BS. ĐỖ HỒNG NGỌC
SÀI GÒN BÂY GIỜ
BS. ĐỖ HỒNG NGỌC
Sài Gòn bây giờ
Saigon bây giờ không thấy có người đẹp nữa!
Xưa ra đường cứ thấy người ta vừa chạy xe vừa ngoái đầu lại nhìn. Bây
giờ ra đường người con gái nào cũng trùm kín mặt, mang vớ dài tay, găng
tay kín mít, áo khoác sùm sụp, đầu đội mũ bảo hiểm, chỉ chừa hai con mắt
lom lom qua kính “bảo hộ”! Ở trên cao nhìn xuống người người dày đặc,
từng luồng từng luồng cuồn cuộn trôi đi, lâu lâu cụng mũ bảo hiểm một
cái rồi mạnh ai nấy đi, cứ như đàn kiến.
Đi bộ trên đường nhiều khi gặp người chào hỏi thân thiện mà chẳng biết
ai là ai, đến lúc như chợt nhớ ra họ mới gỡ khẩu trang cười lỏn lẻn.
May thay, con gái Saigon bây giờ tuy che mặt mà lại hở đùi! Họ mặc quần short thật ngắn ra đường bất kể sáng trưa chiều tối. Nhờ đó mà cũng có thể nhìn ra người đẹp! Có điều hơi nguy hiểm cho giao thông công cộng vì đường sá không thông thoáng như xưa. Áo dài thì khó mà tìm thấy nữa rồi- trừ trên sân khấu và sàn diễn thời trang.
Con gái vì thế mà không còn yểu điệu, dịu dàng, tha thướt nữa. Ngay cả những ngày lễ Tết, ở đường hoa Nguyễn Huệ rực rỡ vậy mà cũng khó tìm thấy một tà áo dài. Mọi người trở nên hấp tấp, vụt chạc, căng thẳng hơn bao giờ hết. Cái lý do vì sao mất áo dài rồi phải trùm kín mít cả người như vậy thì ai cũng biết. Bụi khói mù trời. Không khí hừng hực. Môi trường đô thị ngày càng xấu đi. Cây xanh tàn rụi. Cao ốc vùn vụt bốc lên!
May thay, con gái Saigon bây giờ tuy che mặt mà lại hở đùi! Họ mặc quần short thật ngắn ra đường bất kể sáng trưa chiều tối. Nhờ đó mà cũng có thể nhìn ra người đẹp! Có điều hơi nguy hiểm cho giao thông công cộng vì đường sá không thông thoáng như xưa. Áo dài thì khó mà tìm thấy nữa rồi- trừ trên sân khấu và sàn diễn thời trang.
Con gái vì thế mà không còn yểu điệu, dịu dàng, tha thướt nữa. Ngay cả những ngày lễ Tết, ở đường hoa Nguyễn Huệ rực rỡ vậy mà cũng khó tìm thấy một tà áo dài. Mọi người trở nên hấp tấp, vụt chạc, căng thẳng hơn bao giờ hết. Cái lý do vì sao mất áo dài rồi phải trùm kín mít cả người như vậy thì ai cũng biết. Bụi khói mù trời. Không khí hừng hực. Môi trường đô thị ngày càng xấu đi. Cây xanh tàn rụi. Cao ốc vùn vụt bốc lên!
Thức ăn thức uống toàn hương liệu, hoá chất, bột nêm các thứ làm cho chuyện bếp núc trở nên đơn giản. Cứ xem TV thì biết. Người nào người nấy già trẻ lớn bé mặt mũi bóng lưỡng, hí hửng chụp giựt nước uống thức ăn, nhảy nhót mừng vui tưng bừng mọi nơi mọi lúc!Saigon bây giờ cận thị quá trời! Trẻ con nứt mắt đã cận thị. Mẫu giáo tiểu học cận thị tùm lum. Tiệm kiếng mở ra tràn ngập, góc nào cũng có. “Chỗ nào rẻ hơn trả lại tiền!”
Ấy cũng nhờ vi tính, game online, TV... các thứ ngày càng hấp dẫn.
Thế giới nhỏ trong lòng bàn tay. Trẻ con sướng như tiên. Đồ chơi trên
trời dưới biển khắp hang cùng ngõ hẹp. Lâu lâu kêu có hóa chất độc hại.
Khi biết thì mọi thứ đã muộn rồi. Kể cả thuốc “cam” nổi tiếng một thời
nay gây ngộ độc chì không thuốc chữa. Lạ là người ta vẫn cứ tin và vẫn
cứ nhắm mắt uống càng!
Các loại sữa “thông minh” dành cho trẻ con ngày càng nhiều, khiến
các bà mẹ không muốn cho con bú sữa mình nữa. Rõ ràng các thế hệ trước
đây không được uống sữa thông minh nên có vẻ kém… thông minh!Saigon bây giờ loãng xương hơi nhiều.
Đi ngoài đường thấy người ta lố nhố, tụ tập, tưởng gì, hóa ra đang túm
tụm đo xương! Có người tử tế, vì sức khỏe cộng đồng, đem máy đo mật độ
xương ra ngoài đường đo cho ông đi qua bà đi lại. Ai cũng loãng xương kẻ
ít người nhiều! Sau đó ai cũng mua một vài hộp sữa, một vài loại thuốc
chống loãng xương là xong.
Saigon bây giờ đua nhau sửa sắc đẹp. Ai cũng sửa được, không
cần phải học. Ai cũng nên sửa, từ cô hoa hậu đến ca sĩ, người mẫu, cô
hàng xén, anh doanh nhân. Bơm vú bơm mông, cắt mắt, xẻ mũi, chẻ cằm rào
rào. Ai cũng thành người mẫu ca sĩ Hàn quốc. Nhan sắc rộ lên khiến các nhà thơ… bí không còn làm thơ được nữa!Saigon bây giờ trẻ con bỗng dậy thì sớm.
Không dậy thì sớm cũng uổng! Mọi thứ kích thích cứ rần rật chung
quanh. Phim ảnh, internet, sách báo… các thứ. Thức ăn thức uống béo bổ
các thứ. Khí hậu nóng lên.
Tỷ lệ phá thai vị thành niên tăng
một cách đáng ngại. Tình trạng vô sinh cũng nhiều. Ly dị cũng mau.
Người ta đua nhau mổ đẻ cho đúng giờ hoàng đạo. Trẻ sanh non, suy hô
hấp, thiếu dưỡng khí não, lớn lên tâm thần cũng độn!Tóm lại, sức khỏe
cộng đồng ở Saigon bây giờ có nhiều điều đáng suy gẫm.BS Đỗ Hồng Ngọc
29-4-2012
KÝ NGÔ MINH
NHÂN DÂN ƠI, LỖI TẠI CHÚNG TÔI
Ngô Minh
Nghĩ về chiến dịch Mậu Thân 1968, nhà thơ Chế Lan Viên hỏi: “Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 người?” Và ông tự trả lời: “Tôi! Tôi/người viết những câu thơ cổ võ/Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong”.
Vâng, nhà thơ vĩ đại ơi, lỗi tại chúng tôi, những nhà thơ, nhà văn đã hùa theo ông tụng ca cái chết mà không biết mình đã góp trí tuệ làm cho cái chết trên đất nước này nhiều thêm ! Hu hu…
Nhà thơ Phùng Quán kể chuyện bọn tham nhũng, dối trá đang lúc
nhúc nẩy nòi , rồi nhà thơ cạn chén ngậm ngùi :” Lỗi tại tôi. Lỗi tại
tôi. Tôi đã không có những áng văn chương
thật xúc động để bọn tham những, độc ác, bọn dối trá, lẹo lươn, đọc là
khóc , là quyết tâm “làm lại cuộc đời”…
Vâng, xin giơ tay đồng tình với Phùng Quán : Lỗi tại chúng tôi, những nhà văn, nhà thơ Việt Nam đã không có những tác phẩm làm cho bọn bất lương rơi nước mắt, cho chúng biết “đi với nhân dân” như nhà thơ “Lời mẹ dặn”…
Vâng, xin giơ tay đồng tình với Phùng Quán : Lỗi tại chúng tôi, những nhà văn, nhà thơ Việt Nam đã không có những tác phẩm làm cho bọn bất lương rơi nước mắt, cho chúng biết “đi với nhân dân” như nhà thơ “Lời mẹ dặn”…
*
Nhà thơ Tuân Nguyễn đạp xe đạp đi bỏ báo cho người bán báo buổi
sáng. Bỗng một chiếc xe ô tô con rẽ ngang không còi, không thèm quan
sát, đâm vào làm anh ngã gục bên đường. Trước khi chết , anh thều thào
:” Lỗi tại tôi. Lỗi tại tôi. Đừng bắt anh lái xe đó…”Vâng, lỗi tại chúng tôi, những nhà văn, nhà thơ Việt Nam đã không có những tác phẩm làm cho bọn lái xe độc ác đọc là rơi nước mắt, để chúng biết thương người đi đường. Chứ như bây giờ tim chúng đã thành sắt .
*
Vâng, lỗi tại chúng tôi, những nhà văn, nhà thơ Việt Nam đã không có những tác phẩm thật vĩ đại về nông dân , làm cho lãnh đạo tỉnh Hưng Yên, huyện Văn Giang, ngàn chiến sĩ công an nhân dân đọc phải khóc, phải thương người nông dân như bố mẹ ông bà tiên tổ mình, để ném dùi cui, roi điện, súng bắn hơi cay xuống sông, không xông vào cuộc cưỡng chế bạo tàn , vung cả dùi cui, hơi cay, roi điện vào mặt nông dân , nhà báo, coi họ như cầm thú, bởi đồng tiền đã làm họ hóa đá dây thần kinh nhân tính.
Vâng, lỗi tại chúng tôi, những nhà văn, nhà thơ Việt Nam đã không có những tác phẩm thật vĩ đại về nông dân , làm cho lãnh đạo tỉnh Hưng Yên, huyện Văn Giang, ngàn chiến sĩ công an nhân dân đọc phải khóc, phải thương người nông dân như bố mẹ ông bà tiên tổ mình, để ném dùi cui, roi điện, súng bắn hơi cay xuống sông, không xông vào cuộc cưỡng chế bạo tàn , vung cả dùi cui, hơi cay, roi điện vào mặt nông dân , nhà báo, coi họ như cầm thú, bởi đồng tiền đã làm họ hóa đá dây thần kinh nhân tính.
Vâng, lỗi tại chúng tôi, những nhà văn, nhà thơ Việt Nam đã
không có những tác phẩm thật hay, thật xúc động làm cho những cha nội
như Tổng Giám đốc Vinashin Pham Thanh Bình, Vinaline Dương Chí Dũng cùng
đồng bọn và quan thầy đã rót vốn vô tư để chúng vơ vét, làm giàu, cho
chúng biết thương nước đang nghèo, thương dân còng lưng đóng thuế… Để
cho cơn lũ tham lam đã cuốn rỗng hồn người . Ôi lỗi của chúng tôi. Lỗi
của chúng tôi…
Tổ Quốc Việt Nam ơi, ngàn lần tha tội cho chúng tôi , những nhà
văn, nhà thơ của nhân dân , ăn cơm uống nước nhân dân, từng no đới rét
lạnh với nhân dân, từng cầm súng chiến đấu cùng nhân dân, nhưng cả đời
chỉ biết viết loại văn chương “phải đạo”, làm cho thầy Hoàng Ngọc Hiến
bực mình, nên không có những tác phẩm chân thật, xúc động để làm cho bọn
tham những, bọn “lợi ích nhóm” chuyên ăn cướp đất của dân, đọc phải
khóc, phải biết thương nước thương dân, bỏ bút không ký, bỏ tiền không
tham …
Ôi …
Lỗi tại chúng tôi
Lỗi tại chúng tôi
Lỗi tại chúng tôi
Theo blog Ngô MinhLỗi tại chúng tôi
Lỗi tại chúng tôi
Lỗi tại chúng tôi
QUÊ CHOA
NGUYỄN HƯNG QUỐC * CÔN ĐỒ
Blog / Nguyễn Hưng Quốc
Thế lực côn đồ ở Trung Quốc
Trong một bài trước,
tôi đã viết về đám côn đồ thường được sử dụng để trấn áp những nhà bất
đồng chính kiến hoặc những người, với những mức độ nào đó, chống đối lại
nhà nước tại Việt Nam. Cần lưu ý là một hiện tượng tương tự cũng xuất
hiện ở Trung Quốc. Chắc chắn đó không phải là một trùng hợp ngẫu nhiên.
Và cũng ít có khả năng Trung Quốc bắt chước Việt Nam. Nói ngược lại thì
đúng hơn.
Ở Trung Quốc, nhân vụ Trần Quang Thành, vị luật sư chân đất mù lòa,
xin lánh nạn tại Tòa Đại sứ Mỹ tại Bắc Kinh và sau đó, được sang Mỹ dưới
danh nghĩa du học, người ta cũng thấy vai trò của đám côn đồ được sử
dụng để trấn áp những người bị chính quyền xem là chướng tai gai mắt.
Trong bao nhiêu năm, Trần Quang Thành và gia đình của ông bị nhiều
người đánh đập tàn nhẫn: những người ấy không những chỉ là công an mà
còn là những người được xem là “dân phòng” hoặc chả có một danh hiệu gì
cả. Trước đây, mỗi lần có ai đến định thăm viếng Trần Quang Thành ở nhà
riêng của ông đều bị một đám người mặc thường phục nhào đến ngăn chận,
xua đuổi, chửi bới, thậm chí hành hung. Nhiều người hoảng sợ phải quay
xe bỏ chạy. Có lúc xe đã chạy rồi, bọn người mặc thường phục ấy còn rượt
theo ném đá và chửi rủa một cách tục tĩu và hung bạo.
Bất cứ ở đâu có sự hiện diện của các nhà bất đồng chính kiến ở đó cũng
đều có mặt đám côn đồ. Chúng không có đồng phục. Không có danh hiệu.
Chúng chỉ làm mỗi một việc là hành hung hay sách nhiễu những người không
chịu ngoan ngoãn đi theo lề phải do đảng và nhà nước quy định.
Thế thôi.
Báo chí Tây phương cũng như một số blog độc lập tại Trung Quốc gần đây
nói nhiều đến đám côn đồ mang danh nghĩa là “thành quản” (chengguan,
城管) (kiểu an ninh cơ sở hoặc bảo vệ dân phố ở Việt Nam). Trên danh
nghĩa, nhiệm vụ của chúng là để bảo vệ an toàn và vẻ đẹp của đường phố.
Trên thực tế, chúng lại là đám hung thần của những người nghèo buôn gánh
bán bưng. Trên internet, người ta tung lên một số đoạn phim quay cảnh
chúng nhào đến đánh dân chúng một cách vô cùng tàn nhẫn. Được chú ý nhất
là cảnh chị Wang Ren, 32 tuổi, bán nho trên chiếc xe đẩy, bị ba tên
thành quản nhào đến đánh đập, hất tung chị xuống đường. Chúng không hề
giải thích hay nói năng gì cả. Chúng chỉ đánh, đạp chị và hất đổ số nho
trên xe đẩy của chị.
Các cơ quan truyền thông Trung Quốc tường thuật
cả thảy 162 vụ bạo động của đám thành quản đối với dân chúng trong vòng
gần hai năm, từ tháng 7 năm 2010 đến tháng 3 năm 2012. Người ta tin là
số lượng các vụ hành hung dân chúng cao hơn rất nhiều. Với những mức độ
khác nhau, chúng diễn ra hàng ngày. Ở khắp nơi. Một bài báo trên The Diplomat
có nhan đề “Đám dân vệ côn đồ của Trung Quốc” (China’s Thuggish
Para-Police) cho biết, nếu vào Google gõ mấy chữ “thành quản đánh dân”
(城管打人) bằng tiếng Tàu, người ta sẽ thấy ngay cả hàng triệu “entry”: điều
đó chứng tỏ, một mặt, hiện tượng ấy rất phổ biến; mặt khác, nó cũng
chứng tỏ dân chúng rất bức bối về hiện tượng đánh dân thô bạo của đám
côn đồ mang danh bảo vệ trật tự đường phố ấy.
Nhưng thành quản là ai?
Được thành lập vào năm 1997, hiện nay lực lượng thành quản đã có mặt
tại 308 thành phố với một biên chế chính thức lên đến trên 6000 người.
Tham gia lực lượng này phần lớn là những người nghèo khổ và ít học. Suốt
ngày những người được gọi là “thành quản” ấy cứ lang thang ngoài
đường, theo dõi, rình rập, đánh đập và bắt bớ những người vi phạm luật,
dù là những vụ vi phạm nho nhỏ về giao thông hoặc buôn bán ngoài lề
đường. Dĩ nhiên, nhiệm vụ ưu tiên số một của chúng là trấn áp những
người xuống đường biểu tình chống đối chính phủ. Không có sắc phục, mọi
sự trấn áp của chúng đều được xem là những hành động tự phát của đám
quần chúng nổi giận trước những kẻ “phản động”.
Một vấn đề khiến các tổ chức nhân quyền trên thế giới quan tâm là các
đám thành quản này dù là tổ chức của nhà nước, ăn lương của nhà nước,
nhưng lại không bị ràng buộc bởi bất cứ một điều khoản pháp lý nào cả.
Họ hoạt động không theo điều lệ nào. Họ không hề biết những giới hạn về
quyền lực mà họ có thể sử dụng. Bởi vậy, họ thường tác oai tác quái. Có
xảy ra bất cứ tai nạn nào thì chính quyền cứ đổ tội lên đám “quần chúng
tự phát”.
Thế là xong.
Giống hệt như ở Việt Nam.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
CỰU TỔNG THỐNG G. BUSH
Tòa Bạch Ốc khánh thành ảnh cựu Tổng thống George W. Bush
CỠ CHỮ
31.05.2012
Tổng thống Barack
Obama, chào đón cựu Tổng thống George W. Bush trở lại Tòa Bạch Ốc để
khánh thành bức chân dung chính thức của ông, cười đùa với người tiền
nhiệm và cũng là đối thủ chính trị của ông.
Cựu Tổng thống cùng đi với cựu đệ nhất phu nhân Laura Bush và những thân nhân khác trong gia đình gồm có cha mẹ của ông là cựu Tổng thống George H.W. Bush và cựu đệ nhất phu nhân Barbara Bush.
Tổng thống Obama nói với việc khánh thành bức chân dung hôm thứ Năm, cựu Tổng thống Bush và phu nhân sẽ có vị trí cùng với những người nam cũng như nữ đã xây dựng đất nước và những người đã có công làm cho đất nước hòan hảo hơn.
Cựu Tổng thống Bush nói đùa là bức ảnh của vị Tổng thống đầu tiên là George Washington và bộ sưu tập ảnh hiện nay “bắt đầu và chấm dứt với George W.”
Cựu Tổng thống nói ông cảm thấy hận hạnh khi chân dung của ông được treo gần chân dung thân phụ ông, Tổng thống thứ 41 của nước Mỹ.
Cựu Tổng thống cùng đi với cựu đệ nhất phu nhân Laura Bush và những thân nhân khác trong gia đình gồm có cha mẹ của ông là cựu Tổng thống George H.W. Bush và cựu đệ nhất phu nhân Barbara Bush.
Tổng thống Obama nói với việc khánh thành bức chân dung hôm thứ Năm, cựu Tổng thống Bush và phu nhân sẽ có vị trí cùng với những người nam cũng như nữ đã xây dựng đất nước và những người đã có công làm cho đất nước hòan hảo hơn.
Cựu Tổng thống Bush nói đùa là bức ảnh của vị Tổng thống đầu tiên là George Washington và bộ sưu tập ảnh hiện nay “bắt đầu và chấm dứt với George W.”
Cựu Tổng thống nói ông cảm thấy hận hạnh khi chân dung của ông được treo gần chân dung thân phụ ông, Tổng thống thứ 41 của nước Mỹ.
Tong Thong George W. Bush trở
lại thăm Tòa Bạch Ốc.
'W' trở lại thăm tòa Bạch Ốc
Video Unveilingthe Official President Bush Portrait
Chỉ
ít ngày sau khi lên tiếng ủng hộ ứng viên Cộng Hòa Mitt Romney, Cựu
Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush cùng gia đình trở lại Tòa Bạch Ốc dự
buổi lễkhánh thành bức họa chân dung của ông,
đồng thời để nghe ông chủ đương thời Barack Obama lên tiếng ca ngợi vị
tiền nhiệm “có công rất lớn “ khi còn lãnh đạo quốc gia.
(Hình phải: Bức chân dung của Cựu Tổng Thống George W. Bush do họa sĩ
John Howard Sanden vẽ cảnh ông đứng ngay trong Phòng Bầu Dục)
“Chào
mừng tổng thống trở lại thăm căn nhà ông từng trú ngụ 8 năm trời,” Tổng
Thống Obama mở đầu bài diễn văn đón ông George W. Bush hồi trưa hôm qua
(Thứ Năm, 31 Tháng Năm 2012), trước khi nhắc lại cho mọi người nhớ
những thành quả ông Bush đã thực hiện được ngay sau biến cố 11 Tháng
Chín 2001 “để giúp quốc gia ổn định” và những công trình ông Bush đã làm
khi cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh bắt đầu xảy ra hồi 2007.
Bài diễn văn của ông Obama dù ngắn, nhưng cũng đủ làm cho một số khách danh dự của buổi lễ phải đưa tay lên chùi nước mắt. “Chúng ta có thể bất đồng về chính kiến, nhưng vai trò của người lãnh đạo vượt qua tất cả những bất đồng đó, chúng ta đều yêu đất nước này, chúng ta đều mong nước Mỹ thành công,” ông Obama nói tiếp.
“Tôi cũng phải cám ơn sự hỗ trợ mà tổng thống và gia đình đã dành cho chúng tôi” khi ông “W” rời Tòa Bạch Ốc, trao chìa khóa lại cho gia đình chủ mới vừa từ Chicago dọn lên thủ đô hồi đầu năm 2009. Ông Obama cũng đùa khi nói rằng trong số tài sản ông “W” để lại cho ông “có cả một hệ thống cable TV hàng xịn, bắt được tất cả những đài thể thao,” và là một người yêu thể thao “tôi mừng lắm.”
Ông chủ đương thời cũng không quên nhắc lại những lời khuyên mà 2 người con gái ông chủ cũ đã nói với 2 cô con gái của mình, “những lời khuyên quý báu đó đã giúp con tôi biết chọn bạn mà chơi, biết quây quần với những người bạn tốt, biết cứ làm những gì mà các cháu đều muốn làm, chẳng hạn như ngồi trượt thành cầu thang từ trên lầu xuống đất, biết tìm bạn mới, biết phải làm thế này thay vì làm thế khác, và thích thú với tất cả những gì các cháu được hưởng trong tòa nhà này.”
“Tôi có thể nói là 2 cháu Malia và Sasha đã lắng nghe những lời khuyên đó. Ðó là những lời khuyên mang ý nghĩa rất lớn cho cả 2 cháu,” ông Obama nói tiếp. Nghe xong những lời cám ơn đó, 2 cô con gái sinh đôi - Jenna và Barbara - của Cựu Tổng Thống George W. Bush đưa tay lên chùi nước mắt, nhưng khuôn mặt vẫn lộ rõ niềm hãnh diện vì đã góp một phần không nhỏ giúp cho Ðệ Nhất và Ðệ Nhị Công Nương của Hoa Kỳ biết phải “sống và làm” như thế nào để xứng đáng là con của người lãnh đạo quốc gia hùng mạnh nhất thế giới.
Không khí buổi lễ sôi động hẳn lên khi vị tổng thống thứ 43 của nước Mỹ cất tiếng. Ðầu tiên vẫn là cái nháy mắt thật quen thuộc, báo trước là ông sẽ nói đùa. Ông cho mọi người biết là bức vẽ chân dung ông sẽ được đặt treo ở bức tường ngay sau lưng chân dung của tổ phụ George Washington. “Tôi hãnh diện khi thấy bức họa chân dung của tôi đã đem lại sự cân xứng không ngờ cho Tòa Bạch Ốc, vì bức họa đầu tiên và bức họa cuối cùng đều của George W.”
Ông cũng vừa cười vừa nhắc lại cho mọi người câu chuyện lịch sử xảy ra hồi năm 1812 khi quân Anh nổi lửa đốt cháy Tòa Bạch Ốc, đệ nhất phu nhân lúc đó là bà Dolley Madison đã đem cất tất cả các bức chân dung của những vị tổng thống tiền nhiệm. Mắt nhìn đệ nhất phu nhân đương thời tay chỉ vào bức chân dung của mình, ông “W” bảo: “Michelle, nếu có chuyện gì xảy ra, bà đừng quên đây là bức chân dung phải mang đi cất nhé.”
Mọi người cười to hơn nữa khi ông Bush nói là ông có một lời khuyên cho ông Obama. Lời khuyên của ông như sau: “Tôi nài nỉ tổng thống mỗi khi gặp khó khăn vì phải quyết định một chuyện trọng đại, tổng thống nên đứng ngắm bức họa chân dung của tôi, rồi đặt câu hỏi trong tình huống đó 'George' sẽ giải quyết như thế nào.”
Buổi lễ bắt đầu và kết thúc trong bầu không khí thật thân mật, nhưng vì được tổ chức trong mùa bầu cử nên đương nhiên không khí chính trị phảng phất khắp nơi. Ngay trong hàng quan khách, phần lớn, đều là những người đã từng phục vụ trong hai nhiệm kỳ của ông George W. Bush - và một số không ít đang đóng vai trò cố vấn bán chính thức cho Ủy Ban Vận Ðộng Tranh Cử Mitt Romney.
Ðược chú ý đến nhiều nhất là ông Cựu Cố Vấn Chính Trị Karl Rove. Ông Rove được biết đến vì là “kiến trúc sư” cho 2 cuộc vận động tranh cử của ông “W,” và hiện đang đứng đầu một siêu ủy ban sẽ dùng số tiền có thể lên đến cả trăm triệu dollars chỉ để đánh bật ông Obama ra khỏi Tòa Bạch Ốc vào đầu Tháng Mười Một tới đây.
Kể từ ngày rời Tòa Bạch Ốc đến giờ, ông “W” rất im tiếng, từ chối không nói gì về chính sách hay đường lối lãnh đạo của ông Obama. Quan hệ giữa hai ông “mới” và “cũ” cũng không nồng ấm gì cho lắm: trong hơn 3 năm trời chỉ gặp nhau có 2 lần. Lần đầu vào năm 2010 khi ông “mới” gọi điện thoại mời ông “cũ” cùng Cựu Tổng Thống Bill Clinton mở cuộc vận động xin tiền cứu trợ nạn nhân trận động đất Haiti, lần như nhì họ gặp nhau xảy ra vào tháng 11 năm ngoái, nhân dịp tưởng niệm 10 năm biến cố 11 tháng 9.
Trong khi đó, quan hệ giữa ông Obama và Cựu Tổng Thống Bush “bố” lại nồng ấm hơn: hai ông gặp nhau rất nhiều lần, và ông Obama công khai xác nhận ông “quý trọng chính sách ngoại giao” mà ông Bush đã đề ra khi còn lãnh đạo đất nước. Cả hai ông bà Bush “bố” đều có mặt trong buổi lễ, cụ ông năm nay đã 88 tuổi phải ngồi xe lăn, cụ bà tay cầm chiếc máy ảnh bấm hết tấm này đến tấm khác.
Bức chân dung của Cựu Tổng Thống George W. Bush do họa sĩ John Howard Sanden vẽ cảnh ông đứng ngay trong Phòng Bầu Dục, mặc bộ vest mầu xám, đeo chiếc cravat mầu xanh, tay đặt trên thành ghế. Bức chân dung của bà Bush ghi lại cảnh bà mặc chiếc áo dạ hội mầu xanh, đứng ở giữa căn phòng mang tên “Green Room,” là căn phòng được bà sửa sang lại ngay sau khi từ Texas dọn vào Tòa Bạch Ốc.
Một chuyện bên lề cũng khá thú vị: khi hai ông Bush và Obama xuất hiện, theo đúng nghi lễ, ban nhạc trổi bài “Hail to the Chief” để chào đón. Ðây là bản nhạc được dành riêng cho tổng thống và các cựu tổng thống của nước Mỹ. Lúc còn cư ngụ ở Tòa Bạch Ốc, ông “W” từng nói với các nhân viên là ông không ưa bản nhạc này lắm, vì theo lời giải thích của ông, “bản nhạc nghe có vẻ cao ngạo làm sao ấy!”
Nguyễn Văn Khanh
KÝ TRẦN CÔNG NHUNG
NGHĨA TRANG BIÊN HOÀ
Huyền Thoại Về Tượng Thương Tiếc
Trần Công Nhung
Chuyện
hiển linh xưa nay không hiếm, nhưng những huyền thoại về Tượng Thương
Tiếc, sống động như chuyện đời thường, chuyện hàng ngày trước mắt, khiến
cho ai nghe cũng cảm động nghiêng mình kính cẩn và hết lòng thán phục.
Huyền thoại về Tượng Thương Tiếc được lan toả khắp nơi và khá nhiều chuyện tình tiết khó hiểu:
- Các xe chở rau từ Đà Lạt về khuya thường gặp một người lính ra chặn xe xin mua rau, khi tới bến kiểm lại tiền chỉ thấy toàn là tiền vàng mã.
