Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Wednesday, 14 December 2016

PHAN THANH GIẢN=TRUNG QUỐC =CHUYẾN TU &VƯỢT BIỂN

NGUYỄN PHÚ THỨ * PHAN THANH GIẢN



Ông Phan Thanh Giàn là nh ân T ài Đạo Đức, Cương trực, Thanh Liêm, Trung Quân Ái Quốc và Thương Dân đáng được Tôn kính Vinh Danh và Ngưỡng Mộ

Hàn Lâm Nguyễn Phú Thứ

Được biết, vua Tự-Đức (1847-1883), là con thứ hai của Vua Thiệu-Trị và Bà Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, mất ngày 14 tháng 6 năm Quý Mùi nhằm ngày 17 tháng 7 năm 1883, trị vì 36 năm, thọ 55 tuổi.Vua Tự-Đức là vị vua thông minh, hiền lành, hiếu học, siêng năng và rất hiếu thảo với mẹ, được nhắc nhở như sau :

Trải qua 36 năm làm Vua trên ngai vàng, lúc nào cũng dành ngày chẵn vào cung để vấn an sức khỏe mẹ, đồng thời nghe lời truyền bảo của mẹ, nếu có điều gì quan trọng đáng lưu tâm thì ghi ngay vào quyển sổ tùy thân mà nghiền ngẫm. Đó là, quyển sổ từ huấn lục (tức quyển sổ chép lời mẹ dạy). Xem thế, đủ biết Vua Tự-Đức thờ mẹ rất chí hiếu bực nào.

Do vậy, khi giặc Pháp đã chiếm được lục tỉnh thuộc Nam Kỳ lúc bấy giờ, trong lãnh thổ này có quê hương của Bà Từ Dũ, làm cho nhà Vua rất tức giận và trút hết tội tình lên một vị quan văn trung-thần ái quốc là Ông Phan-Thanh-Giản, mà không xét lỗi mình là Ông Vua của một nước có quân, có quyền trong tay và lại có hành-xử chủ hòa với giặc Pháp? ...
Như thế, ở đời chúng ta nên : "Xét lỗi mình trước khi xét lỗi người" có vậy mới thấy trung thực của mọi vấn đề. Đó là bài học đáng quý vậy!




Khi nhắc đến Ông Phan Thanh Giản, không thể tạm ngưng ở đây, để tìm hiểu thêm, xin trích dẫn quyển Tìm Hiểu Các Danh Nhân của Nguyễn Phú Thứ từ trang 65 đến trang 84 như sau :

Phan-Thanh-Giản



Ông Phan-Thanh-Giản, có tên chữ là Tịnh Bá và Đạm, hiệu là Lương-Khê, biệt hiệu là Mai-Xuyên, sinh vào giờ Thìn, ngày 12, tháng 10 thuộc Hợi, năm Bính Thìn tức năm 1796 dương-lịch, thuộc đời vua Cảnh-Thịnh Nguyễn-Quảng-Toản (1792-1802). Con của Ông Phan-Thanh-Xáng, tự Văn-Ngạn, hiệu Mai-Thư tiên sinh, rất giỏi chữ nho, đến Vĩnh Long làm thơ lại cho Nam triều, thưòng lãnh nhiệm-vụ tãi lương-thực về Huế. Và con của Bà Lâm-Thị-Phần (có sách nói tên Lâm-Thị-Bút, người huyện Bảo-An).



Ông nội của Ông Phan-Thanh-Giản là Ông Phan-Thanh-Tập tự Đào-Ấn hiệu Ngẫu-Cư tiên sinh và Bà nội là Bà Huỳnh-Thị-Học. Tổ tiên Ông là người Trung-Hoa đến cuối đời nhà Minh mới sang nước Việt-Nam, trước ở Bình-Định, đến lúc Tây-Sơn nổi dậy, thân sinh Ông chạy xuống Định-Tường, rồi đến xã Bảo-Thạnh, quận Bảo-An,Tỉnh Bến-Tre (Kiến-Hòa trước kia).Lúc Ông được 7 tuổi, mẹ mất sớm, được người cha gởi sang bên ngoại ở làng Phú Ngãi, để ăn học vở lòng với nhà sư Nguyễn-Văn-Noa, đến năm 1816 Ông theo học trường tỉnh Vĩnh-Long.



Việc học-hành của Ông lại gặp trở ngại, vì cha bị vu cáo nên bị ở tù tại Vĩnh-Long. Ông xin ở tù thay cha, nhưng không được chấp- thuận. Các quan thuở ấy thấy Ông nhỏ tuổi mà là một đứa con hiếu-thảo, lại có đức-hạnh và thông-minh, nên các quan nâng-đỡ cùng khuyên Ông nên cố-gắng học-hành để tiến thân.Năm Ất-Dậu 1825, Ông đâu Cử-Nhơn tại Gia-Định và năm sau ra Huế thi Hội và thi Đình, Ông đậu đệ tam tiến-sĩ đầu tiên tại Nam Kỳ (Khoa thi Hội năm 1826 có khoảng 200 cống sĩ, nhưng kết quả chỉ có 10 người đậu, gồm : 7 người ở Bắc-Kỳ, 2 người ở Trung-Kỳ và 1 người ở Nam Kỳ là Ông được đứng vào hạng thứ 3 trong số 10 người, cho nên được gọi Ông là "Đệ Tam Giáp Tiến Sĩ ").


Sau đó, Ông cưới vợ Cần-Giuộc, rồi được bổ-nhậm chức Biên-Tu ở Hàn-Lâm-Viện kinh đô Huế, vài tháng sau đổi ra Quảng-Bình. Rủi thay người vợ trẻ ở Cần-Giuộc mất sớm vì bịnh, nên Ông tục-huyền với Bà Trần-Thị-Hoạch ở Quảng-Trị, sống chung nhau chưa bao lâu, để báo hiếu với cha, Ông cho vợ về Kiến-Hòa để phụng dưỡng cha già. Người vợ là người đức-hạnh nên buộc lòng hy-sinh việc "xuất giá tùng phu", nghe lời chồng, cho nên khi Ông khi tiễn đưa vợ hiền về Nam Kỳ đã làm bài thơ kiệt-tác như sau :
Từ thuở vương xe mối chỉ hồng,
Lòng nầy tạc dạ có non sông,
Đường mây cười tớ ham dong ruổi,
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng,
Ơn nước nợ trai đành lỗi bận,
Cha già, nhà khó cậy nhau cùng,
Mấy lời dặn bảo cơn ly biệt,
Rằng nhớ, rằng quên, lòng hởi lòng!.

Riêng bà Trần-Thị-Họach, không những đồng-ý thay chồng để báo hiếu, mà còn sẵn sàng muốn có người hầu hạ cho chồng khi bà xa vắng, nên dẫn người tỳ thiếp tên Thịnh để giúp chồng, bị Ông quyết liệt từ khước và bảo người tỳ thiếp trở về, Bà Thịnh cảm cái nghĩa của Ông, nên về sau không lấy chồng, mà ở với Bà Hoạch cho tới già tại làng Bảo Thạnh, quận Bảo-An, Tỉnh Bến-Tre. Ngoài ra, khi Ông ra làm quan không bao giờ tỏ ra kiêu-hãnh "áo gấm về làng" bằng cách mỗi lần trở về quê thăm lại các quan ở Vĩnh-Long, thăm các thầy, thăm các bạn lúc nào nhã-nhặn lễ phép, không phô-trương ta đây là quan lớn ở triều-đình, Ông mặc áo như người thường dân. Đời sống Ông rất mực-thước, giản-dị, thanh-liêm, Ông dành nhiều thì giờ cho công-vụ và đọc-sách làm vui, cũng vì thế trong 41 năm làm quan, ít khi trở về thăm lại quê-hương của Ông, có lẽ vì đường sá quá xa xôi, việc nghỉ phép khó-khăn, đặc-biệt có lần về nhà cư tang cha vào năm 1843 và ngược lại bà Hoạch cũng thỉnh-thoảng mới ra thăm Ông tại nhiệm-sở.



Về đường quan lộ của Ông rất thăng trầm trong nhiều chức vụ qua các lãnh vực khác nhau, trải qua 3 triều đại : Minh-Mạng, Thiệu-Trị và Tự-Đức, xin trích dẫn như sau : Giai-đoạn 1826-1859, Ông lận-đận, thăng-trầm trên đường hoan lộ nhiều lần, ví như tháng 8 năm 1826 thuộc vua Minh-Mạng thứ 6, Ông giữ chức Biên Tu ở Hàn Lâm Viện, rồi được thăng chức Lang Trung Bộ Hình, kế đến Tham Hiệp ở Quảng-Bình, quyền Hiệp-Trấn Nghệ- An và sau đó làm Hiệp-Trấn Quảng-Bình. Năm sau tức 1827 Ông được về triều-đình để nhận chức Phủ-Doãn Thừa-Thiên, Ông được vua Minh-Mạng chú-ý vì có nhận-định chánh-trị sắc-bén và già dặn, nên ít lâu sau được thăng làm Thị-Lang Bộ Lễ tức làm việc tại Nội-Các và kế đến lại tái nhậm chức Hiệp-Trấn Quảng-Bình lần thứ hai đến năm 1831 Ông bị thuyên-chuyển về Quảng-Nam để dẹp cuộc khởi-loạn của dân-tộc thiểu số miền sơn cước.


Cuộc chinh phạt đó, Ông gặp khó-khăn vì là quan văn, nên xem như thất bại, cho nên Ông bị giáng chức lần thứ nhứt. Rồi, Ông từ một thuộc viên của sứ bộ sang Hạ-Châu (Singapore), lại thăng lên Hàn-Lâm Kiểm-Thảo Sung Nội-Các Hành-Tẩu, đến năm 1833 được thăng Viên Ngoại-Lang Bộ Hộ, quyền ấn, Phủ Thừa-Thiên, rồi Hồng-Lô Tự-Khanh và cuối năm này, Ông được cử làm Phó Sứ sang Tàu, sau khi trở về được thăng chức Đại-Lý Tự-Khanh để coi việc Bộ Hình và được sung vào Cơ-Mật-Viện Đại-Thần. Sau đó, vì nhờ tài ngoại giao, nên Ông được khen ngợi và lãnh chức Kinh-Lược Sứ Trấn Tây (Cao-Miên), rồi trở về sung chức Bố-Chánh Tỉnh Quảng-Nam, quyền ấn Tuần-Phủ Quan-Phòng. Vào tháng 5 năm 1836 thuộc vua Minh-Mạng thứ 7, nhà vua muốn ngự du Ngũ-Hành Sơn ở Quảng-Nam, Ông dâng sớ cản ngăn đại lược như :"Nhà vua đi tuần hành, dân trong hạt chẳng vui mừng, nhưng nay khoảng tháng 4, tháng năm mùa hạ, mùa lúa không được tốt, lại đang lúc thời tiết cấy cày, trồng trọt, nếu dân lo cung đón nhà vua thì được việc này, mất việc kia.Nay xin tạm đình để dân dốc sức vào việc ruộng nương..."Lá sớ của Ông làm vua tức giận và nghi các quan ở Quảng-Nam làm việc bê-bối, nên vua cử Ông Vũ-Duy-Tân đến điều-tra hư thật. Ông này lại nịnh hót đặt điều nào : Dân chúng đang mong vua đến, các quan nhũng lạm...
Vì thế, Ông bị nịnh thần dèm xiển, nên bị giáng chức nặng-nề, làm phận sự một người quét dọn bàn ghế tại tỉnh đường Quảng-Nam và nhà vua cũng bãi bỏ cuộc ngự du Quảng-Nam. Tuy nhiên, Ông không than van, đến khi vua hiểu được lòng của Ông, thì được bổ nhậm chức Đô-Sát Viện Ngự-Sử, Sung Cơ Mật-Viện Đại-Thần. Đến năm 1843 thuộc vua Thiệu-Trị thứ 3, có một luồng khí bạch vắt ngang trời, vua xuống chiếu cầu lời trực ngôn, Ông dâng sớ chỉ trích khéo vua và tố cáo sự thối-nát hành-chánh địa-phương, đồng thời Ông đề-nghị biện-pháp cải-thiện, Ông được vua Thiệu-Trị khen ngợi. Vua Tự-Đức lên ngôi bổ Ông làm Thượng-Thơ Bộ-Lại, đến năm Tự-Đức thứ hai, Ông được cử làm Giảng Quan ở tòa Kinh-Diên mới thiết-lập và hai năm sau được cử Ông làm Phó Sứ Lãnh-Tuần Phủ Gia-Định kiêm chức Lãnh Đốc các đạo Vĩnh-Long và Định-Tường, Biên Hoà, An-Giang và Hà-Tiên (Trong khi Ông Nguyễn-Tri-Phương làm Nam Kỳ Kinh Lược Chánh Sứ). Trong chức vụ này, Ông lúc nào cũng nghĩ đến ích nước lợi dân, nên Ông lại dâng sớ điều-trần để cải-tổ, được vua chấp thuận và khen-ngợi. Năm 1853, Ông được gọi vể triều để lãnh chức Hiệp-Biện Đại-Học Sĩ Lãnh Thượng Thơ Bộ Binh. Tháng chạp năm 1856 thuộc Tự-Đức thứ 9, Ông được cử Tổng-Tài Quốc-Sử để soạn bộ Khâm-Định Việt-Sử Thông-Giám Cương-Mục. Nước Pháp và Tây Ban Nha liên minh đánh Việt-Nam, gồm 14 chiếc thuyền chở 3000 quân dưới quyền chỉ huy của Rigault de Genouilly, ngày 24-7 năm Mậu Ngọ 1858 đến đánh Đà-Nẵng, triều đình cử Ông Nguyễn-Tri-Phương chống giữ, quân giặc thấy khó chiếm, bèn bỏ ý định đánh Huế, quay vào Gia-Định năm 1959 để đánh chiếm thành Gia-Định sau hai ngày giao tranh, chiếm được hơn 80.000 ký thuốc súng, 200 khẩu đại bác và một số tiền điếu rất lớn. Các quan bày tỏ lập-trường về việc chiến hay thủ, Ông dâng sớ bàn đại lược như sau : "Thiên hạ đất rộng, công việc rất nhiều, ở chỗ việc nhiều, cai trị chỗ đất rộng, cốt làm cho yên mà thôi. Theo sức người mà dạy, không khó nhọc mà thành công, noi phép mà cai trị, quan lại quen mà dân yên, cho nên lợi không gắp trăm thì không đổi phép, công mà không gắp mưu thì không đổi đồ dùng. Làm cái kế ngày nay cốt nhứt nuôi dân chăm cày cấy, nuôi lính đủ ăn, lưu ý như thế thì sức dân được thư thả mà quân có chỗ dạy, sức đất không bỏ phí mà lương có chỗ ra, quân giỏi,
lương đủ thì như nước chảy cuồn cuộn không hết, thì hoặc đánh hoặc giữ, không việc gì là không nên, đối với việc dân yên nước thịnh, may ra bổ ích đôi chút ..." Vua Tự-Đức khen rằng : "Lời nói đều có cốt yếu, bọn tân tiến không thể ví nổi, chỉ nên thực lòng cố sức giúp trẩm, đời sau chắc có tiếng khen". Kế đến : Ngày 25-2-1861 thành đồn Kỳ-Hòa (Chí-Hòa) thất thủ em Ông Nguyễn-Tri-Phương là Nguyễn-Duy tử trận, ông Phạm-Thế-Hiển bị thương nặng mấy hôm sau thì chết, riêng Ông Nguyễn-Tri-Phương cũng bị thương phải bỏ đồn rút quân về Biên-Hòa. Ngày 12-4-1861 Page hạ thành Mỹ-Tho; ngày 9-9-1861 Đề Đốc Bonard thay Charner chiếm thành Biên-Hòa và ngày 28-3-1862 Bonard chiếm thành Vĩnh-Long. Trước tình thế nguy-ngập, vua Tự-Đức cử Ông và Ông Lâm-Duy-Hiệp vào Nam-Kỳ để thương-thuyết hầu tìm cách cứu vãn tình thế, cuộc thương-thuyết diễn ra tại Sài-Gòn, có Đô-Đốc Bonard đại-diện quân Pháp và tướng Palanca đại-diện Tây-Ban-Nha (Y Pha Nho) . Kết-quả, bắt buộc phải ký hòa-ước vào ngày 5-6 dl năm 1862 nhằm ngày 9 tháng 5 âl năm Nhâm-Tuất, quân giặc ở thế thượng phong, gồm 12 khoản, trong đó những khoản làm cho dân-tộc chúng ta khổ tâm như :
Khoản 3 : Nhường cho Pháp các tỉnh : Biên-Hòa, Định-Tường, Gia-Định và đảo Côn-Nôn. Người Pháp được đi lại trên sông ngòi Nam-Kỳ.
Khoản 5 : Người Pháp và người Tây-Ban-Nha được buôn bán ở Đà-Nẵng, Đà-Lạt và Quảng-Yên.
Khoản 8 : Nước Đại-Nam tứcViệt-Nam phải trả 4 triệu đồng chiến phí trong hạn 10 năm...
Hòa-ước Nhâm-Tuất ký xong, vua Tự-Đức và các triều không hài lòng và chủ trương : "Việc nhường đất, bồi tiền như thế không hợp lý, nhưng các điều ước mới định mà cãi nghị ngay thì họ sẽ không đồng ý". Ngoài ra, vua Tự Đức không bắt tội Ông Phan-Thanh-Giản mà còn cử Ông làm Tổng-Đốc Vĩnh-Long để từ từ thương chước để chuộc lại lổi lầm trước kia. Tháng 11-1862 Ông Phan-Thanh-Giản yêu cầu Pháp trả lại Vĩnh-Long, nhưng Pháp cho hay, chỉ trả lại khi nào Ông Quản-Cơ Trương-Định thôi đánh Pháp. (Bởi vì, khoảng thời gian trước và sau khi ký hòa-ước Nhâm-Tuất cho đến mất trọn 6 tỉnh thuộc Nam Kỳ, các sĩ phu và dân chúng thuộc 6 tỉnh (Nam Kỳ) rất uất hận nổi lên chống cự giặc ngoại xâm, dầu biết võ khí thô sơ nhưng với lòng yêu nước nồng nàn cao độ họ đã làm cho quân Pháp điên đảo, trong số những người cầm đầu lúc bấy giờ có các Ông : Trương-Định, Nguyễn-Trung-Trực, Nguyễn-Hữu-Huân (Thủ-Khoa-Huân), Võ-Duy-Dương tức Thiên-Hộ-Dương, Đức Cố Quản Trần-Văn-Thành .v.v.).

Sau đó, đề cử sứ bộ sang Pháp và Tây Ban Nha (Y Pha Nho) để xin chuộc lại gồm có : Chánh sứ toàn quyền Ông Phan-Thanh-Giản, Phó sứ là hai Ông Phạm- Phú-Thứ và Ngụy-Khắc-Đản, còn Ông Trương-Vĩnh-Ký làm thông ngôn. Để người Pháp giúp phương tiện cho sứ bộ, triều đình Huế lấy cớ là để đáp lễ Pháp Hoàng đã phái người đến chúc mừng vua Tự-Đức nhân dịp ký hòa-ước 1862. Người Pháp bằng lòng cho mượn tàu Européen và cử Aubaret, Rieunier đi theo hướng dẫn, nhưng phía Việt-Nam phải trả mọi phí tổn. Sau 2 tháng 7 ngày trên tàu, phái đoàn mới đến nước Pháp, được đón rước rất trọng thể và mãi đến ngày 7-11-1863 được vào bệ kiến vua Napoléon Đệ Tam tại điện Tuileries theo nghi lễ ngoại giao thật long trọng. Ít hôm sau, bộ ngoại giao Pháp mời sứ bộ tới và hứa sẽ nghiên-cứu rồi sửa đổi lại hòa-ước 1862 và sẽ ký một hòa-ước mới. Ông Phan-Thanh-Giản tuyên-bố đại lược rằng : "Sứ bộ Việt-Nam xin chuộc 3 tỉnh Miền Đông và Việt-Nam sẽ trả mỗi năm 2 hay 3 triệu hoặc 40 triệu một lần. Người Pháp có quyền cư trú tại 3 hải cảng để tự do buôn bán, đồng thời Việt-Nam nhượng cho Pháp hải cảng Sài-Gòn" Chánh Phủ Pháp chấp-thuận soạn thảo hòa-ước mới để thay thế hòa-ước 1862 trước kia, đồng thời trao cho sứ bộ Việt-Nam trước khi lên đường sang Tây-Ban-Nha. Bởi vì, nước Pháp lúc đó đã thâm lủng 972 triệu quan Pháp, nên vua Napoléon lẫn Tổng-Trưởng Tài-Chánh đều chủ trương trao lại đất choViệt-Nam để lấy tiền. Do vậy, sứ bộ do Ông Phan-Thanh-Giản thành-công, còn được đưa đi xem các nơi tại Pháp và Tây-Ban-Nha (Y Pha Nho) rất văn-minh của xứ người.Ngày 24-3-1864, sứ bộ về đến Sài-Gòn.


Vua Tự-Đức và triều thần đều vui mừng. Vua Tự-Đức bèn phong Ông làm Thượng Thơ Bộ Lại như cũ. Nhưng thực tế, triều đình Huế đã mừng hụt, vì phe thực-dân đã vận-động để chống lại việc cho chuộc đất, đứng đầu là các nhân vật thuộc bộ hải-quân và thuộc địa như : Chasseloup Laubat, Bonard, De La Grandière ...vì thế vua Napoléon đổi ý không cho chuộc lại đất. Tháng 2-1865, Aubaret tới Huế cho hay không có hòa-ước mới và yêu cầu vua Tự-Đức cho trả tiền chiến phí, đồng thời phải cấm nghĩa-sĩ chống Pháp. Như thế, việc chuộc đất hoàn-toàn thất bại vì kẻ mạnh trở mặt, muốn thế nào cũng được, làm cho Ông Phan-Thanh-Giản lại bị vua Tự-Đức tức giận cách lưu.


Đây là lần Ông bị giáng chức thứ sáu, tội nghiệp cho Ông lúc này đã 70 tuổi. Sau đó, dã tâm của giặc Pháp càng ngày càng rõ rệt là muốn nuốt trọn Nam Kỳ lúc bấy giờ có 6 Tỉnh, các lực-lượng nghĩa-sĩ chống giặc ngoại-xâm nổi lên đánh phá khắp nơi. Trước tình thế đó, Vua Tự-Đức lại cử Ông Phan-Thanh-Giản vào Nam, vì nghĩ rằng người Pháp đã biết Ông, với chức Hiệp Biện Đại Học Sĩ Bộ Hộ, Thượng Thơ Sung Kinh Lược Sứ thuộc 3 Tỉnh An-Giang, Vĩnh-Long và Hà-Tiên. Ông xin từ chức vì cớ tuổi già, nhưng không được vua chấp thuận và trước khi đi Ông có tâu rằng : "Chánh sách của Ông là luôn luôn tuân đúng theo hòa-ước".



Vua Tự - Đức cũng ngỏ ý : "Muốn hoà-bình cho dân-tộc được yên ổn, nhưng không nên vì lẽ ấy mà khuất-phục tình hình một cách thụ động". Về phía thực-dân Pháp, De La Grandière (De Lagrandière?) đã thảo kế-hoạch đánh chiếm luôn ba tỉnh Miền Tây (Nam Kỳ). Ngày 15-6-1867, De Lagrandière rời Sài-Gòn xuống Vĩnh-Long với 17 chiến hạm và hắn nhờ Cố Dương đưa thơ mời Ông Phan-Thanh-Giản xuống soái hạm để cho biết lý-do động binh của hắn. Ông và Án Sát Võ-Doãn-Thanh cố-gắng thương-thuyết, nhưng bọn thực-dân đã quyết-tâm cướp nước, thì làm sao còn thương thảo được, hai Ông hoản binh, hứa sẽ nộp thành với điều-kiện yêu cầu đừng sách nhiễu dân và tiền với lúa trong kho vẫn phải để Việt-Nam nắm giữ. De La Grandière ưng thuận, nhưng khi hai Ông trở về thành vào ngày 20-6-1867, thì thành Vĩnh-Long đã bị quân Pháp chiếm. Sau đó, đến thành An-Giang mất ngày 22-6-1867 và thành Hà-Tiên cũng bị quân Pháp chiếm luôn vào ngày 24-6-1867 (Theo sách Việt-Nam Sử Lược của Ông Trần-Trọng-Kim viết : "Ông Phan-Thanh-Giản bảo các quan đành chịu nộp thành cho khỏi sự tai hại" nhưng không thấy dẫn chứng dựa theo tài-liệu nào? Chỉ thấy trong quyển La Geste Française en Indochine của Cura Taboulet tập 2, trang 518-519, đã dịch ra và in trong quyển quân-sự tập 3 của BTM do Ông Pham-Văn-Sơn biên soạn viết : Ông Phan-Thanh-Giản viết thơ buộc Tổng Đốc An-Giang và Hà-Tiên hạ vũ khi đầu hàng. "Nếu cần xin xem quyển Nguyễn-Đình-Chiểu về tác-giả và tác-phẩm trang 672" ).



Sau đó, Ông Phan-Thanh-Giản lấy tiền lúa nộp một phần cho Pháp để thanh-toán tiền bồi thường năm đó, rồi Ông ra sống tại một ngôi nhà tranh ở ngoài thành Vĩnh-Long. Chính tại nơi đây, Ông quyết-định chấm dứt cuộc đời của Ông. Có lẽ đó là lối thoát duy nhứt của Ông sau khi Ông đơn phương nộp thành trì cho Pháp mà không có sự ưng-thuận của triều đình, nhứt là trước đó vua Tự-Đức đã đặt hy-vọng bảo-vệ thành trì vào tay Ông. Ông đã hiểu mình phải làm gì, bởi vì thân làm tướng giữ thành mà để mất thành là một trọng tội, cho nên Ông tự xử lấy mình. Ông xếp tất cả áo mão và các tờ sắc-phong kèm theo tờ sớ chịu tội với triều đình rồi Ông bắt đầu tuyệt thực.


Sự tuyệt thực của Ông có ý-nghĩa là một biện pháp "ung dung tựu nghĩa" tức là bình-tỉnh đón nhận cái chết để đạt được nghĩa lớn tức là đền nợ nước. Các con cháu quì lạy khóc lóc nhưng Ông đã quyết không ai ngăn cản được. Ông vẫn bình tỉnh và sáng suốt khuyên con cái lo học-hành, không được làm việc cho Pháp, đồng thời bảo con cháu lo tang ma thật giản dị và Ông tự tay viết di bút để đề mộ bia cho Ông gồm 24 chữ Hán, viết thành 3 hàng được phiên âm như sau :
"Minh tinh thỉnh tỉnh nhược vô ứng thư,
Đại-Nam hải nhai lão thư sinh tính Phan chi cửu.
Diệc dĩ thử chí mộ".

nghĩa là : Xin bỏ tấm triệu, còn nếu không chịu bỏ thì chỉ nên viết : "Linh cữu của người học trò già họ Phan ở bãi biển nước Đại-Nam" mộ chí cũng đề như thế.
Đồng thời Ông làm thơ tuyệt mạng :

Thời trời, lợi đất, lại người hòa,
Há dễ ngồi coi phải nói ra.
Làm trả ơn vua, đền nợ nước,
Đành cam gánh nặng ruổi đường xa.
Lên gềnh xuống thác thương con trẻ,
Vượt biển trèo non cam phận già.
Cũng tưởng một lời an bốn cõi,
Nào hay ba tỉnh lại chầu ba!

Và Ông tuyệt thực suốt 17 ngày mà không chết để chờ quyết định của vua Tự-Đức. Sau cùng, vào lúc nửa đêm mùng 4 rạng mùng 5 tháng 7 năm Đinh Mão 1867, Ông hướng về phương Bắc nơi có vua Tự-Đức để lạy 5 lạy và trước sự chứng kiến đau lòng của các con cháu, rồi Ông uống á-phiện với dấm thanh để tự vận. Lúc đó có nhiều người quan Pháp kính nể việc làm của Ông, bác sĩ hải-quân Pháp là Le Coniat đã tận lực cứu chửa, nhưng không cứu Ông được, nên phải trút hơi thở cuối cùng thượng thọ 71 tuổi và được các quan lớn nhỏ ở lục tỉnh cùng thân nhân bằng cố hữu về đông đủ để chịu tang và các con cháu đưa về an táng tại làng Bảo-Thạnh, quận Ba-Tri (Bến-Tre) đúng như ý muốn của Ông.



Khi hay tin Ông chết, các quan Việt-Nam và Pháp tới phúng điếu đều ngậm ngùi thương tiếc một công thần với 41 năm công cán suốt 3 triều đại là: 1.-Vua Minh - Mạng (1820-1840) tức con thứ ba của vua Gia-Long là Thánh-Tổ Nguyễn-Phúc-Đảm, thọ 50 tuổi, trị vì 20 năm và có 170 người con. 2.-Vua Thiệu-Trị (1841-1847) tức Hoàng-TháiTử của vua Minh-Mạng là Hiến-Tổ Nguyễn-Miên-Tông, thọ 37 tuổi và trị vì 6 năm. 3.- Vua Tự-Đức (1847-1883) tức con thứ hai củaVua Thiệu-Trị với Bà Thái-Hậu Từ-Dũ, quê ở Gia-Định (Nam Kỳ) là Hoàng-Thái Tử Dực-Tông Nguyễn-Hồng-Nhậm, thọ 55 tuổi và trị vì 36 năm.



Lúc làm Kinh-Lược trấn nhậm tỉnh Vĩnh-Long Ông có lập miếu thờ Đức Khổng Tử do Ông Nguyễn-Thông trông nom, khởi công năm Giáp Tý 1864 đến cuối năm 1866 hoàn-thành, đồng thời cất tòaVăn-Xương-Các chung trong đất Văn -Thánh tại làng Long-Hồ để khi rảnh rổi việc quan, Ông cùng các bạn văn nho họp luận bàn thi phú. Tòa Văn Xương-Các đến nay vẫn còn uy-nghiêm dưới nhiều cây cổ thụ trồng từ xa xưa, cách chợ Vĩnh-Long khoảng 3 cây số. Bên trong có thờ chân dung Ông và bài-vị Ông Võ-Trường-Toản. Riêng tại Miểu Quốc-Công nằm trong thị xã Vĩnh-Long cũng có thờ Ông, hai nơi này lúc nào khói hương cũng nghi ngút. Ngoài ra, năm 1966, chánh-quyền Tỉnh và thân hào nhân sĩ trước kia, cũng dựng tượng đồng bán thân Ông đặt tại công viên tại chợ Vĩnh-Long. Bởi vì, Ông là vị quan thanh-liêm, cương trực, hết lòng phục mệnh các vì vua và lo cho đất nước, dân tộc, lúc bấy giờ, cho nên Ông bị hành-động gian-xảo của giặc Pháp ở thế thượng phong về quân-sự cùng văn-minh tân kỳ của giặc Pháp (bởi vì, Ông đã thấy tận mắt khi cầm đầu sứ bộ sang Pháp), lúc nào cũng muốn cưỡng chiếm 6 tỉnh Nam-Kỳ cho bằng được.


Dù ai, ngoài Ông ra cũng không tránh khỏi kết-quả thiệt-thòi của giặc Pháp đưa đến. Vì thế, Ông đành thất thủ thành và đưa đến cái chết can-đảm. Trong khi đó, có tin từ triều đình Huế gởi vào : Bãi chức hàm của Ông, đục tên trên bia tiến-sĩ ngoài Huế để làm gương, cuối cùng đến năm 1885 vua Đồng-Khánh mới phục hồi chức hàm và đến năm 1924 vua Khải-Định mới phong thần cho Ông. Hơn nữa, sau khi Ông chết, hai con của Ông là: Phan-Tôn và Phan-Liêm đã nghe lời Ông căn dặn trước khi chết là : "không ra làm quan với Pháp" mà còn đứng lên chống Pháp. Vì vậy, khi Ông qua đời không những thân bằng quyến thuộc, các quan lớn nhỏ Việt-Pháp cùng đồng bào miền lục tỉnh đến nơi tiễn đưa Ông rất long-trọng và luyến tiếc một nhân tài không thể cưỡng lại tình thế lúc bấy giờ. Riêng Ông Nguyễn-Đình-Chiểu làm bài thơ điếu Ông, bằng chữ Nôm như sau :

Non nước tan tành hệ bởi đâu?
Dàu dàu mây bạc (trắng) cõi Ngao châu,
Ba triều công cán vài hàng sớ,
Sáu tỉnh cang (cương) thường một gánh thâu,
Ải (Trạm) Bắc ngày trông (chiều) tin nhạn (điệp) vắng,
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu,
Minh tinh (sinh) chín chữ (*) lòng son tạc,
Trời đất từ đây mặc gió thu.

(*) Ông Phan-Thanh-Giản viết di bút để lại cho các con cháu có 11 chữ là : Đại Nam hải nhai lão thư sinh tánh Phan chi cửu có nghĩa là "Linh cữu của người học trò già họ Phan ở bãi biển nước Đại-Nam". Như vậy, chữ "cữu" là cuối chữ của câu 11 chữ do Ông Phan-Thanh-Giản viết rớt đúng chữ "linh" thì rất đúng quy tắc.

Bởi vì, theo quy-tắc thời xưa, khi viết minh tinh (tấm triệu) hay mộ bia bắt buộc phải chú ý đến 4 chữ : Quỷ, Khốc, Linh, Thính và phải tôn trọng quy tắc: "Nam Linh, Nữ Tính, bất dụng Quỷ Khốc nhị tự". Nhưng tại sao Ông Nguyễn-Đình-Chiểu là đồ nho lại viết 9 chữ và cắt bỏ hai chữ Đại-Nam có ý nghĩa gì ? Theo thiển nghĩ lúc bấy giờ ở Nam Kỳ lục tỉnh đã bị giặc Pháp chiếm, thì không thể dùng chữ Đại-Nam mà phải cắt bỏ để trách khéo Ông Phan-Thanh-Giản? và có ý để Ông Phan-Thanh-Giản thành Quỷ sau khi chết, bởi để mất Nam Kỳ.



