NGUYỄN PHÚ THỨ * CÁCH TÍNH THỜI GIAN
ĐÊM NĂM CANH, NGÀY SÁU KHẮC
NGUYỄN PHÚ THỨ
Tính như thế nào ?
Thuở xa xưa, những bậc tiền nhân thường dùng Thập Nhị Địa Chi tức12 con Giáp để gọi cho Năm, Tháng, Ngày, Giờ. Số 12 con Giáp tức 12 con vật tượng trưng đó được sắp theo thứ tự như sau : Tý (Chuột), Sửu (Trâu), Dần (Cọp), Mão hay Mẹo (Mèo), Thìn (Rồng), Tỵ (Rắn), Ngọ (Ngựa), Mùi (Dê), Thân (Khỉ), Dậu (Gà), Tuất (Chó) và Hợi (Heo).
Ngoài ra, phương cách dùng để tính các tháng theo con Giáp thì : GIÊNG (Dần = Cọp), HAI (Mão hay Mẹo = Mèo, BA (Thìn = Rồng), TƯ (Tỵ = Rắn), NĂM (Ngọ = Ngựa), SÁU (Mùi = Dê), BẢY (Thân = Khỉ), TÁM (Dậu = Gà), CHÍN (Tuất = Chó), Mười ( Hợi = Heo), Mười Một (Tý = Chuột) và Chạp (Sửu =Trâu).
Nhưng tại sao, thời kỳ xa xưa đó lại đặt tháng Giêng là tháng đầu năm mà không gọi là tháng Một?
Theo thiển nghĩ của tôi, bởi vì lúc bấy giờ, dưới thời quân chủ còn Vua Chúa, thường dành con số Một để chỉ nhà Vua, là thiên tử (con trời) để cai trị dân chúng tức nhứt nhân (người đứng đầu, người lớn hơn hết), từ đó trong thiên hạ phải kiêng cử, cho nên mới đặt tháng Giêng?
Ngoài ra, khi sanh con đẻ cái cũng không thể gọi con đầu lòng là con Một mà chỉ gọi là con Trưởng hay con Hai hoẵc con Cả, vì sợ húy kỵ đến nhà vua, bằng chứng ở Việt Nam không có nhà nào gọi con đầu lòng là con Một là thế đó !.
Còn tháng Giêng tại sao là Tháng Dần ?
Căn cứ theo sách xưa, xin trích dẫn như sau :
Nhân sinh ư Dần
(Loại người sanh ra ở hội Dần).
Nhứt niên chi kế tại ư Xuân
(Kế hoạch trong 1 năm phải được sắp đặt ở mùa Xuân)
Nhứt nhựt chi kế tại ư Dần
(Kế hoạch trong 1 ngày phải sắp đặt ở giờ Dần).
Hơn nữa, trong 12 con Giáp, con Cọp là chúa sơn lâm, rất mạnh bạo hơn 11 con Giáp kia, cho nên người xưa chọn tháng Giêng là tháng Dần cho con Cọp cầm tinh là như thế?
Người xưa, tại sao tháng gọi tháng Chạp là tháng cuối năm mà không là tháng Mười Hai như năm
Theo thiển nghĩ của tôi, nước chúng ta thời bấy giờ phần đông làm ruộng, cho nên tháng cuối cùng của một năm, ruộng đã làm xong, đã đem lúa vô bồ, vì thế phần đông dành thời gian này lo các lễ cúng, tiệc tùng để tạ ơn Thần Nông hoặc cúng Đình Thần sau khi vụ mùa đã hoàn tất, hết nhà này đến nhà khác, có khi kéo dài cho đến Tết Nguyên Đán.
Hơn nữa, chữ Chạp là lễ cúng. Vì thế, nó còn có các tên lễ cúng khác như : Giỗ Chạp, Chạp Miếu, Chạp Mả...
Do vậy, thay vì gọi tháng Mười Hai là tháng Chạp là thế đó !.
<>
Ngoài ra, phải nói đến Hát Bộ (có người gọi Hát Bội) để cúng Thần, thông thường
Thời xưa, các nghệ sĩ nào được
Còn trái lại, các nghệ sĩ nào bị
Mặc dù,
Vì thế, trong dân gian mới có câu :
Ở đời có bốn cái ngu,
Làm mai, lãnh nợ gác cu, cầm chầu.
(*) Được biết, thời xưa Ban Hội Tề trong làng có 12 vị Hương Chức như sau : Hương Cả, Hương Chủ, Hương Sư, Hương Trưởng, Hương Chánh, Hương Giáo, Hương Bộ, Hương Quản, Hương Thân, Hương Hào, Xã Trưởng là người có bổn phận giữ con dấu để thâu thuế Điền, thuế Thân trong làng và Chánh Lục Bộ là người có bổn phận giữ Sổ Bộ Đời như : Khai Sanh, Khai Tử, Hôn Thú ...)
Đêm Năm Canh, Ngày Sáu Khắc
Được biết, niên lịch cổ truyền Á Đông đã xuất hiện từ đời Hoàng Đế bên Tàu, 2637 trước Thiên Chúa năm 61.
Còn đối với : Đêm Nam Canh, Ngày Sáu Khắc như thế nào ?.
Chúng ta để ý sẽ thấy : Ngày tính Khắc, Đêm tính Canh, cho nên chúng ta đã từng nghe thấy như sau :
Canh Một dọn cửa, dọn nhà
Canh Hai dệt cửi, canh Ba Đi nằm...
Hoặc là : Nửa đêm giờ Tý canh Ba
Theo thiển nghĩ, chúng ta thấy câu :
Nửa đêm giờ Tý canh Ba
thì chúng ta có thể đoán được chữ nửa đêm (tức khoảng 12 giờ đêm hoặc 0 giờ), còn giờ Tý canh Ba (tức khoảng 23 giờ đêm đến 1 giờ sáng). Bởi vì, các bậc tiền nhân dùng 12 con vật cầm tinh tuợng trưng tức12 con Giáp, để phân chia bảng Giờ trong một ngày có 24 giờ như sau :
Bảng giờ trong 1 ngày cûa 12 con giáp
Giờ
|
Thời Gian
|
Giờ
|
Thời Gian
|
Tý
|
Từ 23 giờ đến 1 giờ sáng
|
Ngọ
|
Từ 11 giờ đến 13 giờ trưa
|
Sửu
|
Từ 1 giờ đến 3 giờ sáng
|
Mùi
|
Từ 13 giờ đến15 giờ xế trưa
|
Dần
|
Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng
|
Thân
|
Từ 15 giờ đến 17 giờ chiều
|
Mão
|
Từ 5 giờ đến 7 giờ sáng
|
Dậu
|
Từ 17 giờ đến 19 giờ tối
|
Thìn
|
Từ 7 giờ đến 9 giờ sáng
|
Tuất
|
Từ 19 giờ đến 21 giờ tối
|
Tỵ
|
Từ 9 giờ đến 11 giờ sáng
|
Hợi
|
Từ 21 giờ đến 23 giờ khuya
|
Căn cứ sự phân chia giờ ở trên, chúng ta thấy :
a)- Ban ngày dài được 14 giờ, còn ban đêm dài được 10 giờ và thấy được giờ Tý canh Ba, từ đó chúng ta tính được bảng 5 Canh như sau :
Tên Canh
|
Thời Gian
|
Canh 1
|
Từ 19 giờ đến 21 giờ tức giờ Tuất
|
Canh 2
|
Từ 21 giờ đến 23 giờ khuya tức giờ Hợi
|
Canh 3
|
Từ 23 giờ đến 1 giờ sáng tức giờ Tý
|
Canh 4
|
Từ 1 giờ đến 3 giờ sáng tức giờ Sửu
|
Canh 5
|
Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng tức giờ Dần
|
Do vậy, nếu chúng ta đem so sánh Canh với giờ, thì có hai giờ bằng một Canh và nếu đem so sánh bảng Giờ trong một ngày của 12 con Giáp ở trước sẽ thấy đúng.
b)- Mỗi ban ngày dài 14 giờ, đươc chia cho 6 khắc như bảng sau đây :
Tên Khắc
|
Thời Gian
|
Tên Khắc
|
Thời Gian
|
Khắc 1
|
Từ 5 giờ đến 7 giờ 20 sáng
|
Khắc 4
|
Từ 12 giờ đến 14 giờ 20 xế trưa
|
Khắc 2
|
Từ 7 giờ 20 đến 9 giờ 40 sáng
|
Khắc 5
|
Từ 14 giờ 20 đến16 giờ 40 chiều
|
Khắc 3
|
Từ 9 giờ 40 đến12 giờ trưa
|
Khắc 6
|
Từ 16 giờ 40 đến 19 giờ tối
|
Như vậy, nếu chúng ta đem so sánh Khắc với Giờ, thì có 2 giờ 20 phút bằng 1 Khắc. Bởi vì, ban ngày dài 14 giờ, đem chia đều cho 6 Khắc, thì đuợc 140 phút, tức là 2 giờ 20 phút.
Thế nên, chúng ta thường thấy câu : Đêm Năm Canh, Ngày Sáu Khắc là quả đúng vậy.
BÙI MỸ DƯƠNG * TÔI NHÌN TÔI
TÔI NHÌN TÔI
Bùi Mỹ Dương
Tôi là con gái lớn của một gia-đình trung-lưu. Người ta thường gọi những bản nhạc hay những bài thơ dễ thương làm vào những niên-đại đó là: thời “Tiền-chiến”, nghĩa là trước Thế-chiến Thứ Hai. Cụ Bùi-Viện làm quan dưới triều vua Tự-Đức là anh ruột cụ nội tôi. Cụ là một nhà văn-học tiên-tiến; ngoài ra cụ còn lập đội hải-quân tuần-duyên giữ an-ninh cho miền biển. Các cụ em nếu không đỗ làm quan thì cũng là những người gương mẫu trong việc giáo-dục dân làng. Cụ nội và ông nội tôi cũng theo con đường vạch sẵn vì thế gia-đình thanh-bạch.
Bố tôi là lớp người trẻ học chữ Nho (Hán) sau học chữ Quốc-ngữ như nhà thơ sông Vị đã than: “Nào có ra gì cái chữ Nho, Ông Nghè, ông cống cũng nằm co” Nhà nghèo việc theo Tân-học rất khó-khăn vì phải lên tỉnh lớn mới có trường, bố tôi cũng chịu bao cay đắng nhưng với sự cố-gắng, ông là người đầu tiên có bằng trung-học Pháp (Dipplome) trong làng. Ông nội mất sớm, bố tôi phải vào trường nghề: trường Sư-phạm, sau là trường Bưởi, tiền-thân của trường Chu-văn-An. Mẹ tôi, con gái một; ông ngoại là họa-sĩ truyền-thần.
Cụ thức-thời nên mẹ được đi học, bà nói, viết thông-thạo Pháp-ngữ, ăn mặc theo thời-trang bấy giờ như những cô gái tả trong tiểu-thuyết của “Tự-lực văn-đoàn”: áo dài Lemur của họa-sĩ Cát-Tường, đầu vấn tóc trần, lông mày kẻ cong. Sống ở tỉnh nên bà giỏi nữ-công gia-chính: đan, thêu, cỗ bàn. Bố tôi có tài làm thơ, viết văn. Khi còn là học-sinh ông đã có bài đăng trong báo Loa, Ngày Nay, và sau này như Tự-Do, Chính-Luận v.v. cùng những thơ, kịch cho Đài Phát-thanh Sài-Gòn. Bà nội tôi kể khi có mang con, bà đã được “giáo thai”vì cụ nội tôi đọc và giảng-giải thơ văn cho nghe với hy-vọng bố tôi thích văn thơ. Theo học về ngành giáo-dục ông đã dành cả đời cho công-cuộc viết sách giáo-khoa rồi lại chủ-trương nhà xuất-bản Nhật-Tảo với mục-tiêu là giáo-dục giới trẻ: trồng người. Ông là tác-giả của trên 200 bộ sách được Bộ Giáo-dục VNCH dùng làm sách giáo-khoa trong các trường học tại Việt-Nam. Với hoài-bão thương yêu tuổi trẻ ông chủ-trương tờ báo Tuổi-xanh. Ra hải-ngoại, sợ nếu không được chăm sóc thì thế-hệ tương-lai sẽ là một lũ lai căng mất gốc vì thế những cuốn sách học chữ Việt và bộ Việt-sử Bằng Tranh lại ra đời. Chúng tôi gồm 6 chị em: 2 gái, 4 trai. Tôi là chị cả và cô em gái áp út. Như đã nói bố tôi là nhà giáo, viết rất nhiều sách giáo-khoa nên chị em chúng tôi cũng được chăm sóc rất cẩn-thận. Thời-kỳ Kháng-chiến, trường-sở bị phá-hủy, việc học của tôi luôn bị gián-đoạn. Khi lên Hà-nội, còn đang học Lớp Nhì, vì loạn-lạc chạy giặc nên chữ nghĩa chẳng là bao. Tôi học lại lớp mà cũng không theo kịp.
Tính nhân hay chia hai con cũng làm không thông, rồi bài do cô giáo đọc tại lớp, ghi cũng không kịp. Bố tôi hiểu và kiên-nhẫn dìu-dắt bằng cách là vẫn cho theo học tại trường nhưng về nhà dạy thêm. Ngày nào cũng hai bài toán và một bài luận-văn. Nhờ thế Lớp Nhất (Lớp Năm) tôi theo kịp các bạn dễ-dàng và vượt qua cửa ải với cái “Bằng Tiểu-học”. Những bạn tại trường Sinh-Từ khi học Lớp Nhì với cô Liên-Dung, Lớp Nhất với bà Nguyễn-thị-Thơm tôi còn nhớ vài người bạn như: Hưng, Ngà, Oanh, Học, Hòa, Bích-Ngọc, Liên, Lan và nay tình-cờ một cô bạn ưu-ái tìm tới: Nguyễn-thị-Thủy mà chính kẻ này không nhớ! Có thể bạn tôi hiền-lành nhút-nhát nên không có ấn-tượng nào trong đầu cô bé mới chớm tuổi “teen”. Ở ngoài Bắc trường trung-học công-lập chỉ có: Chu-văn-An, Nguyễn-Trãi cho nam-sinh và duy nhất một trường cho nữ-sinh là trường Trưng-Vương. Thật khó-khăn vì học-sinh đông mà sĩ-số nhận rất ít nên ước-vọng hầu như viển-vông và không-tưởng cho con bé nhà quê như tôi. Để giúp, bố tôi cố gắng nhồi và tôi cố nuốt bằng những bài toán, nào là xe chạy ngược chiều, xuôi chiều bao giờ gặp nhau? Bao lâu đi hết quãng đường? Cái vòi chảy ra, cái vòi chảy vào, tỷ-trọng, người buôn trâu bò, gà vịt, tính cho ra số chân của chúng? rồi bán cam, quít với phân-số-thức thật là rắc-rối nhức óc. Những bài luận-văn nào tả cảnh, tả tình, bình-luận ca-dao, châm-ngôn v.v. bài học sử, địa, vệ-sinh, khoa-học thường-thức, văn ôn võ luyện mờ người.
Ông Trời thấu lẽ nên đã cho “ngáp phải ruồi” và con bé được nhận vào trường nữ- trung-học Trưng-Vương. Bố mẹ hài lòng vì bõ công dạy-dỗ, còn tôi thì vui và hãnh-diện và từ nay nếp sống có phần thay đổi. Lên trung-học tôi không phải cuốc bộ mà thay bằng chiếc xe đạp mới láng-cóong, áo cộc thay bằng áo dài tha-thướt đẹp ơi là đẹp. Sách vở nhiều nên được mua cặp da. Oai quá phải không các bạn? Chương-trình học thêm nhiều môn nào là toán gồm Hình-học, Đại-số. Khoa-học có Vật-lý, Hóa-học, Vạn-vật. Sử có sử Việt-Nam, sử Thế-giới, Việt văn, sinh-ngữ Anh-văn hay Pháp-văn. Mỗi môn học là cô hay thầy riêng nên vui vì có sự thay đổi trong từng giờ học. Một số bạn tại trường Trưng-Vương đã cùng vào miền Nam nên đã là những người bạn thân tới khi ra trường như Diệu-Vinh, Uẩn-Ngọc, Giáng-Tuyết, Nguyễn-thị-Tâm. Đất nước chiến-tranh, trẻ con phần lớn thất-học vì loạn-lạc. Lũ chúng tôi bắt đầu vào trung-học hơn hoặc kém cũng chỉ khoảng 11, 12, 13 tuổi là cùng. Vừa rời khỏi tiểu-học nên cách chơi, cách sống vẫn còn vương-vấn những trò chơi trẻ con. Năm Đệ-thất lũ mán mường ngây-ngô đã quen với bè-bạn và khung trời mới nhưng rồi biến-cố lớn xẩy đến: đất nước bị chia cắt, miền bắc vĩ-tuyến 17 thuộc vào tay Cộng-sản, và miền nam vĩ-tuyến thuộc chính thể Quốc-gia.
Đã có kinh nghiệm với Cộng-sản nên trên một triệu người đã rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn di-cư vào Miền Nam nắng ấm để hưởng không-khí tự-do. Gia-đình tôi là một phần-tử trong đám người đó, ra đi với niềm luyến-tiếc khôn nguôi về nơi chốn đã bao đời sinh sống. Theo gia-đình vào Miền Nam, cùng trong một nước khoảng cách chỉ chừng trên 1000 cây-số nhưng vì loạn-lạc, phương-tiện giao-thông lại khó-khăn nên hai miền cách-biệt làm cho người đi có cảm-nghĩ bất-ổn như vào nơi nguy-hiểm đầy sương-lam, chướng-khí Sài-gòn thủ-đô của Miền Nam tự-do nơi gia-đình tôi chọn làm đất dung thân: Sài-gòn rộng lớn, xa-hoa, phồn-thịnh. Mới di-cư nên chúng tôi phải học nhờ trường nữ-trung-học Gia-Long một ngôi trường đồ-sộ và đẹp.Vì kẻ đi người ở, để đủ sĩ-số trường tuyển lựa thêm. Chúng tôi quen thêm bạn mới, mỗi lớp chừng 50 học-sinh. Lũ bạn cũ cũng bị phân-tán ra nhiều lớp khác nhau nên thương thương nhớ nhớ chúng tôi tìm nhau và quen thêm được các bạn đồng-niên-khóa. Khóa học chúng tôi có 5 lớp nhưng sau năm Đệ-ngũ ban giám-đốc trường muốn sự học đồng-đều giữa các học-sinh nên đã xếp lại. Vì thế một cuộc chia lìa nữa. Những bạn của lớp Đệ-tứ B2 cùng bàn gồm Lệ-Giên, Tân-Nguyên, Kim-Hân, Thúy-Nga. Chúng tôi còn giữ liên-lạc tới bây giờ. Kỳ thi trung-học Đệ-nhất-cấp cũng làm rơi rụng ít nhiều. Năm Đệ-tam chia theo ban: người theo toán-học, người theo ban khoa-học thực nghiệm, những ai có tâm hồn thi-sĩ thì theo ban văn-chương.
Chúng tôi gồm “Tứ-quái” Cương, Dung, Dương, Giang văn dốt vũ dát đành lấy công làm lãi, nghĩa là chọn ban Khoa-học Thực-nghiệm, học bài mệt nghỉ. Hăng say và ganh đua chúng tôi phải dùng tới Miss Coffee thức vì thế dung-nhan tàn-tạ, mặt mũi đầy mụn, vóc hạc xương mai, chả bù với bây giờ đều có họ với bà Phán Cảnh! Năm năm tiểu-học còn quá nhỏ song bẩy năm trung-học, vào tuổi mà cơ-thể lẫn tâm-hồn đều thay đổi, tuổi Teen hay tuổi dậy-thì, tuổi mới lớn. mới mở mắt nhìn đời, biết yểu điệu làm duyên làm dáng, biết yêu vụng nhớ thầm. Tóm lại đó là cái tuổi dễ thương và dễ yêu nhất. Ở tuổi này tâm-hồn ngây-thơ hồn-nhiên, tuổi trăng tròn mười sáu với bao mộng mơ. Có thể ở tuổi này bộc-lộ con người thật cái “tính bản-thiện”. Ngày nay trải qua bao năm tháng ở trường đời nghĩ lại thấy thời kỳ trung-học thật là đẹp, đẹp nhất của cuộc đời. Thầy cô là mẫu-mực là ước mơ nên sau này tôi đã chọn nghề “gõ đầu trẻ”. Qua ba năm tại trường Đại-học sư-phạm Sài-gòn và hành-nghề cho tới khi mất nước.
Thích thơ văn, thèm xem tiểu thuyết, mặc dầu tốt-nghiệp trung-học ban khoa-học-thực-nghiệm nhưng tôi đã theo môn văn-chương của trường Đại-học Sư-phạm Sài-Gòn. Ban Việt-Hán chúng tôi gồm 33 sinh viên, 6 nữ và 27 nam, số bạn gái này có 3 chị sinh trưởng ở miền Nam là Phương-Chi, Cẩm-Nhung, và Tuyết-Mai còn Vũ thị Uyên, Quỳng-Giao và tôi là dân Bắc-kỳ , chúng tôi còn là bạn cùng trường Trưng-Vương nữa. Với nam sinh viên đông gấp năm nên phái nữ được cưng chiều hơn vì đã làm cho lớp có thêm sinh khí vui tươi hơn. Văn chương Việt-Nam chịu ảnh hưởng của Trung-hoa nên phải học và tìm hiểu về chữ Hán cũng như chữ Latin trong văn chương Anh Mỹ. Lớp học chuyên về văn nhưng có hơn 2/3 sinh viên tốt nghiệp trung-học ban khoa-học, có thể với tinh thần khoa-học sẽ khám phá được cái hay cái đẹp trong văn chương một cách chính xác chăng?
Chúng tôi hãnh-diện được thụ giáo cụ nghè cuối cùng của triều Nguyễn : cụ nghè Nguyễn sĩ-Giác, các cụ Tú của thời cổ học xa xưa: cụ Trần văn Thược, cụ Vũ Huy-Chiểu, cụ Thẩm-Quỳnh, cụ Phan thê-Roanh có thêm chút Tây học trong Hán văn. Cụ Nguyễn khắc Kham dạy Quan-thoại, thầy Trần trọng-San dạy thơ Đường, thầy Nguyễn sĩ-Tế dạy văn chương Việt-Nam, thầy Nguyễn khắc-Hoạch dạy những tác phẩm văn chương chữ Nôm, thầy Nguyễn huy-Bảo dạy phần sư-phạm, thầy Nghiêm-Toản dạy cách soạn bài và giảng một bài văn bậc trung-học. Công ơn các thầy đã giúp tôi giảng dạy lũ hậu bối và hành nghề cho tới ngày rời quê-hương. Nhớ khi sắp mãn-khóa cả lũ lo sợ ngày tốt nghiệp thứ nhất là phải chia tay, phải vào đời với cuộc sống thực tế không còn hưởng thời gian thơ mộng, tươi đẹp của những ngày còn là sinh-viên.
Nhưng rồi mọi việc cứ tiến theo vòng quay của vũ-trụ, chúng tôi được phân phối theo nhu cầu của các trường sở tứ tán khắp nơi, sau này may mắn là gặp nhau ở những hội đồng chấm thi mà thôi. Tôi lập gia-đình vào năm cuối cùng của đại-học , chồng tôi là quân-y-sĩ nên phải ra chiến trường chu toàn bổn phận người trai thời chiến. Nhiệm sở đầu tiên là tỉnh Pleiku nơi địa đầu giới tuyến. Giáo sư Nghiêm-Toản giảng tác phẩm “ Chinh phụ ngâm” thường mang tôi ra hỏi về nỗi khắc-khoải lo âu của người chinh-phụ khi có chồng đi chiến đấu miền xa. So sánh giữa tâm trạng của chinh phụ ngày xưa và tâm trạng của tôi ngày nay? Hoàn cảnh chiến tranh các thanh niên lo bảo vệ non sông vì người xưa đã xác quyết nhiệm vụ: “Quốc-gia hưng-vong thất phu hữu trách”, quốc biến gia vong nên các thanh niên thời đó đều là quân nhân. Đó là con đường học vấn của tôi, cũng như mọi người tôi có người yêu và đi tới hôn nhân. Tôi còn nhớ mấy câu thơ chúc mừng của thầy tôi cụ Tú Trần văn Thược tặng nhân ngày lễ vu qui. “Nguyễn Bùi hai họ kết tình thân, Nghĩa thắm nay hơn cả Tấn-Tần ……. Duyên lành tài-tử sánh giai nhân “ Dạy trẻ cứu người cùng nỗ-lực, Vợ chồng vui sống một đời xuân.” Đời quân ngũ nay đây mai đó khi lên núi “Pleiku” lúc xuống biển “Gò công”, phận gái theo chồng vì thế nơi sinh của các con mang nhiều địa danh của đất nước thân yêu: Sàigòn, Pleiku, Chợ Lớn.
Tưởng cuộc đời như vậy cũng tạm ổn đối với phận nhi-nữ thường tình nhưng năm 1975 cơn hồng-thủy ập xuống khiến cả nước đau thương, người dân liều mạng đi tìm lẽ sống. Gia-đình tôi cũng trôi nổi theo vận nước, bao công lao gây dựng nay tan theo mây khói, với hai bàn tay trắng và bốn con thơ lạc loài nơi xứ lạ. Chúng tôi phải gây dựng từ đầu với bao trở ngại bủa vây nào tuổi đời chồng chất, ngôn ngữ mới, sống giữa môi trường lạ , phong tục tập quán khác hẳn. Bao năm mài đũng quần ở trường để có một nghề, bỏ nước ra đi là mất tất cả , học nói, học viết, học nghề mà chỉ trong một thời gian ngắn để tự kiếm sống nuôi gia-đình. Rút ngắn thời gian tôi phải gánh trách nhiệm lo kinh-tế cho chồng yên tâm học lấy lại bằng hành nghề, hy vọng cuộc sống sẽ khá hơn.
Với đàn con chúng tôi đặt trọng tâm vào việc xây dựng tương lai cho chúng, mặt khác giúp các con giữ được tinh thần, ngôn-ngữ, lối sống Việt-Nam. Lưu lạc trên quê hương thứ hai gần 30 năm, con cái trưởng thành có nghề nghiệp tốt và may mắn hơn nữa là chúng giữ được bản sắc dân-tộc. Mừng vì không mang mặc cảm với gia-đình, Tổ-quốc, dân-tộc là các con vẫn còn là người Việt: nói tiếng Việt, viết chữ Việt, lối sống vẫn theo phong-tục tập-quán nề nếp của người Việt-Nam, nhất là có tinh thần quốc-gia vững mạnh. Các cháu lớn viết và nói tiếng Việt thông thạo vì khi sang Mỹ chúng đã 10,8,6 tuổi chỉ có cháu út mới 11 tháng, tuy nhiên nếu chỉ dừng ở đó thì qúa thiệt thòi. Với chiều dài lịch-sử hơn 4000 năm, một nền văn chương phong-phú chữ Hán, Nôm, và chữ Quốc-ngữ nên chúng tôi hướng dẫn và đào xâu hơn bằng mọi phương tiện. Nơi đây không có trường nên sách vở là ông thày đắc lực nhất cho việc trau-dồi kiến thức. Làm các cháu hãnh diện là người Việt-Nam qua những trang chiến sử oai-hùng lập quốc và giữ nước bằng cuốn Việt-Nam sử-lược của cụ Trần trọng-Kim. Những áng văn chương chữ Hán và chữ nôm của các thi hào Nguyễn Du, Đoàn thị-Điểm, Nguyễn gia-Thiều, Nguyễn đình-Chiểu, Lê thánh-Tôn, Nguyễn bỉnh-Khiêm, Nguyễn công-Trứ, Cao bá-Quát, Trần tế-Xương, Nguyễn-Khuyến, Tản-Đà v…v… Qua thời đại chữ quốc-ngữ với bao nhiêu nhà văn, nhà thơ, kể tượng trưng như nhóm Tự-Lực-Văn-Đoàn, các thi sĩ thời tiền chiến v..v… Lối dậy là làm sao cho chúng thích thú rồi sau đó chúng tự tìm tòi và học hỏi thêm, bằng chứng là các cháu ham đọc và mua rất nhiều sách viết về quê-hương Việt Nam, văn chương cũng như lịch-sử. Cháu thứ ba còn học thêm chữ Nôm và đã được nhà khảo cứu chữ Nôm Nguyễn bá-Triệu cho cùng hợp soạn và hiệu đính lại những tác phẩm cổ như: Phan-Trần, Chinh phụ ngâm, Bần nữ thán, truyện Kiều v..v..Ngoài ra cháu cũng làm được thơ Lục bát, song thất lục bát, thơ Đường, và hát nói, câu đối. Cháu Út sang đây còn rất nhỏ cũng đọc thông viết thạo, phát âm tiếng Việt rất chuẩn . Năm 1975 những người Việt di cư đã bỏ phiếu bằng chân là chối bỏ chủ nghĩa Cộng-sản, các cháu cũng được dạy và cho biết lý-do của cuộc di cư để sau này chúng có một lập trường Quốc-gia vững chắc không mắc mưu tuyên truyền của Cộng-sản. Xa đất nước hơn nửa thế-kỷ giờ đây tuổi hạc đã cao, đã là những lão ông, lão bà, câu “sinh hữu hạn, tử vô kỳ” có nghĩa là ngày sinh ra đời định trước được còn ngày về quê về núi thì không ai biết? Giờ đây cũng tạm yên tâm vì các con đã khôn lớn đủ trí khôn tìm về nguồn, hãnh-diện về lịch-sử và văn-hóa Việt-Nam. Cám ơn Cuộc đời, Tổ-Tiên, Ông bà, Bố Mẹ, trường-sở, thầy cô-giáo, chồng con , các em, họ-hàng, bạn hữu đã cho, đã làm cho cuộc đời thêm ý nghĩa và gía-trị. Đây là tâm sự của một người đã sống gần hết cuộc đời với bao vinh nhục vui buồn nhưng vẫn biết ơn và yêu đời vì nghĩ mình vẫn được ưu đãi, thương yêu. Nam California 11/04. Bùi Mỹ Dương
PHIM VIỆT NAM * SỰ THẬT VỀ HÔ CHÍ MINH
XIN MỜI XEM PHIM
SỰ THẬT VỀ HỒ CHÍ MINHLinh Mục Nguyễn Hữu Lễ đã cho phép đưa Phim Sự Thật Về Hồ Chí Minh lên Internet.
http://blip.tv/file/2363823?file_type=flv
SỰ THẬT VỀ HỒ CHÍ MINHLinh Mục Nguyễn Hữu Lễ đã cho phép đưa Phim Sự Thật Về Hồ Chí Minh lên Internet.
http://blip.tv/file/2363823?file_type=flv
THƠ NGHIÊU MINH
Về Một Quê Hương Đau Khổ
Quê hương tôi chằng chịt đau thương
Như những đường dây chạy bên đường
Dân tộc tôi cuộn trào nước mắt
Như thành phố mênh mông đại dương!
Quê hương vô số Lê Chiêu Thống
Mà mỗi người hùng cứ một phương
Dân tộc tôi khổ nghèo nặng nhọc
Như những xe ì ạch trên đường!
Quê hương tôi triền miên uất hận
Như thành phố "ùn tắc" hàng giờ
Dân tộc tôi còng tay khóa họng
Như vừa đòi nhân quyền tự do!
Nghiêu Minh
Sunday, July 5, 2009
ĐÀI Á CHÂU TỰ DO * ÔNG NGUYỄN HỘ QUA ĐỜI
Ông Nguyễn Hộ và nỗi đau cuối đời
Trân Văn, phóng viên đài RFA
Trân Văn, phóng viên đài RFA
2009-07-04
Theo tin từ Việt Nam, ông Nguyễn Hộ, sinh năm 1916, đã qua đời hôm 2 tháng 7, thọ 93 tuổi.
Photo courtesy of thtndc
Ông Nguyễn Hộ từng là một đảng viên cộng sản kỳ cựu. Ông gia nhập Đảng Cộng sản năm 1934, từng bị giam chung phòng với ông Lê Duẩn tại Côn Đảo.
Ông từng là Ủy viên Thường trực của Ban Thường vụ Ủy ban Kháng chiến Sài Gòn - Chợ Lớn giai đoạn từ 1950 - 1952.
Sau khi tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông làm Phó Chủ tịch Tổng công đoàn Việt Nam, Thư ký Liên hiệp Công đoàn TP.HCM, rồi Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở TP.HCM...
Tuy
nhiên, cuộc đời ông Nguyễn Hộ không suông sẻ như nhiều cán bộ cách mạng
lão thành khác. Ông đã hai lần bị chính quyền Việt nam bắt, bị quản
thúc tại gia. Vì sao?
Bị bắt lần thứ nhất
Năm 1987, sau khi về hưu, ông Nguyễn Hộ cùng các ông Tạ Bá Tòng, Hồ Văn Hiếu, Đỗ Trung Hiếu và Lê Đình Mạnh đứng ra thành lập Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ ở TP.HCM.
Chỉ
trong một thời gian ngắn, tổ chức này đã thu hút rất đông cựu chiến
binh, cán bộ lão thành cách mạng trên toàn quốc tham gia và trở thành
nơi để các thành viên lên tiếng chỉ trích đường lối, chính sách, lối đối
xử tàn tệ đối với trí thức, cựu chiến binh, đòi cải tổ thể chế, đòi bầu
cử tự do...
nhưng phải thú nhận rằng, chúng tôi đã chọn sai lý tưởng: cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì suốt hơn 60 năm trên con đường cách mạng cộng sản ấy, nhân dân Việt Nam đã chịu sự hy sinh quá lớn lao, nhưng cuối cùng chẳng được gì, …Ông Nguyễn Hộ
Năm 1989, Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ xuất
bản một tờ báo mang tên Truyền thống Kháng chiến nhưng tờ báo này chỉ
xuất bản được hai số thì có lệnh đình bản. Tuy nhiên họ vẫn thực hiện và
phát hành số thứ ba nên chính quyền tổ chức tịch thu, đồng thời đóng
cửa Câu lạc bộ.
Đầu năm 1990,
nhiều thành viên của Câu lạc bộ bị bắt. Số người bị bắt được ước lượng
lên tới hàng ngàn, trong đó có cả các nhân vật chủ chốt như: Tạ Bá Tòng,
Hồ Văn Hiếu, Ðỗ Trung Hiếu, Lê Ðình Mạnh…
Riêng
ông Nguyễn Hộ thì bỏ Sài Gòn về sống tại Củ Chi. Vào tháng 8 năm 1990,
Thủ tướng Võ Văn Kiệt đến thăm ông Nguyễn Hộ và cố gắng thuyết phục ông
từ bỏ con đường đối lập nhưng ông Kiệt không thành công. Đầu tháng 9 năm
1990, ông Nguyễn Hộ bị bắt giam rồi được thả và bị quản thúc tại gia.
Năm 1991, ông Nguyễn Hộ tuyên bố rời bỏ Đảng CSVN.
Từ
đó, ông Nguyễn Hộ bắt đầu viết nhiều bài, tác phẩm bày tỏ quan niệm của
ông về chế độ và chính quyền cộng sản tại Việt Nam. Nổi tiếng nhất là bài “Giải pháp Hòa hợp Hòa giải”, cuốn sách “Quan điểm và cuộc sống”.
Bị bắt lần thứ hai
Năm 1994, ông Nguyễn Hộ, bị bắt lần thứ hai vì cuốn “Quan Điểm và Cuộc Sống“,
kêu gọi Đảng CSVN từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê Nin và chấp nhận con đường
tư bản chủ nghĩa, bởi theo ông, Đảng này đã đi theo con đường đó và chủ
nghĩa tư bản đang được áp dụng ở Việt Nam rồi.
Khác
với nhiều nhân vật thuộc loại “lão thành cách mạng” từng lên tiếng chỉ
trích chế độ, chỉ trích chính quyền vào lúc cuối đời, những ý kiến của
ông Nguyễn Hộ về chế độ, về chính quyền rất thẳng thắn và hoàn toàn
không “rào trước, đón sau”. Trong lời mở đầu cuốn “Quan điểm và cuộc sống”, Nguyễn Hộ viết: “Tôi
làm cách mạng trên 56 năm, gia đình tôi có hai liệt sĩ: Nguyễn Văn Ðảo
(anh ruột) - Ðại tá quân đội nhân dân Việt Nam - hy sinh ngày 09/01/66
trong trận ném bom tấn công đầu tiên của quân xâm lược Mỹ vào Việt Nam.
Trần Thị Thiệt (vợ tôi) - cán bộ phụ nữ Sài Gòn - bị bắt và bị đánh chết
tại Tổng Nha Cảnh Sát hồi tết Mậu Thân (1968), nhưng phải thú nhận
rằng, chúng tôi đã chọn sai lý tưởng: cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì suốt
hơn 60 năm trên con đường cách mạng cộng sản ấy, nhân dân Việt Nam đã
chịu sự hy sinh quá lớn lao, nhưng cuối cùng chẳng được gì, đất nước vẫn
nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân không có ấm no và hạnh phúc, không có dân
chủ tự do. Ðó là điều sỉ nhục.”
Không có tự do là nhục
Cho
đến cuối đời, ông Nguyễn Hộ vẫn khẳng định, Việt Nam chỉ mới có độc
lập, chứ chưa có tự do, dân chủ. Đầu năm 2008, ông đã dành cho anh
Nguyễn Tiến Trung – Tập hợp Thanh niên dân chủ một cuộc phỏng vấn. Ông
nói: “Không dân chủ là phản bội! Trời đất ơi! Không dân chủ là phản bội!”.
Trong
cuộc phỏng vấn đã kể, ông Nguyễn Hộ cho rằng, không thể chấp nhận chỉ
đổi mới kinh tế mà vẫn giữ nguyên thể chế chính trị: “Nếu muốn nói
cải cách cho đúng nghĩa của nó thì phải toàn diện. Hiện nay chủ yếu là
tập trung giải quyết kinh tế thôi, còn chính trị có Đảng, có Nhà nước
lãnh đạo. Chưa chắc đúng! Bởi vì theo quy luật, thường thường, thằng cha
nào có quyền trong tay thì nó luôn luôn hướng về độc tài. Nhân dân là
chủ chứ không phải anh là chủ, dân tộc Việt Nam là chủ đất nước. Không
phải dân tộc Việt Nam chỉ biết ăn thôi. Kinh tế là chỉ biết ăn thôi!
Không lẽ dân tộc này chiến đấu xong rồi chỉ biết ăn chứ không biết nói,
không biết suy nghĩ gì hết? Không phải vậy! Anh hiểu như vậy là không
đúng! Anh coi thường dân tộc anh! Không cho phép anh suy nghĩ như vậy!”
Bởi vì theo quy luật, thường thường, thằng cha nào có quyền trong tay thì nó luôn luôn hướng về độc tài. Nhân dân là chủ chứ không phải anh là chủ, dân tộc Việt Nam là chủ đất nước.Ông Nguyễn Hộ
Dù tuổi đã ngoài 90 nhưng ông Nguyễn Hộ vẫn không thể gạt sang một bên những trăn trở về thời cuộc: “Hi
sinh biết bao nhiêu triệu người, trong ròng rã bao nhiêu năm trời.
Không kể hồi trước đâu. Không kể về tổ tiên ta đánh giặc hàng ngàn năm
như Trưng Trắc, Trưng Nhị, bà Triệu, Trần Hưng Đạo,.. Không kể hàng ngàn
năm, chỉ kể ngày nay thôi, chúng ta cũng hi sinh mà tới nay không có tự
do. Cho nên nói phản bội cũng không lo là nói nặng đâu! Chính là phản
bội. Cho nên trọng trách thanh niên lớn lắm. Phải làm sao giác ngộ thanh
niên hiểu điều đó. Nhục! Đất nước như thế này là nhục! Làm công dân của
Việt Nam, có lịch sử oai hùng, đến ngày nay mà không có tự do, đó là
nhục nhã! Nhục! Không thay đổi điều này, không xứng đáng làm người!”
Ông Nguyễn Hộ đã từng được Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) trao tặng giải thưởng Hammett-Hellman (Giải Tự do Phát biểu).
Tin
ông Nguyễn Hộ qua đời đã khiến nhiều người quan tâm đến cuộc đấu tranh
đòi tự do, dân chủ cho Việt Nam ngậm ngùi. Ngày 3 tháng 7, từ Đà Lạt,
ông Hà Sĩ Phu và nhóm thân hữu đã gửi một câu đối viếng Nguyễn Hộ:
Quan điểm tựa Sáu Dân mấy trận sửa sai thành quyết tử
Cuộc sống như Năm Hộ, hai lần kháng chiến để trường sinh
Copyright © 1998-2009 Radio Free Asia. All rights reserved.
Saturday, July 4, 2009
BBC PHỎNG VẤN LỮ PHƯƠNG
NGUYỄN HỘ
Một con người 'quyết liệt'
Một
trí thức, người từng gắn bó với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam, nhận định ông Nguyễn Hộ là một con người "quyết liệt".
Ông
Nguyễn Hộ, nhà cách mạng kỳ cựu của phe cộng sản miền Nam Việt Nam
nhưng ly khai khỏi hệ thống quyền lực hậu chiến, vừa qua đời hôm
01/07.Ông là một trong những đảng viên cộng sản thế hệ đầu tiên, từng giữ các vị trí quan trọng trong Đảng và phong trào công đoàn.
Tuy nhiên, bất mãn vì cái mà ông xem là sự thoái hóa của Đảng sau 1975, ông Nguyễn Hộ sau này kêu gọi từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.
Nói chuyện với BBC từ Sài Gòn, nhà nghiên cứu Lữ Phương, từng là thứ trưởng Văn hoá của chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, đặt trường hợp Nguyễn Hộ trong bối cảnh Đổi mới thập niên 1980.
Lữ Phương: Trong thời kỳ Đổi mới, ông ấy đòi hỏi dân chủ. Do thôi thúc từ phong trào cải tổ ở Liên Xô, ông đứng ra tập hợp anh em đảng viên cựu kháng chiến. Thái độ của ông rất triệt để, cho rằng phải từ bỏ chủ nghĩa cộng sản (CNCS) mà chuyển sang chủ nghĩa tư bản (CNTB). Ông nói ngày xưa nếu CNCS đã cứu đất nước khỏi ách thực dân, thì bây giờ chính CNTB sẽ cứu đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu.
Ông ấy in ấn ra báo, viết cả những bài tiểu luận. Sau khi ông Linh [Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh] phê phán, cả phong trào bị dập, ông ấy vẫn chống lại. Tờ báo bị đóng cửa không xuất bản ở Sài Gòn, ông xuống miền Tây nhờ anh em in cho. Rồi ông bị bắt, quản chế tại gia cùng một số đồng chí.
Trong hình dung của tôi, đó là một người ban đầu là cộng sản rất kiên cường, nhưng sau này khi Đổi mới, ông trở thành một người chiến đấu cũng rất kiên cường.
Ông nói ngày xưa nếu CNCS đã cứu đất nước khỏi ách thực dân, thì bây giờ chính CNTB sẽ cứu đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu
Lữ Phương
BBC:Thay đổi quan điểm chính trị của ông Nguyễn Hộ phát xuất từ cảm hứng nào?
Cá tính của ông rất quyết liệt. Vì thế ngày xưa, ông trung thành đến cùng, dù phải tù đày. Nhưng sang thời Đổi mới, cảm hứng lớn nhất là từ Gorbachev, sau đó là sự sụp đổ của "Phe Ta". Nói chung cả tôi và các anh em khác bấy giờ đều lấy cảm hứng từ đó để nhìn lại mọi vấn đề. Phong trào văn nghệ phê phán, như tờ Văn Nghệ, đều khởi đầu từ cải tổ bên Liên Xô.
Khi ông Linh lên làm Tổng Bí thư, cởi trói cho văn nghệ sĩ, khiến anh em như Trần Độ, Nguyên Ngọc đi theo ông Linh cả. Nhưng khi ông Linh thấy Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ông quay ngoắt lại đánh anh em. Bao nhiêu người ngày xưa là lính theo ông, bây giờ thay vì trao đổi thảo luận, ông đánh. Từ Liên Xô, ông ngả sang Trung Quốc để cứu chủ nghĩa xã hội.
Đám lính tráng theo ông phản ứng rất dữ, đến khoảng 1992 khi tờ Cửa Việt bị đóng cửa, phong trào coi như chấm dứt. Nhưng riêng ông Hộ, một công thần, vẫn phản ứng dữ dội.
BBC:Ông Võ Văn Kiệt đã từng đến thăm và nói chuyện với ông Nguyễn Hộ. Theo ông, ông Kiệt nhìn nhận ông Hộ thế nào?
Ông Kiệt không chủ trương như ông Hộ. Ông ấy muốn đổi mới từ bên trong, nương theo guồng máy mình tạo ra, êm thắm chuyển hóa nó khi có điều kiện. Ông Kiệt mềm, ôn hòa khôn ngoan, trái hẳn ông Hộ bộc trực. Nhiều khi họp, ông ấy vỗ bàn, ông la, ông hét.
Sau này ông Kiệt cũng đến thăm. Ông Hộ có nói ông nấu cà ri cho ông Kiệt ăn, hai bên chia sẻ thông cảm, nhưng mỗi người có cách phản ứng khác nhau.
BBC:Phong trào đổi mới 20 năm trước so với ngày hôm nay có gì khác, thưa ông?
Tính chất công khai, quyết liệt bây giờ hơn xa ngày trước. Lúc đó, bao nhiêu năm bị đè nén. Sang 1986, Đảng cầm đầu đổi mới. Chưa bao giờ có một tổng bí thư nói với nghệ sĩ nhiệt tình như ông Linh. Mọi sự bung ra là do Đảng đầu têu, mở cửa cho anh em.
Nhưng sau đó, Đảng trói lại một lần nữa, làm phong trào xẹp xuống.
Bây giờ không được bùng nổ vì Đảng chưa cho phép. Nhưng phong trào hiện nay có sức mạnh tiềm tàng, dữ dội hơn xưa vì tự thân nó âm ỉ, tự nó tìm cách nương theo những đổi thay của thế giới và xã hội Việt Nam.
Ví dụ phong trào phản đối bauxite rất tuyệt vời. Không phải là cái gì ngoài luồng, dựa dẫm bên ngoài mà tự thân nó tìm được biện pháp thích hợp, phải chăng mà cũng quyết liệt. Cái mới lần này là Đảng không thể ban ơn, cởi trói cho anh. Bây giờ xã hội đang tự cởi trói mình.
=
Wednesday, July 1, 2009
ĐẶNG PHÙNG QUÂN * TRIẾT HỌC
ĐẶNG PHÙNG QUÂN
Khởi thảo Lịch sử triết học Dưới lăng kính siêu quốc
Dẫn
Lyotard, Gaarder, Hösle là những người mơ ước giải những vấn đề triết học với trẻ thơ: Lyotard viết Le Postmoderne expliqué aux enfants/Giải thích hậu hiện đại cho trẻ thơ, Gaarder viết Sofies verden/Thế giới của Sofie, Hösle viết Das Café der toten Philosophen: Ein philosophischer Briefwechsel für Kinder und Erwachsene/Quán cà phê của những triết gia đã chết: Một trao đổi thư tín cho trẻ em và người lớn.
Thế giới của Sofie
Trong tiểu thuyết của Gaarder, Sofie Amundsen có một thế giới riêng với triết gia Alberto Knox: một ngày kia khi tan học về, Sofie nhận liên tiếp hai bao thư lạ gửi cho cô, mỗi thư một câu hỏi -
bạn là ai?
thế giới đến từ đâu?
Rồi một bưu thiếp gửi cho “Hilde Møller Knag” - nhờ Sofie nhận chuyển, mừng sinh nhật thứ mười lăm!
Hilde là ai?
Hilde có liên quan gì đến một nữ triết gia trong lịch sử tư tưởng tên gọi Hildegard von Bingen? Sofie có làm ta liên tưởng đến - tiếng hy lạp, có nghĩa là minh trí? Alberto Knox/Knag có liên hệ gì đến Albertus Magnus là người thày triết học của triết gia Aquinas?
Song trước hết, Hilde là người thứ ba - tức tha nhân, bởi nếu không có tha nhân, cần gì tới triết học? Song đôi lúc, rõ ràng Hilde là Sofie, có phải để nhắc nhở đến alter ego, tức cùng là một?
Alberto đi qua suốt dòng lịch sử triết học phương tây - như một người bất tử (hãy tưởng tượng chứng nhân của lịch sử, điều này một nhà văn trước Gaarder là Simone de Beauvoir đã từng hư cấu nhân vật bất tử qua các thời đại trong tiếu thuyết Tous les hommes sont mortels/Mọi người đều chết).
Từ chương Bjerkely, Hilde Møller Knag xuất hiện là một con người thực, còn Sofie chinh là nhân vật giả tưởng của quyển tiểu thuyết nhằm viết về lịch sử triết học. Sofie và Hilde - ai được hư cấu? Không một ai. Tiểu thuyết phá thể như Reflex and Bone Structure của Clarence Major đã dựng nhân vật, tác giả ở những vị thế nhị trùng, tác giả đang viết và ở trong quyển sách đang viết - ở Sofies verden Sofie và Hilde trao đổi vị trí cho nhau, người này đang đọc quyển tiểu thuyết có nhân vật là người kia
Cơ sở căn bản của quyển tiểu thuyết là Cơ đốc giáo từ chương mở đầu mang tên Lạc Viên và chương đóng với tiểu đề …chúng ta là cát bụi - song chương Spinoza từ điểm nhìn vĩnh cửu/sub specie aeternitatis rõ ràng là phiếm thần: có thể tưởng tượng đời sống của chính mình trong then khuôn vũ trụ …vì chỉ là một phần nhỏ nhoi của toàn thể đời sống của tự nhiên
Trong cái nhỏ nhoi ấy có những đấng cứu thế, như (Plotinus từng xem) Platon (trong dòng tư tưởng tuần hoàn của những triết gia hy lạp) mà văn minh châu Âu tùy thuộc vào hai nền văn hóa, một là Ấn-Âu từ bốn ngàn năm qua với Trời là Dyaus/Zeus/Jupiter/Iov/Tyr và những Thần là Asura/deva/daeva/dues/Aser/tivurr, một bên kia là văn hóa Do thái khởi đi từ bán đảo ả-rập, người do thái lang thang khỏi quê hương trên hai ngàn năm, mang theo một lịch sử và tôn giáo biệt căn với con đường Cơ đốc giáo, song cả ba Do thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo chia xẻ nền đất do thái (Qoran, Cựu ước viết bằng ngôn ngữ cùng họ) -
Văn hóa Ấn-Âu tin vào vòng tuần hoàn lịch sử, vào luân hồi, tái sinh. Alberto muốn chỉ ra cho Sofie thấy từ hơn hai ngàn năm trăm năm qua, người Ấn theo đuổi mục đích tối thượng là giải thoát khỏi vòng sinh tử; cũng hơn hai ngàn năm trăm năm sau Phật (xem đời sống như một tồn tục phi gián đoạn những quá trình tâm thân giữ con người trong tình trạng biến chuyển không ngừng), phân tích tinh thần con người, Hume nhìn ra như Phật là không có cái Tôi, bản ngã không thay đổi như nhiều nhà duy lý quan niệm (vì tin vào linh hồn bất tử của con người).
Tiểu thuyết lịch sử triết học của Gaarder đã manh nha tia trực quan về một lịch sử tư tưởng siêu quốc
Quán hội hữu những con người chết nhưng bất tử
Vittorio Hösle được đào tạo trong nền giáo dục triết học, nhân từ cảm hứng quyển tiểu thuyết nói trên của Jostein Gaarder, đã dựng ra nhân vật nữ Nora K. để viết dưới hình thức tiểu thuyết thư - một văn thể có truyền thống lâu đời:
Cả hai tiểu thuyết ở trong thời đại điện toán và trí hiểu nhân tạo - những nhân vật tranh luận với nhau về người máy/robot, về trí não có phải là máy điện toán tiên tiến?
Thư mở đầu tiểu thuyết Quán cà phê của những triết gia đã chết là thiệp cám ơn Vittorio đã gửi con khủng long bột làm quà Giáng sinh cho Nora (nhân cô thắc mắc làm sao ý niệm khủng long theo kiểu Platon biến mất cùng với những con cuối cùng của loài vật này?) và Nora thực sự đang bực tứùc về lối lý giải phụ nữ của Aristote (triết gia Hy lạp mà Hösle đánh giá rất cao) rồi tình cờ lang thang trên phố Rüttenscheid, Vittorio gặp một quán cà phê mang tên “Quán cà phê của những triết gia đã chết song trẻ mãi” khiến ông thích thú, tò mò bước vào và kinh ngạc là đầy khách, dầu toàn là nam giới.
Ông ngồi xuống một bàn chỉ trơ trọi có một ông già - không còn bàn trống nào nữa - trông rất thân quen như những người khác trong quán. đó chính là Aristote; tất nhiên Vittorio sửng sốt, nhưng trong triết học mọi chuyện đều có thể xẩy ra. Không sao. Ông cũng nhận ra nhiều người khác, như ở bàn bi-da đằng kia, một người nhỏ con chắc chắn là Kant đang tranh biện lý chứng hữu thể luận với một giám mục trông khả kính mà ổng thường gọi là “Anselm thân mến”, trong khi một người trẻ coi vẻ rụt rè dội chiếc mũ cao đang giải thích với một người ăn bận bảnh bao nhìn chăm chăm xuống sàn, đề tài Chân lý và bước nhẩy vọt của đức Tin ngoài lý trí. Trong thư hồi âm này của Vittorio đề ngày 27 tháng Giêng 1994 ở Essen, Hösle kể lại cuộc nói chuyện với Aristote cho Nora, đề cập chuyện Nora bực tức về khái niệm phụ nữ của Aristote, việc những loài bị tiêu diệt là một lý chứng chống lại thuyết ý niệm Platon, Aristote nhận xét Nora đã gây ra một liên minh mới đang hình thành trong quán cà phê này, nơi mọi lý chứng hay ho được đánh giá rất cao.
Aristote cũng muốn nhờ Hösle chuyển lại cho Nora ba điều: một, ông không phủ nhận phụ nữ có linh hồn, như nhiều người rêu rao, vì ông cho cây cỏ còn có hồn, huống hồ; hai, mọi người chúng ta đều là con cái của thời đại, phàm đã lớn lên trong một xã hội mà chế độ nô lệ được nhìn nhận, coi như tự nhiên, hay ở đó phụ nữ không được học hỏi hay quan tâm đến ý niệm khủng long, thì những quan điểm như vậy thường không tránh được; ba, ông muốn chỉ ra cho Hösle và Nora là họ cũng giữ những tư kiến có thể làm đỏ mặt vì xấu hổ trong mấy trăm năm - cho nên đừng quá khe khắt với một ông già Hy lạp như ông!
Vittorio còn kể trên đường ra, gặp một người nháy mắt với mình và bảo ông là nếu kể cho Nora, hỏi cô ta có nghĩ là đang mơ, vậy đâu là thực, là mộng?
Trong hồi âm của Nora, cô nghĩ mộng và thực là hai thế giới khác nhau: mộng là thế giới của tri tưởng và tư tưởng, từ đó có cái gì nghiền ngẫm tận sâu trong ta, còn thực là thế giới của những giác quan, cũng là những khoa học, lịch sử hay ngôn ngữ…
Ở quán cà phê của những triết gia trẻ mãi ấy, Vittorio đã gặp những Descartes,Kant, Augustin, Nietzsche, Hegel. Kierkegaard, Max Weber, Rousseau,Giambattista Vico, Al-Farabi, Fichte (chỉ kể một số tiêu biểu) v.v.. đến những hiền triết phương đông như Trang tử, Khổng tử, Lão tử và Nora từng gặp trên xe, trong công viên những Platon, Martin Buber v.v..
Thư từ trao đổi giữa Vittorio (Hưsle) và Nora (K.) thể hiện hai quan điểm triết học rõ ràng: một bên là tư tưởng riêng của Hösle (đã trình bày trong những tác phẩm của ông, ở đó lý giải phê phán các triết gia theo ý ông), một bên là cái nhìn của trẻ thơ (đại biểu là K. về một triết học) thuần túy [trong thư đề ngày 3 tháng Ba 1994: cô bé Nora thân thương thực ngây thơ nếu cô không biết tại sao trẻ thơ phải trả lời những câu hỏi triết học cơ bản. Và điều này đã trả lời câu hỏi của cô: trong triết học, đòi hỏi tính ngây thơ hơn bất kỳ điều gì khác.
Dửng dưng với những gì người khác nghĩ, sẵn sàng hỏi ngay cả những câu hỏi cấm kỵ, một tin cậy là những đáp án đúng cũng đơn giản gây sửng sốt - mọi thứ đó thật quan trọng trong triết học, và về những mặt này, trẻ em ít có những cấm đoán như người lớn. Trẻ em thường ít tư kiến hơn những triết gia từng trải kinh nghiệm…Phải, triết học cần trẻ thơ]. Hãy nghe Nora nói với Max Weber: ông thật quá bi quan. Tại sao ông không tin vào con người? Họ được trao cho luân lý và niềm tin…Kỹ thuật cũng tốt chứ. Nó không hoàn toàn xấu đâu. Này nhé, nếu không có tàu thủy, xe lửa, máy bay ông không thể du lịch qua những xứ khác. Mà đôi khi ông phải muốn đi mhay việcgì quan trọng. Nếu không có kỹ thuật, khoa học không thể tiến bộ. Y khoa hẳn tụt hậu, những bệnh nan y như ung thư không thể chữa trị. Có thể chúng ta phải thay đổi xe, cháu muốn nói là đường rày đó. Để nó không dẫn xuống vực sâu.
Còn Hösle đặt vào miệng Wilhem Hegel và Søren Kierkegaard những tranh luận tay ba như:
(Vittorio:) Thưa ông Wilhem, như vậy Thượng đế và Tuyệt đối có liên hệ với nhau chứ?
(Hegel:) Tất nhiên, cả hai cùng một thứ; tôi thích dùng diễn ngữ 'Tuyệt đối' song nó cũng quy chiếu về điều mà những tín đồ có tri năng gọi là 'Thượng đế'. Thượng đế là nền tảng tột cùng, và nếu như đạo lý là tuyệt đối, nó chính là thánh thiện, một phần của Thượng đế. Người ta cũng có thể nói chính Thượng đế tuyệt đối là đạo lý
(Vittorio:) Vậy Thượng đế và trật tự đạo đức đi với nhau. Nhưng cho tôi biết, cái gì là đạo đức vì Thượng đế muốn, hay vì nó là đạo lý?
(Hegel:) Thượng đế có thể chỉ muốn cái gì là đạo lý, là tinh thần.
(Søren la lên từ phía ông ta:) Nhưng như thế thì đạo lý độc lập với ý chí của Thượng đế, vậy ra ông muốn tiêu diệt toàn năng của Thượng đế.
(Hegel:) Song nếu một cái gì tốt chỉ vì Thượng đế muốn thế, vậy Thượng đế có thể sai khiến cái gì đó khủng khiếp, và nó cũng tốt sao.
(Søren đáp trả:) Hãy thấy gì Ngài đã làm. Cứ nghĩ đến chuyện Abraham và Isaac đó. Có phải vô đạo đức khi hy sinh một đứa trẻ vô tội? Và đóù là cái Ngài đã khiến Abraham làm!
(Vittorio kêu lên:) Ồ nếu Thượng đế khiến tôi phải hy sinh Nora, tôi không bao giờ làm đâu.
(Hegel:) Cũng vậy đó, hãy xem rốt cuộc Isaac có bị giết đâu, có thể là Thượng đế chỉ muốn thử lòng Abraham - và có thể ông ta qua được cuộc thử thách tốt hơn là khi nguyện:”Chúa ơi, mọi điều đều đúng, như ng Ngài thực không có thể muốn một đứa trẻ vô tội bị giết, như vậy con đã hiểu lầm Ngài”.
(Søren ngắt lời:) Không, đức tin ở ngoài lý trí. Lý trí thực tiễn có thể cấm hy sinh trẻ con, song đức tin biết là cái gì mâu thuẫn với lý trí có thể là chân thực hay ý Chúa.
(Hegel lập lại:) Đức tin không thể mâu thuẫn với lý trí. Có lẽ đức tin có nhữngthấu thị mà lý trí mù lòa, song nó không thể mâu thuẫn lý trí. Nếu không, chân lý có thể hai mặt, chân lý của lý và chân lý của tin, điều này phi lý.
(Søren nói nhỏ nhẹ:) Credo quia absurdum/tin vì phi lý.
Cuộc tranh biện tay ba cuối cùng xuất hiện Al-Farabi, triết gia Hồi giáo tự nghĩ có thể đồng hành rất tốt với những nhà Cơ đốc, Do thái và những nhà tôn giáo khác nữa, song ông nhận xét “với người nào trì chiết vào đức tin riêng của họ,tự đặt mình chống chân lý, thì khó nói chuyện với y”. Hösle chịu ảnh hưởng người thày là Apel, cho nên trước nhận xét của Hegel và Al-Farabi là “mỗi chủ thể tự đóng kín bản thân , không thể có thông giao với thế giới hay với tha nhân”, ông nghĩ có một điểm chắc chắn là người ta có thể hiểu nhau, kể cả đôi khi có ngộ nhận về nhau, song chúng ta hiểu ngay sau đó là chúng ta không hiểu nhau và có thể thử một cách tiếp cận khác.
Vào Giáng sinh 1994, Vittorio kể cuộc hội ngộ với Albertus Magnus và Lão tử .
(Lão tử:) Người phương tây các ông thường luôn luôn muốn tranh cãi những vấn đề! Mới đây thôi tôi thấy cảnh Chúa giáng sinh của qúy vị trước ban thờ, và tôi nghĩ về mối quan hệ giữa Đạo và hài đồng này. Rốt cuộc, tôi không rõ tôi là Lão tử đang nhìn hài đồng Giê-su, hay Giê-su đang mỉm cười với Lão tử.
(Albertus:) Vâng, chúng tôi có quan hệ khác với đời sống tích cực như ông, thưa Lão tử. Nếu ông chỉ cần biếtbao nhiêu là nhiệm vụ tổ chức trong trọng trách giám mục của tôi thôi! Chúng làm tôi không thể đi vào chiêm nghiệm, nhưng đó cũng là nhiệm vụ của chúng tôi để phục vụ công lý, và chúng tôi chỉ có thểlàm điều đó nếu chúng tôi hoạt động, xử lý và tổ chức.
(Lão tử cười mỉm đáp:) Mặt khác, tôi gắn bó với Vô Vi, nguyên lý là không làm gì hết. Đại nhân không làm gì hết, mà có hiệu quả, tỏa ra cái hòa hợp với Đạo, và như vậy không cần tổ chức gì hết.
(Albertus:) Tôi cũng thấy ảnh hưởng của nhân cách lớn tràn ngập quyền lực - đó là lý do chúng tôi ăn mừng ngày Giáng sinh.
(Lão tử:) Có thể các ông như vậy; song ông vĩnh viễn trẻ mãi, mặc dầu ông đã chết - không qua lâu như tôi, thực vậy, song dẫu sao cũng đã năm bẩy trăn năm. Tuy vậy, khi tôi đi ngang những con phố và cửa hàng thắp sáng lễ hội, quan sát người ta lũ lượt đi sắm quà tặng, tôi ngờ vực không biết có còn nhiều người cảm thấy ảnh hưởng của Chúa hài đồng không. Nếu người tây phương chỉ dùng những tài khéo léo tổ chức của mình để làm dịu nhu cầu - nhưng thường là họ không dùng tài để khai thác nhu cầu sao. Này ông Albertus, hỏi ông câu này nhé: các nhà thần học Cơ đốc các ông vẫn quyết liệt bảo vệ cái lý chứng là Cơ đốc thì cao hơn các tôn giáo khác.
(Albertus:) Phải, vì không như những tôn giáo khác, tôn giáo của chúng tôi xây dựng trên triết học Hy lạp. Tôn giáo của chúng tôi liên hệ đến logos ngay từ khởi đầu -Chúa Hài đồng là hiện thân của logos.
(Lão tử:) Có thể nhu vậy, song ông có thấy tình trạng hiện nay của châu Âu thực sự quyến rũ không?
(Albertus lắc đầu đáp:) Không, không, tôi thấy thực sự đáng ghê tởm. Chủ nghĩa duy vật này dẫn chúng tôi xa rời căn rễ Cơ đốc. Những bạn bè tôi ở quán cà phê đồng ý với trường phái duy sử nói với tôi là ngay cả giữa quan niệm thời trung cổ về Cơ đốc và Cơ đốc nguyên thủy, cái hố ngăn cách cũng rất lớn. Song hố ngăn cách giữa Cơ đốc nguyên thủy với thế giới hiện đại còn lớn lao hơn nhiều.
(Lão tử:) Rõ ràng rồi. Câu hỏi của tôi bây giờ là: làm sao mà nền văn hóa của các ông rất tự hào về tôn giáo, luôn luôn coi nó là đỉnh cao của phát triển con người, lại sản xuất ra một xã hội bị bọn vụ lợi và tiêu thụ hèn hạ thống trị? Chỉ ở phương Tây chủ nghĩa vô thần là hiện tượng quần chúng, còn ở xứ tôi, nó là kết quả nhập cảng của phương Tây. Làm sao một xã hội vô thần có thể phát triển trên nền tảng Cơ đốc vậy?
(Albertus thở dài:) Giá mà tôi có thể trả lời được câu hỏi của ông? Hiện giờ, tôi thấy là khi bắt đầu thời đại mới Cơ đốc giáo bành trướng khắp thế giới là kết quả của thực dân, chiến thắng dường như đã hoàn tất. Ngày nay tôi thường bất bỉnh khi thấy quan niệm văn hóa Cơ đốc Âu châu mà giới truyền thông đã nhồi nhét vào đầu mọi người. Hủy hoại môi sinh làm tôi bận tâm rất nhiều.
(Lão từ:) Vậy ra những người Cơ đốc các ông đã tách rời Thượng đế khỏi thiên nhiên quá rồi.
Vittorio Hösle có thể là một nhà triết học trẻ (sinh năm 1960) đã sớm có cái nhìn siêu quốc trong tư tưởng hiện đại.
Sau Hösle, có nhiều người bắt chước lối hư cấu gặp lại những danh nhân đã chết (như văn gia, thi sĩ v.v..). Song chính ông thành thật cho hay là trí tưởng của ông đẩy đưa ông tới chỗ nghĩ ra việc gặp gỡ những triết gia chết song còn trẻ mãi là cảm hứng từ coi phim Dead Poets Society/Hội thi sĩ quá cố do Peter Weir đạo diễn, thực hiện năm 1989, người viết truyện phim là Thomas Schulman. O captain! My captain! là câu thơ của Walt Whitman, nhà thơ Nguyễn Du của Mỹ. Henry David Thoreau, người nổi loạn như một Cao Bá Quát trong tác phẩm bất hủ Walden với những tư tưởng bất hủ như: Vũ trụ lớn hơn chúng ta nhìn/the Univers is wider than our views of it, hay: Tôi đi vào rừng vì tôi muốn sống tự do, chỉ đương đầu với những chuyện đời cơ bản…
Tự truyện của người gặp tiên/ngoại thế
Vào một đêm nửa vầng trăng cô độc trên vòm trời khi ngồi ngoài hiên căn nhà nhìn ra biển, tôi đang miên man tưởng đến câu chuyện của Hösle và Gaarder, sóng xô trên cát như những dòng thơ của Perse, bất ngờ ánh sáng êm dịu hiện ra trước mắt, màu sắc như chưa hề thấy tỏa nhập vào châu thân
Mơ hay tỉnh? Tôi tự hỏi
Không âm thanh, tiếng nói
Nhưng rõ ràng tôi đang trò chuyện với một
(đến đây, tôi không thể tìm kiếm ra từ nào chính xác) - vì đối tác không phải là con người - mà tôi có cất tiếng đâu
song cuộc đàm thoại của chúng tôi rõ ràng là thực
đối tác của tôi cho tôi hay (bạn hãy nhớ, chúng tôi không dùng bất kỳ ngôn ngữ nào, dù là tiếng Việt, tiếng quan thoại, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, hoặc mọi thứ tiếng dùng trong thông giao ở hội nghị Liên Hiệp Quốc hiện nay)ông đến từ một Nơi Xa Xăm - dùng theo tiếng người là ở một thiên hà nào đó - nếu tính theo kiến thức khoa học của con người ta hiện tại , có thể là hàng triệu năm ánh sáng
không, đối tác của tôi hẳn nực cười vì cái số đo lường nhỏ nhoi như vậy
chỉ cho hay: ông Đặng, ông là người thứ ba trên trái đất bé tí xíu này mà tôi hiện thân nói chuyện đấy
hân hạnh quá, chứ hai vị khác là ai?
Platon và Dante Alighieri -
tôi nhớ ra rồi, vị đầu tiên sau khi gặp ngài (tôi cũng không rõ tại sao tôi gọi đối tác của tôi bằng cách xưng hô khách sáo đó) Platon đưa ra cái chuyện hang động, coi người trần chúng tôi như bọn tù đày trong ngục, như cái bóng nhìn thấy Ý sinh động là thực ở bên ngoài; Dante viết La Divina Commedia tả cảnh địa ngục khủng khiếp thật ra chỉ là chốn trần gian này; ngài ơi, ngài kỳ vọng ở tôi điều gì?
Không, ông Đặng ơi, sau khi gặp tôi, ông muốn làm gì tùy ông. Cái khó là đồng loại của ông có thức tỉnh là chuyện của họ. Platon há chẳng muốn mở mắt họ mà chẳng đặng; Dante hù dọa chuyện Inferno, có ai sợ?
Tôi biết, chuyện mấy nghìn năm nay, ai tỉnh ai say? Là chuyện xưa như trái đất của chúng tôi -
Song thưa ngài, tôi không thấy hình dạng ngài - để tôi nói ngài rõ, ngài không dị hợm như E.T. đám điện ảnh xuẩn động tưởng tượng, ngài không râu ria rậm rạp như mấy ông thánh nhân loại chúng tôiõ nghĩ ra, tôi chỉ thấy vừng sáng không xanh, không đỏ, không trắng, không đen (tôi cũng biết màu sắc chẳng qua do tri giác thấp kém chúng tôi thấy sao nói vậy), nếu tôi kể lại cho người ta nghe, thì tôi sẽ nói ngài nhang nhác như chân dung con người ta Picasso vẽ, song mờ mờ ảo ảo như tranh của Bacon, hình thù chẳng người chẳng ngợm, trừu tượng như của Kandinsky, nét kỷ hà như tranh Mondrian - đấy là cái dễ nhất để tả ngài cho chúng sinh rõ
Ngài từ đâu đến?
Ngài là nam hay nữ?
Ngài có hồn/xác, thân/tâm như tôi không?
Ngài có tên không? Có ngôn ngữ riêng không?
Ngài có tình dục không?
Ngài là quá khứ, hiện tại, hay tương lai?
Ngài có quê hương, tổ quốc, giống nòi, chủng tộc?
Ngài có cha mẹ, anh em, vợ con, bạn bè, dân tộc?
Ngài có ngôn ngữ, chữ viết để thông giao?
Ngài có tư tưởng, văn chương, khoa học?
Ngài có tuổi tác, học thức, tình dục, tư tưởng, cảm giác?
Đối tác của tôi đáp án, tôi nghĩ y không cười không nhăn nhó như đám chúng sinh quanh ta
Ông Đặng ơi, để tôi nhắc ông nghe một câu văn của ông nhé: thuở nhỏ, chàng hay tỉ mỉ quan sát những đoàn kiến leo tường, châu đầu vào nhau rồi lại tiếp tục bỏ đi không biết về hang ổ nào
Có bao giờ ông nghĩ đến, khi ông bay cao ra khỏi cái hành tinh nhỏ bé của ông, nhìn xuống, nhân quần của ông e còn li ti hơn đoàn kiến trong tuổi nhỏ - thế giới của các ông đó
Vậy thì tất cả những thắc mắc trong câu hỏi của ông không có đáp án
Ông không nhìn thấy tôi rõ, như người láng giềng của ông, tôi không nói bất kỳ ngôn ngữ nhân thế để thông giao với ông, vì tư tưởng, suy luận, ngôn ngữ không khu biệt nơi tôi, tư và ngữ đồng nhất - hay thực sự không có
Sở dĩ ông hiểu ngay tôi vì vô ngôn, vô động,vô ý. vô cảm - để tôi nói cụ thể theo cảnh giới của ông nhé - ông trò chuyện với tôi được vì nghĩ của ông trước khi thành lời đã là một, nên không cần cất tiếng, tôi đã rõ ông muốn nói gì, và phản cảm của tôi - ý và ngữ - là một
Bây giờ thì ông biết/hiểu/đọc/thấy rồi nhé
Tôi đến từ một nơi nhân loại các ông chưa có khả năng tiếp cận - nhớ nhé, thể xác con người chỉ có khoảng năm trăm giờ sống sót nếu trần trụi trong khối thái dương hệ, huống hồ ra khỏi, phi thuyền của nhân loại các ông đã bay tới đâu?
các ông thấy quanh, nào là sao Hỏa, sao Mộc, cung Hằng không có cái gọi là sống, nên các ông nghĩ là chúa tể trong vũ trụ
tôi phản ứng yếu ớt: không, ngài ơi,như ngài đã nhắc đến đoạn văn tôi viết, tôi nghĩ ngài coi nhân loại chúng tôi chắc còn li ti hơn đoàn kiến
đúng vậy đó, ông Đặng; tôi từ muôn một đến nói chuyện với ông, cũng vì tò mò như ông, xem tương lai, chủ đích của quần thể nhân loại kiến đi về đâu.
Vậy thì ngài đâu có là Thượng đế của chúng tôi. Ngài đâu biết thế giới chúng tôi đi về đâu?
Ông Đặng ơi, đừng nóng.Thể xác ông nằm trong hạn chế vật lý nên tôi không thể đưa ông đi ra khỏi thái dương hệ này, mở tầm kiến thức thấy cái Bao La
Song ngài có thể đưa tôi về quá khứ chứ?
Tôi chắc chắn rõ đối tác của tôi như cười ha hả vì ông Đặng ơi, ở thời điểm trần thế các ông, nếu mở được tầm nhìn miên viễn, các ông sẽ nhìn thấy chuyện tương lai - như mấy người điện ảnh các ông tưởng tượng back to the future, không phải như một nhà văn hư tưởng chuyện ba người lính nhẩy dù lâm nạn, ngược về quá khứ thấy cảnh tượng lịch sử (như vua Quang Trung đại phá quân Thanh v. v…).
Đúng vậy, các nhà khoa học của chúng tôi đã dần dà khám phá cái vũ trụ đơn điện tử, vật chất/phản-vật chất, những phương trình như QED nhằm miêu tả phản vật chất đi tới trong thời gian, không có thông tin nào có thể gửi lùi lại trong thời gian. Đời sống trên trái Đất chúng tôi mới có khoảng 4 tỉ năm nay, mọi loài đều từ một cơ sinh đơn bào nguyên thủy do những ngẫu biến mà ra, chung gốc tổ LUCA
Nhân loại chúng tôi mới phát hiện có trên triệu năm nay, song biết bao nền văn minh đã chôn vùi trong cảnh dâu biển, bao nhiêu cuộc chiến tàn sát lẫn nhau, Vũ trụ này xem ra bất ổn, đến một lúc cả Mặt trời kia và đời sống trên trái Đất cũng đến chỗ cáo chung…nhưng đời Sống này có thể kết thúc sớm hơn với vũ khí hạt nhân (nhờ vào tiến bộ siêu đẳng của khoa học, từ khám phá ra nguyên tử, đơn tử, phân tử, hạt cơ bản, helium 1 và 2, lý thuyết tương đối, cơ học lượng tử, lý luận siêu băng trong vật lý v.v..) đang trên đà phát triển cao tốc ở mọi xứ sở, từ nơi nghèo đói nhất như bắc Cao ly đến những vùng tranh nhau một khoảnh đất như Trung Đông mù ám…
Này ông Đặng, thế giới của ông đầy phức tạp: có tình dục (vì nam/nữ), có cạnh tranh (vì mạnh/yếu), có sở hữu (vì giàu/ nghèo) có thù nghịch (vì chủng tộc/tôn giáo), có sinh tồn (vì sống/chết), có phân hóa (vì trí thức/ngu muội)
Tại sao vậy?
Nếu có nhiều thế giới; con người ý thức nhiều thế giới; nếu nhận ra khởi nguyên của thời gian và phi thời gian; nếu biết không và có phi khu biệt
Tại sao vậy?
Những nan giải?
Nhân loại chúng tôi có nhiều cái thiếu song lại có nhiều cái thừa do phân hóa giữa lời và ý, giữa ngôn ngữ và tư tưởng, giữa chữ nghĩa và tiếng nói, giữa lịch sử và tiền lịch sử, giữa lý trí và phi lý, giữa một và nhiều…
Tất cả nằm trong cái ông gọi là hành trạng triết học, phải không? Nói cho tôi vận hành của nó đi, biết đâu tôi có thể chỉ con đường ra ở chỗ No Exit
"Khởi thảo Lịch sử triết học Dưới lăng kính siêu quốc
Lịch sử triết học tỷ giảo - không, đúng ra từ lăng kính siêu quốc (có nghĩa là không phân biệt Đông/Tây, địa chí, thời đại) - viết ra cho đối tác mà tôi đặt tên là tiên (vì như đã giới thiệu ở trên, đến từ Nơi Xa Xăm), ngoại thế (vì ngoài vũ trụ (?) chúng ta), và sau nữa là chủ yếu cho những thế hệ mai sau - có thể chưa ra đời
Khởi thảo Lịch sử triết học Dưới lăng kính siêu quốc
Dẫn
Lyotard, Gaarder, Hösle là những người mơ ước giải những vấn đề triết học với trẻ thơ: Lyotard viết Le Postmoderne expliqué aux enfants/Giải thích hậu hiện đại cho trẻ thơ, Gaarder viết Sofies verden/Thế giới của Sofie, Hösle viết Das Café der toten Philosophen: Ein philosophischer Briefwechsel für Kinder und Erwachsene/Quán cà phê của những triết gia đã chết: Một trao đổi thư tín cho trẻ em và người lớn.
