LM. NGUYỄN HỮU LỄ * CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO TẠI ÚC CHÂU
LM. NGUYỄN HỮU LỄ * Ý CHÍ VÀ SỨC MẠNH CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO TẠI ÚC CHÂU
Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 tại Sydney đã kết thúc. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI và các phái đoàn giới trẻ hành hương đến từ khắp bốn phương trời lần lượt từ giã Úc Châu trở về bản xứ. Sự tưng bừng náo nhiệt của những ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới (ĐHGTTG) đối với mọi người khắp nơi trên thế giới và nhất là Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu(CĐNVTD/UC) luôn in đậm một kỷ niệm khó quên. Trong thời gian qua, Cộng Đồng này đã phải đương đầu với một cơn thử thách thật lớn lao và đã chiến thắng một cách anh dũng. Đó là thành tích phá vỡ âm mưu của chế độ Cộng Sản Việt Nam trong kế hoạch lợi dụng Tôn Giáo nhằm dương lá cờ máu của chúng trong ĐHGTTG, nhưng âm mưu này đã bị CĐVNTD/UC bẻ gãy qua ý chí và sức mạnh hào hùng khiến cho mọi người phải thán phục.
Hình ảnh RỪNG CỜ VÀNG bay ngợp trời trong ngày lễ Bế Mạc ĐHGTTG đã gợi lên trong lòng những người Việt Nam yêu chuộng Tự Do sự xúc động mãnh liệt và một niềm vui khó diễn tả. Theo lời Ông Nguyễn Thế Phong, Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu (CĐNVTDLB/UC) thì đây là cuộc Biểu Dương Cờ Vàng lớn nhất trong lịch sử Cộng Đồng Người Việt tại quốc gia này. Trước khi mổ xẻ nguyên nhân dẫn tới sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ này, tôi muốn dừng lại nghiêng mình cúi đầu khâm phục trước thành quả lớn lao mà Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu đã đạt được. Nói đúng hơn, tôi xin ca ngợi đường lối lãnh đạo của Ban Chấp Hành CĐNVTD/UC và Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Sydney, cùng với tinh thần đoàn kết của toàn thể đồng hương tại Úc Châu trong việc Biểu Dương Lá Cờ Vàng chính nghĩa với khí thế cao ngút trời vừa qua.
CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO TẠI ÚC CHÂU.
Đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản tại Úc Châu là một Cộng Đồng tổ chức rất chặt chẽ theo hệ thống Liên Bang, Tiểu Bang và Lãnh Thổ. Đại diện Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu đứng đầu là một vị Chủ Tịch Liên Bang, 6 vị Chủ Tịch Tiểu Bang và 2 vị Chủ Tịch Lãnh Thổ. Có thể ví vai trò của Ban Chấp Hành CĐNVTDLB/UC như một chiếc dù của tất cả các tiểu bang, các đảng phái quốc gia, các tổ chức, các hội đoàn, các đoàn thể....của người Việt trên toàn nước Úc. Mọi thành viên trong Cộng Đồng đều liên kết hoạt động nhịp nhàng. Nhờ hệ thống tổ chức hàng dọc rất chặt chẽ và ý thức trách nhiệm của từng thành viên, nên Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu rất vững mạnh trong các sinh hoạt chung, về chính trị cũng như văn hoá và các hoạt động cho công ích.
Đặc biệt nhờ hệ thống tổ chức và sự đoàn kết của các tiểu bang, các tổ chức, các đoàn thể, các hội đoàn..... nên CĐNVTD/UC tạo được sức mạnh để trở nên thành trì vững chắc trong việc ngăn chặn bất cứ âm mưu xảo quyệt nào của Cộng sản Việt Nam muốn gieo rắc ảnh hưởng tại đất nước này. Trong quá khứ, Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu đã quyết tâm trong việc tẩy trừ và bẻ gãy âm mưu của Cộng sản qua các vụ chống VTV4, vụ chống đoàn văn công Việt cộng mang tên Duyên Dáng Việt Nam . Nhưng hùng hồn nhất là Cộng Đồng này đã bày tỏ sức mạnh và khí thế chưa từng thấy trong ngày Vinh Danh Cờ Vàng vào ngày Chủ nhật 20 tháng 7 năm 2008 nhân Thánh Lễ Bế Mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008.
Điều đáng nói là trong toàn bộ kế hoạch hành động của CĐNVTD/UC chống lại mưu toan của Cộng sản Việt Nam và để trả lời cho những kẻ làm tay sai cho bọn chúng trong dịp ĐHGTTG vừa qua, do sự tham gia rất tích cực của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Sydney. Nhờ đó sức mạnh và tinh thần của đồng hương Úc Châu đã gia tăng cao độ. Trước thành quả lớn lao mà CĐNVTD/UC đã đạt được tôi xin bày tỏ sự mến phục và biết ơn. Tôi nghĩ rằng còn có rất nhiều người khắp nơi trên thế giới đã ngưỡng mộ như tôi.
NHỮNG ĐÓA HỒNG THẮM.
Trong tâm tình quý mến đó, tôi xin gởi tặng:
· Một Bông Hồng đến Ông Nguyễn Thế Phong-Chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu và Ban Chấp Hành cùng toàn thể đồng bào trong CĐNVTD/UC.
· Một Bông Hồng đến LS Võ Trí Dũng-Chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do tiểu bang NSW và Ban Chấp Hành cùng toàn thể đồng bào thuộc tiểu bang NSW.
· Một Bông Hồng đến Ban Tuyên Úy và Hội Đồng Mục Vụ, ban Tổ Chức WYD4VN cùng toàn thể đồng bào Công Giáo trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Sydney .
· Và Một Bông Hồng đến những gia đình thân hữu mà tôi quen biết tại Úc Châu. Gia đình các bạn đã dành toàn bộ công sức và thời gian trong quyết tâm ngăn chặn cờ đỏ, biểu dương Cờ Vàng.
Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Sydney đã qua đi và đồng bào Việt Nam khắp nơi cũng thở phào nhẹ nhõm sau khi vượt qua cơn thử thách nặng nề. Đây là lúc thuận tiện để tất cả mọi người nhìn lại chặng đường đã qua với sự kiện “đất bằng dậy sóng” để rồi cuối cùng trở thành một cơn lốc trong Cộng Đồng Việt Nam tại Úc Châu trong dịp ĐHGTTG năm 2008.
CƠN BÃO TRÁI MÙA.
Sự việc bắt đầu từ lá thư của Hồng Y Phạm Minh Mẫn gởi đến 3 vị Giám mục Việt Nam đi tham dự ĐHGTTG tại Sydney . Lá thư được phổ biến hơn một tháng trước ngày khai mạc Đại Hội. Trong thư đó, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã công khai chống báng lá Cờ Vàng ba sọc đỏ và không muốn thấy lá cờ đó trong ĐHGTTG năm 2008 tại Sydney . Hồng Y Phạm Minh Mẫn dùng cách nói xách mé để sỉ nhục Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn Cộng Sản Hải Ngoại và những người tôn vinh bảo vệ lá Cờ Vàng ba sọc đỏ, gọi việc làm của họ chỉ ngang hàng với :“một thói đời mang tính đối kháng”! Như cảm thấy chưa đủ mạnh, Hồng Y Phạm Minh Mẫn còn cổ vũ cho lá cờ đỏ của đảng Cộng sản Việt Nam bằng lối so sánh ví von: “người mẹ VN, lúc mặc áo vàng (cờ vàng), lúc mặc áo đỏ (cờ đỏ)...”. Ai đọc lá thư đó cũng lắc đầu và xem nó như một áng mây mù báo trước cơn giông bão sẽ ập tới trong ĐHGTTG năm nay tại Sydney . Và đúng như vậy!
Với nội dung và lối xử dụng ngôn ngữ như thế, không lạ gì lá thư của Hồng Y Phạm Minh Mẫn gặp sự chống đối dữ dội ngay từ lúc đầu của nhiều người và nhiều giới khắp nơi trên mặt đất. Đáng kể nhất là sự phê phán và phản bác nặng nề của những người Công Giáo.
Người đời có câu nói “gieo gió thì gặt bão”. Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã gieo gió và ngọn gió đó đã nhanh chóng trở thành cơn bão trái mùa với vận tốc cao, tôi tạm gọi là “Cơn bão PMM ”. Cơn bão PMM đó, ngay tức khắc đã gặp những phản ứng mạnh mẽ và quyết liệt tại những thành phố bên Hoa Kỳ, những nơi mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn dự trù tới trong chuyến công tác làm “mục vụ di dân”. Nhưng cũng vì cơn bão PMMđó mà kẻ gieo gió đã phải hủy bỏ các chuyến đi đã có trong chương trình, kể cả chuyến đi Sydney để dự ĐHGTTG mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn coi là rất quan trọng và quyết định sẽ tới .
Càng gần ngày khai mạc ĐHGTTG thì cơn bão PMM càng gia tăng cường độ khiến cho CĐNVTD/UC lên cơn sốt để rồi cuối cùng biến thành trận cuồng phong RỪNG CỜ VÀNG trong ngày 20 tháng 7, ngày Bế Mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Sydney.
CỜ BAY, CỜ BAY!
Nhiều người đã không cầm được nước mắt trước cảnh tượng huy hoàng rực rỡ của LÁ CỜ VÀNG do người bạn trẻ Vũ Thanh Hùng đã dương cao trong ngày Khai Mạc ĐHGTTG. Sau đó, cảnh tượng RỪNG CỜ VÀNG và không có một bóng cờ đỏ nào trong những ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 tại Sydney là câu trả lời hùng hồn nhất cho mưu toan gian trá của chế độ Cộng sản Việt Nam và là một phản ứng ngược rất dữ dội mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn không lường trước được bởi lá thư của Ngài gây ra. Trong tình thế đó, Hồng Y Phạm Minh Mẫn không thể nào dám đặt chân tới Sydney . Đây là cái nhục mà Hồng Y Phạm Minh Mẫn phải chuốc lấy vào thân vì trước đó Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã viết để mở đầu lá thư: “Đức Hồng Y G. Pell mới biên thư tha thiết mời cá nhân tôi đến Sydney dự WYD 2008. Thấy không từ chối được, tôi phải cắt bớt chuyến đi công tác mục vụ di dân của tôi và những ngày nghỉ để đáp lời mời của Ngài.”
Ngoài ra, trong ĐHGTTG thêm một cảnh tượng rất đáng chú ý, đó là hình ảnh Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI chúc lành cho lá Cờ Vàng, nhận từ tay người bạn trẻ Phạm Vũ Anh Dũng thuộc Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Sydney dâng lên Ngài. Sau đó, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã tự quàng lá Cờ Vàng vào cổ như một khăn quàng cổ. Tấm hình này đã được nhanh chóng phát tán trên toàn thế giới qua hệ thống Internet, và tôi tin là Hồng Y Phạm Minh Mẫn cũng đã được xem tấm hình mà nhiều người gọi đó là tấm hình lịch sử. Khi nhìn tấm hình Vị Cha Chung của Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ đã ưu ái mang trên cổ lá Cờ Vàng chính nghĩa, tôi bồi hồi xúc động và không cầm được nước mắt. Tôi chợt nhớ lại những lời lẽ trong lá thư của Hồng Y Phạm Minh Mẫn mà nghe đau nhói trong tim.
Nhân đây tôi xin hỏi Hồng Y Phạm Minh Mẫn:
1. Hình ảnh Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI quàng lá Cờ Vàng ba sọc đỏ trên cổ, từ nay có trở thành: “một sự cố làm tắt nghẽn con đường hiệp thông” giữa Hồng Y Phạm Minh Mẫn với vị Chủ Chăn Tối Cao của Giáo Hội Công Giáo La Mã hay không?
2. Hồng Y Phạm Minh Mẫn có đánh giá cử chỉ của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI quàng lá Cờ Vàng ba sọc đỏ là “chỉ biểu trưng cho một thói đời mang tính đối kháng” như ngài đã dùng lối văn xách mé này để gọi Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Cộng Sản Hải Ngoại chúng tôi hay không?
SỨC CÔNG PHÁ KHỐC LIỆT.
Sau khi ĐHGTTG tại Sydney kết thúc, tôi có nghe được nguồn tin nói rằng cơn bão PMM hiện đang di chuyển dần về thành phố Carthage, tiểu bang Missouri, Hoa Kỳ và có thể sẽ tập trung thành một cơn lốc gây ra thiệt hại nặng cho Đại Hội Thánh Mẫu mà Dòng Đồng Công sẽ tổ chức vào đầu tháng 8 sắp tới và tại Lourdes, Pháp Quốc để cùng với một số vị Bản quyền khác chủ sự cuộc hành hương và Thánh Lễ tôn vinh Đức Mẹ Lộ Đức. Tôi đưa tin này với sự dè dặt thường lệ, nhưng để các Cha và các Ban Tổ Chức lưu ý lo tìm biện pháp phòng chống bão.
Lá thư của Hồng Y Phạm Minh Mẫn viết ngày 4/6/2008 , trước tiên đã làm thân bại danh liệt cho chính tác giả của nó. Giờ này tôi mong rằng Hồng Y Phạm Minh Mẫn nên lui về nhà vì con đường “mục vụ di dân” của ngài xem ra từ nay đã mọc lên quá nhiều chông gai và đầy cạm bẫy.
Qua lá thư đó, Hồng Y Phạm Minh Mẫn chẳng những đã tự hạ giá bản thân mình mà còn làm hoen ố tước vị Hồng Y- là một tước vị rất cao quý trong Giáo Hội Công Giáo. Tước vị nầy đã được vị Hồng Y tiên khởi Trịnh Như Khuê, và ba vị khác là Hồng Y Trịnh Văn Căn, Hồng Y Nguyễn Văn Thuận và Hồng Y Phạm Đình Tụng là những vị Hồng Y thánh thiện của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, được mọi người tôn kính đã góp công làm chiếu sáng rạng ngời.
Qua lá thư đó, Hồng Y Phạm Minh Mẫn làm thành một quả bom có sức tàn phá ghê gớm trong lòng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và hậu quả của sự tàn phá nầy sẽ không lường được.
Qua lá thư đó, Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã tạo ra sự bực tức và đưa đến tình trạng uất hận cao độ trong Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại và không dễ gì đồng bào nạn nhân cộng sản trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại quên đi và tha thứ cho kẻ đã nhục mạ họ một cách nặng nề như thế.
KẾT LUẬN.
Mặc dù vậy, xét cho cùng lá thư của Hồng Y Phạm Minh Mẫn cũng có phần tích cực của nó. Nhờ lá thư đó mà đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước, nhất là những Tu Sĩ và Giáo Dân Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại đã từng kêu gọi đóng góp tiền bạc cho Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong các chuyến đi “mục vụ di dân” của ngài, từ nay biết rõ được Hồng Y Phạm Minh Mẫn là ai để rồi sẽ có hình thức tiếp đón cho thích hợp. Mặt khác, lá thư đó cũng có tác dụng nhắc nhở, đánh thức và thách thức tinh thần đấu tranh của Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản Hải Ngoại trong việc bảo vệ và phát huy chính nghĩa Tự Do dưới bóng lá Cờ Vàng ba sọc đỏ, như Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu đã bày tỏ một cách hùng hồn trong lễ Bế Mạc ĐHGTTG tại Sydney ngày 20 tháng 7 năm 2008 vừa qua.
Auckland , ngày 25 tháng 7 năm 2008
Linh mục NGUYỄN HỮU LỄ
Tuyên úy Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Auckland , New Zealand
2. -- Luat Su Bui Kim Thanh Tra Loi Phong Van Dai RFA Sau Khi Den My
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Human-Rights-lawyer-BuiKimThanh-taking-refuge-in-the-US-TMi-07252008112413.html
3. --Tong thong Bush Thay Doi Chinh Sach Ngoai Giao Nham Cuu Vot McCain?
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/BushNewApproaches_Khanh-07252008145019.html
LÊ ANH CHI* CÔNG ÁN THIỀN
Giải (đáp) công án chẳng phải Thiền Tông
Lê Anh Chí
__________________________________________
Dàn Bài :
I) Ba Phương Thức Thiền Tông
II) Pháp môn ‘‘Giải (đáp) công án’’
III) Giải (đáp) công án là tri thức chẳng phải Kiến Tánh
IV) Khởi nghi tình chớ chẳng phải là ‘‘tìm đáp án cho công án’’
V) Nghi tình chớ chẳng phải là nghi vấn
VI) Khởi Nghi tình rồi . . .
VII) Nguyên Lý Phá Nhập
VIII) Nghi tình chớ chẳng phải là nghi ngờ Chánh pháp
IX) Sao gọi là chánh nghi ?
__________________________________________
I) Ba Phương Thức Thiền Tông
Việc tu hành của pháp môn Kiến Tánh gồm 3 Phương Thức :
1) truyền tâm ấn tâm
2) tự tu bằng Kinh Kim Cang
3) khán công án, thoại đầu
Chỉ vỏn vẹn có 3, không hai, không bốn, không năm.
Xem bài
Nguyên Lý Phương Thức Thiền Tông
Từ 800 năm nay, phần đông hành giả Thiền Tông đều tu theo pháp
công án, thoại đầu.
Pháp khán công án, thoại đầu là: khởi nghi tình, kết nghi tình thành một khối, duy trì nghi tình, đến khi nghi tình bỗng tan vỡ thì Kiến Tánh.
Xin lưu ý : Công án khác thoại đầu
Công án là một câu chuyện.
Thoại đầu là một câu nói.
Công án và thoại đầu đều dùng để khởi nghi tình
Bài này sẽ dùng chữ Công án thay cho cả hai chữ Công án và thoại đầu.
II) Pháp môn ‘‘Giải (đáp) công án’’
Có một số nơi tu hành như sau : thầy đưa ra một vấn đề, gọi là công án, trò tìm cách giải công án đó ; hết công án này lại đến công án kia. Giải được khoảng hơn 700 công án thì được xem là bậc thầy, là đắc đạo
Tu hành như vậy, trong bài này, được gọi là theo Pháp môn ‘‘Giải (đáp) công án’’
III) Giải (đáp) công án là tri thức chẳng phải Kiến Tánh
Ba Phương Thức Thiền Tông đều cùng một mục đích : Kiến Tánh.
Kiến Tánh là chứng ngộ Phật Tánh,
là chứng ngộ Phật Tâm
là chứng ngộ Đại Niết Bàn,
là chứng ngộ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh,
là chứng ngộ Bản Thể của Tâm
Kiến Tánh là chứng ngộ, là một sự thực chứng. Thực chứng Đại Niết Bàn,
thực chứng Thường Lạc Ngã Tịnh ,thực chứng Trạng Thái Kiến Tánh
Kiến Tánh là một sự chứng ngộ , chẳng phải là Kiến Văn Giác Tri.
1) Biết rằng tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, rằng Phật Tánh của ta bình đẳng với chư Phật, đều là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Biết như vậy chẳng phải là Kiến Tánh .
Hiểu, tin rằng tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, rằng Phật Tánh của ta bình đẳng với chư Phật, đều là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Hiểu, tin như vậy chẳng phải là Kiến Tánh .
Nhận thức rằng tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, rằng Phật Tánh của ta bình đẳng với chư Phật, đều là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Nhận thức như vậy chẳng phải là Kiến Tánh .
Kiến Tánh là một sự chứng ngộ .
Nhận thức, hiểu, biết , tin như trên là thuộc về Kiến Văn Giác Tri, là lòng tin, là lý luận ( mà lý luận rất gần với hí luận), đều chẳng phải là Kiến Tánh ; mà chỉ là điều kiện cần thiết để tu theo Thiền Tông mà thôi !
2) Giải (đáp) công án là tri thức, là thuộc về Kiến Văn Giác Tri chẳng phải Kiến Tánh
Giải (đáp) được một công án chỉ là dùng lý luận để giải quyết một vấn đề (nhân tạo) là tri thức , chẳng dính dáng gì đến sự thực chứng Thường Lạc Ngã Tịnh, chẳng phải là Kiến Tánh.
Giải (đáp) được 700công án chỉ là dùng lý luận để giải quyết 700 vấn đề (nhân tạo) là tri thức , chẳng dính dáng gì đến sự thực chứng Thường Lạc Ngã Tịnh, chẳng phải là Kiến Tánh.
Vì mục đích Thiền Tông là Kiến Tánh
Cho nên,
Giải (đáp) công án là chẳng phải là Thiền Tông.
IV) Khởi nghi tình chớ chẳng phải là ‘‘tìm đáp án cho công án’’
Pháp khán công án, thoại đầu là: khởi nghi tình, kết nghi tình thành một khối, duy trì nghi tình, đến khi nghi tình bỗng tan vỡ thì Kiến Tánh.
Việc phải làm là khởi nghi tình chớ chẳng phải là tìm đáp án cho công án.
Cho nên,
Giải (đáp) công án là chẳng phải là Thiền Tông.
V) Nghi tình chớ chẳng phải là nghi vấn
Xin nhớ cho rằng đây là nghi tình ; nghi tình chớ chẳng phải là nghi vấn !
Thoại đầu không là một câu đố.
Công án không là một bài toán đố.
Tham công án, thoại đầu chẳng phải là để tìm đáp án cho một vấn đề.
Tham công án, thoại đầu để khởi nghi tình. Rồi sau đó , . . .
Rồi sau đó , như thế nào thì đã nói ở trên, và lập lại sau đây
VI) Khởi Nghi tình rồi . . .
Khởi Nghi tình rồi kết nghi tình thành một khối.
Pháp khán công án, thoại đầu là: khởi nghi tình, kết nghi tình thành một khối, duy trì nghi tình, đến khi nghi tình bỗng tan vỡ thì Kiến Tánh.
Tại sao tham công án, thoại đầu lại có thể Kiến Tánh ? - nguyên tắc là "dĩ độc chế độc" : Thiền sư Nguyệt Khê bảo rằng tu theo các pháp môn khác giỏi lắm chỉ đến "vô thủy vô minh", cần phải dùng "nhất niệm vô minh" để phá "vô thủy vô minh". Khi vô thủy vô minh bị phá thì Kiến Tánh.
Pháp tham công án, thoại đầu dùng nghi tình làm nhất niệm vô minh (để phá vô thủy vô minh) ; bởi vậy, cần khởi nghi tình, kết nghi tình thành một khối (ở giai đọan này, nghi tình là nhất niệm vô minh) và gắng sức giữ nghi tình :
nghi tình thành một khối là nhất niệm vô minh
vì nghi tình thành một khối và chỉ có một vô minh, nên vô minh này cũng là vô thủy vô minh
khi nghi tình bỗng tan vỡ thì "nhất niệm vô minh" bị phá và "vô thủy vô minh" cũng tan vỡ
khi vô thủy vô minh bị phá thì Kiến Tánh.
Tu theo Phương Thức này cũng cần có thầy vì : a) khởi nghi tình có thể làm thần kinh căng thẳng b) "thiền bệnh" : thiền sinh có thể có thiền bệnh ở vài giai đoạn của pháp môn.
Vì cần khởi nghi tình, kết nghi tình thành một khối (nhất niệm vô minh) , nên gọi đó là làm ra "cái độc", dùng "cái độc" này để phá "cái độc" vô thủy vô minh, nên gọi là dĩ độc chế độc
VII) Nguyên Lý Phá Nhập
Xem bài
Nguyên Lý Vượt Nhập và Phá Nhập
( Nguyên Lý Nguyên Lý Thiền Tông [3] )
1) Kiến Tánh = Nhảy Một Cái vào thẳng đất Như Lai
Trong Chứng Đạo Ca ,Thiền Sư Huyền Giác đã diễn tả sự Kiến tánh như sau :
NHẤT SIÊU trực nhập Như Lai địa
mà Trúc Thiên dịch :
Một nhẩy vào liền đất Như Lai .
đây là bản dịch ‘chính thức’ được nhiều người công nhận.
Tôi dịch là :
NHẢY Một Cái vào thẳng đất Như Lai
Dịch là Nhảy Một Cái thì gợi hình, gợi ý hơn và nhất là Việt hơn. Nhảy Một Cái còn nói lên được sự hoát nhiên của Ngộ.
Đây là cái nhảy siêu không gian, vượt thời gian.
2) siêu không gian
Nhảy từ Vọng tâm sang Chân tâm, từ thế giới Tam Độc sang thế giới Thường Lạc Ngã Tịnh, từ vũ trụ Ái Dục sang vũ trụ Phật Tánh , từ vũ trụ chúng sinh sang vũ trụ chư Phật.
3) vượt thời gian
Nhảy vượt ngược thời gian từ rào Vô Thủy Vô Minh sang Đại Niết Bàn, từ nghiệp chướng của vô lượng kiếp sang thời điểm Vô Sinh !
Để :
_NHẢY Một Cái vào thẳng đất Như Lai
có hai cách :
_Vượt Nhập : Vượt rào vô thủy vô minh mà Nhập đất Như Lai
_Phá Nhập : Phá rào vô thủy vô minh mà Nhập đất Như Lai
4) Nguyên Lý Phá Nhập là Phá rào vô thủy vô minh mà Nhập đất Như Lai !
Điển hình của Nguyên Lý Phá Nhập này là phương thức ‘tham công án thoại đầu‘ : dùng nghi tình làm nhất niệm vô minh để phá vô thủy vô minh .
Khi nghi tình bỗng tan vỡ thì "nhất niệm vô minh" bị phá và "vô thủy vô minh" cũng tan vỡ
Khi vô thủy vô minh bị phá thì
_NHẢY Một Cái vào thẳng đất Như Lai
tức Kiến Tánh.
Xem bài viết " Nguyên Lý Phương Thức Thiền Tông"
VIII) Nghi tình chớ chẳng phải là nghi ngờ Chánh pháp
Nghi tình chớ chẳng phải là nghi ngờ Chánh pháp
Trên con đường đến Thánh Đạo, ‘nghi ngờ Chánh pháp’ là một trong năm chướng ngại.
Đối với Thiền-tông, nhận thức, hiểu, biết , tin nhận Chân-tâm còn là điều kiện cần thiết để tu theo Thiền Tông :
Nghi tình chớ chẳng phải là nghi ngờ Chân-tâm
Khởi Nghi tình nhưng không nghi ngờ Chánh pháp , không nghi ngờ Chân-tâm
IX) Sao gọi là chánh nghi ?
Nghi tình là chánh nghi
Sao gọi là chánh nghi ? Vì :
_Nghi tình chớ chẳng phải là nghi vấn
_Nghi tình chớ chẳng phải là nghi ngờ Chánh pháp
_Nghi tình là phương tiện để Kiến Tánh :Khởi Nghi tình rồi dùng Nghi tình mà phá rào vô thủy vô minh mà Nhập đất Như Lai ! ( Nguyên Lý Phá Nhập)
Vì Nghi tình là một giai đọan để đạt được Kiến Tánh, nên Nghi tình là chánh nghi
*
*
* Lê Anh Chí *.
_____________
Kinh sách tham khảo
Kinh :
Kinh Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận
Cuộc đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán
Kinh Trường A Hàm, dịch giả Thích Thiện Siêu
Kinh Kim Cang, dịch giả Đoàn Trung Còn
Kinh Kim Cang, dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh Kim Cang và Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú giải : Thích Huyền Vi
Kinh Kim Cang, dịch giả Thích Duy Lực
Ngữ Lục (đến đời Lục Tổ):
Sáu cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên
Luận Tối Thượng Thừa , Ngũ Tổ, dịch giả Thích Thanh Từ
Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh Trực
Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy Lực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác, dịch giả Trúc Thiên
Ngữ Lục (sau đời Lục Tổ):
Bá Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy Lực
Truyền Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy Lực
Cội nguồn truyền thừa và phương pháp tu trì của thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn tâm trực thuyết, Phổ Chiếu
Lâm Tế Ngữ Lục
Thiền Đốn Ngộ, nhiều tác giả : Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành Kim, Oánh Sơn, Hư Vân; dịch giả Thích Thanh Từ
Tọa Thiền Luận, Đại Giác, dịch giả Như Hạnh
Tu tâm quyết, Phổ Chiếu
Sách :
Tứ Diệu Đế, Thích Thiện Hoa
Thiền Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ
Tổ Thiền Tông, Thích Thanh Từ
Cao Tăng Dị Truyện, Hạnh Huệ biên dịch
Thiền Luận, Tập Thượng . Suzuki, dịch giả Trúc Thiên
*
*
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
-------------------------------------------------------
* Trang Chính * M ụ c L ụ c * Đoản Luận * Thơ *
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Nối kết Trang Nhà Phật Pháp Việt Nam * Nối kết Văn Học *
------------------------------------------------------------------------------
Bài mới Kiến Tánh * Bài mới Trang LêAnhChí *
Lê Anh Chí
__________________________________________
Dàn Bài :
I) Ba Phương Thức Thiền Tông
II) Pháp môn ‘‘Giải (đáp) công án’’
III) Giải (đáp) công án là tri thức chẳng phải Kiến Tánh
IV) Khởi nghi tình chớ chẳng phải là ‘‘tìm đáp án cho công án’’
V) Nghi tình chớ chẳng phải là nghi vấn
VI) Khởi Nghi tình rồi . . .
VII) Nguyên Lý Phá Nhập
VIII) Nghi tình chớ chẳng phải là nghi ngờ Chánh pháp
IX) Sao gọi là chánh nghi ?
__________________________________________
I) Ba Phương Thức Thiền Tông
Việc tu hành của pháp môn Kiến Tánh gồm 3 Phương Thức :
1) truyền tâm ấn tâm
2) tự tu bằng Kinh Kim Cang
3) khán công án, thoại đầu
Chỉ vỏn vẹn có 3, không hai, không bốn, không năm.
Xem bài
Nguyên Lý Phương Thức Thiền Tông
Từ 800 năm nay, phần đông hành giả Thiền Tông đều tu theo pháp
công án, thoại đầu.
