PHÓNG SỰ QUỐC NỘI
Thứ Tư, 24/06/2009 - 10:49 AM
Nhộn nhạo những “làng Trung cộng” ở Hải Phòng
Người
dân Hải Phòng gọi khu vực tập trung lao động Trung cộngở xã Ngũ Lão là
“làng Trung cộng”. Cách đó không xa, ở huyện Thuỷ Nguyên còn có một “khu
ổ chuột” với cả nghìn lao động Trung cộng không hộ chiếu, visa…
“Làng Trung cộng” ở Ngũ Lão
Trước
khi dự án Nhà máy Nhiệt điện Hải Phòng được khởi công, khu đất xây dựng
nhà ở tập trung dành cho lao động Trung cộng sang thi công công trình
này là khu đất ruộng, với những ô khoảnh ao đầm nuôi cá nước ngọt của
người dân xã Ngũ Lão.
Tuy
là một khu vực tập trung chung của những lao động, các đơn vị thầu dự
án Nhà máy Nhiệt điện Hải Phòng song bên trong khu vực hành chính này
cũng có sự phân chia riêng. Văn phòng của Nhiệt điện Hải Phòng ở phía
ngoài cùng, ngay lối vào. Ngoài ra còn có ba văn phòng của phía Trung
cộng là Hồ Bắc, Đông Phương, Quảng Tây.
"Làng Trung cộng" ở xã Ngũ Lão - Thuỷ Nguyên - Hải Phòng.
Trước
trụ sở của mỗi đơn vị trúng thầu thi công của Trung cộng, đều có một
cổng bảo vệ riêng. Mỗi văn phòng đều có một khu riêng biệt dành cho công
nhân của mình ở, một bếp ăn, cùng một số cơ sở vật chất khác, để phục
vụ cho lao động.
Khu
nhà ở của lao động Trung cộng của công ty Quảng Tây có số lượng công
nhân đông đảo nhất với khoảng gần 130 phòng ở, đủ sức chứa cho hơn 1.000
công nhân. Mỗi phòng rộng chừng chục mét vuông, vách trần xốp cách
nhiệt, kê 8 chiếc giường sắt hai tầng. Một phòng được thiết kế dành cho 8
công nhân ở.
Công
ty Quảng Tây còn có một phòng hát karaoke, một quầy bán hàng phục vụ
dành cho lao động của họ. Hồ Bắc, Đông Phương cũng có bếp ăn riêng dành
cho lao động của họ. Các điểm phục vụ này không dành cho công nhân Việt
Nam.
Tại
các cửa phòng hoặc cửa các khu nhà này đều dán rất nhiều các tấm biển
ghi chữ Trung cộng. Nhiều tấm biển có nội dung chúc mừng năm mới khi lao
động Trung cộng đón tết tại Việt Nam, vẫn còn giữ đến bây giờ.
Một
bảo vệ người Việt Nam làm việc tại công ty Quảng Tây cho hay, buổi tối,
có nhiều cô gái người Việt Nam đến chơi tại các phòng ở của các công
nhân này.
Bên trong căn phòng 313 - nhà số 5 của khu công nhân công ty Quảng Tây.
Có
đến gần chục cửa hàng kinh doanh dịch vụ điện thoại quốc tế được mở tại
xã Ngũ Lão để phục vụ cho các lao động Trung cộng gọi điện về nhà. Do
số lượng người có nhu cầu gọi điện quá đông, ngay đầu đường rẽ vào khu
chung cư Ngũ Lão đã có tới hai điểm gọi điện thoại quốc tế. Một buổi
tối, quán dịch vụ gọi điện quốc tế ngay đầu ngã ba đường mới rẽ vào khu
“làng Trung cộng” thu tổng cước gọi trên 500 phút.
“Phố Tàu” ở Thủy Nguyên
Đoạn
đường từ thị trấn Núi Đèo (huyện Thủy Nguyên) chạy qua xã Ngũ Lão sang
xã Tam Hưng, rồi xuôi xuống xã Minh Đức dài ngót chục cây số. Dự án Nhà
máy Nhiệt điện Hải Phòng tính từ ngày khởi công đến giờ mới ngót bốn
năm, nhưng đã có hàng trăm nhà hàng, quán ăn, nhà nghỉ… và các dịch vụ
giải trí gắn biển Trung cộng mọc lên hai bên quãng đường này.
Tại
những điểm đông dân cư như dốc My Sơn (Ngũ Lão), quãng đường cong Tam
Hưng, số lượng các biển hiệu, nhà hàng treo chữ Trung cộng, (có những
cửa hiệu 100% chữ Trung cộng) xuất hiện dày đặc, khiến người đi đường
tưởng như mình đang đi lạc vào một phố Tàu nào đó vừa mới mở.
Đại Đường - Nhà hàng lớn nhất ở Ngũ Lão được mở để phục vụ lao động Trung cộng.
Nhiều
nhà hàng treo đèn lồng trước cửa. Trước cửa khách sạn My Sơn cạnh cây
xăng, bức tranh bé trai và bé gái Trung cộng cỡ lớn dán ngay cạnh cửa
kính ra vào, ngay cạnh hàng chữ tiếng Trung cộng khá to được dựng khung
bên ngoài.
Các
dịch vụ gắn biển chữ Trung cộng, ngoài quán ăn, nhà nghỉ, còn phần lớn
là các dịch vụ hát karaoke, dịch vụ massage, tắm rượu thuốc, làm tóc,
nhuộm hấp gội đầu…
Một
quán cắt tóc ngay dốc My Sơn, đã kịp thời phiên âm tiếng Việt trên biển
hiệu quảng cáo, rằng có chuyên gia Trung cộng về cắt gội sang làm tư
vấn dịch vụ… Chủ hiệu, tên là A Hoa đã nhanh nhạy nắm bắt được nhu cầu
của số lượng lớn công nhân Trung cộng sang làm việc tại Thủy Nguyên, nên
đã sang tận đây để mở dịch vụ này.
Những
nhà hàng mở với quy mô lớn để kinh doanh phục vụ lao động nước ngoài có
thể kể đến Nhà hàng Duyên Hằng, nhà hàng Thiên Mã, nhà nghỉ Khánh
Huyền, khách sạn My Sơn, nhà hàng Mỹ Sơn Viên, nhà hàng - nhà nghỉ -
dịch vụ massage, xông hơi Đại Đường…
Những
điểm này thu hút rất đông những lao động Trung cộng đến đây giải trí
nên theo phản ánh của người dân địa phương, đã xuất hiện rất nhiều tụ
điểm mại dâm hoạt động dưới dạng các quán karaoke, nhà nghỉ trá hình…
“Xóm ổ chuột” ở đường cong
“Khu
ổ chuột” được xây dựng tại khu vực đường cong thuộc xóm 9, xã Tam Hưng
(huyện Thủy Nguyên), là nơi ở tập trung một lượng không nhỏ công nhân
Trung cộng.
“Khu ổ chuột” nằm bên một con kênh nhỏ, là một khu nhà cấp bốn tường xây chưa trát vữa, lợp mái tôn, nhìn bề ngoài khá xập xệ.
Để vào được “khu ổ chuột” phải có thẻ ra vào vì có bảo vệ canh gác.
“Khu
ổ chuột” là nơi tập trung chủ yếu các lao động Trung cộng sang Việt Nam
theo con đường “tiểu ngạch”, không có hộ chiếu, visa, và phần lớn là
các lao động thủ công. Đây cũng là điểm nóng thường xuyên xảy ra các tệ
nạn xã hội, vì các lao động này thường xuyên tổ chức đánh bạc, gây xô
xát xích mích với thanh niên địa phương.
Buổi
tối mùa hè, có rất nhiều quán cà phê đèn mờ biển hiệu Trung cộng với
những cô gái ăn mặc "mát mẻ" ngồi ngay phía cửa, mời mọc bằng tiếng
Trung khi thấy những bóng áo xanh công nhân đi qua.
Những quán cà phê, tẩm quất massage có biển song ngữ, là nơi dập dìu lao động Trung cộng giải trí mỗi tối.
Trưởng
công an xã Tam Hưng, ông Lại Thế Minh, thừa nhận: ban công an xã chưa
lần nào vào đó để kiểm tra giấy tờ tùy thân của các lao động người Trung
cộng, vì có… quá nhiều lý do khác nhau, mặc dù chính quyền địa phương
biết có một số lượng lớn lao động người Trung cộng nhập cư trái phép vào
làm việc tại dự án Nhà máy Nhiệt điện Hải Phòng tại Thủy Nguyên.
Cũng
như ông Minh, ông Trần Ngọc Sử, Trưởng công an xã Ngũ Lão cho biết: Đã
có nhiều trường hợp lao động nước bạn yêu và lấy vợ người Việt nhưng
chưa đôi nào đến làm thủ tục đăng ký kết hôn tại địa phương. Nhiều công
nhân Trung cộng sống với phụ nữ Việt ở đây như vợ chồng.
“Chuyện
sống cặp hay tìm đến các quán cà phê thư giãn, đèn mờ để thỏa mãn nhu
cầu tâm sinh lý thường xuyên xảy ra” - ông Minh xác nhận.
Những
người sống cặp với các lao động Trung cộng, phần đông là các cô gái đã
từng đi giúp việc gia đình tại Đài Loan, Trung cộng… Với một chút vốn
liếng về tiếng Trung, họ dễ làm quen với các lao động Trung Quốc. Ngoài
ra còn có các nữ lao động Việt Nam làm việc trong công trường Nhà máy
Nhiệt điện Hải Phòng tại Thủy Nguyên.
Người
dân địa phương sống gần khu chung cư người lao động Trung cộng cho hay,
có 5-6 trường hợp công nhân Trung cộng sống cặp với các cô gái người
Việt như vợ chồng, trong thời gian họ thi công dự án Nhà máy tại Thủy
Nguyên.
Thời
điểm tháng 6/2009, dự án xây dựng Nhà máy thép đặc biệt tại KCN Cầu
Nghìn sắp sửa hoàn thành, số lượng lao động Trung cộng đã về nước nhiều.
Hiện tại, tại đây chỉ còn khoảng 300 lao động người Trung cộng.
Ngại
kiểm tra lao động “chui” vì... bất đồng ngôn ngữ Ông Lại Thế Minh -
trưởng công an xã Tam Hưng (huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng) nói: “Ban công
an xã chưa một lần đi kiểm tra giấy đăng ký tạm vắng tạm trú của lao
động nước ngoài cư trú tại địa phương trong thời gian thi công công
trình nhà máy Nhiệt điện Hải Phòng. Lý do vì lực lượng công an xã quá
mỏng (14 cán bộ công an phụ trách địa bàn 10 thôn trong xã), lực lượng
lao động người nước ngoài quá đông và… bất đồng ngôn ngữ!”. Hiện tại,
công an xã chỉ kiểm soát được số lượng những lao động do công ty của họ
đăng ký tạm trú trên danh sách. Vì đăng ký tạm trú theo hình thức này
nên chính quyền xã cũng không biết được số lượng chính xác có bao nhiêu
lao động nước ngoài đang cư trú tại địa phương mình. Ông Minh cho
biết, một lượng lớn lao động tập trung tại khu nhà xây dựng dành cho
công nhân Trung cộng tại thôn 9 - xã Tam Hưng (khu đường cong). Một số
khác thuê nhà dân ở. Xã chỉ nắm được khoảng 20 nhà dân cho người lao
động nước ngoài thuê phòng với tổng số hơn 100 người. Tuy nhiên,
theo anh Bình, một người dân sống tại địa phương, con số này lớn hơn gấp
nhiều lần. Anh Bình cho biết, thời kỳ cao điểm (khoảng tháng 6/2007),
có khoảng 3.000 lao động người Trung cộng sống tại xã Tam Hưng.
“Chúng tôi không thể kiểm tra tạm vắng của số lao động này. Thời điểm
trước, các lao động Trung Quốc đi chơi đêm ngoài đường rất khuya, anh em
cũng không thể hỏi họ giấy tờ tùy thân, vì không biết tiếng Trung cộng.
Thời gian gần đây, chúng tôi đề nghị với lãnh đạo công ty của họ quản
lý chặt hơn những đối tượng này nên tình trạng công nhân Trung cộng đi
chơi đêm đã hạn chế” - ông Trần Văn Độ - trưởng công an xã Ngũ Lão phân
trần. Số lượng lao động Trung cộng được công ty của họ đăng ký tạm
trú tại xã Ngũ Lão là… 350 người. Trong khi đó, theo khảo sát của phóng
viên, riêng lượng lao động Trung cộng của công ty Quảng Tây sống trong
khu chung cư căn cứ trên số phòng, con số này là hơn 1.000 lao động.
Theo Nhóm phóng viên
Theo Nhóm phóng viên
Vietnamnet
Wednesday, June 24, 2009
NGUYỄN KHUÊ * VĂN HÓA
KỶ NIỆM VỀ GS. BỬU CẦM
NGUYỄN KHUÊ
Tôi không khỏi ngần ngại khi thuật lại những hồi ức, kỷ niệm về GS. Bửu Cầm, bởi lẽ những hồi ức, kỷ niệm ấy có liên quan mật thiết với tôi, nên không thể thuật lại mà không ít nhiều nói đến tôi, nhưng cái tôi thì lại rất đáng ghét. Hơn nữa, cũng có thể có người nghĩ rằng tôi muốn nhân viết về GS. Bửu Cầm mà gián tiếp nói về mình.
Tuy nhiên, GS. Bửu Cầm là thầy của tôi từ năm l963, khi tôi học cử nhân giáo khoa Việt Hán , tiểu luận cao học và luận án tiến sĩ của tôi; trong khoảng 1970-1975, khi GS. Bửu Cầm làm Trưởng ban Hán văn, thì tôi là Phụ tá Trưởng ban; từ ngày Thầy về hưu đến nay, tôi vẫn thường tới lui thăm viếng. Một phần của cuộc hội thảo khoa học này là để kỷ niệm 90 năm ngày sinh của GS. Bửu Cầm (đây là lần đầu có cuộc hội thảo khoa học về Thầy), tôi là người gần gũi Thầy trong một thời gian dài như thế, mà không ghi lại một vài hồi ức, kỷ niệm về Thầy, nghĩ cũng có lỗi không ít với thẩy của mình.
Vì
những lý do nêu trên, tôi sẽ chọn thuật lại những hồi ức, kỷ niệm về
GS. Bửu Cầm không có cái tôi trong đó, hoặc giả nếu có thì cũng rất mờ
nhạt và bất đắc dĩ.
1. Một học giả, giáo sư uyên bác và mẫu mực khả kính
GS. Bửu Cầm sinh năm 1920 tại thôn Vĩ Dạ, Thừa Thiên Huế, là con trưởng của thi sĩ Ưng Oanh và nữ sĩ Trịnh Thị Tố [3], tằng tôn (cháu gọi bằng cố) của thi hào Tuy Lý Vương Miên Trinh (con thứ 11 của vua Minh Mạng) nổi tiếng “thất Thịnh Đường” [4]. Thầy được học trò và giới nghiên cứu kính trọng về hai phương diện: sự uyên bác và tác phong mô phạm.
Thầy không phải là một trí thức khoa bảng, mà là một học giả. Kiến thức uyên bác của Thầy là kết quả của sự tự học. Năm ngoài 20 tuổi, Thầy đã là chủ biên của Tinh hoa văn tập và tập san Gió lên xuất bản tại Huế. Ở tuổi 25, Thầy đã biên soạn cuốn Tống Nho – Triết học khảo luận (Trần Trọng Kim đề tựa năm 1945) [5]. Đây là một công trình biên khảo rất có giá trị về mặt tư tưởng học thuật, với tư liệu tham khảo phong phú gồm 2 sách quốc văn, 63 sách Hán văn và 13 sách Pháp văn, đòi hỏi soạn giả phải có học vấn uyên thâm về Nho học nói chung và Tống Nho nói riêng; một công việc không phải dễ dàng, nếu không nói là khó, với bất cứ nhà Hán học nào. Mặt khác, con số vỏn vẹn 2 sách quốc văn tham khảo còn cho thấy thời ấy (và cả bây giờ) Tống Nho là cuốn sách hiếm hoi trong tủ sách tiếng Việt cùng loại. Cũng nên nói thêm Trần Trọng Kim là một học giả tên tuổi, có nhiều tác phẩm biên khảo rất có giá trị, trong số đó có cuốn Nho giáo [6].
Theo sự đọc sách hạn hẹp của tôi, tôi không thấy học giả họ Trần đề tựa cho một cuốn sách nào khác. Ông đã viết lời tựa cho cuốn Tống Nho của một thanh niên 25 tuổi, có nghĩa là ông nhận thấy cuốn sách ấy có giá trị. Sau Tống Nho, Thầy tiếp tục biên soạn thêm gần 20 công trình gồm nhiều thể loại như biên khảo (Việt ngữ chính tả tự vựng, Tìm hiểu Kinh Dịch, Quốc hiệu nước ta từ An Nam đến Đại Nam, Thư mục về Nguyễn Du…), dịch thuật (Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu, Hồng Đức bản đồ, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam hội điển), phiên âm và chú giải các tác phẩm chữ Nôm (Nam cầm khúc của Tuy Lý Vương, Hoài cổ ngâm của Tương An Quận vương, Trăm thương của Tương An Quận vương). Ngoài ra, Thầy còn có nhiều bài viết đăng trên Văn hóa nguyệt san, Khảo cổ tập san, Đồng Nai văn tập. Về giảng dạy, trong khoảng 1950-1953, Thầy dạy trường Quốc học Huế. Từ 1958, Thầy được mời giảng các môn Lịch sử Việt Nam, Ngữ học Việt Nam, Văn chương Việt Hán, Văn chương Trung Hoa, Triết học Đông phương tại trường Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Năm 1970, Thầy được cử giữ chức Trưởng ban Hán văn thay cho GS. Nghiêm Toản xin nghỉ. Do những cống hiến lớn lao của Thầy về nghiên cứu cũng như giảng dạy, năm 1969 Thầy được phong Giáo sư diễn giảng, năm 1972 Thầy được thăng Giáo sư đại học thực thụ [7]. Thầy đã bảo trợ cho nhiều đề tài cao học và tiến sĩ, làm chủ khảo hoặc giám khảo trong nhiều hội đồng chấm các tiểu luận cao học về văn chương quốc âm, văn chương Việt Hán, văn chương Trung Hoa, Sử học, Triết học Đông phương. Năm 1972, trường Đại học Văn khoa Sài Gòn bắt đầu mở tiến sĩ [8],
Thầy lại giảng dạy và làm chủ khảo kỳ thi tốt nghiệp năm thứ nhất tiến sĩ chuyên khoa Hán văn. Thầy cũng được mời dự hội nghị quốc tế về Trung Quốc học ở Đài Loan, được cử tham gia Phái đoàn Giao dịch với Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Đông Nam Á tại Nhật Bản và là thành viên của Ủy ban Hỗ tương Thẩm định Giá trị Văn hóa Đông Tây của UNESCO. Thời tôi học cử nhân giáo khoa Việt Hán, ban Hán văn chỉ có hai giáo sư cơ hữu là GS. Nghiêm Toản (Trưởng ban) và Thầy, các vị khác như Thẩm Quỳnh [9], Bùi Lương [10]… đều là giảng viên thỉnh giảng.
Các thầy hoặc xuất thân Hán học, hoặc xuất thân Tây học kiêm Hán học, nên vị nào cũng có tác phong mô phạm. Nói riêng về Thầy, ngoài sự giảng dạy đúng giờ giấc và tận tâm, Thầy rất thương học trò. Nhiều sinh viên không hiểu Thầy, cho là Thầy khó. Thật ra, Thầy chỉ giảng dạy nghiêm túc và đòi hỏi sinh viên cũng phải học tập nghiêm túc. Trong lớp, Thầy ít khi nói vấn đề gì khác ngoài bài giảng. Thời bấy giờ, ghi danh học cao học và tiến sĩ không phải qua kỳ thi, chỉ cần hội đủ điều kiện qui định cho mỗi bậc học và phải được một giáo sư nhận bảo trợ. Vì thế, cũng như GS. Nghiêm Toản, Thầy rất chặt chẽ trong việc nhận bảo trợ đề tài cao học và tiến sĩ. Trong thời gian học cử nhân, tôi chưa một lần đến nhà Thầy (đối với các thầy khác cũng thế). Nhưng từ khi làm cao học, rồi tiến sĩ với sự bảo trợ của Thầy, thì tôi thường đến gặp Thầy để hỏi ý kiến, để xin Thầy đọc những chương, những phần trong luận án mà tôi đã viết xong. Lần nào Thầy cũng vui vẻ tiếp, ân cần hướng dẫn, góp thêm ý kiến, sửa chữa những chỗ sai lầm trong bản thảo (Thầy đọc kỹ và trả lại đúng hẹn), chỉ cho những sách liên quan đến đề tài cần phải đọc thêm, thậm chí còn cho mượn những tài liệu tham khảo mà tôi không tìm được ở các thư viện. Bởi học thức uyên bác, sự tận tâm giảng dạy và lòng thương yêu sinh viên mà Thầy được nhiều thế hệ học trò kính mến.
2. Một nhà giáo thanh bạch
Từ khi tôi bắt đầu học với Thầy cho đến năm 1973, nếu tôi nhớ không lầm, Thầy và gia đình sống trong một căn nhà thuê nhỏ hẹp trong một con hẻm cụt cũng nhỏ hẹp trên đường Đặng Dung ở vùng Tân Định quận l. Những ngày có giờ dạy, mưa cũng như nắng, Thầy đi bộ từ nhà đến trường, rồi lại đi bộ từ trường về nhà. Lúc nào tôi cũng thấy Thầy mặc áo sơ-mi trắng, thắt cà-vạt, chỉ khi tham gia hội đồng chấm bảo vệ cao học thì Thầy mới mặc com-lê. (Thầy Nghiêm Toản thì quanh năm mặc một bộ com-lê cũ kỹ, chúng tôi gọi đùa là bộ com-lê tứ thời. Thỉnh thoảng, Thầy cũng đi bộ đến trường, nhưng thường thì Thầy đi chiếc xe hơi cũ kỹ “deux chevaux”, tức hai mã lực, do con Thầy là anh Nghiêm Hồng lái. Loại xe hơi này do Pháp sản xuất, thời bấy giờ người ta gọi đùa là “xe con cóc” hoặc “xe song mã”). Nếu chúng ta biết rằng có một giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn khác, cũng ở đường Đặng Dung, cách nhà Thầy không xa, đi đến trường trong một chiếc xe hơi sang trọng, thì mới thấy được sự thanh bạch của Thầy.
Thầy có hiệu là Tam bất cư sĩ 三不居士.“Tam bất” là nói rút gọn câu “Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.” (Sự giàu sang không thể làm cho trở nên dâm dật, sự nghèo hèn không thể làm thay đổi tiết tháo, uy quyền vũ lực không thể khuất phục.) Qua đó, có thể thấy cách lập đức của Thầy. Thầy gọi nơi đọc sách và trứ tác của Thầy ở Tân Định là “hiên Tam bất” và thường ghi bên dưới các bài tựa là “Viết tại Hiên Tam bất…” Như khi đề tựa cuốn Tâm trạng Tương An Quận vương qua thi ca của ông [11], Thầy ghi (tôi giữ đúng cách viết hoa và gạch nối của Thầy): Viết tại Hiên Tam-bất ở Tân-định, Sài-thành, tiết Trung-thu năm Canh-tuất (1970)
Năm 1973, Thầy mua được một căn nhà ở đường Mai Ngọc Khuê (nay là đường Nguyễn Thanh Tuyền) quận Tân Bình, rộng rãi hơn căn nhà ở Tân Định, nhưng lại quá xa trường. Mỗi khi có giờ dạy, Thầy không thể đi bộ đến trường như trước kia, mà phải nhờ các anh con Thầy đưa đón bằng xe gắn máy hoặc đi xe ôm. Tuy nhiên, Thầy thích căn nhà này vì có một khoảnh sân nhỏ vừa đủ cho Thầy trồng một khóm trúc, để một chậu mai và treo vài chậu phong lan.
3. Bế môn tạ khách
Năm 60 tuổi (1980), Thầy tự ý xin về hưu, mặc dù nhà trường yêu cầu Thầy tiếp tục giảng dạy. Từ đó Thầy nghỉ dạy hẳn, gần như sống ẩn dật, ngoài chỗ thân tình cố cựu ra thì Thầy rất ít tiếp khách. Một số người chỉ biết Thầy qua những công trình nghiên cứu, nhưng chưa gặp, muốn đến thăm Thầy mà không được.
Vì thế, có người đã nhờ tôi đưa họ đến gặp Thầy. Anh Huỳnh Như Phương khi còn làm Trưởng khoa Ngữ văn và Báo chí, có bàn với tôi về việc Khoa đứng ra ấn hành Bửu Cầm tuyển tập. Dự kiến đó của anh Phương không những cho thấy anh ấy quan tâm và có cái nhìn xa về học thuật, mà còn biểu lộ sự quí trọng của anh ấy đối với Thầy. Tất nhiên tôi rất mừng và tán thành. Năm Thầy 70 tuổi, anh Huỳnh Như Phương, anh Nguyễn Ngọc Quận và tôi đến mừng thọ Thầy. Nhân dịp này, anh Phương đặt vấn đề in lại những công trình nghiên cứu quan trọng và có giá trị của Thầy, và Thầy rất hoan hỉ. Đáng tiếc sau đó vì một số trở ngại, việc ấn hành bộ sách nói trên không thể thực hiện.
Nếu Bửu Cầm tuyển tập mà in được như dự kiến, thì Khoa Ngữ văn và Báo chí đã làm được một việc vừa có ích cho học thuật, vừa có ý nghĩa đối với Thầy. Năm 2000, Thầy lại dời chỗ ở đến cuối một con hẻm cụt cạnh chùa Hải Quang, gần chợ Phạm Văn Hai quận Tân Bình, cách căn nhà cũ ở đường Mai Ngọc Khuê không xa. Thầy đặt tên căn nhà mới này là Dã Phương Trai. Cuộc sống vãn niên của Thầy được thi vị hóa qua bài thơ Thầy gửi tặng tôi: DÃ PHƯƠNG TRAI Nhà tôi chỉ có sách và hoa, Một chiếc đàn tranh, một ấm trà. Khóm trúc, cành mai đùa gió sớm; Hiên trăng, gác mộng đón hương xa. Ong vờn giậu cúc tình chan chứa, Bướm lượn thềm lan ý đậm đà. Trước cửa chim trời cao giọng hót, Ngoài song tiếng dế cũng ngâm nga. Nếu ai từng đến thăm Thầy ở Dã Phương Trai, vừa bước vào cái sân nhỏ (còn nhỏ hơn cái sân ở căn nhà đường Mai Ngọc Khuê) thì thấy có đủ mai, lan, cúc, trúc. Trong nhà treo một bức hoành phi chạm ba chữ Hán 野芳齋 (Dã Phương Trai) thếp nhũ kim, một câu đối khảm xa-cừ, vài bức tranh Tàu, một cây đàn tranh; gần chỗ tiếp khách trưng bày mấy món đồ cổ, bên trong là vài tủ sách lớn. Với phong thái nhàn nhã tự tại, dường như Thầy không còn bận lòng về việc đời. Nhưng đó chỉ là bề ngoài thôi. Qua những lần đàm đạo với Thầy cũng như qua bài thơ làm ở tuổi 80, mà theo Thầy nói thì sau bài này Thầy gác bút, người ta thấy Thầy vẫn còn nhiều trăn trở:
MỪNG THỌ TÁM MƯƠI TUỔI
Con cháu đông vui họp một nhà,
Tám mươi tuổi thọ hãy mừng ta.
Thương người bốn biển, trời không phụ;
Mê sách ngàn pho, thánh chẳng xa.
Mong thấy thiên đường thay địa ngục,
Muốn nghe nhân nghĩa định sơn hà.
Hoàn thành ước nguyện, lòng thanh thản,
Thượng uyển phương quỳnh chớm nở hoa.
Có thể nói con người của Thầy là sự kết hợp hài hòa giữa khí tiết “tam bất” của một nhà nho quân tử và cốt cách phong lưu của một người thuộc dòng dõi hoàng tộc. Một lần tôi đến thăm Thầy, trong khi chuyện trò, Thầy nở nụ cười hiền hòa, thân mật bảo tôi: “Anh Khuê cũng lớn tuổi rồi. Thôi, ta coi nhau như anh em, không nên quá giữ lễ nữa.” Tôi thưa: “Thầy thương nên nói như thế, chứ đạo thầy trò thì dù ở tuổi nào cũng vẫn là thầy trò.” Một lần khác, năm 2006, khi hồi phục sau một cơn bệnh nặng (trong thời gian tôi nằm bệnh viện, con của Thầy có thay mặt Thầy gọi dây nói hỏi thăm bệnh tình của tôi), tôi đến thăm Thầy.
Trông thấy tôi, Thầy tỏ vẻ vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, nói: “Từ nay trở đi, chúng ta hỏi thăm sức khỏe của nhau qua điện thoại là được rồi.” Cuối năm Đinh Hợi (2007), vào dịp cận tết, hai anh Đoàn Lê Giang, Nguyễn Ngọc Quận và tôi đến thăm Thầy. Thầy xin lỗi tiếp chúng tôi bên cạnh giường trong phòng ngủ, vì không đủ sức đi ra chỗ tiếp khách ở phòng ngoài, và cũng không nói chuyện được lâu. Tôi còn nhiều kỷ niệm nữa về Thầy, nhưng vì lý do như tôi đã trình bày ở phần mở đầu của bài viết này, tôi không tiện thuật lại. Lần tôi đến thăm Thầy gần đây nhất là vào cuối năm Mậu Tý, cũng vào dịp cận tết.
Tôi cùng đến với anh Lê Quang Trường. Thầy cũng tiếp chúng tôi ngay bên cạnh giường. Chỉ sau vài câu hỏi thăm, Thầy xin lỗi nằm xuống vì mệt, rồi thiếp đi. Nhìn vẻ tiều tụy của Thầy, tôi không khỏi nhớ lại hình dáng nho nhã với đôi mắt tinh anh và vầng trán rộng của Thầy ngày nào, và cảm thấy thương Thầy vô hạn. Tôi chợt nhớ hồi Thầy còn làm Trưởng ban Hán văn, năm 1970, trong một lần đến thăm Thầy, sau vài câu chuyện, Thầy mở tủ sách lấy ra hai cuốn có bìa và khuôn khổ giống nhau, trao cho tôi và nói: “Tôi tặng anh bộ Tùy Dượng Đế diễm sử này, gồm hai tập. Anh xem đi, thú vị lắm, và nếu rảnh thì nên dịch ra Việt văn. Tôi cũng muốn dịch mà không có thì giờ.” Nhận bộ sách Thầy tặng, tôi có xem qua một lần, quả thật rất thú vị, nhưng công việc bề bộn, chưa dịch được. Từ đó đến nay gần 40 năm trôi qua, tôi hết bận việc này lại bận việc khác, và bộ diễm sử ấy vẫn lặng lẽ nằm trong tủ sách. Thầy đã già yếu lắm rồi. Và tôi tự nhủ phải cố gắng dịch càng nhanh càng tốt để có thể trình Thầy xem bản dịch trước khi quá muộn.
Viết về GS. Bửu Cầm, tôi không thể không nhớ đến GS. Nghiêm Toản. Tôi hãnh diện được làm học trò của những bậc thầy khả kính như hai Thầy. Thầy Bửu Cầm, cũng như thầy Nghiêm Toản, không chỉ giảng dạy chữ nghĩa, mà còn nêu tấm gương sáng cho tôi về sự tự học, về tác phong nghiêm túc trong giảng dạy và nghiên cứu, và cả về khí tiết thanh cao. Tôi thiết nghĩ Bộ môn Hán Nôm và Khoa Văn học và Ngôn ngữ cũng nên tổ chức một cuộc hội thảo khoa học về GS. Nghiêm Toản [12].
__
[1] Trước năm 1975, trường Đại học Văn khoa Sài Gòn cấp hai loại văn bằng cử nhân: cử nhân văn khoa (tự do) (licence libre) và cử nhân giáo khoa (licence d’enseignement). Cử nhân tự do không có giá trị bằng cử nhân giáo khoa, vì kiến thức không chuyên sâu về một ngành nào. Có cử nhân giáo khoa mới được học lên cao học. Bởi vậy, nhiều người học lấy cử nhân tự do trước, sau đó học tiếp, bổ sung các chứng chỉ bắt buộc phải có để được cấp bằng cử nhân giáo khoa.
[2] Bảo trợ: dịch tiếng Pháp patronner, bây giờ gọi là hướng dẫn.
[3] Theo bài đế hệ thi gồm 20 đời (Miên, Hồng, Ưng, Bửu, Vĩnh…) do vua Minh Mạng soạn, thì GS. Bửu Cầm (họ tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Bửu Cầm) ở đời thứ tư: Miên Trinh (1) → Hồng Cát (2) → Ưng Oanh (3) → Bửu Cầm (4). Hồng Cát là nội tổ của GS. Bửu Cầm, con thứ 29 của Tuy Lý Vương.
[4] Đương thời vua Tự Đức (có thuyết cho là người Thanh-Trung Quốc) có hai câu tán dương văn tài của Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát và thi tài của Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương: Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán; Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường.
[5] BỬU CẦM, Tống Nho – Triết học khảo luận, Đại học tùng thư, Nhân văn thư xã xuất bản, Huế, 1954.
[6] TRẦN TRỌNG KIM, Nho giáo (quyển thượng và hạ), in lần thứ tư, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn (không ghi năm xuất bản).
[7] Trước năm 1975, ở miền Nam có bốn vị không tốt nghiệp đại học, nhưng do học vấn uyên thâm và có nhiều công trình nghiên cứu nên được phong chức danh giáo sư đại học là Nghiêm Toản (tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Đông Dương), Lê Ngọc Trụ, Nguyễn Duy Cần và Thầy. Cả bốn vị đều giảng dạy tại trường Đại học Văn khoa Sài Gòn.
[8] Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn mở khóa tiến sĩ đầu tiên năm 1972. Riêng ban Hán văn, từ 1972 đến 1975, mở được 3 khóa tiến sĩ chuyên khoa Hán văn (tôi học khóa 1, cùng khóa có các anh Huỳnh Minh Đức, Nguyễn Hữu Lương, Nguyễn Văn Dương và Trần Như Uyên). Cho đến 1975, toàn trường chỉ có 2 luận án được bảo vệ, cả 2 đều thuộc ngành địa lý học.
[9] Đậu cử nhân khoa Kỷ Dậu 1909.
[10] Đậu cử nhân khoa Ất Mão 1915.
[11] Tâm trạng Tương An Quận vương qua thi ca của ông là tiểu luận cao học của tôi, bảo vệ năm 1969, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa xuất bản năm 1970. [12] GS. Nghiêm Toản sinh năm 1907, giá như năm 2007 chúng ta tổ chức một cuộc hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Thầy thì quá đẹp. Nhưng đã bỏ lỡ mất thời điểm thích hợp ấy. Bộ môn Hán Nôm và Khoa Văn học và Ngôn ngữ có thể tùy nghi chọn một dịp khác để tổ chức.
NGUYỄN KHUÊ
Tôi không khỏi ngần ngại khi thuật lại những hồi ức, kỷ niệm về GS. Bửu Cầm, bởi lẽ những hồi ức, kỷ niệm ấy có liên quan mật thiết với tôi, nên không thể thuật lại mà không ít nhiều nói đến tôi, nhưng cái tôi thì lại rất đáng ghét. Hơn nữa, cũng có thể có người nghĩ rằng tôi muốn nhân viết về GS. Bửu Cầm mà gián tiếp nói về mình.
Tuy nhiên, GS. Bửu Cầm là thầy của tôi từ năm l963, khi tôi học cử nhân giáo khoa Việt Hán , tiểu luận cao học và luận án tiến sĩ của tôi; trong khoảng 1970-1975, khi GS. Bửu Cầm làm Trưởng ban Hán văn, thì tôi là Phụ tá Trưởng ban; từ ngày Thầy về hưu đến nay, tôi vẫn thường tới lui thăm viếng. Một phần của cuộc hội thảo khoa học này là để kỷ niệm 90 năm ngày sinh của GS. Bửu Cầm (đây là lần đầu có cuộc hội thảo khoa học về Thầy), tôi là người gần gũi Thầy trong một thời gian dài như thế, mà không ghi lại một vài hồi ức, kỷ niệm về Thầy, nghĩ cũng có lỗi không ít với thẩy của mình.
1. Một học giả, giáo sư uyên bác và mẫu mực khả kính
GS. Bửu Cầm sinh năm 1920 tại thôn Vĩ Dạ, Thừa Thiên Huế, là con trưởng của thi sĩ Ưng Oanh và nữ sĩ Trịnh Thị Tố [3], tằng tôn (cháu gọi bằng cố) của thi hào Tuy Lý Vương Miên Trinh (con thứ 11 của vua Minh Mạng) nổi tiếng “thất Thịnh Đường” [4]. Thầy được học trò và giới nghiên cứu kính trọng về hai phương diện: sự uyên bác và tác phong mô phạm.
Thầy không phải là một trí thức khoa bảng, mà là một học giả. Kiến thức uyên bác của Thầy là kết quả của sự tự học. Năm ngoài 20 tuổi, Thầy đã là chủ biên của Tinh hoa văn tập và tập san Gió lên xuất bản tại Huế. Ở tuổi 25, Thầy đã biên soạn cuốn Tống Nho – Triết học khảo luận (Trần Trọng Kim đề tựa năm 1945) [5]. Đây là một công trình biên khảo rất có giá trị về mặt tư tưởng học thuật, với tư liệu tham khảo phong phú gồm 2 sách quốc văn, 63 sách Hán văn và 13 sách Pháp văn, đòi hỏi soạn giả phải có học vấn uyên thâm về Nho học nói chung và Tống Nho nói riêng; một công việc không phải dễ dàng, nếu không nói là khó, với bất cứ nhà Hán học nào. Mặt khác, con số vỏn vẹn 2 sách quốc văn tham khảo còn cho thấy thời ấy (và cả bây giờ) Tống Nho là cuốn sách hiếm hoi trong tủ sách tiếng Việt cùng loại. Cũng nên nói thêm Trần Trọng Kim là một học giả tên tuổi, có nhiều tác phẩm biên khảo rất có giá trị, trong số đó có cuốn Nho giáo [6].
Theo sự đọc sách hạn hẹp của tôi, tôi không thấy học giả họ Trần đề tựa cho một cuốn sách nào khác. Ông đã viết lời tựa cho cuốn Tống Nho của một thanh niên 25 tuổi, có nghĩa là ông nhận thấy cuốn sách ấy có giá trị. Sau Tống Nho, Thầy tiếp tục biên soạn thêm gần 20 công trình gồm nhiều thể loại như biên khảo (Việt ngữ chính tả tự vựng, Tìm hiểu Kinh Dịch, Quốc hiệu nước ta từ An Nam đến Đại Nam, Thư mục về Nguyễn Du…), dịch thuật (Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu, Hồng Đức bản đồ, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam hội điển), phiên âm và chú giải các tác phẩm chữ Nôm (Nam cầm khúc của Tuy Lý Vương, Hoài cổ ngâm của Tương An Quận vương, Trăm thương của Tương An Quận vương). Ngoài ra, Thầy còn có nhiều bài viết đăng trên Văn hóa nguyệt san, Khảo cổ tập san, Đồng Nai văn tập. Về giảng dạy, trong khoảng 1950-1953, Thầy dạy trường Quốc học Huế. Từ 1958, Thầy được mời giảng các môn Lịch sử Việt Nam, Ngữ học Việt Nam, Văn chương Việt Hán, Văn chương Trung Hoa, Triết học Đông phương tại trường Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Năm 1970, Thầy được cử giữ chức Trưởng ban Hán văn thay cho GS. Nghiêm Toản xin nghỉ. Do những cống hiến lớn lao của Thầy về nghiên cứu cũng như giảng dạy, năm 1969 Thầy được phong Giáo sư diễn giảng, năm 1972 Thầy được thăng Giáo sư đại học thực thụ [7]. Thầy đã bảo trợ cho nhiều đề tài cao học và tiến sĩ, làm chủ khảo hoặc giám khảo trong nhiều hội đồng chấm các tiểu luận cao học về văn chương quốc âm, văn chương Việt Hán, văn chương Trung Hoa, Sử học, Triết học Đông phương. Năm 1972, trường Đại học Văn khoa Sài Gòn bắt đầu mở tiến sĩ [8],
Thầy lại giảng dạy và làm chủ khảo kỳ thi tốt nghiệp năm thứ nhất tiến sĩ chuyên khoa Hán văn. Thầy cũng được mời dự hội nghị quốc tế về Trung Quốc học ở Đài Loan, được cử tham gia Phái đoàn Giao dịch với Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Đông Nam Á tại Nhật Bản và là thành viên của Ủy ban Hỗ tương Thẩm định Giá trị Văn hóa Đông Tây của UNESCO. Thời tôi học cử nhân giáo khoa Việt Hán, ban Hán văn chỉ có hai giáo sư cơ hữu là GS. Nghiêm Toản (Trưởng ban) và Thầy, các vị khác như Thẩm Quỳnh [9], Bùi Lương [10]… đều là giảng viên thỉnh giảng.
Các thầy hoặc xuất thân Hán học, hoặc xuất thân Tây học kiêm Hán học, nên vị nào cũng có tác phong mô phạm. Nói riêng về Thầy, ngoài sự giảng dạy đúng giờ giấc và tận tâm, Thầy rất thương học trò. Nhiều sinh viên không hiểu Thầy, cho là Thầy khó. Thật ra, Thầy chỉ giảng dạy nghiêm túc và đòi hỏi sinh viên cũng phải học tập nghiêm túc. Trong lớp, Thầy ít khi nói vấn đề gì khác ngoài bài giảng. Thời bấy giờ, ghi danh học cao học và tiến sĩ không phải qua kỳ thi, chỉ cần hội đủ điều kiện qui định cho mỗi bậc học và phải được một giáo sư nhận bảo trợ. Vì thế, cũng như GS. Nghiêm Toản, Thầy rất chặt chẽ trong việc nhận bảo trợ đề tài cao học và tiến sĩ. Trong thời gian học cử nhân, tôi chưa một lần đến nhà Thầy (đối với các thầy khác cũng thế). Nhưng từ khi làm cao học, rồi tiến sĩ với sự bảo trợ của Thầy, thì tôi thường đến gặp Thầy để hỏi ý kiến, để xin Thầy đọc những chương, những phần trong luận án mà tôi đã viết xong. Lần nào Thầy cũng vui vẻ tiếp, ân cần hướng dẫn, góp thêm ý kiến, sửa chữa những chỗ sai lầm trong bản thảo (Thầy đọc kỹ và trả lại đúng hẹn), chỉ cho những sách liên quan đến đề tài cần phải đọc thêm, thậm chí còn cho mượn những tài liệu tham khảo mà tôi không tìm được ở các thư viện. Bởi học thức uyên bác, sự tận tâm giảng dạy và lòng thương yêu sinh viên mà Thầy được nhiều thế hệ học trò kính mến.
2. Một nhà giáo thanh bạch
Từ khi tôi bắt đầu học với Thầy cho đến năm 1973, nếu tôi nhớ không lầm, Thầy và gia đình sống trong một căn nhà thuê nhỏ hẹp trong một con hẻm cụt cũng nhỏ hẹp trên đường Đặng Dung ở vùng Tân Định quận l. Những ngày có giờ dạy, mưa cũng như nắng, Thầy đi bộ từ nhà đến trường, rồi lại đi bộ từ trường về nhà. Lúc nào tôi cũng thấy Thầy mặc áo sơ-mi trắng, thắt cà-vạt, chỉ khi tham gia hội đồng chấm bảo vệ cao học thì Thầy mới mặc com-lê. (Thầy Nghiêm Toản thì quanh năm mặc một bộ com-lê cũ kỹ, chúng tôi gọi đùa là bộ com-lê tứ thời. Thỉnh thoảng, Thầy cũng đi bộ đến trường, nhưng thường thì Thầy đi chiếc xe hơi cũ kỹ “deux chevaux”, tức hai mã lực, do con Thầy là anh Nghiêm Hồng lái. Loại xe hơi này do Pháp sản xuất, thời bấy giờ người ta gọi đùa là “xe con cóc” hoặc “xe song mã”). Nếu chúng ta biết rằng có một giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn khác, cũng ở đường Đặng Dung, cách nhà Thầy không xa, đi đến trường trong một chiếc xe hơi sang trọng, thì mới thấy được sự thanh bạch của Thầy.
Thầy có hiệu là Tam bất cư sĩ 三不居士.“Tam bất” là nói rút gọn câu “Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.” (Sự giàu sang không thể làm cho trở nên dâm dật, sự nghèo hèn không thể làm thay đổi tiết tháo, uy quyền vũ lực không thể khuất phục.) Qua đó, có thể thấy cách lập đức của Thầy. Thầy gọi nơi đọc sách và trứ tác của Thầy ở Tân Định là “hiên Tam bất” và thường ghi bên dưới các bài tựa là “Viết tại Hiên Tam bất…” Như khi đề tựa cuốn Tâm trạng Tương An Quận vương qua thi ca của ông [11], Thầy ghi (tôi giữ đúng cách viết hoa và gạch nối của Thầy): Viết tại Hiên Tam-bất ở Tân-định, Sài-thành, tiết Trung-thu năm Canh-tuất (1970)
Năm 1973, Thầy mua được một căn nhà ở đường Mai Ngọc Khuê (nay là đường Nguyễn Thanh Tuyền) quận Tân Bình, rộng rãi hơn căn nhà ở Tân Định, nhưng lại quá xa trường. Mỗi khi có giờ dạy, Thầy không thể đi bộ đến trường như trước kia, mà phải nhờ các anh con Thầy đưa đón bằng xe gắn máy hoặc đi xe ôm. Tuy nhiên, Thầy thích căn nhà này vì có một khoảnh sân nhỏ vừa đủ cho Thầy trồng một khóm trúc, để một chậu mai và treo vài chậu phong lan.
3. Bế môn tạ khách
Năm 60 tuổi (1980), Thầy tự ý xin về hưu, mặc dù nhà trường yêu cầu Thầy tiếp tục giảng dạy. Từ đó Thầy nghỉ dạy hẳn, gần như sống ẩn dật, ngoài chỗ thân tình cố cựu ra thì Thầy rất ít tiếp khách. Một số người chỉ biết Thầy qua những công trình nghiên cứu, nhưng chưa gặp, muốn đến thăm Thầy mà không được.
Vì thế, có người đã nhờ tôi đưa họ đến gặp Thầy. Anh Huỳnh Như Phương khi còn làm Trưởng khoa Ngữ văn và Báo chí, có bàn với tôi về việc Khoa đứng ra ấn hành Bửu Cầm tuyển tập. Dự kiến đó của anh Phương không những cho thấy anh ấy quan tâm và có cái nhìn xa về học thuật, mà còn biểu lộ sự quí trọng của anh ấy đối với Thầy. Tất nhiên tôi rất mừng và tán thành. Năm Thầy 70 tuổi, anh Huỳnh Như Phương, anh Nguyễn Ngọc Quận và tôi đến mừng thọ Thầy. Nhân dịp này, anh Phương đặt vấn đề in lại những công trình nghiên cứu quan trọng và có giá trị của Thầy, và Thầy rất hoan hỉ. Đáng tiếc sau đó vì một số trở ngại, việc ấn hành bộ sách nói trên không thể thực hiện.
Nếu Bửu Cầm tuyển tập mà in được như dự kiến, thì Khoa Ngữ văn và Báo chí đã làm được một việc vừa có ích cho học thuật, vừa có ý nghĩa đối với Thầy. Năm 2000, Thầy lại dời chỗ ở đến cuối một con hẻm cụt cạnh chùa Hải Quang, gần chợ Phạm Văn Hai quận Tân Bình, cách căn nhà cũ ở đường Mai Ngọc Khuê không xa. Thầy đặt tên căn nhà mới này là Dã Phương Trai. Cuộc sống vãn niên của Thầy được thi vị hóa qua bài thơ Thầy gửi tặng tôi: DÃ PHƯƠNG TRAI Nhà tôi chỉ có sách và hoa, Một chiếc đàn tranh, một ấm trà. Khóm trúc, cành mai đùa gió sớm; Hiên trăng, gác mộng đón hương xa. Ong vờn giậu cúc tình chan chứa, Bướm lượn thềm lan ý đậm đà. Trước cửa chim trời cao giọng hót, Ngoài song tiếng dế cũng ngâm nga. Nếu ai từng đến thăm Thầy ở Dã Phương Trai, vừa bước vào cái sân nhỏ (còn nhỏ hơn cái sân ở căn nhà đường Mai Ngọc Khuê) thì thấy có đủ mai, lan, cúc, trúc. Trong nhà treo một bức hoành phi chạm ba chữ Hán 野芳齋 (Dã Phương Trai) thếp nhũ kim, một câu đối khảm xa-cừ, vài bức tranh Tàu, một cây đàn tranh; gần chỗ tiếp khách trưng bày mấy món đồ cổ, bên trong là vài tủ sách lớn. Với phong thái nhàn nhã tự tại, dường như Thầy không còn bận lòng về việc đời. Nhưng đó chỉ là bề ngoài thôi. Qua những lần đàm đạo với Thầy cũng như qua bài thơ làm ở tuổi 80, mà theo Thầy nói thì sau bài này Thầy gác bút, người ta thấy Thầy vẫn còn nhiều trăn trở:
MỪNG THỌ TÁM MƯƠI TUỔI
Con cháu đông vui họp một nhà,
Tám mươi tuổi thọ hãy mừng ta.
Thương người bốn biển, trời không phụ;
Mê sách ngàn pho, thánh chẳng xa.
Mong thấy thiên đường thay địa ngục,
Muốn nghe nhân nghĩa định sơn hà.
Hoàn thành ước nguyện, lòng thanh thản,
Thượng uyển phương quỳnh chớm nở hoa.
Có thể nói con người của Thầy là sự kết hợp hài hòa giữa khí tiết “tam bất” của một nhà nho quân tử và cốt cách phong lưu của một người thuộc dòng dõi hoàng tộc. Một lần tôi đến thăm Thầy, trong khi chuyện trò, Thầy nở nụ cười hiền hòa, thân mật bảo tôi: “Anh Khuê cũng lớn tuổi rồi. Thôi, ta coi nhau như anh em, không nên quá giữ lễ nữa.” Tôi thưa: “Thầy thương nên nói như thế, chứ đạo thầy trò thì dù ở tuổi nào cũng vẫn là thầy trò.” Một lần khác, năm 2006, khi hồi phục sau một cơn bệnh nặng (trong thời gian tôi nằm bệnh viện, con của Thầy có thay mặt Thầy gọi dây nói hỏi thăm bệnh tình của tôi), tôi đến thăm Thầy.
Trông thấy tôi, Thầy tỏ vẻ vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, nói: “Từ nay trở đi, chúng ta hỏi thăm sức khỏe của nhau qua điện thoại là được rồi.” Cuối năm Đinh Hợi (2007), vào dịp cận tết, hai anh Đoàn Lê Giang, Nguyễn Ngọc Quận và tôi đến thăm Thầy. Thầy xin lỗi tiếp chúng tôi bên cạnh giường trong phòng ngủ, vì không đủ sức đi ra chỗ tiếp khách ở phòng ngoài, và cũng không nói chuyện được lâu. Tôi còn nhiều kỷ niệm nữa về Thầy, nhưng vì lý do như tôi đã trình bày ở phần mở đầu của bài viết này, tôi không tiện thuật lại. Lần tôi đến thăm Thầy gần đây nhất là vào cuối năm Mậu Tý, cũng vào dịp cận tết.
Tôi cùng đến với anh Lê Quang Trường. Thầy cũng tiếp chúng tôi ngay bên cạnh giường. Chỉ sau vài câu hỏi thăm, Thầy xin lỗi nằm xuống vì mệt, rồi thiếp đi. Nhìn vẻ tiều tụy của Thầy, tôi không khỏi nhớ lại hình dáng nho nhã với đôi mắt tinh anh và vầng trán rộng của Thầy ngày nào, và cảm thấy thương Thầy vô hạn. Tôi chợt nhớ hồi Thầy còn làm Trưởng ban Hán văn, năm 1970, trong một lần đến thăm Thầy, sau vài câu chuyện, Thầy mở tủ sách lấy ra hai cuốn có bìa và khuôn khổ giống nhau, trao cho tôi và nói: “Tôi tặng anh bộ Tùy Dượng Đế diễm sử này, gồm hai tập. Anh xem đi, thú vị lắm, và nếu rảnh thì nên dịch ra Việt văn. Tôi cũng muốn dịch mà không có thì giờ.” Nhận bộ sách Thầy tặng, tôi có xem qua một lần, quả thật rất thú vị, nhưng công việc bề bộn, chưa dịch được. Từ đó đến nay gần 40 năm trôi qua, tôi hết bận việc này lại bận việc khác, và bộ diễm sử ấy vẫn lặng lẽ nằm trong tủ sách. Thầy đã già yếu lắm rồi. Và tôi tự nhủ phải cố gắng dịch càng nhanh càng tốt để có thể trình Thầy xem bản dịch trước khi quá muộn.
Viết về GS. Bửu Cầm, tôi không thể không nhớ đến GS. Nghiêm Toản. Tôi hãnh diện được làm học trò của những bậc thầy khả kính như hai Thầy. Thầy Bửu Cầm, cũng như thầy Nghiêm Toản, không chỉ giảng dạy chữ nghĩa, mà còn nêu tấm gương sáng cho tôi về sự tự học, về tác phong nghiêm túc trong giảng dạy và nghiên cứu, và cả về khí tiết thanh cao. Tôi thiết nghĩ Bộ môn Hán Nôm và Khoa Văn học và Ngôn ngữ cũng nên tổ chức một cuộc hội thảo khoa học về GS. Nghiêm Toản [12].
__
[1] Trước năm 1975, trường Đại học Văn khoa Sài Gòn cấp hai loại văn bằng cử nhân: cử nhân văn khoa (tự do) (licence libre) và cử nhân giáo khoa (licence d’enseignement). Cử nhân tự do không có giá trị bằng cử nhân giáo khoa, vì kiến thức không chuyên sâu về một ngành nào. Có cử nhân giáo khoa mới được học lên cao học. Bởi vậy, nhiều người học lấy cử nhân tự do trước, sau đó học tiếp, bổ sung các chứng chỉ bắt buộc phải có để được cấp bằng cử nhân giáo khoa.
[2] Bảo trợ: dịch tiếng Pháp patronner, bây giờ gọi là hướng dẫn.
[3] Theo bài đế hệ thi gồm 20 đời (Miên, Hồng, Ưng, Bửu, Vĩnh…) do vua Minh Mạng soạn, thì GS. Bửu Cầm (họ tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Bửu Cầm) ở đời thứ tư: Miên Trinh (1) → Hồng Cát (2) → Ưng Oanh (3) → Bửu Cầm (4). Hồng Cát là nội tổ của GS. Bửu Cầm, con thứ 29 của Tuy Lý Vương.
[4] Đương thời vua Tự Đức (có thuyết cho là người Thanh-Trung Quốc) có hai câu tán dương văn tài của Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát và thi tài của Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương: Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán; Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường.
[5] BỬU CẦM, Tống Nho – Triết học khảo luận, Đại học tùng thư, Nhân văn thư xã xuất bản, Huế, 1954.
[6] TRẦN TRỌNG KIM, Nho giáo (quyển thượng và hạ), in lần thứ tư, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn (không ghi năm xuất bản).
[7] Trước năm 1975, ở miền Nam có bốn vị không tốt nghiệp đại học, nhưng do học vấn uyên thâm và có nhiều công trình nghiên cứu nên được phong chức danh giáo sư đại học là Nghiêm Toản (tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Đông Dương), Lê Ngọc Trụ, Nguyễn Duy Cần và Thầy. Cả bốn vị đều giảng dạy tại trường Đại học Văn khoa Sài Gòn.
[8] Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn mở khóa tiến sĩ đầu tiên năm 1972. Riêng ban Hán văn, từ 1972 đến 1975, mở được 3 khóa tiến sĩ chuyên khoa Hán văn (tôi học khóa 1, cùng khóa có các anh Huỳnh Minh Đức, Nguyễn Hữu Lương, Nguyễn Văn Dương và Trần Như Uyên). Cho đến 1975, toàn trường chỉ có 2 luận án được bảo vệ, cả 2 đều thuộc ngành địa lý học.
[9] Đậu cử nhân khoa Kỷ Dậu 1909.
[10] Đậu cử nhân khoa Ất Mão 1915.
[11] Tâm trạng Tương An Quận vương qua thi ca của ông là tiểu luận cao học của tôi, bảo vệ năm 1969, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa xuất bản năm 1970. [12] GS. Nghiêm Toản sinh năm 1907, giá như năm 2007 chúng ta tổ chức một cuộc hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Thầy thì quá đẹp. Nhưng đã bỏ lỡ mất thời điểm thích hợp ấy. Bộ môn Hán Nôm và Khoa Văn học và Ngôn ngữ có thể tùy nghi chọn một dịp khác để tổ chức.
NGUYỄN KHUÊ * VĂN HÓA
VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA NGHIÊN CỨU HÁN NÔM
ĐỐI VỚI NGHIÊN CỨU VĂN HÓA VIỆT NAM
NGUYỄN KHUÊ
Nghiên cứu Hán Nôm có một vai trò rất quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc, điều đó ai cũng thừa nhận. Nhưng đối tượng của nghiên cứu Hán Nôm là gì? Vai trò của việc nghiên cứu Hán Nôm quan trọng như thế nào trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam? Nghiên cứu Hán Nôm đối với việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam có gì khác biệt với nghiên cứu văn hóa dân gian, nghiên cứu báo chí và văn học quốc ngữ? Đó là những vấn đề tôi muốn đặt ra và, trong một chừng mực nhất định, cố gắng làm sáng tỏ vấn đề theo cách nhìn và sự hiểu biết của tôi. Những ý kiến của tôi là những gợi ý để mời gọi các nhà nghiên cứu tham dự cuộc hội thảo khoa học này phát biểu thêm nhằm đi tới cái nhìn chung, tiếng nói chung bao quát và đầy đủ hơn về vai trò và ý nghĩa của nghiên cứu Hán Nôm đối với việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam.
1. Đối tượng của nghiên cứu Hán Nôm
1.1. Việc sử dụng chữ Hán và chữ Nôm trong quá khứ Chữ viết là hệ thống ký hiệu để ghi chép ngôn ngữ. Trước thời Bắc thuộc, người Việt có chữ viết hay không, hiện nay không thấy dấu vết gì còn truyền lại. Theo Vương Duy Trinh, tác giả sách Thanh Hóa quan phong, thì nước ta thời cổ đã có chữ viết và đó là thứ chữ mà người Mường ở Thanh Hóa hiện nay còn dùng [1]. Tuy nhiên, đó chỉ là sự suy đoán, cho đến nay chúng ta không tìm thấy một tự tích nào khả dĩ chứng thực cho giả thuyết ấy. Đến khi nước ta bị Trung Quốc thống trị, từ năm 111 trước Tây lịch, tức từ Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức đem quân sang xâm lược, cho mãi đến năm 938, khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng, trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, người Trung Quốc đã đem văn hóa của họ, trong đó có chữ Hán, phổ biến ở nước ta. Từ 939, Ngô Quyền xưng vương, mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ cho nước ta, cho đến khi nước ta bị người Pháp thống trị (ở Nam Kỳ từ 1867, ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ từ 1883), chữ Hán vẫn được tiếp tục dùng như văn tự chính thức của quốc gia.
Đến đời Trần (thế kỷ 13), chữ Nôm (thứ chữ do nhân dân ta vận dụng chữ Hán mà chế tác ra để ghi tiếng nói của dân tộc) bắt đầu được dùng để sáng tác thơ văn quốc âm, rồi dần dần thịnh hành, tồn tại và phát triển song song với chữ Hán. Từ khi người Pháp đặt nền thống trị trên đất nước ta, chữ quốc ngữ Latinh và chữ Pháp dần dần thay thế chữ Hán và chữ Nôm. Năm 1915, bỏ thi chữ Hán ở Bắc Kỳ, đến năm 1918 bỏ thi chữ Hán ở Trung Kỳ. Tuy nhiên, chữ Hán và chữ Nôm vẫn được dân chúng tiếp tục dùng để ghi chép, sáng tác cho đến khoảng giữa thế kỷ 20 với một phạm vi và mức độ thu hẹp dần, mà tác phẩm Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh xuất hiện khoảng 1942-1943 được coi như cái mốc cuối đánh dấu sự cáo chung của chữ Hán và chữ Nôm. Tóm lại, chữ Hán đã được nhân dân ta dùng làm phương tiện ghi chép trong hơn 2000 năm, còn chữ Nôm thì được sử dụng khoảng 700 năm.
Chữ Hán và chữ Nôm đã có một quá trình sử dụng lâu dài như thế, nên kết quả là tiền nhân ta đã để lại một thư tịch Hán Nôm rất quan trọng.
1.2. Số lượng và chủng loại của thư tịch Hán Nôm
Viện Nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội hiện quản lý 5.038 đầu sách và khoảng 30.000 đơn vị tư liệu bao gồm các loại như phim, ảnh, bản rập các bài văn khắc trên bia đá, chuông đồng, khánh đá, biển gỗ [2]. Đó là chưa kể những sách Hán Nôm, Châu bản triều Nguyễn [3], địa bộ [4], sắc thần, bia đá, thơ, câu đối, hoành phi v.v… hiện còn rải rác trong dân chúng, ở các cung điện, lăng tẩm, đình chùa, các thư viện và cơ quan lưu trữ khác ở trong nước, các thư viện ở nước ngoài. Về chủng loại, trước kia Lê Quí Đôn, rồi Phan Huy Chú, do chịu ảnh hưởng cách phân loại theo tứ bộ là kinh, sử, tử, tập của thư tịch Trung Quốc, đều chia thư tịch Hán Nôm ra làm 4 loại, sau đó học giả người Pháp là Emile Gaspardone cũng phân chia như vậy, nên không thấy được sự phong phú và đa dạng của di sản Hán Nôm [5].
Trần Văn Giáp, trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, với vỏn vẹn 428 đầu sách được giới thiệu, đã chia sách Hán Nôm ra làm 8 loại: 1. Lịch sử (số 1 – 165) 2. Địa lý (số 166 – 202) 3. Kỹ thuật (số 203 – 212) 4. Ngôn ngữ (số 213 – 226) 5. Văn học (số 227 – 377) 6. Tôn giáo (378 – 391) 7. Triết học (số 392 – 411) 8. Sách tổng hợp (số 412 – 428) [6]. Theo Trần Nghĩa và F. Gros, trong số 5.038 đầu sách do Viện Nghiên cứu Hán Nôm quản lý, có khoảng: 2.500 tác phẩm liên quan tới văn học; 1.000 tác phẩm liên quan tới sử học; 600 tác phẩm liên quan tới tôn giáo; 450 tác phẩm liên quan tới văn hóa, giáo dục; 350 tác phẩm thuộc các lĩnh vực chính trị, xã hội; 300 tác phẩm thuộc các lĩnh vực y dược, vệ sinh; 300 tác phẩm thuộc lĩnh vực địa lý; 250 tác phẩm thuộc lĩnh vực pháp chế; 80 tác phẩm thuộc lĩnh vực nghệ thuật; 70 tác phẩm thuộc lĩnh vực kinh tế; 60 tác phẩm thuộc các lĩnh vực ngôn ngữ, văn tự; 50 tác phẩm thuộc lĩnh vực toán lý; 40 tác phẩm thuộc lĩnh vực quân sự, quốc phòng, và một số lượng ít hơn bàn về kiến trúc, nông nghiệp, tiểu thủ công, hoặc mang tính tổng hợp.
1.3. Đối tượng của nghiên cứu Hán Nôm
Nghiên cứu Hán Nôm chính là nghiên cứu toàn bộ thư tịch Hán Nôm ở trong nước và nước ngoài, và tất cả các sắc thần, hương ước, bia đá, chuông đồng, khánh đá, thơ, câu đối, hoành phi, biển gỗ v.v… bằng chữ Hán và chữ Nôm hiện còn ở các cung điện, đền đài, lăng tẩm, đình chùa, miếu vũ.
2. Vai trò và ý nghĩa của nghiên cứu Hán Nôm đối với nghiên cứu văn hóa Việt Nam
2.1. Toàn bộ tư liệu Hán Nôm là di sản văn hóa vô cùng quí báu của nhân dân ta Toàn bộ tư liệu Hán Nôm, bao gồm thư tịch và các loại khác như châu bản, địa bộ, sắc thần, hương ước, bia đá, chuông đồng, khánh đá, câu đối, hoành phi, biển gỗ v.v… là di sản văn hóa thành văn vô cùng quí báu mà tổ tiên ta từ nhiều thế hệ trước để lại. Đó là nguồn thông tin phong phú và đa dạng về nền văn hóa trong quá khứ của dân tộc ta, phản ánh tư duy khoa học và văn học nghệ thuật, tổ chức làng xã, sinh hoạt xã hội… của tiền nhân ta.
2.2. Nghiên cứu văn hóa dân gian, nghiên cứu báo chí và văn học quốc ngữ đối với nghiên cứu văn hóa Việt Nam 2.2.1. Văn hóa dân gian Văn hóa Hán Nôm là văn hóa bác học. Bên cạnh dòng văn hóa thành văn này, còn có một dòng văn hóa khác hình thành từ thời tiền sử, khi người Việt chưa có chữ viết, đó là văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian kế thừa những truyền thống văn hóa cộng đồng từ lâu đời, tồn tại và phát triển trong dân gian, trong các cộng đồng làng xã, bao gồm văn học dân gian truyền khẩu (các truyền thuyết, thần thoại, truyện cổ tích, ca dao, tục ngữ…), các tục thờ cúng (tín ngưỡng dân gian), các lễ hội, dân ca (dân ca Quan họ, hò Huế, dân ca Nam Bộ…), sân khấu dân gian (hát chèo, múa rối nước…), phong tục tập quán, các làng nghề truyền thống, ẩm thực, trang phục, nhà ở… Văn hóa dân gian không ngừng phát triển qua sự giao lưu với các nền văn hóa khác trong khu vực và trên thế giới, và tiếp thu những giá trị mới, đồng thời điều chỉnh và cách tân những giá trị đã có cho phù hợp với những biến đổi của xã hội. 2.2.2. Báo chí và văn học quốc ngữ Tờ báo quốc ngữ đầu tiên là Gia Định báo, số 1 ra ngày 15-4-1865. Sau đó hơn 20 năm, cuốn tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên là Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, xuất bản năm 1887. Như vậy, báo chí và văn học quốc ngữ hình thành từ nửa sau của thế kỷ 19, tính đến nay chưa tới 150 năm. Tuy bề dày lịch sử kém xa thư tịch Hán Nôm, nhưng báo chí và văn học quốc ngữ phát triển mạnh mẽ, phong phú và đa dạng, phản ánh rõ nét văn hóa Việt Nam từ buổi đầu thời kỳ thuộc Pháp trở đi.
2.3. Vai trò và ý nghĩa của nghiên cứu Hán Nôm đối với nghiên cứu văn hóa Việt Nam
Nhà nghiên cứu tùy theo sở học, có thể tiếp cận văn hóa Việt Nam qua nghiên cứu tư liệu Hán Nôm, nghiên cứu văn hóa dân gian hoặc nghiên cứu báo chí và văn học quốc ngữ. Cả ba cách tiếp cận ấy bổ sung cho nhau và cho ta cái nhìn toàn diện và xuyên suốt về văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay trong khi dòng văn hóa dân gian và dòng văn hóa quốc ngữ đang tồn tại và phát triển như một thực thể sinh động, thì văn hóa Hán Nôm chỉ tồn tại như một di sản, mang tính lịch sử và “định hình”, đóng khung trong các tư liệu. Qua phân loại 5.038 đầu sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm vừa nêu trên, chúng ta thấy nội dung thư tịch Hán Nôm bao quát mọi lĩnh vực của văn hóa Việt Nam. Ngày nay, chỉ có một số rất ít người đọc được chữ Hán và chữ Nôm. Vì thế, vai trò của nghiên cứu Hán Nôm là phải kịp thời khai thác di sản văn hóa này bằng cách phiên dịch các tư liệu chữ Hán, phiên âm các tư liệu chữ Nôm, chú thích, tìm hiểu và công bố cho quần chúng độc giả. Nghiên cứu di sản văn hóa Hán Nôm chính là bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam, vốn quí của dân tộc.
Nghiên cứu Hán Nôm sẽ bổ sung cho nghiên cứu văn hóa dân gian, đồng thời tiếp thêm bề dày lịch sử cho văn hóa quốc ngữ. Nếu không có di sản văn hóa Hán Nôm, làm sao chúng ta có thể tự hào dân tộc ta có trên một ngàn năm văn hiến [7]? Hơn nữa, việc nghiên cứu Hán Nôm còn biểu lộ sự trân trọng đối với di sản tinh thần của tiền nhân ta, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, một điều rất quan trọng trong tiến trình nước ta hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mặt khác, những thành tựu của nghiên cứu Hán Nôm sẽ là cơ sở khoa học và là tư liệu cần thiết cho các ngành nghiên cứu văn học, ngôn ngữ, lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Để kết luận, trước hết tôi muốn nhân đây đính chính một sự ngộ nhận về ngành đào tạo Hán Nôm. Một số người vì thấy ngành đào tạo Hán Nôm có những môn học giống với Trung Quốc học và ngữ văn Trung Quốc, nên lầm tưởng ngành Hán Nôm đại khái cũng giống hai ngành này. Thật ra, qua phần trình bày ở trên, ta thấy Hán Nôm học có đối tượng, vai trò và ý nghĩa khác hẳn với Trung Quốc học nói chung và ngữ văn Trung Quốc nói riêng, mặc dù giữa hai ngành học này có quan hệ về tri thức liên ngành. Trong xu thế công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, số người quan tâm đến di sản văn hóa Hán Nôm ngày càng ít. Vì thế, tôi thiết tha đề nghị Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh và trực tiếp là trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn tạo điều kiện thuận lợi cho ngành đào tạo Hán Nôm phát triển và có những biện pháp thiết thực để khuyến khích sinh viên đi vào con đường nghiên cứu Hán Nôm. Đồng thời ngành đào tạo Hán Nôm cũng cần có những cải tiến để thích ứng với xu thế của thời đại.
___
[1] Xem Vương Duy Trinh, Thanh Hóa quan phong, Hải Dương, Liễu Văn Đường, khắc in năm Giáp Thìn (1904), tờ 69b-70a. [2] Xem Trần Nghĩa và F. Gros (đồng chủ biên), Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu, 3 tập; tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 23-24.
[3] Châu bản triều Nguyễn, tức Hoàng triều châu bản 皇朝硃本, 602 tập, gồm những tài liệu của nội các (văn thư phòng, ngự tiền văn phòng) và của các bộ, các tỉnh từ triều Gia Long đến triều Bảo Đại (1802-1945) với đủ các loại dụ, chiếu, chỉ, sắc, tấu, khải, biểu v.v…, hiện tàng trữ tại Kho Lưu trữ Trung ương.
[4] Triều Nguyễn đã tiến hành đo đạc ruộng đất các xã thôn ba miền (1805-1873) và lập thành những tập địa bộ, hiện Kho Lưu trữ Trung ương còn giữ được 10.044 tập, gồm địa bộ miền Bắc với 4.296 tập, địa bộ miền Trung với 5.264 tập và địa bộ miền Nam với 484 tập.
[5] Bốn loại theo Lê Quí Đôn: 1. Hiến chương 2. Thi văn 3. Truyện ký 4. Phương kỹ (Nghệ văn chí – Lê triều thông sử, qu. 3, 1759); theo Phan Huy Chú: 1. Hiến chương 2. Kinh sử 3. Thi văn 4. Truyện ký (Văn tịch chí – Lịch triều hiến chương loại chí, qu. 42-45, 1821); theo E. Gaspardone: 1. Gouvernement 2. Histoire 3. Littérature 4. Légendes, Confucéisme, Bouddhisme, Traités divers (Bibliographie annamite, BEFEO, 1934)
. [6] Xem Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 1, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1984; tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990.
[7] Văn hiến: Chu Hi giải thích: 文典籍也獻賢也 Văn, điển tịch dã; hiến, hiền dã (Văn là sách vở; hiến là người hiền tài). Một trong hai điều kiện của văn hiến là điển tịch. Điển tịch Hán Nôm hình thành từ đời Lý (1009-1225).
=
ĐỐI VỚI NGHIÊN CỨU VĂN HÓA VIỆT NAM
NGUYỄN KHUÊ
Nghiên cứu Hán Nôm có một vai trò rất quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc, điều đó ai cũng thừa nhận. Nhưng đối tượng của nghiên cứu Hán Nôm là gì? Vai trò của việc nghiên cứu Hán Nôm quan trọng như thế nào trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam? Nghiên cứu Hán Nôm đối với việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam có gì khác biệt với nghiên cứu văn hóa dân gian, nghiên cứu báo chí và văn học quốc ngữ? Đó là những vấn đề tôi muốn đặt ra và, trong một chừng mực nhất định, cố gắng làm sáng tỏ vấn đề theo cách nhìn và sự hiểu biết của tôi. Những ý kiến của tôi là những gợi ý để mời gọi các nhà nghiên cứu tham dự cuộc hội thảo khoa học này phát biểu thêm nhằm đi tới cái nhìn chung, tiếng nói chung bao quát và đầy đủ hơn về vai trò và ý nghĩa của nghiên cứu Hán Nôm đối với việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam.
1. Đối tượng của nghiên cứu Hán Nôm
1.1. Việc sử dụng chữ Hán và chữ Nôm trong quá khứ Chữ viết là hệ thống ký hiệu để ghi chép ngôn ngữ. Trước thời Bắc thuộc, người Việt có chữ viết hay không, hiện nay không thấy dấu vết gì còn truyền lại. Theo Vương Duy Trinh, tác giả sách Thanh Hóa quan phong, thì nước ta thời cổ đã có chữ viết và đó là thứ chữ mà người Mường ở Thanh Hóa hiện nay còn dùng [1]. Tuy nhiên, đó chỉ là sự suy đoán, cho đến nay chúng ta không tìm thấy một tự tích nào khả dĩ chứng thực cho giả thuyết ấy. Đến khi nước ta bị Trung Quốc thống trị, từ năm 111 trước Tây lịch, tức từ Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức đem quân sang xâm lược, cho mãi đến năm 938, khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng, trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, người Trung Quốc đã đem văn hóa của họ, trong đó có chữ Hán, phổ biến ở nước ta. Từ 939, Ngô Quyền xưng vương, mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ cho nước ta, cho đến khi nước ta bị người Pháp thống trị (ở Nam Kỳ từ 1867, ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ từ 1883), chữ Hán vẫn được tiếp tục dùng như văn tự chính thức của quốc gia.
Đến đời Trần (thế kỷ 13), chữ Nôm (thứ chữ do nhân dân ta vận dụng chữ Hán mà chế tác ra để ghi tiếng nói của dân tộc) bắt đầu được dùng để sáng tác thơ văn quốc âm, rồi dần dần thịnh hành, tồn tại và phát triển song song với chữ Hán. Từ khi người Pháp đặt nền thống trị trên đất nước ta, chữ quốc ngữ Latinh và chữ Pháp dần dần thay thế chữ Hán và chữ Nôm. Năm 1915, bỏ thi chữ Hán ở Bắc Kỳ, đến năm 1918 bỏ thi chữ Hán ở Trung Kỳ. Tuy nhiên, chữ Hán và chữ Nôm vẫn được dân chúng tiếp tục dùng để ghi chép, sáng tác cho đến khoảng giữa thế kỷ 20 với một phạm vi và mức độ thu hẹp dần, mà tác phẩm Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh xuất hiện khoảng 1942-1943 được coi như cái mốc cuối đánh dấu sự cáo chung của chữ Hán và chữ Nôm. Tóm lại, chữ Hán đã được nhân dân ta dùng làm phương tiện ghi chép trong hơn 2000 năm, còn chữ Nôm thì được sử dụng khoảng 700 năm.
Chữ Hán và chữ Nôm đã có một quá trình sử dụng lâu dài như thế, nên kết quả là tiền nhân ta đã để lại một thư tịch Hán Nôm rất quan trọng.
1.2. Số lượng và chủng loại của thư tịch Hán Nôm
Viện Nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội hiện quản lý 5.038 đầu sách và khoảng 30.000 đơn vị tư liệu bao gồm các loại như phim, ảnh, bản rập các bài văn khắc trên bia đá, chuông đồng, khánh đá, biển gỗ [2]. Đó là chưa kể những sách Hán Nôm, Châu bản triều Nguyễn [3], địa bộ [4], sắc thần, bia đá, thơ, câu đối, hoành phi v.v… hiện còn rải rác trong dân chúng, ở các cung điện, lăng tẩm, đình chùa, các thư viện và cơ quan lưu trữ khác ở trong nước, các thư viện ở nước ngoài. Về chủng loại, trước kia Lê Quí Đôn, rồi Phan Huy Chú, do chịu ảnh hưởng cách phân loại theo tứ bộ là kinh, sử, tử, tập của thư tịch Trung Quốc, đều chia thư tịch Hán Nôm ra làm 4 loại, sau đó học giả người Pháp là Emile Gaspardone cũng phân chia như vậy, nên không thấy được sự phong phú và đa dạng của di sản Hán Nôm [5].
Trần Văn Giáp, trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, với vỏn vẹn 428 đầu sách được giới thiệu, đã chia sách Hán Nôm ra làm 8 loại: 1. Lịch sử (số 1 – 165) 2. Địa lý (số 166 – 202) 3. Kỹ thuật (số 203 – 212) 4. Ngôn ngữ (số 213 – 226) 5. Văn học (số 227 – 377) 6. Tôn giáo (378 – 391) 7. Triết học (số 392 – 411) 8. Sách tổng hợp (số 412 – 428) [6]. Theo Trần Nghĩa và F. Gros, trong số 5.038 đầu sách do Viện Nghiên cứu Hán Nôm quản lý, có khoảng: 2.500 tác phẩm liên quan tới văn học; 1.000 tác phẩm liên quan tới sử học; 600 tác phẩm liên quan tới tôn giáo; 450 tác phẩm liên quan tới văn hóa, giáo dục; 350 tác phẩm thuộc các lĩnh vực chính trị, xã hội; 300 tác phẩm thuộc các lĩnh vực y dược, vệ sinh; 300 tác phẩm thuộc lĩnh vực địa lý; 250 tác phẩm thuộc lĩnh vực pháp chế; 80 tác phẩm thuộc lĩnh vực nghệ thuật; 70 tác phẩm thuộc lĩnh vực kinh tế; 60 tác phẩm thuộc các lĩnh vực ngôn ngữ, văn tự; 50 tác phẩm thuộc lĩnh vực toán lý; 40 tác phẩm thuộc lĩnh vực quân sự, quốc phòng, và một số lượng ít hơn bàn về kiến trúc, nông nghiệp, tiểu thủ công, hoặc mang tính tổng hợp.
1.3. Đối tượng của nghiên cứu Hán Nôm
Nghiên cứu Hán Nôm chính là nghiên cứu toàn bộ thư tịch Hán Nôm ở trong nước và nước ngoài, và tất cả các sắc thần, hương ước, bia đá, chuông đồng, khánh đá, thơ, câu đối, hoành phi, biển gỗ v.v… bằng chữ Hán và chữ Nôm hiện còn ở các cung điện, đền đài, lăng tẩm, đình chùa, miếu vũ.
2. Vai trò và ý nghĩa của nghiên cứu Hán Nôm đối với nghiên cứu văn hóa Việt Nam
2.1. Toàn bộ tư liệu Hán Nôm là di sản văn hóa vô cùng quí báu của nhân dân ta Toàn bộ tư liệu Hán Nôm, bao gồm thư tịch và các loại khác như châu bản, địa bộ, sắc thần, hương ước, bia đá, chuông đồng, khánh đá, câu đối, hoành phi, biển gỗ v.v… là di sản văn hóa thành văn vô cùng quí báu mà tổ tiên ta từ nhiều thế hệ trước để lại. Đó là nguồn thông tin phong phú và đa dạng về nền văn hóa trong quá khứ của dân tộc ta, phản ánh tư duy khoa học và văn học nghệ thuật, tổ chức làng xã, sinh hoạt xã hội… của tiền nhân ta.
2.2. Nghiên cứu văn hóa dân gian, nghiên cứu báo chí và văn học quốc ngữ đối với nghiên cứu văn hóa Việt Nam 2.2.1. Văn hóa dân gian Văn hóa Hán Nôm là văn hóa bác học. Bên cạnh dòng văn hóa thành văn này, còn có một dòng văn hóa khác hình thành từ thời tiền sử, khi người Việt chưa có chữ viết, đó là văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian kế thừa những truyền thống văn hóa cộng đồng từ lâu đời, tồn tại và phát triển trong dân gian, trong các cộng đồng làng xã, bao gồm văn học dân gian truyền khẩu (các truyền thuyết, thần thoại, truyện cổ tích, ca dao, tục ngữ…), các tục thờ cúng (tín ngưỡng dân gian), các lễ hội, dân ca (dân ca Quan họ, hò Huế, dân ca Nam Bộ…), sân khấu dân gian (hát chèo, múa rối nước…), phong tục tập quán, các làng nghề truyền thống, ẩm thực, trang phục, nhà ở… Văn hóa dân gian không ngừng phát triển qua sự giao lưu với các nền văn hóa khác trong khu vực và trên thế giới, và tiếp thu những giá trị mới, đồng thời điều chỉnh và cách tân những giá trị đã có cho phù hợp với những biến đổi của xã hội. 2.2.2. Báo chí và văn học quốc ngữ Tờ báo quốc ngữ đầu tiên là Gia Định báo, số 1 ra ngày 15-4-1865. Sau đó hơn 20 năm, cuốn tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên là Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, xuất bản năm 1887. Như vậy, báo chí và văn học quốc ngữ hình thành từ nửa sau của thế kỷ 19, tính đến nay chưa tới 150 năm. Tuy bề dày lịch sử kém xa thư tịch Hán Nôm, nhưng báo chí và văn học quốc ngữ phát triển mạnh mẽ, phong phú và đa dạng, phản ánh rõ nét văn hóa Việt Nam từ buổi đầu thời kỳ thuộc Pháp trở đi.
2.3. Vai trò và ý nghĩa của nghiên cứu Hán Nôm đối với nghiên cứu văn hóa Việt Nam
Nhà nghiên cứu tùy theo sở học, có thể tiếp cận văn hóa Việt Nam qua nghiên cứu tư liệu Hán Nôm, nghiên cứu văn hóa dân gian hoặc nghiên cứu báo chí và văn học quốc ngữ. Cả ba cách tiếp cận ấy bổ sung cho nhau và cho ta cái nhìn toàn diện và xuyên suốt về văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay trong khi dòng văn hóa dân gian và dòng văn hóa quốc ngữ đang tồn tại và phát triển như một thực thể sinh động, thì văn hóa Hán Nôm chỉ tồn tại như một di sản, mang tính lịch sử và “định hình”, đóng khung trong các tư liệu. Qua phân loại 5.038 đầu sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm vừa nêu trên, chúng ta thấy nội dung thư tịch Hán Nôm bao quát mọi lĩnh vực của văn hóa Việt Nam. Ngày nay, chỉ có một số rất ít người đọc được chữ Hán và chữ Nôm. Vì thế, vai trò của nghiên cứu Hán Nôm là phải kịp thời khai thác di sản văn hóa này bằng cách phiên dịch các tư liệu chữ Hán, phiên âm các tư liệu chữ Nôm, chú thích, tìm hiểu và công bố cho quần chúng độc giả. Nghiên cứu di sản văn hóa Hán Nôm chính là bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam, vốn quí của dân tộc.
Nghiên cứu Hán Nôm sẽ bổ sung cho nghiên cứu văn hóa dân gian, đồng thời tiếp thêm bề dày lịch sử cho văn hóa quốc ngữ. Nếu không có di sản văn hóa Hán Nôm, làm sao chúng ta có thể tự hào dân tộc ta có trên một ngàn năm văn hiến [7]? Hơn nữa, việc nghiên cứu Hán Nôm còn biểu lộ sự trân trọng đối với di sản tinh thần của tiền nhân ta, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, một điều rất quan trọng trong tiến trình nước ta hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mặt khác, những thành tựu của nghiên cứu Hán Nôm sẽ là cơ sở khoa học và là tư liệu cần thiết cho các ngành nghiên cứu văn học, ngôn ngữ, lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Để kết luận, trước hết tôi muốn nhân đây đính chính một sự ngộ nhận về ngành đào tạo Hán Nôm. Một số người vì thấy ngành đào tạo Hán Nôm có những môn học giống với Trung Quốc học và ngữ văn Trung Quốc, nên lầm tưởng ngành Hán Nôm đại khái cũng giống hai ngành này. Thật ra, qua phần trình bày ở trên, ta thấy Hán Nôm học có đối tượng, vai trò và ý nghĩa khác hẳn với Trung Quốc học nói chung và ngữ văn Trung Quốc nói riêng, mặc dù giữa hai ngành học này có quan hệ về tri thức liên ngành. Trong xu thế công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, số người quan tâm đến di sản văn hóa Hán Nôm ngày càng ít. Vì thế, tôi thiết tha đề nghị Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh và trực tiếp là trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn tạo điều kiện thuận lợi cho ngành đào tạo Hán Nôm phát triển và có những biện pháp thiết thực để khuyến khích sinh viên đi vào con đường nghiên cứu Hán Nôm. Đồng thời ngành đào tạo Hán Nôm cũng cần có những cải tiến để thích ứng với xu thế của thời đại.
___
[1] Xem Vương Duy Trinh, Thanh Hóa quan phong, Hải Dương, Liễu Văn Đường, khắc in năm Giáp Thìn (1904), tờ 69b-70a. [2] Xem Trần Nghĩa và F. Gros (đồng chủ biên), Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu, 3 tập; tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 23-24.
[3] Châu bản triều Nguyễn, tức Hoàng triều châu bản 皇朝硃本, 602 tập, gồm những tài liệu của nội các (văn thư phòng, ngự tiền văn phòng) và của các bộ, các tỉnh từ triều Gia Long đến triều Bảo Đại (1802-1945) với đủ các loại dụ, chiếu, chỉ, sắc, tấu, khải, biểu v.v…, hiện tàng trữ tại Kho Lưu trữ Trung ương.
[4] Triều Nguyễn đã tiến hành đo đạc ruộng đất các xã thôn ba miền (1805-1873) và lập thành những tập địa bộ, hiện Kho Lưu trữ Trung ương còn giữ được 10.044 tập, gồm địa bộ miền Bắc với 4.296 tập, địa bộ miền Trung với 5.264 tập và địa bộ miền Nam với 484 tập.
[5] Bốn loại theo Lê Quí Đôn: 1. Hiến chương 2. Thi văn 3. Truyện ký 4. Phương kỹ (Nghệ văn chí – Lê triều thông sử, qu. 3, 1759); theo Phan Huy Chú: 1. Hiến chương 2. Kinh sử 3. Thi văn 4. Truyện ký (Văn tịch chí – Lịch triều hiến chương loại chí, qu. 42-45, 1821); theo E. Gaspardone: 1. Gouvernement 2. Histoire 3. Littérature 4. Légendes, Confucéisme, Bouddhisme, Traités divers (Bibliographie annamite, BEFEO, 1934)
. [6] Xem Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 1, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1984; tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990.
[7] Văn hiến: Chu Hi giải thích: 文典籍也獻賢也 Văn, điển tịch dã; hiến, hiền dã (Văn là sách vở; hiến là người hiền tài). Một trong hai điều kiện của văn hiến là điển tịch. Điển tịch Hán Nôm hình thành từ đời Lý (1009-1225).
=
Tuesday, June 23, 2009
Khối 8406
Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006
Web: http://khoi8406vn.blogspot.com/
Email: vanphong8406@gmail.com
Kháng thư số 25:
Đòi hỏi nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam
bảo vệ ngư trường, ngư dân, ngư nghiệp Việt Nam
(và trả tự do cho nhóm Luật sư Lê Công Định)
Việt Nam, ngày 21-06-2009
Kính thưa toàn thể Đồng bào quốc nội và hải ngoại,
Kính thưa Cộng đồng Dân chủ trên toàn thế giới.
Kể từ đầu năm nay, đặc biệt từ trung tuần tháng 5-2009, nhiều biến cố dồn dập trên Biển Đông đã gây kinh hoàng cho ngư dân Việt Nam, gây lo ngại cho nhà cầm quyền CSVN và gây phẫn nộ cho tất cả đồng bào Việt Nam từ trong ra tới ngoài nước lẫn Cộng đồng Dân chủ năm châu.
I- Những sự kiện
1- Phía ngư dân:
Mở đầu là vụ việc ngày 15-01-2009, Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh Phú Yên thông báo: một tàu đánh cá của ngư dân địa phương đã bị một tàu lạ đâm chìm ở vùng biển cách mũi Đại Lãnh về phía Đông Nam khỏang 80 hải lý. Toàn bộ 9 ngư dân trên tàu bị mất tích. Đến ngày 14-03, tàu đánh cá mang số hiệu BL-03942-TS ở huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu cũng bị một tàu lạ đâm chìm. Lúc đó, Ban phòng chống lụt bão tỉnh Bạc Liêu xác nhận: vụ tai nạn này đã làm hai ngư dân là Cô Văn Đủ và Nguyễn Văn Khương tử nạn. Hai người khác là Nguyễn Văn Đấu và Huỳnh Văn Nhất mất tích. (x. RFA 24-05-2009).