- Một chuyện khác xảy ra ở Biên Hoà, vào một buổi sáng, có một quân nhân đặt mua bánh mì khá nhiều, khi giao hàng cho người quân nhân ra về, người chủ cất tiền vô tủ, đến lúc cần tiền lấy hàng, mở tủ ra chỉ thấy toàn tiền vàng mã, trong khi đó mỗi mộ ở nghĩa trang đều được cúng một khúc bánh mì…
- Có một cụ già ở chân núi Châu Thới,
đêm nọ trời đã khuya, cụ nghe tiếng gọi ở ngoài xin nước uống. Khi đem
nước và đèn ra cho người xin nước, thoạt đầu cụ tưởng như những lần quân
đội hành quân vào xin nước. Nhưng khi người lính uống xong, ngẩng mặt
lên cám ơn ra đi thì cụ chợt sửng sốt, tự nghĩ “sao lại có người lính
giống Tượng Thương Tiếc đến như thế?”. Sáng hôm sau cụ già ra nghĩa
trang để kiểm lại, cụ nhận thấy mặt mũi vóc dáng anh lính xin nước tối
qua y hệt pho tượng Thương Tiếc, vết sình non hãy còn dính đầy đôi giầy
trận, cụ cho rằng đêm qua bức tượng đã hiện thành người. Cụ về thuật lại
với bà con ở Suối Lồ Ô,
một người đi xem rồi về đồn mười, đồn trăm… lan khắp cả Thủ Đức, Tân
Vạn, Biên Hoà, đổ nhau đi coi tượng đài Thương Tiếc làm xe cộ kẹt cứng
cả một quãng đường trước cổng nghĩa trang.
- Một chuyện khác, những đêm trăng, những đêm mưa gió trở trời hiu hắt, dân chúng xung quanh
vùng nghĩa trang có người nhất quyết chính mắt họ trông thấy người lính giống hệt Tượng Thương Tiếc đi lại trên xa lộ!
Chuyện huyền bí lan truyền rất nhiều trong dân chúng và trong Quân Đội. Một số sĩ quan yêu cầu
Chuẩn Úy Thường Vụ Chung Sự Nghĩa Trang cho biết những gì thật sự mắt thấy tai nghe, Chuẩn Úy Thường Vụ Kể:
“Nhân
một hôm đi Chợ Tam Hiệp sắm đồ giỗ ông già, khi mua xong, tôi cho tài
xế đem về nhà trước. Tôi ghé thăm các bạn ở Tam Hiệp và mời họ đến nhà
ăn giỗ ngày hôm sau. Khi về, trời sẩm tối, đến cổng nghĩa trang, tôi
nghỉ chân dưới bức tượng. Không biết cao hứng thế nào, trước khi lội bộ
về nhà, tôi nhìn lên tượng, và nói với giọng điệu cố hữu của một Thượng
Sĩ đại đội:
- Ê mày, mai giỗ ông già tao, mày có rảnh ghé nhà tao 2 giờ chiều nhậu chơi.
Nói
xong tôi bước về nghĩa trang vì tôi ở phía sau khu nhà phục dịch chung
sự. Tám giờ sáng hôm sau, việc cúng giỗ bắt đầu và tiệc nhậu kéo dài đến
một giờ chiều. Tiễn khách ra về xong, tôi đi ngủ, phần vừa say, phần vì
đêm qua thức khuya. Trong giấc ngủ chập chờn, tôi nghe tiếng gõ cửa ầm
ầm. Nhà cửa rung rinh, tôi giật mình la to:
- Ai phá nhà tao đó?
Tiếng gõ cửa vẫn không dứt, tôi bực bội đứng dậy mở cửa, tôi sửng sốt, thấy Tượng Thương Tiếc đứng chình ình trước cửa và nói:
- Chuẩn Úy Thường Vụ Bê bối quá, kêu hai giờ chiều đến nhậu, nhưng ông nằm say sưa ngủ tôi nhậu với ai?…
Tôi
hoảng, đóng sập cửa lại, không dám ngó ra ngoài. Tôi nghe tiếng cười
khằng khặc và bước đi rung rinh nhà, tiếng chân xa dần rồi im bặt”.
Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Đại Đội Chung Sự Nghĩa Trang Biên Hoà kể trường hợp ông gặp Tượng Thương Tiếc ngồi sau xe Jeep của ông:
“Khi chạy xe vào Nghĩa Trang, tôi hay dừng lại, đón những binh sĩ đi bộ từ cổng vào, cho họ đỡ mỏi chân. Một buổi trưa, ăn cơm xong, trở lại làm việc, lúc tới cổng nghĩa trang, tôi dừng xe đón một Hạ Sĩ xin quá giang. Lúc anh ta ngồi vào phía sau, tôi bắt đầu rồ ga, sang tay số tiếp tục chạy vào trong. Rồ ga hoài mà xe không tiến thêm môt tí nào… Tôi quay ra, định nhờ anh lính xuống đẩy giùm… thì thấy bức Tượng Thương Tiếc đang ngồi phía sau. Tôi chưa kịp phản ứng gì thì có tiếng nói cất lên:
- Xe jeep Thiếu Tá sao chở nổi tôi…
Tiếp đó là một tràng cười khằng khặc, đồng thời bức tượng cũng biến mất”.
Vị Thiếu Tá còn kể tiếp:
“Nghĩa
trang ở trên đồi vào tháng mưa cỏ mọc um tùm nên phải thuê người vô cắt
cỏ. Trong lúc một cô đang cắt cỏ, có một anh binh sĩ đến tán tỉnh, vì
quen với lối trêu chọc của lính nên cô chẳng thèm quay lại xem hình dáng
người tán tỉnh mình là ai. Cô nghe tiếng người lính hỏi:
- Cô có biết tôi là ai không?
Cô gái vẫn cắm cúi làm việc và trả lời:
- Ông là ai, kệ ông chứ mắc mớ gì tôi…
Bỗng
cô gái nghe một tràng cười ngạo nghễ từ phía sau và những bước chân
thật nặng nề rung chuyển cả đất. Bấy giờ cô mới quay lại, thấy bức tượng
đài kỷ niệm đang đứng trước mặt. Cô la hoảng, chạy vào khu làm việc, kể
lại sự tình vừa xảy ra cho tôi nghe, đồng thời cô cũng xin nghỉ việc
ngay ngày hôm đó…”
- Một chuyện khác: “Vào
giữa một đêm trăng mờ năm 1968, một chiếc xe đò chở đầy hành khách từ
miền Trung về, khi tới xa lộ còn cách nghĩa trang quân đội 500 thước,
viên tài xế bị ngủ gật nên thắng gấp, khiến bánh xe trợt một đoạn dài,
rồi lật nghiêng. Trong lúc mọi người đang khóc than, đang tìm cách đập
vỡ cửa kiếng chui ra, thì chợt có tiếng nói vang lên:
- Xin đồng bào bình tĩnh... xin đồng bào bình tĩnh... ai đâu ở đó... đã có lính nhảy dù đến cứu bồ.
- Xin đồng bào bình tĩnh... xin đồng bào bình tĩnh... ai đâu ở đó... đã có lính nhảy dù đến cứu bồ.
Tiếng
nói vừa dứt thì xe được đẩy lại dựng đứng như cũ, anh tài xế cùng lơ xe
và khách vừa mở cửa ra ngoài, vừa hết lời khen sức mạnh ghê gớm của đại
ân nhân. Thế nhưng mọi người chỉ thấy ân nhân dáng người cao lớn đứng
sừng sững bên kia đường, rồi ông ta bước từng bước rất dài về phía
trước. Tới trước cửa nghĩa trang quân đội thì biến mất. Anh tài xế bỗng
la thất thanh, chỉ vào Tượng Thương Tiếc:
- Bà con ơi... ổng đó... ổng đó... Trời ơi... trời ơi... ổng hiển linh cứu bà con mình.
Thế là mọi người vội leo ngay vào trong xe, rồi ai nấy đều chắp tay lạy... đều đọc kinh râm ran... cả kinh Phật lẫn kinh Chúa”.
- Chuyện Tượng Thương Tiếc cứu người bị cướp:
“Vào lúc 10 giờ tối tháng 3 năm 1969, có hai cặp tình nhân đi trên hai
chiếc Honda ra xa lộ hóng gió, gần tới nghĩa trang thì bị ba chiếc khác
chở 6 thanh niên tóc dài ép té bên đường. Liền sau đó 3
tên ngồi phía sau nhảy xuống dùng dao uy hiếp khổ chủ để cướp xe và lấy
tiền. Trong lúc bọn cướp cạn đang trói các nạn nhân, thì bỗng có tiếng
hét lớn trên đầu dốc:
- Chớ làm càn... chớ làm càn.
Rồi liền đó xuất hiện ở giữa đường xa lộ một bóng đen... Bóng đen khệnh khạng đi tới, một tên cướp hoảng hốt gào lên:
- Ối giời ơi... ma ma, chạy... chạy...
Thế
nhưng không làm sao chúng chạy được, cứ thế đứng sững như trời trồng,
bóng đen hai tay xách bổng hai chiếc Honda bỏ bên vệ đường, vừa lúc đó
có bốn chiếc xe chạy đến, một xe Cảnh Sát đi tuần, một xe Jeep của bốn
quân nhân nhảy dù, trên có một Trung Tá, còn hai xe kia là du
lịch. Thấy chuyện lạ, các xe ngừng hết lại. Dưới bóng tối mờ mờ mọi
người thấy trên đỉnh dốc có một bóng đen đứng hiên ngang lừng lững. Khi
rõ chuyện, Cảnh Sát đến chỗ bọn cướp, đứa nào đứa nấy cứ như bị điểm
huyệt. Một người lớn tiếng hỏi:
- Còn ai đứng ở trên kia đó...
Một tràng cười vang lên, rồi một giọng như sấm động...
- Cố gắng, Nhảy Dù... cố gắng.
Như hiểu ra chuyện, vị Trung Tá Nhảy Dù trấn an mọi người:
- Không sao đâu, pho tượng Thương Tiếc đi tuần thôi.
Sau đó
ông vẫy tay la to:
- Về nghỉ đi em, khuya rồi... Nhảy Dù...
Bóng đen bỗng đứng nghiêm giơ tay chào:
- Cố gắng... Tuân lệnh Trung Tá”.
Tôi chợt nhớ một đoạn trong bài học thuộc lòng thời xa xưa:
Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.
Họ là kẻ tự nghìn muôn thuở trước
Đã phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một dãy sơn hà gấm vóc
Chuyện hiển linh xưa nay không hiếm, nhưng những huyền thoại về Tượng Thương Tiếc, sống động như chuyện đời thường, chuyện hàng ngày trước mắt, khiến cho ai nghe cũng cảm động nghiêng mình kính cẩn và hết lòng thán phục. Sống nằm gai nếm mật bảo vệ quê hương, chết hồn thiêng còn hiện về giúp người hoạn nạn…Dù có bị làm nhục phỉ báng cũng không quên vai trò của người lính chiến.
TƯỢNG PHẬT TẠI NHÂT BẢN
Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni Nhập Niết Bàn
Bằng Đồng Lớn Nhất Thế Giới ở Nhật Bản
Bằng Đồng Lớn Nhất Thế Giới ở Nhật Bản
Nam Tạng Viện nằm ở thủ đô Tokyo Nhật Bản, chùa khởi công đúc tôn tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Nhập Niết Bàn, hoàn thành vào năm 1995. Tượng có chiều dài 41m, cao 11m, được đúc bằng đồng nặng 300 tấn lớn nhất thế giới.
Bên
trong bức tượng có lối đi vào, mọi người tin rằng đi vào bên trong cơ
thể của Đức Phật. Chạm vào trái tim của Đức Phật sẽ được may mắn, bình
an, hạnh phúc về cảnh giới Niết Bàn trong hiện tại.
Trong ngày Khai quang
tôn tượng có 1300 nhà sư từ khắp nơi trên thế giới về tham dự. Nơi đây
là một trong ba địa điểm thiêng liêng của Shikoku ở Nhật Bản. Mỗi năm có
khoảng 1,2 triệu người đến chiêm bái và hành hương.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0219
KÝ VƯƠNG MỘNG LONG
NOẼL Ở CẨM-NHÂN
(Hồi ký của Vương Mộng Long k20)
Tháng 7/1976 tàu Sông Hương cập bến Hải-Phòng. Chúng tôi, khoảng
ba ngàn tù cải tạo, cựu sĩ quan của QLVNCH, được chuyển lên tạm nghỉ
một ngày ở Sáu-Kho. Trong chuyến đi này, đội ngũ hành khách tù binh đã
hao hụt mất hai người. Một người bị trượt chân, rớt từ sàn tàu xuống
nước chìm luôn ở Tân-Cảng, Sàigòn đêm khởi hành. Người thứ nhì chết
trên tàu giữa biển khơi.
Trước đây,
trong tháng 6/1976, cũng đã có vài chuyến tàu chuyển tù, ghé bến
Sáu-Kho. Nhưng trí tò mò của dân địa phương, nhất là những đứa trẻ con,
vẫn bị lôi cuốn bởi hình ảnh khác thường của đoàn hành khách mới tới.
Người từ phương Nam ra, đi từng cặp một, tay trái của người đi bên
phải, còng với tay phải của người đi bên trái. Mọi người vai mang nặng,
đa số đều mặt mày buồn rầu, xanh xao, thân hình gầy ốm, tong teo. Họ
nối đuôi nhau đi thành hàng im lặng, cúi đầu không nhìn ai. Hai bên
đường họ di chuyển là những họng súng AK với lưỡi lê tuốt trần. An ninh
thật là nghiêm ngặt.
Đoàn tù
được lùa vào khu đất rộng, có sáu cái nhà vòm dài và cao bằng tôle .
Xung quanh khu nhà vòm này là bãi cỏ cháy khô, hôi thối, vì đây là bãi đại tiện lộ thiên, công cộng, của xóm dân cư lao động gần đó. Quanh đây, dày dặc hố bom B 52 khổng lồ. Nước trong hố bom màu cà phê sữa lợt, mặt nước lác đác bèo tấm.
Xung quanh khu nhà vòm này là bãi cỏ cháy khô, hôi thối, vì đây là bãi đại tiện lộ thiên, công cộng, của xóm dân cư lao động gần đó. Quanh đây, dày dặc hố bom B 52 khổng lồ. Nước trong hố bom màu cà phê sữa lợt, mặt nước lác đác bèo tấm.
Sau khi được cởi khóa cái còng, tôi gởi ba-lô cho anh bạn tù Ngô Văn
Niếu giữ giùm. Tôi lang thang trên sân cỏ Sáu-Kho, rồi tạt vào căn nhà
vòm của những tù binh cấp úy. Vừa bước qua cửa đã có người nhận ra tôi
rồi. Anh ta ôm chầm lấy tôi, xuýt xoa,
"Thái Sơn! Anh còn sống ư? Độ đây! Em nghe đồn anh chết ngày ba mươi. Vậy mà anh còn đây. Ôi! mừng quá! Anh ngồi xuống đi!"
Anh
Phạm Xuân Độ là đại úy sĩ quan chỉ-huy hậu-cứ của Liên Đoàn 23 Biệt
Động Quân. Chúng tôi quen nhau lâu lắm rồi, từ ngày Độ mới từ Lực Lượng
Đặc Biệt chuyển sang Biệt Động Quân.
Độ cầm tay tôi, cao giọng giới thiệu với bạn của anh ta,
"Đây là Thái-Sơn, đàn anh của tớ. Xin giới thiệu với các bồ, để các bồ quen biết một đàn anh, đúng nghĩa một đàn anh"
Nghe anh Độ quảng cáo ồn ào như thế, những người bạn của anh ta
liền tỏ thiện cảm với tôi ngay. Họ kéo tôi ngồi xuống manh chiếu góc
nhà. Họ mời tôi hút thuốc lào. Họ tíu tít hỏi tôi ở trại nào trong Nam?
Tôi có quen, có gặp người này, người kia hay không?
Sau khi quân đội ta tan rã, nhiều cấp chỉ huy trở thành những cái
bia hứng chịu phỉ nhổ của người dưới. Tuy thế, cũng có nhiều cấp chỉ
huy trở thành nỗi luyến tiếc cho thuộc cấp, mỗi khi họ nói về kỷ niệm
một thời đã qua. Cũng may, cái cung cách chỉ huy nghiêm khắc tại mặt
trận và thân ái hòa đồng ở hậu cứ của tôi, không làm thuộc cấp ghét bỏ
hay hận thù.
Vì thế mà hôm ấy, ở một nơi nghìn trùng xa Sàigòn, vào cái thời buổi không còn gì nhục nhã hơn, thật khó tin còn có người lễ phép mời mình ngồi uống ly cà phê nấu bằng cơm cháy pha với đường thẻ, rồi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm oanh liệt, vàng son.
Vì thế mà hôm ấy, ở một nơi nghìn trùng xa Sàigòn, vào cái thời buổi không còn gì nhục nhã hơn, thật khó tin còn có người lễ phép mời mình ngồi uống ly cà phê nấu bằng cơm cháy pha với đường thẻ, rồi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm oanh liệt, vàng son.
Một người vừa sà xuống chiếu, nhìn tôi gật đầu chào thân thiện.
Tôi vội vàng gật đầu chào lại. Người sĩ quan này da ngăm ngăm. Má anh
ta có cái nốt ruồi bằng hạt đậu. Dáng anh ta quen quen... Tôi ngờ ngợ đã
gặp anh ta ở đâu đó? Anh bạn mới, giọng Bắc trầm trầm, tự giới thiệu,
"Tôi
tên là Trần Gia Toản, 'Toản Thuốc Lào' . Tôi là em ruột của Trần Gia
Toàn cùng khóa với anh. Tôi là bạn thân của Độ. Tôi có rất nhiều bạn
Biệt Động Quân. Bạn tôi ai cũng thương anh và phục anh lắm. Tôi đã nghe
tên anh nhiều lần. Nay có dịp gặp anh, thật là hân hạnh."
Tôi chợt hiểu, thì ra anh ta là em ruột của Trần Gia Toàn, bạn
cùng khóa 20 Võ-Bị của tôi. Anh em nhà này giống nhau quá, hèn nào tôi
thấy anh ta trông quen quen. Những người tuổi trẻ thích nói thật, không
vòng vo, quanh co. Hiểu nhau rồi thì chúng tôi dễ trở thành thân.
Từ hôm ấy tôi có thêm một số bạn. Những người bạn mới lấy mì gói ra, giấy bao mì gói trở thành củi, cái lon Guigoz trở thành nồi, vỉ cơm cháy trở thành cà phê. Bỗng nhiên, tôi thành người khách quý của nhóm bạn tù cấp úy trong góc một căn vòm Sáu-Kho hôm ấy.
Từ hôm ấy tôi có thêm một số bạn. Những người bạn mới lấy mì gói ra, giấy bao mì gói trở thành củi, cái lon Guigoz trở thành nồi, vỉ cơm cháy trở thành cà phê. Bỗng nhiên, tôi thành người khách quý của nhóm bạn tù cấp úy trong góc một căn vòm Sáu-Kho hôm ấy.
Ăn mì xong, chúng tôi chuyền tay nhau ca cà phê cơm cháy. Uống cà
phê mà không kèm theo khói thuốc thì không đúng "gu". Anh em mời tôi hút
thuốc lào. Khi biết tôi chưa tập hút được thuốc lào, thì chỉ nháy mắt
sau tôi đã có một bao thuốc lá Sàigòn Giải-Phóng.
Qua trao đổi với họ, tôi được tin tức của vài sĩ quan cấp úy cùng đơn vị như chú Lý Ngọc Châu, chú Trần Cao Chánh, chú Nguyễn Ngọc Khoan... Tôi cũng có tin những bạn cũ đã chết vì vượt trại như Quách Hồng Quang và Lê Hữu Thịnh.
Qua trao đổi với họ, tôi được tin tức của vài sĩ quan cấp úy cùng đơn vị như chú Lý Ngọc Châu, chú Trần Cao Chánh, chú Nguyễn Ngọc Khoan... Tôi cũng có tin những bạn cũ đã chết vì vượt trại như Quách Hồng Quang và Lê Hữu Thịnh.
Buổi chiều, chúng tôi bị lùa
xuống các hố B52, nước màu cà phê sữa, để tắm rửa. Lúc lên bờ, đỉa đói
còn bám từng chùm, lủng lẳng trên vế trên đùi, chúng tôi giựt mãi chúng
không chịu nhả ra. Sau khi được phát mỗi người một gói lương khô
Trung-Cộng, đoàn tù được lệnh chuẩn bị đội ngũ chờ xe lửa để lên đường.
Nghe đâu, người ta sẽ đưa chúng tôi lên mạn ngược, vùng biên giới
Trung-Hoa, thuộc tỉnh Yên-Bái, Thái-Nguyên, Tuyên-Quang...
Chuyến xe lửa Hải- Phòng Yên- Bái khởi hành lúc nửa đêm. Chúng tôi
được dồn lên những toa chở súc vật. Cứ bốn mươi người một toa, khóa
trái bên ngoài. Diện tích của toa xe chỉ đủ chỗ cho chúng tôi ngồi hoặc
đứng chứ không thể nằm. Mỗi toa có bốn cái cửa tò vò to bằng bàn tay
xòe nơi bốn góc. Tôi chui vào chiếm một góc và thò mũi ra lỗ cửa tò vò
để thở.
Ngồi kế tôi là Thiếu Tá Hoàng Đình Mẫn nguyên Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 81 Biệt Động Quân. Thiếu Tá Mẫn là vị tiểu đoàn trưởng già nhất của liên đoàn tôi. Ông Mẫn với tôi thương nhau như anh em.
Ngồi kế tôi là Thiếu Tá Hoàng Đình Mẫn nguyên Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 81 Biệt Động Quân. Thiếu Tá Mẫn là vị tiểu đoàn trưởng già nhất của liên đoàn tôi. Ông Mẫn với tôi thương nhau như anh em.
Xe chạy được khoảng một giờ thì không khí trong toa bắt đầu ngột
ngạt. Lúc lên xe, trưởng đoàn vệ binh có chỉ định anh cựu đại úy tên là
Thu làm trưởng toa. Từ đầu hôm, anh Thu chiếm cái góc có thùng phuy vệ
sinh.
Giờ này, thùng cứt đái bắt đầu bốc mùi. Anh Thu bước tới góc cuối toa, và ra lệnh cho tôi nhường chỗ cho anh. Tôi chưa kịp phản ứng thì anh Thu đã dện một đạp vào mặt ông già Mẫn để dành cái cửa sổ. Lúc đó ông Mẫn đang ghé mũi vào cửa tò vò hít khí trời. Ông Mẫn vừa ôm mặt, vừa chửi rủa.
Giờ này, thùng cứt đái bắt đầu bốc mùi. Anh Thu bước tới góc cuối toa, và ra lệnh cho tôi nhường chỗ cho anh. Tôi chưa kịp phản ứng thì anh Thu đã dện một đạp vào mặt ông già Mẫn để dành cái cửa sổ. Lúc đó ông Mẫn đang ghé mũi vào cửa tò vò hít khí trời. Ông Mẫn vừa ôm mặt, vừa chửi rủa.
Anh Thu có dáng dấp của một võ sĩ. Anh không cao lắm nhưng rất "đô"
con. Anh cởi áo và vắt những dòng mồ hôi vừa nóng vừa nồng trên đầu
tôi vì lúc đó tôi ngồi dưới chân anh. Rồi anh ngồi xuống bên tôi, thò
mũi ra lỗ tò vò. Mồ hôi của anh nồng kinh khủng. Tôi nhè nhẹ đẩy anh ra
xa tôi một chút. Anh hậm hẹ,
"Đù mạ! Lộn xộn ăn đòn à con! Mày nhỏ con, tao cho ngồi cạnh để đỡ choán chỗ. Biết điều thì ngồi êm! Cục cựa ông bẻ răng à!"
Anh
Thu ngồi chồm hổm, nách anh choàng qua gáy tôi. Mùi hôi nách làm tôi
tắc hơi. Tôi lách đầu cho mũi tôi ghé vào một góc cửa sổ. Tôi hít lấy,
hít để, cái không khí thơm mùi đòng đòng, lúa mới ngoài kia. Chợt anh
trưởng toa hẩy mạnh vai, mặt tôi đập vào thành xe nghe "kịch!" một cái, đau tới hoa cả mắt.
"Ê ...ê...ê...anh này chơi ác quá vậy?"
Trong lúc quýnh quáng, tôi quýu lưỡi, nói xàm như một đứa bé.
Chưa xong, hai bàn tay hộ pháp của tên du côn chẹt cổ tôi, tống tôi vào góc xe,
"Ngồi im! Cục cựa ông bóp chết!"
Tôi chợt cảm thấy có cái gì đó ứ nơi cổ. Mặt tôi nóng dần. Tay tôi run run. Tôi hít vào một hơi dài, rồi thở ra từ từ.
Tôi ra chiều ngồi êm, nhưng tay tôi mò tìm... mò tìm...Tôi tìm
được nó rồi! Cái nĩa U.S bằng inox, tôi cài nó trong cái túi bên hông
balô...
Cú đâm quyết định bị trệch
mục tiêu vì thế ngồi quá chật. Cái nĩa đâm sượt mắt trái của anh võ
sĩ, rạch một vết rách sâu trên trán anh. Tay trái tôi hất mạnh một cái
cùi chỏ ngay cằm anh.
Anh chưa kịp la lên thì cái nĩa đã nằm dưới yết hầu. Tôi ghì ngược cái nĩa bằng cả hai tay ngay yết hầu kẻ thù. Nhiều lần đánh lộn thời học sinh, cũng như trong chiến trận sau này, tôi đã áp dụng thành thạo những đòn cận chiến học từ tuổi lên mười ở Trung-Tâm Huấn-Luyện Nhảy Dù Chèm Vẽ (1951-1954). Hồi đó nhà tôi ở sát cạnh bãi tập thể chất của lính Nhảy Dù Liên Hiệp Pháp trước cổng Đông làng Vẽ. Ngày ngày chứng kiến tân binh học cận chiến, tôi thuộc nằm lòng những thế dao găm đâm ngang, đâm dọc, đâm ngược, đâm xuôi...
Hơn hai mươi năm sau, trong một góc toa xe chở súc vật, tôi phải xử dụng cái thế đâm ngược lợi hại này, với một cái nĩa, để hạ một đồng đội. Tôi chỉ cần nhấn mạnh thêm năm phân, rồi xoay hai tay theo chiều kim đồng hồ là cái yết hầu của thằng du côn sẽ bị móc ra khỏi cần cổ nó.
Anh chưa kịp la lên thì cái nĩa đã nằm dưới yết hầu. Tôi ghì ngược cái nĩa bằng cả hai tay ngay yết hầu kẻ thù. Nhiều lần đánh lộn thời học sinh, cũng như trong chiến trận sau này, tôi đã áp dụng thành thạo những đòn cận chiến học từ tuổi lên mười ở Trung-Tâm Huấn-Luyện Nhảy Dù Chèm Vẽ (1951-1954). Hồi đó nhà tôi ở sát cạnh bãi tập thể chất của lính Nhảy Dù Liên Hiệp Pháp trước cổng Đông làng Vẽ. Ngày ngày chứng kiến tân binh học cận chiến, tôi thuộc nằm lòng những thế dao găm đâm ngang, đâm dọc, đâm ngược, đâm xuôi...
Hơn hai mươi năm sau, trong một góc toa xe chở súc vật, tôi phải xử dụng cái thế đâm ngược lợi hại này, với một cái nĩa, để hạ một đồng đội. Tôi chỉ cần nhấn mạnh thêm năm phân, rồi xoay hai tay theo chiều kim đồng hồ là cái yết hầu của thằng du côn sẽ bị móc ra khỏi cần cổ nó.
Tôi nghe tiếng,
"Em lạy anh, tha cho em!"
Tôi lơi tay, nhổ nước miếng vào mặt anh võ sĩ và nói nhỏ,
"Cút
về bên cái cầu tiêu của mày mà ngồi. Tên tao là Vương Mộng Long, tao
đã từng là tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân. Sau khi xuống ga, mày có
thể tìm tao bất cứ lúc nào."
Ông võ sĩ trưởng toa ôm trán đầy máu bò về hướng đầu toa, trả lại cái
cửa tò vò cho mười anh tù ở cuối toa thay phiên nhau ló mũi ra để hít
chút không khí mà sống.
Tàu đi
ngang cầu Phú-Lương, Hải-Dương, tôi xin anh em cho tôi được ngồi lâu
hơn một chút nơi cửa sổ để ngắm nhìn cây cầu tuổi thơ của tôi. Tôi đã đi
qua cây cầu này bằng đôi chân trần tuổi lên sáu, từ vùng "Tề" chạy giặc trở về thành phố Hải-Dương đổ nát điêu tàn.
Trong trí nhớ non nớt của tôi chỉ còn: Cầu Phú-Lương đồng nghĩa với cầu Đen.
Cầu dài lắm, những cái vài khổng lồ sơn đen, lính gác cầu cũng là lính
Marốc da đen. Tôi qua cầu một ngày cuối năm 1948.
