Wednesday, October 29, 2008
LÊ DINH * NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY
NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY
Lê Dinh
--------------------------------------------------------------------------------
Một buổi chiều cuối tuần, tôi lang thang trên những con đường ở khu Phố Tàu để nhìn thiên hạ mua bán, tình cờ tôi gặp một gương mặt quen quen, nhưng nghĩ mãi không biết là aì vì gương mặt thì rất giống một người tôi biết, nhưng đầu thì trọc lóc và điều lạ làm tôi bối rối là người này mặc một chiếc áo nâu sồng của những kẻ tu hành. Sau khi bắt tay chào hỏi, thấy tôi có vẻ lúng túng, ông bạn mới lên tiếng:
- Anh Lê Dinh không nhớ em sao?
- Dạ, nhìn mặt thì quá quen, nhưng không biết đã gặp anh ở đâu?
- Em là Lưu Ph. nè, Ph. thổi sáo, anh nhận ra em chưa?
- À ra là Lưu Ph., anh đã nhớ ra rồi. Trên 30 năm rồi, hèn gì.
Thuở đó, đồng bào mình ở thành phố này không có nhiều như bây giờ, tình đồng hương rát là thắm thiết. Thỉnh thoảng, vào dịp Tết hoặc Giáng sinh, tôi thường hay tổ chức những đêm ca nhạc, trình bày lại những bản nhạc ngày xưa trước 1975, có nhạc sống, có ăn nhẹ, giải khát vả khiêu vũ. Vé vào cửa lúc đó là 8$ một người, gọi là để sưởi ấm lòng người tha hương. Với số khách tham dự lên đến cả ngàn người một lần cho nên tôi có thể mời những ca sĩ cũ, nổi tiếng trước 1975 ở gần cũng như ở xa đến giúp vui đồng bào. Tôi có mời Chế Linh đến từ Toronto, Phương Hồng Hạnh đến từ Madison (Wisconsin)…, những ca sĩ này không phải định cư ở Montréal nhưng không quá xa thành phố Montréal, để cho đỡ tốn kém.
Tôi nhớ ra ngay anh Lưu Ph., vì lúc đó anh là người duy nhất biết thổi sáo ở Montréal, cho nên mỗi khi có mục ngâm thơ, tôi thường hay mời anh Ph. đến giúp phần thổi sáo phụ họa cho giọng ngâm. Tôi cũng còn nhớ rất rõ thuở đó, mỗi lần trình diễn văn nghệ, anh thường hay dẫn bà vợ người Québec đi theo, nên tôi liền hỏi:
- Anh nhớ dường như lúc trước em có vợ đầm mà, còn bây giờ sao… sao…, tôi tìm không ra lời để diễn tả con người của anh với cái đầu bóng nhẵn và chiếc áo cà sa trên người anh…
Hiểu ý tôi, anh liền nói:
- Em ly dị con vợ đầm rồi, bây giờ em đi tu, lên Thượng tọa rồi. Chùa em ở bên Verdun, em mời anh hôm nào ghé qua chùa em chơi. Nói xong, anh lục trong túi mang trên vai ra một mảnh giấy nhỏ và ghi tên chùa cùng địa chỉ và trao cho tôi. Cầm mảnh giấy của Thượng tọa Lưu Ph. trao cho, tôi đọc sơ qua rồi bỏ vào túi.
- Vâng, khi nào rảnh anh sẽ đến viếng chùa của em.
Quên bẵng đi một thời gian chuyện chùa chiền của Thương tọa Lưu Ph., đến khi trực nhớ lại tôi tìm mảnh giấy để biết chùa tên gì và ở vùng nào bên thành phố Verdun, một thành phố ngọai ô của Montréal, nhưng mảnh giấy nhỏ đã không còn nữa.
Tôi cũng áy náy mỗi khiù nhớ tới lời hứa “viếng thăm chùa” do Thượng tọa Lưu Ph. trụ trì, nhưng tấm giấy đã mất và không biết làm sao để mà đến chùa thăm sư Ph. một lần cho biết và cho trọn lời hứa. Rồi mọi việc trôi vào quên lãng, mãi cho đến hôm nay…
Cho đến hôm nay, việc sư công an đầu trọc, sư quốc doanh, sư ăn McDonald’ s tại chỗ, sư đi dạo mát với gái… là một mối bận tâm không nhỏ cho những vị sư chân chính và người Việt tị nạn chúng ta. Ở thành phố nho nhỏ như Montréal mà hiện nay cũng có đến 7, 8 ngôi chùa, nhỏ có lớn có. Mới đầu hôm sớm mai đã có một ngôi chùa, một niệm phật đường, một tịnh xá, một tịnh thất… Mới đầu hôm sớm mai, một nghệ sĩ tài tử bỗng trở thành Thượng tọa. Dễ quá, thuê một căn ấp, xin phép, trương bảng tên chùa và treo cờ ngũ sắc lên, rồi đi VN mang về một số sách kinh Phật… rồi cạo đầu, mang bộ áo cà sa vào là thành chùa, thành sư chẳng mấy hồi. Thiện nam tín nữ hả, người nào trước khi thành thầy chùa lại không có người quen biết, không có bạn bè? Thôi thì đến chùa nào cũng để lạy Phật, để thọ trai, bá tánh đến chùa tôi hay chùa khác cũng vậy thôi. Xin mời đạo hữu đến một lần cho biết, chùa tôi cũng có Phật vậy. Mô Phật! Phật nào cũng là Phật mà. Có một ngôi chùa mới thành lập trong thành phố của chúng tôi – tôi nói ra thì có lẻ quý độc giả nói tôi lộng ngôn, nhưng lời tôi nói có Trời Phật chứng giám – vừa ở trên một con đường khá náo nhiệt – không thích hợp với chốn trang nghiêm của chùa chiền - vừa lại không xa một “club des danseuses nues” bao nhiêu, chỉ bước vài bước là tới. Tội nghiệp cho những nhà sư thật sự là sư, những ngôi chùa thật sự là chùa, vàng thau lẫn lộn trong thời buổi suy vong, mạt pháp này!
Một hôm, tham dự đám cưới con của một người bạn, tôi rất “hân hạnh” được gặp lại vợ chồng một ông bạn ngày xưa. Nói ngày xưa cho dễ phân biệt với ngày nay. Ngày xưa là thời sau 1975, chứ không phải xa xưa lắm, lúc những tàu thuyền vượt biên tới tấp đến các trại tị nạn, lúc mà tất cả những người tị nạn là người tị nạn thật sự, được định cư ở một xứ tự do. Lúc ban đầu, người tị nạn đầu tắt mặt tối, lo làm ăn, gầy dựng lại gia đình từ con số không, trong đầu óc chỉ biết có căm thù Cộng sản, vì bọn chúng cho nên mình phải ra đi, bỏ quê hương, xa lìa người thân thuộc. Còn ngày nay, là thời bây giờ, sau hơn 30 năm chí thú làm ăn, nuôi con cái nên nguời… người tị nạn rảnh rỗi rồi sanh chứng này, tật nọ.
Thú thật trong lòng tôi cũng khấp khởi vui mừng khi lâu quá mới gặp lại người bạn đã từ lâu rồi không gặp, tôi hỏi anh chị giờ làm gì, đã hưu trí chưa:
- Tôi làm nhân đạo.
Làm nhân đạo là làm gì?
- Chúng tôi làm từ thiện.
Rồi anh kề miệng vào tai tôi giải thích dài dòng về việc làm nhân đạo, từ thiện của vợ chồng anh. Thì ra tôi được biết mỗi năm vợ chồng anh đi VN đôi ba lần, đem tiền bạc quyên được của những người quen ở bên này về VN giúp cho trẻ mồ côi, mổ mắt người già, tặng thuốc cảm cúm cho người bệnh, tặng mì gói cho những gia đình nghèo túng, cho những đứa trẻ này vài thỏi chocolat, những đứa bé kia vài cục kẹo… À, như vậy thì tôi biết rồi, tôi tự nói thầm với tôi như vậy. Bây giờ không những chỉ riêng ở tại thành phố của chúng tôi - mà cũng như ở các thành phố khác trên thế giới - có rất nhiều người làm từ thiện như anh chị này, nào là Hội “Help the Poor”, nào là chương trình “Sưởi ấm” nào là “Mái ấm tình thương”, “Căn nhà nhân đạo”, “Căn nhà tình nghĩa”, “Căn nhà may mắn”, “Les Enfants du Mékong”, “Les amis du Vietnam” v.v.. À thì ra vậy. Cái nghề này dễ làm, xin việc là có ngay, khỏi cần phải có “Curriculum Vitae”, khỏi cần phải có kinh nghiệm. Vì vậy cho nên hiện nay có rất nhiều người từ ca sĩ, đến nhạc sĩ, từ anh thất nghiệp đến chị có nghề nghiệp (nhưng lương ít), từ ông vợ chết đến bà chết chồng… bỗng nhiên nổi lên tấm lòng từ bi, bác ái bao la, thương đồng bào ta vô hạn, xin gia nhập vô nghiệp đoàn làm cái nghề nhân đạo này. Không cần phải tốn công sức, chỉ dùng miệng lưỡi, nêu ra những khốn khó của lớp người sống cơ cực dưới chế độ CS, dùng năm tất lưỡi để xin tiền thiên hạ đem về… nuôi CS. Rồi lại trở qua xứ họ định cư, xin tiền nữa, rồi lại về nữa. Thật khỏe ru, như đi du lịch, đi nghỉ hè không tốn tiền vậy, khỏi phải sáng lái xe đi, chiều tối lái xe về, khỏi phải tốn công sức ở nhà máy, cơ xưởng, khỏi phải hao tổn trí óc ở văn phòng, khỏi phải bị chủ ăn hiếp, khỏi phải bị xếp xài xể, mà lại được tiếng là… làm nhân đạo.
Nhưng bằng vài thùng mì gói, vài trăm ổ bánh mì, vài ngàn viên thuốc cảm cúm, mà dân chúng nghèo đói bệnh tật thì cả ấp, cả xã, cả huyện… cả nước, quý vị làm thế nào để lo cho xuể, chẳng qua cũng như đem muối bỏ biển mà thôi. Quý vị có biết tài sản gửi ở các ngân hàng ngọai quốc của những tên chóp bu CSVN lên đến cỡ nào không? Quý vị có biết gia sản của Nguyễn Tấn Dũng trải dài từ Saigon ra Hà Nội là bao nhiêu không? Sao những tên ăn trên ngồi trước này không bỏ ra, chỉ một phần ngàn tài sản của chúng thôi, để lo cho dân? Dân thì nghèo đói, chạy ăn từng bữa không đủ, không nhà không cửa trong khi họ thì ở nhà cao năm, bảy tầng, đi xe hàng triệu mỹ kim. Có quý vị lo rồi, họ rảnh tay để cho mặc quý vị lo, thì giờ của họ, họ lo tìm những phương pháp ranh ma hơn, quỉ quyệt hơn để cướp đất cướp nhà của dân. Mà quý vị lo cho đến bao giờ mới thôi lo, quý vị có phải là Bộ Xã Hội hay Bộ Y Tế của nhà nước CS đâu?
Những người đó – những người làm nghề nhân đạo đó – có khi nào quý vị nằm đêm suy nghĩ coi nguyên do vì sao mà đồng bào mình bị khốn khổ như thế không? Cái nghề của quý vị làm, nghe qua thì thật là nhân đạo – vì là cái nghề có tên là “nghề nhân đạo” mà – nhưng thật ra rất là vô nhân đạo. Quý vị cứ đem tiền về nuôi những tên cán bộ CS vương giả, thêm mập phì ra để chúng có thêm sức mà áp bức dân mình nhiều thêm nữa. Tôi tin rằng quý vị cũng nghe, cũng biết chuyện những người dân oan dãi nắng dầm mưa đi đòi đất, đòi nhà mà CS ngang nhiên chiếm cứ của họ, quý vị cũng biết chuyện kẻ thù của quý vị đã bán nước buôn dân như thế nào không? (Lập đi lập lại hoài những chuyện này nghe xấu hổ thêm). Dân của nhà nước sao nhà nước không lo mà quý vị lại đi lo. Quý vị cứu được 100 người, nhưng quý vị giúp cho CS bức hại 100 000 người, quý vị cứu được 1000 người, nhưng quý vị tiếp tay cho CS giết 1 000 000 người. Căn nhà lá ọp ẹp, mái lá rách nát, mưa xuống dột nước lai láng, quý vị cứ lấy bồn hứng nước phía dưới cho đỡ trơn trợt. Tại sao quý vị không giúp người chủ cái nhà lá đó, tháo gỡ băng hết cái mái nhà cũ kỹ, rách nát đó đi, cho vào đống rác và thay bắng lớp lá mới cho nước mưa không rơi vào nhà nữa? Nhà dột chỗ nào, quý vị hứng nước chỗ đó. Quý vị cứ làm vá víu mãi vậy sao? Cho đến bao giờ? Cái gốc gây ra sự nghèo đói, bệnh tật, khốn khổ của dân mình là đảng CS ác ôn, thì hỏi tại sao quý vị không gom góp tiền bạc tặng những phong trào chống đối ở trong nước để giúp họ dẹp tan bè lũ bán nước buôn dân đó đi? Tôi chắc quý vị, vì bận làm việc “nhân đạo”, cho nên không có thì giờ để đọc những bài viết rất hữu ích như “Chính trị và thua cuộc” (Nguyễn Bách), ”Chuyện Trọng Thủy thời nay” (Đỗ văn Phúc), “Có nên cứu trợ VN không?” (An Pha), “Không cho một cắc” (Hoàng Nguyên), “Thế lực nào giúp CSVN sống đến ngày nay?” (Trịnh Việt Bắc), “Những kẻ nối giáo cho giặc” (Trần Thanh), “Nối giáo cho giặc” (Mũ Nâu Thiện Xạ)… Chính quý vị là những kẻ nối giáo cho giặc đó, quý vị có biệt không?
Ngày trước, căm thù CS, trốn chui trốn nhủi, liều chết bỏ xứ ra đi cho bằng được, quyết xa lìa bầy thú dữ cho bằng được, ngày nay, kẻ thù còn sờ sờ ra đó, thú rừng vẫn còn dày nát quê hương, xứ sở mà quý vị lại quay về – chẳng những không phải về tay không – mà lại còn bòn tiền bạn bè thân quyến, đem về nước nuôi kẻ thù. Kẻ cướp nhà của quý vị, đuổi quý vị ra khỏi nhà, thân sơ thất sở, lạc loài tận chân trời gốc bể, sau mấy mươi năm làm ăn có tiền có bạc, quý vị mang tiền về lòn cuối dâng cho kẻ cướp. Ôi sao thật trớ trêu và cay đắng!
Thời buổi tân tiến của thế kỷ 21, có nhiều nghề nghe rất lạ tai: nghề làm thấy chùa, nghề làm nhân đạo. Tất cả đều có vẻ hương nhang tam bảo, có vẻ nam mô a di đà phật, nhưng thật ra với những nghề làm thầy chùa bất chánh và nghề làm nhân đạo giả hiệu của quý vị, dù quý vị có dộng chuông, gõ mõ mười kiếp nữa, chắc chắn quý vị sẽ rơi xuống chín tầng địa ngục vì đi với quỷ thì sẽ sống với quỷ.
--------------------------------------------------------------------------------
Lê Dinh
Tuesday, October 28, 2008
MỘT BÀI THƠ HAY
Mời các bạn thích thơ và thẩn, đọc bài thơ này.
Đặc biệt bài thơ này có tám cách đọc mà vẫn hay.
Chỉ có tiếng Việt mới phong phú như thế!
1. Bài thơ gốc (bài 1):
Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời
Thú vui thơ rượu chén đầy vơi
Hoa cài giậu trúc cành xanh biếc
Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi
Qua lại khách chờ sông lặng sóng
Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người
Xa ngân tiếng hát đàn trầm bổng
Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười.
2. Đọc ngược bài gốc từ dưới lên, ta được bài 2:
Cười mỉm mắt ai bóng thướt tha
Bổng trầm đàn hát tiếng ngân xa
Người đông bến đợi thuyền xuôi ngược
Sóng lặng sông chờ khách lại qua
Tươi thắm sắc xuân hương quyện lá
Biếc xanh cành trúc giậu cài hoa
Vơi đầy chén rượu thơ vui thú
Ngời sáng ánh xuân cảnh mến ta.
3. Bỏ hai chữ đầu mỗi câu trong bài gốc,
ta được bài 3 (ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng):
Cảnh xuân ánh sáng ngời
Thơ rượu chén đầy vơi
Giậu trúc cành xanh biếc
Hương xuân sắc thắm tươi
Khách chờ sông lặng sóng
Thuyền đợi bến đông người
Tiếng hát đàn trầm bổng
Bóng ai mắt mỉm cười.
4. Bỏ hai chữ cuối mỗi câu trong bài gốc, đọc ngược từ dưới lên,
ta được bài 4 (ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng):
Mắt ai bóng thướt tha
Đàn hát tiếng ngân xa
Bến đợi thuyền xuôi ngược
Sông chờ khách lại qua
Sắc xuân hương quyện lá
Cành trúc giậu cài hoa
Chén rượu thơ vui thú
Ánh xuân cảnh mến ta.
5. Bỏ ba chữ cuối mỗi câu trong bài gốc,
ta được bài 5 (tám câu bốn chữ) :
Ta mến cảnh xuân
Thú vui thơ rượu
Hoa cài giậu trúc
Lá quyện hương xuân
Qua lại khách chờ
Ngược xuôi thuyền đợi
Xa ngân tiếng hát
Tha thướt bóng ai.
6. Bỏ ba chữ đầu mỗi câu trong bài gốc, đọc ngược từ dưới lên,
ta được bài 6 (tám câu bốn chữ )
Cười mỉm mắt ai
Bổng trầm đàn hát
Người đông bến đợi
Sóng lặng sông chờ
Tươi thắm sắc xuân
Biếc xanh cành trúc
Vơi đầy chén rượu
Ngời sáng ánh xuân.
7. Bỏ bốn chữ đầu mỗi câu trong bài gốc,
ta được bài 7 (tám câu ba chữ )
Ánh sáng ngời
Chén đầy vơi
Cành xanh biếc
Sắc thắm tươi
Sông lặng sóng
Bến đông người
Đàn trầm bổng
Mắt mỉm cười.
8. Bỏ bốn chữ cuối mỗi câu trong bài gốc, đọc ngược từ dưới lên,
ta được bài 8 (tám câu ba chữ)
Bóng thướt tha
Tiếng ngân xa
Thuyền xuôi ngược
Khách lại qua
Hương quyện lá
Giậu cài hoa
Thơ vui thú
Cảnh mến ta
Monday, October 27, 2008
LÊ XUÂN NHUẬN * CỐ TỔNG-THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
CỐ TỔNG-THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
BÍ-MẬT TIẾP-XÚC VỚI CỘNG-SẢN VIỆT-NAM
Đến nay thì việc họ Ngô bắt tay với ông Hồ Chí Minh cộng-sản Bắc Việt không còn là một nghi-vấn, như vài nhân-vật thân-Diệm trước đây đã cố che-giấu vụ này (xin xem thêm phần "PhụLục1" dưới cùng).
Theo Ông QUÁCH TÒNG ĐỨC
(Cựu Đổng Lý Văn Phòng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm):
Theo tiến-sĩ Lâm Lễ Trinh, cựu Bộ-Trưởng Bộ Nội-Vụ dưới thời Đệ-Nhất Cộng-Hòa, trong bài “Mạn Đàm với cựu Đổng-Lý (Văn-Phòng Tổng-Thống Ngô Đình Diệm) Quách Tòng Đức” thì:
[Ông Ngô Ðình Nhu đã tìm cách thương-lượng với Bắc Việt để loại ảnh-hưởng của Hoa Kỳ. Ông Nhu đã mời Manelli, Trưởng Phái-Đoàn Ba Lan trong Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát Đình-Chiến để nhờ liên-lạc với Hà Nội qua Ðại-Sứ Pháp là Roger Lalouette đưa đề-nghị mở cuộc tiếp-xúc giữa 2 bên. Bắc Việt chấp-nhận ngay. Ông Nhu giả vờ đi săn với ông Cao Xuân Vĩ ở Cao Nguyên rồi nửa đường rẻ xuống vùng Tánh Linh ở Phước Tuy để gặp đại-diện của Bắc Việt. Cụ Cao Xuân Vĩ đã xác-nhận điều này. Trong cuộc gặp-gỡ, 2 bên đồng ý tái-lập trước tiên về liên-lạc bưu-điện và sau đó về giao-thương để tiến tới thống-nhất đất nước trong hòa-bình. Sau cuộc tiếp-xúc đó, ông Nhu cố ý tiết-lộ nội-dung cuộc tiếp-xúc cho báo-chí biết để ngầm thông-báo cho Washington.
Ông Quách Tòng Đức xác-nhận là “chính ông Nhu có đề-cập đến chuyện này trong vài phiên nhóm với tướng-lãnh tại Bộ Quốc-phòng và ngày 23.7.1963 tại suối Lồ Ồ khi nóí chuyện với các cán-bộ xây-dựng Ấp Chiến lược khoá 13.”
Một nguồn tin khác cho biết ông Nhu xử dụng trung gian cuả bốn đại sứ: Roger Lalouette (Pháp), d’Orlandi (Ý), Goburdhun (Ấn Độ) và Manelli (Ba Lan), (hai ông sau là thành viên của Ủy ban Quốc tế kiểm soát đình chiến) cũng như Tổng lãnh sự Pháp ở Bắc Việt Jacques de Buzon, để liên lạc với Hànội. Ông QTĐ nói có nghe dư luận này nhưng không bieát rỏ chi tiết. Ông cũng có nghe xầm xì rằng ông Nhu đã gặp một đại diện Văn phòng Chính trị CS (Phạm Hùng?) trong lần đi săn tại Quận Tánh Linh, Bình Tuy.
Song song với sự tiết-lộ của ông Nhu, Tổng-Thống Pháp De Gaulle lên tiếng kêu gọi loại bỏ “ảnh-hưởng ngoại-quốc” ra khỏi VN, còn Hồ Chí Minh lên tiếng nói rằng "một cuộc ngưng bắn có thể được 2 bên thỏa-thuận.”
Ông Nhu đã hội kiến với Maneli lần đầu vào ngày 25/8/63 tại Bộ Ngoại giao VNCH và kế đó là vào ngày 2/9/63 tại phòng đọc sách của ông (“War of the Vanquished”, Mieczyslaw Maneli).
Ông Quách Tòng Đức xác-nhận: một Tết Nguyên-Đán trước 1963, một cành đào đỏ lộng-lẫy được trưng-bày nơi phòng khánh-tiết Dinh Độc-lập với tấm thiệp in tặng của “Chủ tịch Nhà nước Cọng hoà Xã hội Miền Bắc”. Ông Đức kết-luận: “hành-động độc-lập (không cho Mỹ biết) của ông Nhu đã làm Washington tức-giận hơn. TT Kennedy bật đèn xanh cho Lodge tiến-hành cuộc đảo-chánh nhanh chóng hơn."
Theo một tài-liệu cho là di-chúc của Hồ Chí Minh, thì: “Ðầu năm 1963, hồi đó tôi (Hồ Chí Minh) còn chưa bị bọn quanh tôi bao vây chặt-chẽ quá, tôi có nhờ mấy nhân-viên Ủy-Hội Kiểm-Soát Quốc Tế Ðình-Chiến chuyển vào Nam bộ hai cành đào lớn rất đẹp để tặng cụ Ngô đình Diệm, kèm theo một bức thư, trong thư đó, tôi có chân tình yêu cầu cụ Ngô cùng tôi thảo luận trong tình anh em, để hai bên cùng lo cho dân chúng hai miền, trên căn bản thi đua làm cho dân giàu, nước mạnh, theo đường lối riêng của từng người. Truyện này lộ ra, làm cụ Ngô bị giết trong Nam.”]
*
Ta thử so-sánh giữa 2 con đường, vì chỉ có 2 con đường mà thôi:
-- Con đường thứ nhất là tạm uyển-chuyển nhường-nhịn Đồng-Minh Hoa-Kỳ để đạt thắng-lợi diệt Cộng, rồi sẽ tranh-đấu giành lại thế mạnh của mình, một việc dễ làm đối với chú Sam trong bối-cảnh khai-phóng của Thế-Giới Tự-Do. Về điểm này, ông Hồ Chí Minh có một câu nói để đời. Năm 1946, họ Hồ rước Pháp, đuổi Tàu; được hỏi, ông trả lời: “Tôi thà chịu ngửi cứt Tây 5 năm, còn hơn phải ăn cứt Tàu suốt đời”. Ông giải-thích thêm: “Pháp là ngoại-bang, ở xa, sẽ cút; còn Tàu, láng-giếng, sẽ ở lại luôn”. Vậy ta cũng có thể nói: “Mỹ là ngoại-bang, ở xa, sẽ rút; còn Cộng, nội-thù, sẽ diệt chúng ta.”
-- Con đường thứ hai là chịu hòa-giải hòa-hợp với họ Hồ (nghĩa là nạp mạng cho địch) để rồi nếu không bị họ thảm-sát như các nhân-vật Quốc-Gia trong vụ Ôn Như Hầu (CSVN bất-thần tấn-công vào trụ-sở VN Quốc Dân Đảng ở Hà Nội trong đêm 27-6-46 thảm-sát hầu hết các lãnh-tụ các đảng-phái đối-lập) thì cũng trở thành bù-nhìn tay-sai cho họ nuốt gọn Miền Nam; nhưng đã vào tròng cộng-sản độc-tài thì khó lòng mà tháo cũi sổ lồng.
Ông Diệm đã chọn con đường thứ hai.
Mãi đến hôm nay, có người vẫn cho con đường thứ nhất là sai (nghĩa là bị Mỹ cướp hết, hoặc đa-số, quyền-lợi của quốc-gia mình. Vậy thì Nhật-Bản, Tây-Đức, Nam-Hàn (ngay cả Pháp nữa)... thì sao? họ cũng bị Mỹ "chèn-ép" lúc đầu, sao họ trở nên giàu mạnh từ bao lâu nay?
Thử hỏi: một người dân Việt miền Nam nào đó mà có lời-lẽ hoặc cử-chỉ cho là xúc-phạm đến Ngô Tổng-Thống thì người đó có yên thân hay không, huống gì tự ý hành-động (độc-lập) ra ngoài chính-sách đường-lối của gia-đình họ Ngô thì bị mất mạng là chuyện tất-nhiên. Vậy thì, khách-quan mà nói, họ Ngô đơn-phương thương-lượng với kẻ thù chung là cộng-sản Bắc Việt mà không hội-ý với Mỹ trước (điều mà Đồng-Minh cần làm với nhau), lại với ý-đồ đầu-hàng cộng-sản, loại bỏ ảnh-hưởng của Hoa Kỳ, tức là phản bội Đồng Minh, thì có lẽ nào Hoa-Kỳ khoanh tay chịu đựng hay sao? (Huống chi then-chốt vẫn là lòng dân miền Nam Việt-Nam).
Phản-bội Đồng-Minh tức cũng đồng-thời phản-bội cử-tri, ân-nhân, và chí-hữu của mình.
LÊ XUÂN NHUẬN
Phụ chú: Vị nào muốn tin là cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, nếu không bị giết, có thể giữ vững Miền Nam; và ông Hồ Chí Minh thật lòng khen ngợi, muốn "sống chung hòa-bình" với ông Ngô Đình Diệm, cùng thành-tâm tiếc-thương khi ông Diệm chết (chuyện này do một đồ-đệ của họ Ngô bịa ra), xin mời đọc bài của Lê Chân-Nhân (một bút-danh khác của Lê Xuân Nhuận) đã được phổ-biến trên các diễn-đàn liên-mạng mấy năm vào cuối thế-kỷ thứ 20:
A
Giã-Từ Thế-Kỷ Hai Mươi:
CỐ TỔNG-THỐNG NGÔ ÐÌNH DIỆM MUỐN DÂNG MIỀN NAM VIỆT-NAM CHO CỘNG-SẢN BẮC-VIỆT
Trước khi giã-từ Thế-Kỷ 20, tôi tưởng chúng ta cũng nên thử tìm giải-đáp cho một thắc-mắc vẫn còn tồn-đọng từ thập-niên '60 của Thế-Kỷ 20:
1/ Cứ theo nhiều người (trong đó có tôi) thì chúng ta phải đặt chủ-quyền quốc-gia lên trên hết; nói cách khác, vì tinh-thần dân-tộc, chúng ta không chấp-nhận để cho ngoại-bang lấn-lướt quyền quyết-định việc nước của chúng ta. Do đó, việc cố Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm chống lại Hoa-Kỳ trong dự-định đổ thêm nhiều quân vào VNCH (Mỹ-hoá chiến-tranh Việt-Nam) là một việc đúng.
2/ Cứ theo một số nhân-vật Hoa-Kỳ (trong đó có cựu Bộ-Trưởng Quốc-Phòng McNamara, cựu Ngoại-Trưởng Henry Kissinger) thì Mỹ không nên tán-đồng hay nhúng tay vào việc lật đổ chế-độ Diệm, và họ rất tiếc là Hoa-Kỳ đã làm như thế.
3/ Một số nhân-vật Quốc-Gia thân-Diệm dựa vào các ý-kiến trên của phiá Hoa-Kỳ để khẳng-định rằng nếu không có cuộc chính-biến 1-11-1963, nghiã là nếu cố Tổng-Thống Diệm vẫn còn sống và tiếp-tục lèo-lái công-cuộc chống Cộng của quốc-dân Việt-Nam (bất-chấp thời-lượng nhiệm-kỳ, từ 1955 đến 1975 là 20 năm!), thì Việt-Nam Cộng-Hoà hẳn vẫn còn tồn-tại và phát-triển, giàu-mạnh chứ không sụp-đổ như vào Tháng Tư Đen năm 1975.
4/ Thế nhưng, nếu ta đọc hết và đọc kỹ các ý-kiến của Mỹ chống việc chống Diệm, nghiã là ước chi Hoa-Kỳ hồi đó không gia-tăng lực-lượng và hoạt-động quân-sự mà cứ để cho ông Diệm trực-tiếp tiếp-xúc với Bắc-Việt để cả hai miền Nam Bắc cùng tự giải-quyết vấn-đề nội-bộ Việt-Nam với nhau, thì ta thấy rằng các nhân-vật Mỹ tên-tuổi kể trên đã lý-luận khác hẳn, về kết-quả của việc ông Diệm bắt tay với Bắc-Việt: Không phải là VNCH vẫn còn đứng vững, mà là Bắc-Việt “thống-nhất Việt-Nam” (nuốt chửng Miền Nam) sớm hơn, chiến-tranh Việt-Nam chấm dứt sớm hơn, và, quan-trọng hơn hết là, Mỹ đã có thể tránh được thiệt-hại lớn-lao (về vật-chất là lên đến hơn năm-vạn-tám mạng ngưòi, và trăm-tư-tỷ đô-la; và về tinh-thần là ô-danh bại-trận, thay vì “được” ông Diệm – ông Diệm sau ngày thỏa-hiệp với CSVN -- yêu-cầu rút ra, rút ra trong danh-dự -- xem "Phụ-Lục 2").
5/ Có một số người vẫn còn tin rằng: nếu để cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm toàn-quyền và tự-lực lo lấy, thì Mỹ đã khỏi tổn-thất như trên, mà Việt-Nam cũng đã thoát được các thảm-cảnh đã xảy ra, nhất là không bị cộng-sản tràn ngập. Vấn-đề tôi xin đặt ra hôm nay là: Về phiá cộng-sản thì họ đã có quyết-tâm và kế-hoạch thôn-tính Miền Nam (qua việc cài lại cán-bộ nằm vùng tại Miền Nam sau Hiệp-Định Geneva 1954, nhất là qua Nghị Quyết 15 đầu năm 1959 chủ-trương bạo-lực cách-mạng giải-phóng Miền Nam khiến Tổng-Thống Diệm phải ban-hành Luật 10-59, cụ-thể là việc thành-lập "Mặt Trận Giải-Phóng Miền Nam" từ năm 1960) với sự viện-trợ tối-đa của Khối cộng-sản quốc-tế; về phía Hoa-Kỳ thì họ hẳn thấy chỉ dùng chính-trị, kinh-tế, ngoại-giao... thì vẫn chưa đủ, nên phải dùng đến quân-sự (đổ thêm quân vào Việt-Nam).
Vậy thì, về phiá VNCH, nghiã là về phần cố Tổng-Thống Diệm, -- người đã tin dùng cán-bộ tình-báo chiến-lược Vũ Ngọc Nhạ của Bắc-Việt làm cố-vấn cho mình, cùng với nội-tuyến-viên Phạm Ngọc Thảo được Tổng-Giám-Mục Ngô Đình Thục nhận làm con nuôi -- “chúng ta” làm cách thế nào mà thắng cộng-sản (ít nhất thì cũng còn nguyên, không bị cộng-sản lấn chiếm) khi mà cộng-sản chắc-chắn là quyết tiến lên, Hoa-Kỳ rút ra, phủi tay, không còn phối-hợp và yểm-trợ về quân-sự, dĩ-nhiên giảm-thiểu nếu không cắt hết viện-trợ kinh-tế và các mặt khác, trong lúc chúng ta không được nước ngoài giúp đỡ (Mỹ mà rút đi thì ai mà chịu nhảy vào?), thua sút Cộng-Sản cả về dân-số, quân-số, vũ-khí, tiếp-liệu, viện-trợ, khả-năng tự-túc, nhất là đoàn-kết và ổn-định nội-tình?
LÊ CHÂN-NHÂN
B
Ông Hồ Chí Minh trả lời phái-bộ ngoại giao Ấn-Độ rằng "He is a patriotic man”: ông Ngô Đình Diệm là một người yêu nước (Cũng như sau này -- thật không? -- họ Hồ tỏ ý thương tiếc trước cái chết của họ Ngô). Câu nói (khen) cuả họ Hồ đối với họ Ngô chỉ là một câu nói "chính trị", và "ngoại giao".
Ông Hồ Chí Minh cần (tự) đánh bóng thêm con người cuả mình, nên phải học đòi nói-năng lịch-sự, nhất là khi nói với một nhà ngoại-giao nước ngoài. (Ngày xưa, bên Tàu, tướng của phe này bắt được tướng của phe kia, đã công-khai khen tài-năng & tiết-tháo của kẻ thù, rồi mới ra lệnh chém đầu!) Quan-trọng hơn hết, ông ấy còn mong thuyết-phục ông Ngô Đình Diệm chịu tổ-chức tổng-tuyển-cử, và xa hơn nữa là chịu "về" với mình, thì không lẽ chê-bai người ta để rồi mình lại sẽ ngồi chung bàn hội-nghị, ký chung văn-bản với người ta? hoặc giả mình sẽ thu-dụng người ta làm người hợp-tác với mình?
Câu nói (khen) cuả ông Hồ Chí Minh về ông Ngô Đình Diệm thật ra là một câu nói cố ý "giết người".
a) Trước ông Ngô Đình Diệm: vào các năm 1945 và 1946, ông Hồ Chí Minh đã "khen" các ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam... nồng-nhiệt đến mức nào để các ông ấy chịu đứng chung vào "Chính-Phủ Liên Hiệp" do ông Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch; để rồi sau đó, may mà họ trốn kịp chứ không thì họ cũng đã bị giết cùng với các nạn-nhân khác trong vụ Ôn Như Hầu rồi.
b) Sau ông Ngô Đình Diệm: vào các năm 1973, 1974, và đầu năm 1975, ông Hồ Chí Minh (qua các lãnh-tụ Đảng thừa-kế chủ-trương đường-lối cuả mình) đã "khen" ông Dương Văn Minh ngon-ngọt đến mức nào (Hà Nội tuyên bố chỉ nói chuyện với ông DVM mà thôi, tức là công-nhận ông nầy là một "nhà yêu nước") để ông Dương Văn Minh sa vào bẫy, nhận chức Tổng-Thống miền Nam trong tình-hình đã nát bét vô-phương cứu-chữa rồi, tức là giết chết ông ấy, vì đầu-hàng tức là tự-sát (thân-bại danh-liệt, chết cả về mặt tinh-thần).
c) Đối với ông Ngô Đình Diệm: ông Hồ Chí Minh biết chắc là những gì đại-sứ Ấn Độ nói với, và những gì ông này nghe từ, ông Hồ Chí Minh, đều sẽ lọt vào tai CIA (Ấn Độ trung-lập nghiã là "đu dây" giữa cộng-sản và tư-bản, chứ không phải thuần-túy thân cộng-sản). Trong trại "cải-tạo", tôi có đọc một cuốn sách dịch từ tác-phẩm của Liên-Xô, kể thành-tích Liên Xô (chỉ một mình Liên Xô mà thôi) đánh thắng Đức Quốc-Xã, và (cũng chỉ một mình) Liên Xô lôi được Đức Quốc-Xã ra Toà-Án Quốc Tế, tác-giả đã để lộ ra là hầu hết phương-tiện tổ-chức TAQT, kể cả từng chiếc xe Jeep cho các sĩ-quan Liên Xô đi, từng vật-phẩm văn-phòng, v.v... đều do Hoa Kỳ cung-cấp. Trong chiến-tranh Việt-Nam cũng thế, sau 1954 với Ủy-Hội Quốc Tế Kiểm-Soát Đình Chiến, là 1973 với Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát Và Giám-Sát Ngưng Bắn gồm Ba Lan, Hung Ga Ri, Iran, và Canada (sau đó thì Indonesia thay thế) cũng như Ban Liên-Hợp Quân-Sự 4-Bên rồi 2-Bên (có Cộng-Sản Bắc-Việt và MTGPMN trong đó), tất cả trụ-sở làm việc, phương-tiện di-chuyển (như tàu bay, xe hơi), tài-xế, công-nhân, thậm chí lương-thực, v.v... đều do Hoa Kỳ đài-thọ. Dĩ-nhiên tai+mắt cuả CIA đã được gài vào (xem hồi-ký “Cảnh Sát Hóa” của Lê Xuân Nhuận).
Ông Hồ Chí Minh lại còn công-khai gửi vào miền Nam biếu ông Ngô Đình Diệm một cành hoa đào để chúc Tết nữa!
Do đó, ông Hồ mà "khen" (và làm thân với) ông Ngô là một câu hỏi mà CIA cần tìm câu trả lời.
Rốt cuộc, ông Ngô Đình Diệm đã mắc mưu ông Hồ Chí Minh, tìm cách lén-lút liên-lạc với đối-phương, và bị CIA biết được, nên đã đánh mất tín-nhiệm và hậu-thuẫn cuả Hoa-Kỳ, kết-quả là cái chết.
(Về phiá nội-bộ Miền Nam, chế-độ Ngô Đình Diệm đã đánh mất lòng dân, nhiều nhất là kể từ đầu thập-niên '60, cụ-thể với vụ 18 nhà chính-trị trong đó có đến 11 Tổng-Trưởng, Bộ-Trưởng cuả chính Đệ-Nhất Cộng-Hoà họp tại nhà hàng Caravelle ra Tuyên-Ngôn đòi ông NĐD thay-đổi chính-sách vào tháng 4-1960, cuộc đảo-chính hụt ngày 11-11-1960, vụ ném bom Dinh Độc-Lập đầu năm 1962, rồi đến việc cấm treo cờ Phật-Giáo vào ngày lễ Phật-Đản, nổ chết người tại Đài Phát-Thanh Huế tối 8-5-1963, tổng-tấn-công chuà-chiền đêm 20-8-1963, rồi Hoà-Thượng Thích Quảng-Đức (và các vị khác) tự-thiêu, Phật-Tử khắp nơi xuống đường, v.v...
Chính ông+bà Trần Văn Chương, Đại-Sứ tại Mỹ và Quan-Sát-Viên tại Liên-Hiệp-Quốc, là cha+mẹ đẻ của bà Ngô Đình Nhu, thạc-sĩ Vũ Văn Mẫu, Ngoại-Trưởng và là cộng-sự-viên lâu năm nhất của Tổng-Thống Diệm, mà cũng quyết-liệt chống lại chế-độ họ Ngô. Đó là những tín-hiệu, những cảnh-báo trước, từ phía người dân Miền Nam. Hoa-Kỳ đã thấy rõ tính-chất độc-tài hại dân của tập-đoàn họ Ngô và tinh-thần đối-kháng của sĩ-phu và quần-chúng Việt-Nam từ lâu, cũng như biết trước về dự-mưu đảo-chính cuả số tướng VNCH liên-hệ từ nhiều năm qua. Thế nhưng mãi đến tháng 9-1963 Tổng Thống Kennedy mới trả lời báo-chí rằng muốn chiến-thắng Việt-Cộng thì phải thay-đổi chính-sách và nhân-sự cuả chính-phủ Ngô Đình Diệm, và đại-sứ Henry Cabot Lodge mới trực-tiếp đề-nghị Tổng-Thống NĐD cải-tổ (nhưng ông Diệm vẫn không nghe theo!).
Như thế, thái độ và quyết định cuả Hoa Kỳ tùy-thuộc rất nhiều vào lòng dân Miền Nam Việt-Nam.
LÊ CHÂN-NHÂN
Phụ-Lục 1:
Theo ông NGUYỄN HƯNG ĐẠT
(Cựu đảng-viên cao-cấp Cộng-Sản Việt-Nam, Moscow):
"Vì Mỹ muốn đổ quân vào, nên để thương thuyết, cụ Hồ đã thông qua Đại tá Phạm Ngọc Thảo liên hệ với cố Tổng thống Ngô Đình Diệm cho Đặc phái viên đặc biệt, Tướng Nguyễn Tài - Thứ trưởng Bộ Công An (chứ không phải Nội vụ) của chính phủ VNDCCH đến Sài Gòn. Ông Tài là em ruột nhà văn nổi tiếng Nguyễn Công Hoan. Nhân chứng Đại tá Thảo nói rõ với ông Diệm mình là người CS trước lúc môi giới thương thuyết.
Tướng Huỳnh Văn Cao (trong hồi ký "Một Kiếp Người") đã viết : [Trung Tá Phạm Ngọc Thảo, hiện là sĩ quan của Miền Nam, diện hồi chánh, nhưng đã từng là bạn thân của Lê Duẩn, ngày đám cưới của Thảo tại Thiên Hộ Đồng Tháp thì Lê Duẩn đã đích thân đến dự. Khi tôi còn là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 kiêm Khu Chiến Tiền Giang thì Thảo làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Kiến Hòa, người được Tổng Thống Diệm tin cậy. Trong những giây phút thân tình, Thảo đã thỏ thẻ với tôi: "Nếu Đại Tá Tư Lệnh muốn quen biết với ông Lê Duẩn thì tôi có thể sắp xếp được."
Cho nên đã có lần tôi thưa với cụ Diệm: "Sao Cụ cứ để Trung Tá Thảo làm Tỉnh Trưởng Kiến Hòa lâu vậy, Cụ không sợ Thảo rủ rê cháu theo Cộng Sản hay sao?" Cụ Diệm đáp lại: "Ừ, để xem đứa nào rủ được đứa nào?" Lúc ấy, tôi đã hiểu là Tổng Thống Diệm tin chắc không thể nào Thảo rủ rê tôi được, nhưng đồng thời có nghĩa là Tổng Thống Diệm biết rõ Thảo là Cộng Sản].Ông Diệm cho ông Tài ở ngay bên cạnh mình trong Dinh Gia Long. Nhân vật mà Thiếu tướng Đỗ Mậu, Phụ trách An ninh Quân đội, viết (trong hồi ký "Làm Thế Nào Để Giết Một Vị Tổng Thống") là những nhân vật cao cấp cuả Chính phủ có thấy một người mang một lá cờ đỏ sao vàng nhỏ bằng con tem trên ve áo, chính là người này.
Ông Nguyễn Tài bị bắt ngay sau Đảo chính 11.1963, bị biệt giam đến cuối tháng 4.1975, may nhờ một hạ sỹ không theo lệnh chỉ huy ném lựu đạn vào xà lim. Anh này báo với Ủy ban Quân quản đến cứu con người liệt hai chân này.Tết Việt nam 1963, thông qua Ủy hội Quốc tế, chủ tịch Hồ Chí Minh gửi mang vào tặng Tổng thống Ngô Đình Diệm một cành đào. Tiếc thay,vì không thay đổi được lập trường thoả hiệp với CS mà Mỹ giết ông Diệm. Nhà độc tài Pinochett không bị giết vì không làm điều này."(trong bài viết "Tiểu sử cuả Cụ Hồ Chí Minh cần phải được xem xét lại" – BBC 05-05-2005)
Theo ông NGÔ KỶ
(Ký-giả):
(Tháng 9 năm 1963) ... Trong thời điểm này, Hoa Thịnh Đốn bất mãn việc Pháp đứng làm trung gian giải quyết chiến tranh Việt Nam. Đại Sứ Pháp đến miền Nam Việt Nam thảo luận bí mật với Hồ Chí Minh và Tổng Thống Diệm qua trung gian của người Ba Lan tên Mieczyslaw Maneli, thành viên Polish Member of the International Control Commission, cơ quan này được thiết lập để quan sát Hiệp Định Genève. Trong suốt nhiều tháng, Maneli qua lại Sài Gòn - Hà Nội nhiều lần để tìm giải pháp thương thảo. Vào tháng 07 năm 1963, Bắc Việt đồng ý căn bản là lập chính phủ Liên Hiệp cầm đầu bởi Tổng Thống Diệm để miền Nam trở thành trung lập. Họ muốn Mỹ phải rút quân.(trong bài "Khui hồ sơ "Tối Mật": Mỹ chủ mưu thanh toán anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm")
Theo ông VIỆT THƯỜNG
(Cựu đảng-viên cao-cấp Cộng-Sản Việt-Nam):
"... Nguyễn công Tài đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu hàng núi hồ sơ về gia đình nhà ông Ngô Đình Diệm và những người kế cận, cũng như những người đối lập. Tài liệu cập nhật từ nhiều nguồn, nhưng phần đóng góp của nội gián Phạm ngọc Thảo là rất quan trọng. Làm sao phải chọn người tiếp xúc thật đúng mà lại bảo toàn bí mật. Cuối cùng, sau nhiều ngày đêm suy nghĩ, Nguyễn công Tài đã lựa nhân vật Mã Tuyên, người Tàu ở Chợ-lớn đang làm công việc kinh tài cho gia đình ông Ngô Đình Diệm.
Thông qua dịch vụ buôn bán táo bạo, Nguyễn công Tài đã tiếp xúc trực tiếp được với Mã Tuyên. Và, cái thời điểm để đưa ý kiến cho Mã Tuyên "gợi ý" với anh em ông Ngô Đình Diệm là sau tháng 2-1962, sau cái ngày mà hai trung uý của quân đội ông Diệm là Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử ném bom dinh Độc Lập làm đảo chính. Sự việc của hai trung uý Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử tuy không thành công nhưng nó lại là lý do hợp thời để Nguyễn Công Tài làm cuộc tiếp xúc với anh em ông Diệm, Nhu thông qua thương gia người Tàu ở Chợ-lớn là Mã Tuyên. Tín hiệu có thuận lợi. Quả nhiên ông Nhu nhận sự tiếp xúc một cách thận trọng và kéo dài thời gian để mặc cả cho cái giá đi đêm. Nguyễn công Tài có nhận xét là anh em ông Diệm, Nhu tuy học ở Pháp và Mỹ về nhưng óc bài ngoại cực đoan như "Tự Đức" và cũng có mộng Việt Nam sẽ gồm cả Miên và Lào và phải là cường quốc ở châu Á.
Sự việc tin đi mối lại chỉ dừng ở đó. Phải cho đến lúc được phép của ông Line, Nguyễn công Tài cung cấp cho ông Nhu một số tài liệu chứng minh người Mỹ muốn lưu lại ông Diệm còn vợ chồng ông Nhu phải đi lưu vong nước ngoài, cũng như họ trước sau cũng buộc ông Diệm phải từ bỏ chế độ độc tài, gia đình trị, phải chia quyền lãnh đạo cho các đảng phái cũng như phải có chính sách bình đẳng tôn giáo. Ông Nhu chấp nhận một cuộc gặp gỡ với phái viên đặc biệt của ông Line. Có thể đây chỉ là giải pháp phòng ngừa mà cũng có thể ông Nhu muốn hiểu rõ hơn ý đồ của địch. Những điều này còn là bí ẩn đi theo ông Nhu xuống tuyền đài.
Phạm Hùng nhận những chỉ thị toàn quyền hành động từ ông Line tại phủ toàn quyền Đông Dương ở Ba-Đình (Hà-nội) và cấp tốc đi Nam bằng cả ba thứ phương tiện: thủy, bộ và hàng không.
Đầu tháng 2-1963, cuộc họp "bí mật" giữa ông Ngô Đình Nhu và Phạm Hùng diễn ra tại một địa điểm kín đáo ở quận Tánh Linh, tỉnh Bình Tuy. Trong cuộc họp này có cả Nguyễn công Tài cũng được dự. Khi chia tay, cả hai bên đều hỷ hả. Nội dung cuộc họp vẫn còn nằm trong bí mật cho đến nay.
Đầu tháng 11-1963, các tướng trong quân đội của ông Diệm làm đảo chánh thành công. Anh em ông Diệm, Nhu theo đường hầm trốn vào Chợ-lớn ở nhà Mã Tuyên. Phải chăng hai anh em ông Diệm, Nhu định chờ người của Phạm Hùng và Nguyễn công Tài đến đón ra bưng biền?
Người duy nhất còn lại là Nguyễn công Tài, sau này "tình cờ" làm cái việc xét căn cước, cảnh sát của miền Nam đã bắt được Nguyễn công Tài. Người Mỹ đã cho giam Nguyễn Công Tài ở Bạch Đằng (Sài-gòn), cho hưởng mọi tiện nghi vật chất rất cao và cũng được ngồi xe hơi (tất nhiên có bảo vệ) đi "tham quan" phố xá Sài-gòn. Đến 1975, trước khi đứt phim miền Nam, Mỹ đã thả Nguyễn công Tài ra..."
Theo ông QUANG PHỤC
(Ký giả, chủ nhiệm “Góp Gió”):
“Chúng tôi nhận định rằng chính gia đình ông (Ngô Đình Diệm), cụ thể là ông bà Ngô Đình Nhu, và Đảng Cần Lao của ông ta đã làm hại ông, khi âm mưu thỏa hiệp với CS Hà Nội từ năm 1958 khi ra lệnh cho các Tỉnh trưởng ngưng bắt các cán bộ cộng sản và thu hồi vũ khí tự động của Bảo An, Dân Vệ, thay vào đó bằng súng mousqueton và dao găm.” (Hồi ký “Công và Tội” của Nguyễn Trân, trang 269)
(trích từ cuốn “Hãy Trả Lại Sự Thật cho Lịch Sử” của Quang Phục Võ Văn Sáu, 2004, trang 39)
Theo Trung Tướng HUỲNH VĂN CAO:
“Đọc hồi ký Một Kiếp Người của Trung tướng Huỳnh Văn Cao, tới đây thì vấn đề ông Nhu có liên hệ với CS không cần bàn cãi nữa. Cả tướng (Trần Văn) Đôn, tướng Huỳnh Văn Cao và Nha An Ninh Quân Đội của Đại tá Đỗ Mậu đều báo cáo (rằng) Đại tá Phạm Ngọc Thảo là VC nằm vùng, nhưng cả 2 ông Diệm và Nhu lẫn cha Thục vẫn cứ cố ý bảo vệ cho Thảo.
Trong hồi ký Một Kiếp Người của Huỳnh Văn Cao cho biết Đ/tá Thảo còn dám cả gan “móc nối” ông Cao (lúc còn Đại tá), đòi giới thiệu để ông Cao làm quen với Tổng bí thư Lê Duẫn, Các sĩ quan dưới quyền ông Cao rất tức giận vì biết Thảo là VC nằm vùng, đòi giết Thảo (các trang 79-80). Ông Nhu nghe Thảo báo cáo bèn dọa “Kẻ nào đụng tới Thảo (tôi) sẽ bỏ tù rục xương” (trang 90). Đồng thời, nơi trang 84, Tướng Huỳnh Văn Cao còn cho biết cả Đại tướng Harkins cũng nghi ngờ TT Diệm. Bỏi vì cuộc hành quân nào của QLVNCH sắp mở ra mà báo cho Tổng Thống phủ thì VC đều biết trước! Cho thấy người Mỹ, CIA đã biết và theo dõi bám sát ông Ngô Đình Nhu từ lâu. Và người Mỹ nhiều lần đòi Tổng Thống Diệm loại trừ ông Nhu. Các tướng lãnh cũng đòi loại trừ ông Nhu nhưng ông Diệm cương quyết giữ ông Nhu!
(trích từ hồi ký “Một Kiếp Người” của tướng Huỳnh Văn Cao - theo Quang Phục trong cuốn “Hãy Trả Lại Sự Thật cho Lịch Sử” của Quang Phục Võ Văn Sáu, 2004, trang 30)
Theo NEW YORK TIMES và THE WASHINGTON POST:
Hồ sơ tối mật của Ngũ Giác Đài: Người Mỹ Làm Thế Nào Để Giết Tổng Thống Việt Nam? Ba tác giả Lan Vi, Hồng Hà và Dương Hùng đã sưu tầm, phiên dịch các bài báo đăng trên 2 tờ báo kể trên, trong đó có tiết lộ về những cuộc thảo luận bí mật giữa Tổng Thống Diệm và Hà Nội đằng sau lưng người Mỹ...
(trích từ cuốn “Hãy Trả Lại Sự Thật cho Lịch Sử” của Quang Phục Võ Văn Sáu, 2004, trang 41)
Theo Trung Tướng TÔN THẤT ĐÍNH
(Cựu Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ, Thượng Nghị Sĩ VNCH):
“Trong khi đó, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu lại phạm vào một lỗi lầm ngoại giao to lớn là khước từ sự giúp đỡ về an ninh của Đại Sứ Mỹ Cabot Lodge, chạy vào nhà Mã Tuyên là Trung Tâm Liên Lạc xưa nay của ông Nhu với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Không phải cuộc binh biến 1-11-63 đã đưa đến cuộc thảm sát 2 ông, mà chính quyết định liều lĩnh này đã làm cho 2 ông gánh lấy thảm họa! Sao lại đi đến một trung tâm liên lạc với cộng sản mà Mỹ đã biết từ lâu rồi!”
(trích trong cuốn hồi-ký “Nghĩa Bỉển Tình Sông (Hai Mươi Năm Binh Nghiệp” của Tôn Thất Đính, trang 443)
Theo Luật Sư HOÀNG DUY HÙNG
(Nhà văn, nhà báo, nhà hoạt-động cộng-đồng tại Texas):
(Phỏng dịch:) "Các cuộc gặp họp bí mật với Cộng Sản.Sau Đại Hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 15 vào năm 1959, Lê Duẫn câu kết với Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn để củng cố quyền lực ở Miền Bắc. Do đó, họ gây sức ép với Hồ Chí Minh, và kể từ năm 1965 trở đi thì quyền lực thực sự đã nằm trong tay họ. Năm 1963, Hồ đã hai lần gửi người vào tiếp xúc với Ngô Đình Nhu. Hồ muốn liên minh với chính phủ Diệm để chống lại áp lực của Duẫn. Diệm và em là Nhu cũng muốn nhân cơ hội này để chống lại áp lực của Hoa Kỳ. Ngô Đình Nhu giả vờ đi săn ở các khu rừng Tánh Linh, Khánh Hòa và Bình Long, nhưng trong thực tế là hội họp với các cán bộ cao cấp của Miền Bắc do Hồ Chí Minh phái vào. Có một lần Phạm Hùng, người mà sau năm 1975 thì được cử làm Thủ Tướng, đã mang vào trao cho Nhu những thông điệp trực tiếp của Hồ Chí Minh. Các cuộc thương thảo đã phải ngưng lại vì vài tháng sau thì Diệm và Nhu bị sát hại. Vì các cuộc họp mật này mà Hoa Kỳ đâm ra nghi ngờ Diệm và Nhu. Ngày 1-11-1963, các tướng QLVNCH phổ biến trên đài tin tức về các cuộc gặp mật giữa Nhu và cộng sản để mong dân chúng hậu thuẫn trong việc lật đổ chính phủ Diệm... Nhiều năm sau đó, vào ngày 1-11-2001, tờ Newsweek đã đăng tải một bài với hình của Tổng Thống Diệm, bình luận rằng Hành Pháp Kennedy vào năm 1963 đã khám phá ra rằng Diệm và Nhu là "công cụ của cộng sản" nên kết quả là họ phải lật đổ chính phủ Diệm..."
(trích từ bản thảo tác phẩm "A Common Quest for Vietnam's Future - a brief of Vietnam War, the First and Second Republic of Vietnam" của Hoàng Duy Hùng)
Theo ông MINH VÕ
(Nhà bình luận thời sự):
Ngô Đình Nhu: Hiệp thương Nam-Bắc -- Đài Tiếng nói VNHN – Phỏng vấn Minh Võ
Người hỏi là nhà báo Hồng Phúc Lê Hồng Long, chủ nhiệm báo Thế Giới Ngày Nay. Cuộc phỏng vấn này đã được phát thanh ngày chủ nhật 07/10/2007 trên đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại.
Hỏi: Trong cuộc mạn đàm giữa ông và ông Cao Xuân Vỹ đăng trên DCVOnline mới đây, ông Cao Xuân Vỹ có nói đến cuộc tiếp xúc giữa ông Ngô Đình Nhu với... Phạm Hùng, cán bộ cao cấp của Việt Cộng.Hỏi: Về phía nhà cầm quyền miền Bắc, phản ứng của họ ra sao, và những đìều kiện họ đưa ra là gì?
Đáp: Theo bà Hammer, tác giả cuốn A Death In November, thì khi ông Goburghun, đại sứ Ấn đi Hà Nội với tư cách chủ tịch Ủy Ban Kiểm Sóat Đình Chiến, đến gặp ông Hồ Chí Minh thì thấy ông ta chẳng những không thấy có gì ngăn cản cuộc hiệp thương với Saigon...Khi Maneli đến Hà Nội trình bày kế hoạch theo sự hướng dẫn của các ông Lalouette và Goburghun, thì chỉ hai ngày sau Hà Nội đã có đáp ứng: Hà Nội sẵn sàng khởi sự thương thuyết bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, bí mật hay công khai. Bộ trưởng ngoại giao Xuân Thủy, theo chỉ thị của chủ tịch và thủ tướng sẽ sẵn sàng trình lên một danh sách những hàng hóa có thể trao đổi giữa hai miền. Còn điều kiện, Hà Nội chỉ cần thấy Mỹ rút khỏi miền Nam, thì sẵn sàng bàn thảo về bất cứ vấn đề gì?
(trích từ Tài Liệu ĐÀN CHIM VIỆT – 30-10-2007)
Theo Linh Mục An-Tôn TRẦN VĂN KIỆM
(Bạn thân của Tổng Thống Ngô Đình Diệm):
"Về sau khá lâu, tôi nghe một nguồn tin nói rằng: Khi bị Hoa kì dồn ép tới đường cùng, ông Diệm có nhờ giáo sư Bửu Hội làm trung gian mở một vài cuộc hoà đàm bí mật với đại diện ông Hồ tại Tánh Linh, khiến cho một số chính khách Mĩ đã dựa vào đó mà gỡ tội cho ông Cabot Lodge, đại sứ Tổng Thống J.F.Kennedy…"
(trích từ bản thảo cuốn hồi-ký "Có phải Hoa thịnh đốn đã đưa ông Diệm về làm Tổng thống Đệ nhất Cộng hoà Việt Nam?" của L.m. An-tôn Trần văn Kiệm)
(Trở Lui)
Phụ Lục 2:
Theo báo Mỹ “Chicago Tribune”
(June 1, 1997):
While the coup against him was being plotted, Diem was negotiating a political compromise with Ho, who was just as troubled by his dependence on Chinese support in the North as Diem was by the growing American presence in the South. In retrospect, the elimination of Diem destroyed the only realistic prospect for a negotiated settlement and the honorable withdrawal of the U.S. from the conflict.
