Sunday, February 17, 2013
NGUYỄN HÙNG * CUỘC CHIẾN 1979
Trang Chủ
Bài viết mới nhất
Cuộc chiến 1979 và mạng xã hội
Posted by chuyenhoavietnam ⋅
Nguyễn Hùng
bbcvietnamese.com
bbcvietnamese.com
Cập nhật: 16:19 GMT – chủ nhật, 17 tháng 2, 2013
Một bảo vệ toan tháo các dòng chữ tưởng niệm đã bị quay phim và đưa lên mạng xã hội
Số người Việt dùng internet được cho là đã lên tới hơn 30 triệu, chiếm một phần ba dân số, và họ có thể tiếp cận những thông tin hiếm thấy trên không gian chính thống.
Đợt kỷ niệm 34 năm ngày Trung Quốc đưa hàng vạn quân tràn qua sáu tỉnh biên giới gây thương vong cho hàng vạn người ở cả hai phía càng cho thấy khả năng thông tin có thể lan tỏa qua mạng xã hội và mạng toàn cầu nói chung.
Ít nhất ba video đã xuất hiện trên YouTube trong ngày 17/2 về chuyện các cựu quan chức và trí thức không được vào đặt vòng hoa để đánh dấu ngày này tại đài tưởng niệm ở trung tâm Hà Nội và ở Gò Đống Đa.
Vài giờ sau đã có hàng trăm người xem các video này trong khi nhiều video về chủ đề cuộc chiến 1979 được hàng vạn người xem.
Viếng liệt sĩ chống Trung Quốc xâm lược cũng bị ngăn chặn 17-02-2013
http://www.youtube.com/watch?v=_NkuoyYJ-ik&feature=player_embedded
Công an đang đến đòi phá vòng hoa tưởng niệm 17/2
http://www.youtube.com/watch?v=_NkuoyYJ-ik&feature=player_embedded
Bảo vệ Gò Đống Đa đòi gỡ vòng hoa yêu nước!
http://www.youtube.com/watch?v=_h_m6G-AfGo&feature=player_embedded
Trên mạng xã hội Facebook, trang Bấm Hoa Sim Ngày 17-2 vừa được lập ra để tưởng nhớ những người đã ngã xuống cũng được sự hưởng ứng của hơn 100 người.
Khi dùng từ khóa ‘cuộc chiến biên giới 1979′ trên trang google.com, trang đầu tiên trong danh sách kết quả là Bấm trang viết trên Wikipedia về cuộc xung đột với những thông tin khái quát.
Cũng trong trang đầu của các kết quả tìm kiếm là sự tái hiện lực lượng hùng hậu của phía Trung Quốc với hàng loạt xe tăng, trọng pháo và số đông quân tham chiến qua một video có thuyết minh bằng tiếng Đức.
‘Thiếu sót lớn’
Ngoài ra một diễn đàn về cuộc chiến biên giới với Bấm gần 60 trang thông tin bắt đầu từ hồi năm 2008 có mặt tại vị trí số sáu trong các kết quả.
Các bài viết trên trang của Bấm BBC, Bấm VOA và Bấm RFA đều nằm ở trang đầu tiên của hơn một triệu kết quả mà Google đưa lại.
Sự góp mặt duy nhất của truyền thông trong nước trong trang kết quả tìm kiếm đầu tiên là bài ‘ Bấm Nhìn lại chiến tranh biên giới 1979‘ của báo Thanh Niên được đăng vào sáng sớm ngày 17/2/2013.
Báo này phỏng vấn Tướng Lê Văn Cương, người nói rằng việc nhà nước không kỷ niệm sự kiện này trong nhiều năm qua là một “thiếu sót lớn” và nói thêm:
“Trong khi chúng ta im lặng thì những dịp đó chúng tôi đã thống kê hệ thống phát thanh, truyền hình báo chí của TQ tung ra trung bình từ 600-800 tin, bài với những cái tít gần như có nội dung giống nhau về cái mà họ gọi là “cuộc chiến tranh đánh trả tự vệ trước VN”.
“Có thông tin cho rằng hiện tại có tới trên 90% người dân TQ vẫn quan niệm rằng năm 1979 Quân đội VN đã vượt biên giới sang tấn công TQ và bắt buộc TQ phải tự vệ đánh trả.”
‘Chịu lép vế’
Mặc dù truyền thông chính thống ít có những cố gắng để ghi lại cuộc chiến đẫm máu cách đây 34 năm và các trận đánh lớn nhỏ trong suốt 10 năm sau đó, nhiều công dân mạng đã có những nỗ lực của riêng họ.
Một số blogger đã có những cố gắng để tìm lại những người đã trực tiếp chống lại quân Trung Quốc và đưa lên Bấm blog cũng như YouTube.
Trong một video, Tướng Lê Duy Mật, một trong các tư lệnh của các trận đánh lớn trong những năm giữa thập niên 1980, cáo buộc chính quyền Hà Nội bị Trung Quốc “áp đảo” và đã “chịu lép vế” (ở phút thứ 4 trong video).
Trong số kết quả tìm kiếm cũng có Bấm video phỏng vấn Đại tá Quách Hải Lượng, người nói rằng Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nói với một số sỹ quan Việt Nam về chuyện sẽ phải đối phó với quân đội Trung Quốc từ tháng 8/1978.
Vị Đại tá cũng đưa ra thông tin rằng Bộ trưởng Quốc phòng Văn Tiến Dũng trong khi đó có vẻ vẫn tin vào chuyện Trung Quốc “sẽ tốt” với Việt Nam.
Những video phi chính thống này cũng đã bị một số người chỉ trích nói rằng các nhân vật được phỏng vấn “bất mãn” với chế độ hay một số thông tin có liên quan không chính xác.
Nhưng trong môi trường thông tin chính thống trống vắng, những thông tin phi chính thống đã trở thành các nguồn gần như độc nhất cho các công dân mạng muốn tìm hiểu về lịch sử Việt Nam đương đại.
*****
Nguồn:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/02/130217_chien_tranh_bien_gioi_va_internet.shtml
TIN TỨC GẦN XA
Trao đổi thư tín với thính giả
Hòa Ái, phóng viên RFA
2013-02-14
Tôi ở Chợ Mới, An Giang. Cảm ơn quý vị đã mang đến cho chúng tôi
những bản tin nhanh chóng và kịp thời. Ở trong nước chúng tôi không thể
nào tìm được.
AFP photo
Mục “Trả lời Thư tín” tuần này xin được mở đầu với một vài tin nhắn trong số những tin nhắn chúc Tết gửi đến ban Việt ngữ:
“Xin chúc mừng năm mới. Năm Quý Tỵ đến rồi, chúc các anh chị trong đài một năm mới an khang thịnh vượng, nhiều sức khỏe để làm việc nhiều hơn và mang những tin rất chính xác cho cộng đồng Việt Nam mình cũng như cho những người bên quê nhà. Cảm ơn hết lòng cho những công việc các anh chị đã làm, sẽ làm cũng như đang làm nhé. Cảm ơn nhiều. Chúc mừng năm mới”.
“Tôi là Lê Hữu Phước ở Chợ Mới, An Giang. Nhân dịp đầu năm mới, kính chúc ban biên tập Việt ngữ đài ACTD được dồi dào sức khỏe, hạnh phúc. Cảm ơn quý vị đã mang đến cho chúng tôi những bản tin nhanh chóng và kịp thời. Ở trong nước chúng tôi không thể nào tìm được. Cảm ơn rất nhiều”.
“Xin nhắn lời đến quý đài RFA chúc một năm mới, ban Việt ngữ RFA sức khỏe. Tôi là một người rất ngưỡng mộ đài ACTD”.
“Em tên Hoàng ở Seattle, nghe đài online cũng mười mấy năm nay rồi. Có nghe chương trình của chị Hòa Ái và chú Nam Nguyên nói về các bác nông dân. Năm mới, kính chúc các anh chị trong toàn ban một năm mới sức khỏe dồi dào, vạn sự như ý. Mong có nhiều tin tức cập nhật mỗi ngày của đất nước mình để bà con hải ngoại có thể theo dõi ngày nhiều hơn. Cảm ơn quý đài nhiều”.
Và sau đây, Hòa Ái trích đăng lời chúc Tết từ email của thính giả Tran Van Vu:
“Nhân dịp đầu xuân tôi không biết nói lời gì hơn là xin kính chúc đến toàn ban Việt ngữ RFA năm mới với những sứ mệnh thiêng liêng đóng góp tiếng nói lớn cho dân tộc Việt Nam thân yêu của chúng ta! Xin trân trọng và quý mến kính chào”.
Thay mặt ban Việt ngữ, Hòa Ái kính lời cảm ơn đến tất cả quý khán thính giả cùng độc giả đã dành thời gian gọi vào đài cũng như gửi email và những tấm thiệp xuân cùng với những lời chúc đầy ý nghĩa đến ban Việt ngữ trong dịp năm mới Quý Tỵ. Tấm lòng yêu mến của quý vị dành cho ban Việt ngữ là sự khích lệ lớn lao cho chúng tôi cố gắng nhiều hơn nữa để gửi đến quý thính giả của đài các chương trình được hay hơn, tốt hơn và nhanh chóng hơn.
Tiếp tục chương trình hôm nay, Hòa Ái xin được trả lời thắc mắc của
các thính giả vì sao không nghe được phần âm thanh trực tuyến khi truy
cập vào trang web của đài.
“Xin quý đài cho tôi biết là tôi vào trang web của đài khi bấm vào phần nghe trực thuyến thì lại không nghe được. Xin quý đài cho biết nguyên nhân vì sao. Cảm ơn”.
Ban kỹ thuật đã kiểm tra và chức năng của phần nghe trực tuyến vẫn hoạt động bình thường. Quý vị có thể truy cập trực tiếp qua trang web RFATiengviet.net để nghe phần trực tuyến được dễ dàng hơn. Trong tình huống vẫn không nghe được phần âm thanh trực tuyến, quý vị vui lòng download xuống để nghe lại.
Liên quan đến bài Đời Sống Người Việt Khắp Nơi do Thanh Trúc thực hiện tuần trước, một thính giả từ Saigon, cô Dung, nêu thắc mắc với RFA là "Xin phép hỏi hoa hậu Olivia Culpo của Mỹ năm nào, và hoa hậu Cung Hoàng Kim, cũng của Mỹ, năm nào?"
Xin được trả lời cùng cô Dung: Hoa Hậu Cung Hoàng Kim thắng giải với danh hiệu Hoa Hậu Toàn Quốc Hoa Kỳ 2012-2013 (National American Miss 2012- 2013) vào Tháng 11, 2012, từ tổ chức National American Miss (viết tắt là NAM). Cô Olivia Culpo (Miss USA 2012) thắng giải Hoa Hậu Hoàn Vũ 2012 (Miss Universe 2012) vào Tháng 12, năm 2012. Đây là hai danh hiệu khác nhau của hai cô Hoa Hậu (2 different titles) từ hai tổ chức Hoa Hậu khác nhau (from 2 different pageant systems) dù cùng ở trên đất Mỹ. Kính.
Hòa Ái cũng xin phép trích đăng trong một tin nhắn của thính giả Minh, bị khiếm thị, bán vé số thường hay gọi về đài:
“Tôi tên là Minh, số điện thoại của tôi hết tiền. Bây giờ tôi lấy một cái sim số mới. Xin kể câu chuyện…”
Hòa Ái mong rằng thính giả Minh đang nghe chương trình hôm nay. Và Hòa Ái cũng muốn chia sẻ cùng với quý thính giả là quý vị có thể gọi vào hộp thư thoại, nhắn lại tên và số điện thoại, Hòa Ái sẽ liên lạc lại cùng với quý vị.
“Xin quý đài liên lạc với tôi qua số điện thoại này. Tôi là Thanh ở VN. Nghe đài cũng lâu rồi, có một số điều thắc mắc muốn hỏi quý đài. Quý đài liên lạc qua số này. Cảm ơn”.
Khi gọi vào hộp thư thoại của đài tại số 202-530-7775, quý thính giả làm ơn nhớ để lại tên và số điện thoại khi quý vị muốn Hòa Ái liên lạc lại. Nếu quý vị nói là “liên lạc qua số điện thoại này” hoặc “liên lạc qua số điện thoại của tôi hiện trên máy”…Hòa Ái xin thưa cùng quý thính giả vì đa số là các cuộc gọi quốc tế nên những số hiển thị trên máy không đúng với số điện thoại thật của quý vị. Trong khi đó, cũng có rất nhiều cuộc gọi hiển thị là “ẩn danh” nên Hòa Ái không thể liên lạc lại cùng quý vị được.
Trong tình huống trái lại, có thính giả nói rằng số điện thoại liên lạc của đài 202-530-7775 mà Hòa Ái loan là không đúng vì khi Hòa Ái liên lạc với quý thính giả, số điện thoại của đài hiển thị trên máy quý vị không phải là số 202-530-7775.
Một lần nữa, Hòa Ái xin nhắc lại cùng quý khán thính giả, độc giả của đài khi quý vị muốn liên lạc với ban Việt ngữ, quý vị gọi vào hộp thư thoại tại số 202-530-7775. Nếu gọi từ VN, quý vị làm ơn bấm số 001 trước dãy số 202-530-7775. Sau khi nghe tiếng “bíp”, quý vị vui lòng nói lại những điều mình muốn chia sẻ. Quý vị nào muốn Hòa Ái liên lạc lại, quý vị vui lòng để lại tên và số điện thoại của quý vị nhé! Kính mong lời giải thích của Hòa Ái được rõ ràng cùng quý vị. Quý khán thính giả, độc giả của đài cũng có thể liên lạc với ban Việt ngữ qua địa chỉ email: vietweb@rfa.org và cũng có thể email trực tiếp cho Hòa Ái tại địa chỉ hoaai@rfa.org. Thưa quý thính giả, vào những ngày đầu năm mới, người ta thường gửi những lời chúc lành đến với nhau cũng như hy vọng một năm mới quê hương mình được ấm no, được bình an, hạnh phúc. Thế nhưng, ban Việt ngữ lại nhận được một tin nhắn của người dân gửi đến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong những ngày xuân với sự thất vọng.
“Tôi là bà Sáu ở Sài Gòn đây. Tôi nói Ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bây giờ phải gọi là ông “bạo tướng” hay ông “loạn tướng” mới được nghe. Quá sức rồi”.
Ban Việt ngữ cũng nhận được bài thơ chúc xuân cho VN của một thính giả. Hòa Ái xin trích đăng một phần bài thơ chúc xuân này:
“Nhân dịp xuân về tôi có câu
Mừng xuân Quý Tỵ khắp năm châu
Nhưng riêng châu Á thì lại khác
Khác chỗ dân ta vẫn phải nghèo
Nghèo vì giặc nội còn tham nhũng
Cấu xé dân lành chẳng nương tay
Cướp nhà cướp đất không thương tiếc
Từ nam chí bắc dân than vãn
Biết đến bao giờ Tết mới vui
Vậy tôi vẫn có câu chúc Tết
Ráng hết xuân này vọng nước mây…”
Hòa Ái cũng xin cảm ơn bài hát của bác nông dân ở đồng bằng Sông Cửu Long chuyển đến đài. Rất tiếc là Hòa Ái không thể phát bài hát trong chương hôm nay. Hy vọng rằng bài hát này sẽ được phát trong một chương trình thích hợp hơn. Kính mong bác nông dân thông cảm cùng Hòa Ái.
Cảm ơn tất cả quý khán thính giả cùng độc giả đón nhận chương trình phát thanh cùng những bài viết, những video tin tức, phóng sự trên trang web của đài trong năm Nhâm Thìn. Ban Việt ngữ đài ACTD kính mong quý vị vẫn tiếp tục nhiệt tình đón nhận chương trình của đài trong năm Quý Tỵ. Và ban Việt ngữ cũng mong nhận được nhiều ý kiến chia sẻ, đóng góp trên tinh thần xây dựng để đài ACTD gửi đến quý vị những chương trình tốt hơn về sau.
Hôm nay là mùng 7 Tết, cũng là thời điểm khép lại những ngày vui xuân cùng gia đình, người thân. Hòa Ái kính chúc những quý vị trong các chuyến đi trở lại với công việc thường nhật được thượng lộ bình an. Và kính chúc một năm mới công việc được hanh thông, thuận lợi, phát tài phát lộc.
Chân thành cảm ơn sự quan tâm và đóng góp của quý khán thính giả cùng độc giả dành cho đài ACTD. Và cảm ơn thời gian lắng nghe mục Trả lời Thư Tín của quý thính giả cùng Hòa Ái.
“Xin quý đài cho tôi biết là tôi vào trang web của đài khi bấm vào phần nghe trực thuyến thì lại không nghe được. Xin quý đài cho biết nguyên nhân vì sao. Cảm ơn”.
Ban kỹ thuật đã kiểm tra và chức năng của phần nghe trực tuyến vẫn hoạt động bình thường. Quý vị có thể truy cập trực tiếp qua trang web RFATiengviet.net để nghe phần trực tuyến được dễ dàng hơn. Trong tình huống vẫn không nghe được phần âm thanh trực tuyến, quý vị vui lòng download xuống để nghe lại.
Liên quan đến bài Đời Sống Người Việt Khắp Nơi do Thanh Trúc thực hiện tuần trước, một thính giả từ Saigon, cô Dung, nêu thắc mắc với RFA là "Xin phép hỏi hoa hậu Olivia Culpo của Mỹ năm nào, và hoa hậu Cung Hoàng Kim, cũng của Mỹ, năm nào?"
Xin được trả lời cùng cô Dung: Hoa Hậu Cung Hoàng Kim thắng giải với danh hiệu Hoa Hậu Toàn Quốc Hoa Kỳ 2012-2013 (National American Miss 2012- 2013) vào Tháng 11, 2012, từ tổ chức National American Miss (viết tắt là NAM). Cô Olivia Culpo (Miss USA 2012) thắng giải Hoa Hậu Hoàn Vũ 2012 (Miss Universe 2012) vào Tháng 12, năm 2012. Đây là hai danh hiệu khác nhau của hai cô Hoa Hậu (2 different titles) từ hai tổ chức Hoa Hậu khác nhau (from 2 different pageant systems) dù cùng ở trên đất Mỹ. Kính.
Hòa Ái cũng xin phép trích đăng trong một tin nhắn của thính giả Minh, bị khiếm thị, bán vé số thường hay gọi về đài:
“Tôi tên là Minh, số điện thoại của tôi hết tiền. Bây giờ tôi lấy một cái sim số mới. Xin kể câu chuyện…”
Hòa Ái mong rằng thính giả Minh đang nghe chương trình hôm nay. Và Hòa Ái cũng muốn chia sẻ cùng với quý thính giả là quý vị có thể gọi vào hộp thư thoại, nhắn lại tên và số điện thoại, Hòa Ái sẽ liên lạc lại cùng với quý vị.
“Xin quý đài liên lạc với tôi qua số điện thoại này. Tôi là Thanh ở VN. Nghe đài cũng lâu rồi, có một số điều thắc mắc muốn hỏi quý đài. Quý đài liên lạc qua số này. Cảm ơn”.
Khi gọi vào hộp thư thoại của đài tại số 202-530-7775, quý thính giả làm ơn nhớ để lại tên và số điện thoại khi quý vị muốn Hòa Ái liên lạc lại. Nếu quý vị nói là “liên lạc qua số điện thoại này” hoặc “liên lạc qua số điện thoại của tôi hiện trên máy”…Hòa Ái xin thưa cùng quý thính giả vì đa số là các cuộc gọi quốc tế nên những số hiển thị trên máy không đúng với số điện thoại thật của quý vị. Trong khi đó, cũng có rất nhiều cuộc gọi hiển thị là “ẩn danh” nên Hòa Ái không thể liên lạc lại cùng quý vị được.
Trong tình huống trái lại, có thính giả nói rằng số điện thoại liên lạc của đài 202-530-7775 mà Hòa Ái loan là không đúng vì khi Hòa Ái liên lạc với quý thính giả, số điện thoại của đài hiển thị trên máy quý vị không phải là số 202-530-7775.
Một lần nữa, Hòa Ái xin nhắc lại cùng quý khán thính giả, độc giả của đài khi quý vị muốn liên lạc với ban Việt ngữ, quý vị gọi vào hộp thư thoại tại số 202-530-7775. Nếu gọi từ VN, quý vị làm ơn bấm số 001 trước dãy số 202-530-7775. Sau khi nghe tiếng “bíp”, quý vị vui lòng nói lại những điều mình muốn chia sẻ. Quý vị nào muốn Hòa Ái liên lạc lại, quý vị vui lòng để lại tên và số điện thoại của quý vị nhé! Kính mong lời giải thích của Hòa Ái được rõ ràng cùng quý vị. Quý khán thính giả, độc giả của đài cũng có thể liên lạc với ban Việt ngữ qua địa chỉ email: vietweb@rfa.org và cũng có thể email trực tiếp cho Hòa Ái tại địa chỉ hoaai@rfa.org. Thưa quý thính giả, vào những ngày đầu năm mới, người ta thường gửi những lời chúc lành đến với nhau cũng như hy vọng một năm mới quê hương mình được ấm no, được bình an, hạnh phúc. Thế nhưng, ban Việt ngữ lại nhận được một tin nhắn của người dân gửi đến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong những ngày xuân với sự thất vọng.
“Tôi là bà Sáu ở Sài Gòn đây. Tôi nói Ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bây giờ phải gọi là ông “bạo tướng” hay ông “loạn tướng” mới được nghe. Quá sức rồi”.
Ban Việt ngữ cũng nhận được bài thơ chúc xuân cho VN của một thính giả. Hòa Ái xin trích đăng một phần bài thơ chúc xuân này:
“Nhân dịp xuân về tôi có câu
Mừng xuân Quý Tỵ khắp năm châu
Nhưng riêng châu Á thì lại khác
Khác chỗ dân ta vẫn phải nghèo
Nghèo vì giặc nội còn tham nhũng
Cấu xé dân lành chẳng nương tay
Cướp nhà cướp đất không thương tiếc
Từ nam chí bắc dân than vãn
Biết đến bao giờ Tết mới vui
Vậy tôi vẫn có câu chúc Tết
Ráng hết xuân này vọng nước mây…”
Hòa Ái cũng xin cảm ơn bài hát của bác nông dân ở đồng bằng Sông Cửu Long chuyển đến đài. Rất tiếc là Hòa Ái không thể phát bài hát trong chương hôm nay. Hy vọng rằng bài hát này sẽ được phát trong một chương trình thích hợp hơn. Kính mong bác nông dân thông cảm cùng Hòa Ái.
Cảm ơn tất cả quý khán thính giả cùng độc giả đón nhận chương trình phát thanh cùng những bài viết, những video tin tức, phóng sự trên trang web của đài trong năm Nhâm Thìn. Ban Việt ngữ đài ACTD kính mong quý vị vẫn tiếp tục nhiệt tình đón nhận chương trình của đài trong năm Quý Tỵ. Và ban Việt ngữ cũng mong nhận được nhiều ý kiến chia sẻ, đóng góp trên tinh thần xây dựng để đài ACTD gửi đến quý vị những chương trình tốt hơn về sau.
Hôm nay là mùng 7 Tết, cũng là thời điểm khép lại những ngày vui xuân cùng gia đình, người thân. Hòa Ái kính chúc những quý vị trong các chuyến đi trở lại với công việc thường nhật được thượng lộ bình an. Và kính chúc một năm mới công việc được hanh thông, thuận lợi, phát tài phát lộc.
Chân thành cảm ơn sự quan tâm và đóng góp của quý khán thính giả cùng độc giả dành cho đài ACTD. Và cảm ơn thời gian lắng nghe mục Trả lời Thư Tín của quý thính giả cùng Hòa Ái.
Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.
CHỢ TẾT SAIGON
Viết về dân chủ bị đưa vào trại Giám Định Tâm Thần
Thanh Trúc, phóng viên RFA
2013-02-16
Kỹ sư Nguyễn Trung Lĩnh là một trong những người được nêu tên trong phúc trình Bloggers Và Cư Dân Mạng Bị Cầm Tù của Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam (VCHR) và Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền (FIDH) thực hiện hôm 13 tháng Hai ở Paris.
Photo courtesy of xuongduong.blogspot
Vi phạm Điều 88
Vì những bài viết về dân chủ và đa nguyên phổ biến trên mạng, kỹ sư Nguyễn Trung Lĩnh, bị bắt năm 2011 và bị chuyển về Trại Giám Định Tâm Thần Trung Ương trước khi được thả hôm 17 tháng Mười Hai năm 2012, chia sẻ cảm nghĩ của ông về điều gọi là xu hướng phát triển đương nhiên của con người, và của truyền thông Việt Nam trước trào lưu dân chủ tự do trên thế giới.KS Nguyễn Trung Lĩnh: Trước kia tôi học ở Cộng Hòa Czech, sau đó sang Cộng Hòa Liên bang Đức gần sáu năm, về Việt Nam từ năm 1997.
Tôi hay quan tâm và lên tiếng rất nhiều về các vấn đề chính trị xã hội, rất mong muốn xã hội Việt Nam ngày càng có dân chủ, tự do, đa đảng phái chính trị và được bầu cử tự do minh bạch. Năm 1998 tôi bị công an bắt tạm giam tại trại B14 ở Thanh Trì, Hà Nội, vì tôi đã viết một bài 15 điểm phê phán Bộ Chính Trị và hệ thống chính trị ở Việt Nam, gởi cho các Ủy Ban Nhân Dân ở 63 tỉnh thành Việt Nam.
Năm 2011 họ bắt tôi lần thứ hai, từ ngày 22 tháng Mười Hai năm 2011
đến ngày 17 tháng Mười Hai năm 2012 vừa rồi. Những vấn đề tôi nêu lên
mười mấy năm nay thông qua những bài viết là những vấn đề ở các nước
phương Tây văn minh và phát triển người ta đã làm cách đây một hai trăm
năm rồi, những vấn đề mà xã hội Việt Nam đang tồn đọng. Tôi nghĩ mình
nêu ra tất cả là cái tốt thôi, cho mọi người dân và cho đất nước, không
xuyên tạc, mà giả sử có giải quyết được thì có lợi cho người dân và cho
đất nước thôi. Thế mà họ lại bắt tôi.
Tôi nghĩ mình nêu ra tất cả là cái tốt thôi, cho mọi người dân và cho đất nước, không xuyên tạc, mà giả sử có giải quyết được thì có lợi cho người dân và cho đất nước thôi. Thế mà họ lại bắt tôi.
KS Nguyễn Trung Lĩnh
Thanh Trúc: Lý do họ nêu ra để bắt ông và họ gán cho ông tội gì?
KS Nguyễn Trung Lĩnh: Họ bảo tôi vi phạm Điều 88 Bộ Luật Hình
Sự, tuyên truyền chống nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Họ
bắt và giam trong trại tạm giam số Một của Hà Nội tức là nhà tù Hỏa Lò ở
dưới Cầu Diễn độ năm tháng. Họ phỏng vấn rất là nhiều, sau đó họ gởi
tôi xuống Viện Giám Định Pháp Y Tâm Thần Trung Ương, họ giam giữ và giám
định tôi ở đấy ba tháng. Sau ba tháng họ lại chuyển về Hỏa Lò mười bảy
ngày, rồi lại chuyển xuống Viện Giám Định Pháp Y Tâm Thần Trung Ương
thêm bốn tháng nữa.
Thanh Trúc: Ông được trả tự do tháng Mười Hai năm 2012, ông
có tiên liệu mình được trả tự do vào lúc đó không vì thông thường, tội
gọi là vi phạm điều 88 Bộ Luật Hình Sự thì mức án tù là 3 tới 5 năm hoặc
nhiều hơn?
KS Nguyễn Trung Lĩnh: Tôi biết thừa cái chuyện ở Việt Nam họ
thích cho nặng tội thì nặng tội và cho nhẹ tội thì nhẹ mà. Tôi nghĩ chắc
tôi chỉ bị giam vài ba tháng là về thôi, không ngờ họ giam đến một năm.
Cái việc giám định tại Viện Giám Định Pháp Y Tâm Thần Trung Ương là tôi
cũng không ngờ được. Ngay trong trại giam Hỏa Lò thì những bác sĩ kiểm
tra tôi bốn lần và kết luận trí nhớ của tôi cực kỳ tốt. Tôi hiểu mình bị
bắt giam và bị cách ly, không có điện thoại không liên lạc được gì với
ai cả thì mình nằm trong tay họ thôi, họ thích đưa đi đâu thì đưa, thích
chuyển đi đâu thì chuyển và thích thả lúc nào thì thả thôi.
Qua điều tra thì người ta hỏi về hoạt động dân chủ 2005, rồi việc
thành lập nhóm Việt Nam Yêu Nước 2006-2007, rồi những bài viết liên quan
đến đối lập. Tôi nói suy cho cùng thì tôi vẫn chưa vi phạm pháp luật
Việt Nam, bởi vì bài trên mạng chứ chưa có triển khai gì trên thực tế
thì sao có thể bảo là tôi vi phạm Điều Luật 88? Từ ngày còn ở Đông Âu
đến khi về nước tôi thấy có lý thì tôi làm thôi.
Hù dọa, bôi nhọ
Thanh Trúc:Đang từ một con người tỉnh táo mà lại bị đưa
vào Viện Giám Định Tâm Thần Trung Ương vì cho rằng có vấn đề tâm thần
tức là người điên, lúc đó cảm giác của ông như thế nào?
KS Nguyễn Trung Lĩnh: Cảm giác rất đau khổ rất đau đớn, vì tôi
nghĩ cái danh dự của tôi quan trọng hơn chuyện ngồi tù. Ngay ở trại tam
giam Hỏa Lò các ông quản giáo bảo là "giam anh chẳng qua là thử thách". Thế rồi vào Viện Giám Định Pháp Y Tâm Thần Trung Ương thì các bác sĩ ở đó họ bảo "chẳng qua họ đàn áp anh thôi", còn các y tá họ bảo là "anh bệnh gì đâu mà chữa" . Tôi thì chỉ lo ngại cái danh dự của tôi thôi, họ làm thế để bôi nhọ và dìm tôi xuống.
Qua rất nhiều người thì tôi được biết là xưa nay những người trái
chính kiến, hay phê phán đảng cộng sản, phê phán cái hệ thống chính trị
trong xã hội Việt Nam thì họ gán cho nào là tâm thần, nào là thần kinh
các thứ. Đấy là công cụ để họ hù dọa, trấn áp, tiêu diệt những cá nhân
nào có những tư tưởng mong muốn chế độ đa đảng ở Việt Nam. Đụng chạm đến
cái vị trí độc tôn của đảng cộng sản thì họ gán cho những cái như thế.
Ngay ở trại tam giam Hỏa Lò các ông quản giáo bảo là "giam anh chẳng qua là thử thách". Thế rồi vào Viện Giám Định Pháp Y Tâm Thần Trung Ương thì các bác sĩ ở đó họ bảo "chẳng qua họ đàn áp anh thôi", còn các y tá họ bảo là "anh bệnh gì đâu mà chữa" .KS Nguyễn Trung Lĩnh
Nhưng mà hiện nay tình hình những người bất đồng chính kiến, những
người mong muốn đa nguyên đa đảng ở Việt Nam thì rất là nhiều. Thí dụ
hiện đang có phong trào và thời gian để đóng góp ý kiến về việc sửa đổi
Hiến Pháp, và vừa rồi là các trí thức nòng cốt ở Việt Nam, một lực lượng
rất lớn, đề nghị thay đổi Hiến Pháp và sửa Điều IV Hiến Pháp. Đó là
chuyện đa đảng cạnh tranh lành mạnh, và xã hội Việt Nam ngày càng mở ra
là hướng đi rất đúng.
Cũng như vừa rồi, trong bài chúc mừng năm mới của ông Trương Tấn Sang
thì ông không nhắc gì đến chuyện đảng phái cả, chỉ nói đến vấn đề dân
và nước thôi. Đấy là những tiến bộ rất tốt cho xã hội Việt Nam.
Thế còn truyền hình ở Việt Nam thì người ta cũng nói đến bầu cử tự
do, tỉ như bầu cử tổng thống ở Mỹ cũng được trình bày rất kỹ. Rồi những
báo VietnamNet hay VNExpress cũng trình bày về những chiến dịch bầu cử
tự do ở Mỹ, và các nước trên thế giới sẽ càng ngày càng ảnh hưởng và làm
cho dân Việt Nam quen dần với chuyện bầu cử tự do cũng như đa đảng. Đấy
là mong muốn của rất nhiều người đấu tranh và mong muốn của nhân dân
Việt Nam.
Thanh Trúc: Vừa rồi bản phúc trình về các bloggers và công
dân mạng bị giam cầm ở Việt Nam, do Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt
Nam và Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền thực hiện, trong đó có nêu tên kỹ sư
Nguyễn Trung Lĩnh. Ông nghĩ thế nào về chuyện này?
KS Nguyễn Trung Lĩnh: Cộng đồng người Việt ở hải ngoại và các
tổ chức quốc tế góp sức tranh đấu cho nhân quyền của người Việt Nam ở
trong nước là một điều rất tốt, rất cần thiết.
Thanh Trúc: Xin cảm ơn kỹ sư Nguyễn Trung Lĩnh.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/activist-treatedas-mentallyill-behindbars-02162013122907.html
Lễ hội chùa Hương 2013 chính thức khai hội
RFA-15-02-2013
Lễ hội chùa Bái Đính, ngôi chùa lớn nhất Việt Nam và lễ hội chùa Hương chính thức khai hội vào ngày hôm nay, mùng 6 Tết Âm lịch.
Dulich/ivivu.com
Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh trống khai hội tại chùa Bái
Đính, ở huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Hàng ngàn tăng ni, phật tử hành
hương về ngôi chùa lớn nhất Việt Nam này để cầu nguyện cho một năm mới
an vui.
Người sáng lập ngôi chùa Bái Đính là ông Nguyễn Minh Không, được coi
là ông tổ của nghề đúc đồng Việt Nam. Nơi đây từng là căn cứ quan trọng
trong thời nhà Đinh và thời Trần. Nơi đây cũng là nơi vua Quang Trung
xuất quân trong trận đánh tiêu diệt 29 vạn quân Thanh mùa xuân năm Kỉ
Dậu (1789).
Bên cạnh đó, lễ hội chùa Hương cũng chính thức khai hội tại huyện Mỹ
Đức, TP. Hà nội với chủ đề “Nét đẹp truyền thống văn hóa”. Phó chủ tịch
UBND huyện Mỹ Đức cho biết có khoảng 1,5 triệu khách viếng thăm chùa
Hương trong 3 tháng lễ hội, tăng khoảng 8% so với năm ngoái.
Dù lực lượng an ninh trật tự gần 200 người nhưng vẫn còn tình trạng
có nhiều chuyến đò chở quá tải, các quầy bán động vật hoang dã…
Diễn viên Kiều Chinh với Tết cổ truyền nơi xứ người
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-02-08
Nữ diễn viên điện ảnh Kiều Chinh trong những ngày giáp năm chia sẻ cảm nghĩ của bà về những cái Tết tại hải ngoại, nơi bà và gia đình hơn ba mươi năm đã quen sống trong nếp văn hóa tuyền thống Việt Nam qua những ngày tết.
RFA photo
Không đâu bằng tết quê nhà
Mặc Lâm : Thưa chị Kiều Chinh, vậy là thêm
một cái tết nữa ở bên ngoài Việt Nam mà gia đình chị cũng như hàng triệu
người Việt tha huơng khác vui hưởng trong hoàn cảnh “tha hương” theo đúng nghĩa của từ này…Chị có thể
cho biết cảm nghĩ của một người xa quê quá lâu như chị, bắt đầu rời Hà
Nội, vào Sài Gòn , rồi sang tới Mỹ….tâm tình chị ra sao trong những ngày
cuối năm này, thưa chị?
Kiều Chinh : Thưa anh Mặc Lâm, thật ra thì mỗi lần Tết đến
mình lại thêm một tuổi nữa rồi. Nhưng thêm một tuổi thì lại càng nhớ tới
thời hãy còn nhỏ, và nhớ nhất là thời hãy còn ở lại với đại gia đình
tức là gia đình bố mẹ mình ở Hà Nội. Bởi vì không có cái Tết nào giống
như cái Tết thuở nhỏ khi mà còn ở trong gia đình ở Hà Nội cả. Cái không
khí Hà Nội mùa lạnh vào dịp Tết với phong tục cổ truyền nó đẹp lắm và
sau này mình không còn nữa.
Trở lại với câu hỏi của anh là khi đã sang tới Hoa Kỳ rồi, khi mình
đã trở thành con người lưu vong rồi thì cái Tết ở những năm đầu tại đây
chỉ cố để mà giữ lại không khí cổ truyền của gia đình của mình mà thôi.
Để cho con cháu chúng nó còn nhớ đến cái nào là Tết, cái nào là giỗ tổ
tiên – ông bà – bố mẹ. Dần dần sau này, thưa anh, cộng đồng Việt Nam
càng ngày càng đông và khi người ta dần dà ổn định rồi thì cộng đồng
cũng có những khu phố, những hội chợ, những cửa hàng, v…v… nó mang lại
không khí Tết đó anh ơi!
Cũng có cành đào, cũng có bánh tét, bánh chưng, cũng có mứt, cũng
cóTết lắm. Nhưng mà dầu sao đi chăng nữa thì cũng không thể nào Tết như
mình đã nói ở trên, tức là dù sao cũng không thể nào Tết như hồi mình
hãy còn ở bên quê nhà cả.
Mặc Lâm : Dạ. Như chị nói, những kỷ niệm từ Hà Nội chị nhớ nhiều lắm, nhưng từ Hà Nội chị vào trong Nam một thời gian rất lâu, ở tại Sài Gòn, dầu muốn hay không vẫn còn trên đất nước Việt Nam nó cũng khác nhiều với cái Tết hải ngoại này, phải không thưa chị?
Kiều Chinh : Dạ thưa anh, vâng, dĩ nhiên! Thời ở Sài Gòn thì đối với tôi cũng không bằng thời tôi còn ở Hà Nội, đối với riêng cá nhân tôi. Cái thời gian nó lạ lắm anh ạ. Quảng đời mình nó chia làm ba giai đoạn, một giai đoạn ở Hà Nội, một giai đoạn ở Sài Gòn, và một giai đoạn ở bên Mỹ. Thật sự tính ra thì thời gian mình ở bên Mỹ nó dài hơn thời gian mình ở Sài Gòn, và thời gian mình ở Sài Gòn nó dài hơn thời gian mình ở Hà Nội, nhưng không hiểu sao mình vẫn nghĩ Hà Nội là đẹp nhất.
Nhưng mà dầu sao đi chăng nữa thì cũng không thể nào Tết như mình đã nói ở trên, tức là dù sao cũng không thể nào Tết như hồi mình hãy còn ở bên quê nhà cả.
Kiều Chinh
Có lẽ tại lúc đó mình hãy còn trẻ, hãy còn ở với bố mẹ, và cái không
khí lúc đó nó khác. Bây giờ trở lại với Tết thời ở Sài Gòn thì cũng đẹp
lắm, thưa anh. Lúc đó mình đã có gia đình riêng rồi, mình ở chung với
gia đình của chính mình, tức là cái gia đình mà lúc bấy giờ mình đã lấy
chồng, gia đình bố mẹ chồng, rồi sau này mình có con, thì lúc đó Tết
cũng còn rất Việt Nam, thưa anh.
Mặc Lâm : Tôi có dịp về Little Saigon vài lần vào dịp Tết,
thưa chị, không khí bên ngoài cũng pháo, cũng hoa, bánh chưng, bánh tét,
đại khái bề ngoài cũng có vẻ Tết, nhưng tôi thấy sao
trong lòng có cái gì lạt lẻo và cảm nhận của mình đối với không khí đó
nó không được như quê hương của mình, tuy rằng quê hương mình nghèo nàn,
khốn khổ hơn nhiều lắm. Chị có chia sẻ với cảm giác này hay không, thưa
chị. Và mỗi năm đến mình càng buồn thêm khi mà nghĩ những cái Tết như
vậy.