Ngày 26-04, chiếc tàu cá QNg-94734-TS thuộc thôn Phần Thất, xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, khi đang trên đường tìm kiếm ngư trường thì bị 2 tàu Trung Quốc (số hiệu 44061, 44831) đến gần nổ súng, buộc phải dừng lại. Liền sau đó, 2 chiếc ca nô xuất phát từ các tàu trên chở theo khoảng 10 người mang súng ‘đổ bộ’ lên tàu cá Việt. Họ lục lọi khắp tàu, giở hầm thấy cá liền bắt các thuyền viên chuyển qua ca nô để chở về tàu ‘trắng’ trên 3 tấn cá mà tàu VN đã đánh bắt được sau 6 ngày cật lực. Trước khi bỏ đi, những người Trung Quốc còn ‘đe dọa’ bằng cách lấy lưỡi lê súng AK đâm lủng 1 thúng chai... (x. Thanh Niên, 06-06-2009)
Đầu tháng 5, một tàu ngư dân thuộc huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, khi đang vây bắt một đàn cá ở vị trí 109 độ kinh đông và 17 độ vĩ bắc, cách bờ chừng 65 hải lý thì bất ngờ bị một tàu nước ngoài đến yêu cầu dỡ lưới đi nơi khác, nếu không sẽ gặp rắc rối (x. http://www.tuoitre.com.vn ngày 02-06-2009). Rạng sáng ngày 19-05, một tàu câu mực của ngư dân xã Bình Chánh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, đang khi hành nghề ở 10'54 độ vĩ bắc, 111 độ kinh đông, trong khu vực không xa quần đảo Hoàng Sa, thì đã bị một tàu lạ tông cho chìm, khiến 26 thuyền viên rơi xuống biển (x. http://www.blogosin.org/?p=925 ngày 08-06-2009). Cũng cùng ngày 19-5 tàu cá QNg-94734-TS thuộc huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi bị một tàu nước ngoài tấn công ngay trên ngư trường, lấy đi hơn một nửa số cá vừa đánh bắt được. Đã vậy, trước khi bỏ đi, các thuyền viên tàu nước ngoài còn dùng lưỡi lê đâm thủng một chiếc thuyền thúng dùng làm thuyền cứu nạn. (x. http://www. vietnamnet.vn/kinhte/2009/06/850893/)
Sáng ngày 24-05, tàu QNg-8793-TS thuộc thôn Hải Tân, xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, đang khi ngủ nghỉ sau cả đêm đánh cá bỗng giật mình hoảng hốt khi nghe tiếng hụ còi của tàu “trắng” mang số hiệu 44183 (Loại tàu tuần tra của Trung Quốc ngụy trang thành tàu kiểm soát đánh cá). Tất cả thuyền viên vùng dậy nổ máy chạy liền, nhưng chỉ được vài trăm mét thì tàu “trắng” đã tiếp cận. Lập tức, 4 người Trung Quốc cầm súng trèo qua tàu, ra hiệu các thuyền viên đứng dồn lại, lục lọi khắp người, khắp tàu và cuối cùng buộc các ngư dân chuyển khoảng 5 tấn cá - thành quả lao động nhiều ngày của họ - qua tàu “trắng” (x. Thanh Niên, ngày 6-06-2009).
Sáng ngày 03-06, 9 ngư dân xã Quỳnh Dị, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An đang đánh bắt cá trên chiếc tàu có số hiệu NA-4425-TS thì bất ngờ bị hai chiếc tàu lạ tấn công và truy đuổi, công kích bằng đá, chai bia, lọ nước… Bỏ lại lưới, họ chạy thoát thân được hơn 2 hải lý thì một chiếc đuổi kịp, đâm thẳng vào mạn tàu khiến con tàu bị nghiêng, hư hỏng nặng… (x. http://dantri.com.vn /c20/s20-329421/hai-tau-ca-la-tan-cong-9-ngu-dan.htm).
Ngoài ra, ngày 5-6-09, Vietnamnet, dựa theo báo cáo từ Sở Ngoại vụ tỉnh Quảng Ngãi, cho hay rằng chỉ riêng tỉnh này “tính từ 2005 đến quý I-2009, tổng số tàu thuyền và ngư dân bị nước ngoài bắt là 74 chiếc, 714 người, trong đó 33 chiếc với 373 người bị Trung Quốc bắt.” Nguồn tin này cho biết thêm: “Khi bị Trung Quốc bắt, thân nhân ngư dân phải nộp tiền chuộc từ 5-7 vạn nhân dân tệ (150-180 triệu đồng) mới đưa được ngư dân về nhà. Ngoài bị bắt ra, Quảng Ngãi cũng có 6 ngư dân bị nước ngoài bắn chết và bị thương năm 2007” (x. http://www.nguoi-viet.com/absolutenm /anmviewer.asp?a=96218&z=1 ngày 09-06-2009)
Chẳng những bị Trung Quốc ăn hiếp, ngư dân VN còn bị Malaysia bắt nạt. Trong 6 tháng đầu năm 2009, Malaysia đã bắt giữ 40 tàu cá và 464 ngư dân của Việt Nam, trong đó mỗi ngư dân bị bắt sẽ bị phạt tới 100.000 ringgit, thuyền trưởng bị phạt tới 1 triệu ringgit (1 USD tương đương 3.5 ringgit). (x. http://vitinfo.com.vn/Muctin/Quocte/LA61256/default.htm)
Về ngư nghiệp, nhiều doanh nghiệp (DN) miền Trung cho hay họ đang nhìn về vùng nguyên liệu miền Nam để mong tồn tại. Tuy nhiên, các DN ở đây cũng đang "đói" nguyên liệu chế biến. Điển hình như Cty Thủy sản Nam Việt (Navico, An Giang), một "đại gia" trong ngành, nhiều năm liền dẫn đầu cả nước về kim ngạch xuất khẩu, nhưng hiện 3 nhà máy thủy sản được đầu tư công nghệ hiện đại của họ chỉ hoạt động 30%-40% công suất bởi không đủ nguyên liệu. Hoặc ở tỉnh Bà RịaVũng Tàu (vựa thủy hải sản lớn nhất Đông Nam bộ), hàng loạt DN lớn như Cty East Wind Vietnam (huyện Tân Thành, chế biến bột cá), từ đầu năm đến nay, chỉ thu mua được khoảng 1/3 nguyên liệu so với cùng kỳ năm ngoái, nên 3 dây chuyền chế biến có tổng công suất lên 350 tấn/ngày chỉ hoạt động được 20%... Thiếu nguyên liệu lại kèm theo suy thoái kinh tế là nguyên nhân khiến xuất khẩu thủy sản Việt Nam 5 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt chỉ đạt xấp xỉ 30% so với kế hoạch 4 tỷ USD xuất khẩu năm nay. (x. Việt Báo 12-06-2009)
2- Phía Trung Quốc
Kể từ năm 2001, sau hiệp định lãnh hải Việt Trung ký ngày 25-12-2000, và đặc biệt từ đầu năm nay, Trung Quốc đã cử nhiều tàu hải quân đến vùng Biển Đông để “tuần tra”. Họ đã ngăn chận, đánh đuổi, cướp cá, bắt người, tịch thu thuyền, thậm chí giết chết ngư dân Việt Nam như đã thấy trên kia. Cách đây hơn một tháng, họ lại ngang nhiên ra lệnh cấm các bên không được đánh cá trong một giai đoạn do họ áp đặt từ ngày 16/05 tới ngày 01/08 (mùa đánh cá của ngư dân Việt Nam) tại vùng biển ''kéo dài từ 12 độ vĩ bắc lên trên 20 độ vĩ bắc, tức từ vùng biển Trường Sa, Hoàng sa của Việt Nam đến đảo Hải Nam của Trung Quốc'', một vùng rộng đến 128.000 km2, nghĩa là toàn thể vịnh Bắc Bộ. (x. Lao Ðộng, thứ ba 02-06-2009).
Ngày 06-06, hai hôm sau phản ứng của Việt Nam, Bắc Kinh loan báo chiếc Ngư Chính 44183, tàu kiểm soát đánh cá lớn nhất của họ và 7 chiếc Ngư Chính khác nhỏ hơn, đến tuần tiễu, thi hành lệnh cấm. Tới ngày 09-06, Tần Cương, phát ngôn nhân bộ Ngoại giao Trung Cộng tuyên bố: “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở biển Đông, gồm cả quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và những vùng biển lân cận. Lệnh cấm đánh bắt cá trên biển Đông của Trung Quốc là một biện pháp hành chính thông thường và hợp lý của Trung Quốc nhằm bảo tồn nguồn lợi hải dương ở khu vực này của Trung Quốc”.
2- Phía nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam
Đang khi ngư trường dậy sóng, ngư dân điêu đứng kinh hoàng và ngư nghiệp thất bát lụn bại vì bị Trung Quốc đánh phá, đặc biệt từ đầu năm nay, thì theo Thông tấn xã Việt Nam, ngày 25-05, bên lề Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ÁÂu lần thứ 9, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao CSVN Phạm Gia Khiêm vẫn có cuộc gặp với Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì. Hai bên cho rằng “quan hệ hai nước thời gian vừa qua tiếp tục có những tiến triển quan trọng nhằm triển khai có hiệu quả quan hệ 'đối tác hợp tác chiến lược toàn diện'. Hai bên nhất trí sẽ phối hợp chặt chẽ để nhanh chóng hoàn tất những công việc còn lại trong công tác phân giới cắm mốc biên giới lãnh thổ, đồng thời tích cực đàm phán về các vấn đề trên biển. Hai bên khẳng định sẽ phối hợp chuẩn bị tốt các hoạt động trong “năm Hữu nghị ViệtTrung 2010”, góp phần tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai nước; đồng thời tin tưởng rằng với cố gắng chung của cả hai bên, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện ViệtTrung nhất định sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa”. (x. TTXVN 25-05-2009).
Qua hôm sau, ngày 26-05, Tổng Bí thư đảng CSVN Nông Đức Mạnh lại tiếp viên Bộ trưởng Ngoại giao Trung Cộng này tại trụ sở trung ương đảng. Nông Đức Mạnh đã “đánh giá cao những đóng góp tích cực của Bộ Ngoại giao hai nước trong thời gian qua; mong rằng Bộ Ngoại giao hai nước tiếp tục tăng cường hợp tác, cùng nhau phấn đấu, đóng góp nhiều hơn nữa cho quan hệ hai nước Việt Nam-Trung Quốc mãi mãi là láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Ông ta còn khẳng định: “Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trước sau như một luôn coi trọng việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với TQ, vun đắp cho quan hệ đó ngày càng đơm hoa kết trái, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình và phát triển ở khu vực và trên thế giới” (x. http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30012&cn_id=342366).
Sau khi Trung Quốc tuyên bố lệnh cấm đánh cá nói trên, nhà cầm quyền CSVN đã phản ứng hết sức kỳ lạ. Thông tấn xã VN ngày 06-06 viết : “Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Dũng cho biết: hôm 04-06, Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn đã giao thiệp với Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường, lưu ý việc phía Trung Quốc gần đây thực hiện lệnh cấm đánh cá tại một số vùng biển, trong đó có những khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông và tăng cường tàu tuần tra, bắt, phạt tàu cá tại những vùng biển này. Thứ trưởng cho rằng điều đó đã và đang ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của ngư dân Việt Nam tại ngư trường truyền thống của Việt Nam, gây bức xúc trong dư luận, không có lợi cho quan hệ hai nước, đề nghị phía Trung Quốc không có các hoạt động cản trở công việc làm ăn bình thường của ngư dân Việt Nam trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đại sứ Trung Quốc đã hứa sẽ báo cáo về nước đề nghị của phía Việt Nam”. Và Trung Quốc đã đáp ứng đề nghị của Việt Nam cách nào thì như đã thấy trên kia.
Vậy mà đến ngày 12-6, Nông Đức Mạnh lại tiếp Đoàn đại biểu Trung cộng do ông Lý Nguyên Triều, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương dẫn đầu. Nông Đức Mạnh lại tiếp tục nhấn mạnh “chuyến thăm Việt Nam lần này của Đoàn thể hiện sự quan tâm và coi trọng của lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đối với việc thúc đẩy quan hệ giữa hai Đảng, hai nước, là biểu hiện sinh động của việc xây dựng quan hệ đối tác tác chiến lược toàn diện ViệtTrung; đánh giá cao việc hai nước hợp tác có hiệu quả ở tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức nhân dân, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện ViệtTrung Quốc lên một tầm cao mới”. Ông ta còn “cảm ơn sự giúp đỡ to lớn mà Đảng, nhân dân Trung Quốc đã, đang dành cho Việt Nam… khẳng định Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trước sau như một, luôn coi trọng và sẽ làm hết sức mình để gìn giữ và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống giữa hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông đặt nền móng và được các thế hệ lãnh đạo, nhân dân hai nước dày công vun đắp” (Theo TTXVN 13-06-2009)
Về phần Quốc hội CSVN khóa 12 kỳ 5 (từ 20-5 đến 19-06), thì chuyện Biển Đông dù gây xôn xao cho lắng cho cả nước, vẫn không được đưa vào nghị trình chính thức. Chỉ có một thành viên là đại tướng Lê Văn Dũng, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân VN, ra hành lang trả lời một phóng viên báo Vietnamnet ngày 11-06 xung quanh việc làm thế nào để ngư dân có thể đánh bắt cá an toàn trên vùng biển chủ quyền của VN. Được hỏi “Ngư dân hiện nay có thể yên tâm đánh bắt ở những vùng được xác định là chủ quyền của VN không? Lực lượng bảo vệ ở đó thế nào?" ông Dũng trả lời kiểu lấp lửng: «Lực lượng bảo vệ đầy đủ, tình hình vẫn tốt. Các tàu mà bị bắt hầu hết do không nhận biết được giữa vùng biển mênh mông là tàu có trên đúng vùng biển của mình hay không. Còn những nơi ổn định quanh Trường Sa hay vùng biển quanh khu vực dầu khí thì bà con vẫn rất an toàn. Vùng biển có các giàn khoan khai thác dầu khí hiện nay vẫn thuộc chủ quyền của mình» (x. Vietnamnet 12-06-2009).
II. Trước những sự kiện và thái độ như trên, Khối 8406 tuyên bố:
1- Kịch liệt lên án đảng và nhà cầm quyền CSVN
- vẫn tiếp tục ve vãn Trung Quốc, kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc, lân bang chuyên nuôi mộng thôn tính Tổ quốc, vẫn mù quáng tin tưởng khẩu hiệu «16 chữ vàng», mối quan hệ «4 tốt» đầy lường gạt, vẫn tiếp tục tiếp đón đại diện của cái quốc gia đang cùng lúc cấm cản giết hại đồng bào mình ngoài biển khơi, đang ngang nhiên cho thấy vô vàn dấu hiệu bộc lộ ý đồ đen tối của họ đối với nước Việt.
- vẫn tỏ ra khiếp sợ Trung Quốc trước những gì họ đã và đang làm cho ngư dân VN, kể từ vụ ngư dân Thanh Hóa, đang khi đánh cá trên biển VN, đã bị Trung Quốc bắn chết 9 người và làm bị thương 8 người ngày 8-1-2005 rồi hàng trăm vụ việc tương tự sau đó. Nay thì chỉ phản đối một cách đê hèn khiếp nhược bằng cách cho bộ ngoại giao đến giao thiệp (thực chất là xin gặp) đại sứ Trung Quốc (thay vì triệu ông ta đến bộ này), đề nghị Trung Quốc đừng ngăn cản hoạt động của ngư dân VN (thay vì gởi công hàm phản đối), rồi chỉ khuyến khích ngư dân lo tự bảo vệ là chính.
2- Kịch liệt lên án Quốc hội bù nhìn khóa XII của VN
- vẫn bình chân như vại suốt kỳ họp thứ 5 giữa lúc bao đau thương nguy hiểm đang xảy đến cho đồng bào ngoài biển cả, trên đất liền, cho những ngư dân bị cấm cản đánh cá, phải bán tháo bán đổ ngư cụ, cho những công ty xí nghiệp thủy sản gặp đình đốn trong chế biến, bị thua lỗ trong xuất khẩu.
- vẫn câm miệng không dám gọi thẳng tên «tàu Trung Quốc» mà chỉ dùng từ «tàu lạ» khi đề cập đến những sự cố đau thương cho ngư dân VN trên biển, rồi chỉ để cho một thành viên thủ thỉ chuyện biển Đông với một phóng viên duy nhất ngoài hành lang Quốc hội.
3- Quyết liệt đòi hỏi đảng và nhà cầm quyền CSVN
- phải bắt chước lân bang Philippin vốn từng mạnh mẽ phản đối -bằng lời nói và hành động- một lệnh cấm tương tự của Trung Quốc cách đây 10 năm (từ 1-6 đến 31-7-1999) : "Chúng tôi đang đánh bắt cá trong vùng lãnh hải của chúng tôi... Họ mới chính là người xâm phạm lãnh thổ của chúng tôi" (Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Orlando Mercado, theo Thông tấn xã Kyodo News của Nhật ngày 3-6-1999).
- phải noi gương các nước có chung vùng biển đánh cá với Trung Quốc như Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, vốn không bao giờ để cho ngư dân của mình bị Trung Quốc hăm dọa, trấn lột, sát hại. Phải phát triển và sử dụng lực lượng hải quân hùng mạnh để bảo vệ ngư dân và ngư trường, đồng thời để tìm cách chiếm lại hai quần đảo của Tổ quốc là Hoàng Sa và Trường Sa nếu cần thiết.
- phải nhanh chóng lên tiếng bênh vực và giải thoát hàng ngàn ngư dân VN đang bị Trung Quốc, Malaysia và nhiều nước khác trong vùng giam giữ từ bao năm qua, lấy lại tàu thuyền ngư cụ cho họ và nâng đỡ gia đình khốn khổ của họ.
- phải can đảm xé bỏ Công hàm bán nước năm 1958, Hiệp định lãnh hải (phân định vịnh Bắc Bộ) năm 2000 và Nghị định thư về hợp tác đánh cá trong Vịnh Bắc bộ năm 2004.
- phải cấp tốc đưa vấn đề «Trung Quốc lấn chiếm Biển Đông và cấm cản ngư dân Việt đánh cá trên biển Việt» ra trước Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
4- Tha thiết kêu gọi toàn thể Đồng bào Việt Nam mọi giới trong và ngoài nước, các lực lượng Quân đội hãy chung tay bảo vệ và cứu nguy Tổ quốc bằng cách chống lại những kẻ nội thù bán nước trước khi chống lại kẻ ngoại thù cướp nước.
5- Nhân dịp này, Khối 8406 chúng tôi cũng tuyên bố :
- Những gì luật sư Lê Công Định và các bạn (Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long, Lê Thị Thu Thu, Trần Thị Thu) đã nói, đã viết, đã làm vì nhân quyền và dân chủ trong thời gian qua, kể cả việc tham gia các đảng phái nhằm chuẩn bị đấu tranh bất bạo động với đảng CS, đều là những việc làm chính đáng, cần thiết, đáng trân trọng.
- Việc bắt giam nhóm luật sư Lê Công Định dựa «theo Điều 88 Bộ Luật Hình sự, vì đã có những hành vi câu kết với các thế lực thù địch chống nhà nước CHXHCN Việt Nam» (một điều luật quái đản không hề có trong thế giới văn minh dân chủ) là sự vi phạm trắng trợn quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do lập hội theo Công ước quốc tế năm 1966 mà VN đã ký vào.
- Việc luật sư Lê Công Định tuyên bố nhận tội đã «vi phạm pháp luật theo điều 88 BLHS của nước CHXHCN Việt Nam» giữa lúc ông hoàn toàn hiểu biết rằng đó là một điều luật bất công phi lý, giữa lúc ông đang trọn vẹn nằm trong bàn tay sắt của công an vốn có những thủ thuật ép cung tinh vi, thâm độc và tàn bạo, giữa lúc chưa có một phiên tòa công khai minh bạch, việc «nhận tội» đó là hoàn toàn phi pháp, vô giá trị, không thể tin được và không thể chấp nhận được.
- Nhà cầm quyền CSVN phải trả tự do cho luật sư Định cùng các bạn của ông (như kể trên) ngay lập tức và vô điều kiện, đồng thời phải phục hồi danh dự cho tất cả họ.
Làm tại Việt Nam ngày 21 tháng 06 năm 2009.
Ban điều hành lâm thời Khối 8406.
1- Kỹ sư Đỗ Nam Hải, Sài Gòn, Việt Nam.
2- Trung tá Trần Anh Kim, Thái Bình, Việt Nam.
3- Linh mục Phan Văn Lợi, Huế, Việt Nam.
4- Giáo sư Nguyễn Chính Kết (đang vận động dân chủ tại hải ngoại)
(trong sự hiệp thông của linh mục Nguyễn Văn Lý, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và nhiều chiến sĩ dân chủ khác, hiện còn đang bị giam cầm trong lao tù cộng sản.)
Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006
Web: http://khoi8406vn.blogspot.com/
Email: vanphong8406@gmail.com
Kháng thư số 25:
Đòi hỏi nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam
bảo vệ ngư trường, ngư dân, ngư nghiệp Việt Nam
(và trả tự do cho nhóm Luật sư Lê Công Định)
Việt Nam, ngày 21-06-2009
Kính thưa toàn thể Đồng bào quốc nội và hải ngoại,
Kính thưa Cộng đồng Dân chủ trên toàn thế giới.
Kể từ đầu năm nay, đặc biệt từ trung tuần tháng 5-2009, nhiều biến cố dồn dập trên Biển Đông đã gây kinh hoàng cho ngư dân Việt Nam, gây lo ngại cho nhà cầm quyền CSVN và gây phẫn nộ cho tất cả đồng bào Việt Nam từ trong ra tới ngoài nước lẫn Cộng đồng Dân chủ năm châu.
I- Những sự kiện
1- Phía ngư dân:
Mở đầu là vụ việc ngày 15-01-2009, Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh Phú Yên thông báo: một tàu đánh cá của ngư dân địa phương đã bị một tàu lạ đâm chìm ở vùng biển cách mũi Đại Lãnh về phía Đông Nam khỏang 80 hải lý. Toàn bộ 9 ngư dân trên tàu bị mất tích. Đến ngày 14-03, tàu đánh cá mang số hiệu BL-03942-TS ở huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu cũng bị một tàu lạ đâm chìm. Lúc đó, Ban phòng chống lụt bão tỉnh Bạc Liêu xác nhận: vụ tai nạn này đã làm hai ngư dân là Cô Văn Đủ và Nguyễn Văn Khương tử nạn. Hai người khác là Nguyễn Văn Đấu và Huỳnh Văn Nhất mất tích. (x. RFA 24-05-2009).
Ngày 26-04, chiếc tàu cá QNg-94734-TS thuộc thôn Phần Thất, xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, khi đang trên đường tìm kiếm ngư trường thì bị 2 tàu Trung Quốc (số hiệu 44061, 44831) đến gần nổ súng, buộc phải dừng lại. Liền sau đó, 2 chiếc ca nô xuất phát từ các tàu trên chở theo khoảng 10 người mang súng ‘đổ bộ’ lên tàu cá Việt. Họ lục lọi khắp tàu, giở hầm thấy cá liền bắt các thuyền viên chuyển qua ca nô để chở về tàu ‘trắng’ trên 3 tấn cá mà tàu VN đã đánh bắt được sau 6 ngày cật lực. Trước khi bỏ đi, những người Trung Quốc còn ‘đe dọa’ bằng cách lấy lưỡi lê súng AK đâm lủng 1 thúng chai... (x. Thanh Niên, 06-06-2009)
Đầu tháng 5, một tàu ngư dân thuộc huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, khi đang vây bắt một đàn cá ở vị trí 109 độ kinh đông và 17 độ vĩ bắc, cách bờ chừng 65 hải lý thì bất ngờ bị một tàu nước ngoài đến yêu cầu dỡ lưới đi nơi khác, nếu không sẽ gặp rắc rối (x. http://www.tuoitre.com.vn ngày 02-06-2009). Rạng sáng ngày 19-05, một tàu câu mực của ngư dân xã Bình Chánh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, đang khi hành nghề ở 10'54 độ vĩ bắc, 111 độ kinh đông, trong khu vực không xa quần đảo Hoàng Sa, thì đã bị một tàu lạ tông cho chìm, khiến 26 thuyền viên rơi xuống biển (x. http://www.blogosin.org/?p=925 ngày 08-06-2009). Cũng cùng ngày 19-5 tàu cá QNg-94734-TS thuộc huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi bị một tàu nước ngoài tấn công ngay trên ngư trường, lấy đi hơn một nửa số cá vừa đánh bắt được. Đã vậy, trước khi bỏ đi, các thuyền viên tàu nước ngoài còn dùng lưỡi lê đâm thủng một chiếc thuyền thúng dùng làm thuyền cứu nạn. (x. http://www. vietnamnet.vn/kinhte/2009/06/850893/)
Sáng ngày 24-05, tàu QNg-8793-TS thuộc thôn Hải Tân, xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, đang khi ngủ nghỉ sau cả đêm đánh cá bỗng giật mình hoảng hốt khi nghe tiếng hụ còi của tàu “trắng” mang số hiệu 44183 (Loại tàu tuần tra của Trung Quốc ngụy trang thành tàu kiểm soát đánh cá). Tất cả thuyền viên vùng dậy nổ máy chạy liền, nhưng chỉ được vài trăm mét thì tàu “trắng” đã tiếp cận. Lập tức, 4 người Trung Quốc cầm súng trèo qua tàu, ra hiệu các thuyền viên đứng dồn lại, lục lọi khắp người, khắp tàu và cuối cùng buộc các ngư dân chuyển khoảng 5 tấn cá - thành quả lao động nhiều ngày của họ - qua tàu “trắng” (x. Thanh Niên, ngày 6-06-2009).
Sáng ngày 03-06, 9 ngư dân xã Quỳnh Dị, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An đang đánh bắt cá trên chiếc tàu có số hiệu NA-4425-TS thì bất ngờ bị hai chiếc tàu lạ tấn công và truy đuổi, công kích bằng đá, chai bia, lọ nước… Bỏ lại lưới, họ chạy thoát thân được hơn 2 hải lý thì một chiếc đuổi kịp, đâm thẳng vào mạn tàu khiến con tàu bị nghiêng, hư hỏng nặng… (x. http://dantri.com.vn /c20/s20-329421/hai-tau-ca-la-tan-cong-9-ngu-dan.htm).
Ngoài ra, ngày 5-6-09, Vietnamnet, dựa theo báo cáo từ Sở Ngoại vụ tỉnh Quảng Ngãi, cho hay rằng chỉ riêng tỉnh này “tính từ 2005 đến quý I-2009, tổng số tàu thuyền và ngư dân bị nước ngoài bắt là 74 chiếc, 714 người, trong đó 33 chiếc với 373 người bị Trung Quốc bắt.” Nguồn tin này cho biết thêm: “Khi bị Trung Quốc bắt, thân nhân ngư dân phải nộp tiền chuộc từ 5-7 vạn nhân dân tệ (150-180 triệu đồng) mới đưa được ngư dân về nhà. Ngoài bị bắt ra, Quảng Ngãi cũng có 6 ngư dân bị nước ngoài bắn chết và bị thương năm 2007” (x. http://www.nguoi-viet.com/absolutenm /anmviewer.asp?a=96218&z=1 ngày 09-06-2009)
Chẳng những bị Trung Quốc ăn hiếp, ngư dân VN còn bị Malaysia bắt nạt. Trong 6 tháng đầu năm 2009, Malaysia đã bắt giữ 40 tàu cá và 464 ngư dân của Việt Nam, trong đó mỗi ngư dân bị bắt sẽ bị phạt tới 100.000 ringgit, thuyền trưởng bị phạt tới 1 triệu ringgit (1 USD tương đương 3.5 ringgit). (x. http://vitinfo.com.vn/Muctin/Quocte/LA61256/default.htm)
Về ngư nghiệp, nhiều doanh nghiệp (DN) miền Trung cho hay họ đang nhìn về vùng nguyên liệu miền Nam để mong tồn tại. Tuy nhiên, các DN ở đây cũng đang "đói" nguyên liệu chế biến. Điển hình như Cty Thủy sản Nam Việt (Navico, An Giang), một "đại gia" trong ngành, nhiều năm liền dẫn đầu cả nước về kim ngạch xuất khẩu, nhưng hiện 3 nhà máy thủy sản được đầu tư công nghệ hiện đại của họ chỉ hoạt động 30%-40% công suất bởi không đủ nguyên liệu. Hoặc ở tỉnh Bà RịaVũng Tàu (vựa thủy hải sản lớn nhất Đông Nam bộ), hàng loạt DN lớn như Cty East Wind Vietnam (huyện Tân Thành, chế biến bột cá), từ đầu năm đến nay, chỉ thu mua được khoảng 1/3 nguyên liệu so với cùng kỳ năm ngoái, nên 3 dây chuyền chế biến có tổng công suất lên 350 tấn/ngày chỉ hoạt động được 20%... Thiếu nguyên liệu lại kèm theo suy thoái kinh tế là nguyên nhân khiến xuất khẩu thủy sản Việt Nam 5 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt chỉ đạt xấp xỉ 30% so với kế hoạch 4 tỷ USD xuất khẩu năm nay. (x. Việt Báo 12-06-2009)
2- Phía Trung Quốc
Kể từ năm 2001, sau hiệp định lãnh hải Việt Trung ký ngày 25-12-2000, và đặc biệt từ đầu năm nay, Trung Quốc đã cử nhiều tàu hải quân đến vùng Biển Đông để “tuần tra”. Họ đã ngăn chận, đánh đuổi, cướp cá, bắt người, tịch thu thuyền, thậm chí giết chết ngư dân Việt Nam như đã thấy trên kia. Cách đây hơn một tháng, họ lại ngang nhiên ra lệnh cấm các bên không được đánh cá trong một giai đoạn do họ áp đặt từ ngày 16/05 tới ngày 01/08 (mùa đánh cá của ngư dân Việt Nam) tại vùng biển ''kéo dài từ 12 độ vĩ bắc lên trên 20 độ vĩ bắc, tức từ vùng biển Trường Sa, Hoàng sa của Việt Nam đến đảo Hải Nam của Trung Quốc'', một vùng rộng đến 128.000 km2, nghĩa là toàn thể vịnh Bắc Bộ. (x. Lao Ðộng, thứ ba 02-06-2009).
Ngày 06-06, hai hôm sau phản ứng của Việt Nam, Bắc Kinh loan báo chiếc Ngư Chính 44183, tàu kiểm soát đánh cá lớn nhất của họ và 7 chiếc Ngư Chính khác nhỏ hơn, đến tuần tiễu, thi hành lệnh cấm. Tới ngày 09-06, Tần Cương, phát ngôn nhân bộ Ngoại giao Trung Cộng tuyên bố: “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở biển Đông, gồm cả quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và những vùng biển lân cận. Lệnh cấm đánh bắt cá trên biển Đông của Trung Quốc là một biện pháp hành chính thông thường và hợp lý của Trung Quốc nhằm bảo tồn nguồn lợi hải dương ở khu vực này của Trung Quốc”.
2- Phía nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam
Đang khi ngư trường dậy sóng, ngư dân điêu đứng kinh hoàng và ngư nghiệp thất bát lụn bại vì bị Trung Quốc đánh phá, đặc biệt từ đầu năm nay, thì theo Thông tấn xã Việt Nam, ngày 25-05, bên lề Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ÁÂu lần thứ 9, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao CSVN Phạm Gia Khiêm vẫn có cuộc gặp với Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì. Hai bên cho rằng “quan hệ hai nước thời gian vừa qua tiếp tục có những tiến triển quan trọng nhằm triển khai có hiệu quả quan hệ 'đối tác hợp tác chiến lược toàn diện'. Hai bên nhất trí sẽ phối hợp chặt chẽ để nhanh chóng hoàn tất những công việc còn lại trong công tác phân giới cắm mốc biên giới lãnh thổ, đồng thời tích cực đàm phán về các vấn đề trên biển. Hai bên khẳng định sẽ phối hợp chuẩn bị tốt các hoạt động trong “năm Hữu nghị ViệtTrung 2010”, góp phần tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai nước; đồng thời tin tưởng rằng với cố gắng chung của cả hai bên, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện ViệtTrung nhất định sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa”. (x. TTXVN 25-05-2009).
Qua hôm sau, ngày 26-05, Tổng Bí thư đảng CSVN Nông Đức Mạnh lại tiếp viên Bộ trưởng Ngoại giao Trung Cộng này tại trụ sở trung ương đảng. Nông Đức Mạnh đã “đánh giá cao những đóng góp tích cực của Bộ Ngoại giao hai nước trong thời gian qua; mong rằng Bộ Ngoại giao hai nước tiếp tục tăng cường hợp tác, cùng nhau phấn đấu, đóng góp nhiều hơn nữa cho quan hệ hai nước Việt Nam-Trung Quốc mãi mãi là láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Ông ta còn khẳng định: “Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trước sau như một luôn coi trọng việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với TQ, vun đắp cho quan hệ đó ngày càng đơm hoa kết trái, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình và phát triển ở khu vực và trên thế giới” (x. http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30012&cn_id=342366).
Sau khi Trung Quốc tuyên bố lệnh cấm đánh cá nói trên, nhà cầm quyền CSVN đã phản ứng hết sức kỳ lạ. Thông tấn xã VN ngày 06-06 viết : “Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Dũng cho biết: hôm 04-06, Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn đã giao thiệp với Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường, lưu ý việc phía Trung Quốc gần đây thực hiện lệnh cấm đánh cá tại một số vùng biển, trong đó có những khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông và tăng cường tàu tuần tra, bắt, phạt tàu cá tại những vùng biển này. Thứ trưởng cho rằng điều đó đã và đang ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của ngư dân Việt Nam tại ngư trường truyền thống của Việt Nam, gây bức xúc trong dư luận, không có lợi cho quan hệ hai nước, đề nghị phía Trung Quốc không có các hoạt động cản trở công việc làm ăn bình thường của ngư dân Việt Nam trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đại sứ Trung Quốc đã hứa sẽ báo cáo về nước đề nghị của phía Việt Nam”. Và Trung Quốc đã đáp ứng đề nghị của Việt Nam cách nào thì như đã thấy trên kia.
Vậy mà đến ngày 12-6, Nông Đức Mạnh lại tiếp Đoàn đại biểu Trung cộng do ông Lý Nguyên Triều, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương dẫn đầu. Nông Đức Mạnh lại tiếp tục nhấn mạnh “chuyến thăm Việt Nam lần này của Đoàn thể hiện sự quan tâm và coi trọng của lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đối với việc thúc đẩy quan hệ giữa hai Đảng, hai nước, là biểu hiện sinh động của việc xây dựng quan hệ đối tác tác chiến lược toàn diện ViệtTrung; đánh giá cao việc hai nước hợp tác có hiệu quả ở tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức nhân dân, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện ViệtTrung Quốc lên một tầm cao mới”. Ông ta còn “cảm ơn sự giúp đỡ to lớn mà Đảng, nhân dân Trung Quốc đã, đang dành cho Việt Nam… khẳng định Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trước sau như một, luôn coi trọng và sẽ làm hết sức mình để gìn giữ và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống giữa hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông đặt nền móng và được các thế hệ lãnh đạo, nhân dân hai nước dày công vun đắp” (Theo TTXVN 13-06-2009)
Về phần Quốc hội CSVN khóa 12 kỳ 5 (từ 20-5 đến 19-06), thì chuyện Biển Đông dù gây xôn xao cho lắng cho cả nước, vẫn không được đưa vào nghị trình chính thức. Chỉ có một thành viên là đại tướng Lê Văn Dũng, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân VN, ra hành lang trả lời một phóng viên báo Vietnamnet ngày 11-06 xung quanh việc làm thế nào để ngư dân có thể đánh bắt cá an toàn trên vùng biển chủ quyền của VN. Được hỏi “Ngư dân hiện nay có thể yên tâm đánh bắt ở những vùng được xác định là chủ quyền của VN không? Lực lượng bảo vệ ở đó thế nào?" ông Dũng trả lời kiểu lấp lửng: «Lực lượng bảo vệ đầy đủ, tình hình vẫn tốt. Các tàu mà bị bắt hầu hết do không nhận biết được giữa vùng biển mênh mông là tàu có trên đúng vùng biển của mình hay không. Còn những nơi ổn định quanh Trường Sa hay vùng biển quanh khu vực dầu khí thì bà con vẫn rất an toàn. Vùng biển có các giàn khoan khai thác dầu khí hiện nay vẫn thuộc chủ quyền của mình» (x. Vietnamnet 12-06-2009).
II. Trước những sự kiện và thái độ như trên, Khối 8406 tuyên bố:
1- Kịch liệt lên án đảng và nhà cầm quyền CSVN
- vẫn tiếp tục ve vãn Trung Quốc, kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc, lân bang chuyên nuôi mộng thôn tính Tổ quốc, vẫn mù quáng tin tưởng khẩu hiệu «16 chữ vàng», mối quan hệ «4 tốt» đầy lường gạt, vẫn tiếp tục tiếp đón đại diện của cái quốc gia đang cùng lúc cấm cản giết hại đồng bào mình ngoài biển khơi, đang ngang nhiên cho thấy vô vàn dấu hiệu bộc lộ ý đồ đen tối của họ đối với nước Việt.
- vẫn tỏ ra khiếp sợ Trung Quốc trước những gì họ đã và đang làm cho ngư dân VN, kể từ vụ ngư dân Thanh Hóa, đang khi đánh cá trên biển VN, đã bị Trung Quốc bắn chết 9 người và làm bị thương 8 người ngày 8-1-2005 rồi hàng trăm vụ việc tương tự sau đó. Nay thì chỉ phản đối một cách đê hèn khiếp nhược bằng cách cho bộ ngoại giao đến giao thiệp (thực chất là xin gặp) đại sứ Trung Quốc (thay vì triệu ông ta đến bộ này), đề nghị Trung Quốc đừng ngăn cản hoạt động của ngư dân VN (thay vì gởi công hàm phản đối), rồi chỉ khuyến khích ngư dân lo tự bảo vệ là chính.
2- Kịch liệt lên án Quốc hội bù nhìn khóa XII của VN
- vẫn bình chân như vại suốt kỳ họp thứ 5 giữa lúc bao đau thương nguy hiểm đang xảy đến cho đồng bào ngoài biển cả, trên đất liền, cho những ngư dân bị cấm cản đánh cá, phải bán tháo bán đổ ngư cụ, cho những công ty xí nghiệp thủy sản gặp đình đốn trong chế biến, bị thua lỗ trong xuất khẩu.
- vẫn câm miệng không dám gọi thẳng tên «tàu Trung Quốc» mà chỉ dùng từ «tàu lạ» khi đề cập đến những sự cố đau thương cho ngư dân VN trên biển, rồi chỉ để cho một thành viên thủ thỉ chuyện biển Đông với một phóng viên duy nhất ngoài hành lang Quốc hội.
3- Quyết liệt đòi hỏi đảng và nhà cầm quyền CSVN
- phải bắt chước lân bang Philippin vốn từng mạnh mẽ phản đối -bằng lời nói và hành động- một lệnh cấm tương tự của Trung Quốc cách đây 10 năm (từ 1-6 đến 31-7-1999) : "Chúng tôi đang đánh bắt cá trong vùng lãnh hải của chúng tôi... Họ mới chính là người xâm phạm lãnh thổ của chúng tôi" (Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Orlando Mercado, theo Thông tấn xã Kyodo News của Nhật ngày 3-6-1999).
- phải noi gương các nước có chung vùng biển đánh cá với Trung Quốc như Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, vốn không bao giờ để cho ngư dân của mình bị Trung Quốc hăm dọa, trấn lột, sát hại. Phải phát triển và sử dụng lực lượng hải quân hùng mạnh để bảo vệ ngư dân và ngư trường, đồng thời để tìm cách chiếm lại hai quần đảo của Tổ quốc là Hoàng Sa và Trường Sa nếu cần thiết.
- phải nhanh chóng lên tiếng bênh vực và giải thoát hàng ngàn ngư dân VN đang bị Trung Quốc, Malaysia và nhiều nước khác trong vùng giam giữ từ bao năm qua, lấy lại tàu thuyền ngư cụ cho họ và nâng đỡ gia đình khốn khổ của họ.
- phải can đảm xé bỏ Công hàm bán nước năm 1958, Hiệp định lãnh hải (phân định vịnh Bắc Bộ) năm 2000 và Nghị định thư về hợp tác đánh cá trong Vịnh Bắc bộ năm 2004.
- phải cấp tốc đưa vấn đề «Trung Quốc lấn chiếm Biển Đông và cấm cản ngư dân Việt đánh cá trên biển Việt» ra trước Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
4- Tha thiết kêu gọi toàn thể Đồng bào Việt Nam mọi giới trong và ngoài nước, các lực lượng Quân đội hãy chung tay bảo vệ và cứu nguy Tổ quốc bằng cách chống lại những kẻ nội thù bán nước trước khi chống lại kẻ ngoại thù cướp nước.
5- Nhân dịp này, Khối 8406 chúng tôi cũng tuyên bố :
- Những gì luật sư Lê Công Định và các bạn (Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long, Lê Thị Thu Thu, Trần Thị Thu) đã nói, đã viết, đã làm vì nhân quyền và dân chủ trong thời gian qua, kể cả việc tham gia các đảng phái nhằm chuẩn bị đấu tranh bất bạo động với đảng CS, đều là những việc làm chính đáng, cần thiết, đáng trân trọng.
- Việc bắt giam nhóm luật sư Lê Công Định dựa «theo Điều 88 Bộ Luật Hình sự, vì đã có những hành vi câu kết với các thế lực thù địch chống nhà nước CHXHCN Việt Nam» (một điều luật quái đản không hề có trong thế giới văn minh dân chủ) là sự vi phạm trắng trợn quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do lập hội theo Công ước quốc tế năm 1966 mà VN đã ký vào.
- Việc luật sư Lê Công Định tuyên bố nhận tội đã «vi phạm pháp luật theo điều 88 BLHS của nước CHXHCN Việt Nam» giữa lúc ông hoàn toàn hiểu biết rằng đó là một điều luật bất công phi lý, giữa lúc ông đang trọn vẹn nằm trong bàn tay sắt của công an vốn có những thủ thuật ép cung tinh vi, thâm độc và tàn bạo, giữa lúc chưa có một phiên tòa công khai minh bạch, việc «nhận tội» đó là hoàn toàn phi pháp, vô giá trị, không thể tin được và không thể chấp nhận được.
- Nhà cầm quyền CSVN phải trả tự do cho luật sư Định cùng các bạn của ông (như kể trên) ngay lập tức và vô điều kiện, đồng thời phải phục hồi danh dự cho tất cả họ.
Làm tại Việt Nam ngày 21 tháng 06 năm 2009.
Ban điều hành lâm thời Khối 8406.
1- Kỹ sư Đỗ Nam Hải, Sài Gòn, Việt Nam.
2- Trung tá Trần Anh Kim, Thái Bình, Việt Nam.
3- Linh mục Phan Văn Lợi, Huế, Việt Nam.
4- Giáo sư Nguyễn Chính Kết (đang vận động dân chủ tại hải ngoại)
(trong sự hiệp thông của linh mục Nguyễn Văn Lý, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và nhiều chiến sĩ dân chủ khác, hiện còn đang bị giam cầm trong lao tù cộng sản.)
Monday, June 22, 2009
NGÔ NHÂN DỤNG * CHÍNH LUẬN
Mối nhục của một quốc gia
Ngô Nhân Dụng
Một cuốn tiểu thuyết đang bán rất chạy ở Trung Quốc, đã được dịch sang tiếng Anh, kể chuyện loài sói và loài người sống chung trên cánh đồng cỏ ở Nội Mông. Cuốn Wolf Totem của Jiang Rong là một bản anh hùng ca về những cánh đồng cỏ mênh mông. Trong không gian bát ngát đó sói và người vừa đấu trí và đấu sức giành sự sống, vừa cộng tác để gìn giữ cho những thảo nguyên khỏi biến thành sa mạc, suốt mấy ngàn năm từ thời trăm ngàn năm trước cho tới bây giờ. Ðọc đến trang 319 trong bản dịch do Penguin Press xuất bản, thấy một đoạn tả cảnh một con sói xông vào đàn cừu, bắt một con ăn thịt ngay tại chỗ.
Anh chứng kiến cảnh con chó sói cắn cổ vật ngã một con cừu, rồi nó xé da xả thịt ăn. Ðó là một con sói đói quá phải mạo hiểm một mình đi bắt cừu giữa ban ngày, thay vì chờ cả bầy tấn công ban đêm theo trận thế. Anh sinh viên vẫn cho rằng đạo quân của Thành Cát Tư Hãn đã học phép bầy binh bố trận của loài sói cho nên mới chinh phục được bao nhiêu mảnh đất từ Âu Châu sang Á Châu. Anh đứng quan sát con sói ăn mồi, theo kế của người bạn Mông Cổ kiên nhẫn chờ con sói ăn no nặng bụng rồi mới động thủ thì sẽ hạ được nó dễ dàng.
Ðàn cừu bị sói tấn công lúc đầu hoảng sợ chạy tán loạn. Nhưng khi thấy con sói bắt đầu ngồi xuống bàn tiệc ăn thịt một đồng loại rồi thì cả đàn cừu yên tâm, vì một con sói thường ăn không hết một con cừu đã no, và khi no rồi thì con sói không màng đến những món ăn trước mắt. Lũ cừu dần dần lại bình thản đứng gặm cỏ như cũ. Nhiều con cừu còn tò mò tiến đến gần ngó xem con sói nó ăn thịt “đồng bào” mình như thế nào, giống như người ta đi xem thiên hạ đánh nhau. Tác giả mô tả bộ mặt của mấy chú cừu kia có vẻ như muốn nói với con cừu đang bị ăn thịt: “May quá! Con sói nó ăn thịt mày! Thành ra nó không ăn thịt tao!” Nhiều con cừu bạo dạn tiến tới sát bên cạnh, cả đám chen chúc nhau để được nhìn rõ xem con sói đang ăn tiệc một mình như thế nào.
Nhân vật của Jiang Rong là một sinh viên ham đọc sách. Nhìn cảnh đó, anh nhớ lại một đoạn văn của Lỗ Tấn. Nhà văn tả cảnh thời trước Ðại Chiến Thứ Hai khi quân Nhật chiếm Trung Quốc, một đám đông người Trung Hoa cũng đứng quan chiêm cảnh một quân nhân Nhật Bản chuẩn bị chém đầu một người Trung Hoa. Anh sinh viên tự nhủ, “Chẳng trách được, những người du mục Mông Cổ họ coi người Hán cũng giống như đàn cừu.”
Các nước Á Ðông đã từng bị quân Nhật chiếm đóng ôm một nỗi hận rất lớn đối với đám quân đội của Thiên Hoàng. Người Việt Nam không chia sẻ cảm tưởng đó vì nước ta chỉ bị quân đội Nhật chính thức chiếm đóng trong một thời gian ngắn, từ cuộc đảo chính vào Tháng Ba tới ngày nước Nhật đầu hàng vào Tháng Tám. Ngược lại, người Việt thường có cảm tình với người Nhật, vì các nhà ái quốc trong phong trào Ðông Du đã sang Nhật tìm học; một phần khác vì quân Nhật đã lật đổ chế độ đô hộ của thực dân Pháp ở nước ta.
Các nước khác ở Á Ðông như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ðài Loan thì không may đã phải sống dưới ách cai trị rất tàn bạo của đoàn quân Nhật Bản, cho nên trong ký ức của họ còn chứa nhiều niềm phẫn uất. Lỗ Tấn từng đánh thức đồng bào của ông bằng cách nhắc nhở đến những mối nhục của người Trung Hoa trong thời đại ông sống. Ông bắt đầu bằng việc mô tả những hình ảnh lạc hậu, chậm tiến, những hủ tục trong xã hội Trung Hoa; với những cảnh người mạnh ức hiếp người yếu, người giàu sống phè phỡn bên cạnh người nghèo đang đói lả chờ chết. Ðồng bào ông sống trong cảnh đó nhưng nhiều người không hề ý thức được rằng sống như vậy đã là một nỗi nhục.
Tuy nhiên chàng sinh viên trong truyện Wolf Totem, và tác giả Khương Nhung, có dịp nhớ lại Lỗ Tấn thì chỉ nhớ tới cảnh nhục nhã khi những người Trung Hoa dửng dưng đứng coi một người Nhật chém cổ đồng bào của họ mà không làm gì để phản kháng. Chắc hình ảnh đó đã làm cho các nhà văn, từ Lỗ Tấn đến Khương Nhung, ghi khắc một nỗi xấu hổ rất lớn trong lòng, có dịp thì phải nhớ lại. Có lẽ loài người không chú ý đến những nỗi nhục nhã chính mình gây cho mình. Trái lại, ai cũng dễ ghi nhớ nỗi nhục khi phải so sánh mình với người khác; so sánh gia đình mình với gia đình khác, dân tộc mình với dân tộc khác. Một người đàn ông đối xử tàn tệ với vợ con mình thường không cảm thấy nhục khi người khác chứng kiến. Nhưng thấy con mình bị người hàng xóm mắng một câu thì, không biết phải trái ra sao, đã rất dễ nổi lòng căm phẫn!
Ngày xưa Phan Bội Châu sang đến Nhật Bản, ngay trong những ngày đầu, đã ba lần cụ cảm thấy xấu hổ khi thấy lối sống của những người dân bình thường ở Nhật Bản và chợt nhớ đến đồng bào mình ở nước “An Nam” và cảm thấy nhục nhã. Ðó là những cảnh mấy người cảnh sát Nhật ở nhà ga xe lửa tận tâm đi tìm hành lý của cụ bị thất lạc, rồi đem tới tận nơi, cúi đầu và nghiêng mình xin lỗi xin trả lại cụ. Ở nước ta, cụ không thấy người Việt ăn ở với nhau như vậy. Một cảnh khác là cụ Phan và cụ Tăng Bạt Hổ kêu một anh kéo xe chở mình đi tìm một người du học sinh Trung Hoa được các nhà cách mạng Trung Hoa khác giới thiệu. Anh phu xe đưa hai cụ đến địa chỉ không tìm thấy, anh hỏi thăm rồi lại đưa đi nữa, quanh quẩn suốt cả buổi mới tìm ra. Nhưng anh chỉ lấy đúng số tiền của chuyến xe đi từ nhà ga tới địa chỉ đó, cụ Phan muốn trả thêm tiền công đi tìm nhưng anh nhất định không nhận. Lại một lần nữa, cụ Phan nhớ tới đồng bào mình và cảm thấy hổ thẹn.
Nỗi hổ thẹn của Phan Bội Châu xuất phát từ nền giáo dục Nho Giáo. Khi cụ trông thấy những người Nhật Bản có nghĩa khí, sống trung trực, giữ danh dự, đúng như hình ảnh mẫu người “quân tử” mà chính cụ đã học từ cha mẹ, thầy giáo của mình; cụ cảm thấy hổ thẹn vì Việt Nam và Nhật Bản cùng chịu ảnh hưởng của Khổng Giáo mà sao nước người ta có những người bình dân ăn ở quân tử như vậy, còn nước mình thì rất ít? Mạnh Tử nói biết hổ thẹn là mầm mống của đức Dũng, Phan Bội Châu chứng tỏ điều đó.
Ông Nông Ðức Mạnh mới qua thăm Nhật Bản, nhưng chắc ông không được trải qua những kinh nghiệm như Phan Bội Châu. Tuy nhiên, thế nào cũng có lúc ông phải cảm thấy đỏ mặt, nếu như làn da mặt của ông cũng bén nhạy như phần lớn loài người. Ðó là khi các quan chức Nhật Bản nhắc nhở các quan chức Việt .
Tại sao chính phủ Nhật Bản phải lên tiếng nhắc nhở như vậy? Không phải vì người ta cố ý nhắc nhở tới vụ các cán bộ cao cấp của đảng cộng sản đã bắt các nhà thầu Nhật phải hối lộ hàng triệu Mỹ kim, hay những cán bộ ăn cắp tiền Nhật viện trợ làm cầu làm đường để đi đánh cá bóng đá, để làm nhục các vị khách người Việt đang sang thăm nước Nhật. Nhưng chính phủ Nhật Bản phải cảm thấy họ có bổn phận nêu lên vấn đề đó chỉ vì họ chịu áp lực của dư luận dân chúng. Cả nước Nhật biết tiền đóng thuế của họ đem cho Việt Nam đã bị các cán bộ cộng sản ăn cắp như thế nào. Nếu chính phủ Nhật không nói gì đến, thế nào họ cũng bị báo chí và phe đối lập chỉ trích.
Nhưng nếu làn da mặt của ông Nông Ðức Mạnh cũng bén nhạy như những người Việt Nam khác, chắc hẳn không cần chờ đến lúc được nhắc nhở về việc bài trừ tham nhũng thì mới thấy chút hổ thẹn trong lòng. Chỉ cần khi được đưa đi du ngoạn qua những vườn hoa anh đào ở Tokyo thì một người Việt Nam bình thường, tự đáy lòng cũng phải cảm thấy hổ thẹn rồi. Vì ai cũng nhớ lại cảnh hoa anh đào Nhật Bản đem sang Hà Nội đã bị người ta tranh nhau bẻ, hái công khai như thế nào trong ngày Hội Anh Ðào năm ngoái. Chính phủ Hà Nội có thể cảm thấy hãnh diện vì đã giữ được trật tự trong lễ hội năm nay. Nhưng ở một nước mà phải huy động được tới 500 cảnh sát công an tới bảo vệ 6 cây hoa anh đào, thì người dân nghe tới cũng phải cảm thấy không đáng hãnh diện chút nào cả.
Nếu như Phan Bội Châu sống vào thời nay thì chỉ cần nhìn thấy dân Nhật Bản đi coi hoa anh đào mà không có một viên cảnh sát nào phải đứng canh gác hoa, cụ Phan cũng phải thấy xấu hổ rồi. Như rất nhiều người Việt đang sống ở Nhật Bản đang chia sẻ nỗi hổ thẹn đó.
Một nỗi nhục do hành động của một cá nhân gây ra thì chỉ một cá nhân đó ăn năn và xấu hổ. Nhưng khi những đồng bào vô danh của mình tham dự vào những hành động nhục nhã, thì cả dân tộc cũng chia sẻ nỗi nhục đó. Cái nhục càng được chia cho nhiều người thì lại càng lớn hơn.
Tại sao dân tộc Việt Nam mình lại lâm vào cảnh nhục nhã như vậy? Chắc hẳn đồng bào ta cũng biết lý do vì đâu rồi.
=
NGÀY NHỚ ƠN CHA
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con.
Đêm đêm khấn vái Phật Trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Có cha, có me thì hơn,
Không cha, không mẹ như đòn đứt dây.
Còn cha gót đỏ như son,
Một mai cha chết, gót con đen sì.
Con có cha, như nhà có nóc.
http://www.youtube.com/watch?v=GMbGWbTLf00
THƠ
Tình Chinh Nhân
Bài
thơ viết về một câu chuyện tinh của người lính chiến với người em gái
miền Cát trắng Đặc biệt trong mỗi câu thơ gần như có mang tựa đề của một
bản nhạc .
Tình Chinh Nhân
Quê em BIỂN MẶN dừa xanh
Sóng tình HOA BIỂN dổ dành người thương
KIẾP NGHÈO một nắng hai sương
LỐI VỀ XÓM NHỎ cuối đường cầu tre
Đượm nồng TÌNH THẮM DUYÊN QUÊ
Rung rinh GÁNH LÚA hẹn thề đêm trăng
NƯƠNG CHIỀU khói toả lều tranh
Vài con BƯỚM TRẮNG lượn quanh liếp cà
Hương thầm còn mãi TÌNH XA
Bướm HOA THẠCH THẢO còn ra nổi này
CON THUYỀN KHÔNG BẾN có hay
THU SẦU cô quạnh tháng ngày đơn côi
SUỐI MƠ chất chứa ngàn đời
Sao MÙA THU CHẾT còn rơi rớt nhiều
ĐÈN KHUYA một bóng cô liêu
ĐÊM ĐÔNG buốt giá tình yêu ngỡ ngàng
ĐÒ CHIỀU chưa tiễn đưa sang
NỔI LÒNG sao biết thiên đàng ái ân
TRÚC ĐÀO rụng khắp đầy sân
DUYÊN QUÊ mong gặp một lần cho vơi
NỔI BUỒN HOA PHƯỢNG trong đời
DẤU CHÂN KỶ NIỆM một thời học sinh
Và TRANG NHẬT KÝ riêng mình
Làm sao có được chuyện TÌNH THIÊN THU
Lặng nhìn từng GIỌT MƯA THU
Nghe như TUYẾT LẠNH uẩn u sao đành
Lật từng LƯU BÚT NGÀY XANH
Nghe như LỆ ĐÁ vây quanh nổi niềm
THU SẦU chẳng phải của riêng
Mà sao mãi thấy PHỐ ĐÊM hững hờ
ĐÒ CHIỀU chở mấy vần thơ
Chở nàng thi sỉ TÌNH BƠ VƠ sầu
Ôi NHỮNG ĐỐM MẮT HỎA CHÂU
NỦA ĐÊM NGOÀI PHỐ nhuốm màu thê lương
MONG NGƯỜI CHIẾN SỈ sa trường
Vào trong CÁT BỤI gíó sương không sờn
Để ai GIẤC NGỦ CÔ ĐƠN
Để cho CÔ BÉ DỖI HỜN phòng the
Từng đêm TRĂNG SÁNG VƯỜN CHÈ
TRĂNG MỜ BÊN SUỐI nghe se sắc lòng
Quạnh hiu gối chiếc phòng KHÔNG
NGHÌN TRÙNG XA CÁCH nhớ mong ngập trời
NẮNG CHIỀU giăng sợi đơn côi
GIỌT MƯA TRÊN LÁ khóc đời hợp tan
Bao giờ em bước SANG NGANG
Để thôi GIỌT LỆ ĐÀI TRANG không còn
GA CHIỀU ngóng đợi héo hon
TẦU ĐÊM NĂM CỦ vẫn còn đâu đâu
Từng đem TRĂNG RỤNG XUỐNG CẦU
Cho em biết SẮC HOA MÀU NHỚ thương
Cho em ĐÔI BÓNG bên đường
Chung HAI LỐI MỘNG một phương trời hồng
Sá gì giá lạnh ĐÊM ĐÔNG
NỔI BUỒN GÁC TRỌ chờ mong ngày về
Nghìn trùng MẤY DẬM SƠN KHÊ
ĐƯỜNG XƯA LỐI CỦ trăng thề còn đây
Tình yêu NHƯ CÁNH VẠT BAY
LÂU ĐÀI TÌNH ÁI không xây một mình
Từ ngày XẾP ÁO THƯ SINH
ANH ĐI CHIẾN DỊCH đăng trình nặng vai
NGẬM NGÙI cửa đóng then gài
NGƯỜI YÊU CỦA LÍNH không phai má đào
Lỡ khi BIẾT TRẢ LỜI SAO
TÌNH CHÀNG Ý THIÊP ai sầu hơn ai
Đượm nồng TIẾNG SÁO THIÊN THAI
Cho dù NGĂN CÁCH nếu hai mai đầu
Một lòng ĐỪNG NÓI XA NHAU
NGƯỜI YÊU LÝ TƯỞNG trọn câu vẹn thề
Rồi MỘT MAI QUA CƠN MÊ
HAI VÌ SA LẠC đi về BẾN MƠ
VẮNG XA vẫn mãi đợi chờ
Để em viết tiếp BÀI THƠ CUỐI CÙNG
Có ai THƯONG VỀ MIỀN TRUNG
QUÊ NGHÈO sỏi đá khốn cùng điêu linh
Lòng như KHÚC HÁT ÂN TÌNH
Trãi dài QUÊ MẸ nắng bình minh vui
MƯA TRÊN PHỐ HUẾ sụt sùi
CHO NGƯỜI TÌNH LỠ bùi ngùi vấn vương
VỀ ĐÂU MÁI TÓC NGƯỜI THƯƠNG
NƯẢ ĐÊM THỨC GIẤC lòng tương tư sầu
Dẫu rằng HAI ĐỨA GIẬN NHAU
Vẫn không như thể QUA CẦU GIÓ BAY
Một lần TỪ GIÃ THƠ NGÂY
Là em THEO LÁ VÀNG BAY mất rồi
Dẫu cho CAY ĐẮNG TÌNH ĐỜI
NGƯỜI EM SẦU MỘNG tuyệt vời yêu anh
Ân tình GẠO TRẮNG TRĂNG THANH
Làm sao NƯỚC MẮT LONG LANH cạn dòng
Bây giờ TRÊN ĐỈNH MÙA ĐÔNG
NGƯỜI EM XÓM ĐẠO chỉ mong một điều
Thương em HÃYNHỚ NHAU NHIỀU
Hãy xin LÝ LUẬN TÌNH YÊU thế nào
Cũng xin đừng VẪY TAY CHÀO
TÌNH YÊU TRÃ LẠI TRĂNG SAO thật buồn
MỘT LẦN DANG DỞ đau thương
Sóng tình HOA BIỂN dổ dành người thương
KIẾP NGHÈO một nắng hai sương
LỐI VỀ XÓM NHỎ cuối đường cầu tre
Đượm nồng TÌNH THẮM DUYÊN QUÊ
Rung rinh GÁNH LÚA hẹn thề đêm trăng
NƯƠNG CHIỀU khói toả lều tranh
Vài con BƯỚM TRẮNG lượn quanh liếp cà
Hương thầm còn mãi TÌNH XA
Bướm HOA THẠCH THẢO còn ra nổi này
CON THUYỀN KHÔNG BẾN có hay
THU SẦU cô quạnh tháng ngày đơn côi
SUỐI MƠ chất chứa ngàn đời
Sao MÙA THU CHẾT còn rơi rớt nhiều
ĐÈN KHUYA một bóng cô liêu
ĐÊM ĐÔNG buốt giá tình yêu ngỡ ngàng
ĐÒ CHIỀU chưa tiễn đưa sang
NỔI LÒNG sao biết thiên đàng ái ân
TRÚC ĐÀO rụng khắp đầy sân
DUYÊN QUÊ mong gặp một lần cho vơi
NỔI BUỒN HOA PHƯỢNG trong đời
DẤU CHÂN KỶ NIỆM một thời học sinh
Và TRANG NHẬT KÝ riêng mình
Làm sao có được chuyện TÌNH THIÊN THU
Lặng nhìn từng GIỌT MƯA THU
Nghe như TUYẾT LẠNH uẩn u sao đành
Lật từng LƯU BÚT NGÀY XANH
Nghe như LỆ ĐÁ vây quanh nổi niềm
THU SẦU chẳng phải của riêng
Mà sao mãi thấy PHỐ ĐÊM hững hờ
ĐÒ CHIỀU chở mấy vần thơ
Chở nàng thi sỉ TÌNH BƠ VƠ sầu
Ôi NHỮNG ĐỐM MẮT HỎA CHÂU
NỦA ĐÊM NGOÀI PHỐ nhuốm màu thê lương
MONG NGƯỜI CHIẾN SỈ sa trường
Vào trong CÁT BỤI gíó sương không sờn
Để ai GIẤC NGỦ CÔ ĐƠN
Để cho CÔ BÉ DỖI HỜN phòng the
Từng đêm TRĂNG SÁNG VƯỜN CHÈ
TRĂNG MỜ BÊN SUỐI nghe se sắc lòng
Quạnh hiu gối chiếc phòng KHÔNG
NGHÌN TRÙNG XA CÁCH nhớ mong ngập trời
NẮNG CHIỀU giăng sợi đơn côi
GIỌT MƯA TRÊN LÁ khóc đời hợp tan
Bao giờ em bước SANG NGANG
Để thôi GIỌT LỆ ĐÀI TRANG không còn
GA CHIỀU ngóng đợi héo hon
TẦU ĐÊM NĂM CỦ vẫn còn đâu đâu
Từng đem TRĂNG RỤNG XUỐNG CẦU
Cho em biết SẮC HOA MÀU NHỚ thương
Cho em ĐÔI BÓNG bên đường
Chung HAI LỐI MỘNG một phương trời hồng
Sá gì giá lạnh ĐÊM ĐÔNG
NỔI BUỒN GÁC TRỌ chờ mong ngày về
Nghìn trùng MẤY DẬM SƠN KHÊ
ĐƯỜNG XƯA LỐI CỦ trăng thề còn đây
Tình yêu NHƯ CÁNH VẠT BAY
LÂU ĐÀI TÌNH ÁI không xây một mình
Từ ngày XẾP ÁO THƯ SINH
ANH ĐI CHIẾN DỊCH đăng trình nặng vai
NGẬM NGÙI cửa đóng then gài
NGƯỜI YÊU CỦA LÍNH không phai má đào
Lỡ khi BIẾT TRẢ LỜI SAO
TÌNH CHÀNG Ý THIÊP ai sầu hơn ai
Đượm nồng TIẾNG SÁO THIÊN THAI
Cho dù NGĂN CÁCH nếu hai mai đầu
Một lòng ĐỪNG NÓI XA NHAU
NGƯỜI YÊU LÝ TƯỞNG trọn câu vẹn thề
Rồi MỘT MAI QUA CƠN MÊ
HAI VÌ SA LẠC đi về BẾN MƠ
VẮNG XA vẫn mãi đợi chờ
Để em viết tiếp BÀI THƠ CUỐI CÙNG
Có ai THƯONG VỀ MIỀN TRUNG
QUÊ NGHÈO sỏi đá khốn cùng điêu linh
Lòng như KHÚC HÁT ÂN TÌNH
Trãi dài QUÊ MẸ nắng bình minh vui
MƯA TRÊN PHỐ HUẾ sụt sùi
CHO NGƯỜI TÌNH LỠ bùi ngùi vấn vương
VỀ ĐÂU MÁI TÓC NGƯỜI THƯƠNG
NƯẢ ĐÊM THỨC GIẤC lòng tương tư sầu
Dẫu rằng HAI ĐỨA GIẬN NHAU
Vẫn không như thể QUA CẦU GIÓ BAY
Một lần TỪ GIÃ THƠ NGÂY
Là em THEO LÁ VÀNG BAY mất rồi
Dẫu cho CAY ĐẮNG TÌNH ĐỜI
NGƯỜI EM SẦU MỘNG tuyệt vời yêu anh
Ân tình GẠO TRẮNG TRĂNG THANH
Làm sao NƯỚC MẮT LONG LANH cạn dòng
Bây giờ TRÊN ĐỈNH MÙA ĐÔNG
NGƯỜI EM XÓM ĐẠO chỉ mong một điều
Thương em HÃYNHỚ NHAU NHIỀU
Hãy xin LÝ LUẬN TÌNH YÊU thế nào
Cũng xin đừng VẪY TAY CHÀO
TÌNH YÊU TRÃ LẠI TRĂNG SAO thật buồn
MỘT LẦN DANG DỞ đau thương
THA LA XÓM ĐẠO thánh đường bơ vơ
Hằng đêm QUÁN NHỎ ĐỢI CHỜ
Ôm sầu LẼ BÓNG vần thơ bẽ bàng
Còn đâu HOA SỨ NHÀ NÀNG
Gặp em trở lại CÔ HÀNG XÓM xưa
Còn đâu HUYỀN THOẠI CHIỀU MƯA
NHỮNG NGÀY THƠ MỘNG đón đưa hẹn thề
Em SAO KHÔNG THẤY ANH VỀ
MIỀN TRUNG THƯƠNG NHỚ tái tê lạnh nhiều
ĐÊM TÀN BẾN NGỰ cô liêu
AI RA XỨ HUẾ hắc hiu tháng ngày
Ôi chaoTHÀNH PHỐ MƯA BAY
KHÓC NGƯỜI TRINH NỬ đắng cay tình đời
TÌNH YÊU CÁCH BIỆT đôi nơi
NGẬM NGÙI cắn chặt bờ môi nhạt màu
BAO GIỜ TA GẶP LẠI NHAU
NỔI BUỒN HOA PHƯỢNG giọt sầu ly tan
Anh XIN TRẢ LẠI THỜI GIAN
ĐƯA EM VÀO HẠ thênh thang vùng trời
Thật tình ANH BIẾT EM ƠI
DƯ ÂM ngày mộng ngàn đời khó quên
CĂN NHÀ MÀU TÍM êm đèm
MỘT TRỜI THƯƠNG NHỚ làm nên chuyện tình
NÉT BUỒN THỜI CHIẾN điêu linh
Ráng đi em CHUYỆN CHÚNG MÌNH tính sau
TÌNH ANH LÍNH CHIẾN địa đầu
Trao em ÁO ĐẸP NÀNG DÂU mai này
CHIỀU MƯA BIÊN GIỚI có hay
ĐÊM BUỒN TỈNH LẺ tháng ngày héo hon
TÌNH YÊU CÁCH BIỆT mõi mòn
SAO ANH LỖI HẸN em còn đơn côi
Ngày MAI ANH ĐI XA RỒI
ĐÒ TÌNH LỠ CHUYẾN bờ môi nhạt nhoà
TÀU ĐÊM NĂM CỦ mấy toa
BIỆT LY em tiễn cành hoa hồng vàng
NỔI LÒNG mang tận quan san
Là như vai nặng HÀNH TRANG GIÃ TỪ
Phương này VẦNG TRÁN SUY TƯ
Xem như GIÂY PHÚT TẠ TỪ trong đêm
Mà SAO EM NỞ ĐÀNH QUÊN
RỪNG CHƯA THAY LÁ gọi tên bốn mùa
Tiền đồn THÁNG SÁU TRỜI MƯA
Trọn tình thương nhớ CHO VỪA LÒNG EM
Trở về MỘT CHUYẾN BAY ĐÊM
VÙNG TRỜI NGÀY ĐÓ càng thêm mặn nồng
Trử tình TRĂNG SÁNG ĐỒI THÔNG
CƠN MÊ TÌNH ÁI phiêu bồng lãng du
Ngõ hồn lạc lối VƯỜN THU
MỘT ĐÊM KHÔNG NGỦ ngục tù con tim
Ngày mai anh BIẾT ĐĂU TÌM
LINH HỒN TƯỢNG ĐA im lìm bơ vơ
Đắm chìm THU VỚI NÀNG THƠ
CHUYỆN NGƯỜI ĐANG ÁO đợi chờ đêm đông
Xin em ĐỪNG TRÁCH DIÊU BÔNG
BUỒN VƯƠNG MÀU ÁO má hồng chưa phai
Sao em NHƯ TIẾNG THỞ DÀI
NGHẸN NGÀO lệ đắng giọt đài trang tuôn
Để cho TỪ ĐÓ EM BUỒN
NẾU MAI ANH CHẾT chim muôn gọi đàn
TÌNH YÊU VỖ CÁNH băng ngang
GA CHIỀU PHỐ NHỎ đèn vàng xót xa
Phận nghèo mang KIẾP CẦM CA
ĐIẸU RU NƯỚC MẮT phòng trà từng đêm
THỀM TRĂNG còn đọng môi mềm
GIỌNG CA DĨ VÃNG buồn thêm nản lòng
Cho em BẢY NGÀY ĐỢI MONG
SAO ANH KHÔNG ĐẾN phòng không cuối tuần
Anh còn VỌNG GÁC ĐÊM SƯƠNG
CHIỀU MƯA BIÊN GIỚI còn vương giặc thù
BỐN VÙNG CHIẾN THUẬT mật khu
Bên RỪNG LÁ THẤP sương mù giăng giăng
Trên đồi HOA TÍM BẰNG LĂNG
NHỚ MẦU HOA TÍM đêm trăng thuở náo
Chuyện tình HÒ HẸN trăng sao
PHÚT ĐẰU TIÊN ắy nghe xao xuyến lòng
LẶNG THẰM hoa tím bên song
Ngập ngừng GỎ CỬA hằng mong trao nàng
KỂ TỪ ĐÊM ĐÓ thênh thang
ĐƯỜNG LÊN SƠN CƯỚC vai mang chử tình
Đếm từng sợi NẮNG THỦY TINH
Để riêng em mãi NHỚ MÌNH ANH THÔI
Đường tình NHẬT KÝ ĐỜI TÔI
CÁNH BUỒM CHUYỂN BẾN nhẹ trôi im lìm
CHIỀU VỀ trên những đồi sim
TÌNH THƯ CỦA LÍNH gởi niềm riêng em
Có loài HOA NỞ VỀ ĐÊM
Một loài HOA TRẮNG mang tên là quỳnh
Gót chân NGƯỜI LÍNH CHUNG TÌNH
BẠC MÀU ÁO TRẬN vẫn tình không phai
Lối về hẹn một ngày mai
ĐƯỜNG XƯA LỐI CỦ sánh vai tình hồng
Bây giờ em THẤY GÌ KHÔNG
Làm sao em biết NỔI LÒNG NGƯỜI ĐI
Bây chừ ĐÔI NGÃ CHIA LY
Cho NGƯỜI Ở LẠI CHARLY nghìn trùng
Đường chiều phủ kín MƯA RỪNG
NGƯỜI GIÀU CỮNG KHÓC trời rưng rưng sầu
Cạn nguồn GIÒNG LỆ THƯƠNG ĐAU
Thương HÀN MẠC TỬ sớm mau lìa trần
PHÙ DU kiếp sống chinh nhân
ĐOÀN NGƯỜI LỮ THỨ bước chân âm thầm
Và SAO CHƯA THẤY HỒI ÂM
Của người TÌNH LỞ TRĂM NĂM đợi chờ
Dẫu rằng TÌNH LÀ SỢI TƠ
Dẫu rằng em vẫn BƠ VƠ cuối tuần
Phương này PHIÊN GÁC ĐÊM XUÂN
BUỒN VUI ĐỜI LÍNH trầm luân tháng ngày
chiều nào TỪ GIÃ THƠ NGÂY
Người đi chinh chiến vui vầy nước non
Bao giờ sông núi vẫn còn
TÌNH ANH LÍNH CHIẾN chưa sòn chí trai
TÌNH ANH BIỂN RỘNG SÔNG DÀI
TRỜI VÀO XỨ MỘNG THƯƠNG HOÀI NGAN NĂM
Gió sương DẤN BƯỚC THĂNG TRẦM
BÂY GIỜ THÁNG MẤY lạnh căm ngoài trời
Lỡ như PHỐ VÁNG EM RỒI
Tình mình ĐOẠN TUYỆT lệ rơì rớt sầu
MAI LỠ HAI MÌNH XA NHAU
Cầm bằng nước chảy QUA CẦU GIÓ BAY
HẬN NGƯỜI sao dể đổi thay
Và anh BIẾT NÓI GÌ ĐÂY một lời
Em QUỲ LẠY CHÚA TRÊN TRỜI
Sao cho em lấy được người em yêu
Bây giờ em ĐỔI THAY chiều
NGƯỜI THƯƠNG không lấy chọn nhiều lợi danh
Thà yêu NGƯỜI ĐẸP TRONG TRANH
Còn hơn TÌNH PHỤ nở đành đắng cay
Thôi rồi THUNG LŨNG CHIM BAY
ĐIẸU RU NƯỚC MẮT phòng trà từng đêm
THỀM TRĂNG còn đọng môi mềm
GIỌNG CA DĨ VÃNG buồn thêm nản lòng
Cho em BẢY NGÀY ĐỢI MONG
SAO ANH KHÔNG ĐẾN phòng không cuối tuần
Anh còn VỌNG GÁC ĐÊM SƯƠNG
CHIỀU MƯA BIÊN GIỚI còn vương giặc thù
BỐN VÙNG CHIẾN THUẬT mật khu
Bên RỪNG LÁ THẤP sương mù giăng giăng
Trên đồi HOA TÍM BẰNG LĂNG
NHỚ MẦU HOA TÍM đêm trăng thuở náo
Chuyện tình HÒ HẸN trăng sao
PHÚT ĐẰU TIÊN ắy nghe xao xuyến lòng
LẶNG THẰM hoa tím bên song
Ngập ngừng GỎ CỬA hằng mong trao nàng
KỂ TỪ ĐÊM ĐÓ thênh thang
ĐƯỜNG LÊN SƠN CƯỚC vai mang chử tình
Đếm từng sợi NẮNG THỦY TINH
Để riêng em mãi NHỚ MÌNH ANH THÔI
Đường tình NHẬT KÝ ĐỜI TÔI
CÁNH BUỒM CHUYỂN BẾN nhẹ trôi im lìm
CHIỀU VỀ trên những đồi sim
TÌNH THƯ CỦA LÍNH gởi niềm riêng em
Có loài HOA NỞ VỀ ĐÊM
Một loài HOA TRẮNG mang tên là quỳnh
Gót chân NGƯỜI LÍNH CHUNG TÌNH
BẠC MÀU ÁO TRẬN vẫn tình không phai
Lối về hẹn một ngày mai
ĐƯỜNG XƯA LỐI CỦ sánh vai tình hồng
Bây giờ em THẤY GÌ KHÔNG
Làm sao em biết NỔI LÒNG NGƯỜI ĐI
Bây chừ ĐÔI NGÃ CHIA LY
Cho NGƯỜI Ở LẠI CHARLY nghìn trùng
Đường chiều phủ kín MƯA RỪNG
NGƯỜI GIÀU CỮNG KHÓC trời rưng rưng sầu
Cạn nguồn GIÒNG LỆ THƯƠNG ĐAU
Thương HÀN MẠC TỬ sớm mau lìa trần
PHÙ DU kiếp sống chinh nhân
ĐOÀN NGƯỜI LỮ THỨ bước chân âm thầm
Và SAO CHƯA THẤY HỒI ÂM
Của người TÌNH LỞ TRĂM NĂM đợi chờ
Dẫu rằng TÌNH LÀ SỢI TƠ
Dẫu rằng em vẫn BƠ VƠ cuối tuần
Phương này PHIÊN GÁC ĐÊM XUÂN
BUỒN VUI ĐỜI LÍNH trầm luân tháng ngày
chiều nào TỪ GIÃ THƠ NGÂY
Người đi chinh chiến vui vầy nước non
Bao giờ sông núi vẫn còn
TÌNH ANH LÍNH CHIẾN chưa sòn chí trai
TÌNH ANH BIỂN RỘNG SÔNG DÀI
TRỜI VÀO XỨ MỘNG THƯƠNG HOÀI NGAN NĂM
Gió sương DẤN BƯỚC THĂNG TRẦM
BÂY GIỜ THÁNG MẤY lạnh căm ngoài trời
Lỡ như PHỐ VÁNG EM RỒI
Tình mình ĐOẠN TUYỆT lệ rơì rớt sầu
MAI LỠ HAI MÌNH XA NHAU
Cầm bằng nước chảy QUA CẦU GIÓ BAY
HẬN NGƯỜI sao dể đổi thay
Và anh BIẾT NÓI GÌ ĐÂY một lời
Em QUỲ LẠY CHÚA TRÊN TRỜI
Sao cho em lấy được người em yêu
Bây giờ em ĐỔI THAY chiều
NGƯỜI THƯƠNG không lấy chọn nhiều lợi danh
Thà yêu NGƯỜI ĐẸP TRONG TRANH
Còn hơn TÌNH PHỤ nở đành đắng cay
Thôi rồi THUNG LŨNG CHIM BAY
KINH TẾ * CỘNG ĐỒNG VIỆT NAM
Khủng hoảng kinh tế và doanh nhân Mỹ gốc Việt
Nhã Trân, phóng viên đài RFA
2009-06-21
Vào lúc tình hình kinh tế Hoa Kỳ suy trầm, các cơ sở kinh doanh của người Việt tại Mỹ đã bị tác động đến mức nào và biện pháp vượt qua khó khăn ra sao? Nhã Trân tìm hiểu thêm qua trao đổi với doanh nhân ở một số tiểu bang, nơi đông đảo người Việt sinh sống. Mời quý thính giả theo dõi.
us-dollars-200.jpg
Khủng hoảng kinh tế khiến lượng ngoại tệ gởi về VN cũng bị sụt giảm. AFP photo.
Đã gần 2 năm kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính bùng nổ, nền kinh tế của cường quốc kinh tế hàng đầu là Hoa Kỳ vẫn còn trong giai đoạn khó khăn. Từ một vài tháng nay giới chuyên gia cho biết đã có một vài dấu hiệu cho thấy cuộc suy thoái đã chạm đáy. Điều đó được hiểu là kinh tế Mỹ, hay kinh tế toàn cầu nói chung, có khả năng bước vào giai đoạn hồi phục. Tuy nhiên tiến trình này là một con đường dài, và sự hồi phục ấy cần một thời gian ít nhất là một hai năm.
Sức tiêu thụ giảm
Ngay thời gian này, điều được nhận thấy qua sinh họat hàng ngày tại Mỹ, nói riêng trong cộng đồng người Việt, mức tiêu dùng của dân chúng không còn được như xưa. Từ siêu thị, hàng quán đến nhiều loại dịch vụ, số khách hàng đều giảm đi. Các ngôi chợ nói chung lúc này ít tấp nập hơn trước, và các cửa hàng cũng cùng hoàn cảnh.
Nói chung là cả hệ thống Phở Hòa đang bị thu nhập kém đi. … Tôi thấy có rất nhiều người tới tôi xin việc làm. Tôi có hỏi thăm thì đa số nói là làm hãng và bị thất nghiệp.
Ông Hòa, quản lý tiệm phở Hòa ở đường Bolsa
Kể về địa phương thì California bị tác động mạnh nhất. Một số đồng hương nói với chúng tôi là ở ngay Little Saigon, những tiệm ăn trước kia khách có khi phải xếp hàng bây giờ không còn hiện tượng đó. Ông Hòa, quản lý tiệm phở Hòa ở đường Bolsa, cho biết từ nhiều tháng qua doanh thu của franchise này, danh hiệu phở có tiếng ở hải ngoại, giảm hẳn:
"Nói chung là cả hệ thống Phở Hòa đang bị thu nhập kém đi. Tiệm của tôi cũng bị, nhưng mà đỡ hơn một số các tiệm khác. Tiệm của tôi xuống khoảng 30%. Tiệm cuả tôi nằm ngay trung tâm Little Saigon thành ra có khách du lịch nhiều nhưng lúc này khách du lịch không còn bao nhiêu. Đó là một phần. Thứ hai là những người Việt tới đây cũng bắt đầu ít ra ngoài ăn. Hình như họ bớt tiêu xài. Tôi thấy có rất nhiều người tới tôi xin việc làm. Tôi có hỏi thăm thì đa số nói là làm hãng và bị thất nghiệp."
Cũng ngay tại thủ đô của người Việt tỵ nạn, trong khi chợ búa, hàng quán lâm vào tình trạng thất thu thì các cửa tiệm buôn bán và cơ sở cung cấp những dịch vụ chính còn gặp tình thế bi đát hơn. Từ những tiệm bán sách báo, băng nhạc cho đến mỹ phẩm, nữ trang, quần áo, giày dép; từ những văn phòng bán bảo hiểm cho tới tiệm cắt uốn tóc, tiệm làm móng tay…cảnh vắng vẻ là điều thường xảy ra trong thời gian này. Trong tất cả những cơ sở đó, các tiệm "nail" bị ảnh hưởng nặng nhất.
Ông Thomas Vũ, quản lý của Number One Hair & Nail ở Quận Cam, cho hay:
"Nền kinh tế nó ảnh hưởng rất là nhiều bởi vì những người nào mà có tiền hoặc là dư tiền thì người ta mới làm đẹp. Trước người ta làm hai tuần một lần thì bây giờ người ta có nhiều khi cả tháng hay hai tháng hoặc là có dịp nào đó thì người ta mới đi. Có những vùng họ giữ được "income" cửa hàng của họ tới 80%. Nhưng mà đối với những vùng có người đi làm lương trung bình thì những chỗ đó ảnh huởng coi như phải tới 50-60%. Bây giờ không thể trả nổi cái 'lease", chờ tới hết cái lease này là đóng cửa tiệm luôn. Có nhiều hãng, nhiều tuần phải bỏ tiền riêng ra để bù đắp tiền nhà. Đa số sống thoi thóp thôi, chịu đựng theo thời gian, chờ xem cuối năm hoặc năm tới xem tình hình kinh tế như thế nào."
Trong khi các cơ sở kinh doanh và doanh nhân người Việt ở California bị tác động mạnh bởi kinh tế suy thoái, giới đồng nghiệp của họ ở các bang khác cũng không gặp hoàn cảnh khá hơn. Hỏi thăm một số tiểu thương ở Seattle, Texas, Maryland và Virginia, chúng tôi được biết các thương vụ bán lẻ và dịch vụ đã xuống từ 50 đến 70%.
Có nhiều hãng, nhiều tuần phải bỏ tiền riêng ra để bù đắp tiền nhà. Đa số sống thoi thóp thôi, chịu đựng theo thời gian, chờ xem cuối năm hoặc năm tới xem tình hình kinh tế như thế nào.
Ông Thomas Vũ, quản lý Number One Hair & Nail ở Quận Cam
Một trong những lãnh vực bị ảnh hưởng nặng nhất ở Mỹ trong giai đoạn này là lãnh vực địa ốc. Từ khi kinh tế xuống dốc vô số nhà bị tịch biên sau khi chủ lâm vào tình cảnh thất nghiệp. Những người buôn bán nhà cửa và làm các dịch vụ liên quan bị tác động không ít, đặc biệt những người sửa chữa nhà cửa gần một năm nay có rất ít việc để làm. Anh Nguyễn Luân của nhóm Tych's Realty ở California cho biết:
"Địa ốc trong vòng mấy năm nay xuống nhiều. Thời buổi này đối với realtor tụi tui thì chỉ một số rất là ít có thể sống được bằng nghề này full time, còn lại phải bỏ nghề. Nó ảnh huởng rất nhiều tại vì ngay cả việc tìm căn nhà rất là ít. Ngày xưa một tháng mình có thể bán hai ba cái, có nhiều khi bán bốn năm cái thì may ra mới đủ. Giá nhà có những khu vực còn rớt hơn 50%, ảnh hưởng luôn tới những người làm công việc mượn nợ. Trong vòng 4 tuần nay thì tình hình có vẻ khả quan hơn một chút, nhưng mà đa số người mua cũng chỉ là những người đầu tư nhiều hơn là những người mua nhà lần đầu."
Hy vọng
Trong hoàn cảnh chung của giai đoạn này, các cơ sở kinh doanh của người Việt ở Mỹ hiện vẫn đang trong tình trạng khó khăn. Cơn khủng hoảng này sẽ còn tồn tại ít nhất là vài chục tháng, theo nhận xét của các chuyên gia kinh tế. Trong thời điểm mà ánh sáng chỉ mới le lói vài tia yếu ớt ở cuối đường hầm, có hy vọng nào cho giới doanh nhân đang đối diện với thử thách?
Ông Đỗ Quang Tỏa, Chủ Tịch Small Business Development Group, một công ty giúp phát triển tiểu thương từ bang Virginia, nói rằng vẫn có biện pháp để giảm thiểu mức bi đát của tình thế. Vào thời điểm này có một vài yếu tố khích lệ cho việc kinh doanh. Với kinh nghiệm của hơn 10 năm giúp doanh nhân đã đem lại cho ông các giải thưởng doanh nhân xuất sắc của Hoa Kỳ, ông Tỏa chia sẻ:
"Bây giờ những người nào đang có business thì xin nhìn lại ngân sách của mình, tìm cách cắt giảm những chi phí để mình qua được cơn bão tố này. Tôi nghĩ là từ cuối năm nay đến đầu năm sau thì nó sẽ không xuống nữa và đến khoảng hè năm sau thì có thể như nhiều người dự đoán là phục hồi. Nếu có ý dịnh muốn làm business thì nên sửa soạn sẵn sàng, tại vì khi mà mọi thứ đều lên thì nhiều người ra, cho nên nếu muốn khởi sự thì bây giờ có nhiều ngành nghề người ta bỏ, người ta không làm, thì lúc này là lúc mình nhảy vô. Mình nhảy vô bây giờ nhưng đừng có làm lớn. Thứ nhì nữa là nếu mình có vốn và mình có khả năng mượn tiền thì tôi xin khuyên quý vị mượn tiền nhà băng để làm thương mại. Tiền của mình thì cứ giữ để phòng hờ, tại vì đa số người Việt lấy tất cả tiền "saving", tiền vay mượn bạn bè lấy ra làm, khi mà gặp trở ngại thì không có tiền để xoay sở nữa."
Tin tức vài ngày nay cho thấy tình trạng kinh tế Mỹ nói chung có phần đỡ trầm trọng. Theo tuyên bố của Tổng Thống Barack Obama, 600.000 việc làm sẽ được tạo trong thời gian sắp tới. Đây mới chỉ là dự kiến nhưng dù sao đối với một số người, trong đó có những doanh nhân gốc Việt, đó là một tin đáng lạc quan ngay tại thời điểm này.
Copyright © 1998-2009 Radio Free Asia. All rights reserved.
Nhã Trân, phóng viên đài RFA
2009-06-21
Vào lúc tình hình kinh tế Hoa Kỳ suy trầm, các cơ sở kinh doanh của người Việt tại Mỹ đã bị tác động đến mức nào và biện pháp vượt qua khó khăn ra sao? Nhã Trân tìm hiểu thêm qua trao đổi với doanh nhân ở một số tiểu bang, nơi đông đảo người Việt sinh sống. Mời quý thính giả theo dõi.
us-dollars-200.jpg
Khủng hoảng kinh tế khiến lượng ngoại tệ gởi về VN cũng bị sụt giảm. AFP photo.
Đã gần 2 năm kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính bùng nổ, nền kinh tế của cường quốc kinh tế hàng đầu là Hoa Kỳ vẫn còn trong giai đoạn khó khăn. Từ một vài tháng nay giới chuyên gia cho biết đã có một vài dấu hiệu cho thấy cuộc suy thoái đã chạm đáy. Điều đó được hiểu là kinh tế Mỹ, hay kinh tế toàn cầu nói chung, có khả năng bước vào giai đoạn hồi phục. Tuy nhiên tiến trình này là một con đường dài, và sự hồi phục ấy cần một thời gian ít nhất là một hai năm.
Sức tiêu thụ giảm
Ngay thời gian này, điều được nhận thấy qua sinh họat hàng ngày tại Mỹ, nói riêng trong cộng đồng người Việt, mức tiêu dùng của dân chúng không còn được như xưa. Từ siêu thị, hàng quán đến nhiều loại dịch vụ, số khách hàng đều giảm đi. Các ngôi chợ nói chung lúc này ít tấp nập hơn trước, và các cửa hàng cũng cùng hoàn cảnh.
Nói chung là cả hệ thống Phở Hòa đang bị thu nhập kém đi. … Tôi thấy có rất nhiều người tới tôi xin việc làm. Tôi có hỏi thăm thì đa số nói là làm hãng và bị thất nghiệp.
Ông Hòa, quản lý tiệm phở Hòa ở đường Bolsa
Kể về địa phương thì California bị tác động mạnh nhất. Một số đồng hương nói với chúng tôi là ở ngay Little Saigon, những tiệm ăn trước kia khách có khi phải xếp hàng bây giờ không còn hiện tượng đó. Ông Hòa, quản lý tiệm phở Hòa ở đường Bolsa, cho biết từ nhiều tháng qua doanh thu của franchise này, danh hiệu phở có tiếng ở hải ngoại, giảm hẳn:
"Nói chung là cả hệ thống Phở Hòa đang bị thu nhập kém đi. Tiệm của tôi cũng bị, nhưng mà đỡ hơn một số các tiệm khác. Tiệm của tôi xuống khoảng 30%. Tiệm cuả tôi nằm ngay trung tâm Little Saigon thành ra có khách du lịch nhiều nhưng lúc này khách du lịch không còn bao nhiêu. Đó là một phần. Thứ hai là những người Việt tới đây cũng bắt đầu ít ra ngoài ăn. Hình như họ bớt tiêu xài. Tôi thấy có rất nhiều người tới tôi xin việc làm. Tôi có hỏi thăm thì đa số nói là làm hãng và bị thất nghiệp."
Cũng ngay tại thủ đô của người Việt tỵ nạn, trong khi chợ búa, hàng quán lâm vào tình trạng thất thu thì các cửa tiệm buôn bán và cơ sở cung cấp những dịch vụ chính còn gặp tình thế bi đát hơn. Từ những tiệm bán sách báo, băng nhạc cho đến mỹ phẩm, nữ trang, quần áo, giày dép; từ những văn phòng bán bảo hiểm cho tới tiệm cắt uốn tóc, tiệm làm móng tay…cảnh vắng vẻ là điều thường xảy ra trong thời gian này. Trong tất cả những cơ sở đó, các tiệm "nail" bị ảnh hưởng nặng nhất.