Từ ấy tôi không còn thấy nó. Cho mãi tới đêm nay, tháng 7/1976 tôi mới có dịp qua cầu lần nữa. Hôm nay, cầu Phú-Lương có vẻ đen hơn ngày xưa, vì tôi qua đó vào lúc nửa đêm, trời tối đen như mực.
Từ ấy tôi không còn thấy nó. Cho mãi tới đêm nay, tháng 7/1976 tôi mới có dịp qua cầu lần nữa. Hôm nay, cầu Phú-Lương có vẻ đen hơn ngày xưa, vì tôi qua đó vào lúc nửa đêm, trời tối đen như mực.
Tôi nhìn cây cầu nơi chôn nhau cắt rốn từ cái cửa tò vò của một toa
xe chở súc vật. Trong toa xe chở súc vật này là những sinh vật ưu tú
của một dân tộc anh hùng. Những sinh vật ưu tú ấy đang bị chuyển hóa
thành súc vật. Những con vật này đang tranh sống. Chúng đang giết lẫn
nhau để sống.
Toa xe lao nhanh. Động cơ hơi nước phì phà "xình xịch!...xình xịch!..." Bánh sắt rít trên tà vẹt nghe "ken két!...ken két!" rợn người. Những thanh sắt vài cầu loang loáng sát thành xe.
Rồi tôi không nhìn được gì thêm, nước mắt đã rơi, nước mắt bốc thành hơi, đôi mắt cay...
Trời mờ sáng thì tàu đi ngang Vĩnh-Phúc-Yên, những hố bom B52 còn
như rất tươi trên ruộng lúa, dọc hai bên đường tàu. Những đoạn đường sắt
ở đây cũng thấy như mới được đắp vá. Không khí trong xe ngột ngạt
hơn. Chúng tôi thay nhau cái lỗ tò vò với tốc độ mau hơn, quyền được
thở giảm bớt. Người được thở tự đếm, "một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, hết!"
rồi ngồi nhích sang một bên, nhường cho người kế tiếp.
Chúng tôi chia nhau từng giây không khí để sinh tồn. Đôi người đã khóc, đôi người vẫn cười. Giờ phút ấy có lẽ không ai còn nhớ đến vinh quang. Nơi góc cuối của một toa xe chở súc vật, mười sĩ quan QLVNCH chia sẻ nhục nhằn để sống.
Chúng tôi chia nhau từng giây không khí để sinh tồn. Đôi người đã khóc, đôi người vẫn cười. Giờ phút ấy có lẽ không ai còn nhớ đến vinh quang. Nơi góc cuối của một toa xe chở súc vật, mười sĩ quan QLVNCH chia sẻ nhục nhằn để sống.
Ba góc còn lại của toa xe
không có cái trật tự tự nguyện này. Đã có chuyện không hay. Có ai đó
nơi đầu toa bị ngộp thở. Tiếng người nói xôn xao,
"Làm hô hấp cho anh ấy đi!"
Có tiếng la to,
"Anh bộ đội ơi! Có người xỉu! Anh bộ đội ơi!"
Tàu vẫn chạy xình xịch, xình xịch...tiếng kêu cứu loãng trong không gian, không lời đáp lại.
Xế trưa hôm đó chúng tôi vào ga Yên-Bái. Đang phiên thở hít của tôi, tôi nghe tiếng người gọi nhau,
"Tù tới! Tù tới!"
Qua
cửa sổ, tôi thấy ánh mắt tóe lửa của vài người dân đang vội vàng cúi
lượm những viên đá xanh lót đường tà vẹt. Thấy không ổn, tôi thụt mũi
vào trong toa.
Tôi nói với Thiếu Tá Trần Ngọc Báu, Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu Pleiku là người kế phiên hít thở,
"Đừng ló mặt ra, dân nó ném đá đó!"
Anh Báu không tin.
Vì tôi ngồi sát cửa với Báu, tôi nghe rõ tiếng reo,
"Thằng Mỹ mày ơi!"
Rồi anh Báu ôm mặt. Mặt anh đầy máu! Một cục đá xanh đập vỡ mũi
anh. Hình như hai cái răng cửa đã nhảy ra khỏi miệng anh. Khuôn mặt Tây
lai của anh biến thành cái mặt nạ máu me bầy nhầy.
Cái cửa được bít lại ngay bởi cái thùng đựng đạn trung liên chứa nước của ông già TĐT/TĐ81/BĐQ. Đoàn xe lửa bị một trận mưa đá tấn công tới tấp. Cho tới khi vài viên đá lạc vào toa của vệ binh thì tôi nghe tiếng súng bắn chỉ thiên, tiếng đá chạm thành toa mới ngưng.
Cái cửa được bít lại ngay bởi cái thùng đựng đạn trung liên chứa nước của ông già TĐT/TĐ81/BĐQ. Đoàn xe lửa bị một trận mưa đá tấn công tới tấp. Cho tới khi vài viên đá lạc vào toa của vệ binh thì tôi nghe tiếng súng bắn chỉ thiên, tiếng đá chạm thành toa mới ngưng.
Đoàn xe ra khỏi ga chừng hai trăm mét thì ngừng bánh. Tù được lệnh
xuống xe. Tôi là một trong những người đạp đất sớm nhứt. Không đội
ngũ, đoàn tù bị lùa lên xe Zin chở về nơi nào đó đã định. Hai bên
đường, có những người dân mặc trang phục Dao, Tày, Thái, Mán, Thổ,
Mường... ngơ ngác trông theo.
Tới
một ngã ba, cứ một xe rẽ về trái, thì xe kế tiếp rẽ về phải. Thì ra,
đoàn tù được chia làm đôi, một nửa đi về đông bắc qua hồ Thác-Bà, nửa
còn lại qua sông Hồng đi về hướng tây. Chiếc xe chở tôi đi về hướng
đông bắc. Anh bạn cùng khóa, cùng binh chủng, Ngô Văn Niếu cũng ngồi
trên cùng một xe với tôi.
Đoàn
776 không đủ phương tiện đưa hết đoàn tù đi trong ngày. Chúng tôi được
chia ra thành nhiều đợt lên ca nô vượt hồ. Toán của tôi là toán chót,
lên ca nô sau toán đầu hai ngày, hai đêm.
Hồ Thác-Bà rộng lắm, mỗi chiều cả chục cây số. Ca nô đưa chúng tôi
đi ngược lên đầu nguồn sông Chảy, lướt chậm trên di tích của một thung
lũng cổ. Trong đám đọt cây khô giữa làn nước trắng, một gác chuông
thánh giá đứng lẻ loi, phần dưới của nhà thờ chìm trong nước. Nắng mai
từ đỉnh núi hướng đông chiếu xuống mặt hồ, làm cho những đợt sóng lăn
tăn lấp lánh như dát bạc...
Chúng tôi đến cuối hồ Thác-Bà, hạ trại nơi không xa một xã người Tày.
Xã đó tên là Cẩm-Nhân. Xã thuộc huyện Yên- Bình, Yên-Bái, tỉnh Hoàng-
Liên- Sơn, cách biên giới Việt-Trung gần 50 km.
Bên bờ hồ, nơi một bãi lau sậy được đặt tên là Trại 3 Liên Trại 4,
tôi và anh bạn TĐT/ BĐQ Ngô Văn Niếu nằm cạnh nhau.
Lán trưởng của tôi lại là anh đại úy tên Thu đã có lần tôi gặp cách đó hai ngày, trên chuyến xe lửa Hải-Phòng Yên-Bái. Anh nhìn tôi như kẻ lạ, như chưa từng thấy nhau. Nhìn cái băng trên trán anh tôi nghĩ anh thật là chóng quên.
Lán trưởng của tôi lại là anh đại úy tên Thu đã có lần tôi gặp cách đó hai ngày, trên chuyến xe lửa Hải-Phòng Yên-Bái. Anh nhìn tôi như kẻ lạ, như chưa từng thấy nhau. Nhìn cái băng trên trán anh tôi nghĩ anh thật là chóng quên.
Tối đầu tiên ở đây, anh
Nguyễn Tuyên Thùy (K10VB) cho tôi biết một tin buồn: Có ông thiếu tá
dược sĩ tên là Duy vừa uống thuốc tự tử. Dược Sĩ Duy được bó chiếu chôn
bên cạnh hồ. Như vậy, trong Nam, gia đình anh Duy sẽ là những người
đầu tiên biết chồng con họ đang ở đâu.
Anh Nguyễn Tuyên Thùy đến đây từ tháng trước. Anh còn nói rằng,
Anh Nguyễn Tuyên Thùy đến đây từ tháng trước. Anh còn nói rằng,
"Nghe đâu, có vài ba người chết ngộp trên chuyến xe lửa từ Vinh ra Yên-Bái hồi tháng trước..."
Anh nói chuyện người chết, người sống nghe nhẹ như không. Mà thực
vậy, lúc này sinh mạng một người tù thua trận nhẹ như không...
Sáng hôm sau anh Thu tập họp đồng đội trước lán để truyền lại nội
quy của trại cho những người mới tới. Anh phân tích rõ tội nào sẽ bị
hình phạt gì.
Những tội cải thiện linh tinh sẽ bị cảnh cáo, cúp phần ăn. Tội phát ngôn bừa bãi có thể bị cùm, bỏ đói... Tội vượt trại có thể bị xử bắn...vân vân. Anh cảnh cáo rằng nếu ai đụng vào chai dầu lửa treo ở đầu giường anh thì sẽ biết tay anh.
Những tội cải thiện linh tinh sẽ bị cảnh cáo, cúp phần ăn. Tội phát ngôn bừa bãi có thể bị cùm, bỏ đói... Tội vượt trại có thể bị xử bắn...vân vân. Anh cảnh cáo rằng nếu ai đụng vào chai dầu lửa treo ở đầu giường anh thì sẽ biết tay anh.
Tôi đi quanh trại, la cà trò chuyện cùng vài người quen. Những vị
này, thời chiến tranh Đông-Dương, đã có dịp qua đây, như Trung Tá Nguyễn
Hữu Phú cựu tham mưu trưởng BCH/BĐQ/QLVNCH, Thiếu Tá Hoàng Đình Mẫn
Tiểu Đoàn Trưởng TĐ81/BĐQ, Thiếu Tá Bùi Ngọc Long Tiểu Đoàn Trưởng Địa
Phương Quân Tiểu Khu Quảng- Đức, Thiếu Tá Nguyễn Tuyên Thùy TCCTCT/TTM.
Nhưng những đàn anh lớn tuổi này cứ duỗi ra mỗi khi tôi hỏi họ về địa thế, dân tình quanh khu Thác-Bà.
Nhưng những đàn anh lớn tuổi này cứ duỗi ra mỗi khi tôi hỏi họ về địa thế, dân tình quanh khu Thác-Bà.
"Đường xa diệu vợi lắm! Đừng dại mà trốn trại! Mất mạng đó em ơi!" tôi cứ nghe các anh ấy can ngăn như thế mỗi khi tôi tỏ ý muốn...đi.
Cuối cùng tôi gặp Đặng Quốc Trụ, người bạn cùng khóa, anh ta đã
từng là tiểu đoàn trưởng của Trung Đoàn 48/SĐ18 Bộ Binh. Nghe tôi ngỏ ý
tìm bạn đồng hành để đi Lào, anh Đặng Quốc Trụ hưởng ứng ngay...
Chúng tôi chưa biết rõ xã Cẩm-Nhân nằm ở nơi nào trên bản đồ
Việt-Nam thì toán trốn trại đầu đã nhổ neo. Bốn đại úy gồm một ông ở
Tổng Thống Phủ và ba ông pilots. Đi được ba ngày thì bốn Papillons bị
bắt lại. Tòa án giữa đồng được thiết lập. Không có lời buộc tội nào từ
phía cai tù, mà chỉ có quân ta kết tội lẫn nhau.
Nghiêm khắc nhất là một cải tạo viên, nguyên là phi công trực thăng, đã đề nghị xử bắn những người đi trốn để anh ta được yên tâm cải tạo (!)
Vài người nữa lên phát biểu ý kiến xin trại phạt nặng những kẻ vô kỷ luật để làm gương cho những kẻ khác. Ban chỉ huy trại cũng không ý kiến. Tòa giải tán. Không ai dám hé răng bàn tán về những gì đã xảy ra. Bốn anh trốn trại bị cùm trên đồi, gần ban chỉ huy trại.
Nghiêm khắc nhất là một cải tạo viên, nguyên là phi công trực thăng, đã đề nghị xử bắn những người đi trốn để anh ta được yên tâm cải tạo (!)
Vài người nữa lên phát biểu ý kiến xin trại phạt nặng những kẻ vô kỷ luật để làm gương cho những kẻ khác. Ban chỉ huy trại cũng không ý kiến. Tòa giải tán. Không ai dám hé răng bàn tán về những gì đã xảy ra. Bốn anh trốn trại bị cùm trên đồi, gần ban chỉ huy trại.
Hai ngày sau, toán trốn trại thứ hai ra đi. Toán này gồm có hai người và được coi là có "kí lô".
Họ là Đại Úy Biệt Kích Trần Trung Ginh và Đại Úy Nhảy Dù Tôn Thất Ủy
(Ủy là tùy viên của Tướng Lưỡng, Tư Lệnh SĐ Dù /QLVNCH).
Sau khi phát giác có thêm một vụ trốn trại nữa, cán bộ Chính Trị Trại 3 tập họp tất cả chúng tôi lại, răn đe,
"Các anh sẽ phải trả giá. Không ai thoát khỏi mạng lưới của nhân dân. Cứ trốn đi! Tôi thách các anh đấy!"
Giữa
đêm đó Vương Mộng Long và Đặng Quốc Trụ khăn gói lên núi. Cái bật lửa
của bác BĐQ già Hoàng Đình Mẫn nằm trong hành trang của tôi, và chai
dầu lửa của anh đội trưởng tên Thu cũng nằm trong hành trang của tôi.
Vài ngày sau khi tôi và Trụ vượt trại, Trại 3 Liên Trại 4 bị giải
tán, tù nhân được chia cho các trại 5,7,9 kế bên. Một đoàn tù từ bên
hướng tây sông Hồng được đưa về đây xây Trại 3 mới.
Cái đêm 08/08/1976 tôi và Đặng Quốc Trụ trốn trại lần đầu là một
đêm mưa, khởi đầu trận bão số 6 khốc liệt. Trận bão này gây nên mưa gió
kéo dài hơn một tuần lễ. Mười ngày sau chúng tôi bị mất hướng, luẩn
quẩn trong rừng tre, rồi bị vây bắt lại.
Tên Việt-Cộng chấp cung tôi đã thẩm vấn tôi câu đầu,
"Có phải anh Thu cho anh chai dầu lửa để anh đi trốn hay không?"
Tôi "thành khẩn" khai báo,
"Thưa cán bộ không ạ! Tôi ăn trộm nó khi anh đội trưởng còn ngủ."
Tên cán bộ ngạc nhiên lẩm bẩm,
"Lạ nhỉ? Vậy là anh Thu bị phạt oan, nhưng không hiểu tại sao anh ấy không tự biện bạch?"
Từ đêm chui rào khỏi Trại 3, tôi không có dịp gặp lại anh Thu, không rõ đã có hậu quả gì đến cho anh sau khi tôi đi.
Tôi và Trụ được đưa về nhốt ở Trại 4 Liên Trại 4. Tại đây đã có 2 "đồng bọn" đang nằm cùm, đó là Trần trung Ginh và Tôn Thất Ủy.
Cuối năm ấy tụi tôi được tha ra khỏi cùm để về đội lao động. Nhiều
dân trốn trại đã được qui tụ về đây trước đó. Trong số ấy có một băng
Võ-Bị, gồm Trần Tấn Hòa (Dù K20), Nguyễn Văn Nghiêm (Dù K20), Trần Đăng
Khôi (Dù K16), Hồ Văn Hòa (BĐQ K16), Chu Trí Lệ (SĐ23 K16), Trầ
Anh Đặng Quốc Trụ được đưa về Đội 10 dưới quyền đội trưởng Lâm Kỳ
Sáng (cựu trung tá), tôi về Đội 11 dưới quyền Đặng Kim Bảng (cựu đại
úy).
Vừa chui vào lán, tôi đã nghe giọng Bắc Kỳ quen,
"Mừng đại ca, đại ca có nhận ra em không?"
Dù lúc đó là buổi chiều mùa đông, trong lán tranh tối tranh sáng, tôi vẫn nhận ra ngay Toản Thuốc Lào.
"Quên sao được hả chú! Mới tháng trước đây, chúng mình chia tay nhau ở Sáu-Kho..."
Ngay lúc ấy người đội trưởng bước vào, anh ta nói tôi sẽ được cử
đi gánh gạo tiếp tế chiều nay cùng với đội ở bên Cẩm-Nhân.
Sau nhiều ngày nằm cùm, mới đi được hai cây số đường đồi tới chợ Cẩm-Nhân, chân tôi đã muốn rã ra rồi.
Đến Hợp-Tác Xã Nông-Nghiệp tôi gặp hai anh bạn cùng khóa là Nguyễn
Xuân Hoè và Minh Vồ, mừng mừng tủi tủi, hai anh này ở trại khác, cũng
đi gánh gạo chiều nay.
Bên kia đường, có một người vừa đưa tay vẫy tôi.
Tôi tìm trong óc xem có phải anh ta cùng khóa với mình không? Không!
Hóa ra đó là anh Thu! Thấy anh, tôi nhớ chuyến tàu hôm nào từ
Hải-Phòng đi Yên-Bái. Tôi nhớ ra chai dầu lửa anh cố tình treo trên lối
ra vào của lán tù Trại 3. Đêm vượt trại, chỉ cần dơ tay, tôi đã nẫng
được chai dầu một cách nhẹ nhàng.
Tôi định đưa tay vẫy lại cái vẫy tay của anh Thu, thì đoàn tù gánh gạo ấy đã đi xa rồi.
Hôm đó, tiêu chuẩn chung của trại, trọng lượng cân đo, đúng 150 kg cho một chuyến hai người.
Toản cao hơn tôi, Toản đi sau, tôi đi trước.
Chúng tôi phải hò "Dô ta!" để lấy đà đứng lên. Toản hò "Dô... ta!" rồi, nhưng Toản không đứng lên. Toản cúi xuống lượm cái gì đó.
Tôi hỏi,
"Sao không đi Toản?"
Toản cười,
"Em có quà cho đại ca."
Anh ngước mắt lên, vui sướng đưa cho tôi cục kẹo đường đen,
"Em lượm được cục kẹo, anh ăn cho hồi sức đã mất trong nhà cùm."
Tôi cảm động, nhận cục kẹo đường đen to bằng đầu ngón tay út.
Toản cười,
"Anh có nhớ hôm nay là Noẽl đó không?"
Tôi cắn cục kẹo làm hai, đưa cho Toản một nửa,
"Merry Christmas!"
Thấm thoắt đã mấy chục năm đi qua. Tôi thấy buồn khi nhìn Noẽl trở
lại. Tôi thấy buồn khi nhớ ra, bây giờ tôi không còn sức để gánh chung
cùng bạn một gánh gạo nặng 150kg trên đoạn đường đồi dài 2 km nữa rồi!
Noẽl nào tôi cũng nhớ tới buổi chiều đi gánh gạo, nhớ cái vẫy tay
của anh Thu, nhớ chai dầu lửa, nhớ cục kẹo đường đen ở Cẩm-Nhân, và nhớ
Trần Gia Toản cùng những người bạn tù thuở ấy...
Vương mộng Long k20
(Seattle, Noẽl 2004)
NGUYỄN NHÂN TRÍ * VIỆT CỘNG & MẬU THÂN
NGUYỄN NHÂN TRÍ
“Nóikhoác” và “nói láo”, từ khi có già Hồ, đã được nâng cấp thành “chánh sách bịa
đặt” để tuyên truyền dối trá, để bôi nhọ đối phương, để xuyên tạc sự thật, để
lừa bịp người dân, để tạo hận thù. Thật
vậy, trong nhiều lễ khai giảng hoặc bế giảng các khóa học tập của cán bộ, già
Hồ luôn luôn dạy dỗ: “Các chú có nhớ chuyện Tăng Sâm không? Các chú cứ bịa, bịa miết rồi cũng có người
tin. Các chú cứ lập đi lập lại những
điều các chú bịa thì những điều đó sẽ thấm sâu vào lòng người” và “Ông
Hồ dạy: Nói láo, nói láo mãi rồi cũng có người tin.” (Hoàng Hữu Quýnh, Tôi Bỏ
Đảng, tr.72. HHQ đã bỏ đảng từ cuối
thập niên 80, xin tị nạn chánh trị tại Pháp nhân được “đảng” cho xuất ngoại
viếng hảng xe Fiat tại Ý Đại Lợi). Nơi
tr. 251, tác giả lập lại: “Chủ tịch vĩ đại HCM đã dạy cán bộ chiến sĩ rằng
cứ nói láo mãi rồi cũng có người tin là như vậy. Người dân Hà Nội nói rằng các ổng chỉ được cái bốc phét là
giỏi.”
Dưới
chế độ CS, một chế độ dựa trên tuyên truyền lừa bịp thì nhà văn, nhà báo phải
viết theo lịnh của “lãnh đạo” có nghĩa là phải “viết cái hay cái đẹp của
đảng, còn địch thì phải nói đến cái xấu cho dù chúng tốt cũng phải viết thành
xấu. Chẳng hạn, nếu chúng có đi phát
quà cho người nghèo thì phải viết là chúng đi ăn cướp chỗ này mang đến chỗ kia
phát một phần nhỏ và giữ lại một phần lớn cho chúng …" ("Bác
Hồ dạy viết văn"). Cảm thấy chưa đủ, HCM còn tự tay viết trên báo Cứu
Quốc (1945) dặn dò như sau: "... mỗi ngày đặt ra một câu chuyện oanh
liệt trong cuộc chiến, nói vắn tắt, nâng cao chí kháng chiến, tên người và địa
điểm không cần viết rõ. Ví dụ Anh Ba, tiểu đội trưởng đi dò thám mặt trận địch
mà bò cả cây số, đến gần, địch bắn ra. Anh Ba bị thương cánh tay nhưng vẫn tiếp
tục bò gần nữa, liệng một quả lựu đạn chùy, năm tên địch ngã ra, Anh Ba mới bò
về. Vết thương khá nặng nhưng Anh Ba không chịu đi bệnh viện. Anh nói: Tay trái
bị thương nhưng tay phải của tôi vẫn bắn được”. (Hồ Chí Minh, “Cũng Là
Một Mặt Trận”, Tuyển Tập Văn Hóa Nghệ Thuật, nhà xuất bản Văn Học 1999).
From: DINH LE <dinhle975@msn.com>
To:
Sent: Monday, May 14, 2012 11:52 AM
Subject: FW: HUẾ ( bài viết quá bất ngờ của Nguyễn Nhân Trí)
NGƯỜI TA CÓ THỂ GIAN DỐI HAY DỞ THÓI LƯU MANH ...VỚI TẤT CẢ MỌI NGƯỜI, NHƯNG KHÔNG MỘT AI CÓ THỂ GIAN DỐI VÀ LƯU MANH VỚI CHÍNH BẢN THÂN MÌNH! GẬY ÔNG ĐÃ, ĐANG VÀ SẼ ..... ĐẬP VÀO ĐẦU ÔNG......
Đôi giòng: Đọc bài viết của Nguyễn
Nhân Trí mà vẫn chưa hết bàng hoàng. Không lẽ tới giờ phút này những kẻ
nắm quyền ở VN vẫn cả gan đổi trắng thay đen đến như vậy?!!!
Huế
Cách đây không lâu tôi có dịp đi Việt Namvà ghé ngang Huế vài hôm dưới tư cách một du khách.
Đã mấy mươi năm rồi tôi mới trở lại Huế. Huế vẫn còn cái vẻ
đẹp êm đềm của sông Hương núi Ngự như tôi đã từng biết. Dân cư, đường
phố, chợ búa, nhà cửa tuy có đông đúc, nhộn nhịp hơn nhiều nhưng tôi vẫn
còn nhận ra cái Huế cũ trong đầu của tôi.
Và dĩ nhiên khi đến Huế thì tôi phải đi thăm viếng những cung
điện và lăng tẩm. Vì không quen thuộc đường đi nước bước nên tôi quyết
định mướn một chiếc xe riêng và một nhân viên hướng dẫn tại Trung Tâm Du
Lịch Thành Phố để cùng đi với tôi đến các địa điểm trên.
Người hướng dẫn cho tôi là một cô gái lanh lợi hoạt bát
khoảng 25, 26 tuổi. Cô làm việc rất tận tình và vui vẻ. Tôi nhận thấy cô
có một kiến thức khá vững chắc về lịch sử triều Nguyễn cũng như nhiều
thắng cảnh ở Huế.
Qua vài câu chuyện trao đổi, tôi cũng được biết thêm là tất
cả các nhân viên hướng dẫn du lịch của thành phố như cô đều phải tốt
nghiệp một khóa học về lịch sử và chính trị rất kỹ lưỡng. Cô giải thích
đó là vì nhà nước biết rằng phần đông các du khách sử dụng hướng dẫn
viên là ngoại quốc và “Việt kiều”. Họ cần “bảo đảm chất lượng” của các
hướng dẫn viên để có thể “phục vụ tốt” cho du khách.
Đến khoảng giữa ngày thứ hai thì tôi đã xem qua hết những
cung điện và lăng tẩm mà tôi muốn thăm viếng. Vì tôi mướn anh tài xế
theo “ngày”, chớ không phải theo “giờ”, và vì còn khá sớm nên tôi có ý
nghĩ muốn tận dụng chiếc xe và cô hướng dẫn viên sẵn có để đi xem vài
chỗ khác trong phạm vi Huế mà tôi chưa hề đến bao giờ.
Một điều mà tôi thường liên tưởng đến mỗi khi nghĩ về Huế là Tết Mậu Thân.
Năm 1968, tôi còn nhỏ và đang sống ở Sài Gòn. Tuy nhiên cho
đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rất rõ những sự việc đã xảy ra lúc đó chung
quanh tôi. Tôi nhớ mồn một những cụm khói đen bao phủ bầu trời Chợ Lớn
từ các đám cháy nhà khủng khiếp trong thành phố. Tôi nhớ những người tản
cư nằm ngủ nheo nhóc trong hành lang của các nhà thương, nhà thờ và
chùa. Tôi nhớ những xác người chết nằm rải rác trên đường phố sình thối
cả tuần lễ không ai đụng đến.
Và vài tuần sau đó lúc tình hình đã tạm yên ổn trở lại, điều
tôi nhớ nhiều nhất là những tin tức xảy ra trên toàn quốc được chiếu
trên đài Truyền Hình ViệtNambăng tần số 9. Phần thời sự nổi bật, và có
lẽ ám ảnh tôi nhất là những tường thuật về các mồ chôn tập thể ở Huế.
Trên khung máy truyền hình 16 inch trắng đen, hình ảnh hàng trăm xác
người thối rữa được moi lên từ những bãi chôn tập thể trong các vùng quê
lân cận thành phố Huế gây ấn tượng mạnh mẽ lên trí óc non nớt của tôi.
Tôi nhớ tiếng than khóc, nét mặt đau đớn, ánh mắt tuyệt vọng
của những người lum khum đi vạch từng bao đựng xác người xếp hàng dài
trên đất để mong nhận diện được người thân của họ đã bị mất tích. Hàng
trăm xác người được tìm thấy dưới nhiều bãi chôn tập thể, hai tay bị
trói thúc ké bằng dây kẽm, xương sọ mang dấu đạn hay bị đập vỡ bằng báng
súng. Hàng chục bãi chôn tập thể dần dần tuần tự được phác giác trong
vài tháng sau khi quân đội đồng minh và Việt Nam Cộng Hòa giành lại được
Huế.
Khi đài truyền hình phỏng vấn gia đình của các nạn nhân, hầu như mọi người đều kể một câu chuyện rất tương tự nhau: Trong 4 tuần lễ mà những người tự xưng là Quân Đội Nhân Dân và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chiếm đóng Huế thì thân nhân của họ bị những người cầm quyền mới nầy kết án là “ác ôn” hay “có tội với nhân dân” và đã “được xử lý thích đáng”. Những người bị kết án đều là những giới chức trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và gia quyến của họ, những sĩ quan quân đội cũng như những người lính đang về nghỉ phép ở nhà, những nhân vật Công giáo được nhiều người biết đến và những người “làm tay sai cho Mỹ”.
“Xử lý thích đáng” có nghĩa là bị xử tử tại chỗ hay bị bắt dẫn đi và không bao giờ trở lại.
Sau nầy khi lớn hơn một chút, tôi có dịp quen biết và nói chuyện tận mặt với một vài người chính họ đã có thân nhân bị mất tích ở Huế hồi tết Mậu Thân. Những câu chuyện họ kể lại rất tương đồng với những gì mà tôi nhớ đã thấy trong các bài tường thuật trên truyền hình và báo chí lúc ấy. Một người bạn của tôi sau nầy kể lại chuyện ba của anh (một viên chức làm việc cho tòa hành chính Huế) đã lanh trí, và may mắn, nằm trốn luôn trên trần nhà suốt thời gian đó ngay từ giây phút biết rằng “Việt Cộng vào”.