Kiều Chinh : Dạ, thưa anh, có anh ạ. Trở lại câu hỏi của anh
về Tết ở Sài Gòn đó, thì lúc đó nó vẫn còn không khí Tết, nhưng mà đối
với riêng tôi thì nó không giống như hồi tôi ở Hà Nội, bởi vì có lẽ thời
tôi ở Hà Nội thì tôi được hưởng trọn vẹn Tết thời còn nhỏ, còn bố mẹ
ông bà. Thời gian mình vào Sài Gòn thì mình đã có gia đình riêng của
mình, mình trở thành người chủ gia đình, mình có con, có bổn phận với
bố mẹ gia đình nhà chồng thì cái không khí nó khác đi.
Và bây giờ sang tới bên Mỹ, mình trở thành người sống lưu vong bên
Mỹ, dù rằng bây giờ đã trên ba mươi năm thì nó đã có khu phố Little
Saigon và cũng có rất nhiều gian hàng, chợ búa cũng như là chùa chiền,
cũng có đốt pháo đủ thứ nhưng riêng gia đình tôi, cá nhân tôi không còn
ăn Tết như hồi xưa ở Việt Nam nữa. Bây giờ tôi chỉ còn có cúng ngày Ông
Công Ông Táo, cúng Đêm Giao Thừa, đón rước tổ tiên về ăn Tết.
Rồi ngày Mùng Một cúng để cho các con các cháu tới. Rồi ngày Mùng
Hai, Mùng Ba các con các cháu chúng trở lại đi làm, mình không còn cúng
đủ lễ như là ở Việt Nam nữa. Chỉ còn chờ đến Mùng Bốn lại cúng hóa vàng
thôi. Khi ở Việt Nam thì ngày nào cũng cúng, ngày Mùng Một cũng cúng,
ngày Mùng Hai cúng, ngày Mùng Ba cúng, ngày Mùng Bốn cũng cúng để tiếp
ông bà tổ tiên về ăn Tết với mình. Bây giờ thì chỉ có ngày Mùng Một có
con cháu chúng nó về, rồi ngày Mùng Hai, Mùng Ba thì chỉ còn có mình
mình thắp nhang, trà nước mời các cụ thôi. Tới ngày Mùng Bốn thì cúng
hóa vàng. Nếu ngày Mùng Bốn rơi vào weekend – ngày nghỉ thì các con các
cháu chúng nó còn về. Còn nếu không thì lại chỉ còn có mỗi mình thì thắp
nhang thôi. Thành thử cái không khí không thể nào như Tết hồi xưa nữa.
Đồng thời ở trong nhà thì năm nào cũng vậy tôi phải làm cơm cúng, ví
dụ như những món mà hồi xưa hồi mình còn nhỏ ở với bố mẹ thì có những
món Miền Bắc hay nấu đó anh, chẳng hạn như măng hầm, măng hầm chân giò
phải có, thịt đông dưa chua phải có, dưa cải muối, toàn là ở nhà làm cả.
Còn bây giờ sang đây, thứ nhất là bánh chưng các thứ này kia mình đâu
có làm lấy nữa, mà đều đi mua cả. Rồi thịt đông cũng chẳng nấu nữa, bánh
chưng thì đi mua, nhưng mà cũng còn cố giữ lại một chút hương vị cho
các con các cháu nó biết, tức là năm nào cũng phải có măng hầm, cũng
phải có thịt kho, cũng phải có cá kho, nghĩa là mình cũng cố thôi, cố
giữ lại một chút hương vị vậy thôi.
Gìn giữ phong tục Tết xưa
Mặc Lâm : Vâng. Phong tục tập quán của mình là Mùng Một Tết Cha, Mùng Ba Tết Thầy, các con nó về ngày Mùng Một, điều đó quan trọng với tinh thần Tết để mình cảm thấy gia đình sum họp, thưa chị. Chị là một người thành công từ trong nước ra và khi qua bên Mỹ thì chị hội nhập liền, chị không có giai đoạn nào bị trở ngại với văn hóa Mỹ, có nghĩa là chị không hề bị lệ thuộc các con. Chị nuôi con, chị giáo dục con trong nền văn hóa vừa Mỹ vừa Việt rất đàng hoàng. Thế nhưng trong giai đoạn 30 năm vừa qua khi các con của chị trở về trong ngày Tết như chị vừa nói, thì các con của chị trở về thăm chị trong ngày Tết có trong tâm trạng tự nguyện, trong tinh thần của Việt Nam về thăm cha mẹ trong niềm vui, trong niềm hạnh phúc, hay là nó chỉ làm theo như một quán tính, một thói quen được chị giáo dục mà bên ngoài xã hội thì không có ai hết, chỉ có mỗi gia đình của chị không thôi, chị có thấy điều đó không? Kiều Chinh : Dạ thưa anh, riêng đối với gia đình tôi thì các cháu vẫn còn giữ phong tục Việt Nam lắm anh ạ, có lẽ tại vì gia đình các cháu lớn lên ở trong cái không khí đó. Tôi hãy còn giữ ngày giỗ, các ngày giỗ bên nội bên ngoại chẳng hạn, thì các con nó cũng hiểu ra được điều đó quan trọng như thế nào.Rồi Tết cũng giữ đầy đủ như vậy. Các con tôi khi chúng có gia đình, chúng có con của chúng, thì chúng cũng tiếp tục làm như vậy, cho tới bây giờ, năm nay, anh có biết không, năm nay tôi có nói rằng là “Năm nay mẹ hy vọng rằng là chính các con sẽ là người làm Tết và mẹ là người được tới dự”. Tôi nói như vậy mà không biết các cháu có làm nổi hay không. Thế nhưng mà mình cũng cố gắng giữ được cái phong tục đó càng lâu bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, thưa anh.
Mặc Lâm : Gia đình chị tuy rằng giữ được phong tục tốt như vậy nhưng mà dầu muốn hay không thì đó chỉ là cá nhân, chỉ là một gia đình đơn lẻ giữa cộng đồng. Chị nhìn thấy cộng đồng Cali, đại khái những người chung quanh chị, có được bao nhiêu gia đình như gia đình của chị?
Kiều Chinh : Tôi thấy cũng nhiều lắm chứ. Nói về tất cả, toàn diện thì tôi không dám nói, nhưng mà nói về một số gia đình bạn bè, những người mà tôi quen biết, hoăc là mình thấy sinh hoạt ngoài cộng đồng, ở ngoài đường ngoài phố, chùa chiền, thì mình thấy có anh ạ. Cũng nhiều người người ta ăn Tết lớn lắm, họ cũng làm linh đình lắm, không giống như tôi vì tôi chỉ làm nhỏ thôi, chỉ giữ nền nếp phong tục thôi. Nhiều người họ ăn uống linh đình lắm. Cũng quần áo mới, cũng lì xì, cũng đánh bài, cũng đi chơi này kia. Tôi thì lại không, tôi chỉ làm Tết nho nhỏ thôi, trong nhà thôi.
Chúng tôi chỉ là những người tham dự thôi. Còn thật sự bây giờ người tổ chức lại là thế hệ trẻ, cái đó cho mình niềm hy vọng cho tương lai nhiều lắm.Mặc Lâm : Và chị có tin rằng truyền thống này sẽ kéo dài, sẽ lập được một thói quen mới trong cộng đồng hải ngoại hay không, thưa chị?
Kiều Chinh
Kiều Chinh : Tôi hy vọng như vậy, anh ạ. Tôi hy vọng như vậy
bởi vì có sự chứng tỏ rằng một số bạn trẻ bây giờ họ tham gia rất mạnh
vào những phong trào gìn giữ văn hóa phong tục. Bằng chứng là hội chợ
Tết bây giờ là do chính các hiệp hội của sinh viên tổ chức, như vậy
chứng tỏ rằng chính các sinh viên, những thế hệ trẻ là những người đang
đứng ra để làm những công việc gìn giữ văn hóa, chứ không phài là những
người như chúng tôi nữa. Chúng tôi chỉ là những người tham dự thôi. Còn
thật sự bây giờ người tổ chức lại là thế hệ trẻ, cái đó cho mình niềm hy
vọng cho tương lai nhiều lắm.
Mặc Lâm : Thưa chị Kiều Chinh, thật là thú vị khi được chia
sẻ với chị những suy nghĩ và kinh nghiệm của chị đối với cái Tết Việt
Nam ở xứ người. Xin chúc chị và gia đình một Năm Mới vui vẻ, hạnh phúc
và bình an.
Kiều Chinh : Thưa, cảm ơn anh. Tôi cũng xin chúc anh và toàn
thể đại gia đình Đài Á Châu Tự Do một Năm Mới được mọi sự bình yên. Và
nhân đây tôi cũng xin gửi lời chúc toàn thể tất cả những người Việt Nam,
tất cả những gia đình Việt Nam ở bất cứ nơi đâu trên thế giới đều có
Năm Mới được nhiều sức khỏe, được mọi sự bình an.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/actress-kc-sharing-ab-tet-in-us-ml-02082013165045.html
HOÀNG HẢI THỦY * CĂN NHÀ KHÔNG CÓ MÙA XUÂN
CĂN NHÀ KHÔNG CÓ MÙA XUÂN
- Details
- Created on Thursday, 14 February 2013 01:17
- Category: Văn nghệ
Hoàng Hải Thủy
Thời
tôi son trẻ, trước năm tôi 20 tuổi, tôi mê xem xi-nê một cây, một cây
không phải là cây thường mà là một cây xanh rờn. Sau 4 năm xa thành phố,
từ vùng kháng chiến bên kia Sông Ðuống Phúc Yên- Bắc Ninh-Bắc Giang trở
về Hà Nội năm 1950, tôi đi xem xi-nê lia chia. Gần như ngày nào tôi
cũng xem cxi-ne nếu tôi xoay dược tiền mua vé. Tôi đến những rạp xi-nê
Eden, Majestic, Philharmoniquc Bờ Hồ, Olympia Hàng Da, Modern Hàng Ðàn,
Porte d’Or trong nhà Ðông Hưng Viên Hàng Buồm, Trung Quốc Hàng Bạc,
Ciro’s Tràng Thi..vv..vv nhiều hơn tôi đến những trường học, thời gian
tôi sống trong những rạp xi-nê Hà Nội nhiều hơn thời gian tôi ngồi trên
ghế nhà trường.
Thời
xưa ấy Hà Nội còn có hai rạp xi-nê nhỏ là Majestic Studio và Eden
Studio. Tôi nhớ rạp Eden Hà Nội có những thân cột bằng đá trắng, to cao,
những cây cột đá của rạp làm tôi có cảm giác như vào một ngôi đền cổ.
Rạp Eden Hà Nội khác hẳn rạp Eden Sài Gòn. Eden Hà Nội không có balcon,
Eden Sài Gòn có 2 balcon: balcon thứ hai ở cao tít, nhìn xuống màn ảnh
thấy nhỏ như cái chiếu, khán giả chóng mặt. Năm xưa tôi từng ngồi ở
balcon thứ hai của rạp Eden Sài Gòn. Rạp Majestic Hà Nội, rạp Majestic
Sài Gòn không có balcon. Trên đường Catinat những năm trước năm 1956,
ngoài hai rạp Eden, Majestic, còn có rạp Cinéma Catinat; rạp này chuyên
chiếu phim permanent. Rạp nằm trong hành lang từ đường Catinat sang được
Charner. Vé vô cửa đồng hạng của rạp cinema permanent thứ nhất Ðông
Dương này là 10 đồng; rạp bán nột tập 10 vé vô cửa với giá 80 đồng.
Trên màn ảnh rạp Olympia Hàng Da, Hà Nội. tôi xem phim The Three Musketeers – Ba Chàng Lính Ngự Lâm –
Gene Kelly trong vai D’Artagnan, Lana Turner vai Milady, Angela
Lansbury vai Hoàng Hậu Marie Antoinette, Van Helflin vai Athos, June
Allyson vai Constance Bonacieux. Phim mầu, Technicolor. Năm
1990Hollywood làm phim The Three Musketeers mới nhưng không hay bằng phim năm 1950. Năm 2000 Nữ diễn viên Angela Lansbury, người thủ vai Hoàng Hậu trong Ba Người Lính Ngư Lâm 1950, còn đóng vai chính trong loạt phim TiVi Murder She Wrote.
Trên màn ảnh rạp Philharmoniquc Bờ Hồ Hà Nội tôi xem phim L’Odisseé du Dr Wassell.
Phim Mỹ, Gary Cooper vai chính, đạo diễn Cecil B. DeMille, tên phim
bằng tiếng Pháp nhưng phim vẫn nói tiếng Anh, phụ đề chữ Pháp. Phim mầu,
thuật lại chuyến đi có thật khi Quân y sĩ Wassell đưa một toán thương
bệnh binh Mỹ từ một quân y viện ở biên giới Trung Hoa – Miến Ðiện về Hoa
Kỳ. Chuyện xẩy ra khi quân Nhật mở cuộc tấn công xâm lăng những nước
Ðông Nam Á trong những ngày đầu cuộc Thế Chiến Thứ Hai. Quân y sĩ
Wassell là người thật. Cảnh đẹp và thơ mộng nhất của phim là cảnh chia
ly ở một ga xe lửa Miến Ðiện. Có thể là ga xe lửa Rangoon. Cô đào
Larraine Day đóng vai người yêu của Y sĩ Wassell. Cô là ái nữ của ông
Ðại Sứ Hoa Kỳ ở Miến Ðiện. Cô đến ga xe lửa tiễn biệt Y sĩ Wassell đưa
toán thương bệnh binh Mỹ về Hoa Kỳ. Tầu chuyển bánh, Y sĩ Wassell đứng ở
cuối tầu nhìn người yêu xa dần, mờ dần ở cuối đường tầu.
Ôi..
Cảnh biệt ly sao mà buồn vậy..! Chiều nay 60 năm sau, ở xứ người, viết
chuyện phim xưa, tôi thấy mơ màng hình ảnh Larraine Day xa dần ở cuối
đường tầu.
Rồi
tôi theo gia đình tôi vào Sài Gòn năm 1951, năm 1952 tôi gửi truyện
ngắn dự thi Cuộc Thi Truyện Ngắn Năm 1952 của nhật báo Tiếng Dội, rồi
giữa năm tôi vào làm phóng viên nhật báo Ánh Sáng, tòa soạn ở đường
Bonard, trung tâm Sài Gòn. Thời ấy chỉ có tòa soạn nhật báo Ánh Sáng ở
đường Bonard, chỗ gần tiệm ăn Kim Hoa và Rạp Xi-nê Casino. Ngay cạnh
Restaurant Kim Hoa, tiệm cơm Tây, chủ Tầu, năm xưa ấy có một nhà in chủ
nhân là người Pháp. Sau năm 1956 nhà in này bị dẹp đi, thay vào đó là
Tiệm Kem Kim Ðiệp, rồi Nhà Sách Lê Phan. Năm 2005, dường như Restaurant
Kim Hoa vẫn ở chỗ cũ.
Khi
làm phóng viên nhà báo, có lương tháng, tôi đi xem xi-nê bằng tiền của
tôi, trước đó tôi cơm cha, áo mẹ, tôi chuyên bầy đặt chuyện học, chuyện
mua sách để nã tiền mẹ tôi, có thể nói đến 8 phần 10 tiền mẹ tôi cho tôi
chi vào việc học, tôi chi vào việc mua vé xem xi-nê.
Nhưng với tôi việc tôi xem xi-nê không phải là việc vô ích. Nhờ xem phim, tôi có được một “hiểu biết” về Phim Ảnh – cái tôi gọi là “hiểu biết” đây là một thứ “hiểu biết hạng bét”:
tôi biết những truyện phim hay, tên tuổi những đào kép xi-nê đóng vai
chính trong những phim ấy, phim ấy là phim Mỹ hay phim Pháp, phim ấy
chiếu ở Sài Gòn, Hà Nội năm nào, rồi tôi đọc những Tạp chí Pháp Ciné-Revue, Cinémonde chuyên về xi-nê, tôi biết về đời tư – văn huê là về “cuộc đời ái tình và sự nghiệp”
– của những Nữ Minh Tinh Nhà Táng Mỹ, Pháp, Ý. Ðại khái là những chuyện
như cô đào Rita Hayworth bao nhiêu tuổi, đến Hollywood năm nào, Rita
Hayworth đóng phim Gilda, bộ phim làm nàng nổi danh khắp thế giới, với
nam diễn viên nào, Nữ Hoàng Ðiện Ảnh Rita Hayworth có mấy đời chồng..
vv..vv..!
Năm
1951 không nhớ do nguyên nhân nào, do ai giới thiệu, tôi đươcï gặp anh
Lê Tràng Kiều. Trước 1945 tôi nghe danh Nhà Văn Lê Tràng Kiều, tác giả
truyện ngắn “Tôi đã gặp người đàn bà ấy.” Những năm 1941, 1942 ở Hà Ðông tôi đọc “Tôi đã gặp người đàn bà ấy.”
Năm 1951 ở Sài Gòn khi được gặp tác giả tôi không nhớ chút gì về
truyện. Tôi tìm gặp anh Lê Tràng Kiều để mong được anh giúp bằng cách
giới thiệu tôi viết cho tờ báo nào đó. Dường như Nhà Văn Lê Tràng Kiều
đưa gia đình vào Sài Gòn từ những năm 1940. Sau năm 1945 Nhà Văn Lê
Tràng Kiều không sáng tác nữa, anh có cái danh văn nghệ sĩ tiền chiến
của anh, anh qua đời khoảng năm 1964, 1965 ở Sàì Gòn.
Anh
Lê Tràng Kiều giới thiệu tôi viết Trang Ðiện Ảnh cho 2 tờ tuần báo mới
ra, những bài báo đầu tiên của tôi viết về xi-nê được đăng nhưng tôi
không được lãnh tiền nhuận bút của một tờ báo nào cả, vì cả 2 tờ báo đều
ra được mấy số là tự đình bản, vì bán không được. Qua đi một thời gian 5
năm, đến năm 1956 tôi viết phóng sự tiểu thuyết Vũ Nữ Sài Gòn
trên Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, tôi giữ Trang Ðiện Ảnh Văn Nghệ Tiền
Phong, Trang Ðiện Ảnh Nhật báo Ngôn Luận, khi làm nhân viên tòa soạn
Nhật báo Sàigònmới, tôi giữ Trang Ðiện Ảnh Sàigònmới. Những khoản tiền
tôi chi vào việc đi xem xi-nê năm xưa giúp tôi có cái tôi gọi là “hiểu
biết” để viết về xi-nê trên báo, viết đăng báo,được trả tiền bài, tôi
lấy lại gấp bội số tiền tôi đã chi ra.
o O o
Mùa xuân 2013 là mùa xuân thứ 18 vợ chồng tôi sống trên đất Hoa Kỳ.
Tôi
mời quí vị đọc vài đoạn văn tôi đã viết, đã đăng báo trong 10 năm qua.
Ðến Kỳ Hoa, gặp lại Nguyên Sa sau 20 năm xa cách, tôi nói với anh:
“Tao định viết một loạt bài lấy tên là “Viết ở Rừng Phong.” Mày có cái tên nào hay hơn cho tao không?”
Nguyên Sa trả lời:
“Mày “Viết ở Rừng Phong” là hay quá rồi. Còn phải tìm cái tên nào nữa.”
Trong 3 năm đầu ở Kỳ Hoa – 1995 – 1998 – tôi viết bằng máy chữ, nên những bài tôi viết trong 3 năm ấy tôi không giữ được.
Tôi thường viết “Công Tử Hà Ðông Viết ở Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Ðất Trích.” Nhiều vị théc méc về tiếng “Ðất Trích” Xin thưa “đất trích” xuất từ tiếng “trích địa”
của người Tầu. Ngày xưa những ông quan làm việc ở triều đình, ở những
đô thị lớn, khi phạm lỗi, khi bị thất sủng, bị giáng chức, bị cho đến
làm việc ở những vùng xa xôi, rừng núi, hoang liêu khỉ ho, cò gáy, chó
ăn đá, gà ăn muối. Những ông quan bị tống đi xa kinh đô như thế gọi là “bị trích”, những nơi hoang sơn, cùng cốc, góc biển, chân trời họ phải đến là “trích địa: đất trích.”
Tỳ Bà Hành. Bạch Cư Dị;
Tầm Dương giang đầu, dạ tống khách,Phong diệp, địch hoa, thu sắt sắt.
.. .. ..
Ðồng thị thiên nhai luân lạc nhân,
Tương phùng hà tất tằng tương thức.
Ngã tòng khứ niên từ Ðế kinh,
Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành.
Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc,
Chung tuế bất văn Tỳ Bà thanh.
Trú cận Bồn thành địa đê thấp,
Hồng lô, khổ trúc nhiễu trạch sinh..
Thơ dịch Phan Huy Vịnh:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách,
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu.
.. .. ..
Cùng một lứa bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai.
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm.
Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau vàng, trúc võ nẩy mầm quanh hiên.
Thơ Công Tử Hà Ðông tặng HO Vũ Thế Quang, người anh em cùng vợ với HO Quang Dù:
Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp lại nhau càng thấy thương nhau.
Từ xa Quê Mẹ bấy lâu,
Kỳ Hoa Ðất Trích gối sầu hôm mai.
Rừng Phong xuất từ Thơ Kiều “Rừng phong thu đã nhuộm mầu quan san.” Xứ Tình Nhân từ câuVirginia is for Lovers.
o O o
Tóc Em có úa nắng hè..! Viết ở Rừng Phong Tháng 8, 2005Sài Gòn nhớ, Sài Gòn thương,
Tịch dương nền cũ, mê đường ngựa xe!
Bô-na Em đến Sạc-ne,
Tóc Em có úa nắng hè không Em!
Ðêm
đông, xứ người, phòng ấm, đèn vàng, tôi nhắm mắt thả hồn trở về thành
phố xưa, thành phố tôi đã sống trong thời son trẻ của tôi, thành phố đã
thương yêu tôi, đã chiều đãi tôi, đã cho tôi gặp Tình Yêu, trong thành
phố đó tôi đã yêu và được yêu, thành phố tôi đã để mất, thành phố nay
tôi phải xa và nay tôi nhớ, tôi thương.
Tôi trở lại là chàng thanh niên hai mươi tuổi, một buổi tối đến rạp xi-nê Bonard xem phim Tóc Em Chưa Úa Nắng Hè.. Tôi nhớ mái tóc của Nàng năm ấy. Trong tim tôi, sáu mươi năm rồi tóc nàng vẫn xanh. Xanh như ngày xưa.
Bẩy Bó Tuổi Ðời, Xứ Người, tôi làm Thơ:
Sài Gòn Anh nhớ, Anh thương..Thuyền Anh lạc bến Ðoạn Trường Biển Mê.
Em ơi..
Anh nhớ Bô-na, Anh nhớ Sạc-ne.
Tóc Em
Có bao giờ úa
nắng hè
đâu Em!
Em ơi..
Anh nhớ Bô-na, Anh nhớ Sạc-ne.
Tóc Em
Có bao giờ úa
nắng hè
đâu Em!
Bonard:
Lê Lợi, Charner: Nguyễn Huệ, Catinat: Tự Do. Galliéni: Trần Hưng Ðạo,
Colonel Boudonnet: Lê Lai, Colonel Grimaud: Phạm Ngũ Lão, Paul Blanchy:
Hai Bà Trưng, Dixmude: Ðề Thám, Jaccareo: Tản Ðà, Taberd: Nguyễn Du,
Lacoste: Phạm Hồng Thái, Mayer: Hiền Vương, Massige: Mạc Ðĩnh Chi,
Général Lizé: Phan Thanh Giản, Richaud: Phan Ðình Phùng.. vv ..
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
o O o
Mò trên Internet, tình cờ tôi tìm được 2 bộ phim Hollywood thực hiện lấy tên Saigon làm tên phim.
Phim “Saigon Belle,” tên phim chữ Pháp là “La Belle de Saigon.” Diễn viên Clark Gable, Jean Harlow.Hollywood làm phim này khoảng năm 1935. Họ chỉ lấy cái tên “Saigon Belle: Người Ðẹp Sài Gòn” làm tên phim. Phim được thực hiện trong phim trường Hollywood. Chuyện phim không dính dáng gì đến người Sài Gòn, cảnh Sài Gòn.
Trong dòng chữ “La Belle de Saigon,” chữ Saigon có dấu I Trema.
Chữ Pháp ngày xưa có dấu trema, như trong chữ “Noel.” Hai chấm trên chữ
“e”. Từ sau năm 1950 người Pháp không dùng dấu trema nữa.
Phim
Hollywood thứ hai lấy tên “Saigon” do Alan Ladd và Veronicka Lake đồng
diễn. Chuyện phim xẩy ra trong một trại tù được coi là ở Ðông Dương.
Phim thực hiện khoảng năm 1940. Chỉ những Khưá Lão tuổi đời năm nay Bẩy
Bó, Tám Bó mới biết Alan Ladd và Veronika Lake.
Trước
khi tình cờ tìm thấy hai phim “Saigon” trên Internet, tôi không biết gì
về hai phim này. Tôi không biết là Sài Gòn đã được Hollywood lấy làm
tên phim từ những năm trước năm 1940. Tôi chắc nhiều người Việt cũng
không biết chuyện ấy như tôi.
o O o
CĂN NHÀ KHÔNG CÓ MÙA XUÂN
Ngày xưa tôi đọc thơ người lạ
Bài thơ sầu muộn một tình buồn
Tôi nhớ ý thơ, không nhớ cả
Bài thơ tôi đọc một mùa xuân
Bài thơ sầu muộn một tình buồn
Tôi nhớ ý thơ, không nhớ cả
Bài thơ tôi đọc một mùa xuân
Mùa xuân xưa lắm, tôi còn trẻ
Chưa biết đau thương, biết nợ nần
Ðời chỉ có hoa và mật ngọt
Da thịt thơm mùi phấn ái ân
Chưa biết đau thương, biết nợ nần
Ðời chỉ có hoa và mật ngọt
Da thịt thơm mùi phấn ái ân
Tôi đã buồn vương, đã cảm thương
Lời thơ sầu mộng ý như sương
Người yêu một tối rời nhân thế
Thi sĩ đau mê chuyện đá vàng
Lời thơ sầu mộng ý như sương
Người yêu một tối rời nhân thế
Thi sĩ đau mê chuyện đá vàng
Ðóng cửa nhà xưa, quên gió nắng
Ðàn xưa để mặc nhện tơ dăng
Năm mòn, tháng mỏi, thời gian vắng
Trong căn nhà không có mùa xuân
Ðàn xưa để mặc nhện tơ dăng
Năm mòn, tháng mỏi, thời gian vắng
Trong căn nhà không có mùa xuân
Ở giữa căn nhà u tịch ấy
Ðời sống buồn trôi với tối tăm
Cho đến một chiều nghe pháo nổ
Người sống bừng cơn mộng cuối năm
Tay gầy vén bức màn cô quạnhÐời sống buồn trôi với tối tăm
Cho đến một chiều nghe pháo nổ
Người sống bừng cơn mộng cuối năm
Nhìn ra thiên hạ đón xuân sang
Mới biết từ đêm tình tuyệt mệnh
Căn nhà mình không có mùa xuân
Cửa đóng, màn che vội mở tung
Bình hoa cắm vội một đôi bông
Rồi rượu mừng xuân, rồi pháo đỏ
Sắp sẵn lòng vui để đợi trông
Nhưng chờ đợi mãi xuân không đến
Nhà vẫn buồn tênh, vẫn tối tăm
Mới biết một khi tình tuyệt mệnh
Căn nhà mình không có mùa xuân
Từ đấy hoa tàn và khói lạnh
Bóng tối trùm lên lưới nhện dăng
Vĩnh viễn mùa xuân không trở lại
Trong căn nhà không có mùa xuân
Năm nay mái tóc không xanh nữa
Tôi đã đau thương, đã nợ nần
Một tối rùng mình tôi cũng thấy
Sao nhà mình không có mùa xuân?
Sao nhà tôi không có mùa xuân?
Bạn ơi người bạn mới qua đường
Xin dừng chân lại cho tôi hỏi:
– Sao nhà tôi không có mùa xuân?
Thơ làm ở Nhà Số 16 A Cư Xá Quân Cụ, Ðường Trần Quốc Toản, Sài Gòn Xuân 1976
HUY LÂM * XUÂN
Thành phố tôi ở, mùa xuân
- Created on Friday, 15 February 2013 01:06
- Category: Tạp Ghi
Buổi sáng vừa thức giấc, tôi nghe tiếng chim hót ngoài vườn. Những tiếng chim hót nghe thật lạ. À, những chú chim trốn tuyết vừa trở về sau những ngày dài phiêu du phương nam. Nhìn ra bên ngoài khung cửa, những búp xanh non đang đua nhau đâm chồi trên những cành cây. Vườn sau nhà, những hoa đào, hoa mận, hoa lê cũng bắt đầu nở nụ. Mùa xuân đã về lại nơi thành phố.
Mười
tám tuổi, tôi đến thành phố này rồi ở lại. Nơi đây, tôi đã học làm
người lớn, cả cái tốt lẫn cái xấu. Những điếu thuốc ngập ngừng trên môi
trong những lần đầu tập tành hít vào rồi thở ra những vòng khói xanh mơ
mộng. Những ly cà phê đậm, những cốc rượu mềm môi và những tối lang
thang cùng bạn bè. Cũng ở nơi đây, tôi đã biết yêu, biết tương tư, biết
thế nào là hờn giận và đã biết buồn. Những nỗi buồn của tuổi mới lớn,
nhè nhẹ nhưng mang chút ray rứt như cố tình làm tôi lớn mau hơn chút
nữa, kéo tôi xa hơn chút nữa cái thế giới của hồn nhiên vô tư. Và tôi đã
sống cùng những thay đổi của thành phố qua năm tháng. Người về mỗi ngày
một đông hơn. Nhà cửa mỗi ngày một nhiều hơn. Những rừng cây biến mất
nhường chỗ cho những phố xá mọc lên, rộng lớn hơn, mới mẻ hơn. Những
rừng cây hiền lành tôi đã nhìn thấy bốn mùa đi, về nơi ấy. Người đến và
cây đổ. Để xây dựng một cái đẹp này, con người đã phải phá đi một cái
đẹp khác. Tôi mang nỗi buồn phiền của con thú mất rừng.
Có
những ngày mưa phủ thành phố, bầu trời ảm đạm và nỗi buồn vắng lê thê
bất tận như cái khoảng thời gian chờ đợi từng giọt cà phê chậm rãi rớt
xuống đáy cốc. Và những lần cơn bão rớt qua. Tôi đứng nhìn thành phố xơ
xác, run rẩy, tê tái. Nhưng rồi có những ngày khô ráo và đẹp. Khoảng
trời trong xanh cao vút, những giọt nắng vàng tươi nhảy múa tung tăng
trên đường phố hồn nhiên và hạnh phúc.
Có
điều lạ là tôi sống với thành phố này đã lâu nhưng lại ít khi nghĩ về
nó, gần như với thái độ dửng dưng. Có lẽ một phần vì sự liên hệ giữa tôi
và thành phố gần gũi quá như thể hai là một nên tôi đã không nhận thức
rõ sự hiện diện của nó. Tôi nghĩ, đôi khi người ta cần có một khoảng
cách không gian và thời gian cần thiết để có thể quan sát kỹ hơn một sự
vật hay một con người. Và tôi cũng thế, tôi cũng cần một khoảng cách vừa
để tôi có thể nhìn ngắm thành phố của tôi say sưa như đã hơn một lần
tôi nhìn si mê một người con gái, để tôi có thể nhìn được hết những nét
đáng yêu của nó và thầm cảm ơn tạo hóa và định mệnh nào đã đưa những
bước chân lạc lối của tôi về nơi đây.
Hôm
nay, tôi ngồi nghĩ về thành phố nơi tôi ở và tôi muốn viết về nó với
tấm lòng của một kẻ đã sống gần gũi với nó nhiều năm. Hơn thế nữa, như
một sự trả ơn.
Và,
anh muốn viết về em. Vì, nếu không có hình ảnh của em thì sợi dây liên
hệ giữa anh và thành phố này sẽ không toàn vẹn. Chúng ta đã có với nhau
thật nhiều kỷ niệm ở những cuộc hò hẹn, nơi những góc phố, dưới bóng rợp
của những hàng cây sồi lá xanh quanh năm. Anh đã thấy hạnh phúc biết
bao khi ngồi chờ người yêu nơi một quán nước. Có những lần em trễ hẹn và
anh muốn thế. Anh mong em đến thật trễ để anh ngồi đong hạnh phúc. Mỗi
phút giây trôi qua là những giọt hạnh phúc âm thầm rỏ xuống trái tim
anh. Những giọt hạnh phúc theo máu lang thang khắp cùng cơ thể, râm ran
từng tế bào. Da thịt anh nổi gai, thứ gai hạnh phúc tuổi trẻ có nguy cơ
bùng lên thành cơn bão lòng thổi phăng đi những thành quách luân lý và
những ràng buộc.
Anh
ngồi nhìn phố xá và những bóng người qua lại và anh mường tượng ra
khuôn mặt em lúc ấy. Vạt tóc che khuất một phần khuôn mặt làm cho khuôn
mặt em mang một vẻ bí ẩn và thu hút lạ thường. Và anh bỗng thấy thành
phố của chúng ta mang lấy khuôn mặt em. Hình ảnh đó đã in đậm trong trí
nhớ anh và mãi đến bây giờ, mỗi khi anh nghĩ về thành phố, anh lại nhìn
ra khuôn mặt em năm xưa. Hình ảnh khuôn mặt em đã làm cho thành phố thêm
thân thiết, gần gũi với anh.
Một
buổi tối mùa xuân, sau cơn mưa vào buổi chiều, những con đường còn đẫm
nước. Anh cầm tay kéo em ra khỏi cuộc vui, thoát khỏi đám đông. Chúng ta
bỏ lại đằng sau bạn bè và tiếng ồn ào. Bước đi trên con phố vắng, dưới
những tàn cây phủ đầy bóng tối. Anh nắm tay em nhón bước qua những vũng
nước đọng in mờ hình bóng của hai chúng ta và ánh điện thành phố. Ánh
điện vàng heo hút trong đêm và hai chiếc bóng hạnh phúc đổ dài trên mặt
đường. Gió và hơi nước làm cho không gian đêm ẩm và lạnh. Đôi vai em so
lại làm anh lo lắng.
“Em lạnh?”
Em gật đầu nhưng mỉm cười nhìn anh.
Cái nhìn đắm đuối và nụ cười nhẹ ấm như hơi thở.
“Đêm
nay em thấy mình thật hạnh phúc. Em thích được lạnh như thế để nhớ mãi
cảm giác này. Bỗng dưng em ghét ngày mai và em ước sao đêm nay cứ dài
mãi...”
Chúng ta lại im lặng và để tâm hồn tự do bồng bềnh với những suy nghĩ riêng tư.
Những
giọt nước mưa còn đọng trên tàn lá lúc này bị gió thổi tung lên, hắt
vào mặt anh và em. Anh nhìn thấy những giọt nước long lanh lăn trên gò
má em mát lạnh và em cười sung sướng thành tiếng. Chúng ta tiếp tục bước
trên con đường lát đá. Gót giày gõ lên mặt đường tạo thành những âm
thanh khô ấm, vang xa rồi tan loãng vào trong đêm tối.
Chúng
ta đi bên nhau gần hết một đêm lang thang. Rồi chúng ta kéo nhau vào
quán rượu. Quán ấm và tối. Hơi nước bên ngoài bám vào cửa kính tạo thành
một lớp sương mỏng mờ đục. Quán khuya nên thưa thớt. Người ca sĩ có
khuôn mặt buồn xa vắng và đôi mắt xanh sâu thẳm dưới ánh đèn sân khấu.
Tiếng hát khô, rã rời, níu gọi.
Close your eyes and dream
And you can be with me
'Neath the waves
Through the caves of ours
Long forgotten now
We're all alone
We're all alone (1)
Âm thanh như quyện lấy hai chúng ta. Em nhẹ ngả đầu vào vai anh. Hương thơm từ chân tóc phà nhẹ vào mũi anh làm hồn anh chơi vơi. Giữa bóng tối vây quanh, dường như tất cả đã bị lãng quên. Chỉ còn riêng hai chúng ta. Và, lần đầu tiên chúng ta uống với nhau những ly rượu đầy. Vị rượu ngọt mềm. Hơi rượu thơm quyến rũ. Đêm ấy, chúng ta đã say bởi rượu hay tiếng nhạc? Hay cả hai?
Khi rời quán thì đêm đã khuya. Bước chân hụt hẫng trong cơn say còn váng vất. Từng cơn gió lạnh thổi thốc vào mặt làm tan dần hơi men. Em chưa muốn về nhà. Em nói thế. Em còn muốn lang thang cùng anh cho hết đêm ấy. Trời khuya trở lạnh nên anh đưa em vào một tiệm cà phê nhỏ, mùi cà phê phảng phất trong không gian làm cho khách khi vừa bước vào là đã cảm thấy như được sưởi thêm chút ấm. Chúng ta kiếm một góc khuất và gọi hai tách cà phê. Thứ cà phê Columbia loại trung bình nhưng hương thơm đủ để gây cảm giác thích thú. Và chúng ta ngồi đó chờ sáng. Anh và em đã sống hết một đêm hạnh phúc. Có mấy khi chúng ta được sống hết một đêm đã đời như thế nên anh nhớ mãi. Hạnh phúc như cơn mưa đầu xuân tưới mát tuổi trẻ anh.
Có
những niềm hạnh phúc đến thật tình cờ. Vì không chuẩn bị nên nó làm ta
ngỡ ngàng. Nhưng ta sung sướng. Em là một tình cờ. Em mang tình yêu đến
cho anh. Anh chẳng cần tìm kiếm. Anh chẳng phải lo toan. Anh chỉ biết
đón nhận. Em có biết bao nhiêu những chọn lựa mà em lại chọn một anh
chàng cù lần bậc nhất. Có lẽ vì cù lần nên em cảm thấy an tâm chăng? Và,
em đã khôn khéo biết bao. Chẳng bao giờ tìm cách vượt anh. Khi nào cũng
nhường anh nửa bước. Luôn luôn là ngôi thứ hai trong sự hiện hữu của
chúng ta để anh được tự tin và cảm thấy mình là một người đàn ông đúng
nghĩa, là phiến đá, là chỗ dựa vững vàng cho em. Cuộc tình của chúng ta
không có tiếng khóc. Đôi khi cũng có những giọt lệ giận hờn, nhưng tuyệt
nhiên chưa một lần phải nức nở. Và anh thầm cảm ơn em vì những điều ấy.
Từ
trên đồi cao tôi nhìn xuống phía dưới, thành phố tôi ở, buổi chiều nắng
tắt. Bầu trời lúc này tím thẫm và một màu xám nhạt bảng lảng khắp không
gian. Mùa xuân nhưng trời về chiều còn chút hơi lạnh của những ngày tàn
đông. Con đường xa lộ dài và thẳng tắp chạy ngang qua thành phố. Xe cộ
tiếp nhau. Những ngọn đèn xe nối dài thành những đường thẳng tắp màu
vàng, đỏ hai bên kéo đến vô tận. Phía xa xa là hồ nước ẩn hiện sau rừng
cây. Ở nơi đó, có những lần chúng tôi đến nghe thông reo vào buổi chiều.
Có những chiều hoang vắng. Không gian là hai chúng tôi, rừng cây và hồ
nước. Thật yên lặng, chúng tôi lắng nghe tiếng thông reo vi vu. Bên kia
bờ hồ, nhà máy điện đứng cô đơn, lẻ loi trong chiều. Hai cột khói thẳng
chầm chậm nhả những mảng khói trắng mỏng lên nền trời thẫm. Những mảng
khói trắng như những đám mây lặng lẽ in bóng trên mặt hồ nước mờ nhạt và
ánh điện của những ngôi nhà trên triền đồi gần đó vừa thắp sáng. Bóng
đêm đã lần tới, tiếng gió thông đã ngưng hẳn nhưng nỗi niềm hạnh phúc
còn vương vất đâu đây.
