Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday, 5 December 2016

TIÊN LÃNG=BSTRƯỜNG XUÂN=VĂN QUANG=LÊXUÂNNHUẬN

CÒN NHIỀU TIÊN LÃNG, VĂN GIANG


  
Còn nhiều Tiên Lãng, Văn Giang,
Còn nhiều làng xã tan hoang cửa nhà.
Đánh tan Cộng sản Trung Hoa,
 Diệt hết Việt Cộng nước ta thái bình.

Sẽ còn nhiều vụ Văn Giang khác ở Việt Nam
Cảnh sát cơ động tham gia cưỡng chế thu hồi đất tại Văn Giang, Hưng Yên ngày 24/04/2012.
Cảnh sát cơ động tham gia cưỡng chế thu hồi đất tại Văn Giang, Hưng Yên ngày 24/04/2012.
REUTERS/Stringer
Thanh Phương
Những cảnh đàn áp nông dân trong vụ cưỡng chế ở Văn Giang, Hưng Yên ngày 24/04 tiếp tục khấy động dư luận trong và ngoài nước. Một số nhà báo và nhà trí thức đã lên tiếng phản đối vụ cưỡng chế Văn Giang, trong số này có giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam.
So với vụ Tiên Lãng, vụ cưỡng chế ở xã Văn Quang, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên ngày 24/4 vừa qua gây chấn động mạnh trước hết là do tầm mức của sự kiện. Mặc dù theo nguồn tin chính thức, việc cưỡng chế chỉ tiến hành đối với 5,8 ha thuộc 166 hộ không chịu nhận tiền đền bù, nhưng có đến cả ngàn nông dân Văn Giang từ đêm hôm trước đã bám trụ tại những mảnh đất của họ để chống lại việc cưỡng chế. Phía chính quyền vì thế đã phải huy động hàng ngàn người gồm công an, cảnh sát cơ động, dân phòng và, theo tố cáo của dân, thì có cả thành phần xã hội đen, để thi hành lệnh cưỡng chế, biến việc này thành giống như là một trận càn quét trong chiến tranh, với hơi cay mờ mịt đồng, khói mù tỏa khắp nơi, tiếng súng vang rền trời.

Điểm thứ hai gây công phẫn dư luận, đó là mức độ đàn áp của lực lượng cưỡng chế, qua những hình ảnh được phổ biến rộng rãi trên mạng, nhất là cảnh cả chục người cầm dùi cui thi nhau đánh đập dã man một nông dân tay không, theo kiểu đánh đòn thù, chứ không phải là khống chế một thành phần “quá khích”.

Điểm đáng nói khác đó là, có lẽ rút kinh nghiệm từ vụ Tiên Lãng, chính quyền kiểm soát rất gắt gao những thông tin về vụ cưỡng chế ở Văn Giang. Một số bài báo đưa tin tương đối khách quan đã bị gỡ bỏ chỉ sau vài giờ đăng trên mạng. Những bài báo khác thì đăng thông tin một chiều của chính quyền tỉnh Hưng Yên. Chỉ duy nhất có tờ báo Người Cao Tuổi, cơ quan ngôn luận của Hội Người cao tuổi Việt Nam, là dám lên tiếng tố cáo vụ cưỡng chế mà họ cho là “trái luật” ở Văn Giang ( Nhưng nay bài của Người Cao Tuổi về vụ Văn Giang đều đã bị gỡ bỏ ). Nhiều phóng viên cho biết họ đã bị cản trở khi đến tác nghiệp ở Văn Giang trong ngày cưỡng chế.

Những nhà báo, những trí thức nào muốn bày tỏ thái độ về vụ Văn Giang chỉ có thể đăng tải trên các trang mạng. Trong bài viết tựa đề “ Phải thay đổi tư duy thu hồi đất”, được đăng trên trang Ba Sàm ngày 27/4, nhà báo Võ Văn Tạo nhắc lại rằng, điều 39 – Luật Đất đai 2003 quy định chỉ thu hồi đất để “ sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng”, trong khi dự án Ecopark chỉ là dự án kinh doanh, chính quyền không được phép thực hiện thủ tục thu hồi đất.

Bên cạnh đó, nhà báo Võ Văn Tạo lên án tình trạng thiếu minh bạch, cản trở báo chí tác nghiệp. Tác giả viết : « Mặc dù hoạt động cưỡng chế không thuộc phạm trù bí mật, hầu hết trường hợp, phóng viên đến hiện trường tác nghiệp đều bị lực lượng cưỡng chế cản trở hung hăng, thậm chí không ít phóng viên còn bị cướp máy ảnh, hành hung(!). Chính vì không có sự giám sát của báo chí, hiện tượng cưỡng chế sai ẩu, lạm dụng vũ lực, hành hung vô lối và thái quá với người bị cưỡng chế rất phổ biến. »
Về phần nhà báo Huy Đức thì tự đặt mình vào vị trí của nông dân Văn Giang trong bài viết đề ngày 26/04 đăng trên trang blog của anh.

Theo Huy Đức, các điều khoản về thu hồi đất, từng được quy định khá chặt chẽ trong Luật 1993, đã trở nên rắc rối và dễ bị lũng đoạn hơn trong Luật 2003. Anh cho rằng « Luật gần như đã đặt những mục tiêu cao cả như “lợi ích quốc gia” ngang hàng với “lợi ích của các đại gia”. »
Huy Đức lưu ý rằng, « vì Việt Nam không có một tối cao pháp viện để nói rằng Luật 2003 vi Hiến; Việt Nam cũng không có tư pháp độc lập để nông dân có thể kiện các quyết định của chính quyền, vì không có công lý, nên gia đình anh Đoàn Văn Vươn và 160 hộ dân Văn Giang phải chọn hình thức kháng cự chịu nhiều rủi ro như thế ». Theo tác giả bài viết, hình ảnh cuộc cưỡng chế hôm 24-4-2012 đã trở thành « một vết nhơ trong lịch sử. »

Trong bài viết gởi trực tiếp cho trang mạng Bauxite Việt Nam với hàng tựa “ Nhà nước của dân, do dân, vì dân không được phép trấn áp dân”, đề ngày 26/4, ông Nguyễn Trung (cựu Đại sứ VN tại Thái Lan, cựu thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, cựu thành viên Viện Nghiên cứu Phát triển IDS ), đã bày tỏ “sự căm giận và nỗi hãi hùng” của ông. Ông căm giận “vì không thể chấp nhận Nhà nước của dân, do dân, vì dân lại hành xử với dân như vậy. Ông hãi hùng “vì thấy rằng hệ thống chính trị nước ta đã có được trong tay lực lượng vũ trang sẵn sàng thực hiện lệnh trấn áp như vậy đối với dân.”

Ông Nguyễn Trung cảnh báo rằng đây là “ một chiều hướng phát triển vô cùng nguy hiểm cho đất nước, nhất thiết phải tìm cách ngăn chặn.” Ông yêu cầu Đảng, Quốc hội, Chính phủ về họp công khai với toàn thể các hộ dân các xã ở Văn Giang có đất đai bị thu hồi trong vụ cưỡng chế này để tìm hiểu tại chỗ sự việc.
Riêng giáo sư Tương Lai, ngay từ bài viết với hàng tựa “ Bàn chân nổi giận”, đề ngày 17/4, gởi trực tiếp cho trang Bauxite Việt Nam đã cảnh báo rằng “ con giun xéo lắm cũng quằn, họ không thể cứ lầm lũi ngậm miệng than trời, sao trời ở không cân, kẻ ăn không hết, người lần không ra.”. Bản thân cũng đã theo dõi tình hình ở Văn Giang từ nhiều tháng qua và trong bài trả lời phỏng vấn với RFI sau đây nay giáo sư Tương Lai tỏ vẻ rất công phẫn trước vụ đàn áp vừa qua:

Giáo sư Tương Lai
29/04/2012
 Giáo sư Tương Lai: Tôi đã có theo dõi tình hình Văn Giang, Hưng Yên. Sự việc này diễn ra có thể đã là từ một tháng nay. Trước đây, tôi có xem một đoạn video trên mạng, quay lại cảnh người dân chất vấn đoàn thanh tra. Từ đó, tôi đã thấy là sự việc không biết sẽ diễn tiến đến đâu. Tôi cũng hy vọng là sau đợt làm việc của đoàn thanh tra đó, tình hình sẽ dịu đi và chắc là người ta sẽ có giải pháp.

Nhưng đến hôm nay, tôi thấy tình hình đã đi đến chỗ gay gắt một cách mà tôi cũng không hình dung nổi, nhất là khi xem đoạn video quay cảnh những người nhân danh Nhà nước, mặc sắc phục cảnh sát cũng có, mặc thường phục cũng có, cầm dùi cui đánh tới tấp vào những người dân. Xem cảnh đó, tôi không thể nào nói gì khác ngoài sự phẫn nộ và phẫn uất. Một Nhà nước mà đối xử với dân như vậy thì còn gì để nói!

Đương nhiên trong quy hoạch để xây dựng lại đất nước, những vấn đề cơ cấu lại nền kinh tế, mở rộng những khu vực công nghiệp, dịch vụ, đó là những việc không thể không làm. Và khi làm thì đương nhiên là có động chạm với lợi ích của người dân, có khi là lợi ích cục bộ, có khi là lợi ích riêng tư, mà về nguyên lý, lợi ích cục bộ phải phục vụ lợi ích toàn thể, lợi ích riêng tư phải phục vụ lợi ích đất nước.

Nhưng dù là cục bộ, dù là toàn thể, dù là lợi ích quốc gia đặt lên trên, ý nguyện của người dân vẫn là quan trọng nhất. Phong kiến, cổ xưa như Mạnh Tử mà còn nói đến “dân vi quý, quân vi khinh”. Một chính quyền muốn tồn tại thì phải được dân ủng hộ. Vì vậy, dựa vào dân, tin dân và lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của dân là việc tối thiểu mà người cầm quyền phải biết. Dù là mình đúng, dù là dân sai, dù người dân là lợi ích riêng tư, còn Nhà nước là lợi ich của toàn dân, thì trước tiên phải lắng nghe dân, chứ không phải dùng dùi cui để đối xử với dân.

Trước mắt, người ta có thể khuất phục một số người nào đó và bạo lực có khi tạm thời thắng thế, nhưng đó là sự giải khát bằng thuốc độc. Hệ lụy của nó sẽ không thể lường được. Một khi người dân nổi giận, mọi lời rao giảng về đạo đức, về nghị quyết, về lý tưởng, ... đều trở nên vô nghĩa, nếu không muốn nói là giả dối và mị dân.
Cho nên, nhìn vào sự kiện đàn áp dân ở Văn Giang, Hưng Yên, thì không còn gì để nói nữa, khi mà cứ ra rả nói rằng Nhà nước này là của dân, do dân, vì dân.
RFI: Nguyên nhân của tình trạng ngày hôm nay phải chăng không chỉ là do mức đền bù không thoả đáng, mà còn là do Luật đất đai chưa rõ ràng, dẫn đến lạm quyền ở địa phương?

Giáo sư Tương Lai: Câu hỏi của ông cũng chính là câu trả lời đấy. Vừa qua, khi nhân dân Văn Giang kéo về cổng thanh tra chính phủ ở Cầu Giấy, Hà Nội, tôi đã có viết bài “Bàn chân nổ giận”. Một số báo không dám đăng, nhưng có một tờ báo đăng. Trong bài đó, tôi không có nói gì khác ngoài việc dẫn lời những người có trách nhiệm. Ví dụ, nguyên phó thủ tướng phụ trách nông nghiệp Võ Ngọc Trìu có nói: “ Khi trong này khai trương một công trình, thì ở bên ngoài dân khiếu kiện và biểu tình”. Ông nói rằng, giá đền bù cho dân là 1, khi đem lô đất đó ra thì giá gấp 15 lần. Ông kết luận rằng, một chính sách như thế thì không thể nào thuyết phục được dân.

Từ xưa đến nay, đất đai vẫn là vấn đề số một và nói đến đất đai tức là nói đến nông dân. Nguyễn Đình Chiểu đã nói rằng người nông dân là “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm”. Ngoài cái đó ra họ biết làm gì bây giờ? Họ có thể nhận một số tiền đền bù mà trong đời họ chưa từng có như thế. Nhưng khi họ mất đất thì số tiền đền bù đó chẳng có ý nghĩa gì nữa, bởi vì không phải ai cầm tiền cũng có thể làm cho nó sinh lợi. Đấy là chưa nói, khi đã mất đất, rất nhiều gia đình nông thôn thất cơ lỡ vận. Nếu có được đền bù thoả đáng đi nữa thì người dân cũng cảm thấy lo sợ cho tương lai của họ, huống hồ đền bù không thỏa đáng. Thế thì làm sao dân không phẫn nộ, không khiếu kiện? Tôi không nói tất cả các khiếu kiện đều đúng, nhưng về cơ bản thì đó là điều không thể không xảy ra được.

Luật đất đai, nhân danh sở hữu toàn dân, nhưng lại giao quyền sỡ hữu toàn dân đó, giao cái quốc gia công thổ đó cho chính quyền địa phương. Một ông lãnh đạo xã cũng có thể trở thành Nhà nước để quyết định sở hữu toàn dân đó. Đây là sự bất cập rất lớn mà các chuyên gia đã nói đến nhiều trên báo chí. Nhưng khổ một nỗi, có một suy nghĩ đã trở thành như là chất xi măng kết dính trong đầu người ta: mất sở hữu toàn dân là mất chủ nghĩa xã hội! Chính vì thế người ta phải bám cho bằng được cái mệnh đề sở hữu toàn dân đó. Cố giữ cái sở hữu toàn dân đó và giao nó cho những chính quyền địa phương, mà ai cũng thấy là đầy dẫy tham nhũng. Không có tham nhũng nào có thể ngon ăn bằng tham nhũng từ đất. Không có sự ăn cướp nào dễ dàng bằng ăn cướp đất của người nông dân tay không. Cho nên, câu nói ngày xưa “ Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”, chưa bao giờ trở thành một cách nhầy nhụa và trắng trợn như hiện nay.

Vì vậy, trong sửa đổi Hiến pháp kỳ này, không thể không đặt lại vấn đề sở hữu đất đai. Một khi vẫn còn giữ quan điểm quá ư bảo thủ và lạc hậu, thì những mâu thuẩn về đất đai, những sự kiện đau lòng như ở Văn Giang mỗi lúc sẽ càng căng thẳng thêm, chứ không thể dịu đi được.
RFI: Trong khi chờ sửa Luật đất đai, chính quyền phải làm sao để hạn chế những vụ khiếu kiện, biểu tình, dẫn đến cưỡng chế bằng bạo lực như ở Văn Giang?
Giáo sư Tương Lai: Bất cứ chính quyền nào cũng có xu hướng mở rộng quyền lực vô hạn độ, mà quyền lực thì có xu hướng tham nhũng. Vấn đề là phải có một công cụ để ngăn chận điều này. Công cụ đó chính là luật pháp. Thứ hai, có một cái được xem như nền tảng của Nhà nước nhân danh là của dân, do dân, vì dân, như cụ Hồ Chí Minh ngày xưa đã nói rằng: “ Quyền hành và lực lượng đều nơi dân”. Đó là tư tưởng cốt lõi, quan trọng nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà người ta đang phát động ra sức học tập.
Nghị quyết trung ương 4 về vận động chỉnh đảng cũng đưa lên vấn đề số một là phải dựa vào dân, gắn với dân, lắng nghe ý kiến nguyện vọng của dân. Vậy thì trong khi chờ sửa Hiến pháp, sửa Luật Đất đai, thì phải dựa vào dân, lắng nghe dân, chứ đừng dùng dùi cui vơi dân, đừng chĩa súng vào dân!

Nếu tình hình cứ diễn ra theo kiểu này, sẽ không thể tránh được những vụ Văn Giang khác. Tình hình sẽ còn căng thẳng hơn, bởi vì càng ngày người ta càng cần phải tiếp tục cưỡng chế để lấy đất làm dự án. Mỗi dự án như thế, bên cạnh cái gọi là lợi ích của Nhà nước, của toàn dân, của chủ nghĩa xã hội, thì có lẽ cái lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân, cái bỏ túi riêng cho các quan chức vẫn sẽ là một động lực không thể kềm hãm được. Chính từ động lực đó mà người ta có một quyết tâm rất cao trong việc cưỡng chế nhân danh quy doanh, nhân danh thực hiện pháp lệnh Nhà nước, nhân danh cơ cấu lại nền kinh tế,.... Rất nhiều ngôn từ đẹp đẽ, mà dưới đó là những mưu toan của các nhóm lợi ích.

Một khi không giải quyết triệt để cái đó, thì làm sao có thể bịt miệng người nông dân, để họ không khiếu kiện.
Cho nên, sửa đổi Hiến pháp là một thời điểm có thể an dân được phần nào, trong đó có vấn đề Luật Đất đai. Nhưng chờ sửa luật thì còn lâu. Cho nên, trước mắt phải có giải pháp hạn chế sự cưỡng chế và dùng bạo lực đối với dân và phải có một tiếng nói rất mạnh mẽ, trong Đảng, trong chính quyền, nhưng trước hết là sức mạnh công luận từ dân và từ tất cả những ai có lương tri, lên tiếng đòi hỏi phải có một ứng xử đúng đắn đối với dân. Không được dùng bạo lực, không được chĩa súng vào dân.
RFI: Xin cám ơn giáo sư Tương Lai.
 
  'Sẽ có nhiều Đoàn Văn Vươn'?
Cập nhật: 14:44 GMT - chủ nhật, 29 tháng 1, 2012
Bà Lê Hiền Đức
Bà Lê Hiền Đức nói nhiều người dân đã "trắng tay" và họ sẽ "vùng lên" nếu có trình độ
Công dân chống tham nhũng được giải thưởng quốc tế của Việt Nam nói với BBC những vụ chống lại các hành động mà bà gọi là 'cướp đất' như vụ Đoàn Văn Vươn sẽ còn nhiều nếu người dân hiểu biết và có học thức hơn.
Bà Lê Hiền Đức, năm nay 81 tuổi, nói bà nhận được 'rất nhiều' đơn khiếu nại về đất đai, cũng như hình ảnh, video về các vụ cưỡng chế đất đai gây đổ máu.
Bà nói với BBC hôm 29/1/2012: "[Những vụ mất đất] giống như Đoàn Văn Vươn rất nhiều, nhưng Vươn là một kỹ sư, có trình độ cho nên anh ấy đi theo con đường như vậy.
"Còn những người nông dân quá khổ, uất ức lắm, mất đất, mất nhà, mất ruộng... người ta sống bằng gì nữa đây?"
"Vì bây giờ người ta chưa có trình độ, chứ nếu người ta có trình độ như ông Vươn thì sẽ còn nhiều Đoàn Văn Vươn nữa chưa không phải là một Đoàn Văn Vươn đâu.
Công dân chống tham nhũng nói bà ủng hộ hành động của ông Vươn và so với những người dân có ý định tự thiêu để phản đối thu hồi đất thì việc làm của ông Vươn là 'tích cực'.
"Đây không phải là anh ấy chống đối mà là anh ấy tự vệ.
"Bởi vì nếu lực lượng đến đập phá mà là bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân thì tôi mới gọi đấy là thi hành công vụ, anh Vươn chống lại là anh Vươn sai.
"Nhưng đây không phải bảo vệ quyền lợi chính đáng cho tập thể, cho nhân dân mà bảo vệ quyền lợi...tôi dùng cái từ là 'cướp đất' chứ không phải là bảo vệ."
"Người nông dân bây giờ trắng tay... vì người ta không có trình độ, chứ còn nếu có trình độ thì người ta sẽ vùng lên."
Lê Hiền Đức
Bà Đức nói việc giải quyết chậm trễ các khiếu nại về đất đai đang đẩy người dân tới bước đường cùng:
"...Rét mướt như thế này mà lang thang ngoài vườn hoa bãi cỏ. Sống ở chỗ này, thuê được cái nhà độ khoảng 15 m2, bẩy tám con người chui vào đấy nằm.
"Thế thì người ta sống bằng gì để kiên trì ra xin đề nghị với thanh tra chính phủ giải quyết.
"Nhưng... nó đá lên rồi nó lại đá xuống, nó đẩy chỗ nọ, đẩy chỗ kia.
"Tôi gọi Thanh tra Chính phủ [họ] bảo 'Việc này đã giao về tỉnh'
"Nhưng tôi nói rằng chính 'thằng' tỉnh là 'thằng' cướp đất, chính 'thằng' tỉnh là 'thằng' ăn đất của dân.
"Người nông dân bây giờ trắng tay... vì người ta không có trình độ chứ còn nếu có trình độ thì người ta sẽ vùng lên."
'Căm thù'
Người được giải thưởng về chống tham nhũng của tổ chức Minh bạch Quốc Tế - Transparency International - nói:
"Sáu mươi ba tỉnh thành phố ở Việt Nam thì có lẽ trong tay tôi phải đến từ 50 đến 52 tỉnh thành phố có dân bị mất đất.
"Ngay ở Bắc Ninh, cách Hà Nội 20 km, mà dân sợ mất đồng ruộng. Người ta sống bằng gì? Sống bằng cây lúa mà bây giờ nó cướp lúa của người ta, cướp ruộng đất của người ta.
"Có một cán bộ chính quyền trả lời người dân rằng 'Bây giờ mua hai cái phích, đun nước sôi bỏ vào đấy rồi đi bán rong...Hoặc là mua một cái xe máy để chạy xe ôm.'
"Người dân là sống bằng đồng ruộng, không thể chịu mất đất được và tôi nói đùa là người ta sống bằng cây lúa bây giờ người ta mất đất thì người ta trồng lúa vào gầm giường à?"

Ông Đoàn Văn Vươn trên Truyền hình Hải Phòng
Bà Đức nói có thể có nhiều vụ như Đoàn Văn Vươn nữa
Bà Đức cũng nói bà đã đưa lên vụ Bấm cưỡng chế mồ mả đất đai ở phường Dương Nội, quận Hà Đông, cách Hà Nội 15 km.
"Tôi thì mất ăn mất ngủ khi tôi nhìn thấy những cánh đồng lúa xanh mơn mởn mà nó cho xe ủi đi. Rồi những bãi tha ma biết bao nhiêu mồ mả ông cha của người dân ở đấy, nói về tâm linh đó là sự đau xót lắm. Nó cày xới lung tung cả lên, thậm chí hàng trăm công an bộ đội đứng trên bờ, đứng khoanh tay nhìn."
Bà Lê Hiền Đức nói với BBC bà có rất nhiều bức ảnh cho thấy người dân bị "đánh chảy máu đầu, máu tai" khi giữ đất.
"Nông dân mất đất phải nói là người ta rất căm thù, phải dùng từ căm thù mới đúng," bà nói.
"Thậm chí có người dân An Giang mà trong tay tôi còn rất nhiều đơn từ đây, người ta đến nhà tôi người ta bảo nếu không được giải quyết chuyến này chúng con tự thiêu ngay bờ Hồ Hoàn Kiếm bởi vì về bây giờ cũng con không còn gì mà sống nên sẵn sàng tự thiêu.
"Buộc lòng tôi phải gọi điện cho ông Bộ trưởng Công An 'Anh ơi, đây anh nghe dân đi, dân sẽ tự thiêu ở Hà Nội thì còn gì nữa là đất nước."
'Vô cảm'
Công dân chống tham nhũng 81 tuổi nói trong số các đơn từ mà bà có số được giải quyết cho tới nay chưa tới 10% trong khi có người phải khiếu nại qua các đời chủ tịch tỉnh khác nhau và số lượng đơn thư khiếu nại của một người có thể lên tới hàng ngàn.
Bà cũng nói bà đã chứng kiến có nơi đất giải tỏa để hoang tới hai năm trong khi người dân không có đất cấy lúa và chính bà đã thúc giục người dân cứ ra cấy ở những mảnh đất trước đây của họ.
Người dân Việt Nam, bà Đức nói, sẵn sàng hiến đất cho các công trình xây nghĩa trang, trường học hay đường sá nhưng nhiều trường hợp thu đất gần đây "không phải phục vụ mục đích dân sinh" mà "để chia nhau".
Bà kể với BBC: "Chính tôi đã vào tận tỉnh An Giang mà còn bị Thanh tra Chính phủ hỏi 'Bà có liên quan gì tới quyền lợi ở An Giang không?'
"Các ông cấp cao ngồi ở trong văn phòng, trong cơ quan kín cổng cao tường [có] lính gác, đi xe hơi, về xe hơi, biết đâu rằng ngoài chợ người ta chửi công an như thế nào."
Lê Hiền Đức
"Thế thì tôi nói vui đùa, 'Có, có liên quan, tôi vào tôi xin 2m, à 1,8m thôi vì người tôi cao 1,5m thì tôi chỉ xin 1,8m là đủ chôn tôi rồi.
"Trong khi cả gia đình họ hàng tôi tám đời ở Hà Nội. Thế nhưng mà tôi nói thế để chúng nó biết rằng 'Cứ phải có quyền lợi liên quan thì mới lên tiếng, thì mới vào à?'
"Cuối cùng tôi nói rằng 'Tôi không vô cảm như các anh đâu'.
"Sau đó cái tay Tổng Thanh tra Trần Văn Truyền đấy bây giờ nói một danh từ vui vui là bật bãi rồi"
Bà Đức nói cách đây 60 năm bà tham gia vào phong trào phá kho thóc Nhật và chia lương thực, ruộng đất cho người dân và đặt câu hỏi đối với những hành động "thu ruộng đất của nông dân" hiện nay.
Người chống tham nhũng có tiếng ở Việt Nam cũng cáo buộc các nhà lãnh đạo Việt Nam không hiểu suy nghĩ của người dân.
"Các ông cấp cao ngồi ở trong văn phòng, trong cơ quan kín cổng cao tường [có] lính gác, đi xe hơi, về xe hơi, biết đâu rằng ngoài chợ người ta chửi công an như thế nào.
"Người ta bảo công an là 'cướp ngày' là 'cướp cạn'.
Trong các diễn biến mới nhất liên quan tới tranh chấp đất đai, một người dân ở Bắc Giang được cho là đã tử vong sau khi có va chạm với công an địa phương liên quan tới thu hồi đất.

Không chỉ: Đoàn Văn Vươn!

 - Không chỉ duy nhất anh em ông Đoàn Văn Vươn phải đứng trước vành móng ngựa, không ít người có cùng nhận xét này. Nếu nhà nước khẳng định: Mọi công dân đều bình đẳng trước Pháp Luật và cho rằng lòng người đã yên ả sau những ngày “dậy sóng” bởi cơn lốc cưỡng chế ao đầm trái pháp luật, nhà tan, cửa nát, súng nổ, máu rơi ở Vinh Quang, Tiên Lãng vừa qua thì công lý vẫn còn bị chà đạp.
Đã là muộn, nếu công lý thật sự quang minh chính trực để bắt giữ, khởi tố ít nhất cũng vài kẻ “lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây hậu quả nghiêm trọng”, còn đến sau ngày 10/2 (có kết luận chính thức việc cưỡng chế đó là sai pháp luật) thì Công Lý như đang bị thách thức bởi sự không công bằng.
Trong khi ông Vươn và người thân nhanh chóng trình diện và bị bắt giữ ngay sau khi có hành vi chống trả lực lượng cưỡng chế (đúng, sai còn chờ xét xử) thì những kẻ sai phạm tới mười mươi, tang chứng vật chứng rõ như ban ngày thì về nằm nhà nghỉ ngơi “nghiên cứu” tìm mọi lý do có yếu tố ‘thiếu sót hay “sai sót” để sáng tạo trong kịch bản “Kiểm Điểm” trình cấp trên hầu bảo vệ “cái ghế” của mình. 
Các nhà luật học và luật sư xác định: Sau khi lực lượng vũ trang xâm nhập phá hủy căn nhà 2 tầng trên khu đất gia đình ông Vươn, ông Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng Lê Văn Hiền nói thẳng với phóng viên, hôm sau báo chí đăng đầy, rằng: “Ngôi nhà nằm trong diện tích đất chưa bị cưỡng chế. Nhưng vì đây là nơi các đối tượng cố thủ và tấn công các lực lượng cưỡng chế, nên áp dụng biện pháp phá hủy ngôi nhà!?” thì Lê Văn Hiền CT/UB huyện và Đỗ Hữu Ca GĐ/CA/TP/HP phải bị bắt giữ tức khắc vì phạm pháp quả tang do tùy tiện trang bị vũ khí xâm nhập gia cư bất hợp pháp vì “Ngôi nhà nằm trong diện tích đất chưa bị cưỡng chế.”

 Có nghĩa quyền sở hửu đang được pháp luật bảo hộ.
Và sau ngày 10/2 còn củng cố thêm 2 văn bản trái pháp luật, các Quyết định số 460/QĐ-UBND ngày 23/4/2008, Quyết định số 461/QĐ-UBND ngày 07/4/2009 của UBND huyện xin phê chuẩn kế hoạch cưỡng chế thu hồi đất của ông Đoàn Văn Vươn. Với tính chất và hậu quả nghiêm trọng của vụ việc thì không thể chờ ở các cá nhân sai phạm tự kiểm điểm nghiêm túc, tự nhận hình thức kỷ luật. Mà Tòa án và Viện KSND Hải Phòng cần căn cứ vào hành vi và mức độ sai phạm đã xãy ra để xác định hình thức đề nghị khởi tố, đó mới là sự quang minh của “pháp bất vị thân”.
Ngay cả ông Đỗ Trung Thoại PCT/UB/TP/Hải Phòng (phụ trách Nông Nghiệp) người “tiến cử” rất nhiều công văn cưỡng chế sai trái để thu hồi đất trái pháp luật của nhiều hộ nông dân, không riêng gì Tiên Lãng,trong đó có ao đầm nhà ông Đoàn Văn Vươn cho UBND/TP/HP gật đầu chuẩn thuận, cũng không thể loại trừ khả năng, phải bị truy tố.
Bởi có khá nhiều hộ nông dân nghèo bỏ công lao đi lấn biển mở đất bãi bồi đã bị ông Thoại và Huyện Tiên Lãng (còn huyện nào nữa không?) tước mất cái quyền luật định sử dụng 20 năm và còn được tiếp tục nếu còn tha thiết với mảnh đất bãi bồi mà mình gắn bó, thậm chí khi bị thu hồi hầu hết các hộ đều trắng tay không có một xu bồi hoàn trong khi nghị định 84 của CP. Hướng dẫn rất chi tiết, phải qua các bước, từ chủ trương, lý do thu hồi đất, kiểm đếm tài sản, lập phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư tổng thể, ban hành quyết định thu hồi đất gửi đến từng hộ gia đình, chi tiết của kế hoạch công bố công khai tại trụ sở xã để tiếp nhận đóng góp ý kiến của người dân, bảo đảm mọi quyền lợi của người bị thu hồi đất không ai xâm phạm...
Nhưng dưới mắt ông PCT/UB/TP/HP Đỗ Trung Thoại và Lê Văn Hiền CTUB/Tiên Lãng thì không bao giờ “bước” đi cùng nông dân trong thu hồi đất trên cơ sở của luật Đất Đai. Trong quyết định thu hồi đất của UBND huyện Tiên Lãng đối với diện tích 19,3ha của ông Đoàn văn Vươn cũng không có nội dung đề cập “bước” nào phù hợp nghị định 84, có nghĩa ông Vươn mất đất,trắng tay và đây cũng là một trong những nổi uất hận khiến ông Vươn như cuồng trí “bước” tới khẩu súng hoa cải tự chế của mình.
Không thể thuyết phục công luận và phù hợp pháp luật khi nói các hành vi sai trái đó là do “thiếu sót hay sai sót”. Làm sao thiếu sót được. Ngay từ năm 2008 Báo đối ngoại Việt Nam Economic News (VEN) thuộc Bộ Công Thương đã có loạt bài phóng sự “Cống Rộc – Thách thức không đến từ biển” (mà từ những con người nhân danh nhà nước quả lý các đồng đất bãi bồi nơi này) trên cơ sở đơn thư khiếu nại khẩn thiết của người dân, toà soạn đã cử phóng viên về “ba chung” tại Cống Rộc, cẩn thận,nghiêm túc nghiên cứu hồ sơ,thực hiện chặt chẻ các qui trình trước khi cho đăng toàn bộ những sai trái và bất cập trong việc thực thi luật đất đai ở nơi này trên ấn phẩm Kinh Tế Việt Nam sau đó đăng lại trên trang mạng điện tử ( http://www.ven.vn ) thuộc báo Đối Ngoại VietNam Economic New.
Và một năm sau (2009) hình như sở Tư Pháp TP/Hải Phòng “giật mình” qua bài báo nói trên nên đã kiểm tra lại các văn bản liên quan đến đất đai do huyện Tiên Lãng ban hành, phát hiện vi phạm nghiêm trọng pháp luật đất đai liền ban hành một công văn do ông Ngô Minh Tuấn - Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP/HP ký, công văn số 408/TB-STP cảnh cáo rằng: “UBND huyện Tiên Lãng quy định cho phép mình được quyền quản lý diện tích đất này là chưa phù hợp về thẩm quyền và không thống nhất với tên gọi của văn bản. UBND huyện Tiên Lãng quy định việc thu hồi đất hết thời hạn để chuyển sang hình thức thuê đất, đấu giá, đấu thầu là không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 67, khoản 10 Điều 38 Luật Đất đai và không thống nhất với điều 7 của chính quyết định này. 

Và việc quản lý, sử dụng và bảo vệ đối với phần diện tích theo quy định này chỉ có Chính phủ mới có thẩm quyền quy định. UBND các quận,huyện không có thẩm quyền quy định...” (Sở Tư Pháp/HP). 
Nhưng UBND xã, huyện Tiên Lãng và TP/Hải Phòng, quen rồi với cách nghĩ “Lệnh vua thua lệ làng” cứ thích “sai sót, sai sót và sai sót trải đều gần chục năm lộng quyền quản lý để... không còn “sót” cái ao đầm bãi bồi nào mà không lãnh đủ cái “sai” có lợi rất nhiều cho cán bộ chính quyền địa phương nhưng thiệt hại rất cay đắng về phía nông dân.
Nhân dân, công luận tự hỏi: Tất cả các vị ấy đang ăn lương hàng tháng từ nhân dân, sao một việc làm đúng Pháp Luật có lợi cho người dân, nó nhẹ nhàng qua “clik” một cái trên laptop để đối chiếu với luật đất đai tránh sai sót nhưng sao họ không làm nỗi, hay chính xác là không muốn làm,nếu không có lợi cho mình? dù đó là bắt buộc theo Pháp Luật cũng là trách nhiệm và bổn phận của họ. 
Sao họ không một lần lội xuống đồng sâu nước mặn, thử làm kiếp dã tràng quai đê lấn biển để tự tìm lấy cái “bát vàng mà họ muốn, ngồi ăn trong bóng mát”? 