Ông Thomas Vũ, quản lý của Number One Hair & Nail ở Quận Cam, cho hay:
"Nền kinh tế nó ảnh hưởng rất là nhiều bởi vì những người nào mà có tiền hoặc là dư tiền thì người ta mới làm đẹp. Trước người ta làm hai tuần một lần thì bây giờ người ta có nhiều khi cả tháng hay hai tháng hoặc là có dịp nào đó thì người ta mới đi. Có những vùng họ giữ được "income" cửa hàng của họ tới 80%. Nhưng mà đối với những vùng có người đi làm lương trung bình thì những chỗ đó ảnh huởng coi như phải tới 50-60%. Bây giờ không thể trả nổi cái 'lease", chờ tới hết cái lease này là đóng cửa tiệm luôn. Có nhiều hãng, nhiều tuần phải bỏ tiền riêng ra để bù đắp tiền nhà. Đa số sống thoi thóp thôi, chịu đựng theo thời gian, chờ xem cuối năm hoặc năm tới xem tình hình kinh tế như thế nào."
Trong khi các cơ sở kinh doanh và doanh nhân người Việt ở California bị tác động mạnh bởi kinh tế suy thoái, giới đồng nghiệp của họ ở các bang khác cũng không gặp hoàn cảnh khá hơn. Hỏi thăm một số tiểu thương ở Seattle, Texas, Maryland và Virginia, chúng tôi được biết các thương vụ bán lẻ và dịch vụ đã xuống từ 50 đến 70%.
Có nhiều hãng, nhiều tuần phải bỏ tiền riêng ra để bù đắp tiền nhà. Đa số sống thoi thóp thôi, chịu đựng theo thời gian, chờ xem cuối năm hoặc năm tới xem tình hình kinh tế như thế nào.
Ông Thomas Vũ, quản lý Number One Hair & Nail ở Quận Cam
Một trong những lãnh vực bị ảnh hưởng nặng nhất ở Mỹ trong giai đoạn này là lãnh vực địa ốc. Từ khi kinh tế xuống dốc vô số nhà bị tịch biên sau khi chủ lâm vào tình cảnh thất nghiệp. Những người buôn bán nhà cửa và làm các dịch vụ liên quan bị tác động không ít, đặc biệt những người sửa chữa nhà cửa gần một năm nay có rất ít việc để làm. Anh Nguyễn Luân của nhóm Tych's Realty ở California cho biết:
"Địa ốc trong vòng mấy năm nay xuống nhiều. Thời buổi này đối với realtor tụi tui thì chỉ một số rất là ít có thể sống được bằng nghề này full time, còn lại phải bỏ nghề. Nó ảnh huởng rất nhiều tại vì ngay cả việc tìm căn nhà rất là ít. Ngày xưa một tháng mình có thể bán hai ba cái, có nhiều khi bán bốn năm cái thì may ra mới đủ. Giá nhà có những khu vực còn rớt hơn 50%, ảnh hưởng luôn tới những người làm công việc mượn nợ. Trong vòng 4 tuần nay thì tình hình có vẻ khả quan hơn một chút, nhưng mà đa số người mua cũng chỉ là những người đầu tư nhiều hơn là những người mua nhà lần đầu."
Hy vọng
Trong hoàn cảnh chung của giai đoạn này, các cơ sở kinh doanh của người Việt ở Mỹ hiện vẫn đang trong tình trạng khó khăn. Cơn khủng hoảng này sẽ còn tồn tại ít nhất là vài chục tháng, theo nhận xét của các chuyên gia kinh tế. Trong thời điểm mà ánh sáng chỉ mới le lói vài tia yếu ớt ở cuối đường hầm, có hy vọng nào cho giới doanh nhân đang đối diện với thử thách?
Ông Đỗ Quang Tỏa, Chủ Tịch Small Business Development Group, một công ty giúp phát triển tiểu thương từ bang Virginia, nói rằng vẫn có biện pháp để giảm thiểu mức bi đát của tình thế. Vào thời điểm này có một vài yếu tố khích lệ cho việc kinh doanh. Với kinh nghiệm của hơn 10 năm giúp doanh nhân đã đem lại cho ông các giải thưởng doanh nhân xuất sắc của Hoa Kỳ, ông Tỏa chia sẻ:
"Bây giờ những người nào đang có business thì xin nhìn lại ngân sách của mình, tìm cách cắt giảm những chi phí để mình qua được cơn bão tố này. Tôi nghĩ là từ cuối năm nay đến đầu năm sau thì nó sẽ không xuống nữa và đến khoảng hè năm sau thì có thể như nhiều người dự đoán là phục hồi. Nếu có ý dịnh muốn làm business thì nên sửa soạn sẵn sàng, tại vì khi mà mọi thứ đều lên thì nhiều người ra, cho nên nếu muốn khởi sự thì bây giờ có nhiều ngành nghề người ta bỏ, người ta không làm, thì lúc này là lúc mình nhảy vô. Mình nhảy vô bây giờ nhưng đừng có làm lớn. Thứ nhì nữa là nếu mình có vốn và mình có khả năng mượn tiền thì tôi xin khuyên quý vị mượn tiền nhà băng để làm thương mại. Tiền của mình thì cứ giữ để phòng hờ, tại vì đa số người Việt lấy tất cả tiền "saving", tiền vay mượn bạn bè lấy ra làm, khi mà gặp trở ngại thì không có tiền để xoay sở nữa."
Tin tức vài ngày nay cho thấy tình trạng kinh tế Mỹ nói chung có phần đỡ trầm trọng. Theo tuyên bố của Tổng Thống Barack Obama, 600.000 việc làm sẽ được tạo trong thời gian sắp tới. Đây mới chỉ là dự kiến nhưng dù sao đối với một số người, trong đó có những doanh nhân gốc Việt, đó là một tin đáng lạc quan ngay tại thời điểm này.
Copyright © 1998-2009 Radio Free Asia. All rights reserved.
Sunday, June 21, 2009
NGUYỄN LƯU VIÊN * CỔ NHẠC
Thưởng thức cổ nhạc miền Nam và vọng cổ
- Nguyễn Lưu Viên -
Hồi xưa trong Nam, lúc "Ba ngày Tết", thì tối lại thường thường dân ở làng hay đi xem một "chầu" Hát Bội, còn dân ở tỉnh thì hay đi xem một "xuất" Cải Lương.
Để hiểu và thưởng thức trọn vẹn tuồng Hát Bội thì khán thính giả phải biết cốt chuyện của tuồng hát (thường thường lấy trong truyện Tàu như: tuồng "Kim Thạch Kỳ Duyên", tuồng "Ngũ Hổ Bình Tây", tuồng "San Hậu" và phải biết sơ sơ những nguyên tắc căn bản của việc đánh trống chầu. Giáo sư Nguyễn Ngọc An trong bài "Nghệ Thuật cầm chầu" đã trình bày hết sức rõ rệt nghệ thuật ấy.
Để hiểu và thưởng thức trọn vẹn xuất cải lương thì khán thính giả cũng phải biết cốt chuyện của tuồng hát (thường thường lấy trong truyện Tàu hay trong tiểu thuyết Việt Nam như tuồng "Phụng Nghi Đình" với cô Bảy Phùng Há, tuồng "Xử Án Bàng Quý Phi" với cô Năm Phỉ, tuồng "Lan và Điệp" với cô Thanh Nga), và phải biết sơ sơ những nguyên tắc căn bản của cổ nhạc Việt Nam. Theo gương của giáo sư Nguyễn Ngọc An, tôi xin cố gắng trình bày sau đây vài nguyên tắc căn bản ấy. Vì thế hệ trẻ Việt Nam sau này đã quen với nhạc Tây Phương, nên tôi xin trình bày những nguyên tắc căn bản ấy dưới hình thức so sánh, bằng những khác biệt, giữa nhạc Tây phương và nhạc Cổ điển miền Nam để cho được dễ hiểu hơn.
I. Khác biệt về các Nốt đàn
Nhạc Tây phương có bảy nốt đàn là: Do, Ré, Mi, Fa, Sol, La, Si hoặc: A, B, C, D, E, F, G và các dièse (sharp) hoặc bémol (flat) của mỗi nốt ấy. Còn cổ nhạc miền Nam thì cũng có bảy tên nốt đàn là: Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, Liếu, Ú. Nhưng kỳ thực thì chỉ có năm tiếng nốt đàn: là Hò, Xự, Xang, Xê, Cống; còn Liêu, Ú, là "nấc trên" của Hò và Xự). Nhưng mỗi nốt đàn Việt Nam không có dièse hay bémol của nó mà có vô số tiếng "ngân" éo on của nó, vì nốt đàn Việt Nam đánh lên thường thường là có "ngân" (nhất là khi nốt đàn ở vào cuối nhịp hay cuối câu). "Ngân" không phải là trille vì trille là đánh thật nhiều lần rất mau và đàn và nốt liền ở trên. "Ngân" cũng không hẳn là vibrato vì trong vibrato tuy có sự "rung rung" của ngón tay trái trên nốt đàn nhưng sự căng thẳng (tension) của sợi dây đàn không có thay đổi bao nhiêu ; còn "ngân" thì đánh có một lần vào nốt nào đó trong lúc ngón tay trái vẫn tiếp tục ấn mạnh nhẹ liên hồi vào dây đàn để cho sự căng thẳng của dây thay đổi hầu phát ra những tiếng "éo on" của nốt đàn ấy; thí dụ như đánh nốt Xang (nhất là ở vào cuối nhịp hay cuối câu) thì không phải để phát ra một tiếng "Xang" rồi thôi, mà phải phát ra một tiếng Xang éo on như "Xàng Xaãang" (?). (Có lẽ chữ Pháp hay chữ Anh có nghĩa gần nhất với chữ "Ngân" là chữ "Moduler" (Modulate).
Kết quả:
1. Không thể nào dùng nhạc khí Tây phương nào mà "ngân" được để diễn tả cổ nhạc miền Nam. Thí dụ không thể dùng dương cầm (piano) được, vì không thể "ngân", dù cho có giữ ngón tay trên phiếm hay có dùng bàn đạp (pédale) cũng chỉ kéo dài tiếng đàn chớ không phát ra được những tiếng "éo on" của ngân. Còn nếu dùng những nhạc khí có dây của nhạc Tây phương như đàn Madoline hay đàn guitar thì trên cán đàn phải "khoét lỏm" ở chỗ bấm nốt để có thể ấn "mạnh nhẹ, mạnh nhẹ" xuống dây đàn hầu thay đổi sự căng thẳng của nó để mà ngân. Chỉ có hawailian-guitar là thích hợp để diễn tả cổ nhạc miền Nam nhờ sự có thể nhích tới nhích lui cục sắt nằm trong tay trái để phát ra tiếng "ngân".
2. Thường thường đàn một bản nhạc Tây phương thì các nốt đàn được đánh lên phải nghe cho thật "clean" nghĩa là không có phụ âm đi kèm; còn đàn một bản cổ nhạc miền Nam thì các nốt được đánh lên, nghe có phụ âm đi kèm vì "ngân", (thí dụ : Công-ôố-ống, Xàng-xaã-ang).
II. Khác biệt về quan niệm (conception) một bản đàn
Trong nhạc Tây phương một bản nhạc là một tác phẩm do một nhạc sĩ sáng tác, viết ra để cho mình chơi, người khác chơi, một dàn nhạc chơi và sẽ lưu lại cho hậu thế chơi; và mỗi khi chơi thì đánh lên không sai một ly những nốt và những ngừng im (pause, silence) đã viết ra trong bản nhạc. Cho nên một nhạc sĩ Tây phương, lúc đàn thì về mặt kỹ thuật hành sử (exécuter) một nhạc phẩm (có trước mặt hay thuộc lòng) của tác giả ; còn về mặt tình cảm thì "phiên dịch" (interpréter) tình cảm của tác giả ấy, nghĩa là nghĩ rằng, đoán rằng, lúc sáng tác tác giả ấy đang nghĩ đến gì, thì mình cố gắng diễn tả tư tưởng, cảm giác ấy qua bản nhạc của ông ấy mà mình đang đàn. Còn theo cổ nhạc miền Nam, vì không có lối viết nhạc (écriture musicale) nên nhạc sĩ không thể có bản nhạc trước mắt, và vì quan niệm rằng một bản nhạc là một cái khung, một cái mẫu theo điệu nào đó để cho nhạc sĩ theo đó mà sáng tác, liền ngay tại chỗ trong lúc đàn một bản nhạc của mình để diễn tả tư tưởng và cảm giác hiện tại của mình. Cho nên có thể nói rằng một nhạc sĩ cổ nhạc miền Nam là một "Instant Composer" ngay lúc đàn, sáng tác một bản nhạc theo điệu nào đó, trong một cái khung hay theo một cái mẫu nào đó (thí dụ: Điệu Bắc, theo mẫu bản Lưu thủy hay bản Tây thi, hoặc Điệu Nam theo mẫu bản Nam xuân hay bản Nam ai, hoặc Điệu Oán theo mẫu bản Tứ đại hay bản Văn thiên Tường).
Kết quả: Theo nhạc Tây phương thì một bản nhạc của Mozart, của Beethoven, của Chopin hay của một nhạc sĩ trứ danh nào khác sáng tác, thì một nhạc sĩ ở thế kỷ 18, 19, 20, 21, 22, hay sau nữa, ở Pháp, ở Đức, ở Mỹ, ở Tàu hay ở Nhật, cũng đã, đang và sẽ, đánh ra bấy nhiêu nốt, ngừng lại bấy nhiêu lâu, không sai một ly, chỉ có khác nhau ở lối diễn tả hay "phiên dịch" (interpréter) cảm giác của tác giả.
Còn theo cổ nhạc miền Nam thì một bản Tứ đại, Nam xuân hay vọng cổ của ông Chín Kỳ đàn, nếu được "thu băng" rồi đem ra phân tách kỹ từng nốt đàn và từng lúc im, thì thấy nó sẽ khác với bản Tứ đại, Nam xuân hay vọng cổ của một nhạc sĩ khác đàn (cùng một thứ đàn). Và ngay cùng một người đàn, nếu thu băng rồi phân tích kỹ lại từng nốt đàn thì bản Tứ đại, Nam xuân hay vọng cổ của ông Chín Kỳ đàn ngày hôm nay, có khác với bản Tứ đại, Nam xuân hay vọng cổ mà cũng chính ông Chín Kỳ này đàn ngày hôm trước, hoặc tuần lễ trước, hay ngày hôm sau, hoặc tuần lễ sau, bởi vì theo quan niệm của cổ nhạc miền Nam thì người nhạc sĩ khi đàn là một "Instant Composer" sáng tác ngay tại chỗ một bản đàn theo điệu nào đó, trong khung hay theo mẫu nào đó, để diễn tả tâm hồn hiện tại của mình, tuỳ ý, tuỳ hứng, tuỳ lúc mà tư tưởng và cảm giác của mình thì thay đổi hằng ngày nên bản nhạc đánh ra nghe có khác, mặc dù chung chung biết nó theo điệu gì, mẫu nào. Có lẽ nhạc cổ điển Tàu cũng theo cùng một nguyên tắc cho nên mới có cái tích "Bá Nha, Tử Kỳ", người này đàn, người kia nghe được, thì "đọc trong ruột" của người ấy mà biết được đang nghĩ đến cái gì.
III. Khác biệt về các điệu đàn (mode)
Nhạc Tây phương có nhiều "Điệu" (mode) nhưng thông thường nhất là hai điệu Mode Majeur và Mode Mineur ; mỗi điệu có nhiều (12) gammes, mỗi gamme được quy định bằng những âm luật chặt chẽ, rõ ràng và khoa học ; cũng như việc chuyển từ điệu này sang điệu kia cũng được quy định bằng những âm luật chặt chẽ, rõ ràng, và khoa học mà không phải sửa đổi sự căng thẳng (tension) của dây đàn.
Còn cổ nhạc miền Nam thì có ba điệu, mỗi điệu có một tính chất riêng biệt và một số bài căn bản :
1. "Điệu Bắc" thì nghe vui tai, có vẻ liến xáo, đàn nhanh, nhịp lẹ, ngân ít.
2. "Điệu Nam" thì đàn thong thả hơn, ngân vừa, nhịp khi chặt khi thưa, và phải gây ra một cảm tưởng trầm ngâm, bình thản, nghiêm trang.
3. "Điệu oán" thì đàn thong thả hơn nữa, ngân nhiều, nhịp thưa, và phải gây ra một cảm tưởng buồn rầu, oán hận, thở than.
Thường thường khi chuyển từ "Điệu Bắc" qua "Điệu Nam" hay "Điệu Oán" thì nhạc sĩ phải vặn cái trục của cây đàn (kìm, cò hay sến) hoặc "nới con nhạn" của đàn tranh để sửa sự căng thẳng (tension) của dây đàn (cho tiếng "xuống" lối demi-ton).
Hồi xưa khi học đàn cổ nhạc miền Nam thì "Thầy đàn" thông thường bắt đầu dạy Sáu Bài Bắc là những bài: Bình bán, Phú lục, Tây thi, Cổ bản, Lưu thủy, Hành vân. Mục đích là để cho "quen ngón", đánh nốt nào bấm cho đúng chỗ, đàn mau, không ngân nhiều, nhịp cho đúng nhịp (còn có một số bài điệu Bắc nữa rất hay ,là những bài : Kim tiền, Khổng Minh tọa lầu, Xàng xê, Tây thi quảng...)
Học cho thật thuần Sáu Bài Bắc xong thì Thầy cho "qua Nam" hay là "qua Oán".
Nếu "qua Nam" thì học ba Bài Nam là những bài: Đảo ngũ cung, Nam Xuân và Nam Ai (thường đàn Nam Xuân rồi qua Nam Ai). (Hình như có bài Nam Bình nữa mà ít ai biết và ít nói đến).
Nếu "qua Oán" thì họa Ba Bài Oán là những bài: Tứ đại oán (khác với Tứ đại cảnh), Văn thiên tường, và Trường tương tư. Còn có một bài Oán cổ điển rất hay nữa là bài "Bình sa lạc nhạn" (nghe tiếng đàn, con chim nhạn đang bay phải rớt té xuống bãi cát). Vọng cổ được sắp theo điệu oán Oán, nhưng không được kể như "classique". Học đàn cổ nhạc vì không có lối viết nhạc, nên phải nhớ bằng tai nghe (lúc ấy lại chưa có máy thu băng) thuộc lòng, mà thầy dạy không có phương pháp lại mỗi lúc đánh cùng một bản nhạc thì có hơi khác nhau (vì lý do nói ở đoạn trên) nên phải nhiều cố gắng công phu lắm. Tôi còn nhớ lúc nhỏ hay chế giễu việc học đàn bằng câu hát : "Liêu Tồn Liêu Xáng U, cú trên đầu ba bữa còn u" (vì ở Việt Nam trẻ con học cái gì cũng bị đòn).
IV. Khác biệt về lối kiến trúc các cơ cấu (structure) của bản nhạc
Cũng như một bản nhạc Tây phương, một bản cổ nhạc miền Nam cũng được chia ra làm nhiều đoạn hay nhiều lớp (Tứ đại có lớp Xự, và lớp Xang) mỗi lớp có một số câu, mỗi câu có một số nhịp (mesure).
Và từ đây là bắt đầu có một sự khác biệt căn bản giữa hai âm nhạc:
Trong một bản nhạc Tây phương mỗi nhịp (mesure) được chia ra làm nhiều "Thì" (temps) như 2/4, 4/4 hay C, hoặc 3/8, 6/8, 9/8... để rồi tuỳ theo cái "thì" đó mà mỗi nhịp bắt buộc phải có và chỉ có bao nhiêu nốt loại nào (tròn, trắng, đen, một nóc, hai nóc...) cùng với bao nhiêu ngừng im (pause, silence).
Còn trong cổ nhạc miền Nam thì có nhịp (mesure) chớ không có "thì" (temps), cho nên nhạc sĩ đã là "Instant Composer" thì tuỳ ý, tuỳ hứng, tùy "yên sĩ phi lý thuần" (inspiration) mà đánh bao nhiêu nốt trong một nhịp, nghỉ bao nhiêu lần bao nhiêu lâu cũng được, miễn là, "canh nhịp" cho đúng, để mà ở những chỗ có nhịp chính của bản đàn thì đánh cho đúng cái nốt bắt buộc ở đó (gọi là "xuống nhịp" cho đúng); bởi lẽ mỗi bản nhạc là một cái khung cái mẫu theo một số điệu nào đó thì luôn luôn có một số nhịp chính, ở đó bắt buộc phải đánh nốt nào đó. Thí dụ trong bản nhạc vọng cổ, ở câu 1, thì nhịp đầu là "Hò", nhịp thứ tư là "Hò", nhịp thứ 8 là "Xang", nhịp thứ 12 là "Cống", thì nhạc sĩ chỉ cần canh nhịp cho đúng để đến nhịp 1 thì đánh Hò, gọi là "xuống Hò", nhịp 4 thì "xuống Hò", nhịp 8 thì "xuống Xang", và nhịp 12 thì "xuống Cống", còn ở những chỗ khác thì tha hồ, tuỳ ý, tuỳ hứng miễn là canh nhịp sao cho đúng để "xuống nhịp" cho đúng.
V. Khác biệt trong lối "hành sử" (exécuter) bản nhạc
Một nhạc sĩ trình diễn nhạc Tây phương thì bắt đầu là vào ngay bản nhạc (có trước mắt hay thuộc lòng) mà mình phải chơi.
Còn một nhạc sĩ trình diễn cổ nhạc miền Nam thì bắt đầu bằng một hồi "Rao". Rao nghĩa là đàn theo một điệu nào đó (điệu Bắc, điệu Nam, hay điệu Oán) mà không phải theo khung mẫu của bản nào hết, nên hoàn toàn tuỳ ý, tuỳ hứng. Tức nhiên là lối "Rao Bắc" (đàn nhanh, vui nhộn, liến xắc) có lối "Rao Nam" (đàn ung dung, trầm ngâm, bình thản) và lối "Rao Oán" (đàn chậm, ngân nhiều, cho ra những tiếng buồn rầu, oán hận). "Rao lên" thì người nghe nhạc biết rằng nhạc sĩ sẽ đàn điệu gì (Bắc, Nam hay Oán).
Một tác dụng khác của "Rao", khi có nhiều người đàn là để "so dây". Đàn tây phương lấy nốt La (A) làm căn bản, có định nghĩa khoa học rõ ràng là tiếng phát ra của một sợi dây căng thẳng được rung với một tần số (fréquence) 438 rung động trong một giây đồng hồ (438 vibrations par seconde), (hồi trước là 435) ; có dụng cụ (diapason) để so dây và lên giây các thứ đàn cho đúng.
Còn đàn cổ nhạc miền Nam thì lấy nốt Hò làm căn bản, nhưng không có định nghĩa khoa học rõ rệt nốt Hò là gì, có bao nhiêu rung động trong một giây đồng hồ, và không có dụng cụ để đo, và so dây các thứ đàn, mà chỉ lấy tai nghe. Mà tai người này với người kia khác nhau nên lúc rao là thời gian để các nhạc sĩ sửa dây đàn của mình cho "ăn" với nhau, hoặc "ăn" với giọng của ca sĩ, nếu có ca.
Tác dụng thứ ba của Rao là để biểu diễn. Vì đàn một điệu mà không bị ràng buộc bởi cái khung mẫu của bản nào hết, thì nhạc sĩ có thể tha hồ cho "ra những ngón đàn" đặc biệt của mình để tỏ ra là mình có khả năng đàn mau ("sầm sập như trời đổ mưa"), ("đàn khoan thai như gió thoảng ngoài"), đàn riếu ron ("như tiếng hạc bay qua") hoặc đàn lâm ly ("như nước suối mới sa nửa vời"). Người sành nhạc, chỉ nghe rao thôi, cũng có thể đánh giá và sắp hạng nhạc sĩ (ưu hay bình, thứ) được. Cho nên nhạc sĩ lúc rao thích "trổ tài" và "biểu diễn".
Rao xong thì vào bài, tức là bắt đầu bản nhạc. Thường thường để đánh dấu bắt đầu vào bản nhạc, nhất là khi có nhiều người cùng hoà tấu, thì người nhạc sĩ "cầm canh" hay là "giữ nhịp", gõ vào nhịp cụ nghe một tiếng "cóc", tức là bắt đầu, thì mọi người đàn. Trong suốt thời gian đàn, thỉnh thoảng nghe nhịp "cóc", "cóc", "cóc", mau hay khoan tuỳ theo điệu (điệu Bắc thì mau, điệu Nam thì khoan thai hơn, điệu Oán thì chậm hơn nữa). Không phải nhịp nào cũng gõ, mà thường thường là nhịp để chấm câu (như nhịp thứ 16 là để chấm câu trong bản vọng cổ) hoặc để đánh dấu một vài nhịp chính trong câu (như nhịp thứ 12 trong câu vọng cổ). Có khi, nhất là trong các bản đàn điệu Nam hay điệu Oán xưa ; thì có lối "nhịp song loan" như để xuống dòng trong một bản văn viết; thì người ta nghe như sau: tiếng đang đàn, nghe nhịp một cái "cóc" thì im, đếm thầm một, hai, ba, nghe nhịp một cái "cóc" nữa, thì đàn lại, hoặc như sau: tiếng đang đàn, thì im và nghe gõ nhịp "cóc" - "cóc", "cóc" - "cóc" thì đàn lại.
IV. Vọng cổ
Đàn và ca vọng cổ là điệu phổ thông nhất và được thưởng thức nhất ở miền Nam sau này cho đến nổi mà đối với một số người Bắc mới vào Nam và có một số người Nam trong thế hệ trẻ, cổ nhạc miền Nam là vọng cổ và chỉ có vọng cổ. Kỳ thực thì cổ nhạc miền Nam có nhiều bài cùng điệu vọng cổ (điệu oán) mà hay hơn vọng cổ rất nhiều như các bài Tứ đại, Văn thiên Tường, hay là Trường tương tư, nhưng các bài ấy vì khó đàn khó ca nên sau này bị lãng quên mà chỉ còn có vọng cổ được tồn tại phổ thông vì dễ đàn và dễ ca.
1. Lịch sử:
Một số người Nam cho rằng vọng cổ phát xuất từ người Chàm ở miền Nam Trung phần (nhớ tiếc thuở xa xưa). Nhưng thuyết ấy không có chứng minh. Dù sao, đến cuối thập niên 1920, hồi thời "máy hát quay tay hiệu con chó có cái loa" (La voix de son maitre), thời dĩa hát hiệu "con gà" của hãng "Pathé", hồi đời "Thầy Năm Tú ở tại Mỹ Tho", đời mà khi diễn xong một tuồng hát, thì toàn ban ra trước sân khấu hát bài "Ma-Đờ-Long" (Madelon) để từ giã, thì trong Nam đã có bản nhạc "vọng cổ hoài lang", 20 câu, mỗi câu có 4 nhịp; đến đầu thập niên 30, lối năm 1935, 36, thì có nhóm nhạc sĩ ở Bạc Liêu đàn bản vọng cổ này mà kéo dài ra mỗi câu có lẽ 16 nhịp, nên lúc ấy trong Nam gọi là "vọng cổ Bạc Liêu" (hay là vọng cổ nhịp 16). Kể từ đó và suốt hết thập niên 40 là "thời kỳ vàng son" của vọng cổ với trọn 20 câu, mỗi câu có 16 nhịp, với các nghệ sĩ lừng danh trong cả Nam kỳ như các nhạc sĩ Sáu Tửng (đàn kìm), Chín Kỳ (đàn tranh), Hai Phát (đàn cò), các nam ca sĩ Năm Châu và Bảy Nhiêu, các nữ ca sĩ Cô Hai Đá, cô Ba Bến Tre, cô Tư Sạng, và nhất là cô Năm Phỉ (trong tuồng cải lương "Xử Án Bàng Quý Phi"). Các nhạc sĩ và ca sĩ trên còn đàn và ca được những bài Oán khác như Tứ Đại, Văn Thiên Tường, và trường Tương Tư).
Đến những thập niên 1950, 1960, tân nhạc Việt Nam theo lối nhạc Tây phương tràn ngập vào miền Nam và cổ nhạc miền Nam, nhất là những bản nhạc khó đàn và khó ca, bị lu mờ dần rồi bị lãng quên hẳn, chỉ còn có vọng cổ, rút ngắn lại còn có sáu câu đầu, với nam ca sĩ "ăn khách" nhất là ông Út Trà Ôn, và nữ ca sĩ "ăn khách" nhất là cô Thanh Nga.
2. Nghe đàn và ca sáu câu vọng cổ.
Khởi đầu cuộc trình diễn thì các nhạc sĩ "Rao" (rao điệu Oán: xem ở đoạn trước). Rao một lúc thì ca sĩ bắt đầu "nói lối" trong lúc nhạc sĩ vẫn rao; khi nói lối gần xong thì nhạc sĩ ngừng rao, chờ cho ca sĩ xuống giọng để vô nhịp Hò đầu (của câu 1) thì nhạc sĩ "bắt" nốt Hò đó để vào bản nhạc và tiếp tục đàn luôn. (Thường thường nếu ca sĩ xuống giọng để "vào nhịp Hò" ấy mà nghe êm tai, mùi mẫn lại ăn khớp với tiếng đàn "bắt" nốt Hò đó thì khán giả vỗ tay rầm rầm).
Ca đến hết câu 1 thì "xuống nhịp Cống", cho nên bài ca vọng cổ nào chữ cuối cùng của câu 1 cũng là một chữ có dấu sắc, hoặc có khi dấu hỏi hay dấu ngã, mới "ăn" với nốt "Côôống")
Cuối câu 2 thì "xuống nhịp Xang", cho nên bài ca vọng cổ nào chữ cuối cùng của câu 2 cũng là một chữ không dấu mới "ăn" với nốt Xàãang. (miễn cưỡng lắm mới dùng chữ có dấu huyền thì phải đọc lờ đờ như là không dấu).
Cuối câu 3 và cuối câu 4 đều "xuống nhịp Hò" thì bài ca thường thường cuối câu 3 và cuối câu 4 là một chữ có dấu huyền mới "ăn" với nốt Hò (miễn cưỡng lắm mới dùng một chữ không dấu).
Cuối câu 5 thì "xuống nhịp Xề" nên trong bài ca chữ cuối của câu 5 nhất định phải là một chữ có dấu huyền, mà đọc phải gằng giọng và kéo dài để cho "ăn" với nốt "Xềêê".
Cuối câu 6 thì xuống nhịp Hò (như 3 và 4) mà phải đọc nhẹ để chấm dứt bài ca cho êm tai.
Hồi xưa nếu còn tiếp tục ca nữa thì đặc biệt đến câu 9, xuống nhịp "Xự", thì trong bài ca chữ cuối cùng của câu 9 phải là một chữ có dấu nặng mới "ăn" với nốt "Xưựư".
Trong suốt thời gian đàn và ca thì có một nhạc sĩ vừa đàn vừa "cầm canh" nghĩa là giữ nhịp cụ để "chấm nhịp" thì phải gõ nhịp nghe một tiếng "cóc" ở nhịp thứ 12 và nhịp thứ 16 của mỗi câu (trừ câu 1 thường thường chỉ có 12 nhịp, vì cho rằng "Rao" đã mất hết 4 nhịp, nên phải gõ nhịp ở nhịp 8 và 12.
Đến câu 6, ở nhịp thứ 12 thì phải gõ vào nhịp cụ hai lần (nghe cóc cóc) để báo hiệu rằng còn 4 nhịp nữa hết câu thì sẽ stop, ngưng đàn và ca. Thì nhạc sĩ bắt đầu đàn lơi lơi và chậm lại dần (theo nhạc Tây phương là Rall hay Rallentando) và ca cũng hơi chậm chậm lại cho đến cuối câu nghe nhịp một cái "cóc" nữa là ngưng đàn và ca. Hồi xưa khi còn đàn và ca vọng cổ đủ cả 20 câu, thì đến đây không nghe nhịp hai cái cóc cóc thì nhạc sĩ và ca sĩ không đàn và ca chậm lại và hết câu 6 thì đi luôn qua câu 7.
Sau này còn có cái lối không đàn và ca luôn hết sáu câu, mà đến hết câu 3 thì :
- Hoặc ngừng rồi rao, nói lối, rồi xuống giọng để trở vô nhịp Hò đầu của câu 4, rồi đàn và ca luôn đến hết câu 6 ;
- Hoặc ngừng rồi rao, ca đệm vài câu của bản "Xuân Tình" hay bản "Chuồn Chuồn" rồi nói lối và xuống giọng để vô nhịp Hò đầu của câu 4 rồi đàn và ca luôn đến hết câu 6.
Trên đây tôi đã cố gắng trình bày vài nguyên tắc căn bản của cổ nhạc miền Nam, khác biệt với nhạc Tây phương để hiểu thêm phần nào và thưởng thức hơn nhạc cổ điển của chúng ta. Và tôi nghĩ rằng thế hệ già này của Việt kiều di cư, tuy không còn được thưởng thức tiếng đàn và lời ca của những bài cổ nhạc miền Nam độc đáo nữa như các bản Tây thi, Xàng xê, Nam xuân, Nam ai, hoặc Tứ đại, Văn thiên Tường, hay Trường Tương Tư, nhưng vẫn còn thấy xúc động khi được nghe đàn và ca sáu câu vọng cổ ; chứ đến thế hệ tương lai sau này của Việt kiều di cư, thì chắc chắn không biết tới tên của những bản cổ nhạc ấy nữa, và không biết sẽ còn xúc động khi nghe đàn và ca sáu câu vọng cổ hay không, hay là sẽ dửng dừng dưng như nghe nhạc A-rab hay nhạc Ấn độ, một sự dửng dừng dưng tò mò của người ngoại quốc?
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền...!!!
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0111
THƠ NGUYỄN PHÚC SÔNG HƯƠNG
LÂU LÂU HÁT LẠI BÀI CA CŨ
Lâu lâu nhớ, hát bài ca cũ,
Nhìn thấy núi sông chợt khóc cười,
Cứ tưởng cờ bay nơi giới tuyến,
Chân còn quý xuống quê hương ơi.
Lời ca bão nổi oai hùng lắm
Rực lửa đun giòng máu sục sôi,
Từng lớp dưới cờ xanh áo trận,
Máu thay mực viết sử còn tươi.
Đã quen giấc ngủ bên sông lạch,
Bao lần cạn nước liếm mồ hôi,
Cũng bởi lời ca như kiếm bén
Đâm vào xương thịt tuổi đôi mươi!
Thuở xưa đá mềm vì chân cứng,
Đạp bằng, dù máu đổ xương phơi,
Giết kẻ bạo tàn trên ngựa chiến
Cho đường sông núi đẹp trăng soi.
Ai biết giờ đây rưng nước mắt
Nhìn quanh sông núi đã xa rồi.
Mượn tách trà tìm về cố quận
Đọc thơ Nguyễn Trãi để mà vui (*)
Ô hay chỉ có người tù cũ
Thường hát Quốc ca, với ngậm ngùi!
Nào đâu sông núi, ơi sông núi
Trọn cả đời ta muốn đáp lời.
NGUYỄN PHÚC SÔNG HƯƠNG
(*) Đọc Bình Ngô Đại Cáo
SINGING THE OLD SONG
I still miss and sing the old song time and again;
Seeing my country like this I suddenly laugh and cry in pain.
I think of the national flag in the front line to stand
When I still kneeled setting hopes on, oh homeland!
That song sounded like rising storms with its beat
So sublime and flaming my fervor to heat.
Waves in green fatigues under the flag spirit-in-flesh
Used their blood to write history which is yet fresh.
Accustomed to sleeps alongside brooks as a bet
Many a time they ran dry, we had to lick our sweat.
Just for that because the lyrics like a sharp sword
Penetrated our heart, touching the right chord.
In those days, stones soft, feet firm, as of renown,
Despite casualties all obstacles we trampled down;
Riding the chargers we were to fight the malign swine
For our country to bathe in the moonlight so fine.
Who could guess I would bitterly cry this day
Looking around for my fatherland already far away.
Thru the tea flavor I reminisce about my native place,
Reading the Declaration of Independence: such grace!
Alas! Only the former political prisoners as I
Often sing the old song to swallow sorrow and sigh.
Where are rivers and mountains, my dearest of all?
All my life I am ready to respond to your sacred call!
Translation by THANH-THANH
www.Thanh-Thanh.com
THƠ NGHIÊU MINH
To:
Minhnghieu@aol.com
Bắt Cò Đổi Rượu
Chèo xuồng đi bắt cò đêm
Đem về nấu cháo ăn hiền thịt da
Ngồi chờ canh một, canh ba
Cò đâu không thấy, người xa mịt mù
Tinh sương người hiện lù lù
Tay cầm chai rượu khật khù qua mương
Nhè nhè người nói lươn ươn
Đổi cò lấy rượu uống (để)... thương em nhiều!?
Ngồi buồn ăn cháo muối tiêu
Nghe ai đờn địch thấy xiêu cõi lòng
Thôi thì bến đục bến trong
Ván đóng thuyền, cũng chẳng mong ...rời thuyền!
Nghiêu Minh
Wednesday, June 17, 2009
TRUYỆN NGẮN XÃ HỘI
Chị Cả Bống
"…Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá… biết đâu đến một lúc nào đó những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình"
LTS: Truyện ngắn Chị 'Cả Bống' xuất hiện đầu tiên trên báo Người Hà Nội, số ra ngày 8/6/05. Lập tức toàn bộ số báo bị tịch thu. Ông phó tổng biên tập cho in bài 'nổi loạn' này bị mất chức. Tác giả bị công an hạch sách. Giá chợ đen của số báo đăng truyện này lên gấp chục lần giá thường. Chuyện gì thế?
Đấy là một họat cảnh xã hội chúng ta hiện nay được tác giả khắc họa bằng những hình tượng khá 'điển hình' trong hiện thực xã hội ngày hôm nay. Điểm lõi của hiện thực xã hội đó là nạn tham nhũng. Tham nhũng mọc rễ chằng chịt, đan xen nhau, móc ngoặc nhau thành một vòng vây kín những con người bình thường, hiền lành và lương thiện. Nhân dân ta có cần phải chịu đự ng số phận như thế?
__
Chiều tà, một người đàn ông phóng như ngựa phi nước đại về phía tây thành phố, nơi ấy có nhà tù với cái tên rất đẹp là 'Hoà khí'. Tới cổng gác, ông ta trình thẻ căn cước cho lính canh. Sau khi xem chứng minh thư, lính canh dẫn ông vào văn phòng nộp hồ sơ. Một người đứng tuổi đeo kính trắng nhận hồ sơ rồi bảo:
- Dẫn tới khu nhà chờ, đợi thẩm tra hồ sơ, ba tuần sau có kết quả.
Lính canh lại dẫn ông ta đi, khu nhà chờ gồm vài dãy nhà cấp 4 sập xệ và rêu mốc, rất đông người ở kín các gian phòng, đàn ông, đàn bà, lớn bé, già trẻ, đủ cả… Điều kiện sinh hoạt rất tồi tệ song không ai ta thán, đơn giản họ chỉ ở lại đây có vài tuần. Từ khi lập ra khu nhà chờ này không lúc nào vơi người. Ngày nào cũng có người đi lại, ngày nào cũng có người đến. Giống như người đàn ông kia, mọi người chờ thẩm tra hồ sơ, nếu đủ tiêu chuẩn sẽ được vào tù. Tiêu chuẩn đơn giản nhưng không phải không kỹ càng, chỉ những người lương thiện không dính tý lưu manh nào mới được vào tù. Tất nhiên lũ bất lương đừng hòng bén mảng tới.
Chẳng ai lấy làm ngạc nhiên, ở xứ xở này, không có chuyện gì là không xảy ra kể cả những chuyện ngược đời, đơn giản mọi người không những thích đùa mà còn đùa rất dai.
5 giờ rưỡi sáng, kỹ sư Hoàng thức dậy, vợ và đứa con trai mười tuổi của anh đang ngủ say. Đứa con gái 17 tuổi của anh đêm qua không về, chị giúp việc cũng đã dậy từ lúc nào, đèn dưới bếp hắt lên mấy vệt sáng le lói qua khe cửa. Mười phút cho việc vệ sinh cá nhân, 25 phút cho việc mở các loại cửa. Như mọi nhà trong thành phố, từ lâu anh đã biến căn hộ của mình thành một pháo đài. Các cửa sổ ngoài việc lắp chấn song bằng thép dày, còn được giằng ngang ba ống thép to bằng cổ tay, chia đều từ trên xuống dưới. Cửa đi cũng bằng thép đúc, bên ngoài dán một lớp gỗ mỏng. Tính từ trong ra đến cửa, còn năm lớp cửa như thế, tất cả đều có khoá đặc biệt, mỗi cửa gồm ba chiếc khác loại nhau. Mở đến lần cửa cuối cùng thì vợ con anh cũng vừa trở dậy. Những việc chuẩn bị cho một ngày mới diễn ra đã thành nếp. Sau khi dặn dò kỹ lưỡng chị giúp việc hai vợ chồng dắt xe đi làm. Chị kiêm thêm nhiệm vụ đưa con tới trường, chiều về ghé qua chợ mua thức ăn cho ngày hôm sau. Trước khi ra cổng, anh một lần nữa kiểm tra trên người vợ con xem có đeo bất cứ loại trang sức nào không, nhắc vợ cẩn thận kẻo bị cướp… Anh lại lần lượt khoá tất cả các cửa từ trong ra ngoài, trong lúc vợ đứng giữ xe. Đứng bên ngoài thò tay qua các lỗ cửa thực hiện những thao tác của người mù, mười phút nữa cho công việc ấy, xong xuôi vợ chồng con cái chia thành hai ngả phóng xe đi.
Kỹ sư Hoàng làm việc tại một cơ quan thiết kế gần trung tâm thành phố. Mới ngoài 40 mà tóc anh đã gần như bạc trắng, thằng con trai lớn 19 tuổi đang ở trung tâm cai nghiện, đứa con gái thứ hai 17 tuổi đua đòi chúng bạn bỏ cả học đi vũ trường thâu đêm, suốt sáng. Không phải vợ chồng anh không biết dạy con mà là bất lực. Con đường đời biết bao nhiêu cạm bẫy, nó gài khắp mọi nơi, mọi chốn, gài trên mỗi bước chân. Già đời chững chạc như vợ chồng anh, ngày nào cũng phải nhắc nhau từng tí một mà vẫn ngay ngáy lo rằng không biết lúc nào, cái bẫy nào sẽ ụp xuống mình đây?
Kỹ sư Hoàng chợt lạnh người. Có tiếng còi nghe rợn tai, một cảnh sát giao thông bước quả quyết từ trên vỉa hè xuống đường vừa tuýt còi, vừa chỉ thẳng cái dùi cui vằn vện vào mặt anh, một cảnh sát khác ngồi vắt vẻo trên yên xe máy phân khối lớn sơn màu trắng. Chưa kịp hiểu mình có sai luật hay không anh vội đạp phanh, chiếc xe dừng lại.
- Kiểm tra giấy tờ! Người cảnh sát vừa rút chiếc còi ra khỏi miệng vừa giơ tay lên mũ chào như một cái máy, vừa ra lệnh cho anh. Cầm giấy tờ của anh đưa cho anh cảnh sát ngồi trên chiếc xe phân khối lớn, anh cảnh sát ấy lại tiếp tục đút còi vào miệng cầm gậy trỏ xuống đường chọn bắt xe khác. Anh cảnh sát ngồi trên chiếc xe phân khối lớn, lướt qua đống giấy tờ của một anh khác. Không nói năng anh ta đưa mắt ngó lơ đi chỗ khác như thể chờ ai đến đọc giùm. Cũng như một cái máy, kỹ sư Hoàng dựng xe, móc bóp, rút ra một tờ đẹp đẽ vuông vắn có in hình lãnh tụ, bước tới chỗ anh ta.
Đến cơ quan, vừa kịp giờ làm việc, chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia là một thẩm phán toà án, người đang xử lý vụ kiện đòi nợ của cơ quan anh. Bằng một giọng rất lễ phép anh thẩm phán nhắc khéo anh rằng vụ kiện của cơ quan anh sẽ có thể bị đình chỉ vì phía anh chưa nộp chi phí cho việc thẩm tra. Nhân tiện anh ta nhắn rằng bữa nhậu chiều qua vì điện thoại cho anh không được mà anh ta và đám chiến hữu bên viện kiểm soát phải ký nợ nhà hàng một khoản kha khá, lúc nào anh ghé qua thanh toán giùm…
Chiều hôm đó về nhà, kỹ sư Hoàng chưa kịp mừng vì tin cô con gái đã trở về đang nằm bẹp trên gác thì đã nghe vợ mếu máo báo tin chiếc xe máy của chị bị cướp, mẹ con phải đi bộ về. Thực ra chị đã dối anh, chiếc xe máy đó chị đã buộc phải thế chấp để chuộc cô con gái từ cái động của một mụ tú bà, vì cô còn nợ mụ một khoản tiền vay mua son phấn với mức lãi 40 % một ngày. Thế coi như của đi thay người. Kỹ sư Hoàng chưa kịp phát điên lên vì giận dữ thì may quá nhà có khách. Ông trưởng khu phố và mấy cán bộ của Uỷ ban lừng lững bước vào:
- Chúng tôi đến nhắc anh về khoản đóng góp xây nhà tù – Ông trưởng khu vào đề ngay, nhân tiện báo để anh biết tháng trước có xe chở vật liệu đến đây, anh đã thuê thợ sửa nhà mà không xin phép. Uỷ ban đã nắm được việc này, nếu anh không thu xếp ngay thì sẽ bị lập biên bản thu giữ giấy tờ nhà, giấy tờ đất.
Kỹ sư Hoàng ngớ ra, quả thật tháng trước anh có thuê thợ lắp thêm một lần cổng nữa, phải xây mấy mét vuông tường, tưởng việc nhỏ, không phải xin phép, ai ngờ… Thôi đành 'thu xếp' cho mấy vị trong Uỷ ban, nhưng còn khoản đóng góp xây nhà tù?
- Can phạm bây giờ nhiều quá ông trưởng khu phố giải thích. Đấy anh xem, trong nhà gặp lưu manh, ra đường đụng kẻ cướp, đủ các kiểu ăn cướp; rồi còn lũ ăn trộm, lừa đảo cho vay nặng lãi, nhà tù nào cũng chật ních, phải xây thêm. Ngân sách không kham nổi phải áp dụng phương pháp 'Nhà nước và nhân dân cùng làm'. Phố ta được giao chỉ tiêu góp vốn xây 500 mét vuông nhà tù, thế mà ngẫm lại vẫn chưa đủ cho số tội phạm của chính phố ta đang nằm trong đó, chưa kể số sắp phải vào tù nay mai…
Đoàn cán bộ khu phố về được một lúc thì lão Tiến cụt giò đến, đó là một lão già vô tích sự nhà kế bên. Lão bị cụt một bên giò từ hồi chiến tranh, giờ sống bằng số tiền thương tật, thỉnh thoảng con cháu dấm dúi gặp chăng hay chớ cho thêm. Suốt ngày chẳng làm trò gì, chỉ hay la cà hết nhà này đến nhà khác kiếm câu chuyện làm quà. Nhà kỹ sư Hoàng là một trong những nơi lão hay mò đến. Lão dở hơi ấy liến thoắng như thể đã tỏ tường mọi chuyện:
- Họ đến đòi tiền đóng góp xây nhà tù phải không? Anh kỹ sư này tôi nói anh xem có đúng không nhé: – Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá, phải góp tiền xây nhà tù cho bọn bất lương ở, lại còn phải nai lưng nuôi chúng nữa, trong khi bọn lưu manh ngày càng chiếm đa số, người lương thiện ngày càng giảm đi. Biết đâu đến một lúc nào đó, những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình. Khi ấy tất nhiên bọn lưu manh tha hồ ở ngoài, vì lương thiện bây giờ đâu có nhiều nhặn gì, vừa bắt chính bọn chúng phải nai lưng ra làm đề nuôi người lương thiện, như thế có phải là công bằng không ?
Kỹ sư Hoàng phì cười vì cái lý sự ấy của lão Tiến cụt, vừa lúc ấy, chuông điện thoại trong nhà đổ dồn, vợ anh nghe xong, mặt tái mét ra báo tin dữ:
- Anh tới ngay bệnh viện Chúng Sinh. Thằng Phúc con chị cả bị cướp giật té xe, chấn thương sọ não đang nằm cấp cứu trong ấy.
Chị Cả Bống là chị gái kỹ sư Hoàng ở dưới quê, anh chị có ba thằng con trai thì hai thằng lớn theo bố làm nghề xin đểu kiêm trấn lột ở bến đò Đuôi Cáo bị đâm lòi ruột, chết cả ba bố con từ năm kia. Cũng là cái số thôi . Làng khối người làm nghề ấy hoặc hao hao nghề ấy mà có sao đâu, chỉ thỉnh thoảng lại thấy đi ở tù, vài năm về còn lưu manh hơn trước. May còn lại một mình thằng út tên Phúc ngoan, hiền, học giỏi. Năm ngoái đỗ đại học lên ở ký túc xá. Nó thương cậu mợ Hoàng nghèo nên không muốn nhờ vả. Chị Cả bán hết mảnh vườn còn lại sắm cho nó cái xe máy cũ làm phương tiện đi lại. Hôm ấy đang làm cỏ ngoài đồng có người gọi về cái trạm điện thoại công cộng ở đầu làng báo tin nó bị nạn. Chị nghe nhắn lại mà muốn quỵ luôn xuống ruộng. Vội vã chạy về nhà, chị vét vội mấy bơ lạc, bơ gạo nếp cho vào mấy cái bao ruột tượng tất tả chạy ra bến đò Đuôi Cáo. Vừa mới mon men gạ bán ở các hàng quán quanh đó, bất ngờ gặp mấy anh quản lý thị trường, chị bị bắt vào trụ sở. Lạy van thế nào họ cũng không nghe, còn dẫn hết 'nghị định 01' đến 'thông tư 04' gì đó ra đọc sang sảng vào hai cái tai đã chỉ còn nghe thấy tiếng lùng bùng của chị. Kết quả mấy bơ lạc ấy bị tịch thu vì lý do bao bì không có nhãn hiệu hàng hoá!
Thật khốn khổ cho chị, chỉ do cuống lên vì đứa con cuối cùng còn sót lại đang gặp nạn, muốn bán tống bán tháo mấy món tài sản ít ỏi ấy cho thật nhanh để lấy tiền đi xe lên thành phố. Chứ có phải chị buôn gian bán lận gì đâu? Còn tiền thuốc thang, nói dại, nếu nó bị nặng chị chưa biết sẽ trông vào đâu, một viên thuốc cảm bằng cái cúc áo bây giờ giá bằng ba bốn cân thóc. Giờ thì ngay đến việc lên nhìn mặt con cũng bị chặn đứng lại rồi. Không có tiền ai người ta cho chị đi xe hàng trăm cây số? Càng nghĩ chị càng quýnh quáng chân tay, cuống cuồng, đứng chôn chân một chỗ, đầu óc mụ đi, mắt ráo hoảnh, vô hồn nhìn phía trước như một bức màn sương… bỗng từ trong cái màn đục lờ ấy, một bóng trắng hiện ra quằn quại, máu bê bết hiện ra chập chờn lúc xa xa, lúc ập ngay trước mặt, gió lạnh quất gai người. Phảng phất màu tanh của máu tươi. Tai chị nghe rõ ràng tiếng kêu cứu của đứa con trai. Chị bàng hoàng nhận ra đó là tiếng rên từ địa ngục, tiếng của một âm hồn không còn ở cõi nhân gian này nữa:
- Mẹ ơi, con chết rồi. Họ đang mổ bụng con. Mẹ ơi…
Chị cả Bống hốt hoảng lao tới, giơ hai tay túm lấy bóng con, chợt cái bóng như có người giằng lấy, chập chờn quăng qua quăng lại trước mặt chị rồi mờ dần mờ dần, vẫn còn ri rỉ tiếng kêu cứu của oan hồn, rồi tất cả lịm đi. Cả tiếng kêu cứu lẫn cái bóng máu me chợt tắt ngấm bởi một tràng cười ré lên sằng sặc như của lũ ma quỷ nhưng không phải vọng lên từ địa ngục, tiếng cười ấy rõ ràng đang ở cõi nhân gian hiện hữu này…
Chị cả Bống sau này phát điên không về làng nữa, cứ lê la liếm láp ở quanh cái bến đò có cái tên rất ấn tượng là bến đò Đuôi Cáo ấy. Nhưng chị không điên ngay lúc đó, có người chứng minh là sau khi ra khỏi trụ sở ban quản lý thị trường chị vẫn còn tỉnh táo nhớ ra trong người còn sót mấy đồng tiền lẻ. Chị lần vào trạm điện thoại công cộng gọi điện báo cho cậu em trai. Đó là tất cả những gì chị làm được cho đứa con. Sau đó chị mới phát điên.
Kỹ sư Hoàng đến bệnh viện Chúng Sinh thì trời đã tối. Tìm tới phòng cấp cứu, anh hỏi thăm nạn nhân tên Phúc, cô hộ lý mặc blu trắng bảo:
- Biết ai là phúc với hoạ gì ở đây. Đi mà hỏi trực ban.
Phòng cấp cứu rộng mênh mông, đầy những giường là giường, giường nào cũng ít nhất hai người nằm trở đầu đuôi. Đủ các kiểu tai nạn, vỡ đầu, gãy chân, lòi ruột, lòi xương. Ánh đèn nê ông trắng bệch soi loang lổ những máu me bông gạc. Nồng nặc một thứ mùi vừa tanh tanh máu, vừa ngầy ngậy thuốc tây. Bóng những blu trắng đi qua lại giữa các giường như ma trơi. Làm sao nhận ra đứa cháu bây giờ?
Kỹ sư Hoàng vội vã đến phòng trực ban. Phòng trực ban cấp cứu nằm cuối dãy hành lang đầy những kẻ nằm người ngồi vạ vật rất chi là bệ rạc. Trong phòng có mấy người cũng mặc blu trắng đang chụm đầu bàn bạc nhỏ to:
- Cái mật hôm trước bán vội quá. Ngay hôm sau có người tới trả cao hơn cả chục triệu, tiếc đứt ruột – một người nói
- Cái này đếch bán nữa, đem ngâm rượu. Hũ rượu trước hết con mẹ nó rồi. Mấy lão hen suyễn kinh niên uống vào là khỏi, để giành bán cho các lão ấy. Gớm họ vừa chi tiền vừa cám ơn rối rít ấy chứ – một người khác nói
- Thôi được rồi! Người thứ ba nói – các ông xuống làm ngay đi, thằng này căn cước ghi rõ ràng: – 19 tuổi. ĐA 3 kiểm tra, đảm bảo còn nguyên dương (đàn ông chưa xuất tinh lần nào) chết do chấn thương sọ não vừa được mấy phút. Cái mật này mới tuyệt hảo, để quá hai tiếng có mà hỏng mẹ nó cả chì lẫn chài. Đã điện thoại cho bên công an rồi, họ bảo cứ mổ đi, có gì đừng 'quên' họ là được.
Hai người kia vội vã đứng dậy lao nhanh ra khỏi phòng, vừa lúc ấy kỹ sư Hoàng bước vào:
- Bác sĩ làm ơn cho hỏi thăm nạn nhân tên Phúc, 19 tuổi, sinh viên năm thứ hai, nghe nói bị chấn thương sọ não có cấp cứu ở đây không, nằm giường số mấy? Tôi là cậu ruột cháu – kỹ sư Hoàng vừa hỏi vừa tự giới thiệu
Anh bác sĩ còn lại trong phòng thoáng một chút giật mình. Anh ta làm như nghĩ ngợi điều gì rồi ngập ngừng:
- Tên Phúc, sinh viên, 19 tuổi.. A… anh… à bác ngồi chờ cháu một lát.
Linh cảm thấy có gì nghiêm trọng xảy đến với đứa cháu, lại cứ tưởng anh bác sĩ kia vì thông cảm với nỗi đau của mình mà chưa nỡ nói ngay. Kỹ sư Hoàng vừa lo sợ vừa cảm động nhìn anh bác sĩ đang cúi gằm mặt, tay lần giở một cuốn sổ to tướng chậm rãi lần một hồi. Mồ hôi đã toát ra lấm tấm trên khuôn mặt đỏ như gà chọi, anh bác sĩ chợt ngẩng lên bảo:
- Trong sổ này không thấy có tên Phúc. Bác ngồi đây chờ cháu đi lấy sổ khác. Nhớ là đừng đi đâu đấy.
Nói xong anh ta gập sổ rồi vội vã ra khỏi phòng, không quên đóng sập cửa lại, còn một mình trong phòng, kỹ sư Hoàng lòng như lửa đốt. Bỗng chuông điện thoại reo vang, một hồi, hai hồi … chừng như người đầu dây bên kia có việc cần gọi cho bằng được. Kỹ sư Hoàng do dự giây lát rồi nhoài người với lấy cái ống nghe, định nói cho bên kia chờ lát nữa gọi lại. Vừa áp ống nghe lên tai, kỹ sư Hoàng chợt nghe ngay một giọng nói dằn từng tiếng:
- Trực ban cấp cứu phải không? Bảo với pháp y rằng cái mật lần này tuyệt đối không được bán nghe chưa! Chú Sáu bên Uỷ ban đăng ký rồi đấy.
Kỹ sư Hoàng chưa kịp hiểu mô tê ra sao thì người đầu dây bên kia đã dập máy. Sau khi định thần suy nghĩ kết hợp với mấy câu cuối nghe được loáng thoáng lúc mới bước vào phòng, kỹ sư Hoàng chợt lạnh người với một nỗi nghi ngờ. Anh với cuốn sổ lúc nãy mở ra. Ngay giữa trang cuối cùng, rõ ràng có tên nạn nhân Nguy n Hồng Phúc, 19 tuổi, sinh viên, té xe, nhập viện lúc… giờ… ngày – người đưa đến: Phạm văn A – bạn cùng lớp. Bỗng cánh cửa sịch mở, anh bác sĩ khi nãy ùa vào. Nhìn thấy cuốn sổ trên tay kỹ sư Hoàng, anh ta thoáng một giây bối rối rồi lập tức liến thoắng:
- Cháu quên không đọc trang cuối, đúng là có…
Anh ta chưa kịp nói hết câu kỹ sư Hoàng đã ngắt lời:
- Tôi biết hết rồi, anh không phải giải thích
Rồi chẳng muốn nói gì thêm, nữa kỹ sư Hoàng ném trả cuốn sổ, hấp tấp lao nhanh ra khỏi phòng, anh bác sĩ hé cửa ngó theo, hơi lắc đầu, mỉm một nụ cười ý nhị rồi đóng cửa lại, ung dung quay vào. Chuông điện thoại lại reo, anh ta cầm lấy ống nghe:
- Dạ… dạ… à thế ạ… Báo cáo, xong xuôi cả rồi ạ. Thế thì chú nói chú Sáu chuẩn bị rượu tốt để ngâm, cháu sẽ bảo anh em mang sang ngay bây giờ ạ.
Kỹ sư Hoàng xuống đến nhà xác thì Phúc đã nằm trong ngăn lạnh. Một không khí thê lương sặc mùi tử khí. Nền nhà vương đầy những bó nhang cụt, những cục nến gãy, những mẩu giấy tiền vàng mã… làm quang cảnh nơi đây giống như vừa xảy ra một vụ cướp. Viên quản lý nhà xác nghe trình bày, quan sát anh từ đầu đến chân bằng cặp mắt âm u như cặp mắt quỷ rồi chẳng nói chẳng rằng, ông ta lừ lừ tiến đến kéo một ngăn tủ ra. Kỹ sư Hoàng lạnh toát người nhìn trân trân cái xác… "Đúng thằng Phúc rồi, chị Cả ơi, khổ thân chị quá"… Không giữ nổi bình tĩnh, anh khuỵu xuống gục đầu vào ngăn tủ. Mùi máu tanh tưởi ập vào giác quan. Anh chợt tỉnh, ngẩng phắt lên, lấy tay lật manh áo trước bụng đứa cháu… một vết mổ cẩu thả còn chưa khít miệng với mấy mũi khâu vội vàng, dúm dó:
- Các người đã mổ cháu tôi… các người đã… Tôi sẽ kiện, kỹ sư Hoàng gào lên trong nước mắt
- Híc… viên quản lý nhà xác cất tiếng, giọng cũng âm u như phát ra từ bụng gã – Tha hồ cho ông kiện, tất cả những cái chết bất đắc kỳ tử thế này đều phải mổ hết, luật pháp quy định như vậy. Hừ có mà điên mới đi kiện luật pháp. À mà tôi đã vi phạm nội quy khi cho ông xem xác, lấy gì chứng minh ông là người nhà bây giờ? Mời ông đi khỏi đây. Nói xong gã đưa tay đóng sập ngăn tủ lại.
- Nhưng tôi… kỹ sư Hoàng chưng hửng vậy còn cháu tôi?
- Trước hết phải có giấy tờ chứng minh ông là người nhà của nạn nhân đã, rồi sau đó phải làm đầy đủ thủ tục mới mang được lấy xác ra khỏi đây. Mà ông định cõng xác trên lưng mang về hay sao? Viên quản lý lạnh lùng phán.
Kỹ sư Hoàng có vẻ hiểu ra những việc cần làm, anh thất thểu bước ra khỏi nhà xác gọi điện về nhà bảo vợ chuẩn bị căn cước, sổ hộ khẩu lên phường xin giấy chứng nhận rồi tìm đến một tiệm bán quan tài. Ông chủ tiệm quan tài có tên 'Nhân nghiã đường' hăng hái đón khách. Chỉ vào đống quan tài đủ các kiểu loè loẹt đang bày la liệt, bảo kỹ sư Hoàng:
- Tuỳ bác chọn cái nào thì chọn. Bác cho biết địa chỉ, số nhà, giờ khâm liệm… chúng tôi sẽ cho n gười đến lo liệu.
- Không phải liệm ở nhà mà là ở nhà xác bệnh viện chúng sinh. Kỹ sư Hoàng ngắt lời
- Thế thì không được rồi. Ông chủ Nhân nghiã đường lắc đầu – tôi không bán được cho bác đâu, cũng không làm gì được hết.
- Tại sao lại như thế ? Kỹ sư Hoàng kinh ngạc thốt lên?
- Chắc đây là lần đầu tiên nhà bác có người chết ở bệnh viện – ông chủ Nhân nghiã đường giải thích – bệnh viện có luật của họ, muốn lấy được xác ra phải có cửa. Quan tài mua tiệm nào do họ chỉ, khâm liệm, ma chay… tất tần tật do người của họ làm hết. Có thế họ mới ăn chứ, độc quyền mà.
- Té ra phải như vậy. Kỹ sư Hoàng cay đắng nghĩ rồi rời khỏi tiệm 'Nhân nghiã đường'. Quay lại chỗ nhà xác chờ một lúc lâu thì vợ anh mang giấy tờ tới. Mấy đứa bạn học của Phúc biết tin cũng đã tìm đến, mang theo nhang hoa và trái cây. Lúc này đêm đã gần khuya, mắt đỏ hoe vợ anh mếu máo:
- Ối anh ơi, vẫn chưa thấy tăm hơi chị cả đâu, em đến nhà ông chủ tịch nói mãi ông ấy mới ký cho cái giấy chứng nhận, lại vừa đóng lệ phí, vừa bồi dưỡng hết mấy trăm. Cháu nó nằm đâu để em vào thắp nén nhang cho cháu.
Kỹ sư Hoàng dẫn vợ và đám bạn của Phúc vào, trình mớ giấy tờ cho viên quản lý.
Gã này săm soi một lát rồi lắc đầu:
- Không được, trường hợp này công an còn phải điều tra, vả lại khi nãy ông còn định kiện tụng gì nữa cơ mà? Sáng mai đến giải quyết
- Chẳng lẽ để đứa cháu lạnh lẽo qua đêm không một chút khói nhang an ủi linh hồn? kỹ sư Hoàng lúc này đã mụ mẫm hết tinh thần, cụt què cả ý chí, anh chỉ còn biết vớt vát như một cái máy:
- Tôi xin ông, ấy là tôi chót nhỡ mồm. Tôi không kiện tụng gì đâu. Mọi việc giao cho các ông 'lo' hết. Chỉ mong sao mang cháu về nhà…
- Vậy thì về viết cam đoan đi, viên quản lý hạ giọng – nhưng cứ phải sáng mai mới giải quyết. Không có giấy của công an thì bố tôi cũng không dám giao xác cho các người.
Sáng sớm hôm sau. vừa thò mặt đến cổng nhà xác bệnh viện Chúng Sinh đã có mấy kẻ mặt mũi rất chi là khả nghi túm lấy kỹ sư Hoàng.
- Xác của bác là xác tai nạn giao thông phải không? Giá chót tám triệu, chúng em lo mọi thủ tục chiều lấy xác ra… quan tài khâm niệm 12 triệu nữa bao trọn gói – một người trong bọn bảo.
- Tại sao lại phải đến chiều? Làm ngay trong sáng nay không được sao? kỹ sư Hoàng hỏi lại.
- Hì các bác này đúng là chưa 'chết' lần nào. Phải đợi công an người ta hoàn tất hồ sơ chứ… một người khác giải thích – mà chúng em phải đưa bác đến làm tờ khai, chiều lấy được là còn nhanh, với điều kiện phải có bồi dưỡng… không thì cứ đợi đấy.
Đám người ấy quả là thạo việc, rốt cục chiều hôm ấy kỹ sư Hoàng cũng đưa được xác đứa cháu về nhà sau khi đã được khâm liệm cẩn thận. Vẫn không thấy bóng dáng chị cả đâu, linh tính xảy ra chuyện chẳng lành, kỹ sư Hoàng bàn với vợ cùng mấy đứa bạn của Phúc trông nom nhang khói, để anh về làng đón chị Cả lên:
- Có mấy kẻ lạ mặt lảng vảng ngoài cổng nghiêng ngó hỏi thăm, mấy đứa bạn của Phúc chạy ra nghe ngóng rồi vào bảo:
- Mấy thằng cò nghiã địa bác ạ. Nó bảo đất chôn mặt tiền lối đi là 12 triệu, phía trong tám triệu, chưa kể tiền lo giấy phép chôn và công đào huyệt lấp đất xây mộ, tuỳ theo to nhỏ tính riêng. Nếu túng tiền thì chôn đứng. Chôn đứng rẻ hơn một nửa, tất nhiên đất rộng chỉ bằng 1/3. Nghiã địa bây giờ khối người phải chôn như thế, thành ra đầy những ma đứng, linh hồn đứng, đứng vĩnh hằng.
Vội vã phóng về quê, kỹ sư Hoàng hoảng hốt lạnh người khi hàng xóm bảo chị Cả Bống đã lên thành phố từ chiều hôm qua, mấy nhà khác thấy anh về đổ đến hỏi thăm. Có người chợt nhớ ra bảo:
- Sáng nay đi chợ thấy ở bến đò Đuôi Cáo có ai nhang nhác bác Cả Bống ấy. Hay là bác sang tìm thử xem.
Không kịp suy tính, kỹ sư Hoàng vội vã lao sang bến đò, tìm khắp các hàng quán hỏi thăm, ai cũng lắc đầu. Chợt anh nhìn thấy dưới bờ sông sát mép nước, một người đàn bà đầu tóc rũ rượi đang ngồi ném những nắm cát xuống dòng sông… kỹ sư Hoàng vừa nghi hoặc, vừa thận trọng tiến lại gần… Ai như chị Cả? Anh cất tiếng gọi… một tiếng, hai tiếng… Người đàn bà chợt quay phắt lại… Đúng là chị, chị nhìn anh với đôi mắt thất thần, khuôn mặt răn reo, lem luốc cát. Bỗng chị lảo đảo lao đến, ôm chầm lấy anh, gào lên nức nở:
- Ối! Con ơi, con về với mẹ đây rồi, người ta cướp cái gì của con, con chết có đau không? Con về đây báo oán mẹ… mẹ không đến được với con… con ơi
Cứ thế chị gào mãi, gào mãi, tiếng gào rợn cả một khúc sông. Kỹ sư Hoàng hai tay nâng khuôn mặt chị, miệng hoảng hốt nhắc đi nhắc lại: – Em đây mà, Hoàng đây mà!
Song chị đâu có nghe, đâu có thấy, chỉ một mực gào tên con… dần dần tiếng chị khản đặc chỉ còn như tiếng thở lào phào… Người chị bỗng lả đi, từ từ khuỵ xuống. Kỹ sư Hoàng quỳ xuống theo, hai chị em ôm nhau quỳ trên bãi cát, hoàng hôn bắt đầu buông, trăng chiều rực lên đỏ thẫm. Qua màn nước mắt, anh cảm thấy tất cả không gian như chìm trong biển máu, bên tai anh chợt vọng lên văng vẳng giọng nói của lão Tiến cụt hôm trước:
- Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá… biết đâu đến một lúc nào đó
những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình.
Phạm Lưu Vũ
Monday, June 15, 2009
VỀ NHẠC SĨ TRỊNH CÔNG SƠN
Nhân đọc bài
“TRỊNH CÔNG SƠN VÀ
NHỮNG HOẠT ĐỘNG NẰM VÙNG”
Hoàng Phủ Ngọc Phan.
Xin
cảm ơn anh Đào Hiếu đã chuyển cho tôi xem bài “Trịnh Công Sơn và những
hoạt động nằm vùng” của Liên Thành và đề nghị tôi có ý kiến phản hồi.
Thú
thật tôi không hề có nhu cầu và hứng thú tranh luận với những người như
ông Liên Thành vì giữa tôi và những người như ông ấy có quá nhiều khác
biệt. Nhưng vì bài viết của ông ấy chứa không ít sai lầm - đặc biệt là
những sai lầm về nghiệp vụ chuyên môn của nghề làm cảnh sát quốc gia.
Lại nhờ những sai lầm đó mà ông ta được chính quyền cũ đề bạt lên giữ
những chức vụ quan trọng và gây thêm những hậu quả nghiêm trọng hơn. Nay
nếu một người trong cuộc như tôi mà cứ im lặng mãi thì bạn bè và bạn
đọc trong và ngoài nước sẽ không hiểu được sự thật.
Tôi
gọi Liên Thành bằng đại danh từ “ông” chỉ là để thể hiện sự tôn trọng
bạn đọc, không muốn tra tấn họ bằng những ngôn từ hằn học của thời
chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh. Nếu LỀ BÊN TRÁI là một diễn đàn có
thể chấp nhận đăng tải những bài viết có chính kiến khác nhau thì xin cứ
đăng bài của tôi để bạn đọc rộng đường dư luận. Với tư cách của người
trong cuộc tôi xin nói rõ những sự thật sau đây:
1.Về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
-
Ông Liên Thành nói rằng ngày 11-6-1966, ông chỉ huy các điệp viên bám
sát tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, thấy rõ chúng tôi vào nhà Trịnh
Công Sơn ăn cơm chiều rồi trở ra ngồi trên một chiếc xe hơi màu trắng để
trốn ra rừng …
Lúc
bấy giờ quân của Nguyễn Cao Kỳ - Nguyễn Ngọc Loan đã kiểm soát tình
hình ở Huế. Lệnh truy nã anh em chúng tôi đã được đọc ra rả trên đài
phát thanh. Vậy Liên Thành còn sợ gì mà không ra tay bắt lấy chúng tôi
để lãnh thưởng mà lại để chúng tôi lọt lưới? Sự thực là chúng tôi không
hề ghé nhà Trịnh Công Sơn ở đầu cầu Phú Cam mà ghé nhà anh Nguyễn Kim
Sơn ở gần Bưu Điện Thành Phố Huế. Nguyễn Kim Sơn là kỹ sư
tốt nghiệp ở Mỹ, từng dẫn đầu đoàn biểu tình đọc tuyên cáo bằng tiếng
Anh trước khi đốt tòa Tổng lãnh sự Mỹ ở Huế vào ngày 23-01-1965. Cho đến
lúc ấy và cả đến hôm nay, Nguyễn Kim Sơn chưa hề ở trong một tổ chức
nào của cách mạng. Hiện anh sinh sống ở CHLB Đức và trước sau như một-là
một phật tử thuần thành. (Tôi sẽ nói thêm về trường hợp Nguyễn Kim Sơn
trong phần cuối bài này). Không hiểu vô tình hay cố ý, Liên Thành
đã làm lộn hai ông Sơn nói trên, vu cho Trịnh Công Sơn tội danh Việt
Cộng để hành hạ nhạc sĩ này triền miên và bắt người tràn lan. Đây không phải “bé cái lầm” mà là loại sai lầm chết người.
Lúc
chúng tôi tạm trú ở nhà anh Nguyễn Kim Sơn, anh Sơn có cái máy quây
phim 8mm đang quây cảnh sinh hoạt gia đình, tình cờ có lọt cả hình ảnh
hai anh em chúng tôi trong đó. Sau năm 1975, anh Kim Sơn có dịp chiếu
cho tôi xem lại những thước phim này. Nếu ông Liên Thành liên hệ được
với Kim Sơn, chắc chắn sẽ tìm được bằng chứng ngoại phạm của Trịnh Công
Sơn.
-Người
lái xe đưa chúng tôi ra khỏi thành phố để vào chiến khu không phải là
anh Lê Cảnh Đạm mà là một đại úy quân cảnh ở Huế. Những ngày ấy, thành
phố Huế bị giới nghiêm cả ngày lẫn đêm và chúng tôi đi vào buổi trưa chứ
không phải lúc nhá nhem tối. Phải là một đại úy quân cảnh mới có thể
đưa chúng tôi qua lọt các chốt chặn xét. Liệu ông Liên Thành có cần biết
viên đại úy ấy là ai không nhỉ?
Trịnh
Công Sơn là một nhạc sĩ được nhiều người hâm mộ. Trong số các fan của
anh có những người ở phía bên này và những người ở phía bên kia. Nhưng
không phải hễ chơi với tả thì thành tả, chơi với hữu thì thành hữu. Thực
tế, Trịnh Công Sơn chưa hề tham gia một tổ chức bí mật nào của cách
mạng để gọi là “nằm vùng”. Anh có vẻ dị ứng với mọi thứ kỷ luật, tổ
chức, đảng phái, âm mưu, thủ đoạn…Việc ông Liên Thành ép cung rồi buộc
TCS làm mật vụ cho cảnh sát hoặc ai đó nói TCS là C.I.A, âm mưu đảo
chánh, có tham vọng làm bộ trưởng, có giấc mộng vào Đảng để mưu cầu lợi
lộc…đều chứng tỏ họ không hiểu gì nhiều về con người TCS và chắc cũng
không hiểu gì lắm về nhạc Trịnh. Người ta có cả trăm cách để lừa dối
nhau nhưng không ai có thể lừa dối tâm hồn mình bằng âm nhạc. Nếu tâm
hồn của Trịnh dung nạp được những thứ chuyện như thế này thì sao còn có
chỗ để nuôi dưỡng thứ nhã nhạc kia?
-Mộ
của Trịnh Công Sơn được chôn ở nghĩa trang chùa Quảng Bình của Hội Ái
Hữu Quảng Bình - kế nghĩa trang Gò Dưa (Quận Thủ Đức. TPHCM) chứ không
phải ở Gò Dầu Hạ (Tây Ninh) Đây là sự lựa chọn của gia đình TCS. Gia
đình anh theo đạo Phật và có gốc Quảng Bình. Mẹ anh đã được chôn ở đấy.
Mộ Trịnh Công Sơn được thiết kế theo một kiểu cách lập dị nằm kế bên mộ
mẹ. Lễ tang Trịnh Công Sơn có Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Bí thư Thành Ủy
Nguyễn Minh Triết đích thân đến phúng điếu. Nếu gia đình có nguyện vọng
đưa anh vào nghĩa trang Thành Phố, chẳng lẽ hai nhân vật thế lực ấy
không giúp được sao?
Đối
với Trịnh Công Sơn, những lời khen chê bấy lâu nay đều có chỗ đúng,
chỗ sai nhưng như thế đã quá đủ. Xin hãy để cho anh ấy yên giấc nghìn
thu, có được không hở ông Liên Thành?
2. Về quán BẠN (Chứ không phải là quán BẠN TÔI).
Quán
của chúng tôi nằm trên đường Đào Duy Từ, nhìn ra đường Hàng Bè trên bờ
sông Đông Ba chứ không phải bên phía Đập Đá. Nhóm chúng tôi mở quán nầy
chỉ vì ham vui. Chỉ có vài ba người là Việt Cộng còn những người như vợ
chồng giáo sư Đỗ Long Vân, nhà văn Túy Hồng, chủ quán Lê Văn Sâm… đều vô
can. Khách đặc biệt của chúng tôi là những nhà báo chống Cộng chuyên
nghiệp như Thế Uyên, Trần Dạ Từ …từ Sài gòn ra để …đấu võ mồm với Việt
cộng. Thừa biết bổn quán thường xuyên bị mật vụ theo dõi nên chúng tôi
không dại gì dùng nơi nầy làm chỗ liên lạc với tổ chức cách mạng. Liên
Thành gọi đây là một “căn cứ lõm” mà lại mang quân đi đánh phá một cái
Quán Bạn Tôi nào đó ở bên Đập Đá, thế là thêm một vụ án oan!
3. Chụp mũ cộng sản cho Phật giáo.
Trong danh sách cán bộ cộng sản nằm vùng mà Liên Thành nêu trên có
những người như: Nguyễn Khắc Từ, Hoàng Văn Giàu, Trần Xuân Kiêm, Thái
Kim Lan, Vĩnh Kha, Trần Anh Tuấn, Thái Thị Ngọc Dư, …. và rất nhiều nữa.
Sự thực tất cả những người nêu trên không có ai là Việt cộng nằm vùng
cả. Họ đều là những phật tử thuần thành, tích cực tranh đấu cho đạo pháp
từ những mùa pháp nạn dưới chế độ Diệm. Sau năm 1975 họ đều sống như
những công dân bình thường - ai cộng, ai trừ bà con đều biết. Làm gì có
chuyện Nguyễn Khắc Từ là đại tá VC? Cho đến những ngày Thiệu - Kỳ - Loan
thẳng tay đàn áp phong trào Phật giáo ở các tỉnh miền Trung, Nguyễn Đắc
Xuân vẫn chưa hề có mối liên lạc với bất kỳ một tổ chức nào của cách
mạng. Bị nêu tên truy nã trên đài phát thanh, anh phải cạo đầu giả làm
sư, trốn về vùng quê ở Giạ Lê - Hương Thủy lánh nạn chứ không chịu ra
trình diện. Chúng tôi bắt được liên lạc, viết thư mời anh lên rừng mà
trốn cho an toàn. Ở trong chiến khu cả nửa năm trời, Nguyễn Đắc Xuân vẫn
tiếp tục ăn chay và được đối xử như khách tỵ pháp nạn. Chiến khu Thừa
Thiên - Huế đã đón rất nhiều khách tỵ nạn như Nguyễn Đắc Xuân. Ông
Nguyễn Văn Cán, quận trưởng Cảnh sát cũng là phật tử. Tết Mậu Thân ông
không dám ra trình diện với chính quyền cách mạng. Biết ông là người trí
thức (cử nhân Luật), chúng tôi thuyết phục ông đứng đầu danh sách một
tổ chức gọi là Nghĩa Binh bao gồm những người đã ra trình diện. Tổ chức
này chỉ là để hư trương thanh thế. Sau khi trình diện, chúng tôi cấp
giấy chứng nhận rồi cho phép họ trở về nhà chăm sóc gia đình trong những
ngày binh lửa. Chỉ có thế mà Liên Thành gán cho ông Cán tội danh là cơ
sở tình báo rất quan trọng của trung tá điệp viên Hoàng Kim Loan. Bản
lãnh làm án oan của Liên Thành chắc là học được từ các tay trùm mật vụ
của Ngô Đình Cẩn như Phan Quang Đông, Hoàng Trọng Bá, Dương văn Hiếu… Cứ
nghe cái giọng điệu của Liên Thành ca tụng anh em nhà Ngô Đình Diệm và
đám thủ hạ đắc lực của Ngô Đình Cẩn thì có thể hiểu vì sao ông ta chụp
mũ cộng sản lên đầu toàn bộ phong trào đấu tranh của Phật giáo. Chính là
để có cớ đàn áp, tiêu diệt thế lực của Phật giáo, trả thù cho Ngô
triều. Chẳng cần gì phải là người cao minh cũng có thể chỉ ra rằng đó
chính là sự vận hành của “chế độ Diệm mà không có Diệm”.
4. Vụ sát hại nhà thơ Ngô Kha.
Là nhà thơ nổi tiếng, dạy Việt văn ở trường Quốc Học Huế, chủ tịch Mặt
trận văn hóa Miền Trung. Anh rất gắn bó với phong trào tranh đấu của
sinh viên học sinh Huế. Hai lần thầy trò anh xuống đường, bị Liên Thành
trực diện đàn áp, đã quyết liệt phản kích khiến Liên Thành mang thương
tích. Liên Thành thù Ngô Kha từ đó. Ngày 6-3 năm 1972, Liên Thành dẫn
hai cố vấn Mỹ cùng bộ hạ bao vây, lục soát nhà Ngô Kha rồi bắt anh đưa
đi đâu mất tích. Sau năm 1975, Công An Huế lấy lời khai của đám bộ hạ
Liên Thành - theo đó thì chỉ trong đêm 6-3, Ngô Kha đã bị Liên Thành tra
tấn đến chết rồi ném xác vào bồn axit để phi tang. Tôi ở Huế đã lâu
nhưng không hề nghe nói ở đâu có những bồn axit như thế. Chuyện cái bồn
axit chưa chắc có thật nhưng một trưởng ty cảnh sát như Liên Thành muốn
giết người phi tang, hủy thi diệt tích thí còn thiếu gì cách, đâu cần
đến bồn axit. Cũng xin nói thật, Ngô Kha không phải là Việt Cộng nằm
vùng. Anh hoạt động như những người phản chiến chống Mỹ trên khắp thế
giới. Chính vì vậy mà sau năm 1975, bạn bè ở Huế đã gặp không ít khó
khăn khi làm thủ tục xác nhận liệt sĩ cho anh. Chuyện này ở Huế rất
nhiều người biết. Ngô Kha là trung úy động viên rồi biệt phái trở về dạy
lại trường Quốc Học. Anh là em ruột của tướng Ngô Du trong quân đội
VNCH.
Nếu
tôi là tướng Ngô Du thì dù Liên Thành kia có đi đến chân trời góc biển
nào tôi cũng sẽ tìm đến - nếu không phải để hỏi tội thì ít ra cũng để
năn nỉ một câu: “Trên đời này chỉ có ông mới biết Ngô Kha chết như thế
nào. Xin làm ơn làm phước cho biết nắm xương tàn của em tôi hiện ở nơi
đâu?”
5. Kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái là đặc công!
Liên
Thành cho rằng Nguyễn Hữu Thái là đặc công thuộc Thành ủy Sài gòn, thủ
phạm tung lựu đạn vào xe Nguyễn Văn Bông. Lại sai nữa. Anh Nguyễn Hữu
Thái chưa bao giờ là Việt cộng, lại càng không thể là đặc công. Người
ném lựu đạn vào xe Nguyễn Văn Bông, chủ tịch đảng Cấp Tiến là một sinh
viên thuộc Lực Lượng Biệt Động. Tên tuổi và thành tích của sinh viên ấy
đã được giới thiệu công khai trên một số sách báo ở trong nước, muốn
biết người ấy là ai cũng không khó.
6. TÔI KHÔNG HỀ GIẾT AI.
Sau chiến dịch Mậu Thân báo chí ở Sài gòn thường nhắc đến anh em Hoàng
Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan như là hai tên đồ tể khát máu,
giết người không gớm tay ở Huế. Sự thực anh Tường không hề về Huế mà ở
lại trên căn cứ để làm nhiệm vụ tiếp đón các vị khách từ nội thành ra.
Tánh anh Tường rất hiền, không ưa đụng đến vũ khí, dầu chỉ để lau chùi.
Cơ quan cấp cho anh một khẩu súng ngắn K.59, anh không ngó ngàng gì tới
đến nỗi súng han rỉ, rồi đem cho một người bạn nào đó mượn đi công tác.
Người này làm mất súng khiến anh Tường bị phê bình –đúng ra đây là một
khuyết điểm đáng phải bị xử kỷ luật nặng. Nhưng anh Tường không ý thức
được điều đó. Anh cứ cãi khơi khơi là tại cơ quan giao súng cho anh chứ
anh đâu có yêu cầu. Công tác của anh chỉ cần ngòi bút. Người như thế mà
có thể giết ai được?
Còn
tôi thì có theo chiến dịch về hoạt động ở Thành nội Huế nhưng tôi không
hề giết ai cả, suốt gần 10 năm đi kháng chiến cũng không hề làm thiệt
mạng một con thú trên rừng chứ đừng nói là con người. Vì lẽ:
-Giết người không phải là chuyện nhỏ, không phải hễ có súng trong tay là có quyền giết người. Tôi không hề có quyền đó.
-Giết
người không phải là chuyện dễ, không phải ai cũng có bản lĩnh đó. Mặc
dầu trong chiến tranh, trên chiến trường và ngay bây giờ vẫn không thiếu
gì những kẻ đáng tội chết nhưng nếu đưa cho tôi một kẻ đáng tội nào đó
bảo tôi giết thì nói thật… không dám đâu.
Chúng
tôi theo cách mạng trước tiên là vì không thể sống chung với cái ác.
Nếu chịu làm ác thì cứ nhảy vào các binh chủng rằn ri của Thiệu - Kỳ hay
đầu quân dưới trướng của Liên Thành thì thiếu gì cơ hội?
Từ sau Tết Mậu Thân đến nay, đối phương không ngừng vu khống cho anh em
tôi đã tàn sát đồng bào vô tội ở Huế. Tôi nguyên là sinh viên Y khoa
nên họ còn trút luôn lên đầu tôi cái tội khi sư diệt tổ là giết các giáo
sư người Đức ở Đại học Y khoa Huế. Lúc đầu thì có nhiều người tin nhưng
hơn ba mươi năm nay, bà con bạn bè trong nước và cả những người ở nước
ngoài có dịp đi về đều đã hiểu được sự thật. Tất cả chỉ là tin đồn do
những người có ác ý gieo rắc, không cần chính xác và không ai phải chịu
trách nhiệm. Nhưng Liên Thành, là người cầm đầu nhiều cơ quan công lực,
rất có điều kiện để kiểm chứng các tin đồn. Vậy xin hỏi Liên Thành: ông
nói tôi say sưa lấy máu tươi, giết đồng bào vô tội nhưng chính xác tôi
đã giết những người nào? lúc nào? ở đâu?
Nếu ai đó nói chính mắt họ thấy tôi giết người thì chắc chắn đó là kẻ ăn gian nói dối.
Còn
nếu Liên Thành hay bất kỳ ai đưa ra được bằng chứng không thể chối cãi
rằng tôi đã giết người - như kiểu tên ác ôn Nguyễn Ngọc Loan giết anh
Bảy Lốp - thì tôi xin tự vẫn ngay trước mặt họ để tạ tội với đồng bào và
khỏi làm nhục lây đến bà con dòng họ.
Chuyện Mậu Thân hãy còn nhiều điều mà tôi cần nói, nhất là về cái chết
của các giáo sư người Đức ở Huế. Nếu có dịp tôi sẽ xin phép được trình
bày với bạn đọc cũng trên diễn đàn Lề Bên Trái này.
Gần
đây, một số người ở nước ngoài về Việt Nam thăm gia đình có kể rằng vào
những năm cao điểm của phong trào vượt biên, những gia đình thuyền nhân
khi đến vùng đất hứa đều rất sợ phải qua thêm một cửa ải của ông Liên
Thành. Hễ ông ghét người nào thì liệt họ vào danh sách lý lịch xấu. Có
người như giáo sư Châu Tâm Luân, Hoàng Văn Giàu… còn bị ông nhồi cho bầm
dập như cái mền. Mặc dầu đây chỉ là những thông tin chưa được kiểm
chứng nhưng chắc cũng không sai sự thật bao nhiêu. Những thuyền nhân ấy
phần lớn đều đã trải qua trăm cay nghìn đắng, có người mất cả tài sản và
tính mạng người thân ngoài biển khơi. Họ có còn dính dáng gì đến chế độ
cộng sản nữa đâu mà ông thù dai đến thế?. Ông
từng giữ một lúc nhiều chức vụ quan trọng như: Quận trưởng Quận 3 - Phó
trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt - Trưởng ban An ninh - Tổng thư ký điều
hành Ủy ban Phượng Hoàng Thừa Thiên Huế… Lúc này những chức vụ đó đã
không còn giá trị sử dụng. Vậy ai trả lương và cho phép ông hành động
như một tên đại bàng, đầu gấu ở các trại tỵ nạn? CIA chăng? Nếu đúng như
thế thì tôi sẽ nói thêm vài điều có liên quan đến cái nghề CIA của ông
để giúp ông giải đáp câu hỏi: Tại sao Miền Nam VNCH lại thua?
7. Tại sao Miền Nam VNCH lại thua?
Ông
Liên Thành viết: “Kể từ ngày 30-4-75 đến nay trong tâm khảm của tất cả
người Việt Nam đều không nguôi câu hỏi: tại sao miền Nam VNCH lại thua,
Tại sao cái đúng lại thua cái sai, cái ác lại thắng cái thiện?... ” Đây
là câu hỏi lớn đã được các nhà lãnh đạo chính trị, quân sự, các nhà lý
luận, chiến lược hàng đầu của cả hai bên - bên thắng và bên thua nghiên
cứu rất kỹ. Có lúc hai bên đã cùng tỉnh táo ngồi lại với nhau trong
những cuộc hội thảo khoa học để bổ sung cho đáp án của mình. Và câu trả
lời thuyết phục nhất về phía Mỹ đã được Mac Namara cựu Bộ trưởng Quốc
Phòng Mỹ phát biểu trong tập hồi ký của mình: “chúng ta thua vì đã đánh
giá thấp lòng yêu nước của người Việt nam.” Câu nói ngắn gọn đó chứng tỏ
ông Mac Namara đã hiểu được vấn đề. Nhưng Liên Thành thì chưa chắc đã
hiểu vì cho đến nay ông ta vẫn chỉ có thể suy nghĩ theo những luận điệu
nông cạn như: Cộng sản Bắc Việt là tay sai của Nga-Tàu, VNCH thua vì bị
Mỹ cúp viện trợ, thiếu vũ khí đạn dược, Huế nổi loạn là do Trung tá điệp
viên Hoàng Kim Loan và đại tá Việt cộng Nguyễn Khắc Từ điều khiển chùa
Từ Đàm… Để Liên Thành hiểu lòng yêu nước ấy như thế nào, tôi xin kể vài
chuyện như sau:
Một
hôm anh Nguyễn Kim Sơn (người đã cho anh em Tường - Phan trốn tại nhà
trước khi thoát ly) ngồi trên xe hàng đi từ Huế vào Đà Nẵng. Đến đoạn
đường trước căn cứ Mỹ ở sân bay Phú Bài, mọi người đều phải xuống xe để
cho lính Mỹ khám xét thân thể. Vài cô gái bị lính Mỹ giở trò sàm sỡ. Một
thanh niên có vẻ nông dân trừng mắt nhìn bọn chúng một cách căm thù.
