NGUYỄN KHÔI * SƠN LA KÝ SỰ II
Bài 21:BẾN TẠ BÚ
Bến
Tạ Bú một sớm mai mình đến
Nước
sông sâu xanh biếc tự đáy lòng
Hòn
cuội trắng soi hồn ta tỏa nắng
Theo
ngựa thồ sang tận Ít Ong
Ơi
thác Chiến, có xuôi thuyền đuôi Én
Bản
Pha Khinh ai đó hẹn ta về
Đêm
nay “lẩu xiêu” vui cạn chén
Bếp
nhà sàn tiếng “Pí” thổi say mê
Bến Ta
Bú nào có ai ra tắm
Để vừng trăng đắm
đuối giữa dòng
Mình là trai bản
Phiêng Ngùa lạ lẫm
Đến bến thuyền
xuống ngựa ngẩn ngơ trông.
Nguyễn Khôi
“Nước Sơn La ma Tạ Bú”
(cũng có người nói ma Hòa Bình)
Bài
22: CÂY ĐÀO TÔ HIỆU -
AI TRỒNG?
Ở
khu di tích bảo tàng “nhà tù Sơn La” trên đồi Khau Cả, áp sát dinh Công Sứ
(thời Pháp thuộc) nay là trụ sở UBND khu tự trị Tây Bắc, rồi tiếp là trụ sở
UBND tỉnh Sơn La.
Ở
cách cổng nhà tù xưa một quãng có một ô nhỏ “Izôlê” (Isolé – nơi cách ly)rộng
khoảng 4m2, hình tam giác vuông - xưa có cửa là một phiến gỗ lim
dày, vừa để 1 người lọt ra vào. “I đôlê” ở ngay bức tường sau khu thường phạm,
bước chân ra là đường hành lang tròn (đường Rông - Ronde).
Năm
1940, nơi đây nhốt 1 người tù Cộng Sản: Anh Tô Hiệu (30 tuổi) nguyên Bí thư
Thành ủy Hải Phòng Đảng Cộng sản Đông Dương - quê Xuân Cầu, Văn Giang, Bắc
Ninh. Sau những trận đòn thù của thực dân Pháp ở các nhà tù như Côn Đảo, Hỏa
Lò… anh Tô Hiệu đã bị “lao” nặng nên bị nhốt cách ly ở “I zôlê”- lúc này anh Tô
Hiệu là Bí thư chi bộ nhà tù, tuy bị đau nặng, lại phải nằm bệ ci ment, nhưng
anh vẫn làm việc hết mình… đến ngày 16/7/1944 thì anh trút hơi thở cuối cùng
trong vòng tay các đồng chí của anh.
Nhà
tù Sơn La do thực dân Pháp xây để nhốt tù chính trị, tường cao, sàn sân láng ci
ment, 1 ngọn cỏ không thể mọc được, tường và sân, kể cả đường “nông” đều dầm đá
dăm + ci ment (bê tông) dày hàng nửa mét (để đề phòng tù nhân đào hầm tẩu
thoát). Luật lệ canh gác nghiêm ngặt, thường có lính gác đi lại liên tục ngày
đêm nên không ai có thể đào bới trồng cây trong sân nhà tù.
Sau
Cách mạng tháng 8, khoảng năm 1948 (do các
đ/c ở đây kể lại) khu di tích nhà tù bị bom Pháp đánh sập, bị bỏ hoang…
Sau
năm 1954 (hòa bình lập lại) thủ phủ khu tự trị Thái Mèo đặt ở Chiềng Ly (Thị
trấn Thuận Châu), tỉnh lỵ Sơn La cũ (Chiềng Lê là một thành phố chết và đổ
nát)… thuộc 2 xã Chiềng An, Chiềng Cơi, huyện Mường La (Châu Mường La)… mãi tới
năm 1962 mới thành lập thị xã Sơn La: Các cơ quan của khu và tỉnh mới chuyển từ
Thuận Châu về thị xã , nhà cửa mới được xây dựng, khu nhà tù vẫn là một phế
tích, nay là Thành phố.
Năm
1958, nhà văn Nguyễn Tuân đi thực tế ở Sơn La, trong tùy bút “Sông Đà” nổi
tiếng, ở trang 129 - 134, ông có viết thiên “Đào cộng sản” nhân sau khi đến
thăm khu phế tích nhà tù Sơn La xưa “tôi dạo hết sân ngoài sân trong, nhìn tường
đá, nhìn xi măng cốt sắt, nhìn cây. Có những cây hao hao cây Xoan, và mấy gốc
muỗm. Thế thôi. Tôi biết. Ở đây còn có cây đào, cây đào ông Tô Hiệu”… Rồi nhà
văn xuống khu vườn ổi chân đồi Khau Cả viếng mộ anh Tô Hiệu:
“Đứng
trước mộ đ/c Tô Hiệu nơi rừng ổi, tôi bảo tôi “nơi nghĩa trang tiễn biệt này,
cần có đào”…. Đối với bậc lãng mạn cách mạng, lấy hoa đào để thực hiện lên cái
vui hoa quả XHCN của Sơn La - Thủ phủ Tây Bắc ngày nay, thấy cần có bóng hoa ấy
trên chữ vàng bia đá”.
Nhà
văn Hoàng Công Khanh (1921 - 2010). Một bạn tù của anh Tô Hiệu, trong cuốn “Hoa
nhạn lại hồng” NXB Văn Học 1992, trang 157 có viết “sau các trận bom Pháp, nhà
tù Sơn La chỉ còn cái cổng và cái hầm sâu. Trên quảng đường “rông” gần “I đôlê”
bỗng xuất hiện một cây đào rừng (đào phai không ăn quả được) nó lớn nhanh và
hoa phớt hồng, sinh thời nhà văn Nguyễn Tuân nhân một dịp lên thăm qua thăm vết
tích nhà tù thấy cây đào mọc bên cạnh phòng giam (xưa) anh Tô Hiệu đã vui miệng
nói đó là cây đào Tô Hiệu”.
Rồi
truyền miệng, báo chí đăng tải, rồi Bảo
tàng Sơn La gắn biển “cây đào Tô Hiệu” một huyền thoại thành hiện thực ca ngợi
một chiến sỹ cộng sản.
Năm
1980 - 1981 tỉnh mới tu bổ lại thành khu di tích bảo tàng cách mạng.
Nguyễn
Khôi tôi lên công tác Sơn La 21 năm (1963 - 1984) có cái may mắn: Hồi 1966 -
1970 công tác ở Ban Nông nghiệp tỉnh ủy Sơn La, 1978 - 1984 làm thư ký ở văn
phòng UBND tỉnh Sơn La, nơi ở và nơi làm việc cách 1 bức tường là sang khu di
tích nhà tù, cách chỗ gọi là “cây đào Tô Hiệu” vài chục mét.
Nguyễn
Khôi tôi cũng có cái may mắn đã từng được đưa các bác Trần Huy Liệu, Văn Tân đi
thăm lại nhà tù… và được nghe các bác kể chuyện đủ thứ về nhà tù. Năm 1984 tôi
về công tác ở VPQH và HĐNN, có điều kiện cận kề bác Trường Chinh, Nguyễn Hữu
Thọ, Lê Thanh Nghị, Xuân Thủy… lại thường xuyên giúp việc bác Lê Thanh Nghị nên
có điều kiện hỏi về chuyện nhà tù Sơn La (vì bác Nghị hồi trước 1945 cũng bị tù
ở đây 5 năm cùng các bác Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu, Trần Huy Liệu, Lê Đức Thọ,
Xuân Thủy… bác Xuân Thủy, hồi sau làm Phó chủ tịch Quốc Hội).
Qua
câu chuyện về cây đào “Tô Hiệu” thì bác Lê Thanh Nghị, Xuân Thủy đều bảo thời
trước 1945, nhà tù chưa bị phá thì không thể trồng cây gì ở trong đó được. Sau
này, đó là chuyện của Nhà Văn Nguyễn Tuân trong tùy bút Sông Đà với mấy câu lấp
lửng “Cây đào ông Tô Hiệu”, rồi sau đó được báo chí “môđiphê”(modifier-làm thay
đổi) như khẳng định… câu chuyện thực là thế, và có lẽ cũng chỉ nên nói là “cây
đào bên buồng giam Tô Hiệu”. Cây đào này (bên cạnh còn nhiều cây đào khác) hiện
nay được Bảo tàng Sơn La gắn biển “cây
đào Tô Hiệu”… vậy thực là do ai trồng? Đó là do chim rừng, gió núi đem những
quả đào dại (đào rừng) mọc đầy trên đồi Khau Cả gieo vào các khe nứt trên sân
nhà tù xưa đã vỡ nát, rồi nảy mầm mọc lên thành cây… tất cả đào Sơn La hầu hết
là “trời trồng” (mọc tự nhiên) không phải ai tưới tắm gì cả. Hậu thế, do quá
yêu tấm gương hy sinh của người chiến sỹ cộng sản Tô Hiệu nên đã gán cho anh
thêm cái “tình”: Ho lao rũ rượi chết đến nơi rồi mà vẫn gieo hạt, trồng đào nở
hoa cho các thế hệ mai sau. Từ văn học (tùy bút) rồi thành huyền thoại, âu cũng
là một tấm lòng, không nên bàn cãi qúa nhiều. Vấn đề là cất cái biển đã ghi tên
kia đi… (Rendez César ce
qui appartient à césar)./.
Bài 23:
NHÀ SÀN THÁI
Nhà sàn của người Thái -
Sơn La - Tây Bắc “hướn hạn phủ táy” là một công trình kiến trúc tài hoa, hòa
đồng với thiên nhiên, trời đất cùng vạn vật, có 2 loại:
- Nhà sàn khung cột: bộ
khung được gá lắp từ các bộ phận rời, bắt đầu từ việc chôn cột (nhà cột chôn -
nghèo) “hươn chim mạy”.
- Nhà sàn vì kèo “vì
cột”: Kèo, cột, xà ngang đã được lắp ráp thành các đơn vị “vì kèo” dựng nối các
vì bằng các xà dọc (tiến từ hườn khứ sang kẻ khứ (quá giang = khứ) có hai trụ
để đỡ đòn tay (pe hản) là con cung. Đó là loại nhà “hườn kè khang” (nhà kê hạ).
Nhà sàn Thái bao giờ cũng
làm số gian lẻ, 2 đầu hồi - “tụp cống” khum khum như mai Rùa, gắn với truyền
thuyết thủa khai thiên lấp địa, thần Rùa “Pua tẩu”. Dạy người Thái làm nhà theo
hình Rùa đứng.
“Khửn song phái/ cái song
đay” - mở 2 cửa/ đi 2 cầu thang là “tang
chan” và “tang quản”. “Tang chan” ở cuối nhà bên trái dành cho phụ nữ. “Chan”
là phần nhà sàn được nối dài ra ngoài trời. Đây là nơi đàn bà trong nhà ngồi
nghỉ ngơi chơi lúc nhàn rỗi, thêu thùa, cầu thang phía này thường 9 bậc (9
vía).
Cầu thang đầu bên phải
“tang quản” dùng cho nam giới; 7 bậc (7 vía).
Có 2 bếp lửa: “chik pháy”
phía tang quản dành cho người già. Bếp chính phía tang chan dành cho nấu nướng,
phụ nữ. Bếp lửa nhà sàn ở giữa nơi núi rừng âm u được coi như “trái tim bốc
lửa” sưởi ấm nuôi dưỡng cả về vật chất, tinh thần cho cả nhà.
Gian “quản” có bàn thờ tổ
tiên “hỏng hóng” và cột thiêng “sau hẹ”. Trên cột thiêng có treo hình Rùa bằng
gỗ 3 bông lúa “sam huống khẩu” và 3 nhánh rau “thì là” “sam hóm chik” - đó là
biểu tượng của tô tem giáo cùng bóng dáng thuyết thiên - địa - nhân.
Nhà sàn Thái vừa trang
nhã vừa chắc chăn:
Hươn đi tẳng cang tèn
Hươn én tẳng cang vên
Lốm luông pặt bấu chại
Lốm hại pặt pấu pay.
(Nhà tốt dựng nơi cao ráo
Nhà đẹp
dựng giữa mường
Gió to
thổi không xiêu
Bão lớn
không lay động).
*
Sự tích cái Khau cút (hoa nhà)
Theo
Quắm tố mướng (kề chuyện mường)
Thì:
Cuộc thiên đi/ đi đường thuyền sợ rơi/ phải chuồn theo đường con don, con dím…
Người
Thái từ xíp xoong păn na (Vân Nam)
đi theo dọc sông Hồng (Nậm Tao - Sông Thao) ra đi vào cuối tuần trăng. Họ đi cứ
đoán lũ nhìn vào mặt trăng khuyết ở cuối dãy núi, họ hẹn nhau, hễ ai đến được
phương đất nào khi làm nhà thì dựng trên đầu hồi nhà (nóc) một cái dấu hình mặt
trăng khuyết để nhận ra đồng tộc - và cái đó gọi là “khao cót” và gọi chệch là
“khau cút” = sừng cuộn.
Theo
tiếng Thái “khao” là trắng, cót là ôm có ý nghĩa là mối hận ly hương. Cái mô
típ trang trí nghệ thuật “mặt trăng khuyết” này còn có ở cửa sổ, khăn Piêu…
Khau
cút vẽ vân sen/ đầu kèo vẽ vân én/ mái nhà xén chân gianh bằng rui: Đó là tiêu
chí nghệ thuật về nhà sàn Thái.
Khau
cút là 2 thanh gỗ đóng chéo hình chữ X trên đòn nóc “tiêu bôn” trước hết là để
chắn gió “pảy lốm” nẹp 2 mái gianh 2 đầu hồi nhà. Những nhà tầng lớp trên xưa
còn thêm bông sen cách điệu ở 2 giao điểm 2 tấm gỗ và 8 hình trăng khuyết
hướng vào nhau so le trên khau cút.
Có
nhiều cách hiểu về khau cút:
Đó
là cặp sừng trâu cách điệu (văn minh lúa nước); Đó là những búp cây Guột (rau
dớn)… nhìn thấy nó là ta nhớ bản nhớ mường.
Trên
bậu cửa thường chạm hình đôi Thuồng luồng (tô ngựa) linh vật làm chủ trên sông
suối, biểu tượng cho sức mạnh và gia đình hạnh phúc.
*
Các loại khau cút:
-
Khau cút mải: Là dạng đơn giản nhất chỉ là 2 thanh tre bắt chéo vào nhau, là
dấu hiệu nhà của phụ nữ góa bụa (me mải).
-
Khau quai (sừng trâu), khau pẻ (sừng dê), cút chim may (trăng khuyết) cút nêm
(cút lá tre) là dấu hiệu của nhà bình thường.
-
Khau của pụa (khau cút Vua) dấu hiệu nhà Quan lại, quý tộc gồm 2 miếng ván dài
trên 1m, phần chót có đóng 2 miếng gỗ ngang, chia 5 nhánh, mỗi nhánh có gắn
hình hoa thị theo số đếm của luật tục làm nhà.
-
Khau cút căm (khau cút vàng) dưới có thanh gươm, là dấu hiệu của Nhà quý tộc
“quan võ”.
-
Khau cút hoa sen: Nhà quý tộc lớn.
Bố
trí nội thất: Tiếp liền vách gian buồng thờ tổ tiên (hóong) là buồng ngủ của
chủ nhà, phía chân thường đặt thêm bếp lửa để gia đình sum họp, sưởi ấm… chăn
đệm chất đống đặt ở phía đầu ngủ.
Vị
trí ngủ của các thành viên trong gia đình: Gian giữa “xáo hạch” và “hỏng ly” là
gian khách đàn ông ngủ. Đối diện phía dưới là nơi con trai chưa vợ ngủ. Kề cột
xáo hạch là vợ chông chủ nhà ngủ. Kế tiếp là vị trí Bố mẹ chủ nhà ngủ, tiếp là
vợ chồng con trai ngủ, tiếp là nơi vợ chồng con gái ngủ, rồi đến con gái chưa
chồng ngủ.
Con
rể không được vào khu vực bố mẹ vợ ngủ, con dâu, con rể không vào khu bố mẹ
chồng ngủ. Bố mẹ chồng không vào khu con dâu ngủ.
Sợi
dây “xảo lỏng luông” là ranh giới (sợi
dây linh thiêng) nên người ta chỉ vắt khăn mặt, khăn Piêu lên sợi dây này.
Tuyệt
đối không vắt quần áo, tối kỵ là váy áo phụ nữ.
Con gái
chưa chồng
|
Vợ chồng
con rể
|
Vợ chồng
con trai
|
Bố mẹ
(ông bà)
|
Vợ chồng
chủ nhà
|
Khách đàn
ông
|
*
Các vị trí khác:
-
Nơi để hạt giống (giàn 2 bếp)
-
Nơi để ống nước: Dựa vào vách bên phải (thường ngồi quay mặt vào bếp)
-
Nơi để khung dệt vải: Bên phải sàn xia phía trong nhà hoặc bên trái sàn
xia phía ngoài nhà.
-
Nhà kho: Ở dưới gầm sàn
Lễ lên nhà mới: mời Lúng ta (ngoại)
châm lửa nhóm củi ở bếp mới, mời mo đọc bài xua đuổi tà ma
Cảm tưởng đầu tiên khi gặp “gái Thái”
là nõn nà, sạch sẽ, đẹp, hấp dẫn cả dáng lẫn da.
Trang phục đẹp “độc đáo” tạo dáng đi
tha thướt, uyển chuyển, làm nổi bật các đường cong gợi cảm nhưng vẫn kín đáo,
thắt đáy lưng ong. Tính tình dịu dàng, hiền thục, dễ gần gũi, thực thà, chất
phác, nói năng vừa phải.
Tình cảm: chân thành, yêu tha thiết,
hoạt động tình dục mạnh mẽ, đứng tuổi mà bộ ngực vẫn đầy đặn.
“Gái Thái tóc thơm, da trắng, thịt
mềm
Đôi bầu nhật nguyệt như mộng ước
Ru hồn trai lên cõi trời tiên”
Thông minh, hoạt bát, ham học hỏi và
nhanh tiếp thu cái mới.
Sinh hoạt cộng đồng: dám phát biểu
chính kiến, hay hát và hát hay, múa (xòe) giỏi.
Chăm chỉ đảm đang, nuôi con khéo, dạy
con ngoan. Không đánh con, ít xảy ra cãi nhau (to tiếng), không ăn cắp, không
nói dối (ba vẹo).
Có tính bình đẳng bình quyền (không
tự ti), có chí khí vươn lên (danh ca có nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa; chính trị cấp cao
có Tòng Thị Phóng - ủy viên bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội…)
Nhận xét (đánh giá) về “gái Thái” của
chính các chàng trai Thái qua “Tản chụ xiết xương” (tâm tình người yêu) với cái
lối nói “xiết” (kiểu nói kháy, hơi cường điệu, phóng đại “quá” lên một chút) đã
ca ngợi cô gái có vẻ đẹp thông qua lao động:
“Xai pánh nhịp lang chủm pên hún nộc
dung / phung lang he pến hún luống bin xẻo/. Lả tắt kẻo pên chớp lao vi”
(Em khâu vó nên hình chim công /vá
chài thành hình lượn con rồng) đưa nhát kéo thành Sao Tua Rua/.
Cô gái xinh xắn ở trên sàn khuống
khiêm nhường đáp lại:
“Khuống phủ khuôn nhinh khuống nọi,
khống ai khái
Khuống pai chán dú ngăm nga phả
Báu đáng nả chụ pươn má cha đău ná”
(Khuống của em, Khuống nhỏ lại xiêu
vẹo ở bên sàn ngoài, cớm cành cớm nguội chẳng xứng mặt chàng yêu của người sang
chơi).
Người Thái có câu “au mia bấng me
nai” (lấy vợ thì xem bà mẹ cô ta) ý là “mẹ nào con ấy”…từ lên sáu, lên bảy, bé
gái đã được mẹ dạy tập nhặt bông, cán bông, quay xa, kéo sợi, cầm kim chỉ để
khi lớn là thông thạo dệt vải vá may, tự tay trồng bông, dệt vải, nhuộm màu,
cắt may quần áo, làm chăn gối đệm màu…Phụ nữ Thái còn giỏi trồng dâu, nuôi tằm,
ươm tơ dệt thổ cẩm đẹp, thêu piêu…coi đây là các nghề phụ làm ngoài giờ ra
ruộng, lên nương, nuôi dạy con cái. Đó là những bàn tay tài hoa, khéo léo:
“Sai pánh
khuổn mư sại lẹo chum bok cai
Hai mư khoa
chum bơk Mường Hỏ
Năng dóng dỏ
nhịp lụa pên pik bin lá”
(Em úp tay
trái nở hoa đào
Ngữa tay phải
thành hoa Mường Hỏ
Khép ngồi khâu
lụa thành (chim) vỗ cánh bay.
Sự chăm chỉ của các cô gái Thái thức
khuya dậy sớm trên khung cửi từ canh ba, canh tư đến tang tảng sáng mới rời
khung cửi đi nương, ra ruộng.
“Tứn
tắm húk kem bươn hai
Tứn tắm húk
lai kem bươn hai póng hung”
(Dậy dệt thổ
cẩm cùng trăng sáng
Dậy dệt vải
hoa cùng trăng tỏ rạng đông).
Người
phụ nữ Thái quên ăn quên ngủ làm lụng tận tụy vì chồng con, xã hội… đã tạo ra
các sản phẩm thiết thực quý giá… các chàng trai Thái luôn mơ ước kiếm được cô
vợ đảm đang, qua lời hát “khắp” đã lý tưởng hóa về việc nàng thêu khăn đào tặng
chàng:
“Lả
tắm phải pên póc nong xe
Pánh tắm pé
pên khoáng lái lủ
Chụ tắm khẳm
pên khoáy lai lương
Cốn táng
phương lướt le chăử hảy”.
(Em dệt sợi
thành vóc hoa dâu
Em dệt tơ
thành gấm hoa vân chéo
Dệt thổ cẩm
rực rỡ hoa văn
Ước được em
thêu dệt khăn đào).
Như
vậy: Gái Thái với vẻ đẹp hình thể (vào loại nhất ở nước ta) thì cái đẹp bên
trong, vẻ đẹp nội tâm quả là các cô nàng xinh đẹp để cho ta chiêm ngưỡng và yêu
thương hết dạ.
8/3/2012.
Bài 25: PÍ
PẶP (1)
Chàng trai Thái tỏ tình với người yêu
bằng tiếng sao trúc (pí pặp) được nhà thơ Lò Vũ Vân đặc tả bằng sáu câu thơ
ngắn với 36 con chữ rơi thánh thót rót vào lòng cô gái:
Tiếng
Pí Pặp lảnh lót
Rơi
xuống nhà sàn em
Nhà
sàn em tỏa sáng vừng trăng
Tiếng
Pí Pặp nỉ non đêm ngày
Trải
thảm lên thang gỗ chín bậc
Rơi
vào đáy tim em.
Lò Vũ Vân
_________
_________
(1)
Pí Pặp: Sáo trúc nhỏ
Pí
= sáo “páu pí xáư hu quai” thổi sáo vào tai trâu (đàn gãy tai trâu)
Pí
láo = sáo trúc dài
*
Nhà thơ Lò Vũ Vân (19 - 8 - 1943) quê bản Noong Đa, Bắc Yên. Ở tổ 8. phường Tô
Hiệu. TP Sơn La.
BÌNH: Một tứ thơ lạ, ý rất xưa mà đủ
cả tình, cảnh, sự - đủ cả nhạc, họa… thật là độc đáo đến lịm người.
Bài 26: TÊN MỘT SỐ MÓN ĂN THÁI
Người
Thái có câu “dệt kin xấư xốp nhăng báu hụ” - làm ăn vào miệng còn không biết
thì mọi lời nói chữ nghĩa cũng chỉ là “tô xư tai” (con chữ chết) mà thôi. Theo
Vi Liên:
1.