SỰ KIỆN AN ĐỒNG
 Ủy ban kiểm tra huyện ủy huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình có nhiều khuất tất
Chủ tịch MTTQ Việt Nam xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình: Bị xóa tên đảng viên vì chống tham nhũng?
(Thứ Ba, 24/04/2012 - 10:36 AM)

Sự thật đã xảy ra đối với ông Đỗ Kim Đễ, cựu Đảng ủy viên, cựu Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy xã, hiện giữ chức Chủ tịch MTTQ Việt Nam xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
Ngày 6-1-2012, Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy Quỳnh Phụ đã ra Quyết định số 01/QĐ- HU, xóa tên trong danh sách đảng viên đối với ông, với nguyên cớ ba năm liền là đảng viên vi phạm tư cách bị kỉ luật cảnh cáo theo Quy định số 45/QĐ-TW ngày 1-11-2011 của BCH Trung ương Đảng. Điều đáng quan tâm là ba năm liền đảng viên Đỗ Kim Đễ bị thi hành kỉ luật mà nguồn cội lại khởi nguồn từ trách nhiệm của một đảng viên, Chủ tịch Mặt trận cấp cơ sở đứng ra chống tham nhũng, bảo vệ quyền lợi của dân…?
Từ những lá đơn
Đến thời điểm này, ông Đỗ Kim Đễ vẫn còn ôm một tập đơn thư khá dày từ việc khiếu nại hình thức
Đảng viên Đỗ Kim Đễ, Chủ tịch MTTQ
Việt Nam xã Quỳnh Lâm, một nạn nhân
trong cuộc chiến chống tham nhũng.
cảnh cáo theo nguyên tắc Điều lệ Đảng đến việc tố cáo những sai phạm về kinh tế tại xã Quỳnh Lâm, từng gửi trong ba năm ròng tới các cơ quan chức năng. Thế nhưng, kết quả chẳng mang lại điều gì tốt đẹp mà bản thân ông lại lĩnh ngay quyết định xóa tên trong danh sách đảng viên của Huyện ủy Quỳnh Phụ; trong khi ông đang giữ chức Chủ tịch MTTQ xã Quỳnh Lâm.

Từ những phản ánh và phát hiện của công dân, ngay từ năm 2005, ông Đễ đã tổng hợp rồi đề nghị Đảng ủy, HĐND, UBND xã Quỳnh Lâm làm sáng tỏ việc sử dụng sai phạm trong 158.976.000 đồng nguồn lợi từ đất công ích trong dự án đắp đê Hữu Luộc của Sở NN-PTNT Thái Bình không nộp vào ngân sách xã. Cuối năm 2008, tổng hợp thông qua phát hiện của nhân dân, Thanh tra nhân dân xã đã xác minh UBND xã để ngoài sổ sách, không giao thầu đất công ích nhiều năm ở xóm 7, thôn Ngọc Tiển 5,6 mẫu đất. Cán bộ địa chính xã đã biển lận 1.891.000 đồng tiền ngân sách, Đại biểu HĐND xã không hoạt động mà vẫn được hưởng phụ cấp, việc khai man lí lịch ứng cử HĐND xã năm 2011. Những nội dung giám sát phát hiện, kiến nghị của MTTQ xã là có cơ sở, tuy nhiên chưa được các cấp có thẩm quyền giải quyết. Trong khi đó, người đứng đầu Ủy ban MTTQ xã là ông Đỗ Kim Đễ bị cô lập, trù úm, mà đỉnh cao là Huyện ủy Quỳnh Phụ xóa tên trong danh sách đảng viên?
Đến những quyết định đầy ẩn khuất?
Căn cứ vào tài liệu do ông Đỗ Kim Đễ cung cấp thì liên tục ba năm (2009-2011) , ông đã phải lĩnh ba quyết định kỉ luật về Đảng. Ngày 19-10-2009, Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy Quỳnh Phụ ra Quyết định số 18-UBKT thi hành kỉ luật cảnh cáo vì đã “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, trên cương vị Chủ tịch Mặt trận đã tự hòa giải việc khiếu kiện nội bộ trong dân. Tự ý thay đổi thời gian cuộc họp tiếp xúc cử tri...”.
Tại Quyết định kỉ luật thi hành hình thức cảnh cáo số 06/QĐ-KT, ngày 9-3-2011 với nội dung “vi phạm về nguyên tắc kế toán tài chính trong việc chi 400.000 đồng quà Tết và quà tặng Đại hội Hội Liên hiệp thanh niên, chưa tự giác nghiêm túc tự kiểm điểm khi phân loại đảng viên năm 2010...”.
Tại Quyết định kỉ luật thi hành hình thức cảnh cáo số 25/QĐ-UB KTHU, ngày 19-12-2011 với nội dung “không chấp hành quyết định về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Gửi đơn đến cơ quan không có thẩm quyền. Chưa nghiêm túc kiểm điểm, tiếp thu phê bình...”.
Chỉ từ ba quyết định kỉ luật bằng hình thức cảnh cáo với nguyên cớ đầy bi hài nêu trên để rồi ngày 6-1-2012, Huyện ủy huyện Quỳnh Phụ chính thức ban hành Quyết định 01/QĐ-HU, xóa tên trong danh sách đảng viên đối với ông Đỗ Kim Đễ, Chủ tịch MTTQ xã Quỳnh Lâm theo Điều 8 Điều lệ Đảng và Quy định số 45/QĐ- TW của Trung ương Đảng, với một lí lẽ duy nhất là “ba năm liền là đảng viên vi phạm tư cách bị kỉ luật cảnh cáo”?
Sau khi nhận được đơn kêu cứu của ông Đỗ Kim Đễ, trước hiện tượng không bình thường này, ngày 16-2-2012, phóng viên Báo Người cao tuổi thường trú tại Thái Bình có buổi làm việc với Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Quỳnh Phụ Nguyễn Quang Cơ, cùng lãnh đạo các phòng ban chức năng của Huyện ủy, được biết: Đến tại thời điểm này, Ban Thường vụ Huyện ủy huyện Quỳnh Phụ chỉ thực hiện tuân thủ đúng theo Quy định 45/QĐ- TW của BCH Trung ương Đảng đối với các đảng viên vi phạm tư cách ba năm liền bị cảnh cáo và hiện tại cũng chưa hề nhận được thông tin nào về nội dung báo cáo, đơn tố cáo những vụ việc tham nhũng tại xã Quỳnh Lâm và các đơn thư khiếu nại về hình thức kỉ luật đảng viên của ông Đỗ Kim Đễ. Trong khi đó, hồ sơ thu thập lưu giữ của phóng viên đã có đầy đủ các đơn khiếu nại về hình thức kỉ luật đảng viên, báo cáo và đơn tố cáo hành vi tham nhũng, những văn bản giải quyết bước đầu về những tố cáo đó của cấp có thẩm quyền đối với đảng viên, Chủ tịch MTTQ xã Đỗ Kim Đễ.
Đảng viên Đỗ Kim Đễ sinh năm 1965, tham gia quân đội năm 1985, được kết nạp vào Đảng năm 1987, tại E 772, F 242 đặc khu Quảng Ninh. Tháng 10-1987, ông phục viên về địa phương. Năm 1988, ông làm Xóm phó xóm 7, năm 2000 làm Bí thư Chi bộ xóm 7. Từ năm 2002 đến nay là Chủ tịch MTTQ xã, Ủy viên Ủy ban MTTQ huyện Quỳnh Phụ. Năm 2005, ông là Ủy viên BCH Đảng bộ, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy xã Quỳnh Lâm, hội viên Hội CCB Việt Nam.

An đồng cướp đất của quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ ,UBKT kiểm huyện ủy huyện Quỳnh Phụ quan liêu thiếu trách nhiệm, có biểu hiện không rõ ràng.

nhớ lại bài học TL: cho thấy một số cán bộ của ta Là đạo đức Là văn minh, Là thống nhất hành động v.v như biên bản làm việc với UBKT huyện ủy huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình. Sự việc liên quan đến ông Bùi mạnh Ưu và ông Nguyễn xuân Hưởng cán bộ xã An Đồng. cho chúng ta thấy quả là thật văn minh: ".... vì thu ruộng cấy của nhiều người trong đó có ông Cường. Thu của nhiều người.... xã không có quyết định thu hồi đất giao cho các hộ.giải thích để dự phòng giao thông thủy lợi", sau đó bán khu ruộng cấy đó cho một số hộ xây nhà là vi phạm pháp luật. " chỉ được giao đất cho người khác khi có quyết định thu hồi đất.Đây là trường hợp của quân nhân Nguyễn phú Cường.

quyết định 948 của UBND tỉnh thái bình còn quy định rõ
1.Giữ nguyên mức đất ở của hộ gia đình ,cá nhân mà các địa phương đã quy định trước đây. Trường hợp đất đã xây dựng nhà ở và công trình phục vụ sinh hoạt lớn hơn mức quy định của địa phương thì đất ở được tính theo diện tích đất đã xây dựng đó.

2.Những địa phương chưa quy định mức đất ở thì nay căn cứ quy định tại khoản 1 điều 6 Nghị định 94/2000/NĐ-CP ngày 11-02-2000 của chính phủ để xác định diện tích đất ở của từng hộ gia đình, cá nhân. trường hợp hộ gia đình cá nhân chưa xây đựng công trình phục vụ sinh hoạt thì dịên tích không quá 300 mét vuông.diện tích còn lại trong khuôn viên tính vào diện tích đất giao bổ xung cho hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp.

luật pháp và các văn bản của nhà nước quy định rõ như vậy mà ông Hưởng cán bộ địa chính, Ông Ưu chủ tịch UBND xã An Đồng lại dùng hồ sơ tự vẽ ra không đúng tên và hiện trạng sử dụng đất. vô cớ lấy đất nông nghiệp, đất thổ cư của ông Cường là vi phạm luật đất đai. UBKT huyện ủy huyện Quỳnh Phụ đã không chuyển hồ sơ vụ việc sang cơ quan thuộc thẩm quyền giải quyết là cũng vi phạm pháp luật.
với cạnh vẽ trên đây. 8,4m ghi ý nói... "thủy lợi", là chiều ngang cái ao nằm vuông góc với mặt đường. UBKT huyện ủy xác minh là cừ tiêu nước thì cừ tiêu này có chiều rộng là 8,4m
Ngày 20 tháng 11 năm 2010 gia đình cô Vi "người mua miếng ruộng cấy phía trong" tự ra chặt phá cây cối của gia đình ông Cường. ông Cường đã có đơn đề nghị, trưởng thôn đã ký, chuyển UBND xã giải quyết nhưng khi ra xã, xã không xem xét.

Theo UBKT huyện ủy huyện Quỳnh Phụ xác minh khu đất này được nhập vào cừ tiêu nước.....

 ...
trong khi chờ các cơ quan chức năng giải quyêt thì Ngày 15 tháng 3 năm 2011. cái cừ tiêu nước mà UBKT huyện ủy huyện Quỳnh Phụ xác minh từ khu trồng cây và hoa màu, đã trở thành nơi mà ông Cường đang đứng là mặt cừ tiêu và cái rãnh để cho nước chảy này đây.
khu đất ao mà UBKT huyện ủy huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình đã xác minh được nhập vào cừ tiêu nước cho khu dân cư đồng khoai, đã được bê tông hóa cao hơn mặt đường và trồng cây đây.
đây là nguồn nước cần phải tiêi và ránh nước rộng khoảng 60 cm của cái gọi cừ tiêu. phải dùng tới 8,4m đất chiều ngang của ông Cường để làm cừ tiêu.

đây là bờ xây giữ đất vườn của ông Cường được xây trong mốc thuộc quyền sử dụng hợp pháp mà UBKT huyện ủy đề nghị tự rỡ trả lại đất cho xã.
và cũng thật thống nhất hành động từ các cơ quan tiếp nhận đơn thư tố cáo của dân từ các nơi, đến những người được các cơ quan phân công trách nhiệm xử lý.



sự việc trên đây cho thấy rõ UBKT huyện ủy Quỳnh Phụ đã không chuyển hồ sơ vụ việc sang cho cơ quan chức năng xem xét xử lý theo nghị định 105 năm 2009 của chính phủ,luật khiếu nại tố cáo, mà cố tình để cho một số người có hành vi vi phạm pháp luật, thoát khỏi sự sử lý của các cơ quan nhà nước..
Rõ thật là cấp dưới làm sai, cấp trên hợp thức hóa che đậy. còn cán bộ ở cấp cấp cao hơn chọn cách im lặng làm ngơ, một cách khó hiểu. Đã đến lúc các cơ quan của Đảng và nhà nước. Với nhiệm vụ , quyền hạn và trách nhiệm của mình, trước Đảng, trước dân, cần phải nhanh chóng xem xét sử lý dứt điểm sự việc của anh Cường.Trả lại quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật cho gia đình anh. Để giữ vững kỷ cương pháp luật, giữ niềm tin với Đảng và nhà nước trong mọi tầng lớp nhân dân
Xung quanh quyết định xóa tên trong danh sách đảng viên đối với vị Chủ tịch Ủy ban MTTQ xã Quỳnh Lâm còn đầy ẩn khuất, khó hiểu; trong khi 158.976.000 đồng và một số sai phạm tại xã Quỳnh Lâm chưa được làm sáng tỏ và xử lí nghiêm minh, khiến nhiều cơ quan báo chí quan tâm và dư luận xã hội bức xúc. Vụ việc nảy sinh đúng dịp chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết TW 4 (Khóa XI) đang làm giảm sút niềm tin của dân đối với Đảng.
Điều tra của Nguyễn Trọng Thắng


Copyright © 2008 "www.nguoicaotuoi.org.vn", All rights reserved.
Cơ quan chủ quản: Cơ quan Trung Ương Hội Người cao tuổi Việt Nam
Giấy phép số: 256/GP-TTĐT do Cục Quản lý Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử, Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 03/12/2010.
Tổng biên tập: Kim Quốc Hoa
Tòa soạn: 12 Lê Hồng Phong - Ba Đình - Hà Nội, Điện thoại: 04.3.7334432 - 3.7334423, Fax: 04.3.7341806
® Ghi rõ nguồn "Báo Người Cao Tuổi" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này.
 
An đồng cướp đất của quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ ,
UBKT kiểm huyện ủy huyện Quỳnh Phụ quan liêu thiếu trách nhiệm, có biểu hiện không rõ ràng.
nhớ lại bài học TL: một số cán bộ của ta Là đạo đức Là văn minh, Là thống nhất hành động v.v như biên bản làm việc với UBKT huyện ủy huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình. Sự việc liên quan đến ông Bùi mạnh Ưu và ông Nguyễn xuân Hưởng cán bộ xã An Đồng. cho chúng ta thấy quả là thật văn minh: ".... vì thu ruộng cấy của nhiều người trong đó có ông Cường. Thu của nhiều người.... xã không có quyết định thu hồi đất giao cho các hộ.giải thích để dự phòng giao thông thủy lợi", sau đó bán khu ruộng cấy đó cho một số hộ xây nhà là vi phạm pháp luật. " chỉ được giao đất cho người khác khi có quyết định thu hồi đất.Đây là trường hợp của quân nhân Nguyễn phú Cường.

quyết định 948 của UBND tỉnh thái bình còn quy định rõ
1.Giữ nguyên mức đất ở của hộ gia đình ,cá nhân mà các địa phương đã quy định trước đây. Trường hợp đất đã xây dựng nhà ở và công trình phục vụ sinh hoạt lớn hơn mức quy định của địa phương thì đất ở được tính theo diện tích đất đã xây dựng đó.
2.Những địa phương chưa quy định mức đất ở thì nay căn cứ quy định tại khoản 1 điều 6 Nghị định 94/2000/NĐ-CP ngày 11-02-2000 của chính phủ để xác định diện tích đất ở của từng hộ gia đình, cá nhân. trường hợp hộ gia đình cá nhân chưa xây đựng công trình phục vụ sinh hoạt thì dịên tích không quá 300 mét vuông.diện tích còn lại trong khuôn viên tính vào diện tích đất giao bổ xung cho hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp.
luật pháp và các văn bản của nhà nước quy định rõ như vậy mà ông Hưởng cán bộ địa chính, Ông Ưu chủ tịch UBND xã An Đồng lại dùng hồ sơ tự vẽ ra không đúng tên và hiện trạng sử dụng đất. vô cớ lấy đất nông nghiệp, đất thổ cư của ông Cường là vi phạm luật đất đai. UBKT huyện ủy huyện Quỳnh Phụ đã không chuyển hồ sơ vụ việc sang cơ quan thuộc thẩm quyền giải quyết là cũng vi phạm pháp luật.
với cạnh vẽ trên đây. 8,4m ghi ý nói... "thủy lợi", là chiều ngang cái ao nằm vuông góc với mặt đường. UBKT huyện ủy xác minh là cừ tiêu nước thì cừ tiêu này có chiều rộng là 8,4m
Ngày 20 tháng 11 năm 2010 gia đình cô Vi "người mua miếng ruộng cấy phía trong" tự ra chặt phá cây cối của gia đình ông Cường. ông Cường đã có đơn đề nghị, trưởng thôn đã ký, chuyển UBND xã giải quyết nhưng khi ra xã, xã không xem xét.

Theo UBKT huyện ủy huyện Quỳnh Phụ xác minh khu đất này được nhập vào cừ tiêu nước.....

trong khi chờ các cơ quan chức năng giải quyêt thì Ngày 15 tháng 3 năm 2011. cái cừ tiêu nước mà UBKT huyện ủy huyện Quỳnh Phụ xác minh từ khu trồng cây và hoa màu, đã trở thành nơi mà ông Cường đang đứng là mặt cừ tiêu và cái rãnh để cho nước chảy này đây.

khu đất ao mà UBKT huyện ủy huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình đã xác minh được nhập vào cừ tiêu nước cho khu dân cư đồng khoai, đã được bê tông hóa cao hơn mặt đường và trồng cây đây.

đây là nguồn nước cần phải tiêi và ránh nước rộng khoảng 60 cm của cái gọi cừ tiêu. phải dùng tới 8,4m đất chiều ngang của ông Cường để làm cừ tiêu.


đây là bờ xây giữ đất vườn của ông Cường được xây trong mốc thuộc quyền sử dụng hợp pháp mà UBKT huyện ủy đề nghị tự rỡ trả lại đất cho xã.

và cũng thật thống nhất hành động từ các cơ quan tiếp nhận đơn thư tố cáo của dân từ các nơi, đến những người được các cơ quan phân công trách nhiệm xử lý.


sự việc trên đây cho thấy rõ UBKT huyện ủy Quỳnh Phụ đã không chuyển hồ sơ vụ việc sang cho cơ quan chức năng xem xét xử lý theo nghị định 105 năm 2009 của chính phủ,luật khiếu nại tố cáo, mà cố tình để cho một số người có hành vi vi phạm pháp luật, thoát khỏi sự sử lý của các cơ quan nhà nước..
Rõ thật là cấp dưới làm sai, cấp trên hợp thức hóa che đậy. còn cán bộ ở cấp cấp cao hơn chọn cách im lặng làm ngơ, một cách khó hiểu. Đã đến lúc các cơ quan của Đảng và nhà nước. Với nhiệm vụ , quyền hạn và trách nhiệm của mình, trước Đảng, trước dân, cần phải nhanh chóng xem xét sử lý dứt điểm sự việc của anh Cường.Trả lại quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật cho gia đình anh. Để giữ vững kỷ cương pháp luật, giữ niềm tin với Đảng và nhà nước trong mọi tầng lớp nhân dân

Luật sư Điền Đức Thành
 
DÙNG HỒ SƠ GIẢ CƯỚP ĐẤT DÂN

Tìm hiểu về chủ đất cũ khởi kiện đòi quyền sử dụng đất qua các lần cải tạo đất đai được không?
Tòa Án Nhân Dân Tối cao hướng dẫn đường lối giải quyết các khiếu kiện, các tranh chấp đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng (Công văn số 169/2002/KHXX ngày 15/12/2002 của TANDTC) theo đó:
- Cơ quan có thẩm quyền đã quyết định hoặc bằng văn bản về thu hồi đất, hoặc giao đất cho người khác sử dụng khi thực hiện chính sách cải tạo của Nhà nước; Theo nguyên tắc Nhà nước không công nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước.Tòa án căn cứ vào Điều 1 Luật Đất đai năm 1987, khoản 2 Điều 2 Luật Đất đai năm 1993 và khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai năm 2003, Bộ Luật Dân sự, Điều 25, Điều 168, khoản 2 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự để xử lý:
a- Đối với trường hợp khiếu nại đương sự cho rằng họ bị cải tạo sai, thì đây không phải là tranh chấp dân sự, không thuộc thẩm quyền của tòa dân sự mà thuộc thẩm quyền của UBND.
b- Nếu đương sự khởi kiện yêu cầu tòa án hủy việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì việc khởi kiện này thuộc của cơ quan hành chính, tòa án hành chính giải quyết.
c- Đối với trường hợp đất tranh chấp cả hai bên đều không kê khai, không đứng tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính và không có bất cứ giấy tờ nào khác theo qui định tại khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003, thì tranh chấp đó thuộc thẩm quyền của UBND.
d- Đối với trường hợp chủ đất cũ hoặc các thừa kế của họ xuất trình một trong các loại giấy tờ được qui định tại khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 để kiện đòi lại đất; nếu có tài liệu chứng minh rằng có văn bản, quyết định thu hồi đất, giao đất cho người khác sử dụng theo chính sách cải tạo Nhà nước, thì tòa án không nhận đơn thụ lý chiếu theo điểm e Điều 168 Bộ Luật Tố tụng Dân sự trả lại đơn khởi kiện cho đương sự.
e- Đối với trừơng hợp đất đã được đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác xã, mà sau đó các tổ chức này giải thể thì được giải quyết tranh chấp theo qui định tại tiểu mục 2.4 mục 2 phần II Nghị quyết số 02/2004-NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao ngày 10- 08- 2004, theo đó đất được cá nhân, tổ chức đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác xã trong quá trình thực hiện chính sách hợp tác hóa nông nghiệp và các tổ chức này đã giao đất đó cho người khác sử dụng, thì tòa án căn cứ vào Điều 1 Luật Đất đai năm 1987, khoản 2 Điều 2 Luật đất đai năm 1993 và khoản 2 Điều 10 Luật đất đai năm 2003 và Bộ Luật Dân sự xử lý và giải quyết theo qui định của pháp luật. Còn chủ đất cũ hoặc người thừa kế không kê khai, không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì tòa án không nhận đơn khởi kiện, nếu đã thụ lý thì bác yêu cầu đòi lại đất của chủ cũ.

II/- Các tranh chấp về quyền sử dụng đất đối tượng khác
Các tranh chấp về đất đai rất đa dạng, có nhiều nguyên nhân khác nhau, mà một bên đang sử dụng bằng việc thông qua cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, công nhiên sử dụng đất, được sử dụng trước khi có Hiến pháp năm 1992 và Luật đất đai năm 1993, theo các văn bản này, thì có giai đoạn Nhà nước cấm công dân mua, bán, cho thuê, lấn, chiếm đất, phát canh, thu tô dưới mọi hình thức. Do đó các giao dịch mua, bán, cho thuê, cầm cố đất ở vào thời điểm này theo nguyên tắc đều bị coi là vô hiệu; cũng như giai đoạn trước năm 1980 và sau năm 1980, Nhà nước đã có nhiều văn bản ghi rõ người có đất không sử dụng 6 tháng liền mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất đó cho phép thì Nhà nước có thể thu hồi một phần hay toàn phần, chiếu theo khoản 5 Điều 14 Luật Đất đai năm 1987.
Vì vậy, đất đã được một bên sử dụng trước hoặc trong thời gian của Luật Đất đai năm 1987 có hiệu lực và một thời gian dài không có tranh chấp, nếu chủ đất cũ đòi lại, thì cơ quan có thẩm quyền hoặc tòa án phải xem xét đến quyền lợi của người lao động đã trực tiếp quản lý, canh tác, sử dụng đất liên tục trong thời gian dài, đã thực hiện đầy đủ và đúng các chính sách pháp luật về đất đai. Mặt khác còn phải nghiên cứu vận dụng xác lập quyền sử dụng được qui định tại Điều 247 Bộ Luật Dân sự năm 2005 (trừ trường hợp chủ đất cũ gặp tình huống bất khả kháng).

Nói cho rõ hơn, trường hợp chủ đất cũ không kê khai, không đứng tên trong sổ đăng ký đất hoặc sổ địa chính, không thực hiện quyền quản lý, sử dụng của chủ sử dụng đất; còn người đang sử dụng đất đã kê khai, đăng ký đứng tên trong sổ bộ ruộng đất hoặc sổ địa chính; được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có căn cứ pháp luật, thực hiện đúng qui định của Luật đất đai năm 1987, năm 1993, năm 2003 và các văn bản pháp luật có liên quan thì nay chủ đất cũ không thể đòi lại quyền sử dụng đất đó.
Còn trường hợp, nếu cả hai bên (chủ đất cũ và người đang sử dụng đất) đều được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai năm 1987 hoặc Luật Đất đai năm 1993 (cấp trùng nhau); nếu có tranh chấp quyền sử dụng đất thì cần phải có bằng chứng về thời gian sử dụng đất, thủ tục kê khai sử dụng đất trước hay sau của hai bên và căn cứ pháp lý để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như thế nào của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền? Tòa án phải thu thập chứng cứ để công nhận quyền sử dụng đất cho bên được cấp chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp theo đúng qui định của Luật Đất đai.
Hiện nay Điều 106 Luật Đất đai năm 2003, người sử dụng có 10 quyền là: Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Bộ Luật Dân sự năm 2005 cũng qui định bảo vệ quyền sở hữu (kể cả quyền sử dụng đất) như là: Điều 255 qui định các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu; Điều 256 qui định quyền đòi lại tài sản; Điều 257 qui định quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình; Điều 258 qui định quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sử dụng hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình; Điều 259 qui định quyền yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp; Điều 260 qui định quyền bồi thường thiệt hại.

Như vậy Luật Đất đai năm 2003 qui định 10 quyền của người sử dụng đất, việc bảo vệ các quyền của người sử dụng hợp pháp cũng được pháp luật bảo vệ giống như việc Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu của công dân, pháp nhân và các tổ chức xã hội khác...

Pháp luật quy định như vậy là đối với các cá nhân với cá nhân, hoặc cá nhân với tổ chức đóng trên địa bàn hành chính do nhà nước các cấp quản lý. còn sự việc của ông Nguyễn phú Cường việc ở An Đồng huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình thì lại khác. Sự việc lại do ông Ưu Bí thư Đảng ủy, chủ tịch UBHD xã quan liêu thiếu trách nhiệm để cán bộ địa chính xã tự tạo ra: Năm 1998 ông Hưởng địa chính xã, vẽ một giấy (gọi là hồ sơ đất ông Phụ). Nhưng nội dung trong đó không đúng ,cả về diện tích và hiện trạng sử dụng đất. sau đó ông Hưởng dùng giấy này, vào việc thu hồi đất.

Căn cứ vào sác minh của UBKT huyện uỷ được ghi rõ trong biên bản làm việc ngày 29 tháng 11năm 2010 thì ruộng chuyên cấy lúa nước, ông Cường đổi cho bà Tâm là 1 sào 5 thước nhưng xã An Đồng đã làm văn bản lấy ra 587 m2. như vậy là vượt quá 107 m2. (không có quyết định thu hồi đất giao cho gia đình). Sau khi tạo ra cớ để lấy đất, gia đình ông Cường không nhất trí.đối với phần đất xã lấy dư ra 107 m2.
trang 1
trang 2
trang 3
trang 4

trên đây nếu nói đến việc lấy ruộng cấy của dân ra giả thích là để đất dự phòng giao thông thủy lợi. Khi người dân không nhất trí, mà lại hợp thức hóa bằng cách: làm tờ trình báo cáo trình về tỉnh rồi bán để xây nhà, lại không có quyết định thu hồi đất của UBND huyện giao cho gia đình là trái với luật.

Đất lấy ra bán cả Mười năm rồi mà tháng 2 năm 2011. ông Hưởng dùng giấy mời do ông Thưởng ký trước để đòi hỏi ông Cường (kiểm tra hiện trạng đất khu đồng khoai đâu). thì có khác gì cướp trắng của dân.
không những thế, cuối tháng hai năm 2012. khi những người làm công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, (đang chuẩn bị mở rộng đường).ông Hưởng đã ngang nhiên mang"hồ sơ tự vẽ trên"ra áp dụng đến khi đo cả bốn mặt đều thiếu. riêng mặt chạy song sông với đường,chiều dài thực còn lại là 13,6 mét. khi đo theo hồ sơ của ông Hưởng 10,9m. thì vào giữa công trình đã được xây dựng từ những năm 1980.

đường chỉ xanh trên đây là vạch đo cắt ngang công trình. đương chỉ hồng là phần nhà và đất ông Hưởng không công nhận.
và từ trước năm 1980 đến nay, vẫn sử dụng đúng mục đích . nếu không có lối đi vào nhà, nghĩa là "ông Hưỡng có ý bắt dân hàng ngày phải trèo qua nóc công trình để ra vào sinh hoạt".
Thật kết luận là có cướp đất của dân hay thế nào xin nhường phần cho cơ quan chức năng và công luận phán xét.

CHƯƠNG VI
XỬ LÝ VI PHẠM
Điều 85
Người nào lấn chiếm đất, huỷ hoại đất, chuyển quyền sử dụng đất trái phép hoặc có hành vi khác vi phạm pháp luật đất đai, thì tuỳ theo mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 86
Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc vượt quá quyền hạn giao đất, thu hồi đất, cho phép chuyển quyền, chuyển mục đích sử dụng đất trái với quy định của pháp luật, bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật đất đai, quyết định xử lý trái pháp luật hoặc có hành vi khác gây thiệt hại đến tài nguyên đất đai, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, thì tuỳ theo mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 87
Người nào có hành vi vi phạm pháp luật đất đai mà gây thiệt hại cho người khác thì ngoài việc bị xử lý theo quy định tại Điều 86 và Điều 87 của Luật này, còn phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Luật Sư Điền Đức Thành
http://sukienandong.blogtiengviet.net/?author=350486


BÙI TÍN * 16 TẤN VÀNG

Bùi Tín Blog 

Nhân ngày 30-4: Câu chuyện về 16 tấn vàng

 Thứ Năm, 12 tháng 4 2012
Chuyện này xảy ra đã gần 37 năm. Từ đầu năm nay tôi nhận được 6 điện thư từ trong nước, từ Canada và Cộng hòa Liên bang Đức hỏi về chuyện này. Đây là chuyện rất cũ, nhưng do chế độ độc đảng luôn duy trì nhiều mảng tối, không công khai minh bạch, nên có nhiều vấn đề lịch sử cần làm rõ.
Trưa 30-4-1975, trong phòng lớn của Dinh Độc lập, sau khi tôi gặp và hỏi chuyện tướng Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu, không khí dần dần bình thản. Ông Nguyễn Văn Hảo ghé tới nói nhỏ với giọng miền Nam, «Thưa tôi là Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng đặc trách về kinh tế – tài chính, có chuyện cần trình bày riêng với các ông». Tôi cùng ông Hảo đến ngồi bên chiếc bàn nhỏ gần cửa sổ. Vừa ngồi xuống, ông Hảo nói ngay: «Chúng tôi vừa trao đổi với nhau, muốn nhờ ông báo ra ngoài đó là bọn này đã giữ lại hơn 16 tấn vàng không để họ mang đi, hiện để trong ngân khố, mong ngoài đó cho người vô nhận». Tôi hỏi lại: «Ông nói sao? 16 tấn vàng trong ngân khố? Có thiệt không?». Tôi ghi vội vài chữ trên sổ tay: Ng. v Hảo, 16 tấn, ngân khố…, và nghe ông Hảo trả lời: «Thiệt chớ, bọn này chịu hoàn toàn trách nhiệm mà». Ông còn nói thêm: «Nếu các ông gửi (ông dùng tiếng Pháp «placer») ở các ngân hàng quốc tế lớn thì sau sẽ có thể thành 18 tấn, 20 tấn. Nếu cần, bọn này sẽ giúp».


Tối hôm đó tôi đi trên chiếc xe jeep của đơn vị thông tin Quân đoàn II khi được biết họ sắp vào sân bay Tân Sơn Nhất để bắt liên lạc với phái đoàn ta trong Ban Liên hợp Quân sự bốn bên (về sau là Ban LHQS hai bên) lập ra từ sau Hiệp định Paris tháng 1-1973. Tôi đã từng ở đó 60 ngày trong một khu gọi là trại Davis. Thật là may mắn không ngờ. Tôi hướng dẫn Thiếu úy Hà lái xe vì tôi đã hàng chục lần đi con đường này hồi 1973, và đã nghiên cứu rất kỹ bản đồ Sài Gòn mấy ngày đó. Tôi vào trại Davis như về nhà. Anh Võ Đông Giang, anh Hoàng Anh Tuấn vẫn ở đó. Chào hỏi xong tôi vội xuống trạm thông tin, thì vẫn là tổ thông tin hơn 2 năm trước. Dạo ấy anh em vẫn đánh bài viết của tôi cho báo Quân đội Nhân dân. Chiều nay sau khi viết bài báo xong, tôi rất băn khoăn vì các nhà báo Pháp, Ý,

 Đức đều cho tôi biết là bưu điện Sài Gòn đóng cửa 2 hôm nay rồi. Điện thoại viễn liên bị cắt đứt. Họ đang bế tắc không sao gửi bài đi được. Tôi cũng sốt ruột không kém. Vì gửi bài báo ngay đêm nay để sáng mai bài báo được in trên báo QĐND là một yêu cầu cấp bách. Thượng sỹ thông tin trẻ măng người Thái Bình tên là Hải đánh bài báo của tôi bằng tín hiệu Morse, tè tè tích tích. Bài báo gửi cho Thiếu tướng Lê Quang Đạo, phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, để chuyển cho báo QĐND. Ngay sau bài báo là mấy dòng chữ «Gửi riêng Thủ trưởng Tổng Cục Chính trị – Tuyệt mật. Hôm nay 30-4-1975 Phó thủ tướng Nguyễn Văn Hảo đặc trách kinh tế – tài chính báo tin cho tôi là đã giữ lại trong ngân khố hơn 16 tấn vàng, mong ta cho người vào nhận. Bùi Tín».
Sau đó tôi mới thong thả gặp gỡ các anh em ta trong trại Davis, cùng ăn một nồi chào gà tuyệt trần sau một ngày cực kỳ căng thẳng, mệt nhọc.
Bài báo đăng trên báo QĐND sáng ngày 1-5-1975 là bài báo duy nhất gửỉ được từ Sài Gòn vì hồi đó chưa có điện thoại cầm tay, chưa có máy điện toán xách tay như hiện nay. Máy fax rất nặng nề. Do bài báo được chuyển bằng tín hiệu Morse tè tè tích tích, nên có 2 chữ ghi sai.