Thế giới của Sofie
Trong tiểu thuyết của Gaarder, Sofie Amundsen có một thế giới riêng với triết gia Alberto Knox: một ngày kia khi tan học về, Sofie nhận liên tiếp hai bao thư lạ gửi cho cô, mỗi thư một câu hỏi -
bạn là ai?
thế giới đến từ đâu?
Rồi một bưu thiếp gửi cho “Hilde Møller Knag” - nhờ Sofie nhận chuyển, mừng sinh nhật thứ mười lăm!
Hilde là ai?
Hilde có liên quan gì đến một nữ triết gia trong lịch sử tư tưởng tên gọi Hildegard von Bingen? Sofie có làm ta liên tưởng đến - tiếng hy lạp, có nghĩa là minh trí? Alberto Knox/Knag có liên hệ gì đến Albertus Magnus là người thày triết học của triết gia Aquinas?
Song trước hết, Hilde là người thứ ba - tức tha nhân, bởi nếu không có tha nhân, cần gì tới triết học? Song đôi lúc, rõ ràng Hilde là Sofie, có phải để nhắc nhở đến alter ego, tức cùng là một?
Alberto đi qua suốt dòng lịch sử triết học phương tây - như một người bất tử (hãy tưởng tượng chứng nhân của lịch sử, điều này một nhà văn trước Gaarder là Simone de Beauvoir đã từng hư cấu nhân vật bất tử qua các thời đại trong tiếu thuyết Tous les hommes sont mortels/Mọi người đều chết).
Từ chương Bjerkely, Hilde Møller Knag xuất hiện là một con người thực, còn Sofie chinh là nhân vật giả tưởng của quyển tiểu thuyết nhằm viết về lịch sử triết học. Sofie và Hilde - ai được hư cấu? Không một ai. Tiểu thuyết phá thể như Reflex and Bone Structure của Clarence Major đã dựng nhân vật, tác giả ở những vị thế nhị trùng, tác giả đang viết và ở trong quyển sách đang viết - ở Sofies verden Sofie và Hilde trao đổi vị trí cho nhau, người này đang đọc quyển tiểu thuyết có nhân vật là người kia
Cơ sở căn bản của quyển tiểu thuyết là Cơ đốc giáo từ chương mở đầu mang tên Lạc Viên và chương đóng với tiểu đề …chúng ta là cát bụi - song chương Spinoza từ điểm nhìn vĩnh cửu/sub specie aeternitatis rõ ràng là phiếm thần: có thể tưởng tượng đời sống của chính mình trong then khuôn vũ trụ …vì chỉ là một phần nhỏ nhoi của toàn thể đời sống của tự nhiên
Trong cái nhỏ nhoi ấy có những đấng cứu thế, như (Plotinus từng xem) Platon (trong dòng tư tưởng tuần hoàn của những triết gia hy lạp) mà văn minh châu Âu tùy thuộc vào hai nền văn hóa, một là Ấn-Âu từ bốn ngàn năm qua với Trời là Dyaus/Zeus/Jupiter/Iov/Tyr và những Thần là Asura/deva/daeva/dues/Aser/tivurr, một bên kia là văn hóa Do thái khởi đi từ bán đảo ả-rập, người do thái lang thang khỏi quê hương trên hai ngàn năm, mang theo một lịch sử và tôn giáo biệt căn với con đường Cơ đốc giáo, song cả ba Do thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo chia xẻ nền đất do thái (Qoran, Cựu ước viết bằng ngôn ngữ cùng họ) -
Văn hóa Ấn-Âu tin vào vòng tuần hoàn lịch sử, vào luân hồi, tái sinh. Alberto muốn chỉ ra cho Sofie thấy từ hơn hai ngàn năm trăm năm qua, người Ấn theo đuổi mục đích tối thượng là giải thoát khỏi vòng sinh tử; cũng hơn hai ngàn năm trăm năm sau Phật (xem đời sống như một tồn tục phi gián đoạn những quá trình tâm thân giữ con người trong tình trạng biến chuyển không ngừng), phân tích tinh thần con người, Hume nhìn ra như Phật là không có cái Tôi, bản ngã không thay đổi như nhiều nhà duy lý quan niệm (vì tin vào linh hồn bất tử của con người).
Tiểu thuyết lịch sử triết học của Gaarder đã manh nha tia trực quan về một lịch sử tư tưởng siêu quốc
Quán hội hữu những con người chết nhưng bất tử
Vittorio Hösle được đào tạo trong nền giáo dục triết học, nhân từ cảm hứng quyển tiểu thuyết nói trên của Jostein Gaarder, đã dựng ra nhân vật nữ Nora K. để viết dưới hình thức tiểu thuyết thư - một văn thể có truyền thống lâu đời:
Cả hai tiểu thuyết ở trong thời đại điện toán và trí hiểu nhân tạo - những nhân vật tranh luận với nhau về người máy/robot, về trí não có phải là máy điện toán tiên tiến?
Thư mở đầu tiểu thuyết Quán cà phê của những triết gia đã chết là thiệp cám ơn Vittorio đã gửi con khủng long bột làm quà Giáng sinh cho Nora (nhân cô thắc mắc làm sao ý niệm khủng long theo kiểu Platon biến mất cùng với những con cuối cùng của loài vật này?) và Nora thực sự đang bực tứùc về lối lý giải phụ nữ của Aristote (triết gia Hy lạp mà Hösle đánh giá rất cao) rồi tình cờ lang thang trên phố Rüttenscheid, Vittorio gặp một quán cà phê mang tên “Quán cà phê của những triết gia đã chết song trẻ mãi” khiến ông thích thú, tò mò bước vào và kinh ngạc là đầy khách, dầu toàn là nam giới.
Ông ngồi xuống một bàn chỉ trơ trọi có một ông già - không còn bàn trống nào nữa - trông rất thân quen như những người khác trong quán. đó chính là Aristote; tất nhiên Vittorio sửng sốt, nhưng trong triết học mọi chuyện đều có thể xẩy ra. Không sao. Ông cũng nhận ra nhiều người khác, như ở bàn bi-da đằng kia, một người nhỏ con chắc chắn là Kant đang tranh biện lý chứng hữu thể luận với một giám mục trông khả kính mà ổng thường gọi là “Anselm thân mến”, trong khi một người trẻ coi vẻ rụt rè dội chiếc mũ cao đang giải thích với một người ăn bận bảnh bao nhìn chăm chăm xuống sàn, đề tài Chân lý và bước nhẩy vọt của đức Tin ngoài lý trí. Trong thư hồi âm này của Vittorio đề ngày 27 tháng Giêng 1994 ở Essen, Hösle kể lại cuộc nói chuyện với Aristote cho Nora, đề cập chuyện Nora bực tức về khái niệm phụ nữ của Aristote, việc những loài bị tiêu diệt là một lý chứng chống lại thuyết ý niệm Platon, Aristote nhận xét Nora đã gây ra một liên minh mới đang hình thành trong quán cà phê này, nơi mọi lý chứng hay ho được đánh giá rất cao.
Aristote cũng muốn nhờ Hösle chuyển lại cho Nora ba điều: một, ông không phủ nhận phụ nữ có linh hồn, như nhiều người rêu rao, vì ông cho cây cỏ còn có hồn, huống hồ; hai, mọi người chúng ta đều là con cái của thời đại, phàm đã lớn lên trong một xã hội mà chế độ nô lệ được nhìn nhận, coi như tự nhiên, hay ở đó phụ nữ không được học hỏi hay quan tâm đến ý niệm khủng long, thì những quan điểm như vậy thường không tránh được; ba, ông muốn chỉ ra cho Hösle và Nora là họ cũng giữ những tư kiến có thể làm đỏ mặt vì xấu hổ trong mấy trăm năm - cho nên đừng quá khe khắt với một ông già Hy lạp như ông!
Vittorio còn kể trên đường ra, gặp một người nháy mắt với mình và bảo ông là nếu kể cho Nora, hỏi cô ta có nghĩ là đang mơ, vậy đâu là thực, là mộng?
Trong hồi âm của Nora, cô nghĩ mộng và thực là hai thế giới khác nhau: mộng là thế giới của tri tưởng và tư tưởng, từ đó có cái gì nghiền ngẫm tận sâu trong ta, còn thực là thế giới của những giác quan, cũng là những khoa học, lịch sử hay ngôn ngữ…
Ở quán cà phê của những triết gia trẻ mãi ấy, Vittorio đã gặp những Descartes,Kant, Augustin, Nietzsche, Hegel. Kierkegaard, Max Weber, Rousseau,Giambattista Vico, Al-Farabi, Fichte (chỉ kể một số tiêu biểu) v.v.. đến những hiền triết phương đông như Trang tử, Khổng tử, Lão tử và Nora từng gặp trên xe, trong công viên những Platon, Martin Buber v.v..
Thư từ trao đổi giữa Vittorio (Hưsle) và Nora (K.) thể hiện hai quan điểm triết học rõ ràng: một bên là tư tưởng riêng của Hösle (đã trình bày trong những tác phẩm của ông, ở đó lý giải phê phán các triết gia theo ý ông), một bên là cái nhìn của trẻ thơ (đại biểu là K. về một triết học) thuần túy [trong thư đề ngày 3 tháng Ba 1994: cô bé Nora thân thương thực ngây thơ nếu cô không biết tại sao trẻ thơ phải trả lời những câu hỏi triết học cơ bản. Và điều này đã trả lời câu hỏi của cô: trong triết học, đòi hỏi tính ngây thơ hơn bất kỳ điều gì khác.
Dửng dưng với những gì người khác nghĩ, sẵn sàng hỏi ngay cả những câu hỏi cấm kỵ, một tin cậy là những đáp án đúng cũng đơn giản gây sửng sốt - mọi thứ đó thật quan trọng trong triết học, và về những mặt này, trẻ em ít có những cấm đoán như người lớn. Trẻ em thường ít tư kiến hơn những triết gia từng trải kinh nghiệm…Phải, triết học cần trẻ thơ]. Hãy nghe Nora nói với Max Weber: ông thật quá bi quan. Tại sao ông không tin vào con người? Họ được trao cho luân lý và niềm tin…Kỹ thuật cũng tốt chứ. Nó không hoàn toàn xấu đâu. Này nhé, nếu không có tàu thủy, xe lửa, máy bay ông không thể du lịch qua những xứ khác. Mà đôi khi ông phải muốn đi mhay việcgì quan trọng. Nếu không có kỹ thuật, khoa học không thể tiến bộ. Y khoa hẳn tụt hậu, những bệnh nan y như ung thư không thể chữa trị. Có thể chúng ta phải thay đổi xe, cháu muốn nói là đường rày đó. Để nó không dẫn xuống vực sâu.
Còn Hösle đặt vào miệng Wilhem Hegel và Søren Kierkegaard những tranh luận tay ba như:
(Vittorio:) Thưa ông Wilhem, như vậy Thượng đế và Tuyệt đối có liên hệ với nhau chứ?
(Hegel:) Tất nhiên, cả hai cùng một thứ; tôi thích dùng diễn ngữ 'Tuyệt đối' song nó cũng quy chiếu về điều mà những tín đồ có tri năng gọi là 'Thượng đế'. Thượng đế là nền tảng tột cùng, và nếu như đạo lý là tuyệt đối, nó chính là thánh thiện, một phần của Thượng đế. Người ta cũng có thể nói chính Thượng đế tuyệt đối là đạo lý
(Vittorio:) Vậy Thượng đế và trật tự đạo đức đi với nhau. Nhưng cho tôi biết, cái gì là đạo đức vì Thượng đế muốn, hay vì nó là đạo lý?
(Hegel:) Thượng đế có thể chỉ muốn cái gì là đạo lý, là tinh thần.
(Søren la lên từ phía ông ta:) Nhưng như thế thì đạo lý độc lập với ý chí của Thượng đế, vậy ra ông muốn tiêu diệt toàn năng của Thượng đế.
(Hegel:) Song nếu một cái gì tốt chỉ vì Thượng đế muốn thế, vậy Thượng đế có thể sai khiến cái gì đó khủng khiếp, và nó cũng tốt sao.
(Søren đáp trả:) Hãy thấy gì Ngài đã làm. Cứ nghĩ đến chuyện Abraham và Isaac đó. Có phải vô đạo đức khi hy sinh một đứa trẻ vô tội? Và đóù là cái Ngài đã khiến Abraham làm!
(Vittorio kêu lên:) Ồ nếu Thượng đế khiến tôi phải hy sinh Nora, tôi không bao giờ làm đâu.
(Hegel:) Cũng vậy đó, hãy xem rốt cuộc Isaac có bị giết đâu, có thể là Thượng đế chỉ muốn thử lòng Abraham - và có thể ông ta qua được cuộc thử thách tốt hơn là khi nguyện:”Chúa ơi, mọi điều đều đúng, như ng Ngài thực không có thể muốn một đứa trẻ vô tội bị giết, như vậy con đã hiểu lầm Ngài”.
(Søren ngắt lời:) Không, đức tin ở ngoài lý trí. Lý trí thực tiễn có thể cấm hy sinh trẻ con, song đức tin biết là cái gì mâu thuẫn với lý trí có thể là chân thực hay ý Chúa.
(Hegel lập lại:) Đức tin không thể mâu thuẫn với lý trí. Có lẽ đức tin có nhữngthấu thị mà lý trí mù lòa, song nó không thể mâu thuẫn lý trí. Nếu không, chân lý có thể hai mặt, chân lý của lý và chân lý của tin, điều này phi lý.
(Søren nói nhỏ nhẹ:) Credo quia absurdum/tin vì phi lý.
Cuộc tranh biện tay ba cuối cùng xuất hiện Al-Farabi, triết gia Hồi giáo tự nghĩ có thể đồng hành rất tốt với những nhà Cơ đốc, Do thái và những nhà tôn giáo khác nữa, song ông nhận xét “với người nào trì chiết vào đức tin riêng của họ,tự đặt mình chống chân lý, thì khó nói chuyện với y”. Hösle chịu ảnh hưởng người thày là Apel, cho nên trước nhận xét của Hegel và Al-Farabi là “mỗi chủ thể tự đóng kín bản thân , không thể có thông giao với thế giới hay với tha nhân”, ông nghĩ có một điểm chắc chắn là người ta có thể hiểu nhau, kể cả đôi khi có ngộ nhận về nhau, song chúng ta hiểu ngay sau đó là chúng ta không hiểu nhau và có thể thử một cách tiếp cận khác.
Vào Giáng sinh 1994, Vittorio kể cuộc hội ngộ với Albertus Magnus và Lão tử .
(Lão tử:) Người phương tây các ông thường luôn luôn muốn tranh cãi những vấn đề! Mới đây thôi tôi thấy cảnh Chúa giáng sinh của qúy vị trước ban thờ, và tôi nghĩ về mối quan hệ giữa Đạo và hài đồng này. Rốt cuộc, tôi không rõ tôi là Lão tử đang nhìn hài đồng Giê-su, hay Giê-su đang mỉm cười với Lão tử.
(Albertus:) Vâng, chúng tôi có quan hệ khác với đời sống tích cực như ông, thưa Lão tử. Nếu ông chỉ cần biếtbao nhiêu là nhiệm vụ tổ chức trong trọng trách giám mục của tôi thôi! Chúng làm tôi không thể đi vào chiêm nghiệm, nhưng đó cũng là nhiệm vụ của chúng tôi để phục vụ công lý, và chúng tôi chỉ có thểlàm điều đó nếu chúng tôi hoạt động, xử lý và tổ chức.
(Lão tử cười mỉm đáp:) Mặt khác, tôi gắn bó với Vô Vi, nguyên lý là không làm gì hết. Đại nhân không làm gì hết, mà có hiệu quả, tỏa ra cái hòa hợp với Đạo, và như vậy không cần tổ chức gì hết.
(Albertus:) Tôi cũng thấy ảnh hưởng của nhân cách lớn tràn ngập quyền lực - đó là lý do chúng tôi ăn mừng ngày Giáng sinh.
(Lão tử:) Có thể các ông như vậy; song ông vĩnh viễn trẻ mãi, mặc dầu ông đã chết - không qua lâu như tôi, thực vậy, song dẫu sao cũng đã năm bẩy trăn năm. Tuy vậy, khi tôi đi ngang những con phố và cửa hàng thắp sáng lễ hội, quan sát người ta lũ lượt đi sắm quà tặng, tôi ngờ vực không biết có còn nhiều người cảm thấy ảnh hưởng của Chúa hài đồng không. Nếu người tây phương chỉ dùng những tài khéo léo tổ chức của mình để làm dịu nhu cầu - nhưng thường là họ không dùng tài để khai thác nhu cầu sao. Này ông Albertus, hỏi ông câu này nhé: các nhà thần học Cơ đốc các ông vẫn quyết liệt bảo vệ cái lý chứng là Cơ đốc thì cao hơn các tôn giáo khác.
(Albertus:) Phải, vì không như những tôn giáo khác, tôn giáo của chúng tôi xây dựng trên triết học Hy lạp. Tôn giáo của chúng tôi liên hệ đến logos ngay từ khởi đầu -Chúa Hài đồng là hiện thân của logos.
(Lão tử:) Có thể nhu vậy, song ông có thấy tình trạng hiện nay của châu Âu thực sự quyến rũ không?
(Albertus lắc đầu đáp:) Không, không, tôi thấy thực sự đáng ghê tởm. Chủ nghĩa duy vật này dẫn chúng tôi xa rời căn rễ Cơ đốc. Những bạn bè tôi ở quán cà phê đồng ý với trường phái duy sử nói với tôi là ngay cả giữa quan niệm thời trung cổ về Cơ đốc và Cơ đốc nguyên thủy, cái hố ngăn cách cũng rất lớn. Song hố ngăn cách giữa Cơ đốc nguyên thủy với thế giới hiện đại còn lớn lao hơn nhiều.
(Lão tử:) Rõ ràng rồi. Câu hỏi của tôi bây giờ là: làm sao mà nền văn hóa của các ông rất tự hào về tôn giáo, luôn luôn coi nó là đỉnh cao của phát triển con người, lại sản xuất ra một xã hội bị bọn vụ lợi và tiêu thụ hèn hạ thống trị? Chỉ ở phương Tây chủ nghĩa vô thần là hiện tượng quần chúng, còn ở xứ tôi, nó là kết quả nhập cảng của phương Tây. Làm sao một xã hội vô thần có thể phát triển trên nền tảng Cơ đốc vậy?
(Albertus thở dài:) Giá mà tôi có thể trả lời được câu hỏi của ông? Hiện giờ, tôi thấy là khi bắt đầu thời đại mới Cơ đốc giáo bành trướng khắp thế giới là kết quả của thực dân, chiến thắng dường như đã hoàn tất. Ngày nay tôi thường bất bỉnh khi thấy quan niệm văn hóa Cơ đốc Âu châu mà giới truyền thông đã nhồi nhét vào đầu mọi người. Hủy hoại môi sinh làm tôi bận tâm rất nhiều.
(Lão từ:) Vậy ra những người Cơ đốc các ông đã tách rời Thượng đế khỏi thiên nhiên quá rồi.
Vittorio Hösle có thể là một nhà triết học trẻ (sinh năm 1960) đã sớm có cái nhìn siêu quốc trong tư tưởng hiện đại.
Sau Hösle, có nhiều người bắt chước lối hư cấu gặp lại những danh nhân đã chết (như văn gia, thi sĩ v.v..). Song chính ông thành thật cho hay là trí tưởng của ông đẩy đưa ông tới chỗ nghĩ ra việc gặp gỡ những triết gia chết song còn trẻ mãi là cảm hứng từ coi phim Dead Poets Society/Hội thi sĩ quá cố do Peter Weir đạo diễn, thực hiện năm 1989, người viết truyện phim là Thomas Schulman. O captain! My captain! là câu thơ của Walt Whitman, nhà thơ Nguyễn Du của Mỹ. Henry David Thoreau, người nổi loạn như một Cao Bá Quát trong tác phẩm bất hủ Walden với những tư tưởng bất hủ như: Vũ trụ lớn hơn chúng ta nhìn/the Univers is wider than our views of it, hay: Tôi đi vào rừng vì tôi muốn sống tự do, chỉ đương đầu với những chuyện đời cơ bản…
Tự truyện của người gặp tiên/ngoại thế
Vào một đêm nửa vầng trăng cô độc trên vòm trời khi ngồi ngoài hiên căn nhà nhìn ra biển, tôi đang miên man tưởng đến câu chuyện của Hösle và Gaarder, sóng xô trên cát như những dòng thơ của Perse, bất ngờ ánh sáng êm dịu hiện ra trước mắt, màu sắc như chưa hề thấy tỏa nhập vào châu thân
Mơ hay tỉnh? Tôi tự hỏi
Không âm thanh, tiếng nói
Nhưng rõ ràng tôi đang trò chuyện với một
(đến đây, tôi không thể tìm kiếm ra từ nào chính xác) - vì đối tác không phải là con người - mà tôi có cất tiếng đâu
song cuộc đàm thoại của chúng tôi rõ ràng là thực
đối tác của tôi cho tôi hay (bạn hãy nhớ, chúng tôi không dùng bất kỳ ngôn ngữ nào, dù là tiếng Việt, tiếng quan thoại, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, hoặc mọi thứ tiếng dùng trong thông giao ở hội nghị Liên Hiệp Quốc hiện nay)ông đến từ một Nơi Xa Xăm - dùng theo tiếng người là ở một thiên hà nào đó - nếu tính theo kiến thức khoa học của con người ta hiện tại , có thể là hàng triệu năm ánh sáng
không, đối tác của tôi hẳn nực cười vì cái số đo lường nhỏ nhoi như vậy
chỉ cho hay: ông Đặng, ông là người thứ ba trên trái đất bé tí xíu này mà tôi hiện thân nói chuyện đấy
hân hạnh quá, chứ hai vị khác là ai?
Platon và Dante Alighieri -
tôi nhớ ra rồi, vị đầu tiên sau khi gặp ngài (tôi cũng không rõ tại sao tôi gọi đối tác của tôi bằng cách xưng hô khách sáo đó) Platon đưa ra cái chuyện hang động, coi người trần chúng tôi như bọn tù đày trong ngục, như cái bóng nhìn thấy Ý sinh động là thực ở bên ngoài; Dante viết La Divina Commedia tả cảnh địa ngục khủng khiếp thật ra chỉ là chốn trần gian này; ngài ơi, ngài kỳ vọng ở tôi điều gì?
Không, ông Đặng ơi, sau khi gặp tôi, ông muốn làm gì tùy ông. Cái khó là đồng loại của ông có thức tỉnh là chuyện của họ. Platon há chẳng muốn mở mắt họ mà chẳng đặng; Dante hù dọa chuyện Inferno, có ai sợ?
Tôi biết, chuyện mấy nghìn năm nay, ai tỉnh ai say? Là chuyện xưa như trái đất của chúng tôi -
Song thưa ngài, tôi không thấy hình dạng ngài - để tôi nói ngài rõ, ngài không dị hợm như E.T. đám điện ảnh xuẩn động tưởng tượng, ngài không râu ria rậm rạp như mấy ông thánh nhân loại chúng tôiõ nghĩ ra, tôi chỉ thấy vừng sáng không xanh, không đỏ, không trắng, không đen (tôi cũng biết màu sắc chẳng qua do tri giác thấp kém chúng tôi thấy sao nói vậy), nếu tôi kể lại cho người ta nghe, thì tôi sẽ nói ngài nhang nhác như chân dung con người ta Picasso vẽ, song mờ mờ ảo ảo như tranh của Bacon, hình thù chẳng người chẳng ngợm, trừu tượng như của Kandinsky, nét kỷ hà như tranh Mondrian - đấy là cái dễ nhất để tả ngài cho chúng sinh rõ
Ngài từ đâu đến?
Ngài là nam hay nữ?
Ngài có hồn/xác, thân/tâm như tôi không?
Ngài có tên không? Có ngôn ngữ riêng không?
Ngài có tình dục không?
Ngài là quá khứ, hiện tại, hay tương lai?
Ngài có quê hương, tổ quốc, giống nòi, chủng tộc?
Ngài có cha mẹ, anh em, vợ con, bạn bè, dân tộc?
Ngài có ngôn ngữ, chữ viết để thông giao?
Ngài có tư tưởng, văn chương, khoa học?
Ngài có tuổi tác, học thức, tình dục, tư tưởng, cảm giác?
Đối tác của tôi đáp án, tôi nghĩ y không cười không nhăn nhó như đám chúng sinh quanh ta
Ông Đặng ơi, để tôi nhắc ông nghe một câu văn của ông nhé: thuở nhỏ, chàng hay tỉ mỉ quan sát những đoàn kiến leo tường, châu đầu vào nhau rồi lại tiếp tục bỏ đi không biết về hang ổ nào
Có bao giờ ông nghĩ đến, khi ông bay cao ra khỏi cái hành tinh nhỏ bé của ông, nhìn xuống, nhân quần của ông e còn li ti hơn đoàn kiến trong tuổi nhỏ - thế giới của các ông đó
Vậy thì tất cả những thắc mắc trong câu hỏi của ông không có đáp án
Ông không nhìn thấy tôi rõ, như người láng giềng của ông, tôi không nói bất kỳ ngôn ngữ nhân thế để thông giao với ông, vì tư tưởng, suy luận, ngôn ngữ không khu biệt nơi tôi, tư và ngữ đồng nhất - hay thực sự không có
Sở dĩ ông hiểu ngay tôi vì vô ngôn, vô động,vô ý. vô cảm - để tôi nói cụ thể theo cảnh giới của ông nhé - ông trò chuyện với tôi được vì nghĩ của ông trước khi thành lời đã là một, nên không cần cất tiếng, tôi đã rõ ông muốn nói gì, và phản cảm của tôi - ý và ngữ - là một
Bây giờ thì ông biết/hiểu/đọc/thấy rồi nhé
Tôi đến từ một nơi nhân loại các ông chưa có khả năng tiếp cận - nhớ nhé, thể xác con người chỉ có khoảng năm trăm giờ sống sót nếu trần trụi trong khối thái dương hệ, huống hồ ra khỏi, phi thuyền của nhân loại các ông đã bay tới đâu?
các ông thấy quanh, nào là sao Hỏa, sao Mộc, cung Hằng không có cái gọi là sống, nên các ông nghĩ là chúa tể trong vũ trụ
tôi phản ứng yếu ớt: không, ngài ơi,như ngài đã nhắc đến đoạn văn tôi viết, tôi nghĩ ngài coi nhân loại chúng tôi chắc còn li ti hơn đoàn kiến
đúng vậy đó, ông Đặng; tôi từ muôn một đến nói chuyện với ông, cũng vì tò mò như ông, xem tương lai, chủ đích của quần thể nhân loại kiến đi về đâu.
Vậy thì ngài đâu có là Thượng đế của chúng tôi. Ngài đâu biết thế giới chúng tôi đi về đâu?
Ông Đặng ơi, đừng nóng.Thể xác ông nằm trong hạn chế vật lý nên tôi không thể đưa ông đi ra khỏi thái dương hệ này, mở tầm kiến thức thấy cái Bao La
Song ngài có thể đưa tôi về quá khứ chứ?
Tôi chắc chắn rõ đối tác của tôi như cười ha hả vì ông Đặng ơi, ở thời điểm trần thế các ông, nếu mở được tầm nhìn miên viễn, các ông sẽ nhìn thấy chuyện tương lai - như mấy người điện ảnh các ông tưởng tượng back to the future, không phải như một nhà văn hư tưởng chuyện ba người lính nhẩy dù lâm nạn, ngược về quá khứ thấy cảnh tượng lịch sử (như vua Quang Trung đại phá quân Thanh v. v…).
Đúng vậy, các nhà khoa học của chúng tôi đã dần dà khám phá cái vũ trụ đơn điện tử, vật chất/phản-vật chất, những phương trình như QED nhằm miêu tả phản vật chất đi tới trong thời gian, không có thông tin nào có thể gửi lùi lại trong thời gian. Đời sống trên trái Đất chúng tôi mới có khoảng 4 tỉ năm nay, mọi loài đều từ một cơ sinh đơn bào nguyên thủy do những ngẫu biến mà ra, chung gốc tổ LUCA
Nhân loại chúng tôi mới phát hiện có trên triệu năm nay, song biết bao nền văn minh đã chôn vùi trong cảnh dâu biển, bao nhiêu cuộc chiến tàn sát lẫn nhau, Vũ trụ này xem ra bất ổn, đến một lúc cả Mặt trời kia và đời sống trên trái Đất cũng đến chỗ cáo chung…nhưng đời Sống này có thể kết thúc sớm hơn với vũ khí hạt nhân (nhờ vào tiến bộ siêu đẳng của khoa học, từ khám phá ra nguyên tử, đơn tử, phân tử, hạt cơ bản, helium 1 và 2, lý thuyết tương đối, cơ học lượng tử, lý luận siêu băng trong vật lý v.v..) đang trên đà phát triển cao tốc ở mọi xứ sở, từ nơi nghèo đói nhất như bắc Cao ly đến những vùng tranh nhau một khoảnh đất như Trung Đông mù ám…
Này ông Đặng, thế giới của ông đầy phức tạp: có tình dục (vì nam/nữ), có cạnh tranh (vì mạnh/yếu), có sở hữu (vì giàu/ nghèo) có thù nghịch (vì chủng tộc/tôn giáo), có sinh tồn (vì sống/chết), có phân hóa (vì trí thức/ngu muội)
Tại sao vậy?
Nếu có nhiều thế giới; con người ý thức nhiều thế giới; nếu nhận ra khởi nguyên của thời gian và phi thời gian; nếu biết không và có phi khu biệt
Tại sao vậy?
Những nan giải?
Nhân loại chúng tôi có nhiều cái thiếu song lại có nhiều cái thừa do phân hóa giữa lời và ý, giữa ngôn ngữ và tư tưởng, giữa chữ nghĩa và tiếng nói, giữa lịch sử và tiền lịch sử, giữa lý trí và phi lý, giữa một và nhiều…
Tất cả nằm trong cái ông gọi là hành trạng triết học, phải không? Nói cho tôi vận hành của nó đi, biết đâu tôi có thể chỉ con đường ra ở chỗ No Exit
"Khởi thảo Lịch sử triết học Dưới lăng kính siêu quốc
Lịch sử triết học tỷ giảo - không, đúng ra từ lăng kính siêu quốc (có nghĩa là không phân biệt Đông/Tây, địa chí, thời đại) - viết ra cho đối tác mà tôi đặt tên là tiên (vì như đã giới thiệu ở trên, đến từ Nơi Xa Xăm), ngoại thế (vì ngoài vũ trụ (?) chúng ta), và sau nữa là chủ yếu cho những thế hệ mai sau - có thể chưa ra đời
nhập
Tất yếu của lịch sử triết học
Lịch sử triết học không như lịch sử của những khoa học khác, có nghĩa là thiết yếu cho mọi người và không thể khách
quan tuyệt đối, hiểu theo nghĩa người viết sử có thể hoàn toàn đứng
ngoài, quan sát sự vật và chụp, nhận, nắm bắt sự vật như thể nó là, xác
định như thể chân lý tuyệt đối. Ngay khái niệm chân lý tuyệt đối cũng đã là vấn đề tranh luận. Thiết yếu
vì nhận thức, lãnh hội lịch sử triết học đã là một thao tác triết lý,
nghĩa là ở trên một quan điểm nhất định, và không ai có thể nói là không
cần biết, vì bất kỳ vấn đề triết lý nào cũng đã ở trong nguồn lịch sử.
Một khái niệm tưởng chừng như lần thứ nhất được phát hiện thực ra đã có ở đó chỉ làm mới từ một cái nhìn mới.
Phê phán lịch sử triết học
Triết
học gắn liền với lịch sử triết học. Ngay từ cổ đại, khi triết học tồn
tại dưới hình thức thành văn, việc nhắc lại hay dẫn chứng quan niệm, tư
tưởng của những người trước đã là một hình thức viết lịch sử triết học,
những công trình của Aristote, Sextus Empiricus, Diogene Laërtius
v.v...hay những công trình của những triết gia Ả rập phục hồi triết học
Aristote thời Trung cổ.
Khi Hegel viết bộ Lịch sử triết học,
ông đã dành hai phần cho triết học Ấn và Trung hoa. Tuy sai lầm trong
nhận thức về những nền triết học này, cái nhìn của ông có một giá trị
tiến bộ so với nhiều nhà viết lịch sử triết học sau ông đã bỏ quên mảng
lớn tư tưởng trong sinh hoạt văn hóa, văn minh của nhân loại.
Khiếm khuyết đó có nhiều lý do: có thể kể hai nguyên nhân, một là tên gọi triết học và hai là định nghĩa về triết học. Từ khác biệt đó dẫn đến tư kiến phân chia hai nguồn tư tưởng Đông và Tây cho đến nay vẫn còn tồn đọng trong não trạng của nhiều người.
Platon trong thiên Phaidros/Phèdre
đã chỉ ra một điều cho chàng thanh niên là đã không nhìn sự vật đúng
hay sai, mà chỉ để ý đến xem người nói là ai và đến từ xứ sở nào, chính
cái tư kiến ấy khiến con người sống trong kỳ thị khu biệt cục bộ.
Nhiều
bộ lịch sử triết học, như của Ueberweg, Windelband, Bréhier, Alfred
Weber, hay riêng về chủ nghĩa duy vật của Lange chỉ tập trung vào tư
tưởng tiến hóa từ triết học Hy lạp qua Kinh viện và hiện đại, chỉ ra tư
tưởng định hướng một chiều. Khiếm khuyết ấy có thể do quan niệm tư biệt
về triết học, hoặc do không đủ khả năng tri thức chuyên biệt về những
vùng tư tưởng khác, như vùng Đông Á, Phi, Mỹ La tinh.
Để
khắc phục nhược điểm đó, ngày nay lịch sử triết học cần được nghiên cứu
trên những cơ bản như: xác định một triết học thế giới/World
Philosophy, xây dựng một công trình tỷ giảo, cấu trúc một viễn tượng
siêu quốc, vượt lên khỏi những hoang tưởng về ngọn nguồn trung tâm của
một nền văn minh, văn hóa cá biệt làm bá chủ dựa vào những giả đề hàm
hồ, phi cơ sở.
Bộ Lịch sử triết học của Wilhem Windelband (1848-1915)
khẳng định là quá trình trong đó nhân loại Âu châu đã hiện thể trong
quan niệm khoa học những thế giới quan và phán đoán về đời sống. Ông
nhận xét Hegel đã đưa lịch sử triết học thành một khoa học độc lập khi
phát hiện ra điểm cơ bản của lịch sử này không phải như những người đi
trước là tập hợp những tư kiến của những học giả khác nhau, hay khai
triển mở rộng chủ đề này, mà Hegel theo một quá trình giới hạn trong đó
những “phạm trù” lý trí đạt được những ý thức phân biệt và hình thái của những quan niệm, tuy nhiên sai lầm của Hegel
theo ông là đã xây dựng lịch sử triết học dưới kiềm chế của hệ thống
triết học, cho nên thường cưỡng chế sự kiện lịch sử . Song Windelband
cũng chỉ ra cái sai lầm đối nghịch là phủ nhận lý trí của lịch sử dẫn
tới việc xét những học thuyết triết học chỉ như những tư tưởng ngẫu
nhiên cá thể.
Friedrich Ueberweg (1826-1871) trong Lịch sử triết học giản yếu
quan niệm những nguồn cung ứng tri thức lịch sử triết học đáng tin cậy
nhất là những công trình triết học có hình thái và toàn vẹn tự nguyên
ủy, hay những công trình chính thống không thể nghi hoặc. Theo ông,
triết học như một khoa học không thể bắt nguồn từ những dân tộc phương
Bắc tuy xuất sắc về sức mạnh và can trường song không có văn hóa, cũng
không từ nhửng dân tộc phương Đông tuy có những yếu tố văn hóa cao hơn,
song chỉ bằng lòng với những điều này trong tinh thần thụ động, do đó
chỉ có thể bắt nguồn từ người Hy lạp đã hài hòa phối hợp được những đặc
tính của cả hai. Chính vì vậy, Ueberweg coi những nguồn triết học Trung
hoa, Ấn độ, Ba tư, Ai cập thiếu minh chứng khoa học, thường trộn lẫn
những khái niệm tôn giáo (ngay một số những mệnh đề hình học chẳng hạn
tuy được phát hiện qua kinh nghiệm của người Ai cập, song khai phá những
chứng cớ và sáng tạo hệ thống hình học là công trình của người Hy lạp).
Quan niệm này thật ra phản ảnh tư tưởng chung của những nhà triết sử
thế kỷ 19; chẳng hạn Lange (1828-1875) với bộ Lịch sử chủ nghĩa duy vật cho toàn bộ lịch sử tiên quyết mang ý nghĩa toàn bộ khoa học mở rộng ra là toàn bộ văn hóa chung.
Trong phần dẫn nhập bộ Lịch sử triết học thời Cổ đại và Trung cổ,
Emile Bréhier (1876-1952) nhận xét khó giải quyết minh bạch vấn đề biên
giới trong lịch sử triết học, nhất là vấn đề nguồn gốc; cho nên không
thể xác định ảnh hưởng lẫn nhau giữa Hy lạp và vùng Viễn Đông song lịch sử triết học không có quyền quên tư tưởng Viễn Đông.
Dưới lăng kính siêu quốc
Ý niệm về một lịch sử phổ quát với mục tiêu siêu quốc [1] thực ra đã là tiêu đề của một bài viết Kant cho in trên Berlinische Monatsschrift
vào năm 1784. Ý thức lịch sử nơi Kant thể hiện việc khám phá những cứu
cánh phổ quát trong tự nhiên hòa hợp với hành động đạo lý kết thành xu
hướng siêu quốc, tiếp theo với nghiên cứu Về sử dụng những nguyên lý mục đích luận trong triết học, 1788
[2] như ông xác định: Một đạo lý như thể mục đích luận thực tiễn thuần
túy nhằm thực hiện những cứu cánh của nó trong vũ trụ, không thể coi
thường khả hữu của những cứu cánh này trong vũ trụ này, liên quan đến
những nguyên nhân cứu cánh đã cho cũng như liên quan đến sự phù hợp giữa
nguyên nhân tột cùng của vũ trụ với toàn bộ mọi cứu cánh nhận được như
thể hiệu quả của nó.
Trong chín mệnh đề Kant nêu ra, có nguyên lý như thiên nhiên không làm điều gì vô ích hay ngông cuồng trong việc sử dụng những phương tiện nhằm đạt tới cứu cánh [3]
ở mệnh đề thứ ba hay xác quyết ở mệnh đề cuối cùng về một lịch sử thế
giới phổ quát/allgemeine Weltgeschichte. Phải hiểu ý nghĩa của lịch sử
phổ quát như thế nào, đó chính là tranh biện trong bài viết của Kant.
Ngay từ mở đầu khi nói đến con người theo đuổi những mục đích, không
phải thuần túy do bản năng như mọi loài thú, cũng không hành động cho
phù hợp với bất kỳ quy hoạch toàn diện, tiền định như Leibniz, Wolff
nghĩ, cho nên có phải lịch sử nhân loại không do quy luật chỉ đạo không
thể khả hữu? Để tránh rơi vào những nghịch lý của tấn kịch thế giới lớn ở
đó, bên cạnh những hành động cá nhân tỏ ra vẻ minh trí, đại thể diễn ra
mê cuồng, phù phiếm ấu trĩ, thường có những ranh mãnh, phá hoại trẻ
thơ, khiến chúng ta không biết tư kiến nào đáng tự hào, cho nên con
đường duy nhất cho nhà triết học là khai phá mục đích trong thiên nhiên
đằng sau dòng sự biến vô nghĩa của con người và quyết định xem sau mọi
việc làm sao có thể định hình một lịch sử trong ngôn ngữ của
một dự kiến tự nhiên nhất định cho loài người vốn hành động không có
một dự kiến của chính mình.[4]
Kant cũng từng đối chiếu hai mặt của thế giới: niềm tin vì phi lý/credo quia absurdum và khán trường thế giới/theatrum mundi diễn ra sự đối lập giữa tất yếu và tự do của ý chí, niềm tin và lý trí, thường nghiệm và trí tuệ, vật lý và siêu hình - ở Phê bình lý trí thuần túy, 1781
ông đã giải quyết nghịch lý này khi phân biệt ý chí có quyền tự quyết
và hậu quả của những hành động nơi con người trong trật tự hiện tượng ra
sao để nhìn ra những hành động này cũng tuân thủ những quy luật phổ
quát của tự nhiên. Chính ở góc nhìn này, Dilthey khẳng
định Kant đã đề xuất vấn đề cơ bản của triết học cho mọi thời đại - đó
là thế giới cho chúng ta dưới hình thái nào, vì chúng ta chỉ thấy nó
hiện hữu nhờ vào những trực quan và ý niệm? [5]
Con
người phân biệt với mọi loài nhờ vào một khả năng đặc thù: lý trí, tự
phát triển theo thời gian, nghĩa là kế tục không ngừng của nhiều thế hệ,
qua nhiều thử thách, học hỏi, vượt khỏi giới hạn cơ chế thân phận sinh
vật, hàm ngụ tự do. Bài viết của Kant nằm trong cùng một mạch văn với
những Khai sáng là gì? Định hướng trong tư duy là gì? Công bố một kết cuộc sắp tới của Hiệp nghị hòa bình vĩnh cứu trong triết học
[6] chủ yếu nhằm tranh luận về cơ sở thực tiễn của tư duy, nhấn mạnh
đến việc lý trí phải được tự do trong sử dụng công cộng là một quyền
không thể bị hạn chế; ý nghĩa sử dụng tự do tư tưởng ở đây có tính công khai, thao tác của lý trí phải được cởi mở và được diễn đạt trước quần chúng. Trong bài viết Trở lại vấn đề Khai sáng của Kant,
tôi chỉ ra điều này đo lường sự tiến bộ hay lạc hậu của một xã hội, một
đất nước, thật ra chỉ thể hiện trong một nước có dân chủ và tự do,
không hề thấy ở một xứ sở chuyên chính, toàn trị [7]- ngày nay trên thế
giới, những chế độ man rợ ở Myanmar, Trung Cộng, Bắc Triều tiên, Cao
miên, Việt nam v.v… vẫn ngang nhiên cấm đoán, bắt bớ đối lập chính trị,
tư tưởng.
Quan điểm siêu quốc
có thể là mục tiêu phổ quát cho vấn đề: Viết lịch sử triết học như thế
nào? Đồng thời cũng có nghĩa là ngày nay, vào đầu thế kỷ 21, lịch sử
triết học mang lại lợi ích gì cho con người, không riêng nhà triết học?
Kant
không giảng dạy đặc biệt về lịch sử triết học hay viết về lịch sử triết
học ngoài những nhận xét, tranh biện với những triết học trước và đương
thời với triết học phê bình của ông. Nhưng Kant đã viết: Một lịch sử
của triết học khả hữu không phải trên lịch sử hay theo kinh nghiệm,
nhưng khả hữu một cách thuần lý, nghĩa là tiên nghiệm. Bởi vì nó xây
dựng những sự kiện của lý trí không phải vay mượn nơi sử ký, nhưng rút
ra từ bản chất của lý trí con người theo danh nghĩa khảo cổ
học triết lý. Điều đó cho phép các tư tưởng gia giữa mọi người được lý
luận về nguồn gốc, mục đích và cứu cánh các sự vật trong thế giới.[8]
Trong Chân dung triết gia, 1973 tôi
đã nói đến quan điểm về lịch sử triết học của Hegel, Dilthey và
Merleau-Ponty. Trong dự thảo đề cương cho hội thảo quốc tế mở đầu thế kỷ
21 chung quanh vấn đề lịch sử của triết học, những ý niệm, những khái
niệm chỉ ra những quan hệ giữa triết học và những khoa sử, văn hoá, ý
thức hệ vẫn là những tranh luận vô tận. Hiển nhiên có một điều, lịch sử
triết học không chỉ là một phần của lịch sử văn hóa, vì như vậy không
còn triết học. Nhà viết lịch sử triết học không làm công việc dân tộc
học, hủy triệt tính đặc thù của một triết học - như tôi đã chỉ ra trong Cách ngôn tư tưởng 7:
nhà triết học không đứng trong hàng ngũ những người làm khoa học nhân
văn, xã hội - mà là người khai phá ra những khoa học này [9].
Như vậy, đâu là tiêu chuẩn để dựng một lịch sử triết học?
Khảo
sát lịch sử triết học/historiographie philosophique không giống như
khảo sát lịch sử những môn học khác vì nghiên cứu lịch sử triết học là
nghiên cứu chính triết học và những nhân vật xuất hiện trên con đường tư
tưởng đó. Lịch sử triết học hàm ngụ ý nghĩa luận lý và hiện sinh.
Luận lý, vì những triết học dầu chống hệ thống cũng vẫn có tính hệ thống và hiện sinh, vì những hành trạng triết học của cuộc đời thực tiễn tư tưởng.
Trong bài giảng mở đầu tại Đại học Heidelberg
vào ngày 28 tháng Mười 1816, Hegel nói ngay chủ đề của những bài giảng
này là lịch sử triết học [10]. Ông lưu tâm đến vị thế của triết học,
kinh qua những biến cố của thời cuộc, những lợi ích tầm thường nhỏ nhoi
của đời sống đã làm triết học tàn tạ và rơi vào quên lãng của ký ức và
lý niệm. Ông nhắn nhủ, điều kiện tiên khởi của triết học là đảm lược của
chân lý và sức mạnh của tinh thần. Từ khởi sự Dẫn nhập, Hegel đã viết:
“Lịch
sử triết học là một hành lang những tinh thần cao quý, với lòng can đảm
về lý trí đã thâm nhập vào bản chất sự vật, con người và thượng đế,
những tinh thần cao quý đó đã khám phá chiều sâu của những bản chất ấy
và xây dựng một kho tàng tri thức tối thượng cho chúng ta.”
Lịch
sử triết học theo ông không là một tập hợp những ý kiến nào đó, nhưng
có một liên lạc thiết yếu, nối kết những khởi điểm đầu tiên khai triển
phong phú những tư tưởng. Triết học đa diện, nhưng chỉ có một khái niệm
thật sự có thể lĩnh hội những công trình của các nhà triết học đã tạo
dựng trong ý nghĩa của khái niệm này. Biên soạn lịch sử triết học thì
nhiều, song những cuốn lịch sử triết họcấy không nắm vững được cương
lĩnh của vấn đề, đó là lý trí của vấn đề triết lý. Hegel châm biếm: Ta
có thể so sánh tác giả của những cuốn lịch sử triết học đó với những con
thú nghe tất cả những âm thanh của một nhạcđiệu mà giác quan đã không
lãnh hội được một điều duy nhất, đó là sự hòa hợp những âm điệu đó.
Triết học là sự tiến hoá của tư tưởng hoạt động không ngừng và không có gì ngăn cản hoạt động đó được. Triết học như vậy là một hệ thống hiểu theo nghĩa là một toàn thể và chỉ ra toàn thể khởi sự từ những gì đơn giản nhất
để cụ thể hóa trong khi tiến triển. Triết học như vậy - triết học sau
cùng của Hegel - chứa đựng tất cả những gì đã hoàn thành công trình của
cả ngàn năm, nó là thành quả của tất cả những gì đi trước Sự phát triển
của tinh thần, nhìn dưới khía cạnh lịch sử, chính là lịch sử triết học.
Triết học trình bày sự tiến hóa của tư tưởng trong tự nội và hướng về tự
nội, không kể đến những sự biến bất ngờ. Lịch sử triết học chính là
tiến hóa này trong thời gian, do đó lịch sử này đồng nhất với hệ thống
triết học. Quan niệm này theo Hegel là quan niệm duy nhất xứng đáng về
lịch sử triết học.
Triết
học là một hệ thống trong sự phát triển cũng như lịch sử triết học.
Những triết học khác nhau tiếp diễn trong lịch sử có nghĩa là sự tiếp
diễn những tất định của khái niệm ý tưởng về mặt luận lý. Cho nên nghiên
cứu lịch sử triết học là nghiên cứu chính triết học, phải xét đến quan
hệ giữa đối tượng với thời gian và những cá tính đã thành. Công việc
khảo sát này loại trừ lịch sử ngoại tại về thời đại mà chỉ xét đến yếu
tố chung của dân tộc và thời gian, với những điều kiện tổng quát, nghĩa
là quan hệ giữa lịch sử triết học và hoàn cảnh lịch sử.
Hình
thái nhất định của triết học tương ứng với hình thái nhất định của dân
tộc mà triết học xuất hiện, như thể chế, chính quyền, phong tục, đời
sống xã hội, khả năng, tập quán, tiện nghi của dân tộc, nghệ thuật, khoa
học, tôn giáo, những điều kiện về quân sự, cũng như suy đồi của quốc
gia trong đó nguyên tắc tất định này thẩm giá, đến sự hình thành và tiến
triển của những quốc gia mới ngõ hầu xác định nguồn gốc của nguyên tắc
tối thượng ở cấp độ tất định của ý thức chính tinh thần trong toàn bộ
gia bội tinh thần (của một dân tộc, như cơ cấu tổ chức, kiến trúc xã hội
v.v..). Triết học là hình thái của những mặt đa biệt này, là khái niệm
của một hình thành toàn diện, là ý thức, là bản chất trong toàn bộ, là
tinh thần của hiện sinh và tư duy.
Nếu
Hegel đã nhìn thấy tính phong phú của lịch sử triết học thì chính ông
lại có tham vọng đặt hệ thống triết học của ông lên trên lịch sử, báo
hiệu sự cáo chung của lịch sử và triết học. Quan niệm một hệ thống toàn
diện đã có tham vọng hướng dẫn công việc triết lý tốt đẹp hơn và giản
lược những tư tưởng sinh động, những tinh thần cao qúy thể nhập bằng đời
người vào bảo tàng viện. Nhưng thực ra chính nhờ những triết thuyết
khác mà ta biết được ý nghĩa triết học của Hegel. Hệ thống của Hegel bắt
đầu từ vận động của những mâu thuẫn: khẳng định xuất hiện thành hủy thể
và hủy thể chứng nhận là khẳng định, tất cả những điều đó bắt đầu từ
Zenon, trong thiên Sophistes của Platon, nơi hoài nghi của Descartes. Hegel cũng biết điều đó, khi nói: Lịch sử triết học là tất cả ở hiện tại.
Điều đó có nghĩa là triết gia không những chỉ có thực trong những cái
họ đã thấy mà ngay cả những cái họ không thấy. Những tư tưởng quá khứ
không thể chỉ tồn tại trong tinh thần của chúng như những thời khoảng
của một hệ thống tột cùng. Những tư tưởng đó tồn tại với những chân lý
và những ngông cuồng như những công trình toàn diện của những đầu óc mẫn
tiệp hay chúng không bao giờ tồn tại. Ngay cả Hegel, tinh thần muốn ôm
lấy tuyệt đối, sống trong hiện tại và cho chúng ta suy tư không phải chỉ
qua những chiều sâu tư tưởng của Hegel, nhưng còn qua những tham vọng
và xảo thuật của ông. Sự tồn tại của triết học xây dựng trên hiện hữu và
tư duy, không phải chỉ ở những vấn đề mà ở cách thế đặt vấn đề, về
những ẩn ngữ ngày một phức tạp hơn đặt ra cho con người.
Vào cuối đời, Wilhem Dilthey (1833-1911) đã đưa ra một khái niệm tổng quát về triết học trong Bản chất của triết học
[11]: có quy luật cấu trúc mang tính lịch sử, tức là luật phát
sinh/Bildungsgesetz tác động hình thành của mọi hệ thống triết học quan
hệ qua lại để tiến đến một thống nhất nội tại. Để quyết định xem trong
điều kiện nào có thể nói đến một bản chất triết học, phải đi từ những
định nghĩa khác nhau về sự kiện lịch sử của chính triết học: tìm hiểu
một định nghĩa triết học khả dĩ có thể chấp nhận những danh pháp đa biệt
và những quan niệm khác nhau do các triết gia tạo ra, một cách thiết
yếu dẫn từ quan điểm hệ thống về quan điểm lịch sử. Các triết gia, trong
quan điểm lịch sử của Dilthey, hướng trực tiếp về những ẩn ngữ của thế
giới và đời sống. Tinh thần nhân loại trải qua nhiều thái độ có thể chấp
nhận được trước những ẩn ngữ này.
Dưới
góc nhìn lịch sử, tác phẩm của một triết học đặc thù là sự thực hiện
một khả năng trong những điều kiện cho sẵn, mỗi triết học thực hiện một
giai đoạn cơ bản của triết học và trong giới hạn này đã hướng về một
toàn thể có mục đích, mỗi triết học cá biệt như một bộ phận của tổng thể
duy nhất hàm ngụ chân lý toàn diện. Tuy vậy, trong quá trình tiến triển
ý thức của con người, có những hệ thống triết học như của Platon,
Aristote, Descartes, Spinoza, Leibniz, Locke, Hume, Kant, Fichte, Hegel,
Comte chẳng hạn gây ấn tượng sâu sắc hơn những hệ thống triết học khác.
Dầu đối tượng hay phương pháp của những hệ thống này ra sao, chúng cũng
được xây dựng trên toàn bộ phạm vi của ý thức kinh nghiệm, thường gặp
trong đời sống, kinh nghiệm, những khoa học thực nghiệm và chúng tìm
cách giải quyết những vấn đề nêu ra. Mặt khác, đặc tính chung của triết
học là yêu cầu một tri thức có giá trị phổ quát, gắn liền với xu hướng
ngược về nền tảng của triết học.
Trong
góc nhìn toàn diện lịch sử, người ta có thể nhận ra các triết gia trươc
hết đều hướng về ẩn ngữ của vũ trụ và đời sống, ở đó nẩy sinh ra những
quan niệm triết lý, những vị thế triết lý gắn liền với yêu cầu nền tảng
này. Mọi công trình triết lý đều phát sinh từ quá trình liên tục này tác
động nơi mỗi triết gia đi tớí chiếm cứ một vị trí mới, ngay cả khi ông
thất vọng là chưa giải đáp được ẩn ngữ lớn kia.
Tất cả những vị trí của ý thức triết lý cũng như những định nghĩa khác nhau về triết học là gì hợp thành một toàn bộ lịch sử:
Tinh
thần minh bạch và ý thức nơi người Hy lạp thời cổ đại chẳng hạn đã giải
phóng triết học khỏi tôn giáo và những biểu tượng tiên tri trong thi ca
nghệ thuật, để tạo thành Philosophia/φιλοσοφία.
Qua
cái nhìn lịch sử về bản chất triết học, người ta nhận thấy mỗi định
nghĩa về triết học chỉ khai mở một góc cạnh, diễn ngữ cho một quan niệm
triết lý ở một thời khoảng nhất định trong quá trình tiến hoá của triết
học, chấp nhận những hiện tượng này, không phải những hiện tượng kia có
phẩm chất triết học. Nhận xét từ những công trình của Locke, của
Leibniz, của Berkeley chẳng hạn, Dilthey nhận xét triết học gắn liền mật
thiết với vấn đề mở rộng một thế giới quan triết lý/philosophische
Weltanschauung có tính phổ biến, vượt lên khỏi thế giới quan tôn giáo và
nghệ thuật, nó là quyền lực nhằm tác động biến đổi đời sống 12].
Nhân
cách, hoàn cảnh, quốc tịch, thời đại ghi dấu nơi mội triết gia vô số
những sắc thái của thế giới quan triết lý. Dilthey khẳng định áp dụng ý
thức lịch sử vào việc nghiên cứu triết học và lịch sử triết học. Nỗ lực
triết lý của ông nhằm chứng tỏ có những tương quan của triết học với
kinh nghiệm sống/Erlebnis. Đời sống theo ông là dây liên lạc mật thiết
của những chức vụ tâm linh trong khuôn khổ nhân cách [13]. Kinh nghiệm
sống là nhận thức tiến triển của đời sống. Chính yếu tố cá nhân thường
thấy nơi những triết gia lớn xây dựng trên kinh nghiệm sống này.
Quan
điểm tương đối luận chủ sử của Dilthey đối lập với quan điểm triết học
như một hệ thống của Hegel. Maurice Merleau-Ponty (1908-1961) đưa ra một
cái nhìn khác nhân khi trực tiếp hoặc gián tiếp bàn cãi về diễn tiến
của lịch sử triết học. Ông khởi đầu bằng nhận xét: chỉ có một lịch sử về
những triết học, không có một lịch sử triết học. Không có một triết học
chứa đựng tất cả những triết học. Triết học toàn diện, ở những thời
khoảng nhất định, là ở nơi mỗi triết học. Có thể nói: tâm điểm của nó ở
khắp nơi và chu vi của nó không ở chỗ nào.
Vấn
đề then chốt nhất cần phải được thảo luận là vấn đề Đông/Tây trong lịch
sử triết học. Đông và Tây có gặp nhau qua cùng một danh xưng triết học
không? Theo Merleau-Ponty, có sự khác biệt giữa hai nền triết học.
Người ta có cảm tưởng là triết gia Trung hoa không đồng ý với triết gia
phương Tây về ý niệm hiểu và biết, về nguồn gốc tri thức khách thể. Công
việc tư tưởng của nhà triết học phương Đông là dẫn khởi, không phân
biệt cái bao dung và cái bị bao dung, ý nghĩa và cái được chỉ thị ý
nghĩa.
Dường
như chỉ có những ngạn ngữ tiêu biểu cho khái niệm. Hegel và những người
theo Hegel coi tư tưởng Đông phương như vẫn tiếp cận xa vời với khái
niệm. Husserl cũng đi vào con đường thiên kiến như thế khi nhận xét Ấn
độ, Trung hoa là những mô thức kinh nghiệm mang tính dân tộc học. Tuy
vậy, Husserl đã sáng suốt nhận thức vấn đề triết học là mở rộng khái
niệm mà không tiêu diệt nó. Tư tưởng Tây phương có những điểm hay như nỗ
lực nhận thức, khái niệm chính xác. Đó là một văn hóa tự phê phán trong
minh bạch, khúc chiết, tự ý thức cũng như ý thức các nền văn hóa khác.
Ở
điểm này, phương Tây vẫn duy trì hệ thống đối chiếu phát kiến ra những
phương tiện lý luận và thực tiễn về nhận thức, tiến tới con đường chân
lý. Mục tiêu chiếm hữu tự tại và chân lý là giấc mơ của những nền văn
hóa khác, mà chính phương Tây cũng chưa hoàn tất. Nhưng mối tương giao
lịch sử giữa Hy lạp và Đông phương, hay trong tư tưởng Đông phương cũng
có những đặc tính như ngụy biện, hoài nghi, biện chứng, luận lý chứng tỏ
không có một ranh giới địa chí giữa triết học và phi triết học. Triết
học “thuần túy” hay “tuyệt đối” nhân danh Hegel đã loại trừ Đông phương thì chính nó đã loại trừ một phần lớn những cái hay, cái đẹp trong quá khứ Tây phương.
Giữa
Đông và Tây, mối quan hệ không phải là phi triết học với triết học
[14]. Tinh thần nhân loại thống nhất ở trong những tương giao ngoại biên
của mỗi nền văn hóa với những nền văn hóa khác, trong tiếng gọi bên này
thức tỉnh bên kia. Tôi gọi đó là tinh thần siêu quốc.
Ý
nghĩa siêu quốc thật sự đã có một quá trình lâu dài trong lịch sử triết
học, mà lịch sử triết học như Nicolai Hartmann chỉ ra rất quan trọng
trong việc đi vào triết học [15] vì tương phản với những khoa học khác,
luôn làm mới và xem thế giới như một tổng thể. Trong bộ Lịch sử triết học khái quát giản yếu [16]
Dilthey dùng từ “universalgeschichtlichen Darstellungen”
để trình bày quá trình tư tưởng qua ba thế hệ trên trái đất này là
những dân tộc phương Đông, Địa trung hải thời cổ và hiện đại. Bộ Die grossen Philosophen của Karl Jaspers hay Kleine Weltgeschichte der Philosophie
của Hans Joachim Störig lấy đề từ qua ý tưởng của Jaspers: Ảnh hưởng
của tư tưởng triết học trong thế giới ngày nay chỉ khả hữu nếu như tiếp
cận được đa số con người…Do đó, thiết yếu, đây là thời điểm chiêm ngưỡng
của toàn nhân loại có thể thông giao những điều cơ bản, khả dĩ minh
bạch mà không hy sinh mất đi cái bản chất sâu sắc [17].
Ngày
nay, vô số những công trình về triết học thế giới/World Philosophy nhằm
đáp ứng nhu cầu ấy và bổ sung cho những khiếm khuyết về tri thức, tư
tưởng ở những vùng khác nhau cho nhà triết học cũng như người thường.
Những công trình ấy chỉ mới xuất bản trong mấy thập niên nay chứng tỏ sự
trì trệ trong thông giao học thuật [18].
Song ý nghĩa của tinh thần siêu quốc như thế nào? Đó là vấn đề.
Trước
tiên là cái nguồn/nguyên ủy ẩn dấu/hidden source: một nhà triết học Mỹ
S.M. Melamed từ năm 1933 đã viết một tác phẩm nhan đề Spinoza and Buddha, Visions of a dead God
xem Spinoza như một ngôi sao cô độc trên vòm trời triết học, phân biệt
hình tượng Spinoza như một triết gia Tây phương tuy là một khuôn mặt
sáng chói, song ông muốn chỉ ra vị tổ tinh thần của Spinoza trong hình
tượng thế giới ở đây không là Descartes, nhưng là một nhà tôn giáo:
Phật, học thuyết của Spinoza như một chấn động cuối của Phật giáo trong
thế giới phương Tây. Nhà triết học Đức Reinhard May trong Ex
oriente lux: Heideggers Werk unter ostasiatischem Einfluß/Ánh sáng từ
phương Đông: tác phẩm của Heidegger chịu ảnh hưởng Đông Á xuất bản
năm 1989 chỉ ra nguồn ẩn Đông phương như Thiền và Đạo giáo đã tác động
lên tư tưởng Heidegger, do tiếp cận với những học giả Nhật, cũng như qua
những bản dịch Lão Trang.
Tính siêu quốc còn đặc thị trong giao ngộ phê phán, như Fred R. Dallmayr rất tán đồng khái niệm “bổ sung/complementarity”
theo Erhart Kästner trong việc nghiên cứu tư tưởng của một triết gia
qua giao ngộ bổ sung của những triết gia khác. Cho nên đọc Nietzsche
chẳng hạn qua Heidegger, qua Descartes đọc Heidegger không chỉ qua hủy
tạo của Derrida mà qua lý luận phê bình của Adorno.
Nhà triết học Ấn J.L. Mehta dùng một từ khác “Inter-cultural Understanding” với ý nghĩa Understanding hiểu theo tiếng Đức Verstehen/lĩnh hội
để nghiên cứu hiện tượng tôn giáo tỉ giảo cũng là một thể loại lĩnh
hội, trong giao ngộ văn hóa [19]. Cho nên việc đọc một tác giả, một
triết học ngày nay do những tiếp cận giao ngộ qua lý giải thông diễn đã
làm thay đổi tình hình nhận thức; người ta nói đến một Hegel sau Derrida
chẳng hạn, có nghĩa là công trình của Derrida trong lý giải Hegel đã là
một sự biến tạo thành khúc quanh trong việc đọc/hiểu Hegel. Những sự biến tương tự như khi nói đến sau Heidegger, sau Foucault v.v..
Tần Gia Ý/Julia Ching trong The religious thought of Chu Hsi/tư tưởng tôn giáo của Chu Hy, 2000 nói
đến việc tiếp cận tư tưởng phương Đông của những nhà truyền giáo vào
thế kỷ 17 và 18 chia làm hai loại: những người ngưỡng mộ văn hóa Trung
hoa khá tích cực trong việc giới thiệu triết học phương Đông, đặc biệt
là Khổng giáo với người Âu châu và một loại người phê phán như Nicholas
Longobardi, Antoine de Ste Marie xem đất Trung hoa như lãnh địa của
những người vô thần và bất khả tri.
Hai tác phẩm của Dòng Tên là Confucius Sinarum Philosophus/Triết gia Trung hoa Khổng tử, 1687 của Phillipe Couplet và Nouveaux mémoires sur l'état présent de la Chine/Bút ký mới về tình hình Trung hoa ngày nay, 1696
của L. Lecomte theo Tần Gia Ý như thắp lên ngọn lửa tri tưởng cho giới
trí thức châu Âu và đổ thêm dầu vào những tranh luận thần học. Bút ký
của Lecomte ca ngợi giáo hỗ đạo giáo của Trung hoa còn làm giới Đại học
Sorbonne lên án vì đụng đến nghi hoặc về tính thống nhất của mặc khải Cơ
đốc.
Trong chương 3 về triết học Đông/Tây của Cơ sở tư tưởng thời quá độ,
tôi đã nhắc đến những công trình của David A. Dilworth về triết học tỉ
giảo, của F. Jullien về tư tưởng trung hoa, của Philip Ivanhoe, Heiner
Roetz về đạo lý trung hoa, của Jacynthe Tremblay về triết học Nishida
Kitarô v.v.., những tác động qua lại trong giao ngộ tư tưởng giữa những
nhà triết học Nhật, Ấn với triết học phương Tây.
Trong
cuộc giao ngộ tương tranh này, điểm đặc sắc là phân chia những thời kỳ
trục mà Karl Jaspers quan niệm, sẽ nói đến sau. Nét đặc sắc siêu quốc
khác trong tỉ giảo triết học là hủy tạo ranh giới không/thời gian. Nhiều
công trình tham luận vào lãnh vực này. Chẳng hạn tuyển tập Essays on Skepticism, Relativism, and Ethics in the Zhuangzi [20] Paul Kjellberg đối chiếu Trang tử, Tuân tử với Sextus Empiricus, Lisa Raphals luận về sách lược hoài nghi trong sách Trang tử/Nam hoa kinh của Trang với thiên Theaetetus
của Platon, David Loy luận về Chân phi chân giữa Trang và Long
thọ/Nàgàrjuna, Mark Berkson tranh cãi về vấn đề ngôn ngữ có những tương
đồng để mệnh danh Trang là nhà hủy tạo của thế kỷ IV tr. Tây lịch hay
Derrida là Đạo gia của thế kỷ 20?
Tuyển tập Nietzsche and Asian Thought
[21] bàn về quan tâm đến tư tưởng Nietzsche trong mấy thập niên qua
trên phạm vi toàn cầu. Triết gia Nhật Nishitani Keiji nhận xét về
Nietzsche: Không phải quan điểm hư vô luận của ông về Phật giáo nhưng
chính những ý tưởng như amor fati và quan niệm theo
Dionysos như một nỗ lực vượt chủ nghĩa hư vô khiến Nietzsche đến rất gần
với Phật giáo, và đặc biệt là Đại thừa.
Những công trình như Selflessness in Sartre's Existentialism and Early Buddhism [22] của triết gia Thái Prayoon Mererk, Derrida and Indian Philosophy, 1990 của Harold Coward, Authentic human destiny: the paths of Shankara and Heidegger, 1998
của Vensus A. George chỉ ra xu hướng đối chiếu đẩy khoảng cách thời
gian rất xa thu hẹp lại, những hội luận triết học trên tầm mức quốc tế,
đàm thoại trên truyền hình Tây nam tại Baden-Baden giữa Heidegger và tỳ
kheo Maha Mani đến từ Bangkok v.v.. chỉ ra thông giao ngoài phạm vi địa
chí, đặt lại viễn tưởng lịch sử triết học trên một khung không gian mới.
(còn nữa)
--------------------
[1] Idee zu einer allgemeinen Geschichte in weltbürgerlicher Absicht
[2] Über den Gebrauch teleologischer Principien in der Philosophie
[3] Die Natur thut nämlich nicht überflüssig und ist im Gebrauche der Mittel zu ihren Zwecken nicht verschwenderisch.
[4]
Aus welcher von Geschưpfen, die ohne eigenen Plan verfahren, dennoch
eine Geschichte nach einem bestimmten Plane der Natur möglich sei.
[5]
Nguyên văn: Denn mir scheint das Grundproblem der Philosophie von Kant
für alle Zeiten festgestellt zu sein. Es ist das höchste und
allgemeinste aller menschlichen Forschung: welchergestalt ist die Welt,
die für uns doch nur in unseren Anschauungen und Vorstellungen da ist,
uns gegeben?
[6]
Was ist Aufklärung? Was heißt: Sich im Denken orientiren? Verkündigung
des nahen Abschlusses eines Tractats zum ewigen Frieden in der
Philosophie.
[7] In trong Tẩu khúc văn chương/triết lý, 2004.
[8] Dẫn Kant trong Những tiến triển của siêu hình học ở Đức từ Leibniz và Wolff. Xem: Chân dung Triết gia, 1973 (ĐPQ).
[9] Xem Cơ sở tư tưởng thời quá độ, 2007 - ch. 7 (ĐPQ).
[10] Vorlesungen über die Geschichte der Philosophie. Phần dẫn nhập nói đến ở đây là Einleitung in die Geschichte der Philosophie, hrgs. Johanes Hoffmeister, có thể tham chiếu bản dịch tiếng Anh Hegel's Introduction to the Lectures on the History of Philosophy, 1985 của T.M. Knox và A.V. Miller, bản dịch tiếng Pháp Leçons sur l'histoire de la philosophie: Introduction, bibliographie, philosophie orientale, 2004 của Gilles Marmasse.
[11] Das Wesen der Philosophie, lần đầu in trong bộ Systematische Philosophie: Die Kultur der Gegenwart, 1907, in lại trong Die Geistige Welt, GS V.
[12] Một lý luận về thế giới quan/Weltanschauunglehre trong dạng bản thảo của Dilthey đã in trong Gesammelte Schriften, VIII - Luận về triết học của triết học/Abhandlungen zur Philosophie der Philosophie.
[13] Leben ist die innere Beziehung der psychischen Leistungen im Zusammenhang der Person.
[14] Xem chương 2 và chương 3 trong Cơ sở tư tưởng thời quá độ (ĐPQ).
[15] Trong Einführung in die Philosophie,
Hartmann xác định: Die Beschäftigung mit der Philosophiegeschichte ist
auch in einer Einleitung erforderlich; denn die Philosophie muß sich im
Gegensatz zu anderen Wissenschaften immer wieder erneut mit ihrer
Geschichte auseinandersetzen, in der es versucht worden ist, die Welt
als Ganzes zu schauen.
[16] Grundriss der allgemeinen Geschichte der Philosophie, H-G. Gadamer xuất bản và bổ sung năm 1949.
[17] Karl Jaspers trong Die Aufgabe der Philosophie in der Gegenwart/Nhiệm vụ của triết học ngày nay, 1953.
[18] Có thể kể vài công trình tiêu biểu như: những tham luận tại hội nghị triết học quốc tế do Raymond Klibansky biên soạn, La philosophie contemporaine, I-IV, 1968-1971 La Nuova Italia Editrice x.b.; John R. Burr biên tập: Handbook of World Philosophy, 1980; Robert C. Solomon và Kathleen M. Higgins biên tập: From Africa to Zen, 1993; Eliot Deutsch và Ron Bontekoe biên tập: A Companion to World Philosophies, 1997; Raymond Klibansky và David Pears biên tập: La philosophie en Europe, 1993.
[19] Xem: Fred R. Dallmayr, Critical Encounters, 1987; J.L. Mehta , India and the West, 1985.
[20] Những tiếu luận về thuyết hoài nghi, thuyết tương đối và Đạo lý trong Trang tử, 1996 Paul Kjellberg và Philip J. Ivanhoe biên tập.
[21] Nietzsche và tư tưởng châu Á, 1991 do Graham Parkes biên tập.
[22] Vô ngã trong thuyết
JAMES WEBB * CHIẾN TRANH & NƯỚC MỸ
Chăn Gối với Kẻ Thù
Sleeping With the Enemy.
By James Webb, Vu Uyen Giang chuyển ngữ
Sau khi tổng thống Nixon từ chức vào tháng Tám 1974, cuộc bầu cử mùa thu năm ấy mang lại 76 tân dân biểu thuộc đảng Dân Chủ và 8 thượng nghị sĩ. Đại đa số những dân cử chân ướt chân ráo này đã tranh cử dựa trên cương lĩnh của Mc Govern. Nhiều người trong số họ được xem như những ứng viên yếu kém trước khi Nixon từ chức, vài người không xứng đáng thấy rõ, chẳng hạn như Tom Downey, 26 tuổi, thuộc New York, người chưa từng có một nghề ngỗng gì và vẫn còn ở nhà với mẹ.
Cái gọi là Quốc Hội hậu Watergate nầy diễn hành vào thành phố với một sứ mệnh vô cùng quan trọng mà sau này trở thành điểm tập hợp cho cánh Tả của Hoa Kỳ: chấm dứt sự giúp đỡ của nước Mỹ dưới bất kỳ hình thức nào cho chính quyền đang bị vây khốn Nam Việt Nam. Không nên lầm lẫn ở chỗ này – đây không phải là sự kêu gào thanh niên Mỹ đừng đi vào cõi chết của những năm trước đây. Những người lính Mỹ cuối cùng đã rời Việt Nam hai năm trước rồi, và đã tròn bốn năm không có một người Mỹ nào bị tử trận.
Bởi những lý do mà không một viện dẫn lịch sử nào có thể bào chữa được, ngay cả sau khi quân đội Mỹ triệt thoái, cánh Tả vẫn tiếp tục những cố gắng để đánh gục nền dân chủ còn phôi thai của Nam Việt Nam. Phụ tá sau này của Nhà Trắng Harold Ickes và nhiều người khác trong “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chính” – có một lúc được một người tuổi trẻ nhiều tham vọng Bill Clinton giúp đỡ – làm việc để cắt toàn bộ những khoản tài trợ của Quốc Hội nhằm giúp miền Nam Việt Nam tự bảo vệ. Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, do David Dellinger điều hành và được Jane Fonda và Tom Hayden quảng bá, phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại điều được cho là những con ác quỷ trong chính quyền miền Nam Việt Nam. Những đồng minh của họ trong Quốc Hội liên tục thêm vào những tu chính án để chấm dứt sự viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống cộng, ngăn cấm cả đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam đang bị các đơn vị Bắc Việt được khối Sô Viết yểm trợ tấn công.
Rồi đến đầu năm 1975 Quốc Hội Watergate giáng một đòn chí tử xuống các nước Đông Dương không cộng sản. Tân Quốc Hội lạnh như băng từ chối lời yêu cầu gia tăng quân viện cho Việt Nam và Cam Bốt của tổng thống Gerald Ford. Ngân khoản dành riêng này sẽ cung cấp cho quân đội Cam Bốt và Nam Việt Nam đạn dược, phụ tùng thay thế, và vũ khí chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc chiến tự vệ. Bất chấp sự kiện là Hiệp Định Paris 1973 đặc biệt đòi hỏi phải cung cấp “viện trợ để thay thế trang thiết bị quân sự vô giới hạn” cho Nam Việt Nam, đến tháng Ba phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp đảo, 189-49, chống lại bất kỳ viện trợ quân sự bổ sung nào cho Việt Nam và Cam Bốt.
Trong các cuộc tranh luận, luận điệu của phe Tả phản chiến gồm toàn những lời lên án các đồng minh đang bị chiến tranh tàn phá của Hoa Kỳ. Và đầy những hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp cho các quốc gia nầy dưới sự cai trị của chế độ Cộng Sản. Rồi dân biểu Christopher Dodd , tiêu biểu cho sự ngây thơ hết thuốc chữa của các đồng viện, lên giọng đầy điệu bộ “gọi chế độ Lon Nol là đồng minh là làm nhục chữ nghĩa…Tặng vật lớn nhất mà đất nước chúng ta có thể trao cho nhân dân Cam Bốt là hòa bình, không phải súng. Và cách tốt nhất để đạt được mục đích này là chấm dứt viện trợ quân sự ngay lập tức.”
Sau khi trở thành chuyên gia đối ngoại trong vòng chỉ có hai tháng kể từ lúc thôi bú mẹ, Tom Downey chế diễu những cảnh báo về tội ác diệt chủng sắp sửa xảy ra ở Cam Bốt, cái tội ác đã giết hơn một phần ba dân số của quốc gia này, như sau, “chính phủ cảnh báo rằng nếu chúng ta rời bỏ các quốc gia ấy thì sẽ có tắm máu. Nhưng những cảnh báo cho việc tắm máu trong tương lai không thể biện minh cho việc kéo dài việc tắm máu hiện nay.”
Trên chiến trường Việt Nam việc chấm dứt viện trợ quân trang, quân cụ là một tin làm kinh ngạc và bất ngờ. Các cấp chỉ huy quân đội của miền Nam Việt Nam đã được bảo đảm về việc viện trợ trang thiết bị khi người Mỹ rút quân – tương tự như những viện trợ Hoa Kỳ vẫn dành cho Nam Hàn và Tây Đức – và cam kết rằng Hoa Kỳ sẽ tái oanh tạc nếu miền Bắc tấn công miền Nam, vi phạm hiệp định Paris 1973. Bây giờ thì họ đang mở mắt trừng trừng nhìn vào một tương lai bất định khủng khiếp, trong lúc khối Sô Viết vẫn tiếp tục yểm trợ cho Cộng Sản Bắc Việt.
Trong lúc quân đội Nam Việt Nam, vừa choáng váng vừa mất tinh thần, tìm cách điều chỉnh lại lực lượng để đối phó với những thiếu thốn trang thiết bị cần thiết, quân miền Bắc được tái trang bị đầy đủ lập tức phát động ra cuộc tổng tiến công. Bắt giữ được nhiều đơn vị bị cô lập, quân miền Bắc tràn xuống vùng đồng bằng trong vòng có 55 ngày. Những năm về sau tôi phỏng vấn các người lính miền Nam Việt Nam còn sống sót trong các cuộc giao tranh, nhiều người trải qua hơn chục năm trong các trại tập trung của cộng sản sau khi cuộc chiến chấm dứt. Điệp khúc này không bao giờ chấm dứt: “Tôi không còn đạn dược.” “Tôi chỉ còn 3 quả đạn pháo cho mỗi khẩu một ngày.” “Tôi không còn gì để phát cho binh sĩ của tôi.” “ Tôi phải tắt máy truyền tin, bởi vì tôi không thể nào chịu đựng được nữa những lời kêu gọi xin tiếp viện.”
Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự sụp đổ này cho thấy có hai nhóm khác nhau, và điều này vẫn còn tiếp tục được thấy rõ trong nhiều vấn để chúng ta đang đương đầu ngày nay. Đối với những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam, và đối với gia đình, bạn bè, và những người cùng quan điểm chính trị với họ, đây là là một tháng đen tối và tuyệt vọng. Những khuôn mặt mà chúng ta thấy đang chạy trốn sự tấn công của Bắc Quân là những khuôn mặt rất thật và quen thuộc, không phải đơn thuần là những hình ảnh truyền hình. Những thân người xoay trong không gian như những bông tuyết, rơi xuống chết thảm khốc sau khi đeo bám tuyệt vọng vào thân trực thăng hay phi cơ, có thể là những người chúng ta quen biết hoặc từng giúp đỡ. Ngay cả đối với những kẻ không còn niềm tin vào khả năng đánh bại Cộng Sản, đây không phải là cách để chấm dứt cuộc chiến.
Đối với những kẻ từng trốn tránh cuộc chiến và lớn lên tin rằng đất nước chúng ta là quỷ dữ, và ngay cả khi họ thơ mộng hoá những ý định của người cộng sản, những tuần lễ sau cùng này đã chối bỏ trách nhiệm của mình trong sự sụp đổ này bằng những phê phán quân đội Nam Việt Nam đầy tính sa lông, hay là công khai reo mừng. Ở trung tâm Luật Khoa của đại học Georgetown nơi tôi đang theo học, việc Bắc Việt trắng trợn ném bỏ các điều cam kết về hòa bình và bầu cử trong hiệp định Paris 1973, và tiếng xe tăng của Bắc Quân trên đường phố Sài Gòn được xem như là một cái cớ để thực sự ăn mừng.
Sự chối bỏ trách nhiệm vẫn còn tràn lan trong năm 1997, nhưng thực ra cái kết cuộc này chính là mục tiêu của những cố gắng không ngừng nghỉ của phong trào phản chiến trong những năm theo sau sự rút quân của Mỹ. George McGovern, thẳng thắn hơn nhiều người, công khai tuyên bố với người viết trong lúc nghỉ khi thâu hình cho chương trình “Crossfire” của CNN vào năm 1995. Sau khi tôi đã lý luận rằng cuộc chiến rõ ràng là có thể thắng được ngay cả vào giai đoạn cuối nếu chúng ta thay đổi chiến lược của mình, ứng cử viên tổng thống năm 1972, người tình nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, bình luận, “Anh không hiểu là tôi không muốn chúng ta chiến thắng cuộc chiến đó sao?” Ông McGovern không chỉ có một mình. Ông ta là phần tử của một nhóm nhỏ nhưng vô cùng có ảnh hưởng. Sau cùng họ đã đạt được điều họ muốn.
Có lẽ không còn minh chứng nào lớn hơn cho không khí hân hoan chung quanh chiến thắng của Cộng Sản là giải thưởng điện ảnh năm 1975, được tổ chức vào ngày 8 tháng 4, ba tuần trước khi miền Nam sụp đổ. Giải phim tài liệu hay nhất được trao cho phim Hearts and Minds, một phim tuyên truyền độc ác tấn công những giá trị văn hóa Hoa Kỳ cũng như những cố gắng của chúng ta để hỗ trợ cho sự chiến đấu cho nền dân chủ của miền Nam Việt Nam. Các nhà sản xuất Peter Davis và Bert Schneider (người thủ diễn một vai trong câu chuyện của david Horowitz) cùng nhau nhận giải Oscar. Schneider thẳng thừng trong việc công nhận sự ủng hộ những người Cộng Sản của mình. Đứng trước máy vi âm ông ta nói: ”Thật là ngược đời khi chúng ta đang ở đây, vào thời điểm mà Việt Nam sắp được giải phóng.” Rồi giây phút đáng kinh ngạc nhất của Hollywood xảy ra – dù giờ đây đã được cố tình quên đi-. Trong lúc quốc gia Việt Nam, mà nhiều người Mỹ đã đổ máu và nước mắt để bảo vệ, đang tan biến dưới bánh xích của xe tăng, Schneider lôi ra một điện tín được gởi từ kẻ thù của chúng ta, đoàn đại biểu Cộng Sản Việt Nam ở Paris, và đọc to lên lời chúc mừng cho phim của mình. Không một phút giây do dự, những kẻ nhiều quyền lực nhất của Hollywood đứng dậy hoan nghênh việc Schneider đọc bức điện tín này.
Chúng ta, những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam hoặc là những người ủng hộ những cố gắng ở đó, nhìn lại cái khoảnh khắc này của năm 1975 với sự sửng sốt không nguôi và không bao giờ quên được. Họ là ai mà cuồng nhiệt đến thế để đầu độc cái nhìn của thế giới về chúng ta? Sao họ lại có thể chống lại chính những người đồng hương của mình một cách dữ tợn đến thế? Sao họ có thể đứng dậy để hoan nghênh chiến thắng của kẻ thù Cộng Sản, kẻ đã làm thiệt mạng 58000 người Mỹ và đè bẹp một đồng minh chủ trương ủng hộ dân chủ? Làm sao có thể nói rằng chúng ta và họ đang sống trong cùng một đất nước?
Từ lúc ấy đến nay, không một lời nào của Hollywood nói về số phận của những con người biến mất sau bức màn tre của Việt Nam . Không ai đề cập đến những trại tập trung cải tạo mà hàng triệu chiến binh miền Nam Việt Nam đã bị giam giữ, 56000 người thiệt mạng, 250,000 bị giam hơn 6 năm, nhiều người bị giam đến 18 năm. Không người nào chỉ trích việc cưỡng bách di dân, tham nhũng, hay là chế độ công an trị mà hiện vẫn còn đang tiếp diễn. Thêm vào đó, ngoại trừ phim Hamburger Hill có ý tốt nhưng kém về nghệ thuật, người ta chỉ hoài công nếu muốn tìm một phim thuộc loại có tầm vóc diễn tả các chiến binh Hoa Kỳ ở Việt Nam với đầy đủ danh dự và trong những khung cảnh có thật.
Tại sao?
Bởi vì cộng đồng làm phim, cũng như những kẻ thuộc loại đỉnh cao trí tuệ trong xã hội, chưa bao giờ yêu thương, kính phục, hay ngay cả thông cảm với những con người đã nghe theo tiếng gọi của đất nước, lên đường phục vụ. Và vào lúc mà một cuộc chiến âm thầm nhưng không ngừng nghỉ đang diễn ra về việc lịch sử sẽ ghi nhớ đất nước chúng ta tham dự ở Việt Nam như thế nào, những kẻ chế diễu chính sách của chính quyền, trốn lính, và tích cực ủng hộ kẻ thù, cái kẻ thù mà sau cùng trở nên tàn độc và thối nát, không muốn được nhớ đến như là những kẻ quá đỗi ngây thơ và lầm lẫn.
Giữa những người dân Mỹ bình thường, thái độ của họ trong khoảng thời gian rối ren nầy lành mạnh hơn nhiều. Đằng sau những tin tức bị thanh lọc và những bóp méo về Việt Nam, thực tế là những công dân của chúng ta đồng ý với chúng ta , những người đang chiến đấu, hơn là với những kẻ làm suy yếu cuộc chiến đấu này. Khá thú vị là điều nầy đặc biệt đúng với tuổi trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn còn được mô tả như là thành phần nổi loạn chống chiến tranh.
Như được tường trình lại trong bài Ý Kiến Quần Chúng, những kết quả thăm dò của Gallup từ năm 1966 cho đến khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham dự cho thấy tuổi trẻ Mỹ thực ra ủng hộ cuộc chiến Việt Nam lâu bền hơn bất cứ lứa tuổi khác. Ngay cả cho đến tháng 1 năm 1973, khi 68 phần trăm dân Mỹ trên 50 tuổi tin rằng chuyện gởi quân sang Việt Nam là một sai lầm, chỉ có 49 phần trăm những người tuổi từ 25 đến 29 đồng ý. Những phát hiện nầy cho thấy giới trẻ nói chung rõ ràng là không cực đoan, điều này đã được củng cố thêm bằng kết quả bầu cử năm 1972 – trong đó lứa tuổi từ 18 đến 29 ưa thích Richard Nixon hơn là George McGovern bằng tỷ lệ 52 so với 46 phần trăm.
Tương tự như vậy, mặc dù trong quá khứ những người chống đối này, mà ngày nay đang thống lĩnh giới báo chí và giới khoa bảng, đã khăng khăng nói ngược với thực tế, sự xâm nhập vào Cam Bốt năm 1970 đã được ủng hộ quần chúng mạnh mẽ.. – Sự xâm nhập này đã gây ra sự phản đối rộng khắp ở các sân trường đại học, kể cả một vụ xung đột làm cho bốn người chết ở Kent State University. Theo những kết quả thăm dò dư luận của Harris gần 6 phần 10 dân Mỹ tin rằng sự xâm nhập vào Cam Bốt là đúng đắn. Đa số được hỏi ý kiến, trong cùng bản thăm dò này vào tháng 5 năm 1970, ủng hộ tái oanh tạc miền Bắc, một thái độ cho thấy sự bác bỏ hoàn toàn phong trào phản chiến.
Các cựu chiến binh Việt Nam, dù bị bôi bẩn thường xuyên trên phim ảnh, trong các bản tin, và trong các lớp học, như là những chiến binh miễn cưỡng và thất bại, vẫn được những người dân Mỹ bình thường tôn trọng. Trong một nghiên cứu toàn diện nhất từ trước đến giờ về những cựu chiến binh Việt Nam (Harris Survey, 1980, do Veterans Administration ủy quyền) , 73 phần trăm công chúng và 89 phần trăm cựu chiến binh Việt Nam đồng ý với câu phát biểu “Vấn đề rắc rối ở Việt Nam là quân đội chúng ta được yêu cầu chiến đấu trong một cuộc chiến mà các lãnh tụ chính trị ở Washington không để cho họ được phép chiến thắng”, 70 phần trăm những người từng chiến đấu ở Việt Nam không đồng ý với câu phát biểu “Những gì chúng ta gây ra cho nhân dân Việt Nam thật đáng xấu hổ.” Trọn 91 phần trăm những người đã từng phục vụ chiến đấu ở Việt Nam nói rằng họ hãnh diện đã phục vụ đất nước, và 74 phần trăm nói rằng họ thấy thoải mái với thời gian trong quân đội. Hơn nữa, 71 phần trăm những người phát biểu ý kiến cho thấy họ sẵn sàng chiến đấu ở Việt Nam một lần nữa , ngay cả nếu biết rằng cái kết quả chung cuộc vẫn như thế và sự giễu cợt sẽ đổ lên đầu họ khi họ trở về.
Bản thăm dò này còn có cái gọi là “nhiệt kế đo cảm giác,” để đo lường thái độ của công chúng đối với những nhóm người khác nhau, với thang điếm từ 1 đến 10.. Cựu chiến binh từng phục vụ ở Việt Nam được chấm điểm 9.8 trên thang điểm này. Bác sĩ được 7.9, phóng viên truyền hình 6.1, chính trị gia 5.2, những người biểu tình chống chiến tranh 5.0, kẻ trốn quân dịch và chạy sang Canada được cho 3.3.
Trái ngược với những câu chuyện huyền thoại được dai dẳng phổ biến, hai phần ba những người phục vụ ở Việt Nam là quân tình nguyện chứ không phải bị động viên, và 77 phần trăm những người tử trận là quân tình nguyện. Trong số những người tử trận: 86 phần trăm là da trắng,12.5 phần trăm người Mỹ gốc Phi Châu và 1.2 phần trăm thuộc các chủng tộc khác. Những cáo buộc rất phổ biến như là chỉ có dân thuộc các nhóm thiểu số và người nghèo được giao cho những công tác khó khăn trong quân đội khi ở Việt Nam là điều sai lạc. Sự bất quân bình trong cuộc chiến, thực ra chỉ đơn giản là do những thành phần đặc quyền đặc lợi trốn tránh trách nhiệm của mình, và chính những người này kể từ thời gian ấy đã kiên trì bôi bẩn những kinh nghiệm về cuộc chiến để nhằm tự bào chữa cho chính mình, phòng khi sau này bị lịch sử phán xét.
Thế còn những kẻ không những đã hiểu sai ý nghĩa một cuộc chiến, mà còn không hiểu nổi dân tộc của mình, những kẻ thuộc thành phần tinh hoa của xã hội đó bây giờ ra sao? Bây giờ họ đang ở đâu nếu không phải ở trong tòa Bạch Ốc? Trên vấn đề lịch sử quan yếu này, cái vấn đề đã xác định thế hệ của chúng ta, họ dấu mình thật kín. Họ nên dấu mình như thế.
Đối với những kẻ đã đem cuộc hành trình tuổi trẻ đánh bạc trên cái ý tưởng rằng tổ quốc mình là một lực lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự ngây thơ của mình trong những năm sau năm 1975, chắc họ phải có một cảm giác rất kinh khủng. Thật là sáng mắt sáng lòng cho những kẻ đã tỉnh thức, đã tự vượt qua được phản ứng chối tội, để chứng kiến cảnh tượng hàng trăm ngàn người dân miền Nam Việt Nam chạy trốn “ ngọn lửa tinh nguyên của cách mạng “ trên những con tàu ọp ẹp, sự chạy trốn mà chắc chắn 50 phần trăm sẽ vùi thây ngoài biển, hoặc là nhìn thấy những hình ảnh truyền hình của hàng ngàn chiếc sọ người Cam Bốt nằm lăn lóc trên những cánh đồng hoang, một phần nhỏ của hàng triệu người bị giết bởi những người Cộng Sản “giải phóng quân.”
Thực vậy, chúng ta hãy thẳng thắn nhìn nhận. Thật đáng tủi nhục biết bao khi nhìn vào khuôn mặt của một thương binh, hay là nghe diễn từ tốt nghiệp của một học sinh thủ khoa người Mỹ gốc Việt Nam, mà người cha quá cố của em đã chiến đấu bên cạnh những người Mỹ, cho một lý tưởng mà bọn họ công khai mỉa mai, chế diễu, và xem thường. Và thật là một điều đáng xấu hổ khi chúng ta có một hệ thống chính quyền đã để cho em học sinh đó thành công nhanh chóng ở đây, mà lại không thực hiện được một hệ thống như vậy ở quê hương của em.
Vũ Uyên Giang
P.O.Box 7036 - Warner Robins , GA 31095-7036 - USA
E-mail: vinhnguyen3521@ yahoo.com
vuuyengiang1@ yahoo.com
www.vuuyengiang. com
TRUYỆN NGẮN
Thằng Chồng Việt Kiều Của Tôi !
Những
ai phải trải qua cay đắng mới biết giá trị đích thực của cuộc sống.
Tôi cũng vậy. Hạnh phúc, tiền bạc, danh vọng, và bộ mặt đã làm tôi như
quay cuồng.
Cũng
chỉ vì “lấy chồng Việt Kiều” và “có rể Việt Kiều” đã làm cho “thằng
chồng Việt Kiều” của tôi điêu đứng và tôi suýt bỏ rơi anh ta khi mới
bắt đầu qua đây.
Có lẽ tôi quá cay đắng nhưng tôi đã hối hận rất nhiều.
Tôi
vốn ở Biên Hòa, được cho là xinh đẹp từ nhỏ. Tôi được gia đình cưng
chiều nhưng không có hư đốn. Tôi vào được Đại Học Sư Phạm ngành Anh Văn
và học xong.
Trong
thời gian làm kiếp sinh viên, gia đình tôi đi xuống và lam lũ. Tôi trở
thành sinh viên nghèo phải bươn chãi kiếm sống vì gia đình tôi không
thể chu cấp mọi chi phí.
Ở
xóm, có nhiều người lấy chồng Việt Kiều và có tiền xây nhà cao ráo. Ai
cũng nói tôi có học và có sắc tại sao không kiếm được chồng Việt Kiều
cho gia đình đỡ khổ. Cuộc sống khốn khổ như vậy khiến cho tôi nghĩ đến
chuyện “lấy chồng Việt Kiều” để cưu mang gia đình.
Tôi nghĩ đơn giản như vậy, chính vì đơn giản đó đã làm hại một người, đó là thằng chồng Việt Kiều của tôi.
Với
ý nghĩ đơn giản, tưởng rằng ở nước ngoài ai cũng ăn sung mặc sướng dễ
kiếm ra tiền. Tôi có đọc sách báo thì thu nhập trung bình hàng năm của
người Mỹ là 24 ngàn đô-la. Nếu thằng chồng làm 24 ngàn đô-la thì mình
xin 6-7 ngàn có sao đâu.
Nhưng thánh thần ơi, đó là thu nhập, chưa tính thuế, tiền xăng, ăn uống, chi tiêu, nhà cửa, điện nước,…
Cái ý nghĩ ngu xuẩn chỉ cần 6-7 ngàn mỗi năm đó lan truyền vào gia đình tôi và gia đình tôi tưởng bở và thật.
Cũng
chính vì tôi có sắc và có thân hình đẹp nên tôi kiếm được một thằng
Việt Kiều hiền lành nhưng có chút khờ trong những Việt Kiều về thăm.
Hắn
hồi ở Việt Nam chỉ học tới lớp 9, sau đi làm phụ hồ, và theo gia đình
đi Mỹ theo diện HO. Qua đó hắn chỉ biết đi làm. So về trình độ học vấn
thì chênh lệch với tôi do đó khó nói chuyện. Tôi biết không hạp lắm
nhưng giả nai để được đi Mỹ.
Tôi
nhanh chóng trao sự trinh tiết cho hắn và bắt hắn phải chịu trách
nhiệm và cưới. Hắn hứa cưới. Tôi ra giá là trước khi tôi qua Mỹ thì gia
đình tôi cần 20 ngàn đô để xây nhà mua xe (vì nhà tôi ọp ẹp và không
có xe gắn máy).
Hắn
trở lại Mỹ, và gởi tiền đều đều, hắn làm gì tôi không quan tâm vì tôi
chẳng yêu, thấy tiền là tôi thích. Tôi cố gắng học cho xong 4 năm đại
học để phòng khi không qua được Mỹ thì tôi có bằng cấp và dạy học Anh
Văn cũng có tiền.
Khi
nhà cửa tôi xây xong, xe có 2 chiếc thì hắn về. Trông hắn tiều tụy và
ốm sau 2 năm và tôi cũng vừa tốt nghiệp Đại Học. Đám cưới tổ chức linh
đình. Gia đình tôi nở mặt nở mày với hàng xóm.
Trong
khi chờ đợi qua Mỹ, tôi học thêm đủ thứ nghề từ thêu may đến vi tính,
uốn tóc đến móng tay,… Hắn chu cấp vài trăm đô mỗi tháng.
Khi
đến Mỹ tôi thật sự thất vọng. Thằng chồng tôi ốm yếu và bịnh hoạn. Tôi
biết sự thật là sau khi gặp tôi, hắn làm 2 việc để có tiền gởi theo
yêu cầu tôi. Mỗi ngày hắn chỉ ngủ được 4 giờ. Cuối tuần làm thêm. Nhà
thì ở nhà mướn chứ không như tôi nghĩ là nhà riêng có bãi cỏ đẹp. Xe hơi
thì xe cà tàng cũ xì chứ không bóng lộn như tôi thấy ở tỉnh ủy tỉnh
Đồng Nai.
Tôi
lúc đầu nghĩ rằng hắn lừa dối tôi để được tôi nên tôi giận quá bỏ hắn
qua người dì. Hắn sụp đổ tinh thần và vào bịnh viện tôi chẳng cần quan
tâm. Tôi luôn nghĩ cuộc sống của hắn ở Mỹ phải tốt, phải như thiên
đường….. Nào ngờ chỉ là dân lao động nghèo nàn không biết Anh Văn.
Dì
tôi nói là nếu không trở lại sống với hắn thì về Việt Nam vì nếu tôi
bỏ hắn thì tôi bị trục xuất. Dì tôi không dám chứa chấp tôi sợ liên
lụy. Dì tôi cho tôi 10 ngày suy nghĩ.
10
ngày đó tôi tìm hiểu cuộc sống ở Mỹ. Tôi thấy ai cũng cố gắng đi làm
để có tiền chứ không dễ hái ra tiền. Khác với ở Việt Nam là làm việc ở
đây dù tiền ít vẫn không bị đói. Môi trường sống tốt hơn, học hành miễn
phí, có biết tiếng Anh xin làm dễ hơn…
Tôi
nghĩ về thằng chồng tôi không yêu nhưng lấy chồng vì tiền. Tôi dần dần
thấy tội nghiệp hắn. Vì mê sắc đẹp tôi mà hắn phải hao tổn sinh lực
làm 2 việc để có hơn 24 ngàn đô-la gởi về cho tôi trong lúc bản thân
hắn chẳng có gì.
Tôi
dần dần động lòng trắc ẩn thằng chồng không yêu. Tôi thấy tội nghiệp
quá. Đã tốn sinh lực kiếm tiền cho tôi và sau đó bị tôi bỏ đi. Tôi ứa
nước mắt ân hận.
Sau
một tuần tôi trở lại và xin lỗi. Những giọt nước mắt hạnh phúc trong
thân hình tiều tuỵ của hắn làm tôi thêm đau lòng. Tôi thề với Trời Phật
tôi không bỏ hắn và sẽ lo cho hắn.
Tôi
dễ dàng kiếm việc và hắn nghỉ 3 tuần dưỡng sức vì mới ra viện. Tôi
ráng bương chải thêm việc cuối tuần để hòng giúp hắn có tiền mua xe
khác và cho tôi một chiếc xe cũ nào đó vì sống ở Mỹ thiếu xe không thể
xin việc làm tốt hơn.
Tôi
giải thích cho gia đình tôi hiểu và tôi chỉ sẽ chu cấp 100 đô mỗi
tháng mà thôi. Gia đình tôi dĩ nhiên không hiểu và giận tôi và nói rằng
tôi đi Mỹ bị Mỹ hoá không biết lo cho gia đình. Tôi thấy 100 đô đủ
rồi, gia đình tôi kiếm thêm chứ làm sao tôi phải nuôi chồng và nuôi 6
người bên Việt Nam.
Hắn
từ từ hồi phục nhưng do lao lực quá nên lúc nào cũng ốm ốm và không có
sung sức. Cuộc sống tình dục vợ chồng rất thưa thớt vì hắn yếu sức.
Tôi muốn có con với hắn để hắn yên lòng vì thế tôi và hắn phải nhịn 6
tháng để hòng hắn có đủ sức lực theo lời bác sĩ.
Trời Phật thương tôi và tôi có thai. Hắn hạnh phúc và sức khoẻ dần dần tốt hơn.
Do có vốn tiếng Anh, tôi có việc trong ngân hàng và lương khác. Hắn chỉ đi làm việc nhẹ và tôi ghánh vác mọi thứ. Tôi chỉ mong hắn khoẻ mạnh trở lại chứ trong gia đình ai đi làm chính cũng vậy thôi.
Do có vốn tiếng Anh, tôi có việc trong ngân hàng và lương khác. Hắn chỉ đi làm việc nhẹ và tôi ghánh vác mọi thứ. Tôi chỉ mong hắn khoẻ mạnh trở lại chứ trong gia đình ai đi làm chính cũng vậy thôi.
Con tôi ra đời khoẻ mạnh, tôi mừng khôn xiết, người mừng vui hơn tôi là hắn.
Giờ
gia đình tôi ổn định. Tôi làm việc có lương gấp 3 lần chồng vì chồng
chỉ lao động bình thường và khó lòng vươn lên vì trình độ bị giới hạn.
Tôi dần dần có được hạnh phúc gia đình, tình cảm vợ chồng, cũng như
được thoả mãn tình dục do chồng tôi hồi phục được sức khoẻ.
Tôi đã sai và sửa sai.
Hy
vọng các chị muốn lấy chồng Việt Kiều hiểu rõ hoàn cảnh của ông chồng
tương lai để tránh nhiều chuyện đau lòng nơi xứ người.
ĐẶNG PHÙNG QUÂN * TRIẾT HỌC
phê phán chủ nghĩa duy vật lịch sử
đặng phùng quân
Marx
là một trong những khuôn mặt lớn ngự trị thế giới tư tưởng thế kỷ
XX. Tuy nhiên, so với những nhà tư tưởng khác, vị thế của Marx hơn hẳn
vì tư tưởng Marx gắn liền với một chủ nghĩa - chủ nghĩa ấy lại được
chuyên chở qua một chính đảng thống trị hơn một phần ba địa chí chính
trị gần một trăm năm (đến tận cuối-thế-kỷ/1990, không kể đến sự tồn
tục của một số quốc gia sẽ nói đến ở chương sau). Cho nên Mihailo
Markovíc, một trong những triết gia của Trường Hạ Korcula và tạp chí
Praxis vào những thập niên 60s đã phát biểu: "Khi lý luận của Marx
trở thành hệ tư tưởng của cả một phong trào quốc tế đầy quyền lực, và
để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ này thì nó phải chịu vật hóa và mang
những phẩm chất huyền thoại thiêng liêng không được xúc phạm." Hệ tư
tưởng ấy thống trị suốt chiều dài lịch sử thế kỷ, cho nên khi đặt vấn
đề cáo chung của lịch sử nổi lên từ một số những nhà lý luận vào
cuối thế kỷ như Lutz Niethammer, Francis Fukuyama, Perry Anderson,
Keith Windschuttle đều hàm ngụ sự cáo chung của chủ nghĩa Mác - hợp
đồng với sự sụp đổ của "chế độ cộng sản". Như vậy còn có thể nói đến
Marx?
Câu hỏi có thể bắt đầu từ một thách đố: Trong phần dẫn nhập Về vấn đề phương pháp của cuốn Phê phán lý trí biện chứng
xuất bản vào năm 1960, Jean-Paul Sartre cho rằng nếu triết học phải
là tổng thể hóa của tri thức, phương pháp, tư tưởng điều hợp, vũ khí
tấn công và cộng đồng ngôn ngữ thì chỉ có ba thời kỳ sáng tạo triết
học: "thời" của Descartes và Locke, của Kant và Hegel, và sau cùng là
"thời" của Marx. Theo ông, những triết học sau Marx, chống Marx hay
vượt Marx chỉ là trở lại thời tiền Marx, kể cả xu hướng "xét lại"
cũng chỉ là vòng luẩn quẩn phi lý. Chính ông coi tư trào hiện sinh
cũng chỉ như một giai đoạn cá thể nằm trong cái tổng thể của chủ nghĩa
Mác. Quan điểm này của Sartre mang tính kinh viện, đưa ra vào lúc cấu
trúc luận đang ngự trị trên diễn đàn tư tưởng như mở đường cho tư
tưởng khai phá mọi lĩnh vực nhân văn. Tuy nhiên Sartre xác tín lý
giải duy nhất có giá trị về Lịch sử là chủ nghĩa duy vật lịch sử:
"Chủ nghĩa Mác là chính Lịch sử chuyển biến ý thức chính nó, nếu nó
có giá trị là vì nội dung vật chất của nó, điều không phải tra hỏi
cũng như có thể tra hỏi."
Vấn
đề đặt ra là dựa trên cơ sở nào chủ nghĩa duy vật lịch sử có thể xác
định sự hiển nhiên của chính nó? Làm thế nào nhận thức được một Lịch sử
duy nhất khả hữu?
Trước
hết, xét xem nhận định dẫn trên của Sartre có xác đáng? Hỏi như vậy
có nghĩa là xét xem Marx có phải là một triết gia theo đúng nghĩa của
nó? Gajo Petrovíc đã đặt lại vấn đề khi bàn về chủ nghĩa duy vật biện
chứng và triết lý Karl Marx.
Trong những tranh luận về vấn đề Marx có là một triết gia đúng nghĩa có thể chia ra theo những luận cứ như: Trong Hệ tư tưởng Đức,
Marx viết là "khi miêu tả thực tại, triết học như một nhánh độc lập
của hoạt động đã mất trung gian tồn tại", và sau đó Marx đã ngừng làm
công việc triết lý mà chú trọng đến việc nghiên cứu kinh tế, lịch
sử, chính trị và những công tác thực tiễn cách mạng. Theo Petrovíc,
ngay trong thời kỳ viết Tư bản, ông vẫn sử dụng cách diễn đạt
triết lý. Có luận cứ cho rằng Marx quan niệm không thể thủ tiêu thân
phận vô sản nếu không thực hiện triết học, song triết học chỉ thực
hiện khi thủ tiêu chính nó, thực hiện toàn diện triết học hàm nghĩa cáo
chung của lịch sử. Luận cứ thuyết phục nhất là Marx đã phê bình những
nhà triết học chỉ đi giải thích thế giới thay vì phải biến đổi nó.
Có phải ý định căn bản của Marx là lao vào thực tiễn cách mạng biến
đổi? Như vậy nếu coi Marx là triết gia, phải chăng làm giảm tính mới
mẻ chủ yếu trong thông điệp của ông? Petrovíc kết luận: "Tính mới mẻ
trong tư tưởng của Marx cũng như trong toàn bộ chắc chắn bị xâm phạm
do đòi hỏi triết học dứt khoát phải 'thực hiện' và 'thủ tiêu'. Một
hòa giải nhất định của tư tưởng và thực tại chỉ khả hữu như một đầu
hàng dứt khoát của tư tưởng cách mạng trước thực tại phản động. Thủ
tiêu triết học nhất định chỉ có thể tưởng tượng được như một chiến thắng
nhất định của những lực lượng kinh tế hay bạo lực chính trị mù lòa.
Như thế thì không thể tưởng tượng được."
Một người Mác xít khác, Karel Kosik trong Biện chứng cụ thể/Dialektika konkrétniho đã
khai triển vấn đề này khi hỏi: Làm thế nào người ta có thể thủ tiêu
triết học, và đã thủ tiêu ra sao trong tác phẩm của Marx? Vấn đề chỉ
có thể đặt ra theo trình tự: Triết học bị thủ tiêu trong khi thực
hiện; triết học chỉ thủ tiêu, khi chuyển biến thành lý luận biện chứng
của xã hội; triết học thủ tiêu khi tự tan rã và chỉ còn là một khoa
học thặng dư: luận lý hình thức và biện chứng.
Nếu
triết học trong khi thực hiện sẽ tự thủ tiêu chỉ có ý nghĩa trong
mối quan hệ giữa triết học và thực tại. Trong mối quan hệ này, triết học
phải hoàn tất hai nhiệm vu: thông qua những phạm trù triết học,
những giai cấp ý thức được chính mình và những hình thái khái niệm
trong triết học những phương tiện của thực tiễn lịch sử. Thực tại tìm
ở trong triết học hình thái lịch sử của một nhận thức cũng như của
chính vận động thực tại và giải quyết những mâu thuẫn. Khi phát biểu
"sự thủ tiêu triết học nhờ vào sự thực hiện" có nghĩa là vận động xã
hội thông qua ý thức và trui luyện trong ý thức những hình thái khái
niệm của việc thực hiện chính nó. Trong định thức triệt để của việc thủ
tiêu triết học qua tự thực hiện, người ta không thấy chân lý của
triết học hay của thực tại mà chỉ có những mâu thuẫn muốn tạo ra một
phản ảnh thực tại. Ý thức triết lý coi thực tại như một phản ảnh, và
triết học hiện hữu như một biểu hiện của thực tại tha hóa. Cho nên
xóa bỏ tha hóa trong vận động biện chứng có nghĩa là tạo thực tại
thuần lý, và thực hiện đồng thời thủ tiêu, như Marcuse nhận định
"kiến tạo triết học của lý trí sẽ xóa bỏ do tạo ra được xã hội thuần
lý". Điều này hàm chứa triết học cáo chung khi nhân loại tổ chức được
một cách thuần lý. Vấn đề đặt ra là, phải giả định một triết học công
chính đối lập với một triết học nhất định, hay những hệ tư tưởng trong
lịch sử. Thủ tiêu triết học là một giả tưởng.
Triết học có thể coi như biểu hiện tha hóa của một the?giới đảo ngược
(chữ của Hegel) khi quan niệm triết học bao giờ cũng là triết học có
giai cấp, do lý giải lịch sử xã hội luôn luôn là một lịch sử của những
đấu tranh giai cấp. Điều đó có nghĩa là mỗi giai đoạn lịch sử của con
người được biểu hiện và thống trị của một giai cấp. Nhân loại có một
nội dung lịch sử thực liên hệ với giới hạn lịch sử trong khi cụ thể
hóa những điều kiện xã hội nhất định. Triết học như vậy biểu hiện cho
những điề? kiện này, không thể là chân lý của thực tại. Như vậy
triết học ở thời đại tư sản đồng nhất với toàn bộ xã hội tư sản? Và
nếu như xã hội tư sản là triết học nhập thể của thời đại tư sản thì
sự sụp đổ của chế độ tư bản sẽ là cáo chung của triết học này?
Một
cách thế thủ tiêu triết học khác là biến đổi triết học thành một "lý
luận biện chứng của xã hội" như Herbert Marcuse trình bày trong Phần
Hai tác phẩm Lý trí và Cách mạng/Reason and Revolution.
Tuy nội dung sách nhằm đi lý giải lại triết học của Hegel để chứng
minh là những khái niệm cơ bản của Hegel nghịch lại với những xu
hướng thời đại dẫn đến lý luận và thực tiễn phát xít (sách xuất bản
lần đầu năm 1941), nhưng phần hai nhằm trình bày những phát triển tư
tưởng, chủ yếu là lý luận của Marx. Marcuse chỉ ra sự chuyển tiếp từ
triết học sang lý luận xã hội, "ảnh hưởng của triết học Hegel tới lý
luận xã hội và chức năng đặc thù của lý luận xã hội hiện đại không thể
hiểu được trừ phi đi từ hình thái mở ra trong triết học Hegel và những
xu hướng phê phán dẫn đến lý luận của Marx." Marx xuất hiện đối diện
với Hgel như một nhân tố thủ tiêu triết học và xây dựng lý luận biện
chứng của xã hội, như Marcuse nhận định: "Lịch sử trưởng thành/Entstehungsgeschichte của nhân loại mà Marx gọi là tiền lịch sử, là lịch sử của xã hội có giai cấp. Lịch sử thực sự của con người chỉ bắt đầu khi xã hội này bị thủ tiêu. Biện chứng Hegel cho hình thái luận lý trừu tượng của phát triển tiền sử, biện chứng của Marx là vận động cụ thể thực."
Tuy nhiên, trong những thập niên sau, Marcuse không quan niệm "sự
lật ngược" Hegel theo chủ nghĩa duy vật của Marx là quá độ từ triết
học sang lý luận xã hội nữa mà là "nhận thức được những gì mà những
hình thái đã thiết lập của đời sống đạt tới giai đoạn phủ định lịch
sử".
Thật
sự những trào lưu tư tưởng ở thế kỷ XX chứng thực khi phê phán và
phá đổ hệ thống Hegel đã chỉ ra chân lý của một tư trào mới xuất hiện
một cách biện chứng trên cái cũ có tính lịch sử và tương ứng với một
chân lý luôn luôn phải xây dựng lại, và những tư trào ấy phát triển
độc lập với cơ sở nguyên ủy. Lập luận của Sartre không có cơ sở về
nhiều mặt: triết học Marx không phải là thành quả của thủ tiêu triết
học, hay quá độ từ triết học này sang triết học khác (bởi điều này
hàm ngụ một tiến hóa nội tại của những ý tưởng), không thể quan niệm
về mặt biện chứng sự tồn tại vĩnh cửu của hệ thống triết học, dầu duy
tâm (Hegel) hay duy vật (Marx), bởi mỗi triết học mang một nội dung xã
hội, cũng như chủ thể phát triển triết học là một con người lịch sử
cụ thể (trừ phi nhìn nhận lập luận của cấu trúc luận xét trên quan hệ
xã hội đối lập với hệ thống, thay vì xã hội với cá thể).
Người
ta có thể nói đến phát triển của chủ nghĩa Mác, vì đó là một lịch sử
những tư trào bắt nguồn từ lý luận của Marx phong phú và đa dạng trong
suốt thế kỷ XX, mà trong hai chương 7 và 8 đã nói đến hai đại diện
tiêu biểu, đặt để những vấn đề then chốt: vật hóa và quá trình lịch
sử không chủ thể. Cho nên có thể nói đến nhiều chủ nghĩa Marx, điều
mà Raymond Aron gọi là những chủ nghĩa Mác tưởng tượng. Những tư trào
đó phát triển tư tưởng nguyên ủy, lý giải hoặc thông diễn học thuyết
của Marx, bổ khuyết những sai lầm hoặc lỗi thời, nhưng vẫn là những
phụ thuyết của chủ nghĩa Mác. Bên cạnh đó, những trường phái như Lý
luận Phê phán cũng bắt nguồn từ một số vấn đề của Marx, nhưng đã vượt
ra khỏi quỹ đạo của chủ nghĩa Mác mà phát triển theo những chiều hướng
khác. Quá trình lịch sử tư tưởng thế kỷ XX cho thấy nhận định của
Sartre chỉ là một phản ứng ngược giòng.
Chính
Marx cũng là một nhà tư tưởng ở trong những điều kiện nhất định của
thời đại, kể cả khi ông trung thành với quan điểm duy vật về lịch sử.
Như quan niệm của Marx về sự tiến hóa của lịch sử, khiến ông đứng về
phía tiêu cực, phi nhân bản của sự tiến hóa. Ít ra đã có hai học giả
phát hiện ra lập trường của Marx về vấn đề khai hóa thực dân, như khi
ông tán thành đường lối cai trị của nước Anh khi bảo hộ Ần độ.
Trong tác phẩm Đông phương luận/Orientalism
(1978), Edward W. Said đã dẫn một bài bình luận của Marx chứng tỏ
Marx tin vào đường lối thuộc địa của nhà cầm quyền Anh là thực hiện
một cuộc cách mạng thực sự:
"Bây
giờ, phải kinh tởm cho cảm xúc của con người chứng kiến vô số những
tổ chức xã hội gia trưởng cần cù và vô hại đã tan rã và tan biến vào
trong những đơn vị của chúng, ném vào trong biển khổ, và những thành
phần cá nhân cùng lúc đánh mất hình thái cổ xưa của văn minh và những
phương tiện tồn tại di truyền, chúng ta không thể nào quên là những
cộng đồng làng quê thôn dã, có vẻ vô thưởng vô phạt, đã luôn luôn là
nền tảng vững chắc của chế độ chuyên chế phương Đông, kìm hãm tinh
thần con người trong sa bàn khả hữu cực nhỏ, tạo thành công cụ mê tín
thuận theo, nô dịch nó dưới những luật lệ cổ truyền, tước đoạt của
nó đi cái vĩ đại và những năng lực lịch sử....Nước Anh quả thực khi
tạo ra một cuộc cách mạng xã hội Ần chỉ được thúc đẩy do những lợi lộc
hèn hạ và xuẩn động trong phương cách cưỡng bách họ. Nhưng đó không
phải là vấn đề. Vấn đề là ở chỗ, liệu nhân loại có làm tròn trách
nhiệm nếu không có một cuộc cách mạng cơ bản trong tình thế xã hội ở
châu A. Nếu không, dầu những tội ác của nước Anh có thế nào đi nữa,
nó cũng là công cụ vô thức của lịch sử mang lại cách mạng.
Thế
nên dẫu cảnh tượng làm sụp đổ một thế giới cũ cay đắng thế nào đi
nữa có thể xảy đến cho những cảm xúc của chúng ta, về phương diện lịch
sử, chúng ta có quyền kêu như Goethe: Sollte diese Qual uns qualen/Da
sie unsere Lust vermehr (Dẫu sự hành hạ này có làm chúng ta đau khổ,
nó cũng đem niềm khoái lạc lớn lao cho chúng ta?). New York Daily Tribune, 25 tháng 6 1853 in lại trong Surveys from Exile."
Said còn dẫn một đoạn văn khác của Marx củng cố cho lập luận này:
"Nước
Anh phải làm tròn hai nhiệm vụ ở Ần độ: một đằng phá hủy, mặt khác
tái sinh - triệt tiêu xã hội Á châu và đặt những cơ sở vật chất của xã
hội Tây phương lên Á châu."
Said
giải thích quan điểm của Marx xây dựng trên cách mạng kinh tế-xã
hội, song nguồn gốc vẫn ở trong viễn tượng của những người theo Đông
phương luận, sẵn có thành kiến về phương Đông. Leszek Kolakowski cũng
dẫn đoạn văn trên để hiểu lý giải của Marx về lịch sử, bắt nguồn từ
học thuyết Hegel chủ trương nhiệm vụ lịch sử được những quốc gia hay
những giai cấp đặc thù hoàn tất một cách vô thức, bất chấp những tội
ác và cuồng nhiệt. Cho nên những tội ác của đế quốc Anh có thể được
bao biện cho cuộc cách mạng gần kề. Marx và Engels tin vào những
quyền của một nền văn minh cao hơn đối với một nền văn minh thấp.
Những sự kiện như công cuộc thực dân Pháp ở Algerie chẳng hạn là
những biến cố tiến bộ, nói chung họ hỗ trợ nhiệm vụ lịch sử của những
dân tộc lớn đối với những dân tộc chậm tiến, như Engels nghĩ là Áo
Hung thâu tóm những nước nhỏ vùng Balkan, Ba lan có quyền thống trị
những dân tộc kém phát triển ở phía đông như Lithuanie...
Khái
niệm về "những phương thức sản xuất" của Marx là công cụ cơ bản
trong việc phân chia lịch sử thành những giai đoạn là một khái niệm tây
phương áp đặt lên xã hội, cho nên chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng lúng
túng trong việc lý giải cái gọi là "phương thức sản xuất châu Á" vì,
một phần lớn dân tộc trên địa cầu sống qua bao nhiêu thế kỷ trong
một kinh tế kiểu này, chứng tỏ không có một mẫu mực đồng bộ phát
triển cho toàn thể nhân loại, hai là theo Marx, hệ thống châu Á có
những đặc thù do những yếu tố địa lý, như vậy làm sao chủ trương ưu
thế của kỹ thuật đối với những điều kiện tự nhiên, thứ nữa là hệ
thống này trì trệ chỉ có thể cứu vớt qua sự xâm nhập của những dân tộc
phát triển kinh tế ở những con đường khác. Phương thức sản xuất châu Á
đi ngược lại với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch
sử như vai trò tiên quyết của lực lượng sản xuất, tiến bộ là điều tất
yếu cũng như sự đồng bộ của tiến hóa của con người trong xã hội.
Những
yếu tố dẫn trên có thể chứng tỏ học thuyết về tư bản của Marx áp
dụng vào xã hội phương tây chỉ là một tình cờ của lịch sử; mặt khác nó
bao biện cho quan niệm "chủ nghĩa xã hội có thể xảy ra trong một
nước" theo Lenin và Salin. Làm sao giải thích được vai trò của tác
nhân lịch sử, như Aron gọi nó là "huyền thoại vô sản".
Phê
phán chủ nghĩa duy vật lịch sử là bộ phận chủ yếu của hệ tư tưởng
Mác-xít. Trong những chương trên , khi phân tích và lý giải những vấn đề
then chốt như tha hóa, tư bản, ý thức hệ tôi đã đưa ra những phê
phán từng phần. Xét về toàn bộ chủ nghĩa duy vật lịch sử, một số
những luận điểm cơ bản từng được tranh luận ráo riết trong suốt quá
trình hinh thành và phát triển của chủ nghĩa Mác, về mặt cục bộ là
những tương tranh chí tử giữa Quốc tế đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ, giữa chủ
nghĩa chính thống và chủ nghĩa xét lại, giữa "những chủ nghĩa Mác cá
thể" (như Kautsky, Lukács, Karl Korsch, Mao, Gramsci, Althusser
v.v..), giữa bôn-sê-vích và trốt-kít, ngày nay mất tính cách sách lược
chỉ còn giá trị lịch sử. Những tiền đề trong lý luận phê phán của chủ
nghĩa Mác như chủ nghĩa cộng sản ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản như
một hình thái tổ chức xã hội, hay chủ nghĩa tư bản tất yếu vế mặt
lịch sử phải nhường chỗ cho chủ nghĩa cộng sản, kinh tế quy hoạch xã
hội chủ nghĩa ưu việt hơn kinh tế thị trường, chủ nghĩa tư bản tạo ra
tha hóa, bóc lột, những chu kỳ khủng hoảng và đao quân trừ bị thất
nghiệp đã bị thực tiễn chứng thực không có cơ sở tồn tại.
Phê
phán chủ nghĩa duy vật lịch sử về mặt lý luận có thể xét về ba mặt:
vấn đề (giai cấp) vô sản, vấn đề tác động qua lại giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, vấn đề tồn tại của lịch sử (trong quan hệ
hữu thể xã hội).
Chủ nghĩa duy vật lịch sử hàm ngụ quan niệm duy vật về lịch sử
. Quan niệm duy vật hàm ngụ một triết học duy vật, xét quan hệ giữa
hữu và tư duy, giữa vật chất và tinh thần. Một quan niệm sơ đẳng và
dễ hiểu trong khi tuyên truyền là "ưu thế của vật chất đối với tinh
thần" để phân biệt chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm.
Từ cuốn sách Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (Materialism y empiriokriticism) của Lenin cho đến tài liệu giáo khoa Cơ sở của triết học Mácxit (Osnovy marksistskoj) hoặc Cơ sở của chủ nghĩa Mácxit-Leninit (Osnovy marksizma-leninizma) hay Những nguyên lý sơ đẳng của triết học (Principes élémentaires de Philosophie)
của Georges Politzer thật đơn giản khi khoác cho chủ nghĩa duy tâm,
tiêu biểu là Berkeley quan niệm sự vật chúng ta nhận được qua những
cảm giác không là gì khác hơn những ý tưởng và những ý tưởng không
thể hiện hữu ngoài tinh thần của chúng ta, như vậy sự vật không có
thực tại bên ngoài tinh thần, để giáo dục quần chúng về chủ nghĩa duy
tâm chủ trương tinh thần sinh ra vật chất, thế giới không hiện hữu
ngoài tư tưởng của chúng ta trong khi chủ nghĩa duy vật quan niệm vật
chất là thực tại có trước và tinh thần có sau, phụ thuộc vào vật
chất, không phải tinh thần sáng tạo ra thế giới và vật chất mà chính thế
giới, vật chất hay tự nhiên sinh ra tinh thần, vật chất hiện hữu ở
ngoài tư duy của chúng ta, tinh thần không thể hiện hữu nếu không có
vật chất, không có linh hồn bất tử, độc lập với thể xác, tư tưởng của
chúng ta chỉ là phản ánh của sự vật trong óc con người. Những điều
này thật dễ hiểu đối với lẽ thường của quần chúng, và như vậy chủ
nghĩa duy vật có tính khoa học, chủ nghĩa duy tâm có tính siêu hình
v.v...Những điều nêu trên không phải là sản phẩm của thời Stalin,
nhưng chính nơi Engels và những người sau ông như Plekhanov, Lenin.
Đâu là mối quan hệ thực sự giữa hai thực tại cơ bản này? Những nỗ lực
của triết học hiện đại đã chỉ ra sự phân chia về vật chất và tinh
thần là sự phân chia nội tại cơ bản của con người, nhưng con người là
một hữu thể thống nhất, hoạt động thực tiễn của con người ở thời đại
khoa học kỹ thuật phát triển đã chỉ ra là có tính khu biệt dưới mọi
hình thái nhưng không thể coi những hình thái này tuyệt đối là vật
chất hay tinh thần. Cho nên một lý luận về ưu thế của vật chất đối
với tinh thần không phù hợp ngay với quan niệm của Marx về con người
là một hữu thể thực tiễn. Một khi con người là hữu thể tự do và sáng
tạo, liệu hoạt động tri thức của con người có phải chỉ là phản ánh của
thực tại? Lý luận phản ánh mâu thuẫn với khái niệm về con người, như
Marx quan niệm là toàn bộ những quan hệ xã hội.
Phê phán huyền thoại về vô sản: Tuyên ngôn của đảng Cộng sản
do Marx và Engels được ủy thác soạn thảo vào năm 1848 mở đầu bằng:
Một bóng ma xuất hiện ở châu Ấu - bóng ma chủ nghĩa cộng sản (Ein
Gespenst geht um in Europa - das Gespenst des Kommunismus) và kết thúc ở
câu Vô sản khắp nơi, đoàn kết lại (Proletarier aller Lander,
vereinigt euch!). Khái niệm vô sản lần đầu tiên được hình tượng hóa
để đối đầu với giai cấp tư sản trong vận động biện chứng mà rõ ràng
Marx lấy từ Hegel quan niệm đối lập chủ/nô. Trong sách vở của chủ
nghĩa Marx, sự phân định hai khái niệm giai cấp công nhân với vô sản
còn lẫn lộn, mơ hồ. Trong sách lược đấu tranh, người mác xít dùng từ
công nhân để kêu gọi liên kết với những thành phần khác trong xã hội.
Mặt khác, khi nói đến vô sản nhằm để chỉ thị một giai cấp có ý thức,
song một khi cần thiết, người ta có thể khoác cho nó cái ám ảnh của
một bóng ma, và nhằm phân biệt với một giai tầng thấp hèn, cùng khổ
và sẵn sàng gọi hạng người này là "vô sản lưu manh". Lukács là người
mác xít đầu tiên đã đưa ra một phân định cơ bản cho ý thức giai cấp
khi xác định "đối với vô sản nhận thức toàn diện về vị trí giai cấp
là một tất yếu sinh động, một vấn đề sống chết" và "giai cấp vô sản
vừa là chủ thể và đối tượng trong nhận thức chính mình". Quan niệm
như vậy nhằm chỉ ra là giai cấp vô sản vừa nhận thức chân thực vai trò
và chức năng của mình trong xã hội tư bản, vừa có khả năng làm thay
đổi số phận của mình thông qua hành động cách mạng. Cũng chính Lukács
trong "tự phê bình" và Lucien Goldmann sau này nhận định "một viễn
tượng khải huyền" như vậy "chủ yếu chỉ có giá trị như một khái niệm
lý tưởng, không phải như một thực tế có tính thực tiễn". Lukács muốn
bày tỏ sự thất bại của ông trong việc bắc nhịp cầu nối giữa tiềm năng
cách mạng và ý thức hiện thực vì đã không đào sâu vấn đề "lao động
như một trung gian đối tác trao đổi vật chất giữa xã hội và tự nhiên"
(die Arbeit alsmittler des Stoffwechsels der Gesellschaft mit der
Natur). (Vào cuối đời, Lukács theo đuổi một dự án nghiên cứu Bản thể luận về hữu thể xã hội/Zur Ontologie des gesellschaftlichen Seins, trong đó Lao động là một vấn đề cơ bản, song dự án này còn viết dở dang.)
Làm
thế nào giai cấp vô sản thực hiện được "sứ mạng lịch sử giải phóng"
chính mình, trong khi giai cấp công nhân chỉ là một hiện hữu thường
nghiệm, còn vô sản mới chính là một phạm trù chính trị xã hội mà thực
tế của nó trong tình trạng chuyển biến. Vô sản trở thành một giai
cấp phổ quát nhằm thủ tiêu mọi phân chia giai cấp, nhưng nó chỉ có
thể hoàn thành ý thức giai cấp cách mạng thông qua cách mạng giải
phóng, nghĩa là biến chuyển thành một lực lượng cách mạng đòi hỏi một
trung gian thúc đẩy nó vượt qua cái trực tiếp thô thiển của kinh
nghiệm sống. Trung gian này đóng vai trò chiến đấu tiền phong là một
chính đảng tiền phong của giai cấp vô sản được chỉ đạo bằng một lý luận
tiên tiến nhất. Lukács lập luận chủ nghĩa tư bản tự nó không dẫn đến
tiêu diệt trừ phi những con người cá thể bị áp bức và sẵn sàng chống
lại nó khi đặt mình phục tùng tập thể có nhiệm vụ biến tự do thực sự
thành hiện thực. "Tập thể có ý thức này chính là đảng cộng sản." Đảng
cộng sản hơn hẳn những tổ chức khác về phương diện ý thức giai cấp
một cách thực tiễn và tích cực trực tiếp ảnh hưởng đến những hành
động đặc thù của mọi cá nhân, đồng thời xác định quá trình lịch sử
một cách có ý thức, tóm lại đảng là trung gian cụ thể giữa con người
và lịch sử (konkrete Vermittlung zwischen Mensch und Geschichte). Kỷ
luật và thống nhất là những bộ phận của một toàn thể hoạt động cách mạng
dưới hình thức là đảng như một công cụ để trui rèn ý thức giai cấp
vô sản thông qua thực tiễn lịch sử. Hơn năm mươi năm sau Lịch sử và ý thức giai cấp
của Lukács, thông qua thực tiễn lịch sử, triết gia Nam tư Svetozar
Stojanovíc đã viết một tác phẩm nhái lại Lukács, mang nhan đề Lịch sử và ý thức đảng/Geschichte und Parteibewusstsein
viết bằng ngôn ngữ mẹ đẻ Serbokroat nhung chỉ được xuất hiện qua
tiếng Đức năm 1978. Stojanovíc đã nhìn thấy vấn đề kỷ luật và sự đặt
để toàn diện cá nhân con người vào trong ý chí tập thể của Đảng dưới
một góc cạnh: nguyên tắc của tính đảng tuyệt đối mà Lenin và
Stalin đòi hỏi con người phải sẵn sàng hy sinh không những đời sống mà
cả sự tự trọng và cảm tính của mình. Sojanovíc goi?quan niệm đó là
"yếu tính của Đảng có trước hiện hữu" và "tính bái vật đảng". Nói một
cách nôm na, những gì tích cực là bản chất của đảng, cái bản chất
muôn đời không bị xúc phạm, vượt lên mọi thường nghiệm.
Để minh họa điều này ông kể ra một ví dụ:
Andey Platonov đã thành công khi miêu tả để đời tính bái vật đảng như sau: "Đồng chí có bao giờ nhìn thấy Đảng Cộng sản chưa?
"Thưa đồng chí Pyotr, chưa, họ không bao giờ chỉ cho tôi thấy. Ở trong làng, tôi chỉ thấy đồng chí Chumov!"
"Cũng có nhiều đồng chí Chumov như đồng chí thấy ở đây. Nhưng tôi muốn nói về Đảng thuần túy có cách nhìn toàn diện và quan điểm chính xác toàn diện cơ."
Nhiều
người qua những cuộc thanh trừng ở Liên xô, Trung cộng, Việt nam
v.v... chết đi mà vẫn ngỡ số phận của mình hẩm hiu vì ngộ nhận, không
phải do hậu quả của bản chất thật nơi đảng của họ. Trò ảo thuật ?tự
phê" thường được áp dụng tinh vi đối với nạn nhân, như Sima Markovíc
bị Chủ tịch Quốc tế Cộng sản III bắt viết thư tự phê để sau đó bị
giết ở Liên Xô. Slansky bị ép rời chức Tổng bí thư đảng CS Tiệp và
viết tự phê cũng bị đưa ra xét xử và hành quyết.
Phê phán huyền thoại tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Quan niệm duy vật về lịch sử khởi từ Marx trong tham vọng đưa ra một
cái nhìn toàn diện về lịch sử con người, đồng thời lại muốn tìm ra
cái then chốt vận động quá trình lịch sử diễn ra theo những quy luật
nào. Trong hai tác phẩm của Trần Đức Thảo ở hai giai đoạn khác nhau,
ông vẫn tin cái lý nhất quán xuyên suốt là quy luật tác động qua lại
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xác định chuyển biến của
lịch sử con người, theo quan điểm duy vật lịch sử của Marx.
Trong
chương 5, quan điểm của Marx đã được dẫn ra là "những quan hệ sản
xuất tương ứng với mỗi giai đoạn đặc thù phát triển những lực lượng
sản xuất vật chất", do đó ông đã phân chia lịch sử xã hội con người
theo những hình thái xã hội phù hợp với khả năng sản xuất của con
người. Lịch sử tiến hóa theo một quy tắc là hình thái xã hội này bị
tiêu diệt để được thay thế bằng một hình thái mơi?do kết quả của sự
phát triển sản xuất. Phát triển đó được xác định bằng tác động qua
lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mặc dù điều này có
thể khiến cho Karl Marx bị phê phán là tất định kinh tế, song những công
trình nghiên cứu về tư bản của ông nhằm muốn chứng minh mấy luận
điểm như chủ nghĩa tư bản dựa vào tiến bộ khoa học kỹ thuật khiến lực
lượng sản xuất ngày càng phát triển, tuy nhiên nó bị ràng buộc trong
những quan hệ sản xuất của xã hội tư bản, nên tất yếu đến một lúc
nào đó, những lực lượng sản xuất vật chất đi đến chỗ mâu thuẫn với
những quan hệ sản xuất đã xiềng xích nó, dẫn đến cách mạng xã hội.
Tại sao lại dẫn đến cách mạng? Quan hệ đảo nghịch (Verkehrung) trong Tư bản
chỉ ra quá trình khách thể hóa, trong đó sản phẩm của lao động là sở
hữu tha hóa và quá trình tư bản là chiếm đoạt lao động tha hóa, tạo
thành quyền lực đối lập với lao động sống. Cho nên những quy luật về
khủng hoảng, đấu tranh giai cấp và mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
với quan hệ sản xuất dẫn đến xung đột, khởi sự cho cách mạng xã hội.
Vận động tác động qua lại diễn ra trên toàn bộ lịch sử theo một quá
trình liên lỉ từ những quan hệ xã hội của sản xuất nhằm giai thích
những cơ cấu ý thức hệ chính trị, thượng tầng cơ sở, những quan hệ xã
hội này được giải thích qua mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật
và toàn bộ tổ chức trong quá trình sản xuất, tức là những lực lượng sản
xuất. Hướng đi của lịch sử là cấu trúc nhân quả liên kết lực lương
sản xuất, quan hệ sản xuất và thượng tầng cấu trúc như đã nói đến ở
những phần trên.
G.A.
Cohen là một trong những nhà mác xít phân tích cùng với John Elster,
John Roemer đã có tham vọng giải thích những điều không minh bạch
trong tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
cũng như vai trò của vô sản tong cuộc cách mạng xã hội này trong Lý luận về lịch sử của Kark Marx/Karl Marx'sTheory of Histoire.
Lý luận về lịch sử này dựa trên mối quan hệ nêu trên trong "phương
thức sản xuất" đặc thù của lịch sử, đó là chủ nghĩa tư bản. Theo
Cohen, lực lượng sản xuất bao gồm những công cụ sản xuất, nguyên liệu
và những khả năng sản xuất của công suất lao động bao gồm tài năng,
kiến thức, óc sáng tạo và cả khoa học sử dụng sản xuất; quan hệ sản
xuất chỉ ra mẫu hình làm chủ lực lượng sản xuất, cấu trúc giai cấp
đặc thù ở mỗi phương thức sản xuất lịch sử. Khi đi phân tích bài Tựa
nổi tiếng 1859 trong Góp phần phê phán kinh tế chính trị học (X.
chương 4 ở trên), Cohen lập luận trên hai luận điểm chính, luận điểm
về ưu tiên và luận điểm phát triển. Luận điểm ưu tiên của lực lượng
sản xuất được thảo luận trong chương VI nhằm chứng minh là những quan hệ
sản xuất đặc thù trong một xã hội nhất định được thuận lợi là do sự
phát triển của lực lượng sản xuất, khi những lực lượng này phát
triển, những quan hệ cũ trở thành gông cùm của nó, phải thay thế bẵng
những quan hệ mới, do đó lực lượng sản xuất có ưu thế hơn quan hệ
sản xuất trong năng động của lịch sử. Cohen đã sử dụng lôgích giải
thích theo chức năng (functional explanation), nghĩa là giải thích
một sự việc căn cứ vào những hậu quả của sự việc. Tuy nhiên làm thế
nào chỉ ra được lực lượng sản xuất có ưu thế một khi sự phát triển
của nó chỉ xảy đến qua những quan hệ sản xuất.Điều này còn hàm ý là
những quan hệ sản xuất mới thực sự có ưu thế trước lực lượng sản xuất,
hay nói cho cùng, chỉ có tác động qua lại giữa quan hệ và lực lượng
và không thể nói cái này có ưu thế hơn cái kia. Luận điểm phát triển
của Cohen dựa trên xu hướng tự trị để phát triển những lực lượng sản
xuất trong lịch sử, mặc dầu sự phát triển này chỉ thực hiện qua những
quan hệ sản xuất đặc thù. Viện dẫn Marx trong thư gửi Annenkov ngày
28 tháng 12, 1846 tin vào xu hướng tự trị của lực lượng sản xuất phát
triển tạo cho lịch sử có mạch lạc, Cohen lập luận xu hướng này nhờ
vào một số những sự kiện của bản chất và hoàn cảnh con người là tính
thuần lý, sự khan hiếm, mức độ trí tuệ "tạo cơ hội mở mang quyền lực sản
xuất" thực hiện sao cho không phi lý.
Cohen
quan niệm mức độ những lực lượng sản xuất quyết định khi nào cách
mạng có thể thành công hay không, tuy nhiên lịch sử không thể giải
thích qua đấu tranh giai cấp, mà do lực lượng sản xuất có chịu đựng
xiềng xích của quan hệ sản xuất. Giải thích của Cohen dựa vào khái
niệm trừu tượng của tác động thuần lý, lại bỏ qua điều kiện thiết yếu
cho giai cấp cách mạng có khả năng lật đổ giai cấp cầm quyền một khi
lực lượng sản xuất bị câu thúc.
Phê phán sự tồn tại của lịch sử: Trong
phần thảo luận trên về những luận điểm của một nhà Mác-xít phân tích
G.A. Cohen (nhằm bảo lưu quan niệm tất định trình bày trong bài tựa
1859 của Marx), là những lý chứng phê phán lý luận tất định lịch sử
của chủ nghĩa Mác. Lý luận này đã hạ thấp vai trò của con người (cá
thể hay tập thể) trong biến đổi xã hội. Khi Marx quan niệm không hình
thái xã hội nào mất đi trước khi những lực lượng sản xuất phát
triển, trong khi thực ra sự biến đổi quan hệ sản xuất mới thực sự
quan trọng. Chính quan niệm này được áp dụng vào "chủ nghĩa xã hội xảy
ra trong một nước" đã tạo những tệ nạn trong việc hình thành chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô như việc tập thể hóa sản xuất nông nghiệp một cách
tàn bạo, việc tập trung quyền lực chính trị, khủng bố chính trị và
phát triển thống trị trong tay bọn bộ Chính trị thư lại.
Jurgen Habermas đã có những nỗ lực tái tạo chủ nghĩa duy vật lịch sử trong tác phẩm mang nhan đề: Zur Rekonstruktion des Historischen Materialismus. Trong khi đọc lại Marx để xem xét những khái niệm lao động xã hội (gesellschaftliche Arbeit) và lịch sử chủng loại (historische Gattungsgeschichte) qua những dẫn chứng:
"Con người bắt đầu phân biệt chính mình với con vật vào lúc khởi sự sản xuất
ra những phương tiện tồn tại, một bước yêu cầu của tổ chức thể chất.
Khi làm ra thực phẩm, con người gián tiếp tạo ra chính đời sống vật
chất của mình."
"Tạo
ra" ở đây không phải chỉ có những hành động sử dụng công cụ của cá
nhân mà cả "sự hợp tác xã hội" của nhiều cá nhân khác:
"Tạo
ra đời sống, của chính đời sống của người này trong lao động, và của
người khác trong sinh đẻ, giờ đây xuất hiện như một quan hệ kép: là
quan hệ tự nhiên về mặt này và là quan hệ xã hội về mặt kia. Mặt xã
hội theo ý nghĩa những cá thể hợp tác, dưới bất kỳ điều kiện nào,
cách thức và mục đích nào."
Theo
Habermas lý giải, những hành động sử dụng công cụ của những cá thể
khác nhau được điều hợp theo đường lối thuần lý có mục đích với một quan
điểm hướng về mục tiêu sản xuất. Ông gọi những quy luật của hành động sách lược
phù hợp với sự cộng tác vừa nói là một thành phần thiết yếu của quá
trình lao động. Những phương tiện tồn tại được sản xuất ra nhằm để
tiêu thụ, và phân phối sản phẩm cũng dược tổ chức có tính cách xã hội
đòi hỏi những quy luật đối tác có thể sắp đặt giữa những chủ thể
trên mức độ hiểu biết ngữ văn, không là trường hợp riêng lẻ mà thường
trực theo những quy phạm nhận thức, ông gọi là những quy luật hành động thông giao.
Trong
khi duy trì đời sống bằng lao động xã hội, đồng thời con người tạo
ra những quan hệ vật chất của đời sống, xã hội cũng như quá trình lịch
sử trong đó những cá thể biến đổi cùng với xã hội của họ. Tạo lại
lịch sử chủng loại này dựa trên phương thức sản xuất, biểu hiện qua
tình trạng phát triển lực lượng sản xuất với những hình thái quan hệ
sản xuất. Lý luận về tiến hóa xã hội của Marx đã đề ra một số vấn đề
trong khi Habermas phê phán chủ nghĩa duy vật lịch sử: lý luận của
Marx đã giản lược đối tác trong mô hình sản xuất chỉ có thể được minh
giải trên bình diện thông giao. Nói khác đi cơ sở nhận thức của chủ
nghĩa duy vật lịch sử phải cần tới lý luận đối tác thông giao, nghĩa
là xét trên bình diện đối tác, phân biệt với mô hình sản xuất của Marx.
Theo Habermas, chủ nghĩa duy vật lịch sử đặt trọng tâm vào những lực
lượng sản xuất đã không xét đến hiện tượng cấu trúc thượng tầng
(Uberbauphanomen), đặc biệt là văn hóa là một nhân tố quan trọng
trong biến đổi xã hội. Những cấu trúc của liên chủ thể tạo ra về mặt
ngôn ngữ là những điều kiện thiết yếu cho những hệ thống nhân cách và
xã hội. Cơ sở trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa những hành động
thông giao, tức những hệ thống xã hội và nhân cách, tức những con
người cá thể là một lý luận về khả năng nói và làm, quan hệ giũa
thông giao và đối tác. Habermas nhận định là Marx và Engels không hiểu
nội dung của truyền thống văn hóa đơn giản là ý thức hệ. Ông phân
biệt truyền thống văn hóa với ý thức hệ nhằm trả lời câu hỏi đặt ra
là liệu triết học có phải là một lực lượng sản xuất hay là một ngụy
thức?
Trong
những thảo luận về sau, Habermas phân tích tình trạng biến đổi của
văn hóa trong chủ nghĩa tư bản về sau, sự lớn mạnh của khoa học kỹ thuật
là động lực phát triển những lực lượng sản xuất, những nỗ lực làm
mới triết học nguyên ủy (Ursprungsphilosophie). Những nỗ lực triết lý
này, bao gồm cả những nhà lý luận Mác xít như hình thái triệt để
nhất của tự phản tỉnh đã mất tính tự trị khi đối chiếu với những khoa
học. Triết học để tồn tại phải đáp ứng được yêu cầu thống nhất và
phổ quát, bao hàm thống nhất tự nhiên và lịch sử. Triết lý là một lực
lượng sản xuất tạo ra sự thống nhất thuần lý tương tự như thống nhất
xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử không có chiều kích thiết yếu đáp
ứng yêu cầu này: Marl thất bại trong việc đặt được cơ sở khả hữu của
nhận thức, mặt khác khi dựa trên phương thức sản xuất Marx không duy
trì được sự phân cách thiết yếu giữa lao động và đối tác, giữa sinh
giới và hệ thống. Chỉ có lý luận về hành động thông giao khả dĩ thiết
lập được quan hệ nội tại giữa thực tiễn và lý tính. Lý luận này loại
bỏ khả năng của chủ nghĩa duy vật lịch sử trên cả hai mặt lý thuyết
và thực tiễn.
Ðặng Phùng Quân
Friday, June 26, 2009
THƠ BẮC PHONG
Tâm sự Tô Hải: Đại bàng cánh cụt
22/06/2009 | 9:00 sáng |
vì gia đình sống băn khoăn nhục hèn
khóa miệng lòng vẫn buồn len
đôi khi tự nghĩ đã quen tính người
lúc viết ông đã hưu rồi
ngoài bẩy mươi viết để nguôi nhẹ lòng
bao lần nín thở qua sông
là bao lần thấy mình không đáng gì
vợ đầu đường bán bánh mì
chút lương hưu trí lo chi thân già
nghĩ may hơn vạn người ta
dù sao cũng đã sống qua cơ hàn
một thời vì đảng vì dân
tranh cổ động vẽ bằng âm thanh lòng
bao huân chương giải thi công
ông phủ nhận hết nhạc hồng đấu tranh
ông định bắt chước bạn văn
in sách lúc hết nghiệp căn với đời
bạn ông tính toán hơn người
quyền lợi đã hưởng ai đòi thây ma
nhưng nhiều người ông nhận ra
viết bạo viết nổ bằng ba bốn mình
nên ông quyết định sống vinh
gửi sách hải ngoại cho in lúc này
nội dung sách ông nói ngay
những năm ông sống đóng vai thằng hèn
viết nhạc ít viết từ tim
thấy người hoạn nạn mắt nhìn quay đi
ông sợ tử biệt sinh ly
bưng tai bịt mắt cũng vì chữ an
viết xin lỗi với nhân dân
viết lời thú tội hay trần tình thôi
bao nhiêu cay đắng mảnh đời
bao nhiêu cảnh ngộ bao người hàm oan
bao nhiêu thủ đoạn đảng đoàn
bao nhiêu xảo trá ông mang tỏ bầy
những năm bầm dập sửa sai
cải cách ruộng đất đọa đầy chủ nông
lòng chống nhưng miệng nín câm
một núi mâu thuẫn âm thầm lớn lên
đảng và nhà nước bạo quyền
gây bao tội ác oan khiên cho người
mang thân trâu ngựa rã rời
từ tuổi niên thiếu đến nơi huyệt nằm
người sẵn sàng biến thịt bằm
cho những khẩu hiệu quyết tâm đảng đoàn
dù còn có chiếc lai quần
cũng đánh đế quốc đấu tranh tới cùng
có xã không bóng đàn ông
khăn tang trắng xóa khóc chồng khóc cha
khóc con khóc phận đàn bà
người dân đau khổ xót xa vô cùng
ông biết mình kẻ lạc đường
nhưng hèn nhát chẳng dám dừng bước đi
muốn dừng cũng chẳng dễ gì
đảng xô đẩy bước tới vì nhân dân
đi theo cờ đỏ sao vàng
bao nhiêu nô lệ hiến dâng đời mình
bao kẻ mù quáng hy sinh
vì lòng yêu đảng hơn tình núi sông
ông kể bè lũ văn công
hại người cầm bút có lòng cách tân
điển hình là nhóm nhân văn
mấy chục năm phải mang thân tội đồ
phục hồi đời đã xác xơ
còn chút sáng tạo bơ phờ văn chương
gần chết mới hết tai ương
nhưng vẫn còn sợ bị lường gạt thêm
đời ông sống nhục sống hèn
nhưng ông can đảm nói lên cuối đời
với bao tội ác phanh phui
vứt rác chủ nghĩa nặng mùi tử thi
với đảng ông hết hoài nghi
thành tích cách mạng nghĩa gì nữa đâu
của cải tham nhũng chia nhau
cán bộ sung sướng cơ cầu mặc dân
cộng sản giả dối cái tên
tha hóa các lớp đảng viên hết rồi
chúng sẽ phải đổi lốt thôi
đảng đoàn ăn cướp đến hồi phải tan
ai hèn hãy nhận mình hèn
ông khuyên bỏ bóng tối đen lạc loài
vứt bỏ tất cả chiêu bài
dậy con cháu sống thẳng ngay nghĩa tình
ông viết hồi ký bằng tim
vì bạc đầu vẫn không quên nhục buồn
ông đã phanh ngực xé lòng
cất lên tiếng rú cuối cùng đớn đau
viết cho thế hệ mai sau
mắt nhìn can đảm thẳng vào bất công
dù cho đời có bão giông
tung cánh chim lạc chim hồng vút bay
đọc văn hiểu nỗi đau dài
vì lương tâm phải có ngày nói ra
sự thật ông viết xót xa
làm người chỉ muốn sống là người thôi
=
22/06/2009 | 9:00 sáng |
Tác giả:
Bắc Phong
tất cả chỉ vì miếng ănBắc Phong
vì gia đình sống băn khoăn nhục hèn
khóa miệng lòng vẫn buồn len
đôi khi tự nghĩ đã quen tính người
lúc viết ông đã hưu rồi
ngoài bẩy mươi viết để nguôi nhẹ lòng
bao lần nín thở qua sông
là bao lần thấy mình không đáng gì
vợ đầu đường bán bánh mì
chút lương hưu trí lo chi thân già
nghĩ may hơn vạn người ta
dù sao cũng đã sống qua cơ hàn
một thời vì đảng vì dân
tranh cổ động vẽ bằng âm thanh lòng
bao huân chương giải thi công
ông phủ nhận hết nhạc hồng đấu tranh
ông định bắt chước bạn văn
in sách lúc hết nghiệp căn với đời
bạn ông tính toán hơn người
quyền lợi đã hưởng ai đòi thây ma
nhưng nhiều người ông nhận ra
viết bạo viết nổ bằng ba bốn mình
nên ông quyết định sống vinh
gửi sách hải ngoại cho in lúc này
nội dung sách ông nói ngay
những năm ông sống đóng vai thằng hèn
viết nhạc ít viết từ tim
thấy người hoạn nạn mắt nhìn quay đi
ông sợ tử biệt sinh ly
bưng tai bịt mắt cũng vì chữ an
viết xin lỗi với nhân dân
viết lời thú tội hay trần tình thôi
bao nhiêu cay đắng mảnh đời
bao nhiêu cảnh ngộ bao người hàm oan
bao nhiêu thủ đoạn đảng đoàn
bao nhiêu xảo trá ông mang tỏ bầy
những năm bầm dập sửa sai
cải cách ruộng đất đọa đầy chủ nông
lòng chống nhưng miệng nín câm
một núi mâu thuẫn âm thầm lớn lên
đảng và nhà nước bạo quyền
gây bao tội ác oan khiên cho người
mang thân trâu ngựa rã rời
từ tuổi niên thiếu đến nơi huyệt nằm
người sẵn sàng biến thịt bằm
cho những khẩu hiệu quyết tâm đảng đoàn
dù còn có chiếc lai quần
cũng đánh đế quốc đấu tranh tới cùng
có xã không bóng đàn ông
khăn tang trắng xóa khóc chồng khóc cha
khóc con khóc phận đàn bà
người dân đau khổ xót xa vô cùng
ông biết mình kẻ lạc đường
nhưng hèn nhát chẳng dám dừng bước đi
muốn dừng cũng chẳng dễ gì
đảng xô đẩy bước tới vì nhân dân
đi theo cờ đỏ sao vàng
bao nhiêu nô lệ hiến dâng đời mình
bao kẻ mù quáng hy sinh
vì lòng yêu đảng hơn tình núi sông
ông kể bè lũ văn công
hại người cầm bút có lòng cách tân
điển hình là nhóm nhân văn
mấy chục năm phải mang thân tội đồ
phục hồi đời đã xác xơ
còn chút sáng tạo bơ phờ văn chương
gần chết mới hết tai ương
nhưng vẫn còn sợ bị lường gạt thêm
đời ông sống nhục sống hèn
nhưng ông can đảm nói lên cuối đời
với bao tội ác phanh phui
vứt rác chủ nghĩa nặng mùi tử thi
với đảng ông hết hoài nghi
thành tích cách mạng nghĩa gì nữa đâu
của cải tham nhũng chia nhau
cán bộ sung sướng cơ cầu mặc dân
cộng sản giả dối cái tên
tha hóa các lớp đảng viên hết rồi
chúng sẽ phải đổi lốt thôi
đảng đoàn ăn cướp đến hồi phải tan
ai hèn hãy nhận mình hèn
ông khuyên bỏ bóng tối đen lạc loài
vứt bỏ tất cả chiêu bài
dậy con cháu sống thẳng ngay nghĩa tình
ông viết hồi ký bằng tim
vì bạc đầu vẫn không quên nhục buồn
ông đã phanh ngực xé lòng
cất lên tiếng rú cuối cùng đớn đau
viết cho thế hệ mai sau
mắt nhìn can đảm thẳng vào bất công
dù cho đời có bão giông
tung cánh chim lạc chim hồng vút bay
đọc văn hiểu nỗi đau dài
vì lương tâm phải có ngày nói ra
sự thật ông viết xót xa
làm người chỉ muốn sống là người thôi
=
BBC * TÔ HẢI
Nhà văn Tô Hải và 'Hồi ký một thằng hèn'
Media Player
Nhạc sỹ Tô Hải năm nay 83 tuổi, là tác giả một số tác phẩm giao hưởng - hợp xướng và bài hát nổi tiếng. Ông đã nói chuyện với BBC về cuốn hồi ký mà ông nói là hoàn thành từ năm 2007:
Nhạc sỹ Tô Hải: Tôi viết hồi ký này từ năm 2000, hoàn thành 2007. Lúc ấy tôi có ý định là tới 2010 mới xuất bản vì nghĩ nếu cuốn sách tung ra sẽ gây lôi thôi. Nhưng nói thực, bây giờ nhiều người viết còn 'ghê' hơn tôi.
Nên tôi mới bảo mình: Chả lẽ cứ hèn mãi như thế này? Trong cuốn sách có một chương tựa đề 'Tôi đã hết hèn', thế nhưng mà sự thực thì sao?
BBC: Chính xác bao giờ cuốn sách sẽ xuất bản, thưa ông?
Nhạc sỹ Tô Hải: Tôi được nhà xuất bản (Tiếng Quê Hương, California, Hoa Kỳ) cho biết là trong khoảng từ 5-10 tháng Năm.