Pháp khán công án, thoại đầu là: khởi nghi tình, kết nghi tình thành một khối, duy trì nghi tình, đến khi nghi tình bỗng tan vỡ thì Kiến Tánh.
Xin lưu ý : Công án khác thoại đầu
Công án là một câu chuyện.
Thoại đầu là một câu nói.
Công án và thoại đầu đều dùng để khởi nghi tình
Bài này sẽ dùng chữ Công án thay cho cả hai chữ Công án và thoại đầu.
II) Pháp môn ‘‘Giải (đáp) công án’’
Có một số nơi tu hành như sau : thầy đưa ra một vấn đề, gọi là công án, trò tìm cách giải công án đó ; hết công án này lại đến công án kia. Giải được khoảng hơn 700 công án thì được xem là bậc thầy, là đắc đạo
Tu hành như vậy, trong bài này, được gọi là theo Pháp môn ‘‘Giải (đáp) công án’’
III) Giải (đáp) công án là tri thức chẳng phải Kiến Tánh
Ba Phương Thức Thiền Tông đều cùng một mục đích : Kiến Tánh.
Kiến Tánh là chứng ngộ Phật Tánh,
là chứng ngộ Phật Tâm
là chứng ngộ Đại Niết Bàn,
là chứng ngộ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh,
là chứng ngộ Bản Thể của Tâm
Kiến Tánh là chứng ngộ, là một sự thực chứng. Thực chứng Đại Niết Bàn,
thực chứng Thường Lạc Ngã Tịnh ,thực chứng Trạng Thái Kiến Tánh
Kiến Tánh là một sự chứng ngộ , chẳng phải là Kiến Văn Giác Tri.
1) Biết rằng tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, rằng Phật Tánh của ta bình đẳng với chư Phật, đều là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Biết như vậy chẳng phải là Kiến Tánh .
Hiểu, tin rằng tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, rằng Phật Tánh của ta bình đẳng với chư Phật, đều là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Hiểu, tin như vậy chẳng phải là Kiến Tánh .
Nhận thức rằng tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, rằng Phật Tánh của ta bình đẳng với chư Phật, đều là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Nhận thức như vậy chẳng phải là Kiến Tánh .
Kiến Tánh là một sự chứng ngộ .
Nhận thức, hiểu, biết , tin như trên là thuộc về Kiến Văn Giác Tri, là lòng tin, là lý luận ( mà lý luận rất gần với hí luận), đều chẳng phải là Kiến Tánh ; mà chỉ là điều kiện cần thiết để tu theo Thiền Tông mà thôi !
2) Giải (đáp) công án là tri thức, là thuộc về Kiến Văn Giác Tri chẳng phải Kiến Tánh
Giải (đáp) được một công án chỉ là dùng lý luận để giải quyết một vấn đề (nhân tạo) là tri thức , chẳng dính dáng gì đến sự thực chứng Thường Lạc Ngã Tịnh, chẳng phải là Kiến Tánh.
Giải (đáp) được 700công án chỉ là dùng lý luận để giải quyết 700 vấn đề (nhân tạo) là tri thức , chẳng dính dáng gì đến sự thực chứng Thường Lạc Ngã Tịnh, chẳng phải là Kiến Tánh.
Vì mục đích Thiền Tông là Kiến Tánh
Cho nên,
Giải (đáp) công án là chẳng phải là Thiền Tông.
IV) Khởi nghi tình chớ chẳng phải là ‘‘tìm đáp án cho công án’’
Pháp khán công án, thoại đầu là: khởi nghi tình, kết nghi tình thành một khối, duy trì nghi tình, đến khi nghi tình bỗng tan vỡ thì Kiến Tánh.
Việc phải làm là khởi nghi tình chớ chẳng phải là tìm đáp án cho công án.
Cho nên,
Giải (đáp) công án là chẳng phải là Thiền Tông.
V) Nghi tình chớ chẳng phải là nghi vấn
Xin nhớ cho rằng đây là nghi tình ; nghi tình chớ chẳng phải là nghi vấn !
Thoại đầu không là một câu đố.
Công án không là một bài toán đố.
Tham công án, thoại đầu chẳng phải là để tìm đáp án cho một vấn đề.
Tham công án, thoại đầu để khởi nghi tình. Rồi sau đó , . . .
Rồi sau đó , như thế nào thì đã nói ở trên, và lập lại sau đây
VI) Khởi Nghi tình rồi . . .
Khởi Nghi tình rồi kết nghi tình thành một khối.
Pháp khán công án, thoại đầu là: khởi nghi tình, kết nghi tình thành một khối, duy trì nghi tình, đến khi nghi tình bỗng tan vỡ thì Kiến Tánh.
Tại sao tham công án, thoại đầu lại có thể Kiến Tánh ? - nguyên tắc là "dĩ độc chế độc" : Thiền sư Nguyệt Khê bảo rằng tu theo các pháp môn khác giỏi lắm chỉ đến "vô thủy vô minh", cần phải dùng "nhất niệm vô minh" để phá "vô thủy vô minh". Khi vô thủy vô minh bị phá thì Kiến Tánh.
Pháp tham công án, thoại đầu dùng nghi tình làm nhất niệm vô minh (để phá vô thủy vô minh) ; bởi vậy, cần khởi nghi tình, kết nghi tình thành một khối (ở giai đọan này, nghi tình là nhất niệm vô minh) và gắng sức giữ nghi tình :
nghi tình thành một khối là nhất niệm vô minh
vì nghi tình thành một khối và chỉ có một vô minh, nên vô minh này cũng là vô thủy vô minh
khi nghi tình bỗng tan vỡ thì "nhất niệm vô minh" bị phá và "vô thủy vô minh" cũng tan vỡ
khi vô thủy vô minh bị phá thì Kiến Tánh.
Tu theo Phương Thức này cũng cần có thầy vì : a) khởi nghi tình có thể làm thần kinh căng thẳng b) "thiền bệnh" : thiền sinh có thể có thiền bệnh ở vài giai đoạn của pháp môn.
Vì cần khởi nghi tình, kết nghi tình thành một khối (nhất niệm vô minh) , nên gọi đó là làm ra "cái độc", dùng "cái độc" này để phá "cái độc" vô thủy vô minh, nên gọi là dĩ độc chế độc
VII) Nguyên Lý Phá Nhập
Xem bài
Nguyên Lý Vượt Nhập và Phá Nhập
( Nguyên Lý Nguyên Lý Thiền Tông [3] )
1) Kiến Tánh = Nhảy Một Cái vào thẳng đất Như Lai
Trong Chứng Đạo Ca ,Thiền Sư Huyền Giác đã diễn tả sự Kiến tánh như sau :
NHẤT SIÊU trực nhập Như Lai địa
mà Trúc Thiên dịch :
Một nhẩy vào liền đất Như Lai .
đây là bản dịch ‘chính thức’ được nhiều người công nhận.
Tôi dịch là :
NHẢY Một Cái vào thẳng đất Như Lai
Dịch là Nhảy Một Cái thì gợi hình, gợi ý hơn và nhất là Việt hơn. Nhảy Một Cái còn nói lên được sự hoát nhiên của Ngộ.
Đây là cái nhảy siêu không gian, vượt thời gian.
2) siêu không gian
Nhảy từ Vọng tâm sang Chân tâm, từ thế giới Tam Độc sang thế giới Thường Lạc Ngã Tịnh, từ vũ trụ Ái Dục sang vũ trụ Phật Tánh , từ vũ trụ chúng sinh sang vũ trụ chư Phật.
3) vượt thời gian
Nhảy vượt ngược thời gian từ rào Vô Thủy Vô Minh sang Đại Niết Bàn, từ nghiệp chướng của vô lượng kiếp sang thời điểm Vô Sinh !
Để :
_NHẢY Một Cái vào thẳng đất Như Lai
có hai cách :
_Vượt Nhập : Vượt rào vô thủy vô minh mà Nhập đất Như Lai
_Phá Nhập : Phá rào vô thủy vô minh mà Nhập đất Như Lai
4) Nguyên Lý Phá Nhập là Phá rào vô thủy vô minh mà Nhập đất Như Lai !
Điển hình của Nguyên Lý Phá Nhập này là phương thức ‘tham công án thoại đầu‘ : dùng nghi tình làm nhất niệm vô minh để phá vô thủy vô minh .
Khi nghi tình bỗng tan vỡ thì "nhất niệm vô minh" bị phá và "vô thủy vô minh" cũng tan vỡ
Khi vô thủy vô minh bị phá thì
_NHẢY Một Cái vào thẳng đất Như Lai
tức Kiến Tánh.
Xem bài viết " Nguyên Lý Phương Thức Thiền Tông"
VIII) Nghi tình chớ chẳng phải là nghi ngờ Chánh pháp
Nghi tình chớ chẳng phải là nghi ngờ Chánh pháp
Trên con đường đến Thánh Đạo, ‘nghi ngờ Chánh pháp’ là một trong năm chướng ngại.
Đối với Thiền-tông, nhận thức, hiểu, biết , tin nhận Chân-tâm còn là điều kiện cần thiết để tu theo Thiền Tông :
Nghi tình chớ chẳng phải là nghi ngờ Chân-tâm
Khởi Nghi tình nhưng không nghi ngờ Chánh pháp , không nghi ngờ Chân-tâm
IX) Sao gọi là chánh nghi ?
Nghi tình là chánh nghi
Sao gọi là chánh nghi ? Vì :
_Nghi tình chớ chẳng phải là nghi vấn
_Nghi tình chớ chẳng phải là nghi ngờ Chánh pháp
_Nghi tình là phương tiện để Kiến Tánh :Khởi Nghi tình rồi dùng Nghi tình mà phá rào vô thủy vô minh mà Nhập đất Như Lai ! ( Nguyên Lý Phá Nhập)
Vì Nghi tình là một giai đọan để đạt được Kiến Tánh, nên Nghi tình là chánh nghi
*
*
* Lê Anh Chí *.
_____________
Kinh sách tham khảo
Kinh :
Kinh Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận
Cuộc đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán
Kinh Trường A Hàm, dịch giả Thích Thiện Siêu
Kinh Kim Cang, dịch giả Đoàn Trung Còn
Kinh Kim Cang, dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh Kim Cang và Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú giải : Thích Huyền Vi
Kinh Kim Cang, dịch giả Thích Duy Lực
Ngữ Lục (đến đời Lục Tổ):
Sáu cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên
Luận Tối Thượng Thừa , Ngũ Tổ, dịch giả Thích Thanh Từ
Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh Trực
Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy Lực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác, dịch giả Trúc Thiên
Ngữ Lục (sau đời Lục Tổ):
Bá Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy Lực
Truyền Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy Lực
Cội nguồn truyền thừa và phương pháp tu trì của thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn tâm trực thuyết, Phổ Chiếu
Lâm Tế Ngữ Lục
Thiền Đốn Ngộ, nhiều tác giả : Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành Kim, Oánh Sơn, Hư Vân; dịch giả Thích Thanh Từ
Tọa Thiền Luận, Đại Giác, dịch giả Như Hạnh
Tu tâm quyết, Phổ Chiếu
Sách :
Tứ Diệu Đế, Thích Thiện Hoa
Thiền Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ
Tổ Thiền Tông, Thích Thanh Từ
Cao Tăng Dị Truyện, Hạnh Huệ biên dịch
Thiền Luận, Tập Thượng . Suzuki, dịch giả Trúc Thiên
*
*
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
-------------------------------------------------------
* Trang Chính * M ụ c L ụ c * Đoản Luận * Thơ *
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Nối kết Trang Nhà Phật Pháp Việt Nam * Nối kết Văn Học *
------------------------------------------------------------------------------
Bài mới Kiến Tánh * Bài mới Trang LêAnhChí *
TRẦN BÌNH NAM * VIỆT NAM& TRUNG QUỐC
TRẦN BÌNH NAM *
Mối Quan Hệ Việt Nam – Trung Quốc Đầy Đe Dọa, 1991 – 2008
Ngày tháng: 03/12/2008
Trần Bình Nam04-12-2008
Hội nghị quốc tế nghiên cứu về Việt Nam (International Conference on Vietnamese Studies) lần thứ ba được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 4 đến 7/12/2008. Giáo sư Carlyle A. Thayer thuộc Viện nghiên cứu quốc phòng Úc châu trình bày tài liệu “Cấu trúc quan hệ Việt – Trung 1991-2008” (The Structure of Vietnam – China Relations, 1991-2008) nói về quan hệ Việt – Trung trong thời gian 17 năm, từ khi hai nước tái thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1991 (12 năm sau trận đánh biên giới 1979) cho đến hôm nay (2008).
Mối quan hệ Việt - Trung trong 17 năm qua thường được trình bày bởi giới chức Việt Nam và Trung quốc như một mối quan hệ thắm thiết anh em, mặc dù bên trong sóng gió không ít do việc Trung quốc muốn chính thức hóa quần đảo Hoàng Sa (Trung quốc chiếm bằng vũ lực năm 1974) thành đất của mình và lấn chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam.Chính quyền cộng sản Việt Nam từ Đại hội đảng lần thứ 10 (tháng 4/2006) đã có những cố gắng phát huy nội lực (tối tân hóa quân đội, nhất là hải quân) và sáng kiến ngoại vận (xích lại gần Hoa Kỳ, Ấn độ, Liên bang Nga – nhất là Hoa Kỳ), để tạo thế duy trì chủ quyền cố hữu của mình trên biển Đông.Tuy nhiên các nỗ lực của Việt Nam khai thác dầu khí trong vùng biển Đông với các nước Anh (hãng dầu BP, tháng 3/2007), Hoa Kỳ (hãng dầu ExxonMobil, tháng 7/2008) đều bị Trung quốc làm khó dễ (1).Kết quả BP phải tạm ngưng khế ước dò tìm dầu khí với Việt Nam chờ sự tranh chấp giữa Việt Nam và Trung quốc ngã ngũ.
Và thông tin mới nhất cho biết công ty ExxonMobil cũng lặng lẽ rút lui khỏi giao kèo với công ty dầu khí quốc doanh PetroVietnam (2) & (3) để khỏi thiệt thòi quyền lợi trong việc làm ăn với Trung quốc tại các nơi khác.Tài liệu “Cấu trúc quan hệ Việt – Trung 1991-2008” (34 trang) của giáo sư Carlyle Thayer ngoài phần đầu khá dài có tính tài liệu, liệt kê đầy đủ các cuộc trao đổi và thăm viếng giữa hai nước, và các nỗ lực của Trung quốc thông qua các nước trong khối Asean để làm cho Việt Nam lúng túng, phần còn lại giáo sư Carlyle Thayer đã trình bày một cách cụ thể thực chất của sự căng thẳng giữa Trung quốc và Việt Nam.Trong bối cảnh Việt Nam đang bị Trung quốc chèn ép, việc giáo sư Carlyle Thayer trình bày công trình nghiên cứu của ông tại Hà Nội trước một cử tọa có trách nhiệm về an ninh và quốc phòng Việt Nam là một điều có ý nghĩa.
Không ai có thể không ưu tư trước những thông tin này. Và những người lạc quan nhất trong đảng cộng sản Việt Nam cũng không thể không tự đặt lại vấn đề để thấy rằng chính sách của Trung quốc là một mối nguy cho sự sinh tồn của Việt Nam.Theo giáo sư Carlyle Thayer, Trung quốc không những đang ngăn trở Việt Nam khai thác tài nguyên tại biển Đông, Trung quốc còn dùng vị trí thượng nguồn của mình trên sông Cửu Long để ngầm đe dọa kho lúa gạo của Việt Nam trong đồng bằng sông Cửu Long nếu Việt Nam không ngoan ngoãn. Có hai tổ chức quốc tế khai thác sông Cửu Long. Tổ chức thứ nhất gọi là Greater Mekong Subregion – GMS do Ngân hàng Phát triển Á châu ADB thành lập năm 1992 với mục đích phối hợp khai thác kinh tế sông Cửu Long gồm các nước ven bờ Cửu Long như Trung quốc, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam (nhưng Trung quốc không chính thức là thành viên chỉ để cho vùng tự trị Vân Nam và Quảng Tây tham dự).
Tổ chức thứ hai thành lập năm 1957 với tên gọi đầu tiên là Mekong Committee gồm 4 nước Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam (Trung quốc và Miến Điện không tham dự) và sau nhiều lần tái tổ chức vì tình hình chính trị tại Cam Bốt cho đến năm 1995 có tên mới là Mekong River Commission –MRC có nhiệm vụ nghiên cứu ảnh hưởng môi sinh của các kế hoạch khai thác tài nguyên sông Cửu Long của từng nước. Trung quốc cố tình không tham dự hai tổ chức GMS và MRC để khỏi phải trả lời các than phiền của các quốc gia khác trước các kế hoạch kinh tế Cửu Long của Trung quốc có ảnh hưởng xấu đến môi sinh của các nước khác.Trung quốc đã cho xây nhiều đập sản xuất điện lực trên thượng nguồn sông Cửu Long và tổ chức MRC đã lưu ý Trung quốc ảnh hưởng đến dòng nước hạ nguồn, nhưng Trung quốc cho rằng hai vấn đề phát triển kinh tế và môi trường liên quan đến Cửu Long không thể cột vào nhau (3).
Thái độ thiếu hợp tác của Trung quốc làm cho các nước trong GMS không thể vạch kế hoạch kinh tế liên quan đến Cửu Long nhất là kế hoạch phát triển nông nghiệp trong đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam vì thượng dòng Cửu Long bị Trung quốc kiểm soát bởi các đập nước làm Việt Nam mất khả năng trị thủy.Việt Nam không có một diễn đàn nào để nói lên thế kẹt của mình. Qua MRC thì Trung quốc nói Trung quốc không là thành viên. Qua GMS thì đại diện hai vùng tự trị Vân Nam và Quảng Tây nói tổ chức GMS không có trách nhiệm bàn về môi sinh. Trung quốc đã cắn răng ngoãnh mặt làm ngơ không áp dụng nguyên tắc “môi hỡ răng lạnh” đối với Việt Nam trong trường hợp này!Tranh chấp biển Đông gay go hơn. Cuối năm 2004 sau khi Việt Nam cho biết có ký giao kèo khai thác dầu khí với một vài công ty nước ngoài, bộ trưởng ngoại giao Trung quốc đã vội vàng lên tiếng phản đối (3).
Tháng 3/2005 Trung quốc nói các thuyền đánh cá của họ bị [một bọn cướp biển] người Việt Nam tấn công trong vùng Trường Sa. Hai tháng sau họ trả đũa bằng cách đánh đắm một tàu chở hàng của Việt Nam ngoài khơi Thượng Hải.Một hội nghị chuyên viên để giải quyết các bất đồng trên biển Đông triệu tập trong tháng 11/2005 cũng chỉ tạo thêm bất hoà. Trung quốc nhất định không chịu bàn về Hoàng Sa mà chỉ giới hạn bàn về Trường Sa (3) với nghị trình xác định xem vùng nước và thềm lục địa nào thuộc Trung quốc.Tháng 4/2006, đại hội 10 của đảng cộng sản Việt Nam thông qua quyết nghị canh tân đất nước, tối tân hoá quân đội để đủ sức bảo vệ tổ quốc. Tháng 1/2007 Hội nghị Trung ương đảng (kỳ 4 khoá 10) thi hành quyết nghị của đại hội 10 chỉ thị thành lập một Ủy ban nghiên cứu, phát thảo kế hoạch dựa vào sự khai thác tài nguyên biển Đông là chính để hoàn tất mục tiêu vào năm 2020.
Theo giáo sư Carlyle Thayer vào cuối năm 2007 kế hoạch này đã được hoàn tất nhưng không được đưa ra công khai (3).Sự việc ExxonMobil đã ngưng giao kèo với PetroVietnam là một việc không mấy khích lệ cho Việt Nam. Khi vụ ExxonMobil xẩy ra, Hoa Kỳ, Việt Nam và công ty ExxonMobil đều có thái độ cứng rắn, nhưng sau cùng Hoa Kỳ đành nhượng bộ Trung quốc một bước.Hoa Kỳ đang trải qua cơn suy thoái kinh tế và Hoa Kỳ đang cần Trung quốc giúp đỡ. Để cho sự suy thoái kinh tế (recession) không biến thành khủng hoảng kinh tế (depression), Hoa Kỳ phải chi tiền để cứu (bail out) các công ty đầu tư, các ngân hàng và các cơ sở kinh tế tài chánh. Muốn chi Hoa Kỳ phải phát hành công khố phiếu, và Trung quốc là quốc gia duy nhất có đủ dự trữ ngoại tệ để mua công khố phiếu của Hoa Kỳ.
Với sự suy thoái hiện nay, sức tiêu thụ hàng hóa toàn cầu (nhất là tại Hoa Kỳ) giảm sút, nền kinh tế sản xuất của Trung quốc cũng bị ảnh hưởng, cho nên việc giúp Hoa Kỳ của Trung quốc cũng là một cách giúp mình.Tuy nhiên Trung quốc có một con đường khác để duy trì sức sản xuất trong nước bằng cách đầu tư vào các dự án (nhất là các dự án xây cất) để tạo ra công ăn việc làm và duy trì sức tiêu thụ của dân chúng. Vì vậy Trung quốc không nhất thiết phải giúp mua công khố phiếu của Hoa Kỳ nếu Hoa Kỳ không làm hài lòng Trung quốc ở những lĩnh vực trao đổi khác (4). Việt Nam vô tình trở thành nạn nhân của cuộc đổi chác không tên này .Theo giáo sư Carlyle Thayer, trong tháng 8/2008 có bốn trang Web tư nhân bằng Hoa ngữ lập luận rằng Việt Nam là trở lực chính của Trung quốc.
Và nếu Trung quốc muốn xác định tư thế nước lớn và ảnh hưởng trong vùng việc đầu tiên Trung quốc phải làm là chiếm đóng Việt Nam. Các trang Web nói trên còn đưa ra các kế hoạch đánh chiếm Việt Nam sao cho thật gọn nhẹ (3). Việt Nam đã chính thức yêu cầu Trung quốc ra lệnh rút các trang Web kia xuống, nhưng hình như Trung quốc làm ngơ cho rằng đó không phải là chủ trương của nhà nước Trung quốc.Theo giáo sư Carlyle Thayer các nước trong vùng Á châu Thái Bình Dương có năm đối sách đương đầu với ý đồ bành trướng của Trung quốc (3). Thứ nhất là đối kháng (balancing), thứ hai là đánh nhiều mặt (hedging), thứ ba là đứng về phiá kẻ mạnh (bandwagoning), thứ tư là ngoại giao (engagement), và sau cùng là mê hồn trận ngoại giao quốc tế (omni-enmeshment).
Đối kháng có hai hình thức, hoặc liên minh với các quốc gia đồng quyền lợi để cùng chống Trung quốc, hoặc phát huy nội lực mà chính yếu là huy động sức dân và canh tân quân đội. Đánh nhiều mặt gồm áp dụng nhiều giải pháp cùng một lúc, thí dụ vừa ngoại giao mềm dẽo, vừa cứng rắn. Đứng về phiá kẻ mạnh là phương án làm vui lòng kẻ mạnh để mua lợi ích kinh tế và giảm áp lực. Phương án ngoại giao tự danh từ đã giải thích. Và mê hồn trận là phương pháp dùng ngoại giao lắt léo, nhiều mặt, nhiều đường để đưa kẻ địch vào sự ràng buộc của luật lệ quốc tế.Kế sách đáp ứng của Việt Nam trước áp lực của Trung quốc cho đến nay không có gì rõ ràng. Hình như Việt Nam đang thử phương án đánh nhiều mặt, và đưa Trung quốc vào mê hồn trận ngoại giao quốc tế. Tháng 12/2007 sau khi Trung quốc cho thành lập thành phố Tam Sa, Hà Nội cho phép thanh niên sinh viên biểu tình hai lần, sau đó cấm cản.
Mặt khác mới đây các nhân vật lãnh đạo cao cấp của Việt Nam chia nhau đi “xoa diụ” và “cầu viện”. Cuối tháng 5/2008 Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đi Tàu, cuối tháng 6/2008 thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đi Mỹ, tháng 10/2008 thủ tướng Dũng lại đi Tàu, đồng thời Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đi Nga.Trên mặt mê hồn trận, Việt Nam thường nhắc nhỡ đến luật biển, viện dẫn Thỏa ước về sự ứng xử trên biển Đông (5), và cảnh gíác Trung quốc rằng Việt Nam có thể đưa vấn đề tranh chấp biển Đông ra Liên hiệp quốc và Toà án quốc tế (6).Việt Nam cũng không quên phương án đối kháng, như chỉ thị canh tân quân đội, và gần đây nhất đã huy động một cuộc “biểu tình trên mạng” bằng cách cho phép VietnamNet (một mạng điện tử của nhà nước) đăng tải hằng lọat lời ủng hộ của mọi tầng lớp quần chúng ủng hộ lập trường “Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam” của chính phủ và phản đối gay gắt quyết định của Trung quốc cho tập đoàn dầu khí quốc doanh Cnooc Ltd. (China National Offshore Corporation) dò tìm và khai thác dầu khí trong vùng tranh chấp tại Trường Sa (7).
Liên minh với Hoa Kỳ để bảo vệ nguồn dầu khí tại biển Đông và sự tự do lưu thông của tàu thuyền cũng là một phần của phương án đối kháng, nhưng như đã nói ở trên Hoa Kỳ đang ở một thời điểm khó khăn để mạnh tay giúp Việt Nam.Tình hình chung cho thấy Việt Nam đang lâm nguy. Các phương án thoát hiểm hữu hiệu rất ít và Việt Nam cũng không còn nhiều thì giờ. Tuy nhiên lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam cho thấy Việt Nam có thể thoát hiểm nếu người cầm quyền (bất cứ là vua thay trời trị dân hay một đảng độc tài) biết đoàn kết toàn dân để huy động nội lực của dân tộc.
Đảng cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo quốc gia. Bề ngoài Việt Nam có vẻ phát triển và ổn định, nhưng thực tế Việt Nam là một quốc gia rã rời thiếu nội lực. Sức mạnh của dân tộc không hội tụ lại được dưới sự cai trị độc tài của đảng cộng sản Việt Nam. “Biểu tình trên mạng” không tạo ra sức mạnh và chẳng dọa được ai!Đảng cộng sản Việt Nam đang nắm ưu thế chính trị tại Việt Nam và có đủ điều kiện để cứu nước nếu đảng cộng sản Việt Nam quyết định cởi bỏ chế độ độc tài, dân chủ hoá đất nước để mọi tầng lớp nhân dân, qua một chế độ chính trị đa nguyên, được đóng góp ý kiến và sức lực bảo vệ tổ quốc.Khi nội lực của dân tộc đã được triển khai, trước hết Trung quốc phải e dè vì họ là người biết nhìn lại lịch sử. Họ sẽ không quên Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa …
Và thế giới - chủ yếu là Hoa Kỳ - sẽ tin tưởng để bạo dạn hơn trong chương trình liên minh với Việt Nam để bảo vệ quyền lợi kinh tế và chiến lược chung. Có nội lực Việt Nam cũng không sợ ai sẽ bỏ mình.Trong bối cảnh hiện nay, cuộc hội thảo quốc tế về quan hệ Việt - Trung tại Hà Nội từ ngày 4 đến 7/12/2008 với những thông tin có tính cảnh giác trong bản thuyết trình của giáo sư Carlyle Thayer đến thật đúng lúc .Lương tri và trách nhiệm của những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam không bùng dậy lúc này thì còn chờ lúc nào? (8)
==
(1) Báo “South China Morning Post” ngày 20/7/08 phát hành tại Hồng Kông: Trung quốc đã áp lực công ty ExxonMobil của Hoa Kỳ rút ra khỏi thỏa thuận dò tìm và khai thác dầu khí trong biển Đông ExxxonMobil vừa ký với công ty quốc doanh PetroVietnam.(2) “China-Vietnam ties remain more sour than sweet” by Roger Mitton, Asia Sentinel Consulting, 14/11/08,(3) “The Structure of Vietnam-China Relations, 1991-2008”, paper by Professor Carlyle Thayer for the 3rd International Conference on Vietnamese Studies, Hanoi, Vietnam, 4-7/12/2008(4) Theo “A Path Out of the Woods” by Fareed Zakaria, Newsweek Dec. 1, 2008(5) “Thỏa ước về cung cách hành xử và giải quyết các tranh chấp trên biển Đông” (Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea – DOC) khối Asean ký với Trung quốc năm 2002. (6) Phỏng vấn ông Lê Công Phụng, đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ ngày 23/9/2008 của nhà báo Lý Kiến Trúc, Tạp chí Văn Hóa số 132(7) Theo bản tin RFA ngày /12/2008http://www.vietnamnet.vn/bandocviet/2008/12/816344/(8) Tài liệu tham khảo: 8.1 “Việt Nam trên đe dưới búa” (6/2008)http://www.tranbinhnam.combinhluan/Vietnam_TrenDe_DuoiBua.html8.2 “Trung quốc khiêu khích Hoa Kỳ” (7/2008)http://www.tranbinhnam.com/binhluan/TrungQuoc_KhieuKhich_HoaKy.html8.3 “Đài RFA phỏng vấn Trần Bình Nam về vụ ExxonMobil” (7/2008)http://www.tranbinnhnam.com/binhluan/AChau_TuDo_PhongVan_Ve_ExxonMobil.html8.4 “Trung quốc muốn dạy Việt Nam một bài học” (8/2008)http://www.tranbinhnam.com/binhluan/Trungquoc_MuonDay_VN_MotBaiHoc.html8.5 “RFA phỏng vấn về tranh chấp biển Đông (8/2008)http://www.tranbinhnam.com/binhluan/RFA_Phongvan_VeBienDong.html8.6 “Chuyến công du Trung quốc gian nan của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (10/2008http://www.tranbinnhnam.com/binhluan/CongDu_TrungQuoc_TTDung.html
==
TIN TỨC * CÔNG AN TRUNG CỘNG GIẢ SƯ TÂY TẠNG
GS. NGUYỄN CAO HÁCH * HIẾN PHÁP HOA KỲ
Prof. NGUYỄN CAO HÁCH
Năm 1878, khi Hiến Pháp Hoa Kỳ sắp sửa trọn vẹn Đệ Nhất Bách Chu Niên, Thủ Tướng Anh Cát Lợi William E. Gladstone long trọng tuyên bố là Hiến Pháp Hoa Kỳ ban hành năm 1787 quả là “áng văn long trọng của thời kỳ đó do trí óc và nguyện vọng con người đã sáng tạo ra” (the most wonderful work ever struck off at a given time by the brain and purpose of man”).