 Đó là khi tôi nói về thực đơn của Tổng thống Thiệu ngày 30-4 được in trên giấy đặt trên bàn làm việc của ông có 2 món là «cá thu kho mía» và «gân bò hầm sâm», một món của cao lâu Tàu được gọi là «ngầu pín», đã bị ghi sai thành cá thu kho giá và gan bò hầm sâm. Nhiều người thắc mắc cá thu kho giá và gan bò hầm sâm thì có gì ngon và bổ. Người đánh và nhận Morse đã nhầm chữ «g» (tè-tè-tích) thành chữ «m» (tè-tè) và chữ «â» thành «a».
Ít lâu sau đó, tôi đọc trên cuốn A Decent Interval (Khoảng cách vừa phải) của Frank Snepp, một cán bộ CIA ở Sài Gòn trước đó, nói rằng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã mang đi hàng chục tấn tài sản quý sang Đài Loan, nơi có anh ông là đại sứ Nguyễn Văn Kiểu, để đưa sang Hoa Kỳ sau đó.
Tất cả các báo chính thức ở Hà Nội hồi đó đều trích đăng cuốn sách của Frank Snepp, đoạn nói về việc ông Thiệu chở tài sản quốc gia trong đó có hơn 10 tấn vàng trong ngân khố ra khỏi nước, và ai cũng đinh ninh là chuyện này là có thật.
Ở hải ngoại nhiều bài viết cho đến nay vẫn đinh ninh chuyện ông Thiệu mang đi 16 tấn vàng là có thật, lên án ông rất nặng nề là trong tình hình cực kỳ khẩn trương ông đã chỉ lo vun vén cho cá nhân, lo chiếm đoạt tài sản công thành của riêng một cách tồi tệ.

Về phía chính quyền độc đảng ở trong nước, họ vẫn cố tình duy trì một tình hình ỡm ờ úp úp mở mở, không rõ ràng minh bạch về hơn 16 tấn vàng trong ngân khố Sài Gòn hồi ấy, với ý định không sạch sẽ là để cho mọi người hiểu lầm về chuyện này.
Năm 1994, khi tôi đã ở Paris, một bạn người Việt làm việc cơ quan nghiên cứu và lưu trữ về chiến tranh Việt Nam ở Lubbock, Tiều bangTexas, Hoa Kỳ, cho tôi địa chỉ điện thoại của ông Nguyễn Văn Hảo. Tôi gọi ngay cho ông và từ đó có dịp nói chuyện về ngày 30-4-1975. Ông cho biết ông đang ở Port-au–Prince, thủ đô nước cộng hòa Haiti, trong vùng Antilles – Caribbean, làm cố vấn kinh tế cho chính phủ Haiti. Ông cũng được biết đầu tháng 5-1975 ngoài Hà Nội đã cho riêng 1 chuyến chuyên cơ vào tiếp nhận hơn 16 tấn vàng và chở ra Hà Nội. 
Đầu tháng 5-1975 tôi cũng được tướng Đào Đình Luyện, chỉ huy không quân, cho biết nguyên một chuyến chuyên cơ IL 18 đã chở số vàng thu được từ Sài Gòn ra Hà Nội.
Ông Hảo kể lại chuyện này: «Hồi đó, ông Vũ Văn Mẫu đề xuất với tướng Dương Văn Minh rồi giao cho tôi (là ông Hảo) mật báo cho đại diện của các ông, sau khi được báo là một sỹ quan cao cấp vào gặp bọn này». Ông nói thêm: «Các ổng muốn các ông hiểu rõ là bọn này đã cố giữ lại không cho họ mang đi để giữ lại tài sản quốc gia đặng giao lại cho quý ông».

 Ông còn cười vui: «Lẽ ra quý ông có một lời tiếp nhận và đánh giá công khai chuyện này cho đồng bào cả nước biết thì bọn này mới thật hài lòng». Lần sau gặp ông trên điện thoại, ông cho tôi biết thêm là «công bằng mà nói, đã có nhiều dự án chuyển hết số vàng trong ngân khố ra nước ngoài, qua các ngân hàng quốc tế, nhưng các cuộc thương lượng chưa ngả ngũ thì quý ông đã vô rồi. Anh em phụ trách Ngân khố quốc gia cũng tỏ rõ thái độ không để cho họ mang đi. Lẽ ra các ông nên có lời khen cho anh em đó vui lòng».
Trong các phiên họp của chính phủ, của quốc hội sau 30-4-1975, không có một chi tiết nào về hơn 16 tấn vàng được chính quyền miền Nam chính thức giao lại. Nó có thật sự nhập kho Nhà Nước đầy đủ, và được dùng vào những việc gì? Không ai biết. Đại biểu Quốc hội không ai hỏi, vì 90 % đại biểu là đảng viên, số ngoài đảng còn bảo hoàng hơn nhà vua.
Tháng 4-2010, Bộ Quốc phòng Hà Nội có cuộc họp «viết lại một cách chính thức diễn biến ngày 30-4-1975 ở Dinh Độc lập», họ không nhắc đến tên tôi, coi như nhà báo Bùi Tín không hề có mặt ở Sài Gòn ngày hôm đó, cũng không hề nhắc đến chuyện hơn 16 tấn vàng, một chi tiết không nhỏ, nhưng họ không muốn nhắc đến nữa.
Năm 1987, khi có dịp gặp ông Trường Chinh ở Đà Lạt, tôi kể lại chuyện này, ông cho biết : « Tôi có biết chuyện này, nhưng hết sạch cả rồi, trong mấy năm khó khăn, cấu véo hết tấn này đến tấn khác, mua lương thực, nguyên liệu, nay còn gì nữa đâu!». Đây là câu duy nhất tôi nghe được về số phận của hơn 16 tấn vàng năm 1975, từ miệng một nhà lãnh đạo.
Các phiên họp Quốc hồi từ 1975 đến nay, không ai biết, cũng không ai hỏi , chiến lợi phẩm thu được ở miền Nam, số tiền hồi ấy bộ Công an có chủ trương bán bãi, bán tầu thuyền, thu vàng cho mỗi người lên tàu di tản – từ 3 lạng đến 6 lạng, có khi lên đến 12 lạng vàng mỗi đầu người – tất cả là bao nhiêu? Và tiền thu của người Hoa bị xua đuổi từ Cẩm Phả, Hon Gai, Hải Phòng vào đến Vũng Tàu, Chợ Lớn, Cần Thơ…là bao nhiêu? Lại còn tiền của thu được qua các chiến dịch tiêu diệt công thương nghiệp tư nhân, cái gọi là diệt gian thương trên toàn miền Nam hồi đó, tiêu tan đi đâu cả rồi? Trong Quốc hội có Ban Kinh tế – Tài chính, nhưng có ai được biết gì đâu, có ai dám hỏi gì đâu, cả một khối mờ ám cỡ quốc gia, do đồng nhất đảng với nhà nước, đảng với quốc gia, đảng với nhân dân, tuy ba mà một.
Lại còn trong chiến dịch gọi là giải phóng Campuchia khỏi diệt chủng của Khơ-me Đỏ cuối năm 1978- đầu năm 1979, đơn vị đặc công và một sư đoàn của Quân đoàn IV được lệnh chiếm các cơ sở trong thủ đô Pnom Penh, đặc biệt là khu hoàng cung, tiền của, kho tàng, đồ cổ lớn nhỏ đã được thu về bao nhiêu? Mang về nước ta bao nhiêu? Ờ đâu, có biên bản, thống kê gì không? Tôi được biết phần lớn là giao cho Ban Tài chính – Quản trị trung ương đảng, một cơ quan kinh tế – tài chính – thương nghiệp xuất nhập khẩu – sản xuất kinh doanh riêng của đảng, mà biên chế còn lớn hơn cả bộ Công thương và bộ Kế hoạch – Đầu tư cộng lại.
Chế độ hiện tại quan tâm đến tiền bạc, ngoại tệ, ngân khố, ngân hàng, hơn là cái gốc của nền kinh tế là sản xuất ra của cải với kỹ thuật cao, giá thấp . Họ quên chức năng cơ bản của nhà nước là phân phối, điều tiết phân phối lại thành quả phát triển cho toàn xã hội cùng hưởng.
Các bộ của chính phủ coi rất nhẹ việc quản lý về hành chính, chỉ chăm chú đến sân sau là các công ty kinh doanh để chia chác bổng lộc, mặc cho các chỉ thị thu rất hẹp lĩnh vực này.

Xin quan sát kỹ để thấy rằng ai dính đến tài chính, ngân hàng, ngân sách đều được thăng quan tiến chức nhanh nhất; thủ tướng hiện nay từng là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; chủ tịch Quốc hội hiện nay trưởng thành từ Cục trưởng Cục Ngân sách, rồi thứ trưởng tài chính, rồi bộ trưởng tài chính, rồi phó thủ tướng thường trực. Một phó thủ tướng hiện nay cũng từng là thứ trưởng rồi bộ trưởng bộ tài chính. Nguyên thống đốc ngân hàng Trần Đức Thúy cùng cậu con trai Trần Đức Minh và cộng tác viên thân cận là đại tá công an Lương Ngọc Anh đều là những nhân vật con cưng của chế độ, những công thần hàng đầu trong việc ngang nhiên phân phối lại tiền của của nhân dân đổ vào ngân sách riêng của đảng. (Các bạn có thể đọc thêm bài báo «Nạn chảy máu tài nguyên quốc gia» trên VOA ngày 17-8-2011).
Lúc này giới cầm quyền trong nước cần nhớ lại lời khuyên tâm huyết của ông Lý Quang Diệu mươi năm về trước là: «Khi sẽ có nhiều khoản tiền đầu tư lớn từ nước ngoài chảy vào, hãy giữ gìn cẩn thận, không để cho đồng tiền chỉ huy, ngự trị, làm chủ lương tâm viên chức, hãy rất cảnh giác với đồng tiền bẩn, đồng tiền phi pháp, nó sẽ phá hoại công cuộc phát triển». Cũng chính Cụ Lý – như một số người trong nước thân mật gọi – căn dặn cách phòng chống tham nhũng có hiệu quả là: luật pháp, ngành tư pháp, tòa án phải rất nghiêm (để không ai dám tham vì sợ tù ), lương viên chức tạm đủ sống (không cần tham nhũng), tuyên truyền giáo dục nêu gương các viên chức trong sạch sống thanh bạch, chỉ ra kẻ tham là kẻ cắp, kẻ cướp xấu xa ô nhục tàn phá rường cột của quốc gia (không ai nỡ tham nhũng vì sợ nhục). 
Có thể nói tiền nong, vàng bạc, của cải trong chế độ độc đảng đã gây nên tham nhũng, bất công kinh khủng chưa từng có trong xã hội nước ta, tiền của vàng bạc phi pháp đã tha hóa giới cầm quyền ở mọi cấp, tàn phá đảng cộng sản Việt Nam từ gốc lên ngọn.
Hiện là thời kỳ đảng viên quan chức lao lên trước đi tiên phong để trở thành đại gia, đại điền chủ, đại trọc phú, đại tư bản đỏ, bỏ mặc nhân dân của mình nghèo đói ở phía sau, đến nỗi nhà Mác-xít Lữ Phương phải la trời rằng đảng cộng sản đã đi đầu trong xây dựng chủ nghĩa tư bản man rợ. Đó là thời kỳ các quan chức vứt hàng ngàn tỷ này đến hàng nghìn tỷ khác qua cửa sổ, chìm nghỉm dưới đáy biển, để mặc cho hệ thống y tế và giáo dục tàn tạ, bệ rạc.
Thời đại kim tiền của các nhà cầm quyền tỷ phú Marcos, Suharto, Park Chung Hy, Ceausescu, Ben Ali, Ghadafi, Mubarak…đã kết thúc bi thảm. Gương tày liếp cho những bầy sâu chói mắt vì ánh vàng.
Bùi Tín

NGÀY 30-4-1975


Cảm xúc ngày 30 tháng 4 hàng năm

Cập nhật: 09:38 GMT - thứ hai, 30 tháng 4, 2012
Sáng 30-4. Cái mốc thời gian không quên trong đời tôi, và trong tim hàng triệu người Việt.
Lãnh đạo cuối cùng của Việt Nam Cộng hoà ra lệnh cho binh sĩ buông súng. Miền Nam đầu hàng miền Bắc. Cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn chấm dứt.
Nhưng lòng buồn nhiều hơn vui. Gia đình bỏ lại. Bạn bè lìa xa. Lênh đênh trên biển. Con tàu không máy rồi sẽ trôi dạt về đâu?
Mỗi năm hay ra biển vào cuối tháng Tư, nhìn về quê nhà mà lòng quặn đau. Mặt trời tháng Tư chầm chậm vàng úa rồi tắt, để lại những tiếng sóng, khi nhẹ nhàng, khi bồng bềnh, nổi trôi. Như thân phận cuộc đời.
Đứng trước biển nhớ bố mẹ và các em mà rơi nước mắt.
Nhớ bạn bè thân thương thuở còn học chung với nhau mà buồn hơn cả buổi chiều tàn.

Cảnh người vượt biên tìm tự do sau 1975
Nhớ những ngày lênh đênh không mái che. Nhớ nước muối cùng nắng ăn sạm da mặt. Mong chờ một cơn mưa giông gột rửa. Nhớ nắm cơm thùng phuy. Mơ được đến bến bờ.
Chiều ra biển nhớ về Subic Bay xanh cỏ. Nhớ bãi biển Guam đầy đá nhọn. Nhớ Camp Pendleton ở lều lính giữa đồi cỏ khô.
Đứng ở biển nhìn về San Francisco đêm rực rỡ ánh đèn nhớ Singapore của tháng 5-1975 khi con tàu đến đó. Không được lên bờ mà chỉ neo xa xa.
Chiều nhìn ra biển. Xa thẳm bên kia là quê nhà. Lòng thầm hát câu thương nhớ:
Sài Gòn ơi! Tôi đã mất người trong cuộc đời
Sài Gòn ơi! Thôi đã hết thời gian tuyệt vời…
[Sài Gòn ơi! Vĩnh biệt, nhạc Nam Lộc]
Nhìn qua biển rộng mà nghĩ mông lung. Quê nhà sau 30-4 thay đổi thế nào?
Hoà bình đến rồi sao những con người Việt Nam còn lao ra biển lớn bất chấp thủy thần, sóng dữ.
Ở bên nhà đôi tay ngà em vục bùn đen
Ở bên nhà đôi môi mềm thu vạn tủi oán
Ở bên này sống với ác mộng
Từng đêm ngày anh ra biển rộng…
[Ở bên nhà, nhạc Phạm Duy]


Mộ thuyền nhân Việt tử nạn trên biển Đông Nam Á
Đứng nhìn biển. Bên này thấp thoáng tàu vào bến cảng.
Bên kia thuyền vượt biển. Người thân, đồng bào đang trôi dạt về đâu.
Trời mong manh ôi đời lênh đênh
Thuyền bấp bênh cuộc sống mơ hồ
Lời kinh cầu từng ngày quen thuộc
Lời mẹ buồn như tiếng Nam Mô…
[Lời kinh đêm, nhạc Việt Dzũng]
Chiều tháng Tư ra biển. Nhìn về quê nhà. Nơi chân trời như thấy có trại học tập cải tạo.
Như thấy các em đang lao động vinh quang.
Thấy thanh niên xuống đường càn quét văn hóa Mỹ ngụy.
Thấy công an xông vào đánh tư sản mại bản. Thấy bo bo, mì sợi.
Gửi về cho mẹ dăm chiếc kim may
Mẹ may hộ con quê hương quá đọa đầy…
Gửi về cho em kẹo bánh thơm ngon
Em ăn cho ngọt vì đời nhiều cay đắng…
[Chút quà cho quê hương, nhạc Việt Dzũng]
Bây giờ ra biển. Cuộc đời không còn nhiều nỗi buồn. Nhưng sẽ chẳng bao giờ vui. Nếu đó là ngày cuối tháng Tư.
Tác giả hiện dạy học và là một nhà báo tự do sống ở vùng Vịnh San Francisco. Bài viết thể hiện cảm nhận riêng của ông.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2012/04/120430_30_april.shtml

 Việt Nam, 37 năm 

sau ngày thống nhất đất nước

2012-04-27
Nhiều người dân Việt Nam từng trải qua hai cuộc chiến ‘chống Pháp và chống Mỹ’.
Photo courtesy of nguyenxuandienblog
Người dân Văn Giang trước ngày bị cưỡng chế
Thực dân, đế quốc từng bị cho là kẻ thù tại Việt Nam. Tuy nhiên nay chính những người từng trải qua hai cuộc chiến đó cho rằng nhà cầm quyền hiện nay còn ‘ác hơn cả đế quốc Mỹ’.

Chính quyền sau 75

Cuộc chiến đưa đến chấm dứt tình trạng chia đôi đất nước gần nhất tại Việt Nam chấm dứt cách đây đã 37 năm. Có nhiều ý kiến cho rằng đất nước thay da đổi thịt rất nhiều, và vết thương chiến tranh đã lành lặn.
Tuy vậy, có nhiều người vẫn khẳng định vết thương đó vẫn còn rỉ máu và khi vết thương cũ chưa lành lại có những vết cắt mới trên da thịt người dân.
Suốt những năm tháng chiến tranh, người ta phải đi sơ tán để tránh bom đạn. Khi chấm dứt tiếng súng, họ trở về quê nhà để tạo lập cuộc sống.
Thế rồi những dự án phát triển được vạch ra. Nhiều người nằm trong vùng qui hoạch phải di dời đi nơi khác. Khi tiến hành hoạt động này, biết bao vụ việc do chính quyền các cấp địa phương gây ra khiến dân chúng ta thán.
Hành xử trong khi cưỡng chế thu hồi đất đối với nhiều người dân là một hành động mà họ cho là ‘dã man’ hơn cả thời ‘đế quốc Mỹ’ trước đây.
Một người dân bị mất đất thuật lại câu nói của những đồng bào cùng chung cảnh ngộ:
"Năm 2009, 80 hộ chúng tôi được chủ tịch thành phố, ông Trần Thế Dũng, tiếp. Tôi có ghi băng. Có những người là thương binh đi bộ đội chống Mỹ về phát biểu: lúc phá nhà dã man hơn đế quốc Mỹ, ác hơn đế quốc Mỹ; họ nói đi nói lại ba lần."
Những người phải thốt lên so sánh đó hầu hết là những người từng sinh sống tại những vùng chiến tranh ác liệt trước đây. Hằng ngày họ phải chạy lánh nạn bom đạn do máy bay Mỹ ném xuống. Và chính họ thấy đó là một tội ác khi truy đuổi những người dân như họ.
Trước những hành động xâm lăng đó của người nước ngoài, gia đình nhiều người dân cho con cái tham gia quân đội để đi chiến đấu chống lại những kẻ xâm lược. Có người mất chồng, mất con trong chiến tranh và trở thành gia đình liệt sỹ được tổ quốc ghi công.
Có những người là thương binh đi bộ đội chống Mỹ về phát biểu: lúc phá nhà dã man hơn đế quốc Mỹ, ác hơn đế quốc Mỹ; họ nói đi nói lại ba lần.
Một dân oan
Có thể nói trong chiến tranh, khi đất nước bị cho là lâm nguy bởi ngoại xâm, người dân sẵn sàng hy sinh tất cả, đến giọt máu, hơi thở cuối cùng không hề bận tâm suy nghĩ.
Tuy nhiên, khi tài sản, đất đai mà họ sinh sống từ bao đời nay bị xung công một cách thiếu thuyết phục. Tiền bồi thường bị cắt xén, hay thậm chí bị ‘cướp trắng’; thì họ phản ứng.
Nhưng chính quyền đã không nghe tiếng nói của người dân mà đưa lực lượng cưỡng chế đến phá dỡ nhà cửa, ruộng vườn trước sự chứng kiến vô
vọng của họ nên họ không thể ‘hy sinh’ trong im lặng như thời chiến tranh.

Khiếu kiện trong vô vọng

bat-dong-san1-300x207-250.jpg
Căn nhà của ông Đoàn Văn Vươn huyện Tiên Lãng sau vụ cưỡng chế hôm 05/1/2012 
Họ đã phản ứng, đã khiếu kiện từ năm này qua năm khác với hy vọng công lý sẽ được thực thi nhưng rồi họ vẫn mỏi mòn.
Đó là tâm trạng của bà Võ thị Nhiều, gia đình liệt sỹ:
"Tôi có hai con trai đi làm nhiệm vụ Đảng giao, ở với Đảng. Tôi có tội lỗi gì mà đập nhà cửa, tài sản của tôi mà không lập văn bản. Họ còn nhét giẻ vào miệng tôi. Tôi yêu cầu Đảng về sửa lô đất hương hỏa của tôi, làm rõ mọi đường chứ tôi đau khổ lắm."
Hay bức xúc của vợ một thương binh chống Pháp:
"Bây giờ cán bộ của tỉnh đều ‘dã man’, ‘tàn bạo’ lắm, kể cả phường, xóm, kể cả Đảng, kể cả Thanh tra tiếp dân, Hội đồng Nhân dân tỉnh. Họ ‘tàn bạo’ lắm, chẳng kể gì dân đâu. Họ chỉ kiếm lợi cho gia đình họ thôi, chứ gia đình mình họ không quan tâm đến. Theo ý tôi thì những thành phần đó Đảng, Chính phủ, Nhà Nước cần trừng trị đến nơi đến chốn, cho dân ‘ngước mặt lên với’."
Hầu như mọi thủ đoạn có thể sử dụng để buộc dân phải giao đất mà không được bồi thường thỏa đáng đều được sử dụng như câu chuyện của một người mẹ vì con đành phải nhận tiền bồi thường như sau:
"Họ đập phá nhà cửa tôi vào ngày 4/5/2004. Công an, bộ đội, dân quân đến đập 32 mét vuông mái bằng, ‘veranda’, một căn nhà hai gian rồi mọi dụng cụ tôi cho thuê bát đĩa đều bị đập mà không đền bù, cho đến nay. Năm 2011, con tôi học hết cấp 3, đi thi sư phạm, chính quyền không cho con tôi đi với lý do mẹ làm sai không nhận tiền hổ trợ, đền bù. Con tôi về khóc nói chỉ vì mấy triệu đồng mà mẹ không nhận làm ảnh hưởng đến tương lai lâu dài của con. Tôi chết chồng, có bốn đứa con nên tôi thương con nên lấy mấy triệu về hổ trợ chứ không phải bồi thường đất nhà."

Dồn dân vào đường cùng...

vangiang-250.jpg
Người dân huyện Văn Giang khiếu kiện đất đai của họ bị trưng thu bất hợp pháp nhưng không ai giải quyết
Người dân bức xúc tố cáo những thủ đoạn của các cấp chính quyền trong việc thu hồi đất đai của họ, vì nay họ thấy rõ những sai phạm và cách hành xử bất chấp luật pháp của chính quyền:
"Chúng tôi có làm gì mà công an, bộ đội, an ninh đến phá nhà chúng tôi. Quân đội để giữ nước, giữ nhà chứ sao đi phá hoại nhà dân. Chúng tôi đâu làm gì sai trái, đâu có cướp giật, tham ô của ai đâu. Chúng tôi đã đơn từ bao nhiêu năm nay, mà họ dồn chúng tôi vào bước đường cùng, chúng tôi biết làm thế nào?"
Trong chiến tranh sự sang giàu giữa những tầng lớp người dân không rõ nét; nhưng nay khi chấm dứt tiếng súng, bom đạn, các thành phố được xây dựng lại khang trang, các khu công nghiệp, nhà máy mọc lên, đường xá rộng rãi thẳng tắp, thì người ta lại thấy sự cách biệt giàu nghèo quá rõ.
Nhiều người trở nên giàu có nhờ vào những mảnh đất trước đây là ruộng nương, vườn tược hay thậm chí đất ‘chó ăn đá, gà ăn muối’, mà người muốn có thu nhập từ đất phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được cái ăn.
Người dân mất đất phải tha phương hay ngụ cư trên chính mảnh đất của bao đời cha ông cho đến họ sinh sống. Trước những bất công đó họ chỉ trông chờ vào công lý. Nhưng rồi luật pháp nằm trong tay kẻ mạnh, mà việc khiếu kiện dù có đúng và được trung ương có ý kiến đưa về địa phương giải quyết nhưng rồi như một trái banh, đá qua đá lại, lăn lên lăn xuống. Câu nói từ xưa của dân gian ‘con kiến mà kiện củ khoai’ lại đúng như thời xưa trước.
Chúng tôi đâu làm gì sai trái, đâu có cướp giật, tham ô của ai đâu. Chúng tôi đã đơn từ bao nhiêu năm nay, mà họ dồn chúng tôi vào bước đường cùng, chúng tôi biết làm thế nào?
Một người dân
Bất bình, uất ức, có lúc người dân đã từng hợp lòng đứng dậy như ở Thái Bình hồi năm 1997. Gần đây vào ngày 5 tháng giêng năm 2012, gia đình ông Đoàn Văn Vươn tại Tiên Lãng, Hải Phòng phải nổ súng hoa cải và bình ga tự chế khi lực lượng cưỡng chế tiến vào khu nhà và đất đầm mà họ phải bao năm bỏ công khai khẩn.
Hôm ngày 24 tháng tư vừa qua, người dân tại ba xã Xuân Quan, Phụng Công, Cửu Cao, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên quyết giữ đất không giao cho chủ đầu tư làm khu đô thị sinh thái như được thông báo; nhưng rồi họ cũng bị lực lượng cưỡng chế ủi sạch ruộng vườn.
Thanh tra chính phủ vào đầu tháng tư vừa qua phải lên tiếng thừa nhận là số lượt người và đoàn người khiếu kiện đông người đã tăng hẳn lên. Cụ thể lượt khiếu nại tăng 50% so với tháng 2 và số đoàn đông người tăng 30%. Thanh tra chính phủ thừa nhận có từ 20-25% vụ khiếu kiện là đúng.
Theo Thanh tra chính phủ việc khiếu kiện đã xảy ra từ nhiều năm qua, mà địa phương không giải quyết đến nơi đến chốn, đùn đẩy, né tránh. Tham nhũng đất đai là căn bện mãn tính, và lòng tham đó khiến nhiều quan chức trở thành ‘dã man’ với chính những đồng bào của họ.
Ngày càng có nhiều người quay lưng lại với nỗi khổ đau của những người dân mà họ nhân danh để tiến hành cách mạng. Sự dã man đó được chính người dân mô tả còn hơn cả ‘đế quốc Mỹ’ trước đây.

Tháng Tư lại về...

2012-04-30
Hôm nay là thời điểm kỷ niệm Biến Cố 30 tháng Tư năm 1975 đánh dấu ngày Sàigòn thất thủ về tay người CS.
AFP photo
Hai thiếu nữ Việt Nam thương tiếc người thân của họ tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa ngày 29 tháng tư năm 1975

Sau 37 năm

“Tháng Tư về…” – tựa đề bài thơ của blogger Mẹ Nấm – khiến tác giả nhớ “Ngày còn thơ, Tháng Tư rợp trời sắc đỏ”, “chiếc khăn quàng đỏ siết chặt tuổi thiếu niên, làm sao thấy được mất mát của chiến tranh ?”, “Những tháng thơ ngày dại, quay cuồng trong cơn lũ giáo điều, cuốn trôi sự thật…”. Thế còn bây giờ, khi 30 tháng Tư lại về, tâm trạng của blogger Mẹ Nấm ra sao? Xin thưa, tác giả cảm nhận những “nỗi buồn”, “giọt nước mắt”, “ký ức hãi hùng”…
Tháng Tư,
Có máu của những người da vàng mũi tẹt
nằm xuống chính bởi đồng bào mình…   
Tháng Tư,

Có nỗi buồn của kẻ đi xa,
những ký ức hãi hùng không bao giờ phai nhạt, Giọt nước mắt sau nhiều năm cô đọng, Nuốt vào tim, uất nghẹn hai tiếng...
Quê Hương!
Ôi Tháng Tư,

Tháng ly tán của cả một dân tộc.
Bao năm rồi thịt có liền da?
Cây cầu xưa nay đã nối đôi bờ
Trong ký ức vẫn không hề hàn gắn.
Tháng Tư,

Triệu người ăn mừng chiến thắng…
Triệu người vẫn nặng lòng với những chuyến đi...

Qua bài “Tổ quốc là nhân dân” được blog Hoàng Quang và nhiều mạng nhật ký khác phổ biến, tác giả Nguyễn Quang Nhàn nhân ngày Biến Cố 30 tháng Tư đề cập tới “có hàng triệu người vui và có hàng triệu người buồn”, có hàng triệu người mừng đất nước hết chiến tranh thì cũng có hàng triệu người “ngơ ngác, hoảng loạn” để phải bỏ nước ra đi tìm tự do, dân chủ, quyền được làm người ở xứ lạ quê người. Ngày 30 tháng Tư trong nước lại “đập vào mắt, chọc vào tai” người dân những điệp khúc “giải phóng, chiến thắng”, “công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp cao cả”…
Nhưng theo tác giả, hiện đã 37 năm kể từ biến cố 30 tháng Tư 1975, “lớp người ngày ấy” đã va chạm với thực tế “trần trụi của xã hội”, những lý tưởng, ước mơ chắc đã tan theo mây khói, những nỗi niềm vui, buồn, đắng cay, tủi nhục đã trôi nổi bọt bèo, đã vong thân, vong bản hay – nếu có lòng với quê hương – đang sống cùng nỗi đau của dân tộc. Và thực tại đất nước lại “bày ra”. Họ thấy gì ? Tác giả mô tả:
"Vẫn những mâu thuẫn nội tâm dân tộc đang giằng xé; nhiều thứ tha xen lẫn thù hận còn sâu lắng; nhiều khổ đau tiếp tục chất chồng; nhiều bất an vẫn tiếp tục trong cuộc sống xã hội hàng ngày! Công nhân - nền tảng của đảng độc quyền lãnh đạo - cứ tiếp tục đình công; nông dân - lực lượng chủ lực trong cách mạng “dân tộc, dân chủ, nhân dân” - trở thành dân oan, bị cướp nhà, cướp đất tiếp tục khiếu kiện, sống lây lất, tha hương; trí thức “phản biện” lại tiếp tục bị đưa ra tòa vì tin vào cái quyền tự do dân chủ được Hiến pháp quy định; biên cương, biển đảo vẫn luôn dậy sóng; anh em đồng chí cùng chung “tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, “bên này biên giới là nhà”, đất nước, nhân dân hàng ngày bị lộng giả chân chơi trò cướp giật … Xã hội lắm thứ loạn, nạn, cướp. Tham nhũng là quốc nạn không còn thuốc chữa…, băng hoại tâm hồn dân tộc đất nước…"
Vẫn những mâu thuẫn nội tâm dân tộc đang giằng xé; nhiều thứ tha xen lẫn thù hận còn sâu lắng; nhiều khổ đau tiếp tục chất chồng; nhiều bất an vẫn tiếp tục trong cuộc sống xã hội hàng ngày!
Nguyễn Quang Nhàn
Khi viết “Về dân quyền và dân tộc nhân 30 tháng Tư” blogger Lê Quốc Quân lưu ý rằng “đất nước vẫn không ngừng động loạn, bất an. Hết cải tạo công thương là quá trình bỏ nước ra đi, sau đó là những năm bao cấp đói đến run người. Kể từ khi xa rời dần với Chủ nghĩa Xã hội, đất nước no bụng nhưng bỗng đói tâm hồn. Nhân phẩm nhiều người như bị xé ra làm đôi, chắp vá”.
Biến cố 30 tháng Tư khiến blogger Bùi Minh Quốc một dạo nào hồi tưởng, qua những dòng thơ:
Tôi treo lên lá cờ máu
Đau đáu hồn tôi
Giờ này năm ấy
Vẫn ngã xuống bao người
Những người cuối trong trận cuối
Cuộc chiến tranh dằng dặc mấy đời

Nhưng rồi nhà thơ Bùi Minh Quốc mới nhận ra rằng đó chưa phải là trận cuối của cuộc chiến “dằng dặc mấy đời”, mà người dân Việt “vẫn ngã xuống bao người”, trong những năm 1978, 1979, 1988, ngã xuống tại vùng biên giới Tây-Nam, tại vùng biên giới phía Bắc Biển Đông, khi “đồng chí” lộ nguyên hình là lũ giặc, khi các “đồng chí’ không cho ai được nhắc tới. Và tác giả thấy xót xa – lẫn uất hận:
Im lìm phố trưa
Chợt nghe ục vào tai tiếng quát :
“Này bà kia sao chưa treo cờ ?”
Gã công an kinh ngạc
Trố mắt nhìn bà hàng xóm giả lơ
Tôi nhìn lên màu máu rực trên cờ
Thấy người chết bật mồ đứng dậy.