Hơn nữa, câu thơ chót Ông Nguyễn-Đình-Chiểu kết bằng chữ gió thu (tức gió mùa Thu, theo ngũ-hành thuộc Kim, theo phương hướng thuộc hướng Tây) ý nói lục tỉnh Nam Kỳ giờ đây do giặc Pháp cai trị là để gói trọn sự thống hận đổ trút hết tội tình lên Ông Phan-Thanh-Giản, giống như hành động vua Tự-Đức vậy.

Xin xem bảng kê dưới đây sẽ thấy rõ hơn :

Quỷ Khốc Linh Thính Quỷ Khốc Linh Thính Quỷ Khốc Linh
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Đại Nam hải nhai lão thơ sanh tánh Phan chi cữu
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Quỷ Khốc Linh Thính Quỷ Khốc Linh Thính Quỷ

Ngoài ra, Ông Nguyễn-Đình-Chiểu không dừng ở đây, lại làm thêm bài thơ điếu Ông Phan-Thanh-Giản bằng chữ Hán, không kém sự phiền giận của Ông. Xin trích dẫn như sau :

"Bỉnh tiết tằng lao sinh Phú Bật,
Tận trung hà hận tử Trương Tuần,
Hữu thiên lục tỉnh tồn vong sự,
Nam đắc thung dung tựu nghĩa thần..."

Với 4 câu thơ trên Ông Nguyễn-Đình-Chiểu, mượn Ông Phú-Bật ở đời nhà Tống được vua cử đi sứ để thuyết phục được giặc Khiết-Đan và lấy lại được đất cho nhà Tống, còn Ông Phan-Thanh-Giản cũng được cử đi sứ, nhưng không thành công. Riêng Ông Trương-Tuần ở đời nhà Đường giữ thành Tuy Dương, chống giặc An-Lộc-Sơn, đã chiến đấu đến cuối cùng, thành mất Ông Trương Tuần chết theo thành, còn Ông Phan-Thanh-Giản không theo gương người xưa, chết tức khắc theo thành?. Vì thế, việc còn mất lục tỉnh, còn có trời. Nhưng, Ông Phan-Thanh-Giản muốn ung dung làm thần (tựu nghĩa thần) thì thật khó lắm thay! Quả thật, Ông Nguyễn-Đình-Chiểu, là con người vì yêu nước nồng-nàn, cho nên việc mất lục tỉnh Nam-Kỳ làm Ông tức giận tột cùng. Vì thế khi Ông Phan-Thanh-Giản chết, Ông làm hai bài điếu để hờn giận, căm thù thật đáng sợ hơn là thương tiếc Ông Phan-Thanh-Giản lâm vào tình trạng tiến thối lưỡng nan lúc bấy giờ.
Qua những trích dẫn vừa qua, chúng ta thấy được Ông Phan Thanh Giàn đáng được tôn kính Vinh Danh, bởi vì Ông là Nhân Tài Đạo Đức, Cương trực, Thanh Liêm, Trung Quân Ái Quốc và Thương Dân suốt đời, giống như các bậc danh nhân ngày xưa, đáng cho thế hệ chúng ta và kế tiếp sau này tôn vinh và ngưỡng mộ mãi mãi.

Để biểu lộ tôn kính đối với các bậc tiền nhân bằng hành động, không gì bằng mỗi khi có dịp chúng ta qua Tiền Giang hay Hậu Giang thuộc miền Nam Việt Nam, xin nhín chút thời giờ quý báu đến Bến Tre để thăm các lăng mộ của các Ông : Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản, Võ Trường Toản...
Nếu du khách muốn đi thăm viếng mộ Ông Nguyễn-Đình-Chiểu ở ấp Vĩnh-Đức-Trung, làng An Đức, quận Ba-Tri, Tỉnh Bến Tre (Kiến - Hòa trước kia), trước hết phải đến Mỹ-Tho thuộc Tỉnh Tiền-Giang (Định-Tường trước kia) tìm bến bắc Rạch Miểu, để qua con sông Tiền Giang, kế đến lấy xe đò đi về Thị Xả Bến-Tre khoảng 12 cây số, rồi đi tiếp về chợ quận Ba-Tri khoảng 35 cây số, thì thấy lăng mộ Ông Nguyễn-Đình-Chiểu.

Muốn đi thăm lăng mộ quý Ông : Võ Trường Toản,
Phan Thanh Giản phải đi như thế nào ?


Muốn đi thăm lăng mộ Ông Võ-Trường-Toản, khi đến chợ quận Ba Tri, sẽ thấy có ngã ba, phải quẹo trái (nhớ đừng quẹo mặt sẽ đi trở lại ngôi mộ Ông Nguyễn-Đình-Chiểu đã thăm) và đi hướng Phú Lễ trên 15 cây số, để đến ấp 4, xã Bảo Thạnh, Quận Ba Tri (Bến Tre) sẽ thấy lăng mộ Ông Võ-Trường-Toản khang trang như sau :



Rồi chúng ta đi tiếp khoảng 300 thước thì thấy ngôi mộ Ông Phan Thanh Giản, do anh Phan Thanh Nhàn là người cháu sáu đời của Ông săn sóc dưới đây :
Mới đây, vừa nhận được tin mừng, chánh quyền Việt Nam đã khôi phục danh dự Cụ Phan Thanh Giản, xin trích dẫn các trang nhà Bến Tre và Báo Tuổi đăng nh? sau : -
Cụ Phan Thanh Gi?n Được Lịch Sử Tôn Vinh
Ng??i vi?t : Thu Th?y (B?o tàng B?n Tre)
28/02/2008
Phan Thanh Giản sinh năm 1796 mất năm 1867, quê quán tại xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri. Ông là một danh nhân của ?ất Bến Tre. Cuộc đời ông là những ngày tháng trắc trở, gian truân từ lúc sinh ra cho đến cuối đời. Ông là v? tiến sĩ đầu tiên của đất Nam kỳ, thi đỗ vào năm 1826, rồi làm quan dưới 3 triều nhà Nguyễn : Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Ông là một người tài giỏi, một nhà văn, nhà thơ, và là một v? quan thanh liêm, ngay thẳng nên con đường hoạn lộ của ông cũng lắm nỗi thăng trầm.
Bi kịch cuối đời của ông gắn liền với giai đoạn các tỉnh Nam kỳ bị thực dân Pháp xâm chiếm, mà đỉnh điểm là sự kiện ba tỉnh miền Tây Nam kỳ gồm An Giang, Hà Tiên và Vĩnh Long lọt vào tay quân xâm lược Pháp lúc Ông đang được giao trọng trách Kinh lược sứ trấn giữ các tỉnh này.
Thành mất, Ông đã chọn cho mình cái chết như một v? tướng trung liệt, thành mất thì mất theo thành.


Th? hai 14-04-2008, 07:44 (GMT+7)
Cụ Phan Thanh Gi?n Xứng Đáng Được Tôn Vinh
TT (BẾN TRE) - Cục trưởng Cục Di Sản Văn Hóa Đặng Văn Bài vừa có công văn gửi UBND t?nh Bến Tre, cho biết Cục Di Sản Văn Hóa đã làm việc với Viện Sử học và cơ quan này có công văn nêu rõ các nhà Sử học đánh giá cao về công lao của Cụ Phan Thanh Giản trên nhiều lĩnh vực chính tr?, ngoại giao, văn hóa.


Cụ Phan Thanh Giản là người giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình nhà Nguyễn, nổi tiếng thanh liêm, đạo đức, có nhiều đóng góp lớn đối với lịch sử dân tộc trên các lĩnh vực văn học, sử học... Viện Sử học kết luận : "Với nhận thức mới trên quan điểm lịch sử cụ thể, nhân vật Phan Thanh Giản xứng đáng dược tôn vinh bằng nhiều hình thức khác nhau".
Cục Di Sản Văn Hóa đề ngh? UBND t?nh Bến Tre giao các cơ quan chức năng kiểm kê các di tích liên quan ?ến Cụ Phan Thanh Giản, trên cơ sở đó lập kế hoạch tu bổ, tôn tạo, phát huy giá tr? di tích. Tại kỳ họp lần thứ 13 H?ND t?nh Bến Tre khóa VII (ngày 10 và 11-4-2008) đã thông qua việc đổi tên Trường THPT Ba Tri thành Trường THPT Phan Thanh Giản từ năm học 2008-2009.
Sắp tới tỉnh sẽ dựng lại tượng Cụ Phan Thanh Giản.
Lư THế NHã

Tuesday, March 24, 2009

BBC. NGUYỄN KỲ PHONG.* TRUNG QUỐC



Nguyễn Kỳ Phong
Viết riêng cho BBCVietnamese. com từ Hoa Kỳ
Sau cuộc "ẩu đả" ngày 8 tháng 3-2009 giữa Hải Quân Hoa Kỳ (HQHK) và Hải Quân Trung Quốc (HQTQ) ở
phía nam Đảo Nam Hải, vài thập niên sau này khi các nhà quân sử ghi lại cuộc chạm trán đAu tiên giữa hai lực lượng
hải quân, họ sẽ không có nhiều chi tiết hấp dẫn để viết.
Và nếu các sử gia không giải thích rõ, đọc giả hậu thế có thể hiểu lầm " vũ khí " của hải quân hai cường quốc xử dụng trong
cuộc đụng độ đó quá thô sơ, nếu không nói là giống như vũ khí thời Trung Cổ. Cuộc đụng độ đầu tiên có thể được ghi lại
như sau: "...
HQTQ dùng cần câu móc để cố gắng gi t đứt dây kéo máy truy tầm điện tử mà tàu HQHK đang dùng để thám thính. ...
Và về phía HQHK, họ dùng vòi phun nước bắn ngăn chận các hải đỉnh Trung Cộng, khi tàu của Trung Quốc tiến đến quá gần. ... !"
Bỏ đi tính chất khôi hài trong vụ đụng chạm vừa xảy ra ở Hải Nam, đây có thể có thể mở màn cho một chạy đua tranh giành ảnh hưởng ở một vùng biển đang có nhiều quốc gia tranh chấp, nhưng Hoa Kỳ cho đó là hải phận quốc tế, và khẳn định mọi thuyền bè có quyền tự do di chuyển qua lại.

Hoa Kỳ cho biết, ngày 8 tháng 3-2009, trong khi tàu thám thính hải hình USNS Impeccable (T-AGOS 23) đang làm nhiệm vụ thA 1m sát địa hình lòng biển ngoài hải phận quốc tế, khoảng 110 cây số phDa nam Đảo Hải Nam, thì bị năm tàu của HQTQ tiến đến gần, rồi di hành qua lại trước hướng đi của tàu Impeccable một cách rất nguy hiểm. Có lúc tàu HQTQ đã tiến sát vào tàu Hoa Kỳ không hơn 10 thước. Thủy thủ đoàn tàu Impeccable đã dùng vòi nước chửa lửa xịt vào thủy thủ Trung Quốcđể ngăn cản không cho họ cập tàu gần hơn. Phía Trung Quốc cho biết họ có toàn quyền ngăn chận hoạt động trái phép của HQHK, vì Hoa Kỳ xâm phạm lãnh hải của họ.
Trong khi Hoa Kỳ công nhận đặc quyền kinh tế của một quốc gia từ bờ biển ra đến ngoài khơi 200 dặm (300km); nhưng Hoa Kỳ chủ trương quyền tự do hải hành chỉ cách 12 d=E 1m (18km) ngoài khơi bờ biển của mọi quốc gia.
Cô ng tác của tàu Impeccable là gì? Tại sao HQTQ lại có thái độ mạnh (nhưng áp dụng phương tiện yếu) với một tàu không võ trang? Và trong tương lai, nếu hộ tống hạm của HQHK lai vãng trong vùng biển Nam Hải, thì phản ứng của HQTQ ra sao?
Điệp Vụ của Tàu USNS Impeccable (T-AGOS 23)
USNS là tên viết tắt của United States Naval Ship. T là ký hiệu cho loại tàu bán quân sự và thuộc quyền điều khiển của Bộ Tư Lệnh Quân Vận Đường Biển (Military Sealift Command). Bán quân sự là vì tàu của HQHK nhưng do dân sự đi8 1u khiển.
Error! Filename not specified.

Chiến hạm Mỹ

Tranh chấp Biển Đông

Mỹ nói tàu Impeccable đang làm nhiệm vụ thám sát địa hình lòng biển ngoài hải phận quốc tế .

Các tàu loại T phần lớn là loại tàu yểm trợ (như tàu cứu thương, công xưởng hạm, vận tải hạm, tàu tiếp dầu, nước ...) thuộc
quyền xử dụng BB Tư Lệnh Military Sealift Command. AGOS là ký hiệu chỉ loA 1i tàu thám thính, vẽ bản đồ lòng biển, thâu thập
âm thanh dưới nước, và tuần hành để yểm trợ cho các điệp vụ chống tàu ngầm.
T-AGOS 23 chính thức được ghi là Ocean Research Ship trong danh bộ tàu của HQHK - nhưng cộng thêm khả năng yểm trợ
tác chiến chống tàu ngầm.
Ngày 8 tháng 3, chúng ta biết tàu Impeccable đang kéo máy truy tầm điện tử (hay thả máy truy tầm điện tử xuống đáy biển)
ở phía nam Đảo Hải Nam, khi cuộc chạm trán xảy ra. Trước vụ chạm trán ngà y chủ nhật 8 tháng 3, HQTQ đã khiêu khích
một tàu khảo sát khác của HQHK vài ngày trước đó. Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ cho biết, thứ tư ngày 4, một tàu thuộc Sở Tuần Tiểu Ngư Nghiệp Trung Quốcđã dùng đèn pha chiếu vào tàu khảo sát địa dư USNS Victorious (tương tự như tàu USNS Impeccable) trong khi tàu này đang hoạt động 180 cây số ngoài khơi Biển Hoàng Hải (vùng biển giữa Trung Quốcvà Đại Hàn). Hôm sau, một phi cơ trinh sát Y-12 của Không Quân Trung Quốc bay qua lại thật thấp ngang tàu USNS Victorious 12 lần.

Sự có mặt của tàu Impecable ở Hải Nam không phải ngẫu nhiên; và công tác của tàu không đơn thuần như chỉ quan sát địa dư
dưới lòng biển. Hoa Kỳ không lạ gì đối với tất cả địa hình miền duyên hải Trung Quốctừ Móng Cáy đến phía bắc của Biển Bắc
Hải. Từ năm 1963, qua Kế Hoạch DeSoto, HQHK vừa thám sát vùng duyên hải Trung Cộng, vừa khẳn định lại chủ thuyết tự
do di chuyển 12 dậm ngoài khơi bờ biển của mọi quốc gia.
Hải Quân Trung Quốc cũng không lạ gì với những thám thính của Mỹ: chỉ trong năm 1964 Trung Quốclên tiếng phản đối HQHK
đã xâm phạm lãnh h=E 1i của họ hơn 200 lần! (Cũng từ kế hoạch trinh sát hải phận De Soto này, chiến đỉnh Maddox của HQHK đã
đi quá sâu và bờ biển của Bắc Việt, để gây ra vụ hải chiến Vịnh Bắc Việt vào tháng 8-1964 giữa Hoa Kỳ và Hải Quân CSVN).
Gần đây nhất, giới quan tâm không quên vụ đụng nhau trên không giữa một phi cơ thám sát điện tử EP-3 của HQHK và chiến đấu cơ F-8 của Không Quân Trung Quốcvào đầu tháng 4-2001. Hai bên đã biết ý định của nhau quá rõ.
Như vậy, tC3u Impeccable đang có công tác gì khác hơn ở chung quanh căn cứ tàu ngầm của HQTQ ở Đảo Hải Nam?
Hoa Kỳ Lo Ngại Khả Năng Nào của HQTQ?
Nói một cách tổng quát, Hoa Kỳ chưa quan tâm về HQTQ như là một lực lượng đáng ngại - không phải trong lúc này, hay là trong tương lai gần.
Tài liệu Quốc Phòng Hoa Kỳ cho thấy, tổng cộng lực lượng của ba Hạm Đội Bắc Hải, Đông Hải, và Nam Hải của HQTQ, chỉ bằng một Hải Đoàn HB Am Đội Xung Kích (Carrier Strike Group) của HQHK - và HQHK có ba Hải Đoàn Hạm Đội Xung Kích ở Tây Thái Bình Dương. HQHK cho biết họ không lo ngại khả năng vũ khí của HQTQ trên mặt nước, như chiến đỉnh, hàng không mẫu hạm, pháo hạm, không lực hải quân. ...
Hoa Kỳ quan tâm về những vũ khí HQTQ đang thử nghiệm và áp dụng dưới mặt nước, như mìn dưới nước, thủy lôi, và tàu ngầm. Đây là những loại vũ khí rẻ tiền, dể sản xuất và dể ngụy trang - nhưng rất hiệu nghiệm để ngăn chặn đối phương, trong giai đoạn đối phương có thế mạnh
Nhưng Hoa Kỳ quan tâm về những vũ khí HQTQ đang thử nghiệm và áp dụng dưới mặt nước, như mìn dưới nước, thủy lôi, và tàu ngầm. Đây là những loại vũ khí rẻ tiền, dể sản xuất và dể ngụy trang - nhưng rất hiệu nghiệm để ngăn chặn đối phương, trong giai đoạn đối phương có thế mạnh.

Từ năm 2004 HQHK đã lên tiếng báo động về hai loại vũ khí HQ TQ đang phát triển và kiện toàn: Mìn nước và thủy lôi; và, tàu ngầm chạy bằng điện (qua máy phá điện diesel). Năm 2004 Đô Đốc Vermon Clark, Tư Lệnh HQHK, cho biết HQTQ đã gia tăng sản xuất, mua, hay nhờ sự giúp đỡ của các quốc gia tây phương (Pháp và Đức), để hạ thủy tiềm thủy đỉnh chạy bằng điện (battery-powered submarines). Tiềm thủy đỉnh chạy bằng điện có nhiều bất lợi và giới hạn, nhưng lợi điểm tối hậu là chạy rất êm, ít tiếng động, nên khó phát giác và truy lùng.
Sự kiện này được nhắc lại vào tháng 1-2007, khi Đô Đốc Micahel G. Mullen, Tư Lệnh HQHK ( bây giờ là Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ ) tiết lộ trước Ủy Ban Quốc Ph òng Hạ Viện, là vào tháng 10-2006, một tàu ngầm chạy bằng điện
của Trung Quốc đã tiến sát đến Hàng Không Mẫu Hạm Kitty Hawk ở vùng biển Đảo Okinawa, trước khi bị khám phá. Đô Đốc Mullen cho biết ưu tiên của HQHK trong tương lai là phải cấp bách phát=2 0triển khả năng truy tầm tàu ngầm của Trung Cộng.
Giới quan sát HQTQ cho biết thêm, chỉ trong 12 năm, từ 1995 đến 2007 năm, HQTQ đã hạ thủy tất cả 31 tàu ngầm, trong đó
có ít nhất là 2 tàu ngầm nguyên tử. Theo dự đoán của Hoa Kỳ, đến năm 2020, HQTQ sẽ có ít nhất là 60 tiềm thủy đỉnh, trong đó hơn 30 tàu được xếp vào loại tối tân.Một loại vũ khí thứ hai của HQTQ gây chú ý cho HQHK là mìn dưới nước và thủy lôi ( Trong định nghĩa quân sự, mìn nước
và thủy lôi khác nhau ở chB, thủy lôi có thể di chuyển đến mục tiêu; trong khi mìn nằm cố định ở một vị trí ) .Trong chiến lược hải quân, mìn nước là một phương tiện thích hợp nhất để ngăn cản, hay ít nhất gây nhiều đình trệ cho hướng tiến quân của đối phương lên miền duyên hải. Mìn rất rẻ để sản xuất, và dể dàng ứng dụng.
Hoa Kỳ quan tâm đến một lọai thủy lôi-mìn mà HQTQ đặt tên là "tự hành thủy lôi" (zihang shuilei). Loại mìn này đưA 3c bắn ra
từ tàu ngầm hay thả từ chiến đỉnh xuống biển. Mìn có trang bị động cơ để tE1 di chuyển. Khi đến một tọa độ đã định, động cơ ngừng và mìn chìm xuống lòng biển. Mìn-thủy lôi đó có ngòi nổ bằng từ trường (magnetic), âm thanh của sóng nước (wave-activated) , hay điều khiển bằng vô tuyến. Mìn nước là một chiến lược của HQTQ để chống lại lọai chiến đỉnh duyên hải ( Littoral Combat Ship, chiến đỉnh có khả năng hoạt động sát bờ biển và vùng nước cạn ) mà HQHK sắp trang bị .
Nhưng mìn nước trang bị bằng chất nổ quy ước không làm cho các tư lệnh HQHK mất ngủ bằng mìn hay thủy lôi có đầu đạn nguyên tử chiến thuDt (bom/ đạn nguyên tử chiến thuật có sức tàn phá trong chu vi hai, ba hai cây số vuông).
Đây không phải là một chiến lược mới lạ - HQTQ học lại từ chiến lược quân sự của Nga và Hoa Kỳ.
Trong cao điểm của thời Chiến Tranh Lạnh của thập niên 50 và 60, Hoa Kỳ đã sản suất nhiều đại bác bắn đạn nguyên tử chiến thuật để trang bị cho quân đội NATO . Lý do Đồng Minh Tây Âu phải trang bị đại bác nguyên tử chiến thuật vì Nga và đồng minh Đông Âu có số lượng quân và xe tăng hơn gấp bốn lần khối NATO.
Đối với HQTQ, việc xử dụng mìn nước nguyên tử là chuyện " chẳng đặng đừng " nhưng đó là một khả thể , nếu tình hình bắt buộc . Về khả thể nguyên tử chiến thuật này, các tư lệnh HQHK không có câu trả lời.
Hải quân Hoa Kỳ
Lực lượng hải quân hiện nay của Mỹ vẫn trội hơn Trung Quố c
Chiến Lược "Biển Xanh" Của Hải Quân Trung Quốc
Để những độc giả không rành về thuật ngữ của hải quân, từ "biển xanh" như trong câu văn "hải quân biển xanh," có ý chỉ
hải quân có khả năng hoạt động xa ra ngoài đại dương ( nước biển xa bờ thì càng xanh ).
Hàng không mẫu hạm là trung tâm của một hạm đội; và hạm đội là cột trụ của hải quân của một quốc gia. Để có một hạm
đội có thể hoạt động vài ngàn cây số cách hải phận nhà, là một chuyện20không đơn giản cho HQTQ trong lúc này. Nhất là
khi họ chưa có được một hàng không mẫu hạm.
Năm 1998 Trung Quốc mua lại từ Ukraine một hàng không mẫu hạm đang đóng chưa hoàn tất - mẫu hạm chỉ có vỏ bên ngoài, chưa có máy móc hay trang bị bên trong. Sau khi mua mẫu hạm Varyag, Trung Quốcký hợp đồng để mua khoảng 50 phi cơ Su-33K, để thực tập cất cánh và đáp trên mẫu hạm.
Theo các nhà quan sát quân sự, HQTQ mua mẫu hạm Varyag về để huấn luyện, biến chế thêm, hay dựa vào đó sản suất một
hàng không mãu hạm20tương tự. Tuy nhiên ngay cả nếu HQTQ thành công tự đóng lấy một mẫu hạm lọai Varyag, thì khả năng
hạm đội của HQTQ chưa có gì đáng nói.
Chưa có hàng không mẫu hạm nên HQTQ không thể hoạt động xa căn cứ tiếp liệu. Chiến lược của HQTQ, như vậy, đặt trọng
tâm vào hoạt động bảo vệ miền duyên hải - có nghĩa là sản xuất thêm nhiều tàu ngầm, mìn nước và thủy lôi.
http://www.spanamwar.com/SpanishmineControlledMines.jpg
=0 A
http://www.globalsecurity.org/military/systems/ship/systems/images/lsm.jpg
0A
Tin tức tình báo HQHK cho biết, Trung Quốc mua kỹ thuật chế mìn từ Nga; máy phát điện cho tàu ngầm, từ Pháp và Đức.
HQTQ hy vọng số lượng nhiều sẽ thay cho khiếm khuyết kỹ thuật . Đúng như vậy: và số lượng là một trong những vấn đề
gây trở ngại cho HQHK.
Để đối phó với số lượng mìn, thủy lôi và tàu ngầm Đô Đốc Vermon Clark ra lệnh HQHK gia tăng thí nghiệm và sản xuất
thêm " hàng ngàn, hàng chục ngàn máy báo động " để truy tầm và đánh dấu mọi di chuyển dưới nước của HQTQ .
Qua quân lệnh của Đô Đốc Clark, đến đây chúng ta có thể đoán được sự hiện diện và mục đích của hai tàu " khảo sát địa
dư biển " USNS Impeccable ở Nam Hải , và USNS Victorious ở Bắc Hải : rải máy truy tầm và định vị (đánh dấu vị trí) mìn
nước hoạt động tàu ngầm ở vùng duyên hải Trung Cộng.
Giả định Trung Quốc hạ thủy được một hàng không mẫu hạm vào năm 2012 , HQTQ vẫn còn nhiều khiếm khuyết trong tương
quan đối với hải quân của các cường quốc. Những khuyết điểm quan trọng như, thiếu hoàn hảo về hệ thống C4ISR (Control, Command, Communication, Computer, Intelligence, Surveillance and reconnaisance/ chỉ huy, điều khiển, truyền tin, điện toán,
tình báo, canh chừng và thám sát). HQTQ còn yếu về chiến tranh chống tàu ngầm, chống khB 4ng kích, và chống thủy lôi.
Quan trọng hơn hết, khả năng của HQTQ bị giới hạn toàn diện khi kỹ thuật đóng tàu chiến của Trung Quốc còn bị phụ
thuộc vào các quốc gia Tây phương. Hiện nay Không Quân Trung Quốc đã mua được máy bay tiếp tế xăng trên không
và đang thực tập kỹ thuật này. Phải có khả năng tiếp tế xăng trên không thì Không Lực HQTQ mới có thể hoạt động song song với mẫu hạm trên một mặt trận vài ngàn cây số.
http://www.arete.com/images/stil_mcm.jpg
Trong tương quan quá chênh lệch so với đối phương , HQTQ cố gắng thực tập và trang bị những gì họ có thể làm thuần
thạo nhất: sản suất tàu ngầm nhỏ, chế thêm mìn nước và thủy lôi, và dùng tàu ngầm làm phương tiện thả mìn .
Như đã nói ở trên, tổng cộng hỏa lực ba Hạm Đội của HQTQ chỉ tương đương bằng một Hải Đoàn Mẫu Hạm Xung Kích
( Carrier Strike Group) của Mỹ. Như là một Quân Chủng, HQTQ có 59 tiềm thBy đỉnh, trong đó chỉ có 5 chiếc chạy bằng
nguyên tử. 62 chiến đỉnh; 54 vận tải hạm đ bộ; và, 46 phi cơ tuần tiểu biển có trang bị hỏa tiển.
Để so sánh, Hoa Kỳ có 3 Hải Đoàn Mẫu Hạm Xung Kích ở Tây Thái Bình Dương (là vùng biển từ Đảo Guam đến eo biển Malacca của Singapore).
Phản Ứng Của Hải Quân Hoa Kỳ Đối Với Chiến Lược Của HQTQ
Trong hai tường trình mới nhất về khả năng của HQTQ, một tường trình do chính Quốc Hội Hoa Kỳ soạn thảo (China Naval Modernization: Implications for U.S. Navy Capabilities - Background and Issues for20Congress, November 19, 2008), và một
đến từ Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ (Annual Report to Congress, Military Powe r of the People's Republic of China 2008), cả hai tường trình đều cổ vũ chiến lược canh chừng , định vị và trinh sát thường trực hoạt động của HQTQ.
HQHK cổ võ một chiến lược thụ động như vậy, vì trên thực tế, HQTQ chưa hoạt động đươc xa, và chưa có những thái độ gây
hấn rõ ràng ở Thái Bình Dương - cho đến khi HQTQ thật sự có được một lực lượng hàng không mẫu hạm.
Hải Quân Thế giới không ngạc nhiên ha y bàn tán khi những quốc gia như Ấn Độ, Á Căn Đình, hay Ba Tây có hàng không mẫu
hạm.
Nhưng thế giới quan tâm khi HQTQ có được khả năng đó. Vì khi có hàng không mẫu hạm, Trung Quốcsẽ ngự trị vùng biển Tây Thái Bình Dương và vùng Đông Nam Á.
Lặp lại lời tuyên bố của Đô Đốc Vermon Clark, để đối phó với HQTQ, Hoa Kỳ phải chế biến và thử nghiệm , " hàng ngàn,
hàng chục ngàn" máy truy tầm để canh chừng, trinh sát và định vị những vũ khí dưới mặt nước của HQTQ. Thử nghiệm có
nghĩa là Hoa Kỳ sẽ rải những máy truy tầm ở những miền duyên hải Trung Quốcvà những vùng có tàu ngầm hoạt động.
Trước đây, HQHK dùng một số sensor (máy truy tầm và báo động) cần có sự hoạt động song song của phi cơ: Sensors thả
xuống biển , nằm lơ lững trên mặt nước , hay lưng chừng trên đáy biển. Hàng ngày hải quân phải cho lọai máy bay P-3 Orion
ba y sát trên mặt biển để thâu lại những tín hiệu được máy sensors thâu lại trong 24 giờ qua.
Trong thời gian gần đC3y HQHK đã thử nghiệm hai lọai sensors mới, tối tân và hữu hiệu hơn: hai loại có tên là Twin-line Thin-line (TLTL), và vector-sensor towed arrays (VSTA). Máy có khả năng truy tầm chu vi rộng, phân lọai mục tiêu, và xác định vị trí mục tiêu chính xác hơn, và có thể tắt mở từ xa để tiết kiệm pin. Nhưng tiện lợi nhất, là máy có thể tự gởi đi tin tức thẳng lên vệ tinh bay trên trời, không còn cần phi cơ bay qua lại hàng ngày để thu lượm tin tức như trước.
Với một sB suy đoán e dè của người viết, nhiệm vụ của hai tàu USNS Immpeccable và USNS Victorious trong hai ngày 4 và 8 tháng 3 vừa qua, không gì khác hơn là kéo (và có thể thả xuống lòng biển) những máy VSTA 9 1ã nói trên.


Trong lúc HQTQ chưa có được hàng không mẫu hạm để ra uy, họ tạm thời dùng cần câu móc để "chọt" hải đỉnh Hoa Kỳ.
Tương tự, khi thực lực của HQTQ chưa lộ liễu và đáng ngại, súng phun nước là đối phó vừa đủ của HQHK trong hoàn cảnh
nhất thời.

0A
Nhưng có thể hai bên sẽ không xài đồ chơi này lâu : Ngày 10 tháng 3, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ cho biết họ sẽ gởi chiến hạm
có trang bị hỏa tiễn USS Chung-Hoon (ĐG 93) đến vùng biển nam Đảo Hải Nam, để hộ tống USNS Imppeccable.
Đây là một lối "chơi chữ" của HQHK. Chiến đỉnh USS Chung-Hoon là tên của Đề Đốc Gordon Pai'ea Chung Hoon. Đề Đốc Chung Hoon là người Mỹ gốc Tàu, sinh ra ở Hawaii, tốt nghiệp Võ Bị Hải Quân Annapolis năm 1943.
Nghe nói Trung Qu9 1ccũng sẽ gởi một tuần dương đỉnh đến vùng biển Nam Hải, với lời tuyên bố là họ sẽ bảo vệ lãnh hải đến cùng trong trường hợp cần thiết.
Về tác giả : Nhà biên khảo Nguyễn Kỳ Phong, hiện sống ở Mỹ, là tác giả nhiều bài báo và sách viết về
chiến tranh Việt Nam. Tác phẩm gần đây của ông là Vũng lầy Bạch ốc - Người Mỹ và chiến tranh Việt Nam
( Tiếng Quê Hương, Virginia 2006 ) .