Căm khảu (Phần về cơm):
Khảu
nửng (cơm xôi), khảu lam (cơm lam), khảu tổm (bánh chưng), khảu chảo (cơm
thổi), khảu canh (cháo), khẩu chí (cơm nướng)…
Khảu
bái pa (cơm cá), khảu bái sáy (cơm độn trứng), khảu bái bay (cơm độn trám đen),
khảu bái cưởm (với trám xanh), khẩu bái nậm ỏi (với mật), khẩu nhọm (nhuộm các
màu), khảu qua mắn có (độn sắn), khảu qua khảu phảng (độn kê), khẩu qua li tổm
(với ý dĩ), khảu qua phứa hom (khoai thơm)…
2.
Căm chảm (các loại chấm).
*
Le cưa khao (muối trắng), le ướt cưa (muối ớt).
*
Các loại “chéo”: Chéo khinh hom (gừng), chéo ướt cưa (ớt tỏi), chéo báư líu (lá
chanh), chéo hom chi lang (húng chó), chéo inh ki (húng) chéo hom kíp (tỏi),
chéo hom pẻn (mùi tàu), chéo phắc chậu (sả), chéo thúa nau (đỗ tương), chéo pa
(cá), chéo pu (cua), chéo mẹ (sâu măng), chéo non tó – chéo manh i (nhộng, ve),
chéo đẻ mọn (nhộng tăm).
*
Các loại mắm: Mẳm ca (cá), mẳm nước, mẳm khụa (nòng nọc), mẳm mẹ (sâu măng),
mẳm co đường Pừng (nhộng cây móc), mẳm manh ti (nhộng ve), mẳm manh po (nhộng
cánh cam), mẳm tắc ten (châu chấu), mẳm pu (cua), mẳm non tó (nhộng ong), mẳm
manh đa (cà cuống), mẳm tô niểng (niềng niểng).
*
Các loại nước chấm:
Nặm
xổm đanh (măng chua), nặm xổm má xim (quả xím), nặm xổm mák (quả bứa), nặm xổm
má liu (chanh)… kham bong (quả me), nặm mắm (nước mắm), nặm tôm (mắm tôm), pảnh
van (mì chính).
3.
Căm kin (phần về các món ăn):
*
Phau (đốt) – chí (nướng)
Các
món nướng (pỉnh): Pỉnh họn, pỉnh tộp (cá), pỉnh ho (gói), pỉnh mịnh (hơ), pỉnh
mản (xiên), pỉnh mản xót (xiên miếng to).
*
Các loại lam: Lam nhứa phặc (thịt nạc), lam nhứa hạp hạ (thịt bạc nhạc), lam
phắc (rau), lam nó (măng), lam tô họk (con sóc), lam tô ổn (con dúi).
*
Các loại “mốc” cá:
Gói
lá vùi tro nóng: Móc tong (lá), mốc ố (ủ), mốc nhứa đảng (thịt khô), mốc cay
(rêu đá), mốc pho, mốc ốt, …
*
Các loại Ók gồm:
Hầm
cách thủy: ók năng min, ók nhứa đảng (thịt chó), ók cay (rêu đá), ók tau (tảo),
ók bon, ók ốt…
*
Các loại nhọk (nghiền nhuyễn): Nhọk mák khừa (cà), nhọk mák thú (đỗ), nhọk năng
(da), nhọk nhứa (thịt).
*
Các loại mọk (tẩm bột hầm cách thủy):
Mọk
cáy (gà), mọk pa (cá), mọk nhứa (thịt), mọk tô pụng (diều hâu), mọk tô hơn
(don), mọk tô mển (dím), mọk cay (rêu đá), mọk hết (nấm), mọk mắk mư (quả chua
ngọt).
*
Các loại pho (đùm lá vùi nướng):
Pho
hết côn (nấm rơm), pho cốp (ếch), pho hết hẹk (nấm hương), pho hết khôn cày
(nấm da), pho chương tọng (lòng), pho pa (cá).
*
Các loại nửng (xôi) “đồ”:
Nửng
táo, nửng xá - đíp (chín tới), nửng pa (cá), nửng phắc kén (rau khúc), nửng man
ca (búp sự), nửng pưới (nhừ), nửng nhứa (thịt), nửng mák buốp (mướp), nửng mák
pi (hoa chuối), nửng dúak pi (nõn cây chuối rừng)…
*
Các loại quả:…
*
Các loại rau: Đều đem “đồ” mới ăn, phắc cát úp (bắp cải), phắc cát mong (cải
xanh), mướk (bồ công anh), khỉ táu (diếp cá), noók (rau má), ngỗm (xương sông),
cát đon (cải bẹ), cát choong (cải xoong), ót (rau ngót), xô-ók (dọc mùng), cút
nặm (dớn), phắc ở lợt (lá lốt), phắc ven.
4. Các
loại lá (lá non và ngon):
Bâư mắn co (ngọn sắn), bâư ổi, bâư
ngoa, bâư đứa.
5. Các loại măng ăn ghém sống:
Nó khá, nó van, nó bới, nó thúa ngọk
(đá), nó pửng, nó lau, nó man ca, nó tao, nó vai…
6. Các loại nấm: Hết bỉ, hết thu nún
nặm.
7. Các loại quả thơm:
Măk khén (hạt tiêu rừng), măk he
(tiêu), măk ớt (ớt).
8. Các loại vỏ:
Năng co hăm (vỏ cây hạt dổi)
Năng chưa bi mi
9. Các loại quả ăn sau bữa cơm (đét
xe):
Măk teng (dưa), kiểng (cam), hảu (bứa
ngọt), phong mạt (dứa), mắk muông (muỗm), hăm (hạt dổi), liu (chanh), cuổi
(chuối), nghe (quýt), na (na), pục van (bưởi ngọt)…
10. Các loại bánh kẹo:…
11. Các loại chụp (nộm):
Chụp phắc chiệu (rau bướm), nó (măng)…
12. Nó xổm (măng chua)
Nó héo (măng khô chua)
Nó hang (măng khô)
13. Các loại củ quả:
Mắk ứk (bí đỏ), mắk phặc (bí xanh).
14. Các loại hoa “đồ” chín ăn được:
Bók ban (hoa ban), ít ương, thúa (đỗ),
tong tay, hởng, nôm nẹ, pip, ứk, khạnh…
15. Các loại gỏi: Cỏi năng (da) cỏi pa
(cá), cỏi nhứa (thịt), cỏi xổm (chua), cỏi khôm (đắng)…
16. Năm pịa, nặm bi (mật).
17. Kăm cắp (ghém):
* Các loại ghém rau thơm:
Hom kim (húng), hon xa au, hon pẻn,
hon chỉ, hon kip (tỏi).
18. Căm nặm (phần để các món uống):
: Lảu xá chúp (rượu cần mút)
: Lẩu xiêu (rượu cất).
: Lẩu vạng (rượu cái).
Nặm ta (nước lã), lẩu xá nóng (rượu
đóng chai), lẩu xong xiêu (cất 2 lần), nặm che (nước chè)…
Cơ cấu một bữa ăn (mâm cơm) thường
phải có đủ 5 thứ (năm miếng) xếp thứ tự.
1. Căm khảu (về cơm)
2. Căm chảm (về chấm)
3. Căm kin (về món ăn)
4. Căm cắp (về món ghém)
5. Căm nặm (về món uống)
Khi sắp xếp mâm cơm: Đặt trước tiên là
“đĩa muối ớt” coi như đã có chủ nhà (mi
chản hươn) tiếp theo là các món khác.
Do thích ăn “xôi nếp thơm” nên cả hệ
thống tiếp theo sau cơm (xôi) là các món thức ăn khô (trừ rượu) mùa nào thức ấy.
Các món ăn “đồ” (không luộc) nên ăn
ngọt đậm (không nhạt)…
Bữa cơm Thái quả thật là độc đáo, hấp
dẫn, ngon mà như đủ các vị thuốc thu lượm từ rừng núi rất bổ dưỡng cho cơ thể
con người./.
Rượu
cần (lẩu xá - rượu của người Xá “Khơ Mú”) là thứ rượu ủ men (không cất = lẩu
xiêu).
*
Men lá gồm các thứ quả bơ, mắk cái, củ riềng, lá trầu không, quả ớt…giã nhuyễn
với gạo tấm, sau đó nắm thành từng miếng tròn dẹt như bánh rán, đem ủ trong
đống rơm, xếp từng lớp đều nhau từ 15 - 20 ngày có mùi men bốc lên đem phơi, để
gác bếp khô. Khi dùng giã nhỏ rắc vào cơm rượu. Mỗi mẻ rượu cần 7 - 9 bánh.
*
Cái rượu: Vỏ sắn khô gọt ra ngâm suối 3 ngày đêm cho hết mùi bồ hóng và độc tố
ở sắn, vớt lên phơi khô trộn với trấu lẫn tấm đưa lên “chõ” (dụng cụ đồ hấp, đồ
cho chín, đổ ra mẹt để nguội đem men rắc trộn đều, tiếp tục ủ bằng lá chuối
hoặc lá rừng (bó nhum, bỏ cá) để rượu bốc men rổi bỏ vào chum (ché) lấy lá
chuối hoặc mảnh ny long bịt kín (để hở thì rượu sẽ bị chua) - sau 25 - 30 ngày
thì có thể dùng được, để càng lâu thì rượu càng đặc, càng ngọt.
Ngoài
sắn khô, còn làm bằng ngô, ý dĩ, củ dong riềng, chuối, dừa, củ mài…
*VĂN
HÓA RƯỢU CẦN:
Rượu
cần (lẩu xá) còn có tên là lẩu kép (rượu trấu), lẩu pẳng (rượu ống), lẩu co
(rượu cây) rất đậm ngọt.
Rượu
Thái Sơn La: 1kg gạo + 2kg trấu + ½ lạng men. Ủ 5 - 7 ngày.
Khi
uống: Mở nắp, đổ nước lã sạch vào ngâm 1 phút cho ngấm, cắm cần vào và đổ nước
(sừng trâu) liên tục khi ta hút… uống đông vui: 1 hũ từ 10 - 12 bạn bè coi như
là anh em “lẩu khay cáy khả” (rượu mở là thịt gà…).
Khi
chum rượu lẩu xá đã mở là trống, khèn, cồng chiêng hòa theo các điệu “khắp”,
múa xòe dập dìu say sưa tới sáng.
Bên
hũ rượu cần là nơi hội tụ mọi cộng đồng mường bản, chân thành, đoàn kết, bình
đẳng, không phân biệt ai với ai.
*
Lẩu Xá chính hiệu:
Tháng
11/1993, Nguyễn Khôi tôi tháp tùng đoàn đại biểu Hội đồng dân tộc của Quốc hội
do B.S Y Ngông Niêk đăm (chủ tịch) làm trưởng đoàn sang thăm hữu nghị nước
CHDCND Lào. Ngày 25/2/1993 Đoàn Việt Nam lên vùng Lào Thâng, Lào Sủng ở
tỉnh Luông Phạ Bang giáp với Sơn
La.
Ở
bên Lào: Người Lào Lùm (Thái) là ở vùng thấp, đông nhất. Thứ nhì là Lào Thâng
(rẻo giữa) chủ yếu là người Khơ Mú. Thứ 3 là Lào Sủng (Mèo, H’mông)
ở vùng cao.
“Xá”
là tên gọi miệt thị với người Khơ Mú của giới quý tộc Thái Sơn La xưa.
Thật
là dân dã: Trên một bãi đất rộng, các chum “lẩu xá” được bày ra, khèn Hmông
(khèn lên man điệu) cất lên các điệu múa Khơ Mú rất phong phú và đặc sắc đan
xen với các đợt hút rượu cần với kiểu uống 2 người đủ đầy 2 sừng trâu (ống rót nước lã pha thêm vào chum rượu) - nước
rượu râm ran cay ngọt chảy từ cổ họng vào tới dạ dày làm bừng tỉnh cả người
(đúng là một liều thuốc tăng lực mạnh hơn
cả “bò húc” của Thái Lan). Thật là vui
như tết, trong cuộc vui say đoàn kết, người người hòa đồng với nhau tưởng
như không còn phân biệt dân tộc, không còn Quốc gia, người với người là bạn, là
đồng chí anh em cùng chung cuộc sống thanh bình./.
*Đường
lên Tây Bắc xa xôi
Nếp
nhà sàn thấp thoáng
*
Đường lên Tây Bắc quanh co
Tiếng
chim rừng đây đó…
(Nhạc
sỹ Văn An)
Có 3 đường lên Tây Bắc theo 3 nẻo:
-
Nẻo thông thường (năm 1963) đi từ bến Kim Liên (liền công viên Thống Nhất và hồ
Bảy mẫu) qua thị xã Hà Đông theo Quốc lộ 6…
-
Đường đi chiến dịch Điện Biên Phủ (1953 - 1954) đi từ Yên Bái - Nghĩa Lộ qua
đèo Lũng Lô sang Phù Yên…
-
Đường nhánh đi từ Hà Nội qua Hưng Hóa - Thanh Sơn (Phú Thọ) vượt đèo Cón vào
Phù Yên theo đường 13 qua Sông Đà.
*
Sau khi qua bản Song Pe (xem vợ chồng A Phủ) sang đò bến Ta Khoa, lên đèo Chẹn,
tới chân đèo Chiềng Đông tụt xuống Cò Nòi (đường 6) lên TX Sơn La.
1. NẺO QUỐC LỘ 6:
Quốc
lộ 6 đi từ Hà Nội - Sơn La - Điện Biên dài 504km, điểm đầu là cầu sông Nhuệ (TX
Hà Đông) là km số 0, điểm cuối là TX Mường Lay.
*Cầu
sông Nhuệ - TX Hòa Bình 63km (đêm ngủ ở Hòa Bình hay chợ Bờ) - ở đoạn quốc lộ 6
này có đài kỷ niệm anh hùng Cù Chính Lan đánh xe tăng Pháp năm (1953).
-
Từ cây số 65 TX Hòa Bình đến TX Sơn La 256Km
-
Sơn La - Tuần Giáo 56km
-
Tuần Giáo - Mường Lay 100km
Thời
Pháp (trước 1945) Quốc lộ 6 chỉ hết địa phận tỉnh Hòa Bình, sang tới địa phận
Sơn La là đường 41 (xã Chiềng Yên): Khởi đầu cây số 0 là chỗ suối Rút đổ vào
sông Đà, đi một chặng tới cây số 22 (năm 1963) ô tô sáng đi từ Hòa Bình hay chợ
Bờ lên tới cây số 22 (Sơn La) là trạm Công an kiểm tra giấy tờ và nghỉ ăn trưa,
có cửa hàng mậu dịch Quốc doanh. Ăn trưa xong đi lên ngược dốc tới đỉnh Đèo 46
(cây số 46) cao khoảng 1500m ngang núi Tam Đảo - Đây là bản Mèo (Hmông) đỉnh
núi sương mù, nước suối giữa tháng 4 dương lịch nhúng lạnh buốt tay; tại đây
cũng có 1 cửa hàng Mậu dịch Quốc doanh (vùng cao) nơi hội tụ dân bản đến mua
hàng gặp gỡ khá đông vui. Xe ô tô ca (giá 12đồng/ từ bến Kim Liên Hà Nội lên
tới Sơn La, cây số 302 km đầu cầu Trắng bắc trên suối Nậm La qua thị xã tới bản
Xẳng (xã Chiềng Xôm) chui qua gầm đèo Cao Pha đổ xuống Nậm Bú (xã Mường Bú rồi
tới Sông Đà chỗ bến Tạ Bú).
Từ
đỉnh đèo 46, xe ô tô xuống dốc một mạch suốt xã Lõng Luông (Mèo) tới chân đèo
là bản Hang Trùng (mường) cây số 58, rồi tới vườn Đào - cây số 64 có cửa hàng
Bưu điện, trụ sở Sư đoàn 335, 1 đội của nông trường Mộc Châu (sau này thêm nông
trường bò sữa Sao Đỏ ở cạnh đấy). Chợ Thảo Nguyên cùng Phố Thảo Nguyên đông
vui, thấy máy cày, máy kéo biểu tượng của Chủ nghĩa xã hội hồi những năm 60 của
thế kỷ 20 “anh đi khai phá miền Tây”, 4 giờ chiều xe tới thị trấn huyện lỵ Mộc
Châu đông vui. 1 bàn ăn thịnh soạn, mất độ 1đồng (0,3đồng/1kg gạo) đủ bia rượu,
thịt bò xào. Nhà trọ Quốc doanh đủ chăn đệm (đêm Mộc Châu mùa hè cũng dưới 20oC).
Sáng
hôm sau, ăn phở 5 hào, xe ngược đi Yên Châu, tới cây số 82 là hết địa phận nông
trường Mộc Châu, xuống 1 cái đèo nhỏ vào đất Tú Nang, cứ thế xe đi 1 bên núi, 1
bên suối Sập, 11 giờ tới thị trấn Yên Châu nóng bức như mùa hè dưới xuôi,
chuối, muỗm, đường phên… bày đầy các “Quán” tự giác bên đường. Đến đoạn suối có
cầu đi vào thị trấn là thấy chị em tắm truồng ngập sâu dưới suối…
Cơm
trưa ở Yên Châu, xong vượt đèo Chiềng Đông xuống Cò Nòi, Hát lót vượt dốc Mường
Hồng vào khu sân bay Na Sản… khoảng 2 - 3 giờ chiều là tới thị xã.
Thị
xã Sơn La hồi 1963 - 1965 các tòa nhà đang xây, lô nhà 2 tầng chân đồi Khau cả
là dành cho cơ quan, phía dưới đường Tô Hiệu là các dãy nhà cấp 4 cho cán bộ
công nhân viên. Thời đó cơ quan biên chế còn ít người (Ty Nông nghiệp tất cả có
21 người).
Thời
đó Quốc lộ 6 đi 1 xe/ 1 luồng, rải đá dăm, cấp phối - đi từ Hà Nội - Sơn La mất
2 ngày rưỡi (qua nẻo Suối Rút - chợ Bờ, nay đã là lòng hồ sông Đà), nay đi mất
có 6 tiếng đồng hồ.
2.
NẺO QUA ĐÈO LỦNG LÔ
“Cho
tới đầu năm 1953, Quốc lộ 13A (tức Quốc lộ 37 ngay nay) mới được khởi công để
cho Tướng Giáp đưa quân lên đánh Pháp, ở Nà Sản…, con đường nối từ ngã 3 Vực
Tuần qua Thượng Bằng La (Văn Chấn, Yên Bái) lên đèo Lũng Lô”.
“Đèo
Lũng Lô anh hò chị hát”
(Thơ
Tố Hữu)
Từ
đèo Lũng Lô qua Phù Yên, qua Sông Đà vượt đèo Chẹn ra Cò Noi (Sơn La). Từ ấy
mới thực sự có con đường nối từ chiến khu Việt Bắc sang Tây Bắc và cũng là con
đường huyết mạch của từng đoàn từng đoàn bộ đội - dân công lên đánh Pháp giải
phóng Lai Châu - Điện Biên Phủ (1953 - 1954) làm chấn động địa cầu. “Đường lên
Tây Bắc quanh co” chính là đi lối này.
“Lũng
Lô”, tên bản địa là “Trảng nương hoang giữa rừng cây cổ thụ”. Đèo Lũng Lô ngăn
cách hai tỉnh Yên Bái - Sơn La, đỉnh đèo ngợp trong sương mù bao phủ, bốn mùa
ẩm ướt, nước chảy qua đường đá gồ ghề. Trước ngày hình thành đường 13A, Lũng Lô
chỉ là một con đường mòn men theo triền núi, rất ít người qua lại. Thi thoảng
mới có dân bản Cơi (Phù Yên) và bản Dạ (Văn Chấn) qua lại thăm nhau hoặc đi săn
muông thú, vào rừng đèo lấy song mây, đào củ mài trong những ngày giáp hạt.
Người Mường ở vùng này gọi là đèo Lũng Lỗ (lỗ thủng) với hình tượng là trên
đỉnh đèo mây mù trắng, nhìn từ chân đèo lên đỉnh xuyên qua một lối mòn dưới tán
cây cổ thụ thì thấy như một cái lỗ thủng trên trời cao? Cũng có ý kiến giải
thích “lũng” là thung lũng, “lô” là cây lau? Trước ngày giải phóng Tây Bắc
(1953) Lũng Lô thuộc khu du kích Mường Thải (Phù Yên) đánh quân Pháp rất kiên cường. Giặc Pháp và tay sai ở Phù Yên sợ
không dám bén mảng đến. (theo Đinh Chanh - văn nghệ Sơn La “suối reo” số 6/2004).
3.
Nẻo qua đèo Cón giữa Thanh Sơn (Phú Thọ) và Phù Yên (Sơn La) là thêm 1 đường
chính phụ trợ cho Quốc lộ 6.
Quốc lộ 6 tới địa điểm Cò Nòi (co là
cây, Noi, có lẽ đọc chệch “loi” là mậy loi, một loại nứa nhỏ bằng ngón tay dùng
đan phên liếp thưng nhà)…đây là “rốn bom” do tàu bay B26 của Pháp dội bom chặn
đường quân ta lên Điện Biên, ở đấy có tượng đài TNXP.
Con đường 13A (nay là đường 37) từ
đèo Lũng Lô qua rừng ông Giáp ra Cò Nòi xưa qua đoạn núi Pu chạng hảy (dốc voi
khóc) vượt hẻm dốc đá Suối Cao (Bắc Yên) ra bến Tạ Khoa (nay đã có cầu) qua pha
Sông Đà lên đèo chẹn.
4, Đường lên Tây Bắc thời Lê Trịnh :
Theo Lê Qúy Đôn trong “Kiến văn tiểu lục” thì một dải sông Đà có 8 châu
(huyện).
8 châu thuộc Phủ Gia Hưng là Phù Yên,
Mộc Châu, Đà Bắc, Thuận Châu, Mai Sơn, Mai Châu, Sơn La và An Châu.
3 châu thuộc phủ Điện Biên là Ninh
Biên, Lai Châu và Tuần Giáo.
3 châu thuộc phủ
An Tây là Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai và Luân Châu. Đường đi từ Thăng Long lên thì
Châu Phù Hoa (nay là Phù Yên) đi mất 6 ngày; Châu Mộc; 8 ngày; châu Mai Sơn; 10
ngày; châu Mai Sơn có các động (Mường Bản) là Trình ban (Chiềng Ban), Trình
chanh (Mường chanh).
- Châu Sơn La đi mất 12 ngày, có một
xứ gọi là “hang cá” (chính là bản Bó Cá có cầu đá ở TX Sơn La), có mỏ yết Ong
(Hiếu Chai - Mường Chai).
-
Lên Châu Thuận (Mường Muổi) hết 12 ngày.
- Châu Quỳnh Nhai, thổ âm gọi là
Mường Chăn (Mường Chiên) đi lên mất 20 ngày có mỏ đồng Vạn Bằng, Vạn Ma.
- Lai Châu, thồ âm là Mường Lễ (Mường
Lay) đi đường 22 ngày phong tục sân vật giống như Quỳnh Nhai (cũng là người
Thái trắng).
- Châu Tuần Giáo: Thổ âm là Mường
Quay (Mường Quài = con trâu) đi mất 18 ngày.
- Chây Tuy Phụ: Thổ âm là Mường Tè
Hồ Chí Minh viết:
Đi
đường mới thấy gian lao
Núi
cao rồi lại núi cao trập trùng
“Đường
lên Tây Bắc” quả thật là như vậy.