Đại nạn đất đai

Ngày 30 tháng Tư cũng là sinh nhật của nhà văn Nguyễn Quang Lập, nhưng ông không lo “cái già xồng xộc nó thì theo sau”, mà lo cho quê hương, đất nước. Nhà văn nêu lên một loạt câu hỏi, rằng “sau 37 năm hòa bình thống nhất, 67 năm xây dựng CNXH, đất nước ta đang ở đâu?”, “Sự thật thế nào ?”. Nhà văn Nguyễn Quang Lập, tức blogger Quê Choa, trích dẫn báo Người Lao Động mà lấy làm “ngao ngán”, vì “Theo Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 của Ngân hàng Thế giới, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tụt hậu tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với Singapore”. Rồi nhà văn bày tỏ nỗi “ngao ngán” này qua bài tựa đề “Hãy nói thật với nhau đi!”.
VGiang13-danlambao-250.jpg
Gần 3000 công an, bộ đội cưỡng chế đất ở Văn Giang hôm 24/4/2012. RFA files 
 
"Lại càng ngao ngán hơn khi thấy một loạt những cái nhất của Việt Nam ta. Đây là thống kê của báo lề phải nhé, chứ không lại bảo của lực lượng thù địch đang cố tình bôi nhọ chế độ ta. Nhưng tất cả những điều đó cũng không bì được với đại nạn đất đai ở nước ta."
Sau 37 năm kể từ 30 tháng Tư năm 1975, “đại nạn đất đai” quả là ngày càng trầm trọng khi “bom nổ ở Tiên Lãng, Hải Phòng chưa dứt thì gạch đá, khói lửa, máu đổ ở Văn Giang, Hưng Yên đã dâng lên”. Chúng ta hãy nghe những vầng thơ của Thanh Thảo:
36 triệu đồng đền bù một sào đất
36 triệu đồng cho những kiếp tha hương
có thể ngày mai từ Văn Giang lớp lớp sẽ
lên đường
vượt Trường Sơn làm “cà phê tặc” “đinh tặc” v…v…các thứ “tặc”
sau 37 năm
cháu con những người xưa vượt Trường Sơn giữ nước
giờ mất đất
mất quê
mất tất
chỉ còn Ecopark
chỉ còn “không gian xanh”
chỉ còn
nước mắt

Bài tựa đề “Đặt Mình Trong Vị Trí Người Dân Văn Giang” của nhà báo Huy Đức có đoạn cảnh báo:
"Đừng nghĩ Đoàn Văn Vươn hay Văn Giang là đơn lẻ. Không nên coi một chính sách luôn giữ kỷ lục trên dưới 80% tổng số người khiếu kiện trong suốt hơn 20 năm qua là không có gì sai. Cho dù quyết tâm cưỡng chế 160 hộ dân ở Văn Giang có thể chỉ vì lợi ích của một số cá nhân; có thể sau thất bại trong vụ Đoàn Văn Vươn, Chính quyền muốn cứng rắn để dập tắt khát vọng đòi đất của những nông dân muốn noi gương anh Vươn. Thì, hình ảnh cuộc cưỡng chế hôm 24-4-2012 đã trở thành một vết nhơ trong lịch sử."
Khi nhận xét về “Thực tiễn VN hôm nay”, blogger Lê Quốc Quân cũng không quên lưu ý về “những người nông dân vẫn còng lưng đi cấy” sau khi 37 năm đã trôi qua kể từ biến cố 30 tháng Tư 1975. Nhưng, LS Lê Quốc Quân nhận xét tiếp, “khi đang lam lũ, ngẩng mặt lên vuốt vội mồ hôi là lúc bà con thấy đất dưới chân mình trôi đi” vì nó bị giới quyền thế đỏ “cướp” đem bán cho những người khác với giá cao hơn gấp hàng ngàn lần. Vì vậy, vẫn còn đó anh Vươn tạo “bom” và bà con nông dân  – như bà con Văn Giang – đem cuốc, xẻng, gậy gộc ra đồng giữ đất.
Đừng nghĩ Đoàn Văn Vươn hay Văn Giang là đơn lẻ. Không nên coi một chính sách luôn giữ kỷ lục trên dưới 80% tổng số người khiếu kiện trong suốt hơn 20 năm qua là không có gì sai.
Nhà báo Huy Đức
Qua biến cố Văn Giang, blogger Thùy Linh đã chứng kiến cảnh “Đất Vỡ” khi “cả ngàn nông dân úp mặt vào Đất để lắng nghe lần cuối tiếng thì thầm từ lòng sâu, nơi hồn thiêng cha ông gởi vào đó bao đời và mai đây sẽ chìm dưới những căn hộ cao tầng sang trọng cho những kể lắm tiền nhiều chức”.
Qua bài “Đất Vỡ” ấy, blogger Thuỳ Linh lưu ý rằng hiện giờ Làng Nước có rồi nhưng Đất lại bị cưỡng chiếm cho cuộc bán buôn kiếm chác của những kẻ chức quyền tham lam vô độ vô nhân. Tác giả bày tỏ nỗi buồn theo thân phận của những người bị mất dòng sửa Đất Mẹ:
"Lửa đã cháy và máu đã đổ không phải từ ngoại xâm mà từ những người họ hay gọi là đồng chí. Ôi người dân quê tôi lam lũ nhiều đời sẽ còn bị bần cùng tới khi không còn nước mắt để khóc, không còn máu để chảy trong huyết quản. Ngày mai những thân phận người không còn được bú mớm dòng sữa Đất Mẹ sẽ vất vưởng ra thành phố lay lắt kiếm sống qua ngày. Những kiếp sống tàn đời không biết đến ấm no."
Và tác giả không khỏi phẫn nộ, nhưng vẫn hy vọng ở ngày mai:
"Đất đang vỡ như trái tim đang vỡ…Từng mảnh tim ứa máu rải khắp quê hương này…Và người ta đang lấy máu Đất để sơn phết những gương mặt Quỉ đang nhảy múa cuồng điên trong cơn khát tiền tài danh vọng. Đất đã vỡ như trái tim đã vỡ…Tan hoang…Thôi, hãy quay mặt đi đừng nhìn cơn điên loạn này mà phá hỏng mất tâm hồn. Ông bà cha mẹ cố giữ lấy cho con lòng tốt để đón chờ một tương lai sẽ phải đến…"

Một đất nước tụt hậu

000_Hkg5241371-250.jpg
Cảnh dân phòng trấn áp người biểu tình chống Trung Quốc ở TPHCM hôm 21/8/2011. AFP photo 
 
Qua bài “Viết cho Tháng Tư”, blogger Huỳnh Thục Vy lưu ý phương châm “cứu cánh biện minh cho phương tiện” của người CSVN, chiến dịch gây sợ hãi…, mở đường thực hiện những cuộc đẫm máu kinh hoàng mà nạn nhân là đa số thường dân, đưa hàng triệu thanh niên miền Bắc lao vào cuộc chiến như con thiêu thân, khiến cả một thế hệ bị lừa gạt vì không nhận chân được bản chất chế độ.
Hậu quả là, theo blogger Huỳnh Thục Vỵ, “sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước” của người CS đã “không khiến VN trở thành hùng mạnh hơn, dân tộc ta trở nên kiêu hãnh hơn”, mà biến miền Nam trước ngày gọi là “giải phóng” vốn cường thịnh hơn Hàn Quốc, đã cùng cả nước lẹt đẹt theo sau nhiều nước trong khu vực – và trên thế giới. Tác giả nêu lên nghi vấn rằng “Nếu ta lấy cứu cánh là sự phồn thịnh của quốc gia, là an sinh hạnh phúc, là tự do nhân phẩm của mỗi một người dân làm chuẩn thì liệu sự thống nhất ấy có nghĩa lý gì?”.
Blogger Huỳnh Thục Vy nhận thấy “sự thống nhất, sự giải phóng đó mới đau đớn làm sao !” khi Hà Nội thực hiện “giải phóng Miền Nam” khỏi mối quan hệ đồng minh với Hoa Kỳ để cả nước trở thành chư hầu của TQ, để vết thương lòng của người dân vẫn hằn sâu, sự hoà hợp trong tình tự dân tộc vẫn vắng bóng, để hình thành sự chia cắt gay gắt giữa giới quyền thế tư bản đỏ cam phận tay sai phương Bắc với con dân yêu nước và hy sinh cho tự do, phẩm giá con người. Chúng ta hãy nghe tâm sự của Huỳnh Thục Vy qua “Viết Cho Tháng Tư:
Thử hỏi xương máu của hàng triệu con người đã ngã xuống trong cuộc chiến chỉ để tạo nên một Việt Nam thống nhất trong chia rẽ, thống nhất trong sự Hán hoá, thống nhất trong sự mất tự do và quyền làm người hay sao?
Blogger Huỳnh Thục Vy
"Mỗi năm tháng Tư về, bao nhiêu lễ lạc, đình đám vẫn diễn ra bất chấp mối hoài niệm về quá khứ vẫn nặng trĩu trong lòng nhiều người Việt, bất chấp mối ưu tư về tương lai đất nước vẫn canh cánh trong lòng những người có tâm huyết với đất nước. Những con người có lương tâm và tự trọng không bao giờ vui sướng được trong nỗi thống khổ to lớn ấy của dân tộc.
Thử hỏi xương máu của hàng triệu con người đã ngã xuống trong cuộc chiến chỉ để tạo nên một Việt Nam thống nhất trong chia rẽ, thống nhất trong sự Hán hoá, thống nhất trong sự mất tự do và quyền làm người hay sao? Ba mươi tháng Tư - xin cầu nguyện cho tự do và nhân phẩm, cho sự Hoà hợp dân tộc và nền công lý."
 

37 năm nhìn lại - phần 2

2012-04-30
Mời quí vị xem tiếp câu chuyện của những người thiếu phụ Việt Nam lặn lội đi thăm chồng sau khi đất nước đã thống nhất.
AFP photo
Xe tăng Lực lượng Giải phóng Quốc gia (FLN) trên đường phố Saigon sau ngày 30/4/1975.

Thực trạng "học tập cải tạo"

Trong những chuyến đi thăm nuôi người nhà, các chị cũng chứng kiến những cảnh thật đau lòng, chị Ngọc Diệp kể chuyện người cha già gánh nặng đi thăm nuôi con, mới hay tin là con đã chết:
"Có một lần đi, tôi gặp một ông già gánh hai gánh quà. Ổng nói là ổng là ổng đi thăm con ổng mấy lần mà họ không cho thăm. Sau cùng thì họ phát cho ông ấy cái khăn tang và nói là con ổng chết mấy tháng nay rồi. Ổng khóc quá trời rồi lăn ra chết giấc."
Còn chị Kim Duyên thì chứng kiến cảnh người tù không có thân nhân đã khẩn cầu xin chị những thứ mà có thể chồng chị không cần đến:
"Tù chung đó, mà không có thân nhân tội lắm. Thấy mình đi thăm thì hỏi là có dư gì thì để gốc cây cho họ, mà cán bộ đứng đầy đó nên mình không dám. Sợ cán bộ đến hỏi thì phiền."
Với số tuổi chỉ ngoài đôi mươi và một vóc dáng xinh đẹp mà chưa có gì thật sự ràng buộc ngoài một cái lễ hỏi, chị Kim Kiều không những chỉ thăm nuôi vị hôn phu mà còn thăm nuôi cả người em trai của người chồng chưa cưới. Khi được hỏi động cơ nào đã khiến chị đối xử với những người "ngã ngựa" như vậy, chị cho biết:

"Em ảnh thì có vợ rồi nhưng ở Qui Nhơn thành ra ông bà cụ nhờ tôi thăm người em của anh ấy luôn. Tại mình rất ghét cộng sản mà thương quốc gia. Mình không thể nào mà hòa hợp với cộng sản được. Hồi mới đi dạy tôi phải dạy xa thì khi lên xe Bus để đi dạy, thấy cộng sản ngồi thì tôi không nghĩ tới. Tôi tưởng như đang mơ vậy đó, Trên xe Bus có mấy ông lính của mình, hát những bản nhạc ngày xưa, hát để xin tiền đó. Trời ơi, mình muốn khóc luôn. Thành ra như vậy mình không thể nào..."
Sau thời gian dài bị tù đày, những người lính năm xưa được trở về với gia đình, chị Kim Kiều chia sẻ kỷ niệm khi đón người yêu:

"Không có gì mừng bằng! Ổng về một cái, là đầu tiên dẫn ổng đi ăn phở. Phở Quyền dưới ngã tư Phú Nhuận đó. Sau khi mà đổi tiền đó thì 500 ngày xưa chỉ được 1 đồng sau này. Tô phở tính 9 đồng, là ổng nhân lên liền. Ổng nói trời ơi sao mà mắc quá vậy. Ổng nói chỉ ăn một lần thôi nha, không ăn nữa nha. Mắc quá đi! Lúc đó tại mình là con út trong nhà thành ra cũng không bận bịu gì với gia đình nhiều nên ảnh mới về thì khao ảnh đó mà."    
Có một lần tôi gặp một ông già gánh quà đi thăm con mấy lần mà họ không cho thăm. Sau cùng thì họ phát cho cái khăn tang và nói là con ổng chết mấy tháng nay rồi. Ổng khóc quá trời rồi lăn ra chết giấc.
Chị Ngọc Diệp
Rồi vài tháng sau, chị Kim Kiều cùng người yêu nên duyên vợ chồng. Sau nhiều lần vượt biển thất bại, cuối cùng anh chị cũng đến được bến bờ Tự Do. Trong thời gian anh chị chờ thanh lọc để đi định cư ở quốc gia thứ ba thì những người tù cải tạo khác đã cùng gia đình lần lượt đến Hoa Kỳ qua chương trình HO, trong đó có gia đình chị Ngọc Diệp và chị Kim Duyên. Chị Kim Kiều tâm sự:
"Đầu năm 89 là tụi tôi đem con đi vượt biển nữa, lúc đó cháu được 5 tuổi. Khi tôi đi thì mấy bà chị của tôi không cho đi, bảo là nộp đơn HO để đi, thì tôi nói là không thể tin được việt cộng, nên nộp đơn thì tôi cứ nộp nhưng mà đi vượt biên thì cũng cứ đi. Sống chết ngoài biển thì giao cho Trời vậy thôi. Tại thằng nhỏ nó còn nhỏ quá nên các chị của tôi cản. Chúng tôi ở trại tị nạn gần 4 năm rưỡi. Tới trại tị nạn là năm 89 mà cuối năm 93 mới qua Mỹ."

Nỗi đau không phai

scan0031-250.jpg
Vợ chồng chị Kim Duyên trong ngày đầu đến Mỹ. Ảnh do chị Duyên gửi RFA. 
 
Niềm vui được sống trong một xứ sở Tự Do vẫn không làm các chị quên được quê nhà. Hồi tưởng lại những năm xưa, chị Kim Duyên cho biết:
"Bây giờ nghĩ lại thời gian đó thật là khủng khiếp. Trời ơi! những người cộng sản đối đãi với dân mình không được tốt đẹp. Họ đối xử chênh lệch, nào là con ngụy, nào là con này kia, Không được học những ngành chuyên môn. Họ tìm đủ mọi cách để không cho người dân của chế độ cũ được làm gì hết. Thành ra bây giờ tôi nghĩ đến cái chế độ của họ tôi thấy khủng khiếp quá! Khủng khiếp trong sợ hãi."
Chị Ngọc Diệp hiện vẫn còn mẹ già tại Việt Nam, chị đang phân vân không biết có về tham dự lễ thượng thọ 90 của Mẹ chị hay không:
"Mẹ tôi 90 tuổi rồi đó, Mẹ kêu tôi về làm lễ 90 tuổi cho Bà nhưng không biết tôi có về được không. Tháng mười hay tháng mười một sẽ làm sinh nhật 90 cho Bà"
Trong khi đó, chị Kim Kiều thì xem những tháng ngày khó khăn mà chị đã trải qua, như là những kinh nghiệm sống quí báu cho bản thân nhưng vẫn nhất quyết không về thăm nhà, khi quê hương chưa có được tự do: 
"Đúng thì thật ra mình ở nó khổ thiệt nhưng có sống như vậy mình mới biết được dân của mình. Mình sống qua với việt cộng, rồi mình sống ở trại tị nạn thì mình biết được những thứ đó. Đó là những bài học rất là quí báu. Có những người may mắn thì họ không trải qua những cái đó, thì đúng là họ may mắn, nhưng họ không biết được những cái đó.
Còn lớp trẻ thì không hiểu được đâu. Không rút được kinh nghiệm đau thương sống với việt cộng. Tôi qua đây hai mươi năm rồi, tôi không về. Khi nào không còn việt cộng tôi mới về.
Chị Kim Kiều
Còn lớp trẻ thì không hiểu được đâu. Không rút được kinh nghiệm đau thương sống với việt cộng. Không thể nào hiểu được cái đau thương đó. Tôi qua đây hai mươi năm rồi, tôi không về. Khi nào không còn việt cộng tôi mới về, còn Việt cộng là tôi không về."
37 năm đã trôi qua, những thiếu phụ trẻ ngày nào giờ đây đang bước vào tuổi hạc. Tuổi thanh xuân của họ đã trôi qua trong thời chiến với nỗi âu lo cho người yêu ngoài mặt trận. Và khi đất nước thống nhất, hòa bình thì họ lại phải âm thầm tần tảo nuôi con thơ và thăm nuôi chồng trong các trại tù cải tạo, rồi lại lo tìm đường vượt biển để mong đến bến bờ tự do. Họ là những bà mẹ Việt Nam tiêu biểu, âm thầm chịu đựng và luôn quên mình để kiên cường gây dựng cho các thế hệ mai sau.



37 NĂM SAU


  37 NĂM SAU NGÀY BA MƯƠI

THÁNG TƯ

Bùi Ngọc Phúc


Nắng nóng đến kinh người , hoa osaka vẫn vàng như chưa bao giờ vàng đến vậy
Hầm hập mặt đường bê-tông , hầm hập những vỉa hè
Lật gạch đường làng lên thay bằng gạch con sâu
Lật gạch con sâu lên thay bằng đá tảng và những mạch hồ bưng bít
Run rẩy khói nhang khóc cho những chồi non héo hắt
Run rẩy khói nhang khóc cho những nấm mộ chưa biết tên
Những liệt sĩ chưa tìm thấy cốt
còn đâu đây dưới những con đường?..
Trưa 30 tháng 4
 ngày cuối cùng, phút cuối cùng
kìa!… đau đớn thay những người còn ngã xuống
cánh đồng vừa trục xong , trắng muốt những cánh cò…

Trưa 30 tháng tư
37 năm sau:
Sao có những người cần nhiều tiền đến vậy
đường ra biển, nườm nượp dòng người xe như trốn chạy
trốn chạy cái nắng nóng
trốn chạy cái ngột ngạt, trốn chạy bộ mặt đô thị
trốn chạy chính mình
Trưa 30 tháng 4
ở đâu ra những đoàn xe hơi bí hiểm và sang trọng
 tiếng hụ còi , tiếng rú ga chém ngang thân cây bằng lăng giữa ngã ba
ôi!…thương quá cây bằng lăng, mùa hoa cuối cùng rực rỡ…

Tháng tư
ngày 30
buổi trưa
Xác xơ những tàu lá chuối, những tàu dừa nơi thôn cùng, phố vắng
tồn tại hay không tồn tại
Sao có những người cần nhiều tiền đến vậy
tiếng rú ga và tiếng hụ còi tiến về những biệt thự ,  những khách sạn
                                    4 sao , 5 sao – nơi mái tóc của Mỵ Châu trôi ra biển…

Tháng tư
ngày 30
buổi trưa
nhức nhối những tiếng rú ga
những tiếng hụ còi khủng bố những linh hồn chưa tìm được về đất mẹ
Nào!… hãy chung tay thắp lên , dâng lên nén nhang nơi bàn thờ tiên tổ
nơi nắm xương tàn chưa gặp lại người thân
nơi những nấm mồ liệt sĩ vô danh
…Và mặc kệ những dự án bê – tông
những vỉa hè bê – tông
những bộ mặt bê – tông
những siêu tổ chức bê- tông
mặc kệ tiếng rú ga , tiếng hụ còi
hỡi những chiến binh
có nhớ đường trở lại?
kẻ vinh quang , người sám hối
xin hãy trở về
dẫu đất mẹ đã trở thành những siêu-sân-gôn, những dã – tâm – dự – án
có dự án nào trả lại cho mẹ một thời con gái,
trả lại cho mẹ những đứa con
                              từng một thời say đánh trận giả, mẹ  ơi!…
QUÊ CHOA 
 

37 năm nhìn lại - phần 1

2012-04-30
Mặc dù đã 37 năm trôi qua, nhưng mỗi khi Tháng Tư về, người Việt hải ngoại vẫn không làm sao quên được những tai ương đã đến với họ sau cái ngày mà họ gọi là "Ngày Quốc Hận".

AFP photo
Bộ đội cộng sản Việt Nam dẫn giải lính VNCH trên đường phố Saigon sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975. 
Tại Houston, cũng như mọi năm, năm nay ngoài những buổi lễ ghi dấu "Ngày Quốc Hận" - mà trong nước gọi là "Ngày Giải Phóng", hay "Ngày Chiến Thắng" - các buổi lễ tưởng niệm những người con dân Việt đã bỏ mình vì hai chữ Tự Do, và biểu tình phản đối Hà Nội trước tòa tổng Lãnh sự Việt Nam, còn có nhiều buổi văn nghệ để nhớ về "Biến cố 30/4".

Cải tạo không biết ngày về

Trong chương trình Thơ Nhạc "30 Tháng Tư, Một Ngày Nhìn Lại" do hội Văn Bút Nam Hoa Kỳ tổ chức vào ngày 15 tháng Tư, diễn giả Nguyễn Mạnh An Dân đã đọc lên những câu thơ viết về phụ nữ Việt Nam, đã phải một mình lo nuôi con thơ dại và nuôi chồng đang bị tù đày trong các trại tập trung, do các nhà thơ tù sáng tác.  
Đường xa nón lá bung vành
Thương em lả ngọn rau xanh bờ rào
Em về  bước thấp bước cao
Nước mưa nước mắt lẫn vào nước non
Hay những vần thơ nói lên những phút giây ngắn ngủi được thăm viếng chồng
Nhìn trời sống mũi cay cay
Mấy năm mới được có ngày gặp nhau
Một giờ gặp mặt qua mau
Năm ba câu chuyện đau đâu đã tàn
Và vài câu thơ viết về tâm trạng của người yêu mòn mỏi đợi chờ vị hôn phu đang ở trong tù:
Ổng nói ổng đi 10 ngày ổng về mà ổng đi mất tiêu. Họ kêu đi học tập mà họ nhốt 7 năm mới cho về. Ba năm họ mới cho tin tức là đang cải tạo ở trại Cà Tum.
Chị Ngọc Diệp
Cô giáo vào dạy học trò
Nhìn đâu cũng thấy buồn xo mắt người
Bài học xã hội tốt tươi
Đến giờ phải giảng ngậm ngùi lại thôi
Chị Trịnh Kim Duyên cho biết khi miền Nam thất thủ chị mới 26 tuổi, đang làm việc tại bệnh viện Sài gòn, lúc đó chị có 2 con nhỏ, cháu lớn 5 tuổi, cháu bé 17 tháng, chồng chị bị đi "cải tạo" tại Rừng Lá:
"Họ nói tập trung để đi cải tạo nhưng thật ra là đi tù, chứ cải tạo cái gì! Đầu tiên thì trình diện ở trường học đường Nguyễn chí Thanh, xong họ chở đi Hóc Môn ở một thời gian, rồi chở đi Z-30D Hàm Tân, ở Phan Thiết. Mãi sau này mới có lệnh được đi thăm."  
Còn chị Ngọc Diệp lúc đó 28 tuổi, có con một tuổi và đang mang thai 2 tháng. Chị cho biết vợ chồng chị từ Ban Mê Thuộc chạy về Sài gòn:
"Đánh Ban Mê Thuộc thì chồng tôi trở về Sàigòn. Rồi họ ra lệnh phải ra trình diện. Ổng đưa mẹ con tôi về gửi nhà bà ngoại ở Cần Thơ. Ổng nói ổng đi 10 ngày ổng về mà ổng đi mất tiêu. Họ kêu đi học tập mà họ nhốt 7 năm mới cho về. Ba năm họ mới cho tin tức là đang cải tạo ở trại Cà Tum."
Và chị Kim Kiều thì chỉ mới 24 tuổi, đang là sinh viên trường Luật tại Sàigòn, khi Hà Nội cưỡng chiếm miền Nam, chị cho biết là sau ngày 30 tháng 4 năm 75, trường Văn khoa và Luật khoa bị đóng cửa và chị được đi dạy học môn Văn tại một trường xa thành phố :
"Tụi tui quen cũng lâu rồi nhưng khi VC vô thì mới đám hỏi. Tại vì anh ấy đi lính mà tôi thì con út, trong nhà các anh cũng là quân nhân nhưng ba má tôi nói là làm cao rồi nên không sợ chết. Còn anh Dân thì đi bộ binh nên ba má tôi sợ chết, ba má tôi phản đối, không cho đám cưới. Việt cộng vô thì coi như bình yên rồi, không còn đánh nhau nữa nên cho làm đám hỏi. Đám hỏi xong thì tưởng là đi 10 ngày rồi về. Họ nói đi một tháng hay 10 ngày gì đó. Nhưng mà ổng đi mút chỉ, một năm sau mới có thư về cho đi thăm nuôi. Lúc đó anh ấy ở Suối Máu, anh ấy ở đó một thời gian lâu lắm. Sau đó thì lên Tống Lê Chân làm nhà, làm vườn cho họ. Anh ấy đi là tháng 6 năm 75 đến tháng 3 năm 81 thì về"

Đoạn trường thăm nuôi

RFA-NgocDiep-hv1-250.jpg
Chị Ngọc Diệp (trái) trò chuyện cùng thông tín viên Hiền Vy của RFA. RFA photo 
Trong khi chị Kim Duyên kể lại đoạn đường gian khổ đi thăm chồng tại trại Hàm Tân:
"Đi thăm ở Hóc Môn thì dễ mà đi thăm ở Rừng Lá thì Trời ơi là nó khổ. Đi qua rừng, mấy cái rạch nước mà cuốn chiếu nó to bằng ngón tay út. Trời ơi, không dám bước, sợ lắm! Nhờ người ta thồi đồ vô chứ mình đâu có vác được. Đường rừng dài lắm."
Thì chị Ngọc Diệp cho biết, vì con còn nhỏ nên ba hay bốn tháng chị mới đi thăm chồng được một lần. Nhưng có bà mẹ chồng thì đi thăm thường hơn vì bà ở gần hơn:
"Hồi đó con tôi còn nhỏ, nên bà nội mấy cháu đi thăm thường hơn. Từ Cần Thơ đi Tây Ninh xa lắm nhưng thăm được thì mừng lắm. Có lần đi tới bị trễ họ không cho thăm, họ biểu ra nhà dân mà ở rồi hôm sau mới được vào thăm sớm. Sáng mai thì tôi dắt con và bà nội vào thăm thì họ chỉ cho thăm 15 phút thôi. Họ đứng họ canh.
Trước khi đi thăm thì họ nói là chính phủ khoan hồng cho mấy chị thăm chồng thăm con mà cấm không được hôn hít. Nhưng mà mấy ổng cũng hôn hà. Thăm xong ra về ông nào cũng ôm vợ hôn."
Còn chị Kim Kiều thì nói, sau cả năm trời không có tin tức, nên khi có giấy báo cho đi thăm thì chị em trong nhà củng nhau đi thăm vị hôn phu của chị. Những người chị của chị đều có chồng đi tù cải tạo nhưng chưa ai nhận được giấy báo tin:

Có lần đi tới bị trễ họ không cho thăm, họ biểu ra nhà dân mà ở rồi hôm sau mới được vào thăm sớm. Sáng mai thì tôi dắt con và bà nội vào thăm thì họ chỉ cho thăm 15 phút thôi.
Chị Ngọc Diệp
"Cả một năm mà không ai biết tin tức gì hết. Nhà tôi toàn là bị đi cải tạo. Tôi là út mà chồng chưa cưới cũng bị đi, mà anh ấy chỉ là trung úy thôi, còn bị đi như vậy thì mấy anh kia bị đi mút chỉ luôn. Trong nhà buồn lắm lận. Tới khi được tin đi thăm nuôi thì mừng muốn khóc luôn. Mấy bà chị cũng đi theo luôn chứ mấy chị chưa có được giấy, thành ra mấy chị đi theo tôi lên thăm ảnh luôn. Lúc lên thăm ảnh thì thăm em trai ảnh là Luyện nữa, cũng ở cùng chỗ với ảnh. Lên thăm thì có gì đem hết đi. Ảnh thì mạnh nhưng Luyện thì không ra được vì người đầy ghẻ lở. Đến cái độ là không làm gì được cả, ảnh phải đút cơm cho Luyện ăn..."
Mời quí thính giả đón nghe phần 2 của câu chuyện về những người thiếu phụ này trong chương trình kỳ tới.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/recall-war-life-after-37-yrs-hv-04302012104221.html 

2012-04-30
Mời quí vị xem tiếp câu chuyện của những người thiếu phụ Việt Nam lặn lội đi thăm chồng sau khi đất nước đã thống nhất.

AFP photo
Xe tăng Lực lượng Giải phóng Quốc gia (FLN) trên đường phố Saigon sau ngày 30/4/1975.

Thực trạng "học tập cải tạo"

Trong những chuyến đi thăm nuôi người nhà, các chị cũng chứng kiến những cảnh thật đau lòng, chị Ngọc Diệp kể chuyện người cha già gánh nặng đi thăm nuôi con, mới hay tin là con đã chết:
"Có một lần đi, tôi gặp một ông già gánh hai gánh quà. Ổng nói là ổng là ổng đi thăm con ổng mấy lần mà họ không cho thăm. Sau cùng thì họ phát cho ông ấy cái khăn tang và nói là con ổng chết mấy tháng nay rồi. Ổng khóc quá trời rồi lăn ra chết giấc."
Còn chị Kim Duyên thì chứng kiến cảnh người tù không có thân nhân đã khẩn cầu xin chị những thứ mà có thể chồng chị không cần đến:
"Tù chung đó, mà không có thân nhân tội lắm. Thấy mình đi thăm thì hỏi là có dư gì thì để gốc cây cho họ, mà cán bộ đứng đầy đó nên mình không dám. Sợ cán bộ đến hỏi thì phiền."
Với số tuổi chỉ ngoài đôi mươi và một vóc dáng xinh đẹp mà chưa có gì thật sự ràng buộc ngoài một cái lễ hỏi, chị Kim Kiều không những chỉ thăm nuôi vị hôn phu mà còn thăm nuôi cả người em trai của người chồng chưa cưới. Khi được hỏi động cơ nào đã khiến chị đối xử với những người "ngã ngựa" như vậy, chị cho biết:
"Em ảnh thì có vợ rồi nhưng ở Qui Nhơn thành ra ông bà cụ nhờ tôi thăm người em của anh ấy luôn. Tại mình rất ghét cộng sản mà thương quốc gia. Mình không thể nào mà hòa hợp với cộng sản được. Hồi mới đi dạy tôi phải dạy xa thì khi lên xe Bus để đi dạy, thấy cộng sản ngồi thì tôi không nghĩ tới. Tôi tưởng như đang mơ vậy đó, Trên xe Bus có mấy ông lính của mình, hát những bản nhạc ngày xưa, hát để xin tiền đó. Trời ơi, mình muốn khóc luôn. Thành ra như vậy mình không thể nào..."
Sau thời gian dài bị tù đày, những người lính năm xưa được trở về với gia đình, chị Kim Kiều chia sẻ kỷ niệm khi đón người yêu:
"Không có gì mừng bằng! Ổng về một cái, là đầu tiên dẫn ổng đi ăn phở. Phở Quyền dưới ngã tư Phú Nhuận đó. Sau khi mà đổi tiền đó thì 500 ngày xưa chỉ được 1 đồng sau này. Tô phở tính 9 đồng, là ổng nhân lên liền. Ổng nói trời ơi sao mà mắc quá vậy. Ổng nói chỉ ăn một lần thôi nha, không ăn nữa nha. Mắc quá đi! Lúc đó tại mình là con út trong nhà thành ra cũng không bận bịu gì với gia đình nhiều nên ảnh mới về thì khao ảnh đó mà."    
Có một lần tôi gặp một ông già gánh quà đi thăm con mấy lần mà họ không cho thăm. Sau cùng thì họ phát cho cái khăn tang và nói là con ổng chết mấy tháng nay rồi. Ổng khóc quá trời rồi lăn ra chết giấc.
Chị Ngọc Diệp
Rồi vài tháng sau, chị Kim Kiều cùng người yêu nên duyên vợ chồng. Sau nhiều lần vượt biển thất bại, cuối cùng anh chị cũng đến được bến bờ Tự Do. Trong thời gian anh chị chờ thanh lọc để đi định cư ở quốc gia thứ ba thì những người tù cải tạo khác đã cùng gia đình lần lượt đến Hoa Kỳ qua chương trình HO, trong đó có gia đình chị Ngọc Diệp và chị Kim Duyên. Chị Kim Kiều tâm sự:
"Đầu năm 89 là tụi tôi đem con đi vượt biển nữa, lúc đó cháu được 5 tuổi. Khi tôi đi thì mấy bà chị của tôi không cho đi, bảo là nộp đơn HO để đi, thì tôi nói là không thể tin được việt cộng, nên nộp đơn thì tôi cứ nộp nhưng mà đi vượt biên thì cũng cứ đi. Sống chết ngoài biển thì giao cho Trời vậy thôi. Tại thằng nhỏ nó còn nhỏ quá nên các chị của tôi cản. Chúng tôi ở trại tị nạn gần 4 năm rưỡi. Tới trại tị nạn là năm 89 mà cuối năm 93 mới qua Mỹ."

Nỗi đau không phai

scan0031-250.jpg
Vợ chồng chị Kim Duyên trong ngày đầu đến Mỹ. Ảnh do chị Duyên gửi RFA.
Niềm vui được sống trong một xứ sở Tự Do vẫn không làm các chị quên được quê nhà. Hồi tưởng lại những năm xưa, chị Kim Duyên cho biết:
"Bây giờ nghĩ lại thời gian đó thật là khủng khiếp. Trời ơi! những người cộng sản đối đãi với dân mình không được tốt đẹp. Họ đối xử chênh lệch, nào là con ngụy, nào là con này kia, Không được học những ngành chuyên môn. Họ tìm đủ mọi cách để không cho người dân của chế độ cũ được làm gì hết. Thành ra bây giờ tôi nghĩ đến cái chế độ của họ tôi thấy khủng khiếp quá! Khủng khiếp trong sợ hãi."
Chị Ngọc Diệp hiện vẫn còn mẹ già tại Việt Nam, chị đang phân vân không biết có về tham dự lễ thượng thọ 90 của Mẹ chị hay không:
"Mẹ tôi 90 tuổi rồi đó, Mẹ kêu tôi về làm lễ 90 tuổi cho Bà nhưng không biết tôi có về được không. Tháng mười hay tháng mười một sẽ làm sinh nhật 90 cho Bà"
Trong khi đó, chị Kim Kiều thì xem những tháng ngày khó khăn mà chị đã trải qua, như là những kinh nghiệm sống quí báu cho bản thân nhưng vẫn nhất quyết không về thăm nhà, khi quê hương chưa có được tự do: 
"Đúng thì thật ra mình ở nó khổ thiệt nhưng có sống như vậy mình mới biết được dân của mình. Mình sống qua với việt cộng, rồi mình sống ở trại tị nạn thì mình biết được những thứ đó. Đó là những bài học rất là quí báu. Có những người may mắn thì họ không trải qua những cái đó, thì đúng là họ may mắn, nhưng họ không biết được những cái đó.
Còn lớp trẻ thì không hiểu được đâu. Không rút được kinh nghiệm đau thương sống với việt cộng. Tôi qua đây hai mươi năm rồi, tôi không về. Khi nào không còn việt cộng tôi mới về.
Chị Kim Kiều
Còn lớp trẻ thì không hiểu được đâu. Không rút được kinh nghiệm đau thương sống với việt cộng. Không thể nào hiểu được cái đau thương đó. Tôi qua đây hai mươi năm rồi, tôi không về. Khi nào không còn việt cộng tôi mới về, còn Việt cộng là tôi không về."
37 năm đã trôi qua, những thiếu phụ trẻ ngày nào giờ đây đang bước vào tuổi hạc. Tuổi thanh xuân của họ đã trôi qua trong thời chiến với nỗi âu lo cho người yêu ngoài mặt trận. Và khi đất nước thống nhất, hòa bình thì họ lại phải âm thầm tần tảo nuôi con thơ và thăm nuôi chồng trong các trại tù cải tạo, rồi lại lo tìm đường vượt biển để mong đến bến bờ tự do. Họ là những bà mẹ Việt Nam tiêu biểu, âm thầm chịu đựng và luôn quên mình để kiên cường gây dựng cho các thế hệ mai sau.

 
ww.rfa.org/vietnamese/in_depth/recall-war-life-after-37-yrs-2-hv-04302012112328.html

 

RFA * 30 THÁNG TƯ


Người Việt Little Saigon và ký ức tháng 4 

(Phần 1)

2012-04-28
Tháng Tư về, lòng người lại xôn xao ký ức của ngày tháng cũ.

