đứng ra cửa
Cung thiềm riêng ở mặc nghênh ngang
Hang thẳm đâu thèm đua hụp lặn
Lưỡi quét xong rồi kiến thảy tan
Là con gì? Đáp án: Con cóc
高 硏 權 駆 壦 丗 扄
擜 黃 牟 墛 墨 圡 峧
儙 高 亖 翓 招 排 好
搓 玐 四 僟 彮 闧 媫
Cao thấp quyền về tay kẻ múa
Trắng vàng màu lựa mặt người ưa
Trên cao mấy cửa chiêu bài hảo
Xoay đủ tứ bề ngọn gió đưa
Là cây gì? Đáp án: Cây cờ
炦 壭 些 甧 輸 之 玉
峼 獱 珄 戼 勅 娎 涹
搓 毜 搭 咜 功 當 重
眗 誟 桖 斾 玌 仍 群
Mặt vuông ta há thua gì ngọc
Lòng đỏ mình nên giữ lấy son
Xây tảng đắp nền công đáng trọng
Tan xương nát thịt dấu nhưng còn
Là cái gì? Đáp án: Hòn gạch
87
聮 茹 壁 篤 徵 頭 藼
塊 翓 迎 昂 歳 袄 昷
拖 顮 圡 禥 插 堼
曕 湄 丗 苦 勠 空 硑
Nằm nhà vếch đốc chưng đầu vịt
Khỏi cửa nghênh ngang áo cánh dơi
Đỡ nắng người sang khi xếp lọng
Che mưa kẻ khó lúc không tơi
Là cái gì? Đáp án: Cái dù
乑 剾 曲 豧 乄 戼 凩
又 螱 椎 柚 抵 勌 頭
俤 曢 熢 尙 堆 祝 刬
婮 鑬 砿 砿 固 之 丟
Đã đem khúc mít làm nên miệng
Lại sắm dùi dâu để gỏ đầu
Tăm tiêng vang lừng đôi chốc đó
Ruột rà trống rỗng có gì đâu
Là cái gì? Đáp án: Cái mỏ
婣 橮 桑 豧 推 停 咾
壊 纅 朩 色 恜 圡 癡
渚 擬 殼 辌 圡 敬 你
旕 砿 空 嬘 沒 細 覀
Da trâu tang mít thôi đừng láo
Kẻ rồng năm sắc phỉnh người ngây
Chớ nghĩ xác to người kính nể
Bụng rỗng không trơn một tí giày
Là cái gì? Đáp án: Cái trống
挒 滿 交 更 崐 旘 虦
挦 慮 點 刻 渒 尗 幱
樓 涹 閣 紫 曾 醎 訦
鬥 賦 輸 圡 沛 呭 靭
Đêm mãn giao canh buông lưỡi chắt
Ngày lo đếm khắc chép môi nhăn
Lầu son gác tía từng lui tới
Đấu phú thua người phải cắn răng
Là con gì? Đáp án: Con thằn lằn
様 蚠 卭 涹 芁 亖 懎
篂 覻 殼 擜 別 包 箰
88
螙 翓 責 埃 朱 槒 律
更 長 帒 揦 訴 共 哀
Thẳng rẳng tim son soi mấy tấc
Lăn tròn xác trắng biết bao ngoai
Hé cửa trách ai cho trót lọt
Canh trường nhỏ giọt tỏ cùng ai
Là cây gì? Đáp án: Cây đèn sáp
借 債 皆 空 亦 尾 隨
女 男 老 幼 莫 不 驚
南 北 東 西 皆 到 戶
四 海 歸 收 一 盈 囊
Tá trái giai không diệc vỹ tùy
Nữ nam lão ấu mạc bất kinh
Nam bắc đông tây giai đáo hộ
Tứ hải qui thu nhất doanh nang
Là ai? Đáp án: Người ăn xin
擎 天 沒 焈 剶 壦 壜
油 闧 椫 崊 共 庄 牢
房 蘔 刯 岞 空 計 制
茹 蜫 官 客 易 勸 嘲
Kình thiên một cốt giơ tay chống
Dẫu gió lung lay cũng chẳng nao
Buồng chất cháu con không xiết kể
Nhà nhiều quan khách dễ khuyên chào
Là cây gì? Đáp án: Cây cau
刧 竿 趣 味 俼 俼 搩
沒 弙 風 流 闧 闧 斏
韜 略 乑 伶 懯 禯 捕
江 山 逈 篤 沒 壦 播
Nửa càn thú vị trời trời nước
Một sợi phong lưu gió gió trăng
Thao lược đã đành ngàn dặm bủa
Giang sơn tóm dốc một tay phăng
Là ai? Đáp án: Ngư ông
共 玐 瑈 誟 共 玐 庒
迎 股 吿 暭 准 海 河
曢 雖 坺 硏 肝 空 嫎
闙 琑 喑 喑 共 庄 牢
89
Cũng đủ lông xương cũng đủ da
Nghểnh cổ ăn chơi chốn hải hà
Tiếng tuy rằng thấp gan không bé
Sấm sét ầm ầm cũng chẳng sao
Là con gì? Đáp án: Con vịt
厽 變 羕 劍 圡 虗 炦
固 此 乄 磜 蹱 苉 城
鐘 磬 廟 堂 烪 敢 逞
勌 牐 共 固 愳 櫒 櫒
Sắc lẽm dường gươm người gớm mặt
Có thuở làm chông đứng trước thành
Chuông khánh miếu đường chưa dám sánh
Gõ nghe cũng có giọng canh canh
Là cái gì? Đáp án: Mảnh sành
有 果 有 花 本 一 杆
有 身 無 葉 重 輕 難
君 子 小 人 誰 敢 定
思 三 念 四 永 乎 疑
Hữu quả hữu hoa bổn nhất can
Hữu thân vô diệp trọng khinh than
Quân tử, tiểu nhân thùy cảm định
Tư tam niệm tứ vĩnh hồ nghi
Là cây gì? Đáp án: Cây cân
江 北 深 雪 白
江 南 末 年 開
問 名 即 有 約
冬 至 又 栽 培
Giang Bắc thâm tuyết bạch
Giang Nam mạt niên khai
Vấn danh tức hữu ước
Đông chí hựu bồi tài
Là cây gì? Đáp án: Cây mai
龍 頭 鳳 尾
挂 柱 擎 天
敬 神 即 用
交 約 為 先
Long đầu phụng vỹ
Quải trụ kình thiên
90
Kính Thần tức dụng
Giao ước vi tiên
Là cây gì? Cây cau
陰 陽 受 稟 並 干 支
凶 吉 皆 知 莫 計 時
日 月 轉 流 身 益 瘐
春 來 不 及 已 分 離
Âm dương thụ bẩm tịnh can chi
Hung cát giai tri mạc kế thì
Nhật nguyệt chuyển lưu thân ích sậu
Xuân lai bất cập dĩ phân li
Là cái gì? Đáp án: Cuốn lịch
享 受 求 祈 不 計 春
夕 朝 紅 色 又 更新
此 問 有 誰 不 敬 仰
插 拔 隨 宜 不 惜 憐
Hưởng thụ cầu kỳ bất kế xuân
Tịch triêu hồng sắc hựu canh tân
Thử vấn hữu thùy bất phủ ngưỡng
Tháp bạt tùy nghi bất tích lân
Là cái gì? Đáp án: Bát nhang
臨 江 接 水 自 何 年
無 學 給 文 又 莫 烦
有 樓 不 用 誰 知 故
進 士 高 名 亦 幾 天
Lâm giang tiếp thủy tự hà niên
Vô học cấp văn hựu mạc phiền
Hữu lâu bất dụng thùy tri cố
Tấn sĩ cao danh diệc kỷ thiên
Là gì? Đáp án: Phu Văn Lâu
人 面 不 知 何 處 去
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đáp án: Người nhiều râu hoặc con khỉ
龍 鬚 腰 曲 身 常 短
一 行 拜 步 到 寒 山
Long tu yêu khúc thân thường đoản
91
Nhất hành bái bộ đáo Hàn san
Là con gì? Đáp án: Con tôm
倊 頒 朱 忬 袄 黃
朱 印 朱 抉 峃 榮 中 朝
厰 侼 戼 畨 丗 戓
厰 倈 厰 夝 時 痥 乄 之
Vua ban cho mặc áo vàng
Cho ấn cho quyết vẻ vang trong triều
Mười hai nên lắm kẻ yêu
Mười ba mười bốn thì chiều làm chi
Là cái gì? Đáp án: Cuốn lịch
迃 岄 厰 佂 堆 厰
勠 哶 勠 梄 籒 宼 乄 之
乄 戼 馭 騎 傘 曕
朩 妻 僴 妾 共 為 固 岄
Tuổi em mười chín đôi mươi
Lúc cong lúc thẳng chớ cười làm chi
Làm nên ngựa cỡi tàn che
Năm thê bảy thiếp cũng vì có em
Là cây gì? Đáp án: Cây bút
四 口 一 十
Tứ khẩu nhất thập
Là chữ gì? Đáp án: Chữ 圖 (Đồ)
一 口 四 十
Nhất khẩu tứ thập
Là chữ gì? Đáp án: Chữ 畢 (Tất)
身 如 岞 雁 高 飛
边 時 肥 厁 邊 時 瘖 姑
中 朩 沛 斘 湄 粗
中 斘 時 沛 玐 朱 倈 挦
Thân như con nhạn cao phi
Bên thì phì mập bên thì ốm o
Trong năm phải tháng mưa to
Trong tháng thì phải đủ cho ba ngày
Là chữ gì? Đáp án: Chữ 八 (Bát)
竹 疏 宜 入 畫
樹 少 不 成 村
92
Trúc sơ nghi nhập họa
Thụ thiểu bất thành thôn
Là chữ gì? Đáp án: Chữ 彭 (Bành)
Thiên địa cộng lập
Là gì? Đáp án: 人 參 (Nhân sâm)
合 十
Hợp thập
Là củ gì? Đáp án: 三 七 (Củ tam thất)
沒 夛 擼 暛 炧 花
止 固 沒 果 拯 緥 拯 嫩
Một cây trổ đến trăm hoa
Chỉ có một quả chẳng già chẳng non
Là cây gì? Đáp án: Cây cân (cái cân)
昆 貓 抣 賊 方 奢
昆 馭 於 茹 聮 硟 咵 炉
Con mèo đánh giặc phương xa
Con ngựa ở nhà nằm ị đống tro
Là trái gì? Đáp án: Trái khoáy (trái ngược)
在 憽 爘 袄 賖 壦
岞 澾 谞 蔵 袄 飛 撾 橋
Tại mẹ may áo rộng tay
Con quên gài nút áo bay qua cầu
Là con gì? Đáp án: Con lừa mẹ (con dối mẹ)
沒秕 卥 懯 兆 銅
分 厰 晫 秕 懞 翁 仐 用
Một tỉ là nghìn triệu đồng
Phần mười của tỉ mong ông nhận giùm
Là gì? Đáp án: Tiền hoa hồng (tiền lại quả)
次 之 吿 沛 苦 岃
荕 蔄 賛 擓 聮 時 空 双
Thứ gì ăn phải khó đi
Đứng lên mệt mỏi, nằm thì không xong
Là gì? Đáp án: Bánh bò
欺 岃 欺 荕 時 聮
93
欺 聮 時 荕 坙 愪 物 之
Khi đi khi đứng thì nằm
Khi nằm phải đứng, hỏi thầm vật chi?
Là gì? Đáp án: Bàn chân
湄 淫 曩 帞 憹 儙
衛 茹 畨 烈 於 边 栿 廈
Mưa dầm nắng lửa ngồi trên
Về nhà lấm lét ở bên xó hè.
Là cái gì? Đáp án: Cái nón
炨 之 麻 据 勒 豑
媫 撾 媫 徠 朱 皮 時 催
Trái gì mà cứ lắc lư
Đưa qua đưa lại cho vừa thì thôi
Là trái gì? Đáp án: Trái đu đủ
方 覻 攞 擦 媭 暳
為 乴 儒 士 檝 姑 橣 身
Vuông tròn mài xát quanh co
Vì chàng nho sĩ gầy gò tấm thân
Là cái gì? Đáp án: Thoi mực
外 覻 麻 方 边 中
固 堆 倈 岲 乄 峼 蔢 迷
Ngoài tròn mà vuông ở trong
Có đôi ba chữ làm lòng say mê.
Là gì? Đáp án: Đồng tiền trinh
侤 馪 橣 峼 貝 搩 筃
沖 清 妙 兘 樣 乛 乛
神 京 物 貴 埃 空 適
又 倘 香 茶 味 寔 撛
Trĩu nặng tấm lòng với nước non
Trong thanh dịu ngọt dáng thon thon
Thần kinh vật quí ai không thích
Lại thoảng hương trà vị thật ngon
Là trái gì? Đáp án: Trái thanh trà
曩 嫩 哣 洌 棾 崘
湄 俼 沒 嶎 錃 兮 獕 丟
Nắng non ríu rít lè kè
94
Mưa trời một bữa chẳng hề thấy đâu
Là cái gì? Đáp án: Cái bóng
酭 學 止 別 伊 詞
侙 麻 倻 學 岲 垎 乄 之
Mới học chỉ biết i tờ,
Thế mà bắt học chữ hờ làm chi?
Là chữ gì? Đáp án: Chữ Thi
荕 挊 処 勠 哛 逩
篈 旗 於 疜 嗔 湶 岲 之
Đứng bóng hay lúc giữa trưa
Cắm cờ ở cuối xin thưa chữ gì?
Là chữ gì? Đáp án: Chữ Ngọc
生 歮 自 准 壘 燶
結 成 夫 婦 笈 崘 固 饒
塲 身 拯 計 隖 腂
凩 撛 物 怱 蔞 荼 拯 辭
Sinh ra từ chốn lũy tre
Kết thành phu phụ cặp kè có nhau
Nương thân chẳng kể nghèo giàu
Miếng ngon vật lạ dưa rau chẳng từ
Là gì? Đáp án: Đôi đũa
賒 吹 擬 徠 朱 媑
乄 身 昆 礘 亖 吝 絲 娨
Xa xôi nghĩ lại cho gần
Làm thân con nhện mấy lần tơ vương
Là gì? Đáp án: Số 08
產 峼 愛 國 初 哰
麻 峼 勅 搩 欺 揻 欺 睰
Sẵn lòng ái quốc xưa nay
Mà lòng giữ nước khi đầy khi vơi
Là cái gì? Đáp án: Ấm trà
珄 覻 麻 固 侼 頭
垖 銜 垖 品 垖 腂 垖 禥
官 員 朱 旦 聖 神
名 榮 德 行 調 中 身 尼
95
Mình tròn mà có hai đầu
Nuốt hàm nuốt phẩm nuốt giàu nuốt sang
Quan viên cho đến Thánh Thần
Danh vang đức hạnh đều trong thân này
Là cái gì? Đáp án: Ống đựng sắc phong
固 幹 固 鐥 空 尓
又 固 隻 旘 朲 魂 當 驚
Có cán có mũi không mồn
Lại thêm chiếc lưỡi ghê hồn đáng kinh
Là cái gì? Đáp án: Cái dao
身 輪 訨 架 威 儀
曢 俤 篵 銿傳 之 默 峼
欺 令 炧 戶 伏 從
欺 崐 埅 乳 沉 禞 憥 空
Thân luôn theo giá uy nghi
Tiếng tăm chiều sớm chuyện chi mặc lòng
Khi lệnh trăm họ phục tòng,
Khi buông lời nhũ đắm mình cõi không
Là cái gì? Đáp án: Cái trống
并 歯 只 沒 暣 浌
麻 炒 固 力 暣 懷 空 過
Tính ra chỉ một thước dài
Mà sao cố sức bước hoài không qua
Là cái gì? Đáp án: Cái bóng
固 身 時 固 個 尼
圡 浌 几 襽 丟 呍 絆 峼
晫 珄 儍 固 常 用
圡 外 勠 重 勠 曾 輕 欺
Có thân thì có cái này
Người dài kẻ ngắn đâu hay bận lòng
Của mình nào có thường dùng
Người ngoài lúc trọng lúc từng khinh khi
Là cái gì? Đáp án: Cái tên
夛 之 儙 峑 空 蘿
琾 之 儛 帀 沒 誟
昆 之 沒 諁 外 埞
英 麻 斷 特 訴 詳 岄 呍
96
Cây gì trên rừng không lá
Cá chi dưới bể một xương
Con gì một vảy ngoài nương
Anh mà đoán được tỏ tường em hay
Là gì? Đáp án: Cây nấm - Con mực - Con ốc
夛 枯 剾 拮 中 茹
止 固 沒 炨 吱 緥 吱 嫩
Cây khô đem cất trong nhà
Chỉ có một trái chê già chê non
Là cái gì? Đáp án: Cái cân
身 浌 梗 蘿 乛 乛
嫩 吿 緥 半 刯 昆 覄 壇
Thân dài cành lá thon thon
Non ăn già bán cháu con đầy đàn
Là cây gì? Đáp án: Cây tre
身 岺 拯 學 刼 之
麻 炧 次 岲 曰 時 特 桰
Thân nhỏ chẳng học chút gì
Mà trăm thứ chữ viết thì được ngay
Là cây gì? Đáp án: Cây bút
侼 頭 麻 拯 固 蝊
固 特 曲 哛 勁 麻 緲 浉
Hai đầu mà chẳng có đuôi
Có được khúc giữa cứng mà dẻo dai
Là cái gì? Đáp án: Cái đòn gánh
墢 歳 仍 拯 別 飛
戞 訨 夲 闧 斣 挦 清 台
Mang cánh nhưng chẳng biết bay
Vui theo sóng gió đêm ngày thảnh thơi.
Đáp án: Chiếc thuyền buồm
昆 之 固 瑈 固 蝊
稚 緥 瞾 俽 墢 訨 引 唐
Con gì có lông có đuôi
Trẻ già trai gái mang theo dẫn đường
Là con gì? Đáp án: Con mắt
97
丐 之 供 買 供 迷
供 自 儙 倂 供 駆 沔 埊
Cái gì cúng mãi cúng mê
Cúng từ trên núi cúng về miền xuôi
Là cái gì? Đáp án: Cái mủng
春 青 几 尚 圡 夭
位 高 名 望 戼 蜫 艱 難
峼 空 嚢 躺 貯 真
冬 珡 拯 管 飢 寒 液 冰
Xuân xanh kẻ chuộng người yêu
Vì cao danh vọng nên nhiều gian nan
Lòng không dạ thẳng chứa chan
Đông sang chẳng quản cơ hàn giá băng
Là cây gì? Đáp án: Cây tre
炦 生 岲 義 拱 蜫
柗 圡 剝 扨 畨 條 円 嘆
律 朩 局 撡 彫 殘
生 訨 沒 僂 昆 頑 芮匇
Mặt xinh chữ nghĩa cũng nhiều
Chịu người bóc lột lắm điều thở than
Suốt năm cuộc sống điều tàn
Theo một lũ con ngoan nối dòng
Là cái gì? Đáp án: Quyển lịch
牐 戶 時 別 堟 頭
牐 悞 沒 諁 撡 畱 埞 奆
堞 橋 唐 寴 洓 錆
唕 岄 拫 勑 結 情 墵 胞
Nghe họ thì biết nhọn đầu
Tên giống một vảy ở sau nương sình
Nhịp cầu đường ray sắt thanh
Nhờ em gắn bó kết tình với nhau
Là cái gì? Đáp án: Đinh ốc
夛 之 固 彣 侼 頭
蜫 罁 麻 拯 岃 丟 特 儍
Cây gì có đến hai đầu
Nhiều chân mà chẳng đi đâu được nào
Là cây gì? Đáp án: Cây cầu
98
儙 朋 婣 儛 吏 朋 婣
扟 侟 時 蔭 娎 歮 冷 濥
Trên bằng da, dưới bằng da
Đút vào thì ấm, lấy ra lạnh lùng
Là cái gì? Đáp án: Đôi giày da, đôi bao tay da
固 罁 麻 拯 固 壦
固 斏 拯 旕 丐 処 怱 圅
Có chân mà chẳng có tay
Có lưng, chẳng bụng cái hay lạ đời
Là cái gì? Đáp án: Cái quần
固 強 麻 拯 固 真罁
固 侼 岞 姫 粗 朋 礖 忂
Có càng mà chẳng có chân
Có hai con mắt to bằng ốc bươu
Là cái gì? Đáp án: Cái kính (cái gương)
本 初 於 坦 生 歮
麻 哀 供 噲 碎 卥 岞 官
渥 峼 役 搩 冟 酸
揻 睰 副 墨 世 間 乊 蜫
Vốn xưa ở đất sinh ra
Mà ai cũng gọi tôi là con quan
Dốc lòng việc nước lo toan
Đầy vơi phó mặc thế gian ít nhiều
Là cái gì? Đáp án: Cái ấm
身 岄 瑟 羴 凭 傍
勅 腬 翓 杵 唐 徨 別 包
獕 岄 客 拯 噉 侟
主 衛 念 儎 岄 嘲 迍 桰
Thân em sắt thép vững vàng
Giữ gìn cửa ngõ đàng hoàng biết bao
Thấy em khách chẳng giám vào
Chủ về niềm nở em chào đón ngay
Là cái gì? Đáp án: Cái ổ khóa
身 朋 梇 燶
丐 凩 鉷 吹
旕 時 籾 権
物 英 種 共
99
Thân bằng gióng tre
Cái miệng tròn xoe
Bụng thì lỏng bỏng
Vật anh chỏng gọng
Là cái gì? Đáp án: Cái điếu cày
禞 黃 吏 忬 袄 黃
岃 歮 外 唐 哀 拱 悶 昏
Mình vàng lại mặc áo vàng
Đi ra ngoài đàng ai cũng muốn hôn
Đáp án: Quả thị
學 行 牱 洄 垰 頭
吻 還 突 特 別 之 丟
皮 外 歮 羕 坤 頑 畨
卒 局 坤 頑 只 步 鏓
Học hành đến hói cả cái đầu
Vẫn hoàn dốt đặc biết chi đâu
Bề ngoài ra dáng khôn ngoan lắm
Rốt cục khôn ngoan chỉ bộ râu
Là cây gì? Đáp án: Cây bút viết chữ nho (cây bút lông)
峂 峂 撐 撐
轊 喖 苔 禞
歀 匇 情 感
Bé bé xinh xinh
Răng mọc đầy mình
Nối dòng tình cảm
Là con gì? Đáp án: Con tem
暈 斏 璄 瀂 堚 俼
丁 寧 侼 凩 沒 利 双 双
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Là cái gì? Đáp án: Con diều sáo
別 碎 卥 丐 夷 空
媭 璏 律 斘 半 蓬 卥 碎
Biết tôi là cái gì không
Quanh năm suốt tháng bán bòng là tôi
Đáp án: Quả bóng bàn
100
聞 其 聲 不 見 其 形
大 人 開 口 小 人 驚
Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình
Đại nhân khai khẩu, tiểu nhân kinh
Là ai? Đáp án: Ông kẹ, con ma, ông ngáo ộp
剾 身 朱 世 間 憹
庄 傷 時 籒 吏 宼 不 忠
Đem thân cho thế gian ngồi
Chẳng thương thì chớ lại cười bất trung?
Là cái gì? Đáp án: Cái phản
英 墵 碎 本 共 悞
仍 為 恪 剱 朱 戼 賒 皡
碎 朱 果 嘦 赭 殅
群 英 砋 點 朱 圤 襔 添
Anh với tôi vốn cùng tên
Nhưng vì khác họ cho nên xa vời
Tôi cho quả chín đỏ tươi
Còn anh tô điểm cho người đẹp thêm?
Là gì? Đáp án: Quả vải và vải mặc
侼 壦 掩 擦 焈 茹
婮 肝 空 固 丐 婣 僟 凬
Hai tay ôm sát cột nhà
Ruột gan không có, cái da bầy nhầy?
Là cái gì? Đáp án: Cái võng
夛 夷 買 喖 時 高
寅 寅 吏 硏 據 牢 邏 奇
Cây gì mới mọc thì cao
Dần dần lại thấp, cớ sao lạ kỳ?
Là cây gì? Đáp án: Cây nến, cây hương
身 岄 嫎 比 細 絲
壦 罁 空 固 戼 岃 朋 頭
Thân em bé tỉ tí ti
Tay chân không có nên đi bằng đầu?
Là cây gì? Đáp án: Cây kim
皮 朋 果 勭 吿 劫 垰 廊
Vừa bằng quả mướp, ăn cướp cả làng?
Là con gì? Đáp án: Con chuột
101
英 堃 忬 袄 赭
俺 岺 忬 袄 鈎
欺 俺 堃 如 英
俺 拱 忬 袄 赭
Anh lớn: mặc áo đỏ
Em nhỏ: mặc áo xanh
Khi em lớn như anh
Em cũng mặc áo đỏ
Là quả gì? Đáp án: Quả ớt
蔑 丐 扼 腅 炧 客 憹
Một cái ách, mà trăm khách ngồi?
Là gì? Đáp án: Buồng chuối
悞 俺 空 少 拯 乘
剰 峼 黃 兘 底 皮 峼 英
Tên em không thiếu chẳng thừa
Tấm lòng vàng ngọt để vừa lòng anh?
Là quả gì? Đáp án: Quả đu đủ
固 梗 腅 空 別 鏅
典 欺 鏅 特 吿 眉 拱 吱
Có cánh mà không biết bay
Đến khi bay được ăn mày cũng chê
Là gì? Đáp án: Cánh hoa
蔑 璏 固 厰 侼 斘
蔑 斘 固 倈 厱 挧
撰 蔑 挧 夋 夛 空 钖
Một năm có mười hai tháng
Một tháng có ba mươi ngày
Chọn một ngày trồng cây không rễ
Là cây gì? Đáp án: Cây nêu
岞 之 吿 腅 空 坾
岞 之 坾 腅 空 吿
Con chi ăn mà không uống
Con chi uống mà không ăn
Là con gì? Đáp án: Con tằm và con đỉa
侼 儯 恪 剱 共 悞
岞 時 儛 搩 丐 儙 渉 茹
102
Hai đứa khác họ cùng tên
Con thì dưới nước, cái trên mái nhà
Là gì? Đáp án: Cá mè và cái mè (rui mè) trên mái nhà
欺 岃 墢 垰 茹 岃
欺 駆 崕 翓 慈 悲 腅 聮
Khi đi mang cả nhà đi
Khi về đóng cửa từ bi mà nằm
Là con gì? Đáp án: Con ốc
儙 拉 瓦 儛 固 花
蔑 尚 垆 授 歮 夝 尚 崕 媫 獹
Trên lợp ngói, dưới có hoa
Một thằng thò ra, bốn thằng đung đưa chạy
Là con gì? Đáp án: Con rùa
丐夷 蹈 舖 儛 春
岃 頭 儛 坦 轥 罁 瑨 俼
Cái gì dạo phố dưới xuân
Đi đầu xuống đất, chọc chân lên trời
Là cái gì? Đáp án: Cái đinh giày
夛 夷冬 幆 夏 殅
花乄 剹 觵 哛 俼 鍸 饒
氼 気 涓 態 鐲 侟
及 桰 質 蟩 戨 愁 凁 歮
Cây gì đông héo, hè tươi
Hoa làm chong chóng giữa trời đuổi nhau
Mối mọt quen thói đục vào
Gặp ngay chất đắng, buồn rầu nhả ra
Là con gì? Đáp án: Cây xoan
亷 之平 坦 攤 歮
插 侟 爐 帞 遌 倈 夝 挧
欺 歮 趦 赭 熙 熙
禞 壪 椮 振 剾 搓 翓 茹
Hòn gì bằng đất nặn ra
Xếp vào lò lửa nung ba bốn ngày
Khi ra má đỏ hây hây
Mình vuông chăn chắn, đem xây cửa nhà?
Là cái gì? Đáp án: Hòn gạch
103
花 之 果 捲 貝 蔞
底 朱 勾 窽 闦 頭 戼 緣
Hoa gì quả quyện với trầu,
Để cho câu chuyện mở đầu nên duyên?
Là hoa gì? Đáp án: Hoa cau
果 之 吿 拯 特 蜫
仍 麻 擹 獕 包 饒 圡 穯
Quả gì ăn chẳng được nhiều,
Nhưng mà nhìn thấy, bao nhiêu người thèm?
Là quả gì? Đáp án: Quả chanh
身 浌 旘 亙 卥 嗟
有 手 無 足 妒 卥 丐 之
Thân dài, lưỡi cứng là ta
Hữu thủ vô túc, đố là cái chi?
Là cái gì? Đáp án: Cái cuốc
岞 之 頭 橸 蝊 蒖
吿 琘 浸 沫 吏 長 瑨 夛
Con chi đầu khỉ đuôi lươn
Ăn no tắm mát, lại trườn lên cây?
Là cái gì? Đáp án: Cái gáo bằng sọ dừa
耯 之 惣 高 雭
耯 之 空 歳 空 瑈 禞 塵
Chim chi sắc mỏ, cao mồng
Chim chi không cánh không lông mình trần
Là cái gì? Đáp án: Cái rìu
中 茹 固 堏 吿 恱 擜
Trong nhà có bà ăn cơm trắng?
Là cái gì? Đáp án: Bình vôi
夛 夷 空 蘿 空 觮
禞 黃 空 钖 於 媑 茹 嗟
Cây gì không lá, không chân
Mình vàng, không rễ, ở gần nhà ta?
Là cây gì? Đáp án: Cây rơm
平 字 錢
104
聮 迎 中 礆
Bằng trự tiền
Nằm nghiêng trong bụi
Là gì? Đáp án: Rau má
圭 岄 於 准 傉 囚
醘 撾 炦 搩 網 剈 硏 高
彣 挧 鎼 姫 歮 嘲
裦 爯 買 別 自 豪 卒 氊
Quê em ở chốn ao tù
Vượt qua mặt nước, võng dù thấp cao
Đến ngày mở mắt ra chào
Soi gương mới biết tự hào tốt tươi
Là cây gì? Đáp án: Cây sen
朋 岞 爬 聮 觚 哛 撧
Bằng con bò, nằm co giữa ruộng
Là cái gì? Đáp án: Cái mả
夛 边 東 固 芃 空 炨
夛 哛 塘 蓋 固 炨 空 花
夛 於 中 茹 固 花 空 果
Cây bên đông có bông không trái
Cây giữa đường cái, có trái không hoa
Cây ở trong nhà, có hoa không quả
Là cây gì? Đáp án: cây lau, cây đa, cây đèn
禞 覻 礚 撰
尙 鈍 如 磜
中 茹 憹 空
歮 咵 媣 暤 暤
Mình tròn trùn trụn
Răng nhọn như chông
Trong nhà ngồi không
Ra đồng nhảy chôm chổm
Là cái gì? Đáp án: Cái nơm
本 奴 時 於 峑 青
剾 衛 下 伴 結 成 沒 堆
韠 塘 丗 苉 圡 畱
衛 茹 時 邑 娎 胞 麻 聮
105
Vốn nó thì ở rừng xanh
Đem về hạ bạn kết thành một đôi
Ra đường kẻ trước người sau
Về nhà thì ấp lấy nhau mà nằm
Là cái gì? Đáp án: Đôi quang gánh
禞 如 果 茄 叱 碒
唐 瑇 時 固 唐 外 時 空
Mình như quả cà sứt tai
Đàng Trong thì có, Đàng Ngoài thì không
Là gì? Đáp án: Bánh trôi
丐 擡 麻 腫 侼 頭
边 些 時 固 边 艚 時 空
Cái trống mà thủng hai đầu
Bên ta thì có, bên Tàu thì không
Là cái gì? Đáp án: Cái váy
岞 夷
買 生 韠 時 卥 岞 徴
畱 化 韠 岞 徸
吏 化 成 岞 稤
稤 吏 化 成 驢
驢 貨 韠 妕
妕 變 成 岞 橸
Con gì
Mới sinh ra thì là con sên
Sau hóa ra con bướm
Lại hóa thành con công
Công lại thành lừa
Lừa hóa ra cáo
Cáo biến thành con khỉ?
Là con gì? Đáp áp: Con người ta
欺 初 岄 赭 紅 紅
岄 岃 応 洂 岄 補 圭 吒
挦 畱 迃 鶴 駆 緥
圭 洂 岄 補 圭 吒 吏 駆
Khi xưa em đỏ hồng hồng
Em đi lấy chồng, em bỏ quê cha
Ngày sau tuổi hạc về già
Quê chồng em bỏ, quê cha lại về
Là cái gì? Đáp án: Cái nồi
106
丐 夷 包 廡 泣 尼
空 味 空 色 麻 埃 拱 勤
Cái gì bao phủ khắp nơi
Không mùi không sắc mà ai cũng cần
Là gì? Đáp án: Không khí
夛 租 蘿 岺 廛 廛
嫩 吿 緥 半 娎 錢 麻 銷
Cây to lá nhỏ chiền chiền
Non ăn, già bán lấy tiền mà tiêu
Là cây gì? Đáp án: Cây tre
岞 夷 固 瑈 固 蝊
娋 緥 佳 俽 調 拱 墢 訨
Con gì có đuôi có lông
Trẻ già trai gái đều cùng mang theo
Là con gì? Đáp án: Con mắt
沒 梽 麻 児 侼 茹
妣 岄 空 固 婮 鑬 拱 空
Một chắc mà giữ hai nhà
Chị em không có, ruột rà cũng không
Là cái gì? Đáp án: Máng xối
頭 羅 瑟 蝊 羅 挿
空 固 奴 檜 空 成
Đầu là sắt, đuôi là gỗ
Không có nó, củi không thành
Là cái gì? Đáp án: Cái búa bổ củi
誟 僺 誟 蕽
空 固 斾 固 庒
耯 逗 於 儙 斏
嶾 岃 於 儛 旕
朚 益 朱 圡 些
塊 陳 如 蛹
Xương sườn, xương sống
Không có thịt, có da
Chim đậu ở trên lưng
Guốc đi ở dưới bụng
Giúp ích cho người ta
Khỏi trần truồng như nhộng
Là cái gì? Đáp án: Khung cửi
107
固 罁 麻 拯 別 岃
固 炦 仿 離 朱 丗 憹 儙
Có chân mà chẳng biết đi
Có mặt phẳng lì cho kẻ ngồi trên
Là cái gì? Đáp án: Cái ghế
炦 如 丐 炪 禞 如 丐 羐
丐 斏 兾 丐腮 梄 沱
欺 牌 賦 欺 吟 詩
欺 供 翁 奴 欺 攧 堏 箕
Mặt như cái thớt, mình như cái mai
Cái răng khập khiểng, cái tai thẳng đờ
Khi bài phú, khi ngâm thơ
Khi cúng ông nọ, khi thờ bà kia
Là cây gì? Đáp án: Cây đàn nguyệt
平 炨 槔
従 吔 岃 略
Bằng trái cau
Lau chau đi trước
Là gì? Đáp án: Ngón chân cái
夛 絤 縱 蘿 蘺隨
攑 東 飏 吏 攑夏 儎 歮
Cây lung tung, lá loe toe
Mùa đông úp lại, mùa hè nở ra
Là cây gì? Đáp án: Cây sen
蘿 青 梗 赭 花 黃
曷 顛 昖 擜 妒 乴 夛 之
Lá xanh, cành đỏ, hoa vàng
Hạt đen, rễ trắng; đố chàng cây chi?
Là cây gì? Đáp án: Cây rau sam
岞 夷 歳 蒙 蝊 浌
六 飛 六 逗 歳 時 調 揚
Con gì cánh mỏng, đuôi dài,
Lúc bay lúc đậu cánh thời đều giương?
Là con gì? Đáp án: Con chuồn chuồn
空 吿 惣 徏 徏
蔑 蹱 壜 歮 從 孕 矝
108
Không ăn mà mổ cuống cuồng
Mệt nhoài đứng chống, ra tuồng dửng dưng
Là cái gì? Đáp áp: Cái chày đạp giã gạo
夛 枯 麻 儎 特 花
杜 特 沒 果 欺 緥 稲 嫩
Cây khô mà nở được hoa
Đậu được một quả, khi già khi non
Là cái gì? Đáp án: Cái cân xách
悩 空 侊
倻 空 埅
摢 空 枯
揕 空 雼
Chặt không đứt
Bứt không lời
Phơi không khô
Chụm không đỏ
Là gì? Đáp án: Nước
爑 燺 劵 吏 侼 批
悩 分 夛 燶 勏 橋 沒 焈
Tám xóm nhóm lại hai phe,
Chặt phần cây tre, bắc cầu một cột
Là cái gì? Đáp án: Đôi quang và chiếc đòn gánh
夝 边 成 險 壘 高
固 沒 尚 禿 媣 侟 媣 歮
Bốn bên thành hiểm lũy cao,
Có một thằng trọc nhảy vào nhảy ra
Là cái gì? Đáp án: Cái thùng và cái gáo múc nước
侼 英 拱 種 拱 亊
英 惕 憹 諑 英 隊 拱 暭
逾 霜 蕌 顮 默 俼
自 初 本 伴 空 禣 茹 農
Hai anh cùng giống cùng nòi
Anh thích ngồi trốc, anh đòi cõng chơi
Gió sương, mưa nắng mặc trời
Từ xưa vốn bạn không rời nhà nông
Là cái gì? Đáp án: Cái nón và cái tơi
109
倈 堏 岃 悪 橋 喃
堏 岃 畱 卒 輪 尓 伶 瑨
堏 岃 苉 時 少 唅 儙
堏 岃 哛 時 少 唅 儛
止 堏 岃 檜 卥 堵 侼 唅
Ba bà đi chợ Cầu Nôm:
Bà đi sau rốt luôn mồn “Nhanh lên!”
Bà đi trước thì thiếu hàm trên
Bà đi giữa thì thiếu hàm dưới
Chỉ bà đi cuối là đủ hai hàm!
Là gì? Đáp án: Người đi bừa, con trâu và cái bừa
侼 罁 蹱 侼 罁 跪
丐 旕 曃 伊 噤 吶 岞 氱
Hai chân đứng, hai chân quỳ
Cái bụng chì ì; cấm nói con cóc
Là con gì? Đáp án: Con ếch
岃 鉩 轊 駆 鉩 轊
埃 寕丐耙
亯湶中 麻 渚董
Đi nhăn răng, về nhăn răng
Ai bảo cái bừa,
Xin thưa đúng mà chưa đúng!
Là cái gì? Đáp án: Cái cào cỏ
冲 媭 卥 搩 冥 蒙
自 然 於 哛 譍 瑨 蔑 亷
羕 刑 娒 倂 娒 筃
空 噲 筃 倂 妒 亷 之 低
Xung quanh là nước mênh mông
Tự nhiên ở giữa nhô lên một hòn
Dạng hình giống núi giống non
Không gọi non, núi, đố hòn gì đây?
Là gì? Đáp án: Hòn đảo
廏 边 廏 搩 沚 歮
荑 眆 拝 敡 曲 歌 樂 疦
噲 槣 噲 衦 嗔 停
妒 閣 伴 岄 娿 噲 夷
Đá bên đá, nước chảy ra
Rì rào róc rách khúc ca nhạc rừng
110
Gọi sông, gọi suối: xin đừng!
Đố các bạn, đố em cưng, gọi gì?
Là gì? Đáp án: Khe nước
爑 巢 觵 喼 侼 隫 壜
昆 姫 咾 憐 丐 頭 空 固
Tám sào chóng cạn, hai nạng chống
Con mắt láo liên, cái đầu không có!
