BÍ MẬT LỊCH SỬ : CHIẾN TRANH HOA VIỆT 1984-1989
BÍ MẬT LỊCH SỬ:
“ Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai ”.
TRẬN CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TRUNG-VIỆT
LẦN THỨ HAI: 1984-1989.
CỘNG SẢN VIỆT NAM GIẤU NHẸM
VIỆC MẤT NÚI LÃO SƠN VỚI DÂN TỘC VIỆT NAM.
Bản đồ nơi xãy ra trận chiến biên giới lần 2 1984 trong tỉnh Hà Tuyên. Hình trích từ mạng Quốc Phòng Trung Quốc China-Defense.com
Những tài liệu này đa số đến nhiều nhất từ nguồn của Trung Cộng về trận chiến biên giới lần thứ hai bắt đầu từ năm 1984 và chấm dứt vào năm 1989. Cuộc chiến tranh biên giới lần hai chấm dứt với sự thua trận của cộng sản Việt Nam!
Chính quyền cộng sản VN đã dấu nhẹm cuộc chiến này cũng như việc ký hiệp ước biên giới công nhận chủ quyền của Trung Cộng trên ngọn núi Lão Sơn ở huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên.....
Phải nói rằng rất ít người biết đến đến cuộc chiến biên giới lần hai xãy ra vào năm 1984 so với cuộc chiến tranh biên giới vào năm 1979, cho đến khi các tài liệu từ phía Trung Cộng được tung ra. Lý do tại sao cả hai bên Trung Cộng và Việt Nam giữ bí mật về cuộc chiến này vẫn là vấn đề chúng ta cần tìm hiểu. Riêng về phía Việt Nam, việc giữ bí mật về cuộc chiến này có thể giải thích bằng hai sự kiện: Thứ nhất, vào năm 1984, cộng sản Việt Nam ở trong tình trạng tứ bề thọ địch: quân đội CSVN phải đối phó với cuộc chiến tại Cam Bốt; trên trường quốc tế, CSVN bị thế giới cấm vận. Thứ hai: nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đang ở trong tình trạng phá sản, cả nước phải ăn bo bo và nạn chết đói đã xãy ra tại Miền Bắc. Với tất cả những khó khăn như thế, CSVN không dám loan tin về một cuộc chiến biên giới lần hai xãy ra tại tỉnh Hà Tuyên. Đến khi thua trận, núi Lão Sơn bị chiếm đóng, cộng sản VN im luôn, rồi âm thầm ký hiệp định biên giới nhìn nhận chủ quyền của Trung Công trên ngọn núi này.
Tài liêu từ phía Trung Cộng tung ra không chỉ riêng các ký ức, bài viết mà còn có cả cuộn băng video nói về trận chiến tranh biên giới Trung-Việt lần 2. Cuốn phim video có nhan đề Anh Ngữ là Operation Blue Sword B - tạm dịch là Chiến Dịch Kiếm Xanh B. Trong cuộn phim video này, có ghi lại hình ảnh của những cán binh Trung Cộng chuẫn bị xuất quân vào trận Lão Sơn, và những hình ảnh trở về của những cán binh này. Trong phim còn điểm rõ những cán binh nào đã không có mặt khi trở về so với hình ảnh trước khi xuất quân. Một cuộn phim khác cũng với nhan đề như trên nhưng do quân đội Trung Cộng thực hiện với các hình ảnh cho thấy kế hoạch hành quân được đề ra như thế nào; lính được tổ chức ra sao trước khi vào trận.
Chúng tôi sẽ lần lượt đưa lên trang báo điện tử này những tư liệu liên quan đến cuộc chiến biên giới lần thứ hai - từ năm 1984-1989 trong nhiều bài viết, tổng hợp tất cả những nguồn tài liệu mà chúng tôi tìm được từ cả hai phía Việt Nam cũng như Trung Cộng. Quý bạn đọc nào tìm được những tư liệu nào khác xin vui vòng phổ biến và gởi đến chúng tôi.
CUỘC CHIẾN BIÊN GIỚI LẦN THỨ NHẤT - 1979
Đây là cuộc chiến mà cả thế giới đều biết. Nguyên nhân xãy ra cuộc chiến này - theo sự phân tích của các chuyên gia về Trung Cộng và Việt Nam - là vì Trung Cộng muốn phá vỡ vòng vây của Liên Xô đang muốn bao vậy Trung Cộng ở phía Nam. Sự kiện CSVN đánh chiếm Cam Bốt, tiêu diệt phe Khmer Đỏ do Trung Cộng ủng hộ là hành động Trung Cộng cho rằng CSVN đã theo hẳn Liên Xô và thực hiện các mục tiêu chiến lược bành trướng ảnh hưởng của Liên Xô khắp Đông Dương. Hành động này không thể chấp nhận được đối với Trung Quốc khi đứa con ghẻ - CSVN - mà họ đã phải cưu mang, giúp đỡ viện trợ trong cuộc chiến tranh cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nay lại phản bội họ và đi hẳn vào quỹ đạo của Liên Xô. Trong buổi họp của bộ chính trị Trung Cộng tại Trung Nam Hải, tướng Vi Quốc Thanh - tác giả của trận Điện Biên Phủ - đã tuyên bố: "Trung Quốc sẽ dạy cho Việt Nam một bài học!" Tuy Vi Quốc Thanh không trực tiếp tham gia vào cuộc chiến tranh biên giới lần thứ nhất 1979, nhưng ông nổi tiếng vì chính câu nói trên. Muốn biết thêm về Vi Quốc Thanh - tác giả của trận Điện Biên Phủ như thế nào xin xem bài Sự Thật Về Huyền Thoại Anh Hùng Điện Biên http://www.vietnamexodus.org/vne/modules.php?name=News&file=article&sid=78
Sau cuộc chiến biên giới lần thứ nhất năm 1979, cả hai phía Trung Cộng và Việt Nam đều tuyên bố chiến thắng. Tuy nhiên phía Trung Cộng khám phá ra một sự thật sau cuộc chiến: vũ khí trang bị cho cán binh Trung Cộng thua xa vũ khí của phía cán binh cộng sản Việt Nam. 2/3 cán binh Trung Cộng được trang bị loại súng 56 bán tự động, trong khi hầu hết cán binh Việt Nam được trang bị súng tự động loại 56 do Trung Cộng, Tiệp Khắc và Liên Xô chế tạo. Về lượng vũ khí, phía CSVN cũng nhiều hơn so với Trung Cộng nhờ vào kho vũ khí của Hoa Kỳ để lại sau năm 1975!
Có thể nói Trung Cộng đã thành công trong việc dạy cho cộng sản VN một bài học, nhưng thất bại về mặt quân sự!. Trung Cộng mất 30 ngàn quân và phía cộng sản Việt Nam mất 26 ngàn quân không tính số thương dân bị thương vong. Dĩ nhiên cả hai con số thương vong vẫn còn nằm trong vòng tranh cải. Theo tài liệu của Quốc Phòng Trung Quốc thì những sĩ quan tham dự trận đánh biên giới năm 1979 bị kỷ luật bằng cách không cho thăng chức và cho giải ngũ gần hết. Tuy nhiên các các sĩ quan cao cấp tham dự cuộc chiến tranh biên giới lần thứ 2 1984 thì được tăng thưởng và có vị nay đã được đề bạt vào bộ chính trị.
CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI LẦN THỨ HAI - 1984-1989
Nguyên nhân cuộc chiến tranh biên giới lần thứ hai xãy ra chính vì sự tranh chấp biên giới tại ngọn núi Lão Sơn ở huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên. Ngọn núi Lão Sơn có hình dạng của một chữ "U" nằm gần biên giới giữa Trung Cộng và Việt Nam. Trên đỉnh núi hình chữ "U" đều có cột biên giới được cắm mốc, và ngọn núi Lão Sơn nằm dưới đáy của chữ "U". Việc tranh chấp không nằm ở cột mốc biên giới, nhưng việc tranh chấp giữa đôi bên là vẽ đường biên giới như thế nào? Phía cộng sản VN cho rằng phải vẽ một đường thẳng giữa hai cột mốc, do đó núi Lão Sơn nằm bên biên giới Việt Nam; thế nhưng Trung Cộng lý luận rằng đường biên giới phải theo địa thế thiên nhiên; thí dụ lằn ranh biên giới phải nằm trên chóp núi; nghĩa là Lão Sơn nằm trong biên giới Trung Cộng! Việc tranh cải phương pháp vẽ đường biên giới thoạt đầu tưởng rằng chỉ liên quan đến vấn đề kỹ thuật, nhưng thực chất là một điều quan trọng về mặt chiến lược vì nó quyết định phần lãnh thổ này thuộc chủ quyền của nước nào.
Tù binh Việt Nam bị Trung Cộng bắt
Sau cuộc chiến tranh biên giới lần thứ nhất 1979, quân đội Trung Cộng không theo truyền thống đóng quân dọc biên giới nữa, nên đóng rất xa lằn ranh biên giới. Ngược lại phía cộng sản VN quyết định đóng quân gần biên giới và nhất là đóng quân trên đỉnh núi Lão Sơn cùng với những ngọn núi lân cận.
Học được bài học 1979, trong thời gian 5 năm, từ năm 1979 đến năm 1984, Trung Cộng quyết định canh tân quân đội, và mua thêm các thiết bị quân sự từ Hoa Kỳ để chuẫn bị cho cuộc chiến tranh biên giới lần thứ hai. Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây là sau cuộc chiến tranh 1979, Trung Cộng và Việt Nam không hề ký bất cứ một hiệp ước đình chiến nào cả, nên về mặt kỹ thuật cả hai nước vẫn còn trong tình trạng chiến tranh. Với chủ trương tiếp tục dạy cho cộng sản VN một bài học và làm cho CSVN tiếp tục chảy máu, Trung Quốc lấy cớ quân cộng sản VN chiếm đóng núi Lão Sơn - là đất của Trung Cộng, nên xua quân tràn vào đánh chiếm lại Lão Sơn.
Từ năm 1984 đến năm 1989, nhiều trận giao tranh đã diễn ra giữa quận đội Trung Cộng và CSVN, và có lần lên đến cả cấp sư đoàn. Trận giao tranh lớn nhất xãy ra là vào ngày 12 tháng 07, 1984 tại ngọn núi Lão Sơn. Đến ngày 28 tháng 04, 1984, Trung Cộng chiếm được núi Lão Sơn. Những cuộc phản công sau đó của quân đội cộng sản VN nhằm chiếm lại Lão Sơn hoàn toàn thất bại. Những trận đánh lớn xãy ra tại Lão Sơn và những ngọn núi lân cận được ghi nhận vào các ngày:
12 tháng 7, 1984
20, 21 tháng 12, 1984
15 tháng 1, 1985
8 tháng 03, 1985
19-20 tháng 07, 1985
23 tháng 09, 1985
28 tháng 01, 1986
19 tháng 10, 1986
6 tháng 01, 1987
23 tháng 04, 1987
Trong trận chiến 1984, quân đội Trung Cộng được trang bị vũ khí tối tân hơn với loại súng 81, và mỗi người lính được trang bị áo giáp. Đặc biệt nhất là việc xử dụng hệ thống radar mua của Hoa Kỳ nhằm dò tìm địa điểm xuất phát của pháo binh địch để bắn trả... Hệ thống radar này chính xác đến độ chỉ cần pháo binh CSVN bắn phát đầu tiên, vài giây đồng hồ sau, Radar cho biết tọa độ của viên đạn được bắn ra. Biết được toạ độ của CSVN, pháo binh của Trung Cộng chỉ cần không đầy 3 phút để bắn trả lại. Kết quả là pháo binh của CSVN bị đánh tan ngay từ những phút đầu tiên của trận đánh.
===
Ảnh trích từ mạng Quốc Phòng Trung Quốc (Defense-China.com). Đoạn phim video
tài liệu về kế hoạch và hành quân đánh chiếm Lão Sơn.
Phim video có tên Operation Blue Sword B.
===
TRICH
Tài liệu:
Ảnh trích từ mạng Quốc Phòng Trung Quốc (Defense-China.com). Đoạn phim video
Tài liệu về kế hoạch và hành quân đánh chiếm Lão Sơn.
Phim video có tên Operation Blue Sword B.
# Zhang Xiaoming, (actually are thought to have been 600,000 with 400 tanks)"China's 1979 War with Vietnam: A Reassessment", China Quarterly, Issue no. 184 (December 2005), pp. 851-874. Zhang writes that: "Existing scholarship tends towards an estimate of as many as 25,000 PLA killed in action and another 37,000 wounded. Recently available Chinese sources categorize the PLA’s losses as 6,900 dead and some 15,000 injured, giving a total of 21,900 casualties from an invasion force of more than 300,000."
# ^ a b c d Clodfelter, Michael. Vietnam in Military Statistics: A History of the Indochina Wars, 1772–1991 (McFarland & Co., Jefferson, NC, 1995) ISBN 0786400277. Clodfelter argues 20,000 on the Chinese side as a "realistic" figure.
# ^ Introduction to Global Military History, By Jeremy Black, P. 215
# ^ Dunnigan, J.F. & Nofi, A.A. (1999). Dirty Little Secrets of the Vietnam War. New York: St. Martins Press, p. 27.
# ^ Dunnigan, J.F. & Nofi, A.A. (1999). Dirty Little Secrets of the Vietnam War. New York: St. Martins Press, pp. 27-38.
# ^ Hood, S.J. (1992). Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War. Armonk: M.E. Sharpe, p. 16.
# ^ Burns, R.D. and Leitenberg, M. (1984). The Wars in Vietnam, Cambodia and Laos, 1945-1982: A Bibliographic Guide. Santa Barbara: ABC-Clio Information Services, p.xx.
# ^ Hood, S.J. (1992). Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War. Armonk: M.E. Sharpe, p. 16.
# ^ Burns, R.D. and Leitenberg, M. (1984). The Wars in Vietnam, Cambodia and Laos, 1945-1982: A Bibliographic Guide. Santa Barbara: ABC-Clio Information Services, p. xx.
# ^ Hood, S.J. (1992). Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War. Armonk: M.E. Sharpe, p. 13-19.
# ^ Chen, Min. (1992). The Strategic Triangle and Regional Conflict: Lessons from the Indochina Wars. Boulder: Lnne Reinner Publications, p. 17-23.
# ^ Hood, S.J. (1992). Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War. Armonk: M.E. Sharpe, p. 13-19.
# ^ Hood, S.J. (1992). Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War. Armonk: M.E. Sharpe, p. 13-19.
# ^ Chen, Min. (1992). The Strategic Triangle and Regional Conflict: Lessons from the Indochina Wars. Boulder: Lnne Reinner Publications, p. 17-23.
http://en.wikipedia.org/wiki/Sino-Vietnamese_War
www.globalsecurity.org/military/world/war/prc-vietnam.htm
www.bharat-rakshak.com/MONITOR/ISSUE3-3/bakshi.html
orbat.com/site/history/historical/vietnam/war1979.html
www.defencetalk.com/pictures/showphoto.php/photo/2951
www.knowledgerush.com/kr/encyclopedia/Sino-Vietnam_War/
http://news.xinhuanet.com/english/2008-12/31/content_10585164_1.htm
Thursday, November 27, 2008
KHUYẾT DANH * TẢO HÔN
Tục lệ tảo hôn Khi gả về nhà anh, chị mười sáu, anh lên năm tuổi. Anh là con độc đinh, cha mẹ quý hơn vàng, chỉ tiếc anh quá nhiều bệnh tật.
1. Cảnh nghèo
Ông nội ở ngoài buôn bán nhỏ, gom được tí tiền. Bà nội tin Phật, một lòng thành kính, một lần bà nội xin được một quẻ xăm giữa miếu ngụt khói hương, nói ph ải cưới một cô vợ hơn tuổi cho thằng cháu đích tôn thì nó mới qua được vận hạn.
Bà nội đương nhiên tin vào lời Phật dạy chúng sinh nơi khói hương vòng quanh chuông chùa ngân nga, bởi thế ông bà nội bàn tính, đưa lễ hậu, kháo tin quanh vùng tìm mối nhân duyên cho anh.
Nhà chị năm miệng ăn, trông vào mấy sào ruộng bạc màu, chỉ đủ miếng cháo, mùa đông, cha chị vì muốn kiếm thêm ít đồng ra đồng vào, theo người ta lên núi đập đá, tiền chưa kiếm được, nhưng bị đá vỡ dập lưng, tiêu hết cả gia sản, bán sạch cả lương thực, bệnh không khỏi.
Hằng ngày cha chị chỉ có thể nằm trên giường, muốn chết mà chẳng chết cho. Hai đứa em trai còn chưa đủ tuổi lớn. Nỗi khổ sở của gia đình, nỗi ai oán của mẹ, làm những năm thời con gái của chị mang một gánh nặng tâm tư.
Vì thế bà mối đến, réo rắt: "Gả cô nhà đi, tiền thì để dưỡng bệnh cho cha, còn đỡ đần được tiền tiêu trong nhà".
Mẹ chị lắc đầu, nào có ai muốn đẩy đứa con gái thơ dại của mình vào lò lửa? Nhưng chị xin: "Mẹ, cho con đi nhé, chỗ tiền ấy có lẽ chữa khỏi cho cha!".
Tiếng kèn đón dâu thổi váng đầu ngõ trước ngôi nhà nhỏ của chị. Bố chị nằm trên giường tự đấm ngực mình; Con gái phải đem đổi tuổi thanh xuân, chấp nhận lấy một người chả xứng với mình chỉ vì cứu tôi và cứu gia đình này thôi ư!
Mẹ chị chảy nước mắt, tự tay mình cài lên tóc con gái cây trâm gài. Chị mặc áo đỏ đi giày thêu cúi lạy cha m , tự buông tấm khăn đỏ che đầu mình, nước mắt lúc đó mới chảy ra, trộn phấn má hồng.
Từ đó, số phận cuộc đời chị và hôn nhân giao cả về tay một đứa con nít vô tri.
2. Cười xót xa
Bà mẹ chồng trẻ tuổi không phải là người khắt khe khó tính, bố chồng ở xa cũng chẳng cần chị tam khấu cửu bái, lạy chào dạ vâng. Anh vâng lời mẹ gọi chị là chị gái.
Hằng ngày, chị ngoài việc giúp mẹ chồng chăm ruộng rau và làm xong việc nhà, thì cắt thuốc cho chồng, sắc thuốc, may áo cho chồng, giặt giũ, cho chồng chơi, cho chồng ngủ, có lúc, anh ho suốt đêm, sốt cao, chị thức cả đêm chườm khăn hạ sốt, cho anh uống nước, uống thuốc.
Trong tim chị, chị coi anh như một đứa em trai.
Hàng xóm láng giềng gặp chị, chị thường cúi đầu lặng lẽ, không nói, vội vã đi qua. Không biết là ứng với quẻ xăm của Phật, hay nhờ chính sức mình mà anh vượt qua được bệnh tật, dưới sự chăm chút của chị, anh lần lượt chiến thắng mọi cơn bệnh tật lớn nhỏ: Ho gà, viêm màng não, lở loét v.v...
Dần dà, những tình cảm anh dành cho chị vượt quá tình cảm dành cho mẹ mình. Giữa những kẽ hở lúc bận rộn, hoặc khi anh đã ngủ say, chị thường khóc nước mắt nóng rồi thờ thẫn tự hỏi mình: "Đây là hôn nhân của mình ư, đây là chồng của mình ư?".
Đến tuổi đi học, chị may cho anh một chiếc túi xách, dắt tay anh đến lớp. Những đứa trẻ trong và ngoài thôn thường vây lấy chị hát to: "Cô con dâu, cô con dâu, làm cái gì? Tắt đC3n, thổi nến, lên giường..."
Chị không biết trong lòng mình là nỗi đau hay nỗi buồn, cúi gằm xuống, mặt đỏ lên rồi trắng bệch, trắng rồi đỏ. Một buổi tối, anh nằm trong chăn nói:
"Chị ơi, em yêu chị!".
Chị lại là vợ. Vợ lại là chị. Chị nhìn gương mặt ngây thơ non nớt của anh, im lặng. Lần đầu tiên chị cười đau khổ.
3. An ủi nhỏ nhoi
Cha anh ở ngoài buôn bán nhiễm phải thói cờ bạc, chỉ vài ngày mà thua sạch bách bao gia sản tích cóp khổ sở lâu nay.
Sau khi bố mẹ chồng chửi bới cãi vã ầm trời, bố chồng chị dứt áo bỏ nhà ra đi, từ đó không ai gặp lại ông nữa, nghe người ta nói khi đó ông bị lính bắt đi làm phu. Lúc đó trên người mẹ chồng chị còn vài thứ trang sE1c, cầm đi đổi lấy vài đồng tiền.
Mẹ chồng và chị bàn nhau mua lấy ba mẫu đất. Không thể mượn người làm nữa rồi, mẹ chồng con dâu xoay ra xắn ống quần lên lội ruộng, ngày còn ở nhà chị từ nhỏ đã giúp cha mẹ làm ruộng, khổ sở gì chị cũng đã nếm trải qua. Chỉ khổ cho bà mẹ chồng chị xưa nay chưa từng phải trồng lúa bao giờ.
Một nhà vốn giàu có bỗng chốc hóa bần cùng, đàn ông bỏ đi không tăm tích, bà mẹ chồng vừa đau vừa hận, lại thêm việc làm ruộng nặng nhọc, làm bà kiệt quệ, ốm rồi không dậy nổi. Trước lúc lâm chung, bà kéo tay chị, gần như van vỉ nói:
"Nó hãy còn nhỏ dại, xin cô chăm sóc nó, nếu cô muốn ra đi, xin hãy đợi lúc nó trưởng thành".
Chị nắm chặt tay anh. Từ đó, số mệnh của anh lại bị chị dắt đi.
Chị là người phụ nữ trọng tình nghĩa, chưa từng hứa gì, nhưng chị vẫn cùng anh như cũ. Từ đó về sau, ngay cả chính chị cũng không nhận ra mình rốt cuộc là vợ, là chị hay là mẹ của anh?
Chị quần quật không ngày không đêm, làm việc để anh tiếp tục đi học. Cuộc sống của họ trôi qua khổ nhọc nhưng bình lặng giữa tình chị em sâu nặng, tình yêu bao la như tình mẫu tử bền chặt.
Khi anh tốt nghiệp trung học thi đỗ vào một trường Đại học Sư phạm, chị thay anh thu xếp hành lý, lại một lần nữa đưa anh tới trường.
Chị nhìn cậu con trai trẻ măng vừa qua tuổi dậy thì, do chính tay mình nuôi lớn từ nhỏ đến giờ, chị chỉ dặn anh hãy cố mà học hành, ngoài ra chị không nói thêm điều gì nữa.
Nhưng anh vẫn nói: "Chị, chờ tôi quay về nhé!".
Tim chị đập nhẹ một nhịp, nhưng mặt vẫn bình thường, có điều khóe miệng ẩn một nụ cười hân hoan rất nhẹ mà người khác khó nhìn thấy. Khóe cười ấy không phải vì câu nói của anh, mà vì những gì chị bỏ ra, đã được đáp đền lần đầu.
4. Kiếp này
Chị vẫn làm ruộng như trước, nhịn ăn nhịn mặc dành tiền gửi đi.
Hai năm đầu, nghỉ hè và nghỉ Tết anh đều về quê giúp chị làm việc. Nhưng năm thứ ba đại học, anh viết thư về nói: Chị đừng gửi tiền nữa. Và kỳ nghỉ tôi cũng không về nữa đâu. Tôi muốn ra ngoài kiếm việc làm thêm, đỡ gánh nặng cho chị.
Lúc đó chị đã 29 tuổi.
Ở quê, người như chị đã là mẹ của mấy đứa con. Người trong làng đều bảo, chị nuôi anh lớn khôn, lại còn cho anh thoát li đi học, thế coi như là đã quá tốt với anh rồi, chị già hơn anh mười một tuổi, thôi đừng chờ chồng nữa.
Bây giờ anh đã đi xa, ở ngoài thế giới bao nhiêu xanh đỏ tím vàng, biết chồng mình có về nữa hay là không về nữa!
Chị cũng không biết trong lòng mình là đang thủ tiết, giữ đạo phu thê: Dù sao thì mười mấy năm trước chị cũng là một cô dâu gả cưới đàng hoàng về nhà anh; hay là mình đang vì câu nói trước ngày anh lên đường đi xa: "Chị, chờ tôi quay về nhé!"; hay là chị đang lo âu như người mẹ không yên tâm về đứa con nhỏ của mình đang ở xa; chị cứ chờ.
Chị cứ giữ sự yên tĩnh và ít lời như mấy chục năm nay đã từng.
Cuối cùng cũng đã đến lúc anh tốt nghiệp. Anh quay về. Anh đã là một người đàn ông trưởng thành có phong cách và khí chất, dáng dấp một người đàn ông nho nhã hiểu biết.
Còn chị, dãi nắng dầm sương, gương mặt nhọc nhằn lao khổ đã sớm bay hết những nét đẹp thời trẻ, là một người đàn bà nhà quê đích thực.
Trong lòng chị chỉ còn coi anh là một đứa em trai thân yêu. Chị không dám ngờ anh đã nói với chị: "Chị, tôi đã trưởng thành, giờ chúng ta có thể thành thân!".
Chị nhìn anh, như đang nằm mơ, chị sợ mình đang nghe nhầm. Anh cũng là một người đàn ông trọng tình trọng nghĩa như chị?
Chị cười, tự đáy lòng dâng lên miệng c ười rạng rỡ, cũng để rơi xuống những giọt nước mắt đẹp đẽ nhất đời người.
5. Xin lỗi
Anh ở lại thị trấn dạy học, chị ở nhà làm ruộng. Họ có với nhau một con trai một con gái.
Sau này, anh đến khu mỏ dầu dạy học, lên chức hiệu trưởng một trường Trung học nhờ vào bằng cấp và kinh nghiệm dạy học của mình. Vì hộ khẩu, con cái vẫn để ở nhà cho chị nuôi nấng. Sau khi nhập được hộ khẩu, anh về quê đưa vợ con lên trường.
Các giáo viên trong trường đến giúp hiệu trưởng dọn nhà. Có một giáo viên bộc tuệch chạy ra nói:
"Hiệu trưởng, sao anh đón mẹ và em trai lên ở mà không đón cả chị nhà và các cháu luôn?".
Một sự im lặng bao trùm, mọi người đều ngẩng đầu nhìn chị. Lúc ấy, mặt chị sượng trân trân, không biết nên nói gì, chị cười méo mó, nhìn anh biết lỗi. Anh ngoái đầu nhìn chị, nói với tất cả mọi người với giọng chắc nịch:
"Chị các chú đây. Có cô ấy mới có tôi ngày hôm nay, thậm chí cả tính mạng tôi".
Chị nghe anh nói, mắt chị dâng lên toàn là nước mắt.
6. Năm tháng như bài ca, tình yêu như ngọn lửa
Bây giờ chị đã bảy mươi hai, vì làm việc nặng nhọc quá nhiều, sức khoẻ kém, bệnh phong thấp làm chị đi tập tễnh. Anh sáu mươi mốt, đã về hưu từ lâu.
Hai năm nay họ dọn về khu nhà này ở, nếu hôm nào trời không mưa gió, hoặc ngày quá lạnh, đều có thể gặp bóng dáng họ ở khu sân chơi, bồn hoa; chị nắm gậ y chống, anh đỡ một bên, đi chậm chạp từng bước một về phía trước, như đang dìu một đứa trẻ tập đi, chăm sóc như thế, ân cần như thế.
Những người biết chuyện của họ đều nhìn theo, cảm động bởi mối tình sâu nặng và bền chặt của anh và chị, mang nghĩa đủ tình đầy đi dọc một kiếp người. Anh nói:
"Cô ấy mang cho tôi sinh mệnh, cho mẹ tôi sự ấm áp, cho tôi một mái nhà, bây giờ, tôi dành nửa cuối đời tôi chăm sóc cô ấy".
Anh dắt tay chị, như ngày đó chị dắt tay đứa bé năm tuổi, họ cùng mỉm cười, đẹp như nét mây chiều êm ái nơi chân trời mùa hạ.
__,_._,___
TRẦN KHẢI THANH THỦY * CHẾT NGOÀI KẾ HOẠCH
TRẦN KHẢI THANH THỦY
Chết Ngoài Kế Hoạch
Trần Khải Thanh Thuỷ
"…Chết sông chết suối, ngờ đâu chết đuối đọi đèn..…
Thằng cháu tôi đi bộ đội bốn năm, bảy tháng, lù lù dẫn xác về. Chưa kịp nhập hộ khẩu, đã sinh cờ bạc, số đề, rượu chè, rồi thất tình, đau khổ... Một buổi trưa nó nốc rượu say mèm và gục mặt chết ở vũng nước tiểu của mình.
Gom góp họ hàng được gần ba trăm ngàn, tôi tức tốc đạp xe lên cửa hàng huyện, nơi chuyên bán áo quan, xô màn:
- Chị... chị làm ơn...
Chị bán hàng mặt lạnh như tiền:
- Hết rồi bác ạ!
- Kia thây... - tôi lặng người, rón rén chỉ vào đống áo quan trước mặt.
Chị ta bảo:
- Của quý bốn đấy, bác ạ, quý ba bán hết từ ba hôm nay rồi. Tuần sau bác lại.
Tôi kêu lên:
- Trời ơi... có mà đau đẻ chờ sáng giăng...
Thông cảm với bộ dạng nhớn nhác, chán chường của tôi, chị bán hàng nói với giọng thông cảm:
- Thôi, thế này vậy, bác chịu khó đạp xe lên huyện xin chữ ký chứng thực, đề nghị linh động giải quyết, rồi về đây cháu bán cho...
Nhưng rồi thấy tôi cứ đứng lặng, tưởng như đang phải nói chuyện với thây ma, chị bán hàng gắt:
- Kìa, đi đi chứ bác. Quãng chục cây số nữa thôi... Nhưng bác nhớ phải quay về xã viết đơn và xin dấu má thật đầy đủ đấy.
Gần sáu mươi tuổi đầu, bao lần đối mặt với cái chết, chưa bao giờ tôi trải qua tâm trạng bực bội và căng thẳng đến mức này... Xếp cả chồng tiền gần ba trăm ngàn, tháo luôn cả chiếc đồng hồ Citizen màu vàng chanh đặt lên quầy, tôi bảo:
- Đây, để làm tin, đề nghị chị linh động giải quyết, chứ sức vóc tôi không đạp nổi ba chục cây số nữa đâu.
- Ấy chết, không được. - chị ta nguây nguẩy - có chỉ thị của trên rồi.. Quý ba này chúng cháu chỉ được phép bán 2000 cái, mà đã vượt mức trên hai chục cái rồi... Khổ! Sao bác không chịu khó đến từ tuần trước? Sang quý tư cháu hụt chỉ tiêu trên giao thì khốn.
- Thế... - tôi ngơ ngác -... chị nói.... nói thế... có nghĩa là... cháu tôi chết ngoài kế hoạch?
- Vâng, có thế cháu mới yêu cầu bác phải có chứng thực của địa phương và giấy xác nhận của huyện chứ.
Lại còn thế nữa.... Như cái xác không hồn, tôi lừ đừ dắt xe ra, đầu nhức buốt.
***
Tôi quay điện thoại.
- A lô...
- Gì đấy - đầu dây bên kia có tiếng đáp khẽ kèm theo một tiếng gắt... Thủ trưởng đi họp rồi.
- Đề nghị... - tôi lớn tiếng
Mặc thái độ nôn nóng của tôi, người bên kia, giọng còn trẻ lắm, lên giọng:
- Đại sự quốc gia bố già ơi... Tuần sau bố quay lại nhá!
- Trời ơi...! - tôi rên lên, tưởng đất dưới chân sụp lở hàng mảng.
- Khổ lắm... đã bảo đại sự quốc gia mà lị - giọng anh ta càng lúc càng thêm chớt nhả - Bố không chờ được đâu. Mà chờ cũng chẳng để làm gì. Thủ trưởng không giải quyết đâu. Trừ có cái chết.
- Dạ... - tôi đổi sợ thành mừng, líu lưỡi - Chết ạ?... Vâng, thế thì trường hợp này của tôi đúng là chết, chết thật đấy ạ... Cháu tôi...
- Mẹ bố khỉ - hắn cười khành khạch - Cháu bố thì liên quan gì đến đây?
- Nhưng... - tôi chưng hửng
- Định hối lộ hả?... Bắt cóc thủ trưởng về tận quê ăn cỗ cơ đấy... Dịp khác nhé. Hắn tuyên bố.
Tôi đột ngột nổi cơn lôi đình.
- Không còn dịp nào hết!
- Bố cưới hay thằng cháu bố chẳng hạn?
Nghe tiếng máy xập, tôi thất vọng đạp xe ra về, cảm giác rõ hai đầu gối củ lạc sắp long ra đến nơi.
***
Đúng giờ ngọ hôm sau mọi ước muốn của tôi rồi cũng được thực hiện (cũng may, cuộc họp chỉ kéo dài... có một ngày). Nhờ sự "ngoài kế hoạch" của thằng cháu, tôi được dịp tham quan một lô phòng ban và nhận diện không biết bao nhiêu "ngài đáng kính".Hoá ra từ cái váy quan liêu đẻ ra lắm ban bệ, chức tước thật. Chả trách thằng cháu tôi chưa kịp nhập hộ tịch đã nóng lòng chui đầu ra khỏi váy để rồi rơi tọt xuống đất đen theo kiểu "ngoài kế hoạch" thế này.
Hộc tốc đưa giấy về nhà tôi mới ngã ngửa... Dưới hàng loạt chữ ký và con dấu đo đỏ ở phía dưới là dòng chữ "Đề nghị xem xét lại". Hoặc "Chờ xác minh"... Thì ra vì cuống, vì cái bệnh quên không đeo kính, vì cái đầu u mê, nên khi ở trụ sở công an xã bước ra tôi đã không chịu xem lại, xem thật kỹ cho chắc ăn. Tưởng đơn thuần là giấy chứng thực báo tử, ai ngờ họ còn ghi thêm mấy dòng nghi vấn:
"Chết không rõ lý do.. Công an địa phương đang tiến hành điều tra".
Tôi vò đầu, bứt tai, muốn dựng xác cháu lên mà đánh cho hả giận. Cái ngữ nó sống báo hại bố mẹ, chết báo hại chú... Hai ngày trời đạp xe giữa trời nắng chang chang như đổ lửa với sáu bận đi về hơn trăm cây số có ít đâu... trời ơi! Trời có mắt không hả trời? Hay trời cũng mắc bệnh quan liêu nốt?
Nhìn nét mặt chưng hửng của tôi, thằng cả kịp hiểu ra tất cả, nó dúi tút thuốc lá và cả bọc chè vài cân vào tay tôi, rồi giục:
- Bố chịu khó quay lại chỗ công an xã, nói khó với các anh ấy, nhờ các anh ấy chứng thực cho.
Bảo họ ghi thật rõ vào. "Đã chết hẳn vì lý do thất tình do uống rượu"...
Chưa đủ, nó còn dặn thêm:
- Dù hoàn cảnh thế nào bố cũng phải giữ bộ mặt cho thật tươi tỉnh cho con nhờ... Chứ như người sắp đưa ma thế kia, bố ai dám nhận chè thuốc của bố?
Lại một ngày đạp xe, chầu chực, rút kinh nghiệm, lần này tôi thủ sẵn một bao thuốc trong túi và nụ cười thường trực... trên khoé miệng. Đến phòng ban nào cần chứng thực đóng dấu, tôi lập tức bấm bật lửa tanh tách và... vén môi cười xoè... Cuối cùng một dòng chữ loằng ngoằng nửa giun, nửa dế kiểu... bổ túc văn hoá lớp 3 của ông chủ tịch huyện cũng phải bò ra:
"Chết ngoài kế hoạch. Linh động giải quyết."
Cô bán hàng hôm xưa đã nghỉ. Thay cho cô là một thị trẻ hơn, cong cớn khi nhận xấp giấy từ tay tôi:
- Dấu má gì mà mờ thế này?
- Thì dấu của huyện mà chị!
- Huyện nào. Cháu bảo cái dấu ở giấy báo tử kia.
- Ô hay, cháu tôi chết thật mà chị.
- Biết thật hay giả??... Lần sau bác lưu ý rút kinh nghiệm. Dấu mờ thế này mà còn cầm lên đây là cháu bắt về xã xác minh lại đấy.
- Ô...
Vẫn biết tất cả sự lo lắng quan tâm cho sự ra đi của người đã chết chỉ có tác dụng an ủi với người sống. Còn "cát bụi lại trở về với cát bụi". Song "nghĩa tử là nghĩa tận". Tôi cố gắng chọn lấy một cái áo quan đèm đẹp, không nứt, không vênh, không hụt quá hoặc to quá. Khổ một nỗi đống gỗ hòm này quá dở. Không chứng nọ cũng tật kia.
Chị bán hàng thấy tôi có vẻ phân vân, phát bực:
- Thôi, bác ôm nhanh hộ cháu một cái đi. Còn nhiều thủ tục phải giải quyết lắm đấy!
- Vâng, - tôi vội vàng cầu cứu - Chị duyệt cho tôi ít xô màn tiêu chuẩn.
- Bác ra đầu phố mà mua. Hay chửa, đã "chết ngoài kế hoạch" còn đòi duyệt xô màn trong tiêu chuẩn.
Há miệng mắc quai, tôi đành chữa thẹn:
- Thôi được, chị cho tôi nộp tiền thuê xe.
- Chỉ xe tang thôi đấy bác nhớ. Công tác phục vụ tang lễ đã hoàn thành kế hoạch quý ba rồi, tất cả xe khách bây giờ được trên huy động vào đám cưới để làm kế hoạch ba hết. Mùa này là mùa cưới mà.
Run run cầm tấm hoá đơn thuê xe trên tay, tôi khật khưỡng đạp về nhà. Thằng cả bàn:
- Bố cứ ra công ty xe khách mà thuê. Những năm, sáu trăm người cơ mà. Phần lý do thuê bố cứ ghi đại là "đám cưới".
- Đồ...
Tôi trợn mắt, chưa kịp quát nó đã cười ngoác miệng chữa thẹn:
- Thì đang mùa cưới mà bố. Lên tận đấy mà nói lý do: thuê xe tang cho đám ma. Bố ai người ta dám...
***
Nhìn dòng chữ nguệch ngoạc "10 giờ sáng 25/8" trên hợp đồng, tôi giật thót mình:
- Ấy chết, bác linh động cho. Gia đình tôi nhỡ đã ba bốn hôm nay rồi, nóng nực thế này....
- Thì "ngoài kế hoạch" mà bác, Hợp đồng chúng em kín cả rồi, nể bác lắm đấy, nhưng mà chịu...
Thôi chịu khó chờ mấy hôm vậy, bác ạ. Có tốn kém thêm một chút, nhưng vui vẻ. Cả đời mới có một lần ấy mà. Nóng nực sợ thiu bác cứ quăng hết vào tủ lạnh là khỏi lo... Có ế ẩm nữa, bác cứ quay lại đây, anh em cánh xế chúng em xài giúp... Nhồi vào "tủ nóng" còn tốt hơn tủ lạnh đấy bác ạ.
Dở cười dở mếu tôi quay trở lại nhà.
Công việc liệm thi hài bắt đầu. Thay vì những tiếng thút thít, nỉ non, ai oán và lén giơ tay áo lên quệt nước mắt, người ta lẩm bẩm chửi lũ ruồi nhặng chết tiệt và lén giơ tay... bịt mũi, xua ruồi. Chiếc quan tài đèm đẹp tôi đã mất công chọn cả buổi sáng hoá ra quá chật so với thi thể người quá cố. Một phần vì thi hài "nóng nở ra", phần khác vì sản phẩm của công ty là "ngoài kế hoạch", nên những người gia công đóng hòm đã cố gắng tận dụng cả chiều rộng lẫn chiều dài tấm ván. May mà đặt được cháu nằm nghiêng.
Chết đâu phải đã hết. 10 giờ sáng, quang cảnh nhà anh chị tôi hệt như một đám "hát bội". Nửa bưng mặt khóc, nửa bưng miệng cười. Hai chàng tài xế văng tục chửi um. Thực hiện đúng hợp đồng, chàng Công ty xe khách vòng vo tìm nhà. Quay ra quay vào mấy lần thấy vẫn đúng số nhà ghi trên hợp đồng, nhưng không phải đám cưới mà là đám tang. Biết bị "ăn quả lừa" chàng ta làm toáng lên, một hai đòi huỷ hợp đồng. Chàng xe tang (dù đã được lót tay trước bao thuốc, chai rượu), nhân cơ hội cũng khăng khăng đòi huỷ hợp đồng luôn vì đã quá quy định những... bốn ngày. Chỉ khổ cho anh chị tôi, khóc con năm sáu ngày đã cạn kiệt cả nước mắt rồi, trước tình cảnh "không khóc không xong với chúng nó" này, đành phải chạy ra nỉ non, khóc lóc, hứa hẹn "bồi thường đâu ra đó", nghe chừng tang thương hơn cả lúc khóc con.
Hai xe bon bon trên đường tới khu vực cổng nghĩa trang, cả mấy trăm con người đã quên dần "cõi thế", hướng cả vào cõi âm. Trạm dừng cuối cùng của mọi số kiếp sang hèn, đói khổ. Bỗng có tiếng quát giật giọng:
- Dừng lại!... dừng lại!
Anh lái xe khách khựng người trên vô lăng, cặp mắt đảo tứ phía, miệng lẩm bẩm:
- Lại chuyện gì nữa thế này?
Tôi giật mình, trước khi nhảy xuống phòng bảo vệ nghĩa trang còn kịp dõi đôi mắt về phía trước, nơi chiếc xe tang đã mất hút trong lòng nghĩa trang...
Trên xe đám đông hốt hoảng, nhốn nháo. Sẵn kinh nghiệm trong một tuần phục dịch, tôi... vén môi nở nụ cười thường trực và đánh bật lửa tanh tách... Hoá ra trăm sự tại cái chữ... hỉ này. Thật khỉ gió cái nhà anh tài. Xe đưa tang mà dám dán kín cả các hình thù nhảy nhót điên loạn, lại còn trương cả cái chữ hỉ to bằng... mả bố thằng ăn mày ngay đầu xe nữa. Có chết cha con người ta không?
Tài hùng biện, bao thuốc loại sang và chiếc bật lửa "bỏ quên" đã phát huy tác dụng. Chiếc thanh chắn từ từ được nâng lên, anh tài tăng hết ga đâm đánh xầm vào đít xe tang trước mặt.
Tôi cúi đầu, theo mọi người chui ra khỏi xe, cố nén một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Bỗng từ đâu anh tôi chạy lại, như hiện về từ thế giới bên kia. Mặt xanh mét, líu cả lưỡi.
- Khổ thân tôi không. - anh nói - Cháu nó chưa có hộ khẩu, người ta bảo không được phép chôn ở đây.
Sau lưng tôi đám đông biến thành cuộc biểu tình, cãi cọ, giằng co, la ó. Mấy bà cô hờ:
- "Ôi cháu ơi... biết chết khổ, chết nhục thế này thì tội gì cháu chết cháu ơi!"
Chàng lái xe tang tức khí mở toang cửa, đuổi hết mọi người xuống, rú ga, lùi sát đít xe đựng áo quan vào tận cửa văn phòng, rồi nhảy xuống, văng tục:
- Mẹ chúng mày. Không để yên cho ông đi, ông khênh quan tài vào giữa văn phòng cho mà ngửi. Lúc nào ngán thì tự chôn. Xem chúng mày có dám ăn thịt nó không?
Nhìn theo dáng điệu tự tin của thằng cả nhà tôi đi vào phía trong, tôi thở ra một hơi nhẹ nhàng.
Đúng nửa tiếng sau, nó quay ra bấm tôi: "Xong rồi... Bố tưởng nhập khẩu cho người chết dễ hơn người sống chắc?..."
Nó dúi vào tận mặt tôi tấm thẻ mộ: Lô 38, khu II, số mộ 1078... Rồi lên giọng giảng giải: Bố ơi, đồng tiền đi trước bao giờ cũng khôn, bố ạ. Tháng trước con đưa ông bạn con ra đây, gia đình lóng ngóng không biết đường lo lót chu đáo, cho nên phải vào nằm trong khu nghĩa trang làm phúc. Ở đấy toàn tứ cố vô thân, chết đường, chết chợ cả thôi bố ạ. Người ta lại vừa bốc mộ xong, nước ngập trắng xoá, dép nhựa, giẻ rách, mảnh áo quan không tan rữa được nổi lềnh phềnh kín mặt hố. Thật đúng là thế giới của người chết nghèo... Vừa nãy con phải nhờ "Bác" ba lần đưa đường chỉ lối(!) chúng nó mới chịu cho anh ấy được ra ở lô II này đấy, ngay gần khu các vị lãnh đạo.
Hoá ra, trong thế giới vĩnh hằng của người đã chết đẳng cấp vẫn còn phân biệt, quy luật giá trị vẫn còn tác oai tác quái.
... Đúng nghi lễ của người Việt Nam, chiều hôm ấy anh chị tôi làm cơm cúng ba ngày, mời bạn bè, họ hàng và người đưa tiễn ở lại thắp nén nhang để cùng tưởng nhớ tới người đã khuất. Trong vòng khói nhang nghi ngút, tôi rợn người khi nghe thấy tiếng khóc thút thít của cháu.
- Làm sao? - tôi thì thầm hỏi cháu tôi - Cháu làm sao?
- Cháu khổ quá chú ơi!
- Biết rồi! Khổ, chết ngoài kế hoạch thì sướng làm sao được!
- Biết thế này thà cháu sống mang tiếng là thằng ăn tàn, phá hoại cho xong.
- Thôi, dẫu sao mọi việc cũng qua rồi. Cháu bây giờ yên ấm dưới suối vàng.
- Chưa qua đâu chú ơi... Hu...hu... hu, cháu không nằm ngửa được... hòm chật quá! Mà sao khi đắp mộ cháu chú không "chi đẹp" cho mấy thằng phu mộ để chúng nó trừng phạt cháu, đắp điếm qua loa, ẩu không chịu được, để đến nỗi bây giờ suốt dọc sống lưng và phía dưới chân cháu đất sụt từng mảng, hở toác hoác. Gió nghĩa trang lồng lộng, lạnh buốt sống lưng, chú ơi... hu... hu...
Tôi đâm bổ đến chỗ thằng cả đang ngồi "chén chú chén anh", lôi xềnh xệch nó đi trước con mắt ngơ ngác của cả nhà:
- Đi! Ra ngay nghĩa trang với tao. Chỉ có mày đi tao mới yên tâm. Sau này bố có làm sao, nhớ là bố chỉ trông cậy vào một mình mày thôi đấy, con ạ.... Trời ơi! Chết mà còn khốn nạn khốn khổ thế này sao?!!
Sấp ngửa chạy ra chỗ dựng chiếc xe đạp cà tàng, thằng cả bảo:
- Bố ơi, đến lượt bố, bố nhớ phải chết trong kế hoạch đấy nhớ, cho chúng con nhờ, chứ ngoài kế hoạch thế này, khổ lắm...
Hà Nội cuối 1986
Trần Khải Thanh Thuỷ
Chết Ngoài Kế Hoạch
Trần Khải Thanh Thuỷ
"…Chết sông chết suối, ngờ đâu chết đuối đọi đèn..…
Thằng cháu tôi đi bộ đội bốn năm, bảy tháng, lù lù dẫn xác về. Chưa kịp nhập hộ khẩu, đã sinh cờ bạc, số đề, rượu chè, rồi thất tình, đau khổ... Một buổi trưa nó nốc rượu say mèm và gục mặt chết ở vũng nước tiểu của mình.
Gom góp họ hàng được gần ba trăm ngàn, tôi tức tốc đạp xe lên cửa hàng huyện, nơi chuyên bán áo quan, xô màn:
- Chị... chị làm ơn...
Chị bán hàng mặt lạnh như tiền:
- Hết rồi bác ạ!
- Kia thây... - tôi lặng người, rón rén chỉ vào đống áo quan trước mặt.
Chị ta bảo:
- Của quý bốn đấy, bác ạ, quý ba bán hết từ ba hôm nay rồi. Tuần sau bác lại.
Tôi kêu lên:
- Trời ơi... có mà đau đẻ chờ sáng giăng...
Thông cảm với bộ dạng nhớn nhác, chán chường của tôi, chị bán hàng nói với giọng thông cảm:
- Thôi, thế này vậy, bác chịu khó đạp xe lên huyện xin chữ ký chứng thực, đề nghị linh động giải quyết, rồi về đây cháu bán cho...
Nhưng rồi thấy tôi cứ đứng lặng, tưởng như đang phải nói chuyện với thây ma, chị bán hàng gắt:
- Kìa, đi đi chứ bác. Quãng chục cây số nữa thôi... Nhưng bác nhớ phải quay về xã viết đơn và xin dấu má thật đầy đủ đấy.
Gần sáu mươi tuổi đầu, bao lần đối mặt với cái chết, chưa bao giờ tôi trải qua tâm trạng bực bội và căng thẳng đến mức này... Xếp cả chồng tiền gần ba trăm ngàn, tháo luôn cả chiếc đồng hồ Citizen màu vàng chanh đặt lên quầy, tôi bảo:
- Đây, để làm tin, đề nghị chị linh động giải quyết, chứ sức vóc tôi không đạp nổi ba chục cây số nữa đâu.
- Ấy chết, không được. - chị ta nguây nguẩy - có chỉ thị của trên rồi.. Quý ba này chúng cháu chỉ được phép bán 2000 cái, mà đã vượt mức trên hai chục cái rồi... Khổ! Sao bác không chịu khó đến từ tuần trước? Sang quý tư cháu hụt chỉ tiêu trên giao thì khốn.
- Thế... - tôi ngơ ngác -... chị nói.... nói thế... có nghĩa là... cháu tôi chết ngoài kế hoạch?
- Vâng, có thế cháu mới yêu cầu bác phải có chứng thực của địa phương và giấy xác nhận của huyện chứ.
Lại còn thế nữa.... Như cái xác không hồn, tôi lừ đừ dắt xe ra, đầu nhức buốt.
***
Tôi quay điện thoại.
- A lô...
- Gì đấy - đầu dây bên kia có tiếng đáp khẽ kèm theo một tiếng gắt... Thủ trưởng đi họp rồi.
- Đề nghị... - tôi lớn tiếng
Mặc thái độ nôn nóng của tôi, người bên kia, giọng còn trẻ lắm, lên giọng:
- Đại sự quốc gia bố già ơi... Tuần sau bố quay lại nhá!
- Trời ơi...! - tôi rên lên, tưởng đất dưới chân sụp lở hàng mảng.
- Khổ lắm... đã bảo đại sự quốc gia mà lị - giọng anh ta càng lúc càng thêm chớt nhả - Bố không chờ được đâu. Mà chờ cũng chẳng để làm gì. Thủ trưởng không giải quyết đâu. Trừ có cái chết.
- Dạ... - tôi đổi sợ thành mừng, líu lưỡi - Chết ạ?... Vâng, thế thì trường hợp này của tôi đúng là chết, chết thật đấy ạ... Cháu tôi...
- Mẹ bố khỉ - hắn cười khành khạch - Cháu bố thì liên quan gì đến đây?
- Nhưng... - tôi chưng hửng
- Định hối lộ hả?... Bắt cóc thủ trưởng về tận quê ăn cỗ cơ đấy... Dịp khác nhé. Hắn tuyên bố.
Tôi đột ngột nổi cơn lôi đình.
- Không còn dịp nào hết!
- Bố cưới hay thằng cháu bố chẳng hạn?
Nghe tiếng máy xập, tôi thất vọng đạp xe ra về, cảm giác rõ hai đầu gối củ lạc sắp long ra đến nơi.
***
Đúng giờ ngọ hôm sau mọi ước muốn của tôi rồi cũng được thực hiện (cũng may, cuộc họp chỉ kéo dài... có một ngày). Nhờ sự "ngoài kế hoạch" của thằng cháu, tôi được dịp tham quan một lô phòng ban và nhận diện không biết bao nhiêu "ngài đáng kính".Hoá ra từ cái váy quan liêu đẻ ra lắm ban bệ, chức tước thật. Chả trách thằng cháu tôi chưa kịp nhập hộ tịch đã nóng lòng chui đầu ra khỏi váy để rồi rơi tọt xuống đất đen theo kiểu "ngoài kế hoạch" thế này.
Hộc tốc đưa giấy về nhà tôi mới ngã ngửa... Dưới hàng loạt chữ ký và con dấu đo đỏ ở phía dưới là dòng chữ "Đề nghị xem xét lại". Hoặc "Chờ xác minh"... Thì ra vì cuống, vì cái bệnh quên không đeo kính, vì cái đầu u mê, nên khi ở trụ sở công an xã bước ra tôi đã không chịu xem lại, xem thật kỹ cho chắc ăn. Tưởng đơn thuần là giấy chứng thực báo tử, ai ngờ họ còn ghi thêm mấy dòng nghi vấn:
"Chết không rõ lý do.. Công an địa phương đang tiến hành điều tra".
Tôi vò đầu, bứt tai, muốn dựng xác cháu lên mà đánh cho hả giận. Cái ngữ nó sống báo hại bố mẹ, chết báo hại chú... Hai ngày trời đạp xe giữa trời nắng chang chang như đổ lửa với sáu bận đi về hơn trăm cây số có ít đâu... trời ơi! Trời có mắt không hả trời? Hay trời cũng mắc bệnh quan liêu nốt?
Nhìn nét mặt chưng hửng của tôi, thằng cả kịp hiểu ra tất cả, nó dúi tút thuốc lá và cả bọc chè vài cân vào tay tôi, rồi giục:
- Bố chịu khó quay lại chỗ công an xã, nói khó với các anh ấy, nhờ các anh ấy chứng thực cho.
Bảo họ ghi thật rõ vào. "Đã chết hẳn vì lý do thất tình do uống rượu"...
Chưa đủ, nó còn dặn thêm:
- Dù hoàn cảnh thế nào bố cũng phải giữ bộ mặt cho thật tươi tỉnh cho con nhờ... Chứ như người sắp đưa ma thế kia, bố ai dám nhận chè thuốc của bố?
Lại một ngày đạp xe, chầu chực, rút kinh nghiệm, lần này tôi thủ sẵn một bao thuốc trong túi và nụ cười thường trực... trên khoé miệng. Đến phòng ban nào cần chứng thực đóng dấu, tôi lập tức bấm bật lửa tanh tách và... vén môi cười xoè... Cuối cùng một dòng chữ loằng ngoằng nửa giun, nửa dế kiểu... bổ túc văn hoá lớp 3 của ông chủ tịch huyện cũng phải bò ra:
"Chết ngoài kế hoạch. Linh động giải quyết."
Cô bán hàng hôm xưa đã nghỉ. Thay cho cô là một thị trẻ hơn, cong cớn khi nhận xấp giấy từ tay tôi:
- Dấu má gì mà mờ thế này?
- Thì dấu của huyện mà chị!
- Huyện nào. Cháu bảo cái dấu ở giấy báo tử kia.
- Ô hay, cháu tôi chết thật mà chị.
- Biết thật hay giả??... Lần sau bác lưu ý rút kinh nghiệm. Dấu mờ thế này mà còn cầm lên đây là cháu bắt về xã xác minh lại đấy.
- Ô...
Vẫn biết tất cả sự lo lắng quan tâm cho sự ra đi của người đã chết chỉ có tác dụng an ủi với người sống. Còn "cát bụi lại trở về với cát bụi". Song "nghĩa tử là nghĩa tận". Tôi cố gắng chọn lấy một cái áo quan đèm đẹp, không nứt, không vênh, không hụt quá hoặc to quá. Khổ một nỗi đống gỗ hòm này quá dở. Không chứng nọ cũng tật kia.
Chị bán hàng thấy tôi có vẻ phân vân, phát bực:
- Thôi, bác ôm nhanh hộ cháu một cái đi. Còn nhiều thủ tục phải giải quyết lắm đấy!
- Vâng, - tôi vội vàng cầu cứu - Chị duyệt cho tôi ít xô màn tiêu chuẩn.
- Bác ra đầu phố mà mua. Hay chửa, đã "chết ngoài kế hoạch" còn đòi duyệt xô màn trong tiêu chuẩn.
Há miệng mắc quai, tôi đành chữa thẹn:
- Thôi được, chị cho tôi nộp tiền thuê xe.
- Chỉ xe tang thôi đấy bác nhớ. Công tác phục vụ tang lễ đã hoàn thành kế hoạch quý ba rồi, tất cả xe khách bây giờ được trên huy động vào đám cưới để làm kế hoạch ba hết. Mùa này là mùa cưới mà.
Run run cầm tấm hoá đơn thuê xe trên tay, tôi khật khưỡng đạp về nhà. Thằng cả bàn:
- Bố cứ ra công ty xe khách mà thuê. Những năm, sáu trăm người cơ mà. Phần lý do thuê bố cứ ghi đại là "đám cưới".
- Đồ...
Tôi trợn mắt, chưa kịp quát nó đã cười ngoác miệng chữa thẹn:
- Thì đang mùa cưới mà bố. Lên tận đấy mà nói lý do: thuê xe tang cho đám ma. Bố ai người ta dám...
***
Nhìn dòng chữ nguệch ngoạc "10 giờ sáng 25/8" trên hợp đồng, tôi giật thót mình:
- Ấy chết, bác linh động cho. Gia đình tôi nhỡ đã ba bốn hôm nay rồi, nóng nực thế này....
- Thì "ngoài kế hoạch" mà bác, Hợp đồng chúng em kín cả rồi, nể bác lắm đấy, nhưng mà chịu...
Thôi chịu khó chờ mấy hôm vậy, bác ạ. Có tốn kém thêm một chút, nhưng vui vẻ. Cả đời mới có một lần ấy mà. Nóng nực sợ thiu bác cứ quăng hết vào tủ lạnh là khỏi lo... Có ế ẩm nữa, bác cứ quay lại đây, anh em cánh xế chúng em xài giúp... Nhồi vào "tủ nóng" còn tốt hơn tủ lạnh đấy bác ạ.
Dở cười dở mếu tôi quay trở lại nhà.
Công việc liệm thi hài bắt đầu. Thay vì những tiếng thút thít, nỉ non, ai oán và lén giơ tay áo lên quệt nước mắt, người ta lẩm bẩm chửi lũ ruồi nhặng chết tiệt và lén giơ tay... bịt mũi, xua ruồi. Chiếc quan tài đèm đẹp tôi đã mất công chọn cả buổi sáng hoá ra quá chật so với thi thể người quá cố. Một phần vì thi hài "nóng nở ra", phần khác vì sản phẩm của công ty là "ngoài kế hoạch", nên những người gia công đóng hòm đã cố gắng tận dụng cả chiều rộng lẫn chiều dài tấm ván. May mà đặt được cháu nằm nghiêng.
Chết đâu phải đã hết. 10 giờ sáng, quang cảnh nhà anh chị tôi hệt như một đám "hát bội". Nửa bưng mặt khóc, nửa bưng miệng cười. Hai chàng tài xế văng tục chửi um. Thực hiện đúng hợp đồng, chàng Công ty xe khách vòng vo tìm nhà. Quay ra quay vào mấy lần thấy vẫn đúng số nhà ghi trên hợp đồng, nhưng không phải đám cưới mà là đám tang. Biết bị "ăn quả lừa" chàng ta làm toáng lên, một hai đòi huỷ hợp đồng. Chàng xe tang (dù đã được lót tay trước bao thuốc, chai rượu), nhân cơ hội cũng khăng khăng đòi huỷ hợp đồng luôn vì đã quá quy định những... bốn ngày. Chỉ khổ cho anh chị tôi, khóc con năm sáu ngày đã cạn kiệt cả nước mắt rồi, trước tình cảnh "không khóc không xong với chúng nó" này, đành phải chạy ra nỉ non, khóc lóc, hứa hẹn "bồi thường đâu ra đó", nghe chừng tang thương hơn cả lúc khóc con.
Hai xe bon bon trên đường tới khu vực cổng nghĩa trang, cả mấy trăm con người đã quên dần "cõi thế", hướng cả vào cõi âm. Trạm dừng cuối cùng của mọi số kiếp sang hèn, đói khổ. Bỗng có tiếng quát giật giọng:
- Dừng lại!... dừng lại!
Anh lái xe khách khựng người trên vô lăng, cặp mắt đảo tứ phía, miệng lẩm bẩm:
- Lại chuyện gì nữa thế này?
Tôi giật mình, trước khi nhảy xuống phòng bảo vệ nghĩa trang còn kịp dõi đôi mắt về phía trước, nơi chiếc xe tang đã mất hút trong lòng nghĩa trang...
Trên xe đám đông hốt hoảng, nhốn nháo. Sẵn kinh nghiệm trong một tuần phục dịch, tôi... vén môi nở nụ cười thường trực và đánh bật lửa tanh tách... Hoá ra trăm sự tại cái chữ... hỉ này. Thật khỉ gió cái nhà anh tài. Xe đưa tang mà dám dán kín cả các hình thù nhảy nhót điên loạn, lại còn trương cả cái chữ hỉ to bằng... mả bố thằng ăn mày ngay đầu xe nữa. Có chết cha con người ta không?
Tài hùng biện, bao thuốc loại sang và chiếc bật lửa "bỏ quên" đã phát huy tác dụng. Chiếc thanh chắn từ từ được nâng lên, anh tài tăng hết ga đâm đánh xầm vào đít xe tang trước mặt.
Tôi cúi đầu, theo mọi người chui ra khỏi xe, cố nén một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Bỗng từ đâu anh tôi chạy lại, như hiện về từ thế giới bên kia. Mặt xanh mét, líu cả lưỡi.
- Khổ thân tôi không. - anh nói - Cháu nó chưa có hộ khẩu, người ta bảo không được phép chôn ở đây.
Sau lưng tôi đám đông biến thành cuộc biểu tình, cãi cọ, giằng co, la ó. Mấy bà cô hờ:
- "Ôi cháu ơi... biết chết khổ, chết nhục thế này thì tội gì cháu chết cháu ơi!"
Chàng lái xe tang tức khí mở toang cửa, đuổi hết mọi người xuống, rú ga, lùi sát đít xe đựng áo quan vào tận cửa văn phòng, rồi nhảy xuống, văng tục:
- Mẹ chúng mày. Không để yên cho ông đi, ông khênh quan tài vào giữa văn phòng cho mà ngửi. Lúc nào ngán thì tự chôn. Xem chúng mày có dám ăn thịt nó không?
Nhìn theo dáng điệu tự tin của thằng cả nhà tôi đi vào phía trong, tôi thở ra một hơi nhẹ nhàng.
Đúng nửa tiếng sau, nó quay ra bấm tôi: "Xong rồi... Bố tưởng nhập khẩu cho người chết dễ hơn người sống chắc?..."
Nó dúi vào tận mặt tôi tấm thẻ mộ: Lô 38, khu II, số mộ 1078... Rồi lên giọng giảng giải: Bố ơi, đồng tiền đi trước bao giờ cũng khôn, bố ạ. Tháng trước con đưa ông bạn con ra đây, gia đình lóng ngóng không biết đường lo lót chu đáo, cho nên phải vào nằm trong khu nghĩa trang làm phúc. Ở đấy toàn tứ cố vô thân, chết đường, chết chợ cả thôi bố ạ. Người ta lại vừa bốc mộ xong, nước ngập trắng xoá, dép nhựa, giẻ rách, mảnh áo quan không tan rữa được nổi lềnh phềnh kín mặt hố. Thật đúng là thế giới của người chết nghèo... Vừa nãy con phải nhờ "Bác" ba lần đưa đường chỉ lối(!) chúng nó mới chịu cho anh ấy được ra ở lô II này đấy, ngay gần khu các vị lãnh đạo.
Hoá ra, trong thế giới vĩnh hằng của người đã chết đẳng cấp vẫn còn phân biệt, quy luật giá trị vẫn còn tác oai tác quái.
... Đúng nghi lễ của người Việt Nam, chiều hôm ấy anh chị tôi làm cơm cúng ba ngày, mời bạn bè, họ hàng và người đưa tiễn ở lại thắp nén nhang để cùng tưởng nhớ tới người đã khuất. Trong vòng khói nhang nghi ngút, tôi rợn người khi nghe thấy tiếng khóc thút thít của cháu.
- Làm sao? - tôi thì thầm hỏi cháu tôi - Cháu làm sao?
- Cháu khổ quá chú ơi!
- Biết rồi! Khổ, chết ngoài kế hoạch thì sướng làm sao được!
- Biết thế này thà cháu sống mang tiếng là thằng ăn tàn, phá hoại cho xong.
- Thôi, dẫu sao mọi việc cũng qua rồi. Cháu bây giờ yên ấm dưới suối vàng.
- Chưa qua đâu chú ơi... Hu...hu... hu, cháu không nằm ngửa được... hòm chật quá! Mà sao khi đắp mộ cháu chú không "chi đẹp" cho mấy thằng phu mộ để chúng nó trừng phạt cháu, đắp điếm qua loa, ẩu không chịu được, để đến nỗi bây giờ suốt dọc sống lưng và phía dưới chân cháu đất sụt từng mảng, hở toác hoác. Gió nghĩa trang lồng lộng, lạnh buốt sống lưng, chú ơi... hu... hu...
Tôi đâm bổ đến chỗ thằng cả đang ngồi "chén chú chén anh", lôi xềnh xệch nó đi trước con mắt ngơ ngác của cả nhà:
- Đi! Ra ngay nghĩa trang với tao. Chỉ có mày đi tao mới yên tâm. Sau này bố có làm sao, nhớ là bố chỉ trông cậy vào một mình mày thôi đấy, con ạ.... Trời ơi! Chết mà còn khốn nạn khốn khổ thế này sao?!!
Sấp ngửa chạy ra chỗ dựng chiếc xe đạp cà tàng, thằng cả bảo:
- Bố ơi, đến lượt bố, bố nhớ phải chết trong kế hoạch đấy nhớ, cho chúng con nhờ, chứ ngoài kế hoạch thế này, khổ lắm...
Hà Nội cuối 1986
Trần Khải Thanh Thuỷ
SƠN TRUNG * SAU CƠN BÃO LỤT
SAU CƠN BÃO LỤT
SƠN TRUNG
Lúc bấy giờ thế giới lâm cảnh đại chiến, toàn cầu chia làm ba phe: phe xanh, phe đỏ và phe vàng. Phe xanh và phe đỏ kết hợp cùng nhau đánh phe vàng nên phe vàng đại ba.i. Nước Phương Nam chia hai phe, một bên theo phe đỏ, một bên theo phe xanh. Anh em Lưu Cáo là một trong những anh hùng của thời này đã theo phe đỏ. Lưu Cáo là người tinh thông thập bát ban võ nghệ, mà trí tuệ cũng hơn người. Ông tuyên bố thực hiện đường lối vương đạo, lấy nhân nghĩa làm đầu và thực thi công bằng xã hô.i. Ông cho ông là người kết hợp lý thuyết với thực hành, đưa triết lý từ trên trời xuống cõi nhân thế, còn Phật, Lão, Khổng Mạnh chỉ là lý thuyết suông, không đem lại cơm no áo ấm một cách thực tế cho dân nghèo. Ông ra lệnh triệt hạ chùa chiền, đình miếu, bắt các sư sãi phải nhập ngũ tòng chinh vì theo ông tôn giáo là thuốc phiê.n. Ông quan niệm rằng lao động là vinh quang, những ai không lao động tức là ăn hại xã hội, hoặc bóc lột nhân dân phải bị tiêu trừ. Vì vậy ông ra lệnh quân lính tịch thu gia sản các nhà giàu. Ai tỏ ý kháng cự hay than van là ông cho binh sĩ toàn quyền giết sạch hoặc bỏ tù họ. Ông nhận định chỉ có công nhân và nông dân là đich thực tầng lớp lãnh đạo vì họ là thành phần lao động sản xuất, còn bọn khoa bảng thì không có giá trị bằng cục phân. Vì vậy, ông ra lệnh giết, bỏ tù hoặc thải hồi các vị tú tài, cử nhân và tiến sĩ. Một số cử nhân, tú tài vì sự sống, đã khai mình là công nhân, nông dân để được kết nạp vào hàng ngũ tân chính. Hạng thương nhân cũng bị gán tội là thành phần bóc lột, là gian thương, là kẻ thù của dân lao đô.ng. Ông hứa hẹn sẽ cho mỗi dân nghèo có một mẫu ruộng, mội cái nhà và một mảnh vườn trồng rau, cây ăn trái và trồng hoa bốn mùa.
Lưu Cáo vừa dùng lý luận, vừa hứa hẹn, vừa khủng bố cho nên dân chúng đa số đi theo ông. Quân lính càng ngày càng đông, lại được Mẫu quốc Đỏ ủng hộ nhiệt tình nên phe xanh thua trận, ông đem binh tiến về kinh đô rồi xưng hoàng đế, lập chế độ “quân chủ chuyên chế nhân dân”.
Sau khi Lưu Cáo lên ngôi hoàng đế, mưa gió tầm tã, bão tố triền miên gây ra những cơn lụt khủng khiếp tại miền Bắc. Làm vua được vài năm, Lưu Cáo bệnh chết vì không con nên em là Lưu Hồ lên ngôi. Khi Lưu Hồ lên ngôi lại một trận lụt khác nổi lên, mà nặng nhất là ba tỉnh Sơn Hưng Tuyên. Trước tình cảnh khốn khổ của dân chúng, đức vua triệu tập một cuộc họp khẩn cấp trong đó có tổng đốc Sơn Hưng Tuyên tham dự. Quan thượng thư bộ Lễ đề nghị kêu gọi quốc tế viện trợ và đồng bào trong và ngoài nước góp tiền bạc, áo quần và lương thực về cứu trợ nạn nhân bão lu.t. Quan thượng thư bộ Binh tâu xin bắt hết những ai có thể chống chế độ và có thể gây nổi loạn trong nước. Quan thượng thư bộ Hình xin ra pháp lệnh việc cứu trợ là độc quyền của triều đình, tư nhân không được tham gia, ai tự tiện đem gạo vải trực tiếp cho nạn nhân thì sẽ bị trị tô.i. Tiền bạc, áo quần , thuốc men của tư nhân và quốc tế phải gừi về triều đình để triều đình định đoa.t. Vua chỉ thị quan tổng đốc Sơn Hưng Tuyên chấp hành các nghị quyết của hội nghị triều đình.
Khi trở về nhiệm sở, tổng đốc Sơn Hưng Tuyên triệu tập cuộc họp khẩn cấp. Ông thông báo các nghị quyết mới nhất của triều đình về việc cứu trợ, và yêu cầu các quan dưới quyền đóng góp ý kiến. Quan đầu tỉnh Sơn Tây trình bày:
-Bẩm quan lớn, Sơn Hưng Tuyên có mười phủ, thực tế chỉ có sáu phủ là gặp thiên tai. Vậy ta chỉ tập trung nỗ lực cứu trợ sáu phủ. Còn bốn phủ kia phải cứu giúp tiền bạc, thuốc men, thóc gạo và y phu.c.
Quan đầu tỉnh Hưng Hóa phát biểu ý kiến:
-Thưa ngài tổng đốc, bỉ chức có ý kiến là chúng ta cho lính thu mua thóc gạo các nhà giàu để bán rẻ cho dân đói.
Quan án sát Tuyên Quang nói:
Để tránh việc một gia đình nhận gạo nhiều lần, và tránh việc chen lấn mất trật tự, chúng ta nên thiết lập danh sách các gia đình và các nhân khẩu bị thiên tai. Gia đình nhiều người thì phát nhiều, ít người thì phát ít.
Ngay sau buổi họp, quan tổng đốc ra lệnh hai mươi huyện thuộc bốn phủ không bị thiên tai phải đóng góp để giúp đỡ nạn nhân thiên tai theo tinh thần “lá lành đùm lá rách “. Những quan viên và lại viên trong ba tỉnh Sơn Hưng Tuyên phải góp một phần tư số lương bổng. Quan tổng đốc ra chỉ tiêu cho mỗi huyện phải thu mua 20 tấn thóc, nhà nào không bán thóc thì sẽ bị bắt giam hoặc bị phạt vạ. Quan huyện Lập Thạch (Sơn Tây) đặt câu hỏi:
-Bẩm quan lớn, nếu thu mua thóc gạo của dân chúng, thì mỗi cân trả bao nhiêu và lấy tiền ở đâu mà trả?
Quan tổng đốc nổi giận, chỉ mặt quan huyện Lập Thạch mà mắng:
-Ông làm quan bao lâu mà lại đặt câu hỏi ngu xuẩn như thế?
Quan huyện Lập Thạch liền bị lôi xuống nhà giam. Nghe đâu ông bị giam vài năm vì tội bất tuân thượng lệnh, có tư tưởng chống đối triều đình, và không hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó. Sau vài năm ngồi trong nhà lao, ông chắc hiểu rõ bí quyết làm quan. Nhưng khi ông hiểu rõ thuật này thì đã trễ vì triều đình đã thải hồi ông về quê cày ruô.ng.
Công việc thu mua kéo dài đến vụ mùa sau, còn việc phát chẩn thì thực hiện gấp rút. Sau khi chờ đợi ba tháng lập sổ hộ khẩu, quan tổng đốc ra lệnh mở kho phát chẩn. Mỗi hộ được khoảng hai, ba cân ga.o. Một số tiền bạc, hàng hóa gửi về triều đình thì bỏ vào kho lương thực nhà nước, còn tiền bạc thì chuyển vào ngân hàng hoàng gia. Kết thúc vụ thiên tai, quan thượng thư bộ Tài chánh báo cáo mật với đức vua là thâu được hai mươi ngàn lượng vàng. Đức vua vui cười mà bảo rằng:
-Các khanh làm việc rất tốt. Chúng ta sản xuất mười năm cũng không thắng lợi bằng một cơn bão lụt mất mùa. Cầu cho năm nào nước ta cũng bị hạn hán và bão lụt!
Công cuộc phát chẩn chưa kết thúc, sứ giả triều đình đã đến hối thúc quan tổng đốc báo cáo tình hình về triều đình, nhất là tình hình tài chánh thu được bao nhiêu, và phát ra bao nhiêu. Quan tổng đốc vội sai ban tài chánh đúc kết việc xuất nhâ.p. Sau mấy ngày tính toán, viên thư lại già trình quan tổng đốc là thu được tám ngàn lượng vàng do quốc tế viện trợ và hải ngoại gửi về cho thừa tuyên Sơn Hưng Tuyên. Còn việc cắt lương viên chức và thu mua lúa dân cũng được ba ngàn lượng trong vòng ba tháng. Tất cả đã gửi vào ngân hàng Vạn Lợi rất bảo đảm. Quan tổng đốc tính sẽ giữ lại năm ngàn lượng cho mình, còn sáu ngàn lượng sẽ dâng lên cho đức vua. Quan nghĩ rằng với món lễ vật này sẽ lảm cho hoàng thượng vui lòng, và ông sẽ được thăng quan tiến chức, và gia đình ông sẽ được hạnh phúc. Ông lên tiếng bảo viên lại già làm sớ tâu vua thành quả việc cứu trợ và hứa hẹn sẽ dâng vua sáu ngàn lượng vàng. Viên lại già tuân lời, và hôm sau quan tổng đốc đã ký tên vào tấu chương và cho người gửi đi. Ông đã phục vụ hai triều vua, đã theo tiên hoàng chinh chiến khắp nơi, tay ông đã giết hàng ngàn mạng người kể cả binh lính và dân chúng nên ông mới được hoàng thượng tín nhiệm cất nhắc từ tri huyện lên tuần phủ rồi tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, mặc dầu ông là một võ tướng, không biết chữ nhất là mô.t. Ông đã xây dựng cho tương lai ông và gia đình ông. Ông chợt nghĩ đến thằng con ông. Mấy hôm nay nó đi đâu mất biê.t. Cũng như ông lúc nhỏ, con ông không thích học, chỉ thích chơi bời. Nó học rất dốt nhưng ông đã vận động cho nó vào Quốc Tử Giám. Dẫu sao, nó cũng mang danh là giám sinh cũng đủ xênh xang với người đời.
Buổi trưa, dùng cơm xong, quan tổng đốc định nghỉ trưa một giấc như thường lệ. Vừa định lui gót vào hậu đường thì viên lại già phụ trách Tài vụ đã chạy đến cấp báo:
- Bẩm quan lớn, vàng bạc hết sạch rồi!
- Sao? Ngươi nói sao?
- Bẩm quan lớn, hôm qua ai đó đã rút hai mươi ngàn lượng vàng. Trưa nay ngân hàng Vạn Lợi đã cho người báo tin này, và đổ trường Đại Thắng đã đến nhận hai mươi ngàn lượng vàng tại ngân hàng. Bẩm quan lớn, Tiền cứu trợ mất hết rồi, làm sao trả lời với triều đình?
Quan lớn nổi trận lôi đình, sai bọn tuần bộ đi điều tra. Họ đi một buổi, trở về trình quan tổng đốc là suốt tháng vừa qua, đại công tử đã thua hai chục ngàn lượng vàng, đã ký giấy nợ, và giao nạp sổ ngân hàng của ngài cho đổ trường. Đỗ trường bèn giao giấy nợ cho ngân hàng Vạn Lợi, và ngân hàng này đã lấy số vàng của quan lớn mà xiết nợ công tử.
Nghe tin dữ, quan tổng đốc xây xẩm mặt mày. Ngân hàng Vạn Lợi và đổ trường Đại Thắng đều là cơ sở kinh tài của Mẫu Quốc. Mắc nợ của họ thì chỉ có chết, không thể dùng tình cảm hay pháp luật nói chuyện với họ. Nếu là ngân hàng và công ty Việt Nam, ngài có thể dùng quyền uy mà từ chối hoặc bỏ tủ họ về tội sái luật, hoặc dùng tình cảm mà khất nợ. Nhưng đây là ngân hàng và công ty của Mẫu quốc. Họ có luật của họ. Cha mắc nợ thì họ bắt con trả. Con mắc nợ thì họ buộc cha phải đền. Đó là pháp luật, là phong tục Mẫu quốc. Khi ký giấy vay nợ , các nạn nhân phải cam kết công nhận điều kiện này. Chính hoàng đế khi khởi binh cũng đã vay nợ ngân hàng Vạn Lợi để mua lương thực và vũ khí, và họ ngon ngọt bảo là họ viện trợ vì tình anh em quốc tế, “ núi liền núi, sông liền sông”. Nợ cha đẻ nợ con, cứ chồng chất lên cao, vua phải dâng một phần đất nước cho họ. Sau khi lên ngôi, Lưu Minh cũng đã phải ký bán đất cho mẫu quốc. Tể tướng đầu tiên, tể tướng thứ hai, thứ ba cũng ký tên bán nước. Nay con ông lại vay nợ Mẫu Quốc, làm sao ông trả vàng cho triều đình? Nếu thủ phạm cướp tài sản của ông là người ngoài, ông có thể kiện để bỏ tù nó nhưng thủ phạm lại là con ông! Dù bỏ tù nó, số vàng của ông cũng đã bị ngân hàng mẫu quốc xiết nợ, không thể đòi la.i. Số vàng ông thu được của tứ phương là tài sản của triều đình, ông không thể nuốt trọn, mà phải dâng na.p. Ông không thể giấu diếm vì bên cạnh ông, có nhiều tai mắt của triều đình. Mất tiền của triều đình thì phải bị ngồi tù hoặc bị chém đầu. Đằng nào ông và con ông cũng bị tội, không phương cứu vãn. Ông không biết làm sao giải quyết vấn đề!
Thấyquan tổng đốc buồn rầu, một viên Đô lại già xin vào hiến kế. Y nói:
-Bẩm quan lớn, xin quan lớn giao toàn qưyền cho con, con sẽ giải quyết mọi vấn đề cho ngài.
Quan lớn được lời như cởi tấm lòng, bèn chấp thuận đề nghị của viên lại
già. Vài tháng sau, khắp nơi người ta thấy cáo thị của công ty Hoàn Mỹ
tuyển chọn nhân viên. Lúc này, khắp nơi bão lụt, đói kém, lại nữa từ khi
anh em họ Lưu cai trị, đời sống nhân dân ngày càng xuống thấp. Nay được
thông báo tuyển lựa nhân viên thì nam nữ, trẻ gìà ai cũng phấn khởi.
Mỗi người trúng tuyển phải nộp mười lạng vàng cho công ty. Sau mấy tháng
thì dịch vụ đưa nam nữ ra lao động nước ngoài được thực hiê.n. Tiếp
theo là chương trình giới thiệu hôn nhân ngoại quốc. Cuộc làm ăn thành
tựu vì người các nước đến Việt Nam chọn lựa người đẹp để đem về nước họ.
Song song với các dịch vụ trên, còn có việc quan tổng đốc chiếm đất đai
của nhân dân đem bán cho ngoại quốc. Viên Đô lại già lại hiến kế bắt
các nhà buôn bán trong tỉnh nộp thêm thuế 5% , và các tiệm rượu, tiệm ăn
phải bán bánh kẹo, đậu phụng cho khách, dù khách không ăn cũng phải
tính tiền, tất cả đều bỏ vào quỷ “ xóa đói giảm nghèo”. Viên đô lại cũng
vạch kế ho.ach phá rừng, lấp sông để lấy ruộng đất bán cho ngoại bang.
Chỉ trong mấy tháng mà quan tổng đốc đã thâu mấy vạn lượng vàng. Quan
bèn trích ra một số tặng các kẻ thân tín và một số dâng hoàng thươ.ng.
Ông được vua ban cho danh hiệu “ nhà tỷ phú nhân dân”, là “ nhà kinh
doanh tài giỏi nhất quốc gia” được ghi tên vào quyển “ Guinness quốc gia
và thế giới” . Vài tháng sau, quan tổng đốc được thăng Lại bộ thượng
thư, rồi làm tể tướng. Từ đây, ông sống trong giàu sang và quang vinh
nhất nước. Kể từ khai quốc đến nay, nước ta chưa có ai giàu lớn và giàu
mau như thế. Đó là một niềm tự hào của tổ quốc và nhân dân ta, nhất là
niềm tự hào của triều đình ta đã tiến nhanh tiến mạnh vượt qua tư bản và
quân chủ! Vì vậy, khắp nước, phong trào buôn dân, bán nước trở thành
mạnh mẽ trong triều đình và các địa phương. Người ta tranh nhau làm giàu
bất kể thủ đoa.n.
Về công tử con quan tổng đốc sau khi thân phụ cậu lên làm tể tướng thì
càng ngày cậu càng thêm thanh thế. Công cuộc kinh doanh của cậu và gia
đình cậu từ địa bàn Sơn Hưng Tuyên mở rộng qua toàn quốc và toàn cầu.
Bọn thanh niên con các quan trong triều ngày càng bâu xung quanh cậu
đông đảo. Cậu say mê cở bạc mà cũng say mê ca vũ nha.c. Cậu say mê cô
đào Nguyệt Minh, một hoa khôi tại trà lầu Bồng Đảo, mà cậu con trai con
cựu thừa tướng cũng yêu Nguyệt Minh. Vì tranh gái đẹp, hai bên đi đến ấu
đả nhiều lần. Một hôm con trai tân thừa tướng đến trà lầu thì gặp lúc
con trai cựu thừa tướng đang ôm ấp Nguyệt Minh. Cậu tức giận xông vào
đấm đá cặp ”gian phu gian phụ” . Con trai cựu thừa tướng một mặt tức
giận về cha cậu bị thất sủng, công việc kinh doanh bị tân thừa tướng lấn
át, còn người yêu của cậu cũng bị thằng nhãi chiếm đoạt, y tức giận rút
súng bắn con trai tân thừa tướng ba phát vào đầu, hai phát vào tim. Khi
đưa cậu vào y viện thì cậu đã trút hơi thở cuối cùng!
Sơn Trung
NGUOI TRAN GIAN *THƯƠNG GIA ÁO VÀNG…
THƯƠNG GIA ÁO VÀNG…
"A Di Đà Phật, là một Phật tử, nếu nói láo, nói thêu dệt chẳng những có tội mà còn mang khẩu nghiệp, biết sai mà ngậm miệng bao che lại nặng tôi hơn. Lời nói phải không sợ khẩu nghiệp mà còn được phước vì có thiện ý cảnh tỉnh người mê muội"
Sự kiện Ông Trần văn Cảnh hay Tắt Phước hay Phước Huệ gì đó, mượn chiếc áo vàng, đội lớp thầy tu làm ô uế cưả thiền môn, hay lấy tiền chùa Quy Mã du hí với người yêu Diệu Đức hai tháng mỗi năm mới chỉ là một, còn nhiều lắm, nó chưa lộ ra vì các ông, các bà khác vẫn còn nồng ấm hương T… giữa thầy, giữa cô và các con trong lén lút…
Áo không phải là thầy tu, nhưng bá tánh cứ cúi đầu dâng hiến khiến Thầy phải nghĩ ra trăm phương ngàn kế để tiêu xài nó. Có tiền mua tiên cũng được. Vì thế, ông sư bà ni tha hồ xây lầu, tậu xe, du lịch, hành hương…Họ trở thành những thương gia của đạo Bụt.
Để vào đề, tôi mạn phép vòng vo một chút về cái Tánh phàm của mỗi con người.
Sơ luợt về cái nhân chi sơ…
Vừa lọt lòng mẹ, đứa bé chào đời bằng tiếng khóc, phải chăng để nói lên sự sợ hải khi sắp hội nhập cõi trần?
Rồi, bé sẽ biết vui trong vòng tay thân yêu trìu mến của mẹ cha và buồn khi thiếu nó. Từ đó bé bắt đầu huấn tập lục dục thất tình để rồi dần dần đánh mất cái nhân chi sơ của thuở lọt lòng.
Vào đời, con người bắt đầu làm sở hửu chủ một rồi nhiều thứ nhưng vẫn cảm thấy chưa đủ nên cố tình tranh danh đoạt lợi để có nhiều hơn nữa và từ đó quên đi tất cả cái trong trắng thơ ngây của những ngày mới ra đời…
Một người đi tu cũng gần giống như vậy, cho dù tu vì chí nguyện, tu vì thất tình lục dục…lúc khởi thuỷ rất tinh tấn miên mật nhưng tâm càng tịnh thì caí động của đời xâm nhập càng dữ dội hơn. Không như những bậc hiền triết sống an nhàn ẩn dật nơi rừng cao núi thẳm, các nhà tu hành nhập thế ở thời mạt pháp nầy phải kề cận với khối người mang qúa nhiều ác nghiệp nên nét son tu hành trở thành sẩm nặng rồi từ từ mọi thói hư tật xấu bắt đầu nhen nhúm để thay chỗ cho chữ TU mà lúc xuống tóc đã hứa nguyện thề…
Đây, câu chuyện điển hình, tôi nghĩ rất nhiều người biết, nhất là các vị tu hành, các Phật tử. Hãy coi lại để minh tâm, diệt bớt tính tham vốn đã hiện hửu trong lòng:
Thầy RAM GOPAL, một thiền sư đắt đạo Ấn Độ, viện trưởng của một tu bệnh viện chửa trị mọi bệnh nan y, kể lại con đường tu hành của mình cho phái đoàn của Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh đến vấn đạo ông hơn một thế kỹ trước: (Hành Trình Về Phương Đông của Nguyên Phong)
Một đệ tử quyết tâm cầu đạo, xin học với một đạo sư, sau thời gian học hành chăm chỉ, một hôm sư phụ có việc phải đi xa nên dặn học trò ở lại chăm lo tu hành. Nghe theo lời thầy, trò thiền định sớm hôm không hề bê trễ.
Vì chỉ có một miếng khố che thân mà bị chuột cắn hoài nên rách nát hết, thầy phải đi xin một mảnh vải che thân khác, cứ thế, hết mãnh nầy tới mãnh khác. Dân làng thấy vậy, bèn biếu một con mèo để trừ lũ chuột. Có mèo, chuột không dám lộng hành nữa, nhưng tu sĩ phải lo thêm một phần ăn. Ngoài thực phẩm chay tịnh, tu sĩ phải xin sữa để nuôi mèo. Một tín đồ tốt bụng bèn tặng tu sĩ một con bò cái để có sữa cho mèo. Tu sĩ vui vẻ nhận con bò, nhưng rồi phải còng lưng cắt cỏ nuôi bò. Có mèo, có bò, tu sĩ phải bận tâm để lo cho nó. Dân làng thấy vậy, bèn hiến tu sĩ một mảnh đất và dụng cụ canh nông để tu sĩ trồng trọt. May cho tu sĩ, miếng đất quá màu mỡ nên lợi nhuận rất nhiều cộng với bò mèo đều sinh sôi nẩy nở, tu sĩ làm không xuể nên phải nhờ đến dân làng. Từ đó chốn thanh tu bổng chốc trở thành một đồn điền trù phú…
Tiền vào như nước, tu sĩ phá bỏ chùa cũ để xây một đền thờ to lớn đẹp đẻ, sơn son, ghép vàng, bá tánh tấp nập cúng dường để mua CÔNG ĐỨC? Qúa nhiều việc, nhiều tiền, tu sĩ hết tu và bù đầu vào những con số và kế hoạch kinh doanh thêm…Tu sĩ bắt đầu trở thành đại hào, đại phú, đại tư bản, chỉ trừ chiếc aó đang khoát bên ngoài…
Một hôm sư phụ trở về không thấy túp lều đơn sơ nữa mà chỉ thấy một ngôi đền tráng lệ, nô nức khách hành hương, ồn ào hơn chốn phồn hoa đô hội.
Thấy thầy về, trò vui mừng ra chào đón và bắt đầu phân trần cho những đổi thay ngoài ý muốn.
Sư phụ thở daì dạy rằng:
- Xây cất đền thờ thật to chỉ là trói buộc, nào phải giải thoát. Tu tập tín đồ thật đông thì ồn ào phức tạp, chỉ gây trở ngại cho việc thanh tu. Vì một cái khố rách mà con đã đi thật xa, xa hẳn con đường mà ta chỉ dạy nhằm việc giải thoát. Con chỉ lầm lẫn một chút mà đã đi lệch lúc nào không hay, trói buộc các thứ đó, làm sao con có thể giải thoát được?