(trích từ bài viết "A Fatal Mistake: Looking anew at Ngo Dinh Diem's 1963 ouster as president of South Vietnam")
(Trở Lui)
http://LeXuanNhuan.tripod.com/NgoDinhDiem.html
http://LeXuanNhuan.tripod.com/ThuongDe.html
ĐAN TÂM * NGHĨ VỀ TÌNH TRẠNG XUẤT KHẨU PHỤ NỮ VIỆT NAM
Tháng 4 năm 1975, vận nước suy đồi, miền Nam sụp đổ. Chế độ Cộng Hoà đã
bị thay thế bằng một chế độ tồi tệ, vô nhân tính: Chế độ cộng sản. Không
vô nhân tính sao được, khi vừa đặt chân vào miền Nam đã đem nhốt cả mấy
trăm ngàn người vào trong các trại tù cải tạo, đầy ải đi các vùng rừng
thiêng nước độc. Cả triệu người khác vì hải hùng, xô nhau chạy ra biển
đem tính mạng của mình và gia đình đánh bạc với tử thần để mong tìm hai
chữ “tự do”.
(Hình ảnh:
Những cô gái Việt ở "phố đèn đỏ" Singapore)
Chế độ vô nhân tính, rỗng tuếch được che dấu bằng những biểu ngữ hoa mỹ để khoa trương: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa” giàu mạnh. Độc lập mà sao phải cắt đất dâng hiến cho Trung Quốc? Tự do mà sao người dân bị quản lý bằng chế độ hộ khẩu? Xã hội chủ nghĩa giàu mạnh đâu không thấy chỉ thấy thịt cá, thuốc men, vải vóc, thứ gì cũng bị hạn chế theo tiêu chuẩn. Muốn có thêm ngoài tiêu chuẩn thì phải mua “chui” tức là mua hàng lậu. Mà đã nói hàng lậu tức là bất hợp pháp, bị công an rình mò, theo dõi, bắt bớ khốn khổ.
Nhưng có một thứ mua bán lại được nhà nước dung túng là “bán phụ nữ ra nước ngoài”. Ta hãy nhìn những tấm hình chụp ngay khách sạn thành phố HCM: các cô gái còn rất trẻ, cởi hết quần áo, đứng thành hàng dài để các ngoại nhân Đài Loan hoặc Đại Hàn chọn lựa. Tại Đài Loan, tờ Trung Hoa thời báo đã phê phán gay gắt việc khuyến mãi gái Việt trên đất Đài Loan bằng những quảng cáo “Cô dâu Việt Nam, giá bán 18 vạn đài tệ. Bảo đảm là gái trinh, nếu không trả tiền lại”. Tại Đại Hàn, các công ty môi giới công khai rao hàng “Người chưa vợ, goá vợ, hoặc khuyết tật đều có thể tìm cô dâu Việt”. Tại Singapore, 3 cô gái Việt Nam được trưng bày tại trung tâm mua sắm Golden Mile Complex làm cho Hội Phụ Nữ Singapore vô cùng xúc động và bất bình.
Nhưng còn Đảng và Nhà Nước Việt Nam thì phản ứng ra sao trước cảnh người phụ nữ Việt Nam bị xúc phạm và làm mất nhân phẩm như vậy? Các vị lãnh đạo có nhìn thấy trách nhiệm của mình hay không? Các vị lãnh đạo hãy nhìn kỹ những bức hình loã thể và thử tưởng tượng xem nếu một trong những cô gái ấy là con hay em của mình thì các vị nghĩ sao? Các vị còn lương tâm không? Các vị có thấy xứng đáng để còn lãnh đạo đất nước hay không?
Trong lịch sử Việt Nam , chưa bao giờ người phụ nữ bị bôi nhọ, hạ phẩm cách tới như vậy. Các cô gái trẻ này, đáng lẽ được cắp sách tới trường, nay lại phải bán mình cho các ngoại kiều già yếu, tàn tật để đổi lấy một số tiền mưu sinh. Tương lai của họ thật là mịt mù nơi đất khách quê người. Ai nghe thấy cũng phải đau lòng, hoảng hốt, và lo sợ cho họ. Đất nước đã tiến lên xã hội chủ nghĩa trên 30 năm rồi, ấm no, giàu mạnh ở đâu đây? Những phụ nữ chân yếu tay mềm thì phải bán thân để mưu sinh trong khi ông bộ trưởng thì dùng công quỹ cả triệu đồng để cá độ đá banh. Có phải ý nghĩa và mục tiêu hai chữ “Cộng sản” là san bằng giai cấp, san bằng tài sản để mọi người cùng ngang bằng với nhau là vô sản để riêng lãnh đạo nắm hết, quản lý hết tài nguyên, tiền của đất nước? Nếu đúng như vậy thì đảng Cộng sản Việt Nam tiến ngược đường rồi.
Chúng tôi sống xa đất nước đã lâu, nhưng tâm hồn Việt Nam làm chúng tôi lúc nào cũng khắc khoải với dân Việt. Chúng tôi muốn Đảng và Nhà Nước Việt Nam đừng im hơi lặng tiếng nữa, đừng ngậm miệng ăn tiền nữa. Xin hãy lên tiếng giải thích với nhân dân Việt Nam , với dư luận quốc tế vì sao lại để cho tình trạng này xảy ra? Xin hãy cấp thời tìm biện pháp ngăn chận để chấm dứt cảnh buôn bán phụ nữ Việt Nam ra nước ngoài.
Bao lâu nay, chúng tôi đã từng được nghe những lời nói hoa mỹ, của các bậc lãnh đạo dành cho chúng tôi, coi chúng tôi là “khúc ruột xa ngàn dặm”. Đảng và Nhà Nước cũng dành cho chúng tôi những đặc ân được mua nhà ở Việt Nam , được lấy 2 quốc tịch. Tuy nhiên, chúng tôi thấy những việc làm này không cần thiết. Chuyện cần thiết là Đảng và Nhà Nước hãy lãnh đạo đất nước cho tử tế, không tham nhũng, không bè phái, không cắt đất dâng biển cho Trung Quốc, không xuất khẩu phụ nữ trẻ thơ, và hãy lo cho những khúc ruột ngay trên quê hương. Ngày nào nhân dân Việt Nam được sống như những con người đúng nghĩa, có nhân phẩm, ngày ấy không cần kêu gọi chúng tôi cũng xin xếp hàng để trở về Việt Nam phục vụ đất nước.
Đan Tâm
Xin độc giả nghe bản nhac của Trần Chi Phúc viết về vấn đề xuất khẩu phụ nữ Việt Nam:
Sunday, October 26, 2008
NGUYỄN THANH NAM * TUYÊN NGÔN
TUYÊN NGÔN
Tuyên Ngôn Dân Chủ và Nhân QuyềnTuyên Ngôn. The Declaration
TỔ QUỐC VIỆT NAM
__________________
Tuyên Ngôn
Dân Chủ và Nhân Quyền
Kính gửi đồng bào Việt Nam,
Chúng tôi nhân danh người Việt, nạn nhân của chế độ Cộng Sản Việt Nam vì sự khát vọng Tự Do trên nền tảng Dân Chủ và Nhân Quyền. Nay long trọng công bố bản Tuyên Ngôn Dân Chủ và Nhân Quyền đến quốc dân Việt Nam và các quốc gia trên thế giới.
I. NIỀM TỰ HÀO VÀ KHÁT VỌNG TỰ DO, NHÂN QUYỀN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Kể từ khi dựng nước, dân tộc Việt đã trải qua nhiều thế hệ cứu quốc và kiến quốc. Nước ta nhiều lần bị giặc ngoại bang xâm chiếm và đô hộ. Họ âm mưu đồng hoá người Việt về ngôn ngữ, phong tục tập quán và muốn xoá vĩnh viễn nền văn hoá ngàn xưa của dân tộc Việt. Với tinh thần bất khuất, người Việt đã đánh đuổi giặc ngoại xâm dành lại độc lập, bảo vệ giang sơn, giữ vững nền văn hoá cùng với truyền thống dân tộc và thực thi quyền dân tộc tự quyết mà lịch sử đã vinh danh tinh thần Hội Nghị Diên Hồng. Từ đó khẳng định rằng: dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc khác trên thế giới đều tôn trọng nhân quyền, có khát vọng giống nhau về quyền sống bình đẳng, quyền mưu cầu nguồn sống ấm no hạnh phúc và quyền được hưởng đầy đủ các quyền tự do căn bản của con người. Luôn đề cao giá trị tự do-dân chủ và sự độc lập vẹn toàn lãnh thổ.
- Bản Tuyên Ngôn Độc Lập nǎm 1776 của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, đã minh định: “mọi dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
- Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của cách mạng Pháp Quốc nǎm 1791, khẳng định rằng: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi ; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
- Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ra đời bảo vệ giá trị và nhân phẩm con người sống trên toàn thế giới là bất khả xâm phạm được gọi là Nhân Quyền, đã được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948.
- Ngay trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Chính Phủ Lâm Thời Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, cũng đã nhấn mạnh thêm một lần nữa: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được ; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Thế nhưng, đảng Cộng Sản Việt Nam đã bội tín và chà đạp nhân quyền, tước đoạt quyền sống và các quyền tự do căn bản của con người, đồng thời đàn áp khốc liệt bắt người dân Việt phải làm nô lệ cho chủ nghĩa cộng sản. Đây là một sự thật tang thương của dân tộc đã ghi vào lịch sử. Không ai có thể thay đổi sự thật của lịch sử, nhưng người cộng sản đã gian manh uốn nắn và bẻ cong lịch sử để che dấu sự thật nhằm lừa bịp toàn dân Việt Nam.
II. CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN TRÊN THẾ GIỚI CÁO CHUNG.
Vào thập niên cuối thế kỷ 20, Chủ Nghĩa Cộng Sản đã cáo chung. Cái nôi của Chủ Nghĩa Cộng Sản là Liên Xô sụp đổ. Các nước thuộc khối Cộng Sản Đông Âu tan rã. Các quốc gia này nhận thức rõ ràng là chủ nghĩa Cộng Sản đã đi ngược lại khát vọng của nhân loại sống trên quả địa cầu, đã tước đoạt quyền sống bình đẳng và các quyền tự do của con người. Hành trang cách mạng của họ không có một tấc sắt trong tay, mà chỉ có khát vọng Tự Do và lòng mong muốn quyền sống của con người, cùng với sự dũng cảm quyết tâm đoạn tuyệt chủ nghĩa cộng sản phi nhân bản để thoát khỏi sự sợ hãi trước cường quyền có đầy đủ khí giới và phương tiện đàn áp. Cuộc cách mạng đã thành công, chính nghĩa, chân lý và ý dân đã thắng chủ nghĩa cộng sản phi nhân tàn bạo. Họ ý thức được chủ nghĩa Cộng Sản đã tàn phá đất nước, nên cùng quay trở về với cội nguồn dân tộc, xây dựng lại quốc gia tự do-dân chủ, nhân bản và phú cường. Đây chính là một lộ trình tự do-dân chủ thuận theo thiên ý và lòng dân,đã đánh dấu trang sử mới của nhân loại và báo hiệu chủ nghĩa cộng sản trên thế giới cáo chung.
III. THỰC TRẠNG VIỆT NAM KHÔNG CÓ TỰ DO, DÂN CHỦ VÀ NHÂN QUYỀN
Kể từ năm 1945, đảng Cộng Sản Việt Nam đã áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản ngoại lai lên miền Bắc nước Việt Nam. Nỗi khốn khổ một cổ bị tròng 2 gông, vừa làm nô lệ cho Quốc Tế Cộng Sản, vừa làm nô lệ cho đảng Cộng Sản Việt Nam, người dân miền Bắc sống trong sự áp bức, bóc lột, đàn áp, nghèo đói, bất công xã hội và hoàn toàn không còn quyền tự do. Một bức tường sắt vô hình cách ly miền Bắc với thế giới bên ngoài, như một nhà tù khổng lồ để che chắn cho đảng Cộng Sản Việt Nam lộng hành, cai trị tàn ác và giết người dã man, mà lịch sử đã lên án mạnh mẽ cuộc cách mạng cải cách ruộng đất ở miền Bắc.
Chính đảng Cộng Sản Việt Nam là thủ phạm gây ra cuộc chiến tranh Bắc Nam tương tàn, nhất quyết xé nát Hiệp Định Geneve 1954 và Hiệp Định Paris 1973, đưa quân cưỡng chiếm miền Nam nước Việt Nam, gây ra biết bao nhiêu cảnh sinh ly tử biệt, nhà cửa hoang tàn đổ nát, dân chúng điêu linh lầm than trong chiến tranh, trong đó lịch sử đã nghiêm khắc lên án cộng quân bất nhân đã thảm sát hàng ngàn đồng bào vào năm 1968 tại Huế đó là biến cố tết Mậu Thân. Kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, đảng Cộng Sản cai trị toàn nước Việt Nam bằng chủ nghĩa Cộng Sản phi nhân bản. Đã giam cầm tra tấn các thành phần dân, quân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hoà. Chiếm đoạt tài sản của ngưòi dân miền Nam qua chính sách cải tạo tư sản. Thực hiện chính sách quản lý hộ khẩu, bắt đi kinh tế mới, ngăn sông cấm chợ … Người dân miền Nam sống trong cảnh lầm than, đói khổ, mọi quyền tự do căn bản đều bị tước đoạt. Từ đó đã dẫn đến những cuộc vượt biên chạy trốn chủ nghĩa Cộng Sản bằng đường bộ hay đường biển để tìm đến thế giới Tự Do. Đã có những cuộc hành trình vượt biên tìm tự do trở thành nạn nhân trong các thảm cảnh kinh hoàng làm chấn động lương tâm nhân loại toàn thế giới. Giá trị Tự Do và khát vọng Tự Do đã được người Việt Nam dùng sinh mạng khắc lên trang sử oai hùng để khẳng định với thế giới rằng: “Tự Do hay là chết”.
Năm 1977, đảng Cộng Sản Việt Nam tiến quân đánh Khmer Đỏ, gọi là “thi hành nghĩa vụ quốc tế”. Bắt thanh niên đi nghĩa vụ quân sự, tập trung tất cả tiềm năng, tiềm lực quốc gia vào chiến tranh, đã làm cho đảng Cộng Sản Việt Nam khủng hoảng chính trị, bị thế giới lên án nên mất uy tín về ngoại giao, kiệt quệ về kinh tế và sa lầy về quân sự. Đến năm 1979, Trung Cộng đem quân tấn công các tỉnh phía bắc Việt Nam gọi là “dạy cho Cộng Sản Việt Nam một bài học”, vì dựa vào Liên Xô xua quân đánh chiếm Cambodia và chống lại Trung Cộng.Vừa bị tiêu hao binh lực ở chiến trường Campuchia, vừa phải dồn binh lực chống Trung Cộng ở phía bắc, nên đảng Cộng Sản Việt Nam đã bị sa lầy và kiệt quệ hoàn toàn. Người dân Việt Nam điêu linh đói khổ và hy sinh xương máu chỉ vì sự tham vọng điên cuồng của đảng Cộng Sản. Sau khi Liên Xô sụp đổ nên bị mất điểm tựa, đảng Cộng Sản Việt Nam tự quay lại van xin thần phục Trung Cộng, để được chấp nhận tiếp tục làm thân nô bộc trung thành với chủ nghĩa Cộng Sản. Còn nỗi nhục nào hơn nỗi nhục làm tay sai, ươn hèn khiếp nhược, cúi đầu nghe sự chỉ dạy của quan thầy Trung Cộng, rồi quay về đè đầu cởi cổ, đàn áp dân ta. Đảng Cộng Sản Việt Nam chính là tập đoàn vong bản, phản dân hại nước, mãi quốc cầu vinh.
IV. CSVN ĐÀN ÁP NHÂN DÂN ĐỂ GIỮ ĐỘC QUYỀN LÃNH ĐẠO
Sau hơn 60 năm cai trị miền Bắc và hơn 30 năm cai trị miền Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tước đoạt hết tất cả quyền tự do căn bản của con người, chiếm đoạt quyền tự quyết của dân tộc, áp đặt bằng bạo lực bắt buộc toàn dân Việt Nam phải đi theo con đường chủ nghĩa Cộng Sản phi nhân tính, làm cho đất nước đói nghèo, lạc hậu, tạo nên nhiều oan nghiệt chất chồng cho người dân. Thanh trừng các đảng viên cộng sản chủ trương xét lại. Bắt giam và trù dập những thành phần cấp tiến hay đảng viên cộng sản phản tỉnh. Đàn áp các nhà đấu tranh dân chủ, có khuynh hướng và chủ trương dân chủ hoá đất nước. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã âm mưu áp đặt và kiên quyết duy trì điều 4 Hiến Pháp để giữ vị thế độc quyền và độc tài lãnh đạo đất nước, khinh thường pháp luật, thực thi chính sách phi dân chủ và chà đạp nhân quyền. Nạn tham nhũng lan tràn bất trị từ trung ương đến địa phương, đã làm băng hoại toàn diện tinh thần dân tộc Việt Nam trên tất cả mọi lãnh vực từ: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, y tế, giáo dục … Đảng Cộng Sản Việt Nam đã trở thành một tập đoàn độc tài phát xít (fascist) hay có thể nói đúng hơn là một đảng cướp. Bằng một lý luận kỳ dị là: “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chính cái lý luận này đã giúp cho tập toàn độc tài này trở nên những nhà tư bản đỏ, vơ vét tài nguyên và bòn rút tiềm năng kinh tế quốc gia để làm giàu bất chính. Nhà nước Cộng Sản đã tạo ra những món nợ khổng lồ mà toàn dân Việt nghèo khổ phải gánh chịu để trả cho các chủ nợ quốc tế. Cho dù đảng Cộng Sản Việt Nam có sụp đổ trong tương lai thì chính quyền hậu cộng sản cũng phải gánh chịu món nợ khổng lồ này.
V. QUỐC NẠN CỘNG SẢN TÀN PHÁ ĐẤT NƯỚC.
Ngày nay, đảng Cộng Sản Việt Nam đã phạm tội mãi quốc cầu vinh, dâng đất, biển và hải đảo cho Trung Cộng, để mưu cầu được nhận sự bảo hộ nhằm bám víu quyền lực, gây thêm nhiều quốc nạn tang thương cho dân tộc Việt Nam:
Quốc nạn Cộng Sản là một đại hoạ của dân tộc Việt Nam. Đã làm suy yếu tiềm năng, tiềm lực quốc gia, xã hội băng hoại, điều hành đất nước bằng luật pháp bất minh. Gây cảnh quốc phá gia vong, nghèo nàn lạc hậu. Người dân sống trong oan nghiệt lầm than. Nhân phẩm người Việt Nam bị chà đạp một cách tàn nhẫn và thô bạo.
Chính đại nạn Cộng Sản đã sinh ra các quốc nạn khác tàn phá quốc gia.
Quốc nạn tham nhũng đã làm cho luân thường đạo lý bị lộn nhào tan nát, tàn phá kinh tế quốc gia đến lụng bại. Đảng Cộng Sản dùng cường quyền đàn áp người dân từ tinh thần đến thể xác để vơ vét cho đầy túi tham làm giàu bất chính. Tạo ra nhiều cảnh oan ức, ngang trái và tuyệt vọng trong lòng dân tộc.
Quốc nạn lạm phát đã làm cho người dân đói nghèo thêm tuyệt vọng, đời sống lầm than cơ cực nay lại chồng chất thêm khó khăn khốn khổ.
Quốc nạn băng hoại xã hội, tệ nạn xã hội lan tràn khắp mọi miền đất nước, đã hủy diệt sinh lực và luân thường đạo lý của dân tộc Việt Nam.
Quốc nạn cũng là Pháp nạn. Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương tiêu diệt tôn giáo, tịch thu và quốc hữu hoá tài sản của các tôn giáo, cưỡng đoạt quyền hạn sắc phong các chức sắc tôn giáo. Mọi hoạt động tôn giáo đều bị khống chế, giám sát và theo dõi của Mặt Trận Tổ Quốc, Ban Tôn Giáo và cơ quan An Ninh.
Quốc nạn ô nhiễm môi trường, môi sinh đã tàn phá thiên nhiên, đất nước và con người qua nhiều thế hệ, làm tổn hại đến sức khoẻ và đời sống, trực tiếp ảnh hưởng đến sự tồn vong của giống nòi Việt Nam.
Quốc nạn dân trí lụng bại. Chính sự nghèo đói và tham nhũng đã đẩy trình độ dân trí ngày càng yếu kém, đẩy các thế hệ trẻ xa rời trường học. Cộng Sản thực thi chính sách ngu dân để trị, kìm hãm sự tiếp cận và học hỏi nền văn minh của thế giới. Dân trí lụng bại ảnh hưởng sâu sắc đến vận mạng tương lai dân tộc.
Quốc nạn đạo đức suy đồi. Đây chính là tình nhân loại nghĩa đồng bào. Tình thương nhân loại đã không còn tồn tại từ lãnh vực y tế đến lãnh vực xã hội, văn hoá, giáo dục … Luân thường đạo lý dạy nhân cách làm người từ ngàn xưa của dân tộc Việt Nam đã bị hủy diệt.
Quốc nạn buôn người. Nhân phẩm của người Việt Nam bị chà đạp. Phụ nữ mang thân đi làm dâu, làm lao nô bị hành hạ ở xứ người, bị rao bán như súc vật, bị bán vào con đường mãi dâm. Ngay cả trẻ em Việt Nam cũng bị bán vào chốn phong trần đầy đau thương ngang trái. Nam giới thì đi làm lao nô khắp thế giới bị chủ bóc bột, đày đoạ và đánh đập. Đây là niềm đau thương tột cùng của dân tộc Việt Nam.
VI. MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH
Làm sao diệt trừ quốc nạn để thay đổi vận mệnh của dân tộc Việt Nam?
Quyền con người không có thì làm sao có quyền công dân?
Quyền tự do không có thì làm sao có quyền dân tộc tự quyết?
“Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Chỉ có người Việt cứu lấy đất nước và dân tộc Việt. Không có dân tộc nào có thể giúp, khi người Việt không đoàn kết một lòng quyết tâm đứng lên cứu lấy quốc gia suy vong bởi quốc nạn Cộng Sản. Thể chế chính trị cộng sản chỉ có thay thế bằng thể chế chính trị tự do-dân chủ chứ không thể thay đổi.
Chính vì lẽ đó, khẩn thiết kêu gọi đồng bào trong nước và các cộng đồng người Việt ở hải ngoại thống nhất ý chí và đoàn kết đấu tranh cứu quốc, để đáp ứng sự khát vọng Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền của dân tộc Việt Nam, chủ trương đấu tranh hoà bình, bất bạo động, lấy chính nghĩa quốc gia và ý dân làm nền tảng.
Thiết tha kêu gọi toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước cùng đồng tâm đoàn kết tạo thành lực lượng đấu tranh đòi đảng Cộng Sản Việt Nam phải trao trả lại quyền dân tộc tự quyết và các quyền tự do căn bản của con người. Bằng giải pháp đối thoại, kêu gọi đảng Cộng Sản Việt Nam đồng thuận một lộ trình chuyển giao quyền dân tộc tự quyết trong hoà bình. Phải công nhận và trao trả vô điều kiện các quyền tự do căn bản cho người dân Việt Nam như:
Quyền tự do tư tưởng.
Quyền tự do ngôn luận.
Quyền tự do tôn giáo.
Quyền tự do lập hội.
Quyền tự do hội họp.
Quyền tự do cư trú….
Đồng thời khẩn thiết kêu gọi các cộng đồng người Việt ở hải ngoại bằng khả năng và vận dụng mọi phương tiện thuận lợi ngõ hầu tích cực vận động Liên Hiệp Quốc, các cường quốc tự do-dân chủ, các tổ chức nhân quyền quốc tế và các cơ quan tài chính thế giới … tác động mạnh trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế và ngoại giao …để đảng Cộng Sản Việt Nam chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử công bằng và các bên phải tôn trọng kết quả của cuộc trưng cầu dân ý. Khi người dân đã có quyền dân tộc tự quyết thì họ có đủ quyền hạn của một công dân Việt Nam dùng lá phiếu để quyết định vận mạng chính trị cho đất nước thông qua phương thức phổ thông đầu phiếu.
Chủ trương và mục tiêu đấu tranh:
Đấu tranh ôn hoà, bất bạo động dành lại quyền dân tộc tự quyết, để thay thế thể chế chính trị cộng sản bằng thể chế chính trị tự do dân chủ.
Xây dựng một nước Việt Nam Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ, Nhân Bản và phú cường trên nền tảng một xã hội dân sự, thượng tôn pháp luật, với cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng và tam quyền phân lập là hành pháp, lập pháp và tư pháp.
Cầu nguyện hồn thiêng sông núi cùng anh linh tiền nhân phù trợ cho toàn dân Việt đoàn kết một lòng để cứu nước và kiến tạo tổ quốc Việt Nam phú cường.
Việt Nam, ngày 2 tháng 5 năm 2008.
Người viết Tuyên Ngôn
Kỹ Sư Nguyễn Thanh Nam
http://www.gopetition.com/online/19199.html.
==
Kính mong đồng bào trong và ngoài nước đồng thuận
và ủng hộ bản Tuyên Ngôn, bằng cách tiếp tay phổ biến
rộng rãi và tham gia ký tên để bài tỏ lòng khát vọng
Tự Do Dân Chủ của dân tộc Việt Nam.
* Riêng đồng bào trong nước, vì điều kiện an ninh
nên có thể dùng bí danh để ký tên.
Kính mời đồng bào bấm vào cái Link này để ký tên:
http://www.gopetition.com/online/19199.html.
http://www.gopetition.com/online/22622.html
tuyenngondanchunhanquyen@gmail.com
Tuyên Ngôn Dân Chủ và Nhân QuyềnTuyên Ngôn. The Declaration
TỔ QUỐC VIỆT NAM
__________________
Tuyên Ngôn
Dân Chủ và Nhân Quyền
Kính gửi đồng bào Việt Nam,
Chúng tôi nhân danh người Việt, nạn nhân của chế độ Cộng Sản Việt Nam vì sự khát vọng Tự Do trên nền tảng Dân Chủ và Nhân Quyền. Nay long trọng công bố bản Tuyên Ngôn Dân Chủ và Nhân Quyền đến quốc dân Việt Nam và các quốc gia trên thế giới.
I. NIỀM TỰ HÀO VÀ KHÁT VỌNG TỰ DO, NHÂN QUYỀN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Kể từ khi dựng nước, dân tộc Việt đã trải qua nhiều thế hệ cứu quốc và kiến quốc. Nước ta nhiều lần bị giặc ngoại bang xâm chiếm và đô hộ. Họ âm mưu đồng hoá người Việt về ngôn ngữ, phong tục tập quán và muốn xoá vĩnh viễn nền văn hoá ngàn xưa của dân tộc Việt. Với tinh thần bất khuất, người Việt đã đánh đuổi giặc ngoại xâm dành lại độc lập, bảo vệ giang sơn, giữ vững nền văn hoá cùng với truyền thống dân tộc và thực thi quyền dân tộc tự quyết mà lịch sử đã vinh danh tinh thần Hội Nghị Diên Hồng. Từ đó khẳng định rằng: dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc khác trên thế giới đều tôn trọng nhân quyền, có khát vọng giống nhau về quyền sống bình đẳng, quyền mưu cầu nguồn sống ấm no hạnh phúc và quyền được hưởng đầy đủ các quyền tự do căn bản của con người. Luôn đề cao giá trị tự do-dân chủ và sự độc lập vẹn toàn lãnh thổ.
- Bản Tuyên Ngôn Độc Lập nǎm 1776 của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, đã minh định: “mọi dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
- Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của cách mạng Pháp Quốc nǎm 1791, khẳng định rằng: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi ; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
- Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ra đời bảo vệ giá trị và nhân phẩm con người sống trên toàn thế giới là bất khả xâm phạm được gọi là Nhân Quyền, đã được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948.
- Ngay trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Chính Phủ Lâm Thời Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, cũng đã nhấn mạnh thêm một lần nữa: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được ; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Thế nhưng, đảng Cộng Sản Việt Nam đã bội tín và chà đạp nhân quyền, tước đoạt quyền sống và các quyền tự do căn bản của con người, đồng thời đàn áp khốc liệt bắt người dân Việt phải làm nô lệ cho chủ nghĩa cộng sản. Đây là một sự thật tang thương của dân tộc đã ghi vào lịch sử. Không ai có thể thay đổi sự thật của lịch sử, nhưng người cộng sản đã gian manh uốn nắn và bẻ cong lịch sử để che dấu sự thật nhằm lừa bịp toàn dân Việt Nam.
II. CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN TRÊN THẾ GIỚI CÁO CHUNG.
Vào thập niên cuối thế kỷ 20, Chủ Nghĩa Cộng Sản đã cáo chung. Cái nôi của Chủ Nghĩa Cộng Sản là Liên Xô sụp đổ. Các nước thuộc khối Cộng Sản Đông Âu tan rã. Các quốc gia này nhận thức rõ ràng là chủ nghĩa Cộng Sản đã đi ngược lại khát vọng của nhân loại sống trên quả địa cầu, đã tước đoạt quyền sống bình đẳng và các quyền tự do của con người. Hành trang cách mạng của họ không có một tấc sắt trong tay, mà chỉ có khát vọng Tự Do và lòng mong muốn quyền sống của con người, cùng với sự dũng cảm quyết tâm đoạn tuyệt chủ nghĩa cộng sản phi nhân bản để thoát khỏi sự sợ hãi trước cường quyền có đầy đủ khí giới và phương tiện đàn áp. Cuộc cách mạng đã thành công, chính nghĩa, chân lý và ý dân đã thắng chủ nghĩa cộng sản phi nhân tàn bạo. Họ ý thức được chủ nghĩa Cộng Sản đã tàn phá đất nước, nên cùng quay trở về với cội nguồn dân tộc, xây dựng lại quốc gia tự do-dân chủ, nhân bản và phú cường. Đây chính là một lộ trình tự do-dân chủ thuận theo thiên ý và lòng dân,đã đánh dấu trang sử mới của nhân loại và báo hiệu chủ nghĩa cộng sản trên thế giới cáo chung.
III. THỰC TRẠNG VIỆT NAM KHÔNG CÓ TỰ DO, DÂN CHỦ VÀ NHÂN QUYỀN
Kể từ năm 1945, đảng Cộng Sản Việt Nam đã áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản ngoại lai lên miền Bắc nước Việt Nam. Nỗi khốn khổ một cổ bị tròng 2 gông, vừa làm nô lệ cho Quốc Tế Cộng Sản, vừa làm nô lệ cho đảng Cộng Sản Việt Nam, người dân miền Bắc sống trong sự áp bức, bóc lột, đàn áp, nghèo đói, bất công xã hội và hoàn toàn không còn quyền tự do. Một bức tường sắt vô hình cách ly miền Bắc với thế giới bên ngoài, như một nhà tù khổng lồ để che chắn cho đảng Cộng Sản Việt Nam lộng hành, cai trị tàn ác và giết người dã man, mà lịch sử đã lên án mạnh mẽ cuộc cách mạng cải cách ruộng đất ở miền Bắc.
Chính đảng Cộng Sản Việt Nam là thủ phạm gây ra cuộc chiến tranh Bắc Nam tương tàn, nhất quyết xé nát Hiệp Định Geneve 1954 và Hiệp Định Paris 1973, đưa quân cưỡng chiếm miền Nam nước Việt Nam, gây ra biết bao nhiêu cảnh sinh ly tử biệt, nhà cửa hoang tàn đổ nát, dân chúng điêu linh lầm than trong chiến tranh, trong đó lịch sử đã nghiêm khắc lên án cộng quân bất nhân đã thảm sát hàng ngàn đồng bào vào năm 1968 tại Huế đó là biến cố tết Mậu Thân. Kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, đảng Cộng Sản cai trị toàn nước Việt Nam bằng chủ nghĩa Cộng Sản phi nhân bản. Đã giam cầm tra tấn các thành phần dân, quân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hoà. Chiếm đoạt tài sản của ngưòi dân miền Nam qua chính sách cải tạo tư sản. Thực hiện chính sách quản lý hộ khẩu, bắt đi kinh tế mới, ngăn sông cấm chợ … Người dân miền Nam sống trong cảnh lầm than, đói khổ, mọi quyền tự do căn bản đều bị tước đoạt. Từ đó đã dẫn đến những cuộc vượt biên chạy trốn chủ nghĩa Cộng Sản bằng đường bộ hay đường biển để tìm đến thế giới Tự Do. Đã có những cuộc hành trình vượt biên tìm tự do trở thành nạn nhân trong các thảm cảnh kinh hoàng làm chấn động lương tâm nhân loại toàn thế giới. Giá trị Tự Do và khát vọng Tự Do đã được người Việt Nam dùng sinh mạng khắc lên trang sử oai hùng để khẳng định với thế giới rằng: “Tự Do hay là chết”.
Năm 1977, đảng Cộng Sản Việt Nam tiến quân đánh Khmer Đỏ, gọi là “thi hành nghĩa vụ quốc tế”. Bắt thanh niên đi nghĩa vụ quân sự, tập trung tất cả tiềm năng, tiềm lực quốc gia vào chiến tranh, đã làm cho đảng Cộng Sản Việt Nam khủng hoảng chính trị, bị thế giới lên án nên mất uy tín về ngoại giao, kiệt quệ về kinh tế và sa lầy về quân sự. Đến năm 1979, Trung Cộng đem quân tấn công các tỉnh phía bắc Việt Nam gọi là “dạy cho Cộng Sản Việt Nam một bài học”, vì dựa vào Liên Xô xua quân đánh chiếm Cambodia và chống lại Trung Cộng.Vừa bị tiêu hao binh lực ở chiến trường Campuchia, vừa phải dồn binh lực chống Trung Cộng ở phía bắc, nên đảng Cộng Sản Việt Nam đã bị sa lầy và kiệt quệ hoàn toàn. Người dân Việt Nam điêu linh đói khổ và hy sinh xương máu chỉ vì sự tham vọng điên cuồng của đảng Cộng Sản. Sau khi Liên Xô sụp đổ nên bị mất điểm tựa, đảng Cộng Sản Việt Nam tự quay lại van xin thần phục Trung Cộng, để được chấp nhận tiếp tục làm thân nô bộc trung thành với chủ nghĩa Cộng Sản. Còn nỗi nhục nào hơn nỗi nhục làm tay sai, ươn hèn khiếp nhược, cúi đầu nghe sự chỉ dạy của quan thầy Trung Cộng, rồi quay về đè đầu cởi cổ, đàn áp dân ta. Đảng Cộng Sản Việt Nam chính là tập đoàn vong bản, phản dân hại nước, mãi quốc cầu vinh.
IV. CSVN ĐÀN ÁP NHÂN DÂN ĐỂ GIỮ ĐỘC QUYỀN LÃNH ĐẠO
Sau hơn 60 năm cai trị miền Bắc và hơn 30 năm cai trị miền Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tước đoạt hết tất cả quyền tự do căn bản của con người, chiếm đoạt quyền tự quyết của dân tộc, áp đặt bằng bạo lực bắt buộc toàn dân Việt Nam phải đi theo con đường chủ nghĩa Cộng Sản phi nhân tính, làm cho đất nước đói nghèo, lạc hậu, tạo nên nhiều oan nghiệt chất chồng cho người dân. Thanh trừng các đảng viên cộng sản chủ trương xét lại. Bắt giam và trù dập những thành phần cấp tiến hay đảng viên cộng sản phản tỉnh. Đàn áp các nhà đấu tranh dân chủ, có khuynh hướng và chủ trương dân chủ hoá đất nước. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã âm mưu áp đặt và kiên quyết duy trì điều 4 Hiến Pháp để giữ vị thế độc quyền và độc tài lãnh đạo đất nước, khinh thường pháp luật, thực thi chính sách phi dân chủ và chà đạp nhân quyền. Nạn tham nhũng lan tràn bất trị từ trung ương đến địa phương, đã làm băng hoại toàn diện tinh thần dân tộc Việt Nam trên tất cả mọi lãnh vực từ: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, y tế, giáo dục … Đảng Cộng Sản Việt Nam đã trở thành một tập đoàn độc tài phát xít (fascist) hay có thể nói đúng hơn là một đảng cướp. Bằng một lý luận kỳ dị là: “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chính cái lý luận này đã giúp cho tập toàn độc tài này trở nên những nhà tư bản đỏ, vơ vét tài nguyên và bòn rút tiềm năng kinh tế quốc gia để làm giàu bất chính. Nhà nước Cộng Sản đã tạo ra những món nợ khổng lồ mà toàn dân Việt nghèo khổ phải gánh chịu để trả cho các chủ nợ quốc tế. Cho dù đảng Cộng Sản Việt Nam có sụp đổ trong tương lai thì chính quyền hậu cộng sản cũng phải gánh chịu món nợ khổng lồ này.
V. QUỐC NẠN CỘNG SẢN TÀN PHÁ ĐẤT NƯỚC.
Ngày nay, đảng Cộng Sản Việt Nam đã phạm tội mãi quốc cầu vinh, dâng đất, biển và hải đảo cho Trung Cộng, để mưu cầu được nhận sự bảo hộ nhằm bám víu quyền lực, gây thêm nhiều quốc nạn tang thương cho dân tộc Việt Nam:
Quốc nạn Cộng Sản là một đại hoạ của dân tộc Việt Nam. Đã làm suy yếu tiềm năng, tiềm lực quốc gia, xã hội băng hoại, điều hành đất nước bằng luật pháp bất minh. Gây cảnh quốc phá gia vong, nghèo nàn lạc hậu. Người dân sống trong oan nghiệt lầm than. Nhân phẩm người Việt Nam bị chà đạp một cách tàn nhẫn và thô bạo.
Chính đại nạn Cộng Sản đã sinh ra các quốc nạn khác tàn phá quốc gia.
Quốc nạn tham nhũng đã làm cho luân thường đạo lý bị lộn nhào tan nát, tàn phá kinh tế quốc gia đến lụng bại. Đảng Cộng Sản dùng cường quyền đàn áp người dân từ tinh thần đến thể xác để vơ vét cho đầy túi tham làm giàu bất chính. Tạo ra nhiều cảnh oan ức, ngang trái và tuyệt vọng trong lòng dân tộc.
Quốc nạn lạm phát đã làm cho người dân đói nghèo thêm tuyệt vọng, đời sống lầm than cơ cực nay lại chồng chất thêm khó khăn khốn khổ.
Quốc nạn băng hoại xã hội, tệ nạn xã hội lan tràn khắp mọi miền đất nước, đã hủy diệt sinh lực và luân thường đạo lý của dân tộc Việt Nam.
Quốc nạn cũng là Pháp nạn. Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương tiêu diệt tôn giáo, tịch thu và quốc hữu hoá tài sản của các tôn giáo, cưỡng đoạt quyền hạn sắc phong các chức sắc tôn giáo. Mọi hoạt động tôn giáo đều bị khống chế, giám sát và theo dõi của Mặt Trận Tổ Quốc, Ban Tôn Giáo và cơ quan An Ninh.
Quốc nạn ô nhiễm môi trường, môi sinh đã tàn phá thiên nhiên, đất nước và con người qua nhiều thế hệ, làm tổn hại đến sức khoẻ và đời sống, trực tiếp ảnh hưởng đến sự tồn vong của giống nòi Việt Nam.
Quốc nạn dân trí lụng bại. Chính sự nghèo đói và tham nhũng đã đẩy trình độ dân trí ngày càng yếu kém, đẩy các thế hệ trẻ xa rời trường học. Cộng Sản thực thi chính sách ngu dân để trị, kìm hãm sự tiếp cận và học hỏi nền văn minh của thế giới. Dân trí lụng bại ảnh hưởng sâu sắc đến vận mạng tương lai dân tộc.
Quốc nạn đạo đức suy đồi. Đây chính là tình nhân loại nghĩa đồng bào. Tình thương nhân loại đã không còn tồn tại từ lãnh vực y tế đến lãnh vực xã hội, văn hoá, giáo dục … Luân thường đạo lý dạy nhân cách làm người từ ngàn xưa của dân tộc Việt Nam đã bị hủy diệt.
Quốc nạn buôn người. Nhân phẩm của người Việt Nam bị chà đạp. Phụ nữ mang thân đi làm dâu, làm lao nô bị hành hạ ở xứ người, bị rao bán như súc vật, bị bán vào con đường mãi dâm. Ngay cả trẻ em Việt Nam cũng bị bán vào chốn phong trần đầy đau thương ngang trái. Nam giới thì đi làm lao nô khắp thế giới bị chủ bóc bột, đày đoạ và đánh đập. Đây là niềm đau thương tột cùng của dân tộc Việt Nam.
VI. MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH
Làm sao diệt trừ quốc nạn để thay đổi vận mệnh của dân tộc Việt Nam?
Quyền con người không có thì làm sao có quyền công dân?
Quyền tự do không có thì làm sao có quyền dân tộc tự quyết?
“Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Chỉ có người Việt cứu lấy đất nước và dân tộc Việt. Không có dân tộc nào có thể giúp, khi người Việt không đoàn kết một lòng quyết tâm đứng lên cứu lấy quốc gia suy vong bởi quốc nạn Cộng Sản. Thể chế chính trị cộng sản chỉ có thay thế bằng thể chế chính trị tự do-dân chủ chứ không thể thay đổi.
Chính vì lẽ đó, khẩn thiết kêu gọi đồng bào trong nước và các cộng đồng người Việt ở hải ngoại thống nhất ý chí và đoàn kết đấu tranh cứu quốc, để đáp ứng sự khát vọng Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền của dân tộc Việt Nam, chủ trương đấu tranh hoà bình, bất bạo động, lấy chính nghĩa quốc gia và ý dân làm nền tảng.
Thiết tha kêu gọi toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước cùng đồng tâm đoàn kết tạo thành lực lượng đấu tranh đòi đảng Cộng Sản Việt Nam phải trao trả lại quyền dân tộc tự quyết và các quyền tự do căn bản của con người. Bằng giải pháp đối thoại, kêu gọi đảng Cộng Sản Việt Nam đồng thuận một lộ trình chuyển giao quyền dân tộc tự quyết trong hoà bình. Phải công nhận và trao trả vô điều kiện các quyền tự do căn bản cho người dân Việt Nam như:
Quyền tự do tư tưởng.
Quyền tự do ngôn luận.
Quyền tự do tôn giáo.
Quyền tự do lập hội.
Quyền tự do hội họp.
Quyền tự do cư trú….
Đồng thời khẩn thiết kêu gọi các cộng đồng người Việt ở hải ngoại bằng khả năng và vận dụng mọi phương tiện thuận lợi ngõ hầu tích cực vận động Liên Hiệp Quốc, các cường quốc tự do-dân chủ, các tổ chức nhân quyền quốc tế và các cơ quan tài chính thế giới … tác động mạnh trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế và ngoại giao …để đảng Cộng Sản Việt Nam chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử công bằng và các bên phải tôn trọng kết quả của cuộc trưng cầu dân ý. Khi người dân đã có quyền dân tộc tự quyết thì họ có đủ quyền hạn của một công dân Việt Nam dùng lá phiếu để quyết định vận mạng chính trị cho đất nước thông qua phương thức phổ thông đầu phiếu.
Chủ trương và mục tiêu đấu tranh:
Đấu tranh ôn hoà, bất bạo động dành lại quyền dân tộc tự quyết, để thay thế thể chế chính trị cộng sản bằng thể chế chính trị tự do dân chủ.
Xây dựng một nước Việt Nam Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ, Nhân Bản và phú cường trên nền tảng một xã hội dân sự, thượng tôn pháp luật, với cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng và tam quyền phân lập là hành pháp, lập pháp và tư pháp.
Cầu nguyện hồn thiêng sông núi cùng anh linh tiền nhân phù trợ cho toàn dân Việt đoàn kết một lòng để cứu nước và kiến tạo tổ quốc Việt Nam phú cường.
Việt Nam, ngày 2 tháng 5 năm 2008.
Người viết Tuyên Ngôn
Kỹ Sư Nguyễn Thanh Nam
http://www.gopetition.com/online/19199.html.
==
Kính mong đồng bào trong và ngoài nước đồng thuận
và ủng hộ bản Tuyên Ngôn, bằng cách tiếp tay phổ biến
rộng rãi và tham gia ký tên để bài tỏ lòng khát vọng
Tự Do Dân Chủ của dân tộc Việt Nam.
* Riêng đồng bào trong nước, vì điều kiện an ninh
nên có thể dùng bí danh để ký tên.
Kính mời đồng bào bấm vào cái Link này để ký tên:
http://www.gopetition.com/online/19199.html.
http://www.gopetition.com/online/22622.html
tuyenngondanchunhanquyen@gmail.com
Saturday, October 25, 2008
PHAN TÂN KHÔI * THỬ BÀN VỀ TÊN THỦ ĐÔ VIỆT-NAM
Phan Tấn Khôi
THỬ BÀN VỀ TÊN THỦ ĐÔ VIỆT-NAM
Đến năm 2010 này là kỷ niệm một nghin năm hoàng đế Lý Thái Tổ thiết lập thủ đô Việt-Nam đầu tiên hoàn toàn độc lập, với cái tên thần thoại, huy hoàng, vẻ vang Thăng-Long.
Tên một thành phố có thể gợi cho chúng ta niềm hãnh diện, nỗi vui mừng hoặc những kỷ niệm đau buồn, thương tiếc như tên thủ đô xưa Thăng Long oai hùng, tráng lệ mà vì thời cuộc đổi thay đã bi thay thế bằng cái tên khởi đầu có ý nghĩa tầm thường Hà-Nội, gọi theo vị trí địa phương : một tỉnh nằm trong (Nội) khúc quanh của con sông (Hà).
THĂNG-LONG, thủ đô vuơng quốc
Thăng-Long gợi cho chúng ta triều đại độc lập đầu tiên của Việt-Nam, nhà Lý, một thủ đô hùng mạnh và vẻ vang của dân tộc Việt. Sau khi tái lập được hòa bình và loại bỏ mối đe dọa Trung-Quốc, triều đại mới nhà Lý tự cảm thấy đủ mạnh để thiết lập thủ đô của vương quốc tại miền đồng bằng. Hoàng đế Lý Thái Tổ quyết định thiên đô từ Hoa-Lư về kinh thành cũ Đại-La, nơi đã có một quá khứ vẻ vang..
Vào tháng bẩy âm lịch năm 1010, trong lúc đoàn tùy tùng hoàng gia đi đến gần Đại-La, nhà vua nhìn thấy một con rồng vàng óng xuất hiện trên bầu trời và, coi đó như là một điềm xuất sắc, ông đặt cho thành phố cái tên nó sẽ mang trong suốt chín thế kỷ (1010-1805), Thăng-Long, “thành phố của con rồng bay lên”. Hơn nữa, tại Việt-Nam cũng như tại Trung-Quốc từ thời nhà Hán, rồng còn là con vật biểu tượng hoàng đế, tượng trưng cho lễ đăng quang của tân hoàng đế.
Tuy nhiên, việc xác nhận chủ quyền và độc lập của tân triều đại phải có một giới hạn nào đó, vì trên lý thuyết họ còn ở dưới sự bảo hộ của người láng giềng phương Bắc. Vì vậy, để dung hòa quyền lợi đôi bên, triều đình nhà Lý đã chọn một chữ nho cổ xưa và hiếm để có thể tuyên bố nền độc lập của các vị vua Việt-Nam đối với Trung-Quốc mà không đoạn giao với xứ này (thay vì sử dụng chữ “Thăng” thường được dùng 升, người ta chọn một chữ phức tạp hơn, có dấu “mặt trời” ghi thêm lên trên chữ gốc 昇. Cách viết chữ này đã được thấy từ thời cổ Trung-Quốc, chắc chắn để làm giảm nghĩa bóng của từ ngữ = lễ đăng quang một vị vua, bằng cách nhấn mạnh đến truyền thuyết lấy từ gốc chữ = con Rồng bay lên trời, vậy về phía mặt Trời).
Vậy, vị vua thứ nhất nhà Lý thiết lập thủ đô của Đế-quốc tại nơi có những tường thành kiên cố, có nghĩa là trong thành phòng thủ Đại-La xưa, lúc đó đủ lớn để chứa gia đình ông và tập đoàn hành chánh của vương quốc. Chính vào thời điểm này hồ Tây được đặt tên như vậy, dựa vào vị trí của nó đối với hoàng thành.. Dần dần, với sự phát triển của triều đình và nền hành chánh quan lại, thành lũy phòng thủ cùa người Trung-Quốc trở nên quá hẹp và người ta đã phải xây dựng ngoài tường thành.
Ngay từ năm 1014, người ta đã xác định vị trí thành phố bằng một bờ tường đất bao bọc bên ngoài gồm cả hồ Tây; và chạy vòng theo dòng sông Tô-Lịch và sông Kim-Ngưu. Hai thế kỷ sau, vào năm 1230, vị vua thứ nhất nhà Trần dời bờ tường gần hai cây số về phía nam. Người ta có thể giải thích phần lớn hình thể thành phố do nhu cầu phải dựng lên một tường thành chống lũ, lụt của sông Hồng và các sông nhánh. Đó cũng là lý do người ta không thấy được hình thể cổ điển ba thành phố lồng vào nhau theo hệ thống : cấm thành, nơi hoàng gia trú ngụ; hoàng thành, nơi triều đình sinh hoạt cùng các bộ và cơ quan hành chính, sau cùng là thành phố dân sự, nơi người dân cư ngụ và sinh hoạt theo đúng mẫu thủ đô Trung-quốc. Khác với nhiều thủ đô khác, thành phố không vượt quá giới hạn xác định vào thế kỷ XIII về phía Nam, giới hạn xác định vào thế kỷ XI ở mọi phía khác. Trong thời kỳ quân chủ, kế đó thực dân và xã hội chủ nghĩa, cái “Hà-nội phi thường” cũng chỉ nằm trong cùng khoảng không gian ấy. Chỉ trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX thành phố mới lấn ra ngoài lề của nó.
Thế kỷ thứ XV là thời kỳ huy hoàng, thời kỳ vàng son của Thăng-Long. Triều đại vẻ vang nhà Lê lo chấn hưng thủ đô và xác định quyền hành trên khắp lãnh thổ đang từ từ phát triển, vương quốc ngày càng lớn rộng về phía Tây cũng như về phía Nam. Số đông trí thức, văn nhân sống trong thành phố từ nay tượng trưng cho niềm tự hào vương quốc, sự hùng mạnh của giới hành chánh và trung tâm tỏa rộng văn hóa.
HÀ-NỘI, thủ phủ một tỉnh
Vào cuối thế kỷ thứ XVIII, một phong trào đại chúng hùng mạnh quét sạch trong vài năm các gia đình đang trị vì – nhà Lê, họ Trịnh và họ Nguyễn – và chấm dứt với sự thắng lợi của người cuối cùng thuộc dòng họ Nguyễn (người sống sót duy nhất, Nguyễn Ánh, đã thoát được cuôc tàn sát cả dòng họ Nguyễn tại Saigon năm 1777) với sự trợ giúp của các cố đạo người Pháp và Bồ Đào Nha. Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu là Gia-Long, thống nhất xứ sở và dời thủ đô vào Huế năm 1806. Bị đặt ngoài lề, bị giới trí thức ưu tú bỏ rơi, lần đầu tiên kể từ hơn tám thế kỷ, Thăng-Long không còn là trung tâm của Lịch-sử.
Thăng-Long mất tên gọi này vào năm 1805. Vì cái tên gọi này quá quen thuộc với đại chúng, triều đình đành thay đổi chữ nho 龍 (long) có nghĩa là “con rồng, hoàng đế”, bằng một chữ đồng âm 隆 (long), mượn tên hiệu vua (Gia- Long) có nghĩa là “phồn thịnh”. Cách viết khác nhau nhưng cách phát âm không thay đổi, Thăng-Long vẫn tên Thăng-Long, nhưng “thành phố con Rồng bay lên” chỉ còn là “thành phố sự Phồn thịnh bay lên”. Sự thay đổi này làm mất đi mọi tự hào vương quốc và cùng năm đó, tỉnh hoàng tộc cũ được đặt tên mới là Hoài-Đức để xóa bỏ mọi vết tích của quá khứ.
Một phần tư thế kỷ sau đó, vào năm 1831, hoàng đế Minh-Mạng, người con thứ tư của Gia-Long, bãi bỏ các trấn và chia Việt-Nam thành ba mươi mốt tỉnh. Chính trong cuộc cải tổ này thành phố mất hẳn tên Thăng-Long và mang tên mới Hà-Nội có nghĩa là “bên trong (Nội) khúc quanh con sông (Hà)”, được chọn bởi hình thể dòng sông nhưng nhất là để cho giống tên thủ phủ một quản hạt quân sự thời nhà Hán, ở ven sông Hoàng-hà. Tên mới cùa thành phố đã bị mất đi ý nghĩa con rồng, nay lại mất cả ý nghĩa bay lên, thế vào đó là một trích dẫn dựa vào thời kỳ xa xôi trong miền Bắc nước Tầu.
HÀ-NỘI thủ đô một thuộc địa
Người Pháp bắt đầu xâm nhập Việt-Nam vào hậu bán thế kỷ XVII qua các hội truyền giáo và mượn danh nghĩa cứu giúp, bảo vệ giáo dân Việt-Nam, mang quân sang xâm chiếm nước ta. Vua Gia-Long chấp nhận việc dân chúng gia nhập đạo Thiên chúa để trả ơn giám mục Pigneau de Béhaine, nhưng người kế vị ông, vua Minh-Mạng (1820-1840), rất tức giận thấy vương quốc có nhiều địa phận Thiên chúa giáo thoát ra khỏi sự kiểm soát của ông và ra lệnh cấm đạo ngay từ năm 1825, xử tử nhiều cố đạo Việt, Tây-ban-nha và Pháp.
Hiệp ước Nhượng địa Hà-Nội lần thứ nhất (1875) cung cấp cho chính phủ Pháp một miếng đất tươm tất ở gần sông Hồng làm chỗ cư ngụ cho viên công sứ Pháp và đoàn tùy tùng, và sau này cho các thương gia Pháp, có nghĩa là miếng đất nằm trong công sự phòng thủ Nam Hà-Nội. Hiệp ước thứ nhì cùng năm công nhận chính phủ Pháp có quyền thiết lập một tòa lãnh sự tại Hà-Nội. Đến năm 1882, viên quan hải quân Pháp Henri Rivière đem quân đánh chiếm hẳn Hà-Nội, kế đó các hiệp ước Harmand (1883) , Patenôtre (1884) công nhận quyền bảo hộ của Pháp tại Trung kỳ và Bắc kỳ và Hà-Nội trở thành “đất Pháp”.
Hiệp ước Nhượng địa Hà-nội lần thứ hai (1888) nhường cho Pháp tất cả đất đai Hà-Nội. Vậy nước Pháp chứng tỏ quyền hành trong một thành phố đã bị giới trí thức ưu tú quan lại bỏ rơi từ lâu, đền đài dinh thự bị tàn phá trong các cuộc nội chiến,và kể từ khoảng 1870, đám người dân thấp cổ bé miệng cũng tủa về nông thôn để lánh nạn chiến tranh, các cuộc tấn công của Garnier và Rivière, những xách nhiễu của giặc Cờ đen và quân đội chính quy Tầu. Chính viên công sứ Bonnal cũng phải than : “Thành phố này xưa kia có hơn tám mươi nghìn người cư ngụ mà nay thì vắng tanh; Hà-nội có cái vẻ buồn thảm của một thành phố chết.” (1) Tuy nhiên cái thành phố tỉnh nhỏ, được Pháp tôn làm thủ đô của Đông-Dương năm 1902, đã phát triển một cách nhanh chóng, khởi từ 50 000 dân vào khoảng 1880 lên đến khoảng 200 000 năm 1940.
Trong thời gian đầu, nhà cầm quyền thuộc điạ tiếp tục sử dụng nhóm quan lại người Việt trong các công tác hành chính, nhưng ngay từ tháng ba 1889, Hà-nội trở thành đất Pháp, thủ phủ của tỉnh phải rời đi nơi khác, kéo theo khối quan lại và giới trí thức ưu tú. Ngay sau đó, thành phố đạt được một cơ chế tư pháp tự trị : một người Việt sống trong thành phố không bị xét xử cùng một phương thức với người anh em trong tỉnh. Vậy, ngoại trừ lãnh vực chính trị, người Hà-Nội được luật pháp nước Pháp bảo vệ và nhiều người Việt-Nam biết khai thác tình trạng này để chống lại sự tham lam về thuế thổ trạch của tòa đô chính, sự lạm dụng việc truất hữu hay sự đánh thuế bất công.
Cuốn Atlas colonial illustré đã mô tả Hà-Nội vào năm 1925 như sau : “Thủ đô và thành phố đông dân cư nhất Bắc-kỳ, ở giữa một hệ thống giao thông đường thủy trên sông Cái hay sông Hồng và cách biển 150 cây số. Dân số 105.000 người gồm 3.000 dân Tây phương, 100.000 dân An-nam và 2.000 dân Tầu. Được thành lũy phòng thủ và nhiều đường đi dạo đẹp đẽ vây quanh, Hà-Nội bao gồm khoảng trăm làng và chia thành bẩy khu phố cộng với một ngoại ô. Một thành phố quan trọng và duyên dáng, người ta thấy một khu dân Tây phương và một thành phố dân bản xứ. Một phần dân chúng sống nổi trôi trên thuyền bè. Đường khu Tây phương được lát bằng đá cẩm thạch, một hồ nhỏ có hình ảnh đẹp đẽ và dễ thương. Tương lai Hà-nội sẽ là trụ sở của chính phủ Đông-dương”.(2)
Nếu người Pháp đã theo đuổi một chính sách xây dựng những công thự to lớn, phi lý và tốn kém, nhất là đối với người Việt-Nam và người Tầu, chính là vì Hà-Nội có ba sứ mạng. Trụ sở của nền bảo hộ xứ Bắc-kỳ (kể từ 1885) và của hội đồng thị chính Pháp (kể từ 1888), thành phố trở thành vào năm 1902 thủ đô của năm <> thuộc Đông-dương -
Bắc-kỳ (Tonkin), Trung-kỳ (Annam), Nam-kỳ (Cochinchine), Lào (Laos) và
Cao-mên (Cambodge) - và vì vậy quy tụ cả một dẫy văn phòng..Các kỹ sư
Pháp, rất quan tâm đến việc diễn tả qua gach đá sự hùng mạnh và sự tân
tiến của chế độ thuộc địa, đã xây dựng rất nhiều công thự to lớn và huy
hoàng để phục vụ từ những công vụ lớn thuộc Đông-dương (Chính quyền,
Quân đội, Nội vụ, Kiểm soát tài chính, Thuế vụ, Các Sở thương mại và
nông nghiệp, Sở tư pháp, Bưu chính, v.v.) cho đến những công vụ tương
đương thuộc địa phương hoặc hàng nghìn dịch vụ khác dành cho nền hành
chính Bắc kỳ và thành phố.
HÀ-NỘI trong mắt ai
Di sản thực dân Pháp để lại thật nặng nề và hiểm độc. Với chính sách chia để trị, chính quyền Đông Dương đã chia cắt đất nước Việt-Nam làm ba phần, Bắc-kỳ có Hà-Nội, Trung-kỳ có Huế và Nam-kỳ có Sài-Gòn. Vùng nào sống theo vùng đó và yêu thích thủ phủ của mình, vô hình chung Việt-Nam có tới ba “xứ sở” gần như biệt lập với ba lối cai trị khác nhau.
