Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday, 13 December 2016

GORBACHEV =GIÁO DỤC VIỆT NAM=SƠN ĐỘNG TẠI QUẢNG BÌNH =

GORBACHEV * CỘNG SẢN



Diễn Đàn: 'Chế Độ Cộng Sản Chỉ Biết Gian Dối và Tuyên Truyền'
[03/01/2007 - Tác giả: admin1 - Vietnam Review]



New York (AP) - Mikhail Gorbachev, cựu tổng thống Liên Bang Sô Viết nói rằng: "đảng Cộng Sản mà ông phục vụ cả đời chỉ biết tuyên truyền".

Gorbachev nói với một số thính giả tại trường Columbia University hôm thứ Hai, vào thời điểm ông lên cầm quyền, khi các vệ tinh của Nga đang bay trên quỹ đạo, những cán bộ lãnh đạo chỉ bàn về vấn đề kem đánh răng, bột giặt, và họ đã bàn cãi về vấn đề tạo ra những phân bộ để các phụ nữ chắc chắn có những đôi vớ dài (pantyhose) để dùng.

Nói chuyện với nhóm khán thính giả bằng tiếng Nga, Gorbachev đã đưa ra quan điểm của ông sau mười năm, sau khi ông lật đổ được "hệ thống hoang tưởng" này bằng sự cải tổ "perestroika" .


Trước đó, ông nói: "những cán bộ dảng chỉ điều hành quốc gia với sự gian dốị. Chúng tôi, trong số đó có tôi, từng nói 'Tư bản đang đi đến sự huỷ diệt, trong khi chúng ta đang phát triển tốt đẹp', lẽ dĩ nhiên, đó chỉ là những lời tuyên truyền. Trên thực tế, quốc gia chúng tôi đang bị bỏ rơi đằng sau", Gorbachev nói vậỵ Nhưng những sự cải tổ và đổi mới không đến một cách dễ dàng.

Gorbachev nói rằng: "sự đổi mới perestroika đã bành trướng không kiểm soát sau khi Boris Yeltsin lên cầm quyền năm 1991. Thay vì từ từ thay đổi để tiến đến dân chủ, Yeltsin đã hứa với dân chúng Nga là "họ sẽ tiến đến thiên đàng một cách nhanh chóng và trực chỉ".

"Đúng, chúng tôi đã trực chỉ - nhưng tiến đến vực thẳm - với sự xụp đổ của nền kinh tế và sự nỗi dậy của những tiểu bang đòi quyền tự trị", ông nói "Đó là một sự hỗn loạn mà Tổng thống Putin đã lãnh nhận. Hỗn loạn trên phương diện kinh tế, hỗn loạn trên phương diện xã hội, hỗn loạn trong nội bộ đảng, hỗn loạn trong quân đội, hỗn loạn khắp mọi nới".

Bây giờ, Gorbachev nói, Tổng thống Putin phải tạo ra một nền kinh tế mới: "Ngày nay là hy vọng và cơ hội cuối cùng của chúng tôị Nếu thất bại, chúng tôi có thể thấy tương lai của Nga rất đen tối", ông nóị

Cựu Tổng thống Nga cho biết Gorbachev Foundation, một hiệp hội có trụ sở tại Moscow, đang cố gắng tạo nên những sự liên hệ chặt chẽ giữa các công ty Nga và những công ty kỹ thuật cao trên thế giới. Ông cho biết việc làm này sẽ giúp quốc gia ông thoát khỏi cảnh "suy thoái não bộ".

Buổi thuyết trình của Gorbachev, với tựa đề "Russia: Today and the Future"[ Nga Xô: Hiện Tại và Tương Lai ], là một trong những chương trình diễn thuyết được bảo trợ bởi Harriman Institute thuộc Manhattan University Harriman Institute chuyên khảo cứu về Liên Bang Sô Viết và những tiểu bang hậu Cộng sản.

Gorbachev bắt đầu buổi diễn thuyết của ông bằng sự trình bày sơ lược về tiểu sử của Liên Bang Sô Viết, bắt đầu từ cuộc cách mạng năm 1917, cuộc cách mạng đã khởi đầu cho chế độ Cộng sản mà ông, khi còn là một thiếu niên, rất ngưỡng mô.. Dầu vậy, ông nói, ông vẫn cảm thấy là còn "hy vọng". "Putin đã đạt được những thành quả đáng khen ngợi", ông cho biết.

Và ông cũng cho biết là quốc gia đổi mới Nga Sô đã tiến bộ và đã hai lần ủng hộ Hoa Kỳ, trong cuộc chiến vùng Vịnh và sau vụ khủng bố 9-11.

Vào sáng sớm thứ Hai, Gorbachev đã đặt vòng hoa tưởng niệm tại địa điểm hai toà tháp của Trung Tâm Mậu Dịch Thế Giới để kỷ niệm 6 tháng sau ngày khủng bố.

"Chúng ta luôn luôn tưởng nhớ đến những nạn nhân và chúng ta luôn luôn đoàn kết", ông đã viết như vậy bằng tiếng Nga xuống một tấm bảng được đặt tại vùng được gọi là "ground zero".

http://www.vietnamreview.com/modules.php?name=News&file=article&sid=5582

Friday, May 22, 2009


LÊ MINH * GIÁO DỤC VIỆT NAM

Chuyện dài XHCN: Loạn thu phí và nạn “xin đểu”
của bộ máy công quyền
Lê Minh
Bộ máy hành chánh của một quốc gia sống được là nhờ vào đồng tiền đóng thuế của người dân. Tùy theo từng quốc gia, có những mức thuế cao thấp khác nhau với nguyên tắc thu nhập càng cao thì đóng càng nhiều. Nhưng nói chung thì người dân chỉ phải đóng thuế, ngoài ra không phải đóng những khoản linh tinh khác. Thế nhưng, ở Việt Nam từ bấy lâu nay đã có “loạn thu phí”, chính quyền các cấp thu loạn cào cào, khiến người nông dân cũng như người dân thành thị khốn đốn. Tại các trường học không những cũng có loạn thu phí mà còn có thêm thu ... quỹ ào ào, với những khoản thu vu vơ, phi lý mà cả giáo viên và học sinh đều phải gánh chịu.
Loạn thu phí & quỹ ở trường học
Bây giờ đã là tháng 5, là tháng cuối cùng của niên học, mọi chuyện thu phí, ký quỹ,.. gần như tạm lắng đọng sau 9 tháng loạn thu. Nhưng sự lo lắng tiếp tục trở lại khi vài tháng nữa đây học sinh phải trở lại trường. Đúng vậy, hễ cứ vào mỗi đầu năm học là các bậc phụ huynh lại một phen đau đầu với nhiều khoản thu, đặc biệt là những khoản thu “tự nguyện”.
Lấy ví dụ tại một trường ở Sài Gòn, ngay trước ngày nhập học năm học vừa rồi phụ huynh đã phải đóng sơ sơ một khoản tiền 1,25 triệu đồng chỉ cho 3 loại quỹ: Quỹ trang bị, quỹ lớp va quỹ hội phụ huynh.

Một phụ huynh ở Quảng Ninh đã kể lại trên VietNamNet rằng chị có một đứa con 5 tuổi học mẫu giáo, mà ngay ngày đầu năm đã phải đóng hơn 1 triệu đồ








ng cho các loại phí không rõ ràng như: Tiền xã hội hóa công tác giáo dục (mà giáo viên giải thích là tiền xây nhà vệ sinh, trong khi đã đóng tiền xây dựng trường); tiền học môn năng khiếu, tiền mua sách vở, đồ chơi; tiền mua chăn, gối; tiền học phí; tiền phụ phí, tiền quỹ trường, quỹ lớp, tổ chức họp phụ huynh ..., đó là chưa kể các khoản “thông thường” phải đóng như tiền đồng phục, học phí, sách giáo khoa. Ngoài những khoản có thể kể tên vanh vách, còn có những khoản vì lý do tế nhị nên khó lòng nêu ra hết được vì đó là những khoản đóng góp ... “tự nguyện”.
Vẫn biết nhiều khoản tiền phi lý nhưng phụ huynh vẫn phải đóng vì sợ con em mình bị nhà trường trù dập, kỳ thị.
Một tỉnh nghèo như Thanh Hóa mà cũng không là ngoại lệ, vì theo lời kể của phụ huynh một học sinh lớp 4 thì ngay ngày tựu trường của niên học năm nay cặp vợ chồng này đã phải đóng góp các khoản sau:
1. Tiền xây dựng trường: $300,000 đồng 2. Tiền hội phụ huynh nhà trường: $50,000 đồng 3. Tiền chi hội phụ huynh lớp (!): $40,000 đồng 4. Tiền bán trú: $40,000 đồng/tháng 5. Tiền ăn: $300,000 đồng/tháng 6. Tiền điện, nước: $8,000 đồng/tháng x 9 tháng. 7. Tiền vệ sinh: $18,000 đồng/năm 8. Tiền sử dụng thiết bị tin học(?): $15,000 đồng/năm



Thử hỏi, với những số tiền phải đóng góp như vậy, thì một cặp vợ chồng công chức làm sao kham nổi chuyện học hành cho 2 đứa con, chưa nói chi đến nông dân hoặc những người có thu nhập thấp. Tiền thu thì nhiều mà nào có chi tiêu đúng chỗ, thế cho nên các bậc phụ huynh mới phán một câu gỏn lọn: “Thu công khai, Chi mập mờ”. Mới đây ông hiệu trưởng của một trường trung học ở Quảng Trị đã xà xẻo tiền đóng góp của học sinh bằng cách chia chác bỏ túi các khoản đóng góp và chi tiêu không rõ ràng nhiều khoản. Ông hiệu trưởng này đã chỉ đạo hủy hồ sơ sổ sách để phi tang tất cả. Sau khi bị phanh phui, ông ta cho biết chỉ muốn “vay mượn thôi và đã “tự giác” nộp lại 70 triệu đồng, trong khi những khoản còn lại thì ... làm lơ. Mặc dầu sự việc rõ ràng như ban ngày nhưng cho đến nay ông này vẫn phây phây, không bị mất chức. Nỗi khổ của giới thầy cô Không riêng gì học sinh và bậc phụ huynh khốn đốn, mà giới giáo chức cũng khổ sở không kém gì. Gần đây các trường cũng đã xuất hiện nhiều kiểu loạn thu đối với giáo viên. Có nhiều khoản thu rất phi lý nhưng các giáo viên vẫn phải nộp vì sợ bị “để ý” hoặc bị “đì”. Có một khoản phí đang trở nên phổ thông là “phí tăng lương”. Tùy theo trường, tùy theo lương ngạch mà khoản phí này giao động trong khoảng từ 50 - 100 ngàn đồng. Loại phí này được dùng để trả thù lao, hay nói chính xác hơn là để “bồi dưỡng” cho ban xét duyệt nâng bậc lương và tiền công cho các nhân viên văn phòng làm và đi nộp hồ sơ. Điều phi lý ở chỗ là các thành viên trong ban xét duyệt cũng là công chức, đã có lương hẳn hòi, kể cả các giờ làm thêm.





Có một số nơi lại đẻ ra loại phí lỳ lạ là “phí phần trăm”. Đây là một số tiền không nhỏ, được trích phần trăm từ tiền kiếm được của giáo viên qua việc dạy thêm giờ, tiền thừa giờ. Có nơi còn có một loại phí phi lý khác nữa là phí “hội dâu rể”. Đây là loại phí để chi tiêu cho các tiệc chung vui cuối năm giữa các giáo chức với nhau. Đó là chưa kể đến các loại phí “phổ thông” do nhà nước và Mặt Trận TQ phát động như Quỹ “vì người nghèo”, Quỹ “nạn nhân chất độc da Cam”, Quỹ “khuyến học”. Ngoài ra còn vô số các loại quỹ vớ vẩn như quỹ “Công đoàn nghèo”, quỹ “xây dựng nhà công vụ”,v.v... Mặc dầu đồng lương đã eo hẹp không đủ sống, nhưng tất cả những loại quỹ này ngốn hết hơn 10% lương của người giáo chức. Cho nên mới nói, thật là lạ nếu không có nạn dạy thêm, ép buộc học sinh học thêm ngoài giờ, ăn hối lộ điểm, đi quà cáp cho thầy cô các ngày lễ,... Người nông dân và hàng trăm khoản phí, quỹ Hình ảnh người nông dân Việt Nam từ thuở xưa, lúc nào cũng lam lũ qua các triều đại, chế độ, nhưng chưa bao giờ người nông dân VN lại khổ như thời CS bởi sưu cao thuế nặng, lại phải đóng góp nhiều khoản thu liên miên. Cách nay gần 2 năm, sau khi nhận được nhiều lời ta thán của người nông dân, Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn (NN & PTNT) đã rà xoát lại thì cả nước mới biết là người nông dân VN phải chịu đến 122 khoản thuế và các khoản đóng góp khác nhau. Sở dĩ người nông dân phải đóng góp quá nhiều khoản phí như vậy vì ngoài các khoản thuế chính thức mà họ phải nộp, thì họ còn phải gồng mình đóng góp các khoản phí do các ban ngành, chính quyền các cấp từ tỉnh, xuống đến huyện, xã ấp ban hành một cách tuỳ tiện.