__._,_.___

TIN BUỒN VỀ TRƯỜNG KỲ




Nhà báo, nhạc sĩ Trường Kỳ qua đời

E-mail Print PDF
Mississauga, Canada: Nhạc sĩ , nhà báo Trường Kỳđã đột ngột từ trần vào sáng ngày chủ nhật 22 tháng 03 năm 2009 nhằm ngày 26 tháng Hai năm Kỷ Sửu . Từ Montreal, ông đến Toronto để dự đêm ra mắt CD "Ơn Nghĩa Sinh Thành" của em Tường Vi được tổ chức tại Capitol Banquet Hall.
Sáng chủ nhật 22-03, ông cảm thấy mệt và được vị thân hữu nơi ông cư ngụ gọi xe cấp cứu chuyển vào bệnh viện thành phố Mississauga, Ontario và 1 giờ sau đó, ông đã từ trần tại nơi đây .
Trường Kỳ tên thật là Vũ Trường Kỳ sinh ngày 29 tháng 3 năm 1946 tại Hà Nội. Thuở nhỏ ông theo học tại trường Puginier cho đến lớp 11è , năm 1954. Năm 1956, ông tiếp tục theo học lớp 10è ( lớp Tư ) chương trình Pháp tại trường Aurore, gần ngã tư Cao Thắng và Phan Đình Phùng. Niên khóa 1958-1959, Trường Kỳ vào trường dòng La Salle Taberd. Ông đậu Bacc 2è ( Tú tài toàn phần) vào năm 1966 và ghi danh vào đại học Luật Khoa.
Ông là một khuôn mặt đi đầu trong phong trào phát triển nhạc trẻ Việt nam vào đầu thập niên 60. Trong nhiều năm, ông cùng Jo Marcel, Tùng Giang, Nam Lộc, v.v.… đã đứng ra tổ chức thành công nhiều cuộc trình diễn nhạc trẻ qui mô tại Sài Gòn: Đại Nhạc Hội Nhạc Trẻ Taberd liên tiếp từ năm 64 đến năm 1973 ( ngoại trừ năm 1968 ), Đại hội Nhạc Trẻ Ngoài Trời 1971, dưới sự yểm trợ của Tổng cục Chiến tranh Chính trị QLVNCH để gây quỹ cho Cây Mùa Xuân Chiến sĩ tại sân Hoa Lư. Đại Hội Nhạc Trẻ Thảo Cầm Viên từ 71 đến 74 và thực hiện chương trình nhạc trẻ hàng tuần "Hippies À Go Go" từ năm 67 đến 71. Ông từng có những biệt danh như: "Vua Nhạc Trẻ", "Lãnh Tụ Hippy".
Ông đã chuyển nhiều ca khúc ngoại quốc thành lời Việt trong sưu tập Tình Ca Nhạc Trẻ trong khoảng thời gian 1972-1973, phát hành và thu thanh trên các băng nhạc Tình Hồng, Tình Ca Nhạc Trẻ, Thế Giới Nhạc Trẻ … Trước năm 1975, ông viết phóng sự cho báo báo Kịch Ảnh, Màn Ảnh, phụ trách trang nhạc trẻ trên nhật báo Sống của nhà văn Chu Tử, cộng tác với các báo Tinh Hoa, Chính Luận, Tiền Tuyến, Thứ Tư…..
Tiểu thuyết Tuổi Choai Choai do ông viết được Jo Marcel và ông cùng Nam Lộc cùng thực hiện thành phim Vết Chân Hoang. Trước đó, Trường Kỳ và Jo Marcel đã cho ra mắt phim Thế Giới Nhạc Trẻ. Vượt biển năm 1979; được vớt lênNhật. Ông định cư tại Montreal Canda vào tháng 11.1980. Trường Kỳ cộïng tác với nhiều đài phát thanh : VOA,SBS,VOVN... Ông viết cho nhiều báo Việt ngữ tại nhiều quốc gia trên thế giới: Thời Báo Toronto, Canada, Thẩm Mỹ, Nghệ Thuật (Montréal, Canada) Trẻ (Nam California), Trẻ (Bắc Cali), Văn Nghệ Thời Báo, Kỷ Nguyên Mới, Việt Mercury... (Hoa Kỳ), Tivi Tuần san (Australia)...
Tác phẩm đã xuất bản:

Tuyển Tập Nghệ Sĩ 1, 2 , 3 và 4 (sưu tập, phỏng vấn, giới thiệu gần đầy đủ các nhạc sĩ, ca sĩ Việt Nam)
Một Thời Nhạc Trẻ, dày 384 trang.
Theo tin riêng của Thời Báo, thi hài ông sẽ được gia đình ông chuyển về Montreal để lo hậu sự. Cho đến chiều chủ nhật 22-03, bệnh viện vẩn chưa cho biết nguyên nhân khiến ông bất ngờ từ trần.

TRẦN BÌNH NAM * CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ




Đã đến lúc Bắc Kinh biểu tỏ sức mạnh?

Trần Bình Nam



Đó là nhan đề bài báo "A Time for muscle-flexing” đăng trên tờ The Economist số 21 – 27 Tháng Ba 2009. Nội dung bài báo viết:

Tại Trung quốc tháng 12 vừa qua có một phong trào quần chúng đòi biểu dương sức mạnh vào dịp sinh nhật thứ 115 của Mao Trạch Đông (1) và chính quyền Bắc Kinh không muốn dư luận quốc tế chú ý đến phong trào quần chúng này. Bài báo nhấn mạnh rằng phong trào này nẩy mầm từ tháng Ba năm trước, khi thế giới ủng hộ đức Dalai Lama và phản đối chính sách của Trung quốc tại Tây Tạng và bùng lên khi Trung quốc chiếm được nhiều huy chương nhất trong Thế Vận Hội mùa hè tháng Tám năm 2008. Vào cuối năm 2008 khi Hoa Kỳ và thế giới bị khủng hoảng kinh tế trầm trọng, Trung quốc bỗng nhiên thấy có cơ hội biểu dương sức mạnh kinh tế của mình.



Trong 20 năm qua, ngoài hai trường hợp Trung quốc làm dữ, thứ nhất là vụ 1995-1996 khi Đài Loan muốn đòi độc lập, thứ hai là năm 2001 đụng độ với Hoa Kỳ khi máy bay Trung quốc chạm máy bay trinh thám của Hoa Kỳ ngoài khơi Trung quốc, Trung quốc thường tỏ ra tự chế trong các chính sách liên quan đến thế giới theo đúng lời căn dặn của Đặng Tiểu Bình: lặn cho sâu, đừng đi trước, nhẫn nại quan sát và dấu kỹ khả năng của mình (keep a low profile, not take the lead, watch developments patiently, keep capacities hidden). Nhưng vào thời điểm này, nhân Tây phương đang yếu thế vì khủng hoảng kinh tế, hình như Trung quốc đang chuyển dần chính sách và “lên gân”. Trong chuyến thăm viếng Âu châu cuối tháng Giêng đầu tháng Hai (2009) vừa qua, thủ tướng Ôn Gia Bảo trong một cuộc nói chuyện tại đại học Cambridge nói sự phát triển của Trung quốc không đe dọa ai (2) mà là một sự lớn mạnh bình thường trong tinh thần hòa bình và hợp tác của một “siêu cường” (great power). Vì lý do tế nhị, khi phổ biến bản tin, Tân Hoa Xã đã dùng chữ “nước lớn” (great country) thay cho chữ siêu cường.

Cuối tháng Hai 2009, Trung quốc đã tiếp đón bà Hillary Clinton tân ngoại trưởng Hoa Kỳ một cách trọng thể vì bà Clinton đã đến Bắc Kinh với một thái độ khiêm nhượng yêu cầu Trung quốc hợp tác cùng giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Năm 1995 khi bà Clinton đến thăm Bắc Kinh (với tư cách một đệ nhất phu nhân của Hoa Kỳ) bà đã nhấn mạnh đến nhân quyền thì lần này bà nói không nên để vấn đề nhân quyền làm trở ngại sự hợp tác giữa hai nước để cùng giải quyết vụ khủng hoảng kinh tế và sự nóng dần của bầu khí quyễn .
Nhưng chỉ hai tuần lễ sau ngày bà Clinton rời Bắc Kinh, Trung quốc đã cho tàu chiến chận đường một chiếc tàu của hải quân Hoa Kỳ, chiếc USN Impeccable, khi chiếc Impeccable đang làm công tác đo đạc và dò tìm vật lạ dưới đáy biển (tàu ngầm Trung quốc?) trong vùng biển Đông, ngoài khơi Việt Nam chỉ cách bờ cực nam của đảo Hải Nam của Trung quốc 75 hải lý (125 km). Hải quân Hoa Kỳ vẫn có công tác theo dõi hoạt động quân sự của Trung quốc quanh bờ biển Trung quốc trong hải phận quốc tế. Trung quốc theo dõi sát các hoạt động này nhưng không lớn tiếng phản đối. Lần này, không phải tình cờ mà Trung quốc làm dữ, và để đáp ứng Hải quân Hoa Kỳ đã phái một khu trục hạm đến hộ tống chiếc Impeccable. Đáp lại Trung quốc phái một chiếc tàu kiểm soát ngư nghiệp đến trong vùng. Người ta không biết chiếc Impecable có tiếp tục công tác với tàu hộ tống không. Hình như Trung quốc không muốn làm cho vụ này nổ lớn như vụ máy bay Trung quốc và Hoa Kỳ đụng nhau trên không năm 2001, nhưng theo ông Shi Yinhong tại đại học Renmin thì Trung quốc cảm thấy cơ hội đã tới để chứng tỏ sức mạnh của mình với Tây phương.


Nhưng nếu Trung quốc còn dè dặt với Hoa Kỳ, Trung quốc không nhẹ tay với Âu châu. Trung quốc đột ngột hủy bỏ cuộc họp thượng đỉnh với Âu châu dự trù trong tháng 12/2008 chỉ vì tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đương kim chủ tịch Cộng đồng Âu châu đã tiếp đức Dalai Lama. Cuộc họp thượng đỉnh được dời lại vào cuối năm 2009, nhưng thủ tướng Ôn Gia Bảo Trung quốc vẫn không đến viếng Pháp trong chuyến công du qua nhiều nước Âu châu của ông cuối tháng Giêng đầu tháng Hai vừa qua.
Và nếu quan sát kỹ chúng ta thấy Trung quốc chưa từ bỏ chính sách “4 tiêu chuẩn” vàng của Đặng Tiểu Bình. Trung quốc tỏ ra không phấn khởi khi giáo sư Fred Bergsten gợi ý rằng chìa khóa giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay nằm trong tay Hoa Kỳ và Trung quốc – mà ông đặt tên là nhóm G2-. (3)
Chủ tịch Ngân Hàng Quốc Tế (World Bank) Robert Zoellick hưởng ứng ý kiến của giáo sư Bergsten trong một bài báo đăng trên tờ Washington Post ngày 6 tháng Ba 2009 lập luận rằng nếu không có cái nhân G2 thì thượng đỉnh G20 (4) gồm 20 nước có kinh tế mạnh trên thế giới không giải quyết được gì.


Nhưng giới chức Trung quốc không để cho ý tưởng này mê hoặc. Họ cho rằng đóng vai trò quan trọng trong nhóm “tưởng tượng” G2 có hại hơn là có lợi vì Hoa Kỳ chẳng bao giờ chịu từ bỏ thế thượng phong của mình và Trung quốc cũng không bao giờ tìm kiếm thế bá quyền (sic). Tuy nhiên trong bụng Bắc Kinh rất khoái vai trò quốc tế đang lên của mình. Một nhà ngoại giao Tây phương nói rằng cuộc gặp gỡ giữa tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào của Trung quốc vào dịp họp khối G20 họp ngày 2/4/09 tới tại London còn quan trọng hơn hội nghị G20. Không biết Trung quốc sẽ đưa ra lá bài gì trước cuộc họp năm nay, nếu người ta nhớ rằng trước hội nghị G20 năm trước (5) Trung quốc đã làm cho dư luận quốc tế chú ý đến mình khi công bố một chương trình chi tiêu trong nước để thúc đẩy kinh tế (stimulus package) lên đến 4 tỉ nhân dân tệ (565 tỉ mỹ kim).
Tuy nhiên Trung quốc chưa muốn đẩy Hoa Kỳ ra khỏi vị trí ưu tiên. Trung quốc chỉ muốn tiếng nói của mình và của các nước đang phát triển khác trong Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) có trọng lượng hơn để cân bằng tiếng nói đang có ảnh hưởng gần như tuyệt đối của Hoa Kỳ. Trong cuộc họp báo ngày 13/3/2009 thủ tướng Ôn Gia Bảo nói rằng Trung quốc sẽ đóng góp cho IMF nhiều hơn để IMF có khả năng giải quyết khó khăn kinh tế thế giới hiện nay, và (thủ tướng họ Ôn không nói ra) đóng thêm bao nhiêu tùy theo tiếng nói của Trung quốc có trọng lượng đến mức độ nào. Có một số nước trong danh sách giúp đỡ của IMF vốn có ác cảm với Trung quốc và Trung quốc không muốn bỏ tiền ra để giúp các nước này.
Một số viên chức và nhóm chủ trương quốc gia quá khích tại Trung quốc muốn Trung quốc nên nhân dịp này tạo thế đứng mới trên thế giới. Một bài viết trên tờ Economic Reference (một tờ báo Anh ngữ của chính phủ Trung quốc) nói cuộc khủng hoảng hiện nay làm yếu các nước tiên tiến Tây phương về cả 3 phương diện kinh tế, chính trị và quân sự, và Trung quốc nên nhân cơ hội lịch sử này (historic opportunity – danh từ dùng trong bài báo) để củng cố thế lực. Họ chủ trương Trung quốc nên đổ nhiều tiền bạc vào các nước Đông Nam Á để giúp các nước này chấn hưng kinh tế, chận đứng sự bất ổn xã hội và do đó làm tăng thế đứng chiến lược của Trung quốc trong vùng .
Bài báo viết rằng Trung quốc nên mua nhiều cơ sở sản xuất tại Hoa Kỳ để có thêm hiểu biết kỹ thuật (know-how), và nếu Hoa Kỳ ngăn cản không cho Trung quốc mua, Trung quốc có thể dùng số lượng “đô la” Trung quốc đang có trong tay để làm áp lực. Một số viên chức cấp thấp của Trung quốc đã tung quả bóng “đe dọa” rằng Trung quốc có thể bán công khố phiếu của Hoa Kỳ (và làm giảm giá trị đồng mỹ kim) nếu như tổng thống Obama làm Trung quốc bất bình về vấn đề Tây Tạng, thí dụ như ông Obama tiếp đức Dalai Lama chẳng hạn. Người ta không tin Trung quốc sẽ dùng ngón đòn hạ cấp đó, nhưng sự việc ý đó được tung ra dư luận cho thấy thái độ tự tin của Trung quốc. Ngày 18/3 vừa qua Trung quốc đã dùng luật “chống độc quyền” (6) để chận không cho hãng nước ngọt Coca-Cola của Mỹ mua lại công ti đóng hộp nước trái cây Huiyuan của Trung quốc với giá 2.4 tỉ mỹ kim.
Mới đây trong Tháng Hai, Phó chủ tịch Trung quốc Xi Jinping (Tập Cẩm Bình) khi thăm viếng Nam Mỹ đã nói trước một cử tọa Hoa kiều tại Mexico rằng có những người nước ngoài có thói thích chỉ trích Trung quốc. Ông nói thêm rằng Trung quốc không xuất cảng nghèo khó và đói kém, Trung quốc không nhảy xổm vào chuyện của nước khác, vậy tại sao cái gì cũng đổ tội cho Trung quốc? (7) . Một số giới chức Trung quốc khác cho rằng ông Phó chủ tịch đi quá xa. Truyền thông chính thức trong nước không đăng tải lời phát biểu của ông Xi Jinping, nhưng nhiều trang nhà điện tử quá khích (bán chính thức của chính phủ) tỏ ra rất phấn khích.
Trung quốc cũng muốn tránh tiếng rằng Trung quốc không muốn chấp nhận kinh tế thị trường mặc dù đảng cộng sản Trung quốc đang nhúng tay đậm vào chương trình kiểm soát cuộc khủng hoảng. Tuy vậy kinh tế Trung quốc cũng bị ảnh hưởng không ít bởi sự suy thoái toàn cầu hiện nay. Theo con số chính thức ít nhất đã có 20 triệu người thất nghiệp phải trở về quê khi các hãng xưởng sản xuất hàng rẻ tiền để xuất cảng đóng cửa. Nhân công làm văn phòng cũng bị cho nghỉ việc hoặc cắt lương, hay giảm các khoản tiền thưởng. Chính phủ Trung quốc nói rằng độ tăng trưởng kinh tế năm nay là 8% so với 9% năm 2008. Nhưng Ngân hàng Thế giới (World Bank) ước lượng rằng mức tăng trưởng của Trung quốc năm nay chỉ chừng 6.5% và công nhận – dù vậy – kinh tế Trung quốc vẫn còn vững mạnh hơn bất cứ nước nào khác trên thế giới .
Trong suốt cuộc khủng hoảng kinh tế này Trung quốc thường lên tiếng chống đối khuynh hướng bảo vệ công nghệ (protectionism) của thế giới vì Trung quốc biết mậu dịch với thế giới Tây phương là con đường sống của kinh tế Trung quốc. Vì vậy thủ tướng Ôn Gia Bảo không bỏ lỡ cơ hội nào trong các bài diễn văn hay các cuộc tiếp xúc với báo chí để ca ngợi thuyết “cung cầu” của Adam Smith. Tại London ông khoe với ký giả báo Financial times rằng ông luôn mang theo trong cặp da của ông cuốn “Lý thuyết luân lý kinh tế” (The Theory of Moral Sentiments) của Smith.
Ông Ôn Gia Bảo nói đoạn ông thích nhất trong cuốn sách là đoạn Smith nói rằng nếu (chính phủ) không phân phối thành quả của sự phát triển kinh tế cho mọi người thì đó là một động thái thiếu luân lý (morally unsound) và đe dọa sự ổn định của xã hội. Đảng Cộng sản Trung quốc biết rằng ở trong nước đảng đang bị dân chúng than phiền đã không làm những gì cần thiết để giúp thành phần gặp khó khăn vì suy thoái kinh tế, nên khi ông Ôn Gia Bảo ca ngợi cuốn sách “Lý thuyết luân lý kinh tế” ông muốn nói với dân chúng Trung quốc rằng Đảng thật sự có quan tâm.
Tuy nhiên chính phủ Bắc Kinh không muốn nội bộ bàn ra tán vào nhiều về cách nào hay nhất để vãn hồi sức mạnh kinh tế như ở Tây phương. Phiên họp quốc hội định kỳ họp trong tháng Ba này chỉ kéo dài 9 ngày thay vì hai tuần như thường lệ với một nghị trình lấy có. Ông Wu Banggun, Chủ tịch quốc hội, lợi dụng quốc hội họp để chỉ trích những đại biểu đòi hỏi cần nới lỏng sự kiểm soát độc tôn của đảng (trong kế hoạch cải tổ để phục hồi kinh tế).

Không có một chương trình phục hồi kinh tế nào được công bố vào cuối phiên họp quốc hội. Quốc hội chỉ hứa sẽ công bố sau, và tiết lộ để yên lòng dân rằng chương trình phục hồi sẽ gồm 850 tỉ nhân dân tệ trải dài trong 3 năm để cải tổ chương trình chăm sóc sức khỏe của dân, và các chương trình trợ cấp tăng từ 1% lên 4%, trong khi các chương trình xây dựng công cọng giảm từ 45% xuống 38%, và chương trình chống khí quyễn nóng dần được cắt giảm từ 9% đến 5% trong ngân sách phục hồi kinh tế.
Tuy nhiên chương trình phục hồi kinh tế của Trung quốc nặng về bảo vệ lĩnh vực công. Các ngân hàng nhà nước, nguồn cung cấp tín dụng cho các công ty quốc doanh chiếm hầu hết ngân sách phục hồi kinh tế, các xí nghiệp tư chỉ còn lượm đồ thừa .
Viện Cải tổ và Phát triển Trung quốc” (The China Institute for Reform and Development), một cơ sở nghiên cứu độc lập vừa cho phát hành một tài liệu dày 171 trang nhan đề “Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới làm chậm chương trình cải tổ kinh tế Trung quốc” (The International Financial Crisis Challenges Reforms in China) kết luận rằng cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay là cơn khủng hoảng lớn nhất của quốc gia từ 30 năm nay kể từ ngày bắt đầu chương trình mở cửa (bên cạnh những cuộc khủng hoảng khác như cuộc nổi dậy Thiên An Môn năm 1989, cuộc khủng hoảng kinh tế Á châu các năm 1997-1998 và đợt tái cấu trúc các cơ sơ kinh doanh làm hàng triệu người mất việc).
Tài liệu viết rằng Trung quốc cần cải tổ kinh tế theo hướng thị trường hơn nữa, nếu không, chẳng những kế hoạch phục hồi kinh tế hiện nay không thành công mà còn tạo ra những vấn đề khác trong tương lai. Và đề nghị chính phủ cần nới lỏng sự kiểm soát giá cả trong lĩnh vực điện nước và hạ giảm tính độc quyền trong các lĩnh vực kỹ nghệ khác như tin học, hỏa xa và hàng không dân dụng. Tài liệu kêu gọi chính phủ khuyến khích sự phát triển các cơ sở kinh tế tài chánh tư, thả nổi lãi xuất ngân hàng và giá hối đoái của đồng nhân dân tệ. Trong bài diễn văn kết thúc phiên họp quốc hội hôm 13/3/2009 thủ tướng Ôn Gia Bảo kêu gọi cải tổ kinh tế và chính trị cho dân có nhiều quyền và được tự do hơn. Nhưng trong cuộc khủng hoảng này Bắc Kinh vẫn thấy có nhu cầu tập trung quyền hành trong tay Đảng để quyết định các biện pháp cho là cần thiết mà không cần bàn cãi lôi thôi .

Trong cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay đảng Cộng sản Trung quốc sẽ rất thận trọng trong các chính sách trong nước (để yên lòng dân). Nhưng nếu các nước Tây phương có khuynh hướng bảo vệ công nghiệp của mình thì những người quốc gia quá khích tại Trung quốc sẽ có tiếng nói mạnh mẽ hơn đòi Trung quốc phải có thái độ. Trong tháng Ba này người ta thấy xuất hiện tại Trung quốc một cuốn sách nhiều tác giả nhan đề “Một nước Trung Hoa Bất Mãn” (Unhappy China) in 70 ngàn số nội dung nói lên sự bất mãn của quần chúng đối với thái độ của Tây phương. Một bài viết trong cuốn sách đi xa đến độ nói rằng Tây phương có thể sẽ gây chiến với Trung quốc vì ganh tị.
Ít ai nghĩ kịch bản đó có thể xẩy ra. Một tác giả khác nói với dân chúng rằng chính quyền không muốn thấy những cuốn sách có nội dung như cuốn “Unhappy China” ra đời vì Tây phương có thể dựa vào đó kết luận Trung quốc là một mối đe dọa cho hòa bình thế giới. Nhà xuất bản cũng đã cắt không đăng một bài viết kể chuyện Ấn Độ sát nhập Sikkim năm 1975 vì e ngại làm mất lòng Ấn Độ.
Tất cả nói lên môt điều rằng Trung quốc muốn trở thành số một trên thế giới, nhưng Trung quốc muốn âm thầm đi tới đó mà không tạo ra những địch thủ đáng sợ./.
Trần Bình Nam lược thuật
March 23, 2009
www.tranbinhnam.com
Ghi chú:
(1) Mao Trạch Đông sinh ngày 26/12/1893
(2) Tại đó, theo tin tức, một sinh viên người Đức đã cởi giày định ném vào thủ tướng họ Ôn – như từng xẩy ra tại Baghdad ngày 14/12/2008 đối với tổng thống Bush.
(3) Giáo sư Fred Bergsten thuộc Viện Kinh tế Quốc tế Peterson (Institute for International Economics) gợi ý này trong một bài viết đăng trên tờ Foreign Affairs số tháng Bảy 2008
(4) Hội nghị G20 gọi là “Thượng Đỉnh về Thị Trường Tài chánh và Kinh Tế Thế Giới” (Summit on Financial Markets and the World Economy).
(5) Hội nghị G20 năm trước họp tại Hoa Thịnh Đốn ngày 15/11/2008.
(6) Một bộ luật Trung quốc thông qua trước đây, và bây giờ người ta mới hiểu để làm gì.
(7) Tiếng nói của ông Xi Jinping có trọng lượng vì ông là một trong 2 người được đảng Cộng sản Trung quốc chuẩn bị thay thế Hồ Cẩm Đào vào đại hội năm 2012.
__

VÕ VĂN ÁI * PHẬT GIÁO



THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI GENÈVE NGÀY 23.3.2009Tại khóa họp Hội đồng Nhân quyền LHQ lần thứ 10 ở Genève :


Ông Võ Văn Ái tố cáo Việt Nam không tuân thủ các Công ước Nhân quyền LHQ, gây đại nạn sinh thái Tây nguyên vì mỏ bauxite, và công bố Tài liệu mật của đảng Cộng sản đàn áp nhân quyền, dân chủ


GENÈVE, ngày 23.3.2009 (QUÊ MẸ) - Hôm nay tại khóa họp Hội đồng Nhân quyền LHQ lần thứ 10, nhân danh Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam và Quê Mẹ : Hành động cho Dân chủ Việt Nam, Ông Võ Văn Ái lên tiếng tố cáo nhà cầm quyền Hà Nội “vi phạm nghiêm trọng nhân quyền tại Việt Nam và thường xuyên không tuân thủ các nghĩa vụ quốc tế”. Nhắc lại rằng Việt Nam ký kết Công ước Quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị từ năm 1982, ông Ái tuyên bố rằng : “Chính sách Nhà nước Việt Nam không do các thiết chế quốc gia hoạch định (chính phủ hay quốc hội), mà mọi sự do Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định” Đảng Cộng sản bất cần mọi cam kết với thế giới”.

Qua lời phát biểu, ông Võ Văn Ái nêu lên những phương pháp đàn áp cơ bản dựa vào sự kềm kẹp quần chúng thông qua ba mũi vây bọc

Công an khu vực
thám sát từng cá nhân, mà không có nó con người trở thành bất hợp pháp, và Lý lịch quy định quá trình chính trị người công dân”.
Ba gọng kìm thường trực này là sức ép kinh hồn đè lên thân phận những người bất đồng chính kiến (nguyên nhân mất việc làm, con cái không được đi học, sách nhiễu, v.v…) làm cho họ mất tinh thần.


Chính sách chung là bóp nghẹt mọi tư tưởng bất đồng với đảng và nhà nước. Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, vị lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, bị giam cầm hơn 26 năm và hiện bị quản thúc tại ngôi chùa của ngài ở Saigon, các luật gia Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân bị xử án 4 và 3 năm tù vì mở những khóa học về nhân quyền; hay người chủ Blog Điếu Cày bị tuyên án 30 tháng tù vì viết những bài đòi hỏi cải cách dân chủ; giam cầm hoặc thu hồi thẻ làm báo của các ký giả phát hiện những sự việc “nhạy cảm”.


Nhà cầm quyền còn đàn áp phong trào nông dân khiếu kiện gọi là Dân Oan chống lại việc cán bộ cướp đất đai, tài sản, hay đàn áp công nhân đình công đòi hỏi cải thiện đời sống và tiền lương vào lúc giá gạo tăng vọt 72% trong vòng một năm, hoặc đàn áp các cuộc biểu tình sinh viên và dân chúng chống việc mất đất, mất hai quần đảo Hoàng sa, Trường sa vào tay Trung quốc.

Võ Văn Ái nêu lên trường hợp của các người tham gia biểu tình, như Phạm Văn Trội, Phạm Thanh Nghiên, Vũ Hùng, Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Văn Túc, Ngô Quỳnh… bị bắt từ tháng 8.2008 nay còn bị giam giữ không xét xử.


Đảng và Nhà nước còn sử dụng các “đạo luật gian ác” để dập tắt mọi sự phản kháng hay bất đồng chính kiến. Những đạo luật hủy bỏ các quyền được bảo đảm trong Công ước Quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị hay trong Hiến pháp Việt Nam : các đạo luật về “an ninh quốc gia”, nghị định 38/2005 cấm biểu tình, chỉ thị chống đình công (những ai đình công phải trả 3 tháng lương cho chủ …), Pháp lệnh số 44 năm 2002 quản chế tại gia người công dân hoặc đưa vào nhà thương điên mà không thông qua sự xét xử tại tòa án, cũng như những đạo luật vừa công bố hạn chế trên lĩnh vực báo chí và Internet (như Thông tư 07/2008/TT-BTTT hạn chế việc thiết lập blog).


Ông Võ Văn Ái cũng tố cáo dự án Trung Việt lên tới 500 triệu Mỹ kim nhằm khai thác quặng bauxite ở Tây nguyên có nguy cơ gây >“đại nạn sinh thái”, phá hủy rừng, đất đai trồng trọt, thải ra hằng núi bùn độc” và làm hại đời sống của các dân tộc ít người. Mặc những lời báo động của các chuyên gia, những kiến nghị của dân cư địa phương, đặc biệt Thư ngỏ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu sách đánh giá lại việc quy hoạch khai thác bauxite trên Tây nguyên, Nhà cầm quyền vẫn cho khởi sự việc khai thác quặng bauxite với sự có mặt của hàng nghìn công nhân Trung quốc.


Đứng trước hiện trạng vi phạm nhân quyền trầm trọng, ông Võ Văn Ái yêu cầu Hội đồng Nhân quyền gây sức ép để nhà cầm quyền Việt Nam chấp nhận thường trực việc các

“Báo cáo viên LHQ đặc nhiệm bảo vệ những người đấu tranh cho nhân quyền, đặc nhiệm tự do ngôn luận và tự do tôn giáo viếng thăm Việt Nam”.


Tài liệu tuyệt mật của Đảng Cộng sản nhằm đàn áp nhân quyền và dân chủ được công bố tại Điện Quốc liên, Genève< >Tại cuộc Hội luận về tình hình Châu Á tổ chức ở Điện Quốc liên, Genève, ông Võ Văn Ái tiết lộ một “Tài liệu tuyệt mật” của đảng Cộng sản Việt Nam trong việc nuôi dưỡng sợ hãi để đàn áp dân lành nhằm củng cố quyền lực đảng ít nhất “trong 20 năm tới”. Tài liệu này phát xuất từ một cuộc họp kín ngày 10.7.2008.


“Tài liệu cho thấy những phương pháp đàn áp được quy hoạch quy mô. Mọi cuộc khủng bố nhiều năm qua chống lại các quyền tự do cơ bản xác minh cho chính sách trắng trợn và vô nhân đạo được trình bày chi tiết qua tài liệu”.


Mục tiêu của Đảng nhằm “duy trì tuyệt đối nỗi sợ hãi dù mơ hồ trong tiềm thức – nhưng đồng thời cũng không để cho nhân dân cảm thấy tuyệt vọng, để dân chúng không bao giờ có đủ ý chí mà nổi loạn”,


Tuy nhiên tài liệu viết “Phải làm sao để chúng ta vẫn trấn áp được đối lập dân chủ, nhưng vẫn không làm sức mẻ quan hệ ngoại giao đang ngày càng một tốt hơn với Hoa Kỳ và phương Tây”. Do vậy mà Đảng chỉ thị hình thành những nhóm “dân chủ giả hiệu” để cho ngưỡng vọng dân chủ của quần chúng không kết tụ thành phong trào tranh đấu thực sự.




Tài liệu tuyệt mật này lý luận rằng “Hai phạm trù “dân chủ” và “phát triển” có quan hệ hết sức phức tạp, phi tuyến, chứ không phải là quan hệ nhân - quả. Nghiên cứu kỹ thuật về vấn đề này sẽ rất có lợi cho chúng ta trong việc chủ động phát triển kinh tế mà không cần phải “dân chủ hoá””.
Đồng thời nhận thức rằng “Các cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ độc tài bao giờ cũng do sinh viên và tri thức dẫn đầu; công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động khác chỉ là sức mạnh cơ bắp.

Chỉ có trí thức và sinh viên mới đủ lý luận để huy động được đông đảo quần chúng, mới có lý tưởng để dấn thân, và mới có khả năng tổ chức và phối hợp”.
Vì vậy phải “triệt tiêu được những phong trào sinh viên, cô lập được những trí thức phản kháng, chính là đánh vào đầu não chỉ huy của địch. Những thứ còn lại như “dân oan biểu tình”, “công nhân đình công”…chỉ là cơ bắp của một cơ thể đã bị liệt não”


Chính vì vậy mà tài liệu đưa ra nhận xét bất ngờ, rằng “Chúng ta đã thành công trong việc làm cho sinh viên trở nên lãnh cảm về các loại ý thức hệ, thờ ơ với những tư tưởng tự do khai phóng từ phương Tây. Chúng ta chỉ còn phải đối phó với tinh thần dân tộc của sinh viên đang có nguy cơ thức dậy, mục đích là để nó ngủ yên, nếu không phải lèo lái nó theo hướng có lợi cho chúng ta”.



>Nhằm thực hiện nhận xét trên, Đảng chỉ thị “Phải làm sao để nó chỉ là hoạt động manh mún, rời rạc, tự phát của các cá nhân đơn lẻ; làm cho có nhiều “lãnh tụ” mà ít hoặc không có quần chúng; có nhiều “nhân sĩ trí thức” mà ít hoặc không có một tổ chức nào có thực lực; có nhiêù những hoạt động lãng mạn hời hợi có tính phô trươn – mà người dân có biết đến cũng chỉ mỉm cười ý nhị – chứ ít hoặc không có những hoạt động thiết thực có tầm mức ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội; có thật nhiều những hoạt động “chống cộng cực đoan” có tính chất phá hoạt từ bên trong, gây phản cảm đối với người dân lao động, thậm chí làm cho những gia đình cách mạng và đội ngũ cựu chiến binh phẫn nộ”. Đồng thời với việc “Phải chủ động trong việc mở rộng xã hội dân sự, thuần phục và trung hoà giai cấp trung lưu đang lớn mạnh. Làm sao để trong mỗi tổ chức dân sự đều có chân rết của ta. Các tổ chức trung gian như Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Hội phụ nữ, các Hội cựu chiến binh, các Câu lạc bộ hưu trí… phải phát huy vai trò tối đa trong việc trung hoà những nhân tố nguy hiểm, điều hoà những xung đột nếu có giữa nhà nước và xã hội, giảm thiểu sự bất mãn của dân chúng… Làm sao để xã hội dân sự vẫn được mở rộng nhưng theo hướng có kiểm soát của chúng ta, chứ không trở thành mối đe doạ”. (…) “Phải giữ cho cái gọi là: “phong trào dân chủ đối lập” không thể trở thành phong trào đúng nghĩa, không thể bén rễ và lan rộng”.


Đánh giá giới trí thức, Đảng nhận định rằng “Đối với tầng lớp trí thức, những biện pháp “vừa trấn áp vừa vuốt ve” từ xưa đến nay đã đem lại kết quả khả quan. Chúng ta đã duy trì được một tầng lớp trí thức hèn nhát, háo danh, và nếu không quá ngu dốt thiển cận thì cũng chỉ được trang bị bởi những kiến thức chắp vá, hổ lốn, lỗi thời. Nói chung, đa số trí thức của chúng ta đều hèn, đều biết phục tùng theo đúng tinh thần “phò chính thống” của sĩ phu xưa nay. Phần lớn những kẻ được coi là trí thức cũng mang nặng cái mặc cảm của việc học không đến nơi đến chốn, ít có khả năng sáng tạo, và so với trí thức phương Tây về cả tri thức lẫn dũng khí đều cách xa một trời một vực.