AFP PHOTO
Sài Gòn ngày 30-04-1975
Hình ảnh của những đoàn tàu đi tản từ miền Trung vào Phú Quốc, hình ảnh của đoàn người di tản từ Ban Mê Thuộc về Sài Gòn, hình ảnh của đường phố Sài Gòn trong ngày thay đổi lịch sử, dường như không thể nào nhạt nhòa trong tiềm thức những người đã trải qua thời khắc đó, cho dù đã 37 năm trôi qua.
Mời quý thính giả nghe câu chuyện của một số người dân Little Saigon, có người từng ở Phú Quốc, có người ở Ban Mê Thuộc, có người ở Sài Gòn, kể về những hồi ức của họ trước và ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại nơi họ sống ngày ấy, qua loạt bài phóng sự của thông tín viên Ngọc Lan.
Ngày cuối cùng của tháng Tư đã không trôi qua nhẹ nhàng như bao ngày tháng khác.
Ngày cuối cùng của tháng Tư vẫn hay lôi tuột ký ức người Little Saigon về một thời điểm, một thời khắc, đã xa lắm rồi, đã lâu lắm rồi nhưng vẫn không sao quên được dù cái nhìn của ngày hôm nay về ngày hôm xưa, của 37 năm trước, đã bình tĩnh và lắng đọng hơn.

1975-Tháng Tư đầy biến động

Black-April10-250.jpg
Dân chúng quá sợ, đã bỏ chạy khi thấy các đơn vị quân đội rút khỏi Huế. Photo by Trần Khiêm. 
Bà Xuân Trần, người phụ nữ gần 70 tuổi, sống ngay khu Little Saigon từ năm 1993, cho biết thời điểm tháng 4, 1975, bà cùng gia đình đang sống ở đảo Phú Quốc, nơi chồng bà, một người lính hải quân, đang làm việc. Tại đây, những ngày trước 30 tháng 4, bà Xuân có dịp chứng kiến những chiếc tàu đưa người di tản từ miền Trung vào Phú Quốc, chứng kiến cảnh người di tản bị đói khát, chết chóc, bị cướp bóc thảm thương, tội nghiệp.
Bà Xuân kể lại trong sự xúc động:
“Chưa tới ngày 30 tháng 4, những người di tản từ Đà Nẵng, Nha Trang, Qui Nhơn, họ đổ xô ra ngoài Phú Quốc, nghĩa là đông lắm. Người dân Phú Quốc nấu cháo, nấu thức ăn, nước uống cho vô từng bịch ni long đem tới đó để đứng trên cầu tàu, ai lên thì đưa mỗi người một bịch. Nhưng có người lên cầm được cái bịch đồ ăn rồi thì người ta nói ‘con ơi sao con không sống để mà con uống, con chết rồi!’ Thảm lắm! Thảm thật là thảm!”
Với ông Dân Huỳnh, hiện đang sống tại thành phố Garden Grove, thì những ngày trước tháng 4 lịch sử cũng là những ngày tháng không quên với người thanh niên Sài Gòn mười tám đôi mươi khi đó.
Chưa tới ngày 30 tháng 4, những người di tản từ Đà Nẵng, Nha Trang, Qui Nhơn, họ đổ xô ra ngoài Phú Quốc, nghĩa là đông lắm.
Bà Xuân Trần
Ông Dân Huỳnh hồi tưởng lại những ngày tháng đó:
“Từ năm 1973, lúc 16 tuổi, đang là học sinh trường Hồ Ngọc Cẩn, tôi đã ở trong phong trào liên đoàn thanh niên học sinh sinh viên Gia Định. Phong trào đó rất dữ dội và mạnh mẽ trong chiến tranh. Tuy nhiên, ngay trong nội bộ đã chia 3 phe rõ rệt. Đó là phe trung lập, quốc gia, và cộng sản. Tôi là người trung lập, lúc đó gọi là thành phần thứ ba.
Khoảng 10 ngày trước 30 tháng 4, có 2 người trong liên đoàn, mà tôi còn nhớ là anh Công và anh Thắng, hai người đó đứng về phe cộng sản và thực sự lộ rõ bộ mặt của họ. Họ đã đến nhà tìm tôi, khi đó tôi đang học lớp 12, các anh đã thuyết phục tôi đứng về phía họ, và đưa tôi một cọc truyền đơn để đi rải dưới đường phố, để kêu gọi lính VNCH và nhân dân tự vệ bỏ súng, nhưng tôi đã từ chối, vì tôi không nghĩ là họ cùng quan điểm xã hội với tôi.
Tình hình xã hội càng lúc càng hoang mang, rối ren, từ giữa tháng 4 là chẳng còn ai muốn đến trường nữa hết bởi còn tâm trí đâu mà chúng tôi học nữa. Những người trong liên đoàn cũng vậy. Họ rã hết và mạnh đường ai nấy đi thôi.”

Chuyến di tản kinh hoàng

30-thang-4-250.jpg
Cuộc triệt thoái của quân đội VNCH và dân chúng ra khỏi Huế. Dân và quân, người theo xe, kẻ đi bộ, vượt đèo Hải Vân hướng về Đà Nẳng. Ảnh của cựu phóng viên ABC, Trần Khiêm.
Trong khi đó, bà Hạnh Phan, hiện đang là cư dân thành phố Garden Grove, vào thời điểm ấy mới 23 tuổi, đang là một cô giáo trẻ tình nguyện lên dạy học tại Pleiku, đã trải qua một cuộc di tản “khốc liệt” kéo dài ‘cả tháng trời” để về Sài Gòn.
Bà Hạnh nhớ lại, “Từ giữa tháng Ba, tình hình đã bắt đầu hỗn độn, có người đã di tản. Nhiều gia đình học trò cũng rủ đi, nhưng theo lời người hiệu trưởng, tôi vẫn ở lại bám trường, lúc đó mình trẻ mà nên rất lý tưởng, nghe kêu ở lại là mình ở lại.”
Cho đến một ngày gần cuối tháng 3, cô giáo trẻ đến trường, nhưng trường “không có một bóng người, ông hiệu trưởng cũng đã bỏ chạy từ hồi nào.” Cô chua chát.
Quay trở về nhà trọ, cũng là lúc có lệnh di tản toàn tỉnh, “thế là tôi cũng như mọi người cùng đổ ra đường, chỉ một bộ đồ trên mình, hòa vào dòng người ùn ùn chạy trên tỉnh lộ 3 ‘Bảy Kép’ về hướng Tuy Hòa.” Bà Hạnh kể tiếp.
đoàn người di tản đông không thể tưởng, mình cứ chạy đến đâu thì người dân từ nơi đó lại tháp tùng vô và cứ thế mà chạy.
Bà Hạnh Phan
Trong ký ức cô giáo Hạnh Phan, “đoàn người di tản đông không thể tưởng, mình cứ chạy đến đâu thì người dân từ nơi đó lại tháp tùng vô và cứ thế mà chạy.”
Một tháng trong rừng, “hỗn quân hỗn quan.”
Đói khát
Cướp bóc
Hãm hiếp
Chết chóc
Và cả những hình ảnh không thể nào quên.
“Có những người di tản bằng xe Honda. Họ chạy đến khi hết xăng thì vứt bỏ xe lại. Không biết bao nhiêu là xe, tôi chỉ biết những chiếc Honda bị xe công binh đi trước mở đường cán lên bẹp lép, và chồng dày lên nhau từng lớp. Trông rất đáng sợ.”
di-tan-75-250.jpg
Quá sợ cảnh tàn sát của cộng sản trong trận Tết Mậu Thân, người dân bỏ nhà cửa, ruộng đất gồng gánh theo đoàn quân di tản. Photo by Trần Khiêm.
Lại có lúc, những chiếc máy bay “hai chong chóng” đáp xuống để xe nhà binh chạy lên, người di tản cũng ùa chạy lên. Máy bay nhắm không thể chứa nổi, cất cánh, chao nghiêng, và người ta từ máy bay rớt xuống…
Bà lại nhớ khi phải qua sông, công binh đi trước bắt cầu, nhưng cầu vừa giăng xong thì lại bị Việt Cộng bắn đứt, dân đành đu mình theo xe lội nước qua sông…
Bà Hạnh kể, như thể hình ảnh của 36 năm trước đang hiển hiện trước mắt.
Bà Hạnh không nhớ mình đã làm sao để có thể tồn tại trong suốt cả tháng trời di tản trong rừng như thế. Cứ đi, cứ chạy. Lúc bằng chân, khi leo lên xe, đủ loại xe, xe nào ngang qua cho nhảy lên thì mình cứ lên.
Không còn biết sợ. Không còn biết lo. Không còn cảm xúc.“Tôi còn không thể nào nhớ mình có hành kinh hay không nữa. Kinh khủng quá!” bà Hạnh lắc đầu như muốn xua đi ký ức.
Ròng rã một tháng trời, bà Hạnh Phan cũng đã đặt chân đến Sài Gòn 4 ngày trước khi lòng người ghi nhận một sự thay đổi lớn.

Người Việt Little Saigon và ký ức tháng 4 

(phần 2)

2012-04-30
Một số người dân Little Saigon kể về những hồi ức của họ trước và ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại nơi họ sống ngày ấy.
AFP photo
Bộ đội với mũ tai bèo đứng gác ở Dinh Độc Lập sau ngày 30 tháng 4 năm 1975

Ngày 30 tháng Tư, 1975

Nếu anh Dân Huỳnh chỉ biết đạp xe đi khắp thành phố trong ngày 30 tháng 4 để chứng kiến sự thay đổi trong tâm trạng vừa nôn nao, rối bời, lâng lâng, vừa ngỡ ngàng, lạ lẫm của một chàng trai mới lớn, thì bà Xuân Trần đang ở Phú Quốc, cũng như bà Hạnh Phan đang ở Sài Gòn, đã bật khóc òa ngay khi nghe tin “Sài Gòn thất thủ, tướng Dương Văn Minh đầu hàng.”
37 năm đã trôi qua, nhưng trong ký ức bà Xuân Trần, hình ảnh Phú Quốc ngày 30 tháng 4 ngỡ như mới hôm qua:
“Sau đó đến ngày 30 tháng 4 thì ngày đó rất là thê thảm, rất là hỗn độn. Ngày đó chồng tôi từ trại hải quân đi về nói là ‘ông Dương Văn Minh đầu hàng rồi em ơi!’ thì tự nhiên tôi bật khóc, tôi khóc dữ lắm. Rồi tôi nói ‘giờ phải làm sao đây anh.’ Chồng tôi nói ‘bây giờ để yên anh xuống dưới Bãi Xếp coi làm sao.’
Trong lúc chồng tôi đi thì ở nhà có bao nhiêu tiền tôi trút ra đi mua đủ thứ, gạo, bột ngọt, đường, cái gì tôi mua được là tôi mua. Mà ngoài chợ người ta đổ xô chạy tán loạn hết trơn. Tôi mua đồ về chất đầy nhà đầy gác hết trơn vậy đó.
Khi chồng tôi về thì nói ‘em ơi người ta đi hết rồi.’ Mà trước khi chồng tôi đi thì có nói ‘em ơi chuẩn bị cho con mấy cái ruột tượng có tiền bạc, có gì bỏ hết vào trong đó rồi cho mỗi đứa mang một cái.’ Nhưng mà tui quýnh quáng tôi cũng không làm được cái gì. Trong lúc mà người ta đi ngang nhà người ta cứ kêu “đi không chị ơi, chị Lợi ơi đi,đi nha!’ Tôi cứ nhìn bầy con 7 đứa mà không biết làm sao để đi. Tại vì thấy trên đường đi người ta đã chết chóc nhiều quá rồi, tôi không dám đi. Đứa con nhỏ mới 8, 9 tháng tuổi thôi, còn những đứa kia cứ cách nhau 1 tuổi. Nhìn 7 đứa con tôi không thể nào đi được.
Tối hôm đó chồng tôi nói thu xếp vào Hải Đội 4 để đi, tất cả chất hết lên chiếc xe jeep, mang theo sữa sợ mấy đứa nhỏ đói. Nhưng đến đó thì ông chỉ huy trưởng ra lệnh cho ông quản đội trưởng nói ai bước xuống tàu là bắn bỏ. Cuối cùng đến 1 giờ sáng thì chồng tôi nói ‘đi về em ơi.’ Vậy là trở về. Sau đêm 30 đó rồi thì ngẩn ngơ không biết gì hết.”
Trong lúc đó, bà Hạnh Phan đang ở nhờ nhà một người quen ở ngay Sài Gòn.
Theo lời bà Hạnh Phan thì cả ngày hôm đó bà chỉ ở trong nhà và cứ nghe radio, xem tivi. và “bật khóc nức nở khi nghe tiếng ông Dương Văn Minh đầu hàng.” Bà Hạnh Phan kể rằng bà đứng trên lầu nhìn xuống đường và nhớ hoài hình ảnh những người lính VNCH cởi bỏ quần áo lính, và từ trên những chung cư, người dân ném quần áo xuống cho họ. Trên đường, quần áo rằn ri, súng ống, giày mũ được vứt đầy. “Nhìn đau lòng lắm!”
Ngày đó chồng tôi từ trại hải quân đi về nói là ‘ông Dương Văn Minh đầu hàng rồi em ơi!’ thì tự nhiên tôi bật khóc, tôi khóc dữ lắm.
Bà Xuân Trần
Cảnh tượng đó cũng được anh Dân Huỳnh ghi nhận để mà “nhớ hoài”:
“Ngày 30 tháng 4 năm 75, lúc đó nhà tôi ở đường Chi Lăng đã đào hầm. Sáng sớm nghe có tiếng trái pháo rơi gần nhà, ba má tôi kêu mọi người xuống hầm. Tôi thì lại muốn chứng kiến sự thay đổi của lịch sử.”
Cùng một người bạn, anh Dân đạp xe đi quanh Sài Gòn.
Đường phố đông đúc, náo loạn và kinh hoàng.
Có người dân bỏ chạy. Có người dân đi hôi của.
Có người lính bỏ chạy. Có người lính vẫn cầm súng.
Có những người tự lấy băng đỏ quấn quanh tay như dân quân tự vệ.
Có người cầm súng bắn lên trời như chúc mừng chiến thắng.
Và, từng đoàn xe tăng chạy về hướng trung tâm Sài Gòn…
Đường phố Sài Gòn đủ mọi thanh âm, đủ mọi sắc thái.
Có tiếng reo hò. Có tiếng thét vang.
Có cả nụ cười. Có cả nước mắt.
Ông Dân Huỳnh nhớ mãi tâm trạng bất ổn của mình vào thời khắc ấy:
“Tôi nhìn hình ảnh của một xã hội ngày tan rã lạ lùng và kinh hoàng lắm. Người ta không biết cái gì là cái gì. Không còn trật tự. tất cả mọi nơi đều rối bời. Không còn an toàn. Tôi chỉ nhớ cảm giác của mình rất lạ lẫm. Trong lòng vừa lâng lâng, vừa buồn buồn. Vừa háo hức, vừa hoang mang. Nói chung là một tâm trạng bất ổn, bởi vì tôi không biết mình sẽ đi về đâu và lý tưởng của mình ở đâu.”

Những ngày tiếp theo

000_ARP1298052-250.jpg
Những người lính VNCH cởi bỏ quần áo lính, súng ống, giày mũ vứt đầy đường vào những ngày cuối tháng 4, 1975. AFP photo
Những ngày tiếp theo đó trong trí nhớ của bà Hạnh Phan là hình ảnh của những trang sách, những quyển truyện bị xé nát. Là hình ảnh của những dây băng máy hát đĩa bị kéo ra, rối nùi, vứt đầy trên sông.
Bà Hạnh Phan kể bằng những cái lắc đầu và giọng buồn chan chứa, “Một hình ảnh thê lương và buồn bã. Tôi chỉ có cảm giác mệt mỏi, rã rời, từ tinh thần đến thể xác. Tôi chỉ nhớ như vậy. Còn tiếp theo là gì nữa, tôi đã trở lại để sống tiếp cuộc sống khi đó như thế nào tôi không nhớ, không muốn nhớ.”
Ông Dân Huỳnh thì nhớ:
“Những ngày sau 30 tháng 4 lúc nào cũng rộn rịp, xôn xao. Nhưng thực chất bên trong nó là điều gì thì tôi không hề biết. Ba ngày sau đó, tôi có giấy gọi của trưởng phòng văn tuyên huấn của ủy ban quân quản lên làm việc. Lên đó, tôi gặp ngay người ngày trước ở trong liên đoàn thanh niên học sinh sinh viên Gia Định chung với tôi. Tôi nhớ anh ta đã trở thành một cán bộ của cộng sản với cái băng đỏ và anh ta hỏi tôi thế nào, em có đồng ý chúng ta là người cộng sản hay chưa?’ Tôi miễn cưỡng và tôi ngập ngừng trả lời ‘tôi chỉ muốn mình là một người dân bình thường.”
Riêng với bà Xuân Trần ở Phú Quốc thì “ngày 1 tháng 5 trên đảo có vẻ vắng lắm, những người bỏ đi thì đã đi hết rồi. Sang ngày 2 tháng 5 thì Việt cộng hay Việt cộng ăn theo bắt đầu nổi dậy bằng những màn bắn giết những ai bị cho là có nợ máu với họ.”
Từ ngày đó, Phú Quốc trở nên “khủng khiếp lắm, thê lương ảm đạm lắm” trong ký ức người phụ nữ này:
“Người ta biểu mỗi nhà phải đặt một bàn thờ trước sân nhà để hình ông Hồ Chí Minh lên, để nhang để đèn giống như bàn thờ ông bà vậy đó. Rồi mấy loa đặt cùng hết. Nhà tôi trước cái loa, sau cái loa, cứ là ‘như có bác Hồ như ngày vui đại thắng’ này kia mà mỗi lần nghe là hai lỗ tai tôi muốn bể luôn vậy đó.
Mà buồn lắm. Mà những ngày đó thê lương ảm đạm lắm. Cứ tối lại thấy người ta dẫn người lấy cái mền trùm lại dẫn xuống đâu hay lên sân chùa, Bãi Sếp gì đó mà bắn bỏ. Cứ mỗi ngày là thấy người ta dẫn đi như vậy. Có người thì nói đi là đi luôn không thấy mặt mày nữa. Có người thì ở trên miễu Cô Sáu tối họ vô gõ cửa, kêu ra là bắn. Khủng khiếp lắm, thê lương lắm. Tôi cứ nhìn bầy con của tôi rồi tôi nói ‘ông trời ơi, ông sập xuống đi cho cả nhà tôi chết hết đi.’ Nghĩa là trong thời gian có nửa tháng thôi mà người ta nhìn tôi không ra, người ta đi ngang nhà hỏi, chị Lợi đó hả sao mà chị ốm dữ vậy.”
Khủng khiếp lắm, thê lương lắm. Tôi cứ nhìn bầy con của tôi rồi tôi nói ‘ông trời ơi, ông sập xuống đi cho cả nhà tôi chết hết đi.’
Bà Xuân Trần
Bà Xuân Trần tiếp tục những dòng hồi ức:
“Hồi đó nhà tôi cho mướn sách mướn truyện, cho đánh bi da nhưng tất cả đều dẹp hết. Sách thì đem ra xé từng trang rồi khóc. Bàn bi da thì chồng lại dẹp hết, không cho làm cái gì hết trơn hết trọi. Ông chồng tôi đi lên Sài Gòn về nói vàng bây giờ không có người ta đóng dấu thì coi như là sắt vụn, vàng phải có nhà nước đóng dấu. Thành ra có bao nhiêu vàng thì tôi đem đi bán, mua một lượng ba trăm ngàn, bán chỉ có chín mươi mấy ngàn thôi, đem đi bán đổ bán tháo, năn nỉ người ta mua, bán hết. Bán hết vàng xong thì bắt đầu đổi tiền. Không biết tôi còn nhớ một trăm đồng đổi lấy lại được 1 đồng hả? Trời ơi, đổi tiền lần đầu tiên nó khủng khiếp lắm, hết trong nhà chẳng còn cái gì nữa hết trơn. Thôi, những ngày đó, giờ nhớ lại không thể nào mà tưởng tượng nổi hết trơn đó. Khủng khiếp lắm.”
37 năm tròn đã trôi qua.
Cuộc sống ngày hôm nay cũng khác quá nhiều so với năm xưa.
Nhưng dường như cảm xúc của ngày này, 37 năm trước, vẫn quẩn quanh trong tiềm thức mỗi người.
Không thể nào quên.
Và cũng cầu mong, không bao giờ lặp lại.

BÁC SĨ TRƯỜNG XUÂN * SỐNG 100 TUỔI

BÁC SĨ TRƯỜNG XUÂN
10 NGUYÊN TẮC SỐNG LÂU TRÊN 100 TUỔI
Các nhà khảo cứu tại Anh Quốc vừa trình bày những khám phá mới nhất của ngành lão khoa ( Geriatrics ) và di truyền học ( Genetics ) và tiên đóan là những thế hệ trẻ trong tương lai sẽcó thể sống được trên 100 tuổi dễ dàng.
Một khảo cứu khác trên 20000 người dân Anh đăngtrên tờ báo Y học British Medical Journal thì cho biết là có thể làmgiảm nguy cơ bị bệnh tim mạch như đau tim, tai biến mạch máu não bằng4 biện pháp sau đây : đi bộ 30 phút mỗi ngày, ăn nhiều rau cỏ và tráicây, không hút thuốc lá và giảm bớt uống rượu. Những nguyên tắc kể trên cũng được Y học Mỹ xác nhận từ lâu nhưng gần đây BS Thomas Perls của Đại Học Boston University cho biết là dựa trên kinh nghiệm của những người đã sống trên 100 tuổi thì ông đã rút ra được những kinh nghiệm như sau ;

1/ Hưu trí.
Các khảo cứu về tử vong đều xác nhận là khoảng thời gian 1 năm sau khi hưu trí là nguy hiểm nhất ở những người về hưurồi không hoạt động gì cả vì tình trạng mập phì gia tăng, tâm thần suy nhược, cholesterol xấu LDL lên cao còn cholesterol tốt HDL giảm, huyết áp gia tăng..BS Luigi Ferruci tại Baltimore sau khi khảo sát tình trạng sức khỏe của vùng Chianti bên Ý là nơi có rất nhiều ngườisống trên 100 tuổi thì thấy rằng những người sau khi hưu trí thì vẫn tiếp tục hoạt động thể chất và tinh thần như trồng rau, trồng hoa, thăm viếng bạn bè, chăm đi lễ nhà thờ.
Tại Mỹ có nhiều chương trình hoạt động thiện nguyện như Expericence corps, Masters Gardeners giúp cho những người cao niên đem kiến thức truyền lại cho giới trẻ, đem lại hứng khởI cho tất cả mọi người..và kéo dài tuổi thọ.

2/ Vệ sinh răng miệng.
Phần này hết sức quan trọng nhưng ít khi được chú ý đúng mức. Một khảo cứu của Đại học Minnesota cho thấy là những người bị viêm nướu răng ( gum disease ) dễ bị tai biến mạch máu não và đau tim vì trong miệng có những vi khuẩn tiết ra những độc chất làm cho máu bị đông và các mạch máu bị viêm. Cần dùng chỉ đánh răng (dental floss ) và chữa trị bệnh răng miệng thật sớm dể tránh bệnh đau tim và cả chứng.. Hôi miệng ( halitosis ) như vua Câu Tiễn đã được mô tả thời xưa !

3/ Hoạt động thể chất, đi bộ.
BS Jay Olshansky thuộc Đại Học Chicago nói ’’ đi bộ là môn thuốc trường sinh tốt nhất và không tốn tiền ‘’. Tất cả những khảo cứu về tuổi thọ đều xác nhận là đi bộ giúp cho tinh thần thoải mái, sáng suốt ( tăng chất endorphins ), tránh té ngã, tăng sức cơ bắp, xương cứng tránh bị gãy xương hông, một trong những nguyen nhân tử vong ở Mỹ. Không cần phải tập luyện khó khăn như chạy marathon mà chỉ cần đi bộ khoảng 30 phút mỗi ngày. Nếu tập thêm những phương pháp giữ gìn gân cốt như yoga, tai chi thì càng tốt.

4/ Ăn ngũ cốc high fiber mỗi buổi sáng.
Các nhà khảo cứu đều xác nhận là 90 % các chứng bệnh mãn tính ở Mỹ như bệnh tim mạch, ung thư đường ruột đều có thể tránh được nếu biết dinh dưỡng đúng phép. Cần ăn sáng bằng những loại ngũ cốc có nhiều xớ như oat meal, quinoa và gần đây loại hạt Chia seed( Salvia Hispaniola ) giống như hạt é ( basil ) vì có nhiều dàu omega 3 và giúp cho no lâu, có nhiều năng lực. Hạt Chia giúp tránh được bệnh tiểu đường và bệnh tim mạch hết sức phổ biến ở Mỹ. Hiện nay ở Mỹ có khoảng 22 triệu người bị bệnh tiểu đường làm cho ngân sách Y tế tốn trên 200 tỷ USD mỗi năm. Bữa ăn sáng rất quan trọng giúp cho cơ thể có đủ năng lực hoạt động trong ngày và đường trong máu được ổn định.

5/ Vệ sinh giấc ngủ.
Cần điều độ trong giấc ngủ, ít nhất từ 5 đến 6 tiếng mỗi tối. Không nên thức khuya xem phim bộ, phim chưởng vì theo lời BS Ferruci thì trong khi ngủ thì cơ thể phục hồi lại các chức năng bị hao mòn trong ngày. Não bộ rất cần giấc ngủ được yên và nhất là giấc ngủ REM giúp cho các tế bào não bộ thu xếp lại các dữ kiện ban ngày giống như các máy điện toán hoạt động off line processing. Những người sống trên 100 tuổi đều hết sức coi trọng giấc ngủ được bình yên.

6/ Thực phẩm hoàn toàn.
Một số sinh tố, enzyms và chất muối khoáng hết sức cần thiết cho tuổI thọ và chỉ có trong những thực phẩm tươi tốt mà các dược thảo ( dietary supplements ) không thể thay thế được. Những hoá chất như carotenoids, flavonoids thường có trong các loại hoa quả có màu như cà chua, cà rốt, rau xanh, mè đen nên cần được tiêu thụ mỗi ngày. Có thể đem pha lẫn với sữa đậu nành hay hạt Chia, hạt é. Nên tránh hay giảm bớt các loại gạo trắng, tinh bột vì thiếu những hóachất kể trên và dể làm cho mập phì, tiểu đường làm cho cơ thể mau bị lão hóa, nói chung mau già.
Một vài khảo cứu trên những người sống trên 100 tuổi cho thấy là họ ăn rất ít vào buổi tối hoặc như trường hợp của ông Breuning, người sống lâu nhất ở Mỹ 113 tuổi là đã bỏ hẳn bữa ăn tối từ 35 năm qua.

7/ Tâm thần bình an.
Tất cả những người sống trên 100 tuổi đều có đầu óc lạc quan, yêu đời, ít bon chen, ganh đua , nóng giận, tham sân si.
Họ có sức chịu đựng stress rất giỏi và trải qua những khó khăn dễ dàng. Tất cả những phương pháp tĩnh tâm như yoga,tai chi, cầu nguyện, khí công đều tốt cả . Không nên tìm cách giải trí bằng xem TV, uống rượu, cờ bạc, xem soap opera, ăn junk food, gây căng thẳng trí não..

8/ Nếp sống tinh thần.
Một khảo cứu trên Giáo phái Seventh day Adventist tại Loma Linda cho biết là tuổI thọ trung bình là 89 trên mức trung bình chỉ có 82. Ngoài việc tránh ăn thịt, người Adventist không hút thuốc, không uống rượu và ăn nhiều trái cây rau cỏ. Đời sống gia đình ổn đình, thể chất lành mạnh. Một BS người Adventist 94 tuổi vẫn làm việc giải phẫu tim mạch như thường lệ.
Người Adventist có chủ trương rằng thân thể là một món quà do Thượng Đế ’’ cho vay ‘’ ( on loan ) nên cần phải được bảo vệ kỹ càng.

9/ Thói quen điều độ.
Những người cao niên có thói quen rất chừng mực, ăn uống điều độ, sáng dậy và tối đi ngủ hết sức mực thước, ít khi ra ngoài thông lệ. BS Ferruci cho biết là những thay đổi bất thường trong đời sống dễ làm cho hệ thống miễn dịch ( immune system ) bị xáo trộn, lệch lạc mất quân bình khiến dễ đüa đến những trường hợp nhiễm trùng, cảm cúm

10/ Quan hệ xã hội, gia đình, bạn bè.
Kinh nghiệm của người Adventist và Okinawa cho thấy là những liên hệ mật thiết với gia đình, bạn bè hết sức quan trọng trong việc tránh chứng bệnh buồn chán. Suy nhược thần kinh và tổn thọ. Liên hệ thường xuyên với thân sẽ giúp cho người cao niên có được sự tự tin, có nơi nương tựa nếu chẳng may hữu sự. Nói chung là trong khi chờ đợi những phát minh mới nhất giúp cho con người sống được trên 100 tuổi thì chúng ta đã có ngày trong tầm tay những phương pháp giản dị nhất để thực hiện điều này qua kinh nghiệm những người đã trải qua cuộc đời .. trên một thế kỷ !

BS Trường Xuân.

VĂN QUANG * VĂN HÓA CÀ CHỚN


Văn Hóa "cà chớn" 
Văn Quang

Monday, 26 December 2011 11:04 

  Tạp Ghi

E-mail Print PDF

alt


Tôi ngần ngại mãi khi viết đến hai chữ "cà chớn" này. Bởi cà chớn khó định nghĩa như thế nào cho chính xác. Cà chớn không hề có nghĩa là láo lếu, cũng không có ý nghĩa là xấu xa, nhảm nhí.

 Thí dụ bạn hẹn một người bạn đi uống cà phê, nhưng anh ta đến muộn, bạn phán là "thằng cà chớn".
Vậy không có nghĩa là anh bạn kia là một người bạn xấu. Hoặc bạn nghe một người bạn nào đó đùa dai một câu như "trông cô gái kia phốp pháp, có vẻ hạp với ông đấy". Bạn chỉ có thể kết tội anh ta là cà chớn chứ không thể cho là anh ta nói láo. Đôi khi nó có nghĩa là xấu, đôi khi nó có nghĩa là vui đùa, đôi khi nó có nghĩa là không tốt, không xấu nữa.

Thí dụ bạn nói về một người bạn rằng: “Thằng ấy nó cà chớn thế thôi chứ không xấu bụng đâu". Vậy cà chớn là không tốt cũng không xấu.

Minh định về hai tiếng "cà chớn"
Xem ra hai tiếng "cà chớn" này rất khó dịch sang tiếng nước ngoài. Xin nhờ các dịch giả, các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ học làm ơn dịch giùm. Tôi cứ nghĩ, nếu không là người Việt Nam thì khó mà hiểu nổi “cà chớn” có nghĩa là gì. Tuy nhiên, người Việt Nam nào cũng có thể cảm nhận được, hiểu ngầm được hai tiếng này. Nhóm chữ "văn hóa cà chớn" tôi dùng ở đây mang tất cả các ý trên.

Lại cũng xin xác minh rằng hai tiếng "cà chớn" đã có từ thời xa xưa chứ không phải chữ nghĩa hay lời nói mới phát sinh vào thời đại ngày nay ở Việt Nam (không phải chữ nghĩa VC). Tôi nhớ rằng khi còn nhỏ, khoảng trên dưới 10 tuổi, mỗi buổi chiều khi tôi mê đá bóng hay đánh bóng chuyền, bóng bàn, về nhà trễ, tôi thường bị anh tôi mắng là "thằng cà chớn”. Tôi nghĩ ông ấy đã dùng chữ này thật chính xác. Nếu tôi mê đánh đinh đánh đáo, anh tôi có thề mắng là “thằng bố láo, thằng lười, ham chơi hơn thích học”, nhưng tôi mê thể thao cũng như ông ấy thì ông không dùng chữ “láo” được mà chỉ có thể có thể cho tôi là "thằng cà chớn" là đúng nhất. Đôi khi người ta còn dùng là “cà chớn, cà cháo”, nhưng chữ “cháo” này không có nghĩa gì khác cả, chỉ là câu nói quen miệng cho trơn, cho xôm tụ thôi.

Nhưng khi người ta nói “người ngợm đâu mà bẩn thế”, chữ “ngợm” ở đây có thêm nghĩa nghĩa xấu, chứ nói về một người tốt, không ai thêm chữ “ngợm” vào cả. Thế mới biết chữ nghĩa Việt Nam thâm thúy lắm. Cũng cùng một nhóm chữ, nhưng mỗi trường hợp phải được hiểu theo một ý khác nhau và hiểu được đúng lại càng khó. Đôi khi chỉ còn là sự cảm nhận của những người cùng chung một dân tộc, một huyết thống.

Tác phẩm cà chớn trên thị trường chữ nghĩa
Trong những ngày gần đây, tại Việt Nam rộ lên những cái gọi là "tác phẩm văn học" được một vài nhà xuất bản tung ra thị trường chữ nghĩa rồi lại bị thu hồi khiến nó bỗng nổi tiếng và được nhiều người tò mò tìm đọc. Cái trò sách bị tịch thu bao giờ cũng bán chạy, tưởng như một "nghịch lý" mà không phải "nghịch lý' này trở thành một chiêu quảng cáo rất hấp dẫn, mang lại kết quả rất béo bở cho mấy nhà phát hành. Hai cuốn sách đã cho xuất bản, bày bán cả mấy tháng trời mới bị tịch thu. Đó lá cuốn "Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông" và cuốn "Sát thủ đầu mưng mủ"


Cuốn sách "Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông (tập truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên, Sách Phương Nam & NXB Hội Nhà Văn 2011) sẽ phải thu hồi trong vòng 10 ngày, theo quyết định của chánh thanh tra Sở Thông tin - truyền thông TP.HCM ký ngày 1/11. Quyết định này còn buộc Công ty Sách Phương Nam phải nộp phạt 7,5 triệu đồng do cuốn sách trên "truyền bá lối sống dâm ô đồi trụy, không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam". Cuốn sách này gồm 13 truyện ngắn, được phát hành trên toàn quốc từ tháng 4/2011, tuy nhiên đến nay chỉ có TP.HCM quyết định tịch thu sách. Và đang gây nhiều tranh cãi, vậy tạm thời chúng ta sẽ bàn đến vào dịp khác.

Trong bài này, tôi điểm qua cuốn sách được coi là rất kỳ cục cũng vừa bị tịch thu. Đó là cuốn "Sát thủ đầu mưng mủ". Mời bạn đọc nhìn vào nội dung cuốn sách xem nó mang lại những gì cho độc giả.

