Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Saturday, 3 December 2016

NGUYỄN VĂN TRƯỜNG = VIET CỘNG=

TÂM CHÁNH * TỰ TRỌNG CỦA VIỆT CỘNG

Ông Sáu Dân nói về người đứng đầu: “biết tự trọng, có phẩm chất, có văn hóa”

Tư liệu của Tâm Chánh
 
Tâm Chánh: “Ông già”, một số anh em vẫn nói về ông như thế, sau khi ông Sáu Dân đã hồi hưu. Ông róng riết làm một người cộng sản vì dân vì nước ngay cả khi nhiều tâm huyết chưa được chính các đồng chí của mình chấp nhận. Ông có thói quen chuẩn bị cẩn thận ý kiến mình trên những tờ giấy nhỏ hoặc trong một quyển tập học trò rồi chia sẻ nó với những người ông “rủ” viết bài.  Mẫu ghi chép dưới đây của ông là một phần chuẩn bị như vậy. Lần đó, ông muốn phát biểu vấn đề chịu trách nhiệm của người đứng đầu trong cơ chế về trách nhiệm “bùng nhùng” của ta. Ý ông rất quyết liệt, ngay cả trong khi chưa rành mạch về cơ chế, thì người đứng đầu phải “có trách nhiệm và trách nhiệm cao với dân với nước”. Với ông, người đứng đầu “biết tự trọng, có phẩm chất, có văn hóa”  phải có ý thức trách nhiệm cao đó  chứ không “chia phần” thiếu sót với cơ chế.

Một trang ghi chép của ông Sáu
 “Qua theo dõi hoạt động của QH họp phiên thứ 9 khóa XI, các vị đại biểu của dân quan tâm – cũng là sự quan tâm của cử tri chung quanh 3 vấn đề tham nhũng, lãng phí và trách nhiệm về quản lý nhà nước được đặt ra nghiêm túc. Một bên đòi hỏi giải trình, một bên giải trình…
Không khí thảo luận cởi mở của 2 phía, tôi cho là khá tốt bởi sau ĐH lần thứ X của Đảng, đánh dấu khởi đầu tiếp nối phát huy dân chủ cơ quan quyền lực của Dân, đáng mừng.
Với tư cách là người đảng viên cộng sản, công dân – cử tri tôi xin góp thêm khía cạnh mà cả 2 phía đã thảo luận khá thẳng thắng như nói trên. Chung quanh “ quyền với trách nhiệm và chịu trách nhiệm” với “ cơ chế quản lý và bổ nhiệm cán bộ”
-          Trước tôi muốn nói về cơ chế đang được vận hành về quản lý và quyền bổ nhiệm. Tôi rất đồng tình với với ý kiến có nhiều hạn chế về chịu trách nhiệm, cần phải được sửa đổi (chuyện sắp tới thuộc về Đảng cần nghiên cứu).      
Song tôi lại không tán thành lên chia phần thiếu sót của những người đứng đầu        các cơ quan chức năng đổ cho cơ chế, bởi lẽ chúng ta đã nhận biết cơ chế này, ta đã nhận phần trách nhiệm trước QH, trước Đảng phân công. Gần như lúc bấy giờ không có ai phần nàn về cơ chế cũng gần như không có ai thoái thác bởi do cơ chế, còn có phần “vui mừng” nhận lấy trách nhiệm ( hầu hết tôi biết là như vậy ). Nếu có đ/c UVTƯ nào, quan chức nào được đề cử vào chức vụ Bộ trưởng mà thoái thác lượng khả năng mình và sự ràng buộc của cơ chế – Đảng ép, QH bắt buộc phải làm, tôi đề nghị có thể có mức độ châm chước. Còn không thì sao, xin “lãnh đủ” đó là nghiêm túc, đó là biết tự trọng, có phẩm chất và có văn hóa. Để đủ công bằng và sòng phẳng cơ quan chọn lựa, đề cử cán bộ thuộc cấp Đảng quản lý cũng phải có trách nhiệm nghiêm túc.
-          Có thể có ý kiến rằng, tôi là đ/viên là TWUV Đảng phân công tôi phải chấp hành, đó là nguyên tắc chung cho mọi người đ/v hông được đòi hỏi, thoái thác những nơi khó khăn kể cả nguy hiểm. Nhưng khi phân công cấp Đảng quản lý bao giơ cũng hỏi ý kiến của cán bộ đ/v được phân công. Một số trường hợp có những cán bộ được trình bày không dám nhận trọng trách tự thấy khả năng mình không đảm trách, có cán bộ nói thật với tôi không dám ở MN xin đi tập kết…( Đoạn này ông Kiệt diễn giải lại ví dụ trong thời chiến tranh ở miền Nam mà ông là người phụ trách – NG )
-          Kiểu “bùng nhùng” như không ai chịu trách nhiệm hoặc trách nhiệm không cụ thể, không rõ. Nếu được rành mạch hơn nữa càng tốt, song ở đây chủ yếu là có trách nhiệm và trách nhiệm cao đối với dân với nước, đồng tiền bát gạo là mồ hôi nước mắt của dân, của vay mượn là dân phải trả. Bộ máy thì đông như kiến, phương tiện đi lại, ăn ở đâu đâu cũng có, cách trở ngày càng xa đối với các công trình hàng 100 hàng ngàn tỷ”
 ( Tâm Chánh ghi lại nguyên bản viết tay của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từ tư liệu cá nhân )
TC gửi cho QC
QUÊ CHOA

SÔNG HÀN * QUAN LÀM BÁO

Cả nước nháo nhào vì Quan Làm Báo! Sự lạc hậu trong tư duy

 
 
Vừa mới xem cái phóng sự của VTV – chương trình thời sự đêm trung thu mới thấy cái lèo lá của báo chí, cái khát vọng minh bạch thông tin nó phải lách như thế nào? Nó phải đúng chủ trương như thế nào!
 
Cả nước nháo nhào vì Quan Làm Báo! Thật anh không hiểu nổi? Tại sao lại phải sợ Quan Làm Báo? Tại sao phải ngăn chặn những trang mạng có thông tin độc hại. Người ta có ai thích uống thuốc độc đâu? Trừ khi muốn tự tử.
 
Tại sao lại cứ bắt báo chí phải tiến hành nhiệm vụ định hướng thông tin, định hướng dư luận xã hội theo đúng quan điểm của Đảng và Nhà nước? Như thế thì đời nào, đời nào mới có minh bạch thông tin cho được? Mà không minh bạch thông tin nghĩa là có khuất tất.
 
Nghĩa là sợ dư luận!
 
Sao đến giờ này rồi mà Đảng vẫn muốn người ta chỉ biết nói tốt cho mình. Thế thì phê và tự phê cái éo gì không biết?
 
Mấy ông quan cách mạng cần nhớ cho rằng nếu muốn dân không tin độc hại, trước hết mấy ông phải khiến dân tin mình – bằng hành động, việc làm cụ thể chớ éo phải bằng một thiết chế độc tài. Muốn thế chính các ông đừng có biến mình thành độc hại.
 
Tại sao Quan Làm Báo tung hoành bá đạo được? Đó là bởi Báo chí đã tháo chạy khỏi những yêu cầu bức thiết của thời đại. Đó là thời thế, sức mạnh cơ chế đã khiến báo chí “vị thân bỏ nước”.
 
Giờ không nghiêm túc nhìn chính mình thì làm sao tiến bộ được? Phê tự Phê cái gì? Trên làm dưới cãi à?
 
Cha Tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân chém gió về việc cung cấp thông tin khách quan minh bạch cho báo giới, để báo giới có những bình luận sắc sảo. Tôi nói thật, trước khi chém gió ông nên xem lại tờ báo của ông đi, những bài chính luận của báo ông dở như cứt. Thứ lỗi đấy là tôi nói thật.
 
Nó khó ngửi đến mức không chịu đựng nổi?
 
“Suy nghĩ đúng đắn” theo ông nó là cái gì? Là tuyệt đối phải tin Đảng à? Là không chệch đường lối à?
 
 ”Bác bỏ đường lối của chúng ta” thì sao? Không tin Đảng thì sao? Thì phạm tội à? Thì phải bắt tống tù à? Vô lý quá đi!! Đến bao giờ Việt Nam mới có được cái Đa nguyên về tri thức, mới tôn trọng cái quyền được nói khác của công dân.
Đèo mẹ, định hướng cái éo gì không biết!!
 Nhiều Blogger viết blog bày tỏ các quan ngại chính trị của mình chẳng vì một vụ lợi nào cả.  Nhưng họ yêu log hơn yêu báo, thậm chí yêu log còn nhiều hơn yêu cả những tòa báo mà họ cộng tác hoặc công tác. Đó là tại sao?
 Tại bởi blog khiến họ là chính họ, được nói thật những suy nghĩ của mình. Có phải thằng đéo nào cũng được tiền tài trợ của “thù địch” đâu? Họ cày bục mạng ở không gian thật chỉ để được nói thật trên không gian ảo (tức là Internet), không phải lo ông này ông kia chỉnh đốn, sửa đổi. Log cho họ được nói thật, thể hiện khát khao nói thật (dù đúng dù sai).Chống đối cái gì? Thế nào là kích động thóa mạ, vu khống, bôi xấu lãnh đạo Đảng Nhà nước, cá nhân phải làm rõ ra. Có luật rõ ràng, công dân có quyền kiện chính quyền thì chính quyền cũng có quyền kiện công dân. Pháp luật phải tạo ra cái hành lang đó chứ không phải đẻ ra pháp luật để khẳng định uy quyền, hăm dọa và bịt miệng dân.
 
 - Vua coi bề tôi là trâu ngựa, bề tôi coi vua là người dưng. Vua coi bề tôi là cỏ rác bề tôi coi vua là kẻ thù. Với Đảng với Dân cũng thế thôi!!
 
Xem cái “tư duy ông quan” của các vị mà sôi máu quá đi! Biết thế thì đừng có xem nữa


TIN TỨC GẦN XA

 Một số phản ứng sau hội nghị 6 của đảng Cộng sản Việt Nam

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bây giờ đang ở nhiệm kỳ 2 và sẽ ở tuổi nghỉ hưu vào lúc đại hội Đảng kế tiếp được triệu tập.

CỠ CHỮ
Marianne Brown

Thế nào là phản động?