Một địa phương nghèo như xã Hưng Lam, huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An, mà cũng phải đóng góp đến 2 triệu cho mỗi gia đình, thì những địa phương “khá” hơn chắn chắn phải đóng góp nhiều hơn bội phần. Những loại phí “phổ thông” mà người nông dân phải nộp có thể được liệt kê như Khai sinh, chứng từ, xác nhận lý lịch, đăng ký hộ khẩu, chứng thực hợp đồng, cấp giấy tạm trú, trích lục bản đồ,... Ngoài ra còn có nhiều loại phí phi lý khác như thủy lợi phí (tu bổ kênh mương), quỹ an ninh quốc phòng, quỹ phòng chống lụt bão, quỹ kinh tế mới, quỹ xây dựng cơ sở hạ tầng,... Tính trung bình các khoản chi phí này ngốn hết từ 5 - 10% thu nhập của người nông dân, trong khi họ phải quần quật trên cánh đồng, “bán mặt cho đất, bán lưng cho Trời” mà cũng chỉ có được cái ăn, cái mặc thì lấy đâu ra để đóng các khoản phí này. Vì phải oằn lưng đóng góp đủ kiểu, nên cuộc sống của người nông dân đã cực khổ lại càng cực khổ hơn, trong khi kích thước những cái bụng phệ của các ông Vua quan nhà nước càng lớn dần, và làm gia tăng số lượng tầng lớp bóc lột trong xã hội. Người dân cũng oằn lưng với các loại phí và ... xin đểu theo kiểu “tự nguyện” Người dân sinh sống ở các địa phương khác nhau cũng phải chịu nhiều khoản đóng góp, nào là Quỹ “vì người nghèo”, quỹ khuyến học, quỹ Bảo trợ trẻ em bất hạnh (hay còn gọi là quỹ tình thương), quỹ xóa đói giảm nghèo, quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ chăm sóc trẻ em, quỹ phòng chống lụt bão, quỹ quốc phòng an ninh, hội phí chữ thập đỏ,… Có những địa phương “khá”, chính quyền lại ấn định luôn mức phí tự nguyện hẳn hòi, chẳng hạn ở Quận 3, Sài Gòn, UBND phường 6 đã “vận động” người dân phải “tự nguyện” đóng các mức như: quỹ quốc phòng an ninh $60,000 đồng/gia đình, 200 - $500,000 đồng/năm đối với cơ quan, đơn vị, cơ sở kinh doanh (tùy quy mô). Trong khi mỗi tổ dân phố được ấn chỉ tiêu vận động tối thiểu 300,000 đồng cho quỹ bảo trợ trẻ em, 500,000 đồng cho quỹ xóa đói giảm nghèo... Các văn bản giao chỉ tiêu thu tiền trong dân của UBND phường 10 (Q.Tân Bình) và UBND phường 6 (Q.3, TP. Sài Gòn) Mới đây ở Long An, UBND huyện Tân Trụ đã bắt dân phải “tự nguyện” hiến trên 22 tỷ đồng để mở rộng, nâng cấp 2.3km tỉnh lộ đi qua thị trấn Tân Trụ. 166 gia đình sống hai bên đoạn đường này phải “tự nguyện” hiến đất, nếu không thì sẽ bị giải tỏa trắng. Như trường hợp của ông Nguyễn Văn E được yêu cầu hiến 250m2 đất mặt tiền để làm đường, trong khi ông Nguyễn Văn Ngọc ở gần đó cũng có số phận tương tự, được yêu cầu phải hiến không 215m2 trên tổng số 800m2 đất của gia đình. Bí thư huyện “quỷ” huyện Tân Trụ Nguyễn Thanh Chánh xác đinh rằng “làm như thế là đúng theo tinh thần quyết định 883 ngày 1-4-2004 của tỉnh: Nếu vận động mà dân không tự nguyện hiến đất thì phải giải tỏa trắng”. Vì lo sợ bị “giải tỏa trắng” nên nhiều người đã vội ký tên vào danh sách “tự nguyện” hiến đất. Tuy nhiên có một số người dân đã không quên thòng thêm câu “Nếu sau này có bồi thường thì phải bồi thường cho tôi”. Thì ra là lệnh của tỉnh bắt huyện “xin đểu” bằng chiêu bài “tự nguyện” hiến dâng, nhưng nếu dân không “tự nguyện” thì ra tay ... cướp sạch! Cái trò “tự nguyện” hiến đất kiểu này sao mà quá giống với các bài bản đã xảy ra trước đây ở miền Bắc sau 1954 và ở miền Nam sau 1975.
Lê Minh


Phát hiện nhiều khoản "loạn thu" tại 17 trường học

Đó là các khoản loạn thu của quỹ hội phụ huynh học sinh (PHHS) tại 17 trường học ở TP.HCM phục vụ bán trú, quỹ lớp; tiền mua giấy thi... Ngoài ra, sổ sách thu chi cũng sai quy định.Soạn: AM 613417 gửi đến 996 để nhận ảnh này" src="http://vietnamnet.vn/dataimages/200511/original/images813417_loanthu.jpg" width="200" border="0" /> Một số biên bản kiểm tra các trường của Thanh tra Sở GD-ĐT TPHCM
Đến chiều 8/11, Chánh Thanh tra Sở GD-ĐT TP.HCM Nguyễn Văn Nam cho biết Thanh tra sở đã kiểm tra “tiền trường” ở 17 trường, đa số các trường này được bạn đọc Báo Người Lao Động phản ánh về “loạn thu”. Kết luận bước đầu của Thanh tra sở ở một số trường như sau: Tại Trường Mầm non 20-10 (Q.1), hội PHHS dự kiến thu 360.000 đồng/HS/năm nhưng chưa thực hiện. Đoàn Thanh tra kiến nghị nhà trường cần tham mưu với hội PHHS xây dựng kế hoạch hoạt động theo kế hoạch của trường. Các khoản chi hỗ trợ trang thiết bị cho trường cần được tham mưu (cho PHHS) cụ thể từng thời điểm, từng lớp. Tại Trường Tiểu học Lê Thị Riêng (Q.10), Đoàn Thanh tra nhận thấy việc thực hiện chế độ miễn giảm chưa rõ ràng; tiền bảo hiểm y tế (BHYT) và bảo hiểm tai nạn (BHTN) chưa làm rõ tính tự nguyện, vận động trong PHHS. Hội PHHS có thu 2 khoản: hội phí 150.000 đồng/HS/năm; hội phí phục vụ công tác bán trú 30.000 đồng/HS/tháng (thu cách đây 5 năm). Đoàn Thanh tra nhận thấy khoản thu hội phí bán trú, với tên gọi và đề ra mức thu này là không hợp lý. Nếu thực chất công tác bán trú nhà trường khó khăn thì nhà trường làm tờ trình xin cấp có thẩm quyền quyết định. Khi nào có ý kiến chấp thuận mới thực hiện. Đoàn Thanh tra kiến nghị Phòng Giáo dục quận 10 xem xét lại khoản thu hội phí bán trú để có hướng giải quyết phù hợp theo quy định. Đề nghị trường ngưng thu khoản tiền hội phí bán trú. Tại Trường THCS Lê lợi (Q. Tân Phú), Đoàn Thanh tra đề nghị trường thu tiền cơ sở vật chất theo từng học kỳ cho đúng quy định; BHYT, BHTN cần nêu rõ cho phụ huynh biết là thực hiện trên tinh thần tự nguyện. Trường thu hội phí 90.000 đồng/năm. Một số lớp đề nghị thu quỹ lớp. Đoàn Thanh tra yêu cầu nhà trường và Ban Chấp hành hội PHHS chấm dứt việc này. Tại Trường Mầm non Sơn Ca 7 (Q. Phú Nhuận), Đoàn Thanh tra đề nghị các khoản tiền ăn sáng, BHYT, BHTN nên ghi thành mục theo đăng ký của phụ huynh, không ghi chung trong khoản thu theo quy định. Tại Trường THPT Bà Điểm (Q.12), Đoàn Thanh tra nhận thấy việc thu ở Trung tâm Văn hóa ngoài giờ tuy thu theo thỏa thuận với phụ huynh nhưng sự thể hiện tính tự nguyện chưa cao; thu tiền cơ sở vật chất phải thu thành 2 lần theo học kỳ, thu gộp 1 lần là không đúng; về thu trang bị đầu năm và các khoản thu khác, trường không nên đặt thành khoản thu chính thức mà chỉ nên tạo điều kiện cho HS mua theo giá bằng hoặc thấp hơn giá thị trường; BHTN là khoản thu vận động HS tự nguyện, không được bắt buộc; đặc biệt khoản thu giấy thi 25.000 đồng/học kỳ phải bãi bỏ. Về thu quỹ hội PHHS, Đoàn Thanh tra lưu ý nhà trường giúp hội chấn chỉnh hệ thống hồ sơ sổ sách kế toán (sổ kế toán và sổ quỹ) theo quy định, có công khai tài chánh; có chứng từ thu chi đúng thể thức và thủ tục (của từng PHHS); quy trình đại hội PHHS phải thực hiện từ thấp (lớp) đến cao (trường), để Ban Chấp hành hội PHHS mới thành lập xem xét có kế hoạch dự toán để đề ra mức vận động PHHS đóng góp tự nguyện, không bắt buộc. Bỏ thu quỹ lớp (10.000 đồng/HS/tháng để khen thưởng và 5.000 đồng/HS tháng để thăm HS ốm đau). Lớp chỉ nên vận động thu khi có nhu cầu thực tế và cũng trên tinh thần tự nguyện của HS. Đoàn Thanh tra kiến nghị hiệu trưởng chấn chỉnh ngay các thực hiện không theo đúng quy định của ngành... Như vậy, tại hầu hết các trường do bạn đọc phản ánh đều có sai sót về quỹ hội PHHS. Hiện Thanh tra sở tiếp tục đi các trường và dự kiến có kết luận chính thức vào ngày 15-11.
(Theo Người lao động)
http://vietnamnet.vn/giaoduc/2005/11/509525/



















Wednesday, May 20, 2009


SEN LẠ ĐỒNG THÁP

SEN LẠ ĐỒNG THÁP


Loài sen kỳ lạ ở Đồng Tháp lá to hơn cái nia, một người nặng khoảng 60 kg có thể đứng lên lá mà chỉ làm chao nhẹ mặt nước. Chuyện tưởng chừng như lời đồn thổi nhưng lại có thật ở chùa Phước Kiển, xã Hòa Tân, huyện Châu Thành, Đồng Tháp.
Giống sen lạ ở chùa PHước Kiến thuộc loài sen Victoria Regia (Nam Mỹ). Ngôi chùa nhỏ Phước Kiển nằm ở một xã vùng sâu của huyện Châu Thành, nơi từng là căn cứ kháng chiến, nằm cách thị trấn Nha Mân hơn 15 km. Ở đây có một loài sen rất lạ, được đặt cho nhiều cái tên khác nhau như sen vua, sen nia, sen nong tằm... bởi không ai biết tên thật của nó là gì. Trong ao chùa, loài sen lạ mọc, nở hoa, lá sen khổng lồ như những cái nia to cong vành gần cả tấc, rấtđẹp mắt. Nếu không tận mắt nhìn thấy thì sẽ hồ nghi rằng, bên dưới lá sen nia khổng lồ chắc là có sắt thép chống đỡ nên người nặng trên 50 kg mới đứng trên được. Loài sen có ở ao này từ năm 1992, không biết nguồn gốc từ đâu. Ao nước này ngày xưa là hố bom Mỹ, bởi nơi đây từng là xưởng công binh cách mạng. Có người nói mấy chục năm trước đã có sen mọc rồi nhưng do nước cạn nên sen chết sạch, sau này mới mọc trở lại. Một dạo, có mấy nhà khoa học từ Cần Thơ lên nghiên cứu, định lấy giống sen quý về trồng ở khu di tích cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc tại thành phố Cao Lãnh và khu di tích bác Tôn bên cù lao Mỹ Hòa Hưng (thành phố Long Xuyên) nhưng không thành công. Có lần họ còn mang theo cả đất, bùn, nước ao nhưng sen vẫn không sống.
Một người nặng khoảng 60 kg có thể đứng lên lá sen mà chỉ làm chao nhẹ mặt nước.

Năm 1998, ao cạn nước làm chết sạch các loài sen, súng đang trồng. Nhưng không ngờ, năm sau khi nước lên, sen lạ lại mọc và nở hoa. Hoa sen lạ này khi mới nở có màu trắng, sau 12 giờ trưa đổi sang màu hồng và chỉ nở trong 2-3 ngày thì tàn. Theo tài liệu tra cứu, đây là loài sen Victoria Regia, mọc rất nhiều ở khu vực sông Amazon, Nam Mỹ. Loài sen này từng gây xôn xao khi xuất hiện tại công viên thực vật Tây An, Trung Quốc, nó được mang từ Paraguay sang dự triển lãm quốc tế về các loài hoa. Hình ảnh một phụ nữ Trung Quốc cùng hai cậu con nhỏ ngồi trên lá sen gây chấn động về một loài sen lạ. Loài sen Victoria Regia. Mặt trên của lá có màu diệp lục, hình các vảy chồng nhau như hình vảy ngói âm dương, mặt dưới màu nâu đỏ với rất nhiều gân to, gai nhọn. Lớp gân và các “khung xương” nằm dưới to, dày bằng hai lóng tay, tạo nên kết cấu khá vững chắc. Thân và mặt dưới lá có rất nhiều lông và gai nhọn. Hạt sen nhỏ như hạt đậu ván, mềm, ăn khá ngon nên thổ dân da đỏ vùng sông Amazon gọi là “ngô trong nước”. Sư trụ trì Thích Huệ Từ mang trong nhà ra một tấm mặt bàn bằng thiếc mỏng, thả xuống lá sen như một cái nia khổng lồ. Có lá đường kính to trên 3 m. Mùa nước nổi là lúc sen no nước, mỗi ngày lá lớn ra trông thấy. Chị Hà, một du khách đến từ Rạch Giá - Kiên Giang, rất hăm hở nhảy xuống lá sen, chấp tay niệm Phật để làm mẫu chụp ảnh. “Ai nặng cỡ 60 kg trở xuống đứng lên lá chỉ làm lay động nhẹ thôi”, sư Huệ Từ giải thích. Vì cẩn thận, đảm bảo an toàn cho khách nên chùa hạn chế lượt khách muốn xuống ngồi lá sen chụp ảnh, quay phim.



Senla (18).JPG
Senla (8).jpg
Sen chiếm diện tích lớn ao của chùa
Senla (15).JPG
Senla (16).JPG
Lá sen to quá khổ
Senla (11).JPG
Senla (13).jpg
To bằng cái nia, vành cong lên cả tấc tay trông rất đẹp mắt


==


SƠN ĐỘNG TẠI QUẢNG BÌNH ,VIỆT NAM



















Hang Sơn Đoòng

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Hang Sơn Đoòng là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới. Hang này nằm trong quần thể hang động
Phong Nha-Kẻ Bàng.
Ngày 22 tháng 4 năm 2009, Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh đã công bố trước Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình việc phát hiện ra hang động lớn nhất thế giới. Hang có chiều rộng 200 mét, cao hơn 150 mét, dài ít nhất là 6,5 km. Hang có thể còn dài hơn nữa, tuy nhiên do điều kiện kỹ thuật, các nhà thám hiểm thuộc Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh đã không thể đi hết chiều dài của hang để kết luận hang dài bao nhiêu.



Với kích thước như thế, hang Sơn Đoòng đã vượt qua hang DeerVườn quốc gia Gunung Mulu của Malaysia (với chiều cao 100 m, rộng 90 m, dài 2 km) để chiếm vị trí hang động tự nhiên lớn nhất thế giới[1][2] .






THAM KHẢO







18 năm tìm 'siêu' hang động Sơn Đoòng

Cập nhật lúc : 8:13 AM, 24/04/2009
Là người phát hiện ra hang động Sơn Đoòng lớn nhất thế giới và 11 động khác mới đây tại Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình), anh Hồ Khanh được Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh trao cho quyền đặt tên cho các hang động này.
>> Phát hiện hang động lớn và đẹp nhất thế giới
>> Khám phá hang động đẹp và lớn nhất thế giới

12 hang động này được Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh định vị vào bản đồ hang động thế giới và hệ thống định vị toàn cầu một cách trang trọng.

18 năm nặng tình với hang động
Trong căn nhà gỗ xinh xắn bên dòng sông Son, xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, anh Hồ Khanh, 40 tuổi, một nông dân thứ thiệt kể cho chúng tôi nghe về phát hiện vĩ đại này bằng giọng nói giản dị, cuốn hút.