Và mẹ anh đã phải liên tục đóng tuồng nói dối với những người đến nhà nhiều lần tìm ông rằng “ông ấy đã bỏ mẹ con tôi đi theo vợ bé ở Sài Gòn từ trước Tết rồi”. Anh ấy cũng kể lại rằng tất cả những đồng nghiệp với ba anh ấy ở trong cùng khu nhà gia đình công chức hành chính Huế đều bị bắt dẫn đi và giết chết.
Nói chung là trong vòng 4 tuần lễ Huế nằm trong quyền kiểm
soát của quân đội Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, những người
dân thuộc các diện kể trên bị truy lùng rốt ráo và giết chết. Thật ra
thì có một số không nhỏ cũng bị giết không phải vì “ác ôn” hay “có tội
với nhân dân” mà chỉ vì tư thù cá nhân. Hoàn cảnh tranh tối tranh sáng,
ai cầm một khẩu AK là cầm quyền sinh sát trong tay. Đây là dịp để trang
trải ân oán cũ với nhau.
Một số những người bị bắt bị dẫn ra đấu tố rồi xử bắn công khai tại chỗ. Đa số khác bị dẫn đi thủ tiêu mất tích. Người ta tìm thấy thi thể của những người bị dẫn đi mất tích nầy trong hơn 20 bãi chôn tập thể lớn nhỏ ở các vùng ngoại ô của Huế. Mỗi bãi là một hay nhiều hố cạn chứa từ 5, 7 cho đến hơn 400 xác người. Tổng cộng có đâu khoảng gần 7000 người đã bỏ mạng trong 4 tuần lễ đó.
Một trong những nơi tôi chưa bao giờ đến xem ở Huế, tuy đã có
nhiều lần suy nghĩ về, là các bãi chôn tập thể nầy. Tôi cũng không rõ
tại sao tôi có ý nghĩ muốn đến những nơi đó. Có lẽ tại vì đây là một
trong những diễn biến thê thảm nhất trong cuộc chiến tranh ViệtNam. Có
lẽ tôi chỉ muốn đến đứng trước cái không gian đó để cố cảm nhận những
khoảnh khắc mà sự sống của bao nhiêu con người đã bị tước đoạt một cách
vô nghĩa lý bởi đồng loại của họ. Có lẽ tôi chỉ muốn đối diện với những
cảm giác rùng rợn từ các hình ảnh kinh hãi trên khung kính TV đã ám ảnh
tôi mấy mươi năm trước.
Tôi biết rằng cuộc thảm sát Tết Mậu Thân đã xảy ra gần nửa thế kỷ rồi. Đây là một khoảng thời gian dài đủ để thay đổi rất nhiều thứ. Cảnh vật chắc đã khác hẳn đi rồi. Có thể không còn mấy ai nhớ đến việc nầy nữa chớ nói chi có ai còn biết địa điểm của các mồ chôn tập thể đó. Và nhất là các thế hệ trẻ sau ngày miền nam thất thủ, chẳng hạn như cô hướng dẫn viên nầy của tôi.
Tuy vậy tôi vẫn còn một chút hy vọng. Tôi biết rằng người
ViệtNam, nhất là dân quê, thường có tục thờ cúng cô hồn, nhất là những
cô hồn chết oan ức. Thế thì một cuộc thảm sát như hồi Tết Mậu Thân chắc
sẽ còn đôi chút dấu tích như một vài miếu thờ sót lại đâu đó. Và từ ấy
chắc sẽ có người vẫn chưa quên lịch sử của các miếu thờ nầy. Có thể cô
hướng dẫn viên của tôi đã có lần nào đó nghe người lớn tuổi trong gia
đình kể lại về chuyện nầy chăng? Có thể cô biết chỗ để dẫn tôi đến đó
chăng?
Tôi hỏi: “Cô có biết chỗ những mồ chôn tập thể hồi Tết Mậu Thân năm 1968 không? Tôi muốn đi đến đó xem.”
Cô trả lời: “Dạ cháu có nghe nói. Nhưng ở cách đây xa lắm.” Rồi cô nói đến một địa danh hoàn toàn xa lạ đối với tôi.
Tôi muốn biết chắc là cô hiểu tôi đang nói về điều gì nên hỏi thêm: “Cô biết gì về những mồ chôn tập thể nầy?”
Cô giải thích: “Cháu biết chứ. Đó là nơi mà hồi Tết năm 1968 nhiều người đã bị Mỹ Ngụy giết chết và chôn ở đấy.”
Tôi sựng lại, quay qua nhìn cô ấy. Câu trả lời trên của cô hoàn toàn nằm ngoài dự đoán của tôi. Tôi hỏi lại: “Ai bị ai giết?”
Cô ấy nhướng mắt trả lời một cách thông thạo: “Thì chú biết mà, hồi Tết năm ấy lính Mỹ và lính Ngụy vào đây giết chết rất nhiều thường dân và cán bộ rồi đem chôn họ ở mấy chỗ đó.” Nét mặt cô thản nhiên, không có dấu hiệu gì cho thấy cô đang không trả lời tôi một cách thành thật nhất.
Tôi hỏi lại một cách dè dặt: “Làm sao cô biết rõ là lính Mỹ Ngụy đã giết thường dân và cán bộ rồi chôn họ ở đó?”
Cô mĩm cười, có lẽ vì sự ngớ ngẩn trong câu hỏi của tôi: “Thì cháu đã học rõ ràng như thế mà. Không những ở trường học hồi nhỏ mà khóa đào tạo hướng dẫn du lịch của cháu cũng có dạy rất đầy đủ. Lúc đó lính Mỹ Ngụy vào bắn giết rất nhiều dân và cán bộ rồi đem chôn họ tập thể. Ai cũng biết điều đó cả.”
Tôi lặng người đi vài giây. Tôi không quên rằng một sở trường nổi tiếng của các chế độ cộng sản là tẩy não toàn bộ từ già đến trẻ. Tôi cũng không quên mình chỉ là một du khách (và tệ hơn nữa, chỉ là một “Việt kiều”) đang ở trong một lãnh thổ nằm dưới một chính quyền cộng sản. Tôi quyết định không tra gạn thêm về vấn đề nầy nữa vì chỉ vô ích mà thôi. Cô gái ấy đã giải thích rất rõ ràng: trường học đã dạy như vậy, khóa đào tạo cũng đã dạy như vậy, ai cũng biết điều đó. Từ ngày sinh ra (mấy chục năm sau khi diễn biến đó xảy ra) cô đã được dạy bảo như vậy. Không có lý do gì cô nghi ngờ điều đó. Không có lý do gì tôi có thể làm thay đổi sự hiểu biết đó của cô.
Hôm ấy tôi không nhờ cô hướng dẫn viên dẫn đến những chỗ chôn
tập thể ấy. Một phần vì khi hỏi thêm vào chi tiết, tôi nhận thấy cô
thật ra không biết rõ chính xác các địa điểm đó ở đâu. Một phần vì tự
nhiên tôi cảm thấy “cụt hứng”. Hay nói đúng ra là tôi cảm thấy thất vọng
một cách bất ngờ và gần như là vô lý do.
Tôi vẫn biết lịch sử là sản phẩm của kẻ chiến thắng. Tuy vậy
khi nghe cô hướng dẫn viên giải thích về lịch sử của các mồ chôn tập thể
thì tôi không khỏi bực bội trong lòng. Dĩ nhiên là tôi không để lộ điều
nầy ra cho cô ấy biết. Việc đó không cần thiết và không có lợi cho tôi.
Tôi chỉ quyết định không đi tiếp nữa và trở về khách sạn sớm hơn dự
định.
.Một câu chuyện dù là phản sự thật và vô lý đến đâu nhưng nếu
những người nắm quyền lập đi lập lại đủ nhiều lần, và nếu không ai được
phép phản đối, thì câu chuyện đó dần dần sẽ được công nhận là “đúng” và
“thật”. Tuy đã không liên quan đến vấn đề nầy trực tiếp, chính tôi đã
mắt thấy tai nghe những dữ kiện rõ rệt đủ để kết luận ai đã gây ra các
vụ thảm sát đó ở Huế. Chỉ cần nhìn vào 2 điều sau đây: 1/ Việt Cộng
chiếm giữ Huế 4 tuần, ngay sau khi quân đội VNCH giành lại Huế thì người
ta tìm ra các mồ chôn tập thể đầy xác chết đã thối rữa nhiều ngày; 2/
Những người bị giết đều là nhân viên quan chức đương thời của VNCH, thân
nhân của họ đã nhận diện ra xác chồng, cha, anh, em của họ. Chỉ hai
điều trên cũng đã đủ cho thấy quân đội Mỹ và VNCH không thể nào là thủ
phạm của các vụ tàn sát trên.
Câu chuyện “hồi Tết Mậu Thân quân đội Mỹ Ngụy vào Huế tàn sát
nhiều người dân và cán bộ rồi chôn họ trong những hố tập thể” đã được
tạo dựng lên và giảng dạy một cách có hệ thống cho những người Huế trẻ,
nhất là những người cần thiết. Tôi nhớ lời cô gái hướng dẫn viên du lịch
của tôi đã nói:
họ phải “học lịch sử và chính trị kỹ lưỡng” vì họ giao dịch với “du khách ngoại quốc và Việt kiều”.
Câu chuyện trên đã trở thành một kiến thức của thế hệ trẻ và sẽ được truyền bá cho mọi người khác mãi mãi về sau. Những nhân chứng của cuộc thảm sát đó đã mấy mươi năm nay không thể và không dám lên tiếng cải chính. Chỉ cần vài mươi năm nữa thì những nhân chứng nầy sẽ dần dần chết mất cả. Câu chuyện thật sự xảy ra như thế nào cũng sẽ chết theo với họ và không còn ai bao giờ biết đến nữa cả.
Chuyến đi thăm Huế của tôi nói chung là mang đến nhiều kỷ niệm đẹp.
Trừ việc kể trên.
TIN BIỂN ĐÔNG
Bài đăng : Thứ bảy 02 Tháng Sáu 2012 -
Sửa đổi lần cuối Thứ bảy 02 Tháng Sáu 2012
Mỹ sẽ chuyển phần lớn lực lượng hải quân qua vùng Thái Bình Dương
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta tại cuộc Đối thoại Shangri-La ở Singapore (Reuters)
Từ tỷ lệ đồng đều - một nửa cho Thái Bình Dương và một nửa
cho Đại Tây Dương - như hiện nay, trong thời gian từ giờ cho đến năm
2020, 60% hạm đội Mỹ sẽ được bố trí tại vùng Thái Bình Dương. Trên đây
là nội dung tuyên bố vào hôm nay, 02/06/2012, của Bộ trưởng Quốc phòng
Mỹ Leon Panetta, trong bài phát biểu tại cuộc Đối thoại Shangri-La ở
Singapore, diễn đàn an ninh và quốc phòng thường niên của vùng châu Á
Thái Bình Dương.
Trước các lãnh đạo quốc phòng và quân sự cao cấp đại diện cho
28 quốc gia tham dự hội nghị, người đứng đầu Lầu Năm Góc xác định là
quyết định triển khai thêm lực lượng qua vùng Thái Bình Dương, kèm theo
với việc mở rộng mạng lưới các quan hệ đối tác quân sự, là một phần
trong các nỗ lực « đều đặn và kiên quyết » của Hoa Kỳ nhằm củng cố vai
trò của mình trong một khu vực được đánh giá là quan trọng đối với tương
lai của nước Mỹ.
Một cách chi tiết, ông Panetta cho biết là lực lượng Hải quân Mỹ ở vùng Thái Bình Dương sắp tới đây sẽ bao gồm sáu tàu sân bay, phần lớn các tàu tuần dương, tàu khu trục, tàu cận chiến duyên hải, và tàu ngầm. Hải quân Mỹ hiện thời có một hạm đội gồm 285 tàu, mà khoảng một nửa được giao nhiệm vụ hoạt động tại Thái Bình Dương.
Hoa Kỳ cũng đã lên kế hoạch để mở rộng các cuộc tập trận trong vùng, và xúc tiến những chuyến ghé cảng hữu nghị của Hải quân Mỹ trong một khu vực rộng lớn hơn hiện nay, trải dài đến tận Ấn Độ Dương.
Kể từ khi Tổng thống Barack Obama loan báo chiến lược châu Á mới của Mỹ vào tháng Giêng vừa qua, Lầu Năm Góc chưa cho biết nhiều chi tiết về việc thực hiện kế hoạch này. Theo hãng tin Pháp AFP, thông báo hôm nay về tương lai của hạm đội Mỹ là dấu hiệu rõ ràng nhất về sự chuyển hướng qua châu Á đó. Bài diễn văn của ông Panetta có thể được xem là nhằm trấn an các đồng minh của Mỹ trong vùng, cho thấy là Washington đang cụ thể hóa chiến lược mới bằng những hành động thực tế.
Mối lo ngại của các đồng minh và đối tác của Hoa Kỳ ở châu Á là liệu Washington có đủ phương tiện tài chánh để thực hiện chiến lược mới của mình hay không, trong bối cảnh ngân sách quốc phòng Mỹ bị buộc phải cắt giảm như hiện nay. Trong bài phát biểu của mình, Bộ trưởng Quốc phòng Panetta cho là khủng hoảng ngân sách ở Washington sẽ không ảnh hưởng đến kế hoạch hướng về châu Á của quân đội Hoa Kỳ.
Theo ông, nước Mỹ đang dự trù đầu tư thêm vào các loại phương tiện cần phải có để nâng cao năng lực tung nhanh các lực lượng hùng hậu đến hiện trường, cũng như tăng cường khả năng tác chiến tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trong số các phương tiện này có « các loại chiến đầu cơ tàng hình, tránh được radar, một loại oanh tạc cơ đường trường, các vũ khí dùng trong chiến tranh điện tử và các hệ thống phòng thủ tên lửa. »
Trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ-Trung ngày càng rõ nét, trong những cuộc trao đổi riêng tư, các quan chức Mỹ thừa nhận là việc tăng cường sự hiện diện quân sự của Mỹ tại châu Á có mục tiêu củng cố thêm cho ngành ngoại giao Mỹ khi phải đối mặt với thái độ quyết đoán của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Tuy nhiên, trong diễn văn của mình vào hôm nay, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã nhấn mạnh là việc Hoa Kỳ đổi mới chiến lược hoàn toàn không phải là nhằm thách thức Trung Quốc. Theo ông cả hai nước đều có lợi trong việc thúc đẩy an ninh và thương mại trong khu vực.
Một cách chi tiết, ông Panetta cho biết là lực lượng Hải quân Mỹ ở vùng Thái Bình Dương sắp tới đây sẽ bao gồm sáu tàu sân bay, phần lớn các tàu tuần dương, tàu khu trục, tàu cận chiến duyên hải, và tàu ngầm. Hải quân Mỹ hiện thời có một hạm đội gồm 285 tàu, mà khoảng một nửa được giao nhiệm vụ hoạt động tại Thái Bình Dương.
Hoa Kỳ cũng đã lên kế hoạch để mở rộng các cuộc tập trận trong vùng, và xúc tiến những chuyến ghé cảng hữu nghị của Hải quân Mỹ trong một khu vực rộng lớn hơn hiện nay, trải dài đến tận Ấn Độ Dương.
Kể từ khi Tổng thống Barack Obama loan báo chiến lược châu Á mới của Mỹ vào tháng Giêng vừa qua, Lầu Năm Góc chưa cho biết nhiều chi tiết về việc thực hiện kế hoạch này. Theo hãng tin Pháp AFP, thông báo hôm nay về tương lai của hạm đội Mỹ là dấu hiệu rõ ràng nhất về sự chuyển hướng qua châu Á đó. Bài diễn văn của ông Panetta có thể được xem là nhằm trấn an các đồng minh của Mỹ trong vùng, cho thấy là Washington đang cụ thể hóa chiến lược mới bằng những hành động thực tế.
Mối lo ngại của các đồng minh và đối tác của Hoa Kỳ ở châu Á là liệu Washington có đủ phương tiện tài chánh để thực hiện chiến lược mới của mình hay không, trong bối cảnh ngân sách quốc phòng Mỹ bị buộc phải cắt giảm như hiện nay. Trong bài phát biểu của mình, Bộ trưởng Quốc phòng Panetta cho là khủng hoảng ngân sách ở Washington sẽ không ảnh hưởng đến kế hoạch hướng về châu Á của quân đội Hoa Kỳ.
Theo ông, nước Mỹ đang dự trù đầu tư thêm vào các loại phương tiện cần phải có để nâng cao năng lực tung nhanh các lực lượng hùng hậu đến hiện trường, cũng như tăng cường khả năng tác chiến tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trong số các phương tiện này có « các loại chiến đầu cơ tàng hình, tránh được radar, một loại oanh tạc cơ đường trường, các vũ khí dùng trong chiến tranh điện tử và các hệ thống phòng thủ tên lửa. »
Trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ-Trung ngày càng rõ nét, trong những cuộc trao đổi riêng tư, các quan chức Mỹ thừa nhận là việc tăng cường sự hiện diện quân sự của Mỹ tại châu Á có mục tiêu củng cố thêm cho ngành ngoại giao Mỹ khi phải đối mặt với thái độ quyết đoán của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Tuy nhiên, trong diễn văn của mình vào hôm nay, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã nhấn mạnh là việc Hoa Kỳ đổi mới chiến lược hoàn toàn không phải là nhằm thách thức Trung Quốc. Theo ông cả hai nước đều có lợi trong việc thúc đẩy an ninh và thương mại trong khu vực.
Chiến lược châu Á mới của Mỹ : Tăng cường hiện diện quân sự nhưng không có căn cứ thường trực
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta nói chuyện tại Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương, Honolulu, Hawai, 31/05/2012
REUTERS
Trên đường từ Hawaii đến Singapore vào hôm nay, 01/06/2012,
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Leon Panetta đã tiết lộ một số đường nét
chính trong kế hoạch củng cố sự hiện diện quân sự của Mỹ trong khu vực
châu Á-Thái Bình Dương.
Phát biểu với các nhà báo tháp tùng theo ông, Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ xác định là sự tăng cường tiềm lực quân sự này sẽ được tiến
hành thông qua các liên minh thay vì dựa vào các căn cứ thường trực mới.
Theo nhận định của ông Panetta, chiến lược mới của Mỹ tập trung vào châu Á sẽ được cụ thể thể hóa bằng việc quân đội Mỹ hiện diện hùng hậu hơn trong vùng trong một thập kỷ tới đây. Đi kèm theo lực lượng đó là các loại vũ khí và trang thiết bị tối tân nhằm nâng cao năng lực chuyển quân nhanh chóng đến những nơi cần thiết.
Theo nhận định của ông Panetta, chiến lược mới của Mỹ tập trung vào châu Á sẽ được cụ thể thể hóa bằng việc quân đội Mỹ hiện diện hùng hậu hơn trong vùng trong một thập kỷ tới đây. Đi kèm theo lực lượng đó là các loại vũ khí và trang thiết bị tối tân nhằm nâng cao năng lực chuyển quân nhanh chóng đến những nơi cần thiết.
Chiến lược chung của Lầu Năm Góc, theo Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ là trải rộng “dấu chân”
của quân đội Mỹ trong vùng Đông Nam Á, và thậm chí ra cả ngoài khu vực
này. Tuy nhiên, kế hoạch sẽ được thực hiện trong khuôn khổ phối hợp với
các đồng minh và các đối tác mà không cần xây dựng các tiền đồn thường
trực mới.
Ông nói : " Chúng ta đang thực hiện một chiến lược rất mới trong
khu vực này. Chúng ta đang rời bỏ chiến lược thời Chiến tranh Lạnh - tức
là xây dựng các căn cứ cố định, lâu dài – mà về cơ bản, chỉ tìm cách
khẳng định uy lực của chúng ta trên khu vực mà thôi ".
Bộ trưởng Panetta giải thích thêm, thay vì thiết lập các căn cứ đồ
sộ, lực lượng Mỹ - bao gồm cả tàu hải quân, phi cơ và quân lính sẽ chỉ
được triển khai tại chỗ trong những nhiệm vụ tạm thời như huấn luyện,
tập trận và tham gia chiến dịch chung với các nước đối tác. Các quốc gia
này sẽ cho phép quân đội Mỹ sử dụng bến cảng, sân bay cũng như các
phương tiện khác.
Đối với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, thì Hoa Kỳ đang hướng tới một hình
thức quan hệ rất sáng tạo khi thúc đẩy các chiến dịch luân phiên triển
khai lực lượng. Hình thức này còn mang lại cho Washington hai mối lợi :
Một là ít tốn kém hơn việc thành lập căn cứ cố định, và hai là không bị
dân chúng tại chỗ chống đối như điều từng xẩy ra với căn cứ Okinawa tại
Nhật Bản chẳng hạn.
Ông Panetta đã nêu bật một ví dụ về việc tiến hành chiến lược mới
này. Đó là kế hoạch triển khai 2.500 lính thủy quân lục chiến ở miền bắc
nước Úc theo một thỏa thuận mới, ký kết với Canberra. Theo Bộ trưởng
Mỹ, kế hoạch tại Úc chỉ là bước đầu thử nghiệm chiến lược mới, và quân
đội Mỹ đang xem xét để áp dụng hình thức này tại Philippines và những
nơi khác.
Theo người đứng đầu Lầu Năm Góc, sự hiện diện quân sự của Mỹ tại vùng
Thái Bình Dương vốn đã hùng hậu, nhưng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tăng cường và
củng cố uy lực này trong vòng từ 5 đến 10 năm tới đây.
Việc Hoa Kỳ chuyển hướng đặt trọng tâm vào châu Á được giới quan sát
là nhằm đối phó với đà vươn lên về kinh tế và quân sự của Trung Quốc.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ một lần nữa nhấn mạnh rằng mục tiêu
của Washington hoàn toàn không phải là ngăn chặn Trung Quốc.
tags: Châu Á - Hoa Kỳ (Mỹ) - Phân tích - Quân sự - Quốc tế
Bắc Kinh tỏ ý gay gắt trước việc Mỹ sẽ dồn Hải quân qua Thái Bình Dương
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta (AFP)
Ngay sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ loan báo tại Singapore
về quyết định triển khai 60% hạm đội Hoa Kỳ tại vùng Thái Bình Dương,
hôm nay Trung Quốc đã lập tức có phản ứng gay gắt và nêu đích danh vấn
đề Biển Đông. Trong một bài xã luận, Tân Hoa xã đã khuyến cáo Mỹ là
"Không nên làm Biển Đông dậy sóng".
Theo các nhà phân tích, khi nêu bật tại Singapore các bước đi
sắp tới đây của Hoa Kỳ nhằm tăng cường sự hiện diện quân sự trong vùng
Thái Bình Dương, bộ trưởng Quốc phòng Mỹ cũng cho thấy rõ là Washington
sẽ chống lại mọi cố gắng của Bắc Kinh muốn đơn phương áp đặt đòi hỏi chủ
quyền của Trung Quốc tại vùng Biển Đông, nơi họ đang tranh chấp với
Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan.
Theo ông Panetta, các tranh chấp cần phải được giải quyết thông qua
đàm phán giữa tất cả các nước có liên can, và dựa trên cơ sở luật pháp
quốc tế.
Chỉ ít lâu sau tuyên bố kể trên, hãng tin Trung Quốc Tân Hoa Xã,
trong một bài xã luận, đã cảnh cáo Mỹ là không nên làm Biển Đông dậy
sóng. Với giọng điệu gay gắt, cơ quan thông tấn chính thức của Trung
Quốc đã khuyên « một số người nào đó là nên tránh khuấy động nước bùn để
thả câu ».
Bài báo đã không ngần ngại cho rằng chính một số nước có tranh chấp
với Trung Quốc về chủ quyền tại vùng Biển Đông đã cố tình gây ra căng
thẳng trong vùng. Bài viết khẳng định : « Liên quan đến các mối căng
thẳng tại vùng biển Nam Hải (tức là Biển Đông), chính một số nước có đòi
hỏi chủ quyền, không rõ là đã trở nên bạo dạn hơn vì lập trường mới của
Mỹ hay không, đã châm lửa rồi thổi cho lửa bùng lên ».
Ngược lại, cũng theo tờ báo, « mong muốn chân thật » của Bắc Kinh là
biến Biển Đông thành một vùng biển « hòa bình, hữu nghị và hợp tác ».
Hiện nay, Trung Quốc là nước tự nhận chủ quyền trên hầu như toàn bộ
Biển Đông, bất chấp đòi hỏi của các láng giềng. Trong thời gian qua,
chính Trung Quốc là nước thường xuyên có những hành động lấn lướt các
láng giềng, mà gần đây nhất là vụ đưa cả chục chiếc tàu đến trấn tại khu
vực bãi đá ngầm Scarborough nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý
của Philippines.
Chiến lược quốc phòng Mỹ ở châu Á-Thái bình dương
CỠ CHỮ
01.06.2012
Bộ trưởng Quốc
phòng Hoa Kỳ Leon Panetta đã bắt đầu chuyến công du 9 ngày đến châu Á –
Thái Bình Dương để thúc đẩy cho các kế hoạch của chính quyền Tổng thống
Obama chuyển trọng tâm chính về quân sự qua khu vực này.
Ông Panetta sẽ đọc bài phát biểu quan trọng tại hội nghị an ninh châu Á thường niên diễn ra tại Singapore ngày mai, phác thảo các kế hoạch của Washington nhằm tăng cường quân số và thiết bị quân sự của Hoa Kỳ trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Trong chặng dừng tại Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Hoa Kỳ tại Hawaii hôm qua, ông Panetta nói rằng bất chấp các cắt giảm ngân sách có thể phải thực hiện, lực lượng quân sự của Hoa Kỳ cần phải linh hoạt hơn để có thể đối phó với nhiều thách thức của thế kỷ 21.
Lịch trình chuyến công du của Bộ trưởng Panetta còn bao gồm chuyến thăm đến Việt Nam và Ấn Ðộ. http://www.voatiengviet.com/content/article/1146058.html
Ông Panetta sẽ đọc bài phát biểu quan trọng tại hội nghị an ninh châu Á thường niên diễn ra tại Singapore ngày mai, phác thảo các kế hoạch của Washington nhằm tăng cường quân số và thiết bị quân sự của Hoa Kỳ trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Trong chặng dừng tại Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Hoa Kỳ tại Hawaii hôm qua, ông Panetta nói rằng bất chấp các cắt giảm ngân sách có thể phải thực hiện, lực lượng quân sự của Hoa Kỳ cần phải linh hoạt hơn để có thể đối phó với nhiều thách thức của thế kỷ 21.
Lịch trình chuyến công du của Bộ trưởng Panetta còn bao gồm chuyến thăm đến Việt Nam và Ấn Ðộ. http://www.voatiengviet.com/content/article/1146058.html
Vì sao Mỹ 'chuyển hướng' sang châu Á?
Cập nhật: 15:28 GMT - thứ bảy, 2 tháng 6, 2012
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon
Panetta nói nước này đang có kế hoạch điều chuyển phần lớn các chiến hạm
của mình tới khu vực châu Á-Thái Bình Dương vào năm 2020.
Ông Panetta nói tới năm 2020, khoảng 60% hạm đội
của Mỹ sẽ được triển khai ở đây, trong một dấu hiệu rõ ràng nhất về
chiến lược mới của Mỹ ở châu Á.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Bắc Kinh đã tỏ ra không hài lòng với việc Hoa Kỳ thúc đẩy sự hiện diện của mình ở khu vực.
Tháng Mười Một năm ngoái, Tổng thống Barack Obama tuyên bố rằng khu vực châu Á-Thái Bình Dương là "ưu tiên hàng đầu" của chính sách an ninh của Mỹ.
Bình luận của ông được xem như là một thách thức đối với Trung Quốc, nước đang phấn đấu trở thành cường quốc chính ở khu vực.
"Đến năm 2020, hải quân sẽ điều chuyển lực lượng của mình từ tỷ lệ khoảng 50-50% của ngày hôm nay giữa Thái Bình Dương và Đại Tây Dương sang tỷ lệ 60-40 giữa hai đại dương", ông Panetta nói tại hội nghị Đối thoại thường niên Shangri-La.
"Điều chuyển này sẽ bao gồm sáu tàu sân bay trong khu vực này, đa số các tàu tuần dương của chúng tôi, các tàu khu trục, tàu chiến và tàu ngầm."
"Thật vậy, gia tăng tham gia của Mỹ trong khu vực này sẽ có lợi cho Trung Quốc vì nó nâng cao an ninh và sự thịnh vượng chung của chúng ta cho tương lai"
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta
Ông nói các vấn đề về ngân sách và cắt giảm sẽ không chặn bước các thay đổi, và nói thêm rằng rằng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã có kinh phí trong kế hoạch ngân sách năm năm để đạt được các mục tiêu của mình.
"Sẽ phải mất nhiều năm để các khái niệm và nhiều công việc mà chúng tôi đang đầu tư được thực hiện đầy đủ," ông nói.
"Nhưng không mắc sai lầm, bước đi một cách chắc chắn, quả quyết và bền vũng, quân lực Hoa Kỳ đang tái cân bằng và mang lại cho khu vực quan trọng này những khả năng được nâng cao, tăng cường."