Con
đường mùa xuân hôm nay mang một màu xanh mới. Con đường thân quen mà
chiếc xe lăn bánh đi, về mỗi ngày từ bao lâu. Bây giờ thì đã không còn
những giờ phút thảnh thơi để thả bộ trên ấy. Bây giờ cuộc sống là những
bận rộn mới, tất cả đã không còn là của riêng mình. Bây giờ là tự ràng
buộc mình và sống có trách nhiệm đối với những người thân bên cạnh. Bây
giờ, ở một khoảnh khắc nào đó bất chợt nhớ về ngày cũ. Cuộc sống và
những mơ ước của ngày xưa ấy là hoài niệm hôm nay. Và may mắn thay khi
thấy mình vẫn còn có những ngày tháng đẹp đẽ để nhớ về.
Và,
vui sướng biết bao về một nơi chốn mà ta đã trải tuổi trẻ và đã để lại
nơi đó biết bao nhiêu kỷ niệm để rồi chẳng phải ngẫu nhiên hôm nay ngồi
đây viết về nó mà lòng cảm thấy tràn ngập hạnh phúc.
Thành phố tôi ở, mùa xuân. Và em.
(1) We’re all alone – Boz Scaggs
ĐOÀN DỰ * CHUYỆN BÊN NHÀ
Những chuyện đáng trách...
- Đoàn Dựghi chép
I. Chuyện ở huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng
Xác chết dưới dạ cầu
Khoảng 17 giờ ngày 8-1-2013, ông T (người dân ấp Tân Thành,
xã Long Hưng, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) nghe mùi hôi bốc lên từ phía
dạ cầu con kênh Mồng 1 Tháng 5. Tò mò, ông xuống dưới chân cầu coi xem
sao. Trên giòng kênh, một xác chết đã trương phình, nổi lờ đờ trên mặt
nước.
Nạn nhân mặc áo thun, quần xà-lỏn, cổ bị siết bằng một sợi
dây dù, hai chân bị quấn bằng hai chiếc võng.
Phía ngoài xác chết có hai chiếc bao tải màu vàng còn tốt, loại dùng để đựng phân hóa học của nhà nông. Trên mình nạn nhân không có thương tích. Công an cho rằng nạn nhân đã bị siết cổ bằng sợi dây dù cho đến chết rồi bị đem ra bờ sông, chỗ có đống đá dăm hồi trước xây cầu còn dư, bỏ đá vào trong bao, cột bao vô mình xác chết rồi bỏ xuống sông ở dưới dạ cầu cho chìm để phi tang.
Do nút cột miệng bao không chắc, đá rớt xuống sông gần hết nên xác nổi lên. Họ kết luận, hung thủ phải là người ở gần đây nên mới biết ở dưới dạ cầu có đống đá dăm. Tuy nhiên, nạn nhân mặc áo thun, quần xà-lỏn, trong mình không có giấy tờ gì cả, nên chưa biết được tên tuổi và nơi cư ngụ.
Phía ngoài xác chết có hai chiếc bao tải màu vàng còn tốt, loại dùng để đựng phân hóa học của nhà nông. Trên mình nạn nhân không có thương tích. Công an cho rằng nạn nhân đã bị siết cổ bằng sợi dây dù cho đến chết rồi bị đem ra bờ sông, chỗ có đống đá dăm hồi trước xây cầu còn dư, bỏ đá vào trong bao, cột bao vô mình xác chết rồi bỏ xuống sông ở dưới dạ cầu cho chìm để phi tang.
Do nút cột miệng bao không chắc, đá rớt xuống sông gần hết nên xác nổi lên. Họ kết luận, hung thủ phải là người ở gần đây nên mới biết ở dưới dạ cầu có đống đá dăm. Tuy nhiên, nạn nhân mặc áo thun, quần xà-lỏn, trong mình không có giấy tờ gì cả, nên chưa biết được tên tuổi và nơi cư ngụ.
Xác chết trên giòng kênh khiến dư luận dân chúng rất xôn
xao. Đến 3 giờ chiều ngày hôm sau, 9-1-2013, có một phụ nữ đến công an
huyện Mỹ Tú trình báo về việc chồng chị bị mất tích. Chị cho biết chị
tên Văn Thị Thủy, 32 tuổi (sinh năm 1981), ngụ tại ấp Mỹ Ninh, xã Mỹ Tú,
huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng (xã này cùng tên với huyện). Chị Thủy nước
mắt giàn gụa, cho biết đã ba ngày hôm nay chị đôn đáo đi tìm chồng tên
là Trần Văn Nhân, 38 tuổi (sinh năm 1975, hơn chị Thủy 6 tuổi) nhưng
không biết anh Nhân đi đâu.
Theo lời chị Thủy, cách đó 4 hôm, tức ngày 5-1-2013, anh
Nhân đi dự đám cưới ở nhà người quen trong ấp, chị Thủy đưa cho chồng
2.6 triệu đồng. Đến 9 giờ tối, anh quay về, thay đồ rồi bảo vợ xuống
xuồng máy với mình, đi mở cái cống trên con kênh để lấy nước vô ruộng.
Khoảng 1 giờ sáng, xong công việc, anh chở vợ về, đem hai chiếc võng bỏ
xuống xuồng rồi dặn vợ là anh đi chơi vài ngày. Nhưng đã ba hôm nay liên
lạc điện thoại với chồng không được, chị đến các nhà quen hỏi thăm cũng
không ai biết.
Các tình tiết hơi lạ
Chị Thủy được yêu cầu nhận diện cái xác dưới cầu, và xác
định người chết là anh Trần Văn Nhân. Lúc cho nhận diện xác chồng, chị
Thủy gục xuống, khóc lóc rất thảm thiết và gào lên: “Anh ơi, anh chết đi
em với hai đứa con sẽ sống ra sao? Mấy hôm trước anh nói đi chơi rồi về
sẽ bàn với em chuyện trồng mía. Anh hứa sao không làm mà lại chết thế
này...”.
Sự khóc lóc, vật vã và những lời kể lể của chị Thủy có điều gì đó không bình thường, dường như có vẻ hơi giả tạo. Tại sao lúc hai vợ chồng lấy nước vô ruộng xong, về, anh Nhân nói sẽ đi chơi mấy ngày mà vẫn mặc áo thun, quần xà-lỏn giống như lúc đi lấy nước ngoài đồng? Đi chơi, trong đêm khuya, anh đem hai chiếc võng đi làm gì? Một người làm ăn trong đồng ruộng có ai đi chơi mấy ngày vào lúc 1 giờ sáng và chị Thủy cũng không cho biết anh đi bằng gì, có dùng chiếc xuồng máy đó không?
Sự khóc lóc, vật vã và những lời kể lể của chị Thủy có điều gì đó không bình thường, dường như có vẻ hơi giả tạo. Tại sao lúc hai vợ chồng lấy nước vô ruộng xong, về, anh Nhân nói sẽ đi chơi mấy ngày mà vẫn mặc áo thun, quần xà-lỏn giống như lúc đi lấy nước ngoài đồng? Đi chơi, trong đêm khuya, anh đem hai chiếc võng đi làm gì? Một người làm ăn trong đồng ruộng có ai đi chơi mấy ngày vào lúc 1 giờ sáng và chị Thủy cũng không cho biết anh đi bằng gì, có dùng chiếc xuồng máy đó không?
Đám tang được tổ chức hết sức sơ sài. Theo chính quyền địa
phương, anh Nhân là người siêng năng cần mẫn, có thể nói là làm ăn rất
khá, hàng xóm láng giềng ai cũng khen ngợi. Lúc Nhân lấy vợ, bố mẹ cho 2
công ruộng, nay Nhân ăn nên làm ra, đã mua thêm được hơn 10 công để
canh tác. (Mỗi công đất là 1,000 m2; 10 công là một mẫu tức 1 hécta,
10,000 m2, gần gấp 3 lần mẫu miền Bắc, 3,600 m2). Hai con trai là Trần
Tuấn Duy (12 tuổi), Trần Tuấn Vinh (9 tuổi) học giỏi đã bù đắp lại công
lao vất vả của anh. Đầu năm 2012, Nhân dành dụm mua được một máy tuốt
lúa để kiếm thêm thu nhập nên được dân chúng rất nể, gọi đùa là “ông chủ
máy tuốt lúa”.
Thời gian gần đây giữa hai vợ chồng Nhân thường hay có sự
cãi cọ, Thủy tâm sự với bạn bè và hàng xóm láng giềng rằng không hiểu có
phải gở miệng hay không mà anh Nhân thường nói rằng nếu tôi chết, tôi
bỏ lại hai đứa con trai thì cô ráng mà nuôi.
Cháu Duy (đứa con trai lớn, 12 tuổi) khai rằng trước khi ba
mất, má thường hay chuyện trò điện thoại di động rất lâu trong đêm
khuya, có lần ba phát hiện, ba tát bốp vào mặt má và gắt: “Lại chuyện
trò với nó hả?” nhưng má im lặng không nói gì hết.
Từ sự tiết lộ của hàng xóm và lời khai của cháu Trần Tuấn Duy, công an lại càng nghi ngờ chị Thủy hơn.
Tối 9-1-2013, sau khi đem xác anh Nhân về và khâm liệm
xong, trong lúc mọi người đang đến thăm viếng, chia buồn thì chị Thủy
vào bên trong uống thuốc diệt rầy tự vận. Mấy người trong ban điều tra
vẫn có mặt ở đấy bèn vội vàng đem chị đến bệnh viện cứu cấp.
Nhưng các bác sĩ trong bệnh viện cho biết lượng thuốc rầy may mắn đã được chị Thủy pha loãng, rất nhẹ, chị không thể chết được và sẽ rất mau bình phục. Bà con hàng xóm láng giềng bàn tán với nhau rằng có lẽ do chị Thủy quá thương chồng nên mới uống thuồc rầy tự tử để cùng chồng sang bên kia thế giới như vậy, và họ cũng tin có lẽ do linh hồn anh Nhân linh thiêng nên đã xui khiến chị Thủy pha loãng thuốc rầy trước khi tự vẫn. Chỉ sáng hôm sau là chị Thủy được về.
Nhưng các bác sĩ trong bệnh viện cho biết lượng thuốc rầy may mắn đã được chị Thủy pha loãng, rất nhẹ, chị không thể chết được và sẽ rất mau bình phục. Bà con hàng xóm láng giềng bàn tán với nhau rằng có lẽ do chị Thủy quá thương chồng nên mới uống thuồc rầy tự tử để cùng chồng sang bên kia thế giới như vậy, và họ cũng tin có lẽ do linh hồn anh Nhân linh thiêng nên đã xui khiến chị Thủy pha loãng thuốc rầy trước khi tự vẫn. Chỉ sáng hôm sau là chị Thủy được về.
Ba ngày sau, chị bị mời lên công an huyện. Kết quả không
bất ngờ. Những lần chuyện trò trong điện thoại di động lâu cả tiếng đồng
hồ là Chị Thủy nói chuyện với Thanh, “nó là con ông chú ruột của anh
Nhân nhà em”.
Thanh, tên đầy đủ là Trần Tuấn Thanh, nhà ở ngay bên cạnh.
Cuối cùng, Thủy phải khai thật, do Nhân đã biết mối quan hệ
bất chính giữa thị với Trần Tuấn Thanh, 30 tuổi, em con ông chú ruột
của mình nhà ở gần đấy, nhiều lần ngăn cấm nên Thủy đã nảy ra ý định
giết Nhân để tiện việc hò hẹn, ăn nằm với Thanh. Nghe Thủy bộc lộ điều
này, lúc đầu Thanh có khuyên can không nên làm như vậy nhưng dần dần
cũng xiêu lòng, chiều theo ý Thủy.
Ngày 5-1-2013, theo như đã bàn tính với Thủy, Thanh đến
tiệm thuốc tây trong chợ Mỹ Tú mua 10 viên thuốc ngủ rồi trao cho Thủy.
Có sự trùng hợp là chiều hôm đó, Nhân đi làm suốt ngày ngoài đồng về,
tối bóp trán than nhức đầu. Thủy mừng thầm, sắp cơm cho chồng và các con
ăn xong, rót nước trà nóng, làm bộ săn sóc chồng: “Anh uống mấy viên
thuốc cảm này rồi đi ngủ sớm coi có đỡ không”. Nhân nghe lời, uống mấy
viên thuốc sau đó đi nằm. Thủy báo tin cho Thanh: “Nó uống thuốc, đi ngủ
rồi!”.
Không ngờ, Nhân chỉ ngủ được một lát rồi lại tỉnh dậy, nhăn
nhó ôm bụng, than phiền: “Kỳ thiệt, em mua thuốc gì mà uống vô không
hết nhức đầu lại thêm đau bụng”. “Thuốc cảm nhưng chắc mua lầm phải
thuốc dỏm. Anh đau bụng nhiều hay ít?”. “Cũng đau sơ sơ vậy thôi, có thể
chịu được”. Trên thực tế, Thủy nghĩ có lẽ Thanh mua phải thuốc dỏm thật
nên Nhân mới đau bụng và tỉnh táo như vậy, tối nay chưa thể “ra tay”!
Sáng hôm sau, Nhân khỏe, lại ra đồng xem xét, dự định việc
trồng mấy công mía. Thủy lập tức gọi điện thoại cho Thanh bàn tính cách
khác. Chiều hôm đó (6-1-2013), Nhân ở ngoài đồng về, tắm rửa để chuẩn bị
đi ăn đám cưới ở bên kia sông. Nhất quyết không bỏ qua cơ hội, Thủy gọi
điện thoại lần nữa, nhắc Thanh về việc mua dây dù, thuốc ngủ loại si-rô
và vài thứ khác trong kế hoạch như đã bàn tính.
Khoảng 9 giờ tối, Nhân đi ăn cưới về, thay đồ rồi kêu Thủy
đi xuồng máy với mình ra ngoài kinh mở cống, lấy nước vô ruộng. Xong
công việc, về tới nhà Thủy làm bộ chăm sóc chồng, giục chồng đi ngủ sớm
kẻo mệt. Nhân rửa chân tay, đi ngủ. Thủy lấy chai si-rô pha cho hai đứa
con uống vì hồi này trời cuối năm hơi lạnh, hai đứa con hay bị ho.
Lát sau, thấy chúng ngủ say, Nhân cũng đã ngủ, Thủy gọi điện thoại báo cho Thanh biết. Thanh qua, Thủy mở cửa sau cho Thanh vô trong nhà. Theo lời khai của Thủy, lúc đầu Thủy định đập đầu chồng bằng khúc cây đã chuẩn bị sẵn, nhưng do Thanh sợ nên cả hai đổi sang cách khác. Thanh trở về lấy thêm dây dù rồi qua, cùng Thủy rón rén cột chân tay Nhân vào thành giường. Nhân ú ớ tỉnh dậy, Thủy leo lên người chồng, bịt chặt miệng chồng bằng chiếc mền trong khi Thanh chung đôi sợi dây dù, siết thòng lọng trên cổ người anh con ông bác ruột cho đến khi anh giãy giụa rồi chết hẳn.
Lát sau, thấy chúng ngủ say, Nhân cũng đã ngủ, Thủy gọi điện thoại báo cho Thanh biết. Thanh qua, Thủy mở cửa sau cho Thanh vô trong nhà. Theo lời khai của Thủy, lúc đầu Thủy định đập đầu chồng bằng khúc cây đã chuẩn bị sẵn, nhưng do Thanh sợ nên cả hai đổi sang cách khác. Thanh trở về lấy thêm dây dù rồi qua, cùng Thủy rón rén cột chân tay Nhân vào thành giường. Nhân ú ớ tỉnh dậy, Thủy leo lên người chồng, bịt chặt miệng chồng bằng chiếc mền trong khi Thanh chung đôi sợi dây dù, siết thòng lọng trên cổ người anh con ông bác ruột cho đến khi anh giãy giụa rồi chết hẳn.
Văn Thị Thủy và Trần Tuấn Thanh là người trong gia đình,
chị dâu em chồng con chú con bác. Rất có thể họ sẽ bị tử hình hoặc ít
nhất cũng tù chung thân “không được giảm án trong bất cứ trường hợp
nào”. Chỉ tội nghiệp cho hai đứa trẻ, bố chết, mẹ mang tiếng mang tăm
hết sức nhục nhã, không hiểu chúng sẽ sống ra sao.
II. Tâm sự của một người đàn bà đau khổ
Đàn ông bên Mỹ hay về Việt Nam chơi. Sau đây xin mời quý
bạn nghe lời kể của một người đàn bà đau khổ. Lẽ ra thì chúng tôi không
đăng lại vì e quý bạn đã biết rồi, nhưng do bà nói: “Tôi không biết vi
tính, không có nickname, phải nhờ con gái viết lại chuyện buồn của mình
gởi tới các diễn đàn, chỉ với mong ước duy nhất là các diễn đàn phổ
biến, càng nhiều càng tốt, sao cho mọi người cảnh tỉnh, đừng ai vướng
phải bất hạnh như gia đình tôi”.
Bà dặn như vậy, chúng tôi hết sức tôn trọng bà và thương
xót bà nên bắt buộc phải đăng. Nếu đã đọc ở diễn đàn nào đó, xin quý
bạn thông cảm.
Vợ chồng tôi định cư ở Mỹ vừa đúng 30 năm. Chúng tôi rất ít
về Việt Nam vì bà con chẳng còn mấy người. Nhưng đột nhiên khoảng hơn 2
năm trở lại đây, chồng tôi bỗng thường xuyên đi về Việt Nam đầy khó
hiểu, lần gần nhất đã ở lại hơn 2 tháng.
Hỏi thì ông ấy bảo về để tìm cơ hội làm ăn mà chẳng nói làm
ăn cái gì, nhưng lần nào đi cũng mang theo nhiều tiền mà khi về thì hết
sạch. Thời gian ở nhà, ông thường lên mạng ngồi chat rất khuya
và có nhiều cuộc điện thoại rất lâu, ông thường lén ra vườn nghe một
mình làm tôi hết sức nghi ngờ. Sự nghi ngờ càng tăng khi ông nhạt hẳn
chuyện gối chăn cùng vợ, cái nhạt nhẽo này rất khác thường so với trước,
vì chúng tôi mới hơn 60 tuổi.
Tôi điện thoại về Việt Nam dò hỏi nhiều người quen thì được biết, ông cặp bồ với một phụ nữ không còn trẻ nhưng đẹp.
Tôi vội vã lấy vé máy bay về Việt Nam thì cũng là lúc chồng tôi trên đường về Mỹ.
Tôi ở lại Việt Nam gần một tháng, lân la dò hỏi thì được biết người phụ nữ kia ở trong “Nhóm “câu” Sài gòn”, tức là “câu”
người trên mạng!
Tôi đã mất rất nhiều công sức và tiền bạc mới biết được nhóm này có khoảng 10 người, chuyên lên mạng sưu tầm các hình ảnh độc đáo và những thông tin hot mà nhiều người ở nước ngoài quan tâm rồi Post lên mạng và các diễn đàn. Từ việc làm đó, nhóm này có vô số người quen ở khắp nơi trên thế giới. Mỗi người trong nhóm luôn có hàng ngàn địa chỉ để giao lưu, quan hệ.
Tôi đã mất rất nhiều công sức và tiền bạc mới biết được nhóm này có khoảng 10 người, chuyên lên mạng sưu tầm các hình ảnh độc đáo và những thông tin hot mà nhiều người ở nước ngoài quan tâm rồi Post lên mạng và các diễn đàn. Từ việc làm đó, nhóm này có vô số người quen ở khắp nơi trên thế giới. Mỗi người trong nhóm luôn có hàng ngàn địa chỉ để giao lưu, quan hệ.
Tôi giấu không cho biết tôi từ Mỹ về, và thật may mắn, tôi
được giới thiệu đồng thời kết thân với một thành viên trong nhóm. Lân la
mãi, tôi được cô này cho coi cả xấp hình, trong đó có hình chồng tôi đi
câu cá ở Bình Chánh, rồi đi tắm biển ở Nha Trang chung với cả nhóm. Nhờ
thế, tôi biết rõ mặt người phụ nữ kia khi cô ta đang ôm chồng tôi. Cố
dằn lòng, tôi vẫn tỉnh bơ như không quen biết ai trong những tấm hình
đó.
Khi đã hết sức thân thiết, cô bạn gái kia mới dốc bầu tâm
sự. Đại khái cô cho biết: “Chúng em là những người tử tế, có ăn có học
và nhà cửa đàng hoàng, chỉ phải cái tội nghèo thôi”. Cô rất tự hào về
chuyện “câu” của nhóm mình nên cao hứng bóc trần mọi thứ:
- “Chị tưởng ai cũng có thời gian suốt ngày trên net ư? Ai
cũng có trình độ để sưu tầm các hình ảnh độc đáo và các tin tức “hot”
hay sao? Những emails tụi em gởi là mồi câu. Cả ngàn mails gởi đi, bèo
nhất cũng có vài chục emails phản hồi. Bao nhiêu năm như thế chúng em có
vô số bạn hữu, từ thân ít đến thân nhiều hoặc rất thân, họ đều là những
con cá cắn mồi”.
“Trong số các con cá đó, như em chẳng hạn, em sẽ lựa ra
những con nào hám của lạ (nhiều lắm, đủ mọi thành phần). Và em thường
dành ưu tiên cho cá “Việt kiều” nước ngoài (vì họ dễ dãi tiền bạc), đặc
biệt là chú trọng đến loại vợ chết, nhất là loại cá già, càng già càng
tốt và càng dễ câu. Cá già và có vợ chết là rất thú vị.
“Đầu tiên là chat, kế tiếp là gọi điện thoại và sau đó hò
hẹn gặp tại Việt Nam. Em luôn thòng một câu: “Nếu anh về, em xin làm
hướng dẫn viên miễn phí, mọi nơi mọi lúc”. Ít khi em chủ động gọi điện
thoại lắm vì tốn tiền, chỉ cần nhá máy, “cá” sẽ gọi lại ngay”.
“Em siêng chat lắm, có lần cùng một lúc phải chat tới 4 – 5 cá nhưng vẫn khỏe re”.
Cô hào hứng kể huỵch toẹt:
“Em đang là cô em tinh thần, cô em kết nghĩa, cô cháu dễ
thương của rất nhiều cá Việt kiều ở nước ngoài. Rồi là “người yêu dấu”,
là “cục cưng rất nhớ thương ” của vô số con cá lờ đờ đấy chị ạ. Mỗi kỳ
lễ, Tết, hay sinh nhật em, em đều có quà của cá từ các nơi. Cá luôn luôn
hào phóng và rộng rãi với bọn em”.
“Cá về, em đón. Cá đi, em tiễn. Nhưng ngại nhất là vào
tháng Tết, nhiều cá về lắm, em rất lúng túng khi xếp lịch gặp gỡ vì sợ
các cá đụng đầu nhau. Do đó, mỗi đứa bọn em lúc nào cũng có ít nhất là 4
hoặc 5 số điện thoại, sợ cá ghen khi thấy máy bận”.
“Bọn em có đứa đã mua được nhà, mua được xe xịn, còn đi du lịch nơi này nơi kia chỉ là chuyện vặt”.
Chợt, giọng cô chùng xuống:
“Tụi em đứa lớn nhất cũng đã trên 50 tuổi rồi, trong đó có
mấy đứa bị vướng HIV vì cá nước ngoài chẳng ai chịu dùng bao cao su. (Cô
chỉ ngay người phụ nữ trong hình đã cặp bồ với chồng tôi 2 năm nay):
Mấy đứa này đang uống thuốc nhưng cũng đang “trả thù đời” đấy. Chúng ngủ
với bất cứ ai muốn chúng và nhất định không cho dùng bao cao su”.
Rồi cô cười cười, kết luận:
“Nhóm “câu” Sài Gòn là tên kín đáo tụi em tự đặt ra cho vui vậy thôi, ít người biết lắm”.
“Vậy làm sao những người kia tránh được HIV?” - tôi hỏi.
Cô nói: “Không tránh được đâu. Khó biết lắm vì tụi em là
người đàng hoàng, có ăn có học tử tế, lại có đứa còn là Phật tử thuần
thành, siêng đi lễ bái lắm”.
Tôi tối sầm cả mắt, ù hết hai tai khi nghĩ đến chồng tôi. Không còn hơi sức đâu mà nghe tiếp nữa, tôi lảo đảo đứng dậy ra về.
Tôi trở lại Mỹ mà lòng tan nát. Ba ngày không nói với chồng
một câu. Cuối cùng, chẳng thể mãi làm thinh, tôi kể hết với ông những
chuyện tôi biết về “Nhóm “câu” Sài Gòn” và yêu cầu ông đi xét
nghiệm máu. Mới đầu, ông nổi giận ghê gớm, quát nạt kinh khủng. Quá chán
nản, tôi chẳng nói lại nửa lời. Sau đó, tôi lẳng lặng thu xếp quần áo
về ở với con trai lớn, hơn một tháng trời. Trong thời gian này, ở nhà
ông ấy đi xét nghiệm máu.
Kết quả: DƯƠNG TÍNH HIV. Dù đã đoán trước nhưng tôi vẫn bàng hoàng, sụp đổ và nghĩ đến bản thân mình.
Kết quả: DƯƠNG TÍNH HIV. Dù đã đoán trước nhưng tôi vẫn bàng hoàng, sụp đổ và nghĩ đến bản thân mình.
Ba tháng sau mới lấy lại được thăng bằng, tôi đi xét nghiệm và kết quả cũng như chồng tôi: DƯƠNG TÍNH HIV!
Tôi có 2 con trai và 2 con gái đều đã trưởng thành. Tôi
không biết vi tính, không có nickname, phải nhờ con gái viết lại chuyện
buồn của mình gởi tới các diễn đàn, chỉ với mong ước duy nhất là các
diễn đàn phổ biến, càng nhiều càng tốt, sao cho mọi người cảnh tỉnh,
đừng ai vướng phải bất hạnh như gia đình tôi.
Đó là tâm nguyện của tôi, xin các diễn đàn giúp tôi hoàn thành tâm nguyện cuối cùng trong cuộc đời mình.
Một người phụ nữ bất hạnh.
* Ghi chú: Chuyện này hết sức quan trọng, chúng tôi không
dám có ý kiến. Ngoài ra, nếu có ý kiến chúng tôi cũng sợ bị “đàn ông”
giận. - Kính mến: ĐD.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 249
TRUYỆN KÝ -
Tuesday, February 19, 2013
PHẠM THÀNH CHÂU * HÀM RĂNG GIẢ
Chuyện hàm răng giả của Tư Móm
Wednesday, 26 December 2012 22:22
Tác Giả
Phạm Thành Châu
Phạm Thành Châu
Tôi xin kể bạn nghe "Một chuyệïn tình". Đương nhiên, chuyện tình bao giờ
cũng phải dang dở, chia lìa, cho đúng kiểu của tiểu thuyết, vì nếu là
chuyện đời thường, yêu nhau, cưới nhau, sống với nhau đến đầu bạc răng
long thì đã thành "ác mộng" rồi, tình tang gì nữa! Vì mấy mươi năm sống
với nhau, dung nhan ai cũng xuống cấp thê thảm. Tình yêu cũng xuống đến
số không. Bạn thử liếc nhìn người phối ngẫu của mình mà không thở dài
mới là giỏi. Dù xưa kia, anh, chị (còn xinh đẹp), có mê nhau, ham nhau
đến cỡ nào đi nữa thì giờ đây cũng chẳng buồn nhìn nhau. "Bi kịch của
tình yêu là sự lãnh đạm" (Somerset Maugham). Tâm trạng ông nào cũng não
nề nhưng vẫn làm như rất hạnh phúc để sống cho qua những ngày cuối đời.
Chết là thoát. Bởi vậy mới có chuyện "thật" sau đây: Một ông hấp hối,
đang thở những hơi thở cuối cùng để tị nạn qua bên kia thế giới. Bà vợ
khóc lóc "Ông ơi! Ông đừng chết. Ông mà chết thì tôi chết theo ông". Ông
chồng hoảng kinh vùng dậy la lên "Tôi lạy bà. Để tôi đi một mình" rồi
lăn ra chết thiệt.
Thời gian rất công bình. Vua chúa hay ăn mày đều phải già lão. Quý bà có đem tiền nộp cho các mỹ viện thì cũng chống cự ít lâu rồi già vẫn hoàn già! Vì chuyện tôi kể sau đây là chuyện thật của hai người lớn tuổi, có thể khiến bạn, đọc đến hết chuyện, sẽ lắc đầu chán nản "Chẳng hay ho gì! Tình yêu đâu? Dở dang, chia lìa đâu? Mà cũng chẳng thấy vận tải, chuyên chở triết lý, ẩn dụ gì để người đọc suy tư! Cha nầy (tác giả) đánh lừa mình. Mất thì giờ!" Nhưng tôi biết, mấy ông bà tìm đọc tôi để "giết thì giờ" mà! Cứ đọc đi. Cuối chuyện sẽ có một câu "trích dẫn" rất thâm thúy.
Thời gian rất công bình. Vua chúa hay ăn mày đều phải già lão. Quý bà có đem tiền nộp cho các mỹ viện thì cũng chống cự ít lâu rồi già vẫn hoàn già! Vì chuyện tôi kể sau đây là chuyện thật của hai người lớn tuổi, có thể khiến bạn, đọc đến hết chuyện, sẽ lắc đầu chán nản "Chẳng hay ho gì! Tình yêu đâu? Dở dang, chia lìa đâu? Mà cũng chẳng thấy vận tải, chuyên chở triết lý, ẩn dụ gì để người đọc suy tư! Cha nầy (tác giả) đánh lừa mình. Mất thì giờ!" Nhưng tôi biết, mấy ông bà tìm đọc tôi để "giết thì giờ" mà! Cứ đọc đi. Cuối chuyện sẽ có một câu "trích dẫn" rất thâm thúy.
Thắm Nguyễn
Chuyện
như thế nầy. Sau năm 1975, mấy ông bà quân, cán chính Việt Nam Cộng Hòa
bị đi tù cải tạo. Nghĩa là khổ sai biệt xứ (đày ra vùng núi rừng Tây
Bắc Việt Nam) hàng chục năm, chết như rạ vì lao động quá sức, vì đói
lạnh, vì bịnh tật mà không thuốc men. Nhưng quân, cán, chính Việt Nam
Cộng Hòa, còn may mắn, vì sau hàng chục năm tù, ai sống sót, ra tù thì
được chính phủ Mỹ đón qua Mỹ sinh sống. Khoảng đầu năm 1990, chương
trình HO bắt đầu. Người tù trẻ nhất cũng trên bốn mươi, nhưng trông đã
hom hem, ốm yếu vì ở tù Cộng Sản đâu phải đi nghỉ hè. Qua đến xứ Mỹ, ai
cũng lăn lưng vào việc kiếm sống cho bản thân và vợ con. Ông bà nào tha
một lũ con qua thì khổ. Làm bao nhiêu cũng không đủ bỏ vào mấy cái tàu
há mồm chờ sẵn. Nhưng đáng sợ nhất là mấy cái bills. Cuối tháng ký check
mệt nghỉ. Mấy ông bà HO chỉ làm được những nghề chân tay, tiền công rất
thấp. Có người làm 70, 80 giờ một tuần. Sáng tinh mơ đi, khuya mới về.
Vậy mà không đủ trả cho các chi phí. Riêng tiền nhà đã trên nghìn đô
rồi! Có mấy ông độc thân là hạnh phúc nhất. Chỉ cần kiếm đủ bỏ mồm, trả
tiền thuê phòng trọ là có quyền thảnh thơi, cà phê cà pháo với bạn
bè.
Chuyện nầy kể về một ông HO độc thân như vầy.
Anh ta tên Tư được gọi là Tư Móm, vì lúc còn trong tù Cộng Sản, bị vệ binh dộng báng súng vô miệng. Cả hàm răng rụng ráo trọi. Bạn sẽ hỏi "Tại sao bị dộng báng súng?". Tù ngụy thì "cách (cái) mạng" muốn bắn bỏ lúc nào chẳng được. Dĩ nhiên phải có lý do.
Chuyện nầy kể về một ông HO độc thân như vầy.
Anh ta tên Tư được gọi là Tư Móm, vì lúc còn trong tù Cộng Sản, bị vệ binh dộng báng súng vô miệng. Cả hàm răng rụng ráo trọi. Bạn sẽ hỏi "Tại sao bị dộng báng súng?". Tù ngụy thì "cách (cái) mạng" muốn bắn bỏ lúc nào chẳng được. Dĩ nhiên phải có lý do.
Tù đi lao động ngoài
rừng. Vệ binh kêu một tên tù mà mình không ưa "Ê. Anh kia đến đây bảo"
Tù đến. Vệ binh bảo "Lại đằng kia bẻ cho tôi nhánh cây" Tù quay lưng đi
một quãng thì được tặng nguyên một băng AK. Vệ binh bình thản giải
thích. "Tù trốn, bỏ chạy, kêu không chịu đứng lại".
Quốc
gia Việt Nam Cộng Hòa đang thanh bình, người dân miền Nam lo làm ăn
sinh sống, không đụng chạm, gây thù chuốc oán gì với miền Bắc, vậy mà
đảng Cộng Sản kích động dân miền Bắc căm thù dân miền Nam "Ôi xương tan
máu rơi, lòng hận thù ngất trời... (bài hát Giải Phóng Miền Nam). Từ năm
1961, với súng đạn Nga, Tàu, họ kéo rốc vào miền Nam bắn giết, chôn
sống đồng bào vô tội, pháo kích vào trường học, giật mìn xe đò... Đảng
bảo căm thù thì căm thù? Nay thấy "kẻ thù” (tù) trước mặt mà không giết
được, bộ đội, công an tức lắm! Nhân chuyện Tư Móm mất răng, tôi xin lang
bang qua chuyện răng cỏ của tù cải tạo. Trong tù, chết nhiều nhất là bị
kiết lỵ, một thứ bịnh lây lan rất nhanh mà không có trụ sinh. Năm ba
bữa là "đi". Đau răng, sưng răng không chết nhưng khủng khiếp lắm. Mấy
ông nhà binh, đạn bắn thủng bụng mà vẫn bình tĩnh điều động đồng đội
chiến đấu, nhưng đau răng thì mất tinh thần, chân tay bủn rủn. Thuốc
giảm đau không có, trụ sinh cũng không. Chỉ còn biết kêu lên "Ai nhổ
giùm tôi cái răng đau?". Có ngay! Lúc còn ở trại tù Xuyên Mộc có ông tù
cựu thiếu tá, bác sĩ Thạch, sẵn sàng giúp cho. Người đau răng hả họng ra
cho ông ta dòm ngó để xác định cái nào sưng, xong đem đồ nghề ra. Đơn
giản thôi. Một cái kềm nhổ đinh, một đoạn kẽm gai đập dẹp, mài bén, một
chút bông gòn với chút muối. Trước hết ông ta đốt đầu kẽm gai để sát
trùng rồi dùng nó "xỉa" thịt dính vào chân răng cho tách ra, sau đó dùng
kềm nhổ đinh vặn trái chiếc răng đau, trong lúc đó "nạn nhân" miệng kêu
á, á! Cả thân hình vặn vẹo, tay bắt chuồn chuồn vì đau. Máu mủ đầy mồm.
Chúng tôi đứng nhìn mà cũng "tê tái" cả người. Răng được lôi ra, đưa
cho đương sự giữ làm kỷ niệm, lỗ trống chân răng được nhét vào chút
muối, "đậy" lên bằng bông gòn. Ngậm miệng lại. Hết đau. Ông bác sĩ Thạch
nầy chữa bịnh lao cũng tài. Một ông tù bị ho sao đó, người chỉ còn bộ
xương. Ông bác sĩ phán "Ho lao, bảo người nhà gửi trụ sinh với ống chích
vào ngay". Thời gian sau, thuốc được gửi vô. Ông ta bảo bịnh nhân "Xây
lưng lại, kéo áo lên" Ông ta mằn mằn mấy cái xương sườn sau lưng rồi đẩy
mũi kim vào giữa hai xương sườn, đâm lút kim, bơm thẳng thuốc vào ngay
trong phổi bịnh nhân. Chích thuốc vào thịt xưa rồi. Thuốc đâu mà chích
cho xuể? Tôi thấy sao nói vậy chứ chẳng biết ông ho lao có sống được
không? Lịch sử đi tù của ông Thiếu tá bác sĩ nầy cũng không giống ai.
Năm 1975, Dương Văn Minh lên làm tổng thống nước Việt Nam Cộng Hòa, chỉ
làm một việc duy nhất là giơ hai tay lên trời và hát bài Biệt Kinh Kỳ
"Giữa đoàn hùng binh có tôi đi... Đầu hàng!". Cổ kim, Đông Tây, chưa có
ông tổng thống nào quái đản như Dương Văn Minh! Mất nước! Quân đội tan
rã. Quân, cán, chính, nhà văn, nhà thơ, nhà báo, thậm chí nhà buôn, nhà
thầu, nhà tu... đều được đảng và nhà nước ta lùa vô một "nhà”ø duy nhất
có tên là "nhà tù cải tạo". Trong nhà tù, ông bà nào chịu đựng không nổi
thì thành "quá cố”, đưa qua "nhà xác"... Ông Thiếu tá bác sĩ Thạch trốn
đi tù, mò xuống miền Tây, giả dạng thường dân, đổi tên họ, làm tên khờ,
thất nghiệp, đi bưng tô, chùi bàn cho một tiệm hủ tiếu ở một xó chợ nhỏ
nghèo nàn, heo hút. Được ít lâu, tưởng yên thân, không ngờ một buổi
sáng, đang bưng hủ tiếu cho khách thì một cậu khách mừng rỡ kêu lên
"Thiếu tá mạnh giỏi? Thiếu tá không đi tù cải tạo sao còn ở đây?" Trong
quân đội, tất cả binh lính thuộc đơn vị đều là thân chủ của ông bác sĩ
quân y nên gặp là nhận ra ngay. Thế là ông ta bị hốt vô trại tù Vườn Đào
(miền tây), rồi được đưa lên trại tù Xuyên Mộc.
Trở lại hàm răng giả của Tư Móm. Qua Mỹ, tiểu bang California, anh ta làm việc tà tà, buổi sáng cà phê, tán láo với bạn bè, trưa đi làm đến tối. Anh ta làm đủ nghề. Bạn ra đường, vào quán cà phê mà thấy một ông tuổi khoảng năm mươi ốm nhom, đầu tóc bờm xờm, mặc quần jeans, áo lính rằn ri (mua ở chợ trời, quân đội Mỹ thải ra) hai mắt láo liên như mắt khỉ, mồm miệng tía lia, vẻ bất cần đời. Đó là một ông HO Việt Nam độc thân tiêu biểu ở hải ngoại. Riêng ông bạn tôi có cái miệng móm nên dễ nhận ra. BaÏn bè bảo "Đi làm hàm răng giả đi cha nội. Em nào thấy cái miệng ông cũng phát nản" Anh ta cười như ông lão "Vậy mà có bà khoái cái miệng móm của tôi mới kỳ. Bả không cho đi trồng răng, bảo là "cản trở lưu thông" (?) lại sợ các bà khác thấy đẹp trai, dụ dỗ mất".