Lính Mỹ thấy thế liền lôi người thanh niên ra khám xét. Ai ngờ trong
mình thanh niên nầy rơi ra một cây súng ngắn. Thì ra đó là một “tên Việt
cộng”. Lập tức anh ta bị lính Mỹ bẻ hai tay ra sau lưng như bẻ cánh gà
rồi chỉ vài cái lên gối là miệng anh ta hộc máu ra như suối, ngã sụm
xuống đất. Lính Mỹ dẫm giày đinh nát cả mặt, gãy cả đôi chân rồi đá anh
qua một bên lề đường. Nguyễn Kim Sơn kể chuyện ấy rồi than thở: nhìn
thấy đồng bào mình bị nó giày xéo như con giun con kiến mà không làm gì
được thật là xót xa tủi nhục. Nguyễn Kim Sơn được ăn học ở Mỹ nhưng
chính cái thảm cảnh ngày hôm ấy đã khiến anh trở thành người đầu tiên
đốt tòa Tổng lãnh sự Mỹ và đấy là tòa Tổng lãnh sự Mỹ đầu tiên trên thế
giới bị đốt. Không phải chủ nghĩa cộng sản - vì cho đến hôm nay, Nguyễn
Kim Sơn vẫn không phải là người của chế độ cộng sản - mà chính là lòng
yêu nước thương nòi của người Việt nam đã nổi lửa đốt cháy tòa Tổng Lãnh
sự Mỹ. Hôm chúng tôi trốn ở nhà Nguyễn Kim Sơn thì các em của anh cũng
như anh, cả nhà chưa ai tham gia cách mạng. Nhưng sau khi thành phố Huế
bị Nguyễn Ngọc Loan và Liên Thành khủng bố trắng, bàn thờ Phật bị xe
tăng xéo nát, các em của anh đều bí mật tham gia cách mạng trong tổ chức
Thành Đoàn Sài Gòn. Chính Liên Thành chứ không ai khác đã đẩy họ về
phía Việt Cộng. Phật tử trở thành Việt Cộng, Việt Cộng nằm trong hàng
ngũ phong trào tranh đấu của Phật giáo là chuyện có thật và đó là lôgich
phát triển của lòng yêu nước chứ chẳng phải mưu ma chước quỷ gì cả.
Tôi còn một dẫn chứng khác rất đáng chú ý đối với Liên Thành.
Tại
trung tâm lưu trữ Aix-en Provence ở Pháp có một bức thư bằng chữ Hán
được mật thám Pháp dịch ra tiếng Pháp, gần đây đã được các nhà nghiên
cứu sử học dịch ra tiếng Việt như sau:
Ngày 17 tháng 12 năm 1931.
Gửi đồng chí Nguyễn Ái Quốc
Tôi vừa được biết đồng chí đang ốm nặng tại Hồng Kông và tin này làm tôi vô cùng lo lắng.
Cho
phép tôi gửi đồng chí kèm theo đây 300 yên để đồng chí mua thuốc men.
Mong đồng chí tích cực chữa bệnh. Điều đó cần cho sự nghiệp của tổ quốc.
Chúc đồng chí sớm bình phục.
PHÚC ĐAN
Nguyễn Ái Quốc tức là người mà chúng tôi gọi là Bác Hồ. Còn người ký
Phúc Đan, tên là Nguyễn Phúc Đán tức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để chính là tổ
phụ (ông nội) của Liên Thành. Thư đề tháng 12 năm 1931, tức sau khi Đảng
Cộng Sản của Nguyễn Ái Quốc ra đời hơn một năm rưỡi. Biết tin Nguyễn Ái
Quốc bị bệnh nặng ở Hồng Kông, Kỳ Ngoại Hầu ở Nhật lo lắng gửi tiền bạc
chăm sóc và gọi bằng hai tiếng đồng chí rất quí mến. Nguyễn Ái Quốc và
Kỳ Ngoại Hầu thuộc hai con đường, hai thế hệ nhưng vẫn cư xử với nhau
như đồng chí vì họ có chung một tấm lòng yêu nước. Chính truyền thống
yêu nước lâu đời của người Việt Nam đã làm nên chiến thắng ngày 30-4-75
chứ chẳng phải Nga sô - Trung Cộng nào cả. Ai đúng, ai sai, ai thiện, ai
ác, ai thắng, ai thua - chỉ cần Liên Thành chịu khó đọc sách nhiều
nhiều một chút, nhất là những trang sử vẻ vang của gia tộc mình chắc sẽ
tự tìm được câu trả lời, chậm hơn Mac Namara một chút mà đúng cũng không
sao. Lại mong ông Liên Thành không vì tổ phụ mình viết bức thư nói trên
cho Nguyễn Ái Quốc mà liệt Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và nhóm chí sĩ Đông Du
vào tội danh tiếp tay cho Cộng sản rồi làm báo cáo mật nộp cho CIA.
CIA
mà dựa trên những nguồn tin láo toét và trật lất như bài Trịnh Công Sơn
và những hoạt động nằm vùng của ông, hèn chi Mỹ thua cũng phải.
HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN.
hoangphungocphan@yahoo.com.vn
VỀ NHẠC SĨ TRỊNH CÔNG SƠN
Cảnh-Lực (Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia) là một tổ-chức lớn+mạnh thứ nhì, sau Quân-Lực, của Việt-Nam Cộng-Hoà.
Sau ngày quốc-biến 30-4-1975, tính đến hôm nay, mới chỉ có 3 tác-giả (qua 4 cuốn sách) viết về Cảnh-Sát Quốc-Gia.
Trước
đó, phần đông đồng-bào nghĩ đến Cảnh-Sát là chỉ nghĩ đến việc kiểm-soát
lưu-thông; bắt đĩ; bắt bạc; biên phạt xả rác, đái đường; can-thiệp các
vụ đánh lộn; và cao hơn nữa là bài-trừ trộm cướp, buôn lậu; điều-tra
án-mạng; giải-tán biểu-tình...
Lê Xuân Nhuận là người đầu tiên, xuất-bản 2 cuốn hồi-ký:
Về Vùng Chiến-Tuyến (ISBN 1-886566-15-1, Westminster, CA: Văn Nghệ, 1996, http://LeXuanNhuan.tripod.com/VeVung.html); và
Cảnh-Sát-Hoá, Quốc-Sách Yểu-Tử của Việt-Nam Cộng-Hoà (ISBN 0-9665293-8-3, Alameda, CA: Xây-Dựng, 2002, tái-bản với tên Việt-Nam Cộng-Hoà: Cảnh-Sát-Hoá, Quốc-Sách Yểu-Tử, 2005 và 2006, http://LeXuanNhuan.tripod.com/CanhSat.html).
Qua
2 cuốn ấy, thêm nhiều độc-giả biết thêm về một lãnh-vực hoạt-động khác
của Cảnh-Sát Quốc-Gia: tình-báo, nhất là phản-tình-báo.
Nguyễn Mâu là người thứ hai, xuất-bản cuốn hồi-ký N.D.B. NGÀNH ĐẶC BIỆT (The Special Branch) Tập I (San Jose, CA: 2007).
Liên Thành là người thứ ba xuất-bản cuốn hồi-ký Biến Động Miền Trung (Westminster, CA: Tổng Hội Biệt Động Quân Quân Lực VNCH, 2008).
*
Riêng về nhạc-sĩ Trịnh Công Sơn, tôi thấy trên Internet có 2 bài viết liên-quan:
Một bài của Liên Thành, nhan đề Trịnh Công Sơn và Những Hoạt Động Nằm Vùng, ở địa-chỉ liên-mạng:
Và một bài của Hoàng Phủ Ngọc Phan, nhan đề Nhân Đọc Bài “Trịnh Công Sơn và Những Hoạt Động Nằm Vùng”, ở địa-chỉ liên-mạng:
*
Nhân đây, tôi xin giới-thiệu thêm một ý-kiến của ông Nguyễn Mâu về Trịnh Công Sơn.
Ông Nguyễn Mâu là một cựu đại-tá, Trưởng Ngành Cảnh-Sát Đặc-Biệt của Tổng-Nha (sau này là Bộ Tư-Lệnh) Cảnh-Sát Quốc-Gia.
Nhận-định và quyết-định của ông Nguyễn Mâu đối với Trịnh Công Sơn,
chính là thái-độ và biện-pháp của Chính-Phủ Việt-Nam Cộng-Hoà đối với
nhạc-sĩ ấy, ở cấp cao nhất trong toàn-quốc (VNCH), và trong thời-gian
ông Nguyễn Mâu cầm đầu Ngành Tình-Báo & Phản-Gián này.
Tôi xin đăng lại bài viết liên-hệ của ông Nguyễn Mâu, dưới đây, để rộng đường dư-luận.
Tôi không có ý-kiến về vụ này.
*
TRƯỜNG HỢP NHẠC SĨ TRỊNH CÔNG SƠN
Chúng
tôi xin phép anh linh Trịnh Công Sơn được gọi anh bằng anh như thuở
nào. Chúng tôi nói thẳng ở đây rằng giữa chúng tôi không có tình thâm
giao nhưng rất hiểu nhau và kính trọng nhau. Thật dễ hiểu: làm sao là
bạn thân được khi một người là nhân viên công an rình rập dòm ngó anh và
anh lại là một nghệ sĩ có tâm hồn đang đau nhức với cái đau nhức của
dân tộc và sáng tác vì cái đau nhức ấy.
Một
hôm vào cuối năm 1969, một đơn vị cảnh sát theo lệnh của một thượng cấp
không tiện nêu danh đã bắt anh Trịnh Công Sơn và giải giao về Ngành Đặc
Biệt (tại Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, Saigon). Chúng tôi gọi Trung Tâm Thẩm Vấn đưa anh ấy lên gặp chúng tôi. Anh chị em D6 (Trung Tâm Thẩm Vấn Trung Ương) ngạc nhiên không ít vì nội vụ chẳng có gì đáng để bận tâm trưởng ngành.
Anh
Sơn ngồi đối diện với chúng tôi bên kia bàn viết. Chúng tôi mời anh
tách trà và xin lỗi vì trà đã nguội. Anh ấy nhìn chúng tôi như dè dặt
không hiểu chúng tôi sẽ giở trò gian ác hay tiểu xảo gì chăng. Tôi vội
phân minh:
- Anh chớ nghĩ ngợi. Chúng tôi chẳng có ý định ranh mãnh gì hết.
Chúng tôi thêm:
- Anh viết nhạc phản chiến.
Anh ta vẫn ngồi yên, mặt như bọc sáp không một nét thay đổi nào cho ta đọc được cảm tưởng hay ý nghĩ của anh ấy.
Không
phải để trấn an nhưng để cho anh ấy biết một sự thật khá hiển nhiên
nhưng có thể anh ấy không nghĩ đến và cũng để đo đạt tinh thần thân Cộng
của anh ta, tôi chậm rãi mở lời:
-
Anh biết đó nhân dân miền Nam, những người quốc gia, chính phủ quốc gia
không hiếu chiến; tất cả cũng biết rõ chiến tranh tàn phá quê hương xứ
sở; tất cả mọi người không ai thích chiến tranh. Chúng tôi không sợ nhạc
phản chiến và các phong trào phản chiến.
Anh Sơn ngước nhìn tôi, khẽ nhếch môi như muốn nói điều gì nhưng lại im lặng.
Chúng tôi nói tiếp:
-
Nhân dân miền Nam không hiếu chiến. Chính quyền miền Nam không gồm
những đồ tể chuyên nghiệp. Chúng tôi không sợ nhạc phản chiến của anh.
Chính Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản là những kẻ sợ nhạc phản chiến của anh.
Chính họ lo âu nhân dân miền Bắc vùng dậy phản chiến vì đã quá cơ cực
lầm than. Đó là theo những tài liệu tối mật đối với họ mà thích thú đối
với chúng ta. Chúng tôi đã tịch thu tài liệu này trong một cuộc hành
quân.
Anh Sơn như muốn nhân dịp phân bua:
- Như vậy, tôi sẽ được đi về.
Chúng
tôi lập tức có nhận định rằng anh Sơn yêu nhạc nhưng không thích chính
trị. Anh ấy dùng chữ “được đi về” thay vì trả tự do. Đa số cán bộ Cộng
Sản ở mọi cấp bị bắt và được chúng tôi tiếp xúc trên đầu môi họ lúc nào
cũng “tự do, độc lập, hoà bình, tranh đấu” rất công thức như bị nhồi sọ.
Chúng tôi nói thêm:
-
Các không ảnh chụp từ một cao độ cho thấy ở phía Bắc vĩ tuyến 17 chỉ có
đàn bà trên đồng ruộng và không thấy bóng đàn ông. Các cán binh Cộng
Sản từ Bắc vào Nam hồi chánh hay bị bắt đều cho biết tang tóc kinh hoàng
phủ trùm đất Bắc và thật khó gặp được một nam thanh niên 17 tuổi từ Bắc
Quảng Trị cho đến tận Lạng Sơn, Cao Bằng. Kinh hãi vì chiến tranh là
nhân dân miền Bắc. Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản sợ nhạc phản chiến tác
động lòng bộ đội và nhân dân rồi phản loạn sẽ xảy ra.
Anh Sơn đổi hẳn thái độ. Anh ấy không còn im lặng và lầm lì nữa mà nói chuyện rất cởi mở:
-
Tôi chẳng phản chiến và cũng chẳng hiếu chiến. Tôi sáng tác để nói lên
một thực trạng đau thương của quê hương. Và duy chỉ có thế; không chính
trị; không thiên hữu hay thiên tả.
Chúng
tôi tỏ ra chăm chú nghe để khuyến khích anh nói. Chúng tôi nghĩ có thể
chăng đây dịp để hiểu biết một tâm hồn nghệ sĩ vốn được xem như khó hiểu
đối với nhiều nhân vật trong hàng sĩ phu quốc gia có trách nhiệm vẫn
hay nói chuyện với nhau “tại sao Trịnh Công Sơn hắn thế này lúc này và
thế khác lúc khác, v.v...”
Anh ấy tiếp tục:
- Có người bảo tôi rằng tôi đã có những lời nhạc làm tổn thương Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam như “đại bác đêm đêm dội về thành phố”.
Đạn rót vào thành phố không thể là đạn của quân đội Việt Nam Cộng Hoà
mà chỉ là đạn của Giải Phóng đã gây nhiều tang thương và đổ nát.
Chúng
tôi biết anh ấy nói không phải để lấy điểm hay kể công. Chúng tôi cũng
biết rằng nếu hỏi anh ai đã chỉ trích anh làm hại cho Mặt Trận Giải
Phóng anh sẽ không nói và chỉ làm cho anh trở thành câm lặng. Để dò phản
ứng, chúng tôi hỏi thẳng:
-
Anh có hoạt động cho trí vận Cộng Sản? Cho Hội Văn Nghệ Sĩ Yêu Nước
Cộng Sản? Anh viết nhạc phản chiến theo chỉ thị của Cộng Sản? Có hay
không?
- Không.
Anh ấy trả lời gọn ghẽ.
Chúng tôi lật hẳn con bài tẩy:
-
Có thể anh đã nói đúng. Chúng tôi không tìm thấy được một bằng chứng
nào về việc anh hoạt động hay tham gia một tổ chức Cộng Sản.
Có thể vì quá ngạc nhiên, anh trố mắt nhìn chúng tôi như muốn thôi mien chúng tôi hay đang bị chúng tôi thôi miên.
Chúng tôi đẩy sát anh vào chân tường:
-
Anh nghĩ sao nếu nhạc phản chiến của anh và giọng hát trầm ấm tuyệt vời
của cô Khánh Ly được một tuần dương hạm phát thanh thẳng vào Bắc Việt
bằng ăng ten định hướng (directional antenna) và dọc đường mòn Hồ Chí
Minh bằng phi cơ trên cao độ. Ban Tuyên Huấn Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản
sợ nhạc phản chiến của anh, cụ thể bản Gia Tài Của Mẹ với lời than oán “Hai
mươi năm nội chiến từng ngày... gia tài của mẹ để lại cho con là nước
Việt buồn... gia tài của mẹ... một rửng xương khô... gia tài của mẹ một
núi đầy mồ...”
Anh
Sơn không trả lời thẳng câu hỏi nhưng nét mặt sáng rỡ, niềm vui không
giấu giếm, mắt long lanh hàm chứa sự thích thú và hài lòng đến cùng độ.
Chúng tôi không nghĩ rằng anh vui mừng vì có tinh thần chống Cộng cao
độ. Chúng tôi cũng không nghĩ rằng anh giả vờ vui để tỏ ý chống Cộng
trước một viên chức thuộc ngành công an. Anh đã vui vì tâm tư và ý tưởng
đối với quê hương tang tóc, về một cuộc chiến tương tàn cần phải chấm
dứt đã được gửi gấm đi xa, qua làn sóng điện đến với những người có
trách nhiệm.
Nhìn
nét mặt của anh, chúng tôi chắc chắn đã hiểu anh hơn bao giờ và lòng
không tránh khỏi xúc động. Để cho niềm vui của anh trở thành một chút gì
cho anh nhớ và ghi lòng, chúng tôi cho anh biết thêm rằng việc phát
thanh dường như đã đuợc thực hiện từ hơn năm qua.
Anh tâm sự dạn dĩ hơn:
-
Tôi không kêu gọi họ buông súng hay mang súng trở về như Bộ Chiêu Hồi
nhưng tôi đã làm việc ấy một cách tế nhị và rất thâm trầm như bài Lại
Gần Với Nhau với lời nhạc “...đừng bỏ tôi... đừng bỏ tôi... đi hai
mươi năm qua... còn gì cho anh... còn gì cho tôi... không còn gì...
không còn gì... còn lại chiến tranh... hai mươi năm chinh chiến mẹ ngủ
không yên...” Và còn nhiều nữa, tôi đã nói thẳng với họ hãy vượt mọi
trấn áp, từ bỏ rừng núi... mà trở về cùng với dân tộc đang chịu quá
nhiều đoạ đày thống khổ như bài Nối Vòng Tay Lớn với câu kết luận “Vượt thác cheo leo... hay ta vượt đèo... từ quê nghèo lên phố lớn... nắm tay nối liền biển xanh sông gấm... nối vòng tay lớn...”
Tôi đã nói chuyện với họ như bằng hữu, như anh em chứ không phải như
ông Bộ Trưởng Chiêu Hồi. Phương cách của tôi theo tôi nghĩ có thể thích
hợp và được họ vui vẻ chấp nhận và lãnh hội hơn. Tôi thương yêu và kính
trọng họ thật, với tình người thật, với tinh thần ruột thịt thật và muốn
trải với họ chút tâm sự thật. Tôi có thể bị công an, bị chính ông kết
tội nhưng đó là sự thật tôi không giấu giếm. Cũng bằng cách này, tôi đã
gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh cho những giới chức chỉ đạo chiến tranh
của bên này và cả bên kia.
Nhưng,
vẫn chữ “nhưng” quái ác, chính Cộng Sản tháng 4, 1975 khi vào Sài Gòn
lại phát thanh, phổ biến cả bằng tranh với chim bồ câu hoà bình bản Nối
Vòng Tay Lớn cùng với các bản nhạc khác của họ. Điều này trái với ý kiến
của anh Sơn được trình bày tự trên. Khó hiểu? Phải chăng họ muốn nương
dựa vào ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn trong lòng dân miền Nam để phát huy
nhạc nặng căm hờn và tanh tưởi xương máu của họ. Dù sao, bản Nối Vòng
Tay Lớn đã có ý khác khi anh Sơn vừa sáng tác hơn bảy năm trước và được
họ muốn hiểu trệch đi hơn bảy năm sau. Đây chỉ là vấn đề diễn dịch và ý
nghĩa thay đổi theo cảnh huống và thời gian. Hơn nữa, bọn chạy hiệu Ba
Mươi Tháng Tư, đeo băng đỏ, lại hò hét phát thanh nhạc Trịnh Công Sơn mà
họ tưởng được Cộng Sản những người chủ mới thích thú.
Chúng
tôi ít nhiều cảm khái và tin rằng anh Sơn vô tư trong chính trị, với
lập trường không thiên vị, không theo những người quốc gia triệt để mà
cũng chẳng theo bọn Cộng Sản. Qua những lời tâm sự, có thể anh đã phải
tránh qua, né lại, lúc chường, lúc trốn, dù là bạn nhưng vẫn phải đối
phó với Hoàng Phủ Ngọc Tường và vài người khác vốn là cơ sở trí vận Cộng
Sản. Thi hành thiên chức của một nghệ sĩ, anh đã dùng lời ca và ý nhạc
nói lên tình trạng quê hương rách nát, dân chúng lầm than, máu và xác
người khắp nơi khắp chốn và sinh mệnh người rụng ngã mỗi ngày. Qua tài
liệu, chúng tôi được biết do phản ứng tất yếu, dân chúng miền Bắc quá
khốn khổ vì bọn đồ tể hiếu chiến Cộng Sản đã tiếp nhận nhạc Trịnh Công
Sơn với tất cả thích thú và đam mê. Quả như thế, sau 1975, chúng tôi có
dịp đọc Văn Cao viết về Trịnh Công Sơn “bởi Sơn đã hát về quê hương đất
nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui
và đau tận cùng những nỗi đau của tố quốc mẹ hiền... Tôi muốn nhắc đến ở
đây một kỷ niệm không thể quên ở nhà một người bạn trẻ. “Đêm ấy, lần
đầu tiên, tôi nghe Trịnh Công Sơn. Những bạn trẻ hát cho tôi nghe gần
như suốt đêm hàng loạt ca khúc Trịnh Công Sơn (không biết họ học ở đâu)
hát say sưa đến nỗi đứt cả dây của cây đàn ghi ta duy nhất có trong
nhà.” Chúng ta hẳn ai cũng biết Văn Cao không bao giờ là đảng viên
Cộng Sản mà còn là một nghệ sĩ hữu công với những sáng tác quí giá để
đời nhưng bị Cộng Sản đày đoạ thiếu ăn thiếu mặc, cho đến ngày qua đời
cũng hẩm hiu.
Trong lúc toàn thể quân chính Việt Nam Cộng Hoà dốc toàn lực trong chiến tranh chống xâm lăng Cộng Sản, nhạc phản chiến hẳn nhiên bị lên án và Trịnh Công Sơn được nhìn như kẻ thân Cộng. Cộng Sản lại cổ võ hoà bình để che giấu dã tâm xâm lăng hiếu chiến. Không ít, số người nghĩ rằng Cộng Sản cổ võ hoà bình mà Trịnh Công Sơn lại phản chiến đúng anh ấy thân Cộng nếu không là Cộng Sản chính tông. Lối buộc tội này tuy quá đơn giản nhưng lại rất thông thường.
Trong lúc toàn thể quân chính Việt Nam Cộng Hoà dốc toàn lực trong chiến tranh chống xâm lăng Cộng Sản, nhạc phản chiến hẳn nhiên bị lên án và Trịnh Công Sơn được nhìn như kẻ thân Cộng. Cộng Sản lại cổ võ hoà bình để che giấu dã tâm xâm lăng hiếu chiến. Không ít, số người nghĩ rằng Cộng Sản cổ võ hoà bình mà Trịnh Công Sơn lại phản chiến đúng anh ấy thân Cộng nếu không là Cộng Sản chính tông. Lối buộc tội này tuy quá đơn giản nhưng lại rất thông thường.
Đã
thế, sau tháng Tư năm 1975, Trịnh Công Sơn lại chịu ngón đòn thù độc ác
của Trần Bạch Đằng, chính Uỷ Ban Quân Quản Sài Gòn Chợ Lớn, quyền uy
nhất thống lúc bấy giờ. Trong lúc vài trăm nghìn người vừa chạy ra khỏi
nước vẫn ngóng trông về quê mẹ theo dõi mọi diễn tiến, ông Đằng lại
phong cho anh Sơn chức Thiếu Tá quân đội nhân dân (Cộng Sản) làm như anh
ấy đã là tay chân hữu công của họ từ bao giờ. Anh Sơn còn bị phải mang
trên áo quân hàm thiếu tá Cộng Sản. Với thành kiến sẵn có, đồng bào hải
ngoại lại ghét bỏ và chê bai anh ấy bằng những thậm từ mà chúng tôi, với
tất cả lương tâm, phải giải toả. Âu đây cũng là một trách nhiệm tinh
thần đối với anh ấy đã nằm xuống cũng như đối với các văn nghệ sĩ chân
chính khác.
Mãi
đến tháng 5 năm 2004, trên Nguồn số 2 và những số kế tiếp, Giáo Sư
Nguyễn Thanh Ty đã viết rất trung thực và rất chi tiết về anh Sơn vì
chẳng những là đồng khoá sư phạm, đồng liêu trong ngành giáo dục, cùng
nhà trọ trong 5 năm liền và rút gọn là bạn vong niên không cùng sở đắc
nhưng rất hiểu biết nhau. Tác giả Về Một Quãng Đời của Trịnh Công Sơn
không hề biết anh ấy “có hay không là Cộng Sản hay thiên Cộng hoặc đi
giữa... suốt những năm sống chung với Sơn, tôi không thấy Sơn có một
hành động cụ thể nào khả dĩ gọi là có vẻ Việt Cộng...” Cũng trong loạt
bài này, đoạn cuối “Giã Từ”, Giáo Sư Ty không nói rõ nhưng chúng ta thấy
rất hiển nhiên là Trịnh Công Sơn bị “bảo vệ” bao vây gìn giữ chặt chẽ,
bạn thân và bà con không đến gần thăm viếng được. Một câu hỏi nghiêm
chỉnh và xác đáng: Là nhân vật quan yếu như thế nào để anh Sơn có “bảo
vệ”??? Phải chăng anh Sơn đang chịu tù lỏng gọi là quản thúc, một biện
pháp công an không còn là khó hiểu và đã trở thành khá phổ thông. Có
thể, bề ngoài, trước mắt dân chúng anh ấy vẫn được Cộng Sản biệt đãi.
Một cách công bằng, chúng tôi ghi nhận, cũng trong loạt bài này, Giáo Sư
Ty đã nêu lên nghi vấn “trừ khoảng năm 1965, Sơn nhận được rất nhiều
thư của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường và tiếp theo là những cuộc tiếp xúc bí
mật tại một trang trại ở Phi Nôm gần Tùng Nghĩa, Đà Lạt.” Những cuộc
tiếp xúc như thế nào không hề được chứng minh nhưng dù sao cũng đã xảy
ra từ hơn bốn năm trước (1965-1969).
Chúng
tôi xin trở lại với buổi gặp gỡ anh Sơn tại văn phòng Ngành Đặc Biệt.
Chúng tôi có thể xác định rằng anh Trịnh Công Sơn không tha thiết với
chính trị, không tham muốn quyền chức. Anh ấy viết nhạc với tất cả tim
và óc nhưng không đi tìm cho mình một chỗ đứng hay vị trí bản thân trong
văn học sử, bộ môn nhạc. Anh ấy viết vì thiên chức nhằm truyền cảm,
nhằm diêu phô những dòng tư tưởng đang đỏ rực hay đốt cháy tâm hồn của
chính anh. Có thể, chúng tôi đã nhầm và đã huyền thoại hoá cuộc đời và
sinh hoạt tư tưởng của anh ấy chăng?
Cuộc
đàm luận chính sự đã là quá dài đối với anh ấy. Để đổi không khí, chúng
tôi quay qua nói chuyện về các chủ đề văn nghệ, các xu hướng văn nghệ
có tính thời đại và các văn nghệ sĩ tiêu biểu.
Chúng tôi điện thoại cho Thiếu Tướng (Trần Văn) Hai, tư lệnh để lãnh hội ý kiến và quyết định. Chúng tôi hỏi D6 các dữ kiện pháp lý có thể nêu ra trước toà án.
Chúng tôi điện thoại cho Thiếu Tướng (Trần Văn) Hai, tư lệnh để lãnh hội ý kiến và quyết định. Chúng tôi hỏi D6 các dữ kiện pháp lý có thể nêu ra trước toà án.
Chúng tôi vui vẻ đùa với anh rằng “anh sẽ được đi về nhà” đúng như lời anh nói, ý anh muốn lúc bắt đầu nói chuyện. Anh ấy cười nửa miệng và quên cám ơn theo công thức và sáo ngữ.
Chúng
tôi ngỏ ý muốn gặp anh dăm ba tuần một lần để thăm viếng, nói chuyện,
uống trà hay nhậu. Anh đã đến mỗi lần hẹn. Chúng tôi gặp nhau không bí
mật nhưng kín đáo. Chúng tôi gặp nhau như hai người bạn dù có sự chênh
lệch tuổi tác. Chúng tôi thường nghe anh ấy nói chuyện về xu thế văn học
nghệ thuật. Chúng tôi không xem anh ấy như một cộng sự viên tình báo mà
là người em khó tính cần được chiều đãi. Linh diệu vẫn mãi mãi là
phương châm trong các hoạt động tình báo. Linh động để đạt diệu ứng: anh
chị em trong Ngành Đặc Biệt chưa dễ đã ai quên. Chúng tôi đã tiếp xúc
với Trịnh Công Sơn vì nghiệp vụ. Chúng tôi đã quí mến anh ấy vì sự
nghiệp văn học (bộ môn nhạc) do anh ấy để lại cho đời. Chẳng kém Phạm
Duy, anh ấy đã có hơn 150 tác phẩm với tình tự dân tộc thâm thuý, với
tình yêu đôi lứa gắn liền với đồng lúa chín với mẹ già, không chút lãng
mạn, nếu chúng ta hiểu từ lãng mạn một cách thông thường như một thành
ngữ bình dân. Cho đến hôm nay, ở Mỹ hay các nơi khác trên thế giới, nhạc
Trịnh Công Sơn vẫn được ái mộ. Chúng ta với quốc gia chủ nghĩa dù cực
đoan đến thế nào vẫn không hiếu chiến, vẫn không muốn thấy khăn tang
trên đầu trẻ thơ. Nhan nhản ở miền Bắc, trong chế độ Việt Nam Xã Hội Chủ
Nghĩa và cũng nhan nhản ở miền Nam trong chế độ Việt Nam Cộng Hoà không
thiếu giống ký sinh trùng phát triển trong chiến tranh, tạo dựng gia
tài kếch xù nhờ chiến tranh và lừng lững ôm gọn nào bổng nào lộc, tiền
rừng bạc biển do chiến tranh. Không có chiến tranh, họ chỉ là một lũ
chuột hay bọn vô tài giương mắt ếch nhìn đời. Và chỉ bọn họ mù loà không
nhìn thấy tất cả tang tóc đau thương chưa từng có từ thời lập quốc Hồng
Bàng: hàng triệu gia đình mất ngưòi thân yêu, hàng triệu trẻ con mồ
côi, hàng triệu thiếu phụ goá bụa, hàng triệu kẻ cụt tay chân, bò lê hay
bò lết giữa phố chợ, làng mạc ruộng vườn thành tro thành khói. Chống
chiến tranh là đúng, là không sai miễn là không dưới danh nghĩa và chỉ
đạo của phong trào “hoà bình” xảo trá Cộng Sản.
Trịnh Công Sơn sinh năm 1939 đã nằm xuống ở tuổi ngoài 62 dường như vào năm 2001.
Chúng
tôi nghe và chưa phối kiểm được rằng trước khi trút hơi thở cuối cùng,
anh ấy đã tỏ ý từ chối không muốn được chôn cất trong Nghĩa Trang Liệt
Sĩ của Cộng Sản. Nếu Cộng Sản chủ xướng cho anh một đám tang phù hoa,
điều đó chẳng làm chúng ta ngạc nhiên. Tiểu xảo vẫn là sở trường của họ.
Viết
đến đây, chúng tôi được nói chuyện qua điện thoại với Giáo Sư Nhan T
H... vừa đến Mỹ định cư ở quận Cam theo diện bảo lãnh. Giáo Sư H. cho
biết chính giáo sư bị Cọng Sản trù vì niệm Phật trong giờ học tập sinh
hoạt và chính Trịnh Công Sơn cũng bị kiểm thảo gay gằt và “trù’ nặng vì
những ca khúc sáng tác sau 1975 ví dụ như bài “Những Con Mắt Trần Gian
với lời hát “Những con mắt tình nhân nuôi ta biết nồng nàn. Những con
mắt thù hận cho ta đời lặng câm. Những mắt biếc cỏ non xanh cây trái
địa đàng. Những con mắt bạc tình cháy tan ngày thần tiên. Ngày ra đi với
gió ta nghe tình đổi mùa. Rừng đông rơi chiếc lá, ta cười với âm u.
Trên quê hương còn lại ta đi qua nửa đời, chưa thấy được ngày vui...” Cộng Sản đã nặng lời với anh Sơn rằng cách mạng vô sản thành công, tất cả đều huy hoàng tại sao Trịnh Công Sơn lại bảo “nửa đời chưa thấy ngày vui... ai bạc tình để cháy tan ngày thần tiên... để ta cười với âm u... cho ta đời lặng câm.”
Dù
sao, không ít người được hả dạ khi bằng hữu/thân nhân của anh ấy đã
thực hiện được một ngôi mộ khang trang cho một tài năng đã đoạn tuyệt ra
đi. Một ánh sao băng sáng rực nhưng vừa chợt tắt.
Anh
ấy đã ra đi nhưng bao vấn nạn còn để lại. Chúng tôi đã thực lòng viết
ra đây về anh ấy, nhân danh một cựu nhân viên tình báo đã từng bới xới
tìm hết tì vết của anh để truy tố. Anh ấy đã nằm xuống và trở thành vô
hiệu hoá toà án, công tố, bị can, biện hộ. Tất cả nay trong quyền xét
đoán vì văn học sử của mỗi độc giả.
Chúng tôi giang tay và cúi đầu thật thấp cầu nguyện chỉ mong linh hồn anh tìm được sự an nghỉ chốn vĩnh hằng.
NGUYỄN MÂU
(Trích từ cuốn N.D.B. NGÀNH ĐẶC BIỆT [The Special Branch] của Nguyễn Mâu, xuất bản tại San Jose, năm 2007, trang 215-33)
*
ĐỖ THÁI NHIÊN * GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH
ĐỗTháiNhiên
Xã hội là môi trường sống của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giúp con người giao lưu với xã hội. Sống đồng nghĩa với đối thoại. Tuy nhiên ngôn ngữ là ngôn ngữ chung. Xử dụng ngôn ngữ chung để diễn tả tâm tình riêng vốn là một công việc vô cùng khó khăn và phức tạp. Dưới chế độ độc tài hà khắc, người thực thi quyền lên tiếng đã phải vừa vận dụng năng lực lên tiếng với tất cả khó khăn của ngôn ngữ chung, vừa tinh vi lách tránh công an văn hóa, công an giáo dục bằng kỹ thuật: dùng cái hư làm nổi bật cái thực, nhắc đến cái thực với ẩn ý đẩy sự suy nghĩ hướng về cái hư.
Đó là lý do giải thích tại sao trong lòng của chế độ CSVN đã xuất hiện một số hiện tượng lên tiếng mang nội dung kỳ bí gần như huyền hoặc. Không khí kỳ bí và huyển hoặc kia là cả một lời mời gọi, thiết tha bao nhiêu, xoáy tim óc bấy nhiêu. Mời gọi công luận hãy chiêm ngưỡng các chiến sĩ lên tiếng đang ngày đêm bay lượn để tìm cho được quyền tự do ngôn luận trong nền trời tràn ngập kẽm gai và rào cản trên quê hương Việt
Câu chuyên như sau: Thac sĩ Nguyễn Thị Bích Hạnh, tốt nghiệp Đại Học Đà Lạt về môn văn. Tháng 9 năm 2007 theo chương trình thu hút nhân tài của tình Quãng Nam, Bích Hạnh được mời dạy môn văn tại trường trung học phổ thông Nguyễn Bỉnh Khiêm, tỉnh Quãng Nam. Ngày 01 tháng 06 năm 2009, sở giáo dục và đào tạo Quãng Nam quyết đinh cho thạc sĩ Bích Hạnh thôi việc.
Cơ quan này nêu lý do : Bích Hạnh đã “sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền những nội dung trái với quan điểm của chính sách nhà nước; xuyên tạc đường lối của đảng, chủ trương pháp luật của nhà nước, vi phạm quan điểm nội dung giáo dục trong việc cập nhật khai thác, truyền bá trang web phản động, phản giáo dục” (Hết lời dẫn)
Ngày 04 tháng 06 năm 2009, qua cuộc phỏng vấn được phóng viên Thiên Giao của dài Á Châu Tự Do thực hiện, Thac sĩ Bích Hạnh cho biết: Trong thời gian dạy học tại Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bích Hạnh có đề cập đến 04 sự kiện sau đây: 1) Sự kiện (1): Sau giờ giảng dạy về tác phẩm “Hai Đứa Trẻ” của Thạch Lam, Bích Hạnh khuyên học trò nên tự nghiên cứu, tim tòi thêm trên internet. Cô giáo thạc sĩ Bích Hạnh ân cần nói cho học trò biết trên mạng internet có nhiều tài liệu “rất thú vị”(chữ dùng của Bích Hạnh).
“Hai Đứa Trẻ” là truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam, Nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Hai chị em Liên và An là hai đứa trẻ. Họ là cư dân của một phố huyện hẻo lánh. Đời sống ở đây nghèo nàn, buồn chán và không lối thoát. Hàng ngày Liên và An chỉ trông chờ tới tối để được ngắm nhìn chuyến tàu đêm từ xa ghé qua phố huyện. Tàu đêm là một đoàn tàu sang trọng, tiện nghi, màu sắc và ánh sáng rực rỡ. Tàu đêm là cửa sổ giúp người dân phố huyện nhìn ra thế giới bên ngoài. Tàu đêm vừa là tấm gương vừa là giấc mơ để phố huyện vươn mình lên. So với thế giới tiến bộ ngày nay, đất nước Việt Nam chẳng khác nào phố huyện của Thạch Lam ngày xưa. Nếu tàu đêm là của sổ của phố huyện thì internet là cửa sổ của Việt Nam. Internet mở ra trước mắt Việt Nam, trước mắt lớp học do cô giáo Bích Hạnh hướng dẫn cả một xã hội quốc tế phồn vinh trên nền tảng dân chủ và nhân quyền.
Đó là lý do giải thích tại sao sau giờ giảng văn có chủ đề “Hai Đứa Trẻ” thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Hạnh đã nói với học trò về internet. 2) Sự kiện (2): Tiếp tục đề cập tới những tin tức trên internet, Bích Hạnh cho học trò biết Cô có đọc một bài viết trên web mạng của giáo sư Lê Hữu Mục. Bài này chứng minh: Nhật Ký Trong Tù không phải của ông Hồ. Một học trò của Bích Hạnh phản đối ý kiến vừa nêu với lời lẽ nguyên văn rằng: “ Bác Hồ là thần tượng của cả dân tộc, tại sao lại có thông tin như vậy?” Bích Hạnh ôn tồn trả lời học trò: “ Cô tin sự thật, cái đẹp, chân lý luôn luôn tồn tại, cho dù ai đó có tìm cách phủ nhận” Ý kiến của cậu học trò về ông Hồ là ý kiến theo cảm tính, ý kiến của ngừơi có nhiều năm bị dạy dỗ bằng giáo dục nhồi sọ. Ý kiến của cô giáo là ý kiến của lý trí. Bích Hạnh nhấn mạnh: “Chân lý luôn luôn tồn tại dù ai đó tìm cách phủ nhận” Dĩ nhiên “ai đó” ở đây là đảng CSVN chứ không là giáo sư Lê Hữu Mục.
Vấn đề không là ông Hồ có phải là thần tượng của dân tộc Việt Nam hay không, vấn đề chính là ông Hồ có đích thực là tác giả của Nhật Ký trong Tù hay không? Chân lý mà cô Bích Hạnh muốn nói tới chính là chân lý rằng: Ông Hồ là người có biệt tài ăn trộm, ăn trộm tên, ăn trộm vợ, ăn trộm văn thơ và đặc biệt nhất là ăn trộm quyền hành của nhân dân. 3) Sự Kiện (3): Đối với bài học “Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn”, bằng vào kiến thức tổng quát, mọi người đều thừa biết: người phỏng vấn phải đặt câu hỏi ngắn gọn, đúng trọng tâm. Người trả lời phỏng vấn phải đáp trả chính xác nội dung câu hỏi.
Tránh kiểu trả lời gian dối, nhất là gian dối trắng trợn. Cô giáo Bích Hạnh nhận định về người trả lời phỏng vấn như sau: “Cách trả lời phỏng vấn rất quan trọng. Nó cho người ta biết người trả lời phỏng vấn có kiến thức bao nhiêu, văn hóa như thế nào, văn hóa ứng xử ra sao.” (Hết lời dẫn) Sau các nhận định vừa kể, cô Bích Hạnh nói với phóng viên đài Á Châu Tự Do rằng: “ Tôi có lấy một thí dụ bên lề là khi Nông Đức Mạnh ra nước ngoài, có người hỏi: “ Ở Việt Nam nhiều người nói ông là con bác Hồ, ông nghĩ sao về điều này?”.
Tôi nói với học sinh, tôi nghe phong thanh ông ta không nói có, cũng không trả lời không, chỉ trả lời “Ở Việt Nam ai chẳng là con, là cháu bác Hồ”.(Hết lời dẫn)
Câu trả lời của Nông Đức Mạnh hiển nhiên là kiểu đối đáp của những tay cờ bạc bịp trên các vỉa hè nơi thị tứ. Vì vậy cô giáo Bích Hạnh chỉ cần thuật lại cho hoc sinh nghe câu chuyện Nông Đức Mạnh mà không cần kèm theo lời bình luận nào. 4) Sự Kiện (4): từ Nông Đức Mạnh nhìn lại Hồ Chí Minh, vẫn trong cuộc phỏng vấn ngày 04/06/2009, thạc sĩ Bích Hạnh phân trần với đài Á Châu Tự Do rằng: “Tôi chỉ dạy học trò cách trả lời phỏng vấn. Tôi không có ý định nói bác Hồ có con riêng hay chuyện này chuyện kia. Nhưng ban tuyên giáo tỉnh ủy Quãng Nam nói cô Hạnh nói bác Hồ có con riêng. Đồng thời, còn có một nội dung trong đó cô nói không nên thần thánh hóa bác Hồ. Tôi không nói là không nên thần thánh hóa bác Hồ. Tôi nói rằng mọi thiên tài đều là con người. Trước khi nhìn nhận là một thiên tài, hãy nhìn nhận dưới góc cạnh một con người để thấy chất người trong con người của họ” (Hết lời dẫn)
Những trình bày của Cô giáo Bích Hạnh cho thấy vị giáo viên thạc sĩ này đã khôn ngoan tránh xa vấn đề có nên thần thánh hóa ông Hồ hay không. Thay vào đó, Bích Hạnh đề nghi mọi người hãy nhìn Hồ Chí Minh dứơi góc cạnh của một con người trước khi đưa ông Hồ lên hàng thần thánh. Về mặt con người, Hồ Chí Minh là người có nhiều ngày sanh khác nhau, ngày chết không ghi chính xác, suốt đời không một lần nhắc đến cha, đến mẹ. Những ngày gần qua đời ông Hồ chỉ mong được đi gặp ông Karl Marx, ông Lenine. Ông, Bà Tổ Tiên và Trời Phật không có trong đầu của ông Hồ. Hồ Chí Minh là người mang nhiều tên họ khác nhau, đặc biệt là tên Trần Dân Tiên, tác giả những bài Hồ ca tụng Hồ. Mặc dầu ẩn trốn dưới nhiều tên khác nhau ông Hồ vẫn bị dư luận ghi nhận là người phạm nhiều tội ác nhất trong thế giới của những tay độc tài. Không một vị thánh nào lại có quá khứ tồi tệ như Hồ Chí Minh. Nói cách khác chỉ có những người không bình thường về mặt trí tuệ mới thần thánh hóa Hồ Chí Minh.
Đó là thông điệp mà thạc sĩ Bích Hạnh muốn gửi cho học trò của Cô chung quanh vấn đề thần thánh hóa Hồ Chí Minh. Với học vị thạc sĩ do chính chế độ Hà Nội đào tạo, cô giáo Bích Hạnh tiến vào trường trung học Nguyễn Bỉnh Khiêm theo lời mời “thu hút nhân tài” của tỉnh Quãng Nam. Từ vị trí được chế độ ưu đãi như vừa kể thạc sĩ Bích Hạnh đã lạnh lung từ bỏ mọi quyền lợi riêng tư để dũng cảm nói lên hai chân lý: Một là chế độ Hà Nôi từ Hồ chí Minh trở xuống bao gồm toàn những ma quỹ, khoác áo thần thánh.
Họ là kẻ tham ô không giới hạn, hại dân không cảm giác, bán nước không lưỡng lự. Hai là muốn đất nước cất cánh tiến bộ, người Việt Nam cần tích cực theo giỏi internet để hiểu biềt tường tận thế nào là sự gắn bó giữa kinh tế thị trường và chính trị dân chủ nhân quyền. Song song với việc học hỏi internet như vừa nói toàn dân Việt Nam cần phải đào thải chế dộ Hà Nội bằng mọi phương cách nhằm mở đường cho sự xuất hiện của thể chế tự do dân chủ. Điều đặc biệt nhất là thạc sĩ Nguyễn thị Bích Hạnh đã dũng cảm bước những bước cứu nước một cách tinh vi và khoa học đến độ không một viên chức nào của chế độ, kể cả công an, dám trực tiếp đối mặt với Bích Hạnh để thẩm vấn và tranh luận. Nhà cầm quyền Hà Nội chỉ có thể âm thầm cho Bích Hạnh thôi việc. Quả thực, trong mọi tình huống của lịch sử, Việt Nam không bao giờ vắng bóng nữ anh thư./.
ĐỗTháiNhiên (http://www.vietvusa.com)
Cô Giáo bị buộc thôi việc vì khuyến khích học sinh tìm hiểu thông tin trên Internet
Thiện Giao, phóng viên RFA
2009-06-04
Báo chí Việt Nam gần đây đưa tin một giáo viên dạy văn tại trường chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, tỉnh Quảng Nam, là thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Hạnh, bị cho thôi việc vì “sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền những nội dung trái với quan điểm của chính sách Nhà Nước.
Photo courtesy of blog Gió Mới
Cô Hạnh còn bị buộc tội "xuyên tạc đường lối của Đảng, chủ trương pháp luật của Nhà nước, vi phạm quan điểm nội dung giáo dục trong việc cập nhập khai thác, truyền bá trang web phản động, phản giáo dục.”
Chúng tôi liên lạc với nhà giáo này để tìm hiểu sự việc. Cô cho biết, cô tốt nghiệp thạc sĩ tại Đại Học Đà Lạt với luận văn có đề tài “Hoàng Cầm Trong Tiến Trình Thơ Việt Nam Hiện Đại.” Và cô cũng nói rằng, chính cô đã chọn Quảng Nam làm mảnh đất khởi đầu cho nghề dạy học của mình. Xin giới thiệu bài phỏng vấn của biên tập viên Thiện Giao với cô Nguyễn Thị Bích Hạnh sau đây.
Quyết định này không rõ ràng. Bản thân họ, những người ra quyết định, cũng không hiểu rõ những chuyện giữa tôi và học trò.Cô giáo Nguyễn Thị Bích Hạnh
Bị điều tra và buộc thôi việc
Thiện Giao: Xin được hỏi, các danh từ “thôi việc,” “đuổi việc,” và “ngưng hợp đồng,” danh từ nào phù hợp nhất với hoàn cảnh của chị?
Nguyễn Thị Bích Hạnh: Tôi nghĩ không có danh từ nào phù hợp với hoàn cảnh của tôi cả.
Tôi nghĩ tôi làm việc với tinh thần nghiêm túc và với tâm huyết của một nhà giáo. Quyết định của Sở Giáo Dục làm tôi không hài lòng.
Quyết định này không rõ ràng. Bản thân họ, những người ra quyết định, cũng không hiểu rõ những chuyện giữa tôi và học trò. Họ chỉ nghe thông tin từ học trò, từ công an và từ những người khác. Họ làm việc với nhau rất lâu, và rồi đưa ra quyết định buộc thôi việc tôi.
Tôi thấy rằng hành động của họ là vi phạm quyền dân chủ và không tôn trọng nhân quyền. Họ xử lý công việc liên quan đến tôi mà không hỏi ý kiến tôi và ngay khi công an điều tra sự việc, họ cũng không gặp tôi. Họ chỉ áp lực sang Sở và Sở đưa đến quyết định như vậy.
Thiện Giao: Cơ quan nào có tiếng nói quyết định trong vụ của chị?
Nguyễn Thị Bích Hạnh: Cơ quan có tiếng nói quyết định trong sự thôi việc tôi là Sở Giáo Dục. Nhưng trước đó thì Sở không biết điều gì cả. Công an điều tra trước, điều tra học trò rất kỹ, rất lâu. Sau đó thì họ gặp Hiệu Trưởng, làm việc với Giám Đốc Sở, và Sở đưa ra quyết định buộc thôi việc tôi.
Thiện Giao: Giữa chị và trường Nguyễn Bỉnh Khiêm có hợp đồng làm việc không?
Nguyễn Thị Bích Hạnh: Tôi về tỉnh Quảng Nam theo diện thu hút nhân tài. Sở Giáo Dục phân tôi về trường chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm.
****
Quý vị đang theo dõi cuộc phỏng vấn Đài chúng tôi với cô giáo dạy văn Nguyễn Thị Bích Hạnh, người vừa bị cho thôi việc tại trường chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm vì “xuyên tạc đường lối của Đảng … truyền bá trang web phản động …” Thạc sĩ Bích Hạnh cho biết cô khuyến khích học trò chuyên của mình bớt chơi game mà nên dành thời gian tìm kiếm tri thức trên mạng. Cô đã giới thiệu với học trò các website, chẳng hạn talawas, Hợp Lưu, Tiền Vệ. Liên quan đến luận văn thạc sĩ, cô Bích Hạnh cũng nhận định “Nhân Văn Giai Phẩm cùng nhóm Sáng Tạo là 2 nhóm có khả năng cách tân thơ, cách tân nền văn học Việt Nam. Tiếc rằng nhóm Nhân Văn Giai Phẩm đã bị dập tắt nhanh chóng…” Xin tiếp tục theo dõi cuộc phỏng vấn sau đây.
***
Khi dạy xong theo phân phối chương trình, tôi có nói rằng các bạn về nhà, đào sâu, tự nghiên cứu, tự tìm tòi thêm về tác phẩm. Các bạn có thể tham khảo thêm tài liệu trên mạng vì hiện nay trên mạng có nhiều bài viết đăng tải thông tin rất thú vị.Cô giáo Nguyễn Thị Bích Hạnh
Tuyên truyền chống Nhà nước?
Thiện Giao: Báo chí nói chị có những bài giảng không đúng đường lối chính sách luật pháp của Nhà Nước. Theo trí nhớ, chị có nói những điều như vậy với học trò của mình?
Nguyễn Thị Bích Hạnh: Tôi có nói, nhưng với nội dung thế này. Khi lên lớp, tôi dạy bài “Hai Đứa Trẻ,” một bài tiếng Việt, một bài phỏng vấn và trả lời phỏng vấn.
“Hai Đứa Trẻ” là bài giảng văn rất hay, nhưng thời lượng không cho phép. Khi dạy xong theo phân phối chương trình, tôi có nói rằng các bạn về nhà, đào sâu, tự nghiên cứu, tự tìm tòi thêm về tác phẩm. Đây là một tác phẩm hay, các bạn có thể tham khảo thêm tài liệu trên mạng vì hiện nay trên mạng có nhiều bài viết đăng tải thông tin rất thú vị.
Tôi cũng nói không phải bài viết nào trên mạng cũng hay. Có những bài hay, nhưng cũng có những bài chúng ta đọc và chọn lựa thông tin.
Tôi có nói các bạn cần cẩn thận với thông tin trên mạng, vì gần đây “cô đọc một bài viết trên mạng của giáo sư Lê Hữu Mục nói rằng Nhật Ký Trong Tù không phải của Bác Hồ.”
Tôi nói các bạn cần cẩn thận khi xử lý thông tin. Lúc đó, một em học sinh phát biểu rằng Bác Hồ là thần tượng của cả dân tộc, tại sao lại có thông tin như vậy. Tôi trả lời, rằng “cô tin sự thật, cái đẹp, chân lý luôn luôn tồn tại, cho dù ai đó có tìm cách phủ nhận, nó vẫn tồn tại.”
Tiếp theo, tôi dạy tiết “phỏng vấn và trả lời phỏng vấn.” Tôi nói với học trò, cách trả lời phỏng vấn rất quan trọng. Nó cho người ta biết người trả lời phỏng vấn có kiến thức bao nhiêu, văn hóa như thế nào, văn hóa ứng xử ra sao.
Khi đưa ra quyết định, họ kết tội tôi hạ bệ lãnh tụ và cấu kết với thế lực thù địch nước ngoài để làm diễn biến hòa bình.Cô giáo Nguyễn Thị Bích Hạnh
Tôi có lấy một ví dụ bên lề, là khi Nông Đức Mạnh ra nước ngoài, có người hỏi “ở Việt Nam nhiều người nói ông là con Bác Hồ, ông nghĩ sao về điều này.” Tôi nói với học sinh, tôi nghe phong phanh ông ta không nói có, cũng không trả lời không, chỉ trả lời “ở Việt Nam, ai chẳng là con, là cháu bác Hồ.”
Tôi chỉ dạy học trò cách trả lời phỏng vấn. Tôi không có ý định nói Bác Hồ có con riêng hay chuyện này chuyện kia. Nhưng Ban Tuyên Giáo Tỉnh Ủy Quảng Nam nói cô Hạnh nói Bác Hồ có con riêng, và Tuyên Ngôn Độc Lập và Nhật Ký Trong Tù không phải của Bác. Đồng thời còn có một nội dung trong đó cô nói không nên thần thánh hóa Bác Hồ.
Tôi không nói là không nên thần thánh hóa bác Hồ. Tôi nói rằng mọi thiên tài đều là con người. Trước khi nhìn nhận là một thiên tài, hãy nhìn nhận họ dưới góc cạnh một con người để thấy chất người trong con người của họ. Tôi không hề có ý định hạ bệ lãnh tụ hay xuyên tạc, phản động. Nhưng Ban Tuyên Giáo kết luận tôi nói 4 nội dung như thế.
Khi đưa ra quyết định, họ kết tội tôi hạ bệ lãnh tụ và cấu kết với thế lực thù địch nước ngoài để làm diễn biến hòa bình.
Thiện Giao: Bây giờ chị định như thế nào?
Nguyễn Thị Bích Hạnh: Khi nhận quyết định, tôi nghĩ tội này là tội của một ai đó chứ không phải tội mà người ta gán ghép cho tôi. Vì vậy, tôi có ý định viết bài, đăng báo và gởi đơn khiếu kiện lên Sở, yêu cầu Sở giải trình nguyên do dẫn tới buộc thôi việc tôi.
Thiện Giao: Xin cám ơn thời gian của chị.
Copyright © 1998-2009 Radio Free Asia. All rights reserved.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/teacher-get-fired-for-encouraging-students-finding-information-on-the-internet-TGiao-06042009091256.html?searchterm=NoneVỀ TRỊNH CÔNG SƠN
THƯ NGUYÊN ĐẮC XUÂN (NGƯỜI TRONG CUỘC) GỬI HS TRỊNH CUNG (1)
(Nguyễn Đắc Xuân)
Bạn đọc kinh mến.
Vừa qua, nhà văn Nguyễn Đắc Xuân ở Huế đã gửi qua email cho Ngô Minh bức thư dài của anh gửi họa sĩ Trịnh Cung. Tôi đọc kỹ và thấy rằng bức thư tâm huyết này sẽ giải đáp cho nhiều bạn đọc rõ hơn TRỊNH CUNG LÀ AI ? tại sao TC lại viết bài TRỊNH CÔNG SƠN VÀ THAM VỌNG CHÍNH TRỊ. Anh Nguyễn Đắc Xuân bảo rằng anh chi gửi cho họa sĩ TC. Tôi đề nghị anh cho tôi được chuyển cho tờ báo mạng DAMAU.ORG, nơi đã in bài của họa sĩ TC vỀ TCS. Đây là ý kiến anh Nguyễn Đắc Xuân đồng ý ( qua email) cho Ngô Minh gửi bài này đi các báo mạng:" Ngo Minh oi, Neu co the Ngo Minh forward bai viet cua minh cho nhung co quan bao chi nao Ngo Minh thay ho can doc. Cam on Ngo Minh. NDX ". Nay xin công bố để bạn đọc cùng chia sẻ sự thật của ngoời trong cuộc . Vì bức thư rất dài , nên NM phải chia làm nhiều kỳ. Xin bạn đọc chịu khó theo dõi.
Thư gởi họa sĩ Trịnh Cung về chuyện lừa người nổi tiếng vào chuyện tuyên truyền chính trị rẻ tiền
Huế, một ngày chớm hè 2009
Anh Trịnh Cung,
Những tuần cuối tháng 3-2009 vừa rồi, tôi không được khỏe, nhưng vẫn phải vào TP HCM để tiếp báo chí, các Đài Truyền hình nói rõ chuyện tôi tìm được Trường ca của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (NS TCS) như thế nào để giúp ca sĩ Ánh Tuyết ATB nhân ngày giỗ lần thứ tám của nhạc sĩ dàn dựng trường ca nầy vào tối ngày 1-4-2009 tại Nhà hát Hòa Bình vừa qua. Không ngờ trong thời gian đó thì anh - họa sĩ Trịnh Cung - người mệnh danh là bạn thân thiết với Trịnh Công Sơn lại bừng bừng khí thế chuẩn bị món quà cúng giỗ lần thứ tám cho bạn mình bằng bài viêt "Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị.
Món quà cúng giỗ của anh dành cho NS TCS làm cho người gần kẻ xa phải trào nước mắt. Họ khóc vì tức giận anh, khóc vì thương NS TCS không may có một người bạn như anh và đồng thời cũng có người khóc vì cám ơn sự dũng cảm của anh đã "hạ" được thần tượng Trịnh Công Sơn trong lòng họ. Báo Thanh Niên (ngày 4 và 5-4-09), hàng chục trang Web trong và ngoài nước nóng lên với hàng mấy trăm ý kiến phản biện món quà ngày giỗ NS TCS của anh. Thiển nghĩ như thế đã đủ và chỉ còn chờ sự tiếp thu của anh nữa mà thôi. Nhưng không ngờ nhiều độc giả trong và ngoài nước, trong đó có cả các con của tôi mà anh đã gặp, gởi e-mail, gọi điện thoại, gặp trực tiếp, đại ý bảo tôi: NĐX là bạn của NS TCS, bạn của họa sĩ Trịnh Cung, bạn của hầu hết những tên tuổi được nêu trong bài viết của Trịnh Cung, những quan hệ, những hoạt động của họ ít nhiều có liên quan đến NĐX, nếu Nguyễn Đắc Xuân không lên tiếng có nghĩa Nguyễn Đắc Xuân đồng lõa, hoặc có nghĩa những gì Trịnh Cung viết đều đúng cả.
Anh Trịnh Cung,
Ta
quen nhau đến nay vừa tròn nửa thế kỷ (1959-2009). Lúc ấy anh mới ở
làng Chụt, P. Vĩnh Nguyên, Nha Trang ra học Mỹ Thuật, còn mang tên
Nguyễn Văn Liễu, làm thơ với bút danh Thương Nguyệt. Trong anh em có Cao
Hoàng Nhân, Chiêm Đàm, Thanh Nhung, Ái Phượng Liên... Cuộc sống rất
nghèo, nhưng lúc đó chúng ta rất quý nhau. Về sau, tôi vào Đại học Sư
phạm, anh ra trường Mỹ Thuật và rời Huế nên thỉnh thoảng mới gặp nhau.
Trong các bài viết của tôi về thơ Huế, tôi luôn nhắc đến giai đoạn chúng
ta làm thơ cùng Cao Hoàng Nhân. Sau 1975, thỉnh thoảng tôi gặp lại anh,
có lúc ở Ngã tư Phú Nhuận, có lúc ở tòa soạn báo Lao Động, cũng có lúc
giải khát với Trịnh Công Sơn ở Hội Văn nghệ TP HCM. Tôi mừng anh là một
sĩ quan chiến tranh chính trị của quân đội VNCH cũ mà hội nhập được một
cách dễ dàng với cuộc sống của Sài Gòn đổi thành TP HCM.
Anh có cuộc sống mới khá sung túc, làm việc có hiệu quả, nổi danh họa, cũng nổi danh viết, lại có bà vợ trẻ hơn 40 tuổi, có thêm con trai. Sau ngày bà Điềm Phùng Thị về Huế và sau mấy cái tang Trịnh Công Sơn, Bửu Chỉ, chúng ta gặp nhau luôn. Ta chơi với nhau vì tình bạn, và cùng vì chung sự quý mến những tài năng văn nghệ của các nhân tài quê vợ (đã quá cố) của anh. Anh mời tôi cộng tác với anh làm cuốn sách Trịnh Công Sơn (1939-2001), cuộc đời, âm nhạc, thơ, hội họa và suy tưởng (Nxb Văn Nghệ TP HCM, 2002). Thế rồi, qua William Joiner Center, chúng ta có những ngày tháng 4 và 5 -2007 ngao du trên đất Mỹ. Giữa hai người, một kháng chiến chống Mỹ cũ và một cựu sĩ quan tâm lý chiến VNCH làm việc cho Mỹ, tuy quan điểm văn học nghệ thuật có khác nhau nhưng trong đời thường không có gì xung đột với nhau cả. Tôi rất quý NS TCS nên rất quý những bạn bè của Sơn như anh. Thế rồi không hiểu sao...anh đi dựng lên món quà "lịch sử" cúng giỗ lần thứ tám hương hồn NS TCS - người bạn quý của chúng ta làm cho tôi vô cùng sửng sốt.
** *
Anh Trịnh Cung, Với bài "Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị" đăng trên trang Web: http://damau.org/archives/5055 ngày 1-4-2009), anh cho biết "...bài viết này tôi muốn bổ sung thêm những điều mà trong các cuộc nói chuyện về TCS ở Mỹ tôi đã không thể nói hết được. Một nửa sự thật cũng chưa phải là sự thật. Tôi tin vào điều tốt đẹp của sự thật." với mục đích "cung cấp thêm tư liệu để làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS". Anh đánh giá cao những gì anh nung nấu 30 năm qua và anh sẵn sàng chấp nhận phải trả giá cho sự công bố ấy. Anh tự bạch: "Sự thật bao giờ cũng gây mất lòng, tôi đã tự hỏi mình nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm qua? Sự quằn quại của nó trong cái nhà tù ký ức cũng làm tôi đau buồn đến không chịu nổi. Giải phóng cho nó là giải phóng cho chính tôi, dù có phải bị trả giá". Nhưng dù sao, sau khi công bố những gì anh nung nấu 30 năm qua, anh cũng nhũn nhặn lịch sự kêu gọi: "Tôi xin cám ơn những ai sẽ đóng góp thêm những gì giúp cho bài viết này được hoàn hảo hơn, kể cả những phản biện". Vì anh yêu cầu, vì lời kêu gọi của bạn, tôi phải bỏ rất nhiều công sức để viết lá thư nầy.
Trước tiên tôi xin anh, xin độc giả gần xa, bạn bè thân quen cũ mới cho phép tôi góp ý, phản biện bài viết của anh Trịnh Cung với các lưu ý sau:
Một, một người cầm bút chân chính không được dẫn chuyện riêng, đời tư của người khác, đặc biệt là chuyện của bạn bè trong đời thường vào chuyện chính trị, chuyện công. Nhưng vì anh Trịnh Cung không thực hiện điều nên tránh đó, nên khi góp ý, phản biện những gì anh đã viết trong bài Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị, buộc lòng tôi "đạp gai phải lấy gai mà lể", tôi có sử dụng nhiều hồi ức, nhièu kỷ niệm giữa những người bạn Trịnh Cung mà cũng là bạn của NS TCS và bạn tôi được anh nêu tên trong bài của anh;
Hai, ngoài bài Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị, tôi sử dụng thêm nhiều bài khác mà anh Trịnh Cung đã viết, đã nói, đã trả lời báo chí trước đó;
Ba, để "đóng góp thêm những gì giúp cho bài viết" của anh "được hoàn hảo hơn"[1] [1], tôi phải sử dụng phương pháp bình luận sử học, bình luận từng phần một bài viết của họa sĩ Trịnh Cung. Vì thế cái thư nầy khá dài, mong Trịnh Cung và bạn đọc kiên nhẫn.
** *
1. Trịnh Cung viết: "Vào năm 1971, tôi có mời Ngô Kha tới dự bữa cơm đầy năm Vương Hương, con đầu lòng của tôi tại nhà ở Phú Nhuận. Sau tàn tiệc, tôi đưa Ngô Kha ra về. Chúng tôi đi bộ từ ngã tư Phú Nhuận về hướng cầu Kiệu, khi gần đến chân cầu, Ngô Kha nói với tôi: "Cậu vào chiến khu với mình đi, có người dẫn đường đang chờ".
Tôi không ngờ lại bị Ngô Kha đưa vào thế kẹt. Lúc này, tôi đang là Trung Úy biệt phái dạy tại Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, vừa bị Nha Mỹ Thuật Học Vụ trả về lại Bộ Quốc Phòng vì được Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ"[2][2] "Để thối thác lời đề nghị ghê gớm này của Ngô Kha, tôi dừng lại trong bóng đêm bên này cầu Kiệu và nói với anh:"Ông thấy con mình vừa đầy năm, bà xã còn quá trẻ và yếu đuối, làm sao mình bỏ nhà đi vào căn cứ với bạn được. Hơn nữa mình không đồng ý cách giết người của họ ở Huế hôm Tết Mậu Thân... thôi chúc bạn lên đường may mắn!". Thế nhưng, sự việc sau đó lại đưa Ngô Kha đến một hoàn cảnh khác. Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị bắt và chịu một cái chết bi thảm"."Ngô Kha đang là em rể của Trịnh Công Sơn".
NĐX bình luận: Như trên đã dẫn, mục đích bài viết của anh là để "cung cấp thêm tư liệu để làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS". Mối quan hệ đầu tiên anh nhấn mạnh đến là NS TCS có người em rế Ngô Kha là cơ sở của Việt Cộng ở Huế, Sài Gòn. Chính Ngô Kha, sau buổi tiệc đầy năm con của anh, rủ anh vào chiến khu với Ngô Kha. Chuyện quan trọng ấy chỉ có hai người biết. Nay Ngô Kha đã bị thủ tiêu, không thể gọi hồn dậy được đẻ hỏi, vì thế phải tin lời của Trịnh Cung. Với tư cách một người bạn của Ngô Kha, một người đã có nhiều năm hoạt động ở đô thị, tôi thấy thông tin nầy của anh gợi lên nhièu điều khó hiểu.
- Ngô Kha là một thầy giáo, đỗ Cử nhân Luật, hoạt động chống chính quyền Sài Gòn lâu năm (ít nhất là từ 1966 đến 1971), sao lại thơ ngây đến mức rủ một sĩ quan chiến tranh chính trị của VNCH chưa từng có biểu hiện gì là có cảm tình với MTGP cả vào chiến khu? Nếu thơ ngây như thế thì có lẽ Ngô Kha đã mời nhiều người đã từng tham gia tranh đấu từ 1963 đến 1971 có biểu hiện "thân cộng" hơn là Trịnh Cung.
Nhưng tôi chưa nghe Ngô Kha rủ ai cả. Và, hoạt động "nằm vùng" mà thơ ngây đến như thế thì có lẽ Ngô Kha đã bị bắt từ lâu rồi chứ không đợi chi đến năm 1971 vẫn còn được tự do đi ăn đầy năm con gái Trịnh Cung;- Vì sao sau khi gặp Trịnh Cung, Ngô Kha - như Trịnh Cung viết: "Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị bắt và chịu một cái chết bi thảm" . Lý do ? Phải chăng vì đã lỡ rủ Trịnh Cung và bị Trinh Cung từ chối nên sợ lộ nên phải bỏ chuyện lên chiến khu từ Sài Gòn? - Sau khi biết chắc Ngô Kha có quan hệ với MTGP, Trịnh Cung có đi báo với những người thân quen của Trịnh Cung đang làm mật thám cho chính phủ Thiệu Kỳ không ?
- Phải chăng sau đó Ngô Kha bị Liên Thành bắt và thủ tiêu từ nguồn tin đáng tin cậy của họa sĩ Trinh Cung ? Sự thật như thế nào chỉ có Trịnh Cung biết. Nhưng với kinh nghiệm tranh đấu ở đô thị đọc bài của Trịnh Cung trong đầu tôi không thể không đặt ra những thắc mắc ấy.Giả dụ như Ngô Kha thực sự là cơ sở nội thành của MTGP, nhưng nếu không có tài liệu không ai dám qui kết Thúy - vợ Ngô Kha, cũng là cơ sở của MTGP hoặc có quan hệ với MTGP. Huống chi NS TCS là anh của Thúy, anh vợ của Ngô Kha thì có liên quan gì đến chuyện Ngô Kha hoạt động cho MTGP?
Ở miền Nam, thiếu gì những gia đình anh là sĩ quan VNCH, em là Việt Cộng nằm vùng. (Ví dụ như gia đình tôi). Những người ấy đường ai nấy đi, có liên quan gì với nhau đâu. Huống chi Ngô Kha chỉ là em rể của NS TCS. Trịnh Cung dẫn chuyện Ngô Kha để ép NS TCS có liên quan đến MTGP gượng gạo quá. Ai mà tin được cái lý lẽ trẻ con, dễ dãi đến thế của anh.Hơn nữa, nếu dùng phương pháp đặt vào miệng những người đã chết những thông tin bịa đặt theo ý mình như cách làm của Trịnh Cung, thì tôi có thể cung cấp cho giới viết tiểu sử, viết chân dung họa sĩ Trịnh Cung những chuyện sau:"Năm 1982, tôi được Thành ủy Huế cử vào TP HCM trưng bày giới thiệu văn hóa Huế ở Hội chợ tổ chức tại Vườn Tao Đàn cũ. (chắc bác sĩ Trương Thìn còn nhớ).
Họa sĩ Tôn Thất Văn đến giúp tôi trang trí cho gian hàng Huế. Trong khi làm việc tôi hỏi : "Lúc nầy Trịnh Cung làm ăn ra sao. Tôi muốn gặp để thăm ông bạn làm thơ của tôi năm xưa?" Tôn Thất Văn bảo tôi "Anh ta đi học tập cải tạo mới về được mấy năm. Hiện nay đang loay hoay kiếm sống. Nhưng mà ông không nên chơi với cái anh chàng lừa thầy phản bạn ấy làm gì. Chinh Trịnh Cung là người đã từng tìm cách lật đổ thầy Tôn Thất Đào ở Huế, người đã thừa lệnh Hoàng Đức Nhã vô ra Huế phá anh em Phong trào đúc tượng Phan Bội Châu, và nghe nói cũng chính Trịnh Cung vào Trại Cải tạo đã tố cáo anh em họa sĩ là sĩ quan biệt phái ở Huế mà "trốn cải tạo".v.v."
Chuyện tôi kể thật giả như thế nào chỉ có Trịnh Cung biết. Nhưng tôi không thể viết những chuyện ấy ra vì Tôn Thất Văn đã không còn ở trên cõi đời nầy để xác nhận cho tôi và tôi cũng không có băng ghi âm để làm bằng chứng. Nhưng nếu Trịnh Cung dựng chuyện cho Ngô Kha như trên được thì tôi cũng có thể công bố những gì Tôn Thất Văn đã nói với tôi năm 1982 như trên được. Trịnh Cung dám chơi không ?
2. Trịnh Cung viết: "Với bao nhiêu sự việc gắn kết với nhau, hoà quyện, ăn khớp, như thế mà chúng ta vẫn còn hoài nghi, vẫn biện bạch đây chỉ là một thứ tình cảm hồn nhiên hay hoa mỹ hơn, đấy là ý thức về thân phận dân tộc, tiếng nói đòi hoà bình đậm tính nhân bản cho quê hương của một người nghệ sĩ tài hoa như TCS, thì chi tiết sau đây đã được Nguyễn Đắc Xuân tiết lộ và đã xác nhận lại với tác giả bài viết này như sau: "Vào đêm ngày 29-5-1966, trên đường Trần Bình Trọng-Đà Lạt, Trần Trọng Thức (nhà báo), Nguyễn Ngọc Lan (linh mục, đã chết), Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đã cùng nhau bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước và người đưa ra sự chọn lựa rất quyết đoán và hợp ý với 3 bạn đồng hành với mình: "Không có con đường nào khác cho anh em mình ngoài Mặt trận Giải Phóng Miền Nam!". Vậy là đã quá rõ về khuynh hướng chính trị của Trịnh Công Sơn!"
NĐX bình luận: Thực chất sự kiện Trịnh Cung nêu trên như thế nào tôi đã viết trong bài Vô tình Trịnh Công Sơn có mặt trong những bước ngoặt đời tôi, (Trịnh Công Sơn có một thời như thế, Nxb Văn Học & TTNCQH, 2002, tr. 127-128). Tôi xin dẫn lại như sau: "Sắp lại cuộc cờ: Cuối tháng 4-1966, phong trào đấu tranh ở Huế cử tôi và Trần Duy Thọ (đã mất) lên Cao nguyên bàn biện pháp phối hợp với Phong trào ở Đà Lạt (do anh Hồ Hữu Nhật cầm đầu). Làm việc xong, vào đêm 30 tháng 4, mấy người bạn Huế đang có mặt ở Đà Lạt rủ nhau đi dạo phố đêm. Xuất phát từ một biệt thự của chi Sâm trên đường Trần Bình Trọng, vòng qua đồi Nhà thương để hướng lên phía phố. Ánh điện nhập nhòe trong sương mù mát dịu làm cho chúng tôi tách mình ra khỏi cái nóng bỏng của cuộc tranh đấu đang diễn ra suốt hai tháng qua ở miền Trung. Những người bạn Huế đêm ấy có Nguyễn Ngọc Lan, Trần Trọng Thức, Trịnh Công Sơn, chị Sâm (chủ biệt thự) và một ca sĩ mà sau này tôi được biết là Khánh Ly. Lúc ấy bài Tuổi đá buồn của Trịnh Công Sơn đang được ưa thích. Vừa đi Sơn vừa hát khe khẻ và bọn tôi hát theo. Cái hồn của bài nhạc gợi cho chúng tôi phải đề cập đến sự tàn bạo của cuộc chiến tranh của Mỹ đang diễn ra ở Việt Nam. Nhạc của Sơn nhưng vấn đề của bài nhạc là của cả thế hệ sống ở đô thị chúng tôi (theo cách nghĩ của tôi lúc ấy). Từ mùa hè 1965 chúng tôi đã theo khẩu hiệu trước Morin Huế "To be or not to be" (Sống hay là chết), "Không thể lấy tuổi trẻ Việt Nam làm củi đốt cho lò lửa chiến tranh". Càng tranh đấu ở đô thị thì cuộc chiến càng diễn ra ác liệt ở nông thôn và rừng núi. Nói đến chuyện chiến tranh là nói đến sự bất lực của mình.
Trịnh Công Sơn vừa đi vừa bảo chúng tôi: -"Không ai hiểu được sự bất lực của chúng ta bằng chính chúng ta". L.m. Nguyễn Ngọc Lan tiếp lời: -"Bây giờ không còn con đường nào khác là con đường của Mặt trận Giải phóng". Trịnh Công Sơn: -"Có lẽ!". Cho đến lúc đó tôi vẫn còn "thuần túy" là một sinh viên Phật tử, chưa hề có một tiếp xúc nào với cơ sở của Mặt trận Giải phóng. Nhưng không hiểu sao tôi cứ bị báo chí Sài Gòn và nhiều bạn bè nghi tôi là người của Mặt trận. Do đó mỗi khi nghe ai đề cập đến Mặt trận Giải phóng là tôi liền nghĩ họ nói để thăm dò tôi và tôi phản ứng lại bằng cách tảng lờ.
Tuy nhiên, đêm hôm đó tôi không thể tảng lờ được trước nhận định của L.m. Nguyễn Ngọc Lan và Trịnh Công Sơn. Tôi không biểu đồng tình với hai người ấy nhưng hai chữ Mặt trận Giải phóng qua miệng hai người ấy đã ẩn sâu vào tâm trí tôi. Một ánh lửa lóe lên ở cuối đường hầm của cuộc đấu tranh đô thị". Câu chuyện chỉ có thế. Chuyện tôi kể và in thành sách lúc Nguyễn Ngọc Lan còn tại thế. Ngày nay, Trân Trọng Thức còn đó, ca sĩ Khánh Ly còn bên kia. Mà có gì quan trọng đâu ? Một ý kiến tản mạn dọc đường, làm gì có chuyện như anh đã tô màu phóng to lên trong bài viết thành chuyện chúng tôi "đã cùng nhau bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước". Cuộc tranh đấu năm 1966 bị dìm trong biển máu, "con đường của lực lượng thứ ba" đã tắt, tất cả những người tham gian tranh đấu không chịu đầu hàng quân đội Thiệu Kỳ đều có ý nghĩ như L.m. Nguyễn Ngọc Lan: -"Bây giờ không còn con đường nào khác là con đường của Mặt trận Giải phóng". Trịnh Cung vin vào ý kiến "Có lẽ!" của NS TCS mà khẳng định rằng Trịnh Công Sơn là hoạt động cho MTGP là chụp mũ một cách dễ dãi quá!
Mà cần gì phải bịa đặt, lượm lặt những thông tin rời rạc rồi kết lại thành chuỗi chứng minh "TCS thiên Cộng", "Trịnh Công Sơn hoạt động cho MTGP". Chỉ cần nghe lại các Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam (1968), Ta Phải Thấy Mặt Trời (1969), Phụ Khúc Da Vàng (1972), trong những tập này nhiều bài mang tính, và dùng cả từ "cách mạng" cũng có thể thấy rõ khuynh hướng nghiêng về phía MTGP của Trịnh Công Sơn rồi. Cũng giống như Jean Paul Sartre chống chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Có ai bảo J.P.Sartre là cơ sở của MTGP đâu? Thầy Nhất Hạnh với Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện[3] [3],
Phạm Duy với Kỷ vật cho em cũng " thiên Cộng" sao ? Và bản thân tôi như anh đã biết với Để lại cho em (lời Tâm ca số 5), Nhân danh, Chuyện hai người lính (thơ NĐX, được Phạm Duy phổ nhạc), nhiều người nghĩ tôi hoạt động cho MTGP nhưng lúc làm các bài thơ đó nào tôi có biết gì về MTGP đâu! - Vừa rồi có người ngồi bên quán cà-phê bên đầu cầu Trường Tiền đọc bài viết của anh, họ đặt câu hỏi: "So với nhiều họa sĩ trong Hội họa sĩ Trẻ Sài Gòn lúc đó, Trịnh Cung không có gì nổi trội lắm, vì lý do gì mà anh ấy lại được:"Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ" ? Chắc họa sĩ trẻ Trịnh Cung có công gì đó với chính quyền thân Mỹ anh mới được ưu ái đến thế chứ?"
Tôi phản ảnh lại để anh rõ. Nếu có dịp anh nên giải đáp thắc mắc ấy. Anh Trịnh Cung, Như anh đã biết, hoạt động cho MTGP vô cùng nguy hiểm đến sự nghiệp, đến tánh mạng, không lương tiền, đói, khát, bệnh tật, nhiều khi còn bị chính người của MTGP nghi ngờ nữa, thế mà sao giới trí thức có tư duy dân tộc lúc ấy lại hướng về MTGP đông đến thế? Trong bài viết của anh, phần lớn những người tai mắt đương thời đều hoạt động cho MTGP cả! Vì lý do gì ? Có phải vì khát vọng hòa bình, chấm dứt chiển tranh, thống nhất đất nước, thống nhất dân tộc không? Có phải vì tiếng nói của lương tri không? Bất cứ ai quen biết anh lúc ấy đều có thể trả lời câu hỏi đó một cách dễ dàng. Nhưng anh thì sao? Câu chuyện "con đường của MTGP" giữa chúng tôi nêu trên anh mới nghe lõm bõm gần đây thôi. Anh cũng mới hỏi tôi hồi cuối tháng 3-2009 vừa rồi. Thông tin "thân cộng" nầy của NS TCS chắc không nằm trong những gì anh đã nung nấu 30 năm qua phải không ?
3. Trịnh Cung viết:"Những ngày trước 30-4-75, Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn. Người thân cộng thì hí hửng, người quốc gia thì lo âu và tìm đường bỏ nước. Mọi thứ sinh hoạt đều tê liệt, tôi nằm trong số người chịu trận, bế tắc, no way out. Trong thời điểm tinh thần sa sút này, tôi thường ghé qua nhà TCS để tìm một thông tin tốt lành vì anh có nhiều mối quan hệ, nhưng cũng không được gì vì TCS từ chối ra đi và cho biết sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá trong chính phủ Dương Văn Minh lên thay Thiệu-Kỳ, em trai TCS là đại uý Trịnh Quang Hà sẽ được giao làm Cảnh sát Trưởng quận 2 (nay là quận 1).
Thế là xong, TCS sẽ tham gia chính quyền được chuyển từ tay Nguyễn Văn Thiệu để thương lượng hoà bình với quân GP đang bao vây Sài Gòn và doạ sẽ tắm máu Sài Gòn nếu VNCH không buông súng." NĐX bình luận: Anh đã qui kết cho NS TCS là hoạt động MTGP vì có em rể Ngô Kha hoạt động cho MTGP đã bị thủ tiêu, "đã cùng nhau (Nguyễn Ngọc Lan, Trần Trọng Thức, Nguyễn Đắc Xuân...) bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước".v.v thế vì sao đến lúc MTGP sắp thắng lợi anh không đến nhờ NS TCS -người của MTGP, giúp đỡ che chở cho anh với chính quyền mới mà lại đến "tìm một thông tin tốt" để tìm đường bỏ nước "ra đi" và anh đã hết sức thất vọng vì "TCS từ chối ra đi". Từ ý thức chính trị như thế đến hành động như thế anh có thơ ngây, mâu thuẫn không ? Như trên đã bình luận, năm 1971, Ngô Kha hoạt động cho MTGP mời một anh sĩ quan VNCH vào chiến khu.
Trước 30-4-1975, họa sĩ Trịnh Cung- một anh sĩ quan VNCH chạy tới nhà một người hoạt động cho MTGP để tìm đường bỏ nước ra đi. Không thể nói là thơ ngây mà phải nói là ấu trĩ, khôi hài. Anh hạ uy tín của NS TCS bằng cách giải thích việc NS TCS từ chối ra đi vì "tham vọng chính trị" vì "sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá trong chính phủ Dương Văn Minh". Anh cho biết chuyện nầy do kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đống đạo diễn. Đối với tôi, KTS Đống không phải là người xa lạ, ngay bây giờ tôi có thể gặp anh dễ dàng, tôi có thể "sếc" lại chuyện đó thực hư như thế nào, nhưng tôi không quan tâm nên không cần "sếc". Bởi vì tôi biết rất rõ vì sao NS TCS không bỏ nước ra đi ngay trước 30-4-1975, sau đó và mãi mãi cũng không ra đi, không ra đi dù tất cả người thân trong gia đình (trừ bà Thanh - thân mẫu của nhạc sĩ) đã lần lược ra đi. Vì một lý do rất đơn giản: Từ sau năm 1972, Mỹ đã bắt tay Trung Quốc, họ không cần dùng Miền Nam Việt Nam làm "tiền đồn chống Cộng nữa, ở lại Việt Nam thiệt hại về người và của quá, lại bị dân Mỹ phản đối kịch liệt nên họ buộc lòng phải ký Hiệp định Paris 1973, rút quân, giao cuộc chiến tranh chống Cộng lại cho VNCH.
Để tránh cuộc chiến người trong một nước giết nhau, NS TCS hoan nghinh chủ trương hòa hợp, hòa giải dân tộc của MTGP, anh đã sáng tác các bài Hà Nội Huế Sàigòn, Nối vòng tay lớn để hô hào, cổ vũ cho tinh thần hòa hợp, hòa giải dân tộc. Các bài nhạc được quần chúng hết sức hoan nghênh. Tôi chưa hề được biết có dư luận nào phản đối các bài nhạc đó. Ngày 30-4-1975, chiến tranh chấm dứt tại Sài Gòn mà không đổ máu, ước mơ trong các bài hát của NS TCS đã trở thành hiện thực. Có hạnh phúc nào bằng? Rồi ngay trong cái giờ phút lịch sử kết thúc 30 năm chiến tranh Việt Nam vô cùng thiêng liêng đó, NS TCS có mặt ở Đài Phát thanh Sài Gòn hát Vòng Tay Lớn cho toàn dân nghe, cho thế giới biết, tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc của Việt Nam.
Vinh dự biết bao! Thế hệ chúng tôi tự hào có NS TCS phát lên tiếng gọi hòa hợp hòa giải dân tộc đầu tiên ngay sau khi chấm dứt chiến tranh. Làm một người nghệ sĩ, NS TCS chỉ cần sự kiện sáng tác Nối vòng tay lớn, hát Nối vòng tay lớn như thế là đã có tên trong bảng đồng bia đá rồi. Trịnh Cung - mang tâm cảnh của một người lính thất trận làm sao hiểu được hạnh phúc của NS TCS trong giờ phút vinh quang ấy nên mới đến nhà Trịnh Công Sơn tìm đường chạy ra nước ngoài. Xin hỏi Trịnh Cung, giả dụ như lúc đó NS TCS chạy ra nước ngoài với anh thì Sơn sẽ đạt được điều gì? Nếu ra nước ngoài mà vinh quang hơn tại sao sau nầy anh có nhiều chuyến đi Mỹ anh không xin tỵ nạn bên đó mà lại cứ về Việt Nam?
Tư tưởng nhân bản nhất của NS TCS là tinh thần hòa hợp, hòa giải dân tộc. Yêu quý NS TCS là không ngừng hoạt động cổ vũ tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc của nhạc sĩ. Bao giờ anh Trịnh Cung chưa cởi bỏ được tâm trạng hối tiếc mất chế độ VNCH thì anh không thể nào hiểu được Trịnh Công Sơn - người anh khâm phục, mến mộ và là bạn thân nhất của anh. Anh đừng nên lấy những chức nầy, cấp nọ tầm thường của cuộc đời nhiễu nhương vừa qua để hạ thấp vai trò lịch sử của NS TCS. Để anh hiểu rõ hơn lý do vì sao NS TCS không ra nước ngoài, tôi xin trích một đoạn trong bài phỏng vấn Với Trịnh Công Sơn một buổi đầu xuân (Mậu Dần, 1998). Toàn bài phỏng vấn đã được Trịnh Công Sơn đọc lại trước khi đăng báo Lao Động ngày 14-2-1998, và đã đăng lại trong cuốn Trịnh Công Sơn có một thời như thế (Văn Hoc 2002, tr.13-16) của tôi.[...]NĐX: [...] Anh có cảm tưởng gì trong những ngày ở Singapore cũng như những nước đã sống qua?
TCS: Theo mình, Singapore cũng như những nước phát triển khác, rất văn minh, rất hiện đại, hoàn chỉnh đến mức không gây cho mình một cảm xúc nào nữa. Do đó nó xa lạ với mình. Mới qua Singapore hai ngày mình đã muốn về VN ngay, nhưng cận Tết không đổi vé được. Nằm một tuần ở Singapore mình nhớ nhà quá sức! Nhớ dáng dấp VN, da thịt VN, giọng nói VN..
.NĐX: Đó cũng là tâm trạng của nhiều người VN ở nước ngoài lâu nay. Do thiếu quê hương nên nhiều nghệ sĩ rất giỏi vẫn không có nhiều sáng tác hay. Anh nghĩ gì về quê hương trong những ngày này?TCS: Mình vừa vượt qua được cơn bạo bệnh, mừng được thấy đất nước đổi mới từng ngày. Có sống qua những ngày gian khổ khó khăn giờ đây mới thấy được ý nghĩa của những gì có được. Một thế hệ mới đang được đào tạo cho thế kỷ XXI. Mình mong được làm người nghệ sĩ nối hai thế kỷ.
NĐX: Anh có nhớ cái thuở bọn mình lớn lên trong chiến tranh?
TCS: Nếu được đào tạo như bây giờ thì chắc chắn bọn mình không phải như bây giờ. Chính trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước, mỗi con người trong chúng ta phải tự đi tìm cho mình một cách thế riêng, tự khẳng định mình."
NS TCS có nói thêm với tôi một câu nữa mà lúc đó tôi không tiện viết ra: "Thú thật, mình xa cái đất nước nầy mình chịu không nổi và cũng không sáng tác được ông à ! Bọn mình mà sống sướng chưa chắc đã làm được như đã làm ! Mình sáng tác trong hoàn cảnh khó khăn, trong lúc vui buồn với đất nước. Sống sướng về vật chất chưa chắc đã sáng tác được. Sống mà không sáng tác được làm sao sống ông ? Các em mình chúng đi hết rồi. Nếu mình bị bắt ra nước ngoài chắc mình phải vượt biên ngược về thôi !".
Suốt mấy chục năm chơi với NS TCS có bao giờ Trịnh Cung được nghe một lời tâm sự như thế không ? Tôi đoan chắc chưa bao giờ. 4. Trịnh Cung viết: "Từ sự kiện tại Đà Lạt mà Nguyễn Đắc Xuân đã nhắc đến ở trên cho đến ngày 30-4-75 không có một chỉ dấu nào cho thấy có mối liên lạc về mặt tổ chức giữa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trịnh Công Sơn. Thậm chí khi anh được kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái đưa đến Đài Phát Thanh Sài Gòn để hát bài Nối Vòng Tay Lớn mừng chiến thắng lịch sử 30-4-75, TCS, tác giả của ca khúc có tính dự báo cho ngày huy hoàng này của quân Giải phóng và bi thảm cho phía VNCH, cũng bị Tôn Thất Lập, một nhạc sĩ chủ chốt trong phong trào Hát Cho Đồng Bào đã thoát ly đi theo MTGPMN, đuổi ra khỏi phòng thu: "Mày có tư cách gì mà hát ở đây!"...