7/3/2012 - NK
Ở
Tây Nguyên, bên Lào có cây Kơnia đặc thù, đã đi vào lời ca tiếng hát, như một
biểu tượng của quê hương xứ sở… thì ở vùng Yên Châu - Mường La (Sơn La) có cây
Mắc Chai, mà hầu như khắp nước Việt Nam này không đầu có? Đó là một loại cây
thuộc họ nhà Muỗm - Xoài, nhưng cao to vượt tầm: Cao vài ba chục mét, gốc hai
ba người ôm không xuể, đặc biệt là tán tròn như một quả cầu xanh (lá nhỏ như lá
cây Quéo), thường là cao vượt lên trên mọi cây cổ thụ khác, nên trên đường đi
Quốc lộ 6 hay bề Bản, từ xa hàng cây số, ta đã trông thấy cái tán quả cầu xanh
Mắc Chai in lừng lững trên nền trời xanh cùng bóng núi tím thẫm cao vời vợi như
đang chờ đón đợi ta về…
Ở
cây Mắc Chai như một điềm nghịch lý của tạo hóa: Cây thì cao to vật vã nhưng
quả thì lại bé như quả trứng gà (có khác gì một bà mẹ to béo đẫy đà hết cỡ lại
đẻ ra một chú bé tí hon?) - Quả Mắc Chai bé, hạt to chiếm tới 4/5 thể tích quả
(thật là vô duyên, ăn chẳng bỏ) nhưng bù lại: Khi quả chín, chỉ một làn gió là
nghe tiếng “lộp bộp”, một loạt quả tự rụng, ta nhặt lên bóp vân vê (như trước
khi ăn quả vú sữa Miền Nam) rồi cắn đủ có một lỗ, rồi hút lấy nước cùi (bột
vàng óng) thì ôi thôi rồi: Thơm ngon vượt cả nước quả xoài đóng hộp ở sân bay
Mun Bai (bên Ấn Độ) mà Nguyễn Khôi tôi có lần Transis (ghé qua) được thưởng
thức thơm mát đến lịm người dưới cái nắng 45oc cùng những người dân
bản địa da đen như bồ hóng.
Thời
chiến tranh, ai từ Thuận Châu về thị xã, lên tới đỉnh đèo Sơn La, dựng xe đạp
vào gốc Mắc Chai, trải tấm Nylông, giở cơm nắm ra ăn, tu một hơi nước bi đông
rồi ngả lưng đánh giấc. Vòm cây Mắc Chai như một cái lọng xanh vừa che mát, vừa
che kín mắt bọn giặc trời Mỹ… thế là cứ yên chí nằm nghe chim hót, lũ sóc chuyền
cành kiếm quả rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết nữa… và cây Mắc Chai như Mẹ
hiền che chở ru cho ta một giấc ngủ bình yên để rồi (lấy sức) lại lên đường ra
trận…
Cây
Mắc Chai như ai đứng đợi
Đón
ta về ngọt lịm giấc trưa.
Bài 30: HOA BAN
* Chua chụ xướng chua bók ban
Pan
Péng xướng pan bók khẳm
(Đời son
trẻ như hoa ban
Đời thương như hoa khẳm).
Hoa Ban Tây Bắc là biểu tượng, là tín
hiệu nghệ thuật đặc thù biểu hiện bản sắc văn hóa của thiên nhiên và con người
Sơn La - Tây Bắc.
Nó là loài hòa kỳ diệu gắn bó mật
thiết giữa thiên nhiên với đời sống con người… Nó là món ăn ngon (hoa ngọt), là
hình tượng thơ tượng trưng cho những ước mơ, tâm hồn trẻ trung (mùa xuân) tính
cách cao đẹp, mối tình thủy chung của con người.
Tết xong: Hoa đào đỏ, hoa mơ, hoa mận
nở trắng các lối đi khắp các bản mường, và gió lào ù ù bốc lửa, trời hanh khô
đến khó chịu - ngày 4 mùa: Sớm xuân, trưa hè, chiều thu, đêm đông, đang mùa đốt
nương, khát khao cháy bỏng trời đất và lòng người thì đột nhiên qua một đêm tất
cả các cánh rừng đều trắng ngát hoa Ban - Toàn bộ cây là hoa (lá mới nhú) cây
đơm hoa, mát thơm dịu ngọt…
Thật là cái đẹp, cái ngọt, cái mát
trời cho giữa ngày tháng 3 nắng nóng ngột ngạt.
“Mùa hoa
Người đàn bà
Mặt đỏ phừng
Đủ sức vác ông chồng
Chạy phăm phăm lên núi.
Mùa hoa
Người đàn ông
Mệt như chiếc áo rũ
Vừa vịn rào vừa ngái ngủ”
- Y Phương.
Đó là mùa động tình (tìm bạn) của con
Nai, con hoẵng, mùa của ân ái lứa đôi.
Cây Ban thuộc họ Mưồng, thân gỗ “bộp”
cao 5 - 6 mét, hoa trắng hay tím 5 cánh bướm. Trong 5 cánh có 1 cách chủ (cánh
chúa): Tựa như 4 cách kia nhưng trên cái nền trắng hồng hoặc tím phớt của cả
bông hoa, cánh chúa có thêm những kẻ xanh, tím, hồng (màu sắc cầu vồng) mềm mại
trải dọc theo cánh hoa tạo thành những đường nét hình khối rất lạ mắt. Nếu nhìn
xa thì mỗi bông hoa Ban giống như một nàng Bướm mà cánh chúa và nhị hoa là thân
và vòi bướm, 4 cánh còn lại là 4 cánh bướm, cả chùm hoa Ban là cả một đàn bướm
bay rập rờn trong gió xuân nhẹ nhàng - cánh Ban chúa tạo hồn cho sắc hoa là
vậy.
Cây Ban ở Sơn La thường mọc trong các
phiêng đá lồi đầu, những triền núi khô cằn mà cây vẫn phát triển xanh tốt.
Ở nhiều nơi như Lào, Malaysia, Nam
Ninh (Quảng Tây - Trung Quốc) không thiếu cây Ban nhưng khi nở hoa thì cây vẫn
xanh, hoa thưa nên không độc đáo như rừng Ban Tây Bắc Việt Nam. Tất cả cành trơ
khẳng khiu qua một mùa đông sương muối (dưới 0oc về đêm), sang xuân
là “Ban pún” lấm tấm mầm non của nụ và lộc. Chúng đang chờ những cơn mưa đầu
mùa (để gieo ngô, trồng sắn) để hút lấy cái hơi ẩm của trời đất, hút lấy hơi
Xuân ấm nóng (của gió Lào) mà nở bung.
“Và em ơi, một đêm xuân
Hoa Ban bừng
nở
tần ngần
chào em ”.
“Nghĩ
đến em đi đường sông chỉ thấy đá vồng chỉ thấy hoa Đào, hoa Ban, hoa Vông rụng
đầy dòng trôi…”
Lúc
hoa Ban tàn để lại quả non trong đám lá xanh mới nảy mầm lúc cuối mùa xuân, báo
hiệu mùa làm nương rẫy mới.
Hoa
Ban tàn anh hãy tra ngô
Hoa
Ban làm quả anh hãy dọn nương tra lúa.
Cây
Ban là cây “chỉ thị”: Đất nào cằn, cạn kiệt màu mỡ là xuất hiện cây Ban.
Kinh
nghiệm dân gian Thái: Nhìn Ban nở để dự đoán thời tiết mùa màng trong năm “năm
nào vào đúng tuần cữ Ban nở rộ đều một lượt trắng ngát cả rừng, hai bên bờ suối
là năm ấy mưa không dai quá, nắng không dữ, ít lũ lụt, ít hạn hán (mưa thuận
gió hòa) mùa màng tươi tốt thu hoạch lúa ngô đầy bồ.
Về món rau mùa khô (cuối xuân) thì hoa Ban cả một rừng, dân bản tha hồ đi hái về “đồ” lên thay rau, phơi khô trữ ăn dần, hoa Ban làm nộm. Ăn hoa Ban như ăn 1 vị thuốc (trị kiết lỵ), giải nhiệt, lợi sữa, giải độc.
Về món rau mùa khô (cuối xuân) thì hoa Ban cả một rừng, dân bản tha hồ đi hái về “đồ” lên thay rau, phơi khô trữ ăn dần, hoa Ban làm nộm. Ăn hoa Ban như ăn 1 vị thuốc (trị kiết lỵ), giải nhiệt, lợi sữa, giải độc.
Hạt
Ban già rang lên ăn thơm ngậy.
Rễ
Ban đỏ chữa dạ dày, gan. Lá ban nấu để rửa vết thương, sát trùng.
Song hau
hặc căn báu mau Ban bók
Báu hên mua bók Ban xia
Báu tính bươn tính pi
Sướng pi cánh nọng hau hặc
nhám lằng
(Đôi ta yêu nhau không tính
mùa Ban nở
Không thấy ngày Ban tàn
Không tính tháng, không tính năm
Mãi mãi như mùa ban đầu đôi ta yêu nhau).
Ngoài hoa Ban, ở Sơn La - Tây Bắc dọc
theo các khe suối còn có cây hoa Mạ (hoa ngựa) gắn với sự tích “bó mạ khun
chương”: Kể về con ngựa của anh hùng Lạn Chượng khi chết hóa thành bông hoa Mạ,
xuân đến nở rực vàng bên bờ suối, đón các cô gái chàng trai đến gặp gỡ tự tình
nơi bến tắm bản quê./.
8/3/2012 - NK
Bài
31: ĐÔI NÉT VỀ
LỊCH SỬ NGUỒN GỐC THÁI SƠN LA
* Người Thái - mơ hồ trong tên gọi?
Gốc gác ở Trung Quốc (trong số 56 dân tộc; với 1,16 triệu người), tên xưa gọi
“Thái Lặc” (Tai Lue) - “Dai” (Thái tây song bản nạp) 2 ngôn ngữ là Tày Pong và
Thái Đam (Tày đăm). Ngoài ra là tiếng Tráng (choang).
Thư tịch cổ gọi Điền Việt, Kim Xì, Hắc
Xỉ, Hoa Man, Bạch Y, Bạch Di, Bách Si, Bá Di…
Thời Hán quận Ích Châu là của người
Thái (xem thất cầm Mạnh Hoạch - Tam Quốc Chí)? Rồi di cư theo dọc sông Lan
Thương (Mê Kông) tới Myanma, Lào, Thái Lan, theo sông Hồng xuống Việt Nam.
* Người Thái ở Việt Nam:
Còn được gọi là Tày Khao (trắng) đăm
(đen) Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà
Bắc.
Nguồn gốc: Bách Việt, gồm với nhóm Choang
(tráng), Tày, Nùng.
Di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 7 - 13,
trung tâm là Mường Theng (Điện Biên), từ đây họ tỏa đi Lào, Thái Lan, bang Shan
(Myanma), đông bắc Ấn Độ cũng như ở Nam Việt Nam? (gốc đi từ - xíp xoong păn
na).
Ở Việt Nam: Đời Lý 1067 có Ngưu Hống
(rắn hổ mang - tô tem), chỉ người Thái vào triều Cống, sau 1280 dưới sự cai
quản của triều Trần.
Các thủ lĩnh Thái được gọi là “Phụ
đạo”.
- Họ Đèo cai quản các Châu Lai (lay),
chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nhan.
- Họ Cầm cai trị Châu Phù Hoa (Phù
Yên), Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Châu Luân, Châu Ninh Biên.
- Họ Xa cai quản Châu Mộc
- Họ Hà cai quản Châu Mai
- Họ Bạc ở Châu Thuận
- Họ Hoàng ở Châu Việt (Mường Vạt -
Yên Châu).
Dân số: 2009 có 1.550.423 người Thái
(thứ 3 ở Việt Nam) có mặt khắp cả nước. (Sơn La có 572.441 người chiếm 53,2%
toàn tỉnh); Nghệ An 295,132 người, Thanh Hóa có 225,336 người; Điện Biên
186,270 người, Lai Châu 119,803 người, Yên Bái 53,104 người, Hòa Bình 31,386
người, Đắc Lắk 17,135 người, Đắk Nông 10,311 người.
* Họ của người Thái: Bạc, Bế, Bua,
Bum, Cà (Hà, Kha, Mài, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo, Điều, Điêu, Hà, Hoàng, Khằm, Leo, Lèo, Lềm,
(Lâm, Lịm) Lý, Lò, (Lô, La), Lộc (Lục), Lự, Lường, (Lương), Manh, Mè, Nam,
Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, phìa, Quàng (Hoàng, Vàng), Quảng,
Sầm, Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Tòng (Toòng), Vang, Vi (Vì) Xa (Sa), Xin.
- Ngôn ngữ: Nhóm ngôn ngữ gốc Thái của
hệ ngôn ngữ Thái - Kađai.
- Kinh tế: Nông nghiệp (lúa nước, lúa
nếp), các thứ hoa màu, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, dê, cá… đan lát, dệt thổ
cẩm, số nơi làm đồ gồm.
- Gia đình: Phụ hệ, vợ theo họ chồng,
có tục ở rể.
Hôn nhân một vợ một chồng.
- Tục lệ ma chay: Chết là về Mường
trời tiếp tục sống ở thế giới đó.
- Văn hóa: Thần thoại, cổ tích, truyền
thuyết khá phong phú, có chữ viết riêng, có nhiều truyện thơ (sống chụ son sao,
khum lú - Nàng ủa, tản chụ xiết xướng…).
- Nhà cửa: Người Thái đen có nhà nóc
hình mai rùa, chỏm đẩu đốc có khau cút (hoa nhà) rất độc đáo.
- Trang phục: Đẹp, nhiều kiểu.
Nam
giống với người Tày, Nùng, Kinh.
Nữ: Thái
đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm, đen) cổ áo khác Thái trắng là loại cổ
tròn đứng.
Đầu đội
khăn Piêu thêu hoa văn theo môtyp từng mường. Váy ống (kín) giống Thái trắng,
màu đen, cạp gấu váy phía trong nẹp đỏ.
Khi lấy
chồng tóc búi ngược lên đỉnh đầu “tằng cẩu” (Thái trắng vẫn búi tóc sau gáy).
CÔNG TRÌNH
KIẾN TRÚC
Người
thái sang ở Sơn La đến nay đã trên 10 thế kỷ nhưng không thấy có dấu vết gì về
các công trình kiến trúc gạch, đá…? Có lẽ chỉ có một cầu đá bản Cá bắc qua suối
Nậm Cá chảy ra Nậm La ở đầu thị xã ra phía Chiềng Xôm? Và một số khu nhà xây
của tỉnh trưởng Sơn La Bạc Cầm Qúy, (sau này trụ sở huyện ủy Thuận Châu, rồi bị
bom Mỹ phá hủy hồi 1966 - 1973)… còn không hề thấy Đình, Chùa, đến Miếu gì ở
Sơn La đất cũ?
Người
Thái ở Sơn La không theo Tôn Giáo nào, chỉ thờ “Phi” (ma tưởng tượng) người
chết làm lễ chia của “bỏ mả” là xong, không có giỗ chạp hàng năm, Tang ma có lễ
gọi hồn, dẫn hồn về mường trời, xong coi là xong.
Nhà ở
người Thái: hầu hết là gianh, tre, gỗ, nứa - đục đẽo đơn giản, đa số là không
ngăn buồng (2 loài: cột chôn và cột kê) hoàn toàn là vật liệu tự nhiên sẵn có ở
rừng núi bản địa.
.Người
Thái ở Sơn La: Có 4 ngành (chi): tới 2009 có 58 vạn người.
-Thái
trắng (Tày đón) cư trú ở Mường Chiên (Quỳnh Nhai), Ngọc Chiến (Mường La).
-Thái
đen (Tày đăm) ở Thuận Châu, Mường La, Vai Sơn, Yên Châu, Sông Mã. Đặc biệt Thái
đen ở Yên Châu lại khác hẳn so với ở vùng
trên cả về tiếng nói, ăn mặc, phong cách, tập tuc.
Chi (ngành) ở Mộc Châu, họ tự gọi là Thái đỏ
(Tay đeng); cũng một chi ấy. Ở Bắc Yên, Phù Yên lại tự xưng là Tay đón (Thái
trắng) ở xã Huy Bắc tự gọi là Tay khoong (người khoong) - “khoong” là một địa
danh miền Tây Thanh Hóa (nơi họ từng ở ngày xưa). Nhóm Thái ở Pác Ngà (Bắc Yên) tự gọi là Tay Eng (người Eng) “Eng” cũng
là địa danh ở Thanh Hóa.
Tay đeng
(Thái đỏ Mộc Châu) gốc gác từ Vân Nam qua Lào: từ Luông Pha Bang qua Mường
Xáng; Mường Xăm, qua rừng Mường Xén vào đất giao chỉ (đời Lý) thuộc Nghệ An. Từ
Mường xén họ tỏa ra Thanh Hóa qua Hồi Xuân, La Hán vào Mường Mun (Nai Châu) rồi
lên Mộc Châu Sơn La.
Cuộc di
cư này do chúa đất họ Vi Khăm (Vi Vàng dẫn đầu vùng em trai là Vi Ngân (vi
bạc): Vi Ngân ở lại M ai Châu, người anh Vi Khăm ngược lên Mường Moóc (Mường Xang - Mộc Châu).
Do đi
tới nơi đất mới nên: Ở Mai Châu có bản Lác (bản lạ). Tòng Đậu nguyên âm là
Toong Táu (Toong = lá, táu là cây gỗ Táu - cây to, lá to dùng để gói muối, lót xôi khi cúng lễ. Đồng Bảng nguyên âm
là “Động Páng” (động: rừng già, rừng cây
cổ thụ, Páng là cây chuối rừng, nay ta qua Đồng Bảng vẫn thấy nhiều cây chuối
rừng vì đất quanh năm ẩm ướt.
Họ “Vi Khăm” sau đổi thành họ Xa (Sa) có 2 truyền thuyết:
- Chúa Vi Khăm vào triều đình (nhà Lê Trịnh) qua cổng thành thì Quan coi
cổng thành Thăng Long vấn danh, hỏi họ
tên gì ở đàu tới? Do ngôn ngữ bất đồng nên Chúa Vi Khăm trả lời sai ý đi “Tôi
là ở xa đến” - Quan nghe ú ớ ghi “Chúa đất họ Xa - nay do chữ nghĩa chính tả
lung tung ghi xa = Sa”?
Thuyết 2: Sau khi Chúa đất Vi Khăm qua đời - anh em trong nội tộc tranh
giành… người anh thắng thế làm chúa, em phải xuống làm thường dân lấy họ “Vi
Văn…” Người anh vì đã thề độc “cụ chí pái sá xịa mưng, mưng nha Pay năm hó phụ”
(Tao sẽ từ mày, cạch từ đây không chung Họ nữa).
Từ đấy từ (Xá = Sa) thành họ chính của dòng Vi Khăm. Mãi về sau gọi chệch
cho nhẹ đi Sá thành Sa… nhưng khi khấn cúng bái vẫn phải xưng là “Chúm mú Vi
Khăm ” - (dòng họ Vi Khăm) cho đến ngày nay.
* Quan hệ xã hội Thái:
Cơ cấu xã hội cổ truyền là Bản mường hay chế độ Phìa Tạo Tông Tộc gọi là
“Đằm”. Mỗi người có 3 quan hệ trọng yếu:
- Ải noọng: Nam giới 4 đời trong gia tộc (bên nội):
- Nhinh Sao: Tất cả thành viên nữ…
- Lúng ta: Tất cả thành viên Nam thuộc họ vợ (bên ngoại).
Bài 32: MƯỜNG TRỜI
Với người Thái: chia vũ trụ thành 3 tầng theo một trục dọc. Trên cùng là
Mường Phạ (Mường Trời), ở giữa là Mường Lùm (mường người thấp) và dưới cùng nữa
là lòng đất là Mường bọoc đai (Mường của những người lùn sống trong lòng đất). Còn
gọi Mường Pha là Mường Bôn nhằm chỉ thế giới ở trên đỉnh đầu - ngoài ra còn gọi
là Mường Then (Mường của các Then = thượng đế, thần linh). Người Thái ở Qùy
Châu: “theo quan niệm hữu thức của người Thái thì Mường Phạ là nơi cao nhất của
vũ trụ, đó là một khoảng rộng màu xanh, hình tròn úp lên mặt đất. Còn đất là
một tấm rộng vô hạn mà trời chỉ úp được một phần. Tầng trên cùng là tầng riêng
của các thế lực siêu nhiên, đó là một thế giới hỗn mang, chưa định hình, không
rõ ràng, rất ít ảnh hưởng tới cuộc sống của con người.
Xuống thấp hơn là Mường Then của các vị thần linh, còn tổ tiên của người
Thái thì ở một cỏi riêng khác: Nhóm Tày Thanh gọi là “đẳm chảo”, còn nhóm Tày Dọ
(đều ở Nghệ An) thì gọi là “Đẳm Pang”. “Đẳm Chảo”là nơi trú ngụ của người chết theo các dòng họ khác nhau, rồi lại còn
phân đẳng cấp:Tầng lớp trên là cho các họ Lò Căm, Hủn Vi, Mừn Quang. Tầng lớp
mới là các họ bình dân như Quản Quang, Quản Lự… (có 2 “đăm”:bậc giữa và bậc
cuối).
Theo Cầm Trọng thì người Thái đen Sơn La cũng na ná là “đẳm hướn luông”
(quý tộc) và “đẳm hướn nọi”cho thường dân.
Mường Then là hình ảnh thu nhỏ của thế giới trần gian: Cùng lao động sản
xuất, đó là một xã hội giàu có trù phú, ruộng đồng quanh năm tươi tốt, dưới ao
cá lội từng đàn, đèn thắp sáng quanh năm. (như thiên đường), vị thần chủ là
“Then Luông” (Then lớn) - thường gọi là Pò Then: Cai quản cả thế giới.
Dưới Pò Then là một hệ thống các vị thần giúp việc như Then Ná, Then Ảo, Then
Thao Ai, Then Thư ai, quản lý các dòng họ Quý tộc, thấp hơn là Châu Cuống Cảng
(họ ở bậc trung) do các Then Thư Noọng cai quản
trông coi các họ bình dân… tuy vậy có những dòng họ khác nhau nhưng lại
chung 1 Then Ná.
Ở Then Ná còn có các Mẹ Náng (bà mụ) là vợ các Then, làm nhiệm vụ Me bẩu
(đúc nặn người cho đầu thai xuống trần gian), Me Náng nặn rồi chỉ sang Then Bẩu
(khuôn), rồi qua Then Chằng để cân đo số mệnh rồi rơi xuống Then Chẳng cân đo
xong rồi tiếp xuống Then Bắc để đi đầu thai…
Trên Then Ná còn có Mẹ Xuổn Ném và Pù Noọng Pả trông coi vườn mệnh và ao cá
vía để giữ cho mệnh luôn được bình yên, trên Then Ná có một vườn mệnh trong đó
có một máng nước chảy vào ao nuôi cá mệnh (Pa Vẳn) mỗi con tượng trưng cho một
mệnh người dưới trần. Nếu nước chảy đều thì hồn khỏe mạnh, con người được bình
an, nước không chảy thì cá chết, mệnh người cũng hết.
Chính vì vậy: Khi con người lên cao tuổi
thường tổ chức lễ “Tum bẩư nho bủn” (lau chài sửa lại vườn mệnh, đặt lại
máng nước), để tăng tinh lực và sức sống cho con người.
Ở Mường Then còn có nhiều vị thần linh khác: “Then Khúm” trông coi
việc thiện, Then Tàng lo làm ra con
người và loài vật, Then Bấu lo đúc người, Then Khạt (Then Chằng) đo số mệnh,…
Then Bắc theo dõi sổ số mệnh, Then Kôm quan sát bốn phương trời, Then Cáo quản
lý phạm nhân, Then Thùm coi lũ lụt, Then Lốm tạo mưa gió, Then Ú, Then Đá lo xử
phạt sát sinh. Tầng cuối cùng của Mường Phạ là nơi ở của các hồn người chết
(chết không bình thường) thì phải vào “Mường phi tai sút đuôn” ở gần Mường Lùm -
Còn bình thường thì vào Đẳm Chào.
Trạm dừng chân đầu tiên do Mo dẫn hồn là Pặc Phắng Kén, nơi trời và trần
gian gặp nhau là Táng Cộp “Táng cộp nừng hả phiền” - Chỗ gặp nhau (như kiểu chợ
âm phủ) đan xen như cái nan xe kéo sợi, ở đây là trạm tiếp đón nên có nhiều xôi
thịt do người trần cúng lễ. Do đó những hồn nghèo đói, chết không bình thường
kéo tới đây kiếm ăn - vì thế người Thái rất sợ phải qua nơi này; khi đói loại
ma này còn xuống cả Mường Lùm quấy nhiễu.