“Trí thức của chúng ta vẫn mãi mãi giữ thân phận học trò, kiểu sĩ hoạn mơ ước được phò minh chủ, hanh thông trên đường hoạn lộ, chứ không bao giờ vươn lên thành những nhà tư tưởng lỗi lạc. Tầm mức ảnh hưởng của trí thức đến xã hội không đáng kể, không dành được sự kính trọng từ các tầng lớp nhân dân, thậm chí còn bị người đời khinh bỉ bởi sự vô liêm sỉ và Chỉ có một số ít trí thức vượt qua được cái vỏ ốc hèn nhát, nhưng thường là quá đà trở nên kiêu ngạo tự mãn, coi mình như núi cao sông sâu, là lương tâm thời đại. Những người này quả thật có dũng khí, nhưng cũng không đáng sợ lắm bởi đa phần đều có tâm mà không có tài, có đởm lược mà ít kiến thức. Đa phần trong số này cũng chỉ đến khi về hưu mới thu gom được dũng khí mà ra mặt đối đầu với chúng ta, do đó sức cũng đã tàn, lực cũng đã kiệt.

“Một số ít trẻ trung hơn, nhiệt huyết còn phương cương, thì lại chưa có kinh nghiệm trường đời, chưa được trang bị lý luận chu đáo, chưa có kiến thức về dân chủ sâu rộng. Với những kẻ này chúng ta đàn áp không nương tay, bỏ tù từ 3 đến 7 năm. Đó là phương cách giết gà từ trong trứng. Thử tượng xem một tài năng trẻ phải chui chột những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời trong lao tù, cách ly với môi trương học vấn, gặm nhấm nỗi cô đơn thay cho việc học hành nghiên cứu, thì sao có thể phát triển hết khả năng? Khi ra tù thì cũng đã quá tuổi trung niên, mệt mỏi, chán chường. Nếu vẫn còn dũng khí thì cũng đã tụt hậu về kiến thức, bị trì néo bởi gánh nặng gia đình, còn làm gì được nữa?”

Kiểm điểm thường kỳ toàn thế giới” về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam , Phúc trình của Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam được LHQ trích dẫnCuộc họp Hội đồng Nhân quyền LHQ lần thứ 10 sẽ chấm dứt vào ngày 27.3 tới. Nhưng sang đầu tháng 5 sẽ có phiên Hội đồng Nhân quyền LHQ nghe Hà Nội phúc trình tình trạng nhân quyền tại Việt Nam theo thể thức mới mỗi 4 năm một lần gọi là “Kiểm điểm thường kỳ toàn thế giới” (UPR, Universal Perodic Review).

Tại cuộc kiểm điểm này, Hội đồng Nhân quyền LHQ và các quốc gia thành viên sẽ nghe ba bản phúc trình. Một của Việt Nam Cộng sản về việc thực thi các Công ước Nhân quyền LHQ tại Việt Nam . Phúc trình thứ hai do Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ tóm gọn tất cả những khiếu nại hay tố cáo của các tổ chức Phi chính phủ về những vi phạm nhân quyền tại Việt Nam (tài liệu tham chiếu A/HRC/WG.6/5/VNM/3 - 23 February 2009). Xin vào xem trên Trang nhà LHQ: http://lib.ohchr.org/HRBodies/UPR/Documents/Session5/VN/A_HRC_WG6_5_VNM_3_E.pdf hoặc trên Trang nhà Quê Mẹ http://www.queme.net/eng/doc/A_HRC_WG6_5_VNM_3_E.pdf ). Phúc trình thứ ba do các cơ cấu LHQ liên quan đến quyền con người thông qua các phúc trình đệ nạp tại LHQ về những vi phạm nhân quyền tại Việt Nam trên các lĩnh vực xã hội, dân sự, tôn giáo, phụ nữ, trẻ em, v.v… (tài liệu tham chiếu A/HRC/WG.6/5/VNM/2 - 19 February 2009).

Ngoại trừ phúc trình của Hà Nội sẽ được đọc tại buổi họp đầu tháng 5 tới. Trên trang nhà LHQ đã cho đăng tải 2 phúc trình nói trên cùng những phúc trình của các tổ chức Phi chính phủ nhân dịp “Kiểm điểm thường kỳ toàn thế giới” về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam. Nhìn chung thì bản Phúc trình của Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền (FIDH) được đặc biệt quan tâm và trích dẫn rất nhiều để chất vấn Hà Nội.<>

NGUYỄN THIÊN THỤ * THƯ MUC


Từ 1975, tôi lui về quy ẩn, tìm vui trong sách đèn. Công cuộc đã thành tựu. Năm 2006, tôi xuất bản bộ VĂN HỌC HIỆN ĐẠI, gồm 4 tập, dày 2200 trang. Quá trình thực hiện, tôi đã thu thập nhiều tài liệu. Từ năm 1995, nhiều trang nhà ra đời, nội dung chứa nhiều bài nghiên khảo và giới thiệu tác giả, tác phẩm. Khoảng năm 2000, nhiều thư viện điện tử ra đời, thành thử tài liệu càng dồi dào. Trong tinh thần phục vụ văn hóa dân tộc, tôi đã sưu tập các tài liệu, thành các thư mục để giúp ích cho các nhà nghiên cứu. Những chi tiết cụ thể, tôi đã trình bày rõ trong bộ Văn Học Hiện Đại.


XIN ĐỌC:






Saturday, March 21, 2009

TRƯƠNG MINH HÒA


TinParis. Mới đây TT Obama đã làm áp lực với hệ thống Ngân Hàng Thụy Sĩ để " hủy bõ " truyền thống " bí mật Ngân Hàng" , nếu không Mỹ sẽ "áp dụng " biện pháp chế tài bằng cách "phong tỏa " mọi dịch vụ của các ngân hàng này trên đất Mỹ. Sở dĩ TT Obama không gặp sự chống đối mãnh liệt của giới tư bản Mỹ cũng như của các dân cử Cộng Hòa và Dân Chủ là vì cuộc chiến chống "khủng bố Al Queida " , và chống buôn lậu " bạch phiến", rửa tiền " Mafia " đang thất bại nếu " không kiểm soát" được các nguồn " tài chánh" của chúng.

Trước đây, Mỹ có lợi nên dung dưỡng quy chế " bí mật ngân hàng " vì còn chiến tranh lạnh nên cần phải " tài trợ bí mật " , " bao che " cho các hoạt động của CIA - đừng quên là Bin Laden là nhân viên CIA trước đây để chống Nga Xô tại Afghanistan.

Nhưng bây giờ , thì "gậy ông đập lưng ông ", các tên khủng bố , trùm Mafia đã lợi dụng "vũ khí kinh tế chiến lược" nầy để nuôi dưỡng các " hệ thống" của chúng ngay trên nước Mỹ và các quốc gia đồng Minh Tây Phương. Do đó việc " cấm bí mật ngân hàng " sẽ làm lộ diện những " đường dây ĐEN Tội ác " nầy, đồng thời " giúp Mỹ " bắt chẹt những " lãnh tụ độc tài, tham nhũng " trên thế giới !

Có vũ khí chiến lược nào " lợi hại " hơn việc " cấm bí mật ngân hàng " ? Bài viết của Trương Minh Hòa dự đoán " sự rối lọan trầm trọng " trong tương lai của các tay " trùm Mafia Đỏ " tập đoàn Cộng Sản Việt Nam cũng như " các con cờ " của chúng tại hải ngoại


KHO TÀNG BỌN CƯỚP VIỆT CỘNG KHÔNG CÒN AN TOÀN NỮA. - TRƯƠNG MINH HÒA -


Những kẻ bất lương rất ngán tài sản có người biết được, ngày xưa bọn cướp biển, sau những chuyến ăn hàng, mang vàng bạc, châu báo cất dấu ở những hải đảo bí mật, nên ngày nay mới có những câu chuyện về cuộc" săn tìm kho tàng cướp biển", nổi tiếng ở vùng biển Caribeen, Mỹ Châu. Trong chế độ quân chủ phong kiến, dù triều đình có những luật lệ chống tham quan, nhưng cũng khó tránh khỏi những quan lại bất chánh, vơ vét của dân bằng những thủ đoạn gian manh, hà hiếp, hối mại quyền thế, tham nhũng. Thời nay, tại cá nước dân chủ, những kẻ bất lương nếu phục vụ trong các cơ quan chính quyền có tham nhũng, họ phải tìm mọi cách cất dấu, tẩu tán tiền bạc để qua mặt sở thuế, các cơ quan điều tra tội phạm; bọn buôn bán lậu, ma túy, băng đảng tội phạm....thường hay dùng cách rửa tiền để thanh toán những số tiền lớn, không có nơi lưu trữ, vì các nước điều tra, có thể tìm đến các trương mục có quan hệ mà tịch thu. Những tổ chức khủng bố núp bóng Hồi Giáo như Al Qaeda, có nhiều chi nhánh, ngụy trang bằng các tổ chức lạc quyên, từ thiện, cơ sở tôn giáo, hoạt động công khai tại nhiều nước trên thế giới; nhưng sau vụ khủng bố 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa Kỳ, các trương mục của họ bị phong tỏa, nhằm cắt đường những tài trợ, giúp phương tiên cho khủng bố.

Thời đệ nhị thế chiến, khi tổ chức ngân hàng còn mới mẻ với nhiều nước, thì nơi nầy được những quan chức lớn của chế độ Quốc Xã do Hitler lãnh đạo, dùng làm kho chức tiền, tài sản bí mật, nên tại các nước Âu Châu thời ấy, chỉ có Thụy Sĩ là nước hiếm hoi không bị Đức Quốc tấn công, đó là các ngân hàng an toàn, với những luật lệ bảo mật gần như tuyệt đối, nên sau đệ nhị thế chiến, nhiều thành viên Quốc Xã chết, để lại những món tiền lớn, vô thừa nhận. Những lãnh tụ độc tài, giới chức tham nhủng, buôn bán lậu, băng đảng bất lương....thường tin cậy vào hệ thống ngân hàng Thụy Sĩ, là nơi bảo đảm nhất trong số các nơi gởi tiền, nên đất Thụy Sĩ trở thành" kho tàng" của bọn bất lương, dù nước nầy chối dài chuyện cất dùm tài sản của kẻ gian ác trên thế giới.

Trong số những tướng cướp, kẻ gian trên thế giới, thì những cán bộ Cộng Sản, dù rất ghét những nước tự do, bị chúng chụp mũ là:" bọn tư bản phản động", nhưng bao nhiêu tiền gom góp từ máu xương, mồ hôi của hàng triệu triệu người thường được gởi sang các ngân hàng của bọn" phản động" giữ dùm, vì người Cộng Sản có bản chất" nói một đàng, làm một nẻo", chính họ không bao giờ tin họ, thì những người ngoài đảng, đang sinh sống ở các nước dân chủ, ngây thơ tin người Cộng Sản là nên học lấy những bài học" vắt chanh bỏ vỏ" nhan nhản trong các cuộc thanh trừng nội bộ, thanh toán tay sai, sau khi" hoàn thành nhiệm vụ" trong một giai đoạn nào đó. Trong chế độ Cộng Sản, điển hình tại Việt Nam, hầu như các thứ đều dính với hai chữ:" NHÂN DÂN" như: ủy ban nhân dân, quân đội nhân dân, công an nhân dân, tài sản nhân dân ( là những thứ như nhà, đất, xe, tàu... tịch thu, ăn cướp của nhân dân, được cán bộ quản lý, trở thành của riêng, dưới nhản hiệu nhân dân), chính quyền với tên gọi nhà nước và nơi cất tiền là Ngân Hàng Nhà Nước, chứ nào phải" ngân hàng nhân dân", ló ra bản chất độc tài, tham lam của người Cộng Sản qua tên gọi.

Những món tiền bất chính không được người Cộng Sản" tin cậy" ký thác vào hệ thống ngân hàng do chính họ thành lập với nhiều lý do:

-Không tin tưởng vào chính người Cộng Sản: nằm trong chăn biết chăn có rận, nên người Cộng Sản không bao giờ tin cái kho bạc của họ dựng lên, chỉ là nơi để thu hút tiền đầu tư, ký thác, tiết kiệm của nhân dân mà thôi; do nơi nầy bấp bên, giao tiền cho ngân hàng nhà nước, chẳng khác nào gởi cho đảng cướp cất dùm tài sản. Đó lá lý do mà sau thời kỳ mở cửa, dân chúng, cán ngố cấp cơ sở, trung ương... đều tìm đến những ngân hàng nước ngoài để gởi tiền..
-Không dám để tiền vào những nơi" nhà nước quản lý, đảng lãnh đạo" do sợ cán ĐỒNG CHÍ cật ruột khác phe cánh, rình rập ĐÌ CHỐNG mà moi móc và nếu yếu thế, đem ra" đấu tố" để lấy hết, đó là lối hành xử của những thành viên đảng cướp, ngay chính họ cũng còn" trấn lột" với nhau, huống chi là người ngoài, thì đảng viên Cộng Sản mạnh tay:" vét sạch, lấy sạch, cướp sạch".
-Tham những là quốc sách nuôi, bảo vệ đảng, nên trong chế độ Cộng Sản thì cán bộ các cấp thi đua vơ vét, tài sản bất chất quá nhiều, sau khi cạnh tranh mua đất, khiến giá đất tăng vọt như những nơi cao giá nhất thế giới là New York; mua vàng tích lũy cũng không xong, nếu bị đồng bọn tìm đến trấn lột lại. Ngân hàng nhà nước không phải là nơi an toàn, gởi tiền vào nơi nầy, chẳng khác nào" lạy ông con ở bụi nầy", lòi ra là" chả cần liêm chính, lấy công cho tư".

Trong trận chiến quân sự, không nơi nào an toàn bằng" hậu phương kẻ thù", do đó nơi an toàn để ký thác số tiền bất chánh, thì chỉ có" ngân hàng các nước tư bản phản động" mới là nơi an toàn cho những nhà độc tài Cộng Sản. Trong số các ngân hàng uy tín trên thế giới, tất cả đều nằm trong các nước" tư bản", thì Thụy Sĩ là nơi có" truyền thống bảo mật tốt nhất" cho các thân chủ, từ thời Quốc Xã đến nay.

" Trăng Liên sô tròn hơn trăng nước Mỹ.
Ngay Hàng Thụy Sĩ đảm bảo hơn ngân hàng nhà nước".

Thế giới ngày nay tiến dần đến dân chủ, công lý là bước đầu tiên, nền tảng cho nhân quyền, nên trong thời gian qua, một số nhà độc tài như Saddam Hussein ở Iraq, Melosevic, tổng thống cựu Cộng Hòa Nam Tư lần lượt ra tòa, nay thêm tổng thống Zimbawue, Sudan cũng được tòa án quốc tế lưu ý, nêu đích danh. Do đó những tên Cộng Sản từng nhúng tay vào máu, giết người hàng loạt phải rung sợ trước tiến trình dân chủ toàn cầu, thời buổi mà những kẻ ác lần lượt bị đưa ra ánh sáng công lý. Trong số nầy, thì nhiều tên đầu lãnh trong đảng Siêu cướp Cộng Sản Việt Nam lo sợ cũng có lý do, cho nên tên nào cũng muốn chạy sang Mỹ để tỏ ra là" thân Mỹ" hầu được che chỡ; cho nên có người cho là Việt Cộng thân Mỹ, chỉ đúng về hình thức, nhưng thật ra, thì sau khi trở thành tư bản đỏ, nhiều triệu, tỷ phú Dollar Mỹ luôn muốn:" Thà mất nước, chớ đừng để mất đảng, và mất tiền, nên phải bảo vệ túi tiền như con người trong tròng mắt", đúng ra là những tên Việt Cộng chỉ" thân đô la Mỹ" chứ nào thân Mỹ, cho nên trong nước, dù có ăn ngập mặt từ tiền Mỹ, đồ Mỹ viện trợ.... đảng Cộng Sản Việt Nam luôn:" nguyện trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Marx Lenin" và thường học tập, hâm nóng cấp thời" Mocrowave" món hàng thiu thúi:" tư tưởng Hồ Chí Minh" cho toàn đảng, toàn dân; điều nầy nói lên bản chất thật sự của người Cộng Sản là" ngoan cố", nên ông boris Yelsin ở Nga tuyên bố:" Cộng Sản không thể sửa đổi, tốt nhất là bỏ phức nó đi".

Mới đây, chính phủ Thụy Sĩ ban hành luật mới với mục đích công bố những món tiền bất chánh do các thân chủ ký thác, số nầy có những đối tượng như:
-Buôn bán ma túy
-Băng đảng tội phạm
-Những kẻ ăn cắp của công
-Tham nhũng
-Tài sản của các nhà độc tài
-Tài sản bọn khủng bố....như vậy, các ngân hàng Thụy Sĩ bỏ cái thông lệ" bảo mật tuyệt đối" cho các thân chủ và sẵn sàng hợp tác với các chính phủ tự do, các tổ chức điều tra tội phạm quốc tế ( có thể có cả Interpol).

Đây là điều mà những kẻ gian ác tham lo sợ, trong số nầy có hàng trăm nhà" triệu, tỷ phú đỏ" từ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đang gởi tiền ở các ngân hàng tại các nước" tư bản cực kỳ phản động", trong đó tin cậy nhất là ở Thụy Sĩ.

Biện pháp đông lạnh, phong tỏa trương mục của những kẻ gian ác, tổ chức khủng bố được chú trọng sau ngày 11 tháng 9 năm 2001, qua vụ khủng bố giết chết hơn 3 ngàn người ở New York, Ngũ Giác Đài.

Điều nầy làm cho các tên sát nhân thuộc đảng cướp Việt Cộng bị ảnh hưởng nên lo sợ; nếu có ai đó nộp đơn tố cáo giết người hàng loạt như: trong tết Mậu Thân 1968, tàn sát những người yêu nước phục quốc sau 1975, điển hình là tên thủ tướng" không người lái" Nguyễn Tấn Dũng, là thủ phạm trong những vụ giết người để thăng chức, trong đó có anh hùng Trần Văn Bá, khi hắn làm công an tỉnh Rạch Giá. Nếu các gia đình nạn nhân tố cáo trước tòa án quốc tế và khả năng cứu xét, phong tỏa trương mục cũng là biện pháp khả thi của các cơ quan tài phán quốc tế, phối hợp với các cường quốc Tây Phương. Từ nhiều năm qua Việt Cộng lợi dụng sinh hoạt dân chủ ở Hoa Kỳ, nên dựng chuyện tác hại chất độc da cam để kiện các công tỷ Mỹ nhằm bồi thường, thì nạn nhân Cộng Sản cũng có quyền nộp đơn tố cáo những tên sát nhân hàng loạt như Đổ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Tấn Dũng... ở hải ngoại, hàng ngũ người Việt tỵ nạn Cộng Sản có nhiều người làm nghề luật sư, nên khả năng đưa ra tòa án quốc tế cũng không phải là điều bất khả thi. Hàng trăm ngàn quân nhân cán chính miền Nam sau 1975, trải qua nhiều năm tù đày nghiệt ngã, có người ở tù hơn 20 năm, có thể tập hợp lại, thành một tổ chức" Nạn nhân vi phạm nhân quyền" của Cộng Sản, bằng chứng là các tờ giấy Ra Trại, có để những tội danh" kỳ lạ" theo luật rừng như: thiếu úy, đại tá, thiếu tướng....giám đốc, trưởng phòng...Việc nầy cần nên thực hiện càng sớm càng tốt để lôi cổ những tên ác ôn Cộng Sản ra trước công lý và đồng thời nhờ các cơ quan nầy phong tỏa các trương mục mà ngân hàng Thụy Sĩ đã bật đèn xanh, sẵn sàng hợp tác. Ngay cả đại tá " quân hạn nhân dân" là Bùi Tín, nạn nhân cũng có thể nộp đơn kiện ra tòa án quốc tế về những hành vi giết người dã man trong thời kỳ hắn làm chức" đại đội trưởng ám sát", gia đình nạn nhân điển hình như ông Võ Tự Đản ( hiện đang sống ở Hoa Kỳ).

Người gian manh Cộng Sản đã hiểu được thân phận, nên từ nhiều năm qua, chúng cố gắng tẩu tán tàn sản bất chánh bằng nhiều cách:

-Đầu tư đất đai, khiến giá nhà đất ở Việt Nam tăng vọt một cách bất thường như bong bóng.
-Cho con du học và tìm cách ở lại luôn, trở thành đầu cầu chuyển tiền, mua bất động sản ở nước ngoài; nên người ta không ngạc nhiên khi nhìn thấy những" cậu ấm, cô chiêu" con đảng, cháu Bác, trong thời gian" rèn mài kinh sử tư bản phản động" lại có" cơ ngơi" với " những " căn hộ" trị giá nhiều triệu Mỹ Kim, tọa lạc ở những khu sang trọng.
-Tìm cách mua đứt" di dân" qua diện hôn phối giả, để được sang nước ngoài, ôm theo số tiền lớn, mua nhà, siêu thị.
-Rửa tiền bằng cách lòn cho các sư quốc danh ( công an trá hình) sang hải ngoại cất chùa, bảo lãnh, làm kinh tài.
-Mở rộng thị trường nhà đất, mua nhà ở Mỹ, qui mô như công ty Thuduc Home, tung ra nhiều tỷ Mỹ kim để mua nhà ở California ( tiền nầy là do ăn cướp của nhân dân)

Tuy nhiên với số tiền" NHỚN" hiện nay nằm trong các trương mục ngân hàng của " bọn phản động", trong đó có ngân hàng Thụy Sĩ, thì những nhà triệu, tỷ phú đỏ của Việt Cộng cũng khó tẩu tán" toàn bộ" vì số tiền mà họ có được đã được biết từ lâu, nên mới có danh sách của hơn 300 nhà tư bản đỏ Việt Nam, được công bố trên các diễn đàn. Đây là mối lo lớn mà những tên cán Cộng giàu có đang phải đương đầu, của phi nghĩa không có nơi cất dấu an toàn; khi tàng cướp cạn Cộng Sản đang bị thế giới nhìn vào và ngày bị phong tỏa trương mục cũng chập chờn như" bóng ma diễn biến hòa bình của các thế lực công lý, loài người tiến bộ" dần dà trả lại công bằng, tiền bạc cho nạn nhân và đồng thời trừng trị đích đáng như tên gian ác qua tôi danh" HÌNH SỰ". Điều mà nhiều tên cán ngố lo sợ, nên tên nào cũng có bề ngoài" thân Mỹ" để được che chỡ; tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ thường lấy câu châm ngôn:" không có bạn thù vĩnh viễn, chỉ có quyền lợi", nên biết đâu, vi quyền lợi Hoa Kỳ mà họ ra tay, tỉa từng" con chuột Cộng Sản VC" nhằm chặt đứt cánh tay đắc lực của Trung Cộng, ngăn chận mộng bá quyền, luôn tìm cách cạnh tranh quyền lợi với Hoa Kỳ.
  • THƠ LÁI ÂM.
CÁN BỘ CỘNG SẢN THAM GIA ÁC.
Ăn cướp không bao giờ lương thiện, ma không bao giờ là Phật, Chúa. Đảng viên đảng cướp Cộng Sản là bất lương, chứ nào phải" vì dân, vì nước" như Bùi Tín, băng đảng Việt Tân lếu láo. Đương nhiên là tên Hồ Chí Minh, kẻ thành lập đảng cướp, không thể gọi là" yêu nước".

CHÁO MÚT chia phần, CHÚT MÁU tanh.
CỘ BÁN non sông, CÁN BỘ bần.
TẢN XÀI, tẩu tán bao TÀI SẢN.
LÁO MẤY mươi năm, LẤY MÁU dân.
HỌ DÙ gian ác, hay HÙ DỌA.
LŨ ĐẤY tham ô, LẤY ĐỦ vàng.
ĐẢNG NỢ oán thù, dân ĐỢ NẢN.
THƯỢNG TẦNG Hồ tặc, THẦN TƯỢNG tan.

TRƯƠNG MINH HÒA.
Ngày 19.03.2009

Thursday, March 19, 2009

TRẦN BÌNH NAM



















TRẦN BÌNH NAM

Mao và Việt Nam.


Mối lo hôm nay đối với người Việt Nam là tham vọng nuốt chửng Việt Nam của Trung quốc. Từng lời nói, từng hành động của các nhà lãnh đạo Trung quốc hiện nay đều nhắm vào hướng này.

Nhưng mộng bành trướng và khống chế Việt Nam của Trung quốc không phải trong thời đại đang vươn mình này của Trung quốc mới có. Đó là giấc mộng ngàn đời, từ thời đại các hoàng đế Trung quốc, qua các triều đại Minh, Nguyên, Thanh. Và gần đây Đặng Tiểu Bình, người được liệt vào bậc anh quân đã có đủ sáng suốt chuyển hướng chính trị đưa Trung quốc ra khỏi trận cuồng phong Mácxít và Maoít cũng là người đã ra lệnh cho hàng chục sư đoàn tiến đánh Việt Nam (2/1979). Và trước đó, Mao Trạch Đông, một nhà đại cách mạng Trung quốc, người được coi là một hoàng đế tân thời của Trung quốc hậu bán thế kỷ 20, người hết lòng giúp đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Pháp giành độc lập cũng – trong mọi hành động của ông – đều có sự tính toán để uy hiếp và tối hậu thôn tính Việt Nam.

Người Trung hoa từ ngàn xưa vẫn xem Việt Nam là một phần đất của Trung quốc. Những khẩu hiệu Trung quốc- Việt Nam “núi liền núi, sông liền sông” , “môi hỡ răng lạnh” chỉ là những khẩu hiệu, và mới nhất là châm ngôn 16 chữ vàng “Láng giềng hữu nghị, Hợp tác toàn diện, Ổn định lâu dài, Hướng tới tương lai.”cũng chỉ là chiêu bài để che đậy những ý đồ có tính lịch sử của Trung quốc .

Cho nên việc giữ nước lâu dài đòi hỏi các vua chúa Việt Nam hay những nhà lãnh đạo Việt Nam nắm vững yếu tính lịch sử đó để có chính sách phòng ngự thích hợp, dù đó là chính sách kinh tế, xã hội hay quốc phòng.

Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập (1930) cho đến năm 1992 nắm vững được yếu tính lịch sử này. Trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp giành độc lập (1945-1954), thời kỳ xâm lăng miền nam Việt Nam (1960-1975) cũng như sau khi thống nhất Việt Nam các nhà lãnh đạo tại Hà Nội – dù được Trung quốc viện trợ – vẫn luôn luôn cảnh giác ý đồ của Trung quốc.

Nhưng từ năm 1992, do nhu cầu sống còn trước sự sụp đổ của Đông Âu và Liên bang Xô viết, đảng cộng sản Việt Nam trở nên lệ thuộc hoàn toàn vào Trung quốc và nền an ninh Việt Nam trở nên bị đe dọa. Sự bảo vệ biên giới đất liền, lãnh hải, hải đảo trở nên càng lúc càng yếu ớt.



Trở lại một ít lịch sử bang giao Việt Nam và Trung quốc sau khi Mao Trạch Đông đánh thắng Tưởng Giới Thạch và thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc năm 1949.

Trong cuốn sách mới nhất về Mao Trạch Đông của bà Jung Chang viết chung với ông Jon Halliday nhan đề “Mao: The Unknown Story” (Những Câu Chuyện Chưa Được Tiết Lộ về Mao) (1) bà Jung Chang đã để dành một chương để nói về các ý đồ của Mao đối với Việt Nam (trang 560 -566).



(Chiến tranh biên giới 1979)
Theo bà Jung Chang, mỗi hành động của Mao đối với Hồ Chí Minh đều có hậu ý. Trung quốc giúp huấn luyện và trang bị quân đội cho ông Hồ trong chiến dịch biên giới (1950) chủ ý là không để cho các thành phần Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch bị tảo thanh tại Trung quốc chạy trốn sang Bắc Việt Nam có điều kiện trở lại tấn công Mao (2).
(Tù binh Việt Nam)

Nhưng đến năm 1954, Việt Nam mới thật sự nghi ngờ Trung quốc trước thái độ tráo trở của Bắc Kinh trong cuộc hội đàm tại Geneve năm 1954.

Năm 1954 Mao phát động chương trình canh tân để biến Trung quốc thành một siêu cường (Superpower Program). Trung quốc cần hiểu biết kỹ thuật và trang thiết bị lúc đó đang bị Tây phương cấm vận. Trung quốc tranh thủ viện trợ của Liên bang Xô viết, nhưng Mao biết chưa đủ nên Mao vận động giải tỏa cấm vận từ Pháp vì Pháp là nước giữ được tính độc lập với Hoa Kỳ nhiều nhất.

Lúc đó Pháp đang lúng túng tại Đông Dương. Ý của Mao là giúp Hồ Chí Minh đẩy Pháp vào chân tường rồi sẽ ra tay gỡ kẹt cho Pháp để đổi lấy điều kiện đòi giúp đỡ kỹ thuật. Tháng 5/1953 khi cuộc chiến tranh Triều Tiên sắp chấm dứt, Trung quốc chuyển sĩ quan và cố vấn sang thẳng biên giới Việt Nam chuẩn bị cho chiến trường Đông Dương mà cao điểm là cuộc chiến thắng có tính quyết định ván bài Việt Nam của trận Điện Biên Phủ tháng 5/1954.

Theo tài liệu của bà Jung Chang, trước khi hội nghị Geneve họp (26/4/1954) Mao đã quyết định sẽ giúp Pháp và tìm một giải pháp nhẹ nhàng cho Pháp chứ không để cho đảng Cộng sản Việt Nam nhân cuộc chiến thắng Điện Biên Phủ đòi những điều kiện bất lợi cho Pháp. Thống nhất Việt Nam bằng cách đẩy mạnh các cuộc tấn công quân sự, đuổi Pháp một lèo ra khỏi Đông Dương là một trong những chương trình của đảng Cộng sản Việt Nam .

Ngày 7/5/1954 Điện Biên Phủ thất thủ. Ngày 17/5 chính phủ Pháp sụp đổ. Theo kế hoạch của Mao sẽ dùng chiến trường Việt Nam đổi chác với Pháp, ngày 23/5 thủ tướng Chu Ân Lai gặp riêng tân thủ tướng Pháp Mendes France tại Geneve và đưa ra món hàng đổi chát. Phái đoàn đảng Cộng sản Việt Nam do thủ tướng Phạm Văn Đồng cầm đầu hoàn toàn không hay biết sự đối chác này.

Phạm văn Đồng đưa ra một chương trình ở thế mạnh gồm chấm dứt chiến tranh, Pháp rút ra khỏi Đông Dương, thành lập Liên bang Đông Dương Việt Miên Lào, và không đồng ý chia cắt Việt Nam như gợi ý của phái đoàn Chu Ân Lai. Ông Đồng nghĩ rằng quân đội Cộng sản Việt Nam đang làm chủ chiến trường Bắc Việt, và đã kiểm soát một khu rộng lớn tại miền Nam Trung bộ và Nam bộ nên không có lý do gì chấp nhận giải pháp chia cắt. Mặt khác với sự mất tinh thần của quân đội Pháp sau trận Điện Biên Phủ và thời gian hứa hẹn của thủ tướng Mendes France (3), Hà Nội có thể đẩy mạnh các cuộc tấn công quân sự là đủ buộc đối phương phải nhượng bộ chấp nhận chương trình của Hà Nội.

Tuy nhiên Chu Ân Lai chỉ trích chương trình của Phạm Văn Đồng và vừa áp lực vừa dọa rằng nếu Hà Nội tiếp tục thừa thắng tấn công đẩy Pháp vào chân tường Hoa Kỳ và Liên hiệp quốc có thể nhập cuộc như đã xẩy ra tại Triều Tiên. Chu Ân Lai cho biết nếu Hà Nội không ký một bản hiệp ước tạm thời chia cắt Việt Nam thì đảng Cộng sản Việt Nam sẽ phải tự lực chiến đấu, Trung quốc không có điều kiện để tiếp tục giúp đỡ (4).

Hồ Chí Minh biết không thể làm ngược lại ý của Trung quốc, hơn nữa Hồ Chí Minh cũng không muốn thấy cuộc chiến tranh Việt Nam biến thành một trận chiến tranh Triều Tiên thứ hai nên Hồ Chí Minh ra lệnh cho Phạm Văn Đồng ký Hiệp định hòa bình chấm dứt chiến tranh và chia đôi Việt Nam qua vĩ tuyến 17. Theo các nhân chứng tại Geneve, Phạm Văn Đồng đã khóc mà tuân lệnh Hồ Chí Minh. Chọn vĩ tuyến 17 thay vì vĩ tuyến 16 là một món quà “phụ thêm” của Trung quốc tặng cho Pháp vì quốc lộ số 9 nối liền Lào với biển nằm giữa vĩ tuyến 16 & 17.

Mối nghi ngở giữa đảng Cộng sản Việt Nam và Trung quốc nẩy mầm từ đó.

Đầu năm 1965, khi Brezhnev bắt đầu chương trình tăng viện trang bi nặng cho đảng Cộng sản Việt Nam như súng phòng không và hỏa tiễn để chống cuộc không tập của không quân Hoa Kỳ vào miền Bắc Việt Nam, Mao thuyết phục Brezhnev nên dành tài nguyên đó để đương đầu phía Âu châu hơn là giúp Việt Nam. Mặt khác Mao thuyết phục Hồ Chí Minh chớ nên quá lệ thuộc vào Mạc Tư Khoa. Chu Ân Lai - suy bụng ta ra bụng người - từng nói với Phạm Văn Đồng rằng: “Các anh không nên nhận viện trợ của Liên bang Xô viết … Liên bang Xô viết giúp các anh chỉ để tạo điều kiện thương thuyết làm hòa với Hoa Kỳ thôi.”

Trong khi đó Mao nỗ lực o bế Hồ Chí Minh. Mao cho đổ vào Việt Nam tiền bạc và hằng ngàn tấn vật liệu và vũ khí nhẹ cùng với 130.000 binh sĩ để giúp điều khiển súng phòng không và bảo trì hệ thống lưu thông chống cuộc oanh tạc của Hoa Kỳ. Theo bà Jung Chang, Trung quốc còn dùng mỹ nhân kế giới thiệu một thiếu phụ trẻ đẹp làm vợ Hồ Chí Minh, nhưng Hồ từ chối không nhận.

Ngày 31/3/1968 khi tổng thống Johnson tuyên bố không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ 2 (11/1968) và đề nghị thương thuyết, Trung quốc khuyên Hà Nội đừng nhận lời, nhưng Hà Nội vốn nghi ngờ thiện chí của Trung quốc đã nhất định đi tới và ngày 3/4/68 tuyên bố nhận lời đề nghị của tổng thống Johnson.