BBC: Thưa ông, từ 'hèn' tới 'hết hèn' là cả một quãng đường dài. Lúc nào thì ông cảm thấy mình đã 'hết hèn'?
Nhạc sỹ Tô Hải: Ngay từ khi tôi mới vào Sài Gòn này, khi tôi thấy là cái gọi là chủ nghĩa cộng sản chẳng có thật ở Việt Nam bao giờ.
Khi tôi vào Đảng, tôi nghĩ là để làm theo đúng những gì ông Marx, ông Lenin nói. Té ra là không phải. Anh lên nắm chính quyền, từ chính quyền xã, thì đều là "Mỗi người làm việc bằng hai, để ông chủ tịch mua đài mua xe".
Trong hồi ký tôi có viết một câu: "Sau cải cách ruộng đất tôi bỗng tỉnh người ra, té ra là chưa bao giờ có chủ nghĩa cộng sản thực sự".
Thế nhưng cuốn sách của tôi chủ yếu chỉ nói về các sai lầm, tội ác đối với văn nghệ thời xưa mà thôi. Như chúng tôi đã phải khổ, phải hèn như thế nào.
Ăn lương nhà nước mà không viết lách thì bị kiểm thảo, thậm chí viết những cái vô thưởng vô phạt mà người ta còn bắt bẻ.
Những cái đó bây giờ các ông lãnh đạo ngày hôm nay đã sửa rồi, đã cho phục hồi Tự lực Văn đoàn, tặng giải thưởng cho Nhân văn Giai phẩm, cho tái bản Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Trần Dần, đã cho đặt Lê Đạt vào nhà tang lễ của nhà nước.
Các ông ấy đang sửa, chỉ có điều các ông ấy chưa công bố chính thức, chưa xin lỗi đồng bào.
Mà tôi nghĩ các ông ấy bây giờ cũng không phải cộng sản như kiểu Karl Marx, Lenin-Stalin nữa.
BBC: Ông có nói về thời kỳ đau thương của văn nghệ Việt Nam, khi mà gần như ai cũng bị buộc phải 'hèn'. Nhưng ông đã ra khỏi quân đội, xin ra khỏi Đảng. Vậy đó có thể gọi là 'hèn' được hay không?
Nhạc sỹ Tô Hải: Tôi là cái loại 'hèn anh hùng' (cười).
Tại vì tôi hèn nhưng không chịu tiếp tục hèn. Nếu tôi cứ hèn mãi thì khi ra quân đội, tôi cũng có chức vụ tối thiểu là đại tá, cũng giải thưởng này nọ. Nhưng tôi bỏ tất.
Tôi về hưu non, tôi không bao giờ đặt bút viết cái gì nữa cả.
Khổ cái là, cái nghề của bọn tôi không thể viết âm nhạc chửi bới, không viết kiểu ông Tú Mỡ được.
BBC: Thưa, ông nghĩ người ta sẽ đón nhận hồi ký của ông như thế nào ạ?
Nhạc sỹ Tô Hải: Tôi chỉ mong để lại cho con cháu, thế hệ sau biết là cha ông chúng nó đã phải sống một cuộc đời hèn hạ như thế đấy.
Tôi có viết một chương rất đau khổ là: chẳng qua chỉ vì miếng ăn. Vợ con lơ mơ là nó cho chết đói, nó đuổi mình ra khỏi biên chế, cắt sổ gạo, không cho sáng tác, thế là khổ thôi.
Tôi tảo hôn, năm 23 tuổi, đến khi hòa bình lập lại ở miền Bắc thì tôi đã có ba con, chẳng lẽ để chúng nó chết đói? Thế là phải hèn.
Đưa người ta vào chỗ hèn hạ như vậy là chính sách của những tay lãnh đạo cũ.
Cuốn sách của tôi chỉ là nói những gì người ta biết cả rồi. Nhưng đối với thế hệ trẻ, hay những người ở miền Nam, thì có thể người ta không tưởng tượng nổi.
BBC: Ông có quan ngại sẽ gặp rắc rối gì khi cuốn sách ra đời không, thưa ông?
Nhạc sỹ Tô Hải: Tôi đã chuẩn bị cả rồi, cho cả vợ con nữa. Gia đình mới của tôi chỉ có bà vợ với đứa con. Bà ấy bán bán mì ở đầu đường thì cùng lắm là bị cấm bán. Còn tôi, thì tôi sẵn sàng thôi. Mà tôi viết cũng chưa ăn thua gì so với nhiều người.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/av/2009/04/090425_phongvan_tohai.shtml
Media Player
Dư luận gần đây nói nhiều về một cuốn sách sắp xuất bản đầu tháng Năm tới.
Đó
là cuốn 'Hồi ký một thằng hèn' của nhạc sỹ Tô Hải, nói về
cuộc sống và hoàn cảnh sáng tác cùng cực của văn nghệ sỹ
miền Bắc thời kỳ trước 1975.Nhạc sỹ Tô Hải năm nay 83 tuổi, là tác giả một số tác phẩm giao hưởng - hợp xướng và bài hát nổi tiếng. Ông đã nói chuyện với BBC về cuốn hồi ký mà ông nói là hoàn thành từ năm 2007:
Nhạc sỹ Tô Hải: Tôi viết hồi ký này từ năm 2000, hoàn thành 2007. Lúc ấy tôi có ý định là tới 2010 mới xuất bản vì nghĩ nếu cuốn sách tung ra sẽ gây lôi thôi. Nhưng nói thực, bây giờ nhiều người viết còn 'ghê' hơn tôi.
Nên tôi mới bảo mình: Chả lẽ cứ hèn mãi như thế này? Trong cuốn sách có một chương tựa đề 'Tôi đã hết hèn', thế nhưng mà sự thực thì sao?
BBC: Chính xác bao giờ cuốn sách sẽ xuất bản, thưa ông?
Nhạc sỹ Tô Hải: Tôi được nhà xuất bản (Tiếng Quê Hương, California, Hoa Kỳ) cho biết là trong khoảng từ 5-10 tháng Năm.
BBC: Thưa ông, từ 'hèn' tới 'hết hèn' là cả một quãng đường dài. Lúc nào thì ông cảm thấy mình đã 'hết hèn'?
Nhạc sỹ Tô Hải: Ngay từ khi tôi mới vào Sài Gòn này, khi tôi thấy là cái gọi là chủ nghĩa cộng sản chẳng có thật ở Việt Nam bao giờ.
Khi tôi vào Đảng, tôi nghĩ là để làm theo đúng những gì ông Marx, ông Lenin nói. Té ra là không phải. Anh lên nắm chính quyền, từ chính quyền xã, thì đều là "Mỗi người làm việc bằng hai, để ông chủ tịch mua đài mua xe".
Trong hồi ký tôi có viết một câu: "Sau cải cách ruộng đất tôi bỗng tỉnh người ra, té ra là chưa bao giờ có chủ nghĩa cộng sản thực sự".
Thế nhưng cuốn sách của tôi chủ yếu chỉ nói về các sai lầm, tội ác đối với văn nghệ thời xưa mà thôi. Như chúng tôi đã phải khổ, phải hèn như thế nào.
Ăn lương nhà nước mà không viết lách thì bị kiểm thảo, thậm chí viết những cái vô thưởng vô phạt mà người ta còn bắt bẻ.
Những cái đó bây giờ các ông lãnh đạo ngày hôm nay đã sửa rồi, đã cho phục hồi Tự lực Văn đoàn, tặng giải thưởng cho Nhân văn Giai phẩm, cho tái bản Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Trần Dần, đã cho đặt Lê Đạt vào nhà tang lễ của nhà nước.
Các ông ấy đang sửa, chỉ có điều các ông ấy chưa công bố chính thức, chưa xin lỗi đồng bào.
Mà tôi nghĩ các ông ấy bây giờ cũng không phải cộng sản như kiểu Karl Marx, Lenin-Stalin nữa.
BBC: Ông có nói về thời kỳ đau thương của văn nghệ Việt Nam, khi mà gần như ai cũng bị buộc phải 'hèn'. Nhưng ông đã ra khỏi quân đội, xin ra khỏi Đảng. Vậy đó có thể gọi là 'hèn' được hay không?
Nhạc sỹ Tô Hải: Tôi là cái loại 'hèn anh hùng' (cười).
Tại vì tôi hèn nhưng không chịu tiếp tục hèn. Nếu tôi cứ hèn mãi thì khi ra quân đội, tôi cũng có chức vụ tối thiểu là đại tá, cũng giải thưởng này nọ. Nhưng tôi bỏ tất.
Tôi về hưu non, tôi không bao giờ đặt bút viết cái gì nữa cả.
Khổ cái là, cái nghề của bọn tôi không thể viết âm nhạc chửi bới, không viết kiểu ông Tú Mỡ được.
BBC: Thưa, ông nghĩ người ta sẽ đón nhận hồi ký của ông như thế nào ạ?
Nhạc sỹ Tô Hải: Tôi chỉ mong để lại cho con cháu, thế hệ sau biết là cha ông chúng nó đã phải sống một cuộc đời hèn hạ như thế đấy.
Tôi có viết một chương rất đau khổ là: chẳng qua chỉ vì miếng ăn. Vợ con lơ mơ là nó cho chết đói, nó đuổi mình ra khỏi biên chế, cắt sổ gạo, không cho sáng tác, thế là khổ thôi.
Tôi tảo hôn, năm 23 tuổi, đến khi hòa bình lập lại ở miền Bắc thì tôi đã có ba con, chẳng lẽ để chúng nó chết đói? Thế là phải hèn.
Đưa người ta vào chỗ hèn hạ như vậy là chính sách của những tay lãnh đạo cũ.
Cuốn sách của tôi chỉ là nói những gì người ta biết cả rồi. Nhưng đối với thế hệ trẻ, hay những người ở miền Nam, thì có thể người ta không tưởng tượng nổi.
BBC: Ông có quan ngại sẽ gặp rắc rối gì khi cuốn sách ra đời không, thưa ông?
Nhạc sỹ Tô Hải: Tôi đã chuẩn bị cả rồi, cho cả vợ con nữa. Gia đình mới của tôi chỉ có bà vợ với đứa con. Bà ấy bán bán mì ở đầu đường thì cùng lắm là bị cấm bán. Còn tôi, thì tôi sẵn sàng thôi. Mà tôi viết cũng chưa ăn thua gì so với nhiều người.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/av/2009/04/090425_phongvan_tohai.shtml
TRUYỆN NGẮN
ĐÁM CƯỚI XƯA
Khuyết danh
Khi gả về nhà anh, chị mười sáu, anh lên năm tuổi. Anh là con độc đinh, cha mẹ quý hơn vàng, chỉ tiếc anh quá nhiều bệnh tật.
Ông nội ở ngoài buôn bán nhỏ, gom được tí tiền. Bà nội tin Phật, một lòng thành kính, một lần bà nội xin được một quẻ xăm giữa miếu ngụt khói hương, nói ph ải cưới một cô vợ hơn tuổi cho thằng cháu đích tôn thì nó mới qua được vận hạn.
Bà nội đương nhiên tin vào lời Phật dạy chúng sinh nơi khói hương vòng quanh chuông chùa ngân nga, bởi thế ông bà nội bàn tính, đưa lễ hậu, kháo tin quanh vùng tìm mối nhân duyên cho anh.
Nhà chị năm miệng ăn, trông vào mấy sào ruộng bạc màu, chỉ đủ miếng cháo, mùa đông, cha chị vì muốn kiếm thêm ít đồng ra đồng vào, theo người ta lên núi đập đá, tiền chưa kiếm được, nhưng bị đá vỡ dập lưng, tiêu hết cả gia sản, bán sạch cả lương thực, bệnh không khỏi.
Hằng ngày cha chị chỉ có thể nằm trên giường, muốn chết mà chẳng chết cho. Hai đứa em trai còn chưa đủ tuổi lớn. Nỗi khổ sở của gia đình, nỗi ai oán của mẹ, làm những năm thời con gái của chị mang một gánh nặng tâm tư.
Vì thế bà mối đến, réo rắt: "Gả cô nhà đi, tiền thì để dưỡng bệnh cho cha, còn đỡ đần được tiền tiêu trong nhà".
Mẹ chị lắc đầu, nào có ai muốn đẩy đứa con gái thơ dại của mình vào lò lửa? Nhưng chị xin: "Mẹ, cho con đi nhé, chỗ tiền ấy có lẽ chữa khỏi cho cha!".
Tiếng kèn đón dâu thổi váng đầu ngõ trước ngôi nhà nhỏ của chị. Bố chị nằm trên giường tự đấm ngực mình; Con gái phải đem đổi tuổi thanh xuân, chấp nhận lấy một người chả xứng với mình chỉ vì cứu tôi và cứu gia đình này thôi ư!
Mẹ chị chảy nước mắt, tự tay mình cài lên tóc con gái cây trâm gài. Chị mặc áo đỏ đi giày thêu cúi lạy cha m , tự buông tấm khăn đỏ che đầu mình, nước mắt lúc đó mới chảy ra, trộn phấn má hồng.
Từ đó, số phận cuộc đời chị và hôn nhân giao cả về tay một đứa con nít vô tri.
2. Cười xót xa
Bà mẹ chồng trẻ tuổi không phải là người khắt khe khó tính, bố chồng ở xa cũng chẳng cần chị tam khấu cửu bái, lạy chào dạ vâng. Anh vâng lời mẹ gọi chị là chị gái.
Hằng ngày, chị ngoài việc giúp mẹ chồng chăm ruộng rau và làm xong việc nhà, thì cắt thuốc cho chồng, sắc thuốc, may áo cho chồng, giặt giũ, cho chồng chơi, cho chồng ngủ, có lúc, anh ho suốt đêm, sốt cao, chị thức cả đêm chườm khăn hạ sốt, cho anh uống nước, uống thuốc.
Trong tim chị, chị coi anh như một đứa em trai.
Hàng xóm láng giềng gặp chị, chị thường cúi đầu lặng lẽ, không nói, vội vã đi qua. Không biết là ứng với quẻ xăm của Phật, hay nhờ chính sức mình mà anh vượt qua được bệnh tật, dưới sự chăm chút của chị, anh lần lượt chiến thắng mọi cơn bệnh tật lớn nhỏ: Ho gà, viêm màng não, lở loét v.v...
Dần dà, những tình cảm anh dành cho chị vượt quá tình cảm dành cho mẹ mình. Giữa những kẽ hở lúc bận rộn, hoặc khi anh đã ngủ say, chị thường khóc nước mắt nóng rồi thờ thẫn tự hỏi mình: "Đây là hôn nhân của mình ư, đây là chồng của mình ư?".
Đến tuổi đi học, chị may cho anh một chiếc túi xách, dắt tay anh đến lớp. Những đứa trẻ trong và ngoài thôn thường vây lấy chị hát to: "Cô con dâu, cô con dâu, làm cái gì? Tắt đèn, thổi nến, lên giường..."
Chị không biết trong lòng mình là nỗi đau hay nỗi buồn, cúi gằm xuống, mặt đỏ lên rồi trắng bệch, trắng rồi đỏ. Một buổi tối, anh nằm trong chăn nói:
"Chị ơi, em yêu chị!".
Chị lại là vợ. Vợ lại là chị. Chị nhìn gương mặt ngây thơ non nớt của anh, im lặng. Lần đầu tiên chị cười đau khổ.
3. An ủi nhỏ nhoi
Cha anh ở ngoài buôn bán nhiễm phải thói cờ bạc, chỉ vài ngày mà thua sạch bách bao gia sản tích cóp khổ sở lâu nay.
Sau khi bố mẹ chồng chửi bới cãi vã ầm trời, bố chồng chị dứt áo bỏ nhà ra đi, từ đó không ai gặp lại ông nữa, nghe người ta nói khi đó ông bị lính bắt đi làm phu. Lúc đó trên người mẹ chồng chị còn vài thứ trang sức, cầm đi đổi lấy vài đồng tiền.
Mẹ chồng và chị bàn nhau mua lấy ba mẫu đất. Không thể mượn người làm nữa rồi, mẹ chồng con dâu xoay ra xắn ống quần lên lội ruộng, ngày còn ở nhà chị từ nhỏ đã giúp cha mẹ làm ruộng, khổ sở gì chị cũng đã nếm trải qua. Chỉ khổ cho bà mẹ chồng chị xưa nay chưa từng phải trồng lúa bao giờ.
Một nhà vốn giàu có bỗng chốc hóa bần cùng, đàn ông bỏ đi không tăm tích, bà mẹ chồng vừa đau vừa hận, lại thêm việc làm ruộng nặng nhọc, làm bà kiệt quệ, ốm rồi không dậy nổi. Trước lúc lâm chung, bà kéo tay chị, gần như van vỉ nói:
"Nó hãy còn nhỏ dại, xin cô chăm sóc nó, nếu cô muốn ra đi, xin hãy đợi lúc nó trưởng thành".
Chị nắm chặt tay anh. Từ đó, số mệnh của anh lại bị chị dắt đi.
Chị là người phụ nữ trọng tình nghĩa, chưa từng hứa gì, nhưng chị vẫn cùng anh như cũ. Từ đó về sau, ngay cả chính chị cũng không nhận ra mình rốt cuộc là vợ, là chị hay là mẹ của anh?
Chị quần quật không ngày không đêm, làm việc để anh tiếp tục đi học. Cuộc sống của họ trôi qua khổ nhọc nhưng bình lặng giữa tình chị em sâu nặng, tình yêu bao la như tình mẫu tử bền chặt.
Khi anh tốt nghiệp trung học thi đỗ vào một trường Đại học Sư phạm, chị thay anh thu xếp hành lý, lại một lần nữa đưa anh tới trường.
Chị nhìn cậu con trai trẻ măng vừa qua tuổi dậy thì, do chính tay mình nuôi lớn từ nhỏ đến giờ, chị chỉ dặn anh hãy cố mà học hành, ngoài ra chị không nói thêm điều gì nữa.
Nhưng anh vẫn nói: "Chị, chờ tôi quay về nhé!".
Tim chị đập nhẹ một nhịp, nhưng mặt vẫn bình thường, có điều khóe miệng ẩn một nụ cười hân hoan rất nhẹ mà người khác khó nhìn thấy. Khóe cười ấy không phải vì câu nói của anh, mà vì những gì chị bỏ ra, đã được đáp đền lần đầu.
4. Kiếp này
Chị vẫn làm ruộng như trước, nhịn ăn nhịn mặc dành tiền gửi đi.
Hai năm đầu, nghỉ hè và nghỉ Tết anh đều về quê giúp chị làm việc. Nhưng năm thứ ba đại học, anh viết thư về nói: Chị đừng gửi tiền nữa. Và kỳ nghỉ tôi cũng không về nữa đâu. Tôi muốn ra ngoài kiếm việc làm thêm, đỡ gánh nặng cho chị.
Lúc đó chị đã 29 tuổi.
Ở quê, người như chị đã là mẹ của mấy đứa con. Người trong làng đều bảo, chị nuôi anh lớn khôn, lại còn cho anh thoát li đi học, thế coi như là đã quá tốt với anh rồi, chị già hơn anh mười một tuổi, thôi đừng chờ chồng nữa.
Bây giờ anh đã đi xa, ở ngoài thế giới bao nhiêu xanh đỏ tím vàng, biết chồng mình có về nữa hay là không về nữa!
Chị cũng không biết trong lòng mình là đang thủ tiết, giữ đạo phu thê: Dù sao thì mười mấy năm trước chị cũng là một cô dâu gả cưới đàng hoàng về nhà anh; hay là mình đang vì câu nói trước ngày anh lên đường đi xa: "Chị, chờ tôi quay về nhé!"; hay là chị đang lo âu như người mẹ không yên tâm về đứa con nhỏ của mình đang ở xa; chị cứ chờ.
Chị cứ giữ sự yên tĩnh và ít lời như mấy chục năm nay đã từng.
Cuối cùng cũng đã đến lúc anh tốt nghiệp. Anh quay về. Anh đã là một người đàn ông trưởng thành có phong cách và khí chất, dáng dấp một người đàn ông nho nhã hiểu biết.
Còn chị, dãi nắng dầm sương, gương mặt nhọc nhằn lao khổ đã sớm bay hết những nét đẹp thời trẻ, là một người đàn bà nhà quê đích thực.
Trong lòng chị chỉ còn coi anh là một đứa em trai thân yêu. Chị không dám ngờ anh đã nói với chị: "Chị, tôi đã trưởng thành, giờ chúng ta có thể thành thân!".
Chị nhìn anh, như đang nằm mơ, chị sợ mình đang nghe nhầm. Anh cũng là một người đàn ông trọng tình trọng nghĩa như chị?
Chị cười, tự đáy lòng dâng lên miệng c ười rạng rỡ, cũng để rơi xuống những giọt nước mắt đẹp đẽ nhất đời người.
5. Xin lỗi
Anh ở lại thị trấn dạy học, chị ở nhà làm ruộng. Họ có với nhau một con trai một con gái.
Sau này, anh đến khu mỏ dầu dạy học, lên chức hiệu trưởng một trường Trung học nhờ vào bằng cấp và kinh nghiệm dạy học của mình. Vì hộ khẩu, con cái vẫn để ở nhà cho chị nuôi nấng. Sau khi nhập được hộ khẩu, anh về quê đưa vợ con lên trường.
Các giáo viên trong trường đến giúp hiệu trưởng dọn nhà. Có một giáo viên bộc tuệch chạy ra nói:
"Hiệu trưởng, sao anh đón mẹ và em trai lên ở mà không đón cả chị nhà và các cháu luôn?".
Một sự im lặng bao trùm, mọi người đều ngoái đầu nhìn chị. Lúc ấy, mặt chị sượng trân trân, không biết nên nói gì, chị cười méo mó, nhìn anh biết lỗi. Anh ngoái đầu nhìn chị, nói với tất cả mọi người với giọng chắc nịch:
"Chị các chú đây. Có cô ấy mới có tôi ngày hôm nay, thậm chí cả tính mạng tôi".
Chị nghe anh nói, mắt chị dâng lên toàn là nước mắt.
6. Năm tháng như bài ca, tình yêu như ngọn lửa
Bây giờ chị đã bảy mươi hai, vì làm việc nặng nhọc quá nhiều, sức khoẻ kém, bệnh phong thấp làm chị đi tập tễnh. Anh sáu mươi mốt, đã về hưu từ lâu.
Hai năm nay họ dọn về khu nhà này ở, nếu hôm nào trời không mưa gió, hoặc ngày quá lạnh, đều có thể gặp bóng dáng họ ở khu sân chơi, bồn hoa; chị nắm gậ y chống, anh đỡ một bên, đi chậm chạp từng bước một về phía trước, như đang dìu một đứa trẻ tập đi, chăm sóc như thế, ân cần như thế.
Những người biết chuyện của họ đều nhìn theo, cảm động bởi mối tình sâu nặng và bền chặt của anh và chị, mang nghĩa đủ tình đầy đi dọc một kiếp người. Anh nói:
"Cô ấy mang cho tôi sinh mệnh, cho mẹ tôi sự ấm áp, cho tôi một mái nhà, bây giờ, tôi dành nửa cuối đời tôi chăm sóc cô ấy".
Anh dắt tay chị, như ngày đó chị dắt tay đứa bé năm tuổi, họ cùng mỉm cười, đẹp như nét mây chiều êm ái nơi chân trời mùa hạ.
NGUYỄN PHAN NGỌC AN * TRUYỆN NGẮN
Tình yêu chân thật
Mối Tình Việt Ấn
Một câu chuyện tình đầy thơ mộng và lý thú đã xảy ra tại vùng thung lũng Silicon cách nay gần mười năm...Theresa
Thiên Kim, tên của nàng - Thiên Kim đến Hoa Kỳ theo diện HO cùng cha mẹ
và 6 anh chị em, nàng là người con áp út - Vào năm 1990 Thiên Kim vừa
tròn 20 tuổi. Đến xứ lạ quê người trong hoàn cảnh gia đình khó khăn,
chính phủ Hoa Kỳ chỉ cấp dưỡng trong vòng 8 tháng mà thôi, sau đó mỗi
người lăn bổ đi tìm việc...Thời ấy công việc làm không thiếu, hãng xưởng
tại vùng Silicon tràn ngập nên anh chị em nàng tìm việc rất dễ dàng.
Hàng ngày Thiên Kim đi đến hãng điện tử Solectron làm việc, nơi đây nàng gặp rất nhiều người Việt Nam cũng là nhân viên như nàng - Niềm vui tao ngộ đồng hương đã cho nàng thêm sức sống, cha nàng là Đại Tá QLVNCH thời đệ nhị Cộng Hòa. Qua chương trình HO 1 gia đình không rớt lại một ai nên cha mẹ nàng cũng có phần mãn nguyện. Nhưng tạo hóa trớ trêu gây cảnh đất bằng dậy sóng, một buổi cha nàng đi tập thể dục như hàng ngày cha vẫn đi bộ suốt hai giờ liền trong những dãy nhàsong song với nhà nàng.
Hàng ngày Thiên Kim đi đến hãng điện tử Solectron làm việc, nơi đây nàng gặp rất nhiều người Việt Nam cũng là nhân viên như nàng - Niềm vui tao ngộ đồng hương đã cho nàng thêm sức sống, cha nàng là Đại Tá QLVNCH thời đệ nhị Cộng Hòa. Qua chương trình HO 1 gia đình không rớt lại một ai nên cha mẹ nàng cũng có phần mãn nguyện. Nhưng tạo hóa trớ trêu gây cảnh đất bằng dậy sóng, một buổi cha nàng đi tập thể dục như hàng ngày cha vẫn đi bộ suốt hai giờ liền trong những dãy nhàsong song với nhà nàng.
Một người đàn bà từ đâu xuất hiện đi bộ sau lưng cha rồi bà kiếm chuyện
làm quen, ba nàng tuy năm ấy cũng đã tròm trèm 70 nhưng trông vẫn còn
tráng kiện, nhìn cứ tưởng khoảng 60 thôi - Thường thì mỗi ngày ba nàng
chỉ đi bộ vài giờ vào buổi sáng là về nhà ăn điểm tâm, cà phê mẹ dọn sẵn
để trên bàn cho cha - Hơn một tháng nay cha nàng đã thay đổi cách sống,
sáng ra đường là cha đi một mạch tới tối mới về nhà, cha chưng diện
chải chuốt bảnh bao một cách lạthường, cha không còn thời giờ quan tâm
các con hay là săn sóc mẹ nàng như xưa...
Mẹ buồn rầu đâm bệnh nặng, cơn bệnh trầm tư từ trong óc não đã khiến mẹ
nàng không nói được và nằm liệt suốt hai năm liền - Sau khi thấy bệnh
tình của mẹ càng ngày càng nguy nan, cha hối hận quay về thì đã muộn, mẹ
nàng từ giã cõi đời vào một đêm mưa bão bất ngờ từ đâu thổi tới bởi xứ
thung lũng này ít khi được mưa bão đoái hoài, mưa thỉnh thoảng có thì
như mưa phùn lác đác vậy thôi...
Mẹ nằm bất động trên giường sau khi anh chị em nàng đã chạy chữa qua nhiều Bác Sĩ Y Khoa và Đông Y, tất cả đều bó tay chờ định mệnh an bài - Trên tay mẹ vẫn cầm một chiếc đồng hồ bằng vàng mà như Thiên Kim biết là quà sinh nhật cha đã tặng mẹ cách nay ba năm - Mẹ không đeo chiếc đồng hồ vào tay mà chỉ cất giữ trong chiếc hộp thủy tinh tuyệt đẹp, nhiều lúc chị gái nàng hỏi:
- Sao mẹ không đeo đồng hồ ba tặng, bàn tay mẹ thon thon, cổ tay đầy đặn, mẹ đeo vào sẽ đẹp và tăng thêm sự quý phái, hay mẹ để con lấy đồng hồ ra đeo hộ cho mẹ nhé?
- Đừng con, mẹ ôn tồn trả lời: Mẹ quý chiếc đồng hồ ba đã tặng như chính bản thân của mẹ, mẹ không muốn nó bị trầy hay bị cũ đi nên mẹ chỉ để dành ngắm nghía mà thôi, thấy nó là thấy hình ảnh ba con... Dạo nầy ba con sinh tật đam mê người đàn bà khác bỏ mẹ cô đơn, không có ba con bên cạnh thì có chiếc đồng hồ thay thế mẹ cũng thấy bớt đi phần nào niềm đau đớn tuy biết rằng mẹ đã phải ôm vào cuối cuộc đời niềm bất hạnh không ngờ!
Sau lần tậm sự đó mẹ nàng không nói được nữa và lâm bệnh trầm kha từ giã cuộc đời đau thương tủi phận, ngày tang lễ cha quỳ xuống ăn năn hối hận, nước mắt cha tuôn trào trên gương mặt héo hon khắc khổ... Cha bước đến bên mẹ tháo chiếc đồng hồ đã chặt cứng trong bàn tay giá lạnh của mẹ rồi mang vào cườm tay mẹ với cõi lòng nát tan.
Lá đã rụng đầy trên lối đi
Mùa thu vàng úa nỗi ai bi
Đông về trong gió buồn se lạnh
Ai biết lòng ta trĩu nặng gì...
Chưa giã từ nhau sao vội đi
Nửa chừng lỗi nhịp khúc từ ly
Trăm năm một thoáng mơ hồ mộng
Người đã xa rồi, lệ ướt mi
Nhân thế đau buồn chuyện tử sinh
Bao nhiêu họa phúc giữa điêu linh
Phù du, tan hợp là thân phận
Biển khổ lênh đênh một chữ tình
Ai tiếc mùa thu, thương lá rụng
Ai về ấp ủ mộng xuân sang
Cho tôi gửi gấm niềm tâm sự
Đến chốn vô cùng của nát tan...
Mùa thu Cali buồn và lạnh, những chiếc lá vàng thi nhau rơi lác đác ven đường làm lòng Thiên Kim chùng xuống, hai tuần vắng bóng người mẹ thân yêu vĩnh viễn, nàng biết làm gì để khỏa lấp nỗi trống vắng đến ghê sợ này, cha thì nằm li bì trong phòng riêng suốt ngày đêm, khi cần ăn uống cầm chừng cha ra ngoài bàn ngồi lặng lẽ và thường lẫn tránh cặp mắt anh chị em nàng - Mất người vợ hiền dường như cha cũng bỏ luôn người đàn bà hắc ám kia nên sau mấy tháng liền cha không đi tập thể dục và cũng không thấy cha đi ra khỏi nhà cũng không còn chưng diện như xưa.
Gió vẫn rít từng cơn não nuột, trên xa lộ mênh mông đơn độc Thiên Kim thấy buồn cho số phận mỏng manh, gần ba chục tuổi đầu không tìm được một tình yêu...
Những hàng cây xanh đỏ tím vàng san sát bên nhau đẹp lạ lùng cũng không
làm nàng vui được, những hình ảnh trước mắt mà hàng ngày nàng vẫn không
quan tâm khi đi làm trên thành phố xa xôi này, hôm nay bất chợt nàng nhớ
đến một bài thơ của một thi nhân đã tả về cảnh đẹp mùa thu, vì thích
thú nàng đã thuộc lòng bài thơ tự khi nào không hay...Thiên Kim lẩm
nhẩm:
Cho đến muôn đời thu vẫn đẹp
Lá vàng pha lá đỏ tươi xinh
Bên đường lặng lẽ hàng cây đứng
Những đóa hồng khoe sắc hữu tình
Phố Palo Alto êm đềm thơ mộng
Một buổi chiều lữ khách ghé thăm
Hoa lá reo vui theo gió lộng
Làm say lòng bao gã thi nhân...
Ta cũng say sưa phố lạ chiều
Muôn trùng lá thắm đọng thương yêu
Dọc theo con lộ dài hun hút
Vàng, đỏ, nâu, hồng... thoáng tịch liêu
Rừng lá mùa thu trải khắp miền
Điểm tô thêm đẹp phố bình yên
Ta ngơ ngẩn với ngàn hoa lá
Hồn bướm mơ tiên... chẳng lụy phiền
Ta thấy quanh ta xác lá vàng
Quyện tròn trong gió buổi thu sang
Tưởng như ai đó đang vương vấn
Cho mộng thêm dài... lạnh gối chăn!
Cảnh đẹp cho hồn ta ngất ngây
Tình thơ lai láng giữa trời mây
Nhìn thu ta bỗng lòng say đắm
Giấc mộng Hằng Nga... giữa cõi này...
Tâm hồn Thiên Kim bay bỗng như hòa nhập vào những câu thơ trữ tình kia, bỗng "rầm" nàng đã tông vào xe phía trước, người lái xe mở cửa bước xuống tiến về phía Thiên Kim khi nàng vội vã tắt máy ngừng xe lại ngay sau xe người ấy - Một người đàn ông nước ngoài, có lẽ là người Iran Iraq hay Ấn Độ gì đây...Thiên Kim hạ kiếng xuống ngồi im chờ thái độ người kia để nàng hạ mình xin lỗi. Ông ta nhìn nàng rồi nói nhỏ nhẹ một tràng tiếng Anh, tay chỉ vào chỗ xe bị đụng - Thiên Kim lính quýnh không biết phải làm sao, bởi nàng tiếng Anh không giỏi chỉ đủ để đi làm trong hãng xưởng mà thôi, nàng lấp bấp:
- I am sorry for this happening, but I have my insurance to cover for the damage of your car.
- That's all right! Would you please give me your car insurance, and your driver license. Ông ta trả lời nàng.
Ông lấy số phone của Thiên Kim và ghi số xe cùng số bằng lái và insurance của nàng xong chào nàng và tiếp tục lái xe đi mà không gọi 911 - Thiên Kim hoàn hồn, đưa tay đấm vào đầu thật mạnh "từ nay quyết chừa tật mộng mơ khi lái xe nghe nhỏ khùng."
Đã qua một tuần vẫn không thấy người bị nàng đụng xe làm gì cả, hay ông ta tốt bụng thương hại nàng mà không bắt nàng bồi thường. Nàng không tin vào điều mơ ước đó, dễ gì... "Người Việt Nam còn hoạ may có tình đồng chủng, ông này người khác giống khác giòng đừng mơ mộng viễn vông nữa nhỏ khùng ơi" Thiên Kim hay tự nguyền rủa mình là nhỏ khùng mỗi khi làm điều sai trật hay lỡ lầm xử lý thiếu đạo đức và trung thực với lương tâm... bởi lẽ đó nhiều khi nàng tự nghĩ" hay ta cứ mắng ta khùng rồi khùng thật rồi chăng, cũng nhan sắc, cũng khôn ngoan, lịch lãm mà chẳng thằng ma nào để mắt thương dùm, dù trong hãng ta làm khối người Việt đẹp trai bãnh chọe đếm không hết"...
Tiếng điện thoại reo vang cắt ngang dòng tư tưởng của Thiên Kim, lạ nhỉ, bây giờ là 10 giờ đêm, ai gọi mình vào giờ đi ngủ vậy? Tin chắc cha đã ngủ, các anh chị dần dần lập gia thất ra riêng, thằng út cũng đã ra trường đi làm xa, Thiên Kim yên tâm nhấc phone lên và giật thót người "chết cha rồi, thằng cha Iraq bị mình đụng xe hôm trước, chết cha rồi, mẹ ơi mẹ linh thiêng phù hộ cho con mọi việc êm xuôi tốt đẹp nha mẹ thương yêu của con".
Ông ta hẹn nàng ngày mai lúc 10 giờ sáng tại tiệm Tùng Auto Repair trên đường Senter để nàng trả tiền sửa xe cho ông - Nàng đồng ý nhận lời cái hẹn sáng mai tuy rằng cũng hơi lo ngại cho số tiền Repair không biết là bao nhiêu?
Gặp lại lần thứ hai, người đàn ông rất tự nhiên và cởi mở trò chuyện thân mật với nàng, dù không giỏi tiếng Anh nhưng nàng cũng khá về từ ngữ nên đã hiểu được những gì ông ta vừa trao đổi và tìm hiểu về bản thân nàng... Thì ra ông ta là người Ấn Độ, với đôi mắt sáng tinh anh, nước da ngâm, thân hình bệ vệ có vẽ hơi phì... tướng thì cũng ngon cơm nhưng đi chiếc xe cũ kỹ thì chắc chắn cũng nghèo rớt mồng tơi như ta thôi, cái mộng ông ta thương tình mà không đền tan vào mây khói lãng du rồi nhỏ khùng ơi...
Một phép mầu từ đâu đưa đến, chắc hồn mẹ linh thiêng đã phù hộ cho nàng, sau một hồi nói chuyện ông mời nàng đi ăn trưa để thời gian cho tiệm Tùng định giá cả hư hại thế nàọ Khi trở về chỗ sửa xe ông nói với người chủ "I'm going to pay by my credit card."
Một cảm mến tư cách người ngoại quốc lâng lâng trong hồn người con gái Việt Nam, nàng nhìn trăng đêm nay sao đẹp và thơ mộng hơn những đêm trước, Thiên Kim có tật thức khuya ngồi lặng lẽ một mình ôm vào lòng bao tâm sự rồi tự than vãn một mình và quyết định một mình, phải chăng cuộc đời nàng là cả một chuổi cô đơn và tự quyết, tự lập như chính bản thân nàng trong hiện tại - Từ tình cảm thân mến đó, người đàn ông Ấn Độ tên Kan đã đến thăm nàng tại nhà riêng của cha con nàng, cha không có phản ứng gì bởi thấy nàng cũng đã lớn, toàn quyền quyết định chuyện riêng tư - Ai dè chuyện đụng xe lại đem đến cho nàng một may mắn có được một tình thân bè bạn, chắc chắn là mẹ chớ không còn ai vào đây mà giúp nàng như thế cả - Mỗi lần đến nhà thăm nàng ông Kan thường đến bên bàn thờ Mẹ lấy một nén nhang đốt lên và cắm vào chiếc lư nhang, nàng để ý thấy điều đó không bao giờ ông Kan quên làm sau khi ngồi vài ba phút... Cảm động trước tình người cao đẹp có đạo đức như vậy, Thiên Kim dần dà yêu thương tuy biết rằng ông ta cũng nghèo khó cơ hàn không thể lo cho nàng một cuộc sống tốt đẹp và khấm khá hơn.
Thời gian dần trôi qua trong những bước thăng trầm, trong tình yêu chân thật của cả hai, một hôm Thiên Kim hỏi:
- Em không hiểu tại sao anh là người khác chủng tộc với em mà lại quá tốt, mỗi lần đến nhà em là y như rằng chỉ vài phút sau là anh đốt nhang cho Mẹ, em để ý chưa một lần nào anh quên, người Ấn Độ tâm hồn cao đẹp quá anh nhỉ!
- Kan cười "không phải vậy đâu em cưng, người Ấn Độ không tốt như em tưởng đâu, chẳng qua nhà em nấu nướng thứ gì mà hôi quá anh không chịu nổi nên phải đốt nhang cho nó khử bớt mùi vậy thôi, thú thật mỗi lần anh đến thăm em là vì tình thương thật sự chứ mỗi lần đến là mỗi lần bị ngột ngạt cái mũi của anh em biết không? Nói xong Kan ôm chặt lấy nàng vì sợ nàng giận, Thiên Kim ngượng chín cả người, ôi chao người Việt Nam chúng tôi ăn uống thứ gì mà để ông chê bai như thế, thì ra vì nguồn gốc tổ tông, nước mắm, xì dầu, mắm tôm, mắm cá... Rồi mà xem, cứ chê đi, mai mốt thành vợ thành chồng tớ sẽ cho nhà ngươi lãnh đủ các món ăn mà nhà ngươi sợ hãi... Nghĩ thế Thiên Kim cười một mình, đây là cách trả thù độc đáo của đàn bà Việt Nam chúng tôi mà...
Cuộc tình Ấn Độ Việt Nam kéo dài hơn hai năm, nàng không bao giờ hỏi Kan làm việc gì và làm việc ở đâu, chỉ biết chàng bằng tình yêu chân thật, mỗi ngày chàng mỗi vun quén đậm đà thêm lên, hàng ngày sau khi đi làm về Kan ghé nhà thăm cha nàng, mua cho ông vài hộp sâm, vài chai rượu vang ít tiền, chưa khi nào Kan mời nàng đi shopping mua sắm ngoại trừ chàng mua thức ăn mang đến cho nàng nấu nướng và chàng đã biết ăn chút chút những thức ăn mà trước đây nghe mùi Kan sợ hãi - Đêm nay Kan xin phép cha nàng ở lại với Thiên Kim để bàn việc hôn nhân và được cha đồng ý. Nằm gọn trong vòng tay thương yêu của Kan, từ những chiếc hôn nồng nàn chàng trao gửi, Thiên Kim không mong ước gì hơn được sống mãi bên Kan với tình yêu tuyệt đẹp như đêm nay, ngày xưa nhà thơ Xuân Diệu đã có câu "Yêu là chết ở trong lòng một ít vì mấy khi yêu mà chắc được yêu, cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu..." -i chao, chỉ viễn vông thôi, đã yêu nhau thì cho nhiều cho ít có nghĩa gì đâu, như Kan và mình đây, Ấn Độ và Việt Nam nghèo bỏ xừ cái thân vẫn yêu nhau hết mình không thấy sao hỡi nhà thơ Xuân Diệu?
Thắm thoát mùa xuân cũng sắp đến, Kan đã bàn tháng 12 tổ chức đám cưới, Thiên Kim dành phần chọn nhà hàng Việt Nam cho nhẹ tiền và quan khách tham dự của nàng toàn là người Việt Nam - Kan đồng ý cùng nàng chọn nhà hàng Phú Lâm thức ăn vừa ngon lại vừa rẻ có tiếng từ hơn hai chục năm qua - Cả hai hân hoan đến gặp anh Kim chủ nhân lấy ngày giờ đặt tiệc.
Sáng nay Kan gọi đến bảo Thiên Kim ở nhà nghỉ một bữa đi tham quan vài chỗ làm nơi thung lũng Silicon cùng anh, Kim thầm nghĩ chắc lại mất việc rồi đây, sợ nàng buồn không dám nói chăng bởi ngày cưới sắp đến mà không việc làm, không tiền bạc thì rõ khổ thân em và cả thân anh, cha mẹ anh thì ở bên Ấn Độ, cha em thì nghèo lấy ai giúp đỡ chúng ta khi đã đến nhà hàng đặt tiệc, đặt ngày và đặt cọc? Nàng đi với chàng nhưng lòng buồn rười rượi chẳng thiết nói cười chỉ ậm ọe trả lời qua loa khi chàng hỏi - Kan dẫn nàng vào một tòa Building rộng lớn, một hãng điện tử tọa lạc trên vùng Fremont, theo Kim biết thì đây là một hãng điện tử lớn nhất nhì thành phố Silicon, nàng càng lạ lùng khi thấy Kan cứ dẫn nàng đi tuồn tuột vào bên trong mà không ai cản ngăn Kan và nàng cả, Kim không dám hé môi nửa lời khi thấy dáng vẻ nghiêm chỉnh của Kan và bộ Veston tươm tất của chàng, bụng Kim thầm nghĩ "Đi apply job mà ăn mặc giống như ông chủ, bộ xứ Hoa Kỳ này chuộng vẻ ngoài mới nhận làm việc hay sao, khéo vẽ vời chi dữ vậy Kan của em, anh hôm nay mà không nhận được job là sẽ bị nhỏ khùng này chọc quê cho mà biết".
Kan dẫn nàng vào phòng cuối cùng, nàng chưa biết phải ngồi đâu khi nhìn bàn ghế sa cừ lộng kiếng quá lộng lẫy sang trọng, nàng ké né đứng bên Kan thì thấy có mấy người vào gật đầu nghiêm chỉnh chào Kan với những ngôn từ Ấn Độ và tiếng Anh, Kan ngồi xuống chiếc ghế giữa bàn và nói với họ: 'This is my fiance' rồi chàng chỉ chiếc ghế kế bên chàng cho Kim ngồi - Thiên Kim bừng tỉnh, thì ra Kan là ông chủ hãng Điện Tử to lớn này, bấy lâu nay chàng đã thử thách con người Kim, thử thách tình yêu của Kim, mẹ ơi... mẹ ơi...
Kim vui mừng nhắc đến mẹ thân yêu và nước mắt rưng rưng, nàng cố kềm hãm bởi trước mặt mọi người nàng nghiễm nhiên là bà chủ và mọi người đang một mực quý trọng nàng, nàng không vì xúc động riêng tư mà để lộ niềm hân hoan bất chợt với mọi người xung quanh.
Tuần sau Kan cho Kim biết là nàng sẽ không phải đi làm nữa, Kan đưa cha nàng và nàng về một ngôi nhà mới sang trọng trên đồi Los Altos Hill - Kan giao hãng cho phụ tá phó Giám Đốc cai quản, chàng cùng Kim đi mua sắm nữ trang, quần áo cưới và mọi vật dụng cần thiết trang hoàng cho ngày cưới, chàng không quên đặt cho cha vợ hai bộ Veston và mua tặng ông một chiếc đồng hồ Rolex đắt giá của Thụy Sĩ.
Hạnh phúc là một thiên đàng tuyệt hảo dành cho Kim, nàng đã sống đã yêu với sự chân thành từ trái tim, nàng đã được đền bù xứng đáng. Sau ngày cưới Kan đưa nàng đi hưởng tuần trăng mật tại Paris nơi có những kỳ quan lịch sử và có những danh lam thắng cảnh tuyệt vời - Kan không quên mời cả người cha vợ tôn kính cùng đi cho ông có cơ hội du lịch Paris mà ông hằng ao ước.
Tình yêu hạnh phúc sự nghiệp đã chào đón người phụ nữ Việt Nam thân thương của chúng ta, trong trái tim người Ấn Độ đã khắc sâu hình ảnh người vợ Việt Nam trân quý, tác giả viết bài này với lòng cảm mến thật sâu xa tấm tình tốt đẹp hiếm có của hai nhân vật trong cốt truyện qua cuộc sống thật ngoài đời tại thung lũng Silicon hoa vàng muôn thuở - Có một vài hư cấu cho câu chuyện súc tích lãng mạn hơn và thấm thía hơn trong cuộc sống ly hương - Kan và Kim đã sống hạnh phúc gần 10 năm qua và có với nhau 4 mặt con, ba gái, một trai, những đứa con lai hai dòng máu Ấn Việt xinh đẹp và khôn ngoan vô cùng.
Nguyễn Phan Ngọc An
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0112
TRẦN BÌNH NAM * Y TẾ HOA KỲ
Công cuộc cải tổ hệ thống săn sóc sức khỏe tại Hoa Kỳ
Trần Bình Nam
Mùa hè năm nay quốc hội Hoa Kỳ sẽ bận rộn với luật bảo hiểm sức khỏe tổng thống Obama hứa với quốc dân trong khi tranh cử tổng thống. Tháng 6 vừa qua quốc hội bắt đầu nghe các báo cáo và tường trình. Và sau lễ độc lập “Fourth July” dân chúng sẽ được chứng kiến một cuộc thảo luận rộng rãi sau khi các nét chính của dự luật cải tổ chế độ săn sóc sức khỏe của người dân được công bố.
Các nỗ lực cải tổ :
Cam kết cải tổ chế độ bảo hiểm sức khỏe của tổng thống Obama không phải đơn thuần là sự xác quyết thực hiện một lời hứa trong khi tranh cử, mà là sự tiếp nối một nỗ lực của nhiều chính quyền Dân Chủ cũng như Cộng Hòa bắt đầu từ chính quyền của tổng thống Lyndon Johnson. Đó là thực hiện một chính sách bảo vệ sức khỏe cho nhân dân Mỹ sao cho vừa hữu hiệu vừa ít tốn kém nhắm mục tiêu tối hậu là mọi người Mỹ đều được bảo hiểm sức khỏe dưới hình thức này hay hình thức khác.
Luật An Sinh Xã Hội (Social Security Act) được tổng thống Johnson ban hành tháng 7 năm 1965 thành lập hai chương trình Medicare và Medicaid (tại California, Medicaid được gọi là chương trình Medi-cal) chăm lo sức khỏe cho người cao niên và thành phần yếu kém trong xã hội. Chỉ hơn 5 năm sau, tổng thống Nixon ghi nhận chi tiêu của hai chương trình đó tăng quá nhanh nên đã có ý kiến cải tổ. Tuy nhiên do sự khác biệt ý kiến với Thượng nghị sĩ Edward Kennedy, nỗ lực này của tổng thống Nixon được xếp lại. Năm 1993 sau khi đắc cử, tổng thống Clinton thuộc đảng Dân Chủ thành lập ủy ban đặc nhiệm do bà Hillary Clinton phụ trách nhắm mục tiêu cải tổ toàn bộ hệ thống bảo hiểm sức khỏe của Hoa Kỳ. Tuy nhiên chương trình này bị các khối quyền lợi như các hãng bảo hiểm sức khỏe, hệ thống bệnh viện, tập đoàn bác sĩ, các hãng bào chế thuốc chống nên thất bại trong trứng nước. Thất bại dễ dàng một phần cũng do bà Clinton đề xuất mọi chi tiết cải tổ từ tòa Bạch ốc qua một nhóm đặc nhiệm làm việc với bà và không tham khảo ý kiến với quốc hội. Riêng tổng thống George Bush không đưa ra chương trình cải tổ lớn nào ngoại trừ đề nghị sẽ giảm thuế cho những người tự mua bảo hiểm để giảm bớt số người không có bảo hiểm sức khỏe.
Và hôm nay, đối với tổng thống Obama sự cải tổ chế độ bảo hiểm sức khỏe trở thành một lời hứa long trọng với quốc dân, một chương trình quy mô ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế và xã hội trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay và nó trở thành một thúc bách, một ưu tiên quốc gia.
Ngày 24/2/2009, đọc diễn văn đầu tiên trước quốc hội sau khi nhậm chức, tổng thống Obama nói: “Chi phí chăm sóc sức khỏe của nhân dân Hoa Kỳ quá lớn đã làm yếu nền kinh tế Hoa Kỳ và vấn đề này đè nặng lên ý thức trách nhiệm của chúng ta. Vì vậy chúng ta cần cho nhân dân Hoa Kỳ biết rằng không còn chờ đợi gì nữa, chúng ta phải bắt tay ngay vào công tác chỉnh đốn lại hệ thống chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ.” Tổng thống Obama cũng không quên nhắc lại cam kết của tổng thống Clinton trước quốc hội ngày 17/2/1993 rằng, “… các gia đình người Mỹ không được bảo đảm sự an toàn với hệ thống bảo hiểm sức khỏe hiện nay, trong khi các nhà kinh doanh không thể yên tâm làm ăn và chính phủ Hoa Kỳ không thể ổn định nếu chúng ta không giải quyết được cơn khủng hoảng bảo hiểm sức khỏe này.”
Tình trạng săn sóc sức khỏe hiện tại của Hoa Kỳ:
Chế độ chăm lo sức khỏe hiện nay tại Hoa Kỳ dựa vào: (1) các “chủ nhân” tư hay công trả một phần tiền bảo hiểm cho nhân viên sở mình, (2) những người trên 65 tuổi hay bị tàn tật do chính phủ liên bang qua chương trình Medicare, (3) những người có lợi tức thấp, các bà mẹ nghèo có con nhỏ do chương trình Medicaid của chính phủ tiểu bang, và (4) những người làm nghề tự do tự mua bảo hiểm.
Trong số gần 303 triệu dân Mỹ có 158 triệu người được bảo hiểm qua sở làm, 42 triệu người cao niên có Medicare, 39 triệu người có Medicaid và 15 triệu người hành nghề tự do tự mua bảo hiểm. Còn lại khoảng 49 triệu người không có bảo hiểm. Trong số này có 80% có việc làm bán thời hoặc làm toàn thời cho các cơ sở nhỏ không có khả năng mua bảo hiểm cho nhân viên. Một số khác (25%) đa số thuộc thành phần trẻ trong lớp tuổi từ 25 đến 30 có khả năng mua bảo hiểm nhưng không mua vì tin vào sức khỏe của mình.
Chế độ bảo hiểm này hiện có 3 vấn đề. Thứ nhất là chi phí rất cao và tăng nhanh theo thời gian vượt trội sự tăng trưởng lợi tức quốc gia. Thứ hai là không hữu hiệu, và thứ ba có một tỉ số quá cao dân số (16%) không có bảo hiểm.
Chi tiêu toàn quốc cho sức khỏe khoảng năm 1970 là 150 tỉ mỹ kim mỗi năm, vào năm 2008 chi phí này lên đến 2.327 tỉ mỹ kim (6% khả năng sản xuất quốc gia GDP). Cứ trung bình một người Mỹ tiêu 7.680 mỹ kim mỗi năm cho sức khỏe tính trên dân số 303 triệu người. Trong khoảng thời gian nói trên chi phí y khoa tại Hoa Kỳ tăng nhanh hơn số tăng lợi tức đầu người đến 2.1% làm cho sự phát triển quốc gia bị chênh lệch. So với 4 quốc gia tiên tiến khác là Nhật, Anh, Đức và Canada, Mỹ có chi phí đầu người cao nhất (Nhật 38% , Anh 41%, Đức 50% và Canada 55% so với Mỹ).
Chi phí cao vì chế độ bảo hiểm sức khỏe tại Hoa Kỳ trả theo dich vụ (fee-for-service). Bệnh viện và bác sĩ tính tiền theo dịch vụ cung cấp, các hãng bảo hiểm bồi hoàn, nên có khuynh hướng cung cấp nhiều dịch vụ hơn là cần thiết. Bệnh viện có khuynh hướng trang bị dụng cụ y khoa tối tân, trong khi các bác sĩ khám càng nhiều bệnh nhân, viết càng nhiều đơn thuốc và cho làm nhiều chẩn đoán y khoa (medical tests) càng được nhiều thù lao. Và như một vòng tròn, các hãng bảo hiểm tăng tiền mua bảo hiểm (premium) để bù lại.
Nhờ dụng cụ và máy móc y khoa tối tân cho nên nền y khoa Hoa Kỳ tiến bộ nhất thế giới, nhưng điều nghịch lý là nó không mang lại nhiều sức khỏe cho người dân Mỹ. Vì có quá nhiều phương tiện, sự săn sóc một bệnh nhân đôi khi trùng dụng và người bệnh được làm những thử nghiệm đôi khi không cần thiết nếu không muốn nói có hại cho sức khỏe của bệnh nhân. Mỗi năm tại Hoa Kỳ có 100.000 người chết vì nhiễm trùng trong các bệnh viện, và 1.500.000 người bị thương tật vì sai lầm y khoa (chẩn đoán sai). Trong 37 nước kỹ nghệ hàng đầu trên thế giới Hoa Kỳ đứng thứ 29 về trẻ sơ sinh chết, và là nước hàng đầu về bệnh mập phì và bệnh tim. Hoa Kỳ chỉ hơn các nước kỹ nghệ khác trong hai lĩnh vực chống ung thư vú và ung thư tử cung của phụ nữ.
Nếu xét yếu tố hữu hiệu y khoa tại mỗi nước dựa trên số trung bình bệnh nhân chết vì sai lầm y khoa và số trẻ sơ sinh tử vong thì sự hữu hiệu của Hoa Kỳ kém hơn 4 nước nói trên (ngoại trừ Anh). Cứ 100.000 bệnh nhân nhập viện Hoa Kỳ có 110 người chết vì sai lầm y khoa (Nhật 71%, Đức 90%, Canada 77%, Anh 103% so với Hoa Kỳ). Và cứ 1.000 trẻ sơ sinh tại Hoa Kỳ có 68 trẻ tử vong (Nhật 41%, Anh 74%, Đức 60%, Canada 78% so với Hoa Kỳ).
Kỹ thuật y khoa tại Hoa Kỳ cao nhưng không phục vụ bệnh nhân hữu hiệu cũng còn vì bản chất lợi nhuận. Trước đây nhiều thập niên các bác sĩ thường tập họp thành từng tổ hợp nhỏ 4 hay 5 người để săn sóc bệnh nhân. Giữa người thầy thuốc và bệnh nhân có một thứ quan hệ gần gũi và người thầy thuốc được hành nghề theo chức năng cứu nhân độ thế theo đúng lời thề của thánh tổ y khoa Hipporates (Hipporatic Oath) mà mỗi bác sĩ khi nhận văn bằng bác sĩ y khoa đều cam kết thề nguyền.
Trong điều kiện đó, bệnh nhân được chữa trị đúng nhu cầu và chi phí chữa trị xứng đáng với sự săn sóc bệnh nhân nhận được. Nhưng do lợi nhuận cao nhiều tập đoàn bệnh viện lớn và các hãng bảo hiểm sức khỏe kếch xù xuất hiện làm chết các tổ hợp bác sĩ nhỏ. Các bệnh viện và các hãng bảo hiểm lớn thuê bác sĩ làm việc cho mình tạo ra một hệ thống gọi là “managed care” nghĩa là một hệ thống mà quyết định chữa trị cuối cùng không phải do bác sĩ chữa trị mà do những chuyên viên trong các lĩnh vực y khoa làm việc cho các bệnh viện hay cho các hãng bảo hiểm. Những chuyên viên này (nếu làm việc cho các hãng bảo hiểm) lấy quyết định thiên về giảm chi phí bồi hoàn nên thường bất lợi cho bệnh nhân. Các hãng bảo hiểm thuốc theo toa bác sĩ (prescription drugs) cũng vậy. Nhiều thuốc tốt trị đúng bệnh (nhưng đắc tiền) họ không bồi hoàn, bác sĩ phải đổi qua một thứ thuốc tương đương khác đôi khi không chữa bệnh hữu hiệu.
Hiện nay mỗi năm Hoa Kỳ có 75.000 bác sĩ tổng quát và 8.000 bác sĩ chuyên ngành ra trường, trong đó 93% sẽ trở thành nhân viên của các hãng bảo hiểm và các bệnh viện. Họ không thể thực hiện lời thề Hippocratic Oath khi ra trường là sẽ săn sóc bệnh nhân như một con người. Họ không thể săn sóc bệnh nhân và làm việc chu đáo như ý muốn vì họ không có thì giờ. Họ phải làm việc theo lợi nhuận, nghĩa là chạy theo lượng hơn là phẩm. Và trong điều kiện tiến triển của y khoa điều này có nghĩa bác sĩ dựa vào con số để chẩn đoán bệnh và chữa trị theo tên bệnh hơn là để thì giờ nghiên cứu điều kiện y khoa của bệnh nhân như một đối tượng riêng biệt dù mang một tên chứng bệnh như nhau.
Sự thay đổi cách làm việc của các bác sĩ dần dần trở thành một lối sống, một thứ văn hóa của người thầy thuốc. Bác sĩ nào không chịu nổi cách hành nghề này chỉ có cách treo bằng, từ bỏ nghề thuốc để làm một công việc khác. Nếu trước đây 40 năm thanh niên chọn y khoa vì muốn giúp đời và giúp người thì hôm nay đa số chọn y khoa vì làm được nhiều tiền mà không sợ bị thất nghiệp. Các trường y khoa ghi nhận rằng qua các cuộc phỏng vấn tuyển chọn sinh viên y khoa nếu ngày trước khi được hỏi, “tại sao anh muốn trở thành một bác sĩ” câu trả lời thường là “vì tôi muốn giúp người khác” thì hôm nay các sinh viên cảm thấy trả lời như vậy là không thật nên đa số đã trả lời, “vì nghề bác sĩ không bị thất nghiệp”. Ít nhất họ chưa trả lời thẳng thừng, “và vì kiếm được nhiều tiền!”
Cần cải tổ hệ thống bảo hiểm như thế nảo?
Luật cải tổ nhắm vào ba lĩnh vực: (1) mọi người đều có bảo hiểm sức khỏe, (2) giảm chi phí y khoa, (3) hữu hiệu hóa sự chữa trị.
Hai điều kiện (1) và (2) hầu như mâu thuẫn nhau vì bảo hiểm cho 49 triệu người hiện không có bảo hiểm là một chi phí lớn làm cho mục tiêu giảm chi phí chung trở nên rất khó khăn.
Để bảo hiểm cho những người không có bảo hiểm các nhà làm luật đang đề ra nhiều lối:
- Nới rộng chương trình medicare của liên bang cho những người trên 55 tuổi (thay vì phải chờ đến 65 như hiện nay)
- Dễ giải trong chương trình Medicaid
- Thành lập một chương trình bảo hiểm premium thấp do chính phủ liên bang phụ trách để dân chúng ai muốn mua thì mua, buộc các hãng bảo hiểm tư phải giảm tiền đóng bảo hiểm và tăng cường chất lượng của policy bảo hiểm (các hãng bảo hiểm tư không thích kế hoạch này cho rằng chương trình bảo hiểm của chính phủ liên bang sẽ không tốt bằng các policy của họ và có thể làm cho họ bị cạnh tranh mà phải đóng cửa.)
- Khuyến khích những người có khả năng mua bảo hiểm bằng cách giảm thuế.
- Bắt buộc (mandate) chủ nhân phải mua bảo hiểm cho nhân viên dù làm việc bán thời
- Bắt buộc (mandate) mọi người phải mua bảo hiểm sức khỏe (như luật buộc mọi người có xe phải mua bảo hiểm tối thiểu mới được quyền lái xe).
Một câu hỏi mấu chốt:
Lấy tiền ở đâu để vừa thực hiện chương trình bảo hiểm cho mọi người vừa giảm chi phí chung?
Các nhà làm luật dự tính:
- Tiết kiệm chi tiêu trong hai chương trình medicare và medicaid bằng cách tránh trùng dụng, thí dụ bác sĩ này cho làm thí nghiệm này qua bác sĩ khác cũng cho làm một thí nghiệm như vậy.
- Giảm các thí nghiệm y khoa vô ích.
- Cắt giảm tiền bồi hoàn dịch vụ cho các bác sĩ và bệnh viện.
Đây là điểm gai góc nhất trong luật cải tổ săn sóc sức khỏe. Tuy nhiên hai cơ sở y tế tư nhân (Health Maintenance Organization - HMO) Mayo Clinic và Kaiser Permanente đã chứng tỏ họ có thể vừa cắt giảm chi phí vừa săn sóc bệnh nhân tốt hơn.
Để giúp các bác sĩ tránh trùng dụng, luật cải tổ cần dự liệu sự thiết lập một hồ sơ điện toán về sức khỏe và chữa trị cho mỗi công dân, thế nào để bác sĩ chữa trị nào trên toàn quốc cũng có thể vào đọc đối với bệnh nhân liên hệ.
- Đánh thuế vào “health benefits” nơi những người đi làm có lương cao.
- Giảm khấu trừ thuế (tax deductions) do chi phí y khoa của mỗi cá nhân
- Tăng thuế những thức ăn và uống không tốt cho sức khỏe như rượu.
Phản ứng của các khối quyền lợi
Hiện nay tổng thống Obama có lợi thế quần chúng đòi hỏi ông phải thực hiện chương trình cải tổ nhanh chóng. Và trên thực tế sự suy thoái kinh tế hiện nay là một thúc bách vì cải tổ hệ thống chăm lo sức khỏe trong hướng giảm chi là một phần trong toàn bộ kế hoạch chấn hưng kinh tế qua đó các khối thế lực như khối bảo hiểm, khối bào chế thuốc, khối chủ nhân, khối bác sĩ, khối bệnh viện đều có lợi.
Các khối có quyền lợi này từng là các thế lực đánh bại nỗ lực cải tổ trước đây của tổng thống Clinton sẽ không còn là trở lực chính. Họ sẽ hợp tác và vận động quốc hội theo sự tính toán quyền lợi riêng của mỗi khối. Và qua đó các khối thế lực này sẽ đóng một vai trò quan trọng trong diện mạo bộ luật sẽ được hình thành.
Nắm yếu tố này, tòa Bạch ốc và quốc hội rất quan tâm đến quan điểm của các khối quyền lợi nói trên. Khối bảo hiểm chống sự thành hình một chương trình bán bảo hiểm của chính phủ liên bang vì cho rằng đó là một sự cạnh tranh bất xứng làm thui chột nguyên tắc kinh tế thị trường. Khối bào chế ủng hộ chính sách mandate bắt buộc các xí nghiệp nhỏ, các chủ tiểu thương phải mua bảo hiểm cho nhân viên, cũng như buộc công dân phải mua bảo hiểm vì họ có thể bán được nhiều thuốc. Trái lại khối chủ nhân chống lại chính sách mandate. Khối bác sĩ sẽ ủng hộ một bộ luật giúp họ bớt lệ thuộc vào các hãng bảo hiểm và các bệnh viện, tuy nhiên họ cũng không ủng hộ một bộ luật cắt xén bớt tiền thù lao của các dịch vụ y khoa. Khối bệnh viện thì lo lắng về một bộ luật tạo điều kiện phanh phui các sai lầm y khoa chết người thường xẩy ra tại các bệnh viện. Sau cùng khối cử tri tự do thích một cuộc cải tổ sâu rộng như hướng bảo hiểm sức khỏe của hầu hết các nước kỹ nghệ Âu châu, nghĩa là chính phủ bảo hiểm cho tất cả mọi công dân, một chính sách bảo hiểm gọi là single-payer.
Sự cân nhắc của đảng Cộng Hòa
Trước tâm lý chung của quần chúng chờ đợi một bộ luật cải tổ chế độ săn sóc sức khỏe cho người dân, đảng Cộng Hòa đã mặc nhiên đồng ý cần có bộ luật cải tổ. Nhưng cải tổ như thế nào là một vấn đề đảng Cộng Hòa sẽ cân nhắc kỹ lưỡng khi cuộc thảo luận trong dư luận và tại quốc hội bắt đầu. Nếu đảng Dân Chủ nghiêng về một cải tổ sâu rộng như chế độ single-payer thì đảng Cộng Hòa nghiêng về một chế độ trong đó bảo hiểm tư nhân vẫn chiếm ưu thế.
Trong điều kiện đó người ta chờ đợi một dự luật cải tổ trong đó chính phủ dự một phần quan trọng (hơn hiện nay) trong việc săn sóc sức khỏe người dân trong khi vẫn duy trì các chương trình bảo hiểm tư nhân. Cuộc đấu tranh giữa hai đảng sẽ là cuộc đấu tranh về vị trí của đường ranh giới giữa hai hình thức bảo hiểm sức khỏe này.
Đảng Dân Chủ hiện nắm đa số tại cả hai viện quốc hội và hành pháp và có khả năng thông qua một đạo luật cải tổ mà không cần sự hợp tác tích cực của đảng Cộng Hòa. Nhưng nếu vậy tư thế của đảng Dân Chủ trong cuộc bầu cử quốc hội toàn thể Hạ nghị viện và 1/3 Thượng viện tháng 11 năm 2010 sẽ không phải là tối hảo. Đảng Dân Chủ cần sự hợp tác của đảng Cộng Hòa để biểu hiện sự đồng thuận của toàn dân trước một vấn đề lớn của quốc gia.
Nhưng đó chính là điểm then chốt đối với đảng Cộng Hòa . Để lấy đà cho cuộc bầu cử tổng thống năm 2012 đảng Cộng Hòa cũng cần nâng tư thế của mình trong cuộc bầu cử tháng 11/2010, và đảng Cộng Hòa không thấy thích thú gì hợp tác với đảng Dân Chủ để thông qua một bộ luật cải tổ chế độ săn sóc sức khỏe do tổng thống Obama đề xướng. Nhưng không hợp tác dân chúng Hoa Kỳ có thể cho đảng Cộng Hòa “thọc gậy bánh xe” và cũng không tốt gì cho thanh thế của đảng.
Trong bối cảnh đó đảng Cộng Hòa sẽ tùy tình hình để lượng định sách lược của mình đối với luật cải tổ chế độ săn sóc sức khỏe sẽ được bàn thảo và có nhiều hy vọng được thông qua trong mùa hè năm nay.
Luật có bảo đảm mọi người đều được bảo hiểm sức khỏe không?
Luật có thay đổi cách chữa trị để giảm thiểu sai lầm y khoa không?
Luật có thay đổi quan hệ giữa người thầy thuốc và bệnh nhân không?
Và sau cùng luật có tiết giảm chi phí quốc gia để góp phần chấn hưng kinh tế đang suy thoái không?
Làm được những điều này là làm một cuộc cách mạng đòi hỏi sự can đảm chính trị của cả hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa./.
Trần Bình Nam
June 30, 2009
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com
Tài liệu tham khảo:
1. “He Who Has the Gold Sets the Rules” by Ronald J. Grasser, The Washington Post National Weekly Edition, June 8-14, 2009
2. “Which Doctors Measure Up?” by Harlan M. Krumholz, The Washington Post National Weekly Edition, June 8-14, 2009
3. “An Elusive Cure” by Ceci Connolly, The Washington Post National Weekly Edition, June 15-21, 2009
4. “Congress Must Navigate Tricky Terrain” by Shailagh Murray, The Washington Post National Weekly Edition, June 15-21, 2009
5. “Invested in the Health-Care Debate” by Paul Kane, The Washington Post National Weekly Edition, June 22-28, 2009
6. “This is going to hurt” , The Economist, June 27 – July 3, 2009
7. “Heading for the emergency room” ,The Economist, June 27 – July 3, 2009
Trần Bình Nam
http://www.tranbinhnam.com
Trần Bình Nam
Mùa hè năm nay quốc hội Hoa Kỳ sẽ bận rộn với luật bảo hiểm sức khỏe tổng thống Obama hứa với quốc dân trong khi tranh cử tổng thống. Tháng 6 vừa qua quốc hội bắt đầu nghe các báo cáo và tường trình. Và sau lễ độc lập “Fourth July” dân chúng sẽ được chứng kiến một cuộc thảo luận rộng rãi sau khi các nét chính của dự luật cải tổ chế độ săn sóc sức khỏe của người dân được công bố.
Các nỗ lực cải tổ :
Cam kết cải tổ chế độ bảo hiểm sức khỏe của tổng thống Obama không phải đơn thuần là sự xác quyết thực hiện một lời hứa trong khi tranh cử, mà là sự tiếp nối một nỗ lực của nhiều chính quyền Dân Chủ cũng như Cộng Hòa bắt đầu từ chính quyền của tổng thống Lyndon Johnson. Đó là thực hiện một chính sách bảo vệ sức khỏe cho nhân dân Mỹ sao cho vừa hữu hiệu vừa ít tốn kém nhắm mục tiêu tối hậu là mọi người Mỹ đều được bảo hiểm sức khỏe dưới hình thức này hay hình thức khác.
Luật An Sinh Xã Hội (Social Security Act) được tổng thống Johnson ban hành tháng 7 năm 1965 thành lập hai chương trình Medicare và Medicaid (tại California, Medicaid được gọi là chương trình Medi-cal) chăm lo sức khỏe cho người cao niên và thành phần yếu kém trong xã hội. Chỉ hơn 5 năm sau, tổng thống Nixon ghi nhận chi tiêu của hai chương trình đó tăng quá nhanh nên đã có ý kiến cải tổ. Tuy nhiên do sự khác biệt ý kiến với Thượng nghị sĩ Edward Kennedy, nỗ lực này của tổng thống Nixon được xếp lại. Năm 1993 sau khi đắc cử, tổng thống Clinton thuộc đảng Dân Chủ thành lập ủy ban đặc nhiệm do bà Hillary Clinton phụ trách nhắm mục tiêu cải tổ toàn bộ hệ thống bảo hiểm sức khỏe của Hoa Kỳ. Tuy nhiên chương trình này bị các khối quyền lợi như các hãng bảo hiểm sức khỏe, hệ thống bệnh viện, tập đoàn bác sĩ, các hãng bào chế thuốc chống nên thất bại trong trứng nước. Thất bại dễ dàng một phần cũng do bà Clinton đề xuất mọi chi tiết cải tổ từ tòa Bạch ốc qua một nhóm đặc nhiệm làm việc với bà và không tham khảo ý kiến với quốc hội. Riêng tổng thống George Bush không đưa ra chương trình cải tổ lớn nào ngoại trừ đề nghị sẽ giảm thuế cho những người tự mua bảo hiểm để giảm bớt số người không có bảo hiểm sức khỏe.
Và hôm nay, đối với tổng thống Obama sự cải tổ chế độ bảo hiểm sức khỏe trở thành một lời hứa long trọng với quốc dân, một chương trình quy mô ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế và xã hội trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay và nó trở thành một thúc bách, một ưu tiên quốc gia.
Ngày 24/2/2009, đọc diễn văn đầu tiên trước quốc hội sau khi nhậm chức, tổng thống Obama nói: “Chi phí chăm sóc sức khỏe của nhân dân Hoa Kỳ quá lớn đã làm yếu nền kinh tế Hoa Kỳ và vấn đề này đè nặng lên ý thức trách nhiệm của chúng ta. Vì vậy chúng ta cần cho nhân dân Hoa Kỳ biết rằng không còn chờ đợi gì nữa, chúng ta phải bắt tay ngay vào công tác chỉnh đốn lại hệ thống chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ.” Tổng thống Obama cũng không quên nhắc lại cam kết của tổng thống Clinton trước quốc hội ngày 17/2/1993 rằng, “… các gia đình người Mỹ không được bảo đảm sự an toàn với hệ thống bảo hiểm sức khỏe hiện nay, trong khi các nhà kinh doanh không thể yên tâm làm ăn và chính phủ Hoa Kỳ không thể ổn định nếu chúng ta không giải quyết được cơn khủng hoảng bảo hiểm sức khỏe này.”
Tình trạng săn sóc sức khỏe hiện tại của Hoa Kỳ:
Chế độ chăm lo sức khỏe hiện nay tại Hoa Kỳ dựa vào: (1) các “chủ nhân” tư hay công trả một phần tiền bảo hiểm cho nhân viên sở mình, (2) những người trên 65 tuổi hay bị tàn tật do chính phủ liên bang qua chương trình Medicare, (3) những người có lợi tức thấp, các bà mẹ nghèo có con nhỏ do chương trình Medicaid của chính phủ tiểu bang, và (4) những người làm nghề tự do tự mua bảo hiểm.
Trong số gần 303 triệu dân Mỹ có 158 triệu người được bảo hiểm qua sở làm, 42 triệu người cao niên có Medicare, 39 triệu người có Medicaid và 15 triệu người hành nghề tự do tự mua bảo hiểm. Còn lại khoảng 49 triệu người không có bảo hiểm. Trong số này có 80% có việc làm bán thời hoặc làm toàn thời cho các cơ sở nhỏ không có khả năng mua bảo hiểm cho nhân viên. Một số khác (25%) đa số thuộc thành phần trẻ trong lớp tuổi từ 25 đến 30 có khả năng mua bảo hiểm nhưng không mua vì tin vào sức khỏe của mình.
Chế độ bảo hiểm này hiện có 3 vấn đề. Thứ nhất là chi phí rất cao và tăng nhanh theo thời gian vượt trội sự tăng trưởng lợi tức quốc gia. Thứ hai là không hữu hiệu, và thứ ba có một tỉ số quá cao dân số (16%) không có bảo hiểm.
Chi tiêu toàn quốc cho sức khỏe khoảng năm 1970 là 150 tỉ mỹ kim mỗi năm, vào năm 2008 chi phí này lên đến 2.327 tỉ mỹ kim (6% khả năng sản xuất quốc gia GDP). Cứ trung bình một người Mỹ tiêu 7.680 mỹ kim mỗi năm cho sức khỏe tính trên dân số 303 triệu người. Trong khoảng thời gian nói trên chi phí y khoa tại Hoa Kỳ tăng nhanh hơn số tăng lợi tức đầu người đến 2.1% làm cho sự phát triển quốc gia bị chênh lệch. So với 4 quốc gia tiên tiến khác là Nhật, Anh, Đức và Canada, Mỹ có chi phí đầu người cao nhất (Nhật 38% , Anh 41%, Đức 50% và Canada 55% so với Mỹ).
Chi phí cao vì chế độ bảo hiểm sức khỏe tại Hoa Kỳ trả theo dich vụ (fee-for-service). Bệnh viện và bác sĩ tính tiền theo dịch vụ cung cấp, các hãng bảo hiểm bồi hoàn, nên có khuynh hướng cung cấp nhiều dịch vụ hơn là cần thiết. Bệnh viện có khuynh hướng trang bị dụng cụ y khoa tối tân, trong khi các bác sĩ khám càng nhiều bệnh nhân, viết càng nhiều đơn thuốc và cho làm nhiều chẩn đoán y khoa (medical tests) càng được nhiều thù lao. Và như một vòng tròn, các hãng bảo hiểm tăng tiền mua bảo hiểm (premium) để bù lại.
Nhờ dụng cụ và máy móc y khoa tối tân cho nên nền y khoa Hoa Kỳ tiến bộ nhất thế giới, nhưng điều nghịch lý là nó không mang lại nhiều sức khỏe cho người dân Mỹ. Vì có quá nhiều phương tiện, sự săn sóc một bệnh nhân đôi khi trùng dụng và người bệnh được làm những thử nghiệm đôi khi không cần thiết nếu không muốn nói có hại cho sức khỏe của bệnh nhân. Mỗi năm tại Hoa Kỳ có 100.000 người chết vì nhiễm trùng trong các bệnh viện, và 1.500.000 người bị thương tật vì sai lầm y khoa (chẩn đoán sai). Trong 37 nước kỹ nghệ hàng đầu trên thế giới Hoa Kỳ đứng thứ 29 về trẻ sơ sinh chết, và là nước hàng đầu về bệnh mập phì và bệnh tim. Hoa Kỳ chỉ hơn các nước kỹ nghệ khác trong hai lĩnh vực chống ung thư vú và ung thư tử cung của phụ nữ.
Nếu xét yếu tố hữu hiệu y khoa tại mỗi nước dựa trên số trung bình bệnh nhân chết vì sai lầm y khoa và số trẻ sơ sinh tử vong thì sự hữu hiệu của Hoa Kỳ kém hơn 4 nước nói trên (ngoại trừ Anh). Cứ 100.000 bệnh nhân nhập viện Hoa Kỳ có 110 người chết vì sai lầm y khoa (Nhật 71%, Đức 90%, Canada 77%, Anh 103% so với Hoa Kỳ). Và cứ 1.000 trẻ sơ sinh tại Hoa Kỳ có 68 trẻ tử vong (Nhật 41%, Anh 74%, Đức 60%, Canada 78% so với Hoa Kỳ).