MƯỜNG
NGƯỜI
Mường Lùm: Qua tụt khỏi Mường Phạ,
xuống dưới là Mường Lùm (cõi người) là mường ở dưới sàn trời “mường tớ cọng lùm
phạ”.
Lùm là thấp, thung lũng - Còn gọi Mường Piếng (bằng phẳng) = mường bằng
phẳng ở dưới gầm mường trời là mường có thật trong vũ trụ luận Thái, đây là thế
giới của con người khác biệt về bản chất so với Mường Phạ - Mường Phạ là cõi
hư, tâm linh, còn Mường Lùm là cõi thực của con người và các loài vật, là các
bản mường của nhiều tộc người (kể cả Kinh, Lào…) và “dân số” của các loại Mường
(Phạ, Lùm) bao gồm cả các thế lực siêu nhiên khác, kể cả ma quỷ. Ma quỷ đi lang
thang ở các Mường Phi, người thì ở các Mường Côn (có phi pú ở núi cao, phi pá ở
mường sâu, phi ngược ở vùng nước xoáy cùng cõi Mường Lùm do con người làm chủ
thể).
MƯỜNG
BOỌC ĐAI
Là “Mường trong lòng đất” của loại người tí hon “Táy boọc đai” đây là ở Quỳ
Châu (Nghệ An), còn phía Sơn La - Tây Bắc không có khái niệm này. Đó là thứ
“phi đóng kín” hay “phi dóc dách”.
“Cờ boọc đai” là cái ống nhỏ cuốn dùng tơ lấy ra từ kén tằm (cái suốt) -
Boọc còn có nghĩa là “hoa”, đó là nụ tơ hoa biểu tượng của lũ người tí hon sống
dưới lòng đất, đứng đầu là “vua hoa tơ” (Pủa boọc đai).
“Phi” với người Thái là gồm cả thần thánh, hồn người chết và cả hồn, vía
người đang sống - “Phi” là tín ngưỡng thờ vật hinh, một thứ sơ khai của Tôn giáo.
Linh hồn người sống là “phi vẳn”, ở người chết là “phi bướn”, với các thần
linh là “phi then”, các tổ sư nghề Mo (phi môn, phi một) rồi phi bản, phi
mường, phi pú, phi huổi, phi pá…
Thế giới của Phi có ảnh hưởng rất lớn tới thế giới thực của con người (can
thiệp, phù hộ) - do đó phải cúng bái cầu khẩn…
*
* *
Theo Hoàng Nó (Sơn La) thì:
Quan niệm về trời đó là Mường Phạ, Mường Bôn hay Mường Then. Có 11 Then gốc
gọi là “Then ngồi chõng” (Then năng chóng) và 22 Then anh em (Then Pi Noong),
mỗi vị Then là một đấng “sáng tạo” tạo mưa, gió, nắng hạn, lụt…
11 Then gốc, đáng kể là Then Luông (cụ Then già Pú Then Thẩu) hay chủ Tum
Vang (như Ngọc Hoàng).
Hai là “Then chăng tê ba” - chữ “tê ba” gốc chữ Pali - Sancrít thì Têbra nghiã là “cõi trời” - hư
vô ngự trên đỉnh Pha Bôn điều khiển đúc ra người… Ba là “Then Ban” tạo ra họa
phúc, duyên phận, sang giàu…
* Tục lệ cúng Then: Có 3
lễ chính:
1. Căm xeng: Báo ngày
kiêng cấm
2. Xên kẻ: Cúng giải hạn
3. Xên hươn: Cúng nhà tức
tổ tiên
Tháng giêng Tạo kiêng kỹ
Tháng hai Tạo căm xeng
* Đêm của ngày kiêng cấm:
Mỗi nhà lấy một bó cỏ gianh, bó lạt, một con dao buộc vào đòn gánh - tượng
trưng để phi tổ tiên đem lên sửa chữa nhà cho Then. Đầu đòn gánh treo một túi
xôi, gói thịt gà luộc để cho tổ tiên ăn - Đặc biệt bắt 1 con dế mèn đực bỏ vào
giỏ để đêm chúng gáy - Dế Mèn sinh nở vào tháng 7, nó tượng trưng 1 con trâu để
tổ tiên dắt lên cày bừa ruộng nhà Then. Còn có việc: Lấy 1 tổ hoang rỗng của
ong bò vẽ treo lên mái nhà để báo hiệu nhà tôi đã thực hiện đầy đủ cúng căm
xeng.
* Xên kẻ: Cúng đầu tháng
2, cụ tổ phải lên chầu Then phục dịch. Làm ở gian giữa nhà có đầu trâu hay đầu
gà, phía sau bà Một ngồi, phía trước lót vải trắng đổ gạo nếp thành một đống
con, trên đặt 1 quả trứng gà luồn trong 1 vòng tay bạc, xung quanh mâm có đốt
nến (sáp ong).
Đọc hát bài Xên do bà Một
gòi là “Á ní” mất 1 ngày đêm “lời thỉnh cầu Then xá tội cho tổ tiên, cầu xin
phúc lộc”.
* Xên hươn còn gọi Ló
Liêng tổ chức cúng nhà trong 3 tháng (giêng, hai, ba) vào các ngày 7, 8, 9, âm
lịch thành một chuỗi lễ hội đan xen căm xeng - xên kẻ và xên hươn.
Xiên hươn là mời tổ tiên
về ăn cỗ cuối buổi cúng, ông mo phải cúng cơm rượu để đưa tiễn đưa đi đưa lại
để các vị về nơi Mường phi của các hồn.
Bài 32: XỬA
CỎM
ÁO
NGẮN PHỤ NỮ THÁI
Trong trang phục Thái thì
cái áo ngắn (Xửa cỏm, xửa cóm) là độc đáo và đặc sắc nổi bật ít dân tộc tạo
hình được đẹp như thế.
Áo phụ nữ Thái có nhiều
kiểu dáng: Áo dài (xửa hí), áo ngắn dài tay có cúc bướm bạc (mắc pém) gọi là
xửa cỏm, áo ngắn hở nách là “xửa khép”…
“Xửa cỏm” cổ truyền vừa
là lễ phục vừa là thường phục, chỉ khác là về chất liệu vải (vải thường hay tơ
lụa, cát bá, sa tanh) khi đi lễ thì quàng thêm tấm thổ cẩm rộng chừng ba bốn
mươi phân hơi lệch chéo sang một bên, cách điệu một chút nghệ thuật ở phần hạ
bán thân, chỗ ngay thắt lưng “xửa eo” xuống.
Màu sắc xửa cỏm tùy thị
hiếu từng người có thể giữ nguyên màu vàng óng của tơ tằm hay nhuộm hồng nhạt
hoa đào, xanh thanh thiên, màu tím hay màu nõn chuối… đó là những màu sắc được
ưa chuộng (vải tự dệt) mua của người Kinh, người Hán…, còn Váy thì màu đen, đen
nhánh, váy lụa thì nhuộm chàm, tím thẫm rồi nhúng bùn ao cho thật đen, thật
mượt.
Xửa cỏm may thân áo bó
sát người, tay áo rộng, từ nách khâu hẹp dần xuống. Gấu áo khâu lót thêm 2 lần
vải, rộng chừng ba phân, khâu đột nịt chặt ôm lấy vòng eo thắt đúng lưng long,
phần trên đủ ôm lấy bộ ngực nở nang khít khao gây ấn tượng. Mép gấu áo chỉ đủ
chấm tới mép cạp váy, ngang thắt lưng nên khi cử động (cúi xuống hở tí eo lưng,
dướn mình hay ngã về phía sau thì hơi hở nude (nuy) chỗ rốn khá gợi cảm. Trước
ngực từ tới Rốn là 2 hàng cúc bạc “mắc pém” như một đàn bướm bay dọc trên 2 nẹp
tà áo.
Về số cúc bướm (mắc pém)
có 2 ý kiến:
1. Hàng mắc pém với số lẻ
11 cặp được bố trí khéo léo dày đặc lấp lánh trên ngực phụ nữ Thái - Số lẻ ở
đây tượng trưng cho sự vận động, phát triển đi lên (số chẵn tượng trưng cho sự
yên tĩnh, không động, không phát triển - những sản phẩm dùng cho phụ nữ đang
sống thường thiết kế với số lẻ, còn để
cho thế giới hư vô “phi” là số chẵn).
Bậc cầu thang để lên
xuống nhà này hàng ngày có số lẻ, chỉ làm chẵn khi đưa ma.
2. Hai là: Màu nền tà áo
không trùng với màu áo và cúc bạc. Số cúc bao giờ cũng “số chẵn” với ý nghĩa
đầy đặn, trọn vẹn dành cho chồng con - khác với những số lẻ trong kiến trúc nhà
ở, “lẻ” là sự sinh sôi phát triển.
Hai ý kiến trên đều có lý
lẻ… Thực tế ở mỗi vùng, mỗi chi (ngành) Thái có quan niệm khác nhau đôi chút -
có lẽ là:
* Với con gái chưa chồng
thì Xửa Cỏm có số hàng Mắc phém số lẻ.
* Khi có chồng con rồi
thì xửa cỏm có số hàng cúc bướm số chẵn.
Cũng có thể số hàng chẵn
hay lẻ phụ thuộc vào chiều dài của áo (áo người cao hay thấp) miễn sao cho nó
cân đối hợp lý là đẹp.
Xửa cỏm của phụ nữ Thái đen: Cổ áo cạp hai lần vải, khâu
đột, cổ đứng có phần gò bó cứng nhắc thì xửa cỏm của chị em Thái trắng lại bẻ
tai, chiết giấu mép, vòng cổ rộng hình trái tim mở dài hở đến trước ngực rất
mềm mại duyên dáng.
Các cô gái rất ưa kiểu
xửa cỏm này, còn các “bà xã” khi vẻ đẹp lý tưởng “eo kíu meng nhay” lưng eo con
tò vò không còn nữa, thì các chị rất ý tứ khi mặc xửa cỏm đã khéo léo dùng các
móng tay ém đẩy lớp mỡ bụng lên (đã qua nhiều lần sinh đẻ) rồi vừa cài cúc bướm
nên vẫn tạo được hình dáng thon thả gọn gang.
VÁY
THÁI:
Có nhà thơ đã cảm:
“Váy em sắm lệch, nhiều khi cũng tình”
Váy (xỉn) của phụ nữ Thái
màu đen, khâu kín mép kiểu váy ống, vòng ống rộng gấp đôi vòng eo, cạp váy màu
trắng, còn độ dài tùy theo cao thấp của người mặc và thường là chùng quá bắp
chân. Ở trong gấu váy, chị em cạp thêm một đường viền vải màu đỏ thắm rất cách
điệu gợi cảm:
Ai đó hát ngất ngư Phố Bản
Lũ nghé tơ nhảy giỡn rộn bờ khe
Ngọn gió quẩn thổi tung viền váy đỏ
Làm ngả nghiêng lơi lả cánh rừng tre.
Váy mặc bó sát vào mông,
tạo 1 đường cong thật đúng như một nhà Văn Trung Hoa đã khắc họa cái đẹp “phong
nhũ phi đồn” (vú nở, mông to) của người phụ nữ đang thì của thời hoạt động tình
dục mạnh mẽ, sinh con đẻ cái để nòi giống phát triển và trường tồn.
Khi mặc váy nếp phần thừa
quấn vào một bên hông rồi gấp bẻ trở lại đằng trước thành một đường chiết ly
thẳng từ eo xuống gấu váy. Tuy thế, nếp gấp này không làm mất đi nét uốn lượn ở
phần hạ bán thân của người phụ nữ Thái.
Thắt lưng được làm bằng
lụa tơ tằm dài gấp 2 lần rưỡi vòng eo, rộng chừng bốn năm phân, màu hoa lý hoặc
màu xanh nõn chuối. Hai đầu chính nối thêm 2 mẩu vải màu đỏ chói gây chú ý.
Từ nhỏ các bà, các mẹ đã dạy con cách thắt khăn nơi thắt lưng (xài
yêu) để sao “Eo kíu manh po” (thắt đáy lưng con tò vò).
Khi thắt lưng thì thắt
ngay dưới cạp váy trên hông, mối đằng trước hơi chếch về phía bên hông một
chút. Ngày nay, nhiều cô gái đã “cải tiến” dùng dây thắt lưng hoa nhiều màu gấp
nếp - không thắt mà quấn giấu mối, trông khá điệu đàng, mảnh dẻ, kiêu sa. (Theo
Phan Kiến Giang)
Khách quan mà chiêm
ngường: Ngắm phụ nữ Thái với trang phục xửa cỏm ta ngỡ đó là một nàng vệ nữ rất
cổ điển mà vẫn hiện đại, bó sát tạo eo, nổi bật các đường cong lý tưởng (như
thi hoa hậu)… chị em Thái đã rất táo bạo trong sắp xếp đường nét (gây gợi cảm).
Cái váy dài tha thướt xúng xính như muốn kéo dài thêm cho phận hạ bán thân, làm
sao chân dài thêm; còn cái xửa cỏm thì cứ như hơi quá ngắn lại ôm xít thân thể
vùng trên như dồn nén chật chội, căng phồng như muốn bung ra “bong ra” hiến
dâng cho người tình “của em của anh đây mà” rất gần gũi thân thương đầy chất
nhục cảm.
Khi may mặc bộ “xửa cỏm”,
chị em rất chú ý bố trí phối hợp màu sắc (các tông màu) không diêm dúa, lộng
lẫy mà vẫn giản dị, ấm cúng.
Váy đen nhánh thêm viền
phía trong đỏ ở gấu váy, khi bước đi xao động cùng khăn piêu trên đầu, bộ xà
tích bạc ở thắt lưng thật là vừa tạo hình, vừa tạo sắc (hai cái màu nóng tương
phản): Màu đỏ ẩn hiện làm cho màu đen thăm thẳm, sâu hơn như ẩn sau đó là vùng
“âm” của tình ái…
Sự tương phản lung linh
sống động ấy trong một tồn tại ở một chỉnh thể thấp nhất, sự hài hòa cân bằng
âm dương như “ải cắp êm” (bố với mẹ) đời đời bền vững hội nhập với áo sơ mi,
quần Jin hiện đại vẫn không lạc mốt.
KHĂN PIÊU
“Piêu” tiếng Thái nghĩa
là “khăn”. Đó là một tấm vải thổ cẩm tự dệt rộng chừng hai gang tay và dài một
sải tay, mặt vải sợi dệt thô nhuộm chàm kỹ ngả màu xanh đen, còn nhấn thêm nước
vỏ cây Ban cho đen nhánh bóng.
Khăn tuy dài nhưng khi đội
thì chỉ một đầu khăn vắt trên đỉnh đầu rủ xuống trán và một đầu thả xuống sau
lưng dưới gáy, chỉ những phần hở ngoài mới thêu trang trí hai đầu khăn, còn
đoạn giữa để nguyên vải chàm thô.
Hai mép đầu Piêu được
viền một diềm vải đỏ (hay vải ngũ sắc) kéo sang 2 bên mép cạnh bên bằng một
đoạn bằng một nửa chiều rộng khăn, các góc khăn trên mép vải viền được tết chỉ
màu thành các “cút Piêu” bằng chỉ nhiều màu thành các vòng tròn nhỏ mỗi đoạn
vòng một màu. Tùy loại Piêu mà tết thành từng nhóm 3 hay 5 hay 7 cút.
“Cút Piêu”; hình tượng
cây guột ở đoạn chồi là non xoắn hình trôn ốc nó cũng như 2 cái khău cút trên
đỉnh đầu hồi nhà.
Ô vải vuông ở hai đầu
khăn là gương mặt của Piêu, là nơi trổ tài thêu thùa của chị em… Bố cục vuông
gấm, vải đỏ thành những ô vuông đồng tâm hay lệch 45o so với ô bao
ngoài gần mép đầu khăn gây cảm giác chuyển động như bánh xe quay. Cũng có khi
bao quanh vuông gấm là các ô vuông nhỡ xếp cạnh nhau thành 4 băng dọc theo các
cạnh hình vuông, mảng vuông bên trong mới bố cục thành các ô vuông đồng tâm. Ở
lối bố cục tất cả đều là những hình vuông được thêu thành các dải hồi văn các
hình móc câu hay tam giác đồi đỉnh, hình răng cưa, hình ô trám, hình đàn khỉ,
đàn ngựa đuổi nhau chạy vòng quanh các hình vuông, còn mặt hình vuông trong
cùng thì thường thêu những ngôi sao ở cánh hay nhiều cách biến thể. Những hoa
văn ấy đều phản ánh hiện thực, song không sao chép tự nhiên mà đã được cách
điệu thật khái quát và hình học hóa, số kiểu hoa văn tuy không nhiều, song nhờ
kết hợp khéo léo ở từng bàn tay vàng và theo tập quán từng vùng mà vừa mới lạ
vừa quen thuộc lại như mở ra vô hạn (theo TS Chu Quang Trứ).
Về màu sắc chỉ thêu thường là màu tươi cơ bản.
Piêu Yên Châu sặc sỡ, ưa dùng các màu gốc đối chọi mạnh: Trên nền khăn xanh
chàm đen, nổi bật lên là những màu sáng mạnh như đỏ rực, vàng nghệ, vàng chanh,
trắng, xanh lá cây, xanh lơ tạo thành sự phối hợp màu khá mạnh bạo. Piêu Điện
Biên ít màu hơn thiên về đằm thắm.
Khăn Piêu do các cô gái
Thái làm ra để dùng, để tặng bạn tình làm quà kỷ niệm, tặng cha mẹ, cô bác, anh
chị bên nhà chồng. Khăn Piêu rất tiện dụng: Dùng đội đầu, quấn cổ và khi cần
thì buộc làm “địu” để địu con nhỏ. Nó
đẹp như câu hát:
“Chiếc
khăn Piêu
Thêu chỉ hồng
Theo gió cuốn
Bay về đây
Dâng trên tay…”
Nó chính là nơi lắng đọng tâm hồn (tình yêu) và phẩm chất
cao đẹp của người con gái Thái.
8/3/2012 – NK
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0219
NGUYỄN KHÔI * SƠN LA KÝ SỰ I
LTS
Thiên phóng sự này đã đăng trong BKBĐD số 214, nay tác giả có viết thêm và sửa chữa cho nên bản báo đăng lại cho độc giả tiện tham khảo.
NGUYỄN KHÔI
SƠN LA KÝ
SỰ
(Ghi chép về bản cũ, mường xưa)
LỜI THƯA
Khoảng
thời gian từ 1955 - 1975 thì 18 Châu Mường (huyện miền núi) phía Tây bắc Việt
Nam là khu tự trị Thái Mèo, sau đổi là khu tự trị Tây Bắc. Tổ chức Nhà nước
VNDCCH trên Trung ương là chính phủ ở Thủ đô Hà Nội, dưới là khu hay tỉnh rồi tới huyện, xã, thôn (bản).
Thời đó chính quyền cơ sở (chiềng - xã) còn rất yếu: Chủ tịch xã, trưởng bản
phần lớn nói tiếng phổ thông (kinh) còn chưa thông, mới võ vẽ đọc thông viết
thạo…Để giúp cơ sở hoạt động có hiệu lực thì cấp tỉnh, huyện thường cử cán bộ
xuống giúp xã “chỉ đạo” (kiểu cố vấn, trợ lý) gọi là “cán bộ phụ trách xã”,
nôm na là “cán bộ cắm bản”, thực hiện “3 cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm với
dân bản).
NK
tôi sau khi tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp lên Sơn La công tác (1963-1984) ở
Ty Nông nghiệp, rồi Ban nông nghiệp tỉnh ủy nên đã có nhiều đợt làm “cán bộ
cắm bản”, để lại nhiều kỷ niệm không thể phai mờ…Nay đã ngót 40 năm, xin ghi
lại đôi dòng hồi ức “cắm bản” ghi chép về Bản cũ, Mường xưa.
Hà Nội, 28-2-2012
Nguyễn Khôi
|
Bài 1:
BẢN QUÊ YÊU DẤU
“Mười yêu không bằng người tình cũ
Mười nhớ không bằng nhớ bản xưa”
Thôn bản là hình ảnh thu nhỏ của xứ
sở. Bản (làng) dân tộc Thái đầu tiên khi tôi đến ở là bản Nà Nghịu bên bờ sông
Mã (thượng nguồn). Tiếng Thái có nghĩa là “bãi cây gạo”. Đó là mấy chục ngôi
nhà sàn (gỗ, tre, nứa, gianh), mái hình mai Rùa, ở 2 đầu hồi có 2 tia “khau cút”
(hoa nhà) sơn vôi, kẻ hoa văn đen như 2 cánh chim đang vẫy bay lên rất điệu
đàng và rất bản sắc, không ở đâu có ngoài Tây Bắc Việt Nam.
Bản Thái, theo truyền thống thiên di
từ vùng “xíp xoong păn na” (Vân Nam) sang đây đã trên 10 thế kỷ, theo “Quắm tố
mướng” thì bà con “Thái tộc” thời ấy phải đi luồn rừng như con Don, con Dím để
tránh cường hào và ác bá Hán tộc và sợ các quan Đại Việt không cho ở nhập cư…Dấu
vết “đi đêm” để nhận ra nhau đồng tộc là cái “hoa nhà” (Khau cút) và cái hình
mặt trăng lưỡi liềm nơi cửa sổ (đặc trưng của nhà sàn Thái). Bản Thái phổ cập
20 - 30 nhà, 50 - 70 nhà tùy theo số ruộng và nguồn nước để sinh sống. Bản
thường chiếm vị trí đặc trí đứng lưng chừng núi (đồi) để tựa lưng một cách vững
chắc, tập quán cư trú “hua mun đin, tin mun nậm” (đầu gối đất, chân đạp nước),
phía trên là đỉnh núi, chỏm rừng nơi có nguồn nước (thượng nguồn) chảy về (theo
máng) rót vào từng nhà, nơi đỉnh có rừng cây mây ủ tiếp với “Mường trời” (cõi
linh thiêng), che chở cho bản làng. Dưới chân bản thường là sông, suối, cánh
đồng…địa điểm bản thuận tiện cho canh tác (lúa nước, nương rẫy, săn bắt, hái
lượm), kinh tế nông nghiệp dựa vào tự nhiên khá hoàn thiện.
Bản Thái: nhà nhà xếp hàng ngang, từ
thấp lên cao, quay quần theo dòng họ (thường có ba đến bốn họ: Lò, Cầm, Quàng,
Cà…) tắt lửa tối đèn có nhau, chỉ cần ai đó săn được 1 con thú nhỏ (con hoẵng,
đơm được vài con cá to, là tối đó cả Bản lại ngất ngư chén “lẩu xiêu” (rượu cất)
bên bếp lửa, hát “khắp” (Tản chụ, xiết xương) đến thâu đêm.
Làng người Kinh là nằm trong lũy tre
xanh, trung tâm là ngôi Đình với cây đa bến nước, ao làng. Bản Thái không có
cổng, lối vào tứ phía…trung tâm bản thường là “nhà Trường bản” (trưởng thôn)
liền đó có ngôi nhà đất, gianh tre vừa làm lớp mẫu giáo vỡ lòng, dạy chữ Thái
cho trẻ con (trước khi vào lớp 1 phổ thông) coi như “nhà văn hóa” nơi hội họp
của bản.
Sinh hoạt cộng đồng bản: quan trọng
nhất là tổ chức sản xuất rồi đến sinh hoạt văn hóa (cúng bái, lễ hội). Trưởng
bản thường kiêm tổ trưởng sản xuất hoặc chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp (ở quy
mô nhỏ).
Sáng ra (vào thời điểm tháng 6/mùa
hè) khi gà gáy sáng, ngựa trong tàu (hí) “chàng lụ khươi” (trai ở rể) dậy sớm
mài dao cho cả nhà; anh chủ nhà dậy xem trâu xem ngựa; chị chủ nhà bồng con
đang bú sang cho mẹ ôm ru ngủ, rồi đi xôi lại chõ cơm xôi…xong bốc chia vào
từng “cóm khẩu” (giỏ xôi nhỏ) “ép khẩu” (giỏ xôi lớn).