Ngay thời đó, dân Mỹ không để ý tới toàn thể bản văn của Gladstone, trong đó tác giả đã phân tích rõ ràng các khiá cạnh tế nhị và phức tạp trong lời khen thán phục của mình.. Và cũng không chú ý rằng, ngay thời kỳ đó, thẩm phán tối cao Johnson (Supreme Court Justice William Johnson) đã viết ra một đoạn văn gần như tương tự, ngay từ năm 1823.
Dù sao, thì với thời gian dần dần trôi qua, câu văn thán phục của Gladstone “đã được nhắc lại nhiều nhất” đối với Hiến Pháp Hoa Kỳ (“the most commonly quoted observation about the U.S. Constitution”), vì dân Mỹ “đã quá quen tự hào và cũng vì thế nên quá ít để ý tới khung cảnh chính quyền của xứ mình” (“Americans have taken too much pride and proportionately too little interest in their frame of government”).
Một giáo sư chuyên giảng dạy các định chế chính trị, Charles Black, đã đặt câu hỏi sau đây khi bàn đến lời tuyên bố của Gladstone: “Được lắm, nếu không phải là Hiến Pháp Hoa Kỳ, thì áng văn nào là vĩ đại nhất mà, một thời nào đó, đã do trí óc và lương năng của con người tạo rả”
Mọi người đều đồng ý: Hiến Pháp Hoa Kỳ rực rỡ nhất trong lịch sử nhân loa.i. Vậy theo đúng con đường đó để áp dụng phải là trách nhiệm của toàn thể chúng ta. Một điểm quan trọng phải chú ý: áp dụng đúng Hiến Pháp phải là trách nhiệm của toàn dân, không phải là trách nhiệm của riêng một nhóm người cầm quyền cai trị.
Hiến Pháp bắt đầu bằng câu: “We the people of the United States” (chúng ta công dân Hoa Kỳ): nó quy định rõ ràng hoàn toàn trách nhiệm thuộc về người dân. Cũng vì thế nên câu “chính quyền tự trị” (self-government) rất thông du.ng. Công dân nào cũng lãnh phần trách nhiệm đó. Người nào cũng sẵn lòng hy sinh để bảo vệ Hiến Pháp.
Nhưng muốn áp dụng Hiến Pháp thì phải hiểu rõ Hiến Pháp. Nên chú ý đặc biệt tới một chuyên gia nổi tiếng về nghiên cứu Hiến Pháp và là tác giả sách The Age of American Law đã ví thời ban hành Hiến Pháp Hoa Kỳ với thời đại văn hào Shakespeare tạo ra các bi kịch nổi tiếng và thời Mozart tạo những bản âm nhạc kiệt tác, trước kia và sau này không có kiệt tác nào có thể bì đươ.c.
Hiến Pháp Hoa Kỳ quả là “không tiền khoáng hậu”. Các nhà cách mạng Mỹ thời đó đã sáng tạo một thể chế chính trị mới. Trong một thời kỳ lịch sử mà toàn thế giới chỉ có những chế độ quân chủ độc tôn (absolute monarchy) hoặc những chế độ hà khắc độc đoán (despotism), người Mỹ thời đó đã sáng tạo chế độ cộng hoà (republic), -- một chế độ mà liïch sử đã chứng minh là hơn vượt bực các thời kỳ oanh liệt của Đế Quốc Hy Lạp và La Mã cổ xưa. Người ta đã tặng thời kỳ sáng chói vô song đó là Thuở Bình Minh ( Enlightment).
Nhóm người sáng lập thời kỳ mới có phần đề cao cảnh giác hậu quả lâu dài của công việc mình làm đối với quốc gia vừa mới sáng lập và đối với các thế hệ tương lai. Với lòng tin tưởng là các thế hệ sau này sẽ tiếp tục tăng tiến để thể hiện một tương lai tiệm tăng tới một chế độ sáng lạn khả dĩ làm gương cho các thể chế của loài người.
Lịch sử đã tặng cho nhóm sáng lập viên đó mỹ danh là “những nhà sáng lập” (the Framers). Nhóm đó đã tạo một mỹ từ để chỉ toàn thể dân chúng: “Chúng ta nhân dân” (“We the People”), nó là một lời ước hẹn và tin tưởng đối với cả hiện tại và tương lai.
Đây là cả một ước hẹn và tin tưởng là một chính quyền chỉ có thể hợp hiến và hợp pháp và tồn tại lâu dài khi nào toàn dân thỏa thuận ủng hộ theo chính nguyện vọng của Dân, và dân tự nguyện ủng hộ (active participation of the governed).
Tác giả Woodrow Wilson đã viết trong cuốn Constitutional Government in the United States (1908): “Một chính quyền hợp hiến chỉ có thể sáng lập và tồn tại trong một thể chế đặt trên quyền lợi và nguyện vọng chung, và nó không thể phục vụ quyền lợi của riêng một nhóm người mà không phải là cộng đồng dân chúng” (“Constitutional Government can exist only where there is actual community of interest and of purpose, and cannot, if it be also self-government, express the life of any body of people that does not constitute a veritable community”).
Đó là những tư tưởng cao siêu của người thời xưa. Ngày nay, đầu thế kỷ 21, ta khó mà nói được là toàn thể đại chúng đều nghĩ như thế. Một tác giả đã viết một cách thực tế hơn: “Ta làm sao mà kết luận rằng đại đa số dân chúng đồng ý về những ý niệm mà chưa chắc họ đã hiểu là gì?” (“It is hard to see how the vast majority of the population can be presumed to have agreed to something that they could not conceive of?”). Thay vì được giảng dạy rành mạch về các vấn đề phức tạp đó, người dân chỉ đọc những biện luận từ chương bởi một số phê bình gia chuyên môn trong mỗi lãnh vư.c.
Ngày nay các bản án của Tối Cao Pháp Viện (Supreme Court) xuất bản dưới nhan đề United States Reports đóng thành những quyển sách rất dày, đã quá 500 cuốn, mỗi cuốn hơn ngàn trang. Đó là một kho tàng qúy báu. Thẩm phán Tối Cao William Douglas đã nói: “Thực quyền lớn nhất của Tối Cao Pháp Viện là khả năng và cơ hội huấn luyện giáo dục và lãnh đạo tinh thần” (“The Court’s great power is its ability to educate to provide moral leadership”).
Vậy tiêu chuẩn vững nhất để lựa chọn giữa rừng ý kiến đó là xem một ý kiến xác định có phù hợp với các tiêu chuẩn chính yếu của Hiến Pháp hay không?
Goldstein, tác giả cuốn The Intelligible Constitution (1992) đã nhận định rằng Tối Cao Pháp Viện có trách nhiệm hiến định của một “Thầy giáo cộng hòa” (Republican schoolmaster) là trình bày cho toàn dân các vấn đề chính yếu của mỗi thời đại, tức là xây dựng và duy trì những tương quan hợp lý để toàn dân hiểu rõ các vấn đề chính yếu của mỗi giai đoạn (“the important issues of the day”). Đó là nhiệm vụ giáo dục đại chúng.
Đại chúng Hoa Kỳ vẫn tôn trọng truyền thống trình bày và tranh luận về các truyền thống căn bản, nó là nền tảng của xã hội này. Các giá trị tinh thần đó bắt nguồn từ lịch sử, và nội tâm tinh thần của nó biến theo từng giai đoạn lịch sử liên hệ. Vấn đề đã được Alexander Hamilton phân tích rõ ràng trong tài liệu lịch sử Federalist Paper No 1 (1787) xuất bản khi Hiến Pháp còn đang trong thời kỳ tranh luận: “It seems to have been reserved to the people of this country, by then conduct an example to decide the important question, whether societies of men are really capable or not of establishing good government from reflection and choice or whether they are forever destined to depend for their political constitutions on accident and forcẻ”
Vấn đề đã được trình bày rất minh bạch bởi James Wilson, một trong sáu thẩm phán của Tối Cao Pháp Viện đầu tiên:“The science of law should, in some measure and in some degree, be the status of every free citizen, and of every free man. Every free citizen and every free man has duties to perform and rights to claim, unless, in some measure and in some degree, he knows these duties and rights, he can never act a just and independent part”.
Tóm lại toàn dân phải hiểu rõ Hiến Pháp của xứ mình. Nếu không, chính mình mới là mối đe dọa cho chế độ cộng hòa. Abraham Lincoln, ngay tại Gettysburg đã định nghiã rõ ràng: “Chế độ của chúng ta do nhân dân sáng lậïp, do nhân dân thi hành, và phục vụ nhân dân” (A government of the People, by the People, and for the People)
GS.ĐẶNG PHÙNG QUÂN * TÌM KIẾM TRIẾT GIA
TÌM KIẾM TRIẾT GIA
Đặng Phùng Quân
Đặng Phùng Quân
LTG. Bài viết này “Thay lời nói đầu” cho quyển sách xuất bản vào năm 1973 - hơn một phần tư thế kỷ - đối với tác giả, coi như đã thất lạc nay tìm lại, nhờ một người bạn vong niên giữ được một bản mới vừa gửi tặng (anh viết: cho châu về Hiệp phố - tháng 11 năm 2007).
Hôm nay giở lại trang sách cũ, chạnh nghĩ đến thế sự, muốn đưa ra đây như một lời tâm huyết gửi bạn đồng tâm.
Hoàng Sa/Trường Sa?
Có
người bạn trẻ hỏi: những nhà trí thức đi đâu hết rồi? - tôi cũng có lần
hỏi: tâm sự của nhà triết học Trần Đức Thảo, những người trí thức Việt
Nam khác có lỗ tai để nghe không?
Tôi cũng nhận được Bản
Lên Tiếng kháng cáo Trung Cộng âm mưu chiếm đoạt hai đảo nói trên, và
kêu gọi “chính quyền Việt Nam” phải động thái? - tôi không ký vì một lý
do đơn giản: tôi không nhìn nhận “nhà cầm quyền Hà Nội” - song tôi đồng
tình với những cuộc xuống đường: những đợt sóng đầu tiên sẽ dấy lên sóng
thần cuốn đi những “trầm tích” của lịch sử (trong Phê phán hệ tư tưởng
Mác-xít (x.b. 2002) tôi đã viết: Sự cáo chung của chế độ cộng sản tại
Nga và Đông Âu đã tạo những hụt hẫng cho những nước còn tồn tại dưới lá
cờ Mác-Lênin. Vì thế danh xưng chủ nghĩa xã hội chỉ là một hư từ chính
trị trong việc biện minh cho sự tồn tại chính trị của đảng cộng sản ở
những nước trầm tích này.)
Bạo lực là một vấn đề đối với triết học: khi một nước lớn đàn áp một nước nhỏ dưới bất kỳ hình thức nào thì chỉ có một động thái đối kháng bằng bạo động. Nguyên lý ấy không bao giờ thay đổi.
Diogène một ngày kia cầm đèn lồng thắp sáng đi giữa thanh thiên bạch nhật “tìm kiếm con người” - không ai biết ông có gặp cái bóng mình? Triết lý, khởi sự bằng kinh ngạc, nhưng cũng kêu gọi tới sự suy tưởng độc đáo. Kẻ đi suy tưởng về chính mình, gây mối nguy cơ cho bản thân và cho xã hội. Bởi vì tra hỏi, tức là nghi hoặc, và ngờ vực nên phải đi tìm kiếm. Có một lịch sử những tư tưởng vẽ lại những lối đường giải đáp, như cũng có một khoa học chối từ những tư tưởng, hệ thống để vạch ra một lịch sử khác, lịch sử những con người đi suy tưởng trong những chiều hướng, kích thước của tư duy, của lý trí, của văn hóa đã thành.
Khảo cổ học, từ ngữ mang sắc thái thời thượng biểu thị một nỗ lực vượt ra bên ngoài những giai tầng văn hóa, khai quật lại những lớp trầm tích tư tưởng vô sở trú, vô ngôn.
Bản viết này không nhằm đi tạo dựng một biểu đồ lịch sử triết học, nhưng chỉ phác thảo những nét đại cương khảo cổ học về một nền triết học đã thành. Phải chăng triết gia không còn hiện hữu?
*
* *
Có ai trong đời sống làm triết lý, bây giờ, mà không đặt vấn đề về sự cần yếu của triết học thực hiện trong thế giới bạo hành? Triết học dường như không phải chỉ để dành nói về con người, nhưng triết học cũng không khả hữu nếu không ngừng hỏi về yếu tính con người. Vấn nạn đó hàm ngụ sự tìm kiếm ý nghĩa cho chính con người một định nghĩa. Con người bản nhiên là một con vật - như muốn tự hữu, muốn là một cái khác để tự nhận biết là mình phải có lý trí. Người là một con vật được phú cho lý trí (ratio) và ngôn ngữ (logos). Logos hy lạp hàm ngụ ngôn từ, ratio la tinh bao hàm khả năng dự tính và suy tưởng. Dự tính chỉ thị sự vén mở những mã số hữu thể luận - phải chăng con người được mô tả như một hữu là cái nó không là, bởi vì tự yếu tính người là chính sinh thành như chính tự thành.
Nói như Hegel, người mang theo hủy
thể tính của chính mình. Con người có lý trí bởi vì con người có khả
năng thực hiện hủy thể chính mình, không những điều con người nói về
mình, nhưng cả những gì con người tạo trong cuộc đời của mình. Lý trí
được phú cho không phải là một phẩm tính của sự vật, của đối tượng con
người bắt gặp, tìm thấy trong thế giới như tìm thấy những cây cối; lý
trí không vẽ ra tự ngoại tại, như một tha thể, nhưng tự phác họa như thể
trong khi vận chuyển, lý trí là chính lý trí tự phác họa, lýù trí trong
chính sự vật, lý trí tự suy và lý trí tự hủy. Khả tính phú cho không
hiểu theo nghĩa con người có được những bàn tay, hay biết đi đứng; con
người được phú cho lý trí như chính lý trí gắn liền trong một thân xác
động vật, phải biến đổi qua lý trí và dựa theo lý trí. Lý tính không còn
mang theo niềm tin bí nhiệm đã xây dựng lên triết học đại duy lý như
thế kỷ XVII, bởi vì lý tính không đem lại những thỏa mãn cho những vấn
đề siêu hình dựa trên một vô cùng vô hạn tích cực, ở đó ý niệm phủ định
khả hữu, trong khi lý trí là chính sự hài lòng, như một hiện diện vô
song, tồn tại ngay trong cả sự vắng mặt của mọi xác quyết tích cực,
khẳng định. Hiện diện đơn thuần chỉ khả hữu, như hình dáng hiện vào
trong bóng tối, như sự vắng mặt của ngày là đêm, là ý thức trải dần trên
vô thức.
Con người là chính mình - không gì khác hơn con người - là lý trí, không những chỉ hữu lý, nhưng bao gồm cả lý giằng buộc vào trong một thân xác khốn khổ đầy những đòi hỏi, khao khát mù lòa, đam mê ngông cuồng. Công việc đời trong cần lao nhân tính, ngày lại ngày, vươn tới nỗ lực nhằm biến đổi hữu thân mang nặng những hành trang trên con đường tiến mà không bao giờ lùi lại được, giao kết trong thường hằng của cuộc sống trồi lên giữa hai vực thẳm tương xứng của sự khai sinh và nỗi chết. Chết - cái phi thực (Unwirklichkeit) ấy, là một điều khủng khiếp nhất (furchtbarste) phải đương đầu trong sức lực phi thường nhưng không bao giờ chạm mặt; sống là chịu đựng cái chết và tự bảo toàn trong cái chết; tinh thần chỉ đạt tới chân lý khi tự tìm thấy mình trong sự xâu xé (Zerrisenheit) tuyệt đối. Con người tình nguyện chấp nhận cái chết, hướng về nó trong tri thức nguyên cớ, người là một hữu thể ý thức cái chết của mình [1]. (Phải chăng một triết học về điều chết bao giờ cũng tuyên xưng vô thần?)
Biến đổi, đó là mục phiêu của cả cuộc đời triết lý nơi con người, giản lược cái phần còn hữu lý, nhiên hậu cả con người là lý trí, tưởng chừng như chưa bao giờ thành tựu. Vẫy vùng, phung phá, biến đổi như thể làm chủ tuyệt đối chính mình, khởi sự rồi thất bại, miên tục trong dòng luân lưu của đời sống tương tranh với Tha thể; không bao giờ con người toàn diện là lý trí nhưng cũng đôi lúc là lý trí, đôi lúc là tự do, là thượng đế trong một vài thời khoảng, hiện diện trước thế giới hiện diện, có tích cực bởi phủ định hủy thể tính vô thức, tuyên xưng hữu lý, con người vươn tới sự biểu lộ khao khát được tự do, người là chính niềm khát vọng trong những thời khoảng của hạnh phúc tuyệt đỉnh, của viên giác không thể diễn tả, ở đó người đã sống, đã chấp nhận không phải cho lý trí nhưng chính con người tự thành lý trí. Một lý trí ngay trong cuộc đời phục vụ cho cuộc đời, khát vọng và nhu yếu. Nhưng người là gì? Cùng lý trí đó, người không là cái gì là người, bởi vì người không muốn là cái gì là nó, vì không bằng lòng là cái gì tại hữu, không bằng lòng có cái gì tại hữu. Lý ưng, người lại là con vật biết nói, biết sử dụng ngôn ngữ để nói không trước cái gì tại hữu. Khát vọng tại hữu và tự do thúc đẩy nó biến đổi, nhưng nếu con người phải biến đổi, thì cái cần phải biến đổi, chính là con người. Khởi sự ly cách giữa con người của cuộc sống thông thường với con người triết lý từ đó. Bởi vì con người triết lý muốn trở thành nhà triết học, muốn lý trí mang ý nghĩa, đã bị kết án vào chọn lựa nhưng không phải ở đời sống thường nhật. Lý trí trở thành một cái khác; công việc đời sống hàng ngày nơi con người thường làm bộ lạ mặt với công việc của nhà triết học; con người triết lý bởi vì hữu lý có thể tự thành nhà triết học, nhưng con người không triết lý chỉ vì hữu lý bởi con người cũng bận rộn với công việc một cách hữu lý, giải quyết một cách minh mẫn mà suốt đời không cần bận tâm đến triết học là gì.
Triết học chắc chắn chinh phục được người khác nếu họ muốn nghe; nhưng có điều là người khác không muốn nghe thì nhà triết học làm gì?
Chọn lựa triết lý, không phải vì triết học đã hoàn tất chân lý nhưng chính vì chọn lựa hàm ngụ những khả hữu mà trong muôn vàn những khả hữu quan trọng đối với con người triết học là một khả hữu tính của con người phụ thuộc vào lãnh giới con người có thể làm hay không thể làm được gì. Người là một hữu thể biết suy nghĩ, biết nói, vả lại, con người sống, cảm thấy đang sống trong cuộc đời này, con người có thể làm triết học, tìm kiếm hiểu biết và khôn ngoan. Triết lý trong tình trạng sơ sinh - in statu nascendi.. Chọn lựa triết lý, trong khi triết học không thể minh chứng chân lý cho con người, bởi vì nhà triết học đã phải chọn lựa đối với chính mình trước khi chứng tỏ bất cứ điều gì mà minh chứng chỉ có giá trị đối với con người, đã chọn lựa sự chứng minh.
Khả
hữu tính triết lý là một khả hữu của con người, nhưng đã là khả hữu chỉ
thị điều gì có thể thì những khả hữu khác cũng xuất lộ như tự do đối
với tất yếu, im lặng trước ngôn từ. Im lặng giả định ngôn từ. Nhưng ai
nói? Đó là câu hỏi nguyên ủy chung quanh định mệnh con người, tương quan
giữa hữu và ngôn ngữ, đặt lại số phần của văn hóa và tri thức. Ngôn
ngữ, ký hiệu, lời thốt ra nhằm đối diện với hữu thể của con người biết
nói, phải chăng câu trả lời chỉ tìm thấy nơi chính sự thực hiện cụ thể,
chính nơi chữ nghĩa, như Mallarmé đã kiếm được, trong mỗi dòng chữ mỏng
manh, mang chất liệu vẽ lại bằng mực trên trang giấy. Con người không
ngừng tự xóa mình lẫn vào ngôn ngữ của riêng mình để thực hiện Tác phẩm
phối hợp nơi diễn từ. Tư tưởng lại diễn về diễn từ; ở đó hữu thể và biểu
tượng nơi tư tưởng cổ điển không còn đặt thành vấn đề nữa. Con người
hành động một cách hữu lý theo diễn từ. Đối với nhà triết học, chắc chắn
diễn từ có một ý nghĩa tất yếu, ngay cả khi triết học phản kháng chống
lại diễn từ, bởi vì phản kháng lại nhờ vào một diễn từ. Giữa những diễn
từ kháng đối lẫn nhau, lý trí trở thành tính khả hữu nơi con người và
triết học là một chọn lựa tuyệt đối.
Đối diện với triết học, phi triết học biểu thị thái độ biến diễn từ thành thù hận (như trường Hàn lâm định nghĩa: Aphilosophia: êxis kath'en ô êchon misologos esti). Yếu tính triết học dường như vén mở một bí mật trong cuộc tương tranh tư tưởng và giả tư tưởng, nhờ vào diễn từ của đối thủ đối nghịch với diễn từ hữu lý, nhờ vào phi triết học: cuộc tranh đấu thân hữu khởi sự nơi ngôn ngữ, chữ viết có tính cách phá hủy và tự hủy, ngôn ngữ trở thành bạo động và nhà triết học muốn bạo động tan biến trong thế giới này. Bạo động không còn là vấn đề nhất thời, diễn biến của khoảnh khắc, biến cố trong lịch sử nhưng bạo động là hồi cố của ngôn từ, khả tính của diễn từ, là thường hằng - mà thường hằng thì luôn luôn thách đố nơi con người.
Lý trí và bạo động cùng có tính chất khả hữu: con người thường không chấp nhận luận ngôn của kẻ khác và tìm kiếm thỏa thích trong nỗ lực tranh đấu cho luận ngôn của mình nhưng không có giá trị duy nhất cho mình, nhưng cho mọi người, nỗ lực thúc đẩy thành phổ quát toàn diện hóa đối đầu với sự tiêu diệt những luận ngôn không phải là luận ngôn chọn lựa; con người chỉ muốn tự diễn như một hữu thể trong bộ diện cảm thấy nơi chính mình, với một ngôn ngữ có thể lãnh hội, chứng tỏ, không phô bày mâu thuẫn bởi vì không mâu thuẫn nào có thể tưởng được. Con người theo đuổi bạo động và bạo động đuổi bắt con người trong vòng luân lưu: tất cả trở thành khả hữu hay không là gì hết. Nhưng toàn thể là cái thực, lưỡng luận hàm ngụ sự hữu lý hoặc muốn trở thành hữu lý. Một lý trí như thể chỉ tại hữu đối với con người trong vòng cương tỏa của bạo động, bởi vì con người không bao giờ ra khỏi lãnh vực mà bạo hành và niềm kinh hãi đều khả hữu. Con người đơn độc trong việc đương đầu với bạo hành, với những gì có thể xẩy đến trong dòng hiện hữu tại thế này. Điều nghịch lý phân cách triết học chủ lý chính vì niềm tin nền tảng vào tính thuần lý cũng trở nên nghịch lý: con người tự do nói không trong mọi hoàn cảnh, nhưng không luôn luôn được tự do để hành động.
Trước
bạo động, con người phát kiến thân phận mọi người đều bình đẳng và diễn
từ của mỗi người là phát biểu chung giá trị với tất cả nếu diễn từ ấy
mag giá trị chính mình - cách mạng chỉ có ý nghĩa với đám đông, không
phải với kẻ cầm đầu. Lời than thở của mỗi người đóng góp vào triều khích
động của tập thể. Vinh danh nơi người chứng thực trong hiện hữu thường
nhật và đời sống trực tiếp nhất cũng trở thành triết lý. Thế giới mang ý
nghĩa vén mở toàn diện chính nơi người. Không hình thái diễn từ nhân
tính nào tuyệt đối phi lý. Bạo động không còn ra khỏi diễn từ, nhưng trở
thành nguồn thúc đẩy tích cực không trào lưu nào thiếu được. Ở đó triết
học khả hữu. Triết học là một khả hữu khác của con người: trong cuộc
đời này con người có thể làm triết lý. Mọi diễn từ triết lý đều bắt
nguồn từ động lực của bạo động. Bạo động là vấn đề đối với triết học:
đến đây, chúng ta cảm thấy thất vọng khi lần giở những trang triết lý mà
sự lạnh nhạt của triết học, của bản viết vượt ra khỏi hiện tính mà
chúng ta nhăn mặt - những vòng giây kẽm gai, khói lựu đạn cay hay xao
động thường trực trong cục diện thế giới hiện đại không để lại những
đường nét bằng máu, bằng mực trên trang triết lý - chỉ có những chữ viết
bạo động, hương khói của ngọn bạch lạp leo lét, khuôn mặt nhà thông
thái cúi xuống trước án thư? Không, không phải thế, gót giầy xâm lược
ngày nào vẫn rung chuyển trong tâm hồn nhà triết học trẻ tuổi ngày nào ở
Berlin khi chàng đang soạn bộ Hiện tượng luận về Tinh thần mà tư tưởng
vẫn không ngừng khai phá.
Tư
tưởng vươn mình trên bạo động (trong khi bản đồ thế giới của tinh thần
trải rộng dần, triết học thâu gồm lịch sử và địa chí); thành quả nghịch
lý là bạo động chỉ có ý nghĩa đối với triết học, trong khi triết học
chối bỏ bạo lực không ngừng. Tuy nhiên triết học chỉ có thể hiểu được và
thực hiện với bạo động bởi vì đương đầu với bạo động, bạo động này là
phương tiện tất yếu nơi tư tưởng, qua ngôn từ, phát sinh sự chống bạo
động, trong một thế giới của bạo hành. Diễn từ hình thành, con người lập
ngôn trong bạo động chống bạo động, trong phủ định sự phủ định. Có dòng
lịch sử để con người tìm kiếm thấy mình, thấy dòng hiện hữu của mình,
trong thường hằng chống thường hằng, nhưng chính nơi diễn từ con người
có thể ý thức được sự khám phá, trong nỗi ngỡ ngàng và kinh sợ khôn
cùng.
Thực hiện diễn từ trong lý trí này, đó là khởi nguyên lý tưởng nơi triết học. Chọn lựa triết lý, dòng hiện hữu của con người gắn liền với lý tính như chưa bao giờ minh bạch đến thế. Khởi từ bạo động, con người đã chọn lựa diễn từ về diễn từ này trong những thực hiện ở cùng thế giới và thực hiện chính mình, chúng ta có thể nhận thấy lờ mờ một kết luận đến quá sớm là không những triết học đồng nhất với lịch sử triết học, chính lịch sử cùng đồng nhất với triết học. hiểu như vận chuyển bạo động ngăn chặn thác lũ bạo hành. Không có sự khác biệt giữa con người dưới phố và nhà tư tưởng khi triết học dấn thân xuống đường, gõ cửa mọi xã hội để dán lên thành trì thế giới một biểu ngữ mang những chữ: Ultimi barbararum.
*
* *
Trong triết học - Kant đã viết khi trả lời Eberhart - không có tác giả cổ điển. Cổ điển, những điều có thể giảng dạy như người ta thường làm trong các lớp học, nhằm bắt tinh thần phải chịu phục tòng toàn diện, ký ức phải tái tạo tỉ mỉ những khuôn sáo, bước đi đứng, lối suy nghĩ, thứ phân tích ròng những sự kiện biên niên, thuộc về lịch sử; cổ điển trói buộc tác giả vào trong một thế lực, khoác lên tác phẩm sự hóa thân khiến “tác phẩm được coi như một kiểu mẫu” [2]. Cổ điển tạo nên những tường thành kiên trì của thẩm quyền và giáo quyền, chận đứng lịch sử và đóng kín vận chuyển tư tưởng. Đối với Kant, cổ điển là những đại diện tiêu biểu cho sự tuyển chọn cái tốt đẹp hơn, hướng dẫn những tư tưởng sống động, những tinh thần cao quý vươn lên khỏi sự tranh tuyển, lọc lõi vào một bảo tàng viện mang tính cách phụ quyền; vẻ chói lọi của uy thế đó làm mất ý thức chọn lựa, tính nhưng không của tranh tuyển và điều đòi hỏi của phán đoán. Những ai trong công việc triết lý, đi tra hỏi lại lý trí không ngừng nhìn về sự đồ sộ của công trình tư tưởng đến từ nhiều đời, lại không tự hỏi có chối bỏ tính cách cổ điển của sách vở, có thoát khỏi ám ảnh gán ghép cho con người - ta đang gặp lại tư tưởng của họ trong lúc này, ở đây, bây giờ - một nhãn hiệu tác giả cổ điển, và chính mình, có trở thành tác giả cổ điển?