Nhưng đó là nói về vật chất, còn về tinh thần, tình cảm không đơn giản như thế. Làm người mất nước làm sao quên được "cố quốc" rồi những kỷ niệm về đồng đội, về mấy cô hàng xóm, bạn học, bạn tù... Bây giờ họ ở đâu, ra sao? Anh chàng Tư của tôi cảm thấy cô đơn, nhất là khi cô bồ của anh ta bỏ đi lấy chồng vì anh ta có lần tuyên bố "Anh chỉ sống qua ngày, chờ qua đời. Anh sợ bị ràng buộc. Lấy vợ, sinh con, đẻ cái. Trách nhiệm phiền phức" Từ khi bị người tình cho "de" chàng Tư rất buồn. Chàng làm thơ. Đề tài, nội dung cũng giống như những cô, cậu thất tình khác là cảnh cũ, người xưa. Thơ chàng hay đến độ chàng thành "thi sĩ”, được các báo đăng, được ngâm trên đài phát thanh địa phương. Đang vô danh bỗng nổi danh, chàng sướng tê người lại được mấy ông bạn xúi in những bài thơ của chàng thành "Thi Phẩm". Chàng làm ngay. Vài nghìn đô. "Nhằm nhò gì, như Tề Thiên mới rụng cái lông" Phét lác là bản tính mấy cậu độc thân. Tập thơ rất đẹp, được gửi bán ở các tiệm sách (nhưng mấy tháng sau vẫn còn nguyên!). Chàng tặng mỗi người bạn mươi tập "Để ông muốn tặng ai thì tặng. Nếu cần thêm, cứ cho biết". BaÏn bè còn xúi tổ chức ra mắt thơ. Chàng "Tới luôn!". Có ăn uống, ca nhạc và tặng thơ miễn phí. Khách đến khoảng vài trăm người, vì thân tình chứ không phải vì mến mộ nhà thơ. Vậy mà vẫn không "tiêu thụ” hết năm trăm tập thơ! Sau đó thì tất cả rơi vào yên lặng. Chẳng ai hỏi han đến chàng Tư Móm, thi sĩ nhà ta! Chỉ một lần duy nhất, có người gọi đến nhà thơ. Đó là một phụ nữ. Chị ta gọi đến không phải để khen thơ Tư Móm mà để tìm người quen. Chuyện nầy khiến cho nhà thơ Tư Móm và chị ta dính nhau như cục sắt và thỏi nam châm.
Tôi xin kể tiếp.
"A lô. Xin cho tôi được gặp anh Lê Văn Tư ạ!" Đó là vào một buổi tối, chàng Tư Móm đang nằm xem Video "Dạ, Tư tôi nghe đây!" "Phải anh Tư trước bảy lăm, nhà ở trước chợ Phan Thiết không?" "Dạ. Đúng rồi. Có việc gì không cô?" "Vậy là sau mấy mươi năm, anh em mình mới tìm thấy nhau. Anh bây giờ ra sao? Có mạnh khỏe không?" "Dạ. Tôi vẫn như xưa. Dung nhan phong nhã, cốt cách phi phàm, tinh thông kinh sử, xuất khẩu thành thơ..." "Em biết rồi. Nhờ tập thơ của anh mà em tìm thấy anh. Anh còn nhớ em không?" "Có trời mới biết được cô là ai!" "Em là con Tâm hàng xóm với anh. Nhà sát vách. Tâm khóc nhè đây. Ngày xưa anh xưng mi, tao với em..." Chàng Tư "A!" lên một tiếng muốn bể cái điện thoại "Tâm đó hả mi? Xin lỗi, quen miệng. Bây giờ phải gọi là cô, xưng tôi mới đúng" Bên kia đầu dây có tiếng cười thân ái "Anh em mình... Gọi sao cũng được".
Tình thân như anh em, cả hai mừng rỡ. "Tha hương ngộ cố tri" (nơi xứ người gặp bạn cũ). Chuyện trò, chàng mới biết nàng đã lập gia đình, được hai con thì chồng chết, sau khi qua Mỹ được năm năm. Chàng độc thân, nàng gái góa. Họ chẳng có gì phải e ngại khi chuyện trò thân mật. Tối nào hai người cũng ôm điện thoại nói cười đến khuya mà không muốn rời. Ai cũng vậy, đã là bạn thì phải gặp mặt. Nàng chờ chàng hẹn nhau đi điểm tâm, ăn trưa hoặc mời nàng đi xem ca nhạc. Có gợi ý mánh mánh nhưng chàng cứ phe lờ. Vì chàng kẹt cái miệng móm, rất khó coi. Nàng càng khen chàng thời học sinh đẹp trai, mong gặp để xem có thay đổi gì không? khiến chàng càng mất tinh thần, vì trước mình đẹp trai mà bây giờ thành ông già móm sọm, nên đành tìm cách hoãn binh "Anh bận tối ngày. Sáng sớm đã dậy đi làm, tối mịt mới về. Hay là, để tháng sau, có Hội Xuân hội Sĩ Quan Thủ Đức, anh mời em đến dự. Có con, cháu thì dẫn theo cho đông vui. Em cho anh địa chỉ, anh gửi vé đến" "Nhưng đến đó làm sao anh em mình nhận ra nhau, mấy mươi năm, ai cũng đổi khác" "Phải tìm nhau mới hồi hộp và vui" "Hay quá! Anh làm cho em hồi hộp ngay giờ phút nầy rồi. Bữa đó, đố anh nhận ra em!"
Một buổi sáng đi uống cà phê, chàng Tư Móm kể cho tôi nghe chuyện hai anh chị gặp nhau trên điện thoại "Bây giờ cô ta còn đòi gặp mặt tôi thì kẹt quá!" "Kẹt cái miệng móm chứ gì? Đi làm hàm răng giả thì trẻ đẹp lại ngay. Em thấy là mê tít thò lò” Anh ta sáng mắt lên "Có chừng đó mà không nghĩ ra. Mai tôi đi nha sĩ”. Bạn cũng biết, nhổ răng thì nhanh nhưng trồng răng, lại trồng cả hàm phải cần thời gian. Không hiểu Tư Móm trồng răng cách nào mà tuần sau hết móm, thành đẹp trai. Trong tiệm cà phê, anh ta vẫn không bỏ tính phét lác "Mấy ông thấy thằng nầy ngon chưa? Cần tân trang chỗ nào nữa?" Rồi anh ta đứng lên xoay một vòng như mấy em trình diễn thời trang. Người thì bảo nên hớt tóc cho gọn gàng, người thì nói "Áo quần thụng thịnh quá! Ông nên mặc quần jeans bó ống, cứ phô trương cặp đùi "cò hương" ra là các em mất ngủ ngay". Từ đó, thay vì gọi là Tư Móm, nay đổi biệt danh anh ta là người "vừa đánh răng vừa huýt sáo". Vì tối đi ngủ, tháo hàm răng giả bỏ vô ly nước ngâm cho sạch, sáng dậy vừa chà hàm răng (giả) vừa có thể huýt sáo hay hát hò. Không rõ tình cảm giữa anh ta với cô láng giềng "thăng hoa" đến cỡ nào mà anh ta có vẻ bồn chồn, mong chờ ngày Hội Xuân đến nhanh. Và nhờ hàm răng giả, làn hơi được kềm chế, không phì phèo nữa, Tư Móm hát ca-ra-ô-kê. Một lần uống cà phê, anh ta cao hứng hát mấy câu nhạc tình lại còn hỏi ý kiến, hôm Hội Xuân nên hát tặng cô bạn bài gì? Giọng hát của anh ta, nếu hát đại nhạc hội có thu tiền, thu hình thì không được nhưng trong các dịp họp mặt, cưới hỏi, hội xuân... cũng không đến nỗi. "Giọng hát trầm buồn và ngọt ngào". Vì thương bạn và để anh ta yêu đời mà khen thế thôi.
Trước đêm Hội Xuân, Tư Móm dặn chúng tôi để ý xem trong đám khách mời thấy cô, bà nào cầm đóa hoa hồng thì báo cho anh ta biết để anh ta đến chào, vì anh ta có chân trong ban tổ chức, phải lo đặt máy phóng thanh, thử máy, theo dõi chương trình nên kẹt sau hậu trường. Tôi và mấy ông bạn trong ban tiếp tân, lo đưa khách đến đúng số bàn ghi trong vé, nhưng tối đó có khoảng mươi bà khách cầm trên tay một đóa hoa hồng có bán trước cửa nên chẳng biết cô, bà nào? Khi đến giữa chương trình thì người giới thiệu trân trọng mời nhà thơ kiêm ca sĩ Hoài Hương (tức Tư Móm) lên cống hiến một bản nhạc. Chàng bước lên sân khấu với cây đàn guitar. "Tôi xin hát bản "Bài Tình Ca Mùa Đông" để xin phép quý vị được thân tặng cô bạn hàng xóm của tôi, đã mấy mươi năm chưa gặp lại. Tôi tin rằng, cô cũng đang hiện diện tại đây. Thú thật, tôi có mời cô đến dự nhưng chỉ gửi giấy mời chứ chúng tôi chưa hề gặp nhau". Rồi anh ta cất tiếng hát. Chúng tôi cũng tò mò, theo dõi mấy cô, bà có hoa hồng để biết đó là ai. Nhờ bản nhạc hay và nhờ cao hứng, nên giọng anh ta hết sức truyền cảm. Thế rồi, có một người đứng lên, tay cầm đóa hoa hồng, yểu điệu tiến về hướng sân khấu. Đó là một chị, tuổi trên năm mươi, không đẹp lắm nhưng ăn mặc trang nhã và sang trọng. Chị ta không cao, mặt trái xoan, trang điểm cẩn thận. Chiếc áo dài nhung màu tím sẫm ôm lấy thân hình tròn trịa, gọn gàng. Tóc ngang vai, kiểu nữ sinh với chuỗi ngọc trai ở cổ và đôi hoa tai lóng lánh ánh đèn. Chúng tôi chờ chị ta tặng hoa thì sẽ vỗ tay hoan hô. Anh bạn tôi có lẽ đã thấy chị ta, nhưng vẫn làm như mãi say sưa trong tiếng nhạc, lời ca.
Nhưng, một việc bất ngờ xảy ra. Khi cô ta sắp bước lên sân khấu để tặng hoa là lúc anh chàng hát đến câu "Êm êm... Ngoài kia nhạc đêm đông..." Chàng cao giọng, miệng há ra, gân cổ nổi lên. Đột nhiên, hàm răng giả quái ác vọt ra khỏi miệng chàng, bay vút như một UFO (dĩa bay) rồi rơi xuống, nằm tênh hênh trên sàn gỗ, khoảng trống trước sân khấu, nơi dùng để khiêu vũ. Miệng chàng móm sọm, môi trên thụt vô, môi dưới trề ra. Chàng buông tay đàn, bụm lấy miệng. Chúng tôi lặng người, bất động, quên cả thở!
Trong khi mọi người bàng hoàng thì cô bạn của chàng Tư Móm bình tĩnh quay lại, cúi xuống, lượm hàm răng giả, lấy khăn đang cầm trong tay lau hàm răng rồi bước lên sân khấu, ra dấu cho anh ta há miệng ra, nhét hàm răng giả đó vào, "chàng" trở lại đẹp trai như cũ. Tiếp theo, cô trao đóa hoa hồng và nhón gót, hôn đánh chụt một cái lên má anh ta, rồi hai người nắm tay nhau cúi chào khán giả và bước xuống sân khấu. Tiếng vỗ tay, cười nói lúc đó mới rộ lên.
Rồi sao nữa?
Cả tuần sau đó, không thấy anh bạn Tư Móm của chúng tôi ra tiệm cà phê. Tôi gọi điện thoại "Mấy bữa nay ông đi đâu?" "Bà xã pha cà phê, làm điểm tâm ở nhà…" "Ủa! Bà xã nào? Sao không mời tụi nầy đi ăn đám cưới?" "Cưới hỏi gì. Rổ rá cạp lại. Bà bữa hôm Hội Xuân đó. Mấy đứa con xúi bả rủ tôi đến ở chung. Chúng có gia đình, ở xa, sợ mẹ sống một mình buồn, sau nầy già cả, bịnh hoạn không ai săn sóc" "Có gia đình rồi, phải lo làm ăn mà trả mấy cái bills-. Ăn uống đầy đủ vô…" "Khỏi lo. Cơm ngày ba bữa, tắm rửa một lần, áo quần mặc cả ngày. Tiền mua nhà trả hết rồi. Điện nước… mấy đứa con trả. Bà xã tôi biểu tôi mời mấy ông, bữa nào đến ăn bún cá. Dân Phan Thiết nấu món nầy ngon lắm" "Muốn mấy người đến dự?" "Nhiêu cũng được, miễn báo trước để tụi nầy chuẩn bị”
Bọn tôi, khoảng mươi ông hẹn nhau đến thăm nhà thơ kiêm ca sĩ Tư Móm để chúc mừng anh ta, nhờ chỉ một bài hát mà vớ được một chị đàn bà ngon lành.
Chúng tôi kéo đến. Đó là một ngôi nhà
tiêu biểu của dân trung lưu. Vợ chồng bạn tôi mừng rỡ đón chào. Có lẽ
nhờ hơi trai nên chị ta trông như hoa tươi. Miệng cười toe toét. Chúng
tôi ăn nhậu, nức nở khen chị ta nấu quá khéo, quá ngon. Mà ngon thiệt!
Ăn muốn nứt bụng. Khi sắp sửa tan hàng, chỉ còn một mình Tư Móm ở nhà
trên, tôi hỏi "Cho biết cảm tưởng sau khi thành gia thất?" Bạn tôi lắc
đầu "Mất tự do! Tôi quen sống một mình, cơm hàng cháo chợ, muốn đi đâu
thì đi, làm gì thì làm, bây giờ có bả, kẹt thiệt! Khổ nỗi là tôi rất
thương bả. Từ thuở bé, hai đứa tôi đã thân thiết nhau, nay gặp lại,
không phải tình yêu mà là tình bạn với nhiều thông cảm. Tôi nghĩ, các
ông có những điều không thể nói cho vợ nghe. Hai đứa tôi thì khác.
Chuyện gì cũng kể cho nhau nghe. Từ chuyện xưa đến chuyện nay, cứ "thủ
thỉ” hoài không chán. Nhưng trước đây, tôi như con ngựa rừng, bây giờ bị
khớp mỏ, lại có dây cương, quay phải, quay trái không theo ý mình…"
Đang tâm tình thì bà vợ anh ta dưới bếp đi lên "Mấy ông tâm sự gì đó?
Cho nghe với! Chuyện bồ bịch phải không?" Bạn tôi ngồi xích ra cho vợ
ngồi ké bên ghế và nói với chị ta "Anh nói, có vợ cũng hay. Nhất là khi
mình ân hận, thất vọng thì đã có người vợ bên cạnh an ủi" Tôi hỏi "Thế
khi ông chưa có vợ thì ai an ủi ông?" Tư Móm lớn tiếng "Chưa có vợ thì
làm gì có chuyện ân hận, thất vọng" Chị vợ thò tay ngắt hông chồng "Ông
nói xấu tôi!" Anh ta "Ối!" lên một tiếng rồi nói tiếp "Nhưng bà xã tôi
còn có biệt tài mà bà xã các ông không làm được. Đó là lúc tôi đi ngủ và
lúc tôi thức dậy, bà xã tôi đánh răng cho tôi. Đánh sạch bóc". Chúng
tôi cười "Trong lúc bả đánh răng cho ông thì ông vẫn có thể hát hò bình
thường. Thế mới tài". Khi sắp ra về, một ông bạn tôi đứng lên, có đôi
lời long trọng "Thay mặt các bạn, chúng tôi cám ơn anh chị đã cho thưởng
thức mấy món ăn truyền thống của Phan Thiết. Cũng cám ơn riêng với chị
là từ nay bạn tôi sẽ không còn cô đơn, sẽ được ăn uống tử tế, được chị
săn sóc với sự thương yêu. Chúng tôi chỉ xin chị, vì nhân đạo mà lưu ý
một điều: là, trước đây, các cháu còn sống trong gia đình, chị thường
nấu nhiều món, nồi lớn, nay chúng là lũ chim đã bay khỏi tổ, chỉ còn hai
anh chị. Xin chị nấu ít lại, đủ chỉ một bữa thôi, bữa sau nấu món khác.
Chúng tôi hiện đang ở trong hoàn cảnh đau khổ đó mà không dám hé môi
với vợ. Bà nào cũng nấu một nồi bự (cho bầy con), như thói quen trước
đây. Thế là ông chồng phải ăn ngày nầy qua ngày khác những món hâm đi,
hâm lại. Đau khổ lắm. Ngậm đắng nuốt cay!..." BaÏn tôi làm bộ mếu máo
cho chúng tôi cười. Chị chủ nhà thì "Dạ! Dạ! Tôi nhớ" Còn Tư Móm thì ngơ
ngác như con nai vàng. Có trải qua cảnh "bổn cũ soạn lại" bao giờ đâu!
Chúng
tôi ra về mà ngậm ngùi cho thân phận mình và cảm thương cho người bạn
đã làm một việc thiếu suy nghĩ là đã lấy vợ. Vở kịch mới diễn màn một,
các màn sau mới bi thảm. Tôi nhớ đến lời dạy của đấng chí tôn của tôi
"Này, tên đàn ông xấu số kia. Ngươi sẽ phải bì bõm trong bể khổ cho đến
chết… kể từ khi ngươi lấy vợ".
PTC
Monday, February 18, 2013
ĐOÀN DỰ * THẦN TÀI
Những chuyện khá lạ
- Details
- Created on Tuesday, 29 January 2013 02:27
- Category: Chuyện Bên Nhà
- Đoàn Dựghi chép
1. Áp mặt thần tài vào nhũ hoa để... cầu may mắn!
Hội An là một thành phố nhỏ thuộc tỉnh Quảng Nam, có nhiều khu phố cổ được xây dựng từ thế kỷ16
vẫn còn tồn tại gần như nguyên vẹn cho đến ngày nay. Trong các tài liệu
cổ của phương Tây, Hội An được gọi Faifo. Thành phố cổ Hội An được
UNESCO công nhận là di sản thế giới từ năm 1999. Hiện nay, chính quyền
sở tại đang khôi phục các di tích, đồng thời phát triển thành một thành
phố du lịch.
Dân chúng trong thành phố cổ Hội An (thành phố nhỏ cấp 3) có những phong tục độc đáo khác hẳnvới các nơi khác. Đặc biệt, những người buôn bán ở đây có nhiều “mẹo” mang tính tín ngưỡng cao. Tuy nhiên, độc đáo nhất có lẽ là tục lệ các nữ nhân viên bán hàng... cởi khuy áo ra, áp tượng thần tài vào nhũ hoa của mình mỗi buổi sáng trước khi bán hàng để cầu may mắn cho shop.
Trong một lần trò chuyện với Trần Bảo Ngọc - một nữ nhân viên trong cửa hàng quần áo thời trang trên đường Hai Bà Trưng, Hội An – các phóng viênđược biết sáng nào trước khi làm việc các cô đều trang trọng đem tượng thần tài hoặc
bằng đất sét nung hay bằng tranh vẽ vốn thờ trên bàn thờ xuống, đến chỗ
kín đáo trong shop, cởi khuy áo ngực ra, vạch cả cái áo nịt ngực nữa, áp mặt thần tài lên hai nhũ hoa của mình để tiệm hôm ấy được đông khách.
Bảo Ngọc cho biết, cô cũng không hiểu phong tục kỳ lạ này đã có từ bao giờnhưng hầu hết các tiệm ở Hội An, khi thuê các nữ nhân viên bán hàng đều dặn dò và chỉ cách cho người làm của mình thực hiện cái tục lệ “thiêng liêng” ấy vào mỗi buổi sáng. Còn đối với các cửa hàng có nữ chủ nhân hay con gái của chủ nhân đứng bán thì khỏi phải nói, họ làm hết sức kính ngưỡng.
Riêng nữ chủ nhân, bà còn thận trọng thắp nhang, cúi đầu, vái mấy vái,
khấn khứa râm ran trước khi cắm nhang lên bàn thờ và đem thần tài xuống
“làm lễ”. Tội nghiệp thần tài, có khi bà chủ rất mập, hai ‘trái dừa
xiêm’ của bà rất lớn, chắc ngài ngộp thở luôn!
Khắp phố cổ Hội An không ai chứng minh được rằng nếu không theo tục lệ ấy thì buôn bán sẽ ế ẩm.Tuy nhiên, người trước truyền cho người sau, đời này truyền cho đời kia, cái tục lệ ấy rất phổ biến và ai cũng rất tin tưởng.
Nói thì vậy nhưng thực tế việc áp mặt thần tài vào ngực cũng có lớp lang đàng hoàng, không phải muốn sao cũng được.
Thường thì mỗi buổi sáng, trước khi đi làm các nữ nhân viên phải tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc đẹp và gọn gàng. Khi tới cửa hàng thì cô nào tới trước nhất sẽ thắp 3 nén nhang, vái 3 vái, khấn ngài phò hộ cho tiệm rồi đem tượng ngài vào chỗ khuất, quay mặt ngài vào ngực mình, tay kia cởi cúc áo và áo lót, áp mặt ngài vào nhũ hoa của mình, bên trái trước, bên phải sau, tổng cộng ba lần như vậymới xong.
Những
cô tới sau thì chỉ thực hiện phần “áp ngực” mà thôi, không phải thắp
nhang hoặc khấn vái như cô đến đầu tiên nữa.
Đặc biệt, nếu chủ nhà hay
con gái chủ nhà mà làm việc khác, không phải là người bán hàng thì không
làm việc này, như vậy có thể nói việc “áp
ngực” để tiệm được may mắn chỉ dành riêng cho các nữ nhân viên trực
tiếp bán hàng mà thôi, không liên quan tới những người khác. Ngoài ra,
sự việc diễn ra chừng 10 phút nhưng lại là công việc quan trọng nhất của cáccửa hàng trong một ngày.
Chuyện trò với các phóng viên, cô nhân viên tên Bảo Ngọc cho biết: “Lúc đầu mới vào làm, em chưa quen nên thấy ngượng lắm, bị bà chủ la hoài. Sau dần dần cũng quen và thấy giống như một công việc bình thường của mình vậy thôi”.
Đi tìm sự giải thích
Để hiểu về tục lệ kỳ lạ... không nơi nào có này, các phóng viên tìm đến nhà cụ Phạm Thị Hươngtrong một hẻm nhỏ trên đường Trần Phú, Hội An. Năm nay cụ đã 86 tuổinhưng xem ra còn khỏe mạnh và minh mẫn lắm.
Cụ kể, trước đây cụ cũng từng buôn bán trong khu phố cổ này, nhưng do nhữngthay đổi của cuộc sống và tuổi tác, cụ phải bỏ việc kinh doanh để bôn ba với những chú tò he đất bên bờ sông Hoài. Đến giờ, vợ chồng cô con gái út của cụ vẫn làm ăn rất khấm khá với 3 cửa hàng kinh doanh trên phố cổ Hội An.
(Ghi chú: Tò he: các
hình nhỏ nặn bằng đất sét hoặc bột dẻo trộn màu rực rỡ, nặn hình cô
tiên, hình ông tướng v.v... người bán hàng vừa bán vừa nặn rất nhanh,
rất tài tình như một nghệ sĩ điêu luyện, cắm vào những cây que, bán cho
trẻ em đem về nhà chơi - ĐD).
Nghe hỏi về tục lệ các nữ nhân viên áp tượng thần tài vào nhũ hoa của mình mỗi buổi sáng trước khi bán hàng, cụ Hương trầm ngâm suy nghĩ để nhớ lại rồi nói: “Ở đây có tục lệ đó thiệt,nhưng có từ thời nào thì tui không rõ. Năm nay tui 86 tuổi, đời bà ngoại tui đã có rồi. Bà ngoại tui truyền cho mạ tui. Mạ tui truyền cho tui. Rồi tui truyền cho con gái tui mà không hiểu mần răng lại phải áp như rứa”.
Rồi cụ kể thêm: “Có người nói đây là tục lệ của người Hoa nhưng cũng có người nói là của người Nhựt. Nghe nói thời xa xưa có đủ thứ người tới mần ăn, buôn bán tại Hội An, họ mang theo phong tục của họ”.
Cụ Hương còn cho biết là ngày xưa, thời cụ còn nhỏ, người Hoa thường thíchmướn các cô gái còn trinh đến bán tại các cửa hàng của mình, bởi vì họ cho rằng thần tài thíchcác cô gái đẹp, nhứt là các cô gái trinh tiết.
Thậm chí, nếu mướn không được những cô gái trinh bán hàng thì họ phải thuê một cô gái khác trong phố hoặc nhà gần đấyrồi mỗi sáng cổ qua làm công việc đó giùm. Hiện nay, các cửa tiệm không còn mất công tìm kiếm các cô gái trinh nữa nhưng việc “áp mặt thần tài vào ngực” họ vẫn tiếp tục giữ.
Theo tiến sĩ Trần Tấn Vịnh, giám đốc Nhà Bảo tàng tỉnh Quảng Nam, phong tục “áp mặt” này xuất xứ từ nền văn hóa “Mẹ” của người Việt Nam
chứ không phải của người Hoa hay của người Nhật. Do đặc trưng của nền
văn hóa lúa nước, vai trò của người mẹ rất quan trọng nên trong việc truyền tụng, thờ cúng, các vị nữ lưu hay các nhân vật linh thiêng được có tiếng “bà” đi trước là một việc thường: “Bà Đen”, “Bà Om”, “Bà Hom”, “Bà Điểm”...
Ở Hội An (Faifo) thời xa xưa, giao thoa với các nền văn hóa khác như văn hóa Nhật Bản, văn hóa Trung Hoa, việc ápmặt thần tài vào ngực phái nữ trước khi buôn bán phải chăng cũng là biểu hiện của sự mơ ước mọi thứ sẽ được sinh sôi nảy nở, ăn nên làm ra?
Đó là nét đặc trưng trong tín ngưỡng phồn thực (sự tín ngưỡng về việc phát triển nòi giống, ví dụ tục thờ cơ quan sinh dục nam linga và cơ quan sinh dục nữ yoni là một biểu hiệu của tín ngưỡng phồn thực- ĐD), đã kết hợp với việc làm ăn buôn bán của người phố cổ Hội An để tạo ra nét văn hóa độc đáo tại mảnh đất này.
Trong vẻ đẹp muôn màu của đất và người ở phố cổ Hội An, có những điều người ta bất ngờ nhưng thật ra có cội nguồn rất gần gũi với văn hóa Việt Nam. Tục lệ áp mặt tượng thần tài vào ngực của nhân viên bán hàng trong các cửa tiệm mỗi buổi sáng sớm là một trong những cái lạ mà chính nó đã tạo nên sự thú vị khiến ta muốn thăm viếng và khám phá cái thành phố cổ xưa đó.
2. Người mẹ đi bằng hai tay nuôi con vào đại học
Trong căn nhà vỏn vẹn có 10m2, người phụ nữ ấy tuy tàn tật nhưng hễ có khách là cặp mắt ngời lên sự hãnh diện. Từ 16 năm nay chị đã một mình nuôi đứa con trai duy nhất học tới đại học.
Chị tên Phạm Thị Khời, 41 tuổi, bị liệt cả hai chân do bị chồng đánh, ngụ tại Khu dân cư số 4, phường Hòa Nghĩa, huyện Dương Kinh, thành phố Hải Phòng.
Sinh năm 1972 trong một gia đình ở ngoại ô Hải Phòng, thời trẻ tuổi chị Phạm Thị Khời cũng nhanh nhẹn và hoạt bát như mọi người con gái khác. Đến tuổi cập kê, chị lập gia đình với một thanh niên cùng thôn và sinh được một cậu con trai kháu khỉnh.
Tưởng rằng những ngày tháng hạnh phúc sẽ êm ả trôi đi, nhưng do cuộc sống quá khó khăn, gã chồng cục súc và “gia trưởng” của chị đã đánh chị đến trở thành tàn phế.
Biến cố cuộc đời
Nghèo nhưng hay uống rượu và đánh đập vợ, một hôm gã chồng hạch tiền mua rượu, chị không có, gã tức giận bèn vác củi đánh rồi xô chị vào tường làm chị gục xuống, ngất lịm,
hàng xóm phải đem tới bệnh viện cứu cấp giùm, chồng chị bị công an
phường bắt và cảnh cáo về tội uống rượu, hay đánh vợ nhưng rồi cũng được
thả về.
(H.5: Cháu Luân chăm sóc mẹ)
Kết quả chẩn đoán của bệnh viện huyện là chị bị ảnh hưởng tới hệ thần kinh não tủy và hệ tĩnh mạch. Thời đó, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, kèm theo suy nghĩ chủ quan nên bệnh viện chỉ chích kháng sinh và cho về nhà uống thuốc.
Một tháng sau, chị thấy chân tay càng ngày càng tê cứng, cử động khó khăn, bèn xin đi khám tại bệnh viện Hải Phòng. Các bác sĩ cho biết, chị bị chấn thương cột sống, liệt cả hai chân. Dù bố mẹ ruột của chị đã vay mượn khắp nơi để lo chữa bệnh cho chị nhưng kết quả vẫn không khả quan. Từ đó, chị với chiếc xe lăn làm bạn.
Sau biến cố đầy nước mắt, người phụ nữ ấy bị mặc cảm tàn tật và hận chồng, người đã gây ra “tai nạn” nhưng bỏ mặc vợ với đứa con nhỏ rồi đi lấy vợ khác. Nhà bố mẹ ruột rất nghèo, chị được bà con giúp đỡ, dựng cho một căn nhà nhỏ giống như cái chòi ở gần bờ sông, hai mẹ con sống với nhau.
Dường như bao nhọc nhằn, lo toan đều đè nặng lên đôi vai ốm yếu, bệnh tật của người phụ nữ bất hạnh ấy. Để có tiền nuôi con, chị mua con gà, con vịt nuôi lấy trứng, lấy thịt bán cho hàng xóm láng giềng.
Chị tâm sự: “Hằng ngày con trai đi học, tôi không có người đỡ đần, phải cặm cụi tự lăn xe lăn, có khi bò lết bằng hai tay đi lấy thức ăn, nước uống, chăm lo cho đàn gà. Cố gắng duy trì, mỗi tháng tôi cũng gom góp được khoảng 500 ngàn đồngnộp tiền học phí cho con”.
Cuộc sống luôn chứa đựng những điều kỳ diệu. Thượng đế ban cho chị đứa con trai thông minh, ngoan ngoãn và hiếu thảo hết sức. Từ lúc mới được 9 tuổicậu bé Nguyễn Thành Luân đã biết đi mót thóc rơi ngoài đồng về cho mẹ nuôi gà. Suốt 10 năm liền cậu đạt danh hiệu học sinh giỏi, luôn luôn được thầy cô khen ngợi.
Ngoài thì giờ đến trường, hễ ở nhà là Luân lolàm các công việc lặt vặt để đỡ đần mẹ. Buổi tối, chờ mẹ đã đi ngủ cậu mới thắp đèn học bài, làm bài cho tới tận khuya. Không phụ công mẹ cố gắng nuôi mình ăn học, sau khi tốt nghiệp trung học, Luân thi đậu vào trường Đại học Hàng hải là ngành học sau này dễ kiếm việc làm và có tương lai rất tốt.
Thấy cậu con trai gầy guộc vì ăn uống kém đem về khoe mẹ giấy báo thi đậu, chị Khời mừng chảy nước mắt nhưng cũng lo chuyện đóng học phí mỗi năm cả mấy triệu đồng.
Sức mạnh của tình mẫu tử
Chi phí học hành của Luân trong những tháng ngày đi học hoàn toàn phụ thuộc vào số tiền trợ cấp 180 ngàn đồng/tháng (tính ra khoảng 9 Mỹ kim) dành cho các hộ nghèo tại địa phương,cộng với 500 ngàn đồng tiền nuôi gà nuôi vịt vàthỉnh thoảng, chút ít do ông
bà ngoại tức bố mẹ ruột của chị Khời lâu lâu cố dành ra cho cháu, còn
việc ăn uống thì tằn tiện, hai mẹ con rau cháo qua ngày.
Trong bấy nhiêu năm nuôi con ăn học, nhiều khi chị Khời cảm thấy vừa thương con lại vừa buồn tủi
vì sự tàn tật của mình không phải tự nhiên mà do bị chồng hành hạ:
“Trên đời này có ai khổ như tôi đâu, có ai bị chồng đánh đến mức liệt cả
hai chân, phải bò bằng hai tay từ năm 28 tuổi”.
Nhưng chị tự nghĩ, mình phải có can đảm để sống, phải nuôi con nên người để sau này có chỗ nương dựa. Vì vậy, hình ảnh người đàn bà bị liệt hai chân, ngồi trên xe lăn hay bò lết bằng hai tay đi chăm nom cho đàn gà đàn vịt không xa lạ gì với những người dân ở thôn Hòa Nghĩa.
Bây giờ, đứa con trai nghèo khổ của chị đã đậu vào Đại học Hàng hải,
một ngành thi rất khó nhưng sau 4 năm nữa ra trường sẽ dễ kiếm việc làm,
lương bổng khá cao, lớn tuổi có thể được thuê làm thuyền trưởng các tàu
buôn trong nước.
Đó là quà tặng xứng đáng cho chị - người phụ nữ tàn tật do
bị người chồng vũ phu đánh đập mất tới 70% sức khỏe và gia đình nhà
chồng nhẫn tâm, ích kỷ, không hề nhìn nhỏ gì tới đứa cháu nội.
3. Lòng tốt của người thợ sửa giày cho Việt kiều và các “ngôi sao” trong nước
Ít ai ngờ nổi các “khách hàng ruột” của anh chàng thợ sửa giày ở trung tâm Sài Gòn, chỗ gầnngã tư Pasteur và Lê Thánh Tôn, lại là các Việt kiều, ca sĩ, diễn viên điện ảnh, người mẫu v.v..., nói chung gồm những người “có tiền” và những đôi giày họ đem đến sửa có thể có giá tới vài trăm hay cả ngàn đô la.
Không có cửa tiệm, không có bảng hiệu, tài sản cũng chẳng có gì quý giá ngoài những dụng cụ dùng để sửa giày cho khách, nhưng ít ai nghĩ rằng chỗ sửa giày bên lề đường của anh Nguyễn Hữu Văn đó đã tồn tại gần 40 năm nay.
Gặp trong một buổi trưa hè Sài Gòn nắng gắt, khi mọi người bắt đầu vào giờ nghỉ ngơi giữa ngày thì Văn, thợ và những đứa trẻ học trò của anh, vẫn thoăn thoắt đôi tay, sửa những chiếc giày để kịp trả cho khách vào buổi chiều.
Văn quẹt những giọt mồ hôi trên trán, bắt đầu câu chuyện về cái “cơ ngơi vỉa hè” hiện đang nuôi sống gia đình anh, gia đình những người thợ hay những đứa trẻ vô gia cư hoặc mồ côi đã được anh cưu mang để thoát khỏi hoàn cảnh nghèo nàn.
Một nghề cha truyền con nối
Từ
hồi “giải phóng” 1975 đến giờ, đoạn đường Lê Thánh Tôn, từ khúc ngã tư
Pasteur đổ xuống tới ngã tư Nguyễn Trung Trực, không còn những tiệm buôn
bán giày dép đông đúc như trước nữa.
Nhưng thảng hoặc, vẫn còn một hai
người thợ sửa giày ngồi bên lề đường, phía trước một cửa tiệm nào đó với
chiếc thùng gỗ nhỏ bé trên mặt có để một vài đôi giày mới đóng hoặc vài
đôi giày đã sửa.
Những người thợ giày này thường là thợ giỏi, có uy tín
với khách, giày họ sửa rẻ, giày đóng cũng rẻ và đẹp nên dù thời buổi
khó khăn, suốt bao năm qua họ vẫn lây lất sống được.
Câu chuyện bắt đầu từ những ngày tháng trước năm 75 mà cha của Văn – ông Nguyễn Hữu Tụng – để tránh bom đạn trong chiến tranh ở ngoài Trung, đã dắt díu vợ con vào miền Nam tìm cách sinh sống.
Cực chẳng đã phải bỏ lại ruộng vườn ở sau lưng, cha của Văn làm đủ mọi nghề người ta thuê mướn như phụ hồ, bốc vác... Và rồi như một cơ duyên, cha anh đã ở nhờ và học nghề đóng giày cho một ông chủ có tiếng thời bấy giờ gần chợ Bến Thành. Ngày ra nghề, ông Tụng chọn khu vực này để kiếm sống và cuộc mưu sinh vẫn liên tục đến khi ông mất.
Chỉ tay về phía một cửa tiệm lớn nay đã đổi chủ ở bên kia đường, Văn nhớ lại: “Tiệm đó trước năm 1975 là một tiệm giày rất nổi tiếng,chủ là ông Trần Văn Mỹ. Sau năm 75, ông Mỹ cùng gia đình vượt biên ra nước ngoài”.
Anh kể tiếp: “Tuy tiệm đã bị đổi chủ nhưng khách không biết, vẫn có người đến hỏi để đặt đóng giày. Cha tôi là thợ giày của tiệm, mất việc, thất nghiệp, nhân khách biết mặt nên bèn tìm chỗ sửa giày ở ngay gần đấy để mưu sinh.
Bên đó là mặt đường, luôn luôn bị cảnh sát đuổi, ông chọn chỗ góc ngã tư này cho rộng và mát còn tôi thì đứng bên ấy, hễ có ai hỏi thì mời họ qua bên này. Tuổi thơ của tôi là như thế, lúc rảnh thì tôi phụ việc với cha tôi, do cha tôi chỉ dẫn, dần dần thành thói quen”.
Buổi trưa hè nóng bức, thỉnh thoảng chỉ có những chiếc xe chạy trên đường Lê Thánh Tôn nhưng chỗ sửa giày của anh Văn vẫn có hàng chục khách đợi. Những ga-men cơm trưa đã nguội, cả nhóm thợ vẫn mải miết làm việc vì khách liên tục ghé đến. Cuộc trò chuyện với anh Văn thường bị ngắt quãng.
Vừa chuyện trò anh Văn vừa cầm chiếc giày thể thao thuộc loại chạy địa hình lên ngắm nghía để sửa chỗ rách. Giày chạy địa hình phải là “hàng ngoại”, rất đắt tiền, sờ vào cứng như đá nhưng đối với Văn không có gì là khó, đôi tay người đàn ông ngoài 40 tuổi này cứ thoăn thoắt, mũi dùi đều đặn xuyên xuống, kéo lên những sợi chỉ “ngoại” lên, khâu xongtrông rất đẹp.
Anh cho biết: “Khách đến đây phần lớn là sửa giày ngoại. Không phải họ không có tiền mua đôi mới nhưng giày của họ còn rất tốt, sửa lại đâu có khác gì giày mới nên họ sửa lại cho đỡ uổng”.
(H.8: Việt kiều cũng đến sửa)
Điều không thể ngờ được là chỗ sửa giày “vỉa hè”song hàng chục năm qua, các “ngôi sao” nổi tiếng vẫn tìm đến để sửa những đôi giày “khủng” rất mắc của họ. “Cô Diễm My, chú Minh Vương, cô Bằng Lăng, chú Elvis Phương, cô Trang Đàivà nhiều người khác vẫn sửa ở đây. Họ trả tiền hậu lắm, lại cho thêm nữa, không cần hỏi giá”.
Văn nói thêm: “Có người một lúc mua tới 2-3 đôi giày mới, họ đem đến
sửa”. Phóng viên ngạc nhiên: “Giày mới mà lại phải sửa?”. “Có chớ, có cô
hơi thấp, muốn nâng đế cao lên cả tấc.
Cũng có chú hai chân không bằng
nhau, một chân hơi lớn, một chân hơi nhỏ. Thường là mình phải tháo chiếc
giày ra, bóp lại cho vừa với bên chân nhỏ”. “Lạ nhỉ, chân mà cũng có
chân lớn chân nhỏ!”.
“Có chú chân lại “cà nhắc”, bên này cao, bên kia
thấp, tôi độn đế chú đi bình thường, nhảy trong khi hát trên sân khấu
cũng không ai biết. Cái đó phải tự tay tôi sửa, không dám để cho thợ”.
“Chắc thợ không giỏi bằng chú?”. “Không phải vậy nhưng mình là chủ, việc
gì khó mình phải làm lấy thì khách mới tin tưởng.
Giày của các “ngôi
sao” đều mua ở nước ngoài,
giá hàng ngàn đô, để cho thợ sửa lỡ bị hư mình đâu có tiền thường”.