Bắc-kỳ và Trung-kỳ đều là những vùng đất theo quy chế bảo hộ của thực dân Pháp, theo lý thuyết chính phủ Pháp cai trị chung với quan lại của triều đình Huế, nhưng trên thực tế, người ta chỉ thấy sự liên hiệp này qua sự hiện diện của quan Pháp và quan An-Nam (theo tên gọi thời bấy giờ) trong các ngày lễ hội, còn tất cả mọi việc đều do viên Toàn quyền Đông Dương người Pháp quyết định. Hà-Nội là thủ đô của Đông Dương do Pháp dựng lên nên đã là mục tiêu của các cuộc nổi dậy, đánh phá của toàn dân quân kháng chiến cho đến thắng lợi cuối cùng. Người Pháp rút về nước, Hà-Nội trở thành thủ đô của miền Bắc, niềm hãnh diện vô biên của người dân miền này.
Trong suốt thời kỳ Pháp chiếm đóng, triều đình Huế vẫn hiện diện song song với chính quyền Bảo hộ và như vậy, đối với người dân bản xứ, Huế vẫn là thủ đô của Việt-Nam cho đến khi vị vua cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn, Bảo Đại, thoái vị vào năm 1945. Hội nghị quốc tế Genève 1954 tạm thời chia nước Việt-Nam thành hai miền : miền Bắc với thủ đô là Hà-Nội, miền Nam thủ đô là Sài-Gòn. Huế mất hẳn ngôi vị thủ đô Việt-nam.
Nam kỳ là vùng đất duy nhất được coi như thuộc địa của Pháp, chịu sự cai trị trực tiếp của chính quyền thuộc địa, và vì vậy được hưởng một quy chế đặc biệt với những ưu đãi riêng. Sài-Gòn, thủ phủ của miền Nam, cũng được xây cất lai với những công thự lớn lao và tráng lệ, những đại lộ rộng rãi. Tất cả những điều này đã gây cho người dân miền Nam có cảm tưởng như sống trong một xứ sở riêng biệt, một thứ “Nam-kỳ quốc” với Sài-Gòn là thủ đô. Hà-Nội đối với họ là cái gì mơ hồ, ở một nơi xa xôi nào đó. Sau này, khi Pháp rút khỏi Đông-dương, nước Việt-Nam lại bị chia cắt làm hai phần, ý niệm về Hà-Nội trở thành sâu sắc hơn, nặng nề và kém thân thiện hơn. Đến khi Việt-nam thống nhất, tư tưởng này chỉ còn bàng bạc trong lòng một số dân miền Nam mà thôi.
Trở về nguồn
Để xóa bỏ mọi tàn tích ác hại của chính sách chia để trị của thực dân Pháp đã làm cho bao nhiêu thế hệ con người có đầu óc thiển cận, đố kỵ hay ganh ghét và ích kỷ chỉ biết nghĩ đến quyền lợi cá nhân mà quên đi quyền lợi chung, cho đến nay còn rơi rớt lại trong một số người, để xóa bỏ những tỵ hiềm giữa người Bắc, người Trung, người Nam, những ý niệm xưa cũ về các thủ đô Hà-Nội, Huế, Sài-Gòn, chúng tôi xin đề nghị trở về nguồn, đổi tên thủ đô Hà-Nội thành Thăng-Long, cái tên đã tượng trưng cho một nước Việt-Nam hoàn toàn độc lập, thống nhất và hùng mạnh từ thời xa xưa để hoàn thành một quốc gia tiêu biểu : nước Việt-Nam là một, dân tộc Việt-Nam là một.
1- Histoire de Hanoi, Philippe Papin, trang 225
2- www.belleindochine.free.fr, Sommaire/Hanoi
Tài kiệu tham khảo :
- Histoire de Hanoi, Philippe Papin, Fayard – Paris 2001
- Histoire de l’Indochine, Philippe Héduy, Société de Production Littéraire – Paris 1983
- Indochine, Charles Daney, Flammarion – Paris 1992
- www.belleindochine.free.fr
THỬ BÀN VỀ TÊN THỦ ĐÔ VIỆT-NAM
Đến năm 2010 này là kỷ niệm một nghin năm hoàng đế Lý Thái Tổ thiết lập thủ đô Việt-Nam đầu tiên hoàn toàn độc lập, với cái tên thần thoại, huy hoàng, vẻ vang Thăng-Long.
Tên một thành phố có thể gợi cho chúng ta niềm hãnh diện, nỗi vui mừng hoặc những kỷ niệm đau buồn, thương tiếc như tên thủ đô xưa Thăng Long oai hùng, tráng lệ mà vì thời cuộc đổi thay đã bi thay thế bằng cái tên khởi đầu có ý nghĩa tầm thường Hà-Nội, gọi theo vị trí địa phương : một tỉnh nằm trong (Nội) khúc quanh của con sông (Hà).
THĂNG-LONG, thủ đô vuơng quốc
Thăng-Long gợi cho chúng ta triều đại độc lập đầu tiên của Việt-Nam, nhà Lý, một thủ đô hùng mạnh và vẻ vang của dân tộc Việt. Sau khi tái lập được hòa bình và loại bỏ mối đe dọa Trung-Quốc, triều đại mới nhà Lý tự cảm thấy đủ mạnh để thiết lập thủ đô của vương quốc tại miền đồng bằng. Hoàng đế Lý Thái Tổ quyết định thiên đô từ Hoa-Lư về kinh thành cũ Đại-La, nơi đã có một quá khứ vẻ vang..
Vào tháng bẩy âm lịch năm 1010, trong lúc đoàn tùy tùng hoàng gia đi đến gần Đại-La, nhà vua nhìn thấy một con rồng vàng óng xuất hiện trên bầu trời và, coi đó như là một điềm xuất sắc, ông đặt cho thành phố cái tên nó sẽ mang trong suốt chín thế kỷ (1010-1805), Thăng-Long, “thành phố của con rồng bay lên”. Hơn nữa, tại Việt-Nam cũng như tại Trung-Quốc từ thời nhà Hán, rồng còn là con vật biểu tượng hoàng đế, tượng trưng cho lễ đăng quang của tân hoàng đế.
Tuy nhiên, việc xác nhận chủ quyền và độc lập của tân triều đại phải có một giới hạn nào đó, vì trên lý thuyết họ còn ở dưới sự bảo hộ của người láng giềng phương Bắc. Vì vậy, để dung hòa quyền lợi đôi bên, triều đình nhà Lý đã chọn một chữ nho cổ xưa và hiếm để có thể tuyên bố nền độc lập của các vị vua Việt-Nam đối với Trung-Quốc mà không đoạn giao với xứ này (thay vì sử dụng chữ “Thăng” thường được dùng 升, người ta chọn một chữ phức tạp hơn, có dấu “mặt trời” ghi thêm lên trên chữ gốc 昇. Cách viết chữ này đã được thấy từ thời cổ Trung-Quốc, chắc chắn để làm giảm nghĩa bóng của từ ngữ = lễ đăng quang một vị vua, bằng cách nhấn mạnh đến truyền thuyết lấy từ gốc chữ = con Rồng bay lên trời, vậy về phía mặt Trời).
Vậy, vị vua thứ nhất nhà Lý thiết lập thủ đô của Đế-quốc tại nơi có những tường thành kiên cố, có nghĩa là trong thành phòng thủ Đại-La xưa, lúc đó đủ lớn để chứa gia đình ông và tập đoàn hành chánh của vương quốc. Chính vào thời điểm này hồ Tây được đặt tên như vậy, dựa vào vị trí của nó đối với hoàng thành.. Dần dần, với sự phát triển của triều đình và nền hành chánh quan lại, thành lũy phòng thủ cùa người Trung-Quốc trở nên quá hẹp và người ta đã phải xây dựng ngoài tường thành.
Ngay từ năm 1014, người ta đã xác định vị trí thành phố bằng một bờ tường đất bao bọc bên ngoài gồm cả hồ Tây; và chạy vòng theo dòng sông Tô-Lịch và sông Kim-Ngưu. Hai thế kỷ sau, vào năm 1230, vị vua thứ nhất nhà Trần dời bờ tường gần hai cây số về phía nam. Người ta có thể giải thích phần lớn hình thể thành phố do nhu cầu phải dựng lên một tường thành chống lũ, lụt của sông Hồng và các sông nhánh. Đó cũng là lý do người ta không thấy được hình thể cổ điển ba thành phố lồng vào nhau theo hệ thống : cấm thành, nơi hoàng gia trú ngụ; hoàng thành, nơi triều đình sinh hoạt cùng các bộ và cơ quan hành chính, sau cùng là thành phố dân sự, nơi người dân cư ngụ và sinh hoạt theo đúng mẫu thủ đô Trung-quốc. Khác với nhiều thủ đô khác, thành phố không vượt quá giới hạn xác định vào thế kỷ XIII về phía Nam, giới hạn xác định vào thế kỷ XI ở mọi phía khác. Trong thời kỳ quân chủ, kế đó thực dân và xã hội chủ nghĩa, cái “Hà-nội phi thường” cũng chỉ nằm trong cùng khoảng không gian ấy. Chỉ trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX thành phố mới lấn ra ngoài lề của nó.
Thế kỷ thứ XV là thời kỳ huy hoàng, thời kỳ vàng son của Thăng-Long. Triều đại vẻ vang nhà Lê lo chấn hưng thủ đô và xác định quyền hành trên khắp lãnh thổ đang từ từ phát triển, vương quốc ngày càng lớn rộng về phía Tây cũng như về phía Nam. Số đông trí thức, văn nhân sống trong thành phố từ nay tượng trưng cho niềm tự hào vương quốc, sự hùng mạnh của giới hành chánh và trung tâm tỏa rộng văn hóa.
HÀ-NỘI, thủ phủ một tỉnh
Vào cuối thế kỷ thứ XVIII, một phong trào đại chúng hùng mạnh quét sạch trong vài năm các gia đình đang trị vì – nhà Lê, họ Trịnh và họ Nguyễn – và chấm dứt với sự thắng lợi của người cuối cùng thuộc dòng họ Nguyễn (người sống sót duy nhất, Nguyễn Ánh, đã thoát được cuôc tàn sát cả dòng họ Nguyễn tại Saigon năm 1777) với sự trợ giúp của các cố đạo người Pháp và Bồ Đào Nha. Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu là Gia-Long, thống nhất xứ sở và dời thủ đô vào Huế năm 1806. Bị đặt ngoài lề, bị giới trí thức ưu tú bỏ rơi, lần đầu tiên kể từ hơn tám thế kỷ, Thăng-Long không còn là trung tâm của Lịch-sử.
Thăng-Long mất tên gọi này vào năm 1805. Vì cái tên gọi này quá quen thuộc với đại chúng, triều đình đành thay đổi chữ nho 龍 (long) có nghĩa là “con rồng, hoàng đế”, bằng một chữ đồng âm 隆 (long), mượn tên hiệu vua (Gia- Long) có nghĩa là “phồn thịnh”. Cách viết khác nhau nhưng cách phát âm không thay đổi, Thăng-Long vẫn tên Thăng-Long, nhưng “thành phố con Rồng bay lên” chỉ còn là “thành phố sự Phồn thịnh bay lên”. Sự thay đổi này làm mất đi mọi tự hào vương quốc và cùng năm đó, tỉnh hoàng tộc cũ được đặt tên mới là Hoài-Đức để xóa bỏ mọi vết tích của quá khứ.
Một phần tư thế kỷ sau đó, vào năm 1831, hoàng đế Minh-Mạng, người con thứ tư của Gia-Long, bãi bỏ các trấn và chia Việt-Nam thành ba mươi mốt tỉnh. Chính trong cuộc cải tổ này thành phố mất hẳn tên Thăng-Long và mang tên mới Hà-Nội có nghĩa là “bên trong (Nội) khúc quanh con sông (Hà)”, được chọn bởi hình thể dòng sông nhưng nhất là để cho giống tên thủ phủ một quản hạt quân sự thời nhà Hán, ở ven sông Hoàng-hà. Tên mới cùa thành phố đã bị mất đi ý nghĩa con rồng, nay lại mất cả ý nghĩa bay lên, thế vào đó là một trích dẫn dựa vào thời kỳ xa xôi trong miền Bắc nước Tầu.
HÀ-NỘI thủ đô một thuộc địa
Người Pháp bắt đầu xâm nhập Việt-Nam vào hậu bán thế kỷ XVII qua các hội truyền giáo và mượn danh nghĩa cứu giúp, bảo vệ giáo dân Việt-Nam, mang quân sang xâm chiếm nước ta. Vua Gia-Long chấp nhận việc dân chúng gia nhập đạo Thiên chúa để trả ơn giám mục Pigneau de Béhaine, nhưng người kế vị ông, vua Minh-Mạng (1820-1840), rất tức giận thấy vương quốc có nhiều địa phận Thiên chúa giáo thoát ra khỏi sự kiểm soát của ông và ra lệnh cấm đạo ngay từ năm 1825, xử tử nhiều cố đạo Việt, Tây-ban-nha và Pháp.
Hiệp ước Nhượng địa Hà-Nội lần thứ nhất (1875) cung cấp cho chính phủ Pháp một miếng đất tươm tất ở gần sông Hồng làm chỗ cư ngụ cho viên công sứ Pháp và đoàn tùy tùng, và sau này cho các thương gia Pháp, có nghĩa là miếng đất nằm trong công sự phòng thủ Nam Hà-Nội. Hiệp ước thứ nhì cùng năm công nhận chính phủ Pháp có quyền thiết lập một tòa lãnh sự tại Hà-Nội. Đến năm 1882, viên quan hải quân Pháp Henri Rivière đem quân đánh chiếm hẳn Hà-Nội, kế đó các hiệp ước Harmand (1883) , Patenôtre (1884) công nhận quyền bảo hộ của Pháp tại Trung kỳ và Bắc kỳ và Hà-Nội trở thành “đất Pháp”.
Hiệp ước Nhượng địa Hà-nội lần thứ hai (1888) nhường cho Pháp tất cả đất đai Hà-Nội. Vậy nước Pháp chứng tỏ quyền hành trong một thành phố đã bị giới trí thức ưu tú quan lại bỏ rơi từ lâu, đền đài dinh thự bị tàn phá trong các cuộc nội chiến,và kể từ khoảng 1870, đám người dân thấp cổ bé miệng cũng tủa về nông thôn để lánh nạn chiến tranh, các cuộc tấn công của Garnier và Rivière, những xách nhiễu của giặc Cờ đen và quân đội chính quy Tầu. Chính viên công sứ Bonnal cũng phải than : “Thành phố này xưa kia có hơn tám mươi nghìn người cư ngụ mà nay thì vắng tanh; Hà-nội có cái vẻ buồn thảm của một thành phố chết.” (1) Tuy nhiên cái thành phố tỉnh nhỏ, được Pháp tôn làm thủ đô của Đông-Dương năm 1902, đã phát triển một cách nhanh chóng, khởi từ 50 000 dân vào khoảng 1880 lên đến khoảng 200 000 năm 1940.
Trong thời gian đầu, nhà cầm quyền thuộc điạ tiếp tục sử dụng nhóm quan lại người Việt trong các công tác hành chính, nhưng ngay từ tháng ba 1889, Hà-nội trở thành đất Pháp, thủ phủ của tỉnh phải rời đi nơi khác, kéo theo khối quan lại và giới trí thức ưu tú. Ngay sau đó, thành phố đạt được một cơ chế tư pháp tự trị : một người Việt sống trong thành phố không bị xét xử cùng một phương thức với người anh em trong tỉnh. Vậy, ngoại trừ lãnh vực chính trị, người Hà-Nội được luật pháp nước Pháp bảo vệ và nhiều người Việt-Nam biết khai thác tình trạng này để chống lại sự tham lam về thuế thổ trạch của tòa đô chính, sự lạm dụng việc truất hữu hay sự đánh thuế bất công.
Cuốn Atlas colonial illustré đã mô tả Hà-Nội vào năm 1925 như sau : “Thủ đô và thành phố đông dân cư nhất Bắc-kỳ, ở giữa một hệ thống giao thông đường thủy trên sông Cái hay sông Hồng và cách biển 150 cây số. Dân số 105.000 người gồm 3.000 dân Tây phương, 100.000 dân An-nam và 2.000 dân Tầu. Được thành lũy phòng thủ và nhiều đường đi dạo đẹp đẽ vây quanh, Hà-Nội bao gồm khoảng trăm làng và chia thành bẩy khu phố cộng với một ngoại ô. Một thành phố quan trọng và duyên dáng, người ta thấy một khu dân Tây phương và một thành phố dân bản xứ. Một phần dân chúng sống nổi trôi trên thuyền bè. Đường khu Tây phương được lát bằng đá cẩm thạch, một hồ nhỏ có hình ảnh đẹp đẽ và dễ thương. Tương lai Hà-nội sẽ là trụ sở của chính phủ Đông-dương”.(2)
Nếu người Pháp đã theo đuổi một chính sách xây dựng những công thự to lớn, phi lý và tốn kém, nhất là đối với người Việt-Nam và người Tầu, chính là vì Hà-Nội có ba sứ mạng. Trụ sở của nền bảo hộ xứ Bắc-kỳ (kể từ 1885) và của hội đồng thị chính Pháp (kể từ 1888), thành phố trở thành vào năm 1902 thủ đô của năm <
HÀ-NỘI trong mắt ai
Di sản thực dân Pháp để lại thật nặng nề và hiểm độc. Với chính sách chia để trị, chính quyền Đông Dương đã chia cắt đất nước Việt-Nam làm ba phần, Bắc-kỳ có Hà-Nội, Trung-kỳ có Huế và Nam-kỳ có Sài-Gòn. Vùng nào sống theo vùng đó và yêu thích thủ phủ của mình, vô hình chung Việt-Nam có tới ba “xứ sở” gần như biệt lập với ba lối cai trị khác nhau.
Bắc-kỳ và Trung-kỳ đều là những vùng đất theo quy chế bảo hộ của thực dân Pháp, theo lý thuyết chính phủ Pháp cai trị chung với quan lại của triều đình Huế, nhưng trên thực tế, người ta chỉ thấy sự liên hiệp này qua sự hiện diện của quan Pháp và quan An-Nam (theo tên gọi thời bấy giờ) trong các ngày lễ hội, còn tất cả mọi việc đều do viên Toàn quyền Đông Dương người Pháp quyết định. Hà-Nội là thủ đô của Đông Dương do Pháp dựng lên nên đã là mục tiêu của các cuộc nổi dậy, đánh phá của toàn dân quân kháng chiến cho đến thắng lợi cuối cùng. Người Pháp rút về nước, Hà-Nội trở thành thủ đô của miền Bắc, niềm hãnh diện vô biên của người dân miền này.
Trong suốt thời kỳ Pháp chiếm đóng, triều đình Huế vẫn hiện diện song song với chính quyền Bảo hộ và như vậy, đối với người dân bản xứ, Huế vẫn là thủ đô của Việt-Nam cho đến khi vị vua cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn, Bảo Đại, thoái vị vào năm 1945. Hội nghị quốc tế Genève 1954 tạm thời chia nước Việt-Nam thành hai miền : miền Bắc với thủ đô là Hà-Nội, miền Nam thủ đô là Sài-Gòn. Huế mất hẳn ngôi vị thủ đô Việt-nam.
Nam kỳ là vùng đất duy nhất được coi như thuộc địa của Pháp, chịu sự cai trị trực tiếp của chính quyền thuộc địa, và vì vậy được hưởng một quy chế đặc biệt với những ưu đãi riêng. Sài-Gòn, thủ phủ của miền Nam, cũng được xây cất lai với những công thự lớn lao và tráng lệ, những đại lộ rộng rãi. Tất cả những điều này đã gây cho người dân miền Nam có cảm tưởng như sống trong một xứ sở riêng biệt, một thứ “Nam-kỳ quốc” với Sài-Gòn là thủ đô. Hà-Nội đối với họ là cái gì mơ hồ, ở một nơi xa xôi nào đó. Sau này, khi Pháp rút khỏi Đông-dương, nước Việt-Nam lại bị chia cắt làm hai phần, ý niệm về Hà-Nội trở thành sâu sắc hơn, nặng nề và kém thân thiện hơn. Đến khi Việt-nam thống nhất, tư tưởng này chỉ còn bàng bạc trong lòng một số dân miền Nam mà thôi.
Trở về nguồn
Để xóa bỏ mọi tàn tích ác hại của chính sách chia để trị của thực dân Pháp đã làm cho bao nhiêu thế hệ con người có đầu óc thiển cận, đố kỵ hay ganh ghét và ích kỷ chỉ biết nghĩ đến quyền lợi cá nhân mà quên đi quyền lợi chung, cho đến nay còn rơi rớt lại trong một số người, để xóa bỏ những tỵ hiềm giữa người Bắc, người Trung, người Nam, những ý niệm xưa cũ về các thủ đô Hà-Nội, Huế, Sài-Gòn, chúng tôi xin đề nghị trở về nguồn, đổi tên thủ đô Hà-Nội thành Thăng-Long, cái tên đã tượng trưng cho một nước Việt-Nam hoàn toàn độc lập, thống nhất và hùng mạnh từ thời xa xưa để hoàn thành một quốc gia tiêu biểu : nước Việt-Nam là một, dân tộc Việt-Nam là một.
1- Histoire de Hanoi, Philippe Papin, trang 225
2- www.belleindochine.free.fr, Sommaire/Hanoi
Tài kiệu tham khảo :
- Histoire de Hanoi, Philippe Papin, Fayard – Paris 2001
- Histoire de l’Indochine, Philippe Héduy, Société de Production Littéraire – Paris 1983
- Indochine, Charles Daney, Flammarion – Paris 1992
- www.belleindochine.free.fr
Sunday, October 19, 2008
TRẦN BÌNH NAM * GIẢI PHẨU MỘT VỤ ÁN
GIẢI PHẨU MỘT VỤ ÁN
Trần Bình Nam
Vụ án xử hai nhà báo Nguyễn Việt Chiến (báo Thanh niên), Nguyễn Văn Hải (báo Tuổi Trẻ) và hai sĩ quan công an, thiếu tướng hồi hưu Phạm Xuân Quắc và đại tá Đinh Văn Huynh trong hai ngày 14 & 15/10/2008 tại Hà Nội đã kết thúc với những bản án tương đối nhẹ hơn so với mức án đề nghị của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao (tức Viện Công tố).
Vụ án này khởi tố vào tháng 5/2008 với tội danh “lợi dụng chức vụ quyền hạn khi thi hành công vụ” và từng làm dư luận trong nước và thế giới xôn xao xem là một vụ đàn áp báo chí vì hai nhà báo Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn Hải đã xông xáo đưa tin về vụ án PMU18 (Project Management Unit 18, một bộ phận của bộ Giao thông Vận tải phụ trách xây dựng đường sá và cơ sở hạ tầng) trong thời gian từ tháng 1/2006 đến tháng 4/2006 trên hai tờ báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ là hai tờ báo có nhiều độc giả nhất trong nước.
Do sự chú ý của dư luận thế giới, đảng cộng sản Việt Nam đã cho xử 2 nhà báo Nguyễn Việt Chiến, Nguyễn Văn Hải cùng với hai sĩ quan công an Phạm Xuân Quắc và Đinh Văn Huynh một cách công khai hơn các vụ án khác. Công khai với nghĩa tòa án tương đối dễ dãi đối với số lượng người tham dự (báo chí, thân nhân), luật sư biên hộ được bênh vực bị can trước tòa mà không bị quan tòa cắt máy vi âm hay cắt lời như thường thấy, các bị can cũng được góp lời biện hộ cho mình.
Nhờ sự công khai mà sau khi vụ án kết thúc người ta có thể ráp các mảng thông tin lại với nhau và thấy được chân dung của tình trạng tham nhũng của các đảng viên đảng cộng sản Việt Nam, sự dùng các vụ truy tố tham nhũng để đánh lẫn nhau, và khi hũ mắm được khui ra trước dư luận de đọa sự tồn tại của đảng thì đảng vội vàng lấp liếm bằng một vụ án gọi là vụ án “lợi dụng chức vụ” để khỏa lấp tất cả dưới cái vỏ công lý.
Tham nhũng, làm tiền là chuyện hằng ngày của cán bộ đảng tại Việt Nam hôm nay, đến nổi dân kháo với nhau rằng “tại Việt Nam hôm nay tham nhũng đâu có gì lạ, không tham nhũng mới là chuyện lạ!” Nhưng bài trừ tham nhũng vẫn là khẩu hiệu đầu môi của những người lãnh đạo Việt Nam, và chống tham nhũng được dùng để hạ nhau trong nội bộ đảng.
Chuyện xẩy ra từ đầu năm 2006. Ông Nguyễn Tấn Dũng (lúc đó còn là Phó thủ tướng) một ủy viên đang lên của Bộ chính trị và Tổng bí thư Nông Đức Mạnh vốn không hợp nhau về chủ trương và đường lối.Tháng Giêng năm 2006, trước đại hội 10 của đảng (triệu tập vào tháng 4/2006) ông Bùi Tiến Dũng, Tổng giám đốc PMU 18 bị điều tra về việc đã dùng 1.8 triệu mỹ kim tiền đầu tư của nước ngoài để cá độ bóng đá. Cuộc điều tra phanh phui thêm ông Nguyễn Việt Tiến, thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải cũng dính líu đến vụ PMU 18. Bùi Tiến Dũng và Nguyễn Việt Tiến đều là đảng viên cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam và là đàn em của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh. Cả hai ông Bùi Tiến Dũng và Nguyễn Việt Tiến đều bị tạm giam và tước đảng tịch.
Trong quá trình điều tra, các sĩ quan công an phụ trách như tướng Phạm Xuân Quắc và đại tá Đinh Văn Huynh đã theo vết tiền gần 2 triệu mỹ kim cá độ bóng đá truy ra vụ ăn chơi đàng điếm bê tha của ông Bùi Tiến Dũng và vụ Bùi Tiến Dũng cho mượn hoặc cho không hàng chục chiếc xe của Bộ Giao thông Vận tải và tiêu 500.000 mỹ kim để chạy án. Tướng Phạm Xuân Quắc và đại tá Đinh Văn Huynh đã cung cấp tin tức cho hai tờ báo có nhiều độc giả nhất nước là tờ Thanh niên và tờ Tuổi Trẻ và hai tờ báo này qua hai phóng viên Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn Hải đã nhanh chóng khai thác với những bản tin nẩy lửa hằng ngày chưa bao giờ thấy trên các trang báo tại Việt Nam.
Lúc đó đại hội 10 của đảng cộng sản Việt Nam sắp được triệu tập và phe ông Nguyễn Tấn Dũng muốn nhân vụ này đẩy ông Nông Đức Mạnh ra khỏi chức Tổng bí thư hay xa hơn nữa trục ra khỏi Bộ chính trị. Ông Nguyễn Tấn Dũng có khuynh hướng cởi mở, và thời gian này nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam đang trăn trở tìm một con đường thoát ra khỏi áp lực đang đè nặng của Trung quốc (một số nhận định trước đây cho rằng ông Nguyễn Tấn Dũng thân Trung quốc không có cơ sở).
Vụ án cá độ và các hành vi tham nhũng, trụy lạc của Bùi Tiến Dũng, một đảng viên cao cấp vào thời điểm trước đại hội 10 của đảng cộng sảnViệt Nam bày ra một bức tranh không lấy gì đẹp đẻ cho đảng và chế độ, làm cho những người đang cầm quyền nằm trong Trung ương đảng cảm thấy bị đe dọa vì trên thực tế vị nào cũng dính líu đến tiền bạc và có một gia tài lớn cần bảo vệ.
Và không những quyền lợi cá nhân bị đe dọa mà căn bản cầm quyền của đảng (dù được bảo vệ bởi Điều 4 Hiến Pháp) cũng bị đe dọa. Trước nguy cơ này đảng cộng sản Việt Nam ngồi lại tính kế thoát hiểm.
Đại hội 10 của đảng diễn ra êm thắm và không ai đả động đến vụ án PMU18. Nông Đức Mạnh tiếp tục giữ chức vụ Tổng bí thư, Nguyễn Tấn Dũng trở thành thủ tướng. Thời gian sau đại hội 10 là thời gian đảng tìm giải pháp ổn định nội bộ và trả lại son phấn cho đảng. Vụ án PMU 18 được hiểu được tiếp tục điều tra, nhưng không phải để kết mà để gỡ.
Sau gần 2 năm, tháng 3/2008 Viện Kiểm sát Nhân dân tuyên bố nhiều chi tiết trong vụ án PMU 18 không có cơ sở, ông thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến được trả tự do và hai tháng sau được trả lại thẻ Đảng. Hai nhà báo Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn Hải bị truy tố và bắt giam. Tiếp theo tướng Phạm Xuân Quắc (được cho nghỉ hưu trước đó) cũng bị truy tố tại ngoại, đại tá Đinh Văn Huynh bị truy tố và bắt giam. Cả 4 người đều bị kết tội danh: lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ.
Tiến trình điều tra kéo dài cho đến phiên tòa ngày 13 & 14/10 vừa qua tại Hà Nội. Tội danh trong bản cáo trạng của 4 bị can được thay đổi để phù hợp với án định sẵn.Tướng Phạm Xuân Quắc và đại tá Đinh Văn Huynh được đổi tội danh từ “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” sang tội danh “cố ý làm lộ bí mật công tác”. Hai phóng viên Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn Hải đổi tội danh từ “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ ” sang tội danh “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”
Trước tòa, phóng viên Nguyễn Văn Hải, đảng viên, nhận đã vô tình phạm tội. Tòa xử Nguyễn Văn Hải hai năm tù treo và được trả tự do tại chỗ.
Phóng viên Nguyễn Việt Chiến (không phải đảng viên) cương quyết cho rằng mình chỉ làm nhiệm vụ thông tin như nghề nghiệp quy định. Những tin ông viết đều được chính thiếu tướng Phạm Xuân Quắc cung cấp và đều được ghi băng (đã trình tòa). Tòa án không cho nghe các băng đã ghi và phạt Nguyễn Việt Chiến 2 năm tù ở .
Tướng hồi hưu Phạm Xuân Quắc phủ nhận không tiết lộ tin tức cho ai cả. Điều này trái với lời khai của phóng viên Nguyễn Việt Chiến (với bằng chứng có ghi băng và đã nộp cho cơ quan điều tra), nhưng tòa không kiểm chứng đúng sai, tuyên bố Phạm Xuân Quắc có tội và phạt cảnh cáo.
Đại tá Đinh Văn Huynh nói không tiết lộ tin tức điều tra. Tội trạng không khác tội của ông Phạm Xuân Quắc. Tòa tuyên án 1 năm tù ở .
Phiên tòa làm việc như một cái máy không áp dụng thủ tục kiểm chứng, bất chấp lời biện hộ của luật sư và lời khai của bị can trước tòa.
Phiên tòa đóng một lúc hai vụ án: vụ thứ nhất (PMU 18) liên quan đến dùng tiền tham nhũng để đánh bạc, cán bộ đảng viên dùng công quỹ sống sa đọa, dùng hằng trăm ngàn mỹ kim đút lót cả một hệ thống tư pháp để chạy án. Vụ thứ hai viên chức công an tiết lộ tin tức điều tra, và phóng viên báo chí lợi dụng đảng đang lúng túng (vì sắp họp đại hội đảng và nội bộ đang muốn thanh toán nhau) để loan tin làm xấu mặt đảng.
Hai vụ án vô tình bày ra trước thế giới một đảng cầm quyền tham nhũng, bê tha và trụy lạc không còn chút uy tín đối với nhân dân. Nhưng đảng cũng đã khéo dùng hai vụ án PMU 18 và vụ án “Quắc, Hưng, Chiến, Hải” để giáo dục đảng viên các cấp rằng:
1. Nếu biết rằng đảng ta là một tập đoàn tham nhũng thì đừng tố cáo lẫn nhau (cảnh cáo qua Nguyễn Tấn Dũng)
2. Đảng viên khi tham nhũng, ăn chơi sa đọa thì phải kín đáo một chút (cảnh cáo qua Bùi tiến Dũng và Nguyễn Việt Tiến)
3. Khi nào các “anh lớn” đánh nhau thì công an các cấp, dù là cấp tướng, đừng có a dua hùa theo đánh hôi mà mang họa (cảnh cáo qua tướng Phạm Xuân Quắc và đại tá Đinh Văn Huynh)
4. Dưới chế độ cộng sản tại Việt Nam không có tự do báo chí. Tưởng có báo chí tự do sẽ lãnh đủ (cảnh cáo qua hai phóng viên Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn Hải).
5. Trấn an các tướng lãnh công an và quân đội là đội ngũ bảo vệ đảng họ sẽ được che chở (tướng Phạm Xuân Quắc tội trạng giống như tội trạng của đại tá Đinh Văn Huynh nhưng không bị bắt giam điều tra và chỉ bị án treo, trong khi đại tá Đinh Văn Huynh bị bắt giam điều tra và bị phạt 1 năm tù ở).
6. Đảng viên đảng cộng sản Việt Nam sẽ được ưu đãi nếu biết điều. Phóng viên Nguyễn Văn Hải đảng viên, tội trạng giống như tội trạng của Nguyễn Việt Chiến (không phải đảng viên) nhưng được tù treo, trong khi chứng cớ vô tội trình bày rành rành trước tòa Nguyễn Việt Chiến vẫn bị một năm tù ở.
Màn kịch thi hành công lý của đảng gần như trọn vẹn. Thông điệp của đảng cộng sản Việt Nam gởi các đảng viên đã được gởi đi. Chỉ còn cái gân gà PMU18, bỏ không xong, nuốt vào nghẹn cổ. Cho đến nay vụ án PMU 18 vẫn chưa có Trưởng ban chuyên án mới thay thế tướng Phạm Xuân Quắc. Nhìn gương ông Quắc trong mê hồn trận đấm đá lẫn nhau ai là người có đủ can đảm tiếp tục điều tra ông Bùi Tiến Dũng?
Rút dây động rừng. Và cái dây của ông Bùi Tiến Dũng đã leo rất cao và bò rất sâu vào lục phủ ngủ tạng của Đảng./.
Trần Bình Nam
Oct. 17, 2008
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com
PHAN NHẬT NAM * NGUYỄN CHÍ THIỆN
Sự thật chỉ có một nhà thơ Nguyễn Chí Thiện
Thursday, October 16, 2008
Phan Nhật Nam
Lời người viết.- Người bạn Trần Phong Vũ đã viết đủ trong “Nghĩ về Nguyễn Chí Thiện” (NV số 8339 ngày 6 tháng 10/2008), nhưng Trần Huynh chưa đề cập đến những “chung quanh, đằng sau Nguyễn Chí Thiện”, bài nầy vì thế được viết nên. Xin lỗi với quý độc giả nếu phải đọc lại thêm một lần những nội dung về người/việc mà bài viết của Trần Phong Vũ đã nêu ra. Tất cả chỉ do ý hướng muốn nói rõ ra sự việc mà thôi. Trang trọng.
PNN
Diễn tiến tổng quát
Tình hình sinh hoạt chính trị, văn hóa, xã hội vùng Nam Cali lâu lâu bùng vỡ một vài sự kiện bất thường có tính cách định kỳ, và điểm rõ nét nhất có thể kết luận đối với loạt hiện tượng nầy là tính dân chủ của những hình thức sinh hoạt ấy - Người Việt tự do bày tỏ ý kiến của mình về người/việc xẩy ra trong cộng đồng hải ngoại - Tốt, xấu chúng ta chưa thể đánh giá, chỉ biết đấy là một hiện tượng thường trực, chung nhất.
Khởi đầu từ Tháng Chín và hiện đang kéo dài, một nhân vật đã gây nên bàn cãi qua các diễn đàn trên hệ thống Net mà danh tính xuất hiện thường xuyên trên trang nhất (và chiếm toàn phần 2, 3 trang trong) của báo Sàigòn Nhỏ đấy là Nguyễn Chí Thiện. Trước và song song với vụ việc nầy, ông thường có mặt nơi các diễn đàn, hội thảo chính trị... Trở nên là đối tượng nhận được sự hoan nghênh, chào đón nồng nhiệt, lâu dài nhất so với những nhân vật được đám đông biết đến (cho dù là công dân, viên chức của VNCH) suốt từ thời gian ông đến đất Mỹ, 1995 đến nay, 2008. Nhưng đồng thời cũng gặp phải những chống đối do từ những cá nhân, tổ chức khác - Diễn tiến chống đối nầy có thể tóm tắt theo thứ tự giai đoạn và mang những hình thái, lý do như sau:
1. Giai đoạn 1995-1996:
Sự chống đối, phủ nhận đầu tiên khởi từ người, tổ chức của báo Vạn Thắng (Hà Lạc Dã Phu Việt Viêm Tử Lê Tư Vinh, Washington DC giữ chức chủ nhiệm); hoặc những người viết như Duy Xuyên (Houston, Texas) với những lý do:
- Nguyễn Chí Thiện có mặt nơi đất Mỹ (từ 1 Tháng Mười Một 1995) kia là một “cán bộ (tình báo) Cộng Sản” giả dạng. Người và tổ chức kể trên “khẳng định”: Có một Nguyễn Chí Thiện “thật”, tác giả tập thơ Vô Ðề/Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực/Hoa Ðịa Ngục, nhưng người ấy đã bị (Cộng Sản) giết chết trong trại tù ở miền Bắc Việt Nam, và Nguyễn Chí Thiện “giả” hiện nay thay thế.
- Tập thơ mang những tiêu đề khác nhau: Vô Ðề/Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực/Hoa Ðịa Ngục... trên có xuất xứ (từ tinh thần và nội dung) của Huyết Hoa, Ðạo Trường Ngâm của Nhà Cách Mạng Thái Dịch Lý Ðông A - Nguyễn Hữu Thanh (không rõ năm sinh), nhân vật lịch sử đã gia nhập tổ chức Phục Quốc của Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể; thành lập Ðại Việt Duy Dân tại Trung Hoa, 1941-1942; bị Cộng Sản giết năm 1946 cùng lần với nhiều thành viên Duy Dân. Phong trào còn lại những cán bộ cốt cán: Phạm Xuân Ninh, Giám đốc Thanh Niên Thể Thao Bắc Việt (1947); Lê Quang Luật, Ðại Biểu Chính Phủ (1954); Nghiêm Xuân Thiện, chủ nhiệm báo Thời Luận (Sàigòn, 1963); Ngọc Hoài Phương, Chủ Nhiệm Báo Hồn Việt (CA) hiện nay lúc ấy giữ nhiệm vụ thư ký tòa soạn. Cao điểm của tố cáo nầy là một bài viết của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh đăng trên báo Vạn Thắng về sự mạo danh của NCT (dụng thơ của họ Lý). Sau đó, giáo sư TNNinh có lời đính chính về sự nhầm lẫn của mình.
- Nhóm nầy đánh giá, Hoa Ðịa Ngục II (Hạt Máu Thơ), US.1996 chỉ là những “bài vè” (cốt để ) nối kết dòng thơ “đánh tráo, giả danh” kể trên.
Chúng tôi gọi nhóm nầy là “Nhóm chống đối/Lý Lịch/Chính Trị/Văn Học”.
2. Giai đoạn 2001-2008:
Sau một thời gian im lặng khi báo Vạn Thắng không còn hoạt động, những thành viên gốc quân đội (Bạn thân, cùng khóa sĩ quan, cùng đơn vị nhảy dù với người viết-PNN) dần rời bỏ tổ chức. Những năm 2001, 2006... vấn đề NCT dần trở lại khi ông ra mắt Hỏa Lò (Tập Truyện, NXB Cành Nam, TH/XB/MÐHK, VA, US. 2001), và quan trọng hơn là Hoa Ðịa Ngục Toàn Tập (NXB Cành Nam, TH/XB/MÐHK, VA, US 2006). Lần nầy, phía chống đối tấn công với ý hướng mới: Chấp nhận có một Nguyễn Chí Thiện “thật” do, từ lý lịch gia đình, cá nhân, nhưng vẫn không là “Nguyễn Chí Thiện thật của Hoa Ðịa Ngục (I)” - Và thời điểm, sự kiện đưa tập thơ Vô Ðề/Hoa Ðịa Ngục vào Sứ Quán Anh ngày 16 Tháng Bảy 1979 cần phải được xác chứng lại để minh định: Ai là tác giả đích thực của những dòng thơ bi tráng hào hùng kia.
Năm 2008 vấn đề trở nên quan trọng hơn qua loạt bài của người viết tên là Trần Thanh, phổ biến trên hệ thống Net và gởi đến tòa soạn SGN (Garden Grove, CA) khiến Chủ biên Hoàng Dược Thảo chú ý, dẫu “không hiểu tại sao có hiện tượng (xét lại thật hay giả)” nầy - Ðào Nương, Những điều nên nói “Chuyện Dài... Ông Nguyễn Chí Thiện”, SGN số #14; 9/4 2008. Từ khởi đầu “không biết từ đâu” của ngày (9/4) trở thành biếm nhẻ “Thi Sĩ” hay “Vè Sĩ” qua bài viết của Triệu Lan mà người chủ biên dẫu “không biết rõ xuất xứ” nhưng đánh giá, “những dẫn chứng (của người viết nầy-TL) thì rất xác đáng và hiện thực”. Và mong nhận được bài trả lời của ông NCT - Một người mà Ðào Nương không xa lạ và (không) ác cảm gì. Báo số #21; 9/13. Sự cáo buộc không ngừng ở phạm vi chữ nghĩa (Thi sĩ/Vè sĩ -Thơ hay/Thơ dở), tiến tới đánh giá tư cách, tính hạnh của người gọi là “Thi sĩ/Vè sĩ” kia với xác định: “ông Nguyễn Chí thiện là một người gian dối, không lương thiện”; “Thi sĩ/Vè sĩ” thật chân tướng là “Láo Sĩ”. SGN số #32; ngày 9/28. Và cuối cùng, qua bài viết liên tiếp trong những số báo 32, 33, 34, 35, 36, 37... với lời mời (mang nội dung, tinh thần có tính cách bắt buộc): Ông Nguyễn Chí Thiện (phải) chấp nhận một cuộc “giảo nghiệm chữ viết” để làm sáng tỏ một “Nghi Án Văn Học” - Ai là tác giả thực sự của Vô Ðề/Hoa Ðịa Ngục/Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực - Tập thơ mà ông Nguyễn Chí Thiện (“thật” của hôm nay) đã đưa vào Tòa Ðại Sứ Anh tại Hà Nội ngày 16/7/1979 mà hiện đã được Bộ Ngoại Giao Anh hoàn trả (Tổng Thư Ký Ðinh Quang Anh Thái, Việt Tide, Westminster, CA mang lại tại địa chỉ 4117 McFadden, Santa Ana 92714 #410 trao tận tay cho ông Nguyễn Chí Thiện -PNN). Cuối cùng, vấn đề được bạch hóa không phải là văn học, thơ phú nữa, Nguyễn Chí Thiện “hiện nguyên hình với dấu ấn trên trán “Made in Yết Kiêu -Triệu Lan; SGN # 257; 10/4” - Có nghĩa, NCT là một cán bộ tình báo Cộng Sản được huấn luyện ở Trung tâm phản gián Yết Kiêu, Hà Nội. Hơn thế nữa, anh ông Thiện, Trung Tá Nguyễn Công Giân, Phòng II/BTTM/QLVNCH theo phát hiện “mới nhất” đã đi Hà Nội hai lần, 1958 và 1972 (ÐN, SGN # 37; 10/4). Và toàn bộ bài viết về, của NCT... “sáng hôm nay (10/5) trên Web Site của giáo sư Dan Ruffy (ÐH/Yale), và giáo sư Jean Libby (ÐH/San Jose) đã bị xóa đi... NCT hẳn đã biết số phận mình sẽ ra sao vì, “tôi (ÐN) nghĩ giới hữu trách Hoa Kỳ đã biết ai là giả ai là thật rồi...” <<< (Bold, Italic trong nguyên bản)>>>
Song song cùng lần với vụ việc (nêu trên) của SGN, có những bài viết khác trên hệ thống Net (tháng 8, 9/2008) điển hình với Tôn Nữ Hoàng Hoa (Texas), Thế Huy (Pháp)... qua phân tích kỹ thuật làm thơ, tu từ, tượng trưng, hư cấu của Nguyễn Chí Thiện trong Hoa Ðịa Ngục (I), so với Hoa Ðịa Ngục (II, Hạt Máu Thơ)... Những người nầy đồng kết luận: Nguyễn Chí Thiện “thật” đang hiện diện (giữa cộng đồng) nhưng không thể là “tác giả của Hoa Ðịa Ngục (I) - Tác phẩm nầy “phải” là của một tác giả Vô Danh.
Chúng ta có thể gọi khuynh hướng chống đối trên đây là: “Nhóm chống đối/Văn Học/Chính Trị”.
3. Nhóm chống đối/Thuần túy chính trị:
Ngoài hai nhóm chống đối kể trên, có những người viết khác, như Nguyễn Văn Chức (Houston, Texas); Ðặng Văn Nhâm (Ðan Mạch)... cũng thường xuyên nhập trận với những phê phán nặng nề về quan điểm, thái độ, hành vi chính trị của NCT. Những tác giả nầy không chú ý đến yếu tố lý lịch cá nhân, những nội dung (thơ, truyện) do NCT viết nên nhưng đồng có chung một quy kết nhất định (bất khả tương nghị): Nguyễn Chí Thiện là cán bộ “Cộng Sản nằm vùng”, hoặc là một tên “trá hàng” trong hàng ngũ cộng đồng người Việt hải ngoại do Hà Nội bí mật gài vào qua thủ tục nhập cư hợp pháp ở Mỹ. Cách quy chụp nầy không trưng một bằng chứng cụ thể nào, thiếu tính lý luận, cố ý tấn công, mạt sát cá nhân NCT nên chúng tôi sẽ không đề cập trong bài viết nầy.
Tóm lại, do có những quan hệ cụ thể (tinh thần và vật chất) với Nguyễn Chí Thiện trong một thời gian gian dài (từ 2001), và nay ông ta đã rời khỏi nơi trú ngụ chung (4117 McFadden, Santa Ana 92714 #410 từ 7/2008), nên chúng tôi nhận thấy đã đến lúc có đủ yếu tố khách quan để khỏi mang tiếng “cố ý bênh người cùng nhà” - Ðồng thời cũng do quan niệm “phải nói lên những điều nên nói...” như báo Sàigòn Nhỏ hằng chủ trương thực hiện giữa “Người Việt Nam không Cộng Sản”. Lời cuối cùng, dẫu có thể dư thừa nhưng cũng phải xác định thêm một lần: Chúng tôi không ám chỉ, quy chụp những đối tượng nhắc đến trong bài viết là “Cộng Sản/Cộng Sản nằm vùng/ tay sai Cộng Sản” như thói quen quy kết, chụp mũ rất đáng chê trách trong cung cách sinh hoạt chính trị thiếu tính dân chủ và lòng tự trọng (trọng mình và trọng người) thường xẩy ra giữa những cá nhân/tổ chức người Việt”... Mà chỉ do nhu cầu cần làm sáng tỏ những vấn đề từ những cá nhân/cơ quan nầy đặt nên. Chúng tôi không thực hiện lần “binh hay chống” một cá nhân tên gọi Nguyễn Chí Thiện - Nhưng sử dụng chữ nghĩa, tài liệu (hiện có) để trình bày về Một Sự Thật - Và Sự Thật luôn là điều Hợp Lý.
Và thật lòng mong muốn sau bài viết nầy; lần trình chiếu hai Talk Show của Chu Tất Tiến (đã thâu hình) trên hệ thống SBTN (Ðề cập đến người/việc liên quan sự kiện NCT); lần hoàn tất thủ tục Giảo Nghiệm Chữ Viết do Chuyên Viên Giám Tự dự trù (nếu được) thực hiện giữa ông Nguyễn Chí Thiện và báo Sàigòn Nhỏ - Vấn đề ắt sẽ có một kết luận chung nhất, cuối cùng - Nguyễn Chí Thiện, Ông là Ai? Ai là Thực Tác Giả của tập thơ Vô Ðề/Hoa Ðịa Ngục (I)/Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực? Lần đưa tập thơ vào Tòa Ðại Sứ Anh (16/7/1979) đã (thực) xẩy ra như thế nào? Và tại sao đã xẩy ra hiện tượng chống đối hôm nay? Tất cả để dồn sức mạnh tổng hợp của Cộng Ðồng Hải Ngoại vào những mục tiêu: Hệ thống gọi là Cộng Sản hiện cầm quyền tại Hà Nội (qua hiện tượng đàn áp khu nhà chung Thái Hà); Và cấp thiết hơn nữa là sự đe dọa (rất có khả năng ) đến từ Bắc Kinh với đất, biển quê hương càng ngày càng bị đe dọa, thâu hẹp lại... Mong lắm thay.
Nguyễn Chí Thiện,
Người có thực giữa những người chịu khổ nạn vì không chấp nhận Cộng Sản
1. Về lý lịch, gia cảnh:
Nguyễn Chí Thiện, sinh năm 1939, chánh quán Thôn Thượng Thọ, Xã Mỹ Thọ, Huyện Bình Lục, Tỉnh Hà Nam, con Cụ Ðồ Nguyễn Công Phụng. Ðiều nầy được xác nhận không phải ai khác mà là chính người đã mạt sát NCT thậm tệ qua bài đăng trên Net ngày 4/10/08 - Ðặng Văn Nhâm: “Ðúng, tên Nguyễn Chí Thiện là thật, thật 100%... Nhưng...” ÐVNhâm xác nhận với Nguyễn Thanh Hùng (Dallas, TX), người thân cận “mầy tao chi tớ” với ÐVN, cũng là người cùng quê với NCT từ tấm bé. Xác nhận còn nói rõ: “Nó (NCT) thua mầy với tao sáu tuổi (Sinh 1939- pnn)”. NCThiện và NTHùng vẫn giữ nguyên liên lạc (qua điện thoại), hoặc gặp mặt (Lần NCT ra mắt sách Hỏa Lò tại Hội Quán Little Sàigòn, 5/2006). NTHùng là người đọc bài văn tế Chiến Sĩ Trận Vong trong buổi lễ Ngày Tù Nhân Chính Trị VNCH tại Dallas, 4 tháng 10, 2008 vừa qua.
NCT sinh tại Phố Lò Ðúc (Hà Nội) năm 1939, đến năm 1957 Nguyễn Chí Thiện theo gia đình dọn hẳn về Hải Phòng. Nhưng không phải chỉ đến 1957 NCT mới đi Hải Phòng, cuối năm 1954 đã một lần xuống đấy để đưa người bạn thiếu thời đi Nam: Nguyễn Ngọc Bội (Giáo sư văn hóa Võ Bị Ðà Lạt trước 1975); hiện ngụ tại Westminster, CA.
2. Về liên hệ nơi trại tù:
Ðợt tù đầu tiên (1961-1964/Trại Phú Thọ) do Án Lệnh Tập Trung Cải Tạo (Ba năm/Một lệnh tập trung) bắt đầu áp dụng cho toàn Miền Bắc (vẫn tiếp áp dụng cho cả nước sau 1975) từ Sắc Lệnh “An Ninh Tổ Quốc” - Biện pháp chuyên chế (bắt giam người vô thời hạn không cần án lệnh của tòa) được thi hành sau Ðại Hội 3 Trung Ương Ðảng (5/1960), tiến tới lần thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (20/11/1960). Lần đi tù nầy gặp Nguyễn Văn Phổ (Con Cụ Nguyễn Văn Vĩnh - Một trong bốn nhà văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ: Phạm Quỳnh-Nguyễn Văn Vĩnh-Phạm Duy Tốn-Nguyễn Văn Tố); Trần Thiếu Bảo, NXB Minh Ðức, Hà Nội, nhà in ấn hành Nhân Văn-Giai Phẩm.
Lần tù thứ hai (1966-77/Phần lớn thời gian bị giam ở Trại Thanh Phong, Yên Bái), chung với các bạn tù:
- Cụ Vũ Thế Hùng (Nhân sĩ Hà Nội trước 1954); thân phụ Linh Mục Vũ Khởi Phụng (hiện tại là một trong những vị chủ chăn ở Thái Hà); Bà Vũ Triều Nghi (hiện là cư dân San José, Ca). Bà VTNghi đã về VN sau 1991 thăm cụ VTHùng, gặp NCThiện, Phùng Cung.
- Các bạn văn, Phùng Cung, Vũ Thư Hiên (Tù miền Bắc thuộc diện “chống đối văn hóa”)
- Các biệt kích miền Nam, Nguyễn Hữu Luyện, Ðặng Chí Bình, Lưu Nghĩa Lương, Lê Văn Bưởi (người biệt kích kiên cường vượt sông Bến Hai ra Bắc từ 6/1961)... Những người thuộc “Nhóm BK - đọc là Bê-Ka/Biệt Kích” sau 1977 chuyển về Trại 5 Lam Sơn, Thanh Hóa (Tại trại nầy, người viết (pnn) lần đầu nghe chuyện kể về NCT: “Ði tù do tội bị ‘nghi’ làm thơ chống đối chế độ (Diện văn hóa)”; chưa có vụ việc đưa thơ vào Tòa Ðại Sứ Anh, 16/7/1979 - Pnn. Buổi Hội Ngộ Biệt Kích Quân (7/7/2007) tại nhà hàng Emerald Bay (Fountain Valley, Ca), NCT được mời phát biểu về Tinh Thần/Khí Phách của Người Lính Biệt Kích (DVD Ðại Hội Biệt Kích ND), ngồi cùng bàn khách danh dự với các ông Vũ Quang Ninh, Nguyễn Hữu Luyện. BK/LNLương (hiện ngụ tại 4117 McFadden, Santa Ana 92714 # 19) vẫn thường giúp đỡ, đưa đón NCT trong các sinh hoạt hằng ngày do quý trọng phẩm chất, tư cách của NCT thực chứng nơi trại giam từ 30 hơn năm trước.
Lần đi tù thứ ba (1979-1991): Lần đi tù nầy chuyển qua nhiều trại: Hỏa Lò (Hà Nội);Thanh Phong, Thanh Cẩm (Thanh Hóa); Thanh Liệt (Hà Ðông).. Tại trại Ba Sao (Nam Hà), Hà Nam Ninh, NCT ở tù chung với Linh Mục Nguyễn Văn Lý (Cha Lý chuyển đến trại nầy ngày 8/1/1988 từ trại Thanh Cẩm chung cùm tay (hai người một cùm) với người viết-Pnn.
3. Về diễn tiến thủ tục Nguyễn Chí Thiện nhập cư vào Mỹ:
11/1995, Nguyễn Chí Thiện đến Mỹ do vận động của Bác Sĩ Norobu Masuoka (Hiện ở San José, Ðặc phái viên của chính phủ Mỹ phụ trách những tù nhân đặc biệt), người đã thành công đưa được Thiếu Tá Nguyễn Quý An (phi công trực thăng bị thương nặng mất hai tay khi cố cứu viên phi công Mỹ); nhà văn Ðặng Chí Bình qua Mỹ trong dịp Tết 1993/1994. Ðặng Chí Bình, điển hình thành phần biệt kích bị bắt trước 1968 (không được trao trả theo điều khoản của Hiệp Ðịnh Paris 1973 vì khi xâm nhập ra Bắc họ phải giải ngũ khỏi QL/VNCH) chỉ đến Mỹ được bởi kết quả từ vận động nầy (Trước đợt vận động quy mô của Sedgwick Tourison để đưa toàn bộ Biệt Kích Quân VN qua Mỹ).
Hồ sơ nhập cư INS do người anh ruột thiết lập - Trung Tá Nguyễn Công Giân, Sĩ Quan Quân Báo/Phòng II/BTTM/QLVNCH, Khóa 4 Thủ Ðức (1954) - Cùng khóa với Cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (NCT cùng người anh thường đến thăm viếng thân hữu trung tướng khi người còn sinh tiền); gia đình Trung Tá Giân hiện ngụ tại 11XX Alabama, Hendron, VA 20170.
Từ những yếu tố khách quan, cụ thể kể trên kéo dài từ năm sinh 1939 dài đến hôm nay (2008) với chứng kiến/sống cùng của những bạn hữu thời thơ ấu: Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Ngọc Bội; những bạn văn: Phùng Cung, Nguyễn Hữu Ðang, Vũ Thư Hiên; bạn tù: Phan Hữu Văn, Vương Long, Kiều Duy Vĩnh (Sĩ quan Quân Ðội Quốc Gia bị tập trung cải tạo sau 1954 ở miền Bắc); Nguyễn Hữu Luyện, Lưu Nghĩa Lương, Ðặng Chí Bình... (Biệt Kích VNCH bị bắt trước 1975); LM Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Hữu Lễ (Những người tù lương tâm miền Nam bị tù sau 1975)... Và trong thời gian 13 năm nơi hải ngoại (tính đến tháng 8/2008) giữa cộng đồng Người Việt khắp trên thế giới, với những nhân vật thuộc giới văn hóa, chính trị toàn cầu - Nguyễn Chí Thiện thật sự (đầy đủ) xác chứng với chúng ta - Ông là một điển hình của Lương Tâm, Bản Lãnh Việt Nam tranh đấu cho Tự Do và Dân Chủ.
Cuối cùng, nếu như những yếu tố trên chưa thuyết phục được sự công nhận về chứng chỉ, lý lịch, việc làm của Nguyễn Chí Thiện, chúng tôi xin trình bày biện pháp, yếu tố pháp lý, sự kiện thực tế hầu có kết thúc quyết định vấn đề nầy.
- Xin thông báo đến đến cơ quan FBI về lần nhập cư bất hợp pháp của một “cán bộ (tình báo văn hóa) Cộng Sản” giả danh Nguyễn Chí Thiện, vì luật pháp Mỹ vẫn còn rất nhiều ràng buộc đối với đảng viên đảng Cộng Sản khi nhập cư, lúc thiết lập chứng chỉ thường trú nhân, khi tuyên thệ vào quốc tịch. Trong những ngày tới, chúng ta, cư dân tỵ nạn Cộng Sản của tiểu bang California sẽ chuẩn bị đối phó với Dự Luật SB 1322 nhằm hủy bỏ những điều khoản “Cấm hoạt động Cộng Sản trong trường học.”
- Giáo Sư Jean Libby, Ðại Học San Jose (CA) đã hoàn tất phần giảo nghiệm hình ảnh của Nguyễn Chí Thiện qua so sánh giữa những bức hình: Một của Nguyễn Chí Thiện tuổi thanh niên (Phụ bản bìa tập thơ Hoa Ðịa Ngục I) và những ảnh chụp năm 2006 do chính bà bấm máy. Bản kết quả giảo nghiệm thực hiện bởi Viện Giảo Nghiệm Stutchman, 421 Walnut Street, #120, Napa, CA 94559 kết luận: “Có 8 điểm dị biệt đặc thù phân bố trên mặt và trên tai của người đàn ông trong hai tấm hình #1 và #2 và hình in trên bìa sách. Căn cứ trên sự xét đoán, so sánh, và phân tích của bản thân cá nhân, thì tôi có nhận định rằng: Người đàn ông trong những tấm hình chỉ là một người”. Chúng tôi đính kèm bản văn kết quả giảo nghiệm (Phụ bản 1). Về những tấm hình giảo nghiệm, NCT sẽ trình bày trong một cuộc họp báo chính thức trong ngày gần đây -Pnn.
Cuộc giảo nghiệm do đích thân Giáo Sư Jean Libby lập thủ tục tiến hành (3 Tháng 8/2006), vì dẫu rất mến mộ tư cách cá nhân cũng như tài năng của NCT nhưng do tinh thần làm việc thực tế, chính xác của người Mỹ, bà muốn có bảo đảm về lý lịch Nguyễn Chí Thiện (nhỡ sau nầy có những tranh tụng về pháp lý - Như hiện nay đang xẩy ra với vụ việc SGN) trước khi Ðại Học Yale tiến hành việc in Hỏa Lò dịch sang Anh ngữ. Cũng bởi, người Mỹ với tính thuần lý và tâm lý thực tiễn, họ không nghĩ một con người như thế mà sống sót sau 27 năm tù... Lại là tù Cộng Sản Việt Nam, mà không những chỉ sống sót mà còn viết văn, làm thơ. Nghi ngờ cũng hợp lý đối với những người (dẫu) có hảo ý khác. Và nếu người viết không lầm đó cũng là ý hướng đầu tiên của báo Sàigòn Nhỏ với Chủ Nhiệm Hoàng Dược Thảo, nhưng qua đến tháng 10/2008 vấn đề tập thơ và sự việc đã được (hay bị) đẩy đi quá xa theo một hướng khác. Chúng tôi trình bày tiếp theo sau.