Năm 1991, trong một lần đạp cội tìm trầm giữa núi rừng Phong Nha - Kẻ Bàng theo tuyến hang Én, bất chợt gặp mưa rừng, Hồ Khanh phải tìm nơi trú ẩn để tránh lũ quét. Anh tình cờ gặp một hang động rộng thênh thang và cao chót vót. Ngồi trú trong đó mà anh vẫn cảm thấy rùng mình vì gió thổi rất mạnh từ trong hang ra. Nhưng, chính anh lúc đó cũng không hề biết phát hiện của mình cực kỳ có giá trị không chỉ đối với Việt Nam mà còn ở trên phạm vi thế giới.

Cuối năm đó, anh bỏ nghề tìm trầm để quay lại làm ruộng, sống cuộc sống nông nhàn bên dòng sông Son. Đến năm 2006, khi ký ức của anh về cái hang gió dần mờ nhạt thì anh gặp đoàn thám hiểm của Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh sang tìm kiếm hang động mới ở Phong Nha - Kẻ Bàng. Theo lời mô tả của anh, cái hang đó có “gió thổi mạnh 24/24 giờ”, kỳ lạ nhất là bên ngoài hang đứng gió nhưng bên trong gió cứ ào ạt. Ba ngày liền, đoàn thám hiểm theo chân anh đi tìm hang gió nhưng thất bại. Bù lại, đoàn phát hiện ra ba hang động khác cũng rất ấn tượng.

Sau đó, đoàn thám hiểm quay lại Phong Nha - Kẻ Bàng hai lần để cùng anh Khanh đi tìm hang động kỳ bí đó trong vô vọng. Trước khi quay trở lại nước Anh, đoàn hẹn anh khi nào tìm lại được thì thông báo. Một ngày lạnh lẽo đầu năm 2009, anh Khanh cố gắng nhớ lại từng chi tiết của 18 năm về trước để tiếp tục cuộc hành trình. Anh như kẻ mộng du, mặc cho muỗi, vắt đốt, đá tai mèo đâm bàn chân chảy máu. Cuối cùng, anh tìm được cái hang gió của 18 năm về trước. “Càng vào sâu, lòng hang càng rộng. Nhìn bằng mắt không thấy trần hang, vách hang, phải soi đèn mới thấy lờ mờ. Không thể diễn tả hết cảm giác sung sướng khi tìm lại được nó”, anh Khanh nhớ lại.
Đặt tên cho 12 hang động


Nhận tin báo của anh, đoàn thám hiểm hang động Anh quay trở lại và thực hiện chuyến đi khảo sát kéo dài từ tháng 3 đến ngày 14/4 vừa qua. Đoàn đi sâu vào trong hang 6,5 km nhưng không thể đi tiếp vì điều kiện không cho phép. Song đoàn chính thức xác nhận đây chính là hang lớn nhất thế giới, với bề rộng hơn 200m và chiều cao trung bình của trần hang là 150m (hang Deer ở Malaysia được coi lớn nhất thế giới chỉ dài 2km, rộng 90m, cao 100m).
Để ghi công anh Hồ Khanh, ông Howard Limbirt, Trưởng đoàn thám hiểm đã đề nghị anh đặt tên cho hang động mới này. Hồ Khanh lấy tên địa phương đặt hang động mới là Sơn Đoòng. Một kỳ quan mới của di sản Phong Nha - Kẻ Bàng được gọi tên và xác lập danh tiếng của mình trên bản đồ hang động thế giới.


Ngoài Sơn Đoòng, ạm Khanh còn đặt tên cho 11 hang động khác do chính anh phát hiện: hang Vực Cá Thau, động Long, hang Phong, hang Hùng, hang Khanh (tên của Hồ Khanh), hang Thái Hoà… Đó là tên của một số người cùng đi trong đoàn thám hiểm, còn tên Vực Cá Thau là do hang này có nhiều cá thau.


Trong số các hang này, ngoài Sơn Đoòng, anh cũng rất ấn tượng với hang Thái Hòa (tên con gái anh) mà như mô tả: “Đó là chốn bồng lai tiên cảnh nằm giữa lưng chừng núi đá vôi. Từ chân núi lên hang Thái Hòa mất một giờ rưỡi, thạch nhũ đẹp kinh ngạc và có hồ nước trong vắt không biết bắt nguồn từ đâu”.
Anh Khanh còn tiết lộ, anh còn phát hiện tại tuyến hang Én còn 5 hang chưa được khám phá. “Đất mình nghèo, phát hiện ra nhiều hang động là mừng. Nhưng phát hiện ra rồi không làm gì thì cũng phí. Nếu địa phương sử dụng vào mục đích du lịch để dân vùng rừng di sản khỏi bám vào rừng một cách tiêu cực”, anh nông dân Hồ Khanh thật thà tâm sự.
>http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/05/090501_vietnam_caves.shtml



Đoàn thám hiểm hang động và anh Hồ Khanh (người thứ 2, từ trái sang).
Hồ Khanh tại gia đình mình.
Đoàn thám hiểm phải vượt nhiều suối và núi mới tới được Sơn Đoòng.
Hồ nước trong vắt không biết bắt nguồn từ đâu.
Thạch nhũ đẹp kinh ngạc.
TÀI LIỆU


http://www.quangbinh.gov.vn/3cms/?cmd=130&art=1240479801313&cat=1123266987223
http://www.baodatviet.vn/Home/18-nam-tim-sieu-hang-dong-Son-Doong/20094/38875.datviet
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/05/090501_vietnam_caves.shtml