“Chú đã phải bồi thường cho khách bao giờ chưa?”. “Chưa, chưa bao giờ.
Nghề nghiệp cha truyền con nối mà, hư thế nào được!”.
Cưu mang trẻ nghèo
Hiện tại, chỗ sửa giày của Văn có 7 thợ làm, người lớn nhất 31 tuổi, trung bình 20 tuổi, hai cháu nhỏ nhất 14 tuổi.
Hai cháu đó là hai anh em ruột, sinh đôi, tên Trần Hồng Hòa và Trần Hồng Thuận, nhà ở Thủ Đức. Lúc Hòa và Thuận mới được 8 tuổi thì bố chết, mẹ bước đi bước nữa.
Người cha dượng này làm nghề bánmì
gõ, cũng có hai đứa con riêng mà nhà lại nghèo, buôn bán không đủ ăn
nên rất ghét hai đứa con của vợ, thường đánh đập chúng và bắt chúng đi
gõ lách cách khắp các hang cùng ngõ hẻm mời khách, không cho đi học.
Cuối cùng, việc buôn bán ngày càng khó khăn, ế ẩm, ông ta đánh vợ và
đuổi cả ba mẹ con ra khỏi nhà: “Tụi bay muốn đi đâu thì đi, tao không
hơi sức đâu nuôi tụi bay nữa”.
Ba mẹ con lang thang lên Sài Gòn, làm nghề bán vé số, ban đêm thì ngủ ở các sạp trống trong chợ. Một hôm, mệt quá, người mẹ ngồi nghỉ nhờ dưới tấm bạt che trên vỉa hè ở chỗ sửa giày của Văn.
Thấy các
thợ của Văn vui vẻ, chị lân la hỏi chuyện rồi kể hoàn cảnh của mình và
năn nỉ Văn xin cho hai đứa con mình học nghề. “Được, chị cứ dẫn hai cháu
đến đây tui coi xem sao. Hoàn cảnh các cháu thấy cũng tội nghiệp…”. Đó
là năm 2010, Hai cháu Hòa và Thuận đúng 12 tuổi. Bây giờ các cháu làm
việc rất khá.
“Chú Văn còn trẻ nhưng coi tụi cháu như con ruột. Chuyện ăn ở chú lo hết. Chú cho cả má cháu cứ ban ngày đi bán vé số, tối về
ngủ nhờ trong nhà của cô chú nữa.
Bây giờ chú trả cho hai anh em cháu
mỗi đứa tới 4 triệu đồng một tháng, tụi cháu đưa cho má, má mừng lắm,
nói để dành được tới đâu hay tới đó, sau này mua cái nhà nhỏ có chỗ chun
ra chun vô. Chú còn bảo tụi cháu mỗi tối chịu khó đi học bổ túc văn hóa
cho biết chữ, người ta có biết chữ thì mới khá được”.
Một hoàn cảnh khác là Trần Mạnh Long, năm nay 20 tuổi, quê ở Vĩnh Long. Hồi nhỏ, Long bị mẹ bỏ rơi đi lấy chồng khác, còn cha thì bị bệnh tâm thần, suốt ngày lang thang khắp nơi rồi té xuống giếng chết.
Long được người chị con ông bác thương tình đem về nuôi, cho đi học. Năm 2006, một lần lên Sài Gòn, nhân đem đến sửa đôi giày cũ, người chị xin với chú Văn cho Long học nghề.
Suốt 6 năm làm việc, bây giờ Long đã là một thợ chuyên nghiệp, mỗi tháng được Văn trả lương tới 7 triệu đồng. Mỗi kỳ nhận lương Long đều có gởi tiền về giúp cho người chị họ đã có lòng tốt cưu mang mình hồi nhỏ.
Ngoài những trường hợp kể trên, Văn còn nuôi và dạy nghề cho hai trẻ “bụi đời” là Trần Phong Phú (năm nay 17 tuổi) và Nguyễn Phú Quí (16 tuổi)quê ở Lâm Đồng. Cách đây 3 năm, hai cậu bé này cũng con nhà nghèo nhưng lêu lổng, bỏ học,
ăn cắp tiền của hàng xóm, rủ nhau đi xe đò xuống Sài Gòn sống lang
thang làm trẻ “bụi đời”.
Hết tiền, hai “dân bụi đời” này bị đói suýt
chết, phải lân la vào xin cơm thừa của nhóm thợ chỗ Văn làm việc. Thợ ăn
khỏe, ai có phần nấy, cơm dính ga-men đâu được bao nhiêu mà họ liếm
láp, nhặt nhạnh từng hạt. Văn nhíu mày, hỏi rõ mọi chuyện rồi cho tiền
họ đi mua bánh mì: “Ăn no xong các cậu về với gia đình đi, đừng ở lại
đây, lang thang bụi đời dính vô bọn xì ke ma túy là chết đấy, hối không
kịp đâu”. “Nhà tụi cháu nghèo lắm. Tụi cháu bỏ học lâu rồi, về cũng
chẳng có công việc gì làm.
Xin chú cho chúng cháu ở lại đây học nghề với
chú để kiếm miếng ăn”. Hai cậu “bụi đời” đó năn nỉ quá, lại có vẻ rất
thành thật nên Văn đồng ý cho họ ở lại. Bây giờ họ đã trở thành hai trong số những người thợ giỏi được Văn trả lương đồng hạng 7 triệu đồng/tháng như những người kia.
Trời đang nắng chợt những đám mây kéo đến, gió thổi lồng lộng. Đám thợ vội vàng thu gom đồ nghề và giăng tấm bạt ra để đề phòng bị mưa ướt. Nhưng
trời chỉ “dọa”, không mưa. Một chiếc xe hơi loại “xịn” từ từ chạy tới,
đậu lại bên đường.
Cửa kính hạ xuống, một gương mặt nghệ sĩ rất quen
thuộc, môi đánh đỏ chót từ bên trong xe ngó ra, tiếng gọi lảnh lót trong như tiếng suối: “Chú Văn, chú Văn, cho chị lấy đôi giày đưa sửa hôm trước nào...”. Văn vội vàng lấy chiếc túi giấy đã chuẩn bị sẵn đem tới và cho khách biết về chuyện tiền công.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 249
HÀN SONG TƯỜNG - KAWABATA - ĐẶNG TIỂU BÌNH
Tuesday, February 19, 2013
HÀN SONG TƯỜNG * NGÀY HOÀNG HÔN CHẾT
Ngày Hoàng Hôn Chết
Hàn Song Tường
Lúc mở tủ kiếm quần áo thì một anh nhện vô cớ sa ngay vào mặt
tôi rồi cong đuôi chạy mất. Bực mình tôi lẩm bẩm chửi thề. Tôi nhìn ra
ngoài, trông quang đãng sau một trận mưa lớn, vậy tội gì không ra ngắm
phố, ngắm đường. Tôi huýt gió rồi thay quần áo, hôm nay tôi mặc áo bỏ
trong quần, sơ mi mầu nâu nhạt, đi đôi giày của tụi Versace, thằng sư tổ
Versace này đã lăn quay ra chết bởi phát súng của tên tình cũ, chết thế
cũng sướng, khỏi lo lắng gì cả.
Rồi tôi ước cô ta, con Lý bắn tôi một viên vào tim chết tốt, tôi bỗng phá ra cười khi nghĩ Lý sẽ tức chết nếu cô biết cái bảo hiểm nhân thọ tôi đã gạch bỏ tên cô, chắc chắn Lý sẽ vừa khóc vừa chửi tôi mười năm là ít, làm sao hơn khi cô đã ngoại tình. Tôi có nói rõ với lão bác sĩ gà chết David Lillard cả tháng nay là Lý đã ngoại tình, người yêu của tôi đã ngoại tình, nhưng lão không tin, lão bảo phải có bằng chứng, cái gì thì khó chứ bằng chứng thì dễ ợt, hai ngày trước tôi đã lục ví của cô ta, một vỉ thuốc ngừa thai, lát nữa đây tôi sẽ mang vất vào mặt lão. Từ tiệm cà phê tôi đi thả bộ đến phòng mạch của bác sĩ Lillard, hoa blue bonnet đã nở tím ngập đường, gió hiu hiu, mặt trời và đất như mang một màu quạnh quẽ như nhau, xe cộ vắng vẻ lạ lùng.
Lòng tôi bỗng dưng thấy buồn rồi nhớ đến con nhện có cái bụng đốm hoa rơi vào mặt buổi sáng. Nhện ơi, nhện hỡi, hình như có ai đó đọc cho tôi nghe bài ca con nhện nhưng tôi không nhớ rõ nữa. Khi đi qua khu chợ, tôi sờ vào túi quần, vỉ thuốc ngừa thai của Lý nổi dầy cộm, lần này thì lão David thuạ Lão thua là cái chắc. Bước vào văn phòng bác sĩ sao mà vắng lặng, một vài con bệnh ngồi lặng lẽ, im lìm thấy chán nản. Tôi chờ mãi cho đến khi cô y tá có cặp vú to bằng quả dừa ra gọi tên tôi sẵng giọng Danny Hung Pham, mẹ tổ con quỷ này vô duyên gớm, nó vẫn hay cười khi gặp tôi, nụ cười như muốn chọc giận. Bác sĩ hỏi, hôm nay anh có khỏe không. Anh còn thuốc uống mà, tôi cười mỉm, bữa nay tôi mang đến cho ông xem bằng chứng, vợ tôi nó đã ngoại tình. Rồi tôi vất vỉ thuốc ngừa thai lên bàn.
Bác sĩ, ông xem, một thằng không có con, tinh trùng loãng, cả đời chẳng làm cho mụ nào thụ thai được, vậy vợ tôi nó giữ cái vỉ này làm cái trò gì. Lão Lillard cầm vỉ thuốc xem kỹ lưỡng rồi đứng dậy, bật cười ầm ỹ. Chỉ có vậy thôi sao, anh bạn ơi, cô vợ anh cô ấy khôn lắm, cô ấy dùng thuốc này để tưới cây. Tưới cây, tôi hỏi lại. Lão gật gù, ừ, cứ pha một ly nước với một viên thuốc, rồi đổ xuống mỗi gốc cây một chút thì cây cối sẽ ra quả ra hoa xanh ngát cả mùa. Vậy sao. Sao cô ta không kể với tôi. Kể với anh làm gì, chuyện nhỏ mà, rồi lão gọi cô y tá mang cho lão một ly nước và bỏ viên thuốc ngừa thai vào, xong lão đổ lên mấy cây kiểng trong phòng rồi dặn dò, tuần sau bạn đến mà xem, mấy cây này lá nó xanh um lên hết, chẳng có phân bón nào tốt bằng, tin tôi đi, bà vợ anh đúng là người biết trồng cây.
Tôi gật gù. Cô y tá nói ậm ừ như bị bóp cổ, con quỷ cái này xấu gái làm sao. Tôi nhún vai, bỏ vỉ thuốc vào túi áo... Lý đang dọn dẹp sách, cái tủ sách quá cao và chồng chất của tôi. Lý bảo tôi nên vất bớt những sách báo cũ, để nhìn chỉ chật và bẩn nhà. Tôi nói không. Sách vở là gia tài của tôi. Tôi còn gì ngoài chồng sách mua ở các tiệm sách cũ bán nửa giá tiền. Lý gắt nhưng anh không bao giờ đọc nữa. Đọc rồi coi lại làm gì, vậy thì phải vất đi. Không. Nó là vật bất ly thân. Nàng nhún vai rồi vất tuốt một số sách vào bao rác. Có quyển truyện in hình bìa tranh của Luciant Freud vẽ một người đàn bà nằm vạch hết ra tàn bạo thật. Tôi giật vội cuốn sách trên tay Lý, cái bìa xé toạc thảm thương, mình mẩy cô ta chia làm hai, phía dưới trên tay tôi, nửa trên của Lý. Tôi bỗng dưng muốn khóc. Có ai nỡ xé em đâu, sao em nỡ xé người tạ Tôi mắng Lý. Lý đẩy tôi ngã xuống sàn nhà, bê chồng sách ném xuống thùng rác phía dưới lầu.
Tiếng kêu như đập một bên thái dương. Lý làm tôi bực bội vô cùng. Tủ sách Lý dọn dẹp vài ngày đã vơi đi một nửa. Có tiếng Lý nói, trời ạ, làm sao anh có thể giữ những quyển sách vô loài này. Tôi không trả lời, tôi nhượng bộ cô ta, cho dù cô có bảo con chim phượng là loài ác điểu, có cái mỏ to như mõ diều hâu, và giấc mộng Nam Kha là sự thật, thì thế giới này cũng chẳng tận thế hôm nay, và cho dù Lý cam chắc với tôi rằng hai vú của nàng vẫn còn trinh tiết, nàng chưa cho ai ngậm lên vú thì tôi vẫn là người chồng thứ thật của Lý, một người chồng không được ngậm lên vú vợ, đó là sự cam kết, tôi đã bằng lòng khi lấy cô...
Lý nấu ăn, dọn dẹp, tóc nàng cột cao, để lộ cổ trắng đẹp, trông Lý cao quá. Tôi muốn Lý làm hòa với tôi, ngọt ngào với tôi sau khi cô vất một số sách của tôi đi, nhưng cô không nói một lời, tôi nhìn xung quanh nhà những cây kiểng xanh tốt, lão bác sĩ nói đúng, Lý đã dùng thuốc ngừa thai tưới cây. Tôi khen, em đúng là người biết trồng cây, nhưng Lý bất thần hét lên. Ông Hưng ơi. Tôi không phải bà Lý. Tôi là Karen ông nghe chưa. Bà Lý không còn ở đây nữa. Bác sĩ của ông là thằng ngụ Chữa bệnh kiểu này mười đời ông vẫn điên. Ông ấy phải cho ông nhớ là bà Lý đã chết. Chết là hết. Chết là không còn hiện diện là không có quyền gì trên quả đất này ông có hiểu không. Hôm nay ông phải đọc mười lần tên tôi. Karen, ông đọc đi. Mười lần. Nàng nói cho đã, rồi đẩy tôi vào phòng ngủ.
... Một ngày sau khi Karen mắng chửi tôi, nàng đi biệt dạng. Chị gái tôi bảo Lý hay Karen cũng là đàn bà, tìm hiểu mà chị Cô ấy đi rồi sẽ về. Lý chết hay sống cũng thế thôi. Tôi bực. Nhưng Karen đi đâu. Tôi muốn biết cô ấy đi đâu. Mấy người cứ lừa dối tôi. Tôi không muốn là kẻ điên. Nói xong tôi đập vỡ một ly nước, rồi đi ra cửa, thằng em út chạy ra cản, tôi hất nó ngã chúi, nó chạy theo năn nỉ. Về đi anh, mai tôi đưa anh đi chơi. Tôi không nói mở cửa xe, chạy ào vào phố chính... Tôi đi lăng quăng một mình. Hai bên đường người ta đi lại ồn ào. Một người đàn bà mặc áo tắm hai mảnh, giơ cao cái bảng Men will be girls.
Cô gái rủ tôi vào quán rượu, không mất tiền vào cửa hôm naỵ Tôi đứng lại vuốt ve cánh tay cô tạ Cô nói, sờ thì phải trả tiền. Bỏ vào đâu. Cô chỉ vào nịt vú, tôi vạch nịt ngực cô rồi bỏ tiền vào. Rẻ chán. Cô cười môi đỏ chót, phía dưới phồng quá, đúng là đàn ông, tôi cười rồi bước vào bar rượu, bọn đàn ông, son phấn tấp nập. Lâu lâu họ tốc váy lên cho nhìn, cửa mình trắng bóc. Mẹ chúng nó cạo lông hết, người đàn ông ngồi bên cạnh nói khá lớn, đàn ông hết đó, nó kéo ra đàng sau giả đàn bà, vậy sao, hồi bước vô ông không thấy cái bảng Men will be girls. Vậy tất cả là đàn ông, ừ , ở đây không có đàn bà tốc váy, chỉ có đàn bà nhìn đàn ông tốc váy vui ghê, tôi gật gù thích thú, ngắm nhìn bọn họ đi qua đi lại, quả thật mỹ miều. Khuya lắm, thôi tôi về. Tôi nghiêng ngửa, rượu thấm say, tiếng chửi thề ào ào sau lưng, nghe quen quen chứ không tức giận, vui thật... Lý đã trở về. Cô dạy tôi hát một bài ca lạc hậu buồn cười.
Tôi chê lời không hay, nghe ngô nghệ Lý vỗ tay, vậy là anh đã tỉnh rồi, hôm nay tôi muốn anh phải rõ, anh không có lỗi gì với Lý, Lý chết không phải vì anh, anh phải hiểu anh không thể không tỉnh, anh phải nhớ tôi tên Karen, một người nhận tiền của hãng bảo hiểm để trông nom anh, một nữ y tá 30 tuổi và có bồ, có thuốc ngừa thai để trong xách tay, tại sao anh dám lấy của tôi, tôi không muốn nghe lời bác sĩ của anh nữa, hắn bắt tôi lặng thinh, tôi cứ là Lý thì anh sẽ không là anh. Tôi là Karen, nàng hét vào tai tôi, tôi che mặt. Nàng thẩy cho tôi ổ bánh mì, miệng vẫn lải nhải, Lillard là tên ngu, một bác sĩ ngu, hắn không nhận ra anh chỉ là một người mất trí giả. Một người sống giả, giả mãi rồi thấy hay quá không muốn tỉnh nữa. Từ nay nếu anh không gọi tôi là Karen, tôi sẽ nghĩ việc, không đến đây nữa. Tôi gật đầu, đưa tay thề. Cô hỏi, hôm qua anh đi đâu.
"Đi xem bọn giả gái"
"Họ đẹp không."
"Đẹp đến sợ."
"Họ giống ai."
"Giống Lý." Tôi chỉ cô.
Cô nghe nhẩy xổ, tát bốc vào mặt tôi.
"Nói lại ngaỵ"
"Giống Karen."
Tôi nói rồi xoa má, cô suýt xoa.
"Sao anh không đánh trả tôi."
"Đánh trả cô chết thì sao."
"Tôi không chết, lần sau anh phải đánh lại tôi nhớ không."
Tôi vẫn nói, tôi sợ em chết mất, em không đến đây nữa. Cô cúi mặt, bắt tôi nói lại. Tôi sợ Karen không đến làm việc nữa, tôi phải nói bốn lần, cô khen ngoan rồi ôm lấy tôi... Tháng mười trời lạnh Karen dẫn tôi đi ăn sáng, bây giờ tôi phải gọi cô là Karen, không cô lại đánh tôi, mấy tuần qua tôi cứ bị đòn luôn vì gọi cô tên Lý. Hình như Lý đổi tên rồi, tên Lý không hay sao em, tên Lý là hoa Lý, hoa Lý đẹp và thơm, em đã nói với tôi như thế, sao em lại đổi tên đi, cả cái nốt ruồi trên môi em cũng cắt vất đi đâu. Lý ôi, Lý ơi...
Karen chở tôi đi phía nam thành phố, Karen bảo nhà ở đây sờ cháy tay, mắc kinh khủng, mỗi ngày mỗi tăng giá, tôi nghe nói gật gù, hình như đã lâu tôi không để ý chuyện gì cả. Khi vào tiệm ăn trưa, cô lại kể chuyện đụng xe, một tai nạn của ai đó, họ có cái tên giống hệt tôi và Lý. Người đàn bà tên Lý đã chết. Sao tôi không biết. Nàng nhún vai, vì anh không muốn nhớ. Tôi nói, thôi bỏ chuyện đụng xe, nghe không vui. Ừ, cô gật, tôi hỏi cô, cô có thể cho tôi nghe nhạc, cô bảo chờ đi đến đầu tháng tới bà Tina Turner về đây tôi sẽ dẫn anh đi xem, chắc anh cũng thích bà này, một bà 60 tuổi nhảy tưng tưng hát thống thiết. Tôi mê bà này vô cùng. Tôi cãi, tôi chỉ thích ca sĩ Việt. Ai, cô hỏi.
"Tôi không nói ra đâu, một bà cũng già rồi."
"Không sao, nghệ sĩ làm gì có tuổi. Tôi không chú ý đến tuổi tác."
Tôi cười.
"Sao ngày xưa cô bảo ca sĩ già hát hết hay không còn hơi."
"Không phải tôi nói."
"A, Lý nói thế."
"Sao anh cứ nhớ Lý mãi vậy, tôi thì sao. Thôi
anh cứ kể chuyện cô Lý cho tôi nghe đi. Miễn là
anh phải hiểu tôi không phải là Lý, anh nhớ nghẹ"
Tôi nhắm mắt, làm sao để tôi có thể nói với Karen con khùng điên này, Lý chính là Karen, tôi hiểu cái trò giả dạng của cô, để tránh cái chuyện chung giường với tôi, vì tôi nhớ sau một vụ gì đó, xẩy ra đến bất ngờ, tôi bị liệt mẹ nó cánh tay trái, liệt cha dương vật, nên cô chỉ muốn bỏ tôi đi. Tôi nói với cộ Em chỉ muốn đổi đời và xa lánh tôi...
Cô im lặng, có tiếng cô thở dài. Tôi lại nhắc, thôi cô hãy bỏ tôi đi, tôi đã thấy những thay đổi, lòng nào tôi giữ được, Lý hay Karen chẳng còn yêu tôi, tôi sẽ quen một mình bên cạnh bà chị ế chồng. Gió có gào ngoài phên cửa, bão có đổ một cây cầu chắc chị ấy cũng không xúc động. Rồi tôi cũng như chị, tôi bỗng khóc ấm ức. Cô dẫn tôi ra xe vỗ về. Anh Hưng anh không được đuổi tôi. Cô nói rồi lau nước mắt cho tôi. Trời đã bắt đầu tối. Mặt trời đã đi ngủ. Khi vào nhà, chị tôi vẫn còn ngồi xem phim bộ. Cô đưa tôi vào phòng, nằm bên cạnh tôi. Gió mùa thu thổi lành lạnh từng nơi, rít khẽ trên nóc nhà như muốn ẩn sống nơi căn phòng tôi ở. Tôi nghe tiếng gió, tiếng thở đều đều của cô, tiếng chân chị tôi vào phòng hỏi cô về một người nào đó.
Cô ngồi dậy nói, em không muốn gặp hắn nữa, chị tôi suýt xoa, tôi nghiệp em tôi, chị an ủi cô, tôi thấy cô lặng thinh, buồn buồn... Lý ơi, sao em làm mù mắt chị em tôi... Tôi choàng dậy nửa đêm, tiếng côn trùng réo vang ngoài vườn sau, dội vào tôi nỗi cô quạnh khó tả. Tôi thấy tôi không là tôi nữa, tôi như không còn hiện hữu trên đời sống này, sao họ cứ mãi gạt gẫm tôi, bác sĩ bảo cô ấy đúng là Lý, còn cô nói cô là Karen.
Tôi biết tin ai. Tôi ngồi co vào góc giường, đếm từng ngón tay, ngón chân. Một lần Lý khen, tay tôi đẹp. Các ngón tay anh đẹp quá, không đẹp làm sao họa sĩ được, tôi kiêu hãnh nói vậy. Tôi ra ngoài phòng khách ngắm bức tranh tôi vẽ Lý, tôi gọi Lý thống thiết. Người trong tranh đẹp não nùng, đẹp đến sợ, hai vú trinh nguyên của cô xinh xắn làm sao, hai vú quay vòng trong đầu tôi muốn nổ, vùng ngực bỗng lạnh toát, chút âm thanh kêu cứu thoát ra từ một nơi xa thẳm nào đó dồn tôi muốn ngã quy... Tôi cắn chặt môi, máu chảy ra tươi thắm. Tôi hiểu tôi đã mất Lý hoàn toàn. Vệt máu chảy trong miệng, mặn chát. Tôi nói, Lý em đã bỏ tôi, tôi còn ai để yêu thương.
... Một tháng sau Karen dẫn tôi đến bác sĩ Lillard. Cô y tá vẫn gọi tên tôi ấm ớ. Lý kể với bác sĩ vài chuyện. Ông xoa tay cười. Ông hỏi tôi, anh thuộc tên Karen chưa. Karen giỏi thật, ông khen. Tôi nhìn ông không chớp mắt, điệu bộ của ông ta giống hệt tên tình nhân của Lý, với cái cổ dài, đôi mắt màu hạt dẻ. Chính hắn đã đoạt chiếm Lý của tôi, giết chết Lý của tôi, tôi nhớ chính hắn đã giết Lý vì ghen, hắn đúng là tên lái chiếc xe truck màu xanh tím đã đâm vào xe Lý, đúng hắn đang đóng vai tên bác sĩ Lillatrd này. Còn ai vào đây. Tôi xông lại, nắm lấy cổ hắn vật xuống nhà, tôi phải giết ông. Tiếng nói thoát ra như ma lực khiến Lillard vùng chạy, đồ vật rơi tứ tung, tôi cầm chiếc kéo trên bàn đâm vào người mình. Máu tôi đổ xuống sàn nhà, Lý ơi, em thấy không, mất em anh đau đến chừng nào...
Hơn một năm sau tôi rời khỏi nhà thương tâm trí, Karen lại trở về, nàng chọn cho tôi một nơi ở khác, nàng đã có một đứa con gái được gần một tuổi, nó nhỏ xíu, Karen bảo, nó là gia tài của cộ Tôi hỏi xin cô được bế nó. Cô gật, con bé đẹp như búp bê, cái miệng lúc nào cũng cười. Tôi ôm nó cho sát, con ai mà đẹp thế này hả Karen.
... Cơn chấn động nào làm cả nhà tôi khóc, gió mùa nào thổi tan cả một dãy hàng rào. Tôi về mang tâm trạng bằng an không thể kể. Chị tôi khóc nức khi hai tòa nhà ở New York sụp đổ. Chị nói, chị không ngờ chị yêu quê hương này đến thế, em ơi, em có hiểu không. Nỗi đau nào rồi cũng qua, ai cũng phải sống bình thường, em đã bình an chưa. Tôi gật, tôi nhắm mắt, rồi mở mắt, Karen đang múa cho tôi xem một vũ khúc người đàn bà đi tìm người yêu dưới nước, nàng múa với vũ điệu thiên nga, thân hình uốn éo, cánh tay hất cao ngang đầu, đủ cho tôi thấy nụ hoa mai đỏ xâm bên vú trái, tôi nhìn sau lưng nàng. Ngoài cửa sổ gió thổi tơi bời, Lý đang nhìn tôi cười lặng lẽ, tôi bật dậy chạy theo Lý, gọi cô, với chụp cô, cho đến khi tôi nhìn tôi nằm vật trên nền gạch, mắt hé mở nhìn lên bầu trời cao và thăm thẳm màu hoàng hôn.
Trời New Orleans thấy đẹp vô cùng. Ai đó lật tôi sang một bên, có bàn tay của Karen vuốt lên mắt tôi, nước mắt nàng rơi tơi tả như mưa, nước mắt thắm vào môi tôi da mặt tôi. Chị tôi đã rẽ đám đông, ôm chặt tôi vào lòng. Tôi thấy máu trong miệng tôi bắt đầu ứa ra chảy xuống đùi chị. Chị tôi ấm quá, truyền hơi ấm sang tôi, đó là lần cuối tôi ở cõi đời này. Một ngày rất đẹp, tôi đã nắm được tay Lý rồi, Lý sẽ không bỏ tôi đi nữa. Nàng âu yếm, em sẽ mãi bên anh. Chân chúng tôi đạp lên ánh hoàng hôn mà bước, tương lai rộng như bầu trời này. Tôi sẽ chẳng bao giờ cần Lý trả lời. Tại sao nàng ngoại tình. Trả lời chỉ là dư thừa. Tôi cần gì đoái hoài đến sự yếu đuối của nàng ngày ấy. Chúng tôi như đi lạc vào rừng mây kia. Mây đưa chúng tôi đi thật xạ Hoàng hôn đỏ thắm trên người nàng. Đôi vú thanh tân cũng nhuốm đỏ, nàng mỉm cười, nụ cười hoàng hôn đẹp vô cùng. Tôi khen Lý. Tôi kéo Lý sát vào người cho đến khi ánh sáng đã tàn và hoàng hôn liệm chết dưới chân đồi. Chúng tôi cùng tan biến mất.
Hết
Rồi tôi ước cô ta, con Lý bắn tôi một viên vào tim chết tốt, tôi bỗng phá ra cười khi nghĩ Lý sẽ tức chết nếu cô biết cái bảo hiểm nhân thọ tôi đã gạch bỏ tên cô, chắc chắn Lý sẽ vừa khóc vừa chửi tôi mười năm là ít, làm sao hơn khi cô đã ngoại tình. Tôi có nói rõ với lão bác sĩ gà chết David Lillard cả tháng nay là Lý đã ngoại tình, người yêu của tôi đã ngoại tình, nhưng lão không tin, lão bảo phải có bằng chứng, cái gì thì khó chứ bằng chứng thì dễ ợt, hai ngày trước tôi đã lục ví của cô ta, một vỉ thuốc ngừa thai, lát nữa đây tôi sẽ mang vất vào mặt lão. Từ tiệm cà phê tôi đi thả bộ đến phòng mạch của bác sĩ Lillard, hoa blue bonnet đã nở tím ngập đường, gió hiu hiu, mặt trời và đất như mang một màu quạnh quẽ như nhau, xe cộ vắng vẻ lạ lùng.
Lòng tôi bỗng dưng thấy buồn rồi nhớ đến con nhện có cái bụng đốm hoa rơi vào mặt buổi sáng. Nhện ơi, nhện hỡi, hình như có ai đó đọc cho tôi nghe bài ca con nhện nhưng tôi không nhớ rõ nữa. Khi đi qua khu chợ, tôi sờ vào túi quần, vỉ thuốc ngừa thai của Lý nổi dầy cộm, lần này thì lão David thuạ Lão thua là cái chắc. Bước vào văn phòng bác sĩ sao mà vắng lặng, một vài con bệnh ngồi lặng lẽ, im lìm thấy chán nản. Tôi chờ mãi cho đến khi cô y tá có cặp vú to bằng quả dừa ra gọi tên tôi sẵng giọng Danny Hung Pham, mẹ tổ con quỷ này vô duyên gớm, nó vẫn hay cười khi gặp tôi, nụ cười như muốn chọc giận. Bác sĩ hỏi, hôm nay anh có khỏe không. Anh còn thuốc uống mà, tôi cười mỉm, bữa nay tôi mang đến cho ông xem bằng chứng, vợ tôi nó đã ngoại tình. Rồi tôi vất vỉ thuốc ngừa thai lên bàn.
Bác sĩ, ông xem, một thằng không có con, tinh trùng loãng, cả đời chẳng làm cho mụ nào thụ thai được, vậy vợ tôi nó giữ cái vỉ này làm cái trò gì. Lão Lillard cầm vỉ thuốc xem kỹ lưỡng rồi đứng dậy, bật cười ầm ỹ. Chỉ có vậy thôi sao, anh bạn ơi, cô vợ anh cô ấy khôn lắm, cô ấy dùng thuốc này để tưới cây. Tưới cây, tôi hỏi lại. Lão gật gù, ừ, cứ pha một ly nước với một viên thuốc, rồi đổ xuống mỗi gốc cây một chút thì cây cối sẽ ra quả ra hoa xanh ngát cả mùa. Vậy sao. Sao cô ta không kể với tôi. Kể với anh làm gì, chuyện nhỏ mà, rồi lão gọi cô y tá mang cho lão một ly nước và bỏ viên thuốc ngừa thai vào, xong lão đổ lên mấy cây kiểng trong phòng rồi dặn dò, tuần sau bạn đến mà xem, mấy cây này lá nó xanh um lên hết, chẳng có phân bón nào tốt bằng, tin tôi đi, bà vợ anh đúng là người biết trồng cây.
Tôi gật gù. Cô y tá nói ậm ừ như bị bóp cổ, con quỷ cái này xấu gái làm sao. Tôi nhún vai, bỏ vỉ thuốc vào túi áo... Lý đang dọn dẹp sách, cái tủ sách quá cao và chồng chất của tôi. Lý bảo tôi nên vất bớt những sách báo cũ, để nhìn chỉ chật và bẩn nhà. Tôi nói không. Sách vở là gia tài của tôi. Tôi còn gì ngoài chồng sách mua ở các tiệm sách cũ bán nửa giá tiền. Lý gắt nhưng anh không bao giờ đọc nữa. Đọc rồi coi lại làm gì, vậy thì phải vất đi. Không. Nó là vật bất ly thân. Nàng nhún vai rồi vất tuốt một số sách vào bao rác. Có quyển truyện in hình bìa tranh của Luciant Freud vẽ một người đàn bà nằm vạch hết ra tàn bạo thật. Tôi giật vội cuốn sách trên tay Lý, cái bìa xé toạc thảm thương, mình mẩy cô ta chia làm hai, phía dưới trên tay tôi, nửa trên của Lý. Tôi bỗng dưng muốn khóc. Có ai nỡ xé em đâu, sao em nỡ xé người tạ Tôi mắng Lý. Lý đẩy tôi ngã xuống sàn nhà, bê chồng sách ném xuống thùng rác phía dưới lầu.
Tiếng kêu như đập một bên thái dương. Lý làm tôi bực bội vô cùng. Tủ sách Lý dọn dẹp vài ngày đã vơi đi một nửa. Có tiếng Lý nói, trời ạ, làm sao anh có thể giữ những quyển sách vô loài này. Tôi không trả lời, tôi nhượng bộ cô ta, cho dù cô có bảo con chim phượng là loài ác điểu, có cái mỏ to như mõ diều hâu, và giấc mộng Nam Kha là sự thật, thì thế giới này cũng chẳng tận thế hôm nay, và cho dù Lý cam chắc với tôi rằng hai vú của nàng vẫn còn trinh tiết, nàng chưa cho ai ngậm lên vú thì tôi vẫn là người chồng thứ thật của Lý, một người chồng không được ngậm lên vú vợ, đó là sự cam kết, tôi đã bằng lòng khi lấy cô...
Lý nấu ăn, dọn dẹp, tóc nàng cột cao, để lộ cổ trắng đẹp, trông Lý cao quá. Tôi muốn Lý làm hòa với tôi, ngọt ngào với tôi sau khi cô vất một số sách của tôi đi, nhưng cô không nói một lời, tôi nhìn xung quanh nhà những cây kiểng xanh tốt, lão bác sĩ nói đúng, Lý đã dùng thuốc ngừa thai tưới cây. Tôi khen, em đúng là người biết trồng cây, nhưng Lý bất thần hét lên. Ông Hưng ơi. Tôi không phải bà Lý. Tôi là Karen ông nghe chưa. Bà Lý không còn ở đây nữa. Bác sĩ của ông là thằng ngụ Chữa bệnh kiểu này mười đời ông vẫn điên. Ông ấy phải cho ông nhớ là bà Lý đã chết. Chết là hết. Chết là không còn hiện diện là không có quyền gì trên quả đất này ông có hiểu không. Hôm nay ông phải đọc mười lần tên tôi. Karen, ông đọc đi. Mười lần. Nàng nói cho đã, rồi đẩy tôi vào phòng ngủ.
... Một ngày sau khi Karen mắng chửi tôi, nàng đi biệt dạng. Chị gái tôi bảo Lý hay Karen cũng là đàn bà, tìm hiểu mà chị Cô ấy đi rồi sẽ về. Lý chết hay sống cũng thế thôi. Tôi bực. Nhưng Karen đi đâu. Tôi muốn biết cô ấy đi đâu. Mấy người cứ lừa dối tôi. Tôi không muốn là kẻ điên. Nói xong tôi đập vỡ một ly nước, rồi đi ra cửa, thằng em út chạy ra cản, tôi hất nó ngã chúi, nó chạy theo năn nỉ. Về đi anh, mai tôi đưa anh đi chơi. Tôi không nói mở cửa xe, chạy ào vào phố chính... Tôi đi lăng quăng một mình. Hai bên đường người ta đi lại ồn ào. Một người đàn bà mặc áo tắm hai mảnh, giơ cao cái bảng Men will be girls.
Cô gái rủ tôi vào quán rượu, không mất tiền vào cửa hôm naỵ Tôi đứng lại vuốt ve cánh tay cô tạ Cô nói, sờ thì phải trả tiền. Bỏ vào đâu. Cô chỉ vào nịt vú, tôi vạch nịt ngực cô rồi bỏ tiền vào. Rẻ chán. Cô cười môi đỏ chót, phía dưới phồng quá, đúng là đàn ông, tôi cười rồi bước vào bar rượu, bọn đàn ông, son phấn tấp nập. Lâu lâu họ tốc váy lên cho nhìn, cửa mình trắng bóc. Mẹ chúng nó cạo lông hết, người đàn ông ngồi bên cạnh nói khá lớn, đàn ông hết đó, nó kéo ra đàng sau giả đàn bà, vậy sao, hồi bước vô ông không thấy cái bảng Men will be girls. Vậy tất cả là đàn ông, ừ , ở đây không có đàn bà tốc váy, chỉ có đàn bà nhìn đàn ông tốc váy vui ghê, tôi gật gù thích thú, ngắm nhìn bọn họ đi qua đi lại, quả thật mỹ miều. Khuya lắm, thôi tôi về. Tôi nghiêng ngửa, rượu thấm say, tiếng chửi thề ào ào sau lưng, nghe quen quen chứ không tức giận, vui thật... Lý đã trở về. Cô dạy tôi hát một bài ca lạc hậu buồn cười.
Tôi chê lời không hay, nghe ngô nghệ Lý vỗ tay, vậy là anh đã tỉnh rồi, hôm nay tôi muốn anh phải rõ, anh không có lỗi gì với Lý, Lý chết không phải vì anh, anh phải hiểu anh không thể không tỉnh, anh phải nhớ tôi tên Karen, một người nhận tiền của hãng bảo hiểm để trông nom anh, một nữ y tá 30 tuổi và có bồ, có thuốc ngừa thai để trong xách tay, tại sao anh dám lấy của tôi, tôi không muốn nghe lời bác sĩ của anh nữa, hắn bắt tôi lặng thinh, tôi cứ là Lý thì anh sẽ không là anh. Tôi là Karen, nàng hét vào tai tôi, tôi che mặt. Nàng thẩy cho tôi ổ bánh mì, miệng vẫn lải nhải, Lillard là tên ngu, một bác sĩ ngu, hắn không nhận ra anh chỉ là một người mất trí giả. Một người sống giả, giả mãi rồi thấy hay quá không muốn tỉnh nữa. Từ nay nếu anh không gọi tôi là Karen, tôi sẽ nghĩ việc, không đến đây nữa. Tôi gật đầu, đưa tay thề. Cô hỏi, hôm qua anh đi đâu.
"Đi xem bọn giả gái"
"Họ đẹp không."
"Đẹp đến sợ."
"Họ giống ai."
"Giống Lý." Tôi chỉ cô.
Cô nghe nhẩy xổ, tát bốc vào mặt tôi.
"Nói lại ngaỵ"
"Giống Karen."
Tôi nói rồi xoa má, cô suýt xoa.
"Sao anh không đánh trả tôi."
"Đánh trả cô chết thì sao."
"Tôi không chết, lần sau anh phải đánh lại tôi nhớ không."
Tôi vẫn nói, tôi sợ em chết mất, em không đến đây nữa. Cô cúi mặt, bắt tôi nói lại. Tôi sợ Karen không đến làm việc nữa, tôi phải nói bốn lần, cô khen ngoan rồi ôm lấy tôi... Tháng mười trời lạnh Karen dẫn tôi đi ăn sáng, bây giờ tôi phải gọi cô là Karen, không cô lại đánh tôi, mấy tuần qua tôi cứ bị đòn luôn vì gọi cô tên Lý. Hình như Lý đổi tên rồi, tên Lý không hay sao em, tên Lý là hoa Lý, hoa Lý đẹp và thơm, em đã nói với tôi như thế, sao em lại đổi tên đi, cả cái nốt ruồi trên môi em cũng cắt vất đi đâu. Lý ôi, Lý ơi...