Nguyễn Chí Thiện “thật”/sống sót và Nguyễn Chí Thiện “giả”/thơ văn
Khi bắt đầu loạt bài viết, chúng tôi có ý nghĩ, sự việc sẽ được giải tỏa toàn diện khi NCT trình bày bản thảo viết tay (mà bản thân đã xem qua tại nhà riêng, 4117 McFadden #410, Santa Ana trước ngày ông Thiện dọn ra) nhận được từ tay Ðinh Quang Anh Thái (7/2008) trước một cử tọa đông đảo thuộc giới truyền thông báo chí (lẽ tất nhiên có tham dự của SGN). Ý nghĩ nầy càng thêm cụ thể khi bài viết của Trần Phong Vũ được phổ biến (Người Việt, 10/6; trên hệ thống NET, 10/4) Nhưng sự việc không còn giới hạn trong phạm vi thơ văn nữa (Về vấn đề “Ai là tác giả ‘thật’ của Thơ Vô Ðề”) mà đã qua một lĩnh vực khác với những khẳng định về tư cách, hành vi chính trị của NCT với những phát hiện mới của SGN (ÐN (nt, #37). Bài viết nầy cần phải viết thêm phần ba để nêu rõ hơn về diễn tiến của Người (NCT) và Việc (Thơ Vô Ðề). Nếu những luận cứ cáo buộc trình bày sau đây mâu thuẫn với nhau (Thật/Giả chen lẫn) là do: 1/Những người (tố cáo) viết nhiều “nội dung/cách thức” khác (biệt) với nhau cho dù cùng nhắm đến một đối tượng duy nhất: NCT và Tập Thơ Vô Ðề. 2/Bài họ viết tại những thời điểm khác nhau. 3/Những người nầy trích giải “Thơ Vô Danh/Vè NCT” do những mục đích khác nhau. Chúng tôi (PNN) chỉ là người ghi lại.
Sau đây là những cáo buộc căn cứ từ lời Thơ (Có lúc được xem như là “thật” của NCT; có lúc được gọi là của Vô Danh) Tất cả đồng có mục đích chung kết với ba cáo buộc (không rơi vào một trường hợp nầy thì (phải) rơi vào một “xác định” khác): 1/Ðấy là một Nguyễn Chí Thiện “giả”. 2/Nếu là Nguyễn Chí Thiện “thật” thì (lại) mang tội dùng Thơ “thật” của Vô Danh. 3/ Nếu là thơ “thật” của NCT “thật” thì thơ đó (phải) gọi là “Vè”, tóm lại NCT (hiện sống) trước sau chỉ là một “cán bộ tình báo cộng sản trá hình”, làm vè cốt để đóng trọn vai trò của một “Thi Sĩ tên gọi Vô Danh (?)kiên cường chống cộng mà nay đã bị giết chết/hoặc biến mất đâu đó từ một lúc nào không ai xác định (1979?) - Một thi sĩ có ba điều Không: Không tính danh-Không xuất xứ-Không có liên hệ với bất cứ ai đang còn sống, đang viết báo”
Chúng ta cùng lượt qua những luận cứ cáo buộc.
3.1: Cáo buộc thứ nhất về xuất xứ
Báo Vạn Thắng (Lê Tư Vinh chủ nhiệm), thời điểm 1995, 1996 cho rằng, Nguyễn Chí Thiện là “cán bộ tình báo cộng sản giả dạng” mạo Thơ Huyết Hoa, Ðạo Trường Ngâm của Thái Dịch Lý Ðông A. Cáo buộc nầy không thể đứng vững vì nhà cách mạng Lý Ðông A bị cộng sản giết từ 1946. Thơ của họ Lý mang không khí lãng mạng, hùng tráng cổ điển: Ta về đây đứng bên bờ thác Nậm. Mặc heo may hun hút gió hờn oan... Thơ (“tạm” gọi là) của NCT thì đề cập đến thời sự: Khi Mỹ chạy bỏ Miền Nam cho cộng sản. Cả nước thu về một mối. Một mối hận thù. Một mối đau thương (1975). Hoặc miêu tả thực tế đời sống lao tù: Thơ của tôi không phải là thơ... Tiếng cửa nhà giam đen ngòm khép mở... (1970)
3.2: Cáo buộc thứ hai về thể chất
Thơ (cứ xem như “thật” của NCT) nhưng lại không phù hợp với thực tế thể chất của NCT (hiện sống): Thơ của tôi không có gì là đẹp. Như cướp vồ, cùm kẹp, máu ho lao... Căn cứ vào những dòng thơ nầy, có những tố cáo từ nhiều người: 1/ TNHHoa (Houston, TX): Nguyễn Chí Thiện không ho lao, NCT khỏe mạnh, béo tốt. 2/ Trần Thanh: Nghi vấn về sức khỏe (Ông Thiện dỏm rất khỏe mạnh chớ không bị ho lao.) ÐN trích đăng NÐNN: SGN số # 14; 9/4). 3/ Triệu Lan: “thi sĩ, văn sĩ, vè sĩ” Nguyễn Chí Thiện “mang bệnh” ung thư phổi, ho lao, ung thư và bị “tù” 27 năm nhưng khi NCT bước chân xuống Hoa Kỳ ngày1/11/1995 trông Thiện phương phi, khỏe mạnh, với y phục thời trang veston, áo pullover... như một “lãnh tụ” phường tuồng (SGN # 527; 10/4). Chúng tôi có thể trích dẫn thêm nhiều cáo buộc về “thể chất” về NCT “dỏm” nữa, nhưng nghĩ đã đủ.
Những suy diễn cáo buộc trên không đúng vì: 1/ NCT thật có bị bệnh phổi nhưng ÐÃ CHỮA TRỊ XONG cơ quan IOM mới cho nhập cảnh Mỹ. Y chứng NCT còn sẹo ở phổi, phải chữa trị tiếp trong thời gian ở DC (1995/1996). 2/ Những từ ngữ “trào máu; ho lao; gông cùm; cùm kẹp...” thường dùng để chỉ tình trạng tồi tệ về thể chất bị đầy ải mà bất cứ ai khi mô tả, nói về ngục tù cộng sản cũng đều sử dụng đến. 3/ Thơ không là hồ sơ y bạ, tiểu thuyết cũng thế. Nhất Linh viết Bướm Trắng với nhân vật chính bị bệnh lao không bắt buộc văn hào họ Nguyễn phải có bịnh phổi. Thanh Tâm Tuyền viết Ung Thư; Solzhenitsyn viết Cancer Ward... Họa chăng chỉ riêng trường hợp Hàn Mặc Tử với căn bịnh nan y của ông. Quách Thoại chết năm 28 tuổi (1957) vì bệnh lao, nhưng nào có viết một câu thơ liên quan đến máu me mà chỉ viết nên những lời thơ hùng tráng: Trước mặt là cộng sản. Sau lưng là nội thù. Một mình tôi đứng giữa... 4/ Thơ (tiểu thuyết cũng thế) không bắt buộc phản ảnh đúng tình cảnh, sinh hoạt thực tế vật chất, tinh thần của người viết nên những nội dung văn, thơ ấy... Tìm đâu ra một một người gọi là Từ Hải như Nguyễn Du mô tả: Râu hùm hàm én. Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Nguyễn Du lại càng không phải dạng hình hùng vĩ nầy. Vũ Trọng Phụng là nhà văn mực thước, cổ điển, ông không dính dấp gì đến những nhân vật quỷ quái của Số Ðỏ. 5/ Nguyễn Chí Thiện không là người “khỏe mạnh, phương phi”. Những tỉnh từ nầy phải kể về Ðại Úy Biệt Kích Nguyễn Hữu Luyện (tù 21 năm, 4 tháng, 14 ngày); tù hơn 16 năm: Thiếu Tướng Tư Lệnh Lê Minh Ðảo, Trung Tá Tình Báo Trần Duy Hinh (Hãy nhìn nhà văn Thảo Trường, chiến hữu rất đáng hãnh diện của tất cả người lính VNCH. Không ai có thể nghĩ rằng đấy là người đã qua hẳn bên kia cái chết tại trại tù Hàm Tân, 1988). Những người tù tồn tại bền bỉ (trong nhà giam cộng sản) không do từ sức mạnh cơ bắp, nhưng từ chiếc đầu nung lửa ý chí của họ. Chỉ có những kẻ hèn kém mới ngã gục, quy hàng trước đói khổ của lao tù do cai ngục cộng sản dựng nên (Kẻ ấy là ai, cuối bài, phần kết luận chúng tôi sẽ chỉ ra, trước đây ở Trại Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải). Và cuối cùng, NCT ăn mặc bảnh bao (suy diễn ra do được tình báo cộng sản cung cấp?!). Chỉ với vài đồng, một, hai chục, chứ không cần phải bạc trăm, bước vào những khu Outlet, hoặc cơ sở bán đồ Clearance, Goodwill... Tất cả sẽ có đủ. Chúng ta có thể hiểu, kẻ viết nên những cáo buộc mang tính săm soi nhỏ nhặt nầy đang ở Anh, ở Pháp nơi Tây Âu tàn lụi, hết là những “cường quốc thực dân”.
3.3. Cáo buộc về mâu thuẫn thân thế, tuổi tác, thời điểm sáng tác
Phần nầy, những người nêu cáo buộc căn cứ những câu “Tuổi hai mươi, tuổi bước vào đời. Tuổi đôi mươi nhìn đời thơ dại. Ngỡ cờ sao rực rỡ...” nên đề quyết rằng: Phải hai mươi tuổi mới làm những câu thơ hàm súc ấy trong dịp xẩy ra sự kiện 2/9/1945 - Năm 1945 NCT mới 6 tuổi (sinh 1939) - Vậy, Thơ ấy phải do Tác Giả (tên gọi là) Vô Danh. Quả thật, chúng tôi vô cùng não nề khi viết đến những dòng nầy bởi đang phải nói với những con người “quái đản”, đề cập những câu chuyện tầm phào, kiểu cãi cọ lý sự những anh tổng lý bang bạnh đâu từ nông thôn miền Bắc đầu thế kỷ 20. Bởi, Thơ không hề là Bản Biên Niên sự kiện chính trị, quân sự, xã hội, ngay cả tiểu thuyết lịch sử cũng không hẳn là phải thế. Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1902-1977) viết sách Vua Quang Trung đâu phải là người đã tham dự xung trận Hà Hồi (1789); Vũ Hoàng Chương mô tả giờ phút hiển linh Thượng Tọa Thích Quảng Ðức hóa thân trong lửa không hề có mặt tại ngã tư Lê Văn Duyệt-Phan Ðình Phùng, Sài Gòn ngày 11/6/1963. Solzhenitsyn sinh 1918 viết August 1914 để gióng lên phần khởi đầu của cách mạng vô sản 1917. Cũng thế, bản thân cá nhân có đủ thẩm quyền (nếu muốn) để viết về Di Cư 1954 dẫu rằng năm ấy còn trong tuổi thiếu niên đang ở Ðà Nẵng. Cáo buộc như thế để làm gì? Viết hai ba trang báo dựng nên những “cái gọi là luận chứng”: “Ở Hà Nội năm 1959 không thể có sinh hoạt (qua hồi tưởng của NCT). Mùa Hè ăn bánh tôm bên Hồ Tây. Cô bạn ngồi bên như nàng tiên vậy” để tố cáo (tố cáo cái gì?), mạ lý, vu khống, chụp mũ... Hoặc “cái gọi là phân tích”: “Ở đất Bắc, thời đó (trước 1954 -PNN) người thanh niên có học, gia đình nề nếp, biết uống rượu, có bạn gái phải là tuổi trên dưới 20...” (Thế Huy, SGN #33; 10/01). Trời đất, như vậy phải trình ra Bằng Lái Xe (nếu ở Mỹ), hoặc Chứng Chỉ Căn Cước (VN) trước khi viết thơ về rượu, về cô bạn gái sao? Chúng tôi có thể nêu danh tính hằng loạt bằng hữu (những người sinh khoảng trước, sau 40) đã hoặc không ăn bánh tôm, có hay không có bạn gái cùng đi chơi bờ hồ (trước 1954) ở Hà Nội... để thời gian sau họ có thể viết về kỷ niệm Hà Nội bất cứ ở đâu, ngay bây giờ năm 2008 ở Mỹ. Và cũng không cần nữa, ai cấm Dương Nghiễm Mậu viết “Quảng Trị, Ðất Ðợi Về (1972)” và Nguyễn Mạnh Trinh viết “Huế, nơi tôi chưa tới...” khi Phí Ích Nghiễm (DNMậu) đang ở Sàigòn và NMTrinh biệt phái hành quân ở Pleiku. Và cô gái Ði Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp vừa đủ 15 tuổi; hai cô Kiều của Nguyễn Du mới đến “tuần cập kê”... Chẳng lẽ những thiếu nữ lẫy lừng trong văn học, thi ca nầy “là con nhà bần cố (nông), loại vô lại (cộng sản)”? Mà dù là người trong chế độ cộng sản đi chăng nữa, Dư Thị Hoài vẫn còn khả năng/đầy đủ quyền tự do sáng tác để viết nên những câu thơ thăm thẳm cảm tính, ăm ắp thương yêu: Một lần như đêm nay. Sau phút giây êm đềm trên ghế đá. Anh không cài lại khuy ngực áo cho em... (Văn Nghệ, Hà Nội; Số tháng 7/1988) Không ai có thể truy kết: Dư Thị Hoài không là “con nhà nề nếp”.
3.4. Cáo buộc về thay đổi thể thơ
Trước (Thi Sĩ Vô Danh) làm thơ dài câu, có nhạc điệu, thi tính cao, khẩu khí hùng tráng. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó. (1968); Sau nầy (“Vè Sĩ” NCT) chỉ có những câu ngắn như vè: Dầu đầu bạc. Dù đói rạc. Dù lực tàn. Vẫn bền gan.. (1988). (Thế Huy, SGN #33; 10/01). Chúng tôi có nhận xét từ kinh nghiệm 40 năm cầm bút, đọc sách: Thơ hay/Thơ dở không có nguyên tắc cố định nào để xét nghiệm; người làm thơ một đời chỉ để lại vài câu được đời sau nhớ đến. Anh cũng không thể buộc người khác đồng ý với cách anh bình giải về thơ của một người thứ ba cho dù anh đủ tư cách của người phê bình văn học lão luyện, được xác chứng từ độc giả, thử thách bởi thời gian qua tác phẩm, quá trình hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. Anh càng không có một khả năng nào buộc người khác phải viết và diễn đạt THƠ (của người ta) theo “quan điểm chính trị” của anh?! Ở đâu phát sinh ra quyền “ngự sử văn nghệ” nơi thế kỷ 21 mà thực chất chỉ là loại “chữ nghĩa” mang ác tâm từ những tay viết ẩn danh gọi là “kẻ nghiên cứu ti tiểu” nầy. Nhưng, NCT cũng đã “làm vè” từ 1970: Vợ con có thể bỏ. Cha mẹ có thể từ. Cộng sản thời sinh tử.. Vậy đây là thơ hay vè? Tôi chúng xin trả lời ngay theo ý các anh: Thơ của Vô Danh/Vè của NCT. Xin mách thêm: Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền cũng làm rất nhiều vè khi đi tù vác nứa ở Yên Bái. Chúng tôi ngừng trò vui nơi đây để đề cập đến một màn hài hước cuối cùng...
3.5. Cáo buộc
Từ khi ra hải ngoại (1995) không còn (khả năng) làm thơ. Cáo buộc nầy được lập đi lập lại bởi nhiều người do căn cứ trên thực tế: NCT viết tập truyện Hỏa Lò (2006) thay vì tiếp tục làm thơ - Vậy thơ Vô Ðề hùng tráng trước kia chỉ là của Tác Giả (tên gọi) Vô Danh - Khẳng định nầy có tính chung quyết. Chúng tôi bổ tức thêm vào luận chứng nầy những cớ chứng: Sau những câu Thơ Lịch Sử: Nam Quốc sơn hà Nam Ðế cư. Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư.. Danh Tướng Lý Thường Kiệt không làm một câu thơ nào nữa! Và nơi vùng Nam Cali nầy, chúng ta phải trả lời sao về trường hợp các thi sĩ (Thật Thi Sĩ) tên gọi Trần Dạ Từ, Trần Thị Thu Vân, Ðỗ Quý Toàn, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Ðình Toàn... ba mươi ba năm sau 1975 không mấy khi (tiếp tục) làm thơ nơi đất Mỹ?! Và sau đỉnh cao Ta Về thì Tô Thùy Yên hầu như cũng cho bút nghỉ nhiều hơn... Như vậy là thế nào? Và không những đối với Thơ, những bạn của chúng ta, Vũ Thành An, Từ Công Phụng... những dòng nhạc trữ tình bất diệt của Miền Nam đã viết gì thêm về tình yêu sau mấy mươi năm ở Mỹ? Và trái lại, chỉ khi trên đất Mỹ vào buổi cuối đời, Mai Thảo, Võ Phiến mới làm thơ... Vậy trước kia họ là ai? Chúng tôi không đủ cố gắng để kéo dài tham dự thêm màn khôi hài rất nhạt do những kẻ tiểu tâm, trí đoản dựng nên.
Bài 4
Chiến dịch được chuẩn bị từ 15 năm
Trước khi bài viết kết thúc, chúng tôi xin trưng một tài liệu liên quan đến vụ việc (NCT/Giả/Thật/Thi Sĩ/Vè Sĩ) và một đề nghị. Tài liệu ấy là: Chứng Thư của Chuyên Viên Khảo Nghiệm Thủ Bút Dorothy Brinkerhoff (Trung Tâm Giảo Nghiệm Quốc Gia) Văn Phòng 4316 Boyar Ave, Long Beach, CA90807 gởi đến ông Joe Nguyễn (giáo sư, nhà báo Nguyễn Sỹ Hưng) 3024 East Anaheim, Long Beach, Ca 90804. Chứng Thư có kết luận: “Căn cứ vào những điểm tương đồng trọng yếu giữa tài liệu cần giảo nghiệm trong Văn Bản A và những mẫu ghi chép trong Văn Bản B, theo ý kiến của cá nhân tôi, người viết (cần được minh chứng) đã viết Văn Bản A và những ghi chép trong Văn Bản B có những điểm tương đồng thích ứng với nhau và chỉ do một người viết.” (Phụ Bản 2). Chứng Thư Giảo Nghiệm Thủ Bút do nhà báo, nhà giáo Nguyễn Sỹ Hưng yêu cầu trung tâm giảo nghiệm thực hiện từ tháng 11/1995 căn cứ trên hai văn bản: Bản A gồm Lá Thư viết bằng Pháp Ngữ trang đầu tập thơ đưa vào Tòa Ðại Sứ Anh ở Hà Nội ngày 16/7/1979, và photocopy bản viết tay bài thơ Ðồng Lầy, Trang 21/Ðánh số lại 34. Bản B là photocopy thư viết tay ký tên Chí Thiện gởi đồng bào hải ngoại 11/1995, tuần lễ thứ hai sau khi đến Mỹ của người có tên Nguyễn Chí Thiện. Nhà báo, nhà giáo Nguyễn Sỹ Hưng do tính thận trọng giảo nghiệm thủ bút của NCT để có xác tín lý lịch, căn cước của một cá nhân đã lập kỳ tích đáng nể phục: Tồn tại sau 27 năm tù cộng sản với một ý chí tuyên dương Con Người Tự Do. Nhà giáo Nguyễn Sỹ Hưng giữ kín giảo nghiệm nầy do lòng kính trọng đối với Nguyễn Chí Thiện - Ðầu tháng 10/2008, ông giao lại cho NCT nhân vụ Báo SGN yêu cầu giảo nghiệm mẫu chữ viết của Thi sĩ/Vè sĩ/NCT Thật/Giả.
Và tiếp đề nghị như đã một lần đề nghị đối với vụ việc giảo nghiệm hình ảnh. Nếu như Chứng Thư Giảo Nghiệm Chữ Viết nêu trên chưa đủ yếu tố khả tín để thuyết phục vấn nạn: “Ai viết tập thơ Vô Ðề? Vô Danh ông là ai?” thì những người không đồng ý về quyền sở hữu (tập thơ) của NCT xin hãy tập trung tất cả tài liệu có được (về NCT/giả/Vô Danh/thật) gởi đến những cơ quan như Trung Tâm Văn Bút Quốc Gia Pháp, Hòa Lan, Mỹ... để những nơi nầy thu hồi những giải thưởng, bằng khen đã phát cho NCT về văn phẩm đã bị chiếm đoạt từ một tác giả Vô Danh. Cũng cần phải nêu rõ những yếu tố lý lịch, quá trình sáng tác, sản phẩm thành văn của tác giả Vô Danh nầy để các cơ quan hữu trách kia có chứng cớ hành sử với “Nguyễn Chí Thiện giả mạo”. Chúng tôi trình bày với ý hướng truy cầu Sự Thật mà Báo Sài Gòn Nhỏ đã nêu ra khi đặt vấn đề từ ngày 4 tháng 9, 2008 nơi trang nhất số báo 14. Tôi tin Chủ Nhiệm Hoàng Dược Thảo lúc khởi đầu vụ việc có ý hướng tốt lành nầy.
Hậu Từ
Ðến phần cuối của bài viết, tất cả sự việc trên đã hóa ra những điều vô ích! Bởi chúng tôi dần tìm ra/thấy được/biết rõ con người thủ vai trò đạo diễn, diễn viên, khán giả của vỡ hài kịch “tình báo/văn học gọi là Nguyễn Chí Thiện” mà từ phần đầu bài viết bản thân, Phan Nhật Nam đã nói lên lời nghi ngại. Nhân vật “sợi chỉ hồng xuyên suốt - chữ của cộng sản trả lại cho người cộng sản” kia là Việt Thường Trần Hồng Văn, đầu mối của Triệu Lan, Trần Thành, Nam Nhân, Thế Huy, Trọng Tín v.v... Với Trần Hồng Văn, Nguyễn Chí Thiện chỉ là một “Cái Cớ/Cái Cớ xứng đáng nhất”. Và SàiGònNhỏ là một phương tiện/Phương tiện hữu hiệu nhất do 16 trung tâm phát hành toàn nước Mỹ, ba hệ thống xuất bản, nhật báo, tuần báo, và nguyệt san với những cây bút chủ lực, chuyên nghiệp (gồm số đông thân hữu, huynh đệ của người viết, PNN) - Chủ nhiệm Hoàng Dược Thảo đến đây hẳn hiểu tại sao tôi giữ im lặng đến bài viết nầy. Cũng bởi, tôi luôn nhớ và hằng nói: Tôi là biên tập viên của SàiGònNhỏ, “Anh hai Hoàng Hải Thủy”, bác Hinh, Thảo Trường đã là những người qua sống/chết với chính bản thân. Tôi biết: Ðã (hoặc sẽ) ăn cây nào phải rào cây ấy. Nhưng chúng ta buộc phải nói rõ về Trần Hồng Văn.
Trước khi định hình con người nầy, chúng ta cần xem thử anh ta (và những đứa con tư sinh Trần Thành, Triệu Lan...) đã làm những gì.
4.1. Lắng nghe từng âm nói của NCT để tìm ra nét “giả tạo” của lý lịch. Vì NCT khai sinh quán Hà Nội, nhưng lại phát âm “đó... ạ” của cư dân Hải Phòng! Nên từ nước Anh, Trần Hồng Văn/Việt Thường trong gần 15 năm (1993-2008) TÔI “đã cho người” về Hải Phòng và Hà Nội “điều tra” để biết thêm về nhân vật “thi sĩ, nhà văn” Nguyễn Chí Thiện! (TL- SGN; #21, 9/13) Nguyễn Chí thiện chạy đâu cho thoát, Thi sĩ “Vô Danh” đã “được chuẩn bị” từ 1993 - NCT đến Mỹ 11/1995.
4.2. Không chỉ lắng tai nghe NCT nói không thôi, trong suốt 15 năm kia “Triệu Lan tôi” đã thâu thập hơn 100 cuộc phỏng vấn, hội thảo, nói chuyện, từ khi NCT đến Mỹ đã bỏ rất nhiều thời gian đánh máy ra dạng chữ viết để chuẩn bị đưa ra trình bày cùng độc giả khắp nơi... (TL-SGN #972; 10/3). Chuẩn bị một trận đánh đến cả 15 năm hỏi thử “địch thủ” nào lại không ngã gục?!
4.3. Không những chỉ chuẩn bị kỹ (Ðúng chiến thuật Trung Cộng, Lâm Bưu “Tứ Khoái Nhất Mạn”- Bốn Nhanh Một Chậm - Chuẩn Bị Chậm) mà Văn và những đứa con của y còn tìm cách giải mã “decode” thơ của ông Vô Danh. Trong bài “Tôi Muốn Sống Với”, những tên Athos, D'Artagnan, Porthos, Aramis!, Jesus Christ, Jack London... viết đúng với ngôn ngữ gốc, duy chỉ có từ “AiVanHô” và “ALaÐanh” được viết theo ngôn ngữ Việt Nam (nt) Tại sao Vô Danh viết như vậy? Lẽ tất nhiên NCT không trả lời được. THVn/VThg tiếp dạy dỗ: Trước 1954 ở Hà Nội chưa có sách Ả Rập, sách nầy, “Ivanhoe” bản tiếng Anh chưa dịch sang tiếng Việt thì làm sao NCT được biết “IvanHô” là gì?! Sở dĩ “Thi sĩ Vô Danh” viết như vậy vì đó là... “code” của người Irap truyền cho nhau về nước đánh đổ Saddam Hussein!! (nt). Quả thật ông thi sĩ Vô Danh nầy có cái nhìn quán thế. Từ Việt Nam, năm 1960 ông đã thấy ra chiến tranh Iraq với Mỹ trong thế kỷ 21 (Sic), và phải đến 1965 Mỹ mới đổ bộ lên Ðà Nẵng. Nhưng có điều THVn/VThg không biết: Thi Sĩ Vô Danh tuy không đọc Ivanhoe của Walter Scott, nhưng NCT hẳn đã đi xem phim Ivanhoe do Robert Taylor và Elizabeth Taylor thủ diễn trước 1954 ở Hà Nội nên về kể lại cho thi sĩ Vô Danh kia để sau nầy (hơn 20 năm) viết Hoa Ðịa Ngục. Hai người từ lâu vốn là Một.
4.4. Xuyên suốt lịch sử Ðông-Tây, từ quá khứ của thập niên 60, Trần Hồng Văn hay Việt Thường hay Triệu Lan v.v... nay đến Long Beach, Ca. “để có Bằng Chứng (Viết hoa trong bài-PNN) rõ ràng, hơn nữa chưa ai thấy con gái của Nguyễn Tấn Dũng mua sắt thép ở Mỹ chở về Việt Nam bao giờ vì những tàu sắt thép nầy đã đi từ cảng Long Beach tới Thượng Hải. Triệu Lan “tôi” còn có bằng chứng. Và, Triệu Lan “tôi” còn bằng chứng để chứng minh Nguyễn Chí Thiện và nhóm tình báo đặt trách về văn hóa của Hà Nội đã thật sự làm việc cho Bắc Kinh trong nhiều năm qua. (Vâng, Triệu Lan “tôi” chứ không ai khác luôn có bằng chứng như những bằng chứng về Thi sĩ Vô Danh/Vè sĩ NCT&Pnn)(TL- SGN)#526 Ấn Bản Houston, TX; 9/27.
4.5. Và cuối cùng, “bằng chứng” mới nhất “Triệu Lan tôi” bày ra để đẩy SGN sụp hầm: “Trong số ra ngày Thứ Năm 2 tháng 10, tôi (chủ nhiệm HDT/ÐN) có nhờ anh Nam hỏi ông Nguyễn Công Giân, anh ông Nguyễn Chí Thiện: Là một sĩ quan QLVNCH vì lý do gì ông Giân lại được ra Bắc thăm gia đình hai lần trước năm 1975 (!)...Hôm nay tôi lập lại câu hỏi nầy và cho biết thêm chi tiết (chỉ có thể từ với VThg/TLn/TTh mà thôi): Lần đầu năm 1958, lần thứ hai, 1972. (ÐN-SGN#7; 10/5).
Thắc mắc trên không cần hỏi ông NCGiân, tôi có thể trả lời chính xác, ngay lập tức: Người sĩ quan QLVNCH đến đất Bắc đầu tiên là Ðại úy Biệt Kích Nguyễn Hữu Luyện (22/6/1966); người thứ hai và thứ ba là Thiếu Tá Phạm Huấn, Trung Úy Dương Phục, ngày 26/2/1973; và người thứ tư chính là... tôi, ngày 4/3/1973. Có thể kiểm chứng với ông niên trưởng: Nhà văn Thảo Trường, trung tá tình báo Trần Duy Hinh. Ba người ra Bắc (trong đó có bản thân) luôn có sĩ quan Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo đi kèm. Ông Nguyễn Công Giân thuộc ngành Quân Báo (Phòng II/BTTM) không hề có nhiệm vụ (được phái đi Hà Nội) bất cứ ở thời điểm nào. Năm 1958 ấy, Trung Úy Nguyễn Công Giân làm sĩ quan liên lạc ở Washington DC, và cố vấn Ngô Ðình Nhu/Bác Sĩ Trần Kim Tuyến chưa thành lập văn phòng đặc biệt để đưa người ra Bắc. Kế hoạch 43A (thả biệt kích VNCH ra Bắc) của McNamarra cũng chưa thành hình do Tổng Thống Kennedy chưa lên chức. Năm ấy Trần Hồng Văn chạy hiệu cho báo Nhân Dân ở Hà Nội, nhưng trước tháng 2/1979 bị tống vào tù do tội danh “nằm vùng cho Cục Tình Báo Hoa Nam của Trung Cộng” - Tội của THVn thật hư thế nào chúng tôi không rõ. Chỉ biết, tại Trại Z30D, Văn áp dụng “bần tiện kế” để tránh đòn thù của công an trại (Mức độ bần tiện như thế nào, chúng tôi toàn trại chứng kiến, tôi không thể kể ra đây vì quá bẩn thỉu hèn hạ; đàn ông, người lính Miền Nam chúng tôi nghĩ tới cũng thấy xấu hổ lây dẫu anh ta là người Hoa ở miền Bắc). Từ kế sách hèn hạ kia cộng thêm kỹ thuật tố cộng rất có bài bản, Văn gây lòng tin với những anh em tù người Nam. Cuộc nổi dậy Tết 1981/1982 ở trại Z30D bị đánh vỡ vì có nội gián. Toán tù Nam Hà (từ ngoài Bắc về đầu năm 1981 và 1982) còn giữ nguyên hùng khi bất khuất tính chuyện khởi động tiếp. Dự mưu bị đánh vỡ từ trong trứng nước (Chủ nhiệm SàigònNhỏ có thể kiểm chứng sự việc nầy về Trần Hồng Văn, chúng tôi đưa người tới tòa soạn, cũng là nơi quen biết lâu dài với SGN).
Ðể kết thúc bài viết, chúng tôi, Phan Nhật Nam kết luận về nhân vật Việt Thường, Trần Hồng Văn với những tay em (hoặc chính là bản thân thay danh tính): Trần Hồng Văn muốn lên ngôi “thủ lĩnh chống Cộng” tại hải ngoại nhưng kẹt những tên tuổi như Lý Tống, Nguyễn Chí Thiện... Chiến dịch được chuẩn bị từ 15 năm (như y ta đã viết nên), nhưng cụ thể chí ít cũng phải hai năm (thời gian NCT ở Pháp và y ta từ Anh qua hỏi về “Thi Sĩ Vô Danh” với Nguyễn Chí Thiện chứ không ai khác), Thế Huy cũng xuất hiện trong thời gian nầy với “Vè sĩ”.. Nay chiến dịch tiến hành với thành quả giai đoạn đầu rất đáng khích lệ: SUỐT THÁNG 9 NHỮNG DIỄN ÐÀN TRÊN HỆ THỐNG NET HẦU NHƯ KHÔNG MỘT CHỮ NÓI VỀ HOÀNG SA/TRƯỜNG SA!!
Trần Hồng Văn/Việt Thường có chống (Việt) cộng không? Có. Trần Hồng Văn/Việt Thường chưởi (Việt) cộng đúng không? Ðúng. Nhưng Trần Hồng Văn chống/chưởi Việt Cộng vì quyền lợi Trung Cộng với NHIỆM VỤ của một cán bộ CÁN BỘ HOA CỘNG chính gốc. Nay quyền lợi của Trung Cộng/Việt Cộng là MỘT, Trần Hồng Văn/Việt Thường giương cao khẩu hiệu: Chúng ta hãy nói về Nguyễn Chí Thiện! Hãy viết về Nguyễn Chí Thiện! Hãy loại bỏ Hoàng-Trường Sa ra khỏi trí nhớ!! Khu Thái Hà còn trên lãnh thổ Việt Nam, Công Giáo có thể (rất có thể) lấy lại... Hoàng Sa, Trường Sa biết đến bao giờ? Hở biết đến bao giờ? Việt Thường, Triệu Lan, Trần Thành, Nam Nhân... là người, địa danh của miền Nam sông Dương Tử. Triệu Lan cùng họ Triệu Ðà, vua nước Nam Việt bao gồm Quảng Ðông, Quảng Tây; Việt Thường Thị, tên của Chu Thành Vương gọi những bộ tộc phương Nam - Không hề là của Việt Nam. Càng không là Việt Nam Cộng Hòa.
Tháng 10/2008
26 tháng 10, Quốc Khánh Ðệ Nhất Cộng Hòa.
Phan Nhật Nam
Thursday, October 16, 2008
Phan Nhật Nam
Lời người viết.- Người bạn Trần Phong Vũ đã viết đủ trong “Nghĩ về Nguyễn Chí Thiện” (NV số 8339 ngày 6 tháng 10/2008), nhưng Trần Huynh chưa đề cập đến những “chung quanh, đằng sau Nguyễn Chí Thiện”, bài nầy vì thế được viết nên. Xin lỗi với quý độc giả nếu phải đọc lại thêm một lần những nội dung về người/việc mà bài viết của Trần Phong Vũ đã nêu ra. Tất cả chỉ do ý hướng muốn nói rõ ra sự việc mà thôi. Trang trọng.
PNN
Diễn tiến tổng quát
Tình hình sinh hoạt chính trị, văn hóa, xã hội vùng Nam Cali lâu lâu bùng vỡ một vài sự kiện bất thường có tính cách định kỳ, và điểm rõ nét nhất có thể kết luận đối với loạt hiện tượng nầy là tính dân chủ của những hình thức sinh hoạt ấy - Người Việt tự do bày tỏ ý kiến của mình về người/việc xẩy ra trong cộng đồng hải ngoại - Tốt, xấu chúng ta chưa thể đánh giá, chỉ biết đấy là một hiện tượng thường trực, chung nhất.
Khởi đầu từ Tháng Chín và hiện đang kéo dài, một nhân vật đã gây nên bàn cãi qua các diễn đàn trên hệ thống Net mà danh tính xuất hiện thường xuyên trên trang nhất (và chiếm toàn phần 2, 3 trang trong) của báo Sàigòn Nhỏ đấy là Nguyễn Chí Thiện. Trước và song song với vụ việc nầy, ông thường có mặt nơi các diễn đàn, hội thảo chính trị... Trở nên là đối tượng nhận được sự hoan nghênh, chào đón nồng nhiệt, lâu dài nhất so với những nhân vật được đám đông biết đến (cho dù là công dân, viên chức của VNCH) suốt từ thời gian ông đến đất Mỹ, 1995 đến nay, 2008. Nhưng đồng thời cũng gặp phải những chống đối do từ những cá nhân, tổ chức khác - Diễn tiến chống đối nầy có thể tóm tắt theo thứ tự giai đoạn và mang những hình thái, lý do như sau:
1. Giai đoạn 1995-1996:
Sự chống đối, phủ nhận đầu tiên khởi từ người, tổ chức của báo Vạn Thắng (Hà Lạc Dã Phu Việt Viêm Tử Lê Tư Vinh, Washington DC giữ chức chủ nhiệm); hoặc những người viết như Duy Xuyên (Houston, Texas) với những lý do:
- Nguyễn Chí Thiện có mặt nơi đất Mỹ (từ 1 Tháng Mười Một 1995) kia là một “cán bộ (tình báo) Cộng Sản” giả dạng. Người và tổ chức kể trên “khẳng định”: Có một Nguyễn Chí Thiện “thật”, tác giả tập thơ Vô Ðề/Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực/Hoa Ðịa Ngục, nhưng người ấy đã bị (Cộng Sản) giết chết trong trại tù ở miền Bắc Việt Nam, và Nguyễn Chí Thiện “giả” hiện nay thay thế.
- Tập thơ mang những tiêu đề khác nhau: Vô Ðề/Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực/Hoa Ðịa Ngục... trên có xuất xứ (từ tinh thần và nội dung) của Huyết Hoa, Ðạo Trường Ngâm của Nhà Cách Mạng Thái Dịch Lý Ðông A - Nguyễn Hữu Thanh (không rõ năm sinh), nhân vật lịch sử đã gia nhập tổ chức Phục Quốc của Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể; thành lập Ðại Việt Duy Dân tại Trung Hoa, 1941-1942; bị Cộng Sản giết năm 1946 cùng lần với nhiều thành viên Duy Dân. Phong trào còn lại những cán bộ cốt cán: Phạm Xuân Ninh, Giám đốc Thanh Niên Thể Thao Bắc Việt (1947); Lê Quang Luật, Ðại Biểu Chính Phủ (1954); Nghiêm Xuân Thiện, chủ nhiệm báo Thời Luận (Sàigòn, 1963); Ngọc Hoài Phương, Chủ Nhiệm Báo Hồn Việt (CA) hiện nay lúc ấy giữ nhiệm vụ thư ký tòa soạn. Cao điểm của tố cáo nầy là một bài viết của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh đăng trên báo Vạn Thắng về sự mạo danh của NCT (dụng thơ của họ Lý). Sau đó, giáo sư TNNinh có lời đính chính về sự nhầm lẫn của mình.
- Nhóm nầy đánh giá, Hoa Ðịa Ngục II (Hạt Máu Thơ), US.1996 chỉ là những “bài vè” (cốt để ) nối kết dòng thơ “đánh tráo, giả danh” kể trên.
Chúng tôi gọi nhóm nầy là “Nhóm chống đối/Lý Lịch/Chính Trị/Văn Học”.
2. Giai đoạn 2001-2008:
Sau một thời gian im lặng khi báo Vạn Thắng không còn hoạt động, những thành viên gốc quân đội (Bạn thân, cùng khóa sĩ quan, cùng đơn vị nhảy dù với người viết-PNN) dần rời bỏ tổ chức. Những năm 2001, 2006... vấn đề NCT dần trở lại khi ông ra mắt Hỏa Lò (Tập Truyện, NXB Cành Nam, TH/XB/MÐHK, VA, US. 2001), và quan trọng hơn là Hoa Ðịa Ngục Toàn Tập (NXB Cành Nam, TH/XB/MÐHK, VA, US 2006). Lần nầy, phía chống đối tấn công với ý hướng mới: Chấp nhận có một Nguyễn Chí Thiện “thật” do, từ lý lịch gia đình, cá nhân, nhưng vẫn không là “Nguyễn Chí Thiện thật của Hoa Ðịa Ngục (I)” - Và thời điểm, sự kiện đưa tập thơ Vô Ðề/Hoa Ðịa Ngục vào Sứ Quán Anh ngày 16 Tháng Bảy 1979 cần phải được xác chứng lại để minh định: Ai là tác giả đích thực của những dòng thơ bi tráng hào hùng kia.
Năm 2008 vấn đề trở nên quan trọng hơn qua loạt bài của người viết tên là Trần Thanh, phổ biến trên hệ thống Net và gởi đến tòa soạn SGN (Garden Grove, CA) khiến Chủ biên Hoàng Dược Thảo chú ý, dẫu “không hiểu tại sao có hiện tượng (xét lại thật hay giả)” nầy - Ðào Nương, Những điều nên nói “Chuyện Dài... Ông Nguyễn Chí Thiện”, SGN số #14; 9/4 2008. Từ khởi đầu “không biết từ đâu” của ngày (9/4) trở thành biếm nhẻ “Thi Sĩ” hay “Vè Sĩ” qua bài viết của Triệu Lan mà người chủ biên dẫu “không biết rõ xuất xứ” nhưng đánh giá, “những dẫn chứng (của người viết nầy-TL) thì rất xác đáng và hiện thực”. Và mong nhận được bài trả lời của ông NCT - Một người mà Ðào Nương không xa lạ và (không) ác cảm gì. Báo số #21; 9/13. Sự cáo buộc không ngừng ở phạm vi chữ nghĩa (Thi sĩ/Vè sĩ -Thơ hay/Thơ dở), tiến tới đánh giá tư cách, tính hạnh của người gọi là “Thi sĩ/Vè sĩ” kia với xác định: “ông Nguyễn Chí thiện là một người gian dối, không lương thiện”; “Thi sĩ/Vè sĩ” thật chân tướng là “Láo Sĩ”. SGN số #32; ngày 9/28. Và cuối cùng, qua bài viết liên tiếp trong những số báo 32, 33, 34, 35, 36, 37... với lời mời (mang nội dung, tinh thần có tính cách bắt buộc): Ông Nguyễn Chí Thiện (phải) chấp nhận một cuộc “giảo nghiệm chữ viết” để làm sáng tỏ một “Nghi Án Văn Học” - Ai là tác giả thực sự của Vô Ðề/Hoa Ðịa Ngục/Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực - Tập thơ mà ông Nguyễn Chí Thiện (“thật” của hôm nay) đã đưa vào Tòa Ðại Sứ Anh tại Hà Nội ngày 16/7/1979 mà hiện đã được Bộ Ngoại Giao Anh hoàn trả (Tổng Thư Ký Ðinh Quang Anh Thái, Việt Tide, Westminster, CA mang lại tại địa chỉ 4117 McFadden, Santa Ana 92714 #410 trao tận tay cho ông Nguyễn Chí Thiện -PNN). Cuối cùng, vấn đề được bạch hóa không phải là văn học, thơ phú nữa, Nguyễn Chí Thiện “hiện nguyên hình với dấu ấn trên trán “Made in Yết Kiêu -Triệu Lan; SGN # 257; 10/4” - Có nghĩa, NCT là một cán bộ tình báo Cộng Sản được huấn luyện ở Trung tâm phản gián Yết Kiêu, Hà Nội. Hơn thế nữa, anh ông Thiện, Trung Tá Nguyễn Công Giân, Phòng II/BTTM/QLVNCH theo phát hiện “mới nhất” đã đi Hà Nội hai lần, 1958 và 1972 (ÐN, SGN # 37; 10/4). Và toàn bộ bài viết về, của NCT... “sáng hôm nay (10/5) trên Web Site của giáo sư Dan Ruffy (ÐH/Yale), và giáo sư Jean Libby (ÐH/San Jose) đã bị xóa đi... NCT hẳn đã biết số phận mình sẽ ra sao vì, “tôi (ÐN) nghĩ giới hữu trách Hoa Kỳ đã biết ai là giả ai là thật rồi...” <<< (Bold, Italic trong nguyên bản)>>>
Song song cùng lần với vụ việc (nêu trên) của SGN, có những bài viết khác trên hệ thống Net (tháng 8, 9/2008) điển hình với Tôn Nữ Hoàng Hoa (Texas), Thế Huy (Pháp)... qua phân tích kỹ thuật làm thơ, tu từ, tượng trưng, hư cấu của Nguyễn Chí Thiện trong Hoa Ðịa Ngục (I), so với Hoa Ðịa Ngục (II, Hạt Máu Thơ)... Những người nầy đồng kết luận: Nguyễn Chí Thiện “thật” đang hiện diện (giữa cộng đồng) nhưng không thể là “tác giả của Hoa Ðịa Ngục (I) - Tác phẩm nầy “phải” là của một tác giả Vô Danh.
Chúng ta có thể gọi khuynh hướng chống đối trên đây là: “Nhóm chống đối/Văn Học/Chính Trị”.
3. Nhóm chống đối/Thuần túy chính trị:
Ngoài hai nhóm chống đối kể trên, có những người viết khác, như Nguyễn Văn Chức (Houston, Texas); Ðặng Văn Nhâm (Ðan Mạch)... cũng thường xuyên nhập trận với những phê phán nặng nề về quan điểm, thái độ, hành vi chính trị của NCT. Những tác giả nầy không chú ý đến yếu tố lý lịch cá nhân, những nội dung (thơ, truyện) do NCT viết nên nhưng đồng có chung một quy kết nhất định (bất khả tương nghị): Nguyễn Chí Thiện là cán bộ “Cộng Sản nằm vùng”, hoặc là một tên “trá hàng” trong hàng ngũ cộng đồng người Việt hải ngoại do Hà Nội bí mật gài vào qua thủ tục nhập cư hợp pháp ở Mỹ. Cách quy chụp nầy không trưng một bằng chứng cụ thể nào, thiếu tính lý luận, cố ý tấn công, mạt sát cá nhân NCT nên chúng tôi sẽ không đề cập trong bài viết nầy.
Tóm lại, do có những quan hệ cụ thể (tinh thần và vật chất) với Nguyễn Chí Thiện trong một thời gian gian dài (từ 2001), và nay ông ta đã rời khỏi nơi trú ngụ chung (4117 McFadden, Santa Ana 92714 #410 từ 7/2008), nên chúng tôi nhận thấy đã đến lúc có đủ yếu tố khách quan để khỏi mang tiếng “cố ý bênh người cùng nhà” - Ðồng thời cũng do quan niệm “phải nói lên những điều nên nói...” như báo Sàigòn Nhỏ hằng chủ trương thực hiện giữa “Người Việt Nam không Cộng Sản”. Lời cuối cùng, dẫu có thể dư thừa nhưng cũng phải xác định thêm một lần: Chúng tôi không ám chỉ, quy chụp những đối tượng nhắc đến trong bài viết là “Cộng Sản/Cộng Sản nằm vùng/ tay sai Cộng Sản” như thói quen quy kết, chụp mũ rất đáng chê trách trong cung cách sinh hoạt chính trị thiếu tính dân chủ và lòng tự trọng (trọng mình và trọng người) thường xẩy ra giữa những cá nhân/tổ chức người Việt”... Mà chỉ do nhu cầu cần làm sáng tỏ những vấn đề từ những cá nhân/cơ quan nầy đặt nên. Chúng tôi không thực hiện lần “binh hay chống” một cá nhân tên gọi Nguyễn Chí Thiện - Nhưng sử dụng chữ nghĩa, tài liệu (hiện có) để trình bày về Một Sự Thật - Và Sự Thật luôn là điều Hợp Lý.
Và thật lòng mong muốn sau bài viết nầy; lần trình chiếu hai Talk Show của Chu Tất Tiến (đã thâu hình) trên hệ thống SBTN (Ðề cập đến người/việc liên quan sự kiện NCT); lần hoàn tất thủ tục Giảo Nghiệm Chữ Viết do Chuyên Viên Giám Tự dự trù (nếu được) thực hiện giữa ông Nguyễn Chí Thiện và báo Sàigòn Nhỏ - Vấn đề ắt sẽ có một kết luận chung nhất, cuối cùng - Nguyễn Chí Thiện, Ông là Ai? Ai là Thực Tác Giả của tập thơ Vô Ðề/Hoa Ðịa Ngục (I)/Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực? Lần đưa tập thơ vào Tòa Ðại Sứ Anh (16/7/1979) đã (thực) xẩy ra như thế nào? Và tại sao đã xẩy ra hiện tượng chống đối hôm nay? Tất cả để dồn sức mạnh tổng hợp của Cộng Ðồng Hải Ngoại vào những mục tiêu: Hệ thống gọi là Cộng Sản hiện cầm quyền tại Hà Nội (qua hiện tượng đàn áp khu nhà chung Thái Hà); Và cấp thiết hơn nữa là sự đe dọa (rất có khả năng ) đến từ Bắc Kinh với đất, biển quê hương càng ngày càng bị đe dọa, thâu hẹp lại... Mong lắm thay.
Nguyễn Chí Thiện,
Người có thực giữa những người chịu khổ nạn vì không chấp nhận Cộng Sản
1. Về lý lịch, gia cảnh:
Nguyễn Chí Thiện, sinh năm 1939, chánh quán Thôn Thượng Thọ, Xã Mỹ Thọ, Huyện Bình Lục, Tỉnh Hà Nam, con Cụ Ðồ Nguyễn Công Phụng. Ðiều nầy được xác nhận không phải ai khác mà là chính người đã mạt sát NCT thậm tệ qua bài đăng trên Net ngày 4/10/08 - Ðặng Văn Nhâm: “Ðúng, tên Nguyễn Chí Thiện là thật, thật 100%... Nhưng...” ÐVNhâm xác nhận với Nguyễn Thanh Hùng (Dallas, TX), người thân cận “mầy tao chi tớ” với ÐVN, cũng là người cùng quê với NCT từ tấm bé. Xác nhận còn nói rõ: “Nó (NCT) thua mầy với tao sáu tuổi (Sinh 1939- pnn)”. NCThiện và NTHùng vẫn giữ nguyên liên lạc (qua điện thoại), hoặc gặp mặt (Lần NCT ra mắt sách Hỏa Lò tại Hội Quán Little Sàigòn, 5/2006). NTHùng là người đọc bài văn tế Chiến Sĩ Trận Vong trong buổi lễ Ngày Tù Nhân Chính Trị VNCH tại Dallas, 4 tháng 10, 2008 vừa qua.
NCT sinh tại Phố Lò Ðúc (Hà Nội) năm 1939, đến năm 1957 Nguyễn Chí Thiện theo gia đình dọn hẳn về Hải Phòng. Nhưng không phải chỉ đến 1957 NCT mới đi Hải Phòng, cuối năm 1954 đã một lần xuống đấy để đưa người bạn thiếu thời đi Nam: Nguyễn Ngọc Bội (Giáo sư văn hóa Võ Bị Ðà Lạt trước 1975); hiện ngụ tại Westminster, CA.
2. Về liên hệ nơi trại tù:
Ðợt tù đầu tiên (1961-1964/Trại Phú Thọ) do Án Lệnh Tập Trung Cải Tạo (Ba năm/Một lệnh tập trung) bắt đầu áp dụng cho toàn Miền Bắc (vẫn tiếp áp dụng cho cả nước sau 1975) từ Sắc Lệnh “An Ninh Tổ Quốc” - Biện pháp chuyên chế (bắt giam người vô thời hạn không cần án lệnh của tòa) được thi hành sau Ðại Hội 3 Trung Ương Ðảng (5/1960), tiến tới lần thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (20/11/1960). Lần đi tù nầy gặp Nguyễn Văn Phổ (Con Cụ Nguyễn Văn Vĩnh - Một trong bốn nhà văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ: Phạm Quỳnh-Nguyễn Văn Vĩnh-Phạm Duy Tốn-Nguyễn Văn Tố); Trần Thiếu Bảo, NXB Minh Ðức, Hà Nội, nhà in ấn hành Nhân Văn-Giai Phẩm.
Lần tù thứ hai (1966-77/Phần lớn thời gian bị giam ở Trại Thanh Phong, Yên Bái), chung với các bạn tù:
- Cụ Vũ Thế Hùng (Nhân sĩ Hà Nội trước 1954); thân phụ Linh Mục Vũ Khởi Phụng (hiện tại là một trong những vị chủ chăn ở Thái Hà); Bà Vũ Triều Nghi (hiện là cư dân San José, Ca). Bà VTNghi đã về VN sau 1991 thăm cụ VTHùng, gặp NCThiện, Phùng Cung.
- Các bạn văn, Phùng Cung, Vũ Thư Hiên (Tù miền Bắc thuộc diện “chống đối văn hóa”)
- Các biệt kích miền Nam, Nguyễn Hữu Luyện, Ðặng Chí Bình, Lưu Nghĩa Lương, Lê Văn Bưởi (người biệt kích kiên cường vượt sông Bến Hai ra Bắc từ 6/1961)... Những người thuộc “Nhóm BK - đọc là Bê-Ka/Biệt Kích” sau 1977 chuyển về Trại 5 Lam Sơn, Thanh Hóa (Tại trại nầy, người viết (pnn) lần đầu nghe chuyện kể về NCT: “Ði tù do tội bị ‘nghi’ làm thơ chống đối chế độ (Diện văn hóa)”; chưa có vụ việc đưa thơ vào Tòa Ðại Sứ Anh, 16/7/1979 - Pnn. Buổi Hội Ngộ Biệt Kích Quân (7/7/2007) tại nhà hàng Emerald Bay (Fountain Valley, Ca), NCT được mời phát biểu về Tinh Thần/Khí Phách của Người Lính Biệt Kích (DVD Ðại Hội Biệt Kích ND), ngồi cùng bàn khách danh dự với các ông Vũ Quang Ninh, Nguyễn Hữu Luyện. BK/LNLương (hiện ngụ tại 4117 McFadden, Santa Ana 92714 # 19) vẫn thường giúp đỡ, đưa đón NCT trong các sinh hoạt hằng ngày do quý trọng phẩm chất, tư cách của NCT thực chứng nơi trại giam từ 30 hơn năm trước.
Lần đi tù thứ ba (1979-1991): Lần đi tù nầy chuyển qua nhiều trại: Hỏa Lò (Hà Nội);Thanh Phong, Thanh Cẩm (Thanh Hóa); Thanh Liệt (Hà Ðông).. Tại trại Ba Sao (Nam Hà), Hà Nam Ninh, NCT ở tù chung với Linh Mục Nguyễn Văn Lý (Cha Lý chuyển đến trại nầy ngày 8/1/1988 từ trại Thanh Cẩm chung cùm tay (hai người một cùm) với người viết-Pnn.
3. Về diễn tiến thủ tục Nguyễn Chí Thiện nhập cư vào Mỹ:
11/1995, Nguyễn Chí Thiện đến Mỹ do vận động của Bác Sĩ Norobu Masuoka (Hiện ở San José, Ðặc phái viên của chính phủ Mỹ phụ trách những tù nhân đặc biệt), người đã thành công đưa được Thiếu Tá Nguyễn Quý An (phi công trực thăng bị thương nặng mất hai tay khi cố cứu viên phi công Mỹ); nhà văn Ðặng Chí Bình qua Mỹ trong dịp Tết 1993/1994. Ðặng Chí Bình, điển hình thành phần biệt kích bị bắt trước 1968 (không được trao trả theo điều khoản của Hiệp Ðịnh Paris 1973 vì khi xâm nhập ra Bắc họ phải giải ngũ khỏi QL/VNCH) chỉ đến Mỹ được bởi kết quả từ vận động nầy (Trước đợt vận động quy mô của Sedgwick Tourison để đưa toàn bộ Biệt Kích Quân VN qua Mỹ).
Hồ sơ nhập cư INS do người anh ruột thiết lập - Trung Tá Nguyễn Công Giân, Sĩ Quan Quân Báo/Phòng II/BTTM/QLVNCH, Khóa 4 Thủ Ðức (1954) - Cùng khóa với Cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (NCT cùng người anh thường đến thăm viếng thân hữu trung tướng khi người còn sinh tiền); gia đình Trung Tá Giân hiện ngụ tại 11XX Alabama, Hendron, VA 20170.
Từ những yếu tố khách quan, cụ thể kể trên kéo dài từ năm sinh 1939 dài đến hôm nay (2008) với chứng kiến/sống cùng của những bạn hữu thời thơ ấu: Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Ngọc Bội; những bạn văn: Phùng Cung, Nguyễn Hữu Ðang, Vũ Thư Hiên; bạn tù: Phan Hữu Văn, Vương Long, Kiều Duy Vĩnh (Sĩ quan Quân Ðội Quốc Gia bị tập trung cải tạo sau 1954 ở miền Bắc); Nguyễn Hữu Luyện, Lưu Nghĩa Lương, Ðặng Chí Bình... (Biệt Kích VNCH bị bắt trước 1975); LM Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Hữu Lễ (Những người tù lương tâm miền Nam bị tù sau 1975)... Và trong thời gian 13 năm nơi hải ngoại (tính đến tháng 8/2008) giữa cộng đồng Người Việt khắp trên thế giới, với những nhân vật thuộc giới văn hóa, chính trị toàn cầu - Nguyễn Chí Thiện thật sự (đầy đủ) xác chứng với chúng ta - Ông là một điển hình của Lương Tâm, Bản Lãnh Việt Nam tranh đấu cho Tự Do và Dân Chủ.
Cuối cùng, nếu như những yếu tố trên chưa thuyết phục được sự công nhận về chứng chỉ, lý lịch, việc làm của Nguyễn Chí Thiện, chúng tôi xin trình bày biện pháp, yếu tố pháp lý, sự kiện thực tế hầu có kết thúc quyết định vấn đề nầy.
- Xin thông báo đến đến cơ quan FBI về lần nhập cư bất hợp pháp của một “cán bộ (tình báo văn hóa) Cộng Sản” giả danh Nguyễn Chí Thiện, vì luật pháp Mỹ vẫn còn rất nhiều ràng buộc đối với đảng viên đảng Cộng Sản khi nhập cư, lúc thiết lập chứng chỉ thường trú nhân, khi tuyên thệ vào quốc tịch. Trong những ngày tới, chúng ta, cư dân tỵ nạn Cộng Sản của tiểu bang California sẽ chuẩn bị đối phó với Dự Luật SB 1322 nhằm hủy bỏ những điều khoản “Cấm hoạt động Cộng Sản trong trường học.”
- Giáo Sư Jean Libby, Ðại Học San Jose (CA) đã hoàn tất phần giảo nghiệm hình ảnh của Nguyễn Chí Thiện qua so sánh giữa những bức hình: Một của Nguyễn Chí Thiện tuổi thanh niên (Phụ bản bìa tập thơ Hoa Ðịa Ngục I) và những ảnh chụp năm 2006 do chính bà bấm máy. Bản kết quả giảo nghiệm thực hiện bởi Viện Giảo Nghiệm Stutchman, 421 Walnut Street, #120, Napa, CA 94559 kết luận: “Có 8 điểm dị biệt đặc thù phân bố trên mặt và trên tai của người đàn ông trong hai tấm hình #1 và #2 và hình in trên bìa sách. Căn cứ trên sự xét đoán, so sánh, và phân tích của bản thân cá nhân, thì tôi có nhận định rằng: Người đàn ông trong những tấm hình chỉ là một người”. Chúng tôi đính kèm bản văn kết quả giảo nghiệm (Phụ bản 1). Về những tấm hình giảo nghiệm, NCT sẽ trình bày trong một cuộc họp báo chính thức trong ngày gần đây -Pnn.
Cuộc giảo nghiệm do đích thân Giáo Sư Jean Libby lập thủ tục tiến hành (3 Tháng 8/2006), vì dẫu rất mến mộ tư cách cá nhân cũng như tài năng của NCT nhưng do tinh thần làm việc thực tế, chính xác của người Mỹ, bà muốn có bảo đảm về lý lịch Nguyễn Chí Thiện (nhỡ sau nầy có những tranh tụng về pháp lý - Như hiện nay đang xẩy ra với vụ việc SGN) trước khi Ðại Học Yale tiến hành việc in Hỏa Lò dịch sang Anh ngữ. Cũng bởi, người Mỹ với tính thuần lý và tâm lý thực tiễn, họ không nghĩ một con người như thế mà sống sót sau 27 năm tù... Lại là tù Cộng Sản Việt Nam, mà không những chỉ sống sót mà còn viết văn, làm thơ. Nghi ngờ cũng hợp lý đối với những người (dẫu) có hảo ý khác. Và nếu người viết không lầm đó cũng là ý hướng đầu tiên của báo Sàigòn Nhỏ với Chủ Nhiệm Hoàng Dược Thảo, nhưng qua đến tháng 10/2008 vấn đề tập thơ và sự việc đã được (hay bị) đẩy đi quá xa theo một hướng khác. Chúng tôi trình bày tiếp theo sau.