Khoảng 5 giờ tinh mơ “tiếng trống đi
làm vang gốc núi” từ nhà Trưởng bản (tổ trưởng hay chủ nhiệm) đánh 3 hồi dài,
kết thúc bằng 3 tiếng nhằm gọi mọi người lao động (như đã phân công) hôm nay lên
núi Pu Luông làm cỏ lúa nương, ngô nương. Anh chủ nhà dắt ngựa đi đầu, kéo theo
một đoàn trên 10 lao động chính (cả nam lẫn nữ) nối đuôi nhau trên con đường
mòn men theo các sườn núi “Khửn Pu “Khửn Pu….” Đi hơn 2 tiếng đồng hồ, mặt trời
đã ló phía chân núi đằng đông, dòng sông Mã trông chỉ bằng chiếc đũa là tới
những vạt nương rộng, lúa ngô đã lên trên đầu gối tới ngang ngực (đứng cái)…ai
nấy: Nam thì phát cây dại, nữ thì cào cỏ nương bằng các cái “chóp”…khí trời mát
mẻ, chim hót véo von ở rừng bên, cây cối xanh tươi mơn mởn…khoảng 11 giờ trưa,
nắng oi oi, trời đứng bóng, nương rẫy dọn cỏ xem ra đã sạch tinh tươm…tất cả
lùi sang lán bìa rừng (lều nương): để phòng mưa nắng, nghỉ ngơi, ăn trưa
cơm xôi chấm muối ớt (món chéo) cùng ít rau xôi đem từ nhà, ít thịt khô, cá
ướp…cơm ép khẩu phần nhà nào nhà nấy ăn, cũng có phần san sẻ…vui vẻ, vừa ăn vừa
chuyện trò rôm rả. Cơm xong cánh nam làm điếu thuốc Lào rồi ngả lưng chợp mắt,
cánh nữ thì tranh thủ đan lát, khâu vá hoặc vào bìa rừng kiếm củi, kiếm rau
lợn, rau rừng. Từ 1 - 3 giờ thu vén và thu quân “mã hồi”.
Về tới bản, cánh chị em chưa kịp lên
nhà đã ra mó nước “kẻ xuộng xựa” (cởi váy áo) ào ào tắm rửa…cánh đàn ông đem
lưới ra sông vây bắt cá.
Cuối chiều: Chị chủ nhà tắm rửa cho
con, rồi lo cho lợn gà ăn, cô em gái ra sông suối hái bon (rau) xúc ốc, chàng
rể tắm cho ngựa. Chập tối một lúc 7 - 8 giờ tối cả nhà quây quần bên mâm cơm,
thường là món cá nướng (pa mốc, pa pịnh) thơm ngon, canh bon nấu ốc hay canh cá
nấu măng chua. Ăn xong, bên bếp lửa: cánh đàn ông đan lát, vá lưới, cánh đàn bà
dệt vải, chàng rể ra sông “quăng chài” hoặc đơm “đó”, lũ lợn gà ăn no ngủ
kỹ…mọi thành viên trong gia đình ai nấy về “buồng nằm” của mình đánh giấc…Từ
khoảng 10 - 11 giờ đêm cả bản đã ngủ yên thì cánh trai tơ ở các bản bên “pay ỉn
sao” (chơi gái) đem tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng đàn Tính đến “chọc sàn” thức
các cô gái tơ (sao) dậy, để “tìm hiểu” bằng các cuộc hát giao duyên bên sàn
(phía đầu chan) hay ra sàn “Hạn Khuống” mé rìa bản tình tự thâu đêm.
“Chào bản quê thân yêu
Nắng mở cửa nhà sàn rộng thêm
Cho gái lớn xuống thang sang làm dâu
Mường khác
Suối chỉ chảy một dòng
Xuống núi..
Chao, tôi chưa về thăm bản ngày xưa
Nơi tôi ra đời bên bếp lửa
Mẹ cắt rốn bằng con dao nứa
Cha ru bằng Tản Chụ Xiết Xương
Chị tóc mây “tằng cẩu” kết hôn
Anh lớn lên: anh đi ra trận…
Tôi lớn lên, tôi xuống núi đi xa
Mẹ cha mất, ngày về mồ đã cỏ…”
(Theo La
Quán Miên).
Chao, hồn quê ở xuôi là cây đa rợp
bóng sân đình, còn hồn ở bản quê yêu dấu là cái Khau cút (hoa nhà) để ai đó đi
lâu trở về từ xa đã nhìn thấy nó như những cánh chim bay lên mừng vui chào đón
đứa con tha hương còn nhớ trở về.
28/2/2012
CƠM BẢN
“Cơm Tàu, cơm Tây … nhớ về đây cơm
bản
Nếp xôi thơm, bên bếp lửa em chờ”
“Cơm Thái, gái Kinh” câu nói chơi cửa
miệng của cán bộ Tây Bắc một thời (cán bộ Kinh thì thèm cơm bản Thái, cán bộ
Thái thì khoái lấy gái Kinh). “ăn” uống là điều kiện hàng đầu để tồn tại sự
sống. Cơm Thái cổ điển là ăn nếp xôi truyền thống. Đó là các loại gạo nếp tan,
khẩu ma tứn (gạo chó dậy: Cơm xôi thơm quá đến con chó đang ngủ đánh hơi thấy
cũng phải vùng dậy). Gạo nếp ngâm qua đêm, với bàn tay của các mẹ, các chị vo
sạch, để ráo nước, rồi đổ vào một cái Hày” (chõ gỗ: một khúc thân cây khoét
rỗng). Người Thái không có tục “luộc” như người Kinh (cơm bằng gạo luộc, rau luộc, thịt luộc, mà thường là “xôi”
(đồ) bằng nhiều loại “hày” khác nhau (gỗ cây sung co cổng, co đứa), phần dưới
của dụng cụ đồ xôi là cái “ninh” (biếng mỏ nửng) bằng đồng đúc… nhờ “xôi” nên
thức ăn đậm (không bị nhạt). Từ gạo nếp, người Thái còn chế biến ra các loại
bánh như “khẩu tổm” (bánh tét) Khẩu tổm năm lãng (bánh giò), khẩu cắm (xôi
màu), khẩu hang, khẩu lam, khẩu chí (xôi nướng). Khẩu lam trộn sâu măng là đặc
sản ngon đặc biệt.
Nhân loại có các nền “văn minh thìa
dĩa” (Âu Mỹ), “văn minh đũa tre” (Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật, Việt Nam) và
“văn minh ăn bốc”… người Thái đen Việt Nam ở Sơn La thì trong mâm cơm: Mỗi
người bao giờ cũng có bát con riêng, 1 cái thìa, 1 đôi đũa… riêng ăn cơm nếp
xôi thì “bốc” (tay đã rửa sạch); chỉ khi ăn cơm tẻ thì xới ra bát, lấy ăn thì
xúc, chứ không quen “và” như người Kinh. Ăn canh thường không “chan” mà dùng
thìa múc đưa thẳng vào miệng. Bát chấm mặn thường là muối ớt cộng mắc khén (hạt
tiêu rừng) hoặc bát nước chấm pha chế (nậm pịa khi ăn thịt trâu, bò, dê).
Các món rau trong mâm cơm Thái: ½ là
rau rừng (phắc ven,… có tới 80 loại), số
rau trồng ở xuồn phỏm (vườn gầy)… như rau cải (phắc cát), các loại củ quả bầu bí,
mướp, cà… tất cả đều được đồ chín (nửng) kể cả rêu, măng, mùa xuân có món “măng
đắng”, mộc nhĩ, nấm các loại, canh măng chua (nậm xổm đanh), món “xổm” ghém,
rau sống, rau hoa chuối nộm…
Tục kin xổm (món chua) đủ cả “kin
xổm, kin van, kin xúc, kin chip, (chua, ngọt, chín, sống) rồi món “tương thối”.
Với người Thái “cơm trắng, khúc cá bạc” là biểu tượng của no đủ hạnh phúc. Các
món ngon là “pa pỉnh” (cá nướng kẹp), pa dảng là cá sấy trên dàn bếp, pa mốc
(vùi tro), cùng với “pho pa”: Các loại cá tép, trạch, ruột cá lớn gói cùng húng
chó, hành sả vùi tro nóng ăn rất thơm ngon, pa óm (cá nấu), pa tổm (cá luộc)…
với các loại cá nheo (pa cao), cá quả (pa con), cá trê (pa đúc)… pa cỏi (lên
men chua) món gỏi (cỏi hắn) với quan niệm “xép nhứa kin nhứa ma, xép pa kin pa
cỏi” (thèm thịt ăn thịt chó, thèm cá ăn cá gỏi).
Các món mắm cá (mẳm pa) mắm tôm (mẳn
củng), mắm từ những con bọ nước (mẳn pa dí), mắm tắc ten (châu chấu)…
Các món thịt: Như nhứa đảng (hong khói) pỉnh chí (nướng), mản (nướng bằng xiên);
thịt con hoẵng (tô phan) làm “lạp” trộn với măng chua, chấm nậm pịa (đoản nước
bắt phèo, một thức đặc sản “nhứa quai tộm nậm pịa, thuổi lạp têm chem” (thịt
trâu luộc, nậm pịa, bát lạp đầy ắp).
Mâm cỗ thường khoái món tiết canh, tiết
luộc… ngoài ra có món “nhứa min” (thịt thối): trộn gia vị cho vào ống, đốt chín
thành một thứ thịt nhuyễn nặng mùi rất hợp khẩu vị.
Các món gia vị thường nhật là ớt, mắc
khén (hạt tiêu rừng) củ sả, gừng, riềng, hành tỏi, rau thơm… điển hình là món
“chéo” để chấm.
Món canh Thái: Ưa dùng bột gạo để nấu
canh, tạo cho canh ngọt sánh.
Cơm bản Thái: Thường ngày ăn bữa
chính vào buổi tối. Sáng ra ăn lót dạ (bốc ít xôi, chấm muối ớt) bữa trưa
thường ăn ở nơi làm việc (ngoài đồng, trên nương. Ăn đơn giản gọn nhẹ gồm xôi,
ít rau chấm muối ớt, ít thịt cá khô, nướng…).
Bữa ăn tối là bữa cơm đầy đủ các
thành viên trong gia đình. “ăn trông nồi ngồi trông hướng” khá trật tự nề nếp
(bài bản): Chủ nhà ngồi chính giữa trông ra hướng nhà, phụ nữ ngồi phía trái,
trai phía phải, con rể và khách ngồi phía sau (đối diện với chủ nhà). Các món đặc biệt là dành cho trẻ con
(nhái nướng, nhái ôm măng, đùi gà, miếng cá ngon). Nếu trong mâm có món thịt gà
thì: Đầu, cánh, chân là dành cho ông chủ, lòng cổ xương nấu canh măng chua…
Có khách: Uống rượu cất (lẩu xiêu)
theo ông chủ: 1 chén rượu húp một thìa canh măng chua… Nói chung bữa cơm bản là
bữa cơm bình dân, đạm bạc. Chủ lực vẫn là món cơm xôi nếp, măng và rau rừng là
món hàng ngày, thức ăn chỉ là đưa đà để ăn được nhiều cơm (no). Tháng 3 ngày
tám, thiếu gạo thường độn thêm sắn (nạo) ngô hoặc ăn thêm củ mài đào trên rừng.
Mùa nước lên có thêm món cá, sang xuân săn được con chim, con don, con dím… bổ
sung cho món ăn…
Thịt lợn, thịt trâu phải là có ma
chay, cưới xin, tết nhất, cúng nhà mới…
Dẫu sao thì bữa cơn bản Thái thời
1960 ở Sơn La vẫn là bữa ăn no đủ, ngon hơn hẳn bữa ăn thời HTXNN của người
Kinh dưới xuôi một thời ăn công điểm là chính.
Bài 3:
NHỚ CƠM BẢN
Cơm Tàu, cơm Tây chẳng tày cơm bản
Bát “khẩu hang” tháng 9
mẹ để phần
Ăn bít tết, lẩu dê… chẳng
chê cá nướng
Món canh chua: Tay chị gái hái măng.
Ơi cơm bản ta ăn trên sàn
gió
Cha gật gù nâng chén “lẩu
xiêu”
Mẹ ân cần gắp trám đen
vừa bổ
Chị đẩy sang đĩa
“chéo”…cười yêu.
Trên nhà sàn khi nắng
chiều đã tắt
Trâu về chuồng mõ lốc cốc
tới khuya
Lũ Điêu Điếu ngoài vườn
xoài léo nhéo
Chõ xôi đơm thơm nức gạo
đầu mùa.
Và ai đó vừa đi ngang ngõ
Dải khăn Piêu tung vương
khói chiều xanh
Rừng trầm mặc, con nai vàng
nào “tác”
Mùi ấm no bên bếp lửa
quây quần
Bài 4:
CANH BON
(Tặng Lò Văn Cậy) (1)
Bản
Nà Nghịu thời trẻ trai tôi ở
Sớm
đi nương, chiều chài lưới trên sông
Em ra
suối hái Bon, xúc ốc
Tối
ăn canh Bon ngứa cổ, nghẹn ngùng…
Em
thầm nói: Thương anh Hà Nội
Phải
ăn cơm mường bản chưa quen
Tôi
lặng lẽ nắm xôi, chấm muối
Húp
canh Bon, nhìn đôi mắt đen…
Đêm
bản nhỏ trăng nhòm cửa liếp
Em
ngồi trên khung cửi đưa thoi
Tôi
ngồi tập vót nan đan “lếp” (2)
Bếp
lửa khuya bốn mắt sáng ngời…
Rồi
tôi đi biết bao xứ sở
Vẫn
nhớ về Sông Mã quê em
Chợt
thèm món món canh Bon ngứa cổ
Để
thưởng người canh cửi đêm đêm.
(1) Lò Văn Cậy (1928 - 1944) nhà thơ Thái
Quê Sốp Cộp, huyện Sông Mã
(2) “Lếp”: Giỏ đeo bên hông của gái Thái
Bài 5:
NGỦ BẢN
* Người thức giấc giữa mây ngàn gió
núi
Hồn ngỡ là bay với trăng sao
* Về kinh xa bản xa Mường
Đêm mơ tiếng suối bên giường chảy
quanh.
Chao ôi, các cụ ta có câu “đêm năm
(bằng) năm ở”… thế thì vào những năm 60 (thế kỷ 20) đêm ngủ ở bản Thái là lý
tưởng nhất. Nhà sàn cao ráo, thoáng mát: Đầu gối núi, chân đạp sông… 1 anh bạn tôi
(Phạm Văn Cống - quê Thanh Hóa) có 4 câu thơ vui về một thời hoang sơ để nhớ.
Về
đây công tác xã Chiềng Hoa
Đêm
đêm nằm gối thác Sông Đà
Bởi
tiếng Thái Mèo chưa thông thạo
Phải
người phiên dịch hóa “chuyên gia”
(Hóa
chuyên gia)
* Cán bộ xuống “cắm bản” được xếp ngủ
một gốc “Quản” đệm dày, chăn mới, màn 1 bộ đội xanh lá cây, thì cán bộ ai chả
có 1 chiếc để chống muỗi
Anôphen (phòng sốt rét), phong tục
kiêng màu trắng (có tang)
Ngủ bản, đêm thao thức nhớ quê, lên ở
cái xứ “trâu gõ mõ, chó trèo thang, nước giã gạo” với tiếng “chày đêm nện cối
đều đều suối xa”, chập chờn với trăng nhòm qua vách liếp… Cách vài mét là màn
đen cô em gái chủ nhà tuổi trăng tròn “kẻ xuộng xựa” (ngủ truồng) đêm nóng
nhoài ra ngoài màn da thịt trắng ngần như thần vệ nữ.
Ngủ bản được nghe tiếng gà gáy sang
canh, chim cu gù bên mái, lợn ủn ỉn dưới gầm sàn, ngựa gõ móng trong tàu ngựa,
vài tiếng chim cú vang lên phía Pa heo (rừng ma) nghe ghê rợn…
Ngủ bản, khuya khuya khi bếp lửa đã
tàn, vợ chồng nhà anh chị chủ yêu nhau làm tình cả mặt sàn nhẹ rung lên phấp
phồng hơi thở…
Ngủ bản: Phía rừng xa vang về tiếng
Nai tác, hoẵng kêu gọi bạn tình xao xuyến hồn trai chưa vợ.
Ngủ bản: Con mối vách (Thạch sùng)
tặc lưỡi đuổi nhau như đang thở than “ai đó giầu như Vương Khải - Thạch Sùng cũng
có phen tường xiêu, mái đổ…”
Ngủ bản: Hư hư thực thực, nhớ nhớ
quên quên - rồi thiếp đi một giấc thanh thản sau một ngày lao động (đi nương,
ra ruộng, đánh lưới trên sông, mệt mỏi, vô tư…)
Chao ôi, ai đó ở lầu son gác tía nơi
Thủ Đô - Phố thị ồn ào hiểu sao được ngủ bản?
Và chao ôi, ai đó nghèo hèn culi, đĩ
điếm nơi vỉa hè, gầm cầu có hay đâu ngủ bản?
Chao ôi, sung sướng gì bằng ai đó có
tuần trăng mật ở bản? khi đôi lứa thanh tân lặng lẽ chui vào cái buồng màn đen
kín mít đó là bóng đêm, huyền diệu “tay quờ tay, chân quặp chân, môi kề môi,
thân đè thân với hơi thở nồng, đó là vườn địa đàng nơi nhà sàn bếp lửa “một mái
nhà gianh hai trái tim vàng, một con suối nhỏ” để mà yêu, mà hiến dâng, mà thụ
hưởng hương vị ngọt ngào thanh xuân bốc lửa…”
Ngủ bản, khi yêu đã mệt lử rồi… là êm
đềm hơi thở giữa không khí trong lành, thanh bình… mà biết bao người (kể cả tỉ
phú) mơ mà đâu dễ có được?
Ngủ bản, là duyên phận, là trời cho,
như ta được kho báu mà ta đâu đã hiểu được?
Than ôi, tiếc thay, tiếc thay… được
mấy ngày ngủ bản?!
Bài 6
SƠN LA XƯA
Sơn La hiện nay (2012) là tỉnh vùng
núi Tây bắc Việt Nam, có diện tích 14,125km2 (= 4,27% tổng diện tích
cả nước), có biên giới chung với Lào 250 km, gồm 1 thành phố, 10 huyện với 12
dân tộc. Dân số điều tra 1/4/2009 là 1.080.641 người.
Lịch sử: Phần lớn tỉnh Sơn La ngày
nay gồm TP Sơn La, huyện Yên Châu, Mộc Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Thuận Châu vào
trước năm 1479 là lãnh thổ của Vương Quốc Bồn Man (gồm cả Tương Dương, Kỳ Sơn
của Nghệ An; Quan Hóa, Quan Sơn Mường Lát của Thanh Hóa, tỉnh Hủa Phăn của Lào).
Năm 1479 Sơn La được chính thức nhập vào Đại Việt, thời vua Lê Thánh Tông và
thuộc xứ Hưng Hóa.
24/5/1886 thành lập Châu Sơn La
(thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa) tách từ Hưng Hóa thành cấp tương với tỉnh.
9.9.1891 thuộc Đạo quan binh 4.
27/2/1892 thành lập tiểu quân khu Vạn
Bú gồm 2 phủ, 8 châu.
10/10/1895 thành lập tỉnh Vạn Bú,
tỉnh lỵ ở Vạn Bú (Tạ Bú) trên bến sông Đà thuộc huyện Mường La ngày nay.
23/8/1904 đổi tên thành tỉnh Sơn La,
tỉnh lỵ về như bây giờ.
Sau 1946: Pháp chuyển Sơn La cộng với
Lai Châu và Phong Thổ lập xứ Thái tự trị, do Bạc cầm Quý làm tỉnh trưởng Sơn La.
1948 - 1953 thuộc LK Việt Bắc do tướng
Chu Văn Tấn cầm đầu (Sơn La có 6 huyện Mường La, Thuận Châu, Phù Yên, Mai Sơn,
Yên Châu, Mộc Châu).
1953 - 1955 thuộc khu Tây Bắc.
1955 - 1962 thuộc khu tự trị Thái
Mèo.
1962 - 1975 tái lập tỉnh thuộc khu tự
trị Tây Bắc: có 7 huyện, thêm Quỳnh Nhai và Sông Mã còn Phù Yên chuyển về tỉnh
Nghĩa Lộ.
Sau khi giải thể khu tự trị Tây Bắc,
Sơn La nhập lại 2 huyện Phù Yên, Bắc Yên của Nghĩa Lộ giải thể.
Sơn La- xứ Thái xưa là 1 vùng biệt
lập do núi non hiểm trở, lại là đường mòn luồn vùng, đi theo dọc 2 bờ sông Đà,
sông Mã, ma thiêng nước độc “nước Sơn La, ma Vạn Bú” ở xuôi chẳng ai lên đó làm
gì. Đó là nơi cai trị của các vị “Chẩu Mường” hướng về vua Lào ở Luông Pha Bang
là chính, thi thoảng có giao lưu với người kinh qua rẻo Mường Lò (Nghĩa Lộ)…
phải chăng do ở biệt lập lâu đời như thế nên người Thái ở đây còn giữ được khá
nguyên vẹn bản sắc dân tộc mình sau 1000 năm sang Việt Nam cư trú?
Bài 7:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến
ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi
vơi
Sài Khao, sương lấp đoàn
quân mỏi
Mường Lát hoa về trong
đêm hơi”.
Đó là đoạn sông Mã (sông Ngựa) ở đoạn
giáp ranh từ Sầm Nưa (Lào) đổ vào Thanh Hóa (Mường Lát) kề với Xuân Nha Sơn La…
còn đoạn trên gọi theo dân bản địa (Thái) là Nậm Ma (sông Chó).
Sông Mã có 2 nguồn: Nguồn thứ nhất từ
núi Tuần Giáo (nam tỉnh Điện Biên) chảy theo hướng Tây bắc - đông nam qua huyện
sông Mã (Sơn La) rồi qua lãnh thổ Lào. Nguồn thứ 2 từ núi “Pu Xam Sao” (núi 3
cô gái)… cả 2 nguồn này đều đổ về Thanh Hóa từ Sầm Nưa, rồi giao lưu với sông
Chu (sông Trâu) đổ ra vịnh Bắc Bộ, tất cả dài 512km, trong đó trên lãnh thổ
Việt Nam 410km, qua Lào là 102km.
Tên gọi: Dân gian (sông Mã) vì dòng
nước chảy xiết như “ngựa phi”.
Tuy nhiên theo n/c về từ nguyên học
chữ “Mã” là “Mẹ” - nghĩa là sông lớn như. (Ở Lào mè khoỏng = MêKông, ở ta sông
Hồng là sông cái).
Sử Việt gọi sông Mã là “Lỗi Giang”
.Bên Lào là Nậm Mà. Sơn La gọi “Nậm Ma” (Mẹ là Êm) “ma” là con chó - có lẽ vì ở
thượng nguồn dốc chảy xiết kêu như chó sủa.
Sông Mã chảy về đến Nà Nghịu (huyện
Sông Mã Sơn La) rông cỡ con sông Cầu, 2 bên bớ là đồi núi cao vút không có đê,
dòng sông khúc khuỷu, mùa cạn lòng sông trơ những tảng đá gộc, đã lồi đầu, có
đoạn có thể lội bộ qua được để ta lại nhớ câu “sống chụ”.
* Phôm
dú hua lứm cấu chắng lứm chụ
Cánh lứm
chái nớ!
Cẩu chí
lứm cánh xíp chí lứm
Nậm Ma
hảnh to đe chắng lứm
* Tóc
trên đầu búi ngược (tăng cẩu) hãy
Quên bạn
tình, hãy quên anh yêu!
Chín sắp quên và mười sắp
quên
Sông Mã cạn bằng lòng
đĩa, hãy quên.