Cập nhật: 14:50 GMT - thứ sáu, 19 tháng 10, 2012

Khái niệm “phản động” trong lĩnh vực chính trị xã hội được hiểu là khi các chính phủ, tổ chức, đảng phái chính trị, cá nhân có đường lối, chính sách, tư tưởng, cương lĩnh hoạt động đi ngược lại xu thế dân chủ và tiến bộ xã hội, làm thiệt hại đến lợi ích của nhân dân và Tổ quốc. Các đảng cầm quyền, chính phủ cố níu kéo và duy trì chế độ chính trị lạc hậu, phi dân chủ. Họ tuyệt đối hóa quyền lực của một cá nhân hay một đảng. Họ khinh thường các giá trị của quyền con người. Họ biến nhân dân thành đối tượng, công cụ để họ thỏa mãn về quyền lực và của cải. Họ sử dụng cả hệ thống chính trị, luật pháp, và truyền thông để chống lại và đàn áp những tổ chức, cá nhân đấu tranh dân chủ và bảo vệ nhân quyền.
Trong các nước có chế độ chính trị độc tài hoặc độc đảng toàn trị, cụm từ “phản động” và “thế lực thù địch” được chính quyền sử dụng để chụp mũ, quy kết, ám chỉ những người, những tổ chức đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền và tiến bộ xã hội. Chính quyền cũng sử dụng từ “phản động” và “thế lực thù địch” để chụp mũ và quy kết cho những người có tư tưởng, quan điểm đối lập với đảng cầm quyền. Những người lên tiếng phê phán, chỉ trích đảng cầm quyền trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, ngoại giao, quốc phòng, an ninh,…
Để vô hiệu hóa cũng như cô lập những người hoạt động đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền. Đồng thời làm mất đi sự ủng hộ của những người dân còn thiếu thông tin dẫn đến hiểu sai về việc đấu tranh của những người yêu nước. Các chính quyền độc tài và độc đảng toàn trị thường sử dụng quyền lực và các phương tiện truyền thông độc quyền của họ để tuyên truyền, vu khống và gọi những tổ chức và những người dân yêu nước là “phản động” và “thế lực thù địch”.
Bản chất phản động
Trong thực tiễn của lịch sử thế giới, có những đảng phái chính trị mà ban đầu mang bản chất của một đảng cách mạng, có công lao trong việc đem lại độc lập cho quốc gia. Nhưng khi nắm được quyền lực đã trở nên tham nhũng, thoái hóa, biến chất và không chịu từ bỏ những tư tưởng độc tài, độc đảng lạc hậu để tiếp thu những tư tưởng dân chủ, tiến bộ. Do đó những đảng cầm quyền này dần dần trở thành đảng phản động, và họ đi ngược lại với lợi ích của nhân dân và Tổ quốc. Họ sử dụng bộ máy an ninh, cảnh sát, nhà tù để đe dọa, uy hiếp người dân nhằm duy trì quyền lực cùng với bản chất phản động của họ.
Để hiểu rõ thế nào là phản động và thế lực thù địch với nhân dân, chúng ta cần phải xem xét kỹ từ bản chất bên trong cho đến những biểu hiện ra bên ngoài của một chế độ chính trị xã hội, đảng cầm quyền, hay một chính phủ.
Trong Thánh Kinh cho biết“…Không có cây lành lại nào sinh quả độc; không có cây độc nào lại sinh quả lành; vì xem quả thì biết cây. Không ai hái trái vả nơi bụi gai, hay trái nho nơi bụi tật lê. Người tốt do lòng chứa điều thiện mà sinh ra điều thiện; kẻ xấu do lòng chứa điều ác mà sinh ra điều ác; bởi đầy dẫy trong lòng nên miệng mới nói ra.”
Ở những quốc gia mà do những đảng chính trị mang bản chất phản động nắm quyền thì chúng ta nhận thấy như sau:

Điều 79 và 88 trong bộ luật hình sự Việt Nam dùng để bóp nghẹt tự do ngôn luận?
Thứ nhất, mọi giá trị đạo đức xã hội bị đảo lộn. Những kẻ bất chính, bất lương và gian ác thì nắm quyền lực, chiếm chỗ của những người công bình, chính trực. Những kẻ lưu manh, xấu xa thì khoác áo công quyền. Họ nhân danh Nhà nước, pháp luật để sách nhiễu, bắt giữ, xét xử và cầm tù những người đang tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền.
Thứ nhì, tham nhũng trở thành quốc nạn, nó diễn ra ở khắp mọi nơi từ địa phương đến trung ương. Từ nơi kín đáo, riêng tư cho đến công khai trên các tuyến đường giao thông.
Thứ ba, hệ thống, bộ máy quản lý kinh tế yếu kém dẫn đến tham nhũng, lãng phí tài sản của nhân dân, của quốc gia. Hệ thống tư pháp lạc hậu dẫn việc xét xử oan sai, công lý được đem ra mua bán, trao đổi. Hệ thống hành chính, thủ tục hành chính chồng chéo, không minh bạch dẫn đến tình trạng sách nhiễu người dân.
Thứ tư, nạn tham nhũng và vô trách nhiệm của chính quyền đã dẫn đến tình trạng tài nguyên thiên nhiên, rừng bị tàn phá và khai thác cạn kiệt. Môi trường sống, không khí trong các đô thị bị ô nhiễm xếp hạng nhất thế giới, ảnh hưởng đến sức khỏe và cuộc sống của hàng chục triệu người dân.
Thứ năm, những đảng phản động nắm quyền vô trách nhiệm, không đủ khả năng, năng lực để kiểm soát những loại hàng hóa tiêu dùng, thực phẩm độc hại, kém phẩm chất được sản xuất trong nước cũng như nhập lậu. Họ cũng yếu kém về trí tuệ cũng như tầm nhìn trong qui hoạch, kiến trúc và xây dựng đô thị.
Nhân quyền
Cuối cùng, chúng ta so sánh trong lĩnh vực nhân quyền để thấy rõ hơn bản chất phản động của một chế độ chính trị. Ở các quốc gia do các đảng mang bản chất phản động cầm quyền thì các quyền con người trong lĩnh vực chính trị bị hạn chế hay tước bỏ hoàn toàn như: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Khi người dân phê phán hay chỉ trích những sai trái của chính quyền thì bị qui kết chống lại nhà nước và bị cầm tù. Người dân không được quyền làm báo chí tư nhân mà báo chí do đảng phản động độc quyền.
"Các chế độ chính trị phản động muốn duy trì bóng tối bao trùm lên cả dân tộc để che đậy những hành vi tội ác của họ. Nhưng các lực lượng dân chủ và tiến bộ xã hội lại mang ánh sáng tới để xua tan bóng tối đang đè nặng lên dân tộc, và quét sạch đi mọi tội ác."
Khi người dân thực hiện quyền hội họp, biểu tình ôn hòa thì bị sách nhiễu, bị tước đoạt quyền tự do, đem đi giam giữ mà không xét xử. Khi người dân thực hiên quyền lập hội, lập đảng thì bị qui kết hoạt động nhằm lật đổ chính quyền. Còn ở các quốc gia dân chủ tiến bộ thì người dân được tự do thành lập các tờ báo, báo chí trở thành công cụ quyền lực của nhân dân để giám sát hoạt động của chính quyền. Người dân được tự do hội họp, tự do biểu tình ôn hòa. Người dân có quyền tự do tham gia hoặc thành lập các tổ chức, đảng phái chính trị.
Qua thực tiễn ở các chế độ độc tài và độc đảng ở Đông Âu trước đây và ở khu vực Trung Đông, Bắc Phi hiện nay, chúng ta thấy rằng “các thế lực thù địch và phản động” đã bị chính quyền chụp mũ trước đây. Khi cách mạng dân chủ thành công thì đã chứng minh rõ ràng đó là những lực lượng cách mạng chân chính và tiến bộ. Họ đã tiến hành các cuộc cách mạng dân chủ đem lại quyền lực, quyền làm chủ đất nước về cho nhân dân. Thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng dân chủ văn minh. Các chế độ độc tài và độc đảng sau khi bị thay thế và công khai tất cả các thông tin về họ thì mọi người dân đều nhận thấy bản chất của các chế độ đó đều hết tàn bạo và mang bản chất cực kỳ phản động.
Chính quyền phản động thường biến nhân dân từ địa vị làm chủ đất nước thành công cụ để phục vụ cho lợi ích phi pháp của họ đó là nhân dân phải lao động cực khổ trong các nhà máy, trên các công trường, hầm mỏ, đồng ruộng, trên các ngư trường đánh bắt hải sản để làm tiền và nộp thuế cho ngân sách quốc gia nhưng đã bị các từng lớp quan chức tha hóa chi tiêu lãng phí, tham nhũng và vơ vét của cải của nhân dân thành của riêng. Để dễ dàng thực hiện những hành vi phi pháp đó mà không bị nhân dân trừng phạt thì các chính quyền phản động phải duy trì quyền lực tuyệt đối của mình để kiểm soát mọi mặt của đời sống xã hội. Họ xây dựng hệ thống pháp luật, hệ thống các cơ quan tư pháp và hệ thống chính quyền nhằm hạn chế tối đa các quyền con người, vô hiệu hóa các quyền tự do, dân chủ của nhân dân.
Các chế độ chính trị phản động muốn duy trì bóng tối bao trùm lên cả dân tộc để che đậy những hành vi tội ác của họ. Nhưng các lực lượng dân chủ và tiến bộ xã hội lại mang ánh sáng tới để xua tan bóng tối đang đè nặng lên dân tộc, và quét sạch đi mọi tội ác.
Nhận diện được bản chất thực sự ai là phản động? Ai là thế lực thù địch với nhân dân? Và ai là dân chủ, tiến bộ là rất cần thiết. Từ đó mọi người dân sẽ có thái độ tích cực ủng hộ cũng như tham gia vào các lực lượng dân chủ và tiến bộ để tiến hành cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, một luật sư hiện sống ở Hà Nội.
Các nhà sản xuất rời Trung Quốc?
Cập nhật: 12:06 GMT - thứ ba, 23 tháng 10, 2012
Lao động TQ
Giá lao động ngày càng tăng đang là thử thách lớn với các nhà sản xuất tại Trung Quốc
Chi phí lên cao đang là một vấn đề lớn với các nhà đầu tư, sản xuất trong nước và nước ngoài đang hoạt động tại Trung Quốc.
Ngày 21/10, báo China Daily đã đăng tải bài viết của hai cây bút Qing Fen và Qiu Quanlin về tình hình kinh doanh tại đây trong hoàn cảnh nói trên.
BBC xin được giới thiệu với bạn đọc bài viết này.
Chi phí lao động tăng và nhu cầu xuất khẩu suy giảm khiến nhiều nhà sản xuất phải chuyển sang những nước láng giềng Đông Nam Á và những công ty còn lại cũng đang có kế hoạch chuyển đi, một quan chức Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết.
Quan chức ẩn danh này nói "gần một phần ba những nhà sản xuất sản phẩm dệt, vải, giày và mũ đang làm việc trong áp lực ngày càng gia tăng và đã di chuyển tất cả, hoặc một phần sản xuất ra phía ngoài Trung Quốc", điều mà ông gọi là 'sự di chuyển công nghiệp khổng lồ'.
Những địa điểm được ưa chuộng khác thông thường là các nước thành viên khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, Indonesia và Malaysia.
Có khả năng lớn "xu hướng này sẽ tiếp tục" với, với ngày càng nhiều sự di chuyển của các nhà sản xuất sử dụng vốn lao động cao, ông nói với China Daily
Liang Shiyu, giám đốc văn phòng của Phòng Thương mại Nhập khẩu và Xuất khẩu hàng dệt thừa nhận một số lượng lớn những nhà sản xuất đã chuyển một phần hoàn toàn bộ công ty sang nước ngoài.
Tuy nhiên quan chức thương mại này nói mặc dù một số việc làm bị mất trong quá trình chuyển đổi, hiện tượng này "về cơ bản là tích cực," và "đúng hướng" với nỗ lực của chính phủ trong việc nâng cấp sức mạnh công nghiệp cũng như thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế.
Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 (2011-15) đã khiến các nhà xuất khẩu tăng cường sản xuất các loại hàng chất lượng cao.
Các nhà xuất khẩu đang khám phá ra những cách mới để kinh doanh trong bối cảnh đà xuất khẩu bị suy giảm vì những yếu tố tiêu cực của thị trường trong và ngoài nước, từ chi phí lao động ngày càng tăng cho đến nhu cầu suy giảm mạnh từ khối Châu Âu và Mỹ.