Nguyễn Chí Thiện “thật”/sống sót và Nguyễn Chí Thiện “giả”/thơ văn
Khi bắt đầu loạt bài viết, chúng tôi có ý nghĩ, sự việc sẽ được giải tỏa toàn diện khi NCT trình bày bản thảo viết tay (mà bản thân đã xem qua tại nhà riêng, 4117 McFadden #410, Santa Ana trước ngày ông Thiện dọn ra) nhận được từ tay Ðinh Quang Anh Thái (7/2008) trước một cử tọa đông đảo thuộc giới truyền thông báo chí (lẽ tất nhiên có tham dự của SGN). Ý nghĩ nầy càng thêm cụ thể khi bài viết của Trần Phong Vũ được phổ biến (Người Việt, 10/6; trên hệ thống NET, 10/4) Nhưng sự việc không còn giới hạn trong phạm vi thơ văn nữa (Về vấn đề “Ai là tác giả ‘thật’ của Thơ Vô Ðề”) mà đã qua một lĩnh vực khác với những khẳng định về tư cách, hành vi chính trị của NCT với những phát hiện mới của SGN (ÐN (nt, #37). Bài viết nầy cần phải viết thêm phần ba để nêu rõ hơn về diễn tiến của Người (NCT) và Việc (Thơ Vô Ðề). Nếu những luận cứ cáo buộc trình bày sau đây mâu thuẫn với nhau (Thật/Giả chen lẫn) là do: 1/Những người (tố cáo) viết nhiều “nội dung/cách thức” khác (biệt) với nhau cho dù cùng nhắm đến một đối tượng duy nhất: NCT và Tập Thơ Vô Ðề. 2/Bài họ viết tại những thời điểm khác nhau. 3/Những người nầy trích giải “Thơ Vô Danh/Vè NCT” do những mục đích khác nhau. Chúng tôi (PNN) chỉ là người ghi lại.
Sau đây là những cáo buộc căn cứ từ lời Thơ (Có lúc được xem như là “thật” của NCT; có lúc được gọi là của Vô Danh) Tất cả đồng có mục đích chung kết với ba cáo buộc (không rơi vào một trường hợp nầy thì (phải) rơi vào một “xác định” khác): 1/Ðấy là một Nguyễn Chí Thiện “giả”. 2/Nếu là Nguyễn Chí Thiện “thật” thì (lại) mang tội dùng Thơ “thật” của Vô Danh. 3/ Nếu là thơ “thật” của NCT “thật” thì thơ đó (phải) gọi là “Vè”, tóm lại NCT (hiện sống) trước sau chỉ là một “cán bộ tình báo cộng sản trá hình”, làm vè cốt để đóng trọn vai trò của một “Thi Sĩ tên gọi Vô Danh (?)kiên cường chống cộng mà nay đã bị giết chết/hoặc biến mất đâu đó từ một lúc nào không ai xác định (1979?) - Một thi sĩ có ba điều Không: Không tính danh-Không xuất xứ-Không có liên hệ với bất cứ ai đang còn sống, đang viết báo”
Chúng ta cùng lượt qua những luận cứ cáo buộc.
3.1: Cáo buộc thứ nhất về xuất xứ
Báo Vạn Thắng (Lê Tư Vinh chủ nhiệm), thời điểm 1995, 1996 cho rằng, Nguyễn Chí Thiện là “cán bộ tình báo cộng sản giả dạng” mạo Thơ Huyết Hoa, Ðạo Trường Ngâm của Thái Dịch Lý Ðông A. Cáo buộc nầy không thể đứng vững vì nhà cách mạng Lý Ðông A bị cộng sản giết từ 1946. Thơ của họ Lý mang không khí lãng mạng, hùng tráng cổ điển: Ta về đây đứng bên bờ thác Nậm. Mặc heo may hun hút gió hờn oan... Thơ (“tạm” gọi là) của NCT thì đề cập đến thời sự: Khi Mỹ chạy bỏ Miền Nam cho cộng sản. Cả nước thu về một mối. Một mối hận thù. Một mối đau thương (1975). Hoặc miêu tả thực tế đời sống lao tù: Thơ của tôi không phải là thơ... Tiếng cửa nhà giam đen ngòm khép mở... (1970)
3.2: Cáo buộc thứ hai về thể chất
Thơ (cứ xem như “thật” của NCT) nhưng lại không phù hợp với thực tế thể chất của NCT (hiện sống): Thơ của tôi không có gì là đẹp. Như cướp vồ, cùm kẹp, máu ho lao... Căn cứ vào những dòng thơ nầy, có những tố cáo từ nhiều người: 1/ TNHHoa (Houston, TX): Nguyễn Chí Thiện không ho lao, NCT khỏe mạnh, béo tốt. 2/ Trần Thanh: Nghi vấn về sức khỏe (Ông Thiện dỏm rất khỏe mạnh chớ không bị ho lao.) ÐN trích đăng NÐNN: SGN số # 14; 9/4). 3/ Triệu Lan: “thi sĩ, văn sĩ, vè sĩ” Nguyễn Chí Thiện “mang bệnh” ung thư phổi, ho lao, ung thư và bị “tù” 27 năm nhưng khi NCT bước chân xuống Hoa Kỳ ngày1/11/1995 trông Thiện phương phi, khỏe mạnh, với y phục thời trang veston, áo pullover... như một “lãnh tụ” phường tuồng (SGN # 527; 10/4). Chúng tôi có thể trích dẫn thêm nhiều cáo buộc về “thể chất” về NCT “dỏm” nữa, nhưng nghĩ đã đủ.
Những suy diễn cáo buộc trên không đúng vì: 1/ NCT thật có bị bệnh phổi nhưng ÐÃ CHỮA TRỊ XONG cơ quan IOM mới cho nhập cảnh Mỹ. Y chứng NCT còn sẹo ở phổi, phải chữa trị tiếp trong thời gian ở DC (1995/1996). 2/ Những từ ngữ “trào máu; ho lao; gông cùm; cùm kẹp...” thường dùng để chỉ tình trạng tồi tệ về thể chất bị đầy ải mà bất cứ ai khi mô tả, nói về ngục tù cộng sản cũng đều sử dụng đến. 3/ Thơ không là hồ sơ y bạ, tiểu thuyết cũng thế. Nhất Linh viết Bướm Trắng với nhân vật chính bị bệnh lao không bắt buộc văn hào họ Nguyễn phải có bịnh phổi. Thanh Tâm Tuyền viết Ung Thư; Solzhenitsyn viết Cancer Ward... Họa chăng chỉ riêng trường hợp Hàn Mặc Tử với căn bịnh nan y của ông. Quách Thoại chết năm 28 tuổi (1957) vì bệnh lao, nhưng nào có viết một câu thơ liên quan đến máu me mà chỉ viết nên những lời thơ hùng tráng: Trước mặt là cộng sản. Sau lưng là nội thù. Một mình tôi đứng giữa... 4/ Thơ (tiểu thuyết cũng thế) không bắt buộc phản ảnh đúng tình cảnh, sinh hoạt thực tế vật chất, tinh thần của người viết nên những nội dung văn, thơ ấy... Tìm đâu ra một một người gọi là Từ Hải như Nguyễn Du mô tả: Râu hùm hàm én. Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Nguyễn Du lại càng không phải dạng hình hùng vĩ nầy. Vũ Trọng Phụng là nhà văn mực thước, cổ điển, ông không dính dấp gì đến những nhân vật quỷ quái của Số Ðỏ. 5/ Nguyễn Chí Thiện không là người “khỏe mạnh, phương phi”. Những tỉnh từ nầy phải kể về Ðại Úy Biệt Kích Nguyễn Hữu Luyện (tù 21 năm, 4 tháng, 14 ngày); tù hơn 16 năm: Thiếu Tướng Tư Lệnh Lê Minh Ðảo, Trung Tá Tình Báo Trần Duy Hinh (Hãy nhìn nhà văn Thảo Trường, chiến hữu rất đáng hãnh diện của tất cả người lính VNCH. Không ai có thể nghĩ rằng đấy là người đã qua hẳn bên kia cái chết tại trại tù Hàm Tân, 1988). Những người tù tồn tại bền bỉ (trong nhà giam cộng sản) không do từ sức mạnh cơ bắp, nhưng từ chiếc đầu nung lửa ý chí của họ. Chỉ có những kẻ hèn kém mới ngã gục, quy hàng trước đói khổ của lao tù do cai ngục cộng sản dựng nên (Kẻ ấy là ai, cuối bài, phần kết luận chúng tôi sẽ chỉ ra, trước đây ở Trại Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải). Và cuối cùng, NCT ăn mặc bảnh bao (suy diễn ra do được tình báo cộng sản cung cấp?!). Chỉ với vài đồng, một, hai chục, chứ không cần phải bạc trăm, bước vào những khu Outlet, hoặc cơ sở bán đồ Clearance, Goodwill... Tất cả sẽ có đủ. Chúng ta có thể hiểu, kẻ viết nên những cáo buộc mang tính săm soi nhỏ nhặt nầy đang ở Anh, ở Pháp nơi Tây Âu tàn lụi, hết là những “cường quốc thực dân”.
3.3. Cáo buộc về mâu thuẫn thân thế, tuổi tác, thời điểm sáng tác
Phần nầy, những người nêu cáo buộc căn cứ những câu “Tuổi hai mươi, tuổi bước vào đời. Tuổi đôi mươi nhìn đời thơ dại. Ngỡ cờ sao rực rỡ...” nên đề quyết rằng: Phải hai mươi tuổi mới làm những câu thơ hàm súc ấy trong dịp xẩy ra sự kiện 2/9/1945 - Năm 1945 NCT mới 6 tuổi (sinh 1939) - Vậy, Thơ ấy phải do Tác Giả (tên gọi là) Vô Danh. Quả thật, chúng tôi vô cùng não nề khi viết đến những dòng nầy bởi đang phải nói với những con người “quái đản”, đề cập những câu chuyện tầm phào, kiểu cãi cọ lý sự những anh tổng lý bang bạnh đâu từ nông thôn miền Bắc đầu thế kỷ 20. Bởi, Thơ không hề là Bản Biên Niên sự kiện chính trị, quân sự, xã hội, ngay cả tiểu thuyết lịch sử cũng không hẳn là phải thế. Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1902-1977) viết sách Vua Quang Trung đâu phải là người đã tham dự xung trận Hà Hồi (1789); Vũ Hoàng Chương mô tả giờ phút hiển linh Thượng Tọa Thích Quảng Ðức hóa thân trong lửa không hề có mặt tại ngã tư Lê Văn Duyệt-Phan Ðình Phùng, Sài Gòn ngày 11/6/1963. Solzhenitsyn sinh 1918 viết August 1914 để gióng lên phần khởi đầu của cách mạng vô sản 1917. Cũng thế, bản thân cá nhân có đủ thẩm quyền (nếu muốn) để viết về Di Cư 1954 dẫu rằng năm ấy còn trong tuổi thiếu niên đang ở Ðà Nẵng. Cáo buộc như thế để làm gì? Viết hai ba trang báo dựng nên những “cái gọi là luận chứng”: “Ở Hà Nội năm 1959 không thể có sinh hoạt (qua hồi tưởng của NCT). Mùa Hè ăn bánh tôm bên Hồ Tây. Cô bạn ngồi bên như nàng tiên vậy” để tố cáo (tố cáo cái gì?), mạ lý, vu khống, chụp mũ... Hoặc “cái gọi là phân tích”: “Ở đất Bắc, thời đó (trước 1954 -PNN) người thanh niên có học, gia đình nề nếp, biết uống rượu, có bạn gái phải là tuổi trên dưới 20...” (Thế Huy, SGN #33; 10/01). Trời đất, như vậy phải trình ra Bằng Lái Xe (nếu ở Mỹ), hoặc Chứng Chỉ Căn Cước (VN) trước khi viết thơ về rượu, về cô bạn gái sao? Chúng tôi có thể nêu danh tính hằng loạt bằng hữu (những người sinh khoảng trước, sau 40) đã hoặc không ăn bánh tôm, có hay không có bạn gái cùng đi chơi bờ hồ (trước 1954) ở Hà Nội... để thời gian sau họ có thể viết về kỷ niệm Hà Nội bất cứ ở đâu, ngay bây giờ năm 2008 ở Mỹ. Và cũng không cần nữa, ai cấm Dương Nghiễm Mậu viết “Quảng Trị, Ðất Ðợi Về (1972)” và Nguyễn Mạnh Trinh viết “Huế, nơi tôi chưa tới...” khi Phí Ích Nghiễm (DNMậu) đang ở Sàigòn và NMTrinh biệt phái hành quân ở Pleiku. Và cô gái Ði Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp vừa đủ 15 tuổi; hai cô Kiều của Nguyễn Du mới đến “tuần cập kê”... Chẳng lẽ những thiếu nữ lẫy lừng trong văn học, thi ca nầy “là con nhà bần cố (nông), loại vô lại (cộng sản)”? Mà dù là người trong chế độ cộng sản đi chăng nữa, Dư Thị Hoài vẫn còn khả năng/đầy đủ quyền tự do sáng tác để viết nên những câu thơ thăm thẳm cảm tính, ăm ắp thương yêu: Một lần như đêm nay. Sau phút giây êm đềm trên ghế đá. Anh không cài lại khuy ngực áo cho em... (Văn Nghệ, Hà Nội; Số tháng 7/1988) Không ai có thể truy kết: Dư Thị Hoài không là “con nhà nề nếp”.
3.4. Cáo buộc về thay đổi thể thơ
Trước (Thi Sĩ Vô Danh) làm thơ dài câu, có nhạc điệu, thi tính cao, khẩu khí hùng tráng. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó. (1968); Sau nầy (“Vè Sĩ” NCT) chỉ có những câu ngắn như vè: Dầu đầu bạc. Dù đói rạc. Dù lực tàn. Vẫn bền gan.. (1988). (Thế Huy, SGN #33; 10/01). Chúng tôi có nhận xét từ kinh nghiệm 40 năm cầm bút, đọc sách: Thơ hay/Thơ dở không có nguyên tắc cố định nào để xét nghiệm; người làm thơ một đời chỉ để lại vài câu được đời sau nhớ đến. Anh cũng không thể buộc người khác đồng ý với cách anh bình giải về thơ của một người thứ ba cho dù anh đủ tư cách của người phê bình văn học lão luyện, được xác chứng từ độc giả, thử thách bởi thời gian qua tác phẩm, quá trình hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. Anh càng không có một khả năng nào buộc người khác phải viết và diễn đạt THƠ (của người ta) theo “quan điểm chính trị” của anh?! Ở đâu phát sinh ra quyền “ngự sử văn nghệ” nơi thế kỷ 21 mà thực chất chỉ là loại “chữ nghĩa” mang ác tâm từ những tay viết ẩn danh gọi là “kẻ nghiên cứu ti tiểu” nầy. Nhưng, NCT cũng đã “làm vè” từ 1970: Vợ con có thể bỏ. Cha mẹ có thể từ. Cộng sản thời sinh tử.. Vậy đây là thơ hay vè? Tôi chúng xin trả lời ngay theo ý các anh: Thơ của Vô Danh/Vè của NCT. Xin mách thêm: Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền cũng làm rất nhiều vè khi đi tù vác nứa ở Yên Bái. Chúng tôi ngừng trò vui nơi đây để đề cập đến một màn hài hước cuối cùng...
3.5. Cáo buộc
Từ khi ra hải ngoại (1995) không còn (khả năng) làm thơ. Cáo buộc nầy được lập đi lập lại bởi nhiều người do căn cứ trên thực tế: NCT viết tập truyện Hỏa Lò (2006) thay vì tiếp tục làm thơ - Vậy thơ Vô Ðề hùng tráng trước kia chỉ là của Tác Giả (tên gọi) Vô Danh - Khẳng định nầy có tính chung quyết. Chúng tôi bổ tức thêm vào luận chứng nầy những cớ chứng: Sau những câu Thơ Lịch Sử: Nam Quốc sơn hà Nam Ðế cư. Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư.. Danh Tướng Lý Thường Kiệt không làm một câu thơ nào nữa! Và nơi vùng Nam Cali nầy, chúng ta phải trả lời sao về trường hợp các thi sĩ (Thật Thi Sĩ) tên gọi Trần Dạ Từ, Trần Thị Thu Vân, Ðỗ Quý Toàn, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Ðình Toàn... ba mươi ba năm sau 1975 không mấy khi (tiếp tục) làm thơ nơi đất Mỹ?! Và sau đỉnh cao Ta Về thì Tô Thùy Yên hầu như cũng cho bút nghỉ nhiều hơn... Như vậy là thế nào? Và không những đối với Thơ, những bạn của chúng ta, Vũ Thành An, Từ Công Phụng... những dòng nhạc trữ tình bất diệt của Miền Nam đã viết gì thêm về tình yêu sau mấy mươi năm ở Mỹ? Và trái lại, chỉ khi trên đất Mỹ vào buổi cuối đời, Mai Thảo, Võ Phiến mới làm thơ... Vậy trước kia họ là ai? Chúng tôi không đủ cố gắng để kéo dài tham dự thêm màn khôi hài rất nhạt do những kẻ tiểu tâm, trí đoản dựng nên.
Bài 4
Chiến dịch được chuẩn bị từ 15 năm
Trước khi bài viết kết thúc, chúng tôi xin trưng một tài liệu liên quan đến vụ việc (NCT/Giả/Thật/Thi Sĩ/Vè Sĩ) và một đề nghị. Tài liệu ấy là: Chứng Thư của Chuyên Viên Khảo Nghiệm Thủ Bút Dorothy Brinkerhoff (Trung Tâm Giảo Nghiệm Quốc Gia) Văn Phòng 4316 Boyar Ave, Long Beach, CA90807 gởi đến ông Joe Nguyễn (giáo sư, nhà báo Nguyễn Sỹ Hưng) 3024 East Anaheim, Long Beach, Ca 90804. Chứng Thư có kết luận: “Căn cứ vào những điểm tương đồng trọng yếu giữa tài liệu cần giảo nghiệm trong Văn Bản A và những mẫu ghi chép trong Văn Bản B, theo ý kiến của cá nhân tôi, người viết (cần được minh chứng) đã viết Văn Bản A và những ghi chép trong Văn Bản B có những điểm tương đồng thích ứng với nhau và chỉ do một người viết.” (Phụ Bản 2). Chứng Thư Giảo Nghiệm Thủ Bút do nhà báo, nhà giáo Nguyễn Sỹ Hưng yêu cầu trung tâm giảo nghiệm thực hiện từ tháng 11/1995 căn cứ trên hai văn bản: Bản A gồm Lá Thư viết bằng Pháp Ngữ trang đầu tập thơ đưa vào Tòa Ðại Sứ Anh ở Hà Nội ngày 16/7/1979, và photocopy bản viết tay bài thơ Ðồng Lầy, Trang 21/Ðánh số lại 34. Bản B là photocopy thư viết tay ký tên Chí Thiện gởi đồng bào hải ngoại 11/1995, tuần lễ thứ hai sau khi đến Mỹ của người có tên Nguyễn Chí Thiện. Nhà báo, nhà giáo Nguyễn Sỹ Hưng do tính thận trọng giảo nghiệm thủ bút của NCT để có xác tín lý lịch, căn cước của một cá nhân đã lập kỳ tích đáng nể phục: Tồn tại sau 27 năm tù cộng sản với một ý chí tuyên dương Con Người Tự Do. Nhà giáo Nguyễn Sỹ Hưng giữ kín giảo nghiệm nầy do lòng kính trọng đối với Nguyễn Chí Thiện - Ðầu tháng 10/2008, ông giao lại cho NCT nhân vụ Báo SGN yêu cầu giảo nghiệm mẫu chữ viết của Thi sĩ/Vè sĩ/NCT Thật/Giả.
Và tiếp đề nghị như đã một lần đề nghị đối với vụ việc giảo nghiệm hình ảnh. Nếu như Chứng Thư Giảo Nghiệm Chữ Viết nêu trên chưa đủ yếu tố khả tín để thuyết phục vấn nạn: “Ai viết tập thơ Vô Ðề? Vô Danh ông là ai?” thì những người không đồng ý về quyền sở hữu (tập thơ) của NCT xin hãy tập trung tất cả tài liệu có được (về NCT/giả/Vô Danh/thật) gởi đến những cơ quan như Trung Tâm Văn Bút Quốc Gia Pháp, Hòa Lan, Mỹ... để những nơi nầy thu hồi những giải thưởng, bằng khen đã phát cho NCT về văn phẩm đã bị chiếm đoạt từ một tác giả Vô Danh. Cũng cần phải nêu rõ những yếu tố lý lịch, quá trình sáng tác, sản phẩm thành văn của tác giả Vô Danh nầy để các cơ quan hữu trách kia có chứng cớ hành sử với “Nguyễn Chí Thiện giả mạo”. Chúng tôi trình bày với ý hướng truy cầu Sự Thật mà Báo Sài Gòn Nhỏ đã nêu ra khi đặt vấn đề từ ngày 4 tháng 9, 2008 nơi trang nhất số báo 14. Tôi tin Chủ Nhiệm Hoàng Dược Thảo lúc khởi đầu vụ việc có ý hướng tốt lành nầy.
Hậu Từ
Ðến phần cuối của bài viết, tất cả sự việc trên đã hóa ra những điều vô ích! Bởi chúng tôi dần tìm ra/thấy được/biết rõ con người thủ vai trò đạo diễn, diễn viên, khán giả của vỡ hài kịch “tình báo/văn học gọi là Nguyễn Chí Thiện” mà từ phần đầu bài viết bản thân, Phan Nhật Nam đã nói lên lời nghi ngại. Nhân vật “sợi chỉ hồng xuyên suốt - chữ của cộng sản trả lại cho người cộng sản” kia là Việt Thường Trần Hồng Văn, đầu mối của Triệu Lan, Trần Thành, Nam Nhân, Thế Huy, Trọng Tín v.v... Với Trần Hồng Văn, Nguyễn Chí Thiện chỉ là một “Cái Cớ/Cái Cớ xứng đáng nhất”. Và SàiGònNhỏ là một phương tiện/Phương tiện hữu hiệu nhất do 16 trung tâm phát hành toàn nước Mỹ, ba hệ thống xuất bản, nhật báo, tuần báo, và nguyệt san với những cây bút chủ lực, chuyên nghiệp (gồm số đông thân hữu, huynh đệ của người viết, PNN) - Chủ nhiệm Hoàng Dược Thảo đến đây hẳn hiểu tại sao tôi giữ im lặng đến bài viết nầy. Cũng bởi, tôi luôn nhớ và hằng nói: Tôi là biên tập viên của SàiGònNhỏ, “Anh hai Hoàng Hải Thủy”, bác Hinh, Thảo Trường đã là những người qua sống/chết với chính bản thân. Tôi biết: Ðã (hoặc sẽ) ăn cây nào phải rào cây ấy. Nhưng chúng ta buộc phải nói rõ về Trần Hồng Văn.
Trước khi định hình con người nầy, chúng ta cần xem thử anh ta (và những đứa con tư sinh Trần Thành, Triệu Lan...) đã làm những gì.
4.1. Lắng nghe từng âm nói của NCT để tìm ra nét “giả tạo” của lý lịch. Vì NCT khai sinh quán Hà Nội, nhưng lại phát âm “đó... ạ” của cư dân Hải Phòng! Nên từ nước Anh, Trần Hồng Văn/Việt Thường trong gần 15 năm (1993-2008) TÔI “đã cho người” về Hải Phòng và Hà Nội “điều tra” để biết thêm về nhân vật “thi sĩ, nhà văn” Nguyễn Chí Thiện! (TL- SGN; #21, 9/13) Nguyễn Chí thiện chạy đâu cho thoát, Thi sĩ “Vô Danh” đã “được chuẩn bị” từ 1993 - NCT đến Mỹ 11/1995.
4.2. Không chỉ lắng tai nghe NCT nói không thôi, trong suốt 15 năm kia “Triệu Lan tôi” đã thâu thập hơn 100 cuộc phỏng vấn, hội thảo, nói chuyện, từ khi NCT đến Mỹ đã bỏ rất nhiều thời gian đánh máy ra dạng chữ viết để chuẩn bị đưa ra trình bày cùng độc giả khắp nơi... (TL-SGN #972; 10/3). Chuẩn bị một trận đánh đến cả 15 năm hỏi thử “địch thủ” nào lại không ngã gục?!
4.3. Không những chỉ chuẩn bị kỹ (Ðúng chiến thuật Trung Cộng, Lâm Bưu “Tứ Khoái Nhất Mạn”- Bốn Nhanh Một Chậm - Chuẩn Bị Chậm) mà Văn và những đứa con của y còn tìm cách giải mã “decode” thơ của ông Vô Danh. Trong bài “Tôi Muốn Sống Với”, những tên Athos, D'Artagnan, Porthos, Aramis!, Jesus Christ, Jack London... viết đúng với ngôn ngữ gốc, duy chỉ có từ “AiVanHô” và “ALaÐanh” được viết theo ngôn ngữ Việt Nam (nt) Tại sao Vô Danh viết như vậy? Lẽ tất nhiên NCT không trả lời được. THVn/VThg tiếp dạy dỗ: Trước 1954 ở Hà Nội chưa có sách Ả Rập, sách nầy, “Ivanhoe” bản tiếng Anh chưa dịch sang tiếng Việt thì làm sao NCT được biết “IvanHô” là gì?! Sở dĩ “Thi sĩ Vô Danh” viết như vậy vì đó là... “code” của người Irap truyền cho nhau về nước đánh đổ Saddam Hussein!! (nt). Quả thật ông thi sĩ Vô Danh nầy có cái nhìn quán thế. Từ Việt Nam, năm 1960 ông đã thấy ra chiến tranh Iraq với Mỹ trong thế kỷ 21 (Sic), và phải đến 1965 Mỹ mới đổ bộ lên Ðà Nẵng. Nhưng có điều THVn/VThg không biết: Thi Sĩ Vô Danh tuy không đọc Ivanhoe của Walter Scott, nhưng NCT hẳn đã đi xem phim Ivanhoe do Robert Taylor và Elizabeth Taylor thủ diễn trước 1954 ở Hà Nội nên về kể lại cho thi sĩ Vô Danh kia để sau nầy (hơn 20 năm) viết Hoa Ðịa Ngục. Hai người từ lâu vốn là Một.
4.4. Xuyên suốt lịch sử Ðông-Tây, từ quá khứ của thập niên 60, Trần Hồng Văn hay Việt Thường hay Triệu Lan v.v... nay đến Long Beach, Ca. “để có Bằng Chứng (Viết hoa trong bài-PNN) rõ ràng, hơn nữa chưa ai thấy con gái của Nguyễn Tấn Dũng mua sắt thép ở Mỹ chở về Việt Nam bao giờ vì những tàu sắt thép nầy đã đi từ cảng Long Beach tới Thượng Hải. Triệu Lan “tôi” còn có bằng chứng. Và, Triệu Lan “tôi” còn bằng chứng để chứng minh Nguyễn Chí Thiện và nhóm tình báo đặt trách về văn hóa của Hà Nội đã thật sự làm việc cho Bắc Kinh trong nhiều năm qua. (Vâng, Triệu Lan “tôi” chứ không ai khác luôn có bằng chứng như những bằng chứng về Thi sĩ Vô Danh/Vè sĩ NCT&Pnn)(TL- SGN)#526 Ấn Bản Houston, TX; 9/27.
4.5. Và cuối cùng, “bằng chứng” mới nhất “Triệu Lan tôi” bày ra để đẩy SGN sụp hầm: “Trong số ra ngày Thứ Năm 2 tháng 10, tôi (chủ nhiệm HDT/ÐN) có nhờ anh Nam hỏi ông Nguyễn Công Giân, anh ông Nguyễn Chí Thiện: Là một sĩ quan QLVNCH vì lý do gì ông Giân lại được ra Bắc thăm gia đình hai lần trước năm 1975 (!)...Hôm nay tôi lập lại câu hỏi nầy và cho biết thêm chi tiết (chỉ có thể từ với VThg/TLn/TTh mà thôi): Lần đầu năm 1958, lần thứ hai, 1972. (ÐN-SGN#7; 10/5).
Thắc mắc trên không cần hỏi ông NCGiân, tôi có thể trả lời chính xác, ngay lập tức: Người sĩ quan QLVNCH đến đất Bắc đầu tiên là Ðại úy Biệt Kích Nguyễn Hữu Luyện (22/6/1966); người thứ hai và thứ ba là Thiếu Tá Phạm Huấn, Trung Úy Dương Phục, ngày 26/2/1973; và người thứ tư chính là... tôi, ngày 4/3/1973. Có thể kiểm chứng với ông niên trưởng: Nhà văn Thảo Trường, trung tá tình báo Trần Duy Hinh. Ba người ra Bắc (trong đó có bản thân) luôn có sĩ quan Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo đi kèm. Ông Nguyễn Công Giân thuộc ngành Quân Báo (Phòng II/BTTM) không hề có nhiệm vụ (được phái đi Hà Nội) bất cứ ở thời điểm nào. Năm 1958 ấy, Trung Úy Nguyễn Công Giân làm sĩ quan liên lạc ở Washington DC, và cố vấn Ngô Ðình Nhu/Bác Sĩ Trần Kim Tuyến chưa thành lập văn phòng đặc biệt để đưa người ra Bắc. Kế hoạch 43A (thả biệt kích VNCH ra Bắc) của McNamarra cũng chưa thành hình do Tổng Thống Kennedy chưa lên chức. Năm ấy Trần Hồng Văn chạy hiệu cho báo Nhân Dân ở Hà Nội, nhưng trước tháng 2/1979 bị tống vào tù do tội danh “nằm vùng cho Cục Tình Báo Hoa Nam của Trung Cộng” - Tội của THVn thật hư thế nào chúng tôi không rõ. Chỉ biết, tại Trại Z30D, Văn áp dụng “bần tiện kế” để tránh đòn thù của công an trại (Mức độ bần tiện như thế nào, chúng tôi toàn trại chứng kiến, tôi không thể kể ra đây vì quá bẩn thỉu hèn hạ; đàn ông, người lính Miền Nam chúng tôi nghĩ tới cũng thấy xấu hổ lây dẫu anh ta là người Hoa ở miền Bắc). Từ kế sách hèn hạ kia cộng thêm kỹ thuật tố cộng rất có bài bản, Văn gây lòng tin với những anh em tù người Nam. Cuộc nổi dậy Tết 1981/1982 ở trại Z30D bị đánh vỡ vì có nội gián. Toán tù Nam Hà (từ ngoài Bắc về đầu năm 1981 và 1982) còn giữ nguyên hùng khi bất khuất tính chuyện khởi động tiếp. Dự mưu bị đánh vỡ từ trong trứng nước (Chủ nhiệm SàigònNhỏ có thể kiểm chứng sự việc nầy về Trần Hồng Văn, chúng tôi đưa người tới tòa soạn, cũng là nơi quen biết lâu dài với SGN).
Ðể kết thúc bài viết, chúng tôi, Phan Nhật Nam kết luận về nhân vật Việt Thường, Trần Hồng Văn với những tay em (hoặc chính là bản thân thay danh tính): Trần Hồng Văn muốn lên ngôi “thủ lĩnh chống Cộng” tại hải ngoại nhưng kẹt những tên tuổi như Lý Tống, Nguyễn Chí Thiện... Chiến dịch được chuẩn bị từ 15 năm (như y ta đã viết nên), nhưng cụ thể chí ít cũng phải hai năm (thời gian NCT ở Pháp và y ta từ Anh qua hỏi về “Thi Sĩ Vô Danh” với Nguyễn Chí Thiện chứ không ai khác), Thế Huy cũng xuất hiện trong thời gian nầy với “Vè sĩ”.. Nay chiến dịch tiến hành với thành quả giai đoạn đầu rất đáng khích lệ: SUỐT THÁNG 9 NHỮNG DIỄN ÐÀN TRÊN HỆ THỐNG NET HẦU NHƯ KHÔNG MỘT CHỮ NÓI VỀ HOÀNG SA/TRƯỜNG SA!!
Trần Hồng Văn/Việt Thường có chống (Việt) cộng không? Có. Trần Hồng Văn/Việt Thường chưởi (Việt) cộng đúng không? Ðúng. Nhưng Trần Hồng Văn chống/chưởi Việt Cộng vì quyền lợi Trung Cộng với NHIỆM VỤ của một cán bộ CÁN BỘ HOA CỘNG chính gốc. Nay quyền lợi của Trung Cộng/Việt Cộng là MỘT, Trần Hồng Văn/Việt Thường giương cao khẩu hiệu: Chúng ta hãy nói về Nguyễn Chí Thiện! Hãy viết về Nguyễn Chí Thiện! Hãy loại bỏ Hoàng-Trường Sa ra khỏi trí nhớ!! Khu Thái Hà còn trên lãnh thổ Việt Nam, Công Giáo có thể (rất có thể) lấy lại... Hoàng Sa, Trường Sa biết đến bao giờ? Hở biết đến bao giờ? Việt Thường, Triệu Lan, Trần Thành, Nam Nhân... là người, địa danh của miền Nam sông Dương Tử. Triệu Lan cùng họ Triệu Ðà, vua nước Nam Việt bao gồm Quảng Ðông, Quảng Tây; Việt Thường Thị, tên của Chu Thành Vương gọi những bộ tộc phương Nam - Không hề là của Việt Nam. Càng không là Việt Nam Cộng Hòa.
Tháng 10/2008
26 tháng 10, Quốc Khánh Ðệ Nhất Cộng Hòa.
Phan Nhật Nam
TRẦN PHONG VŨ *NGUYỄN CHÍ THIỆN
Nghĩ về Nguyễn Chí Thiện
TRẦN PHONG VŨ
Saturday, October 04, 2008
Vài điều thưa trước: Tối Thứ Năm 25-9-2008, nhà văn Phan Nhật Nam có nhã ý dành cho tôi một cuộc phỏng vấn trên đài SBTN về biến cố Tòa Khâm Sứ Hà Nội và Thái Hà. Trước khi kết thúc, anh nêu một câu hỏi ngoài lề: “Anh nghĩ gì về chuyện 'NCT thật - NCT giả' vừa được khơi lại gần đây giữa lúc đang có những vấn đề nóng bỏng tại quốc nội? Nó có liên hệ gì tới điều dư luận cho là người ta muốn đánh lạc hướng sự quan tâm của bà con tị nạn ngoài này không?” Sau khi trả lời vắn tắt, tôi đã công khai nói với anh cũng như quý khán thính giả đài SBTN là nếu có thì giờ tôi sẽ lên tiếng.
Và đây là tiếng nói của tôi, một người làm truyền thông, văn hóa tự do.
Trước hết, cần nói ngay để tránh ngộ nhận: những gì tôi viết trong bài này không phải để bênh vực hay biện hộ cho nhà thơ Nguyễn Chí Thiện. Giản dị: vì tự thân con người, nhân cách, lối sống của anh cho thấy anh không cần ai bênh vực hay biện hộ.
Cách đây ít lâu, khi đọc được đây đó những lời lẽ gay gắt nhắm vào anh (vẫn không ngoài chuyện NCT thật - NCT giả, NCT chống cộng - NCT tay sai CS), tôi dọ ý xem anh có tính lên tiếng không thì nhận được câu trả lời: “Dứt khoát tôi sẽ không bao giờ lên tiếng, vì những ai tin tôi thì họ đã tin rồi. Còn những người không tin, hoặc cố tình không tin, thì dù có cải chính cách mấy cũng vô ích”.
Hiểu rõ tâm tính anh, từ đấy tôi không thắc mắc nữa.
Bài này cũng không phải để tranh luận hay phản bác quan điểm của những người chống đối, bôi bác Nguyễn Chí Thiện. Có thể không chia sẻ nhưng tôi tôn trọng ý kiến của mọi người theo cách riêng của tôi. Vì thế, trong bài viết ngắn này tôi chỉ giới hạn vào mục tiêu duy nhất là trình bày những gì tôi biết về nhà thơ Nguyễn Chí Thiện. Tôi không có ý thuyết phục bất cứ ai phải nghĩ về nhà thơ này giống tôi, và càng không có dụng tâm trả lời hay tranh luận với những vị có những quan điểm, nhận thức khác tôi.
Những điều tôi biết
Tôi được gặp và quen biết Nguyễn Chí Thiện (NCT) vào những năm đầu thiên niên thứ ba, thời gian Linh Mục Nguyễn Văn Lý tái phát động cuộc đấu tranh cho tự do tôn giáo, cho nhân quyền nhân phẩm Việt Nam. Ðây cũng là thời gian tôi cùng một số anh em bắt đầu thực hiện nguyệt san Diễn Ðàn Giáo Dân để tiếp tay cho những nỗ lực của những nhà dân chủ ở quốc nội, nhất là những nỗ lực của nhóm giáo sĩ Công giáo theo tinh thần cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Ðiền, trong đó, cha Lý được coi là cánh chim đầu đàn.
Cái biết và sự đồng cảm của tôi về nhà thơ NCT dựa trên hai nguồn chính:
1/ Những nhân chứng mà tôi may mắn được gặp:
(a) những người quen biết anh từ thời thơ ấu.
(b) những nhân vật đã sống, đã trải nghiệm cùng với anh về những khổ đau nghiệt ngã và từng thông chia với anh những vần thơ uất nghẹn được nghiền ngẫm và ghi lại trong ký ức qua những tháng năm dài trong ngục tù cộng sản. Tất cả những vị này hiện còn sống và đang có mặt ở hải ngoại hoặc ở trong nước.
2/ Những cảm nghiệm cùng những nhận định riêng của cá nhân tôi về con người và nhân cách NCT.
1- a/ Danh tính, quê hương, gốc gác NCT:
Cách đây không lâu, trong một buổi giới thiệu thi phẩm Hoa Ðịa Ngục (do Cành Nam miền đông Hoa Kỳ của giáo sư Nguyễn Ngọc Bích và bà Trương Anh Thụy xuất bản) ở phòng sinh hoạt đài Little Sàigòn Radio ở quận Cam, anh Nguyễn Thanh Hùng, một giọng ngâm thơ nổi tiếng trong nhiều chương trình thi văn trên đài phát thanh quốc gia trước tháng 4-75, được mời lên diễn đàn. Trước khi gửi tới cử tọa giọng ngâm điêu luyện, đa dạng và truyền cảm của anh, Nguyễn Thanh Hùng khua cây gậy chống [1] trước mặt tướng Nguyễn Bảo Trị và nhà thơ NCT trên hàng ghế đầu vừa cười vừa nhắc lại những kỷ niệm thời niên thiếu của anh với ông cựu tướng trong những năm sống ở Hà Nội trước 54. Riêng với tác giả Hoa Ðịa Ngục, anh chỉ vào nhà thơ và lớn tiếng nói với mọi người: còn ông thi sĩ này tôi biết ông từ thời ông còn là một cậu bé ở làng Thượng Thọ, đồng hương của tôi, anh ruột ông là cựu trung tá QLVNCH Nguyễn Công Giân hiện cư ngụ trên DC, ấy thế mà cho đến nay vẫn có người còn nghi ngờ ông là NCT giả!
Tôi tin lời chứng của Nguyễn Thanh Hùng vì tôi quen biết anh từ hồi còn ở trong nước và hiểu rất rõ về nhân cách của anh. Ngoài thái độ tôn trọng sự thật, không có lý do nào buộc anh phải lên tiếng về trường hợp NCT.
b/ Thời gian NCT bị cầm tù:
Những nhân vật giúp tôi biết về tác giả Hoa Ðịa Ngục trong những năm dài bị cộng sản cầm tù qua nhiều chặng thời gian và nơi chốn khác nhau gồm có các ông Nguyễn Ký, hai linh mục Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Viết C. [2], ông Kiều Duy Vĩnh và nhà văn Vũ Thư Hiên (trong số những vị này, hai ông NK, KDV và nhà văn VTH thuộc nhóm bạn tù thân tín được NCT đọc thơ cho nghe. Riêng nhà văn VTH, thay vì kể lại những gì ông trao đổi trực tiếp trong những lần gặp gỡ ở Mỹ hoặc ở Pháp, tôi sẽ trích lại những chứng từ của ông trong tác phẩm Ðêm Giữa Ban Ngày do nhà xuất bản Văn Nghệ ấn hành năm 1997 để độc giả dễ dàng tra cứu).
*Ông Nguyễn Ký: hiện cư ngụ trong vùng tiểu Sài Gòn nhiều dịp tới thăm NCT tại đây. Vì thế, tôi có cơ hội nói chuyện nhiều với ông Ký để có lần được cho biết: ông là người đầu tiên phát hiện NCT chính là tác giả thi phẩm đầu được lưu hành trong cộng đồng tị nạn ở HK dưới tiêu đề Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực khi chưa ai biết, kể cả những người in và phát hành tập thơ này.
Trả lời câu hỏi của tôi là nguyên do nào ông quen biết NCT và đưa vào đâu ông có thể xác quyết thi phẩm này là của NCT, ông Ký cho hay:
(1) Bản thân ông đã trải qua nhiều năm tù chung với NCT.
(2) Trong những thời khoảng bị giam chung, mỗi lần viết xong một bài thơ đắc ý, NCT thường lén đọc cho ông và một số bạn tù thân tín nghe. Nghe mãi rồi nhập tâm lúc nào không hay. Ðầu thập niên 80 (khoảng năm 1982), thời gian ông mới tị nạn qua Mỹ, đang theo học tại ÐH Fullerton. Một hôm có đứa cháu cho biết vừa được coi tập thơ có tên là Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực, rồi hỏi ông khi ở tù có quen ai từng làm thơ và đi tù tới hơn hai chục năm không, ông hỏi có nhờ bài nào trong tập thơ không thì cháu ông cố nặn trí nhớ và đọc cho ông nghe câu “Bác Hồ rồi lại Bác Tôn”. Ông nhẩm đọc lại câu thơ “có vẻ quen quen” và ngay lập tức cả một dĩ vãng tù đày hiện về trong tâm trí ông. Nhẩm lại câu thơ một lần nữa, rồi như một phản xạ của vô thức, miệng ông bật ra câu thơ kế “Cả hai đều thích ôm hôn nhi đồng”. Nhìn trân trân vào khoảng không, ông nói lớn: “đích thị là Nguyễn Chí Thiện rồi!”
Chuyện này đến tai nhạc sĩ du ca Nguyễn Ðức Quang. Qua nhạc sĩ NÐQ, ông Ký có cơ hội gặp gỡ và nói chuyện đầu đuôi với ông Ðỗ Ngọc Yến. Sau đó, với bút hiệu Minh Thi, ông Ký là người thứ nhất đã phát giác trên tờ nhật báo Người Việt: NCT chính là tác giả TVTÐV từ những năm đầu thập niên 80.
*Linh mục Nguyễn Văn Lý: người tù chung phòng với ông NCT trong hai năm 1990-1991 ở trại tù Nam Hà. Sau khi cha Lý tái phát động cuộc đấu tranh cho tự do tôn giáo, cho nhân quyền, nhân phẩm Việt Nam vào năm 2000, tôi có nhiều cơ hội liên lạc với ngài qua Email hoặc trực tiếp qua đường dây điện thoại viễn liên. Có lúc tôi đã hỏi về NCT và được cha Lý xác nhận tất cả những gì anh đã thuật lại với tôi.
*Linh mục Nguyễn Viết C.: hiện còn ở Việt Nam. Khoảng vài tháng trước, vị linh mục này qua thăm thân nhân ở Mỹ. Trong một bữa ăn ở nhà hàng Song Long đường Bolsa gồm có 5 người: ông Ký, NCT, linh mục C, linh mục Ðức Minh [3] và tôi. Dịp này, cha C. đã ôn lại nhiều kỷ niệm trong hơn 10 năm ngồi tù, kể cả thời gian bị đày ải lên Cổng Trời, trong đó có khoảng 7 năm tù chung với tác giả Hoa Ðịa Ngục. (LM C. phải vào tù ngay từ sau tháng 7-1954 khi còn là một chủng sinh. Sau khi được trả tự do ông trở lại chủng viện tiếp tục con đường tu học và mãi tới đầu thập niên 90 mới được chịu chức linh mục).
*Ông Kiều Duy Vĩnh (KDV): hiện ở Hà nội. Trong tác phẩm Chuyện Kể Năm 2000, nhà văn Bùi Ngọc Tấn có nhắc tới một nhân vật đồng tù tên Kiều Xuân Vĩnh. Ðấy chính là KDV mà vì lý do riêng tác giả họ Bùi đổi tên đệm của ông Vĩnh. Trước tháng 7 năm 1954, KDV là đại úy tiểu đoàn trưởng trong quân đội quốc gia. Ông là SVSQ trừ bị khóa đầu ở Nam Ðịnh. Sau nhiều lần bị từ chối, cách đây mấy năm ông được sở CA Hà nội cho phép qua Mỹ thăm thân nhân.
Trong buổi gặp gỡ anh em ở hàng hiên tòa soạn tuần báo Viettide (khi ấy còn ở đường Moran và là tòa soạn của tờ Việt Báo hiện nay), nhờ anh Ðỗ Việt Anh thông báo tôi tìm tới góp mặt. Nếu trí nhớ của tôi không quá tệ thì bữa ấy có sự hiện diện của các anh Vũ Thư Hiên, NCT, Ðỗ Quý Toàn, Ðỗ Việt Anh, Phạm Phú Minh, Phạm Quốc Bảo, Nguyễn Xuân Nghĩa, cô Mai Khanh và một số anh em khác tôi không nhớ hết, nhà văn Nhật Tiến có mặt nhưng vì bận bên trong tòa soạn nên ít xuất hiện... Trên bàn có bia và đồ nhậu (gà vịt quay, đồ phá lấu, bánh mì).
Tôi nhớ trong buổi gặp gỡ hôm ấy, KDV uống khá nhiều, gần như ông không ăn hoặc ăn rất ít. Ông kể lại đủ thứ chuyện: chuyện cùng với Phan Hữu Văn theo chân và chỉ đường vẽ lối cho mấy chuyên viên truyền hình người Pháp toan tính đột nhập trại Thanh Cẩm để phỏng vấn tù nhân Ðoàn Viết Hoạt nhưng bất thành, chỉ lấy được ít hình quanh trại. Những pha đứng tim mà anh và Phan Hữu Văn (thời gian hai người được tự do đang ở Hà Nội) trải qua trong cuộc phiêu lưu đầy bất trắc ấy. KDV cũng nói tới lý do ông kẹt lại Hà Nội năm 1954 rồi bị cộng sản tống vào nhà tù ngót 20 năm: vì chữ hiếu phải vâng lời song thân khi ấy mang ảo tưởng là cộng sản sẽ buông tha cho gia đình nhờ có công với kháng chiến (trước đây hai cụ đã đóng góp nhiều cho Mặt Trận Việt Minh). Nhưng các cụ đã lầm: chỉ ít lâu sau khi đất nước chia đôi, KDV bị tống giam và thân phụ ông bị đấu tố đến chết!
Có lúc ông khóc ngất. Có lúc ông cất tiếng cười như ngây, như dại. Giữa dòng lệ KDV cao giọng chửi đổng những kẻ may mắn được thoát thân ra hải ngoại, được hưởng đủ thứ tự do thế mà lại manh tâm mon men tìm về làm tôi mọi cho một chế độ bạo tàn!
Rồi ông đứng dậy cất giọng sang sảng ngâm thơ. Hết thơ Phạm Thái tới thơ NCT. Ngây ngất nhìn bóng dáng cao lớn của KDV, nghe ông ngâm thơ mà tôi như thấy thấp thoáng trước mắt, trong hồn, hình ảnh uy dũng mang vẻ man dại, hoang đường của một mẫu tráng sĩ thời xưa. Ông ngâm hết bài này đến bài khác, nhất là những trích đoạn ẩn giấu tâm trạng bi phẫn trong bài thơ dài có tên Ðồng Lầy [4]. Những vần thơ hào sảng như nằm sẵn trong ký ức cứ thế tuần tự trào ra. Có một lúc, NCT hích vào vai tôi nói nhỏ: trí nhớ thằng Vĩnh thật khiếp đảm! Anh có nhận ra bài nó vừa ngâm không? Nó nói của tôi mà chính tôi cũng không còn nhớ nữa.
Ngày hôm sau, như đã ước hẹn trước, tôi tới nhà cựu trung tá Khanh thuộc binh chủng không quân đón KDV đi thăm một nhóm bạn bè, phần đông là những người chưa hề biết ông. Trong khi trao đổi, chuyện trò với anh em, ông tâm sự: “vợ tôi là người Công giáo, chúng tôi lấy nhau nhưng đạo ai nấy giữ. Tuy vậy, vì chiều vợ, tối tối tôi thường cầu kinh chung với bà và các con tôi. Mỗi lần đọc kinh Lạy Cha đến câu ‘...như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con’ là tôi khựng lại. Tôi không muốn đọc tiếp. Không phải là người quá khích, tôi có thể tha bất cứ ai, riêng tụi cộng sản bất nhân đã làm tan nát gia đình tôi, tôi không thể nào tha được!”
KDV cũng kể cho tôi và các bạn tôi nghe nhiều chi tiết về NCT trong những năm tháng ở tù chung, kể cả những gặp gỡ sau này vào những thời gian hai người được trả tự do. KDV cho biết, chính trong những thời khoảng ấy, ông được NCT đọc cho nghe những vần thơ được viết ra bằng máu lệ của anh, đến nỗi lâu ngày đã nhập tâm, cho đến nhiều năm sau ông vẫn còn nhớ.
Trong dịp này, theo lời yêu cầu của KDV tôi đã tìm gặp thân nhân, bạn bè xin được một số kính lão, kính cận đủ thứ để tặng ông, vì theo ông, những cặp kính đáng vứt đi hoặc bi bỏ xó bên này nhưng lại rất cần cho bà con bên nhà phần đông là những người nghèo khổ không có khả năng mua kính mới. Tôi và nhóm bạn bè tôi cũng tặng anh một ngân khoản, giúp anh trang trải một phần những chi phí bắt buộc cho chuyến đi thăm thân nhân. Dịp Uyên Thao về thăm Việt Nam vài năm trước tôi cũng gửi mấy trăm để biếu người bạn mới này.
*Nhà văn Vũ Thư Hiên: Ðể khỏi phải kể lại những gì tôi được nghe từ chính cửa miệng VTH trong một lần gặp gỡ bên Pháp và nhiều lần ở Mỹ, tôi xin trích lại vài đoạn trọng tác phẩm Ðêm Giữa Ban Ngày của anh do Văn Nghệ xuất bản tại California, HK lần đầu năm 1997 [5].
Trang 725 ÐGBN dòng thứ 6 tính từ đầu trang:
“Anh Nguyễn Chí Thiện, một tù nhân có thâm niên đáng kính, một nhà thơ được ưu ái trong tầng lớp trí thức của xã hội tù...”
Trang 726 ÐGBN từ dòng thứ tư đến cuối và qua 25 dòng đầu trang 727:
“Nguyễn Chí Thiện làm nhiều thơ. Chiều chiều chúng tôi tụ họp nhau ở sau trại ngắm hoàng hôn, uống trà và nghe thơ. Nhìn cảnh những Kiều Duy Vĩnh, Nguyễn Chí Thiện, Lê Trình, Văn Thợ Mộc, Tôn Thất Tần..., kẻ đứng người ngồi trong ráng chiều bàng bạc của một vùng rừng núi âm u bắt đầu ngả sang màu tím, tôi nhớ tới bức tranh vẽ Những Người Tháng Chạp [6] trong cảnh lưu đày ở Sibir thời Nga Hoàng.
Những bài thơ của Nguyễn Chí Thiện không hợp với tạng tôi. Thơ của anh trần trụi, bổ bã, nói thẳng vào vấn đề, mà tôi thì lại thích thơ gợi, thơ kích thích trí tưởng tượng, thứ thơ cho phép người đọc được tham gia thêm vào cái đã có sẵn trong bài thơ, câu thơ một chút tâm hồn mình. Nhưng cũng có bài của anh đọng lại trong trí nhớ:
Không có chỗ cho con tàu trái đất
Tôi là người hành khách bơ vơ.
Lỡ chuyến, lầm ga, mất cắp, bây giờ
Tôi ủ rũ trên sàn toa lạnh ngắt,
Cái toa đen dành cho súc vật.
Hoặc:
Người xưa ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Rồi cúi đầu thương nhớ quê hương...
Còn tôi đây ngẩng đầu nhìn nhện chăng tơ vướng
Rồi cúi đầu nhặt hạt cơm vương... [7]
Cao lênh khênh giữa các bạn tù, Nguyễn Chí Thiện nhìn đời qua cặp kính trắng mà đàng sau chúng là cặp mắt lồi ngơ ngác.
Bộ quần áo trại phát, dự tính cho người tù có chiều cao trung bình, quá cũn cỡn trên người anh, làm thò đôi cẳng chân khẳng khiu ra ngoài. Thiện không bao giờ đi dép, tứ thời anh diện đôi guốc mộc tự đẽo, làm anh cao thêm mấy phân nữa. Thiện không phải là người tù bướng bỉnh, chống đối bất cứ ai vào bất cứ lúc nào. Anh còn thuộc loại hiền lành nữa là khác. Có vẻ lúc nào anh cũng ngơ ngác, cũng ngạc nhiên trước cuộc đời bụi bậm và uế tạp. Anh ghê tởm nó, nhưng cũng không có ý định dọn dẹp nó hay sửa chữa nó. Nói tóm lại anh chẳng gây sự với cán bộ trại giam. Nhưng đó là một người tù không thể bẻ gẫy. Tinh thần bất khuất trong những người tù không biểu hiện ở thái độ ngang tàng mà ở thái độ bất cần, thái độ khinh mạn.
Có lần đi lao động về tôi thấy Nguyễn Chí Thiện đã bị khóa cánh tiên ngoài cổng trại. Trông anh như bộ xương người trong giờ cách trí - lồng ngực ưỡn ra nhìn rõ từng rẻ sườn. Nhìn thấy tôi Thiện mặt đỏ gay còn cố mỉm cười thay lời chào.
Trình Hàng Vải thì thào với tôi:
- Chúng nó bắt được mấy bài thơ của Thiện.
Những người tù số lẻ lặng lẽ đi ngang bạn mình đang bị hành hạ. Mặt họ đanh lại. Tôi nghĩ: chỉ cần nhìn thấy cảnh này chứ không cần nếm nó người dân cũng khó mà yêu được chế độ.
Kiều Duy Vĩnh đánh giá cao cái ngoại lệ mà người tù chống cộng cực đoan dành cho tôi.
- Thiện nó tin anh lắm đấy! Mà cũng trọng anh lắm đấy! Nếu không nó chẳng đọc thơ cho anh nghe đâu...
Nói chuyện trực tiếp qua đường dây điện thoại với tác giả ÐGBN chiều Thứ Tư 01-10-08, tôi được Vũ Thư Hiên xác nhận là những đoạn liên hệ tới NCT trong hồi ký, anh viết từ những năm 1993, 1994, tức là thời gian NCT còn ở trong nước chưa qua Hoa Kỳ. Theo tôi, đây là một sự kiện đáng chú ý.
2/ Những trải nghiệm riêng
Tám năm trời quen biết, tôi có dịp gặp gỡ, trao đổi với NCT trong nhiều sinh hoạt cộng đồng. Không phải chỉ ở quận Cam, mà còn ở nhiều nơi. (Những lần cùng anh xuất hiện trong những cuộc họp báo, những cuộc phỏng vấn, những buổi hội luận trên các đài phát thanh, các chương trình truyền hình ở Nam hoặc Bắc California. Những lần giới thiệu sách cho bản thân, cho những bằng hữu thân quen như giáo sư Ðỗ Mạnh Tri (Pháp): các tác phẩm Hiện Tượng Nguyệt Biều - Di Sản mác-Xít Tại Việt Nam; như nhà biên khảo Minh Võ (San Diego, HK): các tác phẩm Hồ Chí Minh, Nhận Ðịnh Tổng Hợp - Sách Lược Xâm Lăng của CS-; như nữ sĩ Tường Lam (Ðức quốc): Ngược Dòng Thời Gian; anh cũng đề tựa cuốn Ai Giết Hồ Chí Minh của Minh Võ...). Qua những sinh hoạt này, tôi nhận ra nơi NCT:
- Một mẫu người có trí nhớ đặc biệt, óc nhận xét, phán đoán tinh tế, sắc bén.
- Một lối sống giản dị, khiêm tốn, hòa đồng với tha nhân.
- Một nhân cách khác thường: trọng điều nhân nghĩa hơn tiền bạc, dứt khoát chọn lối sống khắc khổ, tự chế như một nhà tu.
- Quan trọng hơn hết, nơi anh tôi bắt gặp một người có một tinh thần quốc gia không dời đổi, một lập trường chống cộng -nói chính xác hơn là chống cái ác- dứt khoát, kiên định. Có lần Ðỗ Mạnh Tri nói với bạn bè anh: “đối với tôi, chỉ với Hoa Ðịa Ngục, Nguyễn Chí Thiện đã là một Monument, một Tượng Ðài sống”. Riêng người viết những dòng này đã hơn một lần thú nhận với những người thân quen: cùng một đề tài vạch trần tội ác cộng sản, một tiếng nói của NCT nặng gấp trăm lần tiếng nói của tôi.
Sau đây là vài dấu chứng cụ thể:
Về nhân cách NCT: Chưa bao giờ tôi thấy anh thất hứa với bạn bè. Chưa lần nào anh tỏ ra là kẻ chuộng hư danh, ham tiền bạc. Dù cuộc sống đơn nghèo, đạm bạc (trước khi được hưởng tiền trợ cấp SSI dành cho những người trên 65 tuổi, anh sống bằng tiền nhuận bút của hai tác phẩm Hoa Ðịa Ngục và Hỏa Lò do nhà xuất bản Cành nam ở miền Ðông chi trả [8] và trong ba năm ở Pháp do tổ chức IPW (International Parliament of Writers) đài thọ chi phí ăn ở), anh luôn khảng khái khước từ sự giúp đỡ của anh em, dù nhiều hay ít, kể cả trường hợp những tác giả nhờ anh đi đây đó giới thiệu sách và tỏ ý muốn biếu tặng anh một số tiền như một cách để cám ơn anh.
Gần đây, vì nhà văn Phan Nhật Nam có ý bán căn nhà nhỏ của anh trong khu mobilhome trên đường Mc Fadden (nơi NCT đang ở chung), anh hỏi tôi xem có chỗ nào cho share phòng không, tôi tâm sự với một người bạn. Ngay sau đó người bạn này và chủ nhà vốn là người thân của anh mời tôi và NCT tới coi một căn hộ thật khang trang trên lầu một, với đầy đủ tiện nghi: phòng ngủ, bếp, phòng tiếp khách, trang bị đồ đạc tươm tất, sẵn sàng để dọn vào. Trong một buổi ăn chiều hôm sau ở nhà hàng Bon Ami trên đường Euclid, trước mặt tôi và anh bạn, chủ nhân thẳng thắn ngỏ lời mời NCT đến ở vô điều kiện, không phải trả bất cứ chi phí nào, kể cả tiền nhà. Anh cám ơn và khất sẽ trả lời sau khi đi San Franciso, theo lời mời của tổ chức Pháp Luân Công, trở về. Nhưng khi ra xe, anh nói nhỏ với tôi: “Vì không muốn làm buồn lòng một người có lòng tốt với mình, tôi chưa trả lời ngay. Nhưng trong thâm tâm tôi đã quyết định từ chối. Anh nghĩ coi: làm sao tôi có thể nhận một ân huệ lớn lao một cách khơi khơi như vậy được!”