Karen chở tôi đi phía nam thành phố, Karen bảo nhà ở đây sờ cháy tay, mắc kinh khủng, mỗi ngày mỗi tăng giá, tôi nghe nói gật gù, hình như đã lâu tôi không để ý chuyện gì cả. Khi vào tiệm ăn trưa, cô lại kể chuyện đụng xe, một tai nạn của ai đó, họ có cái tên giống hệt tôi và Lý. Người đàn bà tên Lý đã chết. Sao tôi không biết. Nàng nhún vai, vì anh không muốn nhớ. Tôi nói, thôi bỏ chuyện đụng xe, nghe không vui. Ừ, cô gật, tôi hỏi cô, cô có thể cho tôi nghe nhạc, cô bảo chờ đi đến đầu tháng tới bà Tina Turner về đây tôi sẽ dẫn anh đi xem, chắc anh cũng thích bà này, một bà 60 tuổi nhảy tưng tưng hát thống thiết. Tôi mê bà này vô cùng. Tôi cãi, tôi chỉ thích ca sĩ Việt. Ai, cô hỏi.
"Tôi không nói ra đâu, một bà cũng già rồi."
"Không sao, nghệ sĩ làm gì có tuổi. Tôi không chú ý đến tuổi tác."
Tôi cười.
"Sao ngày xưa cô bảo ca sĩ già hát hết hay không còn hơi."
"Không phải tôi nói."
"A, Lý nói thế."
"Sao anh cứ nhớ Lý mãi vậy, tôi thì sao. Thôi
anh cứ kể chuyện cô Lý cho tôi nghe đi. Miễn là
anh phải hiểu tôi không phải là Lý, anh nhớ nghẹ"
Tôi nhắm mắt, làm sao để tôi có thể nói với Karen con khùng điên này, Lý chính là Karen, tôi hiểu cái trò giả dạng của cô, để tránh cái chuyện chung giường với tôi, vì tôi nhớ sau một vụ gì đó, xẩy ra đến bất ngờ, tôi bị liệt mẹ nó cánh tay trái, liệt cha dương vật, nên cô chỉ muốn bỏ tôi đi. Tôi nói với cộ Em chỉ muốn đổi đời và xa lánh tôi...
Cô im lặng, có tiếng cô thở dài. Tôi lại nhắc, thôi cô hãy bỏ tôi đi, tôi đã thấy những thay đổi, lòng nào tôi giữ được, Lý hay Karen chẳng còn yêu tôi, tôi sẽ quen một mình bên cạnh bà chị ế chồng. Gió có gào ngoài phên cửa, bão có đổ một cây cầu chắc chị ấy cũng không xúc động. Rồi tôi cũng như chị, tôi bỗng khóc ấm ức. Cô dẫn tôi ra xe vỗ về. Anh Hưng anh không được đuổi tôi. Cô nói rồi lau nước mắt cho tôi. Trời đã bắt đầu tối. Mặt trời đã đi ngủ. Khi vào nhà, chị tôi vẫn còn ngồi xem phim bộ. Cô đưa tôi vào phòng, nằm bên cạnh tôi. Gió mùa thu thổi lành lạnh từng nơi, rít khẽ trên nóc nhà như muốn ẩn sống nơi căn phòng tôi ở. Tôi nghe tiếng gió, tiếng thở đều đều của cô, tiếng chân chị tôi vào phòng hỏi cô về một người nào đó.
Cô ngồi dậy nói, em không muốn gặp hắn nữa, chị tôi suýt xoa, tôi nghiệp em tôi, chị an ủi cô, tôi thấy cô lặng thinh, buồn buồn... Lý ơi, sao em làm mù mắt chị em tôi... Tôi choàng dậy nửa đêm, tiếng côn trùng réo vang ngoài vườn sau, dội vào tôi nỗi cô quạnh khó tả. Tôi thấy tôi không là tôi nữa, tôi như không còn hiện hữu trên đời sống này, sao họ cứ mãi gạt gẫm tôi, bác sĩ bảo cô ấy đúng là Lý, còn cô nói cô là Karen.
Tôi biết tin ai. Tôi ngồi co vào góc giường, đếm từng ngón tay, ngón chân. Một lần Lý khen, tay tôi đẹp. Các ngón tay anh đẹp quá, không đẹp làm sao họa sĩ được, tôi kiêu hãnh nói vậy. Tôi ra ngoài phòng khách ngắm bức tranh tôi vẽ Lý, tôi gọi Lý thống thiết. Người trong tranh đẹp não nùng, đẹp đến sợ, hai vú trinh nguyên của cô xinh xắn làm sao, hai vú quay vòng trong đầu tôi muốn nổ, vùng ngực bỗng lạnh toát, chút âm thanh kêu cứu thoát ra từ một nơi xa thẳm nào đó dồn tôi muốn ngã quy... Tôi cắn chặt môi, máu chảy ra tươi thắm. Tôi hiểu tôi đã mất Lý hoàn toàn. Vệt máu chảy trong miệng, mặn chát. Tôi nói, Lý em đã bỏ tôi, tôi còn ai để yêu thương.
... Một tháng sau Karen dẫn tôi đến bác sĩ Lillard. Cô y tá vẫn gọi tên tôi ấm ớ. Lý kể với bác sĩ vài chuyện. Ông xoa tay cười. Ông hỏi tôi, anh thuộc tên Karen chưa. Karen giỏi thật, ông khen. Tôi nhìn ông không chớp mắt, điệu bộ của ông ta giống hệt tên tình nhân của Lý, với cái cổ dài, đôi mắt màu hạt dẻ. Chính hắn đã đoạt chiếm Lý của tôi, giết chết Lý của tôi, tôi nhớ chính hắn đã giết Lý vì ghen, hắn đúng là tên lái chiếc xe truck màu xanh tím đã đâm vào xe Lý, đúng hắn đang đóng vai tên bác sĩ Lillatrd này. Còn ai vào đây. Tôi xông lại, nắm lấy cổ hắn vật xuống nhà, tôi phải giết ông. Tiếng nói thoát ra như ma lực khiến Lillard vùng chạy, đồ vật rơi tứ tung, tôi cầm chiếc kéo trên bàn đâm vào người mình. Máu tôi đổ xuống sàn nhà, Lý ơi, em thấy không, mất em anh đau đến chừng nào...
Hơn một năm sau tôi rời khỏi nhà thương tâm trí, Karen lại trở về, nàng chọn cho tôi một nơi ở khác, nàng đã có một đứa con gái được gần một tuổi, nó nhỏ xíu, Karen bảo, nó là gia tài của cộ Tôi hỏi xin cô được bế nó. Cô gật, con bé đẹp như búp bê, cái miệng lúc nào cũng cười. Tôi ôm nó cho sát, con ai mà đẹp thế này hả Karen.
... Cơn chấn động nào làm cả nhà tôi khóc, gió mùa nào thổi tan cả một dãy hàng rào. Tôi về mang tâm trạng bằng an không thể kể. Chị tôi khóc nức khi hai tòa nhà ở New York sụp đổ. Chị nói, chị không ngờ chị yêu quê hương này đến thế, em ơi, em có hiểu không. Nỗi đau nào rồi cũng qua, ai cũng phải sống bình thường, em đã bình an chưa. Tôi gật, tôi nhắm mắt, rồi mở mắt, Karen đang múa cho tôi xem một vũ khúc người đàn bà đi tìm người yêu dưới nước, nàng múa với vũ điệu thiên nga, thân hình uốn éo, cánh tay hất cao ngang đầu, đủ cho tôi thấy nụ hoa mai đỏ xâm bên vú trái, tôi nhìn sau lưng nàng. Ngoài cửa sổ gió thổi tơi bời, Lý đang nhìn tôi cười lặng lẽ, tôi bật dậy chạy theo Lý, gọi cô, với chụp cô, cho đến khi tôi nhìn tôi nằm vật trên nền gạch, mắt hé mở nhìn lên bầu trời cao và thăm thẳm màu hoàng hôn.
Trời New Orleans thấy đẹp vô cùng. Ai đó lật tôi sang một bên, có bàn tay của Karen vuốt lên mắt tôi, nước mắt nàng rơi tơi tả như mưa, nước mắt thắm vào môi tôi da mặt tôi. Chị tôi đã rẽ đám đông, ôm chặt tôi vào lòng. Tôi thấy máu trong miệng tôi bắt đầu ứa ra chảy xuống đùi chị. Chị tôi ấm quá, truyền hơi ấm sang tôi, đó là lần cuối tôi ở cõi đời này. Một ngày rất đẹp, tôi đã nắm được tay Lý rồi, Lý sẽ không bỏ tôi đi nữa. Nàng âu yếm, em sẽ mãi bên anh. Chân chúng tôi đạp lên ánh hoàng hôn mà bước, tương lai rộng như bầu trời này. Tôi sẽ chẳng bao giờ cần Lý trả lời. Tại sao nàng ngoại tình. Trả lời chỉ là dư thừa. Tôi cần gì đoái hoài đến sự yếu đuối của nàng ngày ấy. Chúng tôi như đi lạc vào rừng mây kia. Mây đưa chúng tôi đi thật xạ Hoàng hôn đỏ thắm trên người nàng. Đôi vú thanh tân cũng nhuốm đỏ, nàng mỉm cười, nụ cười hoàng hôn đẹp vô cùng. Tôi khen Lý. Tôi kéo Lý sát vào người cho đến khi ánh sáng đã tàn và hoàng hôn liệm chết dưới chân đồi. Chúng tôi cùng tan biến mất.
Hết
KAWABATA
Truyện ngắn chưa từng được công bố của Kawabata
Nhà văn Yasunari Kawabata, Nobel Văn học 1968 (Albin Michel)
Sau 86 năm bị bỏ quên, truyện ngắn chưa từng được xuất bản
của nhà văn người Nhật, Kawabata Yasunari mang tên « Utsukushii ! -Tuyệt
diệu ! » vừa được phát hiện. Kawabata là văn hào đầu tiên của xứ hoa
anh đào được trao tặng giải Nobel Văn học năm 1968.
Nhà nghiên cứu Ishikawa Takumi, thuộc đại học Rikkyo - Tokyo đã
cùng với chủ nhân nhà xuất bản Hiroshi Sakaguchi đã tình cờ tìm thấy
bản thảo của Kawabata tại một kho lưu trữ tài liệu của một tờ báo địa
phương, thuộc Fukuoka, miền đông nước Nhật.
Quỹ Kawabata đã đem tài liệu này đi chứng thực. Tác phẩm « Utsukushii ! - Tuyệt diệu ! » được xác nhận là một trong những truyện ngắn từng được giải Nobel văn học Nhật Bản sáng tác khi còn trẻ.
« Utsukushii!» là câu chuyện kể về một doanh nhân đang chôn cất một cô gái trẻ ngay trong nấm mộ của người con trai mình. Đó là một đứa con tàn tật. Cô gái trẻ kia đã chết khi đến viếng mộ con trai vị doanh nhân. Trên tấm mộ bia, có ghi dòng chữ « Nơi đây yên nghỉ một cặp trai tài gái sắc »
Cả câu chuyện xoay quanh nỗi cô đơn, sự đồng cảm. Tất cả đã toát lên từ ngòi bút của một nhà văn mới vừa 27 tuổi. Khi đó Kawabata Yasunari đã mồ côi cả cha lẫn mẹ và cũng đã mất đi người ông ngoại, người duy nhất đã ru êm tuổi thơ của Kawabata.
Theo lời nhà nghiên cứu Ishikawa Takumi thì truyện ngắn vừa được phát hiện có nội dung rất gần với một tác phẩm khác của Kawabata là « Utsukushiki Haka - Ngôi mộ đẹp » được sáng tác vào năm 1954.
Nhà văn Kawabata Yasunari sinh năm 1899 tại Osaka. Năm 1968, ông là người Nhật đầu tiên và là người châu Á thứ ba được trao tặng giải thưởng Nobel Văn học. Nối tiếng với những tác phẩm như « Xứ Tuyết – Yukiguni »; « Tiếng rền của Núi - Yama no Oto » hay « Người đẹp say ngủ - Nemueru bijo ». Năm 1972 Kawabata tự sát, kết liễu cuộc đời và sự nghiệp.
Quỹ Kawabata đã đem tài liệu này đi chứng thực. Tác phẩm « Utsukushii ! - Tuyệt diệu ! » được xác nhận là một trong những truyện ngắn từng được giải Nobel văn học Nhật Bản sáng tác khi còn trẻ.
« Utsukushii!» là câu chuyện kể về một doanh nhân đang chôn cất một cô gái trẻ ngay trong nấm mộ của người con trai mình. Đó là một đứa con tàn tật. Cô gái trẻ kia đã chết khi đến viếng mộ con trai vị doanh nhân. Trên tấm mộ bia, có ghi dòng chữ « Nơi đây yên nghỉ một cặp trai tài gái sắc »
Cả câu chuyện xoay quanh nỗi cô đơn, sự đồng cảm. Tất cả đã toát lên từ ngòi bút của một nhà văn mới vừa 27 tuổi. Khi đó Kawabata Yasunari đã mồ côi cả cha lẫn mẹ và cũng đã mất đi người ông ngoại, người duy nhất đã ru êm tuổi thơ của Kawabata.
Theo lời nhà nghiên cứu Ishikawa Takumi thì truyện ngắn vừa được phát hiện có nội dung rất gần với một tác phẩm khác của Kawabata là « Utsukushiki Haka - Ngôi mộ đẹp » được sáng tác vào năm 1954.
Nhà văn Kawabata Yasunari sinh năm 1899 tại Osaka. Năm 1968, ông là người Nhật đầu tiên và là người châu Á thứ ba được trao tặng giải thưởng Nobel Văn học. Nối tiếng với những tác phẩm như « Xứ Tuyết – Yukiguni »; « Tiếng rền của Núi - Yama no Oto » hay « Người đẹp say ngủ - Nemueru bijo ». Năm 1972 Kawabata tự sát, kết liễu cuộc đời và sự nghiệp.
TIN TỨC GẦN XA
Đánh Việt Nam, Đặng Tiểu Bình sai lầm'
Quốc Phương
BBC Việt ngữ
Cập nhật: 10:51 GMT - thứ ba, 19 tháng 2, 2013
Tôi phải cảm ơn Internet vì nhờ
nó bao lần tìm kiếm lại được bạn bè và những kỷ niệm xa xôi vài chục
năm. Lần này cũng vậy, lại như một khám phá mới về bạn bè cũ mà người
bạn học xưa "mới xuất hiện" lại gợi cho tôi kỷ niệm khó quên đúng vào
ngày kỷ niệm 17/2/1979.
Đây là những gì người bạn viết trên Facebook của cô:Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
"Ngày này 34 năm trước, mình cứ
tưởng phải đi sơ tán. Mình vẫn nhớ là mẹ chuẩn bị cả túi cứu thương cho 3
anh em. Rồi trên loa đài lúc nào cũng phát bài hát "Quân xâm lược bành
trướng dã man, đã giày xéo mảnh đất tiền phương, lửa đã cháy và máu đã
đổ trên khắp dải biên cương..." TV thì có mấy vở kịch bêu riếu mấy thàng
lính khựa bê cột mốc nhảy sang đất ta để chôn trộm... Càng ngày càng
ghét! Mình có thù dai ko nhỉ?"
Bạn tôi đã nhớ không sai, kể cả khi cô nhắc lại
lời bài hát trong ca khúc của nhạc sỹ Phạm Tuyên. Trong gia đình tôi có
hai người anh đang ở độ tuổi cuối cấp II, hay đầu cấp III, đã nộp đơn
xung phong cùng với những người bạn học cùng trường lớp hoặc cùng phường
xóm của họ. Một người được chấp nhận ngay, và người kia một thời gian
sau cũng nhập ngũ, để tham gia mỗi người chừng 3-4 năm, trong suốt
khoảng thời gian trên dưới 10 năm của cuộc chiến phía Bắc.
"Kỷ niệm rõ nét nhất còn lại trong em có lẽ là những bát cơm các chú bộ đội mỗi người bớt một xíu cho các cháu nhỏ ở nhà. Khi đó nhà em đầy bộ đội ở. Dưới tấm phản em nằm toàn đạn B40 và nửa gian buồng trong chứa đầy súng"
Một nhân chứng ở Hà Tây
Ông bố tôi lần tìm trong tủ ra một chiếc ba lô
cũ mà nếu tôi nhớ không lầm là từ thời chống Pháp, hoặc có thể muộn hơn,
đã bạc màu, và đưa cho một trong hai người anh, nhưng tôi đoán là sau
đó, họ có quân trang khác. Hai người anh khác và một người chị trong gia
đình lớn tuổi hơn nữa, từng có kinh nghiệm từ chiến trường, người thì ở
bên Lào, người thì ở quân y, người thì trong thời đường sắt chiến
tranh, cũng chuẩn bị tinh thần trở lại đội ngũ khi được động viên.
Còn người em út của họ, là tôi, thì ở trường,
như người bạn của tôi ở trên gợi lại, chúng tôi được chỉ dẫn tập sơ cứu,
tập sơ tán dưới các tầng hầm của ngôi trường nhà tu cũ từ thời Pháp để
lại, tập ứng phó nếu chiến sự xảy ra.
Trẻ con nhưng trong nhà, quanh xóm còn dạy nhau
những câu như "Tả-lớ", "Tả-xê-nản" hay "Tung-xí-xẩu-lai", mà tôi được
dịch và hiểu đơn giản khi đó là "Đánh", "Đánh đi" hay "Giơ tay lên", đại
khái thế.
Ngoài đường phố, trước vạt cỏ bên nhà, khu đất
ven chùa, vỉa hè quanh tiểu khu là nơi nhiều chiếc hầm trú ẩn cá nhân
được đào và người ta dần dần khiêng tới các khung bê tông cốt sắt hình
tròn, màu trắng, và đặt chúng xuống, với tấm đậy bê tông ở bên trên.
Mẹ tôi bảo hệt như thời B52 ở Hà Nội ngày trước.
'Chiến tranh đảo lộn'
Chúng tôi thấy người lớn có vẻ bộn chộn hơn, có
cái gì đó khác thường, mà sau này chúng tôi làm quen qua những bản tin
trên đài, các bài báo đưa tin trên các tờ như Nhân dân, Quân đội Nhân
dân, Hà Nội Mới, hay những báo khác, mà may mắn, nhờ cha làm báo mà tôi
được đọc như Tổ Quốc, Độc Lập, Đại Đoàn Kết... với những hình ảnh, tin
tức chiến sự.
Trên đường, ngoài phố ở thủ đô, những người lính
xuất hiện, những xe cộ và khí tài chiến tranh được di chuyển hàng ngày,
và nhiều dòng người tản cư ở các tỉnh biên giới đổ về.
Tôi còn nhớ, nếu ký ức thời B52 còn loáng
thoáng, thì ký ức và nhận thức thời 1979 đã rõ nét hơn rất nhiều, và
chúng theo tôi tới ngày nay, từ những hình ảnh chiến trường, qua đài
báo, tới các bài nhạc trên đài, loa phát thành, các bức biếm họa của
Nguyễn Nghiêm và nhiều họa sỹ khác bài Trung Quốc xâm lược, hay cuộc
"Bốn Hiện Đại hóa" khi đó...
Một người bạn của tôi nhớ lại: "Kỷ niệm rõ nét
nhất còn lại trong em có lẽ là những bát cơm các chú bộ đội mỗi người
bớt một xíu cho các cháu nhỏ ở nhà. Khi đó nhà em đầy bộ đội ở. Dưới tấm
phản em nằm toàn đạn B40 và nửa gian buồng trong chứa đầy súng. Biết
thế hồi đó xin các chú một khẩu để giờ chơi hoặc chuẩn bị đánh giặc thì
hay biết mấy," anh bạn của tôi ở Hà Tây hài hước kể.
Còn một người bạn khác ở ngay gần Nhà thờ lớn Hà
Nội khi đó, nói với tôi: "Lại nhớ tới tiếng còi hú giữa trưa từ phía
Nhà hát lớn năm xưa và tiếng thở dài của ông bà nội, chắc Hà nội lại
phải đi sơ tán như năm nào mất thôi. Ôi cái thời bình mà đâu có yên!"
'Ông Đặng sai lầm'
"Sai lầm ấy là đã luôn sử dụng bạo lực đi trước, như trong cách giải quyết vụ Thiên An Môn chỉ 10 năm sau sự kiện chiến tranh 1979 xâm lăng Việt Nam"
Bây giờ nhìn lại, có lẽ ai đó không tán thành,
nhưng tôi cho rằng Đặng Tiểu Bình, tuy có công lao với Trung Quốc của
ông ta thế nào đó, nhưng cuộc chiến tiến đánh Việt Nam, sau những mặc cả
toan tính của Trung Quốc với các thế lực quốc tế khác từ trước thời
ông, và từ khi ông lên nắm ghế lãnh đạo, là một sai lầm của ông.
Sai lầm bạo lực này, tuy đã cho thấy ông ta muốn
"dạy Việt Nam một bài học" ra sao, hay muốn cảnh cáo Việt Nam về điều
mà ông cho là "ăn cháo đá bát" gì đó, thì nó cũng đã giống như các cuộc
chiến xâm lược của phong kiến phương Bắc của nước ông bao đời với các
quốc gia láng giềng nhỏ bé hơn, trong đó có VN, đẩy hàng trăm thanh niên
trai tráng, gia đình nông dân vốn còn cơ cực, trở thành nạn nhân của
chết chóc, thành bia đỡ đạn.
Cả bên phía Trung Quốc với khoảng 7 quân đoàn
với hơn hai chục sư đoàn tác chiến mà nhiều người tin là có một số đông
quân số là thành phần nông dân, dân nghèo hoặc thuộc con em các dân tộc
sát biên giới của Trung Quốc với Việt nam.
Trung Quốc của ông ta một lần nữa, sau sai lầm
này, có thể đã tiếp tục hằn sâu trong tầng sâu tâm lý của một dân tộc
khác, là một quốc gia bạo lực, khó tin cậy, mà ngày nay, họ vẫn "quả táo
không lăn xa gốc lắm", khi mà vẫn mưu đồ trên Biển Đông, hay trên các
khu vực biên giới với láng giềng, nơi mà họ luôn lấn tới, dùng áp lực
lấy sức mạnh lợi thế, lấn từng bước, lấn tới đâu, củng cố chủ quyền,
tuyên truyền kiểu 'kẻ cướp' tới đó, bê-tông hóa tới đó, lấn đủ thứ từ
cột mốc xi măng cốt thép, tới dùng di cư dân số có tính toán sang các
quốc gia lân bang dưới các chiêu xuất khẩu lao động, thuê đất, thuê chợ,
mở khu thương xá, khai thác rừng đầu nguồn, thuê hợp tác khai thác
khoáng sản v.v... nghĩa là đủ phương cách từ quân sự, chính trị, thương
mại, kinh tế, tới di dân cơ học v.v...
Có bạn có thể nghĩ nếu họ là Đặng, họ phải làm như vậy, vừa mở ra với phương Tây về vốn, quan hệ, công nghệ, vừa lấn lướt láng giềng, ngăn chặn mọi sự cạnh tranh, như với Việt Nam, để mở rộng cương vực, tìm giải pháp lâu dài cho tài nguyên, năng lượng và dân số... Nhưng đó là quyền của bạn khi cho là như vậy, và tôi xin tôn trọng quyền ấy.
Phần tôi vẫn cho ông Đặng đã sai lầm khi tiến hành chiến tranh xâm lược và thảo phạt kiểu đó, dù ông ta có mưu đồ kết hợp với Khmer Đỏ và các lực lượng nào đó kìm hãm, chế ước Việt Nam theo logic có lợi của ông ta. Sai lầm ấy là đã luôn sử dụng bạo lực đi trước, như trong cách giải quyết vụ Thiên An Môn chỉ 10 năm sau sự kiện chiến tranh 1979 xâm lăng Việt Nam.
Tư duy bạo lực cuả ông có thể đã làm gương xấu tới ngày nay cho những người lãnh đạo cấp cao và gây cảm hứng cứng rắn cho lớp cán bộ này ở Trung Quốc, trong cả đối nội lẫn đối ngoại. Tư duy đó nếu còn, e rằng sẽ làm Trung Quốc mất bạn, thêm thù, mà có thể sẽ là "những mối cừu thù truyền kiếp", rất khó dùng PR chính trị hay tiền bạc mua chuộc để xóa hết ngay.
'Bất lợi cho Trung Quốc'
"Trung Quốc có thể sẽ đến một ngày cần xem lại xem liệu Đặng Tiểu Bình và chính quyền của ông ta có sai hay không, sai ra sao, khi sử dụng biện pháp chiến tranh trong cuộc xâm lược đầy bạo lực này, để thay đổi tư duy, não trạng của họ"
Tất nhiên, có người đặt vấn đề chính quyền của
ông Lê Duẩn đã thiếu khôn ngoan, non tính toán, thiếu tỉnh táo thời cuộc
cùng tầm nhìn chưa vượt qua màn hình địch ta, trắng đen thù - bạn, cái
nhìn đặc trưng thời chiến tranh lạnh, hay ông và các đồng chí trong Ban
lãnh đạo còn say sưa "chiến thắng", yếu về ngoại giao, để đưa Việt Nam
tiếp tục bị cô lập trên bàn cờ khu vực và quốc tế, đối lập với Trung
Quốc, như một cường quốc đang lên hoặc có tiềm năng lớn khi đó, đối lập
thay vì tiếp tục đi dây với quốc gia đã hậu thuẫn nhiều mặt và có quan
hệ tốt hơn song phương với lãnh đạo tiền nhiệm của ông Lê Duẩn thời
chiến tranh với người Pháp, người Mỹ như ông Hồ Chí Minh v.v... và do đó
đẩy Việt Nam vào một cuộc chiến nữa, bên cạnh sa lầy ở Campuchia,
chuyện đó tôi xin hoàn toàn chia sẻ và không bình luận thêm.
Tuy nhiên, tôi vẫn cho rằng Trung Quốc có thể sẽ
đến một ngày cần xem lại xem liệu Đặng Tiểu Bình và chính quyền của ông
ta có sai hay không, sai ra sao, khi sử dụng biện pháp chiến tranh
trong cuộc xâm lược đầy bạo lực này, để thay đổi tư duy, não trạng của
họ, bởi nếu Trung Quốc tiếp tục như vậy hiện nay và trong tương lai, họ
có thể sẽ tự gieo gió gặt bão trong quan hệ quốc tế chăng, khi mà nhiều
đối tác có thể sẽ cảnh giác với họ và không ngoại trừ sẽ tìm cơ hội để
"chơi lại" Trung Quốc và đưa họ vào thế tan rã hoặc khốn đốn.
Nhưng đó là một viễn kiến mang tính giả thuyết
xa xôi, quá khứ là quá khứ, lịch sử là lịch sử. Chỉ có điều rõ ràng với
Hoàng Sa 1974, với Trường Sa 1988 và đặc biệt Chiến tranh Biên giới phía
Bắc 17/2/1979, cùng các diễn biến gần đây, bộ mặt và não trạng 'xâm
lược, bá quyền nước lớn' của Trung Quốc, bản chất được cho là 'hiếu
chiến,' vẫn có vẻ là một đường hướng, chiến lược nhất quán, không thay
đổi, đằng sau các thủ thuật 'đối ngoại, tuyên truyền' khác nhau của Bắc
Kinh, không chỉ với Hà Nội mà với bất cứ ai khác mà Trung Quốc có thể
'nhăm nhe tiến chiếm, lấn sân'...
Và dù thế nào, thì cung cách 'hành xử bạo lực'
của họ, nếu không thay đổi, thì e rằng sẽ còn có thể trong lâu dài dẫn
đến sự cấu thành một nhân tố đằng sau tâm lý bài Trung Quốc, và cảnh
giác cao độ mang tính tâm lý dân tộc bền vững ở nhiều quốc gia, dân tộc
láng giềng, khu vực và trên thế giới trong quan hệ với Trung Quốc, mà
trong đó có Việt Nam.
Ông Lý Quang Diệu cảnh báo về TQ
Cập nhật: 16:33 GMT - thứ ba, 19 tháng 2, 2013
Trung Quốc phải tránh những sai
lầm của Đức và Nhật Bản trong thế chiến hai trong cuộc cạnh tranh siêu
cường hiện nay, đó là lời cảnh báo của cựu Thủ tướng Singapore, Lý Quang
Diệu trong một cuốn sách mới ra.
Ông Lý năm nay 89 tuổi cho rằng Trung Quốc cũng
cần phải tránh bài học của Nga Xô trong chạy đua vũ trang, tránh đối đầu
với Mỹ, và dự đoán Trung Quốc và giới lãnh đạo mới sẽ không lựa chọn
một thể chế cho phép tự do dân chủ.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
“Trung Quốc phải tránh sai lầm của Đức và Nhật. Cuộc cạnh tranh quyền lực, ảnh hưởng và các nguồn tài nguyên của họ trong thế kỷ trước đã dẫn tới hai cuộc chiến khủng khiếp.
“Sai lầm của Nga là đã chi phí quá nhiều vào quân sự mà quá ít vào công nghệ dân sự cho nên kinh tế đã sụp đổ.”
Ông Lý cảnh báo về thất bại của Trung Quốc nếu chạy đua với người Mỹ. Ông nói:
“Tôi tin rằng lãnh đạo Trung Quốc đã học được
rằng nếu bạn chạy đua vũ trang với Mỹ, bạn sẽ thất bại. Bạn sẽ tự phá
sản. Do vậy nên khiêm tốn, cười thầm trong vòng 40 hoặc 50 năm nữa.”
'Không chọn dân chủ'
"Trung Quốc sẽ đuổi kịp Mỹ về tổng sản phẩm quốc nội tuyệt đối. Nhưng tính sáng tạo của nó sẽ không bao giờ theo kịp người Mỹ bởi vì văn hóa của nó không cho phép sự trao đổi tự do và thách đố giữa các ý tưởng"
Lý Quang Diệu
Tin vào khả năng cường quốc hàng đầu thế giới của Trung Quốc, cựu Thủ tướng Singapore dự đoán:
“Trung Quốc sẽ đuổi kịp Mỹ về tổng sản phẩm quốc
nội tuyệt đối. Nhưng tính sáng tạo của nó sẽ không bao giờ theo kịp
người Mỹ bởi vì văn hóa của nó không cho phép sự trao đổi tự do và thách
đố giữa các ý tưởng.”
Nhà cựu lãnh đạo được cho là còn có ảnh hưởng
tại châu Á và Đông Nam Á cho hay ông không tin vào một nước Trung Quốc
của dân chủ tự do.
Ông Lý được các tác giả cuốn sách trích lược nói tiếp:
“Nếu Trung Quốc như thế, nó sẽ sụp đổ. Nếu bạn tin rằng sắp có một cuộc cách mạng dân chủ nào đó ở Trung Quốc, bạn đã sai.”
Về đường hướng hiện đại hóa của nước này, ông dự
đoán: “Các nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc sẵn sàng thử mọi phương
pháp ngoại trừ dân chủ trong một hệ thống đa đảng.”
Ông Lý giải thích điều này là do Đảng Cộng sản
Trung Quốc “tin rằng nó cần có sự độc quyền về quyền lực thì mới giữ
được ổn định” và rằng Đảng còn “sợ mất đi sự kiểm soát của trung ương
đối với các tỉnh lỵ” hay địa phương.
'Tâm hồn sắt đá'
Đặc biệt ông Lý Quang Diệu, qua cuốn sách, còn
bộc lộ nhận xét của ông về tân lãnh đạo Trung Quốc, ông Tập Cận Bình.
Chính trị gia lão làng này được trích dẫn nói:
“Ông ấy (Tập Cận Bình) là một người kín đáo,
không phải theo nghĩa là ông ấy không nói chuyện với bạn, mà theo nghĩa
ông ấy không bao giờ phản lại ý thích hoặc đi ngược lại điều gì mà ông
ấy đã không thích.
“Luôn luôn có một nụ cười nhã nhặn trên mặt ông
ấy, dù là bạn có nói hay không một điều gì đó làm ông ấy khó chịu. Ông
ấy có một tâm hồn sắt đá.”
Mới đây, trong một tài liệu nội bộ không công bố
ở Trung Quốc, ông Tập Cận Bình được trích dẫn khi tới thăm tỉnh Quảng
Đông, nói với các cán bộ lãnh đạo về nhu cầu giữ ổn định ở Trung Quốc,
theo tiết lộ của New York Times.
"Vì sao Liên Xô tan rã? Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ? Một lý do quan trọng là các lý tưởng của họ đã bị dao động..."
Chủ tịch TQ Tập Cận Bình
Ông được dẫn lời nói: “Vì sao Liên Xô tan rã? Vì
sao Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ? Một lý do quan trọng là các lý tưởng
của họ đã bị dao động...
Tờ báo Mỹ cho rằng thời gian lên nắm quyền lực
tối cao của ông Tập Cận Bình chưa lâu, mới chừng vài ba tháng, do đó có
thể để “đứng vững” trước các đối thủ tối cao, và cũng có thể vẫn trung
thành với những niềm tin của mình, như điều mà ông Lý Quang Diệu tin là
bản chất của tân lãnh đạo Trung Quốc, ông Tập đã chọn phương án “siết
chặt sự an toàn” quyền lực của Đảng.
Và do đó, các cải cách chính trị, thể chế dân
chủ khả dĩ làm thay đổi vị thế độc tôn của Đảng cộng sản hay cải cách
dân chủ sâu sắc có thể còn là 'xa vời'.
Tiếp tục về kinh nghiệm của Liên Xô cũ, ông nói:
“Cuối cùng, cái gì Liên Xô nhận được là một lời lặng lẽ của Gorbachev
tuyên bố giải thể Đảng Cộng sản, một chính đảng lớn đã ra đi,
“Mà cuối cùng, không có ai là một con người thực
thụ, không có ai bước ra để kháng cự cả,” nhà lãnh đạo vừa kế nhiệm ông
Hồ Cẩm Đào hối thúc việc bảo vệ Đảng, khi rút tỉa bài học một cách cứng
rắn.
TIN KHOA HỌC
Hai hiện tượng thiên văn kỳ thú đầu năm 2013
2013-02-18
Trong tuần qua xuất hiện hai hiện tượng thiên văn gây chú ý. Gia Minh hỏi chuyện khoa học gia thiên văn học Trịnh Xuân Thuận về hai hiện tượng đó.
AFP photo
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận hiện giảng dạy tại Khoa Thiên Văn, Đại học Virginia, Hoa Kỳ. Hồi năm ngóai, ông đuợc Học viện Pháp Quốc tặng giải thưởng thế giới Cino del Duca. Giải thưởng với tiền mặt 300 ngàn euro nhằm vinh danh người có công trình phổ biến tri thức khoa học lưu hành rộng rãi trên khắp thế giới.
Tác động đến trái đất
Gia Minh: Chào giáo sư, xin giáo sư giải thích lại cho quí thính giả của Đài Á Châu Tự Do về hai hiện tượng thiên văn mới xuất hiện tuần qua gây tác động đến Trái Đất của chúng ta?
Khoa học gia Trịnh Xuân Thuận: Hiện tượng đó ngày nào cũng có,
nhưng hai hiện tượng vừa rồi được chú ý vì tương đối rất to có thể gây
hại đến trái đất. Chứ thực tế thiên thạch từ trời rơi xuống cứ mỗi ngày
cả ngàn tấn. Tuy nhiên, do trái đất có bầu khí quyển, nên khi thiên
thạch vào khí quyển trái đất thì thường cháy hết. Khi cháy, chúng ta
thấy những đường ánh sáng và gọi là ‘sao băng’.
Những thiên thạch thường từ lòng sao chổi (comet) tan ra, thường cả
trăm thiên thạch như thế. Khi nào quỹ đạo trái đất vào quỹ đạo sao chổi
chết đó, thì người ta thấy những sao băng như thế. Khi những thiên thạch
lớn hơn không cháy hết có thể đụng trái đất. Thiên thạch ở bên Nga lớn
khoảng mấy thước bằng kích cỡ một chiếc xe hơi. Khi đến khí quyển trái
đất chừng 10 cây số trong không trung , gặp áp lực rất mạnh nên nổ tung.
Vụ nổ tạo nên làn sóng lan xuống khiến cho cửa kính trong nhà dưới đó
bị vỡ. Chừng gần 1000 người bên Nga bị thương là do cửa kính trong nhà
vỡ gây nên.
Tuy nhiên theo tôi nghĩ, hiện tượng đó cũng tương đối khá hiếm. Hiện
tượng thiên thạch lớn mấy thước mà đến trái đất như thế cũng chĩ trong
vòng chừng 10- 20 năm một lần thôi chứ không nhiều. Thường những hạt bụi
như thế đều cháy hết trên không trung.
Gia Minh: Còn thiên thạch lớn hơn mà người ta nói lớn gần bằng một sân vận động thì thế nào rồi?
Khoa học gia Trịnh Xuân Thuận: Cái này không phải là sao chổi
chết mà là thiên thạch thuộc nhóm phần đông nằm trong quỹ đạo giữa Mars
(Sao Hỏa) và Jupiter (Sao Mộc). Thường chúng đi quanh Mặt Trời giữa hai
quỹ đạo đó. Quy đạo Trái đất khác, và chúng không đi ngang qua quỹ đạo
Trái đất nên không gây ra đụng chạm nhau. Nhưng thỉnh thỏang quỹ đạo có
thay đổi. Trong vòng asteroid (hành tinh nhỏ) đó, thỉnh thỏang có những
thiên thạch đụng nhau và hất vào quỹ đạo của Trái đất. Thì thiên thạch
có tên DA14 đến rất gần Trái đất, chỉ cách chừng khoảng 30 ngàn cây số,
tức hai rưỡi đường kính Trái đất thôi; nhưng không đụng trái đất. Hiện
tượng này còn hiếm hơn nữa, có thể mỗi trăm năm mới có một lần. Thiên
thạch càng lớn thì khả năng đụng Trái đất càng nhỏ đi.
Hiện tượng đó ngày nào cũng có, nhưng hai hiện tượng vừa rồi được chú ý vì tương đối rất to có thể gây hại đến trái đất.
Khoa học gia Trịnh Xuân Thuận
Thiên thạch mà giết chết loài khủng long trên Trái Đất 65 triệu năm
về trước là một thiên thạch rất lớn. Lớn khỏang cả chục cây số. Một
thiên thạch lớn cả chục cây số như thế mà đụng trái đất sẽ khiến tung
bao nhiêu bụi lên không trung. Bụi này cắt nguồn ánh sáng xuống khiến
Trái đất lạnh đi, cây cối chết hết; loài khủng long lúc bấy giờ không
còn gì để ăn nên chết đi. Ba phần tư sinh vật trên Trái đất mất đi. Chỉ
còn những loài chuột sống trong hang đá, ăn các lọai hạt mới có thể tồn
tại.
Hiện tượng đó là cho tiến hóa ( evolution) trên Trái Đất thay đổi.
Tuy nhiên, những thiên thạch lớn như thế thì cả trăm triệu năm mới có
một lần.Đối với thiên thạch lớn chừng nửa sân vận động như DA14 vừa rồi thì NASA (Cơ quan Không gian Hoa Kỳ), có những kính thiên văn lớn có thể theo dõi 95% những thiên thạch nào như thế đi ngang qua Trái đất và lảm hại cho Trái đất.
DA14 thì người ta biết cả năm nay rồi. Còn thiên thạch bên Nga thì nhỏ hơn, và không biết trước.
Liệu con người có thể can thiệp?
Gia Minh: Với sự biết trứơc, khả năng của con người hiện nay có thể có tác động gì vào đường đi của các thiên thạch để không đụng vào Trái đất? Khoa học gia Trịnh Xuân Thuận: Với kính thiên văn, người ta có thể biết trước hai ba năm; người ta có thể nghĩ đến; nhưng trong thực tế chưa làm. Chỉ có trong phim Hollywood thôi.
Tôi nghĩ có thể sử dụng hỏa tiễn đưa một lọai bom lên cho nổ gần
thiên thạch đó để đường đi không đụng vào Trái đất. Tôi nghĩ có đủ công
nghệ để làm chuyện đó; tuy nhiên con người chưa bao giờ làm chuyện đó.