Khi cuộc thương thuyết tại Paris bắt đầu. Chu Ân Lai nói với Hà Nội rằng Trung quốc có nhiều kinh nghiệm thương thuyết với Hoa Kỳ nên Hà Nội cần cố vấn của Trung quốc trong phái đoàn thương thuyết, nhưng Hà Nội tư chối. Để trả đũa Trung quốc tìm cớ ngăn cản sự chuyển vận vật liệu chiến tranh cho Bắc Việt (của Trung quốc và của Nga chở qua đường Trung quốc) và cắt đứt các cuộc dàn xếp viện trợ tương lai. Hà Nội được yêu cầu đừng gởi phái đoàn thương thuyết viện trợ dự tính đi Bắc Kinh tháng 10/1968.

Dù bị Trung quốc làm khó khăn Hà Nội vẫn không để cho Trung quốc nắm cuộc thương thuyết tại Paris.

Không dùng viện trợ uy hiếp được Bắc Việt, Mao dùng phương pháp gián tiếp. Mao thành lập một đảng Cộng sản Cambốt lấy tên là Khmer Đỏ do Polpot cầm đầu, vừa chống Sihanouk vừa chống Việt Nam, và năm 1967 Mao định đảo chánh lật đổ Sihanouk để thiết lập một chế độ thân Trung quốc tại đó nhưng không thành.

Cơ hội tới khi Lonol (với sự tổ chức của cơ quan tình báo Hoa Kỳ CIA) đảo chánh lật đổ Sihanouk ngày 18/3/1970. Mao vội vàng đưa Sihanouk sang Bắc Kinh và thuyết phục Việt Nam phối hợp với Sihanouk thành lập một mặt trận Đông Dương chung chống Mỹ (lẽ dĩ nhiên) dưới sự lèo lái của Trung quốc.

Chính sách của Mao đối với Hà Nội thống nhất ở chỗ tạo trở ngại không cho Việt Nam thống nhất và ngăn cản không để Việt Nam tạo ảnh hưởng tại hai nước Miên, Lào. Ngay cả Mặt Trận Giải Phóng miền Nam do Hà Nội nặn ra do nhu cầu chính trị xâm lấn miền Nam Trung quốc cũng không bỏ lỡ cơ hội ve vuốt, mua chuột để tách Mặt Trận này ra khỏi ảnh hưởng của Hà Nội. Chính sách trước sau của Trung quốc là không để cho Việt Nam trong bất cứ trường hợp nào trở thành một quốc gia thống nhất và hùng mạnh .

Trong thời kỳ chiến tranh (chống Pháp 1946-1954), và xâm lấn miền Nam (1960-1975) Hà Nội dùng chính sách đi dây giữa Trung quốc và Liên bang Xô viết để bảo đảm nguồn viện trợ quân sự và kinh tế, nhưng sau khi thống nhất Việt Nam (1975), Hà Nội bắt đầu có thái độ độc lập hơn với Trung quốc.

Để giải tỏa gọng kềm của Trung quốc chọc từ phía Cam bốt, tháng 12/1978 Hà Nội tấn công lật đổ chế độ Polpot thân Trung quốc. Hậu quả là cuộc tấn công trả đũa của Trung quốc qua biên giới phía Bắc tháng 2/1979.

Hà Nội cũng chứng tỏ chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung quốc vẫn thường tuyên bố là thuộc Trung quốc. Khi Hà Nội đẩy mạnh cuộc tấn công trên bộ chiếm miền Nam năm 1975 Hà Nội đã cho các đơn vị hải quân ra trú đóng tại một số đảo quan trọng trong quần đảo Trường Sa để chận trước sự “xí phần” của Trung quốc. Sự hiện điện của quân đội Cộng sản Hà Nội tại các đảo Trường Sa là điều làm cho Trung quốc rất khó chịu và đã dẫn đến cuộc đụng độ tại Trường Sa năm 1988 làm cho hơn 80 chiến sĩ hải quân Việt Nam tử trận.

Các diễn biến trên chứng tỏ rằng cho đến năm 1992 dù bị áp lực nhiều phía của Trung quốc các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam vẫn cố gắng thực hiện truyền thống bảo vệ tổ quốc trước cuộc xâm lấn không mệt mỏi của Trung quốc.

Nhưng vào năm 1992 tình hình thế giới chuyển biến đột ngột. Liên bang Xô viết sụp đổ và Hoa Kỳ đã rút ra khỏi vùng Thái Bình Dương trong khi Trung quốc trở nên lớn mạnh về cả hai mặt quân sự và kinh tế. Hà Nội trước sự đe dọa sụp đổ đã phải nhờ cậy vào Trung quốc để sống còn nên mất tư thế của một nước có chủ quyền đối với Trung quốc.

Hình như các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay không đủ bản lãnh để hoạch định một chính sách giữ nước trong những điều kiện mới. Và từ sự thiếu vắng chính sách và nhân sự lãnh đạo vững vàng là một chuổi dài thua thiệt và nhượng bộ.

Hà Nội phải ký hai Hiệp ước đất liền (1999) và biển (2000) với những điều khoản bất lợi cho Việt Nam. Mất thêm đất trong vùng Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, và nhiều chục ngàn hải lý rộng trong vịnh Bắc Việt. Vùng đánh cá của ngư dân Việt Nam trong vịnh Bắc Việt và ngoài khơi biển Nam Hải bị hạn chế do chính sách “gunboat” của Trung quốc. Ảnh hưởng của Việt Nam đối với hai nước láng giềng Cam Bốt và Lào dần dần bị thu hẹp. Trung quốc đã thả hai gọng kềm hai bên hông Việt Nam, một bên là Lào nay hoàn toàn tùng phục Trung quốc, một bên là căn cứ tàu ngầm tại cực nam đảo Hải Nam. Tương lai của Việt Nam còn lệ thuộc vào nguồn dầu hỏa trên biển Đông thì Việt Nam hiện nay cũng không có điều kiện khai thác. Nỗ lực khai thác qua việc ký giao kèo tìm dầu khí với công ty BP của Anh (2007) và ExxonMobil của Mỹ (2008) không thành trước áp lực của Trung quốc.

Việt Nam hình như đang mất sự tự do tối thiểu của một quốc gia độc lập.

Ngư dân bị tàu Trung quốc bắn chết (1/2005) trong Vịnh Bắc Việt Hà Nội không dám lên tiếng công khai phản đối và đòi bồi thường.

Trung quốc lấy đất của Việt Nam ghép vào quận huyện của Trung quốc (12/2007) Hà Nội không dám để cho nhân dân biểu tình bày tỏ sự phản đối .

Và năm nay, kỷ niệm 30 năm trận chiến bảo vệ biên giới năm 1979, báo chí Hà Nội không được viết lách tự do ca ngợi các chiến sĩ đã hy sinh bảo vệ tổ quốc. Và làm lễ chào mừng các chiến sĩ đang trú đóng tại Trường Sa mà báo chí và các cơ sở truyền thông do chính phủ kiểm soát không loan tin… Và còn nữa!

Vậy phải làm gì?

Phát huy nội lực và liên kết với đồng minh là sách lược ngàn đời để cứu nước.

Liên kết với ai? Nếu không phải với Hoa Kỳ, Úc châu, Nhật Bản, Ấn Độ, Liên bang Nga, Liên hiệp Âu châu, Hiệp Hội Asean trong đó có trọng lượng nhất là Hoa Kỳ. Nhưng chính Hoa Kỳ cũng đang gặp khó khăn vì cuộc khủng hoảng kinh tế và trong kế hoạch chấn hưng kinh tế Hoa Kỳ cũng đang nhờ sự hợp tác tài chánh của Trung quốc. Trung quốc đã không ngần ngại cho biết thế yếu của Hoa Kỳ và cảnh giác Hoa Kỳ chớ quá nóng vội giúp đỡ Việt Nam.

Bà Hillary Clinton tân bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ trong chuyến công du đầu tiên đến Trung quốc (2/2009) đã lỡ lời “thỉnh cầu” Trung quốc mua trái phiếu quốc gia của Hoa Kỳ để cùng có lợi chung thì liền ngay sau đó Trung quốc cho tàu chiến nghênh tàu của Hoa Kỳ trong biển Đông trong một vùng biển được hiểu là hải phận quốc tế. Để áp lực Hoa Kỳ nhượng bộ trên biển Đông, thủ tướng Ôn Gia Bảo lên tiếng nhắc khéo rằng “không biết trái phiếu Trung quốc đang mua của Hoa Kỳ có bảo đảm không?”

Vậy chỉ còn phát huy nội lực là chính. Và phát huy nội lực đòi hỏi sự đoàn kết của toàn dân sau lưng người cầm quyền. Và toàn dân chỉ đoàn kết sau lưng nhà cầm quyền khi họ có đầy đủ quyền tự do dân chủ.

Chính sách từ Mao, đến Đặng Tiểu Bình, rồi nay đến Hồ Cẩm Đào trước sau vẫn là khống chế Việt Nam. Và trong chiến lược lâu dài đương đầu với Hoa Kỳ để giành quyền bá chủ, Trung quốc sẽ phải chủ động mở con đường về phía nam trước. Bất cứ gì trên con đường tiến ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương đều phải được thôn tính.

Việt Nam ở ngay trên con đường tiến của Trung quốc. Chừng nào thì những người lãnh đạo tại Hà Nội nhận thức được mối nguy mất nước để đoàn kết quốc dân cùng cứu nước?

Trần Bình Nam

March 19, 2009

binhnam@sbcglobal.net

www.tranbinhnam.com

(1) Phát hành tháng 11/2006 do Anchor Books, một chi nhánh của nhà xuất bản Random House Inc.

(2) Tác giả Qiang Zhai trong cuốn “China & The Vietnam Wars, 1950-1975” the University of North Carolina Press cũng có nói đến ý này của Mao Trạch Đông.

(3) Thủ tướng Mendes France hứa rằng đến ngày 20/7/1954 ông không tìm được một giải pháp cho cuộc chiến tranh Đông Dương ông sẽ từ chức.

(4) Tiết lộ bởi Lê Duẫn, “Mao: The Unknown Story” trang 562.

HƯỚNG DƯƠNG * CHUYỆN BẤT NGỜ






Chuyện Bất Ngờ.
Truyện ngắn Tình cảm - Hướng Dương txđ


Anh đang mở hôp thịt nguội thì chẳng may bị đứt tay. Miếng sắt của nắp hộp quá sắc, anh vô ý để nókẹp vào ngón tay cái khi quay chiếc kìm mở. Bực bội, anh đặt chiếc hộp, với cây kìm còn dính chung,xuống mặt bàn, càu nhàu trong đầu: “Tiên sư nhà nó! Sao sáng nay mình làm cái gì cũng không xong thế này?” Anh đưa đầu ngón tay lên miệng, mút mút và chạy tới ngăn kéo tủ tìm kiếm mảnh bandaid để băng vết thương. Cái vị mằn mặn của máu làm cho anh tỉnh người. Anh đưa hai ngón tay bên phải nắm chặt chỗ máu chảy để tạm rịt vết thương. Cong lưng, anh đưa cả hai tay dính nhau cố kéo chiếc ngăn tủ, rồi loay hoay thế nào làm rớt tấm gương nhỏ để ngay kế bên. Một tiếng xoảng, thế là nó tan tành thành trăm miểng. Cáu kỉnh anh buột miệng: “Sao khốn nạn thế này? Xui quá đi! vỡ gương! Điềm gì đây?” Anh bỏ tay ra khỏi vết thương kéo chiếc hộc tủ, tay trái nhấc chiếc hộp sắt con con đưa lên ngangtầm mắt, vừa bật cái nắp của nó lên bằng tay mặt thì thấy máu rỉ ra làm thành một vết đo đỏ trên vỏ hộp.


Có lẽ chưa bao giờ anh thấy tức mình bằng buổi sáng hôm nay. Sao tự nhiên anh cảm thấy mình vô
dụng, đụng vào cái gì là hỏng cái đó. Anh vội rút một miếng bandaid, nhanh xé tấm bao ngoài, dựt một trong hai đầu mẩu plastic che phần nhựa dính bên phía dưới, đặt miếng băng lên trên ngón tay trái ngay nơi vết thương, nhấn mạnh cho dính, rồi đẩy tấm bandaid quanh ngón tay. Làm xong được công việc nhỏ nhoi này anh thấy nhẹ nhõm một phần.


Vừa ngay lúc tưởng đã yên, anh khịt khịt lỗ mũi khi ngửi thấy một mùi khen khét từ dưới nhà bếp. Óc anh bỗng thúc anh phát ra câu chửi thề: “Chết mẹ! Để quên cha nó miếng bánh mì trong oven! Thế là cháy rồi!” Anh vội vã bước xuống nhà bếp thì thấy một làn khói nhẹ toả ra khỏi chiếc lò nướng điện. Vừa mở cái nắp đậy ra thì một mùi khét lẹt xộc vào mũi anh, làm anh khó thở. Anh đưa tay lên kẹp hai cánh mũi, miệng ho sặc khẽ, tay kia đưa qua đưa lại để quạt bớt lớp khói mịt mù. Vừa đúng lúc anh tính kéo mẩu bánh mì ra thì có tiếng chuông điện thoại réo inh ỏi trên nhà. Anh lật đật trở lên nhà trên, tiến tới chiếc điện thoại, nhấc ông nghe để lên tai, miệng nói với giọng hơi hơi khó chịu:
- A lô?.... Alô? Xin lỗi ai ở đầu giây?


Im lặng. Không có ai trả lời! Thế có bực mình không? Anh cáu kỉnh đặt ống nghe xuống, và vừa khi anh tính bước trở xuống bếp để nhìn miếng bánh mì cháy thì điện thoại lại reo. Lần này anh nhấc ống nghe, đưa lên tai, nhưng nhất định không mở miệng. Trong óc anh nghĩ: “Mình thử không nói xem có ai bên kia mở họng trước hay không?” Trái với suy đoán của anh cho rằng có ai muốn phá anh chơi, sau chừng một khoảng ngắn im lặng, anh nghe một giọng nói quen quen bên kia đầu giây:
- Alô! Alô! Thằng Hoàng đâu? Thằng Hoàng đâu?
- Trường đấy à? Sao mày gọi, tao nhắc máy lên “Alô… Alô!” mà mày lại im là thế nào? Mày tính
phá tao hay sao đây?
- Phá gì? Tao có chuyện cần muốn nói với mày đây này! Có rảnh vài ba phút không? Nói được
không?
- Nói đi! Tao vừa gập chuyện bực mình đây! Đừng rào trước đón sau nữa!
- Ơ cái thằng này hay nhỉ? Chắc lại bị em nào không cho sờ đêm qua phải không? Em không cho
thì cáu với em, sao lại đi cáu với tao? Thằng chó!
- Thôi, cho tao xin lỗi! Tao đang bị đứt tay, máu chảy đầm đìa đây này!


- Ồ, mày lại giết cầy hả? Ai cho mày giết cầy bên Mỹ? Bộ mày quen thân thằng Obama nên nó cho
phép mày đặc biệt hay sao đây? Đừng làm cho tao chẩy nước rãi nghe mày! Lâu lắm không có
miếng thịt cầy nào nhậu với đế đó nhe!


Cứ mỗi lần có dịp là Trường, bạn thân của anh, hiện sống ở Melbourne, lại chọc phá anh về vụ anh giết chó để có thịt ăn nhậu, khi đó, vào những năm đói khát sau 75 ở bên nhà. Hình ảnh những con chó đã được gây mê để cho sinh viên thực tập giải phẫu lại hiện lên trong đầu anh. Cứ lâu lâu, nhờ quen biết một anh bác sĩ dạy bên Phân Khoa Giải Phẫu - tiếng thời đó gọi là Bộ Môn Giải Phẫu – Trường lại xin được một con, sách về nhà. Vì anh ta là con nhà tông, quí phái, anh đâu biết làm lông và thui chó? Anhta đã nói đùa với Hoàng, “cái việc tầm thường này tao dành cho mày! Chỉ mày mới biết nghệ thuật làm thịt chó!” Thế là Trường và mấy người bạn kéo nhau đi tới mấy bến xích lô để tìm anh về. Thời đó anh chạy xích lô kiếm tiền để ăn
nhậu.


Trước 75 anh chưa đụng vào một miếng thịt chó bao giờ. Bọn
VC vào miền Nam, dân chúng đói khổ mới biết ăn bo bo, mới biết
nấu canh rau với muối thay vì nước mắm, mới biết xài bếp mạt cưa.
Và một số người có học thức, như Trường và anh, mới biết ăn thịt
chó. Chẳng phải bởi vì thịt chó ngon, như những kẻ phảm tục
thường cho, mà chỉ vì họ thèm thịt. Không có thịt gà, thịt bò, thịt lợn
mà ăn thì ăn thịt chó đỡ, có thế thôi, không phải vì khoái thứ này.


Mà thịt chó cũng là tiền, đâu ai cho không, nên khi xin được một con
về là cả bọn kéo nhau xúm vào thịt rồi ngồi với nhau cười đùa ăn
nhậu cho quên đời.
- Đừng có nói bậy! Con hàng xóm tao nó mà nghe được nó đi báo hội bảo vệ súc vật là tao đi tù
đó nghe! Mà mày nói chuyện cần là chuyện gì vậy? Đối với mày, làm gì còn chuyện nào cần nữa
đâu?
- Tao nói cần là vì nó quan trọng đối với mày. Nghe tao hỏi này rồi nhớ moi óc ra mà trả lời! Cả đời
mày, mày có quen em nào tên Quỳnh Hương không?
- Mẹ kiếp cái gì thì tao quên chứ tên các em đi qua đời tao thì tao nhớ mồn một. Tao có quen một
hai em Quỳnh nhưng không có em nào là Quỳnh Hương cả!
- Mày nói thế mà nghe được à? Hôm qua em gọi điện thoại cho tao từ Sydney. Em nói chuyện với
tao cả tiếng đồng hồ. Em hỏi thăm tao thì ít, mà nói về mày thì nhiều. Em biết cả những chuyện
về mày mà chính tao cũng không biết nữa…


- Thôi đi cha, đừng phịa chuyện để dọa tao. Tao đã qua cái tuổi để sợ rồi! Ngày xửa ngày xưa tao
có làm bậy, nhưng từ hơn chục năm nay tao đã đi tu…
- Mày mà tu? Mày thì chỉ có tu chai, chuyện đó ai không biết? Nhưng thôi, tao không muốn nói
lằng nhằng. Chuyện này sérieux (nghiêm trọng), không đùa đâu…
- Mày lại hù nữa sao Trường? Mày có thể nói mà không dọa tao được không? Tao tim yếu, tao
ngã lăn ra chết bi giờ, ai cứu tao?
- Quỳnh Hương hỏi tao có còn thường liên lạc với mày không. Tao nói còn. Em bảo “Em cần nhờ
anh tí việc.” Giọng em ngọt như miá lùi. Tao hỏi, “Việc gì, em cứ nói, cái gì anh làm được là anh
làm liền cho em?”
- Em lại đòi ngủ với mày chứ gì?
- Ngủ với tao thì tao đã sướng. Khốn nỗi em đòi đến ngủ nhà mày!
- Mày nói cái gì?
- Ngày mốt 12 giờ, máy bay chở em sẽ đến phi trường San Francisco. Em muốn mày ra đón em,
đưa em về nhà mày. Em sẽ ở chơi 1 tuần, mày sẽ đưa hai mẹ con em đi thăm thành phố. Con
gái em mới học xong Trung Học. Nó đậu thủ khoa nên em thưởng, cho con đi nghỉ hè ở San
Francisco! Mày có nghe không vậy?
- Ơ, tao có quen nàng đâu mà bảo tao rước nàng về nhà? Lỡ có chuyện gì ai chịu? Mày có chịu
không?
- Nếu mày không muốn thì thôi, tao sẽ phôn báo cho Quỳnh Hương hay liền để em lo liệu chỗ ở
nơi khác.
- Ê Trường, cho tao nói đã! Tao có nói hẳn là không đâu? Tao chỉ xin mày cho tao biết sơ qua em
là ai mà lại biết tao, mà lại muốn tao đón em về nhà? Tao không có vấn đề gì mời em ở đây một
tuần. Một tháng, một năm tao còn không ngán. Nhưng em là ai, em thế nào, lý lịch của em ra
sao, mày phải cho tao biết sơ qua chứ!



Rổi Trường cho biết thêm vài chi tiết về Quỳnh Hương. Em năm nay tuổi cũng đã gần năm mươi, vẻ đẹp còn mặn mà lắm, rất thể thao nên “co” còn đẹp, “mày thấy là phải mê”, tính tình rất dễ thương, hoạt bát, có công ăn việc làm tốt, em hiện làm phụ tá giám đốc cho một cơ sở tài chính và đầu tư khá lớn ở Úc.
Em là em họ của một thằng bạn cũ mà anh ta đã may mắn gặp lại nhân một dịp đi chơi Sydney. Hỏi về gia cảnh của em, Trường nóí chẳng hiểu chồng em đâu, anh ta không gặp bao giờ, cũng không bao giờ em nói tới, anh ta chưa bao giờ dám hỏi, sợ em bảo đàn ông gì mà tò mò tọc mạch chẳng khác gì đàn bà, tại sao lại cứ thích đi “săng đan” vào đời tư em. Nhưng em có con, một đứa con gái duy nhất, chắc là phải sinh ở Việt Nam, trước ngày em vượt biển trốn đi, bởi vì theo anh ta tính toán thì em mới sang Úc được chưa quá 15 năm, mà con em đã gần 18 tuổi.
- Thế làm sao em lại biết tao vậy mày?
- Cái đó thì mày phải hỏi em. Em kể vanh vách về mày, tao tưởng em là một trong những em gái
cũ của mày chứ!
- Thế thì tại sao em không gọi điện trực tiếp nói chuyện với tao, cho tao hay mọi chuyện?
- Em nói cận ngày đi quá, em vừa phải lo công việc vừa phải chuẩn bị chuyến đi, không có thì giờ.
Em nói với tao với cái giọng tao chỉ muốn cắn em một cái, “Anh Trường giúp em được
hơ...ơ..ôm?” Nói chơi vậy thôi chứ em ở tuốt xa, cắn thế nào được?
- Thế còn vụ đòi đến ở nhà tao?
- Cái đó thì em có nói lý do. Em nói lúc đầu em tính ở Hyatt Regency ở downtown, nhưng sau nghĩ
lại, em muốn ở gần mày cho con gái em được làm quen từ từ với mày, thân thiện với mày, gần
gũi với mày…


- Làm quen từ từ với tao? Thân thiện với tao? Gần gũi với tao? Sao toàn là những chuyện lạ đời!
Bộ em muốn bắt tao làm bố nuôi con bé đó hay sao? Hay là em tính cho con bé sang đây học và
nhờ tao nuôi trong một thời gian?
- Cái đó tao cũng lại không hỏi. Mày biết tính tao. Nói gì tao nghe, bảo tao làm gì tao làm, còn
théch méc thì không có tao! Tao là một con người dản dị, je vois les choses très simples (tao
nhỉn mọi sự việc thật đơn giản), tao không thích gây rắc rối, không thích hỏi này nọ… Chuyện đó trước sau gì thì mày cũng biết. Nếu em không giải thích, thì mày hỏi em. Mày có một tuần với em, tha hồ mà làm gì thì làm. Một câu hỏi có là gì mà mày phải bận tâm từ bây giờ? Nhớ sáng
mốt 12 giờ trưa, phi trường San Francisco của mày, chuyến bay Qantas 719. Em sẽ bận một chiếc váy đen và một áo đỏ để cho mày thấy mày biết đó là em…. Tao chắc mày còn nhớ phim Vacances Romaines (Roman Holiday) trong đó Gregory Peck tình cờ bắt được em Audrey Hepburn rồi đưa em đi chơi khắp thủ đô Rome của nước Ý thơ mộng.



Tao mong mày cũng có một Vacances San Franciscaines giống vậy.
Nghe nói nơi mày ở cũng thơ mộng lắm thì phải?
Nói một hơi xong, Trường kết thúc cuộc nói chuyện:
- Nói đủ cho mày nghe rồi, nói thêm nữa chỉ càng làm cho mày điên đầu. Hai tuần nữa tao sẽ gọi
lại hỏi thăm mày xem mọi chuyện ra sao, có đẹp như tao đang hình dung trong đầu hay không.
Còn bây giờ thì, allez, au revoir! (thôi, chào mày, hẹn gặp lại sau)
Hoàng đặt chiếc điện thoại trở lại xuống ổ máy. Đầu anh sôi động làm việc để cố tìm cho ra hình ảnh một người con gái tên Quỳnh Hương mà anh đã có thể quen biết ở Saigon từ mười lăm năm trước nhưng vô ích. Không sao anh có thể có được một khái niệm nào về nàng. Nhất định anh không thể làn nạn nhân của một lỗ hổng trí nhớ, anh chưa già, đầu óc anh còn rất tốt, anh luôn luôn minh mẫn, chưa bao giờ trong cuộc đời anh, một chuyện bất ngờ nhưng không mang đến cho anh một bất hạnh, không phải một tai nạn, một chuyện không may, trái lại nó có thể được coi là tiền định hay một cái duyên, một chuyện bất ngờ mang đến cho anh một niềm hạnh phúc, một nỗi sung sướng trong đời, một cái gì tốt đẹp.

Anh chỉ linh cảm như thế nhưng không thể đoán chuyện gì sắp xẩy ra…
Ngày hôm sau, anh bồn chồn chờ đợi cuộc gặp mặt giữa ba người ở phi trường. Đầu anh vẽ ra không biết bao nhiêu kế hoạch đi chơi cho Quỳnh Hương và đứa con nàng. Anh sẽ đưa hai người đi những đâu? Chỗ nào là đẹp để anh có thể làm cho cả hai mẹ con vui sướng khi đến xem? San Francisco nổi tiếng về du lịch, hàng năm cả triệu du khách khắp nơi trên thế giới đến nơi đây nghỉ mát, du ngoạn, thăm viếng, vì không những có những cảnh đẹp, nhiều nơi đến coi, mà còn là vì khí hậu ở vùng này rất tốt, quanh năm mát mẻ. Ngoài ra, thành phố này còn có nhiều sinh hoạt văn hóa, nhiều nơi ăn chơi cho đủ mọi lứa tuổi, thích hợp với người thuộc mọi chủng tộc. Đặc biệt nhất là những hoạt động phong phú của cộng đồng người Á châu, một cộng đồng có từ xưa nhất ở Mỹ. Anh cố nghĩ xem hai mẹ con Quỳnh Hương có thể thích những gì để anh tính chương trình và anh tự lý luận để cho rằng Quỳnh Hương và con sẽ thích thế này, thế kia, muốn đi thăm nơi này nơi khác, ăn tại tiệm này, tiệm nọ, đi xem show này show nọ… Và vì nghĩ không thể nhớ hết được những ý tưởng chạy qua trong tâm trí nên anh vội đi lấy tập giấy ghi lại chương trình anh đang tính trong đầu. San Francisco thì anh quá rành vì anh đã ờ nơi đây gần mười lăm hai chục năm trời, kể từ ngày anh rời Nữu Ước, nơi anh đặt chân đến đầu tiên khi vào đất Mỹ.
“Mình sẽ dẫn em đi xem những gì ở đây trong ba ngày đầu? Rồi còn bốn ngày sau, đưa em đi chơi đâu xa xa?” Thế là anh cầm cây Parker viết xuống, viết cho nhanh vì những ý tưởng đến với anh thật vộivàng, như một sự dồn đẩy, giòng tư tưởng chạy qua nhanh với những hình ảnh, những cảm xúc mạnh… Ngày 1: Cầu Golden Gate, khu vực bở biển đẹp mê hồn chạy dọc theo từ cây cầu đến Cliff House, Seal Rock Café, qua Viện Bảo Tàng Légion D’honneur của Pháp xưa kia,
khu vực Richmond và nhà hàng Mayflower ghé lại ăn trưa, khu vườn Golden Gate Park, nhớ cho con gái xem bisons, loài trâu Bắc Mỹ, chụp hình hai mẹ con tại nhà máy xay lúa có cánh gió của người di dân đến từ Hòa Lan, khu Japan Town, khu Market, Castro nổi tiếng của bọn
gays và lesbians, khu Twin Peaks. Với chưong trình nặng như vậy, anh nghĩ trong đầu, chắc gì hai mẹ con đi xem cho hết? Có thể mình phải cắt bớt đưa sang ngày hôm sau…



Ngày 2: Đi chụp hình hai mẹ con tại Exploratorium, khu Marina, Chinatown, Pier 39, lấy ferry sangbờ vịnh bên kia ăn cơm chiều ở Sausalito, nơi thơ mộng có nhà cửa tựa như bên Châu Âu…. Ngày 3: Alcatraz, nhà tù khét tiếng, Union Square cho em đi shopping, con đường ngoằn ngoèo Lombard cho con bé rú lên vì sợ, khu Little Italy ăn seafood pasta, tối đi nghe symphony hay xem broadway show, tùy em….
Nhưng có sốt ruột cho đến đâu đi chăng nữa thì rồi cũng phải chịu, thời gian phẳng lặng vẫn trôi qua dù cho chậm chạp hơn bình thường, Hoàng cả ngày hôm đó đâu có thể tập trung tư tưởng để mà làm việc hữu hiệu, anh lên văn phòng viên giám đốc, boss của anh, xin nghỉ một tuần:
- Anh nói hôm nay mà đòi nghỉ ngày mai? Sao gấp thế? Sao không cho tôi biết trước vài ngày để
tôi còn sắp xếp công việc?....
- Thưa ông, đây là một trường hợp ngoại lệ. Không có ai bệnh hay chết cả, nhưng nó vẫn là một
trường hợp khẩn cấp. Ai cũng có những trường hợp khẩn cấp trong đời một hai lần, xin ông
thông cảm.
- Thông cảm, tôi thông cảm cho anh, còn ai thông cảm cho tôi đây? Rồi ai làm những chuyện khẩn
cấp của anh? Tôi chứ còn ai khác? Nhưng thôi đành. Anh là một nhân viên xuất sắc. Lại trung
thành nữa. Anh là một thằng bạn. Làm sao tôi có thể từ chối?
- Tôi xin cám ơn ông…
- Thế ai đến chơi thăm anh bất chợt vậy?
- Một người tôi chưa quen biết bao giờ. Nhưng tôi phải tiếp đón. Nàng từ xa đến. Tôi không thể bỏ
nàng chơ vơ…
- Ơ! số anh này may nhỉ? Sao chuyện này không bao giờ xẩy đến cho tôi?
- Thưa ông, ông có gia đình, nếu nó có xẩy đến, ông cũng phải nhắm mắt cho qua…
- Thế nàng từ đâu đến mà xa?
- Thưa từ Sydney, Úc châu.
- Sydney, Úc Châu… Một ngày nào đó, tôi cũng sẽ đưa Melanie đi thăm Úc Châu… Okay thôi
chào anh.
- Thưa, tôi cũng xin chào ông.



Chiều hôm đó ở sở về, Hoàng xếp dọn lại căn phòng khách để ngày mai tiếp đón Quỳnh Hương. Nhưng anh thấy trong người hơi khó chịu làm sao ấy, anh thấy ngài ngại, hơi sợ sợ bởi vì… bởi vì anh không biết Quỳnh Hương sẽ ra sao, anh chưa hề quen biết nàng, chưa hề gặp mặt nói chuyện mà cũng chẳng có liên hệ họ hàng bạn bè thân thuộc gì cả. Đêm hôm đó, anh nằm mơ anh có một đứa con, một đứacon gái chừng sáu tuổi, hai bố con đang đi chơi thuyền đạp, trên một hồ rộng mênh mông nằm giữa hai triền núi cao hiểm trở. Bỗng nhiên có một con đại bàng to lớn, hai cánh dang ra rộng cả thước, nó bay trờ tới từ nơi nào không biết, nó cắp mất con anh đi. Anh la hét thất thanh, tỉnh dạy rồi mới biết mình nằm mơ. Lúc đó là 4 giờ sáng. Sau đó anh cứ nằm suy nghĩ miên man, không còn ngủ trở lại được nữa.
Sáng dạy, anh lái xe tới tiệm hoa mua một bó hồng lớn đem về bỏ vào lọ đem trưng nơi phòng khách.
11 giờ 45, anh đi tới phi trường quốc tế của Cựu Kim Sơn, cách nơi anh ở khoảng 20 phút lái xe. Hành khách từ nước khác tới sẽ phải qua một thủ tục khai báo và quan thuế đòi hỏi chờ đợi cả tiếng đồng hồ, anh biết thế nên anh không muốn đi sớm, để rồi phải đứng chờ lâu ở phi cảng. Anh cho xe vào đậu ở parking, và tay cầm một bông hống lấy từ bó hoa anh mua về lúc sáng, anh hồi hộp bước theo những hành lang mênh mông dẫn đến phòng tiếp đón khách ngoại quốc. Vì còn sớm, mới hơn 12 giờ 10, anh bèn vào một quán café ngồi. Trên tấm màn ảnh ghi những chuyến bay đến, anh thấy loan báo chuyến bay Qantas 719 đã đáp và đang đổ hành khách xuống. Như vậy là máy bay đã tới đúng giờ. Anh vẫn ngồi nhâm nhi cốc cà phê và ăn chiếc bánh ngọt, chờ cho tới 12 giờ 40 mới đứng dạy ra nơi đám đông đang vây quanh cánh cửa lớn, nơi những hành khách, tay lễ mễ kéo hành lý, tủa ra như ong vỡ tổ. Kẻ nói, người cười, kẻ có ánh mắt đăm chiêu, người ngơ ngác tìm người nhà, ôi thật là một cảnh tượng gây nhiều xúc động, hài hước pha lẫn bi ai. Có những vòng tay ôm chặt cộng thêm những nụ hôn say đắm, có những cái bắt tay chan chứa tình bạn, và cũng có đôi ba cuộc đón chào không che dấu được nét lạnh lùng. Hoàng chưa biết sẽ phải tiếp đón em ra sao: ôm hôn như thể em là một người chứa chan tình thương yêu? Chỉ ôm nhẹ em như thể anh còn muốn giữ khoảng cách? Bắt tay em như anh bắt tay một người bạn không quen? Anh phân vân không biết phải làm sao cho phải. Anh nghĩ thôi cứ để lúc đó hãy hay, tủy thái độ của em mà phản ứng. Anh cảm thấy ngại ngùng vì đã lâu, có đến cả mươi năm rồi, anh không có một người đàn bà nào trong cuộc đời. Nay Quỳnh Hương bỗng dưng ở đâu nhẩy ra, anh cảm thấy lúng túng, e dè, phân vân, anh tự hỏi không biết chuyện gì sẽ xẩy đến khi một người đàn ông như anh tự nhiên lại sống cận kề một tuần lễ dài với một người đàn bà xa lạ trong ngay nhà mình?