NĐX bình luận: Với ba sự kiện nêu trên, anh cố chứng minh NS TCS là người của MTGP hoặc có nhiều sáng tác nghiêng về MTGP. Đên đây anh lại viết "Từ sự kiện tại Đà Lạt (4-1966) mà Nguyễn Đắc Xuân đã nhắc đến ở trên cho đến ngày 30-4-75 không có một chỉ dấu nào cho thấy có mối liên lạc về mặt tổ chức giữa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trịnh Công Sơn"
Như vậy anh đã mâu thuẫn với anh, trái với mục đích anh muốn đạt đến là "làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS". Hay anh phải bất chấp sự mâu thuẫn ấy để có đủ lý lẽ giải thích sự việc NS TCS vào Đài Phát thanh Sài Gòn hát Nối vòng tay lớn trưa hôm 30-4-1975 để "bị Tôn Thất Lập, một nhạc sĩ chủ chốt trong phong trào Hát Cho Đồng Bào đã thoát ly đi theo MTGPMN, đuổi ra khỏi phòng thu: "Mày có tư cách gì mà hát ở đây!"? Không rõ ai đã cung cấp thông tin nầy cho Trịnh Cung, theo tôi hồi cuối năm 1974, Tôn Thất Lập, Nguyễn Xuân Lập và một số thanh niên sinh viên Sài Gòn Huế gặp nhau ở Hà Nội. Cuối tháng 3-1975 Tôn Thất Lập và Võ Như Lanh có mặt ở Paris. Ngày Giải phóng miền Nam 30-4-1975, Tôn Thất Lập đang ở Pháp. Và cũng được biết đến tháng 8-1975 Tôn Thất Lập mới về nước. Nên không thể có chuyện Tôn Thất Lập tàng hình về Sài Gòn đuổi Trịnh Công Sơn như anh viết.
Ngày 7-4-2009, trả lời Đài BBC, anh khẳng định những gì anh viết trong bài Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị là đúng sự thực và anh chịu trách nhiệm. Anh chịu trách nhiệm về sự bịa đặt nhạc sĩ Tôn Thất Lập "đuổi Trịnh Công Sơn ra khỏi phòng thu" trưa ngày 30-4-1975 như thế nào? Anh xuyên tạc hạ nhục NS TCS vào đúng cái giờ phút vinh dự nhất, hạnh phúc nhất của cuộc đời Trịnh Công Sơn. Đồng thời anh cũng gây một sự mất mác giữa hai nhạc sĩ cùng quê, cùng thời, cùng là bạn đồng hành trên con đường giải phóng dân tộc. Đến bao giờ anh mới có lời xin lỗi công khai về sự bịa đặt khốn khổ nầy ? Nếu anh không có lời xin lỗi thích đáng tôi tin những bạn bè, những người yêu Việt Nam từ suối nguồn âm nhạc Trịnh Công Sơn sẽ đưa anh ra tòa.
ngominh | 20 April, 2009 15:03
(Nguyễn Đắc Xuân)
Bạn đọc kinh mến.
Vừa qua, nhà văn Nguyễn Đắc Xuân ở Huế đã gửi qua email cho Ngô Minh bức thư dài của anh gửi họa sĩ Trịnh Cung. Tôi đọc kỹ và thấy rằng bức thư tâm huyết này sẽ giải đáp cho nhiều bạn đọc rõ hơn TRỊNH CUNG LÀ AI ? tại sao TC lại viết bài TRỊNH CÔNG SƠN VÀ THAM VỌNG CHÍNH TRỊ. Anh Nguyễn Đắc Xuân bảo rằng anh chi gửi cho họa sĩ TC. Tôi đề nghị anh cho tôi được chuyển cho tờ báo mạng DAMAU.ORG, nơi đã in bài của họa sĩ TC vỀ TCS. Đây là ý kiến anh Nguyễn Đắc Xuân đồng ý ( qua email) cho Ngô Minh gửi bài này đi các báo mạng:" Ngo Minh oi, Neu co the Ngo Minh forward bai viet cua minh cho nhung co quan bao chi nao Ngo Minh thay ho can doc. Cam on Ngo Minh. NDX ". Nay xin công bố để bạn đọc cùng chia sẻ sự thật của ngoời trong cuộc . Vì bức thư rất dài , nên NM phải chia làm nhiều kỳ. Xin bạn đọc chịu khó theo dõi.
Thư gởi họa sĩ Trịnh Cung về chuyện lừa người nổi tiếng vào chuyện tuyên truyền chính trị rẻ tiền
Huế, một ngày chớm hè 2009
Anh Trịnh Cung,
Những tuần cuối tháng 3-2009 vừa rồi, tôi không được khỏe, nhưng vẫn phải vào TP HCM để tiếp báo chí, các Đài Truyền hình nói rõ chuyện tôi tìm được Trường ca của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (NS TCS) như thế nào để giúp ca sĩ Ánh Tuyết ATB nhân ngày giỗ lần thứ tám của nhạc sĩ dàn dựng trường ca nầy vào tối ngày 1-4-2009 tại Nhà hát Hòa Bình vừa qua. Không ngờ trong thời gian đó thì anh - họa sĩ Trịnh Cung - người mệnh danh là bạn thân thiết với Trịnh Công Sơn lại bừng bừng khí thế chuẩn bị món quà cúng giỗ lần thứ tám cho bạn mình bằng bài viêt "Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị.
Món quà cúng giỗ của anh dành cho NS TCS làm cho người gần kẻ xa phải trào nước mắt. Họ khóc vì tức giận anh, khóc vì thương NS TCS không may có một người bạn như anh và đồng thời cũng có người khóc vì cám ơn sự dũng cảm của anh đã "hạ" được thần tượng Trịnh Công Sơn trong lòng họ. Báo Thanh Niên (ngày 4 và 5-4-09), hàng chục trang Web trong và ngoài nước nóng lên với hàng mấy trăm ý kiến phản biện món quà ngày giỗ NS TCS của anh. Thiển nghĩ như thế đã đủ và chỉ còn chờ sự tiếp thu của anh nữa mà thôi. Nhưng không ngờ nhiều độc giả trong và ngoài nước, trong đó có cả các con của tôi mà anh đã gặp, gởi e-mail, gọi điện thoại, gặp trực tiếp, đại ý bảo tôi: NĐX là bạn của NS TCS, bạn của họa sĩ Trịnh Cung, bạn của hầu hết những tên tuổi được nêu trong bài viết của Trịnh Cung, những quan hệ, những hoạt động của họ ít nhiều có liên quan đến NĐX, nếu Nguyễn Đắc Xuân không lên tiếng có nghĩa Nguyễn Đắc Xuân đồng lõa, hoặc có nghĩa những gì Trịnh Cung viết đều đúng cả.
Anh Trịnh Cung,
Anh có cuộc sống mới khá sung túc, làm việc có hiệu quả, nổi danh họa, cũng nổi danh viết, lại có bà vợ trẻ hơn 40 tuổi, có thêm con trai. Sau ngày bà Điềm Phùng Thị về Huế và sau mấy cái tang Trịnh Công Sơn, Bửu Chỉ, chúng ta gặp nhau luôn. Ta chơi với nhau vì tình bạn, và cùng vì chung sự quý mến những tài năng văn nghệ của các nhân tài quê vợ (đã quá cố) của anh. Anh mời tôi cộng tác với anh làm cuốn sách Trịnh Công Sơn (1939-2001), cuộc đời, âm nhạc, thơ, hội họa và suy tưởng (Nxb Văn Nghệ TP HCM, 2002). Thế rồi, qua William Joiner Center, chúng ta có những ngày tháng 4 và 5 -2007 ngao du trên đất Mỹ. Giữa hai người, một kháng chiến chống Mỹ cũ và một cựu sĩ quan tâm lý chiến VNCH làm việc cho Mỹ, tuy quan điểm văn học nghệ thuật có khác nhau nhưng trong đời thường không có gì xung đột với nhau cả. Tôi rất quý NS TCS nên rất quý những bạn bè của Sơn như anh. Thế rồi không hiểu sao...anh đi dựng lên món quà "lịch sử" cúng giỗ lần thứ tám hương hồn NS TCS - người bạn quý của chúng ta làm cho tôi vô cùng sửng sốt.
** *
Anh Trịnh Cung, Với bài "Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị" đăng trên trang Web: http://damau.org/archives/5055 ngày 1-4-2009), anh cho biết "...bài viết này tôi muốn bổ sung thêm những điều mà trong các cuộc nói chuyện về TCS ở Mỹ tôi đã không thể nói hết được. Một nửa sự thật cũng chưa phải là sự thật. Tôi tin vào điều tốt đẹp của sự thật." với mục đích "cung cấp thêm tư liệu để làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS". Anh đánh giá cao những gì anh nung nấu 30 năm qua và anh sẵn sàng chấp nhận phải trả giá cho sự công bố ấy. Anh tự bạch: "Sự thật bao giờ cũng gây mất lòng, tôi đã tự hỏi mình nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm qua? Sự quằn quại của nó trong cái nhà tù ký ức cũng làm tôi đau buồn đến không chịu nổi. Giải phóng cho nó là giải phóng cho chính tôi, dù có phải bị trả giá". Nhưng dù sao, sau khi công bố những gì anh nung nấu 30 năm qua, anh cũng nhũn nhặn lịch sự kêu gọi: "Tôi xin cám ơn những ai sẽ đóng góp thêm những gì giúp cho bài viết này được hoàn hảo hơn, kể cả những phản biện". Vì anh yêu cầu, vì lời kêu gọi của bạn, tôi phải bỏ rất nhiều công sức để viết lá thư nầy.
Trước tiên tôi xin anh, xin độc giả gần xa, bạn bè thân quen cũ mới cho phép tôi góp ý, phản biện bài viết của anh Trịnh Cung với các lưu ý sau:
Một, một người cầm bút chân chính không được dẫn chuyện riêng, đời tư của người khác, đặc biệt là chuyện của bạn bè trong đời thường vào chuyện chính trị, chuyện công. Nhưng vì anh Trịnh Cung không thực hiện điều nên tránh đó, nên khi góp ý, phản biện những gì anh đã viết trong bài Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị, buộc lòng tôi "đạp gai phải lấy gai mà lể", tôi có sử dụng nhiều hồi ức, nhièu kỷ niệm giữa những người bạn Trịnh Cung mà cũng là bạn của NS TCS và bạn tôi được anh nêu tên trong bài của anh;
Hai, ngoài bài Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị, tôi sử dụng thêm nhiều bài khác mà anh Trịnh Cung đã viết, đã nói, đã trả lời báo chí trước đó;
Ba, để "đóng góp thêm những gì giúp cho bài viết" của anh "được hoàn hảo hơn"[1] [1], tôi phải sử dụng phương pháp bình luận sử học, bình luận từng phần một bài viết của họa sĩ Trịnh Cung. Vì thế cái thư nầy khá dài, mong Trịnh Cung và bạn đọc kiên nhẫn.
** *
1. Trịnh Cung viết: "Vào năm 1971, tôi có mời Ngô Kha tới dự bữa cơm đầy năm Vương Hương, con đầu lòng của tôi tại nhà ở Phú Nhuận. Sau tàn tiệc, tôi đưa Ngô Kha ra về. Chúng tôi đi bộ từ ngã tư Phú Nhuận về hướng cầu Kiệu, khi gần đến chân cầu, Ngô Kha nói với tôi: "Cậu vào chiến khu với mình đi, có người dẫn đường đang chờ".
Tôi không ngờ lại bị Ngô Kha đưa vào thế kẹt. Lúc này, tôi đang là Trung Úy biệt phái dạy tại Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, vừa bị Nha Mỹ Thuật Học Vụ trả về lại Bộ Quốc Phòng vì được Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ"[2][2] "Để thối thác lời đề nghị ghê gớm này của Ngô Kha, tôi dừng lại trong bóng đêm bên này cầu Kiệu và nói với anh:"Ông thấy con mình vừa đầy năm, bà xã còn quá trẻ và yếu đuối, làm sao mình bỏ nhà đi vào căn cứ với bạn được. Hơn nữa mình không đồng ý cách giết người của họ ở Huế hôm Tết Mậu Thân... thôi chúc bạn lên đường may mắn!". Thế nhưng, sự việc sau đó lại đưa Ngô Kha đến một hoàn cảnh khác. Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị bắt và chịu một cái chết bi thảm"."Ngô Kha đang là em rể của Trịnh Công Sơn".
NĐX bình luận: Như trên đã dẫn, mục đích bài viết của anh là để "cung cấp thêm tư liệu để làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS". Mối quan hệ đầu tiên anh nhấn mạnh đến là NS TCS có người em rế Ngô Kha là cơ sở của Việt Cộng ở Huế, Sài Gòn. Chính Ngô Kha, sau buổi tiệc đầy năm con của anh, rủ anh vào chiến khu với Ngô Kha. Chuyện quan trọng ấy chỉ có hai người biết. Nay Ngô Kha đã bị thủ tiêu, không thể gọi hồn dậy được đẻ hỏi, vì thế phải tin lời của Trịnh Cung. Với tư cách một người bạn của Ngô Kha, một người đã có nhiều năm hoạt động ở đô thị, tôi thấy thông tin nầy của anh gợi lên nhièu điều khó hiểu.
- Ngô Kha là một thầy giáo, đỗ Cử nhân Luật, hoạt động chống chính quyền Sài Gòn lâu năm (ít nhất là từ 1966 đến 1971), sao lại thơ ngây đến mức rủ một sĩ quan chiến tranh chính trị của VNCH chưa từng có biểu hiện gì là có cảm tình với MTGP cả vào chiến khu? Nếu thơ ngây như thế thì có lẽ Ngô Kha đã mời nhiều người đã từng tham gia tranh đấu từ 1963 đến 1971 có biểu hiện "thân cộng" hơn là Trịnh Cung.
Nhưng tôi chưa nghe Ngô Kha rủ ai cả. Và, hoạt động "nằm vùng" mà thơ ngây đến như thế thì có lẽ Ngô Kha đã bị bắt từ lâu rồi chứ không đợi chi đến năm 1971 vẫn còn được tự do đi ăn đầy năm con gái Trịnh Cung;- Vì sao sau khi gặp Trịnh Cung, Ngô Kha - như Trịnh Cung viết: "Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị bắt và chịu một cái chết bi thảm" . Lý do ? Phải chăng vì đã lỡ rủ Trịnh Cung và bị Trinh Cung từ chối nên sợ lộ nên phải bỏ chuyện lên chiến khu từ Sài Gòn? - Sau khi biết chắc Ngô Kha có quan hệ với MTGP, Trịnh Cung có đi báo với những người thân quen của Trịnh Cung đang làm mật thám cho chính phủ Thiệu Kỳ không ?
- Phải chăng sau đó Ngô Kha bị Liên Thành bắt và thủ tiêu từ nguồn tin đáng tin cậy của họa sĩ Trinh Cung ? Sự thật như thế nào chỉ có Trịnh Cung biết. Nhưng với kinh nghiệm tranh đấu ở đô thị đọc bài của Trịnh Cung trong đầu tôi không thể không đặt ra những thắc mắc ấy.Giả dụ như Ngô Kha thực sự là cơ sở nội thành của MTGP, nhưng nếu không có tài liệu không ai dám qui kết Thúy - vợ Ngô Kha, cũng là cơ sở của MTGP hoặc có quan hệ với MTGP. Huống chi NS TCS là anh của Thúy, anh vợ của Ngô Kha thì có liên quan gì đến chuyện Ngô Kha hoạt động cho MTGP?
Ở miền Nam, thiếu gì những gia đình anh là sĩ quan VNCH, em là Việt Cộng nằm vùng. (Ví dụ như gia đình tôi). Những người ấy đường ai nấy đi, có liên quan gì với nhau đâu. Huống chi Ngô Kha chỉ là em rể của NS TCS. Trịnh Cung dẫn chuyện Ngô Kha để ép NS TCS có liên quan đến MTGP gượng gạo quá. Ai mà tin được cái lý lẽ trẻ con, dễ dãi đến thế của anh.Hơn nữa, nếu dùng phương pháp đặt vào miệng những người đã chết những thông tin bịa đặt theo ý mình như cách làm của Trịnh Cung, thì tôi có thể cung cấp cho giới viết tiểu sử, viết chân dung họa sĩ Trịnh Cung những chuyện sau:"Năm 1982, tôi được Thành ủy Huế cử vào TP HCM trưng bày giới thiệu văn hóa Huế ở Hội chợ tổ chức tại Vườn Tao Đàn cũ. (chắc bác sĩ Trương Thìn còn nhớ).
Họa sĩ Tôn Thất Văn đến giúp tôi trang trí cho gian hàng Huế. Trong khi làm việc tôi hỏi : "Lúc nầy Trịnh Cung làm ăn ra sao. Tôi muốn gặp để thăm ông bạn làm thơ của tôi năm xưa?" Tôn Thất Văn bảo tôi "Anh ta đi học tập cải tạo mới về được mấy năm. Hiện nay đang loay hoay kiếm sống. Nhưng mà ông không nên chơi với cái anh chàng lừa thầy phản bạn ấy làm gì. Chinh Trịnh Cung là người đã từng tìm cách lật đổ thầy Tôn Thất Đào ở Huế, người đã thừa lệnh Hoàng Đức Nhã vô ra Huế phá anh em Phong trào đúc tượng Phan Bội Châu, và nghe nói cũng chính Trịnh Cung vào Trại Cải tạo đã tố cáo anh em họa sĩ là sĩ quan biệt phái ở Huế mà "trốn cải tạo".v.v."
Chuyện tôi kể thật giả như thế nào chỉ có Trịnh Cung biết. Nhưng tôi không thể viết những chuyện ấy ra vì Tôn Thất Văn đã không còn ở trên cõi đời nầy để xác nhận cho tôi và tôi cũng không có băng ghi âm để làm bằng chứng. Nhưng nếu Trịnh Cung dựng chuyện cho Ngô Kha như trên được thì tôi cũng có thể công bố những gì Tôn Thất Văn đã nói với tôi năm 1982 như trên được. Trịnh Cung dám chơi không ?
2. Trịnh Cung viết: "Với bao nhiêu sự việc gắn kết với nhau, hoà quyện, ăn khớp, như thế mà chúng ta vẫn còn hoài nghi, vẫn biện bạch đây chỉ là một thứ tình cảm hồn nhiên hay hoa mỹ hơn, đấy là ý thức về thân phận dân tộc, tiếng nói đòi hoà bình đậm tính nhân bản cho quê hương của một người nghệ sĩ tài hoa như TCS, thì chi tiết sau đây đã được Nguyễn Đắc Xuân tiết lộ và đã xác nhận lại với tác giả bài viết này như sau: "Vào đêm ngày 29-5-1966, trên đường Trần Bình Trọng-Đà Lạt, Trần Trọng Thức (nhà báo), Nguyễn Ngọc Lan (linh mục, đã chết), Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đã cùng nhau bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước và người đưa ra sự chọn lựa rất quyết đoán và hợp ý với 3 bạn đồng hành với mình: "Không có con đường nào khác cho anh em mình ngoài Mặt trận Giải Phóng Miền Nam!". Vậy là đã quá rõ về khuynh hướng chính trị của Trịnh Công Sơn!"
NĐX bình luận: Thực chất sự kiện Trịnh Cung nêu trên như thế nào tôi đã viết trong bài Vô tình Trịnh Công Sơn có mặt trong những bước ngoặt đời tôi, (Trịnh Công Sơn có một thời như thế, Nxb Văn Học & TTNCQH, 2002, tr. 127-128). Tôi xin dẫn lại như sau: "Sắp lại cuộc cờ: Cuối tháng 4-1966, phong trào đấu tranh ở Huế cử tôi và Trần Duy Thọ (đã mất) lên Cao nguyên bàn biện pháp phối hợp với Phong trào ở Đà Lạt (do anh Hồ Hữu Nhật cầm đầu). Làm việc xong, vào đêm 30 tháng 4, mấy người bạn Huế đang có mặt ở Đà Lạt rủ nhau đi dạo phố đêm. Xuất phát từ một biệt thự của chi Sâm trên đường Trần Bình Trọng, vòng qua đồi Nhà thương để hướng lên phía phố. Ánh điện nhập nhòe trong sương mù mát dịu làm cho chúng tôi tách mình ra khỏi cái nóng bỏng của cuộc tranh đấu đang diễn ra suốt hai tháng qua ở miền Trung. Những người bạn Huế đêm ấy có Nguyễn Ngọc Lan, Trần Trọng Thức, Trịnh Công Sơn, chị Sâm (chủ biệt thự) và một ca sĩ mà sau này tôi được biết là Khánh Ly. Lúc ấy bài Tuổi đá buồn của Trịnh Công Sơn đang được ưa thích. Vừa đi Sơn vừa hát khe khẻ và bọn tôi hát theo. Cái hồn của bài nhạc gợi cho chúng tôi phải đề cập đến sự tàn bạo của cuộc chiến tranh của Mỹ đang diễn ra ở Việt Nam. Nhạc của Sơn nhưng vấn đề của bài nhạc là của cả thế hệ sống ở đô thị chúng tôi (theo cách nghĩ của tôi lúc ấy). Từ mùa hè 1965 chúng tôi đã theo khẩu hiệu trước Morin Huế "To be or not to be" (Sống hay là chết), "Không thể lấy tuổi trẻ Việt Nam làm củi đốt cho lò lửa chiến tranh". Càng tranh đấu ở đô thị thì cuộc chiến càng diễn ra ác liệt ở nông thôn và rừng núi. Nói đến chuyện chiến tranh là nói đến sự bất lực của mình.
Trịnh Công Sơn vừa đi vừa bảo chúng tôi: -"Không ai hiểu được sự bất lực của chúng ta bằng chính chúng ta". L.m. Nguyễn Ngọc Lan tiếp lời: -"Bây giờ không còn con đường nào khác là con đường của Mặt trận Giải phóng". Trịnh Công Sơn: -"Có lẽ!". Cho đến lúc đó tôi vẫn còn "thuần túy" là một sinh viên Phật tử, chưa hề có một tiếp xúc nào với cơ sở của Mặt trận Giải phóng. Nhưng không hiểu sao tôi cứ bị báo chí Sài Gòn và nhiều bạn bè nghi tôi là người của Mặt trận. Do đó mỗi khi nghe ai đề cập đến Mặt trận Giải phóng là tôi liền nghĩ họ nói để thăm dò tôi và tôi phản ứng lại bằng cách tảng lờ.
Tuy nhiên, đêm hôm đó tôi không thể tảng lờ được trước nhận định của L.m. Nguyễn Ngọc Lan và Trịnh Công Sơn. Tôi không biểu đồng tình với hai người ấy nhưng hai chữ Mặt trận Giải phóng qua miệng hai người ấy đã ẩn sâu vào tâm trí tôi. Một ánh lửa lóe lên ở cuối đường hầm của cuộc đấu tranh đô thị". Câu chuyện chỉ có thế. Chuyện tôi kể và in thành sách lúc Nguyễn Ngọc Lan còn tại thế. Ngày nay, Trân Trọng Thức còn đó, ca sĩ Khánh Ly còn bên kia. Mà có gì quan trọng đâu ? Một ý kiến tản mạn dọc đường, làm gì có chuyện như anh đã tô màu phóng to lên trong bài viết thành chuyện chúng tôi "đã cùng nhau bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước". Cuộc tranh đấu năm 1966 bị dìm trong biển máu, "con đường của lực lượng thứ ba" đã tắt, tất cả những người tham gian tranh đấu không chịu đầu hàng quân đội Thiệu Kỳ đều có ý nghĩ như L.m. Nguyễn Ngọc Lan: -"Bây giờ không còn con đường nào khác là con đường của Mặt trận Giải phóng". Trịnh Cung vin vào ý kiến "Có lẽ!" của NS TCS mà khẳng định rằng Trịnh Công Sơn là hoạt động cho MTGP là chụp mũ một cách dễ dãi quá!
Mà cần gì phải bịa đặt, lượm lặt những thông tin rời rạc rồi kết lại thành chuỗi chứng minh "TCS thiên Cộng", "Trịnh Công Sơn hoạt động cho MTGP". Chỉ cần nghe lại các Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam (1968), Ta Phải Thấy Mặt Trời (1969), Phụ Khúc Da Vàng (1972), trong những tập này nhiều bài mang tính, và dùng cả từ "cách mạng" cũng có thể thấy rõ khuynh hướng nghiêng về phía MTGP của Trịnh Công Sơn rồi. Cũng giống như Jean Paul Sartre chống chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Có ai bảo J.P.Sartre là cơ sở của MTGP đâu? Thầy Nhất Hạnh với Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện[3] [3],
Phạm Duy với Kỷ vật cho em cũng " thiên Cộng" sao ? Và bản thân tôi như anh đã biết với Để lại cho em (lời Tâm ca số 5), Nhân danh, Chuyện hai người lính (thơ NĐX, được Phạm Duy phổ nhạc), nhiều người nghĩ tôi hoạt động cho MTGP nhưng lúc làm các bài thơ đó nào tôi có biết gì về MTGP đâu! - Vừa rồi có người ngồi bên quán cà-phê bên đầu cầu Trường Tiền đọc bài viết của anh, họ đặt câu hỏi: "So với nhiều họa sĩ trong Hội họa sĩ Trẻ Sài Gòn lúc đó, Trịnh Cung không có gì nổi trội lắm, vì lý do gì mà anh ấy lại được:"Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ" ? Chắc họa sĩ trẻ Trịnh Cung có công gì đó với chính quyền thân Mỹ anh mới được ưu ái đến thế chứ?"
Tôi phản ảnh lại để anh rõ. Nếu có dịp anh nên giải đáp thắc mắc ấy. Anh Trịnh Cung, Như anh đã biết, hoạt động cho MTGP vô cùng nguy hiểm đến sự nghiệp, đến tánh mạng, không lương tiền, đói, khát, bệnh tật, nhiều khi còn bị chính người của MTGP nghi ngờ nữa, thế mà sao giới trí thức có tư duy dân tộc lúc ấy lại hướng về MTGP đông đến thế? Trong bài viết của anh, phần lớn những người tai mắt đương thời đều hoạt động cho MTGP cả! Vì lý do gì ? Có phải vì khát vọng hòa bình, chấm dứt chiển tranh, thống nhất đất nước, thống nhất dân tộc không? Có phải vì tiếng nói của lương tri không? Bất cứ ai quen biết anh lúc ấy đều có thể trả lời câu hỏi đó một cách dễ dàng. Nhưng anh thì sao? Câu chuyện "con đường của MTGP" giữa chúng tôi nêu trên anh mới nghe lõm bõm gần đây thôi. Anh cũng mới hỏi tôi hồi cuối tháng 3-2009 vừa rồi. Thông tin "thân cộng" nầy của NS TCS chắc không nằm trong những gì anh đã nung nấu 30 năm qua phải không ?
3. Trịnh Cung viết:"Những ngày trước 30-4-75, Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn. Người thân cộng thì hí hửng, người quốc gia thì lo âu và tìm đường bỏ nước. Mọi thứ sinh hoạt đều tê liệt, tôi nằm trong số người chịu trận, bế tắc, no way out. Trong thời điểm tinh thần sa sút này, tôi thường ghé qua nhà TCS để tìm một thông tin tốt lành vì anh có nhiều mối quan hệ, nhưng cũng không được gì vì TCS từ chối ra đi và cho biết sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá trong chính phủ Dương Văn Minh lên thay Thiệu-Kỳ, em trai TCS là đại uý Trịnh Quang Hà sẽ được giao làm Cảnh sát Trưởng quận 2 (nay là quận 1).
Thế là xong, TCS sẽ tham gia chính quyền được chuyển từ tay Nguyễn Văn Thiệu để thương lượng hoà bình với quân GP đang bao vây Sài Gòn và doạ sẽ tắm máu Sài Gòn nếu VNCH không buông súng." NĐX bình luận: Anh đã qui kết cho NS TCS là hoạt động MTGP vì có em rể Ngô Kha hoạt động cho MTGP đã bị thủ tiêu, "đã cùng nhau (Nguyễn Ngọc Lan, Trần Trọng Thức, Nguyễn Đắc Xuân...) bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước".v.v thế vì sao đến lúc MTGP sắp thắng lợi anh không đến nhờ NS TCS -người của MTGP, giúp đỡ che chở cho anh với chính quyền mới mà lại đến "tìm một thông tin tốt" để tìm đường bỏ nước "ra đi" và anh đã hết sức thất vọng vì "TCS từ chối ra đi". Từ ý thức chính trị như thế đến hành động như thế anh có thơ ngây, mâu thuẫn không ? Như trên đã bình luận, năm 1971, Ngô Kha hoạt động cho MTGP mời một anh sĩ quan VNCH vào chiến khu.
Trước 30-4-1975, họa sĩ Trịnh Cung- một anh sĩ quan VNCH chạy tới nhà một người hoạt động cho MTGP để tìm đường bỏ nước ra đi. Không thể nói là thơ ngây mà phải nói là ấu trĩ, khôi hài. Anh hạ uy tín của NS TCS bằng cách giải thích việc NS TCS từ chối ra đi vì "tham vọng chính trị" vì "sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá trong chính phủ Dương Văn Minh". Anh cho biết chuyện nầy do kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đống đạo diễn. Đối với tôi, KTS Đống không phải là người xa lạ, ngay bây giờ tôi có thể gặp anh dễ dàng, tôi có thể "sếc" lại chuyện đó thực hư như thế nào, nhưng tôi không quan tâm nên không cần "sếc". Bởi vì tôi biết rất rõ vì sao NS TCS không bỏ nước ra đi ngay trước 30-4-1975, sau đó và mãi mãi cũng không ra đi, không ra đi dù tất cả người thân trong gia đình (trừ bà Thanh - thân mẫu của nhạc sĩ) đã lần lược ra đi. Vì một lý do rất đơn giản: Từ sau năm 1972, Mỹ đã bắt tay Trung Quốc, họ không cần dùng Miền Nam Việt Nam làm "tiền đồn chống Cộng nữa, ở lại Việt Nam thiệt hại về người và của quá, lại bị dân Mỹ phản đối kịch liệt nên họ buộc lòng phải ký Hiệp định Paris 1973, rút quân, giao cuộc chiến tranh chống Cộng lại cho VNCH.
Để tránh cuộc chiến người trong một nước giết nhau, NS TCS hoan nghinh chủ trương hòa hợp, hòa giải dân tộc của MTGP, anh đã sáng tác các bài Hà Nội Huế Sàigòn, Nối vòng tay lớn để hô hào, cổ vũ cho tinh thần hòa hợp, hòa giải dân tộc. Các bài nhạc được quần chúng hết sức hoan nghênh. Tôi chưa hề được biết có dư luận nào phản đối các bài nhạc đó. Ngày 30-4-1975, chiến tranh chấm dứt tại Sài Gòn mà không đổ máu, ước mơ trong các bài hát của NS TCS đã trở thành hiện thực. Có hạnh phúc nào bằng? Rồi ngay trong cái giờ phút lịch sử kết thúc 30 năm chiến tranh Việt Nam vô cùng thiêng liêng đó, NS TCS có mặt ở Đài Phát thanh Sài Gòn hát Vòng Tay Lớn cho toàn dân nghe, cho thế giới biết, tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc của Việt Nam.
Vinh dự biết bao! Thế hệ chúng tôi tự hào có NS TCS phát lên tiếng gọi hòa hợp hòa giải dân tộc đầu tiên ngay sau khi chấm dứt chiến tranh. Làm một người nghệ sĩ, NS TCS chỉ cần sự kiện sáng tác Nối vòng tay lớn, hát Nối vòng tay lớn như thế là đã có tên trong bảng đồng bia đá rồi. Trịnh Cung - mang tâm cảnh của một người lính thất trận làm sao hiểu được hạnh phúc của NS TCS trong giờ phút vinh quang ấy nên mới đến nhà Trịnh Công Sơn tìm đường chạy ra nước ngoài. Xin hỏi Trịnh Cung, giả dụ như lúc đó NS TCS chạy ra nước ngoài với anh thì Sơn sẽ đạt được điều gì? Nếu ra nước ngoài mà vinh quang hơn tại sao sau nầy anh có nhiều chuyến đi Mỹ anh không xin tỵ nạn bên đó mà lại cứ về Việt Nam?
Tư tưởng nhân bản nhất của NS TCS là tinh thần hòa hợp, hòa giải dân tộc. Yêu quý NS TCS là không ngừng hoạt động cổ vũ tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc của nhạc sĩ. Bao giờ anh Trịnh Cung chưa cởi bỏ được tâm trạng hối tiếc mất chế độ VNCH thì anh không thể nào hiểu được Trịnh Công Sơn - người anh khâm phục, mến mộ và là bạn thân nhất của anh. Anh đừng nên lấy những chức nầy, cấp nọ tầm thường của cuộc đời nhiễu nhương vừa qua để hạ thấp vai trò lịch sử của NS TCS. Để anh hiểu rõ hơn lý do vì sao NS TCS không ra nước ngoài, tôi xin trích một đoạn trong bài phỏng vấn Với Trịnh Công Sơn một buổi đầu xuân (Mậu Dần, 1998). Toàn bài phỏng vấn đã được Trịnh Công Sơn đọc lại trước khi đăng báo Lao Động ngày 14-2-1998, và đã đăng lại trong cuốn Trịnh Công Sơn có một thời như thế (Văn Hoc 2002, tr.13-16) của tôi.[...]NĐX: [...] Anh có cảm tưởng gì trong những ngày ở Singapore cũng như những nước đã sống qua?
TCS: Theo mình, Singapore cũng như những nước phát triển khác, rất văn minh, rất hiện đại, hoàn chỉnh đến mức không gây cho mình một cảm xúc nào nữa. Do đó nó xa lạ với mình. Mới qua Singapore hai ngày mình đã muốn về VN ngay, nhưng cận Tết không đổi vé được. Nằm một tuần ở Singapore mình nhớ nhà quá sức! Nhớ dáng dấp VN, da thịt VN, giọng nói VN..
.NĐX: Đó cũng là tâm trạng của nhiều người VN ở nước ngoài lâu nay. Do thiếu quê hương nên nhiều nghệ sĩ rất giỏi vẫn không có nhiều sáng tác hay. Anh nghĩ gì về quê hương trong những ngày này?TCS: Mình vừa vượt qua được cơn bạo bệnh, mừng được thấy đất nước đổi mới từng ngày. Có sống qua những ngày gian khổ khó khăn giờ đây mới thấy được ý nghĩa của những gì có được. Một thế hệ mới đang được đào tạo cho thế kỷ XXI. Mình mong được làm người nghệ sĩ nối hai thế kỷ.
NĐX: Anh có nhớ cái thuở bọn mình lớn lên trong chiến tranh?
TCS: Nếu được đào tạo như bây giờ thì chắc chắn bọn mình không phải như bây giờ. Chính trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước, mỗi con người trong chúng ta phải tự đi tìm cho mình một cách thế riêng, tự khẳng định mình."
NS TCS có nói thêm với tôi một câu nữa mà lúc đó tôi không tiện viết ra: "Thú thật, mình xa cái đất nước nầy mình chịu không nổi và cũng không sáng tác được ông à ! Bọn mình mà sống sướng chưa chắc đã làm được như đã làm ! Mình sáng tác trong hoàn cảnh khó khăn, trong lúc vui buồn với đất nước. Sống sướng về vật chất chưa chắc đã sáng tác được. Sống mà không sáng tác được làm sao sống ông ? Các em mình chúng đi hết rồi. Nếu mình bị bắt ra nước ngoài chắc mình phải vượt biên ngược về thôi !".
Suốt mấy chục năm chơi với NS TCS có bao giờ Trịnh Cung được nghe một lời tâm sự như thế không ? Tôi đoan chắc chưa bao giờ. 4. Trịnh Cung viết: "Từ sự kiện tại Đà Lạt mà Nguyễn Đắc Xuân đã nhắc đến ở trên cho đến ngày 30-4-75 không có một chỉ dấu nào cho thấy có mối liên lạc về mặt tổ chức giữa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trịnh Công Sơn. Thậm chí khi anh được kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái đưa đến Đài Phát Thanh Sài Gòn để hát bài Nối Vòng Tay Lớn mừng chiến thắng lịch sử 30-4-75, TCS, tác giả của ca khúc có tính dự báo cho ngày huy hoàng này của quân Giải phóng và bi thảm cho phía VNCH, cũng bị Tôn Thất Lập, một nhạc sĩ chủ chốt trong phong trào Hát Cho Đồng Bào đã thoát ly đi theo MTGPMN, đuổi ra khỏi phòng thu: "Mày có tư cách gì mà hát ở đây!"...
NĐX bình luận: Với ba sự kiện nêu trên, anh cố chứng minh NS TCS là người của MTGP hoặc có nhiều sáng tác nghiêng về MTGP. Đên đây anh lại viết "Từ sự kiện tại Đà Lạt (4-1966) mà Nguyễn Đắc Xuân đã nhắc đến ở trên cho đến ngày 30-4-75 không có một chỉ dấu nào cho thấy có mối liên lạc về mặt tổ chức giữa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trịnh Công Sơn"
Như vậy anh đã mâu thuẫn với anh, trái với mục đích anh muốn đạt đến là "làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS". Hay anh phải bất chấp sự mâu thuẫn ấy để có đủ lý lẽ giải thích sự việc NS TCS vào Đài Phát thanh Sài Gòn hát Nối vòng tay lớn trưa hôm 30-4-1975 để "bị Tôn Thất Lập, một nhạc sĩ chủ chốt trong phong trào Hát Cho Đồng Bào đã thoát ly đi theo MTGPMN, đuổi ra khỏi phòng thu: "Mày có tư cách gì mà hát ở đây!"? Không rõ ai đã cung cấp thông tin nầy cho Trịnh Cung, theo tôi hồi cuối năm 1974, Tôn Thất Lập, Nguyễn Xuân Lập và một số thanh niên sinh viên Sài Gòn Huế gặp nhau ở Hà Nội. Cuối tháng 3-1975 Tôn Thất Lập và Võ Như Lanh có mặt ở Paris. Ngày Giải phóng miền Nam 30-4-1975, Tôn Thất Lập đang ở Pháp. Và cũng được biết đến tháng 8-1975 Tôn Thất Lập mới về nước. Nên không thể có chuyện Tôn Thất Lập tàng hình về Sài Gòn đuổi Trịnh Công Sơn như anh viết.
Ngày 7-4-2009, trả lời Đài BBC, anh khẳng định những gì anh viết trong bài Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị là đúng sự thực và anh chịu trách nhiệm. Anh chịu trách nhiệm về sự bịa đặt nhạc sĩ Tôn Thất Lập "đuổi Trịnh Công Sơn ra khỏi phòng thu" trưa ngày 30-4-1975 như thế nào? Anh xuyên tạc hạ nhục NS TCS vào đúng cái giờ phút vinh dự nhất, hạnh phúc nhất của cuộc đời Trịnh Công Sơn. Đồng thời anh cũng gây một sự mất mác giữa hai nhạc sĩ cùng quê, cùng thời, cùng là bạn đồng hành trên con đường giải phóng dân tộc. Đến bao giờ anh mới có lời xin lỗi công khai về sự bịa đặt khốn khổ nầy ? Nếu anh không có lời xin lỗi thích đáng tôi tin những bạn bè, những người yêu Việt Nam từ suối nguồn âm nhạc Trịnh Công Sơn sẽ đưa anh ra tòa.
VỀ PHẠM DUY
An Ninh Thế Giới
Tháng 4-2009
Nhạc Phạm Duy và những điều cần phải nói.
Sau nhiều lần ngoái đầu về cố quốc, Tết năm 2005, nhạc sỹ Phạm Duy chính thức trở về với quê hương, mảnh đất luôn luôn coi trọng tình nghĩa, không bao giờ “đánh người chạy lại”. Ông đã chọn TP Hồ Chí Minh làm nới sinh sống cho những năm tháng cuối đời của mình. Sau không ít những ấp ủ, liveshow ‘Ngày trở về” của Phạm Duy đã vang lên trong một đêm diễn duy nhất tại Nhà hát lớn Hà Nội vào cuối tháng 3-2009. Sự trở về của bản thân nhạc sỹ Phạm Duy và âm nhạc của ông mới đây đã làm dậy lên một làn sóng báo chí quan tâm. Tuy nhiên, không ít điều xuất hiện trên một số phương tiện thông tin đại chúng xung quanh đêm nhạc Phạm Duy đã gây nên những bức xúc cho người chính trực.
Nhìn lại bản chất vấn đề, đánh giá một cách công bằng nhất những giá trị đích thực của Phạm Duy và âm nhạc của ông, Báo ANTG đã mở ra một diễn đàn nhỏ để mời các nhạc sỹ lớn, những người có tên tuổi có trọng lượng trong nền âm nhạc Việt Nam nói về sự kiện này.
Nhạc sỹ-NSND Trọng Bằng:
Thiếu một tấm lòng
Thư của Nguyễn Đắc Xuân gởi nhạc sĩ Phạm Tuyên sau khi đọc bài báo “Nhạc Phạm Duy và những điều cần phải nói” trên An Ninh Thế Giới Cuối Tháng (4-2009)
Huế, ngày 22 tháng 5 năm 2009
Anh Phạm Tuyên kính mến,
Có lẽ anh rất bất ngờ khi nhận được cái thư khá dài nầy của tôi. Trước tiên tôi xin lỗi đã làm mất thì giờ lão nhạc sĩ rất quý mến của người bạn vong niên ở Huế của anh.
Vừa
rồi tôi được đọc bài báo “Nhạc Phạm Duy và những điều cần phải nói”
trên An Ninh Thế Giới Cuối Tháng (4-2009) của ba anh Trọng Bằng, Phạm
Tuyên và Hồng Đăng, tôi cảm thấy có sự bất bình thường, định viết một
bài phản biện gởi cho báo, nhưng nghĩ lại thấy như thế không tiện nên
ngồi gõ cái thư nầy gởi cho anh và qua anh có thể trao đỏi ý kiến của
tôi với hai anh bạn của anh. Chuyện muốn nói với ba người mà bắt một
mình anh phải nghe quả là không công bằng. Mong anh thứ lỗi. Anh Phạm
Tuyên kính mến, Cảm tưởng đầu tiên của tôi: Bài báo của các anh không có
điều gì mới về tiểu sử trích ngang của nhạc sĩ Phạm Duy. Trong bộ sưu
tập của tôi, tôi có hàng trăm bài của các lực lượng lưu vong chống Cộng
đã dội “gió tanh, mưa máu” lên Phạm Duy vì cái tội Phạm Duy hưởng ứng
Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản VN. Và, tôi cũng có không
ít những bài viết phê phán Phạm Duy ở ngay trong nước Việt Nam trước và
sau 30-4-1975. Phạm Duy là một nhạc sĩ, một người bình thường, chứ không
phải là một kẻ sĩ.
Con người bình thường thì có khối chuyện hay và cũng lắm chuyện dở. Báo chí, sách vở và chính Phạm Duy đã, đang và cũng sẽ viết tiếp những chuyện dở của Phạm Duy. Trong hồi ký Phạm Duy đã viết nhiều chuyện dở của Phạm Duy mà những ai chưa đọc hồi ký ấy thì không thể biết được. Nhưng viết những chuyện dở ấy để hiểu mặt phải mặt trái của một nhạc sĩ lớn chứ không phải viết vì đố kỵ, vì trâu cột ghét trâu ăn giống như vụ hoạ sĩ Trịnh Cung viết về chuyện “tham vọng chính trị” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vừa công bố hồi đầu tháng 4-2009 vừa qua. (Chú thích của THD: Xem thư Nguyễn Đắc Xuân gửi Trịnh Cung.)
Tôi còn nhớ, năm 2002, trong một cuộc họp mặt của các Cựu Thiếu sinh quân VN, có cả con gái và con rể (làm Phóng viên báo SGGP) của Tướng Nguyễn Sơn với nhạc sĩ Phạm Duy tại phòng hội trường Sư Phạm đối diện với Đài Truyền hình đường Đinh Tiên Hoàng TP HCM. Nhiều Cựu Thiếu sinh quân từng hát bài Thiếu sinh quân của Phạm Duy trong vùng kháng chiến Khu IV, đã tỏ sự bất bình về chuyện Phạm Duy bỏ kháng chiến “về thành”. Trả lời, Phạm Duy đã nói rõ lý do anh “về thành”: Vì anh và gia đình không chịu được hoàn cảnh quá cực khổ lúc ấy. Về thành anh rất đau đớn mỗi khi nhận được những oán trách của anh em kháng chiến dành cho anh. Để chứng tỏ Phạm Duy rất biết, rất quan tâm đến những oán trách về chuyện “về thành” của anh, anh đọc thuộc lòng bài thơ của Huy Phương lên án anh một cách gay gắt.
Anh cũng giới thiệu rằng anh đã viết rõ lý do vì sao anh “về thành” trong Hồi ký (Có lẽ lúc qua Pháp anh Phạm Tuyên đã đọc). Cả hội trường rất bất ngờ rồi vỗ tay vui vẻ, thông cảm cho hoàn cảnh của anh. Họ xem những chuyện buồn xưa như những kỷ niệm của một thời để cùng nhau hưởng hạnh phúc đất nước hoà bình, độc lập, thống nhất và hội nhập. Sau đó mọi người mời Phạm Duy dự một buổi liên hoan cũng rất vui vẻ. Vô tình các Cựu Thiếu sinh quân đã đưa Nghị Quyết 36 của Trung ương vào cuộc sống thật nhẹ nhàng, đạt được kết quả tốt.
Chính qua những buổi gặp gỡ cảm thông như thế đã giúp Phạm Duy vững tin vào chính sách hoà hợp và hoà giải dân tộc của Đảng và nhà nước Việt Nam. Sự tin tưởng ấy thúc đẩy Phạm Duy phải về nước sớm vào năm 2005. Không rõ Hội nhạc sĩ Việt Nam, các anh Trọng Bằng, Phạm Tuyên, Hồng Đăng đã có lần nào đưa tinh thần của Nghị Quyết 36 đến với nhạc sĩ Phạm Duy chưa? Nếu chưa thì các Đảng viên quan chức của Hội nhạc sĩ Việt Nam phải kiểm điểm vì các anh đã không thực hiện Nghị quyết của Đảng.
Các anh đã hưởng ứng các nghị quyết của Đảng, sáng tác nhạc cổ vũ cho quyết tâm của dân tộc đánh thực dân Pháp, đánh Đế quốc Mỹ giải phóng miền Nam. Các anh đã nhận được những phần thưởng cao quý nhất của nhà nước. Vậy các anh đã có hành động gì, sáng tác gì có giá trị cho công cuộc hoà hợp, hoà giải dân tộc xây dựng đất nước giàu mạnh chưa? 2. Anh Phạm Tuyên, chỗ thân tình, “vừa là đồng chí vừa là anh em” tôi xin nói nhỏ với anh: Chúng ta lên án nhạc sĩ Phạm Duy bỏ kháng chiến “về thành”. Giả dụ lúc đó Phạm Duy không “về thành” mà cứ tiếp tục công tác cho đến ngày 30-4-1975, anh có tưởng tượng được tình cảnh Phạm Duy và gia đình anh ấy ở miền Bắc sẽ như thế nào không?
Với tài năng và phong cách của Phạm Duy, Phạm Duy không thể trung thành tận tuỵ với chế độ như Phạm Tuyên, không thể nhẫn nhục, chịu đựng như Tô Hải, không thể chịu ngồi yên in bóng mình trên vách như Văn Cao. Tôi tưởng tượng đến những việc có thể xảy ra với Phạm Duy như sau: Sau 1954 về Hà Nội, Phạm Duy đứng về phía những văn nghệ sĩ mà lịch sử gọi là “Nhóm nhân văn” với Hoàng Cầm. Khi ấy Phạm Duy không thể tránh được tù tội, nếu không chết trong tù thì anh ấy sẽ âm thầm viết hồi ký, bút ký, truyện ký gì đó tố cáo bôi bác chế độ ta, tàn mạt gấp nhiều lần so với hồi ký của Tô Hải đang được cư dân mạng toàn cầu chăm chú đọc hiện nay. Phạm Duy “về thành”, phải chịu tiếng “phản bội kháng chiến” nhưng bớt được cho chế độ ta một sai lầm là “đã đày đoạ một nhân tài của đất nước”.
Qua Pháp, anh đã đọc hồi ký của Phạm Duy chắc anh đã biết rõ: trong thời gian Văn Cao ngồi in bóng mình trên vách ở Hà Nội đợi kháng chiến thành công thì Phạm Duy “về thành” đã làm được những gì cho nền tân nhạc Việt Nam. Phạm Duy chịu tiếng “phản bội kháng chiến”, và anh “chuộc tội” bằng các nhạc phẩm Tình ca, Tình hoài hương, Thuyền viễn xứ, Đố ai, Nghìn trùng xa cách, Trường ca Con đường cái quan, Trường ca Mẹ Việt Nam , .v.v. [Theo thống kê của tôi có đến vài trăm bài được người yêu nhạc trước đây hay hát). Phạm Duy ra đi để trở về, chắc chắn tốt hơn những người ở lại tại chỗ rồi phải sống giả dối, chờ hưởng hết bổng lộc vinh quang của chế độ rồi quay đầu chưởi lại chế độ, chưởi đồng chí, đồng đội và chưởi luôn mình như đã xảy ra trong giới nhạc sĩ Việt Nam.
Và có ai dám bảo đảm với Đảng trong ngăn kéo, trong ổ nhớ máy vi tính của anh em ta không còn những bút ký, hồi ký, tự bạch như của Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Khải, Tô Hải không? Các anh đã có “những điều cần phải nói” với những người đã tự thú và cả những người đang chờ cơ hội để bộc lộ mình chưa? * * * 3. Anh Trọng Bằng cảnh báo nhạc sĩ Phạm Duy rằng: “Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng, vì thế ông không thể nào so sánh với nhạc sỹ Văn Cao. Không thể ví được. Văn Cao là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện.” Anh nói hộ với anh Trọng Bằng, về đoạn trích trên, tôi xin trao đổi 4 ý kiến sau:
3.1. Anh Trọng Bằng, em anh Trọng Loan, về tuổi đời cũng như tuổi nghệ thuật âm nhạc đều thuộc lứa đàn em của nhạc sĩ Phạm Duy. Một nghệ sĩ đàn em viết về một nghệ sĩ đàn anh với giọng cửa quyền, gia trưởng, lệnh lạc như thế là khiếm lễ. Với tư cách là người từng lãnh đạo ngành âm nhạc Việt Nam, nếu cần cảnh báo cho nhạc sĩ Phạm Duy biết điều gì đó thì anh Trọng Bằng nên viết một công văn gởi riêng cho nhạc sĩ Phạm Duy hơn là viết trên báo chí. Vì viết trên báo chí người trong nước và ngoài nước đọc được họ có thể hiểu lầm là cái “cửa quyền” vẫn còn tồn tại trong giới âm nhạc Việt Nam thời hội nhập quốc tế nầy;
3.2. Không rõ anh Trọng Bằng đã đọc được bài viết nào chứng tỏ nhạc sĩ Phạm Duy đã tự so sánh mình với các nhạc sĩ đã tham gia cách mạng chưa? Trong bộ sưu tập của tôi chưa có tài liệu ấy. Nhưng nếu có ai đó viết chuyện ấy thì cũng không sao. Dựa trên nguyên tắc nào, quyền hành gì mà anh bảo nhạc sĩ Phạm Duy “không thể so sánh ông (tức Phạm Duy) với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng”? Nếu viết lịch sử âm nhạc Việt Nam hồi đầu kháng chiến chống Pháp (1947-1950) tôi không thể không viết Nguyễn Xuân Khoát với Tiếng chuông nhà thờ, Đỗ Nhuận với Du kích sông Thao, Văn Cao với Trường ca Sông Lô và chắc chắn tôi không thể không viết về Phạm Duy với những Xuất Quân, Chiến Sĩ Vô Danh, Khởi Hành, Việt Bắc, Rừng Lạng Sơn, Nhớ Người Thương Binh (1947), Mùa Đông Chiến Sĩ (1947), Dặn Dò (1947), Ru Con (1947), Nhớ Người Ra Đi (1947), Tiếng Hát Trên Sông Lô (1947), Nương Chiều (1947), Về Miền Trung (Ðại Lược-Huế, 1948), Bao giờ anh lấy được đồn Tây (Quảng Bình, 1948), Bà Mẹ Gio Linh (Quảng Trị, 1948), Gánh Lúa (1949)...v.v. Tôi cũng có thể so sánh sự xông xáo của các tác giả, so sánh ảnh hưởng của các nhạc phẩm ấy trong vùng kháng chiến và cả trong vùng tạm chiếm, so sánh giá trị nghệ thuật của các tác phẩm ấy. Năm 1996, ngồi ở Quận 18 Paris, đọc tập hồi ký Thời Cách mạng kháng chiến của Phạm Duy, tôi chộp được lời nhận định nầy của Phạm Duy: “Bài Trường ca Sông Lô của Văn Cao là một tác phẩm vĩ đại. Văn Cao luôn luôn là một người khai phá và là cha đẻ của loại Trường Ca” (Cali, 1989, tr.121). Không rõ cho đến năm 1989, trong Hội nhạc sĩ Việt Nam đã có ai so sánh các nhạc sĩ những năm đầu kháng chiến chống Pháp rồi có một nhận định về một tác phẩm của Văn Cao như thế chưa ? Viết lịch sử âm nhạc Việt Nam những năm kháng chiến từ 1950 đến 1954, tôi cũng có thể so sánh để thấy sự nghiệp của tác giả Phạm Duy là một con số không. Nhưng khi viết về tình ca Việt Nam, trường ca Việt Nam, về nhạc tâm linh, Đạo Ca Việt Nam, Thiền Ca Việt Nam chưa chắc nhiều ngưòi từng tham gia kháng chiến có thể so sánh với Phạm Duy. Lịch sử diễn ra như thế thì viết như thế chứ làm sao lại bỏ qua? Bỏ qua thì còn gì là lịch sử nữa? Có phải vì không viết về Phạm Duy thì thiếu, không được, mà viết thì miễn cưỡng nên cho đến nay chưa có bộ sử tân nhạc Việt Nam nào ra hồn cả. Hay đã có mà tôi ở xứ Huế xa xôi chưa biết chăng? Nếu đã có mà tôi chưa biết thì tôi xin lỗi vậy. Nhưng nếu đã có thì vì sao các anh không báo cho giới làm báo biết để họ tham khảo, để khi viết về Phạm Duy họ viết đúng theo lịch sử của các anh. Và, nếu đã... thì làm gì có chuyện báo chí “tâng bốc, đề cao Phạm Duy quá mức” để ba anh phải buộc lòng cùng cất lời cảnh báo Phạm Duy một cách nặng nề đến vậy! Trách nhiệm của các anh ở đâu? Cơ quan nào của Đảng có thể làm thay các anh?
3.3. Anh căn cứ vào luật lệ nào mà cấm Phạm Duy không được so sánh với Văn Cao? Luật vườn hay luật ruộng? Phạm Duy so sánh với Văn Cao để thấy Văn Cao lớn hơn Phạm Duy như thế nào chứ? Cứ đọc mục từ “nhạc sĩ Văn Cao” trong google trên internet cũng có thể thấy nhiều cụm từ Phạm Duy nói về sư lớn lao của Văn Cao như thế nào. Ví dụ Phạm Duy viết: Văn Cao “Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều.” Không so sánh làm sao Phạm Duy viết được câu đó? 3.4. Anh Trọng Bằng đánh giá: “Văn Cao là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện.” Anh Phạm Tuyên ơi, anh Trọng Bằng là một nhà soạn nhạc, nguyên Tổng thư ký Hội nhạc sĩ Việt Nam mà đi đánh giá nhạc sĩ Văn Cao chi lạ rứa?
3.4.1.“Văn Cao là một con người có trình độ”, xin hỏi trình độ gì? Ở cấp bậc nào? Trình độ chính trị ? trình độ ngoại ngữ? trình độ toán học? trình độ âm nhạc? Sao lại viết quá chung chung đến như thế?
3.4.2.“là một nhà nghiên cứu dân tộc” Dân tộc nào? Với công trình gì? Có bằng Tô Ngọc Thanh, Trần Văn Khê không?
3.4.3. “ông Văn Cao là một người toàn diện” Toàn diện gì? Văn, võ, chính trị, ngoại giao, kinh tế? Diện gì anh phải nói cho rõ chứ? Còn câu nào, cụm từ nào anh Trọng Bằng nói về giá trị âm nhạc của nhạc sĩ Văn Cao đâu? Sao ông nguyên Tổng thư ký Hội nhạc sĩ Việt Nam lại đi đánh giá nhạc sĩ Văn Cao tùy tiện, dễ dãi, tầm thường đến vậy? Anh Trọng Bằng đánh giá Văn Cao như thế thì trên nước Việt Nam bây giờ có đến hằng ngàn “Văn Cao” theo kiểu Trọng Bằng chứ không như trong thực tế Việt Nam mới chỉ có một nhạc sĩ Văn Cao mà thôi. Đánh giá Văn Cao như thế là anh Trọng Bằng đã hạ Văn Cao thấp xuống đến một ngàn lần. Phải chăng vì đánh giá Văn Cao tầm thường dễ dãi đến như thế nên bao nhiêu năm các anh đã mặc cho Văn Cao ngồi in hình mình trên vách như thực tế đã diễn ra? nên sau năm 1975, Văn Cao sáng tác ca khúc Mùa xuân đầu tiên vào dịp Tết Bính thìn (1976), êm đềm, đậm đà tình người, nhưng mới phát hành đã bị tịch thu, các anh không có một lời bảo vệ? nên 1986 các anh tổ chức sáng tác quốc ca mới để thay thế Tiến quân ca của Văn Cao? May sao Mùa xuân đầu tiên vẫn được ra đời bắt đầu từ Liên xô, cuộc thi sáng tác quốc ca tiêu hao nhiều sức người. sức của nhưng rồi cũng chỉ được một bài học thất bại vì duy ý chí ngược với qui luật phát triển của nghệ thuật mà thôi. Những giá trị của âm nhạc Văn Cao không có gì có thể phủ nhận được. Các anh phê Phạm Duy kiêu, nhưng chính Phạm Duy đã đánh giá đúng Văn Cao. Theo Phạm Duy, Văn Cao là "người viết tình ca số một", "người đẻ ra thể loại hùng ca và trường ca Việt Nam"...
* * *
4. Anh Hồng Đăng viết: “So sánh một cách thẳng thắn, những bài hát của Phạm Duy có một vài bài công chúng thích và không phải bài nào công chúng cũng thích.(nđx nhấn mạnh). Nếu anh viết “Nhạc của Phạm Duy tôi chỉ thích được vài bài” thì tôi tôn trọng sở thích của anh và không dám có ý kiến gì. Nhưng anh viết chỉ “có một vài bài công chúng thích” (trong công chúng mà anh đề cập ở đây có tôi) thì không đúng. Anh Hồng Đăng là một nhạc sĩ, tác giả của sáu bảy trăm nhạc phẩm, lại nguyên là Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam khoá IV và V, Tổng biên tập tạp chí Âm nhạc (từ 1989), và tờ Thế giới Âm nhạc (từ 1996) nên tôi không dám nêu ra đây tài liệu vị trí của nhạc sĩ Phạm Duy trong lịch sử tân nhạc Việt Nam sợ múa rìu qua mắt thợ, vốn là một nhà báo, để chứng minh điều anh viết thiếu chính xác tôi chỉ dám trưng dẫn những gì tôi đang có trong tay và những hoạt động âm nhạc vừa diễn ra mấy năm gần đây.
4.1. Theo Công-ty Phương Nam cho biết, Bộ Văn hoá-Du lịch &Thể thao VN đã cho phép Công-ty Phương Nam lưu hành, in ấn 6 danh sách nhạc Phạm Duy gồm 66 bài sau đây: 1 Ngậm Ngùi, 2 Mộ Khúc,3 Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà, 4. Ngày Trở Về,5. Thuyền Viễn Xứ, 6. Quê Nghèo; 7. Tình Ca; 8. Bà Mẹ Gio Linh; 9. Nương Chiều 10 Bà Mẹ Quê; 11. Cây Đàn Bỏ Quên; 12 Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng; 13.Em Bé Quê; 14.Hoa Xuân; 15.Kỷ Niệm; 16.Ngày Xưa Hoàng Thị; 17. Nghìn Trùng Xa Cách; 18.Xuân Ca;19 Tình Hoài Hương; 20. Tình Cầm; 21. Chỉ Chừng Đó Thôi; 22. Trăm Năm Bến Cũ; 23.Vô Thường; 24. Hương Rừng; 25.Chiếc Kẹp Tóc Thơm Tho 26. Vợ Chồng Quê; 27.Tiếng Đàn Tôi; 29. Đố Ai; 30.Tiếng Sáo Thiên Thai; 31.Nụ Tầm Xuân; 32 Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà; 33.Cành hoa trắng; 34.Thương tình ca; 35.Cỏ hồng; 36.Đường em đi; 37.Chuyện tình buồn (phổ thơ Phạm Văn Bình) , 38.Tây tiến; 39.Gánh lúa; 40.Tuổi ngọc; 40.Ông trăng xuống chơi;41.Con Đường Tình Ta Đi, 42.Phượng Yêu, 43.Còn Gì Nữa Đâu 44 Thương Ai Nhớ Ai. 45.Bài Ca Sao; 46.Bài Ca Trăng; 47.Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu 48 Em Lễ Chùa Này, 49. Ngày Đó Chúng Mình; 50.Tìm Nhau, 51. Kiếp Nào Có Yêu Nhau, 52.Nha Trang Ngày Về; 53.Con Đưởng Cái Quan – Phần Miền Trung (cho phép hát trong Festival Huế);54. Yêu là chết ở trong lòng; 55.Khối tình Trương Chi; 56.Tình hờ; 57.Ngày em 20 tuổi, 58.Tóc mai sợi văn sợi dài; 59.Tuổi mộng mơ; 60.Tuổi hồng 61.Tuồi thần tiên, 62.Vết sâu; 63.Hoa rụng ven sông, 64.Tôi đang mơ giấc mộng dài; 65 Nghìn năm vẫn chưa quên; 66.Chiều Về Trên Sông. Phần lớn những nhạc phẩm được phép lưu hành của Phạm Duy đã được Phương Nam Phim dàn dựng đưa vào 5 CD: 1 - Ngày trở về, 2 - Đưa em tìm động hoa vàng; 3 - Tình hòai hương;4 - Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà;5 - Phượng Yêu. Và đã sản xuất 50.000 CD. Ngoài ra, các CD album của các ca sĩ cũng tranh thủ hát nhạc Phạm Duy như: Đức Tuấn - Hát tình ca Phạm Duy, Kiếp nào có yêu nhau, Thanh Thúy - Cỏ hồng, Tấn Sơn - Phạm Duy, người Từ Trăm Năm... Song song với 50.000 CD nhạc Phạm Duy tung ra thị trường, các đêm nhạc Phạm Duy cũng đã tổ chức và bán vé chính thức: Ngày trở về (2006), Con đường tình ta đi (2008);- Ngày trở về (Hà Nội) (2009). Được biết giá vé đêm nhạc ở Nhà hát lớn Hà Nội có đến 3 loại : 800.000Đ; 600.000Đ và thấp nhất là 400.000Đ. “Chỉ có một vài bài (nhạc Pham Duy) công chúng thích” như anh viết thì Công-ty Phương Nam không dám phiêu lưu dàn dựng 5 CD với 50.000 bản, không dám tổ chức những đêm diễn hết sức tốn kém ở cả ba miền đất nước và chắc chắn người Hà Nội sành điệu cũng không “nóng đầu” bỏ ra từ bốn trăm đến tám trăm ngàn đồng để đi nghe “một vài bài” nhạc Phạm Duy. Qua những con số thống kê trên chứng tỏ đã có một “hiện tượng” Phạm Duy. Đối với ông “anh Cả” Văn Cao cũng chưa từng tạo nên một hiện tượng như thế. Đáng lẽ chúng ta phải nhìn thẳng vào hiện tượng đó, tìm hiểu vì sao người ta lại thích nhạc Phạm Duy đến thế, các ca sĩ hát nhạc Phạm Duy, các cách dàn dựng, các cách tiếp thị làm sao mà thành công đến thế để rút kinh nghiệm. Các anh không làm việc đó mà lại dùng cái biện pháp quá cũ là “đe, nẹt” và làm ngơ trước sự thật đó.
Thưa các anh, tôi không có nhiều thì giờ và cũng không dám trích 1/5 đến 1/3 lương hưu để mua vé đi nghe nhạc Phạm Duy (trừ những lần được các bạn làm việc cho Phương Nam mời), nhưng mỗi lần đọc báo và internet biết sự thành công của những đêm nhạc Phạm Duy (đặc biệt là xuất diễn Ngày trở về ở Hà Nội 2009) tôi hết sức mừng, nói đúng hơn là sướng, “đả đời” lắm. Một là, để cho những người chống VN ở nước ngoài, những người đã dội “gió tanh, mưa máu” lên Phạm Duy khi anh hưởng ứng Nghị quyết 36 về với cội nguồn, thấy rằng người nghệ sĩ chân chính chỉ đứng trên quê hương mình, phục vụ dân chúng của mình mới được vinh dự, mới được thành công đến như thế; chứng tỏ Phạm Duy đã đi đúng đường; Hai là, qua những đêm nhạc Phạm Duy, người Việt Nam (đặc biệt là dân Thủ đô Hà Nội ) chứng tỏ cho người ngoài thấy sự sang trọng, trình độ thẫm nhạc rất cao của mình; Ba là, với sự có mặt của nhạc sĩ Phạm Duy, đêm diễn nhạc Phạm Duy ở các nhà hát lớn của Việt Nam, với những thành công của các giọng ca trẻ thuộc thế hệ thứ ba sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, với sự hưởng ứng của dân chúng Việt Nam, chứng tỏ Việt Nam đã khác xưa, đã đổi mới thật sự. Nhân đây tôi xin kể với các anh câu chuyện nầy: Tết năm 2005 ông Nguyễn Cao Kỳ - làm thủ tương rồi làm Phó Tổng thống chế độ cũ được Chính phủ ta cấp phép về nước. Ông vô Nam, ra Bắc tiếp báo chí, truyền hình, nói năng thoải mái. Gặp anh NP - một sinh viên tranh đấu từng bị ông Kỳ phái Tổng giám đốc công an VNCH Nguyễn Ngọc Loan truy bắt để giết, anh NP phải thoát ly theo kháng chiến, tôi hỏi: - Anh có đồng ý việc chính phủ mình cấp phép cho ông Nguyễn Cao Kỳ về nước và tự do thoải mái như thế không? Anh có còn thù hận chuyện ông Kỳ truy bắt anh trước đây không? Anh NP với nét mặt nghiêm nghị đáp: - Trước nhất, nếu gặp ông Kỳ thì tôi có lời cám ơn ông ấy. Nhờ ông cho người truy bắt để giết tôi, tôi mới thoát ly theo kháng chiến và tôi vinh dự được góp phần giải phóng và thống nhất đất nước. Từ ngày Thất thủ Kinh đô 1885 cho đến ngày độc lập thống nhất đất nước ngót 90 năm. 90 năm chiến đấu ấy có biết bao lớp người đã hy sinh. Vinh quang của sự hy sinh to lớn đó dành cho dân tộc Việt Nam.
Ông Nguyễn Cao Kỳ tự hào ông là người Việt Nam, ông được hưởng cái hạnh phúc đó của dân tộc. Còn chuyện trong quá khứ, ông làm gì trong bộ máy do Mỹ dựng lên để chống kháng chiến, chống phong trào tranh đấu mà tôi đã tham gia ở các đô thị miền Nam thì là chuyện của các sử gia. Không ai có ý kiến khác được. Nếu còn một người Việt Nam nào đó chưa biết quý, chưa được hưởng cái hạnh phúc dộc lập tự do mà cuộc kháng chiến mang lại thì sự hy sinh của những người làm nên chiến thắng Mùa Xuân 1975 chưa được đền đáp trọn vẹn. Tôi hoan nghinh việc ông Kỳ có mặt ở Việt Nam hôm nay.
Tôi cũng cùng có ý nghĩ như anh bạn NP. Nhạc sĩ Phạm Duy có lỗi với kháng chiến nhưng trong lịch sử âm nhạc Việt Nam buổi đầu kháng chiến Phạm Duy cũng có công hơn hẵn ông Nguyễn Cao Kỳ. Ông Kỳ được hưởng như thế thì Phạm Duy phải hơn thế chứ? Mỗi lần thấy có thêm một biểu hiện thành công của Nghị quyết 36 tôi sướng. Tôi có cảm tưởng sự thành công của nhạc sĩ Phạm Duy trên đất nước mình cũng chính là sự thành công của tôi, của chúng ta, của Đảng ta.
* * *
5. Ở đầu bài báo, anh Trọng Bằng cảnh báo nhạc sĩ Phạm Duy: “Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng”. Ở gần cuối anh Hồng Đăng lại đem Phạm Duy so sánh với một số nhạc sĩ cách mạng và gởi đến Phạm Duy một câu kết rằng: “Còn riêng một chi tiết nhỏ về chuyên môn: Các anh em nhạc sỹ sau này khai thác dân ca vào sáng tác mới giỏi hơn anh nhiều lắm,(NĐX nhấn mạnh). Có thể kể Thái Cơ, Phó Đức Phương, Trần Tiến, Nguyễn Cường, Văn Thành Nho, Nguyễn Đình Bảng, Lê Mây…” Ý kiến nầy của anh quá chủ quan. Muốn đi đến kết luận hơn thua đó ít nhất anh phải thực hiện các việc sau:
-Xét tuổi tác - Xét về hoàn cảnh - Xét về điều kiện làm viêc; - Xét về thành tựu (về số lượng) nghiên cứu, vận dụng, “khai thác dân ca vào sáng tác mới” - Xét về kết quả (về chất lượng).
Về tuổi tác Phạm Duy thuộc lớp đàn anh cùng với Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Văn Tý.v.v. thê hệ thứ nhất của tân nhạc Việt Nam, các nhạc sĩ anh nêu tên so sánh với Phạm Duy thuộc thế hệ thứ hai. Không thể đem công việc làm của thế hệ thứ nhất so sánh với công việc của thế hệ thứ hai. So sánh như thế là khập khiễng, sai;
Về hoàn cảnh: Phạm Duy sống với kháng chiến chỉ có ba bốn năm rồi “vào thành”, 25 năm (1950-1975) sống trong vùng tạm chiếm ở miền Nam với các vùng nông thôn, cao nguyên có truyền thống dân ca chìm ngập trong chiến tranh. Khi chiến tranh chấm dứt thì chạy qua Hoa Kỳ không có không khí Việt Nam để thở nữa chứ lấy đâu dân ca mà nghiên cứu vận dụng. Hoàn cảnh tiếp xúc với dân ca của Phạm Duy quá khác với hoàn cảnh của các anh Thái Cơ, Phó Đức Phương, Trần Tiến, Nguyễn Cường, Văn Thành Nho, Nguyễn Đình Bảng, Lê Mây. Các anh được sống nhiều năm hòa bình ở miền Bắc và gần 35 năm độc lập, hòa bình, thống nhất toàn cõi Việt Nam. Các anh có thể đi Đông Tây Bắc, đi khắp vùng châu thổ sông Hồng, đi sâu vào các vùng dân ca phong phú Thanh, Nghệ, Bình Trị Thiên, Tây Nguyên, Đông Tây Nam bộ. Phạm Duy với các anh không cùng một hoàn cảnh nên không thể so sánh để đưa đến kết luận hơn thua được; so sánh như vậy là gò ép, khiên cưỡng, -
Về điều kiện làm việc: Anh Phạm Duy là một nhạc sĩ tự do, sống bằng tác phẩm của mình trơ trụi giữa bộ máy chiến tranh chống kháng chiến Việt Nam của Mỹ và chính quyền tay sai ở Sài Gòn, sau 30-4-1975 lại chạy qua Mỹ bươn chãi kiếm sống nuôi bầy con dại với chính tác phẩm tân nhạc của mình, mãi gần 10 năm mới nghĩ mình có thể tiếp tục nghiên cứu, sáng tác. Trong lúc đó, nhiều trong số các anh được Hồng Đăng nêu tên sống tại Việt Nam, ăn lương nhà nước, có nhiều cơ hội đi nghiên cứu thực tế ở các vùng dân ca, được học hành, được tham khảo với các bậc thầy Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc, được đến nghiên cứư tại các vụ, viện dân tộc nhạc học tại Hà Nội và TP HCM, và cả Huế nữa.
Điều kiện môi trường đầu vào khác nhau thì làm sao có thể lấy sản phẩm của đầu ra đặt cạnh bên nhau để nói chuyện hơn thua được? So sánh như vậy là tùy tiện, dễ dãi, thiếu sức thuyết phục;
- Về thành tựu (số lượng). Thật tình tôi rất “viễn chi” con người thường trong cuộc sống thực của nhạc sĩ Phạm Duy. Nhưng tôi cũng như đa số bạn bè lứa tuổi tôi bị nhạc của Phạm Duy chinh phục bởi cái chất dân ca, cái “chất Việt”, cái chất dân tộc rất gần gũi trong nhạc của Phạm Duy. Viết lá thư nầy tôi không tiện dẫn chứng cái chất dân ca trong hàng trăm bài nhạc của Phạm Duy mà tôi đã nghe. Chỉ trong vòng 66 bài đã được phép lưu hành tôi cũng đã thấy các bài Quê Nghèo; Tình Ca; Bà Mẹ Gio Linh; Nương Chiều, Bà Mẹ Quê; Em Bé Quê; Hoa Xuân; Xuân Ca; Tình Hoài Hương; Gánh lúa; Bài Ca Sao...được sáng tạo từ các nguồn dân ca. Đặc biệt trong hai Trường ca Con Đường Cái Quan và Mẹ Việt Nam phổ biến rộng rãi ở miền Nam trước 1975 là hai tổ khúc dân ca phát triển được kết nối một cách nhuần nhuyễn tài tình.
Trường ca Con Đường Cái Quan, 19 đoản khúc, Mẹ Việt Nam, 22 đoản khúc. Có thể xem 41 (19+22) đoản khúc nầy là 41 bài “khai thác dân ca vào sáng tác mới”. Những gì tôi biết về Phạm Duy quá ít ỏi so với những gì Phạm Duy đang chuẩn bị để lại cho dân tộc để đi họp mặt với Nguyên Xuân Khoát, Văn Cao, Đỗ Nhuận .v.v. ở chốn vĩnh hằng. Bao giờ anh Hồng Đăng chưa cho tôi một danh sách về số lượng các bài “khai thác dân ca vào sáng tác mới” của từng anh em mình đã có để tôi so sánh với số lượng bài mà tôi biết của Phạm Duy thì tôi vẫn chưa tin lời anh nói về Phạm Duy là đúng được. -
Về chất lượng. Trong văn học nghệ thuật, quý hồ tinh chứ không phải quý hồ đa”. Dõi theo hai cuộc kháng chiến ta thấy có biết bao thơ hay ra đời, nhưng rồi người ta cũng chỉ thuộc và chép cho nhau ngâm nga Màu tím hoa sim (Hữu Loan), Quê hương (Giang Nam), Núi Đôi (Vũ Cao).v.v. Văn Cao chỉ sáng tác trên 10 tác phẩm[1] mà được xem như “ngưòi anh cả” về nhiều mặt trong tân nhạc Việt Nam. Trong lúc đó có nhiều người soạn đến sáu bảy trăm bài hát mà may lắm dân chúng mới nhớ được tên một vài bài. Được thế cũng đã quý lắm rồi. Do đó rất khó so sánh hơn thua về chất lượng nghệ thuật của “các sáng tác mới” “khai thác từ dân ca” của Phạm Duy và của các anh được Hồng Đăng biểu dưong. Một người ngoại đạo âm nhạc như tôi không dám bàn đến chất lượng âm nhạc (dù lớn dù nhỏ) của giới nhạc sĩ Việt Nam. Nhưng với nghiệp vụ báo chí, tôi có thể lấy sự tiếp nhận của dân chúng và của chính tôi làm thang điểm đánh giá chất lượng các ca khúc Việt Nam. -
Về sự tiếp nhận của dân chúng, các anh chưa tạo được hiện tượng nhạc Pham Duy như đoạn 4.1 nêu trên. - Về kinh nghiệm bản thân: Trước tuổi 15 (1952), tôi ở trong rừng Đà Lạt, sau đó tôi ra khỏi rừng đi học ở Đà Lạt, Đà Nẵng, Huế, vỏn vẹn có 14 năm (1952-1966), sau đó (tháng 7-1966) đi kháng chiến chống Mỹ ở chiến khu Trị Thiên. Trong 14 năm đi học, tôi có dịp được tiếp xúc với tân nhạc, với nhạc Phạm Duy. Đi kháng chiến tôi mang theo trong lòng những lời ca mang âm hưởng dân ca, âm hưởng các điệu hò, điệu lý quê tôi của Phạm Duy: Hò hố!... Hò hô!... Hò hớ hơ!... Nhớ thương về chiến khu mờ.... Biết bao người sống mong chờ... (Về Miền Trung) Xa xa tiếng chuông chùa gieo Hò ơi... ơi ới hò! Hò ơi... ơi ới hò!... (Bà Mẹ Gio Linh) Em ở lại nhà, em ơi, em ở lại nhà Vườn dâu em đốn mẹ già em thương,... tình tang... (Dặn Dò) Ðây chốn biên khu, lòng ta như nước sông Lô Khoan hỡi khoan hò, hò... hò... khoan!... (Tiếng Hát Trên Sông Lô) Từ ngày, từ ngày chinh chiến mùa thu Có chàng ra lính biên khu... ai ơi tung hoành... u u ù...(Nhớ Người Thương Binh) Các con tôi ngày nay (trên dưới 30 tuổi) đều có ăn học, có bằng cấp hơn tôi, ưa thích âm nhạc, rất thích những bài hát “khai thác từ dân ca”, đặc biệt là nhạc phát triển từ dân ca Tây nguyên của Nguyễn Cường, nhưng tôi bảo chúng hát cho tôi nghe một bài của các anh thì đứa nào cũng cười trừ.
Thực tế nó như thế đó, anh Hồng Đăng ạ, anh nghĩ lại xem thử câu nhắn gởi đến nhạc sĩ Phạm Duy “khai thác dân ca vào sáng tác mới giỏi hơn anh nhiều lắm” của anh có còn đúng không? Mà anh Hồng Đăng nầy, nền tân nhạc/nhạc mới Việt Nam trong văn hóa VN đâu chỉ có nhạc mới, đâu chỉ có kháng chiến ca, tình ca? Tôi xin lặp lại là tôi ngoại đạo âm nhạc, chỉ với vị thế của một người cầm bút xứ Huế thôi tôi cũng đã thấy trong lịch sử âm nhạc VN còn nhiều thứ nữa: Nền âm nhạc VN có Nhạc đồng quê, nhạc tuổi thơ, nhạc tuổi xanh/nhạc trẻ, nhạc tuổi hồng, nhạc phổ thơ, tâm ca, bình ca, trường ca, nhạc tâm linh (Thiền ca, Đạo ca), nhạc múa, nhạc kịch, nhạc phim.v.v. và cao nhất là nhạc bác học nhạc thính phòng, giao hưởng. Loại nhạc nào VN cũng có đỉnh cao cả. Phạm Duy chỉ làm ca khúc và dài nhất là trường ca chứ chưa hề soạn một giao hưởng nào. Trong lúc đó nhiều nhạc sĩ VN như Tôn Thất Tiết, Nguyễn Thiện Đạo, Hoàng Việt, Nguyễn Văn Thương, Ca Lê Thuần, Trọng Bằng, Đõ Hồng Quân v.v. đã có rất nhiều giao hưởng nổi tiếng trong và ngoài nước. Tuy nhiên, con trai của Phạm Duy là nhạc sĩ Duy Cường mấy chục năm qua đã không ngừng nghiên cứu âm nhạc Việt Nam và âm nhạc cổ điển Tây phưong không ngừng phấn đấu phối âm, phối khí nâng những ca khúc, những trường ca của thân sinh mình lên thành những bản hòa tấu / những tác phẩm âm nhạc thính phòng có giá trị quốc tế mà lại rất gần gũi với hơi thở và tiếng nói Việt Nam. Với tài năng của bản thân và sự tiếp tay của con cái, nhạc sĩ Phạm Duy đã chiếm được nhiều đỉnh cao trong lịch sử âm nhạc VN.
Lấy cái tội Phạm Duy bỏ kháng chiến “về thành” đặt lên cân với các đỉnh cao của Phạm Duy trong lịch sử âm nhạc Việt Nam thì một cậu sinh viên mới vào trường âm nhạc cũng có thể thấy bên nào trọng bên nào khinh. Anh Phạm Tuyên, anh Hồng Đăng có “OK” với tôi như thế không? * * * Anh Phạm Tuyên kính mến, 6. Tôi không hiểu có chuyện gì mà cả ba anh Trọng Bằng - nguyên Tổng thư ký Hội nhạc sĩ Việt Nam, anh Hồng Đăng - nguyên Phó TTK Hội NSVN và anh Phạm Tuyên - người đứng đầu Hội NS Thủ đô Hà Nội xuất hiện chung trong một bài báo cảnh báo nhạc sĩ Phạm Duy về nhiều điều như thế. Có thể nói đó là ý kiến của cả giới nhạc sĩ VN gởi đến nhạc sĩ Phạm Duy.
Nhưng đọc kỹ thì tôi thấy không có vấn đề gì nghiêm trọng cả, nhất là phần ký tên Phạm Tuyên. Vấn đề mà các anh không nghĩ tới: qua bài báo đó gợi lên chuyện của chính nội bộ giới nhạc sĩ Việt Nam chứ không phải chuyện của nhạc sĩ Phạm Duy vừa ở Hoa Kỳ về định cư ở quê nhà. Chuyện nội bộ của giới nhạc sĩ VN tôi hẹn sẽ viết gởi anh trong một lá thư khác. Thư nầy đã quá dài, tôi chỉ xin trích một ý kiến của anh sau đây để bình luận thôi: Phạm Tuyên viết: “Trong cơ chế thị trường hôm nay, tôi nghĩ cần phải thẩm định đúng giá trị thật những đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, không nên quá đề cao”. Vâng, tôi hoàn toàn đồng ý nội dung ý kiến nầy.
Nhưng nó chỉ đúng khi tác giả ý kiến đó là một vị lãnh đạo Đảng, một quan chức lãnh đạo ngành văn hoá chứ không phải một quan chức ngành âm nhạc là Phạm Tuyên. Bởi vì việc “thẩm định đúng giá trị thật những đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy” là việc của Hội nhạc sĩ VN, của Viện nghiên cứu Âm nhạc VN, của các quan chức trong Hội Nhạc sĩ VN, trong đó có nhạc sĩ Phạm Tuyên. Không ai có thể thay thế các anh để làm việc đó cả. Việc của các anh các anh không làm lại đi chê trách báo chí trong cơ chế thị trường? Đáng lẽ báo chí phê phán các anh không làm nhiệm vụ của mình mới đúng chứ? Hay các anh sẽ bảo “Vì Phạm Duy mới về nên chưa làm kịp?” Vâng, mới gần 5 năm nên chưa kịp.
Thế đối với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn dã gần 35 năm rồi các anh đã “thẩm định đúng giá trị thật những đóng góp của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn chưa? Cũng chưa? Có lẽ vì thế mà cả một cái sự nghiệp âm nhạc Trịnh Công Sơn được dân chúng trong và ngoài nước xem là đỉnh cao ấy chưa hề được ghi tên vào danh sách xét trao các giải thưởng cấp tỉnh, cấp nhà nước nào của các anh cả. Sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn đã vượt qua mọi giải thưởng. Thế các anh có biết nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ ở Quận 4 TP HCM không? Thưa thật với anh, tôi là người ngoại đạo, nếu có nói sai mong anh và các bạn của anh đại xá: Ở các đô thị miền Nam trước năm 1975, khó tìm được một nhạc sĩ tài năng, yêu nước, can đảm, cách mạng như Phạm Thế Mỹ. Theo những thông tin của những người gần gũi với Phạm Thế Mỹ thì hình như Hội nhạc sĩ VN chưa quan tâm đến Phạm Thé Mỹ. Để các anh có dịp trao đổi với Hội Nhạc sĩ VN, tôi gởi kèm theo dưới đây bản liệt kê những gì tôi biết về người nhạc sĩ sống rất vinh quang và chết trong trong âm thầm ấy. * * * 7. Tôi cũng xin tâm sự với anh Phạm Tuyên về những thông tin có liên quan đến ông bạn Trọng Bằng của anh trong tâm trí của tôi sau đây: Như anh biết, tôi vốn xuất thân trong Phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây và công tác ở chiến trường đồng bằng Trị Thiên Huế những năm đánh Mỹ ác liệt nhất (1966-1974). Tôi không được học hành nhiều, không có bằng cấp gì. Thật khác với đại đa số bạn bè tôi không tham gia tranh đấu, không hề biết kháng chiến, chỉ tập trung học hành nên đỗ đạt cao. Đối với bạn bè cùng thế hệ, tôi luôn có mặc cảm là mình dốt. Do đó từ sau ngày đi kháng chiến, tôi biết được trong hàng ngũ đồng chí, đồng đội của tôi có người được Đảng đào tạo, cho ăn học đến nơi đến chốn tôi rất tự hào. Đó là những lực lượng trí thức của tôi đối trọng với những người ở phía bên kia. Trước đây mỗi lần được xem (hoặc qua Tivi) GS NSND Trọng Bằng - tốt nghiệp trường nhạc của Liên-xô điều khiển Ban nhạc giao hưởng rất bề thế của VN tôi rất tin tưởng. Tin tưởng, tự hào về những hoạt động văn hóa chất lượng cao của VN. Nhưng rồi không ngờ năm 2006 ra Hà Nội ghé thăm các bạn cũ đồng nghiệp của tôi ở báo Lao Động, vô tình tôi nghe kể chuyện xì-căng-đan: “nhạc sĩ Trọng Bằng đạo nhạc”, tôi tá hỏa.
Các bạn kể rằng: GS NSND Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ VN tự đưa tác phẩm Ouverture Chào mừng của ông ra đề nghị xét tặng giải thưởng Hồ Chí Minh thì bị nhạc sĩ Vĩnh Cát tố cáo là tác phẩm Ouverture Chào mừng của nhạc sĩ Trọng Bằng không chỉ copy ý tưởng mà chép nguyên văn các chủ đề (thème) và cách phối âm phối khí trong bản giao hưởng số 5 của Shostakhovich và tác phẩm giao hưởng số 7 của Prokofiev. Bốn đại tá nhạc sĩ quân đội nổi tiếng là Huy Thục, Nguyên Nhung, Doãn Nho và Nguyễn Đức Toàn cũng tố cáo nhạc sĩ Trọng Bằng với nội dung tương tự. Nhạc sĩ Trọng Bằng không bảo vệ được tác phẩm của mình nên cuối cùng phải xin “rút khỏi danh sách đề cử giải thưởng Hồ Chí Minh”. Thật hú hồn.
Ông Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ VN mà đi đạo nhạc, đi tranh giải văn học nghệ thuật cao nhất nước, bị tố cáo phải rút lui thì hết chỗ nói chuyện đạo đức với bất cứ người làm nghệ thuật già trẻ, cũ mới nào rồi. Nếu không có trí thức và sự thẳng thắn của ông Vĩnh Cát và các vị Đại tá nhạc sĩ quân đội ấy thì hậu quả sẽ ra sao? Các nhạc sĩ Tôn Thất Tiết, Nguyễn Thiện Đạo ở Pháp, các nhạc sĩ Nga học cùng thế hệ với Trong Bằng ở Liên-xô cũ nghĩ gì về các nhạc sĩ, trí thức hàng đầu ở VN? Các tác giả nhạc giao hưởng đồng nghiệp của Trọng Bằng sẽ nghĩ gĩ về cái Giải thưởng Hồ Chí Minh treo trong nhà nhạc sĩ Trọng Bằng?
Hơn thế nữa người trong và ngoài nước sẽ xem cái Giải thưởng Hồ Chí Minh cao quý nhất nước như thế nào? Và, riêng những người với tài năng thực sự họ đã nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh sẽ phẫn nộ về sự không lương thiện của Trọng Bằng làm ảnh hưởng đến giá trị cái giải thưởng cao quý mà họ đã nhận như thế nào? Với một cú bị knock out như vậy đáng lẽ anh Trọng Bằng phải tu tỉnh, nhìn lại mình, kiểm điểm những ấu trỉ, những thiếu sót của mình đối với anh em đồng nghiệp, bao dung, thông cảm với những người không được may mắn như mình, vỗ về, xoa dịu những nỗi đau của đồng nghiêp.v.v. Nhưng ...than ôi!
* * *
Kính anh Phạm Tuyên, Tôi tuy nhỏ tuổi hơn các anh nhiều, nhưng cũng đã 73 tuổi, “cái tuổi xưa nay hiếm”. Nhiều đêm không ngủ được, không dám tính thêm chuyện gì nữa trong tương lai mà cứ nhớ và ngẫm lại chuyện cũ. Tôi mừng mình được may mắn có mặt trong cuộc kháng chiến trường kỳ góp phần giải phóng đất nước, nhiều bạn bè tôi ở miền Nam không được cái hạnh phúc ấy; Đến cuối đời thấm nhuần được một chút Đạo Phật, thấm thía với hai chữ nhân quả - vô thường, nên tuổi già được thanh thản. Ngẫm lại sự đời mình đã trải qua thật thấm thía. Không đâu xa, thực tế nhãn tiền cho thấy trước là tội nay là công, trước là bạn, sau là thù, xưa là thù nay là bạn, nay là công biết đâu do nhân quả mai là tội cũng nên.
Nhiều vị “mắc tội nhân văn” cũ nay đã có giải thưởng quốc gia, ông Bùi Tín là một người có công trong kháng chiến, có mặt ở Dinh Đọc Lập trưa ngày 30-4-1975 nay là “nghịch thần” lưu vong ở nước ngoài. Nhạc sĩ Phạm Duy mắc tội bỏ kháng chiến “về thành”, nhưng với sự nghiệp âm nhạc đồ sộ nhất nước VN hiện nay của ông, biết đâu một ngày đẹp trời nào đó nhạc sĩ Phạm Duy cũng được vinh danh như Văn Cao đã từng được hưởng?
Ai dám chắc nói không? Công với tội thật vô thường. Chỉ có một thứ như Trịnh Công Sơn viết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng” là không thay đổi, dù để cho gió cuốn đi vẫn không mất. Phải chăng giới văn nghệ sĩ chúng ta hôm nay vẫn còn thiếu cái ấy? Thư đã quá dài, tôi không dám làm phiền anh thêm nữa. Xin dừng bút. Kính chúc anh sức khỏe..
Nguyễn Đắc Xuân
9/1B Ng.Công Trứ, Huế Đt: 054.3823009
- e-mail: gactholoc@yahoo. com
-
Tháng 4-2009
Nhạc Phạm Duy và những điều cần phải nói.
Sau nhiều lần ngoái đầu về cố quốc, Tết năm 2005, nhạc sỹ Phạm Duy chính thức trở về với quê hương, mảnh đất luôn luôn coi trọng tình nghĩa, không bao giờ “đánh người chạy lại”. Ông đã chọn TP Hồ Chí Minh làm nới sinh sống cho những năm tháng cuối đời của mình. Sau không ít những ấp ủ, liveshow ‘Ngày trở về” của Phạm Duy đã vang lên trong một đêm diễn duy nhất tại Nhà hát lớn Hà Nội vào cuối tháng 3-2009. Sự trở về của bản thân nhạc sỹ Phạm Duy và âm nhạc của ông mới đây đã làm dậy lên một làn sóng báo chí quan tâm. Tuy nhiên, không ít điều xuất hiện trên một số phương tiện thông tin đại chúng xung quanh đêm nhạc Phạm Duy đã gây nên những bức xúc cho người chính trực.