Là con gì? Đáp án: Con cua, con ghẹ
爑 尚 民 運 局 廏 毜
侼 翁 社 墸 隫 玞 訨
Tám thằng dân vần cục đá tảng
Hai ông xã xách nạng chạy theo
Là con gì? Đáp án: Con cua, con ghẹ
怱 濥 卥 怱 濥 台 聮 噵 班 挧 底 怱 濥 歮
怱 濥 固 惣 題 歮 句 鞕 句 便 固 茄 瓦 青
怱 濥 固 幅 萌 萌句 鞕 句 便 固 英 俚 船
Lạ lùng là lạ lùng thay; nằm ngủ ban ngày để lạ lùng ra
Lạ lùng có mỏ đề ra; câu lơn, câu tiện có nhà ngói xanh
Lạ lùng có bức mành mành; câu lơn, câu tiện có anh lái thuyền
Là con gì? Đáp án: Con cua, con ghẹ
盧 盧 麻 蹱 谷 茹
係 哀 佦 旦 時 呱 哭 瑨
Lù lù mà đứng góc nhà
Hễ ai đụng đến thì òa khóc lên
Là cái gì? Đáp án: Cái cối xay lúa
翁 聮 儛 壡 呆 瑨
堏 聮 儙 愢 噓 噓
Ông nằm dưới trỏ ngóc lên
Là cái gì? Đáp án: Cái cối xay lúa
姑 箕 岞 丐 茹 哀
禞 租 哄 岺 魯 碒 鳥 沉
蹱 边 牐 曢 闗 闗
皮 蟍 皮 喝 孾 孾 蕌 嬑
Cô kia con cái nhà ai; mình to, họng nhỏ, lỗ tai đeo trằm
Đứng bên nghe tiếng ầm ầm; vừa múa vừa hát, rầm rầm mưa rơi
Là cái gì? Đáp án: Cái cối xay lúa
111
搩侟槣埖帞奵筃高
挒浌咻丄闧嗃
槣焵搩喼筃高帞殘
Nước vào sông Đáy, lửa cháy non cao
Đêm dài hiu hắt gió xao
Sông sâu nước cạn, non cao lửa tàn
Là cái gì? Đáp án: Cái đèn dầu
仝 僞 搩 黃
岞 氜 聮 卬 娎 巢 麻 轥 佊 呆 頭 瑨
Đồng bạc, nước vàng
Con rắn nằm ngang, lấy sào mà chọc, nó ngóc đầu lên
Là cái gì? Đáp án: Cái đèn dầu
罁 踏 沔 青 地
頭 隊 帽 平 天
禞 時 鍯 袄 瑪 仙
班 挧 堆 倈 堓 簈 聮 貞 叫 俼
Chân đạp miền thanh địa
Đầu đội mũ bình thiên
Mình thì bận áo mã tiên
Ban ngày đôi ba vợ, tối nằm riêng kêu trời
Là cái gì? Đáp án: Con gà trống
儙 頭 隊 厽 倊 頒
儛 時 酦 審 斉 黃 深 吹
神 冷 乑 噲 時 駆
憹 儙 鞽 玉 劍 期 畱 禙
Trên đầu đội sắc vua ban
Dưới thời yếm thắm, dây vàng xum xoe
Thần linh đã gọi thì về
Ngồi trên mân ngọc, gươm kề sau lưng
Là cái gì? Đáp án: Con gà trống
顮 帞 蕌 油 些 空 覧 伴
簈 帞 嘢 嘫 伴 吏 覧 些
Nắng lửa mưa dầu ta không bỏ bạn
Tối lửa tắt đèn bạn lại bỏ ta
Là cây gì? Đáp án: Cái nón
空 沛 槔 麻 用 底 撒
空 沛 瀃 共 底 解 醩
112
空 沛 贚 麻 用 底 鄧
空 沛 帽 共 底 隊 頭
Không phải giàu mà dùng để tát
Không phải quạt cũng để giải nồng
Không phải nong mà dùng để đựng
Không phải mũ cũng để đội đầu
Đáp án: Cái nón
罁 赭 禞 険
頭 隊 花 蓮
瑨 朝 上 帝
Chân đỏ mình đen
Đầu đội hoa sen
Lên chầu Thượng đế
Là cây gì? Đáp án: Cây hương
侼 圡 初 於 侼 筃
悲 炠 合 吏 如 岞 蔑 茹
丗 乄 誟 圡 乄 婣
法 冷 變 化 群 卥 蔑 罁
Hai người xưa ở hai non
Bây giờ họp lại như con một nhà
Kẻ làm xương, người làm da
Phép linh biến hóa còn là một chân
Là cây gì? Đáp án: Cây hương
皮平 圕 嫎 瑨 倈
劚 禙 昆 昆 玞 歮 外 咵
Vừa bằng thằng bé lên ba
Thắt lưng con cón chạy ra ngoài đồng
Là gì? Đáp án: Bó mạ
酦 娘 緓 袄 娘 崘
娘 戓 埃 娘 罉 的
Yếm nàng nịt, áo nàng gài
Nàng yêu ai, nàng quẹo đít?
Là con gì? Đáp án: Con ốc
固 夛 麻 拯 固 梗
固 侼 翁 懼 習 爭 侼 边
Có cây mà chẳng có cành
Có hai ông cụ dập dềnh hai bên
Là cây gì? Đáp án: Cây ngô
113
禞浌 蔑 懎 婣 擜 如 幈
隊 帽 紅 花 罁 岃 固 蔑
Mình dài một tấc, da trắng như ngà
Đội mũ hồng hoa, chân đi có một
Là cây gì? Đáp án: Cây giá đỗ đỏ
侼 姑 歮 浸 沒 匇
箿 袄 浸 陳 底 露 牟 庒
沒 姑 庒 擜 如 牙
沒 姑 吏 固 牟 庒 赭 紅
哛 杆 顮 夏 搝 膿
裙 嬑 卐 儛 露 朦 沞 時
拱 卥 侼 伴 女 兒
故 牢 吏 獕 嶳 荑 説 鈛
Hai cô ra tắm một dòng
Cởi áo tắm trần để lộ màu da
Một cô da trắng như ngà
Một cô lại có màu da đỏ hồng
Giữa cơn nắng hạ oi nồng
Quần rơi trễ xuống, lộ mông dậy thì
Cùng là hai bạn nữ nhi
Cớ sao lại thấy rậm rì râu ria?
Là hoa gì? Đáp án: Hoa sen và hoa súng
岞 橮 槚 濁 聮 哛 坦 漽
沒 唐 誟 耓 浌 侼 屶 誟 緿 桖
Con trâu chết rục, nằm giữa đất đai
Một đường xương sống dài, hai đống xương sườn nát
Là cái gì? Đáp án: Tàu dừa mục
身 形 匙 槚 乑 憻
麻 侼 昆 姫 部 説 駭 群
Thân hình thì chết đã lâu
Mà hai con mắt, bộ râu hãy còn
Là gì? Đáp án: Gốc tre khô
姫 夷 隔 鉜 侼 嵈 冘 歮 呈 廊 庄 別 傳 之
生 歮 丐 種 異 奇 斏 聮 唐 苉 旕 匙 悏 畱
Mắt gì cách gối hai gang, đem ra trình làng, chẳng biết chuyện chi
Sinh ra cái giống dị kì, lưng nằm đằng trước, bụng thì phía sau?
Là gì? Đáp án: Cẳng và mắt cá chân
114
114
岞 之 打 胜 翁 倊 打 輸 柴 寺
Con chi đánh thắng ông vua, đánh thua thầy chùa?
Là con gì? Đáp án: Con chấy
岞 打 母 母 栐 廊
牱 欺 廊 歮 岞 鏆 旕 母
Con đánh mẹ, mẹ van làng
Đến khi làng ra, con chui bụng mẹ!
Là cái gì? Đáp án: Cái dùi và cái mõ
忬 袄 青 隊 贠 青
岃 媭 沒 敭
忬 袄 擜 隊 贠 擜
Mặc áo xanh, đội nón xanh
Đi quanh một vòng
Mặc áo trắng, đội nón trắng
Là quả gì? Đáp án: Quả cau khi róc vỏ
115
PHỤ LỤC 4. NHỮNG BỘ ÐẦU HỒ XƯA
Ở Huế hiện còn lưu giữ ít nhất năm bộ đầu hồ cổ. Trong đó, bốn bộ là cổ
vật thuộc Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế; bộ còn lại là trân bảo của Ngọc Sơn
công chúa từ đường (công chúa con vua Ðồng Khánh).
Ðáng chú ý là sưu tập các bộ đầu hồ ở Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế,
bởi chúng rất đa dạng về chất liệu và hình dáng.
1. Bộ đầu hồ bằng đồng, tráng men pháp lam:
Ðây là một trong những bộ đầu hồ đã được R. Orband giới thiệu trong bài
viết in trên BAVH năm 1917. Bộ đầu hồ này trước đây được trưng bày trong điện
Hòa Khiêm (lăng Tự Ðức), nay đang được trưng bày ở Bảo tàng Cổ vật Cung
đình Huế.
Ảnh PL1: Bộ xăm hường bằng đồng tráng men pháp lam
Bộ đầu hồ này làm bằng đồng thau, gồm chiếc bình có eo, gắn với phần
đế qua các chi tiết trang trí làm bằng pháp lam. Chiều cao của bộ đầu hồ là 61cm,
riêng chiếc bình cao 40cm.
Chiếc bình tạo dáng như hình chiếc bầu đựng rượu. Miệng bình rộng
5cm, phía trên có gắn cái họng bằng ngọc thạch màu trắng cao 3cm. Vành ngoài
miệng bình là những dãi trang trí theo dạng hồi văn được gắn thêm vào, gồm một
hàng thủy tinh màu khảm vào 19 chiếc khuy đồng bao quanh vành miệng và 6
chiếc lá bằng pháp lam xuôi xuống cổ bình. Thân trên và thân dưới của bình đều
có gắn những sợi chỉ đồng uốn thành hình các bông hoa và đám mây có gắn thủy
116
tinh màu. Bên ngoài eo bình có gắn các chi tiết trang trí bằng pháp lam gồm hai
dãi hồi văn lá cúc và hai hình dơi ngậm tua bằng pháp lam.
Phần đế gồm hai vành đồng nối với nhau bởi bốn chi tiết bằng pháp lam
tạo dáng như những chiếc lá. Vành đế phía trên hình đới cầu, bên ngoài gắn thêm
một dãi khuy đồng nạm thủy tinh màu và các đồ án trang trí mây hóa cúc bằng
pháp lam. Vành đế phía dưới có hình vành khăn, mặt ngoài chia thành các ô hình
chữ nhật bởi các sợi chỉ đồng. Ðế có bốn chân bên dưới, được phủ men pháp lam
màu xanh nhưng đã bị bong men khá nhiều. Theo R. Orband, trong lòng đế có
chiếc trống, một vật không thể thiếu trong trò chơi đầu hồ. Chiếc trống nay đã mất.
Nhiều chi tiết trang trí bằng pháp lam trên thân hồ cũng đã bong men hoặc rơi mất
các hạt thủy tinh màu.
Ngoài bộ đầu hồ này, trong bài viết nói trên, R. Orband có giới thiệu một
bộ đầu hồ khác kèm theo hình vẽ, cũng làm bằng đồng thau, quanh thân có nạm
nhiều ngọc thạch và thủy tinh màu, theo các kiểu thức trang trí Arabian. Bộ đầu hồ
này không rõ nay lưu lạc phương nào.
2. Bộ đầu hồ bằng gỗ, cẩn xà cừ:
Ðây là bộ đầu hồ tiêu biểu nhất trong số những bộ đầu hồ còn lại ở Huế,
hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế.
Ảnh PL2: Bộ đầu hồ bằng gỗ cẩn xà cừ Ảnh PL3: Bộ xăm hường bằng gỗ
117
Ðầu hồ làm bằng gỗ, gồm nhiều bộ phận ghép lại. Phần chính là chiếc
bình dáng nậm rượu hai bầu, có eo ở giữa, cao 56cm. Cổ bình hình trụ, miệng loe.
Bầu trên và bầu dưới của chiếc bình là hai phần riêng biệt, liên kết với
nhau qua một khớp nối ở eo bình. Bên ngoài thành bình khảm xà cừ các đồ án
rồng, mây (phần trên) và bát tiên (phần dưới). Trên cổ chiếc bình chính có gắn hai
chiếc bình nhỏ, cao 14cm, hình dáng tương tự bình chính. Ðược biết hai chiếc
bình này được gắn vào để cho dành cho những tay chơi thượng thặng, có thể
ném thẻ lọt vào miệng các chiếc bình nhỏ này.
Phần đế phía dưới cao 24,5cm, được tạo dáng như những chiếc đôn vẫn
dùng để bày các chậu hoa cảnh trong các cung điện ở Huế. Mặt đế hình chiếc
đĩa, phía ngoài khảm dãi văn hoa thị bằng xà cừ. Ðế có bốn chân, kiểu chân quỳ,
gắn với một vành gỗ bên dưới. Mặt ngoài vai đế khảm xà cừ hình long, lân, quy,
phụng và bốn vật trong bộ bát bửu gồm: tù và, quạt ba tiêu, đàn tỳ bà và cuốn thư.
Bộ đầu hồ này được đặt trên một chân đế thứ hai, làm bằng loại gỗ khác
với bộ đầu hồ và không có các trang trí khảm xà cừ. Bên trong chân đế này có đặt
là chiếc trống bịt da một mặt.
Những nét chạm khảm trên bộ đầu hồ này rất tinh tế và trau chuốt, khiến
chiếc bình trở nên một tác phẩm nghệ thuật thực sự, xứng đáng là một trong
những cổ vật có giá trị trong Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế. Tuy nhiên, tình
trạng hiện tại của chiếc bình không còn hoàn hảo. Một số chi tiết đã gãy, vỡ do lần
đưa đi trưng bày tại Hà Nội cách nay hơn 20 năm.
3. Bộ đầu hồ bằng gỗ, không chạm trổ:
Lai lịch chiếc bộ đầu hồ này khá thú vị. Năm 1988, tại khách sạn Drouot,
Paris có cuộc bán đấu giá các cổ vật từ châu Á, trong đó có 282 cổ vật Việt Nam,
thuộc sưu tập của ông Cổ Trung Ngươn, một nhà sưu tập cổ vật ở Sài Gòn trước
đây. Nhận thấy đây là những cổ vật có xuất xứ từ triều đình Huế, Cựu hoàng Bảo
Ðại đã khởi kiện lên Tòa thượng thẩm Pháp để đòi lại cho Huế. Ðại sứ quán Việt
Nam tại Pháp cũng vào cuộc, ủng hộ Cựu hoàng Bảo Ðại, nhưng do luật lệ về cổ
vật ở mỗi nơi mỗi khác nên vụ tranh tụng không đi đến đâu. Tuy nhiên, chủ nhân
số cổ vật kia đã tặng lại cho Huế hai món. Ðó là chiếc bàn trà có khung bằng gỗ
sơn son thếp vàng nhưng mặt bàn làm bằng sứ trắng vẽ lam và bộ đầu hồ bằng
gỗ kiền kiền. Hai cổ vật này đã được chuyển trả lại cho Huế sau bao năm tháng
lưu lạc chốn trời Tây và hiện đang được trưng bày tại Đại Nội Huế.
Bộ đầu hồ có hình dáng giống bộ đầu hồ bằng gỗ cẩn xà cừ, nhưng có đôi
điểm khác biệt: miệng bình không loe, cổ bình ngắn hơn và không có hai chiếc
bình nhỏ gắn trên cổ bình lớn, cũng như không có các chi tiết trang trí bằng xà cừ.
Phần chính cũng là chiếc bình dáng nậm rượu cao 36cm, gồm 2 phần tách biệt,
kết nối với nhau ở eo bình. Phần đế bên dưới gồm hai phần, gắn với nhau thông
qua một khớp nối. Phần trên tựa chiếc đôn có bốn chân, phần dưới tựa chiếc dĩa
cao chân, bên trong có chứa một chiếc trống nhỏ. Tổng chiều cao phần đế là
25,5cm. Ngoài ra còn có một bộ gồm 6 mũi tên gỗ, dài 80cm. Tình trạng bộ đầu
hồ này khá tốt, chỉ có một đường nứt dọc thân dài khoảng 20cm, có lẽ do sự co
rút của gỗ, nhưng đã được làm kín bằng keo và bột gỗ.
4. Ðầu hồ bằng sứ:
Chiếc đầu hồ thứ tư làm bằng sứ, hiện trưng bày tại Đại Nội Huế. Ðó là
một cổ vật thuộc nhóm đồ sứ do triều Nguyễn ký kiểu tại Trung Hoa. Bộ đầu hồ
này chỉ có một chiếc bình không đáy, không có chân đế như những bộ đầu hồ
khác. Bình cũng có hình dáng nậm rượu hai bầu, cao 38cm. Miệng bình hơi loe,
118
lòng bình là một hình trụ rỗng thông từ miệng xuống đáy. Thành ngoài bình trang
trí đồ án lưỡng long hí thủy (hai rồng giỡn nước) bằng màu xanh cobalt dưới lớp
men phủ.
Ảnh PL4: Bộ xăm hường bằng sứ ký kiểu
Dưới đáy chiếc bình này có một khoanh tròn, đường kính khoảng 20cm,
không được tráng men, và có những đường gờ nhỏ. Dấu hiệu này cho biết chiếc
bình còn có thêm một bộ phận khác ở phía dưới, có thể là một cái đế, bên trong
gắn chiếc trống nhỏ, tương tự như những bộ đầu hồ khác ở Huế. Khảo sát xương
đất, chất men và màu, cũng như kỹ thuật trang trí trên chiếc bình này cho thấy nó
là đồ sứ được sản xuất tại Trung Hoa, nhưng motive trang trí trên thành bình lại
theo phong cách Huế, thể hiện ở các chi tiết như: đầu rồng, vây lưng rồng, đuôi
rồng, cách xếp vảy rồng, các đám mây và văn thủy ba. Ðiều này chứng tỏ đây là
một món đồ sứ ký kiểu và là đồ ngự dụng bởi con rồng được vẽ với 5 móng, một
dấu hiệu chỉ có trên đồ ngự dụng. Tình trạng chiếc bình này còn rất tốt.
5. Ðầu hồ bằng gỗ ở Ngọc Sơn công chúa từ đường:
Bộ đầu hồ này có từ thời Ðồng Khánh, nay là bảo vật của Ngọc Sơn công
chúa từ đường (ở số 29, Nguyễn Chí Thanh, Huế). Bộ đầu hồ làm bằng gỗ mun,
cao 60,7cm, riêng chiếc bình cao 40,7cm. Hình dáng bộ đầu hồ này tương tự bộ
đầu hồ bằng gỗ đang trưng bày ở Đại Nội Huế. Gia chủ vẫn còn giữ được 7 mũi
tên bằng gỗ, dài khoảng 78 - 80cm. Trong trận lụt năm 1999, mặt chiếc trống bị
thủng, sau đó đã được bịt lại như cũ. Tình trạng bộ đầu hồ này vẫn còn hoàn hảo.
Trò chơi đầu hồ đã thất truyền ở Huế khá lâu. Tuy nhiên, trong các
chương trình Đêm Hoàng Cung do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế tổ chức
tại Đại Nội Huế trong hai năm 2006 - 2007, trò chơi đầu hồ lại được tái sinh. Trung
tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã phục chế hai chiếc đầu hồ theo đúng nguyên
mẫu chiếc đầu hồ bằng sứ ký kiểu hiện đang trưng bày tại Đại Nội Huế và tổ chức
tái hiện trò chơi đầu hồ để du khách có dịp thử tài với trò chơi khéo léo và công
phu này.
119
PHỤ LỤC 5a. HAI BỘ XĂM HƯỜNG XƯA
Do sự hấp dẫn và tính tao nhã của trò đổ xăm hường nên người Huế rất
chuộng trò chơi này. Không kể các bộ xăm hường mới làm sau này, nhiều nơi ở
Huế còn lưu giữ được những bộ xăm hường cả trăm năm tuổi. Phụ lục này xin
giới thiệu hai trong số những bộ xăm hường quý hiếm ấy.
1. Bộ xăm hường của vua Tự Đức:
Có lẽ đây là bộ xăm hường xưa và độc đáo nhất còn sót lại ở Huế. Các thẻ
xăm được làm bằng ngà voi, còn chiếc hộp đựng thẻ được làm bằng gỗ mun với
các chi tiết trang trí được khảm bằng xà cừ và ngà voi.
Bộ xăm hường này hiện chỉ còn 56 thẻ (mất 7 thẻ), gồm: 30 thẻ Tú tài
(thiếu 2 thẻ); 12 thẻ Cử nhân (thiếu 4 thẻ); 7 thẻ Tiến sĩ (thiếu 1 thẻ); 4 thẻ Hội
nguyên; 1 thẻ Thám ba; 1 thẻ Bảng nhãn và 1 thẻ Trạng nguyên, trong đó 42 thẻ
còn tốt; 10 thẻ bị mòn vẹt và cong vênh do sử dụng lâu ngày và 4 thẻ bị khuyết
một phần do ngà voi bị mục nát.
Ảnh PL5: Bộ xăm hường bằng ngà của vua Tự Đức
Hình dáng các thẻ đều giống nhau: mỗi thẻ là một phiến ngà dày khoảng
0,15cm đến 0,25cm; phần dưới hình chữ nhật, phần đầu tạo hình bầu rượu 2 eo.
Tuy nhiên, kích thước, văn tự và màu sắc của các văn tự khắc trên mỗi loại thẻ thì
khác nhau:
+ Thẻ Tú tài dài 18,7cm, rộng 1,9cm; mặt trước khắc các chữ: 秀 才
(Tú tài) và 一 注 (nhất chú: 1 điểm); mặt sau khắc các chữ: 一 紅 得 (nhất
hường đắc: có nhất hường thì đoạt thẻ này). Các chữ khắc trên thẻ Tú tài
đều tô màu xanh dương.
120
+ Thẻ Cử nhân dài 19,7cm, rộng 2,2cm; mặt trước khắc các chữ: 舉
人 (Cử nhân) và 二 注 (nhị chú: 2 điểm); mặt sau khắc các chữ:
二 紅 得 (nhị hường đắc: có nhị hường thì đoạt thẻ này). Các chữ khắc trên
thẻ Cử nhân đều tô màu đỏ.
Ảnh PL6a: Chữ Hán khắc trên mặt trước bộ xăm hường của vua Tự Đức
Ảnh PL6b: Chữ Hán khắc trên mặt sau bộ xăm hường của vua Tự Đức
121
+ Thẻ Tiến sĩ dài 21,9cm, rộng 2,5cm; mặt trước khắc các chữ: 進 士
(Tiến sĩ) bằng mực xanh và 四 注 (tứ chú: 4 điểm) bằng mực đỏ; mặt sau
khắc các chữ: 四 序 得 (tứ tự đắc: có tứ tự thì đoạt thẻ này). Chữ 四 và
chữ 得 tô màu đỏ; chữ 序 tô màu xanh.
+ Thẻ Hội nguyên dài 22,2cm, rộng 2,5cm; mặt trước khắc các chữ:
會 元 (Hội nguyên) bằng mực đỏ và 八 注 (bát chú: 8 điểm) bằng mực
xanh; mặt sau khắc các chữ: 三 紅 得 (tam hường đắc: có tam hường thì
đoạt thẻ này) và 四 序 合 巧 得 (tứ tự hợp xảo đắc: có tứ tự cáp thì đoạt
thẻ này). Các chữ 三, 得 và 合, 得 tô màu xanh; các chữ 紅, 四 序 và 巧 tô
màu đỏ.
+ Thẻ Thám ba dài 24cm, rộng 2,8cm; mặt trước khắc các chữ: 探 葩
(Thám ba) và 十 六 注 (thập lục chú: 16 điểm); mặt sau, ở phía trên khắc
các chữ: 上 馬 得 下 馬 得 (thượng mã đắc, hạ mã đắc: có thượng mã
hay hạ mã thì đoạt thẻ này), phía dưới khắc các chữ: 分 雙 得 六 順 得
(phân song đắc, lục thuận đắc: có phân song hay có lục thuận thì đoạt thẻ
này). Các chữ Hán khắc trên cả hai mặt được tô bằng mực xanh và mực đỏ
xen kẻ nhau.
+ Thẻ Bảng nhãn dài 24cm, rộng 2,8cm; mặt trước khắc các chữ: 榜
眼 (Bảng nhãn) và 十 六 注 (thập lục chú: 16 điểm); mặt
sau, ở phía trên khắc các chữ: 上 馬 得 下 馬 得 (thượng mã đắc, hạ mã
đắc: có thượng mã hay hạ mã thì đoạt thẻ này), phía dưới khắc các chữ: 分
雙 得 六 順 得 (phân song đắc, lục thuận đắc: có phân song hay có lục
thuận thì đoạt thẻ này). Các chữ Hán khắc trên cả hai mặt được tô bằng
mựưc xanh và mực đỏ xen kẻ nhau.
+ Thẻ Trạng nguyên dài 26 cm, rộng 3,2 cm; mặt trước khắc các chữ:
狀 元 (Trạng nguyên) bằng mực đỏ và 三 十 二 注 (tam thập nhị
chú: 32 điểm) bằng mực xanh đỏ xen kẻ nhau; mặt sau khắc 26 chữ Hán,
phân làm 2 dòng, mỗi dòng 13 chữ: 四 紅得五 子 一 色 奪 四 紅 合 巧
奪 五 紅 奪三 魁 六 合 奪 盡籌 六 紅 收 全 局 (tứ hường đắc, ngũ tử
nhất sắc đoạt, tứ hường hợp xảo đoạt, ngũ hường đoạt tam khôi, lục hợp
đoạt tận trù, lục hường thu toàn cuộc: có tứ hường, ngũ tử, tứ hường cáp thì
đoạt thẻ này; có ngũ hường thì đoạt tam khôi (gồm cả thẻ này), có lục hợp
đoạt hết thẻ, có lục hường đoạt toàn bộ thẻ và thắng cuộc). Các chữ Hán
khắc trên mặt sau được tô bằng hai màu mực xanh đỏ xen kẻ nhau.
So với những bộ xăm hường khác hiện còn ở Huế, bộ xăm hường ở lăng
Tự Đức có nhiều điểm khác biệt thật độc đáo và thú vị:
+ Thứ nhất, các chữ Hán khắc trên những thẻ xăm, ngoài việc định
danh (Tú tài, Cử nhân, Trạng nguyên...) và định giá (nhất chú, nhị chú, tam
thập nhị chú...), còn cho biết cách thức đoạt từng loại thẻ như: nhất hường
đắc, tứ tự đắc, thượng mã đắc, hạ mã đắc..., đặc biệt, chiếc thẻ Trạng
nguyên đã liệt kê đến 6 trường hợp để đoạt được thẻ này.
122
+ Thứ hai, các chữ Hán khắc trên từng loại thẻ có màu sắc khác
nhau: có thẻ dùng toàn màu xanh như thẻ Tú tài; có thẻ dùng toàn màu đỏ
như thẻ Cử nhân; có thẻ dùng xen kẻ hai màu xanh đỏ nhưng trật tự dùng
màu trên mỗi loại thẻ không giống nhau, ví dụ thẻ Thám ba có chữ đầu tiên
tô màu xanh, nhưng thẻ Bảng nhãn thì chữ đầu tiên tô màu đỏ, trong khi thẻ
Trạng nguyên thì cả hai chữ đều tô màu đỏ.
+ Đặc biệt, thay vì dùng chữ 探 花 (Thám hoa) như những bộ xăm
hường khác, thì bộ xăm hường của vua Tự Đức khắc chữ 探 葩 (Thám
ba). Nguyên nhân việc này là do kỵ húy Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu Hồ Thị
Hoa, vợ vua Minh Mạng, mẹ vua Thiệu Trị và là bà nội của vua Tự Đức,
nên mới đổi 花 thành 葩, trong khi các bộ xăm hường khác, kể cả bộ xăm
hường ở từ đường của công chúa Ngọc Sơn, con vua Đồng Khánh (sẽ đề
cập dưới đây), đều khắc hai chữ 探 花. Điều này cho thấy việc kỵ húy dưới
thời Tự Đức rất nghiêm nhặt và chứng tỏ đây là món xăm hường dành cho
vua và hoàng gia giải trí.
Ngoài ra, chiếc hộp đựng xăm cũng chứa đựng nhiều điều thú vị. Lòng
chiếc hộp chia làm 5 ngăn, để chứa 5 nhóm thẻ khác nhau: Tú tài, Cử nhân, Tiến
sĩ, Hội nguyên và Tam khôi (gồm 3 thẻ: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa).
Đặc biệt, trong lòng chiếc hộp lớn còn chứa một chiếc hộc nhỏ, nằm ở bên trái,
sát đáy chiếc hộp. Chiếc hộc này dùng đựng các hột súc sắc, có thể đẩy vào, mở
ra dễ dàng và được bố trí rất kín đáo và hài hòa với hình dáng của chiếc hộp
đựng thẻ xăm.
Có thể nói rằng bộ xăm hường này của là một vương bảo của triều Tự
Đức, một vưu vật còn lưu lại trên đất cố đô.
2. Bộ xăm hường ở Ngọc Sơn công chúa từ đường:
Công chúa Ngọc Sơn là con gái vua Đồng Khánh (1885 - 1889), chồng là
Nguyễn Hữu Tiễn, đại thần của triều Khải Định (1916 -1925). Tại phủ thờ của bà
(hiện ở số 29, đường Nguyễn Chí Thanh, Huế) còn lưu giữ một bộ xăm hường
bằng ngà voi, là di vật của phò mã Nguyễn Hữu Tiễn để lại. Bộ xăm hường này đã
bị mất 4 thẻ, gia chủ đã cho làm lại 4 thẻ khác bằng xương thú để thay thế cho
những thẻ đã mất.
123
Ảnh PL7: Bộ xăm hường của Ngọc Sơn công chúa từ đường
Những chiếc thẻ giống nhau về hình dáng nhưng khác nhau về kích thước.
Thẻ xăm tạo dáng như chiếc biển hiệu dùng trong đội nghi trượng phò vua, với
phần thân hình bầu dục, hai đầu tạo hình chiếc khánh, tiếp theo là phần cán chuốt
tròn, thon dần về cuối. Tất cả Hán tự trên thẻ đều được khắc chìm và tô màu đỏ.
Cụ thể như sau:
+ Thẻ Tú tài: mặt trước khắc 2 chữ: 秀 才 (Tú tài); mặt sau khắc 2
chữ: 一 分 (nhất phân: 1 phần).
+ Thẻ Cử nhân: mặt trước khắc 2 chữ: 舉 人 (Cử nhân); mặt sau
khắc 2 chữ: 二 分 (nhị phân: 2 phần).
+ Thẻ Tiến sĩ: mặt trước khắc 2 chữ: 進 士 (Tiến sĩ); mặt sau khắc 2
chữ 四 分 (tứ phân: 4 phần).
+ Thẻ Hội nguyên: mặt trước khắc 2 chữ: 會 元 (Hội nguyên); mặt
sau khắc 2 chữ 八 分 (bát phân: 8 phần).
+ Thẻ Thám hoa: mặt trước khắc 2 chữ: 探 花 (Thám hoa); mặt sau
khắc 3 chữ 十 六 分 (thập lục phân: 16 phần).
+ Thẻ Bảng nhãn: mặt trước khắc 2 chữ: 榜 眼 (Bảng nhãn); mặt
sau khắc 3 chữ 十 六 分 (thập lục phân: 16 phần).
+ Thẻ Trạng nguyên: mặt trước khắc 2 chữ: 狀 元 (Trạng nguyên);
mặt sau khắc 4 chữ 三 十 二 分 (tam thập nhị phân: 32 phần).
So với bộ xăm hường của vua Tự Đức, bộ xăm hường này có kích
thước khiêm tốn hơn, chữ Hán khắc trên các chiếc thẻ ít hơn, nghĩa các
chữ Hán thì đơn giản và chỉ tô màu đỏ. Đặc biệt, trong khi giá trị của các thẻ
xăm trong bộ xăm hường ở lăng Tự Đức được tính bằng 注 (chú: nghĩa là
điểm hay tiền), thì giá trị của các thẻ xăm trong bộ xăm hường ở Ngọc Sơn
công chúa từ đường chỉ được tính bằng 分 (phân: nghĩa là phần hay xu).
Phải chăng bộ xăm hường dành cho vua và hoàng gia chơi thì giá trị mỗi
thẻ xăm được định giá cao hơn so với giá trị của các thẻ xăm dành cho các
cuộc chơi của thần dân?
*
* *
Trên đây là hai trong số những bộ xăm hường cổ còn lưu lại trên đất thần
kinh. Đó là những cổ vật của một thời vàng son ở Huế; là những vật chứng sống
động về một trò chơi tao nhã mà người dân xứ cố đô ưa chuộng. Ngày nay, du
khách đến Huế có thể tìm mua các bộ xăm hường trong chợ Đông Ba hay trong
các cửa hàng mỹ nghệ. Thời thế đổi thay, những bộ xăm hường hiện đại thường
được làm bằng xương thú, kích thước, văn tự vẫn như xưa nhưng hình thức trang
trí thì sặc sỡ hơn, màu mè hơn và cái hồn xưa dường như không còn nữa.
124
Trò xưa còn đó, nhưng hồn xưa đã mất. Thế mới thấy càng thêm
trân quý những gì xưa cũ sót lại nơi miền đất Hương Bình, mà hai bộ xăm
hường kia là những minh chứng đầy thú vị.
PHỤ LỤC 5b: BẢNG TÍNH ĐIỂM TRÒ CHƠI XĂM HƯỜNG
Bảng A: BẢNG TÍNH ÐIỂM DỰA TRÊN MẶT TỨ
Tên gọi Mô tả Thẻ đoạt được Ðiểm số
Nhất
hường
Có 1 mặt
tứ
trong 6 mặt
Tú tài 1 điểm
Nhị hường Có 2 mặt
tứ
trong 6 mặt
Cử nhân 2 điểm
Tam
hường
Có 3 mặt
tứ
trong 6 mặt
Hội nguyên
(còn gọi là Hoàng giáp)
8 điểm
Tứ hường Có 4 mặt
tứ
trong 6 mặt
Trạng nguyên
(còn gọi là Trạng anh)
32 điểm(1)
Ngũ hường Có 5 mặt
tứ
trong 6 mặt
Ðoạt Tam khôi, gồm 3
thẻ: Trạng nguyên, Bảng
nhãn, Thám hoa (2 thẻ
Bảng nhãn và Thám hoa
còn gọi là Trạng em)
64 điểm (2)
(32+16+16) = 64
Lục phú
hường
Cả 6 mặt
đều là
mặt tứ
Ðoạt tất cả các thẻ dù các
thẻ này đã có người đoạt
trước rồi nhân gấp đôi
tổng số điểm
384 điểm
[32 + (2x16) +
(4x8) + (8x4) +
(16x2) + (32x1)] x
2 = 384
Bảng B: BẢNG TÍNH ÐIỂM DỰA TRÊN CÁC MẶT NGOÀI MẶT TỨ
Tên gọi Mô tả Thẻ đoạt được Ðiểm số
Tứ tự Có 4 mặt giống nhau
trong 6 mặt
Thẻ Tiến sĩ 4 điểm
Tứ tự
nhất hường
Có 4 mặt giống nhau
và có thêm 1 mặt tứ
Thẻ Tiến sĩ + 1 thẻ
Tú tài
5 điểm
(4+1)
Tứ tự
nhị hường
Có 4 mặt giống nhau
và có thêm 2 mặt tứ
Thẻ Tiến sĩ + 1 thẻ
Cử nhân
(hoặc 2 thẻ Tú tài)
6 điểm
(4+2) hoặc
(4+1+1)
Tứ
tự
hợp
Tứ
tự
cáp
xiên
Có 4 mặt giống nhau;
2 mặt còn lại có tổng
số điểm bằng 1 trong 4
mặt kia(3)
Thẻ Bảng nhãn
hay thẻ Thám hoa
16 điểm
125
xảo
(Tứ
tự
cáp)
Tứ
tự
cáp
chính
Có 4 mặt giống nhau;
2 mặt còn lại giống
nhau và có tổng số
điểm bằng 1 trong 4
mặt kia(4)
Thẻ Bảng nhãn
hay
thẻ Thám hoa
+ 1 thẻ Hội nguyên
24 điểm
Ngũ tử Có 5 mặt giống nhau Thẻ Trạng nguyên 32 điểm(5)
Lục hợp
(Lục phú)
Có 6 mặt giống nhau
Ðoạt toàn bộ
các thẻ
192 điểm
[32 + (2x16) +
(4x8) + (8x4) +
(16x2)
+(32x1)]
Phân song 6 mặt phân đôi, mỗi
bên có 3 mặt như
nhau
Thẻ Bảng nhãn
hoặc thẻ Thám
hoa
16 điểm
Phân song
tam hường
Như phân song,
nhưng 3 mặt còn lại
là 3 mặt tứ
Thẻ Bảng nhãn
hoặc thẻ Thám
hoa,
+ 1 thẻ Hội nguyên
24 điểm
(16 +8)
Thượng
mã
Có 3 cặp:
tứ tứ, ngũ ngũ, lục
lục
Thẻ Bảng nhãn
hoặc thẻ Thám
hoa
16 điểm
Hạ mã Có 3 cặp: nhất nhất,
nhị nhị, tam tam
Thẻ Bảng nhãn
hoặc thẻ Thám
hoa
16 điểm
Lục thuận
(Suốt)
Có cả 6 mặt: nhất,
nhị, tam, tứ, ngũ, lục
Thẻ Bảng nhãn
hoặc thẻ Thám
hoa
16 điểm
Chú thích:
(1) Trường hợp này hơn nhau tùy thuộc 2 mặt còn lại. Nếu cộng 2 mặt còn lại được 4 điểm
gọi là tứ hường hợp xảo (hay tứ hường cáp), do chữ 合 (hợp, còn có âm khác là cáp), là đơn vị đo
trọng lượng, nên trong chữ Nôm, cáp có nghĩa là “vốc, nắm”.
Trong các trường hợp này, xếp hạng cao nhất khi 2 mặt còn lại là 2 mặt nhị, gọi là tứ hường
cáp chính; hạng tiếp theo là trường hợp 2 mặt còn lại gồm 1 mặt tam và 1 mặt nhất, gọi là tứ
hường cáp xiên.
Thứ bậc các hạng còn lại như sau: 4 mặt tứ + 2 mặt lục; 4 mặt tứ + 1 mặt lục + 1 mặt ngũ; 4
mặt tứ + 2 mặt ngũ; 4 mặt tứ + 1 mặt lục + 1 mặt tam; 4 mặt tứ + 1 mặt lục + 1 mặt nhị... (hạ điểm
dần dần). Trừ trường hợp tứ hường hợp xảo là hạng cao nhất, rất khó bị cướp trạng, các trường
hợp tứ hường khác, nếu người đổ được tứ hường sau nhưng có tổng điểm của 2 mặt còn lại lớn
hơn tổng điểm của người đổ được tứ hường trước đó, thì được cướp trạng của người đoạt trước.
Nếu người đổ được tứ hường sau, có tổng điểm 2 mặt còn lại nhỏ hơn tổng điểm của người đổ
được tứ hường trước đó, thì được đoạt các thẻ còn lại giữa cuộc chơi có tổng điểm tương đương
với điểm của thẻ trạng nguyên.
(2) Trường hợp này hơn nhau tùy mặt còn lại. Nếu là mặt nhất, thì gọi là ngũ hường đái ấn
(ngũ hường đội ấn màu đỏ, tức mặt nhất), xếp hạng cao nhất. Thứ bậc các hạng tiếp theo khi mặt
còn lại lần lượt là: lục, ngũ, tam và nhị.
(3) Tứ tự cáp xiên có 3 trường hợp sau: 4 mặt ngũ + 1 mặt tam + 1 mặt nhị (vì tam + nhị =
ngũ); 4 mặt tam + 1 mặt nhị + 1 mặt nhất (vì nhị + nhất = tam); 4 mặt nhất + 1 mặt lục + 1 mặt ngũ
(vì lục + ngũ = thập nhất => nhất).
126
(4) Tứ tự cáp chính có 3 trường hợp sau: 4 mặt lục + 2 mặt tam (vì 2 tam = lục); 4 mặt nhị + 2
mặt nhất (vì 2 nhất = nhị); 4 mặt nhị + 2 mặt lục (vì 2 lục = thập nhị => nhị).
(5) Thứ hạng của các trường hợp ngũ tử lần lượt là: 5 mặt giống nhau + 1 mặt nhất; 5 mặt
giống nhau + 1 mặt tứ; 5 mặt giống nhau + 1 mặt lục; 5 mặt giống nhau + 1 mặt ngũ; 5 mặt giống
nhau + 1 mặt tam và 5 mặt giống nhau + 1 mặt nhị. Trường hợp ngũ tử có 5 mặt giống nhau + 1
mặt nhất được gọi là ngũ tử đái ấn, là hạng cao nhất. Thẻ trạng nguyên đoạt được bởi ngũ tử đái
ấn chỉ bị cướp trạng khi người đổ sau đổ được ngũ hường, lục hợp hay lục phú hường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Văn An, Ô châu cận lục (Bản dịch của Trịnh Khắc Mạnh và Nguyễn Văn
Nguyên), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997.
2. Isabelle Lee, “Touhu: Three Millennia of the Chinese Arrow Vase and the
Game of Pitch-Pot”, Transactions of the Oriental Ceramic Society.
Volume 56. 1991-1992. The Oriental Ceramic Society in Association
with Azimuth Editions London, 1993.
3. Lê Nguyễn Lưu, “Nhân tố và đặc điểm của văn hóa Huế”, Huế đẹp Huế thơ,
Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1998.
4. Ngô Sĩ Liên, Ðại Việt sử ký toàn thư (Bản dịch của Viện Sử học), Q.7, Tập II,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967.
5. Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà vận văn, Á Châu xuất bản cục.
6. Nguyễn Thành Luông - Nguyễn Thị Thanh Bình, Văn hóa dân gian cổ truyền.
Những phong tục lý thú, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
7. Nguyễn Tuân, Vang bóng một thời, Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh,
1996.
8. Nhiều tác giả, Huế đẹp Huế thơ, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1998.
9. R. Orband, “Les Ðâu Hô du tombeau de Tu Ðuc”, BAVH, No. 2, 1917.
Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài
Gòn 1960.