Ram Gopal yên lặng, như để ôn laị dĩ vãng, rồi chậm rãi nói: Người tu sĩ đó là tôi, tôi đã từ bỏ hết để theo thầy lên non học đạo, và nay tôi áp dụng nó (đoạn tuyệt tài sản) để chửa mọi bệnh nan y trong tu bệnh viện này…
Câu chuyện trên hầu hết các vị tu hành đều thấu triệt, nhưng vì đồng tiền, vì lợi đã làm mờ lương tri khi phải khoát lên chiếc áo vàng oan nghiệt…
Bước đầu hải ngoại:
Sau khi rời ghe đặt chân lên miền đất mới, nhìn chiếc áo nâu sòng, mọi người thoát chết đều kính trọng, cho đến lúc định cư khi thầy khoát lên chiếc áo vàng thì niềm kính trọng cũng vẫn còn nên thầy được ăn trên ngồi trước, được tín đồ cung phụng nên chẳng mẻ một móng tay hay phải rụng một lông chân trong khi mọi người phải đi cày, có khi hai, ba việc để có tiền dư cúng dường, mua phước…
Người Việt haỉ ngoại giàu một thì các thầy giàu gấp trăm ngàn lần, từ một căn phố nhỏ, rồi hai căn, ba căn và cuối cùng đập bỏ hết để xây thành một nơi nguy nga tráng lệ. Anh làm được, tôi làm được, thế rồi nhiều người khoát aó thầy tu. Rừng không hai cọp, thi đua lập chùa, nên chùa mọc nên như nấm mà Phật tử chỉ lèo tèo. Để trang trải cho những chi phí xa hoa vì lòng tham, các thầy quản cáo rầm rộ để dành giựt Phật tử, ngoài vấn đề tu học, họ thi nhau tổ chức đủ trò, nào đaị nhạc hội, nào du lịch, hành hương v.v…
Để có vây cánh, thâỳ thâu nhận đệ tử hay ủng hộ bạn đồng tu để lập thêm chùa chẳng những trong môt thành phố mà cả trên khắp thế giới để hòng vơ vét tiền bạc của đám Phật tử u tối, nghèo, giàu, sẵn sàng bỏ tiền mua công đức?..
Nhiều chùa trở thành chùa Bà Đanh nhưng vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, để cho ta thấy rằng các ngài là những thầy tu tỉ phú thời đại.
Theo luật thì chùa nào cũng có ban trị sự để phục vụ để quản lý mọi chi tiêu, nhưng rồi vì tiền, vì nể thầy nên họ đều nhường bước đặt thầy trên đầu để qùy mọp xuống mà tuân theo mọi chỉ thị. Thầy bận rộn cả ngày vì ôm đủ thứ nên quên hẳn đường Tu để đổi lấy đường Tiền…
Trong chánh điện, trong Quan Âm Các, không chùa nào là không có hằng trăm, ngàn, tượng Phật nhỏ xung quanh, được bán với gía cắt cổ, tuỳ theo vị trí mà các thầy hô hào để mua CÔNG ĐỨC, caí gì cũng gọi là công đức, thùng phước sương to tướng cũng đề hai chữ công đức, ôi! công đức, công đức. Sao các thầy lạm dụng thế mà quên đi những gì dạy bảo của Lục Tổ Huệ Năng để lại, đã minh thị rất rõ trong Kinh Pháp Bảo Đàn (KPBĐ):
Quan Vi Thứ Sử đời Đường, được vua gửi đến để Vấn đạo Lục Tổ, Ngài hỏi LT rằng:
Đệ tử có nghe đức Đạt Ma, lúc ban sơ hóa độ Lương Võ Đế, Vua có hỏi rằng: "Trẩm trọn đời cất chùa độ tăng, đãi chay, làm phước, có CÔNG ĐỨC gì không? Đạt Ma nói thật không có công đức. Đệ tử chưa thấu hiểu lẽ ấy, xin hoà thượng giải cho".
Lục Tổ nói: THẬT KHÔNG CÓ CÔNG ĐỨC, chớ nghi lời nói của thánh nhân. Võ Đế mắc tà kiến, không biết CHÁNH PHÁP, cất chùa, độ tăng, đãi chay làm phước, ấy gọi là CẦU PHƯỚC, không thể lấy phước mà kể là công đức được. CÔNG ĐỨC Ở TRONG PHÁP THÂN, CHỚ CHẲNG PHẢI Ở CHỖ TU PHƯỚC.
Là một Phật tử sơ khai nhưng tôi đã thuộc nằm lòng những lời trên của Lục Tổ, sao qúy ông Sư bà Ni lại cố tình quên những lời lẽ dạy bảo rõ ràng trong sáng nầy.
Làm tiền trên xác chết:
Dù nghèo đến đâu ngươì con Phật vẫn phải chu toàn bổn phận thiêng liêng cho thân nhân của mình trong ngày qúa cố. Nếu bạn may mắn ở trong nhóm thiền thiện nguyện hay chỉ cần biết họ thì họ sẵn sàng giúp bạn để tụng kinh siêu độ không tốn một đồng xu cắt bạt, còn nếu bạn vì qúa hiếu thảo, có tư tưởng bịnh hoạn rằng các thầy mới có khả năng siêu độ người chết hơn ( như thầy Tắc Phước) thì bạn phải moi hầu bao ra trả chẳng những cho chùa mà rồi phải cúng dường cho từng thầy nữa. Mỗi chùa đều có gía trên trời dưới đất chứ không chùa nào free cả, khổ nhất là cái màng cúng dường cho từng thầy ngoài cái gía đó. Tụng kinh cho đám ma bây giờ nó trở thành một DỊCH VỤ nên nhiều nhà quàn đã bao thầu luôn và như vậy thân nhân người xấu số đỡ bớt đau khổ (phải cúng dường từng thầy) trong ngày khổ đau vì mất mác thân nhân…
Nếu thân nhân được mồ yên mả đẹp, thì cũng phải tốn bảy thất, rồi thất hằng năm. Hỏa táng cũng vậy, nhưng hủ tro không còn là tro nữa mà là chỗ đẻ ra tiền cho qúy chùa. Qua năm này tháng nọ, tro sẽ thành vàng, chi chit từng tầng bên mẹ Quán Âm, Ôi! mong thầy nên khuyên họ sớm bón phân cho cây cỏ hay làm màu mở cho sông ngòi biển cả, để người chết không còn vướn bận mà thánh thóat ra đi…Còn nữa, sau lưng chánh điện, là bản phong thần to tướng, trên đó được gắn hình người qúa cố cũng là một lợi tức ắc có của chùa. Mỗi tấm tùy theo vị trí đều có tiền dán bên trong, hết tiền, hết keo, hình người chết tức khắt bay vào cực lạc…
Nói nhiều, nói lắm, nếu lỡ noí qúa, nói trật, tôi sợ mang khẩu nghiệp nên tạm dừng nơi đây với ước mong rằng: Với qúy thầy: Hãy luôn ghi nhớ lời thề nguyện sau khi cạo đầu để khoác chiếc áo vàng mà tu cầu giải thoát như câu chuyện của chính thầy Ram Gopal nói trên. Việc quản lý chùa đã có ban trị sự, có bá tánh…
Với Ban Trị Sự: Mong rằng các ông là những Phật tử chân chính gương mẫu, xây đạo giúp đời, đừng a dua theo thầy mà bòn rút bá tánh để bỏ túi riêng, để phát triển chùa như môt thương nghiệp, nó chẳng ích gì cho việc tu hành mà là lòng tham, là đệ nhất độc thì con đường địa ngục của các ông ắt phải đến. Một đồng hai đồng đều phải có biên nhận, phải khai thuế…Hãy thượng tôn luật pháp và tự vấn lương tâm của một người con Phật mà hành xử nhiệm vụ của mình.
Với Phật tử: Phật tử vào chùa phần lớn đều nghĩ rằng cúng dường thật nhiều để mua công đức, mua sức khoẻ, mua giàu sang danh vọng…Không phải vậy đâu các vị Phật tử mê muội ơi, Lục tổ đã nói như trên: công đức, sức khoẻ giàu sang danh vọng nó ở trong chính pháp thân của qúy vị chứ chả mua được ở chùa, hãy nhớ kỹ…Cái SI của qúy vị chẳng mua được công đức như thầy dụ khị mà nó chính là con đường đầu tư vào địa ngục của cả thầy lẫn trò đó vậy.
Hiện tại có rất nhiều chùa, thầy trụ trì kiêm luôn tất cả nên tha hồ hoành hành, làm giàu cho chính mình, cho vợ con, giòng họ ở VN, lén lút gian díu đâu đó làm ô uế cửa thiền môn vì sự tiếp tay của đám Phật tử u mê này.
Nếu là một Phật tử chân chính, nếu là thầy tu, muốn thật tâm tu hành để đắt đạo, hãy noi theo gương thầy Ram Gopal và thực hành đúng theo KPBĐ của thầy Lục Tổ…
Người Trần Gian
Wednesday, November 26, 2008
NGUYỄN THIÊN THỤ * PHAN NGUNG HAY PHIÊN NGUNG * BÀI 1
===
PHAN NGUNG HAY PHIÊN NGUNG ?
*
BÀI I
===
Qua mấy bài phê bình về chữ Hán, tôi nhận thấy ông Minh Di là một người rất giỏi Hán văn. Về văn và Sử, phần đông người nghiên cứu không thông thạo Hán nôm, họ chỉ dựa vào các bản dịch Pháp văn hay nhờ người khác dịch Trung văn cho họ. Ông Minh Di đã nghiên cứu các tài liệu cổ Trung Hoa. Tôi cũng đã có lời khuyến khích ông nên chuyên về cổ sử, nhằm trình bày, đối chiếu tài liệu của hai nước VIệt Hoa.
Gần đây, Trên Dân Vân tập chí, ông Minh Di đã lên tiếng phê binh Ông Trần Gia Phụng và Nguyễn Phương. Tôi không chuyên về Hán học, cũng không chuyên về sử học nhưng vấn đề này là gốc rễ của cổ sử nên đành góp ý đôi lời.
I.TÀI LIỆU SỬ
1. Trần Trọng Kim chép như sau vê nhà Triệu (207-111 tr.Tây Lịch):
' Triệu Vũ Vương (207-137) tr. Tây lịch ) - Năm quý tị (207), Triệu Đà đánh được An Dương vương rồi, sáp nhập nước Âu Lạc vào quận Nam Hải, lập thành một nước gọi là Nam Việt, tự xưng làm vua, tức là Vũ vương, đóng đô ở Phiên Ngung 番禺 gần thành Quảng châu bây giờ (VNSL, 37).
2. Trong Ức Trai Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi, các văn thần Nguyễn Thiên Túng, Nguyễn Thiên Tích và Lý Tử Tấn viết lời tựa có đoạn như sau: “Triệu Vũ Đế tên là Đà lập nước tại đất Phiên Ngung, nay thuộc Quảng Đông” Triệu Vũ đế Đà kiến quốc vu Phiên Ngung kim thuộc Quảng Đông
武帝陀建國于番隅今屬廣東( Ức Trai Di tập hạ, Hoàng KhôI dịch, Phủ QVK, Saigon 1792, tr.726).
3. An Nam Chí Lược của Lê Tắc viết : quân của Lâu thuyền tướng quân . . .chờ quân Lộ Bác Đức kéo tới cùng đi đến thành Phiên Ngung 樓船將軍....待博德俱進,至”番禺 Lâu thuyền tướng quân. . . đãi Bác Đức câu tấn, chí Phiên Ngung “( Viện Đại Học Huế, 1961, tr.57, 92)
4. Từ Hải và Từ Nguyên viết 番禺
Tra các tài liệu sử , tôi thấy hai chữ Phiên Ngung, đều có vài khác biệt. Về chữ Ngung, Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, An Nam Chí Lược của Lê Tắc và Từ Nguyên, Từ Hải viết 禺 còn Dư Địa Chí của Nguyễn TrãI viết 隅 (có bộ phụ). Như vậy là có hai cách viết: 禺 và 隅 nhưng viết禺 thì phổ biến hơn.
II. TỪ ĐIỂN
1. CHỮ 禺
(1).Thiều Chửu đọc禺 là Ngu, nghĩa là tên núi, tên đất, khu vực) .
(2).Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh, không có chữ này.
(3).Từ Hải
Từ Hải đọc là ngu
魚懼切音遇遇 韻 ngư cụ thiết, âm ngộ, ngộ vận,
· 元劬切音虞虞韻 nguyên cù thiết âm ngu, ngu vận.;
Từ Hải cũng đọc là ngung
魚容切音顒冬韻 ngư dung thiết, âm ngung, đông vận,
4. Từ Nguyên: giống Từ Hải.
5. Từ Điển điện toán Viktionary
禺 ngu, ngung,
Vietnamese
[edit] Han character
禺 (ngu, ngung)
2. CHỮ 隅
(1).Thiều Chửu đọc là 隅Ngung, có nghĩa đất
ngoài ven, hình vuông.
(2). Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh , đọc là ngung: bên góc.
(3).Từ Hải đọc là Ngu
元劬切音虞虞韻nguyên cù thiết, âm ngu, ngu vận).
(4).Tự điển Viktionary ghi:
隅 ' ([[ngung]], [[ngong]])
[edit] Vietnamese
[edit] Han character
隅 (ngung, ngong)
Qua các từ điển trên, ta thấy 隅禺 đọc Ngung hay Ngu đều được đúng như ông Minh Di nói.
3. CHỮ 番
Riêng chữ 番 là quan trọng. Vậy ta thử tra từ điển để xem họ phiên âm chữ 番 là như thế nào
(1). Tự điển Thiều Chửu:
番 phiên, phan, ba, bà (12n)
• Lần lượt. Như canh phiên 更番 đổi phiên (thay đổi nhau).
• Giống Phiên, đời sau gọi các nước ngoài là phiên cả. Như phiên bố 番布 vải tây, phiên bạc 番舶 tàu tây, v.v.
• Các người Thổ ở Đài Loan cũng gọi là phiên.
• Một âm là phan. Tên huyện.
•. Lại một âm là ba. Ba ba 番番 khỏe mạnh.
• .Một âm nữa là bà. Già, lụ khụ.
((2). Hán Việt Đào Duy Anh
Phiên 番: lần lượt. Người Tàu gọi người ngoại quốc hay rợ ở bốn phương là phiên.
(3).
(4).
(3). (3). TỪ Nguyên ( TRUNG QUỐC) 番,
· Chú 1: 敷駑切音翻 元韻 phu nô thiết, âm phiên, nguyên vận. ( âm phiên, vÀn nguyên), nghïa là Phiên.
· Chú 5: 逋倭切音波 歌韻 bô oa ( uy, nụy) thi‰t, âm ba, ca vận (nói lái bô oa thành ba ô (như vÆy là đọc BA), âm BA, vÀn CA.
(Bộ Từ Nguyên này rất cũ, in lần 2, không ghi năm xuất bản ).
(4). TỪ HẢI (trung quÓc ) :
番, 敷駑切音翻元韻 Phiên: phu nô thi‰t âm phiên, nguyên vận. (âm phiên, vÀn nguyên, nghïa là đọc Phiên.Giống chú 1 cûa Từ Nguyên.
(5). Đại Nam Quốc Âm Tự Vị cûa Huÿnh Tịnh Cûa:
Đây là tự điển chữ Nôm, trong đó có từ Hán Việt:
番 Phiên (c.): Một bận, một chuyến, các bộ thuộc ở phía bắc Trung Quốc.
Phiên (c.): Bay, trở.
Phiên (n.): .
Phiên (c.): (Phận).
(6). TỰ ĐIỂN TRẦN VĂN KIỆM
Tác giả là một vị linh mục, hiện còn sống ở Texas, Hoa Kÿ. Đây là một quyển tử điển mới, phiên âm Việt và Hoa , có thể đọc Hán và nôm,.
Phen* (phiên; phiên). Từ cùng nghĩa: 蕃Lần: Phen này ông quyết đi buôn lọng; Bao phen thỏ lặn ác tà; Một phen mưa gió nặng nề - Kẻ phải làm việc nặng nhọc: Phu phen - So sánh mà ghen: Phen (phân)
Phiên (fān) Phen: Tam phiên ngũ thứ (luôn mấy phen) - Có gốc từ nước ngoài: Phiên qua (bí đỏ); Phiên mộc qua (đu đủ); Phiên gia (cà chua); Phiên thự (khoai lang); Phiên hoàng hoa (crocus) - Số gán cho - đơn vị bộ đội: Phiên hiệu
Phiên* (phiên; phiền) Từ cùng nghĩa: 翩 蕃
Phen* (phiên; phiên)
Phen* (phiên; phiên) Lần, phen: Cắt phiên - Làm mau cho xong: Thôi! Phiên phiến đi! - Đông người họp nhau: Phiên chợ Phen* (phiên; phiên)
(7).TỰ ĐIỂN VI TÍNH CHỮ HÁN (Lê Quý Ngưu,Việt Nam)
Ngày nay, tại Việt Nam , một số tự điển Hán Việt có chua cách phát âm Trung Quốc. Tôi xin trình bày một quyển tiêu biểu. Đó là quyển Tự Điển Vi Tính Chữ Hán của Lê Quý Ngưu. Ông là người giỏi, nhưng nhu liệu vi tính chữ Hán của Nguyễn Hữu Vinh, Lê Văn Đặng tại hải ngoại thì dễ dàng, nhanh chóng và giản dị hơn ( xin vào web page của Viện Việt Học, California.
Trong cuốn tự điển này được ghi phát âm theo Hoa và Việt: BA (ba), Bà (baf ), PHAN ( phan), PHIÊN ( phieen)
(8). TỪ ĐIỂN WIKTIONARY
Đây là tự điển on line của ngoại quốc, xin trích một đoạn về chữ. .
Mandarin
Hanzi
番 (pinyin bō (bo1), fān (fan1), fán (fan2), pān (pan1), pán (pan2), pí (pi2), pó (po2), Wade-Giles po1, fan1, fan2, p'an1, p'an2, p'i2, p'o2)
Vietnamese
Han character
番 (phiên, phan, ba, bà)
Readings
Nôm: ba, bà, phiên, phan, phen
KÊT LUẬN
Qua những dẫn chứng trên. tôi nhận thấy chữ 番 đọc là Phan hay Phiên đều đúng cả. Tuy nhiên, trong văn chương và ngôn ngữ Việt Nam, nh ư trong Lục Vân Tiên, Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Công Cúc Hoa. . . người ta thường đọc là Phiên như quân Phiên, Phiên bang, giặc Phiên, tướng Phiên . . .
Đây là một điều rắc rối trong Việt ngữ. Một số chữ Hán ta đọc khác với người Trung Quốc hay đọc khác sách vở vì những lý do sau:
1. Tục kiêng tên trong các gia đinh
MINH> MIÊNG; HOA> BA> HUÊ ; TH ÀNH> THIỀNG; HO ÀNG > HUỲNH
2. Tục kiêng tên toàn quốc:
Đó là luật về kiêng tên húy của nhà vua. Trong văn chương hay văn kiện không được viết tên vua và tổ tiên của vua. Thí sinh vi phạm thì gọi là phạm trường quy, bị đánh hỏng, có khi bị giam cầm. Dân chúng và quan lại thì ghép tội phạm húy, dân thì bị giam cầm, quan thì bị cách chức và ở tù. Thí dụ vua Tự Đức tên Hồng Nhậm, vậy chữ Nhậm 任 phải đọc là NHIỆM và viết thiếu đi một nét, thành ra giống chữ nhâm 壬
3. Sự thay đổi của ngôn ngữ:
Ngôn ngữ nào cũng biến đổi theo thời gian và không gian. Người Mỹ nói tiếng Anh, nhưng tiếng Anh truyền bá sang Mỹ, Úc, Canada đã biến đổi ( Nay có một nhóm ở châu Âu muốn tạo ra một lối chữ Anh khác! ). Lúc đầu cũng có người phê bình rằng người Mỹ nói sai, viết sai chữ Anh và văn pháp Anh. Nhưng người Mỹ vẫn chẳng thèm đếm xỉa đến những lời chê bai này, và cũng chẳng thèm tuân thủ tự điển và văn phạm của nước Anh. Các nhà ngôn ngữ học Mỹ nhận thấy người Mỹ có một văn phong, ngôn ngữ khác với người Anh. Họ soạn tự điển tiếng Anh cho người Mỹ. Quyển thứ nhất ra đời, rồi quyển hai, quyển ba ra đời, xác nhận nền độc lập ngôn ngữ, văn tự của Mỹ, khác với Anh văn của người Anh. Người Mỹ tự hào về điều này, họn bảo rằng đó là tiếng Anh của người Mỹ, ngôn ngữ của người Mỹ, đặc tính của ngôn ngữ Mỹ! Người Canada cũng vậy, có một vài từ mà người Mỹ đọc khác người Canada thí dụ chữ Lieutenant . Người Bắc nói quằn quại, người Nam cũng là người Bắc vào Nam trước vài thế kỷ thì nói và viết Oằn oại .
Nước ta lệ thuộc Trung quốc từ đời Tần. Hán. Theo Henri Maspéro, tiếng Hán Việt chuyển lai từ tiếng Trung Hoa về thế kỷ thứ IX và X sau tây lịch kỷ nguyên. Còn Bernard Karlgren người Thụy Điển cho rằng đến đời Đường ( 618-907) mới chia ra làm tiếng Quảng Đông, Phúc Kiến. . . ( Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam Cổ Văn Học Sữ. QVK, Saigon, 1970, tr.76, chú 1,2)
Nói như vậy nghĩa là những từ Hán Nôm bây giờ, tức là chữ Hán đọc theo âm Việt ( như Thiên trời, Địa đất, Vân mây, học hành, dâm dục, đồng chí ) và cả những tiếng Việt xuất phát từ Hán Việt ( như đao> dao; di> dời; bình> bằng ) chính là âm Trung quốc đời Đường. Vả lại, nước ta nghèo, thiếu phương tiện , các nho sĩ học lòng, chứ không ai có từ điển mà tra cứu, sách giáo khoa cũng thiếu. Vì vậy, ta học theo truyền thống cha ông, đọc và viết theo cha ông, đời này sang đời khác. Nói như vậy không có nghĩa là cổ nhân không cập nhật văn tự và ngôn ngữ. Thực tế, việc sai lầm hay khác biệt cũng không là bao, vì các đời, phái đoàn sứ thần ta thường sang Trung quốc, mua sách và giao thiệp với người Trung Quốc. Hơn nữa, các lái buôn Trung Quốc cũng thường chở sách sang Việt Nam. Như vậy, kiến thức về văn chương và ngôn ngữ tiền nhân luôn luôn phong phú và vững chãi. Các sách lịch sử và văn chương ta từ trước đến nay nói Phiên Ngung là đúng theo sách vở và cũng theo lời truyền tụng lâu đời trong dân chúng, mà dân chúng này bao gồm nông dân, công nhân, thương gia, quan lại và các nhà khoa bảng Giả sử xưa nay chữ ? người Trung Quốc đọc là Phan mà cổ nhân đọc PHIÊN thì cũng không sao biết đâu hồi đó đọc PHIÊN NGUNG mới là đúng. Phiên Ngung nay thuộc Trung Quốc nhưng ngày xưa là một phần của Việt Nam mà thừa tướng Lữ Gia đã tốn xưong máu bảo vệ đất đai nhưng thế cùng lực tận để rơi vào tay Trung Quốc.
Cũng như ngày nay, sách vở cả thế kỷ ghi là Sài gòn nhưng đâu có phải là Sài gòn, đó chỉ là cách ghi của người Pháp! Hòn ngọc Viễn Đông tên là gì? Cây Gòn, Sài Côn, Tây Cống hay tên gì đây? Chúng ta đã mất khai sinh bản chánh, chỉ còn là những thế vì khai sinh, hay chỉ là những bản khai sinh mới. DONGHOI, BALANGAN, FAIFO.. . tên thật là gì? Đi xa hơn nữa, những Trưng Trắc, Trưng Nhị, Thi Sách, Mê Linh tên Việt là gì? Trước đây, một tác giả đưa ra ý kiến tên Trưng Trắc, Trưng Nhị là “trứng chắc” và
“ trứng nhì” là tên gọi về trứng kén trong kỹ thuật tơ tằm. Nói chung, chúng ta mất tên Việt rồi.Những cái tên trong sử sách Trung Hoa và Âu Mỹ chẳng phải là tên thật. Đó chẳng qua là tên ngoại quốc, còn tên Việt mất lâu rồi, biết tìm đâu? Chinh bản thân người VIệt hải ngoại nay cũng đã mất tên, nói chi chuyện trăm, ngàn năm trước!
====
PHAN NGUNG HAY PHIÊN NGUNG ?
*
BÀI I
===
Qua mấy bài phê bình về chữ Hán, tôi nhận thấy ông Minh Di là một người rất giỏi Hán văn. Về văn và Sử, phần đông người nghiên cứu không thông thạo Hán nôm, họ chỉ dựa vào các bản dịch Pháp văn hay nhờ người khác dịch Trung văn cho họ. Ông Minh Di đã nghiên cứu các tài liệu cổ Trung Hoa. Tôi cũng đã có lời khuyến khích ông nên chuyên về cổ sử, nhằm trình bày, đối chiếu tài liệu của hai nước VIệt Hoa.
Gần đây, Trên Dân Vân tập chí, ông Minh Di đã lên tiếng phê binh Ông Trần Gia Phụng và Nguyễn Phương. Tôi không chuyên về Hán học, cũng không chuyên về sử học nhưng vấn đề này là gốc rễ của cổ sử nên đành góp ý đôi lời.
I.TÀI LIỆU SỬ
1. Trần Trọng Kim chép như sau vê nhà Triệu (207-111 tr.Tây Lịch):
' Triệu Vũ Vương (207-137) tr. Tây lịch ) - Năm quý tị (207), Triệu Đà đánh được An Dương vương rồi, sáp nhập nước Âu Lạc vào quận Nam Hải, lập thành một nước gọi là Nam Việt, tự xưng làm vua, tức là Vũ vương, đóng đô ở Phiên Ngung 番禺 gần thành Quảng châu bây giờ (VNSL, 37).
2. Trong Ức Trai Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi, các văn thần Nguyễn Thiên Túng, Nguyễn Thiên Tích và Lý Tử Tấn viết lời tựa có đoạn như sau: “Triệu Vũ Đế tên là Đà lập nước tại đất Phiên Ngung, nay thuộc Quảng Đông” Triệu Vũ đế Đà kiến quốc vu Phiên Ngung kim thuộc Quảng Đông
武帝陀建國于番隅今屬廣東( Ức Trai Di tập hạ, Hoàng KhôI dịch, Phủ QVK, Saigon 1792, tr.726).
3. An Nam Chí Lược của Lê Tắc viết : quân của Lâu thuyền tướng quân . . .chờ quân Lộ Bác Đức kéo tới cùng đi đến thành Phiên Ngung 樓船將軍....待博德俱進,至”番禺 Lâu thuyền tướng quân. . . đãi Bác Đức câu tấn, chí Phiên Ngung “( Viện Đại Học Huế, 1961, tr.57, 92)
4. Từ Hải và Từ Nguyên viết 番禺
Tra các tài liệu sử , tôi thấy hai chữ Phiên Ngung, đều có vài khác biệt. Về chữ Ngung, Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, An Nam Chí Lược của Lê Tắc và Từ Nguyên, Từ Hải viết 禺 còn Dư Địa Chí của Nguyễn TrãI viết 隅 (có bộ phụ). Như vậy là có hai cách viết: 禺 và 隅 nhưng viết禺 thì phổ biến hơn.
II. TỪ ĐIỂN
1. CHỮ 禺
(1).Thiều Chửu đọc禺 là Ngu, nghĩa là tên núi, tên đất, khu vực) .
(2).Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh, không có chữ này.
(3).Từ Hải
Từ Hải đọc là ngu
魚懼切音遇遇 韻 ngư cụ thiết, âm ngộ, ngộ vận,
· 元劬切音虞虞韻 nguyên cù thiết âm ngu, ngu vận.;
Từ Hải cũng đọc là ngung
魚容切音顒冬韻 ngư dung thiết, âm ngung, đông vận,
4. Từ Nguyên: giống Từ Hải.
5. Từ Điển điện toán Viktionary
禺 ngu, ngung,
Vietnamese
[edit] Han character
禺 (ngu, ngung)
2. CHỮ 隅
(1).Thiều Chửu đọc là 隅Ngung, có nghĩa đất
ngoài ven, hình vuông.
(2). Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh , đọc là ngung: bên góc.
(3).Từ Hải đọc là Ngu
元劬切音虞虞韻nguyên cù thiết, âm ngu, ngu vận).
(4).Tự điển Viktionary ghi:
隅 ' ([[ngung]], [[ngong]])
[edit] Vietnamese
[edit] Han character
隅 (ngung, ngong)
Qua các từ điển trên, ta thấy 隅禺 đọc Ngung hay Ngu đều được đúng như ông Minh Di nói.
3. CHỮ 番
Riêng chữ 番 là quan trọng. Vậy ta thử tra từ điển để xem họ phiên âm chữ 番 là như thế nào
(1). Tự điển Thiều Chửu:
番 phiên, phan, ba, bà (12n)
• Lần lượt. Như canh phiên 更番 đổi phiên (thay đổi nhau).
• Giống Phiên, đời sau gọi các nước ngoài là phiên cả. Như phiên bố 番布 vải tây, phiên bạc 番舶 tàu tây, v.v.
• Các người Thổ ở Đài Loan cũng gọi là phiên.
• Một âm là phan. Tên huyện.
•. Lại một âm là ba. Ba ba 番番 khỏe mạnh.
• .Một âm nữa là bà. Già, lụ khụ.
((2). Hán Việt Đào Duy Anh
Phiên 番: lần lượt. Người Tàu gọi người ngoại quốc hay rợ ở bốn phương là phiên.
(3).
(4).
(3). (3). TỪ Nguyên ( TRUNG QUỐC) 番,
· Chú 1: 敷駑切音翻 元韻 phu nô thiết, âm phiên, nguyên vận. ( âm phiên, vÀn nguyên), nghïa là Phiên.
· Chú 5: 逋倭切音波 歌韻 bô oa ( uy, nụy) thi‰t, âm ba, ca vận (nói lái bô oa thành ba ô (như vÆy là đọc BA), âm BA, vÀn CA.
(Bộ Từ Nguyên này rất cũ, in lần 2, không ghi năm xuất bản ).
(4). TỪ HẢI (trung quÓc ) :
番, 敷駑切音翻元韻 Phiên: phu nô thi‰t âm phiên, nguyên vận. (âm phiên, vÀn nguyên, nghïa là đọc Phiên.Giống chú 1 cûa Từ Nguyên.
(5). Đại Nam Quốc Âm Tự Vị cûa Huÿnh Tịnh Cûa:
Đây là tự điển chữ Nôm, trong đó có từ Hán Việt:
番 Phiên (c.): Một bận, một chuyến, các bộ thuộc ở phía bắc Trung Quốc.
Phiên (c.): Bay, trở.
Phiên (n.): .
Phiên (c.): (Phận).
(6). TỰ ĐIỂN TRẦN VĂN KIỆM
Tác giả là một vị linh mục, hiện còn sống ở Texas, Hoa Kÿ. Đây là một quyển tử điển mới, phiên âm Việt và Hoa , có thể đọc Hán và nôm,.
Phen* (phiên; phiên). Từ cùng nghĩa: 蕃Lần: Phen này ông quyết đi buôn lọng; Bao phen thỏ lặn ác tà; Một phen mưa gió nặng nề - Kẻ phải làm việc nặng nhọc: Phu phen - So sánh mà ghen: Phen (phân)
Phiên (fān) Phen: Tam phiên ngũ thứ (luôn mấy phen) - Có gốc từ nước ngoài: Phiên qua (bí đỏ); Phiên mộc qua (đu đủ); Phiên gia (cà chua); Phiên thự (khoai lang); Phiên hoàng hoa (crocus) - Số gán cho - đơn vị bộ đội: Phiên hiệu
Phiên* (phiên; phiền) Từ cùng nghĩa: 翩 蕃
Phen* (phiên; phiên)
Phen* (phiên; phiên) Lần, phen: Cắt phiên - Làm mau cho xong: Thôi! Phiên phiến đi! - Đông người họp nhau: Phiên chợ Phen* (phiên; phiên)
(7).TỰ ĐIỂN VI TÍNH CHỮ HÁN (Lê Quý Ngưu,Việt Nam)
Ngày nay, tại Việt Nam , một số tự điển Hán Việt có chua cách phát âm Trung Quốc. Tôi xin trình bày một quyển tiêu biểu. Đó là quyển Tự Điển Vi Tính Chữ Hán của Lê Quý Ngưu. Ông là người giỏi, nhưng nhu liệu vi tính chữ Hán của Nguyễn Hữu Vinh, Lê Văn Đặng tại hải ngoại thì dễ dàng, nhanh chóng và giản dị hơn ( xin vào web page của Viện Việt Học, California.
Trong cuốn tự điển này được ghi phát âm theo Hoa và Việt: BA (ba), Bà (baf ), PHAN ( phan), PHIÊN ( phieen)
(8). TỪ ĐIỂN WIKTIONARY
Đây là tự điển on line của ngoại quốc, xin trích một đoạn về chữ. .
Mandarin
Hanzi
番 (pinyin bō (bo1), fān (fan1), fán (fan2), pān (pan1), pán (pan2), pí (pi2), pó (po2), Wade-Giles po1, fan1, fan2, p'an1, p'an2, p'i2, p'o2)
Vietnamese
Han character
番 (phiên, phan, ba, bà)
Readings
Nôm: ba, bà, phiên, phan, phen
KÊT LUẬN
Qua những dẫn chứng trên. tôi nhận thấy chữ 番 đọc là Phan hay Phiên đều đúng cả. Tuy nhiên, trong văn chương và ngôn ngữ Việt Nam, nh ư trong Lục Vân Tiên, Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Công Cúc Hoa. . . người ta thường đọc là Phiên như quân Phiên, Phiên bang, giặc Phiên, tướng Phiên . . .
Đây là một điều rắc rối trong Việt ngữ. Một số chữ Hán ta đọc khác với người Trung Quốc hay đọc khác sách vở vì những lý do sau:
1. Tục kiêng tên trong các gia đinh
MINH> MIÊNG; HOA> BA> HUÊ ; TH ÀNH> THIỀNG; HO ÀNG > HUỲNH
2. Tục kiêng tên toàn quốc:
Đó là luật về kiêng tên húy của nhà vua. Trong văn chương hay văn kiện không được viết tên vua và tổ tiên của vua. Thí sinh vi phạm thì gọi là phạm trường quy, bị đánh hỏng, có khi bị giam cầm. Dân chúng và quan lại thì ghép tội phạm húy, dân thì bị giam cầm, quan thì bị cách chức và ở tù. Thí dụ vua Tự Đức tên Hồng Nhậm, vậy chữ Nhậm 任 phải đọc là NHIỆM và viết thiếu đi một nét, thành ra giống chữ nhâm 壬
3. Sự thay đổi của ngôn ngữ:
Ngôn ngữ nào cũng biến đổi theo thời gian và không gian. Người Mỹ nói tiếng Anh, nhưng tiếng Anh truyền bá sang Mỹ, Úc, Canada đã biến đổi ( Nay có một nhóm ở châu Âu muốn tạo ra một lối chữ Anh khác! ). Lúc đầu cũng có người phê bình rằng người Mỹ nói sai, viết sai chữ Anh và văn pháp Anh. Nhưng người Mỹ vẫn chẳng thèm đếm xỉa đến những lời chê bai này, và cũng chẳng thèm tuân thủ tự điển và văn phạm của nước Anh. Các nhà ngôn ngữ học Mỹ nhận thấy người Mỹ có một văn phong, ngôn ngữ khác với người Anh. Họ soạn tự điển tiếng Anh cho người Mỹ. Quyển thứ nhất ra đời, rồi quyển hai, quyển ba ra đời, xác nhận nền độc lập ngôn ngữ, văn tự của Mỹ, khác với Anh văn của người Anh. Người Mỹ tự hào về điều này, họn bảo rằng đó là tiếng Anh của người Mỹ, ngôn ngữ của người Mỹ, đặc tính của ngôn ngữ Mỹ! Người Canada cũng vậy, có một vài từ mà người Mỹ đọc khác người Canada thí dụ chữ Lieutenant . Người Bắc nói quằn quại, người Nam cũng là người Bắc vào Nam trước vài thế kỷ thì nói và viết Oằn oại .
Nước ta lệ thuộc Trung quốc từ đời Tần. Hán. Theo Henri Maspéro, tiếng Hán Việt chuyển lai từ tiếng Trung Hoa về thế kỷ thứ IX và X sau tây lịch kỷ nguyên. Còn Bernard Karlgren người Thụy Điển cho rằng đến đời Đường ( 618-907) mới chia ra làm tiếng Quảng Đông, Phúc Kiến. . . ( Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam Cổ Văn Học Sữ. QVK, Saigon, 1970, tr.76, chú 1,2)
Nói như vậy nghĩa là những từ Hán Nôm bây giờ, tức là chữ Hán đọc theo âm Việt ( như Thiên trời, Địa đất, Vân mây, học hành, dâm dục, đồng chí ) và cả những tiếng Việt xuất phát từ Hán Việt ( như đao> dao; di> dời; bình> bằng ) chính là âm Trung quốc đời Đường. Vả lại, nước ta nghèo, thiếu phương tiện , các nho sĩ học lòng, chứ không ai có từ điển mà tra cứu, sách giáo khoa cũng thiếu. Vì vậy, ta học theo truyền thống cha ông, đọc và viết theo cha ông, đời này sang đời khác. Nói như vậy không có nghĩa là cổ nhân không cập nhật văn tự và ngôn ngữ. Thực tế, việc sai lầm hay khác biệt cũng không là bao, vì các đời, phái đoàn sứ thần ta thường sang Trung quốc, mua sách và giao thiệp với người Trung Quốc. Hơn nữa, các lái buôn Trung Quốc cũng thường chở sách sang Việt Nam. Như vậy, kiến thức về văn chương và ngôn ngữ tiền nhân luôn luôn phong phú và vững chãi. Các sách lịch sử và văn chương ta từ trước đến nay nói Phiên Ngung là đúng theo sách vở và cũng theo lời truyền tụng lâu đời trong dân chúng, mà dân chúng này bao gồm nông dân, công nhân, thương gia, quan lại và các nhà khoa bảng Giả sử xưa nay chữ ? người Trung Quốc đọc là Phan mà cổ nhân đọc PHIÊN thì cũng không sao biết đâu hồi đó đọc PHIÊN NGUNG mới là đúng. Phiên Ngung nay thuộc Trung Quốc nhưng ngày xưa là một phần của Việt Nam mà thừa tướng Lữ Gia đã tốn xưong máu bảo vệ đất đai nhưng thế cùng lực tận để rơi vào tay Trung Quốc.
Cũng như ngày nay, sách vở cả thế kỷ ghi là Sài gòn nhưng đâu có phải là Sài gòn, đó chỉ là cách ghi của người Pháp! Hòn ngọc Viễn Đông tên là gì? Cây Gòn, Sài Côn, Tây Cống hay tên gì đây? Chúng ta đã mất khai sinh bản chánh, chỉ còn là những thế vì khai sinh, hay chỉ là những bản khai sinh mới. DONGHOI, BALANGAN, FAIFO.. . tên thật là gì? Đi xa hơn nữa, những Trưng Trắc, Trưng Nhị, Thi Sách, Mê Linh tên Việt là gì? Trước đây, một tác giả đưa ra ý kiến tên Trưng Trắc, Trưng Nhị là “trứng chắc” và
“ trứng nhì” là tên gọi về trứng kén trong kỹ thuật tơ tằm. Nói chung, chúng ta mất tên Việt rồi.Những cái tên trong sử sách Trung Hoa và Âu Mỹ chẳng phải là tên thật. Đó chẳng qua là tên ngoại quốc, còn tên Việt mất lâu rồi, biết tìm đâu? Chinh bản thân người VIệt hải ngoại nay cũng đã mất tên, nói chi chuyện trăm, ngàn năm trước!
====
NGUYỄN THIÊN THỤ * PHAN NGUNG HAY PHIÊN NGUNG * BÀI 2
====
BÀI 2
*
Trước đây, tôi đã trình bày về cách viết và đọc hai chữ 番 và 禺 riêng rẽ, rốt cuộc có hai cách đọc là PHAN, PHIÊN và NGU, NGUNG.
Nay tôi xin trình bày rõ thêm về cách đọc riêng và chung của hai chữ 番禺 mà chú trọng về cách phiên âm pinyin.
I. CÁCH ĐỌC RIÊNG
1.TỰ ĐIỂN TRẦN VĂN KIỆM
番 Phiên (fān)
2. TỪ ĐIỂN WIKTIONARY
Đây là tự điển on line của ngoại quốc, xin trích một đoạn về chữ 番. .
Mandarin
Hanzi
番 (pinyin bō (bo1), fān (fan1), fán (fan2), pān (pan1), pán (pan2), pí (pi2), pó (po2), Wade-Giles po1, fan1, fan2, p'an1, p'an2, p'i2, p'o2)
Vietnamese
Han character
番 (phiên, phan, ba, bà)
Readings
• Nôm: ba, bà, phiên, phan, phen
http://en.wiktionary.org
3. CHINESE CHARACTER DICTIONARY
fan1 pan1 bo1 po2 fan2 pan2 pi2
http://www.mandarintools.com
4. CHINESE TEXT PROJECT
番 fān pān bō pó fán pán pí
http://chinese.dsturgeon.net/dictionary.
Bấy nhiêu thí dụ cũng cho thấy chữ 番 có thể đọc nhiều cách, nhưng hai cách phổ biến là PHIÊN (fan) và PHAN (pan ).
II. ĐỌC CHUNG HAI CHỮ 番禺
Khi tra cứu một số từ điển danh tiếng, tôi gặp hai trường hợp:
-Không chú thích về 番禺 như Khang Hy từ điển
-Có chú thích nhưng không phiên âm như Trung Hoa Đại Tự Điển.
Vì vậy, tôi đã tìm đến một số từ điển cổ cũng như mới có chú thích cách đọc, trong đó các tự điển tiếng Hoa hay Hoa Anh , và các tài liệu khác có ghi pinyin về hai chữ 番禺. Từ điển và sách thì vô số, tôi không thể tìm hết, chỉ có thể tìm kiếm một số thôi. Tuy vậy, tôi cũng có một số kết quả về cách phát âm hai chữ 番禺:
1. PHIÊN ÂM PHAN NGUNG hay PHAN NGU
Đa số từ điển ghi theo cách này:
(1) Encyclopedia II
番禺. pānyú.
Guangzhou: Encyclopedia II - Guangzhou - History
It is believed that the first city built at the site of Guangzhou was Panyu (番禺; the locals pronounced this in Cantonese as Poon Yu) founded in 214 BC. The city has been continuously occupied ...
www.experiencefestival.com/a/guangzhou%20-%20history
(2). TỪ HẢI (Trung quốc ) :
• Chú giáp: 番, 敷駑切音翻元韻 Phiên: phu nô thiết âm phiên, nguyên vận. (âm phiên, vần nguyên, nghïa là đọc Phiên.
• Chú ất: 逋倭切音波 歌韻 bô oa ( uy, nụy) thiết, âm ba, ca vận ( bô oa thành ba ô (như vậy là đọc BA), âm BA, vÀn CA.
Hai chú trên giống Từ Nguyên
• Chú bính: 鋪剜切音潘寒韻 Phô oan thiết âm phan, vần hàn ( phô oan thành ra phan) , âm phan, hàn vận như 番禺 Phan Ngung (1).
Từ Hải còn ghi ở phần phụ về cách phát âm như sau:
番- fan
- pan : 番禺 ( tr.46).
Như vậy theo Từ Hải, chữ 番 có thể đọc fan ( phiên ) và pan (Phan) nhưng trong chữ 番禺 thì phải đọc là Phan Ngung hay Phan Ngu.
2. PHIÊN ÂM Phiên Ngung (theo các từ điển và tài liệu khác )
Các TỪ ĐIỂN TRUNG VĂN dùng fan chú âm phiên như Trần Văn Kiệm (fan: phiên), và Từ Hải như đã nói trên.
(1). POPUP CHINESE 番禺 fānyú
http://www.popupchinese.com
(2). HOÀNG KIỀU 番禺 fānyú
http://www.yellowbridge.com/
(3). CHINAKNOWLEDGE
Rulers of Southern Han (Nanhan) 南漢 (Yue 粵; 917-971) Capital: Fanyu 番禺 (modern Guangzhou 廣州/Guangdong)
www.chinaknowledge.de/History/Tang/rulers-nanhan.html
(4). KEN CHEW UNDERSTANDING CHINESE
秦始皇帝 The First Emperor of ...
"One army was sent to Fanyu (番禺 in present day south of Guangzhou city 廣州市 Guangdong province 廣東省), one to Tancheng (鐔城 in present near Guilin city 桂林市 in Guangxi province "
(秦始皇帝 The First Emperor of China Part II)
http://kchew99.spaces.live.com
(5). CHINESE HISTORY
- Ten Kingdoms rulers: Southern Han or Yue . Capital: Fanyu 番禺 (modern Guangzhou 廣州/Guangdong)
www.a3guo.com/en/china/History/Tang/rulers-nanhan.html
(6).YUE(CANTONESE) DIALECTS
"Tones and phonology of the Yue Cantonese dialects of Guangdong province: Guangzhou, Canton, Zhongshan, Zhongshan ... 番禺(市橋) / 番禺(市桥) Fānyú (shìqiáo) Tones ..."
www.glossika.com/en/dict/dialecty.htm
3. PHIÊN ÂM CẢ HAI
(1). HOÀNG KIỀU (Yellow Bridge)
a.Words With Same Tail Word. 番禺 • pānyú, Panyu county (in Guangdong province). Derived Words or Phrases. None. Similar-sounding Words ...
www.yellowbridge.com/chinese/wordsearch.php?=
Mandarin Chinese: Chinese-English Dictionary
b. 番禺市. fānyú shì. Main. Definition, Panyu. Pinyin ... Word Decomposition. 番禺, pānyú, Panyu county (in Guangdong province). 市, shì, market; city
www.yellowbridge.com/chinese/ - Mandarin Chinese: Chinese-English Dictionary
(2). CHINESE TEXT PROJECT
番禺
Character Composition Variants Pinyin Cihai
番
田+ 7 蹯
fān pān bō pó fán pán pí p.914r4c04
禺
禸+ 4 yú ǒu yù p.986r4c01
http://chinese.dsturgeon.net/dictionary
( 3). CHINESE ENGLISH DICTIONARY
番
fan1 ㄈㄢˉ
(measure word for acts), deeds, foreign.
番
pan1 ㄆㄢˉ
(surname)/place name.
禺
yu2 ㄩˊ
(place)/district.
http://eyegene.ophthy.med.umich.edu/hanyu/index.php
(4). WIKIPEDIA
Từ điển này phiên âm là panyu và dịch là Phiên Ngung (2)
(5). Về Triệu Đà :phiên âm là panyu và dịch là Phiên Ngung.
At the end of the Qin Dynasty, he took control of the region of modern-day Guangdong and Guangxi. Zhao Tuo built up his power and territory, partially through alliances with native Yue nobility and chieftains. He then declared himself the King of Nanyue ("Southern Yue") and set up his capital at Panyu (番禺; Vietnamese: Phiên Ngung), the site of modern-day Guangzhou. (3)
4.CÁCH PHIÊN ÂM KHÁC
Ngoài ra còn có vài cách phiên âm khác
(1). 番禺 (xiang1 yu2
55k - 8 sec @ 56k Mandarin chinese word 番禺 (xiang1 yu2) - Stroke Order; Pinyin, ...
Simplified Characters : 番禺 ... Traditional Characters :
www.blabi.com/chinese/module/idiomas/action/word.view/l...
(2).番禺 Poon Yu
Guangzhou: Encyclopedia II - Guangzhou - History
It is believed that the first city built at the site of Guangzhou was Panyu (番禺; the locals pronounced this in Cantonese as Poon Yu) founded in 214 BC. The city has been continuously occupied ...
www.experiencefestival.com/a/guangzhou%20-%20history
(3). 番禺 pun1 jyu4
www.cantonese.sheik.co.uk/dictionary/words/13771/
(4). Historical capitals of China - Open Encyclopedia
The Nanyue (207 BC - 110 BC): it was known as Pun Yue (番禺) ... The Southern Han (917 - 971): it was known as Pun Yue (番禺)
www.openencyclopedia.net/index.php/Cambaluc
IV. GỐC 番禺
Trong bài trước, tôi có nói đến Sài Gòn đã mất tên gốc (4). Phiên Ngung cũng thế. Trước khi nhà Tần xâm lược, Bách Việt là một vùng độc lập. Trước khi Triệu Đà lập kinh đô Nam Việt, Phiên Ngung hay Phiên Ngu tên là gì, không thấy nói. Nay một số tài liệu cho biết Phiên Ngung hay Phan Ngu vốn tên là 蕃禺 sau đổi là 番禺 :
1.Chinese Architecture- Guangzhou (Canton)
08- Museum of the Tomb of the King of Southern Yue in Western Han Dynasty ... city built at the site of Guangzhou was Panyu (蕃禺, later simplified to 番禺; Poon ...
www.chinese-architecture.info/CA/CA.htm
2. Guangzhou - New World Encyclopedia
... Panyu (蕃禺, later simplified to 番禺) was founded there in 214 B.C.E. ... first city built at the site of Guangzhou was Panyu (蕃禺, later simplified to 番禺; ...
www.newworldencyclopedia.org/entry/Guangzhou.
3. The first known city built at the site of Guangzhou was Panyu (蕃禺, later simplified to 番禺; Poon Yu in Cantonese) founded in 214 BC. ...
35 KB (4051 words) - 20:40, 22 October 2008
wikipedia
Hai chữ này khác nhau thảo đầu, Thiều Chửu đọc là Phiền, Phiên).
V. HÁN VIỆT VÀ QUỐC NGỮ
Thời Nho học, các cụ ta viết Hán Văn và đọc theo âm Hán Việt. Chúng ta chỉ thấy chữ mà không biết các cụ đọc như thế nào vì chúng ta xa cách các cụ hàng thế kỷ. Muốn biết các cụ đọc như thế nào thì ta phải tra các tự điển Trung Quốc và Việt Nam, tất nhiên trong dó có tự điển Hán Việt như Tự Điển của Đào Duy Anh và Thiều Chửu là những tự điển thông dụng trong khoảng 1945. .
Ngoài ra, ta phải xem các tác phẩm của các nhân vật buổi giao thời của tân học và cựu học, và những học giả thông thạo Trung văn hiện kim. Lý do dễ hiểu là ngôn ngữ ta không thay đổi cho nên dù Hán, Nôm hay quốc ngữ chỉ là hình thức, còn một số danh từ, ngôn ngữ và một số kiến thức vẫn tồn tại và xuyên suốt chiều dài lịch sử .
Hầu hết người Việt Nam đều đọc là Phiên Ngung. Phiên Ngung là một địa danh quan trọng cho nên từ đầu cho đến nay những ai quan tâm đến lịch sử Việt Nam đều biết.. Khi Pháp bãi bỏ chữ Hán thì một số người Việt vẫn kế thừa văn hóa cũ. Họ là những tiến sĩ, cử nhân hoặc nho sĩ thời Hán học còn lại cho đến khoảng 1975.
Trần Trọng Kim đã theo cựu học, sau sang Pháp du học. Những sách của cụ viết thường được ông anh là Phó bảng Bùi Kỷ hiệu đính và góp ý. Ngoài Trần trọng Kim, Đào Duy Anh, Nguyễn Đỗng Chi cũng là tay khá về Hán học, họ đã dịch thuật, nghiên cứu và sau 1945, đã tham gia dịch thuật các tài liêu văn sử trong đó có các bộ Toàn Thư và Cương Mục( tất cả đều đọc là Phiên Ngung). Trước 1975, một số thanh niên du học tại Trung Quốc, một số tốt nghiệp tại Đại học Văn Khoa và Sư Phạm Sàigon , Huế, và một số tăng lữ tại các Phật học viện miền Nam và nay một số học Hoa văn tại Âu Mỹ hay Nhật văn tại Nhật Bản là những nhân tố mới cho nên bây giờ tại Việt Nam và hải ngoại vẫn có một số giỏi Trung văn.
Khi tôi nêu lên ba tác phẩm phiên dịch Phiên Ngung trong bài thứ nhất là muốn trình bày cách viết và cách đọc của một số người Việt về hai chữ 番禺 trước khi đi vào các từ điển Trung văn và Hán Việt.
Ban phiên dịch Phủ Quốc Vụ Khanh Sài gòn, viện Đại Học Huế, và Viện Khoa Học Xã Hội Hà Nội gồm một số tinh hoa về Hán học. Như ban Phiên dịch Đại Học Huế có giáo sư Trần Kinh Hoà vốn là người Hoa, đã góp công phiên dịch An Nam Chí Lược và Mục Lục Châu bản triều Nguyễn, sau ông dạy đại học Mỹ và nay dạy đai học Hồng Kông. Ông giỏi chữ Hoa đã đành mà còn giỏi tiếng Việt, trên tạp chí Đại Học Huế ông đã viết nhiều bài biên khảo bằng Việt ngữ rất có giá trị khiến cho tôi rất kính phục. Chắc ông cũng đã đọc các bản thảo trước khi in và không phản đối hai chữ “Phiên Ngung”.
Nói đến các nhân vật Việt Nam thời Quốc Ngữ, tôi xin giới thiệu lần nữa Huình Tịnh Của, là một người mà không ai dám nghi ngờ khả năng Hán tự của ông. Trong lời Tiểu Tự của Đại Nam Quốc Âm Tự Vị ( 1895-1896 ), ông đã nhắc đến Phiên Ngung:
"Tra ra trong truyện nước Nam nguyên gọi là Giao Chỉ, ở bên Nam Trung Quốc cho nên gọi là nước Nam, từ 18 đời Hùng Vương sách về trước, địa phận còn ở bên Phiên Ngung, Quế Lâm, Tượng Quận, là phần đất Quảng Đông, Quảng Tây, tưởng cũng có chữ riêng, song nhiều đời phải nhập về Nội địa, chịu phép quan Trung Quốc, cả luật phép giáo hóa, lễ nhạc, văn tự, đều phải theo Trung Quốc phải bỏ chữ riêng mình, .. ."
Người Việt đa số phiên âm là Phiên Ngung mà một số tài liệu quốc tế cũng phiên âm là Phiên Ngung. Tôi không thể tìm hết các tài liệu do ngoại quốc hay người Việt viết bằng tiếng Việt, Anh, Pháp ngữ về hai chữ Phiên Ngung, chỉ xin nêu vài chứng cớ:
1. Tài Iiệu về Phiên Ngung:
Quận Phiên Ngung, Quảng Châu, Quảng Đông, Trung Quốc. .
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (2)
(3). Tài liệu về Triệu Đà (Zhao Tuo) Xem Wikipedia
At the end of the Qin Dynasty, he took control of the region of modern-day Guangdong and Guangxi. Zhao Tuo built up his power and territory, partially through alliances with native Yue nobility and chieftains. He then declared himself the King of Nanyue ("Southern Yue") and set up his capital at Panyu (番禺; Vietnamese: Phiên Ngung), the site of modern-day Guangzhou (3).
4. CHINAHISTORY
Therefore, Luoyue (Lạc Việt) actually was the Việt Nation or Yueshangguo (Việt Thường Quốc). The people of Luoyue (Lạc Việt) who supported Zhaoduo (Triệu Đà) to form Nanyue ( Nam Việt) with the capital at Panyu (Phiên Ngung) also called that place Ouluo (Âu Lạc)
(Zhang Taiyou. Trương Thái Du)
http://www.chinahistoryforum.com/lofiversion/index.php/t5367.html
5. TÀI LIỆU LỊCH SỬ VỀ MALAYSIA
Tài liệu này cho rằng người Trung Quốc ở Malaysia vốn là người Nam Việt thời Triệu Đà mà thủ đô là Pan You (Phiên Ngung)
http://members.virtualtourist.com/m/tt/65e69/(5)
KẾT LUẬN
Theo thiển kiến, 番禺 dù đứng riêng hay đứng chung cũng không khác mấy, thường có hai cách đọc là Phan (pan ) Phiên ( Fan ). Qua cuộc tìm kiếm thô thiển và hạn chế này, tôi nghĩ rằng 番禺 có thể đọc là Phan Ngung, Phan Ngu, hay Phiên Ngu, Phiên Ngung đều được, nhưng trong tim người Việt, Phiên Ngung là hai chữ đã in đậm nét..
Như đã trình bày ở bài thứ nhất, Trung văn thay đổi luôn, còn tiếng Hán Việt ta có nguồn gốc từ Hán Đường cho nên tiếng Hán Việt và tiếng Hoa bây giờ thành ra khác nhau. Dù Trung Quốc đọc là Phan Ngu, nhưng truyền thống ta đọc Phiên Ngung là do tính lịch sử của nó, chứ không phải là sai. Cái gia tài và thế lực của các bộ Hán Việt Tự Điển đã cho ta thấy ta độc lập về cách đọc những từ Hán Việt. Lẽ tất nhiên khi nghiên cứu Trung văn, ta phải đọc và tìm hiểu các sách Trung Quốc, nhưng phải hiểu rằng cách phát âm ghi trong sách Trung quốc là cho một số người Trung Quốc,chứ không có hiệu lực cho toàn dân Trung Quốc vì tiếng Bắc kinh khác tiếng Quảng Đông, tiếng Phúc Kiến khác tiếng Hà Bắc.Dân Trung Quốc có bao nhiêu tỉnh là có bấy nhiêu ngôn ngữ, chữ giống nhau nhưng đọc khác nhau, như dân Quảng Đông đọc là Poon Yu như đã nói ở trên trong khi dân các xứ đọc la Panyu hay Fanyu.
Còn Việt Nam ta có cách đọc chữ Hán Việt riêng, không phụ thuộc vào ngôn ngữ hiện đại của Trung Quốc. Cũng như nước Anh viết và đọc London, Thames nhưng dân Pháp đọc là Londre , Tamise thì không ai dám bảo là họ viết và đọc sai tiếng Anh!
Mao Trạch Đông muốn thống nhất thiên hạ, hiệu lệnh quần hùng nhưng ông đã thất bại trong việc La Mã hóa văn tự Trung Quốc là bởi vì ngôn ngữ có một sức độc lập và quật cường. Ngôn ngữ , nhất là ngôn ngữ Trung Quốc rất phức tạp. Phiên thiết, pinyin , Wade-Giles cũng chỉ có giá trị tương đối. Bài viết về cách phiên âm Hán Việt của Wikipedia rất có giá tri, trong có đoạn nhận định về sự phức tạp của ngôn ngữ và văn tự Trung Hoa đồng thời cũng giải thích về cách đọc tên các nhân vật sử như Đồ Thư, Nhâm Ngao, Mã Tốc, Chu Du. . .
"Bên cạnh các trường hợp một chữ Hán có một âm Quan thoại nhưng có thể có 2 âm Hán-Việt khác nhau được ghi chú trong cùng một từ/tự điển, còn có nhiều trường hợp mỗi sách ghi một âm Hán-Việt khác nhau". (6).
Như vậy, vấn đề không ở đúng hay sai mà là sự khác nhau và tính phức tạp của ngôn ngữ văn tự.
Việc này gần giống như trăm năm sau, có một nhà nghiên cứu nào đó lên tiếng rằng tác giả bài thơ
“ Ngập ngừng” (Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé ) là Hà Triều Anh, hay Hà Anh chứ không phải Hồ Dính hay Hồ Dzếnh!
Nguyễn Thiên Thụ
==
CHÚ THÍCH
======
(1) Từ Hải:in lần 3, Trung Hoa Dân quốc năm thứ 58, tr.1972.
(2). Quận Phiên Ngung, Quảng Châu, Quảng Đông, Trung Quốc. . .
Khách sạn Trường Long ở Phiên Ngung
Trụ sở chính quyền quận Đường Thanh Hà Đông
Diện tích
770,13 kilômét vuông
Dân số
930.800(2005)
. . . . . . . . .
Vị trí của Phiên Ngung trong Quảng Châu
Phiên Ngung (tiếng Trung: 番禺区, Hán Việt: Phiên Ngung khu) là một quận nội ô của thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quận này trước đây là một thành phố trước khi được nhập vào thành phố Quảng Châu. Tên gọi Phiên Ngung bắt đầu từ khi Tần Thủy Hoàng chiếm Quảng Đông. Nó là tên cũ của Quảng Châu ngày nay. Phiên Ngung nằm ở trung tâm của đồng bằng châu thổ Châu Giang.
(3) Nanyue (Chinese: 南越; pinyin: Nányuè; Wade-Giles: Nan Yüeh; Vietnamese: Nam Việt) was an ancient kingdom that consisted of parts of the modern Chinese provinces of Guangdong, Guangxi, Yunnan and much of modern northern Vietnam. The kingdom was established by the Han Chinese general Zhao Tuo (Traditional Chinese: 趙佗; pinyin: Zhào Tuō; Vietnamese: Triệu Đà) of the Qin dynasty who assimilated the customs of the Yue peoples and central China in his territory. Its capital was named Panyu (番禺), in today's Guangzhou, China. In Vietnam, the name Triệu Dynasty (based on the Vietnamese pronunciation of the surname Zhào) is used to refer to the lineage of kings of Nanyue, and by extension the era of Nanyue rule.. . . nhà Tần - triều đại thống nhất đế chế Trung Hoa, đã mở rộng về phía nam và lập nên Quận Nam Hải (南海郡) tại Phiên Ngu (番禺), ngày nay gần Quảng Châu. ...
vi.wikipedia.org/wiki/Quảng_Đông -
(4). Sở dĩ tôi nhắc đến Sài Gòn là vì sự liên tưởng. Cả hai là thủ đô một thời của Việt Nam nhưng nay đã mất và đã thay tên. Sao người quốc gia Việt Nam luôn mang số phận thất quốc vong gia?
(5). The ancestor of Malaysian-Chinese
Historical timeline - showing how Nanyue peoples 南越族人被汉化, 其后裔移居 became Malaysian-Chinese 成为马来西亚华人. (note: Hubei-Malaysians are exception, and other minorities)
>> Year 220bc - Recognized by the northerners Chin (Qin Emperor 秦始皇) as barbarians of the south. (look at map below).
>> Year 220-206bc - Conquered by Chin, all books (except Chin's book) burnt 烧书, 统一六国 by Qin Emperor, became part of Chin Empire, later known as China.
>> Year 1409 - Emperor YongLe sent 500 peoples to old Malaysia as gifts of friendship for Sultan of Melaka. (Read Gavin's 1421)
>> Year 1786 - British established their base in Penang and began import coolies (workers) for the Industrial Revolution.
>> Year 1786-1949 - Big wave of migrations, near millions came to old Malaysia, to search for money to send back home, where the home is today's Guangzhou, Fujian, etc. (Suggest reading Lynn Pan's book, an author expert in Chinese migration during the Industrial Revolution days)
Literally meaning "in the South of the Yue", the kingdom of Nanyue is at its origin the name of Vietnam. Between 2nd and 1st century B.C., it took up an area covering the present Guangdong ( Quảng Ðông ), Guangxi ( Quảng Tây ) provinces, HaiNam island ( Ha?i Nam) and the kingdom of Au-Lac, the ancient country of the Viê.t. The latter whose king was An Duong Vuong was annexed by general Zhao Tuo ( Triệu Ðà or Triệu Vũ Vương in Vietnamese ), the future founder of the kingdom of Nanyue.
According to the Vietnamese, the loss of their country was closely linked to the legend of the magic crossbow. In fact it was due to the way Triệu Ðà fought a war of lightning against An Duong Vuong while making the latter think of territorial compromises. Once these provinces were reunited under his banner, Zhao Tuo set up his seat at Pan You ( Phiên Ngưng ) not far from Guangzhou, presently Canton. He divided the kingdom of Au La.c into two commands, one known as Giao Chỉ which mainly took up the Ba('c Viê.t region, and the other under the name of Giao Châu which gathered together all the other provinces of North and Central Vietnam ( Thanh Hóa, Nghệ An, etc...).
http://members.virtualtourist.com/m/tt/65e69/
(6). Bản thân chữ Hán được phát âm khác nhau, ngay tại Trung Quốc, tuỳ từng vùng cũng có nhiều giọng/âm đọc khác nhau, như tiếng Quảng Đông, tiếng Phúc Kiến, tiếng Triều Châu, tiếng Bắc Kinh... Các nước lân cận như Triều Tiên có cách đọc riêng của người Triều Tiên, gọi là Hán-Triều (漢朝); người Nhật có cách đọc riêng của người Nhật, gọi là Hán-Hoà (漢和); người Việt có cách đọc của mình gọi là Hán-Việt (漢越).[. .] Âm Quan thoại chuẩn (dưới đây gọi tắt là Quan thoại) có 4 thanh điệu: âm bình, dương bình, thượng thanh và khứ thanh, trong khi âm Hán-Việt có 6 thanh điệu: ngang (không dấu), huyền, sắc, hỏi, ngã và nặng.’ [ .. .] Một âm Quan thoại thường tương ứng với nhiều chữ Hán, và đôi khi một chữ Hán cũng có 2-3 âm khác nhau, nhưng nói chung tổng số âm Quan thoại ít hơn nhiều so với tổng số chữ Hán. Một âm Quan thoại cũng thường tương ứng với nhiều âm Hán-Việt và đôi khi một âm Hán-Việt cũng tương ứng với 2 hoặc vài âm Quan thoại, nhưng tổng số âm Quan thoại ít hơn tổng số âm Hán-Việt (tiếng Quan thoại có 1280 âm trong khi tiếng Việt có từ khoảng 4500 đến 4800 âm đọc, tùy theo phương ngữ, và 6200 âm viết trong quốc ngữ[1]). Ví dụ: âm Quan thoại yù (được biểu thị bằng bính âm) tương ứng với các âm Hán-Việt và chữ Hán sau (chữ viết nghiêng là âm Quan thoại, chữ viết đậm là âm Hán-Việt):
• ẩu 嫗
• dụ 喻, 愈, 瘉, 癒, 芋, 吁/籲 (còn có âm là hu/xū), 裕, 誘, 谕/諭, 峪 (có sách phiên là dục)
• dũ 愈/癒, 羑
• duật 聿, 矞, 燏, 繘, 谲/譎, 遹, 鴥, 鷸
• dục 育, 淯, 堉, 毓, 谷 (còn có âm là cốc/gǔ), 浴, 峪 (có sách phiên là dụ), 欲/慾, 鹆/鵒, 昱, 煜, 翌, 鬻
• dự 与 (còn có âm là dư/yú, dữ/yǔ), 预/預, 澦, 蓣/蕷, 誉/譽, 豫 [. . ]. Bên cạnh các trường hợp một chữ Hán có 1 âm Quan thoại nhưng có thể có 2 âm Hán-Việt khác nhau được ghi chú trong cùng một từ/tự điển, còn có nhiều trường hợp mỗi sách ghi một âm Hán-Việt khác nhau.
Bản thân chữ bính, trong thuật ngữ "bính âm", xuất xứ từ một số sách cũ ở miền Nam Việt Nam, trong khi nhiều từ/tự điển hiện nay chỉ phiên là phanh, và cũng có một số người dùng phanh âm.
Ung Châu (雍州), một trong chín châu của Trung Quốc thời cổ (vùng Thiểm Tây 陝西, Cam Túc 甘肅, Thanh Hải 青海 ngày nay), có chữ đầu đều được phiên là Ung trong hầu hết các từ/tự điển Hán-Việt và các sách truyện như Đông Chu liệt quốc, Tam quốc, chỉ riêng tự điển Thiều Chửu phiên là Úng. Chữ Ung này cũng nằm trong niên hiệu Ung Chính 雍正 của vua Thanh Thế Tổ.
Trong cuốn Chuyện Đông chuyện Tây, NXB Trẻ, An Chi Võ Thiện Hoa đã so sánh một số trường hợp phiên âm không thống nhất giữa 2 quyển Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu và Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh (câu 438, trang 140-145, tập 3) như:
• chữ 膾 (bính âm: kuài), là khoái theo Đào Duy Anh và quái theo Thiều Chửu. Theo An Chi, khoái là âm Hán-Việt thông dụng, còn quái là âm Hán-Việt chính thống, phản ánh cách phát âm đời nhà Đường.
• chữ 炙 (bính âm: zhì), là chá theo Đào Duy Anh và chích theo Thiều Chửu. Trong từ điển của Trung Quốc có cả 2 âm này.
• chữ 僣 (bính âm: tiĕ), là tiếm theo Đào Duy Anh và thiết theo Thiều Chửu. Âm thiết là đúng, còn âm tiếm dành cho chữ 僭 (jiàn, zèn) cũng gần giống mà từ điển của Đào Duy Anh không có chữ này. Người ta vẫn có thói quen lấy chữ 僣 thay cho chữ 僭 nhưng làm như thế là không chuẩn.
Nhân vật họ Mã trong Tam quốc làm thất thủ Nhai Đình, lỡ kế hoạch của Gia Cát Lượng có tên là 马/馬謖 (bính âm: Mǎ Sù), được phiên khi thì là Mã Tốc, khi thì là Mã Tắc, thậm chí có khi là Mã Thốc, còn theo An Chi thì phải đọc là Mã Sốc theo đúng âm Hán-Việt chính thống xuất xứ từ đời Đường.
Tương tự như vậy, nhân vật Chu Du (周瑜, Zhōu Yú) quen thuộc có lúc lại biến thành Châu Do (âm Do không đúng nhưng âm Châu lại sát âm gốc hơn) chỉ vì cách phiên âm Hán-Việt khác nhau.Hai viên tướng Trung Quốc thời cổ thường được nhắc đến trong sử sách Việt Nam dưới tên gọi Đồ Thư (屠睢) và Nhâm Ngao (壬嚣), nếu theo phiên âm hiện đại thì phải là Đồ Tuy và Nhậm/Nhiệm/Nhâm Hiêu (任嚣). Ở đây họ 壬 (Nhâm - Rén) thời xưa đã được viết thành 任 có hai âm Nhâm - Rén và Nhậm/Nhiệm - Rèn.
( Phiên âm Hán-Việt. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
===
BÀI 2
*
Trước đây, tôi đã trình bày về cách viết và đọc hai chữ 番 và 禺 riêng rẽ, rốt cuộc có hai cách đọc là PHAN, PHIÊN và NGU, NGUNG.
Nay tôi xin trình bày rõ thêm về cách đọc riêng và chung của hai chữ 番禺 mà chú trọng về cách phiên âm pinyin.
I. CÁCH ĐỌC RIÊNG
1.TỰ ĐIỂN TRẦN VĂN KIỆM
番 Phiên (fān)
2. TỪ ĐIỂN WIKTIONARY
Đây là tự điển on line của ngoại quốc, xin trích một đoạn về chữ 番. .
Mandarin
Hanzi
番 (pinyin bō (bo1), fān (fan1), fán (fan2), pān (pan1), pán (pan2), pí (pi2), pó (po2), Wade-Giles po1, fan1, fan2, p'an1, p'an2, p'i2, p'o2)
Vietnamese
Han character
番 (phiên, phan, ba, bà)
Readings
• Nôm: ba, bà, phiên, phan, phen
http://en.wiktionary.org
3. CHINESE CHARACTER DICTIONARY
fan1 pan1 bo1 po2 fan2 pan2 pi2
http://www.mandarintools.com
4. CHINESE TEXT PROJECT
番 fān pān bō pó fán pán pí
http://chinese.dsturgeon.net/dictionary.
Bấy nhiêu thí dụ cũng cho thấy chữ 番 có thể đọc nhiều cách, nhưng hai cách phổ biến là PHIÊN (fan) và PHAN (pan ).
II. ĐỌC CHUNG HAI CHỮ 番禺
Khi tra cứu một số từ điển danh tiếng, tôi gặp hai trường hợp:
-Không chú thích về 番禺 như Khang Hy từ điển
-Có chú thích nhưng không phiên âm như Trung Hoa Đại Tự Điển.
Vì vậy, tôi đã tìm đến một số từ điển cổ cũng như mới có chú thích cách đọc, trong đó các tự điển tiếng Hoa hay Hoa Anh , và các tài liệu khác có ghi pinyin về hai chữ 番禺. Từ điển và sách thì vô số, tôi không thể tìm hết, chỉ có thể tìm kiếm một số thôi. Tuy vậy, tôi cũng có một số kết quả về cách phát âm hai chữ 番禺:
1. PHIÊN ÂM PHAN NGUNG hay PHAN NGU
Đa số từ điển ghi theo cách này:
(1) Encyclopedia II
番禺. pānyú.
Guangzhou: Encyclopedia II - Guangzhou - History
It is believed that the first city built at the site of Guangzhou was Panyu (番禺; the locals pronounced this in Cantonese as Poon Yu) founded in 214 BC. The city has been continuously occupied ...
www.experiencefestival.com/a/guangzhou%20-%20history
(2). TỪ HẢI (Trung quốc ) :
• Chú giáp: 番, 敷駑切音翻元韻 Phiên: phu nô thiết âm phiên, nguyên vận. (âm phiên, vần nguyên, nghïa là đọc Phiên.
• Chú ất: 逋倭切音波 歌韻 bô oa ( uy, nụy) thiết, âm ba, ca vận ( bô oa thành ba ô (như vậy là đọc BA), âm BA, vÀn CA.
Hai chú trên giống Từ Nguyên
• Chú bính: 鋪剜切音潘寒韻 Phô oan thiết âm phan, vần hàn ( phô oan thành ra phan) , âm phan, hàn vận như 番禺 Phan Ngung (1).
Từ Hải còn ghi ở phần phụ về cách phát âm như sau:
番- fan
- pan : 番禺 ( tr.46).
Như vậy theo Từ Hải, chữ 番 có thể đọc fan ( phiên ) và pan (Phan) nhưng trong chữ 番禺 thì phải đọc là Phan Ngung hay Phan Ngu.
2. PHIÊN ÂM Phiên Ngung (theo các từ điển và tài liệu khác )
Các TỪ ĐIỂN TRUNG VĂN dùng fan chú âm phiên như Trần Văn Kiệm (fan: phiên), và Từ Hải như đã nói trên.
(1). POPUP CHINESE 番禺 fānyú
http://www.popupchinese.com
(2). HOÀNG KIỀU 番禺 fānyú
http://www.yellowbridge.com/
(3). CHINAKNOWLEDGE
Rulers of Southern Han (Nanhan) 南漢 (Yue 粵; 917-971) Capital: Fanyu 番禺 (modern Guangzhou 廣州/Guangdong)
www.chinaknowledge.de/History/Tang/rulers-nanhan.html
(4). KEN CHEW UNDERSTANDING CHINESE
秦始皇帝 The First Emperor of ...
"One army was sent to Fanyu (番禺 in present day south of Guangzhou city 廣州市 Guangdong province 廣東省), one to Tancheng (鐔城 in present near Guilin city 桂林市 in Guangxi province "
(秦始皇帝 The First Emperor of China Part II)
http://kchew99.spaces.live.com
(5). CHINESE HISTORY
- Ten Kingdoms rulers: Southern Han or Yue . Capital: Fanyu 番禺 (modern Guangzhou 廣州/Guangdong)
www.a3guo.com/en/china/History/Tang/rulers-nanhan.html
(6).YUE(CANTONESE) DIALECTS
"Tones and phonology of the Yue Cantonese dialects of Guangdong province: Guangzhou, Canton, Zhongshan, Zhongshan ... 番禺(市橋) / 番禺(市桥) Fānyú (shìqiáo) Tones ..."
www.glossika.com/en/dict/dialecty.htm
3. PHIÊN ÂM CẢ HAI
(1). HOÀNG KIỀU (Yellow Bridge)
a.Words With Same Tail Word. 番禺 • pānyú, Panyu county (in Guangdong province). Derived Words or Phrases. None. Similar-sounding Words ...
www.yellowbridge.com/chinese/wordsearch.php?=
Mandarin Chinese: Chinese-English Dictionary
b. 番禺市. fānyú shì. Main. Definition, Panyu. Pinyin ... Word Decomposition. 番禺, pānyú, Panyu county (in Guangdong province). 市, shì, market; city
www.yellowbridge.com/chinese/ - Mandarin Chinese: Chinese-English Dictionary
(2). CHINESE TEXT PROJECT
番禺
Character Composition Variants Pinyin Cihai
番
田+ 7 蹯
fān pān bō pó fán pán pí p.914r4c04
禺
禸+ 4 yú ǒu yù p.986r4c01
http://chinese.dsturgeon.net/dictionary
( 3). CHINESE ENGLISH DICTIONARY
番
fan1 ㄈㄢˉ
(measure word for acts), deeds, foreign.
番
pan1 ㄆㄢˉ
(surname)/place name.
禺
yu2 ㄩˊ
(place)/district.
http://eyegene.ophthy.med.umich.edu/hanyu/index.php
(4). WIKIPEDIA
Từ điển này phiên âm là panyu và dịch là Phiên Ngung (2)
(5). Về Triệu Đà :phiên âm là panyu và dịch là Phiên Ngung.
At the end of the Qin Dynasty, he took control of the region of modern-day Guangdong and Guangxi. Zhao Tuo built up his power and territory, partially through alliances with native Yue nobility and chieftains. He then declared himself the King of Nanyue ("Southern Yue") and set up his capital at Panyu (番禺; Vietnamese: Phiên Ngung), the site of modern-day Guangzhou. (3)
4.CÁCH PHIÊN ÂM KHÁC
Ngoài ra còn có vài cách phiên âm khác
(1). 番禺 (xiang1 yu2
55k - 8 sec @ 56k Mandarin chinese word 番禺 (xiang1 yu2) - Stroke Order; Pinyin, ...
Simplified Characters : 番禺 ... Traditional Characters :
www.blabi.com/chinese/module/idiomas/action/word.view/l...
(2).番禺 Poon Yu
Guangzhou: Encyclopedia II - Guangzhou - History
It is believed that the first city built at the site of Guangzhou was Panyu (番禺; the locals pronounced this in Cantonese as Poon Yu) founded in 214 BC. The city has been continuously occupied ...
www.experiencefestival.com/a/guangzhou%20-%20history
(3). 番禺 pun1 jyu4
www.cantonese.sheik.co.uk/dictionary/words/13771/
(4). Historical capitals of China - Open Encyclopedia
The Nanyue (207 BC - 110 BC): it was known as Pun Yue (番禺) ... The Southern Han (917 - 971): it was known as Pun Yue (番禺)
www.openencyclopedia.net/index.php/Cambaluc
IV. GỐC 番禺
Trong bài trước, tôi có nói đến Sài Gòn đã mất tên gốc (4). Phiên Ngung cũng thế. Trước khi nhà Tần xâm lược, Bách Việt là một vùng độc lập. Trước khi Triệu Đà lập kinh đô Nam Việt, Phiên Ngung hay Phiên Ngu tên là gì, không thấy nói. Nay một số tài liệu cho biết Phiên Ngung hay Phan Ngu vốn tên là 蕃禺 sau đổi là 番禺 :
1.Chinese Architecture- Guangzhou (Canton)
08- Museum of the Tomb of the King of Southern Yue in Western Han Dynasty ... city built at the site of Guangzhou was Panyu (蕃禺, later simplified to 番禺; Poon ...
www.chinese-architecture.info/CA/CA.htm
2. Guangzhou - New World Encyclopedia
... Panyu (蕃禺, later simplified to 番禺) was founded there in 214 B.C.E. ... first city built at the site of Guangzhou was Panyu (蕃禺, later simplified to 番禺; ...
www.newworldencyclopedia.org/entry/Guangzhou.
3. The first known city built at the site of Guangzhou was Panyu (蕃禺, later simplified to 番禺; Poon Yu in Cantonese) founded in 214 BC. ...
35 KB (4051 words) - 20:40, 22 October 2008
wikipedia
Hai chữ này khác nhau thảo đầu, Thiều Chửu đọc là Phiền, Phiên).
V. HÁN VIỆT VÀ QUỐC NGỮ
Thời Nho học, các cụ ta viết Hán Văn và đọc theo âm Hán Việt. Chúng ta chỉ thấy chữ mà không biết các cụ đọc như thế nào vì chúng ta xa cách các cụ hàng thế kỷ. Muốn biết các cụ đọc như thế nào thì ta phải tra các tự điển Trung Quốc và Việt Nam, tất nhiên trong dó có tự điển Hán Việt như Tự Điển của Đào Duy Anh và Thiều Chửu là những tự điển thông dụng trong khoảng 1945. .
Ngoài ra, ta phải xem các tác phẩm của các nhân vật buổi giao thời của tân học và cựu học, và những học giả thông thạo Trung văn hiện kim. Lý do dễ hiểu là ngôn ngữ ta không thay đổi cho nên dù Hán, Nôm hay quốc ngữ chỉ là hình thức, còn một số danh từ, ngôn ngữ và một số kiến thức vẫn tồn tại và xuyên suốt chiều dài lịch sử .
Hầu hết người Việt Nam đều đọc là Phiên Ngung. Phiên Ngung là một địa danh quan trọng cho nên từ đầu cho đến nay những ai quan tâm đến lịch sử Việt Nam đều biết.. Khi Pháp bãi bỏ chữ Hán thì một số người Việt vẫn kế thừa văn hóa cũ. Họ là những tiến sĩ, cử nhân hoặc nho sĩ thời Hán học còn lại cho đến khoảng 1975.
Trần Trọng Kim đã theo cựu học, sau sang Pháp du học. Những sách của cụ viết thường được ông anh là Phó bảng Bùi Kỷ hiệu đính và góp ý. Ngoài Trần trọng Kim, Đào Duy Anh, Nguyễn Đỗng Chi cũng là tay khá về Hán học, họ đã dịch thuật, nghiên cứu và sau 1945, đã tham gia dịch thuật các tài liêu văn sử trong đó có các bộ Toàn Thư và Cương Mục( tất cả đều đọc là Phiên Ngung). Trước 1975, một số thanh niên du học tại Trung Quốc, một số tốt nghiệp tại Đại học Văn Khoa và Sư Phạm Sàigon , Huế, và một số tăng lữ tại các Phật học viện miền Nam và nay một số học Hoa văn tại Âu Mỹ hay Nhật văn tại Nhật Bản là những nhân tố mới cho nên bây giờ tại Việt Nam và hải ngoại vẫn có một số giỏi Trung văn.
Khi tôi nêu lên ba tác phẩm phiên dịch Phiên Ngung trong bài thứ nhất là muốn trình bày cách viết và cách đọc của một số người Việt về hai chữ 番禺 trước khi đi vào các từ điển Trung văn và Hán Việt.
Ban phiên dịch Phủ Quốc Vụ Khanh Sài gòn, viện Đại Học Huế, và Viện Khoa Học Xã Hội Hà Nội gồm một số tinh hoa về Hán học. Như ban Phiên dịch Đại Học Huế có giáo sư Trần Kinh Hoà vốn là người Hoa, đã góp công phiên dịch An Nam Chí Lược và Mục Lục Châu bản triều Nguyễn, sau ông dạy đại học Mỹ và nay dạy đai học Hồng Kông. Ông giỏi chữ Hoa đã đành mà còn giỏi tiếng Việt, trên tạp chí Đại Học Huế ông đã viết nhiều bài biên khảo bằng Việt ngữ rất có giá trị khiến cho tôi rất kính phục. Chắc ông cũng đã đọc các bản thảo trước khi in và không phản đối hai chữ “Phiên Ngung”.
Nói đến các nhân vật Việt Nam thời Quốc Ngữ, tôi xin giới thiệu lần nữa Huình Tịnh Của, là một người mà không ai dám nghi ngờ khả năng Hán tự của ông. Trong lời Tiểu Tự của Đại Nam Quốc Âm Tự Vị ( 1895-1896 ), ông đã nhắc đến Phiên Ngung:
"Tra ra trong truyện nước Nam nguyên gọi là Giao Chỉ, ở bên Nam Trung Quốc cho nên gọi là nước Nam, từ 18 đời Hùng Vương sách về trước, địa phận còn ở bên Phiên Ngung, Quế Lâm, Tượng Quận, là phần đất Quảng Đông, Quảng Tây, tưởng cũng có chữ riêng, song nhiều đời phải nhập về Nội địa, chịu phép quan Trung Quốc, cả luật phép giáo hóa, lễ nhạc, văn tự, đều phải theo Trung Quốc phải bỏ chữ riêng mình, .. ."
Người Việt đa số phiên âm là Phiên Ngung mà một số tài liệu quốc tế cũng phiên âm là Phiên Ngung. Tôi không thể tìm hết các tài liệu do ngoại quốc hay người Việt viết bằng tiếng Việt, Anh, Pháp ngữ về hai chữ Phiên Ngung, chỉ xin nêu vài chứng cớ:
1. Tài Iiệu về Phiên Ngung:
Quận Phiên Ngung, Quảng Châu, Quảng Đông, Trung Quốc. .
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (2)
(3). Tài liệu về Triệu Đà (Zhao Tuo) Xem Wikipedia
At the end of the Qin Dynasty, he took control of the region of modern-day Guangdong and Guangxi. Zhao Tuo built up his power and territory, partially through alliances with native Yue nobility and chieftains. He then declared himself the King of Nanyue ("Southern Yue") and set up his capital at Panyu (番禺; Vietnamese: Phiên Ngung), the site of modern-day Guangzhou (3).
4. CHINAHISTORY
Therefore, Luoyue (Lạc Việt) actually was the Việt Nation or Yueshangguo (Việt Thường Quốc). The people of Luoyue (Lạc Việt) who supported Zhaoduo (Triệu Đà) to form Nanyue ( Nam Việt) with the capital at Panyu (Phiên Ngung) also called that place Ouluo (Âu Lạc)
(Zhang Taiyou. Trương Thái Du)
http://www.chinahistoryforum.com/lofiversion/index.php/t5367.html
5. TÀI LIỆU LỊCH SỬ VỀ MALAYSIA
Tài liệu này cho rằng người Trung Quốc ở Malaysia vốn là người Nam Việt thời Triệu Đà mà thủ đô là Pan You (Phiên Ngung)
http://members.virtualtourist.com/m/tt/65e69/(5)
KẾT LUẬN
Theo thiển kiến, 番禺 dù đứng riêng hay đứng chung cũng không khác mấy, thường có hai cách đọc là Phan (pan ) Phiên ( Fan ). Qua cuộc tìm kiếm thô thiển và hạn chế này, tôi nghĩ rằng 番禺 có thể đọc là Phan Ngung, Phan Ngu, hay Phiên Ngu, Phiên Ngung đều được, nhưng trong tim người Việt, Phiên Ngung là hai chữ đã in đậm nét..
Như đã trình bày ở bài thứ nhất, Trung văn thay đổi luôn, còn tiếng Hán Việt ta có nguồn gốc từ Hán Đường cho nên tiếng Hán Việt và tiếng Hoa bây giờ thành ra khác nhau. Dù Trung Quốc đọc là Phan Ngu, nhưng truyền thống ta đọc Phiên Ngung là do tính lịch sử của nó, chứ không phải là sai. Cái gia tài và thế lực của các bộ Hán Việt Tự Điển đã cho ta thấy ta độc lập về cách đọc những từ Hán Việt. Lẽ tất nhiên khi nghiên cứu Trung văn, ta phải đọc và tìm hiểu các sách Trung Quốc, nhưng phải hiểu rằng cách phát âm ghi trong sách Trung quốc là cho một số người Trung Quốc,chứ không có hiệu lực cho toàn dân Trung Quốc vì tiếng Bắc kinh khác tiếng Quảng Đông, tiếng Phúc Kiến khác tiếng Hà Bắc.Dân Trung Quốc có bao nhiêu tỉnh là có bấy nhiêu ngôn ngữ, chữ giống nhau nhưng đọc khác nhau, như dân Quảng Đông đọc là Poon Yu như đã nói ở trên trong khi dân các xứ đọc la Panyu hay Fanyu.
Còn Việt Nam ta có cách đọc chữ Hán Việt riêng, không phụ thuộc vào ngôn ngữ hiện đại của Trung Quốc. Cũng như nước Anh viết và đọc London, Thames nhưng dân Pháp đọc là Londre , Tamise thì không ai dám bảo là họ viết và đọc sai tiếng Anh!
Mao Trạch Đông muốn thống nhất thiên hạ, hiệu lệnh quần hùng nhưng ông đã thất bại trong việc La Mã hóa văn tự Trung Quốc là bởi vì ngôn ngữ có một sức độc lập và quật cường. Ngôn ngữ , nhất là ngôn ngữ Trung Quốc rất phức tạp. Phiên thiết, pinyin , Wade-Giles cũng chỉ có giá trị tương đối. Bài viết về cách phiên âm Hán Việt của Wikipedia rất có giá tri, trong có đoạn nhận định về sự phức tạp của ngôn ngữ và văn tự Trung Hoa đồng thời cũng giải thích về cách đọc tên các nhân vật sử như Đồ Thư, Nhâm Ngao, Mã Tốc, Chu Du. . .
"Bên cạnh các trường hợp một chữ Hán có một âm Quan thoại nhưng có thể có 2 âm Hán-Việt khác nhau được ghi chú trong cùng một từ/tự điển, còn có nhiều trường hợp mỗi sách ghi một âm Hán-Việt khác nhau". (6).
Như vậy, vấn đề không ở đúng hay sai mà là sự khác nhau và tính phức tạp của ngôn ngữ văn tự.
Việc này gần giống như trăm năm sau, có một nhà nghiên cứu nào đó lên tiếng rằng tác giả bài thơ
“ Ngập ngừng” (Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé ) là Hà Triều Anh, hay Hà Anh chứ không phải Hồ Dính hay Hồ Dzếnh!
Nguyễn Thiên Thụ
==
CHÚ THÍCH
======
(1) Từ Hải:in lần 3, Trung Hoa Dân quốc năm thứ 58, tr.1972.
(2). Quận Phiên Ngung, Quảng Châu, Quảng Đông, Trung Quốc. . .
Khách sạn Trường Long ở Phiên Ngung
Trụ sở chính quyền quận Đường Thanh Hà Đông
Diện tích
770,13 kilômét vuông
Dân số
930.800(2005)
. . . . . . . . .
Vị trí của Phiên Ngung trong Quảng Châu
Phiên Ngung (tiếng Trung: 番禺区, Hán Việt: Phiên Ngung khu) là một quận nội ô của thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quận này trước đây là một thành phố trước khi được nhập vào thành phố Quảng Châu. Tên gọi Phiên Ngung bắt đầu từ khi Tần Thủy Hoàng chiếm Quảng Đông. Nó là tên cũ của Quảng Châu ngày nay. Phiên Ngung nằm ở trung tâm của đồng bằng châu thổ Châu Giang.
(3) Nanyue (Chinese: 南越; pinyin: Nányuè; Wade-Giles: Nan Yüeh; Vietnamese: Nam Việt) was an ancient kingdom that consisted of parts of the modern Chinese provinces of Guangdong, Guangxi, Yunnan and much of modern northern Vietnam. The kingdom was established by the Han Chinese general Zhao Tuo (Traditional Chinese: 趙佗; pinyin: Zhào Tuō; Vietnamese: Triệu Đà) of the Qin dynasty who assimilated the customs of the Yue peoples and central China in his territory. Its capital was named Panyu (番禺), in today's Guangzhou, China. In Vietnam, the name Triệu Dynasty (based on the Vietnamese pronunciation of the surname Zhào) is used to refer to the lineage of kings of Nanyue, and by extension the era of Nanyue rule.. . . nhà Tần - triều đại thống nhất đế chế Trung Hoa, đã mở rộng về phía nam và lập nên Quận Nam Hải (南海郡) tại Phiên Ngu (番禺), ngày nay gần Quảng Châu. ...
vi.wikipedia.org/wiki/Quảng_Đông -
(4). Sở dĩ tôi nhắc đến Sài Gòn là vì sự liên tưởng. Cả hai là thủ đô một thời của Việt Nam nhưng nay đã mất và đã thay tên. Sao người quốc gia Việt Nam luôn mang số phận thất quốc vong gia?