Lần anh giúp giới thiệu tác phẩm Di Sản Mác-Xít Tại Việt nam, tác giả là giáo sư Ðỗ Mạnh Tri nhờ tôi chuyển biếu anh 300 MK, nhưng anh dứt khoát chối từ. Viện cớ là không có nhu cầu. Bị ép quá, anh nhận, nhưng ngay sau đó đã tặng lại cho nguyệt san DÐGD vào lúc tờ báo còn ở giai đoạn phôi thai. Lần anh giúp giới thiệu tác phẩm Hồ Chí Minh, Nhận Ðịnh Tổng Hợp và viết lời tựa cho cuốn Ai Giết Hồ Chí Minh trước đó của nhà biên khảo Minh Võ, anh cũng nhất định từ chối không nhận tiền, mặc dầu tôi và anh Minh Võ hết sức nài ép. Trường hợp anh giới thiệu tác phẩm Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Vĩ Nhân Thời Ðại của tôi ở Nam California ấn bản đầu năm 2005 và lần tái bản năm 2006 trên San Jose cũng tượng tự như thế. Rồi đến lần tiến sĩ Bùi Hạnh Nghi, phu quân nữ sĩ Tường Lam từ Ðức quốc qua nhờ anh giới thiệu cuốn Ngược Dòng Thời Gian ở quận Cam và San Jose anh vẫn giữ nguyên tắc bất di dịch là một mực chối từ mọi thứ thù lao, mà theo lẽ công bằng anh có quyền nhận.
Cuối cùng, tôi đành bịa ra vài lý do để gián tiếp giúp anh.
Thứ nhất, đưa tiền nhờ anh chuyển biếu những nhà văn trong nước mà anh thường giúp đỡ (vì trong quá khứ tôi đã chứng kiến nhiều lần anh trao tiền tận tay cho nhà văn Vũ Thư Hiên, khi 200 khi 100 để nhờ chuyển về VN tặng những người bạn tù ngày xưa, trong khi tôi biết rõ bản thân anh lúc ấy cũng không dư dả gì.) Những dịp như vậy có lần anh nhận và cũng có lần anh từ chối với lý do vừa mới gửi rồi.
Thứ hai, khi nhà xuất bản Cành Nam tái bản cuốn Hoa Ðịa Ngục, tôi đã trao anh một số tiền mặt nói là để đặt mua trước mấy chục cuốn tặng bạn bè ở xa. Cách này thật ra cũng chỉ có giá trị tượng trưng vì thực ra sách của anh mỗi lần tái bản và giới thiệu đây đó đều được độc giả nhiệt tình chiếu cố không còn một cuốn. Tôi còn nhớ hôm giới thiệu sách ở hội trường đài Little Sàigòn Radio, theo lời căn dặn trước của NCT, ông Nguyễn Ký, một trong những người tình nguyện giúp anh trong buổi sinh hoạt hôm ấy, đã gói sẵn số sách tôi đặt mua. Nhưng vào phút chót, khi thấy vẫn có người cần mà sách đã hết, tôi nói ông Ký mở ra để bán. Phần tôi sẽ chờ lấy đợt sau.
Về khả năng và trí thông minh: Có nhiều cơ hội nói chuyện trực tiếp với NCT và qua những lần nghe anh phát biểu về nhiều lãnh vực, từ chính trị tới văn hóa, thi ca đông tây kim cổ [9], thấy anh quán triệt gần như tất cả mọi vấn đề, tôi không khỏi ngạc nhiên khi đối chiếu với tuổi tác và thời gian vướng vòng lao lý rất sớm của anh.
Về khả năng Pháp ngữ, tôi phải thành thật thú nhận là tôi không đủ tư cách để đưa ra nhận xét riêng. Nhưng dựa vào những gì nguyên luật sư kiêm nghị sĩ Nguyễn Văn Chức nói với tôi, tôi tin NCT là người có trình độ. Tôi thường tự hỏi: do đâu mà một người sinh năm 1939, bị đi tù rất sớm như NCT lại có được một khả năng hiểu biết về Pháp ngữ như thế? Theo tôi phỏng đoán thì có lẽ nhờ trí thông minh, có năng khiếu về ngoại ngữ, dựa vào cái nền của những năm ở bậc tiểu, trung học và tổng cộng thời gian 27 năm ngồi tù giúp anh có cơ hội học hỏi qua sách vở và các bạn đồng tù, nên mới được như thế chăng? Trong tác phẩm Viết Về Bè Bạn, nhà văn Bùi Ngọc Tấn có nói tới trường hợp nhà văn Dương Tường, một người ngồi trên ghế nhà trường không được bao lâu, tham gia kháng chiến, đi bộ đội từ thời niên thiếu, rày đây mai đó, nhưng vì hiếu học, chiếc ba lô trên vai lúc nào cũng đầy nhóc sách vở. Nhờ thế sau này không những Dương Tường nối tiếng là người viết và là nhà phê bình văn học có hạng mà còn là người thông thạo nhiều sinh ngữ. Ông quen biết rất nhiều tác giả Âu Mỹ. Mỗi khi những vị này ghé qua Việt nam đều phải nhờ tới vai trò trung gian của ông. Tiết lộ của nhà văn họ Bùi giúp tôi lý giải một phần thắc mắc về trường hợp NCT.
Trở lại những điều luật sư Nguyễn Văn Chức nói với tôi về NCT, có lúc tôi ngần ngại không muốn nhắc tới trong bài viết này, vì sợ do một căn nguyên nào đó sẽ bị phủ nhận. Nhưng tin rằng sự thật trước sau vẫn là sự thật, và hẳn luật sư Chức, dù trong hoàn cảnh nào, cũng chia sẻ một niềm tin như tôi, do đó tôi xin phép ghi lại vài lời, vẫn chỉ với mục tiêu duy nhất là trình bày những gì tôi biết về NCT mà thôi.
Năm 1996, khi tôi viết xong tập biên khảo Một Thoáng Nhìn Về GHVN Qua Biểu Tượng Ðức Gioan Phaolô II, tôi được luật sư Nguyễn Văn Chức viết Lời Tựa cho cuốn sách. Từ đấy chúng tôi thường liên lạc với nhau. Một hôm (tôi không nhớ đích xác năm nào), trong khi đàm đạo nhiều chuyện qua đường dây điện thoại viễn liên, luật sư Chức đề cập tới NCT. Ông cho hay đã có lần NCT ở chơi trong nhà ông cả tuần lễ. Trong thời gian ấy, NCT lúc nào cũng quanh quẩn bên tủ sách của ông, trong đó hầu hết đều là sách tiếng Pháp và tiếng Anh, văn học, thi ca, chính trị, luật pháp, đủ loại. Ban đầu ông hoài nghi trình độ đọc và hiểu Pháp ngữ của NCT, vì thế nhân một lúc thuận tiện ông gợi lại tên và tác phẩm của một vài tác giả Pháp để dò ý NCT. Và qua cuộc trao đổi hôm ấy ông nhìn nhận là NCT có một trình độ khá vững về Pháp ngữ cũng như am tường về nhiều tác giả, tác phẩm thời danh của Pháp. [10]
Về trí nhớ và óc phân tích, tổng hợp: Qua những lần cùng NCT lên tiếng trong những buổi hội luận hoặc phỏng vấn trên TV, Radio, hoặc những lần nghe anh nói chuyện đây đó, điều tôi hết sức cảm phục là trí nhớ đặc biệt và óc phân tích, tổng hợp sắc bén, nhanh nhạy của anh. Ký ức của NCT không chỉ giới hạn trong hàng trăm bài thơ của anh, hay của một vài tác giả nào đó mà anh đã nhập tâm từ thuở nào. Nó còn bộc lộ cả trong những trích dẫn bất chợt về câu nói của một văn nhân, nghệ sĩ, một chính trị gia, một nhà khoa học đông tây, kim cổ nào đó khi anh cần minh chứng hoặc làm sáng lên ý tưởng của một vấn đề anh vừa đề cập. Trong những lần NCT được mời thuyết trình, tôi chưa bao giờ thấy anh phải viết ra giấy, dù chỉ là một dàn bài sơ lược.
NCT có một lối nói dễ dàng, giản dị, không cầu kỳ, làm dáng. Anh luôn tỏ ra là người biết tôn trọng đối tượng anh nói với, và vì thế anh được cử tọa, dù thuộc thành phần thượng lưu, trí thức hay bình dân quý mến và nồng nhiệt đón nhận. Một phần quan trọng, theo nhận định của tôi, là mỗi khi đến với cử tọa, với khán thính giả, anh đến bằng tấm lòng, bằng trái tim chứ không chỉ bằng ngôn ngữ. Những gì anh nói ra xuất phát từ tấm lòng chân thành, ngay thẳng của mình.
Về lập trường chính trị: Nguyễn Chí Thiện không phải là một chính trị gia. Anh không xếp hàng trong bất cứ đảng phái chính trị nào. Nhưng anh là người có một lập trường chính trị rõ rệt, dứt khoát, không dời đổi. Ðó là lập trường quốc gia, chống lại mọi thế lức gian dối, độc ác mà chủ nghĩa nô bộc cộng sản được anh xếp lên hàng đầu. Trong hồi ký Ðêm Giữa Ban Ngày, nhà văn Vũ Thư Hiên xếp NCT vào loại “chống cộng cực đoan”. Ở một khía cạnh nào đó, nhận xét này không sai. Nơi cuối trang 725 và đầu trang 726, nhà văn họ Vũ viết:
“- Nạn đói là kinh niên đối với một nước như Trung Quốc - tôi nói với Thiện. Không phải những người cộng sản là nguyên nhân duy nhất. Thời Tưởng, tôi biết, nạn đói còn xảy ra nhiều hơn. Hãy nhớ lại bọn Tàu phù sang ta năm 1945. Không phải chỉ đói, mà còn man rợ nữa...
Thiện trợn mắt. Anh không thích một câu đế ngang xương như thế. Với anh, cộng sản là xấu, là tồi tệ, là kinh tởm, chấm hết. Không một cái gì của cộng sản có thể là tốt.
Cái cách tôi đánh đồng loại chính quyền Tưởng Giới Thạch với chính quyền Mao Trạch Ðông như thế là không được. Không hiểu sao anh vẫn chấp nhận tôi...”
Có lẽ chỉ với hai tác phẩm Hoa Ðịa Ngục, Hỏa Lò và với những chứng từ trên đây của nhà văn Vũ Thư Hiên đã quá đủ. Tôi không cần phải nhắc lại những gì chính tai tôi được nghe trong những buổi thuyết trình, hội luận, phỏng vấn ở nhiều nơi mà NCT là diễn giả chính, để chứng minh lập trường quyết liệt và dứt khoát của anh đối với chủ nghĩa độc tài chuyên chính cộng san. Ngay lúc đang ở trong nhà tù cộng sản mà NCT đã như thế thì khi được tháo cũi, sổ lồng, anh có bôn ba đây đó để vạch trần bộ mặt thật nhơ nhớp, phản bội đất nước, phản bội dân tộc của chế độ cộng sản thì chỉ là chuyện đương nhiên, không cần tranh cãi.
Nhắc tới nguồn dư luận cho rằng NCT đang ở hải ngoại là NCT “giả” do cộng sản dựng lên để phá đám, một người bạn nói đùa với tôi: nếu đúng như vậy thì tôi mong cộng đồng mình ở ngoài này được đảng và nhà nước chiếu cố cung cấp thêm cho vài ba chục hoặc 100 NCT khác nữa. Dù là câu nói đùa, tự thâm tâm tôi chia sẻ ước mong này của anh bạn.
Vài dòng trước khi kết thúc
Trên đây là tất cả những gì tôi biết về con người, tác phong, tư cách và lập trường của nhà thơ NCT. Cái biết ấy căn cứ vào những gì chính tôi nghe được, đọc được qua những chứng từ của những nhân vật hiện còn sống ở trong nước hoặc hải ngoại, trong đó có những chi tiết trích dẫn nguyên văn trong tập hồi ký đồ sộ của nhà văn Vũ Thư Hiên: tác phẩm Ðêm Giữa Ban Ngày.
Tôi không che giấu tình cảm kính trọng và quý mến của tôi đối với NCT.
Vì nhân cách của anh. Nhất là vì ở anh, tôi tìm được một mẫu người đồng tâm, đồng chí. Cả anh và tôi đều không trực tiếp làm chính trị, không có tham vọng chính trị, nhưng chúng tôi có chung một ý thức và quan điểm chính trị: ngày nào còn sống, còn thở, chúng tôi quyết tâm tiếp tục dấn thân tiếp tay với những cá nhân, những tập thể đang đấu tranh tiêu diệt mọi thế lực gian dối, độc ác để xây dựng một một thể chế dân chủ, tư do, trong đó nhân quyền, nhân phẩm của 84 triệu đồng bào phải được triệt để tôn trọng trên quê hương Việt Nam.
Nam California, ngày 02-10-2008
Trần Phong Vũ
===
Thursday, October 16, 2008
VÔ DANH SOẠN * TỰ DIỂN BẮC NAM ĐỐÌ CHIẾU
TỰ DIỂN BẮC NAM ĐỐÌ CHIẾU
VÔ DANH SOẠN
Bắc than Gầy thì Nam bảo Ốm
Bắc cáo Ốm, Nam khai Bịnh hay Ðau
Bắc Cuốc nhanh, Nam Ði bộ mau mau
Bắc bảo Muộn thì Nam cho là Trễ
Nam Mần sơ sơ Bắc Nàm nấy nệ
Bắc Lệ trào Nam Chảy nước mắt ra
Bắc nói Úi Chà, Nam kêu Ui Da
Bắc Bước vào kia, Nam Ði vô trỏng
Nam kêu Vạc Tre, Bắc là Cái Chõng
Nam Trả Treo, Bắc Lý Luận ngược xuôi
Nam biểu Vui Ghê, Bắc nói Buồn Cười
Bắc chỉ Thế Thôi, Nam là Vậy Ðó
Nam làm Giỏ Tre, Bắc đan cá i Rọ
Nam Muỗng cà phê, Bắc gọi cái Thìa
Nam Muỗng canh, Bắc gọi cái Cùi dìa
Nam Ði tuốt, thì Bắc Lìa xa mãi
Nam Nói Dai, Bắc cho là Lải Nhải
Nam kêu Xe Hơi, Bắc gọi Ô Tô
Nam xài Dù, thì Bắc lại dùng Ô
Nam Ði trốn, Bắc cho là Lánh mặt
Nam la Hơi Mắc, Bắc là Khá Ðắt
Nam Mần Ăn, thì Bắc cũng Kinh Doanh
Nam Chối Lòng Vòng, Bắc bảo Dối Quanh
Nam biểu Từ Từ, Bắc khuyên Gượm lại
Nam Ngu Ghê, còn Bắc là Quá Dại
Nam Sợ Ghê, Bắc thì Hãi Quá đi
Nam Nói Gì ? Bắc hỏi Dạ bảo chi
Nam kêu Trúng Lắm, Bắc bàn Chí Phải
Bắc gọi Thích ghê, Nam kêu là Khoái
Bắp Nam kêu hái, Bắc bảo Vặt Ngô
Bắc thích cứ Vồ, Nam ưng là ChB Bp
Nam rờ Bông Bụp, Bắc vuốt Tường Vi
Nam nói: mày đi ! Bắc rên: cút xéo
Bắc bảo: cứ véo ! Nam: ngắt nó đị
Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gói
Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn !
Bắc nói tiền đồn, Nam kêu chòi gác
Bắc nói khoác lác, Nam bảo xạo ke
Mưa đến Nam che, gió ngang Bắc chắn
Bắc khen giỏi mắng, Nam nói chửi hay
Bắc nấu thịt cầy, Nam chê thịt chó
Bắc vén búi tó, Nam bới tóc lên
Anh Cả Bắc quên, anh Hai Nam lú
Nam: ăn đi chú, Bắc: mời anh xơi !
Bắc mới tập bơi, Nam thời đi lội
Bắc đi phó hội, Nam tới chia vui
Bắc kéo xe lôi, xích lô Nam đạp
Bắc bảo cao to Nam cho là lớn
Ðùa mà không thật, Bắc bảo là điêu
Giỡn hớt đã nhiều, Nam kêu là xạo
Nam thời mập bạo, Bắc bảo béo ghê
Bắc bảo sướng phê, Nam rên đã quá !
Bắc hay đi phá Bắc đả bằng gươm
Nam chọc bị lườm, kiếm Nam, Nam thọt
Bắc uống bia bọt, Nam nhậu lade
Bắc bùi bùi lạc rang, Nam thơm thơm đậu phụng
Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len lén ăn vèn
Nam toe toét "hổng chịu đèn", Bắc vặn mình "em chả"
Bắc giấm chua "cái ả", Nam bặm trợn "con kia"
Nam chửi "tên cà chua", Bắc rủa "đồ phải gió"
Nam nhậu nhẹt thịt chó, Bắc đánh chén cầy tơ
Bắc vờ vịt lá mơ, Nam thẳng thừng lá thúi địt !
==
Wednesday, October 8, 2008
TRẦN MỘNG TÚ * TÔI LÀ AI ?
TRẦN MỘNG TÚ
TÔI LÀ AI ?
Có phải nếu mình ở một nơi nào trên dưới ba mươi năm thì mình là người thuộc địa phương đó, đúng không? Đã biết bao nhiêu lần tôi đặt ra câu hỏi đó sau một ngày nhìn vào lịch thấy con số ghi năm đã bước vào năm thứ ba mươi của một người tị nạn. Bây giờ có ai mới quen gặp tôi, hỏi: Bà ở đâu đến vậy? Thì chắc tôi sẽ trả lời rất tự nhiên là Tôi ở Seattle hay khi đang đi du lịch thì sẽ trả lời Tôi ở Mỹ đến. Tôi sẽ không trả lời là tôi ở Việt Nam đến nữa, chỉ trừ người ta hỏi Bà là người nước nào? Thì lúc đó tôi chắc chắn nói Tôi là người Việt Nam. Để cho họ không nhầm với người Trung Hoa, Nhật, hay Phi.
Đúng, tôi ở Mỹ trên, dưới ba mươi năm rồi, tôi là một người Mỹ. Bây giờ thử xem lại con người Mỹ của tôi. Trước tiên mặt mũi, chân tay tôi chẳng có gì thay đổi cả. Vẫn khuôn mặt cấu trúc ít góc cạnh của người Á Đông và cái mũi tẹt khiêm tốn, tóc sợi to và đen, khi có tóc bạc thì nhìn thấy ngay, muốn giấu thì phải nhuộm. Đối với người Á Đông thì tôi được gọi là người có nước da trắng, nhưng mầu trắng này thực ra là mầu ngà, và đứng cạnh một ông Tây, bà Mỹ nào thì nó vẫn cho cái căn cước là da vàng rất rõ rệt.. Khi tôi nói tiếng Anh thì cách phát âm vẫn có vấn đề, đôi khi nói nhanh quá thì sẽ vấp phải lỗi nói tiếng Anh theo cách dịch tiếng Việt trong đầu. Như thế bị chê là nói Tiếng Anh bể (Broken English) Về cách phục sức, nhà ở, xe cộ bên ngoài tôi có thể không kém một người Mỹ chính gốc. Nhưng khi bước vào nhà tôi; Từ những bức tranh treo ở phòng khách, bát đũa bầy ở bàn ăn, chai nước mắm, hũ dưa cải trong bếp và nhất là sách, báo tiếng Việt ở khắp nơi trong nhà, thì chắc ai cũng sẽ nhận ra ngay đó là một gia đình Việt Nam. Như thế thì tôi là người Seattle hay người Hà Nội, người Mỹ hay người Việt? Tôi ở đất này đến ba mươi năm rồi cơ mà.
Người ở Lạng Sơn, Thanh Hóa ra Hà Nội ở trên dưới ba mươi năm thì tự nhận mình là người Hà Nội; Người ở Hải Phòng, Hải Dương vào Sài Gòn lập nghiệp từ năm 75, 76 tự nhận mình là người trong Nam...
Tôi ở Mỹ tìm về Việt Nam không ai chịu nhận tôi là người Việt nữa, dù tôi có yêu quê hương đến quặn thắt cả ruột gan, có gặp lại họ hàng nước mắt khôn cầm thì khi thăm viếng, hỏi han, họ vẫn thỉnh thoảng nói rất tự nhiên: Chị đâu có phải là người Việt nữa. Bây giờ Chị là người Mỹ rồi, chắc cái này không hạp với chị, cái kia chị không ăn được, cái nọ chị không biết đâu. Những lúc đó tôi chẳng biết mình phải phản ứng thế nào cho đúng. Cứ cãi tôi vẫn Việt hay nhận đúng rồi tôi là Mỹ? Không, cả hai cùng sai cả. Những khi cần quyên tiền đóng góp vào việc công ích nào ở Việt Nam thì ai ai cũng nhắc lại cho tôi đến ngàn lần tôi là một người Việt Nam chính gốc. Tôi phải có bổn phận và tình thương với đất nước, đồng bào. Tình thương thì nhất định lúc nào tôi cũng đầy ắp trong ngực rồi, tôi chẳng cần ai nhắc nữa, nhưng bổn phận thì cho tôi nghĩ lại. Tôi đã đóng góp bổn phận của tôi cho đất nước đó rồi. Một mối tình chết tức tưởi trong chiến tranh hơn ba mươi năm về trước, xương thịt của người tôi yêu nằm trong lòng đất, rồi lại phải đào lên, đốt thành tro than, bị đuổi mộ như đuổi nhà, đã trả bổn phận đó thay tôi rồi. Không đủ hay sao? Bây giờ tôi phải có bổn phận đóng thuế hàng năm ở đất nước tôi đang sống để phụ với chính phủ sửa đường, xây trường học và nuôi những người ở khắp nơi mới tới, như trước kia đất nước này đã nuôi người Việt, vì giấy tờ cá nhân hiện tại xác định tôi là người Mỹ. Tôi phải làm bổn phận công dân.
Có những ngày tôi lái xe bị kẹt ở xa lộ vào một buổi chiều mưa mùa thu; Hay một buổi sáng mùa xuân vắng lặng, êm ả đứng trong nhà nhìn ra mặt hồ. Tôi cảm nhận được nơi mình đang hiện diện không phải là quê mình, không phải nước mình. Chẳng có một lí do gì cụ thể, chỉ là những giọt mưa đập vào kính xe, chỉ là mặt nước hồ gờn gợn sóng, Mưa trên xa lộ Mỹ nhắc nhớ đến những cơn mưa tháng Năm ở Thị Nghè, nhà mình; ở Trần quý Cáp, nhà anh; ở trước rạp ciné Eden đúng trú mưa với nhau. Nước ở hồ Sammamish trước nhà nhắc đến nước sông ở bến Bạch Đằng mỗi lần qua phà sang bên kia Thủ Thiêm chơi với bạn, hay sóng nước ở bắc Mỹ Thuận những lần qua phà đi thăm họ hàng ở tận Bạc Liêu. Những lúc đó tôi bất chợt bắt gặp mình Việt Nam quá, vì những cái bóng Việt Nam thật mờ, thật xa lại chồng lên hình ảnh rõ rệt ngay trước mặt mình. Và kỳ diệu làm sao những cái bóng đó nó mạnh đến nỗi mình quên mất là mình đang ở Mỹ. Chắc tại tôi là người Việt Nam.
Lại có những lần tôi ở Việt Nam, bị muỗi đốt kín cả hai ống chân, bị đau bụng liên miên cả tuần lễ. Đi đâu cũng phải hỏi đường, ai nhìn mình cũng biết mình từ đâu đến và đang đi lạc,tiền bạc tính hoài vẫn sai. Nhiều khi đứng chênh vênh trên đường phố Sài Gòn, biết đất nước này vẫn là quê hương mình, những người đi lại chung quanh là đồng bào mình, nhưng sao không giống Việt Nam của mình ngày trước, hình như đã có điều gì rất lạ. Ngôn ngữ Việt thì thay đổi rất nhiều, pha trộn nửa Hán nửa Ta, chắp đầu của chữ này với cuối chữ của chữ kia, làm nên một chữ mới thật là 'Ấn Tượng.' Cách phát âm của người Hà Nội bây giờ không giống cách phát âm cũ của ông bà, cha mẹ tôi ngày trước, và họ nói nhanh quá, tôi nghe không kịp. Cái tiếng nói trầm bổng, thanh lịch, chậm rãi, rõ ràng từng chữ của thời xa xưa bây giờ chỉ còn là cổ tích...
Ngửng mặt lên nhìn bầu trời, vẫn bầu trời xanh biếc của thời tuổi trẻ, cúi xuống nhìn mặt đất, vẫn mặt đất thân quen, nhưng sao lòng hoang mang quá đỗi, và thấy đã có một khoảng cách nghìn trùng vô hình giữa mình và quê hương đất Việt. Chắc tôi là người Mỹ.
So sánh thời gian tôi sinh ra, sống ở Việt Nam và thời gian tôi bỏ Việt Nam ra đi, sống ở Mỹ hai con số đó đã gần ngang nhau. Tôi được học từ nhỏ quê hương là nơi tổ tiên lập nghiệp, là nơi chôn nhau cắt rốn, Ở trong nước có bài hát nổi tiếng Quê hương mỗi người có một, như là chỉ một mẹ thôi. Nhưngcó người lại nói: Nơi nào mình sống ở đó suốt một quãng đời dài, có những người thân chung quanh mình, hưởng những ân huệ của phần đất cưu mang mình, thì nơi đó cũng được gọi là quê hương mình. Như vậy thì tôi có một hay hai quê?
Tôi sống ở Mỹ thì bạn bè gặp nhau thường nói: Cái này người Việt mình không hạp, hoặc người Mỹ họ mới thích nghi được việc này, người Việt mình không quen. Khi đi dự buổi tiệc cuối năm của một công ty lớn ở Mỹ, toàn là những người Mỹ sang trọng thì thấy rõ ngay mình là người Việt đi lạc, dù mình có sang trọng, lịch sự như họ. Hóa ra ở Mỹ hay về Việt Nam mình đều lạc chỗ cả.
Tôi nhớ mấy năm trước có lần trò chuyện với Mẹ của một người bạn, lúc đó cụ ngoài 80 hãy còn minh mẫn, cụ theo đạo Phật. Trưởng nam của cụ và con dâu cụ tự nhiên rủ nhau theo đạo Công Giáo. Găp tôi cụ hỏi: Không biết anh Bình nhà tôi khi chết thì đi đâu? Phật giận anh ấy, vì anh ấy bỏ đi, Chúa chắc gì cho anh ấy vào, vì anh ấy mới quá! Năm nay cụ ngoài 90 tuổi rồi và may quá, cụ bị Alzheimer, cụ không còn minh mẫn để lo con mình không có chỗ dung thân cho phần hồn.
Bây giờ thỉnh thoảng nghĩ lại những lời cụ nói, thấy mình ngay ở đời sống này cũng đã là một vạt nắng phất phơ bay. Quê nhà, quê người, quê Mỹ, quê Việt. Chao ôi! Cái thân cỏ bồng.
Nhưng lạ lắm, tôi biết chắc mình là người Việt nhất là khi tôi nằm mơ. Trong giấc ngủ tôi thường gặp cha mẹ, gặp ngay trong những ngôi nhà cũ ở Việt Nam, gặp bạn bè cũng gặp trên đường phố Việt Nam từ ngày rất xa xưa, và bao giờ trong mơ cũng đối thoại bằng tiếng Việt. Tỉnh dậy đôi khi vẫn ứa nước mắt, dù là một giấc mơ vui. Thấy nhớ quê nhà quá đỗi!
Tôi nhớ lại trong những truyện ngắn, những bài thơ Đường tôi đọc thời rất xa xưa về người bỏ làng đi xa lâu năm trở về không ai nhận ra nữa. Hồi đó sao mà mình thương những ông già trong thơ đó thế! Bây giờ nghĩ lại thì người trong sách đó còn may mắn hơn mình, họ đâu có đi đến tận một nước khác như mình. Họ chỉ bỏ làng, chứ không bỏ nước. Thế mà khi về còn ngơ ngác, bùi ngùi, tủi thân vì lạc chỗ ngay trong làng mình.
So sánh tôi với người bỏ làng ra đi trong những trang sách đó thì hoàn cảnh của tôi đáng buồn hơn nhiều. Không những đã bỏ làng, bỏ nước đi, còn nhận quốc tịch của một nước khác.
Khi về đổi họ thay tên.
Núi chùng bóng tủi sông ghen cạn dòng.(tmt)
Tôi là ai?
NGÀY VĂN HÓA VIỆT NAM
*
Tường thuật :
Ngày gặp gỡ văn hóa Việt Nam hải ngoại
(lần đầu tiên được tổ chức tại Bruxelles, tháng 08-2008)
NS Lê Mộng Nguyên tường thuật trên Radio Free VietNam - New Orleans ngày thứ tư 17 th.09-2008 những ngày gặp gỡ văn hóa Việt Nam tại thủ đô nước Bỉ :
Vì thời giờ hạn định trong khuôn khổ một chương trình phát thanh ngày thứ tư mỗi tuần của RFV do Phân bộ Paris phụ trách, cho nên tôi chỉ tường thuật sơ qua Ngày Gặp Gỡ Văn Hóa Thường Niên Việt Nam Hải Ngoại mà Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ (Strasbourg, Pháp) đã tổ chức lần đầu tiên tại Trung Tâm Văn Hóa Maison Notre-Dame du Chant d’Oiseau, Bruxelles (thủ đô Vương quốc Bỉ), từ chiều thứ sáu 29 tháng 08 đến sáng thứ hai ngày 01 tháng 09-2008.
Trong lời chào mừng sáng ngày thứ bảy 29 tháng 08 của GS Nguyễn Đăng Trúc – thay mặt Ban Tổ Chức – có một đoạn cuối đầy ý nghĩa, như sau : “Chúng ta qui tụ nhau hôm nay trong Ngày Văn Hóa Truyền Thống của Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại…không phải để đề xuất đường lối dựa vào một quan điểm, một lập trường được chỉ đạo bởi bất cứ ai, cũng không dự kiến tạo nên một cơ chế, một tổ chức trong khuôn khổ của một hiệp hội, tôn giáo, chính đảng hay chế độ chính trị nào, nhưng chúng ta đồng ý kiến với nhau để gặp gỡ và thông tri cho nhau những sáng tác, những sinh hoạt văn hóa mà cá nhân hay cộng đồng chúng ta đang thực hiện.”
Nêu cao tinh thần tự do tư tưởng và tự do phát biểu, mục đích của Ngày Gặp Gỡ Văn Hóa đã đạt được vẹn toàn qua những bài thuyết trình rất cao nhã về mặt trí thức chung quanh chủ đề “Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại : thực tại và ý nghĩa ” :
1) Đề tài thứ nhất : Thử đi tìm Hồn Việt qua cách khảo sát ngôn ngữ để góp phần phát huy căn tính Việt tộc được Linh Mục Hồng Kim Linh, TS văn chương tại Institut Catholique - Paris và tại Đại học Sorbonne, Paris (Pháp) đảm nhiệm.
2) Đề tài thứ hai : Văn hóa Việt Nam trong thời toàn cầu hóa do Giáo sư TS triết học và thần học luân lý Nguyễn Thái Hợp thuyết trình.
3) Đề tài thứ ba : Chung đụng văn hóa xã hội tại Việt nam trong thời kỳ giữa hai cuộc đại chiến do Nhạc sĩ, Luật sư GS-Tiến sĩ Quốc gia, Viện sĩ Hàn Lâm Lê Mộng Nguyên trình bày đại khái về cuộc xung đột của hai nền văn hóa Á Âu giữa hai thế chiến, đã ảnh hưởng sâu mạnh vào sự thoái lui của thực dân Pháp ở Việt Nam sau Điện Biên Phủ thất thủ ngày 07 tháng 05 và Hiệp Định Genève ký kết ngày 20 tháng 07 năm 1954. Tác giả nhắc lại một thời đại đảo điên vào thập niên 30 mà xã hội VN thấm nhuần triết lý Khổng, Phật và Lão với những giá trị cổ truyền, phải chống đối với cải tân của Âu Tây do nước Pháp đem lại (dù muốn dù không) cho dân bản xứ , như những quan niệm về quyền tự do của mỗi người và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, mà một ngày sau sẽ là nguyên nhân dấy loạn của dân thuộc địa nổi lên chống bạo tàn, giành lại tự do và độc lập cho nước nhà. Bản chất nguồn gốc cuộc giải phóng này nằm trong sự thành hình của một phần tử tinh nhuệ mới (la nouvelle élite) thuộc hạng trung lưu trí thức Âu Tây hóa (la moyenne bourgeoisie intellectuelle occidentalisée), đã giữ một vai trò ưu tiên (vì hấp thụ nền văn hóa cải tân dựa trên Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp 1789) trong giai đoạn khởi công giải thoát chính trị và xã hội của nhân dân VN, bên cạnh và chung sức với những tầng lớp đang lên của thợ thuyền nông dân và kỹ nghệ.
4) Đề tài thứ tư : Thân phận lưu vong do TS Văn chương, cao học kinh tế, TS Luật học Bùi Hạnh Nghi (nguyên giám đốc ngân hàng Napoli tại Đức) phụ trách thuyết trình về hai phương diện chính trị và địa lý, và qua hai điểm tiêu cực (buồn bã ở xứ người…) và tích cực (tầm mắt phóng xa…).
5) Đề tài thứ năm : Tiến sĩ triết học, GS tại Đại học Minh Đức (VN) trước 1975, và ĐH Strasbourg-Phân khoa Thần học (Pháp) Nguyễn Đăng Trúc nói về Văn hóa và thân phận lưu đày của con người. Bài thuyết trình của ông Hội trưởng Convergence (Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ) làm nổi bật quan niệm về “ý thức nhân tính và phát huy nhân tính” (theo diễn giả) phải là “nội dung thiết yếu và tối thượng của văn hóa, cũng như cái “Nghiệp lưu đày (đã) gắn liền với nhân tính” : từ thời khai sinh của các nền văn hóa Hy Lạp, văn hóa Trung Hoa (Lão, Khổng), qua Đức Phật và truyền thống Phật giáo, Do Thái giáo và Ki tô giáo… cho đến truyền thống văn hóa Việt Nam, trong huyền thoại (kiếp lưu vong của Âu Cơ, Tiên Dung, Chử Đồng Tử, Mai An Tiêm…) hoặc trong Đoạn Trường Tân Thanh của đại thi hào Nguyễn Du. Diễn giả nhấn mạnh về văn hóa nhân tính“biểu hiện lòng bao dung và liên đới”, nêu cao phẩm giá con người, không hạn định bởi thời gian và không gian… “vượt lên trên những đánh giá và luật lệ của các định chế xã hội…”, và kết luận : “Cộng đồng Việt Nam hải ngoại đang sống thân phận lưu đày trong hoàn cảnh lịch sử cụ thế của đất nước và trọng trách gìn giữ cũng như phát huy văn hóa”.
Chiều thứ bảy 30 tháng 08-2008 từ 15 giờ đến 17 giờ để dành cho phần phát biểu tự do và tham luận của một số nhân vật đã ghi trước, như TS Nguyễn Văn Hướng (bút hiệu Hoài Việt) đã nói về “Thi họa Việt, Pháp và sự trao đổi văn hóa Việt, Pháp”, TS Khoa học Hoàng Đức Phương phát biểu về : “Văn hóa, chất liệu kết hợp để thoát hiểm”, và nhân dịp đã đưa ra một vài định nghĩa rất hay và đáng chú ý về văn hóa, chẳng hạn : “Văn-Hóa là tiếng Tầu (có gạch nối) : Văn là đẹp, hóa là cách sống nhẹ nhàng và thanh tao. Nếp sống là tiếng Việt : Hiện tượng này thì hành động kia (phản xạ tự nhiên).” Theo bản Sơ Đồ Biến Thái Văn Hóa do ông thiết kế ngày 28/05/2008 tại Paris : phát minh khoa học bắt nguồn từ ngày phát minh ra lửa làm cho nếp sống tâm linh của con người được thảnh thơi và nếp sống vật chất được sung túc (no ấm)… Văn Hóa ổn định cuộc sống thực tế trong cộng đồng và ổn định chính trị bằng cách đòi hỏi thay đổi cơ cấu xã hội (nhờ Tư Duy và Tư Tưởng nguồn gốc của những học thuyết), nhằm đem lại hạnh phúc cho đời và con người.
Dược sĩ Nguyễn Hiền, hội trưởng Hội Văn Hóa Cái Đình (Hòa Lan), tham luận với đề tài : “Cộng đồng người Việt hải ngoại và sự phát triển văn hóa Việt Nam”, Kỹ sư Lý hóa Trịnh Khải, nguyên tổng thanh tra Bộ Giáo Dục VNCH, trình bày “Văn hóa và chính trị qua chế độ cộng sản VN với chiến lược xâm lăng Trung cộng” , TS Triết học Nguyễn Khắc Tiến Tùng, GS tại Đại Học Đức quốc, nói về chủ đề văn chương : “1946-1954, một giai đoạn văn sáng tác bị lãng quên” và sau hết là nhà Kinh tế học Đinh Lâm Thanh, người sáng lập Hội Văn Hóa Người Việt Tự Do, tổ chức nhà xb Sài Gòn tại California (Hoa Kỳ), trình bày đề tài : “Tương quan văn hóa và chính trị” : Theo ông … “Hai lãnh vực văn hóa và chính trị, bất luận dưới thời nào cũng phải được kết hợp, dung hòa, đồng thời bổ túc lẫn nhau để đưa đời sống con người đến Chân Thiện mỹ (Nhân bản, Tự do) hoặc phục vụ tối đa cho quyền lực phe nhóm đảng phái (Quân phiệt, Cộng sản)… Và kết luận xác đáng : Xin ghi nhớ, chúng ta là những chiến sĩ trong cuộc chiến giữa hai nền văn hóa nhân bản và văn hóa vô sản. Kẻ thù với khả năng dư thừa sẵn có, chúng đang lấn áp chúng ta trên mọi lãnh vực. Nếu những nhà làm văn hóa không tiếp tay với Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia thì xin im lặng, đừng lên tiếng đòi hỏi loại bỏ yếu tố chính trị ra ngoài vòng chiến, vì thái độ và hành động này không khác gì việc nối giáo cho giặc, phá hoại công cuộc tranh đấu chung của toàn thể dân tộc VN hiện nay”.
Tối thứ bảy 30 tháng 08-2008 từ 21 giờ đến 23 giờ, tại Nhà Hát Lớn của Trung Tâm Maison Notre-Dame du Chant d’Oiseau – Bruxelles dưới chủ đề Lược khảo về nhạc tiền chiến và trình diễn nhạc của nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên, Ban Tổ Chức giao phó sứ mệnh làm MC điều hợp chương trình cho ông Phạm Hồng Lam. Sau lược sử diễn tiến của nhạc tiền chiến trong quá khứ, nghĩa là trước chiến tranh Quốc Gia - Cộng Sản vào khoảng năm 1955-1956, ông Phạm Hồng Lam bắt đầu trình bày tiểu sử Lê Mộng Nguyên, Tác giả và Tác phẩm, và cử tọa quan khách đông đảo gần 150, đều công nhận (thích thú) rằng ông Phạm Hồng Lam là một nhà ký sự hóm hỉnh, đã làm nổi bật một cách hào hứng và hài hước, đầy tinh thần và tài năng một mối tình rất lãng mạn của hai đứa trẻ yêu nhau trong thời khói lửa, qua bức tranh linh động của Trăng Mờ Bên Suối : “Ai hay chia lìa, Sương khói biên thùy, Hiu hắt người đi sa trường xa…” Về phần trình diễn nhạc LMN, ban nhạc gồm có Lâm Chi Thiên Lý (đàn piano – synthétiseur), Đoàn Công Dũng (guitare espagnole) và Quách Vĩnh Thiện là người nhạc sĩ đã độc tấu Tây Ban Cầm một cách lão luyện và tài năng bài Apace hoặc TMBS cùng Việt Nam ThắmTươi (Vietnam Radieux Mon Pays) của Lê Mộng Nguyên trong những phút nghỉ ngơi giữa hai thuyết trình sáng và chiều thứ bảy 30 tháng 08-2008 đã nói trên. Trong Đêm Nhạc LMN, người ca sĩ rường cột Đoàn Công Đức đã trình bày với giọng ca Baryton (tuyệt vời) 3 bài của người nghệ sĩ xứ Huế : TMBS, Chiều Vàng Năm Xưa và Một Chiều Thương Nhớ, và bài Đêm Đông của Nguyễn Văn Thương. Mai Thị Ngọc Hương và Nguyễn Thị Lệ Thu (cùng với một số nữ tham dự viên yểu điệu khúc nghê thường) đã trình bày với giọng ca êm dịu và đầy nhung nhớ hai bài Mơ Đà Lạt và Nhớ Huế của Lê Mộng Nguyên. Đêm trình diễn nhạc tiền chiến, khai mạc với hợp ca Việt Nam Minh Châu Trời Đông của Hùng Lân, được bế mạc với ban hợp ca (gồm ca sĩ Đoàn Công Đức, MC Phạm Hồng Lam và tác giả cùng cử tọa khán giả) trình bày Việt Nam Thắm Tươi (Sau Ngày Hồi Phục Đất Nước Tự Do) của Lê Mộng Nguyên trong bầu không khí hân hoan của quí đồng hương đã tham dự vào một đêm văn nghệ thành công mỹ mãn.
Sáng chủ nhật 31 tháng 08-2008 : Trình bày Dự án Ngày Gặp Gỡ Văn Hóa Thường Niên Việt Nam Hải Ngoại do Kỹ sư Nguyễn Minh Chính điều hợp, qua 2 điểm : - Phúc trình về tiến trình vận động dự án - Trình bày nội dung, và sau thảo luận…, đã đưa đến : 1. quyết định rằng NGÀY GẶP GỠ VĂN HÓA THƯỜNG NIÊN VIỆT NAM HẢI NGOẠI nằm trong khuôn khổ Câu Lạc Bộ Văn Hóa, được đặt dưới sự điều hành bởi một Ban Điều Hợp (BĐH) gồm 12 người do các tham dự viên hiện diện đề cử cho nhiệm kỳ 2008-2009 (với 5 vị cố vấn thường trực); 2. quyết định rằng NGGVHTNVNHN lần thứ hai cũng sẽ được tổ chức tại Trung Tâm Văn Hóa Maison Notre-Dame du Chant d’Oiseau, Bruxelles (Vương quốc Bỉ). GS Nguyễn Đăng Trúc, Hội trưởng Convergence trong dịp này, đã trình bày một Dự án thành lập Học Viện Nhân Văn Và Nghệ Thuật VNHN.
Chiều chủ nhật 31 tháng 08, từ 15 giờ đến 19 giờ : Sau khi GS Nguyễn Văn Thành thuyết trình về “Con đường bao dung trong văn hóa và huyền sử VN”, và lời giới thiệu thân thế do Kỹ sư Nguyễn Minh Chính, GS Lê Mộng Nguyên giới thiệu NS Quách Vĩnh Thiện phổ thơ Nguyễn Du toàn bộ : một công trình vĩ đại về phần sáng tác và thực hiện 7 CD gồm 77 bài hát qua 3254 câu thơ của Đoạn Trường Tân Thanh. Để chấm dứt, tôi đã xin mời quí vị thính giả của Đài Việt Nam Tự Do – New Orleans thưởng thức trong chương trình ngày Thứ Tư 17 tháng 09-2008 của Phân Bộ Paris, bài nhạc Việt Nam Thắm Tươi của Lê Mộng Nguyên qua hòa âm và hòa tấu Tây Ban Cầm – synthétiseur của NS Quách Vĩnh Thiện.
Lê Mộng Nguyên (Paris)
http://ca.youtube.com/watch?v=_apLp74Xhw4
===
Tường thuật :
Ngày gặp gỡ văn hóa Việt Nam hải ngoại
(lần đầu tiên được tổ chức tại Bruxelles, tháng 08-2008)
NS Lê Mộng Nguyên tường thuật trên Radio Free VietNam - New Orleans ngày thứ tư 17 th.09-2008 những ngày gặp gỡ văn hóa Việt Nam tại thủ đô nước Bỉ :
Vì thời giờ hạn định trong khuôn khổ một chương trình phát thanh ngày thứ tư mỗi tuần của RFV do Phân bộ Paris phụ trách, cho nên tôi chỉ tường thuật sơ qua Ngày Gặp Gỡ Văn Hóa Thường Niên Việt Nam Hải Ngoại mà Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ (Strasbourg, Pháp) đã tổ chức lần đầu tiên tại Trung Tâm Văn Hóa Maison Notre-Dame du Chant d’Oiseau, Bruxelles (thủ đô Vương quốc Bỉ), từ chiều thứ sáu 29 tháng 08 đến sáng thứ hai ngày 01 tháng 09-2008.
Trong lời chào mừng sáng ngày thứ bảy 29 tháng 08 của GS Nguyễn Đăng Trúc – thay mặt Ban Tổ Chức – có một đoạn cuối đầy ý nghĩa, như sau : “Chúng ta qui tụ nhau hôm nay trong Ngày Văn Hóa Truyền Thống của Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại…không phải để đề xuất đường lối dựa vào một quan điểm, một lập trường được chỉ đạo bởi bất cứ ai, cũng không dự kiến tạo nên một cơ chế, một tổ chức trong khuôn khổ của một hiệp hội, tôn giáo, chính đảng hay chế độ chính trị nào, nhưng chúng ta đồng ý kiến với nhau để gặp gỡ và thông tri cho nhau những sáng tác, những sinh hoạt văn hóa mà cá nhân hay cộng đồng chúng ta đang thực hiện.”
Nêu cao tinh thần tự do tư tưởng và tự do phát biểu, mục đích của Ngày Gặp Gỡ Văn Hóa đã đạt được vẹn toàn qua những bài thuyết trình rất cao nhã về mặt trí thức chung quanh chủ đề “Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại : thực tại và ý nghĩa ” :
1) Đề tài thứ nhất : Thử đi tìm Hồn Việt qua cách khảo sát ngôn ngữ để góp phần phát huy căn tính Việt tộc được Linh Mục Hồng Kim Linh, TS văn chương tại Institut Catholique - Paris và tại Đại học Sorbonne, Paris (Pháp) đảm nhiệm.
2) Đề tài thứ hai : Văn hóa Việt Nam trong thời toàn cầu hóa do Giáo sư TS triết học và thần học luân lý Nguyễn Thái Hợp thuyết trình.
3) Đề tài thứ ba : Chung đụng văn hóa xã hội tại Việt nam trong thời kỳ giữa hai cuộc đại chiến do Nhạc sĩ, Luật sư GS-Tiến sĩ Quốc gia, Viện sĩ Hàn Lâm Lê Mộng Nguyên trình bày đại khái về cuộc xung đột của hai nền văn hóa Á Âu giữa hai thế chiến, đã ảnh hưởng sâu mạnh vào sự thoái lui của thực dân Pháp ở Việt Nam sau Điện Biên Phủ thất thủ ngày 07 tháng 05 và Hiệp Định Genève ký kết ngày 20 tháng 07 năm 1954. Tác giả nhắc lại một thời đại đảo điên vào thập niên 30 mà xã hội VN thấm nhuần triết lý Khổng, Phật và Lão với những giá trị cổ truyền, phải chống đối với cải tân của Âu Tây do nước Pháp đem lại (dù muốn dù không) cho dân bản xứ , như những quan niệm về quyền tự do của mỗi người và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, mà một ngày sau sẽ là nguyên nhân dấy loạn của dân thuộc địa nổi lên chống bạo tàn, giành lại tự do và độc lập cho nước nhà. Bản chất nguồn gốc cuộc giải phóng này nằm trong sự thành hình của một phần tử tinh nhuệ mới (la nouvelle élite) thuộc hạng trung lưu trí thức Âu Tây hóa (la moyenne bourgeoisie intellectuelle occidentalisée), đã giữ một vai trò ưu tiên (vì hấp thụ nền văn hóa cải tân dựa trên Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp 1789) trong giai đoạn khởi công giải thoát chính trị và xã hội của nhân dân VN, bên cạnh và chung sức với những tầng lớp đang lên của thợ thuyền nông dân và kỹ nghệ.
4) Đề tài thứ tư : Thân phận lưu vong do TS Văn chương, cao học kinh tế, TS Luật học Bùi Hạnh Nghi (nguyên giám đốc ngân hàng Napoli tại Đức) phụ trách thuyết trình về hai phương diện chính trị và địa lý, và qua hai điểm tiêu cực (buồn bã ở xứ người…) và tích cực (tầm mắt phóng xa…).
5) Đề tài thứ năm : Tiến sĩ triết học, GS tại Đại học Minh Đức (VN) trước 1975, và ĐH Strasbourg-Phân khoa Thần học (Pháp) Nguyễn Đăng Trúc nói về Văn hóa và thân phận lưu đày của con người. Bài thuyết trình của ông Hội trưởng Convergence (Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ) làm nổi bật quan niệm về “ý thức nhân tính và phát huy nhân tính” (theo diễn giả) phải là “nội dung thiết yếu và tối thượng của văn hóa, cũng như cái “Nghiệp lưu đày (đã) gắn liền với nhân tính” : từ thời khai sinh của các nền văn hóa Hy Lạp, văn hóa Trung Hoa (Lão, Khổng), qua Đức Phật và truyền thống Phật giáo, Do Thái giáo và Ki tô giáo… cho đến truyền thống văn hóa Việt Nam, trong huyền thoại (kiếp lưu vong của Âu Cơ, Tiên Dung, Chử Đồng Tử, Mai An Tiêm…) hoặc trong Đoạn Trường Tân Thanh của đại thi hào Nguyễn Du. Diễn giả nhấn mạnh về văn hóa nhân tính“biểu hiện lòng bao dung và liên đới”, nêu cao phẩm giá con người, không hạn định bởi thời gian và không gian… “vượt lên trên những đánh giá và luật lệ của các định chế xã hội…”, và kết luận : “Cộng đồng Việt Nam hải ngoại đang sống thân phận lưu đày trong hoàn cảnh lịch sử cụ thế của đất nước và trọng trách gìn giữ cũng như phát huy văn hóa”.
Chiều thứ bảy 30 tháng 08-2008 từ 15 giờ đến 17 giờ để dành cho phần phát biểu tự do và tham luận của một số nhân vật đã ghi trước, như TS Nguyễn Văn Hướng (bút hiệu Hoài Việt) đã nói về “Thi họa Việt, Pháp và sự trao đổi văn hóa Việt, Pháp”, TS Khoa học Hoàng Đức Phương phát biểu về : “Văn hóa, chất liệu kết hợp để thoát hiểm”, và nhân dịp đã đưa ra một vài định nghĩa rất hay và đáng chú ý về văn hóa, chẳng hạn : “Văn-Hóa là tiếng Tầu (có gạch nối) : Văn là đẹp, hóa là cách sống nhẹ nhàng và thanh tao. Nếp sống là tiếng Việt : Hiện tượng này thì hành động kia (phản xạ tự nhiên).” Theo bản Sơ Đồ Biến Thái Văn Hóa do ông thiết kế ngày 28/05/2008 tại Paris : phát minh khoa học bắt nguồn từ ngày phát minh ra lửa làm cho nếp sống tâm linh của con người được thảnh thơi và nếp sống vật chất được sung túc (no ấm)… Văn Hóa ổn định cuộc sống thực tế trong cộng đồng và ổn định chính trị bằng cách đòi hỏi thay đổi cơ cấu xã hội (nhờ Tư Duy và Tư Tưởng nguồn gốc của những học thuyết), nhằm đem lại hạnh phúc cho đời và con người.
Dược sĩ Nguyễn Hiền, hội trưởng Hội Văn Hóa Cái Đình (Hòa Lan), tham luận với đề tài : “Cộng đồng người Việt hải ngoại và sự phát triển văn hóa Việt Nam”, Kỹ sư Lý hóa Trịnh Khải, nguyên tổng thanh tra Bộ Giáo Dục VNCH, trình bày “Văn hóa và chính trị qua chế độ cộng sản VN với chiến lược xâm lăng Trung cộng” , TS Triết học Nguyễn Khắc Tiến Tùng, GS tại Đại Học Đức quốc, nói về chủ đề văn chương : “1946-1954, một giai đoạn văn sáng tác bị lãng quên” và sau hết là nhà Kinh tế học Đinh Lâm Thanh, người sáng lập Hội Văn Hóa Người Việt Tự Do, tổ chức nhà xb Sài Gòn tại California (Hoa Kỳ), trình bày đề tài : “Tương quan văn hóa và chính trị” : Theo ông … “Hai lãnh vực văn hóa và chính trị, bất luận dưới thời nào cũng phải được kết hợp, dung hòa, đồng thời bổ túc lẫn nhau để đưa đời sống con người đến Chân Thiện mỹ (Nhân bản, Tự do) hoặc phục vụ tối đa cho quyền lực phe nhóm đảng phái (Quân phiệt, Cộng sản)… Và kết luận xác đáng : Xin ghi nhớ, chúng ta là những chiến sĩ trong cuộc chiến giữa hai nền văn hóa nhân bản và văn hóa vô sản. Kẻ thù với khả năng dư thừa sẵn có, chúng đang lấn áp chúng ta trên mọi lãnh vực. Nếu những nhà làm văn hóa không tiếp tay với Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia thì xin im lặng, đừng lên tiếng đòi hỏi loại bỏ yếu tố chính trị ra ngoài vòng chiến, vì thái độ và hành động này không khác gì việc nối giáo cho giặc, phá hoại công cuộc tranh đấu chung của toàn thể dân tộc VN hiện nay”.
Tối thứ bảy 30 tháng 08-2008 từ 21 giờ đến 23 giờ, tại Nhà Hát Lớn của Trung Tâm Maison Notre-Dame du Chant d’Oiseau – Bruxelles dưới chủ đề Lược khảo về nhạc tiền chiến và trình diễn nhạc của nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên, Ban Tổ Chức giao phó sứ mệnh làm MC điều hợp chương trình cho ông Phạm Hồng Lam. Sau lược sử diễn tiến của nhạc tiền chiến trong quá khứ, nghĩa là trước chiến tranh Quốc Gia - Cộng Sản vào khoảng năm 1955-1956, ông Phạm Hồng Lam bắt đầu trình bày tiểu sử Lê Mộng Nguyên, Tác giả và Tác phẩm, và cử tọa quan khách đông đảo gần 150, đều công nhận (thích thú) rằng ông Phạm Hồng Lam là một nhà ký sự hóm hỉnh, đã làm nổi bật một cách hào hứng và hài hước, đầy tinh thần và tài năng một mối tình rất lãng mạn của hai đứa trẻ yêu nhau trong thời khói lửa, qua bức tranh linh động của Trăng Mờ Bên Suối : “Ai hay chia lìa, Sương khói biên thùy, Hiu hắt người đi sa trường xa…” Về phần trình diễn nhạc LMN, ban nhạc gồm có Lâm Chi Thiên Lý (đàn piano – synthétiseur), Đoàn Công Dũng (guitare espagnole) và Quách Vĩnh Thiện là người nhạc sĩ đã độc tấu Tây Ban Cầm một cách lão luyện và tài năng bài Apace hoặc TMBS cùng Việt Nam ThắmTươi (Vietnam Radieux Mon Pays) của Lê Mộng Nguyên trong những phút nghỉ ngơi giữa hai thuyết trình sáng và chiều thứ bảy 30 tháng 08-2008 đã nói trên. Trong Đêm Nhạc LMN, người ca sĩ rường cột Đoàn Công Đức đã trình bày với giọng ca Baryton (tuyệt vời) 3 bài của người nghệ sĩ xứ Huế : TMBS, Chiều Vàng Năm Xưa và Một Chiều Thương Nhớ, và bài Đêm Đông của Nguyễn Văn Thương. Mai Thị Ngọc Hương và Nguyễn Thị Lệ Thu (cùng với một số nữ tham dự viên yểu điệu khúc nghê thường) đã trình bày với giọng ca êm dịu và đầy nhung nhớ hai bài Mơ Đà Lạt và Nhớ Huế của Lê Mộng Nguyên. Đêm trình diễn nhạc tiền chiến, khai mạc với hợp ca Việt Nam Minh Châu Trời Đông của Hùng Lân, được bế mạc với ban hợp ca (gồm ca sĩ Đoàn Công Đức, MC Phạm Hồng Lam và tác giả cùng cử tọa khán giả) trình bày Việt Nam Thắm Tươi (Sau Ngày Hồi Phục Đất Nước Tự Do) của Lê Mộng Nguyên trong bầu không khí hân hoan của quí đồng hương đã tham dự vào một đêm văn nghệ thành công mỹ mãn.
Sáng chủ nhật 31 tháng 08-2008 : Trình bày Dự án Ngày Gặp Gỡ Văn Hóa Thường Niên Việt Nam Hải Ngoại do Kỹ sư Nguyễn Minh Chính điều hợp, qua 2 điểm : - Phúc trình về tiến trình vận động dự án - Trình bày nội dung, và sau thảo luận…, đã đưa đến : 1. quyết định rằng NGÀY GẶP GỠ VĂN HÓA THƯỜNG NIÊN VIỆT NAM HẢI NGOẠI nằm trong khuôn khổ Câu Lạc Bộ Văn Hóa, được đặt dưới sự điều hành bởi một Ban Điều Hợp (BĐH) gồm 12 người do các tham dự viên hiện diện đề cử cho nhiệm kỳ 2008-2009 (với 5 vị cố vấn thường trực); 2. quyết định rằng NGGVHTNVNHN lần thứ hai cũng sẽ được tổ chức tại Trung Tâm Văn Hóa Maison Notre-Dame du Chant d’Oiseau, Bruxelles (Vương quốc Bỉ). GS Nguyễn Đăng Trúc, Hội trưởng Convergence trong dịp này, đã trình bày một Dự án thành lập Học Viện Nhân Văn Và Nghệ Thuật VNHN.
Chiều chủ nhật 31 tháng 08, từ 15 giờ đến 19 giờ : Sau khi GS Nguyễn Văn Thành thuyết trình về “Con đường bao dung trong văn hóa và huyền sử VN”, và lời giới thiệu thân thế do Kỹ sư Nguyễn Minh Chính, GS Lê Mộng Nguyên giới thiệu NS Quách Vĩnh Thiện phổ thơ Nguyễn Du toàn bộ : một công trình vĩ đại về phần sáng tác và thực hiện 7 CD gồm 77 bài hát qua 3254 câu thơ của Đoạn Trường Tân Thanh. Để chấm dứt, tôi đã xin mời quí vị thính giả của Đài Việt Nam Tự Do – New Orleans thưởng thức trong chương trình ngày Thứ Tư 17 tháng 09-2008 của Phân Bộ Paris, bài nhạc Việt Nam Thắm Tươi của Lê Mộng Nguyên qua hòa âm và hòa tấu Tây Ban Cầm – synthétiseur của NS Quách Vĩnh Thiện.
Lê Mộng Nguyên (Paris)
http://ca.youtube.com/watch?v=_apLp74Xhw4
===
Tuesday, October 7, 2008
VĂN HÓA VÀ CHÍNH TRỊ
VĂN HÓA VÀ CHÍNH TRỊ
====
Trịnh Khải
Qua cuộc tham gia buổi gặp gỡ văn hóa ngày 29/08-01/09/2008 tại Bruxelles. Chúng tôi thành thật nhận xét Ban tổ chức rất chu đáo, đầy nhiệt tình, thiện chí…..ngoài ra tiện nghi vật chất rất là đầy đủ, vệ sinh thật là tòan hảo và chi phí rất là thấp. Đây là một thành công trên phuơng diện tổ chức và tiếp đón một số đông tham dư viên.
Trên phuơng diện nội dung trong việc chủ tọa điều khiển chuơng trình chúng tôi nhật xét vài điều cần đuợc ghi nhận:
- Điều kiện cơ bản của văn hóa chưa đuợc hòan toàn tôn vinh đúng mức đó là : tự do tư tuởng - độc lập hành đô.ng. Quốc gia hữu sự - xâm luợc VN của TC - thì sỹ phu phải hữu trách, tham luận về liên hệ giữa Chính trị và Văn hóa đã trở nên tối cần thiết.
- Vài lúc ban chủ tọa đã không phân định rõ ràng thời gian cho mỗi tham khảo viên nên đã có chênh lệch quá mức, lại tỏ rõ chưa thấu triệt đuợc giữa : trình diễn văn hóa (*) và tìm huớng đi để bảo vệ và phát triển văn hóa – như Anh Nguyễn Đăng Trúc đã nhắc nhở về sự đứt quãng của văn hóa VN hiện nay.