Kỹ thuật y khoa tại Hoa Kỳ cao nhưng không phục vụ bệnh nhân hữu hiệu cũng còn vì bản chất lợi nhuận. Trước đây nhiều thập niên các bác sĩ thường tập họp thành từng tổ hợp nhỏ 4 hay 5 người để săn sóc bệnh nhân. Giữa người thầy thuốc và bệnh nhân có một thứ quan hệ gần gũi và người thầy thuốc được hành nghề theo chức năng cứu nhân độ thế theo đúng lời thề của thánh tổ y khoa Hipporates (Hipporatic Oath) mà mỗi bác sĩ khi nhận văn bằng bác sĩ y khoa đều cam kết thề nguyền.
Trong điều kiện đó, bệnh nhân được chữa trị đúng nhu cầu và chi phí chữa trị xứng đáng với sự săn sóc bệnh nhân nhận được. Nhưng do lợi nhuận cao nhiều tập đoàn bệnh viện lớn và các hãng bảo hiểm sức khỏe kếch xù xuất hiện làm chết các tổ hợp bác sĩ nhỏ. Các bệnh viện và các hãng bảo hiểm lớn thuê bác sĩ làm việc cho mình tạo ra một hệ thống gọi là “managed care” nghĩa là một hệ thống mà quyết định chữa trị cuối cùng không phải do bác sĩ chữa trị mà do những chuyên viên trong các lĩnh vực y khoa làm việc cho các bệnh viện hay cho các hãng bảo hiểm. Những chuyên viên này (nếu làm việc cho các hãng bảo hiểm) lấy quyết định thiên về giảm chi phí bồi hoàn nên thường bất lợi cho bệnh nhân. Các hãng bảo hiểm thuốc theo toa bác sĩ (prescription drugs) cũng vậy. Nhiều thuốc tốt trị đúng bệnh (nhưng đắc tiền) họ không bồi hoàn, bác sĩ phải đổi qua một thứ thuốc tương đương khác đôi khi không chữa bệnh hữu hiệu.
Hiện nay mỗi năm Hoa Kỳ có 75.000 bác sĩ tổng quát và 8.000 bác sĩ chuyên ngành ra trường, trong đó 93% sẽ trở thành nhân viên của các hãng bảo hiểm và các bệnh viện. Họ không thể thực hiện lời thề Hippocratic Oath khi ra trường là sẽ săn sóc bệnh nhân như một con người. Họ không thể săn sóc bệnh nhân và làm việc chu đáo như ý muốn vì họ không có thì giờ. Họ phải làm việc theo lợi nhuận, nghĩa là chạy theo lượng hơn là phẩm. Và trong điều kiện tiến triển của y khoa điều này có nghĩa bác sĩ dựa vào con số để chẩn đoán bệnh và chữa trị theo tên bệnh hơn là để thì giờ nghiên cứu điều kiện y khoa của bệnh nhân như một đối tượng riêng biệt dù mang một tên chứng bệnh như nhau.
Sự thay đổi cách làm việc của các bác sĩ dần dần trở thành một lối sống, một thứ văn hóa của người thầy thuốc. Bác sĩ nào không chịu nổi cách hành nghề này chỉ có cách treo bằng, từ bỏ nghề thuốc để làm một công việc khác. Nếu trước đây 40 năm thanh niên chọn y khoa vì muốn giúp đời và giúp người thì hôm nay đa số chọn y khoa vì làm được nhiều tiền mà không sợ bị thất nghiệp. Các trường y khoa ghi nhận rằng qua các cuộc phỏng vấn tuyển chọn sinh viên y khoa nếu ngày trước khi được hỏi, “tại sao anh muốn trở thành một bác sĩ” câu trả lời thường là “vì tôi muốn giúp người khác” thì hôm nay các sinh viên cảm thấy trả lời như vậy là không thật nên đa số đã trả lời, “vì nghề bác sĩ không bị thất nghiệp”. Ít nhất họ chưa trả lời thẳng thừng, “và vì kiếm được nhiều tiền!”
Cần cải tổ hệ thống bảo hiểm như thế nảo?
Luật cải tổ nhắm vào ba lĩnh vực: (1) mọi người đều có bảo hiểm sức khỏe, (2) giảm chi phí y khoa, (3) hữu hiệu hóa sự chữa trị.
Hai điều kiện (1) và (2) hầu như mâu thuẫn nhau vì bảo hiểm cho 49 triệu người hiện không có bảo hiểm là một chi phí lớn làm cho mục tiêu giảm chi phí chung trở nên rất khó khăn.
Để bảo hiểm cho những người không có bảo hiểm các nhà làm luật đang đề ra nhiều lối:
- Nới rộng chương trình medicare của liên bang cho những người trên 55 tuổi (thay vì phải chờ đến 65 như hiện nay)
- Dễ giải trong chương trình Medicaid
- Thành lập một chương trình bảo hiểm premium thấp do chính phủ liên bang phụ trách để dân chúng ai muốn mua thì mua, buộc các hãng bảo hiểm tư phải giảm tiền đóng bảo hiểm và tăng cường chất lượng của policy bảo hiểm (các hãng bảo hiểm tư không thích kế hoạch này cho rằng chương trình bảo hiểm của chính phủ liên bang sẽ không tốt bằng các policy của họ và có thể làm cho họ bị cạnh tranh mà phải đóng cửa.)
- Khuyến khích những người có khả năng mua bảo hiểm bằng cách giảm thuế.
- Bắt buộc (mandate) chủ nhân phải mua bảo hiểm cho nhân viên dù làm việc bán thời
- Bắt buộc (mandate) mọi người phải mua bảo hiểm sức khỏe (như luật buộc mọi người có xe phải mua bảo hiểm tối thiểu mới được quyền lái xe).
Một câu hỏi mấu chốt:
Lấy tiền ở đâu để vừa thực hiện chương trình bảo hiểm cho mọi người vừa giảm chi phí chung?
Các nhà làm luật dự tính:
- Tiết kiệm chi tiêu trong hai chương trình medicare và medicaid bằng cách tránh trùng dụng, thí dụ bác sĩ này cho làm thí nghiệm này qua bác sĩ khác cũng cho làm một thí nghiệm như vậy.
- Giảm các thí nghiệm y khoa vô ích.
- Cắt giảm tiền bồi hoàn dịch vụ cho các bác sĩ và bệnh viện.
Đây là điểm gai góc nhất trong luật cải tổ săn sóc sức khỏe. Tuy nhiên hai cơ sở y tế tư nhân (Health Maintenance Organization - HMO) Mayo Clinic và Kaiser Permanente đã chứng tỏ họ có thể vừa cắt giảm chi phí vừa săn sóc bệnh nhân tốt hơn.
Để giúp các bác sĩ tránh trùng dụng, luật cải tổ cần dự liệu sự thiết lập một hồ sơ điện toán về sức khỏe và chữa trị cho mỗi công dân, thế nào để bác sĩ chữa trị nào trên toàn quốc cũng có thể vào đọc đối với bệnh nhân liên hệ.
- Đánh thuế vào “health benefits” nơi những người đi làm có lương cao.
- Giảm khấu trừ thuế (tax deductions) do chi phí y khoa của mỗi cá nhân
- Tăng thuế những thức ăn và uống không tốt cho sức khỏe như rượu.
Phản ứng của các khối quyền lợi
Hiện nay tổng thống Obama có lợi thế quần chúng đòi hỏi ông phải thực hiện chương trình cải tổ nhanh chóng. Và trên thực tế sự suy thoái kinh tế hiện nay là một thúc bách vì cải tổ hệ thống chăm lo sức khỏe trong hướng giảm chi là một phần trong toàn bộ kế hoạch chấn hưng kinh tế qua đó các khối thế lực như khối bảo hiểm, khối bào chế thuốc, khối chủ nhân, khối bác sĩ, khối bệnh viện đều có lợi.
Các khối có quyền lợi này từng là các thế lực đánh bại nỗ lực cải tổ trước đây của tổng thống Clinton sẽ không còn là trở lực chính. Họ sẽ hợp tác và vận động quốc hội theo sự tính toán quyền lợi riêng của mỗi khối. Và qua đó các khối thế lực này sẽ đóng một vai trò quan trọng trong diện mạo bộ luật sẽ được hình thành.
Nắm yếu tố này, tòa Bạch ốc và quốc hội rất quan tâm đến quan điểm của các khối quyền lợi nói trên. Khối bảo hiểm chống sự thành hình một chương trình bán bảo hiểm của chính phủ liên bang vì cho rằng đó là một sự cạnh tranh bất xứng làm thui chột nguyên tắc kinh tế thị trường. Khối bào chế ủng hộ chính sách mandate bắt buộc các xí nghiệp nhỏ, các chủ tiểu thương phải mua bảo hiểm cho nhân viên, cũng như buộc công dân phải mua bảo hiểm vì họ có thể bán được nhiều thuốc. Trái lại khối chủ nhân chống lại chính sách mandate. Khối bác sĩ sẽ ủng hộ một bộ luật giúp họ bớt lệ thuộc vào các hãng bảo hiểm và các bệnh viện, tuy nhiên họ cũng không ủng hộ một bộ luật cắt xén bớt tiền thù lao của các dịch vụ y khoa. Khối bệnh viện thì lo lắng về một bộ luật tạo điều kiện phanh phui các sai lầm y khoa chết người thường xẩy ra tại các bệnh viện. Sau cùng khối cử tri tự do thích một cuộc cải tổ sâu rộng như hướng bảo hiểm sức khỏe của hầu hết các nước kỹ nghệ Âu châu, nghĩa là chính phủ bảo hiểm cho tất cả mọi công dân, một chính sách bảo hiểm gọi là single-payer.
Sự cân nhắc của đảng Cộng Hòa
Trước tâm lý chung của quần chúng chờ đợi một bộ luật cải tổ chế độ săn sóc sức khỏe cho người dân, đảng Cộng Hòa đã mặc nhiên đồng ý cần có bộ luật cải tổ. Nhưng cải tổ như thế nào là một vấn đề đảng Cộng Hòa sẽ cân nhắc kỹ lưỡng khi cuộc thảo luận trong dư luận và tại quốc hội bắt đầu. Nếu đảng Dân Chủ nghiêng về một cải tổ sâu rộng như chế độ single-payer thì đảng Cộng Hòa nghiêng về một chế độ trong đó bảo hiểm tư nhân vẫn chiếm ưu thế.
Trong điều kiện đó người ta chờ đợi một dự luật cải tổ trong đó chính phủ dự một phần quan trọng (hơn hiện nay) trong việc săn sóc sức khỏe người dân trong khi vẫn duy trì các chương trình bảo hiểm tư nhân. Cuộc đấu tranh giữa hai đảng sẽ là cuộc đấu tranh về vị trí của đường ranh giới giữa hai hình thức bảo hiểm sức khỏe này.
Đảng Dân Chủ hiện nắm đa số tại cả hai viện quốc hội và hành pháp và có khả năng thông qua một đạo luật cải tổ mà không cần sự hợp tác tích cực của đảng Cộng Hòa. Nhưng nếu vậy tư thế của đảng Dân Chủ trong cuộc bầu cử quốc hội toàn thể Hạ nghị viện và 1/3 Thượng viện tháng 11 năm 2010 sẽ không phải là tối hảo. Đảng Dân Chủ cần sự hợp tác của đảng Cộng Hòa để biểu hiện sự đồng thuận của toàn dân trước một vấn đề lớn của quốc gia.
Nhưng đó chính là điểm then chốt đối với đảng Cộng Hòa . Để lấy đà cho cuộc bầu cử tổng thống năm 2012 đảng Cộng Hòa cũng cần nâng tư thế của mình trong cuộc bầu cử tháng 11/2010, và đảng Cộng Hòa không thấy thích thú gì hợp tác với đảng Dân Chủ để thông qua một bộ luật cải tổ chế độ săn sóc sức khỏe do tổng thống Obama đề xướng. Nhưng không hợp tác dân chúng Hoa Kỳ có thể cho đảng Cộng Hòa “thọc gậy bánh xe” và cũng không tốt gì cho thanh thế của đảng.
Trong bối cảnh đó đảng Cộng Hòa sẽ tùy tình hình để lượng định sách lược của mình đối với luật cải tổ chế độ săn sóc sức khỏe sẽ được bàn thảo và có nhiều hy vọng được thông qua trong mùa hè năm nay.
Luật có bảo đảm mọi người đều được bảo hiểm sức khỏe không?
Luật có thay đổi cách chữa trị để giảm thiểu sai lầm y khoa không?
Luật có thay đổi quan hệ giữa người thầy thuốc và bệnh nhân không?
Và sau cùng luật có tiết giảm chi phí quốc gia để góp phần chấn hưng kinh tế đang suy thoái không?
Làm được những điều này là làm một cuộc cách mạng đòi hỏi sự can đảm chính trị của cả hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa./.
Trần Bình Nam
June 30, 2009
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com
Tài liệu tham khảo:
1. “He Who Has the Gold Sets the Rules” by Ronald J. Grasser, The Washington Post National Weekly Edition, June 8-14, 2009
2. “Which Doctors Measure Up?” by Harlan M. Krumholz, The Washington Post National Weekly Edition, June 8-14, 2009
3. “An Elusive Cure” by Ceci Connolly, The Washington Post National Weekly Edition, June 15-21, 2009
4. “Congress Must Navigate Tricky Terrain” by Shailagh Murray, The Washington Post National Weekly Edition, June 15-21, 2009
5. “Invested in the Health-Care Debate” by Paul Kane, The Washington Post National Weekly Edition, June 22-28, 2009
6. “This is going to hurt” , The Economist, June 27 – July 3, 2009
7. “Heading for the emergency room” ,The Economist, June 27 – July 3, 2009
Trần Bình Nam
http://www.tranbinhnam.com
Sunday, June 28, 2009
CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Hai tác phẩm: "CIA and the Generals: Covert Support to the Military Government in South Vietnam "
và
"CIA and the House of Ngo: Covert Action
in South Vietnam, 1954-1963."
Tác Giả: Thomas L. Ahern, Jr.
Center for the Study of Intelligence ấn hành.
Lần
đầu tiên trong lịch sử của Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (CIA), ban biên
tập của cơ quan cho giải mật hai tập tài liệu quan trọng về liên hệ CIA
và Việt Nam . Trong nhiều năm qua, CIA theo luật bắt buộc đã giải mật
nhiều tài liệu quan trọng, thí dụ như hơn 1.000 trang phân tích và ước
lượng về chiến tranh Việt Nam (Estimative Products on Vietnam,
1948-1975, National Intelligence Council, 2005). Lần đầu tiên trong
nghĩa này là hai quyển sách trên thuộc lọai sử kể (narrative history),
có đầu đuôi, chú thích và quan trọng hơn hết tác giả là người thật,
đọc nhiều tài liệu và viết lại có ngọn ngành cho đọc giả. Đa số những
tài liệu giải mật của CIA trước đây thuộc lọai nặc danh vì lý do nghề
nghiệp, hay là những tường trình do nhân viên báo cáo về để kính tường.
Người
điểm sách không biết hai quyển sách trên thật sự được cho in lúc nào
(nghĩa là được Center for the Study of Intelligence giải mật cho ra công
chúng trong dạng một quyển sách; Center for the Study of Intelligence
là nhà in của CIA). Theo lời giới thiệu trong sách, quyển CIA and the
Generals (CIA & Generals) được hoàn tất tháng 10-1998; và CIA and
the House of Ngo (CIA & Ngo) viết xong tháng 6-2000. Hai quyển này
được đưa lên web site của Center for the Study of Intelligence vào đầu
tháng 3-2009, với dấu mộc ghi APPROVED FOR RELEASE DATE 19-Feb-2009.
(Được Phép Đưa Ra Công Cộng Ngày 19 tháng 2-2009).
CIA
and the House of Ngo: Covert Action in South Vietnam, 1954-1963 (CIA và
Những Điệp Vụ Mật ở Miền Nam, 1954-1963) nói về những hoạt động bên
trong để giúp đỡ chánh phủ Ngô Đình Diệm, từ ngày ông Diệm về làm thủ
tướng cho đến ngày tổng thống Diệm bị hạ sát trong cuộc cách mạng 1
tháng 11-1963. Qua tài liệu này, lần đầu tiên chúng ta biết được, từ năm
1950 cho đến năm 1956, CIA có hai Sở tình báo ở Sài Gòn: một Sở CIA
Saigon Station nằm dưới sự điều khiển thông thường từ bản doanh CIA ở
Langley, Virginia; Sở kia, có tên là Saigon Military Mission, làm việc
trực tiếp, và chỉ trả lời cho Giám Đốc Trung Ương Tình Báo. Saigon
Military Mission, theo Tài Liệu Ngũ Giác Đài (The Pentagon Papers) được
giải mật trước đây, do đại tá Edward G. Lansdale chỉ huy. Lansdale đến
Sài Gòn tháng 6-1954 với hai nhiệm vụ: huấn luyện những toán tình báo
Việt Nam để gài lại ở miền Bắc trước ngày di cư và tập kết hết hạn; và,
dùng mọi phương tiện ngầm (covert action) để giúp tân thủ tướng Ngô Đình
Diệm. Theo tác giả Thomas L. Aherns, chính Giám Đốc CIA Allen Dulles
chỉ định đại tá Lansdale cho điệp vụ ở Sài Gòn và cũng ra lệnh Lansdale
làm việc trực tiếp cho ông. Tác giả Ahern viết, CIA có mặt từ năm 1950
để giúp đỡ quân đội Pháp xâm nhập và thu thập tin tức tình báo. Nhưng từ
cuối năm 1953, khi thấy tình hình quân sự nguy ngập của Pháp, Hoa Thịnh
Đốn thay đổi nhiệm vụ của CIA Saigon Station: Liên lạc và thu thập tình
báo những thành phần quốc gia để lập một chánh thể chống cộng trong
trường hợp Hoa Kỳ thay thế Pháp. Cùng lúc Hoa Thịnh Đốn gởi thêm một
toán CIA để lo về quân sự, Saigon Military Mission (tác giả Ahern chú
thêm, trong các công điện của CIA, Saigon Military Mission đôi khi được
ghi là Saign Military Station).
CIA
and the House of Ngo tiết lộ một số chi tiết ly kỳ như, CIA liên lạc và
làm thân với ông Ngô Đình Nhu từ năm 1951, rất lâu trước khi Hoa Kỳ
liên lạc với ông Diệm. Đầu năm 1954, khi có tin Hoa Kỳ chuẩn bị đề nghị
quốc trưởng Bảo Đại và chánh phủ Pháp giải nhiệm hoàng thân Bửu Lộc và
thay bằng ông Diệm, thì ông Nhu là người đầu tiên CIA gặp để bàn về liên
hệ của Hoa Kỳ đối với thủ tướng tương lai Ngô Đình Diệm.
Tháng
4-1954, một nữ nhân viên Mỹ làm việc ở CIA Saigon Station, thông thạo
tiếng Pháp, quen biết và liên lạc thân thiện với Bà Ngô Đình Nhu. Từ nữ
nhân viên Virginia Spence này, Sở CIA Saigon bắt được nhiều liên lạc với
hầu hết những người thân trong gia đình, hoặc thân cận với Nhà Ngô.
Tháng 4-1954, CIA ở Hoa Thịnh Đốn gởi Paul Harwood sang làm cố vấn riêng
cho ông Nhu. Tuy là nhân viên CIA, nhưng Harwood đóng vai một nhân viên
Bộ Ngoại Giao, làm việc từ Tòa Đại Sứ. Trong hai năm, Hardwood cố vấn
là làm việc với ông Nhu để xâm nhập và ảnh hưởng đường lối ngoại giao
quân sự của nền đệ nhất VNCH với tổng thống Diệm. Paul Hardwood thân
thiện với gia đình ông bà Nhu đến độ ông ta là người đỡ đầu cho Ngô Đình
Lệ Thủy, ái nữ của ông bà Nhu.. Từ tài liệu này chúng ta cũng biết
thêm, ông bà Nhu được đưa qua thăm viếng Mỹ trước tổng thống Diệm. Để
lấy tình cảm và ảnh huởng với ông Nhu, đầu tháng 3-1957 ông bà Nhu được
CIA mời qua thăm Hoa Thịnh Đốn. Tuy không có một chức vụ gì chánh thức
với chánh phủ nhưng ông Nhu được diện kiến tổng thống Dwight Eisenhower,
hai Tổng Trưởng Ngoại Giao và Quốc Phòng, và Giám Đốc CIA Allen
Dullles. Tài liệu cho biết, với tài ăn nói và sắc diện, bà Nhu gây được
nhiều chú ý với các thẩm quyền Mỹ. Bà Nhu là một ngôi sao trong dạ tiệc
do CIA khoán đãi. Hai tháng sau chuyến thăm viếng âm thầm của ông bà
Nhu, đầu tháng 5-1957, tổng thống Diệm lên đường công du theo lời mời
của chánh phủ Hoa Kỳ.
Một
vài tiết lộ khác trong sách của Ahern: CIA bắt liên lạc được với những
nhân vật quan trọng như Trần Chánh Thành, Trần Trung Dung, Trần Quốc
Bửu. Và ít hay nhiều, CIA có thể nhìn vào nội tình của Nhà Ngô qua những
tin tức do những nhân vật trên cung cấp. Trong cuộc tranh chấp rồi sau
đó là giao chiến giữa chánh phủ Diệm và quân phiến loạn Bình Xuyên,
CIA biết được hầu hết kế hoạch và khả năng của Bình Xuyên, nhờ một cận
thần của Bảy Viễn đang làm việc cho CIA. Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia,
một đảng chánh trị thành lập để hổ trợ chánh phủ Diệm, nhận tài chánh và
cố vấn từ CIA. Nhưng đến đầu năm 1960 thì CIA cắt ngân khoản vì cơ cấu
nhân sự không còn hữu hiệu trong công tác tuyên truyền. CIA đã than
phiền nhiều lần về những hoạt động của Đảng Cần Lao và hành vi của ông
Ngô Đình Cẩn. Nhưng mỗi lần CIA than phiền với ông Nhu về những hoạt
động bí mật đôi khi trái phép của ông Cẩn, thì ông Nhu đưa hai tay lên
trời với một thái độ buông xuôi vì ông không thể nào làm gì được. Ở một
tài liệu khác cho biết, khoảng giữa năm 1956, CIA nhận được nguồn tin
cho biết ông Cẩn đang bàn kế hạch để lọai trừ Bộ Trưởng Thông Tin Trần
Chánh Thành và Cố Vấn Ngô Đình Nhu ra khỏi vòng ảnh hưởng ở Dinh Tổng
Thống. Qua nhiều trang, chúng ta đọc được sự bất lực của chánh phủ Sài
Gòn đối với lãnh chúa Ngô Đình Cẩn ở miền Trung.
Với
hai Sở CIA ở Sài Gòn hoạt động độc lập nhau, báo cáo gởi về cho CIA ở
Hoa Thịnh Đốn đôi khi trái ngược: Cố vấn Paul Hardwood thì báo cáo tốt,
nhân nhượng cho ông Nhu và có ý chỉ trích ông Diệm; Edward Lansdale thì
ngược lại: bảo vệ ông Diệm và nói xấu ông bà Nhu. Cuối năm 1956, sau khi
Lansdale bị triệu hồi về Mỹ, Al Ulmer, Trưởng Vụ Viễn Đông CIA, ra lệnh
giải tán những gì còn lại của Saigon Military Mission và thái độ của
Hoa Kỳ cũng bắt đầu thay đổi với chánh phủ Ngô Đình Diệm. Đầu năm 1958
Hoa Kỳ cho phép CIA Saigon bắt liên lạc với các đảng chính trị đối lập.
Tài liệu nói nhân viên của CIA mua chuộc và thành lập một lực lượng đối
lập ngay sau lưng ông Nhu, để trong trường hợp phải thay đổi cấp lãnh
đạo mới. Cuộc đảo chánh 11 tháng 11-1960 là một hăm dọa của Hoa Kỳ đối
với tổng thống Diệm: Nhân viên CIA có mặt ở tại bộ chỉ huy của đại tá
Nguyễn Chánh Thi và kế bên ông Hoàng Cơ Thụy để giới hạn bước tiến của
quân đảo chánh điệp viên Russ Miller khuyên đại tá Thi nên thượng lượng
với ông Diệm, trong khi biết rõ quân ủng hộ chánh phủ của đại tá Trần
Thiện Khiêm đang trên đường từ Vùng IV về thủ đô tiếp cứu. Khi thấy thái
độ trở mặt của CIA, màn lưới tình báo của ông Nhu cũng không hoàn toàn
thụ động: Phó Sở CIA Saigon, Douglas Blaufarb, ngỡ ngàng khi ông khám
phá ra người tài xế Việt Nam của ông không bị điếc như lúc được giới
thiệu vào làm việc (do Trần Kim Tuyến giới thiệu); người tài xế không
điếc mà còn thông thạo hai ngoại ngữ Anh và Pháp!
Tài
liệu thú nhận vào năm sau cùng của Nhà Ngô, Hoa Kỳ có một phần lớn
trách nhiệm trong kế hoạch hạ bệ tổng thống Diệm. Nhưng chính gia đình
ông Diệm cũng hủy hoạiï, vì sự chia rẽ từ anh em trong nhà. Từ mùa xuân
năm 1963 ông Nhu yêu cầu CIA đừng nói lại những gì ông và CIA trao đổi.
Và qua nhiều lần nói chuyện với CIA, ông Nhu tuyên bố ông muốn thay tổng
thống Diệm! Trong khi đó bà Nhu thì thường làm hùng làm hổ với tổng
thống Diệm: trong cuộc bầu cử Hạ Viện năm 1963, bà Nhu muốn ủng hộ 30
ứng cử viên mà ba ta ưng ý.. Ông Diệm không đồng ý, nhưng bà Nhu cằn
nhằn, to tiếng cho đến khi tổng thống Diệm nhượng bộ. Bà Nhu cũng thắng
thêm một lần nữa, khi đòi làm người chủ tọa và đọc diễn văn ngày Lễ Hai
Bà Trưng thay gì phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ như ông Diệm đã chỉ
định. Riêng về ông Ngô Đình Cẩn: ông Cẩn từ chối không ủng hộ hay giúp
ông Nhu về Chương Trình Ấp Chiến Lược ở Miền Trung.
Ngày
Lễ Quốc Khánh Hoa Kỳ, 4 tháng 7-1963, lần đầu tiên tổng thống Diệm cho
phép các tướng lãnh VNCH tham dự tiệc ăn mừng do tòa đại sứ tổ chức..
Sau tiệc rượu ở khuôn viên tòa đại sứ Hoa Kỳ, một vài tướng lãnh VNCH và
nhân viên CIA kéo nhau ra quán để uống nữa. Tại quán rượu, tướng Trần
Văn Đôn nói với nhân viên CIA là các tướng lãnh muốn đảo chánh tổng
thống Diệm. Thảm kịch của Nhà Ngô bắt đầu từ đó.
CIA
and the Generals: Covert Support to the Military Government in South
Vietnam (CIA và Các Tướng Lãnh: Những Hỗ Trợ Ngầm Cho Chính Phủ Quân Sự
Việt Nam Cộng Hòa), cũng là một tài liệu tương đối tối mật so với những
tài liệu được CIA công bố trước đây. Những sự kiện biên niên trong quyển
CIA & Generals (1963-1975) tiếp theo quyển CIA & Ngo
(1954-1963), nhưng lại được cho giải mật trước CIA & Ngo. Có lẽ ban
kiểm duyệt CIA thận trọng hơn về những chi tiết nằm trong CIA & Ngo.
Tài liệu trong CIA & Generals bắt đầu sau cuộc đảo chánh 1 tháng
11-1963. Những gì đến từ tài liệu cho thấy ngay sau đảo chánh, như một
tập thể, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng không được hòa thuận; và, như
những liên hệ cá nhân, các tướng lãnh đã nghi kỵ, ngờ vực lẩn nhau trước
khi đảo chánh. Trước khi đảo chánh tướng Nguyễn Khánh đã nói xấu về hai
tướng Dương Văn Minh và Trần Thiện Khiêm với tổng thống Diệm và một số
nhân viên CIA. Qua nhiều chi tiết, chúng ta thấy các tướng lãnh làm việc
chung vì phải tựa vào nhau để mưu cầu lợi quyền lợi riêng, chứ không
thật sự có chung một lý tưởng. Trước ngày tướng Khánh chỉnh lý tướng
Minh và bốn tướng Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, và Trần Văn
Đôn, tướng Khánh thường xuyên rỉ tai với CIA về tin đồn những tướng lãnh
nói trên sẽ theo Pháp để biến Việt Nam thành trung lập. Tháng 2-1964
tướng Nguyễn Văn Thiệu đã đưa nhiều sĩ quan thuộc Đảng Đại Việt nằm vào
những chức vụ quan trọng trong quân đội. Khi được hỏi để làm gì, tướng
Thiệu trả lời để triệt hạ cộng sản và những thành phần thân cộng. Nhưng
CIA có nguồn tin cho biết ông Thiệu sẽ dùng sĩ quan Đại Việt để đảo
chánh ông Khánh. Và chuyện xảy ra đúng như vậy. Tướng Khánh rất ngây thơ
khi hù tướng Thiệu là Mỹ sẽ chơi ông. Nhưng, như chúng ta đã thấy, Mỹ
chơi ông Khánh trước ông Thiệu! Một chi tiết khá lý thú về tướng Khánh:
25 tháng 2-1965, khi đại sứ Maxwell Taylor và các tướng trẻ hạ bệ và yêu
cầu tướng Khánh rời Việt nam. Lúc ra đi vội vã tướng Khánh để quên lại
một cặp táp nhiều tài liệu quan trọng. Nhớ lại, tướng Khánh yêu cầu CIA
bằng mọi cách phải tìm lại cặp táp. CIA chuộc lại được và gởi qua Mỹ,
giao lại cho tướng Khánh. Nhưng, trước khi cặp táp rời Việt Nam , đại sứ
Maxwell Taylor yêu cầu cho ông một bản sao của tất cả tài liệu nói
trên! Bản sao những tài liệu chắc chắn còn lưu trữ đâu đó trong văn khố
chánh phủ Hoa Kỳ.
Những
chi tiết được giải mật trong CIA & Generals: Trong các tướng lãnh
VNCH, CIA kính trọng kiến thức của tướng Lê Văn Kim nhất. Trong một buổi
thuyết trình về các kế hoạch kín đang thực hiện trên đất Bắc, trong khi
mặt tướng Dương Văn Minh ngớ ra với những chi tiết tình báo quân sự,
tướng Kim lấy được sự kính trọng của tình báo Hoa Kỳ với những câu hỏi
rất chuyên nghiệp. Tướng Nguyễn Đức Thắng được người Mỹ kính nể. Trong
một báo cáo, Giám Đốc CIA Richard Helms đề nghị cho tướng Thắng cùng một
lúc giữ hai Bộ Quốc Phòng và Xây Dựng Nông Thôn, với tất cả cơ cấu và
cố vấn Hoa Kỳ nằm dưới quyền thống thuộc của tướng Thắng. Về tướng
Nguyễn Ngọc Loan, mặc dù người Mỹ không thích tướng Loan vì sự thẳng
thắng của ông, nhưng họ nhận định tướng Nguyễn Ngọc Loan là một người
thật thà, can đảm, biết được ẩn ý của người Mỹ. Tướng Loan không sợ khi
nói thật ý nghĩ của ông với tình báo Mỹ. Đầu năm 1967, khi biết được Hoa
Kỳ đang đi sau lưng chánh phủ VNCH, liên lạc với Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam, ông Loan nói với CIA là người Mỹ từ đây sẽ đi sau lưng người
quốc gia và sau cùng người sẽ Mỹ bỏ đi, chỉ còn VNCH một mình đơn thân
chống lại Bắc Việt. Một lời phát biểu mà tình báo Hoa Kỳ cho là tiên
tri. Tình báo Mỹ cũng biết được tánh tình và quá khứ của một số tướng
lãnh VNCH qua những lần đối thoại với tướng Trần Thiện Khiêm khi tướng
Khiêm bị lưu đày qua Mỹ với cấp bậc đại sứ. Trong một bửa ăn ngày 19
tháng 4-1965 ở nhà hàng Sans Souci (một nhà hàng sang trọng bậc nhất ở
Hoa Thịnh Đốn) tướng Khiêm thổ lộ ý nghĩ của ông về tướng Khánh và nhiều
nhân vật khác. Qua nhiều chi tiết trong CIA & Genreals, đọc giả có
thể suy luận, tướng Khiêm có một liên hệ lâu và thân mật với Trung Ương
Tình Báo Hoa Kỳ.
Cuối
năm 1966 Hoa Kỳ có ý định bắt liên lạc với một vài nhân sự của Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN). Lý luận của CIA là họ muốn xâm nhập vào
nội bộ để gây chia rẽ giữa cấp lãnh đạo MTGPMN và Hà Nội. Muốn lấy lòng
tin của MTGPMN, CIA xin chánh phủ VNCH phóng thích vài nhân sự quan
trọng của MTGPMN đang bị Cảnh Sát Quốc Gia VNCH giam giữ, trong đó có vợ
của Trần Bạch Đằng (bà Mai Thị Vàng) và Trần Bửu Kiếm (bà Phạm Thị
Yến), và một số cán bộ giao liên. Ban đầu VNCH phản đối, nhưng sau cùng
vì áp lực cũng phải cộng tác với Hoa Kỳ trong kế hoạch liên lạc với
MTGPNM. Từ tháng 2-1967 cho đến tháng -1968, VNCH thả bà Vàng và bà Yến,
cộng thêm 10 cán bộ giao liên phía bên kia. Đổi lại, phía MTGPMN chỉ
thả ba tù binh Hoa Kỳ. Nhưng từ đó VNCH nhất là tướng Nguyễn Ngọc Loan
thấy Hoa Kỳ sẳn sàng xé lẻ nếu tình thế phù hợp với đường lối ngoại
giao của họ. Nhưng phải thành thật nhận xét, qua những lời úp mở trong
sách vì bị kiểm duyệt khá nhiều CIA rất có thể đã xâm nhập hay bắt
liên lạc được với Trần Bửu Kiếm hay một nhân vật nào đó trong nội bộ đầu
nảo của MTGPMN. Qua các tài liệu giải mật sau này, chúng ta thấy CIA có
một hồ sơ rất chi tiết về nhân sự và cơ cấu của MTGPMN. Thêm vào đó,
CIA cũng có luôn những báo cáo của Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam
(là hậu thân của MTGPMN từ tháng 6-1969) gởi về cho Trung Uơng Cục Miền
Nam, cập nhật những diễn tiến ở Hội Đàm Paris 1968-1973.
CIA
xâm nhập sâu vào cơ cấu hành chánh và nhân sự của VNCH trong khoảng
1967-1975, nhất là sau cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên của nền Đệ Nhị
Cộng Hòa (1967). Vì kết quả bầu cử phải được Hạ Viện VNCH chứng nhận hợp
pháp nhất là một cuộc bầu cử mà hai ứng viên cùng chung liên danh
(Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ), đã cấu xé nhau trước khi ngồi lại với
nhau, và hầu hết liên danh thất cử nào cũng phản đối kết quả Hoa Kỳ chỉ
thị cho CIA phải tìm mọi cách bảo đảm Hạ Viện sẽ chứng nhận kết qủa bầu
cử. Hạ viện bỏ phiếu thuận 58 trên 43, xác nhận liên danh Thiệu-Kỳ đắc
cử. Tài liệu trong CIA & Generals nói tình báo Mỹ đã khuynh đảo một
số dân biểu trong hai bầu cử tổng thống 1967 và 1971 (và bầu cử Quốc hội
của năm 1970). CIA mua chuộc được 10 dân biểu, nhưng muốn có thêm 10
tiếng nói ủng hộ nữa, để chắc ăn về những dự luật đang nghị luận! Tài
liệu cho biết CIA đã tốn bao nhiêu tiền để thành lập hay giúp đỡ các
đảng phái chính trị với hy vọng các lực lượng này sẽ ủng hộ và xây dựng
một thế lực phía sau tổng thống Thiệu. Đảng Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc,
(của thượng nghị sĩ Trần Văn Đôn) được CIA tài trợ với hy vọng trên.
Nhưng khi biết được người đứng ra tổ chức là Đặng Đức Khôi một thân tín
của ông Kỳ ông Thiệu từ chối ủng hộ. Để có một tổ chức riêng, ông
Thiệu cho ra đời Lực Lượng Dân Chủ. Sau Đảng Dân Chủ, CIA tài trợ một
lực lượng chính trị khác, có tên là Đảng Liên Minh Cách Mạng Xã Hội, với
hy vọng gom lại tất cả lực lượng chính trị thành một mặt trận chung,
dưới sự lãnh đạo chung của tổng thống Thiệu và phó tổng thống Kỳ. Nhưng
vấn đề là hai ông Thiẹu, Kỳ không còn muốn xuất hiện chung với nhau
ngoài công cộng! Sau cùng, với sự nài nỉ của người Mỹ, và vì lợi ích
quốc gia, Khối Liên Minh được khai mạc ngày 4 tháng 7-1968, với sự chủ
tọa của hai ông Thiệu và Kỳ. Khối Liên Minh tập họp hơn 25 đảng phái
chính trị lớn nhỏ ở Miền Nam. CIA tài trợ Đảng này cho đến cuối năm
1969. Tuy nghe theo lời cố vấn của Hoa Kỳ, nhưng tổng thống Thiệu lúc
nào cũng nghi ngờ dụng ý của người Mỹ. Ông nói với nhân viên CIA là
không những VNCH phải đương đầu với sự xâm nhập của quân đội Bắc Việt
vào Nam, mà còn phải đương đầu với sự xâm nhập của CIA vào nhân sự của
chánh phủ! Tổng thống Thiệu tỏ thái độ dè dặt hơn vào cuối năm 1968, khi
tổng thống Lyndon Johnson gởi cho ông một lá thư, cho biết có sự hợp
tác của VNCH hay không, Hoa Kỳ cũng sẽ đơn phương xúc tiến hoà đàm với
Bắc Việt và MTGPMN. Tổng thống Thiệu sau đó cắt đứt liên lạc với CIA hơn
một tháng, chỉ cho họ tiếp xúc với phụ tá của ông, trung tướng Đặng Văn
Quang. Nhưng khi ông Thiệu càng kín đáo, càng dè dặt, thì CIA lại càng
muốn biết được những ý nghĩ của ông Thiệu bằng mọi cách.
Những
tiết lộ khác trong CIA & Generals: Tình báo của MACV biết rõ ngày
giờ Bắc Việt sẽ tấn công qua vùng Phi Quân Sự trong trận tổng công kích
Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, nhưng Hoa Kỳ không thông báo cho VNCH, hay tấn công
vào các đơn vị Bắc Việt đang tập trung quân. Ngược lại, thái độ của đại
tướng Creighton Abrams và đại sứ Bunker rất lạc quan, hai ông tuyên bố
trong cao điểm của cuộc tấn công là Bắc Việt sẽ hết quân sau trận tổng
tấn công. Những chi tiết này làm người đọc không khỏi thắc mắc, là có
phải Hoa Kỳ đã cố ý để cho cuộc tấn công xảy ra? Chi tiết này làm cho
đọc giả nhớ lại câu đối thọai của tổng thống Richard Nixon với Henry
Kissinger là sau trận này, hai bên phải có một bên hết quân.
Từ
tháng 8-1972, để chuẩn bị cho những thương lượng sau cùng của Kissinger
và Lê Đức Thọ ở Paris, CIA được lệnh phải làm hao mòn sức chống đối của
tổng thống Thiệu về một số điều khoản trong bản hiệp định (một trong
những điều khoản ông Thiệu cực lực phản đối, là Hoa Kỳ đồng ý cho Bắc
Việt để lại quân ở Miền Nam, Lào, Cam Bốt). Một số tài liệu giải mật ở
giai đoạn này (tháng 8 1972 cho đến lúc ký Hiệp Định Paris, tháng
1-1972) cho thấy CIA có điệp viên nằm trong Trung Ương Cục, qua những
tin tức họ nhận được về cuộc nói chuyện giữa Lê Đức Thọ và Kissinger.
Từ
tháng 6-1973, liên hệ giữa thủ tướng Khiêm và tổng thống Thiệu trở nên
khó khăn. Ông Khiêm nói với Trưởng Sở CIA Saigon, Thomas Polgar, là ông
Thiệu đang tập trung quyền lực và càng lúc càng cố vị. Nhưng cũng từ tài
liệu CIA, chúng ta đọc biết ông Khiêm thường xuyên liên lạc với các
Trưởng Sở CIA, từ Lewis Lepham đến Ted Shackley, đến Polgar. Từ tháng
10-1972 đến ngày ký Hiệp Định Paris 1973, CIA đến gặp thủ tướng Khiêm
nhiều lần để tìm hiểu về trạng thái tinh thần của tổng thống Thiệu.
Một
ngày trước khi tướng Phạm Văn Phú gặp phái đoàn tổng thống Thiệu ở Cam
Ranh (14 tháng 3-1975). đại tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II,
đã thông báo tin này ra cho CIA. Cho đến lúc đó, CIA và Phòng Tùy Viên
Quốc Phòng (Tùy Viên Quân Sự) vẫn chưa biết tổng thống Thiệu quyết định
gì về Vùng II. Khi CIA xác nhận tin này vào chiều ngày 14, thì Bộ Tư
Lệnh Quân Đoàn II đang chuẩn bị di tản. Căn cứ vài tài liệu giải mật
này, cho đến ngày hôm nay, CIA vẫn chưa xác định được ông Thiệu ra lệnh
gì cho ông Phú trong buổi họp dịnh mệnh ngày 14 tháng 3-1975.
Trong
tuần lễ cuối cùng trước ngày ký Hiệp Định Paris, nhân viên của CIA, tòa
Đại Sứ, và Phòng Tùy Viên Quốc Phòng cùng nhau làm áp lực với tổng
thống Thiệu và các viên chức thân cận chung quanh ông Thiệu. Đại sứ
Bunker được lệnh của Kissinger cho ông thiệu coi một số hồ sơ mật của
Nixon để hăm dọa ông Thiệu mánh lới đó cũng được lập lại với các ông
Hoàng Đúc Nhã. Trần Thiện Khiêm và Đặng Văn Quang. Trong một cuộc đối
thoại với Rodney Landreth, ông Nhã hỏi thẳng, Tại sao Hoa Kỳ làm áp lực
với VNCH mà không là Bắc Việt Hoa Kỳđang đi ngược lại những gì họ đã
chủ định thực hiện Nhưng câu hỏi của ông Nhã không thành vấn đề vào
tuần lễ cuối cùng của tháng giêng, 1973.
Tuy
là tài liệu được giải mật, nhưng một số lớn chi tiết, tên tuổi của
những điệp viên, điềm chỉ viên trong sách vẫn còn bị kiểm duyệt. Nhưng
nếu đọc giả gom những chi tiết trong CIA & Ngo, trong CIA &
Generals, và so sánh với một số tài liệu đã được giải mật từ Bộ Ngoại
Giao (Foreign Relations of the United States , Vietnam ), đọc giả có thể
suy luận ai là ai nằm dưới những lằn đen kiểm duyệt.
Với
giới hạn của của ban chủ biên, năm, sáu trang điểm sách chỉ nói lên
được một phần của CIA and the House of Ngo: Action in South Vietnam,
1954-1963; và, CIA and the Generals: Covert Support to the Military
Government in South Vietnam .
Muốn tham khảo hai tác phẩm bằng Anh ngữ, xin mở theo địa chỉ sau:
1. CIA and The Generals:
2. CIA and The House of Ngo (xin chờ khoảng một phút để máy download)
Thảm kịch của cô dâu Việt mòn mỏi chờ... rể ngoại | ||||||
07:32' 28/06/2009 (GMT+7) | ||||||
-
Những ngày chờ đợi có người nước ngoài xem mặt, các cô gái không được
tự ý ra ngoài. Một tuần, hai tuần trôi qua, họ bày sòng tiến lên để
giải sầu. Tiền bạc, tư trang theo đó cũng đội nón ra đi...
Chưa xuất ngoại đã nợ như chúa Chổm
Cô
gái tên Nguyễn Thu H. (21 tuổi, ngụ Cần Thơ) kể về thời gian ở trong
căn nhà mà chủ môi giới tập trung các cô để chờ khách nước ngoài xem
mặt. Khoảng 9 giờ mỗi ngày, các cô gái bắt đầu chia nhau làm 2 sòng bài
tiến lên. Ban đầu chỉ là chơi cho vui, người thua sẽ đãi cả bọn một
chầu xoài, me, cóc, ổi.
Nhưng
càng ngày, sự mòn mỏi chờ ngày được xem mặt khiến cho các cô chán nản
dần, nhu cầu giết thời gian rảnh rỗi làm mức độ ăn thua cao hơn.
Dù
“ăn không ngồi rồi” nhưng mỗi lần sát phạt các cô gái chơi đến 20-40
(người thắng nhất 40.000 đồng, nhì 20.000 đồng). Số tiền nướng vào sòng
bạc là những mảnh ruộng, vườn mà cha mẹ các cô đã bán ở dưới quê gom
góp cho các cô tìm đường xuất ngoại, lấy chồng giàu.
Không
dừng lại ở đánh bài, nhiều cô còn nhiễm cả tật chơi số đề. Chỉ cần
thông qua người chăm sóc các cô có nhu cầu đó sẽ được đáp ứng. Những
trùm môi giới cũng rất hào phóng, sẵn sàng cho các cô vay mượn nhưng với
lãi cao.
Huyền là một trường hợp điển hình cho
sự xuống dốc. Khi lên thành phố cô mang theo 10 triệu đồng và một sợi
dây chuyền 2,4 chỉ vàng. Tiền đổ vào mỹ phẩm, bài bạc dần cạn, đến lúc
sợi dây chuyền được mẹ tặng cho cô với hy vọng làm của hồi môn nếu theo
chồng xuất ngoại giờ cũng được cho đi “tàu suốt”.
“Nếu
nợ tiền môi giới không trả được thì sao?”, tôi hỏi. “Em cũng không
biết nữa, đến đâu hay tới đó”, khuôn mặt cô hiện lên vẻ bất cần đời
khác hẳn sự rụt rè của những cô gái miền quê.
Tôi
nhìn khuôn mặt Tr. lúc này, đôi mắt khác hẳn với buổi sáng ra mắt ông
chồng tương lai người Hàn Quốc. Khi biết trinh sát đã ập vào, cuộc môi
giới thất bại, Tr. cùng bạn bè cô ngồi nép vào góc nhà, úp mặt vào tay
khi thoáng thấy những loạt đèn flast đang lóe sáng.
Tuy
nhiên, chỉ sau đó vài phút các cô gái lại cười nói trở lại bình
thường. Một cán bộ Đội 5, PC14 cho biết: trong số 22 cô gái được Lý Toàn
Chân đưa đến, có cả những trường hợp đã 8 lần đi tập trung ra mắt
người nước ngoài trong vòng 2 năm trở lại đây .
Xử lý quá nhẹ tay, môi giới chui mọc rễ
Số
liệu của Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Đài Bắc tại TP Hồ Chí Minh cho
thấy từ năm 1995 đến đầu năm 2004 đã có 76.251 cô gái Việt Nam kết hôn
với đàn ông Đài Loan.
Con số này tăng chóng mặt ở
những năm kế tiếp và tại TP.HCM, từ năm 2004-2009 đã có 1805 phụ nữ
tham gia cho người nước ngoài xem mặt chọn vợ. Cũng từ đó mức độ rủi ro
trong hôn nhân gia đình của những cô gái này tăng dần.
Cái
chết bi thảm của cô dâu H.M (20 tuổi, quê Kiên Giang) vào tháng 8/2007
là trường hợp điển hình về rủi ro cao khi môi giới hôn nhân trái phép.
Cô gái này đã bị người chồng của mình giết hại trong tầng hầm căn nhà
đang sinh sống tại thành phố Cheonan, Hàn Quốc, với 18 xương sườn bị
gãy.
Trung tá Phan Chí Hùng, đội trưởng Đội chống
tệ nạn xã hội, PC14 Công an TP.HCM cho biết: “Từng có những vụ môi
giới tinh vi đến độ các chủ môi giới cho xe ôm chở các cô gái đến điểm
tập kết từ lúc nửa đêm. Khi ập vào bắt quả tang, số người tập kết đã
lên đến 119 người”.
Hiện nay, những đường dây môi
giới hôn nhân trái phép tập trung chủ yếu ở khu vực cầu số 2, Công
viên văn hóa Đầm Sen, quận 11, quận Tân Phú, quận 8, quận 6… Số lượng
phụ nữ tập kết trong những căn nhà do các đối tượng môi giới sắp xếp
tuy có giảm nhưng vẫn khoảng từ 5-7 người.
Việc
bắt quả tang môi giới hôn nhân trái phép vốn đã rất khó khăn nhưng trở
ngại lớn là công an không thể giải tỏa những điểm tập trung nuôi các
cô gái cho người nước ngoài xem mặt được. Khi đến địa phương tạm trú tại
TP.HCM, các cô gái này đã khai báo tạm trú đầy đủ.
Dù
biết mục đích những người này sẽ tập trung cho người nước ngoài xem
mặt nhưng về mặt luật pháp, cơ quan chức năng không thể can thiệp.
Khi
tập kết cho người nước ngoài xem mặt, các cô cũng không bị xử phạt nên
nhiều người vẫn tiếp tục tham gia vào những đường dây môi giới hôn
nhân trái phép.
Công an TP.HCM đã kết hợp với Hội
phụ nữ các quận, huyện có xảy ra môi giới hôn nhân trái phép để giáo
dục tư tưởng cho những cô gái trong đường dây bị xử phạt. Nhưng công
tác này hầu như không hiệu quả. Ngay cả sự phối hợp nhằm giáo dục tư
tưởng với những cô gái đã vi phạm lần 2 từ phía địa phương thường trú
của các cô hiệu quả cũng không cao.
Cơ quan chức
năng đã kiến nghị lên Chính phủ hình thức xử phạt cao hơn với tình
trạng môi giới hôn nhân trái phép, thậm chí vi phạm mức độ nặng có thể
sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự để răn đe, nhưng hiện nay khung xử phạt
vẫn không hề thay đổi. Trong khi đó chân rết của những đường dây môi
giới hôn nhân trái phép vẫn không ngừng lớn mạnh tại nhiều vùng quê Nam
Bộ.
|
Saturday, June 27, 2009
THƠ SONG NGỮ
Từ một nước xa xôi đầy gian khổ
Thêm chiến tranh tàn phá nát quê hương
Dân tộc tôi vì thời cuộc nhiễu nhương
Ôm mối hận ra đi tìm đất sống...
Trên thế giới có bao nhiêu thành phố
Dân Việt tôi chẳng thiếu mặt nơi nào
Từ những nơi tuyết phủ núi đồi cao
Thân tị nạn xin bằng lòng tất cả.
Hai bảy năm bềnh bồng nơi xứ lạ
Người gặp cơ may nên cửa nên nhà
Tạo công danh xứng mặt Việt Nam ta
Cũng có kẻ thân tàn theo vận nước!
Hai bảy năm bao nhiêu là ân phước
Của Hoa Kỳ, Đức, Pháp, Úc, Canada
Giúp dân tôi trong cuộc sống vừa qua
Có đầy đủ cả tinh thần và vật chất...
Riêng về tôi... mười năm nơi đất khách
Thấy tự do, báo chí, thấy nhân quyền
Thấy văn minh tân tiến khắp mọi miền
Siêng làm việc, học hành là thành đạt.
Xin cám ơn bao tấm lòng nhân ái
Bằng lời thơ chân thật của tim tôi
Nguyện trong tâm dân Việt sẽ một đời
Tận tâm phục vụ nơi mình định cư...
NGỌC AN
THE HUMANE HEARTS
From a far-away hardship-ridden country,
A war-ravaged native land sunk in welter,
My people, trying to survive troubled times,
Swallowed resentment to flee and seek shelter.
How many cities there are on the globe,
My Vietnamese compatriots are in most present;
Even on the snow-covered high mountain areas,
We, as refugees, willingly accepted, pleasant.
Twenty seven years adrift in this new country,
Many have luckily succeeded getting homes to own,
Creating positions and fame worthy of being Viet,
Though some with their old state into perils thrown.
Twenty seven years, so much favor and felicity!
The US, Germany, France, Canada, Australia, so on
Have so far helped our folks in their lives with
Physical and intellectual comforts to build upon.
As for me... ten years in this foreign land
I have witnessed freedoms, press, human rights,
Civilization, modernization everywhere
As hard working, hard studying lead to heights.
Thank you for all of your humane hearts
With my genuine rhymes of inmost laudation.
We Vietnamese communities pledge devotion
To lifetime service to every resettlement nation...
Translation by THANH-THANH
NGUYỄN HỮU THỐNG * HỒ CHÍ MINH
Giải Tỏa Huyền Thoại Hồ Chí Minh -
Ls. Nguyễn Hữu Thống
Để xây dựng uy tín và thần thánh hóa Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản đã sử dụng nhiều chiêu bài và ngụy tạo nhiều huyền thoại:
1) Huyền thoại gia đình cách mạng.
2) Huyền thoại lên đường cứu nước.
3) Tiếm danh Nguyễn Ái Quốc.
4) Giả danh Trần Dân Tiên.
5) Giả đoàn kết quốc gia.
6) Giả hiệp ước quốc tế.
7) Ngụy tạo tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. HUYỀN THOẠI GIA ĐÌNH CÁCH MẠNG.
Các nhà sử học Cộng Sản trình bày rằng Hồ Chí Minh xuất thân từ một gia đình cách mạng. Thân phụ là phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hay Nguyễn Sinh Huy là bạn đồng khoa với Phan Chu Trinh và thường giao kết với Phan Bội Châu là người đồng hương. Sau khi được bổ nhiệm tri huyện Bình Khê, Nguyễn Sinh Sắc đã tự ý từ quan để phản kháng chế độ thực dân phong kiến.
Sự thật không phải như vậy. Dầu là một sĩ phu đỗ đại khoa, Nguyễn Sinh Sắc đã không có một đời sống cá nhân đứng đắn. Ông thường say rượu và trong những lúc nóng giận đã có thái độ thô lỗ và đánh đập con cái. Năm 1910, cũng vì say sưa, Nguyễn Sinh Sắc đã quá tay đánh chết một nghi can là Tạ Đức Quang. Cũng vì vậy ông bị triều đình tuyên phạt 100 trượng, giáng 4 cấp, cách chức tri huyện và sa thải khỏi quan trường.
Sau này ông được miễn phạt trượng hình. Dầu sao ông đã làm nhục giới nho sĩ vì không biết tu thân trước khi trị quốc. Do sự sỉ nhục này đối với sĩ lâm và bà con lối xóm, ông đã dắt các con rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, đi tha phương cầu thực làm nghề bốc thuốc tại miền Nam.
Sự thật lịch sử này đã được chứng minh bằng một văn thư do Hồ Chí Minh dưới tên Paul Tất Thành viết từ Nữu Ước ngày 15-12-1912 gửi Khâm Sứ Trung Kỳ, xin cho cha được phục chức và được làm thừa biện, giáo thụ hay huấn đạo để có phương tiện mưu sinh.
Và truyền thống gia đình cách mạng của Hồ Chí Minh chỉ là một huyền thoại (Chính Đạo: Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại).
. 2. HUYỀN THOẠI LÊN ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Các nhà sử học CS còn trình bày rằng năm 21 tuổi Hồ Chí Minh rời Bến Nhà Rồng Saigon xuất dương lên đường cứu nước. Thời gian này, phong trào kháng thuế tại Quảng Nam và các tỉnh miền Trung đã bị dập tắt. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội đã bị thâu hồi giấy phép, và tại Nhật Bản, Phan Bội Châu, Cường Để cùng 200 sinh viên Việt Nam du học đã bị trục xuất. Theo gương Phan Chu Trinh, năm 1911 Hồ Chí Minh tìm đường qua Pháp để học hỏi tinh thần tự do dân chủ, hy vọng có ngày trở về giải phóng đồng bào khỏi ách đế quốc tư bản.
Đây cũng chỉ là một huyền thoại. Do đơn ngày 15-9-1911, Nguyễn Tất Thành xin Bộ Thuộc Địa Pháp đặc cách cho theo học Trường Thuộc Địa "để trở nên người hữu ích cho nước Pháp" (utile à la France). Trường Thuộc Địa là trung tâm đào tạo các cán bộ hành chánh và giáo dục của chế độ thuộc địa. Theo quy chế, các sinh viên phải được sự giới thiệu của nhà chức trách Đông Dương. Nhiều vị khoa bảng và trí thức nổi tiếng đã theo học trường này như Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Thân Trọng Huề, Bùi Quang Chiêu, Bùi Bằng Đòan v.v... Vì không đúng thủ tục, đơn của Nguyễn Tất Thành đã bị bác bỏ.
Và huyền thoại Hồ Chí Minh từ Bến Nhà Rồng xuất dương lên đường cứu nước đã bị giải tỏa.
3. TIẾM DANH NGUYỄN ÁI QUỐC.
Từ 1911 đến 1914, Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp tại các tầu buôn của hãng Les Chargeurs Réunis chạy quanh các nước Âu Châu, Phi Châu và Mỹ Châu. Khi Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ, Nguyễn Tất Thành sang Anh làm phụ bếp tại nhà hàng Carlton và trở về Paris năm 1917. Trong thời gian này LS Phan Văn Trường đã thành lập Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước để đấu tranh công khai đòi tự trị và độc lập cho Việt Nam.
Do lời mời của lãnh tụ Đảng Xã Hội Pháp Jean Jaurès (người đã can thiệp với Thủ Tướng Pháp để ân xá cho Phan Chu Trinh), cùng với cụ Phan, LS Phan Văn Trường đã nhiều lần đến điều trần tại Quốc Hội Pháp để trình bày quan điểm về chính sách bảo hộ của Pháp tại Việt Nam và đạo đạt nguyện vọng của người dân Việt Nam lên Quốc Hội.
Sau Thế Chiến Thứ Nhất, năm 1919 tại Paris, dưới bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc, bộ ba Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành, nhân danh Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước đã đệ trình các Chính Phủ Đồng Minh và Chính Phủ Pháp Thỉnh Nguyện Thư của Dân Tộc Việt Nam trong tinh thần hợp tác và thương nghị, nguyên văn như sau:
"Từ sau cuộc chiến thắng của Đồng Minh, các dân tộc bị trị vô cùng xúc động trước những triển vọng tương lai, căn cứ vào những cam kết minh thị và trân trọng của các cường quốc Đồng Minh trước dư luận thế giới trong cuộc đấu tranh vừa qua để bảo vệ Văn Minh chống Dã Man.
Chiếu theo các cam kết này, một Kỷ Nguyên mới của Luật Pháp và Công Lý sẽ khai mở đem lại hy vọng chứa chan cho các dân tộc bị trị.
Trong khi chờ đợi Nguyên Tắc Chủ Quyền Quốc Gia được chấp thuận, trong lý tưởng cũng như trên thực tế, do sự thừa nhận và thực thi Quyền Dân Tộc Tự Quyết thiêng liêng, Dân Tộc Việt Nam trân trọng đệ trình các Chính Phủ Đồng Minh cao quý, cũng như Chính Phủ Pháp khả kính, những thỉnh nguyện khiêm tốn sau đây:
1) Ban hành Đại Xá cho tất cả các chính trị phạm bản xứ.
2) Cải thiện chế độ tư pháp Đông Dương bằng cách ban hành những bảo đảm về quyền bình đẳng trước pháp luật giữa người bản xứ và người Âu Châu. Bãi bỏ toàn bộ và vĩnh viễn hệ thống tòa án đặc biệt được dùng làm công cụ khủng bố và đàn áp các thành phần lương thiện nhất của dân tộc Việt Nam.
3) Ban hành Tự Do Báo Chí và Tự Do Ngôn Luận
4) Ban hành Tự Do Lập Hội và Tự Do Hội Họp
. 5) Ban hành Tự Do Di Trú và Xuất Ngoại
6) Ban hành Tự Do Giáo Dục và thiết lập tại các tỉnh những trường kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản xứ.
7) Thay thế chế độ cai trị bằng nghị định bằng chế độ pháp trị.
8) Thành lập Phái Bộ Thường Trực dân cử của người bản xứ bên cạnh Quốc Hội Pháp để đạo đạt tới Quốc Hội những nguyện vọng của người bản xứ.
Khi đệ trình những thỉnh nguyện nêu trên, Dân Tộc Việt Nam kỳ vọng vào nền Công Lý Thế Giới của các Cường Quốc và đặc biệt tin tưởng vào sự hào hiệp của Dân Tộc Pháp cao quý hiện đang nắm giữ vận mệnh của Dân Tộc Việt Nam bằng cách đứng ra bảo hộ Dân Tộc Việt Nam nhân danh Cộng Hòa Pháp. Dân Tộc Việt Nam không hổ thẹn được sự bảo trợ của Dân Tộc Pháp, trái lại còn cảm thấy vinh hạnh. Vì họ biết rằng Dân Tộc Pháp biểu tượng cho Tự Do và Công Lý, và sẽ không bao giờ từ bỏ lý tưởng cao cả của Nghĩa Bác Ái toàn cầu. Vì những lý do đó, trong khi lắng nghe tiếng nói của kẻ bị trị, Dân Tộc Pháp sẽ hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với nước Pháp cũng như đối với nhân loại.
Thay mặt Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước: Nguyễn Ái Quốc".
Luật Sư Phan Văn Trường, tiến sĩ luật, Chủ Tịch Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước là người soạn tài liệu này. Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriote) là bút hiệu chung của bộ ba Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành. Nguyễn là dòng họ đa số tại Việt Nam và Ái Quốc là phỏng theo tên Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước (Groupe des Patriotes Annamites). Với bút hiệu này, họ đã viết những bài bình luận trên các báo của Đảng Xã Hội như Nhân Loại (L'Humanité), Dân Chúng (Le Populaire) v..v...
Mặc dầu vậy, Hồ Chí Minh đã tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, trong cuốn "Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch". Hồ Chí Minh viết: "Khi chiến tranh chấm dứt, tại Hội Nghị Hoà Bình Véc-Xây, Tổng Thống Mỹ Wilson nói về 14 điều. Các đại biểu các dân tộc bị áp bức đến để yêu cầu độc lập và tự do. Trong số đó, có Nguyễn Ái Quốc (tức là Anh Ba hay Hồ Chí Minh). Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam yêu nước tại Paris và ở các tỉnh khác. Với danh nghĩa của tổ chức này, ông đã đưa yêu cầu 8 điều ra trước Hội Nghị Véc-Xây".
Đây chỉ là một sự mạo nhận. Vì những lý do sau đây:
a) Thỉnh Nguyện Thư được soạn thảo nhân danh Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước, một tổ chức do Phan Văn Trường thành lập năm 1914 tại Paris, khi Nguyễn Tất Thành còn ở Luân Đôn. b) Thỉnh Nguyện Thư đề cập đến những nguyên tắc pháp lý mà trong thời gian đó (1919) chỉ các luật gia và chính trị gia mới thấu hiểu như quyền bình đẳng trước pháp luật, chế độ pháp trị, chế độ tòa án đặc biệt, quyền dân tộc tự quyết v.v...
c) Đề nghị thành lập Phái Bộ Thường Trực Dân Cử Việt Nam tại Quốc Hội Pháp là do sáng kiến của Phan Văn Trường. Từ năm 1911, cùng với Phan Chu Trinh, theo lời mời của Jean Jaurès, ông đã nhiều lần đến điều trần tại Quốc Hội Pháp để đạo đạt những nguyện vọng của nhân dân Việt Nam lên Quốc Hội.
d) Nguyễn Tất Thành chỉ là một học sinh vừa qua bậc tiểu học và không có kiến thức chính trị. "Ông rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là công hội, thế nào là bãi công, và thế nào là chính đảng... Ông không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay... Ông lắng nghe những buổi thảo luận, nhưng không hiểu rõ về chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản v.v... ông nhức đầu vì khó hiểu". Vả lại vốn liếng tiếng Pháp của ông chỉ gồm những chữ thông dụng trong đời sống hằng ngày học từ những cô sen trong giới bình dân (Trần Dân Tiên, sđd).
e) Trần Dân Tiên còn nêu lên yêu cầu bãi bỏ chế độ sưu dịch, thuế đinh, thuế muối và việc bắt ép dân mua muối và thuốc phiện. Các điều khoản này không thấy trong bản Thỉnh Nguyện Thư tiếng Pháp đăng trên báo L'Humanité ngày 18-6-1919. (Chính Đạo: Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại). Nói tóm lại, trái với lời Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh không phải là tác giả Thỉnh Nguyện Thư của Dân Tộc Việt Nam. Và năm 1919 Hồ Chí Minh cũng chưa phải là Nguyễn Ái Quốc. Đây chỉ là một sự mạo nhận tư cách của Nguyễn Tất Thành, một người ít học nhưng nhiều tham vọng. Năm 1917, khi từ Luân Đôn trở về Paris, Nguyễn Tất Thành tá túc tại nhà Luật sư Phan Văn Trường số 6 Villa des Gobelins. Năm 1914, Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường bị bắt giam về tội phản nghịch (tình nghi liên lạc với Cường Để tại Berlin). Sau 9 tháng điều tra, hai nhà chí sĩ họ Phan đã được miễn tố (Phan Chu Trinh chủ trương hợp tác với Pháp đánh Đức, cũng như Gandhi hô hào thanh niên Ấn Độ tình nguyện gia nhập quân đội Hoàng Gia Anh). Mặc dầu vậy, hai vị vẫn bị cảnh sát điều tra theo rõi. Mỗi khi có trát đòi Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành đứng ra nhận trát, tự xưng là Nguyễn Ái Quốc. Ông nói: "Nguyễn Ái Quốc chính là tôi, các ông cứ đưa trát cho tôi, đừng làm phiền chú/bác tôi (ý nói Phan Văn Trường hay Phan Chu Trinh)". Năm 1921, Nguyễn Tất Thành bỏ Đảng Xã Hội để gia nhập Đảng CS dưới tên Nguyễn Ái Quốc.
4. GIẢ DANH TRẦN DÂN TIÊN
Các nhà sử học cho rằng Hồ Chí Minh là người thông minh, nhưng là sự thông minh ngoài phố. Sự khôn ngoan giảo quyệt này đã được biểu lộ rõ nét nhất trong cuốn "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" của Trần Dân Tiên xuất bản và tái bản nhiều lần từ 1948 đến 1976. Ngày nay ai cũng biết Trần Dân Tiên là Hồ Chí Minh. Trong lịch sử văn học thế giới, không thấy một nhà văn tự trọng nào lại giả danh bằng một bút hiệu để tự đề cao mình. Dùng bút hiệu thật để nói về mình cũng là vạn bất đắc dĩ, vì cái tôi thường đáng ghét. Dùng bút hiệu giả để thần thánh hóa mình thì quả là đáng khinh! Chúng ta thử đánh giá sự "khiêm tốn" của tác giả: "Nhiều nhà văn nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng mãi đến nay chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất đơn giản: Chủ Tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình (...). Hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn, rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau 80 năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp đi đã (...). Với đức tính khiêm tốn nhường ấy, và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc làm sao Hồ Chủ Tịch có thể kể lại bình sinh của Người được".
Thế nhưng Hồ Chủ Tịch đã đại ngôn: "Khi còn là một thiếu niên 15 tuổi, người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh khâm phục các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám, nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của 3 người, vì: - Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương.
- Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau.
- Cụ Hoàng Hoa Thám còn nặng cốt cách phong kiến".
Năm 1905, khi Hồ Chí Minh 15 tuổi, cụ Phan Chu Trinh chưa viết Đầu Pháp Chính Phủ Thư (l906), chưa phát động phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục (l907). Vậy mà Hồ Chí Minh đã phê phán chính sách canh tân và giáo dục của cụ là cải lương (mà cải lương thì đã sao?). Chưa thấy cụ Phan Bội Châu rước cọp vào nhà, chỉ thấy Hồ Chí Minh cõng rắn CS về cắn gà nhà, gây tai hại vô lường cho đất nước và dân tộc. Năm 1945, khi mới 55 tuổi, Hồ Chí Minh tự phong mình là "cha già của dân tộc". Ông còn tự thần thánh hóa mình, kể rằng "chân dung Hồ Chủ Tịch được treo trên bàn thờ giữa những bình hương hoa đèn nến".
"Hồ Chủ Tịch được nhân dân yêu mến là do lòng hy sinh và lòng nhân từ của Người. Chủ Tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ đến nhân dân (...). Đối với nhi đồng, tên Bác Hồ là như một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoãn". Vậy mà người cha già (67 tuổi) đã nhẫn tâm để đàn em hạ sát người vợ trẻ đã sinh cho mình đứa con trai là Nguyễn Tất Trung. Năm l957, khi cô Nguyễn Thị Xuân yêu cầu công khai hoá cuộc hôn phối đã kéo dài trên 2 năm, Hồ Chí Minh vẫn ngọt ngào giả lả: "Cô xin như vậy là hợp tình hợp lý, nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được".
Do đó, cô đành phải chờ một thời gian. Trong thời gian này, cô đã biến thành chướng ngại vật làm mất uy tín của lãnh tụ. Theo đúng phương châm hành động, tất cả những chướng ngại vật làm cản trở con đường của lãnh tụ sẽ bị thanh toán và vô hiệu hóa. Thanh toán trước hết bằng cách hạ nhục đối phương, cho viên tướng công an Trần Quốc Hoàn mặc sức hãm hiếp. Rồi cho thủ hạ chùm chăn lên đầu và dùng búa đánh vỡ sọ nạn nhân (như vụ Staline hạ sát Trotsky tại Mexico). Một người có những thủ đoạn bất nhân như vậy, mà bộ máy tuyên truyền của CS còn đề cao như một vị anh minh kết tinh "đức tính từ bi của Đức Phật, tính công bằng bác ái của Chúa Ki-Tô, sự minh triết của Khổng Tử, sự siêu thoát của Lão Trang".
Ngoài ra, Trần Dân Tiên còn tự sánh mình với Mặc Tử là người đã mòn trán lỏng gót bôn ba khắp nơi để lo cho thiên hạ. Điều đáng nói là, trong khi Mặc Tử chủ trương hòa bình, thì Hồ Chí Minh cổ võ chiến tranh. Trong khi Mặc Tử theo thuyết kiêm ái, yêu dân tộc, yêu nhân loại, thì Hồ Chí Minh gieo rắc căm hờn, thúc dục thú tính để phát động đấu tranh giai cấp và thủ tiêu những lương dân vô tội và những người quốc gia yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc.
5. GIẢ ĐOÀN KẾT QUỐC GIA.
Khi hay biết phe Thế Giới Dân Chủ không chịu trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương vì họ không muốn Staline mở rộng Bức Màn Sắt từ Đông Âu qua Đông Á, ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh giả bộ giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương để thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Các-Mác. Để có chính nghĩa đoàn kết quốc gia, Hồ Chí Minh mời Nguyễn Hải Thần thuộc Cách Mạng Đồng Minh Hội và Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng tham gia chính phủ liên hiệp. Trong Tuyên Cáo Đoàn Kết ngày 24-12-1945, Hồ Chí Minh cam kết tôn trọng sự đoàn kết của các đảng phái quốc gia để tranh thủ độc lập, "Vì độc lập quốc gia là cứu cánh tối hậu cần phải tranh thủ và chỉ có sự hợp tác và hữu nghị chân thành giữa những người Việt Nam mới có thể đạt được độc lập quốc gia". Ông còn lên án mọi hành vi phá hoại tình đoàn kết quốc gia cũng như việc dùng võ lực để tiêu diệt các đảng phái quốc gia. Vậy mà sau đó Trần Dân Tiên đã vu oan giá họa "bọn phản động Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam được Trung Hoa Quốc Dân Đảng giúp đỡ đã có âm mưu phá hoại và Hồ Chủ Tịch đã phải nhường cho họ 70 ghế quốc hội".
Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny công nhận Việt Nam là một quốc gia tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 15 ngàn quân Pháp được thay thế quân Trung Hoa, đổ bộ Hải Phòng và đồn trú tại Bắc Việt trong 5 năm. Tháng 5-1946, Hồ Chí Minh qua Paris thương nghị. Phái đoàn Việt Nam đáng lẽ do ngoại trưởng Nguyễn Tường Tam lãnh đạo, nhưng trước đó: "Bộ Trưởng Tam đã bỏ trốn". Và mùa hè năm đó, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh cũng bỏ trốn sang Tàu để khỏi bị sát hại như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm v.v... Sau khi tống xuất quân đội Trung Hoa, CS thẳng tay đàn áp và thủ tiêu các cán binh Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội.
Như vậy, Tuyên Cáo Đoàn Kết 1945 chỉ nhằm thành lập chính phủ liên hiệp để làm bình phong thương nghị với Pháp. Rồi nhờ Pháp tống xuất Tàu cho Đảng CS rảnh tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia để được độc quyền lãnh đạo. Trong Thế Chiến Thứ Hai, để được Đồng Minh yểm trợ, Staline đưa ra chính sách thân thiện với Anh Pháp. Đảng CS Pháp phối hợp với Đảng Xã Hội trong Mặt Trận Bình Dân. Phe CS Việt Nam cũng hợp tác với phe Tân Tả Phái của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch để thành lập Mặt Trận Dân Chủ và xuất bản tờ La Lutte (Tranh Đấu). Trong những cuộc bầu cử Hội Đồng Đô Thành Saigon và Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, liên danh Tranh Đấu của Tạ Thu Thâu toàn thắng. Đây là giai đoạn đấu tranh công khai, ôn hòa, hợp pháp và bất bạo động. Chiêu bài đoàn kết quốc gia một lần nữa được áp dụng. Nguyễn An Ninh thuộc phe Trung Hoà, Tạ Thu Thâu thuộc phe Tân Tả Phái và Nguyễn Phan Long thuộc phe Lập Hiến, đã đứng ra tổ chức Đông Dương Đại Hội để đạo đạt thỉnh nguyện của nhân dân Việt Nam tới phái đoàn Quốc Hội từ Paris sang.
Vậy mà ngay sau khi cướp được chính quyền, Đảng CS đã phản bội lời giao ước đoàn kết và đã thủ tiêu Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo v.v... là những người quốc gia yêu nước thuộc các nhóm Tân Tả Phái và Lập Hiến. Về việc hạ sát Tạ Thu Thâu, Hồ Chí Minh còn giả nhân nghĩa tiếc Tạ Thu Thâu là người yêu nước. Nhưng ông lại thêm rằng những ai chống lại chính sách của ông đều sẽ bị vô hiệu hoá. Sau khi Staline thủ tiêu người chiến hữu đàn anh của mình là Trotsky năm 1940, tất cả phe tân tả phái Trotskit đều phải bị thanh toán và triệt hạ uy tín. Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn cho hạ sát Đức Giáo Chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ và các lãnh tụ các đảng phái quốc gia yêu nước như Trương Tử Anh (Đại Việt), Lý Đông A (Duy Dân), Khái Hưng, Nhượng Tống (Quốc Dân Đảng) v...v...
6. GIẢ HIỆP ƯỚC QUỐC TẾ.
Theo sách lược CS ký hiệp ước không phải để thi hành hiệp ước. Vì các hiệp ước ngoại giao chỉ là những phương tiện để thực thi những mục tiêu chính trị:
a. Ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny ngày 6-3-1946 nhờ Pháp tống xuất Tàu để rảnh tay thanh toán các đảng phái quốc gia nhằm giữ độc quyền yêu nước, độc quyền lãnh đạo. Sau đó lại phát động chiến tranh ngày 19-12-1946. b. Ký Hiệp Định Đình Chiến Genève 1954 để tống xuất Pháp và cướp chính quyền tại Miền Bắc. Sau đó lại tái phát động chiến tranh.
c. Ký Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 để tống xuất Mỹ. Sau đó lại tái phát động chiến tranh để thôn tính Miền Nam.
7. NGỤY TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
Sau cuộc Cách Mạng giải thể CS tại Đông Âu, chủ nghĩa CS đã bị nhân dân thế giới vứt vào thùng rác lịch sử. Tại Đức, quê hương của Các-Mác, chủ nghĩa Mác đã bị phủ định và được thay thế bằng chủ nghĩa Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ Xã Hội. Tại Nga, quê hương của Lênin, chủ nghĩa Lênin cũng đã bị phủ định để thay thế bằng chủ nghĩa Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ Xã Hội. Trước sự phá sản của chủ nghĩa Mác Lê, Đảng CS ngụy tạo cái gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh", một điều mà chính Hồ Chí Minh thời sinh tiền cũng không bao giờ đề cập đến.
Ông chỉ nói đến chủ nghĩa Mác Lê, tư tưởng Mao Trạch Đông, và tác phong Hồ Chí Minh. Ông nhìn nhận rằng, về phần tư tưởng, "Bác Mao đã viết cả rồi, tôi không còn gì để viết nữa". Do đó ông chỉ thực thi trung thành những nguyên lý Mác Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông. Ông hết sức tán tụng Staline và Mao Trạch Đông. Ông viết: "Mao Trạch Đông đã đông phương hóa chủ nghĩa Mác Lê và đã đưa cách mạng Trung Quốc đến thành công. Cách mạng Việt Nam phải học tập và thực sự đã học hỏi rất nhiều từ cuộc cách mạng Trung Quốc. Các nhà cách mạng (CS) Việt Nam phải ghi nhớ điều này và phải biết ơn Mao Trạch Đông về sự đóng góp to lớn này". Thật vậy, Hồ Chí Minh không có tư tưởng gì đặc sắc
. Ông chỉ là người sao chép lại. Những mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc ghi trong các tiêu đề chánh thức của nhà nước chỉ là phỏng theo 3 cương lĩnh của chủ nghĩa Tam Dân do Tôn Dật Tiên đề xướng trong Cách Mạng 1911: "Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền Tự Do và Dân Sinh Hạnh Phúc". Bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945 cũng là sự sao chép Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ theo đó: "mọi người sinh ra bình đẳng và được Tạo Hóa ban cho những quyền bất khả xâm phạm như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Thêm vào đó là lời mở đầu Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp 1789: "mọi người sinh ra tự do và bình đẳng và luôn luôn được tự do và bình đẳng".