Trung Quốc có các tranh chấp lãnh thổ lâu dài với các đồng minh của Mỹ, bao gồm Philippines, trên các nhóm đảo ở Biển Đông (hay Biển Nam Trung Hoa).
Trong những năm gần đây, Bắc Kinh trở nên quả quyết hơn về vấn đề này.
Kích thích
Sự tăng cường hiện diện của Mỹ trong khu vực do đó có thể khuyến khích các quốc gia khác và làm Bắc Kinh bị kích thích.
Ông Panetta đã phủ nhận bất kỳ căng thẳng nào có thể và nói ông đang chờ đợi thăm viếng Trung Quốc vào cuối năm nay.
"Một số người coi việc nhấn mạnh gia tăng của Hoa Kỳ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương như một loại thách thức nào đó đối với Trung Quốc," ông nói.
"Tôi bác bỏ quan điểm đó hoàn toàn. Nỗ lực của chúng tôi đổi mới và tăng cường sự tham gia của mình ở châu Á là hoàn toàn thích ứng với phát triển và tăng trưởng của Trung Quốc.
“Thật vậy, gia tăng tham gia của Mỹ trong khu vực này sẽ có lợi cho Trung Quốc vì nó nâng cao an ninh và sự thịnh vượng chung của chúng ta cho tương lai".
Hồi tháng Giêng, truyền thông nhà nước Trung Quốc cũng nói sự gia tăng hiện diện của Mỹ trong vùng có thể thúc đẩy sự ổn định và thịnh vượng.
Nhưng nó cũng cảnh báo Mỹ không nên "phô diễn sức mạnh của mình" và nói bất kỳ chủ nghĩa quân phiệt nào của Mỹ cũng có thể "gây nguy hiểm cho hòa bình".
Bộ trưởng Panetta hiện đang trên đường thực hiện một chuyến công du dài chín ngày tại châu Á, trong đó bao gồm các chuyến thăm Việt Nam và Ấn Độ.
Phóng viên của BBC Jonathan Marcus có mặt tại Hội nghị ở Singapore cho biết thêm rằng bên cạnh động thái chuyển hướng chiến lược, Mỹ còn đang cố gắng đưa ra một cơ chế mới điều tiết các xung đột trong khu vực dựa trên các quy tắc.
Tuy nhiên, ông cũng cho rằng không chắc việc tăng cường hiện diện, cùng với tiếp cận mới về cơ chế điều tiết xung đột trên ở Biển Đông và khu vực có thể sẽ được Bắc Kinh hoàn toàn chào đón.
Hoa Kỳ 'tái cân bằng' quyền lực ở khu vực
Hồng Nga
BBCVietnamese.com, Singapore
Cập nhật: 05:08 GMT - thứ bảy, 2 tháng 6, 2012
Bộ trưởng Quốc phòng
Hoa Kỳ Leon Panetta đã hé mở những chi tiết đầu tiên trong
chiến lược chuyển dịch trọng tâm về hướng châu Á-Thái Bình
Dương.
Đối diện sự cắt giảm mạnh về ngân sách,
Mỹ buộc phải tìm cách đưa ra một chiến lược quốc phòng mới
nhằm duy trì ảnh hưởng với tư cách cường quốc của mình trên
thế giới.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Ông bộ trưởng tái khẳng định điều mà người tiền nhiệm của ông, Bộ trưởng Robert Gates, từng nói cũng tại nơi này cách đây đúng một năm: "Hoa Kỳ là cường quốc Thái Bình Dương".
Tuy nhiên ông nói: "Có ý kiến cho rằng việc chuyển dịch trọng tâm này là nhằm thách thức Trung Quốc. Tôi hoàn toàn bác bỏ quan điểm này".
Di chuyển hải quân
Điểm mới đầu tiên trong chiến lược 'tái cân bằng' của Mỹ là dịch chuyển phần lớn tàu chiến và lực lượng hải quân tới khu vực Thái Bình Dương trước năm 2020.Ông Panetta nói: "Tới năm 2020, Hải quân Mỹ sẽ chuyển dịch cán cân lực lượng ở Thái Bình Dương và Đại Tây Dương thành 60-40 thay vì 50-50 hiện nay".
Tới lúc đó, Mỹ sẽ đặt ở Thái Bình Dương sáu hàng không mẫu hạm, đa số khu trục hạm và tuần dương hạm, các tàu thân cạn và tàu ngầm.
Chiến lược tái cân bằng của Mỹ
- Hiện tại Mỹ có 285 chiến hạm các loại, phân bổ 50-50 giữa Thái Bình Dương và Đại Tây Dương
- Tới 2020, tương quan sẽ là 60-40 nghiêng về Thái Bình Dương
- Mỹ sẽ đặt ở Thái Bình Dương sáu hàng không mẫu hạm, đa số khu trục hạm và tuần dương hạm, các tàu thân cạn và tàu ngầm.
- Mỹ cũng sẽ đưa vào nhiều chiến đấu cơ tránh radar đời mới, máy bay ném bom tầm xa và tên lửa phòng thủ...
- Tăng cường tập trận, thăm hải cảng và mạng lưới đối tác trong khu vực
Bộ Quốc phòng Mỹ cho hay hiện nước này có tổng cộng 285 tàu chiến các loại, khoảng một nửa đặt tại Thái Bình Dương.
Ngoài con số chiến hạm, Hoa Kỳ còn muốn tăng thêm số các cuộc tập trận, thăm hải cảng các nước và quan trọng nhất, là phát triển mạng lưới đối tác trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Năm ngoái, Hoa Kỳ tham gia tổng cộng 172 cuộc tập trận lớn nhỏ với 24 quốc gia trong khu vực.
Tuy nhiên ông Panetta cảnh báo sẽ mất nhiều tháng và nhiều năm để thực hiện kế hoạch chuyển dịch trọng tâm về hướng châu Á -Thái Bình Dương.
Tranh chấp Biển Đông
Các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ không ít lần khẳng định tầm quan trọng của điều mà họ gọi là 'tự do hàng hải' trong khu vực Thái Bình Dương, trong đó có Biển Đông.Bộ trưởng Panetta thì nhận định rằng điều mà ông cho rằng có thể giúp duy trì hòa bình và ổn định tại khu vực biển nhiều biến động này, là Trung Quốc và các nước Asean đưa ra được một bộ Quy tắc Ứng xử (Coc) và tạo ra được một diễn đàn để các nước liên quan có thể cùng thảo luận giải quyết các bất đồng.
Ông bộ trưởng nói rõ Mỹ phản đối các hành động đơn phương của Bắc Kinh tại Biển Đông, và bất cứ tranh chấp nào, theo ông, cũng phải được giải quyết giữa các bên liên quan và dựa theo luật lệ quốc tế.
Quan điểm này một lần nữa được Thượng nghị sỹ Cộng hòa John McCain khẳng định khi nói chuyện với BBC sáng thứ Bảy.
Ông nói: "Hoa Kỳ cho rằng tranh chấp Biển Đông phải được giải quyết thông qua đàm phán đa phương, không qua đàm phán song phương".
Trong khi đó, tuy cho rằng Hoa Kỳ có thể trợ giúp quá trình tìm giải pháp Biển Đông dựa trên luật pháp quốc tế, Thượng nghị sỹ Joe Lieberman bày tỏ quan ngại trước việc Washington vẫn chưa tham gia Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (Unclos).
Ông nhận xét điều này khiến Mỹ "trông như một kẻ đạo đức giả" và nói ông hy vọng Mỹ sẽ thông qua Unclos vào cuối năm nay, "chắc là sau kỳ bầu cử tổng thống tháng 11".
Tokyo xem chính sách quốc phòng của Bắc Kinh là một mối đe dọa
Thứ trưởng Quốc phòng Nhật Shu Watanabe và bộ trưởng Quóc phòng Mỹ Leon Panetta (Reuters)
Tại diễn đàn an ninh Shangri-La ở Singapore, hầu như mọi quốc
gia đều nhìn Trung Quốc với cặp mắt cảnh giác. Thứ trưởng Quốc phòng
Nhật Shu Watanabe tuyên bố ngân sách quốc phòng của Trung Quốc mỗi năm
mỗi tăng là mối đe dọa cho đất nước Nhật Bản.
Hôm nay, trong phần phát biểu của Nhật Bản tại cuộc Đối thoại
Shangri-La, thứ trưởng quốc phòng Shu Watanabe nhấn mạnh là ngân sách
quân sự của Bắc Kinh đã tăng 11,2% trong năm ngoái, lên đến 106 tỷ đôla.
Ông thẩm định « sự gia tăng này, và những phương tiện và mục tiêu của
nó đều không minh bạch. Điều này là một mối đe dọa » cho Nhật Bản. Thứ
trưởng Quốc phòng Nhật nghĩ rằng đây mà mối ưu tư chung mà nhiều quốc
gia trong vùng lo ngại và chia sẻ.
Ấn Độ, qua lời tuyên bố của bộ trưởng Quốc phòng A.K.Anthony, cũng bày tỏ cùng mối quan ngại này đối với sức mạnh quân sự của Bắc Kinh. Ông nói là Ấn Độ « không nghĩ là đang có một cuộc chạy đua vũ trang, nhưng vì Trung Quốc tăng cường khả năng quân sự và chi phí quốc phòng nên chúng tôi cũng tăng cường phòng thủ ở biên giới để bảo vệ quyền lợi quốc gia ».
Cũng tại cuộc đối thoại an ninh khu vực, bộ trưởng Quốc phòng Úc Stephen Smith cũng bảo vệ chiến lược « tái định vị » của Hoa Kỳ tại châu Á Thái Bình dương. Theo bộ trưởng Quốc phòng Úc thì sự kiện Hoa Kỳ bố trí 2500 Thủy Quân Lục Chiến tại Darwin không gây bất ổn định mà ngược lại sự hiện diện của Mỹ là « yếu tố hòa bình và an ninh ».
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20120602-tokyo-xem-chinh-sach-quoc-phong-cua-bac-kinh-la-moi-de-doa
Ấn Độ, qua lời tuyên bố của bộ trưởng Quốc phòng A.K.Anthony, cũng bày tỏ cùng mối quan ngại này đối với sức mạnh quân sự của Bắc Kinh. Ông nói là Ấn Độ « không nghĩ là đang có một cuộc chạy đua vũ trang, nhưng vì Trung Quốc tăng cường khả năng quân sự và chi phí quốc phòng nên chúng tôi cũng tăng cường phòng thủ ở biên giới để bảo vệ quyền lợi quốc gia ».
Cũng tại cuộc đối thoại an ninh khu vực, bộ trưởng Quốc phòng Úc Stephen Smith cũng bảo vệ chiến lược « tái định vị » của Hoa Kỳ tại châu Á Thái Bình dương. Theo bộ trưởng Quốc phòng Úc thì sự kiện Hoa Kỳ bố trí 2500 Thủy Quân Lục Chiến tại Darwin không gây bất ổn định mà ngược lại sự hiện diện của Mỹ là « yếu tố hòa bình và an ninh ».
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20120602-tokyo-xem-chinh-sach-quoc-phong-cua-bac-kinh-la-moi-de-doa
CHU VIỆT * NGUYỄN NGỌC LOAN
Trả lại Sự thật cho Lịch sử: Ai bắn què chân con hùm xám Nguyễn Ngọc Loan?
Chu Viet
June 2, 20120 Bình Luận
June 2, 20120 Bình Luận
Ngẫm hay muôn sự tại
Trời
Nguyễn Du
Nguyễn Du
Cho đến nay các sử gia đều tin rằng tấm hình nổi tiếng một thời của Eddie Adams đã kết liễu cuộc đời binh nghiệp của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Không
sai, nhưng chỉ đúng một nửa. Chính nhiếp ảnh gia đoạt giải Pulitzer của
AP này đã viết trong tuần
báo TIME (1): “Ông tướng giết thằng Việt Cộng; tôi giết ông tướng bằng
máy chụp hình của tôi”. Đó là tấm hình chụp tướng Loan thản nhiên hành
quyết một tù binh cộng sản bị còng tay sau lưng, mặt mếu máo. Một hành
vi sát nhân ghê tởm gây chấn động toàn thế giới. Mặc dù sau đó Adams đã
thú nhận: “Người ta tin vào hình ảnh, nhưng hình ảnh cũng nói dối, cho
dù không có sửa đổi gì. Chúng chỉ là những nửa sự thật”. Dẫu vậy nhưng
nó cũng đã đánh dấu khúc ngoặt quan trọng của cuộc chiến: Dư luận phản
chiến nở rộ tại Hoa kỳ đã khiến Tổng thống Johnson mất niềm tin vào một
chiến thắng quân sự tại miền Nam Việt Nam. Và cuộc thương thảo với Bắc
Việt và Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam (MTGPMN) đã diễn ra sau đó dưới
triều đại
Nixon như giải pháp duy nhất đem lại hòa bình.
Đằng
sau tất cả những sự kiện lịch sử ấy là chuyển động âm thầm nhưng có ảnh
hưởng quyết định của tình báo chiến lược. Cơ quan CIA (Tình Báo Trung
Ương) Hoa kỳ và đối tác VNCH ở cấp cao đã phải đối mặt với những tình
huống gây ra mâu thuẫn trầm trọng giữa một bên là MACV (Bộ Tư Lệnh Quân
Sự Mỹ), CIA, Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và bên kia là Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và
Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia khi ấy do Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan
nắm giữ. Bối cảnh chung là cuộc tấn công bất ngờ của Việt Cộng – khi ấy
vẫn được báo chí Mỹ coi là MTGPMN, tách biệt với Cộng Sản Bắc Việt
(CSBV), một huyền tích chỉ được giải ảo sau 1975 – trong dịp hưu chiến
Tết Mậu Thân (tháng 1, 1968).
Nguyễn Ngọc Loan: Ông là Ai?
Tướng
Nguyễn Ngọc Loan, hỗn danh Sáu Lèo, sinh năm 1930 tại Huế. Chị cả của
ông, bà Bích Hồng, là phu nhân Đại tá Bác sĩ Văn Văn Của, nguyên Đô
trưởng thành phố Sài Gòn (1965-68) (2). Ông học trường Trung học Albert
Sarraut và đậu Tú tài Toán toàn phần rồi bị động viên Khóa 1 Sĩ quan Trừ
bị (Nam Định). Thiếu úy Loan theo học Trường Sĩ quan Không quân Pháp
Salon de Provence năm 1953 rồi thực tập hoa tiêu khu trục phản lực tại
căn cứ Meknes,
Maroc, trở thành phi công khu trục phản lực đầu tiên của Không lực
VNCH. Về nước, ông được bổ nhiệm Phi đoàn trưởng Phi đoàn 2 Quan sát.
Được thuộc cấp nể trọng nhưng ông không được các sĩ quan Cố vấn Hoa kỳ
ưa thích vì ông hay đả kích lề lối làm việc máy móc của họ.
Năm
1964, ông Loan thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm “Tư lệnh Phó Không
Quân VNCH” dưới quyền Tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ. Năm 1965, vinh
thăng Chuẩn tướng, ông tham dự chiến dịch không kích Bắc
Việt trong khu vực Đồng hới – Vĩ tuyến 17 (Bến Hải).
Những năm kế tiếp, tướng Loan được đề cử đảm nhiệm 3 chức vụ an ninh, tình báo quan yếu của VNCH:
- Đặc ủy trưởng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo
- Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và
- Cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội.
- Đặc ủy trưởng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo
- Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và
- Cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội.
Lòng
tận tụy với trách nhiệm nặng nề và tính “bất cần đời” của tướng Loan,
coi cái chết “như pha” tạo cho ông một cá tính gồ ghề, bề ngoài tưởng
như ngổ ngáo, hãnh tiến, nhưng
thật ra ông là con người đầy cảm tính và “cận nhân tình”, được cấp dưới
nể trọng và bạn hữu chí tình thương mến. Thỉnh thoảng gặp ông tại Phủ
Thủ Tướng (Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương – UBHPTƯ), ông cười nói xuề xòa,
moa moa, toa toa, miệng không ngớt chửi thề: đ.. cụ, đ.. cụ.
Tuy
nhiên, Định Mệnh dường như đã an bài cho ông một số phận khắc nghiệt.
Chỉ nội trong ngày 31 tháng 1 năm 1968, sự nghiệp của ông được kể như
chấm dứt vì một quyết định làm cho người Mỹ coi
ông là kẻ phản bội. Mặt khác, có thật là bức hình của Eddie Adams chụp
cảnh ông xử bắn tên đặc công Lém ở đường Ấn Quang ngày 4 tháng 2, 1968
mới là nguyên nhân chính? Sự thực không phải như vậy.
Hoa kỳ đi đêm với
MTGPMN
Kề
từ tháng 2 năm 1967, Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Sài Gòn đã có những tiếp xúc
sơ bộ với một số cán bộ cấp thấp thuộc MTGPMN. Sau đó,với sự trợ giúp
của Tình báo Hải ngoại Pháp (SDECE, Service de Documentation et de
Contre-Espionage), cộng đồng tình báo Mỹ ở Việt Nam đã bắt tay được với
những nhân vật trọng yếu của Cục R (Trung Ương Cục miền Nam) và MTGPMN
như: Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Dương Quỳnh Hoa, Trần Văn Trà,
Đồng Văn Cống, Trần Bửu Kiếm và Trần
Bạch Đằng, Cục trưởng Cục R (3).
Sau
việc hộ tống êm thắm vợ con Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng ra vùng
“giải phóng” an toàn, Sứ quán Hoa kỳ móc nối với Nguyễn Thị Bình (qua
trung gian LS Đinh Trịnh Chính, Bộ trưởng Chiêu Hồi, Dân Vận VNCH) toan
tính thành lập chính phủ “liên hiệp hòa giải dân tộc” với 2 thành phần:
MTGPMN và chính quyền VNCH.
Tất
cả những tiếp xúc “đi đêm” nói trên đều không lọt qua con mắt của tướng
Loan, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Tướng Loan ra lệnh cho S-6 (Cảnh
Sát Đặc Biệt) tống giam một số nhân vật MTGPMN khi ấy đang được Sứ quán
Hoa kỳ bảo vệ tại các “nhà an toàn” (safe house)
ở ven đô Sài Gòn và Tây Ninh. Sứ quán Hoa kỳ gây áp lực với tướng
Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch UBHPTƯ, phải thả lập tức các sứ giả MTGPMN và
yêu cầu các cơ quan an ninh VNCH không được phép xâm nhập các nhà an
toàn và những khu
vực dành riêng cho nhân viên ngoại giao Hoa kỳ trên khắp lãnh thổ VNCH.
Mặt
khác, Tổng thống Lyndon B. Johnson được Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker bảo
đảm rằng Sài Gòn là thủ đô an toàn và Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Saigon là khu
vực an ninh 100% không bao giờ bị tấn công vì đây sẽ là địa điểm mật đàm
đã được thỏa thuận giữa Hoa kỳ và MTGPMN.
Tòa Đại sứ Hoa kỳ rơi vào tay Đặc Công CSVN
Trong
trận mở màn Chiến dịch Tổng Tấn Công – Tổng Khởi
Nghĩa của CSVN, một biến cố ít ai biết đến, kể cả báo chí Mỹ, là Tòa ĐS
Hoa kỳ đường Thống Nhất đã rơi vào tay Đặc công CS ngay những phút đầu.
Đó là hậu quả của việc tướng Loan đã cho rút 2 trung đội Cảnh Sát Dã
Chiến bảo vệ bên ngoài TĐS Mỹ về tăng cường cho Dinh Độc Lập.
Diễn
tiến: Tổ C-10 gồm 18 tên đặc công CS thuộc Tiểu đoàn Đặc công 276 của
Đặc Khu Ủy Sài gòn – Chợ Lớn đã xuất phát lúc 1 giờ đêm 31 tháng 1, 1968
từ tiệm Phở Bình đường Yên Đổ, góc
Hai Bà Trưng, trên 1 xe van mầu trắng. Hai giờ sáng, xe dừng trước cửa
sau Tòa ĐS đường Mạc Đĩnh Chi lúc đó chỉ có một tiểu đội Quân Cảnh Mỹ
giữ an ninh phía trong. Bọn đặc công CS chia làm 6 mũi khai hỏa tấn
công. Chúng dùng bộc pha, B-40 và AK-47 báng xếp triệt hạ vọng gác của
Cảnh sát QG đặt giữa Lãnh sự và tòa nhà chính. Nhưng vọng gác này đã bỏ
trống từ chiều hôm trước cùng lúc với hai trung đội Cảnh Sát Dã Chiến,
theo lệnh của tướng Loan.
Hai
tên đặc công tấn công vào
cửa chính Tòa ĐS, tức thì bị QC Mỹ hạ sát. Sau đó QC Mỹ rút vào trong
và dùng radio cầu cứu. Hai tên đặc công khác dùng bộc pha phá thủng một
lỗ lớn tường rào góc đường Thống Nhất – Mạc Đĩnh Chi, giúp cho toàn bọn
C-10 tràn vào vườn hoa rồi tiến chiếm Lầu 1 và Lầu 2 trong khi QC Mỹ rút
lên Lầu 3 cố thủ. Lầu 2 Đại Sứ quán Mỹ là Tổng Hành Dinh Tình Báo Chiến
Lược của Hoa kỳ ở Đông Nam Á. Toàn bộ tài liệu mật mã “Tuyệt Mật” của CS
Bắc Việt mà Mỹ thủ đắc được
từ 1961, gồm hồ sơ chính sách, cương lĩnh, nghị quyết tấn công quân sự
miền Nam, cùng các tài liệu khác liên quan đến cuộc chiến, đều được lưu
trữ trong các tủ và két sắt Diebolt nặng trên 1 tấn (4). Bốn tên đặc
công CS cố thủ Lầu 2 ra sức cậy phá, tháo gỡ 6 ổ khóa của 12 két sắt
nhưng vô hiệu.
Mười
hai giờ khuya (12 giờ trưa Washington, D.C.), tại trụ sở CIA, Giám Đốc
Richard Helms đang khoản đãi ông William Colby, tân Giám đốc CORDS (5)
Việt Nam. Giữa tiệc, một thiếu tá tùy viên
hối hả xin gặp để trình một công điện Hỏa Tốc từ MACV: “Trụ sở CIA và
Sứ quán Hoa kỳ Saigon đã lọt vào tay đặc công MTGPMN từ 1 giờ sáng 31
tháng 1, 1968”. Cùng lúc, Tòa Bạch Ốc cũng nhận được công điện hỏa tốc:
“Saigon đang bị 5 tiểu đoàn địa phương MTGPMN tấn công ồ ạt. Tòa ĐS ở
trung tâm thủ đô thất thủ. Bộ Tư Lệnh MACV và Bộ TTM/QLVNCH tràn ngập
khói súng, chống trả yếu ớt vì bị bất ngờ”.
Giám đốc CIA Richard Helms đọc công điện 3 lần vẫn cả quyết với quan
khách: “Đây là những ‘điều giả tưởng’ không thể nào có thể xẩy ra được với Hoa kỳ”.
Sáu
giờ sáng, một đại đội xung kích thuộc Sư đoàn Không kỵ 101 được trực
thăng vận đổ xuống từ nóc Tòa ĐS, đột nhập Lầu 3 rồi Lầu 2, cận chiến
với 12 đặc công CS, tiêu diệt toàn bọn và giải tỏa Tòa ĐS — biểu tượng
của sức mạnh Hoa kỳ tại Đông Nam Á.
Lãnh đạo VNCH, đệ I và II Cộng Hòa, biết gì?
Đầu
tháng 2, 1975, tôi đến Washington
D.C. nhận nhiệm vụ Tùy Viên Lục Quân tại Tòa Đại sứ VNCH, ưu tiên tìm
hiểu và báo cáo về quân viện Mỹ cho VNCH lúc đó đang lửng lơ. Một chị
bạn nhà tôi, tên Dung, Đệ Nhị Tham Vụ, mời tôi đi ăn lunch. Tò mò, tôi
hỏi chị: “Tòa Đại Sứ mình vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ra sao?” Chị đáp:
“Tôi vẫn bỏ tiền túi mời mấy ông dân biểu đi ăn lunch”. Vậy thôi?
Tôi
nghĩ, từ Ngô Đình Diệm cho đến Nguyễn Văn Thiệu, các nhà lãnh đạo VNCH
có thể ví như những người đi buôn không vốn,
không hiểu rành rọt về tổ chức và vận hành của chính quyền Hoa Kỳ, cho
nên không biết đến hiệu quả của “lobby” và không giám hay không biết
“chi” cho nỗ lực này vì không vốn (?). Khoảng cuối thập niên 70 bỗng sì
căng đan “Koreagate”, bùng nổ. Điệp viên KCIA (Tình Báo Trung Ương Đại
Hàn) Tongsun Park đã tung hàng trăm ngàn đô mua chuộc ảnh hưởng của một
số nhà lập pháp Hoa kỳ để chống lại nguy cơ Nixon đòi rút quân khỏi Nam
Hàn như đã làm ở Nam Việt Nam khiến VNCH rơi vào tay CSBV. Ở đời ai dại,
ai khôn? Thành thử, chúng ta luôn luôn cầm dao đằng lưỡi để cho đối
phương tuốt dao máu chẩy thành vòi! Lý do: không nắm được những nguyên
lý căn bản về Tình Báo Chiến Lược để sử dụng nó hữu hiệu trong chiến
tranh.
Có ai ý thức được rằng Hoa kỳ ào ạt đổ quân vào Việt Nam, thật ra, không phải là để bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của VNCH?
Có ai ý thức được rằng, với Hoa kỳ, không có quốc gia nào là bạn lâu dài và cũng chẳng có
nước nào là kẻ thù vĩnh viễn, mà chỉ có quyền lợi của Hoa kỳ là vĩnh cửu?
Có
ai biết rằng: Trong thời gian CSVN làm xiếc đi giây giữa Liên Xô và
Trung Cộng, Trung Cộng coi VNCH là bạn và là đối trọng răn đe CS Bắc
Việt? Với Trung Cộng, Liên Xô và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) là
hai kẻ thù không đội trời chung? Mặc dầu Mao vẫn chi viện cho Hồ để
đoạt hai chiến thắng vang dội: Chiến dịch Biên giới 1950 và Điện Biên
Phủ, 1954. Nhưng cũng vì vậy mà Trung Cộng phải dè chừng.
Cuộc chiến biên giới 1979 đã chứng minh cho điều này khi Đặng Tiểu Bình
muốn “dậy” cho Việt Nam một bài học.
Tướng Nguyễn Ngọc Loan
CIA ra lệnh thủ tiêu Nguyễn Ngọc
Loan
Tháng
4 , 1968, Cố vấn trưởng Cảnh sát Quốc gia VNCH, J. Accompura (nguyên
đại tá Lục quân Hoa kỳ) được mời đến gặp vị tân Trưởng Trạm CIA (Station Chief)
tại VNCH, ông George Weisz đến thay thế ông Jorgensen. Không úp mở, ông
Weisz cho Accompura hay: “Chính phủ Hoa kỳ quyết định thủ tiêu Tổng
Giám Đốc Cảnh Sát QGVN, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan”.
Mặc
dầu làm cố vấn cho tướng Loan chưa được 2 năm, Accompura lại rất thân
tình và cảm mến ông. Accompura dấu kín chuyện CIA sẽ thủ tiêu ông, nhưng
yêu cầu tướng Loan không được rời khỏi Dinh Độc Lập và không được tham
gia bất cứ trận đánh nào có mục đích tiễu trừ các lực lượng MTGPMN tại
trung tâm và ven đô Sài Gòn. Tướng Loan hứa xuông với Accompura cho
qua chuyện, nhưng ông không ngồi yên.
Ở
đâu có tiếng súng AK-47 là ông nhào tới. Chỉ cần một tấm áo giáp, một
khẩu M-16, với 12 băng đạn 5.56 ly vòng quanh bụng, đầu không nón sắt,
chân dép cao su, không lon không lá, tướng Sáu Lèo lâm trận… không coi
mũi tên hòn đạn của kẻ thù có kí lô nào. Một Don Quixote hay Triệu Tử
Long? Có lẽ cả hai gom một. Nhiều người coi ông như “người hùng đơn
độc”, một phán xét có phần cảm tính. Tôi quan niệm đơn giản: Ông là
người chỉ huy biết lãnh
đạo. Lãnh đạo bằng cách làm gương, nghĩa là sát cánh cùng quân sĩ, đồng
lao cộng khổ, ngay nơi trận tiền. A true leader. Phải nói như thế. Như người Mỹ thường nói.
Đầu
tháng 5, 1968, hay tin VC tràn về khu Tân Cảng, tướng Loan điều động 2
đại đội CS Dã Chiến truy kích Tiểu đoàn Thủ-Biên (6) MTGPMN đang đốt nhà
dân để “chém vè” vì bị trực thăng võ trang UH-1B của Sư đoàn
25 BB Mỹ tấn kích từ phía bắc cầu Sài Gòn. Hay tin tướng Loan dẫn CSDC
ra Tân Cảng, Accompura vội nhẩy xe Jeep Cảnh sát chặn đoàn xe của ông
Sáu Lèo ở ngã tư Dakao – Phan Thanh Giản và yêu cầu ông cùng về Tổng Nha
tham dự buổi họp Chương Trình Phượng Hoàng do W. Colby chủ tọa. Tướng
Sáu Lèo từ chối.