10. Thơ văn Lý Trần, Tập I, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978.
11. Trần Quốc Vượng, “Bàn về hệ sinh thái nhân văn của múa rối nước Việt
Nam”, Văn hóa nghệ thuật, Số 2/2001.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0215
TRẦN ĐỨC ANH SƠN * HUẾ, TRÒ CHƠI VÀ THÚ TIÊU 1
TRẦN ĐỨC ANH SƠN
TRÒ CHƠI VÀ THÚ TIÊU KHIỂN
CỦA NGƯỜI HUẾ
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
2008
2MỤC LỤC
Trang
TỔNG QUAN 5
I. Trò chơi và thú tiêu khiển mang tính cộng đồng 9
- Ðua ghe 9
- Vật võ 11
- Ðu tiên 13
- Thả diều 15
- Bài chòi và các trò chơi từ bộ bài tới 17
II. Trò giải trí và thú tiêu khiển mang tính hội nhóm 25
- Các thi xã và việc ngâm vịnh, đối họa thi văn 25
- Thưởng thức ca nhạc Huế 26
- Thú uống trà 29
- Thả thơ 35
- Ðố thơ 38
- Ðầu hồ 40
- Ðổ xăm hường 47
- Cờ tướng và các biến thể của cờ tướng 50
- Các trò đỏ đen khác 53
III. Trò giải trí và tiêu khiển mang tính cá nhân 57
- Chơi non bộ 57
- Thú chơi hoa kiểng 60
- Thú ngủ đò 61
PHỤ LỤC 65
PL1. Một số bài bản ca Huế phổ dụng ở Huế 66
PL2. Một số đề thả thơ 77
PL3. Một số đề đố thơ 84
PL4. Những bộ đầu hồ xưa 111
PL5a. Hai bộ xăm hường xưa 115
PL5b. Bảng tính điểm trò chơi xăm hường 120
3
TRÒ CHƠI VÀ THÚ TIÊU KHIỂN
CỦA NGƯỜI HUẾ
4
TỔNG QUAN
Sau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Ðàng
Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn
(1788 - 1802) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945). Ở
một nơi từng được tán tụng “... mặt đất thì non sông tươi đẹp, biển cả thì
sóng nước mênh mông... đàn ông khá cương cường, đàn bà hơi mềm mại, trai
thì trọng đức dũng cảm tài lương, gái thì quý nết đoan trang cần kiệm...”1, lại
được tiếp nhận những tinh hoa của đất nước tụ hội về bởi vị thế của một kinh
đô, xứ Huế2, trong khoảng thời gian từ giữa thế kỷ XVI đến đầu XX, xứng
đáng là chốn đô hội của cả nước. Việc nhà Nguyễn chọn Huế để định đô trong
gần 1,5 thế kỷ đã làm nảy sinh nơi đây lớp người thượng kinh và theo đó là
một lối sống kinh kỳ. Ðiều này góp phần tạo nên những nét đặc sắc trong lối
sống, cách ứng xử, cũng như trong việc thưởng ngoạn và tiêu khiển của người
dân xứ Huế.
Sự tồn tại và phát triển của các trò chơi và thú tiêu khiển ở Huế bắt
nguồn từ sự du nhập các trò chơi và thú tiêu khiển truyền thống của cư dân
đồng bằng Bắc Bộ rồi cải biên cho phù hợp với điều kiện địa lý, môi trường
và hoàn cảnh lịch sử ở vùng đất mới. Nhiều trò chơi dân gian của người dân
Ðại Việt xưa, đã theo bước chân của những lớp dân Nam tiến, có mặt ở Huế
ngay từ khi mảnh đất này còn là “Ô châu ác địa”. Trong giai đoạn đầu, những
trò chơi ấy vẫn mang đậm dấu ấn từ những trò vui của cư dân châu thổ sông
Hồng. Ðó là những trò chơi gắn với các lễ hội dân gian, được nhà nước đứng
ra tổ chức để mua vui cho thiên hạ trong các dịp lễ lượt như: đua ghe, đấu vật,
đu tiên... Ðiều này thể hiện khá rõ qua một đoạn ghi chép của Nguyễn Khoa
Chiêm trong sách Nam triều công nghiệp diễn chí: “Lại kể năm Cảnh Trị thứ
10, Nhâm tý, tháng 2 (đúng ra là năm Dương Ðức thứ nhất, 1672 - T.Đ.A.S.)
chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần - T.Đ.A.S.) nhàn hạ, triệu trai gái xã Hạ Lan
tới trước gác Quyển Bồng, bày cuộc chơi đùa làm vui: đánh cờ người, đá cầu,
xích đu. Có thể nói là một thắng hội. Khi ấy các quan liêu, dân bách tính trai
già gái trẻ, dắt con ôm cháu, cùng tới xem chơi, không thể đếm xiết”3.
1 Dương Văn An, Ô châu cận lục (Bản dịch của Trịnh Khắc Mạnh và Nguyễn Văn Nguyên), Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997, tr. 44
2 Các địa danh: Huế, xứ Huế có trong tiểu luận này được sử dụng để chỉ vùng đất trước kia là thủ
phủ của cả xứ Đàng Trong trong hơn 1,5 thế kỷ (1636 - 1788), sau đó là kinh đô của hai vương
triều: Tây Sơn (1788 - 1802) và Nguyễn (1802 - 1945), trải dài từ Nam Quảng Trị đến Bắc Hải Vân
(vùng đất này gần như tương ứng với địa giới hành chính của tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay), chứ
không bó hẹp trong phạm vi thành phố Huế đương đại, với tư cách là một đơn vị hành chính của
tỉnh Thừa Thiên Huế.
3 Dẫn theo Lê Nguyễn Lưu, “Nhân tố và đặc điểm của văn hóa Huế”, Huế đẹp Huế thơ (Nhiều tác
giả), Nxb Thuận Hóa, Huế, 1998, tr. 21.
5
Về sau, nhiều thú vui xuất xứ từ nơi thôn dã, được tầng lớp trên trong
xã hội mới tiếp nhận và cải biên cho phù hợp với lối sống quyền quý của họ.
Từ đó tạo nên những các trò chơi và thú tiêu khiển theo lối Huế, được đánh
giá là phong phú, độc đáo và mang sắc thái riêng, khi so sánh với những các
trò chơi và thú tiêu khiển ở các vùng khác của Việt Nam. Mặt khác, tầng lớp
trên trong xã hội cũng là những người khởi xướng các các trò chơi và thú tiêu
khiển mới như: thưởng thức ca nhạc cung đình, thả thơ, uống trà... Giới quý
tộc và quan lại ở cố đô Huế đã học hỏi, bắt chước những trò chơi được ghi
chép trong sách vở viết về đời sống cung đình Trung Hoa, rồi cải chế ít nhiều,
tạo thành những trò chơi hay thú tiêu khiển mới để phục vụ cho nhu cầu giải
trí của giai cấp mình như: đầu hồ, xăm hường... Theo thời gian, nhiều trò chơi
cung đình đã vượt khỏi chốn cung cấm, lan ra phố phường và thôn xóm ngoại
thành, được tầng lớp bình dân tiếp nhận, rồi cải biên hoặc bổ sung một vài chi
tiết cho phù hợp với địa vị và lối sống của họ. Cũng có những thú vui không
rõ do ai khởi xướng nhưng lại được người Huế, từ sang đến hèn, chấp nhận
thưởng thức.
Ðến thời thuộc Pháp, nhiều trò chơi có nguồn gốc châu Âu, được du
nhập vào Huế như: domino, billard, bài tây... cùng tồn tại với những trò chơi
có từ trước. Ngoài ra, một số trò chơi truyền thống cũng có những thay đổi
cho phù hợp xu thế của thời đại: ví dụ trò thả thơ, thay vì dùng thơ chữ Hán
các đời Ðường - Tống - Minh bên Tàu, người ta chuyển sang dùng thơ chữ
Nôm của Trần Tế Xương, Tản Ðà, Ưng Bình, Nguyễn Khoa Vy... để thả thơ;
hay như trò tài bàn, mạt chược, vốn du nhập từ Trung Quốc, nguyên thủy chỉ
có 136 quân cờ, sau phát sinh thêm bốn “bộ hoa”, gồm các quân cờ: mai-lancúc-
trúc; xuân-hạ-thu-đông; tổng-đồng-vạn-sách; hoa-nguyên-hỷ-hợp, nâng
tổng số quân cờ thành 152.
Trò chơi và thú tiêu khiển ở Huế luôn có hai thuộc tính: dân dã và bác
học; dân gian và cung đình.
Chẳng hạn như trò thả diều: con diều Huế vốn gốc gác từ con những
diều đơn sơ của đám con nít nơi thôn quê; về sau được người lớn phát triển
thành con diều có hình dáng phức tạp hơn; cuối cùng, nó được lớp người
thượng kinh biến thành những nhân vật của bộ môn “múa rối trên không”,
dựa theo nhân vật trong các tích tuồng xưa, với kỹ thuật tinh xảo và lộng lẫy
sắc màu. Hay như trong bộ môn ca Huế, có khi ca từ bắt nguồn từ những bài
ca dao, những bài vè trong dân gian, nhưng cũng có những làn điệu, những
khúc ca có ca từ là những bài thơ do các thi sĩ chuyên nghiệp, hay các bậc
thức giả sáng tác như bài Phẩm tiết, do công chúa Mai Am sáng tác, bài Tứ
đại cảnh, do vua Tự Ðức đặt ra. Có nơi, có lúc mặt này trội hơn mặt kia,
nhưng rất khó tách bạch rõ ràng, ngược lại, các mặt này thường đan xen, bổ
sung cho nhau, tạo nên những nét đặc thù trong các trò giải trí ở Huế.
6
Những thú vui ở Huế, ngoài mục đích tiêu khiển, giải trí, còn nhằm để
khoa trương tài nghệ, óc thẩm mỹ tinh tế, sự tinh xảo, khéo léo và cả tri thức,
học vấn của người dự cuộc. Ðể thỏa mãn thú đỏ đen hay thử vận hên xui,
ngoài những trò cờ bạc diễn ra trong các sòng tổ tôm, tứ sắc... người Huế còn
tìm đến các trò thả thơ, đố thơ, nơi mà sự uyên bác trong học vấn quyết định
sự thắng thua chứ không phải là tính sát phạt. Tương tự, người ta tìm đến các
hội bài chòi, bài thai là để được thưởng thức những câu hò, giọng hát, để đắm
mình trong không khí rộn ràng của cuộc vui hơn là để thử vận may rủi.
Một đặc điểm khác trong các trò chơi và thú tiêu khiển ở Huế là
dường như có một sự phân định vô hình trong việc tổ chức và thưởng ngoạn
giữa những lớp người có địa vị khác nhau trong xã hội: đầu hồ là một trò chơi
phổ biến trong cung vua, phủ chúa, nhưng không thấy lan truyền trong dân
gian. Người ta cũng chỉ thấy trò thả thơ, đố thơ xảy ra nơi các vương phủ và
thành phần tham dự đều là những bậc phong lưu, có học vấn chứ không phải
là những tay trọc phú lắm tiền ít chữ. Cũng chưa bao giờ có một quan chức
nào, dù là võ quan, so tài trong các sới vật đầu năm ở các hội làng, cho dù họ
là người đã từng tỉ thí trong các kỳ thi võ do triều đình tổ chức. Ðiều này là hệ
quả của sự khác biệt địa vị, học vấn và tình hình kinh tế của từng bộ phận dân
cư trong xã hội.
Ở Huế có những thú vui dành cho đám đông như: đua ghe, thả diều,
đấu vật... song cũng có nhiều thú giải khuây chỉ dành cho một nhóm người,
thậm chí một người như: uống trà, đánh cờ hay sưu tầm cổ ngoạn… Có
những trò chơi nhằm phô diễn sức mạnh cơ bắp như: đua ghe, đấu vật…; có
thú vui dùng trí như đánh cờ, hay khoe tài học vấn như thả thơ, đố thơ…; có
trò chơi thể hiện sự khéo léo như chơi đầu hồ, hay khoe sự sáng tạo như làm
diều và thả diều; nhưng có thú vui lại thể hiện một ước mơ về học vấn cho
bản thân và gia đình như đổ xăm hường hay thể hiện một khát vọng liên lạc
giữa cõi dương với cõi âm, giữa hư với thực như trò cầu tiên.
Thú vui xứ Huế không chỉ phong phú về dạng thức, loại hình mà còn
hợp thời, hợp cảnh. Dương Văn An trong Ô châu cận lục từng viết: “Xuân
sang thì mở hội đua thuyền với nhiều trai thanh gái lịch, hạ đến thì bày cuộc
viếng thăm với nhiều chốn múa nơi ca”4. Không ai thả diều hay du thuyền
trên sông Hương trong vào những ngày mưa dầm gió bấc, cũng như các cuộc
trà chỉ thực sự mang đến cho ẩm khách cảm giác khinh khoái trong những
ngày đông giá rét, chứ không phải trong những trưa hè oi bức. Thiên nhiên và
thời tiết vừa giúp vào việc sản sinh ra các trò chơi và thú tiêu khiển ở Huế,
đồng thời, vừa ảnh hưởng trực tiếp đến thời điểm diễn ra các cuộc vui ấy.
4 Dương Văn An, Ô châu cận lục (Bản dịch của Trịnh Khắc Mạnh và Nguyễn Văn Nguyên), Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997, tr. 47.
7
Có một cảm nhận khác khi tìm hiểu về các trò chơi và thú tiêu khiển ở
Huế là có nhiều trò vui gắn liền với những dòng sông. Ðó là dòng Hương
Giang ở Huế; là sông Bồ Ðiền ở Quảng Ðiền, là dòng Ô Lâu ở Phong Ðiền, là
vùng đầm phá Tam Giang, Cầu Hai, Lăng Cô... ở vùng duyên hải phía đông.
Những trò đua ghe, đua trải, các cuộc vui trong các cuộc lễ cầu ngư; thú đi
câu, ca Huế trên sông, ngủ đò... đều gắn liền với sông nước và cả những trò
vui, tuy trên cạn, nhưng lại có gốc gác gắn bó với sông nước như hát tập chèo,
hò bả trạo... Ngay như thú thả diều cũng thế. Ðừng tưởng cánh diều bay lượn
trên bầu trời kia thì không có quan hệ gì với sóng nước của những dòng sông
xứ Huế. Vị trí được các tay chơi diều ưa thích là những bãi đất ven sông, vì ở
những nơi này mới có một khoảng không thoáng đãng để nâng bổng cánh
diều. Dòng sông xanh, bầu trời xanh và cánh diều đủ màu sắc đang vi vu giữa
hai tấm phông xanh tự nhiên kia sẽ trở nên lộng lẫy hơn, quyến rũ hơn. Vì thế
mà trong những trưa hè cháy bỏng, ngang qua cầu Trường Tiền hay cầu Phú
Xuân, người ta thường thấy những cánh diều chao lượn trên bầu trời, in bóng
xuống dòng Hương trong xanh. Sông Hương đã đọng lại trong tâm thức người
dân xứ Huế một tình cảm dịu dàng, quyến rũ, thì cũng in dấu lên những trò
tiêu khiển ở Huế như nguồn cội của niềm hứng khởi và lạc thú, mà thiếu nó,
hẳn những thú vui của miền đất này sẽ không trọn vẹn và phong phú đến vậy.
Theo tôi, có thể tạm phân các trò chơi và thú tiêu khiển ở Huế thành
ba nhóm nhỏ, dựa trên quy mô tổ chức và số người tham dự cuộc tiêu khiển.
- Những trò chơi và thú tiêu khiển mang tính cộng đồng như các trò:
đua ghe, vật võ, đu tiên...
- Những trò chơi và thú tiêu khiển mang tính hội nhóm như: thú ngâm
vịnh, đối họa thi văn, thưởng thức ca nhạc Huế, thú uống trà; các trò chơi:
thả thơ, đề thơ trên lồng đèn, đổ xăm hường, đầu hồ, hay các trò cờ bạc khác
như: tứ sắc, bài xẹp; tổ tôm, kiệu, tài bàn, mạt chược...
- Những trò giải trí và tiêu khiển mang tính cá nhân như: thú chơi non
bộ, vườn đá, chơi hoa kiểng, thú ngủ đò...
Tuy nhiên, sự phân định này chỉ có tính tương đối vì có những thú vui
xếp vào nhóm này hay nhóm kia đều được. Ví dụ: uống trà có thể là thú vui
của một người nhưng khi có một nhóm người thường xuyên tụ họp để thưởng
trà, bình thơ thì thú vui đã mang tính tập thể, hội nhóm; hay như trò chơi đầu
hồ, khi một người chơi thì ngoài mục đích thư giãn, đó còn là việc tập luyện
tính kiên trì, khéo léo của cá nhân, nhưng khi có hai hay ba người cùng tham
gia thì trò này đã mang tính hội nhóm và cần phải có luật chơi để phân định
thắng thua...
8
I. TRÒ CHƠI VÀ THÚ TIÊU KHIỂN MANG TÍNH CỘNG ĐỒNG
ÐUA GHE
Trò đua ghe, đua trải diễn ra ở hầu hết các địa phương trong tỉnh
Thừa Thiên Huế. Ðó là một trong những là trò chơi và cũng là môn thể thao
tồn tại lâu đời, có mặt ở Thuận Hóa từ buổi đầu người Việt theo chân các
chúa Nguyễn vào Nam mở cõi và vẫn tiếp diễn trong các lễ hội, các dịp kỷ
niệm hàng năm hiện nay. Những ghi chép của các tác giả: Dương Văn An, Lê
Quý Ðôn, Nguyễn Khoa Chiêm về vùng đất Thuận Hóa xưa đều có nói về
việc người dân nơi đây tổ chức đua ghe trong các dịp xuân về hay trong các lễ
hội, hoặc do phủ chúa đứng ra tổ chức nhân một dịp đại lễ nào đó. Sau này,
việc tổ chức đua ghe ở Huế thường gắn liền với các lễ hội nông nghiệp hay
ngư nghiệp. Người dân ở các làng quê thường tổ chức đua ghe trước khi bước
vào vụ mùa mới, như là một phần của những hoạt động mang tính tâm linh
nhằm cầu cho mưa thuận gió hòa, cho mùa màng được phong đăng hòa cốc.
Chiếc ghe đua xứ Huế thường là loại ghe thân dài; lườn ghe đan bằng
cật tre; mũi và lái cong vút. Ngày trước, thân ghe chỉ được phủ lớp dầu rái
màu nâu để chống thấm nước. Về sau, chiếc ghe đua được sơn vẽ nhiều màu
hơn. Hầu như mỗi thôn, làng đều có chiếc ghe đua và một đội đua, tuyển chọn
từ những tráng đinh khoẻ mạnh, dẻo dai nhất. Vài tuần trước khi diễn ra cuộc
đua, đội đua được tập trung để bắt đầu tập luyện nhằm đạt đến sự nhuần
nhuyễn của toàn đội và tăng cường sức bền bỉ, dẻo dai cho từng thành viên.
Việc luyện tập chủ yếu vào ban đêm và thực hiện ở trên cạn, thường là nơi
đình làng. Thời gian này cũng là lúc người ta hạ thổ chiếc ghe có từ những
mùa đua trước, bấy lâu vẫn được cất giữ ở nơi cao ráo trong đình, để sửa
chữa, tu bổ hay trang trí lại, chuẩn bị cho cuộc đua mới. Khi việc luyện tập
trên cạn đã khá nhịp nhàng, người ta hạ thủy chiếc ghe vừa tu sửa xong để đội
đua tập chèo trên sông, trên phá một vài lần, trước khi vào hội. Với dân
chúng, sự thú vị của trò đua ghe đã bắt đầu ngay từ những ngày tập luyện này.
Họ kéo đến xem đội đua luyện tập, phụ họa theo tiếng hô giữ nhịp của đội
đua. Mấy người phụ nữ còn lo việc nấu các món ăn, úy lạo đội đua để bồi bổ
sức khỏe cho họ. Người ta luôn luôn làm một lễ cúng ghe rất trang trọng trước
khi đưa ghe gia nhập hội đua. Ngày đua đến, những chiếc ghe đủ màu sắc, từ
các thôn làng tập hợp về một quãng sông, cùng những đội đua mặc đồng
phục, sẵn sàng bước vào cuộc tranh tài. Hai bên bờ sông, dân chúng tụ tập
đông đúc, luôn miệng hò reo cổ vũ cho đội nhà trong tiếng trống dồn dập, náo
nức. Cuộc đua thường diễn ra từ sáng sớm, đến giữa trưa thì chấm dứt. Mỗi
lượt tranh tài, đội đua phải bơi đủ “ba vòng, sáu tráo” trên một khúc sông
được giới hạn bởi hai cọc tre tươi làm cọc tiêu, gọi là vè, trước khi lái chính
9
tháo mái chèo mang lên bờ nộp cho ban giám khảo. Mỗi cuộc đua thường có
bốn giải thưởng:
Ảnh 1: Chuẩn bị đua ghe - Ảnh Đào Hoa Nữ
Ảnh 2: Đua ghe trên sông Hương - Ảnh Đào Hoa Nữ
- Giải cúng: là giải thưởng cho đội thắng trong lượt đua đầu tiên vào
buổi sáng. Phần thưởng của giải cúng là một mâm cau trầu và một chai rượu.
- Giải phá: là giải thưởng cho đội thắng trong lượt đua cuối cùng vào
buổi chiều. Phần thưởng của giải là một lá cờ đỏ, không có hiện vật kèm theo.
Lá cờ này vốn là biểu tượng của cuộc đua, sẽ được đội thắng mang về treo
trong đình làng như một niềm vinh dự của đội đua làng ấy.
10
- Giải tam liên thắng: là giải thưởng dành cho đội nào về nhất ba lần
trong một cuộc đua. Phần thưởng thường là một con bò để xẻ thịt ăn mừng
- Giải nhất, nhì, ba: là giải thưởng dành cho ba đội có thành tích cao
nhất trong cuộc đua. Phần thưởng bằng tiền mặt, tùy theo thứ hạng mà số tiền
mặt được thưởng nhiều hay ít.
Ðua ghe là một trò giải trí mang tính đồng đội cao, vừa giúp vào việc
rèn luyện sức khỏe, vừa để giúp vui cho cộng đồng. Ðó cũng là một phần
trong các hoạt động lễ hội thể hiện tín ngưỡng nông nghiệp của người dân xứ
Huế. Một số làng ngư nghiệp ven phá Tam Giang như các làng: Thai Dương
Thượng thượng giáp (xã Hải Dương), Thai Dương Thượng hạ giáp (xã Thuận
An), Hòa Duân (xã Phú Thuận)... cũng tổ chức các cuộc đua ghe trong dịp lễ
cầu ngư. Hiện nay, vào các dịp chào mừng ngày giải phóng tỉnh nhà (26/3) và
Quốc khánh (2/9), chính quyền thường tổ chức đua ghe trên sông Hương và
đó là một hoạt động thể thao, giải trí luôn thu hút sự chú ý của công chúng.
VẬT VÕ
Một trong những nơi có truyền thống vật võ nổi tiếng nhất ở tỉnh Thừa
Thiên Huế là làng Sình, tên chữ là Lại Ân (nay thuộc xã Phú Mậu, huyện Phú
Vang). Làng Sình nằm bên ngã ba sông, nơi con sông Bồ hợp lưu với sông
Hương trước khi xuôi về phá Tam Giang để thông ra biển. Ðây là một làng
nghề, chuyên làm tranh mộc bản để thờ cúng. Ðối diện làng Sình, bên kia
sông là làng Thanh Phước, nơi có ngôi đền, thờ một phù điêu Champa, từng
được triều Nguyễn sắc phong là Kỳ Thạch phu nhân chi thần. Nơi đây còn có
vết tích một trại thủy quân thời các chúa Nguyễn. Khi mới đến Ðàng Trong,
để tăng cường sự phòng thủ mặt đông cho thủ phủ, chúa Nguyễn đã lập nơi
đây một xưởng đóng thuyền và một trại thủy binh đêm ngày luyện tập võ
nghệ và nghề sông nước. Những hoạt động của trại thủy binh đã mang đến
cho vùng này một truyền thống vật võ còn lưu truyền đến nay. Trước tiên,
người ta tổ chức đấu vật trong lực lượng thủy binh nhằm tuyển chọn những
người có sức khỏe, để lên rừng tìm gỗ đóng thuyền, để đương đầu với kẻ thù
lúc cận chiến. Sau thời các chúa Nguyễn, các sới vật ở làng Sình được tổ chức
hàng năm nhằm tuyển chọn và tưởng thưởng những thanh niên có lòng can
đảm, sức mạnh và mưu trí, để lên rừng lấy cây vang, cây hòe về chế màu;
xuống biển lấy vỏ sò, vỏ điệp về nung thành bột, đem trộn với hồ, quét lên
giấy dó để in tranh.
Hội vật tổ chức ngày mồng 10 tháng Giêng hàng năm. Sới vật được
đắp bằng đất, ngay trước sân đình. Tuy diễn ra ở làng Sình nhưng hội vật thu
hút nhiều võ sĩ đến từ những vùng phụ cận như: Vĩnh Lại, Quy Lai, Dương
Nỗ, Thanh Phước... Có cả những võ sĩ từ các làng quê ven biển như Thuận
An, Hải Dương... đến đua tài.
11
Ảnh 3: Vào hội vật Sình (xã Phú Mậu, huyện Phú Vang) - Ảnh Trần Tuấn Anh
Ảnh 4: Miếng khóa đối phương ở hội vật làng Sình - Ảnh Trần Tuấn Anh
12
Hội vật diễn ra trong một ngày. Sau khi vị tiên chỉ trong làng đọc lời
khai cuộc và công bố luật lệ hội vật, người ta đốt lửa trong một chiếc đèn
thăng thiên làm bằng vải theo nguyên lý hoạt động của một khinh khí cầu, rồi
thả nó bay lên trời, báo hiệu hội vật bắt đầu.
Sau hiệp đấu khai hội mang tính nghi thức của hai bậc lão trượng
trong làng là cuộc đua tài của thiếu nhi, kế đến mới là các hiệp đấu của người
lớn. Người nào thắng liên tiếp ba đối thủ thì được dự vòng bán kết buổi chiều.
Buổi chiều ai thắng được ba trận thì sẽ được vào vòng chung kết. Người vật
bị đối phương nhấc bổng lên hoặc làm cho “lấm lưng trắng bụng” thì thua
trận và bị loại trực tiếp, không được tham dự trận đấu thứ hai mà phải đợi đến
sang năm mới được so tài trở lại.
Ngoài hội vật làng Sình, trên địa bàn Thừa Thiên Huế hiện nay còn có
hội vật ở làng Thủ Lễ (thị trấn Sịa, huyện Quảng Điền) cũng là nơi quy tụ khá
nhiều tay vật từ các địa phương khác đến dự hội. Mỗi địa phương có một
trường phái, một phong cách đấu vật riêng, chứng tỏ xứ Huế là một nơi giàu
truyền thống vật võ. Truyền thống đó vẫn được duy trì tới nay, như là một
hoạt động thể thao và là trò giải trí được công chúng ưa thích.
ÐU TIÊN
Ðu tiên là một trò vui có gốc gác từ miền Bắc, được du nhập vào
Thuận Hóa từ rất sớm. Sách Ðại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Ất tị, năm thứ
8 niên hiệu Ðại Trị đời Trần Dụ Tông (năm 1363 - Tác giả)... mùa xuân,
tháng Giêng, người Chiêm Thành đến bắt dân ở châu Hóa. Hàng năm, cứ đến
mùa xuân tháng Giêng, con trái, con gái họp nhau đánh đu ở Bà Dương.
Người Chiêm Thành khoảng tháng Chạp năm trước, nấp sẵn ở nơi đầu nguồn
của châu Hóa, đến khi ấy ụp đến cướp bắt lấy người đem về”.5 Chuyện này
xảy ra chỉ sau khi người Chiêm cắt đất Ô, Lý cho Ðại Việt chưa đầy 60 năm,
mà lại thành lệ đến nỗi người Chiêm biết mà phục sẵn chờ bắt người mang về,
chứng tỏ trò chơi này rất hấp dẫn dân chúng và được tổ chức thường xuyên
ngay từ buổi đầu họ đặt chân đến đây.
Ở nhiều vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đánh đu là một trò chơi
phổ biến trong những ngày Tết với rất nhiều loại cây đu và lối chơi đu khác
nhau. Song phổ biến nhất vẫn là hình thức đu đôi, vẫn được gọi là đu tiên,
gồm một cặp thanh niên nam nữ cùng lên đu so tài. Bên cạnh cây đu, người ta
treo một chiếc khăn hồng ở độ cao xấp xỉ chiều cao giá đu. Người dự cuộc
phải đưa cánh đu bay cao, giật cho được chiếc khăn kia, mới được coi là
5 Ngô Sĩ Liên, Ðại Việt sử ký toàn thư (Bản dịch của Viện Sử học), Q.7, Tập II, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội, 1967, tr. 150.
13
thắng cuộc. Ngoài việc đu cao, họ còn phải nhún sao cho đẹp mắt, thì mới
được tán thưởng như trong câu ca:
Nhún mình như thể nhún đu
Càng nhún càng đẹp, càng đu, càng mềm6
Ảnh 5: Đu tiên ở làng Phước Yên (xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền)*
Những cuộc đu tiên ở Huế vẫn được tổ chức cho đến trước năm 1945.
Trong các dịp lễ lượt quan trọng, chính phủ Nam triều thường tổ chức các
cuộc đu tiên ở trước Phu Văn Lâu để mua vui. Mỗi dịp như thế, người ta
thường dựng từ hai đến ba cây đu. Thời này, giá đu đã làm bằng gỗ, rất vững
chắc, nhưng cánh đu và đòn đu thì vẫn làm từ những gốc tre đực. Cánh đu và
đòn đu liên kết với nhau bằng những đoạn tre đập dập và được bện lại nhằm
tăng độ đàn hồi cho đòn đu, giúp động tác nhún mềm mại và uyển chuyển
hơn. Giải thưởng trong các cuộc đu lúc này là bằng tiền và người ta không
còn treo chiếc khăn hồng cho các tay đu đoạt lấy như trước. Phần lớn các tay
đu bấy giờ là nam giới, hiếm khi có nữ giới tham gia, vì phụ nữ Huế lúc ấy đã
theo nếp gia phong Nho giáo, khác với phụ nữ thời các chúa Nguyễn, say trò
đu tiên đến độ bị người Champa đến rình bắt mà không hay biết. Vì thế mà
tính chất lãng mạn, quyến rũ của trò đu tiên đã phôi pha dần.
6 Nguyễn Thành Luông - Nguyễn Thị Thanh Bình, Văn hóa dân gian cổ truyền. Những phong tục
lý thú, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr. 65.
* Các ảnh không có chú thích là ảnh do Trần Đức Anh Sơn chụp.
14
Ngày nay, trò đu tiên đã được tái hiện trở lại ở một số địa phương
trong tỉnh Thừa Thiên Huế. Tại xã Phong Hòa (huyện Phong Điền) và tại xã
Quảng Thọ (huyện Quảng Điền) cứ vào dịp Tết Nguyên đán đến, người dân
địa phương thường tổ chức đu tiên trong các ngày mồng Ba, mồng Bốn và
mồng Năm Tết
THẢ DIỀU
Thả diều là một trong những trò giải trí có sức sống lâu đời ở Huế.
Cũng như ở miền Bắc, chơi diều lúc đầu chỉ là một trò chơi của trẻ em. Bọn
trẻ đã tạo ra những con diều cung, diều phên hay diều dơi rất đơn giản. Chúng
dùng giấy vàng mã hay giấy dó dán lên những khung tre hình cánh cung, đính
vào đấy hai dãi giấy để làm đuôi. Vậy là đã có một con diều để tung lên trời
cao với bao niềm mơ ước và đam mê thơ dại của chúng. Người ta không biết
được những người lớn ở Huế đã tham gia vào trò chơi này từ khi nào, cũng
như vì sao từ những con diều đơn giản về cả tạo hình lẫn màu sắc, bỗng nhiên
ở Huế, dưới thời Nguyễn, lại xuất hiện những con diều công, diều phụng rực
rỡ, được chế tác bằng các chất liệu khác trước với một trình độ cao về nghệ
thuật tạo hình cũng như kỹ thuật thả diều.
Ông Cottenceau Philippe, một người Pháp chuyên nghiên cứu về diều
và là hội viên Câu lạc bộ diều Au fil de Vents, sau nhiều năm đi tìm tòi, khảo
cứu và học kỹ thuật làm diều ở Pháp, Trung Quốc, Malaysia, Singapore,
Indonesia, Nhật Bản và Việt Nam, đã cho rằng nghệ thuật diều Huế bắt nguồn
từ Trung Hoa. Có thể những viên quan nhà Nguyễn trong các chuyến đi sứ
sang Trung Quốc đã tiếp thu kỹ thuật chế tác và cách thức trang trí các con
diều của Trung Quốc rồi truyền dạy cho những người chơi diều ở Huế. Tuy
chưa tìm được những tư liệu lịch sử nói về vấn đề này nhưng khi so sánh các
con diều thời Thanh còn lưu lại ở Trung Hoa với các con diều Huế, người ta
thấy có sự tương đồng về kỹ thuật, chất liệu và hình thức trang trí. Chỉ riêng
những con diều làm theo đề tài hiện đại như diều máy bay, diều tên lửa... thì
mới có sự khác biệt. Trong khi đó, con diều Huế lại khác xa với con diều ở
đồng bằng Bắc Bộ ở tất cả các phương diện: tạo hình, trang trí, chất liệu...
Ðiều này góp phần làm sáng tỏ câu hỏi: tại sao trong suốt mấy trăm năm tồn
tại, con diều Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, dù của trẻ con hay của người lớn,
cũng gói gọn trong vài kiểu dáng đơn giản và dường như không được tô màu,
trong khi chỉ trong mấy chục năm cuối thời Nguyễn, con diều Huế đã có
những bước phát triển nhảy vọt về tạo hình, màu sắc và đề tài trang trí.
Dưới thời Bảo Ðại (1926 - 1945), Phủ Doãn Thừa Thiên thường tổ
chức những cuộc thi diều trong các dịp lễ hàng năm. Bấy giờ trong làng diều
Huế đã xuất hiện những tên tuổi nổi tiếng như: Nguyễn Văn Bân, Ðoàn
15
Chước, Trần Văn Ðông, Ưng Sừng, Ưng Hạng... Những người này đã dùng
các loại chất liệu mới để cải tiến con diều và nâng cao nghệ thuật thả diều:
dùng vải thay cho giấy để phủ cánh diều; dùng vải bện dây thả diều thay cho
dây bện bằng cật tre trước đây. Ngoài ra họ còn tham khảo các loại sáo diều
từ miền Bắc để chế nên các bộ sáo cho con diều Huế. Vào thời điểm này, con
diều Huế đã được vẽ màu, chủ yếu là hai cặp màu: xanh trắng hoặc đỏ vàng.
Vào những năm 1935 - 1940, nghệ nhân Ưng Sừng là người đầu tiên tạo ra
những con diều bướm nhiều màu sắc, hiện vẫn còn phổ biến ở Huế.
Những người chơi diều ở Huế đã tập hợp nhau lại trong một tổ chức
có tên là Hội Cầu Phong. Năm 1973, hội này được đổi tên thành Hội Thừa
Phong. Sau ngày đất nước thống nhất, Hội Thừa Phong chấm dứt hoạt động
nhưng những thành viên trong hội vẫn tiếp tục chơi diều riêng lẻ. Ðến năm
1983, Câu lạc bộ diều Huế ra đời, thành phần chủ yếu là những hội viên của
Hội Thừa Phong trước đây, tiếp nối nghệ thuật chế tác và kỹ thuật thả diều
của các lớp nghệ nhân tiền bối.
Ảnh 6: Nghệ nhân làm diều Nguyễn Văn Bê - Ảnh Lê Quang Hoàng
Diều Huế phong phú về màu sắc và hình dáng: diều bướm, diều công,
diều phụng, diều rồng, diều rít (rết), máy bay, tên lửa... Có cả những con diều
được làm ra dựa theo các điển tích xưa như: đại bàng cắp công chúa (truyện
Thạch Sanh), các nhân vật trong truyện Tấm Cám, gà chọi, chèo bẻo đánh
quạ, phượng hoàng sinh con... Những con diều này do một người hoặc một
nhóm người phối hợp thả lên không trung rồi dùng dây điều khiển để chúng
diển tả các tích tuồng như những nhân vật trong một vở múa rối. Các nghệ
16
nhân đã biến thả diều từ một trò giải trí bình thường thành bộ môn nghệ thuật
độc đáo, được nhiều người tôn vinh là “nghệ thuật múa rối trên không”.
Ảnh 7: Diều Đại bàng cắp công chúa - Ảnh Đào Hoa Nữ
Chơi diều ở Huế là một thú vui được nhiều người hưởng ứng. Trẻ em
thì chơi những con diều đơn giản do chúng tự làm nên; còn người lớn, đặc
biệt là lớp người quyền quý thường bỏ tiền thuê các nghệ nhân làm những con
diều đẹp, cầu kỳ để chơi hoặc để biểu diễn trong các dịp lễ lượt hội hè. Thú
vui ấy nay vẫn được tiếp tục và trở thành một nét văn hóa đặc sắc của xứ Huế.
BÀI CHÒI VÀ CÁC TRÒ CHƠI TỪ BỘ BÀI TỚI
Tết đến, thú vui được người Huế nói riêng, người Việt nói chung,
quan tâm nhiều nhất là các trò cờ bạc, đỏ đen, dưới nhiều hình thức khác
nhau. Một trong những trò chơi đó là bài chòi.
17
Bài chòi có mặt ở nhiều tỉnh miền Trung trong những ngày Tết và mỗi
nơi có một lối chơi riêng, mang truyền thống của từng vùng đất. Ở Huế, lối
chơi bài chòi có nét khác biệt so với lối chơi bài chòi ở Bình Ðịnh và Quảng
Nam. Sự khác biệt ấy thể hiện ở nội dung câu hò, điệu hò, ở số người tham dự
và số lần chơi trong một cuộc bài. Người ta đến với bài chòi trong dịp năm
mới không phải vì say mê trò sát phạt, mà chỉ là dịp để thử vận hên xui trong
ngày đầu năm và để được đắm mình trong không khí rộn ràng, đầy lạc thú từ
những điệu hò dí dỏm, những giọng cười sảng khoái và cả niềm hy vọng
thắng cuộc nho nhỏ mà trò chơi này mang lại.
Trò chơi bài chòi dựa trên một bộ bài gồm 30 cặp quân bài mà người
Huế quen gọi là bài tới. Cũng như những nơi khác ở miền Trung, bộ bài tới ở
Huế có ba pho: văn, vạn, sách và ba cặp bài yêu. Pho văn gồm các con bài:
gối, trường hai, trường ba, voi, rún, sáu tiền, liễu, tám tiền, xe. Pho vạn có
các con bài: học trò, tám cẳng, ba đấu, xơ, quăn, nhọn, bồng, thầy. Pho sách
có các con bài: nọc đượng, nghèo, gà, gióng, dày, sáu hột, sưa, tám giây, đỏ
mỏ. Ba cặp bài yêu là: ông ầm, thái tử, bạch tuyết.
Các con bài được in trên giấy bản dài 12cm, rộng 3cm, rồi phết lên
giấy cứng một mặt nhuộm xanh hoặc đỏ. Tên gọi và hình vẽ các con bài rất lạ
lùng và kỳ bí. Có người cho là các hình vẽ này vừa mang dấu ấn của bùa chú,
vừa phảng phất nét u uất của văn hóa Champa, lại vừa pha phách những kiểu
thức trang trí của người Thượng. Người ta khắc hình lên khuôn gỗ, bôi mực
lên và in. Ðó cũng là một lối in tranh trên giấy dó mà người dân ở làng Sình,
một làng ngoại ô ở phía đông bắc kinh thành Huế, dùng để in tranh thờ cúng,
bán trong các dịp lễ Tết, cúng giỗ. Nhiều ý kiến cho rằng bộ bài tới và lối chơi
bài chòi có gốc gác từ Bình Ðịnh, nơi trò chơi này rất phổ biến và các điệu hò
bài chòi vô cùng phong phú.
Tết đến, trên khoảng sân rộng trước đình làng hay ở nơi họp chợ của
một làng quê, người ta dựng lên mười một cái chòi bằng tranh tre. Chính giữa
là một chòi lớn hình lục giác dành cho những người tổ chức cuộc chơi, gọi là
chòi trung ương. Hai bên chòi trung ương có mười chòi nhỏ, mỗi phía năm
chòi, là nơi các chân bài ngồi dự cuộc chơi. Vào cuộc chơi, một người trong
ban tổ chức giữ chân chạy cờ, thường được gọi là anh hiệu, gióng một hồi
trống, dõng dạc mời các tay chơi lên chòi, cùng lúc ban nhạc gồm kèn, trống,
đàn nhị, sênh... cử một bản hòa tấu mở đầu cuộc chơi. Anh hiệu buông dùi
trống, vội vàng đem cờ ngân - cờ thay thế cho số tiền đặt cược trong một hội -
đi bán cho mỗi chủ chòi. Bán xong cờ ngân đến lượt hai người phụ việc mang
một ống tre đựng các con bài đến các chòi để mời chủ chòi lấy năm con bài.