- Chỉ cần 1 băng nhạc “Thúy Nga” đâu cần chúng ta phải đi xa ngàn dặm để gặp nhau.
Trong bài “Hại muôn đời “ GS Vũ Quốc Thúc dã nhắc lời Lão Tử :
" Làm thầy thuốc sai lầm có thể hại một mạng người
Làm chính trị sai lầm có thể hại một thế hệ
Làm văn hóa sai lầm có thể hại muôn đời ."
Muốn đóng góp vào tuơng lai của chuơng trình văn hóa, chúng tôi thấy cần nói thiện ý và nhật xét của chính mình mà không bắt buộc ai phải đồng ý hay đồng thuận (chấp nhận đi theo) cả......
- Vì mục tiêu không rõ ràng, chuơng trình hoạt động cụ thể chưa có đuợc: kinh nghiệm cho thấy các đề án sinh mà không có khả năng duỡng thì sẽ đi đến tử. Sau khi đúc kết chúng tôi thấy quả thực quá mơ hồ, không có “móc” bám vào để bắt tay vào việc cụ thể.
- Chuơng trình họp năm tới lại mơ hồ một lần nữa sao ? !. Giới trẽ “Việt kiều” khoa bảng chưa thể kể là “trí thức”, ngoại ngữ hầu hết thuộc “chuyên môn” và Việt ngữ chỉ để nói chuyện thông thuờng (langage parlé) khó hiểu nổi văn hóa Việt với quá nhiều Hán Tự. Trong chuơng trình “Duo “ Bạn Văn đã dùng Pháp Việt để cố gắng đi tới găp gỡ giới trẽ. Hiện nay hầu hết các vị có trình độ Văn Hóa Việt thì đã thuộc loại “nhân sinh thất thập cổ lai hy “...thì sẽ “lão nhân, tài tận...trí đoản” đâu còn bao thì giờ truyền bá Văn hóa Việt cho hậu sinh.
Chúng tôi nhận xét rằng chuơng trình văn hóa của nguời Việt hải ngoại cần thông qua các giai đoạn rất cần thiết để tránh mơ hồ trong chủ truơng, mờ ảo trong tham luận và ảo tuởng trong hành động :
Ạ- Thông triết văn hóa : phải là tự do tư tuởng, độc lập hành động ? Đây mới là sự đồng ý chưa phải đồng thuận hoặc đồng tâm.
B.- Đoàn kết tư tuởng : bảo vệ tổ quốc - bảo đảm dộc lập tự do dân Việt - bảo toàn văn hóa đang bị huỷ diệt – phát triển văn hoá theo đà tiến hóa thế giới - ... ? Đây là đồng ý cùng với đồng thuâ.n.
Truớc hiểm họa mất nuớc và diệt vong dân tộc, Lý tưởng Văn hóa là bảo vệ tổ quốc VN (*) đạt đuợc muc tiêu : ” Sửa đổi Hiến Pháp để trả lại chủ quyền cho nhân dân, như vậy là giải phóng dân tộc khỏi sự khống chế của Trung Cộng : chỉ có những tay sai của Trung Cộng mới chống lại việc này”. ( Bài “ Hại muôn đời” của GS Vũ Quốc Thúc)
Chúnh tôi hoàn tòan không thể Đồng thuận với chủ truơng tách rời văn hóa ra ngoài chính trị, xem “mất nuớc và diệt vong dân tộc” là thứ yếu, chỉ là “chùm gửi” (parasite végétal) trên cây văn hóa : Làm văn hóa sai lầm có thể hại muôn đời .
Qua “Nam Phong Tạp Chí”, “Tự Lực Văn Đoàn”..v. v., duới chế độ thực dân các tiền nhân Việt, rất can đảm, đã đặt cao Lý Tuởng Văn Hóa : “chủ quyền của nhân dân”.
C.- Kết đoàn hành động : ? Đây đến lúc đi tới tam đồng : đồng ý nguyên tắc - đồng thuận lý tuởng – đồng hành nhiệm vụ ? đồng chí (danh từ đã bị lạm dụng và lừa đảo bởi CSVN).
Vói kinh nghiệm hoạt động chuyên nghiệp ở hải ngoại, chúng tôi nhận định rằng chuơng trình hoạt động của cuộc gặp gỡ văn hóa hải ngoại cần nên qua các giai đoạn (étapes) như sau (*) :
1.- Soạn Thảo Đề án (proposition du Projet)
2.- Thành Lập Dự án (élaboration du Projet)
3.- Thi Hành Dự án (réalisation du Projet ….par étape).
Ngày nay chúng ta nên « trông nguời (TC) mà ngẫm đến ta (VC) ». Qua báo chí chúng ta thấy TC đuợc thổi phồng với tin tức, thống kê do Đảng đưa ra, nào là kinh tếâ sẽ vuợt qua Mỹ, nào là kỹ nghệ, khoa học sẽ tiến vuợt bực hơn cả Âu Châu,... Sau đây là những sự thật :
Ạ- Tổng số học sinh thi tú tài của TC (1.350 triệu người) , tức chỉ có hơn 1 triệu thí sinh. Pháp (60 triệu dân) đã có 800.000 thí sinh. Ta chỉ thấy tuơng lại nô bộc của dân Trung Hoa khai thác bởi ngoại bang do Đảng quyết đi.nh.
B.- Tổng sản luợng (PIB = produit intérieur brut) = TSL.
Theo kết quả sưu tầm báo chuyên nghiệp kinh tế :
TSL Nhật (1) = TSL Trung Cộng (2) + TSL Ấn Độ (3)
(1) Dân số Nhật = 125 triệu
(2) Dân số Trung Cộng = 1.350 triệu
(3) Dân số Ấn Độ = 1.000 triệu
Mức sản xuất của 1 nguời Nhật :
==> 125 triệu Nhật = 1.350 triệu (Trung Hoa) + 1.000 triệu Ấn)
==> 01 nguời Nhật = (1.350 + 1.000)/ 125, tuơng đuơng = 19.000 nguời (Hoa và Ấn).
Cũng giống như Mỹ, Nhật còn đầu tư khắp 5 Châu – Úc, Á, Phi, Âu, Mỹ - TSL của thế giới cũng phần nào phải chia cho các nuớc này. Nếu đem so sánh chúng ta thấy đâu là tuơng lai đất nuớc, đâu là vinh quang dân tộc, đâu là hạnh phúc và tự do nhân dân.
Nuớc Nhật Bản cũng như các nuớc tiền tiến đều đặt tuơng lai và vận mệnh của chính mình trên 04 chính sách cơ bản :
1.- Cách mạng về Tuệ Giác (La Révolution de la Connaissance) : Thế giới ngày nay đều chấp nhận nguyên lý cơ bản này vì máy điện tử, máy tính điện tử, internet……
2.- Kinh tế của Tuệ Giác (L’Économie de la Connaissance ou de l’intelligence). Kinh tế TC và VNCS chỉ bắt dân làm tôi mọi (des esclaves) cho ngoại bang khai thác. Các thí dụ :
Microsoft là Kinh tế của Tuệ Giác …. không cần thợ chân tay, nhưng giá trị chứng khoán của họ (valeur boursière) hơn cả : Renault + Peugeot + tất cả Xa lộ của Pháp (lên hơn 200.000 công nhân) ; SAP của Đức , Dassault Système của Pháp, SSII của Ấn….. .
3.- Kiến tạo về Tuệ Giác (L’Entreprise de la Connaissance). Phát triển ngành Giáo Dục từ Tiểu Học, Đại Học và trung tâm Nghiên Cứu (công và tư)……Ngân quỹ thuờng niên của Đại học Mỹ HARVARD lên đến 4.000 triệu dollars.
4.- Xã Hội của Tuệ Giác. (La Société de la Connaissance). Qua nhiều đợt hy sinh rất đáng kể Nuớc Nhật từ thập niên 1980 đã chuyển qua Xã Hội của Tuệ Giác (Société de la connaissance) đi từ « recherche appliquée » (nghiên cứu ứng dụng) tới « recherche fondamentale»(nghiên cứu cơ bản), mở rộng ra toàn quốc.
Ngày nay nói đến Văn Hóa VN chúng ta không thể quên đuợc chính trị CSVN, « tam đại bấn cố nông » và « chuyên chính vô sản », đã hủy diệt tòan diện nền văn hóa, văn minh và văn hiến VN. Truớc hiểm họa « mất nuớc và diệt vong », vào đời Nhà Trần các Cụ đã họp « Hội Nghị Diên Hồng », ngày nay chúng ta đâu thể : Uống Trà Mạn Sen, ngâm thơ Thúy Kiều hoặc Cháy nhà hàng xóm, bình chân như va.i.
Qua bài đăng trong báo Le Figaro le 01.09.08 Ông Jean d’ORMESSON (Hội viên Hàn Lâm Viện Pháp) đã nhắc chúng ta : TC vẫn thi hành chính sách bành truớng CS đối với Á Châu và Nga của V. Poutin vẫn không quên chính sách này ở Âu Châu…… Đất nuớc ta, Dân ta đang là nạn nhân, tất cả chúng ta có thể nhắm mắt , bịt tai , ngâm miệng đuợc không ? ! Thật là:
« Củi đậu (CS Việt) nấu đậu (Dân Việt),
Hạt đậu khóc hu hu,
Cùng một gốc mà ra,
Sao nỡ thế ru .....“
..... để Đảng triều cống Nhà Nuớc Trung Cô.ng. Ải Nam Quan, núi non hiểm trở, đã là tiền đồn chống ngoại xâm qua bao nhiều đời, vừa qua Chính trị của Đảng đã dâng Ải này và mở đuờng xâm lăng cho TC. Sống đừng để tiếng đời ta thán, chúng ta nên mở mắt nhìn : Văn hóa và Chính trị phải xem như chim liền cánh, như cây liền cành.
Paris Septembre 2008
TRỊNH Khải
(*) Đây là kinh nghiệm của những ai đã có trách nhiệm về các dự án (chef de projet ou responsable de projet).
====
Trịnh Khải
Qua cuộc tham gia buổi gặp gỡ văn hóa ngày 29/08-01/09/2008 tại Bruxelles. Chúng tôi thành thật nhận xét Ban tổ chức rất chu đáo, đầy nhiệt tình, thiện chí…..ngoài ra tiện nghi vật chất rất là đầy đủ, vệ sinh thật là tòan hảo và chi phí rất là thấp. Đây là một thành công trên phuơng diện tổ chức và tiếp đón một số đông tham dư viên.
Trên phuơng diện nội dung trong việc chủ tọa điều khiển chuơng trình chúng tôi nhật xét vài điều cần đuợc ghi nhận:
- Điều kiện cơ bản của văn hóa chưa đuợc hòan toàn tôn vinh đúng mức đó là : tự do tư tuởng - độc lập hành đô.ng. Quốc gia hữu sự - xâm luợc VN của TC - thì sỹ phu phải hữu trách, tham luận về liên hệ giữa Chính trị và Văn hóa đã trở nên tối cần thiết.
- Vài lúc ban chủ tọa đã không phân định rõ ràng thời gian cho mỗi tham khảo viên nên đã có chênh lệch quá mức, lại tỏ rõ chưa thấu triệt đuợc giữa : trình diễn văn hóa (*) và tìm huớng đi để bảo vệ và phát triển văn hóa – như Anh Nguyễn Đăng Trúc đã nhắc nhở về sự đứt quãng của văn hóa VN hiện nay.
- Chỉ cần 1 băng nhạc “Thúy Nga” đâu cần chúng ta phải đi xa ngàn dặm để gặp nhau.
Trong bài “Hại muôn đời “ GS Vũ Quốc Thúc dã nhắc lời Lão Tử :
" Làm thầy thuốc sai lầm có thể hại một mạng người
Làm chính trị sai lầm có thể hại một thế hệ
Làm văn hóa sai lầm có thể hại muôn đời ."
Muốn đóng góp vào tuơng lai của chuơng trình văn hóa, chúng tôi thấy cần nói thiện ý và nhật xét của chính mình mà không bắt buộc ai phải đồng ý hay đồng thuận (chấp nhận đi theo) cả......
- Vì mục tiêu không rõ ràng, chuơng trình hoạt động cụ thể chưa có đuợc: kinh nghiệm cho thấy các đề án sinh mà không có khả năng duỡng thì sẽ đi đến tử. Sau khi đúc kết chúng tôi thấy quả thực quá mơ hồ, không có “móc” bám vào để bắt tay vào việc cụ thể.
- Chuơng trình họp năm tới lại mơ hồ một lần nữa sao ? !. Giới trẽ “Việt kiều” khoa bảng chưa thể kể là “trí thức”, ngoại ngữ hầu hết thuộc “chuyên môn” và Việt ngữ chỉ để nói chuyện thông thuờng (langage parlé) khó hiểu nổi văn hóa Việt với quá nhiều Hán Tự. Trong chuơng trình “Duo “ Bạn Văn đã dùng Pháp Việt để cố gắng đi tới găp gỡ giới trẽ. Hiện nay hầu hết các vị có trình độ Văn Hóa Việt thì đã thuộc loại “nhân sinh thất thập cổ lai hy “...thì sẽ “lão nhân, tài tận...trí đoản” đâu còn bao thì giờ truyền bá Văn hóa Việt cho hậu sinh.
Chúng tôi nhận xét rằng chuơng trình văn hóa của nguời Việt hải ngoại cần thông qua các giai đoạn rất cần thiết để tránh mơ hồ trong chủ truơng, mờ ảo trong tham luận và ảo tuởng trong hành động :
Ạ- Thông triết văn hóa : phải là tự do tư tuởng, độc lập hành động ? Đây mới là sự đồng ý chưa phải đồng thuận hoặc đồng tâm.
B.- Đoàn kết tư tuởng : bảo vệ tổ quốc - bảo đảm dộc lập tự do dân Việt - bảo toàn văn hóa đang bị huỷ diệt – phát triển văn hoá theo đà tiến hóa thế giới - ... ? Đây là đồng ý cùng với đồng thuâ.n.
Truớc hiểm họa mất nuớc và diệt vong dân tộc, Lý tưởng Văn hóa là bảo vệ tổ quốc VN (*) đạt đuợc muc tiêu : ” Sửa đổi Hiến Pháp để trả lại chủ quyền cho nhân dân, như vậy là giải phóng dân tộc khỏi sự khống chế của Trung Cộng : chỉ có những tay sai của Trung Cộng mới chống lại việc này”. ( Bài “ Hại muôn đời” của GS Vũ Quốc Thúc)
Chúnh tôi hoàn tòan không thể Đồng thuận với chủ truơng tách rời văn hóa ra ngoài chính trị, xem “mất nuớc và diệt vong dân tộc” là thứ yếu, chỉ là “chùm gửi” (parasite végétal) trên cây văn hóa : Làm văn hóa sai lầm có thể hại muôn đời .
Qua “Nam Phong Tạp Chí”, “Tự Lực Văn Đoàn”..v. v., duới chế độ thực dân các tiền nhân Việt, rất can đảm, đã đặt cao Lý Tuởng Văn Hóa : “chủ quyền của nhân dân”.
C.- Kết đoàn hành động : ? Đây đến lúc đi tới tam đồng : đồng ý nguyên tắc - đồng thuận lý tuởng – đồng hành nhiệm vụ ? đồng chí (danh từ đã bị lạm dụng và lừa đảo bởi CSVN).
Vói kinh nghiệm hoạt động chuyên nghiệp ở hải ngoại, chúng tôi nhận định rằng chuơng trình hoạt động của cuộc gặp gỡ văn hóa hải ngoại cần nên qua các giai đoạn (étapes) như sau (*) :
1.- Soạn Thảo Đề án (proposition du Projet)
2.- Thành Lập Dự án (élaboration du Projet)
3.- Thi Hành Dự án (réalisation du Projet ….par étape).
Ngày nay chúng ta nên « trông nguời (TC) mà ngẫm đến ta (VC) ». Qua báo chí chúng ta thấy TC đuợc thổi phồng với tin tức, thống kê do Đảng đưa ra, nào là kinh tếâ sẽ vuợt qua Mỹ, nào là kỹ nghệ, khoa học sẽ tiến vuợt bực hơn cả Âu Châu,... Sau đây là những sự thật :
Ạ- Tổng số học sinh thi tú tài của TC (1.350 triệu người) , tức chỉ có hơn 1 triệu thí sinh. Pháp (60 triệu dân) đã có 800.000 thí sinh. Ta chỉ thấy tuơng lại nô bộc của dân Trung Hoa khai thác bởi ngoại bang do Đảng quyết đi.nh.
B.- Tổng sản luợng (PIB = produit intérieur brut) = TSL.
Theo kết quả sưu tầm báo chuyên nghiệp kinh tế :
TSL Nhật (1) = TSL Trung Cộng (2) + TSL Ấn Độ (3)
(1) Dân số Nhật = 125 triệu
(2) Dân số Trung Cộng = 1.350 triệu
(3) Dân số Ấn Độ = 1.000 triệu
Mức sản xuất của 1 nguời Nhật :
==> 125 triệu Nhật = 1.350 triệu (Trung Hoa) + 1.000 triệu Ấn)
==> 01 nguời Nhật = (1.350 + 1.000)/ 125, tuơng đuơng = 19.000 nguời (Hoa và Ấn).
Cũng giống như Mỹ, Nhật còn đầu tư khắp 5 Châu – Úc, Á, Phi, Âu, Mỹ - TSL của thế giới cũng phần nào phải chia cho các nuớc này. Nếu đem so sánh chúng ta thấy đâu là tuơng lai đất nuớc, đâu là vinh quang dân tộc, đâu là hạnh phúc và tự do nhân dân.
Nuớc Nhật Bản cũng như các nuớc tiền tiến đều đặt tuơng lai và vận mệnh của chính mình trên 04 chính sách cơ bản :
1.- Cách mạng về Tuệ Giác (La Révolution de la Connaissance) : Thế giới ngày nay đều chấp nhận nguyên lý cơ bản này vì máy điện tử, máy tính điện tử, internet……
2.- Kinh tế của Tuệ Giác (L’Économie de la Connaissance ou de l’intelligence). Kinh tế TC và VNCS chỉ bắt dân làm tôi mọi (des esclaves) cho ngoại bang khai thác. Các thí dụ :
Microsoft là Kinh tế của Tuệ Giác …. không cần thợ chân tay, nhưng giá trị chứng khoán của họ (valeur boursière) hơn cả : Renault + Peugeot + tất cả Xa lộ của Pháp (lên hơn 200.000 công nhân) ; SAP của Đức , Dassault Système của Pháp, SSII của Ấn….. .
3.- Kiến tạo về Tuệ Giác (L’Entreprise de la Connaissance). Phát triển ngành Giáo Dục từ Tiểu Học, Đại Học và trung tâm Nghiên Cứu (công và tư)……Ngân quỹ thuờng niên của Đại học Mỹ HARVARD lên đến 4.000 triệu dollars.
4.- Xã Hội của Tuệ Giác. (La Société de la Connaissance). Qua nhiều đợt hy sinh rất đáng kể Nuớc Nhật từ thập niên 1980 đã chuyển qua Xã Hội của Tuệ Giác (Société de la connaissance) đi từ « recherche appliquée » (nghiên cứu ứng dụng) tới « recherche fondamentale»(nghiên cứu cơ bản), mở rộng ra toàn quốc.
Ngày nay nói đến Văn Hóa VN chúng ta không thể quên đuợc chính trị CSVN, « tam đại bấn cố nông » và « chuyên chính vô sản », đã hủy diệt tòan diện nền văn hóa, văn minh và văn hiến VN. Truớc hiểm họa « mất nuớc và diệt vong », vào đời Nhà Trần các Cụ đã họp « Hội Nghị Diên Hồng », ngày nay chúng ta đâu thể : Uống Trà Mạn Sen, ngâm thơ Thúy Kiều hoặc Cháy nhà hàng xóm, bình chân như va.i.
Qua bài đăng trong báo Le Figaro le 01.09.08 Ông Jean d’ORMESSON (Hội viên Hàn Lâm Viện Pháp) đã nhắc chúng ta : TC vẫn thi hành chính sách bành truớng CS đối với Á Châu và Nga của V. Poutin vẫn không quên chính sách này ở Âu Châu…… Đất nuớc ta, Dân ta đang là nạn nhân, tất cả chúng ta có thể nhắm mắt , bịt tai , ngâm miệng đuợc không ? ! Thật là:
« Củi đậu (CS Việt) nấu đậu (Dân Việt),
Hạt đậu khóc hu hu,
Cùng một gốc mà ra,
Sao nỡ thế ru .....“
..... để Đảng triều cống Nhà Nuớc Trung Cô.ng. Ải Nam Quan, núi non hiểm trở, đã là tiền đồn chống ngoại xâm qua bao nhiều đời, vừa qua Chính trị của Đảng đã dâng Ải này và mở đuờng xâm lăng cho TC. Sống đừng để tiếng đời ta thán, chúng ta nên mở mắt nhìn : Văn hóa và Chính trị phải xem như chim liền cánh, như cây liền cành.
Paris Septembre 2008
TRỊNH Khải
(*) Đây là kinh nghiệm của những ai đã có trách nhiệm về các dự án (chef de projet ou responsable de projet).
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN * BIẾN ĐỘNG HỆ THỐNG TÀI CHÁNH HOA KỲ
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Web: http://vietTUDAN.net/11604/index.html
Ghi chú của Diễn Đàn Quốc Tế: Đây là một bài cực kỳ quan trọng phân tích các biến động xảy ra trên thị trường tài chánh Hoa Kỳ và các ảnh hưởng của nó cùng những biện pháp đã được chính phủ Hoa Kỳ và kỹ nghệ tài chánh tiến hành nhằm giải cứu hệ thống này khỏi sự sụp đổ sẽ có ảnh hưởng đến toàn thế giới. Nhưng cuối cùng thì chính phủ Mỹ đã quyết định cứu AIG với 85 tỷ Mỹ Kim, còn Ngân Hàng LEHMAN BROTHERS thì bị buông để cho phá sản. Tác giả - GS Tiến Sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN - một chuyên viên kinh tế, tài chánh tại Thụy Sĩ, phân tích những uẩn khúc trong vấn đề này: tại sao chính phủ Mỹ cứu AIG mà không ra tay cứu LEHMAN BROTHERS.
Chắc chắn những biến động tại Wall Street trong ba ngày 15, 16, 17-9-2008 sẽ có những ảnh hưởng quan trọng trên thị trường tài chánh toàn cầu trong những ngày sắp tới, kể cả VN (mà một biến động đã được ghi nhận tại một thị trường chứng khoán Nga trong những ngày vừa qua đã phải tạm ngưng giao dịch vì bị rớt giá tới 10% trong vòng 1 ngày). Việt Nam cũng khó tránh khỏi hệ lụy của thị trường tài chánh toàn cầu, trong đó lạm phát, xuất cảng và đầu tư của VN sẽ bị ảnh hưởng.
Hy vọng rằng tác giả sẽ tiếp tục theo dõi và phân tích các biến động sắp tới của thị trường tài chánh toàn cầu, đặc biệt các ảnh hưởng đối với VN, và sẽ có những bài nghiên cứu mới cống hiến bạn đọc. Xin vào web Viettudan.net dẫn bên trên để cập nhật các thông tin cần thiết.
Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN
(vietmarketing2@eol.ca)
* * *
Chúng tôi quan tâm theo rõi cuộc Khủng hoảng Tài chánh tại Hoa kỳ và tầm ảnh hưởng của nó qua Aâu châu và Á đông. Khi mà Thị trường Tài chánh Thế giới giao động như vậy, thì ảnh hưởng của nó tất nhiên không thể tránh được ở Việt Nam, nơi mà hệ thống Ngân Hàng và việc phát triển Kinh tế đang bị vi trùng Tham nhũng Lãng phí hoành hành do sự cấu kết giữa Độc tài Chính trị và Độc quyền Kinh tế trong tay một nhóm người. Việt Nam thiếu vốn nội địa, nghĩa là lệ thuộc vào vốn nước ngoài. Phát triển Kinh tế Việt Nam cũng lệ thuộc Thị trường ngoại quốc. Khi mà có khủng hoảng Tài chánh Thế giới, thì tầm ảnh hưởng chắc chắn sẽ phải xẩy ra ở Việt Nam. Tầm ảnh hưởng ấy trở thành tai hại hơn nữa khi chính vấn đề vốn và kinh tế của mình đang trong cơn bệnh hoạn như ngày nay. Đó là mục đích tìm hiểu quan trọng khi chúng tôi theo rõi những biến chuyển Khủng hoảng của Thị trường Tài chánh hoàn cầu.
Bài này ghi lại những biến động chung quanh Wall Street từ THỨ HAI ĐEN 15.09.2008 cho đến hết ngày THỨ TƯ 17.09.2008. Tất nhiên tại New York, trong những tuần trước và liền sát với THỨ HAI ĐEN, những cuộc Hội Họp liên tục giữa các Thủ lãnh Ngân Hàng và Tài chánh, rồi với Đại diện Ngân khố Nhà nước diễn ra. Xin độc giả đọc thêm những bài về Tín dụng Subprime Địa ốc (Mortgage Subprime Credit) mà chúng tôi đã viết từ năm ngoái và đầu năm nay đăng lại trong số báo này. Chính Tín dụng Subprime (Toxic) Địa ốc này là nguyên nhân gây mất mát của những Ngân Hàng và những Tập đoàn Tài chánh, rồi tạo biến động tất nhiên ở Wall Street và các Thị trường chứng khoán trên khắp Thế giới.
THỨ TƯ 17.09.2008:
ĐỂ LEHMAN BROTHERS CHẾT NHƯNG CỨU AIG (AMERICAN INTERNATIONAL GROUP)
Trước quan điểm được tuyên bố bởi ông Henry PAULSON Jr., Bộ trưởng Ngân Khố, trong những ngày trước về quan điểm cứng rắn của Nhà Nước Liên Bang Mỹ về số phận những Ngân Hàng, và việc nhất định từ chối hỗ trợ của FED để BARCLAYS có thể mua LEHMAN BROTHERS, khắp Thế giới chờ mong tin về số phận của Tập đoàn Bảo Hiểm khổng lồ AIG (American International Group). Cả Thế giới trông tin vì lãnh vực hoạt động của AIG bao trùm rộng lớn mọi nơi.
Quan điểm của Nhà Nước Liên Bang Mỹ về các Ngân Hàng và Tập đoàn Tài chánh
Từ năm ngoái đến giờ, những thua lỗ và những biến động xẩy ra ở nơi những Ngân Hàng, những Tập đoàn Tài chánh và tại những Thị trường Chứng khoán. Người ta cũng quan sát thấy rằng những Ngân Hàng và những Tập đoàn Tài chánh thua lỗ nhiều và có thể đi đến phá sản là vì họ đã nhúng tay vào lãnh vực Tín dụng Subprime Địa ốc với tất cả những cái rủi ro (Risks) của Business. Trong những năm trường, những Ngân Hàng, những Tập đoàn Tài chánh này đã thu vào những lợi nhuận rất cao. Thực vậy muốn ăn lớn thì phải có rủi ro. Họ đã vào hang cọp để bắt cọp con.
Ông Henry PAULSON Jr., Bộ trưởng Ngân Khố, đã từng điều hành Ngân Hàng GOLMAN SACHS, nên hiểu rõ những cái nguy hiểm (risks) thuộc lãnh vực này. Quan điểm của Nhà Nước Liên Bang Mỹ, qua lời khẳng định của Henry PAULSON là khi đã quyết định chơi với nguy hiểm để có lợi nhuận cao, thì phải chịu cái hậu quả của nguy hiểm, dù đó là phá sản. Nói đơn giản: được ăn thua chịu.
Về phương diện phát triển Kinh tế quốc gia, người ta thấy lãnh vực Sản xuất, Thương Mại, Việc làm cho Nhân lực, ít có những xáo trộn xong hành với lãnh vực Tài chánh. Nền Kinh tế có chút đình trệ, nhưng không có những biến động coi là Khủng hoảng như những năm 1929-30.
Có thể nói rằng thái độ của Nhà Nước Liên Bang là:
=> Nhà Nước để cho phía các Tổ chức Ngân Hàng, Tài chánh chơi với nguy hiểm, tự đào thải
=> Nhà Nước canh chừng và bảo vệ nền Kinh tế phát triển đều đặn, tránh những biến động mạnh.
=> Không thể lấy tiền của Dân đóng thuế để cứu những Ngân Hàng, những Tập đoàn Tài chánh tư nhân chơi với rủi ro để kiếm lợi nhuận cao bỏ túi riêng. Khi họ có lợi nhuận cao, họ có chia cho Dân đâu. Vậy khi họ gặp phá sản, tại sao lấy tiền của Dân ra cứu họ.
Ngân Hàng LEHMAN BROTHERS với 158 tuổi đã bị để cho chết trong quan điểm trên của Nhà Nước.
Nhà Nước Liên Bang vào phút chót cứu AIG (American International Group) với 85 tỉ
AIG là một Tổ chức Bảo Hiểm có tầm hoạt động rộng lớn khắp Thế giới. AIG xử dụng 116000 nhân viên và có 74 triệu khách hàng bảo hiểm trên 130 quốc gia. Những khách hàng ấy không phải hẳn là những cá nhân nhưng là những Tập thề, Ngân Hàng hay Quốc gia. Với trị giá tài sản 180 tỉ đo-la, AIG là một trong 5 Tập đoàn Kinh tế tư nhân lớn nhất của Hoa kỳ. Lãnh vực hoạt động của AIG liên hệ đến hệ thống Tài chánh Thế giới và nhất là về những bảo hiểm nhân mạng, cuộc sống và tuổi già của nhiều triệu dân chúng. AIG còn bào hiểm rộng lớn cho những Quốc gia về những Obligations. Tuy nhiên lãnh vực rủi ro của AIG là đã đụng chạm đến Tín dụng Subprime địa ốc. Mộ lãnh vực nữa là đã đưa ra sàn phẩm CDS-CREDIT DEFAULT SWAP, một Hợp đồng Bảo Đảm Rủi ro cho Tín dụng. Số lượng Bảo Đảm này năm 2004 là 6,396 tỉ đô-la và cuối năm 2007 lên vọt tới số lượng 57,894 tỉ đô-la.
Trong suốt những ngày vừa rồi, chính ông Henry PAULSON đã hết lòng dàn xếp với giới Ngân Hàng tư nhân, ngay cả thúc đẩy những Ngân Hàng Trung ương Aâu châu trợ lực để cứu AIG.
Cuới cùng Tổng thống Bush, Chủ tịch Ngân Hàng Trung ương Hoa kỳ (FED) và Bộ trưởng Ngân khố Mỹ phài quyết định bỏ ra 85 tỉ đô la để cứu AIG vì nếu AIG phá sản thì hậu quả bao trùm Thế giới.
Nhà Nước Liên Bang Mỹ, sau khi cứu AIG, còn phải cứu ai nữa không khi mà quan điểm của Nhà Nước quyết theo như chủ trương vừa trình bầy ở đoạn trên? Ông Marco ANNUNZIATA, Trưởng Bộ phận Phân tích Tài chánh của UNICREDIT đã cho ý kiến:’L’accélération de la consolidation du secteur financier américain prend des allures certes dramatiques, mais nous arrivons au stade final de la crise’ (Journal LE TEMPS, Suisse, 18.09.2008, p.2) (Việc tiến hành nhập lại của lãnh vực tài chánh Mỹ thực mang những bước đi bi thảm, nhưng chúng ta đi tới chặng cuối cùng của khủng hoảng).
Một số người có khuynh hướng Xã Hội Chủ Nghiã, qua việc Nhà Nước Liên Bang cứu FANNIE MAE, FREDDIE MAC, BEAR STEARNS và AIG, đã vội miệng công kích rằng đó là một việc can thiệp của Chính trị Nhà Nước vào lãnh vực Kinh tế tư nhân trong một nền Kinh tế Tự do và Thị trường.
Xin nhớ rằng đây là việc tư nhân yêu cầu Nhà Nước cứu giúp mình khi hoạn nạn, chứ không phải Nhà Nước tìm đến để can thiệp xen lấn. Cũng nói ngay rằng Nhà Nước Liên Bang Mỹ là một Nhà Nước Dân chủ chứ không phải là Nhà Nước độc tài.
Một Bình luận gia trên Đài Truyền hình TSR1, ngày 14.09.2008 đã nói một câu có ý khen ngợi tính cách rộng lượng của Nhà Nước Mỹ trong việc trợ lực này: “Quand il y a des Profits, on désire de les privatiser; mais quand il y a des Pertes, on souhaite de les nationaliser“. (Khi có nhiều Lợi nhuận, thì người ta muốn tư nhân hóa; nhưng khi có những Mất mát, thì người ta mong mỏi quốc hữu hóa).
Tình trạng mất mát của các Ngân Hàng vì vào lãnh vực rủi ro Tín dụng Subprime Địa ốc
Có những Ngân Hàng, Tập đoàn Tài chánh không muốn công bố vì muốn giữ thế giá hoặc chỉ mất chừng mấy trăm triệu hay bên dưới 4 hay 5 tỉ đô la. Tính cho đến hôm nay, việc mất mát vì Mortgage Subprime (Toxic) Credit được một số Ngân Hàng tuyên bố như sau:
* CITIGROUP (Mỹ) : mất 55.1 tỉ đô la
* MERRILL LYNCH (Mỹ) : mất 52.2 tỉ đô la
* UBS (Thụy sĩ) : mất 44.2 tỉ đô la
* HSBC (Anh) : mất 27.4 tỉ đô la
* WACHOVIA (Mỹ) : mất 22.7 tỉ đô la
* BANK OF AMERICA (Mỹ) : mất 21.2 tỉ đô la
* WASHINGTON MUTUAL (Mỹ) : mất 14.8 tỉ đô la
* MORGAN STANLEY (Mỹ) : mất 14.4 tỉ đô la
* IKB (Đức) : mất 14.4 tỉ đô la
* JP MORGAN CHASE (Mỹ) : mất 14.3 tỉ đô la
(Theo nguồn của BLOOMBERG)
THỨ BA 16.09.2008:
KHỦNG HOẢNG CREDIT CARDS ? (CREDIT CARDS CRISIS?)
Thiết lập Quỹ Chống Phá Sản
(Anti-Bankruptcy Funds/ Fonds Anti-Faillite)
Đây là một ý tưởng theo mẫu của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (IMF/ FMI) được thiết lập năm 1944. Thời kỳ này, Tiền tệ của các nước còn trong hệ thống bảo chứng bằng Vàng (Regime Etalon-Or). Nhưng Thế Chiến Thứ Hai đã làm cho các nước Aâu châu mất hết Vàng, vì thế Tiền Aâu châu đã mất hết giá vì không còn bảo chứng. Hoa kỳ đã triệu tập Hội Nghị Thế Giới về Tiền tệ tại Bretton-Woods năm 1944 để quyết định việc bảo chứng bằng đồng Dollar vì chỉ có Hoa kỳ mới còn Vàng. Tiền tệ chuyển sang hệ thống bảo chứng bằng đồng tiền mạnh Dollar (Regime Etalon-Devise-Or/ Regime Etalon-Dollar-Or).
Hội Nghị cũng quyết định thành lập Quỹ Tiền Tệ Quốc tế với mục đích hỗ trợ những nước thành viên có biến động yếu kém đi về Tiền tệ.
Cũng theo mẫu và mục đích tiên khời của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế, ngày Chúa Nhật 14.09.2009, mười Ngân Hàng lớn Hoa kỳ và ngoại quốc đã quyết định thành lập QUỸ CHỐNG PHÁ SẢN (Anti-Bankruptcy Funds/ Fonds Anti-Faillite) mà mục đích là để hỗ trợ giữa các Ngân Hàng thành viên khi đứng bên bờ phá sản. 10 Ngân Hàng lớn đó là: BANK OF AMERICA (Mỹ), BARCLAYS (Anh), CITIGROUP (Mỹ), CREDIT SUISSE (Thụy sĩ), DEUTSCHE BANK (Đức), GOLDMAN SACHS (Mỹ), JP MORGAN CHASE (Mỹ), MERRYLL LYNCH (Mỹ), MORGAN STANLEY (Mỹ) và UBS (Thụy sĩ). Mỗi Ngân Hàng đóng vào Quỹ đó 7 tỉ đô la
Có lẽ cũng nhờ Quỹ này mà Bank Of America mua lại Merrill Lynch vì cùng là thành viên.
Vấn đề AIG (American International Group) vẫn còn sôi bỏng
AIG là Tập đoàn Bảo Hiểm lớn nhất của Mỹ. Những mất mát lớn mới đây của Tam cá nguyệt 2 của Tập đoàn được ghi nhận như sau:
* Bảo Hiểm Tổng Quát (General Insurance) : mất 827 triệu đô la
* Bảo Hiểm Sinh mạng và Dịch vụ Hưu trí (Life Insurance & Retirement Services): mất 2.4 tỉ đô la.
* Quản trị Tài sản (Asset Management): mất 314 triệu đô la
* Những Dịch vụ Tài chánh (Financial Services): mất 5.9 tỉ đô la
Với những mất mát mới đây, AIG ở trong tình trạng giao động gay gắt. Trị giá của AIG tại Thị trường Chứng khoán Wall Street tụt dốc: 60% mất giá trong ngày thứ HAI và 19% thêm nữa trong ngày thứ BA. Việc phá sản của AIG không những làm giao động mạnh hệ thống Tài chánh của Hoa kỳ, mà còn cả cho Aâu châu và Á châu nữa. Phải cứu AIG bằng mọi giá.
Mạc dầu đã được hứa 50 tỉ đô la hỗ trợ từ FED, nhưng AIG cần tới con số tối thiểu 70 tỉ đô la. FED đã kêu gọi những Ngân Hàng còn mạnh như Goldman Sachs, JP Morgan Chase hỗ trợ. Đồng thời FED cũng kêu gọi sự tiếp sức từ những Ngân Hàng Trung ương của Aâu châu. Thống đốc Tiểu bang New York cũng cho biết có thể hỗ trợ 20 tỉ đô la. Oâng Hank GREENBERG, cựu Chủ tịch AIG, trong một Thư đăng trong Financial Times, cũng nhấn mạnh rằng nếu hệ thống Ngân Hàng tư nhân không đủ cứu AIG, thì nhất thiết FED phải tăng cường thêm.
Quan điểm của FED trong cơn Khủng hoảng Tài chánh
Quan điểm của FED, qua những tuyên bố của Oâng Henry PAULSON Jr., Bộ trưởng Ngân khố, và của Oâng Tim GEITHNER, Chủ tịch của FED New York, trong những cuộc Hội họp cứu nguy các Tập đoàn Tài chánh, gồm những điểm sau đây:
=> Đây là việc Khủng hoảng về Tài chánh liên hệ thiết yếu đến những Tập đoàn quá đi sâu vào những Nghiệp vụ Thương mại, nhất là vào lãnh vực Tín dụng Subprime Địa ốc. Vì vậy, nếu có một số Tập đoàn phải chết đi, thì đó cũng là việc họ đã chấp nhận trước đây những rủi ro (Risks). Do đó không thể bắt quỹ đóng góp của những người trả thuế đến cứu vớt những rùi ro nghề nghiệp của tư nhân.
=> Việc khủng hoảng Tài chánh này chưa mang đến hậu quả là Khủng hoảng Kinh tế Hoa kỳ. Cái lỗi phá sản là do hoạt động thương mại của các Ngân Hàng ở Thị trường Tài chánh. Việc chết đi của một số Ngân Hàng có thể làm sạch sẽ hơn Thị trường Tài chánh.
=> Chính vì vậy mà FED nhất định giữ Lãi suất 2%. Việc thay đổi Lãi suất có thể gây thiệt hại cho những Tập đoàn sản xuất Kinh tế.
Từ Khủng hoảng Tín dụng Subprime Địa ốc Đến Khủng hoảng Tín dụng Tiêu dùng (Credit Cards Crisis)
Giới Tài chánh không muốn dùng chữ Subprime Credit nữa mà gọi thẳng là Toxic Credit (Tín dụng nhiễm độc). Người ta đang lo ngại từ Khủng hoảng Tín dụng Toxic Địa ốc, có thể các Ngân Hàng sẽ phải chịu một cơn lốc thứ hai là Thẻ Tín dụng Tiêu dùng (Credit Cards Crisis).
Thực vậy, người ta dễ lạm dụng Thẻ Credit để Tiêu dùng trở thành một món nợ không thể hoàn lại. Tại Hoa kỳ, chỉ cần mang theo người Credit Card và Driver License là đủ mua bán mọi nơi. Việc mua bán qua Internet cũng xử dụng Credit Cards và lan rộng ngoài phạm vi Hoa kỳ.
Giới quan tâm đến cuộc Khủng hoảng Credit Cards đã ước tính Toxic Credit cho Thẻ Tiêu dùng có thể lên tới con số rất lớn. Mỗi Gia đình tại Mỹ trung bình xử dụng tới 6 Credit Cards. Mỗi Credit Card mang nợ trung bình là 10,000 đô-la. Giới Ngân Hàng tính tổng cộng tại Hoa kỳ số tiền Toxic Credits cho những Cards này lên tới 1000 tỉ đô-la.
Ý kiến riêng: Tốt hơn hết là khi mấy ông ra ngoài buổi tối, nên để Credit Cards ở nhà cho các bà xã giữ. Chỉ nên bỏ vào túi tiền mặt chừng 20 đô-la. Uống bia hết tiền mặt thì về nhà. Còn nếu có sẵn Credit Cards trong túi, thì khi hơi men bốc lên rồi, mà ngồi cạnh nữ giới với ánh đèn mầu, thì dễ dàng mang Credit Cards ra trả cho lên mặt anh hùng !.
THỨ HAI ĐEN 15.09.2008:
BIẾN ĐỘNG TÀI CHÁNH TẠI WALL STREET
THỨ HAI ĐEN 15.09.2008 cho Wall Street. Mà Wall Street giao động, thì tầm ảnh hưởng lan rộng ra Thế Giới. Hệ thống Ngân Hàng và Tài chánh Thế giới bị bệnh. Những Ngân Hàng mất tiền, thậm chí phá sản. Cái nguyên do của tình trạng bệnh tật này là Khủng hoảng Tín dụng Địa ốc của Hoa kỳ (Mortgage Subprime Credit Crisis)
Ngày 13.12.2007, chúng tôi đã viết về Tín dụng Subprime Địa ốc là gì nhân việc Ngân Hàng UBS của Thụy sĩ tuyên bố mất 11 tỉ đô la.
Ngày 24.01.2008, chúng tôi đã viết về Khủng hoảng Thị trường Chứng khoán từ Mỹ, Aâu, Á cũng do nguyên nhân Tín dụng Subprime Địa ốc.
Chúng tôi nhấn mạnh hai bài này để hiểu cái nguyên nhân Tín dụng Subprime Địa ốc là gì nhân THỨ HAI ĐEN 15.09.2008
Từ tuần trước, Ngân Hàng Trung ương Hoa kỳ FED đã đứng ra trách nhiệm cứu và kiểm soát hai Đại Tập đoàn Tài chánh Địa ốc của Mỹ FANNIE MAE và FREDDIE MAC với 200 tỉ đô la. FED cũng cứu AIG, American International Group, một Tập đoàn Bào Hiểm lớn nhất của Mỹ, với 50 tỉ đô la. FED cũng trợ lực 30 tỉ đô la để JP MORGAN CHASE mua BEAR STEARNS vào tháng 3 vừa rồi. Nhắc lại rằng JP MORGAN CHASE là sự nhập lại của JP MORGAN và CHASE MANHATTAN vào cuối năm 2000.
Lần này đến lượt MERRILL LYNCH và LEHMAN BROTHERS. Suốt cuối tuần vừa rồi, Những Đại diện Ngân Hàng lớn họp liên hồi để cứu hai Tập đoàn này. Đây là hai Tập đoàn đầu tư nhiều trong lãnh vực Subprime Địa ốc Hoa kỳ. Đối với hai Tập đoàn này, FED không muốn cứu nữa. Ông Henry PAULSON Jr., Bộ trưởng Ngân khố, và Oâng Tim GEITHNER, Chủ tịch của FED New York, cũng đến họp về trường hợp của Merrill Lynch và Lehman Brothers. Nhưng hai ông yêu cầu phải tìm giải pháp Kỹ nghệ chứ FED không thể xử dụng tiền Dân đóng thuế để cứu hai Tập đoàn tư nhân này.
BANK OF AMERICA quyết định mua MERRILL LYNCH. Nhưng còn LEHMAN BROTHERS ? Một số Ngân Hàng như BARCLAY’S, BANK OF AMERICA cũng có ý định xét mua LEHMAN BROTHERS, nhưng muốn FED trợ lực chịu những nguy hiểm. Oâng Henry PAULSON Jr., Bộ trưởng Ngân Khố, nhất quyết từ chối.
Thứ Hai 15.09.2008, LEHMAN BROTHERS tuyên bố phá sản. Wall Street giao động, nhất là giá các Ngân Hàng và các Tập đoàn Tài chánh. Tập đoàn LEHMAN BROTHERS được thành lập từ năm 1850 và được 158 tuổi. Số nhân viên làm việc lên tới 15,000 người.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
===
Monday, October 6, 2008
THƯ NGỎ
*GƯI NGÀI BỘ TRƯỞNG TƯ PHÁP ANH QUÓC
Việt Nam, ngày 14/9/2008
===
Kinh gửi :Ngài Jack Straw bộ trưởng tư pháp Anh Quốc!
Là công nhân Việt Nam, vừa qua tôi có hân hạnh được đọc bài phát biểu trước sinh viên tại trường đại học luật Hà Nội của ngài bộ trưởng được đang tải trên trang web điện tử BBC. Sau khi đọc xong bài phát biểu của ngài tôi không khỏi băn khoăn khi thấy sự nhận xét cũng như chủ đề mà ngài bô trưởng đưa ra! Với tư cách vừa là bộ trưởng tư pháp và là một công dân của một quốc gia có nền dân chủ kiểu mẫu trên thế giới. ! Bài phát biểu của ngài bộ trưởng đã có những ảnh hưởng nhất định đối với những ai quan tâm đến hiện tình Việt Nam nói chung và giới sinh viên Việt Nam nói riêng
Ý thức được tầm quan trọng đó và trên tinh thần thẳng thắn, tôn trọng sự thật tôi mạo muội gửi tới ngài bộ trưởng những câu hỏi của tôi, là một người dân hiện đang sinh sống tại Hà Nô.i-Việt Nam. Thông qua mạng điện tử BBC và các website khác của Việt Nam Mong ngài bộ trưởng trên tinh thần trao đổi cởi mở, giải thích cho tôi những vấn đề tôi vẫn còn băn khoăn qua bài phát biểu tại trường đại học luật Hà Nội của ngài:
- Câu hỏi đầu tiên! Tôi xin gửi tới ngài khi ngài cho rằng sự thay đổi của Hà Nội là "..đáng kinh ngạc"!!!Vậy thưa ngài bộ trưởng, ngài đánh giá mức độ thay đổi "..đáng kinh ngạc"theo tiêu chí và lĩnh vực nàỏMong ngài có thể cho biết rõ hơn về điều đó!
-Nếu ngài đánh giá chung trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Hà Nội, thì nếu có thể ngài đi thăm "đời sống thật" của Hà Nô.i. Hoặc mong ngài đại sứ thu thập thêm tư liệu thông qua đại sứ quán Anh Quốc Tại Hà Nô.i. Để từ đó ngài sẽ có những nhận xét chính xác hơn sau 40 năm xây dựng và phát triển của Việt Nam.Bởi sự đánh giá của ngài tôi không hiểu có thâm ý gì chăng hay là từ ngữ ngoại giao khách sáo
( Nếu có thể tôi xin tư vấn cho ngài bộ trưởng đi thăm các phố cổ của Hà Nội để chiêm ngưỡng mạng lưới dây điện được cho là nhất thế giới. Hay hệ thống thoát nước nổi là những dòng sông ao hồ nổi tiếng "trong lành" của Hà Nội...Cũng như các cơ sở hạ tầng khác của Hà Nội, tôi tin rằng ngài sẽ có sự đánh giá đúng mức hơn.)
- Câu hỏi thứ hai là trong phần lớn bài phát biểu của ngài về vấn đề pháp quyền, điều gây cho tôi ngạc nhiên là những nhận xét đánh giá cũng như tác dụng của pháp quyền của ngài. Hình như ngoài việc đồng tình, thì ngài còn dựa trên các nghị quyết của bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam để dẫn chứng và cổ vũ cho việc thực thi pháp quyền tại Việt Nam.
Vậy xin hỏi ngài bộ trưởng, những bộ luật của Anh Quốc được soạn thảo từ các cá nhân, từ mọi tầng lớp công dân trong xã hội, hay được soạn thảo từ các đảng phái chính trị? Luật pháp của Anh quốc được soạn thảo và quyết định do một đảng chính trị hay phải được sự tham khảo và chấp thuận của nhiều đảng tại quốc hội vv...?
- Câu hỏi cuối cũng tôi muốn nhận được lời giải thích từ ngài. Một bộ luật được soạn thảo ra từ một tổ chức hay một nhóm lợi ích nhất định trong xã hô.i. Liệu như vậy bộ luật đó có tính khách quan và công bằng không?
-Một bộ luật được soạn thảo công phu đến đâu! Nhưng một quốc gia chỉ duy nhất có một đảng chính trị cầm quyền! Liệu pháp quyền có được thực thi công bằng không và pháp quyền có thể trở thành công cụ để phục vụ cho đảng chính trị cầm quyền đó không?
Kính mong ngài bô trưởng bớt chút thời gian để giải thích cho tôi những băn khoăn thắc mác trên Rất mong nhận được sự nhiệt tình của ngài.
Xin gửi tới ngài lời chúc sức khoẻ và tôi xin chờ đợi câu trả lời của ngài!
Trân trọng
Như Hà
===
Việt Nam, ngày 14/9/2008
===
Kinh gửi :Ngài Jack Straw bộ trưởng tư pháp Anh Quốc!
Là công nhân Việt Nam, vừa qua tôi có hân hạnh được đọc bài phát biểu trước sinh viên tại trường đại học luật Hà Nội của ngài bộ trưởng được đang tải trên trang web điện tử BBC. Sau khi đọc xong bài phát biểu của ngài tôi không khỏi băn khoăn khi thấy sự nhận xét cũng như chủ đề mà ngài bô trưởng đưa ra! Với tư cách vừa là bộ trưởng tư pháp và là một công dân của một quốc gia có nền dân chủ kiểu mẫu trên thế giới. ! Bài phát biểu của ngài bộ trưởng đã có những ảnh hưởng nhất định đối với những ai quan tâm đến hiện tình Việt Nam nói chung và giới sinh viên Việt Nam nói riêng
Ý thức được tầm quan trọng đó và trên tinh thần thẳng thắn, tôn trọng sự thật tôi mạo muội gửi tới ngài bộ trưởng những câu hỏi của tôi, là một người dân hiện đang sinh sống tại Hà Nô.i-Việt Nam. Thông qua mạng điện tử BBC và các website khác của Việt Nam Mong ngài bộ trưởng trên tinh thần trao đổi cởi mở, giải thích cho tôi những vấn đề tôi vẫn còn băn khoăn qua bài phát biểu tại trường đại học luật Hà Nội của ngài:
- Câu hỏi đầu tiên! Tôi xin gửi tới ngài khi ngài cho rằng sự thay đổi của Hà Nội là "..đáng kinh ngạc"!!!Vậy thưa ngài bộ trưởng, ngài đánh giá mức độ thay đổi "..đáng kinh ngạc"theo tiêu chí và lĩnh vực nàỏMong ngài có thể cho biết rõ hơn về điều đó!
-Nếu ngài đánh giá chung trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Hà Nội, thì nếu có thể ngài đi thăm "đời sống thật" của Hà Nô.i. Hoặc mong ngài đại sứ thu thập thêm tư liệu thông qua đại sứ quán Anh Quốc Tại Hà Nô.i. Để từ đó ngài sẽ có những nhận xét chính xác hơn sau 40 năm xây dựng và phát triển của Việt Nam.Bởi sự đánh giá của ngài tôi không hiểu có thâm ý gì chăng hay là từ ngữ ngoại giao khách sáo
( Nếu có thể tôi xin tư vấn cho ngài bộ trưởng đi thăm các phố cổ của Hà Nội để chiêm ngưỡng mạng lưới dây điện được cho là nhất thế giới. Hay hệ thống thoát nước nổi là những dòng sông ao hồ nổi tiếng "trong lành" của Hà Nội...Cũng như các cơ sở hạ tầng khác của Hà Nội, tôi tin rằng ngài sẽ có sự đánh giá đúng mức hơn.)
- Câu hỏi thứ hai là trong phần lớn bài phát biểu của ngài về vấn đề pháp quyền, điều gây cho tôi ngạc nhiên là những nhận xét đánh giá cũng như tác dụng của pháp quyền của ngài. Hình như ngoài việc đồng tình, thì ngài còn dựa trên các nghị quyết của bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam để dẫn chứng và cổ vũ cho việc thực thi pháp quyền tại Việt Nam.
Vậy xin hỏi ngài bộ trưởng, những bộ luật của Anh Quốc được soạn thảo từ các cá nhân, từ mọi tầng lớp công dân trong xã hội, hay được soạn thảo từ các đảng phái chính trị? Luật pháp của Anh quốc được soạn thảo và quyết định do một đảng chính trị hay phải được sự tham khảo và chấp thuận của nhiều đảng tại quốc hội vv...?
- Câu hỏi cuối cũng tôi muốn nhận được lời giải thích từ ngài. Một bộ luật được soạn thảo ra từ một tổ chức hay một nhóm lợi ích nhất định trong xã hô.i. Liệu như vậy bộ luật đó có tính khách quan và công bằng không?
-Một bộ luật được soạn thảo công phu đến đâu! Nhưng một quốc gia chỉ duy nhất có một đảng chính trị cầm quyền! Liệu pháp quyền có được thực thi công bằng không và pháp quyền có thể trở thành công cụ để phục vụ cho đảng chính trị cầm quyền đó không?
Kính mong ngài bô trưởng bớt chút thời gian để giải thích cho tôi những băn khoăn thắc mác trên Rất mong nhận được sự nhiệt tình của ngài.
Xin gửi tới ngài lời chúc sức khoẻ và tôi xin chờ đợi câu trả lời của ngài!
Trân trọng
Như Hà
===
Sunday, October 5, 2008
CỘNG SẢN VÀ GIÁO GIAN TRƯỚC TANG LỄ ĐỨC TĂNG THỐNG HUYỀN QUANG
*
«Sau Giáo chỉ số 9, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thoát hiểm lần thứ hai» hay «Một cuộc Đảo chánh không thành tại Tang lễ Đức Cố Tăng thống Thích Huyền Quang»
Không phải ngẩu nhiên hay lầm lẩn, mà chính quyền Cọng Sản đã cho báo chí, các đài truyền thanh, truyền hình ngang nhiên loan tin : Tang Lể Đại Lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang do Ban Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ( tức là Giáo Hội Quốc Doanh ) đứng ra tổ chức. Để cho dân chúng tin tưởng đó là sự thật, ngày 3/7/2008 ngay sau khi Đức Tăng Thống vừa mới đươc đưa từ Bệnh Viện Qui Nhơn về tu viện Nguyên Thiều, thì lập tức Lê Dũng phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao CSVN tuyên bố: Tại Việt Nam không có tổ chức tôn giáo nào mang tên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, tang lể của Đại Lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang do Ban Trị Sự Gáo Hôi Phật Giáo Việt Nam và môn đồ hiếu quyến đúng ra tổ chức. Rồi tờ báo gia nô Thanh Niên nhanh nhảu phụ hoạ xuyên tạc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) để lập công đầu.
Tại sao chính quyền tuyên bố một cách chắc nịch như thế ? Bởi vì họ đã vạch ra nhiều kế hoạch khai tử GHPGVNTN ngay tại tang lể Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống và họ tin chắc phần thắng họ đã nắm gọn trong tay.
KẾ HOẠCH ĐIỆU HỔ LY SƠN
Kế hoạch này đến từ : Mặt Trận Tổ Quốc Tỉnh Bình Định, Ban Tôn Giáo Tỉnh Bình Định, Ban Trị Sự GHPGVN Tỉnh Bình Định, và Bệnh Viện Qui Nhơn-Bình Định
Ngày 27/5/2008 Đức Cố Tăng Thống nhập viện, ngày 28/5/2008 Hoà Thượng Viện Trưởng Thích Quãng Độ và phái đoàn Viện Hoá Đạo đã có mặt tại Nguyên Thiều, cùng thời điểm Hoà Thượng Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống Thích Thiện Hạnh cùng chư vị trong Hội Đồng Trưởng Lão và chư vị Gíáo Phẩm tại miền Trung đều có mă.t. Sau khi thăm viếng và nắm rõ tình tình sức khoẻ Đức Tăng Thống, nhiều phiên họp giữa Hội Đồng Lưỡng Viện và Môn đồ hiếu quyến đã được tổ chức để bàn phương hướng chửa trị cho Đức Tăng Thống. Các đề nghị đưa Đức Tăng Thông vào Sài Gon hay ra Huế là có thâ.t. Hoà Thượng Thiện Hạnh nhận định rằng: Lần trước Đức Tăng Thống cũng vào Bệnh viện Qui Nhơn nhưng sau đó Gíao hội đã kịp thời đưa vào bệnh viện Pháp Việt tại Sài gòn chửa trị, nhờ vậy mà Đức Tăng Thông bình phục cho đến hôm nay. Bệnh viện Pháp Việt đã nắm rỏ bệnh tình của Ngài cho nên đưa Ngài vào bệnh viện Pháp Việt là giải pháp tối ưu. Nếu không đưa vào Saigon được thì đưa ra Huế, đây là Trung tâm Y tế miền Trung với nhiều trang thiết bị tối tân, bên cạnh còn có Trường Đại Học Y khoa với nhiều Giáo Sư Bác Sỉ danh tiêng, có thể đáp ứng được tình trạng sức khoẻ của Ngài.
Nhưng hai phương án trên không thực hiện được vì Thượng Toạ Minh Tuấn cho biết là nhiều lần Thượng Toạ yêu cầu Ban Giám Đốc Bệnh Viện xin chuyển viện nhưng đều không được giải quyết. Ban Giám Đốc nói : Chính quyền đã chỉ thị cho Bệnh viện xử dụng mọi điều kiện tối ưu để điều trị cho Hoà Thượng, hơn nữa sức khoẻ của ngài còn yếu quá, việc di chuyển không đảm bảo an toàn. Qua câu trả lời trên Ai cũng đã thấy rỏ chính quyền quản chế Đức Tăng Thống một cách ngọt ngào.
Ngài Viện Trưởng ra Bình Định lần nầy an toàn vì cùng thời điểm Phái đoàn Nhân quyền của Chính phủ Hoa Kỳ đang làm việc với chính quyền Việt Nam tại Hà Nô.i. Để phòng bất trắc Ngài đã quyết định ở lại Nguyên Thiều, cùng Môn đồ hiếu quyến chăm lo cho đức Tăng Thống.
Sau hơn 3 tuần điều trị, sức khoẻ Đức Tăng Thống ngày càng suy sụp, lợi dụng khi Ngài khó thở họ đưa Ngài phòng Hồi sức, cách ly hoàn toàn với bên ngoài. Kể từ đây Môn đồ hiếu quyến cũng như Hội Đồng Lưỡng Viện không theo dõi được bệnh tình của Ngài nữa. Tính mạng của Ngài hoàn toàn nằm trong tay chính quyền.