"Sát thủ đầu mưng mủ" là cái quái gì vậy?
Trước hết, ngay cái tên tuyện "SÁT THỦ ĐẦU MƯNG MỦ" chẳng mang một ý nghĩa nào chứ đừng nói đến ý văn học hay giáo dục. Nó cũng chẳng là thứ truyện bằng tranh giải trí cho trẻ em. Nó có phần nào phản ảnh được tâm trạng... bừa phứa, ăn nói lung tung, kém văn hóa của một số lớp trẻ hiện nay ở các thành phố lớn mà người ta thích gọi là "tuổi teen".
Cuốn "Sát thủ đầu mưng mủ" do Công ty Văn Hóa Truyền thông Nhã Nam đặt hàng cho họa sĩ Thành Phong thực hiện và ông họa sĩ này đã mất 5 tuần để thực hiện các bức tranh. Mỗi bức tranh mang một "thành ngữ" mà ông tự nhận đây là cuốn sách thu thập "các thành ngữ sành điệu" của giới trẻ. Vậy sự "sành điệu:" đó như thế nào? 
Từ trang bìa đến nội dung cuốn sách, người đọc được giới thiệu những bức vẽ có phần dễ dãi như loại biếm họa trên các trang báo hằng ngày, mục đích có lẽ chỉ để chọc cười. Cuốn sách tập hợp 120 câu nói thông dụng, cửa miệng hiện nay của giới trẻ như "Ngất ngây con gà tây", "Phi công trẻ lái máy bay bà già", "Thuận vợ thuận chồng, con đông mệt quá", "Tào lao bí đao", "Tự nhiên như cô tiên", "Xấu nhưng biết phấn đấu", "Đói như con chó sói", "Một con ngựa đau, cả tàu được thêm cỏ", "Một điều nhịn là chín điều nhục", "Cái khó ló cái ngu"...

Sự phản bội văn hóa đạo đức dân tộc
Cuốn sách "Sát thủ đầu mưng mủ" được phát hành trong tháng 10/2011. Vừa "ra lò", nó đã nhanh chóng trở thành "cẩm nang" của hầu hết giới học sinh thành phố. Đọc những câu cú trên đây, hẳn bạn đọc đã thấy rõ có những câu vô nghĩa bị kết tội là rẻ tiền, là làm nghèo tiếng Việt cũng không sai. Cứ cái đà ấy cuốn sách kéo dài một cách trơ trẽn, đầu độc những cái đầu non trẻ. Chúng sẽ dựa vào sách để bắt chước, "sáng tạo" ra những câu cú tục tĩu, kỳ quái hơn nữa. Đã có rất nhiều ý kiến phản đối kịch liệt, cho rằng đây là một cuốn sách nhảm nhí, xuyên tạc thành ngữ, tục ngữ Việt Nam và làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt. Chị Thanh Hà, một nhân viên ngân hàng, lên tiếng: "Tôi không hiểu vì sao một cuốn sách nhảm nhí như vậy lại được kiểm duyệt để xuất bản.

 Những câu thành ngữ, tục ngữ của cha ông như "Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ" bị cải biên, xuyên tạc một cách trắng trợn. Thử hỏi, với các cháu nhỏ lứa tuổi tiểu học khi cầm những cuốn sách này, các cháu sẽ học được điều gì?".
Hoặc những câu "Có chí thì ghê", xuyên tạc mất ý nghĩa giáo dục tinh thần của câu "Có chí thì nên" của ông cha ta bao đời để lại cho con cháu noi theo. "Một điều nhịn là chín điều nhục", "Cái khó ló cái ngu"... toàn là những câu phản lại truyền thống đạo đức Việt Nam.
Việc phổ biến rộng rãi những câu nói này sẽ hình thành trong giới trẻ thói quen ăn nói hời hợt, nghèo nàn về văn hóa, thậm chí phản bội văn hóa. Vì thế, không thể in thành sách những câu nói như vậy. Đúng là một cuốn sách cà chớn chưa từng thấy trong lịch sử xuất bản văn học Việt Nam.

Vậy mà nó còn được bán ra thế giới!!!
Cuốn "Sát thủ đầu mưng mủ" xuất hiện trên trang bán hàng trực tuyến Amazon (ấn bản Kindle, sách điện tử) với giá 7,99 Mỹ kim. Sách được bán theo nhượng quyền xuất bản ở Mỹ giữa công ty Nhã Nam - Nhà xuất bản Mỹ Thuật với Indochine Media Inc, một công ty truyền thông có trụ sở tại Milpitas, California.

Theo ông Dương Thanh Hoài, Phó giám đốc công ty Nhã Nam, thủ tục chuyển nhượng quyền xuất bản "Sát thủ đầu mưng mủ" ra thị trường Mỹ và quốc tế đã được thực hiện ngay từ khi cuốn sách ra mắt bạn đọc trong nước, chứ không phải sau khi bị ngưng phát hành. Ông Thanh Hoài cho biết: "Chúng tôi rất vui vì đây là lần đầu tiên sách Việt Nam có thể xuất khẩu ra thị trường nước ngoài, phục vụ cho những người Việt Nam muốn biết thêm về cái mới trong lời ăn tiếng nói, ngôn ngữ trong nước".
Bạn Nguyễn Huy Trường phản ứng ngay trên báo: "Khác gì một sự sỉ nhục tiếng Việt. Cuốn sách đầu tiên được xuất bản ra Thế Giới... là thế này đây? Nhiều lúc không hiểu các bác ấy nghĩ gì nữa, vì vài đồng tiền mà đem một sự bôi nhọ Văn hóa Việt Nam ra bán cho thế giới? Buồn cười với câu nói của ông Phó GĐ Nhã Nam "... cái mới trong lời ăn tiếng nói, ngôn ngữ trong nước". Ông cho cái này là cái mới, cái tiến bộ sao?"
Và cũng ở trên mạng, một độc giả đã cảnh báo: "Vậy thì hãy chuẩn bị tư tưởng để chấp nhận việc một ngày nào đó, con cháu các anh chị sẽ nghêu ngao rằng: "Công cha như miếng rau câu/ Nghĩa mẹ như nước trong cầu chảy ra".
Nếu thế thì chẳng còn gì để nói. Sự xuống cấp của văn hóa đến thế là cùng. Chắc bạn không ngờ được!

Một vài nhận định về "văn hóa nghị trường"
Vào những ngày giữa tháng 12 này, câu chuyện thời sự nóng bỏng nhất tại Việt Nam là việc bất ngờ tăng giá điện kể từ 20/12/2011, đúng vào thời điểm cuối năm và chính phủ đang ra sức kiềm chế lạm phát, bình ổn giá cả thị trường. Người dân coi đó là "cú đánh úp" vào đầu dân của ông Điện Lực Việt Nam. Tiếng ca thán nổi dậy đầy rẫy trên mặt báo và trong từng con hẻm nhỏ. Tuy nhiên, chúng ta hãy đợi xem hậu quả của "cú đánh úp" này đi đến đâu, dịp khác chúng ta sẽ bàn tới.

Trong mấy tuần vừa qua, có 3 bài cần thiết về cách chữa bệnh ung thư và tiểu đường được nhiều bạn đọc quan tâm, nên có một số tin thời sự, tôi phải gác lại. Nay xin tiếp tục về vài diễn biến trong lãnh vực thời sự vừa qua.
Trong tuần cuối tháng 11/2011, sự kiện được người dân trong và ngoài nước Việt Nam chú ý đến nhiều nhất chính là lời tuyên bố của người đứng đầu chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng trước quốc hội khẳng định về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa. Tin này đã được rất nhiều cơ quan thông tin bình luận nên tôi không nhắc lại.

Cũng trong cuộc họp này, còn có một số bộ trưởng những bộ được coi là "nóng" nhất đã đăng đàn trả lời các đại biểu (ở Việt Nam gọi các dân biểu hay là đại biểu). Không thể đi vào chi tiết quá dài dòng, ở đây tôi điểm qua một nét chính tượng trưng, trong những câu hỏi của các đại biểu và câu trả lời của các bộ trưởng.

Ai cũng làm bộ trưởng được!
Khuôn mặt nổi bật nhất và là người đầu tiên trả lời chất vấn là ông Đinh La Thăng, người đã hai lần "trảm hai tướng" dưới quyền khi đi thị sát các công trình do các viên chức này chịu trách nhiệm. Sau khi trả lời một số câu hỏi trước nghị trường, ông đại biểu Nguyễn Bá Thuyền chưa "thỏa mãn" nên đã đưa ra câu hỏi " rất nặng ký": 
- "Nếu cứ trả lời lòng vòng như thế thì ai cũng làm Bộ trưởng được. Xin đề nghị Bộ trưởng trả lời xem mấy năm thì có thể giảm được tai nạn giao thông, mấy năm thì giảm bớt được ùn tắc giao thông?"
Trước các đại biểu tại nghị trường, Bộ trưởng Đinh La Thăng nhã nhặn trả lời: "Chúng ta phải quyết tâm, cùng phải làm, chứ còn bây giờ bảo tôi khẳng định bao giờ hết tai nạn giao thông, bao giờ hết ùn tắc giao thông thì xin phép đại biểu là chưa khẳng định được. Chúng tôi chỉ mong rằng nó sẽ kiềm chế và giảm dần như mục tiêu chúng ta đưa ra là mỗi năm giảm từ 5% đến 10%".

Cú "trà đòn" như một cú đá thủng lưới của Messi
Nhưng bên lề hành lang quốc hội, ông Bộ trưởng Thăng đã trả lời câu hỏi của phóng viên:
- Phóng viên: Ông suy nghĩ gì khi có đại biểu quốc hội cho rằng trả lời như ông thì ai cũng có thể làm được bộ trưởng?
- Ông Thăng nói: Tôi nghĩ bộ trưởng là do Quốc hội phê chuẩn chứ không phải ai cũng làm được. Theo tôi, chúng ta đang nói đến văn hóa giao thông thì cũng cần có văn hóa về chất vấn.
Quả thật câu trả lời nhẹ nhàng mà rất thấm. Ông Thăng nói đến "văn hóa chất vấn" đúng nơi đúng lúc. Cú "trả đòn" của ông Thăng mềm mại như Messi đi bóng, đá một cú lượn vào góc chết, làm khung thành vỡ toang. Nhẹ mà đau lắm, các cụ ạ.

Đúng là cần phải có "văn hóa chất vấn", không thể để những thứ "ngôn ngữ cà chớn" chui vào nghị trường được. Điều đó thì chính các ông đại biểu phải tự ý thức lấy, chứ không có trường lớp nào dạy hay quy định nào rằng buộc. Người dân lại cảm thấy cần phải thận trọng hơn nữa với những lá phiếu bầu đại biểu của mình.

Ông Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện nghiên cứu lập pháp của Quốc hội, đánh giá về các phiên chất vấn này như sau: "Một số câu hỏi không đúng nghĩa chất vấn, như chỉ hỏi thông tin, mang tính chất trao đổi. Nếu chỉ hỏi lấy thông tin, bộ trưởng trả lời xong, đại biểu tưởng thế là được. Qua loạt hỏi thấy rất ít đại biểu nắm chắc thông tin về nội dung chất vấn, thậm chí có thể đại biểu hỏi để cho cử tri nhìn thấy mình. Do các câu hỏi không đúng nên khó mà đạt được yêu cầu như mong muốn".
Đúng như vậy, theo dõi qua truyền hình, người dân nhận thấy có ông bà đại biểu cầm tờ giấy đọc cũng còn ngắc ngứ và câu hỏi chỉ để mà hỏi, chỉ để cho "nhân dân" nhìn thấy mặt mình trên diễn đàn quốc hội!
- Khi được hỏi: Ông nghĩ sao về ý kiến chính các đại biểu phải có văn hóa chất vấn, văn hóa nghị trường?
- Ông Đinh Xuân Thảo nói: Đúng là văn hóa nghị trường từ người điều hành cho đến người hỏi và người trả lời rất là cần thiết. Như lần trước, Chủ tịch Quốc hội khóa 12 cũng nói không nên đao to búa lớn mà nên lạt mềm buộc chặt. Nếu nói nhẹ nhàng, có lý lẽ, sức thuyết phục thì giá trị hơn là nói như băm bổ hoặc trả lời như là ở bên ngoài. Đối với hoạt động nghị trường, phát biểu trao đổi cũng có quan điểm khác nhau nhưng cách tranh luận dùng lời lẽ thì cũng cần thể hiện văn hóa ứng xử.

Có lẽ không cần phải bình luận gì thêm về sự cần thiết phải có những đại biểu của dân có trình độ kiến thức cao hơn và phải biết ứng xử ít nhất là "văn hóa nghị trường".

Văn Quang

TRUYỆN SONG THAO


 .


Song Thao
NGÀY CƯỚI


bluebar.gif (870 bytes)

Ngày cưới, Nghĩa không có được niềm vui trọn vẹn. Chẳng phải vì đám cưới có gì trục trặc. Mọi việc diễn tiến hoàn hảo đúng như dự trù của anh. Cũng chẳng phải vì anh bị ép buộc gì. Anh và Diệu yêu nhau, lấy nhau giữa sự vui mừng của cả hai gia đình. Cái khoảng hụt hẫng của anh chính là vì thiếu sự hiện diện của hai người bạn nối khố từ những ngày mài đũng quần ở trường tiểu học.


Vũ đang dạy ở trường Võ Bị Ðà Lạt một hai đoan quyết thế nào cũng về. Tao mà không có mặt thì đám cưới mày đâu có thành được. Vậy mà cái lệnh cấm trại trăm phần trăm đã níu chân anh. Khoác vào người bộ đồ lính thì cuộc sống có gì là chắc chắn kể chi tới cái phép đã cầm trong tay mà giờ chót lại trở thành tờ giấy lộn. Sáng sớm ngày cưới, đoàn người đi rước dâu chưa ra khỏi cổng, một bó hoa hồng đỏ au tươi rói gửi về từ Ðà Lạt đã thay Vũ nói lời chúc mừng với người bạn thiết.

 Kèm theo bó hoa là một cánh thiệp đẹp và trang nhã. Gửi tới hai đứa mày những lời chúc mừng đẹp đẽ nhất. Tao đã dành sẵn một phòng tại Palace cho tuần trăng mật của tụi mày. Thằng Tước có về làm phép cưới cho mày không?
Thằng Tước nay đã là một linh mục. Nhưng, với Vũ, bạn bè ngày cũ muốn làm gì thì làm, vẫn cứ là thằng hết. Ba thằng học chung lớp với nhau suốt năm năm tiểu học tại trường nhà thờ Hàm Long ở Hà Nội. Tại sao thân với nhau thì chỉ có trời biết. Vì trời sinh ra ba đứa tính tình khác hẳn nhau. Tước củ mỉ cù mì luôn nhường nhịn và nhỏ nhẹ với bạn bè nhưng có tính khôi hài lạnh rất tới. Nghĩa thì tròn như hòn bi chẳng có cái gai nào của cuộc đời có thể chích làm anh mưng mủ được. 

Vũ bộc trực chẳng có điều gì nằm ở trong bụng anh lâu quá được một phút, lại có cái miệng nói năng thẳng băng chẳng ngán thằng tây nào cả. Học ở trường đạo dĩ nhiên Hiệu Trưởng là một linh mục. Một bữa, trong giờ ra chơi, Vũ đứng há miệng nghe lén cha Hiệu Trưởng nói chuyện với bà mẹ già tới thăm ở ngoài sân. Nghe cho đã xong, Vũ hộc tốc đi tìm Nghĩa và Tước.
Thật là buồn cười!
Nghe cái giọng vừa hậm hực vừa mỉa mai của Vũ, Nghĩa biết trong bụng Vũ óc ách có cái gì sắp sửa chui ra khỏi miệng. Nhưng, để cho đỡ mất giờ chơi, Nghĩa hỏi đưa.
Lại chuyện gì nữa đó ông nội?
Hai mẹ con nói chuyện với nhau. Con thì gọi mẹ xưng tôi, mẹ thì gọi cha xưng con, tao chẳng hiểu ra làm sao cả. Mẹ con thì suốt đời là mẹ con chứ thoắt một cái, con đi tu làm linh mục, mẹ phải gọi con bằng cha là sao? Tao đếch hiểu nổi!
Tước có cái miệng hơi hô, phảng phất giống như hàm ếch, nhưng cười thì lại thấy có duyên và ấm áp vô cùng. Anh thủng thẳng tiếng một với Vũ.
Mẹ con thì lúc nào chẳng là mẹ con. Nhưng đối với những người ngoan đạo, chức linh mục là một chức thánh đáng kính nên nằm trên các quan hệ ngoài đời. Thành ra gọi thì gọi bằng cha nhưng vẫn đối đãi như con.
Vũ cướp lời Tước.
Rắc rối bỏ cha! Nói gì thì nói tao vẫn đếch chịu được. Tao nói cho mày biết, sau này nếu mày có đi tu làm cha thì tao vẫn gọi mày bằng thằng như thường. Ðừng có hòng tao gọi mày bằng cha đâu nghe con!
Tước nhe răng cười. Nụ cười ấm áp và vị tha trông ra đã có dáng vẻ nụ cười của một ông cha hiền từ. Tước là con út trong một gia đình có tám anh chị em tất cả. Trừ người anh cả lấy vợ, sinh con nối dõi dòng họ, sáu người kia, trai cũng như gái, đều dâng mình cho Chúa. Một người đã thành cha, hai người đã thành sơ, còn ba người vẫn ăn cơm nhà dòng chờ ngày chịu chức thánh. Việc Tước đi tu nghe ra là việc trước sau gì cũng tới.
Mùa hè, ba đứa có cái thú đi bắt ve sầu. Con đường Ngô Thời Nhiệm chạy dọc bên nhà thờ Hàm Long, đày cây cao bóng cả, ve sầu kêu ra rả suốt ngày, là đất hoạt động lý tưởng của cả bọn. Ban ngày trời nắng chang chang, Vũ vác cây sào dài, Nghĩa ôm lọ keo chế bằng những đế dép crêpe cũ ngâm xăng, Tước ôm chiếc hộp có đục lỗ để nhốt các anh ve tù tội. Ba cặp chân lê bước chậm chậm để ba cặp mắt nhìn ngất ngưởng lên những tàn lá cao vòi vọi. Trông thấy chú ve sầu nào đang gân cổ lên ca là nhúng keo vào đầu sào, hì hục giơ lên chấm vào cánh ve dính ngắc. 
Hạ sào xuống, nhẹ nhàng gỡ cánh ve cho khỏi rách, mang về buộc ve bằng sợi chỉ cột vào những cây cảnh nho nhỏ ở nhà, nghe ve than khóc cho số kiếp tù đày. Buổi tối chơi cách khác. Mỗi đứa cầm một đèn pin tự chế bằng một cục pin phế thải của quân đội cột dây cao su cho dính vào một bóng đèn có dây điện nối vào hai cực của pin. Những chú sâu từ dưới đất chui lên, bám vào các thân cây chờ lột xác thành ve, là mục tiêu của ba tên học trò. Chỉ việc soi đèn, giơ tay ra chộp là xong. Ðêm đó, sau khi buông màn đi ngủ, cho sâu bám vào màn, nằm nhìn sâu chờ giờ hóa xác mà giấc ngủ chập chờn không yên. Sáng sớm tỉnh dậy đã thấy ve sầu bay túi bụi trong màn. Sướng cách chi!
Chính trong một buổi trưa đi bắt ve sầu vào những ngày cuối năm học lớp nhất, Tước đã giơ khuôn mặt mồ hôi mồ kê nh nhại ra, giọng run run cảm động.
Tao sắp đi tu!
Hai khuôn mặt lem luốc của Nghĩa và Vũ khựng nhìn bạn. Nghĩa ngập ngừng nhìn Tước chưa biết nói gì thì Vũ đã nhanh miệng.
Biết là mày cũng sẽ đi tu như các anh các chị mày nhưng tao hỏi thật nghe. Tu có gì thú vị mà cả nhà mày rủ nhau đi tu vậy?
Tước cúi mặt rơm rớm nước mắt.
Tu có gì thú vị không thì tao không biết, nhưng từ nhỏ tới giờ tao vẫn cứ nghĩ là tao sẽ đi tu. Bây giờ đủ tuổi nhập Tiểu Chủng Viện thì tao đi. Có điều là tao sẽ nhớ hai đứa mày lắm.
Ba đứa lặng thinh nhìn nhau. Tiếng ve sầu ra rả trên cao như vọng về từ một cõi nào xa xôi lắm. Chiếc sào dài vô tình nằm chắn ngang ở giữa chia ra một bên là Tước và một bên là hai cặp mắt đang đăm đăm nhìn xuống đất. Tước phá vỡ mùi chia ly quanh quất giữa ba cái bóng hắt hiu trên mặt đất bằng nụ cười gượng gạo.
Tao hứa sẽ về làm phép cưới cho chúng mày khi chúng mày lấy vợ.
Trong những ngày bận rộn sửa soạn đám cưới, Nghĩa đã cố công tìm Tước. Anh đã phóng vespa trên xa lộ nắng chang chang từ Saigon xuống Hố Nai, vô nhà thờ gặp một ông anh của Tước. Nắm được cái địa chỉ dài dằng dặc của bạn nơi một xóm làng hẻo lánh tuốt tận ngoài Quảng Ngãi, Nghĩa tưởng đã có bàn tay của cha Tước làm phép kết hợp chồng vợ cho anh với Diệu. 
Nhưng thư đi thì có mà tin về thì không. Anh sốt ruột gửi tới ba lá thư. Chẳng vân mòng gì. Cú điện tín anh đánh đi vào những ngày áp cưới như một tiếng kêu hối hả cũng chẳng bắt được tay Tước. Không có Tước , không có Vũ, hớp rượu l anh nhận trong l cưới vừa đắng vừa chua.
Tuần trăng mật, vợ chồng Nghĩa cũng không có mặt trong căn phòng nơi khách sạn Palace mà Vũ đã dành sẵn. Ðường bộ mất an ninh, đường máy bay Saigon-Ðà Lạt không d gì mua được vé, tiếng súng ngày càng gắt gỏng đã giữ chân cặp tân hôn tại Saigon. Cả Nghĩa lẫn Diệu tiếc ngẩn tiếc ngơ. Cuộc tình của họ khởi đi từ Ðà Lạt nhưng chẳng được thăng hoa tại vùng cao này. Trên thành phố hiu hắt, người lẩn khuất sau cuộc tình của bạn đã lặng lẽ hồi lại căn phòng trăng mật đã đặt trước.
Vũ đi ra đi vào, hết đọc sách đọc báo lại thừ người nằm nghe nhạc. Bài vở cần soạn cần chấm nằm bừa bộn trên bàn mà anh chẳng muốn động tới. Sáng nay anh cáo ốm xin nằm nghỉ tại cư xá, sĩ quan chỉ huy đã linh động gật đầu. Dù sao giữa đơn vị và cư xá sĩ quan độc thân chỉ cách nhau một đường dây điện thoại lúc nào cũng có thể reng chuông được. Ðầu Vũ vẫn cấn cái về cái lỗi hẹn một đời với Nghĩa. Ngày nào Nghĩa còn nườm nượp bay từ Saigon lên ở căn phòng này nuôi cuộc tình với Diệu. Hôm nay, cuộc tình chín anh lại chẳng có mặt cho trọn tình bạn khởi đi từ những năm tháng ngây ngô. Vũ nằm lơ mơ nghĩ tới chuyện xưa cười buồn một mình. Cái thằng!
Nghĩa bắt được Diệu lúc nào, Vũ không biết. Cư xá sĩ quan độc thân Thủy Tiên của trường Võ Bị nằm trên đồi cao đối diện với học xá nữ sinh viên Viện Ðại Học Ðà Lạt.

 Chẳng biết bằng cách nào mà thằng bạn nối khố lên ở nhờ phòng anh lại vượt qua được con đường hẹp giơ tay qua phía bên học xá nắm được tay người con gái đang chăm chỉ dùi mài đèn sách. Chỉ khi cuộc tình đã lớn, Nghĩa mới rủ anh đi ăn ở nhà hàng Shangai để giới thiệu Diệu. Vừa ngồi yên chỗ, Vũ đã oang oang.
Bà ở bên học xá à? Sao tôi không bao giờ thấy bà?
Máu tếu của Diệu ỡm ờ nhỏ nhẹ.
Tôi ở trong phòng chứ có ở ngoài đường đâu mà ông thấy được!
Vũ tức tối.
Thế sao cái thằng ma gà này thỉnh thoảng mới lên ở phòng tôi mà nó lại thấy được?
Nghĩa chậm rãi.
Thế mới có chuyện hữu duyên và vô duyên chứ!
Vũ gắt chơi với Nghĩa.
Sư mày! Mày ăn gì mà mắt tinh thế. Câm miệng lại để tao nói chuyện với bà này!
Từ đó Vũ là con thoi giữa hai người mỗi khi có chuyện về Saigon. Mà Vũ thì về Saigon lia chia. Trước khi đi bao giờ Vũ cũng tạt qua học xá xem Diệu có gửi gì về cho Nghĩa không. Về tới Saigon, bao giờ Vũ cũng dùng cái giọng hách dịch phôn gọi Nghĩa ra quán Pagode. Chờ cho ly cà phê sữa nóng được đặt trên bàn, hớp vội một hớp, liếm môi xong, Vũ mới giở cái giọng mai mỉa ra.
Trình mày, lần này mẹ mày gửi cho mày bức tình thư dày cộm. Vũ móc túi áo ném bức thư trên bàn  Chắc mẹ mày thức cả đêm mới ra nhiều chữ đến thế.
Nghĩa làm bộ bất cần chẳng để ý tới bức thư nằm tênh hênh trên bàn. Vũ ngứa mắt bồi thêm.
Sư mày! Còn làm bộ làm tịch! Làm ơn mở thư ra đọc dùm tao đi. Tao biết tỏng là bụng thì như lửa đốt mà mặt thì cứ gân lên ra cái điều tỉnh bơ như không. Trông chướng mắt đếch chịu được!
Mắng xong, Vũ quay ghế ngồi nhìn mông ra đường, nhấm nháp cà phê, không quên thỉnh thoảng liếc nhìn Nghĩa đang chôn mắt vào những giòng chữ thân thương. Khi Nghĩa thẫn thờ xếp những tờ thư lại, Vũ mới quay ghế trở lại, hách xì xằng.
Sao? Mẹ mày ra lệnh bao giờ phải lên hầu? Có lên thì làm ơn ngôn cho tao một tiếng trước để tao dọn dẹp phòng. Mốt tao về lại. Có tí chữ nghĩa nào thì thở ra cho hết đi, tao mang lên cho. Mẹ kiếp! Chắc mẹ mày thích hiện vật hơn mớ chữ nghĩa tào lao của mày. Liệu mà đi bắt chai nước hoa coi bộ có lý hơn!
Lệnh giới nghiêm trăm phần trăm lằng nhằng như một con đỉa đói. 

Nó chẳng bao giờ tha cho Vũ về Saigon mở miệng nói lời chúc mừng cho phải phép. Nhưng cuối cùng anh cũng về được Saigon: trong đoàn quân từ trường Võ Bị Ðà Lạt di tản về Saigon khi Ðà Lạt sắp thất thủ.
Trong tình thế dở khóc dở cười đó thì miệng mồm đâu mà chúc với mừng. Gặp lại nhau, ai cũng chỉ tính tới chuyện đi. Nhưng tính là một chuyện mà đi được hay không là cái số. Số của Vũ và vợ chồng Nghĩa không phải là con số hên. Ngày Saigon đổi chủ họ vẫn còn ở nguyên trong nhà.


Cũng chẳng được lâu. Cuộc đổi đời phũ phàng đã đưa Nghĩa và Vũ vào trại cải tạo. Hai người, hai cái ba lô lép kẹp, cùng đi trình diện một chỗ nên cùng ở chung một trại. Thời gian đầu, nhờ thế, cũng bớt cô quạnh. Cái cốt ở tù có bao giờ là không rũ người ra, nhất là cái loại tù không có thời gian giam giữ nhất định. Người Nghĩa hao mòn mau chóng. 

Vũ cũng chẳng hơn gì nhưng, chỉ một thời gian sau, thấy buồn mãi cũng chẳng ăn cái giải gì, Vũ trở lại với con người cũ. Miệng anh lại rổn rảng mắng mỏ bạn. 
Sướng chưa con? Ai bảo táy máy lấy vợ, bây giờ rũ ra như tàu lá chết. Cứ cu ki như tao là đếch có gì phải lo. — thì ở, về thì về, mặc mẹ chúng nó muốn làm gì thì làm. Ông chấp hết.
Vũ sống nghênh ngang bất cần nhưng cũng đủ khôn ngoan để không bị cán bộ hay quản giáo chú ý. Anh thương bạn xuống tinh thần, đầu óc chỉ tơ tưởng tới chuyện về. 

Những lúc kiếm được củ khoai, miếng cháy hoặc bắt được con rắn, con ếch, anh chẳng bao giờ quên Nghĩa. Thương đó nhưng nhiều lúc thương quá anh lại vênh mỏ lên mắng mỏ lay tỉnh bạn. Thường thì Nghĩa chỉ nhếch miệng cười gượng cho vui lòng Vũ. Ruột gan anh vẫn bời bời lo lắng cho Diệu ở nhà. Ngày nhận được gói quà thăm nuôi đầu tiên của vợ qua bưu điện, Nghĩa ngồi ôm gói quà năm kí, hồn như đi lạc đâu đâu, nước mắt nhẩn nha lăn trên gò má hom hem. Vũ ngồi lặng yên bên cạnh lòng nặng trĩu như đeo đá. Có cái gì chắn ngang miệng làm anh không nói được gì. Khi mặt trời đã khuất sau đám ruộng cằn cỗi trước mặt, anh mới ngăn tiếng thở dài, nhỏ nhẹ thúc dục bạn.
Cất gói quà rồi đi tắm chứ!
Nghĩa vẫn nước mắt lăn dài, đưa gói quà cho Vũ, đứng dậy bước chậm rãi ra mép ruộng, nhặt từng cục đất, giang thẳng tay ném mạnh vào mục tiêu vô hình trước mặt.
Cuộc chuyển trại đầu tiên đã tách Vũ ra khỏi Nghĩa. Hai người từ đó chẳng còn tin tức gì của nhau. Cái thân tù tội như trái banh mặc tình bị ném qua hết trại này đến trại khác. Có năm di chuyển tới ba lần, bạn bè rơi rụng dần hết. Khi Nghĩa lê được tấm thân héo úa về với Diệu thì anh nghe tin Vũ đã vọt đi được rồi. Mừng cho bạn nhưng cũng cay đắng cho mình. Cuộc sống vật vờ tiêu hao ngày tháng bên lề xã hội thúc đẩy vợ chồng Nghĩa kiếm đường đi. Ðường thì có nhưng đi được thì không.
Cũng vì không đi được nên Nghĩa đã có dịp há hốc miệng, ôm chầm lấy Tước vào một sáng Chủ Nhật khi Tước khoan thai bước qua cửa nhà Nghĩa. Tước chẳng áo chùng thâm, chẳng thánh giá trên áo, chẳng miếng mi ca trắng trên cổ, chỉ lè phè áo bỏ ngoài quần nhầu nát trông như một anh ba tầu buôn bán tạp hóa. Nụ cười vẫn ấm áp, bộ điệu vẫn khoan thai hiền hòa, chỉ có cặp mắt đỏ hoe bày tỏ chút xúc động. Tước vỗ vỗ vai Nghĩa.
Chúa thương mình còn gặp lại nhau. Sao cậu gầy thế?
Nghĩa quả có lúng túng trong cách xưng hô với Tước. Mày tao như xưa thì không ổn mà cha con thì ngượng miệng. Tiếng cậu của Tước làm Nghĩa thoải mái. Tuy vậy anh cũng chưa biết tự xưng là gì cho ổn. Ðành nuốt hết chủ từ cho chắc ăn.
Chơi trò cải tạo thì cậu nghĩ mập làm sao được?
Giêsu lạy Chúa tôi, cậu phải đi cải tạo à? Thôi, lành lặn mà về được với vợ con là phúc rồi. Chị ấy đâu? Cho tớ chào chị ấy chứ!
Thấy Diệu bước ra, Tước chắp hai tay cúi đầu.
Chào chị! Tôi đến đây để tạ lỗi với anh chị. Tôi đến chậm mất mười năm.
Diệu luống cuống trước vẻ trịnh trọng của Tước.
Thưa cha...
Tôi xin chị. Tôi là bạn với anh Nghĩa. Chị cho tôi tiếng anh là quí rồi.
Diệu quả không được chuẩn bị cho tình huống này. Nàng lí nhí lời chào rồi xin phép tháo lui. Còn lại hai người, Nghĩa đã chíp được tiếng tớ của Tước trước đó, hồn nhiên với bạn.
Thế ra cậu có nhận được thư của tớ hồi đó hả?
Tớ nhận được nhưng tr mất gần một năm. Dạo đó vùng quê rất thiếu linh mục nên tớ phải đi rong mỗi chỗ một chút. Khi biết tin cậu lập gia đình, tớ chỉ có thể âm thầm dâng l cầu nguyện cho vợ chồng cậu. Này, tớ nói thật với cậu nghe. Không được làm phép cưới cho cậu như đã hứa, tớ khó chịu vô cùng.
Nghĩa hạ nhỏ giọng, bông đùa.
Khó chịu chi! Ðể lúc nào lấy vợ hai tớ sẽ nhờ tới bàn tay của cậu!
Tước phá ra cười giọng tỉnh bơ.
Xong ngay. Tớ sẽ làm phép bằng tay trái!
Khởi đầu bữa cơm trưa hôm đó, Tước đã làm phép thực phẩm bằng tay mặt. Cơm đãi khách mà lèo tèo gọn ghẽ. Tước cầm đũa gắp đồ ăn cho hai đứa con của Nghĩa.
Mình chịu cực khổ quen rồi không sao. Chỉ tội cho đám con nít!
Hai đứa con của Nghĩa thấy bữa ăn hôm nay có vẻ trịnh trọng khác thường. Chúng đã tròn mắt nhìn ông bạn của bố giơ tay múa may trước khi chúng được cầm đũa. Mẹ chúng thì nghiêm trang như đang ở trong nhà thờ. Khi Nghĩa bảo chúng Tước là một ông cha thì chúng càng ngạc nhiên hơn. 

Cha gì mà kỳ cục chẳng giống cha trong nhà thờ. Nhưng được cái ông cha này nói chuyện vui và luôn tay gắp thức ăn vào chén của chúng.
Bữa ăn kết thúc chóng vánh. Nghĩa kéo Tước ra ngồi uống trà ngoài hàng hiên. Khoảng sân rộng trước nhà rậm rạp những hành ngò thơm húng. Những luống hoa ngày xưa nay chẳng còn dấu vết. Hai người lặng thinh nhìn vào đám lá xanh buồn bã nhưng thực tế. Tước lên tiếng hỏi Nghĩa mà như không chờ câu trả lời.
Vũ nó đi được rồi phải không?