Đối với những môn đồ nhiệt tín của học thuyết Wolff như Eberhard [3] chẳng hạn, tư tưởng của ông thầy có tính cách cổ điển và trở thành giáo điều, tượng trưng cho một thế lực. Nhưng Kant đã đối lập với triết học giáo điều bằng triết học phê bình - để nhìn thấy ngay chính nơi Wolff hay bất cứ nhà triết học thuần lý giáo điều nào, một bộ diện khác, một dự phóng tiến bộ trong hành trình siêu hình học, ở đó người ta không có thể cũng như không phải học hỏi nơi Wolff hay nơi Leibniz cái gì đúng trong triết học. Triết gia dường như đã phân cách với nhà khoa học, hay ít ra với nhà toán học ở chỗ không đi đặt nền tảng cho triết học là một khoa học chính xác. Trước Hegel, Kant không giảng dạy đặc biệt về lịch sử triết học hay viết về lịch sử triết học ngoài những nhận xét ngắn về diễn biến tư tưởng môi trường và thời đại triết học phê bình của ông đã tương tranh với những triết học trước và đương thời. Nhưng Kant đã viết: Một lịch sử của triết học khả hữu không phải trên lịch sử hay theo kinh nghiệm, nhưng khả hữu một cách thuần lý, nhĩa là tiên nghiệm. Bởi vì nó xây dựng những sự kiện của lý trí không phải vay mượn nơi sử ký, nhưng rút ra từ bản chầt của lý trí con người theo danh nghĩa khảo cổ học trtiết lý. Điều đó cho phép các tư tưởng gia giữa mọi người được lý luận về nguồn gốc, mục đích và cứu cánh các sự vật trong thế giới. [4] Những dòng chữ trên tìm thấy nơi những Tờ Rời, ghi lại mọi thời khoảng trong cuộc đời suy tưởng của Kant, làm mới tư tưởng trong tinh thần đặt lại quan điểm về lịch sử triết học.
Trước Hegel, các nhà viết lịch sử triết học làm những công việc của một người sưu tầm trên phương diện lịch sử và không có một quan điểm nào trên phương diện triết lý. Phải đợi tới Hegel, một lịch sử triết học mới được viết ra trong tinh thần triết lý, khởi từ bài diễn giảng tại Đại học đường Heidelberg vào tháng 10 năm 1816, khi Hegel lưu tâm đặc biệt đến vị trí của triết học kinh qua những biến cố của thời cuộc, những lợi ích tầm thường nhỏ nhoi của đời sống đã làm triết học tàn tạ và rơi vào lãng quên của kỷ niệm; nhưng sau cái nhìn thấy tính cách phong phú của lịch sử triết học, Hegel lại có tham vọng đặt hệ thống triết học của ông trên lịch sử, báo hiệu sự cáo chung của lịch sử và của triết học. Điều sai lầm của Hegel có thể giải thích bằng chính khởi điểm của việc nhìn lại lịch sử triết học nơi Hegel có tính cách phiến diện vì Hegel không nhìn thấy lưỡng tính của vận chuyển tư tưởng: có một lịch sử triết học song hành với một khảo cổ học về tri thức như Kant đã khám phá ngay từ thế kỷ XVIII (và phải đợi tới M. Foucault ở thế kỷ XX này mới đặt thành vấn đề). Con người vẫn tiếp tục đi khai quật lại những di tích của văn hóa những dấu vết của tri thức trên tiến trình mênh mông của những kẻ phiêu lưu trong đời này, để lại sự nghiệp tưởng chừng như những chứng cớ của thành công rồi thất bại - thất bại trong đời người để thành công trong vĩnh cửu. Sự bất tử của những tên gọi, những khuôn mặt mang nhiều quốc tịch, xuất hện đây đó trên đụa chí triết học ở mọi từng lớp sống nhiều hoàn cảnh khác nhau, đặt để những vấn đề khác nhau lối nhìn và ưu tư những vấn nạn khác nhau chứbng thực sự tồn tại của triết học, kể cả sau khi một lịch sử này chấm dứt, một lịch sử khác bắt đầu, một tri thức này bị tiêu diệt, một văn hóa mới sinh thành. (Phải chăng triết học sinh thành trên đống tro tàn?) Sự bất tử không phải đem lại vinh diệu nhưng đem lại chiến thắng cho tư tưởng. Tư tưởng tiến hóa không ngừng đem lại những ý nghĩa cho hiện hữu và những dấu hiệu cho tri thức. Vận chuyển của tư tưởng đánh dấu điều kiện xuất hiện của những triết học, những hình thái, quy luật của biến đổi triết lý, sự bất liên tục của dòng thời gian. Dường như sự đoạn lià của khôn ngoan tư tưởng không những chỉ thị sự đổ vỡ theo chiều dọc của văn minh, còn hàm ngụ sự phung phá theo chiều ngang của lý trí. Nhưng vẫn còn một cái gì tồn tại mang theo sự khả hữu của hữu tưởng - triết học như làm mới tự uyên nguyên. Cho nên Merleau-Ponty tin tưởng: Con người ngày mai có thể không còn những vấn đề như đơn tử, chấp ý bản thể, thuộc từ nhưng họ vẫn tiếp tục học hỏi nơi những người như Leibniz hay Spinoza phương cách mà những thế kỷ bình an sung sướng đó đã suy nghĩ cách giăng bẫy được con Nhân sư, để trả lời theo cách thế của họ về những ẩn ngữ ngày một phức tạp đặt ra với họ.[5]
Nôi dung của tư tưởng chứa đựng sinh hoạt triết lý, nhưng nội dung của cách thế tư tưởng quan trọng hơn, nó hàm ngụ sự khả hữu của triết học là triết học - nói chung - ở bên trên những triết học - chủ nghĩa - bên cạnh những khoa học như những khoa học tổng quát: y học, sinh học, kinh tế học. Tư tưởng không những chỉ nhìn lên theo chiều cao, đắm đuối vào chiều sâu nhưng còn hiện nguyên hình qua những tham vọng và xảo thuật của nhà tư tưởng trên bình diện trái đất này. Khác với Hegel nghĩ, thực tại và thuần lý đều phân định trên một bản thể là sự hiện hữu lịch sử của những khuôn mặt tư tưởng và nhờ đó, thực tại có thể nói đầy hứa hẹn cho lý trí. Triết học vẫn tiếp diễn -bất chấp thế lực của hệ thống tưởng chừng kết thúc lịch sử - cuộc hành trình hoàn tất của tư tưởng. Tư tưởng trải qua cuộc thí nghiệm dùng đá thử vàng là lý trí chung nhân tính. Có một “sử tính của tri thức” như Merleau-Ponty đã gọi, để chỉ thị tư tưổng mang theo lịch sử, ở đó một luận lý ngay trong thường hằng, một lý trí ngay trong phi lý. Nói như thế có nghĩa là nhà tư tưởng không những chỉ có thực trong những điều ông thấy, mà ngay cả những điều ông không thấy. Sự chọn lựa triết lý quả thực không bao giờ đơn giản, ngay khi chọn đã là triết lý.
Nhà triết học không chọn lựa vị trí trong lịch sử triết lý nhưng chọn lựa cách triết lý trong vận hành tư tưởng. Giữa vô số những chọn lựa căn bản, lý trí cuốn theo cơn lốc biện chứng bởi vì nhà tư tưởng không lúc nào trùng hợp với một hình ảnh trước đó ngay trong sách vở để lại. Triết lý luôn luôn làm mới, chính là cách mạng và viết triết lý hàm ngụ sự thi hành bạo động để thực hiện cuộc cách mạng này. Con người không phải lúc nào cũng chung những tư tưởng hay những ngôn ngữ - cơn xúc cảm bạo động thúc đẩy tư tưởng, ngôn ngữ phóng tới tư tưởng và ngăn chặn tư tưởng - những điều được nói ra và được nghĩ tới luôn luôn không ngừng là những điều đã không có ở trước đó, không ngừng chối bỏ những điều đã có ở trước đó; con người như một tia chớp lóe bùng, ngôn ngữ mang theo những nghịch lý của thời khoảng và những ngộ nhận của không gian, đến nỗi chúng ta không thể xác quyết là những điều chắc chắn dẫn tới hiểu biết có thể biệt phân là tốt hay xấu, mà cũng không ngừng ngăn chặn chúng ta hiểu biết. Ngôn ngữ và tư tưởng dường như chiếm hữu chúng ta thay vì chúng ta đã chiếm hữu chúng.Những dấu hiệu mới bắt đầu: một Kant không ngừng vượt khỏi địa phận của học thuyết Kant, một Descartes chối bỏ cái gì là chủ nghĩa Cartésien, một Hegel của hiện đại nói và nghĩ những điều nhận thấy được nơi hình ảnh nhà triết học lớn của thế kỷ XIX. Có một Kant tuyệt đối, một Descartes tuyệt đối, một Hegel ở bên trong và bên trên tri thức tuyệt đối. Cho nên người ta vẫn không ngừng nói về Kant, về Descartes, về Hegel cũng như không ngừng nghĩ theo Freud và Marx. (Ngày nay, mọi nỗ lực của tư tưởng văn chương và triết lý cố “đọc cho được” những bản văn đã hiện hữu trong thế giới của văn hóa bằng những lý thuyết văn chương, bằng tri thức luận theo Marx hay theo Freud?)
Lý trí, khởi sự với ngôn ngữ, được canh tác sau những thời gian bỏ hoang đầy hoài vọng.
Câu hỏi nguyên ủy của mọi tranh luận giữa lý trí và hiện hữu, trong biện chứng phá hủy và tái tạo trí năng chính là: Làm thế nào kinh nghiệm khả hữu?
*
* *
Triết gia chính là con người đem lại những khả hữu cho kinh nghiệm, bởi vì mọi kinh nghiệm cũng như khả hữu của kinh nghiệm thiết yếu là trí năng.
Song không phải chỉ có những khả hữu của kinh nghiệm mà có nhiều kinh nghiệm khả hữu. Người phương tây thường nói: Có nhiều mái nhà trong tư tưởng của con người. Thế giới những văn minh đa biệt ngày nay chứng thực: chúng ta không sống cùng dưới mái nhà, nhưng sống trong nhiều căn nhà; điều quan hệ là không phải những ốc đảo cô lập.
Mọi căn nhà đều tọa lạc trên cùng một nền đất - Grundform - trái đất của chúng ta như một sinh giới, thế giới của đời sống cho một nhân loại sống thành cộng đồng và ở đó con người có thể thỏa hiệp trong một niềm thông cảm về mọi sự vật trên đời này.
Đất, nền tảng cuối cùng của nhân loại cộng đồng (Husserl).
Vấn đề đối với triết gia không phải là đi tìm mặt trời mọc ở phương Đông, cũng không phải chứng thực loài chim cú Minere bay lên ở hướng chiều tà. Con người đang sống giữa Ngọ, vào lúc mặt trời lên tới đỉnh. Buổi ban mai của nhân loại đã khuất, hay tiếng kèn tận thế gần kề?
Không phải thế. Triết gia hẳn từ lúc khởi sự không phải là tiên tri hay thấu thị. Anèr philosophos, con người chuyên chú đi tìm hướng về sophon. Chính ở đó philosophos phân biệt với sophistes [6].
Triết gia ngày nay không đem một sứ điệp đi rao giảng không chiếm giữ một vai trò trong cộng đồng, không đi tìm vinh diệu của Quyền lực. Vinh danh như Rilke đã nói, không có nghĩa là làm thế nào để được biết đến. Vinh danh là sự Hiện diện chói lọi. Chắc hẳn những vinh dự của một đời triết lý ngày nay chỉ là ảo tưởng.
Những cảnh: Cả thành phố Nhã điển dự đám tang Platon, hay cả thành phố Nhã điển dự đám tang Théophrastye, ngày nay chỉ còn là huyền thoại bởi vì ở thời đại này “võ sĩ quyền thuật được coi như vĩ nhân của cả một dân tộc.” [7] Những con người được ưu đãi, dự vào triều chính, hưởng quyền cấp dưỡng ở những thời xa xưa không phải là bộ mặt muôn thuở của triết gia.
Triết gia không phải chỉ là con người Nói, còn là con người Viết. Logos không những chỉ thị Lời còn hàm ngụ Chữ nghĩa. Trong lịch sử triết học, có mấy ai không hoài niệm những bản văn đã thất lạc, để mưu đi dựng lại một viễn quan trên những Dấu vết?
Có mấy ai trong đời sống triết lý không nghĩ đến việc trình diện trước công chúng những trang Bản thảo hóa thân thành quyển sách? - Xuất bản, công việc dấn thân của triết gia. Từ những giòng chú giải đến những bài diễn thuyết, từ giảng khoa dành cho lớp công chúng khởi đầu đến di cảo còn trong tình trạng phôi thai: sự quan hệ giữa bóng tối tư tưởng và ánh sáng triết lý, làm thay đổi lối nhìn, phục sinh đời sống của con người bị quên lãng trong dòng đời thầm lặng.
Triết lý, công việc của nhà văn sử dụng ngôn từ xây dựng khả hữu của kinh nghiệm tư tưởng. Khởi từ đây, mỗi ngôn từ mang dấu vết của kinh nghiệm tư tưởng, chỉ thị một đời sống riêng hướng về Toàn thể hữu hiệu trong diễn tiến phi chủ thể của vận hành.
Giải pháp hữu hiệu triết lý liệu có là liều thuốc cho con người đến bờ Trí tuệ hay tới vực Mê cuồng?
ĐẶNG PHÙNG QUÂN
[1] X. Hegel, La phénoménologie de l'esprit (bản dịch của Hyppolite, tr 29. Nguyên tác: Phänomenologie des Geiste).
[2] X. định nghĩa trong Littré: “1/ qui est à l'usage des classes; 2/ auteur, poète, ouvrage classique. Celui qui est regardé comme un modèle; par extension, tout auteur, tout ouvrage qui fait autorité”. Littré, t. II, p. 379, J.J.Pauvert éditeur.
[3] Chritian Wolff (1679-1754), nhà triết học và toán học Đức sống vào thời Khai sáng/Aufklärung trước Kant (1724-1804). J.A. Eberhard (1739-1809) nhà triết học đại chúng và thần học Đức chịu ảnh hưởng Wolff, Locke và Leibniz.
[4] Kant, Les progrès de la métaphysique en Allemagne depuis Libniz et Wolff (Bản dịch tiếng Pháp của Guillermit,tr. 107-8).
[5] Merleau-Ponty, Signes, r. 200.
[6] Cuộc tương tranh miên tục diễn ra muôn đời. Sophistes đại loại như kiểu triết lý cái đình, chỉ thấy cái nhà thờ.
[7] Heidegger, Introduction à la Métaphysique (bản dịch của Kahn, tr. 46).
Nguồn: Chân dung triết gia (Lửa Thiêng xuất bản. 1973, tr. VII - XXIV).
TRẦN BÌNH NAM * IRAN
Trần Bình Nam
Thế
giới đang lên cơn sốt về vấn đề Iran làm bom nguyên tử. Trong không khí
chống khủng bố, Iran lại là nước công khai tuyên bố chính sách thù
nghịch với Hoa Kỳ và Do Thái, thế giới - nhất là Hoa Kỳ- lên cơn sốt là
một điều tự nhiên.
Nhưng trong cơn sốt mà Hoa Kỳ thiếu bình tĩnh để mở thêm một mặt trận nữa với một nước Hồi giáo trong khi mặt trận Afghanistan và Iraq đang còn phức tạp chưa có giải pháp giải quyết thì không biết mặt trận mới có phải là mặt trận cần thiết không? Chỉ một vài lời tuyên bố cứng rắn của Hoa Kỳ (trong thời gian cuối tháng 10, đầu tháng 11/2007) đã làm cho giá dầu thô tăng lên gần 100 mỹ kim một barrel ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế thế giới, thì không ai có thể tiên đoán nếu xảy ra chiến tranh với Iran tình trạng cung cấp dầu thô trên thế giới sẽ bị xáo trộn đến mức độ nào.
Tuần lễ từ 5/11 kể cả hai ngày cuối tuần 10 & 11/11/2007 là tuần lễ bận rộn nhất của tổng thống Bush. Đầu tuần tổng thống Bush tiếp tổng thống Nicolas Sarkozy của Pháp tại Hoa Thịnh Đốn, cuối tuần đón bà thủ tướng Đức Angela Merkel tại trang trại riêng của ông ở Crawford, Texas cũng chỉ để bàn đối sách ngăn chận Iran chế tạo vũ khí nguyên tử.
Một câu hỏi cần nêu ra: Nếu Iran có bom nguyên tử thì sao? Có nhiều người nghĩ: thì đã sao!
Trên thế giới hiện nay có nhiều nước có bom nguyên tử (công khai và không công khai). Và những người lãnh đạo nước Iran vô lẽ toàn những người không có đầu óc đến độ chỉ chờ làm được bom nguyên tử là mang ra đánh Do Thái hay cung cấp cho bọn khủng bố để đánh Hoa Kỳ. Họ biết một cách chắc chắn làm vậy là tự diệt. Và có ai muốn tự diệt?
Chính vì sợ tiêu diệt lẫn nhau mà không ai dám dùng bom nguyên tử trước. Nguyên tắc sợ tiêu diệt lẫn nhau đã giúp cho trận chiến tranh lạnh kết thúc, Liên bang Xô viết chấp nhận thua trận và sau đó tan rã, mà không xẩy ra thế giới đại chiến, mặc dù có những thời điểm căng thẳng tưởng như không tránh được chiến tranh như khi Liên bang Xô viết phong tỏa Bá Linh (6/1948- 5/1949), và khi Khruchev cho lén đặt một dàn phóng vũ khí nguyên tử tại Cuba (9/1960).
Tổng thống Bush đang thuyết phục thế giới rằng Iran là một nước Hồi giáo thù nghịch với Hoa Kỳ nên nếu thế giới – qua Liên hiệp quốc – không tiếp tay với Hoa Kỳ tìm cách ngăn chận Iran chế tạo bom nguyên tử thì Hoa Kỳ có thể phải ra tay trước.
Nhưng Pakistan
cũng là một mối lo vì Pakistan cũng là một nước Hồi giáo có bom nguyên
tử và có nhiều thành phần quá khích. Cuộc khủng hoảng chính trị hiện nay
tại Pakistan bề ngoài tưởng như là một sự tranh chấp giữa tướng Pervez
Musharraf chủ trương độc tài và cựu thủ tướng Benazir Bhutto đòi thực
thi dân chủ nhưng thực chất đó là một cuộc tranh chấp giữa phe ôn hòa
thân Hoa Kỳ (tướng Musharraf và bà Bhutto đều thân Hoa Kỳ) và phe Hồi
giáo quá khích thân Taliban và al Qaeda (nằm sau lưng vụ ám sát tướng
Musharraf cuối năm 2002 và vụ nổ cảm tử ngày18/10 vừa qua định tâm giết
bà Bhutto khi bà trở về Pakistan).Nhưng trong cơn sốt mà Hoa Kỳ thiếu bình tĩnh để mở thêm một mặt trận nữa với một nước Hồi giáo trong khi mặt trận Afghanistan và Iraq đang còn phức tạp chưa có giải pháp giải quyết thì không biết mặt trận mới có phải là mặt trận cần thiết không? Chỉ một vài lời tuyên bố cứng rắn của Hoa Kỳ (trong thời gian cuối tháng 10, đầu tháng 11/2007) đã làm cho giá dầu thô tăng lên gần 100 mỹ kim một barrel ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế thế giới, thì không ai có thể tiên đoán nếu xảy ra chiến tranh với Iran tình trạng cung cấp dầu thô trên thế giới sẽ bị xáo trộn đến mức độ nào.
Tuần lễ từ 5/11 kể cả hai ngày cuối tuần 10 & 11/11/2007 là tuần lễ bận rộn nhất của tổng thống Bush. Đầu tuần tổng thống Bush tiếp tổng thống Nicolas Sarkozy của Pháp tại Hoa Thịnh Đốn, cuối tuần đón bà thủ tướng Đức Angela Merkel tại trang trại riêng của ông ở Crawford, Texas cũng chỉ để bàn đối sách ngăn chận Iran chế tạo vũ khí nguyên tử.
Một câu hỏi cần nêu ra: Nếu Iran có bom nguyên tử thì sao? Có nhiều người nghĩ: thì đã sao!
Trên thế giới hiện nay có nhiều nước có bom nguyên tử (công khai và không công khai). Và những người lãnh đạo nước Iran vô lẽ toàn những người không có đầu óc đến độ chỉ chờ làm được bom nguyên tử là mang ra đánh Do Thái hay cung cấp cho bọn khủng bố để đánh Hoa Kỳ. Họ biết một cách chắc chắn làm vậy là tự diệt. Và có ai muốn tự diệt?
Chính vì sợ tiêu diệt lẫn nhau mà không ai dám dùng bom nguyên tử trước. Nguyên tắc sợ tiêu diệt lẫn nhau đã giúp cho trận chiến tranh lạnh kết thúc, Liên bang Xô viết chấp nhận thua trận và sau đó tan rã, mà không xẩy ra thế giới đại chiến, mặc dù có những thời điểm căng thẳng tưởng như không tránh được chiến tranh như khi Liên bang Xô viết phong tỏa Bá Linh (6/1948- 5/1949), và khi Khruchev cho lén đặt một dàn phóng vũ khí nguyên tử tại Cuba (9/1960).
Tổng thống Bush đang thuyết phục thế giới rằng Iran là một nước Hồi giáo thù nghịch với Hoa Kỳ nên nếu thế giới – qua Liên hiệp quốc – không tiếp tay với Hoa Kỳ tìm cách ngăn chận Iran chế tạo bom nguyên tử thì Hoa Kỳ có thể phải ra tay trước.
Quan hệ tốt đẹp giữa Hoa Kỳ và Pakistan hiện nay không phải là một quan hệ bền vững (cũng như trước đây từ thập niên 1940 cho đến năm 1979 Iran cũng đã từng là một đồng minh thân thiết của Hoa Kỳ), cho nên không ai tiên đoán được quan hệ đồng minh giữa Pakistan và Hoa Kỳ biến chuyển ra sao. Và trong trường hợp xấu nhất, phe quá khích thắng thế tại Pakistan thì kho bom nguyên tử (chừng 50 quả bom) của Pakistan sẽ nguy hiểm cho an ninh của Hoa Kỳ đến mức độ nào. Pakistan có nguy hiểm như Iran hay không?
Một số người lạc quan cho rằng câu hỏi này không cần đặt ra vì Hoa Kỳ đã có chương trình bảo vệ kho vũ khí nguyên tử của Pakistan, nều cần thì lấy đi (theo nhật báo The San Diego Union Tribune ngày 11/11/2007 trích từ Washington Post của ký giả Joby Warrick) trong trường hợp tình hình Pakistan trở nên rối loạn và phe Hồi giáo quá khích có khả năng cướp chính quyền. Nhưng việc này cũng không phải dễ như lấy một đồ vật trong túi.
Trên thực tế sự nguy hiểm do sự thủ đắc vũ khí nguyên tử của Pakistan cũng không kém như Iran có bom nguyên tử. Vì thế cơn sốt Iran hiện nay là một cơn sốt không cần có và chủ trương dùng chiến tranh để ngăn chận Iran làm vũ khí nguyên tử không phải là một chính sách khôn ngoan. Đánh Iran để phá hủy khả năng sản xuất vũ khí nguyên tử của Iran chỉ làm cho tình hình Trung đông trở nên rối loạn hơn và tạo điều kiện cho phe quá khích cướp chính quyền tại Pakistan.
Đứng trước một thứ vũ khí giết người kinh tởm như vũ khí nguyên tử bất cứ ai còn lương tri đều nghĩ phải chi thế giới không có vũ khí nguyên tử thì tốt hơn. Các nhà khoa học (trong đó có ông Einstein, người khám phá ra năng lượng nguyên tử chứa trong vật chất) liên hệ đến việc sản xuất vũ khí nguyên tử sau khi thấy sức tàn phá độc hại của bom nguyên tử tại Nhật Bản đã tỏ ra hối hận. Nhưng khi hung thần đã sổng ra khỏi chuồng thì khó nhốt lại vào địa ngục nên thế giới chỉ còn một cách là khôn ngoan đối với hung thần. Nói cách khác tốt nhất là có một chính sách khéo léo để cho hung thần khỏi tác oai tác quái.
Chính sách ngăn chận sự phổ biến vũ khí nguyên tử của thế giới hiện nay thiếu cân đối nếu không muốn nói là thiếu công bình.
Căn bản đặt trên nguyên tắc: 5 nước Nga, Mỹ, Anh, Pháp và Trung quốc đã có vũ khí nguyên tử được xem là một thực tế. Các quốc gia khác không được chế tạo vũ khí nguyên tử. Để thực hiện chính sách này Liên hiệp quốc thiết lập một hiệp định gọi là Non Proliferation Treaty - NPT mà thành viên tham dự hứa không chế tạo và cũng không truyền đạt hiểu biết chế tạo vũ khí nguyên tử cho nước nào khác. Quyền lợi của thành viên là sẽ được trao đổi các hiểu biết kỹ thuật về năng lượng nguyên tử áp dụng một cách hòa bình (thường là sản xuất điện lực). Nước nào không tham dự được xem là thành phần xấu và nếu chế tạo vũ khí nguyên tử sẽ bị Liên hiệp quốc (qua Hội đồng Bảo an) trừng phạt kinh tế.
Nhiều nước không tham gia NPT như Ấn độ, Do Thái. Pakistan … và nhiều nước tham gia nhưng vẫn sản xuất lén vũ khí nguyên tử. Đến lúc này tuy không chính thức tuyên bố thế giới đều biết Do Thái, Đài Loan đã có vũ khí nguyên tử. Đức, Nhật, Nam Hàn, và có thể cả Brazil chưa có vũ khí nguyên tử nhưng có khả năng và đồ án sản xuất trong một thời gian ngắn nều cần. Năm 1974, Ấn độ thí nghiệm bom nguyên tử thành công. Về phần Pakistan, sau hai thập niên lén lút nghiên cứu, năm 1998 cũng theo chân Ấn độ cho thí nghiệm thành công vũ khí nguyên tử của mình. Liên hiệp quốc đã phản ứng mạnh mẽ và trừng phạt kinh tế Ấn độ trong một thời gian dài. Nhưng đến nay, Ấn độ và Pakistan đã được xem như là thành viên chính thức của hội những nước có vũ khí nguyên tử.
Năm 1986 Hoa Kỳ phát hiện Bắc Hàn (một thành viên của NPT) cũng đang lén lút lén chế tạo vũ khí nguyên tử. Hoa Kỳ đã cố gắng ngăn chận nỗ lực sản xuất vũ khí của Bắc Hàn bằng chính sách “cây gậy và củ cà rốt” nhưng bất thành. Năm 1993 Bắc Hàn rút ra khỏi NPT và tháng 12/1998 cho nổ thử quả bom nguyên tử đầu tiên. Qua thỏa ước tháng 2/2007 mới đây với nhóm các nước Nhật, Nam Hàn, Nga, Mỹ, Trung quốc, Bắc Hàn cam kết tạm ngưng chương trình sản xuất thêm vũ khí nguyên tử và ngưng bán các hiểu biết nguyên tử cho các nước Hồi giáo để đổi lấy những quyền lợi kinh tế và ngoại giao Bắc Hàn đang cần, nhưng chắc rằng Bắc Hàn sẽ không hủy bỏ kho bom nguyên tử (dù ít ỏi) đã có.
Bức tranh đó cho chúng ta thấy các biện pháp ngăn chận sự sản xuất vũ khí nguyên tử của Liên hiệp quốc không hữu hiệu. Vũ khí nguyên tử đã phổ biến khá rộng rãi trên thế giới và đang trên đà lan rộng, và những nước có vũ khí nguyên tử không phải đều là những nước đồng minh với nhau. Liên bang Nga đang nỗ lực phục hồi vị thế siêu cường của mình, và kèn cựa với chương trình đặt hỏa tiễn của Hoa Kỳ tại Ba Lan. Trung quốc cũng là một quốc gia có khả năng biến thành thù nghịch với Hoa Kỳ do vấn đề Đài Loan hay do chính sách mới của Hoa Kỳ đối với các nước trong vùng Đông Nam Á, nhất là sự xích lại gần nhau hơn giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.
Một
thực tế là ngoài chiến tranh không có gì có thể ngăn chận quyết tâm trở
thành một lực lượng nguyên tử của Iran. Nhưng nếu chiến tranh với những
hệ lụy không lường trước được đối với nhân loại thì câu hỏi nhức đầu
vẫn là: có nên dùng chiến tranh để chận đứng chương trình chế tạo bom
nguyên tử của Iran không?
Tại Hoa Kỳ có luật cấm tàng trữ, sản xuất và xử dụng ma túy. Hằng năm Hoa Kỳ tiêu tốn hơn 10 tỉ mỹ kim cho chương trình ngăn chận sản xuất và chuyển vận ma túy trên thế giới để chận ma túy nhập lậu vào Hoa Kỳ. Ngân sách năm 2006 là 12.5 tỉ, và năm 2007 là 12.7 tỉ (theo Google: US. anti-drug budget). Nhưng các nước sản xuất ma túy như Columbia, Afghanistan, vùng tam giác vàng giữa Lào, Miến Điện và Thái Lan vẫn sản xuất và các thành phố Hoa Kỳ vẫn đầy dẫy ma túy. Số thanh thiếu niên nghiện ma túy không thấy suy giảm. Trước thực tế này nhiều nhà làm luật Hoa Kỳ từng đưa ra ý kiến bỏ luật chống ma túy, ai thích sản xuất cứ sản xuất, ai thích dùng cứ dùng (như hút thuốc lá vậy), hại sức khỏe thì ráng chịu và nạn ma túy có thể sẽ biến mất không còn là một vấn đề bận tâm. Đó chỉ mới là ý kiến nhưng không phải là không có lý.