Biết chắc chắn rằng chính quyền dùng Bệnh Viện Qui Nhơn để giam Đức Tăng thống cho đến chết, Thượng Toạ Minh Tuấn chính thức viết thư gởi Ban Giám Đốc Bệnh Viên đề nghị 4 điểm như sau:
- Xin thanh toán viện phí ( không nhận tài trợ viện phí của chính quyền )
- Xin ngưng cách chửa trị như hiện nay (sau hơn một tháng không có hiệu quả)
- Xin đưa Đức Tăng Thống về chùa để Ngài được nghe công phu sớm chiều và gần gủi con cháu (thực tế là để thoát cảnh tù tội trong những ngày cuối đời )
- Nếu được xin Bệnh Viện hổ trợ điều trị ngoại trú. Không những không hổ trợ mà chính quyền còn cấm tất cả y bác sỉ đang tại chức hoặc đã về hưu đều không được chửa trị ngoại trú cho Đức Tăng Thống.
Sau khi nhận được thơ của Thượng Toạ Minh Tuấn, Ban Giám Đốc bệnh Viên hứa giải quyết, nhưng họ đã chần chờ suốt ba ngày 1, 2, và 3.7. Vì sao ? Vì họ chờ Hòa thượng Quảng Độ và Hòa thượng Thiện Hạnh đến Bệnh viện thăm như thường lệ để đưa lên xe áp giải hai ngài về Saigon và Huế. Sau đó họ có thể mở trò “cướp xác” Đức Tăng thống giao cho Ban Trị Sự Gíao hội Quốc doanh tổ chức tang lễ, thế là xong chuyê.n. Vì Tăng sinh ở Tu viện Nguyên Thiều rất đông và đang bảo vệ hai ngài, họ không thể ngang nhiên vào Tu Viện Nguyên Thiều cưởng chế nhị vị Hoà Thượng, nên họ mong dùng kế hoạch điệu hổ ly sơn này.
Nhưng đến sáng 4/7, Đức Tăng Thống đã quá suy yếu, họ không thể chờ được nữa nên lúc 13g họ cuống cuồng đưa Ngài về tu viện Nguyên Thiều cấp tốc, nếu Ngài tịch ở bệnh viện chắc chắn trách nhiệm chính quyền phải gánh chịu không phải là nhỏ.
Thế là kế hoạch điệu hổ ly sơn bị phá sản hoàn toàn. Chính quyền chỉ biết than thở cùng thất bại !
KẾ HOẠCH NGOẠ HỔ TÀNG LONG
Kế hoạch này tổng hợp từ : Mặt trận Tổ Quốc Bình Định, Ban Tôn Giáo Bình Định, Ban Trị Sự Giáo hội Phật giáo quốc doanh Bình Định, Ban Trị Sự Giáo hội Phật giáo quốc doanh Thừa thiên Huế, Tu viện Quãng Hương Già Lam, Tu viện Qui nhơn.
Không phải ngẩu nhiên mà Di chúc giả xuất hiện trong thời gian tang lể Đức Tăng Thống. Đây là một quá trình nghiên cứu kỷ lưởng hay tạm gọi là phương án II, nếu phương án I : điệu hổ ly sơn bất thành.
Chính quyền đánh giá rằng: trong tang lể Đức Tăng Thống, Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN sẽ bị “tứ đầu thọ địch”: một là chính quyền, hai là Giáo Hội Quốc Doanh, ba là Nhóm Nguyễn Châu - Bạch Hoa Mai và Nhóm Thân hữu Già Lam. Ba lực lượng nầy như 3 con cọp nằm chờ thời điểm nhảy ra vồ mồi (ngoạ hổ). Và bốn là Thầy Tuệ Sỷ đang ẩn mình tại các Chùa Ni ở thành phố Qui Nhơn chờ thời cơ “ lên ngôi Viện Trưởng ” ( tàng long )
Nắm 4 lực lượng nầy trong tay, chính quyền giàn dựng một vở kịch 4 màn rất ngoạn mục:
Màn 1 : Thầy Tuệ Sỷ sẽ đứng trước Kim Quan tuyên đọc Di Chúc giả của Đức Tăng Thống, trong đó Đức Tăng Thồng uỷ nhiệm cho Thầy Tuệ Sỷ giữ chức vụ Viện Trưởng Viện Hoá Đa.o. Sau khi đọc xong, Thầy sẽ dõng dạc tuyên bố : Theo sự uỷ nhiệmc của Đức Tăng Thống kể từ giờ phút nầy tôi là Viện Trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN, trên cương vị đó kể từ hôm nay tôi cũng chính thức kiêm nhiệm chức vụ Trưởng Ban Tổ Chức Tang Lể.
Màn 2 : Sau khi Thầy Tuệ Sỷ tuyên bố xong, con cọp Nguyễn Châu - Bạch Hoa Mai và Thân Hữu Già lam vùng lên tung hô vạn tuế vang trời dậy đất trước hàng ngàn Phật Tử có mặt tại Nguyên thiều.
Màn 3 : Hoà Thượng Thiện Nhơn cùng ban Trị Sự Gíao hội Nhà nước tỉnh Bình Định cùng Phật Tử Quốc Doanh ào đến Chúc Mừng và cùng phối hợp Tổ Chức Tang Lể,
Màn 4 : Chắc chắn sẽ có sự phản đối của các thành viên GHPGVNTN nhất là phía Gia Đình Phật tử đang bảo vệ Hội Đồng Lưỡng Viện và Kim Quan Đức Tăng Thống, chỉ chờ như vậy là con cọp chính quyền có cớ nhảy vào phong tỏa tang lể:
- Ông Quãng Độ đâủ, Ông Thiện Hạnh đâu? Di Chúc đã sờ sờ như thế, Tân Viện Trưởng đã sờ sờ như thế, các Ông không có nhiêm vụ gì ở đây cả, xin mời các ông về Saigon, về Huế ngay lập tức, nếu không chúng tôi sẽ dùng biện pháp ma.nh. Và như thế họ áp tải hai Ôn về hai ngã để tang lể Đức Tăng Thống cho rồng quẩy cọp vồ.
Tang Lể thay ngôi đổi chủ một giờ như gió.
Nhưng than ôi! họ đã lầm ! Một cái lầm rất lớn!
Cái lầm đó là Di Chúc đâu mà Thầy Tuệ Sỷ đọc, không lẽ Thầy lấy trong túi ra mà đọc ư ? Cho nên điểm then chốt là phải có người dâng Chúc Thư cho Thầy Tuệ Sỷ đọc chứ. Người đó không ai khác hơn là Đại Đức Thích Đồng Thọ, thị giả của Đức Tăng Thống, người mà họ tin chắc là họ sẽ nắm được trong tay.
Nhưng than ôi, suốt thời gian Tang Lể, dù được giao đúng người đúng việc, Thượng Toạ Thích Hãi Tạng vẫn không dám dùng miệng lưỡi Trương Nghi Tô Tần của mình để thuyết phục, mua chuộc Đại Đức Thích Đồng Thọ chống đối lại Hội Đồng Lưỡng Viện để đứng về phía ngoạ hổ tàng long.
Vì sao thế ? Xin thưa rằng trong tang lể của Đức Tăng Thống, Môn Đồ Hiếu Quyến và Hội Động Lưỡng Viện chỉ là Một, mọi người đã nhất trí tang Lể Đức Tăng Thống là TÂM TANG, mọi Hữu tướng của thế tục được thay bằng Vô tướng của giải thoát thì còn có đâu một Ban Tổ chức để khích động, tranh gành ? Có đâu phần đọc tiểu sử Hoà Thượng, để mỗi người mỗi ý bóp méo lập trường, chí nguyện của Ngài ? Có đâu Điếu văn để tạo cơ hội khích bác, tố khổ nhau ? Mà Gia Đình Phật tử của Nguyễn Châu đã muốn khơi mào đọc Diếu văn, nhưng thất bại từ trứng nước ? Thật là một đòn bất ngờ và đau điếng đối với chính quyền.
Và như thế, không mua chuộc được đại Đức Thích Đồng Thọ, nghĩa là không có người mở màn sân khấu để cho cái Chúc Thư Giả đề ngày 10.5,2008 xuất hiê.n. Sân khấu không mở màn thì cả 4 màn kịch trở thành một Một khung trời viễn mô.ng.
Ngày 11/7/2008, ngày cung nghinh Kim Quan Đức Tăng Thống nhập bảo tháp, cũng là ngày kế hoạch Ngoạ Hổ Tàng Long phá sản.
Lê Dũng, phát ngôn viên bộ ngoại giao CSVN ngậm ngùi tuyên bố : “Tại Việt Nam không có tổ chức tôn giáo nào mang tên GHPGVNTN. Ông Quãng Độ tham dự tang lể của Đại Lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang là quyền của ông ta”.
Xin thưa ông Lê Dũng, sao ông ăn nói lộn đầu lộn đuôi thế ? Lộn chổ nào ông thấy không ? Tôi xin chỉ để ông thấy nhé :
“Ông Quãng Độ tham dự tang lể của Đại Lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang là quyền của Ông ta”. Quyền gì đây ? Tất nhiên là quyền của Ngài Viện Trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN chứ còn quyền gì nữa phải không ông ? Và khi Viện Trưởng Viện Hóa Đạo tham dự, tất nhiên có Hội Đồng Lưỡng Viện tham dự chứ không lẻ Ông Viện Trưởng tham dự một mình ? Và như thế, cả Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN đều có mặt tại Nguyên Thiều suốt thời gian Tang Lể Đức Tăng Thống. Ông còn chối cãi đằng nào mà Ông dám nói tại Việt Nam không có tổ chức Tôn Giáo nào mang tên GHPGVNTN hở Ông Lê Dũng ?!
Xin hạ màn.
Cố Đô Huế, Phật Lịch 2552, ngày 22/8/2008 ( 22/7/Mậu Tý )
Tuần Chung Thất Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN
Phật Tử LÊ NGUYỄN MINH ĐỨC
====
«Sau Giáo chỉ số 9, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thoát hiểm lần thứ hai» hay «Một cuộc Đảo chánh không thành tại Tang lễ Đức Cố Tăng thống Thích Huyền Quang»
Không phải ngẩu nhiên hay lầm lẩn, mà chính quyền Cọng Sản đã cho báo chí, các đài truyền thanh, truyền hình ngang nhiên loan tin : Tang Lể Đại Lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang do Ban Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ( tức là Giáo Hội Quốc Doanh ) đứng ra tổ chức. Để cho dân chúng tin tưởng đó là sự thật, ngày 3/7/2008 ngay sau khi Đức Tăng Thống vừa mới đươc đưa từ Bệnh Viện Qui Nhơn về tu viện Nguyên Thiều, thì lập tức Lê Dũng phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao CSVN tuyên bố: Tại Việt Nam không có tổ chức tôn giáo nào mang tên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, tang lể của Đại Lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang do Ban Trị Sự Gáo Hôi Phật Giáo Việt Nam và môn đồ hiếu quyến đúng ra tổ chức. Rồi tờ báo gia nô Thanh Niên nhanh nhảu phụ hoạ xuyên tạc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) để lập công đầu.
Tại sao chính quyền tuyên bố một cách chắc nịch như thế ? Bởi vì họ đã vạch ra nhiều kế hoạch khai tử GHPGVNTN ngay tại tang lể Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống và họ tin chắc phần thắng họ đã nắm gọn trong tay.
KẾ HOẠCH ĐIỆU HỔ LY SƠN
Kế hoạch này đến từ : Mặt Trận Tổ Quốc Tỉnh Bình Định, Ban Tôn Giáo Tỉnh Bình Định, Ban Trị Sự GHPGVN Tỉnh Bình Định, và Bệnh Viện Qui Nhơn-Bình Định
Ngày 27/5/2008 Đức Cố Tăng Thống nhập viện, ngày 28/5/2008 Hoà Thượng Viện Trưởng Thích Quãng Độ và phái đoàn Viện Hoá Đạo đã có mặt tại Nguyên Thiều, cùng thời điểm Hoà Thượng Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống Thích Thiện Hạnh cùng chư vị trong Hội Đồng Trưởng Lão và chư vị Gíáo Phẩm tại miền Trung đều có mă.t. Sau khi thăm viếng và nắm rõ tình tình sức khoẻ Đức Tăng Thống, nhiều phiên họp giữa Hội Đồng Lưỡng Viện và Môn đồ hiếu quyến đã được tổ chức để bàn phương hướng chửa trị cho Đức Tăng Thống. Các đề nghị đưa Đức Tăng Thông vào Sài Gon hay ra Huế là có thâ.t. Hoà Thượng Thiện Hạnh nhận định rằng: Lần trước Đức Tăng Thống cũng vào Bệnh viện Qui Nhơn nhưng sau đó Gíao hội đã kịp thời đưa vào bệnh viện Pháp Việt tại Sài gòn chửa trị, nhờ vậy mà Đức Tăng Thông bình phục cho đến hôm nay. Bệnh viện Pháp Việt đã nắm rỏ bệnh tình của Ngài cho nên đưa Ngài vào bệnh viện Pháp Việt là giải pháp tối ưu. Nếu không đưa vào Saigon được thì đưa ra Huế, đây là Trung tâm Y tế miền Trung với nhiều trang thiết bị tối tân, bên cạnh còn có Trường Đại Học Y khoa với nhiều Giáo Sư Bác Sỉ danh tiêng, có thể đáp ứng được tình trạng sức khoẻ của Ngài.
Nhưng hai phương án trên không thực hiện được vì Thượng Toạ Minh Tuấn cho biết là nhiều lần Thượng Toạ yêu cầu Ban Giám Đốc Bệnh Viện xin chuyển viện nhưng đều không được giải quyết. Ban Giám Đốc nói : Chính quyền đã chỉ thị cho Bệnh viện xử dụng mọi điều kiện tối ưu để điều trị cho Hoà Thượng, hơn nữa sức khoẻ của ngài còn yếu quá, việc di chuyển không đảm bảo an toàn. Qua câu trả lời trên Ai cũng đã thấy rỏ chính quyền quản chế Đức Tăng Thống một cách ngọt ngào.
Ngài Viện Trưởng ra Bình Định lần nầy an toàn vì cùng thời điểm Phái đoàn Nhân quyền của Chính phủ Hoa Kỳ đang làm việc với chính quyền Việt Nam tại Hà Nô.i. Để phòng bất trắc Ngài đã quyết định ở lại Nguyên Thiều, cùng Môn đồ hiếu quyến chăm lo cho đức Tăng Thống.
Sau hơn 3 tuần điều trị, sức khoẻ Đức Tăng Thống ngày càng suy sụp, lợi dụng khi Ngài khó thở họ đưa Ngài phòng Hồi sức, cách ly hoàn toàn với bên ngoài. Kể từ đây Môn đồ hiếu quyến cũng như Hội Đồng Lưỡng Viện không theo dõi được bệnh tình của Ngài nữa. Tính mạng của Ngài hoàn toàn nằm trong tay chính quyền.
Biết chắc chắn rằng chính quyền dùng Bệnh Viện Qui Nhơn để giam Đức Tăng thống cho đến chết, Thượng Toạ Minh Tuấn chính thức viết thư gởi Ban Giám Đốc Bệnh Viên đề nghị 4 điểm như sau:
- Xin thanh toán viện phí ( không nhận tài trợ viện phí của chính quyền )
- Xin ngưng cách chửa trị như hiện nay (sau hơn một tháng không có hiệu quả)
- Xin đưa Đức Tăng Thống về chùa để Ngài được nghe công phu sớm chiều và gần gủi con cháu (thực tế là để thoát cảnh tù tội trong những ngày cuối đời )
- Nếu được xin Bệnh Viện hổ trợ điều trị ngoại trú. Không những không hổ trợ mà chính quyền còn cấm tất cả y bác sỉ đang tại chức hoặc đã về hưu đều không được chửa trị ngoại trú cho Đức Tăng Thống.
Sau khi nhận được thơ của Thượng Toạ Minh Tuấn, Ban Giám Đốc bệnh Viên hứa giải quyết, nhưng họ đã chần chờ suốt ba ngày 1, 2, và 3.7. Vì sao ? Vì họ chờ Hòa thượng Quảng Độ và Hòa thượng Thiện Hạnh đến Bệnh viện thăm như thường lệ để đưa lên xe áp giải hai ngài về Saigon và Huế. Sau đó họ có thể mở trò “cướp xác” Đức Tăng thống giao cho Ban Trị Sự Gíao hội Quốc doanh tổ chức tang lễ, thế là xong chuyê.n. Vì Tăng sinh ở Tu viện Nguyên Thiều rất đông và đang bảo vệ hai ngài, họ không thể ngang nhiên vào Tu Viện Nguyên Thiều cưởng chế nhị vị Hoà Thượng, nên họ mong dùng kế hoạch điệu hổ ly sơn này.
Nhưng đến sáng 4/7, Đức Tăng Thống đã quá suy yếu, họ không thể chờ được nữa nên lúc 13g họ cuống cuồng đưa Ngài về tu viện Nguyên Thiều cấp tốc, nếu Ngài tịch ở bệnh viện chắc chắn trách nhiệm chính quyền phải gánh chịu không phải là nhỏ.
Thế là kế hoạch điệu hổ ly sơn bị phá sản hoàn toàn. Chính quyền chỉ biết than thở cùng thất bại !
KẾ HOẠCH NGOẠ HỔ TÀNG LONG
Kế hoạch này tổng hợp từ : Mặt trận Tổ Quốc Bình Định, Ban Tôn Giáo Bình Định, Ban Trị Sự Giáo hội Phật giáo quốc doanh Bình Định, Ban Trị Sự Giáo hội Phật giáo quốc doanh Thừa thiên Huế, Tu viện Quãng Hương Già Lam, Tu viện Qui nhơn.
Không phải ngẩu nhiên mà Di chúc giả xuất hiện trong thời gian tang lể Đức Tăng Thống. Đây là một quá trình nghiên cứu kỷ lưởng hay tạm gọi là phương án II, nếu phương án I : điệu hổ ly sơn bất thành.
Chính quyền đánh giá rằng: trong tang lể Đức Tăng Thống, Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN sẽ bị “tứ đầu thọ địch”: một là chính quyền, hai là Giáo Hội Quốc Doanh, ba là Nhóm Nguyễn Châu - Bạch Hoa Mai và Nhóm Thân hữu Già Lam. Ba lực lượng nầy như 3 con cọp nằm chờ thời điểm nhảy ra vồ mồi (ngoạ hổ). Và bốn là Thầy Tuệ Sỷ đang ẩn mình tại các Chùa Ni ở thành phố Qui Nhơn chờ thời cơ “ lên ngôi Viện Trưởng ” ( tàng long )
Nắm 4 lực lượng nầy trong tay, chính quyền giàn dựng một vở kịch 4 màn rất ngoạn mục:
Màn 1 : Thầy Tuệ Sỷ sẽ đứng trước Kim Quan tuyên đọc Di Chúc giả của Đức Tăng Thống, trong đó Đức Tăng Thồng uỷ nhiệm cho Thầy Tuệ Sỷ giữ chức vụ Viện Trưởng Viện Hoá Đa.o. Sau khi đọc xong, Thầy sẽ dõng dạc tuyên bố : Theo sự uỷ nhiệmc của Đức Tăng Thống kể từ giờ phút nầy tôi là Viện Trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN, trên cương vị đó kể từ hôm nay tôi cũng chính thức kiêm nhiệm chức vụ Trưởng Ban Tổ Chức Tang Lể.
Màn 2 : Sau khi Thầy Tuệ Sỷ tuyên bố xong, con cọp Nguyễn Châu - Bạch Hoa Mai và Thân Hữu Già lam vùng lên tung hô vạn tuế vang trời dậy đất trước hàng ngàn Phật Tử có mặt tại Nguyên thiều.
Màn 3 : Hoà Thượng Thiện Nhơn cùng ban Trị Sự Gíao hội Nhà nước tỉnh Bình Định cùng Phật Tử Quốc Doanh ào đến Chúc Mừng và cùng phối hợp Tổ Chức Tang Lể,
Màn 4 : Chắc chắn sẽ có sự phản đối của các thành viên GHPGVNTN nhất là phía Gia Đình Phật tử đang bảo vệ Hội Đồng Lưỡng Viện và Kim Quan Đức Tăng Thống, chỉ chờ như vậy là con cọp chính quyền có cớ nhảy vào phong tỏa tang lể:
- Ông Quãng Độ đâủ, Ông Thiện Hạnh đâu? Di Chúc đã sờ sờ như thế, Tân Viện Trưởng đã sờ sờ như thế, các Ông không có nhiêm vụ gì ở đây cả, xin mời các ông về Saigon, về Huế ngay lập tức, nếu không chúng tôi sẽ dùng biện pháp ma.nh. Và như thế họ áp tải hai Ôn về hai ngã để tang lể Đức Tăng Thống cho rồng quẩy cọp vồ.
Tang Lể thay ngôi đổi chủ một giờ như gió.
Nhưng than ôi! họ đã lầm ! Một cái lầm rất lớn!
Cái lầm đó là Di Chúc đâu mà Thầy Tuệ Sỷ đọc, không lẽ Thầy lấy trong túi ra mà đọc ư ? Cho nên điểm then chốt là phải có người dâng Chúc Thư cho Thầy Tuệ Sỷ đọc chứ. Người đó không ai khác hơn là Đại Đức Thích Đồng Thọ, thị giả của Đức Tăng Thống, người mà họ tin chắc là họ sẽ nắm được trong tay.
Nhưng than ôi, suốt thời gian Tang Lể, dù được giao đúng người đúng việc, Thượng Toạ Thích Hãi Tạng vẫn không dám dùng miệng lưỡi Trương Nghi Tô Tần của mình để thuyết phục, mua chuộc Đại Đức Thích Đồng Thọ chống đối lại Hội Đồng Lưỡng Viện để đứng về phía ngoạ hổ tàng long.
Vì sao thế ? Xin thưa rằng trong tang lể của Đức Tăng Thống, Môn Đồ Hiếu Quyến và Hội Động Lưỡng Viện chỉ là Một, mọi người đã nhất trí tang Lể Đức Tăng Thống là TÂM TANG, mọi Hữu tướng của thế tục được thay bằng Vô tướng của giải thoát thì còn có đâu một Ban Tổ chức để khích động, tranh gành ? Có đâu phần đọc tiểu sử Hoà Thượng, để mỗi người mỗi ý bóp méo lập trường, chí nguyện của Ngài ? Có đâu Điếu văn để tạo cơ hội khích bác, tố khổ nhau ? Mà Gia Đình Phật tử của Nguyễn Châu đã muốn khơi mào đọc Diếu văn, nhưng thất bại từ trứng nước ? Thật là một đòn bất ngờ và đau điếng đối với chính quyền.
Và như thế, không mua chuộc được đại Đức Thích Đồng Thọ, nghĩa là không có người mở màn sân khấu để cho cái Chúc Thư Giả đề ngày 10.5,2008 xuất hiê.n. Sân khấu không mở màn thì cả 4 màn kịch trở thành một Một khung trời viễn mô.ng.
Ngày 11/7/2008, ngày cung nghinh Kim Quan Đức Tăng Thống nhập bảo tháp, cũng là ngày kế hoạch Ngoạ Hổ Tàng Long phá sản.
Lê Dũng, phát ngôn viên bộ ngoại giao CSVN ngậm ngùi tuyên bố : “Tại Việt Nam không có tổ chức tôn giáo nào mang tên GHPGVNTN. Ông Quãng Độ tham dự tang lể của Đại Lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang là quyền của ông ta”.
Xin thưa ông Lê Dũng, sao ông ăn nói lộn đầu lộn đuôi thế ? Lộn chổ nào ông thấy không ? Tôi xin chỉ để ông thấy nhé :
“Ông Quãng Độ tham dự tang lể của Đại Lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang là quyền của Ông ta”. Quyền gì đây ? Tất nhiên là quyền của Ngài Viện Trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN chứ còn quyền gì nữa phải không ông ? Và khi Viện Trưởng Viện Hóa Đạo tham dự, tất nhiên có Hội Đồng Lưỡng Viện tham dự chứ không lẻ Ông Viện Trưởng tham dự một mình ? Và như thế, cả Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN đều có mặt tại Nguyên Thiều suốt thời gian Tang Lể Đức Tăng Thống. Ông còn chối cãi đằng nào mà Ông dám nói tại Việt Nam không có tổ chức Tôn Giáo nào mang tên GHPGVNTN hở Ông Lê Dũng ?!
Xin hạ màn.
Cố Đô Huế, Phật Lịch 2552, ngày 22/8/2008 ( 22/7/Mậu Tý )
Tuần Chung Thất Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN
Phật Tử LÊ NGUYỄN MINH ĐỨC
====
CHỦ QUYỀN VIỆT NAM
CHỦ QUYỀN VIỆT NAM
KIẾN NGHỊ HỦY BỎ
CÔNG HÀM 14 THÁNG 9 NĂM 1958
CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG
Kính gửi: Ông Nông Đức Mạnh
Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Ông Nguyễn Minh Triết
Chủ Tịch Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Ông Nguyễn Tấn Dũng
Thủ Tướng Chính Phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Ông Nguyễn Phú Trọng
Chủ Tịch Quốc Hội Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Thưa các ông
Từ nhiều năm nay, Chính phủ Việt Nam đã khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Nhưng thực tế cho thấy phía chính quyền Trung Quốc đã không những không tôn trọng điều khẳng định của Chính phủ Việt Nam mà còn liên tục có những hành động xâm phạm chủ quyền nước Việt:
Tháng 1 năm 1974, Trung Quốc đã xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa.
Tháng 5 năm 1988, Trung Quốc đã xâm chiếm nhiều đảo ở Trường Sa.
Tháng 11 năm 2007, Trung Quốc đã cho thiết lập huyện Tam Sa để trực tiếp quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong lúc hai quần đảo này còn trong vòng tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Tháng 7 năm 2008, Trung Quốc đã cảnh báo và yêu cầu tập đoàn dầu khí Exxon Mobil của Hoa Kỳ rút khỏi hợp đồng khai thác mỏ dầu với chính phủ Việt Nam. Trước đó, vào tháng 6 năm 2007, nhà cầm quyền Trung Quốc cũng đã phản đối và yêu cầu ngưng hợp đồng giữa Chính phủ Việt Nam với tập đoàn dầu khí BP của Anh nhằm nghiên cứu thăm dò dầu khí gần khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khiến cho tập đoàn BP đã phải tạm ngưng xúc tiến kế hoạch.
Mới đây, trong khi chuẩn bị Thế vận hội Bắc Kinh năm 2008, nhà cầm quyền Trung Quốc đã vẽ lại bản đồ Trung Quốc trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Giữa tháng 8 năm 2008, hải quân Trung Quốc trang bị dàn hỏa tiễn tối tân xâm nhập vào khu vực lãnh hải của Việt Nam.
Những hành động nói trên cho thấy là nhà cầm quyền Trung Quốc coi thường công luận và tiếp tục xâm phạm hải đảo của Việt Nam, trong khi Chính phủ Việt Nam chỉ lên tiếng phản đối một cách quá dè dặt. Một trong những văn bản bị Trung Quốc lợi dụng để khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa là Công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho thủ tướng Chu Ân Lai vào ngày 14 tháng 9 năm 1958 xác nhận rằng: "Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc". ( Bản Tuyên bố của Trung Quốc khẳng định hải phận 12 hải lý của họ, trong đó bao gồm chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ). Sau này, chính phủ Việt Nam có giải thích về lý do ra đời của Công hàm vào năm 1958 là hoàn toàn mang tính ngoại giao không ảnh hưởng gì đến chủ quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, Trung Quốc không đếm xỉa gì đến giải thích này.
Nhiều thế hệ Việt Nam đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ giang sơn tổ quốc. Chúng ta trong thế hệ này không những tiếp tục bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải của cha ông để lại mà còn phải can đảm sửa sai những lầm lẫn của quá khứ để không tiếp tục trao gánh nặng lại cho thế hệ tương lai. Những sai lầm của Việt Nam xuất phát từ sai lầm ôm lấy Xã Hội Chủ Nghiã Tàu Cộng thay vì bảo vệ Tổ quốc (Hải Ngoại gọi là phản quốc - LTS). Nay chính họ đã phản bội lại tất cả và ngày càng biểu lộ dã tâm xâm lăng đất nước Việt Nam, bởi vậy, Việt Nam không thể không có thái độ dứt khóat và hành động mạnh mẽ để đáp trả đích đáng dã tâm của đối phương.
Ngày 14 tháng 9 năm nay là vừa tròn nửa thế kỷ đã trôi qua đối với bản công hàm do cá nhân thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký mà không thông qua Quốc hội, không trưng cầu ý kiến toàn dân. Bởi vậy, nhân dịp này chúng tôi khẩn thiết đề nghị Nhà nước Việt Nam chính thức tuyên bố hủy bỏ Công hàm mà cá nhân thủ tường Phạm văn Đồng đã ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 gửi cá nhân thủ tướng Chu Ân Lai.
Chúng tôi hoàn toàn tin rằng đây là sở nguyện của người dân Việt Nam và làm được như vậy mới có thể chuộc lỗi cùng Tổ quốc và Nhân dân, từ đó may ra cứu vãn phần nào lòng tin đã hoàn toàn mất đối với chế độ.
Hà Nội ngày 2 tháng 9 năm 2008
Những người ký tên kiến nghị :
(Đến ngày 4/9/2008)
Cựu chiến binh ( theo thứ tự tên gọi)
1. Phan Anh – thương binh, giáo viên trường PTTH Quang Trung, tp Hà Đông
2. Phạm Quế Dương – đại tá QĐND VN, 37 Lý Nam Đế, Hà Nội
3. Lê Điệp – CCB, 17 Hàng Quạt, Hà Nội
4. Lê hữu Điệp – CCB, 40, phường Phúc Tân, Hoàn Kiếm, Ha Nội
5. Lý Anh Kim – CCB, 87, Phường Phúc Xá, Ba Đình, Ha Nội
6. Trần Anh Kim – Trung tá QĐNDVN, biên tập viên tập san Tổ Quốc
7. Nguyễn Trọng Lâm – CCB, 46 Trần Hưng Đạo, Hà Nội
8. Nguyễn văn Miến – đại tá QĐNDVN, 30 đường Nguyễn Cao, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
9. Nguyễn Kim Nhàn – CCB, số nhà 1413, khu 34, thành phố Bắc Giang
10. Nguyễn Thanh Nhàn- thương binh chống Mỹ, gv trường PTTH Quang Trung, tp Hà Đông
11. Phạm văn Phiếu – cụu quyết tử quân Trung đoàn Thủ đô, 8/28 Hương viên, Hai Bà Trưng, Hà Nội
12. Trịnh Khả Phức – Cựu chiến binh chống Pháp – số 6, nhà P9, khu lắp ghép Trương Định, Hanoi
13. Vũ Cao Quận – CCB, Hải Phòng, biên tập viên tập san Tổ Quốc
14. Lê Anh Sơn – CCB, 17 Nguyễn Du, Hà Nội
15. Đỗ Việt Sơn – lão thành cách mạng, 4/21. Nguyễn Cao, Hà Nội
16. Trần Đức Thạch – CCB, Hội viên Hội Văn Nghệ Nghệ An
17. Nguyễn Thế - CCB, Thanh Xuân, Hà Nội
18. Đỗ văn Thỉnh - CCB, Văn Phú, Phú La, Hà Đông
19. Chu văn Thưởng – CCB, 18 Ngõ Quỳnh, Bạch Mai, Hà Nội
20. Cao Bá Trữ - thiếu tá QĐNDVN, Đống Đa, Hà Nội
Những thành phần nhân sĩ kịp ký (trước ngày phổ biến 4-9-2008, theo thứ tự tên gọi)
1. Tiêu Dao Bảo Cự - nhà văn, Thành phố Đà Lạt
2. Kim Văn Duy - sinh viên ĐH Kiến Trúc, tp HCM
3. Ninh Thị Định - 3/20/215 Lê Lai, Ngô Quyền, Hải Phòng.
4. Nguyễn Thanh Giang – tiến sỹ Địa Vật lý, số 6, tập thể Địa Vật lý Máu bay, Hà Nội
5. Vi Đức Hồi - Cựu hiệu trưởng Trường Đảng Hữu Lũng, Lạng Sơn khu An Thịnh, Hữu Lũng, Lạng Sơn.
6. Vũ Hùng – cựu giáo viên vật lý trường PTCS Bích Hòa, Hà Tây
7. Vũ Mạnh Hùng - Cán bộ quản lý khu nội trú Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thương mại, Hà Nội
8. Trần Lâm – luật sư, Thành phố Hải Phòng
9. Mai Thái Lĩnh – cựu Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Đà Lạt, Lâm Đồng
10. Nguyễn Thượng Long – nhà giáo, Văn La, Văn Khê, Hà Đông
11. Nguyễn thị Lợi - ( thân mẫu cô Phạm Thanh Nghiên)
12. Nguyễn Tiến Nam, tổ 24, phường Yến Thịnh, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.
13. Võ văn Nghệ - 277A, đường Nguyễn Trãi, phường Tây Sơn, tp Thanh Hóa
14. Nguyễn Xuân Nghĩa – nhà văn, số nhà 828, đường Trường Chinh, Kiến An, Hải Phòng
15. Phạm Thanh Nghiên, số nhà 17, Phương Lưu 2, phường Đông Hải, quận Hải An, HP
16. Hà Sỹ Phu – tiến sỹ sinh vật học, 4E Bùi thị Xuân, thành phố Đà Lạt
17. Lê Minh Phúc – Cựu Tổng giám đốc Liên hiệp Địa Vật lý Máy bay Việt Nam
18. Phạm Thị Phượng - Cầu Tre, Ngô Quyền, Hải Phòng.
19. Bùi Minh Quốc – nhà văn, 3 Nguyễn Thượng Hiền, Đà Lạt
20. Ngô Quỳnh - Hiệp Hòa, Bắc Giang
21. Nguyễn văn Tính (tức Hoàng Hải Minh) Quán Chữ, Hải Phòng, mobile 0984 414479
22. Lưu thị Thu – 282, Lê Lai, Ngô Quyền, Hải Phòng
23. Trần Khải Thanh Thủy – nhà văn, biên tập viên tập san Tổ Quốc
24. Vũ như Ý - nguyên chuyên viên cao cấp Bộ Giao thông vận tải, phường Vĩnh Tuy, Hà Nội
25. Phạm Thanh Yến, lô A1, Thái Phiên, Cầu Tre, Ngô Quyền, Hải Phòng
(Ghi chú: Như thường lệ, các văn bản loại này có sự hiệu đính đôi chút bởi Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN trước khi đăng tải để phù hợp với lối dùng chữ của Hải Ngoại và chủ trương của Tòa Soạn)
PETITION TO NULLIFY
THE SEPTEMBER 14 - 1958 COMMUNIQUÉ
BY FORMER PRIME MINISTER PHAM VAN DONG
Respectfully sent to:
Mr. Nong Duc Manh
Secretary General / Communist Party of Vietnam
Mr. Nguyen Minh Triet
President / Socialist Republic of Vietnam
Mr. Nguyen Tan Dung
Prime Minister / Government of Socialist Republic of Vietnam
Mr. Nguyen Phu Trong
Chairman / National Assembly of Socialist Republic of Vietnam
Gentlemen,
For years, our government has declared Hoang Sa and Truong Sa belong to Vietnam. However, in reality the government of China not only disregards those declarations but also repeatedly violates our sovereignty:
- In January 1974, China invaded the Hoang Sa archipelago.
- In May 1988, China invaded many islands of the Truong Sa archipelago.
- In November 2007, China established the Administrative District of Sansha to directly control the archipelagoes of Hoang Sa and Truong Sa despite the fact that these islands were still in dispute between the two governments.
- In July 2008, China pressured the US-based petroleum company, Exxon Mobil, to withdraw from an exploration contract with our government. A few months before that, the Chinese government also threatened the UK-based company, British Petroleum, to prevent it from signing with our government a contract to explore the areas close to Hoang Sa and Truong Sa.
- Recently, while preparing for the 2008 Beijing Olympics, the Chinese authorities redrew the map of China to include the two archipelagoes Hoang Sa and Truong Sa.
- In Mid-August 2008, Chinese Navy equipped with sophisticated missile systems entered the territorial waters of Vietnam without permission.
Those deliberate actions clearly show the Chinese government's disregard of the world opinions and its intention to take possession of the archipelagoes of Vietnam. Our government, however, has protested with too much hesitation. Among the documents used by China to claim its ownership over Hoang Sa and Truong Sa is the communiqué sent by Prime Minister Pham Van Dong to his counterpart, Chu An Lai, on September 14, 1958, confirming that: "The Government of the Democratic Republic of Vietnam acknowledge and agree with the September 4, 1958 Proclamation of the Government of the People's Republic of China over its territorial waters." (That proclamation declared China's 12-mile maritime border which included archipelagoes Hoang Sa and Truong Sa). In recent years, our government explained that the said 1958 communiqué was issued only for diplomatic purposes and bears no effect on Vietnam's sovereignty over these islands. China, however, pays no attention to that explanation.
Many generations of Vietnamese have bravely defended the nation's territories. We, members of the current generation, have the obligation not only to continue the defense of our land and sea territories but also to courageously correct the mistakes of the past. We cannot delegate the burdens to future generations. The blunders came from our misplaced trust in the Chinese government while both sides were fighting for the same ideology. Today, they have betrayed us all and revealed their intention to infringe on our sovereignty more and more clearly. We, therefore, have no choice but respond unequivocally and adequately to those evil intentions.
September 14, 2008 marks half a century since the issuance of the so-called Pham Van Dong's communiqué which was not passed by the National Assembly nor (by a Referandum of) the people of Vietnam. We, therefore, urgently call on the Government to officially declare the nullification of the communiqué sent by Prime Minister Pham Van Dong, as an individual, on September 14, 1958 to Chu An Lai.
We wholeheartedly believe this is the wish to the people of Vietnam. Upon accomplishing this task, you could receive the forgiveness and trust of the Nation.
Hanoi, September 2, 2008.
Signatures
(As of September 4, 2008)
Veterans (in alphabet order of given names)
1. Phan Anh – disabled veteran, teacher at Quang Trung High School, Hà Đông
2. Phạm Quế Dương – retired colonel, 37 Lý Nam Đế, Hà Nội
3. Lê Điệp – 17 Hàng Quạt, Hà Nội
4. Lê hữu Điệp – 40, phường Phúc Tân, Hoàn Kiếm, Ha Nội
5. Lý Anh Kim – 87, Phường Phúc Xá, Ba Đình, Ha Nội
6. Trần Anh Kim – retired lt. colonel, staff writer of Tổ Quốc magazine
7. Nguyễn Trọng Lâm – 46 Trần Hưng Đạo, Hà Nội
8. Nguyễn văn Miến – retired colonel, 30 Nguyễn Cao, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
9. Nguyễn Kim Nhàn – số nhà 1413, khu 34, thành phố Bắc Giang
10. Nguyễn Thanh Nhàn- disabled veteran, teacher at Quang Trung High School, Hà Đông
11. Phạm văn Phiếu – retired commando of Capital Regiment, 8/28 Hương viên, Hai Bà Trưng, Hà Nội
12. Trịnh Khả Phức – số 6, nhà P9, Trương Định District, Hanoi
13. Vũ Cao Quận – Hải Phòng, staff writer of Tổ Quốc magazine
14. Lê Anh Sơn – 17 Nguyễn Du, Hà Nội
15. Đỗ Việt Sơn – 4/21. Nguyễn Cao, Hà Nội
16. Trần Đức Thạch – member of Arts Association of Nghệ An
17. Nguyễn Thế - Thanh Xuân, Hà Nội
18. Đỗ văn Thỉnh - Văn Phú, Phú La, Hà Đông
19. Chu văn Thưởng – 18 Ngõ Quỳnh, Bạch Mai, Hà Nội
20. Cao Bá Trữ - retired major, Đống Đa, Hà Nội
Early signed Citizens (released 9/4/2008, in alphabet order of given names)
1. Tiêu Dao Bảo Cự - writer, Đà Lạt city
2. Kim Văn Duy – student of Architecture University HCMcity
3. Ninh Thị Định - 3/20/215 Lê Lai, Ngô Quyền, Hải Phòng.
4. Nguyễn Thanh Giang – doctor of geo-physics, số 6, tập thể Địa Vật lý Máu bay, Hà Nội
5. Vi Đức Hồi – retired principal of Hữu Lũng Party School, Lạng Sơn khu An Thịnh, Hữu Lũng, Lạng Sơn.
6. Vũ Hùng – retired teacher at Bích Hòa High School, Hà Tây
7. Vũ Mạnh Hùng – dormitory director at College of Economics, Technoligies, and Commerce, Hà Nội
8. Trần Lâm – lawyer, Hải Phòng
9. Mai Thái Lĩnh – former deputy mayor of Đà Lạt, Lâm Đồng
10. Nguyễn Thượng Long – teacher, Văn La, Văn Khê, Hà Đông
11. Nguyễn thị Lợi - ( mother of ms. Phạm Thanh Nghiên)
12. Nguyễn Tiến Nam, tổ 24, phường Yến Thịnh, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.
13. Võ văn Nghệ - 277A, đường Nguyễn Trãi, phường Tây Sơn, tp Thanh Hóa
14. Nguyễn Xuân Nghĩa – writer, số nhà 828, đường Trường Chinh, Kiến An, Hải Phòng
15. Phạm Thanh Nghiên, số nhà 17, Phương Lưu 2, phường Đông Hải, quận Hải An, HP
16. Hà Sỹ Phu – doctor of biology, 4E Bùi thị Xuân, Đà Lạt
17. Lê Minh Phúc – former general manager of Geo-physic Association of Việt Nam
18. Phạm Thị Phượng - Cầu Tre, Ngô Quyền, Hải Phòng.
19. Bùi Minh Quốc – writer, 3 Nguyễn Thượng Hiền, Đà Lạt
20. Ngô Quỳnh - Hiệp Hòa, Bắc Giang
21. Nguyễn văn Tính (aka. Hoàng Hải Minh) Quán Chữ, Hải Phòng, mobile 0984 414479
22. Lưu thị Thu – 282, Lê Lai, Ngô Quyền, Hải Phòng
23. Trần Khải Thanh Thủy – writer, văn, staff writer of Tổ Quốc magazine
24. Vũ như Ý – retired high-level official of Ministry of Transportation, phường Vĩnh Tuy, Hà Nội
25. Phạm Thanh Yến, lô A1, Thái Phiên, Cầu Tre, Ngô Quyền, Hải Phòng
KIẾN NGHỊ HỦY BỎ
CÔNG HÀM 14 THÁNG 9 NĂM 1958
CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG
Kính gửi: Ông Nông Đức Mạnh
Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Ông Nguyễn Minh Triết
Chủ Tịch Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Ông Nguyễn Tấn Dũng
Thủ Tướng Chính Phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Ông Nguyễn Phú Trọng
Chủ Tịch Quốc Hội Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Thưa các ông
Từ nhiều năm nay, Chính phủ Việt Nam đã khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Nhưng thực tế cho thấy phía chính quyền Trung Quốc đã không những không tôn trọng điều khẳng định của Chính phủ Việt Nam mà còn liên tục có những hành động xâm phạm chủ quyền nước Việt:
Tháng 1 năm 1974, Trung Quốc đã xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa.
Tháng 5 năm 1988, Trung Quốc đã xâm chiếm nhiều đảo ở Trường Sa.
Tháng 11 năm 2007, Trung Quốc đã cho thiết lập huyện Tam Sa để trực tiếp quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong lúc hai quần đảo này còn trong vòng tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Tháng 7 năm 2008, Trung Quốc đã cảnh báo và yêu cầu tập đoàn dầu khí Exxon Mobil của Hoa Kỳ rút khỏi hợp đồng khai thác mỏ dầu với chính phủ Việt Nam. Trước đó, vào tháng 6 năm 2007, nhà cầm quyền Trung Quốc cũng đã phản đối và yêu cầu ngưng hợp đồng giữa Chính phủ Việt Nam với tập đoàn dầu khí BP của Anh nhằm nghiên cứu thăm dò dầu khí gần khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khiến cho tập đoàn BP đã phải tạm ngưng xúc tiến kế hoạch.
Mới đây, trong khi chuẩn bị Thế vận hội Bắc Kinh năm 2008, nhà cầm quyền Trung Quốc đã vẽ lại bản đồ Trung Quốc trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Giữa tháng 8 năm 2008, hải quân Trung Quốc trang bị dàn hỏa tiễn tối tân xâm nhập vào khu vực lãnh hải của Việt Nam.
Những hành động nói trên cho thấy là nhà cầm quyền Trung Quốc coi thường công luận và tiếp tục xâm phạm hải đảo của Việt Nam, trong khi Chính phủ Việt Nam chỉ lên tiếng phản đối một cách quá dè dặt. Một trong những văn bản bị Trung Quốc lợi dụng để khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa là Công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho thủ tướng Chu Ân Lai vào ngày 14 tháng 9 năm 1958 xác nhận rằng: "Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc". ( Bản Tuyên bố của Trung Quốc khẳng định hải phận 12 hải lý của họ, trong đó bao gồm chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ). Sau này, chính phủ Việt Nam có giải thích về lý do ra đời của Công hàm vào năm 1958 là hoàn toàn mang tính ngoại giao không ảnh hưởng gì đến chủ quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, Trung Quốc không đếm xỉa gì đến giải thích này.
Nhiều thế hệ Việt Nam đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ giang sơn tổ quốc. Chúng ta trong thế hệ này không những tiếp tục bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải của cha ông để lại mà còn phải can đảm sửa sai những lầm lẫn của quá khứ để không tiếp tục trao gánh nặng lại cho thế hệ tương lai. Những sai lầm của Việt Nam xuất phát từ sai lầm ôm lấy Xã Hội Chủ Nghiã Tàu Cộng thay vì bảo vệ Tổ quốc (Hải Ngoại gọi là phản quốc - LTS). Nay chính họ đã phản bội lại tất cả và ngày càng biểu lộ dã tâm xâm lăng đất nước Việt Nam, bởi vậy, Việt Nam không thể không có thái độ dứt khóat và hành động mạnh mẽ để đáp trả đích đáng dã tâm của đối phương.
Ngày 14 tháng 9 năm nay là vừa tròn nửa thế kỷ đã trôi qua đối với bản công hàm do cá nhân thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký mà không thông qua Quốc hội, không trưng cầu ý kiến toàn dân. Bởi vậy, nhân dịp này chúng tôi khẩn thiết đề nghị Nhà nước Việt Nam chính thức tuyên bố hủy bỏ Công hàm mà cá nhân thủ tường Phạm văn Đồng đã ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 gửi cá nhân thủ tướng Chu Ân Lai.
Chúng tôi hoàn toàn tin rằng đây là sở nguyện của người dân Việt Nam và làm được như vậy mới có thể chuộc lỗi cùng Tổ quốc và Nhân dân, từ đó may ra cứu vãn phần nào lòng tin đã hoàn toàn mất đối với chế độ.
Hà Nội ngày 2 tháng 9 năm 2008
Những người ký tên kiến nghị :
(Đến ngày 4/9/2008)
Cựu chiến binh ( theo thứ tự tên gọi)
1. Phan Anh – thương binh, giáo viên trường PTTH Quang Trung, tp Hà Đông
2. Phạm Quế Dương – đại tá QĐND VN, 37 Lý Nam Đế, Hà Nội
3. Lê Điệp – CCB, 17 Hàng Quạt, Hà Nội
4. Lê hữu Điệp – CCB, 40, phường Phúc Tân, Hoàn Kiếm, Ha Nội
5. Lý Anh Kim – CCB, 87, Phường Phúc Xá, Ba Đình, Ha Nội
6. Trần Anh Kim – Trung tá QĐNDVN, biên tập viên tập san Tổ Quốc
7. Nguyễn Trọng Lâm – CCB, 46 Trần Hưng Đạo, Hà Nội
8. Nguyễn văn Miến – đại tá QĐNDVN, 30 đường Nguyễn Cao, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
9. Nguyễn Kim Nhàn – CCB, số nhà 1413, khu 34, thành phố Bắc Giang
10. Nguyễn Thanh Nhàn- thương binh chống Mỹ, gv trường PTTH Quang Trung, tp Hà Đông
11. Phạm văn Phiếu – cụu quyết tử quân Trung đoàn Thủ đô, 8/28 Hương viên, Hai Bà Trưng, Hà Nội
12. Trịnh Khả Phức – Cựu chiến binh chống Pháp – số 6, nhà P9, khu lắp ghép Trương Định, Hanoi
13. Vũ Cao Quận – CCB, Hải Phòng, biên tập viên tập san Tổ Quốc
14. Lê Anh Sơn – CCB, 17 Nguyễn Du, Hà Nội
15. Đỗ Việt Sơn – lão thành cách mạng, 4/21. Nguyễn Cao, Hà Nội
16. Trần Đức Thạch – CCB, Hội viên Hội Văn Nghệ Nghệ An
17. Nguyễn Thế - CCB, Thanh Xuân, Hà Nội
18. Đỗ văn Thỉnh - CCB, Văn Phú, Phú La, Hà Đông
19. Chu văn Thưởng – CCB, 18 Ngõ Quỳnh, Bạch Mai, Hà Nội
20. Cao Bá Trữ - thiếu tá QĐNDVN, Đống Đa, Hà Nội
Những thành phần nhân sĩ kịp ký (trước ngày phổ biến 4-9-2008, theo thứ tự tên gọi)
1. Tiêu Dao Bảo Cự - nhà văn, Thành phố Đà Lạt
2. Kim Văn Duy - sinh viên ĐH Kiến Trúc, tp HCM
3. Ninh Thị Định - 3/20/215 Lê Lai, Ngô Quyền, Hải Phòng.
4. Nguyễn Thanh Giang – tiến sỹ Địa Vật lý, số 6, tập thể Địa Vật lý Máu bay, Hà Nội
5. Vi Đức Hồi - Cựu hiệu trưởng Trường Đảng Hữu Lũng, Lạng Sơn khu An Thịnh, Hữu Lũng, Lạng Sơn.
6. Vũ Hùng – cựu giáo viên vật lý trường PTCS Bích Hòa, Hà Tây
7. Vũ Mạnh Hùng - Cán bộ quản lý khu nội trú Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thương mại, Hà Nội
8. Trần Lâm – luật sư, Thành phố Hải Phòng
9. Mai Thái Lĩnh – cựu Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Đà Lạt, Lâm Đồng
10. Nguyễn Thượng Long – nhà giáo, Văn La, Văn Khê, Hà Đông
11. Nguyễn thị Lợi - ( thân mẫu cô Phạm Thanh Nghiên)
12. Nguyễn Tiến Nam, tổ 24, phường Yến Thịnh, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.
13. Võ văn Nghệ - 277A, đường Nguyễn Trãi, phường Tây Sơn, tp Thanh Hóa
14. Nguyễn Xuân Nghĩa – nhà văn, số nhà 828, đường Trường Chinh, Kiến An, Hải Phòng
15. Phạm Thanh Nghiên, số nhà 17, Phương Lưu 2, phường Đông Hải, quận Hải An, HP
16. Hà Sỹ Phu – tiến sỹ sinh vật học, 4E Bùi thị Xuân, thành phố Đà Lạt
17. Lê Minh Phúc – Cựu Tổng giám đốc Liên hiệp Địa Vật lý Máy bay Việt Nam
18. Phạm Thị Phượng - Cầu Tre, Ngô Quyền, Hải Phòng.
19. Bùi Minh Quốc – nhà văn, 3 Nguyễn Thượng Hiền, Đà Lạt
20. Ngô Quỳnh - Hiệp Hòa, Bắc Giang
21. Nguyễn văn Tính (tức Hoàng Hải Minh) Quán Chữ, Hải Phòng, mobile 0984 414479
22. Lưu thị Thu – 282, Lê Lai, Ngô Quyền, Hải Phòng
23. Trần Khải Thanh Thủy – nhà văn, biên tập viên tập san Tổ Quốc
24. Vũ như Ý - nguyên chuyên viên cao cấp Bộ Giao thông vận tải, phường Vĩnh Tuy, Hà Nội
25. Phạm Thanh Yến, lô A1, Thái Phiên, Cầu Tre, Ngô Quyền, Hải Phòng
(Ghi chú: Như thường lệ, các văn bản loại này có sự hiệu đính đôi chút bởi Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN trước khi đăng tải để phù hợp với lối dùng chữ của Hải Ngoại và chủ trương của Tòa Soạn)
PETITION TO NULLIFY
THE SEPTEMBER 14 - 1958 COMMUNIQUÉ
BY FORMER PRIME MINISTER PHAM VAN DONG
Respectfully sent to:
Mr. Nong Duc Manh
Secretary General / Communist Party of Vietnam
Mr. Nguyen Minh Triet
President / Socialist Republic of Vietnam
Mr. Nguyen Tan Dung
Prime Minister / Government of Socialist Republic of Vietnam
Mr. Nguyen Phu Trong
Chairman / National Assembly of Socialist Republic of Vietnam
Gentlemen,
For years, our government has declared Hoang Sa and Truong Sa belong to Vietnam. However, in reality the government of China not only disregards those declarations but also repeatedly violates our sovereignty:
- In January 1974, China invaded the Hoang Sa archipelago.
- In May 1988, China invaded many islands of the Truong Sa archipelago.
- In November 2007, China established the Administrative District of Sansha to directly control the archipelagoes of Hoang Sa and Truong Sa despite the fact that these islands were still in dispute between the two governments.
- In July 2008, China pressured the US-based petroleum company, Exxon Mobil, to withdraw from an exploration contract with our government. A few months before that, the Chinese government also threatened the UK-based company, British Petroleum, to prevent it from signing with our government a contract to explore the areas close to Hoang Sa and Truong Sa.
- Recently, while preparing for the 2008 Beijing Olympics, the Chinese authorities redrew the map of China to include the two archipelagoes Hoang Sa and Truong Sa.
- In Mid-August 2008, Chinese Navy equipped with sophisticated missile systems entered the territorial waters of Vietnam without permission.
Those deliberate actions clearly show the Chinese government's disregard of the world opinions and its intention to take possession of the archipelagoes of Vietnam. Our government, however, has protested with too much hesitation. Among the documents used by China to claim its ownership over Hoang Sa and Truong Sa is the communiqué sent by Prime Minister Pham Van Dong to his counterpart, Chu An Lai, on September 14, 1958, confirming that: "The Government of the Democratic Republic of Vietnam acknowledge and agree with the September 4, 1958 Proclamation of the Government of the People's Republic of China over its territorial waters." (That proclamation declared China's 12-mile maritime border which included archipelagoes Hoang Sa and Truong Sa). In recent years, our government explained that the said 1958 communiqué was issued only for diplomatic purposes and bears no effect on Vietnam's sovereignty over these islands. China, however, pays no attention to that explanation.
Many generations of Vietnamese have bravely defended the nation's territories. We, members of the current generation, have the obligation not only to continue the defense of our land and sea territories but also to courageously correct the mistakes of the past. We cannot delegate the burdens to future generations. The blunders came from our misplaced trust in the Chinese government while both sides were fighting for the same ideology. Today, they have betrayed us all and revealed their intention to infringe on our sovereignty more and more clearly. We, therefore, have no choice but respond unequivocally and adequately to those evil intentions.
September 14, 2008 marks half a century since the issuance of the so-called Pham Van Dong's communiqué which was not passed by the National Assembly nor (by a Referandum of) the people of Vietnam. We, therefore, urgently call on the Government to officially declare the nullification of the communiqué sent by Prime Minister Pham Van Dong, as an individual, on September 14, 1958 to Chu An Lai.
We wholeheartedly believe this is the wish to the people of Vietnam. Upon accomplishing this task, you could receive the forgiveness and trust of the Nation.
Hanoi, September 2, 2008.
Signatures
(As of September 4, 2008)
Veterans (in alphabet order of given names)
1. Phan Anh – disabled veteran, teacher at Quang Trung High School, Hà Đông
2. Phạm Quế Dương – retired colonel, 37 Lý Nam Đế, Hà Nội
3. Lê Điệp – 17 Hàng Quạt, Hà Nội
4. Lê hữu Điệp – 40, phường Phúc Tân, Hoàn Kiếm, Ha Nội
5. Lý Anh Kim – 87, Phường Phúc Xá, Ba Đình, Ha Nội
6. Trần Anh Kim – retired lt. colonel, staff writer of Tổ Quốc magazine
7. Nguyễn Trọng Lâm – 46 Trần Hưng Đạo, Hà Nội
8. Nguyễn văn Miến – retired colonel, 30 Nguyễn Cao, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
9. Nguyễn Kim Nhàn – số nhà 1413, khu 34, thành phố Bắc Giang
10. Nguyễn Thanh Nhàn- disabled veteran, teacher at Quang Trung High School, Hà Đông
11. Phạm văn Phiếu – retired commando of Capital Regiment, 8/28 Hương viên, Hai Bà Trưng, Hà Nội
12. Trịnh Khả Phức – số 6, nhà P9, Trương Định District, Hanoi
13. Vũ Cao Quận – Hải Phòng, staff writer of Tổ Quốc magazine
14. Lê Anh Sơn – 17 Nguyễn Du, Hà Nội
15. Đỗ Việt Sơn – 4/21. Nguyễn Cao, Hà Nội
16. Trần Đức Thạch – member of Arts Association of Nghệ An
17. Nguyễn Thế - Thanh Xuân, Hà Nội
18. Đỗ văn Thỉnh - Văn Phú, Phú La, Hà Đông
19. Chu văn Thưởng – 18 Ngõ Quỳnh, Bạch Mai, Hà Nội
20. Cao Bá Trữ - retired major, Đống Đa, Hà Nội
Early signed Citizens (released 9/4/2008, in alphabet order of given names)
1. Tiêu Dao Bảo Cự - writer, Đà Lạt city
2. Kim Văn Duy – student of Architecture University HCMcity
3. Ninh Thị Định - 3/20/215 Lê Lai, Ngô Quyền, Hải Phòng.
4. Nguyễn Thanh Giang – doctor of geo-physics, số 6, tập thể Địa Vật lý Máu bay, Hà Nội
5. Vi Đức Hồi – retired principal of Hữu Lũng Party School, Lạng Sơn khu An Thịnh, Hữu Lũng, Lạng Sơn.
6. Vũ Hùng – retired teacher at Bích Hòa High School, Hà Tây
7. Vũ Mạnh Hùng – dormitory director at College of Economics, Technoligies, and Commerce, Hà Nội
8. Trần Lâm – lawyer, Hải Phòng
9. Mai Thái Lĩnh – former deputy mayor of Đà Lạt, Lâm Đồng
10. Nguyễn Thượng Long – teacher, Văn La, Văn Khê, Hà Đông
11. Nguyễn thị Lợi - ( mother of ms. Phạm Thanh Nghiên)
12. Nguyễn Tiến Nam, tổ 24, phường Yến Thịnh, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.
13. Võ văn Nghệ - 277A, đường Nguyễn Trãi, phường Tây Sơn, tp Thanh Hóa
14. Nguyễn Xuân Nghĩa – writer, số nhà 828, đường Trường Chinh, Kiến An, Hải Phòng
15. Phạm Thanh Nghiên, số nhà 17, Phương Lưu 2, phường Đông Hải, quận Hải An, HP
16. Hà Sỹ Phu – doctor of biology, 4E Bùi thị Xuân, Đà Lạt
17. Lê Minh Phúc – former general manager of Geo-physic Association of Việt Nam
18. Phạm Thị Phượng - Cầu Tre, Ngô Quyền, Hải Phòng.
19. Bùi Minh Quốc – writer, 3 Nguyễn Thượng Hiền, Đà Lạt
20. Ngô Quỳnh - Hiệp Hòa, Bắc Giang
21. Nguyễn văn Tính (aka. Hoàng Hải Minh) Quán Chữ, Hải Phòng, mobile 0984 414479
22. Lưu thị Thu – 282, Lê Lai, Ngô Quyền, Hải Phòng
23. Trần Khải Thanh Thủy – writer, văn, staff writer of Tổ Quốc magazine
24. Vũ như Ý – retired high-level official of Ministry of Transportation, phường Vĩnh Tuy, Hà Nội
25. Phạm Thanh Yến, lô A1, Thái Phiên, Cầu Tre, Ngô Quyền, Hải Phòng
No comments:
Post a Comment