Gánh nặng giá lao động

"Thế mạnh (về chi phí lao động và sản xuất) tại các nước Đông Nam Á sẽ chỉ kéo dài một vài năm"
Chen Jian, quản lý một doanh nghiệp may mặc ở Châu Giang
Giá lao động tại Trung Quốc tăng 15-20% những năm gần đây, thu hẹp lợi nhuận và đẩy nhiều công ty đến bờ vực phá sản.
Theo Bộ Lao động Trung Quốc, từ tháng Một cho đến tháng Sáu năm nay, mức lương tối thiểu đã tăng lên trung bình là 20% tại 16 tỉnh trong nước.
Lương tối thiểu tại Thẩm Quyến là 238 đôla/tháng, mức cao nhất so với cả Trung Quốc đại lục.
Nhiều nước đang phát triển trong khu vực Đông Nam Á có giá lao động thấp hơn nhiều.
Lương lao động sản xuất tại Việt Nam hồi năm 2011 chỉ là 96 đôla/tháng, chỉ bằng mức của 10 năm trước tại Đông Hoản, một thị trấn công nghiệp khu vực sông Châu Giang, phía Nam Trung Quốc.
Một số nước Asean, trong đó có Việt Nam đã mở rộng các chính sách sử dụng đất đai và dịch vụ để phục vụ đầu tư nước ngoài, trong đó có từ Trung Quốc.
Các công ty sản xuất quần áo và dệt may đã bắt đầu rời khỏi khu vực Châu Giang để đến các địa điểm khác tại Đông Nam Á.
Xiao Yujing, một quản lý tại công ty Zhongshan Liangcheng than phiền rằng tình hình đang ngày càng khiến việc tìm khách hàng quốc tế tại Hội chợ xuất nhập khẩu Trung Quốc trở nên khó khăn hơn.
Khách hàng đang "hướng mắt về phía các nước Đông Nam Á", khiến công ty của ông phải lên kế hoạch di dời một phần doanh nghiệp.
"Chúng tôi sẽ thử Campuchia, nơi mà chi phí lao động chỉ vào khoảng một phần tư giá ở Châu Giang," ông nói.
Không chỉ có các công ty trong nước, những tập đoàn đa quốc gia hoạt động ở Trung Quốc cũng đang có chiến lược di dời.
Gần đây, Adidas đã đóng cửa nhà máy tại Tô Châu, tỉnh Giang Tô, nơi có 160 lao động.
Nike cũng đóng cửa nhà máy giày tai Trung Quốc tại Tô Châu hồi 2009.
Chi phí hoạt động ngày càng cao cũng là một trong những nguyên nhân khiến đầu tư nước ngoài giảm mạnh trong những tháng gần đây.

Thế mạnh tạm thời

Việt Nam
Thế mạnh lao động giá rẻ ở những nước Đông Nam Á như Việt Nam được cho là chỉ có giá trị ngắn hạn
Theo một khảo sát của Capital Business Credit, một công ty tư vấn tài chính tại Mỹ, đến 40% những công ty lớn nói họ đang có kế hoạch chuyển nhà máy từ Trung Quốc đến các nước khác, trong đó có Việt Nam, Pakistan, Bangladesh và Philippines.
Huo Jianguo, giám đốc Viện hợp tác thương mại và kinh tế toàn cầu, một bộ phận của Bộ thương mại, nói sự di dời của các công ty đến khu vực Đông Nam Á là "rõ ràng" và "dễ hiểu."
Ông Huo nói Trung Quốc vẫn là một địa điểm thu hút các nhà đầu tư sản xuất nhờ nhu cầu nội địa mạnh mẽ và môi trường đầu tư phát triển, cũng như đội ngũ lao động có trình độ.
"Chúng tôi ghi nhận việc một số nhà sản xuất và các công ty nước ngoài đã chuyển hoạt động từ khu vực ven biển sang những khu vực trung tâm và ở phía tây," ông nói. Một ví dụ mà ông đưa ra đó là công bố sẽ chuyển dự án đầu tư sang Tây An, thành phố phía Tây Bắc Trung Quốc của tập đoàn Samsung.
Tuy nhiên một số ý kiến cho rằng thế mạnh về chi phí của các nước khác là tạm thời.
"Thế mạnh (về chi phí lao động và sản xuất) tại các nước Đông Nam Á sẽ chỉ kéo dài một vài năm," ông Chen Jian, quản lý của một công ty may mặc ở khu vực Châu Giang bình luận.
"Xu hướng này giống hệt với những gì xảy ra 10 năm trước khi các nhà sản xuất từ Hong Kong và Đài Loan kéo đến Châu Giang vì giá lao động thấp. Giờ đây chúng ta có thể thấy giá lao động ở đây đã tăng cao như thế nào."

TIN TỨC GẦN XA



Vì sao thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

 không bị mất chức?

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng phát biểu trước Quốc hội, 22/10/2012
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng phát biểu trước Quốc hội, 22/10/2012
REUTERS

RFI
Chế độ độc đảng lãnh đạo và tính chất “cùng hội cùng thuyền” đã giúp ông Nguyễn Tấn Dũng giữ được chiếc ghế thủ tướng. Có thể tóm tắt như vậy các nhận định của giáo sư Carlyle A. Thayer, để trả lời cho câu hỏi nêu trên.

Hội nghị Trung ương 6 của đảng Cộng sản Việt Nam, sau 15 ngày họp kín, bế mạc ngày 16/10 vừa qua, và Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định không kỷ luật Bộ Chính Trị và “một đồng chí trong Bộ Chính trị”.
Đồng chí” này hay như lời chủ tịch nước Trương Tấn Sang “đồng chí X”, không ai khác chính là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, cho dù ông đã phạm nhiều sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lý, để cho nạn tham nhũng hoành hành. Phát biểu trước Quốc hội Việt Nam ngày 22/10/2012, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã thừa nhận trách nhiệm của mình đối với những sai lầm, khuyết điểm này.
Thế nhưng, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không bị mất chức. Tổng bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng giải thích là Ban Chấp hành Trung ương đã “cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá”.
Giới quan sát có những lý giải khác nhau.
Ngày 19/10 vừa qua, giáo sư Carlyle A. Thayer, chuyên gia về Việt Nam, thuộc Học viện Quốc phòng Úc, đưa ra một số nhận định. Theo ông, một số nhà phân tích đã ngạc nhiên là ông Nguyễn Tấn Dũng không bị cách chức thủ tướng. Họ đã nhầm lẫn vai trò thủ tướng trong chính thể dân chủ tự do với vai trò thủ tướng trong chế độ độc đảng lãnh đạo.
Ông Nguyễn Tấn Dũng vừa là thủ tướng vừa là “một đồng chí ủy viên Bộ Chính trị”. Ông có trách nhiệm cá nhân đối với các thành viên chính phủ và những tổ chức dưới quyền của ông. Nhưng ông cũng là ủy viên Bộ Chính trị, một định chế ra quyết định tập thể. Các phương tiện truyền thông chỉ tập trung chú ý đến vai trò thủ tướng của ông và không chú ý tới vị trí đầy ảnh hưởng của ông, người đứng thứ tư trong Bộ Chính trị.
Sau khi điểm lại những sai lầm, thất bại của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, câu hỏi đặt ra là tại sao ông lại không bị cách chức trong Hội nghị Trung ương 6 vừa qua ? Theo giáo sư C. Thayer, câu trả lời liên quan đến thực tế phe phái chính trị trong đảng Cộng sản Việt Nam. Nhìn trong tổng thế, Ban Chấp hành Trung ương bao gồm 4 nhóm khác nhau : Các ủy viên làm việc trong Đảng ở cấp Trung ương (19%), các ủy viên làm việc trong bộ máy Nhà nước ở cấp Trung ương (23,5%), các ủy viên làm việc ở cấp tỉnh hoặc địa phương (47%) và các ủy viên thuộc quân đội (10,5%). Mỗi nhóm này có lợi ích riêng của mình. Cho dù trong mỗi nhóm không có sự đồng nhất về chính trị, nhưng rõ ràng là ông Nguyễn Tấn Dũng đã có đủ sự ủng hộ ở cấp Nhà nước và tỉnh, địa phương để làm thất bại mọi ý đồ kỷ luật ông.
Giáo sư C.Thayer nhấn mạnh: Ông Nguyễn Tấn Dũng không chỉ là thủ tướng, ông còn là một “đồng chí ủy viên Bộ Chính trị”. Tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế đã làm cho văn phòng thủ tướng ngày càng có nhiều quyền lực, vượt lên trên cả Đảng. Điều này dẫn đến sự hình thành một mạng lưới bè phái, thân hữu, được hưởng các thành quả của sự phát triển kinh tế cũng như sự buông thả trong việc giám sát các chính sách của ông Nguyễn Tấn Dũng. Thế nhưng, “các đồng chí khác trong Bộ Chính trị” cũng được hưởng như vậy. Rõ ràng là họ, gia đình họ và những mạng lưới thân hữu của họ đều hưởng lợi từ mô hình phát triển “kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Do vậy, giáo sư C.Thayer cho rằng, mặc dù có những sai lầm, khuyết điểm, ông Dũng không bị mất chức hoặc buộc phải từ chức, bởi vì điều này sẽ gây ra những bất ổn chính trị trong một nước Việt Nam độc đảng lãnh đạo.
Nếu ông Nguyễn Tấn Dũng phải từ bỏ chức thủ tướng và ủy viên Bộ Chính trị, thì điều gì sẽ xẩy ra đối với các nhóm ủng hộ ông ở cấp Trung ương Đảng, Nhà nước và các chính quyền địa phương ?
Mặt khác, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định tái lập ban Kinh tế Trung ương cho phép Đảng có thể nắm bắt, theo dõi những dữ liệu kinh tế vĩ mô và xây dựng chính sách kinh tế trong tương lai.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuy tránh được áp lực buộc ông từ chức, nhưng từ nay sẽ không thể tự do hành động. Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra một lịch trình cải cách mà ông Dũng và Bộ Chính trị phải thực hiện. Đặc quyền của ông Dũng sẽ bị giảm bớt.
Ban Chấp hành Trung ương đã giao trách nhiệm cho Bộ Chính trị giải quyết vấn đề ổn định kinh tế xã hội, tiến hành cải cách các doanh nghiệp Nhà nước, lĩnh vực ngân hàng cũng như lựa chọn ban lãnh đạo tương lai trong Đại hội Đảng toàn quốc lần tới. Nói một cách khác, thủ tướng Dũng sẽ được chỉ đạo để nỗ lực giải quyết những vấn đề này. Quyền lực của ông sẽ bị hạn chế trong quá trình thực hiện chương trình cải cách.
Ban Chấp hành Trung ương sẽ xem xét, đánh giá về chương trình cải cách. Nếu mọi việc diễn ra bình thường, Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương giữa kỳ sẽ diễn ra vào dịp Tết Nguyên Đán 2013 (từ 9 đến 12/02/2013). Ông Nguyễn Tấn Dũng có thể không bị nêu tên, nhưng ông nằm trong tầm ngắm của những người muốn gạt bỏ những lãng phí kinh tế, một sản phẩm phụ của quá trình tăng trưởng kinh tế cao. Thủ tướng Dũng sẽ chịu áp lực từ nay cho đến khi có Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương, để chứng minh là có những tiến bộ trong việc cải cách các doanh nghiệp Nhà nước, cải cách lĩnh vực ngân hàng, chấm dứt ảnh hưởng của gia đình và các mạng lưới thân hữu, bè phái, vốn tung hoành ngang dọc cho đến nay.
Sau Hội nghị Trung ương 6, không một phe phái nào giành thắng lợi rõ rệt. Các đấu đá chính trị có thể còn tiếp tục vì mỗi phe đều tìm cách mở rộng ảnh hưởng của mình trong quá trình thực hiện cải cách. 2013 là năm giữa hai kỳ Đại hội toàn quốc (Đại hội 11 và 12). Bộ Chính trị sẽ lập nhiều tiểu ban soạn thảo các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và bắt đầu lựa chọn nhân sự cho các cơ quan lãnh đạo cao cấp của Đảng. Đấy sẽ là dịp các phe phái và những lãnh đạo tương lai của Đảng lại đấu đá, tác động đến chính sách và tranh giành ghế trong các cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng.
tags: Chính trị - Chuyên mục trên mạng - Việt Nam
 http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20121023-vi-sao-thu-tuong-nguyen-tan-dung-khong-bi-mat-chuc
 