Mùa cạn này, đêm đêm lũ con trai từ
bản Nà Hin bên sông lội tắt sang bản Nà Nghịu “chọc sàn” tìm bạn tình. Đó cũng
là mùa các cô gái ra sông vớt rêu (1 món ăn đặc sản):
“Sông
nhiều rêu, nhiều cá
Núi
nhiều thú, nhiều măng
Chiều
bóng anh che sông
Sớm mắt
em lóng lánh…”
Ngồi
ở bên sông ta như thấy cái luân hồi của ta. Tháng 6, mưa lớn thượng nguồn…
chiều qua còn như một dòng sông chết (cạn bằng lòng đĩa) mà sớm nay tất cả như
bừng lên ầm ầm gầm réo hơn cả tiếng chó sủa, ngựa phi.
*
Bó Áy Khảm nậm Ma khi khon
Nhắng
xương pánh hảu mon vậy thả đé nớ!
*
Hoa Áy dập dờn trôi ngang sông Mã
Còn
thương nhau xin sắp gối riêng chờ.
(Hoa
Áy vờn trôi ngang sông Mã
Còn thương, tay gối lả riêng
chờ)
* Có thấy hồn lau nẻo bến
bờ
Có nhớ dáng người trên
độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa
đong đưa.
Lũ
về, sớm mai khi con chim Tăng Ló bên sông réo gọi, các chàng rể (lụ khươi) lò
mò lội ven bờ “xem” các cái “đó” mà chàng ta “đặt” tối hôm trước “chờ nước lên”
chắc mẩm sẽ vớ được vài con cá măng, cá chiên to hăng nước đầu mùa không may
chui vào “đó” (lờ to) làm bữa ngon cho dân bản. Lũ về, mình là trai Đình Bảng,
từ Hà Nội lên thượng nguồn Tây Tiến cái gì cũng lạ, cũng bỡ ngỡ, nửa đêm về
sáng giật mình nghe sông réo… sớm mai ra bờ sông trông dòng sông chảy xiết,
trong lòng lại vang lên khúc Trầm hùng của nhạc sĩ Đỗ Nhuận.
“Hồng
Hà mênh mông trôi cát tới chân làng quê”…
Còn
ở đây thì sông đổ ầm ầm, qua các ghềnh đá đổ thác bọt tung trắng xóa cứ như bờm
đàn ngựa bạch đang phi hết tốc độ xông ra chiến trường cùng bom rơi pháo nổ
vang rền, thật đúng là “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”…
Lũ lên nhanh là lũ ống lũ quét cỏ cây
hai bờ được một phen dọn sạch đôi bờ đất chỗ lỡ, chỗ bồi, bãi ngô, ven sông lại
được phen tắm phù sa trồi lên xanh mởn…
Sau vài ba tiếng lũ lên cuồng nộ,
thượng nguồn dứt mưa, thì con sông Mã “ngựa phi” lại trở thành Nậm Ma (chó sủa)
ào ào, tấm tắc thân quen như con mực, con vện về nằm ngang dưới chân cầu thang,
thật là:
Ai lên Tây Tiến mùa xuân
ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về
xuôi
29/2/2012
Bài 8:
ĐÁM CƯỚI NGƯỜI THÁI
Ở người Thái: con gái khi lên 13
tuổi, trai 15 tuổi thường tổ chức nhuộm răng đen. Lấy cây “mạy cù”, mọc ở núi đá,
đốt lên khói hơ vào miếng mai sắt thành giọt nước, trai gái nắm tay nhau, kể
anh chị em. Trai lấy ngón tay miết giọt nước trên mai (cái mai đào đất) tra vào
răng gái, gái tra vào răng trai. Sau đó hai người nắm tay nhau xuống thang đến
bậc cuối, cùng nhảy xuống. Từ đấy trở thành trai gái thiếu niên. Từ đấy trở đi
mới được ra chơi “Hạn Khuống” hát giao duyên tìm hiểu nhau (nghĩa là sang tuổi
cập kê):
* Xíp pi ủa chắng dựt pên
sao
Chái chắng dáo pên báo
Xíp xam chắng hụ thi bú
Xíp xí chắng hụ hú khẻo xóư
chi son sao
Pánh há chắng hụ tắt xứa
hổm nốm
Hụ hom phôn dệt chọng
Dóng Khửn khuống đang pháy
* Mười tuổi em đang lớn
thành gái
Anh cũng lớn thành trai
13 tuổi em biết bắt cá
suối
14 tuổi biết nhuộm răng
đen làm duyên
Biết may áo che vú
Biết dành tóc làm độn
Óng ả lên sàn nhóm lửa
Khi 2 người tỏ tình gọi là “ổ báo
sao”. Tiêu chuẩn là con gái phải biết se sợi, dệt vải, con trai phải biết đan
lát những đồ dùng trong nhà. Gái sau khi có chồng con phải lo quần áo mặc, chăn
đệm nằm cho chồng con. Trai phải lo tự túc đủ các thứ đồ dùng lặt vặt để đựng
thóc gạo, rau, thịt cá, đồ dùng nấu cơm.v.v…
Tục cưới xin: Sau khi trai gái đã tìm
hiểu “yêu nhau”, trai nói với bố mẹ đi tìm bà mối đến thăm dò nhà gái (gọi là
pay chóm), thuận thì đi đến:
Lễ ăn hỏi: 1 đôi gà to, vài ba bát
gạo, rượu, bánh kẹo, hoa quả đưa sang nhà gái. Ở Quỳnh Nhai cụ thể là:
Đồ lễ dạm hỏi gồm:
- Trầu 1 gói, vỏ trầu 1 gói, cau 5 kg
- Thuốc lào 1 - 2kg, thuốc lá 1 - 2
tút.
- Chè uống 2 - 3kg.
- Bánh kẹo tự chế 5 - 10kg.
- Hoa quả 5 - 10kg.
- 1 đôi gà (1 trống - 1 mái) 3 - 4kg.
- 1 con lợn 45 - 50kg
- Gạo nếp thơm (khẩu lương phửng ) 15
- 20kg.
- Gạo tẻ thơm (khẩu xẻ lạo lựu) 15 -
20kg.
- Rượu gạo: 40 - 50 lít.
Lễ dạm hỏi: (Lễ tham pặư).
Đội hình: 10 chàng trai + 5 cô gái
sang nhà gái phục vụ cỗ bàn.
- Thách cưới: Khá nặng
Ở Mường La, Thuận Châu (thời 1960 -
1970) ngoài rượu thịt , còn là 1 máy khâu 5 con bướm (TQ) 1 xe Favorit (980đồng
lúc bấy giờ: Lương phó ty có 80đồng)… ngoài ra là:
- Trầu 1 gói, vỏ trầu 1 gói, cau 5 kg
- Thuốc lào 1 - 2kg.
- Thuốc lá 100 - 200 bao.
- Bánh kẹo 5 - 10kg.
- Đường kính 5 - 10kg
- Hoa quả 50 - 100kg.
- Lợn béo 1 - 2 tạ
- Rượu gạo ngon 200 - 300lít.
- Gạo nếp ngon 1 - 2 tạ.
- Gạo tẻ ngon 1 - 2 tạ.
- Pa dăm (cá sấy rạch sườn) 10 -
20kg.
- Pa giẳng (cá sấy nhỏ) 10 - 20 giỏ
- Cá mắm 3 - 5kg đựng trong ống nứa.
- Cá ướp 3 - 5kg (nhiều ống).
Đám cưới được tiến hành trong 3 ngày
3 đêm.
Ngày 1: Chuẩn bị, dặn dò, cống nạp
xong.
Ngày 2 (đại lễ): Thường nhà trai chọn
giờ xuất phát (tránh giờ Dần) lấy giờ Mão (chớ mẩu).
Đi tiền trạm là 2 chàng trai “dò
đường” tránh điềm xấu (có đám tang) để tránh.
Đoàn đưa rể: Ông mối, bà mối, phù rể
2 người khiêng đệm, 1 người vác chiếu (1 cót mây và 1 chiếu cói), 1 người đeo
chăn, 2 người khiêng lợn, 2 người khiêng các lồng gà, 2 người khiêng rau và các
thực phẩm khác, 1 người gánh các ống cá ướp.
Tất cả đều mặc đúng phong tục như áo
cóm cúc bạc, áo dài (xửa luông), quần áo Thái nhuộm chàm láng củ nâu. Riêng
chàng rể đeo dao bên hông, vai khoác túi,
1 tay khoác nón Thái. Ông mối đội khăn xếp mặc áo dài the, quần lụa
trắng. Bà mối mặc áo dài (xửa luông), tóc quấn vòng hoặc búi sau gáy, (đây là
Thái trắng Quỳnh Nhai) pắn cẩu bứt láy.
Có đội kèn “pí kẻo” vừa đi vừa đánh
trống thổi kèn kèm pháo nổ… gây ồn ào phấn chấn.
Nhà gái chọn giờ đón rể (giờ Thìn -
chơ xi)… nhưng rể cũng phải được xem lá số hợp “mệnh” với vợ chồng, ông bà nội
ngoại (ta nái, pú da). Tục té nước, ném quả me tròn, hạt bông vải vào đoàn nhà
trai.
2 chàng phù rể bước lên cầu thang
máng hẳư (gian bếp), nhà gái ngăn lối, phải lạy quỳ “xin phép” được giăng tấm
vải đỏ ở phía bên khung cửa (gọi là cả hồng) ý chúc phúc nhà gái và báo là nhà
đã có rể.
Hai bà mối vào cửa ngồi xổm dâng 1
phong bì tiền dâng cưới đặt lên bàn.
Nhà gái có 2 bà đại diện (thẩu nái)
đem cơi rượu ra làm lễ đón nhận - rồi hai bên hát đối đáp.
Lễ cưới linh đình 3 ngày. Rồi rể phải
ở rể qua các chặng:
- Khươi quản (ngủ một mình ở gian
ngoài cùng) sau 1 - 2 năm mới được chung chăn gối (thời gian thử thách) - bị đuổi
là mất hết.
- Ở rể 1 - 3 năm. Có trường hợp không
phải ở rể (do thỏa thuận 2 bên).
Lễ thành hôn gọi là “xú phả”: Kết búi
tóc ngược “tăng cẩu”: Nhà trai đem đến 1 đôi vòng tay bạc, 2 nhẫn, 1 đôi hoa
tai, châm cài tóc và 2 độn tóc gói vào sải thổ cẩm. Lễ tạ ơn mẹ vợ phải có 1
đôi vòng tay bạc và 5 đồng bạc trắng. Biếu bố vợ gọi là tiền “rổ cá, rổ thịt”
cùng khoảng lễ đó gọi là “tạ ơn dòng sữa mẹ đã nuôi con và ơn cha đã kiếm cá,
thịt về nuôi con khôn lớn”.
Bên nhà gái phải có màn, thường dùng
vải dày nhuộm đen chàm, có đệm và chăn gối.
Sau khi “tằng cầu” bà nào tốt số thì
đưa 2 vợ chồng vào nắm tay nhau trong màn (người Kinh là vào rải chiếu).
Lễ cưới Thái tốn kém, ở rể khổ ải như
một thời làm nô lệ (cuông nhốc dưới chế độ Phìa Tạo).
Bài 9:
CẦU VÀO BẢN
“Mường của anh có cầu gang,
cầu sắt
Bản của em có cầu lim lõi
chắc
Cầu lõi chắc bắc đôi cho
anh qua lại
Thăm nhau dù nắng mưa
không gì ngại”
- Cầm Biêu
Chao, “về bản” đúng như nhà thơ của
bản đã tả “Bản của em và Mường của ta/ đường đi lại quanh có uốn khúc/ đường đi
mãi hết đèo lại dốc/ đường đi qua rừng dướng, luồn rừng giang/ và đi theo con
suối về làng/ dòng suối nhỏ chảy quanh bụi nhót/ rồi chảy lọt giàn dưa…”
Chao, bản trước mặt là sông, bên hông
bản là suối. Sông buổi sớm như mặt gương phẳng lặng cho ta soi bóng. Sông có
đêm nước lên gầm gào như chó sủa… còn suối bên đầu nhà quanh năm trong xanh rì
rào thủ thỉ… chiều chiều đón em gái ra hái bon, xúc ốc.
Chao, con đường về bản là phải luồn
rừng rồi đi dọc bờ sông, lội qua suối đầu bản… Để dân bản mùa lũ không phải lội
suối nguy hiểm … thế là cả bản hò nhau lên núi vào rừng đại ngàn chặt 8 cây lim to lõi chắc,
phạt hết cành lá rối xúm nhau “kéo”, đẩy, bắn, bẩy tuột xuống suối “dòng” lôi
về bản để bắc cầu qua suối. Trên mặt cầu được lát bằng phen tre đan để cụ già,
trẻ con, trâu bò, ngựa đi qua không bị lọt chân…
Chao, chiếc cầu gỗ bắc ngang con
suối.
“Nước suối có lúc cạn lúc
lũ
Nước trên rừng lúc hiền
lúc dữ”
- Nông Văn Bút
Đó thật là:
“ Cầu chúng ta vừa cao
vừa chắc
Chẳng còn lo nước lũ,
suối sâu
Cũng đón ông giáo Tiếp
sang cầu
Để người già mừng khỏi
khi mình chết
Không biết chữ nào bụng
người còn tiếc”.
- Nông Văn
Bút
Giữa
bản mường núi sông hùng vĩ, rừng xanh tít tới chân trời thì cái cầu gỗ bắc
ngang qua con suối rỉ rả vào thẳng tới chân cầu thang nhà sàn đầu bản như là
biểu tượng của hồn bản, hồn mường. Chính nơi đây những đêm thu trai gái bản ra
đứng trên cầu đàn đúm: thổi khèn, thổi sáo, đánh đàn “tính”, hát giao duyên,
ngắm ánh trăng vàng mênh mang trôi theo dòng suối ra ngoài sông âm vang tiếng
thác.
Chao,
chiếc cầu vào bản - cầu gỗ, dân bản tự làm tự bắc cho mình bằng chính vật liệu
thiên nhiên của rừng quê, nó thân yêu thánh thiện làm sao, dịu chân, mát mắt vô
cùng, nắng mưa đều hiền như bản, thầm lặng thanh bình để ta:
“…
đi cùng em
Cùng
em tới
Bên
kia sông Mã
Tìm
rêu đá cùng nhau”
- Cầm Cường
Cầu
vào bản thân thương là vậy.
Bài 10:
TIẾNG MÕ TRÂU
Chiều về “lốc cốc” mõ
trâu
Âm vang tiếng bản bên cầu
nước xanh
Khói thơm bếp lửa vờn
quanh
Lùa trâu về Púng(1)
bên ghềnh ngẩn ngơ.
- NK
(1)
Púng: thung cỏ
Bài 11:
NÚI MƯỜNG HUNG
Con sông Mã chảy đến đây chừng như
chững lại, mở rộng bồi đắp đôi bờ thành cánh đồng của Chiềng Cang, Mường Hung.
Núi ở đây không cao lắm nhưng trên đỉnh có mây phủ với rừng đại ngàn ngút tới
Thượng Lào (Hủa Phăn). Bản nhà ở đây đông vui trù phú với những ruộng lúa, bãi
dâu xanh biếc, con gái ở đây da trắng nõn nà…
Ấy
là vào hồi tháng 10/1953 có một chàng trai Thanh Hóa (Lê Gia Hợp) Đội viên Đội
vũ trang tuyên truyền (Việt Minh) đã đi sâu vào vùng hậu địch, tới đây “cắm
bản” để xây dựng cơ sở kháng chiến chống Pháp ở vùng biên giới Việt Lào. Ai
ngờ, chàng ta lại là một thi sĩ, là cán bộ “bí mật” sống giữa lòng dân “3 cùng”
với đồng bào, trước cảnh đẹp, người xinh… hồn thơ anh ta thấm đượm các khúc hát
“khắp” - tình ca Tây Bắc viết theo kiểu ví von (anh là/ em là…). Thế là một bài
thơ tự nhiên xuất thần:
(Mường Hung = mường trong sáng)
NÚI
MƯỜNG HUNG
DÒNG
SÔNG MÃ
Anh là núi Mường Hung
Em là dòng sông Mã
Sông nhiều rêu, nhiều cá
Núi nhiều thú, nhiều măng
Chiều bóng anh che sông
Sớm mắt em lóng lánh
Sáo cành
cây anh thổi vang lanh lảnh
Gió lùa qua miệng anh lại mỉn cười
Giữa lòng
em thuyền độc mộc ngược xuôi
Như trăm
nỗi băn khoăn khi đến tuổi
Nếu trời làm em sóng nổi
Anh ngả
mình ngăn lại lúc phong ba
Em là búp bông trắng
Anh là ngọn lúa vàng
Thi nhau lớn đẹp nương
Tỏa mùi thơm cùng nghe chim
hót
Em cứ về nhà trước
Đợi anh ở bên khuông
Anh là no lòng Mường
Em làm vui ấm bản
Nếu
con gấu dẫm gẫy cành bông trắng
Lá
lúa anh sẽ cưa đứt chân
Nếu
lúa này chuột khỉ dám đến ăn
Sơ
bông em sẽ bay mù mắt nó
Anh là
rừng thẳm
Em là suối sâu
Cây rừng anh làm cầu
Bắc ngang lên lòng suối
Hoa rừng nở đỏ chói
Soi bóng xuống lòng em
Suối chảy quanh ấp rừng vắng ngày đêm
Cây gỗ lớn là tay anh vững chắc
Nếu hùm qua suối em thành thác
Nếu sói về rừng anh sẽ thành chông
Quyết chẳng chịu đau lòng
Đời chúng ta rừng núi
Suối em phá tan bóng tối
Rừng anh chặn lại bão giông
Để anh lớn
mãi thành núi Mường Hung
Em ngoan
chảy thành dòng sông Mã
Mường Hung 10/1953
Cầm Giang
Bài thơ
chép tay, được gửi qua “giao thông” về hậu phương… với bút danh Cẩm Giang (ý là
quê vùng Cẩm Thủy - Thanh Hóa bên dòng sông Mã hạ lưu)… nhưng khi đến tay cô
đánh máy (ở căn cứ báo chí) thì cô này phát hiện cái phi lý ở cái tên tác giả -
ở Sơn La có họ Cầm, họ Lò… chứ làm gì có họ Cẩm? thế là cuối bài thơ in ra được
đề tác giả Cầm Giang.
Bài thơ
sau đó được nhạc sỹ Bùi Đức Hạnh phổ nhạc thành bài “Tình ca Tây Bắc” nổi tiếng
trở thành “khu ca” của đài phát thanh Tây Bắc một thời.
(Nhạc sỹ thực ra chỉ lấy 1 số câu, còn
là mô phỏng thơ Cầm Giang mà thôi).
Bài thơ thực ra cũng chưa hay lắm, nếu
so với “Tình sông núi” của Trần Mai Ninh, “Đèo cả” của Hữu Loan thì cón cách xa
mấy quăng dao.
Bài thơ viết theo kiểu ví von của
Trường ca Tản chụ xiết xương (tâm tình người yêu): Trai đáp/ gái đáp nên có
giọng điệu dân ca Thái, để người đọc dễ tưởng đây là 1 tác giả dân tộc Thái.
Có
câu sáng giá:
“Giữa lòng em
thuyền độc mộc ngược xuôi”
Làm ta nhớ lại từ hồi 1936, Lưu Trọng
Lư đã viết:
“Mắt em là một dòng
sông
Thuyền ta bơi lặng
trong dòng mắt em”
Rồi các câu khá ấn tượng mới mẻ:
Anh làm no lòng
Mường
Em làm vui ấm bản
Đoạn dưới “ký sự” kiểu thơ tuyên
truyền hô khẩu hiệu của thời kháng chiến chống Pháp (mà Bùi Minh Quốc, Phạm
Tiến Duật sau này với “đường ra trận mùa này đẹp lắm” đã vượt trên cả Tố Hữu,
tất nhiên là dưới tầng Chế Lan Viên).
Tuy vậy, xét về bố cục cấu tứ bài thơ
(mở đầu, thân bài, kết luận) thì tài hoa thơ Cầm Giang so các cây viết thời
1946 -1954 ở Tây Bắc thì Cầm Giang vẫn là số 1. Hai câu kết có thể nói là Đẹp,
khá đắt:
Để anh lớn mãi thành núi
Mường Hung
Em ngoan chảy thành dòng sông
Mã.
Đó cũng là cái “bất tử” của một tứ thơ
lạ “đẹp” cùng với quê hương xứ sở.
Năm 1961, NXB Văn học có in cho Cầm
Giang tập thơ “Rừng trắng hoa Ban” gồm 30 bài, bài viết sớm nhất “Quả còn” Lai
Châu 7/1950, bài cuối “mở lò thông gió” 1959 ở Mỏ Cẩm Thái Nguyên… xem kỹ chỉ
có 1 bài đáng giá ở trên mà thôi.
Thơ khó là vậy
3/3/2012
Bài 12:
Em
đi bóng núi nghiêng theo
Bụi
tung vó ngựa qua đèo mù sương
Từ
anh về với bản mường
Với
trông bóng núi dặm đường em đi
NK.
Bài 13:
NHỚ
MƯỜNG HUNG
(Nhớ
anh Cầm Giang)
Mường
Hung sáng núi xanh soi sóng biếc
Em
vớt rêu thả mượt tóc thung mây
Con
cá măng nào hay sông biên giới
Tiếng
khèn Lào sang chợ thổi nồng say
Trai
Mường Hung thả bay thuyền đuôi én
Vài
tay chèo tới Xiềng Khọ - Sầm Nưa
Sắm
đồ cưới anh chở về - đúng hẹn
Vòng
bạc trao lấp lánh dưới trăng mờ
Từ
xa cách bản quê về Hà Nội
Đêm
nằm mơ thác đổ trắng ngang trời;
Sớm
mai dậy nhớ mây hồng đỉnh núi
Tiếng
gà rừng vang động cả hồn tôi.
NK-
Bài 14:
XUÂN BIÊN CƯƠNG
Sơn La
xuân ở dài hơn
Tháng tư còn trắng hoa Ban
trên rừng
Mà đây nắng hạ chói
bừng
Chiềng Khương hoa Gạo đỏ lừng
bến sông
Biên giới
Việt Lào 6/1963
NK-
Bài 15:
Chiều vắng vẻ lặng tờ nơi bản
nhỏ
Người
đi nương, ra ruộng chưa về
Chỉ lũ trẻ đùa nô trên bến tắm
Và một chàng “cắm bản” lắng
hồn quê.
Con
gà đẻ trứng xong kêu “cộc tác”
Con
Vện nằm canh cửa mắt lơ mơ
Mặt
suối xanh in bóng cầu vừa bắc
Cọn
bên đồng cuốn nước xối như mưa…
Chiều
bản nhỏ ngàn xưa đời vẫn thế
Cứ
yên vui cùng xứ sở thanh bình
Không giặc giã, gươm trên tường nằm
nghỉ
Ngựa
lỏng cương thả bộ dọc dòng kênh.
Ai
đấy nhỉ một mình nơi thôn dã
Để
nhớ ai ngoài phố thị ồn ào
Hẹn
một buổi đón về thăm bản nhỏ
Cùng
vào rừng hái nấm mé đèo cao.
Bài 16:
TẮM Ở BẢN
Bản
người Thái (ở lưng núi) không có ao như làng người Kinh (ở đồng bằng)… nhưng
việc tắm rửa cho sạch sẽ thân mình thì người Thái ăn đứt người Kinh là cái
chắc.
Ở
bản có 3 cách tắm rửa:
-
Một là nơi “mó nước” đầu bản: Đó là nơi có ống nước tự chảy dẫn qua ống máng
tre từ trên nguồn đổ về trong sạch tuôn suốt ngày đêm… thường có 2 ống: một bên
nam, một bên nữ. Ngăn cách 2 bên là một phên nứa để bên nào bên ấy “tắm truồng”
thoải mái.
Thường
thì 3, 4 giờ chiều mùa hè, dân bản đi nương, ra ruộng về, tất cả tới mó nước
đầu bản là “kẻ xuộng xựa” (cởi quần áo “tắm”). Chị em thường là ý tứ ngồi xổm,
khép đùi, áo được cởi vắt trên con sào bên cạnh, váy được dâng lên đỉnh đầu,
ngực lưng hứng vào ống nước đang chảy, 2 tay xoa kỳ cọ thoải mái, đúng như “da
trắng vỗ bì bạch”, vú để tự do (là của trời cho) ai thấy cũng chẳng sao.