Người ta dùng bộ bài tới gồm 56 con bài (không sử dụng hai cặp bạch tuyết
và nọc đượng). Các con bài được dán vào một thẻ tre có phần trên to và dẹp,
phần dưới nhỏ và tròn. Mỗi chòi, kể cả chòi trung ương đều được 5 thẻ, còn
18
một thẻ dùng cho anh hiệu đi chợ - mở đầu cuộc chơi. Phát xong bài xong,
người chạy cờ đằng hắng một tiếng rồi hô: “Hai bên lẳng lặng mà nghe con
bài đi chợ: con...” Anh ta xướng tên con bài đi chợ bằng tiếng ngân dài chen
lẫn tiếng trống gõ, tiếng đàn cò réo rắt. Người nào có con bài thứ hai đúng với
tên con bài đi chợ vội vã hô lên và rút kèm một con bài khác đưa cho anh
chạy cờ. Rồi một câu hò khác được vang lên. Cứ như thế cho đến khi có
người gõ lên cái mõ tre treo cạnh chòi mình, miệng hô lớn: “Tới rồi! Tới
rồi!”, để thông báo con bài mà anh hiệu vừa hò trùng với con bài cuối cùng
trên tay mình, nghĩa là đã có người thắng cuộc, thì ván bài kết thúc. Người
chạy cờ vội vã mang đến cho chòi của người vừa tới một lá cờ đuôi nheo, giắt
lên mái chòi, để cho nó bay phần phật trong làn gió xuân ấm áp, rồi bắt đầu
ván khác. Người ta chỉ chơi 10 ván là xong một hội. Phần tiền của ván thứ 11
là phần thưởng cho ban tổ chức. Kết thúc một hội, người ta mang các lá cờ
ngân đến bán lại cho chòi trung ương để lấy tiền. Ðược một cờ coi như huề
(hòa) vốn. Hai, ba cờ trở lên coi như vận đỏ đầu năm đã đến gõ cửa. Cái hấp
dẫn của thú chơi bài chòi là ở giọng hò của anh hiệu. Ðó phải là một người
thật vui, thật tếu, giỏi ứng đối mới điều khiển nổi trò vui này. Anh ta là linh
hồn của cuộc vui, vừa là người bày trò, kiêm luôn diễn viên hát tuồng để mua
vui cho mọi người. Vì lẽ đó mà sân đình khi có hội bài chòi luôn đầy ắp tiếng
cười, tiếng nhạc vang xa đến tận thôn cùng ngõ hẻm, đủ sức hấp dẫn các cụ
ông cụ bà, đám trẻ con, người lớn đến với cuộc vui này.
Ảnh 8: Pho văn trong bộ bài tới
19
Ảnh 9: Pho vạn trong bộ bài tới
Ảnh 10: Pho sách trong bộ bài tới
20
Ảnh 11: Ba cặp bài yêu trong bộ bài tới
Một biến thể của trò chơi bài chòi là bài ghế, hiện rất phổ biến trong
các hội xuân ở những làng quê phụ cận Huế. Bài ghế chơi tương tự bài chòi,
nhưng người ta không làm từng chòi nhỏ mà làm một cái trại lớn, hay có thể
sử dụng hội quán, đình làng để tổ chức, rồi xếp ghế thành hình chữ U. Ban tổ
chức ngồi ở đáy chữ U. Hai cánh chữ U là hai phe. Mỗi phe 5 người. Sau khi
phát các con bài cho các thành viên trong cuộc chơi, anh hiệu lấy một con bài
bất kỳ để đi chợ và tiến trình cuộc chơi diễn ra tương tự lối chơi bài chòi.
Nhưng sau đó ai tới thì ván sau họ được quyền “đi chợ”. Người ta chỉ chơi có
8 ván trong một hội bài. Hai ván còn lại dành cho ban tổ chức. Có một điều
khác với bài chòi là ở trò chơi này người ta sử dụng tất cả 60 quân bài. Con
nọc đượng tượng trưng cho dương vật của đàn ông và con bạch tuyết ám chỉ
âm vật của phụ nữ cũng được sử dụng và chúng có những câu hò rất độc đáo
và dí dỏm. Những câu hò ấy luôn là động lực hấp dẫn người dự cuộc.
Người Huế còn sử dụng bộ bài tới để sáng tạo nên nhiều trò chơi khác
nhau như: bài thai; bài nọc; bài đôi, bài phu...
- Bài thai: So với chơi bài chòi, bài thai ít rộn rã hơn, nhưng cũng
không kém phần thú vị. Ðó cũng là một trò chơi mượn giọng hò làm phương
tiện mua vui như bài chòi. Ðiệu hò này gọi là hò thai. Trò chơi do một người
đứng ra tổ chức gọi là nhà cái. Nơi chơi bài thai thường là một ngã tư giữa hai
lối xóm. Người tổ chức chơi bài thai đem một chiếc chiếu bông trải dưới bóng
21
gốc cổ thụ đầu xóm. Giữa chiếu có đặt một tấm giấy rộng, dán trên bìa cứng,
kẻ 30 ô vuông. Trong mỗi ô vuông là một con bài lấy từ một nửa bộ bài tới.
Nhà cái giữ lại nửa kia, cũng 30 con giống như những con bài trên ô vuông.
Vào cuộc chơi, nhà cái bí mật đặt một con bài thai vào một cái dĩa, lấy chén
úp lên trên rồi bắt đầu hò thai. Câu hò có nội dung liên quan đến tên con bài
thai, để các tay chơi theo đó mà đặt cược. Ðợi người chơi đặt cược xong, nhà
cái mở cái chén, trình con bài thai ra, giải thích ý nghĩa câu hò ứng với con
bài đã hò. Ai đoán trúng sẽ được số tiền gấp 8 lần số tiền đặt cược. Nếu sai số
tiền đó thuộc về nhà cái. Cái hay của bài thai là ở những câu hò, tuy ứng tác
nhưng rất thâm trầm, ý nhị khiến người chơi phải có trí thông minh, biết xét
đoán câu hò để đặt cược cho trúng. Mỗi con bài phải được chuẩn bị vài ba câu
hò khác nhau để đánh đố người chơi, song chúng phải hợp lý khi giải thích
cho tên con bài thai. Ví như khi thai con bài liễu, nhà cái sẽ hò: “Thiếp đừng
nhắc cảnh gia đình mà trăm hờn ngàn giận. Chàng ra đi cũng muốn lui về
thăm con viếng vợ, nhưng chàng về chưa được vì mặt trận đương dàn. Em ở
nhà nuôi thầy dưỡng mẹ, cứ tạm gác một thời gian. Ðợi ngày quân thù rút
hết, nước lặng thành yên chàng về”. Câu hò này cũng nói về nỗi day dứt của
kẻ chinh phu vì không gánh vác việc nhà, để người vợ nơi hậu phương phải
đem thân bồ liễu đảm đương việc gia đình. Nhà cái đã mượn chữ bồ liễu
thường dùng để chỉ phận nữ nhi, ấy để thai con bài liễu. Hay như khi thai con
bài xơ, nhà cái sẽ hò: “Thương nhớ dạng chồng ruột như tơ vày một trăm
múi, chàng ra đi em nuôi thầy dưỡng mẹ, em cứ nguyện một lòng vô cúi ra
lòn. Thương khuyên cùng chàng đừng có ham chơi chốn gác tía lầu son. Nhớ
cảnh quê nhà làm thuê cắt mướn chớ để vợ con tồi tàn”. Câu hò nói đến cảnh
bần hàn, xơ xác của một gia cảnh có chồng ham rượu chè, đàn đúm, tức ám
chỉ con bài xơ. Cũng nhờ sự hấp dẫn của những câu hò trí tuệ như thế nên
đám bài thai không mấy lúc thưa người.
- Bài nọc: Nếu bài thai, bài chòi mượn câu hò để giải trí trên phương
tiện là những quân bài trong bộ bài tới, thì bài nọc lại sử dụng ngay cái vỏ vật
chất là những hình trang trí trên các quân bài để chơi. Bài nọc là một trò chơi
có tính may rủi, do vậy nó mang nặng tính sát phạt nhất trong các trò giải trí
từ bộ bài tới. Lối chơi này thường được các cụ già ưa thích. Bởi lẽ họ không
còn đủ sức để ra đến đình làng hò reo với đám chơi bài chòi, nên yên phận ở
ngay trong nhà, cùng với các ông bạn vong niên, nay cũng đã gần đất xa trời,
kiếm trò vui xuân. Chơi bài nọc rất đơn giản. Thông thường có từ sáu đến tám
người tham gia, trong đó có một người làm nhà cái. Các con bài được xếp một
nọc ở giữa chiếu rồi mọi người lần lượt bốc. Nhà cái bốc sau cùng. Ai được
điểm cao hơn nhà cái thì được nhà cái chung tiền gấp đôi số tiền đặt cược.
Trên các con bài tới hoàn toàn không có số, vì vậy người ta qui định các nút
trong đầu chim, đầu người, đồng tiền... là một điểm. Ðiểm cao nhất cho mỗi
22
lần chơi là 9 điểm, quá 9 điểm là bù; thấp nhất là 6 điểm, ai chưa đủ 6 điểm
mà không bắt thêm bài thì bị phạt tiền.
- Bài đôi: Bài đôi cũng là một trò chơi sử dụng bộ bài tới, được người
dân làng Triều Thủy (xã Phú An, huyện Phú Vang), một ngôi làng nhỏ nằm ở
đông nam thành phố Huế, thường tổ chức vào những ngày xuân.
Có nhiều cách giải thích khác nhau về tên gọi bài đôi: một số ý kiến
cho rằng tên bài đôi xuất phát từ chữ đôi bài hay cặp bài, vì khi chơi, người ta
sử dụng bộ bài gồm 24 đôi/cặp và một con bài lẻ; một số người cao tuổi thì
cho rằng tên bài đôi xuất phát từ chuyện se duyên đôi lứa trong những cuộc
chơi, rồi sau đó nhiều đôi trai gái nên vợ thành chồng.
Ðể chơi bài đôi, người ta sử dụng 49 con bài, gồm 24 cặp: ầm, tử, mỏ,
bồng, hương, gối, xe, tuyết, tám giây, tám tiền, liễu, giày, sưa, sáu hột, sáu
tiền, rún, gióng, voi, gà, nghèo, trường ba, trường hai, trò, nọc đượng và chỉ
một con bài quăn. Số bài này được chia đều cho 7 người chơi. Một ván bài
được tính từ khi chia bài đến khi xuất hết 7 con bài.
Bài đôi là loại bài đối kháng tập thể, do đó cần phải xuất bài sao cho
khéo léo từ nước thứ nhất cho đến nước cuối cùng của một ván bài để giành
thắng lợi. Theo quy ước, bài đôi được tính từ lớn xuống bé: cao nhất là con
ầm, giá trị là 12 điểm (hay nút); kế đến là tử (11 điểm/nút); mỏ (10 điểm/nút);
các con bài: gối, xe, bạch tuyết (đều 9 điểm/nút); các con bài: tám giây, tám
tiền (đều 8 điểm/nút); các con bài: liễu, giày, sưa (đều 7 điểm/nút); các con
bài: sáu tiền, sáu hột (đều 6 điểm/nút); rún (5 điểm/nút); các con bài: voi,
gióng (đều 4 điểm/nút); các con bài: trường ba, gà, nghèo (đều 3 điểm/nút);
trường hai (2 điểm/nút); các con bài: trò, bồng, hương, nọc đượng, quăn (đều
1 điểm/nút). Các con bài có số nút bằng nhau sẽ được tính ngang nhau, nhưng
nếu tay cái hoặc tay trên (được tính theo chiều ngược chiều quay của kim
đồng hồ) xuất bài thì xem như con bài đó được tính thắng.
Trong bài đôi, vì con ầm là quân bài lớn nhất nên phải đi theo luật, tức
là phải đi theo các nước thứ 1, thứ 3, thứ 5 và nước cuối. Nhưng muốn xuất
con ầm ở nước thứ 5 thì nước tiếp sau nó phải có một đôi. Còn các con bài
khác thì xuất nước nào cũng được.
Bài đôi có hai kiểu đối chọi: đối chọi theo từng đôi hoặc theo từng con
bài một, tùy theo nhà cái thách đối. Nhưng dù đối chọi theo kiểu nào thì số
nút của con bài vẫn là điểm căn cứ để phân thắng bại.
Ðể chọn người thách đối trong ván bài đầu tiên, các tay chơi để úp bộ
bài ra giữa hội và tổ chức bốc cái. Người bốc được con bài lớn nhất sẽ cầm
cái, được chia bài cho hội và có quyền thách đối. Cuối mỗi ván bài, tay chơi
nào có con bài nổi sau cùng sẽ cầm cái cho ván bài kế tiếp.
23
Cách tính thắng bại của một ván bài đôi:
+ Tay chơi nào có một quân bài nổi thì xem như ván bài đó hòa.
+ Tay chơi nào có hai quân bài nổi thì thắng được một tay chơi khác.
+ Tay chơi nào có ba quân bài nổi thì thắng hai tay chơi khác.
+ Ăn trắng: Khi một trong các tay chơi có cả 7 quân bài nổi và mỗi tay
chơi bị thua ít nhất hai quân bài. Số điểm thắng sẽ được tính gấp đôi.
+ Ăn xúc: Khi người thách đối xuất thành công đôi hương, được tính
gấp đôi ăn trắng.
+ Ăn đền: Khi tay chơi xuất quân bài ầm không đúng luật để cho đối
phương ăn xúc thì tay chơi này phải chịu thua cả hội bài.
- Bài phu: Bài phu cũng dùng các con bài trong bộ bài tới để chơi,
nhưng chỉ sử dụng tối đa là 16 cặp bài. Trước khi chơi, người ta lựa ra 16 cặp
bài, theo thứ tự từ lớn đến nhỏ, gồm: ầm, tử, mỏ, xe, gối, liễu, tám tiền, tám
giây, sáu hột, sáu tiền, gióng, giày, sưa, voi, trường ba, trường hai.
Theo luật chơi bài phu, nếu có đủ bốn người chơi thì sử dụng cả 16
cặp bài này. Nếu chỉ có ba người chơi thì bỏ bớt các cặp: sáu tiền, gióng, giày
và sưa, để cho mỗi tay chơi luôn có 8 con bài.
Chơi bài phu giống như như chơi bài tam cúc, tức là ra bài theo ba
cách: bộ ba, cặp đôi và nước một. Bộ ba thì có ‘bộ ba thượng’ gồm các con
bài: ầm, thái tử, đỏ mỏ; ‘bộ ba xe’ gồm: xe, liễu, tám tiền và ‘bộ ba đất’ gồm:
voi, trường hai, trường ba. Cặp đôi thì cứ hai con giống nhau là kết thành một
đôi. Mấy con bài dư ra thì đánh nước một. Ai ra bài lớn thì ‘ăn’ các người
khác và được giành quyền làm cái. Nếu bài ra giống nhau thì người làm cái
được ăn. Hết ván bài, ai có nhiều bài ăn sẽ giành phần thắng. Nếu chơi bài
chòi hay bài tới thường chỉ nhờ vào sự hên xui, thì chơi bài phu phải tính toán
cao thấp rất nhiều.
Từ bộ bài tới chung cho cả vùng đất miền Trung, người Huế đã sáng
tạo nhiều trò chơi, mỗi trò mỗi vẻ, làm phong phú thêm cho những trò vui
ngày Tết.
24
II. TRÒ GIẢI TRÍ VÀ THÚ TIÊU KHIỂN MANG TÍNH HỘI NHÓM
CÁC THI XÃ VÀ VIỆC NGÂM VỊNH, ĐỐI HỌA THI VĂN
Là kinh đô nên Huế là nơi gặp gỡ của nhiều văn nhân, thi sĩ từ khắp
mọi miền đất nước. Bản thân các ông vua nhà Nguyễn như vua Thiệu Trị, vua
Tự Ðức cũng là những thi sĩ có bút lực đáng kinh ngạc. Vua Thiệu Trị từng
nổi tiếng với Thần kinh nhị thập cảnh thi vịnh (神 京 二 十 景 詩 咏), viết
về hai mươi cảnh đẹp hàng đầu của kinh đô Huế. Hoặc như vua Tự Ðức, sinh
thời từng viết đến 4.000 bài thơ chữ Hán, 600 bài văn, khoảng 100 bài thơ
chữ Nôm. Trong các ông hoàng, bà chúa nhà Nguyễn, Tùng Thiện Vương
Miên Thẩm, Tuy Lý Vương Miên Trinh và ba cô em gái của hai ông là Trọng
Khanh, Thúc Khanh, Quý Khanh, là những gương mặt sáng giá trong làng thi
ca Huế hồi thế kỷ trước. Những người này cùng với các thi hữu, vốn là quan
lại đương triều hay nho sinh các tỉnh tụ hội về, đã lập nên các thi xã để cùng
sinh hoạt văn chương thi phú. Những thi xã như Tùng Vân thi xã (do Tùng
Thiện Vương sáng lập), Ðông Sơn thi tửu hội (do Ðoàn Hữu Trưng sáng lập),
Hương Bình thi xã (do Ưng Bình Thúc Giạ Thị sáng lập)... là những thi xã nổi
tiếng được đời sau biết đến. Gắn liền với những thi xã là những địa danh như
Ký Thưởng viên, Thỉnh Nguyệt đình, Lộc Minh đình... là nơi lui tới thường
xuyên của các bậc văn nhân, thi sĩ chốn thần kinh. Từ những buổi sinh hoạt
văn chương ấy, nhiều tập thơ danh tiếng đã ra đời như Thương Sơn thi tập
(của Tùng Thiện Vương), Diệu Liên thi tập (của công chúa Mai Am, tức Thúc
Khanh), Lộc Minh thi tập (của Ưng Bình Thúc Giạ Thị)... Ngay như Cao Bá
Quát, tác giả hai câu thơ: “Ngán thay cái mũi vô duyên. Câu thơ thi xã, con
thuyền Nghệ An” để chê thơ của các thi hữu trong Tùng Vân thi xã, về sau,
cũng tham gia thi xã này và để lại nhiều bài thơ cả Hán lẫn Nôm, đặc biệt là
văn ca trù. Ðiều này chứng tỏ sinh hoạt thơ văn, đối vịnh trong các thi xã là
một hoạt động tiêu khiển được giới thi sĩ và các bậc học thức bấy giờ ưa
chuộng. Họ tập hợp nhau lại, chọn những chủ đề lý thú rồi cùng làm thơ theo
lối xướng họa. Một trong những bài thơ tiêu biểu cho cách làm thơ này là bài
Hòa Lạc ngâm do ba anh em Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Tương An
Công cùng sáng tác. Bài thơ có đoạn mở đầu như sau:
Trời nam vừa thuở thanh bình
Non hùm bặt dấu, biển lành lặng tăm
Ngày hôm rằm, tiết hè đương tạnh
Vâng chiếu rồng, tuần hạnh Thuận An
Pháo đài bảy tiếng sấm vang
Thuyền chèo tách nước, cờ phan cuối trời...
25
Trong đó, hai câu đầu là của Tùng Thiện Vương, hai câu tiếp do Tuy
Lý Vương sáng tác còn hai câu sau là của Tương An Công. Cứ thế mà tiếp
diễn đến hết bài thơ.
Một chuyện khác, cũng nói lên nét độc đáo, thú vị trong sinh hoạt của
các thi xã. Ðó là vào năm 1951, xuất phát từ ý tưởng của Ưng Bình Thúc Giạ
Thị, chủ nhân ông của Hương Bình thi xã, lúc này đã 75 tuổi: “Sao không làm
thơ điếu lúc còn sống mới được thưởng thức hết chứ”7, những thi hữu trong
thi xã đã tổ chức một lễ sanh điếu (lễ tế sống) thi ông Ưng Bình Thúc Giạ. Họ
làm thi phú, văn tế, câu đối mang đến phúng điếu Ưng Bình Thúc Giạ Thị nơi
đình Lộc Minh suốt cả mùa xuân năm ấy.8
THƯỞNG THỨC CA NHẠC HUẾ
Một trong những thú vui tiêu biểu của xứ Huế, có từ thời Nguyễn, nay
vẫn tồn tại và phát triển là thú thưởng thức ca nhạc Huế.
Huế là kinh đô của hai triều đại phong kiến, trong đó thời gian trị vì
của nhà Nguyễn kéo dài gần 1,5 thế kỷ nên dấu ấn mà triều đại này để lại cho
Huế quá lớn; không chỉ là cung điện, lăng tẩm, đàn miếu mà cả trong lĩnh vực
văn nghệ và thưởng thức văn nghệ, trong đó có ca nhạc Huế.
Ngày trước, trong hoàng cung Huế, triều đình thành lập ban nhạc cung
đình để phục vụ trong các dịp lễ lượt; lập ra những nhà hát như Duyệt Thị
Đường, Minh Khiêm Đường... với các đội ca múa cung đình để phục vụ nhu
cầu giải trí của vua chúa và đình thần. Ngoài việc thưởng ngoạn các vở tuồng
hay các điệu múa cung đình trong các nhà hát triều đình, vốn được coi là một
món “độc quyền” của vua chúa bởi quy mô và mức độ tốn kém của chúng,
Huế còn có một thú vui khác rất được những người thuộc tầng lớp thượng lưu
tán thưởng. Ðó là thú thưởng thức ca nhạc Huế.
Ca nhạc Huế là sự kết hợp của nhã nhạc và ca Huế. Ðó “không phải là
loại nhạc dân gian, vì nó chỉ được giới quyền quý hoặc trong cung đình sử
dụng..., là loại quan nhạc chứ không phải dân nhạc” (Nhận xét của GS. Trần
Văn Khê).9 Nhiều vị vua, nhiều ông hoàng bà chúa và quan lại trong triều như
vua Tự Ðức, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Tương An Công, Mai Am
công chúa, Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Nguyễn Công Trứ... đã đặt nhạc, viết ca
từ cho các điệu ca Huế. Những người này trực tiếp góp phần vào việc sản sinh
ra một thú giải trí được công chúng lớp trên yêu thích và thời ấy, cũng chỉ có
7 Tôn Nữ Hỷ Khương. Hồi ức về cha tôi: Ưng Thúc Bình Giạ Thị, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ
Chí Minh, 1996, tr. 73-74.
8 Tôn Nữ Hỷ Khương, Sách đã dẫn, tr. 74.
9 Dẫn theo: Tôn Nữ Hỷ Khương. Hồi ức về cha tôi: Ưng Thúc Bình Giạ Thị, Nxb Văn nghệ Thành
phố Hồ Chí Minh, 1996, tr. 74.
26
họ mới có đủ điều kiện tài chính và có đủ trình độ để thưởng thức thứ quan
nhạc giàu tính bác học này.
Ảnh 12: Thưởng thức ca Huế trên sông Hương
Thú vui này xuất phát từ trong cung, trước hết, dành riêng cho vua và
hoàng gia, sau lan ra các phủ đệ của các ông hoàng bà chúa và những chức
sắc cao cấp, rồi mới trở thành một thú vui của các bậc tao nhân mặc khách
trước khi phổ biến rộng rãi trong công chúng như hiện nay. Ca nhạc Huế có
thể được tổ chức trong các phủ đệ theo kiểu ca nhạc thính phòng hay trong
các khoang đò trên sông Hương trong những đêm trăng thanh gió mát.
Ðêm ca nhạc Huế thường diễn ra ở một vương phủ hay một tư dinh
nào đó. Chủ nhân mời một ban nhạc gồm năm, sáu nhạc công với bốn, năm ca
nhi đến đàn ca xướng hát trong một thính phòng nho nhã, xinh xắn, có bày
biện đối liễn, thi họa, hoa và cây kiểng; có rượu, trà và vài món đồ nhắm cùng
của dăm bảy khán giả am tường và đam mê ca nhạc Huế.
Thú vị nhất là được thưởng thức ca nhạc Huế trên sông Hương. Người
ta thuê một con đò, hoặc nếu đông người thì dùng hai con đò ghép thành một
chiếc bằng, trải chiếu hoa, mời ban nhạc, ca sĩ và bằng hữu xuống đò trong
một đêm trăng. Con đò ngược dòng Hương, rời khỏi chốn thị thành ồn ào,
huyên náo, đi tìm một bến nước bình yên, tĩnh lặng mới buông neo để bắt đầu
một đêm vui. Phần đầu chương trình, các nhạc công và ca sĩ thường biểu diễn
những bài bản thuộc điệu Bắc với giai điệu rộn ràng, tươi vui như: Phú lục,
Cổ bản, Lộng điệp, Lưu thủy... Sau đó là những bài bản trang trọng, uy
27
nghiêm như Long ngâm, hay những bản nhạc không buồn, không vui như Tứ
đại cảnh. Ðêm càng về khuya, không gian càng yên tĩnh, sâu lắng, ấy là lúc
những điệu: Nam ai, Nam bình, Quả phụ, Tương tư khúc... ai oán, buồn
thương nhưng gợi cảm được cất lên giữa trời đêm lồng lộng. Cái cảm giác
bồng bềnh, chơi vơi trên sóng nước, được lời ca, tiếng đàn chắp cánh, lại có
chút men rượu kích thích khiến tâm hồn người nghe như đang phiêu lãng đến
tận cung Hàn. Thi thoảng, theo yêu cầu của khán giả, ca sĩ biểu diễn một khúc
chầu văn trong âm thanh réo rắc của cây đàn nhị, đàn tranh; trong tiếng gõ
lách cách của cặp sênh; tiếng rung leng keng của những chiếc tách trà trong
tay ca sĩ, khiến không gian trong khoang đò chợt nhuốm màu ma thuật, đồng
bóng, còn hồn người thì ngất ngây, nửa như say, nửa như tỉnh. Cái đam mê
huyền hoặc mà người ta cảm nhận được từ thú vui này phát sinh từ bầu không
khí đặc biệt ấy. Ðôi khi, người ta cũng biểu diễn những điệu lý, điệu hò dân
gian để đêm ca nhạc trên sông Hương được thêm phần phong phú, hấp dẫn.
Ảnh 13: Một đêm ca Huế trong Cung Diên Thọ
Ngày nay, thú nghe ca Huế không còn là trò giải trí “độc quyền” của
lớp trên mà trở thành một thú vui hấp dẫn nhiều du khách đến thăm Huế.
Hàng đêm, những con thuyền đầy ắp lời ca tiếng nhạc vẫn xuôi ngược trên
dòng Hương, như là một hình ảnh đáng yêu của đời sống văn hóa nơi miền
đất sông Hương, núi Ngự.
28
THÚ UỐNG TRÀ
Người Việt Nam ở vùng nào cũng biết uống trà. Uống trà dịp để bằng
hữu tụ họp với nhau đàm đạo văn chương, luận bàn thế sự, hay chỉ để tán
ngẫu những chuyện vui buồn đã qua. Có khi, cuộc trà được bày ra trước một
cuộc vui như là một nghi thức giao tiếp. Ðôi lúc, nó là phần kết của một tiệc
rượu, vừa để giải khát, vừa để giải tửu (tiền tửu, hậu trà). Ở Huế, việc uống
trà, tuy chưa phải một thứ tôn giáo như Trà đạo của Nhật Bản, hay được nâng
thành một thứ nghệ thuật giàu triết lý như ở Trung Hoa, nhưng nó thực sự là
một thú vui tao nhã, cầu kỳ và công phu.
Nhiều người Huế coi việc uống trà không chỉ để giải khát, theo họ đó
thực sự là một lạc thú tinh thần. Dưới thời Nguyễn, trong nhiều gia đình
quyền quý, việc uống trà được nâng thành một thú tiêu khiển. Người ta có
nhiều cách uống trà tuỳ vào thời điểm, địa điểm và tính chất của một cuộc trà.
Với người Huế, uống trà cũng là một nghệ thuật giàu chất trí tuệ, thẩm mỹ và
biểu cảm. Ngày xưa, người ta đã từng đánh giá tính cách, quan niệm sống,
trình độ và khả năng nhận thức thẩm mỹ cũng như tâm trạng hay tình cảm của
con người qua việc uống trà.
Xứ Huế đã một thời là kinh đô của một quốc gia phong kiến. Trong
cái bề dày văn hóa phủ trên mảnh đất Thuận Hóa xưa có một phần là sản
phẩm của giai cấp phong kiến. Thú uống trà nằm trong phần đó! Không ai
trong chúng ta xa lạ với việc uống trà, bởi vậy nước ta là một trong những nơi
sản sinh ra cây chè - loại cây quyết định việc hình thành thú vui thanh đạm và
tao nhã này. Người ta đã tìm ra trên 40.000 cây chè hoang mọc trên những
vùng đất “mây trắng vờn chân ngựa, nhấp nhô đá tai mèo” ở Hà Giang, Lào
Cai... nơi có những cây chè đại thụ, thọ trên 300 tuổi mà vẫn rừng rực nhựa
sống, vẫn đủ sức tạo cho đời những búp chè thanh tân, quý giá để làm tăng sự
hấp dẫn của thú uống trà. Ở đâu, người ta cũng “biết” uống loại trà: Hồng
Đào, Thanh Tân, Phú Thọ, Bắc Thái, trà tuyết Hà Giang... Song hầu như chỉ ở
Huế, chuyện uống trà của người Việt mới được nâng thành một cái thú tiêu
khiển. Điều này có căn nguyên của nó. Bấy giờ, vì là đất thượng kinh, xứ Huế
đã sản sinh một tầng lớp quý tộc. Họ là những người trong hoàng tộc hay lớp
nho sĩ phong kiến hoá, tức là những quan chức trong triều Nguyễn cùng con
cháu của họ. Tầng lớp này đã tạo ra những thú vui vừa khác với dân gian lại
vừa không giống với những thú vui tương đồng của giới quý tộc ở Bắc Hà
trước đây. Có chuyện này là do bấy giờ, giai cấp phong kiến nhà Nguyễn cố
tạo ra những khác biệt về văn hóa, chính trị, xã hội... so với các triều đại
trước, nhất là đối với triều đại Lê - Trịnh. Nhưng sự khác biệt này lại dựa trên
những chuẩn mực của Trung Hoa, tuy có cải biến đôi phần cho phù hợp với
phong thổ và con người xứ Huế. Chính điều này khiến việc uống trà nói riêng,
văn hoá nghệ thuật nói chung ít nhiều mang ảnh hưởng từ Trung Hoa. Tuy
29
nhiên giữa lối uống trà Huế và lối uống trà Tàu vẫn có những dị biệt, từ quan
niệm, phong thái uống trà đến cách thiết trí trà thất và nghi thức thực hiện.
Người Huế cũng chú ý đến khía cạnh y học và lạc thú trong uống trà,
song không lấy đó làm điều câu nệ. Uống trà theo kiểu Huế thể hiện lối ứng
xử, hành vi giao tiếp và cả ân tình giữa người với người. Người Huế uống trà
trong trà thất nho nhã, ấm cúng; uống trong phòng khách, cũng có thể uống
trà giữa những vườn cây trĩu quả mà bất kỳ lúc nào, ẩm khách cũng có thể với
tay hái một vài loại quả để nhấm nháp hay tận hưởng mùi hương của vô vàn
loại hoa quanh họ. Cao hứng trà chủ có thể vừa cầm chén trà, vừa mời khách
đi dạo trong vườn để vãn cảnh, ngắm hoa. Thi thoảng, chủ và khách còn tức
cảnh vịnh thơ hay ngâm nga đôi câu thơ của tiền nhân mà họ tâm đắc. Nếu
người Nhật coi trọng việc tổ chức trà thất, người Trung Hoa chú ý việc chọn
trà, coi đó là những yếu tố quyết định tính hấp dẫn, lôi cuốn của thú uống trà,
thì người Huế lại đặt những điều đó xuống hàng thứ yếu. Tùy khách, tùy thời
mà người ta có những lối uống trà thích hợp. Một cuộc trà là một dịp gặp gỡ
để đàm đạo văn chương, luận bàn thế sự, để hàn huyên và nhắc lại những sự
kiện vừa đi qua đời họ.
Ảnh 14: Thưởng trà ngắm hoa - Ảnh Đào Hoa Nữ
30
Điều đặc biệt là trong uống trà của Huế luôn luôn có kèm các thức ăn
nhẹ. Người Huế uống trà với mứt gừng, kẹo mè xửng, mạch nha, kẹo đậu
phụng... có khi chỉ với một cục đường phèn. Vị chát của trà sẽ có thêm vị
ngọt, vị bùi của đường và mứt bánh bổ khuyết. Hương trà hòa quyện với mùi
thơm của đậu phụng, gừng, mạch nha khiến nó đậm đà hơn, quyến rũ hơn.
Phụ nữ Huế vốn khéo tay trong nghệ thuật làm mứt bánh nên việc mời khách
dùng trà với các sản phẩm do họ làm ra, ngoài việc tỏ sự quý khách còn để
phô bày tài nghệ nữ công gia chánh của họ.
Ảnh 15: “Cung nữ” hầu trà trong chương trình Đêm Hoàng Cung
Ngày xưa, tầng lớp quý tộc ở Huế uống trà cầu kỳ và công phu lắm.
Họ tạo ra và tuân thủ một cách nghiêm ngặt những nghi thức rườm rà và vô
cùng quan trọng. Một cuộc trà gọi là đầy đủ và đúng điệu phải đủ các yếu tố:
Phòng trà, đồ trà, trà và nước trà, tuần trà và thời gian uống trà.
- Phòng trà: Buổi mạn trà thường được tổ chức trong một trà thất xinh
xắn, trang nhã. Đó là một gian phòng biệt lập hay một khoảng không gian yên
tĩnh và trang trọng nhất trong gia đình. Trên tường là vài bức tranh thủy mặc,
dăm ba bài thơ chữ Hán hay vài đôi câu đối khuôn mình trong những bức
liễn, một kệ sách, vài pho tượng cổ. Chính giữa trà thất được trải chiếu và kê
một cái trường kỷ, cạnh bên là vài chậu hoa hay đôi giò phong lan treo lủng
lẳng cửa sổ để tăng thêm sự thi vị cho cuộc trà. Đôi lúc, buổi uống trà được tổ
chức trong vườn, dưới tán một cây lớn. Bộ đồ trà bày trên một bàn đá lớn ở
31
giữa, xung quanh là những đôn sứ dành cho ẩm khách. Một bên là bể cá kiểng
có những hòn non bộ được tạo dáng lạ lùng, kỳ bí, một bên là những vườn
hoa với những nụ hồng, cẩm chướng, đồng tiền... đang khoe sắc. Tất cả như
một bức tranh nhiều màu, nhiều vẻ, ở đó, sự hài hòa của cảnh vật sẽ hội nhập
với không khí buổi mạn trà và cái thần của con người để tạo ra một thực cảnh
rất ngoạn mục.
- Đồ trà: Dụng cụ cần thiết cho một cuộc trà bao gồm hỏa lò, siêu nấu
nước, hũ đựng nước lạnh, ấm trà và bộ đồ trà hoàn chỉnh có đủ bốn món: dầm
(dĩa bàn nhỏ đựng chén tống); bàn (dĩa đựng những chén tốt); tống (còn gọi là
chén tướng, là loại chén lớn để chuyên trà); tốt (hay gọi quân, chén nhỏ để
uống) chiếc ấm đất, hũ đựng trà, than củi, trầm hương. Với người sành điệu,
chắc chắn không thể thiếu bình thuốc lào với dĩa đèn dầu phụng. Cũng cần
phải nói thêm rằng, ấm chén trà vốn đa dạng và tùy lúc, tùy cảnh mà chọn lựa
và sử dụng cho phù hợp. Mùa xuân dùng xuân ẩm, mùa hạ có hạ ẩm, mùa thu
thì nhường chỗ cho thu ẩm, đông về lại cần đông ẩm. Hoặc uống một người
thì có độc ẩm, hai người thì có song ẩm và “đại trà” thì phải dùng đến ngưu
ẩm. Song chẳng mấy khi có cuộc trà ngưu ẩm, bởi “cái thú uống trà ... không
thể ồn ào được. Lối giao du của cổ nhân đạm bạc chứ không huyên náo như
bây giờ. Chỉ có người tao nhã, cùng một thanh khí mới có thể cùng nhau ngồi
bên một ấm trà...”.10
Ảnh 16: Bàn trà, trà cụ và mứt bánh dùng trong việc uống trà của người Huế
10 Nguyễn Tuân, Vang bóng một thời, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1996, tr. 124.
32
Từng bộ đồ trà được vẽ vời, trang trí theo những điển tích riêng như
đồ trà Tô Vũ mục dương, Nhất chẩm tùng phong... Đặc biệt ở Huế có bộ trà
nổi tiếng - đồ trà Mai hạc. Bộ đồ uống trà làm bằng sứ ký kiểu, có vẽ hình
con chim hạc đứng bên gốc mai già và hai câu thơ:
Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ, hạc là người quen
Tương truyền đó là bộ ấm chén mà Nguyễn Du mang từ Trung Quốc
về nhân lần ông đi sứ sang Trung Quốc vào năm Quý dậu (1813). Về sau
người ta đã dựa theo motive này để trang trí cho hàng loạt đồ sứ men lam
Huế. Chén trà Huế làm theo kiểu “mắt trâu - lật đật”, có đáy tròn và nặng nên
có ngoại lực tác động vào thì chúng dao động như con lật đật nhưng cuối
cùng luôn trở lại vị trí thăng bằng. Người ta cho rằng việc các vua chúa nhà
Nguyễn và tầng lớp quý tộc ở Huế thích dùng đồ trà “mắt trâu - lật đật” là vì
họ có ý coi chúng là biểu tượng sự vươn dậy và lớn mạnh của dòng họ
Nguyễn trước mọi biến cố thăng trầm của dòng họ và lịch sử.
- Trà và nước pha trà: Trước hết xin nói về trà. Người Huế xưa tuy
không công phu trong việc chọn trà như người Trung Quốc, song cũng có
những loại trà được pha chế, chọn lựa thật tinh tế, cầu kỳ, như trà tước thiệt,
trà cạp quần, trà ướp Tĩnh Tâm - một trong hai mươi thắng cảnh của đất thần
kinh. Vào buổi chiều tà, người ta sai gia nhân chèo thuyền trên hồ Tĩnh Tâm,
mang trà bỏ vào những nụ sen rồi lấy dây buộc lại. Mờ sáng hôm sau, người
ta lại chèo thuyền đến, lấy trà ra rồi đem pha uống. Thật là cầu kỳ làm sao.
Trong dân gian cũng có nhiều loại trà: Chính Thái, Sinh Thái, B’lao, Mai
Hạc... mỗi loại uống vào mỗi giọng khác nhau bởi cách thức sao tẩm và các
loại hương vị phụ gia dùng trong pha chế.
Nước để pha trà xem ra cũng lắm công phu. Vua chúa nhà Nguyễn
thường sai nô tỳ chèo thuyền trên các hồ sen lúc sáng sớm để hứng các giọt
sương đêm còn đọng trên lá đem về làm nước pha trà, hay lấy nước trong
những mạch nước đá ngầm trên núi cao, nếu không thì cũng dùng loại nước
mưa hứng giữa trời để pha trà.
- Tuần trà: Bước vào một cuộc trà, chủ nhân ngồi về bên phải để tiện
việc pha trà và khách được xếp ngồi ở phía trái. Công việc nhóm lò luôn được
chủ nhân đảm nhiệm và được coi là công việc thích thú nhất. “Những lúc ấy,
chủ nhân phải tự tay mình chế nước, nhất nhất cái gì cũng làm lấy cả, không
dám nhờ đến người khác, sợ làm thế thì mất hết cả thành kính”11. Lúc nhóm
lò, người ta bỏ thêm ít trầm. Sau vài phút, than bốc lửa, quyện với khói trầm
làm căn phòng trở nên u tịch, ấm cúng. Siêu nước được đặt lên và những câu
chuyện bắt đầu nở như ngô rang. Trà chủ tự tay pha trà, đó cũng là cái thú
11 Nguyễn Tuân, Vang bóng một thời, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1996, tr. 128.
33
riêng của những kẻ tự nhận là trà nô. Nước trà được rót vào chén tống, để cho
lóng cặn rồi mới chuyên ra chén tốt mời khách. Khi chuyên trà, không bao giờ
được rót cạn nước mà luôn giữ lại trong bình một phần nước cốt dành cho ấm
sau. Nhờ đó mà luôn giữ được đậm đà cho đến nước cuối. Lúc tuần trà đầu
tiên được nâng chén cũng là lúc bình thơ, vịnh cảnh bắt đầu. Hương trà cùng
mùi trầm, mùi thơm của mứt bánh hòa với nhau làm hấp dẫn trà hữu, vừa làm
cho tinh thần họ sảng khoái, trí óc minh mẫn và thi hứng nồng nàn chợt đến.