Nhìn lại bản chất vấn đề, đánh giá một cách công bằng nhất những giá trị đích thực của Phạm Duy và âm nhạc của ông, Báo ANTG đã mở ra một diễn đàn nhỏ để mời các nhạc sỹ lớn, những người có tên tuổi có trọng lượng trong nền âm nhạc Việt Nam nói về sự kiện này.
Nhạc sỹ-NSND Trọng Bằng:
Tôi
có đọc trên báo thấy có nhiều lời tâng bốc cũng hơi là lạ, không quen.
Nhạc sỹ Phạm Duy nếu nói ngắn gọn chỉ 4 “thứ” thôi. Thứ nhất, anh là một
người đầu kháng chiến chống Pháp có một số bài hát được quần chúng yêu
thích. Thứ hai, sau khi anh bỏ Tổ quốc ra đi, không biết anh có công
nhận không nhưng lúc đó cả nước người ta nói anh đi theo giặc, đi phục
vụ địch. Và một số bài hát của nah, anh đã làm lời lại để phục vụ hoàn
cảnh mới.
Thứ ba là khi anh về nước, anh nói rằng anh trở về với nguồn cội. Anh có đến Hội Nhạc sỹ gặp tôi. Tôi cũng có nói chuyện và bảo anh rằng: Ngày xưa khi tôi còn bé, anh Phạm Duy và anh Trọng Loan (anh trai của tôi) cùng ở một đoàn nghệ thuật. Ngày xưa tôi cũng thích những bài hát của anh. Nhưng âm nhạc bây giờ khác chứ không ít ỏi như thời anh viết những tác phẩm ngày xưa nữa đâu. Cả một cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng tôi viết hàng ngàn bài hát, hàng ngàn ca khúc. Chúng tôi viết và được phát trên Đài tiếng nói Việt Nam hôm trước thì ngay hôm sau cả nước hát, và hát cho đến bây giờ.
Thứ tư tôi muốn nói là anh về thì cứ về, cứ thế mà làm việc, cứ sáng tác, viết thêm được gì thì viết, cống hiến được gì thì cống hiến chứ đừng lợi dụng lúc này mà tâng bốc mình lên như vị nọ vị kia. Tuy nhiên, tôi cho rằng, sự tâng bốc này là lỗi một phần ở các nhà báo, dễ dãi và chạy theo thị hiếu, cứ coi đây như sự kiện âm nhạc lớn, Phạm Duy được tâng bốc như là nhà sáng tạo ghê gớm. Vì nói đến Phạm Duy những người chân chính ở Việt Nam đã biết cả rồi, biết Phạm Duy như thế nào trong quá khứ, Phạm Duy có cái gì tốt, cái gì chưa tốt, bản chất của Phạm Duy và giá trị thật âm nhạc của anh người nghe đều hiểu cả. Sự trở về của Phạm Duy là sự ưu ái của Đảng và Nhà nước, sự rộng lượng của nhân dân ta, nên đừng đặt mình ở vị trí cao, cứ nên im lặng mà làm việc thôi. Có những tác phẩm anh sáng tác đầu kháng chiển rất tốt, bây giờ Cục biểu diễn người ta khuyến khích cho phép anh trở về biểu diễn, thì cứ thế mà cống hiến thôi.
Dư luận chúng ta hơi dễ dãi và nhẹ dạ. Nhưng vấn đề là Phạm Duy phải tỉnh táo. Vì ông hoàn toàn hiểu ông là ai, quá khứ đối với dân tộc của Phạm Duy là một tội lỗi. Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng, vì thế ông không thể nào so sánh với nhạc sỹ Văn Cao. Không thể ví được. Văn Cao là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện, và ông Văn Cao còn biết tôn trọng những người nhạc sỹ đàn em đi vào con đường âm nhạc bác học, một người rất khiêm nhường biết mình, biết ta. Giả sử có một nhạc sỹ X, Y, Z nào đó hỏi: Khi chúng tôi đi đánh Mỹ giải phóng dân tộc thì ông làm gì? Chắc chắn rằng nếu là người hiểu biết đều hiểu rõ khi đó ông là tác giả của các bài hát chống lại cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại công cuộc giải phóng dân tộc.
NS Phạm Tuyên:
Hôm nhạc sỹ Phạm Duy ra đây nói chuyện nhân việc phổ nhạc các trích đoạn trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tôi có được mời tới dự. Sau đó một số người hỏi tôi về chương trình này. Tôi nói rằng đây là một sự tìm về một áng văn chương tuyệt tác của văn học Việt Nam. Nhưng nếu vào âm nhạc thì còn xa lắm so với “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Tuy nhiên đó là sự biểu hiện của tìm về với cội nguồn. Riêng tôi lúc vào trong TP Hồ Chí Minh, nghe tin ông Phạm Duy về, tôi nghĩ đó là một sự trở về với nguồn cội thôi. Dân gian có câu “Đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại”. Chính lúc đó các nhạc sỹ ở trong TP Hồ Chí Minh cũng cho rằng không nên làm rùm beng cái chuyện này, thậm chí báo chí đề cao quá như vừa rồi thì người ta không tán thành. Tôi lại không nghĩ như thế.
Ai cũng có những sai lầm trong quá khứ cuộc đời. Trong cơ chế thị trường hiện nay có những công ty nhạy bén với thị hiếu của thị trường, người ta săn đón, mua bán quyền của nhạc sỹ Phạm Duy, xuất bản và tổ chức biểu diễn rầm rộ. Một số anh em nhạc sỹ trong Hội Âm nhạc TP Hồ Chí Minh gặp tôi và nói rằng không nên làm như thế. Còn việc đánh giá về phẩm chất nghệ thuật thì phải nhìn cả một quá trình. Đóng góp như thế nào, sai lầm như thế nào. Nếu bây giờ chúng ta chỉ đánh giá phần đóng góp mà quên đi phần sai lầm, thậm chí gạt bỏ hết mọi sai lầm để tâng bốc đóng góp thì như thế chẳng công bằng với các nhạc sỹ trong nước. Có một số anh em nhạc sỹ sau khi đọc báo nói về “Ngày về” của Phạm Duy, sự trở lại rầm rộ, được báo chí săn đón và tâng bốc thái quá đã thốt lên: “Trời đất ơi, thế thì thành tựu âm nhạc của chúng ta mấy chục năm qua nhỏ nhoi quá nhỉ!”.
Trong khi đó, tôi là người trong cuộc, cảm thấy được sức mạnh của vũ khí âm nhạc, đúng ra trong thành công của Cách mạng chúng ta, trong chiến thắng thống nhất đất nước, có sự đóng góp lớn của âm nhạc, và chúng tôi rất tự hào. Một số anh em ở Huế hỏi tôi đánh giá như thế nào về nhạc sỹ Phạm Duy, tôi trả lời hồi nhỏ tôi có thuộc và thích một số bài hát của Phạm Duy. Nhưng sau khi nhạc sỹ Phạm Duy rời bỏ đất nước ra đi, thậm chí có một thời gian đưa âm nhạc phục vụ chính quyền Mỹ-ngụy. Tôi nghĩ, rồi cũng sẽ có lúc bản thân anh Phạm Duy phải nhìn thẳng vào sự thật. Trong cơ chế thị trường hôm nay, tôi nghĩ cần phải thẩm định đúng giá trị thật những đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, không nên quá đề cao. Bởi lẽ tìm tòi trong âm nhạc của Phạm Duy cũng chỉ có hạn thôi, trong khi đó tìm tòi về mặt sáng tạo âm nhạc trong nước ta có rất nhiều tài năng, nhiều khả năng. Ngay vấn đề đem âm nhạc phục vụ cho sự nghiệp cách mạng thì làm thế nào mà so sánh nổi với Văn Cao hay bất cứ một nhạc sỹ nào tham gia cách mạng. Sự đóng góp của nhạc sỹ Văn Cao rất phong phú, bây giờ được ghi nhận là người có đóng góp lớn cho đất nước và âm nhạc Việt Nam. Tôi chỉ có một suy nghĩ nhỏ, chúng ta chúc cho ngày trở về của nhạc sỹ Phạm Duy là một sự trở về của lá rụng về cội. Còn đánh giá về con người, nhất là đánh giá về tác phẩm thì phải rất thận trọng, công bằng và đúng bản chất, một phần nào đó phải có giới hạn. Đừng chạy theo thị hiếu, theo cơ chế thị trường mà quá đề cao sự đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, như vậy mới xứng đáng với lịch sử, với những người đã đổ máu xương cho đất nước, cho dân tộc được có ngày hôm nay.
Thứ ba là khi anh về nước, anh nói rằng anh trở về với nguồn cội. Anh có đến Hội Nhạc sỹ gặp tôi. Tôi cũng có nói chuyện và bảo anh rằng: Ngày xưa khi tôi còn bé, anh Phạm Duy và anh Trọng Loan (anh trai của tôi) cùng ở một đoàn nghệ thuật. Ngày xưa tôi cũng thích những bài hát của anh. Nhưng âm nhạc bây giờ khác chứ không ít ỏi như thời anh viết những tác phẩm ngày xưa nữa đâu. Cả một cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng tôi viết hàng ngàn bài hát, hàng ngàn ca khúc. Chúng tôi viết và được phát trên Đài tiếng nói Việt Nam hôm trước thì ngay hôm sau cả nước hát, và hát cho đến bây giờ.
Thứ tư tôi muốn nói là anh về thì cứ về, cứ thế mà làm việc, cứ sáng tác, viết thêm được gì thì viết, cống hiến được gì thì cống hiến chứ đừng lợi dụng lúc này mà tâng bốc mình lên như vị nọ vị kia. Tuy nhiên, tôi cho rằng, sự tâng bốc này là lỗi một phần ở các nhà báo, dễ dãi và chạy theo thị hiếu, cứ coi đây như sự kiện âm nhạc lớn, Phạm Duy được tâng bốc như là nhà sáng tạo ghê gớm. Vì nói đến Phạm Duy những người chân chính ở Việt Nam đã biết cả rồi, biết Phạm Duy như thế nào trong quá khứ, Phạm Duy có cái gì tốt, cái gì chưa tốt, bản chất của Phạm Duy và giá trị thật âm nhạc của anh người nghe đều hiểu cả. Sự trở về của Phạm Duy là sự ưu ái của Đảng và Nhà nước, sự rộng lượng của nhân dân ta, nên đừng đặt mình ở vị trí cao, cứ nên im lặng mà làm việc thôi. Có những tác phẩm anh sáng tác đầu kháng chiển rất tốt, bây giờ Cục biểu diễn người ta khuyến khích cho phép anh trở về biểu diễn, thì cứ thế mà cống hiến thôi.
Dư luận chúng ta hơi dễ dãi và nhẹ dạ. Nhưng vấn đề là Phạm Duy phải tỉnh táo. Vì ông hoàn toàn hiểu ông là ai, quá khứ đối với dân tộc của Phạm Duy là một tội lỗi. Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng, vì thế ông không thể nào so sánh với nhạc sỹ Văn Cao. Không thể ví được. Văn Cao là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện, và ông Văn Cao còn biết tôn trọng những người nhạc sỹ đàn em đi vào con đường âm nhạc bác học, một người rất khiêm nhường biết mình, biết ta. Giả sử có một nhạc sỹ X, Y, Z nào đó hỏi: Khi chúng tôi đi đánh Mỹ giải phóng dân tộc thì ông làm gì? Chắc chắn rằng nếu là người hiểu biết đều hiểu rõ khi đó ông là tác giả của các bài hát chống lại cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại công cuộc giải phóng dân tộc.
NS Phạm Tuyên:
Hôm nhạc sỹ Phạm Duy ra đây nói chuyện nhân việc phổ nhạc các trích đoạn trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tôi có được mời tới dự. Sau đó một số người hỏi tôi về chương trình này. Tôi nói rằng đây là một sự tìm về một áng văn chương tuyệt tác của văn học Việt Nam. Nhưng nếu vào âm nhạc thì còn xa lắm so với “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Tuy nhiên đó là sự biểu hiện của tìm về với cội nguồn. Riêng tôi lúc vào trong TP Hồ Chí Minh, nghe tin ông Phạm Duy về, tôi nghĩ đó là một sự trở về với nguồn cội thôi. Dân gian có câu “Đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại”. Chính lúc đó các nhạc sỹ ở trong TP Hồ Chí Minh cũng cho rằng không nên làm rùm beng cái chuyện này, thậm chí báo chí đề cao quá như vừa rồi thì người ta không tán thành. Tôi lại không nghĩ như thế.
Ai cũng có những sai lầm trong quá khứ cuộc đời. Trong cơ chế thị trường hiện nay có những công ty nhạy bén với thị hiếu của thị trường, người ta săn đón, mua bán quyền của nhạc sỹ Phạm Duy, xuất bản và tổ chức biểu diễn rầm rộ. Một số anh em nhạc sỹ trong Hội Âm nhạc TP Hồ Chí Minh gặp tôi và nói rằng không nên làm như thế. Còn việc đánh giá về phẩm chất nghệ thuật thì phải nhìn cả một quá trình. Đóng góp như thế nào, sai lầm như thế nào. Nếu bây giờ chúng ta chỉ đánh giá phần đóng góp mà quên đi phần sai lầm, thậm chí gạt bỏ hết mọi sai lầm để tâng bốc đóng góp thì như thế chẳng công bằng với các nhạc sỹ trong nước. Có một số anh em nhạc sỹ sau khi đọc báo nói về “Ngày về” của Phạm Duy, sự trở lại rầm rộ, được báo chí săn đón và tâng bốc thái quá đã thốt lên: “Trời đất ơi, thế thì thành tựu âm nhạc của chúng ta mấy chục năm qua nhỏ nhoi quá nhỉ!”.
Trong khi đó, tôi là người trong cuộc, cảm thấy được sức mạnh của vũ khí âm nhạc, đúng ra trong thành công của Cách mạng chúng ta, trong chiến thắng thống nhất đất nước, có sự đóng góp lớn của âm nhạc, và chúng tôi rất tự hào. Một số anh em ở Huế hỏi tôi đánh giá như thế nào về nhạc sỹ Phạm Duy, tôi trả lời hồi nhỏ tôi có thuộc và thích một số bài hát của Phạm Duy. Nhưng sau khi nhạc sỹ Phạm Duy rời bỏ đất nước ra đi, thậm chí có một thời gian đưa âm nhạc phục vụ chính quyền Mỹ-ngụy. Tôi nghĩ, rồi cũng sẽ có lúc bản thân anh Phạm Duy phải nhìn thẳng vào sự thật. Trong cơ chế thị trường hôm nay, tôi nghĩ cần phải thẩm định đúng giá trị thật những đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, không nên quá đề cao. Bởi lẽ tìm tòi trong âm nhạc của Phạm Duy cũng chỉ có hạn thôi, trong khi đó tìm tòi về mặt sáng tạo âm nhạc trong nước ta có rất nhiều tài năng, nhiều khả năng. Ngay vấn đề đem âm nhạc phục vụ cho sự nghiệp cách mạng thì làm thế nào mà so sánh nổi với Văn Cao hay bất cứ một nhạc sỹ nào tham gia cách mạng. Sự đóng góp của nhạc sỹ Văn Cao rất phong phú, bây giờ được ghi nhận là người có đóng góp lớn cho đất nước và âm nhạc Việt Nam. Tôi chỉ có một suy nghĩ nhỏ, chúng ta chúc cho ngày trở về của nhạc sỹ Phạm Duy là một sự trở về của lá rụng về cội. Còn đánh giá về con người, nhất là đánh giá về tác phẩm thì phải rất thận trọng, công bằng và đúng bản chất, một phần nào đó phải có giới hạn. Đừng chạy theo thị hiếu, theo cơ chế thị trường mà quá đề cao sự đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, như vậy mới xứng đáng với lịch sử, với những người đã đổ máu xương cho đất nước, cho dân tộc được có ngày hôm nay.
NS Hồng Đăng:
Vấn
đề này thực ra rất tế nhị đối với anh em nhạc sỹ. Vì đối với những
người sáng tác với nhau, bao giờ chúng tôi cũng hết sức rộng lượng, nhìn
nhau bằng cặp mắt tốt đẹp và mong cho nhau thành công. Riêng trong vấn
đề Phạm Duy, cái nhìn của tôi có thể khác hơn. Ngay trong giai đoạn đầu
kháng chiến, nhạc sỹ Phạm Duy là một trong những nhạc sỹ có ý thức khai
thác vốn dân ca, đưa chất liệu dân ca vào sáng tác mới. Cho nên những
“Bà mẹ Gio Linh”, những “Về miền Trung”… ngày ấy rất được nhiều người
tán thưởng. Nhưng thời kỳ ấy chúng tôi đang còn bé quá. Sau này lớn lên
thì có nghe tin nhạc sỹ Phạm Duy đã vào trong thành, sau đấy bẵng đi
thời gian 5 đến 6 chục năm, chúng tôi cũng không mấy lưu tâm. Vừa rồi
ông Phạm Duy xin phép được trở về, và được Nhà nước ta cho phép. Lúc
Phạm Duy về, rất nhiều anh em nhạc sỹ vui vẻ vì thấy rằng đây là một lần
quay lại của các anh em mà trước kia có một thời kỳ bẵng đi không thấy
mặt nhau. Nhưng gần đây, báo chí lại rộ lên về những chương trình của
Phạm Duy. Tôi cũng nghe rất nhiều người phàn nàn là tác phẩm của Phạm
Duy như thế mà báo chí tâng bốc, đề cao đến mức y như là nhân vật số một
của âm nhạc Việt nam hiện nay, và là người nhạc sỹ kỳ tài. Điều ấy là
vô lý, như thế không đúng, huống gì lại xem như người có công lớn (?!).
Những giá trị thật của một người nghệ sỹ, thứ nhất là tinh thần yêu
nước, những đóng góp tâm hồn mình cho dân tộc… So sánh một cách thẳng
thắn, những bài hát của Phạm Duy có một vài bài công chúng thích và
không phải bài nào công chúng cũng thích. Có một thời nghe nói các tác
phẩm của ông cũng không được người ta ưa chuộng lắm đâu ngay cả ở nước
ngoài. Điều ấy chúng ta phải có sự cân nhắc tử tế. Nếu như có sự đóng
góp nào đấy thì nên ghi nhận. Nhưng đừng nghĩ rằng như thế thì tất cả
các anh em khác không ra gì.
Trong
lúc ấy chúng ta có những tên tuổi lừng lẫy như Đỗ Nhuận, Văn Cao, Lê
Yên, Nguyễn Đức Toàn, Huy Du, Hoàng Vân, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân
Khoát, và còn rất nhiều người khác đã gắn bó với những ngày gian khổ,
thiếu thốn cùng cực của đất nước chỉ để góp một chút gì của mình cho
cuộc chiến tranh vệ quốc. Từ ngày anh ra đi, anh Duy ạ, nền âm nhạc của
chúng ta đã khác trước nhiều lắm. Từ một đội ngũ thưa thớt thời của anh,
giờ đây không biết bao nhiêu tên tuổi nổi lên một cách xứng đáng, có
hiểu biết, có tìm tòi, khác xa thời anh bỏ khu III, khu IV mà đi. Điều
đáng nói là nhiều anh em thành thực mong cho anh có nhiều đêm nhạc tốt
đẹp, trong khi hàng trăm hàng nghìn người không có nổi kinh phí để lo
một đêm nhạc của riêng mình dù tác phẩm cứ ngồn ngộn ra đấy…Muốn nhìn
nhận công bằng, nên nhích xa ra một tí để nhìn toàn cảnh.
Còn nhớ năm 1994, chúng tôi tổ chức được 4 đêm, 4 chương trình khác
nhau ở Nhà hát Lớn Hà Nội lấy tên là “Nửa thế kỷ Bài hát Việt Nam” chỉ
giới thiệu được gần 80 bài cho 80 tác giả, trong đó riêng anh Văn Cao
được 2 bài. Chương trình có tiếng vang lớn nhưng hàng trăm nhạc sỹ khác
nằm chờ giới thiệu ở TP Hồ Chí Minh thì vướng quá nhiều thứ, nhất là
kinh phí mà không giới thiệu được thêm nữa, đành cay đắng mà chịu thiệt
thòi. Tất nhiên anh Phạm Duy có thể kiêu một tý cũng chẳng sao (thói
thường mà)! Nhưng những người hướng dẫn dư luận có lẽ nên nghĩ kỹ một
tí, để khách quan hơn, công bằng hơn. Còn riêng một chi tiết nhỏ về
chuyên môn: Các anh em nhạc sỹ sau này khai thác dân ca vào sáng tác mới
giỏi hơn anh nhiều lắm. Có thể kể Thái Cơ, Phó Đức Phương, Trần Tiến,
Nguyễn Cường, Văn Thành Nho, Nguyễn Đình Bảng, Lê Mây…Tư liệu này ở Hội
Nhạc sỹ Việt Nam, Viện nghiên cứu Âm nhạc Việt Nam đều có cả. Anh Phạm
Duy trở về, chúng tôi chúc mừng anh và mong anh khỏe mạnh để có những
sáng tác mới.
2009/5/29Thiếu một tấm lòng
Thư của Nguyễn Đắc Xuân gởi nhạc sĩ Phạm Tuyên sau khi đọc bài báo “Nhạc Phạm Duy và những điều cần phải nói” trên An Ninh Thế Giới Cuối Tháng (4-2009)
Huế, ngày 22 tháng 5 năm 2009
Anh Phạm Tuyên kính mến,
Có lẽ anh rất bất ngờ khi nhận được cái thư khá dài nầy của tôi. Trước tiên tôi xin lỗi đã làm mất thì giờ lão nhạc sĩ rất quý mến của người bạn vong niên ở Huế của anh.
Con người bình thường thì có khối chuyện hay và cũng lắm chuyện dở. Báo chí, sách vở và chính Phạm Duy đã, đang và cũng sẽ viết tiếp những chuyện dở của Phạm Duy. Trong hồi ký Phạm Duy đã viết nhiều chuyện dở của Phạm Duy mà những ai chưa đọc hồi ký ấy thì không thể biết được. Nhưng viết những chuyện dở ấy để hiểu mặt phải mặt trái của một nhạc sĩ lớn chứ không phải viết vì đố kỵ, vì trâu cột ghét trâu ăn giống như vụ hoạ sĩ Trịnh Cung viết về chuyện “tham vọng chính trị” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vừa công bố hồi đầu tháng 4-2009 vừa qua. (Chú thích của THD: Xem thư Nguyễn Đắc Xuân gửi Trịnh Cung.)
Tôi còn nhớ, năm 2002, trong một cuộc họp mặt của các Cựu Thiếu sinh quân VN, có cả con gái và con rể (làm Phóng viên báo SGGP) của Tướng Nguyễn Sơn với nhạc sĩ Phạm Duy tại phòng hội trường Sư Phạm đối diện với Đài Truyền hình đường Đinh Tiên Hoàng TP HCM. Nhiều Cựu Thiếu sinh quân từng hát bài Thiếu sinh quân của Phạm Duy trong vùng kháng chiến Khu IV, đã tỏ sự bất bình về chuyện Phạm Duy bỏ kháng chiến “về thành”. Trả lời, Phạm Duy đã nói rõ lý do anh “về thành”: Vì anh và gia đình không chịu được hoàn cảnh quá cực khổ lúc ấy. Về thành anh rất đau đớn mỗi khi nhận được những oán trách của anh em kháng chiến dành cho anh. Để chứng tỏ Phạm Duy rất biết, rất quan tâm đến những oán trách về chuyện “về thành” của anh, anh đọc thuộc lòng bài thơ của Huy Phương lên án anh một cách gay gắt.
Anh cũng giới thiệu rằng anh đã viết rõ lý do vì sao anh “về thành” trong Hồi ký (Có lẽ lúc qua Pháp anh Phạm Tuyên đã đọc). Cả hội trường rất bất ngờ rồi vỗ tay vui vẻ, thông cảm cho hoàn cảnh của anh. Họ xem những chuyện buồn xưa như những kỷ niệm của một thời để cùng nhau hưởng hạnh phúc đất nước hoà bình, độc lập, thống nhất và hội nhập. Sau đó mọi người mời Phạm Duy dự một buổi liên hoan cũng rất vui vẻ. Vô tình các Cựu Thiếu sinh quân đã đưa Nghị Quyết 36 của Trung ương vào cuộc sống thật nhẹ nhàng, đạt được kết quả tốt.
Chính qua những buổi gặp gỡ cảm thông như thế đã giúp Phạm Duy vững tin vào chính sách hoà hợp và hoà giải dân tộc của Đảng và nhà nước Việt Nam. Sự tin tưởng ấy thúc đẩy Phạm Duy phải về nước sớm vào năm 2005. Không rõ Hội nhạc sĩ Việt Nam, các anh Trọng Bằng, Phạm Tuyên, Hồng Đăng đã có lần nào đưa tinh thần của Nghị Quyết 36 đến với nhạc sĩ Phạm Duy chưa? Nếu chưa thì các Đảng viên quan chức của Hội nhạc sĩ Việt Nam phải kiểm điểm vì các anh đã không thực hiện Nghị quyết của Đảng.
Các anh đã hưởng ứng các nghị quyết của Đảng, sáng tác nhạc cổ vũ cho quyết tâm của dân tộc đánh thực dân Pháp, đánh Đế quốc Mỹ giải phóng miền Nam. Các anh đã nhận được những phần thưởng cao quý nhất của nhà nước. Vậy các anh đã có hành động gì, sáng tác gì có giá trị cho công cuộc hoà hợp, hoà giải dân tộc xây dựng đất nước giàu mạnh chưa? 2. Anh Phạm Tuyên, chỗ thân tình, “vừa là đồng chí vừa là anh em” tôi xin nói nhỏ với anh: Chúng ta lên án nhạc sĩ Phạm Duy bỏ kháng chiến “về thành”. Giả dụ lúc đó Phạm Duy không “về thành” mà cứ tiếp tục công tác cho đến ngày 30-4-1975, anh có tưởng tượng được tình cảnh Phạm Duy và gia đình anh ấy ở miền Bắc sẽ như thế nào không?
Với tài năng và phong cách của Phạm Duy, Phạm Duy không thể trung thành tận tuỵ với chế độ như Phạm Tuyên, không thể nhẫn nhục, chịu đựng như Tô Hải, không thể chịu ngồi yên in bóng mình trên vách như Văn Cao. Tôi tưởng tượng đến những việc có thể xảy ra với Phạm Duy như sau: Sau 1954 về Hà Nội, Phạm Duy đứng về phía những văn nghệ sĩ mà lịch sử gọi là “Nhóm nhân văn” với Hoàng Cầm. Khi ấy Phạm Duy không thể tránh được tù tội, nếu không chết trong tù thì anh ấy sẽ âm thầm viết hồi ký, bút ký, truyện ký gì đó tố cáo bôi bác chế độ ta, tàn mạt gấp nhiều lần so với hồi ký của Tô Hải đang được cư dân mạng toàn cầu chăm chú đọc hiện nay. Phạm Duy “về thành”, phải chịu tiếng “phản bội kháng chiến” nhưng bớt được cho chế độ ta một sai lầm là “đã đày đoạ một nhân tài của đất nước”.
Qua Pháp, anh đã đọc hồi ký của Phạm Duy chắc anh đã biết rõ: trong thời gian Văn Cao ngồi in bóng mình trên vách ở Hà Nội đợi kháng chiến thành công thì Phạm Duy “về thành” đã làm được những gì cho nền tân nhạc Việt Nam. Phạm Duy chịu tiếng “phản bội kháng chiến”, và anh “chuộc tội” bằng các nhạc phẩm Tình ca, Tình hoài hương, Thuyền viễn xứ, Đố ai, Nghìn trùng xa cách, Trường ca Con đường cái quan, Trường ca Mẹ Việt Nam , .v.v. [Theo thống kê của tôi có đến vài trăm bài được người yêu nhạc trước đây hay hát). Phạm Duy ra đi để trở về, chắc chắn tốt hơn những người ở lại tại chỗ rồi phải sống giả dối, chờ hưởng hết bổng lộc vinh quang của chế độ rồi quay đầu chưởi lại chế độ, chưởi đồng chí, đồng đội và chưởi luôn mình như đã xảy ra trong giới nhạc sĩ Việt Nam.
Và có ai dám bảo đảm với Đảng trong ngăn kéo, trong ổ nhớ máy vi tính của anh em ta không còn những bút ký, hồi ký, tự bạch như của Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Khải, Tô Hải không? Các anh đã có “những điều cần phải nói” với những người đã tự thú và cả những người đang chờ cơ hội để bộc lộ mình chưa? * * * 3. Anh Trọng Bằng cảnh báo nhạc sĩ Phạm Duy rằng: “Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng, vì thế ông không thể nào so sánh với nhạc sỹ Văn Cao. Không thể ví được. Văn Cao là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện.” Anh nói hộ với anh Trọng Bằng, về đoạn trích trên, tôi xin trao đổi 4 ý kiến sau:
3.1. Anh Trọng Bằng, em anh Trọng Loan, về tuổi đời cũng như tuổi nghệ thuật âm nhạc đều thuộc lứa đàn em của nhạc sĩ Phạm Duy. Một nghệ sĩ đàn em viết về một nghệ sĩ đàn anh với giọng cửa quyền, gia trưởng, lệnh lạc như thế là khiếm lễ. Với tư cách là người từng lãnh đạo ngành âm nhạc Việt Nam, nếu cần cảnh báo cho nhạc sĩ Phạm Duy biết điều gì đó thì anh Trọng Bằng nên viết một công văn gởi riêng cho nhạc sĩ Phạm Duy hơn là viết trên báo chí. Vì viết trên báo chí người trong nước và ngoài nước đọc được họ có thể hiểu lầm là cái “cửa quyền” vẫn còn tồn tại trong giới âm nhạc Việt Nam thời hội nhập quốc tế nầy;
3.2. Không rõ anh Trọng Bằng đã đọc được bài viết nào chứng tỏ nhạc sĩ Phạm Duy đã tự so sánh mình với các nhạc sĩ đã tham gia cách mạng chưa? Trong bộ sưu tập của tôi chưa có tài liệu ấy. Nhưng nếu có ai đó viết chuyện ấy thì cũng không sao. Dựa trên nguyên tắc nào, quyền hành gì mà anh bảo nhạc sĩ Phạm Duy “không thể so sánh ông (tức Phạm Duy) với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng”? Nếu viết lịch sử âm nhạc Việt Nam hồi đầu kháng chiến chống Pháp (1947-1950) tôi không thể không viết Nguyễn Xuân Khoát với Tiếng chuông nhà thờ, Đỗ Nhuận với Du kích sông Thao, Văn Cao với Trường ca Sông Lô và chắc chắn tôi không thể không viết về Phạm Duy với những Xuất Quân, Chiến Sĩ Vô Danh, Khởi Hành, Việt Bắc, Rừng Lạng Sơn, Nhớ Người Thương Binh (1947), Mùa Đông Chiến Sĩ (1947), Dặn Dò (1947), Ru Con (1947), Nhớ Người Ra Đi (1947), Tiếng Hát Trên Sông Lô (1947), Nương Chiều (1947), Về Miền Trung (Ðại Lược-Huế, 1948), Bao giờ anh lấy được đồn Tây (Quảng Bình, 1948), Bà Mẹ Gio Linh (Quảng Trị, 1948), Gánh Lúa (1949)...v.v. Tôi cũng có thể so sánh sự xông xáo của các tác giả, so sánh ảnh hưởng của các nhạc phẩm ấy trong vùng kháng chiến và cả trong vùng tạm chiếm, so sánh giá trị nghệ thuật của các tác phẩm ấy. Năm 1996, ngồi ở Quận 18 Paris, đọc tập hồi ký Thời Cách mạng kháng chiến của Phạm Duy, tôi chộp được lời nhận định nầy của Phạm Duy: “Bài Trường ca Sông Lô của Văn Cao là một tác phẩm vĩ đại. Văn Cao luôn luôn là một người khai phá và là cha đẻ của loại Trường Ca” (Cali, 1989, tr.121). Không rõ cho đến năm 1989, trong Hội nhạc sĩ Việt Nam đã có ai so sánh các nhạc sĩ những năm đầu kháng chiến chống Pháp rồi có một nhận định về một tác phẩm của Văn Cao như thế chưa ? Viết lịch sử âm nhạc Việt Nam những năm kháng chiến từ 1950 đến 1954, tôi cũng có thể so sánh để thấy sự nghiệp của tác giả Phạm Duy là một con số không. Nhưng khi viết về tình ca Việt Nam, trường ca Việt Nam, về nhạc tâm linh, Đạo Ca Việt Nam, Thiền Ca Việt Nam chưa chắc nhiều ngưòi từng tham gia kháng chiến có thể so sánh với Phạm Duy. Lịch sử diễn ra như thế thì viết như thế chứ làm sao lại bỏ qua? Bỏ qua thì còn gì là lịch sử nữa? Có phải vì không viết về Phạm Duy thì thiếu, không được, mà viết thì miễn cưỡng nên cho đến nay chưa có bộ sử tân nhạc Việt Nam nào ra hồn cả. Hay đã có mà tôi ở xứ Huế xa xôi chưa biết chăng? Nếu đã có mà tôi chưa biết thì tôi xin lỗi vậy. Nhưng nếu đã có thì vì sao các anh không báo cho giới làm báo biết để họ tham khảo, để khi viết về Phạm Duy họ viết đúng theo lịch sử của các anh. Và, nếu đã... thì làm gì có chuyện báo chí “tâng bốc, đề cao Phạm Duy quá mức” để ba anh phải buộc lòng cùng cất lời cảnh báo Phạm Duy một cách nặng nề đến vậy! Trách nhiệm của các anh ở đâu? Cơ quan nào của Đảng có thể làm thay các anh?
3.3. Anh căn cứ vào luật lệ nào mà cấm Phạm Duy không được so sánh với Văn Cao? Luật vườn hay luật ruộng? Phạm Duy so sánh với Văn Cao để thấy Văn Cao lớn hơn Phạm Duy như thế nào chứ? Cứ đọc mục từ “nhạc sĩ Văn Cao” trong google trên internet cũng có thể thấy nhiều cụm từ Phạm Duy nói về sư lớn lao của Văn Cao như thế nào. Ví dụ Phạm Duy viết: Văn Cao “Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều.” Không so sánh làm sao Phạm Duy viết được câu đó? 3.4. Anh Trọng Bằng đánh giá: “Văn Cao là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện.” Anh Phạm Tuyên ơi, anh Trọng Bằng là một nhà soạn nhạc, nguyên Tổng thư ký Hội nhạc sĩ Việt Nam mà đi đánh giá nhạc sĩ Văn Cao chi lạ rứa?
3.4.1.“Văn Cao là một con người có trình độ”, xin hỏi trình độ gì? Ở cấp bậc nào? Trình độ chính trị ? trình độ ngoại ngữ? trình độ toán học? trình độ âm nhạc? Sao lại viết quá chung chung đến như thế?
3.4.2.“là một nhà nghiên cứu dân tộc” Dân tộc nào? Với công trình gì? Có bằng Tô Ngọc Thanh, Trần Văn Khê không?
3.4.3. “ông Văn Cao là một người toàn diện” Toàn diện gì? Văn, võ, chính trị, ngoại giao, kinh tế? Diện gì anh phải nói cho rõ chứ? Còn câu nào, cụm từ nào anh Trọng Bằng nói về giá trị âm nhạc của nhạc sĩ Văn Cao đâu? Sao ông nguyên Tổng thư ký Hội nhạc sĩ Việt Nam lại đi đánh giá nhạc sĩ Văn Cao tùy tiện, dễ dãi, tầm thường đến vậy? Anh Trọng Bằng đánh giá Văn Cao như thế thì trên nước Việt Nam bây giờ có đến hằng ngàn “Văn Cao” theo kiểu Trọng Bằng chứ không như trong thực tế Việt Nam mới chỉ có một nhạc sĩ Văn Cao mà thôi. Đánh giá Văn Cao như thế là anh Trọng Bằng đã hạ Văn Cao thấp xuống đến một ngàn lần. Phải chăng vì đánh giá Văn Cao tầm thường dễ dãi đến như thế nên bao nhiêu năm các anh đã mặc cho Văn Cao ngồi in hình mình trên vách như thực tế đã diễn ra? nên sau năm 1975, Văn Cao sáng tác ca khúc Mùa xuân đầu tiên vào dịp Tết Bính thìn (1976), êm đềm, đậm đà tình người, nhưng mới phát hành đã bị tịch thu, các anh không có một lời bảo vệ? nên 1986 các anh tổ chức sáng tác quốc ca mới để thay thế Tiến quân ca của Văn Cao? May sao Mùa xuân đầu tiên vẫn được ra đời bắt đầu từ Liên xô, cuộc thi sáng tác quốc ca tiêu hao nhiều sức người. sức của nhưng rồi cũng chỉ được một bài học thất bại vì duy ý chí ngược với qui luật phát triển của nghệ thuật mà thôi. Những giá trị của âm nhạc Văn Cao không có gì có thể phủ nhận được. Các anh phê Phạm Duy kiêu, nhưng chính Phạm Duy đã đánh giá đúng Văn Cao. Theo Phạm Duy, Văn Cao là "người viết tình ca số một", "người đẻ ra thể loại hùng ca và trường ca Việt Nam"...
* * *
4. Anh Hồng Đăng viết: “So sánh một cách thẳng thắn, những bài hát của Phạm Duy có một vài bài công chúng thích và không phải bài nào công chúng cũng thích.(nđx nhấn mạnh). Nếu anh viết “Nhạc của Phạm Duy tôi chỉ thích được vài bài” thì tôi tôn trọng sở thích của anh và không dám có ý kiến gì. Nhưng anh viết chỉ “có một vài bài công chúng thích” (trong công chúng mà anh đề cập ở đây có tôi) thì không đúng. Anh Hồng Đăng là một nhạc sĩ, tác giả của sáu bảy trăm nhạc phẩm, lại nguyên là Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam khoá IV và V, Tổng biên tập tạp chí Âm nhạc (từ 1989), và tờ Thế giới Âm nhạc (từ 1996) nên tôi không dám nêu ra đây tài liệu vị trí của nhạc sĩ Phạm Duy trong lịch sử tân nhạc Việt Nam sợ múa rìu qua mắt thợ, vốn là một nhà báo, để chứng minh điều anh viết thiếu chính xác tôi chỉ dám trưng dẫn những gì tôi đang có trong tay và những hoạt động âm nhạc vừa diễn ra mấy năm gần đây.
4.1. Theo Công-ty Phương Nam cho biết, Bộ Văn hoá-Du lịch &Thể thao VN đã cho phép Công-ty Phương Nam lưu hành, in ấn 6 danh sách nhạc Phạm Duy gồm 66 bài sau đây: 1 Ngậm Ngùi, 2 Mộ Khúc,3 Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà, 4. Ngày Trở Về,5. Thuyền Viễn Xứ, 6. Quê Nghèo; 7. Tình Ca; 8. Bà Mẹ Gio Linh; 9. Nương Chiều 10 Bà Mẹ Quê; 11. Cây Đàn Bỏ Quên; 12 Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng; 13.Em Bé Quê; 14.Hoa Xuân; 15.Kỷ Niệm; 16.Ngày Xưa Hoàng Thị; 17. Nghìn Trùng Xa Cách; 18.Xuân Ca;19 Tình Hoài Hương; 20. Tình Cầm; 21. Chỉ Chừng Đó Thôi; 22. Trăm Năm Bến Cũ; 23.Vô Thường; 24. Hương Rừng; 25.Chiếc Kẹp Tóc Thơm Tho 26. Vợ Chồng Quê; 27.Tiếng Đàn Tôi; 29. Đố Ai; 30.Tiếng Sáo Thiên Thai; 31.Nụ Tầm Xuân; 32 Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà; 33.Cành hoa trắng; 34.Thương tình ca; 35.Cỏ hồng; 36.Đường em đi; 37.Chuyện tình buồn (phổ thơ Phạm Văn Bình) , 38.Tây tiến; 39.Gánh lúa; 40.Tuổi ngọc; 40.Ông trăng xuống chơi;41.Con Đường Tình Ta Đi, 42.Phượng Yêu, 43.Còn Gì Nữa Đâu 44 Thương Ai Nhớ Ai. 45.Bài Ca Sao; 46.Bài Ca Trăng; 47.Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu 48 Em Lễ Chùa Này, 49. Ngày Đó Chúng Mình; 50.Tìm Nhau, 51. Kiếp Nào Có Yêu Nhau, 52.Nha Trang Ngày Về; 53.Con Đưởng Cái Quan – Phần Miền Trung (cho phép hát trong Festival Huế);54. Yêu là chết ở trong lòng; 55.Khối tình Trương Chi; 56.Tình hờ; 57.Ngày em 20 tuổi, 58.Tóc mai sợi văn sợi dài; 59.Tuổi mộng mơ; 60.Tuổi hồng 61.Tuồi thần tiên, 62.Vết sâu; 63.Hoa rụng ven sông, 64.Tôi đang mơ giấc mộng dài; 65 Nghìn năm vẫn chưa quên; 66.Chiều Về Trên Sông. Phần lớn những nhạc phẩm được phép lưu hành của Phạm Duy đã được Phương Nam Phim dàn dựng đưa vào 5 CD: 1 - Ngày trở về, 2 - Đưa em tìm động hoa vàng; 3 - Tình hòai hương;4 - Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà;5 - Phượng Yêu. Và đã sản xuất 50.000 CD. Ngoài ra, các CD album của các ca sĩ cũng tranh thủ hát nhạc Phạm Duy như: Đức Tuấn - Hát tình ca Phạm Duy, Kiếp nào có yêu nhau, Thanh Thúy - Cỏ hồng, Tấn Sơn - Phạm Duy, người Từ Trăm Năm... Song song với 50.000 CD nhạc Phạm Duy tung ra thị trường, các đêm nhạc Phạm Duy cũng đã tổ chức và bán vé chính thức: Ngày trở về (2006), Con đường tình ta đi (2008);- Ngày trở về (Hà Nội) (2009). Được biết giá vé đêm nhạc ở Nhà hát lớn Hà Nội có đến 3 loại : 800.000Đ; 600.000Đ và thấp nhất là 400.000Đ. “Chỉ có một vài bài (nhạc Pham Duy) công chúng thích” như anh viết thì Công-ty Phương Nam không dám phiêu lưu dàn dựng 5 CD với 50.000 bản, không dám tổ chức những đêm diễn hết sức tốn kém ở cả ba miền đất nước và chắc chắn người Hà Nội sành điệu cũng không “nóng đầu” bỏ ra từ bốn trăm đến tám trăm ngàn đồng để đi nghe “một vài bài” nhạc Phạm Duy. Qua những con số thống kê trên chứng tỏ đã có một “hiện tượng” Phạm Duy. Đối với ông “anh Cả” Văn Cao cũng chưa từng tạo nên một hiện tượng như thế. Đáng lẽ chúng ta phải nhìn thẳng vào hiện tượng đó, tìm hiểu vì sao người ta lại thích nhạc Phạm Duy đến thế, các ca sĩ hát nhạc Phạm Duy, các cách dàn dựng, các cách tiếp thị làm sao mà thành công đến thế để rút kinh nghiệm. Các anh không làm việc đó mà lại dùng cái biện pháp quá cũ là “đe, nẹt” và làm ngơ trước sự thật đó.
Thưa các anh, tôi không có nhiều thì giờ và cũng không dám trích 1/5 đến 1/3 lương hưu để mua vé đi nghe nhạc Phạm Duy (trừ những lần được các bạn làm việc cho Phương Nam mời), nhưng mỗi lần đọc báo và internet biết sự thành công của những đêm nhạc Phạm Duy (đặc biệt là xuất diễn Ngày trở về ở Hà Nội 2009) tôi hết sức mừng, nói đúng hơn là sướng, “đả đời” lắm. Một là, để cho những người chống VN ở nước ngoài, những người đã dội “gió tanh, mưa máu” lên Phạm Duy khi anh hưởng ứng Nghị quyết 36 về với cội nguồn, thấy rằng người nghệ sĩ chân chính chỉ đứng trên quê hương mình, phục vụ dân chúng của mình mới được vinh dự, mới được thành công đến như thế; chứng tỏ Phạm Duy đã đi đúng đường; Hai là, qua những đêm nhạc Phạm Duy, người Việt Nam (đặc biệt là dân Thủ đô Hà Nội ) chứng tỏ cho người ngoài thấy sự sang trọng, trình độ thẫm nhạc rất cao của mình; Ba là, với sự có mặt của nhạc sĩ Phạm Duy, đêm diễn nhạc Phạm Duy ở các nhà hát lớn của Việt Nam, với những thành công của các giọng ca trẻ thuộc thế hệ thứ ba sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, với sự hưởng ứng của dân chúng Việt Nam, chứng tỏ Việt Nam đã khác xưa, đã đổi mới thật sự. Nhân đây tôi xin kể với các anh câu chuyện nầy: Tết năm 2005 ông Nguyễn Cao Kỳ - làm thủ tương rồi làm Phó Tổng thống chế độ cũ được Chính phủ ta cấp phép về nước. Ông vô Nam, ra Bắc tiếp báo chí, truyền hình, nói năng thoải mái. Gặp anh NP - một sinh viên tranh đấu từng bị ông Kỳ phái Tổng giám đốc công an VNCH Nguyễn Ngọc Loan truy bắt để giết, anh NP phải thoát ly theo kháng chiến, tôi hỏi: - Anh có đồng ý việc chính phủ mình cấp phép cho ông Nguyễn Cao Kỳ về nước và tự do thoải mái như thế không? Anh có còn thù hận chuyện ông Kỳ truy bắt anh trước đây không? Anh NP với nét mặt nghiêm nghị đáp: - Trước nhất, nếu gặp ông Kỳ thì tôi có lời cám ơn ông ấy. Nhờ ông cho người truy bắt để giết tôi, tôi mới thoát ly theo kháng chiến và tôi vinh dự được góp phần giải phóng và thống nhất đất nước. Từ ngày Thất thủ Kinh đô 1885 cho đến ngày độc lập thống nhất đất nước ngót 90 năm. 90 năm chiến đấu ấy có biết bao lớp người đã hy sinh. Vinh quang của sự hy sinh to lớn đó dành cho dân tộc Việt Nam.
Ông Nguyễn Cao Kỳ tự hào ông là người Việt Nam, ông được hưởng cái hạnh phúc đó của dân tộc. Còn chuyện trong quá khứ, ông làm gì trong bộ máy do Mỹ dựng lên để chống kháng chiến, chống phong trào tranh đấu mà tôi đã tham gia ở các đô thị miền Nam thì là chuyện của các sử gia. Không ai có ý kiến khác được. Nếu còn một người Việt Nam nào đó chưa biết quý, chưa được hưởng cái hạnh phúc dộc lập tự do mà cuộc kháng chiến mang lại thì sự hy sinh của những người làm nên chiến thắng Mùa Xuân 1975 chưa được đền đáp trọn vẹn. Tôi hoan nghinh việc ông Kỳ có mặt ở Việt Nam hôm nay.
Tôi cũng cùng có ý nghĩ như anh bạn NP. Nhạc sĩ Phạm Duy có lỗi với kháng chiến nhưng trong lịch sử âm nhạc Việt Nam buổi đầu kháng chiến Phạm Duy cũng có công hơn hẵn ông Nguyễn Cao Kỳ. Ông Kỳ được hưởng như thế thì Phạm Duy phải hơn thế chứ? Mỗi lần thấy có thêm một biểu hiện thành công của Nghị quyết 36 tôi sướng. Tôi có cảm tưởng sự thành công của nhạc sĩ Phạm Duy trên đất nước mình cũng chính là sự thành công của tôi, của chúng ta, của Đảng ta.
* * *
5. Ở đầu bài báo, anh Trọng Bằng cảnh báo nhạc sĩ Phạm Duy: “Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng”. Ở gần cuối anh Hồng Đăng lại đem Phạm Duy so sánh với một số nhạc sĩ cách mạng và gởi đến Phạm Duy một câu kết rằng: “Còn riêng một chi tiết nhỏ về chuyên môn: Các anh em nhạc sỹ sau này khai thác dân ca vào sáng tác mới giỏi hơn anh nhiều lắm,(NĐX nhấn mạnh). Có thể kể Thái Cơ, Phó Đức Phương, Trần Tiến, Nguyễn Cường, Văn Thành Nho, Nguyễn Đình Bảng, Lê Mây…” Ý kiến nầy của anh quá chủ quan. Muốn đi đến kết luận hơn thua đó ít nhất anh phải thực hiện các việc sau:
-Xét tuổi tác - Xét về hoàn cảnh - Xét về điều kiện làm viêc; - Xét về thành tựu (về số lượng) nghiên cứu, vận dụng, “khai thác dân ca vào sáng tác mới” - Xét về kết quả (về chất lượng).
Về tuổi tác Phạm Duy thuộc lớp đàn anh cùng với Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Văn Tý.v.v. thê hệ thứ nhất của tân nhạc Việt Nam, các nhạc sĩ anh nêu tên so sánh với Phạm Duy thuộc thế hệ thứ hai. Không thể đem công việc làm của thế hệ thứ nhất so sánh với công việc của thế hệ thứ hai. So sánh như thế là khập khiễng, sai;
Về hoàn cảnh: Phạm Duy sống với kháng chiến chỉ có ba bốn năm rồi “vào thành”, 25 năm (1950-1975) sống trong vùng tạm chiếm ở miền Nam với các vùng nông thôn, cao nguyên có truyền thống dân ca chìm ngập trong chiến tranh. Khi chiến tranh chấm dứt thì chạy qua Hoa Kỳ không có không khí Việt Nam để thở nữa chứ lấy đâu dân ca mà nghiên cứu vận dụng. Hoàn cảnh tiếp xúc với dân ca của Phạm Duy quá khác với hoàn cảnh của các anh Thái Cơ, Phó Đức Phương, Trần Tiến, Nguyễn Cường, Văn Thành Nho, Nguyễn Đình Bảng, Lê Mây. Các anh được sống nhiều năm hòa bình ở miền Bắc và gần 35 năm độc lập, hòa bình, thống nhất toàn cõi Việt Nam. Các anh có thể đi Đông Tây Bắc, đi khắp vùng châu thổ sông Hồng, đi sâu vào các vùng dân ca phong phú Thanh, Nghệ, Bình Trị Thiên, Tây Nguyên, Đông Tây Nam bộ. Phạm Duy với các anh không cùng một hoàn cảnh nên không thể so sánh để đưa đến kết luận hơn thua được; so sánh như vậy là gò ép, khiên cưỡng, -
Về điều kiện làm việc: Anh Phạm Duy là một nhạc sĩ tự do, sống bằng tác phẩm của mình trơ trụi giữa bộ máy chiến tranh chống kháng chiến Việt Nam của Mỹ và chính quyền tay sai ở Sài Gòn, sau 30-4-1975 lại chạy qua Mỹ bươn chãi kiếm sống nuôi bầy con dại với chính tác phẩm tân nhạc của mình, mãi gần 10 năm mới nghĩ mình có thể tiếp tục nghiên cứu, sáng tác. Trong lúc đó, nhiều trong số các anh được Hồng Đăng nêu tên sống tại Việt Nam, ăn lương nhà nước, có nhiều cơ hội đi nghiên cứu thực tế ở các vùng dân ca, được học hành, được tham khảo với các bậc thầy Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc, được đến nghiên cứư tại các vụ, viện dân tộc nhạc học tại Hà Nội và TP HCM, và cả Huế nữa.
Điều kiện môi trường đầu vào khác nhau thì làm sao có thể lấy sản phẩm của đầu ra đặt cạnh bên nhau để nói chuyện hơn thua được? So sánh như vậy là tùy tiện, dễ dãi, thiếu sức thuyết phục;
- Về thành tựu (số lượng). Thật tình tôi rất “viễn chi” con người thường trong cuộc sống thực của nhạc sĩ Phạm Duy. Nhưng tôi cũng như đa số bạn bè lứa tuổi tôi bị nhạc của Phạm Duy chinh phục bởi cái chất dân ca, cái “chất Việt”, cái chất dân tộc rất gần gũi trong nhạc của Phạm Duy. Viết lá thư nầy tôi không tiện dẫn chứng cái chất dân ca trong hàng trăm bài nhạc của Phạm Duy mà tôi đã nghe. Chỉ trong vòng 66 bài đã được phép lưu hành tôi cũng đã thấy các bài Quê Nghèo; Tình Ca; Bà Mẹ Gio Linh; Nương Chiều, Bà Mẹ Quê; Em Bé Quê; Hoa Xuân; Xuân Ca; Tình Hoài Hương; Gánh lúa; Bài Ca Sao...được sáng tạo từ các nguồn dân ca. Đặc biệt trong hai Trường ca Con Đường Cái Quan và Mẹ Việt Nam phổ biến rộng rãi ở miền Nam trước 1975 là hai tổ khúc dân ca phát triển được kết nối một cách nhuần nhuyễn tài tình.
Trường ca Con Đường Cái Quan, 19 đoản khúc, Mẹ Việt Nam, 22 đoản khúc. Có thể xem 41 (19+22) đoản khúc nầy là 41 bài “khai thác dân ca vào sáng tác mới”. Những gì tôi biết về Phạm Duy quá ít ỏi so với những gì Phạm Duy đang chuẩn bị để lại cho dân tộc để đi họp mặt với Nguyên Xuân Khoát, Văn Cao, Đỗ Nhuận .v.v. ở chốn vĩnh hằng. Bao giờ anh Hồng Đăng chưa cho tôi một danh sách về số lượng các bài “khai thác dân ca vào sáng tác mới” của từng anh em mình đã có để tôi so sánh với số lượng bài mà tôi biết của Phạm Duy thì tôi vẫn chưa tin lời anh nói về Phạm Duy là đúng được. -
Về chất lượng. Trong văn học nghệ thuật, quý hồ tinh chứ không phải quý hồ đa”. Dõi theo hai cuộc kháng chiến ta thấy có biết bao thơ hay ra đời, nhưng rồi người ta cũng chỉ thuộc và chép cho nhau ngâm nga Màu tím hoa sim (Hữu Loan), Quê hương (Giang Nam), Núi Đôi (Vũ Cao).v.v. Văn Cao chỉ sáng tác trên 10 tác phẩm[1] mà được xem như “ngưòi anh cả” về nhiều mặt trong tân nhạc Việt Nam. Trong lúc đó có nhiều người soạn đến sáu bảy trăm bài hát mà may lắm dân chúng mới nhớ được tên một vài bài. Được thế cũng đã quý lắm rồi. Do đó rất khó so sánh hơn thua về chất lượng nghệ thuật của “các sáng tác mới” “khai thác từ dân ca” của Phạm Duy và của các anh được Hồng Đăng biểu dưong. Một người ngoại đạo âm nhạc như tôi không dám bàn đến chất lượng âm nhạc (dù lớn dù nhỏ) của giới nhạc sĩ Việt Nam. Nhưng với nghiệp vụ báo chí, tôi có thể lấy sự tiếp nhận của dân chúng và của chính tôi làm thang điểm đánh giá chất lượng các ca khúc Việt Nam. -
Về sự tiếp nhận của dân chúng, các anh chưa tạo được hiện tượng nhạc Pham Duy như đoạn 4.1 nêu trên. - Về kinh nghiệm bản thân: Trước tuổi 15 (1952), tôi ở trong rừng Đà Lạt, sau đó tôi ra khỏi rừng đi học ở Đà Lạt, Đà Nẵng, Huế, vỏn vẹn có 14 năm (1952-1966), sau đó (tháng 7-1966) đi kháng chiến chống Mỹ ở chiến khu Trị Thiên. Trong 14 năm đi học, tôi có dịp được tiếp xúc với tân nhạc, với nhạc Phạm Duy. Đi kháng chiến tôi mang theo trong lòng những lời ca mang âm hưởng dân ca, âm hưởng các điệu hò, điệu lý quê tôi của Phạm Duy: Hò hố!... Hò hô!... Hò hớ hơ!... Nhớ thương về chiến khu mờ.... Biết bao người sống mong chờ... (Về Miền Trung) Xa xa tiếng chuông chùa gieo Hò ơi... ơi ới hò! Hò ơi... ơi ới hò!... (Bà Mẹ Gio Linh) Em ở lại nhà, em ơi, em ở lại nhà Vườn dâu em đốn mẹ già em thương,... tình tang... (Dặn Dò) Ðây chốn biên khu, lòng ta như nước sông Lô Khoan hỡi khoan hò, hò... hò... khoan!... (Tiếng Hát Trên Sông Lô) Từ ngày, từ ngày chinh chiến mùa thu Có chàng ra lính biên khu... ai ơi tung hoành... u u ù...(Nhớ Người Thương Binh) Các con tôi ngày nay (trên dưới 30 tuổi) đều có ăn học, có bằng cấp hơn tôi, ưa thích âm nhạc, rất thích những bài hát “khai thác từ dân ca”, đặc biệt là nhạc phát triển từ dân ca Tây nguyên của Nguyễn Cường, nhưng tôi bảo chúng hát cho tôi nghe một bài của các anh thì đứa nào cũng cười trừ.
Thực tế nó như thế đó, anh Hồng Đăng ạ, anh nghĩ lại xem thử câu nhắn gởi đến nhạc sĩ Phạm Duy “khai thác dân ca vào sáng tác mới giỏi hơn anh nhiều lắm” của anh có còn đúng không? Mà anh Hồng Đăng nầy, nền tân nhạc/nhạc mới Việt Nam trong văn hóa VN đâu chỉ có nhạc mới, đâu chỉ có kháng chiến ca, tình ca? Tôi xin lặp lại là tôi ngoại đạo âm nhạc, chỉ với vị thế của một người cầm bút xứ Huế thôi tôi cũng đã thấy trong lịch sử âm nhạc VN còn nhiều thứ nữa: Nền âm nhạc VN có Nhạc đồng quê, nhạc tuổi thơ, nhạc tuổi xanh/nhạc trẻ, nhạc tuổi hồng, nhạc phổ thơ, tâm ca, bình ca, trường ca, nhạc tâm linh (Thiền ca, Đạo ca), nhạc múa, nhạc kịch, nhạc phim.v.v. và cao nhất là nhạc bác học nhạc thính phòng, giao hưởng. Loại nhạc nào VN cũng có đỉnh cao cả. Phạm Duy chỉ làm ca khúc và dài nhất là trường ca chứ chưa hề soạn một giao hưởng nào. Trong lúc đó nhiều nhạc sĩ VN như Tôn Thất Tiết, Nguyễn Thiện Đạo, Hoàng Việt, Nguyễn Văn Thương, Ca Lê Thuần, Trọng Bằng, Đõ Hồng Quân v.v. đã có rất nhiều giao hưởng nổi tiếng trong và ngoài nước. Tuy nhiên, con trai của Phạm Duy là nhạc sĩ Duy Cường mấy chục năm qua đã không ngừng nghiên cứu âm nhạc Việt Nam và âm nhạc cổ điển Tây phưong không ngừng phấn đấu phối âm, phối khí nâng những ca khúc, những trường ca của thân sinh mình lên thành những bản hòa tấu / những tác phẩm âm nhạc thính phòng có giá trị quốc tế mà lại rất gần gũi với hơi thở và tiếng nói Việt Nam. Với tài năng của bản thân và sự tiếp tay của con cái, nhạc sĩ Phạm Duy đã chiếm được nhiều đỉnh cao trong lịch sử âm nhạc VN.
Lấy cái tội Phạm Duy bỏ kháng chiến “về thành” đặt lên cân với các đỉnh cao của Phạm Duy trong lịch sử âm nhạc Việt Nam thì một cậu sinh viên mới vào trường âm nhạc cũng có thể thấy bên nào trọng bên nào khinh. Anh Phạm Tuyên, anh Hồng Đăng có “OK” với tôi như thế không? * * * Anh Phạm Tuyên kính mến, 6. Tôi không hiểu có chuyện gì mà cả ba anh Trọng Bằng - nguyên Tổng thư ký Hội nhạc sĩ Việt Nam, anh Hồng Đăng - nguyên Phó TTK Hội NSVN và anh Phạm Tuyên - người đứng đầu Hội NS Thủ đô Hà Nội xuất hiện chung trong một bài báo cảnh báo nhạc sĩ Phạm Duy về nhiều điều như thế. Có thể nói đó là ý kiến của cả giới nhạc sĩ VN gởi đến nhạc sĩ Phạm Duy.
Nhưng đọc kỹ thì tôi thấy không có vấn đề gì nghiêm trọng cả, nhất là phần ký tên Phạm Tuyên. Vấn đề mà các anh không nghĩ tới: qua bài báo đó gợi lên chuyện của chính nội bộ giới nhạc sĩ Việt Nam chứ không phải chuyện của nhạc sĩ Phạm Duy vừa ở Hoa Kỳ về định cư ở quê nhà. Chuyện nội bộ của giới nhạc sĩ VN tôi hẹn sẽ viết gởi anh trong một lá thư khác. Thư nầy đã quá dài, tôi chỉ xin trích một ý kiến của anh sau đây để bình luận thôi: Phạm Tuyên viết: “Trong cơ chế thị trường hôm nay, tôi nghĩ cần phải thẩm định đúng giá trị thật những đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, không nên quá đề cao”. Vâng, tôi hoàn toàn đồng ý nội dung ý kiến nầy.
Nhưng nó chỉ đúng khi tác giả ý kiến đó là một vị lãnh đạo Đảng, một quan chức lãnh đạo ngành văn hoá chứ không phải một quan chức ngành âm nhạc là Phạm Tuyên. Bởi vì việc “thẩm định đúng giá trị thật những đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy” là việc của Hội nhạc sĩ VN, của Viện nghiên cứu Âm nhạc VN, của các quan chức trong Hội Nhạc sĩ VN, trong đó có nhạc sĩ Phạm Tuyên. Không ai có thể thay thế các anh để làm việc đó cả. Việc của các anh các anh không làm lại đi chê trách báo chí trong cơ chế thị trường? Đáng lẽ báo chí phê phán các anh không làm nhiệm vụ của mình mới đúng chứ? Hay các anh sẽ bảo “Vì Phạm Duy mới về nên chưa làm kịp?” Vâng, mới gần 5 năm nên chưa kịp.
Thế đối với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn dã gần 35 năm rồi các anh đã “thẩm định đúng giá trị thật những đóng góp của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn chưa? Cũng chưa? Có lẽ vì thế mà cả một cái sự nghiệp âm nhạc Trịnh Công Sơn được dân chúng trong và ngoài nước xem là đỉnh cao ấy chưa hề được ghi tên vào danh sách xét trao các giải thưởng cấp tỉnh, cấp nhà nước nào của các anh cả. Sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn đã vượt qua mọi giải thưởng. Thế các anh có biết nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ ở Quận 4 TP HCM không? Thưa thật với anh, tôi là người ngoại đạo, nếu có nói sai mong anh và các bạn của anh đại xá: Ở các đô thị miền Nam trước năm 1975, khó tìm được một nhạc sĩ tài năng, yêu nước, can đảm, cách mạng như Phạm Thế Mỹ. Theo những thông tin của những người gần gũi với Phạm Thế Mỹ thì hình như Hội nhạc sĩ VN chưa quan tâm đến Phạm Thé Mỹ. Để các anh có dịp trao đổi với Hội Nhạc sĩ VN, tôi gởi kèm theo dưới đây bản liệt kê những gì tôi biết về người nhạc sĩ sống rất vinh quang và chết trong trong âm thầm ấy. * * * 7. Tôi cũng xin tâm sự với anh Phạm Tuyên về những thông tin có liên quan đến ông bạn Trọng Bằng của anh trong tâm trí của tôi sau đây: Như anh biết, tôi vốn xuất thân trong Phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây và công tác ở chiến trường đồng bằng Trị Thiên Huế những năm đánh Mỹ ác liệt nhất (1966-1974). Tôi không được học hành nhiều, không có bằng cấp gì. Thật khác với đại đa số bạn bè tôi không tham gia tranh đấu, không hề biết kháng chiến, chỉ tập trung học hành nên đỗ đạt cao. Đối với bạn bè cùng thế hệ, tôi luôn có mặc cảm là mình dốt. Do đó từ sau ngày đi kháng chiến, tôi biết được trong hàng ngũ đồng chí, đồng đội của tôi có người được Đảng đào tạo, cho ăn học đến nơi đến chốn tôi rất tự hào. Đó là những lực lượng trí thức của tôi đối trọng với những người ở phía bên kia. Trước đây mỗi lần được xem (hoặc qua Tivi) GS NSND Trọng Bằng - tốt nghiệp trường nhạc của Liên-xô điều khiển Ban nhạc giao hưởng rất bề thế của VN tôi rất tin tưởng. Tin tưởng, tự hào về những hoạt động văn hóa chất lượng cao của VN. Nhưng rồi không ngờ năm 2006 ra Hà Nội ghé thăm các bạn cũ đồng nghiệp của tôi ở báo Lao Động, vô tình tôi nghe kể chuyện xì-căng-đan: “nhạc sĩ Trọng Bằng đạo nhạc”, tôi tá hỏa.
Các bạn kể rằng: GS NSND Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ VN tự đưa tác phẩm Ouverture Chào mừng của ông ra đề nghị xét tặng giải thưởng Hồ Chí Minh thì bị nhạc sĩ Vĩnh Cát tố cáo là tác phẩm Ouverture Chào mừng của nhạc sĩ Trọng Bằng không chỉ copy ý tưởng mà chép nguyên văn các chủ đề (thème) và cách phối âm phối khí trong bản giao hưởng số 5 của Shostakhovich và tác phẩm giao hưởng số 7 của Prokofiev. Bốn đại tá nhạc sĩ quân đội nổi tiếng là Huy Thục, Nguyên Nhung, Doãn Nho và Nguyễn Đức Toàn cũng tố cáo nhạc sĩ Trọng Bằng với nội dung tương tự. Nhạc sĩ Trọng Bằng không bảo vệ được tác phẩm của mình nên cuối cùng phải xin “rút khỏi danh sách đề cử giải thưởng Hồ Chí Minh”. Thật hú hồn.
Ông Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ VN mà đi đạo nhạc, đi tranh giải văn học nghệ thuật cao nhất nước, bị tố cáo phải rút lui thì hết chỗ nói chuyện đạo đức với bất cứ người làm nghệ thuật già trẻ, cũ mới nào rồi. Nếu không có trí thức và sự thẳng thắn của ông Vĩnh Cát và các vị Đại tá nhạc sĩ quân đội ấy thì hậu quả sẽ ra sao? Các nhạc sĩ Tôn Thất Tiết, Nguyễn Thiện Đạo ở Pháp, các nhạc sĩ Nga học cùng thế hệ với Trong Bằng ở Liên-xô cũ nghĩ gì về các nhạc sĩ, trí thức hàng đầu ở VN? Các tác giả nhạc giao hưởng đồng nghiệp của Trọng Bằng sẽ nghĩ gĩ về cái Giải thưởng Hồ Chí Minh treo trong nhà nhạc sĩ Trọng Bằng?
Hơn thế nữa người trong và ngoài nước sẽ xem cái Giải thưởng Hồ Chí Minh cao quý nhất nước như thế nào? Và, riêng những người với tài năng thực sự họ đã nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh sẽ phẫn nộ về sự không lương thiện của Trọng Bằng làm ảnh hưởng đến giá trị cái giải thưởng cao quý mà họ đã nhận như thế nào? Với một cú bị knock out như vậy đáng lẽ anh Trọng Bằng phải tu tỉnh, nhìn lại mình, kiểm điểm những ấu trỉ, những thiếu sót của mình đối với anh em đồng nghiệp, bao dung, thông cảm với những người không được may mắn như mình, vỗ về, xoa dịu những nỗi đau của đồng nghiêp.v.v. Nhưng ...than ôi!
* * *
Kính anh Phạm Tuyên, Tôi tuy nhỏ tuổi hơn các anh nhiều, nhưng cũng đã 73 tuổi, “cái tuổi xưa nay hiếm”. Nhiều đêm không ngủ được, không dám tính thêm chuyện gì nữa trong tương lai mà cứ nhớ và ngẫm lại chuyện cũ. Tôi mừng mình được may mắn có mặt trong cuộc kháng chiến trường kỳ góp phần giải phóng đất nước, nhiều bạn bè tôi ở miền Nam không được cái hạnh phúc ấy; Đến cuối đời thấm nhuần được một chút Đạo Phật, thấm thía với hai chữ nhân quả - vô thường, nên tuổi già được thanh thản. Ngẫm lại sự đời mình đã trải qua thật thấm thía. Không đâu xa, thực tế nhãn tiền cho thấy trước là tội nay là công, trước là bạn, sau là thù, xưa là thù nay là bạn, nay là công biết đâu do nhân quả mai là tội cũng nên.
Nhiều vị “mắc tội nhân văn” cũ nay đã có giải thưởng quốc gia, ông Bùi Tín là một người có công trong kháng chiến, có mặt ở Dinh Đọc Lập trưa ngày 30-4-1975 nay là “nghịch thần” lưu vong ở nước ngoài. Nhạc sĩ Phạm Duy mắc tội bỏ kháng chiến “về thành”, nhưng với sự nghiệp âm nhạc đồ sộ nhất nước VN hiện nay của ông, biết đâu một ngày đẹp trời nào đó nhạc sĩ Phạm Duy cũng được vinh danh như Văn Cao đã từng được hưởng?
Ai dám chắc nói không? Công với tội thật vô thường. Chỉ có một thứ như Trịnh Công Sơn viết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng” là không thay đổi, dù để cho gió cuốn đi vẫn không mất. Phải chăng giới văn nghệ sĩ chúng ta hôm nay vẫn còn thiếu cái ấy? Thư đã quá dài, tôi không dám làm phiền anh thêm nữa. Xin dừng bút. Kính chúc anh sức khỏe..
Nguyễn Đắc Xuân
9/1B Ng.Công Trứ, Huế Đt: 054.3823009
- e-mail: gactholoc@yahoo. com
-
BAUXITE TÂY NGUYÊN
TIN BBC
Tướng Giáp gửi thư nữa về bauxite
Đại
tướng Võ Nguyên Giáp lại mới gửi thêm một lá thư nữa cho Bộ
Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam, đề nghị dừng các dự án
bauxite.
Lá thư được gửi đi ngày 20/05 vừa qua cảnh báo về nguy cơ 'quyết định sai lầm, gây nên tai họa lớn cho đất nước'.Tướng Giáp, năm nay 98 tuổi, hoan nghênh Bộ Chính trị đã lắng nghe ý kiến các giới nhưng viết rằng "chủ trương khai thác chế biến bô xít ở Tây Nguyên là một vấn đề hết sức hệ trọng".
Theo ông, nó "sẽ có tác động lớn đến môi trường sinh thái, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đến phát triển ổn định, bền vững của đất nước."
Tổng hợp các ý kiến lắng nghe trong quá trình Việt Nam có tranh luận sôi nổi về vụ khai thác bauxite ở Tân Rai và Nhân Cơ với đối tác Trung Quốc đem công nhân của họ vào, ông Giáp cho rằng "nhiều vấn đề mà Bộ Chính trị nêu lên cho đến nay chưa được nghiên cứu, phân tích, đánh giá toàn diện đầy đủ".
Nhiều vấn đề mà Bộ Chính trị nêu lên cho đến nay chưa được nghiên cứu, phân tích, đánh giá toàn diện đầy đủ
Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Bởi thế, ông đề nghị dừng các dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên, kể cả khai thác thí điểm.
Tướng Giáp cũng đánh thẳng vào quan điểm khai thác bằng mọi giá nhân danh "hiện đại hóa", vốn được một số nhà lãnh đạo nêu ra.
Ông viết:"Hiện nay chưa khai thác bô xít ở Tây Nguyên, dành tài nguyên đó cho thế hệ mai sau và không khai thác bô xít thì chúng ta vẫn tiến hành được công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước."
Đặc biệt, nhắc đến vai trò của Quốc hội hiện đang họp tại Hà Nội, ông mong rằng "Trung ương và Quốc hội phát huy dân chủ, bàn bạc kỹ lưỡng, có quyết định đúng đắn".
Ý kiến tướng lĩnh
Trong tháng 4 vừa qua, Tướng Giáp đã gửi lá thư thứ nhì đề nghị xem xét kỹ dự án bauxite.
Ông nói: "Tôi cho đây là một vấn đề cực kỳ hệ trọng. Vấn đề này trước đây tôi đã từng nghiên cứu, tôi đã có thư gửi đồng chí Thủ tướng nhưng chưa được trả lời."
"Tôi mong các nhà khoa học, các nhà quản lý, các nhà hoạt động xã hội hãy nêu cao trách nhiệm trước dân tộc, thảo luận một cách khoa học, nghiêm túc, thẳng thắn để kiến nghị với Đảng và Nhà nước một chủ trương đúng đắn về vấn đề bô-xít Tây Nguyên mà tôi cho là không nên khai thác."
Bài viết của cựu tư lệnh đường Hồ Chí Minh để kỷ niệm ngày 30/4 cho rằng: "Trong thời chiến và cả sau này cũng vậy, địa chiến lược, địa quân sự Tây Nguyên cũng luôn là yếu huyệt, vì thế làm gì ở Tây Nguyên cũng phải rất cẩn trọng,"
Ông Đồng Sĩ Nguyên nói "xây dựng Tây Nguyên phải do chính bàn tay người Việt làm."
Trước đó, đầu tháng 3, Thiếu tướng Lê Văn Cương, Viện khoa học Chiến lược Bộ Công an cũng công bố một tham luận nêu ra vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên có thể tác động đến vấn đề an ninh Việt Nam.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/05/090527_vonguyengiap_bauxite.shtml
Thư thứ 3 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi BCH TU, Bộ Chính trị cùng Quốc hội và Chính phủ về vấn đề Bauxite Tây Nguyên
14:52 27/05/2009 (GMT+7)
TRUYỆN NGẮN
BÁNH CANH GIÒ HEO
Nơi có cây cầu khỉ:
Tôi là người dậy sớm nhất trong khu tập thể giáo viên này. Sáng nay Chủ nhật nên mọi người ngủ nướng thêm chút nữa. Các thầy thì khỏi nói, đêm qua mưa dầm và nhậu quá trời. Không hy vọng có bạn cùng ra quán cà phê nên tôi đi một mình. Con đường đê lầy lội bởi mưa đã nhiều, đêm qua mấy thầy đi nhậu về còn làm cho khúc đường trơn thêm bóng vì té lên té xuống. Tôi cẩn thận qua được một đoạn bờ trơn như da lươn, đầy những dấu chân người... say đêm qua. Cây cầu khỉ trước mặt hiện ra thử thách. Sáng sớm mà tòm xuống rạch thì khó coi lắm nghen! Đứng tư lự một hồi, thấy nhục quá nên nhắm mắt đưa chân. Một mảnh vạt áo đàn ông còn vướng lại trên tay vịn của cây cầu khỉ. Thì ra áo thầy Dũng-xị, đêm qua thầy la làng, chửi bới cây cầu hết lời rủa xả.
Tôi qua được cây cầu khỉ mà không té mới khó hiểu! Lòng thầm cảm ơn vợ chồng Thần cầu... khỉ. Tiếp theo là một đoạn đê đất sét cứng, giữa cao, hai bên soải xuống. Tiếng địa phương gọi là sườn bò. Thật ra với loại đường này, có nằm xuống lăn... cũng bõm xuống sông chứ dễ gì qua được! Phần tôi mới được học trò cho đôi dép mới, định mang cho nó vui. Tội nghiệp thằng nhỏ... hai mươi tuổi, một vợ hai con, học lớp tám năm thứ tư mà nhất định không nghỉ vì sợ quên chữ! Hết chữ nghĩa của nó không đầy cái lá mít mà quên nữa thì làm sao đi "mần dziệc" cho Ủy ban. Thương nước một tiếng thầy, hai tiếng thầy... "Con mua đôi dép hai ba năm rồi, còn chưa xỏ tới. Thầy lấy mang đi, để nó mục".
Cuối cùng cũng ra được con đường xi-măng một mét bề ngang và dài như con rắn xuyên qua xóm làng. Đứng ở ngã ba đường, tôi phân vân rẽ phải hay trái? Bên trái được tự nhiên sắp đặt sân banh, quán nhậu, Ủy ban, cầu đò. Bên phải là quán ăn, trường học, trạm xá. Mặt trời mọc thì đi về bên phải, mặt trời lặn thì đi về bên trái. Chân lý đó do thầy Bình-mồng tơi, nghĩ ra. Chẳng biết sao thầy Bình dạy Anh văn và chỉ hát một câu nhạc Việt: Mồng tơi ơi mồng tơi! Nên thầy có tên Bình-mồng tơi là vậy. Cũng để phân biệt với thầy Bình-em gái! Tôi nhìn về bên trái, nhớ trận nhậu tối qua ở quán chị Tám Hưởng mới vui. Chị là O du kích trong kháng chiến. Sau hòa bình, chị phải mang một cái chân giả. Chị lấy anh Sáu Thưởng như lời hứa của chị: "Chừng nào hòa bình thì làm đám cưới". Những buổi trưa quán vắng, ngồi soạn giáo án ngoài quán, nghe chị kể chuyện tình trong chiến khu cũng phê phê. Anh Sáu Thưởng vì cứu chị chạy không kịp máy bay oanh kích mà mất luôn hai giò. Tổng cộng trong nhà chị có ba cái chân giả. Hai người nông dân nghe lời bọn xấu đi làm cách mạng về chỉ được cuốn sổ thương binh. Hằng tháng được cấp vài lít gạo, không đủ sống nên mở quán kiếm thêm để nuôi con. Chị nói: "Mấy thầy thương thì uống cà phê sáng và nhậu tối ở đây cho tui có gạo nuôi con là cám ơn nhiều". Nhìn hai người khật khưỡng trên những cái chân giả. Nhà thì nền đất, mái lá, bên ngoài mưa lớn-bên trong mưa nhỏ. Chẳng ai còn nghĩ đến chính trị, chính em gì. Chỉ thấy tội nghiệp. Những đêm mưa gió bão bùng, chị ngồi xổm trên chân thật, duỗi cái chân giả dài ra vì đâu co lại được - chân giả "Made in Vietnam" do Sở Thương binh Xã hội ban tặng - nó thế! Chị ngồi nhổ lông gà làm món nhậu cho mấy ông thầy giáo nghèo... cỡ chị, chứ dân Quản lý thị trường, Công an biên phòng bắt vượt biên thì họ đâu có nhậu nơi đây.
Chị Tám thường lấy bộ lòng gà xào củ hành cho mấy thầy nhậu trước. Sau đó luộc gà chín tới thì trộn gỏi bắp cải, nước lèo nấu cháo hành giải nghể là xong cho một bàn. Có khi mấy thầy nhậu hai ba bàn thì nhìn chị như con rối, tội nghiệp lắm. Gương mặt chị đẹp kiểu quê mùa, da bánh mật là tất cả những gì trời cho. Trời quở là đầu tắt mặt tối, lam lũ vì nheo nhóc đàn con. Nhiều khi chúng tôi cười trên sự đau khổ của chị rồi đêm về nằm nghĩ lại cũng ân hận. Giả như thầy Thạnh nói: "Hòa bình mới có mấy năm mà đã ba, bốn đứa con nheo nhóc, mũi rãi lòng thòng, thấy ớn..." Thầy Long tiếp: "Trời se duyên thôi. Anh Sáu Thưởng thì chị Tám Hưởng. Không nheo nhóc sao được?" Cả đám lại cười ồ lên. Hay thầy Dũng-xị là chuyên gia nhậu, tìm ra chân lý ở quán chị Tám như vầy: "Ở đây đốt đèn dầu, uống xị đầu còn nhà ngói, nhà tranh. Uống chừng ba xị, tao đố đứa nào phân biệt được cái phao câu gà với cái phao chị Tám. Bay coi kìa! Không có tới cái nùi giẻ chứ nói gì khăn. Bả đang xé gà trộn gỏi mà ai kêu cho xị rượu nữa là bả quẹt hai bàn tay mỡ vô mông. Xé vài con gà thì không còn phân biệt phao nào là gà, phao nào phao chị Tám vì cái nào cũng bóng mỡ. Uống vài xị rượu thì nhà ngói cũng như nhà tranh!"
(Nhiều năm rồi, tôi vẫn không quên được những đêm mưa Duyên Hải, những người bạn đầu xanh tuổi trẻ, cái nghề gõ đầu trẻ thì ít mà nhậu thì nhiều. Những đứa học trò dễ thương và một miền quê hiền lành nhưng nghèo lắm...)
Mặt trời đã treo trên ngọn dừa nước, tôi lững thững đi về bên phải. Định bụng xuống quán cô Chanh để ăn tô bánh canh giò heo cho ấm bụng, sau một đêm nhậu quá cỡ với đồng môn. Đầu óc lại nghĩ tiếp những vui buồn ở cái xứ quê một cục này. Cô Chanh, thoạt tiên kỳ thủy là người dễ nhìn - trắng da dài tóc. Mười tám tuổi, tốt nghiệp lớp chín. Cô Chanh về thành phố học hai năm để làm Y tá. Công thành danh toại, cô về lại địa phương làm việc trong Trạm xá. Duyên tiền định đến một ngày nắng tốt không mưa. Thầy Thạnh đau bụng quá nên bên giáo viên đưa qua cho cô Chanh "mần dziệc". Cô Chanh chẩn đoán thầy Thạnh đau ruột thừa, phải đưa về thành phố mổ gấp. Nếu không bể ruột sẽ dẫn đến nhiễm trùng khoang bụng thì hết thuốc chữa. Tình hình khẩn cấp, không đợi được tàu đò nên ông Sáu Chín là Bí thư xã ra lệnh cho ghe Ủy ban đưa thầy Thạnh về Sài Gòn, gấp. Ông Sáu Chín ngoài tật ham gái như cái tên kháng chiến của ông thì ông cũng tử tế, nhất là với bên thầy cô giáo. Đỉnh cao trí tuệ của ông là nhận định tình hình địa phương: "Tui thích nhìn con gái chổng mông cấy lúa". Cái tên Sáu Chín do đồng chí chỉ huy trong chiến khu đặt cho ông là chí phải. Vì con số sáu với con số chín quyện vào nhau, lật xấp lật ngửa gì cũng là một cặp... đang "mần dziệc".
Cô Chanh theo ghe Ủy ban về thành phố để nâng khăn sửa gối cho thầy Thạnh. Cô chẩn đoán đúng về bệnh trạng của thầy. Thầy phải mổ và bác sĩ thành phố còn cho biết là may mắn. Chỗ ruột thừa vừa bể, phải cắt một đoạn ruột nhưng không nguy hiểm đến tính mạng. Thầy chỉ phải mang cái tên thân mật: Thầy Thạnh-đứt ruột.
Cô Chanh ở lại thành phố chăm sóc cho thầy Thạnh đến ngày xuất viện. Chuyện này hoàn toàn tự ý chứ không phải nhiệm vụ được giao. Sau đó thấy gia đình thầy Thạnh 'neo đơn' nên cô về nhà thầy Thạnh chăm sóc tiếp cho đến khi thầy thật khỏe. Cả hơn tháng sau thầy Thạnh mới trở lại nhiệm sở. Cô Chanh đưa thầy Thạnh về nhà mình chăm sóc vì sợ thức ăn bên nhà ăn Liên cơ (nhiều cơ quan hợp lại gọi là liên cơ), ngoài quán xá thiếu vệ sinh trong khi ruột thầy thì cô Chanh rành hơn ai hết!
Thầy Thạnh tốt số nên lại sức mau chóng, ơn chăm sóc nên thầy sóc lại cô Chanh rất chăm để trả ơn em gái miền quê... Đâu năm sau, nhà tụi nó có tiếng con nít khóc, oe... oe... Mở hàng cho một loạt thầy giáo hát bài: ... đến đây thì ở lại đây, hổng chừng đứt ruột lại hay hơn dzìa...!
Để đáp ứng cho đòi hỏi của dân thành phố xuống công tác: Quán xá phải có vệ sinh một chút. Thầy Thạnh - cô Chanh nhận chỉ thị của anh Hiệu trưởng, mở quán bán bánh canh giò heo buổi sáng. Đại khái là rửa tô bằng nước ngọt, có xà bông. Từ đó bánh canh bên quán bà Sáu Mú bị ế, vì dơ quá. Một hôm thầy Hiển ra quán muộn, quán cô Chanh hết bánh canh. Cô xin lỗi và nói thầy Hiển ăn đỡ bánh canh bên quán bà Sáu Mú (đối diện quán cô Chanh).
Không ăn thì thôi, khơi khơi thầy Hiển nói: "Ăn đây quen rồi. Giò cô Chanh không có lông. Giò bà Sáu Mú lông không hà". Đám thầy giáo cười bò lăn... thầy Hiển mới biết mình đắc tội với thầy Thạnh. Phải đãi rượu anh em coi như làm chứng cho thầy xin lỗi thầy Thạnh. Nhưng giò cô Chanh không có lông thì nổi tiếng giang hồ miệt ruộng.
Tôi xuống đến quán cô Chanh. Thấy thầy Hiệu trưởng ngồi thù lù trong góc quán. Gãi đầu, bứt tai. Tôi hỏi.
- Chuyện gì rầu vậy sư huynh?"
- Thằng Thạnh nó cứ lo... sóc con Chanh mẹ, chăm con Chanh con. Không lo nấu bánh canh gì hết. Giờ này chưa có gì ăn, đói chết mồ tổ...
- Chuyện nhà người ta mà sư huynh...
- Tối qua, tao ngủ đây chứ đâu. Mưa quá, làm biếng về trường. Cái thằng Thạnh bỏ bạn, nhậu chưa tới đâu là đi ngủ sớm để sáng dậy sớm nấu bánh canh. Nó hầm giò thâu đêm mà quên nhóm lửa... nên giờ này mới chưa có ăn. Dạy thì dở - dzợ thì hay. Sang năm, tao cho nó dạy môn... Kỹ thuật hầm giò, được hôn?
Tôi chỉ biết cười với anh Hiệu trưởng rất tiếu lâm, thầy Thạnh lu bu trong nhà nào con, nào việc tù lu. Thấy cảnh vợ con sao mà ngán quá! Nhưng hắn vui vẻ hơn xưa, từ ngày lấy vợ hắn hiền ra và thương bạn bè hơn. Hắn ưa giành vợ cái khoản tính tiền bàn bạn bè vì có nhiêu đưa nhiêu. Hắn bỏ luôn vào tủ - không đếm.
Thầy Thạnh nói với tôi: "Ê... cu. Tối qua có người khóc thấy thương: "Chết cha tao rồi. Dzợ tao có bầu nữa rồi Thạnh ơi!"
Tôi chỉ nhìn thầy Hiệu trưởng mà thương hại sư huynh. Cứ vì đàn em thân yêu mà bỏ vợ con ở Sài Gòn. Thỉnh thoảng mới về nhà, làm sao tránh khỏi những tai nạn giao thông trên giường chiếu không đèn.
Ăn xong, tôi đi tiếp cho đến hết con đường là nhà đứa học trò biết may, lại có máy may trong nhà, mới là giàu thứ thiệt ở miệt quê. Tôi nhờ nó vá đầu gối quần jeans. Sẵn rảnh thì đi lấy luôn. Đầu óc lại nghĩ bâng quơ. Chợt nhớ ra hai ba tháng trước. Bất chợt một chiều, thầy hiệu trưởng nhận được điện tín: "Anh ve gap! Ma benh nang..." Vậy là thầy bất kể gian nan. Về nhà ở Sài Gòn mới hay là bà già vợ đi chợ, lúc qua đường không cẩn thận nên bị xe tông. Bà già mất nhiều máu quá, nhưng bốn năm người con ruột thì khác nhóm máu nên không cho mẹ được. Gia đình lại không muốn mua máu ở Trung tâm tiếp huyết vì chắc chắn là toàn máu của dân xì ke, ma túy. Vợ thầy Hiệu trưởng mới có sáng kiến gọi thầy về trong hy vọng cùng nhóm máu với nhạc mẫu. Ai dè cùng thiệt. Vậy là thầy cho xả láng. Nhạc mẫu bình phục mau chóng và được về nhà. Vợ thầy cảm kích cái ơn cứu mạng má em. Ơn đền oán trả, phu thê trùng phùng. Nên nay mới có chuyện thầy ngồi than thở với thằng có vợ là thầy Thạnh: Chết cha tao rồi! Coi như đi đứt cái danh hiệu tiên tiến năm nay vì thầy Hiệu trưởng đã có hai đứa con. Không chừng còn phải làm kiểm điểm về tội "vượt chỉ tiêu"!
Đoạn sau của thầy Hiệu trưởng mới bi đát. Từ ngày bà già vợ ở bệnh viện về. Chiều nào không có cho cụ bà một xị rượu đế thì cụ bà dỗi, không ăn cơm. Ai cũng bảo là trong người cụ bà bây giờ toàn là máu thằng rể. Không có rượu đế thì làm sao sống? Thầy phải trả tiền rượu cho nhạc mẫu mười mấy năm. Cụ bà mới cưỡi hạc quy tiên. Tôi đọc sách cũng thường, chưa nghe ai nói về trường hợp kỳ lạ như vậy. Nhưng mắt thấy, tai nghe. Không biết! Có con sâu rượu trong máu người ta, thật không? Mấy chục năm sau mới có dịp diện kiến thầy lang Nguyễn Ý Đức, tôi trình thầy thắc mắc lâu năm. Thầy nói viết chi tiết cho thầy nghiên cứu! Nhưng chưa có hồi âm.
Tôi là người dậy sớm nhất trong khu tập thể giáo viên này. Sáng nay Chủ nhật nên mọi người ngủ nướng thêm chút nữa. Các thầy thì khỏi nói, đêm qua mưa dầm và nhậu quá trời. Không hy vọng có bạn cùng ra quán cà phê nên tôi đi một mình. Con đường đê lầy lội bởi mưa đã nhiều, đêm qua mấy thầy đi nhậu về còn làm cho khúc đường trơn thêm bóng vì té lên té xuống. Tôi cẩn thận qua được một đoạn bờ trơn như da lươn, đầy những dấu chân người... say đêm qua. Cây cầu khỉ trước mặt hiện ra thử thách. Sáng sớm mà tòm xuống rạch thì khó coi lắm nghen! Đứng tư lự một hồi, thấy nhục quá nên nhắm mắt đưa chân. Một mảnh vạt áo đàn ông còn vướng lại trên tay vịn của cây cầu khỉ. Thì ra áo thầy Dũng-xị, đêm qua thầy la làng, chửi bới cây cầu hết lời rủa xả.
Tôi qua được cây cầu khỉ mà không té mới khó hiểu! Lòng thầm cảm ơn vợ chồng Thần cầu... khỉ. Tiếp theo là một đoạn đê đất sét cứng, giữa cao, hai bên soải xuống. Tiếng địa phương gọi là sườn bò. Thật ra với loại đường này, có nằm xuống lăn... cũng bõm xuống sông chứ dễ gì qua được! Phần tôi mới được học trò cho đôi dép mới, định mang cho nó vui. Tội nghiệp thằng nhỏ... hai mươi tuổi, một vợ hai con, học lớp tám năm thứ tư mà nhất định không nghỉ vì sợ quên chữ! Hết chữ nghĩa của nó không đầy cái lá mít mà quên nữa thì làm sao đi "mần dziệc" cho Ủy ban. Thương nước một tiếng thầy, hai tiếng thầy... "Con mua đôi dép hai ba năm rồi, còn chưa xỏ tới. Thầy lấy mang đi, để nó mục".