(5). The ancestor of Malaysian-Chinese
Historical timeline - showing how Nanyue peoples 南越族人被汉化, 其后裔移居 became Malaysian-Chinese 成为马来西亚华人. (note: Hubei-Malaysians are exception, and other minorities)
>> Year 220bc - Recognized by the northerners Chin (Qin Emperor 秦始皇) as barbarians of the south. (look at map below).
>> Year 220-206bc - Conquered by Chin, all books (except Chin's book) burnt 烧书, 统一六国 by Qin Emperor, became part of Chin Empire, later known as China.
>> Year 1409 - Emperor YongLe sent 500 peoples to old Malaysia as gifts of friendship for Sultan of Melaka. (Read Gavin's 1421)
>> Year 1786 - British established their base in Penang and began import coolies (workers) for the Industrial Revolution.
>> Year 1786-1949 - Big wave of migrations, near millions came to old Malaysia, to search for money to send back home, where the home is today's Guangzhou, Fujian, etc. (Suggest reading Lynn Pan's book, an author expert in Chinese migration during the Industrial Revolution days)
Literally meaning "in the South of the Yue", the kingdom of Nanyue is at its origin the name of Vietnam. Between 2nd and 1st century B.C., it took up an area covering the present Guangdong ( Quảng Ðông ), Guangxi ( Quảng Tây ) provinces, HaiNam island ( Ha?i Nam) and the kingdom of Au-Lac, the ancient country of the Viê.t. The latter whose king was An Duong Vuong was annexed by general Zhao Tuo ( Triệu Ðà or Triệu Vũ Vương in Vietnamese ), the future founder of the kingdom of Nanyue.
According to the Vietnamese, the loss of their country was closely linked to the legend of the magic crossbow. In fact it was due to the way Triệu Ðà fought a war of lightning against An Duong Vuong while making the latter think of territorial compromises. Once these provinces were reunited under his banner, Zhao Tuo set up his seat at Pan You ( Phiên Ngưng ) not far from Guangzhou, presently Canton. He divided the kingdom of Au La.c into two commands, one known as Giao Chỉ which mainly took up the Ba('c Viê.t region, and the other under the name of Giao Châu which gathered together all the other provinces of North and Central Vietnam ( Thanh Hóa, Nghệ An, etc...).
http://members.virtualtourist.com/m/tt/65e69/
(6). Bản thân chữ Hán được phát âm khác nhau, ngay tại Trung Quốc, tuỳ từng vùng cũng có nhiều giọng/âm đọc khác nhau, như tiếng Quảng Đông, tiếng Phúc Kiến, tiếng Triều Châu, tiếng Bắc Kinh... Các nước lân cận như Triều Tiên có cách đọc riêng của người Triều Tiên, gọi là Hán-Triều (漢朝); người Nhật có cách đọc riêng của người Nhật, gọi là Hán-Hoà (漢和); người Việt có cách đọc của mình gọi là Hán-Việt (漢越).[. .] Âm Quan thoại chuẩn (dưới đây gọi tắt là Quan thoại) có 4 thanh điệu: âm bình, dương bình, thượng thanh và khứ thanh, trong khi âm Hán-Việt có 6 thanh điệu: ngang (không dấu), huyền, sắc, hỏi, ngã và nặng.’ [ .. .] Một âm Quan thoại thường tương ứng với nhiều chữ Hán, và đôi khi một chữ Hán cũng có 2-3 âm khác nhau, nhưng nói chung tổng số âm Quan thoại ít hơn nhiều so với tổng số chữ Hán. Một âm Quan thoại cũng thường tương ứng với nhiều âm Hán-Việt và đôi khi một âm Hán-Việt cũng tương ứng với 2 hoặc vài âm Quan thoại, nhưng tổng số âm Quan thoại ít hơn tổng số âm Hán-Việt (tiếng Quan thoại có 1280 âm trong khi tiếng Việt có từ khoảng 4500 đến 4800 âm đọc, tùy theo phương ngữ, và 6200 âm viết trong quốc ngữ[1]). Ví dụ: âm Quan thoại yù (được biểu thị bằng bính âm) tương ứng với các âm Hán-Việt và chữ Hán sau (chữ viết nghiêng là âm Quan thoại, chữ viết đậm là âm Hán-Việt):
• ẩu 嫗
• dụ 喻, 愈, 瘉, 癒, 芋, 吁/籲 (còn có âm là hu/xū), 裕, 誘, 谕/諭, 峪 (có sách phiên là dục)
• dũ 愈/癒, 羑
• duật 聿, 矞, 燏, 繘, 谲/譎, 遹, 鴥, 鷸
• dục 育, 淯, 堉, 毓, 谷 (còn có âm là cốc/gǔ), 浴, 峪 (có sách phiên là dụ), 欲/慾, 鹆/鵒, 昱, 煜, 翌, 鬻
• dự 与 (còn có âm là dư/yú, dữ/yǔ), 预/預, 澦, 蓣/蕷, 誉/譽, 豫 [. . ]. Bên cạnh các trường hợp một chữ Hán có 1 âm Quan thoại nhưng có thể có 2 âm Hán-Việt khác nhau được ghi chú trong cùng một từ/tự điển, còn có nhiều trường hợp mỗi sách ghi một âm Hán-Việt khác nhau.
Bản thân chữ bính, trong thuật ngữ "bính âm", xuất xứ từ một số sách cũ ở miền Nam Việt Nam, trong khi nhiều từ/tự điển hiện nay chỉ phiên là phanh, và cũng có một số người dùng phanh âm.
Ung Châu (雍州), một trong chín châu của Trung Quốc thời cổ (vùng Thiểm Tây 陝西, Cam Túc 甘肅, Thanh Hải 青海 ngày nay), có chữ đầu đều được phiên là Ung trong hầu hết các từ/tự điển Hán-Việt và các sách truyện như Đông Chu liệt quốc, Tam quốc, chỉ riêng tự điển Thiều Chửu phiên là Úng. Chữ Ung này cũng nằm trong niên hiệu Ung Chính 雍正 của vua Thanh Thế Tổ.
Trong cuốn Chuyện Đông chuyện Tây, NXB Trẻ, An Chi Võ Thiện Hoa đã so sánh một số trường hợp phiên âm không thống nhất giữa 2 quyển Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu và Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh (câu 438, trang 140-145, tập 3) như:
• chữ 膾 (bính âm: kuài), là khoái theo Đào Duy Anh và quái theo Thiều Chửu. Theo An Chi, khoái là âm Hán-Việt thông dụng, còn quái là âm Hán-Việt chính thống, phản ánh cách phát âm đời nhà Đường.
• chữ 炙 (bính âm: zhì), là chá theo Đào Duy Anh và chích theo Thiều Chửu. Trong từ điển của Trung Quốc có cả 2 âm này.
• chữ 僣 (bính âm: tiĕ), là tiếm theo Đào Duy Anh và thiết theo Thiều Chửu. Âm thiết là đúng, còn âm tiếm dành cho chữ 僭 (jiàn, zèn) cũng gần giống mà từ điển của Đào Duy Anh không có chữ này. Người ta vẫn có thói quen lấy chữ 僣 thay cho chữ 僭 nhưng làm như thế là không chuẩn.
Nhân vật họ Mã trong Tam quốc làm thất thủ Nhai Đình, lỡ kế hoạch của Gia Cát Lượng có tên là 马/馬謖 (bính âm: Mǎ Sù), được phiên khi thì là Mã Tốc, khi thì là Mã Tắc, thậm chí có khi là Mã Thốc, còn theo An Chi thì phải đọc là Mã Sốc theo đúng âm Hán-Việt chính thống xuất xứ từ đời Đường.
Tương tự như vậy, nhân vật Chu Du (周瑜, Zhōu Yú) quen thuộc có lúc lại biến thành Châu Do (âm Do không đúng nhưng âm Châu lại sát âm gốc hơn) chỉ vì cách phiên âm Hán-Việt khác nhau.Hai viên tướng Trung Quốc thời cổ thường được nhắc đến trong sử sách Việt Nam dưới tên gọi Đồ Thư (屠睢) và Nhâm Ngao (壬嚣), nếu theo phiên âm hiện đại thì phải là Đồ Tuy và Nhậm/Nhiệm/Nhâm Hiêu (任嚣). Ở đây họ 壬 (Nhâm - Rén) thời xưa đã được viết thành 任 có hai âm Nhâm - Rén và Nhậm/Nhiệm - Rèn.
( Phiên âm Hán-Việt. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
===
TRINH KHAI * THE CULTURAL POLITICS OF COMMUNIST
The cultural-politics of communist VN in relation to the strategy of invasion by communist ChinaTrinh Khai
Communist Vietnam is right now a kind of satellite state for Beijing (communist China). The scheme to invade VN by China based on what Hu Jintan called "Three Equivalents":
- Ideology Equivalent
- Cultural Equivalent
- Fate Equivalent
Fate Equivalent means VN is always under the influences of China, inevitably. VN cannot detach from China should it want to survive!
Ideology Equivalent means one party rule and the exploitation of people (by employers) is replaced by the exploitation of the communist party.
Actually, internationalism will put the Communist Party of China on the head of the Communist Party of VN, and Beijing will govern everything, the Hanoi leadership are only servants.
Cultural Equivalent means the application of some kind of "Cultural Revolution" under Mao Tsetung which erased everything, only what is called "communist culture" remains. A generation of "stupid people" without thinking or initiatives will emerge from the cultural revolution to always obey the communist leaders and doctrine and act as the Pavlov animals in the Pavlov experiments long ago which are still applied in the communist countries now.
There is only one way to avoid becoming the Pavlov elements of communist China and Vietnam, that is we have to struggle to attain: Freedom of thought, freedom of religion, freedom of action and a multi-party system of politics.
====
UNICODE
VĂN - HÓA & CHÍNH - TRỊ qua chế độ CSVN với chiến lược xâm lăng của TC
- Trịnh Khải -
Hôm nay chúng ta nói về VĂN HÓA sau khi CSVN đã hủy diệt tận cội, tận nguồn khoa học, văn hóa, văn minh ….của đất Việt sau 1954 tại Miền Bắc và 1975 tại Miền Nam (từ Bến Hải đến Cà Mâu) qua chỉ thị HCM : «Đập phá, Đập phá đi, Đập phá nữa đi…. Ta lại xây dựng bằng muời ngày nay… ». Qua sự hủy diệt trên chúng ta cần nhận thức rằng Văn Hóa CSVN không có thật (inexistence), tuyên truyền độc trị CS không thể xem là Văn Hóa vì dựa trên cơ bản : hủy diệt, đảo nguợc, lừa bịp, láo phét, hủy hoại, tàn sát….
Hiện nay V/Đ Khoa học, Văn hóa, Nghệ thuật, kinh tế, thực phẩm v.v.... đều do Miền Nam (từ Bến Hải đế Cà Mâu sau cuộc di cư 1954) chuyển ra Bắc...... vừa qua việc thanh trừng các tuớng CS và uỷ viên Đảng trong quân khu thủ đô Hanoi do N. Tiến Dũng và N. Minh Triết (nguời Miền Nam) có thể xem như là 1 cách mạng "nhung" như ở Georgie và Ukraine. Trí thức, sĩ phu, Việt kiều, v.v. đều xuất phát từ Nam từ 1975.....Miền Bắc đã trở thành cái chiếu rách ..... từ 1954, tất cả đều chi phối bởi "tam đại bần cố nông" của Độc Đảng – 3 đời « vô học thức » (illettrés - analphabètes) -....Theo lịch sử VN chúng ta đã có 3 lần Nam Tiến (do nhà Trịnh, nhà Nguyễn và CSVN)...... Miền Bắc càng ngày càng lệ thuộc Nam về mọi mặt...... kể cả các cấp lãnh đạo trong : Đảng, Quân đội, Nhà Nuớc, Giáo Dục, Công Kỹ Nghệ v. v…. lần này ảnh hưởng «tự nhiên » này sẽ rất mạnh phát xuất từ Nam. Đây sẽ là cuộc Bắc Tiến theo luật "thiên nhiên", sẽ đưa đến thay đổi chế độ CSVN. Như Lão Tử đã nói : « Cùng (CS tan rã) tất biến, Biến tất thôêng (Dân Chủ sẽ đến) »
Trong các xã hội tân tiến trên thế giới, với máy điện tử, internet......khoa học, nhân văn, văn hóa, nghệ thuật v.v... đều đi liền với chính tri, không thể tách rời đuợc .... Văn hóa và Chính trị phải xem như chim liền cánh, như cây liền cành...... vì thấu triệt đuợc vậy Đảng luôn luôn độc quyền dùng Văn hóa để chiếm quyền sau đó độc tri trong tuơng lai lâu dài và tuyệt đối cấm đoán mọi Văn hóa chỉ trích hoặc không tôn vinh HCM và Độc Đảng. Chủ truơng và đuờng lối lừa đảo, mị dân của Đảng : 1.- Dân phải tách rời Văn hóa ra khỏi chính trị (Độc quyền của Đảng) ; 2.- Nghệ thuật, thể thao.. ru ngũ Dân và tôn vinh Đảng ; 3.- Phục vụ Đảng Dân đuợc phép thờ Chúa, thờ Phật.....như vây Dân phải để Đảng đúng truớc các Dức Thánh tôn. Chúng ta nên tự hỏi : Trên quả đất này chỗ nào không có Chúa (hay Phật) để chúng ta làm gì đi nữa cũng vô tội ? Nếu không ! Tại sao ta phải cần phục tòng Đảng truớc để có chỗ thờ Chúa (hay Phật).
Qua Văn hóa tuyên truyền đầu độc CSVN đang thành công lớn trong việc thi hành chủ truơng lừa đảo trên. Tuy thế trong tuơng lai, cái mầm "phản động" của dân sẽ phát động từ đây - từ tín nguỡn - khi họ biết đuợc sự lừa đảo : không bao giờ Dân có thể thờ Đảng ..... mà chỉ có thờ Chúa (hay Phật). Tới lúc này thì Đảng sẽ không còn đất chôn.
Vì lý do trên ngày nay Đất nuớc Việt Nam là một Xã Hội Chủ Nghĩa Tàn Bạo của Độc Đảng Thống Trị, và Văn hóa và Chính trị không thể tách rời ra đuợc. Nếu chỉ lo xây dựng Văn hóa không thôi thì chúng ta tiếp tay :
1.- Tuyên truyền cho CSVN, làm tôi mọi đầy tớ hầu Đảng (valet de pied) ;
2.– Cũng cố Đảng CSVN qua Chương trình xâm lăng VN của TC đặt trên chính sách « Tam Tương » của Hồ Cẩm Đào khi qua họp dảng với CSVN, ông này dã tuyên bố về liên hệ TC và VNCS : « Tuơng thông Lý Tuởng » – « Tuơng đồng Văn Hóa » – « Tuơng quan Định Mệnh » giữa 02 nuớc. Đây là « Chính sách Tam Tương » của TC áp đặt lên đầu nhân dân Việt qua « quan lại dịa phuơng CSVN».
3.- Gián tiếp chấp nhận Chủ Nghĩa Tứ Độc « Độc Đảng – Độc Tôn (*) – Độc Quyền – Độc Ác ».
(*) Đúng là « Thuợng Thiên, hạ Địa duy ĐẢNG độc Tôn » . Trên trời (truớc Chúa, Phật.....), duới đất (toàn cỏi VN) Dân Việt phải tôn thờ Đôc Đảng mà thôi....
Tuơng thông "Lý Tuởng" - Chủ Nghĩa Tứ Độc - phải hiểu dây là lý tuởng Tự Do, Độc Lập dành riêng cho Đảng CS … tất cả đất đai, tài sản phải duới quyền Đảng, chỉ có Đảng là duợc « Độc Lập và Tự Do » đối với dân (dân là đầy tớ của đảng) và dân lại bị thống trị và khai thác dến xuơng tủy (đảng đã thay thế : Nguời khai thác nguời bằng Độc Đảng khai thác nguời – L’exploitation de l’homme par l’exploitation de l’homme par le Parti Communiste).
Trong thực tế lý tuởng CS quốc tế đại dồng (internationalisme) sẽ dặt ra : cấp trên TC với cấp duới CSVN….. mọi quyết dịnh của CSVN phải duợc trình, giải thích hợp với quyền lợi và có sự thỏa thuận của « triều » TC, các lãnh tụ VN truớc và sau khi kinh lý ở ngoại quốc phải « triều phục », tuờng trình cẩn thận với quan thầy TC. Quốc gia VN đâu đã duợc « Độc Lập và Tự Do ». Đảng CSVN đang trở thành thực sự « Thái Thú đi trị Nam di» (*) – thi hành chỉ thị TC - cực kỳ tàn ác và bóc lột dân Việt dể cho TC huởng với danh nghĩa « Tuơng Thông Lý Tuơng ».
(*) Vào thời VN còn là thuộc địa, Trung Quốc gọi Việt Nam là Nam Di (mọi rợ).
Tuơng Đồng "Văn Hóa" : Sau chiến dịch " trăm hoa đua nở" (Révolution culturelle của họ MAO) TC dã hủy diệt tận gốc nền văn minh, văn hóa Trung Hoa dã có từ mấy ngàn năm. Chẳng khác gì Tần Thủy Hoàng, họ đốt sách, giết hại mọi thành phần trí thức (ngay cả Đặng Tiểu Bình cũng phải đi dầy), giáo sư đại học, thân hào nhân sỹ vv…Với CSVN, bấn cố nông, một tay bắt chuớc hạng quá tầm thuờng, nền văn minh, văn hóa, văn hiến, khoa học … trí thức, khoa bảng, sỹ phú ……vv cũng không qua khỏi duợc dại họa này ở VN. Nay còn lại "văn hóa CS" mới nẩy sinh từ giái cấp « tam đại bần cố nông » : "đập phá, dập phá đi, dập phá nữa di, cách mạng CS sẽ xây lại bằng muời ngày nay" kết quả hơn nữa thế kỷ đã qua chứa thấy các chuơng trình tái thiết Khoa học – Kỹ thuật – Kỹ Nghệ – Công nghiệp – Văn học - Nghệ thuật v.v....ở VN.
VNCS sẽ phải dời đời lệ thuộc TC : Sự "tuơng đồng văn hóa" gỉa dối, ti tiện : cửa quyền – tham nhũng – bóc lot – trụy lạc – chơi bời trác táng – dân là tôi đòi – đảng trở thành "quý tộc đỏ" – du hí từ trong nuớc ra ngoại quốc dể mặc dân dốt nát lầm than…Than ôi 4.000 năm văn hiến của dất Việt đang trôi cuốn theo giòng nuớc "văn hóa CS » trụy lạc. Tội này thấu đến trời xanh
Tương quan "Định Mệnh", bốn chữ cuối cùng thật là kính khiếp, hãi hùng. Đầu tiên CS vô thần đã dùng chữ "dịnh mệnh" rất là dầy tín nguỡng dị đoan, bói toán.... sự thật là tuơng lai VNCS phải phụ thuộc vào TC, "dịnh mệnh" của Đảng CSVN phải duợc « an bài », « sống còn » phải do quyết dịnh Đảng CSTQ và bất cứ lúc nào cũng có thể bị « nghiêm trị » (kiểu CS) nếu không thi hành lệnh « nghiêm chỉnh » (tiêu chuẩn CS). "Lửa cơ đốt ruột dao hàn cắt da" - Dân đói rách, lầm than cơ cực Đảng tiếp tục đem gạo qua trả nợ TC.
Các quan «Thái Thú đi trị Nam di» CSVN thừa hiểu tận gốc câu Tuơng quan "dịnh mệnh" nên họ sẵn sàng quỳ gối cúi dầu, phủ phục « triều bái », làm việc « triều cống » với « Triều đình » TC, việc này đòi hỏi phải (Chủ Nghĩa Tứ Độc) bóc lột tàn nhẫn dân và tàn sát những nguời Việt không chấp nhận cuộc bán nuớc « hòa hợp và hòa giải » với « Triều đình » TC. Đem chuyện Tuơng quan "dịnh mệnh" của con voi TC với lại con nhái bén tôi đòi (CSVN) thì quả thực một bi hài kịch của thời thuộc dịa mới rất dã man lại sắt máu truớc mắt cả thế giới ngoại trừ dân Việt đang bị bịt mắt, bịt miệng và bịt tai. Trong Đại nạn đang xẩy ra, tất cả nguời Việt yêu nuớc - từ Nam chí Bắc - trong mọi nơi (Chánh Phủ, Cán bộ, Quân Đội, Công an, Đảng viên…. Việt Kiều, Nhân dân) dâu có thể chấp nhận duợc : Giải phóng đất nuớc duơng trở thành « Việt gian bán nuớc ».
Chúng ta đừng quên : Mãn Thanh đã đô hộ TQ gấn 300 năm (1644-1911), nay không còn tên trên bản đồ thế giới và là 01 sao nhỏ trên cờ TC, chỉ là 01 vùng nghèo mạt TQ ; Tại Nội Mông là 01 sao nhỏ (thứ 2) (Mongolie Intérieure) – xưa kia Mông Cổ đã đô hộ TQ hơn 100 năm (1279 –1368) - đất đầy hấm mỏ nhất là khi đốt, dầu, than đá v. v. dân nghèo đói cơ cực ; ở Tây Tạng là 01 sao nhỏ (thứ 3) TC đang thi hành chính sách diệt chủng và đồng hóa tàn bạo : diệt dàn ông bản sứ để thay vào nguời Hán........ Với hậu quả « Việt gian bán nuớc » sao nhỏ (thứ 4) trên cờ TC là dành cho Việt Nam với hiểm họa diệt vong và mất nuớc như ở các nuớc trên....... Văn Hóa VN đâu còn nữa để chúng ta bàn.
Mặc dù Cụ Nguyễn Trãi dã chiến thắng quân Minh, cụ dã viết 02 câu thơ « Chắc chi thiên hạ ngày nay, mà đem non nuớc làm rầy chiêm bao » dành cho những nguời Việt yêu nuớc cần phải can trì, nhẫn nại (Le génie n’est qu’une longue patience – Napoléon Ier), tiếp tục dấu tranh không dể TC xâm lăng nuớc Việt yêu dấu của chúng ta. Nếu TC thành công trong chiến luợc này thì Đảng CSVN đã lừa đảo, đã phỉ nhổ vào tổ tiên, ông bà, cha mẹ của toàn thể dân Việt. Trọng Tội Việt gian Bán Nuớc này phải duợc ghi bằng máu vào xử xanh của VN dể cả thế giới biết đến.
Các nguời Việt có trách nhiệm phải lựa : « Lưu Danh thiên cổ, hay lưu Xú vạn niên". Để kết luận Văn Hóa phải biểu tuợng cho Tự Do tư tuởng, Độc lập hành động để đi đến nền : Trung lập Văn Hóa (tự do lý tuởng) – Trung Lập Tôn Giáo (tự do tôn giáo) – Trung lập Chính Trị (Đa dảng độc lập) - Trung Lập đối Ngoại (VN thật sự Độc lập, Tự do đối với thế giới). Tất cả nguời Việt thật yêu nuớc trong mọi nơi từ Chánh Phủ, Cán bộ, Quân Đội, Công an, Đảng viên…. Việt Kiều .. đến Nhân dân đều phải là bảo vệ Văn Hóa Việt Nam cũng là bảo vệ Dân Tộc và Đất Nuớc Việt.
Paris 8/2008
Trinh Khai
LÊ MỘNG NGUYÊN * THE SOCIO-CULTURAL CONTACTS
===
The Socio-cultural Contacts and Frictions in VN between the two World Wars
Prof. LE MONG NGUYEN
An act promulgated by the President of France on Feb. 23, 2005 indicated that certain teaching curriculums have to include the recognition of the educating role of the French in the colonial times. This applies to the case of Vietnam between the two World Wars that the cultural contacts and frictions were arisen to the degree of social upheaval. The following forces had interacted in that period:
- The new force of Western culture and intellectuals who praised the French Revolution of 1789 (with such values as freedom, equality, fraternity, democracy) encountered the values of Confucianism, Buddhism and Taoism, i.e., traditional values. The conflicts between the two cultures were rigid and gradually the new concepts and principles of freedom and democracy penetrated into certain components who later ignited the revolutions in the 1930s and 1940s, and finally led to the Dien Bien Phu Battle which terminated the French colonial regime in VN, with the Geneva Peace Accords signed by France and Vietnam on July 20, 1954.
- The tragedy of that period in VN was the two communities (French and Vietnamese) having to cohabit in an unstable atmosphere; in which the transformation of the society from the old values to new standards and a modern world was very miserable! The traditional values of an old society encountered with the new values of a modern society were something that were unimaginable to many people at the time. But that was not the whole thing. The industrialization at the end of the first World War had created two classes of people: the proletariat and bourgois. The old system: intellectuals, peasants, manufacturers, merchants turned upside down. As the bourgois and rich farmers gathered in the Indochinese Constitutionalist Party which cooperated with Premier Nguyen Phan Long and the middle class intellectuals, in such parties as Vietnam National Party ( VNQDD), New Viet Revolution Party (TVCMD) etc., had little roots in the masses; therefore, the Indochinese Communist Party -- disguised under name "Viet Minh" (VNDLDMH) -- manipulated the populist movements and used wicked plots to kill the genuine patriots, to finally lead to the general up-rising in August 1945 and forced King Bao Dai to abdicate his throne. That step was the first one that led to the Resistance War 1946-1954 and the Dien Bien Phu Battle which ended the French colonial regime.
=====
Chung đụng văn hóa xã hội tại Việt Nam trong thời kỳ giữa hai cuộc đại chiến*
Lê Mộng Nguyên
Kính thưa quí vị,
Các bạn thân mến,
Thừa cơ hội một đạo luật được Tổng thống Pháp ban hành ngày 23 tháng 02-2005 có điều 4 nói về các chương trình học hiệu phải đặc biệt thừa nhận vai trò giáo hóa của hiện diện Pháp quốc ở hải ngoại…, tôi xin nhắc lại quí đồng hương quốc nội và hải ngoại một thời đại đảo điên vào thập niên 30 - giữa hai thế chiến - mà xã hội Việt Nam thấm nhuần triết lý Khổng, Phật và Lão (với những giá trị cổ truyền) phải chống đối với cải tân của Âu Tây do nước Pháp đem lại cho dân bản xứ. Sự đụng chạm giữa hai nền văn hóa Á Âu có ảnh hưởng mạnh trong giới trí thức thuộc thế hệ mới, không ngần ngại tán dương Cách Mạng Pháp 1789 (đề cao phẩm cách con người, tự do, bình đẳng, kháng cự áp bức…) và tư tưởng nhân dân chống bạo quyền của Thế Kỷ Ánh Sáng (Siècle des Lumières). Như vậy Pháp quốc, dù muốn dù không, đã du nhập vào thuộc địa Việt Nam những quan niệm về quyền tự do của mỗi người và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, mà một ngày sau sẽ là nguyên nhân dấy loạn của dân bản xứ quyết tâm chống bạo tàn, hồi phục tự do độc lập cho nước nhà.
Cuộc xung đột giữa hai nền văn hóa Á Âu được giải quyết bằng sự thoái lui của thực dân Pháp, sau Điện Biên Phủ (tháng 05) và hiệp định Genève ký kết ngày 20 tháng 07-1954. Thật đúng như Giáo sư Claude-Albert Colliard đã viết (Libertés publiques, Paris 1959, tr.11) : « Khi nói đến ảnh tượng Pháp gieo rắc tư tưởng, tất nhiên ta nghĩ đến tư tưởng tự do…», và kết luận : « Những định thức tự do này trên một mặt khác, đã đặt một vấn đề khá nghịch thường : một vấn đề chính trị của nước Pháp trên hoàn cầu : nước Pháp đã có thể gieo rắc những ý tưởng tự do mà nay đi ngược lại chống quyền lợi của mình, chẳng hạn về mặt thuộc địa ».
Tôi sẽ lược qua trong thuyết trình hôm nay, cái bi kịch của hai cộng đồng Pháp Việt phải sống chung cùng một xã hội vừa được (dù muốn dù không) tiếp xúc với văn hóa Âu Tây, nghĩa là trong một bầu không khí không an ổn, có thể nói là căng thẳng cho đến mức tuyệt độ, vào một giai đoạn quyết định của lịch sử dân tộc Việt Nam giữa hai thế chiến. Tôi sẽ nhấn mạnh sự biến hóa của xã hội nước ta từ cổ truyền đến cải tân, rất thê thảm vì thế hệ xưa quen với kiểu sống thủ cựu, xung đột ngay với phần tử tinh nhuệ mới, đam mê tư tưởng Voltaire, Rousseau, Montesquieu và nhiệt liệt tán phục bài học Cách Mạng Pháp 1789. Như Đào Duy Anh đã tiên đoán khi ông viết trong Tựa sách Việt Nam Văn Hóa Sử Cương , ngày 14 tháng 08 năm 1938 : « Cái bi kịch hiện thời của dân tộc ta là sự xung đột của những giá trị cổ truyền của văn hóa cũ ấy với những điều mới lạ của văn hóa Tây phương. Cuộc xung đột sẽ giải quyết thế nào, đó là một vấn đề quan hệ đến cuộc sinh tử tồn vong của dân tộc ta vậy. Nhưng muốn giải quyết thì phải nhận rõ chân tướng của bi kịch ấy, tức một mặt phải xét lại cho biết nội dung của văn hóa xưa là thế nào, một mặt phải nghiên cứu cho biết chân giá trị của văn hóa mới ».
Nước thuộc địa bị ảnh hưởng Âu Tây rất nhanh chóng bởi một công nghiệp hóa kịch liệt - kiểu tư bản - mà chúng ta thấy trên lãnh thổ Việt Nam vào cuối thế chiến thứ nhất (1914-1918). Tập trung công nghệ này là nguồn gốc hiện hình của những giai cấp Việt Nam mới : vô sản và trưởng giả. Do đó, các hệ thống cũ : Sĩ, Nông, Công, Thương, đều bị đảo lộn ; cá nhân được giải thoát ràng buộc khuôn khổ của gia đình cũng như cộng đồng thôn xóm, nhưng thân phận con người không nhờ thế mà trở nên thoải mái hơn xưa, bởi vì việc xử dụng máy móc không chỉ có những phần lợi ích… Tuy nhiên, giai cấp trưởng giả hữu chủ, điền chủ và tài chánh mà tiêu biểu là Đảng Lập Hiến Nam Kỳ (Parti Constitutionnaliste Cochinchinois) do Bùi Quang Chiêu sáng lập năm 1923 với cộng tác chặt chẽ của Nguyễn Phan Long, cả hai là địa chủ giàu có, cho nên không muốn làm cách mạng. Tại sao ? Bởi vì nếu họ trở thành triệu phú như vậy là nhờ nguồn gốc khai phá thuộc địa. Đảng Lập Hiến Nam Kỳ chấp nhận hiện diện Pháp trên đất Việt và lợi ích của thực dân. Giai cấp này xưng tụng chủ nghĩa quốc gia cách chỉnh tiến dần đến giải phóng nước nhà trong tương lai. Đảng Lập Hiến không đòi hỏi ban hành lập tức một Hiến Pháp. Thỉnh cầu của Đảng lúc bấy giờ - nói tóm - là xin Pháp quốc hải ngoại để dành cho trưởng giả điền địa và tài chánh một số ghế quan trọng trong Hội Đồng Thuộc Địa (Conseil colonial) và nhiều phương tiện bành trướng ngành thương mại.
Trong lúc ấy, hạng trung lưu trí thức thấm nhuần tư tưởng Âu Tây (petite bougeoisie intellectuelle occidentalisée) - phần tử tinh nhuệ mới - muốn kết hợp (nếu có thể) với toàn thể những kẻ vô sản, với mục đích tranh đấu ngay cho độc lập nước nhà (Tân Việt Cách Mệnh Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng). Song các phong trào quốc gia cách mạng này (thuộc trung lưu trưởng giả), phải thất bại vì không có nguồn gốc trong quần chúng. Trái lại, những phong trào nhân dân (mouvements populaires) được vận dụng ráo riết trong khuôn khổ cựu Đông Dương Cộng Sản Đảng, dưới giả dạng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (gọi tắt là « Việt Minh ») sẽ có kết quả. Sau khi diệt trừ một phần chí sĩ ái quốc chân chính (quốc gia), Việt Minh sửa soạn, và chuẩn bị một cách phương pháp, đặng dọn đường cho cuộc Tổng Khởi Nghĩa Tháng 08-1945, nhờ nhiều sự biến liên tiếp rất thuận tiện : Nhật làm đảo chính đuổi Pháp ra khỏi Đông Dương (ngày 09 th.03), Nhật đầu hàng ngày 15 th.08 sau Hiroshima (06 th.08) và Nagasaki (09 th.08), cuối cùng là vua Bảo Đại bị VM ép buộc phải thoái vị ngày 25 th.08-1945. Thật ra : bản chất nguồn gốc cuộc giải phóng này vẫn nằm trong thành hình của một phần tử tinh nhuệ mới (thuộc trung lưu trí thức Âu Tây hóa), đã giữ một vai trò ưu tiên (bởi vì hấp thụ nền văn hóa cải tân) trong khởi công giải thoát chính trị và xã hội của dân tộc Việt, bên cạnh và chung sức với những tầng lớp đang lên của thợ thuyền nông dân và kỹ nghệ. Sự gặp gỡ của hai nền văn hóa Á Âu là một bài học bổ ích cho dân tộc Việt Nam.
Văn Hóa là gì ? Văn hóa của một nước có thể định nghĩa là : tất cả những hình thức được hấp thụ về cư xử của những người dân trong xã hội mà họ sinh trưởng ; văn hóa biểu lộ (bề ngoài) bằng cách thức sống, thói thường và nghi thức, liên quan nghệ thuật và tư tưởng, và trau giồi (bề trong) bởi giáo dục và kinh nghiệm xử thế làm cho họ có một sức tri giác về triết lý và tôn giáo của thế gian… Văn hóa là những cái gì còn lại lúc ta đã quên hết tất cả, như Édouard Herriot đã nói : « La culture c’est ce qui reste quand on a tout oublié ». Văn hóa là mọi phương diện trí thức của một quốc gia văn minh.
Nước Việt Nam giữa hai thế chiến, về mặt này không được Âu Tây hóa một cách vô hại ! Nhưng với nhiều hạnh phúc, hạng thượng lưu trí thức (élite intellectuelle) đã lợi dụng cơ hội này để giải thoát dân ta ra khỏi vòng Pháp thuộc. Mặc dầu chuyển động chính trị, và qua bao cuộc thăng trầm trong lịch sử, người Việt Nam vẫn thấm nhuần triết lý Khổng như người Tàu đã để lại và ngoài ra còn tiếp tục thực hành những nghi lễ tôn giáo thuộc đạo Phật cũng như Đạo giáo (taọsme). Nho giáo và Đạo giáo, cũng như Phật giáo là nguồn gốc của những học thuyết ngoại đạo (doctrines areligieuses), mục đích không phải tôn sùng một thần thánh mà chỉ giảng dạy cho loài người những con đường đức hạnh. Chữ quân tử (hiền minh) thật đúng là định nghĩa của ba học thuyết này.
Học thuyết của Lão tử làm nổi bật những quan niệm Trống Không, Vô Hình và Bất tác dụng. Như vậy, người quân tử không làm xáo lộn động tác của vạn vật, bởi vì bất cứ hành vi nào cũng xui giục ngay một phản ứng, với nhiều kết quả tai hại. Đó là một thái độ an nhàn, vô vi (inaction), thần diệu, làm cho người quân tử được hòa nhịp với thiên nhiên. Hơn nữa, quan niệm Trống Không, như tác giả Kaltenmark (Lao-Tseu et le Taọsme, trong « Maỵtres Spirituels », Ed. du Seuil 1965) đã viết : « … rất hiệu quả bởi vì nó có thể – tương tự cái bễ (thổi lò) - sản xuất hơi bao giờ và mấy cũng được ». Ở nước ta, triết lý này được xem như một tôn giáo, nhưng vì trong thực hành có tinh thần ảo thuật, « đạo» này đã mau biến hóa thành phép phù thủy, lên đồng.
Phật giáo có ảnh hưởng sâu xa trong văn hóa Việt từ ngàn xưa : Chia ra ba nhánh ngay khi Phật (đồng thời với Khổng và Lão, sinh vào khoảng 560 trước Thiên Chúa), vừa mất lúc 80 tuổi : Tiểu thừa (Hinayana), Đại thừa (Mahayana) và Phật giáo áp dụng ở Tây Tạng và Mông Cổ (Véhicule tantrique – Vajrayana). Đại thừa được tu hành ở Trung quốc, Triều tiên, Nhật bản và Việt Nam. Tuy nhiên, Tiểu thừa vẫn còn ứng dụng ở những vùng biên giới Việt Miên. Một điểm chung giữa Tiểu và Đại thừa : Phật giáo là một vô thần đạo và bất khả tri luận (agnostique : chủ trương rằng trí người không thể biết được tuyệt đối, huyền học - métaphysique - không thể làm thí nghiệm). Hạnh phúc vĩnh cửu chỉ do chính cá nhân thực hiện một mình (không có sự can thiệp của thần linh), nhờ trầm tư mặc tưởng mà người ta gọi là thiền (méditation) đặng đạt được cái trạng thái không dục vọng và không hiềm kỵ (oán hận), có nghĩa là thanh lãng, yên tịnh, êm đềm.
« Là một dân tộc thấm nhuần văn hóa và văn minh Tàu tự ngàn xưa, người An Nam đã sống gần 20 thế kỷ trong vùng ảnh hưởng của Tàu, lúc thì dưới sự lệ thuộc chính trị, lúc thì độc lập, nhưng bao giờ cũng bị ảnh hưởng trí thức và luân lý của nước này » (trích Phạm Quỳnh trong Nouveaux essais franco-annamites, Huế 1938, tr.2). Hiển nhiên nước ta đã hưởng thụ của Tàu một di sản văn hóa đặc tính, sâu mạnh : Nho giáo ( chữ nho - chữ của người Tàu - là chữ ta, quốc ngữ lại gọi là tiếng nôm ), nhất là về mặt tinh thần, đạo đức. Văn chương nước ta « đã chịu đựng hơn nghìn năm sự ép uổng của hình thức và nghi thức trong giáo huấn cổ truyền, và bị hạn chế cùng kiểm soát qua những cuộc thi cạnh tranh dùng toàn chữ Hán » (Nguyễn Văn Huyên, La civilisation annamite, Hà Nội 1944, tr. 273).
Trung trực với vua, hiếu thảo với cha mẹ, vợ phải trung thành với chồng, tận tình giữa bạn hữu…, đó là những điều giảng dạy của Khổng tử, nền tảng cho giáo dục nước Nam phong kiến, mà Phạm Quỳnh đã chỉ trích : « Không một cửa mở vào đời sống và thực tế, toàn là hình thức, tự hình giáo dục (verbalisme), hùng biện, văn chương » (xem sách nói trên, tr. 10). Cá nhân xem như không có, vì phải nhường chỗ cho gia đình, thôn xóm mà họ nằm trong khuôn khổ định trước. Cựu quốc An Nam là một « thế giới » hư ảo, chống khoa học. Nho giáo về mặt này có lẽ đã làm hại tương lai của một dân tộc bằng cách ngăn cản mỗi một cá nhân được ý thức về những quyền lợi căn bản quan trọng nhất của chính mình. Một nhà thuyết trình năm 1949 tại Sài Gòn, ông Đoàn Quan Tấn đã nói lên : « Trước đô hộ Pháp, văn minh Việt Nam là một văn minh của bổn phận » (L’évolution de la civilisation vietnamienne et le problème franco-vietnamien, Sài Gòn 1949). Nước Việt Nam – duới khía cạnh này – và trước khi bị Pháp chiếm đóng, là một « xã hội kín » (société close) theo dụng ngữ của Bergson trong « Hai nguồn gốc của luân lý và tôn giáo » (Les deux sources de la morale et de la religion). « Một xã hội riêng biệt, theo André Hauriou (Démocraties et forces religieuses, Paris 1958, tr. 147)… mà trong đó các thành viên tương thân tương trợ lẫn nhau, dửng dưng đối với kẻ ở ngoài, song lúc nào cũng sẵn sàng tự bảo vệ trước và chống những tham vọng của nhóm khác, nhiều lúc không ngần ngại khởi sự khởi công. Cái xã hội kín này có một luân lý và một tôn giáo, mà chức vụ cốt yếu là gìn giữ liên hợp giữa các đoàn viên ».
Sự đụng chạm giữa hai nền văn hóa, giữa hai nền văn minh mà tất cả đều chia rẽ… làm rung chuyển nền tảng của đế quốc An Nam. Bởi vì xâm lược Pháp không chỉ có mục đích truất phế các hoàng đế phản nghịch để thay thế bằng những kẻ tận tâm phục vụ thực dân, mà còn muốn và nhất là « …thay thế văn hóa cổ truyền giữ kỹ từ xưa đến nay bằng một thứ bậc xã hội mới và một văn minh khác biệt, với nguồn gốc lấy tự khoa học Pháp để thay thế văn chương Tàu » (Paul Mus, Problèmes de l’Indochine contemporaine, tr. 4).
Với nhận xét này, nhà xã hội học Paul Mus muốn cắt nghĩa tại sao cuộc chống đối Pháp lại rất mãnh liệt trong giới trí thức quan lại môn đồ Nho giáo – trong những năm đầu chiếm đóng nước Nam. Theo tác giả nói trên, đó là một « chủ nghĩa quốc gia kiến trúc xã hội » (nationalisme de structure) mà chìa khóa do các cụ kiến thức ngày xưa nắm chặt, cương quyết xua đuổi can thiệp Tây phương vào quốc sự chúng ta… Sự căng thẳng giữa hai bên đạt mức tuyệt điểm trong thập niên đầu của xâm lược thực dân : 1858 với Đà Nẳng cựu Tourane, rồi đến lượt Sài Gòn năm 1859. Trên mảnh đất Đông Nam Á bị thôn tính, sự giao thiệp của xã hội này với xã hội khác, giữa thực dân và bản xứ, bắt đầu… Song « những tập đoàn này là những tập đoàn chia biệt, đối lập với nhau, bởi nhiều điều kiện ăn ở khác nhau ; họ không ở cùng một khí hậu, cũng như không cùng một khoảng đất, họ cũng không phải là những tập đoàn sống cùng một xứ sở… » (René Maunier, Cours d’Économie et législation coloniales, Paris 1941-1942). Xã hội An Nam vào cuối thế kỷ 19 là một xã hội sống bằng cách « tự uốn nắn mình ở trong và xây tường bao vây như những đô thị Trung Hoa không chịu giao tiếp với Ma Quỉ Âu Tây (les Diables d’Occident), không biết và không muốn biết rằng ở bên kia đại dương có những gì, và chỉ tự cho mình là « đức hạnh của nhân loại » (la vertu de l’humanité) Cf. Les humanités extrême-orientales et occidentales en Indochine, Bulletin de l’instruction publique, sept.-oct.-nov. 1928).
Nước Việt Nam giữa hai thế chiến (1919-1939) sẽ sống trong một bầu không khí cách mạng chống thực dân, với ngọn đuốc sáng soi của những người đã hấp thụ những bài học của Pháp - tổ quốc nhân quyền, về ước vọng chính đáng của một dân tộc muốn hồi phục độc lập và tự do. Trong lúc phong trào chủ nghĩa thủ cựu (mouvement traditionaliste) vừa tiêu tán, những phong trào nhân dân (mouvements populaires) dưới sự dẫn đạo của trung lưu trưởng giả trí thức mới ra đời, bắt đầu giữ một vai trò ưu tiên trong màn kịch chính trị Việt Nam. Ta có thể nói - một cách không quá đáng - rằng văn hóa Âu Tây có một ảnh hưởng sâu đậm trong định thức chủ nghĩa quốc gia và những quan niệm giai cấp xã hội ở nước ta sau thế chiến 1914-1918.
Sự đụng chạm giữa hai nền văn hóa và nói một cách tổng quát giữa hai nền văn minh, có kết quả lành mạnh, vì đưa đến giải phóng các dân tộc thuộc địa. Từ Đại Học Hà Nội đến Trường Cao Đẳng Chính Trị ở Quảng Châu (thủ phủ tỉnh Quảng Đông - Trung Hoa) và qua nơi phát nguyên cách mạng Nghệ Tịnh (Bắc Việt), phần tử trí thức tinh nhuệ mới đã ý thức sứ mệnh của mình là hướng dẫn quần chúng cần lao đi tới một cuộc sống xứng đáng của con người. Ta có thể kết luận – như Philippe Devillers, tác giả sách Sử ký Việt Nam từ 1940 đến 1952 (Histoire du Vietnam de 1940 à 1952, Paris 1952) đã viết : « Chủ nghĩa quốc gia Việt Nam có thể xem như là kết quả tốt đẹp nhất mà nước Pháp đã đem lại cho Việt Nam, một kết quả mà nước Pháp có nhiều lý lẽ nhất để hãnh diện ».
Xin cảm ơn quí vị.
BRUXELLES, ngày 30 th.08-2008
Lê Mộng Nguyên
________________________________________________________
* Thuyết trình của Gs Lê Mộng Nguyên sáng thứ bảy 30 th.08-2008 trong khuôn khổ «Ngày gặp gỡ văn hóa thường niên Việt Nam Hải Ngoại » tại Bruxelles (Bỉ)từ chiều thứ sáu 29 tháng 08 năm 2008 đến sáng thứ hai ngày 01 tháng 09 năm 2008
* * *
The Socio-cultural Contacts and Frictions in VN between the two World Wars
Prof. LE MONG NGUYEN
An act promulgated by the President of France on Feb. 23, 2005 indicated that certain teaching curriculums have to include the recognition of the educating role of the French in the colonial times. This applies to the case of Vietnam between the two World Wars that the cultural contacts and frictions were arisen to the degree of social upheaval. The following forces had interacted in that period:
- The new force of Western culture and intellectuals who praised the French Revolution of 1789 (with such values as freedom, equality, fraternity, democracy) encountered the values of Confucianism, Buddhism and Taoism, i.e., traditional values. The conflicts between the two cultures were rigid and gradually the new concepts and principles of freedom and democracy penetrated into certain components who later ignited the revolutions in the 1930s and 1940s, and finally led to the Dien Bien Phu Battle which terminated the French colonial regime in VN, with the Geneva Peace Accords signed by France and Vietnam on July 20, 1954.
- The tragedy of that period in VN was the two communities (French and Vietnamese) having to cohabit in an unstable atmosphere; in which the transformation of the society from the old values to new standards and a modern world was very miserable! The traditional values of an old society encountered with the new values of a modern society were something that were unimaginable to many people at the time. But that was not the whole thing. The industrialization at the end of the first World War had created two classes of people: the proletariat and bourgois. The old system: intellectuals, peasants, manufacturers, merchants turned upside down. As the bourgois and rich farmers gathered in the Indochinese Constitutionalist Party which cooperated with Premier Nguyen Phan Long and the middle class intellectuals, in such parties as Vietnam National Party ( VNQDD), New Viet Revolution Party (TVCMD) etc., had little roots in the masses; therefore, the Indochinese Communist Party -- disguised under name "Viet Minh" (VNDLDMH) -- manipulated the populist movements and used wicked plots to kill the genuine patriots, to finally lead to the general up-rising in August 1945 and forced King Bao Dai to abdicate his throne. That step was the first one that led to the Resistance War 1946-1954 and the Dien Bien Phu Battle which ended the French colonial regime.
=====
Chung đụng văn hóa xã hội tại Việt Nam trong thời kỳ giữa hai cuộc đại chiến*
Lê Mộng Nguyên
Kính thưa quí vị,
Các bạn thân mến,
Thừa cơ hội một đạo luật được Tổng thống Pháp ban hành ngày 23 tháng 02-2005 có điều 4 nói về các chương trình học hiệu phải đặc biệt thừa nhận vai trò giáo hóa của hiện diện Pháp quốc ở hải ngoại…, tôi xin nhắc lại quí đồng hương quốc nội và hải ngoại một thời đại đảo điên vào thập niên 30 - giữa hai thế chiến - mà xã hội Việt Nam thấm nhuần triết lý Khổng, Phật và Lão (với những giá trị cổ truyền) phải chống đối với cải tân của Âu Tây do nước Pháp đem lại cho dân bản xứ. Sự đụng chạm giữa hai nền văn hóa Á Âu có ảnh hưởng mạnh trong giới trí thức thuộc thế hệ mới, không ngần ngại tán dương Cách Mạng Pháp 1789 (đề cao phẩm cách con người, tự do, bình đẳng, kháng cự áp bức…) và tư tưởng nhân dân chống bạo quyền của Thế Kỷ Ánh Sáng (Siècle des Lumières). Như vậy Pháp quốc, dù muốn dù không, đã du nhập vào thuộc địa Việt Nam những quan niệm về quyền tự do của mỗi người và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, mà một ngày sau sẽ là nguyên nhân dấy loạn của dân bản xứ quyết tâm chống bạo tàn, hồi phục tự do độc lập cho nước nhà.
Cuộc xung đột giữa hai nền văn hóa Á Âu được giải quyết bằng sự thoái lui của thực dân Pháp, sau Điện Biên Phủ (tháng 05) và hiệp định Genève ký kết ngày 20 tháng 07-1954. Thật đúng như Giáo sư Claude-Albert Colliard đã viết (Libertés publiques, Paris 1959, tr.11) : « Khi nói đến ảnh tượng Pháp gieo rắc tư tưởng, tất nhiên ta nghĩ đến tư tưởng tự do…», và kết luận : « Những định thức tự do này trên một mặt khác, đã đặt một vấn đề khá nghịch thường : một vấn đề chính trị của nước Pháp trên hoàn cầu : nước Pháp đã có thể gieo rắc những ý tưởng tự do mà nay đi ngược lại chống quyền lợi của mình, chẳng hạn về mặt thuộc địa ».
Tôi sẽ lược qua trong thuyết trình hôm nay, cái bi kịch của hai cộng đồng Pháp Việt phải sống chung cùng một xã hội vừa được (dù muốn dù không) tiếp xúc với văn hóa Âu Tây, nghĩa là trong một bầu không khí không an ổn, có thể nói là căng thẳng cho đến mức tuyệt độ, vào một giai đoạn quyết định của lịch sử dân tộc Việt Nam giữa hai thế chiến. Tôi sẽ nhấn mạnh sự biến hóa của xã hội nước ta từ cổ truyền đến cải tân, rất thê thảm vì thế hệ xưa quen với kiểu sống thủ cựu, xung đột ngay với phần tử tinh nhuệ mới, đam mê tư tưởng Voltaire, Rousseau, Montesquieu và nhiệt liệt tán phục bài học Cách Mạng Pháp 1789. Như Đào Duy Anh đã tiên đoán khi ông viết trong Tựa sách Việt Nam Văn Hóa Sử Cương , ngày 14 tháng 08 năm 1938 : « Cái bi kịch hiện thời của dân tộc ta là sự xung đột của những giá trị cổ truyền của văn hóa cũ ấy với những điều mới lạ của văn hóa Tây phương. Cuộc xung đột sẽ giải quyết thế nào, đó là một vấn đề quan hệ đến cuộc sinh tử tồn vong của dân tộc ta vậy. Nhưng muốn giải quyết thì phải nhận rõ chân tướng của bi kịch ấy, tức một mặt phải xét lại cho biết nội dung của văn hóa xưa là thế nào, một mặt phải nghiên cứu cho biết chân giá trị của văn hóa mới ».
Nước thuộc địa bị ảnh hưởng Âu Tây rất nhanh chóng bởi một công nghiệp hóa kịch liệt - kiểu tư bản - mà chúng ta thấy trên lãnh thổ Việt Nam vào cuối thế chiến thứ nhất (1914-1918). Tập trung công nghệ này là nguồn gốc hiện hình của những giai cấp Việt Nam mới : vô sản và trưởng giả. Do đó, các hệ thống cũ : Sĩ, Nông, Công, Thương, đều bị đảo lộn ; cá nhân được giải thoát ràng buộc khuôn khổ của gia đình cũng như cộng đồng thôn xóm, nhưng thân phận con người không nhờ thế mà trở nên thoải mái hơn xưa, bởi vì việc xử dụng máy móc không chỉ có những phần lợi ích… Tuy nhiên, giai cấp trưởng giả hữu chủ, điền chủ và tài chánh mà tiêu biểu là Đảng Lập Hiến Nam Kỳ (Parti Constitutionnaliste Cochinchinois) do Bùi Quang Chiêu sáng lập năm 1923 với cộng tác chặt chẽ của Nguyễn Phan Long, cả hai là địa chủ giàu có, cho nên không muốn làm cách mạng. Tại sao ? Bởi vì nếu họ trở thành triệu phú như vậy là nhờ nguồn gốc khai phá thuộc địa. Đảng Lập Hiến Nam Kỳ chấp nhận hiện diện Pháp trên đất Việt và lợi ích của thực dân. Giai cấp này xưng tụng chủ nghĩa quốc gia cách chỉnh tiến dần đến giải phóng nước nhà trong tương lai. Đảng Lập Hiến không đòi hỏi ban hành lập tức một Hiến Pháp. Thỉnh cầu của Đảng lúc bấy giờ - nói tóm - là xin Pháp quốc hải ngoại để dành cho trưởng giả điền địa và tài chánh một số ghế quan trọng trong Hội Đồng Thuộc Địa (Conseil colonial) và nhiều phương tiện bành trướng ngành thương mại.
Trong lúc ấy, hạng trung lưu trí thức thấm nhuần tư tưởng Âu Tây (petite bougeoisie intellectuelle occidentalisée) - phần tử tinh nhuệ mới - muốn kết hợp (nếu có thể) với toàn thể những kẻ vô sản, với mục đích tranh đấu ngay cho độc lập nước nhà (Tân Việt Cách Mệnh Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng). Song các phong trào quốc gia cách mạng này (thuộc trung lưu trưởng giả), phải thất bại vì không có nguồn gốc trong quần chúng. Trái lại, những phong trào nhân dân (mouvements populaires) được vận dụng ráo riết trong khuôn khổ cựu Đông Dương Cộng Sản Đảng, dưới giả dạng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (gọi tắt là « Việt Minh ») sẽ có kết quả. Sau khi diệt trừ một phần chí sĩ ái quốc chân chính (quốc gia), Việt Minh sửa soạn, và chuẩn bị một cách phương pháp, đặng dọn đường cho cuộc Tổng Khởi Nghĩa Tháng 08-1945, nhờ nhiều sự biến liên tiếp rất thuận tiện : Nhật làm đảo chính đuổi Pháp ra khỏi Đông Dương (ngày 09 th.03), Nhật đầu hàng ngày 15 th.08 sau Hiroshima (06 th.08) và Nagasaki (09 th.08), cuối cùng là vua Bảo Đại bị VM ép buộc phải thoái vị ngày 25 th.08-1945. Thật ra : bản chất nguồn gốc cuộc giải phóng này vẫn nằm trong thành hình của một phần tử tinh nhuệ mới (thuộc trung lưu trí thức Âu Tây hóa), đã giữ một vai trò ưu tiên (bởi vì hấp thụ nền văn hóa cải tân) trong khởi công giải thoát chính trị và xã hội của dân tộc Việt, bên cạnh và chung sức với những tầng lớp đang lên của thợ thuyền nông dân và kỹ nghệ. Sự gặp gỡ của hai nền văn hóa Á Âu là một bài học bổ ích cho dân tộc Việt Nam.
Văn Hóa là gì ? Văn hóa của một nước có thể định nghĩa là : tất cả những hình thức được hấp thụ về cư xử của những người dân trong xã hội mà họ sinh trưởng ; văn hóa biểu lộ (bề ngoài) bằng cách thức sống, thói thường và nghi thức, liên quan nghệ thuật và tư tưởng, và trau giồi (bề trong) bởi giáo dục và kinh nghiệm xử thế làm cho họ có một sức tri giác về triết lý và tôn giáo của thế gian… Văn hóa là những cái gì còn lại lúc ta đã quên hết tất cả, như Édouard Herriot đã nói : « La culture c’est ce qui reste quand on a tout oublié ». Văn hóa là mọi phương diện trí thức của một quốc gia văn minh.
Nước Việt Nam giữa hai thế chiến, về mặt này không được Âu Tây hóa một cách vô hại ! Nhưng với nhiều hạnh phúc, hạng thượng lưu trí thức (élite intellectuelle) đã lợi dụng cơ hội này để giải thoát dân ta ra khỏi vòng Pháp thuộc. Mặc dầu chuyển động chính trị, và qua bao cuộc thăng trầm trong lịch sử, người Việt Nam vẫn thấm nhuần triết lý Khổng như người Tàu đã để lại và ngoài ra còn tiếp tục thực hành những nghi lễ tôn giáo thuộc đạo Phật cũng như Đạo giáo (taọsme). Nho giáo và Đạo giáo, cũng như Phật giáo là nguồn gốc của những học thuyết ngoại đạo (doctrines areligieuses), mục đích không phải tôn sùng một thần thánh mà chỉ giảng dạy cho loài người những con đường đức hạnh. Chữ quân tử (hiền minh) thật đúng là định nghĩa của ba học thuyết này.
Học thuyết của Lão tử làm nổi bật những quan niệm Trống Không, Vô Hình và Bất tác dụng. Như vậy, người quân tử không làm xáo lộn động tác của vạn vật, bởi vì bất cứ hành vi nào cũng xui giục ngay một phản ứng, với nhiều kết quả tai hại. Đó là một thái độ an nhàn, vô vi (inaction), thần diệu, làm cho người quân tử được hòa nhịp với thiên nhiên. Hơn nữa, quan niệm Trống Không, như tác giả Kaltenmark (Lao-Tseu et le Taọsme, trong « Maỵtres Spirituels », Ed. du Seuil 1965) đã viết : « … rất hiệu quả bởi vì nó có thể – tương tự cái bễ (thổi lò) - sản xuất hơi bao giờ và mấy cũng được ». Ở nước ta, triết lý này được xem như một tôn giáo, nhưng vì trong thực hành có tinh thần ảo thuật, « đạo» này đã mau biến hóa thành phép phù thủy, lên đồng.
Phật giáo có ảnh hưởng sâu xa trong văn hóa Việt từ ngàn xưa : Chia ra ba nhánh ngay khi Phật (đồng thời với Khổng và Lão, sinh vào khoảng 560 trước Thiên Chúa), vừa mất lúc 80 tuổi : Tiểu thừa (Hinayana), Đại thừa (Mahayana) và Phật giáo áp dụng ở Tây Tạng và Mông Cổ (Véhicule tantrique – Vajrayana). Đại thừa được tu hành ở Trung quốc, Triều tiên, Nhật bản và Việt Nam. Tuy nhiên, Tiểu thừa vẫn còn ứng dụng ở những vùng biên giới Việt Miên. Một điểm chung giữa Tiểu và Đại thừa : Phật giáo là một vô thần đạo và bất khả tri luận (agnostique : chủ trương rằng trí người không thể biết được tuyệt đối, huyền học - métaphysique - không thể làm thí nghiệm). Hạnh phúc vĩnh cửu chỉ do chính cá nhân thực hiện một mình (không có sự can thiệp của thần linh), nhờ trầm tư mặc tưởng mà người ta gọi là thiền (méditation) đặng đạt được cái trạng thái không dục vọng và không hiềm kỵ (oán hận), có nghĩa là thanh lãng, yên tịnh, êm đềm.
« Là một dân tộc thấm nhuần văn hóa và văn minh Tàu tự ngàn xưa, người An Nam đã sống gần 20 thế kỷ trong vùng ảnh hưởng của Tàu, lúc thì dưới sự lệ thuộc chính trị, lúc thì độc lập, nhưng bao giờ cũng bị ảnh hưởng trí thức và luân lý của nước này » (trích Phạm Quỳnh trong Nouveaux essais franco-annamites, Huế 1938, tr.2). Hiển nhiên nước ta đã hưởng thụ của Tàu một di sản văn hóa đặc tính, sâu mạnh : Nho giáo ( chữ nho - chữ của người Tàu - là chữ ta, quốc ngữ lại gọi là tiếng nôm ), nhất là về mặt tinh thần, đạo đức. Văn chương nước ta « đã chịu đựng hơn nghìn năm sự ép uổng của hình thức và nghi thức trong giáo huấn cổ truyền, và bị hạn chế cùng kiểm soát qua những cuộc thi cạnh tranh dùng toàn chữ Hán » (Nguyễn Văn Huyên, La civilisation annamite, Hà Nội 1944, tr. 273).
Trung trực với vua, hiếu thảo với cha mẹ, vợ phải trung thành với chồng, tận tình giữa bạn hữu…, đó là những điều giảng dạy của Khổng tử, nền tảng cho giáo dục nước Nam phong kiến, mà Phạm Quỳnh đã chỉ trích : « Không một cửa mở vào đời sống và thực tế, toàn là hình thức, tự hình giáo dục (verbalisme), hùng biện, văn chương » (xem sách nói trên, tr. 10). Cá nhân xem như không có, vì phải nhường chỗ cho gia đình, thôn xóm mà họ nằm trong khuôn khổ định trước. Cựu quốc An Nam là một « thế giới » hư ảo, chống khoa học. Nho giáo về mặt này có lẽ đã làm hại tương lai của một dân tộc bằng cách ngăn cản mỗi một cá nhân được ý thức về những quyền lợi căn bản quan trọng nhất của chính mình. Một nhà thuyết trình năm 1949 tại Sài Gòn, ông Đoàn Quan Tấn đã nói lên : « Trước đô hộ Pháp, văn minh Việt Nam là một văn minh của bổn phận » (L’évolution de la civilisation vietnamienne et le problème franco-vietnamien, Sài Gòn 1949). Nước Việt Nam – duới khía cạnh này – và trước khi bị Pháp chiếm đóng, là một « xã hội kín » (société close) theo dụng ngữ của Bergson trong « Hai nguồn gốc của luân lý và tôn giáo » (Les deux sources de la morale et de la religion). « Một xã hội riêng biệt, theo André Hauriou (Démocraties et forces religieuses, Paris 1958, tr. 147)… mà trong đó các thành viên tương thân tương trợ lẫn nhau, dửng dưng đối với kẻ ở ngoài, song lúc nào cũng sẵn sàng tự bảo vệ trước và chống những tham vọng của nhóm khác, nhiều lúc không ngần ngại khởi sự khởi công. Cái xã hội kín này có một luân lý và một tôn giáo, mà chức vụ cốt yếu là gìn giữ liên hợp giữa các đoàn viên ».
Sự đụng chạm giữa hai nền văn hóa, giữa hai nền văn minh mà tất cả đều chia rẽ… làm rung chuyển nền tảng của đế quốc An Nam. Bởi vì xâm lược Pháp không chỉ có mục đích truất phế các hoàng đế phản nghịch để thay thế bằng những kẻ tận tâm phục vụ thực dân, mà còn muốn và nhất là « …thay thế văn hóa cổ truyền giữ kỹ từ xưa đến nay bằng một thứ bậc xã hội mới và một văn minh khác biệt, với nguồn gốc lấy tự khoa học Pháp để thay thế văn chương Tàu » (Paul Mus, Problèmes de l’Indochine contemporaine, tr. 4).
Với nhận xét này, nhà xã hội học Paul Mus muốn cắt nghĩa tại sao cuộc chống đối Pháp lại rất mãnh liệt trong giới trí thức quan lại môn đồ Nho giáo – trong những năm đầu chiếm đóng nước Nam. Theo tác giả nói trên, đó là một « chủ nghĩa quốc gia kiến trúc xã hội » (nationalisme de structure) mà chìa khóa do các cụ kiến thức ngày xưa nắm chặt, cương quyết xua đuổi can thiệp Tây phương vào quốc sự chúng ta… Sự căng thẳng giữa hai bên đạt mức tuyệt điểm trong thập niên đầu của xâm lược thực dân : 1858 với Đà Nẳng cựu Tourane, rồi đến lượt Sài Gòn năm 1859. Trên mảnh đất Đông Nam Á bị thôn tính, sự giao thiệp của xã hội này với xã hội khác, giữa thực dân và bản xứ, bắt đầu… Song « những tập đoàn này là những tập đoàn chia biệt, đối lập với nhau, bởi nhiều điều kiện ăn ở khác nhau ; họ không ở cùng một khí hậu, cũng như không cùng một khoảng đất, họ cũng không phải là những tập đoàn sống cùng một xứ sở… » (René Maunier, Cours d’Économie et législation coloniales, Paris 1941-1942). Xã hội An Nam vào cuối thế kỷ 19 là một xã hội sống bằng cách « tự uốn nắn mình ở trong và xây tường bao vây như những đô thị Trung Hoa không chịu giao tiếp với Ma Quỉ Âu Tây (les Diables d’Occident), không biết và không muốn biết rằng ở bên kia đại dương có những gì, và chỉ tự cho mình là « đức hạnh của nhân loại » (la vertu de l’humanité) Cf. Les humanités extrême-orientales et occidentales en Indochine, Bulletin de l’instruction publique, sept.-oct.-nov. 1928).
Nước Việt Nam giữa hai thế chiến (1919-1939) sẽ sống trong một bầu không khí cách mạng chống thực dân, với ngọn đuốc sáng soi của những người đã hấp thụ những bài học của Pháp - tổ quốc nhân quyền, về ước vọng chính đáng của một dân tộc muốn hồi phục độc lập và tự do. Trong lúc phong trào chủ nghĩa thủ cựu (mouvement traditionaliste) vừa tiêu tán, những phong trào nhân dân (mouvements populaires) dưới sự dẫn đạo của trung lưu trưởng giả trí thức mới ra đời, bắt đầu giữ một vai trò ưu tiên trong màn kịch chính trị Việt Nam. Ta có thể nói - một cách không quá đáng - rằng văn hóa Âu Tây có một ảnh hưởng sâu đậm trong định thức chủ nghĩa quốc gia và những quan niệm giai cấp xã hội ở nước ta sau thế chiến 1914-1918.
Sự đụng chạm giữa hai nền văn hóa và nói một cách tổng quát giữa hai nền văn minh, có kết quả lành mạnh, vì đưa đến giải phóng các dân tộc thuộc địa. Từ Đại Học Hà Nội đến Trường Cao Đẳng Chính Trị ở Quảng Châu (thủ phủ tỉnh Quảng Đông - Trung Hoa) và qua nơi phát nguyên cách mạng Nghệ Tịnh (Bắc Việt), phần tử trí thức tinh nhuệ mới đã ý thức sứ mệnh của mình là hướng dẫn quần chúng cần lao đi tới một cuộc sống xứng đáng của con người. Ta có thể kết luận – như Philippe Devillers, tác giả sách Sử ký Việt Nam từ 1940 đến 1952 (Histoire du Vietnam de 1940 à 1952, Paris 1952) đã viết : « Chủ nghĩa quốc gia Việt Nam có thể xem như là kết quả tốt đẹp nhất mà nước Pháp đã đem lại cho Việt Nam, một kết quả mà nước Pháp có nhiều lý lẽ nhất để hãnh diện ».
Xin cảm ơn quí vị.
BRUXELLES, ngày 30 th.08-2008
Lê Mộng Nguyên
________________________________________________________
* Thuyết trình của Gs Lê Mộng Nguyên sáng thứ bảy 30 th.08-2008 trong khuôn khổ «Ngày gặp gỡ văn hóa thường niên Việt Nam Hải Ngoại » tại Bruxelles (Bỉ)từ chiều thứ sáu 29 tháng 08 năm 2008 đến sáng thứ hai ngày 01 tháng 09 năm 2008
* * *
KHẢI CHÍNH * SĂN SÓC NHAU KHI CÒN SỐNG
===
Cần Thăm-Nom và Săn-Sóc Nhau Lúc Còn Sống
Khải-Chính Phạm Kim-Thư
==
Trong văn-chương Việt, bài thơ ‘Khóc Bạn’ của Nguyễn Khuyến đã lột được sự ân-cần và quí-mến bạn hết lòng trong khi bạn còn sống. Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê với tất-cả tâm-hồn và bằng tận-cùng của sự mến-thương luyến-tiếc: ‘Rượu ngon không có bạn hiền,/ Không mua không phải không tiền không mua./ Câu thơ nghĩ đắn-đo không viết,/ Viết đưa ai, ai biết mà đưa./ Giường kia treo những hững-hờ,/ Đàn kia gảy những ngẩn-ngơ tiếng đàn.’
Khóc như thế mới là khóc, thương như thế mới là thương! Khi sống chúng ta đối-đãi với nhau chân-tình và để ý săn-sóc nhau hết lòng thì khi bạn chết, việc khóc than, viếng đám ma, chia buồn, và an-ủi của chúng ta đối gia-đình của bạn mình mới có ý-nghĩa.
I. Sự Đời
Ngày nay, ở hải-ngoại này, có một số người vì bận-rộn với danh quyền lợi, họ đã để cho tình-cảm gia-đình và nghĩa bằng-hữu bị nguội-lạnh phai-mờ. Khi cha mẹ, anh em, và bạn-bè còn sống, họ chẳng chăm-nom thăm hỏi nhau mà còn lấy cớ này lý nọ để bào-chữa, chẳng hạn như: ‘bố tôi ghét tôi, mẹ tôi thiếu bổn-phận, anh tôi hư-hỏng, em tôi không nghe lời, bạn tôi ở xa quá, tôi bận-rộn mà lại ở xa họ quá, v.v. nên tôi không đến thăm họ được!’
Có những trường-hợp khi cha mẹ già yếu, con cái đã tìm cách đưa các cụ vào viện dưỡng-lão. Đây cũng là việc thông-thường ở Bắc-Mỹ này. Tuy-nhiên, trừ trường-hợp giữ các cụ ở nhà sẽ gây ra nguy-hiểm đến tính-mạng cho các cụ, cho gia-đình, và cho hàng-xóm thì không kể, nếu các cụ vẫn tỉnh-táo hay người nhà còn có thể trông-nom săn-sóc được mà đưa các cụ vào sống trong ‘nursing home’ thì thật tội-nghiệp cho các cụ.
Đã có những trường-hợp cha mẹ vì già yếu và bệnh-hoạn phải nằm trong nhà thương, con cái cả tuần mới tới thăm được một đôi lần. Các cụ nằm ‘chết khô’ không có người con nào ngó tới. Thế mà khi cha mẹ qua đời, con cái tổ-chức đám ma thật to, kẻ phúng người điếu nhộn-nhịp, khóc than kể-lể hết lời, mua loại hòm (săng) cho thật sang, xây mộ cho lớn, đắp bia cho đẹp, và làm lễ cầu-siêu cho linh-đình tốn đến cả mấy chục ngàn ‘đô-la.’ Có phải đây là cách để gột rửa sự tệ-bạc của mình đối với cha mẹ lúc còn sinh-tiền và che mắt thế-gian không?
Có trường-hợp, người đã chết được cả tháng trời mới thấy bản tin phân-ưu của bạn bè ở cùng một địa-phương xuất-hiện trên mặt một tuần-báo. Sự gần-gũi lui tới thăm nhau có thắm-thiết lúc còn sống không? Bản tin phân-ưu này có giá-trị gì ngoài sự mua danh lấy tiếng?
Có người khi còn sống bị ngay cả bạn thân của họ chê là kẻ có thủ-đoạn, thế mà khi chết, họ cũng được bè-bạn đăng lời phân-ưu. Vì ‘nghĩa tử là nghĩa tận,’ người ta thường tha-thứ và rộng-lượng với người chết nên cố nhờ đăng vài lời phân-ưu để được tiếng là cao-thượng. Đôi khi người ta đăng lời phân-ưu là để đạt một mục-đích khác nữa. Thật là một trò hề và giả đạo-đức!
Có người khó tính và chán-chường cho sự giả-dối của loại người nói ở trên đã thốt ra một câu thật chí-lý giống như lời Chúa Jesus đã viết trên cát trong truyện ‘Ném Đá’: ‘Bọn Giả-Dối!’
Ở Bắc-Mỹ này, tình gia-đình và bè-bạn không được thắm-thiết như ở Á-Đông ta nên người ta đã tự lo cho cái chết của họ một cách thật đầy-đủ, chẳng hạn như mua bảo-hiểm nhân thọ (Life Insurance) để khi chết gia-đình có tiền sinh sống và trang-trải ma-chay, nào đóng tiền trước cho nhà-quàn (funeral home) để họ lo đám ma của mình (prepaid funeral) mà khỏi cần nhờ đến ai. Thật là tiện-lợi hết chỗ nói.
Khi sống, người Bắc-Mỹ đã được hưởng mọi thứ tự-do thật xứng-đáng với nhân-phẩm con người. Khi chết họ cũng thoải-mái vì không phải lo cảnh ‘xẩy đàn tan nghé’ hay làm phiền-lụy ai.
Ngoài ra, vì người dân Bắc-Mỹ có đóng thuế và đóng tiền hưu nên chính-phủ có trách-nhiệm lo đám ma cho người dân. Chính vì thế, những người dân nghèo đã có cơ-quan xã-hội (social services) ở địa-phương lo đầy-đủ cả lúc sống cũng như khi chết. Khi nhà có người nằm xuống, nếu thân-nhân nộp đơn xin tiền trợ-cấp để lo đám tang thì cơ-quan xã-hội sẽ cấp cho họ một khoản tiền đủ để chi-dụng trong việc này.
Đối với những người có đi làm và có đóng tiền hưu thì khi chết họ được hưởng tiền tử-tuất, tối-đa khoảng 3 ngàn đồng tùy theo số năm đi làm và số tiền đóng cho quỹ hưu-trí. Tiền tử-tuất này do cơ-quan ‘National Health & Welfare, Income Security Programs’ cấp nếu thân-nhân hay người đại-diện nhà-quàn đứng tên xin.
Ở Bắc-Mỹ này không ai phải bó chiếu đem chôn một cách âm-thầm như người dân sống dưới chế độ Cộng-Sản tại Việt Nam. Mặc-dầu người dân được bọn Cộng-Sản tôn-vinh là ‘nhân-dân làm chủ,’ nhưng trong thực-tế, người dân bị bọn Việt-Cộng đối-xử rất tệ, thậm-chí không bằng con vật ở Bắc-Mỹ này.
II. Tại Sao Người Ta Phải Tổ-Chức Đám-Ma Cho Linh-Đình?
Có đám ma được gọi là quốc-táng do triều-đình hay chính-phủ đứng ra lo. Lá cờ quốc-gia được phủ lên quan-tài trong khi đưa đám. Đây là nghi-lễ chôn-cất của chính-phủ dành cho những người chết có công đánh trận hay tử-nạn trong khi phục-vụ quốc-gia. Ngoài ra, lá cờ của quốc-gia còn được kéo lên nửa chừng cột cờ ở khắp nơi trong nước, gọi là cờ rũ hay cờ tang. Đây là biểu-hiệu để tang người quá-cố đã có công đối với dân-tộc.
Có đám ma làm theo nghi-lễ tôn-giáo hay phong-tục cổ-truyền để tôn-vinh người chết về công-lao của họ đối với đạo-pháp và dân-tộc.
Có đám ma được tổ-chức linh-đình và trọng-thể do dân-chúng và các đoàn-thể đứng ra tổ-chức để tỏ lòng nhớ ơn người chết đã vì họ mà hy-sinh, và luôn thể để biểu-dương thế-lực phản-đối nhà cầm quyền đương-thời đã gây ra cái chết này.
Có những đám ma rất linh-đình do thân-nhân, bằng-hữu, và những người mến-mộ tổ-chức dành cho nhà báo, kịch-sĩ, ca-sĩ, nhà thơ, nhà văn, họa-sĩ, cầu-thủ, võ-sĩ, và nhà giáo, v.v. Trong đám ma này người ta đọc điếu-văn (bài văn đọc trong đám tang để tỏ lòng nhớ ơn và thương-tiếc người quá-cố) phát-biểu những kỷ-niệm đã có với người chết, và nói lên những công-đức của người quá-cố trong lúc còn sinh-tiền, v.v.
Sau đám ma, người ta còn tổ-chức các buổi cầu-nguyện và các buổi tưởng-niệm để vinh-danh công-đức người quá-cố cho mọi người lấy đó làm gương.
Có những đám ma của loại người giầu có để khoe của, khoe danh, khoe sang vì quen biết các ông to bà lớn, và để dễ-dàng cho con cháu sinh sống và làm ăn sau này.
III. Tại Sao Người Ta Hay Tỏ Ra Quan-Tâm và Ân-Cần Đối Với Một Người Khi Họ Sắp Chết và Sau Khi Họ Chết Hơn Lúc Còn Sống.
Thường thì vào dịp Tết, lúc năm cùng tháng tận, người ta hay rộng-lượng với nhau. Họ bỏ đi các dị-biệt (different) cùng các xích-mích đã có để cùng nhau tổ-chức Tết để đón mừng xuân và hy-vọng một tương-lai tốt-đẹp hơn trong năm mới. Cũng trong chiều-hướng này, khi biết tin thân-nhân và bạn-bè hấp-hối hay đã qua đời mà trước đó có khi cả hằng năm chẳng bao giờ họ liên-lạc với nhau, người ta nghĩ rằng lúc này họ nên bỏ ra chút thì-giờ để đến thăm người hấp-hối, nhìn mặt người chết một lần chót, hay gửi đăng đôi lời chia buồn trên báo-chí để chuộc lại thái-độ lạnh-nhạt trước kia. Đây là một cử-chỉ đẹp, biết ăn-năn hối-cải, và độ-lượng nhưng ý-nghĩa chẳng có bao nhiêu vì lúc sống đã chẳng ra gì thì còn kể chi khi đã chết.
Có trường-hợp người ta đi phúng-điếu là để trả nợ vì trước đây người mà nay qua đời hay bà con của người này đã đi phúng-điếu thân-nhân của họ. Trong một số trường-hợp khác, có những người cùng làm chung một sở hay ở cùng một nơi với nhau; khi ở cơ-quan hay hàng-xóm có người qua-đời, bạn-bè và người hàng-xóm rủ họ đi phúng-điếu thì họ đi, chứ chưa chắc họ thực-sự muốn đi. Danh-sách những người đăng trong mục tin phân-ưu cũng vậy; có nhiều trường-hợp, bạn-bè hay tòa-soạn tưởng mình chơi thân với người quá-cố nên họ tự-động thêm tên mình vào.
Một số người đã đối-đãi tệ-hại với bạn-bè, họ tưởng rằng nói vài lời an-ủi với người hấp-hối coi như chuộc lại cả một thời-gian dài không một lần thăm viếng hỏi-han. Họ đến phúng-điếu và chia buồn với tang-quyến chỉ là tỏ thiện-chí làm lành và gột-rửa sự lạnh-nhạt hay hiềm-khích với gia-đình người quá-cố trước đây. Đây cũng là một việc tốt nhưng chưa đủ.
Có nhiều trường-hợp, con cái tệ-bạc với cha mẹ và đối với cha mẹ không ra gì, nhưng khi cha mẹ sắp qua đời, họ quây-quần bên giường bệnh lúc cha mẹ hấp-hối để tỏ ra mình lo-lắng và thương-tiếc cha mẹ một cách tự-nhiên phát-sinh tự đáy lòng. Ngoài ra, họ còn quây-quần bên giường bệnh lúc cha mẹ hấp-hối với mục-đích để xem cha mẹ có dặn-dò (trối) cho mình tiền của gì không.
Những người con có hiếu thường tổ-chức đám ma cho cha mẹ rất linh-đình cốt để tỏ lòng hiếu-kính một cách chân-tình. Nhưng cũng có trường-hợp, các con làm đám tang cho cha mẹ một cách linh-đình để gột-rửa sự bạc-bẽo của họ đối với cha mẹ trước đây.
Đối với những người đến phúng-điếu, có nhiều trường-hợp người ta đến phúng-điếu chia buồn với tấm-lòng thành. Thái-độ của họ nói lên tấm-lòng sẵn-sàng giúp-đỡ cho tang-gia bất-cứ lúc nào và bất-cứ cái gì khi cần đến. Đời vẫn có những người tốt thực-sự và vô vị-lợi. Có người đến phúng-điếu vì họ đã từng ngưỡng-mộ và tôn-kính người quá-cố mà không có dịp nào được gặp tận mặt hay nói trực-tiếp được một lời trong lúc người ấy còn sống. Có trường-hợp, người ta thân nhau nhưng lười liên-lạc nên khi nghe tin nhau bị bệnh hay qua đời họ đã cố-gắng đến an-ủi hay chia buồn.
Một số người thân nhau, họ không để ý đến nhau khi còn sống và cho đây là sự bình-thường. Trường-hợp này cũng giống như người có tự-do sẵn rồi thì không thấy tự-do là quan-trọng. Đến khi mất tự-do, họ mới thấy tự-do là quí. Đối với mười ngón tay của ta, khi bình-thường ta không thấy ngón nào là ngón quan-trọng. Nếu vì lý-do gì mà bị cụt đi một ngón, ta mới thấy thiếu-thốn và bất-tiện như thế nào. Chính vì lý-do này người ta mới ân-cần thăm nhau khi bị bệnh, hay thương-tiếc nhau vô-cùng khi đã mất nhau.
Nói chung, đám ma có linh-đình hay không, lễ cầu-siêu có lớn hay không, và phần mộ có to và đẹp-đẽ hay không, tất-cả đều dành cho người sống và đều làm rạng-rỡ cho người còn sống. Chết là hết. Sau này có mâm cao cỗ đầy hay không cũng chỉ là dành cho người sống. Việc đối-đãi với nhau khi còn sống mới là quan-trong. Cần đùm-bọc thương-yêu và săn-sóc nhau lúc sống chứ đừng để đến khi thân-nhân hay bằng-hữu chết mới tỏ lòng thương-tiếc.
Nhiều người tin rằng cần tụng-niệm Phật A-Di-Đà để cầu xin vãng-sanh (qua kiếp trần-gian) về cõi Tây-Phương Cực-Lạc. Thật ra Cõi Tây-Phương Cực-Lạc đã ở tại trong lòng mình. Không có đất Phật ở đâu bên ngoài. Lục Tổ Huệ-Năng đã dạy: ‘Kẻ mê-muội thì niệm Phật cầu vãng-sanh về cõi bên kia, người tỉnh-ngộ chỉ làm cho tâm mình được thanh-tịnh. Người phàm-phu không hiểu rõ tánh Phật của mình, chẳng biết rằng Tịnh-Thổ hay Tịnh-Độ, tức là đất Phật, đã có sẵn nơi tâm mình và ngay tại nơi mình đang ở, nên cứ lo cầu Đông nguyện Tây. Còn người đã giác-ngộ rồi thì biết rằng đâu đâu cũng là Tịnh-Thổ, tức là chỗ nào cũng có Phật ở đó cả.’ Con người khi còn sống nên giữ tâm mình cho thanh-tịnh để biết bổn-tâm nhận rõ bổn-tánh thì sẽ giác-ngộ thành Phật, chẳng cần phải cầu vãng-sanh làm gì vì lòng ta là đất của Phật rồi.
Hãy trân-trọng thời-gian được sống gần nhau, hãy tu-tâm dưỡng-tánh khi mình còn sống chứ đừng cầu vãng-sanh về ‘cõi Tây Phương Cực Lạc.’
IV. Quan-Niệm Của Một Số Người Về Việc Ma-Chay
Chính vì thấy sự phiền-hà khi thân-nhân phải tổ-chức đám ma mà rất nhiều người khi sắp chết họ đã trối lại là không nên làm đám ma linh-đình, miễn phúng-điếu, miễn thăm-viếng. Họ không muốn làm phiền ai và chỉ yêu-cầu thân-nhân làm đám ma thật đơn-giản mà thôi.
Một số người thì chú-trọng vào việc ăn-ở tốt với nhau lúc còn sống, sẵn-sàng giúp-đỡ nhau, và sẵn-sàng lo sống chết cho nhau trong mọi hoàn-cảnh. Sống sao cho tình-nghĩa vẹn-toàn để khi không còn có nhau nữa, họ không có gì phải hối-tiếc. Đám ma lớn nhỏ không thành vấn-đề nữa. Phúng-điếu hay không cũng vậy. Họ không vì người đã chết mà làm phiền-hà người khác hay để cho người ta kiếm ăn trên xác chết của mình. Một số người khác tự lo trước cho cái chết của mình để khi nằm xuống họ không làm phiền người nhà.
Có những người, vì lợi-ích chung của nhân-loại, họ đã ký giấy hiến thân-xác mình sau khi chết cho các cơ-quan nghiên-cứu để làm phương-tiện cho sinh-viên trường thuốc học-hỏi.
Ma-chay trong trường-hợp này không thành vấn-đề nữa. Không còn phải sợ cảnh ‘ma chê cưới trách.’ Đây là một hành-động thật là cao-thượng và vị-tha. Thật đáng được thán-phục! Có những người thực-tế hơn đã làm điếu-văn cho cha mẹ, vợ chồng, hay bạn-bè ngay khi những người này còn sống (sinh-điếu). Làm ‘sinh-điếu’ kiểu này thật là có ý-nghĩa vì khi còn sống mà được nghe thân-nhân hay bằng-hữu khóc mình, ta mới thấy cảm-động và thú-vị vô-cùng. Có những nhà thơ đã làm điếu-văn khóc vợ lúc vợ còn đang chung sống với mình. Sau khi nghe bài sinh-điếu, có bà đã khóc mùi-mẫn vì sung-sướng. Thật là cảm-động một cách chân-thành đầy ý-nghĩa và tuyệt-vời.
V. Kết-Luận
Nếu khi chúng ta còn sống mà không thăm-nom và săn-sóc nhau thì những hành-động làm ma-chay (lễ tống-táng người chết) cho linh-đình, phúng-điếu, và phân-ưu dành cho nhau khi có người qua đời, tuy có cần-thiết, nhưng vẫn mang tính-cách lừa-dối người và lừa-dối chính bản-thân ta, nó không có một chút ý-nghĩa nào cả.
Hãy thăm-nom, săn-sóc, và giúp-đỡ nhau lúc còn sống mới thật là có ý-nghĩa và hữu-ích. Có như thế thì việc làm ma-chay, phúng-điếu, và phân-ưu mới có ý-nghĩa. Chết là hết. Ta nên nhớ rằng tất-cả những gì người sống làm cho thân-nhân hay bạn-bè đã qua đời chỉ vì những người còn sống và giúp cho những người sống yên lòng mà thôi.
Tuy-nhiên, ta vẫn phải làm đám tang cho người qua đời, nhưng chỉ nên làm giản-tiện và làm những gì cần-thiết mà thôi.
*
Khải-Chính Phạm Kim-Thư :
Xin nghe bản nhạc "Nếu Yêu Tôi" qua giọng hát Khánh Ly:
==
===
Cần Thăm-Nom và Săn-Sóc Nhau Lúc Còn Sống
Khải-Chính Phạm Kim-Thư
==
Trong văn-chương Việt, bài thơ ‘Khóc Bạn’ của Nguyễn Khuyến đã lột được sự ân-cần và quí-mến bạn hết lòng trong khi bạn còn sống. Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê với tất-cả tâm-hồn và bằng tận-cùng của sự mến-thương luyến-tiếc: ‘Rượu ngon không có bạn hiền,/ Không mua không phải không tiền không mua./ Câu thơ nghĩ đắn-đo không viết,/ Viết đưa ai, ai biết mà đưa./ Giường kia treo những hững-hờ,/ Đàn kia gảy những ngẩn-ngơ tiếng đàn.’
Khóc như thế mới là khóc, thương như thế mới là thương! Khi sống chúng ta đối-đãi với nhau chân-tình và để ý săn-sóc nhau hết lòng thì khi bạn chết, việc khóc than, viếng đám ma, chia buồn, và an-ủi của chúng ta đối gia-đình của bạn mình mới có ý-nghĩa.
I. Sự Đời
Ngày nay, ở hải-ngoại này, có một số người vì bận-rộn với danh quyền lợi, họ đã để cho tình-cảm gia-đình và nghĩa bằng-hữu bị nguội-lạnh phai-mờ. Khi cha mẹ, anh em, và bạn-bè còn sống, họ chẳng chăm-nom thăm hỏi nhau mà còn lấy cớ này lý nọ để bào-chữa, chẳng hạn như: ‘bố tôi ghét tôi, mẹ tôi thiếu bổn-phận, anh tôi hư-hỏng, em tôi không nghe lời, bạn tôi ở xa quá, tôi bận-rộn mà lại ở xa họ quá, v.v. nên tôi không đến thăm họ được!’
Có những trường-hợp khi cha mẹ già yếu, con cái đã tìm cách đưa các cụ vào viện dưỡng-lão. Đây cũng là việc thông-thường ở Bắc-Mỹ này. Tuy-nhiên, trừ trường-hợp giữ các cụ ở nhà sẽ gây ra nguy-hiểm đến tính-mạng cho các cụ, cho gia-đình, và cho hàng-xóm thì không kể, nếu các cụ vẫn tỉnh-táo hay người nhà còn có thể trông-nom săn-sóc được mà đưa các cụ vào sống trong ‘nursing home’ thì thật tội-nghiệp cho các cụ.
Đã có những trường-hợp cha mẹ vì già yếu và bệnh-hoạn phải nằm trong nhà thương, con cái cả tuần mới tới thăm được một đôi lần. Các cụ nằm ‘chết khô’ không có người con nào ngó tới. Thế mà khi cha mẹ qua đời, con cái tổ-chức đám ma thật to, kẻ phúng người điếu nhộn-nhịp, khóc than kể-lể hết lời, mua loại hòm (săng) cho thật sang, xây mộ cho lớn, đắp bia cho đẹp, và làm lễ cầu-siêu cho linh-đình tốn đến cả mấy chục ngàn ‘đô-la.’ Có phải đây là cách để gột rửa sự tệ-bạc của mình đối với cha mẹ lúc còn sinh-tiền và che mắt thế-gian không?
Có trường-hợp, người đã chết được cả tháng trời mới thấy bản tin phân-ưu của bạn bè ở cùng một địa-phương xuất-hiện trên mặt một tuần-báo. Sự gần-gũi lui tới thăm nhau có thắm-thiết lúc còn sống không? Bản tin phân-ưu này có giá-trị gì ngoài sự mua danh lấy tiếng?
Có người khi còn sống bị ngay cả bạn thân của họ chê là kẻ có thủ-đoạn, thế mà khi chết, họ cũng được bè-bạn đăng lời phân-ưu. Vì ‘nghĩa tử là nghĩa tận,’ người ta thường tha-thứ và rộng-lượng với người chết nên cố nhờ đăng vài lời phân-ưu để được tiếng là cao-thượng. Đôi khi người ta đăng lời phân-ưu là để đạt một mục-đích khác nữa. Thật là một trò hề và giả đạo-đức!
Có người khó tính và chán-chường cho sự giả-dối của loại người nói ở trên đã thốt ra một câu thật chí-lý giống như lời Chúa Jesus đã viết trên cát trong truyện ‘Ném Đá’: ‘Bọn Giả-Dối!’
Ở Bắc-Mỹ này, tình gia-đình và bè-bạn không được thắm-thiết như ở Á-Đông ta nên người ta đã tự lo cho cái chết của họ một cách thật đầy-đủ, chẳng hạn như mua bảo-hiểm nhân thọ (Life Insurance) để khi chết gia-đình có tiền sinh sống và trang-trải ma-chay, nào đóng tiền trước cho nhà-quàn (funeral home) để họ lo đám ma của mình (prepaid funeral) mà khỏi cần nhờ đến ai. Thật là tiện-lợi hết chỗ nói.