Cánh
đàn ông thì “truồng” 100% chuyện trò
cười đùa rôm rả… thật cứ như nơi vườn địa đàng buổi ban đầu con người còn chưa
biết xấu hổ (nả hại) - tức là khi người nữ chưa ăn trái cấm (theo lời xui của
con rắn “quỷ sa tăng”) nên tất cả đều rất vô tư, tắm truồng chung 1 mó nước,
thỏa thích ngắm thân hình khỏa thân của nhau mà trong lòng không gợn chút dục
vọng thú tính để dẫn đến tội lỗi?...
-
Hai là: Tắm suối (vắng vẻ là tắm truồng)
-
Ba là: Tắm sông
Chị
em thường là ngồi ngâm mình dưới nước, váy để trên đỉnh đầu hoặc váy để trên
bờ. Khi tắm ở sông suối, chị em thường kết hợp gội đầu, thả làn tóc mây xòa
theo dòng nước, rồi đứng dậy, vung quay tít cứ như một điệu múa tóc thật là
điệu đàng của các tiên nữ trên mường trời.
Người
Thái rất tự hào về cái sạch sẽ da thịt của mình… chị em ngày rửa tới vài lần,
lại mặc váy rộng xông xênh, nên thường nói đùa “hi của chúng tao là hi hom
(thơm), chứ không bịt kín (xi líp), quần bó chặt như người Kinh chúng mày, nên
hi min (thối) lắm bệnh phụ khoa”.
Văn
minh đô thị hay hoang sơ thôn bản (trở lại cội nguồn tự nhiên chưa ô nhiễm môi
trường) đang là một vấn đề nhức nhối của cái thời công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, và con người hình như đang tự đánh mất mình để tiến lên văn minh tàn bạo.
Tắm
ở bản (cũng như ở ao làng ngày xưa), chao ôi, đang lùi dần vào dĩ vãng để tắm
nước máy đã được xử lý bằng hóa chất (chất độc hóa học diệt khuẩn)…phải chăng
ta cũng đang tự “diệt mình” làm biến đổi gen để rồi sinh ra 1 lũ con cháu vô
cảm chỉ biết “tiền” và máy móc,vũ khí tiêu diệt, hủy diệt hàng loạt mà thôi….?
4/3/2012.
Bài 17:
LỄ TẰNG CẨU
Lễ
tẳng cảu (tằng cẩu): Là lễ búi tóc ngược lên đỉnh đầu của phụ nữ Thái đen Sơn
La khi lấy chồng.
Sau
lễ mai mối, chạm ngõ ăn hỏi và lễ cưới, người con gái đã có chồng thì lễ tẳng
cảu làm ở nhà gái.
Trong
các đồ sính lễ do nhà trai đem sang thường phải có 1 chiếc trâm bạc cài tóc
(mản khắt phôm)… người đảm nhiệm làm thường là bà dì, nhà gái có 2 phù dâu trợ
lý tiến hành.
Đầu
tiên là gội đầu bằng nước vo gạo nếp (để chua) - bẳng nậm khẩu má và nồi nước
lá sả, lá bưởi, lá tre… tất cả đem ra bến nước bờ suối giúp cô dâu gội đầu (như
một lễ tẩy dơ bẩn trôi theo dòng suối, chỉ còn lại trên đầu phần vía (khoăn
hua) thơm tho tốt lành… xong cô dâu về lên phía “tang chan” - khoảng 10 ghế mây
(tắng)… cô dâu quay về phía mặt trời mọc, mọi người đứng xung quanh, 2 phù dâu
áp sát 2 bên, 1 người nâng đĩa trâm cài tóc. Bà “Nai tằng cẩu” rút lược sừng
đen từ cái “ếp” của mình ra làm vài động tác đưa lên hạ xuống và chải tóc cho
cô dâu nhiều lần.
Cuối
cùng dùng 2 tay vuốt ngược từ sau gáy, đưa độn tóc đặt vào chính giữa đỉnh đầu
và búi tóc “tằng cẩu”… sau khi vuốt nắn lại không còn sợi tóc nào vương lòe
xòe, thì cô nâng trâm cài tóc xuyên đúng chỗ để giữa “cẩu”, nổi bật đồng bạc
hào hoa văn trắng ở phần đầu của trâm cài tóc chính giữa búi tóc ngược.
Trước
đông đủ mọi người, bà Nai cẩu nói:
Khắt
cẩu đi
Vi
hoa kiểng
Tẳng
cảu au phua
Té
nị pay nả
Ca nị mưa nưa
Báu
đảy nặm pay nảư
Chăư
pay ứn luk ơi!
Nghĩa
là:
Gội
đầu sạch
Chải
tóc mượt
“Tẳng
cảu” lấy chồng
Từ
giờ này đi
Từ nay về sau
Không
được nước thay dòng
Lòng
đổi chỗ con ơi!
Tiếp
theo 2 vợ chồng dắt tay nhau đi qua dọc bàn tiệc đặt dài giữa nhà đã có khách
ngồi kín đông vui nâng chén rượu chúc mừng.
NK-
Bài 18:
TỤC ĐẺ NGỒI CỦA NGƯỜI THÁI
*
Đẩy xí phiên xong hắu chắng ó kin khẩu
Cẳư
bươn phạ chắng ó kin nốm
Tốc
khuổm chắng pên lụ chái
Tốc
hai nọng ánh xai phên lụ nhinh phủ ưởi
*
10 tháng chờ đôi ta ra đời ăn cơm
9
tháng đợi đợi đôi ta ra đời bú mẹ
Rơi
sấp thành bé trai
Rơi
ngửa em yêu thành bé gái.
Khi
chuyển dạ, sản phụ được uống nước với cây “mậy phang” (cây tô mộc) có tác dụng
cầm máu (có trong rừng hay mua của người Dao, người Hmông).
Sản
phụ đẻ ngay trong ngăn buồng ngủ của mình trong tư thế ngồi (ghế = tắng), đỡ đẻ
thường là mẹ đẻ hay mẹ chồng, hoặc tự xoay xở (nay thì có y tá bản)…
Lễ
vật cúng “bà mụ”: 1 con gà trắng, cắt rốn bằng dao cật nứa hơ qua lửa hay nhúng
vào nước sôi để sát trùng. Rau thai được gói chôn gần nhà (kín đáo vào ban đêm).
Khi
trẻ đầy tháng thì cúng “hết hoóng”. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và
mời Lúng ta (bên ngoại) đến đặt tên cho cháu.
Bài 19:
NHÀ SÀN BẾP LỬA
Ta
lại về với nhà sàn bếp lửa
Một
mùa đông ăn củ sắn lùi
Vó
ngựa phi qua đèo Khau Cả
Ngắm
sông Đà đổ thác réo sôi
Em
vẫn đợi ở bên rừng vắng
Dải
khăn Piêu tung cách bướm hội xòe
Ta
đi giữa cánh rừng Ban trắng
Tiếng
chim Tăng Ló vọng hồn quê
Từ
em đi, anh không về nữa
Đầu
hồi nhà “khau cút” ngóng chờ ai
Đêm
mơ về nhà sàn bếp lửa
Nghe
gió mùa thương nhớ tháng giêng hai.
NK-
Bài 20:
SÔNG ĐÀ HÙNG VĨ
*
“Nặm Té hảnh to thú chắng lứm
Sông Đà cạn bằng chiếc đũa, hãy quên”
* Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu.
Sông Đà (Nậm Te), còn gọi là Sông Bờ
hay Đà Giang, Hắc Giang là phụ lưu lớn nhất của Sông Hồng, bắt nguồn từ Vân Nam
(TQ) chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Sông Đà dài 910 km (có tài liệu ghi
983km), bên TQ gọi là Lý Tiên Giang do 2 nhánh Bả biên Giang và A Mặc Giang hợp
thành…được dịch ra tiếng Châu Âu là sông Đen: Black Rive (Ave), Rivière Noire
(Pháp).
Đoạn bên TQ dài 400km từ núi Ngụy
Bào, ở huyện tự trị người Di, người Hồi Nguy Sơn phía Nam Châu tự trị dân tộc Bạch
Đại Lý chạy theo hướng Đông Nam qua Phổ Nhĩ.
Đoạn bên ở Việt Nam dài 527km (có tài
liệu ghi 543km), bắt đầu từ huyện Mường Tè (Lai Châu) qua Điện Biên, Sơn La, Hòa
Bình tới huyện Thanh Thủy (Phú Thọ) bên kia là Ba Vì (Hà Tây cũ). Điểm cuối là
ngã ba sông Hồng Đà ở huyện Tam Nông (Phú
Thọ). Sông Đà cung cấp 31% nước cho sông Hồng.
- 1994 - nhà máy thủy điện Hòa Bình,
có công suất 1920 MW (8 tổ máy).
- 2005 - khởi công thủy điện Sơn La
2400 MW - xong vào 2012, sẽ tiếp ở Lai Châu. Hồ Sơn La dung tích 9,26 tỉ mét
khối nước.
Sự hùng vĩ của sông Đà, đó là những
ghềnh thác dữ dằn gầm thét âm vang giữa 2 bờ vách đá dựng đứng, như nỗi thù hận
nghìn đời giữa trời và đất để hung dữ, để tàn phá, để nhấn chìm tất cả.
Năm 1958 Nhà văn Nguyễn Tuân đi thực
tế đến với sông Đà, Ông đã ghi lại những cái tên và tính nết của một số thác
trong số 73 cái thác có tên trên sông Đà về từ biên giới Việt Trung tới thác Bờ
(Hòa Bình):
“Cách biên giới TQ phía Vân Nam
khoảng mười cây số là thác kẻnh mỏ trên”. Rồi đến thác La Sa, Hát Vá, Mằn hi,
Mằn Lay. Rồi thác Hát Nhạt, Mằn thẳm, Hát No Héo, Kẻng mỏ dưới. Rồi đến Hát Lai
ở trên thị xã Lai Châu (Mường Lay) độ 9km.
Thuộc thủy phận Sơn La là các thác:
Hát pi, hát soong pút, hát soong mon, hát pố, hát kếnh, hát chan, hát moong,
hát tiếu; qua hát tiếu (tiếng Thái chữ hát = thác) “qua hát tiếu, rải chiếu mà
nằm” coi như về cơ bản đã qua những chỗ nguy hiểm.
Từ Vạn Yên tới Hòa Bình lại xuất hiện
một số thác tuy có bớt hùng dữ hơn ở phía trên Lai Châu, Sơn La…đó là những
“ga” nước trên sông Đà:
Thác Ẻn, Thác Giăng, Bãi chuối, Mó
sách, Bãi lời, Bãi lành, mó tôm, mó nàng, Nánh kẹp, Quai chuông, Tà phù, Bãi
nai, Ba hòn gươm, phố khủa, gềnh đồng, suối bạc, ổ gà, bái nhạp, cánh cuốn, mèo
quen, hang miếng, quần cóc, suối trong, bãi ban, riềm, thác rút, thác mẹ, bãi
thằng rồ, mó tuần, suối hoa, hót gió, thác Bờ…
Sau khi các đập thủy điện hoàn thành,
tất cả các gềnh thác được nhấn chìm xuống đáy hồ sông Đà mênh mông chia 3 khúc:
hồ Hòa Bình (từ thác bờ - Hòa Bình tớ tạ bú - Sơn La) rồi từ đập Pả Vinh - Ít
ong (Mường La) tới Nậm nhứn Mường Nhé - Mường Tè - Lai Châu…
Từ
thời Lê, trong “kiến văn Tiểu Lục”.Bảng nhản Lê Qúy Đôn (1723 - 1872) đã viết:
“Thác Bờ ở địa phận Động Dĩ Lý và Hào Tráng thuộc Mộc Châu”,như 1 ngọn núi đứng
sừng sững giữa dòng là sông Đà, đá lớn lởm chởm, hàng năm cứ đến ngày 8 - 4
từng đàn cá ngược dòng nước bơi lên, chỉ có vài con cá chép khỏe là vượt được
thác bờ (cá vượt vũ môn).
Sách
“Giao Châu ký” của Tăng Cổn (cuối thế kỷ 9) nhà Đường đô hộ Giao Châu (Tiết độ
sứ) - có ghi về sông Đà “có Long Môn”, nước sâu trăm tầm, cá lớn vượt lên được
chỗ này sẽ hóa rồng.
Trong
sách “Sơn đường tứ khảo” gồm 228 quyển và bổ di 12 quyển … Bành Đại Dực (nhà Minh) biên soạn có chép “sông Long môn ở huyện
Mông (Yên Lập - Phú Thọ) phủ Gia Hưng, nước An Nam phát nguyện từ Châu Minh
Viễn (Vân Nam), nước sông chảy đến đây, 2 bên bờ cao vót, hiểm trở, tảng đá lớn
chắn giữa sông chia làm 3 dòng, sức nước vọt lên cao đến vài trượng, nghe ầm ầm
như sấm, thuyền đến đây phải kéo lên bờ mới qua được”.
Sườn
núi động Hào Tráng ở về phía bờ trái, có khắc 2 bài thơ (ngự thơ) của vua Lê
Thái Tổ đi đánh Đèo Cát Hãn:
Lê
Quý Đôn dịch:
“Gập
gềnh đường hiểm chẳng e xa,
Dạ sắt khăng khăng mãi đến già
Lẽ phải quét quang mây phủ tối,
Lòng son san phẳng núi bao la.
Biên cương cần tính mưu phòng thủ
Xã tắc sao cho vững thái hòa
(Hư đạo nguy than tam bách khúc
Như kim chỉ tác thuận lưu khan)
“Ghềnh thác ba trăm” lời cổ ngữ
Từ nay xem chẳng nổi phong ba”.
Viết tại ngày tốt, tháng mạnh hạ
(tháng tư) năm Thuận Thiên thứ 2 (1429).
“Đường lên mường Lễ (Lai Châu) bao xa
170 thác, 130 ghềnh”
- Ca dao
Cử nhân, thượng thư Phạm Thuận Duật
(1825 - 1885) năm 1855 làm tri châu Tuần giáo (lúc ấy thuộc Sơn La, tỉnh Hưng
Hóa trong sách “Hưng Hóa ký lược” có chép).
“Châu Đà Bắc ở xã Hào Tráng có bến
Vạn Bờ tức sông Long Môn, cùng gọi là “đê long thủy”. Tục truyền rằng đây là
nơi “cá vượt vũ môn” hóa Rồng.
Hai bên đá chốc đứng, chặn ngang cửa
sông, ở giữa có một chỗ đá bị đục thủy (do nước xói mòn) gọi là Ao Vua, đó là
nơi vua Lê Thái Tổ đề thơ (1429).
Theo tác giả Anh Đức trong bài “xuôi
dòng Đà giang trước lúc ngăn sông”, tạp chí Suối Reo - Sơn La 5/2004 thì:
“Từ thị xã Lai Châu cũ (Mường Lay)
muốn xuôi xuống Quỳnh Nhai, ít nhất phải ngồi thuyền trên 200km, vượt qua trên
10 thác hung dữ với những cái tên hãi hùng
như thác Ba Bố, ghềnh Ba Cô, thác Bà Đái, hòn Chông, ghềnh chém sóng… thử thách
đầu tiên là thác Ba Bố mùa lũ. Tuy các dải đá ngầm có bớt nguy hiểm nhưng những
con sóng lại cực lớn, dập từng cơn táp mạnh vào mạn thuyền, con thuyền liên tục
xô nghiêng chao đảo. Người chưa quen đi sông nước bao giờ thì lúc đó coi mặc
cho số phận, còn những người từng trải thì thêm 1 lần trải nghiệm. Qua hết
nghềnh thác, mọi người thở phào nhẹ nhõm. Đi từ sáng tới hơn 2 giờ chiều đến
được bản Huổi Ca, xã Nậm Mạ, huyện Sìn Hồ (Lai Châu).
Rồi tiếp tục xuôi qua: Nậm Lốt, Pờ
răng ky của đồng bào Dao, xã Nậm Hăn (Sìn Hồ), rồi tới Pắc Phạ, Pắc Na của đồng
bào Hà Nhì, Thái trắng xã Tủa Thàng (Tủa chùa)…
Vào đất Sơn La là bản cũ xã Cà Nang
(Quỳnh Nhai) của đồng bào La Há hiện dưới cánh rừng ven suối. Qua huyện lỵ
Quỳnh Nhai: Thuyền ghé qua các bến Pá Uôn (nay có cầu), Chiếng Bằng, Văn Pán,
Nậm Giôn, Nậm Mu, Liệp Tè…
Thác Pá Mu hung dữ mùa cạn, khi nước
dâng thì hiền lành là bến đò đưa khách qua sông.
Tại Pá Vinh - nơi xây Thủy Điện Sơn
La có cây cầu cứng qua sông để thi công… Sau 5 ngày lênh đênh sóng nước, thuyền
cập bến Tạ Bú an toàn.!.!.
NGUYỄN THIÊN THỤ * ĐẤU TRANH GIAI CẤP
ĐẤU TRANH GIAI CẤP
NGUYỄN THIÊN THỤ
I. CHỦ THUYẾT MARX
Marx cho rằng giai cấp là nguyên nhân của mọi cuộc đấu tranh trong lịch sử, và cuộc đấu tranh này đưa đến một đổi thay tốt đẹp hoặc cả hai bị tiêu diệt. Ông cho rằng lịch sử có hai giai cấp là giai cấp áp bức và giai cấp bị áp bức, hai giai cấp này đấu tranh với nhau. Vào thời ông xuất hiện hai giai cấp đấu tranh với nhau là giai cấp tư bản và giai cấp vô sản.
Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả phường hội là thợ bạn, nói tóm lại, những kẻ áp bức và những người bị áp bức, luôn luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau (TUYÊN NGÔN CỘNG SẢN * I.1).
II. GIAI CẤP LÀ GÌ?
Những
ngôi nhà Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản và nhiều ngôi nhà trên thế
giới, thường có thềm, có từng bậc từ thấp lên cao, từ cao xuống thấp.
Hình ảnh cái thềm là ý nghĩa giai cấp. Giai cấp xã hội là những
thứ bậc cao thấp trong xã hội. Theo Wikipedia, giai cấp xã hội đề cập
đến các thứ bậc khác nhau phân biệt giữa các cá nhân hoặc các nhóm người
trong các xã hội hoặc các nền văn hóa. Các sử gia và các nhà xã hội học
coi giai cấp là phổ quát (là sự phổ biến), mặc dù những điều xác định
giai cấp là rất khác nhau từ xã hội này đến xã hội khác. Thậm chí ngay
cả trong một xã hội, các cá nhân khác nhau hoặc những nhóm người khác
nhau cũng có rất nhiều ý tưởng khác nhau về những điều gì làm nên thứ
bậc cao hay thấp trong trật tự xã hội.
Nhìn
chung, những người cùng địa vị, cùng có gia sản tương đương. . . là cùng một một giai
cấp. Nhưng đó là cách nhìn đơn giản. Nếu như ta chấp nhận rằng xã hội cổ
Á Đông chia ra bốn giai cấp sĩ, nông , công thương thì không phải các
sĩ, các thương đều cùng một giai cấp. Cổ nhân nói:"Của ba loài, người ba đứng", nghĩa là xã hội rất khác biệt. Thật vậy. Ngay trong giai cấp sĩ phu, ta đã có thể thấy ba loại:
-Hiển nho : làm quan
-Hàn nho: nho sinh nghèo
-Ẩn nho: nho sĩ ẩn dật.
Trong hiển nho cũng có nhiều hạng. Hạng nhất phẩm cho đến hạng cửu phẩm có cả thảy 18 bậc. Nếu chia theo trung nịnh, tốt xấu, thiện ác. . . thì lại còn phức tạp hơn.
Theo Lênin, giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong những tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
-Hiển nho : làm quan
-Hàn nho: nho sinh nghèo
-Ẩn nho: nho sĩ ẩn dật.
Trong hiển nho cũng có nhiều hạng. Hạng nhất phẩm cho đến hạng cửu phẩm có cả thảy 18 bậc. Nếu chia theo trung nịnh, tốt xấu, thiện ác. . . thì lại còn phức tạp hơn.
Theo Lênin, giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong những tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
Sự khác biệt giai cấp là
do nhiều yếu tố: giáo dục, gia đình, nghề nghiệp, địa vị, ngôn ngữ, tín
ngưỡng, chủng tộc. . .Người ta thường chia xã hội ra ba giai cấp chính
là giai cấp thương lưu, giai cấp trung lưu và giai cấp hạ lưu. Người ta
còn chia ra nhiều giai cấp như giai cấp trung lưu bậc cao, trung lưu bậc
trung và trung lưu bậc hạ. Tại Ấn Độ, thời đức Phật tại thế, xã hội Ấn
Độ chia ra bốn giai cấp : giai cấp tăng lữ (Brahmins or priests ), giai
cấp quý tộc (Kshatriyas or rulers and warriors ), giai cấp công thương
(The Vaishyas or business people and originally farmers) và giai cấp nô lệ (The Shudras or common laborers).
Bốn giai cấp này chỉ là quan niệm theo tôn giáo. Có kẻ thuộc giai cấp quý tộc mà rất nghèo khổ cũng như tại Việt Nam ta, một số các ông tôn thất rất nghèo.".
Nhà văn bị cộng sản xem là trọng tội đứng đầu (Trí phú địa hào) nhưng nhà văn Việt Nam đa số là khốn khổ. Hàn Mặc Tử kêu:
"Trời hỡi làm sao cho khỏi đói"
Còn Nguyễn Vỹ than:"Nhà văn An Nam khổ như chó"
Ấy mà cộng sản lại bạc đãi, hành hạ trí thức và Mao bảo "Trí thức không bằng cục phân."
Bốn giai cấp này chỉ là quan niệm theo tôn giáo. Có kẻ thuộc giai cấp quý tộc mà rất nghèo khổ cũng như tại Việt Nam ta, một số các ông tôn thất rất nghèo.".
Ra đường cậu ấm, ông Chiêu,
Về nhà móng tay mỏ sẻ cạy niêu đã mòn. Nhà văn bị cộng sản xem là trọng tội đứng đầu (Trí phú địa hào) nhưng nhà văn Việt Nam đa số là khốn khổ. Hàn Mặc Tử kêu:
"Trời hỡi làm sao cho khỏi đói"
Còn Nguyễn Vỹ than:"Nhà văn An Nam khổ như chó"
Ấy mà cộng sản lại bạc đãi, hành hạ trí thức và Mao bảo "Trí thức không bằng cục phân."
Điều này cho thấy quan niệm giai cấp của cộng sản là hồ đồ!
Người ta chia xã hội Anh, Mỹ ra ba giai cấp, là thượng lưu, trung lưu và hạ lưu:
+thượng lưu: gồm các nhà tư bản, có tài sản lớn, hoặc được hưởng tài sàn, có đặc quyền, đặc lợi và không cần phải làm việc.
+ trung lưu:chiếm đa số, gồm những người chuyên nghiệp, kỹ nghệ gia, thương gia, chủ tiệm. . .
+ hạ lưu: nông dân và thợ thuyền các loại.
Nhưng đó là cách chia đơn giản.
Tại Anh quốc, sau đệ nhị thế chiến nảy sinh nhiều giai cấp như là giai cấp thượng lưu, trung lưu và và hạ lưu, giai cấp thợ thuyền có kỹ xão, thợ thuyền không kỹ xão cùng giai cấp nông dân. Rồi còn hạng trẻ con lao động khoảng 14 tuổi, rời ghế nhà trường để mưu sinh, và trẻ con thượng lưu, được đi học, và vào đại học. Xe cộ, trường học, các rạp hát đều có những phân biệt giai cấp. Nhưng chính phủ Anh đã có những biện pháp làm giảm hố ngăn cách trong xã hội như là công bằng về y tế, giáo dục, thuế má. . .