Cuối cùng cũng ra được con đường xi-măng một mét bề ngang và dài như con rắn xuyên qua xóm làng. Đứng ở ngã ba đường, tôi phân vân rẽ phải hay trái? Bên trái được tự nhiên sắp đặt sân banh, quán nhậu, Ủy ban, cầu đò. Bên phải là quán ăn, trường học, trạm xá. Mặt trời mọc thì đi về bên phải, mặt trời lặn thì đi về bên trái. Chân lý đó do thầy Bình-mồng tơi, nghĩ ra. Chẳng biết sao thầy Bình dạy Anh văn và chỉ hát một câu nhạc Việt: Mồng tơi ơi mồng tơi! Nên thầy có tên Bình-mồng tơi là vậy. Cũng để phân biệt với thầy Bình-em gái! Tôi nhìn về bên trái, nhớ trận nhậu tối qua ở quán chị Tám Hưởng mới vui. Chị là O du kích trong kháng chiến. Sau hòa bình, chị phải mang một cái chân giả. Chị lấy anh Sáu Thưởng như lời hứa của chị: "Chừng nào hòa bình thì làm đám cưới". Những buổi trưa quán vắng, ngồi soạn giáo án ngoài quán, nghe chị kể chuyện tình trong chiến khu cũng phê phê. Anh Sáu Thưởng vì cứu chị chạy không kịp máy bay oanh kích mà mất luôn hai giò. Tổng cộng trong nhà chị có ba cái chân giả. Hai người nông dân nghe lời bọn xấu đi làm cách mạng về chỉ được cuốn sổ thương binh. Hằng tháng được cấp vài lít gạo, không đủ sống nên mở quán kiếm thêm để nuôi con. Chị nói: "Mấy thầy thương thì uống cà phê sáng và nhậu tối ở đây cho tui có gạo nuôi con là cám ơn nhiều". Nhìn hai người khật khưỡng trên những cái chân giả. Nhà thì nền đất, mái lá, bên ngoài mưa lớn-bên trong mưa nhỏ. Chẳng ai còn nghĩ đến chính trị, chính em gì. Chỉ thấy tội nghiệp. Những đêm mưa gió bão bùng, chị ngồi xổm trên chân thật, duỗi cái chân giả dài ra vì đâu co lại được - chân giả "Made in Vietnam" do Sở Thương binh Xã hội ban tặng - nó thế! Chị ngồi nhổ lông gà làm món nhậu cho mấy ông thầy giáo nghèo... cỡ chị, chứ dân Quản lý thị trường, Công an biên phòng bắt vượt biên thì họ đâu có nhậu nơi đây.
Chị Tám thường lấy bộ lòng gà xào củ hành cho mấy thầy nhậu trước. Sau đó luộc gà chín tới thì trộn gỏi bắp cải, nước lèo nấu cháo hành giải nghể là xong cho một bàn. Có khi mấy thầy nhậu hai ba bàn thì nhìn chị như con rối, tội nghiệp lắm. Gương mặt chị đẹp kiểu quê mùa, da bánh mật là tất cả những gì trời cho. Trời quở là đầu tắt mặt tối, lam lũ vì nheo nhóc đàn con. Nhiều khi chúng tôi cười trên sự đau khổ của chị rồi đêm về nằm nghĩ lại cũng ân hận. Giả như thầy Thạnh nói: "Hòa bình mới có mấy năm mà đã ba, bốn đứa con nheo nhóc, mũi rãi lòng thòng, thấy ớn..." Thầy Long tiếp: "Trời se duyên thôi. Anh Sáu Thưởng thì chị Tám Hưởng. Không nheo nhóc sao được?" Cả đám lại cười ồ lên. Hay thầy Dũng-xị là chuyên gia nhậu, tìm ra chân lý ở quán chị Tám như vầy: "Ở đây đốt đèn dầu, uống xị đầu còn nhà ngói, nhà tranh. Uống chừng ba xị, tao đố đứa nào phân biệt được cái phao câu gà với cái phao chị Tám. Bay coi kìa! Không có tới cái nùi giẻ chứ nói gì khăn. Bả đang xé gà trộn gỏi mà ai kêu cho xị rượu nữa là bả quẹt hai bàn tay mỡ vô mông. Xé vài con gà thì không còn phân biệt phao nào là gà, phao nào phao chị Tám vì cái nào cũng bóng mỡ. Uống vài xị rượu thì nhà ngói cũng như nhà tranh!"
(Nhiều năm rồi, tôi vẫn không quên được những đêm mưa Duyên Hải, những người bạn đầu xanh tuổi trẻ, cái nghề gõ đầu trẻ thì ít mà nhậu thì nhiều. Những đứa học trò dễ thương và một miền quê hiền lành nhưng nghèo lắm...)
Mặt trời đã treo trên ngọn dừa nước, tôi lững thững đi về bên phải. Định bụng xuống quán cô Chanh để ăn tô bánh canh giò heo cho ấm bụng, sau một đêm nhậu quá cỡ với đồng môn. Đầu óc lại nghĩ tiếp những vui buồn ở cái xứ quê một cục này. Cô Chanh, thoạt tiên kỳ thủy là người dễ nhìn - trắng da dài tóc. Mười tám tuổi, tốt nghiệp lớp chín. Cô Chanh về thành phố học hai năm để làm Y tá. Công thành danh toại, cô về lại địa phương làm việc trong Trạm xá. Duyên tiền định đến một ngày nắng tốt không mưa. Thầy Thạnh đau bụng quá nên bên giáo viên đưa qua cho cô Chanh "mần dziệc". Cô Chanh chẩn đoán thầy Thạnh đau ruột thừa, phải đưa về thành phố mổ gấp. Nếu không bể ruột sẽ dẫn đến nhiễm trùng khoang bụng thì hết thuốc chữa. Tình hình khẩn cấp, không đợi được tàu đò nên ông Sáu Chín là Bí thư xã ra lệnh cho ghe Ủy ban đưa thầy Thạnh về Sài Gòn, gấp. Ông Sáu Chín ngoài tật ham gái như cái tên kháng chiến của ông thì ông cũng tử tế, nhất là với bên thầy cô giáo. Đỉnh cao trí tuệ của ông là nhận định tình hình địa phương: "Tui thích nhìn con gái chổng mông cấy lúa". Cái tên Sáu Chín do đồng chí chỉ huy trong chiến khu đặt cho ông là chí phải. Vì con số sáu với con số chín quyện vào nhau, lật xấp lật ngửa gì cũng là một cặp... đang "mần dziệc".
Cô Chanh theo ghe Ủy ban về thành phố để nâng khăn sửa gối cho thầy Thạnh. Cô chẩn đoán đúng về bệnh trạng của thầy. Thầy phải mổ và bác sĩ thành phố còn cho biết là may mắn. Chỗ ruột thừa vừa bể, phải cắt một đoạn ruột nhưng không nguy hiểm đến tính mạng. Thầy chỉ phải mang cái tên thân mật: Thầy Thạnh-đứt ruột.
Cô Chanh ở lại thành phố chăm sóc cho thầy Thạnh đến ngày xuất viện. Chuyện này hoàn toàn tự ý chứ không phải nhiệm vụ được giao. Sau đó thấy gia đình thầy Thạnh 'neo đơn' nên cô về nhà thầy Thạnh chăm sóc tiếp cho đến khi thầy thật khỏe. Cả hơn tháng sau thầy Thạnh mới trở lại nhiệm sở. Cô Chanh đưa thầy Thạnh về nhà mình chăm sóc vì sợ thức ăn bên nhà ăn Liên cơ (nhiều cơ quan hợp lại gọi là liên cơ), ngoài quán xá thiếu vệ sinh trong khi ruột thầy thì cô Chanh rành hơn ai hết!
Thầy Thạnh tốt số nên lại sức mau chóng, ơn chăm sóc nên thầy sóc lại cô Chanh rất chăm để trả ơn em gái miền quê... Đâu năm sau, nhà tụi nó có tiếng con nít khóc, oe... oe... Mở hàng cho một loạt thầy giáo hát bài: ... đến đây thì ở lại đây, hổng chừng đứt ruột lại hay hơn dzìa...!
Để đáp ứng cho đòi hỏi của dân thành phố xuống công tác: Quán xá phải có vệ sinh một chút. Thầy Thạnh - cô Chanh nhận chỉ thị của anh Hiệu trưởng, mở quán bán bánh canh giò heo buổi sáng. Đại khái là rửa tô bằng nước ngọt, có xà bông. Từ đó bánh canh bên quán bà Sáu Mú bị ế, vì dơ quá. Một hôm thầy Hiển ra quán muộn, quán cô Chanh hết bánh canh. Cô xin lỗi và nói thầy Hiển ăn đỡ bánh canh bên quán bà Sáu Mú (đối diện quán cô Chanh).
Không ăn thì thôi, khơi khơi thầy Hiển nói: "Ăn đây quen rồi. Giò cô Chanh không có lông. Giò bà Sáu Mú lông không hà". Đám thầy giáo cười bò lăn... thầy Hiển mới biết mình đắc tội với thầy Thạnh. Phải đãi rượu anh em coi như làm chứng cho thầy xin lỗi thầy Thạnh. Nhưng giò cô Chanh không có lông thì nổi tiếng giang hồ miệt ruộng.
Tôi xuống đến quán cô Chanh. Thấy thầy Hiệu trưởng ngồi thù lù trong góc quán. Gãi đầu, bứt tai. Tôi hỏi.
- Chuyện gì rầu vậy sư huynh?"
- Thằng Thạnh nó cứ lo... sóc con Chanh mẹ, chăm con Chanh con. Không lo nấu bánh canh gì hết. Giờ này chưa có gì ăn, đói chết mồ tổ...
- Chuyện nhà người ta mà sư huynh...
- Tối qua, tao ngủ đây chứ đâu. Mưa quá, làm biếng về trường. Cái thằng Thạnh bỏ bạn, nhậu chưa tới đâu là đi ngủ sớm để sáng dậy sớm nấu bánh canh. Nó hầm giò thâu đêm mà quên nhóm lửa... nên giờ này mới chưa có ăn. Dạy thì dở - dzợ thì hay. Sang năm, tao cho nó dạy môn... Kỹ thuật hầm giò, được hôn?
Tôi chỉ biết cười với anh Hiệu trưởng rất tiếu lâm, thầy Thạnh lu bu trong nhà nào con, nào việc tù lu. Thấy cảnh vợ con sao mà ngán quá! Nhưng hắn vui vẻ hơn xưa, từ ngày lấy vợ hắn hiền ra và thương bạn bè hơn. Hắn ưa giành vợ cái khoản tính tiền bàn bạn bè vì có nhiêu đưa nhiêu. Hắn bỏ luôn vào tủ - không đếm.
Thầy Thạnh nói với tôi: "Ê... cu. Tối qua có người khóc thấy thương: "Chết cha tao rồi. Dzợ tao có bầu nữa rồi Thạnh ơi!"
Tôi chỉ nhìn thầy Hiệu trưởng mà thương hại sư huynh. Cứ vì đàn em thân yêu mà bỏ vợ con ở Sài Gòn. Thỉnh thoảng mới về nhà, làm sao tránh khỏi những tai nạn giao thông trên giường chiếu không đèn.
Ăn xong, tôi đi tiếp cho đến hết con đường là nhà đứa học trò biết may, lại có máy may trong nhà, mới là giàu thứ thiệt ở miệt quê. Tôi nhờ nó vá đầu gối quần jeans. Sẵn rảnh thì đi lấy luôn. Đầu óc lại nghĩ bâng quơ. Chợt nhớ ra hai ba tháng trước. Bất chợt một chiều, thầy hiệu trưởng nhận được điện tín: "Anh ve gap! Ma benh nang..." Vậy là thầy bất kể gian nan. Về nhà ở Sài Gòn mới hay là bà già vợ đi chợ, lúc qua đường không cẩn thận nên bị xe tông. Bà già mất nhiều máu quá, nhưng bốn năm người con ruột thì khác nhóm máu nên không cho mẹ được. Gia đình lại không muốn mua máu ở Trung tâm tiếp huyết vì chắc chắn là toàn máu của dân xì ke, ma túy. Vợ thầy Hiệu trưởng mới có sáng kiến gọi thầy về trong hy vọng cùng nhóm máu với nhạc mẫu. Ai dè cùng thiệt. Vậy là thầy cho xả láng. Nhạc mẫu bình phục mau chóng và được về nhà. Vợ thầy cảm kích cái ơn cứu mạng má em. Ơn đền oán trả, phu thê trùng phùng. Nên nay mới có chuyện thầy ngồi than thở với thằng có vợ là thầy Thạnh: Chết cha tao rồi! Coi như đi đứt cái danh hiệu tiên tiến năm nay vì thầy Hiệu trưởng đã có hai đứa con. Không chừng còn phải làm kiểm điểm về tội "vượt chỉ tiêu"!
Đoạn sau của thầy Hiệu trưởng mới bi đát. Từ ngày bà già vợ ở bệnh viện về. Chiều nào không có cho cụ bà một xị rượu đế thì cụ bà dỗi, không ăn cơm. Ai cũng bảo là trong người cụ bà bây giờ toàn là máu thằng rể. Không có rượu đế thì làm sao sống? Thầy phải trả tiền rượu cho nhạc mẫu mười mấy năm. Cụ bà mới cưỡi hạc quy tiên. Tôi đọc sách cũng thường, chưa nghe ai nói về trường hợp kỳ lạ như vậy. Nhưng mắt thấy, tai nghe. Không biết! Có con sâu rượu trong máu người ta, thật không? Mấy chục năm sau mới có dịp diện kiến thầy lang Nguyễn Ý Đức, tôi trình thầy thắc mắc lâu năm. Thầy nói viết chi tiết cho thầy nghiên cứu! Nhưng chưa có hồi âm.
Wednesday, June 10, 2009
TIN TỨC BIỂN ĐÔNG
TIN SBTN
TIN BBC
Bảo vệ ngư dân ở Biển Đông
Nguyễn Hùng bbcvietnamese.com
Việt
Nam có lẽ từ lâu đã biết rằng chơi với các 'ông lớn' bao giờ cũng phức
tạp. Và ông lớn càng ở gần mọi chuyện có vẻ càng phức tạp hơn.
Mới
đây đại sứ Việt Nam ở Mỹ viết thư cho các dân biểu Hoa Kỳ để cá tra và
cá basa của Việt Nam có thể được vào thị trường Mỹ mà không chịu chế độ
kiểm tra ngặt nghèo. Nay Bộ Ngoại giao Việt Nam đề nghị đại sứ Trung Quốc để cho ngư dân Việt Nam được quyền đánh cá trong vùng biển 'của Việt Nam'.
Báo Mỹ, The New York Times, hồi đầu tháng này cũng nhắc tới tranh chấp trên 'Biển Nam Trung Hoa' và coi đây là điều nguy hiểm hơn cả vấn đề Bắc Triều Tiên ở vùng Đông Bắc Á.
Họ nhắc chuyện Việt Nam bỏ ra hơn hai tỷ đô la để mua sáu tàu ngầm và 12 máy bay chiến đấu SU-30 của một nước lớn khác là Nga, và bình luận:
''Điều này cho thấy bất chấp nhu cầu có quan hệ kinh tế tốt với Trung Quốc, Việt Nam không có ý định để mặc những tuyên bố chủ quyền trên biển của Trung Quốc''
Cơm áo gạo tiền
Nhưng đối với người dân Việt Nam, cái nhìn đơn giản hơn những quan điểm địa chính trị.
Nhiều ngư dân than phiền với truyền thông trong nước và nước ngoài rằng họ mất miếng cơm manh áo khi Trung Quốc cấm đánh cá vào đúng mùa cá.
Một số người nói họ vẫn ra biển bất chấp nguy cơ bị đuổi bắt hoặc xử phạt.
Một chủ tàu nói với báo Thanh Niên: ''...Ở nhà thì lấy gì mà trang trải cuộc sống! Chúng tôi vẫn phải ra biển, cũng phải đánh bắt thôi, tới đâu hay tới đó.''
Một nữ chủ tàu khác nói, vẫn với Thanh Niên: ''Mỗi chuyến ra biển của chúng tôi hiện nay chỉ mong đủ tiền mua gạo là may rồi...lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc khiến chúng tôi khó khăn thêm.''
Nói chuyện với BBC hôm 8/06, Cục trưởng Cục Khai thác và Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản của Việt Nam, ông Chu Tiến Vĩnh nói:
''Cục có đưa ra khuyến cáo với bà con ngư dân, thứ nhất là việc Trung Quốc tuyên bố như vậy là vi phạm chủ quyền của Việt Nam
''Thứ hai là vùng biển Việt Nam quản lý bà con ngư dân vẫn khai thác bình thường, không vấn đề gì.''
Ranh giới
Bất cứ người Việt Nam nào cũng biết cả, biết là quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam, quần đảo Trường Sa là của Việt Nam.
Chu Tiến Vĩnh, Cục trưởng Cục Khai thác và Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản
Cách gọi "bạn" của ông khi nhắc đến Trung Quốc phản ánh một sự thực nữa là quan hệ hai đảng cầm quyền vẫn là tình đồng chí.
Báo Việt Nam nói Trung Quốc cấm đánh cá từ ngày 16 tháng Năm tới ngày 1 tháng Tám tại vùng biển ''kéo dài từ 12 độ vĩ Bắc lên trên 20 độ vĩ Bắc, tức từ vùng biển Trường Sa, Hoàng sa của Việt Nam đến đảo Hải Nam của Trung Quốc''.
Khi được hỏi liệu các ngư dân có biết đâu là ranh giới giữa vùng biển của Việt Nam và Trung Quốc không, ông Vĩnh nói:
''Sao họ không biết được, từ xưa tới nay họ biết cả...chủ quyền Việt Nam bất cứ người Việt Nam nào cũng biết cả, biết là quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam, quần đảo Trường Sa là của Việt Nam.''
Nhưng ông Vĩnh thừa nhận cũng ''có thể vi phạm lẫn nhau'' ở đường phân định giáp ranh nhưng ông nói đây là "chuyện bình thường".
Việc quan chức nhà nước cố làm nhẹ đi chủ đề lãnh hải với Trung Quốc như khác với những gì dư luận trong và ngoài nước, kể cả một phần báo chí chính thức của Việt Nam sục sôi bàn thảo.
Vị cục trưởng cũng giải thích trong vùng biển Việt Nam có luồng hàng hải quốc tế và trong quá khứ đã có những lần tàu đánh cá Việt Nam bị tàu 'nước ngoài' đâm.
Ông nói Việt Nam khuyến cáo người dân báo cho các cơ quan chức năng biết đặc điểm nhận dạng của tàu nước ngoài trong trường hợp xảy ra sự cố để có thể tìm tung tích.
Lực bất tòng tâm?
Ngay từ khi Trung Quốc tuyên bố lệnh cấm cách đây hơn một tháng, Việt Nam đã lên tiếng phản đối.
Nhưng trong khi Bắc Kinh đưa những tàu lớn tới giám sát việc thực thi lệnh cấm trên cả vùng biển mà Việt Nam nói là thuộc chủ quyền của họ, Hà Nội không có vẻ có hành động đi kèm với những tuyên bố phản đối.
Cục trưởng Cục Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản Chu Tiến Vĩnh thừa nhận: ''Điều kiện của Việt Nam khó khăn hơn Trung Quốc cho nên lực lượng ra không thể tương đồng được''.
Các ngư dân cũng nói với báo trong nước ''dường như chúng tôi chỉ thấy tàu lạ của các nước canh chừng, chẳng may khi xảy ra sự cố gì đó, cần tàu cứu hộ của ta giúp, thì cũng tốn khá nhiều thời gian.''
Ngư dân Trần Anh Dũng nói với Thanh Niên: ''Cũng vì sự hiện diện quá hiếm hoi của lực lượng tuần tra, bảo vệ của Việt Nam nên đôi khi tàu nước ngoài có những hành động thái quá như sách nhiễu khi kiểm tra, đánh đập ngư dân,... thậm chí còn bắt người, thu giữ sản phẩm, phương tiện một cách trái phép.''
Vụ bị Trung Quốc cấm đánh cá đặt ra câu hỏi về mối liên hệ giữa quyền lợi của ngư dân và chủ quyền của Việt Nam với cách nhà nước nhìn nhận vị trí thực sự của mối quan hệ với Trung Quốc.
=
Tuesday, June 9, 2009
BBC * VÕ VĂN KIỆT
Một người 'thiệt tình'
Những gì diễn ra ngoài công việc chức trách của các lãnh tụ thường được công chúng biết tới qua kênh truyền khẩu và có tính giai thoại nhiều màu sắc, gia vị nhưng xa sự thật.
Khác với cách những nhân vật chính trị được soi mói ngóc ngách đời sống riêng ở chế độ dân chủ, công chúng không có gốc gác cộng sản dù quí ông Kiệt nhưng hầu như không thể biết nhiều về đời sống riêng của ông, trừ những dòng lý lịch trích ngang khô cứng in trên các tờ rơi bầu cử.
Và trong nhiều cánh cửa mở ra để có một xã hội dễ thở hơn, có cánh cửa mở về phía hình ảnh các vị phu nhân.
Chuyện ông là vị thủ tướng VN đầu tiên đưa phu nhân đi công du nước ngoài, một nghi thức ngoại giao quốc tế bình thường mà phải chờ đến quyết đoán xé rào của ông mới dần trở thành một lễ tiết quốc gia tự nhiên.
Cho tới lúc ông qua đời, người thường dân mới được biết quá khứ bi kịch gia đình của ông trong chiến tranh, biết tên người vợ đầu tiên, và số phận của những người con trong bối cảnh ác nghiệt của chiến tranh và khắc nghiệt riêng trong hoàn cảnh lãnh tụ của ông. Và những câu chuyện sự thật về đời riêng nhiều cảm xúc này phần lớn phát xuất từ các trang web, blog độc lập.
(Tấm hình này không ghi tên)
Hôm
chúng tôi có dịp đi viếng mộ Kinh Lược Sứ Phan Thanh Giản ở huyện Ba
Tri, tỉnh Bến Tre. Người cháu đời thứ 6 của vị hiền thần đã nói, nói
bằng giọng thì thầm: " Nhà thờ được tươm tất như hôm nay là nhờ cụ Võ
Văn Kiệt giúp. Tôi nhớ cụ Kiệt đứng lặng người rất lâu khi nhìn cảnh cũ
nát của nhà thờ."
Nếu khăng khăng cho rằng những cử chỉ chi tiết, những câu chuyện nhỏ của một lãnh đạo cộng sản chỉ nhằm làm tư liệu cho các phương tiện thông tin tuyên truyền cho thể chế, vậy thì đời sống thật của một người lãnh tụ ở đâu!
Khi một người bị bó trong nhiệm vụ và những qui chế chức trách, thì phải chăng bản thân họ và gia đình họ phải chôn những hành động và cảm xúc thật của mình vào phần u khuất.
Trường hợp cựu tổng thống Nam Hàn tự tử vì nhục nhã do tai tiếng tham nhũng, nhưng nhiều người cho rằng ông Roh-Moo-Hyun đã không bảo vệ được danh dự của mình và gia đình mới là lý do chính dẫn tới hành động huỷ hoại bản thân, để mai ra minh chứng cho đời sống cá nhân của một người không còn quyền lực.
Dù không thể có cái chết biểu tượng như cựu tổng thống Nam Hàn, dư luận Việt Nam vẫn hướng tới đòi hỏi phải minh bạch đời tư mỗi cá nhân nắm vận mệnh đất nước để tránh cực đoan trong phán xét và ca ngợi.
Chuyện ông vượt qua hàng rào lý lịch để lấy con gái một địa chủ cũng được xem là có gốc "cưới" kinh tế thị trường. Chuyện sinh thời ông có nguyện vọng tro cốt mình về vĩnh hằng với mối tình lớn ở khúc sông nơi chiếc phà bị đánh bom. Chuyện không muốn lấy tên mình đặt tên đường, hoặc đời thường hết mức là muốn ly dị với người bạn đời chắp nối...
Được biết người thân của ông vẫn còn giữ lá đơn ly hôn nạp tòa đầu năm 2008. Người từng đứng đầu quốc gia, như mọi người đàn ông khác trong hoàn cảnh của ông, khẩn thiết đề nghị tòa "cho tôi ly hôn để tôi được thanh thản giành thời gian còn lại cho tâm nguyện làm được những gì có ích cho dân cho nước".
Những câu chuyện về ông nho nhỏ như vậy được kể nhiều trong giới bình dân.
Một người Sài Gòn kém ông chừng chục tuổi nói. " Tôi chịu cách nói của ông Kiệt về chuyện kỷ niệm ngày 30/4: Có hàng triệu người vui thì cũng có hàng triệu người buồn. Nhiều người ngờ lãnh tụ làm cái gì cũng có ý chính trị. Tới khi tôi biết thêm nhiều chuyện về đời thường của ông tôi mới thấy ông thiệt tình."
Nếu lịch sử chế độ không mở cửa cho phần thật nhất-đời thật- các nhân vật của chế độ, thì không thể có ánh sáng tôn vinh cũng như cứu chuộc phần khuyết và phần bồi của mỗi sự nghiệp cá nhân.
Dù vận mệnh tương lai quốc gia trong tay người cộng sản hay chuyển sang thể chế dân chủ thì công chúng vẫn muốn có lãnh đạo với giá trị di sản cuối đời như tinh thần ông Võ Văn Kiệt đã tạo dựng. Những phẩm cách lớn chính từ chối chôn chặt sự nghiệp cá nhân trong tháp ngà giáo điều.
Không chỉ về đời tư, nhiều người tin vào cuối đời ông Kiệt cô đơn bởi chủ kiến ý thức cùng tầm nhìn đột phá về vận mệnh quốc gia. Và sự cô đơn đó của ông cũng chính là nguồn cảm xúc mà công chúng luôn chia sẻ.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2009/06/090607_vvk_doithuong.shtml
Ông Trần Tiến Dũng cho rằng dân chúng không thể biết nhiều về đời sống riêng của ông, trừ những dòng lý lịch trích ngang khô cứng in trên các tờ rơi bầu cử.. . Cho tới khi ông qua đời, người ta mới biết về quá khứ bi kịch gia đình của ông. . .
Trái lại, trước đây người ta biết khá nhiều về bi kịch gia đình ông. Con người trong cõi đời là khổ, không ai hoàn toàn tốt và hoàn toàn hạnh phúc. Riêng các ông cộng sản mặc dầu bây giờ tiền bạc đầy túi, sống đời vinh hoa phú quý gấp trăm lần thời quân chủ và tư bản, nhưng đa số đều ở trong một bi kịch chung: chồng sa đọa, vơ hoang tàng, con phá tán.. .
Dư luận đồn rằng bà sau của Võ Văn Kiệt do Tố Hữu mai mối. Tại sao Tố Hữu không kiếm một đồng chí công nông, nữ đảng viên mà lại mai mối một người phụ nữ nhà giàu, trẻ đẹp? Té ra ông Tố Hữu nhìn thấu trái tim người chớ không giáo điều như ta tưởng! Ta đứng vào hàng ngũ vô sản, kêu gọi đấu tranh và hy sinh cho vô sản để ta lên trung ương, bộ chính trị. ..nhưng trái tim ta khao khát gái đẹp, vàng, đô la, địa vị cao. . .Thời xưa, con người chân thật, nói thẳng mộng ước của mình qua những thành ngữ như" tam đa, ", ngũ phúc", còn cộng sản thì đạo đức cách mạng! Hy Sinh! Lý tưởng cao cả! Quên quyền lợi cá nhân để phục vụ cho tập thể!Than ôi!Nói và làm khác nhau!
Tại sao đảng cộng sản không chấp thuận? Tại sao ông Kiệt làm ngang mà không bị trục xuất ra khỏi đảng như Trần Dần và một số người khác? Tại sao Tố Hữu lại làm mai? Phải chăng ông khôn ngoan muốn dựa vai ông thủ tướng? Dân Bắc Kỳ đã cho rằng Tố Hữu là một tên đại gian manh là đúng:
"Tên Lành mà dạ chẳng lành"
Tin đồn không biết đúng hay sai mà loan truyền rằng ai đi cổng sau xin yết kiến thủ tướng phu nhân phong bì phải vài ngàn hay vài chục ngàn đô. Và có kẻ đã dám loan truyền câu đối :
"Cái cô Cầm cần , cụ Kiệt không có. Cái cụ Kiệt có, cô Cầm không cần!"
Chúng tôi không quan tâm đến việc nhà của người khác, nhưng trong vấn đề tư tưởng và văn hóa lại là một vấn đề quan trọng.Ngày xưa, Marx chửi bọn tư bản là ăn chơi trác táng, thay chồng đổi vợ . . . Marx viết trong Tuyên Ngôn đảng cộng sản như sau:
Các ngài tư sản của chúng ta chưa thoả mãn là đã sẵn có vợ và con gái của vô sản để dùng, đó là chưa kể chế độ mãi dâm công khai, các ngài ấy còn lấy việc cắm sừng lẫn nhau làm một thú vui đặc biệt.
Trước đây, tại Việt Nam, người ta đã kết án Tự Lưc Văn Đoàn, Quang Dũng, Hữu Loan lãng mạn, và sỉ nhục trí thức bằng danh từ Tiểu tư sản, đồi trụy, hủ hóa. . .nhưng nay thì rõ ràng là chế độ cộng sản lại phản quốc, hại dân và sa đọa hơn quân chủ và tư bản.
Ngoài ra, cái chết của Võ Văn Kiệt là một bí ẩn? Ai đầu độc Võ Văn Kiệt? Trước đây đã có tin ông bị ám sát hụt! Ôi, đồng chí với nhau mà thế đấy!
==
Trần Tiến Dũng
Viết cho BBCVietnamese.com từ Sài Gòn
Những
năm đầu sau 1975, trong lớp lãnh tụ cộng sản của chế độ hiện ra từ
chiến tranh, ông Võ văn Kiệt là người có sức hút công chúng mạnh.
Hình
ảnh của ông gắn liền với những cuộc vận động quần chúng lớn ở Sài Gòn.
Khi nhớ lại, ngày nay nhiều người vẫn còn nói: Ông Kiệt nói hay, nói có
cảm tình! Đời riêng và dư luận
Theo thông lệ, những nhân vật ở hàng lãnh tụ cộng sản của Việt nam đều có đời sống riêng rất kín đáo. Dư luận biết rất ít thông tin đời riêng của họ, và theo thời gian mặc nhiên phải hiểu đó là cách bảo mật đặc trưng.Những gì diễn ra ngoài công việc chức trách của các lãnh tụ thường được công chúng biết tới qua kênh truyền khẩu và có tính giai thoại nhiều màu sắc, gia vị nhưng xa sự thật.
Khác với cách những nhân vật chính trị được soi mói ngóc ngách đời sống riêng ở chế độ dân chủ, công chúng không có gốc gác cộng sản dù quí ông Kiệt nhưng hầu như không thể biết nhiều về đời sống riêng của ông, trừ những dòng lý lịch trích ngang khô cứng in trên các tờ rơi bầu cử.
Và trong nhiều cánh cửa mở ra để có một xã hội dễ thở hơn, có cánh cửa mở về phía hình ảnh các vị phu nhân.
Chuyện ông là vị thủ tướng VN đầu tiên đưa phu nhân đi công du nước ngoài, một nghi thức ngoại giao quốc tế bình thường mà phải chờ đến quyết đoán xé rào của ông mới dần trở thành một lễ tiết quốc gia tự nhiên.
Cho tới lúc ông qua đời, người thường dân mới được biết quá khứ bi kịch gia đình của ông trong chiến tranh, biết tên người vợ đầu tiên, và số phận của những người con trong bối cảnh ác nghiệt của chiến tranh và khắc nghiệt riêng trong hoàn cảnh lãnh tụ của ông. Và những câu chuyện sự thật về đời riêng nhiều cảm xúc này phần lớn phát xuất từ các trang web, blog độc lập.
(Tấm hình này không ghi tên)
Nếu khăng khăng cho rằng những cử chỉ chi tiết, những câu chuyện nhỏ của một lãnh đạo cộng sản chỉ nhằm làm tư liệu cho các phương tiện thông tin tuyên truyền cho thể chế, vậy thì đời sống thật của một người lãnh tụ ở đâu!
Khi một người bị bó trong nhiệm vụ và những qui chế chức trách, thì phải chăng bản thân họ và gia đình họ phải chôn những hành động và cảm xúc thật của mình vào phần u khuất.
Trường hợp cựu tổng thống Nam Hàn tự tử vì nhục nhã do tai tiếng tham nhũng, nhưng nhiều người cho rằng ông Roh-Moo-Hyun đã không bảo vệ được danh dự của mình và gia đình mới là lý do chính dẫn tới hành động huỷ hoại bản thân, để mai ra minh chứng cho đời sống cá nhân của một người không còn quyền lực.
Dù không thể có cái chết biểu tượng như cựu tổng thống Nam Hàn, dư luận Việt Nam vẫn hướng tới đòi hỏi phải minh bạch đời tư mỗi cá nhân nắm vận mệnh đất nước để tránh cực đoan trong phán xét và ca ngợi.
"Thấy ông là người thiệt tình"
Trong ngày giỗ đầu của ông Võ Văn Kiệt, với đa số người Việt Nam, ngày này đơn giản chỉ là dịp ôn lại những gì đáng nhớ chớ không phải đo lường cơ nghiệp.Chuyện ông vượt qua hàng rào lý lịch để lấy con gái một địa chủ cũng được xem là có gốc "cưới" kinh tế thị trường. Chuyện sinh thời ông có nguyện vọng tro cốt mình về vĩnh hằng với mối tình lớn ở khúc sông nơi chiếc phà bị đánh bom. Chuyện không muốn lấy tên mình đặt tên đường, hoặc đời thường hết mức là muốn ly dị với người bạn đời chắp nối...
Được biết người thân của ông vẫn còn giữ lá đơn ly hôn nạp tòa đầu năm 2008. Người từng đứng đầu quốc gia, như mọi người đàn ông khác trong hoàn cảnh của ông, khẩn thiết đề nghị tòa "cho tôi ly hôn để tôi được thanh thản giành thời gian còn lại cho tâm nguyện làm được những gì có ích cho dân cho nước".
Cho tôi... được thanh thản giành thời gian còn lại cho tâm nguyện làm được những gì có ích cho dân cho nước.
Võ Văn Kiệt
Một người Sài Gòn kém ông chừng chục tuổi nói. " Tôi chịu cách nói của ông Kiệt về chuyện kỷ niệm ngày 30/4: Có hàng triệu người vui thì cũng có hàng triệu người buồn. Nhiều người ngờ lãnh tụ làm cái gì cũng có ý chính trị. Tới khi tôi biết thêm nhiều chuyện về đời thường của ông tôi mới thấy ông thiệt tình."
Nếu lịch sử chế độ không mở cửa cho phần thật nhất-đời thật- các nhân vật của chế độ, thì không thể có ánh sáng tôn vinh cũng như cứu chuộc phần khuyết và phần bồi của mỗi sự nghiệp cá nhân.
Dù vận mệnh tương lai quốc gia trong tay người cộng sản hay chuyển sang thể chế dân chủ thì công chúng vẫn muốn có lãnh đạo với giá trị di sản cuối đời như tinh thần ông Võ Văn Kiệt đã tạo dựng. Những phẩm cách lớn chính từ chối chôn chặt sự nghiệp cá nhân trong tháp ngà giáo điều.
Không chỉ về đời tư, nhiều người tin vào cuối đời ông Kiệt cô đơn bởi chủ kiến ý thức cùng tầm nhìn đột phá về vận mệnh quốc gia. Và sự cô đơn đó của ông cũng chính là nguồn cảm xúc mà công chúng luôn chia sẻ.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2009/06/090607_vvk_doithuong.shtml
BÌNH LUẬN CỦA VẠN MỘC CƯ SĨ
Trong số các ông cộng sản đầu nậu, Võ Văn Kiệt có lẽ hiền lành hơn cả và có chút giác ngộ muộn màng mặc dầu ông cũng theo các đồng chí ông sát hại, bỏ tù làm khổ nhân dân miền Nam .Ông
là đảng viên tại sao yêu con nhà địa chủ, tư sản ? Sự thực thì Lê Duẩn,
Lê Đức Thọ, Trần Văn Trà. . . ai cũng yêu công nông nhưng thê thiếp lại
là gái đẹp con nhà giàu! Ôi! Đừng nghe những gì các Ổng nói! Vàng, đô
la, gái thì ai cũng thích trời ạ!
Nhưng
buồn cười nhất là sao lúc 86 tuổi, trước khi mất vài tháng lại bỏ vợ?
Phải chăng ông nộp đơn từ lâu mà không được đảnbg cộng sản chấp nhận? Mà
bỏ thì bỏ, 86 tuổi về hưu rồi thì còn làm gì cho dân, cho nước mà ông
lại nói: "Cho tôi... được thanh thản giành thời gian còn lại cho tâm nguyện làm được những gì có ích cho dân cho nước!
Sáo
quá! CẢi lương quá! Ông đã làm gì ích lợi cho nhân dân Việt Nam? Đúng
là miệng lưỡi cộng sản lúc nào cũng bô bô vì nước vì dân! Bỏ vợ mà cũng
viện cớ vì nước vì dân!
Tội nghiệp ông, số hôn nhân trắc trở. Lấy vợ và bỏ vợ đều phải xin đảng! Thủ tướng mà khổ thế đấy!Ông Trần Tiến Dũng cho rằng dân chúng không thể biết nhiều về đời sống riêng của ông, trừ những dòng lý lịch trích ngang khô cứng in trên các tờ rơi bầu cử.. . Cho tới khi ông qua đời, người ta mới biết về quá khứ bi kịch gia đình của ông. . .
Trái lại, trước đây người ta biết khá nhiều về bi kịch gia đình ông. Con người trong cõi đời là khổ, không ai hoàn toàn tốt và hoàn toàn hạnh phúc. Riêng các ông cộng sản mặc dầu bây giờ tiền bạc đầy túi, sống đời vinh hoa phú quý gấp trăm lần thời quân chủ và tư bản, nhưng đa số đều ở trong một bi kịch chung: chồng sa đọa, vơ hoang tàng, con phá tán.. .
Dư luận đồn rằng bà sau của Võ Văn Kiệt do Tố Hữu mai mối. Tại sao Tố Hữu không kiếm một đồng chí công nông, nữ đảng viên mà lại mai mối một người phụ nữ nhà giàu, trẻ đẹp? Té ra ông Tố Hữu nhìn thấu trái tim người chớ không giáo điều như ta tưởng! Ta đứng vào hàng ngũ vô sản, kêu gọi đấu tranh và hy sinh cho vô sản để ta lên trung ương, bộ chính trị. ..nhưng trái tim ta khao khát gái đẹp, vàng, đô la, địa vị cao. . .Thời xưa, con người chân thật, nói thẳng mộng ước của mình qua những thành ngữ như" tam đa, ", ngũ phúc", còn cộng sản thì đạo đức cách mạng! Hy Sinh! Lý tưởng cao cả! Quên quyền lợi cá nhân để phục vụ cho tập thể!Than ôi!Nói và làm khác nhau!
Tại sao đảng cộng sản không chấp thuận? Tại sao ông Kiệt làm ngang mà không bị trục xuất ra khỏi đảng như Trần Dần và một số người khác? Tại sao Tố Hữu lại làm mai? Phải chăng ông khôn ngoan muốn dựa vai ông thủ tướng? Dân Bắc Kỳ đã cho rằng Tố Hữu là một tên đại gian manh là đúng:
"Tên Lành mà dạ chẳng lành"
Tin đồn không biết đúng hay sai mà loan truyền rằng ai đi cổng sau xin yết kiến thủ tướng phu nhân phong bì phải vài ngàn hay vài chục ngàn đô. Và có kẻ đã dám loan truyền câu đối :
"Cái cô Cầm cần , cụ Kiệt không có. Cái cụ Kiệt có, cô Cầm không cần!"
Chúng tôi không quan tâm đến việc nhà của người khác, nhưng trong vấn đề tư tưởng và văn hóa lại là một vấn đề quan trọng.Ngày xưa, Marx chửi bọn tư bản là ăn chơi trác táng, thay chồng đổi vợ . . . Marx viết trong Tuyên Ngôn đảng cộng sản như sau:
Các ngài tư sản của chúng ta chưa thoả mãn là đã sẵn có vợ và con gái của vô sản để dùng, đó là chưa kể chế độ mãi dâm công khai, các ngài ấy còn lấy việc cắm sừng lẫn nhau làm một thú vui đặc biệt.
Trước đây, tại Việt Nam, người ta đã kết án Tự Lưc Văn Đoàn, Quang Dũng, Hữu Loan lãng mạn, và sỉ nhục trí thức bằng danh từ Tiểu tư sản, đồi trụy, hủ hóa. . .nhưng nay thì rõ ràng là chế độ cộng sản lại phản quốc, hại dân và sa đọa hơn quân chủ và tư bản.
Ngoài ra, cái chết của Võ Văn Kiệt là một bí ẩn? Ai đầu độc Võ Văn Kiệt? Trước đây đã có tin ông bị ám sát hụt! Ôi, đồng chí với nhau mà thế đấy!
==
TRẦN BÌNH NAM * CHÍNH LUẬN
DIỄN VĂN TỔNG THỐNG OBAMA ĐỌC TẠI AI CẬP
Dù muốn dù không, chuyến du hành của tổng thống Obama đến Saudi Arabia và bài diễn văn ông đọc tại đại học Cairo, Ai Cập ngày 4/6/2009 là một điểm mốc quan trọng trong quan hệ giữa thế giới Tây phương và thế giới Hồi giáo.
Không một tổng thống Hoa Kỳ nào trước tổng thống Obama có tư thế để hành động như vậy. Trong thời gian tranh cử, tổng thống Obama xác định một chính sách hòa giải dứt khoát với thế giới Hồi giáo và đường lối đó đã được dân chúng Hoa Kỳ cũng như nhân dân các nước đồng minh Âu châu nhiệt liệt ủng hộ, và nhờ đó đã đưa ông, người Mỹ da đen gốc Phi châu đầu tiên vào tòa Bạch Ốc.
Trong bài diễn văn tổng thống Obama không ngại ngùng nói đến vấn đề đen trắng như một cái gương dân chủ của Hoa Kỳ để làm bàn đạp cho tư tưởng hòa giải của ông. Ông nói “Sự việc một người da đen gốc Phi châu có cái tên lạ tai là Barack Hussein Obama có thể đắc cử tổng thống Hoa Kỳ đã nói lên tất cả” (Trích diễn văn:
Now, much has been made of the fact that an African American with the name Barack Hussein Obama could be elected President (1) Đó là lý do các nước Hồi giáo đã chờ đợi bài diễn văn của tổng thống Obama một cách khác thường, nghi ngờ lẫn hy vọng, trong khi các nước đồng minh Tây phương và thế giới nói chung chờ đợi nó một cách vừa hy vọng vừa lo âu.
Bài diễn văn của tổng thống Obama nêu ra bảy vấn đề trong quan hệ giữa thế giới nói chung và Hoa kỳ nói riêng với thế giới Hồi giáo.
Trước hết là vấn đề khủng bố khởi đầu với vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 mà kết quả là cuộc chiến Iraq và Afghanistan (và đang lan qua Pakistan) hiện nay và ông đang giải quyết trong tinh thần giải kết.
Tổng thống Obama xác định sau vụ 911 Hoa Kỳ không có lựa chọn nào khác hơn là tấn công Afghanistan lật đổ chế độ Taliban tại đó vì đã dung dưỡng quân khủng bố giết gần 3000 người Mỹ, nhưng với Iraq Hoa Kỳ có sự chọn lựa và đã chọn chiến tranh. Nhưng Hoa Kỳ đã có chương trình giải kết khỏi cuộc chiến này. Hoa Kỳ sẽ rút hết quân ra khỏi các thành phố của Iraq vào tháng 7 năm nay và rút toàn bộ quân đội Hoa Kỳ chậm lắm là vào năm 2012.
Tại Afghanistan (và Pakistan) tổng thống Obama xác định Hoa Kỳ không có ý định duy trì căn cứ quân sự vĩnh viễn tại đó và rằng sức mạnh quân sự sẽ không giải quyết vấn đề (nên Hoa Kỳ không đi tìm một chiến thắng quân sự) mà tìm giải pháp qua đường lối giúp phát triển kinh tế. Hoa Kỳ sẽ đầu tư tại Pakistan mỗi năm 1.5 tỉ mỹ kim trong 5 năm tới để xây trường học, đường sá, bệnh viện … và viện trợ kinh tế cho Afghanistan 2.8 tỉ mỹ kim.
Vấn đề thứ hai là sự căng thẳng tiềm tàng do cuộc chiến tranh Do thái – Palestine. Tổng thống Obama nói vấn đề Do thái – Palestine chỉ có thể giải quyết qua công thức hai quốc gia công nhận nhau và cùng tồn tại bên cạnh nhau. Và điều này phục vụ quyền lợi của Do thái, quyền lợi của Palestine, của Hoa Kỳ và của thế giới nói chung. (Trích diễn văn: The only resolution is for the aspirations of both sides to be met through two states, where Israelis and Palestinians each live in peace and security. That is in Israel’s interest, Palestine’s interest, America’s interest, and the world’s interest…) Tuy nhiên tổng thống Obama không có giải pháp hành động nào hơn là hứa sẽ kiên nhẫn và khéo léo để thực hiện (Trích diễn văn: And that is why I intend to personally pursue this outcome with all the patience and dedication that the task requires.) Lĩnh vực thứ ba là vấn đề nguyên tử của Iran mà tổng thống nói một cách văn hoa là vấn đề san sẻ trách nhiệm về quyền sở đắc vũ khí nguyên tử (Trích diễn văn: The third source of tension is our shared interest in the rights and responsibilities of nations on nuclear weapons.) Tổng thống Obama can đảm và thẳng thắn nhìn nhận rằng mối xung khắc giữa hai nước khởi đầu với việc Hoa Kỳ lật đổ chính phủ dân cử của Iran trong thời gian còn cuộc chiến tranh lạnh. Sau đó là cuộc cách mạng Hồi giáo của giáo chủ Komeini, và Iran bắt giữ toàn bộ nhân sự của tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Teheran làm con tin (Trích diễn văn: In the middle of the Cold War, the United States played a role in the overthrow of a democratically elected Iranian government. Since the
Islamic Revolution, Iran has played a role in acts of hostagetaking and violence against U.S. troops and
civilians.)
Tuy nhiên vấn đề chính trước mắt là vấn đề Iran định tâm chế tạo vũ
khí nguyên tử. Ông khéo léo nói rằng Hoa Kỳ quan tâm không phải vì quyền
lợi của Hoa Kỳ mà vì Hoa Kỳ lo ngại nếu Iran có vũ khí nguyên tử sẽ tạo
ra một cuộc chạy đua vũ trang tại Trung đông đe dọa hòa bình trong vùng
và thế giới (Trích diễn văn: But it is clear to all concerned that when
it comes to nuclear weapons, we have reached a decisive point. This is
not simply about America’s interests. It’s about preventing a nuclear
arms race in the Middle East that could lead this region and the world
down a hugely dangerous path.) administration of justice; government that is transparent and doesn’t steal from the people; the freedom to live as you choose. These are not just American ideas; they are human rights. ) Tổng thống Obama nói có một số người chỉ nói đến dân chủ khi đã rời khỏi quyền lực, còn khi đang nắm quyền lực trong tay thì làm mọi cách cấm cản quyền tự do của người khác. Người cầm quyền phải hiểu rằng sự cầm quyền của họ chỉ có giá trị khi họ duy trì nó qua đồng thuận chứ không phải qua mánh mung chính trị, và khi cầm quyền cần đặt quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi của đảng phái. Thiếu những yếu tính đó, thì dù có bầu cử vẫn không có dân chủ. (Trích diễn văn: … there are some who advocate for democracy only when they’re out of power; once in power, they are ruthless in suppressing the rights of others. So no matter where it takes hold, government of the people and by the people sets a single standard for all who would hold power: You must maintain your power through consent, not coercion; you must respect the rights of minorities, and participate with a spirit of tolerance and compromise; you must place the interests of your people and the legitimate workings of the political process above your party. Without these ingredients, elections alone do not make true democracy.) Điểm thứ năm tổng thống Obama bàn đến là sự xung khắc tôn giáo. Ông chủ trương tôn giáo đồng hành, giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, giữa những nhánh khác biệt trong cùng một tôn giáo (thí dụ giữa Tin Lành và Thiên chúa giáo, giữa Sunni và Shia). Ông ghi nhận sự bất thường sinh ra xung khắc khi Hồi giáo cho ai khác tôn giáo mình là tà, và một số nước Âu châu cũng quá khích khi thông qua luật không cho người phụ nữ Hồi giáo mặc áo che kín cả mặt mày thân thể, và ông cũng chỉ trích luật làm khó khăn cho các cơ sở Hồi giáo gây quỹ để bành trướng tôn giáo mình tại Hoa Kỳ.(Trích diễn văn: Among some Muslims, there’s a disturbing tendency to measure one’s own faith by the rejection of somebody else’s faith. The richness of religious diversity must be upheld – whether it is for Maronites in Lebanon or the Copts in Egypt. And if we are being honest, fault lines must be closed among Muslims, as well, as the divisions between Sunni and Shia have led to tragic violence, particularly in Iraq. Freedom of religion is central to the ability of peoples to live together. We must always examine the ways in which we protect it. For instance, in the United States, rules on charitable giving have made it harder for Muslims to fulfill their religious obligation.) Điểm xung khắc thứ sáu là cách đối đãi với phụ nữ. Ông nói thật là phi lý khi một số người tại các nước Tây phương cho rằng phụ nữ trùm khăn che tóc là làm mất quyền bình đẳng của mình. Nhưng ông tin rằng nếu không cho người phụ nữ đi học thì quả là bất bình đẳng. Ông nhận xét rằng nước nào phụ nữ được học hành và làm việc như đàn ông nước đó tiến bộ hơn. (Trích diễn văn: The sixth issue that I want to address is women’s rights. I know and you can tell from this audience, that there is a healthy debate about this issue. I reject the view of some in the West that a woman who chooses to cover her hair is somehow less equal, but I do believe that a woman who is denied an education is denied equality. And it is no coincidence that countries where women are well educated are far more likely to be prosperous.) Sau cùng tổng thống Obama nêu triển vọng hợp tác giúp đỡ phát triển kinh tế và giáo dục với thế giới Hồi giáo. Về giáo dục ông đề nghị chương trình trao đổi sinh viên như chương trình phụ thân ông từng được hưởng. (Trích diễn văn: On education, we will expand exchange programs, and increase scholarships, like the one that brought my father to America.) Về kinh tế ông đề nghị thành lập một khối người tự nguyện đến các nước Hồi giáo kém mở mang để huấn luyện về quản lý kinh tế. Ông sẽ triệu tập trong năm 2009 này một hội nghị giữa các nhà kinh doanh Hoa Kỳ và Hồi giáo trên thế giới để trao đổi kinh nghiệm làm ăn. (Trích diễn văn: On economic development, we will create a new corps of business volunteers to partner with counterparts in Muslim-majority countries. And I will host a Summit on Entrepreneurship this year to identify how we can deepen ties between business leaders, foundations and social entrepreneurs in the United States and Muslim communities around the world.) Về khoa học kỹ thuật, Hoa Kỳ sẽ cung cấp ngân khoản thành lập các trung tâm trao đổi kỹ thuật tại Phi châu, Trung đông và Đông Nam Á để giúp các nước Hồi giáo phát triển năng lượng, tạo công ăn việc làm, lọc nước uống, tăng phúc lợi của mùa màng, diệt trừ bệnh tật, bảo toàn sức khỏe của người mẹ và trẻ sơ sinh . (Trích diễn văn: On science and technology, we will launch a new fund to support technological development in Muslim-majority countries, and to help transfer ideas to the marketplace so they can create more jobs. We’ll open centers of scientific excellence in Africa, the Middle East and Southeast Asia, and appoint new science envoys to collaborate on programs that develop new sources of energy, create green jobs, digitize records, clean water, grow new crops. Today I’m announcing a new global effort with the Organization of the Islamic Conference to eradicate polio. And we will also expand partnerships with Muslim communities to promote child and maternal health.) Qua bảy lĩnh vực trong quan hệ giữa Hoa Kỳ, thế giới Tây phương và thế giới Hồi giáo tổng thống Obama đã rất thẳng thắn đặt vấn đề xung khắc trước mắt mọi người và cũng không do dự nêu ra những sai lầm trong chính sách của Hoa Kỳ góp phần tạo nên sự căng thẳng hiện nay. Tuy nhiên những người quan tâm, đặc biệt tại các nước Hồi giáo, nếu đặt câu hỏi: “Tổng
Trần Bình Nam June 9, 2009 binhnam@sbcglobal.net www.tranbinhnam.com
(1) Xem nguyên văn bài diễn văn của tổng thống Barack Obama tại Ai Cập sau:
Cairo University, Cairo, Egypt
June 4, 2009
1:10 P.M. (Local)
Thank you very much. Good afternoon. I am honored to be in the timeless city of Cairo, and to be hosted by two remarkable institutions. For over a thousand years, Al-Azhar has stood as a beacon of Islamic learning; and for over a century, Cairo University has been a source of Egypt’s advancement. And together, you represent the harmony between tradition and progress. I’m grateful for your hospitality, and the hospitality of the people of Egypt. And I’m also proud to carry with me the goodwill of the American people, and a greeting of peace from Muslim communities in my country: Assalaamu alaykum. (Applause.)
We meet at a time of great tension between the United States and Muslims around the
world — tension rooted in historical forces that go beyond any current policy debate. The
relationship between Islam and the West includes centuries of coexistence and
cooperation, but also conflict and religious wars. More recently, tension has been fed by
colonialism that denied rights and opportunities to many Muslims, and a Cold War in
which Muslim-majority countries were too often treated as proxies without regard to their
own aspirations. Moreover, the sweeping change brought by modernity and globalization
led many Muslims to view the West as hostile to the traditions of Islam.
Violent extremists have exploited these tensions in a small but potent minority of
Muslims. The atổng thốngacks of September 11, 2001 and the continued efforts of these
extremists to engage in violence against civilians has led some in my country to view
Islam as inevitably hostile not only to America and Western countries, but also to human
rights. All this has bred more fear and more mistrust.
So long as our relationship is defined by our differences, we will empower those who
sow hatred rather than peace, those who promote conflict rather than the cooperation that
can help all of our people achieve justice and prosperity. And this cycle of suspicion and
discord must end.
I’ve come here to Cairo to seek a new beginning between the United States and Muslims
around the world, one based on mutual interest and mutual respect, and one based upon
the truth that America and Islam are not exclusive and need not be in competition.
Instead, they overlap, and share common principles — principles of justice and progress;
tolerance and the dignity of all human beings.
I do so recognizing that change cannot happen overnight. I know there’s been a lot of
publicity about this speech, but no single speech can eradicate years of mistrust, nor can I
answer in the time that I have this afternoon all the complex questions that brought us to
this point. But I am convinced that in order to move forward, we must say openly to each
other the things we hold in our hearts and that too often are said only behind closed
doors. There must be a sustained effort to listen to each other; to learn from each other;
to respect one another; and to seek common ground. As the Holy Koran tells us, “Be
conscious of God and speak always the truth.” (Applause.) That is what I will try to do
today — to speak the truth as best I can, humbled by the task before us, and firm in my
belief that the interests we share as human beings are far more powerful than the forces
that drive us apart.
Now part of this conviction is rooted in my own experience. I’m a Christian, but my
father came from a Kenyan family that includes generations of Muslims. As a boy, I
spent several years in Indonesia and heard the call of the azaan at the break of dawn and
at the fall of dusk. As a young man, I worked in Chicago communities where many
found dignity and peace in their Muslim faith.
As a student of history, I also know civilization’s debt to Islam. It was Islam — at places
like Al-Azhar — that carried the light of learning through so many centuries, paving the
way for Europe’s Renaissance and Enlightenment. It was innovation in Muslim
communities — (applause) — it was innovation in Muslim communities that developed the
order of algebra; our magnetic compass and tools of navigation; our mastery of pens and
printing; our understanding of how disease spreads and how it can be healed. Islamic
culture has given us majestic arches and soaring spires; timeless poetry and cherished
music; elegant calligraphy and places of peaceful contemplation. And throughout
history, Islam has demonstrated through words and deeds the possibilities of religious
tolerance and racial equality. (Applause.)
I also know that Islam has always been a part of America’s story. The first nation to
recognize my country was Morocco. In signing the Treaty of Tripoli in 1796, our second
President, John Adams, wrote, “The United States has in itself no character of enmity
against the laws, religion or tranquility of Muslims.” And since our founding, American
Muslims have enriched the United States. They have fought in our wars, they have
served in our government, they have stood for civil rights, they have started businesses,
they have taught at our universities, they’ve excelled in our sports arenas, they’ve won
Nobel Prizes, built our tallest building, and lit the Olympic Torch. And when the first
Muslim American was recently elected to Congress, he took the oath to defend our
Constitution using the same Holy Koran that one of our Founding Fathers — Thomas
Jefferson — kept in his personal library. (Applause.)
So I have known Islam on three continents before coming to the region where it was first
revealed. That experience guides my conviction that partnership between America and
Islam must be based on what Islam is, not what it isn’t. And I consider it part of my
responsibility as President of the United States to fight against negative stereotypes of
Islam wherever they appear. (Applause.)
But that same principle must apply to Muslim perceptions of America. (Applause.) Just
as Muslims do not fit a crude stereotype, America is not the crude stereotype of a selfinterested
empire. The United States has been one of the greatest sources of progress that
the world has ever known. We were born out of revolution against an empire. We were
founded upon the ideal that all are created equal, and we have shed blood and struggled
for centuries to give meaning to those words — within our borders, and around the world.
We are shaped by every culture, drawn from every end of the Earth, and dedicated to a
simple concept: E pluribus unum — “Out of many, one.”
Now, much has been made of the fact that an African American with the name Barack
Hussein Obama could be elected President. (Applause.) But my personal story is not so
unique. The dream of opportunity for all people has not come true for everyone in
America, but its promise exists for all who come to our shores — and that includes nearly
7 million American Muslims in our country today who, by the way, enjoy incomes and
educational levels that are higher than the American average. (Applause.)
Moreover, freedom in America is indivisible from the freedom to practice one’s religion.
That is why there is a mosque in every state in our union, and over 1,200 mosques within
our borders. That’s why the United States government has gone to court to protect the
right of women and girls to wear the hijab and to punish those who would deny it.
(Applause.)
So let there be no doubt: Islam is a part of America. And I believe that America holds
within her the truth that regardless of race, religion, or station in life, all of us share
common aspirations — to live in peace and security; to get an education and to work with
dignity; to love our families, our communities, and our God. These things we share.
This is the hope of all humanity.
Of course, recognizing our common humanity is only the beginning of our task. Words
alone cannot meet the needs of our people. These needs will be met only if we act boldly
in the years ahead; and if we understand that the challenges we face are shared, and our
failure to meet them will hurt us all.
For we have learned from recent experience that when a financial system weakens in one
country, prosperity is hurt everywhere. When a new flu infects one human being, all are
at risk. When one nation pursues a nuclear weapon, the risk of nuclear atổng thốngack rises for all
nations. When violent extremists operate in one stretch of mountains, people are
endangered across an ocean. When innocents in Bosnia and Darfur are slaughtered, that
is a stain on our collective conscience. (Applause.) That is what it means to share this
world in the 21st century. That is the responsibility we have to one another as human
beings.
And this is a difficult responsibility to embrace. For human history has often been a
record of nations and tribes — and, yes, religions — subjugating one another in pursuit of
their own interests. Yet in this new age, such atổng thốngitudes are self-defeating. Given our
interdependence, any world order that elevates one nation or group of people over
another will inevitably fail. So whatever we think of the past, we must not be prisoners
to it. Our problems must be dealt with through partnership; our progress must be shared.
(Applause.)
Now, that does not mean we should ignore sources of tension. Indeed, it suggests the
opposite: We must face these tensions squarely. And so in that spirit, let me speak as
clearly and as plainly as I can about some specific issues that I believe we must finally
confront together.
The first issue that we have to confront is violent extremism in all of its forms.
In Ankara, I made clear that America is not — and never will be — at war with Islam.
(Applause.) We will, however, relentlessly confront violent extremists who pose a grave
threat to our security — because we reject the same thing that people of all faiths reject:
the killing of innocent men, women, and children. And it is my first duty as President to
protect the American people.
The situation in Afghanistan demonstrates America’s goals, and our need to work
together. Over seven years ago, the United States pursued al Qaeda and the Taliban with
broad international support. We did not go by choice; we went because of necessity. I’m
aware that there’s still some who would question or even justify the events of 9/11. But
let us be clear: Al Qaeda killed nearly 3,000 people on that day. The victims were
innocent men, women and children from America and many other nations who had done
nothing to harm anybody. And yet al Qaeda chose to ruthlessly murder these people,
claimed credit for the atổng thốngack, and even now states their determination to kill on a massive
scale. They have affiliates in many countries and are trying to expand their reach. These
are not opinions to be debated; these are facts to be dealt with.
Now, make no mistake: We do not want to keep our troops in Afghanistan. We see no
military — we seek no military bases there. It is agonizing for America to lose our young
men and women. It is costly and politically difficult to continue this conflict. We would
gladly bring every single one of our troops home if we could be confident that there were
not violent extremists in Afghanistan and now Pakistan determined to kill as many
Americans as they possibly can. But that is not yet the case.
And that’s why we’re partnering with a coalition of 46 countries. And despite the costs
involved, America’s commitment will not weaken. Indeed, none of us should tolerate
these extremists. They have killed in many countries. They have killed people of
different faiths — but more than any other, they have killed Muslims. Their actions are
irreconcilable with the rights of human beings, the progress of nations, and with Islam.
The Holy Koran teaches that whoever kills an innocent is as — it is as if he has killed all
mankind. (Applause.) And the Holy Koran also says whoever saves a person, it is as if
he has saved all mankind. (Applause.) The enduring faith of over a billion people is so
much bigger than the narrow hatred of a few. Islam is not part of the problem in
combating violent extremism — it is an important part of promoting peace.
Now, we also know that military power alone is not going to solve the problems in
Afghanistan and Pakistan. That’s why we plan to invest $1.5 billion each year over the
next five years to partner with Pakistanis to build schools and hospitals, roads and
businesses, and hundreds of millions to help those who’ve been displaced. That’s why we
are providing more than $2.8 billion to help Afghans develop their economy and deliver
services that people depend on.
Let me also address the issue of Iraq. Unlike Afghanistan, Iraq was a war of choice that
provoked strong differences in my country and around the world. Although I believe that
the Iraqi people are ultimately betổng thốnger off without the tyranny of Saddam Hussein, I also
believe that events in Iraq have reminded America of the need to use diplomacy and build
international consensus to resolve our problems whenever possible. (Applause.) Indeed,
we can recall the words of Thomas Jefferson, who said: “I hope that our wisdom will
grow with our power, and teach us that the less we use our power the greater it will be.”
Today, America has a dual responsibility: to help Iraq forge a betổng thốnger future — and to
leave Iraq to Iraqis. And I have made it clear to the Iraqi people — (applause) — I have
made it clear to the Iraqi people that we pursue no bases, and no claim on their territory
or resources. Iraq’s sovereignty is its own. And that’s why I ordered the removal of our
combat brigades by next August. That is why we will honor our agreement with Iraq’s
democratically elected government to remove combat troops from Iraqi cities by July,
and to remove all of our troops from Iraq by 2012. (Applause.) We will help Iraq train
its security forces and develop its economy. But we will support a secure and united Iraq
as a partner, and never as a patron.
And finally, just as America can never tolerate violence by extremists, we must never
alter or forget our principles. Nine-eleven was an enormous trauma to our country. The
fear and anger that it provoked was understandable, but in some cases, it led us to act
contrary to our traditions and our ideals. We are taking concrete actions to change
course. I have unequivocally prohibited the use of torture by the United States, and I
have ordered the prison at Guantanamo Bay closed by early next year. (Applause.)
So America will defend itself, respectful of the sovereignty of nations and the rule of law.
And we will do so in partnership with Muslim communities which are also threatened.
The sooner the extremists are isolated and unwelcome in Muslim communities, the
sooner we will all be safer.
The second major source of tension that we need to discuss is the situation between
Israelis, Palestinians and the Arab world.
America’s strong bonds with Israel are well known. This bond is unbreakable. It is based
upon cultural and historical ties, and the recognition that the aspiration for a Jewish
homeland is rooted in a tragic history that cannot be denied.
Around the world, the Jewish people were persecuted for centuries, and anti-Semitism in
Europe culminated in an unprecedented Holocaust. Tomorrow, I will visit Buchenwald,
which was part of a network of camps where Jews were enslaved, tortured, shot and
gassed to death by the Third Reich. Six million Jews were killed — more than the entire
Jewish population of Israel today. Denying that fact is baseless, it is ignorant, and it is
hateful. Threatening Israel with destruction — or repeating vile stereotypes about Jews –
is deeply wrong, and only serves to evoke in the minds of Israelis this most painful of
memories while preventing the peace that the people of this region deserve.
On the other hand, it is also undeniable that the Palestinian people — Muslims and
Christians — have suffered in pursuit of a homeland. For more than 60 years they’ve
endured the pain of dislocation. Many wait in refugee camps in the West Bank, Gaza,
and neighboring lands for a life of peace and security that they have never been able to
lead. They endure the daily humiliations — large and small — that come with occupation.
So let there be no doubt: The situation for the Palestinian people is intolerable. And
America will not turn our backs on the legitimate Palestinian aspiration for dignity,
opportunity, and a state of their own. (Applause.)
For decades then, there has been a stalemate: two peoples with legitimate aspirations,
each with a painful history that makes compromise elusive. It’s easy to point fingers –
for Palestinians to point to the displacement brought about by Israel’s founding, and for
Israelis to point to the constant hostility and atổng thốngacks throughout its history from within its
borders as well as beyond. But if we see this conflict only from one side or the other,
then we will be blind to the truth: The only resolution is for the aspirations of both sides
to be met through two states, where Israelis and Palestinians each live in peace and
security. (Applause.)
That is in Israel’s interest, Palestine’s interest, America’s interest, and the world’s interest.
And that is why I intend to personally pursue this outcome with all the patience and
dedication that the task requires. (Applause.) The obligations — the obligations that the
parties have agreed to under the road map are clear. For peace to come, it is time for
them — and all of us — to live up to our responsibilities.
Palestinians must abandon violence. Resistance through violence and killing is wrong
and it does not succeed. For centuries, black people in America suffered the lash of the
whip as slaves and the humiliation of segregation. But it was not violence that won full
and equal rights. It was a peaceful and determined insistence upon the ideals at the center
of America’s founding. This same story can be told by people from South Africa to
South Asia; from Eastern Europe to Indonesia. It’s a story with a simple truth: that
violence is a dead end. It is a sign neither of courage nor power to shoot rockets at
sleeping children, or to blow up old women on a bus. That’s not how moral authority is
claimed; that’s how it is surrendered.
Now is the time for Palestinians to focus on what they can build. The Palestinian
Authority must develop its capacity to govern, with institutions that serve the needs of its
people. Hamas does have support among some Palestinians, but they also have to
recognize they have responsibilities. To play a role in fulfilling Palestinian aspirations, to
unify the Palestinian people, Hamas must put an end to violence, recognize past
agreements, recognize Israel’s right to exist.
At the same time, Israelis must acknowledge that just as Israel’s right to exist cannot be
denied, neither can Palestine’s. The United States does not accept the legitimacy of
continued Israeli setổng thốnglements. (Applause.) This construction violates previous
agreements and undermines efforts to achieve peace. It is time for these setổng thốnglements to
stop. (Applause.)
And Israel must also live up to its obligation to ensure that Palestinians can live and work
and develop their society. Just as it devastates Palestinian families, the continuing
humanitarian crisis in Gaza does not serve Israel’s security; neither does the continuing
lack of opportunity in the West Bank. Progress in the daily lives of the Palestinian people
must be a critical part of a road to peace, and Israel must take concrete steps to enable
such progress.
And finally, the Arab states must recognize that the Arab Peace Initiative was an
important beginning, but not the end of their responsibilities. The Arab-Israeli conflict
should no longer be used to distract the people of Arab nations from other problems.
Instead, it must be a cause for action to help the Palestinian people develop the
institutions that will sustain their state, to recognize Israel’s legitimacy, and to choose
progress over a self-defeating focus on the past.
America will align our policies with those who pursue peace, and we will say in public
what we say in private to Israelis and Palestinians and Arabs. (Applause.) We cannot
impose peace. But privately, many Muslims recognize that Israel will not go away.
Likewise, many Israelis recognize the need for a Palestinian state. It is time for us to act
on what everyone knows to be true.
Too many tears have been shed. Too much blood has been shed. All of us have a
responsibility to work for the day when the mothers of Israelis and Palestinians can see
their children grow up without fear; when the Holy Land of the three great faiths is the
place of peace that God intended it to be; when Jerusalem is a secure and lasting home
for Jews and Christians and Muslims, and a place for all of the children of Abraham to
mingle peacefully together as in the story of Isra — (applause) — as in the story of Isra,
when Moses, Jesus, and Mohammed, peace be upon them, joined in prayer. (Applause.)
The third source of tension is our shared interest in the rights and responsibilities of
nations on nuclear weapons.
This issue has been a source of tension between the United States and the Islamic
Republic of Iran. For many years, Iran has defined itself in part by its opposition to my
country, and there is in fact a tumultuous history between us. In the middle of the Cold
War, the United States played a role in the overthrow of a democratically elected Iranian
government. Since the Islamic Revolution, Iran has played a role in acts of hostagetaking
and violence against U.S. troops and civilians. This history is well known. Rather
than remain trapped in the past, I’ve made it clear to Iran’s leaders and people that my
country is prepared to move forward. The question now is not what Iran is against, but
rather what future it wants to build.
I recognize it will be hard to overcome decades of mistrust, but we will proceed with
courage, rectitude, and resolve. There will be many issues to discuss between our two
countries, and we are willing to move forward without preconditions on the basis of
mutual respect. But it is clear to all concerned that when it comes to nuclear weapons,
we have reached a decisive point. This is not simply about America’s interests. It’s about
preventing a nuclear arms race in the Middle East that could lead this region and the
world down a hugely dangerous path.
I understand those who protest that some countries have weapons that others do not. No
single nation should pick and choose which nation holds nuclear weapons. And that’s
why I strongly reaffirmed America’s commitment to seek a world in which no nations
hold nuclear weapons. (Applause.) And any nation — including Iran — should have the
right to access peaceful nuclear power if it complies with its responsibilities under the
nuclear Non-Proliferation Treaty. That commitment is at the core of the treaty, and it
must be kept for all who fully abide by it. And I’m hopeful that all countries in the region
can share in this goal.
The fourth issue that I will address is democracy. (Applause.)
I know — I know there has been controversy about the promotion of democracy in recent
years, and much of this controversy is connected to the war in Iraq. So let me be clear:
No system of government can or should be imposed by one nation by any other.
That does not lessen my commitment, however, to governments that reflect the will of the
people. Each nation gives life to this principle in its own way, grounded in the traditions
of its own people. America does not presume to know what is best for everyone, just as
we would not presume to pick the outcome of a peaceful election. But I do have an
unyielding belief that all people yearn for certain things: the ability to speak your mind
and have a say in how you are governed; confidence in the rule of law and the equal
administration of justice; government that is transparent and doesn’t steal from the
people; the freedom to live as you choose. These are not just American ideas; they are
human rights. And that is why we will support them everywhere. (Applause.)
Now, there is no straight line to realize this promise. But this much is clear:
Governments that protect these rights are ultimately more stable, successful and secure.
Suppressing ideas never succeeds in making them go away. America respects the right of
all peaceful and law-abiding voices to be heard around the world, even if we disagree
with them. And we will welcome all elected, peaceful governments — provided they
govern with respect for all their people.
This last point is important because there are some who advocate for democracy only
when they’re out of power; once in power, they are ruthless in suppressing the rights of
others. (Applause.) So no matổng thốnger where it takes hold, government of the people and by
the people sets a single standard for all who would hold power: You must maintain your
power through consent, not coercion; you must respect the rights of minorities, and
participate with a spirit of tolerance and compromise; you must place the interests of your
people and the legitimate workings of the political process above your party. Without
these ingredients, elections alone do not make true democracy.
AUDIENCE MEMBER: Barack Obama, we love you!
PRESIDENT OBAMA: Thank you. (Applause.) The fifth issue that we must address
together is religious freedom.
Islam has a proud tradition of tolerance. We see it in the history of Andalusia and
Cordoba during the Inquisition. I saw it firsthand as a child in Indonesia, where devout
Christians worshiped freely in an overwhelmingly Muslim country. That is the spirit we
need today. People in every country should be free to choose and live their faith based
upon the persuasion of the mind and the heart and the soul. This tolerance is essential for
religion to thrive, but it’s being challenged in many different ways.
Among some Muslims, there’s a disturbing tendency to measure one’s own faith by the
rejection of somebody else’s faith. The richness of religious diversity must be upheld –
whether it is for Maronites in Lebanon or the Copts in Egypt. (Applause.) And if we are
being honest, fault lines must be closed among Muslims, as well, as the divisions
between Sunni and Shia have led to tragic violence, particularly in Iraq.
Freedom of religion is central to the ability of peoples to live together. We must always
examine the ways in which we protect it. For instance, in the United States, rules on
charitable giving have made it harder for Muslims to fulfill their religious obligation.
That’s why I’m commitổng thốnged to working with American Muslims to ensure that they can
fulfill zakat.
Likewise, it is important for Western countries to avoid impeding Muslim citizens from
practicing religion as they see fit — for instance, by dictating what clothes a Muslim
woman should wear. We can’t disguise hostility towards any religion behind the pretence
of liberalism.
In fact, faith should bring us together. And that’s why we’re forging service projects in
America to bring together Christians, Muslims, and Jews. That’s why we welcome
efforts like Saudi Arabian King Abdullah’s interfaith dialogue and Turkey’s leadership in
the Alliance of Civilizations. Around the world, we can turn dialogue into interfaith
service, so bridges between peoples lead to action — whether it is combating malaria in
Africa, or providing relief after a natural disaster.
The sixth issue — the sixth issue that I want to address is women’s rights. (Applause.) I
know –- I know — and you can tell from this audience, that there is a healthy debate about
this issue. I reject the view of some in the West that a woman who chooses to cover her
hair is somehow less equal, but I do believe that a woman who is denied an education is
denied equality. (Applause.) And it is no coincidence that countries where women are
well educated are far more likely to be prosperous.
Now, let me be clear: Issues of women’s equality are by no means simply an issue for
Islam. In Turkey, Pakistan, Bangladesh, Indonesia, we’ve seen Muslim-majority
countries elect a woman to lead. Meanwhile, the struggle for women’s equality continues
in many aspects of American life, and in countries around the world.
I am convinced that our daughters can contribute just as much to society as our sons.
(Applause.) Our common prosperity will be advanced by allowing all humanity — men
and women — to reach their full potential. I do not believe that women must make the
same choices as men in order to be equal, and I respect those women who choose to live
their lives in traditional roles. But it should be their choice. And that is why the United
States will partner with any Muslim-majority country to support expanded literacy for
girls, and to help young women pursue employment through micro-financing that helps
people live their dreams. (Applause.)
Finally, I want to discuss economic development and opportunity.
I know that for many, the face of globalization is contradictory. The Internet and
television can bring knowledge and information, but also offensive sexuality and
mindless violence into the home. Trade can bring new wealth and opportunities, but also
huge disruptions and change in communities. In all nations — including America — this
change can bring fear. Fear that because of modernity we lose control over our economic
choices, our politics, and most importantly our identities — those things we most cherish
about our communities, our families, our traditions, and our faith.
But I also know that human progress cannot be denied. There need not be contradictions
between development and tradition. Countries like Japan and South Korea grew their
economies enormously while maintaining distinct cultures. The same is true for the
astonishing progress within Muslim-majority countries from Kuala Lumpur to Dubai. In
ancient times and in our times, Muslim communities have been at the forefront of
innovation and education.
And this is important because no development strategy can be based only upon what
comes out of the ground, nor can it be sustained while young people are out of work.
Many Gulf states have enjoyed great wealth as a consequence of oil, and some are
beginning to focus it on broader development. But all of us must recognize that
education and innovation will be the currency of the 21st century — (applause) — and in
too many Muslim communities, there remains underinvestment in these areas. I’m
emphasizing such investment within my own country. And while America in the past has
focused on oil and gas when it comes to this part of the world, we now seek a broader
engagement.
that brought my father to America. (Applause.) At the same time, we will encourage
more Americans to study in Muslim communities. And we will match promising Muslim
students with internships in America; invest in online learning for teachers and children
around the world; and create a new online network, so a young person in Kansas can
communicate instantly with a young person in Cairo.
On economic development, we will create a new corps of business volunteers to partner
with counterparts in Muslim-majority countries. And I will host a Summit on
Entrepreneurship this year to identify how we can deepen ties between business leaders,
foundations and social entrepreneurs in the United States and Muslim communities
around the world.
All these things must be done in partnership. Americans are ready to join with citizens
and governments; community organizations, religious leaders, and businesses in Muslim
communities around the world to help our people pursue a betổng thốnger life.
The issues that I have described will not be easy to address. But we have a responsibility
to join together on behalf of the world that we seek — a world where extremists no longer
threaten our people, and American troops have come home; a world where Israelis and
Palestinians are each secure in a state of their own, and nuclear energy is used for
peaceful purposes; a world where governments serve their citizens, and the rights of all
God’s children are respected. Those are mutual interests. That is the world we seek. But
we can only achieve it together.
I know there are many — Muslim and non-Muslim — who question whether we can forge
this new beginning. Some are eager to stoke the flames of division, and to stand in the
way of progress. Some suggest that it isn’t worth the effort — that we are fated to
disagree, and civilizations are doomed to clash. Many more are simply skeptical that real
change can occur. There’s so much fear, so much mistrust that has built up over the
years. But if we choose to be bound by the past, we will never move forward. And I
want to particularly say this to young people of every faith, in every country — you, more
than anyone, have the ability to reimagine the world, to remake this world.
All of us share this world for but a brief moment in time. The question is whether we
spend that time focused on what pushes us apart, or whether we commit ourselves to an
effort — a sustained effort — to find common ground, to focus on the future we seek for
our children, and to respect the dignity of all human beings.
It’s easier to start wars than to end them. It’s easier to blame others than to look inward.
It’s easier to see what is different about someone than to find the things we share. But we
should choose the right path, not just the easy path. There’s one rule that lies at the heart
of every religion — that we do unto others as we would have them do unto us.
(Applause.) This truth transcends nations and peoples — a belief that isn’t new; that isn’t
black or white or brown; that isn’t Christian or Muslim or Jew. It’s a belief that pulsed in
the cradle of civilization, and that still beats in the hearts of billions around the world. It’s
a faith in other people, and it’s what brought me here today.
We have the power to make the world we seek, but only if we have the courage to make a
new beginning, keeping in mind what has been writổng thốngen.
The Holy Koran tells us: “O mankind! We have created you male and a female; and we
have made you into nations and tribes so that you may know one another.”
The Talmud tells us: “The whole of the Torah is for the purpose of promoting peace.”
The Holy Bible tells us: “Blessed are the peacemakers, for they shall be called sons of
God.” (Applause.)
The people of the world can live together in peace. We know that is God’s vision. Now
that must be our work here on Earth.
Thank you. And may God’s peace be upon you. Thank you very much. Thank you.
(Applause.)
BAUXITE TÂY NGUYÊN
TIN BBC
Tướng Giáp gửi thư nữa về bauxite
Đại
tướng Võ Nguyên Giáp lại mới gửi thêm một lá thư nữa cho Bộ
Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam, đề nghị dừng các dự án
bauxite.
Lá thư được gửi đi ngày 20/05 vừa qua cảnh báo về nguy cơ 'quyết định sai lầm, gây nên tai họa lớn cho đất nước'.Tướng Giáp, năm nay 98 tuổi, hoan nghênh Bộ Chính trị đã lắng nghe ý kiến các giới nhưng viết rằng "chủ trương khai thác chế biến bô xít ở Tây Nguyên là một vấn đề hết sức hệ trọng".
Theo ông, nó "sẽ có tác động lớn đến môi trường sinh thái, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đến phát triển ổn định, bền vững của đất nước."
Tổng hợp các ý kiến lắng nghe trong quá trình Việt Nam có tranh luận sôi nổi về vụ khai thác bauxite ở Tân Rai và Nhân Cơ với đối tác Trung Quốc đem công nhân của họ vào, ông Giáp cho rằng "nhiều vấn đề mà Bộ Chính trị nêu lên cho đến nay chưa được nghiên cứu, phân tích, đánh giá toàn diện đầy đủ".
Nhiều vấn đề mà Bộ Chính trị nêu lên cho đến nay chưa được nghiên cứu, phân tích, đánh giá toàn diện đầy đủ
Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Bởi thế, ông đề nghị dừng các dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên, kể cả khai thác thí điểm.
Tướng Giáp cũng đánh thẳng vào quan điểm khai thác bằng mọi giá nhân danh "hiện đại hóa", vốn được một số nhà lãnh đạo nêu ra.
Ông viết:"Hiện nay chưa khai thác bô xít ở Tây Nguyên, dành tài nguyên đó cho thế hệ mai sau và không khai thác bô xít thì chúng ta vẫn tiến hành được công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước."
Đặc biệt, nhắc đến vai trò của Quốc hội hiện đang họp tại Hà Nội, ông mong rằng "Trung ương và Quốc hội phát huy dân chủ, bàn bạc kỹ lưỡng, có quyết định đúng đắn".
Ý kiến tướng lĩnh
Trong tháng 4 vừa qua, Tướng Giáp đã gửi lá thư thứ nhì đề nghị xem xét kỹ dự án bauxite.
Ông nói: "Tôi cho đây là một vấn đề cực kỳ hệ trọng. Vấn đề này trước đây tôi đã từng nghiên cứu, tôi đã có thư gửi đồng chí Thủ tướng nhưng chưa được trả lời."
"Tôi mong các nhà khoa học, các nhà quản lý, các nhà hoạt động xã hội hãy nêu cao trách nhiệm trước dân tộc, thảo luận một cách khoa học, nghiêm túc, thẳng thắn để kiến nghị với Đảng và Nhà nước một chủ trương đúng đắn về vấn đề bô-xít Tây Nguyên mà tôi cho là không nên khai thác."
Bài viết của cựu tư lệnh đường Hồ Chí Minh để kỷ niệm ngày 30/4 cho rằng: "Trong thời chiến và cả sau này cũng vậy, địa chiến lược, địa quân sự Tây Nguyên cũng luôn là yếu huyệt, vì thế làm gì ở Tây Nguyên cũng phải rất cẩn trọng,"
Ông Đồng Sĩ Nguyên nói "xây dựng Tây Nguyên phải do chính bàn tay người Việt làm."
Trước đó, đầu tháng 3, Thiếu tướng Lê Văn Cương, Viện khoa học Chiến lược Bộ Công an cũng công bố một tham luận nêu ra vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên có thể tác động đến vấn đề an ninh Việt Nam.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/05/090527_vonguyengiap_bauxite.shtml
Thư thứ 3 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi BCH TU, Bộ Chính trị cùng Quốc hội và Chính phủ về vấn đề Bauxite Tây Nguyên
14:52 27/05/2009 (GMT+7)
TRUYỆN NGẮN
BÁNH CANH GIÒ HEO
Nơi có cây cầu khỉ:
Tôi là người dậy sớm nhất trong khu tập thể giáo viên này. Sáng nay Chủ nhật nên mọi người ngủ nướng thêm chút nữa. Các thầy thì khỏi nói, đêm qua mưa dầm và nhậu quá trời. Không hy vọng có bạn cùng ra quán cà phê nên tôi đi một mình. Con đường đê lầy lội bởi mưa đã nhiều, đêm qua mấy thầy đi nhậu về còn làm cho khúc đường trơn thêm bóng vì té lên té xuống. Tôi cẩn thận qua được một đoạn bờ trơn như da lươn, đầy những dấu chân người... say đêm qua. Cây cầu khỉ trước mặt hiện ra thử thách. Sáng sớm mà tòm xuống rạch thì khó coi lắm nghen! Đứng tư lự một hồi, thấy nhục quá nên nhắm mắt đưa chân. Một mảnh vạt áo đàn ông còn vướng lại trên tay vịn của cây cầu khỉ. Thì ra áo thầy Dũng-xị, đêm qua thầy la làng, chửi bới cây cầu hết lời rủa xả.
Tôi qua được cây cầu khỉ mà không té mới khó hiểu! Lòng thầm cảm ơn vợ chồng Thần cầu... khỉ. Tiếp theo là một đoạn đê đất sét cứng, giữa cao, hai bên soải xuống. Tiếng địa phương gọi là sườn bò. Thật ra với loại đường này, có nằm xuống lăn... cũng bõm xuống sông chứ dễ gì qua được! Phần tôi mới được học trò cho đôi dép mới, định mang cho nó vui. Tội nghiệp thằng nhỏ... hai mươi tuổi, một vợ hai con, học lớp tám năm thứ tư mà nhất định không nghỉ vì sợ quên chữ! Hết chữ nghĩa của nó không đầy cái lá mít mà quên nữa thì làm sao đi "mần dziệc" cho Ủy ban. Thương nước một tiếng thầy, hai tiếng thầy... "Con mua đôi dép hai ba năm rồi, còn chưa xỏ tới. Thầy lấy mang đi, để nó mục".
Cuối cùng cũng ra được con đường xi-măng một mét bề ngang và dài như con rắn xuyên qua xóm làng. Đứng ở ngã ba đường, tôi phân vân rẽ phải hay trái? Bên trái được tự nhiên sắp đặt sân banh, quán nhậu, Ủy ban, cầu đò. Bên phải là quán ăn, trường học, trạm xá. Mặt trời mọc thì đi về bên phải, mặt trời lặn thì đi về bên trái. Chân lý đó do thầy Bình-mồng tơi, nghĩ ra. Chẳng biết sao thầy Bình dạy Anh văn và chỉ hát một câu nhạc Việt: Mồng tơi ơi mồng tơi! Nên thầy có tên Bình-mồng tơi là vậy. Cũng để phân biệt với thầy Bình-em gái! Tôi nhìn về bên trái, nhớ trận nhậu tối qua ở quán chị Tám Hưởng mới vui. Chị là O du kích trong kháng chiến. Sau hòa bình, chị phải mang một cái chân giả. Chị lấy anh Sáu Thưởng như lời hứa của chị: "Chừng nào hòa bình thì làm đám cưới". Những buổi trưa quán vắng, ngồi soạn giáo án ngoài quán, nghe chị kể chuyện tình trong chiến khu cũng phê phê. Anh Sáu Thưởng vì cứu chị chạy không kịp máy bay oanh kích mà mất luôn hai giò. Tổng cộng trong nhà chị có ba cái chân giả. Hai người nông dân nghe lời bọn xấu đi làm cách mạng về chỉ được cuốn sổ thương binh. Hằng tháng được cấp vài lít gạo, không đủ sống nên mở quán kiếm thêm để nuôi con. Chị nói: "Mấy thầy thương thì uống cà phê sáng và nhậu tối ở đây cho tui có gạo nuôi con là cám ơn nhiều". Nhìn hai người khật khưỡng trên những cái chân giả. Nhà thì nền đất, mái lá, bên ngoài mưa lớn-bên trong mưa nhỏ. Chẳng ai còn nghĩ đến chính trị, chính em gì. Chỉ thấy tội nghiệp. Những đêm mưa gió bão bùng, chị ngồi xổm trên chân thật, duỗi cái chân giả dài ra vì đâu co lại được - chân giả "Made in Vietnam" do Sở Thương binh Xã hội ban tặng - nó thế! Chị ngồi nhổ lông gà làm món nhậu cho mấy ông thầy giáo nghèo... cỡ chị, chứ dân Quản lý thị trường, Công an biên phòng bắt vượt biên thì họ đâu có nhậu nơi đây.
Chị Tám thường lấy bộ lòng gà xào củ hành cho mấy thầy nhậu trước. Sau đó luộc gà chín tới thì trộn gỏi bắp cải, nước lèo nấu cháo hành giải nghể là xong cho một bàn. Có khi mấy thầy nhậu hai ba bàn thì nhìn chị như con rối, tội nghiệp lắm. Gương mặt chị đẹp kiểu quê mùa, da bánh mật là tất cả những gì trời cho. Trời quở là đầu tắt mặt tối, lam lũ vì nheo nhóc đàn con. Nhiều khi chúng tôi cười trên sự đau khổ của chị rồi đêm về nằm nghĩ lại cũng ân hận. Giả như thầy Thạnh nói: "Hòa bình mới có mấy năm mà đã ba, bốn đứa con nheo nhóc, mũi rãi lòng thòng, thấy ớn..." Thầy Long tiếp: "Trời se duyên thôi. Anh Sáu Thưởng thì chị Tám Hưởng. Không nheo nhóc sao được?" Cả đám lại cười ồ lên. Hay thầy Dũng-xị là chuyên gia nhậu, tìm ra chân lý ở quán chị Tám như vầy: "Ở đây đốt đèn dầu, uống xị đầu còn nhà ngói, nhà tranh. Uống chừng ba xị, tao đố đứa nào phân biệt được cái phao câu gà với cái phao chị Tám. Bay coi kìa! Không có tới cái nùi giẻ chứ nói gì khăn. Bả đang xé gà trộn gỏi mà ai kêu cho xị rượu nữa là bả quẹt hai bàn tay mỡ vô mông. Xé vài con gà thì không còn phân biệt phao nào là gà, phao nào phao chị Tám vì cái nào cũng bóng mỡ. Uống vài xị rượu thì nhà ngói cũng như nhà tranh!"
(Nhiều năm rồi, tôi vẫn không quên được những đêm mưa Duyên Hải, những người bạn đầu xanh tuổi trẻ, cái nghề gõ đầu trẻ thì ít mà nhậu thì nhiều. Những đứa học trò dễ thương và một miền quê hiền lành nhưng nghèo lắm...)