Dùng giả nhân nghĩa là ngụy quân tử. Nhưng khéo ngụy trang Hồ Chí Minh đã viện dẫn các tư tưởng minh triết của Nho Gia trong việc giáo hóa, trị dân và dựng nước như: "Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân; không lo nghèo mà lo không đều; mười năm trồng cây, trăm năm trồng người" v.v.... Về mặt kiến thức, Hồ Chí Minh thú nhận ông không am tường chính trị và nhức đầu khi nghe nói về những vấn đề lý thuyết chủ nghĩa. Ông chỉ là người cán bộ thừa hành trung thành và tận tụy của Staline và Mao Trạch Đông. Nhờ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền, ông nổi danh vì bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc. Từ đó, ông được giới thiệu với các lãnh tụ Xã Hội và CS Pháp như Léon Blum, Marcel Cachin v..v...
Từ một tiểu trí thức, ông đã bước lên địa vị một cán bộ CS quốc tế, phụ trách vùng Đông Nam Á. Trong khi các lãnh tụ CS Á Châu khác như Roy tại Ấn Độ hay Malaka tại Nam Dương đều bị thất sủng dưới bàn tay sắt của Staline vì họ có những tư tưởng hướng về chủ nghĩa Dân Tộc và chủ thuyết Hồi Giáo, thì Hồ Chí Minh vẫn một lòng một dạ chung thủy với Quốc Tế CS.
Dầu không có tư tưởng chính trị đặc sắc nhưng Hồ Chí Minh đã thành công trong việc: Dùng ngụy trang dối trá (ngụy chủ nghĩa Dân Tộc);
Lấy giả nhân giả nghĩa (bằng các chiêu bài độc lập, tự do, hạnh phúc, đoàn kết, hòa giải, hòa hợp);
Để giành chính nghĩa (giải phóng dân tộc, giải phóng lao động);
Và cướp chính quyền (để không chia quyền với bất cứ ai).
L.S. Nguyễn Hữu Thống
http://nguyenhuuthong.blogspot.com
Ls. Nguyễn Hữu Thống
Để xây dựng uy tín và thần thánh hóa Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản đã sử dụng nhiều chiêu bài và ngụy tạo nhiều huyền thoại:
1) Huyền thoại gia đình cách mạng.
2) Huyền thoại lên đường cứu nước.
3) Tiếm danh Nguyễn Ái Quốc.
4) Giả danh Trần Dân Tiên.
5) Giả đoàn kết quốc gia.
6) Giả hiệp ước quốc tế.
7) Ngụy tạo tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. HUYỀN THOẠI GIA ĐÌNH CÁCH MẠNG.
Các nhà sử học Cộng Sản trình bày rằng Hồ Chí Minh xuất thân từ một gia đình cách mạng. Thân phụ là phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hay Nguyễn Sinh Huy là bạn đồng khoa với Phan Chu Trinh và thường giao kết với Phan Bội Châu là người đồng hương. Sau khi được bổ nhiệm tri huyện Bình Khê, Nguyễn Sinh Sắc đã tự ý từ quan để phản kháng chế độ thực dân phong kiến.
Sự thật không phải như vậy. Dầu là một sĩ phu đỗ đại khoa, Nguyễn Sinh Sắc đã không có một đời sống cá nhân đứng đắn. Ông thường say rượu và trong những lúc nóng giận đã có thái độ thô lỗ và đánh đập con cái. Năm 1910, cũng vì say sưa, Nguyễn Sinh Sắc đã quá tay đánh chết một nghi can là Tạ Đức Quang. Cũng vì vậy ông bị triều đình tuyên phạt 100 trượng, giáng 4 cấp, cách chức tri huyện và sa thải khỏi quan trường.
Sau này ông được miễn phạt trượng hình. Dầu sao ông đã làm nhục giới nho sĩ vì không biết tu thân trước khi trị quốc. Do sự sỉ nhục này đối với sĩ lâm và bà con lối xóm, ông đã dắt các con rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, đi tha phương cầu thực làm nghề bốc thuốc tại miền Nam.
Sự thật lịch sử này đã được chứng minh bằng một văn thư do Hồ Chí Minh dưới tên Paul Tất Thành viết từ Nữu Ước ngày 15-12-1912 gửi Khâm Sứ Trung Kỳ, xin cho cha được phục chức và được làm thừa biện, giáo thụ hay huấn đạo để có phương tiện mưu sinh.
Và truyền thống gia đình cách mạng của Hồ Chí Minh chỉ là một huyền thoại (Chính Đạo: Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại).
. 2. HUYỀN THOẠI LÊN ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Các nhà sử học CS còn trình bày rằng năm 21 tuổi Hồ Chí Minh rời Bến Nhà Rồng Saigon xuất dương lên đường cứu nước. Thời gian này, phong trào kháng thuế tại Quảng Nam và các tỉnh miền Trung đã bị dập tắt. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội đã bị thâu hồi giấy phép, và tại Nhật Bản, Phan Bội Châu, Cường Để cùng 200 sinh viên Việt Nam du học đã bị trục xuất. Theo gương Phan Chu Trinh, năm 1911 Hồ Chí Minh tìm đường qua Pháp để học hỏi tinh thần tự do dân chủ, hy vọng có ngày trở về giải phóng đồng bào khỏi ách đế quốc tư bản.
Đây cũng chỉ là một huyền thoại. Do đơn ngày 15-9-1911, Nguyễn Tất Thành xin Bộ Thuộc Địa Pháp đặc cách cho theo học Trường Thuộc Địa "để trở nên người hữu ích cho nước Pháp" (utile à la France). Trường Thuộc Địa là trung tâm đào tạo các cán bộ hành chánh và giáo dục của chế độ thuộc địa. Theo quy chế, các sinh viên phải được sự giới thiệu của nhà chức trách Đông Dương. Nhiều vị khoa bảng và trí thức nổi tiếng đã theo học trường này như Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Thân Trọng Huề, Bùi Quang Chiêu, Bùi Bằng Đòan v.v... Vì không đúng thủ tục, đơn của Nguyễn Tất Thành đã bị bác bỏ.
Và huyền thoại Hồ Chí Minh từ Bến Nhà Rồng xuất dương lên đường cứu nước đã bị giải tỏa.
3. TIẾM DANH NGUYỄN ÁI QUỐC.
Từ 1911 đến 1914, Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp tại các tầu buôn của hãng Les Chargeurs Réunis chạy quanh các nước Âu Châu, Phi Châu và Mỹ Châu. Khi Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ, Nguyễn Tất Thành sang Anh làm phụ bếp tại nhà hàng Carlton và trở về Paris năm 1917. Trong thời gian này LS Phan Văn Trường đã thành lập Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước để đấu tranh công khai đòi tự trị và độc lập cho Việt Nam.
Do lời mời của lãnh tụ Đảng Xã Hội Pháp Jean Jaurès (người đã can thiệp với Thủ Tướng Pháp để ân xá cho Phan Chu Trinh), cùng với cụ Phan, LS Phan Văn Trường đã nhiều lần đến điều trần tại Quốc Hội Pháp để trình bày quan điểm về chính sách bảo hộ của Pháp tại Việt Nam và đạo đạt nguyện vọng của người dân Việt Nam lên Quốc Hội.
Sau Thế Chiến Thứ Nhất, năm 1919 tại Paris, dưới bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc, bộ ba Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành, nhân danh Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước đã đệ trình các Chính Phủ Đồng Minh và Chính Phủ Pháp Thỉnh Nguyện Thư của Dân Tộc Việt Nam trong tinh thần hợp tác và thương nghị, nguyên văn như sau:
"Từ sau cuộc chiến thắng của Đồng Minh, các dân tộc bị trị vô cùng xúc động trước những triển vọng tương lai, căn cứ vào những cam kết minh thị và trân trọng của các cường quốc Đồng Minh trước dư luận thế giới trong cuộc đấu tranh vừa qua để bảo vệ Văn Minh chống Dã Man.
Chiếu theo các cam kết này, một Kỷ Nguyên mới của Luật Pháp và Công Lý sẽ khai mở đem lại hy vọng chứa chan cho các dân tộc bị trị.
Trong khi chờ đợi Nguyên Tắc Chủ Quyền Quốc Gia được chấp thuận, trong lý tưởng cũng như trên thực tế, do sự thừa nhận và thực thi Quyền Dân Tộc Tự Quyết thiêng liêng, Dân Tộc Việt Nam trân trọng đệ trình các Chính Phủ Đồng Minh cao quý, cũng như Chính Phủ Pháp khả kính, những thỉnh nguyện khiêm tốn sau đây:
1) Ban hành Đại Xá cho tất cả các chính trị phạm bản xứ.
2) Cải thiện chế độ tư pháp Đông Dương bằng cách ban hành những bảo đảm về quyền bình đẳng trước pháp luật giữa người bản xứ và người Âu Châu. Bãi bỏ toàn bộ và vĩnh viễn hệ thống tòa án đặc biệt được dùng làm công cụ khủng bố và đàn áp các thành phần lương thiện nhất của dân tộc Việt Nam.
3) Ban hành Tự Do Báo Chí và Tự Do Ngôn Luận
4) Ban hành Tự Do Lập Hội và Tự Do Hội Họp
. 5) Ban hành Tự Do Di Trú và Xuất Ngoại
6) Ban hành Tự Do Giáo Dục và thiết lập tại các tỉnh những trường kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản xứ.
7) Thay thế chế độ cai trị bằng nghị định bằng chế độ pháp trị.
8) Thành lập Phái Bộ Thường Trực dân cử của người bản xứ bên cạnh Quốc Hội Pháp để đạo đạt tới Quốc Hội những nguyện vọng của người bản xứ.
Khi đệ trình những thỉnh nguyện nêu trên, Dân Tộc Việt Nam kỳ vọng vào nền Công Lý Thế Giới của các Cường Quốc và đặc biệt tin tưởng vào sự hào hiệp của Dân Tộc Pháp cao quý hiện đang nắm giữ vận mệnh của Dân Tộc Việt Nam bằng cách đứng ra bảo hộ Dân Tộc Việt Nam nhân danh Cộng Hòa Pháp. Dân Tộc Việt Nam không hổ thẹn được sự bảo trợ của Dân Tộc Pháp, trái lại còn cảm thấy vinh hạnh. Vì họ biết rằng Dân Tộc Pháp biểu tượng cho Tự Do và Công Lý, và sẽ không bao giờ từ bỏ lý tưởng cao cả của Nghĩa Bác Ái toàn cầu. Vì những lý do đó, trong khi lắng nghe tiếng nói của kẻ bị trị, Dân Tộc Pháp sẽ hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với nước Pháp cũng như đối với nhân loại.
Thay mặt Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước: Nguyễn Ái Quốc".
Luật Sư Phan Văn Trường, tiến sĩ luật, Chủ Tịch Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước là người soạn tài liệu này. Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriote) là bút hiệu chung của bộ ba Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành. Nguyễn là dòng họ đa số tại Việt Nam và Ái Quốc là phỏng theo tên Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước (Groupe des Patriotes Annamites). Với bút hiệu này, họ đã viết những bài bình luận trên các báo của Đảng Xã Hội như Nhân Loại (L'Humanité), Dân Chúng (Le Populaire) v..v...
Mặc dầu vậy, Hồ Chí Minh đã tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, trong cuốn "Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch". Hồ Chí Minh viết: "Khi chiến tranh chấm dứt, tại Hội Nghị Hoà Bình Véc-Xây, Tổng Thống Mỹ Wilson nói về 14 điều. Các đại biểu các dân tộc bị áp bức đến để yêu cầu độc lập và tự do. Trong số đó, có Nguyễn Ái Quốc (tức là Anh Ba hay Hồ Chí Minh). Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam yêu nước tại Paris và ở các tỉnh khác. Với danh nghĩa của tổ chức này, ông đã đưa yêu cầu 8 điều ra trước Hội Nghị Véc-Xây".
Đây chỉ là một sự mạo nhận. Vì những lý do sau đây:
a) Thỉnh Nguyện Thư được soạn thảo nhân danh Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước, một tổ chức do Phan Văn Trường thành lập năm 1914 tại Paris, khi Nguyễn Tất Thành còn ở Luân Đôn. b) Thỉnh Nguyện Thư đề cập đến những nguyên tắc pháp lý mà trong thời gian đó (1919) chỉ các luật gia và chính trị gia mới thấu hiểu như quyền bình đẳng trước pháp luật, chế độ pháp trị, chế độ tòa án đặc biệt, quyền dân tộc tự quyết v.v...
c) Đề nghị thành lập Phái Bộ Thường Trực Dân Cử Việt Nam tại Quốc Hội Pháp là do sáng kiến của Phan Văn Trường. Từ năm 1911, cùng với Phan Chu Trinh, theo lời mời của Jean Jaurès, ông đã nhiều lần đến điều trần tại Quốc Hội Pháp để đạo đạt những nguyện vọng của nhân dân Việt Nam lên Quốc Hội.
d) Nguyễn Tất Thành chỉ là một học sinh vừa qua bậc tiểu học và không có kiến thức chính trị. "Ông rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là công hội, thế nào là bãi công, và thế nào là chính đảng... Ông không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay... Ông lắng nghe những buổi thảo luận, nhưng không hiểu rõ về chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản v.v... ông nhức đầu vì khó hiểu". Vả lại vốn liếng tiếng Pháp của ông chỉ gồm những chữ thông dụng trong đời sống hằng ngày học từ những cô sen trong giới bình dân (Trần Dân Tiên, sđd).
e) Trần Dân Tiên còn nêu lên yêu cầu bãi bỏ chế độ sưu dịch, thuế đinh, thuế muối và việc bắt ép dân mua muối và thuốc phiện. Các điều khoản này không thấy trong bản Thỉnh Nguyện Thư tiếng Pháp đăng trên báo L'Humanité ngày 18-6-1919. (Chính Đạo: Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại). Nói tóm lại, trái với lời Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh không phải là tác giả Thỉnh Nguyện Thư của Dân Tộc Việt Nam. Và năm 1919 Hồ Chí Minh cũng chưa phải là Nguyễn Ái Quốc. Đây chỉ là một sự mạo nhận tư cách của Nguyễn Tất Thành, một người ít học nhưng nhiều tham vọng. Năm 1917, khi từ Luân Đôn trở về Paris, Nguyễn Tất Thành tá túc tại nhà Luật sư Phan Văn Trường số 6 Villa des Gobelins. Năm 1914, Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường bị bắt giam về tội phản nghịch (tình nghi liên lạc với Cường Để tại Berlin). Sau 9 tháng điều tra, hai nhà chí sĩ họ Phan đã được miễn tố (Phan Chu Trinh chủ trương hợp tác với Pháp đánh Đức, cũng như Gandhi hô hào thanh niên Ấn Độ tình nguyện gia nhập quân đội Hoàng Gia Anh). Mặc dầu vậy, hai vị vẫn bị cảnh sát điều tra theo rõi. Mỗi khi có trát đòi Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành đứng ra nhận trát, tự xưng là Nguyễn Ái Quốc. Ông nói: "Nguyễn Ái Quốc chính là tôi, các ông cứ đưa trát cho tôi, đừng làm phiền chú/bác tôi (ý nói Phan Văn Trường hay Phan Chu Trinh)". Năm 1921, Nguyễn Tất Thành bỏ Đảng Xã Hội để gia nhập Đảng CS dưới tên Nguyễn Ái Quốc.
4. GIẢ DANH TRẦN DÂN TIÊN
Các nhà sử học cho rằng Hồ Chí Minh là người thông minh, nhưng là sự thông minh ngoài phố. Sự khôn ngoan giảo quyệt này đã được biểu lộ rõ nét nhất trong cuốn "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" của Trần Dân Tiên xuất bản và tái bản nhiều lần từ 1948 đến 1976. Ngày nay ai cũng biết Trần Dân Tiên là Hồ Chí Minh. Trong lịch sử văn học thế giới, không thấy một nhà văn tự trọng nào lại giả danh bằng một bút hiệu để tự đề cao mình. Dùng bút hiệu thật để nói về mình cũng là vạn bất đắc dĩ, vì cái tôi thường đáng ghét. Dùng bút hiệu giả để thần thánh hóa mình thì quả là đáng khinh! Chúng ta thử đánh giá sự "khiêm tốn" của tác giả: "Nhiều nhà văn nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng mãi đến nay chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất đơn giản: Chủ Tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình (...). Hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn, rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau 80 năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp đi đã (...). Với đức tính khiêm tốn nhường ấy, và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc làm sao Hồ Chủ Tịch có thể kể lại bình sinh của Người được".
Thế nhưng Hồ Chủ Tịch đã đại ngôn: "Khi còn là một thiếu niên 15 tuổi, người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh khâm phục các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám, nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của 3 người, vì: - Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương.
- Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau.
- Cụ Hoàng Hoa Thám còn nặng cốt cách phong kiến".
Năm 1905, khi Hồ Chí Minh 15 tuổi, cụ Phan Chu Trinh chưa viết Đầu Pháp Chính Phủ Thư (l906), chưa phát động phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục (l907). Vậy mà Hồ Chí Minh đã phê phán chính sách canh tân và giáo dục của cụ là cải lương (mà cải lương thì đã sao?). Chưa thấy cụ Phan Bội Châu rước cọp vào nhà, chỉ thấy Hồ Chí Minh cõng rắn CS về cắn gà nhà, gây tai hại vô lường cho đất nước và dân tộc. Năm 1945, khi mới 55 tuổi, Hồ Chí Minh tự phong mình là "cha già của dân tộc". Ông còn tự thần thánh hóa mình, kể rằng "chân dung Hồ Chủ Tịch được treo trên bàn thờ giữa những bình hương hoa đèn nến".
"Hồ Chủ Tịch được nhân dân yêu mến là do lòng hy sinh và lòng nhân từ của Người. Chủ Tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ đến nhân dân (...). Đối với nhi đồng, tên Bác Hồ là như một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoãn". Vậy mà người cha già (67 tuổi) đã nhẫn tâm để đàn em hạ sát người vợ trẻ đã sinh cho mình đứa con trai là Nguyễn Tất Trung. Năm l957, khi cô Nguyễn Thị Xuân yêu cầu công khai hoá cuộc hôn phối đã kéo dài trên 2 năm, Hồ Chí Minh vẫn ngọt ngào giả lả: "Cô xin như vậy là hợp tình hợp lý, nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được".
Do đó, cô đành phải chờ một thời gian. Trong thời gian này, cô đã biến thành chướng ngại vật làm mất uy tín của lãnh tụ. Theo đúng phương châm hành động, tất cả những chướng ngại vật làm cản trở con đường của lãnh tụ sẽ bị thanh toán và vô hiệu hóa. Thanh toán trước hết bằng cách hạ nhục đối phương, cho viên tướng công an Trần Quốc Hoàn mặc sức hãm hiếp. Rồi cho thủ hạ chùm chăn lên đầu và dùng búa đánh vỡ sọ nạn nhân (như vụ Staline hạ sát Trotsky tại Mexico). Một người có những thủ đoạn bất nhân như vậy, mà bộ máy tuyên truyền của CS còn đề cao như một vị anh minh kết tinh "đức tính từ bi của Đức Phật, tính công bằng bác ái của Chúa Ki-Tô, sự minh triết của Khổng Tử, sự siêu thoát của Lão Trang".
Ngoài ra, Trần Dân Tiên còn tự sánh mình với Mặc Tử là người đã mòn trán lỏng gót bôn ba khắp nơi để lo cho thiên hạ. Điều đáng nói là, trong khi Mặc Tử chủ trương hòa bình, thì Hồ Chí Minh cổ võ chiến tranh. Trong khi Mặc Tử theo thuyết kiêm ái, yêu dân tộc, yêu nhân loại, thì Hồ Chí Minh gieo rắc căm hờn, thúc dục thú tính để phát động đấu tranh giai cấp và thủ tiêu những lương dân vô tội và những người quốc gia yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc.
5. GIẢ ĐOÀN KẾT QUỐC GIA.
Khi hay biết phe Thế Giới Dân Chủ không chịu trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương vì họ không muốn Staline mở rộng Bức Màn Sắt từ Đông Âu qua Đông Á, ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh giả bộ giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương để thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Các-Mác. Để có chính nghĩa đoàn kết quốc gia, Hồ Chí Minh mời Nguyễn Hải Thần thuộc Cách Mạng Đồng Minh Hội và Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng tham gia chính phủ liên hiệp. Trong Tuyên Cáo Đoàn Kết ngày 24-12-1945, Hồ Chí Minh cam kết tôn trọng sự đoàn kết của các đảng phái quốc gia để tranh thủ độc lập, "Vì độc lập quốc gia là cứu cánh tối hậu cần phải tranh thủ và chỉ có sự hợp tác và hữu nghị chân thành giữa những người Việt Nam mới có thể đạt được độc lập quốc gia". Ông còn lên án mọi hành vi phá hoại tình đoàn kết quốc gia cũng như việc dùng võ lực để tiêu diệt các đảng phái quốc gia. Vậy mà sau đó Trần Dân Tiên đã vu oan giá họa "bọn phản động Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam được Trung Hoa Quốc Dân Đảng giúp đỡ đã có âm mưu phá hoại và Hồ Chủ Tịch đã phải nhường cho họ 70 ghế quốc hội".
Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny công nhận Việt Nam là một quốc gia tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 15 ngàn quân Pháp được thay thế quân Trung Hoa, đổ bộ Hải Phòng và đồn trú tại Bắc Việt trong 5 năm. Tháng 5-1946, Hồ Chí Minh qua Paris thương nghị. Phái đoàn Việt Nam đáng lẽ do ngoại trưởng Nguyễn Tường Tam lãnh đạo, nhưng trước đó: "Bộ Trưởng Tam đã bỏ trốn". Và mùa hè năm đó, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh cũng bỏ trốn sang Tàu để khỏi bị sát hại như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm v.v... Sau khi tống xuất quân đội Trung Hoa, CS thẳng tay đàn áp và thủ tiêu các cán binh Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội.
Như vậy, Tuyên Cáo Đoàn Kết 1945 chỉ nhằm thành lập chính phủ liên hiệp để làm bình phong thương nghị với Pháp. Rồi nhờ Pháp tống xuất Tàu cho Đảng CS rảnh tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia để được độc quyền lãnh đạo. Trong Thế Chiến Thứ Hai, để được Đồng Minh yểm trợ, Staline đưa ra chính sách thân thiện với Anh Pháp. Đảng CS Pháp phối hợp với Đảng Xã Hội trong Mặt Trận Bình Dân. Phe CS Việt Nam cũng hợp tác với phe Tân Tả Phái của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch để thành lập Mặt Trận Dân Chủ và xuất bản tờ La Lutte (Tranh Đấu). Trong những cuộc bầu cử Hội Đồng Đô Thành Saigon và Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, liên danh Tranh Đấu của Tạ Thu Thâu toàn thắng. Đây là giai đoạn đấu tranh công khai, ôn hòa, hợp pháp và bất bạo động. Chiêu bài đoàn kết quốc gia một lần nữa được áp dụng. Nguyễn An Ninh thuộc phe Trung Hoà, Tạ Thu Thâu thuộc phe Tân Tả Phái và Nguyễn Phan Long thuộc phe Lập Hiến, đã đứng ra tổ chức Đông Dương Đại Hội để đạo đạt thỉnh nguyện của nhân dân Việt Nam tới phái đoàn Quốc Hội từ Paris sang.
Vậy mà ngay sau khi cướp được chính quyền, Đảng CS đã phản bội lời giao ước đoàn kết và đã thủ tiêu Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo v.v... là những người quốc gia yêu nước thuộc các nhóm Tân Tả Phái và Lập Hiến. Về việc hạ sát Tạ Thu Thâu, Hồ Chí Minh còn giả nhân nghĩa tiếc Tạ Thu Thâu là người yêu nước. Nhưng ông lại thêm rằng những ai chống lại chính sách của ông đều sẽ bị vô hiệu hoá. Sau khi Staline thủ tiêu người chiến hữu đàn anh của mình là Trotsky năm 1940, tất cả phe tân tả phái Trotskit đều phải bị thanh toán và triệt hạ uy tín. Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn cho hạ sát Đức Giáo Chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ và các lãnh tụ các đảng phái quốc gia yêu nước như Trương Tử Anh (Đại Việt), Lý Đông A (Duy Dân), Khái Hưng, Nhượng Tống (Quốc Dân Đảng) v...v...
6. GIẢ HIỆP ƯỚC QUỐC TẾ.
Theo sách lược CS ký hiệp ước không phải để thi hành hiệp ước. Vì các hiệp ước ngoại giao chỉ là những phương tiện để thực thi những mục tiêu chính trị:
a. Ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny ngày 6-3-1946 nhờ Pháp tống xuất Tàu để rảnh tay thanh toán các đảng phái quốc gia nhằm giữ độc quyền yêu nước, độc quyền lãnh đạo. Sau đó lại phát động chiến tranh ngày 19-12-1946. b. Ký Hiệp Định Đình Chiến Genève 1954 để tống xuất Pháp và cướp chính quyền tại Miền Bắc. Sau đó lại tái phát động chiến tranh.
c. Ký Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 để tống xuất Mỹ. Sau đó lại tái phát động chiến tranh để thôn tính Miền Nam.
7. NGỤY TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
Sau cuộc Cách Mạng giải thể CS tại Đông Âu, chủ nghĩa CS đã bị nhân dân thế giới vứt vào thùng rác lịch sử. Tại Đức, quê hương của Các-Mác, chủ nghĩa Mác đã bị phủ định và được thay thế bằng chủ nghĩa Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ Xã Hội. Tại Nga, quê hương của Lênin, chủ nghĩa Lênin cũng đã bị phủ định để thay thế bằng chủ nghĩa Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ Xã Hội. Trước sự phá sản của chủ nghĩa Mác Lê, Đảng CS ngụy tạo cái gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh", một điều mà chính Hồ Chí Minh thời sinh tiền cũng không bao giờ đề cập đến.
Ông chỉ nói đến chủ nghĩa Mác Lê, tư tưởng Mao Trạch Đông, và tác phong Hồ Chí Minh. Ông nhìn nhận rằng, về phần tư tưởng, "Bác Mao đã viết cả rồi, tôi không còn gì để viết nữa". Do đó ông chỉ thực thi trung thành những nguyên lý Mác Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông. Ông hết sức tán tụng Staline và Mao Trạch Đông. Ông viết: "Mao Trạch Đông đã đông phương hóa chủ nghĩa Mác Lê và đã đưa cách mạng Trung Quốc đến thành công. Cách mạng Việt Nam phải học tập và thực sự đã học hỏi rất nhiều từ cuộc cách mạng Trung Quốc. Các nhà cách mạng (CS) Việt Nam phải ghi nhớ điều này và phải biết ơn Mao Trạch Đông về sự đóng góp to lớn này". Thật vậy, Hồ Chí Minh không có tư tưởng gì đặc sắc
. Ông chỉ là người sao chép lại. Những mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc ghi trong các tiêu đề chánh thức của nhà nước chỉ là phỏng theo 3 cương lĩnh của chủ nghĩa Tam Dân do Tôn Dật Tiên đề xướng trong Cách Mạng 1911: "Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền Tự Do và Dân Sinh Hạnh Phúc". Bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945 cũng là sự sao chép Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ theo đó: "mọi người sinh ra bình đẳng và được Tạo Hóa ban cho những quyền bất khả xâm phạm như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Thêm vào đó là lời mở đầu Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp 1789: "mọi người sinh ra tự do và bình đẳng và luôn luôn được tự do và bình đẳng".
Dùng giả nhân nghĩa là ngụy quân tử. Nhưng khéo ngụy trang Hồ Chí Minh đã viện dẫn các tư tưởng minh triết của Nho Gia trong việc giáo hóa, trị dân và dựng nước như: "Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân; không lo nghèo mà lo không đều; mười năm trồng cây, trăm năm trồng người" v.v.... Về mặt kiến thức, Hồ Chí Minh thú nhận ông không am tường chính trị và nhức đầu khi nghe nói về những vấn đề lý thuyết chủ nghĩa. Ông chỉ là người cán bộ thừa hành trung thành và tận tụy của Staline và Mao Trạch Đông. Nhờ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền, ông nổi danh vì bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc. Từ đó, ông được giới thiệu với các lãnh tụ Xã Hội và CS Pháp như Léon Blum, Marcel Cachin v..v...
Từ một tiểu trí thức, ông đã bước lên địa vị một cán bộ CS quốc tế, phụ trách vùng Đông Nam Á. Trong khi các lãnh tụ CS Á Châu khác như Roy tại Ấn Độ hay Malaka tại Nam Dương đều bị thất sủng dưới bàn tay sắt của Staline vì họ có những tư tưởng hướng về chủ nghĩa Dân Tộc và chủ thuyết Hồi Giáo, thì Hồ Chí Minh vẫn một lòng một dạ chung thủy với Quốc Tế CS.
Dầu không có tư tưởng chính trị đặc sắc nhưng Hồ Chí Minh đã thành công trong việc: Dùng ngụy trang dối trá (ngụy chủ nghĩa Dân Tộc);
Lấy giả nhân giả nghĩa (bằng các chiêu bài độc lập, tự do, hạnh phúc, đoàn kết, hòa giải, hòa hợp);
Để giành chính nghĩa (giải phóng dân tộc, giải phóng lao động);
Và cướp chính quyền (để không chia quyền với bất cứ ai).
L.S. Nguyễn Hữu Thống
http://nguyenhuuthong.blogspot.com
NGUYỄN HỮU PHƯỚC * NGÔN NGỮ
Nói Lái: một dạng đặc biệt của tiếng Việt
Nguyễn hữu Phước, Ph..D.
Dẫn nhập.
Vào đầu thập niên 1990, Tiến Sĩ Lê Văn, lúc đó là Cố Vấn cho Bộ Giáo Dục California, có tổ chức một hội thảo về "Những chuyện vui trên đường hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ (HK)." Diễn giả gồm nhiều giáo chức ViệtNam cư ngụ rải rác nhiều nơi ở HK và Canada .
Tôi được tham dự với tư cách một thuyết trình viên. Sau một ngày hội
thảo , chia xẻ những mẫu chuyện vui với các hội thảo viên, chúng tôi có
dịp dùng cơm tối chung do ban tổ chức khoản đải. Tôi ngồi cạnh Giáo Sư
Nguyễn Đình Hòa. Thật là một buổi hội ngộ hiếm có của một số đồng nghiệp
cũ. Câu chuyện trong bàn ăn là những chuyện hàn huyên xen lẫn với nhiều
chuyện vui trên đường định cư. Tôi kể ra một số những tiếng lái, câu
lái và những lối nói lái gọi là góp phần trong một buổi tiệc hiếm có. Lẽ
dĩ nhiên là có một vài tiếng lái và một vài câu lái không được thanh
tao lắm. Nhưng các đồng nghiệp trong bàn có vẽ vui vẽ vì câu chuyện nói
lái.
Điều đặc biệt là GS Hòa có vẽ cũng thích những câu nói lái. Ông lấy bút, giấy ra, bảo tôi "bớt ga xăng" để ông ghi chép. Tôi nói với ông là còn nhiều câu khác mà tôi có nghe đến, có vẽ kém lịch sự hơn vì trắng trợn hơn. Ông nói không sao, chúng ta đang học hỏi, chia xẻ những chuyện vui, ghi lại những gì mình biết là điều tốt trong việc lượm lặc những mẫu chuyện do dân chúng truyền khẩu. Tôi nổi hứng hứa liều: GS khỏi ghi chép, tôi sẽ viết thành một bài gởi đến GS để đăng báo nào cũng được. Ông nói gởi đến cho Ông hay gởi cho báo nào cũng chẳng sao, miễn là nhớ ghi lại và phổ biến để góp phần cho vui.
"Văn bình lai bắc cụ"
Vì khi đối là đối từng chữ một nên anh sinh viên không thể biết nội dung của cả câu. Khi xong, ngư ông bảo anh sinh viên đọc cả hai câu xem nghĩa là gì và giải thích cho ông nghe. Đọc lại, thấy câu đầu vô nghĩa. Nhưng đọc câu thư hai xong, Văn Bình vốn rất thông minh, biết ông câu dùng lối chơi chữ lái để nhạo anh ta. Anh ta cũng nhận ngay ra
rằng chính ông câu là nhà nho mà anh đang tìm. Tôi không nhớ đoạn kết của câu chuyện nầy ra sau, và cũng không nhớ đã đọc ở sách nào.
Giai thoại Mã Qui – Qui Mã: Phần cuối của việc trích dẫn sách, có hai tiếng lái đã thành giai thoại rất hay. Trong Giai Phẩm Xuân Nhâm Ngọ Người Việt, Công Tử Hà Đông (1) có viết bài Mã Qui và Qui Mã . Năm ngọ nói chuyện mã là đúng quá rồi. Tác giả cho biết là hai từ nầy và câu chuyện liên hệ là do một "cây cười nhân dân nào đó ở Hà Nội" viết ra
để làm chuyện tiếu lâm. Chuyện đại ý là vào đầu thập niên 1980, kinh tế VN xuống dóc phi mã, thê thảm. Người cầm đầu đảng và nhà nước vì lo lắng quá nên đến đền Ngọc Sơn ăn chay xin thần linh báo mộng giúp biện pháp cứu nước. Hai người đều được thần báo mộng. Người đầu thấy con ngựa và con rùa, người kia thì thấy con rùa và con ngựa. Tuy vô thần, nhưng tin mộng và tin .. thầy giải mộng. Hai người bèn nhờ thầy giải thích hộ. Thầy giảng rằng rùa là qui, ngựa là mã. Ông đầu thấy rùa và ngựa tức thấy qui mã, ông sau thấy ngựa và rùa tức thấy mã qui. Vậy theo điềm mộng thì thần có ý cho hai ông biết là: "muốn cứu vãn nước nhà hai ông phải qua Mĩ xin Mĩ (a) nó giúp, bao giờ Mĩ (a) nó qua nước mình thì tình hình nước mình mới khá được". Tác giả bài báo cũng có
viết rằng là chuyện tiếu lâm (nói lái) nầy đã ra đời từ những năm đầu của thập niên 1980, khi chưa có dấu hiệu nào cho biết rằng Mỹ sẽ bang giao với VN. Tác giả bài báo đó viết tiếp là: "Hai mươi năm sau, chuyện mã qui qui mã thành sự thật." Chú thích ( a) do tôi thêm: các từ Mĩ nầy dùng " Ĩ " vì tiếng lái của qui mã = qua mĩ , và mã qui = mĩ qua).
Với những trích dẫn vừa qua, chúng ta thấy văn chương, văn thơ, trong sách báo hay video đều có nói lái rải rác đó đây từ Bắc chíNam , từ quốc nội đến hải ngoại.
Những lối nói lái qua tiếu lâm truyền khẩu, hoặc được ghi chép lại.
Phần tiếp theo đây tôi sẽ ghi thêm những tiếng lái hay câu lái do tôi học hỏi hay lượm lặc trên con đường "tiếu lâm lái".
Nói lái trong câu đố: Lúc tôi còn nhỏ, tôi biết được những tiếng lái đầu tiên qua các câu đố . Thí dụ các câu đố sau đây:
a) – Ông cố ngoài Huế ông cố ai? (xuất vật)
b) – Ông đánh cái chen, bà bảo đừng? (xuất vật dụng) .
Hoặc c) – Ghe chày chìm giữa biển đông, cái nốc nó mất cái công nó còn.(xuất vật) .
Câu a) là "cái ô"; vì cố ai = cái ô. Câu b) là cái "chân đèn"; vì "chen…đừng = chưng đèn. Câu c) là "con còng", vì "công còn = con còng.
Nói Lái tên thú vật: Các câu sau đây nói lái về thú vật, thức ăn, địa danh, hay nói đùa cho vui:
Con óc con nhện , con ếch con nhọng;
Con cò con sóc, con cóc con sò;
Con công con rùa, con cua con rồng;
Con cáo con bò, con cò con báo.
Hoặc: Con cá đối nằm trên cối đá;
Ông cò Lửa đứng ở cửa lò.
Bên trên trong phần trích dẫn video đã có rất nhiều tiếng lái về thú vật.
Nói lái về các loại canh: Về thức ăn, trong bửa cơm của VN thường có ba món chánh: món mặn, món xào và món canh. Sau đây là câu lái đùa về canh:
"Anh Câu Bành đánh lộn với anh Kí Banh, ông Cai Cảnh làm biên bản, giải lên ông Cai Khoanh để thụ lý. Các câu trên thật ra là tên của bốn loại canh: canh bầu, canh bí, canh cải và canh khoai.
Nói lái về các địa danh: Về địa danh chúng ta có một số câu sau đây:
Chợ Thủ Đức năm canh thức đủ;
Chợ Đồng Tranh năm canh đành trông
Hoặc: Ra Thủ Đức năm năm thức đủ
Về Giồng Trôm tháng tháng dòm trông (4)
Hay các câu sau:
Đi chợ Búng coi chừng chúng bợ
Đến Hạ Long rát cổ họng la
Lên Bắc cạn, nghèo đành bán c. t
Vào Ba Thê cuộc sống bê tha
Vượt sông Đuống, xuống Đông lên bắc
Trèo Đèo Ngang trong lúc đang nghèo
Ngoài ra còn có câu sau đây liên quan đến địa danh và nói lái, và có thể dùng câu nầy làm vế đầu của câu đối. Vị nào đối hay xin ban cho một câu cho đối để chuyện thêm phong phú:
"Nếu chịu Bà Chở , Bà Chở sẽ chở xuống Chợ Bà Chiểu"
"Chở" vừa là tên của một bà vừa có nghĩa là đem đi bằng một phương tiện gia thông
Cha chả ai bảo các bà không nói lái? Bà trên quay sang ông sau cùng:
Nguyễn hữu Phước, Ph..D.
Dẫn nhập.
Vào đầu thập niên 1990, Tiến Sĩ Lê Văn, lúc đó là Cố Vấn cho Bộ Giáo Dục California, có tổ chức một hội thảo về "Những chuyện vui trên đường hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ (HK)." Diễn giả gồm nhiều giáo chức Việt
Điều đặc biệt là GS Hòa có vẽ cũng thích những câu nói lái. Ông lấy bút, giấy ra, bảo tôi "bớt ga xăng" để ông ghi chép. Tôi nói với ông là còn nhiều câu khác mà tôi có nghe đến, có vẽ kém lịch sự hơn vì trắng trợn hơn. Ông nói không sao, chúng ta đang học hỏi, chia xẻ những chuyện vui, ghi lại những gì mình biết là điều tốt trong việc lượm lặc những mẫu chuyện do dân chúng truyền khẩu. Tôi nổi hứng hứa liều: GS khỏi ghi chép, tôi sẽ viết thành một bài gởi đến GS để đăng báo nào cũng được. Ông nói gởi đến cho Ông hay gởi cho báo nào cũng chẳng sao, miễn là nhớ ghi lại và phổ biến để góp phần cho vui.
Rồi
thời gian trôi qua, cuộc sống quá bận rộn, và rồi tháng nầy chầy tháng
khác, năm nọ kéo năm kia, và nghề nghiệp lại không dính dáng vì tới
khung cảnh nghiên cứu, tôi đành tự nhủ là khi nào rảnh rổi sẽ viết.
Rồi tôi lại nghe nói GS về California .
Cùng với một số giáo sư khác như GS Lê Văn, GS Nguyễn Khắc Hoạch v.v.,
ông mở Viện Việt Học. Và sau đó tôi đọc tin GS Hòa qua đời. Tôi cầm tờ
báo có cáo phó, ngẫn ngơ.
Món nợ tinh thần nầy làm sao trả được. Cách đây vài năm, tôi về hưu, rời vùng South Pasadena , và định cư ở Orange County .
Giờ đây tôi có một số giờ nhàn rổi nên tôi cố gắng viết lại bài "nói
lái" nầy và giao nó cho GS Lê Văn, cố vấn của Viện Việt Học. Người anh
khả kính nầy đã là "xếp" của tôi, và nhà tôi, trong nhiều năm ở Đại Học
Sư Phạm Saigon. Hơn nữa Tiến Sĩ Nguyễn thị Bảo Xuyến (bà Lê Văn) lại là
Phó Viện Trưởng Viện Việt Học. Như vậy tôi đã có dịp làm tròn lời hứa
với GS Hòa một cách gián tiếp, và cũng để góp chút xíu những điều lượm
lặt nói lên sự phong phú và tính cách đa dạng của tiếng Việt..
Không biết văn nói lái hoặc việc dùng tiếng lái trong văn nói và văn viết có từ bao giờ. Riêng tôi, tôi đã nghe, bắt chước và dùng nói lái từ lúc còn học tiểu học vào thập niên 1940. Sau nầy đọc sách mới biết rằng lối nói lái đã được dùng từ lâu hơn tôi tưởng. Người ta nói lái để chơi chữ, để bông đùa giữa bạn bè với nhau, để châm biếm vô hại một
sự việc gì đó cho vui, hoặc châm biếm một người khác mà không dám nói trực tiếp. Ngay cả trong việc đặc tên hiệu hoạêc thương hiệu cũng có dùng tiếng lái như trường hợp của nhà thơ Thế Lử với tên thật là Nguyễn Thứ Lể. Thế Lử là tiếng lái của Thứ Lể.
Tôi xin thưa trước những chuyện cười thì phải có người nói và người nghe. Người nói phải có tài nói chuyện vui. Phải lựa chuyện cho đúng với thành phần thính hay khán giả thì câu chuyện mới được thưởng thức.
Không biết văn nói lái hoặc việc dùng tiếng lái trong văn nói và văn viết có từ bao giờ. Riêng tôi, tôi đã nghe, bắt chước và dùng nói lái từ lúc còn học tiểu học vào thập niên 1940. Sau nầy đọc sách mới biết rằng lối nói lái đã được dùng từ lâu hơn tôi tưởng. Người ta nói lái để chơi chữ, để bông đùa giữa bạn bè với nhau, để châm biếm vô hại một
sự việc gì đó cho vui, hoặc châm biếm một người khác mà không dám nói trực tiếp. Ngay cả trong việc đặc tên hiệu hoạêc thương hiệu cũng có dùng tiếng lái như trường hợp của nhà thơ Thế Lử với tên thật là Nguyễn Thứ Lể. Thế Lử là tiếng lái của Thứ Lể.
Tôi xin thưa trước những chuyện cười thì phải có người nói và người nghe. Người nói phải có tài nói chuyện vui. Phải lựa chuyện cho đúng với thành phần thính hay khán giả thì câu chuyện mới được thưởng thức.
Còn
nến viết chuyện cười để cho thiên hạ đọc thì chưa chắc tất cả người đọc
đều cười và đôi khi còn nghe chê là chuyện cười nầy hay chuyện cười kia
"dở ẹt". Nhưng cũng câu chuyện dở ẹt đó màụ do một người có tài kể, và
kể đúng lúc, đúng trường hợp thì lại là chuyện hay. Cũng y vậy, đã gọi
là "nói lái" thì phải nói đúng chuyện, đúng lúc, đúng nơi, đúng với
thành phần thính giả thì may ra mới được thưởng thức. Do đó, vì đây là
bài sưu khảo nên tôi phải viết tất cả những chuyện gì mà tôi có thể ghi
lại theo trí nhớ, hoặc ghi ra từ những tài liệu khác. Đọc bài nói lái
chắc chắn là dể nhàm chán hơn là nghe nói lái. Xin quý vị chịu khó đọc
hết để thấy nhiều dạng khác nhau của việc nói lái.
Nói lái trong một số sách vở.
Từ đoạn nầy trở về sau, "chữ" (còn gọi là "từ" hay hay nhóm chữ (cụm từ) , hoặc câu thơ nào có thể viết tiếng lái ra, tôi sẽ viết. Nếu cảm thấy bất tiện vì tiếng lái có vẽ quá "tả chân" hay gọi là không được thanh tao, tôi xin miễn viết ra để gọi là tôn trọng cả những người cho rằng không nên viết những từ có vẽ quá ..trớn. Tôi chỉ tô đậm, hoặc gạch dưới những từ có thể hiểu theo nghĩa lái, hoặc không gạch dưới gì cả.
Nói lái tiếng Pháp: Ông Lãng nhân, trong quyển Chơi Chữ (5) có nhắc chuyện nói lái bằng tiếng Pháp. Chuyện rằng có một cặp vợ Việt, chồng Pháp vào hàng tranh sơn mài. Vì chủ nhân nói thách quá nên vợ rỉ tai chồng: "très chaud, très chaud (nghĩa đen: nóng quá, nóng quá). Chồng lật đật chọn tranh, trả tiền nhanh để ra ngoài cho bà vợ được mát hơn. Vợ trách chồng khi ra khỏi cửa " Đã bảo đắt quá mà còn mua". Chồng nói là có thấy vợ kêu đắt đâu. Vợ bảo có nói rồi "très chaud" là "trop cher" (mắc quá). Bà ấy đã nói lái theo kiểu VN, chắc chắn là "bố" của anh chồng cũng không hiểu được.
Nói lái cho vui về nguồn gốc của một người: Ông Nguyễn Ngọc Huy, trong quyển Tên Họ Người ViệtNam (8 ), có thuật câu chuyện đại khái như sau. Ngày xưa có nhiều người VN từ miền Trung tiếp tục vào Nam lập nghiệp. Dân Nam ,
vì không biết rõ địa lý miền Trung, gọi chung những người mới vào sau
là "người Huế". Có nhiều người Huế làm nghề thầy lang lưu động. Một thầy
lang nọ tuy còn trẻ, nhưng mát tay chửa lành cho một phú hộ. Ông phú hộ
cảm ơn thầy lang bằng cách gã con cho thầy. Ông lại giúp vố n cho mở
tiệm thuốc bắc. Chú rể nhờ cha vợ đặt tên cho hiệu thuốc của mình.. Ông
cha vợ đặt tên tiệm là "Thế Hoằng Dược Phòng". Ông giải thích cho rể đại
ý là nó làm việc cứu người nên đời mở rộng ra (thế = đời; hoằng =
rộng). Chú rể rất hài lòng. Khi có người khác hỏi ý nghĩa của hai chữ
đó, ông cười và nói : Rể tôi là người Huế, tôi đặt hiệu tiệm Thế Hoằng
là để nhắc cho nó nhớ gốc gác nó là Thằng Huế. (Trong trường hợp nầy
nguyên âm "o" trong chữ "hoằng" đã được thay thế bằng nguyên âm "u"
trong chữ "Huế". Đây chỉ là đọc cho thuận tai mà thôi, chớ lúc nói lái
không ai nghĩ đến việc thay đỗi
nguyên âm hay phụ âm, hoặc hoặc thay đổi "dấu" gì cả.
Nói lái vì tục cử tên: Cũng trong quyễn sách trên, GS Huy còn nhắc đến một câu chuyện "nói lái" khác do tục cử tên mà có. Ngày xưa, thời chữ nho còn thịnh, dân Việt có tục cử tên hay còn gọi là kỵ úy. Thí sinh của các kỳ thi trước năm 1920 là những nạn nhân đầu tiên. Nếu bài làm không tránh những tên cấm kỵ thì chẳng những bị đánh rớt mà còn có thể bị các biện pháp chế tài khác. Nạn nhơn thứ hai là những người cầm bút. Và nạn nhân thứ ba là các gánh hát. Tục cử tên ảnh hưởng sâu rộng trong dân chúng. Theo GS Huy thì dân chúng đã phản ứng lại bằng cách dùng tiếng lái.
Số là vào những thập niên 1940-50 có những đoàn hát bội lưu động đi hát ở các miền thuộc "Lục Tỉnh" .. Trước khi đến một vùng nào thì bầu gánh phải lấy danh sách của các chức sắc nơi đó để khi hát, những diễn viên phải tránh tên trong danh sách đó hay đọc trại đi . Thí dụ tên của ông cai tổng là Nguyên thi khi hát, tất cả những chữ "nguyên" đều
được đổi ra "ngươn" vì tên Nguyên phải cử để tỏ sự kính trọng.
Có một gánh hát đến một làng nọ để hát trong dịp lể "kỳ yên." Các vị hương chức trong xã họp bàn về việc cử tên. Hội đồng xã đồng ý là để cho tuồng hát được hay, miễn cho đoàn hát khỏi cử tên các chức sắc, trừ tên hai anh em của hai vị hào mục tên Hòa và tên Hóa. Hai ông nầy rất hách dịch, nhứt định là đoàn hát phải cử tên của hai ông. Nhũng
người trong gánh đồng ý. Nhưng để chơi xỏ hai ông này, họ thêm một màn diễu. Trong màn nầy có hai người đối đáp, một người đóng vai lính. Người kia hỏi là trong quân ngũ, lính được ăn món gì thường xuyên. Anh lính đáp: "Hoặc ăn cà, hoặc ăn cá." "Những người lanh trí hiểu đó là câu nói lái để móc họng ông Hòa và ông Hóa đều ôm bụng cười trong khi hai ông này giận muốn hộc máu mà không làm gì được gánh hát." (8 )
(Xin thưa thêm cho rõ nghĩa: hoặc ăn cà = Hòa ăn c.t; hoặc ăn cá = Hóa ăn c.t )
Tiếng lái có nghĩa riêng: Trong một video mà ông Nam Lộc và cô Nguyễn cao Kỳ Duyên là MCs (rất tiếc không nhớ video tên gì), ông Nam Lộc phỏng vấn ca sĩ Chế Linh. Ông có hỏi ca sĩ rằng hồi ở Saigòn, những người ngưởng mộ có gọi đùa ca sĩ Chế Linh là ca sĩ "Lính Chê", ca sĩ Chế Linh có giận không? Ca sĩ Chế Linh trả lời là ông được miễn dịch
(lính chê) vì là thuộc sắc tộc thiểu số Chàm, và không phiền hà gì với tên riêng đó. Tôi chắc là ông Nam Lộc cũng thừa biết là từ "lính chê" là tiếng lái của Chế Linh. Tiếng lái nầy lại trùng hợp với tình trạng quân dịch của ca sĩ Chế Linh.
Nói lái đơn giản về người, thú vật và những chuyện hằng ngày: Trong video Vân Sơn số 3, trong hài kịch Ông Ninh Ông Nang (12) (không thấy để tên tác giả) có một phần đối đáp sau đây giữa cách hài kịch viên toàn là câu lái, rất đơn giản và rất dể hiểu về thú vật (cá, chim, chó, mèo), về người (bà già, ông già, trẻ em, cô dâu, chú rể ) và các điều khác.
"Con cá đối nằm trên cối đá;
Mèo đuôi cụt nằm mụt đuôi kèo
Chim mỏ kiến nằm trên miếng cỏ;
Chim vàng long đá tại vòng lang
Chim sáo sọc chê anh sóc sạo;
Con chó què chân bị cái quần che
Cô bé mập ú là nhờ mụ ấp;
Thằng nhỏ ốm tong vác cái ống tôm
Chiều chiều cụ Mão lên rừng cạo mũ;
Sáng sớm bà Hạt đi bán bạt hà
Cô nàng dâu hứa đi mua dưa hấu;
Chàng rể bảnh trai ngồi tại bải tranh
Người mặc áo xanh chính là anh sáu;
Miếng thịt băm nát trong bụng bác năm
Anh chàng sức môi ngồi ăn xôi mức ;
Cô gái mồm to lặn lội mò tôm
Nhờ cái búa đỏ chẻ thành bó đủa;
Cái nồi cơm thiêu lại dám kêu thơm
Tấm hình lộng kiến ai đem liệng cống;
Cô gái muốn chồng ngó cái mống chuồng."
Đến đây đã hết những câu lái trong Video Vân Sơn, nhưng câu chót làm tôi liên tưởng đến câu lái khác cùng ý nghĩa:"Mống chuồng mọc giữa đồng chòi . Cái móng mọc ở giữ đồng bình thường như chuyện "muốn chồng" thì "đòi chồng" phải không quý vị?
Các nhà văn (hiện đã già, hoặc đã ra đi rồi) nói lái:
Trong quyển "Hơn Nửa Đời Hư" (13) ông Vuơng Hồng Sển dùng tiếng lái nhiều lần . Thí dụ "bất quá là bá quốc" (trang 465); "ủ tờ" (tiếng lái của từ ở tù, trang 477); và "mống chuồng" (tiếng lái của "muốn chồng" trang 519) v.v... Ngoài ra, ở một đoạn khác, để nhắc lại kỹ niệm chuyến Đông du thăm Đài loan và Nhật của ông và vài người bạn Pháp, cũng trong sách nầy, ông có ghi lại chuyện ở khách sạn Nhật. Ông và người bạn Pháp không quen mặc áo kimono đã để sẳn trong tủ cho khách trọ. Ông có dùng hai tiến g lái, với vẽ đùa cợt mà tôi xin miễn "thông dịch", như đã hứa; trừ gạch lằn gạch dưới hai tiếng lái là do tôi thêm, nguyên văn câu ông viết như sau:
"Đến cái áo kimono màu sặc sỡ, mỗi phòng trọ đều có treo sẳn cho khách mượn, Meken và tôi chưa quen, vừa xỏ tay vào, tấm thân bồ tượng áo che không khuất, trống trước trống sau, đứa "lù coi" đứa "lắc cọ", áo nhột nhột, cảnh thật buồn cười" (trang 590).
Công Tử Hà Đông (CTHĐ), báo Người Việt (1), dùng tựa đề "Saigòn Tạp Pín Lù" (tên một cuốn sách của ông Vương Hồng Sển), để phê bình nội dung của cuốn "Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam" của ông Sển. Bài báo nầy đã kể ra nhiều tiếng lái. Có tiếng từ sách của ông Sển, đã được tác giả bài báo trích dẫn như "xe u mê":
"Xe u mê: tiếng lóng để gọi xe thổ mộ, vì sàn xe bằng gỗ cứng, khách ngồi bệt trên sàn, ê ẩm bàn trôn, nhứt là khách phụ nữ đều phải ê mu, nói lái cho bớt tục."
Có nhiều tiếng lái khác, và những tiếng đặc biệt được dùng thời tác giả CTHĐ sống ở Sàigòn.. Ông đặt câu hỏi cho chính ông là: "Tại sao tôi lại không ghi lại với lời giải thích những tiếng, những hành ngữ sinh động, rung rinh âm thanh, lung linh màu sắc trong tiếng nói của dân tộc tôi, trong thời đại tôi? "
Ý kiến của ông rất hay vì những từ mà ông kể ra rất độc đáo, vì có tính cách rất là Sàigòn. Trong số những tiếng đặc biệt đó, có một số là tiếng lái như: liệng cống, dấm sủ, chai hia, chà đồ nhôm. Xin được trích dẫn sau đây cụm từ lái chà đồ nhôm , một thành ngữ lái có tính cách lịch sử, tả cảnh nghèo đói của dân Sàigòn, sau khi được phỏng dái
(giải phóng), phải đem bán bất cứ vật gì có thể chôm (lấy) được trong nhà.
"Chà đồ nhôm: chôm đồ nhà, tiếng Sàigòn những năm sau 1975, ... Thời ấy Sàigòn có câu phong dao:
Đi đâu bỏ con ở nhà?
Hỏi em em nói: Đi chà đồ nhôm
Đi đâu tay xách, nách ôm?
Hỏi em em nói đi chôm đồ nhà." (1)
Giai thoại về nói lái của Trạng Quỳnh: Trong một số sách khác, tôi nhớ là có đọc một số chuyện vui liên quan đến "Trạng Quỳnh". Ông hay nghịch ngợm, chọc phá nhiều vị chức sắc trong triều, kể cả con vua và vua nữa. Đại ý chuyện truyền rằng một hôm nghe công chúa đi dạo ngoài thành. Trạng Quỳnh đứng đón công chúa ở gần bên một cây cầu. Khi công chúa đi ngang qua cầu thấy ông trạng nhà ta lấy chân đá nước văng tung tóe. Công chúa hỏi ông đang làm gì đó? Ông trả lời là ông đá bèo cho vui.
Nhà thơ Hồ Xuân Hương nói lái: Tôi cũng nhớ có đọc nhiều lần trong các sách (nào đó), thơ của Hồ Xuân Hương (HXH). Nữ sĩ họ Hồ nầy là vua về thơ lái. Thơ lái của bà được ghi lại trong nhiều sách vở về văn chương ViệtNam . Gần đây đọc quyển "100 Năm Phát Triển Tiếng Việt" (9), tác giả Phụng Nghi có ghi lại bài thơ "Kiếp Tu Hành" của nữ sĩ họ Hồ:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền tình cũng muốn về tây trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
Ngoài ra tôi còn nhớ vài câu sau đây của HXH: (nhưng không nhớ tựa bài thơ)
Đang cơn nắng cực chửa mưa hè
Rủ chị em ra tát nước khe…
Hoặc: Thú vui quên cả niềm lo cũ
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
Các nhà thơ khác nói lái: Theo sách vừa dẫn (9) thi sĩ Thảo Am Nguyễn Khoa Vy ở Huế có bài thơ như sau:
Nực cổi chi ra nổi cực lòng,
Dòng châu lai láng dĩa dầu chong
Khó đi tìm hiểu nhau khi đó,
Công khó nhờ ai biết có không
Ông Huy Phương (3) trong bài "Nói Lái Mà Chơi" cũng có ghi một bài thơ nói lái nổi tiếng khác của thi sĩ Nguyễn Khoa Vy:
Cầu đạo nên chi phải cạo đầu
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu
Na bường bát tới nương bà vãi
Dầu sãi không tu cũng giải sầu
(Ông Huy Phương chú thích: Na bường bát tới = mang bình bát tới, nói giọng Huế)
Ngoài ra trong bài "Nói Lái Mà Chơi" còn có một bài thơ rất hay tựa đề "Trông Trời" mà Ông Huy Phương nói không biết tác giả là ai.
"Cô kia sao cứ trông trời:
Để tôi xin nguyện làm trời cô trông
Trông trời sướng lắm phải không
Trời mà trông lại còn mong nỗi gì!
Đọc xong bài trên, các bạn có tìm thấy ý nghĩa của tiếng lái không? Nếu không xin các bạn đọc câu chú thích của ông Huy Phương. Ông có ghi rõ là bài thơ nầy muốn nói lái phải đọc theo giọng Bắc hai chữ "trông trời" = "chông chời".
Nói lái bằng câu đối: Trong sách Miền Đất Hứa (10) anh Trà Lũ (tôi gọi anh vì Trà Lũ là bạn dạy học cùng trường với tôi trước 1975) có ghi câu đối sau đây, câu đối vừa chơi chữ cách đối vừa chơi chữ bằng cách dùng tiếng lái:
"Gái Củ Chi, chỉ cu, hỏi củ chi".
Khi nghe câu đối trên, anh Trà Lũ đã kêu cứu "xin các cụ giúp tôi với"? Quý bạn thừa hiểu là từ Củ Chi đầu là một địa danh gần Saigòn; củ chi thứ hai ở cuối là câu hỏi (củ nầy là củ chi vậy?) Còn từ chỉ cu vừa là một động từ, vừa là tiếng lái của cả hai từ cùng âm "củ chi". Cũng trong sách đó, ở một đoạn sau, Trà Lũ có nói rằng một số đọc giả viết thư "gà" cho anh 2 câu như sau gọi là đối lại với câu trên:
"Trai Thủ Đức thức đủ xin thủ đức" và
"Trai Bắc cực, bú c., than Bắc cực" .
Anh Trà Lũ cho là câu đối sau nghe "khiếp quá, nhưng phải viết ra trình cho các cụ chấm cho". Hai câu nầy đại khái, không được chỉnh lắm về phương diện đối. Hơn nữa chắc bạn tôi vì tính tình xề xòa nên không để ý rằng tiếng lái của "Bắc cực" là "bức c." chớ không như ông đọc giả nào đó đã viết. Và nếu dùng từ "bức" thì chắc không có gì "khiếp quá" mà chỉ hơi hơi táo bạo tí thôi. Chỉ ghi nhận cho vui chớ nào dám chỉ trích bạn mình, vì tôi cũng bí như bạn. Mười năm qua rồi, trên con đường học hỏi về lái tiếu lâm, chưa tìm thấy câu nào hay hơn câu Củ chi mà bạn đã kể.
Gần đây đọc bài của Ông Nguyễn Đại Hùng (7) thấy câu Củ Chi được ghi như sau: "Đến Củ Chi, chỉ cu anh, hỏi củ chi." và câu sau ghi là:
"Về Cù Mông, còng mu em, đòi Cù Mông."
Giai thoại về nói lái để hẹn hò qua câu đối. Gần đây hơn, vào mấy tháng đầu năm 2002, kể cả tháng bảy, đọc trong báo hằng ngày tôi thường thấy những tiếng l ái, nhưng chỉ là những tiếng rời rạc, cũng vui, nhưng không lồng trong câu chuyện nào đặc biệt, nên tôi không ghi chép.
Tuy nhiên, trong một buổi tiệc sinh nhật tôi có nghe câu đối có tiếng lái. Câu chuyện rằng ở miền đồng quê sông Hậu nhân có buổi gặp gở của các thân hào trong làng. Trong câu chuyện qua lại, người ta nói về thời sự, đồng án, và văn chương. Có một chàng nọ, trong câu chuyện về văn chương với một cô, đã nói:
Nguyệt lão xe tơ, chỉ vàng tốt mối
Nàng đã trả lời là:
Đế Thích nhấp chén rượu trắng tái môi
Mới nghe qua, tưởng là chuyện câu đối với các điển tích. Nhưng thực sự Nguyệt lão và Đế Thích chẳng "ăn nhậu" (liên quan) gì đến hai người nầy. Họ chỉ hẹn ngày gặp nhau mà thôi. Chàng hẹn nàng tối mốt (tốt mối). Nàng không chịu, bảo là tối mai (tái môi.)
Nói lái qua câu hò đối đáp giữa trai gái. Miền đồng bằng sông Cữu long, vào mùa cấy các thợ cấy nam nữ vừa làm việc vừa vui đùa qua chuyện tiếu lâm, hoặc qua những câu hò đối đáp giữa hai nhóm nam nữ.
Nói lái trong một số sách vở.
Từ đoạn nầy trở về sau, "chữ" (còn gọi là "từ" hay hay nhóm chữ (cụm từ) , hoặc câu thơ nào có thể viết tiếng lái ra, tôi sẽ viết. Nếu cảm thấy bất tiện vì tiếng lái có vẽ quá "tả chân" hay gọi là không được thanh tao, tôi xin miễn viết ra để gọi là tôn trọng cả những người cho rằng không nên viết những từ có vẽ quá ..trớn. Tôi chỉ tô đậm, hoặc gạch dưới những từ có thể hiểu theo nghĩa lái, hoặc không gạch dưới gì cả.
Nói lái tiếng Pháp: Ông Lãng nhân, trong quyển Chơi Chữ (5) có nhắc chuyện nói lái bằng tiếng Pháp. Chuyện rằng có một cặp vợ Việt, chồng Pháp vào hàng tranh sơn mài. Vì chủ nhân nói thách quá nên vợ rỉ tai chồng: "très chaud, très chaud (nghĩa đen: nóng quá, nóng quá). Chồng lật đật chọn tranh, trả tiền nhanh để ra ngoài cho bà vợ được mát hơn. Vợ trách chồng khi ra khỏi cửa " Đã bảo đắt quá mà còn mua". Chồng nói là có thấy vợ kêu đắt đâu. Vợ bảo có nói rồi "très chaud" là "trop cher" (mắc quá). Bà ấy đã nói lái theo kiểu VN, chắc chắn là "bố" của anh chồng cũng không hiểu được.
Nói lái cho vui về nguồn gốc của một người: Ông Nguyễn Ngọc Huy, trong quyển Tên Họ Người Việt
nguyên âm hay phụ âm, hoặc hoặc thay đổi "dấu" gì cả.
Nói lái vì tục cử tên: Cũng trong quyễn sách trên, GS Huy còn nhắc đến một câu chuyện "nói lái" khác do tục cử tên mà có. Ngày xưa, thời chữ nho còn thịnh, dân Việt có tục cử tên hay còn gọi là kỵ úy. Thí sinh của các kỳ thi trước năm 1920 là những nạn nhân đầu tiên. Nếu bài làm không tránh những tên cấm kỵ thì chẳng những bị đánh rớt mà còn có thể bị các biện pháp chế tài khác. Nạn nhơn thứ hai là những người cầm bút. Và nạn nhân thứ ba là các gánh hát. Tục cử tên ảnh hưởng sâu rộng trong dân chúng. Theo GS Huy thì dân chúng đã phản ứng lại bằng cách dùng tiếng lái.
Số là vào những thập niên 1940-50 có những đoàn hát bội lưu động đi hát ở các miền thuộc "Lục Tỉnh" .. Trước khi đến một vùng nào thì bầu gánh phải lấy danh sách của các chức sắc nơi đó để khi hát, những diễn viên phải tránh tên trong danh sách đó hay đọc trại đi . Thí dụ tên của ông cai tổng là Nguyên thi khi hát, tất cả những chữ "nguyên" đều
được đổi ra "ngươn" vì tên Nguyên phải cử để tỏ sự kính trọng.
Có một gánh hát đến một làng nọ để hát trong dịp lể "kỳ yên." Các vị hương chức trong xã họp bàn về việc cử tên. Hội đồng xã đồng ý là để cho tuồng hát được hay, miễn cho đoàn hát khỏi cử tên các chức sắc, trừ tên hai anh em của hai vị hào mục tên Hòa và tên Hóa. Hai ông nầy rất hách dịch, nhứt định là đoàn hát phải cử tên của hai ông. Nhũng
người trong gánh đồng ý. Nhưng để chơi xỏ hai ông này, họ thêm một màn diễu. Trong màn nầy có hai người đối đáp, một người đóng vai lính. Người kia hỏi là trong quân ngũ, lính được ăn món gì thường xuyên. Anh lính đáp: "Hoặc ăn cà, hoặc ăn cá." "Những người lanh trí hiểu đó là câu nói lái để móc họng ông Hòa và ông Hóa đều ôm bụng cười trong khi hai ông này giận muốn hộc máu mà không làm gì được gánh hát." (8 )
(Xin thưa thêm cho rõ nghĩa: hoặc ăn cà = Hòa ăn c.t; hoặc ăn cá = Hóa ăn c.t )
Tiếng lái có nghĩa riêng: Trong một video mà ông Nam Lộc và cô Nguyễn cao Kỳ Duyên là MCs (rất tiếc không nhớ video tên gì), ông Nam Lộc phỏng vấn ca sĩ Chế Linh. Ông có hỏi ca sĩ rằng hồi ở Saigòn, những người ngưởng mộ có gọi đùa ca sĩ Chế Linh là ca sĩ "Lính Chê", ca sĩ Chế Linh có giận không? Ca sĩ Chế Linh trả lời là ông được miễn dịch
(lính chê) vì là thuộc sắc tộc thiểu số Chàm, và không phiền hà gì với tên riêng đó. Tôi chắc là ông Nam Lộc cũng thừa biết là từ "lính chê" là tiếng lái của Chế Linh. Tiếng lái nầy lại trùng hợp với tình trạng quân dịch của ca sĩ Chế Linh.
Nói lái đơn giản về người, thú vật và những chuyện hằng ngày: Trong video Vân Sơn số 3, trong hài kịch Ông Ninh Ông Nang (12) (không thấy để tên tác giả) có một phần đối đáp sau đây giữa cách hài kịch viên toàn là câu lái, rất đơn giản và rất dể hiểu về thú vật (cá, chim, chó, mèo), về người (bà già, ông già, trẻ em, cô dâu, chú rể ) và các điều khác.
"Con cá đối nằm trên cối đá;
Mèo đuôi cụt nằm mụt đuôi kèo
Chim mỏ kiến nằm trên miếng cỏ;
Chim vàng long đá tại vòng lang
Chim sáo sọc chê anh sóc sạo;
Con chó què chân bị cái quần che
Cô bé mập ú là nhờ mụ ấp;
Thằng nhỏ ốm tong vác cái ống tôm
Chiều chiều cụ Mão lên rừng cạo mũ;
Sáng sớm bà Hạt đi bán bạt hà
Cô nàng dâu hứa đi mua dưa hấu;
Chàng rể bảnh trai ngồi tại bải tranh
Người mặc áo xanh chính là anh sáu;
Miếng thịt băm nát trong bụng bác năm
Anh chàng sức môi ngồi ăn xôi mức ;
Cô gái mồm to lặn lội mò tôm
Nhờ cái búa đỏ chẻ thành bó đủa;
Cái nồi cơm thiêu lại dám kêu thơm
Tấm hình lộng kiến ai đem liệng cống;
Cô gái muốn chồng ngó cái mống chuồng."
Đến đây đã hết những câu lái trong Video Vân Sơn, nhưng câu chót làm tôi liên tưởng đến câu lái khác cùng ý nghĩa:"Mống chuồng mọc giữa đồng chòi . Cái móng mọc ở giữ đồng bình thường như chuyện "muốn chồng" thì "đòi chồng" phải không quý vị?
Các nhà văn (hiện đã già, hoặc đã ra đi rồi) nói lái:
Trong quyển "Hơn Nửa Đời Hư" (13) ông Vuơng Hồng Sển dùng tiếng lái nhiều lần . Thí dụ "bất quá là bá quốc" (trang 465); "ủ tờ" (tiếng lái của từ ở tù, trang 477); và "mống chuồng" (tiếng lái của "muốn chồng" trang 519) v.v... Ngoài ra, ở một đoạn khác, để nhắc lại kỹ niệm chuyến Đông du thăm Đài loan và Nhật của ông và vài người bạn Pháp, cũng trong sách nầy, ông có ghi lại chuyện ở khách sạn Nhật. Ông và người bạn Pháp không quen mặc áo kimono đã để sẳn trong tủ cho khách trọ. Ông có dùng hai tiến g lái, với vẽ đùa cợt mà tôi xin miễn "thông dịch", như đã hứa; trừ gạch lằn gạch dưới hai tiếng lái là do tôi thêm, nguyên văn câu ông viết như sau:
"Đến cái áo kimono màu sặc sỡ, mỗi phòng trọ đều có treo sẳn cho khách mượn, Meken và tôi chưa quen, vừa xỏ tay vào, tấm thân bồ tượng áo che không khuất, trống trước trống sau, đứa "lù coi" đứa "lắc cọ", áo nhột nhột, cảnh thật buồn cười" (trang 590).
Công Tử Hà Đông (CTHĐ), báo Người Việt (1), dùng tựa đề "Saigòn Tạp Pín Lù" (tên một cuốn sách của ông Vương Hồng Sển), để phê bình nội dung của cuốn "Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam" của ông Sển. Bài báo nầy đã kể ra nhiều tiếng lái. Có tiếng từ sách của ông Sển, đã được tác giả bài báo trích dẫn như "xe u mê":
"Xe u mê: tiếng lóng để gọi xe thổ mộ, vì sàn xe bằng gỗ cứng, khách ngồi bệt trên sàn, ê ẩm bàn trôn, nhứt là khách phụ nữ đều phải ê mu, nói lái cho bớt tục."
Có nhiều tiếng lái khác, và những tiếng đặc biệt được dùng thời tác giả CTHĐ sống ở Sàigòn.. Ông đặt câu hỏi cho chính ông là: "Tại sao tôi lại không ghi lại với lời giải thích những tiếng, những hành ngữ sinh động, rung rinh âm thanh, lung linh màu sắc trong tiếng nói của dân tộc tôi, trong thời đại tôi? "
Ý kiến của ông rất hay vì những từ mà ông kể ra rất độc đáo, vì có tính cách rất là Sàigòn. Trong số những tiếng đặc biệt đó, có một số là tiếng lái như: liệng cống, dấm sủ, chai hia, chà đồ nhôm. Xin được trích dẫn sau đây cụm từ lái chà đồ nhôm , một thành ngữ lái có tính cách lịch sử, tả cảnh nghèo đói của dân Sàigòn, sau khi được phỏng dái
(giải phóng), phải đem bán bất cứ vật gì có thể chôm (lấy) được trong nhà.
"Chà đồ nhôm: chôm đồ nhà, tiếng Sàigòn những năm sau 1975, ... Thời ấy Sàigòn có câu phong dao:
Đi đâu bỏ con ở nhà?
Hỏi em em nói: Đi chà đồ nhôm
Đi đâu tay xách, nách ôm?
Hỏi em em nói đi chôm đồ nhà." (1)
Giai thoại về nói lái của Trạng Quỳnh: Trong một số sách khác, tôi nhớ là có đọc một số chuyện vui liên quan đến "Trạng Quỳnh". Ông hay nghịch ngợm, chọc phá nhiều vị chức sắc trong triều, kể cả con vua và vua nữa. Đại ý chuyện truyền rằng một hôm nghe công chúa đi dạo ngoài thành. Trạng Quỳnh đứng đón công chúa ở gần bên một cây cầu. Khi công chúa đi ngang qua cầu thấy ông trạng nhà ta lấy chân đá nước văng tung tóe. Công chúa hỏi ông đang làm gì đó? Ông trả lời là ông đá bèo cho vui.
Nhà thơ Hồ Xuân Hương nói lái: Tôi cũng nhớ có đọc nhiều lần trong các sách (nào đó), thơ của Hồ Xuân Hương (HXH). Nữ sĩ họ Hồ nầy là vua về thơ lái. Thơ lái của bà được ghi lại trong nhiều sách vở về văn chương Việt
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền tình cũng muốn về tây trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
Ngoài ra tôi còn nhớ vài câu sau đây của HXH: (nhưng không nhớ tựa bài thơ)
Đang cơn nắng cực chửa mưa hè
Rủ chị em ra tát nước khe…
Hoặc: Thú vui quên cả niềm lo cũ
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
Các nhà thơ khác nói lái: Theo sách vừa dẫn (9) thi sĩ Thảo Am Nguyễn Khoa Vy ở Huế có bài thơ như sau:
Nực cổi chi ra nổi cực lòng,
Dòng châu lai láng dĩa dầu chong
Khó đi tìm hiểu nhau khi đó,
Công khó nhờ ai biết có không
Ông Huy Phương (3) trong bài "Nói Lái Mà Chơi" cũng có ghi một bài thơ nói lái nổi tiếng khác của thi sĩ Nguyễn Khoa Vy:
Cầu đạo nên chi phải cạo đầu
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu
Na bường bát tới nương bà vãi
Dầu sãi không tu cũng giải sầu
(Ông Huy Phương chú thích: Na bường bát tới = mang bình bát tới, nói giọng Huế)
Ngoài ra trong bài "Nói Lái Mà Chơi" còn có một bài thơ rất hay tựa đề "Trông Trời" mà Ông Huy Phương nói không biết tác giả là ai.
"Cô kia sao cứ trông trời:
Để tôi xin nguyện làm trời cô trông
Trông trời sướng lắm phải không
Trời mà trông lại còn mong nỗi gì!
Đọc xong bài trên, các bạn có tìm thấy ý nghĩa của tiếng lái không? Nếu không xin các bạn đọc câu chú thích của ông Huy Phương. Ông có ghi rõ là bài thơ nầy muốn nói lái phải đọc theo giọng Bắc hai chữ "trông trời" = "chông chời".
Nói lái bằng câu đối: Trong sách Miền Đất Hứa (10) anh Trà Lũ (tôi gọi anh vì Trà Lũ là bạn dạy học cùng trường với tôi trước 1975) có ghi câu đối sau đây, câu đối vừa chơi chữ cách đối vừa chơi chữ bằng cách dùng tiếng lái:
"Gái Củ Chi, chỉ cu, hỏi củ chi".
Khi nghe câu đối trên, anh Trà Lũ đã kêu cứu "xin các cụ giúp tôi với"? Quý bạn thừa hiểu là từ Củ Chi đầu là một địa danh gần Saigòn; củ chi thứ hai ở cuối là câu hỏi (củ nầy là củ chi vậy?) Còn từ chỉ cu vừa là một động từ, vừa là tiếng lái của cả hai từ cùng âm "củ chi". Cũng trong sách đó, ở một đoạn sau, Trà Lũ có nói rằng một số đọc giả viết thư "gà" cho anh 2 câu như sau gọi là đối lại với câu trên:
"Trai Thủ Đức thức đủ xin thủ đức" và
"Trai Bắc cực, bú c., than Bắc cực" .
Anh Trà Lũ cho là câu đối sau nghe "khiếp quá, nhưng phải viết ra trình cho các cụ chấm cho". Hai câu nầy đại khái, không được chỉnh lắm về phương diện đối. Hơn nữa chắc bạn tôi vì tính tình xề xòa nên không để ý rằng tiếng lái của "Bắc cực" là "bức c." chớ không như ông đọc giả nào đó đã viết. Và nếu dùng từ "bức" thì chắc không có gì "khiếp quá" mà chỉ hơi hơi táo bạo tí thôi. Chỉ ghi nhận cho vui chớ nào dám chỉ trích bạn mình, vì tôi cũng bí như bạn. Mười năm qua rồi, trên con đường học hỏi về lái tiếu lâm, chưa tìm thấy câu nào hay hơn câu Củ chi mà bạn đã kể.
Gần đây đọc bài của Ông Nguyễn Đại Hùng (7) thấy câu Củ Chi được ghi như sau: "Đến Củ Chi, chỉ cu anh, hỏi củ chi." và câu sau ghi là:
"Về Cù Mông, còng mu em, đòi Cù Mông."
Giai thoại về nói lái để hẹn hò qua câu đối. Gần đây hơn, vào mấy tháng đầu năm 2002, kể cả tháng bảy, đọc trong báo hằng ngày tôi thường thấy những tiếng l ái, nhưng chỉ là những tiếng rời rạc, cũng vui, nhưng không lồng trong câu chuyện nào đặc biệt, nên tôi không ghi chép.