Theo Wikipedia, ngày nay, người ta chia ra tám giai cấp trong xã hội Anh Quốc:
1. Thượng lưu: Những gia đình quý phái, nói với giọng đặc biệt, học các trường danh tiếng như Eton, Harrow, Winchester.
2. Trung lưu bậc cao: các chuyên gia, kỹ nghệ gia, thương gia, tốt nghiệp đại học.
3. Trung lưu bậc trung: những người chuyên môn, thương gia tốt nghiệp đại học nhưng gốc gác kém hơn nhưng lợi tức cao hơn trung bình.
4.Trung lưu bậc hạ: Có thể không tốt nghiệp đai học nhưng làm văn phòng.
5. Lao động bậc cao: Không tốt nghiệp đại học, nhưng có tay nghề và kinh nghiệm như đốc công, thợ mộc, thợ nề, thợ điện, lái tàu. . .
6. Lao động: Học thức it, có chút tay nghề, làm việc như xây cất, kỹ nghệ, khoan, ráp máy móc..
7. Lao động bậc hạ: như nghề quét dọn, bán hàng quán. . .
8. Bậc cuối: ăn trợ cấp xã hội.
Tuy nhiên có nhiều cách phân chia giai cấp do nhiều nhà xã hội có quan điểm khác nhau. Nhìn chung, giai cấp thường là chỉ một số người có địa vị và tài sản giống nhau, và trong xã hội có nhiều giai cấp. Lại nữa, sự phân chia nào cũng chỉ là tương đối. Ông kỹ sư, sinh viên tốt nghiệp đại học là trung lưu nhưng có khi thất nghiệp phải xin trợ cấp xã hội, thành ra đứng bậc cuối nấc thang xã hội.
Nếu nói chơi hay viết văn làm báo viết sao cũng được, còn khi đưa vào pháp luật thì phải rõ ràng, chứ không phải lập tòa án nhân dân, kết tội không cần chứng cớ cụ thể, và do bà Sáu, ông Năm là dân i tờ ngồi ghế chánh án như kiểu cộng sản.
+thượng lưu: gồm các nhà tư bản, có tài sản lớn, hoặc được hưởng tài sàn, có đặc quyền, đặc lợi và không cần phải làm việc.
+ trung lưu:chiếm đa số, gồm những người chuyên nghiệp, kỹ nghệ gia, thương gia, chủ tiệm. . .
+ hạ lưu: nông dân và thợ thuyền các loại.
Nhưng đó là cách chia đơn giản.
Tại Anh quốc, sau đệ nhị thế chiến nảy sinh nhiều giai cấp như là giai cấp thượng lưu, trung lưu và và hạ lưu, giai cấp thợ thuyền có kỹ xão, thợ thuyền không kỹ xão cùng giai cấp nông dân. Rồi còn hạng trẻ con lao động khoảng 14 tuổi, rời ghế nhà trường để mưu sinh, và trẻ con thượng lưu, được đi học, và vào đại học. Xe cộ, trường học, các rạp hát đều có những phân biệt giai cấp. Nhưng chính phủ Anh đã có những biện pháp làm giảm hố ngăn cách trong xã hội như là công bằng về y tế, giáo dục, thuế má. . .
Theo Wikipedia, ngày nay, người ta chia ra tám giai cấp trong xã hội Anh Quốc:
1. Thượng lưu: Những gia đình quý phái, nói với giọng đặc biệt, học các trường danh tiếng như Eton, Harrow, Winchester.
2. Trung lưu bậc cao: các chuyên gia, kỹ nghệ gia, thương gia, tốt nghiệp đại học.
3. Trung lưu bậc trung: những người chuyên môn, thương gia tốt nghiệp đại học nhưng gốc gác kém hơn nhưng lợi tức cao hơn trung bình.
4.Trung lưu bậc hạ: Có thể không tốt nghiệp đai học nhưng làm văn phòng.
5. Lao động bậc cao: Không tốt nghiệp đại học, nhưng có tay nghề và kinh nghiệm như đốc công, thợ mộc, thợ nề, thợ điện, lái tàu. . .
6. Lao động: Học thức it, có chút tay nghề, làm việc như xây cất, kỹ nghệ, khoan, ráp máy móc..
7. Lao động bậc hạ: như nghề quét dọn, bán hàng quán. . .
8. Bậc cuối: ăn trợ cấp xã hội.
Tuy nhiên có nhiều cách phân chia giai cấp do nhiều nhà xã hội có quan điểm khác nhau. Nhìn chung, giai cấp thường là chỉ một số người có địa vị và tài sản giống nhau, và trong xã hội có nhiều giai cấp. Lại nữa, sự phân chia nào cũng chỉ là tương đối. Ông kỹ sư, sinh viên tốt nghiệp đại học là trung lưu nhưng có khi thất nghiệp phải xin trợ cấp xã hội, thành ra đứng bậc cuối nấc thang xã hội.
Nếu nói chơi hay viết văn làm báo viết sao cũng được, còn khi đưa vào pháp luật thì phải rõ ràng, chứ không phải lập tòa án nhân dân, kết tội không cần chứng cớ cụ thể, và do bà Sáu, ông Năm là dân i tờ ngồi ghế chánh án như kiểu cộng sản.
Một số triết gia và nhà xã hội học cho rằng chủ nghĩa Marx chia xã hội thành ba giai cấp chính:
-Tiểu tư sản: làm chủ phương tiện sản xuất, họ làm cho họ, không thuê nhân công.
-Vô sản hay lao động: không có phương tiện sản xuất, bán sức lao động để sống.
-Tư sản hay tư bản: làm chủ phương tiện sản xuất, mua sức lao động của công nhân.
-Tiểu tư sản: làm chủ phương tiện sản xuất, họ làm cho họ, không thuê nhân công.
-Vô sản hay lao động: không có phương tiện sản xuất, bán sức lao động để sống.
-Tư sản hay tư bản: làm chủ phương tiện sản xuất, mua sức lao động của công nhân.
III. PHẢI CHĂNG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI LÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP?
Từ khi khai thiên lập địa con người chưa có giai cấp . Chúng ta có thể nói ban sơ, xã hội con người cũng giống xã hội loài vật không có giai cấp.
Nếu có sự phân chia là phân chia giới tính, già trẻ và mạnh yếu. Ở đây có sự tranh đấu giữa mạnh và yếu là chính. Cọng thêm nữa là đấu tranh giữa thiện và ác. Phải sau khi thành lập cộng đồng, tạo lập xã hội, lúc đó mới có giai cấp trên dưới, kẻ cai trị, người bị trị. Nhưng sau giai đoạn này, tất cả cuộc chiến đều không chỉ là đấu tranh giai cấp. Anh em tranh đấu nhau, cha con xâu xé nhau, bộ lạc mạnh ức hiếp bộ lạc yếu, nước lớn chiếm nước nhỏ không phải là đấu tranh giai cấp. Cuộc thánh chiến thời trung cổ không phải là đấu tranh giai cấp.
Napoléon và Hitler chiếm các nước, là cuộc chiến tranh giữa nước mạnh và nước yếu, không phải là đấu tranh giai cấp. Hai họ Trịnh Nguyễn đánh nhau là cuộc đấu tranh của hai vị chúa, của hai giòng họ, không phải đấu tranh giai cấp. Cuộc chiến giữa Liên Xô và Trung Quốc trước đây về biên giới , và cuộc chiến Việt Trung năm 1979 , và việc Việt Nam đánh Cao Miên không có phải là cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư bản và vô sản mà là cuộc chiến tranh giữa hai đồng chí anh em cùng thuộc giai cấp vô sản. Nguỳễn Duy có câu thơ châm biếm về cuộc chiến Việt Trung:
A. Q. túm tóc Chí Phèo
Để hai bác lính nhà nghèo cùng thua (Lạng sơn 1989)
Như vậy lịch sử nhân loại có nhiều cuộc đấu tranh không phải chỉ là đấu tranh giai cấp.
IV. TẠI VIỆT NAM THỜI PHÁP THUỘC CÓ GIAI CẤP TƯ BẢN VÀ VÔ SẢN KHÔNG?
Trong thời Pháp đô hộ, giai cấp tư sản Việt Nam rất hiếm hoi. Pháp chiếm Việt Nam làm thuộc địa, tư bản Pháp đầu tư kiếm lợi nhuận vì nhân công Việt Nam rẻ. Pháp chỉ coi Việt Nam là nơi tiêu thụ hàng hóa cho nên công nghiệp không phát triển. Bên cạnh Pháp, có người Trung Quốc chiếm giữ vai trò quan trọng trong lãnh vực thương mãi hơn là công nghệ. Tại Bắc Kỳ có Bạch Thái Bưởi nhưng rồi cũng thất bại. Tại Nam Kỳ có bốn cự phú "Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Định" nhưng chúng ta không rõ có mấy ông là tư bản.
Nói chung, tư bản nước ta chưa phát triển. Còn về giai cấp công nhân, lực lương cũng non yếu. Theo Đào Duy Anh, lực lượng thợ thuyền Việt Nam thời Pháp có khoảng 150 ngàn (Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, 68). Theo Nguyễn Thế Anh , lực lượng thợ thuyền có khoảng 200 ngàn kể cả trẻ con. Ông cho ta số liệu như sau:
1905
|
1930
|
1938
| |
Công nhân mỏ
|
5.000
|
53.240
|
54.950
|
Công nhân kỹ nghệ và thương mãi
|
12.000
|
86.624
|
61.025
|
Công nhân nông nghiệp
|
81.188
|
70.000
| |
Tổng số
|
221. 052
|
185.975
|
Nguyễn Thế Anh cho rằng những con số trên chỉ có một giá trị tương đối: chúng chỉ bao gồm số công nhân được dùng trong các xí nghiệp tư bản Pháp chứ không kể đến số người làm việc trong những xí nghiệp kỹ nghệ, thương mãi hay nông nghệ Hoa kiều hay của người Việt, chúng lại không bao gồm các công nhân giao thông. hầu hết là phu bắt ở các đia phương, trả theo công nhật. Mặt khác, đa số công nhân không phải là thợ chuyên nghiệp, mà chỉ làm phu, làm thợ theo từng giai đoạn mà thôi. ( Việt Nam Dưới Thời Pháp Thuộc, Lủa Thiêng, 1970, 256).
Lúc bấy giờ dân số Việt Nam là 20 triệu. Theo như tài liệu Nguyễn Thế Anh, giai cấp công nhân Việt Nam chỉ chiếm khoảng 1% dân số. Nếu tính theo Marx và Engels, nghĩa là loại bỏ công nhân nông nghiệp, công nhân thương mại, giai cấp công nhân Việt Nam chỉ có khoảng 100 ngàn mà thôi, tức là chiếm tỷ lệ 0,5% dân số . Giai cấp công nhân Nga và Trung Quốc có lẽ cũng tương tự.Ngay tại Nga và Trung Quốc đều chưa có giai cấp tư sản và vô sản như Marx quan niệm. Và cuộc khởi nghĩa tháng 10 Nga là do toàn dân, lực lượng chủ yếu là trí thức và nông dân nổi dậy lật đổ Nga hoàng chứ không phải là cách mạng vô sản vùng lên tiêu diệt tư sản như Marx mong muốn.
Về con số thì quá ít mà về ý
chí tranh đấu cũng không có. Chính giai cấp tiểu tư sản, hay nói đúng
hơn giai cấp trí thức đã kích thích, xúi dục thợ thuyền đứng lên tranh
đấu. Bọn trí thức và con quan lại đã dùng công nông làm lực lượng quân
sự mà chiếm quyền. Họ cũng dùng chiêu bài dân tộc để kêu gọi quần chúng.
Cộng sản chỉ thành công tại các nước nghèo đói và bị thực dân cai trị.
Còn tại các nước văn minh , giàu mạnh, công nhân thờ ơ với chủ thuyết
cộng sản.
Ấy
thế mà trong cải cách,
Việt Cộng theo lời cố vấn Trung cộng, quy kết 5% dân chúng là địa chủ
(Wikipedia). Cả nước ta thời Pháp thuộc dân số có 20 triệu, như vậy là
ta có 1
triệu địa chủ hay sao?
Trung
Quốc là một nước lạc hậu như Việt Nam, nông dân tuyệt đại đa số còn
công nhân thiểu số. Bởi vậy mà Mao chống lại Marx, chủ trương công nông
đều là giai cấp tiên phong, chứ không phải chỉ có công nhân là giai cấp
tiên tiến. Thực tế là đúng như vậy nhưng lý thuyết của Marx coi nông
dân, trí thức, thương gia, thợ thủ công là loại lưng chừng, có thể là
bạn mà cũng có thể là kẻ thù của giai cấp vô sản.. Nga cũng là một nước
nông nghiệp lạc hậu,
chưa có giai cấp tư bản mà cũng chẳng có giai cấp vô sản, cho nên Lenin
cưỡng lại Marx chủ trương tiến lên cộng sản chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa.
Người Trung Quốc và Việt Nam nghĩ giai cấp vô sản là giai cấp nghèo (ai mà chẳng nghèo). Người cộng sản còn lợi dụng danh từ giai cấp lao động ( ai mà chẳng lao động). Người cộng sản còn gọi vô sản là giai cấp thợ thuyền cho nên thợ mộc, thơ nề, thợ hoạn lợn...) đều cho mình là giai cấp tiên phong lãnh đạo cách mạng. Trong kháng chiến, đa số người Việt tin rằng mình là giai cấp vô sản được đảng chiếu cố, nhưng sau 1954, mâm cỗ bày ra, họ bị gạt ra ngoài, vì họ không được đảng cho là giai cấp vô sản. Đảng Cộng sản bây giờ mới đem định nghĩa của Engels, giai cấp vô sản là giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là giai cấp vô sản có trình độ lao động công nghiệp cao, là đứa con của nền đại công nghiệp hiện đại. (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1995, tập 2, trang 393).
Nói rõ ra giai cấp vô sản là một số người phải có nhiều kiện, chứ không phải ai cũng là thợ, ai cũng là vô sản, ai cũng là giai cấp công nhân.
Họ phải là:
(1). Làm việc cho tư bản trong lãnh vực công nghiệp là giai cấp công nhân công nghiệp. Như vậy, thợ thiến heo ( như bác Đỗ Mười) , thợ quét vôi ( như cụ Võ Chí Công) , thợ mộc, thợ nề là thợ cá thể, làm việc trong các xóm làng, không phải trong các hãng ,các công xưởng như làm trong nhà máy dệt Nam Định hay hãng Bason. Cụ Tôn Đức Thắng đi lính cho Pháp là tay sai của thực dân, cụ làm công nhân xưởng Bason có tay nghề cao không hay chỉ quét dọn? Bác Hồ con nhà phong kiến, làm bồi tàu, không phải là công nhân. Trần Quốc Hoàn nguồn gốc là vô sản lưu manh!
(2). Phải có tay nghề cao. Như vậy đàn bà, trẻ con phụ việc, không phải là công nhân.
Về thành phần giai cấp, ta thấy có nhiều điều trớ trêu:
(1). Như đã nói, bọn trí thức, con nhà tư sản, địa chủ, phong kiến thành lập đảng cộng sản chứ đảng cộng sản lúc đầu không do công nhân đích thực lãnh đạo. Đa số lãnh tụ đảng đều không thuộc giai cấp vô sản. Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng con nhà quan lại, không phải là công nhân...Một số đảng viên con nhà bình dân như Tôn Đức Thắng, Đỗ Mười, Võ Chí Công, Trần Quốc Hoàn...là về sau mới được kết nạp cho có mùi vô sản, và cũng vì bọn này có thành tích giết người hơn tất cả!
(2).Đảng cộng sản do trí thức con nhà tư sản, phong kiến mà lại kết tội tư sản, phong kiến và trí thức như Marx, Engels, Lenin, Hồ, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng , Pol Pot..Họ cũng trí thức, con nhà tư sản, phong kiến thì họ có quyền gì giết, bỏ tù các trí thức, các gia đình quan lại, các nhà tư sản,và địa chủ ?
V. ĐẤU TRANH GIAI CẤP, TIÊU DIỆT TƯ BẢN, BÃI BỎ TƯ HỮU CÓ DIỆT ĐƯỢC GIAI CẤP BÓC LỘT, GIAI CẤP THỐNG TRỊ KHÔNG?
Trong Tuyên ngôn của đảng Cộng Sản, Marx viết:
Muốn giữ vững chính quyền và xây dựng
một xã hội mới không có bóc lột, giai cấp công nhân phải lập lên nhà
nước của mình, đó là Nhà nước chuyên chính vô sản.
Nhà nước vô sản dùng vũ lực đập tan sự phản kháng của giai cấp tư sản đã bị đánh đổ nhưng vẫn mưu toan cướp lại chính quyền, chuyên chính vô sản chủ trương đàn áp thiểu số bóc lột để phục vụ lợi ích của đại đa số cần lao. “Dựa vào nhà nước của mình, giai cấp công nhân tập hợp xung quanh mình tất cả tất cả những người lao động và xây dựng một xã hội mới không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Không còn bóc lột, không còn các giai cấp đối địch nhau, một xã hội thực hiện được sự tiến triển mạnh mẽ của nền sản xuất xã hội và kết quả lao động dồi dào. Do đó, chuyên chính vô sản là cần thiết để đưa cuộc cách mạng vô sản đến đích, đưa cách mạng thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội”.
Nhà nước vô sản dùng vũ lực đập tan sự phản kháng của giai cấp tư sản đã bị đánh đổ nhưng vẫn mưu toan cướp lại chính quyền, chuyên chính vô sản chủ trương đàn áp thiểu số bóc lột để phục vụ lợi ích của đại đa số cần lao. “Dựa vào nhà nước của mình, giai cấp công nhân tập hợp xung quanh mình tất cả tất cả những người lao động và xây dựng một xã hội mới không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Không còn bóc lột, không còn các giai cấp đối địch nhau, một xã hội thực hiện được sự tiến triển mạnh mẽ của nền sản xuất xã hội và kết quả lao động dồi dào. Do đó, chuyên chính vô sản là cần thiết để đưa cuộc cách mạng vô sản đến đích, đưa cách mạng thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội”.
Làm
sao mà có được xã hội không giai cấp, không còn bóc lột? Như Cộng sản
lý luận, xã hội có hai giai cấp chính là giai cấp tư bản và giai cấp vô
sản, giai cấp thống trị và giai cấp bị tri. Nhưng khi giai cấp vô sản
cướp chính quyền, tiêu diệt giai cấp tư bản thì giai cấp vô sản đã thành
giai cấp thống trị, còn giai cấp tư sản tụt xuống thành giai cấp bị
trị, giai cấp nô lệ. Như vậy, sau cuộc " cách mạng", xã hội vẫn có hai
giai cấp, không bao giờ san bằng được bất công. Tất cả chỉ là " dịch nô
tái chủ". Cái việc xây dựng
một xã hội mới không có bóc lột là một
hoang tưởng, một sai lầm nếu không là dối trá! Sau chính biến tháng 10
Nga, Lenin và đồng bọn trở thành giai cấp mới, tàn ác, xảo quyệt hơn
thời Nga hoàng. Tài sản quốc gia lọt vào tay một thiểu số, dân chúng
phải làm nô lệ trong cảnh đói rét và phải chết trong các nông trường,
công trường và trại tập trung. Con số nạn nhân là hàng chục triệu!
Sau
khi Đông Âu và Liên Xô tan vỡ, người ta thấy rõ các cung điện của các
vua chúa cộng sản. Nay tại Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam, dân chúng đói
khổ, trong khi bọn cộng sản trở thành tư sản đỏ, có hàng tỷ mỹ kim trong
các ngân hàng Việt Nam và ngân hàng Âu M; chúng , mua xe hơi triệu Mỹ
kim, có cơ ngơi hàng triệu Mỹ kim tại Việt Nam và ngoại quốc. Cha con,
vợ chồng, anh em cộng sản gộc nắm độc quyền kinh tế, chính trị trong
nước. Cộng sản hô hào diệt trừ tư hữu và xoá bất công xã hội nhưng
chính cộng sản ngày nay công khai cướp tài sản nhân dân và quốc gia, bán
nước,hại dân. Tài sản quốc gia trở thành quốc doanh là mồi béo bỡ cho
gian tham, trộm cướp. Đảng cộng sản ngày nay với chính sách độc quyền
kinh tế, chính trị, và chính sách khủng bố cướp bóc chính là đại họa của
dân tộc Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Hàn...
Mục đích chính là lợi dụng giai cấp công nông để cướp chính quyền và nắm chính quyền. Vì đường lối này, cộng sản Việt Nam, Trung Quốc đã đánh đuổi, đấu tố "trí phú địa hào" và đưa nông dân lên nắm chính quyền các cấp xã thôn, bộ viện và trung ương mặc dầu tuyệt đại đa số là ngu dốt và tàn ác.
Mục đích thứ hai với danh nghĩa diệt trừ giai cấp tư sản, cộng sản giết người cướp của.
đuổi không có quy định rõ rệt ai là tư sản, là địa chủ, chúng rất vô lý
khi đặt ra tiêu chuẩn là xã thôn có bao nhiều bần cố là có bấy nhiêu địa chủ (Nguyễn Văn Trấn, 167) ...Chúng đã bắt
nông dân nghèo mang tội địa chủ, tư sản...Cuộc chém giết, bỏ tù, trừng phạt là một cuộc khủng bố làm cho toàn dân sợ hãi mà cúi đầu làm nô lệ.
Mục
đich thứ ba là cướp tài sản nhân dân. Ban đầu chúng chia ruộng đất cho
nông dân nhưng sau chúng tịch thu tất cả ruộng đất và bắt mọi người vào
tập đoàn, nghĩa là làm nô lệ cho cộng sản. Tại Liên Xô, Trung Quốc,
CCRĐ, cải tạo công thương nghiệp, bài trừ văn hóa đồi trụy là cướp vàng
bạc, tiền của, ruộng đất, cơ xưởng, xí nghiệp của nhân dân để làm giàu
cho các ông vua cộng sản. Tài sản toàn quốc bấy giờ tập trung vào tay
các cộng sản gộc, họ tha hồ bỏ túi, tha hồ chi tiêu, không sợ cơ quan
nào kiểm tra, báo chí phê bình, đảng phái khác chống đối. Cộng sản độc
tài một mình một chợ tha hồ bóc lột, cướp bóc. Cộng sản trở thành một
đại tư bản không một tư bản nào ở Âu Mỹ địch kịp.
Mục
đích thứ tư là phá vỡ truyền thống tương thân tương trợ, nhân nghĩa,
bác ái của nhân dân ta, tạo ra cảnh chia rẽ hận thù trong chính sách
gây căm thù và chia để trị của cộng sản.
Tóm
lại, đấu tranh giai cấp là một chính sách lừa bịp công nông và toàn
dân, rốt cuộc cộng sản nắm quyền bính, bắt toàn dân làm nô lệ, giai cấp
công nông đã nghèo lại nghèo hơn, tài sản quốc gia lọt vào tay bọn
độc tài gian tham tàn ác mệnh danh là đảng cộng sản .Thảm kịch này còn
ghi dấu ấn mạnh mẽ
trong các tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Chí Thiện,
Vũ Thư Hiên, Dương Thu Hương, Tô Hoài, Nguyễn Văn Trấn , Lê Lựu,
Nguyễn Khoa Đăng.. .
Theo NguyÍn Væn TrÃn trong "Viết Cho Mẹ và Quốc Hội", NguyÍn Væn Châu,
cán b¶ khu 5 Çã Çi h†c B¡c Kinh vŠ nói: ñÃu tÓ nhÜ vÆy rÓt cu¶c ÇÜ®c cái gì!
ñÜ®c cái nát tan tình nghïa làng xóm (169).
Bùi Công TrØng nhÆn ÇÎnh vŠ cäi cách ru¶ng ÇÃt nhÜ sau:
Cäi cách ru¶ng ÇÃt Çem
låi cho ngÜ©i nông dân B¡c B¶ m¶t khoänh ÇÃt con chó n¢m còn ló Çuôi ra ngoài ( 229).Nói tóm lại, chủ trương đấu tranh giai cấp là một sự dối trá vĩ đại, một tội ác kinh hoàng và ghê tởm của bọn cộng sản mà khởi đầu từ Karl Marx.
No comments:
Post a Comment