GS Tương Lai : "Việt Nam phải có một Nhà nước pháp quyền thật sự"
Ba lãnh đạo Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng và Trương Tấn Sang trước buổi khai mạc kỳ họp Quốc hội ngày 22/10/2012
Ba lãnh đạo Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng và Trương Tấn Sang trước buổi khai mạc kỳ họp Quốc hội ngày 22/10/2012
Reuters
Thanh Phương
Hội nghị Trung ương 6 đã kết thúc từ cách đây một tuần, nhưng sự kiện này tiếp tục được bàn tán sôi nổi trong dư luận. Báo chí chính thức thì dĩ nhiên đã đăng rất nhiều ý kiến hoan nghênh “sự thành thật” hay “thái độ quyết liệt” của Bộ Chính trị. Nhưng các báo lề trái thì phản ánh sự thất vọng của nhiều người về kết quả của hội nghị này, nhất là khi thấy là cuối cùng cũng chẳng có ai bị kỷ luật, kể cả “một đồng chí ủy viên Bộ Chính trị” mà ai cũng thừa biết đó là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Việc ông Dũng không bị kỷ luật mặc dù bị xem là tham nhũng, quản lý kinh tế kém cỏi và lạm quyền cho thấy là đấu đá trong nội bộ ban lãnh đạo Đảng chưa chấm dứt. Chỉ cần đọc báo chí chính thức cũng đủ thấy là phe Nguyễn Phú Trọng-Trương Tấn Sang còn rất cay cú.
Theo VietnamNet, khi tiếp xúc cử tri ở Sài Gòn ngày 18/10/2012, ông Trương Tấn Sang đã tuyên bố “Nhân dân đã giao nhiệm vụ thì phải hoàn thành, còn thấy mình không hoàn thành thì rút lui”. Về quyết định không kỷ luật thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, mà ông Sang gọi là “đồng chí X”, chủ tịch nước của Việt Nam thanh minh: "Chỉ có cân nhắc tình hình hiện nay, cân nhắc lợi hại thì quyết nghị là không thi hành kỷ luật. Như vậy không có nghĩa là Bộ Chính trị không có lỗi, không phải là cá nhân đồng chí ‘X’ không có lỗi”. Tìm cách trấn an những người sợ bị trù dập khi tố cáo tham nhũng, ông Sang còn hùng hồn tuyên bố: “ Người ta có thể trù úm một người, một nhóm người nhưng không thể trù úm cả dân tộc này”.
Về phần tổng bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng, cũng theo VietnamNet, khi tiếp xúc với cử tri Hà Nội ngày 16/10, tức là ngay sau khi hội nghị trung ương kết thúc, ông Trọng đã nói rằng hội nghị này “cơ bản đạt yêu cầu nhưng chưa phải là xong”. Theo ông, việc phê bình, kiểm điểm sẽ làm lâu dài, thường xuyên, "làm như rửa mặt hàng ngày".
Riêng ông Nguyễn Tấn Dũng, đại biểu Hải Phòng thì không thấy báo chí đưa tin ông tiếp xúc cử tri trong đơn vị bầu cử của ông, trong khi Quốc hội chuẩn bị khai mạc kỳ họp hôm nay (22/10/2012). Hôm qua, mới thấy tờ Nhân Dân đăng tin là ông Dũng đã “tiếp xúc cử tri theo chuyên đề tại Ðại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh trên địa bàn quận Thủ Ðức, TP Hồ Chí Minh và xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương”, nhưng không thấy ông bình luận gì cụ thể về kết quả hội nghị trung ương 6.
Hôm nay, trước Quốc hội, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã “nghiêm túc nhận trách nhiệm chính trị lớn” của người đứng đầu Chính phủ và xin “thành thật nhận lỗi” về tất cả những yếu kém, khuyết điểm của Chính phủ, nhất là những yếu kém, khuyết điểm trong kiểm tra, giám sát hoạt động của tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, như Vinashin và Vinalines. Nhưng ông Dũng vẫn rất hận những trang blog mà gần đây đã liên tục đả kích cá nhân ông, nhất là trong thời gian trước và trong khi diễn ra hội nghị trung ương. Thủ tướng Việt Nam tuyên bố là “công tác quản lý thông tin, nhất là thông tin mạng, blog cá nhân chưa tốt, còn bị các thế lực thù địch lợi dụng, bịa đặt, xuyên tạc, gây tác hại xấu “. Điều này cho thấy là sau khi suýt nữa bị mất chức thủ tướng, nay ông Dũng sẽ tiếp tục chiến dịch trấn áp các trang blog nào tiếp tục chỉ trích ông.
Như vậy, rõ ràng là cuộc đấu đá, mà trên mạng có người gọi mỉa là trận chiến Ba – Tư ( Ba Dũng và Tư Sang ), vẫn chưa chấm dứt, nhưng cho dù hội nghị trung ương lần tới có kỷ luật được một ủy viên nào đi nữa, thì cũng sẽ chẳng có gì thay đổi trong một cơ chế mà Đảng Cộng sản vẫn đứng bên trên pháp luật và khi nào mà Việt Nam chưa thay đổi đường lối, định hướng, khi nào Việt Nam chưa có Nhà nước pháp quyền thật sự, thì vẫn chưa giải quyết được tận gốc rễ những vấn đề tham nhũng, lạm quyền, quản lý kinh tế yếu kém. Đó là nhận định chung của Giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học trong phần trả lời phỏng vấn với RFI Việt ngữ sau đây :