Tuy nhiên, trong một buổi tiệc sinh nhật tôi có nghe câu đối có tiếng lái. Câu chuyện rằng ở miền đồng quê sông Hậu nhân có buổi gặp gở của các thân hào trong làng. Trong câu chuyện qua lại, người ta nói về thời sự, đồng án, và văn chương. Có một chàng nọ, trong câu chuyện về văn chương với một cô, đã nói:
Nguyệt lão xe tơ, chỉ vàng tốt mối
Nàng đã trả lời là:
Đế Thích nhấp chén rượu trắng tái môi
Mới nghe qua, tưởng là chuyện câu đối với các điển tích. Nhưng thực sự Nguyệt lão và Đế Thích chẳng "ăn nhậu" (liên quan) gì đến hai người nầy. Họ chỉ hẹn ngày gặp nhau mà thôi. Chàng hẹn nàng tối mốt (tốt mối). Nàng không chịu, bảo là tối mai (tái môi.)
Nói lái qua câu hò đối đáp giữa trai gái. Miền đồng bằng sông Cữu long, vào mùa cấy các thợ cấy nam nữ vừa làm việc vừa vui đùa qua chuyện tiếu lâm, hoặc qua những câu hò đối đáp giữa hai nhóm nam nữ.
Ông Nam San (6) có ghi lại một số câu hò có tính cách rất "tả chân" sau đây, trong đó có cả luôn câu có tiếng lái.
Nam :
Thấy em gò má ửng hồng
Phải chi em đừng mắc cở thì anh bồng em hun.
Hoặc: Nước Tân Ba chảy ra Trà Cú
Em cấy khum lòi vú anh muốn hun
Phe nữ đáp:
….
Phú Điền có chị Tám Hai
Thuyền quyên hò mí, đối trai anh hùng
Tân Ba, Trà Cú, Phú Điền là những địa danh ở vùng đồng bằng Cữu Long. Mới đọc câu chót ít ai để ý đến tiếng lái vì gái thuyền quyên mà đối "trai anh hùng" thì rất là thuận tai và thuận nghĩa. Nhưng "đối trai" nói lái là đái trôi, vừa có nghĩa đen rõ ràng, khỏi giải thích, vừa có nghĩa bóng là phe nữ có cách hò thắng phe nam một cách dễ dàng. (Ông
Nam San chú thích rằng: "Hò mí hay hò mép là hò đối đáp, thách thức, dòng do xuôi ngược, nói lái úp mở nói lên cái ẩn dụ của mình, miễn xuống câu ăn vận, đúng điệu là được.)
Giai thoại về học sinh "Văn Bình". Trong chuyện chơi chữ của các học sinh và những nhà nho mà tôi đã đọc, thì chuyện sau đây (tôi nhớ không được rõ ràng về chi tiết và tên tuổi) nói lên sự đùa cợt bằng tiếng lái. Chuyện rằng có môt nhà nho nọ văn hay, chữ tốt, thi đậu cao, nhưng không chịu ra làm quan mà chỉ về vườn vui thú việc dạy học. Có
một anh học trò nọ rất hay chữ và tự cao về tài của mình. Anh ta tên là Văn Bình. Anh đi tìm nhà nho nọ để thi thố tài đối đáp của mình. Trong lúc đi trên các con đường quê quanh co, anh ta gặp một ông câu cá, anh ta hỏi thăm lối đi. Ông câu hỏi tìm gặp nhà nho làm gì? Anh sinh viên đáp là để đối đáp văn chương. Ngư ông nói nếu anh sinh viên
đối được câu đối của ông thì ông sẽ dẫn đến nhà của nhà nho. Ông giao điều kiện là khi ra câu đối, ông chỉ nói ra từng chữ một và anh sinh viên phải đối lại từng chữ một. Anh sinh viên bằng lòng. Những chữ của câu đối là:
"Võ trắc đáo nam cô". Anh sinh viên đối từng chữ là:
Thấy em gò má ửng hồng
Phải chi em đừng mắc cở thì anh bồng em hun.
Hoặc: Nước Tân Ba chảy ra Trà Cú
Em cấy khum lòi vú anh muốn hun
Phe nữ đáp:
….
Phú Điền có chị Tám Hai
Thuyền quyên hò mí, đối trai anh hùng
Tân Ba, Trà Cú, Phú Điền là những địa danh ở vùng đồng bằng Cữu Long. Mới đọc câu chót ít ai để ý đến tiếng lái vì gái thuyền quyên mà đối "trai anh hùng" thì rất là thuận tai và thuận nghĩa. Nhưng "đối trai" nói lái là đái trôi, vừa có nghĩa đen rõ ràng, khỏi giải thích, vừa có nghĩa bóng là phe nữ có cách hò thắng phe nam một cách dễ dàng. (Ông
Nam San chú thích rằng: "Hò mí hay hò mép là hò đối đáp, thách thức, dòng do xuôi ngược, nói lái úp mở nói lên cái ẩn dụ của mình, miễn xuống câu ăn vận, đúng điệu là được.)
Giai thoại về học sinh "Văn Bình". Trong chuyện chơi chữ của các học sinh và những nhà nho mà tôi đã đọc, thì chuyện sau đây (tôi nhớ không được rõ ràng về chi tiết và tên tuổi) nói lên sự đùa cợt bằng tiếng lái. Chuyện rằng có môt nhà nho nọ văn hay, chữ tốt, thi đậu cao, nhưng không chịu ra làm quan mà chỉ về vườn vui thú việc dạy học. Có
một anh học trò nọ rất hay chữ và tự cao về tài của mình. Anh ta tên là Văn Bình. Anh đi tìm nhà nho nọ để thi thố tài đối đáp của mình. Trong lúc đi trên các con đường quê quanh co, anh ta gặp một ông câu cá, anh ta hỏi thăm lối đi. Ông câu hỏi tìm gặp nhà nho làm gì? Anh sinh viên đáp là để đối đáp văn chương. Ngư ông nói nếu anh sinh viên
đối được câu đối của ông thì ông sẽ dẫn đến nhà của nhà nho. Ông giao điều kiện là khi ra câu đối, ông chỉ nói ra từng chữ một và anh sinh viên phải đối lại từng chữ một. Anh sinh viên bằng lòng. Những chữ của câu đối là:
"Võ trắc đáo nam cô". Anh sinh viên đối từng chữ là:
"Văn bình lai bắc cụ"
Vì khi đối là đối từng chữ một nên anh sinh viên không thể biết nội dung của cả câu. Khi xong, ngư ông bảo anh sinh viên đọc cả hai câu xem nghĩa là gì và giải thích cho ông nghe. Đọc lại, thấy câu đầu vô nghĩa. Nhưng đọc câu thư hai xong, Văn Bình vốn rất thông minh, biết ông câu dùng lối chơi chữ lái để nhạo anh ta. Anh ta cũng nhận ngay ra
rằng chính ông câu là nhà nho mà anh đang tìm. Tôi không nhớ đoạn kết của câu chuyện nầy ra sau, và cũng không nhớ đã đọc ở sách nào.
Giai thoại Mã Qui – Qui Mã: Phần cuối của việc trích dẫn sách, có hai tiếng lái đã thành giai thoại rất hay. Trong Giai Phẩm Xuân Nhâm Ngọ Người Việt, Công Tử Hà Đông (1) có viết bài Mã Qui và Qui Mã . Năm ngọ nói chuyện mã là đúng quá rồi. Tác giả cho biết là hai từ nầy và câu chuyện liên hệ là do một "cây cười nhân dân nào đó ở Hà Nội" viết ra
để làm chuyện tiếu lâm. Chuyện đại ý là vào đầu thập niên 1980, kinh tế VN xuống dóc phi mã, thê thảm. Người cầm đầu đảng và nhà nước vì lo lắng quá nên đến đền Ngọc Sơn ăn chay xin thần linh báo mộng giúp biện pháp cứu nước. Hai người đều được thần báo mộng. Người đầu thấy con ngựa và con rùa, người kia thì thấy con rùa và con ngựa. Tuy vô thần, nhưng tin mộng và tin .. thầy giải mộng. Hai người bèn nhờ thầy giải thích hộ. Thầy giảng rằng rùa là qui, ngựa là mã. Ông đầu thấy rùa và ngựa tức thấy qui mã, ông sau thấy ngựa và rùa tức thấy mã qui. Vậy theo điềm mộng thì thần có ý cho hai ông biết là: "muốn cứu vãn nước nhà hai ông phải qua Mĩ xin Mĩ (a) nó giúp, bao giờ Mĩ (a) nó qua nước mình thì tình hình nước mình mới khá được". Tác giả bài báo cũng có
viết rằng là chuyện tiếu lâm (nói lái) nầy đã ra đời từ những năm đầu của thập niên 1980, khi chưa có dấu hiệu nào cho biết rằng Mỹ sẽ bang giao với VN. Tác giả bài báo đó viết tiếp là: "Hai mươi năm sau, chuyện mã qui qui mã thành sự thật." Chú thích ( a) do tôi thêm: các từ Mĩ nầy dùng " Ĩ " vì tiếng lái của qui mã = qua mĩ , và mã qui = mĩ qua).
Với những trích dẫn vừa qua, chúng ta thấy văn chương, văn thơ, trong sách báo hay video đều có nói lái rải rác đó đây từ Bắc chí
Những lối nói lái qua tiếu lâm truyền khẩu, hoặc được ghi chép lại.
Phần tiếp theo đây tôi sẽ ghi thêm những tiếng lái hay câu lái do tôi học hỏi hay lượm lặc trên con đường "tiếu lâm lái".
Nói lái trong câu đố: Lúc tôi còn nhỏ, tôi biết được những tiếng lái đầu tiên qua các câu đố . Thí dụ các câu đố sau đây:
a) – Ông cố ngoài Huế ông cố ai? (xuất vật)
b) – Ông đánh cái chen, bà bảo đừng? (xuất vật dụng) .
Hoặc c) – Ghe chày chìm giữa biển đông, cái nốc nó mất cái công nó còn.(xuất vật) .
Câu a) là "cái ô"; vì cố ai = cái ô. Câu b) là cái "chân đèn"; vì "chen…đừng = chưng đèn. Câu c) là "con còng", vì "công còn = con còng.
Nói Lái tên thú vật: Các câu sau đây nói lái về thú vật, thức ăn, địa danh, hay nói đùa cho vui:
Con óc con nhện , con ếch con nhọng;
Con cò con sóc, con cóc con sò;
Con công con rùa, con cua con rồng;
Con cáo con bò, con cò con báo.
Hoặc: Con cá đối nằm trên cối đá;
Ông cò Lửa đứng ở cửa lò.
Bên trên trong phần trích dẫn video đã có rất nhiều tiếng lái về thú vật.
Nói lái về các loại canh: Về thức ăn, trong bửa cơm của VN thường có ba món chánh: món mặn, món xào và món canh. Sau đây là câu lái đùa về canh:
"Anh Câu Bành đánh lộn với anh Kí Banh, ông Cai Cảnh làm biên bản, giải lên ông Cai Khoanh để thụ lý. Các câu trên thật ra là tên của bốn loại canh: canh bầu, canh bí, canh cải và canh khoai.
Nói lái về các địa danh: Về địa danh chúng ta có một số câu sau đây:
Chợ Thủ Đức năm canh thức đủ;
Chợ Đồng Tranh năm canh đành trông
Hoặc: Ra Thủ Đức năm năm thức đủ
Về Giồng Trôm tháng tháng dòm trông (4)
Hay các câu sau:
Đi chợ Búng coi chừng chúng bợ
Đến Hạ Long rát cổ họng la
Lên Bắc cạn, nghèo đành bán c. t
Vào Ba Thê cuộc sống bê tha
Vượt sông Đuống, xuống Đông lên bắc
Trèo Đèo Ngang trong lúc đang nghèo
Ngoài ra còn có câu sau đây liên quan đến địa danh và nói lái, và có thể dùng câu nầy làm vế đầu của câu đối. Vị nào đối hay xin ban cho một câu cho đối để chuyện thêm phong phú:
"Nếu chịu Bà Chở , Bà Chở sẽ chở xuống Chợ Bà Chiểu"
"Chở" vừa là tên của một bà vừa có nghĩa là đem đi bằng một phương tiện gia thông
(
chuyên chở ). "Chịu Bà Chở" cũng có hai nghĩa: Thích bà có tên Chở
hoặc, hoặc "đồng ý cho bà đó chở đi". Tiếng lái của chịu Bà Chở là chợ
Bà Chiểu một địa danh rất quen thuộc ở vùng Sàigòn.
Vùng Đồng Nai Cửu Long có hai câu đối rất độc đáo, và nổi danh sau đây để chỉ một chàng trai người Hốc môn, và một cô gái người Gò Công đang tình tự:
Trai Hốc Môn vừa hôn vừa móc,
Gái Gò Công vừa gồng vừa co.
Giai thoại nói lái về con Rồng Air VN: Trước năm 1975, hàng không Air VN có dấu hiệu con rồng uốn khúc. Có một thời gian, không biết các cô tiếp viên phi hành có tư cách hống hách với khách hàng thế nào mà các vị viết báo đã cho Air VN một cái nick name để đời là Air rồng lộn. Các cô tiếp viên hóng hách cũng bị gọi là các cô rồng lộn. Tưởng một thời gian ngắn rồi mọi sự kiện sẽ bị quên lãng. Nhưng khốn nổi cứ 12 năm lại có một năm thìn, tức năm con rồng, cái nick name nầy lại được viết lại trên báo xuân, thành ra có thể nói đây là tiếng lái được các báo nhắc đến nhiều nhất, một tiếng lái để đời.
Những câu nói lái khác liên hệ đến con rồng.
Ông Đại Ngu (2) có ghi hai câu đối sau đây:
Con Tiên Cháu Rồng, Lộn xuống hồng trần sung sướng nhỉ. Mộng hùm thơ Rắn, Sai đâu con tạo đở đần cho".
Tác giả Đại Ngu có chú thích là chữ lái của "rắn sai" là "Rái săn", đọc theo giọng Hà Nội âm R thành âm D.
Ông cũng có ghi thêm về giai thoại Tú Mở đùa thi sĩ Ngọc Hồ như sau:
"Tú Mở viết bài thơ trào phúng có hai câu khá tục, chắc đã làm nữ sĩ Ngọc-Hồ phải căm giận:
Hồ tù ngán nổi con rồng lộn
Ngọc vết thương tình kẻ cố đeo"
(Tôi tò mò: Có lẽ bút hiệu Đại Ngu cũng là tiếng lái?)
Nói lái bằng thơ để tuyên truyền: Tôi nhớ, có một hôm, theo thường lệ, tôi chỉ đọc lướt qua những tựa của các bài báo. Có một tựa có tên đại khái là: "Không phải thầy tu nhưng rất thù Tây." Vì chưa đọc bài báo, nên không biết nội dung ra sao. Nhưng vì méo mó nghề nghiệp, tôi nhận ngay chữ thầy tu là tiếng lái của thù tây hay ngược lại. Chữ này làm tôi nhớ đên từ thầy tăng vì đó là tiếng lái của từ thằng tây . Số là trong thời kháng chiến chống Pháp giữa thập niên 1940, người ta truyền miệng trong dân chúng hai câu sau đây:
Chừng nào lúa mọc trên chì,
Voi đi trên giấy, rồi đời thầy tăng
Nói lái để cho mật thám không biết. Họ đồn đó là hai câu sấm "Trạng Trình". Hai câu sấm nầy được truyền miệng giống như ý sấm đã bắt đầu linh nghiệm vì lúa đã mọc trên chì: Pháp cho sản xuất tiền đồng xu và cắc bạc có hình cây lúa; và cho lưu hành giấy bạc một trăm đồng có hình con voi. (Ai có tờ giấy "con voi" trong túi là dân khá giả vì một
trăm đồng lúc đó bằng năm lần lương tháng của thầy giáo..)
Những giai thoại về nói lái ở VN sau 1975.
Sau năm 1975, nghe những người "vượt biên" đến HK kể những chuyện "cười ra nước mắt" để chỉ tình trạng nghèo khó của dân chúng. Một thí dụ về sự túng thiếu của giáo chức: "Giáo chức" bây giờ "dứt cháo" thôi. Một thí dụ khác về tình trạng chán nản, không muốn làm việc của các công chức, cán bộ; khi bàn cải chuyện gì họ cứ muốn bài lui hay
giữ tình trạng cũ do đó mà có danh tánh "Vũ Như Cẫn", hay "Bùi Lan" (= vẫn như cũ, hay bàn lui)
Rồi tình trạng đút lót cho được việc khi đi đến các cửa công xảy ra quá nhiều nên nhó chữ "nguyên tắc đầu tiên" được ra đời vì điểm chánh là phải áp dụng "nguyên tắc tiền đâu" nầy thì mọi việc mới trót lọt cho. Không biết tình trạng nầy lan rộng đến mực độ nào và bây giờ tình trạng ra sao, đành mù tịt vì không thể nào polling để thăm dò được.
Ngoài ra tôi còn nghe và đọc trong những bài sau đây về tình trạng nghèo đói đã nói trên:
Kỹ sư đôi lúc là cư sĩ
Thầy giáo lắm phen cũng tháo giày
Giáo chức giờ đây đành dứt cháo
Khoái ăn sang nên sáng ăn khoai (3)
Cảnh túng quẩn của thầy giáo cũng được nhắc đến trong một bài thơ khác, trong sánh vừa dẫn trên:
Thầy giáo tháo giày đi dép
Nhà trường nhường trà uống nước trong
Tháng đầy thầy đáng dăm lon gạo
Lương thầy tiền lính tính liền xong
Thầy giáo tháo ủng tháo giày
Tháo ủng thủng áo, tháo giày nóng chân
Giáo án dành lại khi cần
Thay vải dán áo việc làm "tốt thôi"
Về những vấn đề tổng quát hơn, có nghe những câu sau đây:
Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi;
Chiến khu tiền bạc chú khiên rồi
Thi đua vượt chỉ, thua đi đấy,
Kháng chiến lâu ngày khiến chán thôi
Nói lái qua những từ gốc Trung Hoa (TH), từ Hán Việt (HV), hoặc giống từ HV.
Ăn thịt mộc tồn. Một món nhậu đặc biệt của VN là món.. thịt chó. Ai khôn g ăn thịt chó được, hoặc thèm thịt chó mà không mua được, thì có món "giả cầy" thế vào, dùng giò heo, nhưng nấu theo kiểu nấu thịt chó nên gọi giả cầy. Ngày xưa, nghe nói có lúc Tây cấm ăn thịt chó. Nhưng ai đó nếu thèm quá thì cũng phải tìm cách ăn lén. Để tránh các phiền phức, họ dùng tiếng lóng để chỉ con chó. Họ gọi chó là "mộc tồn" . Theo tiếng Hán Việt, mộc = cây, tồn = còn ; vậy mộc tồn = cây còn = con cầy hay con chó cũng vậy. Người ta còn dùng nhóm chữ "hạ cờ tây" để chỉ việc làm thịt chó con (cờ tây = cầy tơ).
Vùng Đồng Nai Cửu Long có hai câu đối rất độc đáo, và nổi danh sau đây để chỉ một chàng trai người Hốc môn, và một cô gái người Gò Công đang tình tự:
Trai Hốc Môn vừa hôn vừa móc,
Gái Gò Công vừa gồng vừa co.
Giai thoại nói lái về con Rồng Air VN: Trước năm 1975, hàng không Air VN có dấu hiệu con rồng uốn khúc. Có một thời gian, không biết các cô tiếp viên phi hành có tư cách hống hách với khách hàng thế nào mà các vị viết báo đã cho Air VN một cái nick name để đời là Air rồng lộn. Các cô tiếp viên hóng hách cũng bị gọi là các cô rồng lộn. Tưởng một thời gian ngắn rồi mọi sự kiện sẽ bị quên lãng. Nhưng khốn nổi cứ 12 năm lại có một năm thìn, tức năm con rồng, cái nick name nầy lại được viết lại trên báo xuân, thành ra có thể nói đây là tiếng lái được các báo nhắc đến nhiều nhất, một tiếng lái để đời.
Những câu nói lái khác liên hệ đến con rồng.
Ông Đại Ngu (2) có ghi hai câu đối sau đây:
Con Tiên Cháu Rồng, Lộn xuống hồng trần sung sướng nhỉ. Mộng hùm thơ Rắn, Sai đâu con tạo đở đần cho".
Tác giả Đại Ngu có chú thích là chữ lái của "rắn sai" là "Rái săn", đọc theo giọng Hà Nội âm R thành âm D.
Ông cũng có ghi thêm về giai thoại Tú Mở đùa thi sĩ Ngọc Hồ như sau:
"Tú Mở viết bài thơ trào phúng có hai câu khá tục, chắc đã làm nữ sĩ Ngọc-Hồ phải căm giận:
Hồ tù ngán nổi con rồng lộn
Ngọc vết thương tình kẻ cố đeo"
(Tôi tò mò: Có lẽ bút hiệu Đại Ngu cũng là tiếng lái?)
Nói lái bằng thơ để tuyên truyền: Tôi nhớ, có một hôm, theo thường lệ, tôi chỉ đọc lướt qua những tựa của các bài báo. Có một tựa có tên đại khái là: "Không phải thầy tu nhưng rất thù Tây." Vì chưa đọc bài báo, nên không biết nội dung ra sao. Nhưng vì méo mó nghề nghiệp, tôi nhận ngay chữ thầy tu là tiếng lái của thù tây hay ngược lại. Chữ này làm tôi nhớ đên từ thầy tăng vì đó là tiếng lái của từ thằng tây . Số là trong thời kháng chiến chống Pháp giữa thập niên 1940, người ta truyền miệng trong dân chúng hai câu sau đây:
Chừng nào lúa mọc trên chì,
Voi đi trên giấy, rồi đời thầy tăng
Nói lái để cho mật thám không biết. Họ đồn đó là hai câu sấm "Trạng Trình". Hai câu sấm nầy được truyền miệng giống như ý sấm đã bắt đầu linh nghiệm vì lúa đã mọc trên chì: Pháp cho sản xuất tiền đồng xu và cắc bạc có hình cây lúa; và cho lưu hành giấy bạc một trăm đồng có hình con voi. (Ai có tờ giấy "con voi" trong túi là dân khá giả vì một
trăm đồng lúc đó bằng năm lần lương tháng của thầy giáo..)
Những giai thoại về nói lái ở VN sau 1975.
Sau năm 1975, nghe những người "vượt biên" đến HK kể những chuyện "cười ra nước mắt" để chỉ tình trạng nghèo khó của dân chúng. Một thí dụ về sự túng thiếu của giáo chức: "Giáo chức" bây giờ "dứt cháo" thôi. Một thí dụ khác về tình trạng chán nản, không muốn làm việc của các công chức, cán bộ; khi bàn cải chuyện gì họ cứ muốn bài lui hay
giữ tình trạng cũ do đó mà có danh tánh "Vũ Như Cẫn", hay "Bùi Lan" (= vẫn như cũ, hay bàn lui)
Rồi tình trạng đút lót cho được việc khi đi đến các cửa công xảy ra quá nhiều nên nhó chữ "nguyên tắc đầu tiên" được ra đời vì điểm chánh là phải áp dụng "nguyên tắc tiền đâu" nầy thì mọi việc mới trót lọt cho. Không biết tình trạng nầy lan rộng đến mực độ nào và bây giờ tình trạng ra sao, đành mù tịt vì không thể nào polling để thăm dò được.
Ngoài ra tôi còn nghe và đọc trong những bài sau đây về tình trạng nghèo đói đã nói trên:
Kỹ sư đôi lúc là cư sĩ
Thầy giáo lắm phen cũng tháo giày
Giáo chức giờ đây đành dứt cháo
Khoái ăn sang nên sáng ăn khoai (3)
Cảnh túng quẩn của thầy giáo cũng được nhắc đến trong một bài thơ khác, trong sánh vừa dẫn trên:
Thầy giáo tháo giày đi dép
Nhà trường nhường trà uống nước trong
Tháng đầy thầy đáng dăm lon gạo
Lương thầy tiền lính tính liền xong
Thầy giáo tháo ủng tháo giày
Tháo ủng thủng áo, tháo giày nóng chân
Giáo án dành lại khi cần
Thay vải dán áo việc làm "tốt thôi"
Về những vấn đề tổng quát hơn, có nghe những câu sau đây:
Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi;
Chiến khu tiền bạc chú khiên rồi
Thi đua vượt chỉ, thua đi đấy,
Kháng chiến lâu ngày khiến chán thôi
Nói lái qua những từ gốc Trung Hoa (TH), từ Hán Việt (HV), hoặc giống từ HV.
Ăn thịt mộc tồn. Một món nhậu đặc biệt của VN là món.. thịt chó. Ai khôn g ăn thịt chó được, hoặc thèm thịt chó mà không mua được, thì có món "giả cầy" thế vào, dùng giò heo, nhưng nấu theo kiểu nấu thịt chó nên gọi giả cầy. Ngày xưa, nghe nói có lúc Tây cấm ăn thịt chó. Nhưng ai đó nếu thèm quá thì cũng phải tìm cách ăn lén. Để tránh các phiền phức, họ dùng tiếng lóng để chỉ con chó. Họ gọi chó là "mộc tồn" . Theo tiếng Hán Việt, mộc = cây, tồn = còn ; vậy mộc tồn = cây còn = con cầy hay con chó cũng vậy. Người ta còn dùng nhóm chữ "hạ cờ tây" để chỉ việc làm thịt chó con (cờ tây = cầy tơ).
Thật là nhiều hình thức từ ngữ để tránh né .. vừa vui, vừa hay quá cở thợ mộc.. Sau nầy
những từ ấy trở nên thông dụng trong nhóm "xực cẫu xíu", tiếng TH, có nghĩa ăn chó quay.
Dấm xủ. Miền Nam VN có nhiều người Việt gốc Hoa. Do đó dân ta Việt hóa nhiều tiếng TH. Thí dụ ăn chay (Quãng đông: xực chay); ăn lẫu: ăn thức ăn nhúng trong nước lèo đựng trong một cái dụng cụ nấu đặc biệt gọi là cái cù lao; gặm chí quách: gặm xương hầm, ăn cháo lòng hoặc ăn hủ tiếu để thêm dầu chá quảy v.v..
(Chú thích thêm: "dầu chá quãy", tiếng TH đọc giọng Quãng Đông có nghĩa đen là "quỹ chiên mỡ", tích truyện vợ chồng Tần Cối, đời Nhà Tống đã bị xữ tử; hai vợ chồng bị trói lại và bị thả vào vạc dầu. Vì vậy chúng ta thấy cái bánh "dầu chá quãy" luôn luôn gồm có hai miéng bột chiên dính liền nhau (tượng trương cho vợ chồng Tần Cối).
Trong buổi ăn , người Tàu hay dùng một loại dấm đỏ chung với xì dầu (nước tương) làm nước chấm. Họ gọi dấm đỏ là xủ (giọng Quảng Đông) . Dân chơi tiếng lái khi vào tiệm ăn, thay vì gọi xin dấm hay xin xủ, lại gọp chung cả hai từ dấm và xủ, gọi người hầu bàn xin dấm xủ . Một người gọi, cả bàn cười vì tiếng lái đó (dấm xủ = dú xẩm đọc theo giọngNam
của tiếng vú xẩm). Lẽ dĩ nhiên anh hầu bàn người Tàu cũng cười theo
khách hàng cho vui nhưng chưa chắc đã hiểu tiếng lái đùa cợt đó, (hay
hiểu và thích cũng không biết được, vì anh TH mà thích dấm xủ là chuyện
thường rồi vì là món ăn hàng ngày của "ngộ" mà, không thích sao
được).
Trà Thái Đức. Ngoài ra, những từ Hán Việt quen thuộc có nhan nhản trên các báo là tên các tiệm thuốc Bắc, thuốc chế từ các loại dược thảo TH, hay tên của các loại dược thảo được bày bán, (khác với thuốc Nam là các loại dược thảo có sẳn ở VN thuộc loại "cây nhà lá vườn" dể kiếm hơn), và tên của các loại trà v.v... Nước trà nào cũng có tính cách
nhuận tiểu. Uống trà nhiều vào buổi chiều, đêm thường khó ngũ, có thể vì trong trà có cafein làm mất ngũ, nhưng cũng vì phải thức dậy nhiều lần để đi tiểu.Vì vậy dân nói lái khi nghe mời dùng trà ngon thường hỏi nhau là trà nầy có phải là trà Thái Đức không, hỏi xong, chủ khách cười xòa (thái đức = thức đái). Vào buổi sáng, đến tiệm ăn tiệm xâm,
thưởng thức "xíu mại" và xì dầu pha dấm xủ, và uống trà thái đức thì tuyệt rồi còn gì bằng. Chỉ một vài tiếng lái thôi mà không khí buổi điểm tâm vui nhộn lên.
Phú hộ hà tiện (tiếng nói lái giống tiếng HV) Có câu chuyện khác, rằng có một phú ông họ Tạ kia tuy giàu tiền, nhưng ít chữ nghĩa. Đầu ông ta hói, và nổi tiếng là hà tiện .. từng xu. Tết đến, ông ra chợ nhờ cụ đồ nho viết câu đối trên giấy đỏ để treo ở nhà. Cụ đồ đề nghị viết chữ "họa" giống như vẽ cho đẹp và đề ra giá công viết là một đồng . Phú
ông kỳ kèo trả giá năm cắc thôi. Ông đồ chịu và viết cho 2 câu sau đây:
Hiền Tạ Thu Sương tâm tắc kiết;
Thiên Tường tác biệt thị Châu đài.
Ông đồ giải thích đại khái là bà phú hộ tên Thu Sương, còn ông tên Tường. Họ Tạ hiền hậu, bà nhà có tấm lòng tốt (kiết). Còn ông nhờ trời (thiên) ban cho cách riêng nên giàu có như con cháu nhà Châu thời xưa. Ông phú hộ nghe xuôi tai, vui vẽ trả năm cắt và đem tấm giấy đỏ về dáng trước cửa. Một hôm bạn ông, một người giỏi chữ nho, ghé thăm. Phú
ông khoe câu đối. Bạn của phú ông đọc lui đọc tới hai câu trên, thấy chẳng có nghĩa gì cả. Sau một lúc ông ta phá lên cười vì ông phú hộ đã bị ông đồ nho chơi xỏ. Hai câu trên chẳng phải chữ nho với điển tích gì cả mà chỉ là hai câu gồm một số từ tiếng lái và một số không phải tiếng lái, viết ra như sau :
Hà tiện thương xu, tâm tiếc cắc (tâm tiếc từng cắc bạc)
Thương tiền, tiếc bạc thị chai đầu (chỉ đầu hói)
Phú ông nghe câu giải thích mới, xé câu đối và chắc lưởi hít hà, vừa rủa cụ đồ, vừa tiếc đã mất năm cắc, nên quên mời ông bạn vào nhà xơi ... "nước mát."
Bà hóa kén chồng. Thêm vào kho tàn HV kiểu truyền khẩu nầy, còn có câu chuyện sau đây: Chuyện một bà hóa, giỏi chữ nho, đăng bảng tìm chồng. Chuyện rằng bà thuộc loại "nửa chừng xuân, thoắt gảy cành thiên hương" (Kiều) . Sau ba năm để tang chồng, tròn đạo phu thê, bà bắn tiếng là bà có ý mống chuồng. Bà cho biết sẽ chọn ông nào biết nói lái hay nhất bằng cách dùng câu đối, có vẽ như chữ nho. Bà đưa câu chuyện nói lái
của ông phú hộ bên trên làm ví dụ. Bà còn nói rõ hơn là phải diễn tả được tình cảnh của bà trong ba năm để tang chồng. Đề tài thật rắc rối và hóc búa thật sự. Nhưng vì bà đẹp quá nên rất nhiều nhân tài nộp bài. Sau khi chấm xong bà lựa được hai bài, vừa có tiếng lái, vừa có vẽ như chữ nho, vừa tả một phần đời bà, để cho vào chung kết.
Bài thi chung kết đầu chỉ có hai câu như sau:
Bách nhật bách không vô cụ đặc
Băm na đổ lể, chẩm ai đăng.
Bài thi thứ hai, vừa có câu đối, vừa là bài thơ song thất lục bát:
Gái quốc sắc, cao môn "dũ đệ"
Trai anh hùng, tứ hải "đại du"
Nhìn em đã thấy căng tu
Mống chuồng chỉ nhận (người có) cốt tu làm chồng.
Cả hai được chấm đậu viết. Nhưng sau phần thực hành, trong vòng 2 tuần liên tiếp bà loại ông có hai câu đối ngắn, vì không tả đúng tình trạng thật của bà, và vì thực hành kém quá. Ông ấy nói "ba năm để lổ chẳng ai đâm" (= chẳng ai đăm) là sai vì thât sự trong ba năm đó bà có cho ... "đâm" lai rai. Bà thành thật thú nhận như vậy. Và do đó bà chọn
ông thứ hai. Chẳng những ông đã nói đúng những gì bà có (nhà ở tuy thuộc loại kính cổng nhưng quá còn son nên dể sa ngã, có kiếm chác chút chút). Ông còn tả bà đẹp và hấp dẫn (nhìn bà ông đã thấy "căng tu"). Ngoài ra ông sau còn nói rất đúng về những gì ông có. Ông thứ hai nầy đúng là " trai anh hùng tứ hải ..đ. dai dẳng, và cũng hiền
lành có c. tốt đúng như ông đã nói. Bà chịu làm đám cưới với ông thứ hai nầy.
Giai nhân và anh hùng. Tôi nhớ hai câu khác, cũng có vẽ là chữ Hán Việt, để chỉ một sự thật của con người: dầu nam hay nữ cũng phải ngũm cù đèo, hay về chầu Diêm chúa nếu "chuyện đó" không thông. Hai câu đó mới ghi được cách đây độ 5 năm:
Giai nhân tái đắc, giai nhân tử;
Anh hùng khai đống, anh hùng tiêu
Nghe thật là đầy chữ nho, phải không các bạn? Câu đối tuy có vẽ không chỉnh nhưng nghe hay hay vì có dùng vài từ Hán Việt nghe kêu quá. Các bạn tìm được những từ nói lái trong hai câu trên chưa? Nếu chưa tôi đành viết lại hai câu trên:
Gian nhân tắc đái giai nhân chết;
Anh hùng không đái, anh hùng tiêu (đời).
Một vài chuyện nói lái của bằng hữu và thầy, xa xưa và hiện tại.
Ngày xưa, khi tôi còn là sinh viên Văn Khoa, trong lớp Văn Minh ViệtNam ,
có một giáo sư dạy về những nét đặc biệt của tiếng Việt và những thú
vui ở đồng bằng Cữu long - Đồng nai. Trong khi chuyện trò ngoài giờ học,
Thầy có bàn thêm về những từ đặc biệt có nhiều nghĩa do cách dùng sai,
vô ý, hay cố ý . Thí dụ từ "khốn nạn" nguyên ngữ Hán Việt là khó khăn.
Nhưng dân "miệt vườn" lại dùng từ đó như là một tiếng mạt
sát thậm tệ.
Sinh viên nói lái. Có một sinh viên (tôi quên tên) nói đùa: Hồi còn nhỏ anh ta bị các thầy giáo cho là anh "cù lần". Lớn lên thi mãi không đậu tú tài, chắc đúng là vì "cù lần" thật sự. Cha anh bảo cưới vợ làm ăn. Sau khi cưới được vợ rồi, anh tưởng là hết "cù lần" nào ngờ anh vẫn "cù lần" như thường, nhưng lại thi đậu tú tài. Thầy nói ngay: "đáng mừng, đáng mừng, sinh viên biết chơi chữ với thầy". Các bạn có biết anh sinh viên nọ nói gì không? Cù lần có nghĩa là lôi thôi, kém thông minh. Nhưng cù lần (có gạch dưới) của anh sinh viên nọ, có nghĩa đôi, vừa là ít thông minh, vừa là tiếng lái (cần l. ) đấy các bạn ạ.
Và cha anh đã giúp anh giải quyết vấn đề thi rớt qua kinh nghiêm của riêng ông bằng cách giải quyết vấn đề tâm sinh lý của con ông qua việc cưới vợ cho con.
Một sinh viên khác, người gốc Bạc liêu, cũng góp vui vào câu chuyện. Anh ta nói: Còn em, Thầy biết không, lúc vừa xong lớp đệ nhị, em đã bỏ học hoang chơi lêu lỏng. Em đã có những quyết định lầm lộn và xài phí gần hết nửa gia tài của cha mẹ để lại. Càng lớn em càng lộn lầm tiêu phí gần hết phần của cải còn lại, kế bị đi lính, vào học trường sĩ
quan Thủ Đức. Nhờ đi lính em mới xác nhận thêm rằng đa số đàn ông, kể cả các ông sĩ quan cấp cao đều lộn lầm như em nên thường bị đàn bà sai biểu. Thầy cười, và nói: đó là cái bệnh chung của một số lớn đàn ông, anh đừng "buồn". Cả nhóm cười rộ. Lại một anh học trò chơi chữ tiếng lái nữa đấy các bạn ạ.
Đồng nghiệp (dạy học) nói lái. Viết đến đây tôi lại nhớ tới các thầy cũ và các bạn khác của tôi. Tôi nhớ một bạn cũ, giờ còn ở Saigòn. Vào tháng tư năm 1975, có một buổi họp ở trường về vấn đề thi cử. Trong lúc bên ngoài tình thế (chính trị, quân sự) có vẽ lộn xộn, bên trong phòng họp vì người chủ tọa chưa đến, nên anh em (đa số là giáo chức) nói chuyện khào về những tin "lạc dừa" (tin đồn) về chuyện evacuation những người làm việc sở Mỹ. Cạnh tôi có một anh bạn vốn là người đã du học Mỹ về. Anh ta có vẽ chán nghề giáo vì nghe nói đã có lần xô xác với thí sinh sau kỳ thi, vì thí sinh gian lận bài thi và anh bắt gặp. Tôi hỏi anh có tính gì về chuyện "tương lai" không (một câu hỏi "mập
mờ" nhưng ở thời điểm đó ai cũng hiểu là chuyện di tản). Anh trả lời là sẽ xin về hưu, hoặc xuất gia nếu không "đi được". Làm sao sống nếu không có tiền hưu, tôi hỏi. Anh không trả lời, mặt rất bình thảng. Anh viết hai câu thơ trên giấy đưa cho tôi đọc:
"Nếu về hưu, tao sẽ làm những chuyện sau đây:
Sáng lặc cỏ, chiều lặc cau;
Độn lầy, khai giếng tưới hành rau"
Tôi bật cười chưa kịp nói gì thì thấy anh ta lại viết thêm một bài thơ nửa, và cũng đưa cho tôi đọc. "Nếu đi tu tao, thật sự tao không biết theo đạo nào, chắc là theo đạo Dụ quá, nhưng không biết có đử sức để theo không? Nếu theo đạo nầy:
Ngày thì công ngũ tối công phu,
Kinh kệ, làm tương phải kiếm lu
Mấy cô nho nhỏ đang mù đợi,
Mấy lão sồn sồn sẽ đạo tu"
Lúc đó tôi sửng sờ thât sự. Thứ nhất vì không dè anh chàng có vẽ đạo mạo, lại có thể viết hai câu đầu với một ít tiếng lái có vẽ "hơi tục" , trong khi bốn câu sau và cái đạo của anh thì "tục" quá chỗ chê rồi. Thứ hai, tôi không biết anh đang nghĩ gì trong đầu, vì hầu hết, tuy không nói ra, nhưng ở thới điểm đó, ai cũng có vẽ lo lắng, trong lúc anh lại có vẽ tỉnh bơ, lại còn làm thơ kiểu đùa giởn nầy được thì ... tài quá. Dân nói lái khi nghe những câu có vần "u", "ù" hay "ôn", "ồn" "ộn" thì biết ngay là người nói hay người viết đang xài tiếng lái tục.
những từ ấy trở nên thông dụng trong nhóm "xực cẫu xíu", tiếng TH, có nghĩa ăn chó quay.
Dấm xủ. Miền Nam VN có nhiều người Việt gốc Hoa. Do đó dân ta Việt hóa nhiều tiếng TH. Thí dụ ăn chay (Quãng đông: xực chay); ăn lẫu: ăn thức ăn nhúng trong nước lèo đựng trong một cái dụng cụ nấu đặc biệt gọi là cái cù lao; gặm chí quách: gặm xương hầm, ăn cháo lòng hoặc ăn hủ tiếu để thêm dầu chá quảy v.v..
(Chú thích thêm: "dầu chá quãy", tiếng TH đọc giọng Quãng Đông có nghĩa đen là "quỹ chiên mỡ", tích truyện vợ chồng Tần Cối, đời Nhà Tống đã bị xữ tử; hai vợ chồng bị trói lại và bị thả vào vạc dầu. Vì vậy chúng ta thấy cái bánh "dầu chá quãy" luôn luôn gồm có hai miéng bột chiên dính liền nhau (tượng trương cho vợ chồng Tần Cối).
Trong buổi ăn , người Tàu hay dùng một loại dấm đỏ chung với xì dầu (nước tương) làm nước chấm. Họ gọi dấm đỏ là xủ (giọng Quảng Đông) . Dân chơi tiếng lái khi vào tiệm ăn, thay vì gọi xin dấm hay xin xủ, lại gọp chung cả hai từ dấm và xủ, gọi người hầu bàn xin dấm xủ . Một người gọi, cả bàn cười vì tiếng lái đó (dấm xủ = dú xẩm đọc theo giọng
được).
Trà Thái Đức. Ngoài ra, những từ Hán Việt quen thuộc có nhan nhản trên các báo là tên các tiệm thuốc Bắc, thuốc chế từ các loại dược thảo TH, hay tên của các loại dược thảo được bày bán, (khác với thuốc Nam là các loại dược thảo có sẳn ở VN thuộc loại "cây nhà lá vườn" dể kiếm hơn), và tên của các loại trà v.v... Nước trà nào cũng có tính cách
nhuận tiểu. Uống trà nhiều vào buổi chiều, đêm thường khó ngũ, có thể vì trong trà có cafein làm mất ngũ, nhưng cũng vì phải thức dậy nhiều lần để đi tiểu.Vì vậy dân nói lái khi nghe mời dùng trà ngon thường hỏi nhau là trà nầy có phải là trà Thái Đức không, hỏi xong, chủ khách cười xòa (thái đức = thức đái). Vào buổi sáng, đến tiệm ăn tiệm xâm,
thưởng thức "xíu mại" và xì dầu pha dấm xủ, và uống trà thái đức thì tuyệt rồi còn gì bằng. Chỉ một vài tiếng lái thôi mà không khí buổi điểm tâm vui nhộn lên.
Phú hộ hà tiện (tiếng nói lái giống tiếng HV) Có câu chuyện khác, rằng có một phú ông họ Tạ kia tuy giàu tiền, nhưng ít chữ nghĩa. Đầu ông ta hói, và nổi tiếng là hà tiện .. từng xu. Tết đến, ông ra chợ nhờ cụ đồ nho viết câu đối trên giấy đỏ để treo ở nhà. Cụ đồ đề nghị viết chữ "họa" giống như vẽ cho đẹp và đề ra giá công viết là một đồng . Phú
ông kỳ kèo trả giá năm cắc thôi. Ông đồ chịu và viết cho 2 câu sau đây:
Hiền Tạ Thu Sương tâm tắc kiết;
Thiên Tường tác biệt thị Châu đài.
Ông đồ giải thích đại khái là bà phú hộ tên Thu Sương, còn ông tên Tường. Họ Tạ hiền hậu, bà nhà có tấm lòng tốt (kiết). Còn ông nhờ trời (thiên) ban cho cách riêng nên giàu có như con cháu nhà Châu thời xưa. Ông phú hộ nghe xuôi tai, vui vẽ trả năm cắt và đem tấm giấy đỏ về dáng trước cửa. Một hôm bạn ông, một người giỏi chữ nho, ghé thăm. Phú
ông khoe câu đối. Bạn của phú ông đọc lui đọc tới hai câu trên, thấy chẳng có nghĩa gì cả. Sau một lúc ông ta phá lên cười vì ông phú hộ đã bị ông đồ nho chơi xỏ. Hai câu trên chẳng phải chữ nho với điển tích gì cả mà chỉ là hai câu gồm một số từ tiếng lái và một số không phải tiếng lái, viết ra như sau :
Hà tiện thương xu, tâm tiếc cắc (tâm tiếc từng cắc bạc)
Thương tiền, tiếc bạc thị chai đầu (chỉ đầu hói)
Phú ông nghe câu giải thích mới, xé câu đối và chắc lưởi hít hà, vừa rủa cụ đồ, vừa tiếc đã mất năm cắc, nên quên mời ông bạn vào nhà xơi ... "nước mát."
Bà hóa kén chồng. Thêm vào kho tàn HV kiểu truyền khẩu nầy, còn có câu chuyện sau đây: Chuyện một bà hóa, giỏi chữ nho, đăng bảng tìm chồng. Chuyện rằng bà thuộc loại "nửa chừng xuân, thoắt gảy cành thiên hương" (Kiều) . Sau ba năm để tang chồng, tròn đạo phu thê, bà bắn tiếng là bà có ý mống chuồng. Bà cho biết sẽ chọn ông nào biết nói lái hay nhất bằng cách dùng câu đối, có vẽ như chữ nho. Bà đưa câu chuyện nói lái
của ông phú hộ bên trên làm ví dụ. Bà còn nói rõ hơn là phải diễn tả được tình cảnh của bà trong ba năm để tang chồng. Đề tài thật rắc rối và hóc búa thật sự. Nhưng vì bà đẹp quá nên rất nhiều nhân tài nộp bài. Sau khi chấm xong bà lựa được hai bài, vừa có tiếng lái, vừa có vẽ như chữ nho, vừa tả một phần đời bà, để cho vào chung kết.
Bài thi chung kết đầu chỉ có hai câu như sau:
Bách nhật bách không vô cụ đặc
Băm na đổ lể, chẩm ai đăng.
Bài thi thứ hai, vừa có câu đối, vừa là bài thơ song thất lục bát:
Gái quốc sắc, cao môn "dũ đệ"
Trai anh hùng, tứ hải "đại du"
Nhìn em đã thấy căng tu
Mống chuồng chỉ nhận (người có) cốt tu làm chồng.
Cả hai được chấm đậu viết. Nhưng sau phần thực hành, trong vòng 2 tuần liên tiếp bà loại ông có hai câu đối ngắn, vì không tả đúng tình trạng thật của bà, và vì thực hành kém quá. Ông ấy nói "ba năm để lổ chẳng ai đâm" (= chẳng ai đăm) là sai vì thât sự trong ba năm đó bà có cho ... "đâm" lai rai. Bà thành thật thú nhận như vậy. Và do đó bà chọn
ông thứ hai. Chẳng những ông đã nói đúng những gì bà có (nhà ở tuy thuộc loại kính cổng nhưng quá còn son nên dể sa ngã, có kiếm chác chút chút). Ông còn tả bà đẹp và hấp dẫn (nhìn bà ông đã thấy "căng tu"). Ngoài ra ông sau còn nói rất đúng về những gì ông có. Ông thứ hai nầy đúng là " trai anh hùng tứ hải ..đ. dai dẳng, và cũng hiền
lành có c. tốt đúng như ông đã nói. Bà chịu làm đám cưới với ông thứ hai nầy.
Giai nhân và anh hùng. Tôi nhớ hai câu khác, cũng có vẽ là chữ Hán Việt, để chỉ một sự thật của con người: dầu nam hay nữ cũng phải ngũm cù đèo, hay về chầu Diêm chúa nếu "chuyện đó" không thông. Hai câu đó mới ghi được cách đây độ 5 năm:
Giai nhân tái đắc, giai nhân tử;
Anh hùng khai đống, anh hùng tiêu
Nghe thật là đầy chữ nho, phải không các bạn? Câu đối tuy có vẽ không chỉnh nhưng nghe hay hay vì có dùng vài từ Hán Việt nghe kêu quá. Các bạn tìm được những từ nói lái trong hai câu trên chưa? Nếu chưa tôi đành viết lại hai câu trên:
Gian nhân tắc đái giai nhân chết;
Anh hùng không đái, anh hùng tiêu (đời).
Một vài chuyện nói lái của bằng hữu và thầy, xa xưa và hiện tại.
Ngày xưa, khi tôi còn là sinh viên Văn Khoa, trong lớp Văn Minh Việt
sát thậm tệ.
Sinh viên nói lái. Có một sinh viên (tôi quên tên) nói đùa: Hồi còn nhỏ anh ta bị các thầy giáo cho là anh "cù lần". Lớn lên thi mãi không đậu tú tài, chắc đúng là vì "cù lần" thật sự. Cha anh bảo cưới vợ làm ăn. Sau khi cưới được vợ rồi, anh tưởng là hết "cù lần" nào ngờ anh vẫn "cù lần" như thường, nhưng lại thi đậu tú tài. Thầy nói ngay: "đáng mừng, đáng mừng, sinh viên biết chơi chữ với thầy". Các bạn có biết anh sinh viên nọ nói gì không? Cù lần có nghĩa là lôi thôi, kém thông minh. Nhưng cù lần (có gạch dưới) của anh sinh viên nọ, có nghĩa đôi, vừa là ít thông minh, vừa là tiếng lái (cần l. ) đấy các bạn ạ.
Và cha anh đã giúp anh giải quyết vấn đề thi rớt qua kinh nghiêm của riêng ông bằng cách giải quyết vấn đề tâm sinh lý của con ông qua việc cưới vợ cho con.
Một sinh viên khác, người gốc Bạc liêu, cũng góp vui vào câu chuyện. Anh ta nói: Còn em, Thầy biết không, lúc vừa xong lớp đệ nhị, em đã bỏ học hoang chơi lêu lỏng. Em đã có những quyết định lầm lộn và xài phí gần hết nửa gia tài của cha mẹ để lại. Càng lớn em càng lộn lầm tiêu phí gần hết phần của cải còn lại, kế bị đi lính, vào học trường sĩ
quan Thủ Đức. Nhờ đi lính em mới xác nhận thêm rằng đa số đàn ông, kể cả các ông sĩ quan cấp cao đều lộn lầm như em nên thường bị đàn bà sai biểu. Thầy cười, và nói: đó là cái bệnh chung của một số lớn đàn ông, anh đừng "buồn". Cả nhóm cười rộ. Lại một anh học trò chơi chữ tiếng lái nữa đấy các bạn ạ.
Đồng nghiệp (dạy học) nói lái. Viết đến đây tôi lại nhớ tới các thầy cũ và các bạn khác của tôi. Tôi nhớ một bạn cũ, giờ còn ở Saigòn. Vào tháng tư năm 1975, có một buổi họp ở trường về vấn đề thi cử. Trong lúc bên ngoài tình thế (chính trị, quân sự) có vẽ lộn xộn, bên trong phòng họp vì người chủ tọa chưa đến, nên anh em (đa số là giáo chức) nói chuyện khào về những tin "lạc dừa" (tin đồn) về chuyện evacuation những người làm việc sở Mỹ. Cạnh tôi có một anh bạn vốn là người đã du học Mỹ về. Anh ta có vẽ chán nghề giáo vì nghe nói đã có lần xô xác với thí sinh sau kỳ thi, vì thí sinh gian lận bài thi và anh bắt gặp. Tôi hỏi anh có tính gì về chuyện "tương lai" không (một câu hỏi "mập
mờ" nhưng ở thời điểm đó ai cũng hiểu là chuyện di tản). Anh trả lời là sẽ xin về hưu, hoặc xuất gia nếu không "đi được". Làm sao sống nếu không có tiền hưu, tôi hỏi. Anh không trả lời, mặt rất bình thảng. Anh viết hai câu thơ trên giấy đưa cho tôi đọc:
"Nếu về hưu, tao sẽ làm những chuyện sau đây:
Sáng lặc cỏ, chiều lặc cau;
Độn lầy, khai giếng tưới hành rau"
Tôi bật cười chưa kịp nói gì thì thấy anh ta lại viết thêm một bài thơ nửa, và cũng đưa cho tôi đọc. "Nếu đi tu tao, thật sự tao không biết theo đạo nào, chắc là theo đạo Dụ quá, nhưng không biết có đử sức để theo không? Nếu theo đạo nầy:
Ngày thì công ngũ tối công phu,
Kinh kệ, làm tương phải kiếm lu
Mấy cô nho nhỏ đang mù đợi,
Mấy lão sồn sồn sẽ đạo tu"
Lúc đó tôi sửng sờ thât sự. Thứ nhất vì không dè anh chàng có vẽ đạo mạo, lại có thể viết hai câu đầu với một ít tiếng lái có vẽ "hơi tục" , trong khi bốn câu sau và cái đạo của anh thì "tục" quá chỗ chê rồi. Thứ hai, tôi không biết anh đang nghĩ gì trong đầu, vì hầu hết, tuy không nói ra, nhưng ở thới điểm đó, ai cũng có vẽ lo lắng, trong lúc anh lại có vẽ tỉnh bơ, lại còn làm thơ kiểu đùa giởn nầy được thì ... tài quá. Dân nói lái khi nghe những câu có vần "u", "ù" hay "ôn", "ồn" "ộn" thì biết ngay là người nói hay người viết đang xài tiếng lái tục.
Tôi
xin miễn việc "diễn giải" hai bài thơ trên, xin các bạn tư tìm hiểu lấy
cho vui. (Thời gian đã chứng minh anh bạn nọ có tài thật. Anh không
vượt biên đi ra nước ngoài, ở Sàigòn tiếp tục chịu đựng một số năm đầy
nghèo khó và sau nầy vươn lên bằng cách mở lớp anh văn, và tiếp tục sống
.. tỉnh bơ không hề than vãn, hay nhờ vã bạn bè chút gì
cả. )
Thầy (dạy trung học) nói lái. Bài thơ trên khiến tôi nhớ tới một giáo sư Pháp văn hồi tôi còn học lớp đệ ngũ. Tôi không biết anh bạn trên có phải là học trò của ông giáo nầy không, vì trong bài thơ của anh ta có một vài từ giống trong bài thơ của ông thầy mà tôi đang nói. Tuy ông đã tốt nghiệp từ chương trình Tây và dạy tiếng Tây nhưng ông lại thích nói đến những cái "rắc rối, nhưng phong phú" của tiếng Việt, trong đó có lối nói lái . Ông nổi tiếng là ông thầy lè phè, dể tánh, nhưng lại dạy học rất có duyên và học sinh rất thích. Sau đây là bài thơ tôi nhớ lại và ghi ra. Đúng nguyên văn hay không, không chắc, cũng như tất cả các câu khác, nhớ sau ghi vậy . Bạn nào có học với thầy và có nghe về
bài thơ nầy xin bổ túc hay sửa chỗ trật.. Đa tạ.
Có cô nho nhỏ đó học trèo
Trèo lên hòn đá, đá chẳng leo
Sương sa lác đác, mù mù đợi
Trăng xế đầu non, đới đới cheo.
Cũng như hai bài trên, tôi xin cáo lỗi, không có gạch dưới những từ có thể thành chữ lái. Các bạn tự tìm lấy và tự lái cho vui. Nhưng cũng xin cho chìa khóa rằng đây là loại lái dùng ba từ liên tiếp.
Cô giáo nói lái. Nói tới thầy giáo, phải nhắc tới cô giáo cho công bằng. Chuyện rằng có bà giáo nọ có tật là hay dùng tiếng lái khi bà sợ hải điều gì. Tiếng lái của bà chỉ liên quan đến thực tế, và không có gì gọi là "khó nghe" hay tục cả. Bà giáo chỉ có một người con trai. Bà dạy con rất cẩn thận. Tuy con đã mười lăm tuổi rồi mà đi đâu bà giáo cũng đi kèm theo, và luôn giáo dục con trong mọi trường hợp. Bà sợ nhất là nó gây lộn và đánh nhau với nhóm du đảng.
Một hôm bà dẫn con vào quán ăn cơm trưa. Trong lúc đang ăn uống, bàn bên cạnh có tiếng cải cọ. Một anh ăn mặc có vẽ con nhà giàu, đang sừng sộ với một anh khác và có vẽ như sắp đánh nhau. Con bà nói rằng anh đầu tiên là bạn học của nó. Khi thấy con bà nhỏm dậy, có vẽ muốn sang bàn bên kia, bà giáo cảm thấy không an tâm. Bà không muốn con dính líu tới chuyện gây gổ. Bà nói với con: Con ơi, con
Đói nừng, đỏi kê, tháo sây, ngây vẹ
Náng làm tò, nết có chó, đới cái đàn
Ảo nhà gì, lách phàm, thét mà gấy
Con trai bà nghe bà nói một hơi, mặt bà lại có vẽ giận và lo, nó ngồi yên. Khi việc cải cọ chấm đứt, và các anh kia đã đi khuất, bà khen con bà: Con biết nghe lời má như vậy má chịu lắm đó; con ngoan như vậy, đáng khen lắm. Con bà trả lời: Thiệt ra con chẳng hiểu má nói gì cả nên con ngồi yên. Té ra con bà ấy, như một số các bạn đang đọc bài nầy, nếu nghe bà nói một hơi các câu như vậy chắc cũng không đoán ngay ra bà muốn nói gì. Bà ấy đã nói: Con ơi, con
Đừng nói, để coi, thấy sao, nghe vậy
Nó làm tàng, nó có chết, đáng cái đời
Ỷ nhà giàu, làm phách, thấy mà ghét.
Con bà hỏi sao không nói như bình thường mà lại dùng tiếng lái. Bà trả lời là sợ chúng nghe được lại gây gổ luôn tới mình thì mệt lắm, nên nói tránh cho "chắc ý" (và tưởng rằng con bà hiểu).
Lão ông, lão bà nói lái trong bàn tiệc. Không phải chỉ có bà giáo vừa nói biết tiếng lái. Tôi có chứng kiến hai bà và một số các ông dùng tiếng lái một cách khá bạo mồm trong một trường hợp khá vui. Trong một bửa tiệc của một hội đoàn cách đây hai năm, sau phần ăn có phần văn nghệ "cây nhà lá vườn". Bàn chúng tôi và vài bàn bên cạnh gồm toàn những người trên 60 tuổi, mặc đầu các bàn khác số trung niên (40-50 tuổi) rất đông. Khi MC mời các "bạn già" lên trình diễn, các bàn lão nhân của chúng tôi khá xôn xao. Có nhiều ông tính lên giúp vui.. Sự bàn tính cũng khá sôi nổi, vì cũng có vài bà đòi lên sân khấu.. Vài bà khuyến khích, cổ võ. Vài bà lên tiếng cản. Một bà nói hơi to tiếng khi
can ông chồng không cho lên: "Thôi mà, già rồi lên đó làm chi". Ông ấy phân trần với mọi người trong bàn, và những người ngồi gần (thuộc bàn khác) bằng cách đọc to bài thơ:
Sao em cứ bảo anh già,
Làm anh chẳng biết anh già ở đâu
Anh già cái tóc cái râu,
Nhưng riêng "cái ấy" còn lâu mới già
Nhóm lảo nhân cười rộ. Bà ấy nguýt ông và nói rằng "ông già mà không nên nết." Một ông khác bênh vực: bà đã nghĩ chủ quan rồi, vì "cái ấy" mà chồng bà muốn nói là cái "tinh thần trẻ trung, hát hay không bằng hay hát" đấy. Nhưng bà ta cũng không vừa. Bà nói rằng: Tôi biết nhà tôi quá mà, ổng thuộc loại "Chung Vô Diệm" rồi nên nếu giải thích "cái ấy" theo cách của ông anh như vậy là sai bét. Một ông khác lên tiếng:
cả. )
Thầy (dạy trung học) nói lái. Bài thơ trên khiến tôi nhớ tới một giáo sư Pháp văn hồi tôi còn học lớp đệ ngũ. Tôi không biết anh bạn trên có phải là học trò của ông giáo nầy không, vì trong bài thơ của anh ta có một vài từ giống trong bài thơ của ông thầy mà tôi đang nói. Tuy ông đã tốt nghiệp từ chương trình Tây và dạy tiếng Tây nhưng ông lại thích nói đến những cái "rắc rối, nhưng phong phú" của tiếng Việt, trong đó có lối nói lái . Ông nổi tiếng là ông thầy lè phè, dể tánh, nhưng lại dạy học rất có duyên và học sinh rất thích. Sau đây là bài thơ tôi nhớ lại và ghi ra. Đúng nguyên văn hay không, không chắc, cũng như tất cả các câu khác, nhớ sau ghi vậy . Bạn nào có học với thầy và có nghe về
bài thơ nầy xin bổ túc hay sửa chỗ trật.. Đa tạ.
Có cô nho nhỏ đó học trèo
Trèo lên hòn đá, đá chẳng leo
Sương sa lác đác, mù mù đợi
Trăng xế đầu non, đới đới cheo.
Cũng như hai bài trên, tôi xin cáo lỗi, không có gạch dưới những từ có thể thành chữ lái. Các bạn tự tìm lấy và tự lái cho vui. Nhưng cũng xin cho chìa khóa rằng đây là loại lái dùng ba từ liên tiếp.
Cô giáo nói lái. Nói tới thầy giáo, phải nhắc tới cô giáo cho công bằng. Chuyện rằng có bà giáo nọ có tật là hay dùng tiếng lái khi bà sợ hải điều gì. Tiếng lái của bà chỉ liên quan đến thực tế, và không có gì gọi là "khó nghe" hay tục cả. Bà giáo chỉ có một người con trai. Bà dạy con rất cẩn thận. Tuy con đã mười lăm tuổi rồi mà đi đâu bà giáo cũng đi kèm theo, và luôn giáo dục con trong mọi trường hợp. Bà sợ nhất là nó gây lộn và đánh nhau với nhóm du đảng.
Một hôm bà dẫn con vào quán ăn cơm trưa. Trong lúc đang ăn uống, bàn bên cạnh có tiếng cải cọ. Một anh ăn mặc có vẽ con nhà giàu, đang sừng sộ với một anh khác và có vẽ như sắp đánh nhau. Con bà nói rằng anh đầu tiên là bạn học của nó. Khi thấy con bà nhỏm dậy, có vẽ muốn sang bàn bên kia, bà giáo cảm thấy không an tâm. Bà không muốn con dính líu tới chuyện gây gổ. Bà nói với con: Con ơi, con
Đói nừng, đỏi kê, tháo sây, ngây vẹ
Náng làm tò, nết có chó, đới cái đàn
Ảo nhà gì, lách phàm, thét mà gấy
Con trai bà nghe bà nói một hơi, mặt bà lại có vẽ giận và lo, nó ngồi yên. Khi việc cải cọ chấm đứt, và các anh kia đã đi khuất, bà khen con bà: Con biết nghe lời má như vậy má chịu lắm đó; con ngoan như vậy, đáng khen lắm. Con bà trả lời: Thiệt ra con chẳng hiểu má nói gì cả nên con ngồi yên. Té ra con bà ấy, như một số các bạn đang đọc bài nầy, nếu nghe bà nói một hơi các câu như vậy chắc cũng không đoán ngay ra bà muốn nói gì. Bà ấy đã nói: Con ơi, con
Đừng nói, để coi, thấy sao, nghe vậy
Nó làm tàng, nó có chết, đáng cái đời
Ỷ nhà giàu, làm phách, thấy mà ghét.
Con bà hỏi sao không nói như bình thường mà lại dùng tiếng lái. Bà trả lời là sợ chúng nghe được lại gây gổ luôn tới mình thì mệt lắm, nên nói tránh cho "chắc ý" (và tưởng rằng con bà hiểu).
Lão ông, lão bà nói lái trong bàn tiệc. Không phải chỉ có bà giáo vừa nói biết tiếng lái. Tôi có chứng kiến hai bà và một số các ông dùng tiếng lái một cách khá bạo mồm trong một trường hợp khá vui. Trong một bửa tiệc của một hội đoàn cách đây hai năm, sau phần ăn có phần văn nghệ "cây nhà lá vườn". Bàn chúng tôi và vài bàn bên cạnh gồm toàn những người trên 60 tuổi, mặc đầu các bàn khác số trung niên (40-50 tuổi) rất đông. Khi MC mời các "bạn già" lên trình diễn, các bàn lão nhân của chúng tôi khá xôn xao. Có nhiều ông tính lên giúp vui.. Sự bàn tính cũng khá sôi nổi, vì cũng có vài bà đòi lên sân khấu.. Vài bà khuyến khích, cổ võ. Vài bà lên tiếng cản. Một bà nói hơi to tiếng khi
can ông chồng không cho lên: "Thôi mà, già rồi lên đó làm chi". Ông ấy phân trần với mọi người trong bàn, và những người ngồi gần (thuộc bàn khác) bằng cách đọc to bài thơ:
Sao em cứ bảo anh già,
Làm anh chẳng biết anh già ở đâu
Anh già cái tóc cái râu,
Nhưng riêng "cái ấy" còn lâu mới già
Nhóm lảo nhân cười rộ. Bà ấy nguýt ông và nói rằng "ông già mà không nên nết." Một ông khác bênh vực: bà đã nghĩ chủ quan rồi, vì "cái ấy" mà chồng bà muốn nói là cái "tinh thần trẻ trung, hát hay không bằng hay hát" đấy. Nhưng bà ta cũng không vừa. Bà nói rằng: Tôi biết nhà tôi quá mà, ổng thuộc loại "Chung Vô Diệm" rồi nên nếu giải thích "cái ấy" theo cách của ông anh như vậy là sai bét. Một ông khác lên tiếng:
Cha chả ai bảo các bà không nói lái? Bà trên quay sang ông sau cùng:
Nói
vậy ông anh cũng rành tiếng lái quá hén, ông anh thuộc loại lái hay lái
giỏi đó. Ông sau sau cùng nói: Dạ không dám nhận lời khen của chị vì
tôi còn thuộc lại lái dở thôi. Ông chồng của bà ấy lên tiếng:
Ông anh ơi, nói lái vòng quanh với các bà, người ta gọi là lái gió không hay đâu, phải dám nói thẳng như trong bài thơ của ai đó, mà tôi vừa đọc, mới hay.
Câu chuyện xãy ra nhanh như vậy vàụ đa số những người trong các bàn của nhóm già cười rộ lên. Nhưng có một vài bà có vẽ làm nghiêm, khôngcười (có thể các bà không hiểu hay chưa nghĩ ra ý của tiếng lái chăng? Hay là hiểu nhưng vẫn làm nghiêm?).
Một bà không cười, với vẻ mặt tỉnh bơ hỏi bà đầu tiên: Chị nói ảnh thuộc loại Chung Vô Diệm là nghĩa làm sao tôi không rõ. Số đông lạicười rộ lên. (Trong truyện Tàu, Chung vô Diệm là người đàn bà xấu xí, nhưng nhờ giỏi võ nghệ, giúp vua dẹp loạn và được sắc phong hoàng hậu. Mới nghe rõ ràng chẳng dính líu gì tới cái ông đọc thơ) . Bà vợ của
ông đọc thơ cũng trả lời tỉnh bơ: Chị ơi "Chung Vô Diệm" là "chim vô dụng" đấy. Nhà tôi bảo "cái ấy" của ảnh còn lâu mới già là nói dóc. Cả hai bàn lại cười rộ. Một bà khác lại chen vào: nếu ông nhà bà ở tình trạng không "dụ cưng" được và vô dụng như vậy sao ông nhà cứ đòi "lên" ...ca hoài vậy. Bà đầu tiên cười to trả lời không cần suy nghĩ, và
không tỏ chút e thẹn gì cả: Tuy thuộc loại họ Chung nhưng nhờ có đọc sách nói về các hoạn quan trong cung nên biết áp dụng phương pháp sường cho sớ để sống qua ngày. Rồi bà thấp giọng một chút, như có vẽ e dè: Thú thật đôi khi nhà tôi có theo phương pháp cổ truyền mà giới trẻ hay dùng là hướng và bướng. Một bà khác ngồi cạnh giải thích thêm: Bà ấy muốn nói hướng cho sôn và bướng cho sú đấy. Cả nhóm lại cười rộ lên, và còn có vài tiếng phê bình "tài thiệt, gan thiệt" chen vào.
Ai dám nghĩ rằng các lảo bà và lảo ông không chơi chữ lái phải không quí vị? Trong trường hợp nầy tôi thấy các lão ông nói chữ kém xa các lão bà.
Những chuyện nói lái "cách sông"
Với những câu chuyện nói lái vừa kể, tôi cứ tưởng là tôi biết nhiều về nói lái. Nhưng trẻ khôn qua, già lú lại. Tôi tình cờ đã nghe và học thêm những tiếng lái bất ngờ, chẳnh có gì cao xa hay đặc biệt, nhưng những tiếng lái ấy mới đối với tôi, hoặc những tiếng đó là tiếng tôi đã biết, nhưng ít dùng tới, nên khi nghe lại thấy hay hay.
Nước bất hiếu. Số là một hôm, bước chân vào một tiệm ăn, vừa kêu xong thức ăn thì tôi nghe một em trai độ 18 tuổi kêu anh chạy bàn, cũng nhỏ tuổi như anh kia, gọi một tô tái nạm và một ly nước "bất hiếu." Cha chả, nước gì mà tên ngộ vậy, tôi tự hỏi. Và vì thói quen khi nghe ai chơi chữ là tôi nghi ngay là đang chơi tiếng lái. Nhưng suy nghĩ mãi
vẫn không ra. Khi ly nước được đem tới bàn, tôi nhìn qua xem, rõ ràng là nước đá chanh. Cái lý tại sao anh chạy bàn biết và đem ra đúng thì không lạ vì chắc chắn là họ biết code của nhau rồi. Cái lạ là tại sao hắn gọi là nước "bất hiếu" . Phải khi ăn xong tô phở tôi mới nghĩ ra và bắt đầu cười cho cái chậm hiểu của mình. Các bạn có biết không, thật đơn giản. Đá chanh là tiếng lái của đánh cha. Con mà đánh cha là con bất hiếu. Nhóm trẻ đó đã chơi tiếng lái xa hơn một bực nữa, dùng cả lời phê của một hành động để chơi chữ.
Nói lái cách sông Trong một bửa "pot luck" của một nhóm sinh viên trẻ thuộc thế hệ 1.5, mà tôi gọi là thế hệ ba rọi vì các em nói tiếng Anh hêm thêm vài tiếng Việt, hoặc ngược lại. Tới phần văn nghệ văn gừng, ban tổ chức yêu cầu một người "lớn tuổi" lên kể chuyện vui. Trong nhóm chỉ có một ít người lớn tuổi. Một người bạn tôi, ngoài sáu mươi, than
nho nhỏ với tôi: hết sách rồi, chưa tìm ra được chuyện gì mới cả. Tôi rỉ tai trở lại: câu giờ bằng cách yêu cầu một sinh viên kể chuyện trước; và sau đó, nếu cùng lắm, đành mở sách "dạy tiếng Việt" vì trong nhóm nầy, theo chỗ tôi biết, thì chỉ có một vài em biết sách đó mà thôi.
Bạn tôi đứng lên thách thức các sinh viên rằng anh chị nào lên nói một chuyện cười gì hay, mà phải dùng toàn tiếng Việt, không được pha tiếng Anh thì ông mới lên kể chuyện. Các sinh viên đồng ý.
Hai MCs, một nam, một nữ giới thiệu một "mầm non" chuyên kể chuyện cười lên "sân khấu". Chuyên viên cười nầy liền giới thiệu: Sau đây xin các bạn cho một tràng pháo tay cho ban nhạc, toàn những nam nhạc sĩ, đó là ban nhạc "Thuyền xưa" do nhạc sĩ Tô v. Cừ , biệt danh C.T.., làm nhạc trưởng. Ban nhạc nầy do ca sĩ Tô Mộng Lan , biệt danh LMT làm bầu gánh. Nhạc sĩ CT đã từng đóng phim chung với nữ tài tử Hồng Kông, "Điệp Liên Tú". Còn Bầu Gánh LMT cũng đã từng đóng phim bộ với nam tài tử Đài Loan, "Đặng Lăng Nhu". Tiếng vổ tay và tiếng cười vang động.
Ông anh ơi, nói lái vòng quanh với các bà, người ta gọi là lái gió không hay đâu, phải dám nói thẳng như trong bài thơ của ai đó, mà tôi vừa đọc, mới hay.
Câu chuyện xãy ra nhanh như vậy vàụ đa số những người trong các bàn của nhóm già cười rộ lên. Nhưng có một vài bà có vẽ làm nghiêm, khôngcười (có thể các bà không hiểu hay chưa nghĩ ra ý của tiếng lái chăng? Hay là hiểu nhưng vẫn làm nghiêm?).
Một bà không cười, với vẻ mặt tỉnh bơ hỏi bà đầu tiên: Chị nói ảnh thuộc loại Chung Vô Diệm là nghĩa làm sao tôi không rõ. Số đông lạicười rộ lên. (Trong truyện Tàu, Chung vô Diệm là người đàn bà xấu xí, nhưng nhờ giỏi võ nghệ, giúp vua dẹp loạn và được sắc phong hoàng hậu. Mới nghe rõ ràng chẳng dính líu gì tới cái ông đọc thơ) . Bà vợ của
ông đọc thơ cũng trả lời tỉnh bơ: Chị ơi "Chung Vô Diệm" là "chim vô dụng" đấy. Nhà tôi bảo "cái ấy" của ảnh còn lâu mới già là nói dóc. Cả hai bàn lại cười rộ. Một bà khác lại chen vào: nếu ông nhà bà ở tình trạng không "dụ cưng" được và vô dụng như vậy sao ông nhà cứ đòi "lên" ...ca hoài vậy. Bà đầu tiên cười to trả lời không cần suy nghĩ, và
không tỏ chút e thẹn gì cả: Tuy thuộc loại họ Chung nhưng nhờ có đọc sách nói về các hoạn quan trong cung nên biết áp dụng phương pháp sường cho sớ để sống qua ngày. Rồi bà thấp giọng một chút, như có vẽ e dè: Thú thật đôi khi nhà tôi có theo phương pháp cổ truyền mà giới trẻ hay dùng là hướng và bướng. Một bà khác ngồi cạnh giải thích thêm: Bà ấy muốn nói hướng cho sôn và bướng cho sú đấy. Cả nhóm lại cười rộ lên, và còn có vài tiếng phê bình "tài thiệt, gan thiệt" chen vào.
Ai dám nghĩ rằng các lảo bà và lảo ông không chơi chữ lái phải không quí vị? Trong trường hợp nầy tôi thấy các lão ông nói chữ kém xa các lão bà.
Những chuyện nói lái "cách sông"
Với những câu chuyện nói lái vừa kể, tôi cứ tưởng là tôi biết nhiều về nói lái. Nhưng trẻ khôn qua, già lú lại. Tôi tình cờ đã nghe và học thêm những tiếng lái bất ngờ, chẳnh có gì cao xa hay đặc biệt, nhưng những tiếng lái ấy mới đối với tôi, hoặc những tiếng đó là tiếng tôi đã biết, nhưng ít dùng tới, nên khi nghe lại thấy hay hay.
Nước bất hiếu. Số là một hôm, bước chân vào một tiệm ăn, vừa kêu xong thức ăn thì tôi nghe một em trai độ 18 tuổi kêu anh chạy bàn, cũng nhỏ tuổi như anh kia, gọi một tô tái nạm và một ly nước "bất hiếu." Cha chả, nước gì mà tên ngộ vậy, tôi tự hỏi. Và vì thói quen khi nghe ai chơi chữ là tôi nghi ngay là đang chơi tiếng lái. Nhưng suy nghĩ mãi
vẫn không ra. Khi ly nước được đem tới bàn, tôi nhìn qua xem, rõ ràng là nước đá chanh. Cái lý tại sao anh chạy bàn biết và đem ra đúng thì không lạ vì chắc chắn là họ biết code của nhau rồi. Cái lạ là tại sao hắn gọi là nước "bất hiếu" . Phải khi ăn xong tô phở tôi mới nghĩ ra và bắt đầu cười cho cái chậm hiểu của mình. Các bạn có biết không, thật đơn giản. Đá chanh là tiếng lái của đánh cha. Con mà đánh cha là con bất hiếu. Nhóm trẻ đó đã chơi tiếng lái xa hơn một bực nữa, dùng cả lời phê của một hành động để chơi chữ.
Nói lái cách sông Trong một bửa "pot luck" của một nhóm sinh viên trẻ thuộc thế hệ 1.5, mà tôi gọi là thế hệ ba rọi vì các em nói tiếng Anh hêm thêm vài tiếng Việt, hoặc ngược lại. Tới phần văn nghệ văn gừng, ban tổ chức yêu cầu một người "lớn tuổi" lên kể chuyện vui. Trong nhóm chỉ có một ít người lớn tuổi. Một người bạn tôi, ngoài sáu mươi, than
nho nhỏ với tôi: hết sách rồi, chưa tìm ra được chuyện gì mới cả. Tôi rỉ tai trở lại: câu giờ bằng cách yêu cầu một sinh viên kể chuyện trước; và sau đó, nếu cùng lắm, đành mở sách "dạy tiếng Việt" vì trong nhóm nầy, theo chỗ tôi biết, thì chỉ có một vài em biết sách đó mà thôi.
Bạn tôi đứng lên thách thức các sinh viên rằng anh chị nào lên nói một chuyện cười gì hay, mà phải dùng toàn tiếng Việt, không được pha tiếng Anh thì ông mới lên kể chuyện. Các sinh viên đồng ý.
Hai MCs, một nam, một nữ giới thiệu một "mầm non" chuyên kể chuyện cười lên "sân khấu". Chuyên viên cười nầy liền giới thiệu: Sau đây xin các bạn cho một tràng pháo tay cho ban nhạc, toàn những nam nhạc sĩ, đó là ban nhạc "Thuyền xưa" do nhạc sĩ Tô v. Cừ , biệt danh C.T.., làm nhạc trưởng. Ban nhạc nầy do ca sĩ Tô Mộng Lan , biệt danh LMT làm bầu gánh. Nhạc sĩ CT đã từng đóng phim chung với nữ tài tử Hồng Kông, "Điệp Liên Tú". Còn Bầu Gánh LMT cũng đã từng đóng phim bộ với nam tài tử Đài Loan, "Đặng Lăng Nhu". Tiếng vổ tay và tiếng cười vang động.
Anh
"mầm non" tiếp theo: Xin giới thiệu giọng oanh vàng của nữ ca sĩ Thu
Cương và giọng trầm ấm của nam ca sĩ Thu Đạm trong bản "Em nấu nướng
Anh." Và cầu chuyện cười đến đây chấm dứt. Không thấy ai lên sân khấu,
không thấy ai đờn trống gì cả.