Khi sống, người Bắc-Mỹ đã được hưởng mọi thứ tự-do thật xứng-đáng với nhân-phẩm con người. Khi chết họ cũng thoải-mái vì không phải lo cảnh ‘xẩy đàn tan nghé’ hay làm phiền-lụy ai.
Ngoài ra, vì người dân Bắc-Mỹ có đóng thuế và đóng tiền hưu nên chính-phủ có trách-nhiệm lo đám ma cho người dân. Chính vì thế, những người dân nghèo đã có cơ-quan xã-hội (social services) ở địa-phương lo đầy-đủ cả lúc sống cũng như khi chết. Khi nhà có người nằm xuống, nếu thân-nhân nộp đơn xin tiền trợ-cấp để lo đám tang thì cơ-quan xã-hội sẽ cấp cho họ một khoản tiền đủ để chi-dụng trong việc này.
Đối với những người có đi làm và có đóng tiền hưu thì khi chết họ được hưởng tiền tử-tuất, tối-đa khoảng 3 ngàn đồng tùy theo số năm đi làm và số tiền đóng cho quỹ hưu-trí. Tiền tử-tuất này do cơ-quan ‘National Health & Welfare, Income Security Programs’ cấp nếu thân-nhân hay người đại-diện nhà-quàn đứng tên xin.
Ở Bắc-Mỹ này không ai phải bó chiếu đem chôn một cách âm-thầm như người dân sống dưới chế độ Cộng-Sản tại Việt Nam. Mặc-dầu người dân được bọn Cộng-Sản tôn-vinh là ‘nhân-dân làm chủ,’ nhưng trong thực-tế, người dân bị bọn Việt-Cộng đối-xử rất tệ, thậm-chí không bằng con vật ở Bắc-Mỹ này.
II. Tại Sao Người Ta Phải Tổ-Chức Đám-Ma Cho Linh-Đình?
Có đám ma được gọi là quốc-táng do triều-đình hay chính-phủ đứng ra lo. Lá cờ quốc-gia được phủ lên quan-tài trong khi đưa đám. Đây là nghi-lễ chôn-cất của chính-phủ dành cho những người chết có công đánh trận hay tử-nạn trong khi phục-vụ quốc-gia. Ngoài ra, lá cờ của quốc-gia còn được kéo lên nửa chừng cột cờ ở khắp nơi trong nước, gọi là cờ rũ hay cờ tang. Đây là biểu-hiệu để tang người quá-cố đã có công đối với dân-tộc.
Có đám ma làm theo nghi-lễ tôn-giáo hay phong-tục cổ-truyền để tôn-vinh người chết về công-lao của họ đối với đạo-pháp và dân-tộc.
Có đám ma được tổ-chức linh-đình và trọng-thể do dân-chúng và các đoàn-thể đứng ra tổ-chức để tỏ lòng nhớ ơn người chết đã vì họ mà hy-sinh, và luôn thể để biểu-dương thế-lực phản-đối nhà cầm quyền đương-thời đã gây ra cái chết này.
Có những đám ma rất linh-đình do thân-nhân, bằng-hữu, và những người mến-mộ tổ-chức dành cho nhà báo, kịch-sĩ, ca-sĩ, nhà thơ, nhà văn, họa-sĩ, cầu-thủ, võ-sĩ, và nhà giáo, v.v. Trong đám ma này người ta đọc điếu-văn (bài văn đọc trong đám tang để tỏ lòng nhớ ơn và thương-tiếc người quá-cố) phát-biểu những kỷ-niệm đã có với người chết, và nói lên những công-đức của người quá-cố trong lúc còn sinh-tiền, v.v.
Sau đám ma, người ta còn tổ-chức các buổi cầu-nguyện và các buổi tưởng-niệm để vinh-danh công-đức người quá-cố cho mọi người lấy đó làm gương.
Có những đám ma của loại người giầu có để khoe của, khoe danh, khoe sang vì quen biết các ông to bà lớn, và để dễ-dàng cho con cháu sinh sống và làm ăn sau này.
III. Tại Sao Người Ta Hay Tỏ Ra Quan-Tâm và Ân-Cần Đối Với Một Người Khi Họ Sắp Chết và Sau Khi Họ Chết Hơn Lúc Còn Sống.
Thường thì vào dịp Tết, lúc năm cùng tháng tận, người ta hay rộng-lượng với nhau. Họ bỏ đi các dị-biệt (different) cùng các xích-mích đã có để cùng nhau tổ-chức Tết để đón mừng xuân và hy-vọng một tương-lai tốt-đẹp hơn trong năm mới. Cũng trong chiều-hướng này, khi biết tin thân-nhân và bạn-bè hấp-hối hay đã qua đời mà trước đó có khi cả hằng năm chẳng bao giờ họ liên-lạc với nhau, người ta nghĩ rằng lúc này họ nên bỏ ra chút thì-giờ để đến thăm người hấp-hối, nhìn mặt người chết một lần chót, hay gửi đăng đôi lời chia buồn trên báo-chí để chuộc lại thái-độ lạnh-nhạt trước kia. Đây là một cử-chỉ đẹp, biết ăn-năn hối-cải, và độ-lượng nhưng ý-nghĩa chẳng có bao nhiêu vì lúc sống đã chẳng ra gì thì còn kể chi khi đã chết.
Có trường-hợp người ta đi phúng-điếu là để trả nợ vì trước đây người mà nay qua đời hay bà con của người này đã đi phúng-điếu thân-nhân của họ. Trong một số trường-hợp khác, có những người cùng làm chung một sở hay ở cùng một nơi với nhau; khi ở cơ-quan hay hàng-xóm có người qua-đời, bạn-bè và người hàng-xóm rủ họ đi phúng-điếu thì họ đi, chứ chưa chắc họ thực-sự muốn đi. Danh-sách những người đăng trong mục tin phân-ưu cũng vậy; có nhiều trường-hợp, bạn-bè hay tòa-soạn tưởng mình chơi thân với người quá-cố nên họ tự-động thêm tên mình vào.
Một số người đã đối-đãi tệ-hại với bạn-bè, họ tưởng rằng nói vài lời an-ủi với người hấp-hối coi như chuộc lại cả một thời-gian dài không một lần thăm viếng hỏi-han. Họ đến phúng-điếu và chia buồn với tang-quyến chỉ là tỏ thiện-chí làm lành và gột-rửa sự lạnh-nhạt hay hiềm-khích với gia-đình người quá-cố trước đây. Đây cũng là một việc tốt nhưng chưa đủ.
Có nhiều trường-hợp, con cái tệ-bạc với cha mẹ và đối với cha mẹ không ra gì, nhưng khi cha mẹ sắp qua đời, họ quây-quần bên giường bệnh lúc cha mẹ hấp-hối để tỏ ra mình lo-lắng và thương-tiếc cha mẹ một cách tự-nhiên phát-sinh tự đáy lòng. Ngoài ra, họ còn quây-quần bên giường bệnh lúc cha mẹ hấp-hối với mục-đích để xem cha mẹ có dặn-dò (trối) cho mình tiền của gì không.
Những người con có hiếu thường tổ-chức đám ma cho cha mẹ rất linh-đình cốt để tỏ lòng hiếu-kính một cách chân-tình. Nhưng cũng có trường-hợp, các con làm đám tang cho cha mẹ một cách linh-đình để gột-rửa sự bạc-bẽo của họ đối với cha mẹ trước đây.
Đối với những người đến phúng-điếu, có nhiều trường-hợp người ta đến phúng-điếu chia buồn với tấm-lòng thành. Thái-độ của họ nói lên tấm-lòng sẵn-sàng giúp-đỡ cho tang-gia bất-cứ lúc nào và bất-cứ cái gì khi cần đến. Đời vẫn có những người tốt thực-sự và vô vị-lợi. Có người đến phúng-điếu vì họ đã từng ngưỡng-mộ và tôn-kính người quá-cố mà không có dịp nào được gặp tận mặt hay nói trực-tiếp được một lời trong lúc người ấy còn sống. Có trường-hợp, người ta thân nhau nhưng lười liên-lạc nên khi nghe tin nhau bị bệnh hay qua đời họ đã cố-gắng đến an-ủi hay chia buồn.
Một số người thân nhau, họ không để ý đến nhau khi còn sống và cho đây là sự bình-thường. Trường-hợp này cũng giống như người có tự-do sẵn rồi thì không thấy tự-do là quan-trọng. Đến khi mất tự-do, họ mới thấy tự-do là quí. Đối với mười ngón tay của ta, khi bình-thường ta không thấy ngón nào là ngón quan-trọng. Nếu vì lý-do gì mà bị cụt đi một ngón, ta mới thấy thiếu-thốn và bất-tiện như thế nào. Chính vì lý-do này người ta mới ân-cần thăm nhau khi bị bệnh, hay thương-tiếc nhau vô-cùng khi đã mất nhau.
Nói chung, đám ma có linh-đình hay không, lễ cầu-siêu có lớn hay không, và phần mộ có to và đẹp-đẽ hay không, tất-cả đều dành cho người sống và đều làm rạng-rỡ cho người còn sống. Chết là hết. Sau này có mâm cao cỗ đầy hay không cũng chỉ là dành cho người sống. Việc đối-đãi với nhau khi còn sống mới là quan-trong. Cần đùm-bọc thương-yêu và săn-sóc nhau lúc sống chứ đừng để đến khi thân-nhân hay bằng-hữu chết mới tỏ lòng thương-tiếc.
Nhiều người tin rằng cần tụng-niệm Phật A-Di-Đà để cầu xin vãng-sanh (qua kiếp trần-gian) về cõi Tây-Phương Cực-Lạc. Thật ra Cõi Tây-Phương Cực-Lạc đã ở tại trong lòng mình. Không có đất Phật ở đâu bên ngoài. Lục Tổ Huệ-Năng đã dạy: ‘Kẻ mê-muội thì niệm Phật cầu vãng-sanh về cõi bên kia, người tỉnh-ngộ chỉ làm cho tâm mình được thanh-tịnh. Người phàm-phu không hiểu rõ tánh Phật của mình, chẳng biết rằng Tịnh-Thổ hay Tịnh-Độ, tức là đất Phật, đã có sẵn nơi tâm mình và ngay tại nơi mình đang ở, nên cứ lo cầu Đông nguyện Tây. Còn người đã giác-ngộ rồi thì biết rằng đâu đâu cũng là Tịnh-Thổ, tức là chỗ nào cũng có Phật ở đó cả.’ Con người khi còn sống nên giữ tâm mình cho thanh-tịnh để biết bổn-tâm nhận rõ bổn-tánh thì sẽ giác-ngộ thành Phật, chẳng cần phải cầu vãng-sanh làm gì vì lòng ta là đất của Phật rồi.
Hãy trân-trọng thời-gian được sống gần nhau, hãy tu-tâm dưỡng-tánh khi mình còn sống chứ đừng cầu vãng-sanh về ‘cõi Tây Phương Cực Lạc.’
IV. Quan-Niệm Của Một Số Người Về Việc Ma-Chay
Chính vì thấy sự phiền-hà khi thân-nhân phải tổ-chức đám ma mà rất nhiều người khi sắp chết họ đã trối lại là không nên làm đám ma linh-đình, miễn phúng-điếu, miễn thăm-viếng. Họ không muốn làm phiền ai và chỉ yêu-cầu thân-nhân làm đám ma thật đơn-giản mà thôi.
Một số người thì chú-trọng vào việc ăn-ở tốt với nhau lúc còn sống, sẵn-sàng giúp-đỡ nhau, và sẵn-sàng lo sống chết cho nhau trong mọi hoàn-cảnh. Sống sao cho tình-nghĩa vẹn-toàn để khi không còn có nhau nữa, họ không có gì phải hối-tiếc. Đám ma lớn nhỏ không thành vấn-đề nữa. Phúng-điếu hay không cũng vậy. Họ không vì người đã chết mà làm phiền-hà người khác hay để cho người ta kiếm ăn trên xác chết của mình. Một số người khác tự lo trước cho cái chết của mình để khi nằm xuống họ không làm phiền người nhà.
Có những người, vì lợi-ích chung của nhân-loại, họ đã ký giấy hiến thân-xác mình sau khi chết cho các cơ-quan nghiên-cứu để làm phương-tiện cho sinh-viên trường thuốc học-hỏi.
Ma-chay trong trường-hợp này không thành vấn-đề nữa. Không còn phải sợ cảnh ‘ma chê cưới trách.’ Đây là một hành-động thật là cao-thượng và vị-tha. Thật đáng được thán-phục! Có những người thực-tế hơn đã làm điếu-văn cho cha mẹ, vợ chồng, hay bạn-bè ngay khi những người này còn sống (sinh-điếu). Làm ‘sinh-điếu’ kiểu này thật là có ý-nghĩa vì khi còn sống mà được nghe thân-nhân hay bằng-hữu khóc mình, ta mới thấy cảm-động và thú-vị vô-cùng. Có những nhà thơ đã làm điếu-văn khóc vợ lúc vợ còn đang chung sống với mình. Sau khi nghe bài sinh-điếu, có bà đã khóc mùi-mẫn vì sung-sướng. Thật là cảm-động một cách chân-thành đầy ý-nghĩa và tuyệt-vời.
V. Kết-Luận
Nếu khi chúng ta còn sống mà không thăm-nom và săn-sóc nhau thì những hành-động làm ma-chay (lễ tống-táng người chết) cho linh-đình, phúng-điếu, và phân-ưu dành cho nhau khi có người qua đời, tuy có cần-thiết, nhưng vẫn mang tính-cách lừa-dối người và lừa-dối chính bản-thân ta, nó không có một chút ý-nghĩa nào cả.
Hãy thăm-nom, săn-sóc, và giúp-đỡ nhau lúc còn sống mới thật là có ý-nghĩa và hữu-ích. Có như thế thì việc làm ma-chay, phúng-điếu, và phân-ưu mới có ý-nghĩa. Chết là hết. Ta nên nhớ rằng tất-cả những gì người sống làm cho thân-nhân hay bạn-bè đã qua đời chỉ vì những người còn sống và giúp cho những người sống yên lòng mà thôi.
Tuy-nhiên, ta vẫn phải làm đám tang cho người qua đời, nhưng chỉ nên làm giản-tiện và làm những gì cần-thiết mà thôi.
*
Khải-Chính Phạm Kim-Thư :
Xin nghe bản nhạc "Nếu Yêu Tôi" qua giọng hát Khánh Ly:
==
===
Tuesday, November 25, 2008
BS.NGUYỄN Ý ĐỨC * TRẠI TÙ CỘNG SẢN
==
BS.NGUYỄN Ý ĐỨC * TRẠI TÙ CỘNG SẢN
===
Trại cải tạo, 1 địa ngục trần gian ở VN
Đóng góp bởi: Admin # Lần đọc: 9.440
Bs Nguyễn Ý Đức, Texas
==
* Hành hạ, tù đầy và sức khỏe
(VNC) Trong hơn một phần tư thế kỷ tiếp tục hành nghề tại hải ngoại, y giới chúng tôi đã có nhiều dịp được tiếp xúc với một lớp người mang những tâm trạng, những rối loạn về thể chất rất đáng để ý. Tìm hiểu căn nguyên của các bệnh tình này cũng không mấy khó khăn vì đa số là nạn nhân của một triền miên hành xác mà đã mấy chục năm qua hậu quả xấu trên sức khỏe của họ dường như vẫn còn. Đó là những người được mệnh danh là '' Tù Nhân ''Cải Tạo''.
...Sao mà cứ ''ăn cơm mới nói chuyện cũ'' hoài vậy.
Vâng, đây là câu ta thường nghe một số người nêu ra, khi có ai nhắc tới cuộc chiến ở VN với các hậu quả của nó. Một trong những hậu quả bi thảm nhất là sự hành hạ các anh chị em quân cán chính Miền Nam trong nhiều trại tù đầy. Nếu có ở trong hoàn cảnh của họ thì ta mới hiểu được những đau đớn mọi mặt mà họ đã phải trải qua.
Vả lại, người ta cứ lớn tiếng hô hào khép lại quá khứ mà luôn luôn hậm hực với Sen Đầm Quốc Tế Mỹ và nghi kỵ trục lợi với Khúc Ruột Ngoài Ngàn Dặm Ngụy; đã 30 năm rồi người ta vẫn linh đình ăn khao chiến thắng trên sự ngao ngán thở dài của dân chúng trong ngoài nước, thì phải chăng ''nói vậy mà không làm vậy''. Và chỉ mới đây thôi, vài tấm bia vô tri bằng đá mang mấy dòng chữ tưởng niệm linh hồn những người cùng máu mủ tử nạn khi vượt biên tìm tự do và tri ân quốc gia cứu giúp cũng bị người ta tìm cách phá hủy. Thì tưởng rằng vô sản đã quá vô cảm, chẳng còn một chút tình người. Cho nên nhắc lại để người ta nhớ cũng là chuyện nên làm. Vì chính những nhân vật chủ trương ra lệnh tù đầy ngụy quân ngụy quyền hồi đó cũng đã lên tiếng nhận có sai lầm chính sách về chuyện cô lập vô nhân đạo này.
Sau ngày 30-4-75, mọi người đều e ngại về một cuộc tàn sát trả thù đẫm máu vì đã có những lời đồn đại về hành động này. Nhưng tới phút chót, người thắng trận miền Bắc đã nghĩ ra một giải pháp có vẻ nhân đạo hơn nhưng thương tích sâu đậm dài lâu hơn. Quân cán chánh VNCH đã được khuyến dụ trình diện để ''học tập'' ngắn hạn. Gọi là ''tìm hiểu đường lối, chính sách của nhà nước và để gột bỏ tàn tích chống phá cách mạng khi xưa''. Chính quyền mới hứa là thời gian học tập chỉ vài tháng rồi ai nấy trở về với gia đình, phục vụ đất nước.
Nhưng thực ra đây là một sự tù đầy, tẩy não, hành xác. Có người vài ba năm. Rất nhiều người mươi năm. Và số người triền miên tù đầy gần hai chục năm cũng không ít. Lại còn một số đáng kể chết mất xác trong tù đầy hành hạ. Người sống sót trở về đã kể lại nhiều thảm cảnh mà họ phải gánh chịu trong thời gian đau khổ ấy. Những thảm cảnh mà nghe lại ai cũng rùng mình. ''Rồi mai đây, nếu vì may mắn nào đó, tôi được sống trong môi trường khác, tôi có bổn phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả những gì đã xẩy ra, đã khắc xâu vào tâm khảm tôi những chứng tích khổ đau, hờn hận!'' Tạ Tỵ- Đáy Địa Ngục, trang 152.
Sau đây là một số nhân chứng đã trải qua các cuộc hành xác tù đầy, kể lại những hình thức hành hạ nạn nhân. Chúng tôi xin phép các tác giả trích đăng để thế hệ con cháu trong ngoài nước hiểu rõ mà tránh đi vào vết xe cũ. Cũng để cảm ơn vì các ghi chép đã giúp thầy thuốc hiểu rõ nguyên nhân xa gần đưa tới bệnh tật của thân chủ và dễ dàng hơn trong khi điều trị, chăm sóc.
Chứ chẳng phải để tiếp tục nuôi dưỡng những hận thù mà làm chị
* Điều kiện sống mất vệ sinh
Vệ sinh trại: chật chội, ngào ngạt hơi người, mùi hôi của mọi người, mọi bệnh riêng của mỗi người, cả tháng không tắm. Cả ngàn người có một giếng nước, kéo một lúc đã cạn nước. Để lâu không dùng chuột bọ chết thối đầy đáy giếng. Ăn uống vào là bị kiết lỵ. Đi cầu vào các dẫy hố đào trên mặt đất''
''Cả trại nhốn nháo về bệnh kiết lỵ. Hầu như không khu nào thoát. Chưa bao giờ buổi sáng lại đông người chờ đi cầu như vậy. Mặt mũi người nào cũng nhăn nhó , mệt mỏi trông thật thảm hại... Thật đau khổ, lúc nào bụng cũng quặn đau, mỗi lần đi cầu són ra một chút, phân ít, mũi máu nhiều. Từ nơi tôi ở ra nhà cầu khá xạ Để tiện việc, tôi không về nhà, ngồi ngay ở căn nhà chiếu Tivi sẵn sàng chạy ra hố cầu khi cần. Không phải mình tôi như vậy mà hàng chục người tay cầm lon nước, ngồi bệt xuống mặt cát. Bệnh của tôi kéo dài cả tuần sau khi uống cả lọ tetracycline do Lan chọ Trong thời gian kỷ luật chúng tôi được xuống sông tắm mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ bận hay có việc gì bất thường thì phải chờ lâu tới ba tuần.''
==
Tầng Đầu Địa Ngục- LM Nguyễn Hữu Lễ
Nhà cầu nổi.-
''Buồng trống trơn không có thứ gì ngoài mấy cái ống bẩu bằng luồng, một loại tre to và rỗng ruột. Đây là phương tiện toa-lét để tù nhân trong buồng đại tiểu tiện vào đó....Khi đi đại tiện, người tù phải dùng tới hai ống bẩu, mỗi tay cầm một cái. Ống hứng nước tiểu phía trước và ống phân dĩ nhiên là phía sau... Ống phía trước có thể là ống nhỏ, nhưng ống phía sau bắt buộc phải là ống có đường kính to và nhẹ. Yếu tố này rất quan trọng, vì trong lúc ''thi hành nghĩa vụ'' của bản năng, nói nôm na là ''đi cầu'', người tù phải quàng tay ra đằng sau để giữ cái ống bẩu. Nếu ống này nặng quá, người tù không thể giữ ống sát vào mông, tuột tay làm đổ phân tung tóe trong buồng..
Vì đã làm quen với cuộc sống tù quá ư là chật trội, bẩn thỉu và thiếu mọi tiện nghi tối thiểu của con người, nên chúng tôi chẳng ai cảm thấy mùi thối tha hôi hám gì trong cái buồng giam kín như cái thùng sắt này. Buồng giam chỉ có một cửa sổ duy nhất và rất hẹp, khí không thể lùa vào buồng được. Do đó chúng tôi cứ phải thở ra hít vào buồng phổi mình cái hơi nóng của bầu khí trong buồng mà tôi có cảm tưởng nó đã đặc quánh lại thành một thứ chất dẻo, không còn là ở thể khí nữa'' .Tầng ''ầu ''ịa Ngục-LM Nguyễn Hữu Lễ. Lao động quá sức.
Tù nhân bị ép buộc phải liên tục Hạ quyết tâm làm những điều mà trại đặt ra như sau:
''Tôi không bao giờ quên rằng tôi là kẻ có tội với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân. Tôi cũng không quên rằng Đảng đã khoan hồng tha tội chết cho tôi, lại tập trung tôi lại, tạo điều kiện cho tôi học tập cải tạo để trở nên người công dân lương thiện. Để đền ơn Đảng, tôi nhất trí:
1. Tích cực học tập cải tạo lao động tốt.
2. Giải phóng mọi tình cảm gia đình yếu đuối và tình nguyện ở lại trại học tập lao động cho dến khi nào được cách mạng công nhận tiến bộ cho về phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân.
3. Trong thời gian học tập tại trại, tôi phải chấp hành nghiêm chỉnh mọi nội quy quy định. Khắc phục mọi khuyết điểm tồn tại. Đấu tranh sai trái để thủ tiêu mọi mặt yếu của các bạn cải tạo khác hầu biến trại ta trở thành trại cải tao tiên tiến về mọi mặt.
4. Tố giác kịp thời với Cách mạng bọn xấu trong và ngoài trại đang còn ý đồ chống phá cách mạng.
5. Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối khoan hồng trước sau như một của cách mạng.'' Hà Thúc Sinh ghi lại trong Đại Học Máu trang 100.
Lao động là thước đo mức độ giác ngộ của tù nhân.Thế là lại được đi lao động để giác ngộ! Sau đây là các tiêu chuẩn mà tù nhân phải lao động: Cuốc đất: 150m2/ngày/người; Trồng mì: 5000m2 / 1 ngày/4 người; Khai quang: 300m2/ngày/người; Lấy cây đường kính 30cm, dài 4 thước /hai người một cây, xa 3 cây số; đường kính 10 phân, dài 4 thước hai người năm cây một ngày.
* Dọa nạt, nhục mạ.
''Tao bảo thật với chúng mày ngoài việc lao động như thế có mà ăn cứt, ngày về của chúng mày cũng kéo dài vô tận. Tao đã lên lớp cho chúng mày nhiều lần rồi. Cách mạng không có tình trạng lơ lửng con củ cặc. Một, chúng mày học tập lao động cho tốt để có ngày mà trở về. Hai, bánh xe lịch sử sẽ nghiền nát chúng mày trong này mất thôi'' Đại Học Máu- Hà Thúc Sinh, trang116. '' Các anh là những người có tội. Chính sách 3 năm Cải Tạo đề ra, nhưng nó không phải là mốc nhất định cho tất cả mọi người! Các anh đừng có giả vờ '' nín thở qua sông'' để hết cho ba năm thì về. Tôi nói thẳng cho các anh biết, có thể 3 năm cũng có thể 15 hay 20 năm đó!'' Tạ Tỵ - Đáy Địa Ngục trang 439.
* Bỏ đói khát.
Có lẽ bỏ cho đói khát là chính sách để kiềm chế, kiểm soát người tù. Nên bất cứ tù nhân nào cũng nói rất nhiều về sự hành xác này.
''Đã hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn miếng thịt nào. Lao động mỗi ngày 8 tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có, mỗi ngày lãnh hai chiếc bánh mì luộc, mỗi cái khoảng 200 gram và '' chiếc bánh buổi sáng 50gram, như vậy chúng tôi chỉ được ăn 450 gram chất bột với muối, không có chất béo, chất rau và chất đạm nào! Do đó, ai nấy đều gầy dộc hẳn, da khô khốc. Trên nguyên tắc theo giấy tờ chúng tôi được ăn 18 kí lô chất bột, 300 gram thịt mỗi tháng, nhưng thực tế chúng tôi chỉ được ăn 13 kí 500 chất bột..'' Đáy Địa Ngục-Tạ Tỵ trang 378- 379.
* Ăn bất cứ thứ gì là thịt.
''Nam cầm con rắn dài khoảng 6 tấc, to bằng ngón tay cái, không trắng không đen. Anh tìm sợi dây, buộc đầu con rắn cạp nong treo lên cành cây, rồi dùng lưỡi dao nhỏ cứa xung quanh cổ rắn. Con rắn lắc lư, lắc lư như chiếc que. Tôi không hiểu bằng cách nào Nam lột da con rắn nhanh như vậy. Da rắn vứt xuống suối, dòng nước cuốn đi trong nháy mắt. Nam hạ con rắn xuống mổ ruột, rửa nước suối rối sắt ra từng khúc , bỏ vào lon ghi gô, cho chút bột cà ri mà lúc nào anh cũng mang theo, đổ chút nước, thêm tí muối rồi cho lên bếp lửa. Lát sau, hạ xuống, anh trịnh trọng ngồi trên tảng đá sát dòng suối ăn hết con rắn một cách ngon lành'' Tạ Tỵ ''Đáy Địa Ngục, tr 439. Mỗi bữa hai miệng chén cơm nhỏ gạo mục, cả trăm người chỉ có vài chục con cá ngừ thối nấu với rau, từ xa đã ngửi thấy mùi hôi...Cho ăn để khỏi chết đói, đó là khẩu hiệu của trại.
Có nhiều tù nhân đã nướng sống sít các con sên con ốc rừng mang hàng triệu vi trùng sốt rét hoặc ăn quả sung rừng cho đỡ đói, ăn phải quả độc '' đứt thần kinh, sùi bọt mép, lên kinh phong rồi chết''
''Cái lon nhôm sữa bột guigoz được gọi vắn tắt là cái Gô, là bạn bạn đồng hành thân thiết của tù. Người tù nào cũng kè kè bên mình một cái vừa đựng nước uống ra bãi, vừa dùng để nấu canh tại bãi lao động. Những loại rau cỏ dại ăn được tìm thấy ngay tại hiện trường, lén nhổ bỏ vào gô rồi nhờ nhà bếp nấu. Nấu chín xong để bụi cát lắng xuống phần dưới, ăn phần rau cũng đỡ cái bao tử rỗng một lúc. Hôm nào bắt được con cóc, con nhái thì '' canh có người lái'', tù gọi là Protein; con gì cũng qui vào chất thịt, chất protein bổ dưỡng. Tù có câu:'' con gì nhúc nhích là ăn được''; rau gì không chết thì ăn''... Nguyễn Chí Thiệp- Trại Tù Kiên Giam.
''Tiêu chuẩn kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu . Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp nhai cái lưỡi đã đưa cơm vào cổ'' Đến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện một lần, vì đại tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó.'' Nguyễn Chí Thiệp- Trại Tù Kiên Giam trang 35
* Thiếu thốn
Chia nhau vài thìa đường: ''Anh ta cầm nhanh lấy cái thìa và với một tư thái rất cẩn trọng, anh gom các phần đường đang chia dở và bắt đầu chia lại. Mười người mười phần. Trợ chia thật khéo nhưng cũng thật chậm. Đôi khi tay anh run làm một vài hạt đường rơi xuống miếng giấy dầu, văng dính vào ngón chân anh. Anh vội lấy ngón tay chấm mấy hạt đường ấy và cho lên miệng. Người ta bực mình nhưng người ta không thể giành lại những hạt đường đã dính vào những ngón chân cáu bẩn của kẻ khác.'' Mỗi người được ba thìa đường sau ba tháng tù'' Hà Thúc Sinh- Đại Học Máu, trang 148. ''Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mỗi lần đi ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi lên hương. Hai con mắt hoạt động tích cực để tìm nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn thì cái bàn chải đánh răng cũ hoặc ít giấy bao xi măng làm vở viết chữ Tầu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố học'' Tầng Đầu Địa Ngục- LM Nguyễn Hữu Lễ.
* Hành hạ cơ thể.
''Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên tắc mà tù nhân bị ''đại cá' ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ tù.
Nếu chỉ để cảnh cáo và áp đảo tinh thần những lính mới để bắt phải đi vào khuôn phép thì chỉ cần sử dụng ''chưởng'' tức là đánh bằng hòn đá bọc trong cái vớ; hoặc ''bẻ ngà'' là dùng đá cà hoặc đập gẫy hết cả hai hàm răng. Trường hợp nặnghơn thì ''lấy cấp phá'tức là móc đôi mắt, hoặc '' xin cặp nạng'' nghĩa là cắt gân gót chân. Trường hợp nghiêm trọng thì đối phương sẽ được ''cất'' có nghĩa là giết chết. Tầng Đầu Địa Ngục- LM Nguyễn hữu Lễ.
''Tên vệ binh hung ác vừa quật roi mạnh hơn vừa chửi rủa thậm tệ:
- Đ.M. chúng mày là đồ tư sản, dưỡng xác quen, làm việc chây lười, không cố gắng, không có kỷ luật gì hết!
Chiếc roi lại tiếp tục rít trong không khí, bay tới tấp vào thân xác ba người tù. Đại đức Thích Thiện Cao bị đòn đau quá chỉ biết rú lên những câu quen thuộc ''Mô Phật'', rồi nhắm mắt, oằn người lên chịu đựng''. Phạm Quang Giai-Lần cuối bên anh, trang 247''
*Bắt quỳ để trừng phạt.
''Nói đến sùi bọt mép mà thấy nét mặt của mười thằng ''ngụy'' vẫn trơ thổ địa ra, thằng quản giáo cáu quá hét: Tao phạt chúng mày quỳ hai tiếng. Quỳ xuống.'' Bọn tù chỉ liếc nhìn nhau chẳng ai chịu quỳ. Thằng quản giáo đâu có chịu thuạ Hắn móc súng bắn đến đùng một phát. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh em lần lượt êm ái quỳ. Thằng quản giáo đứng chửi rủa một lúc rồi mới chịu bỏ đị..'' Đại Học Máu-Hà Thúc Sinh. trang 116.
'' Hai chân tôi bị còng chéo để bức cung. Còng chéo hai chân bị đóng cứng chặt giữa hai cái còng hình chữ U và thanh sắt xuyên. Vì độ cao của thanh sắt giở hổng hai chân lên thành ra không thể nằm thẳng lưng, vì nằm như vậy thân mình căng ra hai chân bị siết chặt vào sắt đau buốt tận tủy óc. Người bị còng phải dùng hai khuỷu tay để chống hoặc cởi hết quần áo ra chêm ngang thắt lưng mới chịu được một thời gian. Chờ một vài ngày hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp thì hai chân sẽ thẳng ra nhưng phải nằm sấp. Nhưng chỉ vài ngày chân đã sưng húp vì ban đêm bị lắc còng điểm danh'' Trại Tù Kiên Giam- Nguyễn Chí Thiệp- tr 473.
*Bệnh xá- Bệnh tật.
''Mặt đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm cứ như những cái xác chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút nước vo gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù thũng trầm khạ..'' Đại Học Máu Hà Thúc Sinh tr 251.
''Nói là bệnh xá cho xôm trò chứ nơi đây chỉ là một nhà thường có sạp nằm cho bệnh nhân. Lúc tôi đến đây thì đã có hai mươi trại viên đang trị bệnh tại đây. Người tôi bị tê liệt toàn thân do đó những việc vệ sinh cá nhân tôi không làm được, tôi phải nhờ sự giúp đỡ của hai bệnh nhân nằm hai bên tôi. Hai bệnh nhân này không cùng một trại với tôi.
Một hôm cán bộ bác sĩ đến tận giường tôi đọc lệnh mà nội dung như sau:- Anh Phan Phát Huồn, anh là một tên có nợ máu với nhân dân nhưng đảng và nhà nước ta đã tha tội chết cho anh, anh đau ốm vẫn cho anh nằm ở bệnh xá điều trị, vậy mà anh không biết điều, vi phạm nội quy của bệnh xá bằng cách quan hệ với người khác trại, vậy ngay từ giờ phút này anh phải ra khỏi bệnh xá. Nói xong ông ta ra lệnh cho y công buộc dây thừng vào hai chân tôi và kéo tôi như một con chó ra khỏi bệnh xá''.- AK và Thập Giá- Phan Phát Huồn.
''Tại bệnh viện tôi đã nghe nói và chứng kiến những cuộc ''căng mùng'' ghê rợn. Căng mùng tức là nói đến giải phẫu bệnh nhân. Để tránh ruồi muỗi bu vào lúc giải phẫu, bệnh nhân được đưa vào trong mùng. Vì không có thuốc tê nên người ta cột bệnh nhân vào giường, lại còn có các anh hộ lý đè bệnh nhân xuống để bệnh nhân khỏi vùng vẫy lúc quá đau đớn. Thường thường bác sĩ dùng dao cạo râu để giải phẫu. Bệnh nhân gào thét kêu la thảm thiết, tôi có cảm tưởng là một con lợn đang bị thọc huyết'' AK và Thập Giá-LM Phan Phát Huồn.
''Bệnh nhân bị bệnh gì gã cũng cho uống Xuyên tâm liên. Kiết ly, tiêu chẩy: xuyên tâm liên. Sốt rét sốt nóng: xuyên tâm liên. Ho lao, sưng phổi: xuyên tâm liên.Vì thế rất nhiều bệnh nhân chết oan uổng.'' Thanh Thương Hoàng-Những Nỗi Đau Đời ''trang 51.
* Chứng kiến sự hành hạ tù nhân khác
''Vừa dứt câu hỏi, tên vệ binh xuất kỳ bất ý dùng chân móc cú đá hậu vào khuỷu đầu gối của Trác, khiến Trác lao chao. Tên cảnh vệ tiếp theo cái lao chao của Trác bằng một cú đập mạnh báng súng AK vào người Trác, khiến người tù Việt quốc không còn đủ sức đứng vững, cả thân xác ông rơi xuống như quả sung rụng. Trác vừa té sóng soài trên hiện trường sám hối thì liền lúc đó tên này tung người lên dùng một đòn hiểm nhẩy lên đứng trên thân xác của Trác. Các đồng đội của Trác ngồi trong vòng tròn đều nhắm mắt mỗi khi nhìn thấy tên cảnh vệ dùng những cú giầy đinh nện mạnh trên mặt, trên người Trác. Máu bắt đầu chan hòa trên hiện trường sám hối'' Phạm Quang Giai-Lần Cuối Bên Anh-trang 165
''Tiếng kêu rú rùng rợn vẫn không ngớt phát ra từ những căn phòng xung quanh. Phượng vẫn ngồi như chết cứng. Rồi đột nhiên đèn bật sáng chói, nàng thấy mình đang ở trong một căn phòng toàn những dụng cụ tra tấn''.Nàng thấy ghê tởm, rồi tự dưng trong nàng nảy ra một ý định tìm cái chết, trước khi bị tra tấn, nàng đang nghĩ''Chợt cánh cửa sau bật mở. Nàng vội ngồi thu người lại sát tường, mắt ánh lên, thấy hai tên chuyên viên tra tấn xốc nách một người đàn ông, kéo sệt trên nền xi-măng. Mặt người đó tím bầm, hai bên mép ứa máu còn chẩy ra ròng ròng, tóc rối bù bết máu, đầu ngoẹo sang một bên, mình trần trụi bê bết máu, chân tay mềm nhũn rá''' Trần Nhu- Địa Ngục Sình Lầy, trang 163
*Cô lập trong hầm đá
''Tên vệ binh hầm hầm đi về phía cửa hầm đá số 5. Hắn tra chiếc chìa khóa vào ổ rồi quay một vòng nghe răng rác. Hắn kéo chiếc cửa sắt nặng nề ra, để lộ một không gian tối om. Mùi hôi thối từ trong phòng xông ra những; đồng thời với tiếng hú ma quái ngân dài lê thê phát ra từ trong long hầm đá, nghe thật ai oán. Tên vệ binh trở lại chỗ Sâm ra lệnh:
- Vũ Sâm! Mày vào hầm đá số 5 để mà tưởng nhớ đến người vợ đẹp của mày.
Sâm lần thần đi thật chậm, tiến vào miệng hầm, rồi cũng thật nhanh, anh lọt hẳn vào bên trong. Vũ Sâm quay người lại nhìn tên vệ binh lần chót trước khi chìm hẳn vào bóng đêm dầy đặc, vu vơ vàtăm tối. Cánh cửa sắt đóng lại, tạo thành tiếng sầm khô khan.'' Phạm Quang Giai-Lần Cuối Bên Anh. Trang 43.
* Ngoài ra còn nhiều cách hành hạ khác như:
Chói cột với tù nhân khác; nhốt trong thùng sắt, trong túi; đầy ải ngoài nắng, nóng, dưới đèn sáng; bịt mắt; chói cột xuống đất; đá đít, bạt tai; giả xử tử; bắt uống những thuốc lạ; dìm dưới nước; làm cho nghẹt thở; cheo lơ lửng trên không; gây tổn thương cho ngọc hành/ cơ quan sinh dục; tạt phẩn, nước tiểu lên mặt; tra tấn bằng điện; châm chọc kim vào đầu ngón tay, ngón chân; không cho ngủ; bỏ cho muỗi, kiến, đỉa cắn...
Những hành hạ đưa tới bệnh tật triền miên cho người sống sót.
Kết luận
Liên Hiệp Quốc coi hành hạ tra tấn là bất cứ hành động nào đưa tới đau đớn về thể xác và tâm thần nạn nhân.
Theo cơ quan Ân Xá Quốc Tế, sự tra tấn vẫn còn được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Tra tấn xẩy ra quá thường khiến cho cơ quan này không ước lượng được số nạn nhân mà chỉ nêu ra một số quốc gia áp dụng sự hành hạ này, vì chiến tranh, đàn áp, tiêu diệt chủng tộc.
Các nhà tâm lý xã hội cho hay hành hạ có mục đích làm xáo trộn, hoặc đúng ra là để phá hủy sự liên tục của cuộc sống con người cho tới một mức độ mà sự hồi phục trở nên tốn kém đôi khi không sao thực hiện được. Mà đa số nạn nhân bị đối sử tàn tệ sau đó lại được định cư ở một quốc gia khác như người tị nạn, nên họ gặp nhiều khó khăn hội nhập vào một nền văn hóa với nếp sống mới, ngôn ngữ mới. ''ó chính là trường hợp các cựu tù nhân quân cán chính VNCH. Nạn nhân sống sót của tù đầy tra tấn có những phản ứng cảm xúc khác nhau tùy theo cá tính và căn bản giáo dục: từ giận giữ, phẫn nộ tới cảm thấy nhục nhã; cảm xúc ngay thẳng chính đáng tới sai trái tội lỗi; tự tin quyết đoán tới tủi thẹn, xấu hổ. Chắc chắn là họ khó mà quên được những vết thương mà người có quyền đã để lại trên cơ thể tâm hồn họ. Những ảnh hưởng này sẽ tồn tại rất lâu, có khi suốt đời.
Những hoảng hốt, lo sợ, những trầm buồn, những cơn ác mộng sẽ thường trực đến với họ và có nhiều tác dụng xấu cho đời sống cá nhân cũng như gia đình. Rồi lại còn những suy nhược tim gan tỳ phế vì thiếu ăn, thời tiết khắc nghiệt, lao động khổ sai nơi rùng sâu nước độc. Nhiều ngàn người hiện nay không thi vào quốc tịch mới được vì trí nhớ suy kém, giảm khả năng học ngoại ngữ. Và còn cần sự chăm sóc của giới y tế đồng hương trong nhiều năm còn lại của cuộc đời. Giải thích để họ hiểu tại sao hành hạ đã xẩy ra có hy vọng một phần nào mang họ trở lại cuộc sống bình thường. Cũng như một hành động, một lời nói ''sorrý' từ phía chính quyền hiện tại. Như người da trắng đã sorry với nô lệ da đen bị kỳ thị, bóc lột trong thế kỷ trước. Cũng như Giáo hội Công giáo đã nhìn nhận nhiều sai lầm trong quá khứ liên quan tới sự tôn trọng đối với những cá nhân hoặc cộng đồng.
Thế hệ con cháu khi nghe những chuyện đau thương này của cha chú, chắc cũng rùng mình kinh sợ. Kinh nghiệm Holaucost vẫn còn ám ảnh lương tâm loài người sau cả trên nửa thế kỷ. Cũng như thảm cảnh tù đầy ''cải tạo'' ở VN vào thập niên 70-80 của thế kỷ vừa qua.
Ghi lại để mà tránh tái diễn. Và nhắc nhở người ta đừng quá ảo tưởng với hào quang chiến thắng bọt nước mà quên sự tàn ác mà mình đã áp đặt lên những anh em cùng chung một bọc, Trăm Con Trăm Trứng Tiên Rồng.
===
http://www.vn.net/article.php/20060711093615427
BS.NGUYỄN Ý ĐỨC * TRẠI TÙ CỘNG SẢN
===
Trại cải tạo, 1 địa ngục trần gian ở VN
Đóng góp bởi: Admin # Lần đọc: 9.440
Bs Nguyễn Ý Đức, Texas
==
* Hành hạ, tù đầy và sức khỏe
(VNC) Trong hơn một phần tư thế kỷ tiếp tục hành nghề tại hải ngoại, y giới chúng tôi đã có nhiều dịp được tiếp xúc với một lớp người mang những tâm trạng, những rối loạn về thể chất rất đáng để ý. Tìm hiểu căn nguyên của các bệnh tình này cũng không mấy khó khăn vì đa số là nạn nhân của một triền miên hành xác mà đã mấy chục năm qua hậu quả xấu trên sức khỏe của họ dường như vẫn còn. Đó là những người được mệnh danh là '' Tù Nhân ''Cải Tạo''.
...Sao mà cứ ''ăn cơm mới nói chuyện cũ'' hoài vậy.
Vâng, đây là câu ta thường nghe một số người nêu ra, khi có ai nhắc tới cuộc chiến ở VN với các hậu quả của nó. Một trong những hậu quả bi thảm nhất là sự hành hạ các anh chị em quân cán chính Miền Nam trong nhiều trại tù đầy. Nếu có ở trong hoàn cảnh của họ thì ta mới hiểu được những đau đớn mọi mặt mà họ đã phải trải qua.
Vả lại, người ta cứ lớn tiếng hô hào khép lại quá khứ mà luôn luôn hậm hực với Sen Đầm Quốc Tế Mỹ và nghi kỵ trục lợi với Khúc Ruột Ngoài Ngàn Dặm Ngụy; đã 30 năm rồi người ta vẫn linh đình ăn khao chiến thắng trên sự ngao ngán thở dài của dân chúng trong ngoài nước, thì phải chăng ''nói vậy mà không làm vậy''. Và chỉ mới đây thôi, vài tấm bia vô tri bằng đá mang mấy dòng chữ tưởng niệm linh hồn những người cùng máu mủ tử nạn khi vượt biên tìm tự do và tri ân quốc gia cứu giúp cũng bị người ta tìm cách phá hủy. Thì tưởng rằng vô sản đã quá vô cảm, chẳng còn một chút tình người. Cho nên nhắc lại để người ta nhớ cũng là chuyện nên làm. Vì chính những nhân vật chủ trương ra lệnh tù đầy ngụy quân ngụy quyền hồi đó cũng đã lên tiếng nhận có sai lầm chính sách về chuyện cô lập vô nhân đạo này.
Sau ngày 30-4-75, mọi người đều e ngại về một cuộc tàn sát trả thù đẫm máu vì đã có những lời đồn đại về hành động này. Nhưng tới phút chót, người thắng trận miền Bắc đã nghĩ ra một giải pháp có vẻ nhân đạo hơn nhưng thương tích sâu đậm dài lâu hơn. Quân cán chánh VNCH đã được khuyến dụ trình diện để ''học tập'' ngắn hạn. Gọi là ''tìm hiểu đường lối, chính sách của nhà nước và để gột bỏ tàn tích chống phá cách mạng khi xưa''. Chính quyền mới hứa là thời gian học tập chỉ vài tháng rồi ai nấy trở về với gia đình, phục vụ đất nước.
Nhưng thực ra đây là một sự tù đầy, tẩy não, hành xác. Có người vài ba năm. Rất nhiều người mươi năm. Và số người triền miên tù đầy gần hai chục năm cũng không ít. Lại còn một số đáng kể chết mất xác trong tù đầy hành hạ. Người sống sót trở về đã kể lại nhiều thảm cảnh mà họ phải gánh chịu trong thời gian đau khổ ấy. Những thảm cảnh mà nghe lại ai cũng rùng mình. ''Rồi mai đây, nếu vì may mắn nào đó, tôi được sống trong môi trường khác, tôi có bổn phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả những gì đã xẩy ra, đã khắc xâu vào tâm khảm tôi những chứng tích khổ đau, hờn hận!'' Tạ Tỵ- Đáy Địa Ngục, trang 152.
Sau đây là một số nhân chứng đã trải qua các cuộc hành xác tù đầy, kể lại những hình thức hành hạ nạn nhân. Chúng tôi xin phép các tác giả trích đăng để thế hệ con cháu trong ngoài nước hiểu rõ mà tránh đi vào vết xe cũ. Cũng để cảm ơn vì các ghi chép đã giúp thầy thuốc hiểu rõ nguyên nhân xa gần đưa tới bệnh tật của thân chủ và dễ dàng hơn trong khi điều trị, chăm sóc.
Chứ chẳng phải để tiếp tục nuôi dưỡng những hận thù mà làm chị
* Điều kiện sống mất vệ sinh
Vệ sinh trại: chật chội, ngào ngạt hơi người, mùi hôi của mọi người, mọi bệnh riêng của mỗi người, cả tháng không tắm. Cả ngàn người có một giếng nước, kéo một lúc đã cạn nước. Để lâu không dùng chuột bọ chết thối đầy đáy giếng. Ăn uống vào là bị kiết lỵ. Đi cầu vào các dẫy hố đào trên mặt đất''
''Cả trại nhốn nháo về bệnh kiết lỵ. Hầu như không khu nào thoát. Chưa bao giờ buổi sáng lại đông người chờ đi cầu như vậy. Mặt mũi người nào cũng nhăn nhó , mệt mỏi trông thật thảm hại... Thật đau khổ, lúc nào bụng cũng quặn đau, mỗi lần đi cầu són ra một chút, phân ít, mũi máu nhiều. Từ nơi tôi ở ra nhà cầu khá xạ Để tiện việc, tôi không về nhà, ngồi ngay ở căn nhà chiếu Tivi sẵn sàng chạy ra hố cầu khi cần. Không phải mình tôi như vậy mà hàng chục người tay cầm lon nước, ngồi bệt xuống mặt cát. Bệnh của tôi kéo dài cả tuần sau khi uống cả lọ tetracycline do Lan chọ Trong thời gian kỷ luật chúng tôi được xuống sông tắm mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ bận hay có việc gì bất thường thì phải chờ lâu tới ba tuần.''
==
Tầng Đầu Địa Ngục- LM Nguyễn Hữu Lễ
Nhà cầu nổi.-
''Buồng trống trơn không có thứ gì ngoài mấy cái ống bẩu bằng luồng, một loại tre to và rỗng ruột. Đây là phương tiện toa-lét để tù nhân trong buồng đại tiểu tiện vào đó....Khi đi đại tiện, người tù phải dùng tới hai ống bẩu, mỗi tay cầm một cái. Ống hứng nước tiểu phía trước và ống phân dĩ nhiên là phía sau... Ống phía trước có thể là ống nhỏ, nhưng ống phía sau bắt buộc phải là ống có đường kính to và nhẹ. Yếu tố này rất quan trọng, vì trong lúc ''thi hành nghĩa vụ'' của bản năng, nói nôm na là ''đi cầu'', người tù phải quàng tay ra đằng sau để giữ cái ống bẩu. Nếu ống này nặng quá, người tù không thể giữ ống sát vào mông, tuột tay làm đổ phân tung tóe trong buồng..
Vì đã làm quen với cuộc sống tù quá ư là chật trội, bẩn thỉu và thiếu mọi tiện nghi tối thiểu của con người, nên chúng tôi chẳng ai cảm thấy mùi thối tha hôi hám gì trong cái buồng giam kín như cái thùng sắt này. Buồng giam chỉ có một cửa sổ duy nhất và rất hẹp, khí không thể lùa vào buồng được. Do đó chúng tôi cứ phải thở ra hít vào buồng phổi mình cái hơi nóng của bầu khí trong buồng mà tôi có cảm tưởng nó đã đặc quánh lại thành một thứ chất dẻo, không còn là ở thể khí nữa'' .Tầng ''ầu ''ịa Ngục-LM Nguyễn Hữu Lễ. Lao động quá sức.
Tù nhân bị ép buộc phải liên tục Hạ quyết tâm làm những điều mà trại đặt ra như sau:
''Tôi không bao giờ quên rằng tôi là kẻ có tội với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân. Tôi cũng không quên rằng Đảng đã khoan hồng tha tội chết cho tôi, lại tập trung tôi lại, tạo điều kiện cho tôi học tập cải tạo để trở nên người công dân lương thiện. Để đền ơn Đảng, tôi nhất trí:
1. Tích cực học tập cải tạo lao động tốt.
2. Giải phóng mọi tình cảm gia đình yếu đuối và tình nguyện ở lại trại học tập lao động cho dến khi nào được cách mạng công nhận tiến bộ cho về phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân.
3. Trong thời gian học tập tại trại, tôi phải chấp hành nghiêm chỉnh mọi nội quy quy định. Khắc phục mọi khuyết điểm tồn tại. Đấu tranh sai trái để thủ tiêu mọi mặt yếu của các bạn cải tạo khác hầu biến trại ta trở thành trại cải tao tiên tiến về mọi mặt.
4. Tố giác kịp thời với Cách mạng bọn xấu trong và ngoài trại đang còn ý đồ chống phá cách mạng.
5. Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối khoan hồng trước sau như một của cách mạng.'' Hà Thúc Sinh ghi lại trong Đại Học Máu trang 100.
Lao động là thước đo mức độ giác ngộ của tù nhân.Thế là lại được đi lao động để giác ngộ! Sau đây là các tiêu chuẩn mà tù nhân phải lao động: Cuốc đất: 150m2/ngày/người; Trồng mì: 5000m2 / 1 ngày/4 người; Khai quang: 300m2/ngày/người; Lấy cây đường kính 30cm, dài 4 thước /hai người một cây, xa 3 cây số; đường kính 10 phân, dài 4 thước hai người năm cây một ngày.
* Dọa nạt, nhục mạ.
''Tao bảo thật với chúng mày ngoài việc lao động như thế có mà ăn cứt, ngày về của chúng mày cũng kéo dài vô tận. Tao đã lên lớp cho chúng mày nhiều lần rồi. Cách mạng không có tình trạng lơ lửng con củ cặc. Một, chúng mày học tập lao động cho tốt để có ngày mà trở về. Hai, bánh xe lịch sử sẽ nghiền nát chúng mày trong này mất thôi'' Đại Học Máu- Hà Thúc Sinh, trang116. '' Các anh là những người có tội. Chính sách 3 năm Cải Tạo đề ra, nhưng nó không phải là mốc nhất định cho tất cả mọi người! Các anh đừng có giả vờ '' nín thở qua sông'' để hết cho ba năm thì về. Tôi nói thẳng cho các anh biết, có thể 3 năm cũng có thể 15 hay 20 năm đó!'' Tạ Tỵ - Đáy Địa Ngục trang 439.
* Bỏ đói khát.
Có lẽ bỏ cho đói khát là chính sách để kiềm chế, kiểm soát người tù. Nên bất cứ tù nhân nào cũng nói rất nhiều về sự hành xác này.
''Đã hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn miếng thịt nào. Lao động mỗi ngày 8 tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có, mỗi ngày lãnh hai chiếc bánh mì luộc, mỗi cái khoảng 200 gram và '' chiếc bánh buổi sáng 50gram, như vậy chúng tôi chỉ được ăn 450 gram chất bột với muối, không có chất béo, chất rau và chất đạm nào! Do đó, ai nấy đều gầy dộc hẳn, da khô khốc. Trên nguyên tắc theo giấy tờ chúng tôi được ăn 18 kí lô chất bột, 300 gram thịt mỗi tháng, nhưng thực tế chúng tôi chỉ được ăn 13 kí 500 chất bột..'' Đáy Địa Ngục-Tạ Tỵ trang 378- 379.
* Ăn bất cứ thứ gì là thịt.
''Nam cầm con rắn dài khoảng 6 tấc, to bằng ngón tay cái, không trắng không đen. Anh tìm sợi dây, buộc đầu con rắn cạp nong treo lên cành cây, rồi dùng lưỡi dao nhỏ cứa xung quanh cổ rắn. Con rắn lắc lư, lắc lư như chiếc que. Tôi không hiểu bằng cách nào Nam lột da con rắn nhanh như vậy. Da rắn vứt xuống suối, dòng nước cuốn đi trong nháy mắt. Nam hạ con rắn xuống mổ ruột, rửa nước suối rối sắt ra từng khúc , bỏ vào lon ghi gô, cho chút bột cà ri mà lúc nào anh cũng mang theo, đổ chút nước, thêm tí muối rồi cho lên bếp lửa. Lát sau, hạ xuống, anh trịnh trọng ngồi trên tảng đá sát dòng suối ăn hết con rắn một cách ngon lành'' Tạ Tỵ ''Đáy Địa Ngục, tr 439. Mỗi bữa hai miệng chén cơm nhỏ gạo mục, cả trăm người chỉ có vài chục con cá ngừ thối nấu với rau, từ xa đã ngửi thấy mùi hôi...Cho ăn để khỏi chết đói, đó là khẩu hiệu của trại.
Có nhiều tù nhân đã nướng sống sít các con sên con ốc rừng mang hàng triệu vi trùng sốt rét hoặc ăn quả sung rừng cho đỡ đói, ăn phải quả độc '' đứt thần kinh, sùi bọt mép, lên kinh phong rồi chết''
''Cái lon nhôm sữa bột guigoz được gọi vắn tắt là cái Gô, là bạn bạn đồng hành thân thiết của tù. Người tù nào cũng kè kè bên mình một cái vừa đựng nước uống ra bãi, vừa dùng để nấu canh tại bãi lao động. Những loại rau cỏ dại ăn được tìm thấy ngay tại hiện trường, lén nhổ bỏ vào gô rồi nhờ nhà bếp nấu. Nấu chín xong để bụi cát lắng xuống phần dưới, ăn phần rau cũng đỡ cái bao tử rỗng một lúc. Hôm nào bắt được con cóc, con nhái thì '' canh có người lái'', tù gọi là Protein; con gì cũng qui vào chất thịt, chất protein bổ dưỡng. Tù có câu:'' con gì nhúc nhích là ăn được''; rau gì không chết thì ăn''... Nguyễn Chí Thiệp- Trại Tù Kiên Giam.
''Tiêu chuẩn kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu . Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp nhai cái lưỡi đã đưa cơm vào cổ'' Đến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện một lần, vì đại tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó.'' Nguyễn Chí Thiệp- Trại Tù Kiên Giam trang 35
* Thiếu thốn
Chia nhau vài thìa đường: ''Anh ta cầm nhanh lấy cái thìa và với một tư thái rất cẩn trọng, anh gom các phần đường đang chia dở và bắt đầu chia lại. Mười người mười phần. Trợ chia thật khéo nhưng cũng thật chậm. Đôi khi tay anh run làm một vài hạt đường rơi xuống miếng giấy dầu, văng dính vào ngón chân anh. Anh vội lấy ngón tay chấm mấy hạt đường ấy và cho lên miệng. Người ta bực mình nhưng người ta không thể giành lại những hạt đường đã dính vào những ngón chân cáu bẩn của kẻ khác.'' Mỗi người được ba thìa đường sau ba tháng tù'' Hà Thúc Sinh- Đại Học Máu, trang 148. ''Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mỗi lần đi ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi lên hương. Hai con mắt hoạt động tích cực để tìm nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn thì cái bàn chải đánh răng cũ hoặc ít giấy bao xi măng làm vở viết chữ Tầu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố học'' Tầng Đầu Địa Ngục- LM Nguyễn Hữu Lễ.
* Hành hạ cơ thể.
''Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên tắc mà tù nhân bị ''đại cá' ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ tù.
Nếu chỉ để cảnh cáo và áp đảo tinh thần những lính mới để bắt phải đi vào khuôn phép thì chỉ cần sử dụng ''chưởng'' tức là đánh bằng hòn đá bọc trong cái vớ; hoặc ''bẻ ngà'' là dùng đá cà hoặc đập gẫy hết cả hai hàm răng. Trường hợp nặnghơn thì ''lấy cấp phá'tức là móc đôi mắt, hoặc '' xin cặp nạng'' nghĩa là cắt gân gót chân. Trường hợp nghiêm trọng thì đối phương sẽ được ''cất'' có nghĩa là giết chết. Tầng Đầu Địa Ngục- LM Nguyễn hữu Lễ.
''Tên vệ binh hung ác vừa quật roi mạnh hơn vừa chửi rủa thậm tệ:
- Đ.M. chúng mày là đồ tư sản, dưỡng xác quen, làm việc chây lười, không cố gắng, không có kỷ luật gì hết!
Chiếc roi lại tiếp tục rít trong không khí, bay tới tấp vào thân xác ba người tù. Đại đức Thích Thiện Cao bị đòn đau quá chỉ biết rú lên những câu quen thuộc ''Mô Phật'', rồi nhắm mắt, oằn người lên chịu đựng''. Phạm Quang Giai-Lần cuối bên anh, trang 247''
*Bắt quỳ để trừng phạt.
''Nói đến sùi bọt mép mà thấy nét mặt của mười thằng ''ngụy'' vẫn trơ thổ địa ra, thằng quản giáo cáu quá hét: Tao phạt chúng mày quỳ hai tiếng. Quỳ xuống.'' Bọn tù chỉ liếc nhìn nhau chẳng ai chịu quỳ. Thằng quản giáo đâu có chịu thuạ Hắn móc súng bắn đến đùng một phát. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh em lần lượt êm ái quỳ. Thằng quản giáo đứng chửi rủa một lúc rồi mới chịu bỏ đị..'' Đại Học Máu-Hà Thúc Sinh. trang 116.
'' Hai chân tôi bị còng chéo để bức cung. Còng chéo hai chân bị đóng cứng chặt giữa hai cái còng hình chữ U và thanh sắt xuyên. Vì độ cao của thanh sắt giở hổng hai chân lên thành ra không thể nằm thẳng lưng, vì nằm như vậy thân mình căng ra hai chân bị siết chặt vào sắt đau buốt tận tủy óc. Người bị còng phải dùng hai khuỷu tay để chống hoặc cởi hết quần áo ra chêm ngang thắt lưng mới chịu được một thời gian. Chờ một vài ngày hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp thì hai chân sẽ thẳng ra nhưng phải nằm sấp. Nhưng chỉ vài ngày chân đã sưng húp vì ban đêm bị lắc còng điểm danh'' Trại Tù Kiên Giam- Nguyễn Chí Thiệp- tr 473.
*Bệnh xá- Bệnh tật.
''Mặt đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm cứ như những cái xác chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút nước vo gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù thũng trầm khạ..'' Đại Học Máu Hà Thúc Sinh tr 251.
''Nói là bệnh xá cho xôm trò chứ nơi đây chỉ là một nhà thường có sạp nằm cho bệnh nhân. Lúc tôi đến đây thì đã có hai mươi trại viên đang trị bệnh tại đây. Người tôi bị tê liệt toàn thân do đó những việc vệ sinh cá nhân tôi không làm được, tôi phải nhờ sự giúp đỡ của hai bệnh nhân nằm hai bên tôi. Hai bệnh nhân này không cùng một trại với tôi.
Một hôm cán bộ bác sĩ đến tận giường tôi đọc lệnh mà nội dung như sau:- Anh Phan Phát Huồn, anh là một tên có nợ máu với nhân dân nhưng đảng và nhà nước ta đã tha tội chết cho anh, anh đau ốm vẫn cho anh nằm ở bệnh xá điều trị, vậy mà anh không biết điều, vi phạm nội quy của bệnh xá bằng cách quan hệ với người khác trại, vậy ngay từ giờ phút này anh phải ra khỏi bệnh xá. Nói xong ông ta ra lệnh cho y công buộc dây thừng vào hai chân tôi và kéo tôi như một con chó ra khỏi bệnh xá''.- AK và Thập Giá- Phan Phát Huồn.
''Tại bệnh viện tôi đã nghe nói và chứng kiến những cuộc ''căng mùng'' ghê rợn. Căng mùng tức là nói đến giải phẫu bệnh nhân. Để tránh ruồi muỗi bu vào lúc giải phẫu, bệnh nhân được đưa vào trong mùng. Vì không có thuốc tê nên người ta cột bệnh nhân vào giường, lại còn có các anh hộ lý đè bệnh nhân xuống để bệnh nhân khỏi vùng vẫy lúc quá đau đớn. Thường thường bác sĩ dùng dao cạo râu để giải phẫu. Bệnh nhân gào thét kêu la thảm thiết, tôi có cảm tưởng là một con lợn đang bị thọc huyết'' AK và Thập Giá-LM Phan Phát Huồn.
''Bệnh nhân bị bệnh gì gã cũng cho uống Xuyên tâm liên. Kiết ly, tiêu chẩy: xuyên tâm liên. Sốt rét sốt nóng: xuyên tâm liên. Ho lao, sưng phổi: xuyên tâm liên.Vì thế rất nhiều bệnh nhân chết oan uổng.'' Thanh Thương Hoàng-Những Nỗi Đau Đời ''trang 51.
* Chứng kiến sự hành hạ tù nhân khác
''Vừa dứt câu hỏi, tên vệ binh xuất kỳ bất ý dùng chân móc cú đá hậu vào khuỷu đầu gối của Trác, khiến Trác lao chao. Tên cảnh vệ tiếp theo cái lao chao của Trác bằng một cú đập mạnh báng súng AK vào người Trác, khiến người tù Việt quốc không còn đủ sức đứng vững, cả thân xác ông rơi xuống như quả sung rụng. Trác vừa té sóng soài trên hiện trường sám hối thì liền lúc đó tên này tung người lên dùng một đòn hiểm nhẩy lên đứng trên thân xác của Trác. Các đồng đội của Trác ngồi trong vòng tròn đều nhắm mắt mỗi khi nhìn thấy tên cảnh vệ dùng những cú giầy đinh nện mạnh trên mặt, trên người Trác. Máu bắt đầu chan hòa trên hiện trường sám hối'' Phạm Quang Giai-Lần Cuối Bên Anh-trang 165
''Tiếng kêu rú rùng rợn vẫn không ngớt phát ra từ những căn phòng xung quanh. Phượng vẫn ngồi như chết cứng. Rồi đột nhiên đèn bật sáng chói, nàng thấy mình đang ở trong một căn phòng toàn những dụng cụ tra tấn''.Nàng thấy ghê tởm, rồi tự dưng trong nàng nảy ra một ý định tìm cái chết, trước khi bị tra tấn, nàng đang nghĩ''Chợt cánh cửa sau bật mở. Nàng vội ngồi thu người lại sát tường, mắt ánh lên, thấy hai tên chuyên viên tra tấn xốc nách một người đàn ông, kéo sệt trên nền xi-măng. Mặt người đó tím bầm, hai bên mép ứa máu còn chẩy ra ròng ròng, tóc rối bù bết máu, đầu ngoẹo sang một bên, mình trần trụi bê bết máu, chân tay mềm nhũn rá''' Trần Nhu- Địa Ngục Sình Lầy, trang 163
*Cô lập trong hầm đá
''Tên vệ binh hầm hầm đi về phía cửa hầm đá số 5. Hắn tra chiếc chìa khóa vào ổ rồi quay một vòng nghe răng rác. Hắn kéo chiếc cửa sắt nặng nề ra, để lộ một không gian tối om. Mùi hôi thối từ trong phòng xông ra những; đồng thời với tiếng hú ma quái ngân dài lê thê phát ra từ trong long hầm đá, nghe thật ai oán. Tên vệ binh trở lại chỗ Sâm ra lệnh:
- Vũ Sâm! Mày vào hầm đá số 5 để mà tưởng nhớ đến người vợ đẹp của mày.
Sâm lần thần đi thật chậm, tiến vào miệng hầm, rồi cũng thật nhanh, anh lọt hẳn vào bên trong. Vũ Sâm quay người lại nhìn tên vệ binh lần chót trước khi chìm hẳn vào bóng đêm dầy đặc, vu vơ vàtăm tối. Cánh cửa sắt đóng lại, tạo thành tiếng sầm khô khan.'' Phạm Quang Giai-Lần Cuối Bên Anh. Trang 43.
* Ngoài ra còn nhiều cách hành hạ khác như:
Chói cột với tù nhân khác; nhốt trong thùng sắt, trong túi; đầy ải ngoài nắng, nóng, dưới đèn sáng; bịt mắt; chói cột xuống đất; đá đít, bạt tai; giả xử tử; bắt uống những thuốc lạ; dìm dưới nước; làm cho nghẹt thở; cheo lơ lửng trên không; gây tổn thương cho ngọc hành/ cơ quan sinh dục; tạt phẩn, nước tiểu lên mặt; tra tấn bằng điện; châm chọc kim vào đầu ngón tay, ngón chân; không cho ngủ; bỏ cho muỗi, kiến, đỉa cắn...
Những hành hạ đưa tới bệnh tật triền miên cho người sống sót.
Kết luận
Liên Hiệp Quốc coi hành hạ tra tấn là bất cứ hành động nào đưa tới đau đớn về thể xác và tâm thần nạn nhân.
Theo cơ quan Ân Xá Quốc Tế, sự tra tấn vẫn còn được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Tra tấn xẩy ra quá thường khiến cho cơ quan này không ước lượng được số nạn nhân mà chỉ nêu ra một số quốc gia áp dụng sự hành hạ này, vì chiến tranh, đàn áp, tiêu diệt chủng tộc.
Các nhà tâm lý xã hội cho hay hành hạ có mục đích làm xáo trộn, hoặc đúng ra là để phá hủy sự liên tục của cuộc sống con người cho tới một mức độ mà sự hồi phục trở nên tốn kém đôi khi không sao thực hiện được. Mà đa số nạn nhân bị đối sử tàn tệ sau đó lại được định cư ở một quốc gia khác như người tị nạn, nên họ gặp nhiều khó khăn hội nhập vào một nền văn hóa với nếp sống mới, ngôn ngữ mới. ''ó chính là trường hợp các cựu tù nhân quân cán chính VNCH. Nạn nhân sống sót của tù đầy tra tấn có những phản ứng cảm xúc khác nhau tùy theo cá tính và căn bản giáo dục: từ giận giữ, phẫn nộ tới cảm thấy nhục nhã; cảm xúc ngay thẳng chính đáng tới sai trái tội lỗi; tự tin quyết đoán tới tủi thẹn, xấu hổ. Chắc chắn là họ khó mà quên được những vết thương mà người có quyền đã để lại trên cơ thể tâm hồn họ. Những ảnh hưởng này sẽ tồn tại rất lâu, có khi suốt đời.
Những hoảng hốt, lo sợ, những trầm buồn, những cơn ác mộng sẽ thường trực đến với họ và có nhiều tác dụng xấu cho đời sống cá nhân cũng như gia đình. Rồi lại còn những suy nhược tim gan tỳ phế vì thiếu ăn, thời tiết khắc nghiệt, lao động khổ sai nơi rùng sâu nước độc. Nhiều ngàn người hiện nay không thi vào quốc tịch mới được vì trí nhớ suy kém, giảm khả năng học ngoại ngữ. Và còn cần sự chăm sóc của giới y tế đồng hương trong nhiều năm còn lại của cuộc đời. Giải thích để họ hiểu tại sao hành hạ đã xẩy ra có hy vọng một phần nào mang họ trở lại cuộc sống bình thường. Cũng như một hành động, một lời nói ''sorrý' từ phía chính quyền hiện tại. Như người da trắng đã sorry với nô lệ da đen bị kỳ thị, bóc lột trong thế kỷ trước. Cũng như Giáo hội Công giáo đã nhìn nhận nhiều sai lầm trong quá khứ liên quan tới sự tôn trọng đối với những cá nhân hoặc cộng đồng.
Thế hệ con cháu khi nghe những chuyện đau thương này của cha chú, chắc cũng rùng mình kinh sợ. Kinh nghiệm Holaucost vẫn còn ám ảnh lương tâm loài người sau cả trên nửa thế kỷ. Cũng như thảm cảnh tù đầy ''cải tạo'' ở VN vào thập niên 70-80 của thế kỷ vừa qua.
Ghi lại để mà tránh tái diễn. Và nhắc nhở người ta đừng quá ảo tưởng với hào quang chiến thắng bọt nước mà quên sự tàn ác mà mình đã áp đặt lên những anh em cùng chung một bọc, Trăm Con Trăm Trứng Tiên Rồng.
===
http://www.vn.net/article.php/20060711093615427
TẠ QUANG KHÔI * NGƯỜI YÊU HÀ NỘI
===
NGƯỜI YÊU HÀ NỘI
Tạ Quang Khôi
Hoàng có thói quen sáng nào cũng phải mua lạc rang của ông Tầu già ngồi bên bờ hồ, đối diện với Tháp Rùa. Lạc của ông rang thật khéo, vừa thơm vừa ròn. Vì thế, giá hơi đắt, một đồng chỉ có một nắm tay của ông đựng trong một bao giấy hình củ ấu, mà rất đông người mua. Chỉ một loáng đã thấy ông thu xếp thùng không đi về. Mùa lạnh ông đắt hàng hơn, vì ai cũng muốn thủ một nắm lạc nóng trong túi.
Trước khi cho lạc vào túi áo ngoài Hoàng thường chọn riêng ra năm hột để vào một túi khác. Sở dĩ chàng làm như thế vì đã nhiều lần ăn phải hột lạc cuối cùng thì bị thối, phải xúc miệng ngay.
Hoàng ở phố Huế, khu Chợ Hôm, sáng nào cũng phải đạp xe đạp đến trường ở góc phố Quan Thánh và phố Ðỗ Hữu Vị. Khi đi đến ngã tư Tràng Tiền, chàng rẽ trái vào Hàng Khay để dắt xe qua chợ hoa, men bờ hồ, ghé mua lạc của ông Tầu. Một hôm, chàng vừa mua xong, một cô gái, đi từ phía nhà Thủy tạ, cũng dắt xe vào mua. Vừa thoáng nhìn, chàng biết ngay cô là nữ sinh Trưng Vương. Cô còn nhỏ, chàng đoán chững 15 hoặc 16. Hai người bất chợt gặp nhau, chỉ nhìn nhau mà không nói một lời. Ðôi mắt cô đen láy, thoáng như có nét cười. Chàng muốn lên tiếng chào cô để làm quen, nhưng lại e ngại, giữ im lặng.
Mua lạc xong, cô chợt ngửng lên nhìn chàng, rồi mới dắt xe xuống đường. Cái nhìn ấy như một lời chào khiến chàng bỗng thấy vui và xao xuyến trong lòng. Chàng đứng im lặng nhìn theo cô cho đến khi có người đến mua lạc mới giật mình như choàng tỉnh. Chàng vội vã dắt xe xuống đường. Ðáng lẽ phải đi ngược chiều để đến trường, chàng lại đi về phía chợ Hôm. Nhưng đến ngã tư Hàng Khay, chàng bị viên cảnh sát lưu thông ngăn lại cho xe cộ từ Trường Tiền và Hàng Khay đi qua lại. Lúc được phép đi, chàng nhìn hút về phía trước, không thấy cô gái đâu nữa. Chàng đoán cô đã rẽ trái để vào trường. Chàng đành đi ngược trở lại để đến trường.
Từ ngày đó, sáng nào mua lạc rang chàng cũng mong gặp lại cô, nhưng chẳng thấy tăm hơi cô đâu. Dần dần vì bận học, chàng cũng quên đi.
Khi được nghỉ Tết sớm, có nhiều thì giờ rỗi rảnh, Hoàng thường mặc áo ấm, rồi đạp xe đi chơi loanh quanh trong thành phố cho đỡ mệt sau những giờ chúi mũi vào sách vở. Ra giêng, kỳ thi đã gần kề, không còn thì giờ để nghỉ ngơi nữa.
Vào một buổi trưa nắng hanh vàng, gió se se lạnh, Hoàng chợt trông thấy trên vỉa hè đầu phố Hàng Ngang một ông đồ già. Chàng hơi ngạc nhiên vì đã lâu lắm không ai còn thấy mấy ông đồ ngồi viết thuê trên vỉa hè Hà Nội. Chàng nhớ ngay tới mấy câu thơ của Vũ Ðình Liên :
Những người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ ?
Chàng vội xuống xe, bước lại gần. Ðúng là một ông đồ già bằng xương bằng thịt, không phải là một bóng ma của dĩ vãng. Trước mặt ông là một cái kỷ thấp, bề ngang chừng hai mươi lăm phân tây, dọc khoảng sáu mươi. Mặt kỷ cách mặt đất chừng một gang tay. Kỷ màu đen, trông đã cũ, nhưng nét chạm trổ vẫn còn đẹp. Nhìn chiếc kỷ thấp, chàng lại nhớ đến thời kỳ Nhật đảo chính Pháp. Các trường học tạm thời phải đóng cửa. Cha mẹ chàng không muốn chàng lêu lỏng, gửi chàng đến nhà một ông bạn của cha chàng để học chữ Nho. Thầy đồ là một ông già đỗ hai lần Tú tài, nên mọi người gọi là một cụ Kép. Trước mặt cụ Kép cũng có một cái kỷ thấp bằng gỗ gụ để mộc. Trên kỷ, có mấy cuốn sách. Ðến trưa, cụ ăn cơm ngay tại “lớp”. Mâm cơm được đặt trên Kỷ. Lớp học chỉ lèo tèo năm bảy đứa bé con bằng tuổi Hoàng. Ðám trẻ được học sách “Minh Tâm Bửu Giám”. Hoàng bắt chước các bạn khác cũng ê a đọc theo cụ đồ. Khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, gia đình ông bạn của bố chàng cũng như nhiều gia đình khác, kể cả gia đình chàng, đã phải đi tản cư. Cho đến nay vẫn chưa thấy họ trở về thành phố.
“Cửa hàng” viết thuê của cụ đồ ở ngay trước một hiệu kim hoàn. Cụ mặc một chiếc áo dài bằng đoạn màu đen cũ, hai vai đã sờn. Ðầu cụ đội khăn xếp đã bạc màu. Trông cụ không già bằng cụ Kép, thầy học cũ của chàng, nhưng râu tóc cũng đã bạc. Hai mu bàn tay cụ nổi gân xanh khi cụ viết. Móng tay cắt ngắn chứ không để dài như các cụ nhà Nho ngày xưa.
Trên cái kỷ của cụ có mấy tờ giấy hồng điều, mấy cái bút lông và một nghiên mực để bên trái của kỷ. Cụ đang viết chữ “Phúc” cho một người khách. Nếu so sánh với nét chữ của cụ Kép, thầy học cũ của chàng, thì cũng đẹp như nhau, nhưng có lẽ thiếu vẻ bay bướm. Cụ đồ này nét chữ chân phương, ngay ngắn. Chàng muốn đứng xem cụ viết, nhưng thấy đã có đông người xúm quanh cụ thì lách ra ngoài để bỏ đi.
Chàng cũng lo ngại chiếc xe đạp dựng sát vỉa hè có thể bị người ta lấy đi mất.
Chàng vừa định nhẩy lên xe thì trông thấy một cô gái từ trong hiệu vàng đi ra. Chàng nhận ngay ra cố gái mua lạc rang của ông Tầu già bên bờ hồ Hoàn Kiếm. Hình như cô cũng nhận ra chàng nên có vẻ hơi giật mình. Nhưng cô lấy lại bình tĩnh ngay, thong thả đi về phía Hàng Ðào.
Hoàng không bỏ lỡ cơ hội, vội vàng dắt xe đi theo ngay. Hôm nay trông cô có vẻ lớn hơn hôm mua lạc. Cô mặc một áo dài len Mộng Tự màu tím hoa cà, cổ quàng một chiếc khăn bẳng lụa mỏng, bay phất phới theo gió. Khi đến sát cô, Hoàng rụt rè hỏi :
“Cô…cô có nhận ra tôi không ?”
Cô không trả lời, nhìn thẳng, vẫn bước một cách khoan thai. Nhưng Hoàng nhận thấy môi cô thoáng một nụ cười. Chàng liền hỏi :
“Thế là cô biết tôi là ai rồi, phải không ?”
Cô mỉm cười trả lời :
“Anh là anh lạc rang.”
Chàng hơi ngạc nhiên nhưng cũng thầm nhận cô dí dỏm, tinh nghịch, nên vui vẻ cãi :
“Tên tôi không phải là lạc rang.”
Như cố ý trêu tức chàng, cô nói :
“Ðó là chuyện riêng của anh. Tôi chỉ biết tôi gặp anh ở chỗ ông Tầu bán lạc rang thì gọi anh là lạc rang…Mà tôi cũng chẳng muốn biết tên thật của anh làm gì.”
Thấy cô lém lỉnh, Hoàng bắt đầu thấy vui và lấy lại bình tĩnh, hỏi :
“Thế tôi muốn biết tên cô thì sao ?”
“Thì chẳng bao giờ tôi nói cho anh biết hết.”
Chàng dọa :
“Tôi sẽ hỏi dò, thế nào cũng phải ra.”
Cô im lặng. Ðến đầu đường rẽ vào phố Hàng Bạc, cô chợt nói :
“Thôi, chào anh, tôi phải về.”
Hoàng liền hỏi :
“Nhà cô ở phố này ?”
“Anh tò mò để làm gì ?”
Chàng không đáp mà nhìn cô đăm đăm, rồi hỏi :
“Cô có biết hôm nay cô đẹp lắm không ? Cô trông khác hẳn hôm cô đi học.”
Cô không nói, không cười, chỉ hai má hơi ửng đỏ và đôi mắt như có nét vui. Ðến một hiệu vàng ở cuối phố Hàng Bạc, cô dừng lại, nhìn Hoàng như muốn nói, ngập ngừng một chút, cô quay ngoắt đi, bước nhanh vào nhà. Hoàng đứng ngẩn ngơ nhìn theo mà không biết nói gì hay làm gì. Vừa lúc đó, một thằng bé chừng chín, mười tuổi từ trong hiệu đi ra. Chàng vội nắm lấy tay thằng bé hỏi :
“Cô xinh xinh vừa đi vào là ai thế hả em ?’
Thằng bé nhìn chàng, rồi thật thà đáp :
“Chị Lệ chứ còn ai nữa.”
Hoàng mừng rỡ vì đã biết tên cô gái một cách không ngờ. Chàng định hỏi thêm về tuổi của Lệ thì thằng bé đã chạy đi mất rồi. Chàng tần ngần đứng trước cửa hiệu kim hòan Vạn Thái, không biết nên bỏ đi hay đợi Lệ trở ra. Chàng thầm tự hỏi đợi thì biết đến bao giờ mà xồng xộc vào hiệu để đòi gặp nàng e đường đột và sỗ sàng quá. Dù sao chàng cũng chỉ mới quen Lệ có mấy phút thôi. Chàng đành lên xe đạp về cuối phố, đến đầu Hàng Bè mới quay trở lại. Chàng lượn đi lượn lại mấy vòng mà vẫn không thấy bóng Lệ đâu đành phải đi về vì lúc đó trời đã bắt đầu tối, gió đã lạnh hơn. Khi chàng đi qua phố Hàng Ngang, không còn thấy đám đông vây quanh ông đồ viết thuê nữa mà cũng không thấy ông đâu.
Mấy ngày liền gần Tết, Hoàng có ý tìm Lệ mà không thấy nàng. Hình bóng người con gái mặc áo dài len Mộng Tự màu tím hoa cà có nụ cười tươi và lém lỉnh ám ảnh chàng, không cho chàng học được một chữ nào mà kỳ thi đã gần kề. Các học sinh lớp thi như chàng sau Tết nguyên đán đều phải chúi mũi vào sách vở, không còn biết trời đất gì nữa. Chàng đành phải tạm biệt Lệ cho đến sau kỳ thi. Chàng nhớ tới hai câu thơ của xuân Diệu :
Mùa thi đã đến, em Thơ,
Chiếc hôn âu yếm xin chờ năm sau.
Chàng và Lệ đã có gì đâu mà hẹn hò, chỉ mới bắt đầu quen thôi. Chả biết “người ta” có còn nhớ đến mình không hay đã quên một người xa lạ tình cờ gặp giữa đường ? Hôm sát Tết, chàng mặc áo thật ấm, đi xe điện tới bờ hồ Hoàn Kiếm, rồi tản bộ vào Hàng Ðào, Hàng Bạc. Chàng chưa đến hiệu Vạn Thái đã thấy Lệ bước ra. Chàng mừng rỡ, vội vã bước lại gần. Lệ trông thấy chàng, nhoẻn miệng cười chào :
“Anh lạc rang.”
Chàng phì cười nói :
“Tên tôi không phải là lạc rang hay lạc luộc mà là…”
Lệ chặn lại ngay :
“Tôi không cần biết tên thật của anh, chỉ muốn gọi anh là lạc rang thôi.”
“Thế mà tôi biết tên cô rồi đấy.”
“Anh hỏi thằng nhãi ranh nhà tôi chứ gì. Hôm ấy tôi đã mắng cho nó một trận.”
“Sao lại mắng nó ? Trẻ con biết gì nói thế. Người ta vẫn nói đi hỏi già về nhà hỏi trẻ mà”
“Nhưng anh là người lạ.”
“Tôi mà lạ ? Lạ mà sao cô lại biết tên tôi ?”
Lệ có vẻ hơi ngạc nhiên :
“Tôi mà biết tên anh ?”
“Không biết sao cô vẫn gọi tôi là lạc rang ?”
Lần này thì Lệ phì cười, rồi nói :
“Thế là anh nhận tên ấy rồi nhé.”
“Chẳng nhận thì cô cũng chẳng tha.”
Lệ chợt nói :
“Thôi, chào anh. Tôi phải chạy ra phố Hàng Ðường mua mấy thứ cho mợ tôi.”
“Tôi cũng đi với cô.”
“Không được, người hàng phố lại tưởng anh là…là…”
Mặt bỗng đỏ bừng lên Lệ không nói tiếp được. Hoàng hiểu ý nàng, đề nghị :
“Cô cứ lên phố Hàng Ðường đi, hẹn sẽ gặp cô ở đó. Tôi đi đường khác cho người ta không tưởng nhầm này nọ.”
Lệ nhoẻn miệng cười, không nói gì. Hoàng đi ngược về phố Hàng Bè, rẽ vào ngõ Sầm Công, qua phố Hàng Buồm để tới Hàng Ðường. Chàng đi thật nhanh để đến trước Lệ. Khi chàng đã đứng ở đầu Hàng Buồm và Hàng Ðường, thấy Lệ còn đang đi giữa phố Hàng Ngang. Khi hai người gặp nhau, Lệ vui vẻ hỏi :
“Anh chạy hay sao mà nhanh thế ?”
“Tôi chỉ bước nhanh thôi, chứ không chạy. Lệ đi chậm như rùa thế này thì việc gì tôi phải chạy.”
Lần đầu tiên nghe chàng gọi mình bằng tên, Lệ nguýt chàng một cái, rồi mỉm cười. Cái nguýt ấy làm chàng ngây ngất. Cái nguýt ấy là cái nguýt yêu, cái nguýt chấp nhận, mở cửa. Chàng liền nói :
“Bây giờ tôi cho Lệ biết tên tôi nhé.”
Nàng gạt đi ngay :
“Tôi không cần biết tên thật của anh. Cứ lạc rang mà gọi cũng được chứ sao.”
Chàng nói đùa :
“Lệ thích ăn lạc rang, lỡ có một ngày Lệ ăn tôi thì nguy lắm.”
Nàng phì cười :
“ Tôi có bị đói như năm Ất Dậu cũng chả dám ăn thịt người, nhất là thịt anh.”
“Tại Lệ cứ gọi tôi là lạc rang, biết đâu chả có ngày tưởng tôi là lạc rang thật…”
Nàng gật đầu :
“Ðúng, cứ nhìn thấy anh là tôi nghĩ đến lạc rang. Mấy hôm vừa rồi, tôi đứng trong nhà thấy anh cứ đạp xe đi lên đi xuống phố Hàng Bạc, tôi lại nói thầm với tôi : cái anh lạc rang này hkông biết đã mòn mấy cái lốp xe ở phố Hàng Bạc này rồi.”
Hoàng có giọng trách :
“Cô thấy tôi mà sao không ra cho tôi gặp ?”
“Ơ cái anh này nói hay nhỉ ! Tại sao tôi phải ra cho anh gặp ? Anh muốn mòn lốp xe thì mặc xác anh chứ ăn thua gì đến tôi.”
Hoàng thầm công nhận cô gái này quá lém lỉnh, đảnh chịu thua. Chàng tặc lưỡi nói :
“Thôi được, Lệ không thèm biết tên tôi, tôi cũng cứ nói. Không thích thì bịt tai lại. Tên tôi là Hoàng.”
Chờ một lát, không thấy chàng nói tiếp, Lệ hỏi :
“Có thế thôi ư ? Còn sinh năm nào, ở đâu, cha mẹ tên là gì, đang đi học hay đã đi làm, làm gì, cu ly hay đạp xích lô, vân vân và vân vân…”
Hoàng cười phá lên, không ngờ Lệ lại có tính hài hước đến thế. Chàng nói đùa theo :
“Lệ có khiếu làm mật thám đấy. Nên chọn nghề công an, cảnh sát.”
Vì những lời nói đùa ấy, hai người thân nhau một cách dễ dàng và nhanh chóng. Sau khi Lệ mua bán ở phố Hàng Ðường, Họ chia tay và hẹn gặp vào một ngày sau Tết. Cuộc tình bắt đầu nở hoa vào mùa xuân với những cơn mưa phùn, gió bấc lạnh lẽo. Hoàng biết tên thật của Lệ là Lệ Ngọc, ở nhà chỉ gọi tắt là Lệ, vì trên nàng còn một người chị là Diễm Ngọc. Nàng đã 18 tuổi và đang học lớp đệ Tứ ở Trưng Vương, sửa soạn thi trung học đệ nhất cấp. Vì mấy năm tản cư ra hậu phương nên bây giờ học hành thua kém bạn cùng lứa tuổi. Còn Hoàng là con trai duy nhất của một gia đình công chức khá giả. Cha chàng làm việc ở nhà đoan Hà Nội, mẹ chạy hàng sách, Chàng chỉ hơn Lệ có hai tuổi và đang học lớp đệ Nhất ở Chu Văn An. Cả hai đều phải học thi nên họ hạn chế việc gặp nhau. Thỉnh thoảng lắm, vào những ngày nắng ấm, họ mới cùng đạp xe song song qua những phố Tây vắng vẻ cho đỡ nhớ, rồi lại vội vàng về nhà học tiếp. Nhờ vậy, cả hai cùng đạt kết quả tốt đẹp trong kỳ thi vào đầu mùa hè.
Nhưng họ chưa kịp bàn tính chuyện tương lai, hiệp định Genève ra đời. Vấn đề đi Nam hay ở lại được nhiều gia đình ở Hà Nội bàn tới sôi nổi. Gia đình Hoàng quyết định ngay là phải di cư vào Saigon để tỵ nạn cộng sản. Trong khi đó gia đình Lệ nghĩ rằng buôn bán không liên hệ gì đến chính trị, không cần phải chạy trốn. Thế là cuộc tình mới chớm nở của hai người bị đe dọa. Thi cử đã xong, họ gặp nhau hàng ngày để cố gắng tìm cách giải quyết bế tắc. Nhưng Lệ không bao giờ dám nghĩ đến chuyện bỏ gia đình đi theo Hoàng. Thật ra, mối tình chưa sâu đậm đến nỗi nàng dám nhắm mắt làm liều. Có lần Hoàng đề nghị hỏi cưới nàng thật nhanh như cưới chạy tang, nàng từ chối ngay vì sợ hàng phố tưởng nàng đã “thế nào” với chàng mới phải vội vã như vậy.
Không những thế, hai người còn trè, nếu lấy nhau chắc sẽ phải bỏ học để kiếm ăn. Như vậy, tương lai sẽ mờ mịt.
Vào một ngày giữa tháng 8, hai người gặp nhau lần cuối cùng trước khi chia tay, kẻ Bắc người Nam. Cả hai đã không cầm được nước mắt, nắm tay nhau mà khóc. Hoàng tìm cách an ủi người yêu là hy vọng sẽ được gặp lại nàng sau hai năm xa cách vì sẽ có tổng tuyển cử theo hiệp định Genève.
Buổi tối hôm đó, gia đình Hoàng được đưa ra phi trường Bạch Mai để đi máy bay quân sự Pháp vào Saigon.
X X
X
Gia đình Hoàng ổn định nhanh chóng nhờ cha chàng có việc làm sau một tuần tới Saigon. Ông trình diện sở Quan thuế và được tái tuyển dụng ngay. Khi còn ở Hà Nội, mẹ chàng chạy hàng sách nên cũng có chút tiền để dành, đủ để sang một căn nhà nhỏ cho gia đình gồm năm người.