Ý kiến này tại sao lại không thể áp dụng vào trường hợp vũ khí nguyên tử? Cứ để cho Iran, hay bất cứ một nước nào khác, gồng mình làm bom nguyên tử. Làm được không phải là dễ mà có làm được cũng chỉ để mà nhìn chẳng dám dùng để đe dọa ai vì đánh người khác là mua sự tự diệt./.
Tại Hoa Kỳ có luật cấm tàng trữ, sản xuất và xử dụng ma túy. Hằng năm Hoa Kỳ tiêu tốn hơn 10 tỉ mỹ kim cho chương trình ngăn chận sản xuất và chuyển vận ma túy trên thế giới để chận ma túy nhập lậu vào Hoa Kỳ. Ngân sách năm 2006 là 12.5 tỉ, và năm 2007 là 12.7 tỉ (theo Google: US. anti-drug budget). Nhưng các nước sản xuất ma túy như Columbia, Afghanistan, vùng tam giác vàng giữa Lào, Miến Điện và Thái Lan vẫn sản xuất và các thành phố Hoa Kỳ vẫn đầy dẫy ma túy. Số thanh thiếu niên nghiện ma túy không thấy suy giảm. Trước thực tế này nhiều nhà làm luật Hoa Kỳ từng đưa ra ý kiến bỏ luật chống ma túy, ai thích sản xuất cứ sản xuất, ai thích dùng cứ dùng (như hút thuốc lá vậy), hại sức khỏe thì ráng chịu và nạn ma túy có thể sẽ biến mất không còn là một vấn đề bận tâm. Đó chỉ mới là ý kiến nhưng không phải là không có lý.
Ý kiến này tại sao lại không thể áp dụng vào trường hợp vũ khí nguyên tử? Cứ để cho Iran, hay bất cứ một nước nào khác, gồng mình làm bom nguyên tử. Làm được không phải là dễ mà có làm được cũng chỉ để mà nhìn chẳng dám dùng để đe dọa ai vì đánh người khác là mua sự tự diệt./.
Trần Bình Nam
Nov. 13, 2006
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 094
NGƯỜI GIÀ CÓ NÊN VỀ SỐNG TẠI VIỆT NAM KHÔNG?
==
KIM HÀ
==
> >
> > Đây là câu hỏi mà linh mục Hồ Sĩ Mậu đặt ra cho cử tọa trong Thánh lễ ngày 6/6/2007 vừa qua. Và có nhiều người trả lời, nhưng tựu trung không ai muốn về sống luôn ở Việt Nam . Tại sao?
> >
> > 1. Tại sao lại muốn về Việt Nam ?
> >
> > Đã là người Việt Nam thì ai chẳng muốn về sống trên quê cha đất tổ, để được gần mộ phần của tổ tiên, ông bà, cha mẹ? Nhất là được nói tiếng Việt mà không phải dùng một ngôn ngữ khác, đó là tiếng Anh mà có nhiều người già không hiểu và không biết nói.
> > Sống ở Việt Nam mà nếu có tiền thì có thể thuê người hầu hạ, nấu ăn, dọn dẹp và săn sóc cho mình. Đời sống ở Việt Nam thì tương đối đơn giản, thoải mái. Chi phí sống ở Việt Nam cũng thấp hơn sống ở Mỹ. Các món ăn hợp với khẩu vị, lại tươi tốt, giá cả rẻ hơn ở Mỹ. Nói tóm lại, nếu được về sống ở Việt Nam để gần gũi thân nhân, gia đình và quê hương thì còn gì bằng? Thế mà vấn đề không đơn giản như vậy.
> >
> > 2. Một số người muốn về Việt Nam vì những lý do sau:
> >
> > Có một số ít người về Việt Nam để xây biệt thự để về hưởng thụ. Ở Mỹ, ai cũng phải làm việc quần quật như trâu bò cả ngày, không ai biết mình là ai. Nay về Việt Nam được người ta trọng vọng, nể vì bởi cái “mác” Việt kiều thì thích chí. Họ về Việt Nam để tự ái được thỏa mãn, cái tôi được vỗ về.
> > Một số khác để kiếm bồ bịch và hưởng lạc thú xác thịt. Đó là những sự thật trơ trẽn mà ai ai cũng biết.
> > Cũng có những kẻ chuyên lường gạt tiền bạc của người khác rồi đem tiền về Việt Nam đầu tư đất đai, nhà cửa và sống hưởng thụ và truỵ lạc trên mồ hôi, nước mắt và đồng tiền khó nhọc của kẻ khác. Khi chết, họ sẽ đối diện với những tội ác của họ. Gia đình tôi và một số bạn bè tôi là một trong những nạn nhân của hạng người này.
> >
> > 3. Những trường hợp thực tế có thật:
> >
> > -Một vị linh mục trên 90 tuổi đã suy xét rất kỹ về việc nên về Việt Nam sống và chết hay nên ở lại Mỹ. Kết cuộc, ngài chọn xin vào sống dưỡng lão trong Dòng Đồng Công ở Mỹ mà không về sống ở Việt Nam.
> > -Nhiều bà cụ già sống độc thân, muốn về Việt Nam ở trong các tu viện và trả tiền chi phí ăn ở cho các nữ tu, để sớm hôm được dự Thánh lễ. Lúc sống hy vọng có các nữ tu đùm bọc, lúc hấp hối hy vọng có người lo cho phần rỗi linh hồn, nhưng rốt cuộc, các bà không thể về sống ở Việt Nam được, vì một số nữ tu không nhận nuôi các bà, dù cho các bà có trả tiền đi nữa.
> > -Khi gia đình tôi về thăm Việt Nam, mẹ chúng tôi có ý định về dưỡng già ở Việt Nam nên chúng tôi đi tìm một dòng tu nữ để xin trả tiền cho mẹ tôi được về Việt Nam sống trong tu viện, nhưng bà bề trên nói rằng họ không thể cho bà ở trong tu viện của họ vì Dòng họ không có dòng Ba (dành cho giáo dân), và vì họ sợ sống chung đụng mất lòng.
> > -Còn một dòng tu khác thì cho giá cả là 100USD tiền thuê phòng, chưa kể tiền cơm nước và công thuê người giúp việc để săn sóc cho bà. Căn phòng quá nhỏ và thiếu tiện nghi tối thiểu. Đi thăm Việt Nam lần ấy về, mẹ tôi bỏ ngay ý định: ”Ta về ta tắm ao ta” ngay. Thực tế nói nhiều hơn là trí tưởng tượng!
> > -Một lần khác, chúng tôi lại đưa mẹ tôi ra Huế. Bà lại có ý định ở lại trong một dòng tu nữ ở Huế. Lần ấy, các nữ tu cho gia đình chúng tôi ở trong những phòng chật chội và nóng bức, thiếu những tiện nghi vệ sinh tối thiểu. Một phòng có đến 4, 5 chiếc giường lát gỗ. Nắng rọi vào phòng nóng như thiêu như đốt, mà phòng không có lấy một cái quạt máy. Mẹ tôi nhìn thấy thực tế mà tỉnh mộng. Gia đình chúng tôi vội vàng thuê khách sạn ở ngay, và không ai đề cập gì thêm đến chuyện về sống ở Việt Nam nữa.
> > -Có hai vợ chồng cụ già ở Úc với con cháu nhưng hai cụ nằng nặc đòi về Việt Nam sinh sống với người con nuôi. Mặc dù các con của hai cụ ngăn cản chuyện hai cụ về lại Việt Nam , nhưng không giữ hai cụ được. Cuối cùng, họ gửi tiền về Việt Nam cho người con nuôi chăm sóc cho hai cụ, nhưng người con nuôi ở Việt Nam đã đối xử rất tồi tệ với hai cụ. Thậm chí, họ lấy dây cột trói hai cụ lại, rồi chụp hình gửi sang cho các con ruột của hai cụ để đòi tiền thêm. Các con ruột của hai cụ nóng ruột, đi về lo cho cha mẹ trở lại Úc, nhưng giấy tờ di trú đã hết hạn nên hai cụ không thể trở lại Úc được. Cụ ông buồn và chết, còn cụ bà thì đau khổ vì đã chọn lầm và lựa sai. Đây là một bài học cho những người già không chịu an phận ở với con cháu.
> > -Có hai cụ cố là cha mẹ của một vị linh mục. Hai cụ cố chỉ muốn về lại Việt Nam . Khi ra phi trường, hai cụ “cay cú” xé hết giấy tờ di trú vì không còn muốn ở Mỹ nữa. Về Việt Nam được khoảng 6 tháng, hai cụ chịu không được, muốn trở lại Mỹ thì không còn giấy tờ di trú nữa. Thành ra tội nghiệp cho người con linh mục phải lặn lội về lại Việt Nam chạy chọt giấy tờ để đưa cha mẹ trở về Mỹ.
> >
> > 4. Các lý do mà Việt Kiều không muốn về sống luôn ở Việt Nam :
> >
> > Có nhiều lý do mà người Việt Kiều không muốn về sống luôn ở Việt Nam . Sau đây chỉ là một số lý do tại sao người ta không về sống ở Việt Nam :
> > -Điều kiện an ninh chưa tốt, còn có những sự khó khăn và không hoàn toàn tự do. Nay người này đến kiếm chuyện, mai người kia đến khám xét.
> > -Khi hậu Việt Nam quá khắc nghiệt, nắng và nóng nực hơn 30 năm về trước nhiều. Đã nóng lại còn ẩm ướt, làm cho con người không được thoải mái.
> > -Ô nhiễm môi sinh: đường đi không tốt, ổ gà, bụi bặm, đầy khói xe, đông người chen chúc, ồn ào, kẹt xe… Ở Sàigòn, không có một con đường nào là yên tĩnh và nên thơ để hít thở chút không khí trong lành. Như vậy con người dễ bị theo đường hô hấp, bịnh phổi, bịnh lao.
> > -Cách nấu ăn và thức uống không hợp vệ sinh. Đã có trường hợp rượu đế có pha thuốc rầy làm cho nhiều người chết. Rồi nạn bánh phở có chất độc cho bánh dai, làm người ăn chết oan. Nguồn nước uống không trong lành. Người ở Mỹ về thường bị đau bụng tiêu chảy, và bị ngứa ngáy khắp cơ thể.
> > -Cách lái xe của các tài xế quá ẩu, không có sự an toàn. Họ đã nhiều lần lái xe lấn áp những người lái xe gắn máy cho đến khi người ta té ngã hay chết. Trong thân nhân tôi, có trường hợp một phụ nữ có thai bị chết oan cả hai mẹ con vì bị tái xế xe hàng ép té bể đầu. Bản thân chúng tôi thuê xe đi mà tài xế suýt đụng xe mấy lần. Tại sao mình lại dại dột giao mạng sống mình cho những kẻ mình không biết gì về họ?
> > -Bước chân ra là tốn đủ mọi thứ tiền: Tiền di chuyển, tiền xe taxi, tiền tiêu, tiền tặng, và nhiều chi phí khác. Trong khi ở Mỹ, ngoài hai bữa cơm, không tốn tiền xe cộ, và không tốn những món tiền không cần thiết khác.
> > -Nạn hối lộ và đút lót làm cho hệ thống hành chánh thối nát và chậm chạp.
> > -Điều kiện chữa trị y tế chắc chắn là thua xa Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có hệ thống y tế tiến bộ nhất thế giới. Khi về già thì hay sinh ra nhiều bịnh. Tại sao lại chọn cái xấu mà chê cái tốt, khi càng già càng mang nhiều bịnh? Đó là chưa kể khi mình bị bịnh nặng, lại mang danh là Việt kiều, liệu các nhân viên y tế có hết lòng chăm lo cho Việt kiều hay là để cho mình chết cho mau?
> > -Lối sống, lối suy nghĩ và mọi sinh hoạt khác biệt giữa hai nền văn hoá, khiến cho người Việt kiều đôi lúc có cảm tưởng mình là kẻ xa lạ trên chính quê hương của mình.
> > -Điều quan trọng nhất là: những người già ở Mỹ có tiền trợ cấp xã hội, một tháng cũng gần 900USD. Nếu các ông bà này ra khỏi Mỹ trên 29 ngày là bị chính quyền cắt viện trợ ngay. Vậy khi về ở luôn ở Việt Nam là xem như quý vị không còn tiền trợ cấp xã hội nữa. Liệu có ai hầu hạ và chăm sóc không công cho một người già không tiền hay không?
> > -Quý vị thử đến thăm thân nhân hay ngay cả các tu sĩ mà không tặng họ tiền, thì sẽ thấy ngay phản ứng của họ. Thử tưởng tượng mình đem thân xác bịnh tật về Việt Nam mà không có tiền, liệu còn tình nghĩa gì không?
> >
> > 5. Giải pháp tốt nhất:
> >
> > Nếu quý vị không muốn sống với các con cháu vì họ đi làm, đi học suốt ngày, không có giờ để săn sóc cho quý vị, thì xin hãy vào trong các viện dưỡng lão có đông người Việt Nam ở California. Chúng tôi đã từng đi thăm nhiều viện dưỡng lão. Tại đó có Thánh lễ hàng tuần và có các Thừa Tác Viên Thánh Thể kiệu Mình Thánh Chúa đến cho quý vị hàng ngày.
> > -Nếu các cụ theo đạo Phật thì cũng có các vị thượng toạ đến tụng kinh và cầu siêu cho các cụ còn sống cũng như đã qua đời.
> > -Ngoài ra còn có những hội đoàn đến thăm viếng, an ủi, và giúp vui cho quý vị. Các cụ thường tụ tập đọc kinh và cầu nguyện chung. Các con cháu thường đến thăm viếng các cụ bất cứ lúc nào. Chúng tôi đã phỏng vấn một số cụ già, cả nam lẫn nữ. Họ rất vui khi ở trong các viện dưỡng lão này.
> >
> > 6. Kết luận:
> > Vì thế, nhiều người kết luận rằng: Họ chỉ về thăm quê hương và giúp đỡ người nghèo và tàn tật, chứ không về ở luôn tại Việt Nam . Những ông bà cụ có con cháu còn ở lại Việt Nam thì họ về thăm cho đỡ nhớ, rồi sau đó, họ cũng trở lại Hoa Kỳ vì nhiều lý do tế nhị khác mà không thể nói ra hết được.
> > Tốt hơn hết, mình nên sống ở Hoa Kỳ. Con cháu mình ở đâu thi gia đình mình ở đấy. Nhà mình ở đâu thì tổ ấm ở nơi đấy. Có thương dân nghèo, thương quê hương thì về thăm và giúp đỡ.
> >
> > Kim Hà
> > 12/6/07
===
> >
KIM HÀ
==
> >
> > Đây là câu hỏi mà linh mục Hồ Sĩ Mậu đặt ra cho cử tọa trong Thánh lễ ngày 6/6/2007 vừa qua. Và có nhiều người trả lời, nhưng tựu trung không ai muốn về sống luôn ở Việt Nam . Tại sao?
> >
> > 1. Tại sao lại muốn về Việt Nam ?
> >
> > Đã là người Việt Nam thì ai chẳng muốn về sống trên quê cha đất tổ, để được gần mộ phần của tổ tiên, ông bà, cha mẹ? Nhất là được nói tiếng Việt mà không phải dùng một ngôn ngữ khác, đó là tiếng Anh mà có nhiều người già không hiểu và không biết nói.
> > Sống ở Việt Nam mà nếu có tiền thì có thể thuê người hầu hạ, nấu ăn, dọn dẹp và săn sóc cho mình. Đời sống ở Việt Nam thì tương đối đơn giản, thoải mái. Chi phí sống ở Việt Nam cũng thấp hơn sống ở Mỹ. Các món ăn hợp với khẩu vị, lại tươi tốt, giá cả rẻ hơn ở Mỹ. Nói tóm lại, nếu được về sống ở Việt Nam để gần gũi thân nhân, gia đình và quê hương thì còn gì bằng? Thế mà vấn đề không đơn giản như vậy.
> >
> > 2. Một số người muốn về Việt Nam vì những lý do sau:
> >
> > Có một số ít người về Việt Nam để xây biệt thự để về hưởng thụ. Ở Mỹ, ai cũng phải làm việc quần quật như trâu bò cả ngày, không ai biết mình là ai. Nay về Việt Nam được người ta trọng vọng, nể vì bởi cái “mác” Việt kiều thì thích chí. Họ về Việt Nam để tự ái được thỏa mãn, cái tôi được vỗ về.
> > Một số khác để kiếm bồ bịch và hưởng lạc thú xác thịt. Đó là những sự thật trơ trẽn mà ai ai cũng biết.
> > Cũng có những kẻ chuyên lường gạt tiền bạc của người khác rồi đem tiền về Việt Nam đầu tư đất đai, nhà cửa và sống hưởng thụ và truỵ lạc trên mồ hôi, nước mắt và đồng tiền khó nhọc của kẻ khác. Khi chết, họ sẽ đối diện với những tội ác của họ. Gia đình tôi và một số bạn bè tôi là một trong những nạn nhân của hạng người này.
> >
> > 3. Những trường hợp thực tế có thật:
> >
> > -Một vị linh mục trên 90 tuổi đã suy xét rất kỹ về việc nên về Việt Nam sống và chết hay nên ở lại Mỹ. Kết cuộc, ngài chọn xin vào sống dưỡng lão trong Dòng Đồng Công ở Mỹ mà không về sống ở Việt Nam.
> > -Nhiều bà cụ già sống độc thân, muốn về Việt Nam ở trong các tu viện và trả tiền chi phí ăn ở cho các nữ tu, để sớm hôm được dự Thánh lễ. Lúc sống hy vọng có các nữ tu đùm bọc, lúc hấp hối hy vọng có người lo cho phần rỗi linh hồn, nhưng rốt cuộc, các bà không thể về sống ở Việt Nam được, vì một số nữ tu không nhận nuôi các bà, dù cho các bà có trả tiền đi nữa.
> > -Khi gia đình tôi về thăm Việt Nam, mẹ chúng tôi có ý định về dưỡng già ở Việt Nam nên chúng tôi đi tìm một dòng tu nữ để xin trả tiền cho mẹ tôi được về Việt Nam sống trong tu viện, nhưng bà bề trên nói rằng họ không thể cho bà ở trong tu viện của họ vì Dòng họ không có dòng Ba (dành cho giáo dân), và vì họ sợ sống chung đụng mất lòng.
> > -Còn một dòng tu khác thì cho giá cả là 100USD tiền thuê phòng, chưa kể tiền cơm nước và công thuê người giúp việc để săn sóc cho bà. Căn phòng quá nhỏ và thiếu tiện nghi tối thiểu. Đi thăm Việt Nam lần ấy về, mẹ tôi bỏ ngay ý định: ”Ta về ta tắm ao ta” ngay. Thực tế nói nhiều hơn là trí tưởng tượng!
> > -Một lần khác, chúng tôi lại đưa mẹ tôi ra Huế. Bà lại có ý định ở lại trong một dòng tu nữ ở Huế. Lần ấy, các nữ tu cho gia đình chúng tôi ở trong những phòng chật chội và nóng bức, thiếu những tiện nghi vệ sinh tối thiểu. Một phòng có đến 4, 5 chiếc giường lát gỗ. Nắng rọi vào phòng nóng như thiêu như đốt, mà phòng không có lấy một cái quạt máy. Mẹ tôi nhìn thấy thực tế mà tỉnh mộng. Gia đình chúng tôi vội vàng thuê khách sạn ở ngay, và không ai đề cập gì thêm đến chuyện về sống ở Việt Nam nữa.
> > -Có hai vợ chồng cụ già ở Úc với con cháu nhưng hai cụ nằng nặc đòi về Việt Nam sinh sống với người con nuôi. Mặc dù các con của hai cụ ngăn cản chuyện hai cụ về lại Việt Nam , nhưng không giữ hai cụ được. Cuối cùng, họ gửi tiền về Việt Nam cho người con nuôi chăm sóc cho hai cụ, nhưng người con nuôi ở Việt Nam đã đối xử rất tồi tệ với hai cụ. Thậm chí, họ lấy dây cột trói hai cụ lại, rồi chụp hình gửi sang cho các con ruột của hai cụ để đòi tiền thêm. Các con ruột của hai cụ nóng ruột, đi về lo cho cha mẹ trở lại Úc, nhưng giấy tờ di trú đã hết hạn nên hai cụ không thể trở lại Úc được. Cụ ông buồn và chết, còn cụ bà thì đau khổ vì đã chọn lầm và lựa sai. Đây là một bài học cho những người già không chịu an phận ở với con cháu.
> > -Có hai cụ cố là cha mẹ của một vị linh mục. Hai cụ cố chỉ muốn về lại Việt Nam . Khi ra phi trường, hai cụ “cay cú” xé hết giấy tờ di trú vì không còn muốn ở Mỹ nữa. Về Việt Nam được khoảng 6 tháng, hai cụ chịu không được, muốn trở lại Mỹ thì không còn giấy tờ di trú nữa. Thành ra tội nghiệp cho người con linh mục phải lặn lội về lại Việt Nam chạy chọt giấy tờ để đưa cha mẹ trở về Mỹ.
> >
> > 4. Các lý do mà Việt Kiều không muốn về sống luôn ở Việt Nam :
> >
> > Có nhiều lý do mà người Việt Kiều không muốn về sống luôn ở Việt Nam . Sau đây chỉ là một số lý do tại sao người ta không về sống ở Việt Nam :
> > -Điều kiện an ninh chưa tốt, còn có những sự khó khăn và không hoàn toàn tự do. Nay người này đến kiếm chuyện, mai người kia đến khám xét.
> > -Khi hậu Việt Nam quá khắc nghiệt, nắng và nóng nực hơn 30 năm về trước nhiều. Đã nóng lại còn ẩm ướt, làm cho con người không được thoải mái.
> > -Ô nhiễm môi sinh: đường đi không tốt, ổ gà, bụi bặm, đầy khói xe, đông người chen chúc, ồn ào, kẹt xe… Ở Sàigòn, không có một con đường nào là yên tĩnh và nên thơ để hít thở chút không khí trong lành. Như vậy con người dễ bị theo đường hô hấp, bịnh phổi, bịnh lao.
> > -Cách nấu ăn và thức uống không hợp vệ sinh. Đã có trường hợp rượu đế có pha thuốc rầy làm cho nhiều người chết. Rồi nạn bánh phở có chất độc cho bánh dai, làm người ăn chết oan. Nguồn nước uống không trong lành. Người ở Mỹ về thường bị đau bụng tiêu chảy, và bị ngứa ngáy khắp cơ thể.
> > -Cách lái xe của các tài xế quá ẩu, không có sự an toàn. Họ đã nhiều lần lái xe lấn áp những người lái xe gắn máy cho đến khi người ta té ngã hay chết. Trong thân nhân tôi, có trường hợp một phụ nữ có thai bị chết oan cả hai mẹ con vì bị tái xế xe hàng ép té bể đầu. Bản thân chúng tôi thuê xe đi mà tài xế suýt đụng xe mấy lần. Tại sao mình lại dại dột giao mạng sống mình cho những kẻ mình không biết gì về họ?
> > -Bước chân ra là tốn đủ mọi thứ tiền: Tiền di chuyển, tiền xe taxi, tiền tiêu, tiền tặng, và nhiều chi phí khác. Trong khi ở Mỹ, ngoài hai bữa cơm, không tốn tiền xe cộ, và không tốn những món tiền không cần thiết khác.
> > -Nạn hối lộ và đút lót làm cho hệ thống hành chánh thối nát và chậm chạp.
> > -Điều kiện chữa trị y tế chắc chắn là thua xa Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có hệ thống y tế tiến bộ nhất thế giới. Khi về già thì hay sinh ra nhiều bịnh. Tại sao lại chọn cái xấu mà chê cái tốt, khi càng già càng mang nhiều bịnh? Đó là chưa kể khi mình bị bịnh nặng, lại mang danh là Việt kiều, liệu các nhân viên y tế có hết lòng chăm lo cho Việt kiều hay là để cho mình chết cho mau?
> > -Lối sống, lối suy nghĩ và mọi sinh hoạt khác biệt giữa hai nền văn hoá, khiến cho người Việt kiều đôi lúc có cảm tưởng mình là kẻ xa lạ trên chính quê hương của mình.
> > -Điều quan trọng nhất là: những người già ở Mỹ có tiền trợ cấp xã hội, một tháng cũng gần 900USD. Nếu các ông bà này ra khỏi Mỹ trên 29 ngày là bị chính quyền cắt viện trợ ngay. Vậy khi về ở luôn ở Việt Nam là xem như quý vị không còn tiền trợ cấp xã hội nữa. Liệu có ai hầu hạ và chăm sóc không công cho một người già không tiền hay không?
> > -Quý vị thử đến thăm thân nhân hay ngay cả các tu sĩ mà không tặng họ tiền, thì sẽ thấy ngay phản ứng của họ. Thử tưởng tượng mình đem thân xác bịnh tật về Việt Nam mà không có tiền, liệu còn tình nghĩa gì không?
> >
> > 5. Giải pháp tốt nhất:
> >
> > Nếu quý vị không muốn sống với các con cháu vì họ đi làm, đi học suốt ngày, không có giờ để săn sóc cho quý vị, thì xin hãy vào trong các viện dưỡng lão có đông người Việt Nam ở California. Chúng tôi đã từng đi thăm nhiều viện dưỡng lão. Tại đó có Thánh lễ hàng tuần và có các Thừa Tác Viên Thánh Thể kiệu Mình Thánh Chúa đến cho quý vị hàng ngày.
> > -Nếu các cụ theo đạo Phật thì cũng có các vị thượng toạ đến tụng kinh và cầu siêu cho các cụ còn sống cũng như đã qua đời.
> > -Ngoài ra còn có những hội đoàn đến thăm viếng, an ủi, và giúp vui cho quý vị. Các cụ thường tụ tập đọc kinh và cầu nguyện chung. Các con cháu thường đến thăm viếng các cụ bất cứ lúc nào. Chúng tôi đã phỏng vấn một số cụ già, cả nam lẫn nữ. Họ rất vui khi ở trong các viện dưỡng lão này.
> >
> > 6. Kết luận:
> > Vì thế, nhiều người kết luận rằng: Họ chỉ về thăm quê hương và giúp đỡ người nghèo và tàn tật, chứ không về ở luôn tại Việt Nam . Những ông bà cụ có con cháu còn ở lại Việt Nam thì họ về thăm cho đỡ nhớ, rồi sau đó, họ cũng trở lại Hoa Kỳ vì nhiều lý do tế nhị khác mà không thể nói ra hết được.
> > Tốt hơn hết, mình nên sống ở Hoa Kỳ. Con cháu mình ở đâu thi gia đình mình ở đấy. Nhà mình ở đâu thì tổ ấm ở nơi đấy. Có thương dân nghèo, thương quê hương thì về thăm và giúp đỡ.
> >
> > Kim Hà
> > 12/6/07
===
> >
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 094
PATRICIA NGUYỆT
==
TẠ QUANG KHÔI
==
Vừa thoáng nhìn thấy người con gái lai Âu-Á trong đám đông, ông Phùng liền nhận ra cái vẻ quen thuộc dù rằng đây là lần đầu ông gặp cô ta. Phước, con trai ông, bỗng reo to :"Pat đó, ba !" rồi hắn chạy vội về phía cô gái. Ông Phùng thầm nghĩ :"Ồ, con nhỏ xinh và dễ thương quá, thảo hèn nó mê như đìếu đổ." Phước dành lấy cả hai xách tay của cô gái, rồi dắt cô đến gặp bố.
"Patricia Nguyệt mà con vẫn nói chuyện với ba đó."
Patricia có nhiều phần Âu hơn Á. Tóc cô đen, nhưng đôi mắt cô màu hạt dẻ và nước da thật trắng. Ông Phùng vừa bắt tay cô vừa nghĩ cô có nhiều nét rất quen thuộc. Cô nhoẻn miệng cười (Trời ơi ! ông thầm kêu, lại càng quen nữa !) nói bằng tiếng Việt thật sõi :
"Thưa bác, bác vẫn khỏe ?"
Ông cũng cười lại :
"Bác vẫn bình thường, cháu. Mà cháu đi máy bay có mệt lắm không ?"
"Không ạ. Lần đầu tiên đi máy bay, cháu cũng hơi chóng mặt, nhưng đi riết rồi cũng quen, bác."
Cô ngoảnh lại nói với Phước :
"Em phải ra lấy hành lý, anh ạ."
Cái ngoái cổ của Patricia lại làm ông Phùng nhận ra cái quen thuộc ở nơi cô. Cô hao hao giống Thu Nguyệt, người vợ quá cố của ông. Sau "khám phá" đó, ông bắt đầu thấy Patricia có nhiều nét thật giống bà Phùng. Bà trước kia đã từng là hoa khôi của một trường nữ trung học tư ở Saigon vào đầu thập niên 1950. Sau biến cố năm 1975, một phần vì buồn lo, một phần vì bệnh hoạn, bà đã qua đời trong khi ông còn ở trong trại tù cộng sản.
Ông không hiểu tại sao Patricia Nguyệt, một cô gái Việt lai Mỹ, hoàn toàn xa lạ với ông, lại có những nét giống vợ ông. Cái miệng cười đó, cái dáng dấp mảnh mai đó (tuy Patricia cao hơn nhiều), những bước đi thật khoan thai đó, không phải của Thu Nguyệt sao ?
Trên đường về nhà, ngồi trong xe hơi do Phước lái, ông Phùng chợt hỏi :
"Má cháu vẫn khỏe ? Ba cháu mất lâu chưa ?"