Nhưng rồi giòng suy tư của anh bị cắt đứt khi anh bỗng thấy Quỳnh Hương và con gái xuất hiện nơi cửa ra. Tim anh tự nhiên đập mạnh, nhanh gấp bội phần, lòng anh rộn lên niềm sung sướng khi thấy em đẹp, hấp dẫn lạ lùng, trong chiếc váy xòe màu đen tuyền vải dày và chiếc áo sơ mi dài tay đỏ viền dua có lấm tấm những bông hoa hồng nhỏ xíu màu đen. Anh ngạc nhiên khi trông em trẻ trung hơn là anh vẫn nghĩ, vẻ mặt tươi cười như thể em đang hạnh phúc lắm, nỗi vui có lẽ đã làm em quên hết sự mệt nhọc của chuyến đi kéo dài 15 tiếng đồng hồ. Trong một khoảnh khắc anh đứng chôn chân ngắm nhìn em như thể anh đang ngắm nhìn một pho tượng, anh bị chóa mắt bởi vẻ tươi mát của em, bởi tấm thân tràn đầy nhựa sống, bởi nụ cưởi tươi trên môi và nhất là bởi đôi mắt to dài đen láy trông thật lẳng lơ, quyến rũ … Lẳng lơ quyến rũ . .. Anh vốn chỉ yêu thích những người con gái lẳng lơ quyến rũ trên đời…


Người đàn bà trẻ và cô con gái teenager, mỗi người tay kéo một valise khá lớn, ngơ ngác nhìn xung
quanh, cố tìm người thân ra đón mình. Hai người dừng lại nơi hàng rào người nhà đang bu đầy ở đó để chờ đón người thân. Hoàng vội thức tỉnh, anh bước nhanh về phiá em, vẻ mặt rạng rỡ. Nhìn em không chớp mắt, như thể anh đã bị thu hết hồn vía, anh mở miệng kêu, “Quỳnh Hương! Quỳnh Hương! Anh đây nè!” Vừa nghe tiếng anh gọi, em mở miệng cười rạng rỡ, chạy vội về phiá anh, kéo theo đàng sau cô con gái cũng xinh không kém mẹ. Hoàng cũng chạy vội đến và anh dang hai tay ôm chầm lấy em.


Trước đôi mắt e lệ của đứa con gái của Quỳnh Hương, anh ôm em sát vào mình như thể anh ôm một người yêu mà anh đã xa cách từ lâu. Anh cúi đầu hôn nhẹ lên má em, em nói trong hơi thở dồn dập, “Em biết thế nào anh cũng ra đón em và con. Em xin cám ơn anh rất nhiều.” Chừng một phút sau anh buông em ra, và như vừa tỉnh khỏi cơn mê say, em giới thiệu:
- Anh Hoàng, đây là con gái em, Quỳnh Giao….
Rổi hơi ngập ngừng, em hạ giọng nói khẽ như muốn chỉ để mình anh nghe:
- Và… và.. cũng là… cũng là con gái anh. Xin anh từ bây giờ coi nó là con.
Trước vẻ mặt như ngớ ra của anh, em vội nói thêm:
- Xin anh tạm thời cứ biết thế! Em sẽ cắt nghĩa cho anh sau. Con nó sẽ gọi anh là Bố Hoàng. Nó
cũng chưa hiểu tại sao nhưng cứ từ từ rồi mọi chuyện sẽ rõ ràng đâu vào đó thưa anh.
Rồi em quay sang phiá con gái, ngọt ngào nói:
- Kià Quỳnh Giao con, con chào bố Hoàng đi…




Đứa con gái, vẫn còn hơi dè dặt, nhìn anh với đôi mắt e lệ, như hơi ngại ngùng. Nó chúm hai bàn tay lại, hơi cúi mình nói bằng tiếng Việt, giọng rất rõ ràng:
- Thưa con xin chào Bố Hoàng!
Hoàng choàng tay qua vai con, ôm con gái một hồi, lòng tự nhiên thấy xúc động mạnh, mà không hiểu lý do tại sao. Với giọng hơi run run anh nói với con:
- Bố rất mừng được gặp con! Con giỏi lắm! Mà cũng ngoan nữa! Bố rất hãnh diện…về… con.
Quỳnh Hương đứng bên tỏ về sung sướng khi thấy anh và Quỳnh Giao đã làm được cái công việc “đập tan nước đá lạnh” (breaking the ice), họ đã thành công trong việc bắc cây cầu thông cảm, nàng nghĩ rồi thì hai người sẽ hiểu nhau, thương yêu nhau hơn. Nàng nói với con với giọng trìu mến nhất của người mẹ thương yêu con nhất trên đời:
- Quỳnh Giao à! Mẹ thấy Bố Hoàng đã thương con rồi đấy. Con cũng phải thương Bố Hoàng nghe
chưa?
- Vâng thưa mẹ, con cũng đã thương Bố Hoàng rồi mà!
Câu nói ngây ngô của đứa con làm cho cả anh lẫn Quỳnh Hương cười rôn rã vui vẻ. Anh nói:
- Thế bây giờ hai mẹ con có đói bụng không? Có đi ăn gì một tí không?
Vỉ cuộc hành trình từ Úc sang Mỹ quá xa xôi vất vả, cả hai mẹ con đều mệt nên em muốn về nhà nghỉ.



Và anh đưa em về nhà nghỉ. Cho đến tối hôm đó hai mẹ con vào
phòng dành cho khách ngủ khò, có lẽ bởi vì giờ giấc bên Mỹ bên Úc
tréo cẳng ngỗng, anh cũng chẳng tìm hiểu làm gì. Nhưng trong khi em
ngủ thì anh làm cái gì bi giờ? Anh đành lấy ly cognac ra phòng khách
vặn ti vi lên xem. Anh bỗng nghĩ tới quá khứ, nghĩ tới cuộc đời mình,
tới những thèm muốn, những mơ ước, anh đã vùi sâu trong tiềm thức
từ bao lâu nay, những chuyện anh đã không từng nghĩ đến nữa kể từ
ngày anh đến tị nạn ở Mỹ. Anh đã lại suy nghĩ miên man kể từ ngày
Trường bỗng kêu cho anh biết Quỳnh Hương đến. Anh tự hỏi tại sao
em lại bỗng nhiên từ đâu đến gây giao động cho cuộc sống đang yên
bình của anh? Phải chăng em là một yếu tố tiền định? Hay em là cái duyên đến tô thắm cuộc đời anh?



Từ lúc anh thấy em, anh đã như điên như say. Mắt nhìn tấm màn tivi nhưng óc anh nhớ đến một bài ca nào đó của Trần Thiện Thanh mà hai mươi năm trước anh thích nghe, nghe để cùng một lúc miệng anh nghêu ngao:
Anh chỉ là người điên trong vườn hoa tình ái Anh chỉ là người say bên đuờng em nhìn thấy Em đi đi người điên không biết nhớ Và người say không biết buồn!
Thế rồi, buổi chiều cũng qua đi, khi Quỳnh Hương thức dạy thì đã bảy tám giờ tối, anh hỏi em đã đói chưa, thì em mỉm cười trả lời rằng em đã đói, và hỏi anh:
- Tối hôm này anh tính cho hai mẹ con em ăn gì vậy?
- Để anh xuống bếp làm pasta tôm cho em ăn với salade. Anh chỉ biết làm có thế! Em ăn không
được chê nghe!
- Em đâu bao giờ dám chê! Mà anh biết không Quỳnh Giao rất thích món đó!
Và trong khi anh nấu, em phụ anh làm những chuyện vặt như bầy bàn, bỏ salade vào tô, cắt thêm cà chua, hành tây, đưa leo, rồi lấy dressing chộn. Anh nấu nước luộc pasta, xong bóc tôm, đập tỏi, thái hành rồi bỏ tất cả vào bát, nêm muối tiêu để một lúc cho ngấm rồi bắc chảo cho dầu olive vào đợi một lúc cho chảo thật nóng, khói bắt đầu bốc, anh bỏ tôm vào đảo nhẹ. Nhìn anh làm một cách thiện nghệ, em nói:
- Sao anh giỏi thế? Anh biết làm bếp nữa!
- Đói bụng thì phải làm cơm, làm hoài thì biết làm chứ giỏi gì thứ đàn ông làm bếp hả em?
- Nhưng nhìn anh làm khéo tay, em phục anh lắm!
- Phục thì anh được gì?
- Thì được em phục chứ gì nữa anh? Anh còn muốn gì khác?
- Anh chưa biết anh muốn gì… Bi giờ thì anh chỉ muốn ăn…
- Trờí! Anh muốn ăn em ấy à? Bộ anh là ông ba bị hả?
- Không! Anh muốn ăn pasta nè nè! Anh đói bụng rồi!
- Vậy mà em tưởng…
Rồi em cười như nắc nẻ. Anh thấy nhột, anh bèn nói:
- Cơm gần xong rồi! Em vào gọi con dậy đi! Anh không có chờ đâu đấy! Pasta là phải ăn nóng đó!



Tôm vừa chin tới, anh lấy ra bỏ vào đĩa. Anh đập thêm nguyên một củ tỏi, bóc hết vỏ bỏ đi, rồi l ấy một con dao bự băm nhỏ. Anh cho tất cả vào một chiếc nồi không bén đáy, vặn bếp cho nhỏ lữa, cho vào nồi chút dầu olive, một nửa thỏi bơ, rồi ấy đũa cả ngoáy cho bơ tan. Anh đổ pasta, đã rửa nước để cho khô, vào trong nồi, cho lửa cháy lớn lên, rồi lấy đũa đảo đều cho tỏi bơ thấm đầu vào pasta. Chừng năm phút sau, khi tất cả đã nóng, anh nêm cho vừa bằng maggi rồi lấy bình half
and half đổ chứng một cốc sữa béo (lớn chừng cốc uống rượu vang)
vào trong nồi pasta và đợi cho sữa thấm gần hết vào pasta, anh mới
đảo tiếp cho đều. Khi sữa đã quánh , gần như không còn nước nữa,
anh mới đổ tôm vào trộn đều rồi đổ tát cả ra điã. Anh đem đĩa pasta lên
bàn cũng là lúc Quỳnh Giao và mẹ bước ra. Tất cả ba người ngồi vào
bàn. Anh mở chai Chardonnay, rót vào ly cho cả ba người, rồi anh cầm ly nâng lên cao nói:
- Mừng con gái của Bố Hoàng ra trường đứng hạng nhất và mừng mẹ nuôi con giỏi!
- Bố Hoàng cho con gái uống rượu sao?
- Thì đặc biệt ngày hôm nay, uống một tí thôi. Ở nhà mà em!
- Còn em, em chúc anh luôn luôn vui mạnh, và mẹ con em cám ơn anh đã tiếp đón hai đứa này
với trái tim rộng mở!



Thế là cả nhà vui vẻ ăn uống bữa cơm đầu tiên với nhau trong đời.
Ăn cơm xong, cả ba người ra phòng khách ngồi chơi, nghe nhạc classique (cổ điển tây phương) nói
chuyện, hai mẹ con ăn kem cà phê Mitchell, thứ kem nổi tiếng của San Francisco, còn anh thì ngồi uống Cointreau (loại digestif - rượu ngọt uống cho tiêu cơm - lừng danh của Pháp.) Em hỏi anh đã đi thămSydney chưa, anh bảo chưa. Em thắc mắc sao anh đi chơi nhiều nơi mà không đến Sydney. Anh bảo anh không quen ai ở Sydney hết trơn. Em lại nói, “thế những nơi khác, anh đều có quen một người hay sao?” Anh nghe em nói với cái giọng hỏi hơi đểu, anh cười, nói nơi nào đến anh cũng có nhiều người anh quen biết chứ không phải chỉ một người. Rồi anh nói thêm:
- Chỉ có một nơi là anh mới quen một người và anh sẽ đi thăm thôi.
Em hỏi lại với bộ điệu rất ngây thơ vô số tội:
- Nơi nào vậy anh? Nói cho em biết được không?
- Thì Sydney chứ đâu?
- Anh quen cô nào ở Sydney?
- Thì em chứ ai!
- Vậy thì anh phải nói lại. Anh đã nói sai rồi, thành thử em mới hỏi.
- Sai chỗ nào cơ, cưng?
- Thì anh còn quen cả Quỳnh Giao nữa thây! Đáng lý anh phải nói hai người!
- Làm sao anh kể cả Quỳnh Giao được?
- Tại sao không?
- Tại anh nói một người là một người yêu!
Anh bỗng thấy em chớp chớp mắt, cúi đầu nhìn đi chỗ khác, hai má đỏ hồng. Anh giả vờ hỏi:
- Ơ , em làm sao vậy? Anh có nói gì em đâu?
- Anh nói kỳ thấy mồ mà lại còn bảo có nói gì em đâu! Con bé nó nghe thấy đây này!


Anh biết cá đã cắn câu, em đã chịu đèn anh rồi, không còn gì cản trở bước tiến của anh nửa, nay anh đã có thể đặt kế hoạch “tổng tấn công” em và anh biết chắc sẽ “chiến thắng” dễ dàng.
Suốt ba ngày sau đó, đúng theo chương trình anh đã chuẩn bị, anh đưa Quỳnh Hương và con gái đi
thăm hết mọi thắng cảnh của San Francisco và đã chụp cho hai mẹ con hàng trăm tấm hình kỷ niệm.



Anh cũng đưa em và con gái đi ăn ở những hiệu cơm Tầu và Ý mà anh biết, anh đã đến ăn và thấy
ngon. Quỳnh Hương và Quỳnh Giao đã tỏ vẻ rất thích được có anh bên cạnh và anh đã phải luân phiên khoác tay cả hai người để không ai thấy bị bỏ rơi. Khi đến xem cầu Golden Gate, gió biển thổi lồng lộng, em kêu lạnh, anh không biết có thật hay không, em cứ bám chặt vào anh không chiụ buông, làm cho con gái cứ phải đi đứng lủi thủi một mình. Sau ba ngày đi chơi, anh đã bắt đầu yêu Quỳnh Giao khi thấy rằng con bé hiền lành dễ bảo, ăn nói ngoan ngoãn vâng lời, và rất biết điều, không bao giờ dám xin Mẹ chứ đừng nói đòi một cái gì.


Đêm khuya hôm thứ thư, kể từ ngày Quỳnh Hương đến Mỹ, chắc lúc đó cũng đã phải một hai giờ sáng, Hoàng đang ngủ trong phòng bỗng nghe có tiếng nói khe khẽ ở đâu ngoài phòng khách. Anh nhổm dậy, vểnh tai lắng nghe một lúc, rồi nghĩ chắc anh đã quên tắt chiếc TV khi vào phòng ngủ. Anh vội vã ra khỏi giường, xỏ chăn vào đôi dép để đi ra xem. Khi vừa mở cánh cửa đang khép để bước vào, mắt anh như hoa lên khi thấy Quỳnh Hương đang ngồi trên chiếc ghế nệm da đen, trông rất khêu gợi trong bộ áo ngủ mầu hồng mỏng cho thấy thân hình nóng bỏng của em. Mắt em rời chiếc TV đang chạy để hướng sang nhìn anh, vẻ mặt không tỏ vẻ gì là nàng e lệ hết. Dường như em biết trước rằng sớm muộn gì thì anh thức dạy và ra với em. Vừa thấy anh, với nét mặt ngạc nhiên thoáng vẻ lo âu, em nói:


- Em ngủ không được nên ra đây xem TV. Nằm trằn trọc mãi trên giường, em chịu hết nổi. Em
đánh thức anh dạy phải không? Sorry nghe anh!
- Tôi nghiệp em tôi chưa! Chắc tại em chưa quen giờ bên đây hả!
- Em cũng có chuyện muốn nói riêng với anh mà hai bữa nay không biết làm sao!
- Chuyện gì vậy em?
- Thì chuyện con Quỳnh Giao chứ còn chuyện gì nữa anh! Bi giờ em muốn anh ngồi xuống đây
để em nói anh nghe được không?
- Khuya rồi, em không đi ngủ sao? Rồi mai mệt làm sao em đi chơi?
- Không sao đâu anh! Thà em nói cho xong câu chuyện còn hơn cứ để nó trong đầu, khó chịu lắm,
có muốn ngủ cũng không được.
- Ừ thì tùy em thôi! Nhưng nói nhanh nhanh cho anh đi ngủ nhe!



Hoàng ngồi xuống bên em mà trong lòng thì nóng thì như lửa. Một cảm giác thèm muốn dâng lên trong người. Anh thấy em thật hấp dẫn, anh thèm ôm em vào lòng, thèm để hơi ấm từ cơ thể em luồn sang, thèm mơn trớn tấm thân ngọc ngà của em, thèm đặt môi anh lên mọi nơi trên người em, thèm… Anh cố chặn đứng những ý nghĩ đen tối đang nẩy sinh trong đầu, cố nén cơn thèm muốn, cố dìm xâu những đòi hỏi nhục dục. Anh nghe em nói:
- Chừng nửa tiếng thôi anh à. Để em kể hết đầu đuôi câu chuyện quan trọng có liên hệ đến anh
này. Nhưng em xin nói trước là em không có ý gì sau đầu đâu nghe anh. Em chỉ nói cho anh biết
vì em thấy đã đến lúc em có bổn phận phải làm việc này rồi. Em đã chờ cho đến khi Quỳnh Giao
lớn khôn, biết suy nghĩ mới đến tìm anh, mặc dù em đã vẫn luôn luôn theo dõi anh từ cả hơn
mười năm nay…



Và như thế, Hoàng đã bàng hoàng ngồi nghe câu chuyện em kể, quên luôn cả những dục vọng lúc đầu.
Anh bị như thôi miên bởi giọng nói rất truyền cảm của em, anh bị những yếu tố của câu chuyện làm cho óc anh bị tê liệt dần, như thể anh đã uống một liều thuốc mê để rồi tử từ hiệu lực bắt đầu. Tai anh vẫn nghe nhưng óc anh không phân tích được những dữ kiện. Những hình ảnh của quá khứ cứ hiện lên sôi sục như muốn áp bức, muốn làm cho tâm trí anh điên dại, đầu óc anh nhức nhối. Bởi vì anh bỗng thấy mình có tội, anh đã vô tình làm chuyện vô luơng, đã không chu toàn trách nhiệm hệ trọng xưa kia…
- Năm đó, hình như là 1973 thì phải, khi ấy em cũng còn nhỏ, mới 13 tuổi, một hôm em thấy mẹ
em dắt một người con gái về nhà. Thời gian này em còn ở Pleiku. Mẹ em có một cửa hàng bán
đồ PX do bọn lính Mỹ mua từ nhà kho của quân đội Hoa Kỳ đem ra bán lại để lấy tiền lời bao gái.
Em là đứa con duy nhất của mẹ và trong nhà chỉ còn Mẹ và em. Bố em, một sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đã hy sinh trên chiến trường từ khi em còn bé. Mẹ em đã từ Saigon lăn lộn lên Pleiku tìm đường sinh sống và em đã lớn lên ở cái tỉnh nổi tiếng của vùng cao nguyên Tây Trung Phần này. Chắc anh còn nhớ bài hát bất hủ, “Còn chút gì để Nhớ” của Phạm Duy chứ?




Thế rồi đến đây anh nghe em cất tiếng hát, giọng em buồn buồn ngân lên, thật cao, cao vút làm cho anh hồn rung động, gợi lên trong tâm trí anh những hình ảnh của dĩ vãng. Anh thấy lại hình ảnh của Pleiku với những ngọn núi trùng trùng điệp điệp phủ sương mù, rồi hình ảnh bom đạn, những trận chiến ác liệt, những đoàn người bỏ chạy, những xác chết vứt lại nằm ngổn ngang, dài theo quốc lộ đưa trở xuống vùng đồng bằng. Em chỉ hát có một đọan của bài ca, chỉ một đọan ngắn, mà cũng đủ để làm cho tim anh thót lại, anh cảm thấy bồi hồi xúc động …
Em Pleiku má đỏ môi hồng Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông Nên tóc em ướt và mắt em ướt Nên em mềm như mây chiều trong



- Mẹ em gọi em ra để giới thiệu với em người con gái đó. Nhìn chị ấy, em đoán chị hơn em chừng
năm sáu tuổi. Quay mặt về phía em, Mẹ nói, “Đây là chị Mỹ Dung, con bác Hiền ở Saigon. Bác
Hiền là bạn của mẹ. Chị Dung sẽ ở đây với mình trong một thời gian, chị ấy sẽ dạy con học và
giúp mẹ bán hàng. Con phải thương chị ấy nghe chưa?” Khi đó em không muốn có một người lạ
ở trong nhà, em không muốn tự dưng có chị ấy giữa mẹ và em. Nghe mẹ nói, em có cảm giác
mẹ sẽ chia một phần tình thương đáng lẽ dành cho em cho chị ấy, và em không bằng lòng, em
không chịu chia tình thương của Mẹ với người khác…



Nghe em nói đến tên Mỹ Dung, anh bỗng giật mình hồi tưởng đến một người anh đã quen xưa kia. Cái tên Mỹ Dung anh nghe quá quen, chỉ có điều anh không hiểu có phải đó là Mỹ Dung của anh, Mỹ Dung người anh yêu hai năm trời trước khi anh đi Pháp du học? Anh buột miệng:
- Mỹ Dung? Có phải chị ấy người hơi mập, thấp thấp, da hơi ngăm đen? Có phải mẹ chị ấy có cửa
tiệm bán len sợi ở đường Gia Long?
- Đúng rồi. Nhưng em không biết rõ nhà chị ấy ở Saigon. Lúc đó em còn nhỏ, em không để ý. Em
chỉ biết chị Dung là con người bạn thân của mẹ em, và mẹ em đón chị về nuôi một thời gian bởi
vì….
Anh đã đoán được lý do tại sao Mỹ Dung, người yêu của anh, đã phải bỏ Saigon lên Pleiku tạm trú một thời gian. Lòng anh thấy như nóng bỏng, anh đã có tội với Mỹ Dung và anh thấy hối hận vô cùng. Tử từ hình bóng của cả một quá khứ hiện ra trong tâm trí anh. Anh nhớ đến Mỹ Dung, người anh đã yêu. Anh không nhớ do đâu hai đứa quen nhau, anh chỉ biết anh đang học đại học, trong khi em còn ở năm chót trung học. Anh đã một tuần mấy ngày đến kèm em học thi tú tài. Rồi từ từ hai đứa thương nhau. Ngoải giờ học, hai đứa hẹn gặp nhau ngoài phố, dẫn nhau đi chơi, đi ăn quà, đi ciné… Thời gian trôi nhanh chóng, em thi hỏng tú tài kỳ đầu vì anh. Và một hôm hai đứa bị người chị của em bắt gặp. Mẹ em không cho anh đến kèm em chuẩn bị thi kỳ hai nữa. Anh thôi đến nhà em, hai đứa càng trốn gia đình đi chơi với nhau. Tuổi trẻ mù quáng, tình yêu bồng bột bất kể đến giáo dục gia đình, đến lý trí, đến phải trái. Và em đã dâng hiến tất cả cho anh, trái tim, tâm hồn, tấm thân em…



Quỳnh Hương kể tiếp, giọng nói đều đều, nhưng bén sắc, tạo nên những mũi kim chọc vào tim anh:
- Bởi vì chị ấy có bầu… Chỉ chừng hơn một tháng sau là em đã thấy hết. Bụng chị ấy cứ lớn lên.
Hồi đó em có nhiều thắc mắc lắm nhưng đâu dám hỏi Mẹ. Sau này lớn lên em mới nghe mẹ kể.
Mẹ nói khi bác Hiền gái biết chuyện thì bác lo lắm, đâu dám nói cho bác trai nghe? Bác chỉ dám
nói với chị lớn nhất nhà, và hai người quyết định xin Mẹ em giúp đỡ, xin cho chị Mỹ Dung lên ở
với mẹ và em cho đến sau ngày chị sanh Quỳnh Giao.


Nói đến đây em ngưng một lúc. Em hướng mắt về phiá anh như muốn quan sát phản ứng của anh.
Thấy anh bị xúc động mạnh, em dịu dàng nói:
- Em biết nói chuyện này ra sẽ làm cho anh buồn, nhưng em xin anh thông cảm. Trước sau gì em
cũng phải nói một lần. Em phải cho anh biết! Bởi vì Quỳnh Giao cứ hỏi về bố hoài. Khi còn nhỏ
thì em còn có thể nói dối con được. Nhưng khi con đã lớn thì đâu dối được nữa? Và em đã phải
nói với con rằng rồi sẽ có một ngày em đưa nó đi tìm bố... Em nghĩ khi em cho con đi chơi San
Francisco lần này thì nó đã có linh cảm… Và khi em bảo con gọi anh bằng “Bố Hoàng” thì chắc
nó đã biết tại sao. Em chờ kể hết chuyện cho anh và nếu được phép của anh, em sẽ chính thức
cho con hay điều mà nó vẫn muốn biết. Em nghĩ nó sẽ rất vui mừng… Ba ngày vừa qua em thấy
nó quấn quít với anh lắm. Nó sẽ rất thương anh…



Quỳnh Hương lại đưa mắt nhìn anh chờ đợi. Nhưng thấy anh không nói gì, em lại tiếp:
- Em biết anh sẽ phải lấy một quyết định rất khó khăn. Em nói trước để anh có thì giờ suy nghĩ….
Xin anh cho biết càng sớm càng tốt… Em biết ngoài em ra, con em cũng đang chờ quyết định
của anh... Nó đã lớn, cái gì nó cũng biết… Em mong anh thương nó… nhận nó…. Em sẽ cám ơn
anh…
Khi nói những câu này, mắt em rơm rớm lệ làm cho anh càng thấy khổ tâm hơn, càng thấy khó sử…
Nhưng anh hình dung trách nhiệm nặng nề của người bố mà anh bỗng phải nhận và chùn lòng ... Để
phá bầu không khí nặng nề, em nói tiếp:
- Từ từ em thấy chị Mỹ Dung dễ thương nên em cũng bắt đầu mến chị ấy. Chị ấy chỉ thêm bài học
cho em mỗi ngày, chị giúp mẹ rất tích cực. Chị ấy rất thành thật với Mẹ và em. Và suốt thời gian
chị ở nhà, chị hay kể chuyện của chị cho em nghe. Sau này lớn lên em mới hiểu. Chị ấy buồn
lắm nên cần có em để tâm sự. Nhưng chị ấy cam đảm lắm. Em không thấy chị ấy khóc, chỉ buồn
thôi anh ạ. Chị ấy không khóc bao giờ. Có lẽ khi đó chị ấy đã cắn răng chịu đựng, phải không
anh?..............




Thời gian trôi cũng nhanh anh ạ. Chị ấy sanh Quỳnh Giao. Mẹ em đặt tên cho đứa
bé và đứng ra nhận làm con nuôi. Chị ấy lại trở về Saigon một mình. Em nghe chị ấy kể chuyện
về vụ anh đi du học, anh bỏ chị ấy lại, em thấy tội nghiệp lắm! Mà chị ấy nói nếu anh có không đi
Pháp thì cũng không chắc gì anh cưới chị ấy! Có đúng vậy không anh?
Lời nói của Quỳnh Hương đã như một nhát dao găm đâm vào tim Hoàng. Nước mắt đổ ra, lăn trên máanh làm cho anh phải đưa ngón tay lên gạt đi. Anh cố giải thích, giọng run run:
- Sự thật không hẳn thế đâu! Anh không là một con người xấu đến như vậy! Nếu biết chị Mỹ Dung
có bầu thì anh đã không đi Pháp. Anh đã ở lại và cưới chị ấy…
- Thế sao anh lại đi nhận làm hôn thú với người ta trước khi đi Pháp vậy?
-



Như một tội phạm bị hỏi cung trước toà, anh cố tự bào chữa:
- Ngày đó chính phủ sợ du học sinh trốn ở lại ngoại quốc nên chỉ cho những người có gia đình đi
mà thôi. Đàn ông muốn đi du học phải nộp hôn thú em ạ…
- Thế sao anh không làm hôn thú với chị Mỹ Dung mà lại đi làm với người ta? Chị ấy nói anh chê
gia đình chị ấy tầm thường, anh đi lấy con nhà quyền quí! Anh bỏ chị ấy theo người khác mà?
Chưa bao giờ anh thấy khốn nạn như bây giờ. Làm sao anh có thể cãi lại lời buộc tội của Mỹ Dung?
Làm sao anh có thể xin được sự khoan hồng của người yêu? Anh đã là một kẻ bất lương! Chỉ vì thèm được đi du học, anh đã bán rẻ lương tâm anh. Anh đã nhận lấy con gái một “ông lớn” thời đó để có thế mạnh. Không có thế đó làm sao anh, một tên vô danh tiểu tốt, lại có thể có được học bổng đi học tiến sĩ ở ngoại quốc? Giờ đây anh đã nhận thức rằng tất cả chỉ là do sự bồng bột của tuổi trẻ. Những việc làm đó đã vô ích. Chúng đã không mang hạnh phúc lại cho anh…



- Quỳnh Hương, xin em đừng tàn ác với anh. Anh đã hiểu lỗi của anh rồi! Ngày đó nếu không lấy
người ấy, anh đâu xin được học bổng để đi học ngoại quốc? Chắc em không hiểu được đâu,
nhưng anh vẫn phải nói… Vào thời đó, muốn đi du học phải có một người đỡ đầu! Mà anh lại
muốn đi ngoại quốc học nên anh đã nhắm mắt làm liều. Hậu quả em đã biết! Anh đâu còn người
anh đã cưới làm vợ bên anh nữa đâu? Hơn mười năm nay anh đã đền tội… Bây giờ em nói ra,
anh lại càng muốn chết đi cho rồi…
Nghe anh nói tội nghiệp, Quỳnh Hương mới xuống nước:
- Bây giờ thì em hiểu được một chút… Nhưng dù sao anh vẫn có trách nhiệm đối với con anh…
Anh không phải lo về vật chất cho con đâu! Mẹ con em tự sống đầy đủ, không bắt anh làm một
cái gì hết!
- Không phải vấn đề đó em à. Anh sợ anh không chu toàn được về mặt tinh thần thôi. Anh đâu có
sợ
- Bây giờ con cũng đã lớn rồi! Anh không còn phải lo nhiều về mặt tinh thần nữa. Nó chỉ cần tình
thương của anh. Còn mẹ nó, anh tính nuôi luôn thật hả?
- Thì anh nói nếu cần cơ mà! Mà nuôi thì nuôi. Anh đủ sức nuôi cả hai đấy!
- Mà mẹ nào? Có hai mẹ, anh chịu nuôi ai?
- Cái đó sao anh biết? Sao em cứ thích nói đùa thế? Hiện giờ anh chỉ biết có em thôi! Mà hỏi thật
em, seriously (anh không đùa), em có biết Mỹ Dung bây giờ ở đâu không?
- Anh thấy không, chính anh lại contradict (nói ngược lại) lời anh vừa nói với em! Anh bảo chỉ biết
em thôi mà lại đi kiếm người ta! Anh muốn ai, nói thật đi!
- Muốn ở chung thì muốn em, còn muốn biết tin tức thì là Mỹ Dung.
- Anh khéo nói lắm, làm sao em nói lại được anh? Thôi để em nói chuyện chị Mỹ Dung cho anh
nghe luôn.

Rổi em kể rẳng sau ngày Mỹ Dung về Saigon thì cứ lâu lâu nàng là biên thư lên cho em cho đến sau
ngày mất nước, thì em không còn nhận được nữa. Sau đó, mẹ em nói có thể cả gia đình đã trốn đi
ngoại quốc hay bị đưa đi vùng kinh tế mới rồi, nên thư gửi đi không thấy hồi âm. Đến 1977 thì mẹ em đưa em và Quỳnh Giao về Saigon. Chúng em sống ở Phú Nhuận với gia đình bên ngoại. Khi bác em gửi hai con trai đi vượt biên thì Mẹ cho em đi theo và em đã đòi mang Quỳnh Giao đi vì nghĩ đến tương lai của con. Khi đến được trại tỵ nạn ở Indonesia, rồi sau đó khi sang tới Úc, em khai Quỳnh Giao là con em và em nuôi nó từ đó cho đến bây giờ. Ngoài đời không ai biết nó là con nuôi của em và ngay cả Quỳnh Giao cũng không biết nữa. Sau này ở Úc, em có liên lạc được với một người hàng sóm với gia đình Mỹ Dung ở Saigon và hỏi thăm, thì được biết năm 1976 cả nhà Mỹ Dung đã bị bọn Cộng Sản cướp hết tài sản và đuổi đi vùng kinh tế mới. Sau đó lại có tin ba chị em Mỹ Dung đi vượt biển nhưng nghe nói đã mất tích, tất cả những người đi cùng chuyến tàu đó đều đã không gửi tin về cho gia đình.