Chàng vừa học Cao Ðẳng Sư Phạm vừa lấy thêm mấy chứng chỉ ở đại học khoa học. Cuộc sống mới bận rộn và thoải mái khiến chàng nhanh chóng quên mối tình Hà Nội. Có khi nào chợt nhớ đến Lệ, chàng cho đó là một mối tình bồng bột của tuổi học trò. Rồi hai năm qua, chàng cũng quên luôn chuyện tổng tuyển cử thống nhất hai miền, Chàng tốt nghiệp sư phạm hạng cao nên được dạy ở một trường trung học lớn ngay trung tâm Saigon. Chàng tiếp tục học để hoàn tất cử nhân khoa học. Chàng có tham vọng học lên cao nữa hoặc xin đi du học ngoại quốc, nhưng việc học bị ngưng lại khi chàng yêu và cưới một cô học trò cũ của chàng trong một lớp luyện thi Tú tài 2. Nàng thi trượt, bỏ học đi làm cho một sở Mỹ. Chuyện gia đình bận rộn càng khiến chàng quên dĩ vãng xa xưa.
Khi cộng sản chiếm miền Nam, vì làm cho sở Mỹ, vợ Hoàng có thể đưa cả đại gia đình nhà chồng và nhà mình di tản qua Mỹ. Vợ chồng Hoàng đều khá tiếng Anh nên xin được việc làm ngay. Chàng đi làm đến 70 tuổi mới về hưu để vui với đàn cháu nội ngoại.
Bỗng một hôm, Hoàng nhận được một lá thư lạ gửi từ Việt Nam qua. Ông uể oải mở ra đọc. Một người tự giới thiệu là Cát, tức Nhãi ranh, báo tin bà Lệ Ngọc đã chết cách đây ba năm, thọ 65 tuổi. Thư ngắn ngủi, không cho biết về chồng con bà. Thấy chồng đã đọc thư xong, đang gấp lại để cho vào phong bì, bà Hoàng hỏi :
“Thư ai thế, ông ?’
Ông hững hờ đáp :
“Thư của một người Hà Nội báo tin một người Hà Nội đã chết.”
TQK
11/16/08
====
NGƯỜI YÊU HÀ NỘI
Tạ Quang Khôi
Hoàng có thói quen sáng nào cũng phải mua lạc rang của ông Tầu già ngồi bên bờ hồ, đối diện với Tháp Rùa. Lạc của ông rang thật khéo, vừa thơm vừa ròn. Vì thế, giá hơi đắt, một đồng chỉ có một nắm tay của ông đựng trong một bao giấy hình củ ấu, mà rất đông người mua. Chỉ một loáng đã thấy ông thu xếp thùng không đi về. Mùa lạnh ông đắt hàng hơn, vì ai cũng muốn thủ một nắm lạc nóng trong túi.
Trước khi cho lạc vào túi áo ngoài Hoàng thường chọn riêng ra năm hột để vào một túi khác. Sở dĩ chàng làm như thế vì đã nhiều lần ăn phải hột lạc cuối cùng thì bị thối, phải xúc miệng ngay.
Hoàng ở phố Huế, khu Chợ Hôm, sáng nào cũng phải đạp xe đạp đến trường ở góc phố Quan Thánh và phố Ðỗ Hữu Vị. Khi đi đến ngã tư Tràng Tiền, chàng rẽ trái vào Hàng Khay để dắt xe qua chợ hoa, men bờ hồ, ghé mua lạc của ông Tầu. Một hôm, chàng vừa mua xong, một cô gái, đi từ phía nhà Thủy tạ, cũng dắt xe vào mua. Vừa thoáng nhìn, chàng biết ngay cô là nữ sinh Trưng Vương. Cô còn nhỏ, chàng đoán chững 15 hoặc 16. Hai người bất chợt gặp nhau, chỉ nhìn nhau mà không nói một lời. Ðôi mắt cô đen láy, thoáng như có nét cười. Chàng muốn lên tiếng chào cô để làm quen, nhưng lại e ngại, giữ im lặng.
Mua lạc xong, cô chợt ngửng lên nhìn chàng, rồi mới dắt xe xuống đường. Cái nhìn ấy như một lời chào khiến chàng bỗng thấy vui và xao xuyến trong lòng. Chàng đứng im lặng nhìn theo cô cho đến khi có người đến mua lạc mới giật mình như choàng tỉnh. Chàng vội vã dắt xe xuống đường. Ðáng lẽ phải đi ngược chiều để đến trường, chàng lại đi về phía chợ Hôm. Nhưng đến ngã tư Hàng Khay, chàng bị viên cảnh sát lưu thông ngăn lại cho xe cộ từ Trường Tiền và Hàng Khay đi qua lại. Lúc được phép đi, chàng nhìn hút về phía trước, không thấy cô gái đâu nữa. Chàng đoán cô đã rẽ trái để vào trường. Chàng đành đi ngược trở lại để đến trường.
Từ ngày đó, sáng nào mua lạc rang chàng cũng mong gặp lại cô, nhưng chẳng thấy tăm hơi cô đâu. Dần dần vì bận học, chàng cũng quên đi.
Khi được nghỉ Tết sớm, có nhiều thì giờ rỗi rảnh, Hoàng thường mặc áo ấm, rồi đạp xe đi chơi loanh quanh trong thành phố cho đỡ mệt sau những giờ chúi mũi vào sách vở. Ra giêng, kỳ thi đã gần kề, không còn thì giờ để nghỉ ngơi nữa.
Vào một buổi trưa nắng hanh vàng, gió se se lạnh, Hoàng chợt trông thấy trên vỉa hè đầu phố Hàng Ngang một ông đồ già. Chàng hơi ngạc nhiên vì đã lâu lắm không ai còn thấy mấy ông đồ ngồi viết thuê trên vỉa hè Hà Nội. Chàng nhớ ngay tới mấy câu thơ của Vũ Ðình Liên :
Những người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ ?
Chàng vội xuống xe, bước lại gần. Ðúng là một ông đồ già bằng xương bằng thịt, không phải là một bóng ma của dĩ vãng. Trước mặt ông là một cái kỷ thấp, bề ngang chừng hai mươi lăm phân tây, dọc khoảng sáu mươi. Mặt kỷ cách mặt đất chừng một gang tay. Kỷ màu đen, trông đã cũ, nhưng nét chạm trổ vẫn còn đẹp. Nhìn chiếc kỷ thấp, chàng lại nhớ đến thời kỳ Nhật đảo chính Pháp. Các trường học tạm thời phải đóng cửa. Cha mẹ chàng không muốn chàng lêu lỏng, gửi chàng đến nhà một ông bạn của cha chàng để học chữ Nho. Thầy đồ là một ông già đỗ hai lần Tú tài, nên mọi người gọi là một cụ Kép. Trước mặt cụ Kép cũng có một cái kỷ thấp bằng gỗ gụ để mộc. Trên kỷ, có mấy cuốn sách. Ðến trưa, cụ ăn cơm ngay tại “lớp”. Mâm cơm được đặt trên Kỷ. Lớp học chỉ lèo tèo năm bảy đứa bé con bằng tuổi Hoàng. Ðám trẻ được học sách “Minh Tâm Bửu Giám”. Hoàng bắt chước các bạn khác cũng ê a đọc theo cụ đồ. Khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, gia đình ông bạn của bố chàng cũng như nhiều gia đình khác, kể cả gia đình chàng, đã phải đi tản cư. Cho đến nay vẫn chưa thấy họ trở về thành phố.
“Cửa hàng” viết thuê của cụ đồ ở ngay trước một hiệu kim hoàn. Cụ mặc một chiếc áo dài bằng đoạn màu đen cũ, hai vai đã sờn. Ðầu cụ đội khăn xếp đã bạc màu. Trông cụ không già bằng cụ Kép, thầy học cũ của chàng, nhưng râu tóc cũng đã bạc. Hai mu bàn tay cụ nổi gân xanh khi cụ viết. Móng tay cắt ngắn chứ không để dài như các cụ nhà Nho ngày xưa.
Trên cái kỷ của cụ có mấy tờ giấy hồng điều, mấy cái bút lông và một nghiên mực để bên trái của kỷ. Cụ đang viết chữ “Phúc” cho một người khách. Nếu so sánh với nét chữ của cụ Kép, thầy học cũ của chàng, thì cũng đẹp như nhau, nhưng có lẽ thiếu vẻ bay bướm. Cụ đồ này nét chữ chân phương, ngay ngắn. Chàng muốn đứng xem cụ viết, nhưng thấy đã có đông người xúm quanh cụ thì lách ra ngoài để bỏ đi.
Chàng cũng lo ngại chiếc xe đạp dựng sát vỉa hè có thể bị người ta lấy đi mất.
Chàng vừa định nhẩy lên xe thì trông thấy một cô gái từ trong hiệu vàng đi ra. Chàng nhận ngay ra cố gái mua lạc rang của ông Tầu già bên bờ hồ Hoàn Kiếm. Hình như cô cũng nhận ra chàng nên có vẻ hơi giật mình. Nhưng cô lấy lại bình tĩnh ngay, thong thả đi về phía Hàng Ðào.
Hoàng không bỏ lỡ cơ hội, vội vàng dắt xe đi theo ngay. Hôm nay trông cô có vẻ lớn hơn hôm mua lạc. Cô mặc một áo dài len Mộng Tự màu tím hoa cà, cổ quàng một chiếc khăn bẳng lụa mỏng, bay phất phới theo gió. Khi đến sát cô, Hoàng rụt rè hỏi :
“Cô…cô có nhận ra tôi không ?”
Cô không trả lời, nhìn thẳng, vẫn bước một cách khoan thai. Nhưng Hoàng nhận thấy môi cô thoáng một nụ cười. Chàng liền hỏi :
“Thế là cô biết tôi là ai rồi, phải không ?”
Cô mỉm cười trả lời :
“Anh là anh lạc rang.”
Chàng hơi ngạc nhiên nhưng cũng thầm nhận cô dí dỏm, tinh nghịch, nên vui vẻ cãi :
“Tên tôi không phải là lạc rang.”
Như cố ý trêu tức chàng, cô nói :
“Ðó là chuyện riêng của anh. Tôi chỉ biết tôi gặp anh ở chỗ ông Tầu bán lạc rang thì gọi anh là lạc rang…Mà tôi cũng chẳng muốn biết tên thật của anh làm gì.”
Thấy cô lém lỉnh, Hoàng bắt đầu thấy vui và lấy lại bình tĩnh, hỏi :
“Thế tôi muốn biết tên cô thì sao ?”
“Thì chẳng bao giờ tôi nói cho anh biết hết.”
Chàng dọa :
“Tôi sẽ hỏi dò, thế nào cũng phải ra.”
Cô im lặng. Ðến đầu đường rẽ vào phố Hàng Bạc, cô chợt nói :
“Thôi, chào anh, tôi phải về.”
Hoàng liền hỏi :
“Nhà cô ở phố này ?”
“Anh tò mò để làm gì ?”
Chàng không đáp mà nhìn cô đăm đăm, rồi hỏi :
“Cô có biết hôm nay cô đẹp lắm không ? Cô trông khác hẳn hôm cô đi học.”
Cô không nói, không cười, chỉ hai má hơi ửng đỏ và đôi mắt như có nét vui. Ðến một hiệu vàng ở cuối phố Hàng Bạc, cô dừng lại, nhìn Hoàng như muốn nói, ngập ngừng một chút, cô quay ngoắt đi, bước nhanh vào nhà. Hoàng đứng ngẩn ngơ nhìn theo mà không biết nói gì hay làm gì. Vừa lúc đó, một thằng bé chừng chín, mười tuổi từ trong hiệu đi ra. Chàng vội nắm lấy tay thằng bé hỏi :
“Cô xinh xinh vừa đi vào là ai thế hả em ?’
Thằng bé nhìn chàng, rồi thật thà đáp :
“Chị Lệ chứ còn ai nữa.”
Hoàng mừng rỡ vì đã biết tên cô gái một cách không ngờ. Chàng định hỏi thêm về tuổi của Lệ thì thằng bé đã chạy đi mất rồi. Chàng tần ngần đứng trước cửa hiệu kim hòan Vạn Thái, không biết nên bỏ đi hay đợi Lệ trở ra. Chàng thầm tự hỏi đợi thì biết đến bao giờ mà xồng xộc vào hiệu để đòi gặp nàng e đường đột và sỗ sàng quá. Dù sao chàng cũng chỉ mới quen Lệ có mấy phút thôi. Chàng đành lên xe đạp về cuối phố, đến đầu Hàng Bè mới quay trở lại. Chàng lượn đi lượn lại mấy vòng mà vẫn không thấy bóng Lệ đâu đành phải đi về vì lúc đó trời đã bắt đầu tối, gió đã lạnh hơn. Khi chàng đi qua phố Hàng Ngang, không còn thấy đám đông vây quanh ông đồ viết thuê nữa mà cũng không thấy ông đâu.
Mấy ngày liền gần Tết, Hoàng có ý tìm Lệ mà không thấy nàng. Hình bóng người con gái mặc áo dài len Mộng Tự màu tím hoa cà có nụ cười tươi và lém lỉnh ám ảnh chàng, không cho chàng học được một chữ nào mà kỳ thi đã gần kề. Các học sinh lớp thi như chàng sau Tết nguyên đán đều phải chúi mũi vào sách vở, không còn biết trời đất gì nữa. Chàng đành phải tạm biệt Lệ cho đến sau kỳ thi. Chàng nhớ tới hai câu thơ của xuân Diệu :
Mùa thi đã đến, em Thơ,
Chiếc hôn âu yếm xin chờ năm sau.
Chàng và Lệ đã có gì đâu mà hẹn hò, chỉ mới bắt đầu quen thôi. Chả biết “người ta” có còn nhớ đến mình không hay đã quên một người xa lạ tình cờ gặp giữa đường ? Hôm sát Tết, chàng mặc áo thật ấm, đi xe điện tới bờ hồ Hoàn Kiếm, rồi tản bộ vào Hàng Ðào, Hàng Bạc. Chàng chưa đến hiệu Vạn Thái đã thấy Lệ bước ra. Chàng mừng rỡ, vội vã bước lại gần. Lệ trông thấy chàng, nhoẻn miệng cười chào :
“Anh lạc rang.”
Chàng phì cười nói :
“Tên tôi không phải là lạc rang hay lạc luộc mà là…”
Lệ chặn lại ngay :
“Tôi không cần biết tên thật của anh, chỉ muốn gọi anh là lạc rang thôi.”
“Thế mà tôi biết tên cô rồi đấy.”
“Anh hỏi thằng nhãi ranh nhà tôi chứ gì. Hôm ấy tôi đã mắng cho nó một trận.”
“Sao lại mắng nó ? Trẻ con biết gì nói thế. Người ta vẫn nói đi hỏi già về nhà hỏi trẻ mà”
“Nhưng anh là người lạ.”
“Tôi mà lạ ? Lạ mà sao cô lại biết tên tôi ?”
Lệ có vẻ hơi ngạc nhiên :
“Tôi mà biết tên anh ?”
“Không biết sao cô vẫn gọi tôi là lạc rang ?”
Lần này thì Lệ phì cười, rồi nói :
“Thế là anh nhận tên ấy rồi nhé.”
“Chẳng nhận thì cô cũng chẳng tha.”
Lệ chợt nói :
“Thôi, chào anh. Tôi phải chạy ra phố Hàng Ðường mua mấy thứ cho mợ tôi.”
“Tôi cũng đi với cô.”
“Không được, người hàng phố lại tưởng anh là…là…”
Mặt bỗng đỏ bừng lên Lệ không nói tiếp được. Hoàng hiểu ý nàng, đề nghị :
“Cô cứ lên phố Hàng Ðường đi, hẹn sẽ gặp cô ở đó. Tôi đi đường khác cho người ta không tưởng nhầm này nọ.”
Lệ nhoẻn miệng cười, không nói gì. Hoàng đi ngược về phố Hàng Bè, rẽ vào ngõ Sầm Công, qua phố Hàng Buồm để tới Hàng Ðường. Chàng đi thật nhanh để đến trước Lệ. Khi chàng đã đứng ở đầu Hàng Buồm và Hàng Ðường, thấy Lệ còn đang đi giữa phố Hàng Ngang. Khi hai người gặp nhau, Lệ vui vẻ hỏi :
“Anh chạy hay sao mà nhanh thế ?”
“Tôi chỉ bước nhanh thôi, chứ không chạy. Lệ đi chậm như rùa thế này thì việc gì tôi phải chạy.”
Lần đầu tiên nghe chàng gọi mình bằng tên, Lệ nguýt chàng một cái, rồi mỉm cười. Cái nguýt ấy làm chàng ngây ngất. Cái nguýt ấy là cái nguýt yêu, cái nguýt chấp nhận, mở cửa. Chàng liền nói :
“Bây giờ tôi cho Lệ biết tên tôi nhé.”
Nàng gạt đi ngay :
“Tôi không cần biết tên thật của anh. Cứ lạc rang mà gọi cũng được chứ sao.”
Chàng nói đùa :
“Lệ thích ăn lạc rang, lỡ có một ngày Lệ ăn tôi thì nguy lắm.”
Nàng phì cười :
“ Tôi có bị đói như năm Ất Dậu cũng chả dám ăn thịt người, nhất là thịt anh.”
“Tại Lệ cứ gọi tôi là lạc rang, biết đâu chả có ngày tưởng tôi là lạc rang thật…”
Nàng gật đầu :
“Ðúng, cứ nhìn thấy anh là tôi nghĩ đến lạc rang. Mấy hôm vừa rồi, tôi đứng trong nhà thấy anh cứ đạp xe đi lên đi xuống phố Hàng Bạc, tôi lại nói thầm với tôi : cái anh lạc rang này hkông biết đã mòn mấy cái lốp xe ở phố Hàng Bạc này rồi.”
Hoàng có giọng trách :
“Cô thấy tôi mà sao không ra cho tôi gặp ?”
“Ơ cái anh này nói hay nhỉ ! Tại sao tôi phải ra cho anh gặp ? Anh muốn mòn lốp xe thì mặc xác anh chứ ăn thua gì đến tôi.”
Hoàng thầm công nhận cô gái này quá lém lỉnh, đảnh chịu thua. Chàng tặc lưỡi nói :
“Thôi được, Lệ không thèm biết tên tôi, tôi cũng cứ nói. Không thích thì bịt tai lại. Tên tôi là Hoàng.”
Chờ một lát, không thấy chàng nói tiếp, Lệ hỏi :
“Có thế thôi ư ? Còn sinh năm nào, ở đâu, cha mẹ tên là gì, đang đi học hay đã đi làm, làm gì, cu ly hay đạp xích lô, vân vân và vân vân…”
Hoàng cười phá lên, không ngờ Lệ lại có tính hài hước đến thế. Chàng nói đùa theo :
“Lệ có khiếu làm mật thám đấy. Nên chọn nghề công an, cảnh sát.”
Vì những lời nói đùa ấy, hai người thân nhau một cách dễ dàng và nhanh chóng. Sau khi Lệ mua bán ở phố Hàng Ðường, Họ chia tay và hẹn gặp vào một ngày sau Tết. Cuộc tình bắt đầu nở hoa vào mùa xuân với những cơn mưa phùn, gió bấc lạnh lẽo. Hoàng biết tên thật của Lệ là Lệ Ngọc, ở nhà chỉ gọi tắt là Lệ, vì trên nàng còn một người chị là Diễm Ngọc. Nàng đã 18 tuổi và đang học lớp đệ Tứ ở Trưng Vương, sửa soạn thi trung học đệ nhất cấp. Vì mấy năm tản cư ra hậu phương nên bây giờ học hành thua kém bạn cùng lứa tuổi. Còn Hoàng là con trai duy nhất của một gia đình công chức khá giả. Cha chàng làm việc ở nhà đoan Hà Nội, mẹ chạy hàng sách, Chàng chỉ hơn Lệ có hai tuổi và đang học lớp đệ Nhất ở Chu Văn An. Cả hai đều phải học thi nên họ hạn chế việc gặp nhau. Thỉnh thoảng lắm, vào những ngày nắng ấm, họ mới cùng đạp xe song song qua những phố Tây vắng vẻ cho đỡ nhớ, rồi lại vội vàng về nhà học tiếp. Nhờ vậy, cả hai cùng đạt kết quả tốt đẹp trong kỳ thi vào đầu mùa hè.
Nhưng họ chưa kịp bàn tính chuyện tương lai, hiệp định Genève ra đời. Vấn đề đi Nam hay ở lại được nhiều gia đình ở Hà Nội bàn tới sôi nổi. Gia đình Hoàng quyết định ngay là phải di cư vào Saigon để tỵ nạn cộng sản. Trong khi đó gia đình Lệ nghĩ rằng buôn bán không liên hệ gì đến chính trị, không cần phải chạy trốn. Thế là cuộc tình mới chớm nở của hai người bị đe dọa. Thi cử đã xong, họ gặp nhau hàng ngày để cố gắng tìm cách giải quyết bế tắc. Nhưng Lệ không bao giờ dám nghĩ đến chuyện bỏ gia đình đi theo Hoàng. Thật ra, mối tình chưa sâu đậm đến nỗi nàng dám nhắm mắt làm liều. Có lần Hoàng đề nghị hỏi cưới nàng thật nhanh như cưới chạy tang, nàng từ chối ngay vì sợ hàng phố tưởng nàng đã “thế nào” với chàng mới phải vội vã như vậy.
Không những thế, hai người còn trè, nếu lấy nhau chắc sẽ phải bỏ học để kiếm ăn. Như vậy, tương lai sẽ mờ mịt.
Vào một ngày giữa tháng 8, hai người gặp nhau lần cuối cùng trước khi chia tay, kẻ Bắc người Nam. Cả hai đã không cầm được nước mắt, nắm tay nhau mà khóc. Hoàng tìm cách an ủi người yêu là hy vọng sẽ được gặp lại nàng sau hai năm xa cách vì sẽ có tổng tuyển cử theo hiệp định Genève.
Buổi tối hôm đó, gia đình Hoàng được đưa ra phi trường Bạch Mai để đi máy bay quân sự Pháp vào Saigon.
X X
X
Gia đình Hoàng ổn định nhanh chóng nhờ cha chàng có việc làm sau một tuần tới Saigon. Ông trình diện sở Quan thuế và được tái tuyển dụng ngay. Khi còn ở Hà Nội, mẹ chàng chạy hàng sách nên cũng có chút tiền để dành, đủ để sang một căn nhà nhỏ cho gia đình gồm năm người.
Chàng vừa học Cao Ðẳng Sư Phạm vừa lấy thêm mấy chứng chỉ ở đại học khoa học. Cuộc sống mới bận rộn và thoải mái khiến chàng nhanh chóng quên mối tình Hà Nội. Có khi nào chợt nhớ đến Lệ, chàng cho đó là một mối tình bồng bột của tuổi học trò. Rồi hai năm qua, chàng cũng quên luôn chuyện tổng tuyển cử thống nhất hai miền, Chàng tốt nghiệp sư phạm hạng cao nên được dạy ở một trường trung học lớn ngay trung tâm Saigon. Chàng tiếp tục học để hoàn tất cử nhân khoa học. Chàng có tham vọng học lên cao nữa hoặc xin đi du học ngoại quốc, nhưng việc học bị ngưng lại khi chàng yêu và cưới một cô học trò cũ của chàng trong một lớp luyện thi Tú tài 2. Nàng thi trượt, bỏ học đi làm cho một sở Mỹ. Chuyện gia đình bận rộn càng khiến chàng quên dĩ vãng xa xưa.
Khi cộng sản chiếm miền Nam, vì làm cho sở Mỹ, vợ Hoàng có thể đưa cả đại gia đình nhà chồng và nhà mình di tản qua Mỹ. Vợ chồng Hoàng đều khá tiếng Anh nên xin được việc làm ngay. Chàng đi làm đến 70 tuổi mới về hưu để vui với đàn cháu nội ngoại.
Bỗng một hôm, Hoàng nhận được một lá thư lạ gửi từ Việt Nam qua. Ông uể oải mở ra đọc. Một người tự giới thiệu là Cát, tức Nhãi ranh, báo tin bà Lệ Ngọc đã chết cách đây ba năm, thọ 65 tuổi. Thư ngắn ngủi, không cho biết về chồng con bà. Thấy chồng đã đọc thư xong, đang gấp lại để cho vào phong bì, bà Hoàng hỏi :
“Thư ai thế, ông ?’
Ông hững hờ đáp :
“Thư của một người Hà Nội báo tin một người Hà Nội đã chết.”
TQK
11/16/08
====
HỒ CHÍ MINH LÀ NGƯỜI TRUNG QUỐC
Tài Liệu:
HỒ CHÍ MINH LÀ NGƯỜI KHÁCH GIA!
Khách Gia (Hakka) hay còn gọi là người Hẹ, là một tộc người Hán từ phương Bắc Trung Quốc di cư xuống miền Nam từ đời Tống, Đường, Minh, Thanh, Dân Quốc,…ra đến hải ngoại. Tuy bôn ba như thế, nhưng người Khách Gia đã tạo nên một sự nghiệp nhân lực-nhân tài không chỉ riêng cho đại lục Trung Quốc. Từ Hồng Tú Toàn của cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, sau đó càng sản sanh thêm những nhân vật hàng đầu có gốc là người Khách Gia như Tôn Dật Tiên, chị em nhà họ Tống, Đặng Tiểu Bình, Lý Đang Huy, Lý Quang Diệu v.v.
Tôi từng đọc trên một trang mạng giáo dục của người Khách Gia do Giáo sư A Quý thành lập (www.sctlog.sctnet.edu.tw), ông đã dẫn ra một loạt tên tuổi các nhân vật nổi tiếng người Khách Gia từ đời Đường, Minh…đến các nước như Mã Lai, Ấn Độ, Mỹ Quốc, Tân Gia Ba v.v. Và thật bất ngờ, người Khách Gia nổi tiếng duy nhất trong dòng Khách Gia tại Việt Nam được Giáo sư A Quý ghi tên là…”HỒ CHÍ MINH (Việt Nam chi Tổ phụ)”!
Có phải chăng đây là sự thật?
Sau trận công khai về những chuyện tình bê bối của Hồ Chí Minh do đàn anh Tàu Cộng thực hiện. Vào đầu tháng 11 năm nay, bức màn đen tối dần được vén cao hơn. Kỳ này là từ phía Đài Loan!
"Hồ Chí Minh Sanh Bình Khảo"
Sách “HỒ CHÍ MINH SANH BÌNH KHẢO” (Khảo cứu về cuộc đời Hồ Chí Minh) do tác giả Giáo sư Hồ Tuấn Hùng (Đài Loan) dầy công nghiên cứu trong nhiều năm qua. Sách vừa được Nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành tại Đài Loan vào ngày 01.11.2008 (mã số ISBN: 9789866820779). GS Hùng sanh năm 1949, tốt nghiệp khoa lịch sử của Trường Đại học Quốc lập Đài Loan, có kinh nghiệm giáo chức 30 năm đồng thời là ông còn là viên chức cao cấp Giáo dục Hành chính. Với kinh nghiệm như thế, thì không lẽ nào GS Hùng lại đi nghiên cứu một đề tài xa vời.
Nhưng vì sao một người Đài Loan lại quan tâm đến Hồ Chí Minh? Vì lẽ, Hồ Chí Minh xuất thân là người tộc Hồ trong nhóm Khách Gia tại huyện Miên Lật, địa khu Đồng La, Đài Loan (nơi mà tháng 07.2008, đoàn ca kịch-nghệ sĩ Việt cộng đã phục vụ chương trình “Hát cùng người xa xứ” cho cô dâu Việt tại Đài Loan).
Miêu Lật, Đồng La quê hương của Hồ Chí Minh?
Theo ông Hùng, đề tài Hồ Chí Minh đã bị Việt cộng và Trung cộng che dấu ngụy trang qúa nhiều, đến nỗi không còn biết đâu là sự thật. Tuy nhiên, theo các bậc trưởng lão trong dòng tộc của GS Hùng và truyền khẩu lâu đời giữa người Đài Loan thì Hồ Chí Minh “vị cha già của dân tộc Việt Nam” chính danh là HỒ TẬP CHƯƠNG, một người của dòng tộc GS Hùng!
Trong quá trình nghiên cứu để tìm ra sự thật. GS Hùng đã căn cứ theo hai cái tên là Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh. GS Hùng đã phát hiện ra đòn “di căn tiếp mộc” (dời hoa ghép nhánh) thâm độc của bọn cộng sản Trung Cộng: Nguyễn Ái Quốc đã chết có giấy chứng tử do bệnh lao vào năm 1932. Từ năm 1933 trở đi là sự thâm nhập của gián điệp Hồ Tập Chương!…
Những nghiên cứu trong sách còn rẩt nhiều. Như tác phẩm nổi tiếng “Ngục Trung Nhật Ký” là văn phong của người Khách Gia, chuyện hôn nhân, di chúc v.v… Nếu biết Trung văn, ta có thể tham khảo qua nội dung sách và trọn mục lục tại địa chỉ mạng của nhà sách Press Store.
http://www.vital.com.tw/ps/book/book....asp?bo_id=302
Tác giả GS Hùng dù sao cũng có chủ ý là tạo thêm thanh thế cho người Khách Gia. Nếu nghiên cứu của ông là chính xác, vô hình chung ông đã giúp cho dân tộc Việt Nam chúng tôi rất nhiều! Hăy cảm ơn ông! Dân tộc Việt!
Rất mong các cao thủ khai thác thêm cho dân tộc Việt Nam được sáng tỏ!
Hồ Chí Minh, kẻ chủ nhân của 7 triệu xác chết và 20 năm nội chiến đẫm máu tại Việt Nam! Một tên người Hẹ không hơn không kém đã lãnh đạo cả nước Việt đi vào đường cùng, gây chia rẽ dân tộc không thể hàn gắn và một đám hậu duệ khốn nạn đang tiếp tục dâng hết đất biển Việt Nam cho Tàu Cộng! Đất nước Việt Nam không thuộc về chúng nó! Đúng vậy! Bọn ngoại bang đứng ngay trong lòng dân tộc! Tại sao lại còn giữ cái xác của hắn?
Chân Mây
Monday, November 24, 2008
HUYỀN THOẠI * CHỊ TÔI & NGUỜI CAO NIÊN
Chị Tôi Và Chuyện Người Cao Niên
Một hôm chị Anh gọi điện thoại bảo tôi:
- Ngày mai nếu cô rảnh, cô đi điền đơn xin housing với tôi.
Tôi với chị là hai chị em. Chị là con thứ ba, tôi thứ tám, út ít! Tuy là chị em ruột, nhưng chị lại kêu tôi bằng cô. Tôi cự nự, "Bộ tui là em chồng bà hay sao bà lại kêu tui bằng cô?", thì chị trả lời, " Gọi cô nghe nó trẻ. Gọi dì, nghe 'cụ' thấy mồ". Gần bảy chục, nhưng chị nhìn trẻ hơn tuổi rất nhiều. Có lẽ là do cái "gene" tốt của mẹ chúng tôi. Nghe nói đi điền đơn xin housing, tôi ngạc nhiên hỏi:
- Ủa, xin housing, mà xin cho ai?
- Cho tôi!
- Chị nói đùa! Ai cho chị đi housing? Bộ thằng Khanh, thằng Bách và con Yến nó hết chỗ ở rồi hay sao mà chị vô housing?
Chị thở dài:
- Cô à, ở với con cái lúc chúng có gia đình rồi nó phức tạp lắm. Ở với con gái thì ngại con rể, ở với con trai thì ngại con dâu. Cứ ở một mình như cô, lại khỏe !
Tôi dò hỏi:
- Bộ có đứa nào làm chị buồn chuyện gì hả?
Chị chép miệng:
- Cũng chẳng có chuyện gì ! Chưa có chuyện gì mà mình né trước thì hay hơn. Chờ đến lúc có chuyện thì tình cảm giữa mẹ con lại sứt mẻ.
Tôi cần nói chuyện với chị đễ tìm hiểu thêm những gì đang làm chị phiền lòng, nên mời chị:
- Chị sang em chơi, mình ăn trưa, rồi đi shopping.
Sau khi ăn uống, chị bảo tôi:
- Đừng đi shopping, ở nhà để giúp chị tìm chỗ ở nào vừa tiện đường xe bus, vừa tươm tất một chút.
- Hồi nào tới giờ cứ một chút chị nhảy lên xe, sao bây giờ lại muốn đi xe bus?
- Mình muốn ở riêng, thì phải liệu bề tiết kiệm. Ăn theo thuở, ở theo thì, cô quên à? Khi nào đi xa thì mình lái xe, khi nào đi gần thì xài xe bus.
Tôi nhìn thẳng vào mắt chị, hỏi một cách nghiêm trang:
- Chắc phải có chuyện gì giữa vợ chồng Yến và chị nên chị mới quyết định "ra riêng", nói cho em biết đi, rồi mình tính.
- Thật ra, chẳng có lời ra tiếng vào gì quan trọng, nhưng ở bên này, chúng nó "Mỹ hóa" hết rồi, hai thế hệ hai tư tưởng, mình bây giờ đã già, trở nên nhạy cảm và hay tủi thân, cho nên tránh sao được những điều trái lòng. Buồn mà không nói ra được, có khi lại sinh bệnh . Chị nghĩ, bây giờ chị cũng đã có tiền hưu, dù chẳng là bao, nhưng nếu xin được low-income housing thì cũng tạm qua ngày. Mình ở riêng, nhưng không xa xôi, khi nào nhớ thì về thăm con, thăm cháu. Mà lúc mình cần gì, tụi nó chạy đến cũng tiện.
Tôi hỏi:
- Chị nói vậy em thấy cũng có lý, nhưng chị đã bàn với tụi nó chưa?
- Chị nghĩ cô cứ giúp chị đến sở housing ghi waiting list trước, khi nào được chấp thuận thì cho tụi nó hay cũng được. Phải đặt ra sự đã rồi, chứ nói trước, lại bị ngăn cản thì chẳng ra đâu vào đâu.
Tôi nhớ cách đây ba hoặc bốn năm gì đó, đứa con trai đầu của chị là Khanh cưới vợ. Khoảng ba tháng sau, chị gọi tôi than phiền:
- Cô xem, mình vất vả vớichúng nó, lo cho chúng nó từng miếng ăn, từng giấc ngủ, bây giờ vừa có vợ, nó coi mình chẳng ra gì. Tôi nấu cơm, nó bảo từ nay mẹ giảm các món cá, vợ con không thích ăn cá nhiều. Tôi muốn nấu canh món nào đó, thì nó bảo mẹ xào đi, vì vợ con nó không thích ăn canh ! Có hôm vợ nó kho thịt, kho gì mà lạt như luộc, tôi bảo lần sau kho đậm hơn chút nữa. Hôm sau nó bảo tôi, " mẹ ráng chiều Jenny, mẹ ráng thương Jenny như em Yến, mẹ đừng chỉ trích nó." Tôi tức muốn chết, mình có la nó hồi nào! Chỉ bảo nó, mà nó nói là mình "criticize", thì ăn nói thế nào đây! Hồi xưa mình lấy chồng, chồng mình có dám che chống cho mình thứ thế không nào?
Tôi vội "vuốt giận" chị:
- Chị ơi, cứ suy mình suy ra, mình cũng đâu có yêu con dâu bằng con gái, phải không? Hơn nữa, chính mình ngày xưa cũng muốn chồng chiều, chồng binh mình đó thôi.
- Nhưng mà họ đâu có dám ra mặt bênh mình như chúng nó bây giờ! Mình đã bỏ công hầu hạ chúng nó, mà chúng nó còn ăn nói với mình như thế thì sao không giận. Mà còn chuyện này nữa, lúc tôi bảo thằng Khanh tôi cần tiền đi du lịch Âu Châu, thì con vợ nó hỏi tôi, " má cần bao nhiêu?" . Khi tôi nói tôi cần bốn ngàn, thêm một ngàn tiền bỏ túi xài vặt thì cái bản mặt nó xịu xuống. Chắc tối đó thằng chồng giải thích cho nó hay là trước đây tôi cho chồng nó mượn tiền để làm downpayment mua căn nhà này, khi nào có chuyện xài thì tôi lầy dần. Hôm sau, con vợ đưa cho tôi tấm check năm ngàn, nó ký tên, bảo tôi, "má, đây là năm ngàn như má muốn, nhưng tụi con chỉ ghi sổ trả má bốn ngàn rưởi. Tụi con tặng má năm trăm để má xài vặt".
Tôi nói cho xuôi chèo mát mái:
- Tụi nó cũng dễ thương, cũng biết biếu chị tiền xài đó!
Chị bỗng òa khòc:
- Cô không hiểu, cô đừng tưởng tôi vui sướng gì mà lấy tiền chúng nó
cho. Ôi dào, sổ với sách, làm như tôi có thể gian lận được với chúng nó!
Mình còn cho chúng nó cả cuộc đời mình mà, cô! Cô coi, bây giờ, thằng
Khanh không dám quyết định gì mà không hỏi con vợ nó, dù chuyện đó chẳng
dính líu gì tới vợ nó! Mà nó lại hỏi vợ nó ngay trước mắt tôi, thế có
phải là nó hạ giá tôi trước mặt vợ nó, bắc cầu cho vợ nó lờn mặt, khi dể
tôi không? Check gì đưa cho tôi, nó cũng để con vợ nó ký, làm như bây
giờ nó không còn quyền hạn gì hết. Bây giờ tôi ra riêng, tôi đòi lại
tiền cho mượn, cho chúng nó biết mặt!
Dạo đó, không biết tôi có làm chuyện sai lầm là dàn xếp cho chị ở lại
với vợ chồng Khanh hay không bằng cách nói chuyện riêng với Khanh, và
khuyên nó nên tế nhị hơn trong cách xử sự với mẹ và vợ mới. Chị tôi vượt
biên sang Mỹ năm Khanh sáu tuổi, nó không hiểu nhiều về những phong tục
và đời sống của thế hệ trước đó bên Việt Nam nên nhiều khi ăn nói cũng
rất&Mỹ, và xử sự cũng rất Mỹ. Lúc Khanh chưa có vợ, thì giữa mẹ con,
dù chuyện gì cũng dễ bỏ qua, chẳng có gì quan trọng. Nhưng từ ngày
Khanh lấy vợ, chuyện trở nên rắc rối. Chị vẫn rầy la Khanh khi Khanh làm
chị không vừa lòng, ngay cả khi có mặt vợ nó, vì chị cho rằng nó có lớn
cỡ nào cũng là con chị. Mẹ thì có quyền la rầy con cái chứ! Nhưng Khanh
bắt đầu cự lại mẹ, vì có thể nó "quê" với vợ , hoặc vợ nó rỉ tai, "
you're a married man now, she can't treat you like a kid ". Sau khi nói
chuyện với Khanh, tôi tìm cách thuyết phục chị theo gợi ý của nó:
- Chị à, chị giận mà đòi ra riêng, chứ em biết chị thương chúng nó lắm.
Thôi, mới có con dâu đầu, chị cũng nên thư thả, chờ ít lâu nữa dọn ra
cũng được. Mà theo chị nói, chị đâu có giận con dâu , chỉ chỉ giận con
trai chị thôi mà! Để em bảo cho nó hiểu, mẹ con nương nhau mà sống như
từ xưa tới giờ. Hơn nữa, tụi nó mới cưới, con vợ chưa ra trường, chị đòi
một lúc cả trăm ngàn, tụi nó đào đâu ra trả cho chị?
Vậy là tạm yên một thời gian, mẹ con sống vui vẻ, tuy không bằng lòng,
nhưng cũng bằng mặt. Khi đứa thứ hai là Bách cưới vợ, chuyện mẹ chồng
nàng dâu và con trai không có gì đáng nói, vì tụi nó dọn sang tiểu bang
khác có việc trả lương khá hơn bên Cali. Lúc này chị tôi đã học thêm
"kinh nghiệm" để sống theo "thời đại nào, tư tưởng nấy" nên không thấy
chị than phiền gì nhiều. Có lần, tôi ghẹo chị, " Chà, lúc này chị đã Mỹ
hoá kha khá, em cũng mừng". Chị thở dài, "Ôi chao, nhắm mắt làm ngơ giả
vờ không nghe không thấy cho nó xong chuyện. Nói lắm, mỏi miệng cô ơi!"
Lúc Yến lấy chồng, chị tôi vui lắm, vì hai đứa nó đều có việc làm nên
mua nhà ở riêng, không phải va chạm mích lòng ai. Khi Yến sanh con, chị
"move" qua ở với vợ chồng nó, làm "babysitter" nhưng không đòi trả
lương, mỗi tuần năm ngày, vì cuối tuần tụi nó "tha", để mẹ được đi ra
ngoài với bạn bè, chị em. Nay con của Yến đã được hai tuổi.
Và chị đang nhờ tôi dẫn đi xin housing. Lần này, tôi không thể bàn ra được nữa. Tôi nói:
- Lúc này cháu Alice đã lớn, vợ chồng nó đem gởi nhà trẻ được rồi. Lúc
mới sanh nó còn nhỏ, đem đi ẵm về cũng tôi nghiệp. Chị giúp cho chúng nó
nhiêu đó cũng đủ rồi.
Chị trầm ngầm:
- Mình ở đó mà chúng nó phải đem con đi gởi thì áy náy. Nhưng mà lúc này
chị tự biết mình không được khỏe mạnh như mấy năm về trước. Giữ cháu cứ
phải đứng lên ngồi xuống suốt ngày, mệt mỏi lắm rồi cô ạ! Đêm về mình
mẩy đau như có ai đánh. Đã vậy, mỗi lần con bé nó có té ngã sơ sơ, tối
về bố mẹ nó tỏ vẻ đau xót, mình cũng nhột . Con bé có đi lỏng, thì chúng
nó cứ tra hỏi mình cho con nó ăn cái gì, ăn ra sao, nấu làm sao. Bực
bội lằm. Con gái thì mình còn dễ ăn dễ nói, còn với con rể, nói ra thì
chỉ sợ con gái nó bênh mình, đâm ra vợ chồng xích mích lẫn nhau, mất
hạnh phúc.
May quá, ba tháng sau chị tôi được gọi đi nhận nhà. Chị báo tin cho các
con. Phân trần, giải thích một hồi, rồi đứa nào cũng bằng lòng cho mẹ
dọn riêng, sau khi đã tới xem địa điểm khu housing này. Chị được các con
mua cho đầy đủ, nào là giường tủ, chăn mền, bàn ghế, đồ nấu bếp. Vì
lương hưu của chị thấp, nên chị chỉ phải đóng tiền nhà mỗi tháng ba
trăm, So với giá bình thường của căn hộ một buồng ngủ như vậy ỏ đây là
chín trăm đồng. Chị ở lầu hai, có bao lơn nhìn ra courtyard. Thỉnh
thoảng chị ra bao lơn ngắm trời, ngằm kẻ đi người lại quanh bể nước phun
có trồng hoa bốn mùa. Vài tuần lễ đầu chị hơi buồn vì nhớ cháu, nhớ
những sinh hoạt hằng ngày với các con. Nhưng sau này, chị bắt đầu có
bạn, và nỗi buồn cũng nguôi dần.
Chung cư này dành cho những người từ 55 tuỗi đổ lên, nên rất yên lặng vì
không có trẻ con, ngoại trừ những lúc khách khứa đến thăm. Mỗi ngày thứ
sáu, chung cư tổ chức một buổi "happy hour" để cư dân có dịp gặp gỡ,
làm quen, hoặc họp hành. Sau khi đến thăm chị nhiều lần, tôi được chị kể
cho nhiều chuyện đang diễn ra trong cái cộng đồng "hưu trí ngưới Việt"
trong mấy cái buildings này.
Theo chị biết, có khoảng bảy hộ người Việt ở đây. Hai hộ có đầy đủ "ông bà", ba hộ của ba ông, và hai hộ của hai bà độc thân. Hai hộ "ông bà" đã về hưu đều có con cái là bác sĩ, nha sĩ gì đó, nhưng kẻ thì có con dâu, người thì có con rể người Mỹ, nên các cụ ở riêng cho nó tiện cả đôi bề. Họ cũng có các con khác, nhưng đều ở những tiểu bang phía bắc, thơì tiết quá lạnh vào mùa đông, nên các cụ nhất định ở đây ở cho ấm áp . Trong ba ông "độc thân" kia, thì một ông ngoài sáu chục xuân xanh, li dị vợ, bị vợ bán nhà chia của vì cái tội léng phéng về Việt Nam đá gà móng đỏ. Các con về phe mẹ, không đứa nào chịu cho ông về ở chung. Bà mẹ tuyên bố "đứa nào cho ông ấy ở là nối giáo cho giặc, bà sẽ từ ngay ".
Cũng may cái chung cư này có một số phòng dành cho người "low income" ở, theo luật của tiểu bang, nên ông may phước, được ở chỗ khang trang mà trả tiền nhà rẻ như bèo. Ông ca tụng nước Mỹ nhân đạo, nhân quyền đủ thứ, nhưng mỗi năm ông về Việt Nam một lần, dù ông luôn miệng chê ở bên đó người ta thế này thế nọ. Một ông nữa khoảng dưới 60, goá vợ vài năm, được người ta mai mối cho một cô bên Việt Nam, và đang chuẫn bị đem cô sang. Ông bảo chị tôi ấy là ông làm phước, cưới cô mà chẳng lấy đồng nào, chỉ mong cô sang săn sóc ông những khi ông trở trời đau ốm. Khi nào cô đủ điêu kiện thì ông cho cô tự do. Ông định sẽ cho cô đi học nghề "nail", bao nhiêu tiền kiếm được, cô gủi về giúp đỡ gia đình, ông nuôi cô ăn uống .
Ông thứ ba, ông Thành, thì tôi nghiệp vô cùng. Năm nay ông đã gần bảy mươi mà bà vợ mới có năm mươi. Ngày xưa khi ông còn trẻ, còn làm quan trong quân đội thì chả có sự chênh lệch nào đáng nói. Sau khi thất trận, ông đi tù, lúc trở về ông hom hem, trông chẳng ra hình dáng gì (vợ ông nói vậy). Được sang Mỹ theo diện HO, bà như cá gặp nước. Bà thì càng ngày càng trẻ ra, trong khi ông cứ bệnh rề rề. Bà đi làm trong hãng kẹo bánh và thường đi về bất thường, it chịu đi đâu cùng ông, và đòi ông ngủ riêng phòng, bà than ông ngáy to quá, bà mất ngủ, đi làm dễ bị tại nạn. Ông tự hiểu, và tự rút lui, trả lại cho người, trả hết về người& May mắn thay, đơn xin "low income " của ông trúng giải, ông được "move" vào đây với những đồ đạc khiêm nhường.
Con cái ông sang sau đến muộn, chẳng còn thì giờ học lên cao cho ông hãnh diện , nên chọn nghề "nail" làm đà tiến thân. Mỗi đứa đi mỗi tiểu bang, nên ông cố thủ ở lại Cali cho ấm cái thân già bệnh hoạn . Ít lâu sau, ông nghe nói vợ ông theo một người đàn ông khác đi Las Vegas làm trong sòng bài. Ở trong chung cư, ông quen được bà Bích, là một trong hai bà "single" người Việt . Bà Bích kể chồng bà tuy đã trên sáu chục nhưng vẫn còn nhiều phong độ. Ông làm kỹ sư, bồ bịch với một cô thư ký người Mỹ trong sở của ông. Nàng thư ký mới có trên ba chục cái xuân xanh, nhưng đồng lương "high end" của ông đã làm cô quên cái tuổi "almost there " của ông. Ông xin bà ly dị và hứa sẽ săn sóc bà cho đến cuối đời. Ba đâu cần tiền của ông, vì các con bà thừa sức lo cho bà, nhưng bà dằn mặt ông cho bõ ghét, bà vô đây, bắt ông ký tiền nhà và điện nước cho bà mỗi tháng. Hằng ngày bà đến chùa làm công quả.
Thỉnh thoảng con cái cần, bà về nhà chúng làm babysitter mấy hôm. Gặp ông Thành trong một cuối tuần vào giờ happy hour, bà và ông ngồi kể chuyện đời. Đồng cảnh ngộ, kẻ bị chồng bỏ người bị vợ chê, họ thân nhau, một tình bạn trong trắng không giừơng chiếu. Bà rủ ông đi chùa, ông theo bà đi chùa . Ông muốn đi nhà thờ, bà theo ông đi nhà thờ,cho có bạn. Để ông khỏi vất vả nấu nướng, bà đề nghị họ chia tiền chợ. Bà nấu nướng, chợ búa, còn ông thì chăm lo mấy cây kiểng cho bà. Phòng ông, ông ở. Phòng bà, bà cư ngụ. Một buổi sáng, không thấy ông gọi điện thoại " báo cáo còn sống" như đã giao hẹn, bà gọi điện cho ông, mãi không thấy ông trả lời, bà bèn chạy sang mở cửa, thì ông đã ngủ một giấc ngàn năm từ lúc nào. Bà hoảng kinh kêu xuống lobby. Nửa giờ sau cảnh sát và nhà đòn đem ông đi. Bà đưa địa chỉ mấy đứa con ở xa của ông cho cảnh sát làm công viêc thông báo tin buồn. Bà tôi nghiệp cho ông, ra đi chẳng có ai bên mình, nhưng lại mừng là ông ra đi nhẹ nhàng, chắc không đau đớn gì đâu.
Người đàn bà ở một mình khác là bà Lộc. Bà Lộc lớn hơn chị tôi chừng hai tuỗi, dáng người tròn trịa, mang hơi hướng một mệnh phụ một thời đã qua. Bà Lộc cho hay chồng bà trước đây là một trung đòan trưởng. Bà và các con chạy thoát trên tàu Haỉ quận do người em ông làm hạm trưởng. Lúc đó ông còn đang cố gắng đem quân về Saìgon. Chưa về đến nơi thì bị tan hàng. Trong lúc hoảng loạn, ông đánh liều, rủ hai người bạn mua một cái ghe đuôi tôm, đổ đầy xăng, và cứ thế nhắm hướng ra khơi. Cuối cùng, ông cũng đoàn tụ được với vợ con ở Guam. Chẳng còn nỗi vui nào lớn bằng nỗi vui của gia đình ông lúc đó. Ông mới mất cách đây hơn một năm vì bệnh ung thư gan. Bà nhất định không chịu về ở chung với con cái. Bà bảo " Mình ăn riêng ở riêng quen rồi, bây giờ về với con cái, ngại lắm." Thật ra, thì bà ở riêng, vì bà thích chơi mạt chược. Ở chung với con cháu, bà không được tự do gầy sòng.
Chị tôi không biết chơi bất cứ thứ bài gì. Chị cũng không còn thích đi shopping nữa. Đi một chút đã kêu mỏi chân. Tôi bèn tập cho chị một thú vui mới: viết văn. Thú vui mới này bắt chị học xử dụng computer và đánh keyboard. Học xong rồi, chị viết văn thí ít, mà viết email thì nhiều. Lúc sau này còn google được mấy websites để đọc truỵên "free", xem phim "free" .
HUYỀN THOẠI
PROF NGUYỄN CAO HÁCH * ECONOMICS
A prudent attitude toward the current financial/economic crisis
Prof. NGUYEN CAO HACH
As so many people fear that the economy, in general, will fall into a recession which is prolonged and grave; this fear has caused a psychological crisis: The Dow Jones Industrial Average has dropped deeply, at the lowest level in the past 20 years. Total demands for commodities and services have reduced substantially, and total earnings of the banks have dropped greatly.
The statistics of the U.S. economy gave rise to bad signals that the economy may fall to the lowest level compared to any periods in the past 30 years. Such news, along with the pepsimistic news from the stock and credit markets have erased all belief and trust in the government measures to pump monies into the credit banks, which passed the Congress on October 13, 2008.
The Dow Jones just dropped 733 points in a day, almost 8%, as people are afraid that we are falling in an economic recession. No one believes that the commercial banks are capable to push the finance and economy in good order again to secure a long term prosperity. Those who have savings all express a hesitant attitude, losing their traditional optimism for the future as in previous years.
Not only was the Dow Jones, other economic ratio followed the same trend: The Standard & Poor’s 500 lost 9%. In general, those who invested in stock markets lost more than 1 trillion dollars due to the falling of the stock markets. There have been other symptoms of economic downturn as well: total demands for industrial raw materials also dropped rapidly, especially prices of oil and copper.
The losses of stocks’ prices have pushed investors into a more secure sector: government bonds, especially Treasury Bonds. As demands for this kind of investment are rising, the two-year Treasuty Bond has dropped its return to 1.6%.
More unfavorable news have come, especially in the hedge-fund industry. And even Ben Bernanke - Federal Reserve Chairman --, just emphasized that the economy will encounter a difficult period, though the Federal Government successfully guaranrteed 700 billion dollars for the commercial banks’ needs to resolve the credit crisis. He said: "Stabilization of the financial markets is a critical first step, but even if they stabilize as we hope they will, broader economic recovery will not happen right away. Ultimately, the trajectory of economic activity beyond the next few quarters will depend greatly on the extent to which financial and credit markets return to more normal functioning".
Mr. Bernanke insisted that the economy has begun its difficulties before the financial crisis in September 2008, for example, the whole production mechanism had been slowing, exports had been decreasing, real estates’ prices reduced significantly; the consumption power of the people was reducing; the aggregate investment was decreasing; the funds for investment were also dropped..
Mr. Bernanke didn’t say an important point which is interest rate, whether it will drop or not, because it is a critical factor for all investment projects. Right now, there is an attitude which make us anxious: those who are capable to invest will require a higher rate of return to compensate the danger of heavy losses that they experienced in recent days. Whatever rates of return, an unpredictable crisis can erase all investment amounts, reduce the investments to zero. What trend have recent events indicated?
People are afraid that the U.S. economy will hardly avoid a heavy recession period. The first symptom is the peaceful mind in job security has lost, as many workers have lost their jobs in the last few quarters. Incomes of working people have been decreasing as a result of increasing unemployment. This results in difficult selling of consumer goods. Once the capacity to consume of the masses is reduced, it affects the economy.
The U.S. Commerce Department just released a figure of last month’s total consumption which was reduced by 2%, indicating that a recession may be ahead. Consumer spending is traditionally a basic indicator to measure the tendency of the whole economy. The statistics published recently indicated nothing to be optimistic: in the past 3 months, the volumes of car sales reduced by 3.8%. And during the same time, all the consumer products were reduced in sales: electronics, furniture, fashions, foods...
Not only in U.S.A., other countries in Asia and Europe also started a similar path. The price of gasoline which was more than 4.00 dollars/a gallon recently, has rapidly dropped to below $US 3.00, as everybody has strived to reduce gasoline consumption to save money for other necessary items (food, housing etc). Crude oil was over $US 100 just less than two months ago now reduced to below $US 70.00 for a barrel. In the meantime, gasoline consumption is decreasing day after day!.
The credit markets right now are in difficulties, i.e. the commercial banks got difficulties in lending to push the economy’s operations. The production mechanism is stagnant because of weak consumption overall ; therefore, the producers/manufacturers have less demands to get loans from the banks.
Right in the U.S.; 700 billion dollars are available by the government for the credit banking system to push the economy’s operations; but the production activities have not been moving up.
Why? Because the U.S. economy is export-oriented; but other economies which consume most of U.S. products are right now entering their recession. Nothing can be done quickly in such a situation.
Moreover, the U.S. commercial banks are right now also in trouble: 700 billion dollars are available; but production in overall can’t be higher as a result of where and who to sell the higher volumes of production? The purchasing power of U.S. consumers is weak and decreasing at the present.
Let’s consider the case of the two big commercial banks in the U.S.: J. P. Morgan and Wells Fargo. Both the two announced that their consumer operations department has failed to push for more activities as a result of sluggish volume of credit (few investors/producers want to get loans), nothing to do with their willing to loan or not.
The Federal Reserve has summarized the economic activities of each sector of the economy. It also measured the conditions of operation of each branch, and came to a conclusion of the difficulties of each sector. For the entire economy, the picture is as follows: total consumer spending is too weak, manufacturing activity has reduced significantly, capital spending doesn’t increase. Only agriculture is expanding, but -- by itself -- its magnitude is not enough to move forward the whole economy.
The economy is sluggish because of "high level of uncertainty about the economic outlook or concerns over the availability of credit".
In general, the rich component is traditionally in surplus capacity for conspicuous consumptions. Now, they also tend to be cautious shoppers. Suddenly, those luxurious categories as high-end cars, electronics, fashion, jewelry, high class tourism etc see their reduced consumptions and markets. This problem also contributes to the downturn of the economy.
===
KHUYNH HƯỚNG THẬN TRỌNG TRƯỚC TÌNH HÌNH KINH TẾ THOÁI TRÀO? GS NGUYỄN CAO HÁCH Ghi chú của tòa soạn: Kỳ này đáng lẽ tòa soạn đăng tiếp bài “Hiến Pháp Hoa Kỳ” của GS Nguyễn Cao Hách, nhưng vì tình hình kinh tế tài chánh Hoa Kỳ và thế giới biến đổi đột ngột vàsâu xa, nên GS Nguyễn Cao Hách viết bài phân tích về biến cố này cho số KTTT 72, còn bài “Hiến Pháp Hoa Kỳ” (đã viết xong và chuyển cho tòa soạn) sẽ đăng trong KTTT số 73 Tết Nguyên Đán Kỷ Sửu 2009 ra vào tháng 1/2009.
Xin qúy độc giả kiên nhẫn chờ đợi để đọc tiếp loạt bài “Hiến Pháp Hoa Kỳ”, rất quan trọng để trang bị cho anh chị em dân chủ và người dân VN các hiểu biết về quyền tự do và nhân quyền của con người trong thế giới hiện tại, để tranh đấu một cách hiệu quả với bọn người kiểu Nguyễn Thế Thảo (chủ tịch UBND TP Hà Nội), không biết gì (hay biết mà ngoan cố) về quốc tế nhân quyền, đang cai trị VN hiện nay. Cẩn báo
Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN
vietmarketing2@eol.ca
* * *
Vì quá nhiều người lo sợ là nền kinh tế nói chung sẽ “rơi” vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng và kéo dài, nên cuộc lo sợ chung về một tương lai quá mờ ám đã gây nên một khủng hoảng tâm lý: tỷ số kỹ nghệ Dow Jones (Dow Jones Industrial Average) đã sụt mạnh, sụt thấp nhất trong vòng 20 năm qua. Tổng số cầu đối với mọi hàng hóa và dịch vụ đã giảm bớt rất nhiều, và tổng số thu hoạch của các ngân hàng đã sụt rất sâu.
Các số thống kê của kinh tế Mỹ báo hiệu là: toàn thể nền kinh tế Mỹ rất có thể xuống thấp hơn bao giờ hết so với giai đoạn 30 năm vừa qua. Các tin tức bất ổn đó, đi đôi với tin tức bi quan trên thị trường chứng khoán và thị trường tín dụng (credit market) đủ để quét sạch mọi thái độ và tin tưởng lạc quan sau mấy vụ tăng số lượng tín dụng cho các ngân hàng tín dụng ngay ngày 13-10 vừa qua.
Tỷ số Dow vừa mới tụt giốc 733 điểm, tức là gần 8%, vì quá nhiều người lo sợ là Mỹ bắt đầu một giai đoạn kinh tế thoái trào (economic recession). Không ai tin tưởng là các ngân hàng thương mại (commercial banks) có đủ khả năng và thiện chí để đẩy toàn thể nền kinh tế lên một giai đoạn thịnh vượng lâu dài. Người nào có sẵn tiết kiệm (savings) đều tỏ thái độ dè dặt, không tin tưởng lạc quan về tương lai, ảnh hưởng đến tiêu thụ và đầu tư.
Không những tỷ số Dow mà thôi: nhiều tỷ số kinh tế khác cũng biến chuyển theo cùng chiều: tỷ số Standard & Poor’s 500 cũng tụt giốc 9%. Nói tổng quát thì giới đầu tư chứng khoán bị thiệt mất một triệu triệu (số 1 theo sau bởi 12 số không) vì thị trường chứng khoán đã tụt giốc quá mạnh.
Còn nhiều triệu chứng suy bại khác nữa: tổng số cầu đối với các nguyên liệu kỹ nghệ (industrial raw materials) cũng tụt giốc mau chóng, nhất là giá dầu hỏa và kim khí đồng (copper).
Tụt giốc của các chứng khoán (stocks) đã đẩy giới đầu tư (investors) vào khu vực chắc chắn hơn, nhất là trái phiếu kho bạc (Treasury Bond). Vì số cầu tăng quá mau, nhất là Trái Phiếu Kho Bạc hai năm (Two-year Treasury Bond) nên giá đã tăng và số lời đã tụt xuống 1.6%.
Nhiều biến chuyển bất lợi dồn dập, rồi lại nhiều tin đồn đại về nhược điểm của toàn thể hệ thống kinh tài, nhất là trong lãnh vực kỹ nghệ qũy đầu cơ ((hedge-fund industry).
Thế vẫn chưa đủ để gây một bầu không khí hoang mang. Mới đây, chủ tịch Dự Trữ Liên bang (Federal Reserve chairman) Ben Bernanke nhấn mạnh là toàn thể nền kinh tế sẽ gặp một thời kỳ khó khăn mặc dù là chính phủ liên bang (Federal Government) đã giải phóng 700 tỉ ($700 billion, nghiã là số 7 theo sau 11 số không) để các ngân hàng kinh tế có đủ phương tiện tăng hoạt động kinh têá toàn diện.
Ông Bernanke đã nói: “Ổn cố thị trường tài chánh là bước quan trọng đầu tiên, nhưng dù nó có ổn cố như ta hy vọng, không phải vì thế mà kinh tế phục hưng lập tức. Sau chót, đường tiến của hoạt động kinh tế, sau thời kỳ ngắn sắp tới, sẽ tùy thuộc phần lớn vào thị trường tài chánh và tín dụng trở lại mức hoạt động bình thường hơn” (“Stabilization of the financial markets is a critical first step, but even if they stabilize as we hope they will, broader economic recovery will not happen right away. Ultimately, the trajectory of economic activity beyond the next few quarters will depend greatly on the extent to which financial and credit markets return to more normal functioning”.
Ông Bernanke nhấn mạnh rằng nền kinh tế đã bắt đầu thoái hoá ngay trước cuộc khủng hoảng tài chánh trong tháng 9 vừa qua: thí dụ, toàn thể guồng máy sản xuất đã chậm lại; khối xuất cảng đã giảm dần; giá bất động sản đã tụt giốc mau chóng; sức tiêu thụ của toàn dân đã tiệm giảm; khối đầu tư tổng quát xuống giốc; vốn đầu tư cũng xuống..
Ông Bernanke không nói rõ một điểm quan trọng là lãi suất (interest rate) có xuống hay không, vì nó là một điểm đặc biệt trong mọi dự án đầu tư. Hiện nay còn một trạng thái quan trọng hơn nhiều: người ta e rằng toàn thể nền kinh tế Mỹ bắt đầu một giai đoạn khó khăn hơn nữa vì người nào có khả năng đầu tư cũng hy vọng và đòi hỏi một lãi suất quá lớn, số lãi đặc biệt để đền bù vào số lỗ vốn mà ai cũng lo sợ vì kinh nghiệm vừa qua quá sâu cay.
Trước những biến chuyển quá bất lợi nó có thể làm mất hết số vốn đầu tư, thì một lãi suất, dù lớn tới đâu, cũng có thể biến số vốn thành con số không. Biến chuyển gần đây biểu thị chiều hướng nào?
Người ta e rằng toàn thể nền kinh tế Mỹ không sao tránh được một thời suy bại nặng nề. Triệu chứng đầu tiên là rất nhiều người lo sợ vì hiện nay rất nhiều người đã mất việc; lợi tức của những người làm thuê cứ giảm dần vì số người thất nghiệp tăng quá mau, nó khiến các thứ nhật dụng rất khó bán, - và mọi đồ nhật dụng quá ế ẩm sẽ khiến lợi tức của các nhà sản xuất ra chúng giảm; nghiã là khả năng tiêu thụ của đại chúng giảm có thể lôi toàn thể nền kinh tế xuống giốc.
Bộ Thương Mại (Commerce Department) vừa cho biết rằng trong tháng vừa qua số tiêu thụ đại chúng đã giảm 2%, nghiã là ta có thể bắt đầu một giai đoạn suy bại.
Phải chăng ta đang bắt đầu một thời kỳ suy bại? Có phải là quá bi quan hay không nếu ta chờ đợi một giai đoạn xuống giốc còn sâu xa hơn nữa? Các số chi về tiêu thụ (consumer spending) vẫn được coi là căn bản để đo lường hướng tiến của toàn thể nền kinh tế.
Khả năng tiêu thụ của toàn dân cứ giảm dần tức là toàn thể nền kinh tế bắt đầu một thời kỳ suy bại. Vì chi về tiêu thụ (consumer spending) đo lường khả năng kiếm lợi tức của toàn dân, - nghiã là đo lường hướng tiến của toàn thể nền kinh tế. Mà thống kê (statistics) xuất bản tới nay không cho phép lạc quan chút nào. Trong ba tháng vừa qua, số xe hơi bán đã giảm 3.8%, và cùng thời kỳ đó, mọi thứ nhật dụng khác đều giảm bớt: đồ đạc, điện khí (electronics), quần áo, thực phẩm mọi loại.
Không những tại Hoa Kỳ mà thôi: nhiều xứ khác tại Âu và Á Châu cũng bắt đầu một giai đoạn tương tự. Giá xăng đang lên cao (quá 4 dollars một gallon) nay sụt xuống (gần 3 dollars một gallon) vì mọi người cố sức giảm số tiêu thụ để nhường bước cho nhiều thứ chi tiêu khác cần thiết hơn. Dầu thô (crude oil) đang quá 100 dollars một thùng, nay giảm xuống còn dưới 70 dollars một thùng (tuần thứ ba của tháng 10/08), mà tổng số tiêu thụ vẫn cứ giảm dần mãi!
Trong khi đó, thị trường tín dụng vẫn gặp nhiều khó khăn, nghiã là các ngân hàng thương mại không cho vay được để thúc đẩy kinh tế hoạt động, - mà guồng máy sản xuất sẽ không hoạt động thêm được vì khả năng tiêu thụ của toàn dân quá yếu kém.
Ngay tại Hoa Kỳ, chính phủ đầu tư vào hệ thống ngân hàng tới 700 tỉ Mỹ Kim mà toàn thể nền kinh tế vẫn không thấy hoạt động hơn chút nào, nghiã là hoạt động sản xuất vẫn chưa thấy tăng.
Tại sao thế? Vì một phần lớn kinh tế Mỹ hoạt động trong ngành xuất cảng, mà các xứ vẫn tiêu thụ hàng Mỹđang bị trói buộc trong một thời kỳ suy bại.
Vả lại, ngay hệ thống ngân hàng Mỹ cũng đang lúng túng. Nhà nước cấp phát 700 tỉ dollars để ngân hàng thúc đẩy guồng máy sản xuất hoạt động nhiều hơn; nhưng sản xuất nhiều hơn thì bán cho ai?, vì mãi lực của người tiêu thụ hiện quá yếu kém!
Ta hãy xét trường hợp của hai ngân hàng thương mại lớn bậc nhất tại xứ này: J. P. Morgan Chase và Wells Fargo. Cả hai cùng tuyên bố rằng bộ cho vay (consumer operations department) không thể hoạt động thêm vì tùy thuộc vào khối tín dụng (volume of credit) tăng hay giảm, không phải vì ngân hàng muốn cho vay nhiều hay ít.
Qũy Dự Trữ Liên Bang đã tóm tắt mức hoạt động kinh tế từng khu vực trong toàn quốc, đo lường điều kiện hoạt động của mỗi ngành, và đã đo lường rõ ràng điều kiện hoạt động quá khó khăn của mỗi khu vực. Toàn xứ thì tóm tắt như sau: tổng số chi về tiêu thụ (total consumer spending) quá yếu kém. Hoạt động của ngành biến chế (manufacturing activity) giảm sút nhiều, số vốn đầu tư (capital spending) không tăng chút nào; chỉ có canh nông (agriculture) là tăng tiến, nhưng tự nó không đủ sức lôi cuốn toàn thể nền kinh tế.
Sở dĩ toàn thể nền kinh tế trì trệ là vì không mấy ai tin tưởng lạc quan vào tương lai (high level of uncertainty about the economic outlook or concerns over the availability of credit).
Nói chung thì giới giàu có xưa nay vẫn thừa mãi lực trong các tiêu thụ phô trương (conspicuous consumption) nay cũng tự giới hạn trong các dịch vụ mua bán (cautious shoppers). Tự nhiên, các sản phẩm xa xỉ nay ế ẩm, như xe hơn loại sang, các sản phẩm điện tử (electronics), các hàng phô trương (như đồ fashion, jewelry), du lịch xa xỉ v.v.
Ngày nay, các tiêu thụ phô trương đó đều giảm bớt.
Đó cũng là một khiá cạnh đẩy nền kinh tế từ từ xuống giốc./.
Prof. NGUYEN CAO HACH
As so many people fear that the economy, in general, will fall into a recession which is prolonged and grave; this fear has caused a psychological crisis: The Dow Jones Industrial Average has dropped deeply, at the lowest level in the past 20 years. Total demands for commodities and services have reduced substantially, and total earnings of the banks have dropped greatly.
The statistics of the U.S. economy gave rise to bad signals that the economy may fall to the lowest level compared to any periods in the past 30 years. Such news, along with the pepsimistic news from the stock and credit markets have erased all belief and trust in the government measures to pump monies into the credit banks, which passed the Congress on October 13, 2008.
The Dow Jones just dropped 733 points in a day, almost 8%, as people are afraid that we are falling in an economic recession. No one believes that the commercial banks are capable to push the finance and economy in good order again to secure a long term prosperity. Those who have savings all express a hesitant attitude, losing their traditional optimism for the future as in previous years.
Not only was the Dow Jones, other economic ratio followed the same trend: The Standard & Poor’s 500 lost 9%. In general, those who invested in stock markets lost more than 1 trillion dollars due to the falling of the stock markets. There have been other symptoms of economic downturn as well: total demands for industrial raw materials also dropped rapidly, especially prices of oil and copper.
The losses of stocks’ prices have pushed investors into a more secure sector: government bonds, especially Treasury Bonds. As demands for this kind of investment are rising, the two-year Treasuty Bond has dropped its return to 1.6%.
More unfavorable news have come, especially in the hedge-fund industry. And even Ben Bernanke - Federal Reserve Chairman --, just emphasized that the economy will encounter a difficult period, though the Federal Government successfully guaranrteed 700 billion dollars for the commercial banks’ needs to resolve the credit crisis. He said: "Stabilization of the financial markets is a critical first step, but even if they stabilize as we hope they will, broader economic recovery will not happen right away. Ultimately, the trajectory of economic activity beyond the next few quarters will depend greatly on the extent to which financial and credit markets return to more normal functioning".
Mr. Bernanke insisted that the economy has begun its difficulties before the financial crisis in September 2008, for example, the whole production mechanism had been slowing, exports had been decreasing, real estates’ prices reduced significantly; the consumption power of the people was reducing; the aggregate investment was decreasing; the funds for investment were also dropped..
Mr. Bernanke didn’t say an important point which is interest rate, whether it will drop or not, because it is a critical factor for all investment projects. Right now, there is an attitude which make us anxious: those who are capable to invest will require a higher rate of return to compensate the danger of heavy losses that they experienced in recent days. Whatever rates of return, an unpredictable crisis can erase all investment amounts, reduce the investments to zero. What trend have recent events indicated?
People are afraid that the U.S. economy will hardly avoid a heavy recession period. The first symptom is the peaceful mind in job security has lost, as many workers have lost their jobs in the last few quarters. Incomes of working people have been decreasing as a result of increasing unemployment. This results in difficult selling of consumer goods. Once the capacity to consume of the masses is reduced, it affects the economy.
The U.S. Commerce Department just released a figure of last month’s total consumption which was reduced by 2%, indicating that a recession may be ahead. Consumer spending is traditionally a basic indicator to measure the tendency of the whole economy. The statistics published recently indicated nothing to be optimistic: in the past 3 months, the volumes of car sales reduced by 3.8%. And during the same time, all the consumer products were reduced in sales: electronics, furniture, fashions, foods...
Not only in U.S.A., other countries in Asia and Europe also started a similar path. The price of gasoline which was more than 4.00 dollars/a gallon recently, has rapidly dropped to below $US 3.00, as everybody has strived to reduce gasoline consumption to save money for other necessary items (food, housing etc). Crude oil was over $US 100 just less than two months ago now reduced to below $US 70.00 for a barrel. In the meantime, gasoline consumption is decreasing day after day!.
The credit markets right now are in difficulties, i.e. the commercial banks got difficulties in lending to push the economy’s operations. The production mechanism is stagnant because of weak consumption overall ; therefore, the producers/manufacturers have less demands to get loans from the banks.
Right in the U.S.; 700 billion dollars are available by the government for the credit banking system to push the economy’s operations; but the production activities have not been moving up.
Why? Because the U.S. economy is export-oriented; but other economies which consume most of U.S. products are right now entering their recession. Nothing can be done quickly in such a situation.
Moreover, the U.S. commercial banks are right now also in trouble: 700 billion dollars are available; but production in overall can’t be higher as a result of where and who to sell the higher volumes of production? The purchasing power of U.S. consumers is weak and decreasing at the present.
Let’s consider the case of the two big commercial banks in the U.S.: J. P. Morgan and Wells Fargo. Both the two announced that their consumer operations department has failed to push for more activities as a result of sluggish volume of credit (few investors/producers want to get loans), nothing to do with their willing to loan or not.
The Federal Reserve has summarized the economic activities of each sector of the economy. It also measured the conditions of operation of each branch, and came to a conclusion of the difficulties of each sector. For the entire economy, the picture is as follows: total consumer spending is too weak, manufacturing activity has reduced significantly, capital spending doesn’t increase. Only agriculture is expanding, but -- by itself -- its magnitude is not enough to move forward the whole economy.
The economy is sluggish because of "high level of uncertainty about the economic outlook or concerns over the availability of credit".
In general, the rich component is traditionally in surplus capacity for conspicuous consumptions. Now, they also tend to be cautious shoppers. Suddenly, those luxurious categories as high-end cars, electronics, fashion, jewelry, high class tourism etc see their reduced consumptions and markets. This problem also contributes to the downturn of the economy.
===
KHUYNH HƯỚNG THẬN TRỌNG TRƯỚC TÌNH HÌNH KINH TẾ THOÁI TRÀO? GS NGUYỄN CAO HÁCH Ghi chú của tòa soạn: Kỳ này đáng lẽ tòa soạn đăng tiếp bài “Hiến Pháp Hoa Kỳ” của GS Nguyễn Cao Hách, nhưng vì tình hình kinh tế tài chánh Hoa Kỳ và thế giới biến đổi đột ngột vàsâu xa, nên GS Nguyễn Cao Hách viết bài phân tích về biến cố này cho số KTTT 72, còn bài “Hiến Pháp Hoa Kỳ” (đã viết xong và chuyển cho tòa soạn) sẽ đăng trong KTTT số 73 Tết Nguyên Đán Kỷ Sửu 2009 ra vào tháng 1/2009.
Xin qúy độc giả kiên nhẫn chờ đợi để đọc tiếp loạt bài “Hiến Pháp Hoa Kỳ”, rất quan trọng để trang bị cho anh chị em dân chủ và người dân VN các hiểu biết về quyền tự do và nhân quyền của con người trong thế giới hiện tại, để tranh đấu một cách hiệu quả với bọn người kiểu Nguyễn Thế Thảo (chủ tịch UBND TP Hà Nội), không biết gì (hay biết mà ngoan cố) về quốc tế nhân quyền, đang cai trị VN hiện nay. Cẩn báo
Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN
vietmarketing2@eol.ca
* * *
Vì quá nhiều người lo sợ là nền kinh tế nói chung sẽ “rơi” vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng và kéo dài, nên cuộc lo sợ chung về một tương lai quá mờ ám đã gây nên một khủng hoảng tâm lý: tỷ số kỹ nghệ Dow Jones (Dow Jones Industrial Average) đã sụt mạnh, sụt thấp nhất trong vòng 20 năm qua. Tổng số cầu đối với mọi hàng hóa và dịch vụ đã giảm bớt rất nhiều, và tổng số thu hoạch của các ngân hàng đã sụt rất sâu.
Các số thống kê của kinh tế Mỹ báo hiệu là: toàn thể nền kinh tế Mỹ rất có thể xuống thấp hơn bao giờ hết so với giai đoạn 30 năm vừa qua. Các tin tức bất ổn đó, đi đôi với tin tức bi quan trên thị trường chứng khoán và thị trường tín dụng (credit market) đủ để quét sạch mọi thái độ và tin tưởng lạc quan sau mấy vụ tăng số lượng tín dụng cho các ngân hàng tín dụng ngay ngày 13-10 vừa qua.
Tỷ số Dow vừa mới tụt giốc 733 điểm, tức là gần 8%, vì quá nhiều người lo sợ là Mỹ bắt đầu một giai đoạn kinh tế thoái trào (economic recession). Không ai tin tưởng là các ngân hàng thương mại (commercial banks) có đủ khả năng và thiện chí để đẩy toàn thể nền kinh tế lên một giai đoạn thịnh vượng lâu dài. Người nào có sẵn tiết kiệm (savings) đều tỏ thái độ dè dặt, không tin tưởng lạc quan về tương lai, ảnh hưởng đến tiêu thụ và đầu tư.
Không những tỷ số Dow mà thôi: nhiều tỷ số kinh tế khác cũng biến chuyển theo cùng chiều: tỷ số Standard & Poor’s 500 cũng tụt giốc 9%. Nói tổng quát thì giới đầu tư chứng khoán bị thiệt mất một triệu triệu (số 1 theo sau bởi 12 số không) vì thị trường chứng khoán đã tụt giốc quá mạnh.
Còn nhiều triệu chứng suy bại khác nữa: tổng số cầu đối với các nguyên liệu kỹ nghệ (industrial raw materials) cũng tụt giốc mau chóng, nhất là giá dầu hỏa và kim khí đồng (copper).
Tụt giốc của các chứng khoán (stocks) đã đẩy giới đầu tư (investors) vào khu vực chắc chắn hơn, nhất là trái phiếu kho bạc (Treasury Bond). Vì số cầu tăng quá mau, nhất là Trái Phiếu Kho Bạc hai năm (Two-year Treasury Bond) nên giá đã tăng và số lời đã tụt xuống 1.6%.
Nhiều biến chuyển bất lợi dồn dập, rồi lại nhiều tin đồn đại về nhược điểm của toàn thể hệ thống kinh tài, nhất là trong lãnh vực kỹ nghệ qũy đầu cơ ((hedge-fund industry).
Thế vẫn chưa đủ để gây một bầu không khí hoang mang. Mới đây, chủ tịch Dự Trữ Liên bang (Federal Reserve chairman) Ben Bernanke nhấn mạnh là toàn thể nền kinh tế sẽ gặp một thời kỳ khó khăn mặc dù là chính phủ liên bang (Federal Government) đã giải phóng 700 tỉ ($700 billion, nghiã là số 7 theo sau 11 số không) để các ngân hàng kinh tế có đủ phương tiện tăng hoạt động kinh têá toàn diện.
Ông Bernanke đã nói: “Ổn cố thị trường tài chánh là bước quan trọng đầu tiên, nhưng dù nó có ổn cố như ta hy vọng, không phải vì thế mà kinh tế phục hưng lập tức. Sau chót, đường tiến của hoạt động kinh tế, sau thời kỳ ngắn sắp tới, sẽ tùy thuộc phần lớn vào thị trường tài chánh và tín dụng trở lại mức hoạt động bình thường hơn” (“Stabilization of the financial markets is a critical first step, but even if they stabilize as we hope they will, broader economic recovery will not happen right away. Ultimately, the trajectory of economic activity beyond the next few quarters will depend greatly on the extent to which financial and credit markets return to more normal functioning”.
Ông Bernanke nhấn mạnh rằng nền kinh tế đã bắt đầu thoái hoá ngay trước cuộc khủng hoảng tài chánh trong tháng 9 vừa qua: thí dụ, toàn thể guồng máy sản xuất đã chậm lại; khối xuất cảng đã giảm dần; giá bất động sản đã tụt giốc mau chóng; sức tiêu thụ của toàn dân đã tiệm giảm; khối đầu tư tổng quát xuống giốc; vốn đầu tư cũng xuống..
Ông Bernanke không nói rõ một điểm quan trọng là lãi suất (interest rate) có xuống hay không, vì nó là một điểm đặc biệt trong mọi dự án đầu tư. Hiện nay còn một trạng thái quan trọng hơn nhiều: người ta e rằng toàn thể nền kinh tế Mỹ bắt đầu một giai đoạn khó khăn hơn nữa vì người nào có khả năng đầu tư cũng hy vọng và đòi hỏi một lãi suất quá lớn, số lãi đặc biệt để đền bù vào số lỗ vốn mà ai cũng lo sợ vì kinh nghiệm vừa qua quá sâu cay.
Trước những biến chuyển quá bất lợi nó có thể làm mất hết số vốn đầu tư, thì một lãi suất, dù lớn tới đâu, cũng có thể biến số vốn thành con số không. Biến chuyển gần đây biểu thị chiều hướng nào?
Người ta e rằng toàn thể nền kinh tế Mỹ không sao tránh được một thời suy bại nặng nề. Triệu chứng đầu tiên là rất nhiều người lo sợ vì hiện nay rất nhiều người đã mất việc; lợi tức của những người làm thuê cứ giảm dần vì số người thất nghiệp tăng quá mau, nó khiến các thứ nhật dụng rất khó bán, - và mọi đồ nhật dụng quá ế ẩm sẽ khiến lợi tức của các nhà sản xuất ra chúng giảm; nghiã là khả năng tiêu thụ của đại chúng giảm có thể lôi toàn thể nền kinh tế xuống giốc.
Bộ Thương Mại (Commerce Department) vừa cho biết rằng trong tháng vừa qua số tiêu thụ đại chúng đã giảm 2%, nghiã là ta có thể bắt đầu một giai đoạn suy bại.
Phải chăng ta đang bắt đầu một thời kỳ suy bại? Có phải là quá bi quan hay không nếu ta chờ đợi một giai đoạn xuống giốc còn sâu xa hơn nữa? Các số chi về tiêu thụ (consumer spending) vẫn được coi là căn bản để đo lường hướng tiến của toàn thể nền kinh tế.
Khả năng tiêu thụ của toàn dân cứ giảm dần tức là toàn thể nền kinh tế bắt đầu một thời kỳ suy bại. Vì chi về tiêu thụ (consumer spending) đo lường khả năng kiếm lợi tức của toàn dân, - nghiã là đo lường hướng tiến của toàn thể nền kinh tế. Mà thống kê (statistics) xuất bản tới nay không cho phép lạc quan chút nào. Trong ba tháng vừa qua, số xe hơi bán đã giảm 3.8%, và cùng thời kỳ đó, mọi thứ nhật dụng khác đều giảm bớt: đồ đạc, điện khí (electronics), quần áo, thực phẩm mọi loại.
Không những tại Hoa Kỳ mà thôi: nhiều xứ khác tại Âu và Á Châu cũng bắt đầu một giai đoạn tương tự. Giá xăng đang lên cao (quá 4 dollars một gallon) nay sụt xuống (gần 3 dollars một gallon) vì mọi người cố sức giảm số tiêu thụ để nhường bước cho nhiều thứ chi tiêu khác cần thiết hơn. Dầu thô (crude oil) đang quá 100 dollars một thùng, nay giảm xuống còn dưới 70 dollars một thùng (tuần thứ ba của tháng 10/08), mà tổng số tiêu thụ vẫn cứ giảm dần mãi!
Trong khi đó, thị trường tín dụng vẫn gặp nhiều khó khăn, nghiã là các ngân hàng thương mại không cho vay được để thúc đẩy kinh tế hoạt động, - mà guồng máy sản xuất sẽ không hoạt động thêm được vì khả năng tiêu thụ của toàn dân quá yếu kém.
Ngay tại Hoa Kỳ, chính phủ đầu tư vào hệ thống ngân hàng tới 700 tỉ Mỹ Kim mà toàn thể nền kinh tế vẫn không thấy hoạt động hơn chút nào, nghiã là hoạt động sản xuất vẫn chưa thấy tăng.
Tại sao thế? Vì một phần lớn kinh tế Mỹ hoạt động trong ngành xuất cảng, mà các xứ vẫn tiêu thụ hàng Mỹđang bị trói buộc trong một thời kỳ suy bại.
Vả lại, ngay hệ thống ngân hàng Mỹ cũng đang lúng túng. Nhà nước cấp phát 700 tỉ dollars để ngân hàng thúc đẩy guồng máy sản xuất hoạt động nhiều hơn; nhưng sản xuất nhiều hơn thì bán cho ai?, vì mãi lực của người tiêu thụ hiện quá yếu kém!
Ta hãy xét trường hợp của hai ngân hàng thương mại lớn bậc nhất tại xứ này: J. P. Morgan Chase và Wells Fargo. Cả hai cùng tuyên bố rằng bộ cho vay (consumer operations department) không thể hoạt động thêm vì tùy thuộc vào khối tín dụng (volume of credit) tăng hay giảm, không phải vì ngân hàng muốn cho vay nhiều hay ít.
Qũy Dự Trữ Liên Bang đã tóm tắt mức hoạt động kinh tế từng khu vực trong toàn quốc, đo lường điều kiện hoạt động của mỗi ngành, và đã đo lường rõ ràng điều kiện hoạt động quá khó khăn của mỗi khu vực. Toàn xứ thì tóm tắt như sau: tổng số chi về tiêu thụ (total consumer spending) quá yếu kém. Hoạt động của ngành biến chế (manufacturing activity) giảm sút nhiều, số vốn đầu tư (capital spending) không tăng chút nào; chỉ có canh nông (agriculture) là tăng tiến, nhưng tự nó không đủ sức lôi cuốn toàn thể nền kinh tế.
Sở dĩ toàn thể nền kinh tế trì trệ là vì không mấy ai tin tưởng lạc quan vào tương lai (high level of uncertainty about the economic outlook or concerns over the availability of credit).
Nói chung thì giới giàu có xưa nay vẫn thừa mãi lực trong các tiêu thụ phô trương (conspicuous consumption) nay cũng tự giới hạn trong các dịch vụ mua bán (cautious shoppers). Tự nhiên, các sản phẩm xa xỉ nay ế ẩm, như xe hơn loại sang, các sản phẩm điện tử (electronics), các hàng phô trương (như đồ fashion, jewelry), du lịch xa xỉ v.v.
Ngày nay, các tiêu thụ phô trương đó đều giảm bớt.
Đó cũng là một khiá cạnh đẩy nền kinh tế từ từ xuống giốc./.
Sunday, November 16, 2008
MẶT THẬT TRUNG QUỐC CỘNG SẢN
===
Tiến Sỉ WANG BIN
Trong những năm 2000 và 2001, Phòng cảnh sát Bắc Kinh thuộc Phân cục bảo an quốc gia Trung Quốc đã bắt một lượng lớn người trí thức tu tập Pháp Luân Công, bao gồm các giáo sư của các trường đại học. Họ bị tra tấn cho đến khi họ chấp nhận “cải tạo”. Điều này đã được ĐCSTQ công bố trên toàn thế giới rằng đó chỉ là một biện pháp nhẹ nhàng như “làn gió và mưa phùn ngày xuân”. Tôi là một trong số đó.
Tôi đã bị nhốt trong một phòng giam mờ tối dành cho tù nhân bị kết án tử hình với khoảng 30 tù nhân khác đang chờ hành quyết. Căn phòng chỉ khoảng 30m vuông. Lần đầu tiên khi tôi bị đưa vào căn phòng này, tôi có thể ngửi thấy mùi của đủ loại phân, nước tiểu, thịt thối, mốc và các thứ khác. Sau một vài tháng, tôi không thể ngửi được mùi gì nữạ Tôi đã quen với cái mùi vốn ngập tràn nơi ấỵ
Ở đó yên tĩnh đến mức người ta có thể nghe được tiếng lá rơị Mọi người tận dụng sự yên tĩnh để ngẫm nghĩ về quá khứ của mình. Ngày qua ngày, với nhiều người, là sống trong chờ đợi thời khắc hành quyết cận kề.
Những cái cửa
Phòng giam có hai cửa, một trước một saụ Cánh cửa trước là cánh cửa bằng sắt rất dày và một hàng rào sắt. Cửa sau cũng là cửa sắt dày và to như cửa trước. Cửa trước là nơi các tù nhân bị hộ tống vào và cũng là nơi bị kéo đi hành quyết.
Mười cảnh sát có vũ trang đứng gác ngoài cửa ngăn không cho tù nhân chạy chốn. Mỗi khi cửa mở cũng đồng nghĩa sẽ có một ai đó sắp chết.
Không khí và mặt trời
“Mở nhà lao!” một tiếng hét lớn của cảnh sát đứng trên đầụ Nó phá vỡ dòng suy nghĩ của tôi và sự yên tĩnh của căn phòng. Những tù nhân lôi thôi, xám xịt bắt đầu hiện lên tia hy vọng trên khuôn mặt họ. Từng người một, các tù nhân bước ra theo cửa saụ Họ cúi đầu lễ phép tỏ thái độ hàm ơn với cảnh sát. Rồi họ nhanh chóng bận rộn kiếm một nơi có nhiều ánh nắng.
Tôi đã bị sốc trước những gì nhìn thấy vào lần đầu tiên được ra khỏi phòng giam. Điều đầu tiên các tù nhân làm là trút bỏ quần áọ Những vảy nến, ghẻ lở và các vết lở loét trên cơ thể họ bị phơi bày đầy đủ. Thực ra, điều ấy cũng không đáng ngạc nhiên lắm.
Sống sót và Lao động
Nếu không bị kết án tử hình, tù nhân sống sót trong trại tạm giam sẽ bị gửi đến các nhà tù để thi hành bản án và làm nô lệ lao động. Họ mang theo các căn bệnh truyền nhiễm và bệnh tình dục đến các nhà tù, trong khi họ làm ra các sản phẩm giá rẻ với một số lượng lớn. Một số lượng sản phẩm lớn đến kinh ngạc được làm ở Trung Quốc là được sản xuất trong những nhà tù và trại cải tạo lao động.
Vào tháng 5 năm 2002, tôi bị đẩy đến Phòng Hồi hương tội phạm Bắc Kinh với nhiều học viên Pháp Luân Công khác. Chúng tôi được chuyển sang nhà tù địa phương để chịu nốt bản án. Qua nếm trải này, tôi đã thực sự kinh nghiệm được thế nào là lao động cưỡng bức trong tù.
Chúng tôi đã phải lao động không ngừng nghỉ. Công việc hàng ngày kéo dài từ 15 đến 16 tiếng. Nếu ai đó không hoàn tất công việc được giao, anh ta sẽ bị trừng phạt bằng cách phải “hát cho đến sáng”, tức là anh ta phải tiếp tục làm việc và không được ngủ. Căn phòng chật ních người, và tù nhân không có thời gian để vệ sinh cá nhân. Họ đếm từng ngày với những bệnh tật trở nên tồi tệ ngày này qua ngày khác.