Patricia có giọng hơi buồn :
"Thưa bác, ba cháu mất cách đây hai năm. Má cháu thì vẫn bình thường."
Phước nói xen vào :
"Cuối tuần này con mời Ba sang Cali để gặp má Pat. Ba có rảnh không ?
Ông Phùng cười :
"Vậy sao ? Ba thì lúc nào chả rảnh, nhưng lấy vé máy bay trễ quá thì hơi mắc đó."
"Dạ, không sao, Ba. Con đã giữ chỗ từ mấy tuần trước lận."
Ông có giọng trách nhẹ :
"Thế mà không cho ba biết."
"Dạ, bị con còn phải chờ... quyết định của Pat."
"Đừng có đổ lỗi cho em, nghe. Em đã đồng ý với anh cả tháng nay rồi, chớ có phải mới hôm qua đâu. Chưa gì anh đã đổ tiếng khó cho em."
Trách người yêu xong, Patricia cười dòn dã. Ông Phùng lại nghe nhói trong tim. Rõ ràng tiếng cười của Thu Nguyệt ngày xưa. Ồ, mà sao Patricia cũng có tên là Nguyệt nhỉ ?
Bây giờ ông mới nhận ra sự trùng hợp đó. Có lẽ từ ngày quen Patricia, mỗi lần nhắc tới cô, Phước đều gọi là Pat mà rất ít khi nhắc tới tên Nguyệt. Chỉ có lần kể sơ về lai lịch của Patricia, hắn mới cho biết Patricia cũng có tên Việt là Nguyệt. Nhưng ông thấy không có gì quan trọng vì con gái Việt Nam không thiếu gì người tên Nguyệt. Bây giờ, vì thấy Patricia có nhiều nét giống người vợ quá cố, ông mới chợt nhận ra cái đặc biệt của tên Nguyệt.
Ông hỏi con trai :
"Sang vùng nào ở bên Cali ? Bắc hay Nam ? Ba có nhiều bạn thân ở Nam Cali."
Patricia trả lời thay người yêu :
"Má cháu ở một thị trấn nhỏ gần Sacramento.
"Vậy hả . Sacramento là thủ phủ của Cali. Từ Sacramento đến thị trấn má cháu ở có xa không ? Mấy tiếng lái xe ?"
"Thưa bác, chỉ khoảng từ hai mươi phút đến nửa giờ thôi."
"Cuối tuần cháu cùng đi với Phước và bác chứ ?"
"Dạ không. Cháu xin phép bác ngày mai cháu về..."
"Ủa, sao gấp quá vậy ?"
Phước vội nói tiếp :
"Pat được nghỉ có một tuần, đầu tuần sau đã phải có mặt ở trường nên muốn về nhà trước vì lâu không gặp má."
"Cháu có nhiều anh em không ? Còn ai ở với cụ ?"
"Thưa bác, các anh các chị cháu đều đã có gia đình và ở xa, chỉ có mình cháu còn ở chung với má cháu thôi. Lần đầu tiên chau phải xa má cháu để lên Nữu ước học, cách đây gần bốn năm, má cháu khóc quá, làm cháu suýt bỏ ý định đi học xa."
"Ừ, sống một mình ở đất Mỹ này dễ cảm thấy cô đơn lắm."
Phước bỗng lên tiếng :
"Do đó, con đang xin đổi về Sacramento, ba ạ."
"Ừ, con đi đâu cũng được, miễn có việc làm chắc chắn và có cuộc sống thoải mái cả về tinh thần lẫn vật chất."
Trong khi đó, ông thầm nghĩ :"Con nhỏ này đẹp và dễ thương quá, thằng Phước có phải đi theo đến chân trời góc biển cũng là lẽ thường mà thôi. Ngày xưa, mình cũng đã từng nguyện đi theo Thu Nguyệt đến bất cứ nơi nào, miễn luôn luôn được ở bên nàng."
"Con đang đợi thư của trường UC Davis vì con đã gửi đơn xin việc ở đó. Hi vọng họ sẽ trả lời tuần này hoặc tuần sau. Còn Pat đã được một công ty ở Sacramento mướn dù mấy tháng nữa Pat mới ra trường."
"Nếu con làm việc ở Sacramento, ba cũng di theo. Sacramento chắc cũng gần San Francisco nhỉ ? Ba có nhiều bạn ở đó lắm."
Phước đùa :
"Lady friend hả ba ?"
Patricia cũng quay lại nhìn ông,mỉm cười hóm hỉnh.
"Ba già rồi, bồ bịch chi cho thêm mệt." Ong đáp.
Patricia liền nói :
"Bác mới cần có bạn cho đỡ cô đơn."
Ông Phùng không để ý tới câu nói ấy mà lại chợt nhận thấy cái quen thuộc ở cô. Trời ơi, ông thầm nghĩ, sao mỗi lúc con nhỏ này một giống Thu Nguyệt vậy nè ! Cái cách ngoái cổ, cái lối vừa cười vừa nói đầy duyên dáng cùa nó là của Thu Nguyệt trước kia. Giá nó đừng có nét lai thì...là Thu Nguyệt chớ còn ai nữa !
Lại có tiếng Phước :
"Pat nói đúng đó, ba cần có một bà bạn cho đỡ buồn."
Ông đáp một cách lơ đãng vì đầu óc còn mải nghĩ đến sự giống nhau của hai con người cùng có tên Nguyệt :
"Ba chả có gì buồn, nên cũng chẳng cần bạn."
Patricia Nguyệt ở chơi với Phước có một ngày trước khi bay về Cali thăm mẹ. Trong thời gian đó, ông Phùng nhận xét thêm một điều là cô tuy lai mà có một nếp sống và một tâm hồn hoàn toàn Việt Nam. Điều này cũng làm ông thắc mắc không ít. Theo dự đoán của ông, bố cô là Mỹ và mới chỉ qua đời hai năm trước đây. Không lẽ ông ta chiều vợ đến độ dù sống trên quê hương mình vẫn hoàn toàn theo nếp sống Việt Nam của vợ ? Điều này khó có thể xảy ra.
Cũng trong thời gian này, ông biết thêm về cuộc gặp gỡ giữa Phước và Patricia Nguyệt. Sau khi tốt nghiệp đại học về Vi Tính, Phước được học bổng để học cao học tại một trường đại học thuộc tiểu bang Nữu ước. Trong khi học, hắn làm phụ giáo cho một giáo sư. Hắn dã gặp Patricia Nguyệt khi cô vừa bước chân vào đại học. Có lẽ hai tâm hồn Việt Nam nơi xa lạ dễ hợp nhau và quyến luyến nhau. Patricia được cha mẹ gửi từ Bắc Cali sang học ở trường này, dù Sacramento cách Ithaca hơn ba ngàn dặm. Lần đầu tiên phải xa gia đình, Patricia cảm thấy cô đơn vô cùng. Nhờ có Phước, cô khuây khoả dần. Rồi tình yêu đến lúc nào không hay.
Trước khi Patricia lên máy bay về Cali, ông Phùng đã liên lạc với mẹ cô để hẹn ngày sang gặp bà nói chuyện về hôn nhân của hai con.
Đúng hẹn, hai cha con ông Phùng tới gặp Mẹ của Patricia Nguyệt. Gia đình cô ở trong một thị trấn phía Nam thành phố Sacramento. Elk Grove nhỏ, nhưng có cái vẻ rất êm đềm của một vùng nông thôn. Nhà Patricia Nguyệt là một biệt thự nằm giữa một bãi cỏ khá rộng và xanh mướt.
Vì được báo trước, bà Thành đã sẵn sàng để đón tiếp hai cha con ông. Sau vài câu xã giao, khi Phước và Patricia đã rủ nhau ra vườn, ngồi dưới một tàng cây lớn để nói chuyện, bà Thành chợt hỏi :
"Xin lỗi, cho phép tôi được gọi anh bằng anh cho thân. Anh có phải là anh Phùng, chồng của Thu Nguyệt không ?"
Ông Phùng giật mình, ngạc nhiên hỏi lại :
"Tại sao...Tại sao...chị lại biết rõ như vậy ? Chị quen nhà tôi trước kia ?
Bà Thành chợt buồn, đáp nhẹ :
"Dạ..."
Ông Phùng vẫn có giọng ngỡ ngàng :
"Thế mà nhà tôi không bao giờ... nhắc đến chị...Chắc trước kia chị với nhà tôi học cùng lớp cùng trường ?"
Bà Thành lắc đầu :
"Không ạ. Tôi chỉ mới quen chị sau này."
Ông Phùng cố lấy giọng vui vẻ, tự nhiên :
"Thế thì càng thêm thân."
"Dạ, tất nhiên là thêm thân, nhưng...không vui chút nào."
"Ủa ! Chị nói gì mà kỳ vậy ?"
Bà Thành giữ im lặng một lát khá lâu khiến ông Phùng sốt ruột. Ông vừa định lên tiếng hỏi thì bà Thành khẽ thở dài :
"Thật là oan nghiệt...Đúng là định mệnh đã xếp đặt chuyện éo le này."
"Chị nói vậy là thế nào ?"
Để bầu không khí bớt căng thẳng, bà Thành đứng lên rót trà mời khách. Nhìn vẻ mặt buồn bã, bí mật của bà, ông Phùng càng nôn nóng. Khi trở lại ghế ngồi, đối diện với khách, bà Thành nói :
"Pat là con Thu Nguyệt..."
Vì bà nói quá nhỏ, ông Phùng tuy đã nghe rõ nhưng vẫn tưởng mình nghe lầm, hỏi lại :
"Chị nói sao ?"
Bà Thành thở dài :
"Con Pat chính là con của chị nhà."
Vẫn không tin ở tai mình, ông Phùng lại hỏi :
"Nó là con của ai ?"
Lần này bà Thành giữ im lặng lâu hơn, lẩm bẩm :"Oan nghiệt !...Oan nghiệt !"
Ông Phùng không cần bà Thành nhắc lại nữa, bây giờ thì ông biết mình đã không nghe lầm, nhưng tỏ vẻ nghi ngờ :
"Nó không phải là con ruột của chị ?"
Bà Thành chép miệng :
"Chuyện này tôi giấu kín đã bao nhiêu năm, nay phải nói ra để tránh một...nghịch cảnh. Không biết tôi dùng hai chữ "nghịch cảnh" có đúng không ? Tôi ra ngoại quốc đã nhiều năm, lại ít giao du, tiếng Việt cũng đã quên đi ít nhiều."
Ông Phùng khoát tay :
"Nghịch cảnh hay gì thì cũng không quan trọng, xin chị xác nhận lại Pat không phải là con ruột của chị."
"Dạ...Cháu là con nuôi của vợ chồng tôi...Chúng tôi đem cháu về nuôi ngay từ lúc cháu vừa lọt lòng mẹ cháu ...là chị Thu Nguyệt...Vì thế tôi coi cháu chẳng khác gì chính tôi sinh cháu."
Tuy trong óc đã lờ mờ đoán ra nguồn gốc của Patricia, ông Phùng vẫn nói :
"Quả thật, tôi không hiểu tại sao...Pat lại có thể là con của...nhà tôi."
"Dạ...anh không hiểu mà chả ai có thể hiểu được...trừ những người trong cuộc...Bây giò xin anh dùng trà đi, bình tĩnh trở lại, tôi sẽ xin kể đầu đuôi để anh rõ."
Nói xong, bà Thành nâng tách trà lên :
"Mời anh...Ồ, nguội cả rồi."
Vì lịch sự, ông Phùng cũng cầm tách lên, nhưng không uống. Lòng ông mỗi lúc một bồn chồn hơn. Bà Thành cố lấy lại sự vui vẻ ban đầu, mỉm cười nói :
"Tôi xin mời anh lên lầu xem hình nhà tôi trên bàn thờ để anh tin chắc rằng nhà tôi không thể là ba ruột của Patricia. Nhà tôi hoàn toàn Việt Nam."
Đúng như lời bà Thành, ảnh người đàn ông trên bàn thờ là một ông già Việt Nam thuần túy, không hề có một nét lai nào. Khi đã trở lại phòng khách, bà Thành chậm rãi kể :
"Cách đây hơn hai chục năm, khi nhà tôi còn làm việc trong tòa dại sứ Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn có được gặp một bà Việt Nam. Bà thật đẹp, đang có bầu, lại càng đẹp hơn. Bà đến xin nhà tôi giúp để được ở lại thêm một thời gian. Bà được học bổng dể sang đây tu nghiệp hai năm, lúc đó đã đến hạn phải về, nhưng bà lại không muốn về ngay, có thể bà muốn ở lại luôn. Bà thú thực với nhà tôi là bà yêu một ông giáo sư người Mỹ, có bầu với ông ta...Nói cho ngay, bà sang học bên này, lại ở một nơi quá lạnh lẽo như vùng Bắc tiểu bang Nữu Ước thì thế nào chả cảm thấy cô đơn. Hồi mới sang, bà cho biết, bà rất kém Anh văn, được ông giáo sư này tận tình giúp đỡ...Nơi đất lạ quê người, lại đang xa chồng xa con, trong cảnh cô đơn, có người giúp đỡ, săn sóc thì cảm động lắm, rồi ...Chuyện phải đến đã đến...
Chỉ tiếc một điều là ông giáo sư đã có gia đình. Bà vợ cũng là giáo sư dạy cùng trường...Ông giáo sư xin ly dị để chính thức lấy Thu Nguyệt, rồi tìm cách giữ Nguyệt ở lại Mỹ với ông ta. Nhưng bà vợ ông làm khó dễ, dùng ảnh hưởng của riêng mình và ảnh hưởng của ông bố, một nghị sĩ, thúc đẩy sở Di trú và bộ Ngoại giao phải đuổi Nguyệt về nước.Thế là Nguyệt phải đến cầu cứu nhà tôi...Nhưng, như anh rõ, chúng tôi chả làm được gì hết trước một áp lực to lớn như áp lực của gia đình vợ giáo sư Patrick. À, tôi quên chưa cho anh rõ tên người yêu của Thu Nguyệt. Ông ấy tên là Patrick. Tòa Đại sứ Việt Nam chỉ có thể tìm cách can thiệp để Nguyệt sinh xong mới phải về. Trong thời gian chờ đợi đó, không bao lâu, Nguyệt ở nhà chúng tôi. Trước khi đi sanh, Nguyệt yêu cầu vợ chồng chúng tôi nhận đứa nhỏ làm con nuôi. Nguyệt đã đặt tên cho con trước, nếu là con gái thì lấy tên Patricia, trai thì lấy ten bố, Patrick. Khi cháu Pat ra đời, chúng tôi khai sanh cho cháu, lấy họ chúng tôi. Tên Việt Nam cũng là...Thu Nguyệt.
Vì thế, cháu là Patricia Nguyệt. Sanh xong ít lâu thì Nguyệt phải lên máy bay về Việt Nam. Chúng tôi vẫn liên lạc với nhau qua một chị bạn của Nguyệt ở Saigon. Sau biến cố tháng tư 1975, chúng tôi mất liên lạc một thời gian. Khoảng năm 1979 hay 80 gì đó, chúng tôi đã liên lạc lại được, thì nghe tin Nguyệt đã qua đời. Còn về giáo sư Patrick thì rồi cũng ly dị xong với vợ, nhưng ngót một năm sau khi Nguyệt đã về Việt Nam. Ông thường đến thăm chúng tôi và cháu Pat. Có lần ông ngỏ ý xin lại cháu, nhưng tôi, chính tôi, từ chối, vì Pat đã chính là con gái út của tôi, tôi không thể xa cháu được. Đến năm Pat lên mười, Patrick qua đời vì ung thư phổi. Trước khi chết ông ấy để hết tiền bạc cho con gái và yêu cầu sau này phải cho cháu học ở Cornell trên Nữu Ước. May cháu là người thông minh nên chúng tôi đã giữ đúng lời hứa với bố cháu...Nhưng có điều không may là cháu lại gặp anh ruột cháu ở đó và hai đứa đã yêu nhau...Đúng là nghịch cảnh !
Hai người giữ im lặng một lúc khá lâu, rồi bà Thành lại lên tiếng :
"Giá Pat yêu người khác thì bí mật của Thu Nguyệt mãi mãi là bí mật, để rồi khi tôi chết sẽ mang đi theo...Nhũng người trong cuộc đã lần lượt qua đời hết, chỉ còn lại một mình tôi...Thế mà nay tôi phải nói ra, thật là...vạn bất đắc dĩ...Mà giữ im lặng càng có tội hơn, tội với người chết, tội cả với người sống nữa."
Ông Phùng ngồi gục mặt, ôm đầu một lát, rồi buồn bã hỏi :
"Bây giờ, tôi phải nói với thằng con tôi thế nào ?...Nó yêu Patricia quá mất rồi, mà lòng nó đối với mẹ nó lúc nào cũng muôn vàn kinh phục...Chuyện này có thể làm tan nát cuộc đời nó...Người mẹ nó hằng yêu thương...Ôi, sao trời không cho tôi chết trước khi thấy con tôi đau khổ !"
Những tiếng cuối cùng của ông đã nghẹn ngào đầy nước mắt.
Bà Thành cũng nghe cảm động tận đáy lòng.
Một lúc khá lâu sau, ông ngửng lên, nói bằng một giọng năn nỉ :
"Xin chị cứu lấy thằng Phước, tôi chỉ có một mình nó thôi..."
Bà Thành nhìn ông đăm đăm :
"Nghĩa là... cứ cho hai đứa lấy nhau ?"
Ông Phùng lắc đầu :
"Không, không phải như vậy... Sự bí mật nào rồi cũng bị phanh phui, chẳng sớm thì muộn... Nếu chúng ta cứ để mặc hai đứa lấy nhau, sau này khi chúng nó biết chúng nó là anh em, cùng mẹ khác cha, thì sự tai hại sẽ to lớn vô cùng. Lỗi đó sẽ đổ hết lên đầu chị và tôi."
"Vậy anh muốn tôi cứu cháu bằng cách nào ?"
Ngập ngừng một chút, ông nói :
"Tôi kêu gọi lòng thương của chị... Chị sẽ phải hi sinh một chút...Nghĩa là chị sẽ nói hết sự thật cho Patricia biết...Cháu không phải là con ruột của chị."
Trầm ngâm một lát, bà Thành hỏi :
"Tại sao anh lại yêu cầu tôi điều đó ? Anh không thể cho cháu Phước biết sự thật ư ?"
"Tôi xin giải thích để chị rõ. Chị dã nuôi nấng, dạy dỗ cháu Patricia từ lúc cháu mới lọt lòng mẹ. Chị đã săn sóc, đối sử với cháu chẳng khác mẹ ruột, tất nhiên lòng yêu thương của cháu đối với chị là lòng yêu thương, kính mến của một đứa con đối với mẹ. Nay cháu có biết rằng chị không sanh ra cháu, tôi tin rằng tình của cháu đối với chị không thay đổi, nếu không nói là có thể tăng lên. Kinh nghiệm cuộc đời thực tế cho chúng ta thấy rằng người mẹ nuôi được con yêu kính hơn mẹ ruột vì mẹ ruột đã bỏ rơi nó. Chị đã nuôi cháu, đùm bọc cháu hơn hai chục năm, cháu sẽ chỉ biết có chị thôi."
Bà Thành nhẹ gật đầu :
"Anh nói cũng có lý...Thế còn cháu Phước ?"
"Xin chị dể tôi nói tiếp. Khi Patricia biết cháu với thằng Phước là anh em ruột, cháu sẽ phải lẩn tránh Phước. Xin chị dặn cháu đừng nói gì với Phước, coi như Patricia hết yêu Phước. Thằng con tôi sẽ chỉ bị...một đòn là...thất tình. Thất tình thì rồi sẽ có cơ hồi phục, từ từ rồi sẽ hồi phục, sẽ lại yêu người khác. Từ lâu, cháu hằng kính phục mẹ cháu, bao giờ cũng coi mẹ là một người mẹ tuyệt vời nhất cõi đời này. Thu Nguyệt đẹp, hiền hậu, chung thủy với chồng, hết lòng với con...Nay bỗng dưng nó thấy...mặt trái của mẹ nó, chắc nó không thể chịu nổi. Vừa thất tình vì mất Patricia vừa thất vọng vì thần tượng trong lòng nó bỗng đổ vỡ tan tành, thì làm sao nó chịu nổi !"
"Nghĩa là anh muốn giữ cái hình ảnh người mẹ tuyệt vời trong lòng cháu, dù cháu sẽ mất Patricia ?...Anh phân tích cũng có lý, nhưng tôi không nghĩ Thu Nguyệt là người xấu xa, trắc nết. Chỉ tại hoàn cảnh mà thôi."
"Tôi đồng ý với chị điều đó, chúng cớ là tôi không hề trách giận gì nhà tôi, nhưng tôi e rằng thằng Phước không nghĩ như chúng ta."
Bà Thành chợt thở dài :
"Anh có thể cho chúng tôi một thời gian để suy nghĩ không ? Ít ra tôi cần một đêm."
"Dạ, xin chị nghĩ thật kỹ cho...Chúng ta không có gì phải hấp tấp."
"Dạ, tôi thấy ý kiến của anh rất đúng, chín phần mười tôi nghiêng về nó, nhưng cũng xin anh cho tôi suy nghĩ thêm...Từ ngày nhà tôi mất, đây là lần đầu tiên tôi phải giải quyết một việc quá khó khăn, rắc rối như việc này. Trước kia, cái gì nhà tôi cũng lo hết."
Ông Phùng đứng lên, cố lấy giọng vui vẻ nhưng đầy gượng gạo :
"Bây giờ xin phép chị tôi về. Chắc chị biết số điện thoại của tôi ở khách sạn ?"
"Thưa anh không, nhưng chác cháu Pat biết."
"Trước mặt hai cháu xin chị giả bộ vui vẻ cho, như không có chuyện gì bất thường xảy ra."
Bà Thành cười :
"Chèn ơi ! Bây giò tôi lại phải đóng kịch nữa. Tôi xin sẽ làm tròn bổn phận của một kịch sĩ."
X
Trước khi hai cha con ông Phùng lên máy bay trở về vùng Đông Bắc, bà Thành đã gọi. Cuộc nói chuyện giữa bà và ông Phùng không đầy nửa phút. Bà cho biết mọi chuyện coi như tốt đẹp. Patricia khi biết mình và Phước có chung một mẹ ruột thì khóc suốt đêm. Sáng ra, khi đã lấy lại bình tĩnh, cô quyết định cắt đứt với Phước, không thể tiến thêm được nữa. Cô cũng hứa sẽ giấu Phước chuyện riêng tư của bà mẹ. Riêng tình cảm của cô đối với bà Thành không hề suy giảm. Bà còn cho biết thêm là sau khi Patricia tốt nghiệp đại học, bà sẽ cùng cô đi Pháp chơi cho khuây khỏa...
Một tuần sau khi trở lại nhà, Phước nhận được thư Patricia. Ông Phùng đoán nội dung bức thư đã phù hợp với tính toán của ông và bà Thành, nên khi xem xong, Phước bỗng trở nên buồn bã, ngẩn ngơ suốt mấy ngày liền. Hắn không nói gì với cha, lái xe đi cả ngày. Hôm nhận được thư của trường dại học Davis bên California, hắn tức giận vò nát, ném vào thùng rác, không thèm đọc. Có nhiều lần hắn hí hoáy viết thư, nhưng viết xong hoặc viết giở đã xé đi hết. Hắn gọi lên Nữu ước, rồi gọi sang California cả chục lần mà không ai trả lời...
Trong thời gian khủng hoảng đó của con trai, ông Phùng cẩn thận ngầm theo dõi để giúp đỡ kịp thời. Rất may Phước cũng là người đàn ông cứng cỏi. Cuộc khủng hoảng kéo dài ngót một tháng thì hắn lấy lại bình tĩnh. Một hôm, hắn nói với cha :
"Con xin lỗi ba, trong thời gian qua con đã làm ba buồn và lo...Bây giờ thì con hiểu rồi...Lòng dạ đàn bà khó mà lường...Patricia không được như con vẫn mơ tưởng. Nó là con người tồi tệ. Thế mà trước kia con vẫn nghĩ nó có thể sánh ngang với má con, vừa đẹp vừa đoan trang."
Ông Phùng giữ im lặng, nhưng lòng đầy chua xót…
TQK
====
TẠ QUANG KHÔI
==
Vừa thoáng nhìn thấy người con gái lai Âu-Á trong đám đông, ông Phùng liền nhận ra cái vẻ quen thuộc dù rằng đây là lần đầu ông gặp cô ta. Phước, con trai ông, bỗng reo to :"Pat đó, ba !" rồi hắn chạy vội về phía cô gái. Ông Phùng thầm nghĩ :"Ồ, con nhỏ xinh và dễ thương quá, thảo hèn nó mê như đìếu đổ." Phước dành lấy cả hai xách tay của cô gái, rồi dắt cô đến gặp bố.
"Patricia Nguyệt mà con vẫn nói chuyện với ba đó."
Patricia có nhiều phần Âu hơn Á. Tóc cô đen, nhưng đôi mắt cô màu hạt dẻ và nước da thật trắng. Ông Phùng vừa bắt tay cô vừa nghĩ cô có nhiều nét rất quen thuộc. Cô nhoẻn miệng cười (Trời ơi ! ông thầm kêu, lại càng quen nữa !) nói bằng tiếng Việt thật sõi :
"Thưa bác, bác vẫn khỏe ?"
Ông cũng cười lại :
"Bác vẫn bình thường, cháu. Mà cháu đi máy bay có mệt lắm không ?"
"Không ạ. Lần đầu tiên đi máy bay, cháu cũng hơi chóng mặt, nhưng đi riết rồi cũng quen, bác."
Cô ngoảnh lại nói với Phước :
"Em phải ra lấy hành lý, anh ạ."
Cái ngoái cổ của Patricia lại làm ông Phùng nhận ra cái quen thuộc ở nơi cô. Cô hao hao giống Thu Nguyệt, người vợ quá cố của ông. Sau "khám phá" đó, ông bắt đầu thấy Patricia có nhiều nét thật giống bà Phùng. Bà trước kia đã từng là hoa khôi của một trường nữ trung học tư ở Saigon vào đầu thập niên 1950. Sau biến cố năm 1975, một phần vì buồn lo, một phần vì bệnh hoạn, bà đã qua đời trong khi ông còn ở trong trại tù cộng sản.
Ông không hiểu tại sao Patricia Nguyệt, một cô gái Việt lai Mỹ, hoàn toàn xa lạ với ông, lại có những nét giống vợ ông. Cái miệng cười đó, cái dáng dấp mảnh mai đó (tuy Patricia cao hơn nhiều), những bước đi thật khoan thai đó, không phải của Thu Nguyệt sao ?
Trên đường về nhà, ngồi trong xe hơi do Phước lái, ông Phùng chợt hỏi :
"Má cháu vẫn khỏe ? Ba cháu mất lâu chưa ?"
Patricia có giọng hơi buồn :
"Thưa bác, ba cháu mất cách đây hai năm. Má cháu thì vẫn bình thường."
Phước nói xen vào :
"Cuối tuần này con mời Ba sang Cali để gặp má Pat. Ba có rảnh không ?
Ông Phùng cười :
"Vậy sao ? Ba thì lúc nào chả rảnh, nhưng lấy vé máy bay trễ quá thì hơi mắc đó."
"Dạ, không sao, Ba. Con đã giữ chỗ từ mấy tuần trước lận."
Ông có giọng trách nhẹ :
"Thế mà không cho ba biết."
"Dạ, bị con còn phải chờ... quyết định của Pat."
"Đừng có đổ lỗi cho em, nghe. Em đã đồng ý với anh cả tháng nay rồi, chớ có phải mới hôm qua đâu. Chưa gì anh đã đổ tiếng khó cho em."
Trách người yêu xong, Patricia cười dòn dã. Ông Phùng lại nghe nhói trong tim. Rõ ràng tiếng cười của Thu Nguyệt ngày xưa. Ồ, mà sao Patricia cũng có tên là Nguyệt nhỉ ?
Bây giờ ông mới nhận ra sự trùng hợp đó. Có lẽ từ ngày quen Patricia, mỗi lần nhắc tới cô, Phước đều gọi là Pat mà rất ít khi nhắc tới tên Nguyệt. Chỉ có lần kể sơ về lai lịch của Patricia, hắn mới cho biết Patricia cũng có tên Việt là Nguyệt. Nhưng ông thấy không có gì quan trọng vì con gái Việt Nam không thiếu gì người tên Nguyệt. Bây giờ, vì thấy Patricia có nhiều nét giống người vợ quá cố, ông mới chợt nhận ra cái đặc biệt của tên Nguyệt.
Ông hỏi con trai :
"Sang vùng nào ở bên Cali ? Bắc hay Nam ? Ba có nhiều bạn thân ở Nam Cali."
Patricia trả lời thay người yêu :
"Má cháu ở một thị trấn nhỏ gần Sacramento.
"Vậy hả . Sacramento là thủ phủ của Cali. Từ Sacramento đến thị trấn má cháu ở có xa không ? Mấy tiếng lái xe ?"
"Thưa bác, chỉ khoảng từ hai mươi phút đến nửa giờ thôi."
"Cuối tuần cháu cùng đi với Phước và bác chứ ?"
"Dạ không. Cháu xin phép bác ngày mai cháu về..."
"Ủa, sao gấp quá vậy ?"
Phước vội nói tiếp :
"Pat được nghỉ có một tuần, đầu tuần sau đã phải có mặt ở trường nên muốn về nhà trước vì lâu không gặp má."
"Cháu có nhiều anh em không ? Còn ai ở với cụ ?"
"Thưa bác, các anh các chị cháu đều đã có gia đình và ở xa, chỉ có mình cháu còn ở chung với má cháu thôi. Lần đầu tiên chau phải xa má cháu để lên Nữu ước học, cách đây gần bốn năm, má cháu khóc quá, làm cháu suýt bỏ ý định đi học xa."