Từ khi đi vào không gian đến nay, chưa có thiên thạch nào đi thẳng vào
Trái đất.
Gia Minh: Qua sự kiện ở vùng núi Ural của Nga khiến cho cả
ngàn người bị thương ( hẳn nhiên người ta hỏang lọan); giáo sư nghĩ sao
về khả năng dự báo thiên thạch trong thời gian tới?
Khoa học gia Trịnh Xuân Thuận: Chỉ có cách là sử dụng kính
thiên văn theo dõi mỗi tối. Căn cứ vào làn ánh sáng thay đổi, người ta
có thể biết quỹ đạo của thiên thạch và khi nào nó đến (Trái đất) và đến
khu vực nào. Với thông tin đó người ta có thể báo cho dân chúng tại khu
vực đó đi di tản đến nơi khác. Chứ không thể có khả năng tài chính để
phóng lên phá những thiên thạch nhỏ. Ngòai ra những thiên thạch nhỏ thì
ánh sáng của chúng cũng khó để có thể theo dõi.
Tôi nghĩ có thể sử dụng hỏa tiễn đưa một lọai bom lên cho nổ gần thiên thạch đó để đường đi không đụng vào Trái đất. Tôi nghĩ có đủ công nghệ để làm chuyện đó; tuy nhiên con người chưa bao giờ làm.
Khoa học gia Trịnh Xuân Thuận
Gia Minh: Hệ thống kính thiên văn hiện nay có thể bao trùm tòan bộ địa bàn Trái đất không?
Khoa học gia Trịnh Xuân Thuận: Chỉ có NASA thôi; nhưng những
kính thiên văn lớn hiện có thể nhìn rất xa nhưng vào một vùng rất nhỏ
trên trời. Thực tế không cần kính thiên văn lớn, nhưng phải chụp được
một vùng bao la trên trời. Do đó cần phải có một network ( mạng) kính
thiên văn từ nước này qua nước kia 24/24 tiếng để ‘nhìn’ trời. Hiện NASA
có một network như vậy.
Gia Minh: Như thế phải có sự phối hợp giữa các nước với nhau?
Khoa học gia Trịnh Xuân Thuận: Đúng rồi. Phần đông những nước
có khả năng tài chính để phối hợp là Mỹ, Châu Âu và Nhật thôi. Họ lo
chuyện đó; chỉ dùng khả năng của network đó thôi.
Gia Minh: Cám ơn giáo sư đã dành thời gian cho chương trình.
Nasa trấn an : Thiên thạch bay "sát" trái đất nhưng không đáng lo
Ảnh Nasa chụp Thiên thạch 2012 DA14 dự kiến bay sát trái đất vào ngày 15/2/2013. REUTERS/NASA/JPL-Caltech
heo cơ quan không gian Hoa Kỳ, vào ngày thứ sáu 15/02/2013,
một thiên thạch nặng 135 ngàn tấn sẽ bay “gần” trái đất nhưng không va
chạm. Nasa cho biết là đã thực hiện nhiều tiến bộ quan trọng trong việc
phát hiện và đo lường quỹ đạo các vật
Biến đổi khí hậu đe dọa Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long
Gia Minh, biên tập viên
2011-10-17
Lâu nay tại nhiều nơi trên trái đất người ta ghi nhận nhiều hiện tượng bất thường về thời tiết mà giới khoa học cho bởi tình trạng biến đổi khí hậu gây nên.
AFP
Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, vựa lúa chính của Việt Nam, là một
trong những nơi được cho bị tác động bởi tình trạng đó. Do vậy, Nhà Nước
Việt Nam cũng như giới khoa học đặc biệt quan tâm.
Vậy công tác nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu tại khu vực đó thế nào?
Trong chuyên mục Khoa Học-Môi trường kỳ này, Gia Minh hỏi chuyện tiến sĩ Lê Anh Tuấn, thuộc Viện Nghiên cứu Biến Đổi Khí hậu, Đại học Cần Thơ, về công tác đó. Trước hết ông giới thiệu những công tác đang thực hiện:
Gia Minh: Qua một thời gian hoạt động, những kết quả cụ thể đạt được cho đến nay thế nào?
Ts Lê Anh Tuấn: Thứ nhất chúng tôi giúp cho các chính quyền địa phương nhận ra được những tác động của tình trạng biến đổi khí hậu đến với khu vực của họ như thế nào.
Gia Minh: Những mô hình nhỏ đó nằm tại những địa phương nào thưa tiến sĩ?
Ts Lê Anh Tuấn: Chúng tôi làm ở những vùng bị rủi ro cao như những vùng lũ ở An Giang hay Đồng Tháp, hoặc những vùng mặn như ở Bến Tre, Bạc Liêu, Trà Vinh và Sóc Trăng. Tại Cần Thơ chúng tôi cũng chọn một số điểm như thế; tức là chọn một số điểm ở vùng lũ, rồi vùng mặn, vùng ở giữa.
Gia Minh: Qua quan sát, trung tâm thấy có những thay đổi cụ thể nào trong thời gian qua?
Ts Lê Anh Tuấn: Thực ra biến đổi khí hậu đến từ từ chứ không như thiên tai hay bão tố, lũ lụt mà chúng ta thấy rất rõ.
Vậy công tác nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu tại khu vực đó thế nào?
Trong chuyên mục Khoa Học-Môi trường kỳ này, Gia Minh hỏi chuyện tiến sĩ Lê Anh Tuấn, thuộc Viện Nghiên cứu Biến Đổi Khí hậu, Đại học Cần Thơ, về công tác đó. Trước hết ông giới thiệu những công tác đang thực hiện:
Kế hoạch ứng phó
Ts Lê Anh Tuấn: Chúng tôi nghiên cứu những kịch bản biến đổi khí hậu liên quan đến vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Đặc biệt chúng tôi chú trọng đến những đối tượng bị tổn thương nhiều do biến đổi khí hậu như những người nghèo, những người sống tại các vùng chịu rủi ro cao, những nông dân sản xuất tại những vùng bị ngập lũ hay vùng ven biển. Từ đó tìm ra những giải pháp thích nghi cho họ, mà những giải pháp đó phù hợp với điều kiện tự nhiên và khả năng tài chính mà họ có thể có được.Gia Minh: Qua một thời gian hoạt động, những kết quả cụ thể đạt được cho đến nay thế nào?
Ts Lê Anh Tuấn: Thứ nhất chúng tôi giúp cho các chính quyền địa phương nhận ra được những tác động của tình trạng biến đổi khí hậu đến với khu vực của họ như thế nào.
chúng tôi chú trọng đến những đối tượng bị tổn thương nhiều do biến đổi khí hậu như những người nghèo, những người sống tại các vùng chịu rủi ro cao, những nông dân sản xuất tại những vùng bị ngập lũ hay vùng ven biển. Từ đó tìm ra những giải pháp thích nghi cho họ
Ts Lê Anh Tuấn
Tiếp đó chúng tôi có những cuộc tiếp xúc với người nông dân để họ
cho chúng tôi biết những khó khăn gì mà họ đang gặp phải, liên quan đến
sản xuất, sinh kế của họ cũng như phản ánh của họ về chính sách hiện nay
có phù hợp với điều kiện canh tác, hay điều kiện thay đổi khí hậu- thời
tiết trong tương lai. Chúng tôi cũng ghi nhận những mong muốn của họ để
về xây dựng nên những dự án. Từ những dự án đó chúng tôi xin tài trợ
của các tổ chức trong cũng như ngoài nước giúp cho họ cách nào đó để
thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu trong thời điểm hiện tại cũng
như trong tương lai.
Gia Minh: Hiện chính quyền trung ương tại Việt Nam cũng có chương trình phòng chống biến đổi khí hậu, và như ông cho biết có giúp nâng cao nhận thức cho các chính quyền địa phương về vấn đề liên quan, vậy cả hai được kết hợp triển khai ra sao?
Ts Lê Anh Tuấn: Chúng tôi triển khai theo hai hướng: hướng từ trên xuống nhằm xem các chính sách từ trung ương đưa xuống mang tính chung chung, rồi một số chính sách liên quan đến biến đổi khí hậu, và kinh phí từ trung ương rót xuống cho các tỉnh thực hiện công tác nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu cụ thể lên vùng địa phương của họ. Hướng thứ hai từ dưới lên: xem tác động xảy ra tại địa phương thế nào qua phản ánh của người dân sống tại địa phương đó. Rồi người dân đưa ra những đề xuất gì. Chúng tôi đứng ở giữa, giúp cho chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện phối hợp được những điều từ trên đưa xuống, dưới đưa lên, từ đó có những hành động thích ứng biến đổi khí hậu trước mắt và trong tương lai.
Chúng tôi cũng tổ chức những buổi tập huấn cho người dân làm quen với việc phân tích những khó khăn, cũng như những mối rủi ro và những biện pháp thích nghi phù hợp.
Ts Lê Anh Tuấn: Tùy theo từng vùng. Tại những vùng lũ, họ xem có thể tận dụng được gì mà lũ mang lại cho sinh kế của họ, hoặc hạn chế những tác hại của lũ, chẳng hạn. Còn ở những vùng hạn họ chọn ra những loại cây trồng thích hợp và những biện pháp nào có thể sử dụng nước ngọt tiết kiệm. Và thay vì tập trung nhiều để sản xuất lúa, thì có thể chọn một loại cây ít cần nhiều nước hơn, hoặc những vùng nào mặn quá thì chuyển qua nuôi trồng thủy sản … Đồng thời chúng tôi cũng đề xuất cho họ những cách xây nhà tránh bão, hoặc đặt một cao trình nào đó để tránh được lũ lụt, hoặc
Gia Minh: Hiện chính quyền trung ương tại Việt Nam cũng có chương trình phòng chống biến đổi khí hậu, và như ông cho biết có giúp nâng cao nhận thức cho các chính quyền địa phương về vấn đề liên quan, vậy cả hai được kết hợp triển khai ra sao?
Ts Lê Anh Tuấn: Chúng tôi triển khai theo hai hướng: hướng từ trên xuống nhằm xem các chính sách từ trung ương đưa xuống mang tính chung chung, rồi một số chính sách liên quan đến biến đổi khí hậu, và kinh phí từ trung ương rót xuống cho các tỉnh thực hiện công tác nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu cụ thể lên vùng địa phương của họ. Hướng thứ hai từ dưới lên: xem tác động xảy ra tại địa phương thế nào qua phản ánh của người dân sống tại địa phương đó. Rồi người dân đưa ra những đề xuất gì. Chúng tôi đứng ở giữa, giúp cho chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện phối hợp được những điều từ trên đưa xuống, dưới đưa lên, từ đó có những hành động thích ứng biến đổi khí hậu trước mắt và trong tương lai.
Chúng tôi cũng tổ chức những buổi tập huấn cho người dân làm quen với việc phân tích những khó khăn, cũng như những mối rủi ro và những biện pháp thích nghi phù hợp.
Tại những vùng lũ, họ xem có thể tận dụng được gì mà lũ mang lại cho sinh kế của họ, hoặc hạn chế những tác hại của lũ, chẳng hạn. Còn ở những vùng hạn họ chọn ra những loại cây trồng thích hợp và những biện pháp nào có thể sử dụng nước ngọt tiết kiệmGia Minh: Khi tiếp xúc với nông dân thì họ nêu ra những thay đổi nào ảnh hưởng đến sinh kế của họ?
Ts Lê Anh Tuấn
Ts Lê Anh Tuấn: Tùy theo từng vùng. Tại những vùng lũ, họ xem có thể tận dụng được gì mà lũ mang lại cho sinh kế của họ, hoặc hạn chế những tác hại của lũ, chẳng hạn. Còn ở những vùng hạn họ chọn ra những loại cây trồng thích hợp và những biện pháp nào có thể sử dụng nước ngọt tiết kiệm. Và thay vì tập trung nhiều để sản xuất lúa, thì có thể chọn một loại cây ít cần nhiều nước hơn, hoặc những vùng nào mặn quá thì chuyển qua nuôi trồng thủy sản … Đồng thời chúng tôi cũng đề xuất cho họ những cách xây nhà tránh bão, hoặc đặt một cao trình nào đó để tránh được lũ lụt, hoặc
làm nhà thế nào cho thoáng mát để giảm bớt thay đổi về nhiệt độ, trồng cây xanh…
Thí điểm trên từng vùng nhỏ
Gia Minh: Những vùng cụ thể và những công tác cụ thể ra sao?
Ts Lê Anh Tuấn: Thực tế đến bây giờ mới triển khai ở dạng cộng đồng nhỏ mà thôi. Ở cấp xã và huyện chúng tôi làm thử một số mô hình mẫu. Từ mô hình mẫu đó rút kinh nghiệm xem có phát triển tốt không, giúp được cho người dân thích ứng tốt không. Tiếp đó sẽ mời người dân ở những địa phương khác đến xem, rồi họ trao đổi với nhau điều gì làm tốt, việc gì không làm được, hoặc làm thì cần có những điều kiện nào đó như sự hổ trợ của chính quyền hay trung ương… Đó là những cuộc tọa đàm giữa người dân với nhau, có sự tham gia của những nhà khoa học và đại diện của chính quyền. Từ đó tìm ra giải pháp phù hợp cho vùng này có thể áp dụng cho vùng khác được không, và cần cải tiến như thế nào…
Ts Lê Anh Tuấn: Thực tế đến bây giờ mới triển khai ở dạng cộng đồng nhỏ mà thôi. Ở cấp xã và huyện chúng tôi làm thử một số mô hình mẫu. Từ mô hình mẫu đó rút kinh nghiệm xem có phát triển tốt không, giúp được cho người dân thích ứng tốt không. Tiếp đó sẽ mời người dân ở những địa phương khác đến xem, rồi họ trao đổi với nhau điều gì làm tốt, việc gì không làm được, hoặc làm thì cần có những điều kiện nào đó như sự hổ trợ của chính quyền hay trung ương… Đó là những cuộc tọa đàm giữa người dân với nhau, có sự tham gia của những nhà khoa học và đại diện của chính quyền. Từ đó tìm ra giải pháp phù hợp cho vùng này có thể áp dụng cho vùng khác được không, và cần cải tiến như thế nào…
Thực tế đến bây giờ mới triển khai ở dạng cộng đồng nhỏ mà thôi. Ở cấp xã và huyện chúng tôi làm thử một số mô hình mẫu. Từ mô hình mẫu đó rút kinh nghiệmMới chỉ dám triển khai ở dạng nhỏ thôi chưa ở dạng lớn vì những lý do: kinh phí hạn chế, chưa biết được độ rủi ro của những đều xuất đến đâu.
Ts Lê Anh Tuấn
Gia Minh: Những mô hình nhỏ đó nằm tại những địa phương nào thưa tiến sĩ?
Ts Lê Anh Tuấn: Chúng tôi làm ở những vùng bị rủi ro cao như những vùng lũ ở An Giang hay Đồng Tháp, hoặc những vùng mặn như ở Bến Tre, Bạc Liêu, Trà Vinh và Sóc Trăng. Tại Cần Thơ chúng tôi cũng chọn một số điểm như thế; tức là chọn một số điểm ở vùng lũ, rồi vùng mặn, vùng ở giữa.
Gia Minh: Qua quan sát, trung tâm thấy có những thay đổi cụ thể nào trong thời gian qua?
Ts Lê Anh Tuấn: Thực ra biến đổi khí hậu đến từ từ chứ không như thiên tai hay bão tố, lũ lụt mà chúng ta thấy rất rõ.
Một số nơi nếu có đến thực sự, thì thấy một số nơi người dân có thể tồn tại, thích ứng và phát triển được nhưng có một số nơi khó khăn hơn. Chúng tôi đang từ từ tổng kết những mô hình như thế. Hiện nay chưa có đủ dữ liệu để nói mô hình này tốt hơn mô hình kia hay như thế nào. Quá trình đó chúng tôi đang tiếp tục theo dõi.
Gia Minh: Có đánh giá đối với hiện tượng nước lũ năm nay về nhiều không, thưa ông?
Ts Lê Anh Tuấn:
Chúng tôi mới có một số đánh giá sơ bộ. Thực ra mùa lũ đang diễn biến.
Những năm trước, khô hạn rất nặng nề nên một số nơi như những vùng có đê
bao, họ không quản lý, bồi đắp, sửa chữa lại những đê bao. Năm nay, lũ
đến đột ngột và cao hơn mọi năm nhiều, xấp xỉ năm 2000. Hậu quả một số
vùng đê bao không làm kỹ lưỡng bị vỡ gây thiệt hại. Những chổ có chuẩn
bị tốt hơn thì có thể chống chọi được, và có thể thu hoạch được lúa thu
đông- tức lúa vụ ba. Điều đó chúng tôi cũng đang tập hợp tất cả những số
liệu để phân tích phần nào do nguyên nhân bất thường từ thiên nhiên, và
nguyên nhân nào do chủ quan của con người.
Ts Lê Anh Tuấn: Tình trạng nhiễm mặn năm rồi cũng sâu hơn mọi năm khá nhiều, một phần do nguồn nước từ thượng nguồn xuống rất ít, và vào những giai đoạn triều cường mặn nhiễm sâu hơn. Nhiều vùng hồi nào giờ không bị nhiễm mặn, nhưng năm rồi có dấu hiệu mặn đến rồi.
Khi tôi mới bắt đầu công tác này thì khái niệm biến đổi khí hậu còn xa lạ đối với người dân, nhưng bây giờ họ quen rồi và có thể tham gia lý giải trong vấn đề này.
Gia Minh: Vậy những đề xuất như thế nào?
Ts Lê Anh Tuấn: Tổng quát, hiện nay vẫn tiếp tục theo dõi những diễn biến của biến đổi khí hậu, tiếp tục phân tích những số liệu để có kịch bản tốt hơn giúp giảm bớt những rủi ro. Cần lường trước được những bất ổn mà chưa tiên đoán được, ví dụ những đập xây dựng ở thượng nguồn sẽ làm đảo lộn tất cả qui luật của dòng chảy của Sông Mê Kông đối với vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, rồi những biện pháp thích nghi của người dân hiện nay có thích ứng trong tương lai hay không. Rồi xem lại những đầu tư cần thiết cho Đồng bằng Sông Cửu Long trong tương lai. Vấn đề này cũng đang tiếp tục làm để có những kế hoạch hành động trong tương lai.
Gia Minh: Việc phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác như thế nào?
Ts Lê Anh Tuấn: Chúng tôi có thành lập ra những mạng lưới để trao đổi và chia xẻ thông tin với nhau. Chúng tôi thường tổ chức những cuộc hội thảo cũng như tham gia những cuộc hội thảo,hoặc tham gia hội thảo của các đơn vị khác để trao đổi thông tin về những gì chúng tôi có và xem lại những mô hình thích ứng khác nhau. Các dự án khác đang triển khai họ cũng gửi cho chúng tôi góp ý.Chúng tôi cũng tham gia một phần hay toàn bộ trong quá trình thực hiện dự án.
Chúng tôi làm ở những vùng bị rủi ro cao như những vùng lũ ở An Giang hay Đồng Tháp, hoặc những vùng mặn như ở Bến Tre, Bạc Liêu, Trà Vinh và Sóc Trăng. Tại Cần Thơ chúng tôi cũng chọn một số điểm như thế; tức là chọn một số điểm ở vùng lũ, rồi vùng mặn, vùng ở giữaGia Minh: Còn tình trạng nhiễm mặn thì thế nào?
Ts Lê Anh Tuấn
Ts Lê Anh Tuấn: Tình trạng nhiễm mặn năm rồi cũng sâu hơn mọi năm khá nhiều, một phần do nguồn nước từ thượng nguồn xuống rất ít, và vào những giai đoạn triều cường mặn nhiễm sâu hơn. Nhiều vùng hồi nào giờ không bị nhiễm mặn, nhưng năm rồi có dấu hiệu mặn đến rồi.
Khi tôi mới bắt đầu công tác này thì khái niệm biến đổi khí hậu còn xa lạ đối với người dân, nhưng bây giờ họ quen rồi và có thể tham gia lý giải trong vấn đề này.
Gia Minh: Vậy những đề xuất như thế nào?
Ts Lê Anh Tuấn: Tổng quát, hiện nay vẫn tiếp tục theo dõi những diễn biến của biến đổi khí hậu, tiếp tục phân tích những số liệu để có kịch bản tốt hơn giúp giảm bớt những rủi ro. Cần lường trước được những bất ổn mà chưa tiên đoán được, ví dụ những đập xây dựng ở thượng nguồn sẽ làm đảo lộn tất cả qui luật của dòng chảy của Sông Mê Kông đối với vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, rồi những biện pháp thích nghi của người dân hiện nay có thích ứng trong tương lai hay không. Rồi xem lại những đầu tư cần thiết cho Đồng bằng Sông Cửu Long trong tương lai. Vấn đề này cũng đang tiếp tục làm để có những kế hoạch hành động trong tương lai.
Gia Minh: Việc phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác như thế nào?
Ts Lê Anh Tuấn: Chúng tôi có thành lập ra những mạng lưới để trao đổi và chia xẻ thông tin với nhau. Chúng tôi thường tổ chức những cuộc hội thảo cũng như tham gia những cuộc hội thảo,hoặc tham gia hội thảo của các đơn vị khác để trao đổi thông tin về những gì chúng tôi có và xem lại những mô hình thích ứng khác nhau. Các dự án khác đang triển khai họ cũng gửi cho chúng tôi góp ý.Chúng tôi cũng tham gia một phần hay toàn bộ trong quá trình thực hiện dự án.
Nếu chọn những giải pháp thật tốt, lại bị giới hạn về mặt tài chính. Bây giờ phải xem ngưỡng nào là tối ưu mà phù hợp điều kiện thay đổi ngoài ý muốn của mình kể cả từ thiên nhiên và từ con người. Đồng thời cũng liên quan đến những chính sách của Nhà Nước khi đầu tư cho ĐBSCLGia Minh: Tiến sĩ đánh giá về tiến độ thực hiện dự án thế nào?
Ts Lê Anh Tuấn
Ts Lê Anh Tuấn: Thực ra chúng tôi đang quá tải, công việc càng ngày càng nhiều. Vấn đề không đơn giản như suy nghĩ ban đầu. Tương đối phức tạp vì vùng đồng bằng Sông Cửu Long là nơi sản xuất lúa quan trọng của Việt Nam, cũng là nơi sản xuất thủy sản. Nếu chọn những giải pháp thật tốt, lại bị giới hạn về mặt tài chính. Bây giờ phải xem ngưỡng nào là tối ưu mà phù hợp điều kiện thay đổi ngoài ý muốn của mình kể cả từ thiên nhiên và từ con người. Đồng thời cũng liên quan đến những chính sách của Nhà Nước khi đầu tư cho Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Đồng bằng Sông Cửu Long còn đối diện với những vấn đề, ngoài chuyện ô nhiễm nguồn nước, còn chuyện gia tăng dân số, sức ép về phát triển kinh tế, đến chuyện các nước như Lào, Kampuchia, Trung Quốc xây dựng những đập thủy điện chắn ngang dòng chảy mà Việt Nam không thể kiểm soát quá trình vận hành … Đó là những thử thách rất lớn mà tôi không biết mình ( Việt Nam) có được những giải pháp tối ưu nào để đối phó.
Đó là vấn đề nhức đầu mà chúng tôi đang tìm cách giải quyết.
Gia Minh: Cám ơn tiến sĩ nhiều.
Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.
NGHIÊM TRANG * GIA ĐINH VIỆT NAM TẠI ĐỨC
Câu chuyện vượt biên của một gia đình Việt tại Đức
Cập nhật lúc 08-02-2013 15:15:02 (GMT+1)Người Việt ở Dorsten liên hoan với cha đạo. Ảnh: Picasa. |
Hoang Nhu Thiet nay đã 64 tuổi, cùng vợ và các con vượt biển vào năm 1980 để thoát khỏi Việt Nam. Số phận đã đưa anh đến Đức trên chuyến tàu định mệnh năm ấy.
“Ngày
24.4.1980, chúng tôi lên thuyền, tất cả 45 người cùng thực phẩm đủ ăn
một tháng,“ Nhu Thiet kể. Thuyền lúc đó rộng 3,8 mét, dài 11 mét, chở
những người Việt muốn đi tìm miền đất mới, trong đó có anh và người vợ
đang mang thai đứa con thứ tư.
Họ đã lái thuyến hướng về phía mà họ
nhìn thấy có một chiếc trực thăng nào đó và luôn ra tín hiệu bằng ánh
sáng để cầu cứu. Sau 2 ngày lênh đênh trên biển, một chiếc tàu lớn hiện
ra.
“Chúng tôi sợ rằng đây có thể là thuyền
Nga,“ người đàn ông Việt Nam kể lại. Tuy nhiên, họ đã may mắn vì đó là
một con tàu Đức đi trên biển để cứu những người Việt Nam. Cùng với
chuyến tàu định mệnh này, họ đã đến Đức.
“Tôi không quan tâm tàu đi đâu. Tôi đã
muốn đến Mỹ vì có họ hàng, nhưng tôi cũng chào đón Đức,“ Hoang Nhu Thiet
chia sẻ. Với anh và gia đình, điều quan trọng lúc đó là được thoát khỏi
Việt Nam.
“Chúng tôi phải rời khỏi nhà mình gần
Sài Gòn. Ở đó, tôi từng là bộ đội. Họ dọa tôi sẽ cho tôi vào trại cải
tạo vì lí do chính trị,“ Nhu Thiet nhớ lại thời kì đó.
Sang đến Đức, họ được đưa về một trại
tập trung, sau đó phân tán trên toàn Đức. Nhà họ Hoàng đến thành phố
Dorsten, nơi vợ anh sinh đứa con gái. Họ trở thành những người Việt thứ
hai ở thành phố này và cô con gái được đặt tên Đức Martina.
Cả gia đình đã rất hạnh phúc khi vượt
biển thành công. Trải qua bao nhiều đắng cay, cuối cùng thì niềm vui
cũng đến với họ. Người con gái họ bỏ lại Việt Nam khi đó mới lên hai
tuổi. Nhưng chỉ ít tháng sau khi vợ chồng nhà họ Hoàng rời quê hương,
đứa bé đã được một người khác nhận nuôi và họ cũng vượt biên và kế hoạch
đoàn tụ của họ đã thành công.
Sau bé gái Martina, vợ Nhu Thiet đã hạ
sinh thêm 3 người con nữa tại Barkenberg. Gia đình đã tìm được một quê
hương mới. “Chúng tôi sống tại đây và trở thành một phần của xã hội này.
Mấy chị em chúng tôi hồi nhỏ hay đi hầu lễ cha đạo, giúp việc trong nhà
thờ vào mỗi kì nghỉ hoặc đưa thư giúp cha. Chúng tôi thuộc về nơi này,“
Martina, năm nay đã 32 tuổi, kể về tuổi thơ của mấy chị em cô. Dù vậy
thì một phần tình cảm gia đình cô vẫn dành cho quê hương Việt Nam.
Năm 1998 Nhu Thiet Hoang có trở về thăm
quê hương. „Nhưng tôi thật sự không muốn quay lại đó nữa“, người đàn ông
này thẳng thắn nói. „Cảnh sát đã giữ tôi 3 tiếng đồng hồ vì thị thực
của tôi và họ đưa ra cho tôi vô số câu hỏi. Lúc đó tôi cảm thấy mình như
một phạm nhân.“
Nghiêm Trang, Nguy Nga – vietinfo
CÔNG TỬ VĨNH LONG
Những chuyện chưa biết về đại công tử đất Vĩnh Long
Công tử Bảy Lời
Chủ nhật, 10/06/2012 09:32
Có thể nói Công tử Bảy Lời của xứ Vĩnh Long là một thanh niên con nhà giàu có nhưng tính tình khác xa Hắc Công tử Bạc Liêu và Bạch Công tử Mỹ Tho.
Thương người, yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào, từ lúc còn rất trẻ Công tử Lời đã ý thức được sự thống trị, áp bức
của người Pháp và sớm tham gia vào cuộc cách mạnh giải phóng dân tộc.
Công tử Lời hy sinh đền nợ nước khi mới bước qua tuổi 30, nhưng mãi cho đến tận bây giờ mỗi khi nhắc đến tên Công tử Lời nhiều người còn tiếc thương cảm phục, trong khi người đời luôn chê cười lối sống xa hoa trụy lạc đến mức táng gia bại sản, không cần biết gì đến sự hưng vong của quốc gia như 2 vị Công tử xứ Bạc Liêu, Mỹ Tho.
Công tử Lời và vụ hỏi vợ có 1 không 2
Như đã nói, năm 16 tuổi Công tử Lời được cha sắm cho 1 chiếc xe hơi hiệu DeLage mui trần với giá 5.000 đồng tiền Đông Dương bấy giờ, tương đương với giá 500 tấn lúa. Hồi đó ở xứ Cái Nhum chỉ có một mình Công tử Lời có xe hơi, cộng thêm với cái mã đẹp trai, con nhà giàu, nên cậu Bảy Lời là niềm mơ ước hàng đêm của không biết bao nhiêu cô con gái trong những gia đình danh gia vọng tộc xứ Cái Nhum, Long Hồ, Vĩnh Long.
Mỗi lần Công tử Lời đưa xe ra đường, các cô gái quần là áo lượt thi nhau xin được quá giang xe của cậu Bảy, mong lọt vào mắt xanh của cậu.
Nhưng Công tử Lời lúc đó chẳng thèm tơ tưởng gì đến chuyện trai gái yêu thương, trong mắt của cậu Bảy Lời lúc đó đám con gái con nhà khuê các, danh gia vọng tộc trong vùng hình như chẳng đáng giá bao nhiêu.
Tuy vậy với tính tình phóng khoáng, cậu Bảy Lời sẵn sàng cho các cô gái quá giang xe, nhưng lần nào cho các cô nàng quá giang xe cậu Bảy Lời cũng tìm cách phá đám cho bõ ghét.
Những bậc bô lão xứ Cái Nhum còn nhớ, một hôm cậu Bảy Lời đi đám cưới ở thị xã Vĩnh Long. Tình cờ đi chung đám cưới với cậu Bảy Lời có các tiểu thư con nhà khuê các ở xứ Cái Nhum. Khi phát hiện cậu Bảy Lời trong đám cưới, các tiểu thư xúm lại bắt chuyện.
Đến lúc ra về, 4 cô tiểu thư xứ Cái Nhum nằng nặc đòi cậu Bảy Lời cho quá giang xe hơi về nhà, không chịu đi ghe. Nghe mấy tiểu thư đòi đi xe hơi của mình, cậu Bảy Lời vui vẻ đồng ý, mở cửa xe cho 1 cô lên ngồi phía trước, 3 cô ngồi ở ghế sau.
Cả 4 cô tiểu thư chưa kịp yên vị trên xe thì cậu Bảy Lời bật công tắc nổ máy xe rồi đạp ga cho xe phóng vụt một cái làm các tiểu thư ngã chúi nhủi ra phía trước, mặt mày xanh như tàu lá nhưng chẳng dám hé răng than thở tiếng nào.
Từ Vĩnh Long về Cái Nhum, cậu Bảy Lời cho xe phóng như bay khiến khăn choàng, áo dài của các tiểu thư tung bay phấp phới, tóc nhiều cô dựng đứng cả lên, cô nào cô nấy mặt mày méo xẹo như muốn khóc.
Cuối cùng, một cô bạo gan năn nỉ cậu Bảy Lời chạy chậm lại, nhưng càng năn nỉ thì cậu Bảy Lời càng cho xe chạy hết tốc lực, khiến các cô ngồi im thin thít.
Khi xe về đến chợ Cái Nhum, cả 4 tiểu thư áo xống xộc xệch vội vàng xuống xe, đứng xếp hàng chắp tay vái cậu Bảy Lời 1 cái thật dài rồi ai về nhà nấy, từ đó về sau chẳng cô nào dám xin quá giang xe của Công tử Lời.
Nhưng cuối cùng thì cậu Bảy Lời cũng bị tiếng sét ái tình đánh trúng, thương yêu và quyết tâm cưới bằng được một cô thôn nữ lớn hơn mình 2 tuổi về làm vợ.
Người ta kể rằng, trong những chuyến đi chơi cùng đám bạn bè ở khu vực ngã tư Long Hồ, một hôm ghé nhà người quen thì cậu Bảy Lời bất ngờ chạm mặt cô Năm Phối (Võ Thị Phối), con ông Hương cả Tường của làng An Đức, quận Châu Thành (nay là huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long).
Ông Cả Tường là người nề nếp gia phong, tuy không giàu có nhưng là người có học, nổi tiếng sống đạo đức, thanh liêm. Cô Năm Phối có 9 anh chị em, trong đó có 7 gái.
Người ta nói cô Năm Phối không phải là người phụ nữ hương sắc đến mức tuyệt thế giai nhân, lại lớn hơn cậu Bảy Lời 2 tuổi, nhưng là một thôn nữ có khuôn mặt tròn ưa nhìn, nước da trắng trẻo và có đôi bàn tay, bàn chân rất đẹp.
Nhưng trong con mắt cậu Bảy Lời, cô Năm Phối là một cô gái nết na, nhân hậu, đáng yêu và đáng để lấy làm vợ.
Muốn là làm, sau khi hỏi thăm được thân thế của cô Năm Phối, một hôm Công tử Lời lái xe thẳng đến nhà cô Năm, xin gia nhân cho vào gặp ông Cả Tường.
Khi giáp mặt vị nhạc phụ tương lai, Công tử Lời chẳng ngại ngùng, nói thẳng: “Thưa bác, con muốn cưới cô Năm, con gái bác, làm vợ”.
Ông Cả Tường chới với, vì ngày xưa muốn đi hỏi vợ là cả một chuyện đại sự, cha mẹ người con trai phải nhờ mai mối đến dạm ngỏ, còn Công tử Lời đơn thân độc mã đến gặp người lớn xin hỏi vợ là chuyện xưa nay chưa hề có.
Ông Cả Tường nhìn cậu thanh niên non choẹt, ăn mặc bảnh bao một hồi, rồi ông nghiêm sắc mặt nói thẳng: “Cậu còn trẻ, nên lo lập nghiệp. Hiện tại cậu còn xài tiền nhà.
Tôi không ham rể giàu, không ham xe hơi, nhà lầu. Ít ra cậu cũng phải nói với gia đình nhờ mai mối, chớ có “phang ngang, bửa củi” như vậy là không phải lễ…”.
Bị từ chối thẳng, cậu Bảy Lời về nhà suy tính kế` khác, quyết tâm cưới cho bằng được cô Năm Phối về làm vợ.
Cậu Bảy Lời tập hợp 12 gia nhân, sắm 12 mâm lễ vật, sai họ chèo ghe 12 cây số lên nhà ông Cả Tường để hỏi vợ, nhưng cậu Bảy không đi theo đoàn ghe. Ông Cả Tường thấy chuyện động trời như vậy nên nhất định không tiếp.
Thực hiện lời dặn của Công tử Lời, đoàn gia nhân ngay lập tức bèn giở chiêu ăn vạ: “Ông Cả không nhận sính lễ, về nhà chúng con bị Công tử Lời cho nghỉ việc”.
Gần cả ngày đoàn gia nhân nằm ăn vạ tại nhà ông Cả Tường với 12 mâm sính lễ hỏi vợ khiến dân chúng trong làng hay tin kéo tới xem rần rần như xem hát bội. Bí quá, ông Cả Tường bèn xuống nước đồng ý nhận 2 mâm lễ rồi năn nỉ đoàn người lui về.
Từ khi được ông Cả Tường nhận 2 mâm sính lễ, cậu Bảy Lời nghiễm nhiên xem mình đã là con rể trong nhà ông Cả, nên mỗi lần lái xe đi ngang nhà ông thì cậu Bảy đều ghé thăm, tặng quà.
Nhiều lúc cậu Bảy Lời lái xe hơi đi săn ở miền Đông về thì đều cho xe ghé nhà “nhạc phụ tương lai” chia đôi “chiến lợi phẩm” săn được, dù là con nai lớn hay con heo nhỏ.
Ông Cả Tường lúc đầu rất bực mình vì tính tình ngông nghênh, xốc nổi xem trời bằng vung của Công tử Lời, nhưng mỗi lần Công tử Lời ghé thăm ông Cả đều phải miễn cưỡng ngồi tiếp chuyện cậu thanh niên.
Càng ngày ông Cả Tường càng phát hiện cậu Bảy Lời tuy sống phóng khoáng ngang tàng nhưng thắng tính, hỏi chuyện gì cậu Bảy Lời cũng đáp lại lễ phép, trôi chảy, kiến thức uyên thâm, chữ Pháp, chữ Hoa thông thạo khiến ông dần dần cũng thấy có cảm tình.
Thế là năm 17 tuổi, năm 1928, Công tử Lời được ông Cả Tường chấp thuận cho hỏi cưới cô Năm Phối về làm vợ.
Sau ngày về làm vợ của Công tử Lời, với bổn phận là cô con dâu út, tính tình chân thật, nết na, hiền dịu nên cô Năm Phối rất được ông bà Châu Xuyên thương yêu, tin tưởng.
Người ta kể, năm ông Châu Xuyên bệnh nặng nhắm bề khó qua khỏi nên cho gọi con dâu út là cô Năm Phối đến bên giường bệnh.
Ông Châu Xuyên đưa tận tay cô Năm Phối một cái va li bằng nhôm, kích thước to đến 30 x 40 x 10 cm và dặn dò: “Đây là tất cả gia sản của nhà ta. Tía mất rồi con ráng lo cho má con thằng Lời và đứa con sắp chào đời của nó. Con không được tiết lộ với ai. Nếu sợ không an toàn thì gởi cho chú Hai Xi, tá điền của tía, là người trọng tín nghĩa”.
Cô Năm Phối mở va li ra thấy toàn tiền giấy 100 đồng hình bộ lư chất đầy va li. Cô hết sức bàng hoàng vì từ nhỏ đến lớn cô chưa được tận tay cầm tờ giấy 10 đồng, nói chi đến 1 va li tiền đầy ắp giấy bạc 100 đồng. Sau vụ giao chiếc va li tiền, mấy ngày sau thì ông Châu Xuyên qua đời.
Lo tang lễ cho cha chồng xong, trong lúc chưa gửi tiền được cho người tin cẩn, cô Năm Phối đem chôn chiếc va li tiền trong bồ lúa rồi giăng mùng ngủ ngay trên đó để giữ chiếc va li. Sau này, nhờ chiếc va li tiền của ông Châu Xuyên giao lại mà cô Năm Phối đã nhiều lần cứu công tử Bảy Lời ra khỏi lao tù vì ông mang tội đi làm Quốc sự.
5 lần vào tù ra khám và hy sinh vì Tổ quốc
Trong lòng người dân Vĩnh Long, Công tử Lời không chỉ là người nhân ái, hay giúp đỡ tá điền, người nghèo khó mà còn là người chiến sĩ cộng sản kiên trung, từng 5 lần vào tù ra khám nhưng vẫn giữ vững khí tiết cách mạng.
Ngã tư Long Hồ, nơi Công tử Lời gặp được cô Năm Phối người vợ thủy chung con ông Hương cả Tường, cũng chính là nơi Công tử gặp được người thanh niên cùng trang lứa tên Nguyễn Văn Đại, thành viên của Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội vào năm 1929.
Năm 1930, nơi đây đã hình thành chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Vĩnh Long do ông Nguyễn Văn Thiệt làm bí thư (sau này ông Thiệt là bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long).
Chính mối duyên gặp gỡ này đã giúp “công tử” Lời bắt gặp lý tưởng Cộng sản và hăng hái tham gia vào phong trào cách mạng.