TRỊNH CÔNG SƠN


LTS
Chúng tôi tìm thấy một bài viết về Trịnh Công Sơn của Ông Nguyễn Đắc Xuân, Huế. Ông Nguyễn Đác Xuân là bạn và cũng là đồng chí với Trịnh Công Sơn, chắc bài viết ông chứa đựng ít nhiều sự thực. Cách đây vài tháng, họa sĩ Trịnh Cung, cũng là bạn thân của Trịnh Công Sơn viết về mục tiêu chánh trị của Trịnh Công Sơn. Nhiều người cho rằng Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ, là con người mơ mộng. không phải con người chính trị. Nhưng bài viết của Nguyễn Đắc Xuân lại có phần giống ý kiến Trịnh Cung. Chúng tôi gửi bài này đến quý bạn để quý bạn có thêm tài liệu tham khảo.
Sơn Trung
Tập nhạc Kinh Việt Nam (1970)
Trịnh Công Sơn sáng tác cho một kế hoạch đảo chính vận động hòa bình
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
(Tạp chí HỒN VIỆT Số 1 - Tháng 7/2007)
Có lẽ nhiều bạn đọc từng biết tập nhạc Kinh Việt Nam của Trịnh Công Sơn (Đinh Cường vẽ bìa, Bửu Chỉ minh hoạ, Nhân Bản xuất bản, 1970), từng đọc đoạn mở đầu do Trịnh Công Sơn viết năm 1968: “là những tiếng kêu thương thống thiết, khởi từ một thực trạng máu xương. Kinh Việt Nam cũng là lòng mơ ước về một rạng đông cho đêm tối dài lâu này. Những bài ca được viết từ những hân hoan lắng nghe được trong lòng người. Đó là nỗi hân hoan của đám đông chờ mong ngày hồi sinh”. Nhưng có thể nói cho đến nay ít người biết trong trường hợp nào Trịnh Công Sơn đã sáng tác tập nhạc với lời mở đầu súc tích như thế.
1. Cái tên Kinh Việt Nam hình thành ở Quán Văn
Từ sau khi Trịnh Công Sơn cho trình bày Ca Khúc Da Vàng qua tiếng hát Khánh Ly, đặc biệt là sau vụ chính quyền Sài Gòn đàn áp đẫm máu Phong trào tranh đấu miền Trung (6/1966), Quán Văn và Hội Hoạ sĩ trẻ Đại học Văn Khoa Sài Gòn trở thành nơi gặp gỡ, sinh hoạt văn hoá, nơi ẩn trú của thanh niên sinh viên tranh đấu và yêu nhạc Trịnh. Đây cũng là nơi “trốn lính” của Trịnh Công Sơn. KTS Nguyễn Hữu Đống – nhân vật dân sự độc nhất có mặt trong “Hội đồng Quân nhân Cách mạng” lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963. Chủ nhiệm báo Việt Chiến kiêm Giám đốc Nhà xuất bản Việt Chiến cũng thường đến Quán Văn chơi với Trịnh Công Sơn và qua giọng Huế đồng hương, họ hay bàn chuyện sáng tác văn nghệ đấu tranh cho hoà bình Việt Nam. Đống làm báo, có nhiều kênh quan hệ với tình báo, biết rõ chủ trương làm chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, anh rất đau lòng trước cảnh người Việt Nam bị bắt lính, bị bắt cầm súng của ngoại bang để bắn vào đầu anh em. Tất cả những nhân danh này nọ đều là bịa đặt, ngu dốt.
Một đêm trước Noel 1967, anh em văn nghệ ở Quán Văn kéo nhau đi xem phim Mười Điều Giáo Lệnh Của Moise (Les Dix Commandements de Moise). Riêng Trịnh Công Sơn không dám đi vì đang bị lùng bắt. Ở Quán, Trịnh có dịp tâm sự riêng với người bạn KTS-nhà báo. Ngồi trên cái nền xi-măng vốn là nền Khám Lớn, họ nghĩ mình đang ngồi trên cái nền từng để cái máy chém của thực dân Pháp hồn thiêng sông núi đang quanh quẩn đâu đây. Nhân bình luận về Mười Điều Giáo Lệnh, tức nhắc đến các mệnh lệnh đạo đức và tôn giáo, theo Kinh Thánh, được phán truyền cho Moise ở Mont Sinai và được khắc vào hai phiến đá (Mười Điều Giáo Lệnh đóng vai trò quan trọng trong Do Thái giáo và Kitô giáo), Nguyễn Hữu Đống nảy ra một ý kiến mới và bảo Trịnh Công Sơn:
- “Toi đã làm được Ca Khúc Da Vàng, tại sao toi không làm một tập Giáo Lệnh Việt Nam – Kinh Việt Nam, để cho người Việt Nam nhớ đừng bao giờ còn ngu cầm súng ngoại bang để bắn vào đầu anh em, đồng bào mình nữa?”
Đề nghị bất ngờ nhưng hợp với tư tưởng hòa bình của Sơn nên anh sốt sắng nhận lời.
2. Tập nhạc phục vụ cuộc đảo chính vận động hoà bình
Mùa hè 1966, nếu chính quyền Sài Gòn không đàn áp được Phong trào tranh đấu cho hòa bình Việt Nam ở miền Trung, Tổng thống Mỹ Johnson có thể tính đến chuyện giao vấn đề Việt Nam cho người Việt Nam giải quyết. Sau Tết Mậu Thân (2/1968) Chính phủ Mỹ càng ngao ngán hơn nữa. Qua các nguồn tin mật phương Tây, Đống biết được trước sau gì Mỹ cũng bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Vì thế càng kéo dài chiến tranh, càng có nhiều thanh niên chết một cách vô ích, đất nước càng nát tan, hận thù càng bị đào sâu. Nguyễn Hữu Đống đã có kinh nghiệm làm đảo chính từ hồi 1963, nên sau Tết Mậu Thân, nhất là sau khi có chủ trương Việt Nam hóa chiến tranh, anh cùng nhiều chính khách cũng như tướng tá VNCH cùng chí hướng bí mật tổ chức một cuộc đảo chính để “cứu nước”. Được nhiều thế lực trong và ngoài nước ủng hộ, Đống nhờ “nhà báo” Đỗ Ngọc Yến tập họp tất cả các đoàn thể thanh niên ở Sài Gòn mà Yến có ảnh hưởng lúc ấy vào Đại Hội Thanh Niên Vì Tổ Quốc. Nguyễn Hữu Đống được bầu làm Tổng thư ký của Đại hội. Trong thời gian đó, tướng Trần Văn Đôn được Mỹ ủng hộ hình thành Mặt Trận Nhân Dân Cứu Nguy Dân Tộc. Qua trung gian “nhà báo” Đỗ Ngọc Yến, người Mỹ muốn tổ chức của Đống đặt dưới trướng của tướng Đôn. Nhưng Đống không đồng ý, anh lập kế hoạch đảo chính Nguyễn Văn Thiệu, sẽ mời TS nguyễn Văn Hảo (người miền Nam) sinh năm 1936 phụ trách kinh tế-xã hội, mời Bùi Thế Dung (sinh năm 1936, chồng của ca sĩ H.Th), đại tá Thiết Giáp, người miền Bắc, phụ trách quân sự, ngoại giao. Và Nguyễn Hữu Đống (người Huế, sinh năm 1937), phụ trách an ninh, báo chí-phát thanh. Sẽ đặt Trịnh Công Sơn làm Bộ trưởng Văn hóa. Theo kế hoạch, khi đảo chính thành công, công an và quân đội VNCH sẽ được đưa ra bên ngoài, các thành phố sẽ được giao lại cho thanh niên, học sinh, sinh viên giữ an ninh. Bộ Tư lệnh sẽ đặt ở suối Lồ Ồ - nơi trước đây Ngô Đình Nhu định xây dựng bản doanh của “Thanh Niên Cộng Hòa”. Tuổi trẻ đô thị sẽ đốt đuốc hát Kinh Việt Nam nối đuôi nhau từ thành phố ra ngoại ô rồi đi ngược lại. Dòng người trẻ cứ thế thực hiện từ Sài Gòn ra đến Bến Hải.
Đến khi cuộc đảo chính vận động hòa bình được ổn định, được thế giới chú ý, sẽ tuyên bố “Việt Nam Cộng Hòa bỏ súng”. Nếu có đơn vị quân đội nào không chấp hành, trở ngược lại đàn áp thanh niên thì một số thanh niên có thể chết vì khát vọng hòa bình còn hơn là chết ngoài mặt trận chống lại anh em của mình. Và, chắc chắn khi đó một số chính phủ nước ngoài ủng hộ cuộc đảo chính sẽ can thiệp và bảo vệ cuộc đảo chính vì hòa bình Việt Nam. Tất cả những cuộc họp bàn đảo chính kéo dài trong nhiều năm đều diễn ra bí mật nhưng luôn luôn được thông báo từng chi tiết với Trịnh Công Sơn. Đến sau khi Sơn xây được nhà riêng xong (1971?) thì các cuộc bàn ấy diễn ra ngay tại nhà anh.
3. Nỗi sốt ruột của Trịnh Công Sơn
Trịnh Công Sơn đã soạn xong Kinh Việt Nam. Nhưng kế hoạch đảo chính được chuẩn bị từ năm 1968, nhiều lần tưởng đã sắp nổ ra lại phải hủy bỏ. Tướng Nguyễn Văn Thiệu biết có một cuộc đảo chính đang rập rình quanh mình nên rất cảnh giác. Phương tiện, giờ giấc đi lại của tường Thiệu luôn thay đổi bất ngờ. Những người phục vụ chung quanh có dấu hiệu bất thường liền bị điều động đi nơi khác ngay. Trong các cuộc duyệt binh mừng “Ngày Quân Lực 19 tháng 6” hay mít-tinh kỷ niệm ngày “Người Cày Có Ruộng”, tướng Thiệu luôn cho kiểm tra nghiêm ngặt súng đạn và xăng dầu của các thiết giáp để đề phòng chuyện quân đội làm đảo chính. Nhờ thế mà Nguyễn Văn Thiệu đã vô hiệu hóa nhiều âm mưu ám sát ông. Kế hoạch đảo chính chờ đợi thực hiện tháng này qua tháng khác, làm cho Trịnh Công Sơn rất sốt ruột. Chưa đảo chính được thì Trịnh Công Sơn còn phải sống “bất hợp pháp”. Trịnh Công Sơn khao khát được tự do, anh diễn tả nỗi chờ mong ấy trong bài Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói: “Nơi đây tôi chờ/ Nơi kia anh chờ/ Trong căn nhà nhỏ/ Mẹ cũng ngồi chờ/ Anh lính ngồi chờ/ Trên đồi hoang vu/ Người tù ngồi chờ/ Bóng tối mịt mù/ Chờ đã bao năm/ Chờ mai này ta dậy trong tiếng hò reo/ Chờ cho lòng căm thù đến lúc chìm sâu/ Chờ hòa bình đến/ Chờ tiếng bom im...”. Không ngờ, Trịnh Công Sơn phải chờ đến 30/4/1975 mới thấy được đất nước hòa bình thống nhất.
4. Kinh Việt Nam cầu những việc gì?
Kinh Việt Nam có 12 bài. Ngoài bài Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói đã trích ở trên, 11 bài còn lại phục vụ cho cuộc đảo chính vận động hòa bình với các nội dung sau:
- Trước nhất anh mô tả cảnh dân tộc đắm chìm trong chiến tranh, dân ta sống rất đau khổ, bi đát.
Dân Ta Vẫn Sống: “Dân ta đã bao nhiêu năm/ Lòng chìm sâu ước mơ hân hoan/ Nhìn rừng phơi xác thân anh em/ Nhìn trái tim rơi theo đại bác/ Thịt người cho thú nhai ngon/ Mẹ cha tóc khô như rơm/ Chờ đàn con đã đi bao năm không về/ Đứa về cụt bàn chân…”.
- Anh tin tưởng cuộc đảo chính sẽ thành công và…
Ngày Mai Đây Bình Yên: “Ngày mai đây bình yên/ Vì mọi nơi đã lên mồ hoang/ Ngày mai đây nhìn quanh/ Lòng sẽ thấy xót xa vô cùng/ Mẹ già đi lom khom tìm trên bãi vắng/ Tìm mộ đứa con hôm nay không còn/ Để đón thanh bình…”.
- Anh tưởng tượng đến nỗi hân hoan trong đêm đảo chính vận động hòa bình.
Ta Thấy Gì Đêm Nay: “Cờ bay trăm ngọn cờ bay/ Rừng núi loan tin đến mọi miền/ Gió Hòa bình bay về muôn hướng/ Ngày vui con nước trôi nhanh/ Nhịp sống bao la xóa bỏ hận thù/ Gặp quê hương dau bão tố/ Giọt nước mắt vui hay lòng gỗ đá…”.
- Những đêm ấy thanh niên thắp đuốc đi từ thành phố ra vùng nông thôn, từ đồng bằng lên miền núi kêu gọi hòa bình.
Hành Ca: “Đoàn người đi vào trong đêm/ Đuổi bóng tối đi cho da vàng/ Bỏ hai mươi năm chiến chinh buồn xây thnah bình/ Đoàn người đi miên man/ Tìm ánh sáng cho Việt Nam”.
- Khi đã có hòa bình, thống nhất, nỗi mừng vui hạnh phúc tràn ngập ruộng đồng quê hương.
Cánh Đồng Hòa Bình: “Mặt trời yên vui lên đỏ chói/ Đỏ trái tim người/ Ngày Việt Nam đã qua cơn đau dài/ Triệu trái tim người/ Cùng nhịp vui với con tim nhân loại/ Ngày lên cùng niềm tin/ Bàn tay ta quyết lo vun trồng/ Hòa bình như lúa thơm nuôi dân mình/ Một sớm thanh bình/ Giọng cười em vút cao hơn bình minh”.
- Khung cảnh miền quê sau ngày đất nước hòa bình:
Đồng Dao Hòa Bình: “Hôm nay thấy mặt trời rực sáng/ Trong tim người trong tim ta trong tim anh/ Trong tim những ruộng đồng gội nắng/ Hai mười năm nhục nhằn đã qua/ Hôm nay thấy nụ cười rạng chói/ Trên môi người trên môi ta trên môi em/ Trên môi những mẹ già”…
- Tuy nhiên, trong nỗi mừng hòa bình bộc lộ nỗi đau đớn mất mát:
Sao Mắt Mẹ Chưa Vui: “Đêm nay hòa bình sao em nhỏ chưa vui/ Hãy bước ra đây nhìn phố ngập người/ Đêm nay hòa bình không nụ cười trên môi/ Nhìn quanh em không ai còn lại/ Không ai còn lại/ Ru đỡ tình người cho có đôi”…
- Anh kêu gọi hãy nén thương đau để hân hoan đón hòa bình, xây dựng lại tình thương, hàn gắn vết thương đau:
Đôi Mắt Nào Mở Ra: “Nhìn Việt Nam sống lại ngày đầu/ Đôi mắt nào mở ra cho nhau/ Nhìn hồn phai những vết thương đau/ Đôi mắt nào mở ra trông theo/ Từng niềm vui mặt người thấy lại/ Đô mắt nào mở ra hôm nay/ Nhìn rừng khô lên những mầm tươi”.
- Phải hành động cụ thể, không viển vông:
Hãy Đi Cùng Nhau: “Đến trước từng căn nhà/ Hỏi thăm từng anh lính/ Mới về từ rừng xa/ Em hãy đi cùng tôi/ Đến trước từng căn nhà/ Hỏi thăm từng người mẹ/ Hỏi thăm từng người cha/ Em nhớ đi cùng tôi/ Áo mới và mang quà/ Đùa vui cùng đàn bé/ Tay cầm lồng đèn hoa/ Em hãy đi cùng tôi/ Dưới bóng triệu lá cờ/ Hỏi thăm từng người chị/ Phố dài triệu người qua”.
- Cả dân tộc đoàn kết, hân hoan đất nước hòa bình, thống nhất, cùng nhau nắm tay xây dựng đất nước vinh quang.
Nối Vòng Tay Lớn: “Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà/ Mặt đất bao la anh em ta về/ Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng/ Bàn tay ta nắm/ Nối tròn một vòng Việt Nam”.
- Kêu gọi xây dựng lại đất nước sau khi hòa bình:
Dựng Lại Người, Dựng Lại Nhà: “Đi xây lại Việt Nam/ Bàn chân ta đi mau đi sâu vô tới rừng sâu/ Vác những cây rừng to/ Về nơi đây ta xây dựng nhà/ Dựng làng mới cho dân ta về/ Dựng nhà mới cho miền quê”.
* * *
Kinh Việt Nam được viết với sự gợi ý (cũng có thể xem là đặt hàng) của những người đảo chính vận động hòa bình. Tuy nhiên việc gợi ý đó phù hợp với khát vọng hòa bình của Trịnh Công Sơn nên anh hưởng ứng và thực hiện rất thành công. Bởi thế chính quyền VNCH sống bằng chiến tranh cũng như những người gắn bó với chính quyền ấy hiện nay đang định cư ở nước ngoài ít nhắc hoặc không muốn nhắc đến tập nhạc này.
Qua Kinh Việt Nam ta thấy Trịnh Công Sơn rất thực tế, các bài hát được soạn đúng theo trình tự trước, trong và sau cuộc đảo chính vận động hòa bình, nếu có. Âm điệu Kinh Việt Nam mạnh mẽ vui tươi trong sáng, không day dứt sâu lắng như Ca Khúc Da Vàng nhưng nó vẫn gắn kết với đời sống tâm linh vốn có trong âm nhạc Trịnh Công Sơn.
Tư tưởng hòa bình của Trịnh Công Sơn trong Kinh Việt Nam cũng như trong toàn bộ tác phẩm của anh không chỉ cho Việt Nam mà còn cho cả loài người, không chỉ có ý nghĩa trong thời gian xảy ra chiến tranh Việt-Mỹ mà còn có giá trị trong thế giới đầy bạo lực ngày nay.
Nếu không biết Trịnh Công Sơn đã từng khát khao hòa bình và muốn hành động để thống nhất đất nước như thế thì không thể giải thích được sự hồ hởi phấn khởi của Trịnh Công Sơn khi anh đến đài phát thanh Sài Gòn hát Nối Vòng Tay Lớn trưa ngày 30/4/1975 như mọi người thường nhắc đến.
Và cũng không thể hiểu được sau 30/4/1975, Trịnh Công Sơn đã đi vào thực tế cách mạng một cách say sưa và làm “nhạc đỏ” vẫn rất hay. Chỉ tiếc nhiều dự kiến của Trịnh Công Sơn sau 30/4/1975 không thực hiện được, nhiều bài trong tập nhạc không được “tụng”. Ngày nay yêu thích Kinh Việt Nam, không những hát Kinh Việt Nam mà nên chăng phải hành động, tiếp tục thực hiện những gì chưa thực hiện sau hơn ba mươi năm đất nước đã hòa bình thống nhất.
Bài viết này chỉ là một phát hiện ban đầu, rất mong những ai từng ở trong cuộc đang sống ở trong nước cũng như ở nước ngoài bổ sung cho những chỗ bất cập.
Gác Thọ Lộc, 6/2007.
BẢN CHỤP BÀI BÁO:
Bìa báo HỒN VIỆT, số 1, tháng 7/2007
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
http://www.tienve.org/home/activities/viewThaoLuan.do%3Bjsessionid=EF22BD06F874C4992B80E08A29263285?action=viewArtwork&artworkId=8639

--------------

TIN TỨC VỀ TÔN GIÁO VIỆT NAM



Thượng tọa Thích Thiện Minh gặp phái đoàn USCIRF
Đỗ Hiếu, phóng viên RFA
2009-05-18

Hôm Chủ nhật 17-6-2009, Thượng Tọa Thích Thiện Minh đã có cuộc gặp với phái đoàn Uỷ Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ USCIRF, tại một khách sạn ở TP.HCM.

Photo courtesy BTS/TƯ/HH-PGHH

Thượng toạ Thích Thiện Minh gặp gỡ phái đoàn Uỷ Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ tại Khách Sạn Sheraton, Sài Gòn, hôm 17-5-2009.

Sau cuộc gặp với phái đoàn USCIRF, Thượng toạ Thích Thiện Minh đã dành cho cho Đài Á Châu Tự Do cuộc phỏng vấn đặc biệt về việc này. Cuộc phỏng vấn do phóng viên Đỗ Hiếu thực hiện và sau đây là phần tóm lược những điểm chính:
Nội dung cuộc gặp

Đỗ Hiếu : Thưa Thầy, là đại diện duy nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong cuộc tiếp xúc với phái đoàn Uỷ Ban Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế (USCIRF) mới ngày hôm qua, xin Thượng Toạ sơ lược về nội dung của cuộc tiếp xúc đó.

TT Thích Thiện Minh : Xin thưa với anh Đỗ Hiếu là vào 9 giờ ruỡi sáng ngày Chủ Nhật 17-5-2009 tôi được phái đoàn Uỷ Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế - Hoa Kỳ mời tiếp xúc tại Khách Sạn Sheraton ở Quận I thành phố, dưới sự chủ trì cuộc gặp gỡ của ông Michael Cromartie, Phó Chủ Tịch USCIRF, và ông Tiến sĩ Scott Flipse, chuyên viên phân tích và giải thích về chính sách cao cấp của Hoa Kỳ.

Ngoài ra, trong đó còn có hai vị trong đoàn và một bà tuỳ viên của Sứ Quán Hoa Kỳ tại Việt Nam. Tổng cộng tất cả là 5 vị, tiếp khách từ 9 giờ rưỡi đến 11 giờ trưa.

Phái đoàn USCIRF nói rằng họ có nhận được những thông tin về sự vi phạm nhân quyền của nhà nước Việt Nam, muốn tìm hiểu cá nhân tôi và một số vị trong các tôn giáo để xác minh các thông tin đó có chính xác hay không?

TT Thích Thiện Minh

Nội dung chính thức của cuộc tiếp xúc thì tôi cũng muốn tìm hiểu phái đoàn đến với mục đích chính là gì, bởi vì phái đoàn đến thì đầu tiên chỉ chào hỏi và tôi muốn hiểu biết trước, cho nên phái đoàn cũng nói rằng phái đoàn có nhận được những thông tin về sự vi phạm nhân quyền của nhà nước Việt Nam, muốn tìm hiểu cá nhân tôi và một số vị trong các tôn giáo để xác minh các thông tin đó có chính xác hay không, để phái đoàn có thể đúc kết và báo cáo về cao cấp để có phương hướng giải quyết trong tương lai. Đó là mục đích của phái đoàn.

Sau đó tôi cũng có hỏi tiếp rằng ngoài ra nếu phái đoàn, sau khi tiếp xúc với chúng tôi, có đạt được những kết quả tốt đẹp thì phái đoàn sẽ giải quyết những hướng đó như thế nào? Phái đoàn nói rằng "Chúng tôi sẽ làm hết sức mình cũng như có thể đưa Việt Nam vào trở lại danh sách như trước đây". Mặc dù phái đoàn không nói rõ danh sách CPC, nhưng ý của phái đoàn là như vậy.

Lúc đó tôi có thắc mắc, hỏi rằng "Nếu quý vị nói rằng sẽ đưa Việt Nam vào danh sách CPC thì xin phái đoàn cho biết một quốc gia - không nói gì về Việt Nam đâu - nếu bị Hoa Kỳ liệt vào danh sách CPC thì quốc gia đó sẽ thiệt hại về quyền lợi như thế nào?" Thì chuyên viên Scott Flipse cũng có nói rằng có nhiều thiệt hại về quan hệ giữa hai nước, chẳng hạn như bây giờ cắt đi sự viện trợ về kinh tế hay là văn hoá, về giáo dục, kể cả luôn không cấp visa cho những chính khách của chính phủ sang Hoa Kỳ, và nhiều vấn đề khác.

Mặc dù tôi không nhớ hết nhưng mà ông Scott Flipse đã nói như thế, thì tôi có đặt vấn đề rằng "Nếu quý vị nói như vậy thì kể từ khi Tổng Thống Bush nhậm chức và Tổng Thống Bush đã trao cho Việt Nam món quà là rút Việt Nam ra khỏi danh sách CPC, như vậy lúc bấy giờ việc rút đó có sai lầm hay không? Có cẩn thận cân nhắc kỹ lưỡng hay không? Tôi xin hỏi quý vị vấn đề đó."