Ai bắn nát chân tướng Loan?
Tin
tức loan tải: 11 giờ 45 ngày 7 tháng 5, 1968, một tên VC núp dưới chân
cầu Sài Gòn bắn sẻ viên đạn “dum dum” (7) phá vỡ nát bắp chân trái tướng
Nguyễn Ngọc Loan.
Các bác sĩ giải phẫu tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, sau khi khám vết thương, nêu thắc mắc và khẳng định:
-
Đầu đạn phá nát bắp chân trái tướng Loan không phải là “dum dum”. Nếu
phải thì nó phải để lại những mảnh li ti và dấu vết thuốc nổ khi đầu đạn
nổ lần thứ 2.
- Súng xung kích AK-47 của CS Bắc Việt sử dụng ở miển Nam không trang bị loại đạn “dum dum”.
- Súng bắn sẻ CKC của Tiệp Khắc cũng không trang bị đầu đạn “dum dum”.
- Đầu đạn AK-47 và CKC không phải là đạn xuyên phá. Loại đạn này chỉ tạo 1 lỗ nhỏ đường kính không quá 1 cm ở mặt trước vết thương, và mặt sau ít khi có lỗ rộng quá 5 cm.
- Súng xung kích AK-47 của CS Bắc Việt sử dụng ở miển Nam không trang bị loại đạn “dum dum”.
- Súng bắn sẻ CKC của Tiệp Khắc cũng không trang bị đầu đạn “dum dum”.
- Đầu đạn AK-47 và CKC không phải là đạn xuyên phá. Loại đạn này chỉ tạo 1 lỗ nhỏ đường kính không quá 1 cm ở mặt trước vết thương, và mặt sau ít khi có lỗ rộng quá 5 cm.
Có lẽ chỉ có cố vấn Accompura biết rõ viên đạn làm tan nát cuộc đời binh nghiệp của tướng Loan là loại đạn gì. Và sát thủ là ai?
2005:
Sau rốt, màn bí mật cũng được vén lên, bởi không ai khác là chính
Accompura. Sát thủ thi hành bản án tử hình tướng Loan là một hạ sĩ quan
TQLC Hoa kỳ
có vợ Việt Nam, làm việc cho CIA Sài Gòn. Khẩu súng bắn lén tướng Loan
là M-16 gắn viễn vọng kính. Viên đạn M-16 cỡ 5.56 mm thuộc loại
Flechette (8). Chi tiết được biết thêm:
Sát
thủ đứng trên sàn trực thăng võ trang UH-1B, qua viễn vọng kính đã lẩy
cò khi chiếu môn thập tự [+] nhắm trúng đầu tướng Loan. May thay,“Thiên
bất dung gian”, người không thể giết người, chỉ có Trời mới giết được
người. Lúc sát thủ lẩy cò cũng vừa là lúc trực thăng gặp “air turbulence”
hụt hẫng đưa viên đạn trúng bắp chân trái Sáu Lèo đang gác trên thành
cầu thay vì trúng đầu ông. Viên đạn Flechette 5.56mm đã phá nát bấy toàn
thể bắp chân trái tướng Loan, cắt đứt gân lòng thòng và động mạch tiếp
tế máu cho bàn chân.
Bác
sĩ Trưởng Khoa Giải Phẫu Tổng Y Viện Cộng Hòa đề nghị cắt bàn chân bởi
vì động mạch đã bị phá nát, nếu không, một thời gian ngắn bàn chân sẽ bị
hư thối.
Tướng Loan yêu cầu, bằng mọi cách, giữ lại bàn chân trái cho ông.
Ảnh hưởng tiêu cực của tấm hình hay do lệnh CIA?
Bác
sĩ cố vấn trưởng Tổng Y Viện đề nghị đưa tướng Loan đến điều trị tại
Bệnh viện Quân Y Mỹ tại Long Bình. Giám đốc Bệnh viện từ chối vì không
có khả năng nối động mạch vi ti ở bắp chân.
Tướng
Kỳ yêu cầu MACV can thiệp với Hạm Đội 7 có tầu bệnh viện đón nhận tướng
Loan để chữa trị. Tầu Bệnh Viện Đệ Thất Hạm Đội từ chối.
Chính phủ VNCH yêu cầu Tòa Đại sứ Hoa kỳ giúp đỡ đưa tướng Loan đến Bệnh viện Jama trên đất Nhật. Tòa Đai sứ Hoa kỳ khước từ.
Không
thể trông cậy vào Đồng minh Hoa Kỳ giúp đỡ, tướng Kỳ cuối cùng nhờ đến
Tòa Đại sứ Úc chấp thuận cho tướng Loan được điều trị tại Canberra.
Chính quyền Canberra khước từ lời yêu cầu của VNCH, viện cớ dư luận dân
chúng Úc không đồng tình chứa chấp một kẻ giết tù binh chiến tranh không
vũ khí trong tay (9).
Tướng
Loan giải ngũ, trở lại đời sống dân sự. Tướng Kỳ mất một người vừa là
bạn thân, vừa là quân sư lỗi lạc trong cuộc đời tham chính của mình.
Hoa
kỳ không giết chết được Loan nhưng vẫn căm tức “Sáu Lèo” một lúc phá
hỏng hai giải pháp chính trị và quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Họ quả
quyết: “Nếu Loan không rút 2 trung đội Cảnh sát Dã chiến bảo vệ Sứ quán ở
đường Thống Nhất thì không tài nào
tổ đặc công C-10 của MTGPMN có thể xâm nhập thành lũy tối cao và kiên
cố nhất của Mỹ, làm ô danh siêu cường số 1 thế giới”.
Rất
có lý, nhưng Hoa kỳ vẫn khờ khạo khi tin rằng “nắm được Nguyễn Thị
Bình, Trần Bạch Đằng và Trần Văn Trà là chế ngự được thế thượng phong
quân sự của đối phương”. Sự thực phũ phàng là [như ngày nay ai cũng biết]Cuộc
Tổng Công Kích – Tổng Nổi Dậy Tết Mậu Thân 1968 của CSVN là thuộc
quyền quyết định và được điều khiển bởi Lê Đức Thọ, Bí Thư Trung Ương
Cục miền Nam và Võ Văn Kiệt, Bí thư Đặc ủy Khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn.
Lý
do
tướng Loan rút 2 trung đội CSDC bảo vệ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ trên đường
Thống Nhất rất đơn giản và ngay thẳng. Đã là nơi sẽ diễn ra thương thảo
giữa MTGPMN và Hoa Kỳ, thì VNCH cần gì phải canh gác? Đó là trách nhiệm
của Mỹ.
Dự tính bắt
cóc 6,000 người Mỹ làm con tin
Trong
cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, TS Nguyễn Tiến Hưng có đề cập đến một
tình huống mà ông gọi là “cực kỳ ê chề” (10) khi Tòa Đại sứ Mỹ phải đối
diện, nếu và khi QLVNCH hay Cảnh sát “nổi khùng” mà cưỡng chế cuộc di
tản 6 ngàn người Mỹ và một số người Việt thân quen hay làm việc cho Mỹ
khi thấy những người này cứ kìn kìn ra đi, bỏ mặc họ cho số phận. Nên
nhớ là khi ấy, trong nội vi Sài Gòn, lực lượng Cảnh Sát Dã
Chiến hầu như nguyên vẹn cũng như một số đơn vị Nhẩy Dù và TQLC. Nếu có
ai xúi dục và thuyết phục được họ đó là biện pháp duy nhất có thể làm
để Mỹ phải đem quân tham chiến trở lại thì họ có khả năng quay súng bắn
lại người Mỹ. Do đó, Hoa kỳ cũng có kế hoạch phòng hờ (11) đối phó với
tình huống này, và Đại sứ Graham Martin cứ phải hành xử “bình chân như
vại” cho tới phút chót mới chịu ra đi sáng ngày 30 tháng 4.
Điều
này lý giải tại sao Mỹ phải cho ưu tiên di tản
những phi công khu trục sang Utapao, Thái Lan, bởi vì QLVNCH chỉ cần
vài chiếc F-5 là có thể bắn hạ những trực thăng di tản rơi rụng như
sung. Trong tình huống này, TS Hưng lập luận, VNCH sẽ tức khắc trở thành
thù địch, và sẽ không thể có Eden Center, Little Saigon hay Cabramatta
vì không có người Việt nào được di tản thì làm gì có cộng đồng Người
Việt Hải Ngoại như ngày nay?
Ý
tưởng “bắt con tin” này có thể đã nhen nhúm trong đầu óc tướng Loan và
có thể ông đã bàn bạc với bạn bè hay
người thân. Từ ý tưởng sang ý định và đem ra thực hiện thì một người có
uy tín và thành tích như ông có thể dễ dàng thuyết phục bạn bè tướng
lãnh và thuộc cấp trong Không Quân và Cảnh Sát Quốc Gia. Nhưng ông đã
không làm mặc dù Mỹ đã thù hận ông vì làm như thế sẽ có hại cho cả hai
bên Việt, Mỹ và CSVN sẽ là kẻ thủ lợi. Ý tưởng này đã được một chuẩn úy
KQVN kể lại cho Tòa Đại sứ Mỹ.
Từ
cuối 1972, tướng Loan đã được một người bạn chính trị gia làm việc ở
Tòa
Bạch Ốc gửi thư riêng thông báo đầy đủ về kế hoạch rút quân của Hoa kỳ
theo đúng những điều khoản của Hiệp Định Paris ký kết giữa Lê Đức Thọ và
H. Kissinger ngày 27 tháng 1, 1973. Cuối thư, người bạn khuyên ông liên
lạc với TVQL Anh tại Sài Gòn để thu xếp việc di tản cho chính bản thân
ông và gia đình một khi Sài Gòn lọt vào tay các toán tiền tiêu của 6 sư
đoàn CSBV. Ông biết là Hoa Kỳ sẽ chẳng bao giờ đem quân trở lại tham
chiến tại miền Nam. Trừ phi…
Rốt
cuộc, trưa ngày 29
tháng 4, 75, tướng Loan và gia đình đã phải chật vật lắm mới leo lên
được một vận tải cơ C-130 và tới Utapao lúc 16:00 giờ chiều.
Trời kia đã bắt làm người có thân – Nguyễn Du
Để kết thúc câu chuyện, tôi xin nhường lời cho Eddie Adams:
“Ông
Loan chạy thoát Việt Nam trong thời gian Sài Gòn xụp đổ và đến Mỹ. Sau
cùng ông định cư ở vùng Burke, tiểu bang Virginia. Ông gắng mở một
tiệm ăn ở miền Bắc Virginia nhưng khi có người biết ông là chủ thì tiệm
ăn đóng cửa. Có những người phản đối đi vòng quanh khu đó hò hét để xả
hơi nỗi bất bình của họ một cách thời thượng, an toàn.
“Ông
ta rất đau yếu vì bị ung thư một thời gian. Và tôi nói chuyện với ông
trên điện thoại tôi muốn làm một cái gì đó. Tôi giải thích mọi điều và
kể lại chuyện tấm hình đã hủy hoại đời ông như thế nào thì ông ta chỉ
muốn quên chuyện đó. Ông nói thôi bỏ đi. Còn tôi thì không muốn ông bỏ
đi như vậy.”
“Thiếu
tướng Loan từ gĩa cõi đời cách đây một năm và một
tháng (12). Ông để lại vợ và năm đứa con. Phần lớn những bản tóm lược
tiểu sử người quá cố cũng giống như tấm ảnh đã hủy hoại đời ông, chỉ có
một chiều và cố chấp”.
Adams gửi hoa phúng điếu với một tấm thiệp trên viết dòng chữ, “Cho tôi xin lỗi. Lệ đang ứa trong mắt tôi.”
Chu Việt
Tháng 5, 2012
Posted by
vanhoa
at
9:43 PM
No comments:
Đã có một lần, một nhóm người vì phải mang theo nhiều hàng, lại già yếu bệnh tật, nên đã nhờ bố mẹ tôi vào Nam để mang hàng từ đó ra ngoài Bắc cho họ.
Nhân dịp này, họ đã đưa bố mẹ tôi đi chợ mua những món hàng cần thiết và đãi bố mẹ tôi ăn một bữa no say.
Sao Hôm, Sao Mai
Chuyến làm ăn dự trù này của tôi bị khựng lại vài ngày vì chú Quách cơ Bình (TĐ Phó) được lệnh thuyên chuyển về nguyên quán. Trong khi chờ một vị tiểu đoàn phó mới tới bổ sung, tôi đem Đại úy Bá, sĩ quan chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn vào giữ đồn Plei-Me trong lúc tôi xuất trại. Toán viễn thám của Trung sĩ Nguyễn Chi và toán cận vệ của Hạ sĩ Nguyễn Ba sẽ tháp tùng tôi vào vùng. Lực lượng an ninh ban đầu để tôi thiết lập vị trí là Đại đội 1/82.
- Ừ hử! Vậy chứ chú em làm nghề gì? - Buôn bán làng nhàng, theo tầu, ngược Bắc, xuôi Nam…
KÝ NGUYỄN KHẮP NƠI
“VIỆT CỘNG CON”
NGUYỄN KHẮP NƠI.
Viết theo lời kể của một cô gái người Bắc.
Đương nhiên, tên của tôi không phải là “Việt Cộng Con” rồi.Và tôi cũng không phải là Việt Cộng, xin bảo đảm một trăm phần trăm.Tên tôi là Trinh, Trần Thị Ngọc Trinh. Tôi lấy chồng là một người Lính Việt Nam Cộng Hòa. Con trai tôi tên là Nam, cháu nay đã được năm tuổi rồi. Mỗi lần về thăm nhà, cháu luôn luôn hãnh diện khoe với ông bà ngoại:“Ông ơi, bà ơi, cháu là con của Lính Cộng Hòa đấy.”Tức là, tôi không có dính dáng gì đến Việt Cộng cả. Vậy thì tại sao tôi lại có cái tên... “Việt Cộng Con”?
Theo lời bố tôi kể lại, bố mẹ tôi quê quán ở Phú Thọ, sau chuyển về Hà Giang. Đến năm 1979 thì mới về Hà Nội ở. Lúc đầu, gia đình tôi không có "hộ khẩu", phải sống tạm bợ ở gầm cầu. Hàng ngày, ba mẹ tôi đi ra chợ, bến xe hàng hay là bến xe lửa xuyên Việt đứng chờ công việc làm, ai nhờ việc gì thì làm việc nấy, thông thường là khuân vác, đẩy xe, cưa cây... Kiếm được việc làm không phải dễ, vì ba mẹ tôi là dân mới tới, thường bị đám người sống lâu năm ở chợ tranh dành đuổi đi đừng ở nơi xa chứ không cho đứng ở gần chợ.
Một hôm, có một đoàn người gồm đa số là đàn bà từ miền Nam vào, nhờ đẩy hàng đi Hà Giang. Hà Giang cách Hà Nội cả trăm cây số, đám đầu nậu không biết địa thế, hơn nữa, vì Hà Giang gần núi, có nhiều sơn lam chướng khí, nên không ai dám nhận đi hàng, bọn chúng mới gọi bố mẹ tôi đến mà bố thí cho việc làm.
Tưởng đi đâu chứ Hà Giang thì bố mẹ tôi sống ở đó từ nhỏ, biết từng góc rừng, từng con đường mòn xuyên qua núi. Thì ra đó là những người vợ, con của Lính Cộng Hòa bị đi tù cải tạo. Từ Hà Nội đến Hà Giang thì có xe hàng, nhưng từ Hà Giang tới các trại tù thì phải gánh hàng đi bộ nhiều ngày mới tới.
Bố mẹ tôi chịu cực khổ đưa những người khách hàng đến tận nơi, chờ họ gặp người thân xong xuôi rồi lại đưa họ trở về ga Hàng Cỏ Hà Nội. Những người này cám ơn bố mẹ tôi và tặng tiền nhiều lắm.
Sau chuyến đi đó, bọn đầu nậu đứng bến có vẻ nể nang bố mẹ tôi, không dám dành mối như trước nữa. Thực ra, cũng vì không có đứa nào biết đường đi nước bước ở Hà Giang và những vùng xa xôi có trại tù cải tạo, nên bố mẹ tôi hầu như được độc quyền đưa đón thân nhân những người tù cải tạo.
Những người này vừa tử tế lịch sự, vừa cho tiền thưởng khá, vì thế, cuộc sống của gia đình tôi mới đỡ vất vả.
Nhờ có ít tiền, bố mẹ tôi mới... mua được
hộ
khẩu ở Hà Nội và cho anh em chúng tôi đi học. Trong thời gian đưa đón
những người Miền Nam này, bố mẹ tôi đã được họ tin tưởng, vui vẻ nói
chuyện và còn chỉ dẫn cách nấu những món ăn ở Miền Nam, như là bánh xèo,
bánh phồng tôm, chả giò...
Đã có một lần, một nhóm người vì phải mang theo nhiều hàng, lại già yếu bệnh tật, nên đã nhờ bố mẹ tôi vào Nam để mang hàng từ đó ra ngoài Bắc cho họ.
Nhân dịp này, họ đã đưa bố mẹ tôi đi chợ mua những món hàng cần thiết và đãi bố mẹ tôi ăn một bữa no say.
Đến khi những người đi thăm thân nhân tù cải tạo vơi đi dần, bố mẹ tôi liền giải nghệ mà mở một quán ăn nhỏ, chuyên bán những “Món Ngon Miền Nam”. Thời gian đó, bất cứ món hàng nào có xuất xứ "Miền Nam" đều được dân miền Bắc thèm muốn, mua bằng hết, từ cây kim sợi chỉ, nói chi tới những Món Ngon Miền Nam. Cửa hàng của bố mẹ tôi vì thế mà lúc nào cũng đông khách.
Học xong đại học, tôi xin đi làm cho chính phủ, thời gian rảnh thì phụ bố mẹ tôi trông coi công việc. Cửa hàng bán những món ăn Miền Nam của bố mẹ tôi càng ngày càng phát triển, không những chỉ bán hàng ăn, bố mẹ tôi còn mở công ty, mua nhiều loại hàng ở Miền Nam đem ra Bắc bán nữa.
Trong thời gian làm việc, tôi đã được tiếp xúc với một số bạn bè đi du học trở về, đa số đều nói ngoại ngữ rất khá, và đều vào Sàigòn làm việc, chứ không chịu ở lại ngoài Bắc, dù rằng Hà Nội mới là thủ đô.
Tôi bắt chước bạn bè, xin bố mẹ tôi cho vào Nam làm việc, nhân tiện làm đầu cầu mua hàng trong Nam đem ra Bắc.
Vào tới Sàigòn rồi, đi làm một thời gian rồi, tôi mới thấy là giữa những người giữ chức vụ cao, được gọi là "lãnh đạo cơ quan" mặc dù là học thức kém, tầm mức hiểu biết về việc làm rất là hạn chế, nhưng lại là những người ngồi mát ăn bát vàng, hống hách với dân chúng nhiều nhất. Càng tỏ ra khó khăn, họ càng được hối lộ và lấy đuợc nhiều tiền trong công quỹ.
Những người có bằng cấp, biết làm việc và phải tiếp xúc với dân chúng nhiều như chúng tôi thì lại bị đẩy cho làm việc thật là nhiều.
Và cũng vì sự hống hách quan liêu của cấp trên, mà chúng tôi bị vạ lây, bị dân chúng miền Nam ghét bỏ. Thậm chí, chỉ nhìn thấy chúng tôi, hoặc chỉ cần nghe giọng nói của chúng tôi thôi, họ đã bỏ đi, không quên nói nhỏ với nhau: "Cái đồ Bắc Kỳ... thấy ghét"
Mặc dù những điều kiện mà chúng tôi giải thích, là do cấp trên đòi hỏi, chứ chúng tôi không hề muốn làm như vậy.
Một vài lần, tôi được dịp may tiếp xúc với những người ngoại quốc tới làm việc chung với chúng tôi, họ có kiến thức rất cao nhưng lại nói chuyện rất lịch sự.
Cũng có những lần tôi được tiếp xúc với vài du khách đến nhờ làm thủ tục, tôi thấy họ nói chuyện cũng thật là hòa nhã và rất hiểu biết.
Tầm mắt và kiến thức của tôi được mở rộng ra, tôi muốn được đi du học để mở mang trí tuệ, và cũng để có thể giúp cho công việc làm ăn của gia đình tôi được phát triển hơn.
Tôi đem việc này ra bàn với bố mẹ tôi, cả hai đều đồng ý, nhất là ông bà nội của tôi. Chọn nơi học mới là điều khó khăn hơn cả. Đa số các bạn bè của tôi chọn đi học ở Mỹ (nhất là những đứa có cha mẹ có quốc tịch đảng), tôi lại thấy Úc là xứ sở hiền hòa có nhiền nét về văn hóa nghệ thuật, nên tôi đã chọn môn học về Tài chánh ở trường Đại Học RMIT (Royal Melbourne Institute of Technology), Melbourne, nước Úc.
Dù là đã có một ít vốn liếng tiếng Anh đã học ở trường học cũng như trường đời, nhưng ngày đầu tiên đến giảng đường nghe giảng bài, thú thực là tôi như con vịt nghe sấm, chẳng hiểu ông Giảng viên tóc vàng nói cái gì cả, vì giọng của ông hoàn toàn là giọng Úc, khác xa với những phát âm theo tiếng Mỹ mà tôi đã từng nghe ở Việt Nam.
Môn học kế tiếp thì tôi lại còn thua nặng hơn nữa, vì Giảng viên này gốc ngưởi Ấn Độ, tiếng Anh của ông còn pha nhiều âm thanh R R R thật là khó nghe.
Hai năm trời trôi đi thật nhanh, ngoài giờ học, tôi xin đi làm thêm ở những nhà hàng ăn ở đường Victoria, khu vực Richmond. Những nhà hàng này tuy bán món ăn Việt Nam nhưng đa số khách hàng lại là người da trắng, nên nhờ đó mà tiếng Anh của tôi đã khá hơn trước và cách phát âm cũng vì thế mà đổi hoàn toàn theo giọng Úc.
Cuối cùng, tôi đã học xong cái bằng Master và sửa soạn khăn gói về nước. Bạn bè của tôi đa số xin ở lại Úc làm việc và sinh sống, tôi không có ý định ở lại, chỉ muốn về phụ giúp gia đình mà thôi.
Tôi mua vé máy bay về Sàigòn trước, nghỉ ở đó một ngày gặp bạn bè rồi mới về Hà Nội ở luôn. Ngồi bên cạnh tôi là một người đàn ông trung niên, ông không bắt chuyện với tôi mà chỉ ngồi im lặng, lâu lâu lại nhìn vào cái hộp sắt gắn kín đang cầm trên tay. Mãi khi xuống phi trường Changi để nghỉ hai tiếng, ông mới mở miệng nhờ tôi cầm dùm cái hộp sắt để đứng lên lấy hành lý để trên khoang xuống. Cái hộp tưởng là bằng sắt nhưng lại là hộp bằng nhôm rất nhẹ.
Ngồi trên ghế chờ đợi, ông mới cho tôi biết đó là cái hộp đựng tro của vợ ông. Vợ ông mới qua đời tuần trước, đã được hỏa táng và ông đem về Việt Nam để ở nhà mẹ vợ, theo lời trăn trối của vợ ông trước khi chết.Tới phi trường Tân Sơn Nhất, ông chào và cám ơn tôi một lần nữa rồi ai về nhà nấy.
Tôi không biết tên ông là gì và ông cũng chẳng bĩết tôi là ai?Một năm sau, tôi quay trở lại Úc để dự lễ phát bằng cấp cho đứa em tôi. Đang đi trên đường Victoria, thật là ngạc nhiên, tôi đã gặp lại ông khách đi chung máy bay hồi nào.
Ông cho tôi biết đã đem tro tàn của người vợ về xong xuôi rồi, đã đi làm trở lại. Tôi cũng cho ông hay là tôi đã xin được việc làm và đang làm việc ở Sàigòn, nhân dịp dự lễ phát bằng cấp cho đứa em, tôi xin nghỉ một tháng để đi thăm những thắng cảnh Úc mà trong suốt hai năm đi học tôi không có thì giờ đi đâu cả.
Lần này ông cho tôi số điện thoại và nói nếu tôi muốn đi chơi thăm phong cảnh, ông sẽ xin nghỉ đưa tôi đi cho vui.
Thế là chúng tôi quen nhau. Ông tên Thanh, là Lính Cộng Hòa, ngày cuối cùng của cuộc chiến, ông là một Chuẩn Úy 18 tuổi mới ra trường, đánh trận đầu tiên và cũng là trận cuối cùng của đời lính. Ông có hai đứa con nhưng chúng nó đi làm ở Tiểu bang khác, lâu lâu mới về thăm nhà, còn tôi, tôi ba mươi lăm tuổi rồi, và chưa có ý định gì về tương lai cả.
Về lại Sàigòn, chúng tôi vẫn tiếp tục emails qua lại với nhau. Có một lần ông về Việt Nam thăm tro tàn của vợ và nhân dịp đó đi chơi uống cà phê với tôi.
Qua năm sau, tôi muốn trở lại Úc một lần nữa để đi thăm Đảo San Hô ở Queensland, Thanh cũng xin nghỉ để đi chơi cùng với tôi.
Thanh đã ngỏ lời muốn cưới tôi làm vợ. Suy đi nghĩ lại, tôi tuy còn độc thân nhưng đã lớn tuổi rồi (so với Thanh thì tôi còn nhỏ lắm), nên đồng ý làm vợ Thanh.
Thanh làm bữa tiệc gia đình để ra mắt tôi với hai đứa con và bạn bè. Hai đứa con của Thanh nói toàn tiếng Anh, tụi nó không có ý kiến gì, miễn thấy ba nó vui là được rồi. Lần đầu tiên gặp những người bạn của Thanh, tôi vui miệng kể lại cuộc đi chơi ở Đảo San Hô:“Thật là... Hoành Tráng chưa từng thấy. Đi xem đảo xong, chúng em đi phố mua hàng, chỗ nào cũng bán Khuyến mãi, thích ghê..”
Cả nhà đang ồn ào, tôi chợt thấy không khí có vẻ im lặng sau khi tôi nói chuyện, những người bạn của Thanh nhìn tôi có vẻ e dè lắm, họ vẫn nói chuyện, nhưng hình như không có nói chuyện với tôi.
Một bà vợ của người bạnthân của Thanh đã hỏi thẳng tôi:“Cô là... du học sinh hả? Lấy chồng già để... được ở lại Úc hả?”Khi vào trong bếp lấy thêm đồ ăn, tôi thoáng nghe một người nào đó nói nhỏ với Thanh:“Mày lấy... Việt Cộng Con đấy à?”
Tôi nghe Thanh trả lời:“Đâu phải ai nói giọng Bắc cũng đều là Việt Cộng hết đâu!”
Tiệc cưới của chúng tôi mới là phiền phức, mặc dù chúng tôi chỉ tổ chức đơn giản thôi, nhưng bạn bè của Thanh nhận thiệp mời, họ đều có vẻ ngại ngùng, không muốn tham dự. Thanh nói với tôi:“Ông Hội trưởng của anh họp cả hội lại để lấy quyết định... có dự tiệc cưới của anh hay không? Họ quyết định... đi với tư cách cá nhân mà thôi, vì dù sao cũng là bạn bè.”
Tôi ngần ngừ nói với Thanh:“Anh ơi... nếu thấy khó khăn quá, hay là... mình đừng có lấy nhau nữa... Sao họ lại... kỳ thị với em như vậy? Em nói tiếng Bắc, vì em sinh đẻ ở ngoài Bắc, chứ em đâu có tội tình gì đâu?”Thanh an ủi tôi:“Em cũng phải hiểu cho họ, họ cũng như anh, đều là những người bị bọn Cộng sản Bắc Việt xâm chiếm đất nước, bắt tù bắt tội sống chết đủ điều. Suốt ngày họ nghe cái giọng Bắc kỳ mạt sát họ, nó thấm vào đầu, nên không thể có cảm tình với cái giọng Bắc được. Anh hiểu em, nhưng họ chưa hiểu và chưa thông cảm cho em. Cứ để một thời gian, họ sẽ hiểu em đó mà.”
Tôi sinh đứa con trai đầu lòng, đặt tên cháu là Nam. Ngày thôi nôi, anh chị nó đến dự, vui vẻ thay phiên ẵm em, đứa con gái út của Thanh ẵm em vừa cười vừa nói:“My... baby brother”Những người bạn chúc mừng Thanh... “Đáo Mã Thành Công”.Khi tôi tháo chiếc dây chuyền hộ mạng của tôi đeo vào cổ cho Nam, một bà ngạc nhiên nhìn sợi giây mà hỏi tôi:“Cái gì vậy?”“Dây chuyền hộ mạng của em đấy.”“Đẹp quá nhỉ! Ai khắc mà đẹp quá, hình như là hai cái mặt chữ khắc trên gỗ đen thì phải.”