Cũng hơn năm nay rồi.
Còn cậu tính sao?
Tính đã vài lần nhưng tiền mất tật mang.
Còn tính nữa không?
Tính thì lúc nào chẳng tính. Nhưng láng đâu còn bao nhiêu.
Ðể tớ tính cho nghe! Tụi nhỏ không thể lớn lên ở đây được đâu!
Cậu cũng tính luôn chứ?
Không! Tớ đã hiến mình để phục vụ. Nơi nào cần, tớ phải có mặt ở đó. Chưa bao giờ ở đây lại cần linh mục như bây giờ.
Ðường dây Tước đưa gia đình Nghĩa đi là do một bổn đạo thân tín của anh tổ chức. Êm ả và hữu hiệu. Một tuần trên biển, một năm trên đảo, gia đình Nghĩa đã có mặt ở Canada. Một tháng sau, tiếng Vũ đã ậm ừ trên điện thoại.
Thưa có phải ông Nghĩa đấy không ạ?
Mắt Nghĩa mờ đi khi nghe lại được cái giọng quen thuộc. Anh muốn nằm lăn trên sàn nhà, duỗi thẳng chân tay để tận hưởng cái sảng khoái này. Nghĩa vừa thở vừa hồi hộp thả giọng nhỏ.
Mày đấy hả Vũ?
Chứ còn ai nữa! Lâu lắm mới nghe lại cái giọng của mày mà sao câu đầu đã thấy vô duyên.
Nghĩa không kềm được câu chửi thề.
Sư mày! Mày ở đâu vậy?
— xa mày lắm. Muốn máy bay nó đưa đi thì tốn mất tám tiếng đồng hồ và gần một xín tiền mẽo.
Lại giở cái giọng úp mở! Bao nhiêu năm mà mày vẫn chẳng đứng đắn thêm được chút nào. Mà sao biết tao ở đây vậy?
Trình mày, tao ra lệnh cho cả CIA lẫn FBI kiếm thì dù mày có là con kiến chúng nó cũng kiếm ra. Diệu khỏe chứ? Mấy nhóc vui chứ? Mà tụi mày có mấy đứa tất cả? Tao phải cập nhật hóa chứ tụi mày lộn xộn hồi nào tao đâu có biết được.
Cám ơn mày khỏe cả. Tụi tao vẫn chỉ có hai đứa thôi. Còn mày, vợ con gì chưa?
Mẹ kiếp, đầm nhiều quá làm sao lấy vợ được?
Thì đừng lấy hết. Lấy một đứa thôi.
Tội chúng nó, mày!
Không lấy, mai mốt già đáu chó nó lấy!
Thảm kịch là ở chỗ đó. Già thì phải lấy già trong khi đầm thì toàn đầm non.
Sư mày! Làm như ngon lắm!
Hạt già mới là hạt quí, mày! Thôi không giỡn nữa. Tao với mày thử nói chuyện đứng đắn một chút coi có được không. Mày đã có việc vàng gì chưa?
Ðang cố kiếm tí việc đây nhưng coi bộ hơi vất vả.
Nhân danh bạn mày, tao nhập môn cho vài điều. Thứ nhất, ở bên này đếch đói được đâu, đừng lo.
 Thứ hai, chỗ nào nó cho mượn tiền thì cứ giơ tay ra, đừng sợ nợ. Thứ ba, tạm thời tao sẽ gửi cho mày ít tiền chi dùng lúc ban đầu, sau đó sẽ tính sau, đừng từ chối. Rõ chưa?
Nghe như vẫn còn giọng quan hai thày giáo ấy nhỉ?
Lên chức rồi. Bây giờ là thợ tiện ca ba!
Tiếng điện thoại của nhà Nghĩa đã quen reo lên mỗi sáng Chủ Nhật, đúng chín giờ, không bao giờ sai chệch. Vũ thường nói chuyện với Nghĩa, nhưng đôi khi với Diệu, lúc với hai đứa con của Nghĩa. Anh như một thiên thần bản mệnh chăm lo cho gia đình bạn. Một thiên thần chăm chỉ và biết chửi thề vung vít.
Có một lần điện thoại reo chệch giờ. Mười hai giờ khuya. Thứ bảy. Giọng Vũ thiếu rổn rảng.
Nghĩa hả mày? Ngủ chưa? Sao tao vừa nằm xuống thấy bụng cấn cái. Ðưa tay nắn thấy u lên một cục bằng trái chanh. Chẳng biết là cái đếch gì đây. Cũng hơi giật mình nên kêu mày.
Cái gì thì cũng phải đi bác sĩ coi. Mai đi liền đi. Chẳng nên để lâu.
Giọng Vũ chán chường.
Ngại bỏ mẹ đi. Phanh bụng cho mấy anh lang tây khám thì ra nhiều chuyện lắm. Nhưng chắc cũng phải đi.
Trái chanh bất thường đó gây nhiều chuyện thật. Khi biết chắc mình bị dính ung thư, Vũ như mất phương hướng. Anh gọi báo tin cho Nghĩa, giữ điện thoại cả giờ xoay quanh nói chuyện với cả Diệu và hai đứa con Nghĩa. Nghĩa phờ người chán chường. Anh quyết định bỏ việc qua thăm Vũ. Vũ gay gắt gạt đi.
Qua làm gì, vô ích! Ðừng bỏ công ăn việc làm. Tao buồn là từ nay chẳng giúp gì được gia đình mày nữa.
Ðừng nghĩ tới mấy chuyện vặt đó. Tao muốn có một thời gian ở bên mày trong lúc mày bệnh hoạn.
Tao bảo không là không. Ðừng có cãi lời tao!
Nghĩa muốn đi lắm. Diệu cũng dục Nghĩa phải đi cho trọn tình bạn. Nhưng mỗi lần hỏi là mỗi lần Vũ nổi cục. Nghĩa lo ngại cho sức khỏe bạn nên không muốn làm trái ý Vũ. Anh chỉ còn cách điện thoại thăm hỏi cầm chừng. Sức khỏe Vũ mỗi ngày thêm tệ hại. Giọng nói bơ thờ dần. Mỗi lần điện thoại, Nghĩa vẫn để Diệu nói ít câu với bạn. Anh nghĩ tiếng nói của người đàn bà trong lúc này ít ra cũng mang lại chút êm ả cho Vũ.
Một bữa khuya thật khuya, Vũ điện thoại qua.
Tao trằn trọc không ngủ được, nằm nghĩ lại chuyện xưa, nhẩm tính ra thì tới tháng tám này, chúng mày cưới nhau được hai mươi lăm năm rồi ấy chứ nhỉ? Chớp mắt đã cưới bạc rồi đó! Lần này chẳng ai cấm trại mà tao cũng chẳng có mặt được. Chó má thiệt!
Mày còn nhớ được như vậy làm tao cảm động lắm. Chắc tụi tao cũng chẳng tổ chức gì đâu!
Tiếng rè rè trong máy cộm lên. Khá lâu Nghĩa không thấy Vũ nói gì.
Mày có nghe tao nói không Vũ?
Nghe chứ. Tao có chút chuyện muốn nói với mày.
Chuyện gì vậy?
Lại tiếng máy âm âm rè rè. Nghĩa áp sát ống nghe vào tai đón tiếng Vũ. Mãi mới nghe được một giọng ngập ngừng.
Nhớ thương yêu Diệu suốt đời nghe!
Nghĩa ngẩn người không biết trả lời sao. Anh nghe Vũ nói tiếp.
Mày hứa với tao chứ?
Nghĩa chiều ý bạn.
Tao hứa!
Cám ơn mày! Thôi nghe!
Tiếng điện thoại chậm chạp gác xuống. Nghĩa nghe tiếng trật vuột một hồi rồi điện thoại mới cúp hẳn. Ðó là lần chót Vũ điện thoại cho Nghĩa. Anh mất hai ngày sau đó.
Tháng tám, hai đứa con Nghĩa ngỏ ý muốn tổ chức l cưới bạc cho bố mẹ. Nghĩa đang buồn, bảo thôi. Hai đứa nài nỉ, Nghĩa chiều con nhưng căn dặn chỉ làm thật đơn giản và chỉ mời những người thật thân. Gần tới ngày, nghe con hỏi muốn mời những ai, Nghĩa tần ngần ngồi lặng thinh. Tước ở xa không thể tới được, Vũ còn xa hơn nữa. Anh buồn bã bảo các con.
Chẳng có ai đâu! Thôi, chỉ gia đình mình với nhau vậy!

Tác Giả giữ bản quyền

TRUYỆN NGẮN TRÀM CÀ MÂU


 ƠN ĐỜI CHỨA CHAN
Tuổi già, buổi sáng thức dậy, nghe gân cốt đau rêm mà mừng, vì biết mình còn sống.  Đại ý viết như vậy, trong một cuốn sách Mỹ mà ông Tư đọc được, làm ông thấm thía cái hạnh phúc lâng lâng của từng sớm mai khi vừa tỉnh giấc. Bạn bè cùng trang lứa với ông, nhiều người đã về với Diêm Vương khi còn trẻ măng, vì cuộc tương tàn khốc liệt dài ngày trên quê hương. Nhiều người khác gục ngã trong trại tù vì đói khát, bệnh tật, mồ hoang vùi cạn. Một số khác nữa, vì khao khát tự do mà chôn thân dưới đáy biển, hoặc chết khô giữa rừng sâu.

 Không ít người còn lại, tử thần cũng đã đón mời vì bạo bệnh, khi tuổi năm sáu mươi. Phần ông vẫn còn dai dẳng sống sót cũng là ân huệ trời ban, không vui hưởng tháng ngày, cũng uổng lắm sao!
Ý nghĩ đó làm ông mỉm cười sung sướng. Ông vẫn trùm thân trong chăn ấm. Tội chi mà dậy sớm cho mệt. Mỗi khi nghe tiếng khởi động máy xe từ hàng xóm vọng qua trong buổi tinh sương, ông càng vui sướng hơn, vì không còn phải vùng dậy giữa đêm đen, lặn lội đi kiếm cơm hàng ngày như mấy gã trẻ tuổi ở cạnh nhà. Về hưu rồi, mỗi tuần hưởng bảy ngày chủ nhật, bảy ngày thảnh thơi. Hết áp lực của công việc hàng ngày, không phải lo lắng bị thất nghiệp khi kinh tế khủng hoảng xuống dốc. Khoẻ re.
Cứ nằm trùm chăn ấm nghe nhạc mềm văng vẳng ru đưa, phát ra từ cái radio nhỏ, có khi ông chợp thêm được một giấc ngủ ngắn ngon lành. Ngủ chán thì dậy. Bước xuống giường, dù khớp xương sưng đau, đi khập khễnh ông cũng thầm cám ơn cái chân chưa liệt, còn lê lết được. Chưa phải nằm dán lưng vào giường như một số người bất hạnh khác. Những kẻ này mà nhích được vài bước cà thọt như ông, thì chắc họ cũng sướng rân người.  Ông thầm bảo, có thêm được một ngày để sống, để vui, để yêu đời.  Bệnh hoạn chút chút, thì phải mừng, chứ đừng có nhăn nhó than vãn ỉ ôi.
Mỗi khi đánh răng rửa mặt, ông lầm thầm: “Mình sướng như vua rồi, có nước máy tinh khiết để dùng. Giờ nầy, cả thế giới, có hơn một tỉ người thiếu nước để nấu ăn, để tắm giặt và nhiều tỉ người khác không có nước sạch, phải uống nước dơ bẩn.” Dù cái bàn chải đánh răng đang ngọ ngoạy trong hàm, ông cũng ư ử hát ca. Khi áp cái khăn tẩm đầy nước lên mặt, ông cảm được cái mát lạnh và niềm sung sướng chứa chan đang lan tỏa chạy khắp người. Ông biết đang được ân sủng của trời đất ban cho trong tuổi già. Ông cứ nhớ mãi thời đi tù Cộng Sản, mỗi ngày chỉ có được một lon nước chừng một lít, để rửa ráy tắm giặt. Chừng đó thôi, mà cũng xong việc. Khi ấy, thấm cái khăn ướt lau khắp người, nghe mát rượi, đã đời, và khi còn lại một phần nước cặn đen ngòm dưới đáy lon, cầm đổ lên đỉnh đầu, sướng đến rên lên được.

Ngồi lên cái bồn cầu êm ái, nhà cầu sạch sẽ, trắng toát, thơm tho, không vướng một chút mùi vị hôi hám, đèn đóm lại sáng trưng, có nhạc văng vẳng từ radio, ông cầm cuốn sách thưởng thức chữ nghĩa của “thánh hiền”, tư tưởng của Đông Tây.  Không bao giờ ông quên cùng giờ phút nầy, có hơn ba tỉ nhân loại không có cầu tiêu để làm cái chuyện khoái lạc thứ tư. Có người phải ra đồng lồng lộng gió, mà làm chuyện “nhất quận công, nhì ị đồng”. Phải gấp gấp cho xong chuyện, không nhẩn nha được, vì hai tay phải múa lia lịa hất ra đàng sau, để xua đuồi lũ ruồi đồng đang vo ve “oanh tạc”. Xong việc, may mắn lắm thì có lá chuối khô mà lau chùi, còn không thì dùng đất cày, đá cục, nắm cỏ, que nhánh cây tươi, khô. Ông cứ nhớ thời làm việc ở quận lị, chỉ có nhà tiêu lộ thiên, hai tấm ván bắt ngang qua một hầm cầu lộ thiên, nắng xông hơi phân người lên nóng hừng hực rát cả mặt, bên dưới giòi bọ lúc nhúc lổm nhổm làm thành một tấm màn trắng-ngà chuyển động.
 
 Có con gà ở đáy hầm, nó đang thưởng thức ngon lành món giòi bọ, thấy ông xuất hiện bất thần, sợ hãi  hoảng hốt đập cánh bay lên kêu quang quác  và vung vãi ‘ám khí’ khắp trong không gian, làm ông cũng khiếp viá, ôm đầu phóng chạy dài. Nghĩ đến chừng đó thôi là ông đủ cảm được cái sung sướng đang có ngay bây giờ. Ngồi thật lâu, đọc cho xong mấy trang sách, mới nhởn nhơ rời phòng.
Ông Tư tự đãi một bình trà nóng, một ly cà phê thơm, rồi nấu nồi cháo gạo tẻ đặc rền ăn với cá kho mặn.  Dọn ra bàn, đèn vàng soi một khoảng ấm cúng. Ông thong thả vừa hớp nhâm nhi, vừa ăn từng muỗng cháo, chất gạo béo tạo vị giác đi qua trong cổ họng. Ông lầm thầm: “Ngon, cao lương mỹ vị cũng không bằng”. Ông thường ngâm nga hai câu thơ : “Vợ cũ, chó già, tô cháo nóng. Ba nguồn thân thiết dạt dào thương”. 
 
Mắt ông dán vào trang thơ đang cầm trên tay, gật gù thưởng thức ý lời hoa gấm. Ông trầm mình vào những giòng thơ, tim xao xuyến xúc động mênh mang. Thỉnh thoảng ông dừng lại, và nói nhỏ cho chính ông nghe: “Tiên trên trời cũng chỉ sướng và thong dong như thế này là cùng”. Ông nhớ đến cái thời “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa”, buổi sáng bụng đói meo, vác cuốc đi làm lao động tay chân nặng nhọc, ráng uống một bát nước lã để cầm hơi và đánh lừa cái bụng đang sôi sồn sột. Bây giờ được như thế nầy, phải biết cám ơn ân sủng của trời ban cho. Biết bao nhiêu tỉ người trên thế giới này mơ ước được có một buổi sáng thảnh thơi và no ấm như ông mà không được nhỉ?
Nhìn xuyên qua cửa phòng ngủ, ông thấy bà vợ nằm ngủ giấc yên bình, lòng ông dạt dào niềm thương. Bà đã cùng ông mấy mươi năm dắt dìu nhau trong phong ba bão táp của giòng đời nghiệt ngã. Đã chia sẻ ngọt ngào cũng như đắng cay của một thời khói lửa điên đảo. Giờ này, may mắn vẫn còn có nhau trong cuộc đời, thương yêu thắm thiết, nhường nhịn nâng đỡ chăm sóc ngày đêm. Không như những cặp vợ chồng già khác, cứ lục đục gây gổ nhau, tranh thắng thua từng li từng tí, làm mất hạnh phúc gia đình. Ông thương bà biết an phận thủ thường, không đứng núi ầy trông qua núi nọ. Ông thấy bà hiền lành và có trái tim đẹp như thánh nữ. Ông muốn vào phòng, hôn bà lên trán, nhưng ngại làm vợ mất giấc ngủ ngon buổi sáng. Ông lại cám ơn trời đã đem bà buộc vào đời ông. Ông cười và nhớ câu nói của một nhà văn nào đó: “Đời sống không thể thiếu đàn bà, nhưng sống được với một người đàn bà không phải dễ.”
Ông Tư ra vườn. một mảnh đất nhỏ trồng vài cây hoa, hương thơm thoang thoảng, có tiếng chim kêu đâu đó líu lo vọng lại. Mấy đoá hoa sặc sỡ còn đọng sương đêm lóng lánh. Nắng mai ấm áp phả lên da thịt ông, tạo thành một cảm giác dịu dàng, êm ái. Ông vươn vai, xoay người trong thế thể dục chậm, xương sống được thư giãn kêu răng rắc, đã đời. Hít thở và phất tay chừng mười lăm phút cho máu huyết lưu thông. Loại thể dục nầy đã giúp ông bớt được những cảm mạo thông thường, ông tin vậy.
Ông Tư thay áo quần để đi ra đường. Cầm cái áo lành lặn bằng vải tốt trên tay, ông thường nhớ đến thời đi tù, khâu bao cát làm áo, rách tả tơi, không đủ che gió lạnh thấu xương của núi rừng. Thế mà cũng có nhiều tù nhân khéo tay và nghịch ngợm, khâu bao cát thành bộ đồ lớn, đủ ba mảnh, và làm luôn cả cái “cà vạt”, mang vào trông cũng sang trọng như đi ăn đám cưới. Nhớ lại thời đó mà rùng mình. Còn sống sót, và đến được đất nước tự do này, cũng là một điều mầu nhiệm lạ lùng.  Ông Tư đi ra đường, xe cộ vùn vụt qua lại liên miên. Lề đường rộng, phẳng phiu, sạch sẽ. Bên kia là giao điểm của hai xa lộ, các nhánh cầu cao đan uốn éo chồng chất lên nhau, vòng vèo trên không, như những nùi rối. Ông Tư thầm cám ơn tiền nhân đã đổ sức lực, mồ hôi, tài nguyên khai phá và xây dựng nên những tiện nghi nầy cho ông nhảy xổm vào hưởng dụng, mà không ai có một lời ganh ghét, tị hiềm. Ông, từ một trong những nước lạc hậu nhất của hành tinh nầy, bị chính quyền cuả xứ ông bạc đãi, kỳ thị, kềm cặp và lấy hết các tự do cơ bản. Đến đất nước này, ông được bình đẳng, có công ăn việc làm hợp với khả năng, con cái ông được đến trường, học hành thành tài, có nghề nghiệp vững chắc và sống với mức trung lưu. Ông cảm thấy còn nợ quê hương mới nầy quá nhiều thứ, từ tinh thần đến vật chất, mà biết không bao giờ trả lại được một phần nhỏ nào. Ông Tư vừa đi bộ vừa ca hát nho nhỏ.
Một người cảnh sát cao lớn dềnh dàng đi ngược đường chào ông, ông chào lại bằng lời cám ơn đã giữ gìn an ninh cho dân chúng sinh sống. Người cảnh sát cười và nói đó là bổn phận, vì lương bổng của ông ấy được trả bằng thuế của dân chúng, trong đó có ông. Ông Tư thấy trong lòng bình an, ông không làm điều gì phạm pháp, thì không sợ ai cả. Ông đọc trong báo, thấy có những xứ, dù không làm gì sai quấy cả, cũng bị cảnh sát giao thông chận lại đòi tiền, nếu không cho tiền, thì bị quy kết đủ thứ tội mà mình không có.
Nắng chiếu hoe vàng cả dãy phố của một ngày thu, ông Tư bước đi mà lòng rộn rã. Gặp ai cũng chào, cười vui vẻ. Nghe ông chào hỏi nồng nhiệt, mọi người đều vui theo. Thấy một ông cụ mặt mày đăm đăm rầu rĩ đi ngược đường, ông Tư lớn tiếng:

      “Chào cụ? Có mạnh khỏe không? Hôm nay trời nắng đẹp quá!” Ông cụ trả lời qua loa: “Tàm tạm, chưa chết! Chán cái mớ đời.” Ông Tư nói to: “Việc chi mà chán đời cho mệt cụ ơi. Chưa chết là vui lắm rồi. Cụ có biết là chúng ta đang sung sướng phước hạnh, tội chi phí phạm thời gian để buồn nản?” Ông cụ thở dài: “Ai cũng có nhiều việc âu lo! Đời đâu có giản dị! À, nầy, mà hình như ông đau chân, bước đi không được bình thường? Thế thì vui nỗi gì? ” Ông Tư cười lớn: “Vâng, tôi đau chân, nhờ đau chân mà tôi thấy được niềm vui hôm nay lớn hơn, vì còn đi được, bước được, chứ chưa phải nằm nhà. Cụ ơi, nếu lo âu mà giải quyết được những khó khăn, thì nên lo. Nhưng nếu lo âu, mà không giải quyết chi được, thì hãy vui lên, cho đỡ phí phạm ngày tháng trời cho” Ông cụ già lắc đầu bỏ đi.
Ông Tư xà vào ngồi trên ghế đá mát lạnh của công viên dưới tàng cây có bóng nắng lung linh. Nhìn bọn trẻ con chơi đùa la hét lăn lộn trên bãi cát, ông vui lây với cái hồn nhiên của chúng. Bên kia đồi cỏ, có đôi nam nữ nằm dưới gốc cây, kê đầu lên tay nhau, tóc đổ dài óng ánh, thỉnh thoảng vang tiếng cười rúc rích. Đất nước nầy ấm no và thanh bình quá, sao có nhiều người còn kêu ca đời sống khó khăn? Phải chăng những kẻ này chưa biết an phận, muốn được nhiều hơn điều đang có, đang đủ. Không thấy được phước hạnh là lỗi tại họ. Ông dong tay bắt vài tấm lá rơi đang quay cuồng trong gió và lấy bút ghi lên mặt lá mấy giòng thơ vừa thoáng qua trong trí để ca ngợi cuộc đời. Thấy bãi cỏ êm mát, ông nằm dài, những vòng tròn sáng màu vàng rải rắc trên mgười ông. Gió hiu hiu mát từ hồ nước vờn qua làm mơn trớn thịt da. Ông Tư rút từ túi quần một cuốn sách nhỏ có nhan đề “14 ngàn điều làm nên hạnh phúc”. Tác giả tập sách nhỏ nầy, thấy đâu đâu cũng là hạnh phúc tràn đầy. Vấn đề là cảm nhận được cái sung sướng, cái hạnh phúc đang có. Từ việc đặt chân lên một tấm thảm mềm êm ái, đến việc cắn một trái ngọt chín mọng trong miệng, đến mơ mộng được hát trên bục một hộp đêm, nghe một lời nói dịu dàng yêu thương…
Hạnh phúc và sung sướng cảm nhận được từ những điều rất nhỏ nhặt, đơn sơ, tầm thường nhất trong sinh hoạt hàng  ngày. Không cần phải là ôm chặt người yêu trong vòng tay, cũng chẳng phải vật nhau lăn lộn trên giường, cũng không cần đến việc cầm trong tay cái vé số trúng độc đắc, hoặc làm chủ được một tòa lâu đài sang trọng… Ông nghĩ, chắc sẽ có người cho tác giả tập sách nầy là kẻ “lạc quan tếu”. Nhưng thà lạc quan tếu hơn là bi quan. Đời nầy, có nhiều người đắm mình trong hạnh phúc, mà cứ tưởng đang ngụp lặn trong bể khổ. Hoặc đang được phước hạnh mà không biết và xem thường, chỉ khi mất đi, hay đã trôi qua, mới biết, thì đã quá muộn màng.
Nắng đã xông hơi nồng nóng, ông Tư đón chuyến xe buýt ra về. Cái vé xe cho người già rẻ rề, chỉ bằng một phần ba vé bình thường. Ông nói lời cám ơn tài xế, và thấy mang ơn những người cùng đi xe công cộng nầy, vì xem như họ đã gián tiếp gánh một phần tiền vé cho ông.
Về nhà, bà Tư đã dọn sẵn cơm trưa, mời ông rửa ráy cho sạch sẽ mà ra ăn. Thấy ly nước chanh muối, ông cầm uống, chất nước ngọt ngào mằn mặn chua chua, ngon lành đi qua cổ họng. Ông nhìn vợ với ánh mắt thương yêu và nói lời cám ơn cho bà vui. Chưa ăn, mà thấy bát canh bông bí nấu tôm đã biết ngon. Những món ăn thanh đạm này, với ông, còn ngon hơn sơn hào hải vị.
Ăn xong, còn chút cơm thừa, bà Tư bỏ vào chén, cất vô tủ lạnh, không dám đổ đi, vì sợ phí phạm của trời. Bà nhắc câu nói của ông: “Ngay giờ khắc nầy, trên thế giới có hơn năm trăm triệu người đang đói rã, không có một miếng gì đề ăn, và có hơn vài tỉ người ăn chưa no bụng, và nhiều tỉ người khác quần quật ngày đêm, cũng chỉ mong có đủ no mà thôi.” Đã từng đói, nên ông bà không dám phí phạm thức ăn.
Ông Tư mừng vì ăn còn thấy ngon miệng, không như một số người khác, ăn gì cũng như nhai đất sét, không muốn nuốt, vì nhạt miệng, mất vị giác. Một số người khác còn tệ hại hơn nữa, họ không còn ăn bằng miệng được, mà ăn bằng bụng, nhờ ống dẫn thức ăn nối với dạ dày, như đổ xăng cho xe hơi.
Ông Tư ngồi vào bàn mở máy vi tính lướt mau tin tức thế giới biến động. Đôi khi thấy gía thị trường chứng khoán tụt dốc xuống thấp, làm nhiều nhà bình luận lo ngại. Nhưng ông Tư cười, ông chẳng thèm để ý, không cần quan ngại chi cả. Chứng khoán lên hay xuống, cũng thế thôi. Ông có lo ngại hay quan tâm cũng chẳng thay đổi được gì. Với số tiền hưu khiêm tốn, và cách ăn tiêu trong khả năng tài chánh, ông bà Tư chưa bao giờ thấy thiếu thốn cái gì. Có một ông bạn khoe rằng nay đã thành triệu phú. Bà Tư đùa và hỏi, triệu phú thì khác người không là triệu phú cái gì? Ông bạn lúng túng ấp úng không biết phải trả lời ra sao. Nhưng ông bà Tư chắc chắn rằng, họ ít tiền, nhưng được sung sướng, đầy đủ  hơn nhiều người giàu triệu phú khác.
Ông Tư rà mắt qua các tin tức và các biến cố mới nhất. Thật là tuyệt diệu và thần kỳ. Chuyện vừa xảy trong giờ trước, đã được tường thuật ngay. Dạo một vòng tin tức xong, ông quay qua mở vi-thư của bạn bè. Có những người bạn xa cách hàng ngàn dặm, mấy chục năm nay chưa gặp lại nhau, mà thư từ qua lại liên miên, tưởng như gần gũi trong gang tấc. Tha hồ hàn huyên tâm sự. Tình cảm qua lại thân thiết chứa chan. Nhờ máy vi-tính, khi viết, tha hồ bôi xoá tẩy sửa lung tung, mà không cần phải xé tờ nầy, viết lại tờ kia, vô cùng tiện lợi. Thư viết xong, chỉ cần một cái nhấp con chuột, bạn ông nhận được ngay tức thì. Không cần phải nhờ bưu điện chuyển đi có khi cả tuần mới đến. Hàng chục lá thư của bạn bè khắp nơi trên thế giới chuyển đến ông đủ điều hay, lạ, nhiều bài thuốc hiệu nghiệm, trăm bản nhạc du dương, ngàn hình ảnh tuyệt vời của các thắng cảnh thiên nhiên, các đoạn phim ngắn đủ thể loại của nhiều vấn đề khác nhau. Ông cám ơn khoa học kỹ thuật tiến bộ, đem thế giới mênh mông lại gần gũi trong không gian và cả thời gian.
Mỗi khi nghe tin một người già bệnh hoạn qua đời, ông Tư mừng cho họ thoát được thời gian đau yếu sống không chất lượng. Nhiều người nằm liệt vài ba năm, không sống, không chết. Còn có những kẻ phải cưa tay cưa chân. Ông vẫn thường mong sau này, nếu được chết, thì chết mau chóng, yên lành, khỏi qua thời gian bệnh hoạn lâu ngày.
Có một bạn già mỉa mai, cho ông Tư là “kẻ tự sướng” ông chỉ cười và nói : “Thà tự sướng hơn là tự khổ”
Ông Tư thường nghĩ rằng, ông đã và đang được quá nhiều phước hạnh của trời ban, nhiều ân nghĩa của nhân loại, xã hội, nhiều tình thương của gia đình, bạn bè, người quen và cả chưa quen. Ông thấy sung sướng hạnh phúc. Ông tội nghiệp cho những người suốt đời than van, nắng không ưa, mưa không chịu, và tự bôi đen ngày tháng đẹp đẽ của họ, và dìm đời vào bất mãn, khổ đau./.
Tràm Cà Mau.
Tháng 9/2011 Trích từ tập truyện “VỢ” vừa xuất bản

SƠN TRUNG * GIAN TRÁ VÀ TÀN ÁC



GIAN TRÁ VÀ TÀN ÁC
Sơn Trung
Gian trá và tàn ác là hai đặc tính cuả cộng sản. Nói dối và làm ác là hai vũ khí lợi hại của cộng sản và bọn độc tài, chuyên chế. Sau 1975, tại Đại học Saigon, bọn cộng sản Tuyên giáo cao cấp i tờ huênh hoanh nói" Ngoài bắc cắm đu đủ xuống đất là tha hồ nấu bánh chưng"! Bộ đội ta có xăng bột, mỗi anh bộ đội mang trong người một bọc xăng bột, lúc nào cần đổ nước quậy lên tha hồ mà chạy xe ô tô, thiết giáp và máy bay!" Nào là Liên Xô viện trợ cho ta hỏa tiễn kém, không bắn đến B52, sau các nhà khoa học ta cải tiền mà bắn trúng phóc hàng ngàn B52! Nào máy bay ta ẩn trong mây, Mỹ không thấy chờ khi B52 đến gần, máy bay ta bay trong mây ra bắn hạ hàng loạt B52!"

Ông Hồ khoe khoang là  đại biểu Việt Nam, là người được quốc tế phái hoạt động ở Thái Lan nhưng Hoàng Tùng, thư ký của ông bảo là ông Hồ nói láo, ông không được Quốc tế cộng sản công nhận là đại biểu dự đại hội cộng sản quốc tế, và cử đi Thái Lan hoạt động, ông chỉ là tay sai hạng bét của Quốc tế cộng sản. (1). Ông Hồ bắt mọi người phải tôn phục ông. Một đảng viên cao cấp khi được hỏi ai là lãnh tụ đảng đã trả lời là Trần Văn Giàu thì bị chôn sống nửa người (2)  mà Trần Văn Giàu sau cũng bị ông Hồ và đàn em đạp xuống đất đen may mà không phải bị xe cán hoặc lên cơn đau tim mà từ trần trước 1954!

Ông Hồ bán Phan Bội Châu, và gây nghi ngờ trong những người yêu nước hoạt động hài ngoại. Ông Hồ tuân lệnh Nga, Tàu đấu tố giết hàng vạn nông dân, giết và bắt gian hàng vạn đảng viên nhưng ông đổ tội cho Trường Chinh, ông Hồ  bán nước nhưng đẩy cho Phạm Văn Đồng ký văn kiện công nhận Hoàng Sa , Trường Sa là của Trung Cộng. Ông Hồ nhiều vợ nhưng khoe khoang là hy sinh hạnh phúc cá nhân cho dân tộc. Ông gian trá chưa đủ, ông muốn làm thánh mà đã giết rồi quăng xác Nông Thị Xuân ngoài đường!


Cộng sản tuyên bố thực hiện hoà giải nhưng sau 1975, chúng bắt giam hàng vạn chiến sĩ VNCH và tiêu diệt bọn GPMN vốn là bọn ngu muội chạy theo cộng sản để rồi phải chạy qua Pháp Mỹ, Úc nương thân!Mánh khoé và tội ác của ông Hồ và bọn Việt Cộng đàn em thì không kể xiết!

 Vì bảo vệ ngai vàng mà Stalin giết hàng trăm đại biểu quốc hội, hàng trăm  tướng lãnh và hàng ngàn  trí thức  Liên Xô. Mao Trạch Động gây ra vụ "Cách mạng vô văn hóa" giết hàng triệu người, phá hủy các di tích văn hóa Trung Quốc. Những đồng chí của ông như Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu đều bị giết.