Phỏng vấn Giáo sư Tương Lai
22/10/2012
RFI : Thưa Giáo sư, sau hội nghị trung ương 6, đã có nhiều dư luận bàn tán sôi nổi về kết quả hội nghị này. Điều người ta chú ý đó là lần đầu tiên Bộ Chính trị công khai thừa nhận những khuyết điểm, sai lầm của mình, nhưng rốt cuộc không có chuyện gì xảy ra tức là không có ai bị kỷ luật. Giáo sư có nhận định như thế nào về kết quả hội nghị này?
Giáo sư Tương Lai : Sau ngày 15/10, nghe bài diễn văn bế mạc của ông Tổng bí thư, rồi đọc thông cáo của hội nghị trung ương, thì đã có nhiều phản ứng. Trên TV, người ta cũng đã đưa lên ý kiến của rất nhiều cán bộ về hưu, cán bộ lão thành, cựu chiến binh, tỏ ra rất xúc động và tin tưởng. Rồi đến ông bí thư thứ nhất trung ương Đoàn Thanh niên thì phát biểu rằng ông “vô cùng khâm phục” trước “thái độ vô cùng dũng cảm” của Bộ Chính trị đã tự phê bình và nhận kỷ luật, ...
Nhưng dư luận thứ hai mà tôi nghe được lại là dư luận phẫn nộ và thất vọng, vì thấy đã mất bao nhiêu công của, bao nhiêu sự chuẩn bị kéo dài hàng bao nhiêu tháng, để rồi kết quả là không giải quyết được vấn đề gì.
Nhưng nhận thức của tôi thì khác. Tôi cho rằng nếu như kết luận “nhất trí 100%” của Bộ Chính trị mà được thực thi ở hội nghị trung ương, thì nó cũng chỉ dẫn đến kết quả là xả xú-páp, tức là “chém tế cờ” một nhân vật nào đó, để làm dịu bớt đi sự phẫn nộ của quần chúng nhân dân, để mà vớt vát chút uy tín của ông Tổng bí thư và Bộ Chính trị, mà quá trình tuyên truyền quảng cáo thì rất là rầm rộ. Nếu được như thế đi chăng nữa, thì kết quả cũng chỉ đến thế mà thôi, chứ không giải quyết được cái gốc của vấn đề.
Chống được tham nhũng thì tốt quá, nhưng cân nhắc, suy nghĩ kỹ thì ta sẽ thấy đó chỉ là cái ngọn. Vì sao? Vì gốc của vấn đề là đường lối, định hướng. Xác định kinh tế Nhà nước là chủ đạo, mất kinh tế Nhà nước là mất chủ nghĩa xã hội, cho nên cần phải có những “quả đấm thép”, những tổng công ty. Càng mở rộng những tổng công ty đó bao nhiêu, thì càng chứng tỏ là nền “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” càng vững vàng. Chính từ đó mới có những chuyện như Vinalines, Vinashin, . . .
Đương nhiên việc quản lý những tổng công ty này là hư hỏng rồi, nhưng vấn đề dù anh có là một nhà quản lý giỏi đi nữa thì anh cũng phải thực hiện theo đường lối ấy, không giải quyết được gì cho nền kinh tế cả. Cơ cấu lại nền kinh tế ấy không phải là làm theo kiểu giật gấu vá vai, mà phải đi lại từ gốc.
Chuyện cướp đất đai gây nên sự phẫn nộ của nông dân khiếu kiện khắp nơi đâu phải chỉ là do cá nhân các ông quan địa phương, những cường hào ác bá kiểu mới, tha hồ chiếm đoạt đất đai. Họ làm được điều đó, vì sở hữu đất đai là sở hữu toàn dân, do Nhà nước quản lý. Quyền sở hữu không được xác lập rõ ràng. Khái niệm Nhà nước là khái niệm trừu tượng, cho nên chuyện cướp đất làm sao mà tránh được? Vì dân không được pháp luật bảo vệ. Luật pháp của ta trong thời gian qua biểu hiện sự yếu kém một cách không thể nói gì thêm được nữa. Mà gốc rễ vấn đề không phải là do ông chánh án này, ông thẩm phán kia, ông viện kiểm sát nọ làm việc kém.
Ngay trong hội nghị trung ương, ông Tổng bí thư đã khẳng định, Nhà nước của ta là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, nghĩa là không công nhận tam quyền phân lập. Mà không công nhận tam quyền phân lập thì làm sao thì gọi là Nhà nước pháp quyền theo đúng nghĩa của nó được!
Nhà nước pháp quyền không phải là thành tựu của tư sản. Đó chính là kết quả của thế kỷ ánh sáng, là thành tựu của trí tuệ loài người. Ngay khi khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông Hồ Chí Minh đã khẳng định điều đó, bằng cách mở đầu tuyên ngôn độc lập với trích dẫn Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ và Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp. Đó là thành tựu của nền văn minh, của trí tuệ cả loài người. Anh không công nhận điều này thì làm sao có được một Nhà nước pháp quyền đúng nghĩa. Một xã hội không thượng tôn pháp luật, mà chỉ được điều khiển bằng các nghị quyết, thì làm sao tránh khỏi những sai lầm, tùy tiện như vừa qua?
RFI : Thưa Giáo sư Tương Lai, gốc rễ vấn đề phải chăng cũng là vì cho tới nay Đảng vẫn đứng bên trên pháp luật, không bị ràng buộc bởi bất cứ một cơ chế nào, cho nên mới có chuyện là Bộ Chính trị “ xin được kỷ luật”, mà Ban chấp hành trung ương lại không dám kỷ luật?
Giáo sư Tương Lai : Ở đây cần tách ra hai vấn đề. Nếu những người điều hành Đảng mà nắm vững điều lệ Đảng thì sẽ thấy là vừa qua có những xử lý sai với nguyên tắc, điều lệ Đảng. Điều lệ Đảng ghi rõ Đại hội Đảng là cơ quan cao nhất của Đảng, họp định kỳ để quyết định chủ trương, đường lối. Giữa hai kỳ Đại hội, Ban Chấp hành trung ương là cơ quan cao nhất của Đảng điều hành mọi vấn đề. Bộ Chính trị và Ban Bí thư là cơ quan thực thi trách nhiệm do Ban Chấp hành trung ương giao phó. Nhưng từ lâu, người ta đã biến Bộ Chính trị thành quyền lực cao nhất, ngồi lên trên đầu cả Đảng, cả Ban Chấp hành trung ương và cả Đại hội.
Bây giờ nói đến chuyện kỷ luật cả Bộ Chính trị thì tôi thấy chuyện này là vô duyên, vì tập thể Bộ Chính trị là cơ quan điều hành do Ban Chấp hành trung ương giao, vậy thì nếu có kỷ luật thì kỷ luật một cá nhân, ví dụ như cá nhân Tổng bí thư, người đứng đầu Bộ Chính trị, hay là kỷ luật ông ủy viên phụ trách Quốc hội, phụ trách Bộ Công an, ... Tức là những cá nhân đó bị kỷ luật vì trách nhiệm của họ trước Đảng, trước dân. Chứ làm sao có thể kỷ luật tập thể Bộ chính trị được! Nếu có thì chỉ có thể giải tán cả tập thể đó thôi.
Đài báo cứ nói là từ xưa tới nay chưa có chuyện đó. Nói như thế là không hiểu bìết gì hết. Đã từng có chuyện kỷ luật đấy. Ví dụ, hồi Cải cách ruộng đất, ông Tổng bí thư Trường Chinh đã bị kỷ luật và thôi chức. Ông Lê Văn Lương, ủy viên Bộ Chính trị phụ trách tổ chức, cũng đã bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị.
Chỉ có bây giờ là họ nhập nhằng nói tập thể chung chung, mà không nói cụ thể là, trong tập thể Bộ Chính trị, ai là người chịu trách nhiệm điều hành mà để gây ra những sự rối ren đó. Rồi còn nói “một ủy viên Bộ Chính trị”, tức là đối với Đảng cũng như đối với dân, vẫn cứ nói mập mờ, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Điều đó đủ nói lên cái “sức mạnh” của Bộ Chính trị đó như thế nào.
Trong nội bộ đảng là như thế rồi. Còn chuyện pháp luật đối với dân thì đem ra pháp luật mà bàn sau. Vừa qua chỉ mới là Bộ Chính trị đưa ( vấn đề kỷ luật ) ra, nhưng Ban Chấp hành phủ quyết. Điều đó cho thấy là cuộc đấu tranh giữa những thế lực trong Ban Chấp hành và trong Bộ Chính trị đang còn rất nhiều rắc rối. Thế mà lại nói là đoàn kết nhất trí ! Nói như thế là nói lấy được thôi. Chứ còn người nào tỉnh táo thì đều thấy không đúng như thế.
Bây giờ nếu dám nói đúng vào sự thật, thì phải gọi mặt chỉ tên, chỉ ra những sai lầm A, B, C. Ai phụ trách cái này, ai chịu trách nhiệm cái này và những người ấy phải bị kỷ luật. Không chỉ riêng “một uỷ viên Bộ Chính trị”, mà vừa qua có vấn đề về nhiều mặt lắm : mặt xây dựng Đảng, mặt xây dựng nước. Đây là những vấn đề tù mù, không rạch ròi, không minh bạch, chứng tỏ là về mặt nhận thức thì không thông thoáng và về mặt đoàn kết nội bộ thì không có. Cho nên mới có hiện tượng là Ban Chấp hành trung ương phủ quyết ý kiến của Bộ Chính trị. Tôi cho rằng chuyện phủ quyết chẳng có gì là không bình thường. Đó là một thực tế cần phải ghi nhận để xử lý vấn đề trong thời gian tới, để tỏ rõ là Đảng có sức mạnh, có kỷ luật, có đoàn kết thật, chứ không phải chỉ là đoàn kết trên khẩu hiệu, trên diễn văn.
RFI : Thưa Giáo sư, qua hội nghị trung ương vừa rồi, người dân đóng vai trò như những khán giả, không có tiếng nói gì trong các vấn đề quan trọng của đất nước. Ngay cả Quốc hội cũng chẳng có tiếng nói gì đối với người đứng đầu chính phủ, mà trên nguyên tắc phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
Giáo sư Tương Lai : Vấn đề anh đặt ra là đúng thôi, nhưng nó cũng không đúng ở chỗ, đây là hội nghị trung ương, chỉ bàn chuyện thuần túy nội bộ Đảng và người ta lại họp kín. Đã họp kín thì làm sao mà dân làm sao mà tham dự được !
Cũng đã có những ý kiến đóng góp và tôi cũng đã nghe những người được mời đóng góp ý kiến kể nhiều chuyện như là chuyện dài nhiều tập, rất là khôi hài. Đóng góp thì chỉ là đảng viên đóng góp cho Đảng. Còn về phía người dân, thì sau hội nghị trung ương, có một số vị lãnh đạo đi tiếp xúc với các cử tri được coi là đại diện cho dân. Nhưng mọi người ai cũng biết những “đại cử tri” ấy đã được tuyển lựa rất chặt chẽ. Đến những cuộc họp mặt cử tri ấy, họ nói được đến bao nhiêu phần trăm ý kiến của người dân thật? Phải ngồi trên xe ôm hay taxi, nghe ông lái xe nói chuyện, hay ra ngoài chợ nghe lời bình của các bà bán thịt, bán rau, thì đấy mới là ý kiến thật sự của dân. Còn những người đã được tuyển lựa qua bộ lọc của chính quyền, của Đảng, rồi đến họp mặt cử tri thì làm sao có thể là ý kiến của dân? Nếu các đồng chí lãnh đạo tin tưởng vững chắc, “cảm động”, “ thấm thía”, nghĩ rằng đó là ý kiến của dân, thì tôi e rằng họ đang bị lừa đấy.
RFI : Thưa Giáo sư, trong hội nghị trung ương vừa qua thì người ta cũng đặt vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm các lãnh đạo chính phủ trong khóa họp Quốc hội sắp tới. Trong hoàn cảnh hiện nay, mọi việc đều do Bộ Chính trị quyết định, thì có thể thực hiện được việc đó hay không?
Giáo sư Tương Lai : Đương nhiên là nó sẽ có một vài cải tiến nào đó, một vài “biến tấu” nào đó và chắc chúng ta sẽ phải chờ đợi. Bao giờ chúng ta cũng phải hy vọng để mà sống chứ! Nhưng nếu quá lạc quan nghĩ rằng sẽ có bỏ phiếu tín nhiệm thật, để từ đó đi đến những quyết định mang tính công khai, minh bạch, thì kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy chưa đủ dữ liệu để tin rằng chuyện này là thật. Nói như nhân vật trong phim “ Hãy đợi đấy”.
RFI : Chúng tôi xin cám ơn Giáo sư Tương Lai.
 http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20121022-gs-tuong-lai-viet-nam-phai-co-mot-nha-nuoc-phap-quyen-that-su%E2%80%9D
 
 Trung Quốc: Mỹ khuấy động Biển Đông
Máy bay phản lực F/A-18 Super Hornet của Hải quân Hoa Kỳ hạ cánh trên tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân USS George Washington

CỠ CHỮ
Đó là bình luận của tờ China Daily sau khi tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân USS George Washington hiện diện tại khu vực tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines.