Trong lịch sử tỉnh Vĩnh Long do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản, kể lại sự việc đấu tranh đầu tiên của người dân tỉnh Vĩnh Long chống lại thực dân Pháp xâm lược, có sự tham gia của Công tử Bảy Lời: “Ngày 2/6/1930, khoảng 2.000 người gồm nông dân, tiểu thương, học sinh, thợ thủ công… từ Châu Thành, Tam Bình, Vũng Liêm kéo về ngã tư Long Hồ, sắp thành đội ngũ, giương cao biểu ngữ “Tinh thần ngày Quốc tế Lao động 1-5 muôn năm!”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!”, “Đả đảo đế quốc Pháp và quan làng tay sai!”, “Giảm thuế cho dân nghèo!”.
Ông Châu Văn Sanh (Công tử Lời) là người dẫn đầu đoàn biểu tình kéo về tỉnh lỵ Vĩnh Long trong tiếng hô vang, tiếng tù và, tiếng mõ inh ỏi. Khi đoàn biểu tình đến Văn Thánh miếu (nay thuộc phường 4, TP Vĩnh Long), cách dinh chủ tỉnh Vĩnh Long khoảng 2 cây số thì bị lính Pháp và lính người Việt chặn đường.
Theo lệnh của quan chủ tỉnh Vĩnh Long, đám binh lính thẳng tay nổ súng vào đoàn người biểu tình làm 8 người chết tại trận, 60 người khác bị thương. Công tử Bảy Lời Châu Văn Sanh bị bắt tại trận và bị giặc và đưa về giam giữ”.
Các tài liệu của tỉnh Vĩnh Long còn ghi rõ: trong cuộc đàn áp tại Văn Thánh miếu, Công tử Lời bị giặc đánh chảy máu đầu và bị lôi lên xe đem về giam ở nhà lao Vĩnh Long, sau đó chuyển lên giam tại Sài Gòn.
Sự kiện trên khiến cô Năm Phối phải dùng tiền lo lót để ông được tha, khoảng 2 tháng sau khi bị bắt giam thì Công tử Lời được ra tù. Đó là lần thứ một công tử Bảy Lời bị bắt.
Người ta nói phần nhờ cô Năm Phối chạy lo đút lót, phần do xuất thân từ tầng lớp điền chủ, lại là “công tử” ăn chơi có tiếng nên thực dân Pháp không thể tin cậu Bảy Lời là người cầm đầu đoàn biểu tình. Sau khi ra tù, Công tử Bảy Lời tiếp tục hoạt động cách mạng, cuối năm 1931 lại bị bắt.
Hồi ký của ông Nguyễn Văn Nhung, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long, có đoạn viết: “Tháng 7/1931, tôi ở chung khám lớn Sài Gòn với Tổng Bí thư Trần Phú, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Tây, Ngô Văn Chính và Châu Văn Sanh.
Trần Phú bị đánh đến lao phổi nặng, tôi và Châu Văn Sanh nằm kế bên thay nhau chăm sóc cho đồng chí Trần Phú, nhưng Trần Phú bị mệt và ho liên tục. Châu Văn Sanh có mặt lúc đồng chí Trần Phú trút hơi thở cuối cùng, sau đó có dự lễ mặc niệm noi gương người Cộng sản kiên cường”.
Ông Nguyễn Văn Nhung cũng có nhắc lại một chuyện về Công tử Bảy Lời lúc ở Khám lớn Sài Gòn: “Công tử Lời gan dạ lắm. Năm 1931 đồng chí Trần Phú bị bắt, bị tra tấn dữ dội, thêm bệnh lao phổi rất nặng nhưng giặc lại biệt giam không cho ai chăm sóc.
Công tử Lời cảm phục người đồng chí trung kiên nên đã bẻ khóa phòng giam của Trần Phú để vào chăm sóc cho ông, lén tiếp tế thức ăn, thuốc uống”.
Lần thứ 2 Công tử Bảy Lời bị bắt, cô Năm Phối lại lặn lội từ Cái Nhum lên Vĩnh Long, rồi lên Sài Gòn tìm luật sư “chạy án” cho ông. Bác sĩ Nguyễn Văn Hoài, quê Long Châu, Vĩnh Long, lại là giám đốc Nhà thương điên Biên Hòa, bày kế làm giám định sức khỏe cho “công tử” Lời và kết luận ông bị bệnh tâm thần.
Sau này bà Năm Phối kể lại cho con cháu nghe vụ này bà tốn hết “3 sọt tiền bạc trắng” (khoảng 3.000 đồng tiền Đông Dương) để “công tử” thoát nạn tù. Đến đầu năm 1932 Công tử Bảy Lời lại được ra tù.
Sau khi ra tù Công tử Bảy Lời tiếp tục hoạt động một thời gian thì ông lại bị địch bắt lần thứ 3 vào ngày 3-7-1933. Sau gần một năm giam giữ, Công tử Bảy Lời bị đưa ra tòa xét xử tội làm quốc sự.
Ngày 1-6-1934 Tòa kêu án Công tử Bảy Lời 10 năm tù giam và 10 năm đày biệt xứ.
Nghe được hung tin, cô Năm Phối lại tiếp tục “gánh bạc trắng” đi chạy án, ông lại được tha. Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp lên cầm quyền ở chính quốc, Công tử Bảy Lời tích cực tham gia phong trào đòi dân chủ, dân quyền.
Ông tiếp tục bị bắt giam lần thứ 4 tại Mỹ Tho. Lần này những kẻ bắt giam Công tử Bảy Lời chẳng thèm xét xử làm gì cho mệt mà thẳng thừng bắn tin cho gia đình mang tiền qua chuộc ông về.
Những tư liệu của gia đình Công tử Bảy Lời còn ghi, lần thứ 4 đi chuộc ông về cô Năm Phối phải chi mất “2 thùng bạc sọ”, khoảng 200 đồng tiền Đông Dương. Những người thân trong gia đình của Công tử Bảy Lời còn nhớ rõ, tuy thân bị tù đày nhưng cậu Bảy Lời vẫn giữ nguyên bản chất “công tử” hay giúp đỡ mọi người.
Trong tù, Công tử Bảy Lời hay gửi giấy ra nhờ gia đình mua bún, bánh hỏi, lạp xưởng, tôm khô, heo quay, thịt chà bông, phô mai…mỗi lần vài chục ký để gửi vô tù, mà phải là loại thượng hảo hạng.
Gia đình hỏi ông có 1 mình cần gì nhiều thức ăn như vậy, Công tử Bảy Lời trả lời tỉnh queo: chia cho mấy bạn tù cùng bồi bổ sức khỏe để tiếp tục đấu tranh.
Sau vài lần Công tử Bảy Lời bị bắt giam, bà Đào Thị Bòi gom góp tiền của để thu xếp đưa ông sang Hongkong sinh sống để ông ngưng hoạt động cách mạng nhưng Công tử Lời nhất định không chịu đi, ở lại quê hương tham gia đấu tranh.
Chiếc va ly nhôm đầy ắp giấy bạc 100 đồng do ông Châu Xuyên trao tận tay cô Năm Phối, sau này hết sạch vì lo lót chuyện tù đày và tiếp tế cho Công tử Bảy Lời.
Lần thứ 5 Công tử Bảy Lời bị giặc bắt là vào năm 1940. Theo lời kể của ông Nguyễn Thành Thơ, nguyên Phó Bí thư Thành ủy TPHCM, năm 1937-1939, theo yêu cầu cách mạng, Công tử Lời mở 1 tiệm sách ở thành phố Cần Thơ, tên nhà sách là Đời Mới, ở cầu tàu Lục Tỉnh đi lên phía tay trái, nay là đường Ngô Quyền, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
Tại tiệm sách này, Công tử Bảy Lời bán sách cách mạng tiến bộ, sách nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Thời kỳ này Mặt trận Bình dân Pháp cầm quyền nên các loại sách này được bán tự do.
Vào thời điểm này, Công tử Bảy Lời rất nổi tiếng, giao du với nhiều nhà cách mạng như: Nguyễn An Ninh, Châu Văn Liêm, Tạ Uyên, Nguyễn Thị Nhỏ…Khi nội các Daladier thay Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở Pháp thì ở Đông Dương, thực dân Pháp quay lại đàn áp dã man những người theo phong trào dân chủ.
Nhà sách Đời Mới ở Cần Thơ của Công tử Bảy Lời bị giặc đóng cửa nên ngày 4-1-1940 ông thuê xe chở sách về quê nhà chợ Cái Nhum. Khi xe chở sách đi đến ngã tư Long Hồ thì bị giặc chặn bắt quả tang trên xe có chở nhiều sách cấm và tài liệu tuyên truyền Cộng sản.
Công tử Bảy Lời bị giặc đưa về Sài Gòn giam 1 thời gian, dù cô Năm Phối đã hết sức chạy chọt lo lót nhưng đến ngày 20-7-1940 ông bị tòa án Sài Gòn kết tội “vận động lực lượng bất hợp pháp để lật đổ chính quyền” với bản án 5 năm tù và 10 năm biệt xứ. Sau khi bị tòa kết án, Công tử Bảy Lời bị đày ra Côn Đảo.
Theo lời kể của bà Võ Thị Canh, em ruột của cô Năm Phối, 6 tháng trước ngày mãn hạn tù, Công tử Bảy Lời có gửi về gia đình 1 bức thư.
Đây là bức thư cuối cùng ông viết từ nhà tù Côn Đảo, nên sau ngày Công tử Bảy Lời hy sinh bức thư của ông được bà Năm Phối cất giữ trong tủ sắt như một bảo vật.
Bà Canh kể, bức thư cuối cùng của Công tử Bảy Lời viết bằng mực tím, nội dung tha thiết nhớ nhung vợ con, xin lỗi vợ vì mình nặng việc đại sự quốc gia nên đã không làm tròn trách nhiệm 1 người con đối với mẹ già, không làm tròn trách nhiệm người chồng, người cha…
Trong bức thư, Công tử Bảy Lời còn cho gia đình biết sau khi về đến đất liền ông phải tiếp tục chịu án “lưu đày biệt xứ 10 năm” trên Long Khánh, Đồng Nai.
Theo thông báo của chính quyền thực dân, ngày Công tử Bảy Lời được về đất liền là ngày 3-7-1943, nên cô Năm Phối và gia đình đếm từng ngày để mong gặp mặt ông.
Văn Thánh Miếu Vĩnh Long, nơi Công tử Bảy Lời cầm đầu
đoàn biểu tình đầu tiên ở Vĩnh Long và bị giặc bắt lần thứ nhất.
Càng gần đến ngày mãn hạn tù, gia đình, người thân và nhiều đồng chí của ông trong đất liền càng mong ngóng, trông tin, bởi trong Công văn của chúa đảo Côn Sơn gửi toàn quyền Đông Dương vào ngày 21/6-1943 báo cáo danh sách 17 tù nhân được trả tự do vào ngày 3-7 năm đó có ông Châu Văn Sanh, Công tử Bảy Lời.
Nhưng Công tử Bảy Lời đã không bao giờ về được đất liền, quê mẹ. vào ngày 3/7/1943, cái ngày mà gia đình lẽ ra phải được gặp mặt Công tử Bảy Lời thì cả nhà ngất xỉu khi nhận được hung tin ông đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 27-6 tại nhà tù Côn Đảo, trước ngày mãn hạn tù 6 ngày.
Công tử Bảy Lời hy sinh khi chỉ mới 33 tuổi, cái tuổi sung mãn nhất của người thanh niên đang xả thân vì nghiệp lớn. Sau này Công tử Bảy Lời được Nhà nước truy tặng Liệt sĩ.
Về cái chết của Công tử Bảy Lời ở nhà tù Côn Đảo, cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào xác thực vì sao ông hy sinh chỉ 6 ngày trước khi mãn hạn tù giam.
Theo 1 vài tài liệu (chủ yếu qua những câu chuyện kể của những người từng biết Công tử Bảy Lời) thì có tin nói ông chết vì bị suy kiệt sức khỏe do mắc bệnh kiết lỵ quá nặng nhưng bọn cai ngục không cho chữa trị. Nhưng theo tin đồn và tài liệu của người Pháp để lại, có cơ sở để tin rằng Công tử Bảy Lời chết do bị bọn cai ngục thủ tiêu theo lệnh quan thầy.
Trong công văn của chúa ngục Côn Sơn gửi cho Toàn quyền Đông Dương ngày 21/6/1943 có đề cập đến việc phải thả tù nhân Châu Văn Sanh (tức Công tử Bảy Lời) vào ngày 3/7/1943, nhưng không hề đề cập gì đến tình trạng sức khỏe, bệnh tật của công tử.
Chỉ 6 ngày sau khi có công văn này thì Công tử Bảy Lời hy sinh. Người ta đồn rằng, do biết chắc sau khi mãn hạn tù Công tử Bảy Lời sẽ tiếp tục hoạt động cách mạng chống lại chính quyền thực dân Pháp nên giặc Pháp đã lén lút thủ tiêu ông.
Nguồn tin này có cơ sở vì giặc Pháp liệt ông là thành phần ngoan cố, chống phá chính quyền Pháp bị bắt đã 5 lần nhưng vẫn không sợ, sau khi ra tù có thêm uy tín để tập hợp quần chúng đấu tranh nên chúng thủ tiêu ông.
1 tài liệu của gia đình Công tử Bảy Lời còn cho biết: việc thủ tiêu Công tử Bảy Lời đã được giặc Pháp tính toán trước, bởi lẽ sau khi nhận được thư của Công tử Bảy Lời thông báo ông sẽ được tha về đất liền để chấp hành bản án 10 năm lưu đày biệt xứ thì cô Năm Phối vội vã đến Cảnh sát tỉnh Vĩnh Long để hỏi thăm chuyện đi đày biệt xứ.
Tại đây tên cảnh sát trưởng thẳng thừng trả lời cô Năm Phối: “Ổng không về đâu, bà đừng chờ đợi mất công. Đất nước này làm gì có chỗ cho ổng dung thân”.
Lúc đầu gia đình vợ con của Công tử Bảy Lời tưởng tên cảnh sát trưởng hù dọa. Nhưng sau đó chuyện Công tử Bảy Lời không bao giờ về tới đất liền gặp mặt vợ con đã thành sự thật.
Công tử Bảy Lời hy sinh để lại người vợ và 4 người con, nhưng tấm gương trung kiên bất khuất của ông cho đến nay người dân Vĩnh Long vẫn còn nhớ mãi.
Công tử Lời hy sinh đền nợ nước khi mới bước qua tuổi 30, nhưng mãi cho đến tận bây giờ mỗi khi nhắc đến tên Công tử Lời nhiều người còn tiếc thương cảm phục, trong khi người đời luôn chê cười lối sống xa hoa trụy lạc đến mức táng gia bại sản, không cần biết gì đến sự hưng vong của quốc gia như 2 vị Công tử xứ Bạc Liêu, Mỹ Tho.
Chân dung mẹ công tử
Công tử Lời và vụ hỏi vợ có 1 không 2
Như đã nói, năm 16 tuổi Công tử Lời được cha sắm cho 1 chiếc xe hơi hiệu DeLage mui trần với giá 5.000 đồng tiền Đông Dương bấy giờ, tương đương với giá 500 tấn lúa. Hồi đó ở xứ Cái Nhum chỉ có một mình Công tử Lời có xe hơi, cộng thêm với cái mã đẹp trai, con nhà giàu, nên cậu Bảy Lời là niềm mơ ước hàng đêm của không biết bao nhiêu cô con gái trong những gia đình danh gia vọng tộc xứ Cái Nhum, Long Hồ, Vĩnh Long.
Mỗi lần Công tử Lời đưa xe ra đường, các cô gái quần là áo lượt thi nhau xin được quá giang xe của cậu Bảy, mong lọt vào mắt xanh của cậu.
Nhưng Công tử Lời lúc đó chẳng thèm tơ tưởng gì đến chuyện trai gái yêu thương, trong mắt của cậu Bảy Lời lúc đó đám con gái con nhà khuê các, danh gia vọng tộc trong vùng hình như chẳng đáng giá bao nhiêu.
Tuy vậy với tính tình phóng khoáng, cậu Bảy Lời sẵn sàng cho các cô gái quá giang xe, nhưng lần nào cho các cô nàng quá giang xe cậu Bảy Lời cũng tìm cách phá đám cho bõ ghét.
Những bậc bô lão xứ Cái Nhum còn nhớ, một hôm cậu Bảy Lời đi đám cưới ở thị xã Vĩnh Long. Tình cờ đi chung đám cưới với cậu Bảy Lời có các tiểu thư con nhà khuê các ở xứ Cái Nhum. Khi phát hiện cậu Bảy Lời trong đám cưới, các tiểu thư xúm lại bắt chuyện.
Đến lúc ra về, 4 cô tiểu thư xứ Cái Nhum nằng nặc đòi cậu Bảy Lời cho quá giang xe hơi về nhà, không chịu đi ghe. Nghe mấy tiểu thư đòi đi xe hơi của mình, cậu Bảy Lời vui vẻ đồng ý, mở cửa xe cho 1 cô lên ngồi phía trước, 3 cô ngồi ở ghế sau.
Cả 4 cô tiểu thư chưa kịp yên vị trên xe thì cậu Bảy Lời bật công tắc nổ máy xe rồi đạp ga cho xe phóng vụt một cái làm các tiểu thư ngã chúi nhủi ra phía trước, mặt mày xanh như tàu lá nhưng chẳng dám hé răng than thở tiếng nào.
Từ Vĩnh Long về Cái Nhum, cậu Bảy Lời cho xe phóng như bay khiến khăn choàng, áo dài của các tiểu thư tung bay phấp phới, tóc nhiều cô dựng đứng cả lên, cô nào cô nấy mặt mày méo xẹo như muốn khóc.
Cuối cùng, một cô bạo gan năn nỉ cậu Bảy Lời chạy chậm lại, nhưng càng năn nỉ thì cậu Bảy Lời càng cho xe chạy hết tốc lực, khiến các cô ngồi im thin thít.
Khi xe về đến chợ Cái Nhum, cả 4 tiểu thư áo xống xộc xệch vội vàng xuống xe, đứng xếp hàng chắp tay vái cậu Bảy Lời 1 cái thật dài rồi ai về nhà nấy, từ đó về sau chẳng cô nào dám xin quá giang xe của Công tử Lời.
Nhưng cuối cùng thì cậu Bảy Lời cũng bị tiếng sét ái tình đánh trúng, thương yêu và quyết tâm cưới bằng được một cô thôn nữ lớn hơn mình 2 tuổi về làm vợ.
Người ta kể rằng, trong những chuyến đi chơi cùng đám bạn bè ở khu vực ngã tư Long Hồ, một hôm ghé nhà người quen thì cậu Bảy Lời bất ngờ chạm mặt cô Năm Phối (Võ Thị Phối), con ông Hương cả Tường của làng An Đức, quận Châu Thành (nay là huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long).
Ông Cả Tường là người nề nếp gia phong, tuy không giàu có nhưng là người có học, nổi tiếng sống đạo đức, thanh liêm. Cô Năm Phối có 9 anh chị em, trong đó có 7 gái.
Người ta nói cô Năm Phối không phải là người phụ nữ hương sắc đến mức tuyệt thế giai nhân, lại lớn hơn cậu Bảy Lời 2 tuổi, nhưng là một thôn nữ có khuôn mặt tròn ưa nhìn, nước da trắng trẻo và có đôi bàn tay, bàn chân rất đẹp.
Nhưng trong con mắt cậu Bảy Lời, cô Năm Phối là một cô gái nết na, nhân hậu, đáng yêu và đáng để lấy làm vợ.
Muốn là làm, sau khi hỏi thăm được thân thế của cô Năm Phối, một hôm Công tử Lời lái xe thẳng đến nhà cô Năm, xin gia nhân cho vào gặp ông Cả Tường.
Khi giáp mặt vị nhạc phụ tương lai, Công tử Lời chẳng ngại ngùng, nói thẳng: “Thưa bác, con muốn cưới cô Năm, con gái bác, làm vợ”.
Ông Cả Tường chới với, vì ngày xưa muốn đi hỏi vợ là cả một chuyện đại sự, cha mẹ người con trai phải nhờ mai mối đến dạm ngỏ, còn Công tử Lời đơn thân độc mã đến gặp người lớn xin hỏi vợ là chuyện xưa nay chưa hề có.
Ông Cả Tường nhìn cậu thanh niên non choẹt, ăn mặc bảnh bao một hồi, rồi ông nghiêm sắc mặt nói thẳng: “Cậu còn trẻ, nên lo lập nghiệp. Hiện tại cậu còn xài tiền nhà.
Tôi không ham rể giàu, không ham xe hơi, nhà lầu. Ít ra cậu cũng phải nói với gia đình nhờ mai mối, chớ có “phang ngang, bửa củi” như vậy là không phải lễ…”.
Bị từ chối thẳng, cậu Bảy Lời về nhà suy tính kế` khác, quyết tâm cưới cho bằng được cô Năm Phối về làm vợ.
Cậu Bảy Lời tập hợp 12 gia nhân, sắm 12 mâm lễ vật, sai họ chèo ghe 12 cây số lên nhà ông Cả Tường để hỏi vợ, nhưng cậu Bảy không đi theo đoàn ghe. Ông Cả Tường thấy chuyện động trời như vậy nên nhất định không tiếp.
Thực hiện lời dặn của Công tử Lời, đoàn gia nhân ngay lập tức bèn giở chiêu ăn vạ: “Ông Cả không nhận sính lễ, về nhà chúng con bị Công tử Lời cho nghỉ việc”.
Gần cả ngày đoàn gia nhân nằm ăn vạ tại nhà ông Cả Tường với 12 mâm sính lễ hỏi vợ khiến dân chúng trong làng hay tin kéo tới xem rần rần như xem hát bội. Bí quá, ông Cả Tường bèn xuống nước đồng ý nhận 2 mâm lễ rồi năn nỉ đoàn người lui về.
Từ khi được ông Cả Tường nhận 2 mâm sính lễ, cậu Bảy Lời nghiễm nhiên xem mình đã là con rể trong nhà ông Cả, nên mỗi lần lái xe đi ngang nhà ông thì cậu Bảy đều ghé thăm, tặng quà.
Nhiều lúc cậu Bảy Lời lái xe hơi đi săn ở miền Đông về thì đều cho xe ghé nhà “nhạc phụ tương lai” chia đôi “chiến lợi phẩm” săn được, dù là con nai lớn hay con heo nhỏ.
Ông Cả Tường lúc đầu rất bực mình vì tính tình ngông nghênh, xốc nổi xem trời bằng vung của Công tử Lời, nhưng mỗi lần Công tử Lời ghé thăm ông Cả đều phải miễn cưỡng ngồi tiếp chuyện cậu thanh niên.
Càng ngày ông Cả Tường càng phát hiện cậu Bảy Lời tuy sống phóng khoáng ngang tàng nhưng thắng tính, hỏi chuyện gì cậu Bảy Lời cũng đáp lại lễ phép, trôi chảy, kiến thức uyên thâm, chữ Pháp, chữ Hoa thông thạo khiến ông dần dần cũng thấy có cảm tình.
Thế là năm 17 tuổi, năm 1928, Công tử Lời được ông Cả Tường chấp thuận cho hỏi cưới cô Năm Phối về làm vợ.
Sau ngày về làm vợ của Công tử Lời, với bổn phận là cô con dâu út, tính tình chân thật, nết na, hiền dịu nên cô Năm Phối rất được ông bà Châu Xuyên thương yêu, tin tưởng.
Người ta kể, năm ông Châu Xuyên bệnh nặng nhắm bề khó qua khỏi nên cho gọi con dâu út là cô Năm Phối đến bên giường bệnh.
Ông Châu Xuyên đưa tận tay cô Năm Phối một cái va li bằng nhôm, kích thước to đến 30 x 40 x 10 cm và dặn dò: “Đây là tất cả gia sản của nhà ta. Tía mất rồi con ráng lo cho má con thằng Lời và đứa con sắp chào đời của nó. Con không được tiết lộ với ai. Nếu sợ không an toàn thì gởi cho chú Hai Xi, tá điền của tía, là người trọng tín nghĩa”.
Cô Năm Phối mở va li ra thấy toàn tiền giấy 100 đồng hình bộ lư chất đầy va li. Cô hết sức bàng hoàng vì từ nhỏ đến lớn cô chưa được tận tay cầm tờ giấy 10 đồng, nói chi đến 1 va li tiền đầy ắp giấy bạc 100 đồng. Sau vụ giao chiếc va li tiền, mấy ngày sau thì ông Châu Xuyên qua đời.
Lo tang lễ cho cha chồng xong, trong lúc chưa gửi tiền được cho người tin cẩn, cô Năm Phối đem chôn chiếc va li tiền trong bồ lúa rồi giăng mùng ngủ ngay trên đó để giữ chiếc va li. Sau này, nhờ chiếc va li tiền của ông Châu Xuyên giao lại mà cô Năm Phối đã nhiều lần cứu công tử Bảy Lời ra khỏi lao tù vì ông mang tội đi làm Quốc sự.
5 lần vào tù ra khám và hy sinh vì Tổ quốc
Trong lòng người dân Vĩnh Long, Công tử Lời không chỉ là người nhân ái, hay giúp đỡ tá điền, người nghèo khó mà còn là người chiến sĩ cộng sản kiên trung, từng 5 lần vào tù ra khám nhưng vẫn giữ vững khí tiết cách mạng.
Ngã tư Long Hồ, nơi Công tử Lời gặp được cô Năm Phối người vợ thủy chung con ông Hương cả Tường, cũng chính là nơi Công tử gặp được người thanh niên cùng trang lứa tên Nguyễn Văn Đại, thành viên của Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội vào năm 1929.
Năm 1930, nơi đây đã hình thành chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Vĩnh Long do ông Nguyễn Văn Thiệt làm bí thư (sau này ông Thiệt là bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long).
Chính mối duyên gặp gỡ này đã giúp “công tử” Lời bắt gặp lý tưởng Cộng sản và hăng hái tham gia vào phong trào cách mạng.
Trong lịch sử tỉnh Vĩnh Long do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản, kể lại sự việc đấu tranh đầu tiên của người dân tỉnh Vĩnh Long chống lại thực dân Pháp xâm lược, có sự tham gia của Công tử Bảy Lời: “Ngày 2/6/1930, khoảng 2.000 người gồm nông dân, tiểu thương, học sinh, thợ thủ công… từ Châu Thành, Tam Bình, Vũng Liêm kéo về ngã tư Long Hồ, sắp thành đội ngũ, giương cao biểu ngữ “Tinh thần ngày Quốc tế Lao động 1-5 muôn năm!”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!”, “Đả đảo đế quốc Pháp và quan làng tay sai!”, “Giảm thuế cho dân nghèo!”.
Ông Châu Văn Sanh (Công tử Lời) là người dẫn đầu đoàn biểu tình kéo về tỉnh lỵ Vĩnh Long trong tiếng hô vang, tiếng tù và, tiếng mõ inh ỏi. Khi đoàn biểu tình đến Văn Thánh miếu (nay thuộc phường 4, TP Vĩnh Long), cách dinh chủ tỉnh Vĩnh Long khoảng 2 cây số thì bị lính Pháp và lính người Việt chặn đường.
Theo lệnh của quan chủ tỉnh Vĩnh Long, đám binh lính thẳng tay nổ súng vào đoàn người biểu tình làm 8 người chết tại trận, 60 người khác bị thương. Công tử Bảy Lời Châu Văn Sanh bị bắt tại trận và bị giặc và đưa về giam giữ”.
Các tài liệu của tỉnh Vĩnh Long còn ghi rõ: trong cuộc đàn áp tại Văn Thánh miếu, Công tử Lời bị giặc đánh chảy máu đầu và bị lôi lên xe đem về giam ở nhà lao Vĩnh Long, sau đó chuyển lên giam tại Sài Gòn.
Sự kiện trên khiến cô Năm Phối phải dùng tiền lo lót để ông được tha, khoảng 2 tháng sau khi bị bắt giam thì Công tử Lời được ra tù. Đó là lần thứ một công tử Bảy Lời bị bắt.
Người ta nói phần nhờ cô Năm Phối chạy lo đút lót, phần do xuất thân từ tầng lớp điền chủ, lại là “công tử” ăn chơi có tiếng nên thực dân Pháp không thể tin cậu Bảy Lời là người cầm đầu đoàn biểu tình. Sau khi ra tù, Công tử Bảy Lời tiếp tục hoạt động cách mạng, cuối năm 1931 lại bị bắt.
Hồi ký của ông Nguyễn Văn Nhung, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long, có đoạn viết: “Tháng 7/1931, tôi ở chung khám lớn Sài Gòn với Tổng Bí thư Trần Phú, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Tây, Ngô Văn Chính và Châu Văn Sanh.
Trần Phú bị đánh đến lao phổi nặng, tôi và Châu Văn Sanh nằm kế bên thay nhau chăm sóc cho đồng chí Trần Phú, nhưng Trần Phú bị mệt và ho liên tục. Châu Văn Sanh có mặt lúc đồng chí Trần Phú trút hơi thở cuối cùng, sau đó có dự lễ mặc niệm noi gương người Cộng sản kiên cường”.
Ông Nguyễn Văn Nhung cũng có nhắc lại một chuyện về Công tử Bảy Lời lúc ở Khám lớn Sài Gòn: “Công tử Lời gan dạ lắm. Năm 1931 đồng chí Trần Phú bị bắt, bị tra tấn dữ dội, thêm bệnh lao phổi rất nặng nhưng giặc lại biệt giam không cho ai chăm sóc.
Công tử Lời cảm phục người đồng chí trung kiên nên đã bẻ khóa phòng giam của Trần Phú để vào chăm sóc cho ông, lén tiếp tế thức ăn, thuốc uống”.
Lần thứ 2 Công tử Bảy Lời bị bắt, cô Năm Phối lại lặn lội từ Cái Nhum lên Vĩnh Long, rồi lên Sài Gòn tìm luật sư “chạy án” cho ông. Bác sĩ Nguyễn Văn Hoài, quê Long Châu, Vĩnh Long, lại là giám đốc Nhà thương điên Biên Hòa, bày kế làm giám định sức khỏe cho “công tử” Lời và kết luận ông bị bệnh tâm thần.
Sau này bà Năm Phối kể lại cho con cháu nghe vụ này bà tốn hết “3 sọt tiền bạc trắng” (khoảng 3.000 đồng tiền Đông Dương) để “công tử” thoát nạn tù. Đến đầu năm 1932 Công tử Bảy Lời lại được ra tù.
Sau khi ra tù Công tử Bảy Lời tiếp tục hoạt động một thời gian thì ông lại bị địch bắt lần thứ 3 vào ngày 3-7-1933. Sau gần một năm giam giữ, Công tử Bảy Lời bị đưa ra tòa xét xử tội làm quốc sự.
Ngày 1-6-1934 Tòa kêu án Công tử Bảy Lời 10 năm tù giam và 10 năm đày biệt xứ.
Nghe được hung tin, cô Năm Phối lại tiếp tục “gánh bạc trắng” đi chạy án, ông lại được tha. Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp lên cầm quyền ở chính quốc, Công tử Bảy Lời tích cực tham gia phong trào đòi dân chủ, dân quyền.
Ông tiếp tục bị bắt giam lần thứ 4 tại Mỹ Tho. Lần này những kẻ bắt giam Công tử Bảy Lời chẳng thèm xét xử làm gì cho mệt mà thẳng thừng bắn tin cho gia đình mang tiền qua chuộc ông về.
Những tư liệu của gia đình Công tử Bảy Lời còn ghi, lần thứ 4 đi chuộc ông về cô Năm Phối phải chi mất “2 thùng bạc sọ”, khoảng 200 đồng tiền Đông Dương. Những người thân trong gia đình của Công tử Bảy Lời còn nhớ rõ, tuy thân bị tù đày nhưng cậu Bảy Lời vẫn giữ nguyên bản chất “công tử” hay giúp đỡ mọi người.
Trong tù, Công tử Bảy Lời hay gửi giấy ra nhờ gia đình mua bún, bánh hỏi, lạp xưởng, tôm khô, heo quay, thịt chà bông, phô mai…mỗi lần vài chục ký để gửi vô tù, mà phải là loại thượng hảo hạng.
Gia đình hỏi ông có 1 mình cần gì nhiều thức ăn như vậy, Công tử Bảy Lời trả lời tỉnh queo: chia cho mấy bạn tù cùng bồi bổ sức khỏe để tiếp tục đấu tranh.
Sau vài lần Công tử Bảy Lời bị bắt giam, bà Đào Thị Bòi gom góp tiền của để thu xếp đưa ông sang Hongkong sinh sống để ông ngưng hoạt động cách mạng nhưng Công tử Lời nhất định không chịu đi, ở lại quê hương tham gia đấu tranh.
Chiếc va ly nhôm đầy ắp giấy bạc 100 đồng do ông Châu Xuyên trao tận tay cô Năm Phối, sau này hết sạch vì lo lót chuyện tù đày và tiếp tế cho Công tử Bảy Lời.
Lần thứ 5 Công tử Bảy Lời bị giặc bắt là vào năm 1940. Theo lời kể của ông Nguyễn Thành Thơ, nguyên Phó Bí thư Thành ủy TPHCM, năm 1937-1939, theo yêu cầu cách mạng, Công tử Lời mở 1 tiệm sách ở thành phố Cần Thơ, tên nhà sách là Đời Mới, ở cầu tàu Lục Tỉnh đi lên phía tay trái, nay là đường Ngô Quyền, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
Tại tiệm sách này, Công tử Bảy Lời bán sách cách mạng tiến bộ, sách nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Thời kỳ này Mặt trận Bình dân Pháp cầm quyền nên các loại sách này được bán tự do.
Vào thời điểm này, Công tử Bảy Lời rất nổi tiếng, giao du với nhiều nhà cách mạng như: Nguyễn An Ninh, Châu Văn Liêm, Tạ Uyên, Nguyễn Thị Nhỏ…Khi nội các Daladier thay Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở Pháp thì ở Đông Dương, thực dân Pháp quay lại đàn áp dã man những người theo phong trào dân chủ.
Nhà sách Đời Mới ở Cần Thơ của Công tử Bảy Lời bị giặc đóng cửa nên ngày 4-1-1940 ông thuê xe chở sách về quê nhà chợ Cái Nhum. Khi xe chở sách đi đến ngã tư Long Hồ thì bị giặc chặn bắt quả tang trên xe có chở nhiều sách cấm và tài liệu tuyên truyền Cộng sản.
Công tử Bảy Lời bị giặc đưa về Sài Gòn giam 1 thời gian, dù cô Năm Phối đã hết sức chạy chọt lo lót nhưng đến ngày 20-7-1940 ông bị tòa án Sài Gòn kết tội “vận động lực lượng bất hợp pháp để lật đổ chính quyền” với bản án 5 năm tù và 10 năm biệt xứ. Sau khi bị tòa kết án, Công tử Bảy Lời bị đày ra Côn Đảo.
Theo lời kể của bà Võ Thị Canh, em ruột của cô Năm Phối, 6 tháng trước ngày mãn hạn tù, Công tử Bảy Lời có gửi về gia đình 1 bức thư.
Đây là bức thư cuối cùng ông viết từ nhà tù Côn Đảo, nên sau ngày Công tử Bảy Lời hy sinh bức thư của ông được bà Năm Phối cất giữ trong tủ sắt như một bảo vật.
Bà Canh kể, bức thư cuối cùng của Công tử Bảy Lời viết bằng mực tím, nội dung tha thiết nhớ nhung vợ con, xin lỗi vợ vì mình nặng việc đại sự quốc gia nên đã không làm tròn trách nhiệm 1 người con đối với mẹ già, không làm tròn trách nhiệm người chồng, người cha…
Trong bức thư, Công tử Bảy Lời còn cho gia đình biết sau khi về đến đất liền ông phải tiếp tục chịu án “lưu đày biệt xứ 10 năm” trên Long Khánh, Đồng Nai.
Theo thông báo của chính quyền thực dân, ngày Công tử Bảy Lời được về đất liền là ngày 3-7-1943, nên cô Năm Phối và gia đình đếm từng ngày để mong gặp mặt ông.
Văn Thánh Miếu Vĩnh Long, nơi Công tử Bảy Lời cầm đầu
đoàn biểu tình đầu tiên ở Vĩnh Long và bị giặc bắt lần thứ nhất.
Càng gần đến ngày mãn hạn tù, gia đình, người thân và nhiều đồng chí của ông trong đất liền càng mong ngóng, trông tin, bởi trong Công văn của chúa đảo Côn Sơn gửi toàn quyền Đông Dương vào ngày 21/6-1943 báo cáo danh sách 17 tù nhân được trả tự do vào ngày 3-7 năm đó có ông Châu Văn Sanh, Công tử Bảy Lời.
Nhưng Công tử Bảy Lời đã không bao giờ về được đất liền, quê mẹ. vào ngày 3/7/1943, cái ngày mà gia đình lẽ ra phải được gặp mặt Công tử Bảy Lời thì cả nhà ngất xỉu khi nhận được hung tin ông đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 27-6 tại nhà tù Côn Đảo, trước ngày mãn hạn tù 6 ngày.
Công tử Bảy Lời hy sinh khi chỉ mới 33 tuổi, cái tuổi sung mãn nhất của người thanh niên đang xả thân vì nghiệp lớn. Sau này Công tử Bảy Lời được Nhà nước truy tặng Liệt sĩ.
Về cái chết của Công tử Bảy Lời ở nhà tù Côn Đảo, cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào xác thực vì sao ông hy sinh chỉ 6 ngày trước khi mãn hạn tù giam.
Theo 1 vài tài liệu (chủ yếu qua những câu chuyện kể của những người từng biết Công tử Bảy Lời) thì có tin nói ông chết vì bị suy kiệt sức khỏe do mắc bệnh kiết lỵ quá nặng nhưng bọn cai ngục không cho chữa trị. Nhưng theo tin đồn và tài liệu của người Pháp để lại, có cơ sở để tin rằng Công tử Bảy Lời chết do bị bọn cai ngục thủ tiêu theo lệnh quan thầy.
Trong công văn của chúa ngục Côn Sơn gửi cho Toàn quyền Đông Dương ngày 21/6/1943 có đề cập đến việc phải thả tù nhân Châu Văn Sanh (tức Công tử Bảy Lời) vào ngày 3/7/1943, nhưng không hề đề cập gì đến tình trạng sức khỏe, bệnh tật của công tử.
Chỉ 6 ngày sau khi có công văn này thì Công tử Bảy Lời hy sinh. Người ta đồn rằng, do biết chắc sau khi mãn hạn tù Công tử Bảy Lời sẽ tiếp tục hoạt động cách mạng chống lại chính quyền thực dân Pháp nên giặc Pháp đã lén lút thủ tiêu ông.
Nguồn tin này có cơ sở vì giặc Pháp liệt ông là thành phần ngoan cố, chống phá chính quyền Pháp bị bắt đã 5 lần nhưng vẫn không sợ, sau khi ra tù có thêm uy tín để tập hợp quần chúng đấu tranh nên chúng thủ tiêu ông.
1 tài liệu của gia đình Công tử Bảy Lời còn cho biết: việc thủ tiêu Công tử Bảy Lời đã được giặc Pháp tính toán trước, bởi lẽ sau khi nhận được thư của Công tử Bảy Lời thông báo ông sẽ được tha về đất liền để chấp hành bản án 10 năm lưu đày biệt xứ thì cô Năm Phối vội vã đến Cảnh sát tỉnh Vĩnh Long để hỏi thăm chuyện đi đày biệt xứ.
Tại đây tên cảnh sát trưởng thẳng thừng trả lời cô Năm Phối: “Ổng không về đâu, bà đừng chờ đợi mất công. Đất nước này làm gì có chỗ cho ổng dung thân”.
Lúc đầu gia đình vợ con của Công tử Bảy Lời tưởng tên cảnh sát trưởng hù dọa. Nhưng sau đó chuyện Công tử Bảy Lời không bao giờ về tới đất liền gặp mặt vợ con đã thành sự thật.
Công tử Bảy Lời hy sinh để lại người vợ và 4 người con, nhưng tấm gương trung kiên bất khuất của ông cho đến nay người dân Vĩnh Long vẫn còn nhớ mãi.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 249
No comments:
Post a Comment