Kể xong hết câu chuyện, em như chút được một gánh nặng em đã đeo suốt bao năm trời trên lưng. Em nhìn anh cười, vẻ mặt em lại tươi tỉnh, anh thấy em lại hiền như ma soeur, em nói:
- Đến đây em đã làm xong bổn phận của em là thông báo cho anh biết hết những sự kiện đã xẩy
ra trong suốt hơn mười tám năm trời, từ ngày em thấy chị Mỹ Dung lần đầu tiên ở nhà em trên
Pleiku cho đến hôm nay. Bây giờ thì em chỉ còn chờ anh quyết định để rồi, nếu anh nhận con, thì
chúng mình chính thức cho con biết. Nó sẽ không còn bao giờ phải đi tìm bố nó nữa. Như vậy
thì, theo anh, bao giờ anh có thể cho em biết quyết định của anh để em liệu? Em hy vọng anh
cho em biết sớm, trước ngày chúng em trở về Sydney, để công việc được giải quyết cho xong,
em không cần phải trở qua đây nữa…


- Tại sao vậy em? Em qua đây chơi là em đi nghỉ mát, là em đến thăm anh, chứ đâu phải là làm
một cực hình? Em nói như thể em không còn muốn sang chơi với anh nữa!
- Em xin nói thẳng với anh điều này. Mục đích lần này em qua đây không phải để chơi mà là để
giải quyết một vấn đề gia đình. Nếu vấn đề gia đình được giải quyết êm thấm thì nó trở thành
một cuộc du ngoạn thích thú, còn nêú không… thì…


- Quỳnh Hương ơi, anh nói vậy thôi. Anh đã quyết định rồi mà em! Làm sao anh có thể làm khác
hơn được? Làm sao anh có thể không nhận con anh? Anh đâu phải là người vô tình, bất nhân
thất đức? Em thấy anh thì em đã biết anh thế nào rồi phải không em?
- Như vậy là anh chịu rồi phải không? Anh nhìn nhận con anh rồi phải không? Ngày mai mình sẽ
celebrate (ăn mừng). Anh sẽ đưa mẹ con em đi ăn dinner (cơm tối) ở một tiệm nào sang nhất
San Francisco nghe! Khi về đến nhà, mình sẽ ngổi nói chuyện ở phòng sa-lông (khách) và em sẽ
có nhiệm vụ báo cho Quỳnh Hương…
- Luôn tiện anh muốn nói thêm một điều, em có cho anh nói không?
Quỳnh Hương chớp chớp làn mi. Em lại mỉm cưòi, đôi má em bỗng đỏ hồng lên, em đã biết trước anh muốn nói gì. Lính cảm của người đàn bà đã báo trước cho em biết. Em vẫn ngây thơ nói:
- Thì anh nói đi, em nghe đây…
- Anh có con thì phải có cả mẹ nữa! Một mình anh làm sao anh lo chu toàn cho Quỳnh Giao
được? Vậy anh xin … anh xin cưới em … cưới em về làm vợ luôn thể, em có chịu không? Nếu
em chịu, thì mai anh sẽ tuyên bố luôn…

Được như vậy thì… thì em sung sướng …nhất rồi còn gì nữa anh…? Em chỉ mong có thế…! Em
đã yêu anh từ khi thấy những bức hình của anh … trên web site …. Em vẫn chờ đợi một ngày
nào…một ngày nào đó để được… được ở sát bên anh… để em nói cho anh hay… rằng em yêu
anh.
Hoàng thấy tình thế đã chín mùi… Anh chưa bao giờ thấy hạnh phúc như lúc này. Anh liền đổi chỗ, tiến tới ngồi sát em. Anh vội vã choàng tay qua vai em, kéo em vào lòng, hôn em tới tấp lên mắt, lên má, lên môi, lên cổ em. Anh thấy em run lên, cả thân em rung chuyển như thể có một làn điện chạy qua người.
Em nhắm nghiền đôi mắt lại chờ đợi. Miệng em thầm thì “Anh ơi! Em yêu anh! Em yêu anh biết là
chừng nào, anh có biết không?” Mà Hoàng thì đâu còn nghe thấy lời nói yêu đương của em? Đến phút này, đầu óc anh như đã mờ đi vì những những thèm muốn đang dâng lên trong anh. Anh bồng em lên trên tay và bế em vào phòng ngủ…


Hướng Dương txđ
19 Tháng Hai 2009






HOÀNG ĐỊNH * CHUYẾN VƯỢT BIỂN






Chuyến Vượt Biển Hãi Hùng


- Hoàng Định


Đoàn người chúng tôi vượt biển bằng chiếc ghe với chiều dài khoảng 10 thước, ngang 2 thước, kéo bằng chiếc máy đầu tám ngựa khỏi Bãi Giá, Đại Ngãi, Hậu Giang, Sóc Trăng chở 78 con người đủ lứa tuổi, riêng trẻ em khoảng 20 cả trai lẫn gái, hầu hết thuộc về làng ven biển, mà tôi chỉ biết một số người.Chúng tôi rời quê hương tháng 2 năm 1990, thời tiết êm dịu, mọi việc kể như trót lọt, nhưng đồ ăn nước uống rất thiếu thốn, vì thế sau bảy ngày chịu đựng một em bé sáu tuổi khóc mãi và chết trong tư thế đang khóc, mọi người lấy ván có sẵn trong ghe làm tạm chiếc hòm với hy vọng ngày mai mang lên bờ chôn cất, tối đó có rất nhiều người nằm mơ nhiều chi tiết liên quan đến cái chết của cháu bé, riêng tôi thấy rất nhiều trẻ em kêu khóc, níu kéo ghe chìm xuống, thế là mọi người đều đồng ý cúng vái với một ít mì gói vụn và thả hòm xuống biển, mấy đêm sau đó mọi người không còn những giấc mơ kinh hoàng nữa.



Vài giờ sau chiếc ghe máy bị hỏng không ai sửa chữa được, thế là thuyền lênh đênh trên biển thêm bảy ngày đêm, đói thì ăn cả kem đánh răng, khát thì uống nước biển hoặc nước tiểu, cứ tối đến thì thỉnh thoảng đốt lửa kêu cứu bằng quần áo tẩm dầu.Một đêm khoảng 2 giờ 30 sáng, trong lúc người ta đốt lửa làm hiệu thì nhận ra một chiếc tàu chạy đến và dừng lại trao cho chúng tôi chuối, nước, rồi tự động cột dây kéo đi. Người trên chiếc tàu đó không biết là người nước nào. Chúng tôi rất mừng vì được cứu. Khoảng mười phút sau đó, tàu dừng lại song song với ghe và ra dấu chỉ vào tai, vào ngón tay, cổ tay chúng tôi, mấy tiếng giọng lơ lớ “US đô la”. Vì quá vui mừng nên chủ ghe Năm Be vội lấy mũ nỉ gom góp nữ trang của những người trên ghe, họ đứng n hìn và thấy nữ trang được bỏ đầy vào chiếc mũ thì nhẩy qua ôm chiếc mũ sang tàu họ. Một người có vẻ là chủ tàu ra dấu như không đủ vào đâu nên ra dấu bảo đưa thêm hoặc chính họ sang để lục soát. Rồi họ tự động cột giây từ bánh lái đến mũi ghe và cột vào tàu họ.



Tôi và một số thanh niên khác cảm thấy lo sợ và nghi ngờ hành động này thì tức thời họ ra dấu chỉ đám đàn ông đu dây xuống nước dọc thành ghe. Tôi và mọi người cùng biết đây là bọn hải tặc đang tìm cách hãm hại những người trên ghe, đang do dự không tuân lệnh nhưng chủ ghe Năm Be lại giải thích vì của cải chúng tôi nộp chó họ quá ít ỏi không đủ cho chuyến đánh cá của họ. Và vì họ ít người nên ngại chúng tôi đông người đó thôi. Thấy chúng tôi vẫn đứng yên, Năm Be vung tay nói; “ Đ.M! có thằng nào chịu nổi cú đấm của tao không mà bày đặt chống cự ?”, thế là chúng tôi hậm hực đu xuống, bọn họ chỉ tay ra dấu cho Năm Be đu xuống luôn. Cả đám đàn ông thanh niên đu dây trong biển dọc thành ghe mà nhìn họ.



Trời lờ mờ sáng và với đốm lửa cấp cứu mà chúng tôi đã đốt lên, nhận ra bọn họ khoảng năm tên, tay xách búa chặt cây bước sang lục soát những phụ nữ, trẻ em trên ghe, sau dó tên lái táu lái ghe chạy làm lệch ghe . Đàn ông thanh niên dưới nước ôm chặt dây sát vào ghe, cố ngoi đầu lên thở còn thân mình và đôi chân trôi trong nước theo tốc độ của ghe bị kéo. Chúng tôi còn đang kinh hoảng thì những chiếc búa vun vút chém vào đầu, vào mình đám đàn ông thanh niên đang đu dây.



Cảnh tượng thật kinh hoảng, tiếng la ó từ trên ghe của phụ nữ, trẻ con, tiếng hét chỉ một lần rồi tắt lịm của những nhát búa trúng đích vào đầu, tiếng la thất thnah cảu những ai bị chém trúng tay, cổ, vai hoặc lưng. Tôi kinh hãi buông tay lúc nào không hay và lặn ngầm qua bên kia của ghe. Tên lái tầu rọi đèn pha đảo qua đảo lại để nhìn cho rõ ràng mà chém, chợt nhận ra tôi, một tên trong bọn lấy mỏ neo liệng theo nhưng may không trúng, thế là tôi lặn tiếp một hơi.



Rời xa ghe một khoảng, tôi nhìn lên ghe, đèn sáng choang từ dưới mặt nước nhìn rất rõ, tôi thấy họ tách một đứa bé ra khỏi tay một bà nào đó liệng xuống biển, tôi tiếp tục bơi xa và nhìn thấy tàu đã húc cho ghe chìm hẳn. Tôi quá kinh hãi không biết chuyện gì đã xảy ra sau đó nữa, mãi qua đến trại Sikew qua một bé gái 13 tuổi tôi mới biết là trẻ em quá nhỏ thì bị liệng xuống biển, còn bé gái đang lớn và tất cả phụ nữ thì họ lùa lên tàu và ngày đêm thay nhau hãm hiếp.



Tôi vẫn tiếp tục bơi mà chẳng biết đi về đâu, mãi gần sáng gặp được tài công Thời (còn gọi là Chệt Lác) lưng bị chém một nhát búa, và ông Hùng bị một nhát búa ngang mang tai máu me còn rỉ ra. Cả hai đnag ôm một thùng nhựa đựng dầu 20 lít làm phao, tôi mệt quá ghé tay vịn vào nhưng cả hai năn nỉ tôi rời xa đi vì thùng dầu quá bé không đủ sức nổi cho ba người, tôi thông cảm họ và chợt nhớ ra vết thương của hai người máu rỉ ra rất dễ làm mồi cho cá mập. Thế là tôi bơi đi và chợt nảy ra sáng kiến cởi chiếc quần dài thắt ống, lộn ngược làm phao, tôi dựa cổ vào đáy quần và cứ thế một vài giờ lập lại cách làm như vậy cho đến khoảng gần giữa ngọ ngày hôm sau.




Nhìn xa xa thấy một vật mầu đen đen nhấp nhô, thế là tôi cố gắng lội đến và rất may vớ được thùng dầu từ chiêc ghe của chúng tôi. Tôi vội ôm ngay vào ngực và thấy sung sướng lạ thường như vừa trút được một khối nặng nề mệt mỏi ra khỏi con người vậy. Nhìn quanh thấy kẻ ôm thùng, người bơi, người ôm ván, không biết ai là ai nhưng nhẩm đếm những điểm di động có vào khoảng 30 người. Tôi rất mừng vì còn được nhiều người sống sót, hoạt cảnh xẩy ra như thể chúng tôi đang chia từng nhóm bơi lội vậy. Có khá nhiều tàu đánh cá khoảng hơn mười chiếc không biết của nước nào đi ngang, nhưng họ tỉnh bơ nhìn chúng tôi như đang tắm biển vậy, có thể nói từng chiếc tàu đó nghe thấy tiếng kêu cứu não nề tuyệt vọng của chúng tôi trên mặt biển đều khoát tay từ chối. (Khi đến trại chúng tôi được biết nếu họ cứu thì sẽ phiền đến họ vì phải khai báo, chụp hình chung với nhau theo luật Cao Ủy Tị Nạn để điều tra, và nhất là họ sợ bọn hải tặc nhận ra sẽ trả thù)



Chúng tôi cứ lêu bêu ngày đêm trên biển đến ngày thứ ba đã thấy lờ đờ vài ba xác chết và nhiều người bất động còn ôm thùng, ván, có một cái xác ngay sát gần bên tôi. Đến trưa, chợt một tàu đánh cá chạy lại gần lại một cặp vợ chồng. Họ vớt vội người đàn bà, đó là chị Lên đang lả người bám vào ván, anh Vũ vội bám vào thành tàu để họ vớt lên thì bọn họ gỡ tay đẩy xô ra, nhìn xuống trông thấy tôi chị Liên vội la lên; “Hoàng ơi, giúp anh Vũ với !”, tôi chẳng giúp được gì, tôi cũng như anh ấy lều bều trên mặt nước, anh Vũ chỉ biết nhìn theo như cái xác không hồn.



Chiều đến sóng bắt đầu lớn, cha con ông Ba Vạn và cháu Hồng ôm thùng dầu bị dập vùi trong cơn biển động trông quá kiệt sức, đột ngột ông Ba Vạn thốt lên “Hồng ơi! Tao bỏ mày!”, thế là ông buông tay mất tăm. Chẳng mấy ai còn để ý đến nữa, tôi cũng như mọi người đều mê sảng, hoa mắt, có người thốt lên thấy cồn cát trước mặt, có kẻ thấy hàng dừa xanh mướt, kẻ thì thấy núi xanh thăm thẳm, người thấy cồn đất, còn tôi thì thấy bờ dừa và người đàn bà ngoắc tay như bảo tôi bơi vào, tôi bơi theo hướng tôi thấy, mạnh ai nấy lội theo hướng riêng.



Tôi bơi rất lâu mà chẳng thấy đến gần, rồi người đàn bà hiện ra bảo tôi bỏ thùng mà bơi cho nhanh, tôi buông ra và ra sức bơi bằng tay, được vài phút cũng chẳng thấy bờ dừa. Chợt ôi như bừng tỉnh và cầu nguyện thì thấy cát biển, cây dưới nước, tôi đứng xuống rồi người tôi chìm hẳn và mê sảng, thấy như người nào cho ăn, tự nhiên tỉnh táo, mở mắt nhìn lại thấy mình đang chìm dần nên tôi hoảng hồn lội lên, một hồi mới nổi khỏi mặt nước. Nhìn chung quanh toàn biển là biển, thì ra tôi đang mê man hoang tưởng, và kỳ lạ là không cảm đói khát chi, đêm hôm đó trải qua một đêm quả là kinh hãi.



Đến sáng tôi gặp được ba người lớn và ba trẻ em còn lại trên biển gồm người cha có đứa con sáu tuổi bị tách rời mẹ quăng xuống biển và vợ thì chúng bắt hãm hiếp, đứa bé chín tuổi con của anh ta, cô bé 13 tuổi có mẹ bị chúng bắt sang tàu hãm hiếp và hai người em nhỏ bị tách ra liệng xuống biển, cháu Hồng con ông Ba Vạn bị sóng dập kiệt sức buông tay, Từ Minh Tường, Thời (Chệt Lác). Qua 5 ngày 4 đêm trên biển chúng tôi gặp một tầu sắt và một tầu đánh cá, họ dừng lại, chúng tôi cũng chẳng màng đến vì hàng trăm chiếc cũng đã qua đi như vậy. Thế nhưng họ đang vớt chúng tôi, tuy có muộn màng vì quá nhiều người kiệt lực trên biển, nhưng vẫn còn sống sót bảy người lớn nhỏ, tôi nhìn đồng hồ tay là 6 giờ 58 chiều. Nhìn họ nước da ngăm đen, quấn xà rông tôi không đoàn được họ là người nước nào, họ đang loay hoay nấu cháo cho chúng tôi ăn, uống từng chút như họ đã có kinh nghiệm cho những người vượt biển đói khát này rồi. Họ chở chúng tôi và tiếp tục đi đánh cá, hơn một giờ sau đánh bắt được một con cá mập họ đem bỏ xuống hầm tàu, nó quậy ầm ầm, họ chỉ tay xuống hầm rồi chỉ chúng tôi như muốn nói sẽ bị cá ăn thịt nếu tụi tôi còn lêu bêu trên nước.




Tầu chở chúng tôi vào bờ khoảng 5 giờ sáng, họ ra dấu sẽ có cảnh sát tới giúp nhưng đừng nói số tàu của họ cứu, rồi họ vội quay tầu ra khơi (Sau này tôi mới biết vùng biển đó thuộc mã Lai Á cạnh Thái Lan) Khoảng nửa giờ sau, có cảnh sát đến, chúng tôi vẫn chưa rõ là người nước nào, một cảnh sát biết tiếng Việt chỉ vào một chiếc xe pick up truck và bảo chúng tôi “Lên xe đi”. Trên đướng đi họ hỏi chúng tôi có biết cô gái nào tên N. 13 tuổi không? Một anh nhận là cháu vợ, thế là họ trở về trạm cảnh sát và anh đã gặp được cô cháu gái thân xác ốm yếu, và nhất là đôi chân bước đi hai hàng trông đau đớn lắm.


(cano hải tặc )

Gặp lại chúng tôi, cháu khóc nức nở kèm theo nỗi kinh hoàng ghê gớm trên khuôn mặt, chúng tôi cùng im lặng trong nỗi đau đớn chung. Một chập sau đó cháu kể lại đã bị nhốt trên tầu 3 ngày đêm và bọn hải tặc liệng hết quần áo em mà đè ra thay nhau hãm hiếp, cháu khóc la hét đau đớn mà bọn chúng thì cứ hết đứa nọ đến đứa kia cho đến khi cháu không còn biết gì thì chúng xách liệng xuống biển cháu mới bừng tỉnh dậy. Cũng may mắn là chỉ vài phút sau đó được tàu cảnh sát vớt. Anh ta hỏi thăm về vợ mình (là dì của cháu N), cháu cho biết là vẫn còn sống nhưng dì la hét suốt ngày đêm vì bọn họ hãm hiếp dì nhiều quá! thế là trong số 78 người ra đi, chỉ còn lại 8 người sống sót.



Sáng hôm sau một số người trong Cao Ủy Tị Nạn đến chích ngừa, chăm sóc cho bé N...Còn 7 người chúng tôi thì hình dáng gần như nhau, ai cũng lở loét khắp mình và mặt mũi, da sưng từng mảng, được thoa và uống thuốc trị liệu.8 người chúng tôi ở đó ba tháng rồi được làm hồ sơ đi trại Sekew, 30 ngày sau được thanh lọc và tất cả chúng tôi được chấp thuận đi diện nhân đạo. Ở lại trại thêm 6 tháng nữa, riêng tôi định cư tại Hoa Kỳ theo diện đoàn tụ anh chị em ngày 20 tháng 10 năm 1992. Mong rằng những câu chuyện đau thương này sẽ tạo khối đoàn kết mạnh hơn trong cộng đồng người Việt hải ngoại khắp thế giới.:::


Hoàng Định :::



TRẦN KHẢI THANH THỦY * THÁC BẢN GIỐC

(Nhà báo Điếu Cày tãi Bản Giốc)

AM QUINONES * CỜ BẠC LÀ BÁC THẰNG BẦN


CỜ BẠC LÀ BÁC THẰNG BẦN
Vua Doughnuts Cambodge Triệu Phú Thành Kẻ Không Nhà
CauNguyen.jpgTed Ngoy ham mê bài bạc. Nay bỏ đạo Phật
theo Tin Lành và chấp nhận Chúa phạt
vì đã phản bội vợ con. (Ảnh Gary Friedman/ LAT)
Dưới mái hiên của một Mobile home ở Long Beach, vua Doughnuts Cambốt, ngả lưng nằm suy gẫm sự đời. Một thời được hưởng giầu sang và sự nể trọng của cộng đồng; Một chú bé nghèo rớt mùng tơi, lấy được con gái người danh gia vọng tộc nhất Cambốt; Triệu phú, đã gặp mặt và tài trợ cho 3 vị Tổng thống Hoa kỳ.
Ted Ngoy tạo sự nghiệp bằng nghề làm Doughnuts. Qua nhiều năm ông hướng dẫn hàng ngàn đồng bào ông vào thương trường. Nhờ doughnuts, nhiều người Cambốt đã thoát khỏi hoàn cảnh cô lập đi vào dòng sinh hoạt chính của người Mỹ. Tạo dựng hình ảnh nơi thương trường: “Những chủ nhân ông doughnuts, người Cambốt.”
Ngày nay, ở tuổi 62, vua doughnuts đã phá sản, vô gia cư và sống nhờ vào sự bố thí của vài người bạn còn lại.
Ông James Dok, Chủ tịch Liên Hiệp Cộng Ðồng Cambodge, cán sự xã hội ở Long Beach nói: “Ông ta đã mất hết mọi tiệm doughnuts, giờ đây ông mới bắt đầu một đời sống mới.”
Với cái tên cúng cơm Bun Tek Ngoy, mẹ nuôi Ngoy tại một làng nhà quê sát biên giới Thái Miên. Anh thuộc giống Miên gốc Hoa, thành phần bần dân ở xứ Chùa Tháp.
Năm 1967, mẹ gởi anh lên học ở thủ đô Nam Vang. Anh phải lòng một cô gái đẹp và kiêu sa. Tên cô Suganthini Khoeun. Bố cô là một viên chức cao cấp trong chính phủ. Anh rể cô, Sutsakhan Sak, là cảnh sát trưởng, đã một thời gian thật ngắn, trong những biến động chính trị của Cam Bốt đã hành sử quyền làm tổng thống trong vài ngày ngắn ngủi.
Cha mẹ nàng mong muốn con mình sẽ nên duyên chỗ xứng đôi vừa lứa. Lúc bấy giờ, ở tuổi 16, Suganthini bị kín cổng cao tường, không bạn bè, không được nói chuyện với con trai và hoàn toàn cấm ra khỏi nhà một mình.
Ngoy sống trên gác xép, một căn nhà thuê, cách căn phố lầu của nhà nàng mấy con đường. Là con trai một anh phu xích lô chắc hẳn không có chút hy vọng nào được lọt vào mắt nàng, không có cả quyền mơ đến chuyện yêu cô. Nhưng một đêm anh đã nghĩ ra cách. Giống như truyện Trương Chi, Ngoy leo lên nóc nhà ngồi thổi ống sáo, tiếng sáo lánh lót vang xa khắp xóm. Suganthini và mẹ cô nghe được tiếng sáo thiên thai ấy. Mẹ cô nói đó là loại âm thanh của người con trai đang yêu.
Ngoy viết thơ cho nàng, nhận là người thổi sáo ấy, và nhờ cô sen của nàng đem thơ trao nàng. Tuần sau, Suganthini hồi âm, từ đó cô cậu bắt đầu bí mật trao đổi thư tín. Và rồi, Ngoy xin được gặp mặt.
Nàng viết, “Em nghĩ anh không dám vào phòng em đâu, nhà em đầy lính gác và có nhiều chó dữ.” Một đêm mưa tầm tã, Ngoy chui qua rào kẽm gai bị xước da rách thịt, leo cây dừa chung quanh nhà nàng. Ðu cây dừa nhẩy lên mái nhà rồi lẻn chui qua một cửa sổ. Ướt như chuột, máu me tùm lum, Ngoy rón rén ngoài hành lang mà cũng không biết phòng nào là phòng nàng. Hé mở cửa và lại trúng ngay chóc phòng Suganthini.
Cô nàng kinh hoàng, nhưng cũng cho anh ở lại. Suốt 45 ngày, anh trốn trong phòng nàng. Ngủ dưới gầm giường và phải trốn khi gia nhân vào phòng dọn dẹp. Ðêm đêm, Ngoy cõng nàng trên lưng leo cây dừa xuống đường, đạp xe đưa nàng ra dạo phố Nam Vang. Gần sáng lại phải đưa nàng về phòng. Một đêm, dưới ánh trăng rằm, hai người quì gối bên nhau, chích máu ngón tay, nặn vào ly nước, cùng uống, thề trọn đời chung thủy.
Bất thần, bố mẹ nàng khám phá chuyện bí mật tống cổ Ngoy ra khỏi nhà. Họ dàn cảnh cho Ngoy hẹn gặp nàng tại nhà một người quen, ép Ngoy phải nói anh chỉ đùa với nàng mà thôi. Bố mẹ cô và người nhà ngồi nấp phía trong theo dõi.
Thoạt đầu, Ngoy nói không yêu cô; Anh chỉ giả bộ vậy thôi. Nhưng sau đó Ngoy rút dao ra đâm vào bụng mình và thú thật, anh nói theo lời ép của bố mẹ em. Máu me lênh láng, buộc lòng bố cô phải kêu xe cứu thương chở đi bác sĩ.
Sau biến cố ấy, Suganthini bị nhốt trong phòng nhiều ngày. Bất mãn, đau khổ, cô uống thuốc ngủ tự tử. Nhờ phát giác kịp Suganthini chỉ bị coma. Sau khi cả hai bình phục, buộc lòng bố mẹ nàng phải chấp thuận cho họ lấy nhau. Chiến tranh bùng nổ, năm 1970, Ngoy nhập ngũ. Ðược người anh rể nàng nâng đỡ, Ngoy leo lên đến cấp thiếu tá và được bổ đi làm tại lãnh sự quán bên Thái Lan.
1975, Pol Pot và Khờ Me đỏ cướp chính quyền, cuộc diệt chủng Cam Bốt mở màn. Ngoy sang Mỹ khởi nghiệp trong thế giới doughnuts.
Họ thuộc đợt dân Cambốt đầu tiên đến tị nạn ở Mỹ. Hai vợ chồng, ba người con đến trại Pendleton không một xu dính túi. Nhà thờ Lutheran Peace ở Tustin thuê Ngoy làm hốt rác, quét dọn. Anh xin được việc làm thứ hai tại cây xăng. Gần cây xăng có một tiệm donut. Hàng đêm anh quan sát khách ra vào tiệm. Hăm hở muốn học việc buôn bán, Ngoy tìm gặp ông chủ tiệm. Họ nói Winchells Donut có chương trình huấn luyện và thuê làm quản lý. Ngoy xin vào học nghề rồi nhận tiệm Winchell donut ở Newport Beach. Anh thuê vợ và đứa cháu vào làm. Mấy người nhà làm 17 giờ mỗi ngày và dành dụm nhiều năm.
Ngoy mua tiệm donut đầu tiên của một cặp vợ chồng về hưu, tiệm xìu xìu ễn ễn. Từ ngày đổi tên là Christys Doughnuts ở La Habra bắt đầu sung túc. Từ đó bất cứ tiệm donut nào Ngoy mở cũng mang tên Christys Doughnuts.
Trong vòng năm sau Ngoy mua các tiệm ở Fullerton, Anaheim, Anaheim Hills và Buena Park. Anh còn muốn mua thêm tiệm nữa, nhưng đã thấm mệt với 5 tiệm đầu tiên này. Ngoy nẩy ra sáng kiến. Dân Cambốt tị nạn đến California khá đông. Tiệm doughnuts rất dễ điều hành. Chủ nhân có thể thuê mướn toàn người nhà. Ngoy mua và mở thêm nhiều tiệm và cho người đồng hương sang lại. Ngoy gật gù: “Tôi vui và mọi người đều vui vẻ cả làng.”
Ngoy lái xe motorhome, xe đủ tiện nghi đi vòng quanh California, mở tiệm ở Los Angeles, Modesto, Fresno, San Jose, vùng vịnh Brisbane, Sacramento và San Diego. Tại mỗi địa phương anh dựng tiệm và huấn nghệ cho gia đình rồi sang lại cho chủ nhà. Ngoy dạy họ cách làm bánh và tính sổ sách. Anh dạy họ tên từng loại bánh: Old fashion, Jelly-Filled, Glazed. Anh giúp họ xin giấy phép. Anh cùng đứng tên với chủ vay tiền mua dụng cụ và hàng hóa. Ngoy giúp cho hàng trăm dân Cămbốt tị nạn xin nhà ở và thẻ An sinh xã hội. Cũng nhờ Ngoy mà nhiều người Cambốt khai nghề nghiệp đầu tiên của họ ở Mỹ là làm Donut.
Doughnuts giúp cho nhiều ngàn người thoát khỏi gánh nặng Welfare. Nhiều gia đình đã đi theo bước chân của Ngoy học buôn bán, làm ăn và học Anh ngữ. Lợi tức từ tiệm donut đưa con cái họ vào đại học. Ðến bấy giờ Ngoy không nhớ nổi đã làm chủ bao nhiêu tiệm donut, 40 ? 50 ? 60 ?
Ngoy thường nói: “Tôi muốn mở càng nhiều tiệm càng tốt. Chẳng biết rồi sẽ ra sao, nhưng tôi vẫn cứ tiếp tục mở thêm tiệm.” Cũng như Ngoy, nhiều người Cambốt gốc Hoa sang tiệm của ông. Họ sang tiệm và giao dịch bán buôn chỉ cần một cái bắt tay. Ông nói hầu như mọi người đều sòng phẳng với ông.
Khoảng giữa thập niên 1980 Ngoy đã thành triệu phú. Nhưng, hơn cả tiền tài, ông được sự kính nể của mọi người. Năm 1985, ông và Suganthini trở thành công dân Mỹ. Họ thay tên Mỹ. Ông là Ted bà là Christy. Vợ chồng ông mua căn nhà 3 tầng, 7,000 square-feet, trị giá $1 triệu đô, garage 3 xe ở Lake Mission Viejo, Quận Cam. Ted thích chơi xe Cadillac và bà vợ khoái Mercedes-Benz mui trần. Họ có một căn nhà mát ở Big Bear, và phần nhà chung nghỉ hè ở Acapulco, Mexico. Họ đã đi du lịch sang Âu Châu hai lần.
Ted Ngoy gia nhập đảng Cộng Hòa, tổ chức tiệc gây quĩ cho tổng thống Bush bố, đã diện kiến tổng thống Reagan và Nixon.Ông luôn luôn cổ động đồng hương gốc Á Châu ủng hộ đảng Cộng Hòa.
VoitongthongMy.jpg
Năm 1991 Ted Ngoy gia nhập Ðảng Cộng Hòa,
giúp gây quỹ tuyển cử cho Tổng Thống George Bush.
(Ảnh Gary Friedman/ LAT)
Dân Cambốt theo kiểu Ted Ngoy làm thương mại. Khách hàng của Ted mở thêm tiệm và cho đồng hương sang lại. Khoảng đầu thập niên 1990 con số tiệm Doughnuts, do người Cambốt làm chủ tại California lên đến 2400 tiệm.
Ngoy mãn nguyện: “Mọi người đã tìm được mỏ vàng.”
Thế nhưng, dù với những thành công ấy, Ted Ngoy vẫn cảm thấy không hạnh phúc và bị cô lập. “Thiếu chính trị, thiếu tôn giáo, chỉ có làm và làm;” “Tất cả chỉ thấy tiền, đonut rồi ngủ.”
Ông sẵn sàng đi vào một thứ đam mê khác. Ngoy cảm nhận hương vị đam mê mấy năm trước đó. Gia đình ông Ngoy đi Las Vegas lần đầu năm 1977. Họ coi Elvis Presley trình diễn, và Ted chơi vài ván “Zì Zách.” Mấy năm sau, Ted trở lại Vegas hàng tháng, coi show Tom Jones, Diana Ross và Wayne Newton, và cũng đánh bài nhiều hơn.
Các sòng bài Caesars Palace, MGM Grand và Mirage đón rước Doughnuts King rất phải phép. Họ cho phòng free, đồ ăn, vé máy bay hạng nhất, ngồi hàng đầu xem show và boxing. Ngược lại, Ted cúng cho sòng bài hàng ngàn, hàng ngàn đô la.
Ted Ngoy tâm sự: “Las Vegas là thế giới mới, bên cạnh tiền và Donut.” Vợ Ngoy rất ghét tánh cờ bạc của ông. Chị thấy những khoản tiền thua bạc khổng lồ rồi họ cãi cọ liên miên. Nhiều lần bà tha thứ khi ông hứa bỏ, nhưng ít lâu sau, chứng nào tật ấy. Bà nói: “Tôi đã tin lời hứa của ổng cả ngàn lần rồi.”
Rồi Ngoy lén bay đi Las Vegas không cho vợ biết, nhiều khi đi cả tuần không về. Bà lái xe, chở đứa con út, kiếm ổng từ sòng bài này tới casino khác. Ngoy ký giả tên vợ, check vợ. Ngoy mượn tiền của các chủ thuê tiệm. Mượn nhiều quá ổng gán tiệm luôn cho họ.
Ngoy tâm sự: “Khi ngồi vào bàn bạc, ta thấy hứng khởi, ma lực trong cơ thể sai khiến ta, không thể cưỡng lại nổi.”
Tiếng đồn lan ra. Người tị nạn vẫn đến nhờ ông cố vấn bắt đầu xa lánh, họ sợ bị ông vay tiền. Trong lớp hướng dẫn tránh bài bạc Gamblers Anonumous, Ngoy than: “Tôi khóc, mọi người thề thốt, nhưng sau đó chúng tôi vẫn trở lại với thần đỏ đen.” Ngoy còn cá độ với những tay bookies Cambốt đủ đồ chơi: football, basketball. Nhiều Chua nhật ông thua cả 50 ngàn đô.
Năm 1990, Sau cuộc khủng hoảng bài bạc ở Las Vegas, ông Ngoy bay lên Washington DC xin vào chùa, cạo đầu, mặc áo cà sa. Ông vua Donut tu tâm trọn tháng. Sau đó ông còn bay sang chùa ở miền quê bên Thái Lan. Sáng sáng ôm bình bát, đi chân không, trên nhiều khúc đường sỏi đá xin ăn với các khất sĩ khác.
Sau chuyến khổ tu, trở lại quận Cam, ông lại cờ bạc hơn trước. Ngoy than: “Sư sãi, không giúp được tôi, Phật cũng chẳng cứu nổi tôi.”
Cambodge có chương trình bầu cử lần đầu năm 1993, nhà nước kêu gọi công dân về tham chánh. Ngoy là một trong số những người nghe theo. Tài sản Doughnuts của ông cũng gần tiêu tan hết. Ông bán luôn mấy tiệm còn lại. Nhà băng tịch thu căn nhà ở Mission Viejo.
Trở về Cambốt, Ngoy lập đảng Cộng Hòa Tự Do Phát Triển. Ông Ngoy tin sẽ giúp tạo cơ hội cho mọi người phát triển đi đến phồn vinh.
Ông cũng hy vọng với việc tham gia sinh hoạt chính trị sẽ giúp ông lánh xa bài bạc. “Khi thành một nhân vật lớn, tôi không thể bài bạc được nữa vì cử tri sẽ không bỏ phiếu cho tôi. Họ không tin kẻ bạc bài.”
Ðảng của ông thảm bại cả hai cuộc bầu vào quốc hội 1993 và 1998. Nhưng thủ tướng Hun Sen mời ông Ted Ngoy làm cố vấn về thương mại và nông nghiệp.
Dùng ảnh hưởng thân cận với đảng Cộng Hòa, ông Ngoy thành công trong việc vận động Hoa kỳ ban qui chế Tối Huệ Quốc cho Cam bốt, năm 1995, giúp cho kỹ nghệ may mặc phát triển mạnh tạo hàng ngàn việc làm.
Khi Christy trở về California dự sinh nhật cháu ngoại năm 1999, Ngoy cặp một thiếu nữ, ông mang về sống trong nhà. Ðối với Christy, đó là sự phản bội sau cùng. Bà ly dị và không trở lại Cambốt nữa.
Ông Ngoy rời chính trường bất ngờ năm 2002, khi chống lại hai người đồng minh lớn, bộ trưởng thương mại và Chủ tịch phòng Thương mại Cambodge. Trong một cuộc họp báo ông Ngoy tuyên bố giải tán đảng và tố cáo chính quyền tham nhũng. Ngày hôm sao ông bay trở lại Los Angeles, bỏ sau lưng bà vợ mới và hai đứa con với bà.
Ông vua doughnuts một thời đến phi trường LAX chỉ còn $50 đô trong túi.
Ông trở lại với cộng đồng tỵ nạn ngày xưa. Trong khi ấy 30 tiệm Doughnuts của bà Christy vẫn còn hoạt động cũng như hàng trăm tiệm của những chủ nhân Cambodge khác. Người Cambodge cũng đang bắt đầu bỏ dần nghề đô nut, vì quá mệt mỏi với cách làm việc 17 giờ mỗi ngày mà chỉ kiếm được 13 xu lợi tức từ mỗi chiếc bách bán ra 65 xu. Họ bắt đầu tiến lên, đầu tư vào tiệm liquor, chợ và nhà hàng.
Không một người nào đã được ông Ngoy giúp đỡ ngày xưa cứu vớt ông. Ông Ngoy trách: “Tôi dạy cho họ, chia xẻ tình yêu với họ, bằng con tim trí óc. Và bây giờ họ đâu hết rồi?”
Ông nói tật bài bạc của ông đã kiểm soát được rồi - hoặc chẳng còn tiền bạc để thử nữa. Hiện giờ ông Ngoy sống nhờ vào lòng từ bi của vài người bạn bố thí cho. Ông từ chối làm gác dan, vì: “Còn sức đâu mà đứng ngày 8 tiếng.” Ông có học lớp địa ốc nhưng than không thể nhớ nổi nhiều chi tiết.
Ông Ngoy đã tin Chúa Jesus, cho biết ông cầu nguyện mỗi ngày, xin Thiên Chúa cứu giúp ông. Chua Nhật ông thường dự Thánh lễ tại nhà thờ Parkcrest Christian ở Long Beach, rồi trầm tư mỗi chiều, một mình, ngồi đọc Thánh Kinh.
Cuoidoimottrieuphu.jpgTed Ngoy nhờ một mái hiên, mobile home ở Long Beach l
àm nhà trọ lúc cuối đời, sau khi đã lên voi,
xuống chó vì tính cờ bạc. (Ảnh Gary Friedman/ LAT)
Một tín hữu cùng Hội thánh cho ông ngủ nhờ ở mái hiên có lưới, bên ngoài cái mobile home của bà. Ông thu vén lại thành chỗ ngả lưng, gia tài còn lại là mấy cái áo và vài cái quần máng trên dây phơi.
Ông Ngoy tự xét mình, đang chịu hình phạt của Thiên Chúa, phạt ông về tội bội lời thề uống máu của ông và Suganthini dưới ánh trăng rằm ở Nam Vang năm nào.
Bà Christy Ngoy hiện giờ làm chủ một nhà hàng đặc sản Peru ở Irvine. Một người con trai của họ làm cố vấn tài chánh, người kia làm Computer Networking. Con gái bà làm chủ tiệm Hamburger kiểu cổ điển cũng ở quận Cam.
Bà Christy nói về người chồng cũ: “Ðã có lần tôi tưởng, chắc tôi chết nếu có chuyện gì xẩy đến với anh ấy. Nhưng cuộc tình lãng mạn ấy giờ đây đã quá xa, tôi thấy dường như đã xẩy ra cho một người nào khác. Người đàn ông lạ đột nhập vào phòng ngủ của tôi cách đây 35 năm là một người xa lạ với tôi rồi.”
Ted Ngoy cũng trở thành người xa lạ với chính ông ta. Ông nói: “Tôi không biết bây giờ tôi là ai. Tôi tự hỏi: Ted, Ông là Ai? Tôi cũng không biết luôn.”
CNN viết theo Sam Quinones,
Los Angeles Times số ra ngày 19-1-05