Chồng tôi biết tôi có sợi dây chuyền này, nhưng coi đó là đồ nữ trang của tôi thôi, nên chẳng để ý đến. Khi thấy ai cũng nhìn vào nó, tôi vui miệng kể lại lai lịch của sợi giây chuyền cho tất cả cùng nghe:
Tôi sinh ra ở Hà Giang. Nói là Hà Giang chỉ để cho có nơi có chốn trên bản đồ mà thôi, chứ thực ra, nơi tôi sinh ra không có tên trên bản đồ miền Bắc. Đó là một nơi ở giữa rừng núi âm u không có vết chân người.
Theo bố tôi kể lại, vào thời năm 1954, khi mọi người dân đều muốn di cư vào Nam, gia đình tôi gồm có ông bà nội, ba mẹ tôi và gia đình của các bác các chú đã gồng gánh từ quê lên Hải Phòng, để xuống tầu di cư vào Nam. Khi đang ở trên đường thì gặp một đám người khác cũng nhận là đi di cư và biết có một con đường tắt đi Hải Phòng rất gần, thế là cả bọn theo chân đám người này.
Đến chiều tối thì có xe hàng tới chở tất cả, nói rằng đi xe cho chóng đến nơi.
Xe chở đi tới một vùng rất xa, tài xế cho mọi người xuống mà nói rằng, nghỉ đỡ đêm nay, sáng mai sẽ có xe khác tới chở thẳng đến Hải Phòng.
Ai cũng vui mừng trải chiếu ra ngủ qua đêm. Sáng hôm sau, có xe tới đón thật, nhiều xe lắm, xe nào cũng chở đầy người. Mọi người vui mừng kéo nhau lên xe đi Hải Phòng.
Xe đi cả ngày trời vẫn không tới vùng biển như mọi người mong đợi, trái lại, xe chở mọi người tới một nơi đầy lính canh có súng. Những người lính này chĩa súng bắt tất cả ngồi im không dược hỏi han gì cả, họ khiêng từng miếng vải nhà binh tới phủ kín xe rồi bắt đầu chạy suốt đêm.
Đến sáng mới tói nơi, cả bọn được đẩy xuống xe để bị chỉa súng bắt đi bộ vào trong rừng.
Tới nơi, cán bộ tập họp mọi người lại, kết tội cả nhóm là đã phạm tội phản lại nhân dân, bỏ trốn vào miền Nam, bị đầy vào đây đến bao giờ được cách mạng và nhân dân khoan hồng, sẽ được về với nhân dân.
Đến lúc đó, mọi người mới biết rằng đã bị bọn Cộng sản đưa người ra dụ dỗ đi theo chúng để rồi bị đi đầy vào vùng rừng núi âm u không biết ngày về.
Lâu lâu lại có từng đoàn người khác hoặc được xe chở, hoặc bị xiềng xích đi bộ ngang qua để tới những nơi xa xôi hoang vắng khác được gọi là “Cổng Trời”.
Vào khoảng năm 1960, có thêm một nhóm tù nữa được đưa tới Cổng Trời, đám người này thỉnh thoảng được ra ngoài làm rừng, họ tự xưng là “Biệt Kích Miền Nam” được thả ra Bắc để hoạt động, chẳng may bị bắt.
Tôi sinh ra vào năm 1973 ở cái vùng rừng núi âm u, trại tù của những người muốn di cư vào Nam năm 1954 và trải qua thời thơ ấu ở giữa nơi núi rừng trùng điệp không bóng người này.
Khi tôi được năm tuổi, một hôm đi theo cha chặt mây, đã bị ngã xuống hố sâu. Bố tôi bất lực nhìn thân xác của tôi mà không có cách nào để cứu. May thay, một nhóm Biệt kích đi ngang, thấy vậy đã thòng dây đu xuống tận vực xâu mà cứu tôi lên và đưa cả hai bố con tôi về tận nhà.
Từ đó, lâu lâu những người Biệt Kích này lại đi ngang vào thăm gia đình tôi. Người Biệt kích cứu tôi nhận tôi làm con nuôi và đã gỡ sợi dây chuyền ông đang đeo để đeo vào cổ tôi mà nói:
“Tặng cho cháu cái bùa hộ mạng đó.”Ông giải thích cho bố tôi biết, sợi dây chuyền này do ông đẽo gỗ trong rừng mà khắc thành hai chữ BK tức là Biệt Kích. Các chú này đã khuyên bố mẹ tôi nên tìm cách về thành phố mà sống, chứ đừng ở mãi nơi rừng hoang cô quạnh này mà bỏ phí cuộc đời của những dám con cháu.
Năm 1979, khi Trung cộng bắt đầu đánh Miền Bắc, những Biệt Kích đã bị đem đi nơi khác, bố mẹ tôi nhớ lời các Biệt Kích mà tìm đường trốn về Hà Nội, vì thế, tôi mới được đi học và sống cho đến ngày hôm nay.
Khi tôi kể xong câu chuyện, mọi người đều thay nhau cầm lấy sợi dây chuyền của con tôi một cách trân trọng và quý mến. Người bạn mà trước đây gọi tôi là “Việt Cộng Con” là người đầu tiên hỏi tôi:
“Gia đình của chị bị đưa đi... vùng kinh tế mới Cổng Trời đấy à?Chỉ vì muốn di cư mà bị đầy ải suốt hơn hai mươi năm trời đấy sao? Bọn Việt cộng chúng mày sao mà tàn ác thế! Cám ơn Trời Phật đã phù hộ cho gia đình chị, những người Việt Nam yêu Tự Do, còn sống được cho đến ngày hôm nay.”
Tôi mỉm cười nói thêm vào:“Tôi cảm ơn Trời Phật và cảm ơn Chúa nữa. Ông bà chúng tôi không đi tìm Tự Do vào năm 1954 được, thì đến đời cháu tức là đời của chúng tôi, chúng tôi đã tìm được Tự Do rồi đấy. Nhờ các anh Biệt Kích Miền Nam mà tôi được cứu sống, nhờ lời khuyên của các anh mà bố mẹ tôi mới dám trốn vùng cải tạo để về được tới Hà Nội. Cũng nhờ những bà mẹ, bà vợ của những người Lính Miền Nam bị tù cải tạo mà bố mẹ tôi mói có cuộc sống đáng sống. Các anh chị thấy không, nhờ tình người, nhờ những người Miền Nam mà chúng tôi mới sống đến ngày hôm nay, chứ đâu có bác nào đảng nào cứu giúp chúng tôi đâu? Cũng vì thế mà dù có ai nói gì thì nói, tôi cũng cứ lấy người Lính Cộng Hòa mà tôi quý mến.”
Từ hôm đó, tôi thấy tất cả bạn bè của Thanh đã thay đổi thái độ với tôi. Các anh đã gọi tôi là “Chị Thanh” và các bà đã gọi tôi bằng “Trinh” hoặc là “Cô Em Gái Bắc Kỳ”.
Con tôi đã được năm tuổi rồi, cháu đã đi học mẫu giáo, tôi có thì giờ đi tìm một công việc tạm thời. Tôi tìm đến một văn phòng Luật Sư của người Việt để xin làm Điện Thoại Viên.
Ông Luật Sư phỏng vấn tôi xong, nói với tôi:“Để chú sắp xếp cho cháu làm hồ sơ nhé, còn công việc nghe điện thoại, chú sẽ tìm người khác”Tôi thông cảm với ông Luật sư, mọi người vẫn còn... ác cảm, còn... kỳ thị với giọng nói Bắc Kỳ của tôi.Tôi xin lỗi đã nói như vậy, nhưng thật sự tôi không biết dùng chữ gì để nói về hoàn cảnh của tôi.
Chồng tôi đã thông cảm với tôi, anh Thanh đã nói với tôi:“Người ta nói “Cái áo không làm nên ông thầy tu” Nhưng thực sự cái áo đã làm cho người ta nhìn lầm nguời mặc nó là thầy tu. Em không những nói giọng Bắc, em còn dùng những từ ngữ mà cái đám Việt cộng thường dùng, ngay cả những người Miền Nam hay những người Lính Cộng Hòa mà nói cái giọng đó, cũng bị ghét, nói chi là Bắc Kỳ rặt như em.Em cứ giữ cái giọng Bắc Kỳ của em, nhưng em đừng... Hoành Tráng, đừng... Bức Xúc nữa, có được không?”Tôi suy nghĩ... Đúng! Chồng tôi nói đúng.Nhập Gia Tùy Tục – Nhập Giang Tùy Khúc.
Tôi đã lấy chồng Lính Cộng Hòa rồi, mà tôi lúc nào cũng có cái giọng Bắc Kỳ Hai Nút (75, Bắc kỳ chín nút tức là Bắc kỳ 54) thì ai mà chịu nổi.
Bây giờ, tôi không còn... “Xử Lý” nữa, mà tôi phân tích, tôi tìm hiểu từng trường hợp mà giải quyết cho thỏa đáng. Mỗi khi đi ra ngoài đường, nghe tôi nói chuyện, không còn ai quay lại nhìn tôi rồi bỏ đi chỗ khác nữa.
Đôi khi, những ông bà bạn của anh Thanh vẫn gọi tôi là “Việt Cộng Con”Nhưng họ nói chỉ để mà đùa dỡn mà thôi, chứ không còn châm chọc như trước nữa.Riêng phần con tôi, cháu Nam, lúc nào cháu cũng khoe:“Con là con của “Lính Cộng Hòa” mà!”
NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI, LÀ THẾ ĐẤY.NGUYỄN KHẮP NƠI.
KÝ TUẤN LINH
Nữ Sĩ Hồ Điệp đã chết trên đường vượt biên bằng đường bộ.
Nữ sĩ Hồ Điệp (1930-1987)
Ngôi trường có bác tới thăm
Tuấn Linh (Nguồn: vantuyen.net)
Trường phổ thông cấp ba Châu Thành tỉnh
Rạch Giá, nằm ngay trên đường nối liền huyện Châu Thành với xã Minh
Lương, cách ngã ba Rạch Sỏi khoảng 500m. Trường trực thuộc quản lý của
ty giao dục tỉnh. Tất cả mọi chuyện của trường đều do ty quyết định.
Cũng chính vì vậy đám giáo viên chúng tôi dễ thở một chút.
Trường
có bốn thứ giáo viên: Giáo viên lưu dụng, giáo viên tân tuyển, giáo
viên chính quy và giáo viên chi viện. Giáo viên chi viện do bộ cử vào từ
ngoài Bắc. Đây là cấp giáo viên lãnh đạo. Trong cấp giáo viên này có
hai loại: loại hành chính có năng lực giáo dục như tốt nghiệp sư phạm,
nghiệp vụ khá, tương đối có trình độ, loại Đảng viên nắm chi bộ Đảng.
Loại này học lực thường xuất thân từ bổ túc vắn hóa có trình độ thấp,
nhưng lại nắm quyền sinh sát trong tay. Hệ thống chính quyền trong chế
độ CS là hệ thống “Hai thủ trưởng” một bên là hành chính : Hiệu trưởng,
một bên là Đảng : chi bộ Đảng. Hệ thống này chồng chéo và kiểm soát
nhau. Bên hành chánh khinh thường bên Đảng ( vì bên đảng dốt). Bên đảng
uy quyền cao nên thường luôn góp ý hay xen vào bên hành chánh như kiểm
thảo, báo cáo. Loại giáo viên này chuyên phụ trách về bộ môn chính trị,
hay tổ chức xây dựng đoàn, đảng.
Giáo
viên lưu dụng là giáo viên cũ được dùng lại. Giáo viên tân tuyển là
giáo viên có trình độ tương đương được tuyển thẳng vào không qua sư
phạm. Giáo viên chính quy là giáo viên được đào tạo từ trường Sư phạm
sau 1975.
Ngoại
trừ giáo viên chi viện, tất cả giáo viên khác thường thân thiện với
nhau, vì trong họ ít nhất có nhiều cái giống nhau, cái giống nhau nhất
là có cùng trình độ, cái giống nhau thứ nhì là cùng người miền Nam, và
quan trọng nhất là có cùng “ý thức hệ”. Tất cả mọi giáo viên dạy ở cái
vùng ven biển này đều có cùng một mục đích tối hậu “tìm đường cứu nước”.
Hôm
nay tôi ngồi viết bài này để tưởng nhớ tới những người bạn, những người
đã cùng nhau chia sẽ những vui buồn trong suốt 3 năm tại trường Trung
Học Châu Thành Này. Hy vọng nơi nào đó nếu có đọc được những lời chân
thành hẳn nhớ lại cái thời “có một lần vui, có vạn lần sầu”.
Huân giáo viên toán dạy giỏi nhất tỉnh. Huân con của nữ sĩ Hồ Diệp,
ngày đầu nhận nhiệm sơ, Huân cùng mẹ mang túi xách tới trình diện tên
Hiệu trưởng. Sau khi làm xong thủ tục ban đầu tên hiệu trưởng dẫn Huân
và mẹ xuống nhà giáo viên để giới thiệu với chúng tôi. Lúc biết được bà
đi cùng Huân là mẹ, tụi tôi giựt mình lúc đầu cứ tưởng hai chị em, vì bà
rất trẻ lại đẹp nữa. Khi biết mẹ Huân chính là nữ sĩ Hồ Điệp, tụi tôi
lại càng ngạc nhiên hơn.
Chúng tôi biết tiếng bà trên radio lâu rồi,
không ngờ hôm nay mới biết mặt. Bà nói chuyện thật từ tốn, hấp dẫn người
nghe. Đúng là nữ sĩ, bà bàn giao Huân cho chúng tôi trước khi từ giã
với một câu hết sức khiêm nhường:
“Các
cháu cho bác gửi Huân, có gì dậy bảo giùm”. Thật sự sau đó không biết
ai dậy ai. Có chuyện từ sau cái ngày bà bàn giao ấy, chúng tôi không
thấy bà xuống thăm Huân, và cũng không thấy Huân về thăm bà hay nhắc tới
bà nữa.
Băng Hồ Điệp ngâm thơ. Ngày xưa nhà tớ có đúng cuốn băng này luôn.
Huân
không lớn con, gương mặt thông minh, và hơi có vẻ ngỗ nghịch, Huân dại
diện cho lớp trẻ hăng say, nhiệt huyết. Huân phụ trách môn toán. Ngay
cuối năm đó Huân được tặng danh hiệu giáo viên dạy giỏi toàn tỉnh. Số
học sinh Huân đào tạo để thi đua tại tỉnh hầu như chiếm toàn hạng nhất,
nhì. Một vài em còn được lựa gửi lên thành phố thi. Chỉ có chuyện trớ
trêu, tất cả các em học sinh giỏi đó đều là con em gia đình “Ngụy quân,
ngụy Quyền”. Dầu cho các em có giỏi mấy, tôi không thấy có em nào đậu
vào đại học, chỉ vì lý lịch của các em.
Huân
rất giản dị, quần áo ăn mặc rất bụi đời. Nhìn bên ngoài người ta không
thể biết được đó là giáo viên dạy toán giỏi nhất tỉnh. Huân nói chuyện
rất có duyên. Về phía học trò thì khỏi nói, Huân thật là thần tượng.
Không riêng gì Huân mà mọi giáo viên đều giản dị, lý do không giản dị
không được, vì mỗi năm nhà nước bán cho mỗi người một mét vải quần tây,
kỳ nào phòng thương nghiệp đo thiếu thì khốn khổ coi như tiêu chuẩn quần
dài biến thành quần đùi.
Nhân
cơ hội đảng phát động kế hoạch “Ba Lợi Ích: lợi nước, lợi nhà, lợi cá
nhân” ban giám hiệu trường gồm hiệu trưởng, hiệu phó, bí thư chi bộ đảng
– cả ba tên đều là chi viện – âm thầm họp bàn kế hoạch thực thi chính
sách của Đảng giao phó. Ban giám hiệu không giám phát động trong giáo
viên vì sợ phải chia phần khi có lợi tức.
Nhà
trường có ba dãy lớp, mỗi dẫy có 4 phòng học, cả ba dãy đều quay mặt ra
sân trường. Từ ngoài đường nhựa chính, hai bên con đường trải đá xanh
nối tiếp cổng trường là ao sen, Sau cổng trường bên phải là văn phòng,
phòng giáo viên. Bên trái là khu để xe của học sinh.
Vào
một ngày thứ Bảy đẹp trời, ba đỉnh cao trí tuệ của Đảng ra chợ mua cây
tràm, tre, lá đem về thiếp lập hai cầu cá Dồ ngay ao sen trước trường.
Sau đó ba người hùng xuất tiền mua 5000 cá Dồ giống thả xuống. Thế là
đỉnh cao trí tuệ biến hai ao sen thành hai hầm nuôi cá Dồ. vừa lợi nước,
lợi nhà, lợi cá nhân.
Sáng
thứ Hai, tất cả đều ngạc nhiên với kế hoạch: “ao cá bác Hồ” của ban
giám hiệu. Bọn giáo viên chúng tôi rất lấy làm khâm phục. Vì suốt quá
trình hình thành của trường chưa một ai nghĩ ra kế hoạch loại “đỉnh cao
trí tuệ” này. Huân, Dũng, Liệu và tôi ngồi uống càphê buổi sáng tại quán
đối diện nhà trường, tức khí sinh tình mỗi thằng ứng khẩu một câu thơ.
Gom lại thanh bài thơ tứ tuyệt:
“Sừng
sững trước trường cái cầu tiêu, Thằng làm cầu ấy thật cũng liều. Ông
qua, bà lại xin một tý. Lợi nước, lợi nhà, lợi tiền tiêu.”.
Không
biết làm sao bài thơ đó lọt ra ngoài, học trò đứa nào cũng thuộc. Bài
thơ bay bổng tới sở giáo dục. Ban giám hiệu nhà ta bị gọi ra tỉnh. Kết
quả không như mọi người mong muốn, sở khuyên cáo nên sửa chữa nhà cầu
cho kín đáo hơn. Lý do kế hoạch của ban giám hiệu đúng với kế hoạch nhà
nước… Hết ý kiến…
Riêng bộ ba tướng sỉ tượng về sửa chữa lại cho kín đáo
hơn. Nhưng không một em học trò nào giám bước chân vào. Ngoại trừ thỉnh
thoảng mấy đứa chăn trâu ăn tầm bậy, đau bụng chạy vào thăm ao bác.
Toàn
huyện mở chiến dịch “văn hóa”. Công an ra đường chận thanh niên tóc
dài, quần loe. Huân vừa ra khỏi quán cà phê thì bị chận lại hỏi giấy tờ.
Một tên hỏi: “anh làm gì ở đây, bộ xuống đây tìm đường vượt biên hả?”
Huân trả lời “tôi là giáo viên” tên công an nhìn lại Huân từ đầu tới
chân “giáo viên gì mà tóc dài quần áo bê bối.”
Tên công an đứng gần quay
lại rồi nói lớn “thằng đó là thày giáo trường cấp ba đó”. Nghe thấy thế
tên công an thứ nhất rút ngay tông đơ, một tay nắm đầu Huấn đưa một lèo
từ trước ra sau. Sau đó hắn thả Huân ra còn phang thêm câu: “cho bỏ
thói để tóc dài.
Huân
mặc cái quần jean bạc màu, phía 2 đầu gối rách lòi cả thịt. Phía sau
cũng bị rách, nhưng Huân đả vá lại bằng 2 miếng vải trắng, mỗi lần nhìn
thấy học trò cười ầm cả lớp, nhưng rồi quên dần, học trò đặt cho Huân
cái tên rất trìu mến “giám đốc TV”. Không phải Huân muốn như vậy, mà
thực sự Huân không có quần áo nào tốt hơn. Hơn 2 năm phòng thương nghiệp
không bán quần áo tiêu chuẩn. Cái quần Huân mặc theo Huân có đến 5 năm.
Tiền lương không đủ cho Huân hút thuốc thử hỏi làm sao mua quần khác.
Chỉ có nước chờ đảng và nhà nước ban ơn.
9
giờ sáng, học trò đang học, giáo viên đang dạy, bỗng thấy 3 xe công an
phóng vào trường, xe dừng lại bọn công an nhảy ra khỏi xe tủa bao vây
xung quanh trường, mọi người xôn xao, không biết có chuyện gì xẩy ra.
Sau vài phút loa phóng thanh từ văn phòng thông báo “Các đồng chí giáo
viên, các em học sinh, bình tĩnh học tập.
15 phút nữa đồng chí Lê Duẫn tới
thăm trường, đây là một hãnh diện cho trường ta, sở Giáo dục đã đề cử
trưởng ta là trường kiểu mẫu, tiên tiến trong tỉnh, nhân cơ hội đồng chí
tham quan tỉnh nhà, muốn ghe trường ta. Yêu cầu các đồng chí giữ nguyên
tình trạng, giữ kỷ luật học sinh. Đợi khi có lệnh tập trung đón tiếp..”
Xe
của Bác tới, phái đoàn thật hùng hậu. Ngoài phái đoàn trung ương, phóng
viên báo chí còn có phái đoàn tỉnh và sở giáo dục. Phái đoàn không thăm
toàn trường, mà chỉ thăm lớp chuyên toán của Huân. Lớp 12 chuyên toán
của trường đã được Sở Giáo Dục tỉnh chọn làm điểm tham quan của Bác Lê
Duẫn. Khi bác tới, cả lớp đứng lên chào, phái đoàn người nhiều hơn lớp
học, dến nỗi phải đứng bên ngoài.
Bác và phái đoàn trung ương bắt tay
các em rất thân mật. Sau vài câu nói giới thiệu, người phóng viên trong
phái đoàn hỏi một em học sinh gái ngồi đầu bàn: “em cho biết cảm tưởng
khi bác đến thăm lớp em” “dạ em rất lấy làm sung sướng khi được bác tới
thăm ạ”. Phóng viên hỏi tiếp “thế em biết ai là bác Lê Duẫn” “dạ em
không biết ạ”.
Phóng viên hỏi tiếp :” thế em không xem truyền hình sao?”
“dạ nhà em nghèo, không có truyền hình ạ.” mọi người nín thở, bác Lê
mặt chuyển mầu đỏ sang xanh. Bác nhìn xuống cuối lớp thấy có một người
đang khoanh tay, đầu đội nón. Bác giơ tay chỉ và nói: “anh kia là ai sao
lại đội nón?” Người đó trả lời rất bình tĩnh “Thưa bác cháu tên Huân là
giáo viên chuyên toán”
Có
người nhắc “bỏ nón xuống” Huân giơ tay lấy nón xuống. Mọi người đứng
chết trân nhìn cái đầu trọc lóc của Huân. Học sinh thì bịt miệng cười,
ban giám hiệu mặt cắt không còn một giọt máu. Bác Lê hỏi tiếp “giáo viên
sao lại cạo trọc đầu?” “Thưa Bác hôm qua cháu ra phố bị công an chặn
dùng tông đơ xủi từ trước ra sau, nên bắt buộc cháu phải cạo trọc, lên
lớp sợ học sinh cười nên đội nón”. Bác Lê “anh lên đây”.
Ai cũng hồi hộp
nhìn Huân lững thững tiến lên. Bác Lê nhìn Huấn từ đầu tới chân, nhìn
một thực trạng giáo viên XHCN, bác Lê nhìn cái quần rách đầu gối, nhìn
hai miếng vá màu trắng sau mông của giáo viên dạy toán giỏi nhất tỉnh.
“Anh là giáo viên dậy toán giỏi nhất tỉnh?” ..
“Thưa bác vâng…” ” Thày
giáo sao ăn mặc như vậy?” Huân bình tĩnh trả lời “Thưa bác vậy là may
mắn lắm rồi, thời chiến tranh chống Mỹ anh em không đủ ăn, không đủ mặc,
đâu có ai phàn nàn già.” Bác ngắt lời “thôi được rồi, phòng thương
nghiệp không bán quần áo cho anh sao?” Huân thưa “hai năm nay không có
bán…” Nghe tới đấy bác Lê quay người 180 độ ra thẳng xe, ra lệnh trở về
tỉnh…
Huân
thật sự lo sợ không biết chuyện gì sẽ xẩy ra, Ban giám hiệu họp khẩn
với Huân, trách Huân Bôi xấu chế độ…và chắc chắn không tránh khỏi bị kỷ
luật. Có chuyện lạ ngay sang hôm sau đích thân xe hàng sở thương nghiệp
tỉnh mang vải tới tận trường bán vải cho giáo viên đầy đủ tiêu chuẩn hai
năm. Còn phòng thương nghiệp huyện cơ quan trực tiếp chăm lo đời sống
công nhân viên nhà nước bị kỷ luật, nghe nói bị thuyên chuyển đi nơi
khác.
Ban
giám hiệu được mời về Sở họp suốt một tuần. Huân đóng cửa kín không
tiếp xúc ai, cho đến 2 hôm sau học sinh khám phá “Huân không có trong
phòng”. Huân vượt biên, hay bị thủ tiêu không ai biết. Ban giám hiệu họp
chưa về. Có người cho rằng Huân đi vượt biên cùng với gia đình học trò.
nhưng tin tức không chính xác. Từ đó tin tức về Huân không ai có nữa.
Ban giám hiệu, nhà trường học sinh, quên Huân như quên một câu chuyện
khôi hài. Nhưng là câu chuyện khôi hài có thật dưới triều Lê Duẫn.
Tôi
trở về quê hương, sau 12 năm, có tới thăm trường, không có gì thay đổi
tất cả vẫn như cũ. Hai cái ao sen trước trường nở hoa thật đẹp. Cây cầu
cá dồ không còn. Tôi gặp lại anh hiệu trưởng mới. Vừa thấy tôi hắn toét
miệng cười “Thày về thăm quê hương hả?” Tôi nhìn hắn đôi chút ngỡ ngàng “Trung hả?” “Dạ em Trung đây”.
Tôi
ôm lấy Trung: “Lâu quá tưởng không bao giờ thày trò mình gặp nhau”. Học
trò đang giờ chơi thấy tôi ôm Trung ngơ ngác nhìn, tôi buông Trung cả
hai tôi nước mắt chảy từ bao giờ.
KÝ VƯƠNG MỘNG LONG
Sao Hôm, Sao Mai
VƯƠNG MỘNG LONG
Giữa tháng Tư 1974, một trận đánh vô cùng ác liệt và đẫm máu đã xảy ra bên
dòng suối Mé (Ia Mé), cách Pleiku 30 cây số về hướng Tây Nam. Trong hai
ngày 14 & 15 tháng Tư 1974, Tiểu đoàn 82 /BĐQ/QLVNCH bị hai Trung
đoàn 48/SĐ320 & 64/SĐ320/CSBV xa luân chiến, tấn công bằng chiến
thuật biển người. Sau những cơn mưa pháo là những đợt xung phong. Cuối
cùng, địch đã dùng tới thủ pháo chứa hơi ngạt để dứt điểm. Trưa 15 tháng
Tư 1974 Cộng Quân tràn ngập căn cứ hỏa lực 711.
Dù bị đánh văng ra khỏi căn cứ, Tiểu đoàn 82/BĐQ vẫn không bỏ chạy khỏi
vùng. Gần hai trăm chiến sĩ bị thương nặng, nhẹ đã từ chối tản thương,
họ đã đâu lưng cùng
nhau bám đất, chờ tiếp tế đạn để phản công. Rồi hai ngày sau, với sự hỗ
trợ của một tiểu đoàn bộ binh, Tiểu đoàn 82/ BĐQ trừ (-) đã trở lại trận
địa để đánh một cú hồi mã cực kỳ dũng mãnh. Dạ chiến là sở trường của
Biệt Động Quân Plei-Me, vì thế, chỉ sau hai đêm, lực lượng Cộng Sản bám
trụ đã bị đánh bật ra khỏi vị trí cố thủ. Chiến dịch kết thúc với tổn
thất nặng nề của cả đôi bên, ta và địch. Thiệt hại phía ta là trên 50
quân tử trận. Thiệt hại phía địch là trên 200 quân bị giết (trong đó có
một thượng tá). Từ đó, căn cứ hỏa lực 711 được gọi kèm thêm cái tên “Đồi
Thịt Bằm”. Trận chiến qua nhanh như mưa bóng mây, nhưng mãnh liệt như
một cơn dông mùa hè.
Địch
thủ của tôi, những người chỉ huy tác chiến của Sư đoàn 320/ Điện-Biên,
cũng là những tay dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Họ rất tinh khôn, và
không kém can trường,
liều lĩnh. Trong thời gian này, có một mẫu điện đàm của địch lọt vào
đài kiểm thính của ta, trong đó, chính ủy Sư-Đoàn 320/Điện-Biên, đã cảnh
giác các đơn vị dưới quyền, “Phải tránh né tối đa mọi đụng độ trực tiếp
với thằng Hai Nâu”. Phòng 7 giải mã, cho tôi biết địch gọi TĐ82/BĐQ là
“Thằng Hai Nâu”.
Một ngày, giữa tháng Sáu 1974, trong khi tôi cùng hai đại đội đang lục
soát vùng Nam núi Chư Gô thì được thông báo cái điện thứ nhì, “Thằng Hai Nâu
đang hoạt động dã ngoại, phải khẩn trương bôn tập, đánh tiêu hao nó…”
điện văn này của Bộ Tư Lệnh SĐ320/CSBV ra lệnh cho Trung đoàn 48/SĐ320.