Tờ báo của nhà nước Trung Quốc viết rằng sự xuất hiện của hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ tại vùng biển Nam Trung Hoa (tức Biển Đông theo cách gọi của Việt Nam) cùng với các tin tức cho rằng quân đội Mỹ sẽ trở lại Vịnh Subic ở Philippines đã phát đi các cảnh báo đáng lo ngại rằng Washington lại khuấy động bất ổn tại vùng biển đang có tranh chấp.

China Daily cho rằng việc USS George Washington đi qua bãi cạn Scarborough (Trung Quốc gọi là Đảo Hoàng Nham) ở Biển Đông trước khi tới Philippines cho thấy rằng Manila và Washington một lần nữa tìm cách gia tăng sức nóng tại vùng biển này.

Tờ báo viết rằng sự hiện diện của tàu sân bay Mỹ có thể bị coi là hành động khiêu khích, làm phức tạp thêm tình hình vốn đầy khó khăn, và rằng ‘việc đưa tàu chiến tới trước cửa nhà người khác rõ ràng không phải là một hành động thiện chí’.

USS George Washington là tàu sân bay thứ tư tới thăm Philippines trong năm nay, và tờ China Daily cho rằng các chuyến thăm thường xuyên như vậy của hải quân Mỹ cho thấy Philippines đang mưu tìm sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ trong cuộc tranh chấp lãnh hải với Trung Quốc.

Nhật báo của Trung Quốc cũng cho rằng động cơ đó được cho là đã khiến Manila chào đón quân đội Mỹ trở lại Vịnh Subic sau khi rút quân khỏi đó 20 năm trước.

China Daily kết luận rằng bất kỳ sự tính toán sai lầm nào cũng có thể phản tác dụng và có ảnh hưởng xấu tới ổn định khu vực.

Trong một bài bình luận khác, tờ báo nói rằng Washington đang gây thêm căng thẳng thay vì làm nguội tình hình, khi lợi dụng vấn đề tranh chấp lãnh hải giữa các quốc gia Đông Nam Á và Trung Quốc.

Trong khi đó, tờ Bangkok Post của Thái Lan cho rằng việc Hoa Kỳ đưa tàu sân bay và các tàu khu trục tới khu vực Biển Đông cho thấy rằng Washington thể hiện sự hậu thuẫn đối với các quốc gia ASEAN như Philippines, Việt Nam và Malaysia trong cuộc tranh chấp lãnh hải với Bắc Kinh.

Được biết, trong khi thả neo tại Biển Đông ngoài khơi Việt Nam cuối tuần qua trước khi tới Philippines, các giới chức Việt Nam đã được mời lên thăm quan tàu này. Họ đã chứng kiến và chụp ảnh các chiến đấu cơ F-18 cất cánh và hạ cánh cũng như gặp gỡ chỉ huy tàu.

Bộ Ngoại giao Trung Quốc chưa chính thức lên tiếng về việc USS George Washington xuất hiện trên Biển Đông.

Nguồn: China Daily, AP, Bangkok Post
 http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-noi-my-khuay-dong-bien-dong/1531533.html

Việt Nam hạ thủy tàu cảnh sát biển lớn nhất

CỠ CHỮ
Việt Nam đã hạ thủy tàu cảnh sát biển có tầm hoạt động 5.000 hải lý, được trang bị máy bay trực thăng hải quân và các thiết bị hiện đại khác.

Được biết, tàu CSB 8001 sẽ làm nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn, chống buôn lậu và hỗ trợ ngư dân đánh bắt xa bờ.

Báo chí trong nước dẫn lời Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Nguyễn Thành Cung nói rằng cảnh sát biển Việt Nam ‘sẽ không ngừng hoàn thiện về con người, lực lượng và trang bị để nhanh chóng tiến tương xứng với lực lượng cảnh sát biển khu vực’.

Được biển con tàu mới được hạ thủy dài 90 m, rộng 14 m và độ cao mạn tàu 7 m.

Đây là lần đầu tiên một tàu cỡ lớn phục vụ lực lượng cảnh sát biển được đóng tại Việt Nam.

Tàu này sẽ chạy thử cho tới hết tháng 12/2012 và sẽ chính thức đi vào hoạt động từ quý một năm 2013.

Trong bối cảnh tiếp tục có tranh chấp trên biển Đông, truyền thông nhà nước cho rằng việc tiếp quản con tàu mới sẽ giúp lực lượng cảnh sát biển Việt Nam sẽ có thêm điều kiện quản lý, bảo vệ và thực thi pháp luật trên vùng biển chủ quyền của Việt Nam.

Báo chí trong nước cũng cho đăng tải các ý kiến của độc giả về việc hạ thủy con tàu. Một độc giả bày tỏ hy vọng trên tờ VnExpress rằng trong tương lai Việt Nam sẽ đóng thêm các tàu mới hiện đại để bảo vệ nhân dân hoạt động trên biển và đồng thời bảo vệ chủ quyền lãnh hải của tổ quốc trước các thế lực tham vọng.

Nguồn: VNA, VnExpress, Vietnam People’s Army
 http://www.voatiengviet.com/content/vietnam-ha-thuy-tau-canh-sat-bien-lon-nhat/1531569.html
 
 