Phái đoàn Uỷ Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ trả lời rằng "Phái đoàn chúng tôi là độc lập, không liên quan đến Bộ Ngoại Giao, vì chúng tôi là của Quốc Hội hình thành cho nên giữa chúng tôi và Bộ Ngoại Giao vẫn có nhiều vấn đề bất đồng và tranh cãi. Chúng tôi xin xác nhận rằng cái sự rút Việt Nam ra khỏi danh sách CPC trong những năm trước là hoàn toàn sai lầm."

Đó là câu trả lời của Uỷ Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ.

Cũng xin thưa là qua cuộc tiếp xúc như vậy thì phái đoàn cũng có giải thích cho tôi một số vấn đề mà mình được thấy rõ cái nhìn của phái đoàn đối với cuộc tham quan, tìm hiểu, điều tra nhân quyền của phái đoàn. Tôi cũng đặt nhiều vấn đề giữa hai bên. Xin trình bày một số vấn đề với anh Đỗ Hiếu, còn vấn đề cuộc họp thì đương nhiên dài lắm.

Đỗ Hiếu : Thưa Thượng Toạ, nói chung không khí làm việc giữa phái đoàn Hoa Kỳ và các đại diện tôn giáo, trong đó có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và Giáo Hội Phật Giáo Hoà Hảo, thì Thầy đánh giá ra sao?

TT Thích Thiện Minh : Thưa, không khí làm việc của hai bên rất là cởi mở, thẳng thắn và chân tình. Quý vị đó cảm thấy rằng buổi làm việc tiếp xúc với tôi và có thể với nhiều vị khác, họ cảm thấy có ấn tượng sâu sắc. Và họ nói rằng hình như Thầy cũng có quan tâm suy nghĩ về vấn đề nhân quyền, cũng như hiểu về vấn đề của Hoa Kỳ?

Tôi cũng có đặt thẳng vấn đề với họ rằng trong thời gian rút Việt Nam ra khỏi danh sách CPC thì tôi có nghe công luận quần chúng nói rằng chính phủ Hoa Kỳ và người cộng sản Việt Nam có hai vấn đề:

Thứ nhứt, người ta cho là vấn đề nhân quyền đưa ra trong quan hệ Mỹ Việt đôi khi chỉ là biểu tượng, tượng trưng cho hai bên để mặc cả thương lượng của hai phía chứ chưa đạt kết quả tốt đẹp.

Lúc bấy giờ ông Scott Flipse nói rằng "Chúng tôi không có dùng nhân quyền để mặc cả giá của hai bên. Xin đính chánh lại để cho Thầy được hiểu". Đó là một trường hợp như vậy.

Cũng qua cuộc tiếp xúc, tôi cũng có trình bày rõ là nhân dân Việt Nam bây giờ bầu cử những người đại diện xứng đáng cho mình để họ phục vụ quyền lợi của nhân dân nhưng mà khi bầu ra thì họ không phục vụ quyền lợi của nhân dân mà họ lại đè đầu cởi cổ nhân dân nữa. Cho nên dân quyền bị cướp đoạt, nhân quyền bị chà đạp, cuối cũng thì người dân mới yêu cầu đến nhân loại, lúc đó thì cộng đồng nhân loại lên tiếng nói để bảo vệ quyền con người.

Cho nên ngày hôm nay tôi thiết nghĩ phái đoàn không phải chỉ nhân danh riêng của Uỷ Ban Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ mà quý vị còn nhân danh với tư cách là cộng đồng của con người lên tiếng nói để bảo vệ cho con người nữa.

Lúc đó phái đoàn mới OK, hoan nghênh lời nói này, và họ vui vẻ trong cuộc tiếp xúc đó, thưa anh Đỗ Hiếu.
Tự do tôn giáo?

Đỗ Hiếu : Thưa Thượng Toạ, trước khi tạm biệt xin Thưọng Toạ cho biết ngắn gọn những điều gì Thầy cần nhắn gửi và sau hết xin Thầy cho biết từ hồi Thầy rời phái đoàn đến giờ thì Thầy có gặp điều gì thuận lợi hay khó khăn không?

TT Thích Thiện Minh : Khi làm việc với phái đoàn thì phái đoàn có hỏi rằng mấy hôm nay tôi có khó khăn gì với chình quyền hay không, thì tôi có nói là bên Bộ Công An đã cho người đến gia đình tôi thông báo rằng phái đoàn có thông qua Công An Thành Phố cho nên Thầy có đến gặp thì cứ gặp tự nhiên.

Nhưng buổi sáng Chủ Nhật thì khi tôi thức dậy thì có khoảng 4 người đeo kiếng đen đã ngồi trước nhà tôi và họ chờ tôi đi thì họ chạy xe theo. Cho nên tôi đã tìm một phương khác để đi gặp phái đoàn. Lúc bấy giờ phái đoàn ông Scott có trả lời rằng Thầy rất can đảm để cố gắng tìm gặp chúng tôi, thật là hoan nghênh.

Trong khi nhà nước Việt Nam họ nói rằng mở rộng tôn giáo còn chúng tôi là những người đang bị nạn nhân của tôn giáo.

TT Thích Thiện Minh

Tôi nói điều này không có gì lạ cả vì phái đoàn cách xa bờ đại dương hàng nghìn cây số mà quý vị còn qua đây, một nước nghèo nàn để mà quan tâm đến vấn đề nhân quyền. Đặc biệt nhứt ngày hôm nay là ngày Chủ Nhật mà quý vị còn cố gắng tìm hiểu về nhân quyền, đặc biệt là quyền tự do tôn giáo, cho nên tôi không ngần ngại đến với quý vị.

Đó là những vấn đề mà họ nhiệt tâm thì mình phải đối lại bằng sự nhiệt tình, xin thưa với anh Đỗ Hiếu.

Cho nên tôi xin nhắn nhủ với đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước là mình cũng trung thực nhưng mà không phải cầu luỵ, vì vấn đề này tôi cũng trình bày với phái đoàn nếu phái đoàn đứng với tư cách nào để nhận xét hai bên, trong khi nhà nước Việt Nam họ nói rằng mở rộng tôn giáo còn chúng tôi là những người đang bị nạn nhân của tôn giáo, tôi yêu cầu quý vị chỉ cần đứng trung gian - chính giữa - công bằng thôi là lẽ phải thuộc về chúng tôi rồi chứ không cần ngả về phía chúng tôi.

Đó là những câu nói của chúng tôi như thế để cho thấy rằng chỉ cần Hoa Kỳ đứng chính giữa trung gian thì lẽ phải sẽ về phía những nạn nhân rồi, thưa anh Đỗ Hiếu.

Đỗ Hiếu : Xin cảm ơn Thượng toạ Thích Thiện Minh!





Gặp gỡ giữa Uỷ Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế và Phật Giáo Hòa Hảo
Trân Văn, phóng viên RFA
2009-05-18

Một phái đoàn thuộc Uỷ Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ (USCIRF) hiện đang có mặt tại Việt Nam để tìm hiểu về tình hình tự do tôn giáo. Phái đoàn đã tiếp xúc với một số nhân vật đang tranh đấu cho tự do - dân chủ tại Việt Nam.

Photo courtesy BTS/TƯ/HH-PGHH

Phái đòan Phật Giáo Hòa Hỏa đi gặp USCIRF (từ trái sang phải: Đ/đ Trần văn Nghĩa, Trần hòai Ân, Lê minh Triết,Thích thiện Minh (G) Cô Nguyễn Thị Thùa, Nguyễn quí Giới, Nguyễn văn Lía)

Mới đây phái đoàn đã tìm gặp đại diện của Phật Giáo Hoà Hoả. Trần Văn tường trình về cuộc gặp gỡ đó như sau :

Phật Giáo Hoà Hảo không có tự do tín ngưỡng

Trần Văn : Thưa ông, chúng tôi được biết Uỷ Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ đã gặp đại diện Phật Giáo Hoà Hảo để hỏi thăm về tình hình Phật Giáo Hoà Hảo hiện nay.

Phái Đoàn vào Việt Nam làm việc với chính phủ Việt Nam lần này về vấn đề tự do tín ngưỡng - tôn giáo tại Việt Nam. Bên phía Phật Giáo Hoà Hảo, tôi - Trần Hoài Ân và tu sĩ Lê Minh Triết cùng 4 đồng đạo khác đi theo ủng hộ chúng tôi, và chúng tôi đã trực tiếp gặp Phái Đoàn.

Ô.Trần Hoài Ân

Ông Trần Hoài Ân : Đúng như ông nói. Phái Đoàn vào Việt Nam làm việc với chính phủ Việt Nam lần này về vấn đề tự do tín ngưỡng - tôn giáo tại Việt Nam. Bên phía Phật Giáo Hoà Hảo, tôi - Trần Hoài Ân và tu sĩ Lê Minh Triết cùng 4 đồng đạo khác đi theo ủng hộ chúng tôi, và chúng tôi đã trực tiếp gặp Phái Đoàn.

Trần Văn : Thưa ông, trong buổi gặp đó ông đã trình bày những gì với Phái Đoàn của Uỷ Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ?

Ông Trần Hoài Ân : Chúng tôi được tự trình bày và trả lời một số câu hỏi của Phái Đoàn chung quanh vấn đề tự do tôn giáo của Phật Giáo Hoà Hoả tại Việt Nam.

Trần Văn : Những vấn đề đang xảy ra đối với Phật Giáo Hoà Hảo ở Việt Nam mà các ông đã trình bày với Phái Đoàn là gì ?

Ông Trần Hoài Ân : Chúng tôi đã trình bày với Phái Đoàn về thực trạng của Phật Giáo Hoà Hảo mất tự do tín ngưỡng ở tại Việt Nam.

Trần Văn : Việc không có tự do tín ngưỡng đối với Phật Giáo Hoà Hảo cũng như các tín đồ của Phật Giáo Hoà Hảo chính xác là sao, xin ông cho biết cụ thể.

Dựng ra một giáo hội Phật Giáo Hoà Hảo quốc doanh

Ông Trần Hoài Ân : Chính xác là Đảng Cộng Sản và Nhà Nước Việt Nam trong một thời gian thật dài quyết tâm tiêu diệt Phật Giáo Hoà Hảo mà
Tu Sĩ Lê Minh Triết người ngôi bên phải của TT Thích Thiện Minh
Tu Sĩ Lê Minh Triết người ngôi bên phải của TT Thích Thiện Minh
không được bởi tín đồ Phật Giáo Hoà Hảo đấu tranh ôn hoà cộng với yếu tố quốc tế, cho nên phía chính quyền đã dàn dựng ra một tổ chức giáo hội Phật Giáo Hoà Hảo quốc doanh dùng toàn đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo Phật Giáo Hoà Hảo chi phối hết mọi nội dung Phật Giáo Hoà Hảo, xoá gần hết những tín ngưỡng chân truyền của Phật Giáo Hoà Hảo, cho nên tín đồ Phật Giáo Hoà Hảo tiếp tục đấu tranh ôn hoà để đòi hỏi lại truyền thống tín ngưỡng của đạo mình đã bị xâm hại.

Chính quyền đã dàn dựng ra một tổ chức giáo hội Phật Giáo Hoà Hảo quốc doanh dùng toàn đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo Phật Giáo Hoà Hảo chi phối hết mọi nội dung Phật Giáo Hoà Hảo, xoá gần hết những tín ngưỡng chân truyền của Phật Giáo Hoà Hảo

Ô.Trần Hoài Ân

Chúng tôi khẳng định là Phật Giáo Hoà Hảo đã lâm vào tình trạng không được tự do tín ngưỡng ở tại Việt Nam.

Trần Văn : Thưa ông, sau khi nghe đại diện Phật Giáo Hoà Hảo trình bày những vấn đề - như ông đã kể - phía Uỷ Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ có ý kiến gì không ?

Ông Trần Hoài Ân : Phía Uỷ Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ có trả lời rằng "Chúng tôi đã làm, đang làm và sẽ làm thế nào để cho chính phủ Việt Nam cải thiện tốt nhứt về tự do tín ngưỡng cho Phật Giáo Hoà Hảo cũng như cho các tôn giáo khác tại Việt Nam".

Giải quyết yêu cầu của Phật Giáo Hoà Hảo

Trần Văn : Ngoài việc trình bày tình hình thực tế và những khó khăn mà Phật Giáo Hoà Hảo đang đối diện tại Việt Nam, Phật Giáo Hoà Hảo có đưa ra đề nghị cụ thể nào với UBTD Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ hay không ?

Ông Trần Hoài Ân : Chúng tôi có đưa ra yêu cầu. Chúng tôi là những tín đồ chân tu bao giờ cũng muốn cho đất nước của mình được bình ổn, nhưng phía chính quyền phải thật sự tôn trọng tự do tín ngưỡng của tôn giáo chúng tôi nói riêng và tự do tín ngưỡng của các tôn giáo khác đang có mặt tại Việt Nam nói chung.

Riêng về Phật Giáo Hoà Hảo, chúng tôi tha thiết yêu cầu tổ chức quốc tế có trách nhiệm về tự do tôn giáo tiếp tục khuyến cáo chính phủ Việt Nam phải thả tù lương tâm của Phật Giáo Hoà Hoả mà hiện giờ còn quý ông Nguyễn Văn Điền, Võ Văn Thanh Liêm và mười hai đồng đạo khác

Ô.Trần Hoài Ân

Riêng về Phật Giáo Hoà Hảo, chúng tôi tha thiết yêu cầu tổ chức quốc tế có trách nhiệm về tự do tôn giáo tiếp tục khuyến cáo chính phủ Việt Nam phải thả tù lương tâm của Phật Giáo Hoà Hoả mà hiện giờ còn quý ông Nguyễn Văn Điền, Võ Văn Thanh Liêm và mười hai đồng đạo khác vì đấu tranh ôn hoà cho công bằng tôn giáo Phật Giáo Hoà Hảo mà hiện còn đang bị cầm tù.

Yêu cầu phía chính quyền Việt Nam phải:

- giải tán ngay giáo hội Phật Giáo Hoà Hảo quốc doanh,

- rút chân đảng ra khỏi sinh hoạt tôn giáo,

- trả lại tín ngưỡng chân truyền của Phật Giáo Hoà Hảo,

- chập nhận đạo kỳ Phật Giáo Hoà Hảo như trước,

- giáo lý Phật Giáo Hoà Hảo phải được chấp nhận một cách toàn diện,

- hoàn trả giáo sản của Phật Giáo Hoà Hảo đã bị tịch thu không có dữ kiện pháp lý sau ngày 30-4-1975.

Đấy là những đề nghị cụ thể mà chúng tôi tha thiết mong rằng đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam phải sớm thoả mãn những yêu cầu đứng đắn của tín đồ Phật Giáo Hoà Hảo.

Trần Văn : Thưa ông xin hỏi ông cuộc gặp giữa đại diện Phật Giáo Hoà Hảo và Uỷ Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ diễn ra vào thời điểm nào và địa điểm nào ?

Ông Trần Hoài Ân : Dạ, vào lúc 11 gìơ trưa ngày 17-5 tại Khách Sạn Sheraton ở Quận I, TP.HCM .