Người xưa có nhiều cách uống trà: uống một người gọi là u (trầm mặc); uống
hai người gọi là thắng (vui tươi); uống ba người gọi là thích (thích thú); uống
bốn người gọi là tứ (ban ân). Thời gian uống trà không cố định, có thể buổi
sớm, cũng có khi vào buổi chiều và lâu mau tùy ý. Uống trà là một thú vui
thanh đạm và cầu kỳ của người Huế xưa. Nó được hình thành từ lối sống
thượng kinh và được tiếp nối bởi nhiều thế hệ mà thành nếp, thành một thú
tiêu khiển thanh cao và là một nét son trong văn hóa ẩm thực xứ Huế.
Ảnh 17: Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn nói chuyện về thú uống trà Huế
Người Huế uống trà không chỉ để thưởng thức hương vị của trà. Họ
còn lưu tâm đến nội dung các cuộc mạn trà và nét đẹp nghệ thuật của loại
hình, dáng kiểu, hoạ tiết trang trí trên đồ trà và phong cách bài trí trà thất. Vua
quan nhà Nguyễn đã sai người sang Trung Quốc đặt làm những bộ đồ uống
trà nổi tiếng bằng sứ men lam như bộ đồ trà Giáp tí niên chế do các sứ thần
34
mang về năm 1804; đồ trà Tự Đức niên chế... Và trong cái thú uống trà, còn
có cái thú chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nét bút tài hoa trên ấm chén, bình thơ văn
và nghiền ngẫm sự tích lưu lại trên đó. Mới hay cái chuyện “trà dư, tửu hậu”
ở Huế cũng công phu, cầu kỳ và hấp dẫn nhường nào!
THẢ THƠ
Thả thơ cũng là một trò giải trí tao nhã của tầng lớp trí thức ở kinh đô
Huế thuở trước. Ðó là lối đánh bạc bằng trí tuệ, bằng sự nhanh trí và vốn kiến
thức uyên thâm của tầng lớp nho sĩ đất thần kinh, xứng danh là trò đánh bạc
bác học. Tham dự trò này chủ yếu là giới trí thức, quan lại có học vấn. Gọi là
thả thơ hay đánh thơ đều được. Bởi chỉ cùng một chuyện cờ bạc bằng thi ca,
nhưng nhìn vào động tác thực hiện thì gọi là thả, mà xét đến tính chất đỏ đen
thì gọi là đánh. Huế là đất văn vật nên người ta thích dùng từ thả thơ để gọi
tên trò chơi này.
Cái hay của thú thả thơ là người ta dùng văn chương để giải trí. Người
thắng cuộc là những kẻ có hai niềm vui cùng một lúc: vui vì được bạc và vui
vì đã khoe được với thiên hạ tài thi phú và vốn hiểu biết sâu sắc của mình.
Tuy nhiên, trò đời cũng lắm cái trớ trêu. Có khi, những kẻ ít chữ hơn, mới tập
tễnh bước vào giới văn chương chữ nghĩa lại là kẻ thắng cuộc. Họ thắng cuộc
bằng sự suy đoán thơ ngây, thô lậu của mình nhưng lại được vận may trông
đến. Còn những bậc thức giả, do quá tự tin vào tài năng và sự suy đoán của
mình nên lắm lúc thua đau. Ðó cũng chính là cái độc đáo, cái thú vị đầy tréo
ngoe của thú thả thơ.
Ngày trước, ở Huế, một số địa chỉ như: phủ Tuy Lý Vương, phủ bà
Chúa Nhứt (Mỹ Lương công chúa), Quốc Sử Quán... là những nơi tao ngộ của
những bậc phong lưu đam mê chuyện “sát phạt lịch thiệp” này. Ðó là những
nơi thả thơ tài tử, không chuyên nghiệp nên các câu thơ dùng để thả không
phải do họ đích thân chuẩn bị, mà thường mua của những người chuyên làm
các câu thơ đố ấy. Một trong những nơi thường bán các câu thơ thả là phủ Lạc
Biên bên Gia Hội. Lá thơ để thả rất thô sơ, được làm từ giấy bổi, cỡ 10cm x
35cm. Trên mảnh giấy đó người ta ghi theo thứ tự từ dưới lên trên. Ðầu tiên là
câu thơ thả. Ðây là một câu thơ không trọn vẹn, vì có một chữ không được
viết ra mà thay vào đó là một vòng tròn. Chẳng hạn, người ta chọn câu thơ
Ðường: Bạch nhật y sơn tận (白 日 依 山 盡) làm câu thơ thả và chữ thả là
chữ tận (盡), thì câu thơ sẽ được viết thành: Bạch nhật y sơn O (白 日 依 山
O). Tiếp theo là các chữ dành cho người chơi chọn lựa để thay vào vị trí còn
để trống, gọi là chữ thả. Thường có 5 chữ thả. Ðó là những chữ có cùng một
chức năng ngữ pháp với chữ đã thay bằng dấu O nhưng khác nghĩa, khi thay
vào câu thơ thả sẽ làm câu thơ có một nghĩa khác. Trong trường hợp trên,
35
những chữ được ghi có thể là: lạc (落), xuất (出), nhập (入)... và chữ tận (盡)
của câu thơ gốc. Và trên cùng là chữ giải, tức là đáp án, chỉ một chữ duy nhất,
được lấy từ câu thơ thả (chẳng hạn trong ví dụ trên là chữ 盡). Những mảnh
giấy sau khi được ghi chép đầy đủ như trên sẽ được cuốn vào một que tre,
cuốn từ dưới lên, sao cho chữ giải phải nằm trong cùng, chỉ lộ ra khi nhà cái
công bố. Người ta bó những chiếc “que thơ” này thành từng bó để bán cho
người tổ chức cuộc thả thơ.
Ảnh 18: Nơi tổ chức thả thơ trong chương trình Đêm Hoàng Cung
Người ta thường thả thơ vào ban đêm, trên một chiếc chiếu trải nơi
hiên của một phủ đệ, nha sở nào đó. Phía trên có một, hai chiếc đèn lồng,
ngay giữa chiếu là nhà cái, ngồi cùng bó que thơ. Khách đánh thơ thì tụ tập
ngoài sân và không hạn chế số người. Gọi là thả thơ, nhưng thường thì người
ta để câu thơ thả trên chiếu và mở ra một cách chậm rãi vì sợ thả mạnh thì chữ
giải sẽ lộ mất. Thơ được chọn thường là Ðường thi, Tống thi, hay Minh thi,
nhưng phần nhiều là Tống thi và Minh thi, vì Ðường thi có nhiều người biết.
Những câu thơ được chọn phải có xuất xứ rõ ràng và nhà cái thường phải
mang theo các tập thi tuyển có câu thơ được chọn, để chứng minh tính chính
xác của chữ giải, mỗi khi có người thắc mắc. Tỷ lệ đặt cược là đặt một ăn ba.
Thả xong câu này thì rút câu khác. Phía trước những nơi thả thơ thường có
hàng quán bán đồ ăn thức uống phục vụ khách chơi. Ðôi khi những người dự
cuộc cũng góp tiền để nhờ người trong phủ lo giùm đồ ăn thức uống để có
chút bồi dưỡng sau những cuộc vui khuya khoắt.
36
Những người đứng ra tổ chức cuộc thả thơ, tức nhà cái, thường là
những nho sĩ nghèo, nhàn nhã, muốn dùng tri thức của mình để kiếm tiền, để
giải trí và kết thêm tình bằng hữu với những nhà nho tứ xứ. Vài tháng họ tổ
chức thả thơ một lần do yêu cầu của bạn bè, hoặc do muốn khuây khỏa tinh
thần. Nhưng cũng có những người thả thơ chuyên nghiệp. Họ là những tay
giang hồ, “tay cầm bầu rượu túi thơ” đi “phiêu lãng tang bồng” khắp nơi. Có
khi họ đi một mình, có khi đem theo vợ con hoặc tình nhân rày đây mai đó.
Ðến những nơi thích hợp, họ mượn huyện đường hay tư dinh của những chức
sắc địa phương để tá túc và tổ chức thả thơ, khi xong việc, lại đi nơi khác.
Ảnh 19: Du khách tham gia thả thơ trong chương trình Đêm Hoàng Cung
Thú vị nhất, có lẽ, là những đêm thả thơ trên sông Hương. Thường thì
vào những đêm trăng thanh gió mát, người ta dùng đò kết thành những chiếc
bằng lớn, đủ chổ cho vài chục người lên xuống, tụ tập vui chơi. Trên bằng có
rượu, trà, hoa trái và cả một ban ca kỷ phục vụ ca Huế. Nhà cái trải chiếu ở
giữa bằng, đốt thêm dăm dĩa đèn dầu phụng để các “con bạc” quan sát cho
tường, rồi mở túi thơ bên mình bốc ra một câu. Ban nhạc hòa tấu khúc ca
thuộc điệu Bắc, bắt đầu một đêm thả thơ trong sự rộn rã, vui tươi.
Trước khi có cuộc thả thơ, những nhà cái chuyên nghiệp thường bỏ
hàng tháng trời để chuẩn bị. Họ lục lọi trong mớ sách cũ, lựa vài cuốn thơ của
những thi sĩ nổi tiếng Trung Hoa và Việt Nam, rồi đọc một cách chậm rãi, kỹ
lưỡng. Họ đọc liên tục từ ngày này sang ngày khác, chọn những câu thơ hay
và ghi vào cuốn sổ, cạnh đó họ ghi thêm những chữ sẽ được dùng để thả sau
37
này. Khi cuốn sổ đã dày đặc nhưng câu thơ chọn, người ta không đọc nữa,
quay sang nghiền ngẫm ý tứ từng câu, từng chữ rồi duyệt lần cuối cùng trước
khi viết vào mảnh giấy bổi. Trong chuyện chọn thơ để thả, nhà cái có nhiều
ngón nghề. Họ thường chọn những bài thơ ít ai biết đến của các tác giả nổi
tiếng để ra đố. Sở học mênh mông như biển, mấy ai đọc hết thơ của thiên hạ
để dự cuộc đánh bạc bằng văn chương. Người ta cũng chọn những câu thơ có
cách dùng chữ không đắt để ra đề nhằm để “trị” những tay chơi sành sỏi và
uyên thâm. Hạng người này có tài thi phú, thuộc nhiều thơ văn nhưng lại mắc
chứng ngông của nhà nho, chỉ chăm chú vào những từ rất đắt để thả, mà bỏ
qua những chữ tầm thường. Kết quả là đôi khi những kẻ thi tài kém cõi hơn
nhưng lập dị, không thích dự vào những chữ người ta đánh nhiều quá nên
chọn chữ khác để thả và “trúng quả”, trong khi bao bậc anh hào vì chủ quan
nên cháy túi. Cái thú vị của trò thả thơ là ở chỗ ấy. Ðó là chưa kể mỗi khi
tiếng thơ được mở, kẻ được bạc cứ ngâm lui, ngâm tới câu thơ thả, giờ đã đầy
đủ ý nghĩa, như để nhấm nháp niềm vui thắng lợi, còn người thua tiền thì lại
tạm lui vào một góc, nhâm nhi chén rượu, lắng nghe vài khúc cổ nhạc hay
một điệu ca Huế để giải khuây chờ ván khác.
ÐỐ THƠ
Có một trò khác cũng liên quan đến chuyện thi văn, nhưng sự thắng
thua không dựa trên học vấn uyên thâm và thi tài của người dự cuộc, mà nhờ
vào óc suy luận và sự láu lĩnh của người chơi. Ðó là trò chơi đố thơ. Trò chơi
này thường do các phú hộ, các hiệu buôn khởi xướng. Ðó vừa là một trò giải
trí, vừa là cách để người ta quảng cáo thương hiệu và uy thế của gia tộc mình.
Trò chơi này có gốc gác Trung Hoa, thường được các đại gia trong khu phố
Tàu bên Gia Hội tổ chức.
Vào ngày đầu tháng hay nhân dịp khai trương một tiệm buôn nào đó,
chủ hiệu đem treo trước ngõ một chiếc lồng đèn có đề thơ và ra điều kiện: sau
một tháng ai giải được câu thơ (hay bài thơ) ấy sẽ được thưởng. Nếu sau một
tháng, không ai có lời giải đúng, chủ nhân sẽ giải đáp và thay vào đó một
chiếc lồng đèn có câu thơ khác, tiếp tục mời người dự giải.
Những người tham gia trò này thường không phải là những nhà người
có học vấn cao hay những người sở đắc “túi thơ” của thiên hạ, vì rằng câu thơ
đề trên chiếc lồng đèn kia, tuy là thơ của một đại thi hào, nhưng lại được sử
dụng cho mục đích khác, xem ra rất ngô nghê, thô lậu. Ðã mang danh kẻ sĩ,
mấy ai chấp nhận cái trò đoán mò vớ vẩn ấy. Vì thế kẻ thắng trong các cuộc
đố thơ như thế thường là những người có trí thông minh nhưng bị người đời
coi là khôn vặt.
38
Ảnh 20: Nơi tổ chức đố thơ trên lồng đèn trong Đêm Hoàng Cung
Dưới đây là hai trong số những câu thơ từng được đề trên lồng đèn để
đố mà một nhân chứng của thuở ấy còn nhớ được.
- Nhất bộ nhất bái đáo Hàn sơn (一 步 一 拜 到 寒 山). Ðố là con gì?
Câu thơ này gợi lại tích Hồng Hài Nhi, vì ngoan cố không chịu quy
phục, nên bị Ðức Quan Thế Âm phạt tội, bằng cách đi một bước, phải lạy một
lạy, cho đến núi Hàn sơn. Hình ảnh này giống như con tôm đang di chuyển,
vừa búng vừa nhảy, nên lời giải của nó là con tôm.
- Nhân diện bất tri hà xứ khứ (人 面 不 知 何 處 去). Ðố là con gì?
Ðây là hai câu kết trong bài thơ Ðề tích sở kiến xứ của Thôi Hộ, đời
Ðường. Hai câu này được giải thích như sau: Nhân diện bất tri hà xứ khứ, có
nghĩa là có kẻ có mặt giống người, không biết đã đi đâu. Trong môn số đề, là
một trò đánh bạc ăn theo trò chơi xổ số, cây đào và con khỉ lại chung với nhau
một con số, nên cây đào cũng chính là con khỉ. Kẻ có khuôn mặt giống người
cũng ngụ ý con khỉ. Vậy lời giải của câu này là con khỉ.
39
Ảnh 21: Thơ đố trên lồng đèn
Với cách ra đố và giải đố như thế, những kẻ chính danh khó mà tham
dự trò này. Nhưng đó cũng là một trò chơi được ưa thích ở Huế xưa vì trong
thiên hạ có kẻ này, người khác, chẳng ai giống ai. Trí lực và sở thích của họ
cũng vậy.
ÐẦU HỒ
Ðầu hồ (投 壺) là một trò chơi có nguồn gốc từ Trung Hoa. Đầu (投)
nghĩa là ném; hồ (壺) nghĩa là cái bình. Trò chơi này được mô tả khá chi tiết
(cùng với 20 hình vẽ minh họa) trong cuốn Nhật dụng bách khoa toàn thư
xuất bản tại Ðài Loan năm 1935.12 Theo sách này, bộ dụng cụ chơi đầu hồ
gồm một chiếc bình cao cổ làm bằng đồng, đường kính miệng khoảng 3 tấc 13
cao khoảng 1 thước đựng đầy hạt đậu nhỏ, hai bên miệng bình có gắn hai cái
tai, là những chiếc ống nhỏ, không có đáy và một bộ tên gồm 12 chiếc, mỗi
12 Nhật dụng bách khoa toàn thư (chữ Hán), Thương vụ ấn thư quán phát hành, Ðài Bắc, 1935, tr.
5330-5335.
13 Kích thước dùng trong sách này theo hệ thống đo lường Trung Hoa: 1 thước = 10 tấc = 40cm.
40
mũi tên dài 2 thước 4 tấc. Người chơi đứng cách chiếc bình một khoảng bằng
2,5 chiều dài mũi tên và tìm cách ném những mũi tên lọt vào miệng bình.
Ngày trước, mỗi người chơi chỉ được ném tối đa là 4 mũi tên. Về sau, luật có
thay đổi, nếu người chơi ném trúng một lượt tên thì giữ quyền ném mũi tên kế
tiếp, đến khi nào ném trật ra ngoài thì mới ngưng lượt. Nếu một người ném
trúng 12 lần liên tiếp thì gọi là toàn hồ, được tôn là hiền (giỏi). Nếu không
vào trọn 12 mũi tên một lượt thì ai đạt 120 điểm trước sẽ là người thắng cuộc.
Nếu có nhiều người cùng đạt 120 điểm thì người nào còn tên nhiều sẽ thắng.
Ảnh 22: Đầu hồ Trung Hoa thời Minh (1368 - 1644)
Một nghiên cứu của Isabelle Lee đăng trên nguyệt san The Oriental
Ceramic Society, tựa là Touhu: Three Millennia of the Chinese Arrow Vase
and the Game of Pitch-Pot14 (Đầu hồ: Ba thiên niên kỷ của chiếc bình đựng
14 “Touhu: Three Millennia of the Chinese Arrow Vase and the Game of Pitch-Pot”, Lecture given
by Isabelle Lee on October 8th 1991, Transactions of The Oriental Ceramic Society. Volume 56.
1991-1992. The Oriental Ceramic Society in Association with Azimuth Editions London, 1993, pp.
13-27.
41
mũi tên Trung Hoa và trò chơi ném tên vào bình), cho biết trò chơi đầu hồ
xuất hiện ở Trung Hoa vào thời nhà Chu (1122 - 249 trước CN); trở nên phổ
biến vào thời kỳ Xuân Thu (770 - 476 trước CN) và liên tục phát triển và cách
tân bởi nhiều triều đại Trung Hoa, cho đến đời Thanh (1644 - 1911) mới
chấm dứt. Đây là trò chơi có nguồn gốc lâu đời và tồn tại dài nhất trong lịch
sử Trung Hoa.
Nhiều nguồn sử liệu thời thượng cổ của Trung Hoa như: Lễ ký, Sử ký,
Tả truyện, Tấn thư, Hậu Hán thư...; nhiều tác phẩm điêu khắc, tranh vẽ, thi
phú, khảo cứu… của các tác giả vô danh và hữu danh trong lịch sử Trung Hoa
đã phản ánh và miêu tả trò chơi nổi tiếng này.
Theo sách Lễ ký, được viết ngay sau khi nhà Chu kết thúc, đầu hồ là
trò chơi ở các tiệc rượu trong giới quý tộc và chư hầu của nhà Chu. Thay vì tổ
chức thi bắn cung trong khi uống rượu, họ đã phát minh ra trò ném những mũi
tên vào những chiếc bình, trước đó, dùng để đựng rượu. Ai ném lọt nhiều mũi
tên vào miệng bình thì được quyền mời rượu người khác. Ai không ném trúng
thì phải chịu phạt, không được từ chối lời mời uống rượu của người chiến
thắng. Theo sách Lễ ký, đầu hồ thường xuất hiện trong các đại tiệc của triều
đình. Nơi tổ chức cuộc chơi thường là sân chầu. Nếu thời tiết không thuận lợi
thì chơi trong nhà. Thời điểm chơi đầu hồ thường vào buổi tối. Lễ ký chép
rằng chơi đầu hồ là một cách thể hiện đức hạnh.
Từ Trung Quốc, trò chơi đầu hồ lan truyền sang Nhật Bản vào thời
nhà Đường (618 - 906); sang Triều Tiên vào thời kỳ Joseon (1290 - 1910) và
sang Việt Nam vào thời Nguyễn (1802 - 1945). Hiện tại, Bảo tàng Shoso-in
(ở Nara, Nhật Bản); Bảo tàng Cố cung và Bảo tàng Hoam6 (ở Seoul, Hàn
Quốc); Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế (ở Huế, Việt Nam) đều đang trưng
bày những bộ đầu hồ cổ, làm bằng nhiều chất liệu khác nhau.
Vào thời Nguyễn, đầu hồ là trò chơi khá phổ biến rất được giới vương
giả, quyền quý ưa chuộng. Richard Orband, nguyên công sứ Trung Kỳ thời
thuộc Pháp, đã có một bài viết trên BAVH vào năm 1917 giới thiệu về những
chiếc đầu hồ bằng pháp lam ở lăng Tự Ðức và xem đó là những cổ vật độc
đáo, hiện thân của các trò tiêu khiển trong cung đình Huế xưa.15 Theo Richard
Orband, trò chơi này thường được tổ chức trong hoàng cung Huế hay các phủ
đệ của những hoàng thân, quan lại triều Nguyễn.
Khác với cách chơi đầu hồ của người Trung Hoa, người Nhật Bản và
người Hàn Quốc, cách chơi đầu hồ ở Huế không ném mũi tên trực tiếp vào
miệng bình mà ném gián tiếp thông qua một vật bằng gỗ, thường gọi nôm na
là con ngựa (có người gọi là con cóc), đặt ở khoảng trống giữa người chơi và
15 R. Orband, “Les Ðâu Hô du tombeau de Tu Ðuc”, BAVH, No. 2, 1917, p. 105.
42
chiếc bình. Như vậy, cách chơi đầu hồ ở Huế khó hơn rất nhiều so với cách
chơi nguyên thủy ở Trung Hoa, Nhật Bản và Triều Tiên.
Ảnh 23: Đầu hồ thời Joseon (1392 - 1910) của Triều Tiên
Người Huế, khi chơi đầu hồ, cần có sự tính toán chính xác để mũi tên
phải gõ vào con ngựa, rồi mới bật ngược để lọt vào miệng bình nhờ lực đàn
43
hồi. Một bộ dụng cụ chơi đầu hồ ở Huế xưa gồm ba món chính: chiếc bình,
những mũi tên và con ngựa.
Ảnh 24: Cách chơi đầu hồ ở Huế xưa
- Chiếc bình: Bình không đáy, dáng như một chiếc nậm đựng rượu, có
thể làm bằng đồng, bằng sứ hay bằng gỗ. Chiếc bình được đặt trên một chiếc
đế có 4 chân, trong lòng chiếc đế này có đặt chiếc trống nhỏ, bịt da một mặt,
để khi mũi tên lọt vào miệng bình, rơi xuống đáy thì đầu mũi tên sẽ gõ lên
mặt trống, phát ra những tiếng: binh! binh! báo hiệu thắng lợi. Trong một vài
trường hợp, người ta còn gắn thêm vào hai bên cổ chiếc bình lớn hai chiếc
bình có hình dáng tương tự nhưng nhỏ hơn, bên trong những chiếc bình nhỏ
này có chứa một ít hạt ngũ cốc phòng khi tên lọt vào sẽ cắm xuống lớp ngũ
cốc mà không bật trở ra. Trong khi ở các nước Trung Quốc, Nhật Bản và
Triều Tiên, chiếc bình chơi đầu hồ chỉ được làm bằng đồng thì chiếc bình
chơi đầu hồ ở Huế được làm bởi nhiều chất liệu khác nhau. Bảo tàng Cổ vật
Cung đình Huế hiện đang trưng bày hai chiếc đầu hồ làm bằng gỗ, hai chiếc
làm bằng pháp lam nạm ngọc và một chiếc bình bằng sứ ký kiểu vẽ rồng năm
móng. Đây là những hiện vật luôn có sức hấp dẫn đặc biệt đối với du khách
tham quan bảo tàng.
44
Ảnh 25a: Du khách chơi đầu hồ trong chương trình Đêm Hoàng Cung
Ảnh 25b: Du khách chơi đầu hồ trong chương trình Đêm Hoàng Cung
- Mũi tên: Tên làm bằng thứ gỗ chắc và dẽo, dài khoảng 65cm - 80cm,
một đầu tròn, một dầu dẹp, ở giữa thon nhỏ, nên có sự đàn hồi. Bộ tên trong
trò chơi đầu hồ ở Huế gồm 12 chiếc, tượng trưng cho 12 tháng trong năm.
45
- Con ngựa: Là một mảnh gỗ hình bầu dục, dài 40cm, rộng 25cm, cao
5cm. Ðây là vật để những mũi tên sẽ gõ vào rồi bật ngược lên, trước khi bay
về phía miệng bình.
Ngoài ra, còn có thêm cái ống gỗ đựng những thẻ nhỏ để tính điểm
cho những lần ném thẻ lọt vào miệng bình. Có bao nhiêu mũi tên thì có bấy
nhiêu thẻ.
Vào dịp xuân về hay những lúc rảnh rỗi, các quan lại, hoàng thân triều
Nguyễn thường tổ chức chơi đầu hồ nơi các phủ đệ. Sau một tuần rượu, lúc
bầu không khí đã trở nên hứng khởi, thì trò chơi đầu hồ được bắt đầu. Chủ
nhân cuộc rượu, cũng là người tổ chức cuộc vui, ngỏ lời: “Thưa quý khách,
sau khi được mời quý khách dùng chén rượu nhạt đầu xuân, nay chúng tôi
dâng lên một cái bình xấu xí và vài ba mũi tên cong queo để quý vị giải trí”.
Thông thường, khách cũng ý nhị đáp lại: “Kính thưa quý chủ nhân, chúng tôi
đã được dùng rượu ngon và những món ăn tuyệt trần, nay lại được tham dự
một trò giải trí tao nhã và quý phái, hẳn vinh dự đó lớn quá. Chúng tôi không
dám nhận lời”. Gia chủ khiêm nhường và kiên nhẫn nhắc lại lời mời cho đến
lúc tất cả cùng cử tửu chúc sức khỏe, coi như chấp thuận lời mời. Ấy là lúc trò
chơi bắt đầu.
Sau khi công bố cách thức và thể lệ cuộc chơi, mỗi người dự cuộc đều
nhận được bốn mũi tên, làm bằng gỗ táo hay gỗ dâu, có một đầu dẹp, đầu kia
thon tròn, có sức đàn hồi rất lớn. Người chơi đứng cách con ngựa gỗ chừng ba
bước chân rồi lần lượt ném bốn mũi tên, sao cho nó phải gõ vào con ngựa, bật
lên, rồi bay lọt vào miệng bình là được một điểm và được nhận một chiếc thẻ
tính điểm. Người nào chưa có lệnh mà ném tên đi hoặc đứng không đúng chỗ
quy định sẽ không được tính điểm và không phát thẻ. Người nào được ba thẻ
là thắng cuộc. Họ sẽ được quyền mời rượu mọi người mà không ai có quyền
từ chối, đồng thời, họ được tiếp tục điều khiển cuộc chơi. Ðể cuộc chơi thêm
phần ngoạn mục và sinh động, người ta thường mời một ban nhạc đến giúp
vui. Ban nhạc thường chơi một bản nhạc, có tên là Ðầu hồ, để phụ họa cho
cuộc so tài.
Theo nhiều nguồn tư liệu và lời thuật của một số nhân chứng thời
Nguyễn, thì vua Tự Ðức (1848 - 1883) và vua Bảo Ðại (1926 - 1945) là hai
ông vua chơi đầu hồ rất giỏi. Vua Bảo Ðại không chỉ ném tên lọt vào miệng
chiếc bình lớn, mà những mũi tên còn lọt vào hai chiếc bình nhỏ gắn trên cổ
chiếc bình lớn. Một chiếc bình kiểu này hiện vẫn còn lưu giữ tại Bảo tàng Cổ
vật Cung đình Huế.
Đầu hồ là một trò chơi tao nhã, không nặng tính ăn thua, sát phạt, nên
được giới quyền quý, thức giả ở Huế xưa ưa chuộng.
46
ÐỔ XĂM HƯỜNG
Ðổ xăm hường là một trò chơi tao nhã, có nguồn gốc Trung Hoa,
nhưng rất được người Huế ưa chuộng. Thoạt tiên, trò chơi này xuất phát từ
trong cung, về sau phổ biến trong dinh thự của các vương tôn, công tử và
quan lại triều đình nhà Nguyễn, rồi mới lan truyền ra dân gian.
Xăm có nguồn gốc từ chữ thiêm (籤) nghĩa là cái thẻ. Hường là cách
đọc trại từ chữ hồng (紅), nghĩa là màu hồng, do âm hồng có trong chữ Hồng
Nhậm (洪 任), là tên của vua Tự Ðức nên phải kiêng. Ðổ xăm hường là trò
chơi gieo các hột súc sắc (còn gọi là hột tào cáo, hột xí ngầu) để dành những
chiếc thẻ khắc chữ màu đỏ, ghi các học vị trong hệ thống khoa cử thời xưa
gồm: tú tài, cử nhân, tiến sĩ, hội nguyên, thám hoa, bảng nhãn và trạng
nguyên. Chính tên gọi của các quân cờ đã thể hiện cái nho nhã của trò chơi và
tinh thần cầu học và ước vọng khoa bảng của người xưa.
Một bộ xăm hường gồm ba món chính: bộ thẻ (xăm), sáu hột súc sắc
và chiếc tô sứ sâu lòng để gieo súc sắc (đổ hột). Ngày trước, người chơi phải
nhọc công để tìm cho được một chiếc tô sứ men lam làm từ đời Minh - Thanh
bên Tàu để tiếng đổ hột mới thanh và vang xa. Riêng bộ thẻ thì tùy mức độ
sang hèn của chủ nhân mà được làm bằng ngà voi, xương thú hay cật tre.
Ảnh 26: Bộ xăm hường phục chế theo nguyên mẫu bộ xăm hường của
vua Tự Đức dùng trong chương trình Đêm Hoàng Cung ở Đại Nội Huế
47
Trong điện Hòa Khiêm ở lăng Tự Ðức vẫn còn lưu giữ một bộ xăm
hường làm bằng ngà voi, chạm trổ rất đẹp, vốn là vương bảo của vua Tự Ðức.
Chủ nhân Ngọc Sơn công chúa từ đường ở đường Nguyễn Chí Thanh vẫn còn
lưu giữ được một bộ xăm hường khác làm từ đời vua Ðồng Khánh (1885 -
1889). Ngày nay, các bộ xăm hường bán ở chợ Ðông Ba thường được làm
bằng xương, cũng chạm trổ cầu kỳ nhưng các chữ Hán được thay bằng các
hình vẽ có màu sắc loè loẹt và những dấu chấm màu đỏ. Ngoài ra cũng cần
phải kể đến chiếc hộp để cất những chiếc xăm và các con súc sắc. Ðó là
những chiếc hộp làm bằng gỗ quý bên ngoài có các hình trang trí bằng sơn
son thếp vàng hay cẩn xà cừ. Như thế mới tương xứng với những “ông trạng,
ông nghè” làm bằng ngà, được cất giữ trong hộp.
Mỗi bộ xăm hường có 63 chiếc thẻ. Thẻ cao nhất là thẻ trạng nguyên
(1 thẻ), có giá trị là 32 điểm. Tiếp theo gồm: 1 thẻ bảng nhãn và 1 thẻ thám
hoa (16 điểm/thẻ); 4 thẻ hội nguyên (8 điểm/thẻ), 8 thẻ tiến sĩ (4 điểm/thẻ), 16
thẻ cử nhân (2 điểm/thẻ) và 32 thẻ tú tài (1 điểm/thẻ).
Ảnh 27a: Đổ xăm hường trong chương trình Đêm Hoàng Cung
Trò chơi dùng sáu hột súc sắc, mỗi con có sáu mặt khắc các dấu chấm
theo thứ tự: nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục, trong đó, mặt nhất và mặt tứ tô màu
đỏ, các mặt khác được tô màu đen. Khi chơi, người ta gieo/đổ/thả cả sáu con
súc sắc vào chiếc tô sứ rồi căn cứ vào các mặt hiện ra để tính điểm và nhận
cho mình chiếc thẻ thích hợp. Thang điểm cơ bản dựa trên mặt tứ, gọi là
hường (Xem Phụ lục 5b).
48
Ảnh 27b: Đổ xăm hường trong chương trình Đêm Hoàng Cung
Số người tham dự trò chơi xăm hường có thể là bốn, năm hay sáu
người. Tùy theo số người chơi mà định ra các luật lệ như: bán trạng, mua
trạng và định mức độ ăn thua. Ngoài ra, tùy từng trường hợp cụ thể mà định
ra cách thức cướp trạng khi thẻ này đã về tay người khác, hay cách lấy các thẻ
tương ứng với một thẻ có số điểm cao hơn nhưng đã thuộc về người khác,
trước khi người thứ hai đạt được thẻ đó. Khi số thẻ được lấy hết có nghĩa một
ván cờ đã kết thúc và người ta dựa vào số thẻ có ở từng người để xác định kẻ
thắng người thua.
Ðiều thú vị là hoàn toàn không có tính sát phạt trong trò chơi đổ xăm
hường mà chủ yếu nhờ vào sự may rủi. Người ta thường chơi xăm hường
trong những dịp đầu xuân, vừa để giải trí trong ba ngày Tết, vừa để thử vận
hên xui của mình trong một năm, hơn là để thỏa mãn thú đỏ đen như những
trò cờ bạc khác. Thậm chí, mỗi khi đổ được lục phú hường, đoạt tất cả các thẻ
có trong cuộc chơi và được nhân đôi số điểm có trên tất cả các thẻ, thì thay vì
vui mừng, người Huế lại lo âu. Nguyên do là vì họ cho rằng khi cái may đạt
đến tột đỉnh thì kế tiếp sẽ gặp điều xui xẻo. Đây chính là điều thú vị trong lối
suy nghĩ và thái độ ứng xử của người Huế. Trò đổ xăm hường phản ánh khát
vọng đỗ đạt, nếp nghĩ và lối sống của người Huế nên được người Huế ưa
chuộng. Vì thế, trò chơi này mới lan truyền sâu rộng nơi mảnh đất cố đô và
vẫn tồn tại cho đến bây giờ.
49
CỜ TƯỚNG VÀ CÁC BIẾN THỂ CỦA CỜ TƯỚNG16
Ở Huế, chơi cờ tướng là một trong những môn giải trí được nhiều
người ưa thích. Bộ cờ tướng có 32 quân cờ được tô 2 màu: đỏ và trắng hoặc
đỏ và xanh. Mỗi màu có 16 quân cờ, gồm: 1 tướng, 2 sĩ, 2 tượng, 2 xe, 2
pháo, 2 mã và 5 tốt. Ngoài lối đánh cờ tướng thông thường theo luật chơi cờ
tướng của người Trung Quốc, nghĩa là khởi đánh từ đầu ván với đầy đủ 32
quân cờ, người Huế còn chơi cờ thế, tức là chơi những ván cờ tàn, trên bàn cờ
chỉ còn 5 hoặc 6 quân cờ mà thôi. Ðó là những ván cờ trí tuệ và người chơi
thường là những tay chuyên nghiệp, chuyên đánh độ để ăn tiền.
Ngoài ra, từ các quân cờ trong bộ cờ tướng, người ta còn tạo ra các lối
chơi khác như: cờ chồng, cờ quân, cờ oi… là những lối chơi phổ thông, có số
người tham gia đông hơn các ván cờ tướng phổ dụng. Người lớn, trẻ em đều
có thể tham gia những cuộc cờ này trong bầu không khí ấm áp, thân mật của
gia đình, làng xóm.
- Cờ chồng là trò chơi sử dụng bộ cờ tướng để chơi, trong đó các quân
cờ của người thắng chồng lên các quân cờ của người thua. Ðây là một trong
những trò chơi rèn luyện trí thông minh và rất được người Huế ưa chuộng.
Trò chơi này dùng bộ cờ tướng gồm 32 quân cờ nhưng chỉ khắc chữ trên một
mặt. Số người chơi thường là số chẵn: hai hoặc bốn người.
Vào cuộc chơi, người chơi úp các quân cờ trên mặt chiếu hay mặt bàn,
trộn đều, rồi xếp thành vòng tròn. Sau đó, người chơi sẽ “bốc xăm” để chọn
người bốc cờ trước, cũng là người đi nước cờ đầu tiên.
Theo quy định, giá trị của các quân cờ theo thứ tự từ lớn đến nhỏ lần
lượt là: tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, mã, tốt. Nếu hai quân cờ đều cùng chức
danh, thì quân cờ tô màu đỏ có giá trị lớn hơn quân cờ tô màu trắng. Ví dụ:
tướng đỏ lớn hơn tướng trắng... Nếu trong một nước, các quân cờ xuất ra đều
cùng chức danh, cùng màu, chẳng hạn đều là quân xe đỏ, thì quân cờ của
người ngồi tay trên, tính theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, sẽ được tính
thắng quân cờ của người ngồi tay dưới.
Tùy theo giá trị và số lượng của từng quân cờ mà có những cách xuất
quân khác nhau:
- Xuất từng quân một, áp dụng cho tất cả các quân cờ.
- Xuất từng đôi, áp dụng cho tất cả các quân cờ, trừ quân tướng.
- Xuất bộ tam (ba) với các bộ: tướng - sĩ - tượng và xe - pháo - mã.
16 Tác giả tiểu luận này chân thành cám ơn ông Trần Tuấn Anh, cán bộ Sở VHTT Thừa Thiên Huế
đã giúp đỡ tác giả các tư liệu liên quan đến trò chơi cờ tướng và các biến thể từ trò cờ tướng được
sử dụng trong tiểu luận này.
50
- Xuất bộ tứ (bốn) và bộ ngũ (năm) dùng cho những quân tốt.
Trong quá trình chơi, người nào có quân cờ thắng, còn gọi là “nổi”, sẽ
lật ngữa quân cờ ấy và chồng lên quân cờ thua, đồng thời được quyền xuất
nước cờ kế tiếp. Tàn cuộc cờ, ai có nhiều quân cờ “nổi” sẽ là người thắng
cuộc. Một ván cờ nếu chơi bốn người sẽ có hai người thắng (thắng nhất và
thắng nhì) và hai người thua (thua nhì và thua nhất). Người thắng nhất sẽ ăn
tiền/điểm của người thua nhất và người thắng nhì sẽ ăn tiền/điểm của người
thua nhì.
- Cờ oi: Cờ oi là một trò chơi biến thể từ cờ tướng, được đơn giản hóa
theo một nguyên tắc và quy định riêng. Dụng cụ cơ bản nhất của trò cờ oi là
bộ cờ tướng gồm 32 quân cờ với các quân cờ chỉ có một mặt khắc chữ.
Oi là cái giỏ tre, dụng cụ thường thấy của cư dân nông nghiệp và nhất
là người dân vùng nông thôn hay vùng ven đầm phá Tam Giang - Cầu Hai -
Lăng Cô dùng để đựng cá, tôm trong sinh hoạt sản xuất, đánh bắt thủy sản.
Vốn là những người từ nông dân quanh năm chân lấm tay bùn, họ đã tận dụng
loại công cụ dùng trong việc đánh bắt thủy sản này để tạo ra một trò chơi
nhằm thư giản trong mấy ngày xuân. Cũng có cũng có người kỳ công tự mình
đan lấy cái oi riêng, để vừa sử dụng trong cuộc vui, vừa khoe tài khéo léo. Do
vậy, trò chơi này được gọi là cờ oi.
Trong trò cờ oi, người chơi sử dụng con vụ có bốn mặt (ký hiệu từ
nhất đến tứ tựa con súc sắc) để phân thứ tự bốc cờ của các người chơi. Trước
khi bắt đầu cuộc cờ, người chơi xếp cờ thành một hàng hoặc vòng tròn rồi
xoay con vụ. Nếu con vụ hiện mặt nhất thì người xoay con vụ được bốc cờ
đầu tiên; nếu con vụ chỉ mặt nhị thì người ngồi bên tay phải bốc cờ; con vụ
chỉ mặt tam thì người ngồi bên tay phải của người thứ hai bốc cờ; con vụ chỉ
mặt tứ thì người ngồi bên tay phải của người thứ ba bốc cờ. Người được bốc
cờ đầu tiên vừa đồng thời được quyền thách đấu.
Cờ oi là trò chơi mang tính sát phạt với bốn tay chơi, nên người xưa
đã đưa ra một số quy định:
- Các quân cờ được tính điểm như sau: quân tướng được tính 7 điểm
(còn gọi là nút); quân sĩ được tính 6 điểm; quân tượng được tính 5 điểm; quân
xe được tính 4 điểm; quân pháo được tính 3 điểm; quân mã được tính 2 điểm;
tốt được tính 1 điểm.
- Các quân cờ có tên giống nhau thì quân màu đỏ được quy định có
giá trị lớn hơn quân cờ màu trắng. Ví dụ, tướng đỏ cao hơn tướng trắng; sĩ đỏ
cao hơn sĩ trắng... Ðặc biệt, khi xuất quân nếu có hai tay chơi cùng ra hai
quân cờ như nhau (cùng tên và cùng màu) thì tay trên (tính theo chiều ngược
chiều quay của kim đồng hồ) sẽ thắng tay dưới.
51
Có nhiều cách xuất quân khác nhau, trong đó:
- Xuất từng quân một, áp dụng cho tất cả các quân cờ.
- Xuất từng đôi, áp dụng cho tất cả các quân cờ, trừ quân tướng.
- Xuất bộ tam (ba), gồm các bộ: tướng - sĩ - tượng và xe - pháo - mã.
- Xuất bộ tứ (bốn) và bộ ngũ (năm) dùng cho những quân tốt.
Trong quá trình xuất quân để đối chọi với các tay chơi khác, người
chơi phải khéo léo để giành được phần thắng cho mỗi lần xuất quân, quân cờ
thắng được gọi là cờ “nổi”, quân cờ thua được đem bỏ vào trong oi. Người có
quân cờ “nổi” được quyền thách đấu.