Sáng sớm hôm sau, từ đỉnh núi cao, qua ống
nhòm, tôi thấy rõ những vệt cỏ tranh trên những ngọn đồi hướng Bắc Chư
Gô rạp xuống như những luống
cày. Hình như trong đêm, cả trăm người đã đạp trên cỏ để tiến về suối Lé
(Ia Glaé). Suối Lé chạy dài từ Đông Bắc xuống Tây Nam, sát chân núi
Chư-Gô. Con suối này cắt ngang trục tiến trên phóng đồ hành quân của
tôi.
Tôi ra lệnh cho Đại úy Quách cơ Bình (k22 A) đang là tiểu đoàn phó
giữ trại, đóng chặt cổng rào, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Suốt ngày
hôm đó, tôi đã dội hàng trăm quả cối 4.2
(106 ly) và đại bác 105 ly trên những hàng cây gai xanh bên bờ con suối.
Quân dã ngoại của tôi ém trong
núi, không lửa khói, chịu đói. Rồi trong đêm, lợi dụng bóng tối, im
lặng vô tuyến, theo đường tắt, tôi rút êm.
Về tới cổng Nam trại Plei-Me tôi mới lên máy gọi chú Bình. Chỉ chừng
mười phút sau cú điện đàm giữa tôi và Đại úy Bình, thì từ biên giới
Miên, địch đã nã khoảng hai trăm
trái đại bác vào trại. Từ vài năm nay, hầu như tất cả điện đàm vô tuyến
của ta đều bị địch nghe trộm. Âm mưu của địch đã bị ta phát giác, cú
đánh tiêu hao không xảy ra. Hụt ăn, địch gỡ gạc! Vụ pháo kích gây cho
hai căn nhà tôle bị sập, và một binh nhì gốc Chợ Lớn bị tử thương.
Rồi tình hình lại yên…
Cuối tháng Sáu có tin mật báo, một cấp chỉ huy Cộng Sản chiều chiều cưỡi
ngựa, thám sát khu ngã ba làng Xổm (Plei Xôme). Làng Xổm nằm về hướng
Bắc, dưới chân ngọn núi lửa, cách Plei-Me chừng bảy cây số. Làng này đã
bị bỏ hoang từ lâu. Trên bản đồ hành quân, làng Xổm nằm sát ranh giới
hoạt động của Trung đoàn 42/ Bộ Binh trừ (-) và Tiểu đoàn 82/ Biệt động
Quân. Trung tá Nguyễn thanh Danh (k19 VB) trung đoàn phó Trung đoàn 42/
Bộ Binh đang chỉ huy cánh quân bộ binh. Tôi muốn đích thân giăng bẫy hạ
thằng Việt Cộng gộc này. Sợ khi đụng trận, bắn nhầm quân bạn, tôi muốn
anh Danh chia cho tôi thêm một cây số trách nhiệm về hướng Bắc.
Chuyện không thể nói trên vô tuyến, vì vậy tôi phải lái xe ra căn cứ 711 gặp
mặt Trung tá Danh.
Tại căn cứ hỏa lực 711, Trung tá Danh đi vắng, nhưng
may mắn, tôi đã gặp Đại tá Nguyễn hữu Thông (k16VB) trung đoàn trưởng
Trung đoàn 42 /SĐ22 Bộ Binh đang có mặt. Tiểu đoàn tôi nằm dưới quyền
giám sát hành quân của Niên trưởng Thông.Niên trưởng Thông hỏi:
- Danh nó về Pleiku, mai mới vô. Cần gì vậy em?
Đứng trước tấm bản đồ hành quân, tôi kể cho Niên trưởng Thông nghe tin tức
địch tôi vừa nhận được, và ý đồ hành động của tôi, rồi đề nghị:
- Niên trưởng nới thêm cho tôi một click về Bắc, để tôi dễ bề xoay trở.
Đại tá Thông đồng ý ngay:
- Okay, Làm đi! Chắc tên Vi-Xi này tới số nên mới gặp chú…Chuyến làm ăn dự trù này của tôi bị khựng lại vài ngày vì chú Quách cơ Bình (TĐ Phó) được lệnh thuyên chuyển về nguyên quán. Trong khi chờ một vị tiểu đoàn phó mới tới bổ sung, tôi đem Đại úy Bá, sĩ quan chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn vào giữ đồn Plei-Me trong lúc tôi xuất trại. Toán viễn thám của Trung sĩ Nguyễn Chi và toán cận vệ của Hạ sĩ Nguyễn Ba sẽ tháp tùng tôi vào vùng. Lực lượng an ninh ban đầu để tôi thiết lập vị trí là Đại đội 1/82.
Khi tôi đã hoàn tất tổ chức địa thế, lực lượng này sẽ rút lui
theo đường tắt để về phòng thủ trại. Lực lượng trừ bị cho tôi là Đại đội
3/82 của Thiếu úy Phạm đại Việt, sẽ án binh trong khu suối đá, bốn cây
số hướng Tây Bắc Plei-Me. Tôi đã dự trù mọi phản ứng thích nghi nếu có
bất cứ trục trặc nào xảy ra bất ngờ. Trừ sáu người đi theo tôi trong
chuyến làm ăn này, những quân nhân còn lại trong đơn vị hoàn toàn không
biết thầy trò tôi đi đâu. Trên tần số, không ai được phép đả động tới
việc tôi xuất trại.
Tôi chọn “Vùng làm ăn” trên đoạn đường xe be cách ngã ba Tỉnh lộ 6C làng
Xổm chừng một trăm mét. Hai bên bìa rừng của đoạn đường này không bị
khai quang như hai bên lề Tỉnh lộ 6C. Cây rừng chen chúc nhau, lau lách
um tùm, khu này rất thuận lợi cho một cuộc bố quân phục kích. Mờ sáng
hai quả Claymore đã gài xong. Hướng nổ của hai quả mìn đánh chéo nhau
thành hình chữ “W”. Bụi lau nơi mô đất giữa đường là điểm mốc. Hai lằn
đạn chì của Claymore sẽ giao nhau chỗ này. Tử địa chỉ dài chừng năm chục
mét thôi, nhưng con mồi nào lọt vào tử địa là coi như Diêm Vương đã
gọi.
Ngày thứ nhứt trôi qua, vô sự. Ngày thứ nhì trôi qua, vô sự. Ngày
thứ ba, vào lúc mặt trời đứng bóng giữa đỉnh đầu… Binh nhứt Y Huynh nói
nhỏ vào tai tôi:
- Thiếu tá! Có tiếng xe!
- Tao có nghe gì đâu?
Tôi quay sang hỏi chú Chi:
- Ê! Chi! Có nghe tiếng gì không?
Trung sĩ Chi nghiêng tai lắng nghe một lúc, rồi lắc đầu:
- Dạ không. Em không nghe gì cả!…
Lúc sau, thằng Y Huynh vừa giựt vạt áo tôi, vừa càu nhàu:
- Em nghe rõ có tiếng máy xe mà ông thiếu tá! Đó! Đó! Nghe rõ chưa?
- Ừ! Tai thằng này thính thiệt. Có tiếng xe xa lắm…
Rừng già xanh rì trải dài mênh mông. Trong gió, từ hướng Tây, phía làng Gà
(PLei Bon Ga) có tiếng xe rồ máy. Tôi leo lên một ụ đất cao ngỏng cổ
quan sát. Từ xa, từng cụm khói xe phun lên khỏi đọt cây.
Chim rừng hoảng
hốt vụt lên không mỗi khi đoàn xe sắp tới gần nơi chúng kiếm ăn. Đoàn
cơ giới đang tiến về phía chúng tôi, tiếng động cơ rõ dần, gằn từng cơn,
như tiếng xe tank, ít nhứt cũng cỡ năm bảy chiếc.
Tôi ghé tai chú Chi
và chú Ba ra lệnh:
- Chuẩn bị đánh tank! Đánh gục chiếc đầu. Xong là rút liền!
Chúng tôi cấp tốc chuyển địa bàn phục kích về hướng đầu con dốc ngược trên
đoạn đường xẻ ngang một ngọn đồi nhỏ. Con đường độc đạo chạy giữa hai bờ
đất cao bốn, năm thước.
Bảy Biệt Động Quân, bố trí trên bìa đường, dòm
xuống. Tôi tin tưởng rằng, với hai ống M72 và hơn chục quả lựu đạn vừa
miểng, vừa lân tinh, thế nào tụi tôi cũng “thịt” được một chiếc tank đi
ngù ngờ dưới kia (!) Chúng tôi nín thở, nép mình trong cỏ, đợi chờ…
Tiếng động cơ đã gầm gừ dưới chân dốc. “Ỉm! Ỉm!…ì…ì…ì. ..Ỉm!…” đoàn xe
rồ máy lấy đà leo lên. Thời nhảy toán trong Plei-Trap Valley (1972) tôi
đã có dịp nghe tank địch chạy sát bên mình vài lần. Ngoài tiếng động cơ
gằn từng cơn, tank di chuyển còn gây tiếng “két! két!” của xích sắt khi
móc xích bám vào guồng quay.
Lần này, chiếc tank đang tiến tới không gây
ra tiếng “két! két!”.
Cành lá rung rinh, mặt đất cũng rung rinh khi chiếc chiến xa đầu tiên tiến
lên đỉnh dốc. Vòm tre xanh đầu dốc đang bị chẻ đôi bởi chiếc cần cẩu
trên xe đang di chuyển. Thì ra đó chỉ là một chiếc xe be! Cái cần cẩu
sơn đỏ của nó cao hơn ngọn tre, nhô lên không. Tôi vội nắm sợi dây ba
chạc của chú Chi, ra dấu cho chú đừng phóng viên M72 đi. Dưới đường,
chiếc xe be thứ nhứt rồ máy liên tục để lấy đà, kéo chiếc thứ nhì sau
lưng.
Vì phải kéo một sức nặng gấp đôi, nên động cơ xe gầm rú dữ dội.
Mới nghe, ngỡ tiếng máy xe tank. Chúng tôi thở phào, nhẹ nhõm. Thoáng
chốc, đoàn xe be năm chiếc theo nhau qua con dốc. Chú Ba lầm bầm:
- Đồ phá thối!
Thấy công việc làm ăn không thuận lợi, tôi cho lệnh cuốn gói. Theo đường
tắt, chúng tôi rút về tiền đồn Bắc của trại. Khoảng bốn giờ chiều, toán
canh gác báo động xa trên Tỉnh lộ 6C cách trại hai cây số báo cáo có
mười hai người dân khai thác lâm sản xin vào trại tá túc vì xe be của họ
bị hư không thể chạy về Pleiku.
Tôi cho lệnh toán an ninh giữ họ tại
chỗ chờ tôi xuống tiếp xúc với họ. Đám dân khai thác gỗ này gồm một phụ
nữ, một chú bé và mười đàn ông. Người thiếu phụ tuổi trên dưới ba mươi,
nhan sắc dễ coi. Mặt chị ta có một vết chàm trên má. Chị khai là chủ hai
chiếc xe be, một chiếc bị Việt Cộng bắn cháy đầu máy, phải kéo. Qua
đoạn đường đèo ngã ba làng Xổm thì chiếc xe kéo bị “lột dên” không tiếp
tục được. Họ biết đường vào Plei-Me dễ đi hơn đường ra căn cứ 711 nên
xin vào tá túc.
Tôi cho phép đoàn người làm rừng này vào đồn, tạm trú
qua đêm trong Câu Lạc Bộ tiểu đoàn.
- Tôi là người quen của Trung tá Danh… bà chủ xe be khoe với tôi.
- Tại sao xe của bà bị Việt-Cộng bắn? Bộ bà không đóng thuế cho Cộng Sản à?
Hai tuần nay họ ra lệnh cấm xe be vào khu vực quanh Ia-Drang. Vi phạm
lệnh cấm là họ bắn.Tụi tui không rõ lệnh này, nên họ bắn bể két nước
chiếc xe đi đầu. Tha cho những chiếc chạy sau, rồi đuổi chúng tôi về.
- A ra thế!
Tôi hỏi chuyện những người thợ rừng về tin tức địch, nhưng họ cũng không
biết gì hơn. Tôi vào máy, gọi Trung tá Danh, báo cho anh biết tin tức
người quen của anh đang tá túc trong trại Plei-Me, sáng mai đoàn xe của
họ sẽ dắt dìu nhau về qua căn cứ 711.
Ngày kế tiếp. Mặt trời lặng lẽ nghiêng từ từ xuống rặng Chư Prong sát biên giới Việt
Miên. “Oách! Oách! Oách!… Quàng! Quàng! Quạc! …ụt! ụt! ụt!…” đàn chim
khách rời cành, vụt bay lên không. Hướng Tây, tiếng chim rộ từng chập.
Chúng tôi nín thở.
“K’rọc! …K’rọc! …”
“Hừm! …Hừm!…”
Có người đang đi tới! Nhưng tiếng động phát ra nghe lạ quá! Con cóc
Claymore trên tay tôi đã sẵn sàng. Tiếng “K’rọc!… K’rọc!…” -”Hừm!…
Hừm!…” gần hơn, tiếp đó là lạo xạo bước chân dẫm trên lá khô. Một bóng
người ngả trên đường. Cái bóng dài dần tới gần điểm mốc, ranh giới của
tử địa. “K’rọc!… K’rọc!…” -”Hừm!… Hừm!…”
Trong nắng xế tà, một người đàn ông Thượng, cởi trần, đóng khố, vuông
khăn xéo quấn trên trán, miệng phì phà ống vố, đang vô tư bước trên
đường xe be. Tay phải anh ta giữ
chuôi con dao quắm vác trên vai. Mỗi khi nuốt xong một đợt khói thuốc,
anh chàng này lại hắng giọng, “Hừm!… Hừm!…” Còn tiếng “K’rọc!… K’rọc!…”
đều đều là do con dao ngắn trong bao tre trên mông anh ta, lắc lư theo
nhịp bước.
Anh dân Thượng đủng đỉnh đi qua tử địa. Bóng anh ta mất hút
chỗ khúc quanh nơi con đường mòn nhập vào Tỉnh lộ 6C. Núi rừng lại trở
về cảnh cũ, lạnh lùng, vắng lặng. Chớm bóng chiều. Muỗi rừng “O…o…o.. .”
sau gáy. Sợ địch đánh hơi nghi ngờ, dù nằm cuối gió, chúng tôi cũng
không dám xoa thuốc chống vắt, chống muỗi. Những con muỗi quái ác, thấy
con mồi không phản ứng tự vệ, nên châm chích trên da thịt chúng tôi một
cách thoải mái. Có con bị bội thực, ễnh bụng no máu, lăn kềnh ra bò,
không bay nổi. Chúng tôi cắn răng chịu đựng nỗi ngứa dày vò, không dám
gãi, không dám đuổi xua đàn muỗi đói.
Tôi xuống ga Hàng-Cỏ vào buổi chiều. Thành phố thật rộn rịp đông vui, đầy
người qua, kẻ lại. Loa phóng thanh trên cột điện bên đường và trên cổng
vào ga đang oang oang phát đi những bài hùng ca thời chiến tranh chống
Mỹ. Tôi bước vội qua đường, vì nhìn thấy bên phải con đường đâm thẳng
vào cổng ga có cái bảng hiệu một khách sạn bình dân. Tôi vừa đặt chân
trên lề phố bên kia, một người đàn ông lớn tuổi đã đứng chờ, dơ tay
ngoắc:- Tìm nhà trọ phải không?
- Phải…
Phòng ngủ quốc doanh bẩy nghìn một đêm, nước tắm giới hạn, khổ lắm! Về nhà tôi, năm nghìn một đêm, nước nôi thả cửa…
Tôi không tin lời người đàn ông này. Tôi vào phòng ngủ quốc doanh.
- Một người, bẩy nghìn một đêm, cứ thêm một người, tính thêm ba nghìn…
Tiếp viên phòng ngủ quốc doanh cho giá cả một cách dứt khoát. Tôi bước ra cửa, người đàn ông đứng tuổi đã chờ sẵn:
- Nhà tôi đây…
Rồi ông ta chỉ cho tôi cái sạp gỗ bên phải buồng ngủ:
Chú ngủ ở đây. Cái tủ đứng có năm ngăn, ngăn thứ nhất dành cho chú,
chìa khóa nằm trong ngăn tủ, đi đâu nhớ khóa ngăn của chú lại. Tắm giặt
thì ra đằng sau nhà, có mười phòng tắm, nước chảy cả ngày. Bên khách sạn
quốc doanh không có nước phông ten, tắm theo tiêu chuẩn, một thùng hai
chục lít. Bên này, chú tắm chán thì thôi…
Ông chủ dẫn tôi ra sau nhà, nơi đây có một dãy mười phòng tắm có vòi hoa
sen tươm tất sạch sẽ. Tôi thay bộ quần áo đi đường đầy bụi bặm chuẩn bị
đi giặt. Ông chủ nhà lại ra đi. Tôi tắm giặt xong, quay về buồng thì ông
chủ cũng trở lại, theo chân ông là một khách đàn bà. Cô ta sẽ nằm trên
cái sạp đối diện với tôi. Hộc tủ thứ nhì của chiếc tủ đứng thuộc quyền
cô ta. Một cái sạp, một ngăn tủ, tắm giặt thả giàn, năm nghìn một đêm,
rẻ chán! Ông chủ nhà ngủ trên cái sạp sát tường, cách đầu giường tôi và
đầu giường cô gái một lối đi rộng hai thước. Ba cái sạp kê thành hình
chữ
- Này! Chú em nhà ở đâu mà phải ngủ ghé, không về? Ông chủ nhà gợi chuyện.
- Hải-Dương
- Hải-Dương xe chạy cả đêm, sao không về?
- Tôi có việc phải ở Hà-Nội vài ngày…- Ừ hử! Vậy chứ chú em làm nghề gì? - Buôn bán làng nhàng, theo tầu, ngược Bắc, xuôi Nam…
- Có thường ghé Sàigòn không?
- Chuyến nào mà chẳng ghé…
- Ba, bốn năm nay anh không ghé Sàigòn, bây giờ chắc đông, vui lắm nhỉ?
- Vâng, đông lắm, vui lắm… vậy chứ bác đã ở Sàigòn hở? Bác làm gì trong đó?
- Tớ dậy học. Tớ dậy Đại-Học Khoa-Học…
- Ủa! Vậy ra bác là giáo sư…
- Tớ dậy đại học từ bẩy nhăm (1975) tới tám nhăm (1985). Tám nhăm thì tớ về hiu…
- Tám nhăm, bác còn trẻ, sao về hưu sớm thế?
Về vườn thì đúng hơn. Mới giải phóng, chúng nó cần mình. Sau… chúng nó
thải mình, cho họ hàng, bà con, anh em, con cái chúng nó thay mình, kiếm
ăn…
- Bác dạy môn gì trong thời gian đó? Chắc bác có bằng cao học, hay tiến sĩ?
Bằng cấp con khỉ mốc!Tớ đang học lớp ba, chưa thi Sơ-Học Yếu-Lược
(thời Tây) thì xảy ra cách mạng. Ba mươi năm theo Đảng, vốn liếng của tớ
chỉ có mớ lý thuyết Cộng-Sản thuộc nằm lòng. Giải phóng Miền Nam xong,
Đảng ủy yêu cầu tớ dậy Lý Thuyết Đảng cho học sinh đại học. Lúc đầu tớ
cũng khớp, không dám nhận. Sau đó tớ đánh liều. Mà quả thật, có ai biết
mình là thằng dốt đâu? Mười năm, nhờ ơn Đảng, tiếng nói của một thằng i
tờ rít như tớ tự nhiên có trọng lượng… học sinh nghe theo răm rắp…
Rồi sau đó ư? Tụi nhỏ du học Liên-Xô, Tiệp-Khắc trở về. Chúng nó thay
chân những tên i tờ như tớ… tớ về hiu, xin được căn hộ này để ở. Già
rồi, không ai thèm thuê mướn, tớ đành kiếm khách lỡ độ đường, cho họ trọ
qua đêm, kiếm cơm…
- Chắc cuộc sống của bác cũng khấm khá?
- Bữa no, bù bữa đói. Mưa thuận gió hòa thì có đồng ra, đồng vào. Giông
bão vài ngày, không có khách, là meo mỏ rồi. Sung sướng gì đâu em ơi!
Tôi trải cái bản đồ thành phố Hà-Nội trên sạp, dò tìm con phố Hàng Bài. Cô khách trọ cùng phòng tò mò rướn cổ sang theo dõi,
- Tìm cái gì đấy hở?…
- Phố Hàng Bài…
- Hơi xa đấy nhá! Cứ gọi xích lô là đến ngay! Tìm làm gì cho mệt xác!
- Chú em đi buôn đường Sàigòn, Hà-Nội mà không biết phố Hàng Bài ở đâu thì có ngày lớ ngớ đem hàng nộp cho dinh Thủ-Tướng…
Tôi đành nhỏ giọng, thú thật:
- Tôi là sĩ quan của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, cựu tù cải tạo. Tôi ra Hà-Nội để nộp đơn đi Mỹ…
Tôi cũng đã nghi như thế, khi nghe giọng nói của chú em không còn thuần
túy Hải-Dương. Chỉ vì tôi cũng là dân Hải-Dương. Trước chú, đã có đôi
người của chế độ Sàigòn cũ ghé đây, ngủ trọ, nộp đơn, chờ ngày ra đi. Mỹ
quốc là thiên đường cho những người sa cơ, lỡ vận. Đời chú như thế là
may mắn lắm rồi…
Ông giáo sư đại học về hưu thở dài:
- Con đường của chú đi, thấy sai mà đúng. Con đường của chúng tôi đi, thấy đúng lại sai…
Đêm xuống đã lâu, phố phường bớt người qua lại, nhưng trên đài phát thanh
Hà-Nội, Tô-Lan-Phương còn đang biểu diễn bài “Cô Gái Vót Chông”. Giọng
cô Ca Sĩ Nhân Dân cao vút, nhọn hoắt như những ngọn chông tre. Những
ngọn chông tre thời chống Mỹ, từ trên cột đèn và cổng nhà ga, theo nhau
tới tấp lao vào màng nhĩ khách bộ hành. Ông chủ nhà thắp ngọn đèn dầu
đặt trên nóc tủ. Ông tắt điện, căn phòng chợt tối. Cánh cửa gỗ khép lại,
cài then.
Gỗ cửa khá dày, những ngọn chông Tô-Lan-Phương bị chặn lại
ngoài hiên.
Sau mấy ngày ngồi gật gù trên xe lửa, tôi thấy cái sạp gỗ của nhà trọ êm ái
quá. Tôi nằm duỗi thẳng cẳng để cảm thấy xương cốt mình như đang mềm
đi, đang giãn ra. Từ giường bên kia, giọng cô gái trẻ bắt đầu, “Anh ở
đầu sông, em cuối sông…” Giọng cô ta không cao vút, không nhọn hoắt,
nhưng tôi chỉ nghe được câu đầu của bài ca, hai mi mắt tôi đã sụp xuống
rồi. Một đêm qua êm đềm, không mộng mị.
Mười giờ sáng hôm sau, tôi rời phố Hàng Bài khi vừa hoàn tất việc nộp hồ sơ
xin xuất cảnh. Một ngày rảnh rỗi, tôi lang thang trên ba mươi sáu phố
phường Hà-Nội.
Ở đây chỉ có những con đường nhỏ hẹp như đường phố cổ
Hội-An trong Nam. Tiếng chuông xe điện “leng keng…leng keng…” làm cho
thành phố này già nua thêm. Mặt trời đứng bóng, nắng hanh, tôi tạt về
hướng hồ Hoàn-Kiếm. Xung quanh một gốc si cổ thụ, khách quây quần bên
những gánh quà vặt, chè, thạch, óc đậu, kem quay, bánh tôm, bún chả,
cháo lòng, thịt bò khô, khoai ngô nướng, nước chè tươi…
- Chè đỗ đen đi chú em…
- Cho tôi một bát.
Bà bán hàng đang múc chè vào bát, chợt ngừng tay, reo lên:
- Ông đại tá tới rồi, chè đỗ đen nhá?
Tôi giựt mình, “Chẳng lẽ bà này quen mình, gọi đùa mình là đại tá?”
Nhưng tôi lầm, bà bán chè vừa nói với một phu xích lô mới ngừng bên lề. Trả lời bà, một giọng đàn ông oang oang:
- Bát to đấy nhá! Để lấy sức cuốc một ngày.
Vâng, bát to. Mỗi ngày một bát chè to cho ông đại tá Điện-Biên, Tây-Nguyên lấy sức đánh… xích lô.
Ông phu xích lô ghé đít xuống chiếc ghế con, chiếc ghế quá nhỏ, so với cái
mông đồ sộ của ông. Đưa tay quẹt mồ hôi trên trán, người phu xe già than
thở:
- Hôm nay ế ẩm, từ sáng tới giờ chưa được cuốc nào. Chán bỏ xừ…
- Đại tá mua gạo tháng này chưa? Dạo này tem phiếu giá chui cao quá..
Nhà này ăn đong từng ngày. Tiền đâu mà mua tem, mua phiếu…
Mẹ kiếp! Hồi
xưa đánh Tây đánh Mỹ, nó cần mình. Bây giờ hòa bình, nó đuổi mình ra,
nó ăn cả, đồ chó má!
Thấy tôi trố mắt theo dõi câu chuyện đổi trao giữa hai người, bà bán chè giải thích:
Ông đại tá một đời theo Đảng. Anh hùng Điện-Biên, Tây-Nguyên đấy! Đáng nhẽ
ra, những người có công với tổ quốc, với cách mạng như ông phải được
chiếu cố đặc biệt mới đúng. Ai đời! Anh hùng quân đội nhân dân mà sáu
chục tuổi đầu còn phải đi đạp xích lô để kiếm sống thì quả là tội nghiệp
quá!
Người phu xe già thở dài:
- Chúng nó vắt chanh bỏ vỏ. Lớp chúng tớ hết thời rồi. Bây giờ, thân tớ ví như… một vì sao rụng.
Tôi giật mình, bốn tiếng “một vì sao rụng” hình như tôi đã nghe một lần ở đâu đó, lâu rồi…
Tôi vừa nhướng mắt quan sát, vừa moi trí nhớ, xem ông già này có nét gì quen không, thì bên bờ hồ có tiếng gọi:
Xích lô!
Người phu xe chống hai tay lên đùi lấy đà, nhổm dậy thật nhanh:
- Mai tôi giả tiền nhá! Có khách, không lẹ cẳng, thằng khác nẫng tay trên…
- Được mà! Khách quen, mai giả cũng được mà…
Tôi đang tính bắt chuyện với ông đại tá thì ông đã nhanh chân đẩy xe sang
bên kia đường rước khách. Tiếc rằng cuộc hội ngộ mười lăm năm trước
(tháng 5/1975) quá ngắn ngủi, tôi không nhớ rõ nét mặt của người khách
lạ đã tới căn lầu đúc trong hẻm TK9, phường Nguyễn cảnh Chân, Quận 2
thăm tôi, một tuần lễ sau ngày Sàigòn thất thủ.
Tôi cố ôn chuyện cũ
trong óc, gợi lại hình dáng năm xưa của ông thượng tá.
Ông thượng tá
Điện-Biên, anh hùng Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam có đôi vai ngang, người
phu xe già… cũng có đôi vai ngang. Thêm vào đó, thân hình người phu xe
già cũng vạm vỡ, cao lớn, tiếng nói cũng oang oang, lơ lớ như ông thượng
tá con quan Lang xứ Cao-Bằng.
Khi chiếc xích lô lẫn trong dòng xe nườm nượp giữa thủ đô, tôi cũng đứng
dậy tiếp tục lang thang quanh bờ hồ. Suốt ngày hôm ấy, trong óc tôi cứ
lởn vởn hình ảnh người phu xe già, với câu than thở, “Bây giờ, thân tớ
ví như… một vì sao rụng”
Đêm thứ nhì, cũng là đêm cuối cùng trên đất Thăng-Long, tôi đứng bên này
đường, trong ánh điện mờ.
Bên kia đường là ga Hàng-Cỏ. Nơi này, bố tôi
đã đưa tiễn mẹ con tôi lên tàu hỏa xuôi Hải-Dương, ngày tôi tròn bốn
tuổi. Hôm ấy bố tôi bế tôi trên tay, tôi bập bẹ bài hát trẻ con đương
thời hay hát, “Ai yêu Bác hơn chúng em…”
Bố bịt mồm tôi lại:
- Con ơi! Đừng hát bài này, bài hát không hay… Con hãy hứa với Bố, con sẽ không hát bài này nữa nhá!
Mẹ tôi gạt nước mắt, bế tôi lên tàu. Đứng bên đường, cạnh chiếc xe đạp, bố
vẫy tay. Bố con tôi, từ đó, cho tới suốt đời tôi, không còn gặp nhau
nữa. Vì hai năm sau, bố tôi đã bị giết. Những người mê say “bài hát
không hay” đã giết bố tôi…
Mới đó, mà hơn bốn mươi năm qua! Đêm nay, trước ga Hàng-Cỏ, đứng bên cái
cột đèn, nơi ngày xưa bố tôi đã đứng vẫy tay, tôi gọi thầm trong nước
mắt:
- Bố ơi! Bố ơi!… Con nhớ Bố! Con thương Bố! Bố ơi!…
No comments:
Post a Comment