Tôi mặc quần ngắn, áo thun với tình cách như đi thể dục. Tôi phải lội bộ 4 cây số khỏi nhà tôi. Tôi qua đò và tôi mặc đồ, tôi lên xe, tôi đi đến một nơi an toàn để chờ đúng ngày giờ tôi có mặt tại địa điểm theo thư mời của Lãnh Sự Quán Hoa Kỳ.

Ô.Trần Hoài Ân

Lén lút trốn tránh mới gặp được UBTG Quốc tế Mỹ

Trần Văn : Thưa ông, khi ông cũng các đồng đạo đến gặp Uỷ Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ thì các ông có bị công an Việt Nam gây khó khăn gì không ?

Ông Trần Hoài Ân : Tất nhiên là phải có. Trường hợp cá nhân của tôi, tôi xin trả lời để công luận hiểu thêm cái cách mà nhà nước Việt Nam đã áp dụng.

Cá nhân tôi sau khi được thư mời của Lãnh Sự Quán Hoa Kỳ, bởi vì thư mời đến bằng đường bưu điện của phía chính quyền Việt Nam cho nên khi thư mời thì ngành an ninh tăng cường tới lui giám sát, dòm ngó chặt chẽ tôi.

Tôi tiên liệu trước là chính quyền Việt Nam không bao giờ muốn có những cuộc tiếp xúc như thế này, nhưng đứng ra cản trở một cách thẳng thừng thì không thể được, bởi vì đây là một phái đoàn mang danh nghĩa quốc tế muốn gặp các tôn giáo để tìm hiểu những trăn trở, những khó khăn.

Vì vậy cho nên tôi áp dụng cái cách là gửi hành lý tới nơi an toàn và trước 2 ngày theo thư mời thì tôi chọn giờ ngày 13 tôi đi tập thể dục khoảng 4 giờ sáng (giờ Việt nam). Tôi mặc quần ngắn, áo thun với tình cách như đi thể dục. Tôi phải lội bộ 4 cây số khỏi nhà tôi. Tôi qua đò và tôi mặc đồ, tôi lên xe, tôi đi đến một nơi an toàn để chờ đúng ngày giờ tôi có mặt tại địa điểm theo thư mời của Lãnh Sự Quán Hoa Kỳ.

Trong thời gian tôi đi lánh như thế thì gia đình và đồng đạo điện cho biết là công an tăng cường giám sát chặt chẽ bởi vì họ nghĩ rằng tôi còn ở trong nhà, và tình trạng này kéo dài cho tới khi tôi về đến nhà.

Chúng tôi vì sự thịnh suy của tôn giáo mình, vì đạo cả, chúng tôi chấp nhận mọi gian nguy. Chúng tôi sẽ trực tiếp cho phía chính quyền Việt Nam, những người an ninh Việt Nam biết sự thật là chúng tôi chân tình trình bày những trăn trở, những khổ đau của đạo mình

Ô.Trần Hoài Ân

Đó là một trong những biểu hiện rất cụ thể Phật Giáo Hoà Hảo nói riêng và các tôn giáo nói chung tại Việt Nam vô cùng mờ nhạt, và đi ngược lại mọi ý nghĩa thực tế của nó.

Trần Văn : Còn các vị khác cùng đi với ông tới gặp phái đoàn của Uỷ Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ thì họ có gặp khó khăn tương tự hay không ?

Ông Trần Hoài Ân : Tu sĩ Lê Minh Triết là người cũng trực tiếp được mời như tôi thì tu sĩ Lê Minh Triết cũng áp dụng cách thức như tôi, và tình trạng giám sát nhà, tình trạng đeo bám cũng xảy ra tương tự như tôi vậy.

Trần Văn : Bằng những việc mà ông đã có trong giai đoạn vừa qua, bằng vào thực tế đã xảy ra với ông thì các ông phải tìm hiểu cách khác nhau để có thể đến gặp phái đoàn của Uỷ Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ, ông dự đoán trong những ngày sắp tới tình trạng cá nhân các ông sẽ như thế nào? Điều gì sẽ xảy ra ?

Ông Trần Hoài Ân : Theo kinh nghiệm của những năm tháng vừa qua, chúng tôi chắc chắn một điều là chúng tôi sẽ bị ngành an ninh của phía chính quyền Việt Nam mời làm việc, và chúng tôi đã sẵn sàng.

Chúng tôi vì sự thịnh suy của tôn giáo mình, vì đạo cả, chúng tôi chấp nhận mọi gian nguy. Chúng tôi sẽ trực tiếp cho phía chính quyền Việt Nam, những người an ninh Việt Nam biết sự thật là chúng tôi chân tình trình bày những trăn trở, những khổ đau của đạo mình để mong rằng các tổ chức công luận quốc tế có trách nhiệm về vấn đề tôn giáo quan tâm sâu sắc và tiếp tục khuyến cáo nhà nước Việt Nam phải trả tự do tín ngưỡng một cách thật sự cho Phật Giáo Hoà Hảo cũng như cho các tôn giáo đang có mặt tại Việt Nam.

Ngoài dự đoán bị mời làm việc thì những khó khăn có thể xảy ra nữa là bị đeo bám, bị hạch sách, bị khó khăn đủ thứ, ngay cả những sự trù dập về kinh tế, về đời sống.

Nhưng tất cả những cái đó chúng tôi đều xem là nhỏ hơn và thấp hơn vận mệnh thịnh suy của đạo mình.

Copyright © 1998-2009 Radio Free Asia. All rights reserved.



Phái đoàn USCIRF gặp Hòa thượng Quảng Độ

Ủy ban Hoa Kỳ về tự do tôn giáo quốc tế thăm Việt Nam

Thế hệ trẻ với sứ mạng tranh đấu cho Nhân quyền Việt Nam

Bản báo cáo nhân quyền VN tại Genève được đánh giá cao?

Thế giới quan tâm đến tình trạng nhân quyền của VN

Đón mừng Lễ Phật Đản, Phật Lịch 2553, tại VN và hải ngoại

UBMT Tổ Quốc Việt Nam chúc mừng nhân ngày Phật Đản

Trung Quốc bác bỏ báo cáo tự do tôn giáo của Hoa Kỳ



Radio Free Asia
2025 M Street NW, Suite 300
Washington DC 20036, USA
202-530-4900
vietweb@rfa.org
==

THƠ NGHIÊU MINH






Bài Thơ Lỡ Vận
Thưa em, qua ở miệt vườn
Như con cá lội từ mương ra ...đìa!
Gặp em qua nhớ sớm khuya
Nhưng ngại thác đổ xẻ chia thân này
Em về phố núi mưa bay
Qua trên mương cạn biết ngày nào (gặp) nhau
Thôi thì xin gởi lời chào
Chúc em huyên náo đi vào ...náo huyên!
Thưa em, qua ghé "cõi trên"
Như con chim cút bay chuyền cành khô
Hết giồng đất qua ruộng gò
Thấy em như phượng hát hò cùng mây
Viết thư lá mít chưa đầy
Nên ngại không gửi, cột dây làm ...bùa
Thôi thì chúc em nắng mưa
Dềnh dàng xe ngựa vui đùa ...ngựa xe!
Nghiêu Minh

Monday, May 18, 2009


TÁC PHẨM CỦA TRIỆU TỬ DƯƠNG

Triệu Tử Dương tiết lộ những gì?


Bìa của cuốn sách 'Người tù của nhà nước'
Cuốn 'Người tù của nhà nước' ra mắt 19/05 nói nhiều đến vụ Thiên An Môn mà người Trung Quốc gọi là 'Lục Tứ'.
Cuốn sách soạn lại 30 giờ ghi âm của cố Tổng bí thư và Thủ tướng Triệu Tử Dương (1919-2005) ra mắt tới đây tại Hong Kong và trên thế giới mô tả ba điểm tối quan trọng.
Thứ nhất là các chi tiết trong cung đình Trung Nam Hải thời điểm dẫn tới vụ thảm sát Thiên An Môn 4/06/1989.
Thứ nhì, ông Triệu Tử Dương nêu ra các đánh giá về Đặng Tiểu Bình mà ông gọi là 'đại sư phụ' nhưng các bình luận ở châu Âu và châu Mỹ gợi ý cách gọi đúng ra phải là 'bố già mafia'.
Thứ ba, vị cựu thủ tướng bị tù tại gia cho đến chết không chỉ xác nhận quan điểm cải tổ kinh tế của mình và còn cho biết sự chuyển biến nội tâm về hướng dân chủ của chính ông sau Thiên An Môn.
Về sự kiện 'Lục Tứ'
Các trích đoạn ghi âm đã được đăng trước ngày cuốn 'Người tù của nhà nước' (Quốc gia đích tù phạm) ra mắt 19/05 này nói nhiều đến vụ Thiên An Môn mà người Trung Quốc gọi là 'Lục Tứ' (ngày 4 tháng 6).
Cần nhắc rằng các nhà xuất bản tiếng Trung ở Hong Kong chọn ngày 19/05 cũng có ý nghĩa.
Vào đêm ngày 3 tháng 6, khi tôi cùng gia đình ngồi trong vườn hoa cạnh nhà thì nghe thấy tiếng súng. Bi kịch làm chấn động thế giới đã xảy ra, không làm sao ngăn lại được nữa
Băng ghi âm Triệu Tử Dương
Ngày đó năm 1989, Thủ tướng Triệu Tử Dương, với người bí thư Ôn Gia Bảo đã bước vào đám đông sinh viên tại Thiên An Môn, kêu gọi họ về nhà.
Bức hình ông Triệu Tử Dương cầm loa, mặt nhòa nước mắt, nói với các sinh viên như con cháu của mình, rằng họ có cuộc sống còn dài, đừng hy sinh vô ích, đã đi vào lịch sử.
Bởi lúc đó, ông đã biết rằng quyết định thiết quân luật và việc điều động quân đội vào Bắc Kinh coi như là sự đã rồi.
Ban lãnh đạo đảng và chính phủ, dưới sự chỉ đạo của Lý Bằng và được Đặng Tiểu Bình 'ban phước' đã chọn giải pháp dùng xe tăng và tiểu liên để chấm dứt phong trào sinh viên Thiên An Môn.
Ông Triệu Tử Dương kể lại họ đã lợi dụng ông vắng mặt ba ngày đi thăm Bắc Triều Tiên để làm chuyện đó.
Ông coi quyết định không thông qua bỏ phiếu đó là phạm luật và luôn khẳng định sinh viên Thiên An Môn không muốn lật đổ chế độ.
Là người duy nhất trong Bộ Chính trị phản đối lại chủ trương dùng vũ lực giải tán sinh viên, ông đã cảnh báo về 'vế nhơ' mà hệ thống chính trị Trung Quốc sẽ phải đối mặt trên thế giới nếu họ làm như vậy.
'Bố già Đặng'
Nhưng theo ông Triệu, quá trình dẫn đến vụ Thiên An Môn cũng là hệ quả của cơ chế quyền lực Trung Nam Hải khi đó.
Ông Đặng Tiểu Bình, khi ấy đã trên 80, không làm gì để điều hành đất nước.
Trái lại, như một đại sư phụ, ông ta chỉ ngồi nhà nghe các phe phái đến trình bày những đề nghị cho giải pháp này khác, và lo việc phân xử xung khắc các phe.
Vụ Thiên An Môn xảy ra, theo Triệu Tử Dương, chủ yếu là do ông Đặng khi ấy thiên về ý kiến của phe bê-tông mà Lý Bằng đứng đầu.
Các tài liệu khác có vẻ ủng hộ cách đánh giá này của ông Triệu vì ngay cả trong Quân Giải phóng khi đó cũng không có sự đồng thuận về kế hoạch dùng lính bắn dân.
̀Cố Tổng bí thư Triệu Tử Dương (1919-2005)
̀Cố Tổng bí thư Triệu Tử Dương (1919-2005)
Bộ Chính trị đã phải điều quân đoàn 27 và 28 chủ yếu là lính tỉnh xa, không biết về thực tế ở Bắc Kinh, vào 'tiêu diệt bọn phản cách mạng'.
Tiết lộ của ông Triệu về vai trò của Đặng Tiểu Bình cũng giải thích được phần nào hình dạng nền chính trị Trung Quốc sau khi Đặng qua đời.
Đó là nỗ lực cân bằng các phe phái tác động đến hướng đi, kể cả ngoại giao của Trung Quốc trong khi thiếu một bố già có quyền quyết định tối hậu.
Nhưng ông Triệu cũng tự nhận chính ông mới là kiến trúc sư của cải cách kinh tế chứ không phải Đặng Tiểu Bình.
Các tài liệu bên ngoài và sau này phần nào ủng hộ ý kiến đó dù người ta có thể cho rằng ông tự khen.
Cải cách kinh tế giới hạn ở Tứ Xuyên hồi thập niên 1970 khi ông Triệu làm lãnh đạo tỉnh đã là mô hình cho cả Trung Quốc sau này.
Tương lai Trung Quốc
Nhưng điều có thể làm nhiều người ngạc nhiên là ông Triệu Tử Dương đã xác nhận một sự chuyển biến tư tưởng mạnh mẽ trong thời gian bị giam tại gia.
Khi xảy ra vụ Thiên An Môn, ông vẫn còn tin rằng hệ thống cộng sản ở Trung Quốc còn cải tổ được và sinh viên chỉ nêu ra các 'tiêu cực'.
Trên thực tế, các sinh viên Thiên An Môn đa phần cũng chỉ mong cải cách dân chủ kiểu xã hội chủ nghĩa sao cho dễ thở hơn chứ không có ý phản loạn.
Nhưng về sau này, chính Triệu Tử Dương lại còn đi xa hơn các yêu sách của sinh viên năm 1989.
Ông hoàn toàn đứng về quan điểm cho rằng Trung Quốc cần chế độ dân chủ đại nghị như Phương Tây.
Bác bỏ chủ nghĩa cộng sản, Triệu Tử Dương cảnh báo nếu không cải tổ, Trung Quốc sẽ thành một quốc gia do sự liên kết bè phái giữa đảng cộng sản, các nhóm quyền lợi kinh tế và một số trí thức thượng lưu làm chủ.
Theo ông, họ không chỉ lũng đoạn nền chính trị mà sẽ luôn đặt quyền lợi của tập đoàn lên trên số phận của dân tộc Trung Hoa.
Nếu một quốc gia muốn hiện đại hóa, nó không chỉ phải áp dụng nền kinh tế thị trường, mà nhất định phải áp dụng một nền dân chủ đại nghị cho hệ thống chính trị. Nếu không, dân tộc đó sẽ không thể nào có được một nền kinh tế thị trường lành mạnh, và cũng sẽ không thể trở thành một xã hội hiện đại với nhà nước pháp quyền. Trái lại, nó sẽ rơi vào cảnh của nhiều nước đang phát triển, gồm cả Trung Hoa: quyền lực bị thương mại hóa, tham nhũng lan tràn, một xã hội phân rẽ giữ người giàu và dân nghèo
Hồi ức ghi lại của Triệu Tử Dương
Sức mạnh một bi kịch
Vào ngày 17 tháng Giêng 2005, báo đài Trung Quốc chỉ đưa dòng tin ngắn 'Đồng chí Triệu Tử Dương tạ thế'.
Nhưng khi đó, ông đã không còn là đồng chí của họ nữa.
Cuộc đấu tranh Thiên An Môn làm ông Triệu bất ngờ nhưng phần nào thuyết phục ông về mục tiêu vì một Chủ nghĩa Xã hội Trung Hoa có bộ mặt người.
Đó cũng là ước muốn (xem ra khá ngây thơ) cũng lãnh đạo Tiệp Alexander Dubcek trong Mùa Xuân Praha 1968 hay của Michail Gorbachov vào thời điểm ông sang thăm Trung Quốc không lâu trước Thiên An Môn.
Nay, như các bình luận về cuốn sách của ông Triệu, cả thế giới đang phải đối mặt với một 'Trung Quốc tư bản có bộ mặt cộng sản'.
Nhưng câu chuyện về số phận của Triệu Tử Dương cũng khơi dậy niềm tin vào sức mạnh của nhân cách, trí tuệ và sự thật.
Để có được cuốn sách, ông Bào Đồng, bí thư cũ của Triệu Tử Dương đã lập mưu đánh lừa an ninh Trung Quốc trong nhiều năm để thu âm với ông.
Họ chọn lúc đi dạo cùng, hoặc trong nhà chỉ những khi an ninh vắng đi vài chục phút để thu lời kể của ông Triệu vào một máy ghi âm nhỏ.
Ông Bào Đồng, người bị tù sáu năm, đã chuyển qua con trai ông các đoạn băng và tư liệu ra hải ngoại để soạn thành sách.
Công phu không khác gì trong truyện cổ Trung Hoa chứng tỏ quyết tâm vượt qua số phận của ông Triệu và những người cùng chí hướng và cho thấy họ tin rằng Trung Quốc sẽ còn muốn lắng nghe.
Thông điệp vài năm sau khi ông qua đời đưa Triệu Tử Dương lên thành một trong những nhân cách lớn của Trung Quốc.
Theo trang BBC tiếng Trung, Triệu Tử Dương và những người góp phần đưa ra cuốn sách muốn các nhà lãnh đạo hiện nay phải suy ngẫm và có phản ứng tư tưởng (phản tư) trước cảnh báo ông gửi từ cõi vĩnh hằng.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2009/05/090518_zhaoziyang_book.shtml
Cựu viên chức cao cấp TQ kể về cuốn hồi ký của ông Triệu Tử Dương