Việc phân định thắng bại của một cuộc cờ được quy định như sau: Khi
ván cờ kết thúc, người nào có hai quân cờ “nổi” được tính là hòa; người có
một quân cờ “nổi” thì thua một quân; người không có quân cờ nổi thì thua hai
quân.
Ðể cuộc chơi thêm gay cấn, hấp dẫn, người ta còn quy định:
+ Ăn trắng được tính gấp đôi (ba người chơi kia phải thua bốn quân cờ
trong một ván), khi một người chơi có cả tám quân cờ “nổi”.
+ Ăn xúc được tính gấp hai lần ăn trắng khi người thách đấu xuất
thành công đôi tốt trắng trong lần xuất quân cuối cùng.
+ Ăn đền được tính cho người có đôi tốt đỏ (trong khi hai tay chơi còn
lại không có đôi) để chặn đứng ý định ăn xúc của người thách đấu.
- Cờ quân: Trong trò chơi cờ quân, người ta cũng sử dụng bộ cờ
tướng, chiếc oi và con vụ có bốn mặt để phân thứ tự bốc cờ của các người
chơi. Trước khi bắt đầu cuộc cờ, người chơi xếp cờ thành một hàng hoặc
vòng tròn rồi xoay con vụ. Nếu con vụ hiện mặt nhất thì người xoay con vụ
được bốc cờ đầu tiên; nếu con vụ chỉ mặt nhị thì người ngồi bên tay phải bốc
cờ; con vụ chỉ mặt tam thì người ngồi bên tay phải của người thứ hai bốc cờ;
con vụ chỉ mặt tứ thì người ngồi bên tay phải của người thứ ba bốc cờ. Người
được bốc cờ đầu tiên vừa đồng thời được quyền thách đấu.
Các quy định trong xuất quân, cách tính quân cờ lớn nhỏ của cờ quân
tương tự như cờ oi, nhưng cách tính thắng bại của cuộc cờ thì khác nhau:
+ Tay chơi nào có quân cờ “nổi” sau cùng (có thể là đôi hoặc một
nhưng không phải quân tướng) sẽ thắng các tay chơi còn lại.
+ Ăn xúc được tính cho tay thách đấu xuất thành công đôi tốt trắng.
+ Ăn đền được tính cho người có đôi tốt đỏ (trong khi hai tay chơi còn
lại không có đôi) để chặn đứng ý định ăn xúc của người thách đối.
52
+ Ăn trắng được tính cho tay chơi có cả tám quân cờ “nổi”.
+ Nếu quân cờ “nổi” sau cùng là quân tướng, ván cờ sẽ được tính hòa.
HOÀNG TIẾN * BÌNH LUẬN VĂN HỌC
Bình luận sai còn khoe chữ!
Cụ thể là bài bình luận của phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đăng Na “Về bài
thơ nôm số 79 của Nguyễn Bỉnh Khiêm” đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 4,
2009. Bài thơ trên in trong sách giáo khoa “Ngữ văn lớp 10” (tập một)
dùng cho học sinh phổ thông trung học.
Nhàn
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dù ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Những ghi chú hướng dẫn của sách giáo khoa nhằm giúp học sinh hiểu được
chữ “Nhàn” của người xưa, cụ thể ở Nguyễn Binh Khiêm, đặt thân mình ra
ngoài vòng danh lợi đua chen, lấy nhàn tâm, dưỡng tính, an nhiên tự tại
làm quan niệm nhân sinh lý tưởng.
Bài thơ thuần chữ Nôm, không pha chữ Hán. Câu chữ dễ hiểu với mọi
người.
Không dùng điển cố hay rất ít dùng điển cố. Đấy là đặc điểm nổi bật về
thơ quốc âm của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Vậy mà đọc bài của ông Nguyễn Đăng Na, thấy ông đưa ra cơ man là điển
cố. Nào là bài Kích nhưỡng ca từ Nhạc phủ, rồi Mặc tử, Trang tử, Hàn Phi
tử. Gán cho Nguyễn Bỉnh Khiêm tư tưởng của Hàn Phi tử biểu hiện ở một
mai, một cuốc …
Rồi điển cố Khương Tử Nha (Lã Vọng) với cần câu lưỡi thẳng. Rồi Kinh Thi
phần Vệ phong với bài “Trúc can”: cành tre dài von vót, để câu ở sông
Kỳ. Rồi thơ về măng của Lương Tiêu Sâm đời Tống, thơ về măng của Đỗ Phủ
đời Đường. Mã Viện cho rằng măng đông ngon hơn măng cuối xuân đầu hè.
Rồi Tô Tụng cho măng trúc đắng mùa thu là quý nhất. Rồi Lý Thời Trân
danh y nổi tiếng cũng nói về măng trúc đắng. Rồi hình nhi thượng, hình
nhi ha.
Đại loại, ăn măng, ăn giá là hình nhi hạ; tắm hồ, tắm ao là hình nhi
thượng…Nghĩa là cứ loạn cả lên.
Nó gây cho người đọc một phản cảm, tác giả khoe kiến
thức. Kiến thức đầy bồ, nhưng đặt không đúng chỗ, vì đây là bài học cho
học sinh phổ thông lớp 10, lớp đầu tiên của phổ thông trung học. Ông Na
hoặc là người cuồng chữ, loạn chữ, hoặc là người tâm thần ở dạng vĩ
cuồng. Coi thiên hạ bằng nửa con mắt.
Dẫn chứng một: Ông Na viết: “Vậy mà, cũng có người viết
rằng, cần câu là công cụ lao động… để bắt cá” (sách giáo khoa). Thôi
thì, đành phải cung cấp cái gọi là “cần câu” vậy!” (trang 70. Tạp chí
Hán Nôm số 4, 2009)
Rõ ra giọng điệu cao ngạo, khinh đời. Nói nôm na là: Các
anh ngu lắm. Thôi thì, (hãy giỏng tai lên) mà nghe ta giảng giải cho
biết thế nào là cái cần câu.
Dẫn chứng hai: Ông Na viết: “Vậy mà, có người biến Nguyễn Bỉnh Khiêm
thành nông dân lao động cần cù, đào đất, cuốc xới đất, bắt cá… Chẳng
hạn, trong các sách Trung học phổ thông với đầu đề “1. Vẻ đẹp cuộc sống”
của Nguyễn Bỉnh Khiêm, họ ghi: “…
Cụ Trạng về sống giữa thôn quê như một “lão nông tri điền”, với những
công cụ lao động: mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần câu để bắt cá”.
Tôi biết bình luận gì đây?” (trang 70. Tạp chí Hán Nôm số 4, 2009)
Có nghĩa là: Tôi không buồn nói nữa, vì các anh quá dốt.
Dẫn chứng ba: Sách giáo khoa ghi: “Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mùa nào
thiên nhiên cũng là môi trường sống thanh tao: Thu ăn măng trúc, đông ăn
giá, / Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Hai câu thơ là một bộ tranh tứ quý,
có cảnh, có người, có mùi vị, có hương sắc”. (Ngữ văn 10. Tập một. Sách
giáo viên).
Ông Na bình phẩm: “Ôi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đâu xếp tứ quý theo lối vẹt
hót: xuân, hạ, thu, đông! Ông cũng chưa bao giờ làm việc môi trường! Một
bộ tứ quý, đặt bức nào trước, bức nào sau, đâu phải cứ sắp xếp bừa?
(trang 71. Tạp chí Hán Nôm số 4, 2009).
Ông Na cũng là giáo viên dạy trường Đại học Sư phạm Hà
Nội I, nỡ lòng nào hạ bút phê phán đồng nghiệp mình như thế. Họ là những
con vẹt vì nói theo thứ tự xuân, hạ, thu, đông, còn ông Na không phải
là vẹt thì ông xếp bốn mùa theo kiểu nào đây? Không thấy ông trình ra.
Ông Na viết nối tiếp câu trên: “Vả chăng, tranh tứ quý vốn do người
Việt Nam thời trung đại thường viết chữ Hán, chữ Nôm… Thành thử, trẻ
không đọc được nên xếp lộn bốn mùa”. (trang 71. Tạp chí Hán Nôm số 4,
2009)
Thú thật, tôi không hiểu ông Na định nói gì ở câu viết
này. Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng xếp lộn thu, đông, xuân, hạ, thì chẳng lẽ
cũng như trẻ con vì không đọc được chữ Hán, chữ Nôm chăng?
Ông Na viết tiếp: “Câu đầu, Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ăn lên
trên và đặt song trùng: ăn (măng) // ăn (giá). Đấy là hình nhi hạ. Câu
sau, thi nhân vẫn dùng phương pháp sóng đôi: tắm (hồ) // tắm (ao). Đây
mới chính là hình nhi thượng. Hai câu luận song song đối nhau.
Nhưng, ngay trong mỗi câu, Nguyễn Bỉnh Khiêm lại chặt đôi: hình nhi
thượng trước (măng trúc) // hình nhi hạ sau (giá). Măng trúc do trời
ban, thiên nhiên ban; còn giá bởi con người vất vả làm ra. Câu sau vẫn
theo lối cấu trúc: Hình nhi thượng trên – hồ sen do ông xanh tạo hóa,
ông ban cho được tắm hương trời; mà nếu, ông xanh không cho thì vui vẻ
trở về tắm ao (cũng có thể tắm ao tù) – Hình nhị hạ dưới. Con người tự
làm, chẳng phái đội Thiên tử”. (trang 71. Tạp chí Hán Nôm số 4, 2009)
Không biết ông phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Đăng Na hiểu
khái niệm triết học hình nhi thượng, hình nhi hạ như thế nào, mà viết
rối rắm như trên.
Xin mách ông một định nghĩa cơ bản về hình nhi thượng và hình nhi hạ
theo Hán Việt từ điển của cụ Đào Duy Anh như sau:
Hình nhi thượng: (triết) Kinh Dịch nói: hình nhi thượng
dã vị chi đạo, nghĩa là: từ cái hình chất trở lên gọi là đạo. Hình nhi
thượng tức là cái vô hình, là tinh thần, đạo lý (abstrait, esprit).
Hình nhi hạ: (triết) Kinh Dịch nói: hình nhi hạ dã vị
chi khí, nghĩa là: từ cái hình chất trở xuống gọi là khí. Hình nhi hạ
tức là những cái hữu hình (concret, matière). (trang 364 Hán Việt từ
điển. Đào Duy Anh. Quyển thượng. In lần thứ ba. Trường Thi xuất bản. Sài
Gòn 1957).
Ông Na có thể đối chiếu kiểm tra lại bài viết của mình để thấy những
chỗ sai lầm về khái niệm hình nhi thượng và hình nhi hạ. Còn nếu ông cứ
cho mình là đúng, hiểu như ông mới thật là tuyệt vời, là đỉnh điểm; hiểu
như mọi người là tầm thường, là thô lậu, là sai, thì lại phải dùng
chính cách nói của ông để trả lời ông trong trường hợp này: Còn biết nói
gì với ông nữa đây!
Kiểu nói của ông Na là kiểu nói lấy được, theo ý mình.
Ông viết: “Khi phá đề, Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy ngay điển từ Nhạc phủ -
bài Kích nhưỡng ca để mở đề: “Tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực”;
nghĩa là: “đào giếng để mà uống, cầy ruộng để mà ăn”. (trang 69. Tạp
chí Hán Nôm số 4, 2009).
Tại sao lại nói cách khẳng định xưng xưng như thế? Ông
Na có phải là cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm đâu mà biết khi phá đề cụ lấy ngay
điển từ Nhạc phủ.
Một mai, một cuốc, một cần câu là những từ ngữ nông dân thường nói. Cụ
Nguyễn Bỉnh Khiêm từ quan (làm quan 8 năm) về sống với dân có thể học
người dân, chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ dân gian đưa vào tác phẩm, chứ cứ
gì phải lấy điển cố từ Nhạc phủ - Trung Quốc. Hơn nữa cụ Nguyễn Bỉnh
Khiêm sao lại không thể tự mình nghĩ ra, cụ là bậc thầy nho, y, lý, số,
cứ gì phải bám vào ai, lấy ý tưởng của ai.
Kiểu nói như ông Na tưởng làm sang cho cụ Nguyễn Bỉnh
Khiêm, nhưng nó lại gây những phản ứng ngược. Thời xưa, kẻ sĩ luôn miệng
Khổng tử viết, Mạnh tử viết. Thời Liên Xô còn đứng đầu phe Xã hội chủ
nghĩa, mà nước ta là thành viên, thì luôn trích dẫn những ông Ốp, ông Ép
ở đầu lưỡi. Rồi Mao Chủ tịch nói, Chu Ân Lai nói, Lưu Thiếu Kỳ nói…
Đó là cái tư tưởng sùng ngoại, hay nói một cách khác, tư tưởng nô lệ
nước ngoài của một số người làm nghiên cứu phê bình văn học nước ta.
Việc gán ghép một mai, một cuốc, lấy điển cố từ Kích
nhưỡng ca vừa khiên cưỡng vừa xa lạ. Kích nhưỡng ca có tứ: đào giếng để
mà uống, cầy ruộng để mà ăn. Còn bài của Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ nói một
mai, một cuốc, chứ đâu có đào giếng để mà uống… Ông Na còn trích một câu
của Hàn Phi tử: “Ngô bất thần thiên tử, bất hữu chư hầu, canh tác nhi
thực chi, quật tỉnh nhi ẩm chi”, nghĩa là: Ta không làm bề tôi của thiên
tử, không làm bạn với các nước chư hầu, cầy ruộng mà ăn thứ đó, đào
giếng mà lấy nước đó uống”.
Rồi ông Na đi đến kết luận: “Vì thế, ông (tức Nguyễn Bỉnh Khiêm) theo
Hàn Phi, đấy là tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm biểu hiện Một mai,một cuốc…”
(Trang 69 Tạp chí Hán Nôm số 4, 2009)
Bình luận của ông Na quá ư là khiên cưỡng, nếu không muốn nói râu ông nọ
cắm cằm bà kia.
Nghe ông Na giảng giải về cần câu, thì ra ở đây không phải là chiếc cần
câu cá thông thường, mà là chiếc cần câu lưỡi thẳng của ông Khương Tử
Nha. Một cách thức tự giới thiệu mình để các bậc quân vương để mắt tới.
Hiểu như ông Na chẳng những là cố gán ghép, lại còn sai nữa.
Vì sao? Vì cụ Lã Vọng (80 tuổi) vẫn ngồi câu bên sông Vị là muốn chờ tìm
một minh quân để phò tá trổ tài kinh bang tế thế. Cụ đã được toại
nguyện giúp Vũ vương diệt Thương Trụ, lập nên triều nhà Chu. Còn cụ
Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà ta đã từ quan về ở ẩn, không màng danh lợi, lấy
nhàn làm vui, thì cần gì chiếc cần câu lưỡi thẳng của Khương Tử Nha. Cụ
chỉ cần chiếc cần câu của nông dân để câu cá, di dưỡng tinh thần, là thú
vui của các bậc túc nho về ở ẩn trước kia. Lại nhớ đến bài “Mùa thu câu
cá” (Thu điếu) của cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo …
Và hai câu kết:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Không được cá cũng không sao. Di dưỡng tinh thần là chính. Hiểu câu Một
mai, một cuốc, một cần câu một cách bình thường dân dã như thế, có gì
là sai, là thấp kém. Nó trong sáng, bình dị, thanh thản. Thú quá đi chứ!
(Thơ thẩn dù ai vui thú nào, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết như thế). Nó đủ
sức hấp dẫn làm rung động lòng người, không cần phải nhét thêm những
điển cố của Nhạc phủ, của Kinh Thi, của Trang tử…vv…trang trí cho nó
thêm nặng đồng cân.
Chữ giá trong bài thơ hiểu như rau giá, thứ rau bằng mầm của hột đậu
xanh ngâm ủ mọc lên (Sách giáo khoa), thì cũng có gì là sai. Ông Na, khi
bàn về chữ giá, kể ra Từ điển chữ Nôm có 7 chữ giá. (Xin mách
Bản tra chữ Nôm của Viện Ngôn Ngữ, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, 1976,
có ghi 11 chữ giá). Rồi ông chọn chữ giá ( ) bộ hòa ( ) bên chữ
gia ( ). Cuối cùng cũng chỉ đi đến kết luận: giá có hai nghĩa, động
từ là cầy cấy, trồng trọt, danh từ là thóc gạo, ngũ cốc như trong Từ
điển Hán Việt đã ghi. Ông Na ngả về nghĩa thóc gạo, ngũ cốc. Mà ngũ cốc
là bao gồm có đỗ trong đó rồi.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Giá là rau giá, giá đỗ.
Ông Na viết: “Thế là, có người tóm ngay và lấy làm sung sướng, vừa nhấm
nháp, vừa gật gù, tán dương về Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Mùa thu ăn măng
trúc, mùa đông ăn giá đỗ, nhưng câu thơ “thu ăn măng trúc, đông ăn
giá”, nói như Xuân Diệu là có cảm giác”ăn giá tuyết, uống băng đông”.
Cách viết tinh tế trong câu thơ là biểu hiện của cảm nhận tinh tế về
thiên nhiên của tác giả”. (Sách giáo khoa. Bài tập…trang 89, Ôn
tập…trang 63, Ngữ văn 10…trang 168. Ghi chú của chính ông Na).
Vậy, nhận định của sách giáo khoa, kể cả cảm nhận của nhà thơ Xuân
Diệu, có chỗ nào sai, để khiến ông Na phải phẫn nộ viết: “Thế là, có
người tóm ngay và lấy làm sung sướng, vừa nhấm nháp, vừa gật gù, tán
dương về Nguyễn Bỉnh Khiêm…” Viết như thế là có ý chê trách sách giáo
khoa, chứ đâu phải khen. Đúng không ông Na? Nhưng chê trách như thế nào,
lại không nói được ra, như một người hụt hơi, đuối sức, đấm loạng quạng
trên đấu sàn chữ nghĩa.
Ông Na còn hẹn sẽ viết một bài nữa để bàn về nhan đề “Nhàn” và phần Kết
của Bài 79 thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đáng ra có thể đợi đọc bài nữa của
ông Na rồi mới góp ý.
Nhưng không biết bao giờ in ra. Lại nghĩ, dù ông Na có viết thêm một bài
nữa, thì cách thức cũng như bài một mà thôi. Cho nên chẳng cần phải
đợi, góp ý sớm có khi cũng hay, để người ta đỡ lội vào vũng lầy cứ đi
mãi.
Phản biện, tranh luận về học thuật là cần thiết. Có thế học thuật mới
phát triển được.
Bình luận cho phải lý, không nên đi quá xa tác phẩm, không nên chỉ để
khoe kiến thức. Độc giả người ta tinh lắm đấy. Nói về kiến thức quảng
bác thì không ai bằng ông mạng (Internet) hiện nay. Cho nên người hiểu
biết, càng cần khiêm tốn.
Đất thiêng Thăng Long, Rằm Trung Thu Kỷ Sửu (2009)
Nhà văn Hoàng Tiến.
Nguồn: hoinhavanvietnam.vn
VỀ GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI
GIÁO-HOÀNG PHAOLÔ VI
... Ngày 4-10-1965, Giáo Hoàng Paul VI viếng nước Mỹ.
Sau
chuyến đi cuả GH Paul VI, màu sắc ngoại giao Roma rõ nét: liên lạc trực tiếp với Hà Nội
và Trung Quốc. Hồng y IginoEugenio liên lạc với đại diện VN ở Âu châu.
Hồng y Paolo Bertoli qua trung gian người Pháp làm việc với Saigon và Hà
Nội.
Đại diện Vatican ở Cambodia tiếp xúc với Việt-Cộng.
Học giả, luật gia, sử gia, hàng giáo phẩm, nhân viên ngoại giao… đổ xô về Roma.
GH
và ông Hồ Chí Minh trực tiếp trao đổi thư từ... (Xem A)
Tóm lại, lập trường của Vatican rất rõ ràng: Cổ võ Hòa bình,
chấm dứt chiến tranh,
quan hệ tốt với chính quyền miền Bắc và Chính phủ
lâm thời miền Nam.
(Vũ Ngọc Nhạ,
điệp-viên cộng-sản trong Phủ Tổng-Thống VNCH)
còn được Tòa thánh Vatican và Giáo hoàng
Paulus VI tặng bằng khen và
Huy chương "Vì hòa
bình" vào tháng 6 năm 1971 (trong lúc Nhạ đang ở tù tại Côn Đảo).
(Xem C)
Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu đích-thân đi trực-tiếp
cầu-cứu với Giáo-Hội Kitô La-Mã, là một trung-tâm quyền-lực chính-trị khác của
thế-giới. Tuy nhiên, Giáo-Hoàng Paul VI không tiếp-kiến, dù Thiệu là một
tổng-thống của một quốc-gia có tỷ-số giáo-dân đông thứ nhì tại lục-địa Á-Châu,
mà cũng là một con chiên...
Đã thế, Giáo-Hoàng còn chỉ-trích
Thiệu, lại còn tiếp-kiến cặp Nguyễn Thị Bình và Xuân Thủy, Trưởng Phái-Đoàn
cộng-sản tại hòa-hội Paris... (Xem D)
LÊ XUÂN NHUẬN
Tham-Khảo
Fw: [BaoQuoc] Fw: Tại sao Hồng Y Francis Spellman Muốn Dội Bom Nguyên Tử Xuống Việt Nam?
Sunday, April 22, 2012 9:52 AM
From: "Ba Pham"
To: "Ái Võ" ,
"Alex Harrison" , "Anh Ly"
, "backydicu@gmail.com"
, ...
Kính chuyển tiếp.
PHVg
Tại sao Hồng Y Francis Spellman Muốn Dội Bom Nguyên Tử Xuống Việt
Nam?
Cécilia Trần Thị Vĩnh-Tường 12/11/2010
... Giáo Hoàng Paul VI xung trận “Jamais plus la guerre”
…không là anh em nếu không có lòng trắc ẩn…
Gìữa một nước Mỹ tang tóc, đại ngươn
soái “Ba thước gươm, một cỗ nhung yên” thúc ngựa xông vào vòng lửa đạn chính là
giáo hoàng Paul VI. Vừa nhậm chức GH tháng 6/1963, Paul VI chớp mắt thấy tiêu
tùng hai tổng thống Ki-tô Vatican mất công gầy dựng: tháng 11-1963, TT Ngô Đình
Diệm và Kennedy chết thảm trong vũng máu bởi chính tay người Mỹ. Từ đó, bên tai
tiếng bom rền vang hơn tiếng thánh ca. Giáo Hoàng Paul VI lo lắng về việc
Spellman thủ hai vai một lúc: hồng y New York và tổng tuyên úy quân đội, khiến
thế giới suýt mấy lần đối diện với thế chiến ba. GH đã cố nói chuyện với
Spellman nhiều lần, nhưng chỉ nói với hai cái tai điếc đặc.
Ngày 4-10-1965, lần đầu tiên một giáo hoàng Vatican viếng nước Mỹ vốn là
đất của giáo hội Tin Lành. Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc U Thant và các viên chức
cao cấp trong chính phủ ra đón GH ở máy bay. Ngoại giao Roma cực kỳ tinh vi qua
mắt được cả thượng đế trên trời lẫn loài nguời dưới thế: hai đại diện Chúa: Paul
VI và Spellman tươi cười cho cả thế giới chụp hình...
Người khách danh dự phải đến trụ sở Liên Hiệp Quốc trước GH 30 phút là
bà quả phụ Jackie Kennedy. Bài diễn văn lịch sử dài 3354-chữ, GH
Paul VI dùng tiếng Pháp.
Mảnh dẻ như cây sậy Pascal trong cơn gió cuồng bay, Paul VI dứt
khoát:
Jamais plus la guerre! Jamais plus la
guerre!
Chiến tranh!! Không!! Không bao giờ nữa!!..Chỉ hoà bình mới soi sáng
định mệnh nhân loại …Nếu muốn là anh em, hãy bỏ khí giới xuống…Yêu người sao
được khi lăm lăm vũ khí trong tay! sẽ không là anh em nếu không có lòng trắc
ẩn…”
Lời tuyên bố bung ra như bom 30 kilotons. Người thông dịch toát mồ hôi,
cà lăm không tin ở tai mình. 116 đại biểu các quốc gia nồng nhiệt đứng dậy hoan
hô, trừ đại biểu Albanie tẩy chay. Buổi tối tại Yankee Stadium trước 90.000
người, diễn văn 1460-chữ bằng tiếng Anh, Paul VI nhắc “Peace/hòa bình” tới 28 lần,
như những thông điệp sau này của Đức DaLai LaMa. Đức Lê Lợi, xong chiến tranh
chống quân Minh, cũng trả kiếm cho rùa thần. Không cần chữ nghĩa dài dòng, bài
học để lại đời sau vẫn đúng như ngàn năm trước: mài gươm cho sắc đánh giặc
ngoài, xong việc binh đao, phải coi dân là trọng.
“Hỡi anh em! Ta có ba điều gửi lục
địa trẻ trung rạng rỡ này: Hãy yêu hoà bình! Hãy phục vụ hòa bình! Ta mang tặng
hồng y Spellman phiến đá cậy từ đền thờ Saint Peter’s Basilica ở Roma, hồng y
hãy vì danh Chúa xây dựng một giáo hội cho tương lai, trong Đức Tin và Đức
Mến”
Một trăm triệu người khắp thế giới nghe thông điệp của vị chủ chăn
Vatican qua TV. Người Mỹ vỡ toang đón niềm vui. Cả nước Mỹ mềm môi say thánh ý
như say rượu nho. Mừng nhất là các bà mẹ héo hon sửa soạn cho con đăng lính đi
VN hay qua Canada trốn lính, trong đó có mẹ của James Carroll. Chỉ vài ngày sau,
100.000 người khắp nước Mỹ nhảy múa mở đầu “Phong Trào Hoà Bình.” Thu xếp lại
bản đồ thế giới, thông điệp cuả giáo hoàng rất rõ: Vatican muốn chiến tranh VN chấm dứt, nếu không, không “đi” với Hoa Kỳ
nữa.
Các quốc gia đang lâm chiến nhẩy tango trên than hồng. KGB, CIA, MI6 vồ
lấy hai bài diễn văn, kính hiển vi xét từng dấu phẩy dấu chấm. Washington bí mật
cho loan tin “Giáo hoàng không biết ngài nói gì”. Sự thật thế nào? 1. GH
biết/không biết trận chiến toàn cầu đều là con cờ cuả đế quốc vô hình Knights of
Malta: bao giờ đạt chỉ tiêu sản xuất bom đạn mới ngưng chiến được 2. GH đã có
mật ước với một trong hai (hoặc cả hai) siêu cường Liên Sô/Hoa Kỳ? 3.
GH
Paul VI vẫn được coi là có khuynh hướng cộng sản.
Khi còn là bộ trưởng ngoại giao Vatican, ông đã từ chối chiếc mũ hồng y GH Pius
XII ban, thà nhận một nhỉệm sở xa xôi với chức giám mục khiêm nhường, để phản
đối chính sách thân Phát Xít của GH Pius XII. Giáo hoàng Paul VI mang niềm bí ẩn
ấy về cõi thiên đàng và chỉ nói riêng với Chúa, vị hôn phu 2000 tuổi...
Sau chuyến đi cuả GH Paul VI, màu sắc ngoại giao Roma rõ nét:
liên lạc trực tiếp với Hà Nội
và Trung Quốc. Hồng y IginoEugenio liên lạc với đại diện VN ở Âu châu.
Hồng y Paolo Bertoli qua trung gian người Pháp làm việc với Saigon và Hà
Nội.
Đại diện Vatican ở Cambodia tiếp xúc với Việt-Cộng.
Học giả, luật gia, sử gia, hàng giáo phẩm, nhân viên ngoại giao… đổ xô về Roma.
GH
và ông Hồ Chí Minh trực tiếp trao đổi thư từ...
Dư luận miền Nam VN ghét oan cái đám phản chiến tốt đen Jane Fonda, John
Kerry, trong khi GH
Paul VI, McNamara, McBundy là phản chiến thượng hạng.
Người Việt vỗ tay nhạo báng trên xác chết người Việt mấy chục năm nay mà không
biết (hay không dám chỉ đích danh) kẻ mang chiến tranh choàng lên cổ người Việt
là HY Spellman. Có đọc một nhận xét từ người ngoại quốc “Nguời Việt khi không
đánh ngoại xâm thì chúng nó đánh nhau”.Chúng nó đánh nhau! Một tâm thức chắc
chắn được tình báo các nước đối tác nghiên cứu/khai thác, khi cần áp dụng với
giá rẻ mạt hay hứa hẹn tầm phào là tạo ngay đuơc chia rẽ, hỗn loạn. Lời thề kinh
hãi cuả dòng Jesuits/dòng Tên gặp đất tốt, khỏi bón phân phiếc chi hết… “Con
đã được đào tạo để lẳng lặng gieo mầm mống tị hiềm và thù ghét giữa cộng đồng,
địa phương, quốc gia đang hòa bình, và khích bác chúng gây đổ máu, lôi kéo chúng
giao chiến với nhau, và gây ra khởi loạn hay nội chiến ở các quốc gia…”...
Cécilia Trần Thị Vĩnh-Tường (Mùa Vu Lan 2010)
Lương Tâm Công
Giáo:
...
đường lối của Vatican thông qua Giáo Hoàng Phao lồ Đệ lục là kêu gọi hòa bình, chấm dứt chiến
tranh, gián tiếp chống lại quan điểm của người Mỹ và
chính quyền VNCH. Năm 1968, Giáo Hoàng Phao lồ Đệ lục đã lập ra ngày Quốc tế Hòa Bình. Ngài còn kêu gọi Hòa Bình bằng
thương thuyết tại Việt Nam và trung Đông.
Cụ thể hơn, Ngay
từ 2/5/1967 khi chiến tranh leo thang đến đỉnh điểm của nó, GH Phaolô VI đã đưa
ra đề nghị và giải pháp: “Phải chấm dứt các cuộc
oanh tạc trên lãnh thổ Bắc Việt và đồng thời cũng phải chấm dứt những cuộc xâm
nhập vũ khí và vật liệu chiến tranh vào miền Nam.”
Trong Hội nghị thường niên của các
giám mục Việt Nam, nhân dịp này, Giáo Hoàng Phao Lồ đệ lục đã gửi một tâm
thư đề ngày 13-2-1965 mà Ngài bầy tỏ như sau đã được đăng trên tờ Xây
Dựng: “Tuy xa cách ngàn dậm mà lòng vẫn gần gũi và theo sát những biến cố
dồn dập ngày nay đang rung chuyển và gây nên cảnh thịt rơi máu đổ trên mảnh đất
Việt Nam.”
Và Ngài hứa tìm
cách đưa lại Hòa bình cho Việt Nam.
Ngài viết
tiếp, “Ta đã cố gắng dùng đường lối kín đáo để tiếp xúc với nhiều nhân vật
đại diện trong các chính phủ, mục đích là thành khẩn xin các vị đó tìm lấy một
giải pháp danh dự, nhưng hòa bình cho các vấn đề khó khăn quốc tế đang làm ta lo
nghĩ”.
Tóm lại, lập trường của Vatican rất rõ ràng: Cổ võ Hòa bình,
chấm dứt chiến tranh, quan hệ tốt với chính quyền
miền Bắc và Chính phủ lâm thời miền Nam. Sau 30 tháng tư, yêu cầu các
Giám Mục ở lại, hợp tác với chính quyền mới theo chính sách Hòa giải Dân tộc.
Trong tinh thần đó, rất nhiều bài báo, truyện ngắn trong các tờ tập san Đất Nước, Hành
Trình, Trình Bầy cổ võ cho
Hòa Bình, chống chiến tranh và Hòa Hợp Hòa Giải.
Lý Chánh Trung, một trong những thành phần trí
thức cực đoan viết rằng: Tôi cổ võ cho Hòa Bình vì tôi là người Việt Nam và
hơn thế nữa, tôi là một người công giáo.
Lý do thứ ba là
sau khi Hiệp Định Paris được ký kết ngày 27/1/1973, miền Bắc đã nghĩ ngay đến
việc thiết lập một tòa đại sứ của họ tại Ý Đại Lợi tại số 156, đường Bravetta.
Tòa đại sứ này chắc hẳn không nhằm lợi thế chính trị đem lại từ nước Ý cho bằng
nhận được sự ủng hộ của Vatican.
Và trên thực tế,
Giáo Hoàng Phao Lô Đệ lục đã tiếp kiến phái đoàn của
MTGPMN Việt Nam.
... Theo linh
mục Cao Văn Luận cho biết Hồng y Casaloli, phụ trách ngoại giao của Tòa thánh
nhờ linh mục Luận về nước nhắn nhủ lại: yêu cầu các giám mục Việt Nam không di
tản, chuẩn bị sống chung và tìm cách hợp tác với
chính quyền mới một khi tình thế đã thay đổi.
Và việc bổ nhiệm
Giám mục Nguyễn Văn
Thuận sau này thật ra nằm trong tinh thần sống chung và hợp tác với chính
quyền mới. Bằng chứng là ở Nhatrang, Giám mục Thuận đã
khôn ngoan giao hảo với chính quyền mới và đã được họ cho phép mở lại chủng viện
để sinh hoạt bình thường.
Trở lên
Wikipedia
(Vũ Ngọc Nhạ) còn được Tòa thánh Vatican và Giáo hoàng
Paulus VI tặng bằng khen
và Huy chương "Vì
hòa bình" vào tháng 6 năm 1971.
Có kẻ lập-luận rằng chính Phật-Giáo
tranh-đấu lật đổ Đệ Nhất Cộng Hòa rồi lại tiếp-tục tranh-dấu dưới thời Đệ Nhị
Cộng Hòa, đưa đến mất nước vào Ngày 30 Tháng 4 Năm 1975 [sic].
Lê Xuân Nhuận đã sưu-tập được một số
sự-kiện & tài-liệu lịch-sử, chứng-minh rằng vụ sụp đổ của VNCH vào Tháng Tư
Đen năm 1975 không phải là do Phật Giáo gây nên, mà do một thế-lực khác, không
chỉ ở trong phạm-vi quốc-gia mà cả ở trên bình-diện quốc-tế, suốt từ 1968 cho
đến 1975 (không kể Do-Thái, Trung-Cộng, Hoa-Kỳ).
Muốn biết chi-tiết xin mời đọc cuốn
“Biến-Loạn Miền Trung”.
Sách dày 500 trang
khổ 5.5”x8.5”
Tại Nam
Cali:
Nhà sách Tự Lực
Tại Bắc Cali:
Các Nhà sách Hương Giang & Tự
Do
Trong
Hoa-Kỳ:
Gửi 20USD (bao luôn
cước-phí) đến
Loc Le
1707 Webster Street
Alameda, CA 94501-2135
Sunday, April 22, 2012
THỤY KHUÊ * XE LÊN XE XUỐNG
Cuộc chiến Việt-Trung trong "Xe lên xe xuống"
- tiểu thuyết mới nhất của Nguyễn Bình Phương
Bìa tiểu thuyết Xe lên xe xuống của Nguyễn Bình Phương
Người Việt
Sự giáo dục chiến thắng chỉ tạo nên những thánh nhân nhưng
"không một bà mẹ nào muốn con là thánh". Hệ thống mây ngũ sắc chụp lên
toàn lãnh thổ khiến con người không thể thoát khỏi vòng phong toả để tìm
đến một chân trời khác. Thế hệ thanh niên ngụp lặn trong vùng đất
thánh, gây tội ác, bị rình rập, rượt bắt, chạy lên đỉnh, bị sập lưới. Họ
chưa từng ý thức được thế nào là tội ác, trước khi lìa đời.
Trong tiểu thuyết Người đi vắng, Nguyễn Bình Phương kể
chuyện một đứa nhỏ mỗi lần nghe thấy tiếng rao của ông thiến lợn là nó
hoảng sợ, hai chân chụm lại giấu chim, nhắm mắt tự hỏi: ai là người đẻ ra những ông thiến lợn? Một giọng ôn tồn bảo: khi người ta tìm ra mẹ của kẻ thù thì kẻ thù mất sức mạnh.
Câu nói bí ẩn, dĩ nhiên thằng nhỏ chẳng hiểu gì, bởi đó là bí quyết tồn
tại của nhà văn trong một xã hội niêm phong: muốn yên thân thì chớ có
loay hoay điều tra ai là mẹ của những ông thiến lợn. Tìm đến cội rễ của ung thư, đào mả các đại trùng hiển nhiên là hiểm nguy có thể kề tính mệnh.
Tiểu thuyết Xe lên xe xuống của Nguyễn Bình Phương (do Diễn Đàn Thế Kỷ phát hành, địa chỉ: diendantheky.net)
dẫn ta vào cái xã hội niêm phong đó, đường đi hiểm trở như đường vào
hang Văn Dú, nhưng Thế Lữ có hai người Thổ dẫn đường. Lối vào tác phẩm
mới nhất của Bình Phương cũng kỳ quặc huyễn hoặc trong trận đồ bát quái,
là một thử thách cho những kẻ mạo hiểm, dù lọt được vào vẫn có khả năng
bị tẩu hoả nhập ma bởi những phù phép yểm trong chữ nghĩa, để ám kẻ nào
tìm ra rường mối của chiến tranh, rường mối của bạo lực, rường mối của
một xã hội mà con người đã bị thiến tư tưởng.
Xe lên xe xuống là một cạm bẫy kiểu Vàng và Máu như thế trên mạn ngược, ở Việt Bắc, biên giới Việt-Hoa.
Chìa khoá mở vào không gian niêm phong này nằm trong mấy trang đầu, nếu
tìm thấy mã số của chữ nghiã, bạn có thể đi suốt tác phẩm, bởi Bình
Phương là một đạo diễn rất hiện đại (hoặc nói theo thời thượng: rất hậu
hiện đại), cho máy quay hai kịch bản song song rồi chiếu cùng một lúc
lên màn ảnh.
Nội dung hai kịch bản này cũng lại bị cắt thành từng khúc,
những mẩu đời đứt đoạn, những suy tư chặt đôi, đảo lộn trật tự, chắp lại
thành một chuỗi liên tục những sự kiện không liên tục, hệt như
con đường mòn nổi tiếng ở miền Trung đã bị bom đạn phá tan nát, được đắp
bằng những mảnh xác không tên, và nó tồn tại như một lịch sử vĩ đại anh
hùng. Bình Phương dẫn ta vào những trang sử anh hùng ấy, nhưng không đi
xe ca máy lạnh trên đại lộ như du khách ngoại quốc, Việt kiều, mà đi
chân đất xuống địa đạo, xuyên vào lớp xi măng và các chất liệu đã được
nghiền nát trộn trạo để làm đường, xem trong có gì. Sau một chuyến đi
như vậy, không ai có thể toàn vẹn.
Sự thực là hai chuyến đi, được kể bằng hai thoại của hai anh em đã chết. Thoại một, của người em, chia làm hai trường đoạn: phần in nghiêng, xẩy ra sau khi chết. Phần in đứng,
xẩy ra trước khi chết. Thoại hai, của người anh, sau trận Tám Tư,bị
điên và chết thuật lại cho em về các trận đánh trong nhật ký. Hai thoại
cũng là hai chuyến đi: một về tương lai và một về quá khứ, cùng phát
xuất ở đỉnh Tà Vần, mồ chôn hai anh em và cũng là mộ phần của tất cả
những đỉnh cao loài người, bởi đỉnh đi cùng với vực như Mai Thảo đã kinh qua trong bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời.
Tiểu thuyết bắt đầu bằng những dòng in nghiêng, trên chiếc xe gồm có một phụ nữ tên Trang, một người lái xe và "đám người mặt lạnh đanh". Đám mặt lạnh đanh
này chính xác có ba: một người cầm bộ đàm, một người cao lớn và một
người thấp bé; lái xe chính xác là phó công an tỉnh. Đó là những kẻ thực
thụ hiện diện, những kẻ đang sống, đang cầm cân "công lý".
Trong xe còn chở một thế giới thứ nhì, thế giới những người đã chết, đại diện là kẻ xưng mình
(sau sẽ biết tên là Hiếu), là người kể chuyện, là bồ của Trang, hắn có
người anh là lính đánh nhau với Tàu trong hai trận Bẩy Chín, Tám Tư,
chết vì điên loạn. Câu chuyện hắn kể rút trong nhật ký của người anh.
Nguyễn Bình Phương nén các dữ kiện trong một số chữ tối thiểu giống như
cái máy ép rác: nếu ta bỏ vào đó lổn nhổn tất cả rác rưởi cuộc đời thải
ra hàng ngày, nó chỉ ép một phút là dẹp cứng thành vài mi-li-mét. Vậy
chỉ cần đọc vài dòng Xe lên xe xuống thì mọi sự sẽ được bình phương lên thành vài chục trang tiểu thuyết.