Chưa nghe hát tiếng nào mà chúng nó vỗ tay như pháo và cười bò lăng. Tôi biết ngay là chúng nó đang nói lái qua tên của hai sinh viên mà các em gọi là "ca sĩ" . (Thu Cương = thương cu) ;
Chưa nghe hát tiếng nào mà chúng nó vỗ tay như pháo và cười bò lăng. Tôi biết ngay là chúng nó đang nói lái qua tên của hai sinh viên mà các em gọi là "ca sĩ" . (Thu Cương = thương cu) ;
VIỆT NAM * THỰC PHẨM
Về Việt Nam ăn gì?
Tuấn Linh
Vào đầu thế kỷ thứ 31, các nhà khoa học và khảo cổ phát hiện vùng bán đảo Ðông Dương, vùng đất hình chữ S chạy dài từ Lạng Sơn tới Cà Mâu có rất nhiều thi thể qua ngàn năm vẫn còn nguyên vẹn. Dùng phương pháp phân tích Carbon các nhà khoa học đó xác định: "đa số những thi thể đó được chôn cất vào khoảng thế kỷ thứ 21. Người ta rất ngỡ ngàng và thán phục nghệ thuật ướp xác của nền văn minh bán đảo Ðông Dương thời đó. Người ta cũng không tìm ra một nơi nào có kỹ thuật ướp xác có trình độ cao như vậy trên lục địa vào thời kỳ bấy giờ. Nhìn vào những vật chôn theo với thi thể như quần áo, trang sức, Người ta kết luận thuật ướp xác của dân sống tại vùng bán đảo này đã đạt tới "đỉnh cao trí tuệ" và "phổ thông quần chúng".
Đó là chuyện năm 3010, còn bây giờ chúng ta đang ở vào thế kỷ 21. thế kỷ của "đỉnh cao trí tuệ". Các nhà khoa học và khảo cổ thế kỷ 31 đã lầm to, vì hiện tại cái vùng đất hình chữ S đó chẳng cần có một kỹ thuật cao nào về ướp xác cả, tất cả xảy ra một cách rất tự nhiên " như người Hà Nội" cho mọi người sống ở vùng bán đảo đó.
Cách đây không lâu báo chí VN có đưa tin. Tại Tân Phú quận Tân Bình có một thanh niên tuổi khoảng 33 chết đột ngột, gia đình làm lễ an táng cho anh ta. Nhưng công an huyện nghi ngờ có chuyện mờ ám nên ra lệnh khai quật kể giảo nghiệm xác chết. Lạ thay khi mở áo quan xác chết vẫn nguyên vẹn, không có dấu hiệu thối rữa mặc dù đã chôn dưới đất cả 2 tuần lễ. Sau giảo nghiệâm gia đinh xin phép giữ xác chết trong nhà. Chính quyền đia phương thấy xác không có hiện tượng thối rữa làm mất vệ sinh nên chấp thuận.
Hiện xác anh thanh niên được gia đình lưu trữ trên gác. Rất nhiều người tin dị đoan tới cúng kiếng.Nhiều người lý giải tại sao xác anh thanh niên này không thối rữa. Trước nhất anh thanh niên này chết đột ngột. Nghĩa là không chết vì bệnh lý. Công an không kết luận anh ta bị giết hại, có nghĩa anh ta không phải bị giết. Công an không nói anh ta bị chết vì độc tố, có nghĩa anh ta có thể chết vì trúng độc. Anh ta không bị người khác đầu độc, nhưng anh ta có thể tự đầu độc chính mình. Anh ta không tự tử bằng cách uống thuốc độc. Nhưng anh ta chết bằng độc tố qua thực phẩm hàng ngày mà anh tiêu thụ.
Ðộc tố đó chính là những hóa chất giữ cho thực phẩm không bị hư thối, không bị lên men, không đổi màu. Và những hóa chất sát trúng có khả năng tiêu diệt nhửng hoại tử. Nên khi anh ta chết, xác anh không có hoại tử nên xác không bị thư hoại, cộng với những hóa chất như Formol, Sodium Benzoate, 2,4-D, Borax ,vv..trong thực phẩm tồn đọng trong cơ thễ anh, nên xác anh không hư thối được. Vâng những thi thể mà các nhà khoa học và khảo cổ thế kỷ thứ 31 khám phá ra chính là các loại thi thể như anh chàng vừa kể trên.
Tôi có người bạn mua cá Khoai về nấu canh củ. Cá Khoai thường khi nấu thịt sẽ mền và tan cùng với khoai. Sau khi nấu ngưới ta chỉ cần gắp nguyên bộ xương ra, nồi canh có thể ăn được. Nhưng hôm đó vợ anh bạn nấu rất lâu mà cá Khoai vẩn nguyên vẹn, vợ anh dùng đũa đâm vào cá thấy cá cứng chắc như khúc Lươn luộc. Cô vợ gọi chồng ra hỏi, anh chồng dùng đũa thử thấy cá vẫn cứng chắc, cười rồi nói với vợ "em có bỏ lộn viên Viagra vào không ? sau đó vợ anh đổ nồi canh cá Khoai đi, sợ anh ăn phải ảnh hưởng như cá khoai.
Một người khác kể rằng anh thèm cá trê quê hương, khi thấy tiệm thực phẩm Á Châu có bán cá Trê Vàng, anh mua ngay một ký mục đích để chiên và kho ăn. Nhưng công việc làm ăn cần gấp anh phải có mặt tại tiểu bang khác trong ngày tới. Anh ra đi và quên khuấy ký cá trê trong cốp xe. Cả tuần lễ sau có dịp mở cốp xe anh rất ngac nhiên khi thấy mấy con cá trê trong túi vẫn còn tươi nguyên. Trong khi chiếc xe nóng hổi và nhiệt độ bên ngoài theo đài thông báo lên dến 40oC.
Vợ tôi đi shop về nói: "hôm nay em thấy tại tiệm thực phẩm Á Châu bày bán tôm còn rất tươi, con nào con ấy xanh trong như mới bắt lên, em hỏi họ nói tôm VN. Thấy ngon nhưng em không giám mua." Nghe vợ nói không mua tôi mừng quá.
Tôi nói " tôm đó được tẩm hóa chất nên giử lâu không hư thối, đặc biệt màu sắc không thay đổi nhìn tươi như mới đánh bắt. Nếu ăn vào rất nguy hiểm cho sức khỏe."Vấn đề xử dụng hóa chất trong công nghiệp thực phẩm là chuyện bình thường, nhưng việc xử dụng hóa chất phải được kiểm soát và cho phép, thông thường mỗi hóa chất đều có quy định về mức độ xử dụng an toàn. Nếu chúng ta ăn những thực phẩm chứa nồng độ hóa chất quá cao có thể gây ngộ độc có nhiều trường hợp đi đến tử vong, hay gây nên ung thư.
Từ ngày VN mở cửa, chính quyền VN kêu gọi Việt Kiều về du lịch, mục đích móc túi "khúc ruột ngàn dậm". Việt kiều về VN để "ăn chơi". Về VN Việt kiều phải ăn để đi chơi hay đi chơi cũng phải ăn. Như vậy ăn uống tại VN là chuyện vô cùng quan trọng. Nhưng vấn đề đặt ra là về VN ăn gì, uống gì để bảo đảm an toàn?.Nếu nói về VN để "ăn Ngon, rẽ", Câu này cần xét lại. Ở đây tôi chỉ nói đến về VN ăn gì để an toàn thực phẩm và bảo dảm cho sức khỏe. Ða số Việt Kiều về thích hải sản: "ăn cho đã". Lý do vì ở nước ngoài giá hải sản rất mắc.. Hải sản được bán ở VN thường là tôm, cá. Những loại này được nuôi để xuất khẩu chứ không phải do đánh bắt trong sông biển.
Chúng ta hãy đọc những tài liệu nói về hóa chất dùng trong thục phẫm ở VN của Ts Mai Thanh Truyết:".. cá Basa xuất khẩu bị trả về vì trong cá chứa lượng Fluoro-Quinolones quá cao, Tháng 7 năm rồi tiểu bang Georgia khám phá thêm chất kháng sinh Enrofloxacine trong cá. Tôm xuất khẩu cũng bị trả vể vì chứa chất Chloramphenicol, Nitrofuran-3-amino-2-oxazole và Semicarbazide. Người ta còn tìm thấy độc chất Rhotenane trong tôm, đây là độc chất trong cây Thuốc Cá". Những hóa chất trên đây đều được xếp vào danh sách các hóa chất bị cấm xử dụng trong kỹ nghệ biến chế thực phẩm. Ðể giải quyết số cá và tôm bị trả về, người ta giải quyết bằng cách tung chúng ra bán tại thị trường trong nước.
Còn cua, sò, ốc, hến thì sao? Ngành trồng lúa VN chuyển đổi từ một vụ sang 2 vụ hay 3 vu, mức sản xuất lúa gạo tăng từ thiếu ăn sang có dư để xuất khẩu. Sự tăng trưởng đi kèm theo các điều kiện như xử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu rầy. Thuốc trị ốc Bưu Vàng. Những hóa chất này được rải hay xịt vào ruộng lúa sẽ tan vào trong nước hay đi vào chính cây lúa. Nếu dùng các loại hóa chất không theo đúng phương pháp và số lượng, hóa chất có thể tích tụ vào hạt gạo. Hiện thời chưa có một nghiên cứu chính thức nào cho biết nồng độ những hóa chất trong gạo sản xuất tại VN. Những hóa chất độc hại ấy theo nước chảy vào sông hồ. Các sinh vật sống trong môi trường nước ấy chắc chắn mang theo những độc tố. Khi ngưới ta dùng hóa chất Methadehyde để trị ốc Bưu Vàng, thì các loại ốc bưu thường, ốc Gạo, ốc Hương, các loại cua, sò hến vv.. cũng đều bị ảnh hưởng. Những năm gần đây số lượng tôm, cá sông giảm tới mức báo động. Sự giảm sút này nguyên nhân chúng bi tiêu diệt bởi các hóa chất dùng trong nông nghiệp. Ơû dây ta không bàn đến tình hình sức khỏe cùa người dân sống trong vùng, trực tiếp ăn uống, tắm rửa trong các ao hồ, sông rạch chứa đầy các độc tố.
Vấn đề thịt bò, heo gà, vịt .. Các loại lông vũ nói chung và gà vịt nói riêng đang bị nguy hiểm bới dịch H5N1. Cơ quan Who tiên đoán sẽ có trận đại dịch sảy ra khi siêu vi H5N1 chụyển dạng lây từ người qua người. Hiên thời nhiêu nơi báo cáo heo. Cá cũng bị lây nhiễm. Như vậy vần đề ăn thịt gà, vịt, heo rất nguy hiểm. Người ta nói nên ăn Heo, gà, Vịt đã được kiểm dịch. Nhưng làm cách nào đễ chắc chắn gà vịt đã được kiểm dịch. Căn cứ vào giấy tờ chứng minh, về dấu đã kiểm dịch trên gà vịt. Bạn có thể tin được tờ giấy và con dấu ở VN không? Cách tốt nhất là không nên ăn Heo, gà vịt ở VN. Riêng về chăn nuôi Heo, người ta xử dụng một hóa chất cho Heo ăn gọi là thuốc "Siêu tăng trọng". Heo ăn vào chỉ cần một hai ngày sau có thể tăng tới 3-4 kg. gà mái ăn vào đẻ hoài không nghỉ. Nếu chúng ta ăn nhằm thịt heo này thì chuyện gì sẽ sảy ra sau đó. Chỉ có nhà thương biết.
Không ăn được hải sản, heo, gà, vịt. Vậy chúng ta ăn rau. Chuyện trồng trọt rau cải. Hoa trái ở VN cũng không tin được. Người ta dùng 2,4-D để thúc cho cây mau phát triển. 2,4-D là loại thuốc diệt cỏ mà Mỹ đã dùng trong chiến tranh VN. Chất độc da cam chính là chất 2,4-D này. Trong lúc chính quyền VN kiện Mỹ xử dụng chất diệt cỏ này, thì trong nước việc xử dụng 2,4-D trong ngành trồng trọt rất vô tư. Những cây rau muốn xanh tốt để bán có giá, người ta cũng dùng đến hóa chất này dể thúc cây phát triển vài ngày trước khi thu hạch. Trong quá trình trồng trọt người ta còn phải dùng đến hóa chất trị côn trùng, sâu bọ. Rau trái mang về nếu rửa không sạch, chuyện trúng độc là chuyện chắc chắn xẩy ra.
Cũng theo Ts Mai thanh Truyết tại Saigòn "riêng tháng 6/2005 có 1800 người trúng độc. Gây chết 39 người". Những trái cây nhập từ Trung Quốc vào VN như Táo. Nho, cam, nhãn, đều được dùng hóa chất để bảo quản như 2,4-D, 2,4,5-T, nhất là Sodium Benzoate ( Na O-C6H) chúng có tác dụng giữ cho trái cây tươi, không bị hư thối, không đổi màu và giữ được mùi vị nguyên thủy. Nồng dộ cho phép là 0.1mg/kg. nồng độ gây chết lá 2mg/kg.
Vể VN thèm ăn canh cua rau đay, cà pháo nén. Món ăn đậm tình quê hương ấy chứa đựng những hóa chất với nồng độ chết người. Muốn cho cà pháo, củ kiệu, bánh tráng có màu trắng, người ta xử dụng hóa chất làm trắng có tên Chloride sodium hydrosufite. Chất này làm cho chế phẩm có màu trắng tươi trông bắt mắt, đây cũng là chất dùng trong công nghiệp sản xuất xà bông, bột giặt.Khi chất này qua thực quản gây tình trạng trúng độc, làm ngạt thở. Giảm huyết áp, nếu nặng có thể gây tử vong.Những thành phẩm như Chả Lụa, chả Quế, người ta dùng Hàn The (Borax) đây là chất khử trùng và sâu rầy trong nông nghiệp. Nó còn được xử dụng trong kỹ nghệ sản xuất kem đánh răng và xà bông. Ðối với thực phẩm trên nó có tác dụng diệt trùng, chống sự lên men, nấm mốc. Giữ cho thực phẩm không bị hư thối. Trong việc sản xuất giò chả tại VN người ta thường dùng thịt hạng xấu để có lợi nhuận cao. Chính vì vậy người ta dùng lượng Borax cao để khử mùi hôi, làm cho thịt dai. Những thịt dễ lâu ngày khi xử lý bằng Hàn The sẽ mất mùi hôi, làm thịt tươi lại trông như thịt tươi.
Ðặc biệt bánh tráng, bánh phở, bún, hủ tiếu có để Hàn The sẽ không bị mốc meo. Làm dai và dòn sợi bún, hủ tiếu. Bánh phở và bánh tráng dễ cuốn không bị gẫy. Chất này vào cơ thể gây nên đau quặn bụng, không đi cầu được, tim đập mạnh, người ra mồ hôi. Có khả năng làm loét bao tử. Nội soi thấy bao tử có đốm trắng nhiều hay từng mảng. Trường hợp nặng phải cắt bỏ phần bao tử loét.Chuyện nước tương hay Xi dầu. Ts Truyết cho chúng ta biết tháng "7/05 Bỉ trả về VN toàn bộ xi dầu hiệu Chin Su, vì họ tìm ra trong xi dầu nhập cảng từ VN có nồng độ 3-MCPD ( 3-monochloropane-1,2diol ) lên tới 86mg/kg trong khi mức cho phép là 0.02mg/kg tại Anh và 0.5mg/kg tại Bỉ". Như vậy hàm lượng 3-MCPD cao gấp 172 lần mức cho phép.Sở thí nghiệm thành phố HCM ( KHCN-MT HCM) xét nghiệm qua 42 mẫu, kết quả toàn bộ dều có hàm lượng hóa chất cao hơn tiêu chuẩn cho phép là 8000 (tám ngàn) lần nghĩa là 8000mg/kg. bạn thử nghĩ xem với hàm lượng hóa chất này, bạn đi về đâu sau khi nuốt vào bụng.
Bạn có biết hiện ở VN người ta sản xuất xì dầu bằng gì không? Tôi thưa ngay bằng xương trâu, bò, heo.. nói chung các loại xương phế thải lượm được ở bất kỳ nơi nào. Tất cả đem về nấu trong acid sau dó dùng Sut Caustic để trung hòa. Sản phẩm này được vô bao bì bán ra thị trường dưới dạng "nước cốt làm xì dầu". Từ đó người sản xuất cứ việc mua về pha với nước lạnh, muối, đường, thêm một số hóa chất giữ lâu như Borax chẳng hạn. Muốn tăng dộ đạm người ta thêm vào Urê thế là sản phẩm được vô chai, tung ra thị trường. Acid dùng để nấu xương là acid Chlohydric (HCL) trong quá trình phân giải tạo ra chất 3-MPCD nguy hiểm.Muốn bảo quản các loại như tôm cá, bánh phở bánh tráng hủ tiếu lâu dài, không bị hư thối , ngưới ta dùng đến Formol (Formaldehyde =HCHO) thường Formol có mùi khó chịu nên người ta pha formol trong rượu Methanol 37-50o/o cho mất mùi. Formol là hóa chất dùng trong việc giữ xác chết không bị hư thối.
Trong sản xuất rượu trắng có kẻ còn dùng Mitox (thuốc trị rầy) thuôc này có tác dụng làm rượu trong và gây say nhanh cho người uống. Nếu pha với lượng cao, người uống bị trúng độc và chết nhanh chóng.Ðể có một tấm bánh tráng. Ngưới ta phải thực hiện qua nhiều giai đoạn. Những giai đoạn ấy rất là công phu. Hầu như trong các giai đoạn ấy người ta dều xử dụng hóa chất. Có những hóa chất có thể được đào thải, ngược lại cũng có những hóa chất không tan biến và tích tụ qua nhiều thế hệ như DDT chẳng hạn, đây là chất diệt trùng. Khi xử dụng cho cây, chất này đi vào cây, vào trái. Súc vật ăn rau, trái ấy, DDT thấm vào máu súc vật và nằm ở đó. Nếu chúng ta ăn thịt súc vật. DDT lại đi vào cơ thể chúng ta lưu trữ ở đó, với số lượng nhỏ thì không sao, nhưng DDT không bị đào thải, như vây DDT có cơ hội tăng mỗi lần chúng ta ăn thịt. Tới lúc nồng độ DDT đủ cao sẽ gây tác động nguy hiểm. Trở lại bánh tráng.. Bánh tráng làm bằng gạo, gạo từ lúa. Quá trình trồng lúa chúng ta dùng hóa chất, phân bón, những hóa chất một số lựu lại trong gạo. Ðến quá trình biến chế. Người ta dùng Hàn the để làm cho bột dai và không mốc. Ngưới ta thêm thuốc tẩy trắng để bột gạo trắng đẹp. Ngườí ta thêm formol để giử bánh không bị lên mốc vv..nói chúng cái bánh chúng ta ăn có biết bao hóa chất nguy hiểm trong đó. Sở dĩ chúng ta không thấy chuyện gì. Thứ nhất nồng độ hóa chất trong bánh tráng chưa tới mức nguy hiểm. Thứ hai ảønh hưởng của hóa chất lên cơ thể con người có tính cách chậm, và lâu dài. Có khi ảnh hưởng qua thế hệ con cháu. Ví dụ chất Borax có tác dụng trụy thai, 2,4-D từ mẹ có thể làm cho thai nhi trở thành khuyết tật.vv,..
Nếu nhìn những phân tích trên đây, chúng ta thấy về VN ăn gì cũng nguy hiểm. Theo báo cáo của bộ y tế từ 1997 đến 2004 có 6.467 448 trường hợp trúng độc, như vậy cứ 14 người thì có một người bị trúng độc. Ðây là con số được báo cáo, còn con số không được báo cáo thì không biết là bao nhiêu. Cho dến bây giờ chính quyền VN vẫn không có một phương pháp nào khả thi để kiểm soát an toàn thực phẩm. Những báo cáo có tính cách giấy tờ và bỏ lơ. "Nước đến chân mới nhảy" và "đổ thừa qua lại" là phương hướng mà chính quyền nhà nước theo đuổi. Con chung không ai khóc, làm sao vơ cho dầy túi là được.Ðến đây tôi mạn phép để nghị bạn cách giải quyết rất ư là hữu hiệu. Trước khi về VN bạn phải học cách nhịn ăn "Nhập Thất" để về VN không cẩn ăn gì hết, vừa không bị ngộ độc, lại làm giảm cân mau chóng. Theo phái Tiên Thiên Khí Công, khi bạn nhịn ăn, cơ thể bạn sẽ có cơ hội thanh tẩy những tồn đọng xấu trong bạn. Và sau đó cớ thể bạn sẽ đổi mới từng tế bào.
Thế quân bình năng lượng sẽ được sắp xếp lại. Nhịn ăn kết hợp với hít thở đúng cách, các huyệt đạo sẽ khai thông, huyết áp bình thường lại, cân bằng lượng đường trong máu. Tiêu thụ những mỡ dư thừa. tống xuất những độc tố. Theo đó một số bệnh tật tan biến theo. bạn sẽ cảm thấy khỏe mạnh hơn và yêu đời hơn.Ngoài ra một phương pháp cụ thể nhất, không nguy hiểm, không tốn kém, không sợ nhiễm độc, không bị bịnh cúm gà, nhất là không bị bịnh "Cúm bà", đó là : "không về VN "
Tuấn Linh
* Bài này viết dựa theo những tài liệu báo cáo của Ts Mai Thanh Truyết trong loạt bài "Những hóa chất trong thực phẩm và trái cây tại VN " đăng trong tờ Việt Báo Hoa kỳ.
Tuấn Linh
Vào đầu thế kỷ thứ 31, các nhà khoa học và khảo cổ phát hiện vùng bán đảo Ðông Dương, vùng đất hình chữ S chạy dài từ Lạng Sơn tới Cà Mâu có rất nhiều thi thể qua ngàn năm vẫn còn nguyên vẹn. Dùng phương pháp phân tích Carbon các nhà khoa học đó xác định: "đa số những thi thể đó được chôn cất vào khoảng thế kỷ thứ 21. Người ta rất ngỡ ngàng và thán phục nghệ thuật ướp xác của nền văn minh bán đảo Ðông Dương thời đó. Người ta cũng không tìm ra một nơi nào có kỹ thuật ướp xác có trình độ cao như vậy trên lục địa vào thời kỳ bấy giờ. Nhìn vào những vật chôn theo với thi thể như quần áo, trang sức, Người ta kết luận thuật ướp xác của dân sống tại vùng bán đảo này đã đạt tới "đỉnh cao trí tuệ" và "phổ thông quần chúng".
Đó là chuyện năm 3010, còn bây giờ chúng ta đang ở vào thế kỷ 21. thế kỷ của "đỉnh cao trí tuệ". Các nhà khoa học và khảo cổ thế kỷ 31 đã lầm to, vì hiện tại cái vùng đất hình chữ S đó chẳng cần có một kỹ thuật cao nào về ướp xác cả, tất cả xảy ra một cách rất tự nhiên " như người Hà Nội" cho mọi người sống ở vùng bán đảo đó.
Cách đây không lâu báo chí VN có đưa tin. Tại Tân Phú quận Tân Bình có một thanh niên tuổi khoảng 33 chết đột ngột, gia đình làm lễ an táng cho anh ta. Nhưng công an huyện nghi ngờ có chuyện mờ ám nên ra lệnh khai quật kể giảo nghiệm xác chết. Lạ thay khi mở áo quan xác chết vẫn nguyên vẹn, không có dấu hiệu thối rữa mặc dù đã chôn dưới đất cả 2 tuần lễ. Sau giảo nghiệâm gia đinh xin phép giữ xác chết trong nhà. Chính quyền đia phương thấy xác không có hiện tượng thối rữa làm mất vệ sinh nên chấp thuận.
Hiện xác anh thanh niên được gia đình lưu trữ trên gác. Rất nhiều người tin dị đoan tới cúng kiếng.Nhiều người lý giải tại sao xác anh thanh niên này không thối rữa. Trước nhất anh thanh niên này chết đột ngột. Nghĩa là không chết vì bệnh lý. Công an không kết luận anh ta bị giết hại, có nghĩa anh ta không phải bị giết. Công an không nói anh ta bị chết vì độc tố, có nghĩa anh ta có thể chết vì trúng độc. Anh ta không bị người khác đầu độc, nhưng anh ta có thể tự đầu độc chính mình. Anh ta không tự tử bằng cách uống thuốc độc. Nhưng anh ta chết bằng độc tố qua thực phẩm hàng ngày mà anh tiêu thụ.
Ðộc tố đó chính là những hóa chất giữ cho thực phẩm không bị hư thối, không bị lên men, không đổi màu. Và những hóa chất sát trúng có khả năng tiêu diệt nhửng hoại tử. Nên khi anh ta chết, xác anh không có hoại tử nên xác không bị thư hoại, cộng với những hóa chất như Formol, Sodium Benzoate, 2,4-D, Borax ,vv..trong thực phẩm tồn đọng trong cơ thễ anh, nên xác anh không hư thối được. Vâng những thi thể mà các nhà khoa học và khảo cổ thế kỷ thứ 31 khám phá ra chính là các loại thi thể như anh chàng vừa kể trên.
Tôi có người bạn mua cá Khoai về nấu canh củ. Cá Khoai thường khi nấu thịt sẽ mền và tan cùng với khoai. Sau khi nấu ngưới ta chỉ cần gắp nguyên bộ xương ra, nồi canh có thể ăn được. Nhưng hôm đó vợ anh bạn nấu rất lâu mà cá Khoai vẩn nguyên vẹn, vợ anh dùng đũa đâm vào cá thấy cá cứng chắc như khúc Lươn luộc. Cô vợ gọi chồng ra hỏi, anh chồng dùng đũa thử thấy cá vẫn cứng chắc, cười rồi nói với vợ "em có bỏ lộn viên Viagra vào không ? sau đó vợ anh đổ nồi canh cá Khoai đi, sợ anh ăn phải ảnh hưởng như cá khoai.
Một người khác kể rằng anh thèm cá trê quê hương, khi thấy tiệm thực phẩm Á Châu có bán cá Trê Vàng, anh mua ngay một ký mục đích để chiên và kho ăn. Nhưng công việc làm ăn cần gấp anh phải có mặt tại tiểu bang khác trong ngày tới. Anh ra đi và quên khuấy ký cá trê trong cốp xe. Cả tuần lễ sau có dịp mở cốp xe anh rất ngac nhiên khi thấy mấy con cá trê trong túi vẫn còn tươi nguyên. Trong khi chiếc xe nóng hổi và nhiệt độ bên ngoài theo đài thông báo lên dến 40oC.
Vợ tôi đi shop về nói: "hôm nay em thấy tại tiệm thực phẩm Á Châu bày bán tôm còn rất tươi, con nào con ấy xanh trong như mới bắt lên, em hỏi họ nói tôm VN. Thấy ngon nhưng em không giám mua." Nghe vợ nói không mua tôi mừng quá.
Tôi nói " tôm đó được tẩm hóa chất nên giử lâu không hư thối, đặc biệt màu sắc không thay đổi nhìn tươi như mới đánh bắt. Nếu ăn vào rất nguy hiểm cho sức khỏe."Vấn đề xử dụng hóa chất trong công nghiệp thực phẩm là chuyện bình thường, nhưng việc xử dụng hóa chất phải được kiểm soát và cho phép, thông thường mỗi hóa chất đều có quy định về mức độ xử dụng an toàn. Nếu chúng ta ăn những thực phẩm chứa nồng độ hóa chất quá cao có thể gây ngộ độc có nhiều trường hợp đi đến tử vong, hay gây nên ung thư.
Từ ngày VN mở cửa, chính quyền VN kêu gọi Việt Kiều về du lịch, mục đích móc túi "khúc ruột ngàn dậm". Việt kiều về VN để "ăn chơi". Về VN Việt kiều phải ăn để đi chơi hay đi chơi cũng phải ăn. Như vậy ăn uống tại VN là chuyện vô cùng quan trọng. Nhưng vấn đề đặt ra là về VN ăn gì, uống gì để bảo đảm an toàn?.Nếu nói về VN để "ăn Ngon, rẽ", Câu này cần xét lại. Ở đây tôi chỉ nói đến về VN ăn gì để an toàn thực phẩm và bảo dảm cho sức khỏe. Ða số Việt Kiều về thích hải sản: "ăn cho đã". Lý do vì ở nước ngoài giá hải sản rất mắc.. Hải sản được bán ở VN thường là tôm, cá. Những loại này được nuôi để xuất khẩu chứ không phải do đánh bắt trong sông biển.
Chúng ta hãy đọc những tài liệu nói về hóa chất dùng trong thục phẫm ở VN của Ts Mai Thanh Truyết:".. cá Basa xuất khẩu bị trả về vì trong cá chứa lượng Fluoro-Quinolones quá cao, Tháng 7 năm rồi tiểu bang Georgia khám phá thêm chất kháng sinh Enrofloxacine trong cá. Tôm xuất khẩu cũng bị trả vể vì chứa chất Chloramphenicol, Nitrofuran-3-amino-2-oxazole và Semicarbazide. Người ta còn tìm thấy độc chất Rhotenane trong tôm, đây là độc chất trong cây Thuốc Cá". Những hóa chất trên đây đều được xếp vào danh sách các hóa chất bị cấm xử dụng trong kỹ nghệ biến chế thực phẩm. Ðể giải quyết số cá và tôm bị trả về, người ta giải quyết bằng cách tung chúng ra bán tại thị trường trong nước.
Còn cua, sò, ốc, hến thì sao? Ngành trồng lúa VN chuyển đổi từ một vụ sang 2 vụ hay 3 vu, mức sản xuất lúa gạo tăng từ thiếu ăn sang có dư để xuất khẩu. Sự tăng trưởng đi kèm theo các điều kiện như xử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu rầy. Thuốc trị ốc Bưu Vàng. Những hóa chất này được rải hay xịt vào ruộng lúa sẽ tan vào trong nước hay đi vào chính cây lúa. Nếu dùng các loại hóa chất không theo đúng phương pháp và số lượng, hóa chất có thể tích tụ vào hạt gạo. Hiện thời chưa có một nghiên cứu chính thức nào cho biết nồng độ những hóa chất trong gạo sản xuất tại VN. Những hóa chất độc hại ấy theo nước chảy vào sông hồ. Các sinh vật sống trong môi trường nước ấy chắc chắn mang theo những độc tố. Khi ngưới ta dùng hóa chất Methadehyde để trị ốc Bưu Vàng, thì các loại ốc bưu thường, ốc Gạo, ốc Hương, các loại cua, sò hến vv.. cũng đều bị ảnh hưởng. Những năm gần đây số lượng tôm, cá sông giảm tới mức báo động. Sự giảm sút này nguyên nhân chúng bi tiêu diệt bởi các hóa chất dùng trong nông nghiệp. Ơû dây ta không bàn đến tình hình sức khỏe cùa người dân sống trong vùng, trực tiếp ăn uống, tắm rửa trong các ao hồ, sông rạch chứa đầy các độc tố.
Vấn đề thịt bò, heo gà, vịt .. Các loại lông vũ nói chung và gà vịt nói riêng đang bị nguy hiểm bới dịch H5N1. Cơ quan Who tiên đoán sẽ có trận đại dịch sảy ra khi siêu vi H5N1 chụyển dạng lây từ người qua người. Hiên thời nhiêu nơi báo cáo heo. Cá cũng bị lây nhiễm. Như vậy vần đề ăn thịt gà, vịt, heo rất nguy hiểm. Người ta nói nên ăn Heo, gà, Vịt đã được kiểm dịch. Nhưng làm cách nào đễ chắc chắn gà vịt đã được kiểm dịch. Căn cứ vào giấy tờ chứng minh, về dấu đã kiểm dịch trên gà vịt. Bạn có thể tin được tờ giấy và con dấu ở VN không? Cách tốt nhất là không nên ăn Heo, gà vịt ở VN. Riêng về chăn nuôi Heo, người ta xử dụng một hóa chất cho Heo ăn gọi là thuốc "Siêu tăng trọng". Heo ăn vào chỉ cần một hai ngày sau có thể tăng tới 3-4 kg. gà mái ăn vào đẻ hoài không nghỉ. Nếu chúng ta ăn nhằm thịt heo này thì chuyện gì sẽ sảy ra sau đó. Chỉ có nhà thương biết.
Không ăn được hải sản, heo, gà, vịt. Vậy chúng ta ăn rau. Chuyện trồng trọt rau cải. Hoa trái ở VN cũng không tin được. Người ta dùng 2,4-D để thúc cho cây mau phát triển. 2,4-D là loại thuốc diệt cỏ mà Mỹ đã dùng trong chiến tranh VN. Chất độc da cam chính là chất 2,4-D này. Trong lúc chính quyền VN kiện Mỹ xử dụng chất diệt cỏ này, thì trong nước việc xử dụng 2,4-D trong ngành trồng trọt rất vô tư. Những cây rau muốn xanh tốt để bán có giá, người ta cũng dùng đến hóa chất này dể thúc cây phát triển vài ngày trước khi thu hạch. Trong quá trình trồng trọt người ta còn phải dùng đến hóa chất trị côn trùng, sâu bọ. Rau trái mang về nếu rửa không sạch, chuyện trúng độc là chuyện chắc chắn xẩy ra.
Cũng theo Ts Mai thanh Truyết tại Saigòn "riêng tháng 6/2005 có 1800 người trúng độc. Gây chết 39 người". Những trái cây nhập từ Trung Quốc vào VN như Táo. Nho, cam, nhãn, đều được dùng hóa chất để bảo quản như 2,4-D, 2,4,5-T, nhất là Sodium Benzoate ( Na O-C6H) chúng có tác dụng giữ cho trái cây tươi, không bị hư thối, không đổi màu và giữ được mùi vị nguyên thủy. Nồng dộ cho phép là 0.1mg/kg. nồng độ gây chết lá 2mg/kg.
Vể VN thèm ăn canh cua rau đay, cà pháo nén. Món ăn đậm tình quê hương ấy chứa đựng những hóa chất với nồng độ chết người. Muốn cho cà pháo, củ kiệu, bánh tráng có màu trắng, người ta xử dụng hóa chất làm trắng có tên Chloride sodium hydrosufite. Chất này làm cho chế phẩm có màu trắng tươi trông bắt mắt, đây cũng là chất dùng trong công nghiệp sản xuất xà bông, bột giặt.Khi chất này qua thực quản gây tình trạng trúng độc, làm ngạt thở. Giảm huyết áp, nếu nặng có thể gây tử vong.Những thành phẩm như Chả Lụa, chả Quế, người ta dùng Hàn The (Borax) đây là chất khử trùng và sâu rầy trong nông nghiệp. Nó còn được xử dụng trong kỹ nghệ sản xuất kem đánh răng và xà bông. Ðối với thực phẩm trên nó có tác dụng diệt trùng, chống sự lên men, nấm mốc. Giữ cho thực phẩm không bị hư thối. Trong việc sản xuất giò chả tại VN người ta thường dùng thịt hạng xấu để có lợi nhuận cao. Chính vì vậy người ta dùng lượng Borax cao để khử mùi hôi, làm cho thịt dai. Những thịt dễ lâu ngày khi xử lý bằng Hàn The sẽ mất mùi hôi, làm thịt tươi lại trông như thịt tươi.
Ðặc biệt bánh tráng, bánh phở, bún, hủ tiếu có để Hàn The sẽ không bị mốc meo. Làm dai và dòn sợi bún, hủ tiếu. Bánh phở và bánh tráng dễ cuốn không bị gẫy. Chất này vào cơ thể gây nên đau quặn bụng, không đi cầu được, tim đập mạnh, người ra mồ hôi. Có khả năng làm loét bao tử. Nội soi thấy bao tử có đốm trắng nhiều hay từng mảng. Trường hợp nặng phải cắt bỏ phần bao tử loét.Chuyện nước tương hay Xi dầu. Ts Truyết cho chúng ta biết tháng "7/05 Bỉ trả về VN toàn bộ xi dầu hiệu Chin Su, vì họ tìm ra trong xi dầu nhập cảng từ VN có nồng độ 3-MCPD ( 3-monochloropane-1,2diol ) lên tới 86mg/kg trong khi mức cho phép là 0.02mg/kg tại Anh và 0.5mg/kg tại Bỉ". Như vậy hàm lượng 3-MCPD cao gấp 172 lần mức cho phép.Sở thí nghiệm thành phố HCM ( KHCN-MT HCM) xét nghiệm qua 42 mẫu, kết quả toàn bộ dều có hàm lượng hóa chất cao hơn tiêu chuẩn cho phép là 8000 (tám ngàn) lần nghĩa là 8000mg/kg. bạn thử nghĩ xem với hàm lượng hóa chất này, bạn đi về đâu sau khi nuốt vào bụng.
Bạn có biết hiện ở VN người ta sản xuất xì dầu bằng gì không? Tôi thưa ngay bằng xương trâu, bò, heo.. nói chung các loại xương phế thải lượm được ở bất kỳ nơi nào. Tất cả đem về nấu trong acid sau dó dùng Sut Caustic để trung hòa. Sản phẩm này được vô bao bì bán ra thị trường dưới dạng "nước cốt làm xì dầu". Từ đó người sản xuất cứ việc mua về pha với nước lạnh, muối, đường, thêm một số hóa chất giữ lâu như Borax chẳng hạn. Muốn tăng dộ đạm người ta thêm vào Urê thế là sản phẩm được vô chai, tung ra thị trường. Acid dùng để nấu xương là acid Chlohydric (HCL) trong quá trình phân giải tạo ra chất 3-MPCD nguy hiểm.Muốn bảo quản các loại như tôm cá, bánh phở bánh tráng hủ tiếu lâu dài, không bị hư thối , ngưới ta dùng đến Formol (Formaldehyde =HCHO) thường Formol có mùi khó chịu nên người ta pha formol trong rượu Methanol 37-50o/o cho mất mùi. Formol là hóa chất dùng trong việc giữ xác chết không bị hư thối.
Trong sản xuất rượu trắng có kẻ còn dùng Mitox (thuốc trị rầy) thuôc này có tác dụng làm rượu trong và gây say nhanh cho người uống. Nếu pha với lượng cao, người uống bị trúng độc và chết nhanh chóng.Ðể có một tấm bánh tráng. Ngưới ta phải thực hiện qua nhiều giai đoạn. Những giai đoạn ấy rất là công phu. Hầu như trong các giai đoạn ấy người ta dều xử dụng hóa chất. Có những hóa chất có thể được đào thải, ngược lại cũng có những hóa chất không tan biến và tích tụ qua nhiều thế hệ như DDT chẳng hạn, đây là chất diệt trùng. Khi xử dụng cho cây, chất này đi vào cây, vào trái. Súc vật ăn rau, trái ấy, DDT thấm vào máu súc vật và nằm ở đó. Nếu chúng ta ăn thịt súc vật. DDT lại đi vào cơ thể chúng ta lưu trữ ở đó, với số lượng nhỏ thì không sao, nhưng DDT không bị đào thải, như vây DDT có cơ hội tăng mỗi lần chúng ta ăn thịt. Tới lúc nồng độ DDT đủ cao sẽ gây tác động nguy hiểm. Trở lại bánh tráng.. Bánh tráng làm bằng gạo, gạo từ lúa. Quá trình trồng lúa chúng ta dùng hóa chất, phân bón, những hóa chất một số lựu lại trong gạo. Ðến quá trình biến chế. Người ta dùng Hàn the để làm cho bột dai và không mốc. Ngưới ta thêm thuốc tẩy trắng để bột gạo trắng đẹp. Ngườí ta thêm formol để giử bánh không bị lên mốc vv..nói chúng cái bánh chúng ta ăn có biết bao hóa chất nguy hiểm trong đó. Sở dĩ chúng ta không thấy chuyện gì. Thứ nhất nồng độ hóa chất trong bánh tráng chưa tới mức nguy hiểm. Thứ hai ảønh hưởng của hóa chất lên cơ thể con người có tính cách chậm, và lâu dài. Có khi ảnh hưởng qua thế hệ con cháu. Ví dụ chất Borax có tác dụng trụy thai, 2,4-D từ mẹ có thể làm cho thai nhi trở thành khuyết tật.vv,..
Nếu nhìn những phân tích trên đây, chúng ta thấy về VN ăn gì cũng nguy hiểm. Theo báo cáo của bộ y tế từ 1997 đến 2004 có 6.467 448 trường hợp trúng độc, như vậy cứ 14 người thì có một người bị trúng độc. Ðây là con số được báo cáo, còn con số không được báo cáo thì không biết là bao nhiêu. Cho dến bây giờ chính quyền VN vẫn không có một phương pháp nào khả thi để kiểm soát an toàn thực phẩm. Những báo cáo có tính cách giấy tờ và bỏ lơ. "Nước đến chân mới nhảy" và "đổ thừa qua lại" là phương hướng mà chính quyền nhà nước theo đuổi. Con chung không ai khóc, làm sao vơ cho dầy túi là được.Ðến đây tôi mạn phép để nghị bạn cách giải quyết rất ư là hữu hiệu. Trước khi về VN bạn phải học cách nhịn ăn "Nhập Thất" để về VN không cẩn ăn gì hết, vừa không bị ngộ độc, lại làm giảm cân mau chóng. Theo phái Tiên Thiên Khí Công, khi bạn nhịn ăn, cơ thể bạn sẽ có cơ hội thanh tẩy những tồn đọng xấu trong bạn. Và sau đó cớ thể bạn sẽ đổi mới từng tế bào.
Thế quân bình năng lượng sẽ được sắp xếp lại. Nhịn ăn kết hợp với hít thở đúng cách, các huyệt đạo sẽ khai thông, huyết áp bình thường lại, cân bằng lượng đường trong máu. Tiêu thụ những mỡ dư thừa. tống xuất những độc tố. Theo đó một số bệnh tật tan biến theo. bạn sẽ cảm thấy khỏe mạnh hơn và yêu đời hơn.Ngoài ra một phương pháp cụ thể nhất, không nguy hiểm, không tốn kém, không sợ nhiễm độc, không bị bịnh cúm gà, nhất là không bị bịnh "Cúm bà", đó là : "không về VN "
Tuấn Linh
* Bài này viết dựa theo những tài liệu báo cáo của Ts Mai Thanh Truyết trong loạt bài "Những hóa chất trong thực phẩm và trái cây tại VN " đăng trong tờ Việt Báo Hoa kỳ.
VIỆT NAM * XÃ HỘI
Kẻ Ăn Ốc, Người Đổ VỏĐỖ VĂN PHÚC
Luận Về Việc Cứu Trợ Nạn Nhân Các Loại Ở Việt Nam
Bên cạnh những sự kiện chính trị nóng hổi như sự ra đời các đoàn thể, đảng phái tranh đấu cho Tự Do Nhân Quyền ở Việt Nam, vấn đề cứu trợ nạn nhân các thành phần tại Việt Nam cũng là một đề tài vô cùng tế nhị và gây tranh luận lâu dài mà phía nào cũng đưa ra những luận cứ vững chắc, hợp tình để biện minh cho lập trường của mình.
Tệ nạn xã hội, thiên tai (bão lụt, hạn hán, sóng thần…) thì thời nào cũng có. Từ xã hội nghèo đói cho đến xã hội văn minh giàu có, không ai dám nhận là đã xoá hết các tệ nạn đã đưa đẩy một tỷ lệ dân chúng lâm vào cách hoàn cảnh đáng thương. Ở Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Âu, cũng có hàng trăm ngàn người không nhà, trẻ em khuyết tật, người già bị bỏ rơi, bệnh nhân các nan y không phương cứu chữa. Đó là những người hàng ngày sống trông chờ vào lòng nhân ái của đồng bào, đồng chủng.
Người ta nói “Chỉ có cầm thú mới quay lưng trước khổ đau của đồng loại.” Nói thế cũng chưa đủ, vì có nhiều loại thú cũng chẳng hề bỏ rơi đồng loại khi nguy biến. Đó là nói về phạm trù đạo đức mà tổ tiên chúng ta đã từng giáo dục qua những câu ca dao rất quen thuộc:
Nhiểu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Thấy người hoạn nạn thì thương
Thấy người tàn tật lại càng thương hơn
hoặc:
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Truyền thống dân tộc Việt Nam đã bao đời chứng minh tình nghĩa đùm bọc nhau trong bao biến cố thăng trầm, qua bao tai biến thiên nhiên. Đó là việc hiển nhiên, không chối cãi và cũng không thể nại ra lý do để bài bác.
Tuy nhiên, chúng ta không xét vấn đề hời hợt bên ngoài mà không tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của những tệ nạn. Có như thế, chúng ta mới tìm được cách giải quyết tận gốc rễ để giảm thiểu những nỗi khổ đau của đồng bào, đồng loại một cách có hiệu quả.
Đó là chúng tôi muốn đề cập đến phạm trù chính trị mà hiện những người Việt yêu nước đang phải dương đầu để giành lại quyền sống cho người dân Việt Nam tại quốc nội.
Ngày xưa, trước năm 1975, tuy bị chi phối bởi chiến tranh dai dẳng, tàn khốc, chính phủ VNCH cũng đã có những chương trình cải tạo xã hội. Ba mục tiêu chiến lược mà cố Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đề ra sau khi đắc cử là:
“Xây Dựng Dân Chủ, Giải quyết Chiến tranh, và Cải tạo Xã hội.”
Khó mà bàn luận về thành quả của các mục tiêu này, vì chính TT Thiệu và nội các của ông đã bị chi phối bởi nhiều vấn đề rất phức tạp, khó khăn của chiến sự và sự bất nhất của đồng minh Hoa Kỳ trong khi Cộng sản Bắc Việt tập trung nỗ lực phá hoại các công cuộc xây dưng phát triển của miền Nam. Tuy nhiên đã có những cố gắng về phiá chính phủ trong việc giải quyết phần nào thành công những tệ nạn, cứu trợ từ các nạn nhân chiến tranh đến các nạn nhân xã hội.
Sau khi Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, họ tuyên bố các tệ nạn là sản phẩm của “Mỹ Ngụy”, là hậu quả của chiến tranh; vì họ cho rằng chế độ Xã hội Chủ Nghĩa của họ là thiên đường, không có những nạn bóc lột người và chính quyền của họ là ưu việt trong việc xây dựng “một xã hội phồn vinh hạnh phúc, vân vân.”
Thế nhưng đảng Cộng sản đã cầm quyền hơn nửa thế kỷ trên miền Bắc, và 34 năm tại miền Nam. Chúng ta thử rộng lương thông cảm hoàn cảnh chiến tranh mà chỉ tính khoảng thời gian 34 năm sau khi chiến tranh kết thúc. Người Cộng sản chiếm được miền Nam với một tài sản không lồ, một nhân lực hùng hậu có trình độ kỹ thuật, và một mức phát triển kinh tế tương đối cao trong khu vực các quốc gia vùng Đông Nam Á do chính quyền miền Nam để lại. Họ đã làm được gì ngoài việc lợi dụng quyền năng để cướp đoạt, bóc lột cho vào túi tham không đáy sau những năm dài đói khổ trong cái thiên đường XHCN miền Bắc?
Ngay khi loài người biết tập hợp lại để thành lập cơ cấu chính quyền, thì chức năng đầu tiên và quan trọng nhất là lo cho phúc lợi xã hội của người dân. Đó là vấn đề an sinh xã hội. Các chức năng khác như quốc phòng, phát triển kinh tế, giáo dục... cũng chẳng qua là để hỗ trợ, bảo đảm cho việc phát triển an sinh.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh do Bình Định Vương Lê Lợi khởi xướng, nhà mưu lược đại tài Nguyễn Trãi đã soạn ra một bản văn hùng hồn lên án giặc Minh và kêu gọi toàn dân kháng chiến. Đó là bản “Bình Ngô Đại Cáo” mà đã mở đầu bằng câu:
“Việc trị nước cốt để an dân.”
Chức năng chính quyền là làm cho dân giàu, nước mạnh. Chính quyền có khả năng thu thuế và có điều kiện vận động để thực thi mục tiêu an dân. Vấn đề xã hội phải được nâng lên hàng đầu cốt làm sao cho nơi nơi, người dân sống ấm no, hạnh phúc.
Thực tế hàng chục năm qua đã chứng minh, ngụy quyền Cộng sản không những không quan tâm đến giải quyết vấn đề an sinh xã hội, mà còn góp phần làm cho các tệ nạn tăng nhanh do những chính sách hà khắc, bóc lột. Họ chỉ thực sự quan tâm đến việc củng cố guồng máy cai trị và sự vững mạnh của đảng Cộng Sản để bảo vệ cho quyền lực và lợi nhuận riêng của đảng; hay nói đúng hơn, của những đảng viên nòng cốt.
Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ rằng trong khi có hàng triệu người dân chật vật kiếm miếng ăn, sống chui rúc trong những căn nhà ổ chuột, lang thang ngoài hè phố, đói rách nơi rừng thiêng nước độc, phải bán con, đợ vợ thì có hàng trăm viên chức cao cấp trong đảng có tài sản từ hàng trăm triệu đến hàng tỷ đô la. Số cán bộ Cộng sản trung cấp nay là các nhà tư sản đỏ, cũng có tài sản hàng triệu đô la mà không phải do khả năng kinh doanh thực sự, mà chỉ do quyền thế hối mại, tham những, ăn cắp từ công khố, từ tiền viện trợ của nước ngoài, từ tiền do sách nhiễu đồng bào. Họ không chừa một ngõ ngách nào trong sinh hoạt xã hội mà không lợi dụng để kiếm đồng tiền bất chính.
Do đó, các tệ nạn còn lại sau chiến tranh đã được nhân lên gấp bội. Lực lượng nạn nhân từ những người thiếu may mắn của miền Nam trước đây, nay được tăng cường thêm hàng triệu người do hậu quả chính sách đuổi dân thành thị đi xây dựng khu kinh tế mới, cải tạo “ngụy quân, ngụy quyền”, cải tạo công thương nghiệp, tập sản hoá, hợp tác hoá, bán bãi vượt biên. Dân đã nghèo, càng nghèo thêm. Dân đã đói, càng thêm đói.
Cho đến khi nhìn thấy nguồn lợi từ du lịch, Cộng sản đã đổ tiền vào xây dựng những khu du lịch bề thế để hấp dẫn khách nước ngoài. Sự phát triển thiếu cân bằng giữa các lãnh vực đã đưa đến hậu quả là sự phồn vinh hoành tráng bên ngoài ở một vài trung tâm du lịch trong khi chỉ cách đó chừng vài trăm thước, là cảnh bùn lầy nước đọng của những cư dân thành phần mạt hạng trong xã hội. Và hậu quả nặng nề nhất ảnh hưởng đến suy đồi đạo đức xã hội là đưa đẩy một số lớn các thanh niên thiếu nữ vào con đường bán thân vì chỉ có cách đó mới sống còn trong cái xã hội bắt đầu tiêm nhiễm những xa hoa của chế độ tư bản do du khách và các tư sản đỏ mới nổi lên phô bày ra.
Ngụy quyền Cộng Sản không những không chú tâm giải quyết tệ nạn mà còn tạo thêm ra tệ nạn. Đáng trách hơn, họ còn lợi dụng các tệ nạn, thiên tai để moi tiền cứu trợ.
Từ hàng chục năm qua, chúng ta đã đọc trên các báo những tin tức về các phái đoàn trong nước, của người Việt hải ngoại quyên góp tiền để cứu trợ các thành phần nạn nhân từ tệ nạn xã hội cho đến thiên tai. Rất nhiều, nếu không nói là hầu hết, đều kể ra việc các viên chức các cấp trong guồng máy ngụy quyền Cộng sản đã ngăn cản, gây khó dể, đe doạ... nhằm giành lấy số tiền, phẩm vật cứu trợ để chia chác nhau. Họ đã thay gạo ngon bằng gạo mục trong các kho nhà nước để cấp phát cho nạn nhân. Họ đã lập ra danh sách những bà con bạn bè để nhận quà thay vì những nạn nhân thực thụ. Họ đã cưỡng ép người thụ hưởng phải ký giấy nhận đủ tiền, nhưng chỉ trao cho khoảng một phần mười số tiền hay phẩm vật cứu trợ. Họ đã tuyên truyền lập công trong việc cứu trợ cho nhà nước Cộng Sản thay vì nói thật đó là tấm lòng của những người Việt Hải ngoại hay những cơ quan từ thiện quốc tế.
Họ đã gửi ra nước ngoài những tu sĩ quốc doanh để vận động quyên góp tín đồ gửi tiền về xây dựng nhà thờ, chùa chiền trong khi có hàng trăm cơ sở tôn giáo bị họ tịch thu từ hàng chục năm qua vẫn chưa được hoàn trả. Dù các giáo hội Thiên Chúa giáo hay Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo đã lên tiếng khẩn thiết để đòi lại.
Họ thu thuế người dân, họ nhận tiền viện trợ từ các quốc gia, các cơ quan quốc tế thì họ phải sử dụng tiền đó vào việc phát triển, phúc lợi.
Các quốc gia, các cơ quan tài trợ ngoại quốc khi cho nguỵ quyền Cộng sản Việt Nam vay nợ đã đặ ra những điều kiện này nọ về cải cách chính sách, giải quyết vấn đề dân chủ, nhân quyền. Trong khi tập thể người Việt “Chống Cộng” hải ngoại cho không mỗi năm hàng 3, 4 tỷ đô la mà không có một đòi hỏi điều kiện nào cả! Thật là rộng lượng dễ tính đến mức độ phải nói là xuẫn động. Chúng ta có người đã lao động cực khổ “cày” hai ba job, chịu thương chịu khó mỗi tuần hàng 50, 60 giờ trong các công xưởng của Mỹ để rồi đưa vai ra gánh giùm các gánh nặng của Cộng sản cho chúng rảnh tay làm những việc đàn áp nhân dân, làm giàu riêng cho bản thân, gia đình. Chúng tôi đã nghe chuyện những con em cán bộ Cộng sản đi du học tại San Francisco mua nhà hơn nửa triệu đô la bằng tiền mặt; đi mua sắm hàng ngàn đô la mồi lần trong các shopping mall sang trọng. Chúng tôi đã nghe kể các “phu nhân” các cán bộ CS đi du lịch bên Trung hoa vung hàng ngàn đô la tiêu xài dễ dàng như chúng ta xài bạc chục bên Mỹ này.
Sau cơn bão cuối năm 2006 vừa qua tàn phá các tỉnh miền Trung, ngụy quyền CS tuyên bố chi ra khoảng 2 tỷ đồng Việt Nam (khoảng 150 ngàn đô la) để cứu trợ nạn nhân tình Quảng Trị. Trong khi đó, hai cán bộ đảng về hưu đã được cấp từ 6 đến 8 tỷ bạc để mua xe hơi đời mới. Cần lưu ý rằng chỉ tại Việt Nam và các nước Cộng Sản, ngoài hệ thống chính quyền để điều hành công việc nhà nước, còn tồn tại song song một hệ thống đảng đồ sộ hơn, đông đảo hơn để lãnh đạo chính quyền. Mà người dân vừa phải đóng góp nuôi trả chi phí cho cơ quan công quyền, lại vừa trang trải cho cái hệ thống đảng lãnh đạo này. Có rất nhiều cán bộ các cấp vừa nắm quyền trong đảng vừa trong chính quyền nên đã xem như hưởng hai lần phúc lợi.
Chúng tôi không dám nghi ngờ thiện ý của những cơ quan, những cá nhân quyên góp tiền về cứu trợ đồng bào (dù rằng không thể không có những phần tử xấu lợi dụng để mưu lợi riêng tư, lấy tiền bỏ túi hay mưu cầu danh vọng). Chúng tôi cũng không hề nói rằng những vị làm từ thiện là tay sai Cộng Sản như đã từng có người lên án gay gắt. Chúng tôi đánh giá cao và vinh danh những hoạt động từ thiện vì đó là sự băn khoăn, sự cảm thông sâu sắc đến những đau khổ của đồng bào trong nước. Nếu chính phủ CS đã hết lòng lo toan mà không có khả năng làm xuể, chúng tôi sẽ xung phong góp phần. Nhưng thử nghĩ cứ 100 đô la chúng ta gửi về, chỉ có vài đô la đến tay người đáng nhận, còn lại thì vào túi bọn cán bộ. Như thế, sự giúp đỡ của chúng ta giải quyết được gì? Có thể coi là chúng ta đạt được mục tiêu cứu trợ không?
Không phải những người không ủng hộ việc cứu trợ là vô tình với nỗi đau của đồng bào. Họ có cách nhìn khác. Ví như một người bệnh mà vi trùng đã ăn vào máu cần được mổ xẻ, chữa trị tận gốc thay vì chỉ dùng thuốc đỏ bôi xoa bên ngoài vết lở lói. Cái vi trùng độc hại này là cơ chế Cộng sản đang cầm quyền mà ngày nào còn tại vị, thì tệ nạn vẫn còn và càng gia tăng Thế nên hải ngoại mới có những Trần Văn Bá, Nguyễn Quốc Túy, Võ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh và hàng ngàn chiến sĩ quốc gia đang ngày đêm hoạt động trong các lãnh vực để tiếp tục cuộc chiến tranh chính trị, ngoại giao để chống nguỵ quyền CS. Thế nên trong nước mới có Hoà Thương Quảng Độ, Huyền Quang; những linh mục Nguyễn Văn Lý, mục sư Hồng Quang, những người tranh đấu Nguyễn Đan Quế, Phạm Hồng Sơn, Đỗ Nam Hải... Và lực lương này mỗi ngày mỗi được tăng cường thêm dù bị đàn áp, tù đày, nhục mạ.
Những tưởng rằng sau khi Liên bang Sô Viết và khối CS đông Âu sụp đổ, sẽ là cơ may cho Việt Nam thoát khỏi ách Cộng Sản. Vì trong thời điểm đó, Cộng sản VN vừa mất chỗ dựa về kinh tế từ Liên Sô, vừa đương đầu với thái độ thù nghịch của Trung Cộng, lại vừa bị các nước Tây phương cấm vận. Thế nhưng họ đã sống sót nhờ vào lòng hào phóng của chính những “Người Việt Chống Cộng” tại Hoa Kỳ và các quốc gia tự do. Trong thời kỳ chiến tranh, 17 triệu dân miền Nam nhận khoảng hơn 1 tỷ đô la viện trợ, mà phần lớn là đổ vào quân viện. Chỉ một phần rất nhỏ là dùng cho việc phát triển;. Thế mà Việt Nam Cộng Hoà đã phát triển tiến bộ hơn rất nhiều nước Đông Nam Á, giàu có hơn Thái Lan, Philippines, Đại Hàn. Thập niên 90, khi đất nước nằm trong bàn tay cai trị của Cộng sản, người Việt hải ngoại đã chuyển về nước từ ba, bốn tỷ đô la mỗi năm qua các hình thức du lịch, thăm nhà, giúp đỡ thân nhân, bạn bè; và ngay cả có những con nai tơ đem hàng trăm triệu đô la về đầu tư để cuối cùng tiền mất vào tay Cộng sản, thân mang tù tội.
Duy chỉ còn lại một đối tương mà chúng ta phải cưu mang. Đó là các anh em Thương phế binh của Quân Lực VNCH mà Cộng sản đã hất hủi họ, xua đuổi họ ra bên lề xã hội ngay khi chiếm đoạt miền Nam. Họ đang sống những ngày cuối đời tàn tạ, đau đớn nhục nhằn thực sự cần đến sự lưu tâm của chúng ta.. Chúng ta không thể mong chờ ngụy quyền CS giải quyết cho họ, mà đó là bổn phận của chính chúng ta, những người bạn chiến đấu, những sống sót nhờ sự hy sinh của họ.
Để có đề tài suy ngẫm chúng tôi xin kể lại chuyện năm 1994, khi chúng tôi về Washington DC để vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ủng hộ cho phong trào đấu tranh Nhân quyền tại Việt Nam. Chúng tôi đã cay đắng nghe một lời bình phẩm từ một quý bà đang làm trợ lý bộ Ngoại Giao: “Quý ông muốn chúng tôi có biện pháp kinh tế với chính quyền Cộng sản Việt Nam thì trước hết, quý ông phải vận động, giáo dục đồng hương quý ông đã. Chính họ và quý ông đã nuôi dưỡng chế độ Cộng sản cho nó tồn tại đó.”
Đỗ Văn Phúc
Luận Về Việc Cứu Trợ Nạn Nhân Các Loại Ở Việt Nam
Bên cạnh những sự kiện chính trị nóng hổi như sự ra đời các đoàn thể, đảng phái tranh đấu cho Tự Do Nhân Quyền ở Việt Nam, vấn đề cứu trợ nạn nhân các thành phần tại Việt Nam cũng là một đề tài vô cùng tế nhị và gây tranh luận lâu dài mà phía nào cũng đưa ra những luận cứ vững chắc, hợp tình để biện minh cho lập trường của mình.
Tệ nạn xã hội, thiên tai (bão lụt, hạn hán, sóng thần…) thì thời nào cũng có. Từ xã hội nghèo đói cho đến xã hội văn minh giàu có, không ai dám nhận là đã xoá hết các tệ nạn đã đưa đẩy một tỷ lệ dân chúng lâm vào cách hoàn cảnh đáng thương. Ở Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Âu, cũng có hàng trăm ngàn người không nhà, trẻ em khuyết tật, người già bị bỏ rơi, bệnh nhân các nan y không phương cứu chữa. Đó là những người hàng ngày sống trông chờ vào lòng nhân ái của đồng bào, đồng chủng.
Người ta nói “Chỉ có cầm thú mới quay lưng trước khổ đau của đồng loại.” Nói thế cũng chưa đủ, vì có nhiều loại thú cũng chẳng hề bỏ rơi đồng loại khi nguy biến. Đó là nói về phạm trù đạo đức mà tổ tiên chúng ta đã từng giáo dục qua những câu ca dao rất quen thuộc:
Nhiểu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Thấy người hoạn nạn thì thương
Thấy người tàn tật lại càng thương hơn
hoặc:
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Truyền thống dân tộc Việt Nam đã bao đời chứng minh tình nghĩa đùm bọc nhau trong bao biến cố thăng trầm, qua bao tai biến thiên nhiên. Đó là việc hiển nhiên, không chối cãi và cũng không thể nại ra lý do để bài bác.
Tuy nhiên, chúng ta không xét vấn đề hời hợt bên ngoài mà không tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của những tệ nạn. Có như thế, chúng ta mới tìm được cách giải quyết tận gốc rễ để giảm thiểu những nỗi khổ đau của đồng bào, đồng loại một cách có hiệu quả.
Đó là chúng tôi muốn đề cập đến phạm trù chính trị mà hiện những người Việt yêu nước đang phải dương đầu để giành lại quyền sống cho người dân Việt Nam tại quốc nội.
Ngày xưa, trước năm 1975, tuy bị chi phối bởi chiến tranh dai dẳng, tàn khốc, chính phủ VNCH cũng đã có những chương trình cải tạo xã hội. Ba mục tiêu chiến lược mà cố Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đề ra sau khi đắc cử là:
“Xây Dựng Dân Chủ, Giải quyết Chiến tranh, và Cải tạo Xã hội.”
Khó mà bàn luận về thành quả của các mục tiêu này, vì chính TT Thiệu và nội các của ông đã bị chi phối bởi nhiều vấn đề rất phức tạp, khó khăn của chiến sự và sự bất nhất của đồng minh Hoa Kỳ trong khi Cộng sản Bắc Việt tập trung nỗ lực phá hoại các công cuộc xây dưng phát triển của miền Nam. Tuy nhiên đã có những cố gắng về phiá chính phủ trong việc giải quyết phần nào thành công những tệ nạn, cứu trợ từ các nạn nhân chiến tranh đến các nạn nhân xã hội.
Sau khi Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, họ tuyên bố các tệ nạn là sản phẩm của “Mỹ Ngụy”, là hậu quả của chiến tranh; vì họ cho rằng chế độ Xã hội Chủ Nghĩa của họ là thiên đường, không có những nạn bóc lột người và chính quyền của họ là ưu việt trong việc xây dựng “một xã hội phồn vinh hạnh phúc, vân vân.”
Thế nhưng đảng Cộng sản đã cầm quyền hơn nửa thế kỷ trên miền Bắc, và 34 năm tại miền Nam. Chúng ta thử rộng lương thông cảm hoàn cảnh chiến tranh mà chỉ tính khoảng thời gian 34 năm sau khi chiến tranh kết thúc. Người Cộng sản chiếm được miền Nam với một tài sản không lồ, một nhân lực hùng hậu có trình độ kỹ thuật, và một mức phát triển kinh tế tương đối cao trong khu vực các quốc gia vùng Đông Nam Á do chính quyền miền Nam để lại. Họ đã làm được gì ngoài việc lợi dụng quyền năng để cướp đoạt, bóc lột cho vào túi tham không đáy sau những năm dài đói khổ trong cái thiên đường XHCN miền Bắc?
Ngay khi loài người biết tập hợp lại để thành lập cơ cấu chính quyền, thì chức năng đầu tiên và quan trọng nhất là lo cho phúc lợi xã hội của người dân. Đó là vấn đề an sinh xã hội. Các chức năng khác như quốc phòng, phát triển kinh tế, giáo dục... cũng chẳng qua là để hỗ trợ, bảo đảm cho việc phát triển an sinh.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh do Bình Định Vương Lê Lợi khởi xướng, nhà mưu lược đại tài Nguyễn Trãi đã soạn ra một bản văn hùng hồn lên án giặc Minh và kêu gọi toàn dân kháng chiến. Đó là bản “Bình Ngô Đại Cáo” mà đã mở đầu bằng câu:
“Việc trị nước cốt để an dân.”
Chức năng chính quyền là làm cho dân giàu, nước mạnh. Chính quyền có khả năng thu thuế và có điều kiện vận động để thực thi mục tiêu an dân. Vấn đề xã hội phải được nâng lên hàng đầu cốt làm sao cho nơi nơi, người dân sống ấm no, hạnh phúc.
Thực tế hàng chục năm qua đã chứng minh, ngụy quyền Cộng sản không những không quan tâm đến giải quyết vấn đề an sinh xã hội, mà còn góp phần làm cho các tệ nạn tăng nhanh do những chính sách hà khắc, bóc lột. Họ chỉ thực sự quan tâm đến việc củng cố guồng máy cai trị và sự vững mạnh của đảng Cộng Sản để bảo vệ cho quyền lực và lợi nhuận riêng của đảng; hay nói đúng hơn, của những đảng viên nòng cốt.
Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ rằng trong khi có hàng triệu người dân chật vật kiếm miếng ăn, sống chui rúc trong những căn nhà ổ chuột, lang thang ngoài hè phố, đói rách nơi rừng thiêng nước độc, phải bán con, đợ vợ thì có hàng trăm viên chức cao cấp trong đảng có tài sản từ hàng trăm triệu đến hàng tỷ đô la. Số cán bộ Cộng sản trung cấp nay là các nhà tư sản đỏ, cũng có tài sản hàng triệu đô la mà không phải do khả năng kinh doanh thực sự, mà chỉ do quyền thế hối mại, tham những, ăn cắp từ công khố, từ tiền viện trợ của nước ngoài, từ tiền do sách nhiễu đồng bào. Họ không chừa một ngõ ngách nào trong sinh hoạt xã hội mà không lợi dụng để kiếm đồng tiền bất chính.
Do đó, các tệ nạn còn lại sau chiến tranh đã được nhân lên gấp bội. Lực lượng nạn nhân từ những người thiếu may mắn của miền Nam trước đây, nay được tăng cường thêm hàng triệu người do hậu quả chính sách đuổi dân thành thị đi xây dựng khu kinh tế mới, cải tạo “ngụy quân, ngụy quyền”, cải tạo công thương nghiệp, tập sản hoá, hợp tác hoá, bán bãi vượt biên. Dân đã nghèo, càng nghèo thêm. Dân đã đói, càng thêm đói.
Cho đến khi nhìn thấy nguồn lợi từ du lịch, Cộng sản đã đổ tiền vào xây dựng những khu du lịch bề thế để hấp dẫn khách nước ngoài. Sự phát triển thiếu cân bằng giữa các lãnh vực đã đưa đến hậu quả là sự phồn vinh hoành tráng bên ngoài ở một vài trung tâm du lịch trong khi chỉ cách đó chừng vài trăm thước, là cảnh bùn lầy nước đọng của những cư dân thành phần mạt hạng trong xã hội. Và hậu quả nặng nề nhất ảnh hưởng đến suy đồi đạo đức xã hội là đưa đẩy một số lớn các thanh niên thiếu nữ vào con đường bán thân vì chỉ có cách đó mới sống còn trong cái xã hội bắt đầu tiêm nhiễm những xa hoa của chế độ tư bản do du khách và các tư sản đỏ mới nổi lên phô bày ra.
Ngụy quyền Cộng Sản không những không chú tâm giải quyết tệ nạn mà còn tạo thêm ra tệ nạn. Đáng trách hơn, họ còn lợi dụng các tệ nạn, thiên tai để moi tiền cứu trợ.
Từ hàng chục năm qua, chúng ta đã đọc trên các báo những tin tức về các phái đoàn trong nước, của người Việt hải ngoại quyên góp tiền để cứu trợ các thành phần nạn nhân từ tệ nạn xã hội cho đến thiên tai. Rất nhiều, nếu không nói là hầu hết, đều kể ra việc các viên chức các cấp trong guồng máy ngụy quyền Cộng sản đã ngăn cản, gây khó dể, đe doạ... nhằm giành lấy số tiền, phẩm vật cứu trợ để chia chác nhau. Họ đã thay gạo ngon bằng gạo mục trong các kho nhà nước để cấp phát cho nạn nhân. Họ đã lập ra danh sách những bà con bạn bè để nhận quà thay vì những nạn nhân thực thụ. Họ đã cưỡng ép người thụ hưởng phải ký giấy nhận đủ tiền, nhưng chỉ trao cho khoảng một phần mười số tiền hay phẩm vật cứu trợ. Họ đã tuyên truyền lập công trong việc cứu trợ cho nhà nước Cộng Sản thay vì nói thật đó là tấm lòng của những người Việt Hải ngoại hay những cơ quan từ thiện quốc tế.
Họ đã gửi ra nước ngoài những tu sĩ quốc doanh để vận động quyên góp tín đồ gửi tiền về xây dựng nhà thờ, chùa chiền trong khi có hàng trăm cơ sở tôn giáo bị họ tịch thu từ hàng chục năm qua vẫn chưa được hoàn trả. Dù các giáo hội Thiên Chúa giáo hay Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo đã lên tiếng khẩn thiết để đòi lại.
Họ thu thuế người dân, họ nhận tiền viện trợ từ các quốc gia, các cơ quan quốc tế thì họ phải sử dụng tiền đó vào việc phát triển, phúc lợi.
Các quốc gia, các cơ quan tài trợ ngoại quốc khi cho nguỵ quyền Cộng sản Việt Nam vay nợ đã đặ ra những điều kiện này nọ về cải cách chính sách, giải quyết vấn đề dân chủ, nhân quyền. Trong khi tập thể người Việt “Chống Cộng” hải ngoại cho không mỗi năm hàng 3, 4 tỷ đô la mà không có một đòi hỏi điều kiện nào cả! Thật là rộng lượng dễ tính đến mức độ phải nói là xuẫn động. Chúng ta có người đã lao động cực khổ “cày” hai ba job, chịu thương chịu khó mỗi tuần hàng 50, 60 giờ trong các công xưởng của Mỹ để rồi đưa vai ra gánh giùm các gánh nặng của Cộng sản cho chúng rảnh tay làm những việc đàn áp nhân dân, làm giàu riêng cho bản thân, gia đình. Chúng tôi đã nghe chuyện những con em cán bộ Cộng sản đi du học tại San Francisco mua nhà hơn nửa triệu đô la bằng tiền mặt; đi mua sắm hàng ngàn đô la mồi lần trong các shopping mall sang trọng. Chúng tôi đã nghe kể các “phu nhân” các cán bộ CS đi du lịch bên Trung hoa vung hàng ngàn đô la tiêu xài dễ dàng như chúng ta xài bạc chục bên Mỹ này.
Sau cơn bão cuối năm 2006 vừa qua tàn phá các tỉnh miền Trung, ngụy quyền CS tuyên bố chi ra khoảng 2 tỷ đồng Việt Nam (khoảng 150 ngàn đô la) để cứu trợ nạn nhân tình Quảng Trị. Trong khi đó, hai cán bộ đảng về hưu đã được cấp từ 6 đến 8 tỷ bạc để mua xe hơi đời mới. Cần lưu ý rằng chỉ tại Việt Nam và các nước Cộng Sản, ngoài hệ thống chính quyền để điều hành công việc nhà nước, còn tồn tại song song một hệ thống đảng đồ sộ hơn, đông đảo hơn để lãnh đạo chính quyền. Mà người dân vừa phải đóng góp nuôi trả chi phí cho cơ quan công quyền, lại vừa trang trải cho cái hệ thống đảng lãnh đạo này. Có rất nhiều cán bộ các cấp vừa nắm quyền trong đảng vừa trong chính quyền nên đã xem như hưởng hai lần phúc lợi.
Chúng tôi không dám nghi ngờ thiện ý của những cơ quan, những cá nhân quyên góp tiền về cứu trợ đồng bào (dù rằng không thể không có những phần tử xấu lợi dụng để mưu lợi riêng tư, lấy tiền bỏ túi hay mưu cầu danh vọng). Chúng tôi cũng không hề nói rằng những vị làm từ thiện là tay sai Cộng Sản như đã từng có người lên án gay gắt. Chúng tôi đánh giá cao và vinh danh những hoạt động từ thiện vì đó là sự băn khoăn, sự cảm thông sâu sắc đến những đau khổ của đồng bào trong nước. Nếu chính phủ CS đã hết lòng lo toan mà không có khả năng làm xuể, chúng tôi sẽ xung phong góp phần. Nhưng thử nghĩ cứ 100 đô la chúng ta gửi về, chỉ có vài đô la đến tay người đáng nhận, còn lại thì vào túi bọn cán bộ. Như thế, sự giúp đỡ của chúng ta giải quyết được gì? Có thể coi là chúng ta đạt được mục tiêu cứu trợ không?
Không phải những người không ủng hộ việc cứu trợ là vô tình với nỗi đau của đồng bào. Họ có cách nhìn khác. Ví như một người bệnh mà vi trùng đã ăn vào máu cần được mổ xẻ, chữa trị tận gốc thay vì chỉ dùng thuốc đỏ bôi xoa bên ngoài vết lở lói. Cái vi trùng độc hại này là cơ chế Cộng sản đang cầm quyền mà ngày nào còn tại vị, thì tệ nạn vẫn còn và càng gia tăng Thế nên hải ngoại mới có những Trần Văn Bá, Nguyễn Quốc Túy, Võ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh và hàng ngàn chiến sĩ quốc gia đang ngày đêm hoạt động trong các lãnh vực để tiếp tục cuộc chiến tranh chính trị, ngoại giao để chống nguỵ quyền CS. Thế nên trong nước mới có Hoà Thương Quảng Độ, Huyền Quang; những linh mục Nguyễn Văn Lý, mục sư Hồng Quang, những người tranh đấu Nguyễn Đan Quế, Phạm Hồng Sơn, Đỗ Nam Hải... Và lực lương này mỗi ngày mỗi được tăng cường thêm dù bị đàn áp, tù đày, nhục mạ.
Những tưởng rằng sau khi Liên bang Sô Viết và khối CS đông Âu sụp đổ, sẽ là cơ may cho Việt Nam thoát khỏi ách Cộng Sản. Vì trong thời điểm đó, Cộng sản VN vừa mất chỗ dựa về kinh tế từ Liên Sô, vừa đương đầu với thái độ thù nghịch của Trung Cộng, lại vừa bị các nước Tây phương cấm vận. Thế nhưng họ đã sống sót nhờ vào lòng hào phóng của chính những “Người Việt Chống Cộng” tại Hoa Kỳ và các quốc gia tự do. Trong thời kỳ chiến tranh, 17 triệu dân miền Nam nhận khoảng hơn 1 tỷ đô la viện trợ, mà phần lớn là đổ vào quân viện. Chỉ một phần rất nhỏ là dùng cho việc phát triển;. Thế mà Việt Nam Cộng Hoà đã phát triển tiến bộ hơn rất nhiều nước Đông Nam Á, giàu có hơn Thái Lan, Philippines, Đại Hàn. Thập niên 90, khi đất nước nằm trong bàn tay cai trị của Cộng sản, người Việt hải ngoại đã chuyển về nước từ ba, bốn tỷ đô la mỗi năm qua các hình thức du lịch, thăm nhà, giúp đỡ thân nhân, bạn bè; và ngay cả có những con nai tơ đem hàng trăm triệu đô la về đầu tư để cuối cùng tiền mất vào tay Cộng sản, thân mang tù tội.
Duy chỉ còn lại một đối tương mà chúng ta phải cưu mang. Đó là các anh em Thương phế binh của Quân Lực VNCH mà Cộng sản đã hất hủi họ, xua đuổi họ ra bên lề xã hội ngay khi chiếm đoạt miền Nam. Họ đang sống những ngày cuối đời tàn tạ, đau đớn nhục nhằn thực sự cần đến sự lưu tâm của chúng ta.. Chúng ta không thể mong chờ ngụy quyền CS giải quyết cho họ, mà đó là bổn phận của chính chúng ta, những người bạn chiến đấu, những sống sót nhờ sự hy sinh của họ.
Để có đề tài suy ngẫm chúng tôi xin kể lại chuyện năm 1994, khi chúng tôi về Washington DC để vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ủng hộ cho phong trào đấu tranh Nhân quyền tại Việt Nam. Chúng tôi đã cay đắng nghe một lời bình phẩm từ một quý bà đang làm trợ lý bộ Ngoại Giao: “Quý ông muốn chúng tôi có biện pháp kinh tế với chính quyền Cộng sản Việt Nam thì trước hết, quý ông phải vận động, giáo dục đồng hương quý ông đã. Chính họ và quý ông đã nuôi dưỡng chế độ Cộng sản cho nó tồn tại đó.”
Đỗ Văn Phúc
No comments:
Post a Comment