21/05/2009


Zhao Ziyang
Cựu Tổng bí thư Triệu Tử Dương
Một cựu viên chức cao cấp của Trung Quốc cho biết ông và 3 người khác đã giúp cựu Tổng bí thư Triệu Tử Dương viết cuốn hồi ký cực lực chỉ trích vụ thảm sát Thiên An Môn.

Ông Đỗ Đạo Chính, cựu Giám đốc tổng cục báo chí và xuất bản, nói rằng ông và 3 cựu viên chức khác đã chép lại những cuộc băng ghi âm của ông Triệu Tử Dương mà sau đó được xuất bản bằng tiếng Anh với nhan đề 'Người tù của Nhà nước'.

Trong thông cáo do nhà xuất bản này công bố ngày hôm nay, ông Đỗ Đạo Chính nói rằng ông đã khuyến khích ông Triệu Tử Dương làm hồi ký. Nhà xuất bản không cho biết ông Đỗ hiện đang ở đâu.

Cuốn hồi ký này cho thấy ông Triệu Tử Dương chống lại những thành phần cứng rắn trong Đảng Cộng Sản Trung Quốc và tìm cách thuyết phục ông Đặng Tiểu Bình đừng dùng vũ lực để ngăn chận cuộc biểu tình ở Quảng trường Thiên an môn ở Bắc Kinh.

Vụ đàn áp này đã khiến cho hàng trăm, và có thể là hàng ngàn người bị thiệt mạng.

Ông Triệu Tử Dương, qua đời năm 2005, đã bị thanh trừng sau khi quân đội đàn áp những sinh viên đòi dân chủ và bị giam lỏng cho tới chết.


http://www.voanews.com/vietnamese/2009-05-21-voa31.cfm


LÊ XUÂN NHUẬN * LỊCH SỬ VIỆT NAM


LÊ XUÂN NHUẬN

Góp ý về bài "Chín Năm Bên Cạnh Tổng-Thống Ngô-Đình-Diệm


ÔNG LÂM LỄ TRINH VÀ ÔNG QUÁCH TÒNG ĐỨC

Lâm Lễ Trinh.
Tuy là với người viết từ lâu, ông Quách Tòng Ðức luôn luôn tỏ ra dè dặt và thận trọng khi nhắc đến những năm dài làm Ðổng lý Văn phòng cho Tổng thống Ngô Ðình Diệm, Vân vân... (xem dưới)

Ngày Quốc khánh Hoa kỳ 2005
Thuỷ Hoa Trang

Vì bài viết ấy có đề cập một số vấn đề lịch sử mà ông Lâm Lễ Trinh viết (hoặc đồng ý và ghi lại, nhưng) viết không rõ, thậm chí không đúng, nên tôi xin nêu một số thiển ý sau đây để rộng đường dư luận:

1. Ông Ngô Đình Diệm về nước ngày nào ?

Ông Lâm Lễ Trinh viết: “Hiệp định Genève, ký ngày 20.7.1954, chia đôi VN nơi vĩ tuyến 17.Trong đám đông quần chúng đón tiếp nồng nhiệt Thủ tướng Diệm tại phi trường Tân Sơn Nhứt có ông Nguyễn Ngọc Thơ, ... cùng đi với ông Quách Tòng Đức Thủ tướng Diệm - kiêm luôn Quốc phòng và Nội Vụ - mời ông Thơ tham gia Nội các với tư cách Bộ trưởng Nội vụ.


Đọc đoạn văn trên, tôi hiểu là hai ông Nguyễn Ngọc Thơ và Quách Tòng Đức là hai nhân-vật đã ra phi-trường Tân Sơn Nhật “đón tiếp nồng-nhiệt” thủ-tướng Diệm lúc ông Diệm về nước, và về nước sau khi Hiệp Định Genève đã được ký vào ngày 20.7.1954; và vì hai ông Thơ và Đức nồng-nhiệt với thủ-tướng Diệm như thế nên ông Thơ được mời làm Bộ-Trưởng Nội-Vụ và ông này chọn ông Đức làm Đổng-Lý Văn-Phòng. Nhưng sự thật thì "xem"xem bài “ông Ngô Đình Diệm về nước ngày nào?”của Lê Xuân Nhuận, trích dẫn nhiều tác-giả viết khác nhau: ngày 21, 25, 26) tháng 6 năm 1954<, thành-lập chính-phủ từ ngày 6.7.1954, và làm lễ ra mắt nội-các vào ngày 7.7.1954 (được gọi là “Ngày Song-Thất”), tức là 13 ngày trước ngày ra đời của Hiệp Định Geneva 20.7.1954; và nội-các gồm có 7 tổng-trưởng, và một số bộ-trưởng (trong đó ông Thơ là một), mà bộ-trưởng thì là thấp hơn tổng-trưởng (xem chú thích "Nhu">Như thế, thì: Mệnh đề “Hiệp Định Gevève...” là thừa, hoặc được đặt không đúng vị-trí và trình-tự thời-gian trong đoạn văn tóm-tắt lịch-sử ấy; Vỉệc hai ông Thơ và Đức tham-gia nội-các không phải là “được thưởng” về sự “đón tiếp nồng-nhiệt” kể trên, nên nhóm từ “đón tiếp nồng nhiệt thủ tướng Diệm...” cũng là thừa. Nếu muốn nói là ông Thơ và ông Đức được thủ-tướng Diệm tín-nhiệm thì nên nêu ra những lý do khác, hơn là chỉ nhờ vào sự “đón tiếp nồng nhiệt” vì cũng chẳng hơn gì “đám đông quần chúng” (?) mà thôi (xem chú thích 4).


2) Thủ-tướng Ngô Đình Diệm lên làm Tổng-Thống vào ngày nào ? Ông Lâm Lễ Trinh viết: “Ngày 23.10.1955, một cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại. Ngày 26.10.1956, từ Thủ tướng trở thành Tổng thống, ông Diệm thiết lập nền Đệ nhứt Cọng hoà VN. Quân đội tổ chức một cuộc diễn binh huy hoàng tại đại lộ Trần Hưng Đạo Sàigòn dưới quyền điều khiển của Dương Văn Minh, vừa vinh thăng Thiếu tướng sau khi tảo thanh xong Bình Xuyên taị Rừng Sát.” Ý-Kiến: Thủ-tướng Ngô Đình Diệm truất-phế Bảo Đại qua cuộc “trưng-cầu dân-ý” (xem chú thích 3) vào ngày 23.10.1955, xong tuyên-bố Hiến-Ước tạm-thời vào ngày 26.10.1955, và theo Hiến Ước ấy thì “Việt-Nam là một nước Cộng-Hòa, Quốc-Trưởng lấy danh-hiệu là Tổng-Thống VNCH” cho nên Thủ Tướng Diệm trở thành Tổng Thống ngay vào ngày 26.10.1955 (chứ không phải đợi đến ngày 26.10.1956) (xem chú thích 2).

3) Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục được Giáo Hoàng phục hồi chức tước gì?

Ông Lâm Lễ Trinh viết: “Về tin đồn Đức cha Thục làm kinh tài (khai thác lâm sản, mua thương xá Tax, làm chủ nhà sách Albert Portail..v..v..), ông Đức cho rằng TT Diệm tin TGM Thục không làm điều gì quấy, ngài phải kiếm tiền nuôi sống trường Đại học Đà Lạt do Ngài thành lập. Trải qua một cuộc đời sóng gió và gặp nhiều hiểu lầm với Toà thánh Vatican sau 1975, TGM Ngô Đình Thục được Giáo hoàng phục hồi chức tước về hưu ở Hoa kỳ và đã ra đi bình yên tại một Viện dưỡng lão công giáo thuộc tiểu bang Missouri.” Ý-Kiến: “Phục hồi” là (cho) trở lại “y như” tình-trạng cũ. “Chức tước” cũ của giáo-phẩm Peter Martin Ngô Đình Thục, trong thời cực-thịnh của tổng-thống Ngô Đình Diệm, là Tổng Giám Mục, Địa Phận Huế. Tgm Thục qua La Mã dự Công Đồng Vatican II, và sau cuộc “Cách Mạng 1-11-1963” thì không được phép về lại Việt Nam, vì đã dính líu bất chính vào chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, nên sống lưu vong. Cuối thập niên 1960 và trong thập niên 1970, Tgm Thục ngả theo giáo phái Palmar de Troya ở Tây Ban Nha, phong chức giám mục trái phép cho một số người, trong đó có Dominguez Gomez (là kẻ sau đó tự xưng đã được thần bí phong chức Giáo Hoàng, của Giáo Hội mới, là Ky Tô Giáo Palmar, nghịch với Ky Tô Giáo La-Mã) nên bị Giáo Hoàng Paul VI dứt phép thông công. Sau khi Giáo Hoàng Paul VI qua đời, Tgm Thục qua Pháp, ngồi nghe xưng tội tại một nhà thờ ở Toulon, nhưng tiếp tục phong chức giám mục cho nhiều người, và vào tháng 2 năm 1982 thì ra tuyên cáo cho rằng ngôi vị Giáo Hoàng đang bị bỏ trống và đòi bầu cử Giáo Hoàng. Sau đó Tgm Thục được Giám mục Louis Vezelis, thuộc Dòng Franciscan ở New York, Hoa Kỳ, mời qua và ngụ tại đó. Về sau, theo nhóm Vezelis thì Tgm Thục bị một số tu sĩ Việt Nam bắt cóc đưa từ New York đến Missouri, giam riêng, cắt đứt liên lạc với bạn bè. Tgm Thục qua đời ngày 13-12-1984 ở Mỹ, trong cảnh lưu vong và trong tình trạng mập mờ. Như thế, khó mà khẳng định là Tgm Thục đã được hoàn toàn “phục hồi (cả) chức (lẫn) tước” (theo Wikipedia, the free encyclopedia).

4) Ai là “cha đẻ” của “quốc sách” Ấp Chiến Lược?

Ông Lâm Lễ Trinh viết: “Ông (Ngô Đình Nhu) phát động phong trào ấp chiến lược từng gây thiệt hại cho CS Bắc Việt. Quốc sách Ấp Chiến Lược là do nghị định số 11-TTP và ông Nhu giữ vai trò Chủ tịch Ủy Ban Liên Bộ Ấp Chiến Lược.” Ý-Kiến: Kế hoạch Ấp Chiến Lược thoát thai từ sáng kiến của Sir Robert Thompson, người Anh. Lúc làm Tổng Giám Đốc An-Ninh tại Mã Lai, ông đã loại trừ được Đảng cộng sản “Mau Mau” tại nước này. Đại tá CIA Edward G. Lansdale của Mỹ noi theo kế hoạch ấy để trừ tiệt được Đảng cộng sản “Huks” tại Phi Luật Tân. Sir Robert Thompson được mời làm Phụ Tá cho nhiều đời Tổng Thống Mỹ để đặc trách chống du kích chiến tại các nước Á Đông. Hoa Kỳ biệt phái Lansdale qua cố vấn cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm (ngay khi về làm Thủ Tướng) để cải thiện tình hình và củng cố địa vị cho họ Ngô, và rồi áp dụng “quốc sách” Ấp Chiến Lược tại Việt Nam Cộng Hòa. Vì Tổng Thống quá bận, cũng như vì tầm quan trọng của nó, nên ông giao cho bào huynh là Ngô Đình Nhu đại diện để thực thi một chính sách của Mỹ, làm việc chung với Lansdale. Tóm lại, ông Cố vấn Ngô Đình Nhu, được Lansdale cố vấn, chỉ thừa kế phương sách chống Cộng của Anh và Mỹ tại Mã Lai và Phi Luật Tân, chứ không phải là “cha đẻ” của quốc sách Ấp Chiến Lược, như một số người đã gọi.

5) Chức vụ của ông Dương Văn Hiếu là gì?