Mặt trời đã treo trên ngọn dừa nước, tôi lững thững đi về bên phải. Định bụng xuống quán cô Chanh để ăn tô bánh canh giò heo cho ấm bụng, sau một đêm nhậu quá cỡ với đồng môn. Đầu óc lại nghĩ tiếp những vui buồn ở cái xứ quê một cục này. Cô Chanh, thoạt tiên kỳ thủy là người dễ nhìn - trắng da dài tóc. Mười tám tuổi, tốt nghiệp lớp chín. Cô Chanh về thành phố học hai năm để làm Y tá. Công thành danh toại, cô về lại địa phương làm việc trong Trạm xá. Duyên tiền định đến một ngày nắng tốt không mưa. Thầy Thạnh đau bụng quá nên bên giáo viên đưa qua cho cô Chanh "mần dziệc". Cô Chanh chẩn đoán thầy Thạnh đau ruột thừa, phải đưa về thành phố mổ gấp. Nếu không bể ruột sẽ dẫn đến nhiễm trùng khoang bụng thì hết thuốc chữa. Tình hình khẩn cấp, không đợi được tàu đò nên ông Sáu Chín là Bí thư xã ra lệnh cho ghe Ủy ban đưa thầy Thạnh về Sài Gòn, gấp. Ông Sáu Chín ngoài tật ham gái như cái tên kháng chiến của ông thì ông cũng tử tế, nhất là với bên thầy cô giáo. Đỉnh cao trí tuệ của ông là nhận định tình hình địa phương: "Tui thích nhìn con gái chổng mông cấy lúa". Cái tên Sáu Chín do đồng chí chỉ huy trong chiến khu đặt cho ông là chí phải. Vì con số sáu với con số chín quyện vào nhau, lật xấp lật ngửa gì cũng là một cặp... đang "mần dziệc".
Cô Chanh theo ghe Ủy ban về thành phố để nâng khăn sửa gối cho thầy Thạnh. Cô chẩn đoán đúng về bệnh trạng của thầy. Thầy phải mổ và bác sĩ thành phố còn cho biết là may mắn. Chỗ ruột thừa vừa bể, phải cắt một đoạn ruột nhưng không nguy hiểm đến tính mạng. Thầy chỉ phải mang cái tên thân mật: Thầy Thạnh-đứt ruột.
Cô Chanh ở lại thành phố chăm sóc cho thầy Thạnh đến ngày xuất viện. Chuyện này hoàn toàn tự ý chứ không phải nhiệm vụ được giao. Sau đó thấy gia đình thầy Thạnh 'neo đơn' nên cô về nhà thầy Thạnh chăm sóc tiếp cho đến khi thầy thật khỏe. Cả hơn tháng sau thầy Thạnh mới trở lại nhiệm sở. Cô Chanh đưa thầy Thạnh về nhà mình chăm sóc vì sợ thức ăn bên nhà ăn Liên cơ (nhiều cơ quan hợp lại gọi là liên cơ), ngoài quán xá thiếu vệ sinh trong khi ruột thầy thì cô Chanh rành hơn ai hết!
Thầy Thạnh tốt số nên lại sức mau chóng, ơn chăm sóc nên thầy sóc lại cô Chanh rất chăm để trả ơn em gái miền quê... Đâu năm sau, nhà tụi nó có tiếng con nít khóc, oe... oe... Mở hàng cho một loạt thầy giáo hát bài: ... đến đây thì ở lại đây, hổng chừng đứt ruột lại hay hơn dzìa...!
Để đáp ứng cho đòi hỏi của dân thành phố xuống công tác: Quán xá phải có vệ sinh một chút. Thầy Thạnh - cô Chanh nhận chỉ thị của anh Hiệu trưởng, mở quán bán bánh canh giò heo buổi sáng. Đại khái là rửa tô bằng nước ngọt, có xà bông. Từ đó bánh canh bên quán bà Sáu Mú bị ế, vì dơ quá. Một hôm thầy Hiển ra quán muộn, quán cô Chanh hết bánh canh. Cô xin lỗi và nói thầy Hiển ăn đỡ bánh canh bên quán bà Sáu Mú (đối diện quán cô Chanh).
Không ăn thì thôi, khơi khơi thầy Hiển nói: "Ăn đây quen rồi. Giò cô Chanh không có lông. Giò bà Sáu Mú lông không hà". Đám thầy giáo cười bò lăn... thầy Hiển mới biết mình đắc tội với thầy Thạnh. Phải đãi rượu anh em coi như làm chứng cho thầy xin lỗi thầy Thạnh. Nhưng giò cô Chanh không có lông thì nổi tiếng giang hồ miệt ruộng.
Tôi xuống đến quán cô Chanh. Thấy thầy Hiệu trưởng ngồi thù lù trong góc quán. Gãi đầu, bứt tai. Tôi hỏi.
- Chuyện gì rầu vậy sư huynh?"
- Thằng Thạnh nó cứ lo... sóc con Chanh mẹ, chăm con Chanh con. Không lo nấu bánh canh gì hết. Giờ này chưa có gì ăn, đói chết mồ tổ...
- Chuyện nhà người ta mà sư huynh...
- Tối qua, tao ngủ đây chứ đâu. Mưa quá, làm biếng về trường. Cái thằng Thạnh bỏ bạn, nhậu chưa tới đâu là đi ngủ sớm để sáng dậy sớm nấu bánh canh. Nó hầm giò thâu đêm mà quên nhóm lửa... nên giờ này mới chưa có ăn. Dạy thì dở - dzợ thì hay. Sang năm, tao cho nó dạy môn... Kỹ thuật hầm giò, được hôn?
Tôi chỉ biết cười với anh Hiệu trưởng rất tiếu lâm, thầy Thạnh lu bu trong nhà nào con, nào việc tù lu. Thấy cảnh vợ con sao mà ngán quá! Nhưng hắn vui vẻ hơn xưa, từ ngày lấy vợ hắn hiền ra và thương bạn bè hơn. Hắn ưa giành vợ cái khoản tính tiền bàn bạn bè vì có nhiêu đưa nhiêu. Hắn bỏ luôn vào tủ - không đếm.
Thầy Thạnh nói với tôi: "Ê... cu. Tối qua có người khóc thấy thương: "Chết cha tao rồi. Dzợ tao có bầu nữa rồi Thạnh ơi!"
Tôi chỉ nhìn thầy Hiệu trưởng mà thương hại sư huynh. Cứ vì đàn em thân yêu mà bỏ vợ con ở Sài Gòn. Thỉnh thoảng mới về nhà, làm sao tránh khỏi những tai nạn giao thông trên giường chiếu không đèn.
Ăn xong, tôi đi tiếp cho đến hết con đường là nhà đứa học trò biết may, lại có máy may trong nhà, mới là giàu thứ thiệt ở miệt quê. Tôi nhờ nó vá đầu gối quần jeans. Sẵn rảnh thì đi lấy luôn. Đầu óc lại nghĩ bâng quơ. Chợt nhớ ra hai ba tháng trước. Bất chợt một chiều, thầy hiệu trưởng nhận được điện tín: "Anh ve gap! Ma benh nang..." Vậy là thầy bất kể gian nan. Về nhà ở Sài Gòn mới hay là bà già vợ đi chợ, lúc qua đường không cẩn thận nên bị xe tông. Bà già mất nhiều máu quá, nhưng bốn năm người con ruột thì khác nhóm máu nên không cho mẹ được. Gia đình lại không muốn mua máu ở Trung tâm tiếp huyết vì chắc chắn là toàn máu của dân xì ke, ma túy. Vợ thầy Hiệu trưởng mới có sáng kiến gọi thầy về trong hy vọng cùng nhóm máu với nhạc mẫu. Ai dè cùng thiệt. Vậy là thầy cho xả láng. Nhạc mẫu bình phục mau chóng và được về nhà. Vợ thầy cảm kích cái ơn cứu mạng má em. Ơn đền oán trả, phu thê trùng phùng. Nên nay mới có chuyện thầy ngồi than thở với thằng có vợ là thầy Thạnh: Chết cha tao rồi! Coi như đi đứt cái danh hiệu tiên tiến năm nay vì thầy Hiệu trưởng đã có hai đứa con. Không chừng còn phải làm kiểm điểm về tội "vượt chỉ tiêu"!
Đoạn sau của thầy Hiệu trưởng mới bi đát. Từ ngày bà già vợ ở bệnh viện về. Chiều nào không có cho cụ bà một xị rượu đế thì cụ bà dỗi, không ăn cơm. Ai cũng bảo là trong người cụ bà bây giờ toàn là máu thằng rể. Không có rượu đế thì làm sao sống? Thầy phải trả tiền rượu cho nhạc mẫu mười mấy năm. Cụ bà mới cưỡi hạc quy tiên. Tôi đọc sách cũng thường, chưa nghe ai nói về trường hợp kỳ lạ như vậy. Nhưng mắt thấy, tai nghe. Không biết! Có con sâu rượu trong máu người ta, thật không? Mấy chục năm sau mới có dịp diện kiến thầy lang Nguyễn Ý Đức, tôi trình thầy thắc mắc lâu năm. Thầy nói viết chi tiết cho thầy nghiên cứu! Nhưng chưa có hồi âm.
Tôi là người dậy sớm nhất trong khu tập thể giáo viên này. Sáng nay Chủ nhật nên mọi người ngủ nướng thêm chút nữa. Các thầy thì khỏi nói, đêm qua mưa dầm và nhậu quá trời. Không hy vọng có bạn cùng ra quán cà phê nên tôi đi một mình. Con đường đê lầy lội bởi mưa đã nhiều, đêm qua mấy thầy đi nhậu về còn làm cho khúc đường trơn thêm bóng vì té lên té xuống. Tôi cẩn thận qua được một đoạn bờ trơn như da lươn, đầy những dấu chân người... say đêm qua. Cây cầu khỉ trước mặt hiện ra thử thách. Sáng sớm mà tòm xuống rạch thì khó coi lắm nghen! Đứng tư lự một hồi, thấy nhục quá nên nhắm mắt đưa chân. Một mảnh vạt áo đàn ông còn vướng lại trên tay vịn của cây cầu khỉ. Thì ra áo thầy Dũng-xị, đêm qua thầy la làng, chửi bới cây cầu hết lời rủa xả.
Tôi qua được cây cầu khỉ mà không té mới khó hiểu! Lòng thầm cảm ơn vợ chồng Thần cầu... khỉ. Tiếp theo là một đoạn đê đất sét cứng, giữa cao, hai bên soải xuống. Tiếng địa phương gọi là sườn bò. Thật ra với loại đường này, có nằm xuống lăn... cũng bõm xuống sông chứ dễ gì qua được! Phần tôi mới được học trò cho đôi dép mới, định mang cho nó vui. Tội nghiệp thằng nhỏ... hai mươi tuổi, một vợ hai con, học lớp tám năm thứ tư mà nhất định không nghỉ vì sợ quên chữ! Hết chữ nghĩa của nó không đầy cái lá mít mà quên nữa thì làm sao đi "mần dziệc" cho Ủy ban. Thương nước một tiếng thầy, hai tiếng thầy... "Con mua đôi dép hai ba năm rồi, còn chưa xỏ tới. Thầy lấy mang đi, để nó mục".
Cuối cùng cũng ra được con đường xi-măng một mét bề ngang và dài như con rắn xuyên qua xóm làng. Đứng ở ngã ba đường, tôi phân vân rẽ phải hay trái? Bên trái được tự nhiên sắp đặt sân banh, quán nhậu, Ủy ban, cầu đò. Bên phải là quán ăn, trường học, trạm xá. Mặt trời mọc thì đi về bên phải, mặt trời lặn thì đi về bên trái. Chân lý đó do thầy Bình-mồng tơi, nghĩ ra. Chẳng biết sao thầy Bình dạy Anh văn và chỉ hát một câu nhạc Việt: Mồng tơi ơi mồng tơi! Nên thầy có tên Bình-mồng tơi là vậy. Cũng để phân biệt với thầy Bình-em gái! Tôi nhìn về bên trái, nhớ trận nhậu tối qua ở quán chị Tám Hưởng mới vui. Chị là O du kích trong kháng chiến. Sau hòa bình, chị phải mang một cái chân giả. Chị lấy anh Sáu Thưởng như lời hứa của chị: "Chừng nào hòa bình thì làm đám cưới". Những buổi trưa quán vắng, ngồi soạn giáo án ngoài quán, nghe chị kể chuyện tình trong chiến khu cũng phê phê. Anh Sáu Thưởng vì cứu chị chạy không kịp máy bay oanh kích mà mất luôn hai giò. Tổng cộng trong nhà chị có ba cái chân giả. Hai người nông dân nghe lời bọn xấu đi làm cách mạng về chỉ được cuốn sổ thương binh. Hằng tháng được cấp vài lít gạo, không đủ sống nên mở quán kiếm thêm để nuôi con. Chị nói: "Mấy thầy thương thì uống cà phê sáng và nhậu tối ở đây cho tui có gạo nuôi con là cám ơn nhiều". Nhìn hai người khật khưỡng trên những cái chân giả. Nhà thì nền đất, mái lá, bên ngoài mưa lớn-bên trong mưa nhỏ. Chẳng ai còn nghĩ đến chính trị, chính em gì. Chỉ thấy tội nghiệp. Những đêm mưa gió bão bùng, chị ngồi xổm trên chân thật, duỗi cái chân giả dài ra vì đâu co lại được - chân giả "Made in Vietnam" do Sở Thương binh Xã hội ban tặng - nó thế! Chị ngồi nhổ lông gà làm món nhậu cho mấy ông thầy giáo nghèo... cỡ chị, chứ dân Quản lý thị trường, Công an biên phòng bắt vượt biên thì họ đâu có nhậu nơi đây.
Chị Tám thường lấy bộ lòng gà xào củ hành cho mấy thầy nhậu trước. Sau đó luộc gà chín tới thì trộn gỏi bắp cải, nước lèo nấu cháo hành giải nghể là xong cho một bàn. Có khi mấy thầy nhậu hai ba bàn thì nhìn chị như con rối, tội nghiệp lắm. Gương mặt chị đẹp kiểu quê mùa, da bánh mật là tất cả những gì trời cho. Trời quở là đầu tắt mặt tối, lam lũ vì nheo nhóc đàn con. Nhiều khi chúng tôi cười trên sự đau khổ của chị rồi đêm về nằm nghĩ lại cũng ân hận. Giả như thầy Thạnh nói: "Hòa bình mới có mấy năm mà đã ba, bốn đứa con nheo nhóc, mũi rãi lòng thòng, thấy ớn..." Thầy Long tiếp: "Trời se duyên thôi. Anh Sáu Thưởng thì chị Tám Hưởng. Không nheo nhóc sao được?" Cả đám lại cười ồ lên. Hay thầy Dũng-xị là chuyên gia nhậu, tìm ra chân lý ở quán chị Tám như vầy: "Ở đây đốt đèn dầu, uống xị đầu còn nhà ngói, nhà tranh. Uống chừng ba xị, tao đố đứa nào phân biệt được cái phao câu gà với cái phao chị Tám. Bay coi kìa! Không có tới cái nùi giẻ chứ nói gì khăn. Bả đang xé gà trộn gỏi mà ai kêu cho xị rượu nữa là bả quẹt hai bàn tay mỡ vô mông. Xé vài con gà thì không còn phân biệt phao nào là gà, phao nào phao chị Tám vì cái nào cũng bóng mỡ. Uống vài xị rượu thì nhà ngói cũng như nhà tranh!"
(Nhiều năm rồi, tôi vẫn không quên được những đêm mưa Duyên Hải, những người bạn đầu xanh tuổi trẻ, cái nghề gõ đầu trẻ thì ít mà nhậu thì nhiều. Những đứa học trò dễ thương và một miền quê hiền lành nhưng nghèo lắm...)
Mặt trời đã treo trên ngọn dừa nước, tôi lững thững đi về bên phải. Định bụng xuống quán cô Chanh để ăn tô bánh canh giò heo cho ấm bụng, sau một đêm nhậu quá cỡ với đồng môn. Đầu óc lại nghĩ tiếp những vui buồn ở cái xứ quê một cục này. Cô Chanh, thoạt tiên kỳ thủy là người dễ nhìn - trắng da dài tóc. Mười tám tuổi, tốt nghiệp lớp chín. Cô Chanh về thành phố học hai năm để làm Y tá. Công thành danh toại, cô về lại địa phương làm việc trong Trạm xá. Duyên tiền định đến một ngày nắng tốt không mưa. Thầy Thạnh đau bụng quá nên bên giáo viên đưa qua cho cô Chanh "mần dziệc". Cô Chanh chẩn đoán thầy Thạnh đau ruột thừa, phải đưa về thành phố mổ gấp. Nếu không bể ruột sẽ dẫn đến nhiễm trùng khoang bụng thì hết thuốc chữa. Tình hình khẩn cấp, không đợi được tàu đò nên ông Sáu Chín là Bí thư xã ra lệnh cho ghe Ủy ban đưa thầy Thạnh về Sài Gòn, gấp. Ông Sáu Chín ngoài tật ham gái như cái tên kháng chiến của ông thì ông cũng tử tế, nhất là với bên thầy cô giáo. Đỉnh cao trí tuệ của ông là nhận định tình hình địa phương: "Tui thích nhìn con gái chổng mông cấy lúa". Cái tên Sáu Chín do đồng chí chỉ huy trong chiến khu đặt cho ông là chí phải. Vì con số sáu với con số chín quyện vào nhau, lật xấp lật ngửa gì cũng là một cặp... đang "mần dziệc".
Cô Chanh theo ghe Ủy ban về thành phố để nâng khăn sửa gối cho thầy Thạnh. Cô chẩn đoán đúng về bệnh trạng của thầy. Thầy phải mổ và bác sĩ thành phố còn cho biết là may mắn. Chỗ ruột thừa vừa bể, phải cắt một đoạn ruột nhưng không nguy hiểm đến tính mạng. Thầy chỉ phải mang cái tên thân mật: Thầy Thạnh-đứt ruột.
Cô Chanh ở lại thành phố chăm sóc cho thầy Thạnh đến ngày xuất viện. Chuyện này hoàn toàn tự ý chứ không phải nhiệm vụ được giao. Sau đó thấy gia đình thầy Thạnh 'neo đơn' nên cô về nhà thầy Thạnh chăm sóc tiếp cho đến khi thầy thật khỏe. Cả hơn tháng sau thầy Thạnh mới trở lại nhiệm sở. Cô Chanh đưa thầy Thạnh về nhà mình chăm sóc vì sợ thức ăn bên nhà ăn Liên cơ (nhiều cơ quan hợp lại gọi là liên cơ), ngoài quán xá thiếu vệ sinh trong khi ruột thầy thì cô Chanh rành hơn ai hết!
Thầy Thạnh tốt số nên lại sức mau chóng, ơn chăm sóc nên thầy sóc lại cô Chanh rất chăm để trả ơn em gái miền quê... Đâu năm sau, nhà tụi nó có tiếng con nít khóc, oe... oe... Mở hàng cho một loạt thầy giáo hát bài: ... đến đây thì ở lại đây, hổng chừng đứt ruột lại hay hơn dzìa...!
Để đáp ứng cho đòi hỏi của dân thành phố xuống công tác: Quán xá phải có vệ sinh một chút. Thầy Thạnh - cô Chanh nhận chỉ thị của anh Hiệu trưởng, mở quán bán bánh canh giò heo buổi sáng. Đại khái là rửa tô bằng nước ngọt, có xà bông. Từ đó bánh canh bên quán bà Sáu Mú bị ế, vì dơ quá. Một hôm thầy Hiển ra quán muộn, quán cô Chanh hết bánh canh. Cô xin lỗi và nói thầy Hiển ăn đỡ bánh canh bên quán bà Sáu Mú (đối diện quán cô Chanh).
Không ăn thì thôi, khơi khơi thầy Hiển nói: "Ăn đây quen rồi. Giò cô Chanh không có lông. Giò bà Sáu Mú lông không hà". Đám thầy giáo cười bò lăn... thầy Hiển mới biết mình đắc tội với thầy Thạnh. Phải đãi rượu anh em coi như làm chứng cho thầy xin lỗi thầy Thạnh. Nhưng giò cô Chanh không có lông thì nổi tiếng giang hồ miệt ruộng.
Tôi xuống đến quán cô Chanh. Thấy thầy Hiệu trưởng ngồi thù lù trong góc quán. Gãi đầu, bứt tai. Tôi hỏi.
- Chuyện gì rầu vậy sư huynh?"
- Thằng Thạnh nó cứ lo... sóc con Chanh mẹ, chăm con Chanh con. Không lo nấu bánh canh gì hết. Giờ này chưa có gì ăn, đói chết mồ tổ...
- Chuyện nhà người ta mà sư huynh...
- Tối qua, tao ngủ đây chứ đâu. Mưa quá, làm biếng về trường. Cái thằng Thạnh bỏ bạn, nhậu chưa tới đâu là đi ngủ sớm để sáng dậy sớm nấu bánh canh. Nó hầm giò thâu đêm mà quên nhóm lửa... nên giờ này mới chưa có ăn. Dạy thì dở - dzợ thì hay. Sang năm, tao cho nó dạy môn... Kỹ thuật hầm giò, được hôn?
Tôi chỉ biết cười với anh Hiệu trưởng rất tiếu lâm, thầy Thạnh lu bu trong nhà nào con, nào việc tù lu. Thấy cảnh vợ con sao mà ngán quá! Nhưng hắn vui vẻ hơn xưa, từ ngày lấy vợ hắn hiền ra và thương bạn bè hơn. Hắn ưa giành vợ cái khoản tính tiền bàn bạn bè vì có nhiêu đưa nhiêu. Hắn bỏ luôn vào tủ - không đếm.
Thầy Thạnh nói với tôi: "Ê... cu. Tối qua có người khóc thấy thương: "Chết cha tao rồi. Dzợ tao có bầu nữa rồi Thạnh ơi!"
Tôi chỉ nhìn thầy Hiệu trưởng mà thương hại sư huynh. Cứ vì đàn em thân yêu mà bỏ vợ con ở Sài Gòn. Thỉnh thoảng mới về nhà, làm sao tránh khỏi những tai nạn giao thông trên giường chiếu không đèn.
Ăn xong, tôi đi tiếp cho đến hết con đường là nhà đứa học trò biết may, lại có máy may trong nhà, mới là giàu thứ thiệt ở miệt quê. Tôi nhờ nó vá đầu gối quần jeans. Sẵn rảnh thì đi lấy luôn. Đầu óc lại nghĩ bâng quơ. Chợt nhớ ra hai ba tháng trước. Bất chợt một chiều, thầy hiệu trưởng nhận được điện tín: "Anh ve gap! Ma benh nang..." Vậy là thầy bất kể gian nan. Về nhà ở Sài Gòn mới hay là bà già vợ đi chợ, lúc qua đường không cẩn thận nên bị xe tông. Bà già mất nhiều máu quá, nhưng bốn năm người con ruột thì khác nhóm máu nên không cho mẹ được. Gia đình lại không muốn mua máu ở Trung tâm tiếp huyết vì chắc chắn là toàn máu của dân xì ke, ma túy. Vợ thầy Hiệu trưởng mới có sáng kiến gọi thầy về trong hy vọng cùng nhóm máu với nhạc mẫu. Ai dè cùng thiệt. Vậy là thầy cho xả láng. Nhạc mẫu bình phục mau chóng và được về nhà. Vợ thầy cảm kích cái ơn cứu mạng má em. Ơn đền oán trả, phu thê trùng phùng. Nên nay mới có chuyện thầy ngồi than thở với thằng có vợ là thầy Thạnh: Chết cha tao rồi! Coi như đi đứt cái danh hiệu tiên tiến năm nay vì thầy Hiệu trưởng đã có hai đứa con. Không chừng còn phải làm kiểm điểm về tội "vượt chỉ tiêu"!
Đoạn sau của thầy Hiệu trưởng mới bi đát. Từ ngày bà già vợ ở bệnh viện về. Chiều nào không có cho cụ bà một xị rượu đế thì cụ bà dỗi, không ăn cơm. Ai cũng bảo là trong người cụ bà bây giờ toàn là máu thằng rể. Không có rượu đế thì làm sao sống? Thầy phải trả tiền rượu cho nhạc mẫu mười mấy năm. Cụ bà mới cưỡi hạc quy tiên. Tôi đọc sách cũng thường, chưa nghe ai nói về trường hợp kỳ lạ như vậy. Nhưng mắt thấy, tai nghe. Không biết! Có con sâu rượu trong máu người ta, thật không? Mấy chục năm sau mới có dịp diện kiến thầy lang Nguyễn Ý Đức, tôi trình thầy thắc mắc lâu năm. Thầy nói viết chi tiết cho thầy nghiên cứu! Nhưng chưa có hồi âm.
Wednesday, June 10, 2009
TIN TỨC BIỂN ĐÔNG
TIN SBTN
TIN BBC
Bảo vệ ngư dân ở Biển Đông
Nguyễn Hùng bbcvietnamese.com
Việt
Nam có lẽ từ lâu đã biết rằng chơi với các 'ông lớn' bao giờ cũng phức
tạp. Và ông lớn càng ở gần mọi chuyện có vẻ càng phức tạp hơn.
Mới
đây đại sứ Việt Nam ở Mỹ viết thư cho các dân biểu Hoa Kỳ để cá tra và
cá basa của Việt Nam có thể được vào thị trường Mỹ mà không chịu chế độ
kiểm tra ngặt nghèo. Nay Bộ Ngoại giao Việt Nam đề nghị đại sứ Trung Quốc để cho ngư dân Việt Nam được quyền đánh cá trong vùng biển 'của Việt Nam'.
Báo Mỹ, The New York Times, hồi đầu tháng này cũng nhắc tới tranh chấp trên 'Biển Nam Trung Hoa' và coi đây là điều nguy hiểm hơn cả vấn đề Bắc Triều Tiên ở vùng Đông Bắc Á.
Họ nhắc chuyện Việt Nam bỏ ra hơn hai tỷ đô la để mua sáu tàu ngầm và 12 máy bay chiến đấu SU-30 của một nước lớn khác là Nga, và bình luận:
''Điều này cho thấy bất chấp nhu cầu có quan hệ kinh tế tốt với Trung Quốc, Việt Nam không có ý định để mặc những tuyên bố chủ quyền trên biển của Trung Quốc''
Cơm áo gạo tiền
Nhưng đối với người dân Việt Nam, cái nhìn đơn giản hơn những quan điểm địa chính trị.
Nhiều ngư dân than phiền với truyền thông trong nước và nước ngoài rằng họ mất miếng cơm manh áo khi Trung Quốc cấm đánh cá vào đúng mùa cá.
Một số người nói họ vẫn ra biển bất chấp nguy cơ bị đuổi bắt hoặc xử phạt.
Một chủ tàu nói với báo Thanh Niên: ''...Ở nhà thì lấy gì mà trang trải cuộc sống! Chúng tôi vẫn phải ra biển, cũng phải đánh bắt thôi, tới đâu hay tới đó.''
Một nữ chủ tàu khác nói, vẫn với Thanh Niên: ''Mỗi chuyến ra biển của chúng tôi hiện nay chỉ mong đủ tiền mua gạo là may rồi...lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc khiến chúng tôi khó khăn thêm.''
Nói chuyện với BBC hôm 8/06, Cục trưởng Cục Khai thác và Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản của Việt Nam, ông Chu Tiến Vĩnh nói:
''Cục có đưa ra khuyến cáo với bà con ngư dân, thứ nhất là việc Trung Quốc tuyên bố như vậy là vi phạm chủ quyền của Việt Nam
''Thứ hai là vùng biển Việt Nam quản lý bà con ngư dân vẫn khai thác bình thường, không vấn đề gì.''
Ranh giới
Bất cứ người Việt Nam nào cũng biết cả, biết là quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam, quần đảo Trường Sa là của Việt Nam.
Chu Tiến Vĩnh, Cục trưởng Cục Khai thác và Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản
Cách gọi "bạn" của ông khi nhắc đến Trung Quốc phản ánh một sự thực nữa là quan hệ hai đảng cầm quyền vẫn là tình đồng chí.
Báo Việt Nam nói Trung Quốc cấm đánh cá từ ngày 16 tháng Năm tới ngày 1 tháng Tám tại vùng biển ''kéo dài từ 12 độ vĩ Bắc lên trên 20 độ vĩ Bắc, tức từ vùng biển Trường Sa, Hoàng sa của Việt Nam đến đảo Hải Nam của Trung Quốc''.
Khi được hỏi liệu các ngư dân có biết đâu là ranh giới giữa vùng biển của Việt Nam và Trung Quốc không, ông Vĩnh nói:
''Sao họ không biết được, từ xưa tới nay họ biết cả...chủ quyền Việt Nam bất cứ người Việt Nam nào cũng biết cả, biết là quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam, quần đảo Trường Sa là của Việt Nam.''
Nhưng ông Vĩnh thừa nhận cũng ''có thể vi phạm lẫn nhau'' ở đường phân định giáp ranh nhưng ông nói đây là "chuyện bình thường".
Việc quan chức nhà nước cố làm nhẹ đi chủ đề lãnh hải với Trung Quốc như khác với những gì dư luận trong và ngoài nước, kể cả một phần báo chí chính thức của Việt Nam sục sôi bàn thảo.
Vị cục trưởng cũng giải thích trong vùng biển Việt Nam có luồng hàng hải quốc tế và trong quá khứ đã có những lần tàu đánh cá Việt Nam bị tàu 'nước ngoài' đâm.
Ông nói Việt Nam khuyến cáo người dân báo cho các cơ quan chức năng biết đặc điểm nhận dạng của tàu nước ngoài trong trường hợp xảy ra sự cố để có thể tìm tung tích.
Lực bất tòng tâm?
Ngay từ khi Trung Quốc tuyên bố lệnh cấm cách đây hơn một tháng, Việt Nam đã lên tiếng phản đối.
Nhưng trong khi Bắc Kinh đưa những tàu lớn tới giám sát việc thực thi lệnh cấm trên cả vùng biển mà Việt Nam nói là thuộc chủ quyền của họ, Hà Nội không có vẻ có hành động đi kèm với những tuyên bố phản đối.
Cục trưởng Cục Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản Chu Tiến Vĩnh thừa nhận: ''Điều kiện của Việt Nam khó khăn hơn Trung Quốc cho nên lực lượng ra không thể tương đồng được''.
Các ngư dân cũng nói với báo trong nước ''dường như chúng tôi chỉ thấy tàu lạ của các nước canh chừng, chẳng may khi xảy ra sự cố gì đó, cần tàu cứu hộ của ta giúp, thì cũng tốn khá nhiều thời gian.''
Ngư dân Trần Anh Dũng nói với Thanh Niên: ''Cũng vì sự hiện diện quá hiếm hoi của lực lượng tuần tra, bảo vệ của Việt Nam nên đôi khi tàu nước ngoài có những hành động thái quá như sách nhiễu khi kiểm tra, đánh đập ngư dân,... thậm chí còn bắt người, thu giữ sản phẩm, phương tiện một cách trái phép.''
Vụ bị Trung Quốc cấm đánh cá đặt ra câu hỏi về mối liên hệ giữa quyền lợi của ngư dân và chủ quyền của Việt Nam với cách nhà nước nhìn nhận vị trí thực sự của mối quan hệ với Trung Quốc.
=
Tuesday, June 9, 2009
BBC * VÕ VĂN KIỆT
Một người 'thiệt tình'
Những gì diễn ra ngoài công việc chức trách của các lãnh tụ thường được công chúng biết tới qua kênh truyền khẩu và có tính giai thoại nhiều màu sắc, gia vị nhưng xa sự thật.
Khác với cách những nhân vật chính trị được soi mói ngóc ngách đời sống riêng ở chế độ dân chủ, công chúng không có gốc gác cộng sản dù quí ông Kiệt nhưng hầu như không thể biết nhiều về đời sống riêng của ông, trừ những dòng lý lịch trích ngang khô cứng in trên các tờ rơi bầu cử.
Và trong nhiều cánh cửa mở ra để có một xã hội dễ thở hơn, có cánh cửa mở về phía hình ảnh các vị phu nhân.
Chuyện ông là vị thủ tướng VN đầu tiên đưa phu nhân đi công du nước ngoài, một nghi thức ngoại giao quốc tế bình thường mà phải chờ đến quyết đoán xé rào của ông mới dần trở thành một lễ tiết quốc gia tự nhiên.
Cho tới lúc ông qua đời, người thường dân mới được biết quá khứ bi kịch gia đình của ông trong chiến tranh, biết tên người vợ đầu tiên, và số phận của những người con trong bối cảnh ác nghiệt của chiến tranh và khắc nghiệt riêng trong hoàn cảnh lãnh tụ của ông. Và những câu chuyện sự thật về đời riêng nhiều cảm xúc này phần lớn phát xuất từ các trang web, blog độc lập.
(Tấm hình này không ghi tên)
Hôm
chúng tôi có dịp đi viếng mộ Kinh Lược Sứ Phan Thanh Giản ở huyện Ba
Tri, tỉnh Bến Tre. Người cháu đời thứ 6 của vị hiền thần đã nói, nói
bằng giọng thì thầm: " Nhà thờ được tươm tất như hôm nay là nhờ cụ Võ
Văn Kiệt giúp. Tôi nhớ cụ Kiệt đứng lặng người rất lâu khi nhìn cảnh cũ
nát của nhà thờ."
Nếu khăng khăng cho rằng những cử chỉ chi tiết, những câu chuyện nhỏ của một lãnh đạo cộng sản chỉ nhằm làm tư liệu cho các phương tiện thông tin tuyên truyền cho thể chế, vậy thì đời sống thật của một người lãnh tụ ở đâu!
Khi một người bị bó trong nhiệm vụ và những qui chế chức trách, thì phải chăng bản thân họ và gia đình họ phải chôn những hành động và cảm xúc thật của mình vào phần u khuất.
Trường hợp cựu tổng thống Nam Hàn tự tử vì nhục nhã do tai tiếng tham nhũng, nhưng nhiều người cho rằng ông Roh-Moo-Hyun đã không bảo vệ được danh dự của mình và gia đình mới là lý do chính dẫn tới hành động huỷ hoại bản thân, để mai ra minh chứng cho đời sống cá nhân của một người không còn quyền lực.
Dù không thể có cái chết biểu tượng như cựu tổng thống Nam Hàn, dư luận Việt Nam vẫn hướng tới đòi hỏi phải minh bạch đời tư mỗi cá nhân nắm vận mệnh đất nước để tránh cực đoan trong phán xét và ca ngợi.
Chuyện ông vượt qua hàng rào lý lịch để lấy con gái một địa chủ cũng được xem là có gốc "cưới" kinh tế thị trường. Chuyện sinh thời ông có nguyện vọng tro cốt mình về vĩnh hằng với mối tình lớn ở khúc sông nơi chiếc phà bị đánh bom. Chuyện không muốn lấy tên mình đặt tên đường, hoặc đời thường hết mức là muốn ly dị với người bạn đời chắp nối...
Được biết người thân của ông vẫn còn giữ lá đơn ly hôn nạp tòa đầu năm 2008. Người từng đứng đầu quốc gia, như mọi người đàn ông khác trong hoàn cảnh của ông, khẩn thiết đề nghị tòa "cho tôi ly hôn để tôi được thanh thản giành thời gian còn lại cho tâm nguyện làm được những gì có ích cho dân cho nước".
Những câu chuyện về ông nho nhỏ như vậy được kể nhiều trong giới bình dân.
Một người Sài Gòn kém ông chừng chục tuổi nói. " Tôi chịu cách nói của ông Kiệt về chuyện kỷ niệm ngày 30/4: Có hàng triệu người vui thì cũng có hàng triệu người buồn. Nhiều người ngờ lãnh tụ làm cái gì cũng có ý chính trị. Tới khi tôi biết thêm nhiều chuyện về đời thường của ông tôi mới thấy ông thiệt tình."
Nếu lịch sử chế độ không mở cửa cho phần thật nhất-đời thật- các nhân vật của chế độ, thì không thể có ánh sáng tôn vinh cũng như cứu chuộc phần khuyết và phần bồi của mỗi sự nghiệp cá nhân.
Dù vận mệnh tương lai quốc gia trong tay người cộng sản hay chuyển sang thể chế dân chủ thì công chúng vẫn muốn có lãnh đạo với giá trị di sản cuối đời như tinh thần ông Võ Văn Kiệt đã tạo dựng. Những phẩm cách lớn chính từ chối chôn chặt sự nghiệp cá nhân trong tháp ngà giáo điều.
Không chỉ về đời tư, nhiều người tin vào cuối đời ông Kiệt cô đơn bởi chủ kiến ý thức cùng tầm nhìn đột phá về vận mệnh quốc gia. Và sự cô đơn đó của ông cũng chính là nguồn cảm xúc mà công chúng luôn chia sẻ.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2009/06/090607_vvk_doithuong.shtml
Ông Trần Tiến Dũng cho rằng dân chúng không thể biết nhiều về đời sống riêng của ông, trừ những dòng lý lịch trích ngang khô cứng in trên các tờ rơi bầu cử.. . Cho tới khi ông qua đời, người ta mới biết về quá khứ bi kịch gia đình của ông. . .
Trái lại, trước đây người ta biết khá nhiều về bi kịch gia đình ông. Con người trong cõi đời là khổ, không ai hoàn toàn tốt và hoàn toàn hạnh phúc. Riêng các ông cộng sản mặc dầu bây giờ tiền bạc đầy túi, sống đời vinh hoa phú quý gấp trăm lần thời quân chủ và tư bản, nhưng đa số đều ở trong một bi kịch chung: chồng sa đọa, vơ hoang tàng, con phá tán.. .
Dư luận đồn rằng bà sau của Võ Văn Kiệt do Tố Hữu mai mối. Tại sao Tố Hữu không kiếm một đồng chí công nông, nữ đảng viên mà lại mai mối một người phụ nữ nhà giàu, trẻ đẹp? Té ra ông Tố Hữu nhìn thấu trái tim người chớ không giáo điều như ta tưởng! Ta đứng vào hàng ngũ vô sản, kêu gọi đấu tranh và hy sinh cho vô sản để ta lên trung ương, bộ chính trị. ..nhưng trái tim ta khao khát gái đẹp, vàng, đô la, địa vị cao. . .Thời xưa, con người chân thật, nói thẳng mộng ước của mình qua những thành ngữ như" tam đa, ", ngũ phúc", còn cộng sản thì đạo đức cách mạng! Hy Sinh! Lý tưởng cao cả! Quên quyền lợi cá nhân để phục vụ cho tập thể!Than ôi!Nói và làm khác nhau!
Tại sao đảng cộng sản không chấp thuận? Tại sao ông Kiệt làm ngang mà không bị trục xuất ra khỏi đảng như Trần Dần và một số người khác? Tại sao Tố Hữu lại làm mai? Phải chăng ông khôn ngoan muốn dựa vai ông thủ tướng? Dân Bắc Kỳ đã cho rằng Tố Hữu là một tên đại gian manh là đúng:
"Tên Lành mà dạ chẳng lành"
Tin đồn không biết đúng hay sai mà loan truyền rằng ai đi cổng sau xin yết kiến thủ tướng phu nhân phong bì phải vài ngàn hay vài chục ngàn đô. Và có kẻ đã dám loan truyền câu đối :
"Cái cô Cầm cần , cụ Kiệt không có. Cái cụ Kiệt có, cô Cầm không cần!"
Chúng tôi không quan tâm đến việc nhà của người khác, nhưng trong vấn đề tư tưởng và văn hóa lại là một vấn đề quan trọng.Ngày xưa, Marx chửi bọn tư bản là ăn chơi trác táng, thay chồng đổi vợ . . . Marx viết trong Tuyên Ngôn đảng cộng sản như sau:
Các ngài tư sản của chúng ta chưa thoả mãn là đã sẵn có vợ và con gái của vô sản để dùng, đó là chưa kể chế độ mãi dâm công khai, các ngài ấy còn lấy việc cắm sừng lẫn nhau làm một thú vui đặc biệt.
Trước đây, tại Việt Nam, người ta đã kết án Tự Lưc Văn Đoàn, Quang Dũng, Hữu Loan lãng mạn, và sỉ nhục trí thức bằng danh từ Tiểu tư sản, đồi trụy, hủ hóa. . .nhưng nay thì rõ ràng là chế độ cộng sản lại phản quốc, hại dân và sa đọa hơn quân chủ và tư bản.
Ngoài ra, cái chết của Võ Văn Kiệt là một bí ẩn? Ai đầu độc Võ Văn Kiệt? Trước đây đã có tin ông bị ám sát hụt! Ôi, đồng chí với nhau mà thế đấy!
==
Trần Tiến Dũng
Viết cho BBCVietnamese.com từ Sài Gòn
Những
năm đầu sau 1975, trong lớp lãnh tụ cộng sản của chế độ hiện ra từ
chiến tranh, ông Võ văn Kiệt là người có sức hút công chúng mạnh.
Hình
ảnh của ông gắn liền với những cuộc vận động quần chúng lớn ở Sài Gòn.
Khi nhớ lại, ngày nay nhiều người vẫn còn nói: Ông Kiệt nói hay, nói có
cảm tình! Đời riêng và dư luận
Theo thông lệ, những nhân vật ở hàng lãnh tụ cộng sản của Việt nam đều có đời sống riêng rất kín đáo. Dư luận biết rất ít thông tin đời riêng của họ, và theo thời gian mặc nhiên phải hiểu đó là cách bảo mật đặc trưng.Những gì diễn ra ngoài công việc chức trách của các lãnh tụ thường được công chúng biết tới qua kênh truyền khẩu và có tính giai thoại nhiều màu sắc, gia vị nhưng xa sự thật.
Khác với cách những nhân vật chính trị được soi mói ngóc ngách đời sống riêng ở chế độ dân chủ, công chúng không có gốc gác cộng sản dù quí ông Kiệt nhưng hầu như không thể biết nhiều về đời sống riêng của ông, trừ những dòng lý lịch trích ngang khô cứng in trên các tờ rơi bầu cử.
Và trong nhiều cánh cửa mở ra để có một xã hội dễ thở hơn, có cánh cửa mở về phía hình ảnh các vị phu nhân.
Chuyện ông là vị thủ tướng VN đầu tiên đưa phu nhân đi công du nước ngoài, một nghi thức ngoại giao quốc tế bình thường mà phải chờ đến quyết đoán xé rào của ông mới dần trở thành một lễ tiết quốc gia tự nhiên.
Cho tới lúc ông qua đời, người thường dân mới được biết quá khứ bi kịch gia đình của ông trong chiến tranh, biết tên người vợ đầu tiên, và số phận của những người con trong bối cảnh ác nghiệt của chiến tranh và khắc nghiệt riêng trong hoàn cảnh lãnh tụ của ông. Và những câu chuyện sự thật về đời riêng nhiều cảm xúc này phần lớn phát xuất từ các trang web, blog độc lập.
(Tấm hình này không ghi tên)
Nếu khăng khăng cho rằng những cử chỉ chi tiết, những câu chuyện nhỏ của một lãnh đạo cộng sản chỉ nhằm làm tư liệu cho các phương tiện thông tin tuyên truyền cho thể chế, vậy thì đời sống thật của một người lãnh tụ ở đâu!
Khi một người bị bó trong nhiệm vụ và những qui chế chức trách, thì phải chăng bản thân họ và gia đình họ phải chôn những hành động và cảm xúc thật của mình vào phần u khuất.
Trường hợp cựu tổng thống Nam Hàn tự tử vì nhục nhã do tai tiếng tham nhũng, nhưng nhiều người cho rằng ông Roh-Moo-Hyun đã không bảo vệ được danh dự của mình và gia đình mới là lý do chính dẫn tới hành động huỷ hoại bản thân, để mai ra minh chứng cho đời sống cá nhân của một người không còn quyền lực.
Dù không thể có cái chết biểu tượng như cựu tổng thống Nam Hàn, dư luận Việt Nam vẫn hướng tới đòi hỏi phải minh bạch đời tư mỗi cá nhân nắm vận mệnh đất nước để tránh cực đoan trong phán xét và ca ngợi.
"Thấy ông là người thiệt tình"
Trong ngày giỗ đầu của ông Võ Văn Kiệt, với đa số người Việt Nam, ngày này đơn giản chỉ là dịp ôn lại những gì đáng nhớ chớ không phải đo lường cơ nghiệp.Chuyện ông vượt qua hàng rào lý lịch để lấy con gái một địa chủ cũng được xem là có gốc "cưới" kinh tế thị trường. Chuyện sinh thời ông có nguyện vọng tro cốt mình về vĩnh hằng với mối tình lớn ở khúc sông nơi chiếc phà bị đánh bom. Chuyện không muốn lấy tên mình đặt tên đường, hoặc đời thường hết mức là muốn ly dị với người bạn đời chắp nối...
Được biết người thân của ông vẫn còn giữ lá đơn ly hôn nạp tòa đầu năm 2008. Người từng đứng đầu quốc gia, như mọi người đàn ông khác trong hoàn cảnh của ông, khẩn thiết đề nghị tòa "cho tôi ly hôn để tôi được thanh thản giành thời gian còn lại cho tâm nguyện làm được những gì có ích cho dân cho nước".
Cho tôi... được thanh thản giành thời gian còn lại cho tâm nguyện làm được những gì có ích cho dân cho nước.
Võ Văn Kiệt
Một người Sài Gòn kém ông chừng chục tuổi nói. " Tôi chịu cách nói của ông Kiệt về chuyện kỷ niệm ngày 30/4: Có hàng triệu người vui thì cũng có hàng triệu người buồn. Nhiều người ngờ lãnh tụ làm cái gì cũng có ý chính trị. Tới khi tôi biết thêm nhiều chuyện về đời thường của ông tôi mới thấy ông thiệt tình."
Nếu lịch sử chế độ không mở cửa cho phần thật nhất-đời thật- các nhân vật của chế độ, thì không thể có ánh sáng tôn vinh cũng như cứu chuộc phần khuyết và phần bồi của mỗi sự nghiệp cá nhân.
Dù vận mệnh tương lai quốc gia trong tay người cộng sản hay chuyển sang thể chế dân chủ thì công chúng vẫn muốn có lãnh đạo với giá trị di sản cuối đời như tinh thần ông Võ Văn Kiệt đã tạo dựng. Những phẩm cách lớn chính từ chối chôn chặt sự nghiệp cá nhân trong tháp ngà giáo điều.
Không chỉ về đời tư, nhiều người tin vào cuối đời ông Kiệt cô đơn bởi chủ kiến ý thức cùng tầm nhìn đột phá về vận mệnh quốc gia. Và sự cô đơn đó của ông cũng chính là nguồn cảm xúc mà công chúng luôn chia sẻ.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2009/06/090607_vvk_doithuong.shtml
BÌNH LUẬN CỦA VẠN MỘC CƯ SĨ
Trong số các ông cộng sản đầu nậu, Võ Văn Kiệt có lẽ hiền lành hơn cả và có chút giác ngộ muộn màng mặc dầu ông cũng theo các đồng chí ông sát hại, bỏ tù làm khổ nhân dân miền Nam .Ông
là đảng viên tại sao yêu con nhà địa chủ, tư sản ? Sự thực thì Lê Duẩn,
Lê Đức Thọ, Trần Văn Trà. . . ai cũng yêu công nông nhưng thê thiếp lại
là gái đẹp con nhà giàu! Ôi! Đừng nghe những gì các Ổng nói! Vàng, đô
la, gái thì ai cũng thích trời ạ!
Nhưng
buồn cười nhất là sao lúc 86 tuổi, trước khi mất vài tháng lại bỏ vợ?
Phải chăng ông nộp đơn từ lâu mà không được đảnbg cộng sản chấp nhận? Mà
bỏ thì bỏ, 86 tuổi về hưu rồi thì còn làm gì cho dân, cho nước mà ông
lại nói: "Cho tôi... được thanh thản giành thời gian còn lại cho tâm nguyện làm được những gì có ích cho dân cho nước!
Sáo
quá! CẢi lương quá! Ông đã làm gì ích lợi cho nhân dân Việt Nam? Đúng
là miệng lưỡi cộng sản lúc nào cũng bô bô vì nước vì dân! Bỏ vợ mà cũng
viện cớ vì nước vì dân!
Tội nghiệp ông, số hôn nhân trắc trở. Lấy vợ và bỏ vợ đều phải xin đảng! Thủ tướng mà khổ thế đấy!Ông Trần Tiến Dũng cho rằng dân chúng không thể biết nhiều về đời sống riêng của ông, trừ những dòng lý lịch trích ngang khô cứng in trên các tờ rơi bầu cử.. . Cho tới khi ông qua đời, người ta mới biết về quá khứ bi kịch gia đình của ông. . .
Trái lại, trước đây người ta biết khá nhiều về bi kịch gia đình ông. Con người trong cõi đời là khổ, không ai hoàn toàn tốt và hoàn toàn hạnh phúc. Riêng các ông cộng sản mặc dầu bây giờ tiền bạc đầy túi, sống đời vinh hoa phú quý gấp trăm lần thời quân chủ và tư bản, nhưng đa số đều ở trong một bi kịch chung: chồng sa đọa, vơ hoang tàng, con phá tán.. .
Dư luận đồn rằng bà sau của Võ Văn Kiệt do Tố Hữu mai mối. Tại sao Tố Hữu không kiếm một đồng chí công nông, nữ đảng viên mà lại mai mối một người phụ nữ nhà giàu, trẻ đẹp? Té ra ông Tố Hữu nhìn thấu trái tim người chớ không giáo điều như ta tưởng! Ta đứng vào hàng ngũ vô sản, kêu gọi đấu tranh và hy sinh cho vô sản để ta lên trung ương, bộ chính trị. ..nhưng trái tim ta khao khát gái đẹp, vàng, đô la, địa vị cao. . .Thời xưa, con người chân thật, nói thẳng mộng ước của mình qua những thành ngữ như" tam đa, ", ngũ phúc", còn cộng sản thì đạo đức cách mạng! Hy Sinh! Lý tưởng cao cả! Quên quyền lợi cá nhân để phục vụ cho tập thể!Than ôi!Nói và làm khác nhau!
Tại sao đảng cộng sản không chấp thuận? Tại sao ông Kiệt làm ngang mà không bị trục xuất ra khỏi đảng như Trần Dần và một số người khác? Tại sao Tố Hữu lại làm mai? Phải chăng ông khôn ngoan muốn dựa vai ông thủ tướng? Dân Bắc Kỳ đã cho rằng Tố Hữu là một tên đại gian manh là đúng:
"Tên Lành mà dạ chẳng lành"
Tin đồn không biết đúng hay sai mà loan truyền rằng ai đi cổng sau xin yết kiến thủ tướng phu nhân phong bì phải vài ngàn hay vài chục ngàn đô. Và có kẻ đã dám loan truyền câu đối :
"Cái cô Cầm cần , cụ Kiệt không có. Cái cụ Kiệt có, cô Cầm không cần!"
Chúng tôi không quan tâm đến việc nhà của người khác, nhưng trong vấn đề tư tưởng và văn hóa lại là một vấn đề quan trọng.Ngày xưa, Marx chửi bọn tư bản là ăn chơi trác táng, thay chồng đổi vợ . . . Marx viết trong Tuyên Ngôn đảng cộng sản như sau:
Các ngài tư sản của chúng ta chưa thoả mãn là đã sẵn có vợ và con gái của vô sản để dùng, đó là chưa kể chế độ mãi dâm công khai, các ngài ấy còn lấy việc cắm sừng lẫn nhau làm một thú vui đặc biệt.
Trước đây, tại Việt Nam, người ta đã kết án Tự Lưc Văn Đoàn, Quang Dũng, Hữu Loan lãng mạn, và sỉ nhục trí thức bằng danh từ Tiểu tư sản, đồi trụy, hủ hóa. . .nhưng nay thì rõ ràng là chế độ cộng sản lại phản quốc, hại dân và sa đọa hơn quân chủ và tư bản.
Ngoài ra, cái chết của Võ Văn Kiệt là một bí ẩn? Ai đầu độc Võ Văn Kiệt? Trước đây đã có tin ông bị ám sát hụt! Ôi, đồng chí với nhau mà thế đấy!
==
TRẦN BÌNH NAM * CHÍNH LUẬN
DIỄN VĂN TỔNG THỐNG OBAMA ĐỌC TẠI AI CẬP
Dù muốn dù không, chuyến du hành của tổng thống Obama đến Saudi Arabia và bài diễn văn ông đọc tại đại học Cairo, Ai Cập ngày 4/6/2009 là một điểm mốc quan trọng trong quan hệ giữa thế giới Tây phương và thế giới Hồi giáo.
Không một tổng thống Hoa Kỳ nào trước tổng thống Obama có tư thế để hành động như vậy. Trong thời gian tranh cử, tổng thống Obama xác định một chính sách hòa giải dứt khoát với thế giới Hồi giáo và đường lối đó đã được dân chúng Hoa Kỳ cũng như nhân dân các nước đồng minh Âu châu nhiệt liệt ủng hộ, và nhờ đó đã đưa ông, người Mỹ da đen gốc Phi châu đầu tiên vào tòa Bạch Ốc.
Trong bài diễn văn tổng thống Obama không ngại ngùng nói đến vấn đề đen trắng như một cái gương dân chủ của Hoa Kỳ để làm bàn đạp cho tư tưởng hòa giải của ông. Ông nói “Sự việc một người da đen gốc Phi châu có cái tên lạ tai là Barack Hussein Obama có thể đắc cử tổng thống Hoa Kỳ đã nói lên tất cả” (Trích diễn văn:
Now, much has been made of the fact that an African American with the name Barack Hussein Obama could be elected President (1) Đó là lý do các nước Hồi giáo đã chờ đợi bài diễn văn của tổng thống Obama một cách khác thường, nghi ngờ lẫn hy vọng, trong khi các nước đồng minh Tây phương và thế giới nói chung chờ đợi nó một cách vừa hy vọng vừa lo âu.
Bài diễn văn của tổng thống Obama nêu ra bảy vấn đề trong quan hệ giữa thế giới nói chung và Hoa kỳ nói riêng với thế giới Hồi giáo.
Trước hết là vấn đề khủng bố khởi đầu với vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 mà kết quả là cuộc chiến Iraq và Afghanistan (và đang lan qua Pakistan) hiện nay và ông đang giải quyết trong tinh thần giải kết.
Tổng thống Obama xác định sau vụ 911 Hoa Kỳ không có lựa chọn nào khác hơn là tấn công Afghanistan lật đổ chế độ Taliban tại đó vì đã dung dưỡng quân khủng bố giết gần 3000 người Mỹ, nhưng với Iraq Hoa Kỳ có sự chọn lựa và đã chọn chiến tranh. Nhưng Hoa Kỳ đã có chương trình giải kết khỏi cuộc chiến này. Hoa Kỳ sẽ rút hết quân ra khỏi các thành phố của Iraq vào tháng 7 năm nay và rút toàn bộ quân đội Hoa Kỳ chậm lắm là vào năm 2012.
Tại Afghanistan (và Pakistan) tổng thống Obama xác định Hoa Kỳ không có ý định duy trì căn cứ quân sự vĩnh viễn tại đó và rằng sức mạnh quân sự sẽ không giải quyết vấn đề (nên Hoa Kỳ không đi tìm một chiến thắng quân sự) mà tìm giải pháp qua đường lối giúp phát triển kinh tế. Hoa Kỳ sẽ đầu tư tại Pakistan mỗi năm 1.5 tỉ mỹ kim trong 5 năm tới để xây trường học, đường sá, bệnh viện … và viện trợ kinh tế cho Afghanistan 2.8 tỉ mỹ kim.
Vấn đề thứ hai là sự căng thẳng tiềm tàng do cuộc chiến tranh Do thái – Palestine. Tổng thống Obama nói vấn đề Do thái – Palestine chỉ có thể giải quyết qua công thức hai quốc gia công nhận nhau và cùng tồn tại bên cạnh nhau. Và điều này phục vụ quyền lợi của Do thái, quyền lợi của Palestine, của Hoa Kỳ và của thế giới nói chung. (Trích diễn văn: The only resolution is for the aspirations of both sides to be met through two states, where Israelis and Palestinians each live in peace and security. That is in Israel’s interest, Palestine’s interest, America’s interest, and the world’s interest…) Tuy nhiên tổng thống Obama không có giải pháp hành động nào hơn là hứa sẽ kiên nhẫn và khéo léo để thực hiện (Trích diễn văn: And that is why I intend to personally pursue this outcome with all the patience and dedication that the task requires.) Lĩnh vực thứ ba là vấn đề nguyên tử của Iran mà tổng thống nói một cách văn hoa là vấn đề san sẻ trách nhiệm về quyền sở đắc vũ khí nguyên tử (Trích diễn văn: The third source of tension is our shared interest in the rights and responsibilities of nations on nuclear weapons.) Tổng thống Obama can đảm và thẳng thắn nhìn nhận rằng mối xung khắc giữa hai nước khởi đầu với việc Hoa Kỳ lật đổ chính phủ dân cử của Iran trong thời gian còn cuộc chiến tranh lạnh. Sau đó là cuộc cách mạng Hồi giáo của giáo chủ Komeini, và Iran bắt giữ toàn bộ nhân sự của tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Teheran làm con tin (Trích diễn văn: In the middle of the Cold War, the United States played a role in the overthrow of a democratically elected Iranian government. Since the
Islamic Revolution, Iran has played a role in acts of hostagetaking and violence against U.S. troops and
civilians.)
Tuy nhiên vấn đề chính trước mắt là vấn đề Iran định tâm chế tạo vũ
khí nguyên tử. Ông khéo léo nói rằng Hoa Kỳ quan tâm không phải vì quyền
lợi của Hoa Kỳ mà vì Hoa Kỳ lo ngại nếu Iran có vũ khí nguyên tử sẽ tạo
ra một cuộc chạy đua vũ trang tại Trung đông đe dọa hòa bình trong vùng
và thế giới (Trích diễn văn: But it is clear to all concerned that when
it comes to nuclear weapons, we have reached a decisive point. This is
not simply about America’s interests. It’s about preventing a nuclear
arms race in the Middle East that could lead this region and the world
down a hugely dangerous path.) administration of justice; government that is transparent and doesn’t steal from the people; the freedom to live as you choose. These are not just American ideas; they are human rights. ) Tổng thống Obama nói có một số người chỉ nói đến dân chủ khi đã rời khỏi quyền lực, còn khi đang nắm quyền lực trong tay thì làm mọi cách cấm cản quyền tự do của người khác. Người cầm quyền phải hiểu rằng sự cầm quyền của họ chỉ có giá trị khi họ duy trì nó qua đồng thuận chứ không phải qua mánh mung chính trị, và khi cầm quyền cần đặt quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi của đảng phái. Thiếu những yếu tính đó, thì dù có bầu cử vẫn không có dân chủ. (Trích diễn văn: … there are some who advocate for democracy only when they’re out of power; once in power, they are ruthless in suppressing the rights of others. So no matter where it takes hold, government of the people and by the people sets a single standard for all who would hold power: You must maintain your power through consent, not coercion; you must respect the rights of minorities, and participate with a spirit of tolerance and compromise; you must place the interests of your people and the legitimate workings of the political process above your party. Without these ingredients, elections alone do not make true democracy.) Điểm thứ năm tổng thống Obama bàn đến là sự xung khắc tôn giáo. Ông chủ trương tôn giáo đồng hành, giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, giữa những nhánh khác biệt trong cùng một tôn giáo (thí dụ giữa Tin Lành và Thiên chúa giáo, giữa Sunni và Shia). Ông ghi nhận sự bất thường sinh ra xung khắc khi Hồi giáo cho ai khác tôn giáo mình là tà, và một số nước Âu châu cũng quá khích khi thông qua luật không cho người phụ nữ Hồi giáo mặc áo che kín cả mặt mày thân thể, và ông cũng chỉ trích luật làm khó khăn cho các cơ sở Hồi giáo gây quỹ để bành trướng tôn giáo mình tại Hoa Kỳ.(Trích diễn văn: Among some Muslims, there’s a disturbing tendency to measure one’s own faith by the rejection of somebody else’s faith. The richness of religious diversity must be upheld – whether it is for Maronites in Lebanon or the Copts in Egypt. And if we are being honest, fault lines must be closed among Muslims, as well, as the divisions between Sunni and Shia have led to tragic violence, particularly in Iraq. Freedom of religion is central to the ability of peoples to live together. We must always examine the ways in which we protect it. For instance, in the United States, rules on charitable giving have made it harder for Muslims to fulfill their religious obligation.) Điểm xung khắc thứ sáu là cách đối đãi với phụ nữ. Ông nói thật là phi lý khi một số người tại các nước Tây phương cho rằng phụ nữ trùm khăn che tóc là làm mất quyền bình đẳng của mình. Nhưng ông tin rằng nếu không cho người phụ nữ đi học thì quả là bất bình đẳng. Ông nhận xét rằng nước nào phụ nữ được học hành và làm việc như đàn ông nước đó tiến bộ hơn. (Trích diễn văn: The sixth issue that I want to address is women’s rights. I know and you can tell from this audience, that there is a healthy debate about this issue. I reject the view of some in the West that a woman who chooses to cover her hair is somehow less equal, but I do believe that a woman who is denied an education is denied equality. And it is no coincidence that countries where women are well educated are far more likely to be prosperous.) Sau cùng tổng thống Obama nêu triển vọng hợp tác giúp đỡ phát triển kinh tế và giáo dục với thế giới Hồi giáo. Về giáo dục ông đề nghị chương trình trao đổi sinh viên như chương trình phụ thân ông từng được hưởng. (Trích diễn văn: On education, we will expand exchange programs, and increase scholarships, like the one that brought my father to America.) Về kinh tế ông đề nghị thành lập một khối người tự nguyện đến các nước Hồi giáo kém mở mang để huấn luyện về quản lý kinh tế. Ông sẽ triệu tập trong năm 2009 này một hội nghị giữa các nhà kinh doanh Hoa Kỳ và Hồi giáo trên thế giới để trao đổi kinh nghiệm làm ăn. (Trích diễn văn: On economic development, we will create a new corps of business volunteers to partner with counterparts in Muslim-majority countries. And I will host a Summit on Entrepreneurship this year to identify how we can deepen ties between business leaders, foundations and social entrepreneurs in the United States and Muslim communities around the world.) Về khoa học kỹ thuật, Hoa Kỳ sẽ cung cấp ngân khoản thành lập các trung tâm trao đổi kỹ thuật tại Phi châu, Trung đông và Đông Nam Á để giúp các nước Hồi giáo phát triển năng lượng, tạo công ăn việc làm, lọc nước uống, tăng phúc lợi của mùa màng, diệt trừ bệnh tật, bảo toàn sức khỏe của người mẹ và trẻ sơ sinh . (Trích diễn văn: On science and technology, we will launch a new fund to support technological development in Muslim-majority countries, and to help transfer ideas to the marketplace so they can create more jobs. We’ll open centers of scientific excellence in Africa, the Middle East and Southeast Asia, and appoint new science envoys to collaborate on programs that develop new sources of energy, create green jobs, digitize records, clean water, grow new crops. Today I’m announcing a new global effort with the Organization of the Islamic Conference to eradicate polio. And we will also expand partnerships with Muslim communities to promote child and maternal health.) Qua bảy lĩnh vực trong quan hệ giữa Hoa Kỳ, thế giới Tây phương và thế giới Hồi giáo tổng thống Obama đã rất thẳng thắn đặt vấn đề xung khắc trước mắt mọi người và cũng không do dự nêu ra những sai lầm trong chính sách của Hoa Kỳ góp phần tạo nên sự căng thẳng hiện nay. Tuy nhiên những người quan tâm, đặc biệt tại các nước Hồi giáo, nếu đặt câu hỏi: “Tổng
Trần Bình Nam June 9, 2009 binhnam@sbcglobal.net www.tranbinhnam.com
(1) Xem nguyên văn bài diễn văn của tổng thống Barack Obama tại Ai Cập sau:
Cairo University, Cairo, Egypt
June 4, 2009
1:10 P.M. (Local)
Thank you very much. Good afternoon. I am honored to be in the timeless city of Cairo, and to be hosted by two remarkable institutions. For over a thousand years, Al-Azhar has stood as a beacon of Islamic learning; and for over a century, Cairo University has been a source of Egypt’s advancement. And together, you represent the harmony between tradition and progress. I’m grateful for your hospitality, and the hospitality of the people of Egypt. And I’m also proud to carry with me the goodwill of the American people, and a greeting of peace from Muslim communities in my country: Assalaamu alaykum. (Applause.)
We meet at a time of great tension between the United States and Muslims around the
world — tension rooted in historical forces that go beyond any current policy debate. The
relationship between Islam and the West includes centuries of coexistence and
cooperation, but also conflict and religious wars. More recently, tension has been fed by
colonialism that denied rights and opportunities to many Muslims, and a Cold War in
which Muslim-majority countries were too often treated as proxies without regard to their
own aspirations. Moreover, the sweeping change brought by modernity and globalization
led many Muslims to view the West as hostile to the traditions of Islam.
Violent extremists have exploited these tensions in a small but potent minority of
Muslims. The atổng thốngacks of September 11, 2001 and the continued efforts of these
extremists to engage in violence against civilians has led some in my country to view
Islam as inevitably hostile not only to America and Western countries, but also to human
rights. All this has bred more fear and more mistrust.
So long as our relationship is defined by our differences, we will empower those who
sow hatred rather than peace, those who promote conflict rather than the cooperation that
can help all of our people achieve justice and prosperity. And this cycle of suspicion and
discord must end.
I’ve come here to Cairo to seek a new beginning between the United States and Muslims
around the world, one based on mutual interest and mutual respect, and one based upon
the truth that America and Islam are not exclusive and need not be in competition.
Instead, they overlap, and share common principles — principles of justice and progress;
tolerance and the dignity of all human beings.
I do so recognizing that change cannot happen overnight. I know there’s been a lot of
publicity about this speech, but no single speech can eradicate years of mistrust, nor can I
answer in the time that I have this afternoon all the complex questions that brought us to
this point. But I am convinced that in order to move forward, we must say openly to each
other the things we hold in our hearts and that too often are said only behind closed
doors. There must be a sustained effort to listen to each other; to learn from each other;
to respect one another; and to seek common ground. As the Holy Koran tells us, “Be
conscious of God and speak always the truth.” (Applause.) That is what I will try to do
today — to speak the truth as best I can, humbled by the task before us, and firm in my
belief that the interests we share as human beings are far more powerful than the forces
that drive us apart.
Now part of this conviction is rooted in my own experience. I’m a Christian, but my
father came from a Kenyan family that includes generations of Muslims. As a boy, I
spent several years in Indonesia and heard the call of the azaan at the break of dawn and
at the fall of dusk. As a young man, I worked in Chicago communities where many
found dignity and peace in their Muslim faith.
As a student of history, I also know civilization’s debt to Islam. It was Islam — at places
like Al-Azhar — that carried the light of learning through so many centuries, paving the
way for Europe’s Renaissance and Enlightenment. It was innovation in Muslim
communities — (applause) — it was innovation in Muslim communities that developed the
order of algebra; our magnetic compass and tools of navigation; our mastery of pens and
printing; our understanding of how disease spreads and how it can be healed. Islamic
culture has given us majestic arches and soaring spires; timeless poetry and cherished
music; elegant calligraphy and places of peaceful contemplation. And throughout
history, Islam has demonstrated through words and deeds the possibilities of religious
tolerance and racial equality. (Applause.)
I also know that Islam has always been a part of America’s story. The first nation to
recognize my country was Morocco. In signing the Treaty of Tripoli in 1796, our second
President, John Adams, wrote, “The United States has in itself no character of enmity
against the laws, religion or tranquility of Muslims.” And since our founding, American
Muslims have enriched the United States. They have fought in our wars, they have
served in our government, they have stood for civil rights, they have started businesses,
they have taught at our universities, they’ve excelled in our sports arenas, they’ve won
Nobel Prizes, built our tallest building, and lit the Olympic Torch. And when the first
Muslim American was recently elected to Congress, he took the oath to defend our
Constitution using the same Holy Koran that one of our Founding Fathers — Thomas
Jefferson — kept in his personal library. (Applause.)
So I have known Islam on three continents before coming to the region where it was first
revealed. That experience guides my conviction that partnership between America and
Islam must be based on what Islam is, not what it isn’t. And I consider it part of my
responsibility as President of the United States to fight against negative stereotypes of
Islam wherever they appear. (Applause.)
But that same principle must apply to Muslim perceptions of America. (Applause.) Just
as Muslims do not fit a crude stereotype, America is not the crude stereotype of a selfinterested
empire. The United States has been one of the greatest sources of progress that
the world has ever known. We were born out of revolution against an empire. We were
founded upon the ideal that all are created equal, and we have shed blood and struggled
for centuries to give meaning to those words — within our borders, and around the world.
We are shaped by every culture, drawn from every end of the Earth, and dedicated to a
simple concept: E pluribus unum — “Out of many, one.”
Now, much has been made of the fact that an African American with the name Barack
Hussein Obama could be elected President. (Applause.) But my personal story is not so
unique. The dream of opportunity for all people has not come true for everyone in
America, but its promise exists for all who come to our shores — and that includes nearly
7 million American Muslims in our country today who, by the way, enjoy incomes and
educational levels that are higher than the American average. (Applause.)
Moreover, freedom in America is indivisible from the freedom to practice one’s religion.
That is why there is a mosque in every state in our union, and over 1,200 mosques within
our borders. That’s why the United States government has gone to court to protect the
right of women and girls to wear the hijab and to punish those who would deny it.
(Applause.)
So let there be no doubt: Islam is a part of America. And I believe that America holds
within her the truth that regardless of race, religion, or station in life, all of us share
common aspirations — to live in peace and security; to get an education and to work with
dignity; to love our families, our communities, and our God. These things we share.
This is the hope of all humanity.
Of course, recognizing our common humanity is only the beginning of our task. Words
alone cannot meet the needs of our people. These needs will be met only if we act boldly
in the years ahead; and if we understand that the challenges we face are shared, and our
failure to meet them will hurt us all.
For we have learned from recent experience that when a financial system weakens in one
country, prosperity is hurt everywhere. When a new flu infects one human being, all are
at risk. When one nation pursues a nuclear weapon, the risk of nuclear atổng thốngack rises for all
nations. When violent extremists operate in one stretch of mountains, people are
endangered across an ocean. When innocents in Bosnia and Darfur are slaughtered, that
is a stain on our collective conscience. (Applause.) That is what it means to share this
world in the 21st century. That is the responsibility we have to one another as human
beings.
And this is a difficult responsibility to embrace. For human history has often been a
record of nations and tribes — and, yes, religions — subjugating one another in pursuit of
their own interests. Yet in this new age, such atổng thốngitudes are self-defeating. Given our
interdependence, any world order that elevates one nation or group of people over
another will inevitably fail. So whatever we think of the past, we must not be prisoners
to it. Our problems must be dealt with through partnership; our progress must be shared.
(Applause.)
Now, that does not mean we should ignore sources of tension. Indeed, it suggests the
opposite: We must face these tensions squarely. And so in that spirit, let me speak as
clearly and as plainly as I can about some specific issues that I believe we must finally
confront together.
The first issue that we have to confront is violent extremism in all of its forms.
In Ankara, I made clear that America is not — and never will be — at war with Islam.
(Applause.) We will, however, relentlessly confront violent extremists who pose a grave
threat to our security — because we reject the same thing that people of all faiths reject:
the killing of innocent men, women, and children. And it is my first duty as President to
protect the American people.
The situation in Afghanistan demonstrates America’s goals, and our need to work
together. Over seven years ago, the United States pursued al Qaeda and the Taliban with
broad international support. We did not go by choice; we went because of necessity. I’m
aware that there’s still some who would question or even justify the events of 9/11. But
let us be clear: Al Qaeda killed nearly 3,000 people on that day. The victims were
innocent men, women and children from America and many other nations who had done
nothing to harm anybody. And yet al Qaeda chose to ruthlessly murder these people,
claimed credit for the atổng thốngack, and even now states their determination to kill on a massive
scale. They have affiliates in many countries and are trying to expand their reach. These
are not opinions to be debated; these are facts to be dealt with.
Now, make no mistake: We do not want to keep our troops in Afghanistan. We see no
military — we seek no military bases there. It is agonizing for America to lose our young
men and women. It is costly and politically difficult to continue this conflict. We would
gladly bring every single one of our troops home if we could be confident that there were
not violent extremists in Afghanistan and now Pakistan determined to kill as many
Americans as they possibly can. But that is not yet the case.
And that’s why we’re partnering with a coalition of 46 countries. And despite the costs
involved, America’s commitment will not weaken. Indeed, none of us should tolerate
these extremists. They have killed in many countries. They have killed people of
different faiths — but more than any other, they have killed Muslims. Their actions are
irreconcilable with the rights of human beings, the progress of nations, and with Islam.
The Holy Koran teaches that whoever kills an innocent is as — it is as if he has killed all
mankind. (Applause.) And the Holy Koran also says whoever saves a person, it is as if
he has saved all mankind. (Applause.) The enduring faith of over a billion people is so
much bigger than the narrow hatred of a few. Islam is not part of the problem in
combating violent extremism — it is an important part of promoting peace.
Now, we also know that military power alone is not going to solve the problems in
Afghanistan and Pakistan. That’s why we plan to invest $1.5 billion each year over the
next five years to partner with Pakistanis to build schools and hospitals, roads and
businesses, and hundreds of millions to help those who’ve been displaced. That’s why we
are providing more than $2.8 billion to help Afghans develop their economy and deliver
services that people depend on.
Let me also address the issue of Iraq. Unlike Afghanistan, Iraq was a war of choice that
provoked strong differences in my country and around the world. Although I believe that
the Iraqi people are ultimately betổng thốnger off without the tyranny of Saddam Hussein, I also
believe that events in Iraq have reminded America of the need to use diplomacy and build
international consensus to resolve our problems whenever possible. (Applause.) Indeed,
we can recall the words of Thomas Jefferson, who said: “I hope that our wisdom will
grow with our power, and teach us that the less we use our power the greater it will be.”
Today, America has a dual responsibility: to help Iraq forge a betổng thốnger future — and to
leave Iraq to Iraqis. And I have made it clear to the Iraqi people — (applause) — I have
made it clear to the Iraqi people that we pursue no bases, and no claim on their territory
or resources. Iraq’s sovereignty is its own. And that’s why I ordered the removal of our
combat brigades by next August. That is why we will honor our agreement with Iraq’s
democratically elected government to remove combat troops from Iraqi cities by July,
and to remove all of our troops from Iraq by 2012. (Applause.) We will help Iraq train
its security forces and develop its economy. But we will support a secure and united Iraq
as a partner, and never as a patron.
And finally, just as America can never tolerate violence by extremists, we must never
alter or forget our principles. Nine-eleven was an enormous trauma to our country. The
fear and anger that it provoked was understandable, but in some cases, it led us to act
contrary to our traditions and our ideals. We are taking concrete actions to change
course. I have unequivocally prohibited the use of torture by the United States, and I
have ordered the prison at Guantanamo Bay closed by early next year. (Applause.)
So America will defend itself, respectful of the sovereignty of nations and the rule of law.
And we will do so in partnership with Muslim communities which are also threatened.
The sooner the extremists are isolated and unwelcome in Muslim communities, the
sooner we will all be safer.
The second major source of tension that we need to discuss is the situation between
Israelis, Palestinians and the Arab world.
America’s strong bonds with Israel are well known. This bond is unbreakable. It is based
upon cultural and historical ties, and the recognition that the aspiration for a Jewish
homeland is rooted in a tragic history that cannot be denied.
Around the world, the Jewish people were persecuted for centuries, and anti-Semitism in
Europe culminated in an unprecedented Holocaust. Tomorrow, I will visit Buchenwald,
which was part of a network of camps where Jews were enslaved, tortured, shot and
gassed to death by the Third Reich. Six million Jews were killed — more than the entire
Jewish population of Israel today. Denying that fact is baseless, it is ignorant, and it is
hateful. Threatening Israel with destruction — or repeating vile stereotypes about Jews –
is deeply wrong, and only serves to evoke in the minds of Israelis this most painful of
memories while preventing the peace that the people of this region deserve.
On the other hand, it is also undeniable that the Palestinian people — Muslims and
Christians — have suffered in pursuit of a homeland. For more than 60 years they’ve
endured the pain of dislocation. Many wait in refugee camps in the West Bank, Gaza,
and neighboring lands for a life of peace and security that they have never been able to
lead. They endure the daily humiliations — large and small — that come with occupation.
So let there be no doubt: The situation for the Palestinian people is intolerable. And
America will not turn our backs on the legitimate Palestinian aspiration for dignity,
opportunity, and a state of their own. (Applause.)
For decades then, there has been a stalemate: two peoples with legitimate aspirations,
each with a painful history that makes compromise elusive. It’s easy to point fingers –
for Palestinians to point to the displacement brought about by Israel’s founding, and for
Israelis to point to the constant hostility and atổng thốngacks throughout its history from within its
borders as well as beyond. But if we see this conflict only from one side or the other,
then we will be blind to the truth: The only resolution is for the aspirations of both sides
to be met through two states, where Israelis and Palestinians each live in peace and
security. (Applause.)
That is in Israel’s interest, Palestine’s interest, America’s interest, and the world’s interest.
And that is why I intend to personally pursue this outcome with all the patience and
dedication that the task requires. (Applause.) The obligations — the obligations that the
parties have agreed to under the road map are clear. For peace to come, it is time for
them — and all of us — to live up to our responsibilities.
Palestinians must abandon violence. Resistance through violence and killing is wrong
and it does not succeed. For centuries, black people in America suffered the lash of the
whip as slaves and the humiliation of segregation. But it was not violence that won full
and equal rights. It was a peaceful and determined insistence upon the ideals at the center
of America’s founding. This same story can be told by people from South Africa to
South Asia; from Eastern Europe to Indonesia. It’s a story with a simple truth: that
violence is a dead end. It is a sign neither of courage nor power to shoot rockets at
sleeping children, or to blow up old women on a bus. That’s not how moral authority is
claimed; that’s how it is surrendered.
Now is the time for Palestinians to focus on what they can build. The Palestinian
Authority must develop its capacity to govern, with institutions that serve the needs of its
people. Hamas does have support among some Palestinians, but they also have to
recognize they have responsibilities. To play a role in fulfilling Palestinian aspirations, to
unify the Palestinian people, Hamas must put an end to violence, recognize past
agreements, recognize Israel’s right to exist.
At the same time, Israelis must acknowledge that just as Israel’s right to exist cannot be
denied, neither can Palestine’s. The United States does not accept the legitimacy of
continued Israeli setổng thốnglements. (Applause.) This construction violates previous
agreements and undermines efforts to achieve peace. It is time for these setổng thốnglements to
stop. (Applause.)
And Israel must also live up to its obligation to ensure that Palestinians can live and work
and develop their society. Just as it devastates Palestinian families, the continuing
humanitarian crisis in Gaza does not serve Israel’s security; neither does the continuing
lack of opportunity in the West Bank. Progress in the daily lives of the Palestinian people
must be a critical part of a road to peace, and Israel must take concrete steps to enable
such progress.
And finally, the Arab states must recognize that the Arab Peace Initiative was an
important beginning, but not the end of their responsibilities. The Arab-Israeli conflict
should no longer be used to distract the people of Arab nations from other problems.
Instead, it must be a cause for action to help the Palestinian people develop the
institutions that will sustain their state, to recognize Israel’s legitimacy, and to choose
progress over a self-defeating focus on the past.
America will align our policies with those who pursue peace, and we will say in public
what we say in private to Israelis and Palestinians and Arabs. (Applause.) We cannot
impose peace. But privately, many Muslims recognize that Israel will not go away.
Likewise, many Israelis recognize the need for a Palestinian state. It is time for us to act
on what everyone knows to be true.
Too many tears have been shed. Too much blood has been shed. All of us have a
responsibility to work for the day when the mothers of Israelis and Palestinians can see
their children grow up without fear; when the Holy Land of the three great faiths is the
place of peace that God intended it to be; when Jerusalem is a secure and lasting home
for Jews and Christians and Muslims, and a place for all of the children of Abraham to
mingle peacefully together as in the story of Isra — (applause) — as in the story of Isra,
when Moses, Jesus, and Mohammed, peace be upon them, joined in prayer. (Applause.)
The third source of tension is our shared interest in the rights and responsibilities of
nations on nuclear weapons.
This issue has been a source of tension between the United States and the Islamic
Republic of Iran. For many years, Iran has defined itself in part by its opposition to my
country, and there is in fact a tumultuous history between us. In the middle of the Cold
War, the United States played a role in the overthrow of a democratically elected Iranian
government. Since the Islamic Revolution, Iran has played a role in acts of hostagetaking
and violence against U.S. troops and civilians. This history is well known. Rather
than remain trapped in the past, I’ve made it clear to Iran’s leaders and people that my
country is prepared to move forward. The question now is not what Iran is against, but
rather what future it wants to build.
I recognize it will be hard to overcome decades of mistrust, but we will proceed with
courage, rectitude, and resolve. There will be many issues to discuss between our two
countries, and we are willing to move forward without preconditions on the basis of
mutual respect. But it is clear to all concerned that when it comes to nuclear weapons,
we have reached a decisive point. This is not simply about America’s interests. It’s about
preventing a nuclear arms race in the Middle East that could lead this region and the
world down a hugely dangerous path.
I understand those who protest that some countries have weapons that others do not. No
single nation should pick and choose which nation holds nuclear weapons. And that’s
why I strongly reaffirmed America’s commitment to seek a world in which no nations
hold nuclear weapons. (Applause.) And any nation — including Iran — should have the
right to access peaceful nuclear power if it complies with its responsibilities under the
nuclear Non-Proliferation Treaty. That commitment is at the core of the treaty, and it
must be kept for all who fully abide by it. And I’m hopeful that all countries in the region
can share in this goal.
The fourth issue that I will address is democracy. (Applause.)
I know — I know there has been controversy about the promotion of democracy in recent
years, and much of this controversy is connected to the war in Iraq. So let me be clear:
No system of government can or should be imposed by one nation by any other.
That does not lessen my commitment, however, to governments that reflect the will of the
people. Each nation gives life to this principle in its own way, grounded in the traditions
of its own people. America does not presume to know what is best for everyone, just as
we would not presume to pick the outcome of a peaceful election. But I do have an
unyielding belief that all people yearn for certain things: the ability to speak your mind
and have a say in how you are governed; confidence in the rule of law and the equal
administration of justice; government that is transparent and doesn’t steal from the
people; the freedom to live as you choose. These are not just American ideas; they are
human rights. And that is why we will support them everywhere. (Applause.)
Now, there is no straight line to realize this promise. But this much is clear:
Governments that protect these rights are ultimately more stable, successful and secure.
Suppressing ideas never succeeds in making them go away. America respects the right of
all peaceful and law-abiding voices to be heard around the world, even if we disagree
with them. And we will welcome all elected, peaceful governments — provided they
govern with respect for all their people.
This last point is important because there are some who advocate for democracy only
when they’re out of power; once in power, they are ruthless in suppressing the rights of
others. (Applause.) So no matổng thốnger where it takes hold, government of the people and by
the people sets a single standard for all who would hold power: You must maintain your
power through consent, not coercion; you must respect the rights of minorities, and
participate with a spirit of tolerance and compromise; you must place the interests of your
people and the legitimate workings of the political process above your party. Without
these ingredients, elections alone do not make true democracy.
AUDIENCE MEMBER: Barack Obama, we love you!
PRESIDENT OBAMA: Thank you. (Applause.) The fifth issue that we must address
together is religious freedom.
Islam has a proud tradition of tolerance. We see it in the history of Andalusia and
Cordoba during the Inquisition. I saw it firsthand as a child in Indonesia, where devout
Christians worshiped freely in an overwhelmingly Muslim country. That is the spirit we
need today. People in every country should be free to choose and live their faith based
upon the persuasion of the mind and the heart and the soul. This tolerance is essential for
religion to thrive, but it’s being challenged in many different ways.
Among some Muslims, there’s a disturbing tendency to measure one’s own faith by the
rejection of somebody else’s faith. The richness of religious diversity must be upheld –
whether it is for Maronites in Lebanon or the Copts in Egypt. (Applause.) And if we are
being honest, fault lines must be closed among Muslims, as well, as the divisions
between Sunni and Shia have led to tragic violence, particularly in Iraq.
Freedom of religion is central to the ability of peoples to live together. We must always
examine the ways in which we protect it. For instance, in the United States, rules on
charitable giving have made it harder for Muslims to fulfill their religious obligation.
That’s why I’m commitổng thốnged to working with American Muslims to ensure that they can
fulfill zakat.
Likewise, it is important for Western countries to avoid impeding Muslim citizens from
practicing religion as they see fit — for instance, by dictating what clothes a Muslim
woman should wear. We can’t disguise hostility towards any religion behind the pretence
of liberalism.
In fact, faith should bring us together. And that’s why we’re forging service projects in
America to bring together Christians, Muslims, and Jews. That’s why we welcome
efforts like Saudi Arabian King Abdullah’s interfaith dialogue and Turkey’s leadership in
the Alliance of Civilizations. Around the world, we can turn dialogue into interfaith
service, so bridges between peoples lead to action — whether it is combating malaria in
Africa, or providing relief after a natural disaster.
The sixth issue — the sixth issue that I want to address is women’s rights. (Applause.) I
know –- I know — and you can tell from this audience, that there is a healthy debate about
this issue. I reject the view of some in the West that a woman who chooses to cover her
hair is somehow less equal, but I do believe that a woman who is denied an education is
denied equality. (Applause.) And it is no coincidence that countries where women are
well educated are far more likely to be prosperous.
Now, let me be clear: Issues of women’s equality are by no means simply an issue for
Islam. In Turkey, Pakistan, Bangladesh, Indonesia, we’ve seen Muslim-majority
countries elect a woman to lead. Meanwhile, the struggle for women’s equality continues
in many aspects of American life, and in countries around the world.
I am convinced that our daughters can contribute just as much to society as our sons.
(Applause.) Our common prosperity will be advanced by allowing all humanity — men
and women — to reach their full potential. I do not believe that women must make the
same choices as men in order to be equal, and I respect those women who choose to live
their lives in traditional roles. But it should be their choice. And that is why the United
States will partner with any Muslim-majority country to support expanded literacy for
girls, and to help young women pursue employment through micro-financing that helps
people live their dreams. (Applause.)
Finally, I want to discuss economic development and opportunity.
I know that for many, the face of globalization is contradictory. The Internet and
television can bring knowledge and information, but also offensive sexuality and
mindless violence into the home. Trade can bring new wealth and opportunities, but also
huge disruptions and change in communities. In all nations — including America — this
change can bring fear. Fear that because of modernity we lose control over our economic
choices, our politics, and most importantly our identities — those things we most cherish
about our communities, our families, our traditions, and our faith.
But I also know that human progress cannot be denied. There need not be contradictions
between development and tradition. Countries like Japan and South Korea grew their
economies enormously while maintaining distinct cultures. The same is true for the
astonishing progress within Muslim-majority countries from Kuala Lumpur to Dubai. In
ancient times and in our times, Muslim communities have been at the forefront of
innovation and education.
And this is important because no development strategy can be based only upon what
comes out of the ground, nor can it be sustained while young people are out of work.
Many Gulf states have enjoyed great wealth as a consequence of oil, and some are
beginning to focus it on broader development. But all of us must recognize that
education and innovation will be the currency of the 21st century — (applause) — and in
too many Muslim communities, there remains underinvestment in these areas. I’m
emphasizing such investment within my own country. And while America in the past has
focused on oil and gas when it comes to this part of the world, we now seek a broader
engagement.
that brought my father to America. (Applause.) At the same time, we will encourage
more Americans to study in Muslim communities. And we will match promising Muslim
students with internships in America; invest in online learning for teachers and children
around the world; and create a new online network, so a young person in Kansas can
communicate instantly with a young person in Cairo.
On economic development, we will create a new corps of business volunteers to partner
with counterparts in Muslim-majority countries. And I will host a Summit on
Entrepreneurship this year to identify how we can deepen ties between business leaders,
foundations and social entrepreneurs in the United States and Muslim communities
around the world.
All these things must be done in partnership. Americans are ready to join with citizens
and governments; community organizations, religious leaders, and businesses in Muslim
communities around the world to help our people pursue a betổng thốnger life.
The issues that I have described will not be easy to address. But we have a responsibility
to join together on behalf of the world that we seek — a world where extremists no longer
threaten our people, and American troops have come home; a world where Israelis and
Palestinians are each secure in a state of their own, and nuclear energy is used for
peaceful purposes; a world where governments serve their citizens, and the rights of all
God’s children are respected. Those are mutual interests. That is the world we seek. But
we can only achieve it together.
I know there are many — Muslim and non-Muslim — who question whether we can forge
this new beginning. Some are eager to stoke the flames of division, and to stand in the
way of progress. Some suggest that it isn’t worth the effort — that we are fated to
disagree, and civilizations are doomed to clash. Many more are simply skeptical that real
change can occur. There’s so much fear, so much mistrust that has built up over the
years. But if we choose to be bound by the past, we will never move forward. And I
want to particularly say this to young people of every faith, in every country — you, more
than anyone, have the ability to reimagine the world, to remake this world.
All of us share this world for but a brief moment in time. The question is whether we
spend that time focused on what pushes us apart, or whether we commit ourselves to an
effort — a sustained effort — to find common ground, to focus on the future we seek for
our children, and to respect the dignity of all human beings.
It’s easier to start wars than to end them. It’s easier to blame others than to look inward.
It’s easier to see what is different about someone than to find the things we share. But we
should choose the right path, not just the easy path. There’s one rule that lies at the heart
of every religion — that we do unto others as we would have them do unto us.
(Applause.) This truth transcends nations and peoples — a belief that isn’t new; that isn’t
black or white or brown; that isn’t Christian or Muslim or Jew. It’s a belief that pulsed in
the cradle of civilization, and that still beats in the hearts of billions around the world. It’s
a faith in other people, and it’s what brought me here today.
We have the power to make the world we seek, but only if we have the courage to make a
new beginning, keeping in mind what has been writổng thốngen.
The Holy Koran tells us: “O mankind! We have created you male and a female; and we
have made you into nations and tribes so that you may know one another.”
The Talmud tells us: “The whole of the Torah is for the purpose of promoting peace.”
The Holy Bible tells us: “Blessed are the peacemakers, for they shall be called sons of
God.” (Applause.)
The people of the world can live together in peace. We know that is God’s vision. Now
that must be our work here on Earth.
Thank you. And may God’s peace be upon you. Thank you very much. Thank you.
(Applause.)
THƠ NGHIÊU MINH
Minhnghieu@aol.com
(HuyMacro)
Duyên Số
Em, con nhà cành vàng lá ngọc
Tôi, loại cây bình bát, mù u
Nếu hai đứa thành duyên tơ tóc
Chắc kiếp trước tôi dày đường tu!
Em, con nhà trâm anh thế phiệt
Tôi, rau nhúp, rau hẹ ngoài đồng
Nếu hai đứa kết duyên kết nghiệp
Chắc kiếp trước em nợ tôi chưa trả xong!
Em, con nhà hoàng gia danh phận
Tôi, dân giả xà lỏn áo thun
Kiếp này gặp nhau giữa trời lận đận
Chắc hai đứa chung nghiệp lận đận cùng!
Em, kiếp trước chắc bà sơ bà phước
Tôi, ông từ quét lá sân chùa
Chắc hai đứa cùng tích duyên tích đức
Nên gặp nhau giữa khổ hạnh nắng mưa
Em hỏi hoài nồi nào vung nấy
Sao hai đứa không nồi không vung
Tôi nói, mình là "microwave" đấy
Bỏ vào thì ...sôi. Biết chưa?
Nghiêu Minh
No comments:
Post a Comment