Tôi bị bắt chỉ vì tập Pháp Luân Công. Tôi không hề phạm tộị Do vậy, tôi tự coi bản thân mình như một “phóng viên” được gửi tới đây để nghiêm túc quan sát những gì diễn ra quanh tôị Tôi nuôi nấng hy vọng rằng một ngày nào đó những chứng kiến của bản thân mình sẽ được đưa ra công chúng để mọi người có thể hiểu rõ hơn những gì đang diễn ra trong trại cải tạo và nhà tù Trung Quốc hôm naỵ
Từ đồ giáng sinh cho đến đồ lót
Chúng tôi được giao đủ việc: đóng gói đồ lót phụ nữ, sao chép băng đĩa nhạc và hình, dán nhãn bao bì sản phẩm các loại, gấp sách, đóng sách, làm thuyền đồ chơi, làm các đồ chơi giáng sinh và nhiều thứ để xuất khẩu khác nữạ Tôi đã tham gia tất cả các lao động chân tay ấy và hiểu rõ từng công đoạn cũng như quy trình tại đó.
Vào một mùa hè nóng bức, quản lý nhà tù bắt chúng tôi đóng gói đồ lót cho hãng Gracewell. Trời rất nóng nhưng các tù nhân đã lâu không được tắm rửạ Họ gãi khắp người trong khi phải lao động chân taỵ Một số tù nhân luôn tay gãi chỗ kín. Và khi họ lôi tay ra, tôi thấy có cả vết máu trên móng tay của họ. Tôi không rõ rằng các quý bà có thật sự xinh đẹp (graceful) khi mặc đồ lót này hay không.
Một dịp khác, tù nhân phải đóng gói món đồ ăn mang tên “Orchid Beans” cho một hãng tư nhân nhỏ nào đó. Món snack này làm từ đậu tằm. Họ chở hàng xe tải đậu tằm tới nhà tù. Tại đây đậu tằm được ngâm trong các thùng nước lớn cho đến khi nó nở rạ Nhiều lúc tù nhân đổ cả nước lẫn nước tiểu vào thùng ngâm đậụ Sau khi đậu đã nở, tù nhân sẽ bóc đậu bằng một bộ dao chuyên dụng, sao cho cho hạt đậu được bóc vỏ theo cách để lại một “vòng vàng” quanh hạt đậu trông thật ngon mắt. Nhưng thực ra nó rất bẩn. Công đoạn cuối cùng là bỏ đậu tằm vào rổ.
Mỗi tù nhân được giao tối thiểu 10000 hạt đậu tằm trong một ngàỵ Khi hối hả làm cho xong, thì những thứ như rỉ mũi, nước dãi của tù nhân cũng lẫn cả vào đậụ Các hạt đậu đã qua xử lý ấy được cho vào túi, chuyển tới kho chứa, rồi được rang lên. Sau khi rang, đậu tằm trông vàng ươm, được đóng vào bao bì đẹp mắt và bán cho khách hàng.
Đậu tằm là một món hàng bán chạy và đem lại lợi nhuận lớn cho hãng kinh doanh. Tôi thấy ở Mỹ quốc này, nhiều người xài món đậu tằm nhập khẩu từ Trung Quốc, và tôi tự hỏi không biết họ có đang ăn món đậu tằm xuất xưởng từ nhà tù nơi mình từng ở hay không.
Năm nào cũng vậy, rất nhiều đồ giáng sinh được xuất khẩu từ Trung Quốc sang các nước tây phương. Có lần chúng tôi phải làm bóng đèn. Hàng ngày tù nhân phải nối dây đồng và quấn chặt ở xe tăng đồ chơi theo một mẫu hình cố định và nối bóng đèn vào đó. Tay của họ thường là rớm máụ Cũng không cần phải nói, có nhiều bệnh truyền nhiễm tình dục mà tù nhân mang theo cũng đã dính lên bóng đèn và đồ chơị
Một lần khác chúng tôi phải xâu các hạt cườm thành chuỗi để làm đồ nữ trang. Các tù nhân dùng kim và dây để luồn qua các hạt cườm đủ loại màu sắc, rồi sau đó kết nút dây lạị Các chuỗi hạt trông thật sặc sỡ đẹp mắt. Nhưng tôi mong rằng các quý bà không đeo chúng trên cổ và các cháu bé không đút chúng vào miệng.
o o o o o
Trải nghiệm của tôi tại trại lao động ở Trung Quốc
Cô Chen Ying đã bị giam cầm ba lần chỉ vì tập Pháp Luân Công. Cô đã bị nhốt trong trại lao động cưỡng bức khoảng một năm khi mà cô thăm gia đình tại Trung Quốc. Cai tù cưỡng bức tiêm những thứ thuốc độc hại vào thân thể, tác hại lên phần thần kinh nửa bên trái thân thể của cô, gây chứng co giật. Hiện nay cô Chen sống tại Pháp.
Tôi bị cầm tù từ tháng 11-2000 đến tháng 11-2001 vì không chịu từ bỏ tập Pháp Luân Công. Trong thời gian đó, tôi bị cưỡng bức lao động khổ sai tại Nhà tù Tuanhe và trại lao động cưỡng bức Xin'an tại Bắc Kinh.
Những sản phẩm
Tại Nhà tù Tuanhe ở Bắc Kinh
Đóng gói một số lượng rất lớn đũa (loại dùng một lần rồi bỏ). Hầu hết là để xuất khẩu, rồi được dùng trong các nhà hàng, khách sạn.
Làm gói quà tặng “Florence Gift Packages”
Tại trại lao động Xin'an ở Bắc Kinh
Đóng gói một số lượng rất lớn đũa (loại dùng một lần rồi bỏ). Hầu hết là để xuất khẩu, rồi được dùng trong các nhà hàng, khách sạn.
Đan áo len.
Đan khăn len (xuất khẩu sang Châu Âu).
Bộ đồ nệm thêu móc để kê tách trà.
Thêu mũ cho một hãng tại Qinghe, Bắc Kinh.
Thêu đệm ngồị
Nhặt sạch các thứ vương trên áo len trước khi xuất xưởng.
Làm rất nhiều dép lót đi trong nhà. Công việc chủ yếu là dán đế dép. Giới chức coi tù đòi hỏi chất lượng caọ Lúc đó là lúc nóng nhất vào mùa hè. Nhiều học viên Pháp Luân Công và tôi ở trong các phòng giam nhỏ bé chật chội sặc mùi keo dán đến ngạt thở. Mỗi bận phải sản xuất là chúng tôi bị bắt làm đến nửa đêm hoặc 1 giờ sáng.
Làm thú nhồi bông: thỏ, gấu, cá heo, chim cánh cụt… Công đoạn chủ yếu là nhồi các thứ vào trong, khâu kín lại, dán mắt dán miệng cho con thú nhồi…
Điều kiện vệ sinh tại trại lao động
(1) Nhà tù Tuanhe, Bắc Kinh
Tôi bị nhốt cùng với hơn mười học viên Pháp Luân Công khác trong một phòng giam khoảng hơn 10 mét vuông. Chỉ có tám chiếc giường nhỏ trong phòng, vì vậy một số phải ngủ dưới sàn. Chúng tôi làm tất cả mọi việc trong một gian phòng ấy: lao động, ăn, uống và đi vệ sinh. Do vậy có rất nhiều ruồi muỗị Chúng tôi chỉ được phép ăn vào một số thời gian đã định. Phải tiết kiệm nước từng chút một vì rất thiếu nước. Cai tù không bao giờ cho phép chúng tôi rửa tay trước khi ăn. Sau khi ăn, chúng tôi phải quay lại lao động ngaỵ Hai ngày một lần, chúng tôi được dành ra 5 phút để làm vệ sinh cá nhân. Hết 5 phút, cai tù bắt chúng tôi phải dừng ngay để quay về phòng giam, và không được mang theo nước. Ai không hoàn tất công việc được giao sẽ bị cấm vệ sinh cá nhân. Do vậy, mọi người phải làm cho xong. Chúng tôi phải dậy từ sớm và làm đến khuya, không còn thời gian rửa ráỵ Có định ra một số thời điểm cố định để dùng toa-lét, nhưng ngay cả như vậy, cũng phải xin phép cai tù rồi mới được đị Mỗi lần như vậy được phép trong 2 phút. Vì thế, nhiều người không kịp đi nặng xong đã hết giờ. Chúng tôi chỉ được phép ngủ vào một thời gian nhất định. Nếu chưa đến giờ thì không được ngủ, chỉ có thể co ro lại nghỉ. Ban đêm, lính gác vẫn luôn canh chừng, và chúng tôi được cấp một cái bô để dùng vào đêm. Lính gác luôn coi xét cả khi chúng tôi ngủ.
Chúng tôi chỉ được phép ngủ rất ít, và bắt buộc lao động ngay từ khi mới mở mắt tỉnh dậỵ Tay của tôi bị nửt nẻ, rớm máu và rộp nhiều chỗ vì phải lao động cực nhọc nhiều giờ mỗi ngày làm đũạ Tôi thường phải làm tới nửa đêm. Chúng tôi không được ngủ khi chưa làm xong việc. Chúng tôi bị bắt ép làm 16 giờ đồng hồ mỗi ngàỵ Điều kiện vệ sinh cực kỳ thấp kém. Mặc dù trên bao bì của đũa ghi rằng sản phẩm đã được tẩy trùng, có thể dùng ngay xong rồi bỏ, nhưng thực ra toàn bộ quá trình sản xuất cực kỳ dơ dáỵ Chúng tôi không hề được rửa tay và những chiếc đũa được đóng gói ngay trên sàn. Nhà tù Tuanhe chỉ biết có tiền lời mà không xét gì tới yêu cầu vệ sinh của người tiêu dùng, và họ đã làm điều xấu này một cách ngang nhiên. Rất nhiều nhà hàng, khách sạn tại Bắc Kinh vẫn đang sử dụng loại đũa nàỵ Thậm chí đũa của Trung Quốc còn được xuất khẩụ
Nữ học viên Pháp Luân Công bị bắt làm các việc nặng nhọc. Chúng tôi bị bắt phải mang vác những thùng và bao hàng nặng cỡ 50 kg. Phải khuân vác chúng lên xe và xuống xẹ Chúng tôi bị bắt phải đào lỗ, trồng cây và chuyên chở phân bón. Cảnh sát cai ngục tuỳ tiện sử dụng nhân công tù nhân phục vụ để kiếm tiền bất chính. Chúng tôi bị bắt buộc lao động nhiều giờ mỗi ngày, nhưng không bao giờ nhận được một xu tiền công.
Lao động khổ sai thực chất đã khiến cả thể xác và tinh thần chúng tôi bị giam cầm. Cảnh sát ngăn cản không cho chúng tôi ngủ ngoài giờ được phép. Còn khi có việc thì chúng tôi phải làm ngày làm đêm để thoả mãn số lượng, chất lượng sản phẩm trong thời gian ngắn nhất.
Tất cả công việc trong trại cải tạo đều là lao động căng thẳng. Các học viên Pháp Luân Công phải làm việc đến nửa đêm trong ánh sáng mờ tốị Ai cũng phải hoàn thành công việc của mình. Nếu không xong phần việc được giao, thì không được ngủ, mà phải thức để làm cho xong. Một lần chúng tôi phải làm đồ khuyến mại cho hãng Netslé, đó là những tấm thêu và đan. Để thoả mãn thời hạn giao hàng, chúng tôi bị bắt phải làm ngay cả khi đi vệ sinh cho tới hai giờ sáng. Đôi lúc phải làm thâu đêm cho tới sáng. Họ không cho chúng tôi thời gian dù chỉ để suy nghĩ một cách cẩn thận mọi việc. Họ dùng lao động liên miên làm một phương pháp kiềm chế tư tưởng của tù nhân. Không còn thời gian suy xét, không còn thời gian để trao đổi với nhaụ Cảnh sát dùng những tội phạm nghiện hút để “chuyển hoá” và theo dõi các học viên Pháp Luân Công. Họ muốn chúng tôi biến thành những cỗ máy chỉ biết làm việc.
Mùa hè khi tới những hôm trời nóng, có một số tù nhân không chịu nổi nên đã ngất đị Nhiều học viên Pháp Luân Công đã phát bệnh như bệnh tim do làm việc quá sức. Thân thể bị biến dạng.
Tiến Sỉ WANG BIN
====
Tiến Sỉ WANG BIN
Trong những năm 2000 và 2001, Phòng cảnh sát Bắc Kinh thuộc Phân cục bảo an quốc gia Trung Quốc đã bắt một lượng lớn người trí thức tu tập Pháp Luân Công, bao gồm các giáo sư của các trường đại học. Họ bị tra tấn cho đến khi họ chấp nhận “cải tạo”. Điều này đã được ĐCSTQ công bố trên toàn thế giới rằng đó chỉ là một biện pháp nhẹ nhàng như “làn gió và mưa phùn ngày xuân”. Tôi là một trong số đó.
Tôi đã bị nhốt trong một phòng giam mờ tối dành cho tù nhân bị kết án tử hình với khoảng 30 tù nhân khác đang chờ hành quyết. Căn phòng chỉ khoảng 30m vuông. Lần đầu tiên khi tôi bị đưa vào căn phòng này, tôi có thể ngửi thấy mùi của đủ loại phân, nước tiểu, thịt thối, mốc và các thứ khác. Sau một vài tháng, tôi không thể ngửi được mùi gì nữạ Tôi đã quen với cái mùi vốn ngập tràn nơi ấỵ
Ở đó yên tĩnh đến mức người ta có thể nghe được tiếng lá rơị Mọi người tận dụng sự yên tĩnh để ngẫm nghĩ về quá khứ của mình. Ngày qua ngày, với nhiều người, là sống trong chờ đợi thời khắc hành quyết cận kề.
Những cái cửa
Phòng giam có hai cửa, một trước một saụ Cánh cửa trước là cánh cửa bằng sắt rất dày và một hàng rào sắt. Cửa sau cũng là cửa sắt dày và to như cửa trước. Cửa trước là nơi các tù nhân bị hộ tống vào và cũng là nơi bị kéo đi hành quyết.
Mười cảnh sát có vũ trang đứng gác ngoài cửa ngăn không cho tù nhân chạy chốn. Mỗi khi cửa mở cũng đồng nghĩa sẽ có một ai đó sắp chết.
Không khí và mặt trời
“Mở nhà lao!” một tiếng hét lớn của cảnh sát đứng trên đầụ Nó phá vỡ dòng suy nghĩ của tôi và sự yên tĩnh của căn phòng. Những tù nhân lôi thôi, xám xịt bắt đầu hiện lên tia hy vọng trên khuôn mặt họ. Từng người một, các tù nhân bước ra theo cửa saụ Họ cúi đầu lễ phép tỏ thái độ hàm ơn với cảnh sát. Rồi họ nhanh chóng bận rộn kiếm một nơi có nhiều ánh nắng.
Tôi đã bị sốc trước những gì nhìn thấy vào lần đầu tiên được ra khỏi phòng giam. Điều đầu tiên các tù nhân làm là trút bỏ quần áọ Những vảy nến, ghẻ lở và các vết lở loét trên cơ thể họ bị phơi bày đầy đủ. Thực ra, điều ấy cũng không đáng ngạc nhiên lắm.
Sống sót và Lao động
Nếu không bị kết án tử hình, tù nhân sống sót trong trại tạm giam sẽ bị gửi đến các nhà tù để thi hành bản án và làm nô lệ lao động. Họ mang theo các căn bệnh truyền nhiễm và bệnh tình dục đến các nhà tù, trong khi họ làm ra các sản phẩm giá rẻ với một số lượng lớn. Một số lượng sản phẩm lớn đến kinh ngạc được làm ở Trung Quốc là được sản xuất trong những nhà tù và trại cải tạo lao động.
Vào tháng 5 năm 2002, tôi bị đẩy đến Phòng Hồi hương tội phạm Bắc Kinh với nhiều học viên Pháp Luân Công khác. Chúng tôi được chuyển sang nhà tù địa phương để chịu nốt bản án. Qua nếm trải này, tôi đã thực sự kinh nghiệm được thế nào là lao động cưỡng bức trong tù.
Chúng tôi đã phải lao động không ngừng nghỉ. Công việc hàng ngày kéo dài từ 15 đến 16 tiếng. Nếu ai đó không hoàn tất công việc được giao, anh ta sẽ bị trừng phạt bằng cách phải “hát cho đến sáng”, tức là anh ta phải tiếp tục làm việc và không được ngủ. Căn phòng chật ních người, và tù nhân không có thời gian để vệ sinh cá nhân. Họ đếm từng ngày với những bệnh tật trở nên tồi tệ ngày này qua ngày khác.
Tôi bị bắt chỉ vì tập Pháp Luân Công. Tôi không hề phạm tộị Do vậy, tôi tự coi bản thân mình như một “phóng viên” được gửi tới đây để nghiêm túc quan sát những gì diễn ra quanh tôị Tôi nuôi nấng hy vọng rằng một ngày nào đó những chứng kiến của bản thân mình sẽ được đưa ra công chúng để mọi người có thể hiểu rõ hơn những gì đang diễn ra trong trại cải tạo và nhà tù Trung Quốc hôm naỵ
Từ đồ giáng sinh cho đến đồ lót
Chúng tôi được giao đủ việc: đóng gói đồ lót phụ nữ, sao chép băng đĩa nhạc và hình, dán nhãn bao bì sản phẩm các loại, gấp sách, đóng sách, làm thuyền đồ chơi, làm các đồ chơi giáng sinh và nhiều thứ để xuất khẩu khác nữạ Tôi đã tham gia tất cả các lao động chân tay ấy và hiểu rõ từng công đoạn cũng như quy trình tại đó.
Vào một mùa hè nóng bức, quản lý nhà tù bắt chúng tôi đóng gói đồ lót cho hãng Gracewell. Trời rất nóng nhưng các tù nhân đã lâu không được tắm rửạ Họ gãi khắp người trong khi phải lao động chân taỵ Một số tù nhân luôn tay gãi chỗ kín. Và khi họ lôi tay ra, tôi thấy có cả vết máu trên móng tay của họ. Tôi không rõ rằng các quý bà có thật sự xinh đẹp (graceful) khi mặc đồ lót này hay không.
Một dịp khác, tù nhân phải đóng gói món đồ ăn mang tên “Orchid Beans” cho một hãng tư nhân nhỏ nào đó. Món snack này làm từ đậu tằm. Họ chở hàng xe tải đậu tằm tới nhà tù. Tại đây đậu tằm được ngâm trong các thùng nước lớn cho đến khi nó nở rạ Nhiều lúc tù nhân đổ cả nước lẫn nước tiểu vào thùng ngâm đậụ Sau khi đậu đã nở, tù nhân sẽ bóc đậu bằng một bộ dao chuyên dụng, sao cho cho hạt đậu được bóc vỏ theo cách để lại một “vòng vàng” quanh hạt đậu trông thật ngon mắt. Nhưng thực ra nó rất bẩn. Công đoạn cuối cùng là bỏ đậu tằm vào rổ.
Mỗi tù nhân được giao tối thiểu 10000 hạt đậu tằm trong một ngàỵ Khi hối hả làm cho xong, thì những thứ như rỉ mũi, nước dãi của tù nhân cũng lẫn cả vào đậụ Các hạt đậu đã qua xử lý ấy được cho vào túi, chuyển tới kho chứa, rồi được rang lên. Sau khi rang, đậu tằm trông vàng ươm, được đóng vào bao bì đẹp mắt và bán cho khách hàng.
Đậu tằm là một món hàng bán chạy và đem lại lợi nhuận lớn cho hãng kinh doanh. Tôi thấy ở Mỹ quốc này, nhiều người xài món đậu tằm nhập khẩu từ Trung Quốc, và tôi tự hỏi không biết họ có đang ăn món đậu tằm xuất xưởng từ nhà tù nơi mình từng ở hay không.
Năm nào cũng vậy, rất nhiều đồ giáng sinh được xuất khẩu từ Trung Quốc sang các nước tây phương. Có lần chúng tôi phải làm bóng đèn. Hàng ngày tù nhân phải nối dây đồng và quấn chặt ở xe tăng đồ chơi theo một mẫu hình cố định và nối bóng đèn vào đó. Tay của họ thường là rớm máụ Cũng không cần phải nói, có nhiều bệnh truyền nhiễm tình dục mà tù nhân mang theo cũng đã dính lên bóng đèn và đồ chơị
Một lần khác chúng tôi phải xâu các hạt cườm thành chuỗi để làm đồ nữ trang. Các tù nhân dùng kim và dây để luồn qua các hạt cườm đủ loại màu sắc, rồi sau đó kết nút dây lạị Các chuỗi hạt trông thật sặc sỡ đẹp mắt. Nhưng tôi mong rằng các quý bà không đeo chúng trên cổ và các cháu bé không đút chúng vào miệng.
o o o o o
Trải nghiệm của tôi tại trại lao động ở Trung Quốc
Cô Chen Ying đã bị giam cầm ba lần chỉ vì tập Pháp Luân Công. Cô đã bị nhốt trong trại lao động cưỡng bức khoảng một năm khi mà cô thăm gia đình tại Trung Quốc. Cai tù cưỡng bức tiêm những thứ thuốc độc hại vào thân thể, tác hại lên phần thần kinh nửa bên trái thân thể của cô, gây chứng co giật. Hiện nay cô Chen sống tại Pháp.
Tôi bị cầm tù từ tháng 11-2000 đến tháng 11-2001 vì không chịu từ bỏ tập Pháp Luân Công. Trong thời gian đó, tôi bị cưỡng bức lao động khổ sai tại Nhà tù Tuanhe và trại lao động cưỡng bức Xin'an tại Bắc Kinh.
Những sản phẩm
Tại Nhà tù Tuanhe ở Bắc Kinh
Đóng gói một số lượng rất lớn đũa (loại dùng một lần rồi bỏ). Hầu hết là để xuất khẩu, rồi được dùng trong các nhà hàng, khách sạn.
Làm gói quà tặng “Florence Gift Packages”
Tại trại lao động Xin'an ở Bắc Kinh
Đóng gói một số lượng rất lớn đũa (loại dùng một lần rồi bỏ). Hầu hết là để xuất khẩu, rồi được dùng trong các nhà hàng, khách sạn.
Đan áo len.
Đan khăn len (xuất khẩu sang Châu Âu).
Bộ đồ nệm thêu móc để kê tách trà.
Thêu mũ cho một hãng tại Qinghe, Bắc Kinh.
Thêu đệm ngồị
Nhặt sạch các thứ vương trên áo len trước khi xuất xưởng.
Làm rất nhiều dép lót đi trong nhà. Công việc chủ yếu là dán đế dép. Giới chức coi tù đòi hỏi chất lượng caọ Lúc đó là lúc nóng nhất vào mùa hè. Nhiều học viên Pháp Luân Công và tôi ở trong các phòng giam nhỏ bé chật chội sặc mùi keo dán đến ngạt thở. Mỗi bận phải sản xuất là chúng tôi bị bắt làm đến nửa đêm hoặc 1 giờ sáng.
Làm thú nhồi bông: thỏ, gấu, cá heo, chim cánh cụt… Công đoạn chủ yếu là nhồi các thứ vào trong, khâu kín lại, dán mắt dán miệng cho con thú nhồi…
Điều kiện vệ sinh tại trại lao động
(1) Nhà tù Tuanhe, Bắc Kinh
Tôi bị nhốt cùng với hơn mười học viên Pháp Luân Công khác trong một phòng giam khoảng hơn 10 mét vuông. Chỉ có tám chiếc giường nhỏ trong phòng, vì vậy một số phải ngủ dưới sàn. Chúng tôi làm tất cả mọi việc trong một gian phòng ấy: lao động, ăn, uống và đi vệ sinh. Do vậy có rất nhiều ruồi muỗị Chúng tôi chỉ được phép ăn vào một số thời gian đã định. Phải tiết kiệm nước từng chút một vì rất thiếu nước. Cai tù không bao giờ cho phép chúng tôi rửa tay trước khi ăn. Sau khi ăn, chúng tôi phải quay lại lao động ngaỵ Hai ngày một lần, chúng tôi được dành ra 5 phút để làm vệ sinh cá nhân. Hết 5 phút, cai tù bắt chúng tôi phải dừng ngay để quay về phòng giam, và không được mang theo nước. Ai không hoàn tất công việc được giao sẽ bị cấm vệ sinh cá nhân. Do vậy, mọi người phải làm cho xong. Chúng tôi phải dậy từ sớm và làm đến khuya, không còn thời gian rửa ráỵ Có định ra một số thời điểm cố định để dùng toa-lét, nhưng ngay cả như vậy, cũng phải xin phép cai tù rồi mới được đị Mỗi lần như vậy được phép trong 2 phút. Vì thế, nhiều người không kịp đi nặng xong đã hết giờ. Chúng tôi chỉ được phép ngủ vào một thời gian nhất định. Nếu chưa đến giờ thì không được ngủ, chỉ có thể co ro lại nghỉ. Ban đêm, lính gác vẫn luôn canh chừng, và chúng tôi được cấp một cái bô để dùng vào đêm. Lính gác luôn coi xét cả khi chúng tôi ngủ.
Chúng tôi chỉ được phép ngủ rất ít, và bắt buộc lao động ngay từ khi mới mở mắt tỉnh dậỵ Tay của tôi bị nửt nẻ, rớm máu và rộp nhiều chỗ vì phải lao động cực nhọc nhiều giờ mỗi ngày làm đũạ Tôi thường phải làm tới nửa đêm. Chúng tôi không được ngủ khi chưa làm xong việc. Chúng tôi bị bắt ép làm 16 giờ đồng hồ mỗi ngàỵ Điều kiện vệ sinh cực kỳ thấp kém. Mặc dù trên bao bì của đũa ghi rằng sản phẩm đã được tẩy trùng, có thể dùng ngay xong rồi bỏ, nhưng thực ra toàn bộ quá trình sản xuất cực kỳ dơ dáỵ Chúng tôi không hề được rửa tay và những chiếc đũa được đóng gói ngay trên sàn. Nhà tù Tuanhe chỉ biết có tiền lời mà không xét gì tới yêu cầu vệ sinh của người tiêu dùng, và họ đã làm điều xấu này một cách ngang nhiên. Rất nhiều nhà hàng, khách sạn tại Bắc Kinh vẫn đang sử dụng loại đũa nàỵ Thậm chí đũa của Trung Quốc còn được xuất khẩụ
Nữ học viên Pháp Luân Công bị bắt làm các việc nặng nhọc. Chúng tôi bị bắt phải mang vác những thùng và bao hàng nặng cỡ 50 kg. Phải khuân vác chúng lên xe và xuống xẹ Chúng tôi bị bắt phải đào lỗ, trồng cây và chuyên chở phân bón. Cảnh sát cai ngục tuỳ tiện sử dụng nhân công tù nhân phục vụ để kiếm tiền bất chính. Chúng tôi bị bắt buộc lao động nhiều giờ mỗi ngày, nhưng không bao giờ nhận được một xu tiền công.
Lao động khổ sai thực chất đã khiến cả thể xác và tinh thần chúng tôi bị giam cầm. Cảnh sát ngăn cản không cho chúng tôi ngủ ngoài giờ được phép. Còn khi có việc thì chúng tôi phải làm ngày làm đêm để thoả mãn số lượng, chất lượng sản phẩm trong thời gian ngắn nhất.
Tất cả công việc trong trại cải tạo đều là lao động căng thẳng. Các học viên Pháp Luân Công phải làm việc đến nửa đêm trong ánh sáng mờ tốị Ai cũng phải hoàn thành công việc của mình. Nếu không xong phần việc được giao, thì không được ngủ, mà phải thức để làm cho xong. Một lần chúng tôi phải làm đồ khuyến mại cho hãng Netslé, đó là những tấm thêu và đan. Để thoả mãn thời hạn giao hàng, chúng tôi bị bắt phải làm ngay cả khi đi vệ sinh cho tới hai giờ sáng. Đôi lúc phải làm thâu đêm cho tới sáng. Họ không cho chúng tôi thời gian dù chỉ để suy nghĩ một cách cẩn thận mọi việc. Họ dùng lao động liên miên làm một phương pháp kiềm chế tư tưởng của tù nhân. Không còn thời gian suy xét, không còn thời gian để trao đổi với nhaụ Cảnh sát dùng những tội phạm nghiện hút để “chuyển hoá” và theo dõi các học viên Pháp Luân Công. Họ muốn chúng tôi biến thành những cỗ máy chỉ biết làm việc.
Mùa hè khi tới những hôm trời nóng, có một số tù nhân không chịu nổi nên đã ngất đị Nhiều học viên Pháp Luân Công đã phát bệnh như bệnh tim do làm việc quá sức. Thân thể bị biến dạng.
Tiến Sỉ WANG BIN
====
Wednesday, November 12, 2008
ĐỖ THÔNG MIMH * CÁCH VẬT TRÍ TRI
==
CÁCH VẬT TRÍ TRI
物格致知
===
Đỗ Thông Minh
Nhân lọai xuất hiện trên quả đất khoảng 500.000-700.000 năm trước, từ cái nôi Phi Châu rồi di dân đi khắp địa cầu. Những lớp người di dân ấy ngày càng văn minh lên, tìm được những nơi cư ngụ tốt đẹp hơn, trong khi “tổ tiên” của chúng ta ở lại giữ “đất tổ” vẫn đắm chìm trong tăm tối!!! Vì sao? Thử xét về “Cách Vật Trí Tri”.
Cách Vật Trí Tri:
1- Gọi tắt là Cách Trí tức “Tìm cứu cái nguyên lý của sự vật mà suy ra cái tri thức cùng cực”, ngày nay gọi các môn khoa học tự nhiên là cách trí (tự điển Đào Duy Anh).
2- Tìm tòi, nghiên cứu nguyên lý của sự vật mà tìm hiểu cái chân lý cùng cực (tự điển Nguyên Văn Khôn).
3- Nghiên cứu các vật để hiểu rõ lý lẽ (cách trí) (tự điển Hán-Việt Hiện Đại).
4- Ngày xưa người Nhật gọi môn Vật Lý là Cách Vật Học格物学 (tạp chí 明六 (Meiroku = Minh Lục) thời Minh Trị).
- - - - -
Ngôn dục chí ngô chi tri, tại tức vật, nhi cùng kỳ lý. (của Chu Hy, thời Nam Tống)
言欲至吾之知、在即物、而窮其理〔周煕〕
Lời nói, ý muốn cho tới hiểu biết của tôi, ở việc suy nghĩ về vật một cách cụ thể và hết lẽ.
Tiên trí kỳ tri, trí tri, tại cách vật. (sách Đại Học)
先致其知、致知、在格物〔大学〕
Trước hết để biết, biết tường tận là do biết nguyên lý sự vật.
Nhân giả kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí. (sách Lễ Ký)
人者其天地之徳、陰陽之交、鬼神之會、五行之秀氣〔礼記〕
Người là đức lớn của trời-đất, là giao điểm của âm-dương, là hội tụ của quỷ-thần, là nguyên khí của ngũ hành.
Thủ cách kỳ vật, nhi hậu tri trí. (của Nhan Nguyên, thời Thanh)
手格其物、而后知至〔顔元〕
Nắm vật bằng tay, và sau đó (quan sát để) biết đến nơi đến chốn.
Cách vật minh đức. (biểu ngữ trường đại học Hồng Kông)
格物明徳〔香港大学〕
Biết nguyên lý sự vật để làm sáng tỏ cái đức (hay đức của trời theo sách Đại Học).
- - - - -
Nói một cách giản dị hơn là:
“Tìm tòi cái nguyên lý sự vật để hiểu biết tường tận sự việc.”.
Tất nhiên, muốn biết, muốn tìm tòi cái lý thì trước hết phải học:
Nhân bất học bất tri lý.
人不学不知理
Cách Vật Trí Tri trong sách Đại Học là một tư tưởng có tính lý luận nhằm truy cầu khoa học hiếm hoi trong rừng tư tưởng vốn đặt nặng quan hệ nhân sinh của Nho Giáo. Nói nhiều về chữ Nhân (仁, chữ nhân với bộ nhân đứng イvà bộ nhị 二, có nghĩa là lòng nhân, nhân đức), chữ hiếu (孝, như trong Nhị Thập Tứ Hiếu), chữ văn (文, văn nhu dĩ giáo), trọng thi ca (詩歌), lễ nghĩa (礼義), Kinh Dịch (易経)…
Với một số khái niệm như:
- Thái cực (太極, khi trời đất chưa chia ra) –-> Lưỡng nghi (両儀, trời – đất) –-> Tứ tượng (四像, thái dương – thiếu dương – thái âm – thiếu âm) --> Bát quái (八卦, càn – khôn – khảm – ly – cấn - chấn – tốn – đoài) --> 64 Quẻ (卦) --> 384 Hào (爻).
- Tam tài (三才): Thiên – Địa – Nhân (天 - 地 - 人), trong quẻ có 3 vạch thì từ trên xuống dưới lần lượt là Thiên – Nhân – Địa, nhưng theo nguyên tắc của Dịch thì tính từ dưới lên trên là Địa – Nhân - Thiên.
- Nhân chi sơ tính bản thiện (人之始性本善) của Mạnh Tử, trong khi phái Pháp Gia cho rằng Nhân chi sơ tính bản ác (人之始性本悪).
- Nhân lễ nghĩa trí tín (仁礼義知信).
- Tiên học lễ hậu học văn (先学礼後学文).
- Tam tòng, tứ đức (三従四徳).
- Công dung ngôn hạnh (工容言行).
- Trung quân, ái quốc (忠君愛国).
- Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh (民為貴、社稷次之、君為軽, Dân là quý nhất, cơ đồ là thứ hai, vua là điều coi nhẹ.).
- Học - vấn – tư - biện – hành (学答思弁行) là 5 bước rèn kuyện chính từ “học” đến “hành” theo Khổng Tử.
Chu Hy (朱熹, Chu Hui, 1130-1200), một triết gia nổi danh đời Tống đã giải thích “cách vật” là “xét đến cái lý của sự vật, muốn cho những chỗ nhỏ nhặt đến đâu cũng hiễu được thấu đáo.”, vậy “cách” là “đến”.
Nhưng Vương Dương Minh (王陽明, tên huý là Thủ Nhân, 1472-1529), một quan văn kiêm quan võ, đặc biệt là một triết gia lừng danh thời nhà Minh thế kỷ 15-16, nhìn “Cách Vật Trí Tri” theo cách khác. Khi khám phá ra nhận thức mới, ông đã kêu rú lên và nhẩy nhót như khi Archimède khám phá ra sức đẩy của nước trong khoa thủy tĩnh học. Ông cho rằng “cách” là làm cho cái sự, cái ý trở thành “chính đáng”, tức làm điều thiện tránh điều ác. Nói khác đi, đạo lý chỉ ở trong tâm người ta mà thôi, nếu tìm ở sự vật là sai lầm. Ông cho rằng tâm là ý thức, là tính, là lý, là vật khi nói: “Chủ thể của thân là tâm, phát động của tâm là ý, bản thể của ý là tri, sở tại của tri là vật.”. Ông chủ trương “Trí Lương Tri” (至良知, đạt nhân đức hay nhân đức lớn), mà hệ quả của nó là "Tri Hành Hợp Nhất" (知行合一).
Năm 1505, Vương Dương Minh đưa ra thuyết “Tri Hành Hợp Nhất”, và phát huy thêm “Vạn Vật Nhất Thể“ (万物一体) có từ thời Lão Tử (thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái…) thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên và Chu Hy thế kỷ thứ 12 thời Nam Tống, tức là “Thiên địa vạn vật nhất thể”. Người ta thường hiểu “Tri Hành Hợp Nhất” là “biết và làm là hai vế đi đôi với nhau, hợp nhất với nhau”, nhưng thực ra theo ông: “Biết là Tri của Tâm, cảm xúc là Hành của Tâm, việc làm là thành tựu của Tri và Hành của Tâm.”. Tức Tri và Hành đều thuộc Tâm, hợp nhất trong Tâm, Tri và Hành là một, biết đã là làm rồi, vì biết sinh ra cảm xúc thì đó là làm. Ông nói rõ hơn qua thí dụ: “Mắt ta thấy sắc đẹp là thuộc về phần tri, bụng ta thích sắc đẹp là thuộc về phần hành. Phải biết ngay lúc trông thấy sắc đẹp, ta đã có ý thích rồi, không phải sau khi trông thấy rồi mới lập tâm để thích.”. Tóm lại:
Theo thông thường: Tri Hành
(nhị nguyên) knowledge work
Theo Vương Dương Minh: Tri+Hành Việc làm, Hành động
(tâm nhất nguyên) (thành tựu của Tri+Hành)
knowledge+work action, job in realty
(feel) in the mind
Ông cho rằng: "Bản thể của tâm là lẽ trời, sự nhận hiểu lẽ trời một cách sáng láng, linh diệu là lương tri." (Tâm chi bản thể tức thiên lí dã, thiên lí chi chiêu minh linh giác sở vị lương tri dã; Phụ lục). Ông là người soi sáng “Tâm Học” (心学), và tư tưởng của ông thành “Dương Minh Học” (阳明学).
Đồng thời đó, bên Âu Châu cũng có tư tưởng tương tự, tiếng Anh là Monistic theory bắt nguốn từ triết học Eleaticsim của Parmenides of Elea, một triết gia Hy Lạp khoảng thế ký thứ 5 trước Công Nguyên.)… tạo thành một cuộc cách mạng lớn sau quá trình 2.000 năm của Nho Giáo. Tư tưởng này đã giúp Nhật Bản duy tân cuối thế kỷ 19, đầu 20… Bốn câu cách ngôn về “Tâm” (心) của ông như sau:
Không thiện, không ác là cái thể của tâm.
Có thiện có ác là cái động của ý.
Biết thiện, biết ác là lương tri.
Làm thiện, bỏ ác lá cách vật.
Như vậy, “cách vật” tức đi tìm nguyên lý không chỉ đóng khung trong khoa học tự nhiên, mà cả bên khoa học nhân văn cũng có thể áp dụng.
Việc đi tìm một giải pháp nhằm giải quyết những vấn nạn trong văn hóa Việt như một số điều nhiều người đã nói tới và chúng tôi đã nêu ra trong loạt bài Tự Vấn, cũng đòi hỏi tinh thần triệt để trong quan sát, nhận thức, truy tìm ra quy luật chi phối. Khi đã nắm bắt quy luật, từ đó triển khai thành hướng đi và dùng giáo dục để phổ cập. Đó là động lực chính làm thay đổi tư duy, đưa dân trí và dân khí lên một tầm cao hơn, kịp với thời đại, đà tiến chung của nhân loại.
Trong phạm vi khoa học tự nhiên, phải chăng có lẽ nhờ cách vật trí tri mà người Trung Hoa đã khám phá ra Kinh Dịch và 5 phát minh lớn cho nhân loại là:
1- Kim chỉ nam (nam châm).
2- Thuốc súng.
3- Giấy.
4- Máy in.
5- Bàn tính…
Đông Phương từ xưa thực ra cũng đã có những quan niệm dân quyền: “Dân chi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là quý nhất, cơ đồ là thứ hai, vua là điều coi nhẹ.) của Mạnh Tử, “Ý dân là ý trời”, “Hội Nghị Diên Hồng” đời nhà Trần, “Phép vua thua lệ làng”... nhưng chưa được hệ thống hóa thành thể chế.
Có điều thật đáng tiếc vì rồi sau đó Nho Giáo đã bị chính trị lũng đoạn nên ngủ quên cả ngàn năm, đắm chìm trong từ chương, khoa cử, thi phú, bói toán…
Từ nam châm của Trung Quốc, Tây Phương khám phá ra từ trường, từ thông, từ ba, điện từ… áp dụng rộng rãi trong khoa học, kỹ thuật. Cũng như sau này người Hoa phải học lại từ Tây Phương kỹ thuật làm hỏa tiễn (vốn từ pháo thăng thiên của Trung Quốc), giấy, máy in, máy điện toán…
Trong khi đó, người Tây Phương vốn trọng “Chân - Thiện - Mỹ” (真・善・美), lại có thêm tinh thần “Tự Do – Bình Đẳng – Bác Ái” (自由・平等・博愛), qua thế kỷ 18 đã phát triển tư tưởng “Nhân quyền - Dân quyền” (人権・民権), lập thể chế “Dân Chủ - Cộng Hòa” (民主・共和).
Song song đó, với tinh thần duy lý, trọng khoa học, họ đã có những bước đi đôi hia bảy dặm, nhất là vào thời kỳ Khải Mông từ khoảng thế kỷ 16, 17 cũng như Cách Mạng Kỹ Nghệ thế kỷ 18, 19. Tuy không nói Cách Vật Trí Tri, nhưng tại sao người Tây Phương lại có tận dụng tinh thần ấy hơn cả người Á Đông?
7 trường hợp “Cách Vật Trí Tri” của Tây Phương
1- Sức đẩy của nước do Archimède khám phá ra.
Trong môi trường nước cũng vậy, ngày xưa người ta hiểu lờ mờ rằng vật nặng thì chìm, vật nhẹ thì nổi, tất nhiên không lý giải được những sự kiện như tại sao cái tàu sắt nặng lại nổi...
Nhà toán học kiêm vật lý học người Hy Lạp là Archimède (287-212 trước Công Nguyên), khi khám phá ra sức đẩy của nước trong bồn tắm tức nguyên lý vật nổi, mừng quá, ông quên cả mặc quần áo má chạy ra đường la toáng lên. Ngày nay người ta dùng tên ông để đặt cho đơn vị sức đẩy của nước.
Nhân nói về nước, nếu chúng ta có một cái ly/cốc có dung lượng đúng 200 cc, vậy chúng ta có thể đổ bao nhiêu nước vào đó? Đổ được 200 cc chăng? Thực tế chúng ta có thể đổ 200 + vài cc nữa, lý do là nước có sức căng/trương (張力, trương lực), nên mặt nước có thế phồng lên tới một giới hạn nào đó trước khi nuớc trào ra.
2- Quả đất vuông tròn
Theo quan niệm Đông Phương xưa thì mặt trời tròn và quả đất vuông. Còn Tây Phương thì có thuyết cho rằng quả đất là lưng con rùa và 4 chân rùa là 4 con voi bước đi trong không gian. Người đi tàu biển chắc chắn là thường xuyên thấy cảnh đường chân trời hơi cong, nhưng không thể ngờ là quả đất hình tròn. Vì nếu quả đất tròn thì người ta ở phần trên đứng suôi còn người ở phần dưới sẽ đứng ngược đầu sao? Sau này mới biết quả đất lớn và không gian vốn vô hướng nên người ta không có cảm giác ngược đầu. Có người còn sợ đi ra tới dìa thì có thể bị rơi xuống. Khi tàu thám hiểm Âu Châu tới vùng đất của người da đỏ thuộc Châu Mỹ đã đặt tên là India vì tưởng đã đến đất Ấn Độ thuộc Châu Á.
Quả đất quay quanh chính nó một vòng 24 giờ và quanh mặt trời một vòng hết 365,2564 ngày nên cứ 4 năm lại dư 1 ngày (năm nhuận, tháng 2 có 29 ngày). Sau này khoa học mới biết quả đất tròn và thực ra hơi phình ở giữa, hơi dẹp hai đầu nên bán kính ở xích đạo là 6.378,245 km và ở cực là 6.356,863 km, trục nó nghiêng 66 độ 33’ 20’’ nên vùng ôn đới ở bắc và nam bán cầu mới có 4 mùa, rồi trọng lực, từ trường, từ quyển, vòng ozone (O3). Từ đó mới phân chia đường xích đạo, múi giờ, định giờ chuẩn từ đường kinh tuyến Grennwitch đi ngang nước Anh, đường kinh tuyến đổi ngày giữa Thái Bình Dương, chia múi giờ… Vì vậy, đi theo hướng đông hay tây thì cuối cùng cũng sẽ trở về đến đích, đó là câu chuyện thám hiểm “72 Ngày Vòng Quanh Thế Giới”.
Nhân đây, xin nhắc về chuyện thời Hùng Vương, khi Tiết Liệu dâng Vua Cha bánh dầy tròn tượng trưng cho trời, bánh trưng vuông tượng trưng cho đất. Về mặt thực tế, ông là người gần gũi với nông dân, là thành phần chiếm đa số trong xã hội, và về mặt triết lý, đã chứng tỏ ông chính là người (nhân) đã nắm được quy luật của trời-đất (thiên-địa), là con người ý thức quan hệ trọng yếu tam tài “thiên-địa-nhân (天・地・人)”, xứng đáng để được truyền ngôi vị Vua, chăn dắt trăm họ.
3- Thiên Động Thuyết Địa Động Thuyết của Kopernik, Galilée
Hàng ngày con người nhìn lên trời, theo dõi sự chuyển động của mặt trời đều thấy mặt trời quay từ đông sang tây. Các nhân vật lừng danh như Triết Gia Aristote (384-322 trước Công Nguyên) người Hy Lạp, nhà Toán Học kiêm Thiên Văn Claude Ptolémée (85-165) người Ai Cập đều cho rằng quả đất là trung tâm không những của Thái Dương Hệ mà còn của cả vũ trụ nữa và nhân loại coi đó là chuyện đương nhiên khỏi cần bàn.
Thế mà sau này có nhà Thiên Văn Nicolaus Kopernik tức Copernicus (1473-1543) người Ba Lan không giống ai, nhận ra rằng không phải thế, đã chứng minh cụ thể bằng toán học rằng là mặt trời trung tâm, quả đất quay quanh mặt trời chứ không phải mặt trời quay quanh quả đất nhưng không ai tin.
Và ông Galilée tức Galileo Galilei (1564-1642), một nhà Thiên Văn người Ý lại quả quyết quả đất quay quanh mặt trời. Ông đã bị đả kích nặng nề, kể cả đưa ra tòa vì sự chứng minh rất khó khăn trước thực tế biểu kiến hiển nhiên ai cũng thấy. Như khi chúng ta ngồi xe điện, thấy những cột điện hai bên đường như chạy lùi, ai cũng biết không phải cột điện chạy mà xe điện chạy. Nhưng trong một quy mô nhỏ thì dễ nhận ra, còn quy mô lớn thì rất khó mà biết được. Sau này khoa học tiến bộ hơn, nhân loại mới dần dần chấp nhận một sự kiện coi như nghịch lý quá lớn như vậy.
Mặt trời cũng tự quay quanh chính nó 1 vòng mất 10 ngày, gọi là tuần (旬) nên mới có thượng, hạ, trung tuần, bình thường người Việt coi 1 tuần là 7 ngày. Cả Thái Dương Hệ lại quay quanh một ngân hà. Và hàng tỷ ngân hà lại quay quanh những trục nào đó… mà khoa học chưa xác định được. Vũ trụ từ đâu, một vụ nổ lớn (big bang)? Đi về đâu sau tiến trình dãn nở - co rút 4,5 tỷ năm, hình dáng như thế nào, nếu có hình dáng thì tất có biên giới, nếu có biên giới vậy ngoài biên giới đó là gì, có còn là vũ trụ không? Nếu còn thì biên giới vừa nói chưa phải là biên giới? Nếu không thì nơi đó là gì? Ngay cả cái vật chất nhỏ nhất như “hạt cơ bản” là cái gì, hình dáng ra sao…? Đó là những câu hỏi lớn của nhân loại mà khoa học vẫn chưa trả lời rõ ràng được.
4- Vạn vật hấp dẫn hay câu chuyện Newton nằm dưới gốc thấy quả táo rơi…
Trước đó, cả nhân loại vẫn nghĩ đơn giản mọi vật nặng tức có trọng lượng thì rơi xuống, tuy rằng có một số hiện tượng không giải thích được như bong bong bay thì cho là tại nó nhẹ, con chim tuy nặng nhưng có cánh nên bay được… Không ai tưởng tượng có một sức hút vô hình nào đó đang chi phối vạn vật, đó là sức hấp dẫn.
Nhà Thiên Văn Học, Toán Học Newton sir Isăc (1642-1727), một hôm nằm dưới gốc táo, thấy quả táo rơi, ông chợt khám ra ra sở dĩ quả táo rơi không phải vì nó nặng mà vì quả đất hút nó. Tất nhiên nó cũng hút quả đất, nhưng vì sức nó yếu nên bị kéo về phía quả đất.
Nếu chúng ta để 2 khối nam châm lớn nhỏ gần nhau, khối lớn sẽ hút khối nhỏ. Sau này người ta biết rằng mọi vật có trọng lương đều có sức hút, nhưng vật nhỏ có sức hút rất yếu nên chúng ta không thấy tác dụng của nó.
5- Hằng số bí ẩn Pi = 兀
Số Pi (兀) tiềng Hán là viên chu suất (円周率), là một con số toán học rất lạ lùng, đầy bí ẩn, một hằng số trong quan hệ giữa chu vi vòng tròn và đường kính. Pi = 1,14,159… Cứ lấy đường kính nhân với số Pi thì ra chu vi, vì thế được gọi là hằng số. Người Ai Cập tìm ra con số Pi đã tài tình rồi, làm sao biết chính xác là bao nhiêu, đo đạc như thế nào mà biết những số lẻ bất tận phía sau?
Thật vậy, Pi là một con số với hàng số lẻ không bao giờ chấm dứt, tức là “vô tận”.
Nhớ Hàng Số Pi!!!. Ở trường học thường viết gọn là 3,1416, nhưng thực ra là 3,14159265352230690612949... dài bất tận, không ai nhớ nổi. Máy điện toán ở Nhật đã tính ra được khoảng hàng số và tất nhiên còn nữa!
Người ta dùng gọn là 3,1416 vì không ai nhớ nổi những con số lẻ vô nghĩa ở phía sau. Thế mà trong tháng 7/2005, có người Nhật là ông Akira Haraguchi (Nguyên Khẩu Chứng, 59 tuổi, người tỉnh Chiba) tìm cách nhớ, thật là một chuyện đáng kinh ngạc, không tưởng tượng nổi. Ông trở thành người có khả năng nhớ nhiều hàng số Pi nhất thế giới (記憶術/円周率世界一), mặc dù thời đi học ông chỉ có thành tích rất tầm thường.
Bí quyết nhớ của ông là thay vì nhớ những con số vô hồn, ông đã đặt cho những con số những âm trong bảng 48 ký tự của Nhật, từ đó làm thành một bài thơ dài, với vần điệu và có ý nghĩa.
Thí dụ: Số 0 mang những âm: ra, ri, ru, re, o, on
Số 1 mang những âm: a, i, u, e, hi, an...
Các số lẻ đầu: 1415926535 sẽ thành câu "Anshin unto kuni moto satta, = Đã được an tâm rời đất nước,".
Các số lẻ kế tiếp: 2230690612949 sẽ thành câu "Fuyu sora nukeru mo utsukushiku. = Dù xuyên qua bầu trời mùa đông thì cũng đẹp.".
Ngày 25/9/2004, ông đã đọc thuộc lòng trong 8 giờ 40 phút đồng hồ hết 54.000 hàng số Pi!!! Trong thời gian đó, ông chỉ uống nước và ăn một miếng cơm nắm.
Qua tháng 7/2005, ông đã đọc thuộc lòng 83.431 hàng số, trong khi coi như trung bình nhân loại chỉ nhớ độ 5 hàng số!!!
Ông vốn là con cháu nhà sư, từng sống ở chùa, từ nhỏ ông đã có dịp làm quen với với các sách tôn giáo và triết học, làm cho ông cảm được sự thâm sâu và vĩnh viễn... Mười năm trước, khi làm việc tại một công ty chế tạo đồ điện, ông bắt đầu mê mải trong việc tìm cách nhớ số Pi mà ông cho là "Hợp với tính cách của mình" và ông đã dùng lối "liên tưởng" từ số ra âm để kết hợp thành thơ... Nói vậy chứ bây giờ ông đã chỉ cách nhớ rồi, liệu có ai nhớ được từng ấy câu thơ và khi đổi ra số mà không bị nhầm chăng?
6- Khám phá ra điện, điện là gì?
Điện hiện diện trong thiên nhiên, dưới hình thức sét, cọ sát hay tĩnh điện… Người xưa khi sờ vào một vật gì mà bị điện giật, chắc người ta cho là vật ấy có ma! Một ngày kia khoảng 600 năm trước Công Nguyên, người ta khám phá ra hiện tượng “điện” và rồi ông Benjamin Franklin (1706-1790), Alessandro Volta (1745-1827), André Ampère (1775-1836), Michael Farraday (1791-1867), William M. Furedy (sáng chế ra mô-tơ điện Hoa Kỳ)… khai sáng thêm, tự chế ra máy phát điện bằng mô-tơ, quạt gió, máy nổ, nhiệt điện, thủy điện, nguyên tử… cũng như pin, pin nhiệt điện, tế bào quang điện...
Và song song đó khoa học mới biết sở dĩ có hiện tượng điện là do sự di chuyển của điện tử nằm ở vòng ngoài các nguyên tử (điện tử có hướng), từ nguyên tử này sang nguyên tử kia, trong môi thể như dòng điện đã tạo ra dòng điện chạy ngược chiều. Và dòng điện quấn trong một lõi kim thuộc cũng có thể sinh ra từ trường… Ngày nay cụôc sống tươi sáng của 99,99% nhân lọai chính là nhờ vào điện, mà đơn giản là sự di chuyển của các điện tử trong dòng điện. Tốc độ điện tử truyền trong dây đồng khoảng 1.600 km/giây, nhưng điện tử quay quanh nhân với vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng, tạo thành “lớp vỏ” quanh nhân.
7- Quan hệ giữa vật chất và năng lượng
Nhà Vật Lý Học Albert Einstein (1879-1955) người Thụy Sĩ gốc Đức, thiên tài khoa học của cả nhân loại, qua thuyết lượng tử ông đã viết ra công thức E = mC2.
E: năng lượng
m: vật chất
C: tốc độ ánh sáng.
Công thức thật thần tình này cho chúng ta thấy ông đã nhìn ra quan hệ giữa vật chất, năng lượng và ánh sáng. Chỉ một khối lượng vật chất nhỉ khi nhân với vận tốc ánh sáng 300.000 km/giây bình phương sẻ cho ra một nặng lượng rất lớn và điều này đã được chứng minh qua kết quả thử nghiệm bom nguyên tử.
Bom A, dùng nguyên liệu Uranium 235 hay Plutonium và áp dụng phản ứng phân liệt.
Bom H (Hydrogen), dùng nguyên liệu H2 và áp dụng phản ứng kết hợp tạo ra H3 (đồng vị) và nặng lượng lớn gấp hàng trăm lần bom A. Bom A mới chỉ là ngòi nổ của bom H…
- - - - -
Còn nhiều, rất nhiều những khám phá độc đáo như vậy. Chính sự cách vật trí tri trên và nhiều khám phá những quy luật thiên nhiên khác đã làm thay đổi cả văn minh của nhân lọai, đưa lên tầm mức ngày càng cao hơn.
Sự nhầm lẫn ngây thơ của nhân loại thời đại này!
Sự khôn ngoan của nhân loại tức chỉ chung trí khôn của loài người đã đưa nhân loại tới những xã hội văn minh hiện nay, nhưng trong quá trình tiến bộ đó, tuy nhiên còn nhiều điều chưa hiểu cặn kẽ và đôi khi cũng có một số sai lầm rất sơ đẳng.
1- Nhầm lẫn trong việc nhân bản hay sao chép người
Khi y học cho thấy có thể sản xuất hàng loạt con người trong phòng thí nghiệm qua phương pháp thụ tinh vô tính hay tế bào và trứng (cloning)… Một số giới khoa học đã vội vã cho là có thể sản xuất hàng loạt người hoàn toàn giống nhau gọi là “copy human”.
Thực tế cho thấy, các lạp tử là thành phần nhỏ nhất (hạt cơ bản) trong nguyên tử luôn luôn ở một trạng thái bất định giữa vật chất và năng lượng, biến đổi liên tục giữa hai trạng thái đó. Vị bất định nên tự nó không có trạng thái nhất định, và vì vật không có lạp tử thứ 2 nào giống nhau. Lạp tử còn không giống nhau, thì nguyên tử không giống nhau, do đó, không thể có hai tế bào hay sinh vật hoàn toàn giống nhau. Chưa kể mọi vật chất hay sinh vật trong vũ trụ, dù chỉ ra đời trước sau 1 sát na, 1 phần tỷ giây đi nữa thì yếu tố thời gian rất ngắn ngủi đó cũng đủ làm cho hai vật chất trở thành khác nhau. Còn sau này tồn tại với thời gian thì sẽ bị biết bao yếu tố khác thuộc môi trường làm cho thay đổi, như con người do dinh dưỡng mà cơ thể khác nhau, do học vấn mà nhận thức khác nhau…
2- Nhầm lẫn về sóng nước có đi tới hay không?
Khi nhìn sóng nước, chúng ta thấy sóng di động lên xuống và di chuyển ngang, nhưng có một số nhà khoa học cho rằng sóng nước chỉ nhấp nhô lên xuống chứ không di chuyển ngang tức không đi tới, đặc biệt là khi thí nghiệm tạo sóng với cố thể như một sợi dây hay lò xo... thì thấy rõ sợi dây và lò xo không hề đi tớị
Nhưng cuối cùng thì khoa học phải công nhận là với dịch thể hay nói rõ hơn là môi thể lỏng thì sóng có đi tới nên mới trôi dạt các thứ nổi trên mặt nước vào bờ, tuy rất chậm so với tốc độ của sóng. Khoa học tính ra tốc độ sóng bằng số chấn động nhân với chiều dài sóng: v = fλ và chu kỳ sóng: T = 1/f.
Thí dụ sóng của âm thoa hình chữ "Y" (dùng điều chỉnh âm thanh):
- Số chấn động: 400
- Chiều dài sóng: 70 cm
- Tốc độ sóng: 70 x 400 = 28.000 cm = 280 mét/1 giâỵ
Đặc biệt là với sóng từ, thì sóng cũng đi tới nên có thể ứng dụng tạo động cơ bằng điện từ. Cấu tạo động cơ điện từ gồm một đế hình vành trụ bằng thép có cơ năng đặc biệt tạo ra sóng từ xoay tròn trên mặt, bên trên để một hình vành trụ khác bằng thép có điện từ đồng cực với đế nên đẩy nhau làm cho trụ này được nâng bổng lên. Khi đế tạo ra sóng điện từ thì vành trụ thép bên trên xoay theo chiều sóng, đó là động cơ điện từ, đặc biệt là không bị ma sát, khác hẳn với động cơ nổ hay động cơ điện thường thấỵ
Thêm nữa, có chắc là mũi nhọn rẽ sóng nước tốt nhất chăng? Các tàu, nhất là tàu chiến đều làm mũi càng nhọn càng tốt để chạy được nhanh, nhưng sao nhiều tàu lớn như tàu dầu thường thấy có cục u tròn lớn ở mũỉ Người Nhật đã thí nghiệm và thấy rằng cục u tròn đó đã rẽ sóng tốt hơn và giúp cho tàu đi nhanh hơn là mũi nhọn thuần túy. Thế mới lạ!
3- Nhầm lẫn về ánh sáng truyền theo đường thẳng? Màu sắc có được là tự thân của vật?
Ai cũng biết ánh sáng mặt trời tức ánh sáng thiên nhiên hay ánh sáng trong suốt không màu (vô sắc) là một tổng hợp bao gồm 7 màu, từ màu tím đền màu đỏ tím. Mắt chúng ta thấy ánh sáng truyền theo đường thẳng tắp nhưng thực ra bằng dạng sóng hình sin (〜) cực nhỏ (trung gian giữa vật chất và năng lượng), với độ dài sóng λ trong khoảng 380-780 nm (nano mét = 1/1.000.000 mili mét), như thấy qua lăng kính khúc xạ hay ánh sáng cầu vồng. Trong đó có 3 loại ánh sáng chính là đỏ, xanh và vàng tức không bao gồm 2 màu ở biên như tím và đỏ tím…, như thường thấy trên ống phóng hình của TV hay thêm màu đen (không có trong 7 màu tạo ra ánh sáng thiên nhiên) như thường thấy trong việc phân hình màu thành 4 hay 5 màu riêng biệt và sau đó khi in chồng nhau tức tổng hợp lại trong ấn loát.
Độ Dài Sóng Của Ánh Sáng 光の波長
Độ dài sóng
波長
(nm) 10~
380 380~430 430~460 460~500 500~570 570~590 590~
610 610~780 780~ 1mm
Màu
色彩 Tia
tử
ngoại
紫外線 Tím
xanh
青紫 Xanh dương
青 Dương lục
青緑 Lục
緑 Vàng
黄 Cam
オレ
ンジ Đỏ
赤 Tia
hồng ngoại
赤外線
Màu tím tiếng Hán-Việt là “tử”, nên mới có từ “tử ngoại tuyến” (紫外線) tức “tia tử ngoại”, là loại tia có độ dài sóng ngắn 10-380 nm, và màu đỏ tiếng Hán-Việt là “xích”, hay “hồng” nên mới có từ “xích ngoại tuyến” (赤外線) hay “hồng ngoại tuyến” (紅外線) tức “tia hồng ngoại”, là loại tia có độ dài sóng dài 780 nm-1 mm mà mắt thường của người ta không thể thấy được, nhưng máy hình dạng số (digital camera) có thể chụp được.
Thí dụ chúng ta thấy một vật màu đỏ, nhưng nếu bỏ vật đó vào trong phòng tối thi không thấy gì nữa hết. Tại sai vậy? Tất nhiên tại vì không có ánh sáng. Bây giờ chiếu ánh sáng bình thường vào vật, nhưng nếu chúng ta lọc bỏ màu đỏ (độ dài sóng 610-780 nm) và các màu tương cận đi thuộc biên của tia tử ngoại hay tia hồng ngoại, thì vật đó sẽ không còn là màu đỏ nữa mà là màu rêu đậm, tức màu liên kết giữa màu xanh lá cây và vàng. Như vậy thực ra vật không mang màu hay phát ra màu mà mang cấu tạo bề mặt có độ phản xạ sóng khác nhau, màu thấy được là do phản xạ ánh sáng thiên nhiên mả ra.
Cũng xin lưu ý là cần phân biệt ánh sáng thiên nhiên là ánh sáng trong suốt không màu và ánh sáng màu trắng (như tuyết hay sữa). Ánh sáng không màu (vô sắc) trong suốt là kết hợp từ ánh sáng 7 màu khác như nói trên, nhưng sơn màu trắng (hữu sắc) không phải là kết hợp từ sơn 7 màu khác. Nếu chúng ta lấy sơn 7 màu trên trộn với nhau thì chúng ta sẽ có màu gì? Chúng ta sẽ không có màu vô sắc như ánh sáng thiên nhiên, nhưng cũng không có màu trắng tuyết hay sữa, mà có màu đà, tức màu tro, là màu vải các tu sĩ Phật Giào hay mặc. Trên thực tế, để thể hiện ánh sáng không màu (vô sắc) thuần tuý trong suốt, không thể dùng sơn màu hay vật liệu màu (hữu sắc) trong thiên nhiên để tạo ra. Chỉ có thể hội tụ 7 loại ánh sáng trên mới có thể tao ra ánh sáng vô sắc trong suốt.
Đặc biệt, âm thanh không phải tự chúng có thể truyền tới giác quan của chúng ta, mà truyền được là nhờ có một môi thể nào đó. Như trong hạ tầng không gian có không khí gồm oxygen (O) và nitrogen (N)…, ở trên thượng tầng không gian, coi như trống không, không có môi thể nào thì người ta sẽ không nói chuyện trực tiếp với nhau được. Có thể thử nghiệm bằng cách để một chiếc đồng hồ trong lồng kính, chúng ta nghe thất tiếng tích tắc, nhưng nếu hút hết không khí ra, chúng ta sẽ không còn nghe thấy gì nữa hết.
Như vậy, khi nói tới tốc độ truyền cũng còn tùy thuộc vào môi thể. Tốc độ sóng của âm thanh trong không khí là 340 mét/giây hay 1.224 km/giờ, trong nước là 1.500 mét/giây, trong thép là 6.000 mét/giây. Điện, tức điện tử truyền từ nguyên tử này sang nguyên tử kia, tạo ra dòng điện ngược chiều trong dây đồng rất nhanh, khoảng 1.600 km/giây, nhưng điện tử quay quanh nhân với vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng. Còn ánh sáng truyền trong không gian là nhanh nhất, lên tới khoảng 300.000 km/giây, nhanh gấp khoảng 200 lần điện.
4- Nhầm lẫn về thời gian khi bước qua thiên niên kỷ mới
Có lẽ khi nhân lọai bước qua thiên niên kỷ thứ 2 vào 1.000 năm trước cũng đã có sự nhầm lẫn như khi bước qua thiên niên kỷ thứ 3 mà tất cả người thời nay đều đã chứng kiến.
Đêm ngày 31/12/1999 bước qua ngày 1/1/2000, hầu như khắp nơi trên địa cầu, nhân loại đã hân hoan tổ chức lễ hội ăn mừng thiên niên kỷ mới, trịnh trọng đón chờ và coi giây phút bước qua ấy rất thiêng liêng... Trong khi đó, thực ra là vẫn còn ở thế kỷ 20.
Thực vậy, phải là đêm ngày 31/12/2000 bước qua ngày 1/1/2001, thì mới thực sự bước qua thế kỷ 21 và như vậy mới bước qua thiên niên kỷ mới, thiên niên kỷ thứ 3. Thế mà thời điểm này thì hầu hết nhân loại lại thờ ơ, nếu có tổ chức cũng chỉ là lễ hội nhỏ, một thứ “nhị hỷ” trong đám cưới thôi.
Cho tới nay mà nói ra điều ngày chắc hẳn là còn có rất nhiểu người vẫn chưa đồng ý, vẫn khăng khăng ngày 1/1/2000 là đã bước qua thiên niên kỷ thứ 3 rồi.
Để cho dễ hiểu, xin lấy thí dụ chúng ta có 21 tờ giấy 100 đồng.
- Khi chúng ta tiêu 1999 đồng rồi tiêu thêm đồng kế là đồng thứ 2000 thì mới chỉ dùng tờ tiền giấy thứ 20. Nếu nói về thời gian, thì là năm 2000, thế kỷ 20, thuộc thiên niên kỷ thứ 2.
- Khi chúng ta tiêu 2000 đồng rồi tiêu thêm đồng kế là đồng thứ 2001 thì mới dùng tới tờ tiền giấy thứ 21. Nếu nói về thời gian, thì là năm 2001, thế kỷ 21, thuộc thiên niên kỷ thứ 3.
Như vậy nhân lọai đã nhầm cả nguyên 1 năm. Thôi thì đã có “đồng hồ cơ thể”, thì đây là “đồng hồ nhân loại” với sai số 1/1.000 năm cũng nên coi là sai số nhỏ, có thể bỏ qua chăng? Nhân loại với hơn 6 tỷ người mà sai, nên hơn bao giờ hết tất cả cùng hùa với nhau bỏ qua cho vui vẻ “cả làng”, à quên “cả địa cầu”!
5- Người Việt, Hoa, Nhật nhầm lẫn về con giáp, và người Việt nhầm một số từ?
Âm lịch có 10 can và 12 chi, kết thành 1 chu kỳ 60 năm gồm Giáp Tý, Ất Sửu… gọi là một hội (chu kỳ Tây Lịch là 28 năm), là 5 lần Thổ Tinh (土星), 2 lần Mộc Tinh (土星) quay quanh Mặt Trời tức Thái Dương (太陽), cũng như 12 con giáp. Tại sao gọi là “hội”? Là vì đặc biệt vào đầu chu kỳ này thì 5 sao Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ tuy quay theo những quỹ đạo khác nhau nhưng đều dồn (hội) về một phía.
Rất nhiều người thường nghĩ năm Đinh Hợi (丁亥) 2007, thì "hợi" là con lợn/heo, thực ra "hợi" là chi (支) không phải con giáp (甲) và là giờ thứ 12 trong: tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Còn trư (猪) hay đồn (豚, lợn/heo con) mới là lợn/heo như “Trư Bát Giới” trong Tây Du Ký. Trong vòng tròn 12 cung, 12 chi này cùng cung giác với 12 con giáp chứ không phải là 12 con giáp. So với bảng 12 con giáp thì "thìn" (辰) tương đương với con rồng chứ long (龍) mới thực là "con rồng", "tý" (子) tương đương với "con chuột" chứ thử (鼠) mới thực là "con chuột" hay "dần" (寅) tương đương với "con cọp", chứ "hổ" (虎) mới thực là "cọp..". Theo lối tính giờ của Trung Hoa và Việt Nam xưa thì một ngày có 12 giờ, giờ "tuất" tương đương với thời gian 7 đến 9 giờ tốị Chúng ta thường nghe câu: "Nửa đêm giờ tý canh ba". Giờ tý là 11 giờ đêm tới 1 giờ sáng, giờ sửu là 1 đến 3 giờ sáng. Còn ngọ (午) là 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều, chính ngọ (正午) là đúng 12 giờ trưa.
Đồ biểu 10 can, 12 chi, 5 hành và 12 con giáp
Người Hoa và Nhật cũng dùng 12 con giáp nhưng có 4 con khác với Việt Nam, do sự nhầm lẫn hay cố tình Việt Nam hóa đi cho nó gần gũi hơn:
Sửu cùng cung giác với Ngưu = Bò Trâu (thực ra là Thủy ngưu)
Mão/Mẹo cùng cung giác với Thỏ/Thố Mèo
Mùi cùng cung giác với Dương = Cừu Dê
Hợi cùng cung giác với Trư = Heo rừng Heo nhà
- - - - -
Xin nói thêm
Có điều chắc là hầu hết người Việt đã nhầm lẫn khi viết sai từ dịch chữ “The United States o America”:
Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ (合衆国華旗) - Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ (合種国華旗) (sai)
- Nghĩa là hợp các nước - Một liên bang, chứ tên một quốc gia không bao giờ nói tới yếu tố chủng tộc. Trường hợp này đọc là “Hiệp Chúng Quốc” cũng không hẳn là đúng vì đã có chữ hiệp (協).
- Các từ điển Hán-Việt và Việt-Hán đều viết đúng, nhưng các từ điển tiếng Việt mới tại Việt Nam như Đại Từ Điển Tiếng Việt của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, hay Tự Điển Bách Khoa Việt Nam… hầu hết viết sai.
Vô hình trung (無形中) - Vô hình chung (sai)
Lãng mạn (浪漫) - Lãng mạng (sai)…
- - - - -
Trên đây chúng tôi chỉ nêu lên một vài sự kiện… như một gợi ý chung.
Mục đích là cùng nhau chia sẽ, quan tâm triệt để hơn tới những sự kiện chung quanh, tận lực làm việc theo chiều hướng thượng để cùng giúp nhau vươn lên.
- - - - -
Phụ Lục (trích Bách Khoa Toàn Thư VN):
VƯƠNG DƯƠNG MINH:
Vương Dưong Minh (王陽明, Wang Yangming); tên thật: Vương Thủ Nhân (王守仁, Wang Shouren); 1472-1528, nhà chính trị, một vị Tướng bách chiến bách thắng (nhưng nhất định từ chối không đem quân đánh An Nam) và là triết gia nổi tiếng đời Minh (明, Ming), Trung Quốc. Quê tỉnh Chiết Giang (浙江, Zhejiang). Từng dựng nhà ở động Dương Minh, gần Hàng Châu (杭州, Hangzhou) để dạy học, nên được gọi là Dương Minh tiên sinh. Về mặt triết học, Vương Dương Minh theo tâm học của Lục Cửu Uyên (陸九淵, Lu Jiuyuan, 1139-1192) coi tâm, đạo và trời là một, nếu hiểu rõ "tâm" (bản thể của tâm), thì cũng hiểu được đạo và trời (tâm tức đạo, đạo tức thiên, tri tâm tất tri đạo tri thiên). Vương Dương Minh là tập đại thành của tư tưởng duy tâm chủ quan ở Trung Quốc. Ứng dụng tâm học về mặt đạo đức, Vương Dương Minh chủ trương "trí lương tri" và "tri hành hợp nhất". "Trí lương tri" (thực hiện triệt để điều hiểu biết tốt lành), vì lương tri là điểm sáng của lòng người, đó cũng là lẽ trời (thiên lí): "Bản thể của tâm là lẽ trời, sự nhận hiểu lẽ trời một cách sáng láng linh diệu là lương tri" (Tâm chi bản thể tức thiên lí dã, thiên lí chi chiêu minh linh giác sở vị lương tri dã; Phụ lục).
Thuyết "trí lương tri" của Vương Dương Minh kế tục ý niệm "lương tri lương năng" của Mạnh Tử (Mengzi), nhấn mạnh "trí" (thực hiện triệt để). Hệ quả của "Chí lương tri" là "Tri hành hợp nhất". Vương Dương Minh bản thân không có trước tác, nhưng những điều giảng dạy của ông đã được học trò ghi lại thành sách với tên "Ngữ lục", "Văn lục", "Biệt lục", "Phụ lục"v.v..., gồm 38 quyển với tên "Vương Văn Thành Công toàn thư" (Văn Thành Công là tên do vua nhà Minh phong tặng). Học thuyết Vương Dương Minh đã có ảnh hưởng lớn ở khoảng giữa triều đại nhà Minh, về sau truyền sang Nhật Bản, đã tác động không nhỏ tới phong trào Duy Tân của nước này.
- - - - -
Trích bài “TÂM PHÂN BIỆT” (Diễn Đàn Phật Giáo)
Vấn đề là ở chỗ một khi đã có phân biệt rồI (tức là chuyện bắt buộc một khi đã xử dụng ý nghĩ) thì làm sao biết được đâu là đúng, đâu là sai, (tạm gọi là Thiện và Ác) để mà làm theo???
Cái đó trong PG gọi là Trí Tuệ Bát Nhã .
Về chuyện “phân biệt” này, không ai nói rõ và chính xác hơn Vương Dương Minh, một danh nho đời Minh:
Vô thiện vô ác thị tâm chi thể
Hữu thiện hữu ác thị ý chi động
Tri thiện tri ác thị lương tri
Vi thiện khử ác thị cách vật
Dịch:
Không Thiện không Ác là thể của Tâm
Có Thiện có Ác là sự động của Ý
Biết Thiện biết Ác là LƯƠNG TRI
Làm Thiện bỏ Ác là cách vật
Bản thể của Tâm thì tuyệt đối không có gì là Thiện Ác phân biệt ở trong đó (đây là vườn Địa Đàng của Đức Chúa Trời đó. Sự Thiện Ác chỉ có khi có sự khởi động của Ý (Adam và Eva ăn trái cây Phân Biệt. Tuy nhiên trong Tâm con người luôn luôn có một yếu tố mà VDM gọi là Lương Tri và PG gọi là Trí Tuệ Bát Nhã (Cơ Đốc Giáo gọi là Chúa Thánh Linh ?) luôn luôn biết đâu là đúng, đâu là sai trong mọi trường hợp để biết theo đó mà ứng xử.
Tất cả “nghệ thuật” là làm sao nhận biết ra cái Lương Tri này, VDM gọi là “Trí Lương Tri” (biết cái Lương Tri)
Mục tiêu của sự tu hành cũng là để thấy cái LT nàỵ
Vài trích đoạn trong Nho Giáo của Trần Trọng Kim, tr. 245:
“Có cái tâm học, thì cứ theo cái Chiêu Minh Linh Giác của tâm mà hành động, chứ không câu nệ gì cả. Dương Minh thường nói rằng: "Học là quí cái được ở tâm. Tìm ở tâm mà không phải, thì dẫu lời của Khổng Tử nói ra, không dám lấy làm phảị. Tìm ở tâm mà phải, thì dẫu lời của kẻ tầm thường nói ra, không dám lấy làm trái". Sự học đã chủ ở tâm như thế, thì rất là ung dung hoằng đại, không câu nệ điều gì, và không cố chấp học thuyết nào, hễ có điều phải là theo.”.
Có người hỏi rằng:
- Đạo Nho và đạo Phật khác nhau thế nào ?
Dương Minh nói rằng:
- Không nên tìm cái đồng cái dị của đạo Nho, đạo Phật, tìm CÁI PHẢI mà học là được vậy .
- Thế thì phải với trái biện biệt ra làm sao?
- Tìm ở Tâm MÀ YÊN là phải.
Tr. 253:
Dương Minh dẹp xong cái loạn Thần Hào rồi, lại bị những kẻ gian thần tìm đủ cách để làm hại, thế mà ông cứ điềm nhiên ở cái Lương Tri, không hề lo sợ chút gì cả. Sau khi việc ấy yên rồi, ông viết thư cho người ta, nói rằng: "Cận lai tìm được ba chữ "Trí Lương Tri", thật là Chánh Pháp Nhỡn Tàng của thánh môn. Mấy năm trước còn cái ngờ chưa hết, nay nhân có nhiều việc, chỉ có cái Lương Tri ấy mà không có cái gì là không đủ, ví như đi thuyền nắm được cái tay lái, đi qua chỗ phẳng, chỗ sóng, chỗ nông, chỗ sâu, không đâu là không vừa ý, tuy gặp sóng gió, nhưng nắm được tay lái, thì khỏi được cái lo phải chìm đắm vậy"...
==
CÁCH VẬT TRÍ TRI
物格致知
===
Đỗ Thông Minh
Nhân lọai xuất hiện trên quả đất khoảng 500.000-700.000 năm trước, từ cái nôi Phi Châu rồi di dân đi khắp địa cầu. Những lớp người di dân ấy ngày càng văn minh lên, tìm được những nơi cư ngụ tốt đẹp hơn, trong khi “tổ tiên” của chúng ta ở lại giữ “đất tổ” vẫn đắm chìm trong tăm tối!!! Vì sao? Thử xét về “Cách Vật Trí Tri”.
Cách Vật Trí Tri:
1- Gọi tắt là Cách Trí tức “Tìm cứu cái nguyên lý của sự vật mà suy ra cái tri thức cùng cực”, ngày nay gọi các môn khoa học tự nhiên là cách trí (tự điển Đào Duy Anh).
2- Tìm tòi, nghiên cứu nguyên lý của sự vật mà tìm hiểu cái chân lý cùng cực (tự điển Nguyên Văn Khôn).
3- Nghiên cứu các vật để hiểu rõ lý lẽ (cách trí) (tự điển Hán-Việt Hiện Đại).
4- Ngày xưa người Nhật gọi môn Vật Lý là Cách Vật Học格物学 (tạp chí 明六 (Meiroku = Minh Lục) thời Minh Trị).
- - - - -
Ngôn dục chí ngô chi tri, tại tức vật, nhi cùng kỳ lý. (của Chu Hy, thời Nam Tống)
言欲至吾之知、在即物、而窮其理〔周煕〕
Lời nói, ý muốn cho tới hiểu biết của tôi, ở việc suy nghĩ về vật một cách cụ thể và hết lẽ.
Tiên trí kỳ tri, trí tri, tại cách vật. (sách Đại Học)
先致其知、致知、在格物〔大学〕
Trước hết để biết, biết tường tận là do biết nguyên lý sự vật.
Nhân giả kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí. (sách Lễ Ký)
人者其天地之徳、陰陽之交、鬼神之會、五行之秀氣〔礼記〕
Người là đức lớn của trời-đất, là giao điểm của âm-dương, là hội tụ của quỷ-thần, là nguyên khí của ngũ hành.
Thủ cách kỳ vật, nhi hậu tri trí. (của Nhan Nguyên, thời Thanh)
手格其物、而后知至〔顔元〕
Nắm vật bằng tay, và sau đó (quan sát để) biết đến nơi đến chốn.
Cách vật minh đức. (biểu ngữ trường đại học Hồng Kông)
格物明徳〔香港大学〕
Biết nguyên lý sự vật để làm sáng tỏ cái đức (hay đức của trời theo sách Đại Học).
- - - - -
Nói một cách giản dị hơn là:
“Tìm tòi cái nguyên lý sự vật để hiểu biết tường tận sự việc.”.
Tất nhiên, muốn biết, muốn tìm tòi cái lý thì trước hết phải học:
Nhân bất học bất tri lý.
人不学不知理
Cách Vật Trí Tri trong sách Đại Học là một tư tưởng có tính lý luận nhằm truy cầu khoa học hiếm hoi trong rừng tư tưởng vốn đặt nặng quan hệ nhân sinh của Nho Giáo. Nói nhiều về chữ Nhân (仁, chữ nhân với bộ nhân đứng イvà bộ nhị 二, có nghĩa là lòng nhân, nhân đức), chữ hiếu (孝, như trong Nhị Thập Tứ Hiếu), chữ văn (文, văn nhu dĩ giáo), trọng thi ca (詩歌), lễ nghĩa (礼義), Kinh Dịch (易経)…
Với một số khái niệm như:
- Thái cực (太極, khi trời đất chưa chia ra) –-> Lưỡng nghi (両儀, trời – đất) –-> Tứ tượng (四像, thái dương – thiếu dương – thái âm – thiếu âm) --> Bát quái (八卦, càn – khôn – khảm – ly – cấn - chấn – tốn – đoài) --> 64 Quẻ (卦) --> 384 Hào (爻).
- Tam tài (三才): Thiên – Địa – Nhân (天 - 地 - 人), trong quẻ có 3 vạch thì từ trên xuống dưới lần lượt là Thiên – Nhân – Địa, nhưng theo nguyên tắc của Dịch thì tính từ dưới lên trên là Địa – Nhân - Thiên.
- Nhân chi sơ tính bản thiện (人之始性本善) của Mạnh Tử, trong khi phái Pháp Gia cho rằng Nhân chi sơ tính bản ác (人之始性本悪).
- Nhân lễ nghĩa trí tín (仁礼義知信).
- Tiên học lễ hậu học văn (先学礼後学文).
- Tam tòng, tứ đức (三従四徳).
- Công dung ngôn hạnh (工容言行).
- Trung quân, ái quốc (忠君愛国).
- Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh (民為貴、社稷次之、君為軽, Dân là quý nhất, cơ đồ là thứ hai, vua là điều coi nhẹ.).
- Học - vấn – tư - biện – hành (学答思弁行) là 5 bước rèn kuyện chính từ “học” đến “hành” theo Khổng Tử.
Chu Hy (朱熹, Chu Hui, 1130-1200), một triết gia nổi danh đời Tống đã giải thích “cách vật” là “xét đến cái lý của sự vật, muốn cho những chỗ nhỏ nhặt đến đâu cũng hiễu được thấu đáo.”, vậy “cách” là “đến”.
Nhưng Vương Dương Minh (王陽明, tên huý là Thủ Nhân, 1472-1529), một quan văn kiêm quan võ, đặc biệt là một triết gia lừng danh thời nhà Minh thế kỷ 15-16, nhìn “Cách Vật Trí Tri” theo cách khác. Khi khám phá ra nhận thức mới, ông đã kêu rú lên và nhẩy nhót như khi Archimède khám phá ra sức đẩy của nước trong khoa thủy tĩnh học. Ông cho rằng “cách” là làm cho cái sự, cái ý trở thành “chính đáng”, tức làm điều thiện tránh điều ác. Nói khác đi, đạo lý chỉ ở trong tâm người ta mà thôi, nếu tìm ở sự vật là sai lầm. Ông cho rằng tâm là ý thức, là tính, là lý, là vật khi nói: “Chủ thể của thân là tâm, phát động của tâm là ý, bản thể của ý là tri, sở tại của tri là vật.”. Ông chủ trương “Trí Lương Tri” (至良知, đạt nhân đức hay nhân đức lớn), mà hệ quả của nó là "Tri Hành Hợp Nhất" (知行合一).
Năm 1505, Vương Dương Minh đưa ra thuyết “Tri Hành Hợp Nhất”, và phát huy thêm “Vạn Vật Nhất Thể“ (万物一体) có từ thời Lão Tử (thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái…) thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên và Chu Hy thế kỷ thứ 12 thời Nam Tống, tức là “Thiên địa vạn vật nhất thể”. Người ta thường hiểu “Tri Hành Hợp Nhất” là “biết và làm là hai vế đi đôi với nhau, hợp nhất với nhau”, nhưng thực ra theo ông: “Biết là Tri của Tâm, cảm xúc là Hành của Tâm, việc làm là thành tựu của Tri và Hành của Tâm.”. Tức Tri và Hành đều thuộc Tâm, hợp nhất trong Tâm, Tri và Hành là một, biết đã là làm rồi, vì biết sinh ra cảm xúc thì đó là làm. Ông nói rõ hơn qua thí dụ: “Mắt ta thấy sắc đẹp là thuộc về phần tri, bụng ta thích sắc đẹp là thuộc về phần hành. Phải biết ngay lúc trông thấy sắc đẹp, ta đã có ý thích rồi, không phải sau khi trông thấy rồi mới lập tâm để thích.”. Tóm lại:
Theo thông thường: Tri Hành
(nhị nguyên) knowledge work
Theo Vương Dương Minh: Tri+Hành Việc làm, Hành động
(tâm nhất nguyên) (thành tựu của Tri+Hành)
knowledge+work action, job in realty
(feel) in the mind
Ông cho rằng: "Bản thể của tâm là lẽ trời, sự nhận hiểu lẽ trời một cách sáng láng, linh diệu là lương tri." (Tâm chi bản thể tức thiên lí dã, thiên lí chi chiêu minh linh giác sở vị lương tri dã; Phụ lục). Ông là người soi sáng “Tâm Học” (心学), và tư tưởng của ông thành “Dương Minh Học” (阳明学).
Đồng thời đó, bên Âu Châu cũng có tư tưởng tương tự, tiếng Anh là Monistic theory bắt nguốn từ triết học Eleaticsim của Parmenides of Elea, một triết gia Hy Lạp khoảng thế ký thứ 5 trước Công Nguyên.)… tạo thành một cuộc cách mạng lớn sau quá trình 2.000 năm của Nho Giáo. Tư tưởng này đã giúp Nhật Bản duy tân cuối thế kỷ 19, đầu 20… Bốn câu cách ngôn về “Tâm” (心) của ông như sau:
Không thiện, không ác là cái thể của tâm.
Có thiện có ác là cái động của ý.
Biết thiện, biết ác là lương tri.
Làm thiện, bỏ ác lá cách vật.
Như vậy, “cách vật” tức đi tìm nguyên lý không chỉ đóng khung trong khoa học tự nhiên, mà cả bên khoa học nhân văn cũng có thể áp dụng.
Việc đi tìm một giải pháp nhằm giải quyết những vấn nạn trong văn hóa Việt như một số điều nhiều người đã nói tới và chúng tôi đã nêu ra trong loạt bài Tự Vấn, cũng đòi hỏi tinh thần triệt để trong quan sát, nhận thức, truy tìm ra quy luật chi phối. Khi đã nắm bắt quy luật, từ đó triển khai thành hướng đi và dùng giáo dục để phổ cập. Đó là động lực chính làm thay đổi tư duy, đưa dân trí và dân khí lên một tầm cao hơn, kịp với thời đại, đà tiến chung của nhân loại.
Trong phạm vi khoa học tự nhiên, phải chăng có lẽ nhờ cách vật trí tri mà người Trung Hoa đã khám phá ra Kinh Dịch và 5 phát minh lớn cho nhân loại là:
1- Kim chỉ nam (nam châm).
2- Thuốc súng.
3- Giấy.
4- Máy in.
5- Bàn tính…
Đông Phương từ xưa thực ra cũng đã có những quan niệm dân quyền: “Dân chi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là quý nhất, cơ đồ là thứ hai, vua là điều coi nhẹ.) của Mạnh Tử, “Ý dân là ý trời”, “Hội Nghị Diên Hồng” đời nhà Trần, “Phép vua thua lệ làng”... nhưng chưa được hệ thống hóa thành thể chế.
Có điều thật đáng tiếc vì rồi sau đó Nho Giáo đã bị chính trị lũng đoạn nên ngủ quên cả ngàn năm, đắm chìm trong từ chương, khoa cử, thi phú, bói toán…
Từ nam châm của Trung Quốc, Tây Phương khám phá ra từ trường, từ thông, từ ba, điện từ… áp dụng rộng rãi trong khoa học, kỹ thuật. Cũng như sau này người Hoa phải học lại từ Tây Phương kỹ thuật làm hỏa tiễn (vốn từ pháo thăng thiên của Trung Quốc), giấy, máy in, máy điện toán…
Trong khi đó, người Tây Phương vốn trọng “Chân - Thiện - Mỹ” (真・善・美), lại có thêm tinh thần “Tự Do – Bình Đẳng – Bác Ái” (自由・平等・博愛), qua thế kỷ 18 đã phát triển tư tưởng “Nhân quyền - Dân quyền” (人権・民権), lập thể chế “Dân Chủ - Cộng Hòa” (民主・共和).
Song song đó, với tinh thần duy lý, trọng khoa học, họ đã có những bước đi đôi hia bảy dặm, nhất là vào thời kỳ Khải Mông từ khoảng thế kỷ 16, 17 cũng như Cách Mạng Kỹ Nghệ thế kỷ 18, 19. Tuy không nói Cách Vật Trí Tri, nhưng tại sao người Tây Phương lại có tận dụng tinh thần ấy hơn cả người Á Đông?
7 trường hợp “Cách Vật Trí Tri” của Tây Phương
1- Sức đẩy của nước do Archimède khám phá ra.
Trong môi trường nước cũng vậy, ngày xưa người ta hiểu lờ mờ rằng vật nặng thì chìm, vật nhẹ thì nổi, tất nhiên không lý giải được những sự kiện như tại sao cái tàu sắt nặng lại nổi...
Nhà toán học kiêm vật lý học người Hy Lạp là Archimède (287-212 trước Công Nguyên), khi khám phá ra sức đẩy của nước trong bồn tắm tức nguyên lý vật nổi, mừng quá, ông quên cả mặc quần áo má chạy ra đường la toáng lên. Ngày nay người ta dùng tên ông để đặt cho đơn vị sức đẩy của nước.
Nhân nói về nước, nếu chúng ta có một cái ly/cốc có dung lượng đúng 200 cc, vậy chúng ta có thể đổ bao nhiêu nước vào đó? Đổ được 200 cc chăng? Thực tế chúng ta có thể đổ 200 + vài cc nữa, lý do là nước có sức căng/trương (張力, trương lực), nên mặt nước có thế phồng lên tới một giới hạn nào đó trước khi nuớc trào ra.
2- Quả đất vuông tròn
Theo quan niệm Đông Phương xưa thì mặt trời tròn và quả đất vuông. Còn Tây Phương thì có thuyết cho rằng quả đất là lưng con rùa và 4 chân rùa là 4 con voi bước đi trong không gian. Người đi tàu biển chắc chắn là thường xuyên thấy cảnh đường chân trời hơi cong, nhưng không thể ngờ là quả đất hình tròn. Vì nếu quả đất tròn thì người ta ở phần trên đứng suôi còn người ở phần dưới sẽ đứng ngược đầu sao? Sau này mới biết quả đất lớn và không gian vốn vô hướng nên người ta không có cảm giác ngược đầu. Có người còn sợ đi ra tới dìa thì có thể bị rơi xuống. Khi tàu thám hiểm Âu Châu tới vùng đất của người da đỏ thuộc Châu Mỹ đã đặt tên là India vì tưởng đã đến đất Ấn Độ thuộc Châu Á.