Ông Lâm Lễ Trinh viết: “ Trong quyển hồi ký “Dòng họ Ngô Ðình”, xuất bản năm 2003 taị Californie, tác giả Nguyễn Văn Minh, nguyên bí thơ (1956-1963) của cố Ngô Ðình Cẩn, ghi nơi trang 164-165: Lối 10 hôm sau vụ nổ lựu đạn giết 7 em bé và một số Phật tử tại đài phát thanh Huế nhân ngày lễ Phật Ðản 1963, Dương Văn Hiếu, trưởng đoàn công tác đặc biệt Miền Trung, vào Dinh để phúc trình với TT Diệm.” Ý-Kiến: “Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung” (có thêm 2 chữ Miền Trung) là của ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn ở Miền Trung, do ông Dương Văn Hiếu chỉ huy, vào những năm đầu của Đệ Nhất Cộng Hòa. Từ năm 1960 trở di, ông Hiếu được đưa lên làm Trưởng Khối Cảnh Sát Đặc Biệt tại Tổng Nha Cảnh Sát Công An (toàn quốc) ở Sài-Gòn. Tại đây, Tổng Nha CSCA phối hợp với Phủ Đặc Ủy Tình Báo Trung Ương thành lập một tổ chức chung, hoạt động bí mật, mang tên là “Đoàn Công Tác Đặc Biệt” (không có 2 chữ Miền Trung). Do đó, khi vụ “Đài Phát Thanh Huế” xảy ra, năm 1963, ông Hiếu không còn là Trưởng “Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung”, và cũng không phải là Trưởng “Đoàn Công Tác Đặc Biệt” (vì Đoàn này là tổ chức bí mật, và ở cấp thấp hơn cấp Khối của Tổng Nha). Vậy, khi ông Dương Văn Hiếu vào phúc trình với Tổng Thống Diệm, là với chức vụ và tư cách Trưởng Khối Cảnh Sát Đặc Biệt, Phụ Tá Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Công An, cao nhất về ngành an ninh và phản gián, của toàn quốc, chứ không phải (vì không còn) là “Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung” (ở cấp thấp hơn, và chỉ ở một địa phương).

6) Ông Quách Tòng Đức phục vụ Tổng Thống Ngô Đình Diệm như thế nào?

Ông Lâm Lễ Trinh viết: “Ông Đức còn nhớ rất rành mạch rằng, sau thảm kịch tại Đài Phát thanh Huế chiều ngày 8.5.1963, Tổng thống có đòi ông vào Văn phòng để đưa cho ông xem, với một gương mặt “mệt nhọc, buồn rầu và chán nãn”, công điện ngày 6.5.1963 nói trên và hỏi “một cách sơ sài” ai đã gởi đi chỉ thị ấy. Ông Đức trả lời không biết vì trong sổ công văn gởi đi không có dấu vết của tài liệu vưà kể. Theo ông QTĐ, trong hoàn cảnh chánh trị dồn dập sôi động lúc đó (Thích Quảng Đức tự thiêu, Quách Thị Trang bị bắn chết tại chợ Bến Thành, lựu đạn nổ ở Huế, tướng lãnh lập kiến nghị đòi cải tổ, việc kiểm soát chùa..v..v..) , TT Diệm rối trí, không còn màng đến việc ra lệnh điều tra. Ông có lẽ dư biết việc giả tạo công điện 9159 là một đòn phép mới của phe chống Chánh phủ (là Phật giáo Ấn quang? Tình báo Hoa kỳ? Đảng phái đối lập? hay Cộng sản?). Vậy việc ông Đức xin từ chức là một điều thất thiệt. Nghi “tình báo Mỹ tổ chức” ông Đức – như tướng Đính ởm ờ xuyên tạc – là một chuyện tưởng tượng rẻ tiền." Ý-Kiến: Công điện số 9159 ngày 6.5.1963 được ghi là xuất phát từ văn phòng Phủ Tổng Thống, tức từ bàn giấy của Đổng Lý Văn Phòng Quách Tòng Đức; và công điện ấy đã gây nên biết bao phản ứng và hậu quả vô củng bất lợi, trong cũng như ngoài nước, cả một chuỗi biến cố lớn lao dồn dập đưa đến cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nển Đệ Nhất Cộng Hòa. Thế mà ông Quách Tòng Đức vẫn cứ bình chân như vại: Tổng Thống “không màng đến việc ra lệnh điều tra” thì thôi, chứ mình không chịu lên tiếng cải chính, ít nhất thì cũng thanh minh hay “tâm sự” gì với ông Cố vấn Ngô Đình Nhu ở sát cạnh mình – một việc có thể thay đổi tình hình. Tôi thấy có 2 vấn đề: Một, là Tổng Thống Ngô Đình Diệm quá ư chuyên quyền, hễ ông mà không ra lệnh điều tra thì không một ai dám tự điều tra, dù là để tìm thủ phạm ngụy tạo công điện nói trên, để cứu chế độ của mình; nếu thế thì ông lâm nguy là đáng quá rồi . Hai, là ông Quách Tòng Đức quá “vô tích sự” nếu không muốn nói là vô lương tâm: ở nước người ta, chỉ một phi cơ nào đó lâm nạn cũng đủ để cho Bộ Trưởng Giao Thông toàn quốc từ chức vì tự ý thức trách nhiệm trên lương tâm mình. 7) Tuần báo nào của Mỹ đăng bài về vụ trái bom nổ chậm tại Đài Phát Thanh Huế? Ông Lâm Lễ Trinh viết: “Trong hồi ký “Ngô Đình Diệm, Nổ lực hoà bình dang dở”, (nxb Xuân Thu Californie 1989), nơi trang 189-190, Nguyễn Văn Châu, nguyên giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lý Quân đội VNCH, trở thành đối lập với Chánh phủ trước cuộc binh biến 1.11.1963, có ghi lại: Sau 1975, một cựu đại uý Hoa kỳ tên James Scott, liên hệ với CIA và từng làm cố vấn cho Tiểu đoàn 1/3 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, thú nhận trong một lá thơ đăng trên một tuần báo Mỹ rằng chính y đã gài một trái bom nổ chậm chiều 8.5.1963 taị Huế. Sự kiện này cũng được Trần Kim Tuyến, dưới bút hiệu Lương khải Minh, ghi lại trong hồi ký Làm thế nào giết một Tổng thống? (tập 2, trang 366-370). Ý-Kiến: Phát giác “động trời” thế này mà không được ai chú ý đúng mức. Tại sao không tìm cho ra “cựu đại úy Mỹ James Scott” có phải là nhân vật “thực” hay chỉ là một cái tên bịa, cố vấn cho Tiểu đoàn 1/3 vào thời gian nào, nhất là “lá thơ đăng trên một tuần báo Mỹ” là tuần báo loại nào, tên gì, ở địa phương nào, và ra ngày nào, v.v..., nhất là nguyên văn bài báo liên quan. Làm sao biết trước là sẽ có cuộc biểu tình tại Đài Phát Thanh Huế, và vào giờ nào, phút nào, thì có những ai ở đó, đề gài (định giờ) sẵn cho bom sẽ phát nổ? (xem chú thích 5). 8) Ai là lãnh tụ “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam”? Ông Lâm Lễ Trinh viết: “Nguyễn Khánh, kịch sĩ từng đả đảo Hiến chương Vũng Tàu do chính ông cho thảo ra. Một đòn khác của tướng Khánh: móc nối với Huỳnh Tấn Phát, lãnh tụ (?) Mặt trận Giải phóng Miền Nam, với chủ đích – theo lời tuyên bố của Khánh – kéo Phát về phiá Quốc gia.” Ý-Kiến: Dù người dân thường cũng biết là Nguyễn Hữu Thọ (chứ không phải Huỳnh Tấn Phát) là “lãnh tụ” của cái “Mặt Trận” này (xem chú thích 6). 10) Hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị giết vào ngày nào? Ông Lâm Lễ Trinh viết: “Ông Đức tỏ ra ngán ngẩm khi được hỏi nghĩ gì về sự tự thú trên đây. Theo ông, trong những ngày chót của một cuộc đời đấu tranh gian khổ, TT Diệm là con người cô đơn nhứt trên thế gian: dân tộc bỏ rơi, đồng minh phản bội, gia đình chia cách, kẻ thù cộng sản reo hò chiến thắng, sự nghiệp chính trị ra tro, uất hận ngất trời vì tương lai mù mịt của Đất nước, một quốc gia bị sức mạnh chèn ép. Với ông Nhu quỳ bên cạnh cầu nguyện trong Nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn sáng ngày 1.11.1963 không chắc TT Diệm đồng một tâm tư với người em.” Ý-Kiến: Hai ông Diệm và Nhu cầu nguyện trong Nhà Thờ Cha Tam ở Chợ Lớn vào sáng ngày 2.11.1963 chứ không phải sáng ngày 1.11.1963. Trong một bài khác, nhan đề "Khí Tiết và Lãnh Đạo", ông Lâm Lễ Trinh cũng viết sai ngày như thế.


LÊ XUÂN NHUẬN CHÚ THÍCH:

(1) Đoàn Thêm, “Hai Mươi Năm Qua”, Xuân Thu, Saigon, 1965, trang 148-50. trở lên
(2) Đoàn Thêm, sđd, trang 184. trở lên
(3) Nguyễn Đình Tuyến, “Những Biến Cố Lớn trong 30 Năm Chiến Tranh tại Việt Nam 1945-1975”, Đại Học Đông Nam, Houston, TX, USA, 1995, trang 39: “Cuộc Trưng Cầu Dân Ý này là màn đạo diễn của Đại-tá Landsdale đã đóng vai trò quan trọng trong việc ủng hộ Thủ Tướng Diệm. Ở nhiều nơi trong thành-phố Saigon, số phiếu bầu cử cho ông Diệm bằng 130% con số cử tri (vì binh sĩ của Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Thủ Tướng và Đoàn Viên Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia của ông Diệm đã được phép bầu đi bầu lại nhiều lần).” trở lên
(4) a/ Nguyễn Đình Tuyến, sđd, trang 25: “Có khoảng 500 đồng bào công giáo chào đón ông ở Phi Trường Tân Sơn Nhất.” b/ Văn Bia, “Những Ngày Chung Sống với Chí Sĩ Ngô Đình Diệm”, Lê Hồng, Methuen, MA, USA, 2001, trang 273-76: “Báo chí phản ảnh trung thực dư luận quần chúng. Không một tờ báo nào hoan hô ngày Thủ Tướng Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm... Cả Saigon chỉ huy động được có một nhúm nhỏ xíu công chức đi lên phi trường Tân Sơn Nhứt tiếp đón Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Dân thì chỉ có nhóm thân hữu trong Ban Đón Tiếp. Lần đầu lưa thưa đi rước hụt đã là một thí nghiệm cho thấy sự hưởng ứng bi đát... Báo chí và dân chúng rất thờ ơ với việc Thủ Tướng Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh... Ông Phan Xứng lo viết kiến nghị của dân thiểu số vùng Đạt-Lắc mà đâu thấy có bóng dáng người Thượng nào. Ông Trần Quốc Bửu không huy động được đoàn viên các nghiệp đoàn, tưởng đâu rất to tát của ông. Cũng không thấy có nhóm Công Giáo nào do cha (Nguyễn Quang) Toán mang tới ... báo giới không hậu thuẫn cho ông Diệm... Về nước gần như trong lặng lẽ...” trở lên
(5) a/ Tuệ Chương, “Viết Về Huế”, Worcester, Massachusetts, USA (theo Hồ Công Tâm, 25-5-2003): ”... Khi trên đài lục cục khiêng bàn ra xong, Thượng Tọa Trí Quang và ông Tỉnh Trưởng đã đứng trên đó, chưa kịp nói gì, thì ngay trước mặt tôi, người chỉ huy đứng trên chiếc xe có tên Ngô Ðình Khôi, đứng thẳng lên, (người và xe đều hướng về phía đài phát thanh) rút súng nhỏ bắn lên trời ba phát\. Tôi thấy lửa từ nòng súng tóe ra rất rõ ràng\. Tiếp theo đó là một tiếng nổ lớn phát ra từ phía đài phát thanh\. Xin nhớ là ba phát súng lệnh nổ trước, lựu đạn nổ sau\. Ông Tỉnh Trưởng và Thượng Tọa Trí Quang đang đứng trên bàn cao, liền nhảy xuống...”
b/ Truyền thông ngoại quốc: A la suite d'incidents sanglants à Huế LES BOUDHISTES DU VIETNAM DU SUD ENTRENT EN CONFLIT AVEC LE GOUVERNEMENT "CATHOLIQUE" DE DIỆM Saigon . 15 Mai (A.F.P.) .- Une vive tension religieuse règne actuellement au Vietnam du Sud. Elle est due à la discrimination dont les Boudhistes s’estiment victime, et qui a trouvé son expression récemment dans de sanglants evènement à Huế. Selon la version officielle de ces évènements, c'est le lancement d'une grenade par un terrorite qui a provoqué dans la soirée du 8 Mai, la mort de sept personnes parmi la foule qui manifestait en ce jour anniversaire de la naissance du Bouddha, devant les bâtiments de la radio. Trích dịch báo "LE MONDE" ngày 16-5-63.
SAU NHỮNG VỤ LÔI THÔI ĐẪM MÁU Ở HUẾ, PHẬT TỬ MIỀN NAM VIỆT NAM TRANH CHẤP VỚI CHÍNH PHỦ "Thiên Chúa Giáo" của ÔNG DIỆM Saigon. 15.5 A.F.P. (Thông tấn xã Pháp). Hiện tại ở miền Nam Việt Nam đang có một sự căng thẳng mãnh liệt về tôn giáo đã xuất phát vì một sự phân biệt mà các Phật tử xem mình là nạn nhân và đã biểu lộ mới đây trong những biến cố đẫm máu ở Huế. Theo luận điệu chính quyền thì đêm 8.5 dương lịch, một kẻ khủng bố đã tung ra một quả lựu đạn làm chết bảy người trong đám biểu tình trước trụ sở đài phát thanh trong ngày lễ Phật đản. trở lên
(6) a/ Nguyễn Đình Tuyến, sđd, trang 52: “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là hậu thân của Việt Minh... Mặt Trận này đề cử Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ Tịch, Nguyễn Thị Bình làm Ngoại Trưởng.” b/ Văn Bia, sđd, trang 91-92: “Ngô Đình Diệm và Nguyễn Hữu Thọ đã từng sống chung dưới một mái nhà... Pháp có dành cho ông (Ngô Đình Diệm) một chỗ ở trong một biệt thự lớn ở số 152 đường De Gaulle (sau đổi là Công Lý)... kế cận một phòng do vợ chồng luật sư Nguyễn Hữu Thọ cư ngụ... Nguyễn Hữu Thọ sau đó làm Chủ Tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.” trở lên Ngo Dinh Diem From Wikipedia, the free encyclopedia: on October 26, 1955, in a disputed nationwide referendum, the people voted to remove the emperor Bao Dai as head of state and elect Diem the first President of the Republic of Vietnam. When the referendum was held, Diem's troops guarded the polls and those who attempted to vote for the Emperor were assaulted. Diem's detractors say that the fraud was obvious. In Saigon, for example, Diem claimed more votes than there were registered voters in the entire area. The National Archive – A Learning Curve http://www.learningcurve.gov.uk/ When the voters arrived at the polling stations they found Diem's supporters in attendance. After the election Diem informed his American advisers that he had achieved 98.2 per cent of the vote. They warned him that these figures would not be believed and suggested that he published a figure of around 70 per cent. Diem refused and as the Americans predicted, the election undermined his authority.

 

No comments:

Post a Comment