Lời kể của mình nhân vật chính trong truyện, đi cùng với lời kể của anh, anh ruột mình và lời nhiều nhân vật khác: như lời cậu, cậu ruột của mình; lời hắn, bạn học cũ và guide dẫn mình đến Tà Vần, lãnh địa bí mật, cạm bẫy cuộc chiến Bẩy Chín của ta với khựa (Tàu) và cũng là hãm địa con người trong thời điểm cú vọ hôm nay... Lối viết này, thuật ngữ phê bình gọi là đa âm.
Lời của những kẻ không tên cất lên về những nhân vật thần kỳ của
các đội ngũ anh hùng, thổ phỉ; về những cuộc săn (người) đêm trên đỉnh
Lũng Tẩu; về những vụ bán cao bành trướng ăn vào người phình lên như quả
bóng; về vụ bà phó chủ tịch huyện anh hùng Tám Tư ăn thịt người chết để
mong trẻ mãi; về hai cuộc chiến Bẩy Chín, Tám Tư giữa hai nước anh em
hữu nghị -nuốt chửng không biết bao nhiêu nhân mạng- đã bị lịch sử chôn
sống, không ma chay, không bát âm, không điếu văn, không giỗ chạp.
Những kẻ không tên được chỉ định bằng những: mình, anh, cậu, chú, hắn... (riêng mình, nếu để ý lắm, mới nghe thấy có người gọi là Hiếu) bên cạnh mấy người có tên như Trang, Thu, Hằng, Vân Ly, ... tạo ra một thế giới mà người nữ hình như có chút ưu đãi, nghiã là có tên; họ có chút địa vị cá nhân hơn người nam chăng? Chưa chắc, bởi những người có tên
như bọn thằng Quých, thằng Hiệp, thằng Thuỷ... cũng chỉ là bọn tép riu,
tòng phạm, hoặc chết lãng nhách như thằng Quých, hoặc chết oan như Vân
Ly. Tóm lại đàn bà con gái trong cái xã hội này cũng chỉ là cây kiểng,
tên để trưng; thực sự nữ cũng như nam, không ai có một địa vị cá nhân
nào.
Sự các nhân vật không có tên, có phải là do trường phái tiểu thuyết mới
của Alain Robbe-Grillet chăng? Tôi đồ rằng không. Ở đây không hề có cái
lo lắng cách tân cách điệu, trường môn, trường phái gì cả, mà chỉ là để
thể hiện một xã hội tập thể, con người đã mất hết danh vị cá nhân, đã thuần thục trong đời sống đội ngũ
như: đội ngũ nhà văn, đội ngũ giáo sư, đội ngũ thổ phỉ, đội ngũ bác sĩ,
đội ngũ công an, đội ngũ ma tuý, đội ngũ buôn lậu,... tất cả đều đã
được phân loại rõ ràng. Tính chất binh bị thấm vào ngôn ngữ, phản
ánh toàn bộ tổ chức xã hội mà chiến tranh là lẽ sống, mà cá nhân con
người đã trở thành phi danh tánh, như con giun con dế, một mặt nó giúp
cho những anh, những mình, những hắn kia, khó bị lộ
diện trong những trận phục kích hay buôn lậu; một mặt, nó giúp cho đám
người có phận sự rượt bắt họ không bị lộ danh tánh hình tích. Xã hội,
trở thành nặc danh, thả dàn cho những tội ác, ở cả bên này và bên kia công lý.
Với bút pháp trinh thám đầy mật mã, tác giả thám hiểm nhiều cuộc đời,
nhiều lớp thời gian, trùng lấp, chồng chất lên nhau, vẽ nên nhiều chân
dung độc đáo trong cảnh kháng chiến đánh phỉ, cảnh chiến tranh Bẩy
Chín-Tám Tư, cảnh làm tình, cảnh thanh toán, buôn lậu, ma tuý, cảnh lùng
bắt, cú vọ... Nhiều mặt trận, nhiều thực tại được giấu sâu trong lòng
đất, ở những địa đạo, dưới những nấm mồ, không ai dám nhắc đến trong "sử
sách" vì tính chất "tiêu cực" của nó. Qua những mật mã, chúng đội mồ
hiện lên như những bóng ma người người lớp lớp lũ lượt chồng chéo lên nhau như một định mệnh, một nhân quả về tội ác, không phân biệt ranh giới âm dương.
Tác phẩm là thiên điều tra về tội ác và trừng phạt, tìm đến mẹ của bạo lực
để giải mã tại sao dân tộc ta đạt "kết quả" như ngày nay: Bạo lực cổ
đại từ thời Lý Thường Kiệt hạ thành Ung Châu (tháng 1/1075), sắp đầu
người thành đống, mỗi đống 100 đầu, cả thảy 580 đống. Bạo lực trung đại
với Tây Sơn-Nguyễn Ánh. Bạo lực kháng chiến với Thổ Phỉ-Cách Mạng. Bạo
lực hiện đại với Bẩy Chín-Tám Tư. Bạo lực hậu hiện đại với Ma Tuý-Buôn
lậu-Sex, trong một xã hội tập thể, mà mỗi người đều có ám vọng muốn nhìn
xem bên trong của kẻ khác chứa những gì.
Bạo lực nguyên thuỷ được trình bầy qua động tác chặt; dụng cụ thớt; sản phẩm đầu người.
"Phỉ nó chặt...
Mình nghĩ nếu xét thuần về mặt hành động thì phỉ là loại chạm tới cái
cốt lõi nhất, tiêu biểu nhất của con người. Vì phỉ hay dùng hình thức
chặt, thứ hình thức mang lại khoái cảm và uy quyền. Phỉ chặt đầu, chặt
tay, chặt chân, chặt ngang người. Các loài khác không biết chặt, chỉ
cắn, xé, móc. Giết một con gà mà không vang lên tiếng chặt nào thì chỉ
là giết một con giun. Vào quán thịt chó mà không nghe tiếng chặt côm cốp
thì dứt khoát chỉ có cảm giác ăn đậu phụ. Tiếng chặt tạo ra sự hưng
phấn ghê ghớm. Dọc theo lịch sử dằng dặc của đường biên này luôn luôn là
những tiếng băm chặt nhau chí chát. Khi triệt hạ thành Ung Châu, Lý
Thường Kiệt đã cho chặt đầu tất cả những kẻ trong thành rồi xếp thành
năm trăm tám mươi đống, mỗi đống một trăm cái đầu. Tiếng chặt đầu côm
cốp của Thái uý vẫn còn làm cho họ run rẩy, đau đớn đến tận bây giờ. Năm
một tám tám sáu, khi phái đoàn phân định biên giới Hoa-Pháp bắt tay vào
việc, toàn bộ gia quyến của viên quan được triều đình Nguyễn bổ nhiệm
để cai quản và thu thuế vùng Bạch Long đã bị phỉ giết chết, hàng chục
sinh mạng, không phân biệt trẻ con, người già, đều bị chặt nhỏ (...) Phỉ
đặt người ta lên phiến đá và nhẩn nha chặt như chặt thịt lợn. Có người
bị chặt đứt phăng hai tay, hai chân mà vẫn còn sống, mồm miệng loe máu
kêu gào. Mình nhớ không nhầm thì chùa Trăm tháp ở Bình Định còn giữ lại
tảng đá lớn mà Nguyễn Ánh dùng làm thớt chặt hàng nghìn người thuộc phe
Tây Sơn thất trận. Tất nhiên, Nguyễn Ánh làm thế vì trước đó ông ta đã
chứng kiến tận mắt cảnh bố mình bị anh em nhà Tậy Sơn chặt đôi người".
Có lần Trùm phỉ Chu Chồ Sền bảo Chu Văn Tấn: "Chúng mày vì nghèo khổ mà đi làm cách mạng. Chúng tao vì nghèo khổ mà đi ăn cướp. Thế là giống nhau".
Ông ngoại của mình cũng là trùm phỉ. Vậy Phỉ là người Việt nguyên
thủy nhất, thành thật nhất, có gì nói thẳng, chưa hề biết giữ mồm giữ
miệng, chưa hề biết các sự nhạy cảm, chưa hề biết phân biệt tiêu cực và
tích cực.
Văn hoá chặt nằm trong văn hoá ẩm thực của ta từ thời nào, những
nhà nghiên cứu nên chú ý khai quật, có điều chắc chắn đó là văn hoá phỉ,
là cỗi rễ Việt được phỉ giữ lại và bảo tồn đến chết. Đó cũng là yếu tố
đặc thù của dân Việt (ta học được của Tàu rồi Việt hoá đi như tất cả
những thứ khác) bởi vì cơm Tây, cơm Mỹ chẳng có món nào chặt như món gà
luộc hay thịt chó của người mình.
Khi Lỗ Tấn nói người Trung Hoa ăn thịt người, thiên hạ đã rần rần phản
đối, có thể vì cái vụ đó mà Lỗ Tấn một dạo cũng bị đem vào tủ lạnh, may
nhờ lý lịch A.Q xuất thân bần cố, đã cứu và đưa Lỗ trở lại văn đàn như
một chiến sĩ vô sản trăm phần trăm.
Nguyễn sinh sau đẻ muộn mà lại có mòi thâm thúy hơn Lỗ: không ăn nói hồ
đồ, vô bằng chứng, mà lấy ngón trỏ chỉ thẳng vào mâm cơm bảo đấy cái dân
tộc tính của mình đấy: rặt các món chém chặt. Đố ai chối được.
Từ nguồn văn hóa chém chặt, sinh ra bọn trẻ ngày nay, không chặt mà đốt như Trang, Quých, Hiệp ... Và mình bề ngoài có vẻ hiền lành, bên trong hồn nhiên là trùm phỉ hậu hiện đại.
Nếu bạo lực cổ điển có danh nghiã tốt đẹp bảo vệ xứ sở, thống nhất đất
nước, những chân lý tuyệt đối không ai cãi được, thì bây giờ bọn trẻ
không thèm đếm xỉa đến những khẩu hiệu lẩm cẩm quá đát ấy nữa, bạo lực
hậu hiện đại coi việc đốt người như chuyện vặt, như uống coca,
như làm tình, và dường như họ cũng không ý thức được tay mình có máu,
bởi có chém chặt gì đâu, chỉ cần bình xăng và một que diêm là xong trong
nháy mắt, tay không bẩn, quần áo vẫn lượt là láng coóng.
Hai chuyến đi song song diễn ra trước mắt người đọc, như hai cuộc vận
chuyển thời gian ngược chiều, như hai thời đại gặp nhau ở đỉnh Tà Vần,
trong cùng một huyệt tại vùng địa đầu biên giới có cái tên huyền thoại
Việt Bắc.
Bọn trẻ đã hiểu: làm gì có lý tưởng, làm gì có tình hữu nghị anh em, cậu ơi, làm chó gì có sự tử tế giữa hai quốc gia, toàn thổ phỉ cả, mà trần trụi chỉ là chém và chặt,
là ác giả ác báo, là hận thù xuyên nòi giống, là sự rình rập, giam hãm,
giăng bẫy, báo thù. Từ một quá khứ hiển vinh như thế làm gì chúng không
can trường phóng xe vào ma tuý, sex và tội ác. Từ đời cha đến đời con,
tất cả đều đã nhập tiệc thịt người, bà phó chủ tịch xã nói: nếu ăn thịt người chết thì sẽ trẻ mải mãi. Bà là vị nữ anh hùng trong cuộc chiến với khựa.
Những đám mây ngũ sắc giống chiếc nơm úp thẳng xuống bí
mật phong toả, càng làm nặng ký chính sách niêm phong, cấm địa, chôn vùi
lịch sử, dìm tội ác xuống vùng sâu, để tạo một huyền thoại anh hùng
không bao giờ hiện hữu.
Trong suốt cuộc hành hương của mình, Hiếu luôn luôn tìm cách chụp hình những đám mây với ảo giác chụp được nội dung và hình thức sự phong toả con người.
Trong suốt hành trình ngược chiều quá khứ và phóng về tương lai, Hiếu
gặp toàn một loạt cỏ cây, đồi núi, con người, đã bị các vết chém chặt
bằm nát.
Núi Bạc tốn máu như núi Đất. Pháo của họ đã nã nát nhừ ngọn núi không
lấy gì làm cao ấy, đào xới tung nó lên đến cả nửa ngày trời, sau đó mới
cho bộ binh dùng súng phun lửa và hơi cay lao lên. Núi bạc không có
những trận giáp lá cà kinh hoàng đến mức những ai còn sống sót sau trận
ấy, dù ta hay họ đều hoá điên như ở Núi Đất, nhưng lại đầy rẫy những
huyền thoại về các linh hồn.
Sông ngòi cũng một mầu: Sông Nho Quế lại đỏ, sông Bằng đỏ máu... Từ anh hùng đến thổ phỉ, từ ta đến Tàu, ở hai bờ sông chia ranh, cùng một tiếng gọi đòi thủ cấp.
Cách đây hơn 20 năm, Bảo Ninh mô tả chiến tranh như một bộ máy nghiền nát tất cả, trừ tình yêu.
Nguyễn Bình Phương tiến thêm một bậc: chiến tranh nghiền nát cả tình yêu
chỉ để lại tội ác, không cho con người một hy vọng nào. Bình Phương
chiếu ống kính vào tội ác của một dân tộc được giáo huấn thường trực
trong các bài học chiến thắng và anh hùng, mà bản chất sâu xa chỉ là thổ
phỉ. Chiếu vào hậu quả của các chiến thắng từ thời Lý, thời Tây Sơn-Gia
Long, đến thời Cách Mạng-Thổ Phỉ, cuộc chiến Việt-Trung... Văn hoá chặt đã thấm vào máu, nằm trong mâm cơm: dân ta mải chặt mà quên sống.
Vùng đất biên giới anh hùng nằm trên những xác người, chỉ tạo nên những
hệ gia đình thui chột như gia đình Hiếu: Ông ngoại trùm phỉ bị chặt
đầu; mẹ buôn lậu vào tù; chú ngớ ngẩn; anh chiến sĩ đánh Tàu, chết vì
điên, bị chuột gặm mắt và hai cánh mũi; em trùm phỉ hiện đại, bị phục kích chết ở đỉnh Tà Vần...
Sự giáo dục chiến thắng chỉ tạo nên những thánh, nhưng "không một bà mẹ nào muốn con là thánh".Nền tảng đầu tiên của con người là gia đình đã bị hủy diệt. Hệ thống mây ngũ sắc chụp
lên toàn lãnh thổ, khiến con người không thoát ra được vòng phong toả
để tìm đến một chân trời mới. Thế hệ thanh niên, ngụp lặn trong vùng đất thánh,
gây tội ác, bị rình rập, chạy lên đỉnh, bị sập lưới, đẩy xuống vực sâu.
Họ chưa từng ý thức được thế nào là tội ác, trước khi lìa đời.
TIN BIỂN ĐÔNG
Báo quân đội Trung Quốc cảnh báo đụng độ trên Biển Đông
RFA 22.04.2012
Trung Quốc cảnh báo hải quân của nước này sẽ đối đầu trên biển với các lực lượng hải quân của Hoa Kỳ và Philippines.
AFP
Hãng tin Reuters dẫn lời một bài báo trên tờ Quân Giải Phóng Trung
Quốc, một tờ báo lớn của quân đội nước này cho biết mức độ cảnh báo cao
độ của quân đội nhân dân Trung Quốc trước căng thẳng đối đầu giữa Bắc
Kinh và Manila trong những ngày gần đây.
Tờ báo nhấn mạnh đến việc tập trận của Hoa Kỳ và Philippines với lập
luận cuộc diễn tập này ai cũng thấy sẽ dẫn tới căng thẳng thêm giữa các
vấn đề đang tranh chấp và giải pháp quân sự có thể sẽ diễn ra nếu tình
trạng này tái diễn.
Bài báo nhấn mạnh Mỹ đang khuấy động các căng thẳng và do đó khó tránh được các cuộc đụng độ gây bất ổn trên Biển Đông.
Hãng tin Reuters cũng trích lời một chuyên gia quân sự thuộc phái
diều hâu của Trung Quốc là tướng Luo Yuan phát biểu rằng Trung Quốc đã
kềm chế cũng như kiên nhẫn quá mức đối với vấn đề này và nếu Philippines
có những hành động phi lý thì hải quân Trung Quốc sẽ không chấp nhận
yên lặng như từ trước tới nay.
http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/cns-mil-warns-of-confro-over%20seas-04222012125622.html
Song song với việc tăng cường hành động thị uy nhắm vào
Philippines trong vụ tranh chấp bãi đá Scarborough ngoài Biển Đông,
Trung Quốc hôm nay 21/04/2012 lại mượn đường báo chí để đả kích cuộc tập
trận hỗn hợp Mỹ -Philippines, xem đấy là mối đe dọa, kích động xung đột
võ trang trong khu vực.
Trung Quốc cảnh cáo Mỹ
về nguy cơ xung đột võ trang tại Biển Đông
Thủy quân lục chiến Mỹ và lính Philippines cùng tập trận (REUTERS)
Song song với việc tăng cường hành động thị uy nhắm vào
Philippines trong vụ tranh chấp bãi đá Scarborough ngoài Biển Đông,
Trung Quốc hôm nay 21/04/2012 lại mượn đường báo chí để đả kích cuộc tập
trận hỗn hợp Mỹ -Philippines, xem đấy là mối đe dọa, kích động xung đột
võ trang trong khu vực.
Bài xã luận trên tờ Giải phóng quân báo, cơ quan ngôn luận
chính thức của quân đội Trung Quốc khẳng định : « Bất kỳ ai có đôi mắt
tinh tường đều nhìn thấy từ lâu rằng đằng sau những cuộc tập trận, là
bóng dáng của một thứ tâm lý sẽ lôi vấn đề Biển Đông xuống một lối rẽ
dẫn đến đối đầu quân sự và giải quyết thông qua lực lượng vũ trang ».
Lời cảnh báo về nguy cơ xung đột võ trang do đó được cho là nhằm đe
dọa Philippines đang căng thẳng với Trung Quốc. Nhưng đó cũng là một lời
cảnh báo nhắm vào Hoa Kỳ, chỗ dựa chủ chốt của Philippines hiện nay về
mặt quân sự.
Bài xã luận đã không ngần ngại đả kích chiến lược tăng cường tiềm lực của Mỹ tại châu Á, cho rằng để thực hiện chiến lược quay trở lại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Hoa Kỳ đã lợi dụng các tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc với Philippines và các nước khác trong vùng Biển Đông.
Lời cảnh cáo trên tờ báo quân đội Trung Quốc đáng ngại đến mức nào ? Giới quan sát cho rằng trong quá khứ, thành phần diều hâu tại Trung Quốc vẫn thường tỏ rõ giọng điệu hiếu chiến. Thế nhưng ngay sau đó, những tiếng nói này đã lập tức bị chính quyền trung ương kềm chế.
Lần này, kịch bản hoàn toàn có thể được giữ nguyên vì lẽ vào lúc Đảng Cộng sản đang trong giai đoạn thay đổi lãnh đạo, phương châm của chính quyền là duy trì tình trạng ổn định trong quan hệ đối ngoại, đặc biệt là đối với Mỹ.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20120421-trung-quoc-canh-cao-my-ve-nguy-co-xung-dot-vo-trang-tai-bien-dong
Tác giả bài báo đã nêu đích danh Hoa Kỳ là thủ phạm làm cho tình hình
căng thẳng : « Thông qua kiểu xen vào và can thiệp đó, Hoa Kỳ sẽ chỉ
khuấy động thêm tình hình, làm cho toàn bộ Biển Ðông ngày càng hỗn loạn,
và điều đó chắc chắn sẽ có tác động lớn cho hòa bình và ổn định khu
vực. »
Theo giới quan sát, bài bình luận trên tờ báo Quân đội Trung Quốc
đương nhiên không phải là một tuyên bố chính thức của chính phủ. Thế
nhưng đây là một lời cảnh cáo dữ dội nhất được Bắc Kinh tung ra liên
quan đến tình hình căng thẳng nẩy sinh với Philippines trong những ngày
qua tại khu vực bãi đá Scarborough ở Biển Đông, người Philippines gọi là
Panatag, trong lúc Trung Quốc đặt tên là Hoàng Nham.
Từ trước đến nay, Manila coi bãi đá không người ở này thuộc chủ quyền
của minh vì nằm trong vùng đặc quyền 200 hải lý của Philippines, chỉ
cách hòn đảo chính Luzon khoảng 124 dặm. Thế nhưng, nhân danh chủ quyền
lịch sử, Bắc Kinh đã đòi chủ quyền trên bãi đá này, cũng như trên gần
như toàn bộ vùng Biển Đông.
Tình hình tranh chấp đã căng thẳng hẳn lên sau khi Philippines cho
tàu chiến chặn xét tàu đánh cá Trung Quốc trong khu vực, kéo theo phản
ứng cứng rắn của Trung Quốc đưa tàu hải giám đến can thiệp. Sau đó
Manila đã hòa dịu, nhưng Bắc Kinh tiếp tục thị uy, và hôm qua đã cử thêm
chiếc tàu ngư chính thuộc loại hiện đại nhất của mình đến khu vực.
Bài xã luận đã không ngần ngại đả kích chiến lược tăng cường tiềm lực của Mỹ tại châu Á, cho rằng để thực hiện chiến lược quay trở lại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Hoa Kỳ đã lợi dụng các tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc với Philippines và các nước khác trong vùng Biển Đông.
Lời cảnh cáo trên tờ báo quân đội Trung Quốc đáng ngại đến mức nào ? Giới quan sát cho rằng trong quá khứ, thành phần diều hâu tại Trung Quốc vẫn thường tỏ rõ giọng điệu hiếu chiến. Thế nhưng ngay sau đó, những tiếng nói này đã lập tức bị chính quyền trung ương kềm chế.
Lần này, kịch bản hoàn toàn có thể được giữ nguyên vì lẽ vào lúc Đảng Cộng sản đang trong giai đoạn thay đổi lãnh đạo, phương châm của chính quyền là duy trì tình trạng ổn định trong quan hệ đối ngoại, đặc biệt là đối với Mỹ.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20120421-trung-quoc-canh-cao-my-ve-nguy-co-xung-dot-vo-trang-tai-bien-dong
Nga và Trung Quốc bắt đầu tập trận chung
RFA 22.04.2012
RFA/Wikipedia
Theo tin từ nhiều nguồn tin nước ngoài cho biết cuộc tập trận trên
biển này được xem là quy mô nhất từ trước tới nay, sẽ kéo dài 6 ngày tại
bờ biển phía Đông Trung Quốc trên vùng biển Hoàng Hải.
Theo Tân Hoa Xã thì cuộc tập trận này sẽ tập trung vào khả năng phòng
không, chiến thuật chống tàu ngầm và đồng thời cũng diễn tập chống
khủng bố và cướp biển.
Ông Lưu Vị Dân người phát ngôn bộ ngoại giao Trung Quốc cho biết cuộc
tập trận đã lên kế hoạch từ lâu với mục đích hòa bình và ổn định
Kể từ năm 2005 Nga và Trung Quốc đã có bốn cuộc tập trận quân sự
chung tuy nhiên lần này số lượng tàu chiến tham gia lớn chưa từng có.
Trung Quốc mang 16 tàu hải quân và hai tàu ngầm trong khi Nga mang 4
chiến hạm tới cuộc diễn tập.
Theo Reuters cuộc tập trận lần này gây thêm lo ngại cho các nước
trong khu vực nhất là Nhật Bản, nước có tranh chấp với cả Nga và Trung
Quốc trên biển Hoa Đông.
Các nước như Hàn Quốc, Philippines, Việt Nam và Ấn Độ cũng có mối lo
chung về sức mạnh quân sự của Trung Quốc ngày một lớn và quan trọng hơn
hết là đòi hỏi của Bắc Kinh về đường lưỡi bò bao gồm hầu hết khu vực
biển Đông.
http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/cn-rus-hold-first-navy-exercises-04222012102930.html MỸ & VIỆT NAM
Cập nhật: 09:48 GMT - chủ nhật, 22 tháng 4, 2012
Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đã có
phản hồi chính thức đối với thỉnh nguyện của cộng đồng người
Việt tại Mỹ về vấn đề nhân quyền của Chính phủ Việt Nam.
Phản hồi này, được trang web của Nhà
Trắng đăng tải, do ông Michael Posner, trợ lý ngoại trưởng phụ
trách dân chủ, nhân quyền và lao động, đứng tên.‘Cấu phần quan trọng’
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Dưới tiêu đề ‘Theo đuổi những tiến bộ nhân quyền với Việt Nam’, phản hồi của Bộ ngoại giao Mỹ cho biết nhân quyền luôn là một trong những cấu phần quan trọng trong cuộc đối thoại của Mỹ với Việt Nam.Ông Posner cho biết phía Hoa Kỳ sẽ tiếp tục làm việc tích cực để theo đuổi các tiến bộ về nhân quyền trong các cuộc tiếp xúc cấp cao của họ với Việt Nam trong bối cảnh chương trình nghị sự của họ với nước này trải rộng trên các vấn đề an ninh, kinh tế và chiến lược.
“Trong các cuộc thảo luận của chúng tôi với Chính phủ Việt Nam, chúng tôi luôn nhấn mạnh rằng các bước tiến về nhân quyền, bao gồm việc thả các tù nhân chính trị và thực hiện tự do tôn giáo, là một nội dung quan trọng để cải thiện quan hệ Việt – Mỹ,” ông nói.
Michael Posner đã đưa ra một số dẫn chứng về nỗ lực của Hoa Kỳ thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam, trong đó có việc Ngoại trưởng Hillary Clinton đã nêu những quan ngại về nhân quyền với Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang khi hai người có cuộc gặp bên lề hội nghị APEC vào tháng 11 năm ngoái tại Honolulu, Hawaii.
"Trong các cuộc thảo luận của chúng tôi với Chính phủ Việt Nam, chúng tôi luôn nhấn mạnh rằng các bước tiến về nhân quyền, bao gồm việc thả các tù nhân chính trị và thực hiện tự do tôn giáo, là một nội dung quan trọng để cải thiện quan hệ Việt – Mỹ."
Michael Posner, trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ
Trong khi đó, trong tất cả các cuộc tiếp
xúc cấp cao kể từ khi nhận nhiệm sở tại Hà Nội từ tháng 8
năm ngoái, Đại sứ Hoa Kỳ David Shear đều nêu vấn đề nhân quyền
với phía Việt Nam, theo Bộ ngoại giao Hoa Kỳ.Bản thân ông Posner cũng từng thúc giục Việt Nam thả tất cả các tù nhân chính trị, cải thiện tự do tôn giáo, phê chuẩn và thực thi Công ước chống tra tấn trong cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ thường niên vào tháng 11 năm ngoái, ông cho biết.
Sức ép thương mại
Trước đó, vào đầu tháng Hai năm nay, cộng đồng người Việt tại Mỹ đã gửi một thư thỉnh nguyện trên trang web của Nhà Trắng đến chính quyền Tổng thống Barack Obama yêu cầu ngừng mở rộng giao thương với Việt Nam để gây sức ép về nhân quyền. Thư thỉnh nguyện này đã thu hút trên 150.000 chữ ký.“Chúng tôi khẩn khoản yêu cầu Ngài tổng thống hãy gây sức ép để buộc Chính phủ Việt Nam thả ngay lập tức và vô điều kiện tất cả những nhà hoạt động cổ súy nhân quyền hiện đang bị bắt giữ hoặc cầm tù,” thư thỉnh nguyện viết.
Thư thỉnh nguyện này cũng nêu rõ cách gây áp lực là tác động lên mong muốn của Việt Nam được gia nhập và Hiệp ước đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP và Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập GSP.
Sau đó gần một tháng, vào ngày 5/3, Michael Posner và các quan chức cấp cao khác trong Bộ ngoại giao Hoa Kỳ cũng đã đón tiếp 165 người Mỹ gốc Việt từ trên khắp các tiểu bang trên nước Mỹ đến Nhà Trắng trong một cuộc vận động nhân quyền được cho là lớn nhất từ trước đến nay của người Việt tại Mỹ.
"Cả GSP và TPP đều bao gồm các cam kết bảo vệ quyền lao động, trong đó có quyền tự do lập hội nhóm"
Michael Posner, trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ
Trong cuộc gặp này, Chính phủ Hoa Kỳ đã
cam kết sẽ tiếp tục làm việc với Việt Nam về vấn đề nhân
quyền thông qua các kênh khác nhau, trong ̣đó có cuộc đối thoại
thường niên về nhân quyền giữa hai nước.“Trong khi chúng tôi tiếp tục các cuộc đối thoại với phía Việt Nam, chúng tôi đặc biệt ý thức rất rõ lập trường của cộng đồng người Việt tại Mỹ,” phản hồi của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ viết.
Tuy nhiên, Bộ ngoại giao nước này cho rằng việc thúc đẩy thương mại với Việt Nam sẽ tạo ra cơ hội để bàn thảo các vấn đề nhân quyền.
“Cả GSP và TPP đều bao gồm các cam kết bảo vệ quyền lao động, trong đó có quyền tự do lập hội nhóm.”
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/04/120422_michael_posner_response.shtml
Vì sao Hoa Kỳ cần đến Việt Nam
Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2012-04-22
Với tiêu đề bài viết Vì sao Hoa Kỳ cần đến Việt Nam mới được đăng tải trên tờ The Diplomat, TS Michael Auslin hiện đang là học giả tại Trung tâm nghiên cứu an ninh và Châu Á tại Viện Doanh Nghiệp Hoa Kỳ cho thấy lý do vì sao Hoa Kỳ và Việt Nam cần tìm đến nhau: ngoài một mối lo ngại chung là Trung Quốc thì những tiềm tàng trong quan hệ như thương mại, an ninh… cũng khiến hai quốc gia này xích lại gần nhau hơn.
AFP PHOTO / JIM WATSON
Vũ Hoàng: Trước hết cám ơn TS Michael Auslin đã dành thời gian cho buổi phỏng vấn hôm nay. Thưa ông, trong bài viết ông có nói là trở ngại lớn nhất của Hoa Kỳ và Việt Nam hiện giờ là vấn đề chính trị? Vậy ông có thể nói rõ hơn về vấn đề này được không?
TS Michael Auslin: Vấn đề lớn nhất trong mối quan hệ xét về mặt chính trị cơ bản giữa hai quốc gia là liên quan đến quyền dân sự, tự do tôn giáo, một số vấn đề pháp luật, những người biểu tình bị đối xử tại Việt Nam. Với các nhà làm luật Hoa Kỳ thì họ quan tâm cả đến góc độ kinh tế lẫn chiến lược trong mối quan hệ song phương, thế nhưng dưới khía cạnh chính trị, thì mối quan hệ phát triển này lại diễn ra chậm chạp vì nhìn chung là Hoa Kỳ không muốn động chạm nhiều đến vấn đề chính trị nội bộ của quốc gia khác. Đồng thời các nhà lập pháp Hoa Kỳ cũng hiểu là họ chỉ có thể tác động chừng mực nào đó đến cách thức mà giới chức Việt Nam đang điều hành đất nước mình.
Mối lo chung
Vũ Hoàng: Quay lại với bài viết của mình, ông có nói là Hoa Kỳ cần phải xích lại gần với Việt Nam vì một mối lo ngại chung là Trung Quốc trên cả góc độ thương mại và an ninh, vì sao ông lại đưa ra nhận định này?Rõ ràng là cả hai quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ đều đang có những quan ngại giống nhau về Trung Quốc.
TS Michael Auslin
TS Michael Auslin: Rõ ràng là cả hai quốc gia Việt Nam
và Hoa Kỳ đều đang có những quan ngại giống nhau về Trung Quốc.
Trung Quốc hiện đang trở thành một đối tác thương mại quan
trọng đối với cả 2 quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ. Vì thế dưới
góc độ kinh tế, tôi nghĩ rằng cả Hà Nội và Washington đều đang
nỗ lực để duy trì sự ổn định cũng như phát triển hơn nữa
mối quan hệ thương mại với Bắc Kinh. Thế nhưng, dưới góc độ an
ninh, thì sự quan ngại là rất rõ ràng. Trung Quốc ngày càng
tăng cường củng cố quân sự, cách thức họ gây áp lực lên Việt
Nam, cách thức họ tuyên bố chủ quyền ngoài Biển Đông và cả
những động thái của họ đối với Hoa Kỳ nữa.
Tôi nghĩ rằng chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam có rất nhiều
việc phải làm, ít nhất là bàn thảo về thực chất quyền hạn
của Trung Quốc và cách thức mà hai quốc gia Việt – Mỹ phản
ứng lại cho phù hợp, cũng như là cân nhắc đến sự hợp tác song
phương trước xu hướng lo ngại mà hai nước này đang phải đối
mặt.
Thương mại
Vũ Hoàng: Xin chuyển đề tài một chút, như được biết là
ông đã tới Việt Nam và ở lại đây một thời gian, trong bài viết
ông mô tả cảnh sống và làm ăn kinh doanh khá sôi động tại quốc
gia này, vậy thì ông có một vài lời khuyên gì cho giới doanh
gia Hoa Kỳ đến đây đầu tư không ạ?
TS Michael Auslin: Dưới góc độ tìm kiếm cơ hội đầu tư,
thương mại của Hoa Kỳ sang quốc gia đông dân như Việt Nam có thể
giúp Việt Nam đạt được những tiêu chuẩn cao hơn về mặt giáo
dục, khiến các công ty, nhà máy Việt Nam có khả năng thực sự
cạnh tranh trên trường quốc tế, chẳng hạn, TPP (Hiệp Định Xuyên
Thái Bình Dương) có thể làm được điều này. Tôi nghĩ rằng, máy
móc thiết bị hiện đại của Hoa Kỳ cũng sẽ được đầu tư sang
Việt Nam, do đó, Việt Nam có thể được hưởng lợi khá nhiều,
nhất là quốc gia này đang trong quá trình thực hiện quá trình
công nghiệp hóa và hiện đại hóa của mình.
Dưới góc độ tìm kiếm cơ hội đầu tư, thương mại của Hoa Kỳ sang quốc gia đông dân như Việt Nam có thể giúp Việt Nam đạt được những tiêu chuẩn cao hơn về mặt giáo dục, khiến các công ty, nhà máy Việt Nam có khả năng thực sự cạnh tranh trên trường quốc tế...
TS Michael Auslin
Vũ Hoàng: Nhân nói đến chuyện TPP, ông đánh giá ra
sao về các vòng đàm phán gần đây của Việt Nam khi gia nhập vào
Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương này?
TS Michael Auslin: Tôi nghĩ rằng Hoa Kỳ rất mong muốn khi
nhìn thấy Việt Nam trở thành một đối tác chính thức của
Hiệp ước này, vì tiềm năng và lợi ích mà Hiệp ước này mang
lại trên cơ sở xuyên Thái Bình Dương. Ở đây, Hoa Kỳ mong muốn có
những quốc gia ở các lục địa khác nhau chẳng hạn, từ Nhật
Bản cho tới Mexico. Ngoài ra, thì TPP cũng khiến hai quốc gia Hoa
Kỳ và Việt Nam xích lại gần nhau trong khi đàm phán cũng như
về sau khi là các thành viên trong một khối hiệp ước năng động
bậc nhất thế giới.
Đồng thời, tôi cũng cho rằng khi gia nhập vào Hiệp ước này,
Việt Nam đang tự mang đến nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp nội
địa được vươn ra thế giới bên ngoài. Tôi cũng từng nói chuyện
với các giới chức của Bộ Thương mại Việt Nam, họ cho biết các
doanh nghiệp trong nước sẽ học được sự canh tranh quốc tế, mặc
dù trong ngắn hạn sẽ có khó khăn, nhưng về lâu dài, ngành
xuất khẩu Việt Nam sẽ trở nên hiệu quả hơn và giành được
nhiều thị phần hơn.
An ninh
Vũ Hoàng: Chúng ta mới đề cập về vấn đề thương mại,
vậy riêng về mặt an ninh quân sự, ông có muốn nói thêm điều gì
không ạ?
TS Michael Auslin: Tôi nghĩ rằng sẽ có rất nhiều cơ hội
cho quân đội Hoa Kỳ hợp tác với Việt Nam. Tôi nghĩ rằng việc
hợp tác có thể sẽ diễn ra chậm rãi và tế nhị vì Việt Nam
đang có những khúc mắc với Trung Quốc nhưng lại muốn quá thân
thiện với Hoa Kỳ. Có thể nói, là tính cho đến giờ Hoa Kỳ có
rất ít những khóa huấn luyện hay tập trận chung với hải quân
Việt Nam, vì thế Hoa Kỳ cần phải tiếp tục nhiều hơn nữa những
chương trình tập huấn như thế, để mang lại thêm sự tự tin giữa
hai quốc gia. Đồng thời, tôi cho là ưu tiên của Hoa Kỳ là nên
để nhiều sinh viên Việt Nam sang Hoa Kỳ du học và ngược lại,
người dân Hoa Kỳ cũng nên đến Việt Nam nhiều hơn, để cả 2 quốc
gia hiểu thêm về nhau tốt hơn nữa.
Tế nhị
Vũ Hoàng: Vâng, cám ơn câu trả lời của ông. Với câu
hỏi cuối cùng, quay lại kết luận trong bài viết của mình, vì
sao ông cho rằng, mối quan hệ của Việt Nam và Hoa Kỳ trong những
thập kỷ tới sẽ là một trong những mối quan hệ khôn khéo nhưng
không kém phần quan trọng, thưa ông?
TS Michael Auslin: Như tôi có trình bày trong bài viết
là những vấn đề chính trị giữa hai quốc gia, có nghĩa rằng
quan hệ giữa hai nước sẽ có cả yếu tố khôn khéo, tế nhị, vì
vậy chúng ta phải từ từ giải quyết mọi vấn đề khác biệt,
điều đó rất hiển nhiên. Nhưng đồng thời, vì sao tôi nói quan hệ
song phương là quan trọng, bởi vì ở khía cạnh thương mại, Việt
Nam là một nước đang phát triển khá mạnh, với sức tiêu thụ
khoảng 87 triệu dân, hơn nữa, Hoa Kỳ và Việt Nam đều đang đối
mặt với vấn đề vùng biển sầm uất nhất thế giới – Biển Đông.
Do vậy, mối quan hệ song phương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chắc
chắn là vừa quan trọng vừa tế nhị.
Vũ Hoàng: Một lần nữa, thay mặt thính giả đài
ACTD, cám ơn ông rất nhiều đã dành thời gian để chúng tôi thực
hiện cuộc phỏng vấn này . TS Michael Auslin: Xin cám ơn.
TIN THẾ GIỚI
Vụ Bạc Hy Lai :
Giới lãnh đạo Trung Quốc đứng trên pháp luật
Cựu bí thư thành ủy Trùng Khánh Bạc Hy Lai trong kỳ họp Quốc hội Trung Quốc tại Bắc Kinh ngày 9/03/ 2012.
REUTERS/David Gray/
« Truyện dài nhiều tập » Bạc Hy Lai, vụ bê bối chính
trị ở mức độ hiếm thấy tại Trung Quốc trong nhiều năm qua, đã làm lộ rõ
một thực tế phũ phàng : Giới lãnh đạo Trung Quốc đứng trên pháp luật,
ít khi bị trừng phạt. Đồng thời, sự kiện này cũng gióng hồi chuông báo
động khẩn cấp cho Bắc Kinh là cần phải có những thay đổi sâu sắc.
Việc cựu bí thư thành ủy Trùng Khánh bị cách chức và cuộc điều
tra nhắm vào vợ của ông Bạc Hy Lai, bị nghi ngờ trong vụ giết hại một
công dân Anh, là đề tài được thảo luận sôi nổi trong dân chúng, mặc dù
chính quyền Bắc Kinh đã tìm mọi cách kiểm duyệt, ngăn chặn.
Các phương tiện truyền thông của Nhà nước Trung Quốc ít đăng tải các tuyên bố chính thức về vụ này, nhưng các cáo buộc và tin đồn về việc ông Bạc Hy Lai và gia đình ông tham nhũng ồ ạt, lạm dụng chức quyền nghiêm trọng, vẫn xuất hiện trên internet, vào lúc đại đa số người dân Trung Quốc cảm thấy bất bình cao độ về những hành vi tham ô, cửa quyền của giới lãnh đạo các cấp, từ trung ương đến địa phương.
Ông Sidney Rittenberg, một người Mỹ sống và làm việc lâu năm tại Trung Quốc, nói với AFP : « Vụ Bạc Hy Lai cho thấy nạn tham nhũng của một số lãnh đạo cấp cao nhất thật đáng sợ. Chỉ có một thiểu số các lãnh đạo Trung Quốc thực sự muốn đấu tranh chống tham nhũng, kể cả đối với những người ở chóp bu quyền lực ». « Từ khi xóa bỏ cơ chế lãnh đạo tập trung về kinh tế, các quan chức địa phương gần như tự do hành động theo ý họ tại các nơi mà họ lãnh đạo ».
Ông Bạc Hy Lai bị mất chức bí thư thành ủy Trùng Khánh, và từ giữa tháng Tư, thì bị đình chỉ chức ủy viên Bộ Chính trị, do bị nghi ngờ « có những vi phạm kỷ luật nghiêm trọng » của đảng Cộng sản, cụm từ thường được dùng để chỉ các vụ tham nhũng. Bà Cốc Khai Lai, vợ ông Bạc Hy Lai, là đối tượng một cuộc điều tra vì bà bị nghi ngờ ra lệnh sát hại một doanh nhân Anh, người truớc kia thân cận với gia đình quan chức cao cấp này.