"Ừ, sống một mình ở đất Mỹ này dễ cảm thấy cô đơn lắm."
Phước bỗng lên tiếng :
"Do đó, con đang xin đổi về Sacramento, ba ạ."
"Ừ, con đi đâu cũng được, miễn có việc làm chắc chắn và có cuộc sống thoải mái cả về tinh thần lẫn vật chất."
Trong khi đó, ông thầm nghĩ :"Con nhỏ này đẹp và dễ thương quá, thằng Phước có phải đi theo đến chân trời góc biển cũng là lẽ thường mà thôi. Ngày xưa, mình cũng đã từng nguyện đi theo Thu Nguyệt đến bất cứ nơi nào, miễn luôn luôn được ở bên nàng."
"Con đang đợi thư của trường UC Davis vì con đã gửi đơn xin việc ở đó. Hi vọng họ sẽ trả lời tuần này hoặc tuần sau. Còn Pat đã được một công ty ở Sacramento mướn dù mấy tháng nữa Pat mới ra trường."
"Nếu con làm việc ở Sacramento, ba cũng di theo. Sacramento chắc cũng gần San Francisco nhỉ ? Ba có nhiều bạn ở đó lắm."
Phước đùa :
"Lady friend hả ba ?"
Patricia cũng quay lại nhìn ông,mỉm cười hóm hỉnh.
"Ba già rồi, bồ bịch chi cho thêm mệt." Ong đáp.
Patricia liền nói :
"Bác mới cần có bạn cho đỡ cô đơn."
Ông Phùng không để ý tới câu nói ấy mà lại chợt nhận thấy cái quen thuộc ở cô. Trời ơi, ông thầm nghĩ, sao mỗi lúc con nhỏ này một giống Thu Nguyệt vậy nè ! Cái cách ngoái cổ, cái lối vừa cười vừa nói đầy duyên dáng cùa nó là của Thu Nguyệt trước kia. Giá nó đừng có nét lai thì...là Thu Nguyệt chớ còn ai nữa !
Lại có tiếng Phước :
"Pat nói đúng đó, ba cần có một bà bạn cho đỡ buồn."
Ông đáp một cách lơ đãng vì đầu óc còn mải nghĩ đến sự giống nhau của hai con người cùng có tên Nguyệt :
"Ba chả có gì buồn, nên cũng chẳng cần bạn."
Patricia Nguyệt ở chơi với Phước có một ngày trước khi bay về Cali thăm mẹ. Trong thời gian đó, ông Phùng nhận xét thêm một điều là cô tuy lai mà có một nếp sống và một tâm hồn hoàn toàn Việt Nam. Điều này cũng làm ông thắc mắc không ít. Theo dự đoán của ông, bố cô là Mỹ và mới chỉ qua đời hai năm trước đây. Không lẽ ông ta chiều vợ đến độ dù sống trên quê hương mình vẫn hoàn toàn theo nếp sống Việt Nam của vợ ? Điều này khó có thể xảy ra.
Cũng trong thời gian này, ông biết thêm về cuộc gặp gỡ giữa Phước và Patricia Nguyệt. Sau khi tốt nghiệp đại học về Vi Tính, Phước được học bổng để học cao học tại một trường đại học thuộc tiểu bang Nữu ước. Trong khi học, hắn làm phụ giáo cho một giáo sư. Hắn dã gặp Patricia Nguyệt khi cô vừa bước chân vào đại học. Có lẽ hai tâm hồn Việt Nam nơi xa lạ dễ hợp nhau và quyến luyến nhau. Patricia được cha mẹ gửi từ Bắc Cali sang học ở trường này, dù Sacramento cách Ithaca hơn ba ngàn dặm. Lần đầu tiên phải xa gia đình, Patricia cảm thấy cô đơn vô cùng. Nhờ có Phước, cô khuây khoả dần. Rồi tình yêu đến lúc nào không hay.
Trước khi Patricia lên máy bay về Cali, ông Phùng đã liên lạc với mẹ cô để hẹn ngày sang gặp bà nói chuyện về hôn nhân của hai con.
Đúng hẹn, hai cha con ông Phùng tới gặp Mẹ của Patricia Nguyệt. Gia đình cô ở trong một thị trấn phía Nam thành phố Sacramento. Elk Grove nhỏ, nhưng có cái vẻ rất êm đềm của một vùng nông thôn. Nhà Patricia Nguyệt là một biệt thự nằm giữa một bãi cỏ khá rộng và xanh mướt.
Vì được báo trước, bà Thành đã sẵn sàng để đón tiếp hai cha con ông. Sau vài câu xã giao, khi Phước và Patricia đã rủ nhau ra vườn, ngồi dưới một tàng cây lớn để nói chuyện, bà Thành chợt hỏi :
"Xin lỗi, cho phép tôi được gọi anh bằng anh cho thân. Anh có phải là anh Phùng, chồng của Thu Nguyệt không ?"
Ông Phùng giật mình, ngạc nhiên hỏi lại :
"Tại sao...Tại sao...chị lại biết rõ như vậy ? Chị quen nhà tôi trước kia ?
Bà Thành chợt buồn, đáp nhẹ :
"Dạ..."
Ông Phùng vẫn có giọng ngỡ ngàng :
"Thế mà nhà tôi không bao giờ... nhắc đến chị...Chắc trước kia chị với nhà tôi học cùng lớp cùng trường ?"
Bà Thành lắc đầu :
"Không ạ. Tôi chỉ mới quen chị sau này."
Ông Phùng cố lấy giọng vui vẻ, tự nhiên :
"Thế thì càng thêm thân."
"Dạ, tất nhiên là thêm thân, nhưng...không vui chút nào."
"Ủa ! Chị nói gì mà kỳ vậy ?"
Bà Thành giữ im lặng một lát khá lâu khiến ông Phùng sốt ruột. Ông vừa định lên tiếng hỏi thì bà Thành khẽ thở dài :
"Thật là oan nghiệt...Đúng là định mệnh đã xếp đặt chuyện éo le này."
"Chị nói vậy là thế nào ?"
Để bầu không khí bớt căng thẳng, bà Thành đứng lên rót trà mời khách. Nhìn vẻ mặt buồn bã, bí mật của bà, ông Phùng càng nôn nóng. Khi trở lại ghế ngồi, đối diện với khách, bà Thành nói :
"Pat là con Thu Nguyệt..."
Vì bà nói quá nhỏ, ông Phùng tuy đã nghe rõ nhưng vẫn tưởng mình nghe lầm, hỏi lại :
"Chị nói sao ?"
Bà Thành thở dài :
"Con Pat chính là con của chị nhà."
Vẫn không tin ở tai mình, ông Phùng lại hỏi :
"Nó là con của ai ?"
Lần này bà Thành giữ im lặng lâu hơn, lẩm bẩm :"Oan nghiệt !...Oan nghiệt !"
Ông Phùng không cần bà Thành nhắc lại nữa, bây giờ thì ông biết mình đã không nghe lầm, nhưng tỏ vẻ nghi ngờ :
"Nó không phải là con ruột của chị ?"
Bà Thành chép miệng :
"Chuyện này tôi giấu kín đã bao nhiêu năm, nay phải nói ra để tránh một...nghịch cảnh. Không biết tôi dùng hai chữ "nghịch cảnh" có đúng không ? Tôi ra ngoại quốc đã nhiều năm, lại ít giao du, tiếng Việt cũng đã quên đi ít nhiều."
Ông Phùng khoát tay :
"Nghịch cảnh hay gì thì cũng không quan trọng, xin chị xác nhận lại Pat không phải là con ruột của chị."
"Dạ...Cháu là con nuôi của vợ chồng tôi...Chúng tôi đem cháu về nuôi ngay từ lúc cháu vừa lọt lòng mẹ cháu ...là chị Thu Nguyệt...Vì thế tôi coi cháu chẳng khác gì chính tôi sinh cháu."
Tuy trong óc đã lờ mờ đoán ra nguồn gốc của Patricia, ông Phùng vẫn nói :
"Quả thật, tôi không hiểu tại sao...Pat lại có thể là con của...nhà tôi."
"Dạ...anh không hiểu mà chả ai có thể hiểu được...trừ những người trong cuộc...Bây giò xin anh dùng trà đi, bình tĩnh trở lại, tôi sẽ xin kể đầu đuôi để anh rõ."
Nói xong, bà Thành nâng tách trà lên :
"Mời anh...Ồ, nguội cả rồi."
Vì lịch sự, ông Phùng cũng cầm tách lên, nhưng không uống. Lòng ông mỗi lúc một bồn chồn hơn. Bà Thành cố lấy lại sự vui vẻ ban đầu, mỉm cười nói :
"Tôi xin mời anh lên lầu xem hình nhà tôi trên bàn thờ để anh tin chắc rằng nhà tôi không thể là ba ruột của Patricia. Nhà tôi hoàn toàn Việt Nam."
Đúng như lời bà Thành, ảnh người đàn ông trên bàn thờ là một ông già Việt Nam thuần túy, không hề có một nét lai nào. Khi đã trở lại phòng khách, bà Thành chậm rãi kể :
"Cách đây hơn hai chục năm, khi nhà tôi còn làm việc trong tòa dại sứ Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn có được gặp một bà Việt Nam. Bà thật đẹp, đang có bầu, lại càng đẹp hơn. Bà đến xin nhà tôi giúp để được ở lại thêm một thời gian. Bà được học bổng dể sang đây tu nghiệp hai năm, lúc đó đã đến hạn phải về, nhưng bà lại không muốn về ngay, có thể bà muốn ở lại luôn. Bà thú thực với nhà tôi là bà yêu một ông giáo sư người Mỹ, có bầu với ông ta...Nói cho ngay, bà sang học bên này, lại ở một nơi quá lạnh lẽo như vùng Bắc tiểu bang Nữu Ước thì thế nào chả cảm thấy cô đơn. Hồi mới sang, bà cho biết, bà rất kém Anh văn, được ông giáo sư này tận tình giúp đỡ...Nơi đất lạ quê người, lại đang xa chồng xa con, trong cảnh cô đơn, có người giúp đỡ, săn sóc thì cảm động lắm, rồi ...Chuyện phải đến đã đến...
Chỉ tiếc một điều là ông giáo sư đã có gia đình. Bà vợ cũng là giáo sư dạy cùng trường...Ông giáo sư xin ly dị để chính thức lấy Thu Nguyệt, rồi tìm cách giữ Nguyệt ở lại Mỹ với ông ta. Nhưng bà vợ ông làm khó dễ, dùng ảnh hưởng của riêng mình và ảnh hưởng của ông bố, một nghị sĩ, thúc đẩy sở Di trú và bộ Ngoại giao phải đuổi Nguyệt về nước.Thế là Nguyệt phải đến cầu cứu nhà tôi...Nhưng, như anh rõ, chúng tôi chả làm được gì hết trước một áp lực to lớn như áp lực của gia đình vợ giáo sư Patrick. À, tôi quên chưa cho anh rõ tên người yêu của Thu Nguyệt. Ông ấy tên là Patrick. Tòa Đại sứ Việt Nam chỉ có thể tìm cách can thiệp để Nguyệt sinh xong mới phải về. Trong thời gian chờ đợi đó, không bao lâu, Nguyệt ở nhà chúng tôi. Trước khi đi sanh, Nguyệt yêu cầu vợ chồng chúng tôi nhận đứa nhỏ làm con nuôi. Nguyệt đã đặt tên cho con trước, nếu là con gái thì lấy tên Patricia, trai thì lấy ten bố, Patrick. Khi cháu Pat ra đời, chúng tôi khai sanh cho cháu, lấy họ chúng tôi. Tên Việt Nam cũng là...Thu Nguyệt.
Vì thế, cháu là Patricia Nguyệt. Sanh xong ít lâu thì Nguyệt phải lên máy bay về Việt Nam. Chúng tôi vẫn liên lạc với nhau qua một chị bạn của Nguyệt ở Saigon. Sau biến cố tháng tư 1975, chúng tôi mất liên lạc một thời gian. Khoảng năm 1979 hay 80 gì đó, chúng tôi đã liên lạc lại được, thì nghe tin Nguyệt đã qua đời. Còn về giáo sư Patrick thì rồi cũng ly dị xong với vợ, nhưng ngót một năm sau khi Nguyệt đã về Việt Nam. Ông thường đến thăm chúng tôi và cháu Pat. Có lần ông ngỏ ý xin lại cháu, nhưng tôi, chính tôi, từ chối, vì Pat đã chính là con gái út của tôi, tôi không thể xa cháu được. Đến năm Pat lên mười, Patrick qua đời vì ung thư phổi. Trước khi chết ông ấy để hết tiền bạc cho con gái và yêu cầu sau này phải cho cháu học ở Cornell trên Nữu Ước. May cháu là người thông minh nên chúng tôi đã giữ đúng lời hứa với bố cháu...Nhưng có điều không may là cháu lại gặp anh ruột cháu ở đó và hai đứa đã yêu nhau...Đúng là nghịch cảnh !
Hai người giữ im lặng một lúc khá lâu, rồi bà Thành lại lên tiếng :
"Giá Pat yêu người khác thì bí mật của Thu Nguyệt mãi mãi là bí mật, để rồi khi tôi chết sẽ mang đi theo...Nhũng người trong cuộc đã lần lượt qua đời hết, chỉ còn lại một mình tôi...Thế mà nay tôi phải nói ra, thật là...vạn bất đắc dĩ...Mà giữ im lặng càng có tội hơn, tội với người chết, tội cả với người sống nữa."
Ông Phùng ngồi gục mặt, ôm đầu một lát, rồi buồn bã hỏi :
"Bây giờ, tôi phải nói với thằng con tôi thế nào ?...Nó yêu Patricia quá mất rồi, mà lòng nó đối với mẹ nó lúc nào cũng muôn vàn kinh phục...Chuyện này có thể làm tan nát cuộc đời nó...Người mẹ nó hằng yêu thương...Ôi, sao trời không cho tôi chết trước khi thấy con tôi đau khổ !"
Những tiếng cuối cùng của ông đã nghẹn ngào đầy nước mắt.
Bà Thành cũng nghe cảm động tận đáy lòng.
Một lúc khá lâu sau, ông ngửng lên, nói bằng một giọng năn nỉ :
"Xin chị cứu lấy thằng Phước, tôi chỉ có một mình nó thôi..."
Bà Thành nhìn ông đăm đăm :
"Nghĩa là... cứ cho hai đứa lấy nhau ?"
Ông Phùng lắc đầu :
"Không, không phải như vậy... Sự bí mật nào rồi cũng bị phanh phui, chẳng sớm thì muộn... Nếu chúng ta cứ để mặc hai đứa lấy nhau, sau này khi chúng nó biết chúng nó là anh em, cùng mẹ khác cha, thì sự tai hại sẽ to lớn vô cùng. Lỗi đó sẽ đổ hết lên đầu chị và tôi."
"Vậy anh muốn tôi cứu cháu bằng cách nào ?"
Ngập ngừng một chút, ông nói :
"Tôi kêu gọi lòng thương của chị... Chị sẽ phải hi sinh một chút...Nghĩa là chị sẽ nói hết sự thật cho Patricia biết...Cháu không phải là con ruột của chị."
Trầm ngâm một lát, bà Thành hỏi :
"Tại sao anh lại yêu cầu tôi điều đó ? Anh không thể cho cháu Phước biết sự thật ư ?"
"Tôi xin giải thích để chị rõ. Chị dã nuôi nấng, dạy dỗ cháu Patricia từ lúc cháu mới lọt lòng mẹ. Chị đã săn sóc, đối sử với cháu chẳng khác mẹ ruột, tất nhiên lòng yêu thương của cháu đối với chị là lòng yêu thương, kính mến của một đứa con đối với mẹ. Nay cháu có biết rằng chị không sanh ra cháu, tôi tin rằng tình của cháu đối với chị không thay đổi, nếu không nói là có thể tăng lên. Kinh nghiệm cuộc đời thực tế cho chúng ta thấy rằng người mẹ nuôi được con yêu kính hơn mẹ ruột vì mẹ ruột đã bỏ rơi nó. Chị đã nuôi cháu, đùm bọc cháu hơn hai chục năm, cháu sẽ chỉ biết có chị thôi."
Bà Thành nhẹ gật đầu :
"Anh nói cũng có lý...Thế còn cháu Phước ?"
"Xin chị dể tôi nói tiếp. Khi Patricia biết cháu với thằng Phước là anh em ruột, cháu sẽ phải lẩn tránh Phước. Xin chị dặn cháu đừng nói gì với Phước, coi như Patricia hết yêu Phước. Thằng con tôi sẽ chỉ bị...một đòn là...thất tình. Thất tình thì rồi sẽ có cơ hồi phục, từ từ rồi sẽ hồi phục, sẽ lại yêu người khác. Từ lâu, cháu hằng kính phục mẹ cháu, bao giờ cũng coi mẹ là một người mẹ tuyệt vời nhất cõi đời này. Thu Nguyệt đẹp, hiền hậu, chung thủy với chồng, hết lòng với con...Nay bỗng dưng nó thấy...mặt trái của mẹ nó, chắc nó không thể chịu nổi. Vừa thất tình vì mất Patricia vừa thất vọng vì thần tượng trong lòng nó bỗng đổ vỡ tan tành, thì làm sao nó chịu nổi !"
"Nghĩa là anh muốn giữ cái hình ảnh người mẹ tuyệt vời trong lòng cháu, dù cháu sẽ mất Patricia ?...Anh phân tích cũng có lý, nhưng tôi không nghĩ Thu Nguyệt là người xấu xa, trắc nết. Chỉ tại hoàn cảnh mà thôi."
"Tôi đồng ý với chị điều đó, chúng cớ là tôi không hề trách giận gì nhà tôi, nhưng tôi e rằng thằng Phước không nghĩ như chúng ta."
Bà Thành chợt thở dài :
"Anh có thể cho chúng tôi một thời gian để suy nghĩ không ? Ít ra tôi cần một đêm."
"Dạ, xin chị nghĩ thật kỹ cho...Chúng ta không có gì phải hấp tấp."
"Dạ, tôi thấy ý kiến của anh rất đúng, chín phần mười tôi nghiêng về nó, nhưng cũng xin anh cho tôi suy nghĩ thêm...Từ ngày nhà tôi mất, đây là lần đầu tiên tôi phải giải quyết một việc quá khó khăn, rắc rối như việc này. Trước kia, cái gì nhà tôi cũng lo hết."
Ông Phùng đứng lên, cố lấy giọng vui vẻ nhưng đầy gượng gạo :
"Bây giờ xin phép chị tôi về. Chắc chị biết số điện thoại của tôi ở khách sạn ?"
"Thưa anh không, nhưng chác cháu Pat biết."
"Trước mặt hai cháu xin chị giả bộ vui vẻ cho, như không có chuyện gì bất thường xảy ra."
Bà Thành cười :
"Chèn ơi ! Bây giò tôi lại phải đóng kịch nữa. Tôi xin sẽ làm tròn bổn phận của một kịch sĩ."
X
Trước khi hai cha con ông Phùng lên máy bay trở về vùng Đông Bắc, bà Thành đã gọi. Cuộc nói chuyện giữa bà và ông Phùng không đầy nửa phút. Bà cho biết mọi chuyện coi như tốt đẹp. Patricia khi biết mình và Phước có chung một mẹ ruột thì khóc suốt đêm. Sáng ra, khi đã lấy lại bình tĩnh, cô quyết định cắt đứt với Phước, không thể tiến thêm được nữa. Cô cũng hứa sẽ giấu Phước chuyện riêng tư của bà mẹ. Riêng tình cảm của cô đối với bà Thành không hề suy giảm. Bà còn cho biết thêm là sau khi Patricia tốt nghiệp đại học, bà sẽ cùng cô đi Pháp chơi cho khuây khỏa...
Một tuần sau khi trở lại nhà, Phước nhận được thư Patricia. Ông Phùng đoán nội dung bức thư đã phù hợp với tính toán của ông và bà Thành, nên khi xem xong, Phước bỗng trở nên buồn bã, ngẩn ngơ suốt mấy ngày liền. Hắn không nói gì với cha, lái xe đi cả ngày. Hôm nhận được thư của trường dại học Davis bên California, hắn tức giận vò nát, ném vào thùng rác, không thèm đọc. Có nhiều lần hắn hí hoáy viết thư, nhưng viết xong hoặc viết giở đã xé đi hết. Hắn gọi lên Nữu ước, rồi gọi sang California cả chục lần mà không ai trả lời...
Trong thời gian khủng hoảng đó của con trai, ông Phùng cẩn thận ngầm theo dõi để giúp đỡ kịp thời. Rất may Phước cũng là người đàn ông cứng cỏi. Cuộc khủng hoảng kéo dài ngót một tháng thì hắn lấy lại bình tĩnh. Một hôm, hắn nói với cha :
"Con xin lỗi ba, trong thời gian qua con đã làm ba buồn và lo...Bây giờ thì con hiểu rồi...Lòng dạ đàn bà khó mà lường...Patricia không được như con vẫn mơ tưởng. Nó là con người tồi tệ. Thế mà trước kia con vẫn nghĩ nó có thể sánh ngang với má con, vừa đẹp vừa đoan trang."
Ông Phùng giữ im lặng, nhưng lòng đầy chua xót…
TQK
====
NHỮNG CHUYỆN NHO NHỎ
Tiểu Tử
Trong đời tôi, tôi đã nghe kể lại hay chính tôi đã mục kích rất nhiều chuyện nho nhỏ, những chuyện tầm thường không có gì "éo le gút mắt" hết, những chuyện mà tôi cho là có nghe qua hay thấy qua rồi bỏ cũng không sao. Vì vậy, tôi coi thường những chuyện nho nhỏ.
Gần đây, một chuyện nho nhỏ xảy đến cho tôi đã làm tôi suy nghĩ. Thì ra chuyện nho nhỏ có khi chứa đựng một bài học lớn mà con người không để ý, vì chỉ quen nhìn những chuyện lớn, những chuyện "đập vào mắt", xưa nay… Rồi tôi tẳn mẳn ngồi nhớ lại từng chuyện nho nhỏ, để thấy mỗi chuyện là một nét chấm phá của cuộc đời, có chuyện còn mang vài ẩn dụ để con người suy gẫm. Vậy là tôi lần mò viết lại, không cần thứ tự lớp lang, không cần chọn lựa loại chuyện này hay loại chuyện nọ.
Mời các bạn cùng tôi đi lần vào những chuyện nho nhỏ này để cảm nhận thi vị của cuộc sống đang nằm đầy ở trong đó, và nó thật là gần gũi với mình như hơi thở như nhịp tim …
BÀ ĐẦM GIÀ VÀ ANH VIỆT NAM.
Chuyện xảy ra ở ngoại ô Paris (Pháp)
Hôm đó, trên đường về nhà, tôi gặp một người đàn ông Pháp cỡ bốn mươi tuổi ăn mặc đàng hoàng, kè theo hỏi:
- Xin lỗi ! Ông là người Tàu hay người Việt Nam ?
Tôi dừng lại, ngạc nhiên, trả lời:
- Tôi là người Việt Nam.
Ông ta mừng rỡ:
- Vậy, có phải trưa hôm qua, ông đã đỡ một bà cụ té ở chỗ này không ?
Tôi càng ngạc nhiên thêm:
- Không ! Tôi không có đỡ ai hết !
Tôi trả lời mà nghĩ đến mấy chuyện ra tay cứu người rồi mang vạ vào thân vì sau đó nạn nhân quay lại thưa người cứu mình đã lấy tiền lấy đồ .. v v …
Có lẽ đoán được ý nghĩ của tôi nên ông ta mỉm cười ôn tồn nói:
- Ông yên tâm! Không có chuyện gì rắc rối hết. Tôi chỉ muốn tìm người Việt Nam đã đỡ mẹ tôi thôi. Bà cụ đó là mẹ của tôi, thưa ông.
- Vậy à! Nhưng mà tôi nói thật: Hôm qua, vào giờ này tôi có đi qua đây, không thấy ai té hết. Mà… bà cụ có sao không ?
- Cám ơn ông, Mẹ tôi không có sao hết.
Rồi, không đợi tôi hỏi, ông kể lại những gì mà mẹ ông đã kể cho ông nghe… Hôm qua, bà cụ đi thăm một bà bạn. Bà đi qua lối này để về nhà. Đây là ngõ đi tắt duy nhứt dẫn qua khu nhà bà ở. Khi đến khoảng đất trống có bốn trụ đèn đường, bà trợt chân té. Lúc đó, cũng có mấy người hấp tấp qua lại, họ quay đầu nhìn nhưng rồi bỏ đi luôn. Một người đàn ông Á Đông, đã đi qua rồi, thấy vậy chạy trở lại đỡ bà đứng lên, lượm cái xắc da mang chéo vào người bà, ân cần hỏi bà có sao không ? Bà bước thử vài bước, nói không sao, rồi kể rằng già rồi, đi thì được, chỉ có ngồi xuống đứng lên mới là khó. Ông ta tỏ vẻ ái ngại, bước lại cập tay bà nói để dìu bà về. Hai người đi như vậy một lúc, bỗng bà hỏi ông người Tàu hả, ông trả lời rằng mình là người Việt Nam. Mắt bà sáng lên, bà nói bà có bà bạn năm nào cũng đi du lịch Việt Nam vào dịp đầu năm, bả nói xứ ông đẹp lắm rẻ lắm, dân chúng hiếu khách dễ thương …
Đến một đoạn đường ngắn, bà cụ bỏ tay ông Việt Nam, bước một mình vừa đi vừa nói tôi đi được ông khỏi lo, tôi ở đường Colette gần đây, còn ông, ông ở đâu ? Ông đó nói tôi ở khu xa hơn, phía bên kia trường học, ngày nào cũng đi và về bằng ngã này. Bà cụ đi một đỗi nhìn lại thấy ông Việt Nam còn đứng nhìn theo coi bà cụ có thật sự đi một mình được không ! Tối đó, bà kể chuyện cho người con nghe, rồi sực nhớ ra, bà nói: "Chúa ơi ! Tao quên nói cám ơn ông ta !". Vậy là bà cụ bắt người con hôm sau ra lối đi tắt chận hỏi từng người Á Đông để tìm ngưởi Việt Nam đã đỡ bà chỗ "khoảng trống có bốn trụ đèn", tìm để chỉ nói lời cám ơn mà bà đã quên nói hôm qua !
Kể xong, ông nắm tay tôi siết nhẹ. Rồi ông nhìn tôi, mắt đầy thiện cảm, nói: "Cám ơn !". Tôi bước đi, lòng lâng lâng hãnh diện, mặc dầu tôi biết rằng lời cám ơn đó không phải cho tôi mà là cho chung hai chữ "Việt Nam" …
CHUYỆN TRƯỚC CỔNG CHÙA BÀ
Năm 2006, vợ tôi về Việt Nam lo ma chay cho má tôi. Sau đó, bả được mấy đứa cháu chở đi Châu Đốc viếng Chùa Bà.
Cúng vái xong, ra đến cổng chùa thì có một đám bé gái độ mười hai mười ba tuổi bu lại chen lấn nhau xin tiền. Một đứa đứng gần vợ tôi, có vẻ lanh lợi nhứt, xè tay nói một hơi có ca có kệ: "Ngoại ơi ngoại! Ngoại cho con 5000 đồng, con cầu nguyện Bà cho con gái ngoại lấy được chồng Đài Loan! Ngoại ơi ngoại! Ngoại cho con 5000 đồng, con ... "
Trên đường về, vợ tôi miên man suy nghĩ về mấy đứa nhỏ đó: Không có tiền để đi học, còn quá nhỏ để có một cái nghề, và chắc nhiều đứa - rất nhiều đứa - chỉ ước ao lấy được chồng Đài Loan khi mình lớn lên một chút ! Rồi vợ tôi thở dài ...
Nghe kể mà tôi thấy thương quê hương tôi vô cùng. Trước đây, dù có nghèo đi mấy cũng chưa bao giờ tệ đến như vậy! Viết lại chuyện này mà tôi nghe rát từ đáy lòng rát lên khóe mắt ...
ĐẠP XÍCH LÔ
Trung đã cao lớn lại ham chơi thể thao và tập thể dục đều đặn nên anh ta rất "đô" con. Đi với tụi bạn đồng nghiệp người Pháp hay người da đen, Trung là người Việt Nam mà vóc dạc ngang ngửa với tụi nó. Có đứa nói giỡn: "Thằng này, nó ăn phở không mà nó lớn con như vậy. Nếu nó ăn bánh mì "xúc xích - phô mai" như mình chắc nó thành ông khổng lồ quá!".
Cách đây hai năm, Trung về thăm Việt Nam. Đó là lần đầu tiên anh về. Tôi không có dịp gặp anh để hỏi thăm. Mãi đến gần đây tình cờ gặp nhau ở khu 13 Paris, anh mới kể cho tôi nghe chuyến về Việt Nam của anh lần đó. Tôi xin ghi lại chuyện nhỏ sau đây ...