Tuesday, October 23, 2012


GS. NGUYỄN VĂN TRƯỜNG * HỒI KÝ II

Huế
Viện Đại Học
Cha  Luận
và chúng tôi...
Nguyễn Văn Trường
Sức ép quyền thế.
Viện Đại Học cũng đứng ngoài các thế lực phong kiến.
Lúc nào thời nào cũng có thế lực phong kiến.
Thế lực phong kiến trong bối cảnh Viện Đại Học Huế, thời bấy giờ, phải hiểu là quí vị cố vấn của Tổng Thống, quí vị cận thần có nhiều ảnh hưởng, có quyền thế, có khả năng khuynh đảo thế sự. Người ta có đồn đãi về uy quyền của quí vị này rất nhiều, tốt có, xấu có.
Trước mỗi kỳ thi vào Trường Đại Học Sư Phạm, Cha Viện Trưởng đều có họp chúng tôi, nhắc đi nhắc lại là học bổng 1500 đồng của người sinh viên Huế có thể là lợi tức sống cho một gia đình đông con, nhắc nhở chúng tôi phải thận trọng, cân nhắc, liêm chính, công minh. Suốt thời gian cộng sự với Cha, Cha cùng các đồng nghiệp của tôi, chẳng một ai gởi gấm trong các kỳ thi. Hình như mọi đồng nghiệp tôi xem đó là đương nhiên.
Tuy nhiên, có một lần, một nhân vật quan trọng hàng đầu đã nhắn  gởi một em vào Ban Lý Hoá Trường Đại Học Sư Phạm. Sự gởi gắm từ bên trên, và Ban Giám Đốc Đại Học Sư Phạm được yêu cầu đặc biệt  giúp đỡ. Chúng tôi  đã chối từ sự gởi gắm này với cung cách lễ độ rất là Huế.
Trong thực tế em này lãnh 0/20 với Nguyễn Hữu Trí (Lý), 1,5/20 với Trần Nhật Tân (Toán), 8,5/20 với Tôn Thất Hanh (Hoá Học). Nói cách khác là em rớt ở mọi bộ môn. Chúng tôi không có gì hãnh diện ở thành quả này, chúng tôi không có ý ác, cũng không có ý thiện, cũng không có cái thương ghét riêng tư  trong vấn đề này. Tuy nhiên, phải nói là phước trời.
Nói là phước vì sau 1975, khi tìm đường vượt biên  ở một tỉnh lẻ trong Nam, tôi được biết em đó giờ là một ông bác sĩ có tiếng là giỏi, đi chui[xvii] không lọt, và  nhờ là giỏi nên đã được tỉnh ủy cho rước về, không phải tù. Con người không ra chi về toán lý, thì lại rất giỏi về y khoa. Cũng nói phước là chúng tôi tai qua nạn khỏi mà không hề hấn gì. Phước cũng  là được thấy được bạn bè tôi đẹp và gương mẫu trong thử thách. Phước cũng vì nhờ đó chúng tôi gần nhau hơn, có thêm một bước gần Cha Viện Trưởng hơn, an tâm hơn. Người có quyền thế đã thấy được thân phận và giữ được phẩm cách của mình.
Sau mỗi kỳ thi, thường là có một buổi cơm thịnh soạn khao quân. Tôi có cảm tưởng là sau kỳ thi đó, Cha Viện Trưởng, dầu biết rõ chuyện này, và có thể vì đó mà thọ thương, vẫn cho ăn ngon hơn, trân trọng hơn, đương nhiên là có rượu hà nàm, rượu vang, và những món quỉ quái khác của anh Vũ Đình Chính. Khao quân lớn hơn, nhưng nhẹ nhàng không thách thức, làm như không có chuyện gì xảy ra.
Tôi có cảm tưởng Cha là cây dù lớn. Cha có quyền, có thế. Nhưng không lấy quyền thế ấy mà bao che cho những điều xằng bậy. Ông đã dùng quyền thế ấy để tạo một không khí thích hợp với cái nhìn chung của đông đảo anh em chúng tôi về giáo dục và riêng về giáo dục đại học. Ông đã biết sử dụng vị thế hết sức đặc biệt của mình để đối thoại với các thế lực chính trị, tôn giáo, đoàn thể. Chính quyền đương thời cũng hiểu sức khỏe mong manh của một tổ chức đại học mới đâm chồi, và biết trân trọng với những thành quả đầu tiên. Những lời đồn đãi được nghe về Ông Cậu[xviii] làm cho tôi có thật sự lo âu, e ngại. Nhưng, sáu năm ở Viện Đại Học Huế, chẳng nghe Ông có gởi gắm một ai, hoặc tạo một sức ép chính trị hay làm bất cứ việc gì đem lại sự bất ổn cho giới đại học. Những lần ít oi mà chúng tôi được gặp Ông, chúng tôi được tiếp đãi với một sự trân trọng, ân ần, ưu ái ít có. Cho nên, riêng về Viện Đại Học Huế, có thể nói gia đình của Tổng Thống Ngô Đình Diệm có đóng góp  một phần quan trọng, trong đó phải ghi nhận cái không khí độc lập với các tôn giáo, đối với các đoàn thể chính trị (cả Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia và Cần Lao Nhân Vị), một không khí cởi mở, thích hợp cho việc dạy và học.
Chỉ tiếc rằng cuộc thế không cứ mãi là như vậy. Khi thời suy, vận nước mạt, nhiều điều không may xẩy đến. Cha Luận cũng vì muốn bảo vệ cái công trình mà ngài đã gầy dựng, muốn bảo vệ cái nguyên tắc tự trị đại học cao quý mà đành phải dứt tình với nhà Ngô. Cha mất dần cái quyền, cái thế, Cha chỉ còn cái tình của chúng tôi, và của anh chị em sinh viên.
Tháng 8, 1963,  Cha Luận bị huyền chức. Chánh quyền đã bổ nhậm Cha, thì đương nhiên có quyền thay thế Cha. Đó là bình thường. Nhưng trong bối cảnh bất ổn ngày đó, giáo chức, sinh viên, và nhân viên lại hoang mang, xao động tột độ. Ai cũng nghĩ phải vĩnh biệt một thời vàng son của không khí tự do. Từ đây, khởi đầu giai đoạn ô nhiễm chính trị.  Ông Viện Trưởng mới, giáo sư Trần Hữu Thế, là một cựu bộ trưởng, và là đương kim đại sứ ở Phi Luật Tân. Người của ngành ngoại giao, ắt phải mềm mỏng; nhưng  giữa mềm mỏng và mềm như bún thiu, khoảng cách có khi rất ít. Chưa thấy người vào việc,  chưa thấy diễn tiến sự việc, mà đã nghĩ thế này thế khác, là tiên kiến; ắt phải sai lầm. Có thể là thế. Nhưng khi đã mất niềm tin, không thấy còn tin ở một quyền lực nào có phương tiện điều hợp và quản lý thỏa đáng công việc, thì chỉ còn cách là từ nhiệm, trở về với chức năng dạy học của mình. Thế rồi, chúng tôi bị bắt giữ, kẻ năm ngày người vài tháng. Phòng ốc của Công An có chật hẹp, thiếu mọi tiện nghi, nhưng cách đối đải đứng đắn;  dầu vậy, lòng vẫn giao động, tâm không an; tuổi còn trẻ, nhưng muốn bắt chước người xưa lánh xa thế sự. Việc của Cố Đô sau đó trở thành của cả nước; thế giới bắt đầu nhìn vào.
Tháng 11, 1963, Đảo Chánh. Chấm dứt triều đại Nhà Ngô, và cũng là chấm dứt một giai-đoạn ổn định hiếm thấy.
Sinh viên, học sinh, thân hào nhân sĩ, cả thành phố Huế rước Cha Viện Trưởng trở về cơ ngơi cũ, trong vinh quang cùng tột. Nhưng chỉ 9 tháng sau, Cha lại rời nhiệm sở, rời Huế, không phải do chính quyền, mà chính do đông đảo thành phần năng động nhất của Huế đuổi Cha đi.  Cha đi bỏ lại đàng sau tất cả của đời cha. Cha đi, vì đã hoàn tất một nhiệm vụ, hay cha đi vì bản chất phản bội cố hữu của con người?
Chúa Nhật Lá, dân chúng thành Nazareth đón rước Chúa Jésus trong vinh quang tột đỉnh, vài hôm sau, họ  đóng đinh Chúa Jésus trên Thập Tự Giá. Sự đổi thay, thương ghét trong lòng người, của quần chúng là thường tình. Lịch sử như lập lại. Có người lấy đó mà trách rằng Cha có học Kinh Thánh, nhưng không học được bài học của Chúa Jesus. Cha không nên trở lại chức vụ Viện Trưởng.
Thiết nghĩ  Cha cũng chỉ là cha, Cha không là Chúa Jesus, dầu rằng nhiệm vụ của cả hai đều là gieo ánh sáng. Nhưng  ánh sáng của Đức Chúa Trời khác cái ánh sáng hạn hẹp của tri thức và của cuộc đời, của những đứa con của Chúa. Việc trên Trời và việc dưới thế có khác. Người ăn thịt cầy không nên chê trách các nhà tu hành là không biết “nếm mùi đời cho đủ thứ mà chơi”, bậc chân tu không kết tội người ăn thịt cầy là phạm giới. Người ngoại cuộc, nên có một cái nhìn hiểu biết hơn.
Nhiều người trách cha Luận sao đã tàn nhẫn dứt tình với nhà Ngô trong những ngày mạt thế của Ngô triều, trách cha đã quên chữ trung, chữ nghĩa của kẻ sĩ.
Cũng nhiều người cũng đã trách cha sao không biết cái thế, cái thời, cái tiến, cái lui, ham chi chút đỉnh chung mà trở về tại Huế sau Cách Mạng 11-63. Sao Cha không làm một Bá Di, Thúc Tề, để tiếng cho người sau.
Trách thì cứ trách, chê thì cứ chê. Vì người chê, kẻ trách ai cũng có lý. Nhưng nói đi thì cũng phải nghĩ lại. Nghĩ cho cùng, ơn mưa móc nhà Ngô, Cha đã hưởng được gì. Cũng những bửa cơm đạm bạc, cũng chiếc áo choàng nhà tu. Lụa là, nem công chả phụng gì cho cam. Cái quyền, cái thế Cha có được, Cha cũng đã chỉ đem ra gầy dựng cho Viện-Đai-Học Huế. Nói “trung”, nói “nghĩa, sao không nói “đạo trời không thân riêng ai”. Đó cũng là câu của người xưa vậy.
Lại nói, khi Cha trở về sau tháng 11-63, không ai không thấy quyết định nông cạn của Cha. Nhưng cũng nên nghĩ lại mà thương Cha. Cha là cha triều mà không có họ đạo, có khác chi kẻ vô gia cư. Cả cuộc đời, Cha lo công việc giáo dục, lấy học trò làm con, lấy ngôi trường làm nhà ở. Nhà ở của Cha, cuộc đời của Cha là Viện-Đại-Học Huế. Hành động của Cha cũng  nên được nhìn như là một lần trở về với gia đình, với mái nhà của Cha, để tìm ở đó một chút thân thương cuối cùng trong cuộc sống. Cha đã không tìm được điều đó, điều mong ước độc nhất trong cuộc đời Cha. Và người ta đã đuổi Cha đi, đuổi Cha ra khỏi mái ấm gia đình của Cha. Sao lại nở trách Cha, mà không hiểu cho Cha!
Trong việc thế tục, Viện Đại Học Huế chỉ là một điểm nhỏ tì ti trong không gian, và thời khoảng sáu bảy năm chỉ là khoảnh khắc trong chiều dài vô tận của thời gian. Cá nhân còn nhỏ hơn nữa và lại giới hạn gần như ở mọi chiều, không gian, thời gian, tình cảm, kiến thức, tầm nhìn,... Không có gì để phê phán, biện minh, hay vinh danh.  Dầu vậy, thiết nghĩ “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” có lắm chuyện trọng đại mật thiết với Đại Học hoặc có một ảnh hưởng nhất định trên một số đông chúng tôi nên phải ghi:
Vào lúc giữa Đức Tổng Giám Mục và Cha Luận có chuyện cơm không lành, canh không ngọt, thì một hôm chúng tôi được hấp tấp vời đến nhà Đức Cha. Ông từ lầu trên bước xuống, nói chuyện với chúng tôi, hay cho  một huấn từ dạy dỗ, bằng một tiếng Pháp rất chuẩn và trong sáng. Đức Cha chê trách Viện Đại Học Huế nhiều điều, trong đó có chủ trương sử dụng tiếng Việt làm chuyển ngữ, và riêng Cha Luận, Đức Cha dành cho tỉnh từ không mấy dễ chịu: “prétentieux”.
Tôi không nghĩ như vậy.  Giáo dục đại-học sẽ không trọn vẹn chức năng nếu chuyễn- ngữ không là quốc-ngữ.
Dùng Quốc Ngữ làm chuyển ngữ cho các bộ môn đã được thực hiện tốt đẹp từ lớp 1 đến lớp 12, từ Văn, Triết, Sử, Địa cho đến Toán, Lý, Hoá, Sinh Vật. Ban đầu, cũng có cái loạn thuật ngữ, có cái loạn “trăm hoa đua nở”. Nhưng dần dần  trật tự được ổn định, các sách giáo khoa đã thống nhất danh từ. Nội dung bài dạy được diễn tả trong sáng. Việc sử dụng quốc ngữ làm chuyển ngử là một phép lạ kỳ diệu cho việc đại chúng hóa giáo dục học đường. Nhưng quí vị đàn anh chúng tôi ở Viện Đại Học Sài gòn có dè dặt, e ngại sử dụng tiếng Việt. Dè dặt là phải; chỉ nói riêng về khoa học, thì quyển Danh Từ Khoa Học của Cụ Hoàng Xuân Hản cần phải được tu chỉnh và bổ sung nhiều. Tiếng nói của người sử dụng rất cần thiết, cho nên cần tu chỉnh. Khoa học càng ngày càng tiến nhanh, phải thêm từ mới. Sự cập nhật hóa là đương nhiên cần thiết. Và trong khi chờ đợi có một cơ quan thẩm quyền minh định nghĩa các từ cho thống nhất, ai cũng ngại cái loạn từ ngữ. Nhưng nếu không bắt đầu, thì ai sẽ bắt đầu, và khi nào mới bắt đầu.
Ngoài ra, hồn ma người Pháp vẫn còn lãng vãng đâu đó trong đại học. Tiếng Pháp  chính xác, rõ ràng, xúc tích. Giới đại học lúc bấy giờ rất quen thuộc. Đông đảo những người biết thơ văn triết học, văn minh Đông Tây qua tiếng Pháp. Họ biết Lamartine, Chateaubriand, Apollinaire,..hơn Ôn Như Hầu, Bà Huyện Thanh Quan  hay Đoàn Thị Điểm.  Thay thế tiếng Pháp với họ là một mất mát. Không một ai muốn mất những sở đắc của mình. Sử dụng tiếng Việt trong đại học là mới mà cái mới nào cũng có tính phiêu lưu và những đau đầu nhất định của nó. Cho nên, nếu ý có muốn thì lòng không muốn. Tại sao phải rời bỏ những thói quen dễ chịu mà lại được xã hội “thượng lưu” xem trọng? Người giàu và có ảnh hưởng thì nghĩ con em mình phải du học ở Pháp; đọc, viết, nói, nghĩ như người Pháp để không gặp khó khăn khi vào một trường ở Pháp. Lúc bấy giờ, người Mỹ chỉ hiện diện qua một số cố vấn, tiếng Anh chưa được trọng. Người phụ huynh cũng có lý khi e ngại rằng con em họ không đọc được sách báo ngoại quốc, trong khi các quốc gia ngày càng tùy thuộc lẫn nhau, thế giới như thu hẹp lại. Thật ra, họ chưa thấy sử dụng tiếng Việt làm chuyển ngữ không  mâu thuẩn với việc học sinh ngữ, sử dụng sinh ngữ trong việc  xuất bản các nghiên cứu của mình.
Riêng tôi, tôi có khó khăn nói tiếng Pháp với người Việt: có một cái gì không tự nhiên, làm cho tôi ngượng trong lúc phát âm. Tiếng Việt thì tôi rất  trôi chảy, nhưng vốn liếng rất nhiêu khê. Có lần tôi  phê trong bài của một sinh viên là “dài giòng danh tự” để nói là “dài giòng văn tự”, may mà tôi chưa viết “vài vòng danh tự” hay những cái điên khùng tương tự. Miền Trung có thịt ba chỉ, mà trong Sài gòn  gọi là thịt ba rọi. Trong những tháng đầu tôi phải nói ba chỉ, nữa nạt nữa mở, và tôi phải tạm hài lòng với lối diễn tả kỳ cú ấy. Nữa nạt nữa mở không có nghĩa là nữa giọng Huế, nữa giọng Nam, mà là nữa Pháp nữa Việt. Vấn đề không là dịch, mà là nghĩ suy và diễn tả bằng Việt Ngữ. Dần dần tôi có được tự tin, và tin rằng quốc ngữ diễn tả được mọi vấn đề. Phải vượt qua những mặc cảm, phải sử dụng tiếng Việt mới làm giàu được tiếng Việt. Có lần tôi buộc  phải viết bài cho Tập San Đại Học Sư Phạm Huế, muốn góp mặt, phải đánh liều nhắm mắt đưa chân. May thay có anh Lê Tuyên còn “hoang dại” tình nguyện sữa chữa lời văn và chính tả. Thế là tôi đã đứng trên văn đàn đại học. Tôi được bạn bè khuyến khích. Điều này đã cho tôi nhiều phấn khởi nhất định.
Những người biết khả năng tiếng Việt của tôi thuở ấy, phải ngạc nhiên khi đọc những bài tôi viết gần đây. Anh Hai, anh Châu, anh Văn, và nhiều bạn trẻ khác có lần khen văn của tôi. Thưa quí anh chị, đó là nhờ Viện Đại Học Huế. Ở đó, tôi khởi sự học làm giàu tiếng mẹ đẻ của tôi.
Một việc khác nữa là Viện Đại Học Huế có được một nhà in khá tối tân, tương đối với thời bấy giờ, do Ông Đại Sứ Ngô Đình Luyện tặng. Và Nhà Xuất Bản Đại Học theo đó chào đời. Tôi không nhớ được những tác phẩm in ra. Tôi không nhớ rõ tôn chỉ và cũng không theo giỏi những hoạt động của Nhà Xuất Bản. Tôi chỉ nhớ là Nhà Xuất Bản ưu tiên và hổ trợ cho những công trình nghiên cứu mà đọc giả rất chi là chọn lọc. Thí dụ những tác phẩm phiên âm chữ nôm, dịch và phiên âm chữ Hán, hoặc một số sách giáo khoa. Thỉnh thoảng tôi có được tặng, nhưng phải nói thật rằng không mấy khi đọc, vì vốn liếng văn học còn non, và nhất là chưa có thói quen. Truyện Tàu hay truyện của Kim Dung lôi cuốn hấp dẫn hơn nhiều.
Viện Đại Học Huế có gởi một số giáo chức sang Paris để sang lại những microfilm mà Thư Viện thành phố Paris cho hay là sắp hư và không có ngân sách để sao chép lưu trử. Sau Nhà Xuất Bản có xuất bản những tài liệu này. Hai anh Lê Tuyên và Lê Hữu Mục rõ những điều này hơn tôi.
Đối với người trong Nam, Huế là nước ngoài vì phong tục tập quán, vì giọng nói, vì những ngôn ngữ địa phương. Giọng Huế nặng, nhưng không nặng như Nghệ An, Hà Tịnh[xix]. Tuy nhiên, muốn lãnh hội được hết cái âm hưởng tình ý trong lời nói của người Huế, cũng phải lắm công phu. Có khi, điều này buộc tâm phải trầm lặng như giòng sông Hương những ngày nắng tốt, hoặc nhẹ nhàng tịch mịch như các sân chùa lúc trưa hè. Người trong Nam ra Huế phải gột bỏ cái tính ào ào, bồng bột như mưa giông miền Nam  mới nghe thấy được một phần cái thật, gói trong lời của người Huế. Người không thích thì nói rằng người Huế thâm. Với tôi, nghe người Huế nói chuyện, như nghe hát Nam ai, Nam bình, hoặc nghe một bản nhạc cổ điển, cần có thời gian thấm thấu. Nói riêng, phải mất một thời gian khoảng một năm, và nhờ một sinh viên của tôi lặp lại từng chữ một, tôi mới nghe được câu: “Thưa thầy, con không biết đến nơi.”  Bạn đọc đừng vội chê trách rằng không hiểu được những lời lẻ đơn sơ như thế thì dạy dỗ được ai.  Lời chê có cơ sở. Nhưng ông Trời như đã sắp đặt trước cả cho chúng tôi rồi. Sinh viên chúng tôi có đủ khả năng biết phân phải trái, và biết bổ túc cho những thiếu sót của ông thầy.
Quí vị cũng nên nghĩ cho rằng chúng tôi bắt đầu từ cái bắt đầu, thư viện lưa thưa, phòng thí nghiệm thì phải trang bị từ A đến Z. Bôi bảng thì cả một cực hình, chưa bao giờ chúng tôi có những cái bảng ương ngạnh đến mức độ ấy. Người làm bảng thì chọn nước sơn tốt nhất, bóng láng nhất, thế nên có hiện tượng phản chiếu, bên trái thấy rõ thì bên phải không thấy, đó là lòng tốt mà hại người. Còn phấn, lắm khi viết  không ăn bảng,  nó trượt dài trên bảng.
Cho nên, nên thương chúng tôi nhiều hơn là trách.
Nói âm rồi phải nói dương. Huế đã dành cho Viện Đại Học những công ốc đẹp nhất, tiện nghi nhất, và những địa điểm trang trọng nhất: Tòa Đại Biểu Chính Phủ, Tòa Nhà Ngân Hàng Đông Dương, Thương Xá Morin, Toà Khâm. Nói riêng, nơi cư ngụ của giáo chức có những tiện nghi nhất định.
Để kết luận, thiết nghĩ nên ghi rằng:
Có một thời dân cư xứ Huế,  thân hào nhân sĩ, học giả, công nhân viên chức, ở mọi giai từng xã hội, cùng với một bọn trẻ, động cơ khác nhau, từ những nguồn gốc khác nhau, có người ngoại quốc, cùng nhau sát cánh với Linh Mục Cao Văn Luận xây dựng một Viện Đại Học cho con em hiếu học. Viện Đại Học này, trong phạm vi khả thể, đã  làm tròn trách vụ của mình. Bao nhiêu người trẻ hiếu học đã có được cơ hội học hỏi thăng tiến. Luật khoa, văn khoa, khoa học, y khoa đã đào tạo được bao nhiêu con người hữu dụng cho đất nước. Sư Phạm là một thành công lớn trong việc đào tạo được một đội ngũ giáo chức hùng hậu và nghiêm túc nhất, đủ để đáp ứng cho nhu cầu giáo dục của cả miền Trung.
Cuối cùng Đại Học Huế là niềm hãnh diện, hứng khởi, lò sinh khí cho miền Trung. Đã có một lúc nào đó, Huế, Viện Đại Học, Cha Luận, và chúng tôi (chữ chúng tôi xin được viết thật nhỏ) và những người sinh viên trẻ... đã là một khối, một khối tinh chất dưới ánh mặt trời.
Còn riêng tôi, tôi đã viết nên được một phần nào tâm trạng của tôi, một tâm trạng biến đỗi từ cực âm sang cực dương, qua 6 năm ở Huế.
Có điều là dầu đã cố gắng đến mức độ tối đa tôi cũng đã không trình bày được những ý tình của tôi, không ghi chép lại được những sự kiện, một cách mạch lạc và rõ ràng. Nhưng thử hỏi, có ai mà kể chuyện về Huế được rõ ràng, mạch lạc, nhất là khi không nói được tiếng Huế, giọng Huế, cử chỉ, thái độ Huế? Đó cũng vì cái tình, cái ý không bao giờ rõ ràng, mạch lạc đã trở thành bản chất của xứ Huế? Riêng tôi, tui có tội tình chi mô nà.