Nhiều nhà quan sát ví von vụ Bạc Hy Lai như một bộ phim dài nhiều tập, với các tình tiết gay cấn, nghẹt thở, giống như kiểu phim nói về mafia của Hollywood.
Ông Khương Duy Bình (Jian Weiping), nhà báo từng ngồi tù 5 năm vì đã đăng các bài viết phê phán vợ chồng ông Bạc Hy Lai, cho biết là ngay từ đầu những năm 1990, đã có những thông tin nói về việc ông Bạc Hy Lai tham nhũng, khi quan chức này phụ trách công tác tuyên truyền, tư tưởng ở thành phố Đại Liên, phía bắc Trung Quốc. Còn bà Cốc Khai Lai thì huy động vốn một cách bất hợp pháp, thông qua các viện nghiên cứu hoặc các công ty do bà lập ra, với danh nghĩa tạo thuận lợi cho đầu tư ngoại quốc.
Nhà báo Khương Duy Bình, hiện đang sống tại Canada, nhấn mạnh với AFP là ông Bạc Hy Lai, con một vị cán bộ cấp cao, lão thành cách mạng Trung Quốc, đã leo lên các bậc thang quyền lực, bằng cách biếu đất, tiền bạc cho những quan chức cao cấp hơn.
Ngay sau khi tới Trùng Khánh, ông Bạc Hy Lai đã mở tiến hành cuộc chiến chống tham nhũng, với hàng ngàn vụ bắt giữ thô bạo và các vụ xét xử nổi tiếng nhắm vào các băng đảng mafia, xã hội đen. Chiến dịch « bàn tay sạch » này đã bị các tổ chức bảo vệ nhân quyền chỉ trích mạnh mẽ là vi phạm pháp luật, tùy tiện, độc đoán. Nhà báo Khương Duy Bình nhận định: « Ông Bạc Hy Lai có hai khuôn mặt. Ông tỏ ra là một chính trị gia tài năng, hấp dẫn. Mặt khác, đó là một nhân vật mưu phản, thủ đoạn. Ông ta biết ăn nói, lừa phỉnh. và có tài đánh bóng tên tuổi mình ».
Vụ Bạc Hy Lai được coi là một bê bối chính trị nghiêm trọng tại Trung Quốc, thế nhưng, giới quan sát nhắc lại rằng, trước đây, đã có nhiều vụ khác, gây ầm ĩ hơn. Ví dụ, nguyên bí thư thành ủy Thượng Hải Trần Lương Vũ, năm 2008, bị kết án 18 năm tù do tham nhũng ; hoặc nguyên thị trưởng Bắc Kinh Trần Huy Đồng, bị cách chức năm 1995 và sau đó, bị kết án 16 năm tù, cũng về tội tham nhũng.
Tuy nhiên, các chuyên gia nhấn mạnh là tình hình kinh tế - xã hội Trung Quốc năm 2012 rất khác với bối cảnh cách nay vài năm và đối với giới lãnh đạo ở Bắc Kinh, thì vụ Bạc Hy Lai cho thấy sự cấp thiết phải cải cách mạnh mẽ và sâu rộng.
Bởi vì, trong những năm gần đây, tính chính đáng của đảng Cộng sản Trung Quốc trong vai trò lãnh đạo đất nước dựa rất nhiều vào sự phát triển kinh tế, với tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, đưa một phận dân chúng ra khỏi cảnh nghèo khó. Giờ đây, tăng trưởng đã giảm, mô hình kinh tế bắt đầu hụt hơi, làm nẩy sinh nhiều mâu thuẫn, chênh lệch giầu nghèo, khác biệt về phát triển giữa thành thị và nông thôn. Căng thẳng xã hội gia tăng, đặc biệt là các vụ biểu tình của dân chúng ở nông thôn, vì không trông cậy được vào sự bảo vệ của luật pháp, đã bạo động phản đối chính sách trưng dụng đầt đai do những kẻ có thế lực, lãnh đạo ở địa phương tiến hành.
Ông Lý Thành (Li Cheng), chuyên gia nghiên cứu về giới lãnh đạo Trung Quốc, tại học viện Brookings, cho rằng đảng Cộng sản Trung Quốc phải thực hiện « các thay đổi sâu sắc » nếu muốn « lấy lại lòng tin của người dân và tiếp tục nắm quyền lãnh đạo ». Theo ông, « cuộc khủng hoảng Bạc Hy Lai có thể là một điềm rủi hoặc điềm may cho đảng Cộng sản Trung Quốc. Là điềm rủi nếu Đảng cho rằng có thể vẫn tiếp tục như đã làm cho đến nay và là một điềm may nếu Đảng quyết định thay đổi ».
Các phương tiện truyền thông của Nhà nước Trung Quốc ít đăng tải các tuyên bố chính thức về vụ này, nhưng các cáo buộc và tin đồn về việc ông Bạc Hy Lai và gia đình ông tham nhũng ồ ạt, lạm dụng chức quyền nghiêm trọng, vẫn xuất hiện trên internet, vào lúc đại đa số người dân Trung Quốc cảm thấy bất bình cao độ về những hành vi tham ô, cửa quyền của giới lãnh đạo các cấp, từ trung ương đến địa phương.
Ông Sidney Rittenberg, một người Mỹ sống và làm việc lâu năm tại Trung Quốc, nói với AFP : « Vụ Bạc Hy Lai cho thấy nạn tham nhũng của một số lãnh đạo cấp cao nhất thật đáng sợ. Chỉ có một thiểu số các lãnh đạo Trung Quốc thực sự muốn đấu tranh chống tham nhũng, kể cả đối với những người ở chóp bu quyền lực ». « Từ khi xóa bỏ cơ chế lãnh đạo tập trung về kinh tế, các quan chức địa phương gần như tự do hành động theo ý họ tại các nơi mà họ lãnh đạo ».
Ông Bạc Hy Lai bị mất chức bí thư thành ủy Trùng Khánh, và từ giữa tháng Tư, thì bị đình chỉ chức ủy viên Bộ Chính trị, do bị nghi ngờ « có những vi phạm kỷ luật nghiêm trọng » của đảng Cộng sản, cụm từ thường được dùng để chỉ các vụ tham nhũng. Bà Cốc Khai Lai, vợ ông Bạc Hy Lai, là đối tượng một cuộc điều tra vì bà bị nghi ngờ ra lệnh sát hại một doanh nhân Anh, người truớc kia thân cận với gia đình quan chức cao cấp này.
Nhiều nhà quan sát ví von vụ Bạc Hy Lai như một bộ phim dài nhiều tập, với các tình tiết gay cấn, nghẹt thở, giống như kiểu phim nói về mafia của Hollywood.
Ông Khương Duy Bình (Jian Weiping), nhà báo từng ngồi tù 5 năm vì đã đăng các bài viết phê phán vợ chồng ông Bạc Hy Lai, cho biết là ngay từ đầu những năm 1990, đã có những thông tin nói về việc ông Bạc Hy Lai tham nhũng, khi quan chức này phụ trách công tác tuyên truyền, tư tưởng ở thành phố Đại Liên, phía bắc Trung Quốc. Còn bà Cốc Khai Lai thì huy động vốn một cách bất hợp pháp, thông qua các viện nghiên cứu hoặc các công ty do bà lập ra, với danh nghĩa tạo thuận lợi cho đầu tư ngoại quốc.
Nhà báo Khương Duy Bình, hiện đang sống tại Canada, nhấn mạnh với AFP là ông Bạc Hy Lai, con một vị cán bộ cấp cao, lão thành cách mạng Trung Quốc, đã leo lên các bậc thang quyền lực, bằng cách biếu đất, tiền bạc cho những quan chức cao cấp hơn.
Ngay sau khi tới Trùng Khánh, ông Bạc Hy Lai đã mở tiến hành cuộc chiến chống tham nhũng, với hàng ngàn vụ bắt giữ thô bạo và các vụ xét xử nổi tiếng nhắm vào các băng đảng mafia, xã hội đen. Chiến dịch « bàn tay sạch » này đã bị các tổ chức bảo vệ nhân quyền chỉ trích mạnh mẽ là vi phạm pháp luật, tùy tiện, độc đoán. Nhà báo Khương Duy Bình nhận định: « Ông Bạc Hy Lai có hai khuôn mặt. Ông tỏ ra là một chính trị gia tài năng, hấp dẫn. Mặt khác, đó là một nhân vật mưu phản, thủ đoạn. Ông ta biết ăn nói, lừa phỉnh. và có tài đánh bóng tên tuổi mình ».
Vụ Bạc Hy Lai được coi là một bê bối chính trị nghiêm trọng tại Trung Quốc, thế nhưng, giới quan sát nhắc lại rằng, trước đây, đã có nhiều vụ khác, gây ầm ĩ hơn. Ví dụ, nguyên bí thư thành ủy Thượng Hải Trần Lương Vũ, năm 2008, bị kết án 18 năm tù do tham nhũng ; hoặc nguyên thị trưởng Bắc Kinh Trần Huy Đồng, bị cách chức năm 1995 và sau đó, bị kết án 16 năm tù, cũng về tội tham nhũng.
Tuy nhiên, các chuyên gia nhấn mạnh là tình hình kinh tế - xã hội Trung Quốc năm 2012 rất khác với bối cảnh cách nay vài năm và đối với giới lãnh đạo ở Bắc Kinh, thì vụ Bạc Hy Lai cho thấy sự cấp thiết phải cải cách mạnh mẽ và sâu rộng.
Bởi vì, trong những năm gần đây, tính chính đáng của đảng Cộng sản Trung Quốc trong vai trò lãnh đạo đất nước dựa rất nhiều vào sự phát triển kinh tế, với tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, đưa một phận dân chúng ra khỏi cảnh nghèo khó. Giờ đây, tăng trưởng đã giảm, mô hình kinh tế bắt đầu hụt hơi, làm nẩy sinh nhiều mâu thuẫn, chênh lệch giầu nghèo, khác biệt về phát triển giữa thành thị và nông thôn. Căng thẳng xã hội gia tăng, đặc biệt là các vụ biểu tình của dân chúng ở nông thôn, vì không trông cậy được vào sự bảo vệ của luật pháp, đã bạo động phản đối chính sách trưng dụng đầt đai do những kẻ có thế lực, lãnh đạo ở địa phương tiến hành.
Ông Lý Thành (Li Cheng), chuyên gia nghiên cứu về giới lãnh đạo Trung Quốc, tại học viện Brookings, cho rằng đảng Cộng sản Trung Quốc phải thực hiện « các thay đổi sâu sắc » nếu muốn « lấy lại lòng tin của người dân và tiếp tục nắm quyền lãnh đạo ». Theo ông, « cuộc khủng hoảng Bạc Hy Lai có thể là một điềm rủi hoặc điềm may cho đảng Cộng sản Trung Quốc. Là điềm rủi nếu Đảng cho rằng có thể vẫn tiếp tục như đã làm cho đến nay và là một điềm may nếu Đảng quyết định thay đổi ».
tags: Châu Á - Chính trị - Phân tích - Tham nhũng - Trung Quốc
BẮC TRIỀU TIÊN:LỜI CHỨNG CỦAMỘT TÙ NHÂN
Nhật báo Le Monde hôm nay 19/04/2012 trong mục điểm sách đã
giới thiệu tác phẩm « Người sống sót của trại 14 » của nhà báo Mỹ Blaine
Harden, kể lại những gì mà người tù trẻ tuổi Shin Dong Hyuk đã chứng
kiến trong trại cải tạo Bắc Triều Tiên. Người thanh niên này sinh ra và
lớn lên trong một trại cải tạo, đã phải chịu đựng từ tra tấn cho đến
việc chứng kiến cuộc hành hình mẹ và anh ruột. Anh trốn thoát được vào
năm 2005, lúc đó Shin Dong Hyuk 23 tuổi.
Thân phận nô lệ của nhân chứng hiếm hoi
Năm nay 30 tuổi, Shin Dong Hyuk cùng thế hệ với tân lãnh tụ Bắc Triều
Tiên Kim Jong Un – thể hệ thứ ba của họ Kim nối nghiệp trị vì đất nước
khép kín này. Nhưng sự giống nhau dừng lại ở đó. Bắc Triều Tiên tuy về
mặt chính thức là một xã hội không giai cấp, nhưng thật ra dòng máu
quyết định tất cả.
Kim Jong Un khi sinh ra đã là một hoàng tử cộng sản, được nuông chiều
sau các bức tường cung điện. Du học tại Thụy Sĩ, sau đó về nước học tại
trường đại học mang tên chính ông nội mình dành riêng cho giai cấp ưu
tú – nhờ vào huyết thống, Kim Jong Un đứng trên mọi luật lệ. Năm 2010,
được phong làm đại tướng bốn sao dù hoàn toàn không có kinh nghiệm quân
sự, và một năm sau đó lên thay cha lãnh đạo đất nước, Kim Jong Un được
báo chí chính thức Bắc Triều Tiên ca tụng là « lãnh tụ được Thiên tử gởi đến ».
Cùng một lứa tuổi, Shin Dong Hyuk sinh ra với thân phận nô lệ, tên
khai sinh là Shin In Geun chỉ được học đủ để đọc chữ và biết đếm. Cha mẹ
anh đều là tù nhân của trại cải tạo số 14 nằm tại miền Trung đất nước –
một thành phố thực thụ với 50.000 tù nhân, các trang trại, nhà máy và
hầm mỏ. Đây là trại tù dành cho các kẻ thù chính trị của chế độ. Mọi
cuộc tụ họp quá hai người đều bị cấm, trừ khi có các vụ xử tử thì tất cả
mọi người đều phải tham dự. Đến năm 14 tuổi, Shin Dong Hyuk đã phải
chứng kiến rất nhiều vụ tử hình, trong đó có mẹ ruột và anh trai. Phải
mất một thời gian rất lâu sau anh mới nhận ra mình đã vô tình tố cáo họ,
vì quản giáo luôn răn dạy phải dọ thám người khác.
Các quản giáo của Shin vừa là thầy dạy học, vừa là những người đã tạo
tác ra anh, vì chính quản giáo đã chọn lựa ra cha và mẹ anh để ghép đôi
với nhau - một phương cách để thưởng cho những người tù chấp hành tốt.
Cậu bé phải học thuộc lòng mười điều quy định của trại, trong đó điều
đầu tiên là : « Tất cả những người mưu toan trốn trại sẽ bị bắn hạ ngay tại chỗ ».
Tử hình và tra tấn
Kỷ niệm đầu đời của Shin Dong Hyuk là một vụ tử hình mà anh chứng
kiến năm mới lên bốn tuổi. Để tránh việc tử tù mắng chửi Nhà nước, người
ta nhét đầy đá sỏi vào miệng và bịt mắt.
Mười năm sau đó, Shin trở lại
nơi chốn cũ, mắt bị bịt lại bằng một chiếc khăn, tay bị còng, và cha anh
cũng thế.
Hai cha con vừa trải qua tám tháng bị giam cầm trong một nhà
tù dưới lòng đất, họ phải ký giấy cam đoan không tiết lộ cho bất cứ ai,
rồi mới được thả ra.
Trong nhà tù bí mật này, các quản giáo đã tra tấn hai cha con để cố
ép cho họ khai ra về vụ mẹ và anh của Shin âm mưu trốn trại. Sau khi lột
quần áo, những kẻ tra tấn đã trói tay chân cha con Shin, treo ngược
bằng một cái móc phía trên một lò lửa. Shin ngất đi khi da thịt bắt đầu
bị đốt cháy.
Anh không khai gì cả. Anh không có gì để khai báo. Shin chưa bao giờ
có ý định ra khỏi trại, không hề âm mưu với mẹ và anh trốn trại.
Shin
tin vào những gì các quản giáo đã nhồi vào đầu từ lúc mới sinh : anh
không bao giờ có thể trốn khỏi trại cải tạo, và phải tố cáo tất cả những
ai đề cập đến việc này. Shin không tưởng tượng ra nổi một cuộc sống bên
ngoài trại, ngay cả trong mơ. Và thực tế anh còn không biết cả sự hiện
hữu của Hàn Quốc, Trung Quốc hay Hoa Kỳ.
Hôm ấy khi một quản giáo mở khăn bịt mắt, nhìn thấy đám đông, chiếc
cọc và giá treo cổ, Shin cứ ngỡ phút cuối của mình đã điểm. Nhưng người
ta không nhét đá sỏi vào miệng, mà lại mở còng tay và để anh ngồi trên
hàng đầu. Như vậy cha con anh sẽ là khán giả
Một người phụ nữ và một thanh niên được điệu ra pháp trường. Đó là mẹ
và anh trai của Shin. Một quản giáo quàng sợi dây thừng qua cổ mẹ anh,
bà cố quay nhìn con trai út, nhưng Shin nhìn sang nơi khác. Khi bà mẹ
không còn giãy giụa nữa, ba phát súng bắn vào người anh của Shin. Nhìn
thấy họ bị hành hình, Shin gần như thở phào nhẹ nhõm vì không phải mình
bị án tử. Tình yêu, lòng thương hại, tình cảm gia đình hầu như không
hiện diện trong trại. Mẹ Shin nhiều lần đánh đập anh, cha anh không hay
biết – ông chỉ được phép ngủ với vợ năm lần trong một năm.
Chín năm sau khi mẹ và anh bị xử tử, Shin trườn ra khỏi hàng rào kẽm
gai có mắc điện, chạy trốn trên tuyết. Đó là ngày 2 tháng Giêng năm
2005. Trước đó, chưa hề có người tù nào trốn được khỏi trại, và Shin là
người duy nhất. Năm đó anh 23 tuổi, không hề quen biết bất kỳ ai bên
ngoài. Sau một tháng trời đi bộ, anh lần sang được Trung Quốc. Hai năm
sau đó Shin sang Hàn Quốc, và bốn năm sau, anh sống ở California, trở
thành đại sứ của một phong trào nhân quyền Mỹ - LINK, tức Liberty In
North Korea (Tự do tại Bắc Triều Tiên).
Shin đổi tên thành Shin Dong Hyuk từ khi sang đến Hàn Quốc, hy vọng
sẽ bắt đầu một cuộc đời tự do. Anh có khuôn mặt khá đẹp, nhưng người nhỏ
thó và gầy ốm vì bị suy dinh dưỡng lúc còn nhỏ. Đôi cánh tay bị biến
dạng vì phải làm việc nặng trong thời kỳ tăng trưởng, thận và mông mang
dấu tích của vụ tra tấn, mắt cá còn thẹo khi bị treo ngược. Ngón tay
giữa bị mất một đốt : người ta đã chặt đi để trừng phạt do anh lỡ đánh
rơi chiếc máy may của xưởng may trong trại khi bê lên cầu thang. Cẳng
chân anh bị cào nát và bị phỏng khi chui qua hàng rào điện của trại.
Trại cải tạo Bắc Triều Tiên : Một thực tế hiển nhiên
Các trại cải tạo Bắc Triều Tiên có quá trình hiện diện lâu đời - gấp
đôi so với các goulak của Liên Xô cũ, và gấp 12 lần so với các trại tập
trung quốc xã. Các ảnh chụp độ nét cao từ vệ tinh mà mọi người đều có
thể tham khảo trên Google Earth cho thấy nhiều vùng đất mênh mông trải
dài trên các sườn núi khô cằn, được rào chắn.
Chính quyền Hàn Quốc ước lượng có khoảng 154.000 người đang bị giam
cầm tại đây, còn chính phủ Mỹ và các tổ chức bảo vệ nhân quyền cho rằng
con số này lên đến 200.000 người. Sau khi nghiên cứu toàn bộ ảnh vệ tinh
trong một thập kỷ qua, Amnesty International nhận thấy trong năm 2011,
có những công trình đã được xây dựng thêm. Tổ chức này lo ngại là số
lượng tù cải tạo đã tăng lên, có thể nhằm siết chặt kiểm soát trong giai
đoạn chuyển giao quyền lực cho Kim Jong Un.
Tình báo Hàn Quốc ghi nhận có 6 trại cải tạo tại Bắc Triều Tiên. Trại
lớn nhất có chiều dài đến 50 cây số và chiều rộng 40 cây số, với diện
tích còn lớn hơn cả thành phố Los Angeles. Năm trại được bao bọc bởi
càng hàng rào kẽm gai tích điện, điểm xuyết bằng các chòi canh. Hai trại
15 và 18 có các khu vực trong đó một số người tù được may mắn học những
điều chỉ dạy bổ ích của Kim Jong Il và Kim Il Sung. Nếu họ học tập tốt
và chứng tỏ được lòng trung thành với chế độ, thì có cơ hội được trả tự
do, nhưng suốt cuộc đời họ sẽ bị an ninh nhà nước theo dõi.
Người Hồng Kông sợ mất đi bản sắc và mất tự do trước Trung Quốc
Le Figaro hôm nay nói về việc « Hồng Kông muốn hạn chế người nhập cư
Trung Quốc ». Tuyên
bố trên truyền hình, tân trưởng đặc khu Hồng Kông đã loan báo sẽ cấm
các sản phụ Trung Quốc lục địa sang sinh con, và hủy bỏ việc mặc nhiên
cấp quyền thường trú cho những đứa trẻ sinh ra tại lãnh thổ tự trị này.
Thông tín viên của Le Figaro cho biết thật ra từ năm ngoái, chính
quyền Hồng Kông đã hạn chế số lượng người Trung Quốc lục địa nhập viện ở
Hồng Kông, bằng cách đặt ra hạn ngạch. Tuy nhiên các thai phụ quyết tâm
sang đây vẫn có thể tránh né với việc nhờ những người trung gian đưa
sang biên giới lúc sắp đến kỳ sinh nở, sau đó vào khoa cấp cứu của các
bệnh viện. Hiện tượng này khiến tờ báo Hồng Kông có số lượng phát hành
lớn là Apple Daily giận dữ tố cáo trong một phụ trang đính kèm: « Người
Hồng Kông đã quá chán ngán, thành phố đang hấp hối ». Phụ trang này được
tài trợ bằng nguồn tiền đóng góp của cư dân mạng Hồng Kông, đòi hỏi «
Chấm dứt việc xâm nhập không giới hạn của người Trung Quốc đại lục ». Theo Gérard Henry, một nhà báo đã sinh sống tại đây từ ba chục năm qua, thì « Người Hồng Kông cũng lo sợ sẽ bị mất đi bản sắc. Từ khi Hồng Kông được trả về cho Trung Quốc, luồng người di cư từ lục địa sang ngày càng đông đảo. Một số còn giàu có hơn người bản địa rất nhiều, một điều mà trước đây khó thể nghĩ tới.
Khi thấy cơn khát tiêu thụ, vung tay mua hàng của
người Trung Quốc lục địa, người dân Hồng Kông lo sợ rằng họ sẽ bị nuốt
mất, bị đánh đồng ».
Một cuộc thăm dò ý kiến mới đây cho biết, có đến 79% người Hồng Kông
không hề nghĩ mình tương đồng với người Trung Quốc. Tỉ lệ này là một kỷ
lục kể từ năm 1997.
Theo thỏa thuận năm 1984 giữa cựu Thủ tướng Anh Margaret Thatcher với Đặng Tiểu Bình, để đổi lấy việc Hồng Kông được trao trả vào năm 1997, Bắc Kinh sẽ phải để cho vùng lãnh thổ này được « quyền tự trị rộng rãi » cho đến năm 2047. Thời hạn này đang ám ảnh bảy triệu người dân Hồng Kông, sợ rằng sẽ bị người láng giềng khổng lồ nuốt chửng, và các quyền tự do bị hủy bỏ.
Theo thỏa thuận năm 1984 giữa cựu Thủ tướng Anh Margaret Thatcher với Đặng Tiểu Bình, để đổi lấy việc Hồng Kông được trao trả vào năm 1997, Bắc Kinh sẽ phải để cho vùng lãnh thổ này được « quyền tự trị rộng rãi » cho đến năm 2047. Thời hạn này đang ám ảnh bảy triệu người dân Hồng Kông, sợ rằng sẽ bị người láng giềng khổng lồ nuốt chửng, và các quyền tự do bị hủy bỏ.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20120419-bac-trieu-tien-loi-chung-cua-mot-nguoi-song-sot-tu-trai-cai-tao
Ván bài tẩy Miến Điện
Trên một hè phố Rangoon, ngày 12/04/2012. Dù phong phú tài nguyên, Miến Điện
hiện vẫn là một trong những nước nghèo nhất châu Á.
REUTERS/Damir Sagolj
Vì sao một chế độ độc tài bỗng dưng thay đổi ? Theo Ko Ko Gyi, thuộc tổ chức Thế hệ 88 – năm diễn ra phong trào nổi dậy sinh viên, ra tù vào tháng Giêng, thì « đó là vì lý do kinh tế. Với lại Miến Điện sẽ là chủ tịch ASEAN vào năm 2014, và muốn có các đối trọng khác trước ảnh hưởng của Trung Quốc ».
Theo tác giả, thì chính quyền Miến Điện đã dùng 45 chiếc ghế đại biểu Quốc hội lần này để đổi lấy cảm tình của cộng đồng quốc tế - một cái giá không đắt, và đã thành công. Hoa Kỳ loan báo sẽ giảm nhẹ trừng phạt, còn Liên hiệp châu Âu cũng sẽ bàn bạc về việc này ngày 23/4 tới. « Chỉ có điều giới lãnh đạo Miến Điện vẫn phải đến Singapore nếu muốn mua xe siêu sang, đồng hồ hàng hiệu, không thể gởi con cái đến học ở Havard hoặc đi chơi ở Disneyland » - một doanh nhân Pháp mỉa mai.
Nhưng với vỏn vẹn 43 ghế trên tổng số 664 ghế ở Quốc hội, liệu Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ có gây được ảnh hưởng ? Làm thế nào để sửa đổi Hiến pháp – cần phải có đến 75% đại biểu ủng hộ - để tránh việc quân đội nắm quyền trở lại trong trường hợp khủng hoảng, và cản trở bà Aung San Suu Kyi ra tranh cử tổng thống ? Theo ông Olivier Guillard, giám đốc nghiên cứu của Iris, thì « sẽ dễ gây ảnh hưởng bên trong hơn, cho dù Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ không thể thay đổi được Miến Điện trong lúc này ». Còn rất nhiều việc phải làm, trong một đất nước phong phú tài nguyên, nhưng lại thuộc hạng nghèo nhất châu Á. Bên ngoài phạm vi các thành phố, những nông dân với gánh nặng nợ nần phải làm lụng vất vả trên các thửa ruộng, sống trong những căn nhà sàn không điện nước. Tất cả đều bầu cho Daw Shu – người dân Miến Điện gọi bà Aung San Suu Kyi như thế - với hy vọng bà sẽ làm thay đổi cuộc sống của họ.
Năm nay 66 tuổi, lãnh tụ đối lập có sức khỏe kém, và người ta không biết bà có thể đại diện cho đảng mình trong kỳ bầu cử năm 2015 trong cuộc đấu tranh giành 75% số ghế còn lại trong Quốc hội hay không. Một vấn đề khó khăn nữa là xung đột ở các vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là ở bang Kachin. Nhưng nói chung với đa số người dân Miến Điện, Daw Shu gần như là một á thánh, và trên đôi vai gầy của bà đè nặng tương lai của cả một dân tộc. Titanic, những giờ phút cuối
Nhân một trăm năm sự kiện chiếc tàu Titanic bị đắm, Le Nouvel Observateur dành riêng một hồ sơ mang tên « Những bí mật cuối cùng của Titanic ». Tờ báo quay lại cuộn phim những giờ phút cuối cùng của vụ đắm tàu nổi tiếng nhất lịch sử, mà cho đến nay vẫn làm mê hoặc nhiều người.
Ngày 10/04/1912 tại cảng Southampton Anh quốc, đám đông nồng nhiệt vẫy chào chiếc Titanic, du thuyền xinh đẹp và sang trọng nhất vào thời đó, nhổ neo lên đường. Thuyền trưởng Edward John Smith theo nghề thủy thủ từ năm mới 13 tuổi, và lên chức thuyền trưởng vào năm 37 tuổi, chỉ huy lần lượt các tàu Republic, Coptic, Majestic, Adriatic, Olympic, và cũng dễ hiểu khi một người nhiều kinh nghiệm như ông được chọn để điều hành chiếc Titanic trong chuyến hải hành đầu tiên. Khi các nhà báo đến phỏng vấn ông một ngày trước khi lên đường, ông đã ngạc nhiên : « Vì sao các vị muốn phỏng vấn tôi ? Nghề nghiệp tôi an nhàn cho đến nỗi tôi chưa bao giờ phải đối đầu với một trận bão ». Ngày 14/04/1912, lúc 23g40, một thủy thủ trực nhận ra cái bóng màu sẫm một tảng băng to lớn trên đại dương. Anh kéo chuông báo động ba lần, và gọi điện báo cho thuyền trưởng : « Băng sơn ngay trước mặt ». Kíp trực cố lái tàu tránh sang một bên, nhưng chỉ không còn kịp nữa. Chỉ một phút sau tảng băng đã cứa đứt trên 60 m bề dài thân tàu, nước bắt đầu tràn vào phòng máy.
Trong một ca-bin hạng nhất, kỹ sư Thomas Andrews chưa hay biết chuyện gì đã xảy ra. Ông là người đã tham gia vẽ kiểu tàu Titanic, và lúc đó vẫn đang ghi chép một số thay đổi trong mô hình. Thuyền trưởng Smith thông báo vắn tắt tình hình và hỏi : « Chúng ta có thể chịu đựng bao lâu ? ». Andrews trả lời ngắn gọn : « Một tiếng rưỡi, hoặc có thể là hai tiếng đồng hồ nữa, không hơn ».
Thuyền trưởng Smith ra lệnh ngay : « Thả các ca-nô cứu hộ xuống ! ». Có 2.200 hành khách trên chiếc Titanic, nhưng số ca-nô chỉ chở được có phân nửa. Trên boong tàu, khi các thủy thủ thả chiếc ca-nô đầu tiên xuống, không có tình trạng hoảng loạn. Các sĩ quan bắt đầu bắn pháo hiệu cầu cứu, cứ mỗi năm phút một lần. Một sĩ quan nhận ra một chiếc tàu gần đó, bèn đánh tín hiệu morse, nhưng chiếc tàu kia lại đi xa dần. Sau này người ta biết được đó là một chiếc tàu hàng mang tên Californian, nhưng một thành viên tàu này biện minh vì tưởng là « pháo hoa » nên không dừng lại. Các sĩ quan trên Titanic tổ chức việc sơ tán, ưu tiên cho phụ nữ và trẻ em, một số cặp vợ chồng phải chia tay nhau. Đến tận 1g30 sáng 15/4, hành khách mới thực sự hoảng hốt tranh giành nhau xuống ca-nô. Hơn 40 quốc tịch khác nhau có mặt trên tàu, và chỉ có một phần tư hành khách vé hạng ba sống sót. Đến 2g20 sáng, chiếc Titanic chìm dần, một tiếng nổ vang và tất cả ánh sáng đều tắt lịm, những người còn trên boong tàu bị bắn tung lên. Những người may mắn có được một chỗ trên ca-nô không bao giờ quên được những tiếng thét của những con người bất hạnh trên mặt biển lạnh giá. Đến 4g10, chiếc tàu Carpathia cứu được khoảng 700 hành khách, và mấy ngày sau đó, các tàu khác mới đến nơi, vớt được khoảng 300 xác chết. Những kẻ hèn nhát và những người hùng Kẻ hèn nhát nhất trong vụ tàu Titanic chính là Joseph Bruce Ismay, giám đốc White Star Line, công ty sở hữu chiếc tàu này, và cũng có mặt trong chuyến đi khai trương. Ông ta cam đoan là mình đã lên chiếc ca-nô cuối cùng sau khi không còn ai trên boong tàu. Tuy vậy lúc đó trên tàu còn đến 1.500 người, báo chí Mỹ phẫn nộ đả kích và Ismay đã phải lẻn trở về Anh. Còn những người hùng lại có nhiều trên tàu Titanic.
Trước hết là thuyền trưởng Smith đã làm tròn nhiệm vụ cho đến phút chót : ông luôn có mặt tại vị trí để tổ chức điều hành sơ tán, và đã chết mất xác theo tàu. Nhưng ấn tượng nhất là John George Phillips, trưởng bộ phận truyền tin trên tàu. Ông đã đánh đi các tín hiệu cầu cứu không ngơi nghỉ trong suốt hai tiếng đồng hồ, cho đến khi liên lạc được với chiếc tàu Carpathia. Ông bận rộn với công việc cho đến nỗi không nhận ra việc một hành khách đã lấy trộm áo phao cứu nạn của mình. Bị hất văng khỏi tàu sau tiếng nổ, Phillips cuối cùng cũng được vớt lên sau nhiều tiếng đồng hồ trôi nổi trên mặt biển lạnh giá, nhưng sau đó ông đã chết cóng ngay trong đêm. Trung Quốc : Xác nữ tăng giá vì « đám cưới ma »
Về Trung Quốc , Le Courrier International trích dịch bài báo trên The Economist nói về « Đám cưới người chết : Xác chết nữ tăng giá ». Tục làm đám cưới cho thanh niên nam nữ chết lúc còn độc thân có từ ba ngàn năm qua ở miền Bắc Trung Quốc, và hiện nay đang có hiện tượng đào trộm xác chết nữ để bán lại. Nhân tiết thanh minh, nhiều gia đình có con qua đời lúc chưa kịp lập gia đình, tìm kiếm một người hôn phối cho con mình, và cái xác của đôi nam nữ sẽ được chôn cất cạnh nhau trong một buổi lễ vừa là lễ tang vừa là lễ cưới. Bài báo dẫn ra một trường hợp hồi tháng Hai tại Hà Bắc, một thanh niên họ Lưu, 18 tuổi, chết vì bệnh tim, đã « cưới » cô Vũ, 17 tuổi, qua đời vì ung thư não. Gia đình họ Lưu đã phải trả đến 35.000 nhân dân tệ, tương đương 4.200 euro để mua cái xác cô Vũ – một số tiền đáng kể đối với một gia đình nông dân trong một địa phương mà thu nhập bình quân đầu người hàng năm chỉ có 5.000 nhân dân tệ. Hai thanh niên nam nữ chưa từng quen biết nhau lúc còn sống, đã được an táng cùng nhau. Nhưng « tuần trăng mật » của họ kéo dài không được bao lâu : ngôi mộ nhanh chóng bị đào trộm và cái xác cô Vũ được bán lại cho một « đám cưới ma » tại một tỉnh khác. Việc buôn bán xác chết nữ khá phát đạt ở các vùng quê nghèo. Các trung gian đã đẩy giá lên 25% trong vòng năm năm gần đây, đạt đến mức 50.000 nhân dân tệ. Năm ngoái, một tờ báo đã lên án các ông chủ mỏ than giàu có đã làm cho giá tăng đến 130.000 nhân dân tệ. Năm 2010, một mạng lưới chuyên đào trộm mộ đã được phát hiện tại Hà Bắc, băng nhóm này đã đào hơn một chục ngôi mộ, thu lợi hàng trăm ngàn nhân dân tệ với những cái xác đánh cắp.
Gia đình họ Lưu đã gặp may nhờ công an sau khi bắt được bốn trong số năm thành viên của một băng trộm xác, đã trả xác chết của cô Vũ cho người chồng đầu tiên. Tin rằng do phong thủy của ngôi mộ đầu không tốt, họ đã cho xây một ngôi mộ thứ hai bằng bê-tông kiên cố để chôn lại, với hy vọng tân lang và tân giai nhân sẽ được yên ổn ở nơi an nghỉ cuối cùng. Cộng đồng người châu Á tại Pháp bắt đầu ra khỏi bóng tối
Liên quan đến cộng đồng người châu Á tại Pháp, Le Nouvel Observateur đề cập đến một cộng đồng thiểu số trước nay vẫn thầm lặng, nay bắt đầu bước ra khỏi bóng tối và bắt đầu hoạt động tích cực hơn trong một số lãnh vực, trước hết là chính trị.
Trước đây nếu nói
đến một nước Pháp đa sắc tộc, người ta chỉ nhắc đến người da trắng, da
đen và người gốc Bắc Phi. Cộng đồng người châu Á luôn lặng lẽ, ít thấy
trên các phương tiện truyền thông, trong điện ảnh, trong giới chính
trị…Nhưng nay thì các khuôn mặt châu Á bắt đầu xuất hiện trong nhiều
lãnh vực khác nhau. Từ diễn viên điện ảnh, doanh nhân
cho đến chính khách, họ đều muốn có một vị trí xứng đáng trong xã hội.
Khác với thế hệ cha ông chỉ tập trung vào việc mưu sinh, nay lớp trẻ gốc
châu Á bắt đầu khẳng định mình.
Jean-Luc Mélenchon : Ứng viên tổng thống Pháp gây náo độngChỉ còn một
tuần lễ nữa là đến kỳ bầu cử tổn
Tuần báo L’Epress nói về « Tiểu thuyết đen về cuộc bầu cử tổng thống ».
Theo
tờ báo, lẽ ra cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ phải đưa chiến dịch tranh cử
năm nay lên một tầm cao, mở ra những cuộc tranh luận về nợ công, về tăng
trưởng, mô hình xã hội, sinh thái…Nhưng thay vào đó lại là những đòn
chơi xấu, những lời nói dối, thủ thuật tranh cử của các chính khách. Le
Nouvel Observateur chú ý đến « Mélenchon, người gây xáo động », phân
tích những yếu tố trong chiến dịch tranh cử của ứng viên Mặt trận cánh
tả, và đặt câu hỏi liệu ông Mélenchon có thể làm ông Hollande mất phiếu.
Tuần báo Le Point điểm lại « Tình hình nước Pháp », với những con số
đáng ngại cũng như các lý do để có thể hy vọng. Le Courrier
International nói về « Chiến dịch tranh cử nhạt nhẽo » :
ít ý tưởng mới, không có đà tiến - theo thăm dò của các báo nước ngoài,
thì kỳ bầu cử lần này không khơi dậy được niềm đam mê nơi người dân
Pháp.
Le
Nouvel Observateur cho rằng sự thăng tiến bất ngờ của ứng viên Mặt
trận cánh tả Jean-Luc Mélenchon đã làm đảo lộn trật tự của phe tả ở
Pháp. Nếu ông Mélenchon về thứ ba trong vòng bầu cử đầu tiên, sau hai
ứng viên hàng đầu là Nicolas Sarkozy và François Hollande, thì đây là
lần đầu tiên cánh tả có được đến hai ứng cử viên trong ba người xếp hạng
đầu.
\
Theo tờ báo, thì ý định ra tranh cử tổng thống của ông Mélenchon đã có
từ lâu, thậm chí từ hai chục năm trước. Năm 2005 khi người Pháp bác hiệp
ước về Hiến pháp chung châu Âu, thượng nghị sĩ đảng Xã hội Jean-Luc
Mélenchon đã phát động chiến dịch chống lại một châu Âu mà theo ông là
quá tự do chủ nghĩa. Sau cuộc khủng hoảng tài chính, dân chúng bất mãn
trước việc các ngân hàng và các tập đoàn hàng đầu vẫn hưởng lợi nhuận
khổng lồ, ông Mélenchon muốn nắm lấy làn sóng phản kháng này. Tác phẩm «
Tất cả bọn họ phải biến đi ! » xuất bản tháng 10/2010, tuy bị xem là mị
dân, nhưng bán rất chạy.
Nhân vật đầy cá tính này có vẻ phù hợp với giai đoạn hiện nay, và ông có
một bộ sậu rất nhiệt tình, hiệu quả. Một ưu thế nữa là quá trình hoạt
động của ông : trốt-kít thời kỳ hậu 1968, từng theo tổng thống cánh tả
Mitterand, bênh vực cho hội Tam Điểm và chủ trương chính phủ thế tục,
nay đấu tranh dưới ngọn cờ cộng sản và sinh thái…Jean-Luc Mélanchon
có thể có được một lượng cử tri rộng rãi.
Chương trình tranh cử của ông có những đề nghị hấp dẫn : lương tối thiểu
1.700 euro, thanh toán 100% chi phí y tế, hợp pháp hóa toàn bộ những
người không giấy tờ…nhưng phương tiện nào để thực hiện các lời hứa này ?
Ứng viên Mặt trận cánh tả cho rằng ông có khả năng giải quyết tất cả.
Tuy luôn ủng hộ cho một liên hiệp cánh tả, nhưng Mélanchon khẳng định,
ông sẽ không tham gia một nội các nào nếu ông không phải là người lãnh
đạo. Như vậy khả năng duy nhất tham gia chính phủ nếu ông François
Hollande thắng cử, là Mélenchon phải làm Thủ tướng !
Bầu cử - Châu Á - Chính trị - Miến Điện -
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20120415-van-bai-tay-mien-dien
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20120415-van-bai-tay-mien-dien
SUY TƯỞNG VỀ HOA MAI
|
No comments:
Post a Comment