Quả đất quay quanh chính nó một vòng 24 giờ và quanh mặt trời một vòng hết 365,2564 ngày nên cứ 4 năm lại dư 1 ngày (năm nhuận, tháng 2 có 29 ngày). Sau này khoa học mới biết quả đất tròn và thực ra hơi phình ở giữa, hơi dẹp hai đầu nên bán kính ở xích đạo là 6.378,245 km và ở cực là 6.356,863 km, trục nó nghiêng 66 độ 33’ 20’’ nên vùng ôn đới ở bắc và nam bán cầu mới có 4 mùa, rồi trọng lực, từ trường, từ quyển, vòng ozone (O3). Từ đó mới phân chia đường xích đạo, múi giờ, định giờ chuẩn từ đường kinh tuyến Grennwitch đi ngang nước Anh, đường kinh tuyến đổi ngày giữa Thái Bình Dương, chia múi giờ… Vì vậy, đi theo hướng đông hay tây thì cuối cùng cũng sẽ trở về đến đích, đó là câu chuyện thám hiểm “72 Ngày Vòng Quanh Thế Giới”.
Nhân đây, xin nhắc về chuyện thời Hùng Vương, khi Tiết Liệu dâng Vua Cha bánh dầy tròn tượng trưng cho trời, bánh trưng vuông tượng trưng cho đất. Về mặt thực tế, ông là người gần gũi với nông dân, là thành phần chiếm đa số trong xã hội, và về mặt triết lý, đã chứng tỏ ông chính là người (nhân) đã nắm được quy luật của trời-đất (thiên-địa), là con người ý thức quan hệ trọng yếu tam tài “thiên-địa-nhân (天・地・人)”, xứng đáng để được truyền ngôi vị Vua, chăn dắt trăm họ.
3- Thiên Động Thuyết Địa Động Thuyết của Kopernik, Galilée
Hàng ngày con người nhìn lên trời, theo dõi sự chuyển động của mặt trời đều thấy mặt trời quay từ đông sang tây. Các nhân vật lừng danh như Triết Gia Aristote (384-322 trước Công Nguyên) người Hy Lạp, nhà Toán Học kiêm Thiên Văn Claude Ptolémée (85-165) người Ai Cập đều cho rằng quả đất là trung tâm không những của Thái Dương Hệ mà còn của cả vũ trụ nữa và nhân loại coi đó là chuyện đương nhiên khỏi cần bàn.
Thế mà sau này có nhà Thiên Văn Nicolaus Kopernik tức Copernicus (1473-1543) người Ba Lan không giống ai, nhận ra rằng không phải thế, đã chứng minh cụ thể bằng toán học rằng là mặt trời trung tâm, quả đất quay quanh mặt trời chứ không phải mặt trời quay quanh quả đất nhưng không ai tin.
Và ông Galilée tức Galileo Galilei (1564-1642), một nhà Thiên Văn người Ý lại quả quyết quả đất quay quanh mặt trời. Ông đã bị đả kích nặng nề, kể cả đưa ra tòa vì sự chứng minh rất khó khăn trước thực tế biểu kiến hiển nhiên ai cũng thấy. Như khi chúng ta ngồi xe điện, thấy những cột điện hai bên đường như chạy lùi, ai cũng biết không phải cột điện chạy mà xe điện chạy. Nhưng trong một quy mô nhỏ thì dễ nhận ra, còn quy mô lớn thì rất khó mà biết được. Sau này khoa học tiến bộ hơn, nhân loại mới dần dần chấp nhận một sự kiện coi như nghịch lý quá lớn như vậy.
Mặt trời cũng tự quay quanh chính nó 1 vòng mất 10 ngày, gọi là tuần (旬) nên mới có thượng, hạ, trung tuần, bình thường người Việt coi 1 tuần là 7 ngày. Cả Thái Dương Hệ lại quay quanh một ngân hà. Và hàng tỷ ngân hà lại quay quanh những trục nào đó… mà khoa học chưa xác định được. Vũ trụ từ đâu, một vụ nổ lớn (big bang)? Đi về đâu sau tiến trình dãn nở - co rút 4,5 tỷ năm, hình dáng như thế nào, nếu có hình dáng thì tất có biên giới, nếu có biên giới vậy ngoài biên giới đó là gì, có còn là vũ trụ không? Nếu còn thì biên giới vừa nói chưa phải là biên giới? Nếu không thì nơi đó là gì? Ngay cả cái vật chất nhỏ nhất như “hạt cơ bản” là cái gì, hình dáng ra sao…? Đó là những câu hỏi lớn của nhân loại mà khoa học vẫn chưa trả lời rõ ràng được.
4- Vạn vật hấp dẫn hay câu chuyện Newton nằm dưới gốc thấy quả táo rơi…
Trước đó, cả nhân loại vẫn nghĩ đơn giản mọi vật nặng tức có trọng lượng thì rơi xuống, tuy rằng có một số hiện tượng không giải thích được như bong bong bay thì cho là tại nó nhẹ, con chim tuy nặng nhưng có cánh nên bay được… Không ai tưởng tượng có một sức hút vô hình nào đó đang chi phối vạn vật, đó là sức hấp dẫn.
Nhà Thiên Văn Học, Toán Học Newton sir Isăc (1642-1727), một hôm nằm dưới gốc táo, thấy quả táo rơi, ông chợt khám ra ra sở dĩ quả táo rơi không phải vì nó nặng mà vì quả đất hút nó. Tất nhiên nó cũng hút quả đất, nhưng vì sức nó yếu nên bị kéo về phía quả đất.
Nếu chúng ta để 2 khối nam châm lớn nhỏ gần nhau, khối lớn sẽ hút khối nhỏ. Sau này người ta biết rằng mọi vật có trọng lương đều có sức hút, nhưng vật nhỏ có sức hút rất yếu nên chúng ta không thấy tác dụng của nó.
5- Hằng số bí ẩn Pi = 兀
Số Pi (兀) tiềng Hán là viên chu suất (円周率), là một con số toán học rất lạ lùng, đầy bí ẩn, một hằng số trong quan hệ giữa chu vi vòng tròn và đường kính. Pi = 1,14,159… Cứ lấy đường kính nhân với số Pi thì ra chu vi, vì thế được gọi là hằng số. Người Ai Cập tìm ra con số Pi đã tài tình rồi, làm sao biết chính xác là bao nhiêu, đo đạc như thế nào mà biết những số lẻ bất tận phía sau?
Thật vậy, Pi là một con số với hàng số lẻ không bao giờ chấm dứt, tức là “vô tận”.
Nhớ Hàng Số Pi!!!. Ở trường học thường viết gọn là 3,1416, nhưng thực ra là 3,14159265352230690612949... dài bất tận, không ai nhớ nổi. Máy điện toán ở Nhật đã tính ra được khoảng hàng số và tất nhiên còn nữa!
Người ta dùng gọn là 3,1416 vì không ai nhớ nổi những con số lẻ vô nghĩa ở phía sau. Thế mà trong tháng 7/2005, có người Nhật là ông Akira Haraguchi (Nguyên Khẩu Chứng, 59 tuổi, người tỉnh Chiba) tìm cách nhớ, thật là một chuyện đáng kinh ngạc, không tưởng tượng nổi. Ông trở thành người có khả năng nhớ nhiều hàng số Pi nhất thế giới (記憶術/円周率世界一), mặc dù thời đi học ông chỉ có thành tích rất tầm thường.
Bí quyết nhớ của ông là thay vì nhớ những con số vô hồn, ông đã đặt cho những con số những âm trong bảng 48 ký tự của Nhật, từ đó làm thành một bài thơ dài, với vần điệu và có ý nghĩa.
Thí dụ: Số 0 mang những âm: ra, ri, ru, re, o, on
Số 1 mang những âm: a, i, u, e, hi, an...
Các số lẻ đầu: 1415926535 sẽ thành câu "Anshin unto kuni moto satta, = Đã được an tâm rời đất nước,".
Các số lẻ kế tiếp: 2230690612949 sẽ thành câu "Fuyu sora nukeru mo utsukushiku. = Dù xuyên qua bầu trời mùa đông thì cũng đẹp.".
Ngày 25/9/2004, ông đã đọc thuộc lòng trong 8 giờ 40 phút đồng hồ hết 54.000 hàng số Pi!!! Trong thời gian đó, ông chỉ uống nước và ăn một miếng cơm nắm.
Qua tháng 7/2005, ông đã đọc thuộc lòng 83.431 hàng số, trong khi coi như trung bình nhân loại chỉ nhớ độ 5 hàng số!!!
Ông vốn là con cháu nhà sư, từng sống ở chùa, từ nhỏ ông đã có dịp làm quen với với các sách tôn giáo và triết học, làm cho ông cảm được sự thâm sâu và vĩnh viễn... Mười năm trước, khi làm việc tại một công ty chế tạo đồ điện, ông bắt đầu mê mải trong việc tìm cách nhớ số Pi mà ông cho là "Hợp với tính cách của mình" và ông đã dùng lối "liên tưởng" từ số ra âm để kết hợp thành thơ... Nói vậy chứ bây giờ ông đã chỉ cách nhớ rồi, liệu có ai nhớ được từng ấy câu thơ và khi đổi ra số mà không bị nhầm chăng?
6- Khám phá ra điện, điện là gì?
Điện hiện diện trong thiên nhiên, dưới hình thức sét, cọ sát hay tĩnh điện… Người xưa khi sờ vào một vật gì mà bị điện giật, chắc người ta cho là vật ấy có ma! Một ngày kia khoảng 600 năm trước Công Nguyên, người ta khám phá ra hiện tượng “điện” và rồi ông Benjamin Franklin (1706-1790), Alessandro Volta (1745-1827), André Ampère (1775-1836), Michael Farraday (1791-1867), William M. Furedy (sáng chế ra mô-tơ điện Hoa Kỳ)… khai sáng thêm, tự chế ra máy phát điện bằng mô-tơ, quạt gió, máy nổ, nhiệt điện, thủy điện, nguyên tử… cũng như pin, pin nhiệt điện, tế bào quang điện...
Và song song đó khoa học mới biết sở dĩ có hiện tượng điện là do sự di chuyển của điện tử nằm ở vòng ngoài các nguyên tử (điện tử có hướng), từ nguyên tử này sang nguyên tử kia, trong môi thể như dòng điện đã tạo ra dòng điện chạy ngược chiều. Và dòng điện quấn trong một lõi kim thuộc cũng có thể sinh ra từ trường… Ngày nay cụôc sống tươi sáng của 99,99% nhân lọai chính là nhờ vào điện, mà đơn giản là sự di chuyển của các điện tử trong dòng điện. Tốc độ điện tử truyền trong dây đồng khoảng 1.600 km/giây, nhưng điện tử quay quanh nhân với vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng, tạo thành “lớp vỏ” quanh nhân.
7- Quan hệ giữa vật chất và năng lượng
Nhà Vật Lý Học Albert Einstein (1879-1955) người Thụy Sĩ gốc Đức, thiên tài khoa học của cả nhân loại, qua thuyết lượng tử ông đã viết ra công thức E = mC2.
E: năng lượng
m: vật chất
C: tốc độ ánh sáng.
Công thức thật thần tình này cho chúng ta thấy ông đã nhìn ra quan hệ giữa vật chất, năng lượng và ánh sáng. Chỉ một khối lượng vật chất nhỉ khi nhân với vận tốc ánh sáng 300.000 km/giây bình phương sẻ cho ra một nặng lượng rất lớn và điều này đã được chứng minh qua kết quả thử nghiệm bom nguyên tử.
Bom A, dùng nguyên liệu Uranium 235 hay Plutonium và áp dụng phản ứng phân liệt.
Bom H (Hydrogen), dùng nguyên liệu H2 và áp dụng phản ứng kết hợp tạo ra H3 (đồng vị) và nặng lượng lớn gấp hàng trăm lần bom A. Bom A mới chỉ là ngòi nổ của bom H…
- - - - -
Còn nhiều, rất nhiều những khám phá độc đáo như vậy. Chính sự cách vật trí tri trên và nhiều khám phá những quy luật thiên nhiên khác đã làm thay đổi cả văn minh của nhân lọai, đưa lên tầm mức ngày càng cao hơn.
Sự nhầm lẫn ngây thơ của nhân loại thời đại này!
Sự khôn ngoan của nhân loại tức chỉ chung trí khôn của loài người đã đưa nhân loại tới những xã hội văn minh hiện nay, nhưng trong quá trình tiến bộ đó, tuy nhiên còn nhiều điều chưa hiểu cặn kẽ và đôi khi cũng có một số sai lầm rất sơ đẳng.
1- Nhầm lẫn trong việc nhân bản hay sao chép người
Khi y học cho thấy có thể sản xuất hàng loạt con người trong phòng thí nghiệm qua phương pháp thụ tinh vô tính hay tế bào và trứng (cloning)… Một số giới khoa học đã vội vã cho là có thể sản xuất hàng loạt người hoàn toàn giống nhau gọi là “copy human”.
Thực tế cho thấy, các lạp tử là thành phần nhỏ nhất (hạt cơ bản) trong nguyên tử luôn luôn ở một trạng thái bất định giữa vật chất và năng lượng, biến đổi liên tục giữa hai trạng thái đó. Vị bất định nên tự nó không có trạng thái nhất định, và vì vật không có lạp tử thứ 2 nào giống nhau. Lạp tử còn không giống nhau, thì nguyên tử không giống nhau, do đó, không thể có hai tế bào hay sinh vật hoàn toàn giống nhau. Chưa kể mọi vật chất hay sinh vật trong vũ trụ, dù chỉ ra đời trước sau 1 sát na, 1 phần tỷ giây đi nữa thì yếu tố thời gian rất ngắn ngủi đó cũng đủ làm cho hai vật chất trở thành khác nhau. Còn sau này tồn tại với thời gian thì sẽ bị biết bao yếu tố khác thuộc môi trường làm cho thay đổi, như con người do dinh dưỡng mà cơ thể khác nhau, do học vấn mà nhận thức khác nhau…
2- Nhầm lẫn về sóng nước có đi tới hay không?
Khi nhìn sóng nước, chúng ta thấy sóng di động lên xuống và di chuyển ngang, nhưng có một số nhà khoa học cho rằng sóng nước chỉ nhấp nhô lên xuống chứ không di chuyển ngang tức không đi tới, đặc biệt là khi thí nghiệm tạo sóng với cố thể như một sợi dây hay lò xo... thì thấy rõ sợi dây và lò xo không hề đi tớị
Nhưng cuối cùng thì khoa học phải công nhận là với dịch thể hay nói rõ hơn là môi thể lỏng thì sóng có đi tới nên mới trôi dạt các thứ nổi trên mặt nước vào bờ, tuy rất chậm so với tốc độ của sóng. Khoa học tính ra tốc độ sóng bằng số chấn động nhân với chiều dài sóng: v = fλ và chu kỳ sóng: T = 1/f.
Thí dụ sóng của âm thoa hình chữ "Y" (dùng điều chỉnh âm thanh):
- Số chấn động: 400
- Chiều dài sóng: 70 cm
- Tốc độ sóng: 70 x 400 = 28.000 cm = 280 mét/1 giâỵ
Đặc biệt là với sóng từ, thì sóng cũng đi tới nên có thể ứng dụng tạo động cơ bằng điện từ. Cấu tạo động cơ điện từ gồm một đế hình vành trụ bằng thép có cơ năng đặc biệt tạo ra sóng từ xoay tròn trên mặt, bên trên để một hình vành trụ khác bằng thép có điện từ đồng cực với đế nên đẩy nhau làm cho trụ này được nâng bổng lên. Khi đế tạo ra sóng điện từ thì vành trụ thép bên trên xoay theo chiều sóng, đó là động cơ điện từ, đặc biệt là không bị ma sát, khác hẳn với động cơ nổ hay động cơ điện thường thấỵ
Thêm nữa, có chắc là mũi nhọn rẽ sóng nước tốt nhất chăng? Các tàu, nhất là tàu chiến đều làm mũi càng nhọn càng tốt để chạy được nhanh, nhưng sao nhiều tàu lớn như tàu dầu thường thấy có cục u tròn lớn ở mũỉ Người Nhật đã thí nghiệm và thấy rằng cục u tròn đó đã rẽ sóng tốt hơn và giúp cho tàu đi nhanh hơn là mũi nhọn thuần túy. Thế mới lạ!
3- Nhầm lẫn về ánh sáng truyền theo đường thẳng? Màu sắc có được là tự thân của vật?
Ai cũng biết ánh sáng mặt trời tức ánh sáng thiên nhiên hay ánh sáng trong suốt không màu (vô sắc) là một tổng hợp bao gồm 7 màu, từ màu tím đền màu đỏ tím. Mắt chúng ta thấy ánh sáng truyền theo đường thẳng tắp nhưng thực ra bằng dạng sóng hình sin (〜) cực nhỏ (trung gian giữa vật chất và năng lượng), với độ dài sóng λ trong khoảng 380-780 nm (nano mét = 1/1.000.000 mili mét), như thấy qua lăng kính khúc xạ hay ánh sáng cầu vồng. Trong đó có 3 loại ánh sáng chính là đỏ, xanh và vàng tức không bao gồm 2 màu ở biên như tím và đỏ tím…, như thường thấy trên ống phóng hình của TV hay thêm màu đen (không có trong 7 màu tạo ra ánh sáng thiên nhiên) như thường thấy trong việc phân hình màu thành 4 hay 5 màu riêng biệt và sau đó khi in chồng nhau tức tổng hợp lại trong ấn loát.
Độ Dài Sóng Của Ánh Sáng 光の波長
Độ dài sóng
波長
(nm) 10~
380 380~430 430~460 460~500 500~570 570~590 590~
610 610~780 780~ 1mm
Màu
色彩 Tia
tử
ngoại
紫外線 Tím
xanh
青紫 Xanh dương
青 Dương lục
青緑 Lục
緑 Vàng
黄 Cam
オレ
ンジ Đỏ
赤 Tia
hồng ngoại
赤外線
Màu tím tiếng Hán-Việt là “tử”, nên mới có từ “tử ngoại tuyến” (紫外線) tức “tia tử ngoại”, là loại tia có độ dài sóng ngắn 10-380 nm, và màu đỏ tiếng Hán-Việt là “xích”, hay “hồng” nên mới có từ “xích ngoại tuyến” (赤外線) hay “hồng ngoại tuyến” (紅外線) tức “tia hồng ngoại”, là loại tia có độ dài sóng dài 780 nm-1 mm mà mắt thường của người ta không thể thấy được, nhưng máy hình dạng số (digital camera) có thể chụp được.
Thí dụ chúng ta thấy một vật màu đỏ, nhưng nếu bỏ vật đó vào trong phòng tối thi không thấy gì nữa hết. Tại sai vậy? Tất nhiên tại vì không có ánh sáng. Bây giờ chiếu ánh sáng bình thường vào vật, nhưng nếu chúng ta lọc bỏ màu đỏ (độ dài sóng 610-780 nm) và các màu tương cận đi thuộc biên của tia tử ngoại hay tia hồng ngoại, thì vật đó sẽ không còn là màu đỏ nữa mà là màu rêu đậm, tức màu liên kết giữa màu xanh lá cây và vàng. Như vậy thực ra vật không mang màu hay phát ra màu mà mang cấu tạo bề mặt có độ phản xạ sóng khác nhau, màu thấy được là do phản xạ ánh sáng thiên nhiên mả ra.
Cũng xin lưu ý là cần phân biệt ánh sáng thiên nhiên là ánh sáng trong suốt không màu và ánh sáng màu trắng (như tuyết hay sữa). Ánh sáng không màu (vô sắc) trong suốt là kết hợp từ ánh sáng 7 màu khác như nói trên, nhưng sơn màu trắng (hữu sắc) không phải là kết hợp từ sơn 7 màu khác. Nếu chúng ta lấy sơn 7 màu trên trộn với nhau thì chúng ta sẽ có màu gì? Chúng ta sẽ không có màu vô sắc như ánh sáng thiên nhiên, nhưng cũng không có màu trắng tuyết hay sữa, mà có màu đà, tức màu tro, là màu vải các tu sĩ Phật Giào hay mặc. Trên thực tế, để thể hiện ánh sáng không màu (vô sắc) thuần tuý trong suốt, không thể dùng sơn màu hay vật liệu màu (hữu sắc) trong thiên nhiên để tạo ra. Chỉ có thể hội tụ 7 loại ánh sáng trên mới có thể tao ra ánh sáng vô sắc trong suốt.
Đặc biệt, âm thanh không phải tự chúng có thể truyền tới giác quan của chúng ta, mà truyền được là nhờ có một môi thể nào đó. Như trong hạ tầng không gian có không khí gồm oxygen (O) và nitrogen (N)…, ở trên thượng tầng không gian, coi như trống không, không có môi thể nào thì người ta sẽ không nói chuyện trực tiếp với nhau được. Có thể thử nghiệm bằng cách để một chiếc đồng hồ trong lồng kính, chúng ta nghe thất tiếng tích tắc, nhưng nếu hút hết không khí ra, chúng ta sẽ không còn nghe thấy gì nữa hết.
Như vậy, khi nói tới tốc độ truyền cũng còn tùy thuộc vào môi thể. Tốc độ sóng của âm thanh trong không khí là 340 mét/giây hay 1.224 km/giờ, trong nước là 1.500 mét/giây, trong thép là 6.000 mét/giây. Điện, tức điện tử truyền từ nguyên tử này sang nguyên tử kia, tạo ra dòng điện ngược chiều trong dây đồng rất nhanh, khoảng 1.600 km/giây, nhưng điện tử quay quanh nhân với vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng. Còn ánh sáng truyền trong không gian là nhanh nhất, lên tới khoảng 300.000 km/giây, nhanh gấp khoảng 200 lần điện.
4- Nhầm lẫn về thời gian khi bước qua thiên niên kỷ mới
Có lẽ khi nhân lọai bước qua thiên niên kỷ thứ 2 vào 1.000 năm trước cũng đã có sự nhầm lẫn như khi bước qua thiên niên kỷ thứ 3 mà tất cả người thời nay đều đã chứng kiến.
Đêm ngày 31/12/1999 bước qua ngày 1/1/2000, hầu như khắp nơi trên địa cầu, nhân loại đã hân hoan tổ chức lễ hội ăn mừng thiên niên kỷ mới, trịnh trọng đón chờ và coi giây phút bước qua ấy rất thiêng liêng... Trong khi đó, thực ra là vẫn còn ở thế kỷ 20.
Thực vậy, phải là đêm ngày 31/12/2000 bước qua ngày 1/1/2001, thì mới thực sự bước qua thế kỷ 21 và như vậy mới bước qua thiên niên kỷ mới, thiên niên kỷ thứ 3. Thế mà thời điểm này thì hầu hết nhân loại lại thờ ơ, nếu có tổ chức cũng chỉ là lễ hội nhỏ, một thứ “nhị hỷ” trong đám cưới thôi.
Cho tới nay mà nói ra điều ngày chắc hẳn là còn có rất nhiểu người vẫn chưa đồng ý, vẫn khăng khăng ngày 1/1/2000 là đã bước qua thiên niên kỷ thứ 3 rồi.
Để cho dễ hiểu, xin lấy thí dụ chúng ta có 21 tờ giấy 100 đồng.
- Khi chúng ta tiêu 1999 đồng rồi tiêu thêm đồng kế là đồng thứ 2000 thì mới chỉ dùng tờ tiền giấy thứ 20. Nếu nói về thời gian, thì là năm 2000, thế kỷ 20, thuộc thiên niên kỷ thứ 2.
- Khi chúng ta tiêu 2000 đồng rồi tiêu thêm đồng kế là đồng thứ 2001 thì mới dùng tới tờ tiền giấy thứ 21. Nếu nói về thời gian, thì là năm 2001, thế kỷ 21, thuộc thiên niên kỷ thứ 3.
Như vậy nhân lọai đã nhầm cả nguyên 1 năm. Thôi thì đã có “đồng hồ cơ thể”, thì đây là “đồng hồ nhân loại” với sai số 1/1.000 năm cũng nên coi là sai số nhỏ, có thể bỏ qua chăng? Nhân loại với hơn 6 tỷ người mà sai, nên hơn bao giờ hết tất cả cùng hùa với nhau bỏ qua cho vui vẻ “cả làng”, à quên “cả địa cầu”!
5- Người Việt, Hoa, Nhật nhầm lẫn về con giáp, và người Việt nhầm một số từ?
Âm lịch có 10 can và 12 chi, kết thành 1 chu kỳ 60 năm gồm Giáp Tý, Ất Sửu… gọi là một hội (chu kỳ Tây Lịch là 28 năm), là 5 lần Thổ Tinh (土星), 2 lần Mộc Tinh (土星) quay quanh Mặt Trời tức Thái Dương (太陽), cũng như 12 con giáp. Tại sao gọi là “hội”? Là vì đặc biệt vào đầu chu kỳ này thì 5 sao Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ tuy quay theo những quỹ đạo khác nhau nhưng đều dồn (hội) về một phía.
Rất nhiều người thường nghĩ năm Đinh Hợi (丁亥) 2007, thì "hợi" là con lợn/heo, thực ra "hợi" là chi (支) không phải con giáp (甲) và là giờ thứ 12 trong: tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Còn trư (猪) hay đồn (豚, lợn/heo con) mới là lợn/heo như “Trư Bát Giới” trong Tây Du Ký. Trong vòng tròn 12 cung, 12 chi này cùng cung giác với 12 con giáp chứ không phải là 12 con giáp. So với bảng 12 con giáp thì "thìn" (辰) tương đương với con rồng chứ long (龍) mới thực là "con rồng", "tý" (子) tương đương với "con chuột" chứ thử (鼠) mới thực là "con chuột" hay "dần" (寅) tương đương với "con cọp", chứ "hổ" (虎) mới thực là "cọp..". Theo lối tính giờ của Trung Hoa và Việt Nam xưa thì một ngày có 12 giờ, giờ "tuất" tương đương với thời gian 7 đến 9 giờ tốị Chúng ta thường nghe câu: "Nửa đêm giờ tý canh ba". Giờ tý là 11 giờ đêm tới 1 giờ sáng, giờ sửu là 1 đến 3 giờ sáng. Còn ngọ (午) là 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều, chính ngọ (正午) là đúng 12 giờ trưa.
Đồ biểu 10 can, 12 chi, 5 hành và 12 con giáp
Người Hoa và Nhật cũng dùng 12 con giáp nhưng có 4 con khác với Việt Nam, do sự nhầm lẫn hay cố tình Việt Nam hóa đi cho nó gần gũi hơn:
Sửu cùng cung giác với Ngưu = Bò Trâu (thực ra là Thủy ngưu)
Mão/Mẹo cùng cung giác với Thỏ/Thố Mèo
Mùi cùng cung giác với Dương = Cừu Dê
Hợi cùng cung giác với Trư = Heo rừng Heo nhà
- - - - -
Xin nói thêm
Có điều chắc là hầu hết người Việt đã nhầm lẫn khi viết sai từ dịch chữ “The United States o America”:
Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ (合衆国華旗) - Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ (合種国華旗) (sai)
- Nghĩa là hợp các nước - Một liên bang, chứ tên một quốc gia không bao giờ nói tới yếu tố chủng tộc. Trường hợp này đọc là “Hiệp Chúng Quốc” cũng không hẳn là đúng vì đã có chữ hiệp (協).
- Các từ điển Hán-Việt và Việt-Hán đều viết đúng, nhưng các từ điển tiếng Việt mới tại Việt Nam như Đại Từ Điển Tiếng Việt của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, hay Tự Điển Bách Khoa Việt Nam… hầu hết viết sai.
Vô hình trung (無形中) - Vô hình chung (sai)
Lãng mạn (浪漫) - Lãng mạng (sai)…
- - - - -
Trên đây chúng tôi chỉ nêu lên một vài sự kiện… như một gợi ý chung.
Mục đích là cùng nhau chia sẽ, quan tâm triệt để hơn tới những sự kiện chung quanh, tận lực làm việc theo chiều hướng thượng để cùng giúp nhau vươn lên.
- - - - -
Phụ Lục (trích Bách Khoa Toàn Thư VN):
VƯƠNG DƯƠNG MINH:
Vương Dưong Minh (王陽明, Wang Yangming); tên thật: Vương Thủ Nhân (王守仁, Wang Shouren); 1472-1528, nhà chính trị, một vị Tướng bách chiến bách thắng (nhưng nhất định từ chối không đem quân đánh An Nam) và là triết gia nổi tiếng đời Minh (明, Ming), Trung Quốc. Quê tỉnh Chiết Giang (浙江, Zhejiang). Từng dựng nhà ở động Dương Minh, gần Hàng Châu (杭州, Hangzhou) để dạy học, nên được gọi là Dương Minh tiên sinh. Về mặt triết học, Vương Dương Minh theo tâm học của Lục Cửu Uyên (陸九淵, Lu Jiuyuan, 1139-1192) coi tâm, đạo và trời là một, nếu hiểu rõ "tâm" (bản thể của tâm), thì cũng hiểu được đạo và trời (tâm tức đạo, đạo tức thiên, tri tâm tất tri đạo tri thiên). Vương Dương Minh là tập đại thành của tư tưởng duy tâm chủ quan ở Trung Quốc. Ứng dụng tâm học về mặt đạo đức, Vương Dương Minh chủ trương "trí lương tri" và "tri hành hợp nhất". "Trí lương tri" (thực hiện triệt để điều hiểu biết tốt lành), vì lương tri là điểm sáng của lòng người, đó cũng là lẽ trời (thiên lí): "Bản thể của tâm là lẽ trời, sự nhận hiểu lẽ trời một cách sáng láng linh diệu là lương tri" (Tâm chi bản thể tức thiên lí dã, thiên lí chi chiêu minh linh giác sở vị lương tri dã; Phụ lục).
Thuyết "trí lương tri" của Vương Dương Minh kế tục ý niệm "lương tri lương năng" của Mạnh Tử (Mengzi), nhấn mạnh "trí" (thực hiện triệt để). Hệ quả của "Chí lương tri" là "Tri hành hợp nhất". Vương Dương Minh bản thân không có trước tác, nhưng những điều giảng dạy của ông đã được học trò ghi lại thành sách với tên "Ngữ lục", "Văn lục", "Biệt lục", "Phụ lục"v.v..., gồm 38 quyển với tên "Vương Văn Thành Công toàn thư" (Văn Thành Công là tên do vua nhà Minh phong tặng). Học thuyết Vương Dương Minh đã có ảnh hưởng lớn ở khoảng giữa triều đại nhà Minh, về sau truyền sang Nhật Bản, đã tác động không nhỏ tới phong trào Duy Tân của nước này.
- - - - -
Trích bài “TÂM PHÂN BIỆT” (Diễn Đàn Phật Giáo)
Vấn đề là ở chỗ một khi đã có phân biệt rồI (tức là chuyện bắt buộc một khi đã xử dụng ý nghĩ) thì làm sao biết được đâu là đúng, đâu là sai, (tạm gọi là Thiện và Ác) để mà làm theo???
Cái đó trong PG gọi là Trí Tuệ Bát Nhã .
Về chuyện “phân biệt” này, không ai nói rõ và chính xác hơn Vương Dương Minh, một danh nho đời Minh:
Vô thiện vô ác thị tâm chi thể
Hữu thiện hữu ác thị ý chi động
Tri thiện tri ác thị lương tri
Vi thiện khử ác thị cách vật
Dịch:
Không Thiện không Ác là thể của Tâm
Có Thiện có Ác là sự động của Ý
Biết Thiện biết Ác là LƯƠNG TRI
Làm Thiện bỏ Ác là cách vật
Bản thể của Tâm thì tuyệt đối không có gì là Thiện Ác phân biệt ở trong đó (đây là vườn Địa Đàng của Đức Chúa Trời đó. Sự Thiện Ác chỉ có khi có sự khởi động của Ý (Adam và Eva ăn trái cây Phân Biệt. Tuy nhiên trong Tâm con người luôn luôn có một yếu tố mà VDM gọi là Lương Tri và PG gọi là Trí Tuệ Bát Nhã (Cơ Đốc Giáo gọi là Chúa Thánh Linh ?) luôn luôn biết đâu là đúng, đâu là sai trong mọi trường hợp để biết theo đó mà ứng xử.
Tất cả “nghệ thuật” là làm sao nhận biết ra cái Lương Tri này, VDM gọi là “Trí Lương Tri” (biết cái Lương Tri)
Mục tiêu của sự tu hành cũng là để thấy cái LT nàỵ
Vài trích đoạn trong Nho Giáo của Trần Trọng Kim, tr. 245:
“Có cái tâm học, thì cứ theo cái Chiêu Minh Linh Giác của tâm mà hành động, chứ không câu nệ gì cả. Dương Minh thường nói rằng: "Học là quí cái được ở tâm. Tìm ở tâm mà không phải, thì dẫu lời của Khổng Tử nói ra, không dám lấy làm phảị. Tìm ở tâm mà phải, thì dẫu lời của kẻ tầm thường nói ra, không dám lấy làm trái". Sự học đã chủ ở tâm như thế, thì rất là ung dung hoằng đại, không câu nệ điều gì, và không cố chấp học thuyết nào, hễ có điều phải là theo.”.
Có người hỏi rằng:
- Đạo Nho và đạo Phật khác nhau thế nào ?
Dương Minh nói rằng:
- Không nên tìm cái đồng cái dị của đạo Nho, đạo Phật, tìm CÁI PHẢI mà học là được vậy .
- Thế thì phải với trái biện biệt ra làm sao?
- Tìm ở Tâm MÀ YÊN là phải.
Tr. 253:
Dương Minh dẹp xong cái loạn Thần Hào rồi, lại bị những kẻ gian thần tìm đủ cách để làm hại, thế mà ông cứ điềm nhiên ở cái Lương Tri, không hề lo sợ chút gì cả. Sau khi việc ấy yên rồi, ông viết thư cho người ta, nói rằng: "Cận lai tìm được ba chữ "Trí Lương Tri", thật là Chánh Pháp Nhỡn Tàng của thánh môn. Mấy năm trước còn cái ngờ chưa hết, nay nhân có nhiều việc, chỉ có cái Lương Tri ấy mà không có cái gì là không đủ, ví như đi thuyền nắm được cái tay lái, đi qua chỗ phẳng, chỗ sóng, chỗ nông, chỗ sâu, không đâu là không vừa ý, tuy gặp sóng gió, nhưng nắm được tay lái, thì khỏi được cái lo phải chìm đắm vậy"...
==
Tuesday, November 11, 2008
TRẦN BÌNH NAM *CUỘC CÁCH MẠNG TẠI HOA KỲ
CUỘC CÁCH MẠNG TẠI HOA KỲ
Trần bình Nam
Hôm Thứ Ba 4/11/2008 Thượng nghị sĩ Barack Obama đắc cử tổng thống Hoa Kỳ đánh dấu một cuộc cách mạng tại Hoa Kỳ, và là một biến cố chính trị có tầm vóc thế giới. Thượng nghị sĩ Obama thắng lớn với 52.5% phiếu cử tri đi bầu (46.2% cho Thượng nghị sĩ John McCain, và 1.1% cho các ứng cử viên khác). Nếu tính theo phiếu cử tri đoàn Thượng nghị sĩ Obama giành được 364 phiếu, trong khi chỉ cần 270 phiếu để thắng. Thượng nghị sĩ McCain được 162 phiếu ( 1)
Những cử tri bỏ phiếu cho Thượng nghị sĩ McCain có thể đã đánh giá tài năng và kinh nghiệm của Thượng nghị sĩ John McCain cao hơn Thượng nghị sĩ Obama, hoặc cho rằng Thượng nghị sĩ John McCain cần cho đất nước này hơn trong thời điểm khó khăn này. Nhưng trong số đó cũng có một số người nghĩ rằng Hoa Kỳ chưa sẵn sàng cho một tổng thống người da đen. Số cử tri cho rằng Hoa Kỳ chưa sẵn sàng cho một tổng thống người thiểu số da đen (2) đã không đánh giá đúng mức sự sôi sục của dân chúng trước một tình trạng đi xuống quá thê thảm của đất nước về quốc phòng, kinh tế và uy tín quốc gia. Kết quả cuộc bầu cử cho thấy người Mỹ, nhất là giới trẻ, đã can đảm đứng lên làm một cuộc cách mạng dân chủ bầu Thượng nghị sĩ Obama làm tổng thống cho nhiệm kỳ 2009-2012 tới.
Câu châm ngôn của Đặng Tiểu Bình khai sinh tại Trung quốc trong thập niên 1970s “Mèo trắng mèo đen, miễn mèo nào bắt được chuột” khi ông Đặng Tiểu Bình dứt khoát từ bỏ nền kinh tế Mác-Xít để chuyển dần Trung quốc sang kinh tế thị trường đã được áp dụng trọn vẹn vào quyết định của cử tri Mỹ trong ngày bầu tổng thống 4/11/08. Có nhiều yếu tố đưa đến sự thành công của Thượng nghị sĩ Obama. Trước hết là sự lãnh đạo yếu kém của tổng thống George W. Bush đã đưa đến sự suy thoái quốc gia. Không kể cuộc chiến tranh có thể biện minh đánh Afghanistan sau vụ khủng bố ngày 11/9/2001, cuộc chiến khó biện minh trước thế giới tại Iraq kéo dài quá lâu không lối ra đang làm rỉ máu Hoa Kỳ.
Thượng nghị sĩ John McCain, ứng cử viên của đảng Cộng hòa, dù từng chứng tỏ là một con người độc lập cũng không thể nào gỡ bỏ cái cảm giác của cử tri nếu ông đắc cử thì dù muốn dù không Hoa Kỳ vẫn còn chạy trên con đường mòn của Bush trong một thời gian (điều mà dân Mỹ đã quá chán ngán) trước khi có những thay đổi cần thiết.Cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra vào đầu tháng 9/2008, tuy trên lý thuyết được giải thích là sự tuần hoàn kinh tế, cũng không thể giải tỏa được trách nhiệm của đảng cầm quyền và là giọt nước làm đầy li nước.
Chính quyền Bush đã để cho Wall Street tức lực lượng tư bản thao túng, thiếu sự kiểm soát, tạo ra sự phồn vinh nhà cửa giả tạo để đi đến sự sụp đổ. Sự tin tưởng của quần chúng nơi Thượng nghị sĩ McCain còn chút gì vào lúc đại hội đảng Cộng hòa họp tại Minnesota chính thức đề cử ông đã tan biến nhanh chóng sau khi cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ. Và sau đó liên danh McCain-Palin xuống dài như một con tàu trượt dốc. Sự đắc cử của Thượng nghị sĩ Obama là một cuộc cách mạng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập quốc 232 năm, một người da den đắc cử tổng thống Hoa Kỳ. Sự đắc cử của ông Obama nói lên rằng nước Mỹ thật sự có dân chủ và những lời tuyên bố của các lãnh tụ chính trị Hoa Kỳ hứa xây đựng dân chủ bất cứ nơi nào trên thế giới là những lời tuyên bố có thực chất.
Những quá đáng tại nhà tù Abu Ghraib, vụ giam giữ tù nhân trái luật quốc tế tại Guantanamo, vụ cơ quan tình báo CIA bắt lén người nước ngoài, vụ bóc thư và nghe lén điện thoại của dân chúng không có phép của tòa án chỉ là những quá đáng do hoàn cảnh chiến tranh và do đó chúng không làm lu mờ ngọn hải đăng dân chủ và nhân quyền Hoa Kỳ vẫn nêu cao từ hồi lập quốc. Quan trọng hơn cả là sự đắc cử của Thượng nghị sĩ Barack Obama chứng tỏ bức tường chủng tộc đen trắng nặng nề trong lịch sử Hoa Kỳ đã được chọc thủng (mặc dù chưa một sớm một chiều được hoàn toàn xóa sạch).
Bằng sự đắc cử Thượng nghị sĩ Obma đã vãn hồi được sự kính nể của thế giới đối với Hoa Kỳ, và điều này sẽ là một tích sản quý báu để Hoa Kỳ có thể có một đóng góp tích cực trong sự phục hồi ổn định và hòa bình thế giới.Truyền thống dân chủ của Hoa Kỳ đã được thể hiện một cách tốt đẹp trong ngày bầu cử. Chỉ một giờ sau khi biết Thượng nghị sĩ Obama đắc cử, tổng thống Bush đã gọi điện thoại chúc mừng. Và sau đó Thượng nghị sĩ John McCain gọi, nhìn nhận mình đã thua, và chính thức hứa hẹn trước quốc dân sẽ cùng hợp tác làm việc với vị tổng thống tương lai giải quyết các vấn đề quốc gia. Đáp lại, Thượng nghị sĩ Obama, vị tổng thống vừa đắc cử, trong buổi ra mắt đầu tiên tại Chicago cũng đã cám ơn tổng thống Bush và Thượng nghị sĩ McCain.
Những căng thẳng trong thời gian tranh cử bỗng chốc tan biến để chỉ còn lại một không khí hòa giải và phấn khởi. Qua cuộc bầu cử (4/11/08) bầu lại toàn thể 435 ghế hạ nghị viện và 33 ghế thượng nghị sĩ (trên 100 ghế) hết nhiệm kỳ, đảng Dân chủ đã củng cố thêm đa số sẵn có của mình. Đảng Dân chủ sẽ kiểm soát cả hành pháp và lập pháp trong thời gian (ít nhất là 2 năm) tới. Nhưng điều này không có nghĩa Hoa Kỳ sẽ giải quyết các vấn đề quốc gia một cách dễ dàng. Giữ gìn an ninh nội bộ, giải quyết chiến tranh, vượt qua khó khăn kinh tế, ổn định ngân sách là những vấn nạn nổi cộm mà vị tổng thống đắc cử sẽ phải giải quyết, trong đó quan trọng hàng đầu là kinh tế.
Tổng thống đắc cử Barack Obama ghi nhận những khó khăn trước mắt và trong buổi ra mắt đầu tiên đêm Thứ Ba 4/11/08 ông nói rằng Hoa Kỳ sẽ giải quyết được các khó khăn này nếu không phải trong nhiệm kỳ này thì sẽ tiếp trong nhiệm kỳ tới, nhưng ông quả quyết một cách đầy tự tin rằng “chúng ta sẽ đi tới đó” vì ông tin rằng đất nước Hoa Kỳ có một sức bật tiềm tàng. Phần ông, ông bắt tay ngay vào việc. Sau khi bổ nhiệm Dân biểu Rahm Emanuel (Dân chủ, Illinois), một cố vấn thân tín làm Tham mưu trưởng Bạch Cung để sắp xếp bộ máy chuyển quyền, và nghe đại diện chính quyền đương nhiệm báo cáo về an ninh quốc gia, ngày Thứ Sáu 7/11/08 tại Chicago ông đã gặp 17 chuyên viên kinh tế (gồm kinh tế gia, giáo sư đại học, giám đốc công ty và thành phần trong chính quyền) để bàn về các giải pháp chấn chỉnh cơn rối loạn tài chánh đang càng lúc càng trầm trọng hơn, và ngay sau đó với sự có mặt của đoàn chuyên viên kinh tế này ông Obama đã thực hiện cuộc họp báo đầu tiên.
Trong buổi họp báo tổng thống đắc cử Barack Obama nhiều lần nhấn mạnh ở một thời điểm chỉ có một chính quyền có trách nhiệm và chính quyền hiện nay là chính quyền Bush. Nhưng cuộc họp báo của ông cho dân chúng thấy ưu tiên của ông là kinh tế. Và điều này đáp ứng sự mong chờ của quần chúng. Như đã nói, sự đắc cử của Thượng nghị sĩ Barach Obama là một cuộc cách mạng. Và cuộc cách mạng nào cũng mang lại sự phấn khởi ban đầu. Tuy nhiên thành quả thật sự của cách mạng là xây dựng thì chúng ta cần kiên nhẫn chờ đáp số của thời gian. Đối với cuộc cách mạng Obama, người Mỹ còn phải chờ ít nhất là vào mùa tranh cử tới trong năm 2012 mới thấy được phần nào câu trả lời.
Trần Bình Nam
Nov. 8, 2008binhnam@sbcglobal.netwww.tranbinhnam.com(1) Kết quả ghi nhận cho đến ngày 7/11/08. Còn hai bang nhỏ chưa có kết quả.(2) Trong số đó có người viết bài này.Aucun commentaire
Trần bình Nam
Hôm Thứ Ba 4/11/2008 Thượng nghị sĩ Barack Obama đắc cử tổng thống Hoa Kỳ đánh dấu một cuộc cách mạng tại Hoa Kỳ, và là một biến cố chính trị có tầm vóc thế giới. Thượng nghị sĩ Obama thắng lớn với 52.5% phiếu cử tri đi bầu (46.2% cho Thượng nghị sĩ John McCain, và 1.1% cho các ứng cử viên khác). Nếu tính theo phiếu cử tri đoàn Thượng nghị sĩ Obama giành được 364 phiếu, trong khi chỉ cần 270 phiếu để thắng. Thượng nghị sĩ McCain được 162 phiếu ( 1)
Những cử tri bỏ phiếu cho Thượng nghị sĩ McCain có thể đã đánh giá tài năng và kinh nghiệm của Thượng nghị sĩ John McCain cao hơn Thượng nghị sĩ Obama, hoặc cho rằng Thượng nghị sĩ John McCain cần cho đất nước này hơn trong thời điểm khó khăn này. Nhưng trong số đó cũng có một số người nghĩ rằng Hoa Kỳ chưa sẵn sàng cho một tổng thống người da đen. Số cử tri cho rằng Hoa Kỳ chưa sẵn sàng cho một tổng thống người thiểu số da đen (2) đã không đánh giá đúng mức sự sôi sục của dân chúng trước một tình trạng đi xuống quá thê thảm của đất nước về quốc phòng, kinh tế và uy tín quốc gia. Kết quả cuộc bầu cử cho thấy người Mỹ, nhất là giới trẻ, đã can đảm đứng lên làm một cuộc cách mạng dân chủ bầu Thượng nghị sĩ Obama làm tổng thống cho nhiệm kỳ 2009-2012 tới.
Câu châm ngôn của Đặng Tiểu Bình khai sinh tại Trung quốc trong thập niên 1970s “Mèo trắng mèo đen, miễn mèo nào bắt được chuột” khi ông Đặng Tiểu Bình dứt khoát từ bỏ nền kinh tế Mác-Xít để chuyển dần Trung quốc sang kinh tế thị trường đã được áp dụng trọn vẹn vào quyết định của cử tri Mỹ trong ngày bầu tổng thống 4/11/08. Có nhiều yếu tố đưa đến sự thành công của Thượng nghị sĩ Obama. Trước hết là sự lãnh đạo yếu kém của tổng thống George W. Bush đã đưa đến sự suy thoái quốc gia. Không kể cuộc chiến tranh có thể biện minh đánh Afghanistan sau vụ khủng bố ngày 11/9/2001, cuộc chiến khó biện minh trước thế giới tại Iraq kéo dài quá lâu không lối ra đang làm rỉ máu Hoa Kỳ.
Thượng nghị sĩ John McCain, ứng cử viên của đảng Cộng hòa, dù từng chứng tỏ là một con người độc lập cũng không thể nào gỡ bỏ cái cảm giác của cử tri nếu ông đắc cử thì dù muốn dù không Hoa Kỳ vẫn còn chạy trên con đường mòn của Bush trong một thời gian (điều mà dân Mỹ đã quá chán ngán) trước khi có những thay đổi cần thiết.Cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra vào đầu tháng 9/2008, tuy trên lý thuyết được giải thích là sự tuần hoàn kinh tế, cũng không thể giải tỏa được trách nhiệm của đảng cầm quyền và là giọt nước làm đầy li nước.
Chính quyền Bush đã để cho Wall Street tức lực lượng tư bản thao túng, thiếu sự kiểm soát, tạo ra sự phồn vinh nhà cửa giả tạo để đi đến sự sụp đổ. Sự tin tưởng của quần chúng nơi Thượng nghị sĩ McCain còn chút gì vào lúc đại hội đảng Cộng hòa họp tại Minnesota chính thức đề cử ông đã tan biến nhanh chóng sau khi cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ. Và sau đó liên danh McCain-Palin xuống dài như một con tàu trượt dốc. Sự đắc cử của Thượng nghị sĩ Obama là một cuộc cách mạng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập quốc 232 năm, một người da den đắc cử tổng thống Hoa Kỳ. Sự đắc cử của ông Obama nói lên rằng nước Mỹ thật sự có dân chủ và những lời tuyên bố của các lãnh tụ chính trị Hoa Kỳ hứa xây đựng dân chủ bất cứ nơi nào trên thế giới là những lời tuyên bố có thực chất.
Những quá đáng tại nhà tù Abu Ghraib, vụ giam giữ tù nhân trái luật quốc tế tại Guantanamo, vụ cơ quan tình báo CIA bắt lén người nước ngoài, vụ bóc thư và nghe lén điện thoại của dân chúng không có phép của tòa án chỉ là những quá đáng do hoàn cảnh chiến tranh và do đó chúng không làm lu mờ ngọn hải đăng dân chủ và nhân quyền Hoa Kỳ vẫn nêu cao từ hồi lập quốc. Quan trọng hơn cả là sự đắc cử của Thượng nghị sĩ Barack Obama chứng tỏ bức tường chủng tộc đen trắng nặng nề trong lịch sử Hoa Kỳ đã được chọc thủng (mặc dù chưa một sớm một chiều được hoàn toàn xóa sạch).
Bằng sự đắc cử Thượng nghị sĩ Obma đã vãn hồi được sự kính nể của thế giới đối với Hoa Kỳ, và điều này sẽ là một tích sản quý báu để Hoa Kỳ có thể có một đóng góp tích cực trong sự phục hồi ổn định và hòa bình thế giới.Truyền thống dân chủ của Hoa Kỳ đã được thể hiện một cách tốt đẹp trong ngày bầu cử. Chỉ một giờ sau khi biết Thượng nghị sĩ Obama đắc cử, tổng thống Bush đã gọi điện thoại chúc mừng. Và sau đó Thượng nghị sĩ John McCain gọi, nhìn nhận mình đã thua, và chính thức hứa hẹn trước quốc dân sẽ cùng hợp tác làm việc với vị tổng thống tương lai giải quyết các vấn đề quốc gia. Đáp lại, Thượng nghị sĩ Obama, vị tổng thống vừa đắc cử, trong buổi ra mắt đầu tiên tại Chicago cũng đã cám ơn tổng thống Bush và Thượng nghị sĩ McCain.
Những căng thẳng trong thời gian tranh cử bỗng chốc tan biến để chỉ còn lại một không khí hòa giải và phấn khởi. Qua cuộc bầu cử (4/11/08) bầu lại toàn thể 435 ghế hạ nghị viện và 33 ghế thượng nghị sĩ (trên 100 ghế) hết nhiệm kỳ, đảng Dân chủ đã củng cố thêm đa số sẵn có của mình. Đảng Dân chủ sẽ kiểm soát cả hành pháp và lập pháp trong thời gian (ít nhất là 2 năm) tới. Nhưng điều này không có nghĩa Hoa Kỳ sẽ giải quyết các vấn đề quốc gia một cách dễ dàng. Giữ gìn an ninh nội bộ, giải quyết chiến tranh, vượt qua khó khăn kinh tế, ổn định ngân sách là những vấn nạn nổi cộm mà vị tổng thống đắc cử sẽ phải giải quyết, trong đó quan trọng hàng đầu là kinh tế.
Tổng thống đắc cử Barack Obama ghi nhận những khó khăn trước mắt và trong buổi ra mắt đầu tiên đêm Thứ Ba 4/11/08 ông nói rằng Hoa Kỳ sẽ giải quyết được các khó khăn này nếu không phải trong nhiệm kỳ này thì sẽ tiếp trong nhiệm kỳ tới, nhưng ông quả quyết một cách đầy tự tin rằng “chúng ta sẽ đi tới đó” vì ông tin rằng đất nước Hoa Kỳ có một sức bật tiềm tàng. Phần ông, ông bắt tay ngay vào việc. Sau khi bổ nhiệm Dân biểu Rahm Emanuel (Dân chủ, Illinois), một cố vấn thân tín làm Tham mưu trưởng Bạch Cung để sắp xếp bộ máy chuyển quyền, và nghe đại diện chính quyền đương nhiệm báo cáo về an ninh quốc gia, ngày Thứ Sáu 7/11/08 tại Chicago ông đã gặp 17 chuyên viên kinh tế (gồm kinh tế gia, giáo sư đại học, giám đốc công ty và thành phần trong chính quyền) để bàn về các giải pháp chấn chỉnh cơn rối loạn tài chánh đang càng lúc càng trầm trọng hơn, và ngay sau đó với sự có mặt của đoàn chuyên viên kinh tế này ông Obama đã thực hiện cuộc họp báo đầu tiên.
Trong buổi họp báo tổng thống đắc cử Barack Obama nhiều lần nhấn mạnh ở một thời điểm chỉ có một chính quyền có trách nhiệm và chính quyền hiện nay là chính quyền Bush. Nhưng cuộc họp báo của ông cho dân chúng thấy ưu tiên của ông là kinh tế. Và điều này đáp ứng sự mong chờ của quần chúng. Như đã nói, sự đắc cử của Thượng nghị sĩ Barach Obama là một cuộc cách mạng. Và cuộc cách mạng nào cũng mang lại sự phấn khởi ban đầu. Tuy nhiên thành quả thật sự của cách mạng là xây dựng thì chúng ta cần kiên nhẫn chờ đáp số của thời gian. Đối với cuộc cách mạng Obama, người Mỹ còn phải chờ ít nhất là vào mùa tranh cử tới trong năm 2012 mới thấy được phần nào câu trả lời.
Trần Bình Nam
Nov. 8, 2008binhnam@sbcglobal.netwww.tranbinhnam.com(1) Kết quả ghi nhận cho đến ngày 7/11/08. Còn hai bang nhỏ chưa có kết quả.(2) Trong số đó có người viết bài này.Aucun commentaire
Monday, November 10, 2008
VŨ ĐÌNH TRƯỜNG * TẠ ƠN MẸ
TẠ ƠN MẸ
(Viết thay lời những người con gốc Việt
gửi đến các bà mẹ Hoa Kỳ đã dày công dưỡng dục)
Tạ ơn Mẹ, người không cùng huyết thống
Tóc mẹ vàng, da mẹ trắng như mây
Mẹ vớt con từ vực thẳm lưu đày
Nuôi con lớn bằng tình thương máu mủ
Tạ ơn Mẹ vì con mà lam lũ
Ngày qua ngày trong xưởng máy, nhà kho
Làm thêm giờ cho con được ấm no
Đêm lại thức dạy con từng tiếng Mỹ
Khác ngôn ngữ như ngăn thành, cách lũy
Mẹ dỗ con bằng ánh mắt, vòng tay
Mẹ gốc Âu, con gốc Á, khổ thay
Con là nợ, vì đâu mà mẹ gánh!
Mẹ biết con từ quê hương bất hạnh
Có lũ người hung ác tựa sài lang
Nuốt miền Nam bằng nanh vuốt bạo tàn
Đưa cả nước trở lại thời trung cổ
Cũng từ đó con như chim mất tổ
Tuổi còn thơ đã bỏ mẹ, lìa cha
Xuống thuyền đi trong nước mắt nhạt nhòa
Đem tính mạng gửi trên đầu ngọn sóng
Nhờ ơn Mẹ như trời cao biển rộng
Con mới còn sống sót đến ngày nay
Được nên người trên đất nước thứ hai
Niềm hãnh diện cho cả hai dân tộc
Trong hồn con mẹ rạng ngời ánh đuốc
Sáng bập bùng soi mỗi bước con đi
Lời Mẹ hiền con sẽ mãi còn ghi:
“Là dân Mỹ, nhưng đừng quên gốc Việt!”
Dâng lên Mẹ đóa hồng tươi thắm thiết
Chứa tình con từng cánh đỏ yêu thương
Mai con về quì hôn đất quê hương
Càng nhớ đến ngàn công ơn của Mẹ.
Vũ Đình Trường
Thank You, Mother!
(To American adoptive mothers who
heartily fostered children of Vietnamese origin)
Thank you, my white-skinned golden-haired mother
Who are not of the same bloodline as me or the other
But you fished me out of the abyss a refugee errant,
Adopted and fostered me with the love of a parent.
Thank you for having taken such painstaking jobs
Days after days in warehouses and workshops,
Toiled and moiled extra hours to make me undeterred,
And stayed up late to teach me each English word.
Pushing language difference as a bad barrier aside,
You soothed me with your look warm and arms wide.
You are an Westerner and I an Easterner, how rare,
I was such a heavy debt, you volunteered to bear!
You knew well that I came from that unhappy land
Where there were many a ferocious and fiendish band
Who invaded the South and confined people to cages,
Brought the whole nation back to the Middle Ages.
Since then I had become a nestless nestling in qualm
In childhood to leave Dad and separate from Mom,
I got into the fleeing boat with hot tears dripping wet
Risking my life entrusted to wave crests full of threat.
Thanks to your high-sky and vast-ocean love, my fay,
That I could survive until I can achieve success today
And become a dignified human in this second home,
A pride for both our peoples under the azure dome.
You are so shining in my soul the glittering torchlight
To enlighten each of my steps scintillating in the night.
Your virtuous advice I will always remember of course:
“Be American but don’t forget your Vietnamese source!”
I respectfully offer you this fresh gorgeous bright rose
Suffused with my affection in each red petal to enclose.
On my repatriation kneeling to kiss my native soil soon
I will bear in mind thousandfold your precious boon.
Thanh-Thanh
====
Sunday, November 9, 2008
HÃY TRẢ TỰ DO CHO GIÁO DÂN
==
HÃY TRẢ TỰ DO CHO NHỮNG NGƯỜI BỊ GIAM CẦM VÔ LÝ !
===
NGUYỄN THANH GIANG
===
Những người có lương tri và có nhãn quan đúng đắn đều vô cùng đau xót và hết sức ngỡ ngàng trước chiến dịch đàn áp dữ dội cùng một lúc cả số đông bà con giáo dân và những người hoạt động dân chủ Việt Nam. Bản thân người viết bức thư này cũng sửng sốt tưởng rằng đâu đó đã xuất hiện dấu hiệu nguy biến khiến nhà cầm quyền không thể không hành động để bảo vệ chế độ.
Thực tế, khi hàng vạn bà con giáo dân từ nhiều địa phương trong cả nước ùn ùn kéo về khu vực nhà thờ Thái Hà thì nhà nước thấy nguy cơ đã phải đưa ra những biện pháp ngăn chặn khẩn cấp .
Nhưng thử hỏi, vì sao chính nhà cầm quyền lại đẩy tình hình trở thành phức tạp đến mức có nguy cơ bùng nổ như vậy ?
Trấn áp đành đã quá giỏi vì đấy là sở trường của chuyên chính vô sản, nhưng rồi đây, hai cái công viên bên cạnh nhà thờ Thái Hà và bên cạnh Tòa Khâm sứ sẽ vẫn cứ còn gợi lại chứng tích rất không đẹp của ĐCSVN trong lòng những ai ngày nay đi qua và các thế hệ mai sau nhìn thấy nó. Người ta bảo rằng hai công viên kia là công tích đáng tôn vinh của giáo dân, đặc biệt là Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt và linh mục Vũ Khởi Phụng. Ai cũng biết rằng, không có họ thì công viên Tòa Khâm sứ đã biến thành vũ trường và các quán bia ôm uế tạp cho tư bản đỏ hốt bạc. Không có họ thì công viên Nhà thờ Thái Hà đã được phân lô xây lầu cho các quan chức và bộ hạ.
Lại nữa, rồi đây vẫn cứ còn xói mãi vào tâm khảm con người về nỗi xấu hổ đối với những thủ đoạn hạ đẳng khi người ta cắt xén, xuyên tạc lời Đức Cha Ngô Quang Kiệt để báng bổ, hạ nhục ông.
Thử hỏi, cái hậu họa thảm hại cho uy tín và danh dự của ĐCNVN này do ai gây ra ?
Càng ngạc nhiên hơn, gần như đồng thời với đàn áp giáo dân, người ta mở chiến dịch truy lùng và bắt giam hàng loạt những người hoạt động dân chủ.
Như trên đã nói, vì tưởng rằng đã xuất hiện nguy cơ từ một âm mưu chính trị ghê gớm nào đấy nên tôi giữ im lặng để thận trọng tìm hiểu. Sau những trao đổi với một số người hiểu biết, trong đó có công an và người bị công an thẩm vấn, đặc biệt là qua trò chuyện trong buổi “ Gặp mặt thân nhân các chiến sỹ dân chủ đang gặp hoạn nạn ” tại nhà tôi hôm nay tôi mới xác định được rằng đợt tra xét, giam cầm này chủ yếu nhằm truy bức hành động treo biểu ngữ của những nhà hoạt động dân chủ.
Nếu quả đúng vậy thì hành động này của nhà cầm quyền cần được xem xét lại.
Hãy xem, họ đã treo những khẩu hiệu gì ?
Biểu ngữ treo ở Nam Thăng Long, Hà Nội viết:
- Tham nhũng là hút máu dân - Lạm phát, giá cả tăng cao là giết dân - Mất đất, biển, đảo là có tội đối với tổ tiên - Yêu cầu đảng cộng sản thực hiện ngay dân chủ hóa đất nước, đa nguyên đa đảng
Biểu ngữ treo ở Hải Phòng viết:
- Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo Việt Nam - Dân chủ, nhân quyền cho nhân dân Việt Nam - Đa nguyên, đa đảng cho Việt Nam
Biểu ngữ treo ở cầu Lai Cách Hải Dương viết:
- Lạm phát, dân nghèo khổ là do chính quyền CS - Mất dân chủ tự do nhân quyền là do chính quyền CS - Mất đất mất đảo là do chính quyền đảng CS - Yêu cầu: đa nguyên đa đảng
Những khẩu hiệu trên sai ở chỗ nào ?
Không sai !
Hầu hết đúng. Một vài câu có thể là nên chỉnh sửa đôi chút.
Những câu nên chỉnh sửa không phải là sai gì đáng kể.
Những câu đúng phải được xem là lời tuyên thệ, là sự tự vấn nghiêm khắc của một chính quyền thực sự vì dân.
Có người bảo các khẩu hiệu treo ở Hà Nội và Hải Phòng không có vấn đề gì. Nhưng khẩu hiệu treo ở Hải Dương phạm tội kêu gọi lật đổ chính quyền.
Không, nói như vậy là phạm tội vu khống, là cố tình suy diễn gán ghép bằng dã tâm ác ý. Mọi người đều có quyền khen hay chê, có quyền phân tích và xét đoán. Người nói hoàn toàn có quyền phát biểu nhận định rằng sở dĩ có tham nhũng ở tầm quốc nạn, sở dĩ nhân dân nghèo khổ, đất nước tụt hậu là do Đảng đã tha hóa, biến chất, đã trở nên quá kém cỏi. Đấy là tự do tư tưởng, tự do ngôn luận. Người lĩnh hội có thể biến nhận thức đó thành hành động: hoặc ra sức đấu tranh buộc Đảng cải tổ triệt để, đổi mới thực sự để may chăng còn có thể tồn tại; hoặc tiến hành đấu tranh vũ trang lật đổ Đảng đi. Và, chỉ người lĩnh hội mới chịu trách nhiệm về hành động của họ.
Toàn Đảng, trước hết là TBT Nông Đức Mạnh và các ủy viên Bộ Chính trị muốn xứng đáng thì hãy hô thật to các khẩu hiệu trên. ( Riêng câu “ Đa nguyên đa đảng cho Việt Nam” các ông có thể lờ đi hoặc hô nho nhỏ ). Dẫu sao, đa nguyên đa đảng là tất yếu. Sợ cũng không được, trốn tránh cũng không được, cưỡng lại cũng không được, mưu ma chước quỷ để ngăn chặn mấy thì rồi cái gì phải đến cũng sẽ đến như mùa xuân sẽ đến..
Người ta nói đúng, người ta làm đúng, người ta chỉ bảo, khuyến khích các người làm đúng lời dạy của cha ông, đúng ước nguyện của nhân dân, sao lại bắt bớ người ta, đánh đập đầy đọa người ta, gieo đau khổ cho cha mẹ, vợ con người ta ? !
Sao lại dã man tàn bạo đến thế ! Không còn biết xót thương là gì ! Không còn sợ quả báo đời con, đời cháu hay sao ?
Người trong nước hẳn không thể không khinh ghét, oán giận song vì sợ hãi không dám lên tiếng nhưng hãy nghe kia, Nghị viện Châu Âu mạnh mẽ lên án vì cho rằng ở Việt Nam: “ tự do hội họp bị hạn chế nghiêm trọng: tháng 9-2008 chính quyền Việt Nam phát động cuộc đàn áp khắc nghiệt nhất trong nhiều thập niên qua đối với người công giáo biểu tình ôn hòa tham gia cầu nguyện tại Hà Nội để đòi đất đai giáo sản bị nhà cầm quyền tịch thu ”, “ Việt Nam thiết lập những điều luật hạn chế quyền tự do vào mạng internet, thông qua việc kiểm tra và kiểm soát nội dung văn bản, và đã bắt giam những “ nhà ly khai sử dụng internet ” với lý do dùng internet để phổ biến các quan điểm nhân quyền và dân chủ hay thảo luận dân chủ” .
Họ yêu cầu:
- Trả tự do tức khắc cho mọi cá nhân bị tù đầy hay giam giữ vì lý do biểu tỏ ôn hòa ý kiến hay tôn giáo …
- Bãi bỏ các luật pháp Việt Nam nhằm kết tội các nhà bất đồng chính kiến hay các hoạt động tôn giáo căn cứ theo khái niệm mơ hồ xâm phạm “ an ninh quốc gia”, để các luật pháp này không áp dụng cho những cá nhân sử dụng các quyền cơ bản của họ về tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội và tự do tín ngưỡng. …..Quyết nghị về vấn đề nhân quyền và dân chủ ấn định trong Hiệp ước đối tác và hợp tác Liên Âu – Việt Nam được Quốc hội Châu Âu thông qua ngày 22 tháng 10 năm 2008 với gần như tuyệt đại đa số: 479 phiếu thuận, 21 phiếu chống, 4 phiếu trắng. Liên Âu không phải Hoa Kỳ nên không thể suy diễn rằng họ cay cú, thù địch gì mà phải hiểu rằng họ đang thực hiện sứ mệnh thiêng liêng của nhân loại. Đồng thời hãy ghi nhớ rằng họ đang là đối tác quan trọng hàng đầu của VN.
Tôi cũng khẩn thiết yêu cầu:
1 ) Trả tự do ngay cho những người bị bắt một cách vô lý: Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn văn Tính, Nguyễn Kim Nhàn, Vũ Hùng, Phạm Văn Trội, Trần Đức Thạch, Nguyễn Văn Túc, Nguyễn Xuân Nghĩa, Lê thị Kim Thu …
2 ) Bộ Chính trị và Ban Bí thư cần họp kiểm điểm về việc chỉ đạo giải quyết các vụ việc nêu trên. Xác định cho được những ai do nhận thức , do mắc mưu sự chỉ đạo từ nước ngoài hay bản thân là tình báo nước ngoài đã thực hiện âm mưu phản động?.
Những bước đi của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong việc xúc tiến giao hòa với Tòa thánh Vatican, hứa hẹn giải quyết êm thấm vấn đề Tòa Khâm sứ Hà Nội; trong việc đẩy mạnh mối giao hảo với Hoa Kỳ đến mức Tổng thống Bush tuyên bố khẳng định chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam và đang có bước đi tích cực trong quan hệ quân sự, quốc phòng Việt- Mỹ hẳn đã làm cồn cào bụng dạ những kẻ vốn coi Viêt Nam là đối tượng thuộc phạm vi bành trướng. Họ muốn kích động chính quyền VN phải ra tay đàn áp dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để buộc Hoa Kỳ và Phương Tây phải lên tiếng, từ đấy khoét sâu mâu thuẫn giữa VN với thế giới tiên tiến, thiết lập lại tình trạng cô lập để buộc VN không còn con đường nào khác ngoài con đường chui vào vòng đô hộ của họ.
Có tin cho biết những ngày vừa qua quân đội Trung Quốc đã áp sát biên giới phía Bắc và người ta chủ trương kích động giáo dân nổi loạn để bọn Lê Chiêu Thống có cớ mời họ vào.
Dù những nhận thức, những ý kiến nêu trên sai đúng đến mức nào, tôi vẫn mong các vị nghiêm túc quan tâm đến tâm thư này không chỉ vì số phận nghiệt ngã đau lòng của những người đang bị giam cầm vô lý mà còn vì quyền lợi của nhân dân Việt Nam, vì trách nhiệm tối thiểu của chính Đảng CS. Nguyễn Thanh Giang Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội, Điện thoại : 35 534 370
INSIGHTWEBY TEYAHOO
==
HÃY TRẢ TỰ DO CHO NHỮNG NGƯỜI BỊ GIAM CẦM VÔ LÝ !
===
NGUYỄN THANH GIANG
===
Những người có lương tri và có nhãn quan đúng đắn đều vô cùng đau xót và hết sức ngỡ ngàng trước chiến dịch đàn áp dữ dội cùng một lúc cả số đông bà con giáo dân và những người hoạt động dân chủ Việt Nam. Bản thân người viết bức thư này cũng sửng sốt tưởng rằng đâu đó đã xuất hiện dấu hiệu nguy biến khiến nhà cầm quyền không thể không hành động để bảo vệ chế độ.
Thực tế, khi hàng vạn bà con giáo dân từ nhiều địa phương trong cả nước ùn ùn kéo về khu vực nhà thờ Thái Hà thì nhà nước thấy nguy cơ đã phải đưa ra những biện pháp ngăn chặn khẩn cấp .
Nhưng thử hỏi, vì sao chính nhà cầm quyền lại đẩy tình hình trở thành phức tạp đến mức có nguy cơ bùng nổ như vậy ?
Trấn áp đành đã quá giỏi vì đấy là sở trường của chuyên chính vô sản, nhưng rồi đây, hai cái công viên bên cạnh nhà thờ Thái Hà và bên cạnh Tòa Khâm sứ sẽ vẫn cứ còn gợi lại chứng tích rất không đẹp của ĐCSVN trong lòng những ai ngày nay đi qua và các thế hệ mai sau nhìn thấy nó. Người ta bảo rằng hai công viên kia là công tích đáng tôn vinh của giáo dân, đặc biệt là Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt và linh mục Vũ Khởi Phụng. Ai cũng biết rằng, không có họ thì công viên Tòa Khâm sứ đã biến thành vũ trường và các quán bia ôm uế tạp cho tư bản đỏ hốt bạc. Không có họ thì công viên Nhà thờ Thái Hà đã được phân lô xây lầu cho các quan chức và bộ hạ.
Lại nữa, rồi đây vẫn cứ còn xói mãi vào tâm khảm con người về nỗi xấu hổ đối với những thủ đoạn hạ đẳng khi người ta cắt xén, xuyên tạc lời Đức Cha Ngô Quang Kiệt để báng bổ, hạ nhục ông.
Thử hỏi, cái hậu họa thảm hại cho uy tín và danh dự của ĐCNVN này do ai gây ra ?
Càng ngạc nhiên hơn, gần như đồng thời với đàn áp giáo dân, người ta mở chiến dịch truy lùng và bắt giam hàng loạt những người hoạt động dân chủ.
Như trên đã nói, vì tưởng rằng đã xuất hiện nguy cơ từ một âm mưu chính trị ghê gớm nào đấy nên tôi giữ im lặng để thận trọng tìm hiểu. Sau những trao đổi với một số người hiểu biết, trong đó có công an và người bị công an thẩm vấn, đặc biệt là qua trò chuyện trong buổi “ Gặp mặt thân nhân các chiến sỹ dân chủ đang gặp hoạn nạn ” tại nhà tôi hôm nay tôi mới xác định được rằng đợt tra xét, giam cầm này chủ yếu nhằm truy bức hành động treo biểu ngữ của những nhà hoạt động dân chủ.
Nếu quả đúng vậy thì hành động này của nhà cầm quyền cần được xem xét lại.
Hãy xem, họ đã treo những khẩu hiệu gì ?
Biểu ngữ treo ở Nam Thăng Long, Hà Nội viết:
- Tham nhũng là hút máu dân - Lạm phát, giá cả tăng cao là giết dân - Mất đất, biển, đảo là có tội đối với tổ tiên - Yêu cầu đảng cộng sản thực hiện ngay dân chủ hóa đất nước, đa nguyên đa đảng
Biểu ngữ treo ở Hải Phòng viết:
- Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo Việt Nam - Dân chủ, nhân quyền cho nhân dân Việt Nam - Đa nguyên, đa đảng cho Việt Nam
Biểu ngữ treo ở cầu Lai Cách Hải Dương viết:
- Lạm phát, dân nghèo khổ là do chính quyền CS - Mất dân chủ tự do nhân quyền là do chính quyền CS - Mất đất mất đảo là do chính quyền đảng CS - Yêu cầu: đa nguyên đa đảng
Những khẩu hiệu trên sai ở chỗ nào ?
Không sai !
Hầu hết đúng. Một vài câu có thể là nên chỉnh sửa đôi chút.
Những câu nên chỉnh sửa không phải là sai gì đáng kể.
Những câu đúng phải được xem là lời tuyên thệ, là sự tự vấn nghiêm khắc của một chính quyền thực sự vì dân.
Có người bảo các khẩu hiệu treo ở Hà Nội và Hải Phòng không có vấn đề gì. Nhưng khẩu hiệu treo ở Hải Dương phạm tội kêu gọi lật đổ chính quyền.
Không, nói như vậy là phạm tội vu khống, là cố tình suy diễn gán ghép bằng dã tâm ác ý. Mọi người đều có quyền khen hay chê, có quyền phân tích và xét đoán. Người nói hoàn toàn có quyền phát biểu nhận định rằng sở dĩ có tham nhũng ở tầm quốc nạn, sở dĩ nhân dân nghèo khổ, đất nước tụt hậu là do Đảng đã tha hóa, biến chất, đã trở nên quá kém cỏi. Đấy là tự do tư tưởng, tự do ngôn luận. Người lĩnh hội có thể biến nhận thức đó thành hành động: hoặc ra sức đấu tranh buộc Đảng cải tổ triệt để, đổi mới thực sự để may chăng còn có thể tồn tại; hoặc tiến hành đấu tranh vũ trang lật đổ Đảng đi. Và, chỉ người lĩnh hội mới chịu trách nhiệm về hành động của họ.
Toàn Đảng, trước hết là TBT Nông Đức Mạnh và các ủy viên Bộ Chính trị muốn xứng đáng thì hãy hô thật to các khẩu hiệu trên. ( Riêng câu “ Đa nguyên đa đảng cho Việt Nam” các ông có thể lờ đi hoặc hô nho nhỏ ). Dẫu sao, đa nguyên đa đảng là tất yếu. Sợ cũng không được, trốn tránh cũng không được, cưỡng lại cũng không được, mưu ma chước quỷ để ngăn chặn mấy thì rồi cái gì phải đến cũng sẽ đến như mùa xuân sẽ đến..
Người ta nói đúng, người ta làm đúng, người ta chỉ bảo, khuyến khích các người làm đúng lời dạy của cha ông, đúng ước nguyện của nhân dân, sao lại bắt bớ người ta, đánh đập đầy đọa người ta, gieo đau khổ cho cha mẹ, vợ con người ta ? !
Sao lại dã man tàn bạo đến thế ! Không còn biết xót thương là gì ! Không còn sợ quả báo đời con, đời cháu hay sao ?
Người trong nước hẳn không thể không khinh ghét, oán giận song vì sợ hãi không dám lên tiếng nhưng hãy nghe kia, Nghị viện Châu Âu mạnh mẽ lên án vì cho rằng ở Việt Nam: “ tự do hội họp bị hạn chế nghiêm trọng: tháng 9-2008 chính quyền Việt Nam phát động cuộc đàn áp khắc nghiệt nhất trong nhiều thập niên qua đối với người công giáo biểu tình ôn hòa tham gia cầu nguyện tại Hà Nội để đòi đất đai giáo sản bị nhà cầm quyền tịch thu ”, “ Việt Nam thiết lập những điều luật hạn chế quyền tự do vào mạng internet, thông qua việc kiểm tra và kiểm soát nội dung văn bản, và đã bắt giam những “ nhà ly khai sử dụng internet ” với lý do dùng internet để phổ biến các quan điểm nhân quyền và dân chủ hay thảo luận dân chủ” .
Họ yêu cầu:
- Trả tự do tức khắc cho mọi cá nhân bị tù đầy hay giam giữ vì lý do biểu tỏ ôn hòa ý kiến hay tôn giáo …
- Bãi bỏ các luật pháp Việt Nam nhằm kết tội các nhà bất đồng chính kiến hay các hoạt động tôn giáo căn cứ theo khái niệm mơ hồ xâm phạm “ an ninh quốc gia”, để các luật pháp này không áp dụng cho những cá nhân sử dụng các quyền cơ bản của họ về tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội và tự do tín ngưỡng. …..Quyết nghị về vấn đề nhân quyền và dân chủ ấn định trong Hiệp ước đối tác và hợp tác Liên Âu – Việt Nam được Quốc hội Châu Âu thông qua ngày 22 tháng 10 năm 2008 với gần như tuyệt đại đa số: 479 phiếu thuận, 21 phiếu chống, 4 phiếu trắng. Liên Âu không phải Hoa Kỳ nên không thể suy diễn rằng họ cay cú, thù địch gì mà phải hiểu rằng họ đang thực hiện sứ mệnh thiêng liêng của nhân loại. Đồng thời hãy ghi nhớ rằng họ đang là đối tác quan trọng hàng đầu của VN.
Tôi cũng khẩn thiết yêu cầu:
1 ) Trả tự do ngay cho những người bị bắt một cách vô lý: Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn văn Tính, Nguyễn Kim Nhàn, Vũ Hùng, Phạm Văn Trội, Trần Đức Thạch, Nguyễn Văn Túc, Nguyễn Xuân Nghĩa, Lê thị Kim Thu …
2 ) Bộ Chính trị và Ban Bí thư cần họp kiểm điểm về việc chỉ đạo giải quyết các vụ việc nêu trên. Xác định cho được những ai do nhận thức , do mắc mưu sự chỉ đạo từ nước ngoài hay bản thân là tình báo nước ngoài đã thực hiện âm mưu phản động?.
Những bước đi của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong việc xúc tiến giao hòa với Tòa thánh Vatican, hứa hẹn giải quyết êm thấm vấn đề Tòa Khâm sứ Hà Nội; trong việc đẩy mạnh mối giao hảo với Hoa Kỳ đến mức Tổng thống Bush tuyên bố khẳng định chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam và đang có bước đi tích cực trong quan hệ quân sự, quốc phòng Việt- Mỹ hẳn đã làm cồn cào bụng dạ những kẻ vốn coi Viêt Nam là đối tượng thuộc phạm vi bành trướng. Họ muốn kích động chính quyền VN phải ra tay đàn áp dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để buộc Hoa Kỳ và Phương Tây phải lên tiếng, từ đấy khoét sâu mâu thuẫn giữa VN với thế giới tiên tiến, thiết lập lại tình trạng cô lập để buộc VN không còn con đường nào khác ngoài con đường chui vào vòng đô hộ của họ.
Có tin cho biết những ngày vừa qua quân đội Trung Quốc đã áp sát biên giới phía Bắc và người ta chủ trương kích động giáo dân nổi loạn để bọn Lê Chiêu Thống có cớ mời họ vào.
Dù những nhận thức, những ý kiến nêu trên sai đúng đến mức nào, tôi vẫn mong các vị nghiêm túc quan tâm đến tâm thư này không chỉ vì số phận nghiệt ngã đau lòng của những người đang bị giam cầm vô lý mà còn vì quyền lợi của nhân dân Việt Nam, vì trách nhiệm tối thiểu của chính Đảng CS. Nguyễn Thanh Giang Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội, Điện thoại : 35 534 370
INSIGHTWEBY TEYAHOO
==
NGHI VIỆN ÂU CHÂU VÀ VIỆT CỘNG
==
Nghị Viện Âu Châu hoãn vô thời hạn việc ký kết các thỏa ước hợp tác với Việt Nam
"DANG, Tim [MEDAU]" <TDANG@its.jnj.com>
===
Với 479 phiếu thuận, 21 phiếu chống, và 4 phiếu vắng mặt, Nghị Viện Âu Châu đã tuyên bố hoãn vô thời hạn việc ký kết các thỏa ước hợp tác với Việt Nam cho tới khi nào những vi phạm về nhân quyền vẫn chưa chấm dứt.Ðây không phải là lần đầu tiên Nghị Viện Âu Châu đưa ra một nghị quyết lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền.
Tuy nhiên, khác với những lần trước, việc Nghị Viện Âu Châu đưa ra một nghị quyết mạnh mẽ với một đa số áp đảo như thế là do lần này các nhà ngoại giao tại Châu Âu được chứng kiến tận mắt và được nghe tận tai những thông tin do chính ông Nguyễn Thế Thảo chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Hà Nội cung cấp trong cuộc tiếp kiến ở Hà Nội trong tuần qua. Theo các ký giả của Independent Catholic News, những lời giải thích của ông Thảo xem ra đang mang lại một tác dụng hoàn toàn ngược lại với những toan tính của nhà cầm quyền cộng sản.
Xin mời quý cha và anh chị em xem toàn văn Thông Cáo Báo Chí của Nghị Viện Âu Châu.
Trong một nghị quyết về những mối quan hệ giữa Liên Hiệp Âu Châu và Việt Nam, Nghị Viện Âu Châu đã kêu gọi thúc đẩy Việt Nam tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do đa dạng then chốt trước khi một thỏa hiệp về Ðối Tác và Hợp Tác mới với Âu Châu được hoàn tất.
Theo nghị quyết được thông qua với 479 phiếu thuận, 21 phiếu chống, và 4 phiếu vắng mặt, tự do hội họp và báo chí, cũng như việc truy nhập vào Internet đang bị hạn chết gắt gao tại Việt Nam, trong khi đó các nhóm tôn giáo và các nhóm thiểu số - như Công Giáo, Phật Giáo, và các nhóm thiểu số người Thượng và Khmer chịu phân biệt đối xử và bách ha.i.
Việt Nam cần phải thực hiện tốt hơn việc bảo đảm nhân quyền theo thỏa ước hiện nay.
Trước hết, điểm qua thỏa thuận hợp tác hiện nay giữa Liên Hiệp Âu Châu và Việt Nam, Nghị Viện Âu Châu nhấn mạnh rằng “việc đối thoại về nhân quyền giữa Liên Hiệp Âu Châu và Việt Nam cần phải đưa đến những tiến triển cụ thể tại Việt Nam” và “yêu cầu Hội Ðồng Bộ Trưởng và Ủy Ban Âu Châu đánh giá lại chính sách hợp tác với Việt Nam, chú tâm đến điều 1 của Hiệp Ðịnh Hợp Tác trong đó quy định rằng sự hợp tác phải dựa trên căn bản tôn trọng những nguyên tắc và những quyền căn bản”. Nghị Viện kêu gọi Ủy Ban Âu Châu “đề ra những chuẩn mực đánh giá cho những dự án phát triển hiện nay nhằm bảo đảm việc tuân thủ với cam kết về nhân quyền và dân chủ.”
Hoãn vô thời hạn việc ký kết cho tới khi nào những vi phạm vẫn chưa chấm dứt
Tiếp đến, các Thành Viên Nghị Viện Châu Âu thúc giục Ủy Ban Âu Châu và Hội Ðồng Bộ Trưởng trong các thương thảo hiện nay với Việt Nam về một thỏa hiệp mới liên quan đến Ðối Tác và Hợp Tác với Âu Châu “phải nêu với phía Việt Nam yêu cầu phải chấm dứt việc vi phạm có hế thống tính dân chủ và các nhân quyền trước khi hoàn tất thỏa hiệp.”
Cụ thể, Nghị Viện, là cơ quan có vai trò tư vấn trong việc hoàn tất thỏa hiệp mới, muốn Việt Nam phải
- Hợp tác tích cực với những cơ chế nhân quyền của Liên Hiệp Quốc bằng các mời Ủy Ban Phúc Trình về Khoan Dung Tôn Giáo thăm Việt Nam.
- Thả ngay những người bị giam cầm vì biểu tỏ hòa bình các niềm tin về chính trị hay tôn giáo.
- Cho các tổ chức tôn giáo độc lập được tự do tiến hành các hoạt động tôn giáo mà không bị nhà cầm quyền can thiê.p.
- Hủy bỏ các điều khoản trong luật pháp Việt Nam kết tội những hoạt động bất đồng chính kiến dựa trên cơ sở của các tội danh được định nghĩa mơ hồ là “xâm phạm an ninh quốc giạ”
- Chấm dứt việc kiểm duyệt và kiểm soát các cơ quan truyền thông trong nước. Nguyễn Việt Nam dịch(Forwarded by Matthew Tran <hi5forhrinvn@yahoo.com>, 10/26/08, 9.52PM)
====
Nghị Viện Âu Châu hoãn vô thời hạn việc ký kết các thỏa ước hợp tác với Việt Nam
"DANG, Tim [MEDAU]" <TDANG@its.jnj.com>
===
Với 479 phiếu thuận, 21 phiếu chống, và 4 phiếu vắng mặt, Nghị Viện Âu Châu đã tuyên bố hoãn vô thời hạn việc ký kết các thỏa ước hợp tác với Việt Nam cho tới khi nào những vi phạm về nhân quyền vẫn chưa chấm dứt.Ðây không phải là lần đầu tiên Nghị Viện Âu Châu đưa ra một nghị quyết lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền.
Tuy nhiên, khác với những lần trước, việc Nghị Viện Âu Châu đưa ra một nghị quyết mạnh mẽ với một đa số áp đảo như thế là do lần này các nhà ngoại giao tại Châu Âu được chứng kiến tận mắt và được nghe tận tai những thông tin do chính ông Nguyễn Thế Thảo chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Hà Nội cung cấp trong cuộc tiếp kiến ở Hà Nội trong tuần qua. Theo các ký giả của Independent Catholic News, những lời giải thích của ông Thảo xem ra đang mang lại một tác dụng hoàn toàn ngược lại với những toan tính của nhà cầm quyền cộng sản.
Xin mời quý cha và anh chị em xem toàn văn Thông Cáo Báo Chí của Nghị Viện Âu Châu.
Trong một nghị quyết về những mối quan hệ giữa Liên Hiệp Âu Châu và Việt Nam, Nghị Viện Âu Châu đã kêu gọi thúc đẩy Việt Nam tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do đa dạng then chốt trước khi một thỏa hiệp về Ðối Tác và Hợp Tác mới với Âu Châu được hoàn tất.
Theo nghị quyết được thông qua với 479 phiếu thuận, 21 phiếu chống, và 4 phiếu vắng mặt, tự do hội họp và báo chí, cũng như việc truy nhập vào Internet đang bị hạn chết gắt gao tại Việt Nam, trong khi đó các nhóm tôn giáo và các nhóm thiểu số - như Công Giáo, Phật Giáo, và các nhóm thiểu số người Thượng và Khmer chịu phân biệt đối xử và bách ha.i.
Việt Nam cần phải thực hiện tốt hơn việc bảo đảm nhân quyền theo thỏa ước hiện nay.
Trước hết, điểm qua thỏa thuận hợp tác hiện nay giữa Liên Hiệp Âu Châu và Việt Nam, Nghị Viện Âu Châu nhấn mạnh rằng “việc đối thoại về nhân quyền giữa Liên Hiệp Âu Châu và Việt Nam cần phải đưa đến những tiến triển cụ thể tại Việt Nam” và “yêu cầu Hội Ðồng Bộ Trưởng và Ủy Ban Âu Châu đánh giá lại chính sách hợp tác với Việt Nam, chú tâm đến điều 1 của Hiệp Ðịnh Hợp Tác trong đó quy định rằng sự hợp tác phải dựa trên căn bản tôn trọng những nguyên tắc và những quyền căn bản”. Nghị Viện kêu gọi Ủy Ban Âu Châu “đề ra những chuẩn mực đánh giá cho những dự án phát triển hiện nay nhằm bảo đảm việc tuân thủ với cam kết về nhân quyền và dân chủ.”
Hoãn vô thời hạn việc ký kết cho tới khi nào những vi phạm vẫn chưa chấm dứt
Tiếp đến, các Thành Viên Nghị Viện Châu Âu thúc giục Ủy Ban Âu Châu và Hội Ðồng Bộ Trưởng trong các thương thảo hiện nay với Việt Nam về một thỏa hiệp mới liên quan đến Ðối Tác và Hợp Tác với Âu Châu “phải nêu với phía Việt Nam yêu cầu phải chấm dứt việc vi phạm có hế thống tính dân chủ và các nhân quyền trước khi hoàn tất thỏa hiệp.”
Cụ thể, Nghị Viện, là cơ quan có vai trò tư vấn trong việc hoàn tất thỏa hiệp mới, muốn Việt Nam phải
- Hợp tác tích cực với những cơ chế nhân quyền của Liên Hiệp Quốc bằng các mời Ủy Ban Phúc Trình về Khoan Dung Tôn Giáo thăm Việt Nam.
- Thả ngay những người bị giam cầm vì biểu tỏ hòa bình các niềm tin về chính trị hay tôn giáo.
- Cho các tổ chức tôn giáo độc lập được tự do tiến hành các hoạt động tôn giáo mà không bị nhà cầm quyền can thiê.p.
- Hủy bỏ các điều khoản trong luật pháp Việt Nam kết tội những hoạt động bất đồng chính kiến dựa trên cơ sở của các tội danh được định nghĩa mơ hồ là “xâm phạm an ninh quốc giạ”
- Chấm dứt việc kiểm duyệt và kiểm soát các cơ quan truyền thông trong nước. Nguyễn Việt Nam dịch(Forwarded by Matthew Tran <hi5forhrinvn@yahoo.com>, 10/26/08, 9.52PM)
====
CỘNG SẢN VÀ NHẤT HẠNH
From: Minh Man
VẺ ĐẸP TIỀM ẨN
Sau cơn mưa tầm tã, mọi nơi đều ngập nước, nhất là các khu lao động luôn sống với lũ; Tri từ Chơn Thành, cách Thành phố HCM độ 60km, về Sài gòn, luôn ghé vào tụ điểm từ thiện do nhóm khiếm thị tự quản, nghỉ lại đêm.
Nước từ ngoài đầu hẻm đã lên khỏi mắt cá, đẩy xe vào sân, Tri lom khom như tìm vật gì đánh rơi; cậu vòng quanh nhà ngắm nghía có vẻ thích thú, từ bên trong Trâm lên tiếng : Tìm gì có vẻ bức xúc thế? Tri đáp gọn lỏn: Không, em đang ngắm Vẻ Đẹp Tiềm Ẩn hậu kỳ WTO!.
Giày dép hay những vật nhẹ đều lềnh bềnh trôi tự do trong nhà, dán chuột lóp ngóp bơi marathon; Rất may, nước vẫn chừa lại mép giường, lưới võng để mọi người ngả lưng về đêm.