Tri Ơn: Tôi chân thành cám ơn giáo sư Lê Thanh Minh Châu, Nguyễn Văn Hai, Lê Văn, và Từ Nguyên đã góp một phần vào dữ kiện và hình thức, lời văn của bài này.
Houston, ngày 23 tháng 9 1997





[i] Sư sải người Miên, Theravada
[ii] Linh Mục Nguyễn Văn Thích, một giáo sư Hán Học của Viện Đại Học Huế
[iii] Các nhân viên giảng huấn, nhân viên các phòng ban của Viện Đại Học, của các Khoa, từ chức vụ khiêm tốn nhất đến quan trọng nhất, từ người trẻ tuổi nhất đến bậc đàn anh của tôi.
[iv] Cấp bậc thấp nhất trong ngạch trật giảng huấn thời bấy giờ. Ở Pháp, người giảng nghiệm viên thường được tuyển dụng làm trợ giáo cho một giáo sư, và nhờ đó được hướng dẫn trong luận án tiến sĩ.
[v] Ông Nguyễn Văn Hai lúc bấy giờ là Đại Diện Bộ Giáo Dục cho cả Miền Trung. Sau Ông sang Paris làm luận ánTiến Sĩ. Ông đổ Tiến Sĩ Khoa Học, học vị cao nhất trong Đại Học Pháp.
[vi] Đệ Nhất Cộng Hòa
[vii] Ông Lê Khắc Phò qua đời tại Sài gòn vì "infarctus", ngày 11 tháng 3 1997, thọ 69 tuổi.
[viii] Nguyễn Văn Hai. Giai Phẩm kỷ niêm 100 năm Trường Quốc Học. 1997. Hồi Tưởng
[ix] Trường Quốc Học
[x] Trường Y Khoa được thiết lập sau, do nghị định ngày 21, tháng 8 1959; lớp tốt nghiệp đầu tiên năm 1967.
[xi] Nguyễn Văn Hai. trích dẫn ở phần trên.
[xii] Tương tự như tôi, Ông Nhự là "học trò ra Huế đi thi, thấy cô gái Huế mà đi không đành"
[xiii] Bác Sĩ Nguyễn Văn Thuâạn, nguyên Trưởng Ban Ngoại Giao Quóc Hội Đệ Nhị Cọng Hòa, Tốt Nghiệp khóa I, Trường Đại Học Y Khoa Huế vầ Tốt Nghiệp Giải Phẩu Tổng Quát Đại Học Michigan. Hai tuần trước đây, ông đã cắt nhẹ cho tôi cái mật có sạn, chiều vào bệnh viện, sáng về nhà với 3 viên thuốc Tylenol 500mg loại thường làm thuốc giảm đau.
[xiv] Không là từ ngữ của thơ
[xv] Quyết định chi tiêu
[xvi] Theo lời của Giáo Sư Lê Thanh Minh Châu, nguyên Viện Trưởng Viện Đại Học Huế.
[xvii] Vượt biên.

[xviii] Ong Ngô Đình Cẩn
[xix] Giọng nói của Cha Luận.

No comments:

Post a Comment