 Nay tại Trung Quốc, vụ Bạc Lai Hy cũng là một màn thanh toán nội bộ. Cái ác vốn nằm sẵn trong con người cộng sản. Bọn Bắc Hàn khủng bố dân, bắt dân đói để không còn sức đối kháng. Cộng sản đề cao dân chủ chống phong kiến nhưng Trung Quốc, Bắc Hàn và Việt Nam vẫn theo lệ cha truyền con nối. Đã thế họ lại còn nổ văng miểng. Sau vụ Bắc Hàn thử hỏa tiễn, người ta khám phá ra rằng hỏa tiễn của Bắc Hàn là hỏa tiễn dỡm.(3)

Báo chí ngoại quốc cho rằng Miến Điện cũng trí trá. Họ giả dân chủ để làm tiền Âu Mỹ (4). Việt Nam tàn ác khi cho công an đánh đánh dân, bỏ tù dân rất hiên ngang oai hùng nhưng lại khúm núm trước Bắc Kinh bành trướng. Nay Việt Cộng gian trá, chơi trò đu dây để làm tiền Âu Mỹ. Cùng một lúc, Việt cộng luyện binh với Hoa Kỳ và Trung Cộng(5). Trò chơi này không phải là không nguy hiểm vì cả hai phe đều ghét thằng nịnh hót, xảo trá. Những thằng gian manh bao giờ cũng có kết quả bi thảm!
Sơn Trung
___

(1). Bác đến Liên Xô năm 1934-38 chỉ làm công tác ở Ban thuộc địa của Quốc tế cộng sản, không được giao nhiệm vụ cụ thể. Người được giao nghiên cứu làm luận án phó tiến sĩ về vấn đề thuộc địa. Bác xin được làm nhưng không được trả lời. ..
... Người xin về nước. Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII, Người không tham gia đoàn đại biểu Đảng ta, chỉ là đại biểu dự thính. Liên Xô vẫn cho rằng Việt Minh là một thế lực dân tộc chủ nghĩa.Trước đó Bác phụ trách pho`ng Đông Nam Á của Quốc tế Cộng sản. Bác có đi dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản nhưng không được bầu vào Ban chấp hành. Lần này sang, do cách hoạt động của mi`nh, Bác bị Liên Xô nghi ngờ là chưa đủ tiêu chuẩn cộng sản. Sang Liên Xô Bác không được giao việc gi` cả, không có chức vụ chính thức trong tổ chức quốc tế. Bác xin về, họ không cho tiền. Sau Bác phải xin tiền bạn bè để về. Bác về Xiêm ti`m đến các gia đi`nh người Nghệ như gia đi`nh cụ Đặng Thúc Hứa. Bác hoạt động trong Việt kiều.Sau đó Bác có sang cả Lào để gây dựng cơ sở ở đó. Như thế việc Bác về Xiêm là do Bác chủ động chứ không phải là do Quốc tế phân công.
Lúc đầu là Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Sơn, Ly' Ban, Trương Ái Dân, Cao Tử Kiến. Trương Ái Dân trong thời gian kháng chiến chống Pháp làm công tác công vận ở Liên khu III do tôi phụ trách. Đồng chí ấy nói với tôi rằng, sau cuộc khủng bố của Pháp năm 1930-31, đồng chí ấy sang Trung Quốc hoạt động cách mạng, được đi Diên An. Trong cuộc vận động chỉnh phong năm 1942-43, đồng chí ấy bị thẩm vấn lí lịch. Người ta hỏi người đứng đầu Đảng Cộng sản là ai, đồng chí ấy trả lời là Trần Văn Giàu, liền bị chôn một nửa người xuống hố sâu  .
Bắc Triều Tiên làm giả tên lửa mới. VOA. Thứ Sáu, 27 tháng 4 2012.Các quân xa chở phi đạn trong cuộc diễn binh ở Bình Nhưỡng hôm 15/4/12 mừng 100 năm ngày sinh của ông Kim Il-sung, người thành lập nước (Ảnh do thông tấn xã KCNA của Bắc Triều Tiên công bố).Hai nhà phân tích người Đức nói các phi đạn đạn đạo được đưa ra trong cuộc diễn hành quân sự trước đây trong tháng này được làm giả một cách vụng về.Trong một bài  viết nhan đề “Một cuộc trình diễn không đáng tin” hai ông Markus Schiller và Robert Schmucker thuộc Công nghệ Schmucker của Đức viết rằng 6 phi đạn đạn đạo xuyên lục địa được chở trên những giàn phóng lưu động trong cuộc diễn hành ngày 15 tháng 4 là những mô hình giả và tồi.
Bài báo nói những phi đạn trông có vẻ như là một mớ hỗn độn của nhiên liệu lỏng và nhiên liệu đặc không bao giờ có thể được sử dụng chung để bay.
Thêm vào đó, vỏ ngoài gợn sóng của phi đạn cho thấy kim loại được sử dụng quá mỏng để có thể chịu đựng được chuyến bay.Hai nhà phân tích này nói mỗi phi đạn khác nhau một ít, ngay khi cả hai được làm cùng một kiểu, và thậm chí còn không ăn khớp  với các dàn phóng chở chúng.Ông Schiller và Schmucker nói hiện vẫn chưa có bằng chứng là Bắc Triều Tiên có phi đạn đạn đạo xuyên lục địa có thể hoạt động được.Cuộc diễn hành quân sự lớn bao gồm gần 900 khí tài quân sự, diễn ra vào ngày 15 tháng 4 vừa qua để kỷ niệm 100 năm ngày sanh ông Kim Il Sung, nhà lãnh đạo đầu tiên của Bắc Triều Tiên.
http://www.voanews.com/vietnamese/news/asia/nokor-fake-missile-4-27-12-149223275.html


(4).Ván bài tẩy Miến Điện. RFI 15 Tháng Tư 2012.Thụy My. 
Liên quan đến châu Á, Le Point có bài viết mang tựa đề « Ván bài tẩy Miến Điện ». Tác giả đặt câu hỏi, sau chiến thắng của bà Aung San Suu Kyi, liệu giới lãnh đạo quân sự có thực sự quay về doanh trại ?Thông tín viên của tờ báo kể lại trường hợp của Phyu Phyu Thin, một trong số 42 thành viên của Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ đã trúng cử vào Quốc hội, trong kỳ bầu cử bổ sung 45 ghế trống vừa qua. Người nữ y tá 40 tuổi này trước đây do ủng hộ lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi nên đã bị tập đoàn quân sự tống vào tù. Bà kể lại : « Bốn tù nhân bị nhốt trong phòng giam 9 m2, mỗi ngày chỉ được ra ngoài hai lần, mỗi lần 10 phút. Không có nhà vệ sinh, chỉ có một chiếc xô… ».Vì sao một chế độ độc tài bỗng dưng thay đổi ? Theo Ko Ko Gyi, thuộc tổ chức Thế hệ 88 – năm diễn ra phong trào nổi dậy sinh viên, ra tù vào tháng Giêng, thì « đó là vì lý do kinh tế. Với lại Miến Điện sẽ là chủ tịch ASEAN vào năm 2014, và muốn có các đối trọng khác trước ảnh hưởng của Trung Quốc ».
Theo tác giả, thì chính quyền Miến Điện đã dùng 45 chiếc ghế đại biểu Quốc hội lần này để đổi lấy cảm tình của cộng đồng quốc tế - một cái giá không đắt, và đã thành công. Hoa Kỳ loan báo sẽ giảm nhẹ trừng phạt, còn Liên hiệp châu Âu cũng sẽ bàn bạc về việc này ngày 23/4 tới. « Chỉ có điều giới lãnh đạo Miến Điện vẫn phải đến Singapore nếu muốn mua xe siêu sang, đồng hồ hàng hiệu, không thể gởi con cái đến học ở Havard hoặc đi chơi ở Disneyland » - một doanh nhân Pháp mỉa mai.Nhưng với vỏn vẹn 43 ghế trên tổng số 664 ghế ở Quốc hội, liệu Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ có gây được ảnh hưởng ? Làm thế nào để sửa đổi Hiến pháp – cần phải có đến 75% đại biểu ủng hộ - để tránh việc quân đội nắm quyền trở lại trong trường hợp khủng hoảng, và cản trở bà Aung San Suu Kyi ra tranh cử tổng thống ?Theo ông Olivier Guillard, giám đốc nghiên cứu của Iris, thì « sẽ dễ gây ảnh hưởng bên trong hơn, cho dù Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ không thể thay đổi được Miến Điện trong lúc này ». Còn rất nhiều việc phải làm, trong một đất nước phong phú tài nguyên, nhưng lại thuộc hạng nghèo nhất châu Á. Bên ngoài phạm vi các thành phố, những nông dân với gánh nặng nợ nần phải làm lụng vất vả trên các thửa ruộng, sống trong những căn nhà sàn không điện nước. Tất cả đều bầu cho Daw Shu – người dân Miến Điện gọi bà Aung San Suu Kyi như thế - với hy vọng bà sẽ làm thay đổi cuộc sống của họ.Năm nay 66 tuổi, lãnh tụ đối lập có sức khỏe kém, và người ta không biết bà có thể đại diện cho đảng mình trong kỳ bầu cử năm 2015 trong cuộc đấu tranh giành 75% số ghế còn lại trong Quốc hội hay không. Một vấn đề khó khăn nữa là xung đột ở các vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là ở bang Kachin. Nhưng nói chung với đa số người dân Miến Điện, Daw Shu gần như là một á thánh, và trên đôi vai gầy của bà đè nặng tương lai của cả một dân tộc.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20120415-van-bai-tay-mien-dien

(5).Việt Nam hợp tác quân sự với TQ và Mỹ cùng lúc.RFA 25.04.2012
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/vn-hosts-us-cn-navies-04252012101916.html

TIN VIỆT NAM



Từ Tiên Lãng đến Văn Giang

2012-04-27
Nếu Huyện Tiên Lãng TP. Hải Phòng mở hành quân “thủy bộ”để cưỡng chế trái luật đầm thủy sản Đoàn Văn Vươn hồi đầu năm, thì nay Huyện Văn Giang Tỉnh Hưng Yên cũng huy động hàng ngàn công an và đạn hơi cay trái khói để cưỡng chế đất của 166 hộ nông dân.

 
Citizen photo
Hàng ngàn công an, cảnh sát cơ động, bộ đội được huy động đến xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên hôm 24-04-2012 để cưỡng chế 70 hecta đất xây dựng khu đô thị Ecopark.


Điểm khác nhau giữa hai vụ cưỡng chế này là báo chí đã chùn tay, người dân Văn Giang thiếu chỗ dựa.

Vì sao người dân chống đối?

LS Trần Vũ Hải ở Hà Nội, một luật gia có nhiều kinh nghiệm về tranh chấp đất đai phát biểu với chúng tôi:

Cần thiết lập một ủy ban điều tra lâm thời để giải quyết vụ này cùng một loạt những vụ khác để nghiên cứu xem tại sao người dân lại chống đối quyết liệt.
LS Trần Vũ Hải

“Theo tôi đây là một vụ việc điển hình, các đại biểu Quốc hội Việt Nam cần nghiên cứu đào sâu và thậm chí cần thiết lập một ủy ban điều tra lâm thời để giải quyết vụ này cùng một loạt những vụ khác để nghiên cứu xem tại sao người dân lại chống đối quyết liệt đến vậy đối dự án này và những dự án tương tự. 

Cần phải phân tích kỹ, nếu không sự chống đối càng ngày càng mãnh liệt, mặt khác khi chủ đầu tư thấy rằng việc đơn giản nhất đối với họ không phải là thỏa thuận với dân mà là nhờ cậy chính quyền để cưỡng chế, họ sẽ có khuynh hướng như vậy. Tôi xin nói thêm rằng trong vụ cưỡng chế này còn có thêm việc gọi là hỗ trợ thi công, không có luật nào qui định như thế! Nhưng họ nói là công an đến là để hỗ trợ cho chủ đầu tư thi công.Cái gọi là hỗ trợ thi công là không thể chấp nhận được và hoàn toàn sai luật.”

Vụ Văn Giang liên quan đến dự án mang tên mỹ miều là dự án khu đô thị sinh thái Ecopark lớn nhất miền Bắc, tổng vốn đầu tư ban đầu lên tới 6 tỷ USD có thông tin nói là đến hơn 8 tỷ USD. Theo VnExpress dự án có qui mô xấp xỉ 500 ha thuộc 3 xã Xuân Quan, Phụng Công  và Cửu Cao thuộc huyện Văn Giang và 55 Ha để làm đường giao thông liên tỉnh Hà Nội-Hưng Yên.

 Vụ cưỡng chế ngày 24/4 ở xã Xuân Quan huyện Văn Giang chỉ liên quan tới 5,8 ha đất  của 166 hộ dân, nằm trong 72 ha sẽ được huyện giao cho chủ đầu tư. Và mới chỉ một phần nhỏ đó thôi mà có đến 1.000 công an được huy động  để lấy cho được đất đai của người dân. Đạn cay, đạn khói đã được sử dụng và 20 người dân mất đất đã bị tạm giam, công an đã khởi tố vụ án chống người thi hành công vụ.


nosung1-250.jpg
Lực lượng cưỡng chế thu hồi đất nhà anh Vươn hôm 05/1/2012. Photo courtesy of phapluat.
Chúng tôi xin trích lại lời một người dân Văn Giang trả lời PV Quynh Chi Đài RFA:

“Trên đất thuộc xã Phụng Công họ bắn xối xả hơi cay mù mịt. Giống như đạn pháo cối to bằng bắp chân mà họ bắn thẳng vào những người đang ngồi để giữ đất, mọi người chạy dạt ra xuống các bụi cây Xong rồi họ dùng lực lượng để xua đuổi hết…chứ không phải chỉ dùng hai quả đạn cay như họ nói. Còn tại khu vực cánh đồng bị cưỡng chế thì khói bay mù mịt không thấy gì.”

Đền bù quá thấp


Trong cuộc phỏng vấn của Nam Nguyên vào tối 26/4, LS trần Vũ Hải nói rằng, có nhiều vấn đề người dân không thể chấp nhận khi đất của họ chỉ được đền bù 135.000đ/m2 cộng thêm 35.000đ/m2 cộng chung 170.000đ/m2 . Theo lời ông đây không phải là đất canh tác đơn giản mà là đất trồng cây có nghĩa giá trị thương mại rất là cao, một năm một hộ trên diện tích 1 sào 360 mét vuông, sau khi trừ chi phí có thể thu về hàng chục triệu đồng.

LS Trần Vũ Hải cho biết từng đi qua vùng này, đây là nơi trồng hoa cây cảnh giá trị cao để cung cấp cho Hà Nội, một sào có thể thu lợi 40-50 triệu đồng/năm, bây giờ người dân bị đền bù bằng đúng một năm giá trị sản xuấtt của họ thôi, thì không thể chấp nhận được.
Tôi cho rằng đã đến lúc phải sửa đổi luật đất đai theo hướng đền bù ngang bằng giá thị trường và người dân phải có được nơi ở ổn định.
LS Nguyễn Văn Hậu

Hiện nay người dân mất đất cũng không có phương cách nào khác để sinh nhai. LS Hải nói, người dân đã bị đền bù một cách rẻ mạt và mất nguồn lao động của mình cho nên việc họ chống trả là có thể hiểu được. Ông nói chưa có dịp tiếp cận hồ sơ vụ việc, nhưng có một điều chắc chắn là chính quyền không thể thay mặt chủ đầu tư trực tiếp đi lấy đất của người dân trong khi không đạt được thỏa thuận.
Theo LS Hải, đền bù đất thu hồi khoảng 135 tỷ đồng trong khi dự án được nêu ra trị giá 8,2 tỷ USD tương đương khoảng 170.000 tỷ đồng. Giá trị bồi thường cho người nông dân nếu có, chỉ bằng 1 phần ngàn giá trị của dự án đó thì không thể chấp nhận được. Trên thực tế đã có nhiều dự án phần đền bù ngang bằng 50% giá trị dự án hoặc hơn nữa, bình thường cũng phải là 10%-20% giá trị dự án.

LS Trần Vũ Hải tiếp lời:

“Đảng Cộng sản Việt Nam được coi là đại diện cho những người lao động trong đó có nông dân lại chấp nhận cái dự án chưa nhìn thấy lợi ích của người lao động của nông dân ở đâu? Mà thậm chí đã thấy người nông dân đang bị mất quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Còn những sự khoe khoang của dự án đó mà trị giá rất là lớn, chắc chắn chỉ có những người giàu, những người thu nhập cao mới có thể đến đấy sinh sống, thu nhập trung bình cũng chẳng thể vào đấy được.

120424092031_van_giang_464x261_xuandienhannom-250.jpg
Công an tham gia cưỡng chế đất ở Văn Giang hôm 24/4/2012. Photo courtesy of XuanDienBlog.
Bản thân chính quyền Văn Giang và chính quyền tỉnh Hưng Yên đang không trung thực với dư luận khi nói rằng họ chỉ dành riêng 30% trong 500 hec-ta cho xây dựng kinh doanh thôi còn 70% là để cho vườn cây, giao thông….nhưng chúng tôi đã xem lại quyết định về dự án và thấy rằng 33% dành riêng cho đất ở và 22% dành riêng cho đất thương mại như vậy tới 55% dành cho mục đích kinh doanh còn 5% danh riêng cho đất công cộng…nhưng cũng có thể dành cho trường học bệnh viện cũng vẫn là những cơ sở dịch vụ dành cho người có thu nhập cao chứ không phải bệnh viện bình thường. Tóm lại có thể nói rằng 60% đất trong dự án đó là dành cho đất ở và dịch vụ tức là để kiếm tiền.”

Báo chí đưa tin dè dặt


Từ Tiên Lãng đến Văn Giang, Báo chí Việt Nam thể hiện thái độ khác biệt 180 độ các nhà báo bỗng nhiên dè dặt kiệm lời, kể từ khi bị Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Thông tin và Truyền thông phê bình là đưa tin quá liều lượng vụ Đoàn Văn Vương mất cân đối với những vấn đề quan trọng khác của đất nước. Điểm ghi nhận chung trên báo chí chính thống là ít tin tức về vụ Văn Giang Hưng Yên.

Các báo chỉ đưa tin về cuộc họp báo của chính quyền huyện Văn Giang Hưng Yên một ngày trước vụ cưỡng chế. Khi vụ cưỡng chế diễn ra với thông tin hình ảnh đầy trên các trang mạng xã hội, thì ngày 25/4 duy nhất có báo điện tử Người Cao Tuổi là đặt vấn đề về tính hợp pháp của vụ cưỡng chế.

Tờ báo nhận định rằng quyết định  cưỡng chế của UBND huyện Văn Giang là trái pháp luật hiện hành vì chỉ có những dự án phục vụ quốc phòng an ninh…nhà nước mới thu hồi đất và với những dự án như Ecopark thì nhà nước không thu hồi đất, mà chỉ đứng ra làm trọng tài để nhà đầu tư thỏa thuận với người dân.

Những dự án đó trị giá rất là lớn, chắc chắn chỉ có những người giàu, những người thu nhập cao mới có thể đến đấy sinh sống, thu nhập trung bình cũng chẳng thể vào đấy được.
LS Trần Vũ Hải

Theo LS Nguyễn Văn Hậu, Phó chủ tịch Hội Luật gia TP.HCM giải thích với chúng tôi, qui trình thu hồi đất rất chặt chẽ, những dự án kinh tế lớn thuộc nhóm A hay liên quan tới an ninh quốc phòng nhu cầu dân sinh thì cấp chính phủ có thẩm quyền ra quyết định thu hồi đất. Đối với mọi dự án mang tính cách thương mại hoặc ngay cả đổi đất lấy hạ tầng, nguyên tắc căn bản là sự đồng thuận giữa chủ đầu tư và người dân bị thu hồi đất. LS Hậu nói rằng, sau vụ Tiên Lãng Hải phòng các địa phương cần rút kinh nghiệm để không vướng sai phạm pháp lý.

“Tôi cho rằng đã đến lúc phải sửa đổi luật đất đai theo hướng đền bù ngang bằng giá thị trường và người dân phải có được nơi ở ổn định. Chứ cách thu hồi hiện nay nó chưa có một cơ chế công bằng giữa hai bên.”

Vụ cưỡng chế mạnh tay ở Văn Giang Hưng Yên diễn ra chỉ vài ngày sau khi Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng quyết định họp trực tuyến vào đầu tháng 5 sắp tới để giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân. Thanh tra chính phủ báo cáo Thủ tướng là tình hình khiếu nại tố cáo trong quí I-2012 có nhiều diễn biến phức tạp nhất là sau khi xảy ra vụ việc ở Tiên Lãng Hải Phòng. Sự mạnh tay của chính quyền Hưng Yên diễn ra ngay sau khi Thủ tướng vừa nhắc nhở TP. Hải Phòng giải quyết dứt điểm vụ Đoàn Văn Vươn, và thái độ dè dặt của báo chí quả là những dấu hiệu rất đáng chú ý.

 

Hãy chĩa súng vào bọn tham nhũng!

2012-04-27
Một lần nữa, người nông dân triền miên nghèo khó lại lâm cảnh bị cưỡng chế đất đai bởi lực lượng với “áo mão nặng nề, khiên trắng lạnh lùng”, tạo cảnh “khói lửa mịt mù, máu đổ” ở Văn Giang.


Photo courtesy of XuanDienBlog
Công an tham gia cưỡng chế đất ở Văn Giang hôm 24/4/2012.


Như vậy là “Tiên lãng chưa qua, Văn Giang đã đến”. Tổng hợp thông tin liên hệ, Thanh Quang trình bày “biến cố Văn Giang” như sau:

Ai đối đầu ai?

Thưa quý vị, chứng kiến và phẫn nộ trước cảnh công an sắc phục, thường phục được trang bị “tận răng” kiên quyết cưỡng chế cánh đồng 70 ha của xã Xuân Quan trong huyện Văn Giang, bà Lê Hiền Đức, người được thế giới vinh danh về nỗ lực chống tham nhũng tại Việt Nam, đã nhắn nhủ với công an:
Họ dùng rất nhiều đạn hơi cay…bắn xối xả hơi cay mù mịt. Họ bắn thẳng vào những người đang ngồi giữ đất. Xong họ dùng lực lượng tới xua đuổi hết.
Người dân Văn Giang
“Hãy cầm súng chĩa vào bọn tham nhũng, chứ đừng cầm súng quay vào phía nhân dân."
Nhưng phía lực lượng cưỡng chế đã “cầm súng quay vào phía nhân dân”, như một dân oan Văn Giang mô tả:
“Họ dùng rất nhiều đạn hơi cay…bắn xối xả hơi cay mù mịt. Họ bắn thẳng vào những người đang ngồi giữ đất. Xong họ dùng lực lượng tới xua đuổi hết. Khu vực cánh đồng bị cưỡng chế khói bay mù mịt, không nhìn thấy gì.”
Qua bài “Tôi tưởng là thế”, tác giả Phạm Duy Nghĩa nhận thấy chỉ một vài tờ báo lề phải “rụt rè” đưa tin này, khi ở một miền quê ngoài Bắc có hàng ngàn công an bao vây, cưỡng chế thu hồi đất của dân làng để giao cho một công ty kinh doanh xây những ngôi nhà đẹp, bán cho người có tiền. Và có mùi lựu đạn cay, dùi cui và những tiếng la hét, hơn 20 người bị bắt giữ.
Trước cảnh tượng đó, nhà văn Nguyễn Quang Lập phải thốt lên rằng có những người suốt đời chưa một lần cầm bút viết báo, nhưng họ đã cầm bút vì không thể chịu được nữa biến cố Văn Giang. Trong số những người “cầm bút chẳng đặng đừng” ấy gởi tới blog Quê Choa có một người con trai gởi thư cho bố là phóng viên, cho biết “ con vừa được xem 2 đoạn video clip trên Youtube quay lại cảnh công an Việt Nam đánh đập những người dân Văn Giang, Hưng Yên rất dã man và tàn nhẫn bố ạ”.

photovg250.jpg
Hàng ngàn công an, cảnh sát cơ động, bộ đội được huy động đến xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên hôm 24-04-2012 để cưỡng chế 70 hecta đất xây dựng khu đô thị Ecopark. Citizen photo.
Có lẽ thảm cảnh đó khiến tác giả Vũ Xuân Tửu “Hỏi nhà văn” – hỏi nhiều lắm, như viết về đảng, chính phủ ra sao? Viết về Tổ Quốc, về quần đảo quê hương hiện nay, về hàng vạn cô gái Việt bán mình xứ người như thế nào? Và khi tác giả hỏi nhà văn viết về những nông dân bị cướp đất ra sao? thì họ trả lời rằng “chúng tôi khóc”.
Thế là, nói theo lời tác giả Viết Lê Quân qua bài “Cưỡng chế đất đai ở Hưng Yên: Ai đối đầu ai”, thì “ Tiên Lãng chưa qua, Xuân Quan đã đến. Một lực lượng hùng hậu của cơ quan thi hành pháp luật lại đi bảo vệ một dự án tư nhân với nhiều khuất tất chưa được làm rõ?... Nhiều tiếng nói đầy phẫn nộ và phẫn uất bật lên từ những nông dân áo mộc ‘Các anh đi bảo vệ cho ai? Bảo vệ cho những kẻ cướp đất của cha mẹ các anh à?’, đã khiến cho một số cảnh sát và nhân viên an ninh dường như phải quay mặt đi”.

Kẻ thù của nhân dân?

Nhà văn Võ Thị Hảo báo động rằng trong khi “bom nổ ở Tiên Lãng, Hải Phòng chưa dứt thì gạch đá, khói lửa, máu đổ ở Văn Giang, Hưng Yên đã dâng lên”. Theo nhà văn Võ Thị Hảo, nếu so với biến cố Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, thì sự cưỡng chế lần này ở Văn Giang có “quy mô lớn gấp cả chục lần” và “ không kém phần thù nghịch chống dân” của giới cầm quyền qua chủ trương “ra tay lấy đất của dân có tuyên bố trước, đầy dõng dạc”.

 Nhà văn Võ Thị Hảo xót xa rằng sự thù nghịch ấy đã tạo nên “tiếng kêu khóc xé ruột, thấu trời của hàng trăm hộ nông dân tại 3 xã Xuân Quan, Phụng Công và Cửu Cao thuộc huyện Văn Giang, Hưng Yên”.
vangiang250.jpg
Công an đưa xe ủi đến cưỡng chế đất ở Văn Giang hôm 24/4/2012. Photo courtesy of XuanDienBlog.

Nhắc tới chuyện cưỡng chế đất ở Văn Giang, tác giả Đông A nhìn những hình ảnh người dân bị đưa vào thế phải cầm gầy gộc đối mặt với công an hung hãn dàn hàng ngang mà tác giả không khỏi nêu lên nghi vấn rằng “tại sao chính quyền lại trở thành kẻ thù của nhân dân đến thế?”
Blogger Cu Làng Cát bày tỏ nỗi niềm trĩu nặng rằng chưa bao giờ ông lại thấy cảnh người dân phải đứng tiếp trước mặt mình là những áo mão nặng nề từng lớp, chưa bao giờ lại thấy những tấm khiên trắng lạnh lùng đè lên đất, hất đi những tấm lưng bán mặt cho đất bán lưng cho trời, chưa bao giờ tác giả thấy thương những bà mẹ già lưng khòm ra giữa trời tháng hạ để nói với những đứa cháu, đứa chắt trong đoàn binh cưỡng chế những lời gan ruột.
Khi cả ngàn người hùng hổ dữ dằn kéo đến cưỡng chế dân lành ở Văn Giang như vậy, tác giả nhớ lại chính họ đã từng lớn lên nhờ ngọn lúa, củ khoai để có điều kiện ra sống phố phường, để lại sau lưng làng quê muôn đời nghèo khó; nhưng rồi rạng sáng 24 tháng Tư ấy, họ đã trở về giày xéo tan nát làng quê khiến tác giả nêu lên câu hỏi “cái hiếu ở đâu hỡi những đứa con lớn lên từ đồng rơm cỏ rạ?”
Biến cố Văn Giang khiến nhà thơ Vũ Quốc Uy, qua bài “Đêm Văn Giang”, đã nhắc tới “đêm trắng Văn Giang, ngực tứa máu hồng”. Nhưng, sau cùng, nhà thơ quả quyết:
Đêm Văn Giang
Ủi sạch làng thôn
Không ủi được nỗi hờn non nước.
 

“Chạy” trường mầm non cho trẻ

2012-04-25
Còn hơn 5 tháng nữa mới đến năm học mới nhưng các bậc phụ huynh có con em ở độ tuổi học mẫu giáo đã tất bật tìm trường cho con.

AFP photo
Một lớp học trong trường mầm non tại thành phố Biên Hòa

Trường công quá tải

Đối với nhiều vị phụ huynh để các bé được vào học ở một ngôi trường tốt và an toàn, thật sự là điều quá khó cho họ.
Khi các thành phố lớn là nơi mà nhiều gia đình trẻ di cư hy vọng sẽ có một cuộc sống tốt hơn với cơ hội tìm được việc làm dễ dàng hơn tại quê nhà của họ, thì có lẽ một trong những rào cản là rất khó tìm được một nơi giữ trẻ an tâm cho con nhỏ.

Hiện nay, các trường mầm non công lập có những quy định rõ ràng ưu tiên cho các gia đình trong khu vực địa phương trước tiên, được gọi là “trong tuyến”, sau đó mới xét đến những trường hợp “khác tuyến”. Đồng thời, cũng có quy định xét theo diện có hộ khẩu rồi mới xét đến các diện tạm trú. Thực tế do tình trạng quá tải học sinh, các bé có hộ khẩu ở thành phố còn khó có cơ hội được nhận vào học dù phụ huynh đã nộp đơn từ rất sớm. Gia đình chị Thanh có hộ khẩu ở phường 14, quận Gò Vấp, TP. HCM rất vất vả tìm trường mầm non cho con, chia sẻ:

“Trường ở phường 13 thì nói mình ở trường phường 14 thì về phường 14, chứ không được đi những phường khác, là không có nhận. Còn trường ngay phường 14 thì nói không có chỗ nhận bé vô được.”
Không “trong tuyến” được, chị Thanh cũng như rất nhiều phụ huynh khác phải đôn đáo tìm trường “khác tuyến” cho con.

Dù phải nhờ vào các mối quan hệ, dù phải bỏ phong bì nhưng cũng không phải là có lời hứa chắc chắn con mình sẽ được nhận vào học. Cô giáo Nguyệt dạy trẻ nhiều năm ở trường mẫu giáo công lập nói với đài RFA:
“Khác tuyến thì phụ huynh phải chờ hoặc là phải hỗ trợ cho trường một ít, một khoản tiền cơ sở vật chất cho trường thì sẽ được học.”
Trường ở phường 13 thì nói mình ở trường phường 14 thì về phường 14, chứ không được đi những phường khác, là không có nhận. Còn trường ngay phường 14 thì nói không có chỗ nhận bé vô được.
Chị Thanh, TPHCM
Nhiều phụ huynh từ đầu tháng 4 đã nộp hồ sơ ở tất cả các trường mầm non trên địa bàn quận nhưng đều bị từ chối. Có phụ huynh chia sẻ rằng chỉ có một trường duy nhất nhận hồ sơ sau khi đã nộp đến hơn 10 trường và phải chờ đến giữa tháng 8 mới biết được nhận vào hay không. Trả lời câu hỏi khoản tiền cơ sở vật chất mà phụ huynh phải đóng cho trường khác tuyến là do mỗi trường có những qui định cụ thể hay sao. Cô Nguyệt cho biết:

“Không phải là ra quy định như vậy, chỉ là sự tế nhị thôi.”
Hiện có một phần không nhỏ các phụ huynh “chạy” trường cho con vào những trường điểm hay những trường “khác tuyến” cho thuận tiện với sinh hoạt của gia đình. Các bậc phụ huynh này sẵn sàng tìm mọi cách để con mình được nhận vào học ở trường khác tuyến.

Về phía nhà trường, dư luận cũng phản ánh rằng các trường nhận học sinh khác tuyến từ những gia đình có quyền thế hoặc có điều kiện kinh tế vì những phụ huynh này thường rất hào phóng đóng góp tiền ủng hộ cho nhà trường cũng như rất “quan tâm” đến đời sống của thầy cô giáo. Trái lại, đa phần các gia đình thuộc diện tạm trú hoặc công nhân đang làm việc trong các khu chế xuất, khu công nghiệp thì không trông mong gì con mình được nhận vào học ở trường mầm non công lập.

Trường tư cũng thiếu

1319158733-tre-mam-non-250.jpg
Các em học sinh tại một trường mầm non tư thục ở TPHCM, ảnh minh họa. Photo courtesy of giaoduc.net
Trường công lập quá tải, phụ huynh tìm giải pháp cho con học ở các trường tư thục. Đa số các trường tư thục có quy mô tương đối lớn với sân sơi thoáng mát rộng rãi, có phòng học tách biệt với phòng ăn, phòng ngủ thì mức học phí lại quá cao, từ 1,8 triệu đồng cho đến trên 3 triệu đồng/tháng. Với mức học phí này thì đa phần phụ huynh không đáp ứng được so với đồng lương thu nhập hằng tháng.

Còn những trường mầm non tư thục nhỏ, có đầu tư khiêm tốn với kiến trúc nhà ở nhiều tầng, sân chơi, chỗ học, nơi ăn và ngủ cho trẻ đều chật hẹp có mức học phí tương đối phù hợp với khả năng của nhiều gia đình nhưng cũng không phải dễ dàng để các trẻ được nhận vào học ở những ngôi trường này.

 Những phụ huynh sau khi chờ đợi kết quả thông báo con mình không được nhận vào ở các trường công lập “trong tuyến” và “ngoài tuyến” thì tìm đến những ngôi trường tư thục qui mô nhỏ vào giờ chót. Và cuối cùng các trường cũng không nhận vì học sinh đã quá đông. Chị Thanh nói:
“Đi tìm những trường tư thục thì trường cũng nhỏ, không nhận ngang. Hiện tại chị không gởi được, cho nên chị nghỉ làm luôn tính từ ngày sinh con đến giờ.”

Hầu hết phụ huynh phải gửi con vào các nhóm trẻ gia đình vì không còn lựa chọn nào khác. Chất lượng của các trường này không đảm bảo và mỗi ngày đưa con đi gửi, phụ huynh phải phập phồng lo sợ đến sự an toàn của con mình. Các bé gửi ở nhóm trẻ gia đình chỉ được cho ăn và được cho ngủ. Không có sân chơi và cũng không có cơ sở vật chất cho việc dạy dỗ giáo dục, không được học theo những trường tư thục khác. Các bé phải chịu rất nhiều thiệt thòi khi phải học ở nhóm trẻ gia đình.
Tìm những trường tư thục thì trường cũng nhỏ, không nhận ngang. Hiện tại chị không gởi được, cho nên chị nghỉ làm luôn tính từ ngày sinh con đến giờ.
Chị Thanh, TPHCM
Với tâm huyết của một cô giáo yêu nghề, cô Nguyệt ước mong sẽ có thêm nhiều trường mầm non công lập để phụ huynh được yên tâm trong công tác và các trẻ thật sự được thụ hưởng một môi trường học tập đúng nghĩa trong những ngày đầu chập chững đến trường. Cô Nguyệt chia sẻ:

“Nếu như có điều kiện thì nên mở thêm những trường công lập dành cho dân nhập cư vào thành phố để họ vẫn có thể gửi con họ đi học và họ yên tâm hơn. Trường công lập và trường tư nhân bây giờ cũng không có sự khác biệt nhau nhiều lắm. Nhưng mà nếu trường công lập mở để ưu tiên cho những người có hoàn cảnh khó khăn thì nhà nước nên quan tâm đến vấn đề này hơn.”

Với chính sách khuyến khích mở rộng ngành giáo dục mầm non hiện nay được xem là tích cực với nhiều trường quốc tế, nhiều trường tư thục, nhiều nhóm trẻ gia đình nhưng thực tế vẫn không đáp ứng được nhu cầu quá tải học sinh mầm non ở các thành phố lớn. Tất cả các bậc phụ huynh có con em ở độ tuổi đi học mẫu giáo cũng như những người quan tâm đến lĩnh vực này đều mong muốn chính phủ cần phải chú trọng nhiều hơn nữa để giải quyết vấn đề quá tải hiện nay. Họ trông chờ con em mình được học ở những ngôi trường công lập cùng với đội ngũ giáo viên yêu nghề mến trẻ-là những “mầm non” của hôm nay nhưng sẽ là “hy vọng” của ngày mai.
 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/lack-kindergarten-ha-04252012172108.html

No comments:

Post a Comment