Tri tuy ít nói, mỗi lời nói ra đều thâm trầm ý nhị.Trên mâm cơm tối, Tài, chồng của Trâm ( cũng khiếm thị ) hỏi: Sao gọi là Vẻ Đẹp Tiềm Ẩn hậu kỳ WTO? Tri đáp: Trước WTO đâu ngập vậy, và trước của cái trước nữa SG cũng đâu sống với lũ như thế! Nước ngập mọi nhà không là Vẻ Đẹp Tiềm Ẩn ư?
Khắp nơi đều báo động nạn nhân của bão lụt, Hà Nội có 17 người thiệt mạng, dĩ nhiên các tỉnh cũng không tránh khỏi. Việt Nam liên tục gánh chịu nhiều tai nạn về người, lẫn của, chưa nói tới giao thông hàng ngày lên mức báo động đỏ. Kinh tế giao động, tiền tệ mất giá, xuất khẩu đình trệ; xã hội diễn ra khiếu kiện, công nhân biểu tình…Phật giáo là một bộ phận trong nước, từ lâu, khá lặng lẽ ổn định nhất, giờ đây, cũng có những giao động lớn trong giới tu sĩ lẫn tín đồ khi BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ ra một văn thư gửi Hội Đồng Trị Sự GHPGVN.
Một văn bản không nằm trong văn kiện Thông Tư, Thông Báo, Quyết Định hay Chỉ Thị…mà dạng của một lá thư ngỏ, nội dung có vẻ Thông Báo, Hướng dẫn, chỉ thị…
Khoá tu đầu tháng tại Bát Nhã vẫn diễn ra êm thắm, có cả BTSPG Lâm Đồng tham dự, Tín đồ khắp nơi về tu rất thành kính; bên kia chánh điện, loa phát thanh văn bản trên, đọc đi đọc lại nhiều lần, có dán lên bảng thông tin. Toàn bộ chư Tăng Ni, chư tôn đức trong BTS và Phật tử thật ngỡ ngàng!
Một dạng chỉ thị trong văn bản:
…………
1/ Đề Nghị GHPGVN có ý kiến chính thức với làng Mai về việc làm vi phạm pháp luật và trái Hiến Chương GHPGVN…
Một dạng Thông Báo trong văn bản:
2/ Nhà nước không chấp nhận đề nghị xin lại các cơ sở Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội( TP HCM) và Phương Bối Am ( Lâm Đồng ); không giải quyết cấp visa nhiều lần và dài hạn cho Làng Mai….
Một dạng hướng dẫn:
3/ Hướng xử lý đối với những việc Tăng Thân Làng Mai đang tạo ra phức tạp, gây mất an ninh, trật tự tại tu viện Bát Nhã(Lâm Đồng) là:
- Tôn trọng ý kiến TT Đức Nghi, Viện chủ Tu viện Bát Nhã về việc không bảo lãnh cho Làng Mai tiếp tục tu học tại Tu viện Bát Nhã, do đó, Tăng Thân làng Mai không có cơ sở pháp lý tối thiểu để ở lại tu viện Bát Nhã nữa….
- Quý vị giáo thọ Làng Mai mang quốc tịch nước ngoài, nếu visa còn thời hạn mà hoạt động trái pháp luật thì buộc phải xuất cảnh….
Số người có mặt lộ vẻ xôn xao, giao động và bất mãn tột độ; trong giây lát, văn bản trên được đệ tử thầy Đức Nghi phổ biến rộng rãi như một thành công lớn mà từ lâu, Phật tử Làng Mai cứ ngỡ chừng chuyện tranh chấp cỏn con giữa Làng Mai và Thầy Đức Nghi; Đồng Hạnh và nhóm họ Đồng cứ như mở cờ trong bụng vì có hậu thuẩn lớn, ai làm gì được nào!
Quần chúng tín đồ Làng Mai cũng không muốn lưu lại Bát Nhã làm gì khi mà cơm không lành canh không ngọt nữa, nhưng vốn liếng bao nhiêu tỷ đổ vào đó thì sao? Tu sĩ Làng Mai cũng muốn ra đi càng sớm càng tốt, nhưng đi đâu với 400 người như thế, nhà nước có chấp thuận cho ai đó chứa số lượng trên đây ?
Có lẽ văn bản trên đây đã giúp cho thầy trò thầy Đức Nghi có một lối thoát mà đám đệ tử bày đủ trò hù doạ, khủng bố vẫn không đi đến đâu. Quần chúng Làng Mai cứ chờ đợi sự minh xét của nhà nước, GHPGTW cũng đang chờ thái độ dứt khoát của Trung Ương; giờ đây, BTG Chính phủ đã công khai bày tỏ lập trường với làng Mai, chuyện nầy không còn cá nhân với cá nhân, mà là chính sách, lập trường rõ ràng của nhà nước; Người dân không còn ý kiến riêng tư nữa.
Một số tổ chức giáo phái Tin Lành mà nhà nước vẫn cho đăng ký sinh hoạt, tại sao Làng Mai không được phép?
Tịnh Độ Cư Sĩ, Bửu Sơn Kỳ Hương, PG Hoà Hảo, Tam Tông Miếu (Đạo giáo) là những chi phái mang ít nhiều ảnh hưởng của PG, tạm gọi là những tông môn của Đạo Phật, vẫn được nhà nước công nhận, chả lẽ Làng Mai là Tà Giáo???
Trong văn bản nêu những lý do như:…Mở Giới đàn thụ giới và một số khoá tu, bổ nhiệm trụ trì, tấn phong giáo phẩm, không thông qua GHPGVN.
Nhưng qua văn thư số 1425/UBND-NC v/v chấp thuận tổ chức Đại giới Đàn Phương Bối, ngày 07/3/2007 thì ông Phó chủ tịch Trương văn Thu đã gửi đến BTSPG Lâm Đồng chấp thuận sau khi xét đơn của Làng Mai thông qua BTSPG tỉnh mà BTSPG Lâm Đồng đã đệ trình lên v/p II tại TP HCM và được HT Từ Nhơn, thay mặt BTT HĐTS GHPGVN qua công văn 043/cv/HDTS đã phúc đáp công văn thượng đạt! như thế sao gọi là mở giới đàn không thông qua GHPGVN? Các khoá tu cũng thế, TT Đức Nghi đích thân đứng đơn như ngày 04/5/06 đã gửi HĐTS GHPGVN, BTS PG Lâm Đồng, BĐD PG xã Bảo Lộc. Vấn đề Bổ nhiệm trụ trì, tấn phong giáo phẩm như trong dĩa dặn dò thuộc nội bộ của Làng Mai, không liên hệ đến tính hành chánh Giáo Hội.
Trong văn bản dẫn tiếp cái sai phạm của Làng Mai: Đề cập sai lệch những vấn đề chính trị của đất nước…
Đúng, đây là một Sai lầm quá lớn của Thiền sư đối với nền chính trị Việt Nam; Thiền sư quen góp ý với Thượng hạ viện Mỹ, Ấn và nhiều nước về tác phong sinh hoạt nghị trường để góp phần ổn cố chính trị của nước đó, cũng như TS mạnh dạn góp ý với chính phủ và nhân dân Mỹ sau khi bị Hồi Giáo san bằng toà tháp đôi, phải bình tâm và không trả thù…Gần đây nhất, Đức quốc cũng muốn TS đem giáo lý hoà bình của PG để xây dựng xã hội họ bằng cách vừa hiến tặng vừa bán tượng trưng Tổng hành Dinh quân đội Đức để làm Trường Phật Học Ứng Dụng Âu Châu…
Việt Nam từng là bài học thương đau cho TS đã phải hy sinh nhiều sinh mạng các Tác Viên trường Thanh niên Phụng Sự Xã Hội mà TS nghĩ là góp phần an ủi nạn nhân chiến tranh, không bên nào chấp nhận; và TS cũng bị tẩn xuất lưu lạc trên 40 năm xứ người vì tội vận động Hoà Bình cho Việt Nam mà cả hai miền Bắc Nam không thừa nhận. Việt Nam không phải chỗ dung thân mà gần hết đời người, tại sao ngài vẫn ấp ủ tình thương xây dựng, xây dựng cho ai, góp ý cho ai? Nghiệp vận PGVN là vậy, Nghiệp vận dân tộc Việt Nam là vậy!
Cho dù một Vạn Hạnh Thiền sư từng giúp cho nước nhà hùng mạnh, nhiều thế kỷ đối đầu với quân xâm lược phương Bắc, thế nhưng công trạng đó được lưu danh trên đoạn đường nhỏ và ngắn, không tới 1km ở Q 10 TP HCM, thì một Nhất Hạnh làm sao vực dậy một khối ý thức đóng băng, một xã hội lềnh bềnh nổi trôi đủ mọi rác rếnh giữa tình người trắng bệch sương mù. Ngài hãy ở trên xứ người, ngài có thể xấp xỉ uy tín với Đức Đạt Lai Lạt Ma trên đất nước kém văn minh, còn Việt Nam đã 4000 năm văn minh, không cần sự hiện diện của Ngài nữa; Ngài gieo trồng 400 tu sinh tại Việt Nam để rồi sự hồ hởi xây dựng của ngài trở thành mối nghi ngại, số tu sinh trẻ kia trở thành con tốt thí như các Tác Viên Phụng sự Xã Hội thuở nọ, họ không gục ngã vì súng đạn nhưng họ sẽ gục ngã vì giao động, vì khủng bố hàng đêm bởi các vị đầu tròn áo vuông và mất phương hướng khi đọc văn thư 1329/TGCP –PG của BTG Chính Phủ.
Thiện chí của ngài, tinh thần dân tộc của ngài đã đặt không đúng chỗ, có lẽ kiếp sau ngài nên chọn phương Tây mà làm công dân của họ. Vì ngài thiền hành hàng ngàn người trong toà Bạch Ốc như trong chùa mình; diễu hành giữa phố thị Italy (Kito giáo) như chốn không người; đối thoại với người Hồi giáo, Palestine , Ixraen cực đoan như nói chuyện với anh em một nhà. Hướng dẫn quan chức Ấn Độ như tình thầy trò; có thể ngài làm thầy thiên hạ được, nhưng làm con, làm trò đất nước Việt Nam hơi khó. Qua ba lần về Việt Nam, Ngài đã cảm nhận được nỗi khó khăn về tình người trên quê mẹ ra sao, từ đồng đạo đến xã hội…
Cơn lũ xuất hiện, nhà nước đã có phương án giúp dân chống lũ tránh bớt thiệt hại về người và của, có sự góp sức của toàn dân; Nhưng cơn lũ xuất phát từ sự giao động của quần chúng tôn giáo, người dân không giúp được gì, thay vì có những phao cứu tạm thời để an lòng dân, ngược lại bị phủ chụp bởi văn bản làm cho GHPGVN, Tăng Tín đồ đều ngẩn ngơ; Thay vì cái phao cứu số đông, giờ đây chiếc phao to lớn chỉ cứu mạng thầy trò Đức Nghi, đẩy số quần chúng còn lại chơi vơi giữa cơn bão lũ mà đáng ra không nên có trong lúc nầy.
Muốn trục xuất Làng Mai ra khỏi Việt Nam không khó, không cần những động thái như thời gian vừa qua và như văn bản trên đây như cú phạt đền chấm dứt tình trạng nhùng nhằng, cú phạt đền làm quả bóng trúng thành goal dội ngược; biết bao nhiêu cách có thể để Làng Mai tự động rút lui một cách êm ái, cũng như lũ lên rồi tự động rút; những hiện tượng lềnh bềnh chỉ là hiện tượng nhất thời; Nhưng sau cơn lũ, mọi thiệt hại còn đó, bộ mặt nhà cửa phố phường không đẹp lắm.
Cái khôn của người quản lý phố phường khi lũ đến là biết dự phòng bằng tinh thần trách nhiệm, chứ không phải bày nhiều lô cốt tạo thêm trong chướng ngại mùa lũ, cũng thế, lũ thiên tai, lũ kinh tế, lũ giao động tôn giáo cũng phải có phương án không phải chống lại mà là xuôi thuận để lái sự việc xuối thuận cả đôi bên, có như thế, bộ mặt đất nước không thêm vết nám hết sức vô lý.
Minh Man
mm1948mm@yahoo. com
===
VẺ ĐẸP TIỀM ẨN
Sau cơn mưa tầm tã, mọi nơi đều ngập nước, nhất là các khu lao động luôn sống với lũ; Tri từ Chơn Thành, cách Thành phố HCM độ 60km, về Sài gòn, luôn ghé vào tụ điểm từ thiện do nhóm khiếm thị tự quản, nghỉ lại đêm.
Nước từ ngoài đầu hẻm đã lên khỏi mắt cá, đẩy xe vào sân, Tri lom khom như tìm vật gì đánh rơi; cậu vòng quanh nhà ngắm nghía có vẻ thích thú, từ bên trong Trâm lên tiếng : Tìm gì có vẻ bức xúc thế? Tri đáp gọn lỏn: Không, em đang ngắm Vẻ Đẹp Tiềm Ẩn hậu kỳ WTO!.
Giày dép hay những vật nhẹ đều lềnh bềnh trôi tự do trong nhà, dán chuột lóp ngóp bơi marathon; Rất may, nước vẫn chừa lại mép giường, lưới võng để mọi người ngả lưng về đêm.
Tri tuy ít nói, mỗi lời nói ra đều thâm trầm ý nhị.Trên mâm cơm tối, Tài, chồng của Trâm ( cũng khiếm thị ) hỏi: Sao gọi là Vẻ Đẹp Tiềm Ẩn hậu kỳ WTO? Tri đáp: Trước WTO đâu ngập vậy, và trước của cái trước nữa SG cũng đâu sống với lũ như thế! Nước ngập mọi nhà không là Vẻ Đẹp Tiềm Ẩn ư?
Khắp nơi đều báo động nạn nhân của bão lụt, Hà Nội có 17 người thiệt mạng, dĩ nhiên các tỉnh cũng không tránh khỏi. Việt Nam liên tục gánh chịu nhiều tai nạn về người, lẫn của, chưa nói tới giao thông hàng ngày lên mức báo động đỏ. Kinh tế giao động, tiền tệ mất giá, xuất khẩu đình trệ; xã hội diễn ra khiếu kiện, công nhân biểu tình…Phật giáo là một bộ phận trong nước, từ lâu, khá lặng lẽ ổn định nhất, giờ đây, cũng có những giao động lớn trong giới tu sĩ lẫn tín đồ khi BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ ra một văn thư gửi Hội Đồng Trị Sự GHPGVN.
Một văn bản không nằm trong văn kiện Thông Tư, Thông Báo, Quyết Định hay Chỉ Thị…mà dạng của một lá thư ngỏ, nội dung có vẻ Thông Báo, Hướng dẫn, chỉ thị…
Khoá tu đầu tháng tại Bát Nhã vẫn diễn ra êm thắm, có cả BTSPG Lâm Đồng tham dự, Tín đồ khắp nơi về tu rất thành kính; bên kia chánh điện, loa phát thanh văn bản trên, đọc đi đọc lại nhiều lần, có dán lên bảng thông tin. Toàn bộ chư Tăng Ni, chư tôn đức trong BTS và Phật tử thật ngỡ ngàng!
Một dạng chỉ thị trong văn bản:
…………
1/ Đề Nghị GHPGVN có ý kiến chính thức với làng Mai về việc làm vi phạm pháp luật và trái Hiến Chương GHPGVN…
Một dạng Thông Báo trong văn bản:
2/ Nhà nước không chấp nhận đề nghị xin lại các cơ sở Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội( TP HCM) và Phương Bối Am ( Lâm Đồng ); không giải quyết cấp visa nhiều lần và dài hạn cho Làng Mai….
Một dạng hướng dẫn:
3/ Hướng xử lý đối với những việc Tăng Thân Làng Mai đang tạo ra phức tạp, gây mất an ninh, trật tự tại tu viện Bát Nhã(Lâm Đồng) là:
- Tôn trọng ý kiến TT Đức Nghi, Viện chủ Tu viện Bát Nhã về việc không bảo lãnh cho Làng Mai tiếp tục tu học tại Tu viện Bát Nhã, do đó, Tăng Thân làng Mai không có cơ sở pháp lý tối thiểu để ở lại tu viện Bát Nhã nữa….
- Quý vị giáo thọ Làng Mai mang quốc tịch nước ngoài, nếu visa còn thời hạn mà hoạt động trái pháp luật thì buộc phải xuất cảnh….
Số người có mặt lộ vẻ xôn xao, giao động và bất mãn tột độ; trong giây lát, văn bản trên được đệ tử thầy Đức Nghi phổ biến rộng rãi như một thành công lớn mà từ lâu, Phật tử Làng Mai cứ ngỡ chừng chuyện tranh chấp cỏn con giữa Làng Mai và Thầy Đức Nghi; Đồng Hạnh và nhóm họ Đồng cứ như mở cờ trong bụng vì có hậu thuẩn lớn, ai làm gì được nào!
Quần chúng tín đồ Làng Mai cũng không muốn lưu lại Bát Nhã làm gì khi mà cơm không lành canh không ngọt nữa, nhưng vốn liếng bao nhiêu tỷ đổ vào đó thì sao? Tu sĩ Làng Mai cũng muốn ra đi càng sớm càng tốt, nhưng đi đâu với 400 người như thế, nhà nước có chấp thuận cho ai đó chứa số lượng trên đây ?
Có lẽ văn bản trên đây đã giúp cho thầy trò thầy Đức Nghi có một lối thoát mà đám đệ tử bày đủ trò hù doạ, khủng bố vẫn không đi đến đâu. Quần chúng Làng Mai cứ chờ đợi sự minh xét của nhà nước, GHPGTW cũng đang chờ thái độ dứt khoát của Trung Ương; giờ đây, BTG Chính phủ đã công khai bày tỏ lập trường với làng Mai, chuyện nầy không còn cá nhân với cá nhân, mà là chính sách, lập trường rõ ràng của nhà nước; Người dân không còn ý kiến riêng tư nữa.
Một số tổ chức giáo phái Tin Lành mà nhà nước vẫn cho đăng ký sinh hoạt, tại sao Làng Mai không được phép?
Tịnh Độ Cư Sĩ, Bửu Sơn Kỳ Hương, PG Hoà Hảo, Tam Tông Miếu (Đạo giáo) là những chi phái mang ít nhiều ảnh hưởng của PG, tạm gọi là những tông môn của Đạo Phật, vẫn được nhà nước công nhận, chả lẽ Làng Mai là Tà Giáo???
Trong văn bản nêu những lý do như:…Mở Giới đàn thụ giới và một số khoá tu, bổ nhiệm trụ trì, tấn phong giáo phẩm, không thông qua GHPGVN.
Nhưng qua văn thư số 1425/UBND-NC v/v chấp thuận tổ chức Đại giới Đàn Phương Bối, ngày 07/3/2007 thì ông Phó chủ tịch Trương văn Thu đã gửi đến BTSPG Lâm Đồng chấp thuận sau khi xét đơn của Làng Mai thông qua BTSPG tỉnh mà BTSPG Lâm Đồng đã đệ trình lên v/p II tại TP HCM và được HT Từ Nhơn, thay mặt BTT HĐTS GHPGVN qua công văn 043/cv/HDTS đã phúc đáp công văn thượng đạt! như thế sao gọi là mở giới đàn không thông qua GHPGVN? Các khoá tu cũng thế, TT Đức Nghi đích thân đứng đơn như ngày 04/5/06 đã gửi HĐTS GHPGVN, BTS PG Lâm Đồng, BĐD PG xã Bảo Lộc. Vấn đề Bổ nhiệm trụ trì, tấn phong giáo phẩm như trong dĩa dặn dò thuộc nội bộ của Làng Mai, không liên hệ đến tính hành chánh Giáo Hội.
Trong văn bản dẫn tiếp cái sai phạm của Làng Mai: Đề cập sai lệch những vấn đề chính trị của đất nước…
Đúng, đây là một Sai lầm quá lớn của Thiền sư đối với nền chính trị Việt Nam; Thiền sư quen góp ý với Thượng hạ viện Mỹ, Ấn và nhiều nước về tác phong sinh hoạt nghị trường để góp phần ổn cố chính trị của nước đó, cũng như TS mạnh dạn góp ý với chính phủ và nhân dân Mỹ sau khi bị Hồi Giáo san bằng toà tháp đôi, phải bình tâm và không trả thù…Gần đây nhất, Đức quốc cũng muốn TS đem giáo lý hoà bình của PG để xây dựng xã hội họ bằng cách vừa hiến tặng vừa bán tượng trưng Tổng hành Dinh quân đội Đức để làm Trường Phật Học Ứng Dụng Âu Châu…
Việt Nam từng là bài học thương đau cho TS đã phải hy sinh nhiều sinh mạng các Tác Viên trường Thanh niên Phụng Sự Xã Hội mà TS nghĩ là góp phần an ủi nạn nhân chiến tranh, không bên nào chấp nhận; và TS cũng bị tẩn xuất lưu lạc trên 40 năm xứ người vì tội vận động Hoà Bình cho Việt Nam mà cả hai miền Bắc Nam không thừa nhận. Việt Nam không phải chỗ dung thân mà gần hết đời người, tại sao ngài vẫn ấp ủ tình thương xây dựng, xây dựng cho ai, góp ý cho ai? Nghiệp vận PGVN là vậy, Nghiệp vận dân tộc Việt Nam là vậy!
Cho dù một Vạn Hạnh Thiền sư từng giúp cho nước nhà hùng mạnh, nhiều thế kỷ đối đầu với quân xâm lược phương Bắc, thế nhưng công trạng đó được lưu danh trên đoạn đường nhỏ và ngắn, không tới 1km ở Q 10 TP HCM, thì một Nhất Hạnh làm sao vực dậy một khối ý thức đóng băng, một xã hội lềnh bềnh nổi trôi đủ mọi rác rếnh giữa tình người trắng bệch sương mù. Ngài hãy ở trên xứ người, ngài có thể xấp xỉ uy tín với Đức Đạt Lai Lạt Ma trên đất nước kém văn minh, còn Việt Nam đã 4000 năm văn minh, không cần sự hiện diện của Ngài nữa; Ngài gieo trồng 400 tu sinh tại Việt Nam để rồi sự hồ hởi xây dựng của ngài trở thành mối nghi ngại, số tu sinh trẻ kia trở thành con tốt thí như các Tác Viên Phụng sự Xã Hội thuở nọ, họ không gục ngã vì súng đạn nhưng họ sẽ gục ngã vì giao động, vì khủng bố hàng đêm bởi các vị đầu tròn áo vuông và mất phương hướng khi đọc văn thư 1329/TGCP –PG của BTG Chính Phủ.
Thiện chí của ngài, tinh thần dân tộc của ngài đã đặt không đúng chỗ, có lẽ kiếp sau ngài nên chọn phương Tây mà làm công dân của họ. Vì ngài thiền hành hàng ngàn người trong toà Bạch Ốc như trong chùa mình; diễu hành giữa phố thị Italy (Kito giáo) như chốn không người; đối thoại với người Hồi giáo, Palestine , Ixraen cực đoan như nói chuyện với anh em một nhà. Hướng dẫn quan chức Ấn Độ như tình thầy trò; có thể ngài làm thầy thiên hạ được, nhưng làm con, làm trò đất nước Việt Nam hơi khó. Qua ba lần về Việt Nam, Ngài đã cảm nhận được nỗi khó khăn về tình người trên quê mẹ ra sao, từ đồng đạo đến xã hội…
Cơn lũ xuất hiện, nhà nước đã có phương án giúp dân chống lũ tránh bớt thiệt hại về người và của, có sự góp sức của toàn dân; Nhưng cơn lũ xuất phát từ sự giao động của quần chúng tôn giáo, người dân không giúp được gì, thay vì có những phao cứu tạm thời để an lòng dân, ngược lại bị phủ chụp bởi văn bản làm cho GHPGVN, Tăng Tín đồ đều ngẩn ngơ; Thay vì cái phao cứu số đông, giờ đây chiếc phao to lớn chỉ cứu mạng thầy trò Đức Nghi, đẩy số quần chúng còn lại chơi vơi giữa cơn bão lũ mà đáng ra không nên có trong lúc nầy.
Muốn trục xuất Làng Mai ra khỏi Việt Nam không khó, không cần những động thái như thời gian vừa qua và như văn bản trên đây như cú phạt đền chấm dứt tình trạng nhùng nhằng, cú phạt đền làm quả bóng trúng thành goal dội ngược; biết bao nhiêu cách có thể để Làng Mai tự động rút lui một cách êm ái, cũng như lũ lên rồi tự động rút; những hiện tượng lềnh bềnh chỉ là hiện tượng nhất thời; Nhưng sau cơn lũ, mọi thiệt hại còn đó, bộ mặt nhà cửa phố phường không đẹp lắm.
Cái khôn của người quản lý phố phường khi lũ đến là biết dự phòng bằng tinh thần trách nhiệm, chứ không phải bày nhiều lô cốt tạo thêm trong chướng ngại mùa lũ, cũng thế, lũ thiên tai, lũ kinh tế, lũ giao động tôn giáo cũng phải có phương án không phải chống lại mà là xuôi thuận để lái sự việc xuối thuận cả đôi bên, có như thế, bộ mặt đất nước không thêm vết nám hết sức vô lý.
Minh Man
mm1948mm@yahoo. com
===
Thursday, November 6, 2008
CỔ SỬ VIỆT NAM
Cảm tưởng về sách của BS Nguyễn Xuân Quang :Khai Quật Kho TàngCổ Sử Hừng Việt(Nhà Xuất Bản Y Học Thường Thức, Anaheim-California,1999, 617 trang)
Lê Mộng Nguyên
Nhan đề ‘’Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt’’ của Nguyễn Xuân Quang tạm
dịch ra Pháp ngữ : L’exhumation du Trésor de l’Histoire Antique du
Peuple Việt à l’aube de l’humanité để chúng ta được thông cảm ngay bây
giờ với tác giả đã nghiên cứu và moi móc, phát kiến thư tịch xưa
(exhumer de vieux documents) trong nhiều năm qua có liên can đến nguồn
gốc xa xưa qua thượng cổ và cổ sử của nước mình và đưa đến kết luận như
sau để lại cho đời và cho hai con Mai An và Á Mỹ :
Trong khi viết quyển sách này bố cảm thấy mình là một người Việt huy
hoàng tràn đầy hạnh phúc, một thứ hạnh phúc rực rỡ, chói chang như mặt
trời mọc tỏa sáng rạng ngời. Bố đã khám phá ra mình là một người Việt
đầy ý nghĩa, một người Việt Hừng Rạng, một Người Việt Mặt trời thái
dương (un Vietnamien du Soleil)... Bố đã tìm ra cái chìa khóa mở ra kho
tàng cổ sử Hừng Việt, giờ trao lại cho những người đi sau trong đó có
hai con... Ta lấy một tỉ dụ : trong phần thứ II về ‘’Cổ Sử Việt Nam’’,
tác giả ‘’hãnh diện là Man Di của Hừng Việt’’ (tr. 139). Man (không phải
là dã man hay man rợ) mà do chữ Mường có nghĩa là Người (Mạng, Mệnh):
con ngƯỜi . Chữ Mường qua Anh hoặc Pháp ngữ là Hmong đọc là Hờ Mong, Hờ
Mo, Homo = người (homme, huma, humas, humain, v.v.)... Man là đỏ (Mặt
trời) : Mâng (mưng) đông là rạng đông, hừng sáng, hoặc theo qui luật
chuyển hóa m = b (mồ hôi, bồ hôi; mày, bay), Man, mang = ban, bang, bàng
(bàng đỏ như cây sởi, cây bàng). Kiểm chứng 1 lần nữa theo phương trình
thức (équation) B= V, ta có mang = vang, đỏ (rượu vang, vin Bordeaux).
DI biếm âm với GÌ có nghĩa là trỜi, theo biến âm gạch đứng (que) I = OI
như Thì + Thời (giờ); DI + Dời, Trời... Sau những lý lẽ về khoa học ngôn
ngữ rất xác đáng (vững vàng) như thế, tác giả đi dến xác nhận như sau :
Hiểu như thế, Man Di là từ của chúng ta tự gọi mình. Man là Người Ánh
Sáng. Di là Người Lửa, Người Trời. Man Di ngàn đời vẫn còn mang nghĩa là
Người, Ngời, Người Ánh Sáng, Con Trời. Chúng ta hãy hãnh diện là trỜi ,
là MAN DI dù cho thiên hạ có nói gì mặc họ. Nếu cò người nào thấy xấu
hổ không dám nhận thì tôi xin vỗ ngực mà nói rằng
‘’Tôi, Nguyễn Xuân Quang, hãnh diện là Man Di, con Trời...’’Cùng một
quan niệm, cứ theo lý luận như thế và một nguồn cảm hứng bất tuyệt, BS
Nguyễn Xuân Quang chứng minh cho ta biết - qua lịch sử thượng cổ [Haute
Antiquité] đại tộc Việt (phần 1) và cổ sử Việt nam [ Histoire Antique du
Vietnam (Phần 2) - rằng chúng ta, cũng như dân tộc văn minh Aztèque
(cựu dân tộc Mễ Tây Cơ, Mexique), hoặc nền văn minh Maya trước khi
Christophe Colomb đặt chân trên đất Trung Mỹ (Yucatan) [Civilisation
précolombienne] hoặc Cổ Ai Cập, - ...là (tôi xin trích) Việt Mặt trời
thái dương, Mặt trời hừng rạng, con cháu của Việt Mặt trời thái dương,
Viêm Ðế, Ðế Minh... con cháu của Thái dương thần nữ Âu Cơ, của các Vua
Hùng Hừng rạng.
Tất cả còn thấy rõ qua truyền thuyết, sử miệng ca dao, lịch sử, văn hóa
của người Việt ngày nay và còn khắc ghi lại trong cổ sử đồng Ðông sơn.Về
họ hỒng bÀng, tác giả viết (trang 351) : ... họ Hồng Bàng theo nghĩa
tổng quát hàm nghĩa tộc họ theo Vũ trụ giáo, đạo Mặt trời của người Việt
Mặt trời thái dương thì họ Hồng Bàng là họ Ðỏ, họ Hùng, họ Mặt trời, họ
Việt, họ Mặt trời rạng ngời, họ Người Mặt trời, là Ðế Quốc Mặt trời,
Liên bang Mặt trời, Liên hiệp quốc Mặt trời...Ðại Tộc Việt ngày xưa
thuộc về Ðế Quộc Mặt Trời (Empire du Soleil).
Tác giả không những là một bác sĩ công chức của Tiểu Bang California, mà
hơn nữa Ông phải là một bách khoa từ điển sống, một người thiên kinh
vạn quyển (une encyclopédie vivante), một ngôn ngữ học gia (philologue)
mới có thể đưa đến một kết cục vững vàng như thế, sau khi - như nhan đề
sách đã cho biết - đào xới (khai quật thi thể theo nghĩa trí thức) cái
kho tàng quí báu mà cổ sử nước ta để lại một cách tinh vi, với một óc
não và tinh thần khoa học đáng trọng.Vì thật ra lịch sử cổ điển chỉ cho
ta biết một cách tổng quát về nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Theo tục
truyền, vua Ðế Minh (cháu bốn đời của vua ThẦn NÔng) đi chơi phương Nam
đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng Tiên, hỏi làm
vợ, sinh 1 con gọi là Lộc Tục. Ðế Minh truyền ngôi cho Ðế Nghi, trưởng
nam làm vua phương Bắc, và phong cho Lộc Tục (con thứ) làm vua phương
Nam tức KINH DƯƠNG VƯƠNG với quốc hiệu là Xích Quỉ bao bọc bờ cõi thời
bấy giờ ở phía Bắc giáp Ðộng Ðình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp Hồ Tôn
(Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Ðông giáp Nam Hải.
Vua nước Xích Quỉ (bắt đầu khoảng năm 2879 TTL), lấy con gái Ð?ng Ðình
Quân tên Long Nữ, sinh một con là SÙNG LÃM nối ngôi cha, xưng là L_C
LONG QUÂN. Ðến lượt LLQ hỏi con gái vua Ðế Lai làm vợ tên là ÂU CƠ và
sinh hạ được 100 con trai. LLQ (dòng dõi long quân) đem 50 đứa xuống bể
Nam Hải, Âu Cơ 50 đứa lên núi. Có lẽ như thế về sau, nước Xích Quỉ chia
ra những nước gọi là Bách Việt mà cũng vì thế mà ngày nay đất vùng Hồ
Quảng (gồm ba tỉnh Hồ Nam, Quảng Ðông và Quảng Tây) còn tự xưng là Bách
Việt. LLQ phong cho trưởng nam làm vua nước VĂN LANG với triều hiệu HÙNG
VƯƠNG. Nước Văn Lang có 15 bộ (bộ thứ 14 gọi là ViỆt ThƯỜng : Quảng
Bình, Quảng Trị). Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu, đặt tướng văn là Lạc
Hầu , tướng võ Lạc Tướng, con trai vua : Quan Lang, con gái : Mị Nương,
các quan nhỏ : Bồ Chính.Sử Tàu bấy giờ chép vào năm 1109 TTL, dưới đời
vua Thành Vương nhà Chu, có một nước gọi là Việt Thường nằm tại phía Nam
xứ Giao Chỉ.
Câu hỏi của sử gia Trần Trọng Kim (tr. 13) :’’ Vậy đất Việt Thường và
đất Giao Chỉ có phải là đất của Hùng Vương lúc bấy giờ không ? ’’. Họ
Hồng Bàng trị vì được 18 đời (?) cho đến năm 257 TTL thì bị Thục Phán
lấy mất nước và lên ngôi xưng là AN DƯƠNG VƯƠNG, cải quốc hiệu là ÂU
L_C, đóng đô ở Phong Khê (huyện Ðông Anh, tỉnh Phúc An bây giờ). Năm 255
TTL, Loa Thành (hình xoáy tròn ốc) được xây, nhưng vì sự phản bội của
Mỵ Châu (vợ Trọng Thủy là con của Triệu Ðà), thần nỏ không còn hiệu
nghiệm, nhà Thục vì thế bị mất nước.Sáp nhập Âu Lạc vào Nam Hải, Triệu
Ðà lập nước Nam ViỆt, lên ngôi lấy triều hiệu VŨ VƯƠNG, đóng đô ở Phiên
Ngung (gần Quảng Châu bây giờ).
Ta từ giả cổ sử để đi vào lịch sử VN, nhưng đó không phải là vấn đề lược
luận hôm nay qua tác phẩm ‘’Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt’’ của BS
Nguyễn Xuân Quang.Ðể chấm dứt ‘’Nhận Diện Chân Tướng Viêm Ðế’’, tác giả
cho ta biết - sau khi trình bày ‘’Một Vài Chữ Viết Nòng Nọc’’phần lớn
dựa trên hình ngữ mặt trời của người thái cổ (mặt trời Nòng hình đĩa
tròn không tia sáng, mặt trời Nọc có tia sáng rạng ngời, mặt trời hừng
rạng [có tia sáng nọc chiếu lên], mặt trời thiên đình [có tia sáng từ
thiên đình chiếu xuống], mặt trời lặn, mặt trời ánh sáng (do lửa phát
ra, biểu tượng 3 nọc tia sáng, 3 mũi tên tia sáng (hình ngữ cổ Ai Cập :
mặt trời có 3 tia sáng (nắng) - rằng (tôi xin trích) : Thần Nông của
chúng ta khác với Thần Nông của Trung Hoa như trăng với trời. Ðối với
chúng ta Thần Nông và Viêm Ðế là hai vị nữ và Nam khác nhau. Việt là
vọt, là Nọc, là vật nhọn, là Ðực, là tia sáng, là lửa, là mặt trời có
tia sáng tỏa ra, vọt ra, bắn ra tức mặt trời tỏa rạng, thái dương. Việt
Nam là Mặt trời hừng rạng ở phương Nam. Bộc là bọc là nang là Nòng, cái
là mặt trời hình cái bọc tròn không có ánh sáng tỏa ra, là mặt trời lặn,
tà dương, là mặt trời đĩa tròn. Chúng ta là con cháu Thần Nông Trứng vũ
trụ gồm cả hai họ Nọc, họ Việt, họ Mặt trời có tia sáng rạng ngời thái
dương và họ Nòng, họ Bọc, họ Bộc, họ Mặt trời đĩa tròn (tr. 49)....
Về ‘’Vật tổ ở cõi tạo hóa của chúng ta’’, tác giả cho biết rằng : ...
gạt qua bên những vật tổ đội lốt Trứng vũ trụ, hai vật tổ tối cao thuần
âm và thuần dương của hai họ Nòng và Nọc tức hai họ Bộc và Việt là con
Rắn, Trăn Nước (anaconda), Trăn Bọc, Trăn Bộc và con chim cắt, chim Việt
(Great Hornbill). Chúng ta là con Rồng Trăn nước và cháu Tiên (tiện,
tiễn) Bổ cắt (tr. 73).Tác giả còn cho ta biết rằng tất ... cả sự cấu tạo
vũ trụ nằm trong tên hai con chim bổ nông và bồ cắt (lửa, nước, khí,
đá) :* Bổ cắt = I I = Lửa (hai nọc dùi ra lửa, thái dương)* Bồ nông = O O
= Nước (hai nòng thái âm là nước)* Bổ nông = I O = Khí (nước dương hóa
bay thành hơi, khí, gió)* Bồ cắt = O I = Ðá, đất (khối lửa âm hóa nguội
đi rắn lại thành đá) , tr. 84. (Nông (chim) là Nòng : O. Theo sự phân
sinh vô tính phái như một tế bào tách ra làm đôi ta có Nông O sinh ra O
O, lúc này con Nông có tên là Bồ Nông = O O (Bồ là vật đựng hình bao,
túi, dạ con, bồ biến âm với bầu, bào, bao nên viết là O) Theo sinh sản
hữu tính phái nghĩa là có dương có âm I + O = I O lúc này con Nông có
tên Bổ Nông. Bổ là búa, vật nhọn tức I. Bổ Nông = I O. (tr. 83). Cắt là
vật nhọn, sắc là Nọc I (Cái cọc [nọc] đi rồi lỗ bỏ không - Hồ Xuân
Hương). Tương tự theo phân sinh vô tính phái một tách ra làm hai, ta có
Cắt trở thành Bổ Cắt : I I. Theo sinh sản hữu tính , Cắt trở thành Bồ
Cắt : O I. Như thế Bổ Nông I O kết hợp với Bồ Cắt O I : I O x O I cho ra
:I I (Bổ Cắt), O I (Bồ Cắt), O O (Bồ Nông), I O (Bổ Nông) tr. 84).‘
"’Ta đã biết Nữ Thần Nông Thần Nòng kết hợp với Nam Thần Nông Thần Nống
Viêm Ðế sinh ra bốn vị thần con ở tầng Tứ hành có cốt ứng với Lửa, Ðá,
Nước, Khí ở dạng nguyên khởi tức tứ hành, Bốn nguyên sinh động lực lớn,
Tứ Trụ, Tứ Linh, Tứ Phương..., xem tr. 87’’. Trong Thượng Cổ VN, có 4
siêu linh bất tử : Thánh Dóng, Chử Ðồng Tử, Thần Tản Viên và Liễu Hạnh
Công Chúa... Theo truyền thuyết 9 mặt trời của Mường Việt cổ theo phụ
quyền thì ta có 5 mặt trời Việt rạng ngời tức Ngũ đế : Mặt trời Viêm Ðế,
Mặt trời Viêm hay Mặt trời Lửa vũ trụ, Mặt trời Ðế hay Mặt trời Ðá vũ
trụ, Mặt trời Thần hay Mặt trời Nước vũ trụ và Mặt trời Gíó vũ trụ’’,
xem tr. 122.
Theo cổ sử, vua đầu tiên của Việt Nam là Lộc Tục hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG,
con Ðế Minh và Vụ Tiên, đặt tên nước là XÍCH QUỉ... Lộc Tục có nghĩa là
Con Hươu Nọc, Hươu Việt, thuộc họ Nọc Việt Mặt trời thái dương. KDV hiểu
qua kinh = kỳ (đất tổ man tộc là Kinh Man cũng gọi là Kỳ Man). Kinh
Dương = Kỳ Dương. Kỳ Dương là con của Ðá Man, từ kỳ coi như từ con của
Man tức là : đỏ, mặt trời, đực, chỗ ở, người, chim, rắn, chó, hươu, ếch,
cây cỏ quí giá, ruồi mòng... (tr. 149).
Nói theo chữ Kinh Dương, Kì Dương là Việt Mặt trời, KDV là vua Việt Mặt
trời thái dương, với vật biểu Hươu Kẻ, Hươu Việt. KDV là Vua-Kẻ-Mặt-Trời
(Kì có liên hệ với Kẻ là Người). Xích quỉ (không phải là con quỉ đỏ),
vì quỉ phương âm từ chữ Kẻ là Người (theo qu = k như quẻ = kẻ), Xích Quỉ
là Người Ðỏ, Người mặt trời, Việt Mặt trời; nước XQ là Nước Người Mặt
trời rực lửa, Nước Việt Mặt trời đỏ lửa.Con của KDV, Sùng Lãm, lên nối
vua cha lấy hiệu là LẠc Long QuÂn (LLQ). Vương hiệu LLQ ứng với Mặt trời
nước tức Lửa Nước, tức con Sấu Lạc. Trống đồng Hòa Bình có 6 hình sấu
Lạc mõm gạc.
Theo truyền thuyết (truyện con trâu vàng ở huyện Tiên Du, LLQ là Vua Mặt
trời lặn nên Trâu-nước Sùng Lãm ở cõi âm là con Trâu-vàng, Kim ngưu,
Con Rùa vàng Kim qui cũng là hình bóng của LLQ ở cõi nước âm. Cổ Ai Cập
cũng có vua cai trị hai cõi âm dương là Orisis. LLQ của Aztèque là con
Rắn-Lông-Chim (hay Rắn-Chim) mà cũng là một người già râu bạc phơ, v. v.
Người Maya ở Trung Mỹ Châu thờ phụng Itzamma (Lézard trong ngôn ngữ
Yukatec) thịnh hành ở phía Bắc Yucatan. Thằn lằn rất hợp với vật biểu
Thằn lằn Non của chi Nòng LLQ. Âu CƠ có nghĩa từ Âu là Au là Lửa, là
trời (aube, aurore) : AC là Mẹ mặt trời mọc, là mặt trời rạng đông, là
Thái Dương Thần Nữ của chúng ta. Chúng ta hãy trở về tận gốc ngọn của
cội nguồn mà hiểu con rỒng chÁu tiÊn lÀ con nÒng-vŨ trỤ chÁu nỌc-mẶt
trỜi nếu nói theo linh vật thì là con của Rồng Bộc Trăn nước, cháu của
Tiên Việt-Bổ cắt. Ta biết HÙNG VƯƠNG được LLQ phong cho làm vua nước VĂN
LANG, như thể HV là vua Mặt Trời Mọc, là Thái Dương : Ðế Minh Ðá Man là
Vua Mặt trời buổi sáng, KDV vua Mặt trời Ðỉnh núi (buổi trưa), LLQ Mặt
trời lặn, Hùng Vương là vua Mặt trời Hừng Rạng, vua Mặt trời mọc và con
số 9 là số Thần Kỳ của HV... vì Hùng Vương là Mặt trời thứ chín trong
vòng tạo sinh vũ trụ con người tức là Mặt trời thứ 9 trong truyền thuyết
9 mặt trời của Mường Việt cổ, khác với Trung Hoa có 10 mặt trời cho đậu
trên cây phù tang (tr. 257).
Ðọc xong ‘’Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt’’ (L’exhumation du Trésor
de l’Histoire Antique du Peuple Việt à l’aube de sa création), nếu chấp
nhận nghị đề của tác giả BS Nguyễn Xuân Quang thì đồng bào chúng ta sẽ
phải rất hãnh diện đã thuộc vào những dân tộc đã từng văn minh ngay từ
thời Thượng cổ sử như văn hóa Aztèque, Maya, cổ Ai Cập, v.v. nghĩa là
các nước nằm trong Ðế Quốc Mặt Trời (Empire du Soleil) với Vũ trụ giáo
làm phương châm. Sách này không thể đọc một mạch từ đầu đến cuối như một
tiểu thuyết.
Ta có thể nói lại một lần nữa (để diễn tả lòng khâm phục của chúng ta
đói với BS Nguyễn Xuân Quang rằng Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt là
một Bách Khoa Từ Ðiển và tác giả là một người thiên kinh vạn quyển (une
encyclopédie vivante). Vậy thì trước một công trình lớn lao như thế, ta
phải đọc đi đọc lại nhiều lần để thấm nhuần và thấu hiểu sự lập luận xác
đáng, vững vàng của tác giả đã bỏ những năm trường để dày công nghiên
cứu và - mặc dầu là một sách khoa học - đã viết theo một lối văn lưu
loát, dễ hiểu và nhiều lúc có đắm say vì tác giả muốn người đọc cảm
thông với mình, chia xẻ lòng tin tưởng cực độ trong sứ mệnh của một dân
tộc chúng ta là dân tộc... (xin trích lời tác giả, tr. 607) Mặt trời
thái dương Viêm Ðế, Ðế Minh... con cháu của Thái dương thần nữ Âu Cơ,
của các Vua Hùng Hừng rạng. Tất cả còn thấy rõ qua truyền thuyết, sử
miệng ca dao, lịch sử, văn hóa của người Việt ngày nay và còn khắc ghi
lại trong cổ sử Ðông sơn.
Lê Mộng Nguyên (Paris)
Wednesday, November 5, 2008
PHÁP, TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM
NGUYỄN THIÊN THỤ
===
Trận Điện Biên Phủ và hiệp định Geneve 1954 đã xác nhận ngày tàn của thực dân Pháp tại Việt Nam. Từ ngày đó, ngườI Pháp thay đổI chính sách ngoại giao. Pháp ra mặt chống Mỹ và quay ra thân thiện vớI cộng sản nhất là Pháp tỏ ra nhiệt tình vớI cộng sản Việt Nam. Thế lực cộng sản Việt Nam rất mạnh. Trưóc 1975, cộng sản Việt Nam có Trung Quốc, Liên Xô, Miên Lào, lại có Pháp là những hậu phương, là an toàn khu và là căn cứ địa của họ. Một số triết gia Pháp đi thăm Liên Xô, lên tiếng kết án Mỹ. Họ ưu đãi các sinh viên thân cộng, và lôi kéo rất nhiều trí thức du học sinh mà đa số là con tướng tá cộng hòa trở về phục vụ Hà Nội. Họ thân cộng sản là để trả thù Mỹ đã tỏ vẻ lạnh nhạt vớI tổng thống De Gaulle và nước Pháp. Họ căm thù Mỹ vì Mỹ phổng tay Miền Nam. Ngoài ra còn một lý do khác là họ ve vản Việt cộng là để tìm đường quay trở lại Nam Kỳ lục tỉnh. NgườI Pháp dù là thực dân, dân chủ hay cộng sản đều luyến tiếc mồi ngon Nam Kỳ. . .
Về phía Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã nhiều lần ủng hộ Cộng sản Việt Nam. Nhưng họ cũng mang dã tâm xâm chiếm Việt Nam, biến Việt Nam thành thuộc địa của họ như Mông Cổ, Tây Tạng. Dã tâm này đã hiện rõ trong hội nghị Geneve 1954, khi Chu Ân Lai mở tiệc ăn mừng lại mời phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa. Phạm Văn Đồng bước vào bàn tiệc, thấy phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa liền tức giận, bỏ ra về. Chu Ân Lai nói rằng: “Cả hai phe đều là người Việt Nam cả, tại sao không ngồi xuống với nhau?”
Trong thời gian Lê Duẫn làm Tổng bí thư, cộng sản Việt Nam muốn xâm chiếm miền Nam nhưng Mao Trạch Đông không thuận. Mao muốn tổn tại hai nước Việt Nam và Mỹ ở lại miền Nam để cầm cự vớI Liên Xô. Trung Cộng đã không viện trợ cho Việt Nam, và cấm tàu hỏa Liên Xô đi vào đất Trung Quốc chở lương thực, vũ khí cho Việt Cộng. Tổng bí thư Lê Duẫn phải sang cầu cạnh Liên Xô, khi về bằng tàu hỏa, đi qua lãnh thổ Trung Quốc mà không được Mao đón tiếp. Việt Nam quay ra chống Trung Quốc và ngả theo Liên Xô, và Liên Xô đã tận tình gíúp cộng sản Việt Nam chiến thắng 1975.
Pháp như một con thú rình mồi. Sau 1962, Ngô Đình Diệm muốn chống Mỹ, Pháp bèn xen vào vớI kế hoạch Pháp thay Mỹ viện trợ cho Việt Nam. Sau đó, Pháp cũng đ ưa ra chính sách trung lập để ve vản miền Nam. Không biết thật hay hư, Nguyễn Khánh tố cáo Dương Văn Minh theo trung lập.
Thấy 1975, Mỹ bỏ Việt Nam, Pháp bèn tìm cách nhảy vào can thiệp để kiếm chác. Pháp đã gửi tướng Vanuxem sang Việt Nam và tòa đại sứ Pháp đã tích cực vận động Dương Văn Minh và các tướng lãnh quay theo Pháp. Pháp biết mình sức yếu thế cô từ sau đệ nhị thế chiến nhưng vẫn không từ bỏ tham vọng trở lại Việt Nam bằng cách này hay cách khác. Họ đã “canh ty” với Trung Quốc. Nếu Dương Văn Minh đồng ý kêu gọi quân Trung Quốc “nhập địa”, thì chỉ vài giờ là quân Trung Quốc xuất hiện khắp nơi. Dương Văn Minh thấy rằng theo Tàu thì chi bằng giao cho Việt Cộng. Bởi thế mà có việc 1975. Việc Vanuxem đến Sài gòn hồi đó báo chí đã nói ầm lên. Thiên hạ đoán già đoán non. Họ bảo là ván bài Trung lập. Nhưng Trung lập sao nổi? Pháp suy sụp, làm gì mà dám chống Liên Xô, và bỏ tiền ra viện trợ cho Việt Nam?. Pháp tính ăn theo Trung cộng để có chút cơm thừa canh cặn. Ván bài sắp thành sự thật. Nhiều trí thức và tướng tá cộng hòa có cơ hội đào thoát nhưng tin vào giải pháp trung lập và các chức vụ trong chính quyền mà ở lại rồi ngồi tù hay tự tử như ông Trần Chánh Thành, Bùi Tường Huân. . .
Sau 1975, Việt cộng chiếm miền Nam và gấp rút thống nhất đất nước và triệt hạ bọn Giải Phóng miền Nam một là vì tham, hai cũng là sợ tụi này theo Pháp và Trung cộng. Vụ Trần Văn Bá , Lê Quốc Quân cùng các nhân sĩ Cao Đài bị tù, bị giết năm 1984 thì cộng sản Việt Nam đề quyết là do Trung Quốc và Pháp ở đàng sau. . .nhưng sự thực như thế nào, chúng ta không rõ.
Nay thì dân Việt Nam đã rõ là Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Đỗ MườI đã bán nước cho Trung cộng. Sắp tớI Nguyễn Tấn Dũng lại sang triều kiến Liên Xô. Như vậy là hiện nay, Cộng sản Việt Nam đã vì quyền lợI của họ mà bán nước, hại dân. Họ sẵn sàng bán cho bất cứ ai miễn là họ có tiền.
===
===
Trận Điện Biên Phủ và hiệp định Geneve 1954 đã xác nhận ngày tàn của thực dân Pháp tại Việt Nam. Từ ngày đó, ngườI Pháp thay đổI chính sách ngoại giao. Pháp ra mặt chống Mỹ và quay ra thân thiện vớI cộng sản nhất là Pháp tỏ ra nhiệt tình vớI cộng sản Việt Nam. Thế lực cộng sản Việt Nam rất mạnh. Trưóc 1975, cộng sản Việt Nam có Trung Quốc, Liên Xô, Miên Lào, lại có Pháp là những hậu phương, là an toàn khu và là căn cứ địa của họ. Một số triết gia Pháp đi thăm Liên Xô, lên tiếng kết án Mỹ. Họ ưu đãi các sinh viên thân cộng, và lôi kéo rất nhiều trí thức du học sinh mà đa số là con tướng tá cộng hòa trở về phục vụ Hà Nội. Họ thân cộng sản là để trả thù Mỹ đã tỏ vẻ lạnh nhạt vớI tổng thống De Gaulle và nước Pháp. Họ căm thù Mỹ vì Mỹ phổng tay Miền Nam. Ngoài ra còn một lý do khác là họ ve vản Việt cộng là để tìm đường quay trở lại Nam Kỳ lục tỉnh. NgườI Pháp dù là thực dân, dân chủ hay cộng sản đều luyến tiếc mồi ngon Nam Kỳ. . .
Về phía Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã nhiều lần ủng hộ Cộng sản Việt Nam. Nhưng họ cũng mang dã tâm xâm chiếm Việt Nam, biến Việt Nam thành thuộc địa của họ như Mông Cổ, Tây Tạng. Dã tâm này đã hiện rõ trong hội nghị Geneve 1954, khi Chu Ân Lai mở tiệc ăn mừng lại mời phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa. Phạm Văn Đồng bước vào bàn tiệc, thấy phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa liền tức giận, bỏ ra về. Chu Ân Lai nói rằng: “Cả hai phe đều là người Việt Nam cả, tại sao không ngồi xuống với nhau?”
Trong thời gian Lê Duẫn làm Tổng bí thư, cộng sản Việt Nam muốn xâm chiếm miền Nam nhưng Mao Trạch Đông không thuận. Mao muốn tổn tại hai nước Việt Nam và Mỹ ở lại miền Nam để cầm cự vớI Liên Xô. Trung Cộng đã không viện trợ cho Việt Nam, và cấm tàu hỏa Liên Xô đi vào đất Trung Quốc chở lương thực, vũ khí cho Việt Cộng. Tổng bí thư Lê Duẫn phải sang cầu cạnh Liên Xô, khi về bằng tàu hỏa, đi qua lãnh thổ Trung Quốc mà không được Mao đón tiếp. Việt Nam quay ra chống Trung Quốc và ngả theo Liên Xô, và Liên Xô đã tận tình gíúp cộng sản Việt Nam chiến thắng 1975.
Pháp như một con thú rình mồi. Sau 1962, Ngô Đình Diệm muốn chống Mỹ, Pháp bèn xen vào vớI kế hoạch Pháp thay Mỹ viện trợ cho Việt Nam. Sau đó, Pháp cũng đ ưa ra chính sách trung lập để ve vản miền Nam. Không biết thật hay hư, Nguyễn Khánh tố cáo Dương Văn Minh theo trung lập.
Thấy 1975, Mỹ bỏ Việt Nam, Pháp bèn tìm cách nhảy vào can thiệp để kiếm chác. Pháp đã gửi tướng Vanuxem sang Việt Nam và tòa đại sứ Pháp đã tích cực vận động Dương Văn Minh và các tướng lãnh quay theo Pháp. Pháp biết mình sức yếu thế cô từ sau đệ nhị thế chiến nhưng vẫn không từ bỏ tham vọng trở lại Việt Nam bằng cách này hay cách khác. Họ đã “canh ty” với Trung Quốc. Nếu Dương Văn Minh đồng ý kêu gọi quân Trung Quốc “nhập địa”, thì chỉ vài giờ là quân Trung Quốc xuất hiện khắp nơi. Dương Văn Minh thấy rằng theo Tàu thì chi bằng giao cho Việt Cộng. Bởi thế mà có việc 1975. Việc Vanuxem đến Sài gòn hồi đó báo chí đã nói ầm lên. Thiên hạ đoán già đoán non. Họ bảo là ván bài Trung lập. Nhưng Trung lập sao nổi? Pháp suy sụp, làm gì mà dám chống Liên Xô, và bỏ tiền ra viện trợ cho Việt Nam?. Pháp tính ăn theo Trung cộng để có chút cơm thừa canh cặn. Ván bài sắp thành sự thật. Nhiều trí thức và tướng tá cộng hòa có cơ hội đào thoát nhưng tin vào giải pháp trung lập và các chức vụ trong chính quyền mà ở lại rồi ngồi tù hay tự tử như ông Trần Chánh Thành, Bùi Tường Huân. . .
Sau 1975, Việt cộng chiếm miền Nam và gấp rút thống nhất đất nước và triệt hạ bọn Giải Phóng miền Nam một là vì tham, hai cũng là sợ tụi này theo Pháp và Trung cộng. Vụ Trần Văn Bá , Lê Quốc Quân cùng các nhân sĩ Cao Đài bị tù, bị giết năm 1984 thì cộng sản Việt Nam đề quyết là do Trung Quốc và Pháp ở đàng sau. . .nhưng sự thực như thế nào, chúng ta không rõ.
Nay thì dân Việt Nam đã rõ là Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Đỗ MườI đã bán nước cho Trung cộng. Sắp tớI Nguyễn Tấn Dũng lại sang triều kiến Liên Xô. Như vậy là hiện nay, Cộng sản Việt Nam đã vì quyền lợI của họ mà bán nước, hại dân. Họ sẵn sàng bán cho bất cứ ai miễn là họ có tiền.
===
Tuesday, November 4, 2008
NGỤC TRUNG NHẬT KÝ
ĐỖ THÔNG MINH
GIỚI THIỆU
GIỚI THIỆU
Trước đây, giáo sư Lê Hữu Mục . . . đã
lên tiếng rằng bác Hồ " cầm nhầm" tác phẩm Ngục Trung Nhật Ký" của một
người Trung Quốc. Nay ông Hồ Thông Minh ở Nhật Bản lại gửi dến Tạp Chí
Dân Văn, bài viết về Bác và Ngục Trung Nhật Ký. gồm năm kỳ. Chúng tôi
nhận thấy bài của Ông Đỗ Thông Minh rất đầy đủ vỉ ông đã phân tích và
phê phán khá rạch ròi. Chúng tôi xin trích một đoạn. Quý vị nào muốn có
đầy đủ bài phê bình này, xin gửi thư về:
Ông Lý Trung Tín"Dan Van Tap Chi" tapchidanvan@yahoo.de
Sơn Trung
. . . Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng, Lại bị tình nghi là Hán
gian;Xử thế từ xưa không phải dễ, Mà nay, xử thế khó khăn hơn.
Có nhiều thể thơ, hầu hết các bài trong tập này thuộc thể “Ngũ ngôn”,
“Tứ tuyệt”, “Thất ngôn bát cú”… nhưng đây là bài duy nhất thuộc thể
“Thất ngôn thập nhị cú” tác giả viết? Tác giả nếu là người Việt sao lại
bị coi là “Hán gian”, tại sao bài 42 Nhai Thượng cũng lập lại chuyện
“Hán gian” này!?Theo tác giả Tâm Việt: “Trong bài “Thế lộ nan”, tác giả
có đề cập đến từ Việt. Đối với người Quảng: Quảng Đông, Quảng Tây...
Tiếng của họ được gọi là “Việt ngữ” (粵語) và đất của họ được gọi là Việt
địa, Yue. Việt cũng là đất của Việt Vương Câu Tiễn, Việt địa cựu sơn hà.
Tại Trung Quốc, tiếng Quảng Đông còn được gọi là "Việt ngữ" vì hai tỉnh
Quảng Đông và Quảng Tây, nguyên trước là đất của dân tộc Bách Việt
(百粵), nên họ gọi hai tỉnh ấy là tỉnh Việt.”.Nhất là Quảng Đông, bảng số
xe tỉnh này đều bắt đầu bằng “粵”. Cũng có khi họ dùng越. Họ gọi chung
người Việt Nam là người Kinh (京). Bản gốc dùng chữ “Việt” nào, 越 hay 粵?-
- -
- -Tiến Sĩ Đinh Thế Dũng ở Melbourne, Úc, biết tiếng Nhật (trong có chữ
Hán), tiếng Anh, tiếng Pháp, lại là một nhà thơ, đã góp ý khi đọc bản
thảo bài viết này của chúng tôi.Theo thiển ý, anh đưa 3 nhận xét mới cần
lưu ý:1- Cần có bản chính gồm đủ mọi bài và bút tự để kiểm chứng.2-
Nhận xét về bút tự từng trang, so sánh với bút tự mà Hồ Chí Minh đã viết
(chữ Hán, và số) ở những nơi khác.3- Bài Thế Lộ Nan rất đặc biệt: Bài
này là bài duy nhất nói rõ tư cách đại biểu Việt Nam, thế nhưng rất lạ
vì thể thơ toàn cuốn hình như là thể thơ Trung Hoa (tứ tuyệt là nhiều
nhất), và bài này mà ở thất ngôn bát cú thì đúng là thể thơ người Trung
Hoa miền Nam (những vùng Quảng Đông & Quảng Tây... rất thích). Thử
bỏ đi 4 câu giữa, ý thơ đi xuyên suốt và 1 vần, câu 3 đối câu 4, câu 5
đối câu 6.Kết luận: Nếu đây là bài thơ 8 câu 7 chữ thì chỉnh lắm. Cần
phải có bản chính để đối khảo nét chữ.Bài thơ 3 đoạn 4 câu 7 chữ, không
chung vần từ đoạn này qua đoạn khác (kiểu Nam Trân dịch) có vẻ lạc lõng
vì nó mang tích thơ mới, trong khi gần như toàn bài được chọn đăng lại
là thờ Trung Hoa cổ điển.
Trong bài Thế Lộ Nan, đoạn mà tỏ rõ "danh nghĩa" Việt Nam nhất cần phải
suy xét thật kỹ, không biết có thêm vào không. Đọc kỹ 4 câu chót, đây là
khẩu khí của một người than thở về cách đối xử với đồng bào, hàng xóm,
chỗ thân quen (vì vậy mới đem chuyện xử thế, nôm na là ăn ở ngày xưa và
ngày nay). Nếu là một ông đại biểu VN thì lại "lãng xẹt" về cả nội dung
đến hình thức!Khi Nam Trân dịch thì mất hẳn tính thơ Đường, và tìm cách
đưa bài Thế Lộ Nam một hình ảnh khác với hình ảnh của một người than thở
là đường đời khó khăn. Hồ Chí Minh không có giọng điệu than thở như
vậy, vì trong thơ phải có "thép" mà. Do đó, tôi đồng ý với anh là bài
"Thế Lộ Nan" cần phải được đặt lại vấn đề.- - - - -Bài 40, Lạc Liễu Nhất
Chích Nha (Rụng mất một chiếc răng), Hồ Chí Minh chưa già làm gì mà
rụng răng, hình ảnh nào Hồ Chí Minh sún răng không?Bài 42, Nhai Thượng
(Trên đường phố), Hồ Chí Minh là người Việt thì sao bị coi là “Hán
Gian”?Nhai ThượngNhai thượng nhân tranh khán Hán gian Hán gian dữ ngã
bản vô can Vô can nhưng thị hiềm nghi phạm Sử ngã tâm trung giác điểm
hàn.(Nam Trân dịch)
Trên đường phốNgoài phố tranh nhau xem Hán gian, Hán gian, ta vốn thực
vô can; Vô can vẫn bị nghi là có, Thực khiến lòng ta lạnh tới gan.Bài 5
Thế Lộ Nam cũng đã đề cập tới chuyện “Hán gian” này.Bài 44, Trưng Binh
Gia Quyến (Gia quyến bị bắt lính), nhà Hồ Chí Minh đâu có ai bị trưng
binh đâu mà đem tâm tình ấy ra than thở?Trưng Binh Gia QuyếnLang quân
nhất khứ bất hồi đầu Sử thiếp khuê trung độc bão sầu Đương cục khả liên
dư tịch mịch Thỉnh dư lai tạm trú lao tù.(Nam Trân
dịch)Gia quyến người bị bắt línhBiền biệt anh đi không trở lại, Buồng
the trơ trọi, thiếp ôm sầu; Quan trên xót nỗi em cô quạnh, Nên lại mời
em tạm ở tù.Bài 59, Thụy Bất Trước (Không ngủ được) có câu: “Mộng hồn
hoàn nhiễm ngũ tiêm tinh”, nên dịch là “Sao năm cánh nhọn mộng hồn
quanh”, tại sao Nam Trân lại dịch là: “Sao vàng năm cánh mộng hồn
quanh?”. Đâu có chữ nào nói tới màu vàng, đây là lối dịch của văn nô,
gượng ép kéo bài thơ vào chuyện Việt Nam vì hầu như cả tập thơ quên
không nói tới quê hương, dân tộc.Thụy Bất TrướcNhất canh... nhị canh...
hựu tam canh,Triển chuyển, bồi hồi, thụy bất thành;Tứ, ngũ canh thì tài
hợp nhãn,Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh.(Nam Trân dịch)
Không ngủ đượcMột canh... hai canh... lại ba canh,Trằn trọc băn khoăn,
giấc chẳng thành;Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt,Sao vàng năm cánh mộng
hồn quanh.Theo tác giả Tâm Việt: “Trong bài Thụy Bất Trước, câu "Mộng
hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh" 夢魂環繞五尖星 (The dream-soul surrounds with
five sharp stars), ý của tác giả là bày tỏ giấc mơ may mắn cho mình và
thịnh vượng cho tổ quốc mình.
Thật vậy, trong Sấm Trạng Trình, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có câu: “Năm
Giáp Tý vẻ khuê đã rạng - Lộ ngũ tinh trinh tượng thái hanh.”. Biểu
tượng ngũ tinh là điềm may mắn mưa thuận gió hòa, nhân tình yên ổn.”.Như
trong cuốn “Kỷ Niệm 100 Năm Phong Trào Đông Du” của chúng tôi đã trình
bày, cờ của Việt Nam Quang Phục Hội do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo đã dùng
hình ảnh “Ngũ Tinh Liên Châu” (4 chấm tròn trắng tại 4 góc hình chữ
nhật và 1 chấm tròn ở giữa lien kết với nhau bằng 2 đường chéo), đó là
hiện tượng đặc biệt cứ một chu kỳ 60 năm (một hội) thì cả 5 ngôi sao nổi
tiếng Kim, Mộc, Thủy, Hỏa Thổ tuy quay theo qũy đạo khác nhau, tốc độ
khác nhau, nhưng cùng đứng về một phía. Theo quan niệm Đông Phương, đó
là biểu tượng kỳ diệu và may mắn. Vậy “ngũ tiêm tinh” không phải là “sao
5 cánh” mà là “5 ngôi sao nhọn“.
Bài 61, Thế Nan Hữu Mẫn Tả Báo Cáo (Viết hộ báo cáo cho các bạn tù), Hồ
Chí Minh là người Việt đi viết đơn tiếng Hoa cho người Hoa sao lạ
vậy?Thân thế của tác giả cũng được biểu lộ, là người có đủ kiến thức về
luật pháp để viết các đơn kiện cho các bạn tù, với sách luật có sẵn để
tra cứu... "Phụng Thử", "Đẳng Nhân" (là đồng đẳng) trong tư pháp, hành
chính vừa mới học, chứ không có nghĩa "thừa lệnh" như dịch giả viết.Thế
Nan Hữu Mẫn Tả Báo CáoĐồng chu cộng tế nghĩa nan từ, Thế hữu biên tu báo
cáo thư; "Phụng thử", "đẳng nhân" kim thủy học, Đa đa bác đắc cảm ân
từ.(Nam Trân dịch)Viết hộ báo cáo cho các bạn tùCùng hội cùng thuyền nên
phải giúp, Viết thay báo cáo dám từ nan; "Chiểu theo", "thừa lệnh"
(?)nay vừa học, Đã được bao lời bạn cảm ơn.Bài 64, Song Thập Nhất
(11-11), Hồ Chí Minh bị quân Tưởng Giới Thạch bắt thì mắc mớ gì nhớ ngày
chấm dứt Thế Chiến Thứ 1 (1914-1918), cuộc kháng chiến chống phát xít
Nhật xâm lược của nhân dân Trung Quốc, tính từ ngày 7-7-1937 đến cuối
năm 1942 là gần 6 năm và hô hào quân Trung Hoa phản công quân Nhật này…
Bài 74, Ngục Đinh Thiết Ngã Chi Sĩ Đích (Lính ngục đánh cắp mất chiếc
gậy của ta), Hồ Chí Minh khoảng 51-52 tuổi thì làm gì đã chống gậy sớm
vậy? Ai lại cho phép đem gậy vào trong tù trừ khi người đó quá già yếu,
không thể tự đi lại được?Ngục Đinh Thiết Ngã Chi Sĩ ĐíchNhất sinh chính
trực hựu kiên cương, Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương; Hận bỉ gian nhân
ly ngã lưỡng, Trường giao ngã nhĩ các thê lương.(Nam Trân dịch)Lính ngục
đánh cắp mất chiếc gậy của taSuốt đời ngay thẳng lại kiên cường, Dìu
dắt nhau đi mấy tuyết sương; Giận kẻ gian kia gây cách biệt, Hai ta dằng
dặc nỗi buồn thương.Theo tác giả Tâm Việt: “Chiếc gậy đã là bạn đồng
hành của tác giả qua bao nhiêu năm dài. (Huề thủ đồng hành kỷ tuyết
sương), chứng tỏ tác giả già yếu từ lâu, mà chiếc gậy này chắc chắn
không phải là chiếc gậy thường vì giá trị của nó đi với uy thế của tác
giả - đó là sự chính trực và kiên cường của vị quan thanh liêm. (Nhất
sinh chính trực hựu kiên cương).”.Đọc lại bài “Thất Cửu” trong cuốn Giáo
Trình Chữ Hán của Lê Văn Quán, trang 22, do nhà xuất bản Đại Học và
Trung Học Chuyên Nghiệp Hà Nội năm 1978 để thấy có chỗ HCM khoe mình
khỏe như thế nào.(63 tuổi, nếu tính HCM sinh năm 1890 thì bài này làm
năm 1953?)Thất CửuNhân vi ngũ tuần thường thán lao?,Ngã kim thất cửu
chinh khang cường,Tụ cung thanh đạm tinh thần sảng,Tố sự thung dung nhật
nguyệt trường.(Xuân Thủy dịch)Sáu mươi ba tuổiChưa năm mươi tuổi đã
than già,Sáu ba, mình vẫn nghĩ là đương trai,Sống quen thanh đạm nhẹ
người,Việc làm tháng rộng ngày dài ung dung.
Bài 90, Tứ Cá Nguyệt Liễu (Bốn tháng rồi), Hồ Chí Minh đã già đâu mà nói
răng rụng mất một chiếc, nhất là tóc bạc thêm mấy phần, tức đã bạc và
nay bạc thêm nhiều?Tứ cá nguyệt liễu…Lạc liễu nhất chích nha, Phát bạch
liễu hứa đa, Hắc sấu tượng ngã quỷ, Toàn thân thị lại sa.…(Nam Trân
dịch)Bốn tháng rồi…Răng rụng mất một chiếc, Tóc bạc thêm mấy phần, Gầy
đen như quỷ đói, Ghẻ lở mọc đầy thân.…Bài 98, Mộng Ưu Đãi (Được ưu đãi),
qua bạn bè và liên hệ quyền thế, chúng ta có thể biết địa vị chức vụ
của tác giả. Trong khi HCM viết thời kỳ này là bị cùm gông, lê lết…Mộng
Ưu ĐãiNgật câu phạn thái, thụy câu chiên Hựu cấp linh tiền mãi báo, yên
Chủ nhiệm Lương công ưu đãi ngã Ngã tâm cảm khích bất thăng ngôn(Huệ Chi
dịch)Được ưu đãiĂn có cơm rau, ngủ có mền Báo xem, thuốc hút: cấp cho
tiền Ông Lương chủ nhiệm đãi ta hậu Cảm kích lòng ta, chẳng nói nên.HCM
từng kể trong cuốn “Những Mẩu Truyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch”
là lần ở tù này bị cùm gông, lê lết cơ mà!? Và không hề có chỗ nào viết
là đã từng làm cả tập thơ trong tù Quảng Tây cả.Theo tác giả Tâm Việt:
“Tác giả là một viên chức của TH Quốc Dân Đảng nên trong thời gian bị
nghi ngờ vẫn được quyền lợi hơn hẳn những người tù bình thường. Ông cũng
ca ngợi đưa chi tiết tài đánh giặc từ Hồ Nam, Chiết Giang, Miến Điện
đến Vân Nam của tướng bạn và vui mừng khi bạn được thăng chức tướng, bài
109 (Lương Hoa Thịnh Tướng Quân Thăng Nhậm Phó Tư Lệnh).
Khi ở tù, ông cũng được các viên chức đến thăm viếng, bài 102 (Ngũ khoa
trưởng, Hoàng khoa viên).Với sự quen biết thân thiết với tướng Lương Hoa
Thịnh, ông đã có giọng văn kẻ cả với đàn em đệ tử của vị tướng này, bài
110 (Tặng Tiểu Hầu (Hải)) trong câu "Vô phụ Lương công giáo dục tình".
Thêm nữa qua câu "Thượng trung đảng, quốc, hạ trung dân", chúng ta biết
tác giả đảng viên đã sống theo câu nói này mà truyền lại cho người nghe
là Tiểu Hầu.Vì là bạn thân lâu đời của tướng Lương Hoa Thịnh nên tác giả
được cung cấp mọi nhu cầu từ kinh tế đến tư tưởng. Vì biết nhau đã lâu
nên các chiến công đánh Nam dẹp Bắc của tướng Lương Hoa Thịnh đều được
tác giả ghi nhận và ca ngợi.”.
Bài 91, "Bệnh Trọng" (Ốm nặng). Theo tác giả Tâm Việt: “Tác giả đã ví
thân thể mình như là nơi của cuộc chiến như tại đất Việt xưa, nơi
Ngô-Việt giao tranh. Thường thường, bị bệnh vì khi bên trong tâm sinh lý
không vững chãi thì một cơn gió lạnh hoặc một trận nóng ngắn cũng làm
dao động cơ thể thành bệnh nặng. Nột thương ngoại cảm là danh từ thường
được dùng để chỉ bệnh chứng như thế nào. Nội thương có thể là nhớ nhà,
uất hận, buồn chán, tâm bệnh như tương tư hoặc ăn uống thiếu thốn nên cơ
thể suy nhược - còn ngoại cảm là bị thời tiết, nơi ở, môi trường chung
quanh ảnh hưởng. Người dịch Nam Trân đã cố ý dịch sai là "Nội thương"
đất Việt cảnh lầm than" để đem Việt Nam, vùng Đông Dương ra khích động
cảm xúc thù hận chiến đấu.“Nội thương Việt địa cựu sơn hà”, theo nghĩa
đen là trong lòng nhớ thương đất Việt (chỉ Quảng Đông - Quảng Tây) núi
sông xưa.“Ngoại cảm Hoa thiên tân lãnh nhiệt”, nghĩa là còn bây giờ là
Trung Hoa với cái cảm lạnh của khí trời mà thành bệnh.
Ông so sánh quá khứ đất cũ là Việt địa và bây giờ là đất Trung
Hoa.”.Bệnh TrọngNgoại cảm Hoa thiên tân lãnh nhiệt,Nội thương Việt địa
cựu sơn hà;Ngục trung hại bệnh chân tân khổ,Bản ưng thống khốc khước
cuồng ca.(Nam Trân dịch)Ốm nặng"Ngoại cảm" trời Hoa cơn nóng lạnh,"Nội
thương" đất Việt cảnh lầm than;Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,Đáng khóc mà
ta cứ hát tràn!Cũng theo tác giả Tâm Việt: “Việt Nữ Kiếm 越女劍 (Sword of
the Yue Maiden) là một câu chuyện của Kim Dung do một người Trung Hoa
viết, nếu không hiểu đầu đuôi, mọi người Việt Nam cũng tưởng là câu
chuyện nói về các anh thư Việt Nam. Hoặc nói về Tây Thi 西施 gái nước
Việt, một người kiếm củi họ Thi, dệt vải ở núi Trữ La, Gia Lãm, thuộc
nước Việt cổ - chúng ta lại gom vào mà nhận Tây Thi là gái Việt Nam thì
thật là ngu ngơ, đáng chê trách.”.
Bài 102, Ngũ Khoa Trưởng, Hoàng Khoa Viên (Khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên
họ Hoàng), đây là 2 viên chức Trung Hoa Quốc Dân Đảng, bạn tác giả thực
là người Hoa, không thể là bạn Hồ Chí Minh được.Bài 104, Dương Đào Bệnh
Trọng (Dương Đào ốm nặng), một người Tàu bạn tác giả bị bệnh, không
liên hệ gì Hồ Chí Minh.Bài 108, Độc Tướng Công Huấn Từ (Đọc lời giáo
huấn của ông Tưởng), Hồ Chí Minh bị quân Tưởng Giới Thạch bắt, lại là
người Cộng Sản, sao lại học lời và ca ngợi Tưởng Giới Thạch?Độc Tưởng
Công Huấn TừBách chiết bất hồi, hướng tiền tiến,Cô thần nghiệt tử, nghĩa
đương nhiên;Quyết tâm, khổ cán dữ ngạnh cán,Tự hữu thành công đích nhất
thiên.(Đỗ Văn Hỷ dịch)
Đọc lời giáo huấn của ông TưởngGian khó không lùi, vẫn tiến lên,Thù nhà
nợ nước, nghĩa đương nhiên;Quyết tâm gắng gỏi và kiên nghị,Nhất định
thành công sẽ có phen.Theo tác giả Tâm Việt: “Tác giả biết quá khứ thời
niên thiếu của lãnh tụ Tưởng Giới Thạch. Trong khi đó ông Hồ và người
dịch không biết nên dịch sai câu "Cô thần nghiệt tử, nghĩa đương nhiên"
thành "Thù nhà nợ nước, nghĩa đương nhiên". 辜臣孽子: Cô thần nghiệt tử,
nghĩa đương nhiên là đứa bé tội nghiệp sinh ra không may mắn nên lẽ
đương nhiên phải cố gắng tự thân kiếm sống mà thành công. Không có chữ
gia, chữ quốc, chữ thù, mà lại dịch là thù nhà nợ nước là thế nào?”.
Bài 109, Lương Hoa Thịnh Tướng Quân Thăng Nhậm Phó Tư Lệnh (Tướng quân
Lương Hoa Thịnh thăng chức phó tư lệnh), làm gì mà khen cả Tướng của
Tưởng Giới Thạch?Bài 110, Tặng Tiếu Hầu (Hải) (Tặng chú hầu (Hải)), tác
giả khuyên ghi khắc lời dạy “cần kiệm liêm chính” của Lương Khải Siêu,
Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Một đảng viên Quốc Tế Cộng Sản suốt đời vì đảng
mà sao không thấy chỗ nào nhắc gì tới Mác-Lê hay Cộng Sản cả?.Tặng Tiểu
Hầu (Hải)Ấu nhi học dã, tráng nhi hành, Thượng trung đảng, quốc, hạ
trung dân; Kiệm cần, dũng cảm hòa liêm chính, Vô phụ Lương công giáo dục
tình.(Đỗ Văn Hỷ
dịch)Tặng chú hầu (Hải)Bé thì phải học, lớn thì hành, Với dân, đảng,
nước, dạ trung thành; Kiệm cần, dũng cảm và liêm chính, Chớ phụ ông
Lương dạy dỗ mình.. . .
Monday, November 3, 2008
VUA SỞ MẤT CUNG
===
Cung Vương nước Sở đi săn, giữa đường đánh mất cung. Các quan theo hầu cố xin tìm cho được. Cung Vương nói: Thôi tìm làm gì nữa! Người nước Sở đánh mất cung, lại người nước Sở bắt được cung, đi đâu mà thiệt (Cổ Học Tinh Hoa).
Như thường tình, khi vua bị mất một món đồ, thì vua giận dữ, quát thét quan quân đi tìm kiếm, và trừng trị những kẻ có trách nhiệm giữ gìn đồ đạc của vua. Thường thường con người mất đi một sợi lông cũng làm ra to chuyện, nhất là khi họ có chút quyền lực trong tay.Thế mà vua Sở không giận dữ, lại có thái độ ôn hòa, bình tĩnh. Con người như vậy rất hiếm có ở trong cõi đời này.
Khi nghe truyện trên, chúng ta quả thật kinh phục tấm lòng bác ái của vua nước Sở. Sách Cổ Học Tinh Hoa có ghi lời bàn như sau:
Vua đánh mất cung, không nghe lời các quan bắt tìm cung, thế là có lòng thương dân, không muốn làm phiền đến dân. Vua lại nói một người nước Sở mất cung chịu thiệt, thì có một người nước Sở được cung có lợi, thế là đã có lòng muốn lợi cho dân cả một nước.Tuy nhiên, đức Khổng Tử thì lại có ý chê bai. Khi nghe chuyện trên, Ngài bảo: Đáng tiếc cho cái chí vua nước Sở không làm to hơn được nữa! Hà tất phải nói : “ Người nước Sở? ” Giá nói: “ người đánh mất cung, lại người nhặt được cung thì chẳng hơn ư?” (Thuyết Uyển)
Khổng Tử chê là hẹp, là vì vua Sở chỉ biết có người nước Sở lấy bờ cõi nước Sở mà làm giới hạn cho cái lòng nhân ái của mình. Cứ như ngài nói, mời thực rõ cái nghĩa bác ái, tức là cái lòng rộng yêu hết cả nhân loại, không phân di chủng hay ngoại quốc gì nữa. Cùng một ý với câu thầy Hạ Tử nhắc lời ngài mà đáp Tư Mã Ngưu rằng: “Người bốn bể đều là anh em cả”. Nói rộng ra: chỉ có lý vô phân biệt, trí vô phân biệt, vật ngã nhất thể thì mới hết sạch chướng ngại mà hoan hỉ vô cùng!
Theo thiển kiến, lời phê bình của đức Khổng là hơi quá đáng. Mỗi người trong đời đều có một vị trí, một vai trò, một địa vị. Cung vương là vua nước Sở cho nên Ngài quan tâm đến nước Sở, và đề cập đến nước Sở là đúng vai, trò, vị trí và giới hạn của Ngài. Còn Khổng tử là ông thầy của thiên hạ, lo việc thiên hạ ( tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ) cho nên Ngài có thể nói đến thiên hạ mà không bị ai chê cười là vu khoát. Trái lại, nếu chúng ta chỉ là thường dân, chỉ là cha của mấy đứa trẻ thì chỉ nên lo chuyện gia đình, đừng đại ngôn, mặc dầu ta có quyền tự do ngôn luận bàn chuyện năm châu bốn bể!
Con người ở đời dù là thường dân hay vua chúa đa số tham lam, muốn tăng gia tài sản, muốn chiếm đoạt của cải của người khác. Tuy nhiên, bảo vệ tài sản của mình là một quyền lợi chính đáng. Luật pháp của nhà nước công minh là phải bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân trong nước.
Tư tưởng của vua Sở là mang tính chất triết lý công bằng bác ái của Nho gia , Lão gia và Phật gia.Phật giáo đề cập đến vô phân biệt tâm. Ta nên có cái tâm rộng rãi, yêu hết chúng sinh, không phân biệt ta với người. Ông vua nước Sở phát biểu như vậy là ông không phân biệt vua và dân, coi mọi người trong nước Sở là bình đẳng, không có vua tôi, không có kẻ mất người được. Và chinh ông là bậc thánh , đã nhập Khổng Phật Lão vì ông được không vui, mất không buồn, luôn luôn an nhiên tự tại.
Tuy nhiên, thực tế không phải như vậy. Ta cày cấy suốt năm, ta dệt vải suốt mùa, khi thâu hoạch, ta mang ra chợ bán nhưng bị mất tiền , có thể ta vô ý làm rơi hay bị quân gian móc túi, ta không thể thản nhiên mà bảo: "Người Sở mất tiền, người nước Sở được tiền, không đi đâu mà thiệt!"
Làm sao ta có thể an tâm khi ta không còn tiền bạc để trả tiền nhà, tiền điện nước và lo lương thực, quần áo cho vợ con ta ?
Khi quốc gia ta rơi vào tay bọn gian tham, tàn ác, chúng bán đất đai tổ tiên cho ngoại bang, cướp đoạt tài sản của nhân dân, ta lẽ nào ung dung mà bảo:
" Người nước Việt mất đất thì cũng có người Việt thêm vàng bạc, không đi đâu mà thiệt!"
Lại nữa, khi nước ta bị ngoại bang xâm lược, lẽ nào ta cười mà bảo" Người Việt mất đất thì người nước khác được đất, cũng là người với nhau, có sao đâu!"
Nếu lý luận như vậy là ta đã đi theo bọn bán nước hại dân!Người yêu nước, thương dân phải biết tranh đấu cho tổ quốc và nhân dân, không thể để cho nhân dân bị mất tự do dân chủ và bị tước đoạt đời sống.
Tuy nhiên, trường hợp kể trên là phạm vi nhỏ, là trường hợp đặc biệt. Cây cung chỉ là vật tầm thường cho nên vua Sở có thể bình tâm mà nói như thế. Nếu như nhà vua mất cây Thái A kiếm, hay viên ngọc bich Biện Hòa, hay vợ con bị người khác chiếm đoạt, giang san của Ngài bị người nước Sở chiếm mất và bản thân ngài phải lưu vong hay bi giam cầm, chắc ngài đã không bình thản mà nói về lẽ được mất như vậy!
==
Cung Vương nước Sở đi săn, giữa đường đánh mất cung. Các quan theo hầu cố xin tìm cho được. Cung Vương nói: Thôi tìm làm gì nữa! Người nước Sở đánh mất cung, lại người nước Sở bắt được cung, đi đâu mà thiệt (Cổ Học Tinh Hoa).
Như thường tình, khi vua bị mất một món đồ, thì vua giận dữ, quát thét quan quân đi tìm kiếm, và trừng trị những kẻ có trách nhiệm giữ gìn đồ đạc của vua. Thường thường con người mất đi một sợi lông cũng làm ra to chuyện, nhất là khi họ có chút quyền lực trong tay.Thế mà vua Sở không giận dữ, lại có thái độ ôn hòa, bình tĩnh. Con người như vậy rất hiếm có ở trong cõi đời này.
Khi nghe truyện trên, chúng ta quả thật kinh phục tấm lòng bác ái của vua nước Sở. Sách Cổ Học Tinh Hoa có ghi lời bàn như sau:
Vua đánh mất cung, không nghe lời các quan bắt tìm cung, thế là có lòng thương dân, không muốn làm phiền đến dân. Vua lại nói một người nước Sở mất cung chịu thiệt, thì có một người nước Sở được cung có lợi, thế là đã có lòng muốn lợi cho dân cả một nước.Tuy nhiên, đức Khổng Tử thì lại có ý chê bai. Khi nghe chuyện trên, Ngài bảo: Đáng tiếc cho cái chí vua nước Sở không làm to hơn được nữa! Hà tất phải nói : “ Người nước Sở? ” Giá nói: “ người đánh mất cung, lại người nhặt được cung thì chẳng hơn ư?” (Thuyết Uyển)
Khổng Tử chê là hẹp, là vì vua Sở chỉ biết có người nước Sở lấy bờ cõi nước Sở mà làm giới hạn cho cái lòng nhân ái của mình. Cứ như ngài nói, mời thực rõ cái nghĩa bác ái, tức là cái lòng rộng yêu hết cả nhân loại, không phân di chủng hay ngoại quốc gì nữa. Cùng một ý với câu thầy Hạ Tử nhắc lời ngài mà đáp Tư Mã Ngưu rằng: “Người bốn bể đều là anh em cả”. Nói rộng ra: chỉ có lý vô phân biệt, trí vô phân biệt, vật ngã nhất thể thì mới hết sạch chướng ngại mà hoan hỉ vô cùng!
Theo thiển kiến, lời phê bình của đức Khổng là hơi quá đáng. Mỗi người trong đời đều có một vị trí, một vai trò, một địa vị. Cung vương là vua nước Sở cho nên Ngài quan tâm đến nước Sở, và đề cập đến nước Sở là đúng vai, trò, vị trí và giới hạn của Ngài. Còn Khổng tử là ông thầy của thiên hạ, lo việc thiên hạ ( tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ) cho nên Ngài có thể nói đến thiên hạ mà không bị ai chê cười là vu khoát. Trái lại, nếu chúng ta chỉ là thường dân, chỉ là cha của mấy đứa trẻ thì chỉ nên lo chuyện gia đình, đừng đại ngôn, mặc dầu ta có quyền tự do ngôn luận bàn chuyện năm châu bốn bể!
Con người ở đời dù là thường dân hay vua chúa đa số tham lam, muốn tăng gia tài sản, muốn chiếm đoạt của cải của người khác. Tuy nhiên, bảo vệ tài sản của mình là một quyền lợi chính đáng. Luật pháp của nhà nước công minh là phải bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân trong nước.
Tư tưởng của vua Sở là mang tính chất triết lý công bằng bác ái của Nho gia , Lão gia và Phật gia.Phật giáo đề cập đến vô phân biệt tâm. Ta nên có cái tâm rộng rãi, yêu hết chúng sinh, không phân biệt ta với người. Ông vua nước Sở phát biểu như vậy là ông không phân biệt vua và dân, coi mọi người trong nước Sở là bình đẳng, không có vua tôi, không có kẻ mất người được. Và chinh ông là bậc thánh , đã nhập Khổng Phật Lão vì ông được không vui, mất không buồn, luôn luôn an nhiên tự tại.
Tuy nhiên, thực tế không phải như vậy. Ta cày cấy suốt năm, ta dệt vải suốt mùa, khi thâu hoạch, ta mang ra chợ bán nhưng bị mất tiền , có thể ta vô ý làm rơi hay bị quân gian móc túi, ta không thể thản nhiên mà bảo: "Người Sở mất tiền, người nước Sở được tiền, không đi đâu mà thiệt!"
Làm sao ta có thể an tâm khi ta không còn tiền bạc để trả tiền nhà, tiền điện nước và lo lương thực, quần áo cho vợ con ta ?
Khi quốc gia ta rơi vào tay bọn gian tham, tàn ác, chúng bán đất đai tổ tiên cho ngoại bang, cướp đoạt tài sản của nhân dân, ta lẽ nào ung dung mà bảo:
" Người nước Việt mất đất thì cũng có người Việt thêm vàng bạc, không đi đâu mà thiệt!"
Lại nữa, khi nước ta bị ngoại bang xâm lược, lẽ nào ta cười mà bảo" Người Việt mất đất thì người nước khác được đất, cũng là người với nhau, có sao đâu!"
Nếu lý luận như vậy là ta đã đi theo bọn bán nước hại dân!Người yêu nước, thương dân phải biết tranh đấu cho tổ quốc và nhân dân, không thể để cho nhân dân bị mất tự do dân chủ và bị tước đoạt đời sống.
Tuy nhiên, trường hợp kể trên là phạm vi nhỏ, là trường hợp đặc biệt. Cây cung chỉ là vật tầm thường cho nên vua Sở có thể bình tâm mà nói như thế. Nếu như nhà vua mất cây Thái A kiếm, hay viên ngọc bich Biện Hòa, hay vợ con bị người khác chiếm đoạt, giang san của Ngài bị người nước Sở chiếm mất và bản thân ngài phải lưu vong hay bi giam cầm, chắc ngài đã không bình thản mà nói về lẽ được mất như vậy!
==
No comments:
Post a Comment