... Con qua Pháp với ba mẹ hồi con mới năm tuổi, bây giờ về, thấy cái gì cũng lạ ! Cho nên con dành mấy ngày đầu để đi vòng vòng cho biết Sài Gòn. Con nhờ anh tiếp viên của khách sạn kêu cho con một anh xích lô bao chạy một ngày. Vậy là sáng hôm sau, đúng theo lời con dặn, anh tiếp viên gọi con dậy bằng điện thoại cho hay xích lô đang đợi, đồng thời cho biết luôn số tiền thuê bao. Con đếm số tiền rồi để riêng vào một túi quần, con muốn tránh móc bóp đếm tiền trước mặt mọi người sợ bọn lưu manh nó giựt. Con xuống tới quầy thì anh tiếp viên vui vẻ chỉ ra phía trước. Con cám ơn rồi bước ra ngoài. Thấy con, ông xích lô đang ngồi chồm hổm trên vỉa hè vội vã đứng lên chấp tay chào. Tự nhiên, con khựng lại, mặc dù ông ta đang đón con bằng một nụ cười rạng rỡ. Bác biết không ? Ổng già khú, ốm nhom, nhỏ xíu. Cái nón vải đen ổng đội, đã rách bươm. Còn bộ đồ trên người ổng, con không biết tả làm sao cho bác thấy. Nó là cái áo bà ba xanh dương vá chầm vá đụp và không còn hai ống tay ! Còn cái quần ka-ki là loại quần dài đã bị xé mất hai khúc ống cỡ ngang đầu gối, một bên cao một bên thấp. Đó ! Ông xích lô của con đó ! Bác coi: Con như vầy thì nỡ lòng nào lên ngồi cho ông già ốm nhom đó đạp xe đưa con đi. Mà liệu ổng có đạp nổi một ngày cho con xem chỗ này chỗ nọ không ? Con định hồi không đi nhưng nghĩ lại tội nghiệp ông già. Cái cười tươi rói của ổng cho thấy là ổng đang "trúng mối lớn". Con bước lại bắt tay ổng, móc túi đưa tiền, nói : "Đây, tiền công của bác trọn ngày nay đây !". Ổng mừng rỡ, móc trong lưng ra một túi vải miệng có dây rút, run run tay mở ra cho tiền vào. Con hỏi : "Bác không đếm sao ?". Ổng cười, nhìn con: "Khỏi ! Hổng lẽ cậu như vầy mà đi ăn gian tui sao ?". Rồi ổng xăng xốm chạy lại kềm phía sau xe, mời: "Cậu lên ngồi, đi !". Con lắc đầu: "Không! Bác lên ngồi đi, để tôi đạp!". Nụ cười của ổng tắt mất: "Ủa! Gì kỳ vậy?". Con giải thích: "Tôi như vầy mà để cho bác đạp, coi sao được!". Ổng vỗ vỗ lên yên xe: "Tôi đạp được! Bảo đảm! Cậu đừng lo! Cậu lên ngồi đi!". Con nghĩ chắc ổng sợ con chê ổng rồi không đi, lấy tiền lại, nên con ôn tồn nói: "Bác yên tâm. Bác cứ giữ số tiền tôi đưa, rồi lên xe ngồi. Tôi đạp từ từ".
Ổng bắt đầu nhìn con nửa ngạc nhiên nửa hốt hoảng. Để khỏi cù cưa, con bước lại đưa hai tay cặp eo ếch của ổng nhấc bổng lên đặt vào chỗ ngồi của khách. Ổng nhẹ đến nỗi cái xe không nhúc nhích! Rồi con trèo lên đạp đi. Ông già cứ nhìn ngược về phía sau, lo lắng: "Cậu liệu được không cậu?". Con vui vẻ trả lời cho ông yên tâm: "Được mà ... Dễ ợt hà!". Con men theo lề đường đạp chầm chậm để tránh luồng xe chạy ồ ạt trên lòng đường. Thiên hạ nhìn con chở ông già, cười nói chỉ trỏ. Ông già ngồi không yên, lâu lâu ngoáy nhìn lại coi con ra sao! Có lẽ vững bụng nên không nghe ổng nói gì hết. Một lúc sau bỗng ổng la lớn: "Quẹo mặt! Quẹo mặt! Khúc này cấm xe xích lô!". Từ đó, ổng chỉ cho con chạy: "Từ từ ... Đằng trước có xe đậu. Khi nào kềm bằng chân không nổi thì kéo thắng ở dưới đít ... ." Có lúc thấy con xiên xiên định quẹo vô một con đường nằm ngang, ổng la lên: "Đừng! Đừng! Đường cấm xe xích lô!" ... Và như vậy, con đạp đi loanh quanh, nhìn ngang nhìn ngửa, yên chí có ông già coi chừng đường nhắc trước con phải làm gì ... làm gì ...
Gần trưa, con tấp vô một quán phở, nói: "Mình vô ăn cái gì đi". Ổng nói: "Cậu vô ăn đi, tôi không đói". Con kéo tay ổng để cùng đi vào tiệm, ổng rị lại: "Thôi mà cậu! Tôi lạy cậu mà cậu! Cậu để tôi ngồi ngoài này giữ xe!". Rồi ổng gỡ tay con ra, bước lại vệ đường ngồi chồm hổm bên cạnh xe xích lô, vấn thuốc hút. Trong quán, con nhìn ông già mờ trong khói thuốc sao bỗng nghe bất nhẫn vô cùng. Không còn lòng dạ đâu để ăn phở, con kêu tách cà phê uống đại rồi đi ra. Thấy con, ổng quăng điếu thuốc, đứng lên vẻ ngạc nhiên: "Ăn gì mau vậy cậu?". Con nói trớ: "Thấy không ngon nên không ăn". Rồi con nói tiếp: "Bây giờ, tôi trả xe lại cho bác đó! Bác cứ giữ nguyên số tiền tôi đưa hồi sáng, đừng thắc mắc. Tôi đi bộ chơi lanh quanh được rồi". Nói xong con bước đi, lâu lâu ngừng coi cửa hàng này cửa hàng nọ. Thấy ông già cứ đạp xe rề rề đi theo, con bèn gọi một xe Honda ôm đang đợi khách ở ngã tư đường, trèo lên "ôm" đi thẳng !
Kể xong, Trung hỏi: "Nhà nước đang có lịnh cấm sử dụng xe xích lô xe ba gác, không biết bây giờ ông già đạp xích lô sẽ sống làm sao, hả bác?". Tôi nói: "Ờ ... ". Rồi nín luôn. Một cách trả lời để không trả lời !
NÓI: HẾT RỒI!
Một ông bạn ở Paris cho tôi uống một thứ trà Tàu đặc biệt ổng đem từ bên Mỹ về. Ổng cầm cái hộp vuông màu xanh ve chai đưa lên khoe: "Trà này bên nây chưa có. Nó tên là Trà Vương. Hộp 150 gr này tôi mua bên Mỹ giá là 15 đô đó!".
Trà ngon thiệt! Vị ngọt phớt chớ không đắng hay chát như loại trà Tàu khác và nhứt là mùi thơm rất "vương giả" chớ không phải mùi lài hay sói hay sen như thường thấy. Uống cạn chén trà, hương trà còn đọng lại trong đáy chén phất lên mũi gợi thèm mùi vị đặc biệt này! Ông bạn tôi nói Trà Vương có nhiều số, nhưng số 103 là ngon nhứt !.
Tôi đã đi lùng sục ở Paris nhưng không thấy bán loại Trà Vương này. Một hôm, đi với vợ tôi ở khu 13 chợ Tàu, tôi chợt thấy một bà Á đông cầm một hộp vuông màu ve chai vừa quơ quơ ra dấu vừa nói chuyện với hai bà khác cùng ngồi trên băng gỗ vỉa hè. Tôi bước lại nhìn: Thì ra đúng là hộp Trà Vương! Mừng quá! Nghe mấy bà đó nói tiếng Việt Nam nên tôi hỏi ngay: "Phải Trà Vương không bà?". Bả quay qua tôi, trả lời cụt ngủn: "Ờ! Mà hết rồi!". Rồi quay về tiếp tục nói chuyện với hai bà kia. Tôi chen vào: "Xin lỗi! Bà mua ở đâu vậy?". Lần này, không quay lại nhìn tôi nhưng bả vẫn trả lời: "Mà tôi nói hết rồi!".
Tôi không dám cười, sợ bả bị chạm tự ái. Tôi vẫn ôn tồn hỏi: "Dạ! Nhưng xin bà làm ơn cho tôi biết bà mua ở đâu vậy?". Bả nhìn tôi, chắc coi tôi có ... khùng không mà cứ lải nhải hỏi hoài. Rồi bả cầm cái hộp lia lia về hướng phía dưới con đường một chiều: "Dưới kia kìa". Tiếp theo là bả gằn từng tiếng: " Tôi-nói-hết-rồi!". Tôi cám ơn rồi kéo vợ tôi đi "mò" dài dài xuống "dưới kia kìa", tiệm nào cũng vô kiếm Trà Vương! Khi đi gần ... rã chân thì vào một siêu thị lớn. Họ nói: "Có!. Nhưng mà hết rồi!". Hỏi chừng nào có nữa, họ trả lời không biết! Thì ra bà già hồi nãy nói đúng. Bả đã tốt bụng "nói cho thằng chả biết là hết rồi để thằng chả khỏi phải lội xuống tuốt dưới kia xa thấy mồ chớ bộ"!
Các bạn có thấy chuyện nhỏ này dễ thương không? Bà già đó, cho dầu có lưu vong ở chân trời góc biển nào đi nữa, bà vẫn giữ nguyên phong cách Việt Nam. Trân quý lắm, các bạn à !
CHUYỆN Ở QUÊ TÔI
Má tôi mất vào ngày đưa Ông Táo. Thằng con lớn của tôi đi với má nó về Việt Nam lo ma chay. Ông thầy làm đám (phái Cổ Sơn Môn thường gọi là thầy cúng) là ông thầy Non. Cái tên này do má tôi đặt ra để tránh gọi "Thầy Con" vì ổng là con ông thầy Cả, ông này là bà con kêu má tôi bằng cô và là bạn học của tôi từ thời tiểu học ở trong làng. Kể như vậy để thấy thầy Non đối với gia đình tôi không phải là ngưởi xa lạ.
Sau đám ma, thầy Non lấy Honda chở con tôi đi đầu trên xóm dưới thăm bà con và cũng để xem vùng quê ăn Tết. Đang chạy trên đường xóm Nhà Máy, thấy một ông lái mô tô đi cùng chiều chở phía sau một chậu mai. Thầy Non nói với con tôi: "Coi kìa! Cây Mai đẹp quá kìa!". Rồi thầy chạy kè theo để con tôi thấy rõ hơn. Ông chở mai quay qua nhìn, con tôi nói lớn cho ổng nghe: "Cây Mai đẹp quá!". Ông đó nói: "Ờ! Mà không có bán!". Vì tiếng máy mô tô ồn quá nên con tôi phải nói lớn hơn cho ổng nghe: "Không! Tôi chỉ muốn nói là cây Mai của ông đẹp quá hà!". Ổng có vẻ bực mình: "Ờ! Người ta nói không có bán là không có bán!". Rồi ổng vọt ga chạy thẳng, làm thầy Non phải ngừng xe lại để cả hai cùng ôm bụng cười! Sau đó, lại tiếp tục đi.
Một lúc, thấy một ông chạy Honda chở thằng nhỏ ngồi phía sau đâu lưng với ổng, ôm trong lòng một quày dừa tươi. Con tôi, nhớ lại vụ cây Mai, muốn phá chơi nên hỏi chọc: "Dừa có bán không vậy?". Thằng nhỏ thúc cùi chỏ vào lưng người lái xe: "Ba! Ba! Thằng chả hỏi có bán dừa không kìa!". Người đàn ông làm thinh nhưng có vẻ suy nghĩ. Bỗng, ông ta la lên "Ừa! Bán!" rồi tấp xe vào lề ngừng lại. Thầy Non nói: "Ở chùa thiếu gì dừa! Mua chi vậy?". Hỏi chơi mà đâu có dè ổng bán nên con tôi đành mua một trái. Ông đó nói: "Dừa tôi mua cho vợ tôi kho thịt ăn Tết. Thấy cậu hỏi mua, tôi nhường một trái cho cậu uống chơi!". Con tôi nói cám ơn mà không dám cười! ...
Sau hơn ba mươi năm "đổi đời", cái thật thà chân chất của quê tôi, may quá, vẫn còn nguyên như cũ !
BÁN VÉ SỐ
Trên chiếc bắc Mỹ Thuận. Chiếc bắc chở đầy nhóc xe và người, ùng ục qua sông. Mấy người bán dạo rao hàng inh ỏi. Vợ chồng tôi đứng ở khoảng trống phía đầu chiếc bắc, nhìn sông nước minh mông với những về lục bình xanh biếc nhấp nhô trên sóng nước. Mùa này, lục bình bắt đầu nở bông nên thấy có màu tim tím e ấp lấp ló giữa những bựng lá to láng mướt. Đẹp quá! Sau hăm mấy năm xa xứ, bây giờ có dịp về thăm, chúng tôi thấy cái gì cũng đẹp! Nước sông đục ngầu phù sa ... cũng đẹp! Chiếc ghe bầu phình bụng chở lúa khẳm lừ tưởng chừng như sắp chìm ... cũng đẹp! Chiếc đò ngang hay đò dọc gì đó dài thòn có cái mui bằng phẳng thấp lè tè, hai bên hông trống trơn không có gì che chắn, lướt sóng chạy bắn nước như giành sông với những ghe thuyền khác ... cũng đẹp!
Bỗng, một bé gái cỡ 10 tuổi đến gần vợ tôi, tay chìa một tấm vé số, năn nỉ bằng một giọng trong trẻo nhưng nói khá to để át tiếng những người bán dạo chung quanh: "Ngoại ơi ngoại!
Con còn có một vé số này thôi, ngoại mua dùm con để con còn về phụ má con lo việc nhà". Con bé mặt mũi sáng sủa dễ thương. Vợ tôi lấy tiền mua vé số rồi vuốt đầu nó, hỏi: "Nhà con ở đâu lận?". Chắc bả thấy tội cho con nhỏ, mới có bây lớn tuổi đầu mà bán xong còn phải lội bộ về nhà giúp mẹ! Nó nhìn vợ tôi, mỉm cười rồi mới trả lời: "Dạ! Ở xóm rạch Ngo gần đây hà!". Cái cười của nó có duyên vô cùng. Trước khi đi, nó còn biết nói: "Cám ơn nghe ngoại!". Tôi nhìn theo mà thấy mến cái dáng nho nhỏ thon thon của nó trong bộ đồ bà ba vải trắng đã ngả màu bùn non lờn lợt ...
Một lúc sau, tôi nghe ở hành lang phía bên kia vang lên tiếng lảnh lót của con bé: "Ngoại ơi ngoại! Con còn có một vé số này thôi, ngoại mua dùm con để con còn về phụ má con lo việc nhà". Tôi nhón gót nhìn sang: Đúng là nó! Vợ tôi hỏi: "Nó hả ?". Tôi gật đầu mà không nén được tiếng thở dài ...
Tôi nhìn ra sông nước với vài chiếc ghe thuyền đi lại, nghĩ mà thương cho thân phận người dân bây giờ ... Tôi buột miệng nói: "Bây giớ... sao thấy nhiều lục bình quá hổng biết " ...
Chiếc bắc vẫn ùng ục nhả khói qua sông ... ráng nhả khói mà qua sông ...
===
ĐÃ SÁNG MẮT RA CHƯA?
Thanh Vân
=========
Nhiều người bị mù loà, bị cataract, được chữa lành và đã sáng mắt, ấy thế mà vẫn có người có mắt cũng như không, vẫn u tối như thường. MÃy ngày hôm nay cả thế giới đang mải chú tâm đến Thế Vận Hội tại Bắc Kinh, thì Nga sô nhân cơ hội đem quân đội, máy bay, xe tăng tầu bò, đánh vào Georgia. Putin là trùm KGB ngày xưa có thừa kinh nghiệm lợi dụng thời cơ để lừa cả thế giới.
Trung Cộng trong ngày mở màn Thế vận Hội (*080808), cũng đâu kém gì, làm hàng giả bằng cách cho một em bé (Lin Miaoke) nhép miệng hát thay cho em bé gái khác tên là Yang Peiyi kém sắc hát thật phía trong. Khán giả vỗ tay khen tặng rối rít. Rồi một số pháo bông tung lên trời hôm đó cũng dùng ảo ảnh vi tính loá mắt thế giới kiểu David Copperfield nữa đấy. Ở Việt-Nam và cả ở hải ngoại ngày nay có rất nhiều người bây giờ mới sáng mắt khi được sống chung và làm ăn với bọn Cộng Sản. Họ là ai?
Ở VIÊT NAM
1.- Họ là những bà mẹ quê chất phác.
Trước đây họ nghe lời ngon ngọt của CS, ấp ủ, che đỡ du kích trong nhà họ, những tưởng khi VC chiếm miền Nam thì họ được ưu đãi lắm! Ai ngờ! họ chỉ được mấy cấp giấy ban khen là mẹ chiến sĩ, mẹ liệt sĩ, mấy huy chương bằng đồng để treo trong nhà cho nó oai, chứ đem ra chợ bán không ai mua. Hổ m rồi, họ bị xử ức: đất đai của tổ tiên họ bị cán bộ công an lấy đem bán cho ngoại quốc làm sân golf, họ mang cờ đỏ sao vàng , biểu ngữ, huy chương, bằng khen đi biểu tình khiếu kiện. Kết quả? Họ bị hốt và vất lên xe cây như con heo, chung với cờ quạt, huy chương, biểu ngữ. Bây giờ họ đã sáng mắt nhưng đã muộn. Có bà dân oan tức quá còn tụt quần ra trước văn phòng xã ấp cho công an xem nữa.
2.- Họ là giới trí thức sống tại miền Nam Việt-Nam. Trước đây họ nghe lời dụ dỗ của bọn CS, họ đọc toàn sách Karl Marx, Engels, Jean Paul Sartre họ mơ tưởng thấy tương lai sán lạn, bầu trời nở hoa, một thế giới đại đồng, không giầu không nghèo, ai cũng như ai, gọi nhau tất c3 bằng "đồng chí". Thế là họ xuống đường biểu tình, phá rối trị an của VNCH, làm mồi cho tụi VC xâm nhập thành thị phá hoại. Sau ngày 30-4-75, họ ra ứng cử vào QH bù nhìn. Kết quả rớt đài. Họ thấy tất cả mọi sự đều tệ hại hơn ngày xưa nhiều, họ la ó, phản đối. Kết quả họ bị quản chế, họ bị công an thuê xã hội đen đánh đập, gây ra tai nạn. Thế là họ mở mắt trong nhà thương. Rồi họ sáng mắt không kịp nữa khi đã vào nhà xác.
3.- Họ là những đại diện được dân cử miền Nam. Trước đây họ bị dụ khị vơi củ cà rốt đỏ tươi là sẽ ở lại làm việc cho thành phần thứ ba, với hoang tưởng là CS Miền Bắc giải thể VNCH và trao cho nhóm20thành phần thứ ba thành lập chính phủ miền Nam, chia ghế chung với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Họ ra sức sử dụng cái tự do dân chủ miền Nam đánh phá VNCH đủ mọi mặt. Đến khi VNCH bị bạn đồng minh bỏ rơi thì ai ngờ họ bị cho ra rià, chỉ còn ngồi chia với nhau cái "ghế đá công viên".
4.- Họ là thành phần du kích miền Nam, tập kết ra Bắc. Họ đã sống dở chết dở trên dẫy Trường Sơn, trên đường mòn HCM. Họ tin là mai này miền Bắc đánh thắng miền Nam thì họ trơ về vinh quang, CS Miền Bắc sẽ để cho họ thống lãnh miền Nam, ít nhất cũng làm quan to. Hỡi ôi! Họ được gì? Tất cả những chức vụ ngon lành đều do cán ngố miến Bắc nắm hết. Họ từ từ bị bỏ rơi, u t ức quá họ xin phục viên. Bây giờ họ chỉ còn biết mở mắt và chửi thề từ sáng đến tối mà thôi.
5.- Họ là thành phần giầu sang phú quý miền Nam. Nghe lời hứa ngọt như mía lùi của VGCS, vào bưng thành lập cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Họ được rủ sang Paris ngồi vào bàn tròn bàn vuông, dự hội nghị thanh toán miền Nam do Kissinger và Lê Đức Thọ bầy mưu đạo diễn năm 1973. Sau 30-4-75 họ được gì? Ôi chao, Cái MTGPMN sống chưa được bao lâu đã bị CS Miền Bắc bóp cổ chết ngắc ngày 2-7-1976. Bấy giờ họ mới sáng mắt ra thì đã trễ, chỉ còn biết than thân trách phận là mình quá ngu.
TẠI HẢI NGOẠI :
Họ là những Việt Kiều đã liều chết vượt biên. Từ ngày Mỹ nối lại bang giao với Việt-Nam và bỏ cấm vận Việt-Nam, họ đã nghe lời dụ dỗ đường mật của CSVG, về lại Việt-Nam làm ăn:
a.- Một ông vua chả giò , đem về hàng triệu đôla đầu tư, rồi bị kết án về tội hối lộ (Khổ quá VK nào muốn làm ăn tại VN cho an toàn mà không phải hối lộ cơ chứ, kể cả người dân trong nước cũng vậy), chỉ vì cán bộ gộc tranh nhau ăn. Kết quả ông vua chả giò bị 11 tháng tù, may mắn quen lớn, đến tận ông "Tưởng Thú Khải" nên mới "tái vượt biên bằng đường hàng không" ra khỏi nước. Ông mướn luật sư đoàn ngoại quốc kiện VNCS lấy lại tiền. Ông hú vía và sáng mắt và sẽ chẳng bao giờ về Việt-Nam nữa.
b.- Một ông bác sĩ tim , bỏ ra cả bạc triệu mua máy móc rất "hiện đại" về Sàigon mở phòng mạch mổ tim mong làm ăn, nhưng rồi bị VC đội cho cái mũ "gián điệp CIA" không đưa ra toà nhưng chỉ xin ông để lại phòng mạch và tất cả dụng cụ, ra khỏi VN trong vòng 6 tiếng đồng hồ. Thế là mất cả chì lẫn chài. Về lại Hoa Kỳ ông tức lắm lập đảng chống , ông định làm cả cái kiềng 3 chân mời ông VC ngồi một chân để hoà hợp hòa giải.
c.- Một ông giáo sĩ chuyên về truyền thông, đi về VN hơn 10 lần rồi như đi chợ và có cả mấy căn hộ cho thuê. Rồi một ngày đẹp trời xin Visa về VN nữa để thâu tiền, nhưng đến phi trường Tân Sơn Nhất thì hải quan TSN hổng cho ổng vào vì lý do gì đó, đúng ra chỉ vì chúng muốn xiết mấy căn hộ của ông thôi. VK hồi đó chưa được phép mua nhà ở VN, mà tại sao ông lại có mấy căn hộ cho thuê "thế nà nàm sao?" , chắc chúng "điều cha" là ông nhờ người khác đứng tên. Ông tẽn tò trở về Mỹ, nuốt hận, nhưng vẫn cái trò nửa nạc nửa mỡ, vẫn nâng đỡ cho đám quốc doanh trong nước, đăng cả bài chống cờ vàng 3 sọc đỏ của HY đỏ Phạm Minh Mẫn mới đây.
d.- Một ông chuyên viên thu băng video và CD, DVD lậu, khoái "bác hồ" hết cỡ thợ mộc, nên treo cờ máu và ảnh tên hồ già trong tiệm, bị người Việt hải ngoại giàn chào cả 2 tháng. Ở VN hồi đó ông được CSVG nâng cấp lên thành "anh hùng". Rồi ông tưởng bở bán nhà bán cửa, thu xếp tiền bạc gia đình vợ con về VN làm ăn. Ông bỏ ra mấy chục ngàn đô (gần 1 tỷ bạc hồ) mua ao thả cá, nuôi tôm kiếm sống. Thu hoạch đang ngon lành, ai ngờ ông bà "anh hùng" bị gọi lên làm việc về tội "quên đóng thuế" cho nhà nước. Bà vợ ông ức quá "anh hùng" mà chả được cư xử như anh hùng tí nào cả, lại còn bắt đóng thuế, nên tự tử may mà không chết. Mất cả chì lẫn chài, gia đình lại cuốn gói về lại đế quốc Mỹ chả biết n dật tại Tiểu Bang nào. Bà con ai biết mách giùm nhé.
e.- Một ông giáo sư dậy điện toán, mua lại một số máy computer rẻ tiền đem về Sàigòn mở trường. Ông đoán đúng mạch dân VN. Thời kỳ tin học, ai mà chẳng muốn học "vi tính - piu tơ", thế là cơ sở ông phất lên như diều gặp gió. Ông làm thêm chi nhánh ở Cần Thơ, ngon trớn ông tiến nhanh tiến mạnh ra Đà Nẵng. Nhưng ông quên một điều là VN cũng có "rừng nào cọp nấy". Cọp miền Nam khác cọp miền Trung, miền Bắc. Ông quên không xin phép đúng nơi đúng chốn hay vì thủ tục "đầu tiên" của ông hơi yếu cho nên ông cũng bị mời lên Công An làm việc vì có thơ tố cáo ông làm gián điệp cho đảng phái hải ngoại chống phá nhà nước . Họ mời ông và gia đình ra khỏi nước trong vòng 24 tiếng, để lại 2, 3 trường học cho nhà nước quản lý. Ông biết bị ăn cướp nhưng chỉ nhỏ lệ mà ra đi và về hải ngoại ông vẫn im thin thít sợ nói ra bị đồng bào chửi.
f.- Chàng là một VK rất bình thường, nhưng có tật hay "nổ" khi về VN. Chàng đã về nước cả chục lần đâu có làm sao, về lại Hoa Kỳ lần nào cũng khen lấy khen để là "Sàigòn bây giờ đổi mới lắm, làng nướng, quán ăn, bia ôm, càfê cũng ôm luôn, hớt tóc muốn ôm cũng được". Vì vậy người Việt hải ngại đặt tên mới cho hòn ngọc viễn đông ngày trước, bây giờ là "thành phố ôm". Chàng chỉ là một chuyên viên làm Nail, mùa đông ế khách nên về VN du hí. Nhưng VK về nước mà lại khoe là làm nail thì hơi bị quê, nên bèn nổ lớn và tự giới thiệu là kỹ sư "hoá học". Nói cho đúng thì ngày ngày chàng đụng tới hóa chất (acetone .v.v) hơi nhiều, phải đeo khẩu trang như các nhà bác học trong phòng thí nghiệm thật. Lần này về VN thì sáng ngày hôm sau, có một Công an đến vấn an và gãi đầu gãi tai xin ông Kỹ sư giúp đỡ chút xíu vì nhà đang gặp khó khăn. Chàng kỹ sư mở bóp lấy ra tờ 20 đôla trao cho viên công an. Viên công an tỏ ý hơi thất vọng rồi ra về. Sau chuyến đi chơi Đalạt 3 ngày về thì chàng kỹ sư nhận được một công văn của Công An số 4 Phan đăng Lưu yêu cầu lên làm việc để làm sáng tỏ một vài vấn đề.
Ông "kỹ sư" hoang mang nhưng cũng đến trình diện. Viên Đại Uý Công An mời ngồi và nói là ông ta mới nhận được một lá thư từ trong phương xóm nơi chàng tạm cư ngụ, tố cáo ông VK là một nhân viên của một đảng phản động tại hải ngoại lần nay có nhiệm vụ về điều nghiên để phá hoại. Anh kỹ sư VK tái mét mặt, hết hồn bèn khai thật là ở bên Mỹ chỉ làm nail bên Mỹ thôi chứ đâu có phải kỹ sư gì đâu, về nước để du lịch chứ không có tham gia một đảng phái chính trị nào cả. Viên Đại Uý cười khẩy và nói là ty công an thành phố phải điều tra ra sự thật vì vậy theo luật thì phải giữ anh kỹ sư ở lại bóp vài ba ngày 9 1ể tiến hành cuộc thẩm vấn. Sau cùng ông Đại úy nhắc khéo là đã liên lạc với hải quan TSN rồi và được biết là anh kỹ sư có khai đem về 5 ngàn đôla kỳ này. Chàng "kỹ sư" được dẫn vào nhà giam ngủ 1 đêm. Sáng hôm sau tại địa chỉ mà chàng tạm trú, một người ăn mặc complet bảnh bao, tay sách cạc táp đen, đến gõ cửa và tự nhận là luật sư. Ông luật sư vào đề ngay là ông ta "nghe nói" có một VK bị bắt vào ty Công An PĐL. Nếu muốn nhờ ông ta biện hộ hay giải quyết thì đây là giá cả: -
(1) Muốn khỏi phải ra toà và được thả ngay thì giá là 3 ngàn đôla, vì ông ta phải chi tiền chạy chọt. -
(2) Còn muốn ra toà thì ông ta nhận biện hộ với giá $1,500 USD, nhưng ông luật sư thòng một câu là không biết ngày nào ra toà, có thể từ 3, 4 tháng đến 1 năm tuỳ theo. Bị cáo không được rời khỏi VN. Ông ta nói xong để lại danh thiếp với số điện thoại. Ngày hôm sau ông bạn chạy đến ty CA thành phố xin thăm gặp ông "kỹ sư" nạn nhân, và trình bầy 2 giải pháp của ông Luật sư. Anh "kỹ sư" hốt hoảng nói anh bạn gọi điện thoại và điều đình với ông luật sư chấp thuận giải pháp 1 là trả 3 ngàn đô cùng cô hồn để được trả tự do ngay, chứ theo giải pháp thứ 2 rẻ hơn nhưng làm sao mà ở VN lâu như vậy được, còn ph i về Mỹ dũa móng chứ. Chiều hôm sau, chàng "kỹ sư" được trả về nhà, túi bị nhẹ đi mất 24 triệu bạc hồ, một số tiền khá lớn. Hai ngày sau chàng "kỹ sư", ra hãng máy bay xin đổi vé về lại Mỹ càng sớm vàng tốt và hứa là sẽ không bao giờ về thăm chùm khế ngọt nữa.
THANH VÂN
Ban Nguyet San YDANPhat hanh o San Jose, CA va Denver, COydannews@sbcglobal.net
=======