Tuesday, March 17, 2009

NGUYỄN THIÊN THỤ * BÙI NGỌC TẤN



Bùi Ngọc Tấn



Ông sinh năm 1934 tại Câu Tử, Hợp Thành, Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ông bắt đầu viết văn, viết báo từ 1954, làm phóng viên báo Tiền Phong, Hà Nội, được nhiều giải thưởng trong khoảng 55-60. Ông thuộc lớp văn nghệ sĩ đồng thời với Lê Bầu, Lê Mạc Lân (là con Lê Văn Trương), Vũ Thư Hiên, Nguyên Bình, Vũ Bão. Sau Bùi Ngọc Tấnông về tỉnh nhà làm báo Hải Phòng Kiến Thiết. Sau bị mất tín nhiệm về việc mất lập trường, phải đi làm việc hành chánh cho công ty thủy sản Hải Phòng.

Năm 1968, ông bị bắt trong vụ án xét lại hiện đại, bị tù năm năm (1968-1973), và bị treo bút 20 năm. Ông đã trở lại văn đàn với bài Nguyên Hồng, Thời đã mất đăng trên tạp chí Cửa Biển tại Hải Phòng năm 1993 ( tài liệu khác ghi 1989). Khoảng tháng 4-2001, ông được giải nhân quyền Hellman-Hammett của HRW về tác phẩm Chuyện Kể Năm 2000. Ông bị cộng sản gây rắc rối nên chưa nhận được tiền thưởng.

Ông viết thư cho Hội NhàVăn về việc nhận giải thưởng này:Tôi được tặng giải là do tập tiểu thuyết Chuyện Kể Năm 2000 của tôi, trong đó tôi thuật lại trung thực cuộc đời tù tội oan ức của tôi với một thái độ chân thành và xây dựng[. .]. Nếu đó là quyển sách phản động, chắc chắn tôi không nhận giải. Ông hiện sống tại Việt Nam.


Tác phẨm
Đã xuẤt bẢn:
Một Thời Để Mất. Hồi ký. (NXB Hội Nhà Văn, 1995)
Những Người Rách Việc. Tập truyện ngắn: (NXB Hà Nội, 1996)
Một Ngày Dài Đẵng Đẵng. tập truyện ngắn.
Chuy?n K? N?m 2000. Thanh Niên, Hà Nội, 2000.
Rừng Xưa Xanh Lá. Hải Phòng, 2003.



A. Chuyện Kể Năm 2000
Sách xuất bản ngày 13-6 nhưng đến ngày16/3/2000, Bộ Văn Hóa Thông Tin đã ra quyết định đình chỉ phát hành và thu hồi, tiêu hủy. Tác phẩm này được chuyển ra ngoại quốc, Thời Mới, ( Toronto , Canada) tái bản năm 2000. Sau Trăm Hoa, USA tái bản gồm hai tập, dày khoảng 600 trang. Bản này cũng được dịch ra Anh ngữ và các ngôn ngữ khác.

Nguyên bản thảo viết trên ngàn trang giấy pelure với chữ rất nhỏ, khởi thảo từ tháng 6/1990 đến 30/11/91, rồi được xem lại lần cuối vào tháng 8/98. Đây là công phu và tâm tư một đời tác giả, đã đi viết lại 9 lần trong tám năm. Nhân vật chính là Nguyễn Văn Tuấn, tù số CR880, và các tù nhân khác trong trại của ông là tiêu biểu, là tổng hợp của nhiều lớp tù nhân của chế độ cộng sản từ 1945 cho đến nay.

Cũng như các trại giam của cộng sản, được dán nhãn hiệu học tập cải tạo, trại của ''hắn'' có khoảng một ngàn tù nhân Qua Bùi Ngọc Tấn, chúng ta thấy trại gồm nhiều thành phần: Dân tộc thiểu số và Trung Quốc,quân đội miền Nam,Việt kiều, văn nghệ sĩ trong đó có tác giả. Vũ Lượng là một nghệ sĩ thổi kèn clarinette, bị bắt về tội ''chính trị''. Đa số bị tù vì "lập trường tư tưởng" và "thái độ chính tr?", "phản cách mạng, tuyên truyền chống chế độ" . Phần lớn là những bộ đội, đã tham gia chống Pháp, hân hoan trong ngày trở về Hà Nội, nhưng vì tính yêu thích tự do, độc lập, không nịnh hót cho nên bị cơ quan coi là những thành phần nguy hiểm, báo cáo công an, đem nhốt tù vô thời hạn.

Mọi thành phần ở chung một nhà giam, một xã hội xã hội chủ nghĩa. Có thể nói là rất đông dân chúng là tù nhân, hết lớp này đến lớp kia liên tiếp vào những trại tù khác nhau. Già Đô tiêu biểu cho những người Việt Nam yêu nước từ ngoại quốc trở về cứu nước. Già Đô cũng là một nhân vật đại diện cho nhiều tầng lớp nhân dân Việt Nam chóa mắt vì các danh từ độc lập, tự do, dân chủ của cộng sản. Già Đô yêu nước, bỏ nước Pháp, bỏ vợ con mà về giúp nước dù ông chỉ là một tên lính quèn!Rồi già biết quê nhà được độc lập. Niềm sung sướng lớn lao và nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu biệt xứ bỗng cồn cào trong lòng không chịu nổi. Càng không chịu nổi khi biết tin hiệp nghị Genève đã ký kết. Mộtnửa đất nước được độc lập. Lại thêm thôi thúc vì chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh đạo đất nước là người từng lâu năm ở Pháp, cũng từng là một mạch lô. Già về nước. . Đất nước đang cần những bàn tay như già. (33-34). ..


Già Đô đã tự hào về công lao của mình:Mấy năm sống gian khổ, nhưng già sung sướng vì đã toại nguyện. Già đã được làm việc cho Tổ quốc. (35)Và cũng như nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, già Đô đã lên tiếng chỉ trích tên giam đốc tham nhũng. Ông quên rằng ông là cái gai của chế độ. Ông là lính của Pháp, ở Pháp về, ông có thể bị nghi là gián điệp. Ông ở Pháp về sau 1954, chưa hiểu cuộc sống ở Bắc Việt là một cuộc sống đầy dối trá, phải giấu nguồn gốc, thân phận có liên quan phong kiến, thực dân Pháp và tư sản. Thế mà trước mặt nhiều người, già Đô dám nói tiếng Tây, hát tiếng Tây! Ông bị sa thải và bị bắt giam vô thời hạn vì ông có rất nhiều tội, trong đó có tội dám phê bình lãnh đạo.

Bùi Ngọc Tấn cũng vậy. Sau này khi ra tù, tác giả khiếu nại và được biết lý do:Hắn chẳng thể nào khen được cách mạng văn hoá Trung Quốc. [. ]. Hắn mâu thuẫn với bí thư chi bộ. Hắn không muốn vào Đảng, hắn trọn đời là một nhân sĩ yêu nước và tiến bộ. Hắn không giống mọi người. Hắn lại còn nói sẽ bẻ bút không viết nữa. Bất mãn quá rồi còn gì.[ .]. Sau này hắn còn được biết ông bí thư thành ủy K rất ghét hắn. Vì ông nghe tin là hắn khinh ông, coi thường ông. (Không biết có kẻ nào đặt điều bảo rằng hắn nói ông K mồm thối. Điều ấy đến tai ông K. Thật là một sự bịa chuyện bẩn thỉu, giết người) (245).Theo tác giả, đa số tù nhân đều chung một tội ''Sự ngây thơ. Nhẹ dạ. Cả tin. Và đều phải trả giá ''(26).


Tuấn, nhân vật trong truyện là một nhà văn, là chân dung tác giả. Họ tra khảo Bình, bạn của Tuấn:Có chuyện gì mà anh và anh Tuấn không nói với nhau. Anh Tuấn viết truyện ấy là viết xỏ xiên. Những con gián chuyên sống trong bóng tối, béo nức hôi sì là ai. Anh đừng tưởng chúng tôi không biết đâu (106).Nghe tin Phương bị bắt, những người khác hoảng sợ vì ai cũng có thể bị bắt giam. Họ nhận thấy cái phi lý và dã man của cộng sản độc tài:'Tuyên truyền phản cách mạng" tội danh của Phương cũng là tội danh của hắn. Điều đó có nghĩa là gì? Điều đó ch? có thể là Phương đã nhìn thấy và báo động về những cái xấu xa đang mọc lên trên lưng chế độ như nạn móc ngoặc đang hình thành và bắt rễ trong các ngành mậu d?ch. Nạn cửa quyền trong các cơ quan tiếp xúc với dân.. [. . ]. Và như vậy là nhìn đời đen tối. Là bất mãn. Là chống đối. Là vào rừng ch? nhìn thấy cây mà không thấy rừng. [..].Chẳng lẽ mình không còn có quyền yêu nước. Chẳng lẽ lòng yêu nước cũng bị độc quyền ? (64).


Tác giả nói rất đúng. Cộng sản muốn giữ độc quyền tất. Vì muốn độc quyền yêu nước, độc quyền cai trị mà cộng sản tiêu diệt Quốc dân đảng, Đại Việt đảng, không cho ai phát biểu ý kiến mình.Vào truyện, tác giả cho biết thân phận người tù và thời gian ngồi tù:
Người một lệnh, người hai lệnh, người ba lệnh. Nhiều người tới sáu, bảy lệnh. Mỗi lệnh ba năm. [. . ] Nhưng chưa ai tù một lệnh (ba năm) mà được trở về. Chưa hết bọp này đã được dí thêm bọp khác. Cái án cao-su. Cái án tù mù. (2).


Số phận người tù không phải là do công an một mình quyết định, mà còn do đảng, và cơ quan văn hóa (161, 267). Hơn nữa là do thái độ của tội nhân, nếu than khóc, nhận tội có lẽ đuợc về sớm, còn không nhận tội, tỏ vẻ cứng đầu, thế là ngồi tù mãi. Họ đã gọi anh lên, trước mặt vợ anh, tên công an đã dò xét thái độ anh và anh đã trả lời họ:

Trước hết anh phải xác định được những sai lầm của mình. Phải nhận thức được thiếu sót của bản thân. Chúng tôi giam giữ anh không ngoài mục đích ấy Còn gì trắng trợn hơn. Gian dối hơn. Đạo đức giả hơn. Đểu hơn.
Hắn bình tỉnh :- Thưa ông. Cho đến giờ tôi chưa được biết tội của tôi. Chưa ai nói cho tôi biết tôi có tội gì.Ông Lan cười nhạt, quay về phía Ngọc và như thanh minh : "Đấy. Anh ấy cứ thế! " (98).
Ông cho biết bọn tù nhân ( cũng như bọn địa chủ) không được đảng cộng sản xem là con người. Họ là những nô lệ, những súc vật biết nói, phải xưng con với công an, quản giáo, phải gọi cả đứa trẻ con bằng ông, bằng bà mỗi khi gặp. Quân chủ và phát xít không đến nỗi tàn ác và khinh khi con người đến thế! Sự việc này gây ra những cảnh hài hước. Bà công an với con nhỏ hóa ra như vợ chồng:Gặp ai cũng phải gọi là ông, là bà. Gặp bà công an kế toán bế con trai lên bốn đi chơi, là phải kính cẩn:-Bà với ông đi chơi ạ!" (31)

Trong trại giam, nhất cử nhất động, tù nhân phải báo cáo với cán bộ, ngay cả việc tiểu, tiêu:
- Báo cáo ! Tôi, Nguyễn Văn Tuấn, số tù CR880. Dậy hút điếu thuốc. - Tôi, Nguyễn Văn Dự, số tù BM229, dậy bắt cái tóp của anh Tuấn.(33)-Báo cáo ông, tôi, Lê Bá Di, tù số 127 vào nhà mét đi đái (38).
Thứ hai, Cộng sản dùng cái đói để hành hạ bao gồm hành hạ tinh thần và thể xác để giết chết tù nhân, hoặc làm cho họ chết dần, chết mòn. Bên cạnh cái đói, cộng sản còn dùng lao động và khí hậu lạnh lẽo, thiếu quần áo, cùng sơn lam, chướng khí để giết tù nhân. Phần lớn truyện, tác giả đều nói việc này. Ngoài ra, nhà tù cộng sản tàn ác hơn nhà tù thực dân. Cộng sản đã nâng cấp dã man cho nhà tù của họ. Nhiều người đã phát biểu như vậy.- Ông cộng sản bị tù đày nhiều, ông ấy cải tiến nhà tù khiếp thật. Đúng là nhà tù của ta đã cải tiến rất nhiều. Những khe hở của nhà tù đế quốc đã bị bịt kín. Một cái bánh chưng gửi vào cũng được cắt ngang dọc, xem có tài liệu gì trong ruột bánh không.[. .] Trong tù rất thận trọng.[. .]. . tù chính trị ai cũng giữ mồm giữ miệng. Chỉ cởi mở với rất ít người đã qua thử thách (21).
Nhà tù là địa ngục mà xã hội chủ nghĩa cũng là một địa ngục, chỉ khác là một bên là địa ngục nội và một bên là địa ngục ngoại. Một to, một nhỏ khác nhau nhưng tất cả là địa ngục và con người là tù nhân, là súc vật. Một số ít tù nhân đã dùng nhiều phương thức để đối kháng. Một trong những phương thức được dùng là mộng mơ, là tin tưởng, là ý chí. Mộng mơ đã dẫn dắt con người qua những tháng năm đen tối và hãi hùng của địa ngục.Truyện Kể Năm 2000 ban đầu có tên là Mộng Du. Mộng du, hay mộng mơ, hay tưởng tượng là phương pháp nối hiện tại với quá khứ, gia đình với trại tù. Tác giả gọi đó là "mặc niệm tới gia đình" (25).
Ông già Đô kể lể:Đêm qua, tôi mơ thấy con bé con bên Pháp. Nó vẫn như lúc tôi từ biệt nó. Tôi mơ thấy quán rượu của bà Jeannette. (22)Tác giả buồn lắm vì từ lâu không mơ thấy gia đình:- Tôi mất khả năng nằm mơ rồi. Đã bao lần tôi ao ước nằm mơ thấy vợ, thấy con. Nhất là các cháu (22)
Tác giả đành dùng phương pháp tưởng tượng và hồi tưởng về người vợ :
Đầu gối lên cùm sắt rỉ han
Nghĩ tóc em xanh mười chín tuổi
Mái sương đêm những vì sao Hà Nội
Trong nhật ký anh.
Tóc em xanh trang nhật ký
Trong hồ sơ mật an ninh
Cả đến tình yêu chúng ta cũng bị nhục hình
Cắn răng lại, em ơi, đừng khóc
( 67).
Sống trong tù và khi ra tù, tác giả căm hận chế độ cộng sản phi nhân, đã giết hại không những một người mà toàn gia đình người ta theo kiểu tru di tam tộc:Tịch thu hàng nghìn trang bản thảo của mười năm lao động miệt mài. Vợ đang học đại học, bị gọi về. Còn con nữa, chắc chắn vào đại học sẽ khó khăn... Những điều đó xảy ra trong chế độ ta, chứ đâu ở chế độ cũ. Điều không ch?u được chính là chỗ ấy. . .Nhức nhối lắm. Uất lắm. Hận lắm. Đau lắm (243)
Bùi Ngọc Tấn không những viết về nhà tù nhỏ, ông còn viết về nhà tù lớn. Người tù được thả, nghĩa là bước ra khỏi nhà tù nhỏ để đến nhà tù to lớn hơn, trong đó có làng xóm, thành phố, bạn bè và gia đình anh. Đoạn cuối tác giả viết về Già Đô rất xuất sắc. Già Đô được trả tự do, nhưng già yếu, không hộ khẩu, không nơi cư trú, ông tìm cách trở lại nhà tù. Tác giả muốn nói nhà tù khắc nghiệt nhưng xã hội, nhà tù lớn lại khắc nghiệt hơn cho nên con người đã chọn nhà tù. Đó là cái bi đát của người dân trong chế độ cộng sản. Sống quả thực khó khăn vất vả, nhất là với những người như già, không một ai thân thích. Không nơi nương tựa. Không một chỗ đặt ba-lô một chốn dung thân. Người bình thường đã khó.Với cái lý lịch đi tù, lại là tù chính trị, với tuổi tác như già, cuộc sống thật là một con đường hầm tối tăm, tắc tị (252).
Già Đô cuối cùng đã nằm yên trong một cái đình bỏ hoang.Từ khi chiến tranh bắn phá, thành phố sơ tán, người ta không đưa lợn về đây nữa. Ngôi đình hoàn toàn hoang phế. Không một dấu vết thờ phượng. Cứt lợn cũng hết lâu rồi. Chỉ còn dơi treo mình lủng lẳng.Thật là một chỗ nằm yên tĩnh lý tưởng để phiêu diêu. (262).


Tác giả cũng gặp khó khăn nhưng được vợ hiền, bạn tốt giúp đỡ mà qua được hiểm nghèo. Ra khỏi tù, anh đi dạo phố và nhận ra phần lớn là những khuôn mặt quen thuộc trong tù. Đó là một điều kinh khủng. Cảm giác này, ấn tượng này luôn theo tác giả mỗi khi ra phố. Khi ra tù, người cựu tù nhân thấy dường như đâu cũng là bạn tù: Gặp ai, ở đâu hắn cũng tưởng như gặp lại bạn tù cũ. Nhìn những người đi trên đường, hắn giật mình : "Quái nhỉ, ở trại nào nhỉ. Quen quá. Không biết đã gặp ở đâu rồi. Được về bao giờ nhỉ [.. .]. Hắn luôn gặp những khuôn mặt tù quen quen. Những khuôn mặt tù ngờ ngợ. Không biết ở trại nào. Hẳn họ cũng như hắn. Mới được ra trại (165).Kết thúc buồn nhưng mang một ý nghĩa lờn lao: Xã hội cộng sản nhân danh tự do dân chủ nhưng đã giết chết con người dù nó ở trong tù hay ra ngoài tù. Dự, Min, Giang (220-223), già Đô ra tù còn khổ hơn ở trong tù (169).



Chuyện Kể Năm 2000 là một tác phẩm mang tinh cách hiện thực lịch sử, tố cáo tội ác của cộng sản. Cũng như đa số tác phẩm viết về nhà tù cộng sản như tác phẩm của Nguyễn Chí Thiện, Phan Lạc Phúc, Lucien Trọng, Bùi Ngọc Tấn đã tả được hết cái ác của chế độ cộng sản, đồng thời nêu lên được tấm lòng nhân ái còn tồn tại ở một số người đồng cảnh ngộ, hoặc bạn bè. Lời văn của ông rất trong sáng, thành thực, điểm chút hài hước. Đoạn hồi ức về tình yêu của ông dưới ánh trăng ngoài đồng rộng (102-103) là một trong những đoạn văn hay, không bay bướm nhưng chân thành và cảm động. Đoạn kể việc gặp vợ thăm nuôi ( 10-15), việc vợ chồng đoàn viên (131,132) cũng rất đặc sắc. Những nhân vật như A Thềnh, già Đô là những nhân vật sống động.


B. RỪNG XƯA XANH LÁ
Đây là một tập truyện ngắn do Hải Phòng, Việt Nam, xuất bản năm 2003, 86 trang. Gồm 8 truyện, viết trong khoảng 1997-2000. Toàn tập là một bức tranh về đời sống nhân dân Việt Nam miền Bắc xã hội chủ nghĩa và cả nước sau 1976, đặc biệt là đời sống của các nhà văn xã hội chủ nghĩa trong khoảng 1980. Đó là một cuộc sống khốn khổ về tinh thần và vật chất.
Trước tiên, ông cho chúng ta biết tổng quát tình hình xã hội, một xã hội đói khổ cuối thập niên 80: Cơm áo không đùa với bất kỳ ai. Lại càng không đùa với các nhà văn nhà thơ. Nhất là vào cái thời cuối thập niên 80 (của thế kỷ trước) nền kinh tế cả nước đang chuyển từ hệ thống bao cấp sang kinh tế thị trường. Biến động mạnh từ suy nghĩ, quản lý, hàng hó a, giá cả tới bản thân giá trị đồng tiền (1).
Sau đó, ông vẽ nên những mảnh đời khốn khổ của văn nghệ sĩ. Đinh Kính, đại úy, nhà văn quân đội, phải nuôi bố mẹ và hai con nhỏ, đã làm một nghề mới, là viết thuê, ca tụng nông trường. Các giám đốc, chủ nhiệm muốn đạt thành tích, muốn được danh vọng, đã bỏ tiền thuê người ca tụng mình, công ty mình. Đồng tiền chi phối con người. . Phải có tiền. Tiền là tiên, là Phật , sức bật tuổi trẻ, sức khỏe tuổi già. Và chỉ còn mỗi cách kiếm tiền: Viết thuê.. Thật ra đây không phải nghề mới, và Đinh Kinh không phải là người đầu tiên làm nghề này trong chế độ dân chủ cộng hòa. Trong chế độ ưu việt này, các văn thi sĩ, văn công họa sĩ, nông dân, nông dân, chiến sĩ đều là kẻ làm thuê, làm muớn, nếu không nói là nô lệ cho chủ nhân ông cộng sản.Ông cũng tả một xã hội lưu manh từ giám đốc công ty cho đến đám gái đứng đường (Rừng xưa thay lá, 1-6).
Nhiều người bị cấm viết phải viết thuê, nghĩa là viết cho người khác, là những mầm non văn nghệ hay mầm già nhưng không có tiếng tăm để được chia tiền nhuận bút. (22). Cũng có văn hữu hảo tâm, đứng dùm tên cho bạn có tiền sống. Đám văn nghệ sĩ ngoài việc vắt óc viết bài theo lệnh đảng để kiếm tiền sinh nhai, nhưng không đủ. Tiền thù lao thường xuyên bị đe dọa. Có.Nhưng ít. Và muộn (28). Họ còn phải làm nhiều nghề khác. Dương Tường, Lê Bầu. Mạc Lân phải đi bán máu. Về tinh thần, họ là những người bị cấp trên cho là có vấn đề, bị công an theo dõi, bị bạn bè, thân thuộc xa lánh. Vấn đề của họ đơn giản thôi. Mạc Lân ăn nói không giữ gìn, luôn khen ngợi Nhân Văn Giai Phẩm.
Nguyên Binh bị trừng phạt vì tác phẩm của ông đã tố cáo tính dã man, vô nhân đạo của cộng sản:
Trong Cô gái mồ côi và hòn đảo, anh bắt những kẻ xấu phơi lộ mặt. Những kẻ xấu mới gian manh quỷquyệt làm sao! Chúng đều nấp sau cái vỏ đạo đức, chúng đều nhân danh đạo đức, nhân danh những người đang làm điều thiện trong khi chúng dồn mấy đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ (bố chết dưới bom đạn Mỹ) phải thôi học, phải về một nơi "nghỉ ngơi", thực chất là một thứ tù giam lỏng (56).
Lê Đại Thanh vì bạn bè ông tham gia Nhân Văn Giai Phẩm, và người ta tìm thấy tên anh ủng hộ nhóm này 20.000 đồng, người ta đày ải ông, Mọi người dần dần xa lánh ông (62).
Cuối cùng, ông phải xin nghỉ hưu non. Mạc Lân, Lê Bầu, Lê Đại Thanh bị chuyển công tác. Họ phải làm lao động, hay một công tác khác, không báo nào đăng, không nhà xuất bản nào in tác phẩm của họ. Họ bị tuyệt thông. Bị bao vây kinh tế, chính trị. Nội dung sâu thẳm của Bùi Ngọc Tấn đã nói lên cái ước muốn rất đơn giản của các văn nghệ sĩ là được tự do: tự do sống và tự do sáng tác. phẩm chất rất khác thường, rất đặc biệt của văn nghệ sĩ đó là sự tự do thoải mái, điều không thể thiếu được là sự thoải mái. . .Chúng tôi cần nhất sự thoải mái. Văn nghệ sĩ mà..(44).Và ông muốn nói nữa là tinh thần bất khuất của văn nghệ sĩ: Vòng kim cô không xiết được đầu ông vì trong đó đầy ắp thi ca, đầy ắp tình yêu cuộc sống (66).

Bùi Ngọc Tấn là một nhà văn trung thực và nghệ thuật của ông đã làm cảm động người đọc, đưa người đọc đi sâu vào điạ ngục trần gian, hiểu tổ chức của nó, hiện thực của nó và các ngõ ngách tâm hồn của giai cấp thống trị.



LÊ LỰU, TRÁI TIM VÀ NGỌN BÚT CHÂN THẬT


Lê Lựu là tên thật, sinh năm 1942tại Khoái Châu, Hưng Yên. Tácphẩm Hai nhà của ông làm ôngnổi tiếng nhưng hài nhi này đã bịbóp mũi khi mới ra đời!

Tác phẩm:
-Người cầm súng (1970);
Phíamặttrời(1972);
Ranh Giới (1976);
Thời Xa Vắng (1986);
Đại Tá khôngbiết đùa (1989) ;
Chuyện làng cuôi (1991)


A. ThờI Xa Vắng

Truyện gồm 13 chương, 244 trang, đưa ta trở về những xã thôn miền Bắc thời kỳ đi lên hợp tác xã. Trước tiên, tác giả chỉ trích tinh thần cách mạng cực đoan và không tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Cách mạng tháng tám và đánh Pháp coi như là tiến dến thiên đường, nông dân không còn đói khổ, không còn phải làm thuê, làm mướn, cho nên ủy ban ra lệnh cấm dân nghèo bỏ ruộng đi làm thuê .Người ta chống đói bằng mệnh lệnh, và hễ ai cứng đầu là bị kết tội là phản động:

Cuộc họp toàn xã tối nay đã công bố những quyết đinh gắt gao của ủy ban kháng chiến hành chính của xã Hạ Vi. Kể từ ngày mai, tất cả mọi công dân của xã không được đi làm mướn ở bất cứ nơi nào. Không được đi buôn bán và làm thuê nghề phụ như giấy thông hành đã cho phép, giấy thông hành đều không có giá trị. Những người đang ở xa, các gia đình tìm cách đi báo để họ có mặt ở địa phương trong vòng một tuần lễ kể từ hôm nay. Tất cả các ngành, giới, các đoàn thể nam phụ lão ấu đều tập trung vào nhiệm vụ sống còn: chống đói và cứu đói. [..]. Ai chống lại mênh lệnh này sẽ bị coi là kẻ phản động và bị trừng trị đích đáng (20).


Dẫu sao, những ông ủy ban, huyện ủy, tỉnh ủy ở thời kỳ này chưa đến lúc và đến trình độ bán dân, bán đất như thời kỳ của Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh.Cũng như truyện Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma của Nguyễn Khắc Trường, tác phẩm này cho ta biết những thủ đoạn gian manh của lũ tân cường hào thôn quê, nhất là lũ huyện ủy, tỉnh ủy. Để che dấu tội lỗi hủ hóa của thằng Sài, cháu mình, cũng như bảo vệ danh tiếng và địa vị của mình, ông Hà đã vu vạ cho người khác. Ông cũng đưa Mỹ ngụy ra hù dọa và chụp mũ người dân vô tội. Chiến tranh là một lợi điểm cho cộng sản dựa vào đó mà cướp bóc, khủng bố và tàn sát nhân dân:

Chúng tôi vừa được phổ biến hiện nay bọn Mỹ ngụy đã tung gián điệp, biệt kích, chúng dở mọi thủ đoạn xảo quyệt phá hoại ta. Việc ông này bịa đặt tung tin bịa đặt làm mất uy tín của đồng chí Sài, trưởng ban phụ trách thanh thiếu niên xã ta có khi cũng là do âm mưu của địch, ta phải có thái độ rõ ràng (40).


Ngoài ra, tác giả cũng cho ta thấy phần nào đời sống của người bộ đội bị kìm kẹp trong cái tổ tam tam và các sĩ quan của chế độ, nhất là việc phê bình, kiểm thảo đấu tố. Đó là cái nếp sống xã hội chủ nghĩa, là cuộc khủng bố, trường kỳ đổ lên toàn dân cho đến đảng viên, bộ đội, công an:

Tưởng đã phải đi tù về cuốn nhật ký đó ( trời ơi những đêm ''diễn đàn'' anh cứ run bắn lên vì những từ phản động, chống đối, phá hoại, tư sản, phong kiến, bóc lột, an bám. . . ) (59).

Trong trường hợp Sài được anh chính ủy săn sóc và được anh em bộ đội yêu mến là một trường hợp hiếm hoi. Thực ra cái chút tình này vốn là do phe phái, quen biết. Đây là nếp sống của cộng sản mang óc địa phương, cục bộ và thiên vị. Nhất thân, nhì thế, tam tiền, tứ chế. Ghét ai chúng bịa ra muôn tội, thương ai chúng bênh vực, che chở vì vậy mà co truyền thống''xử lý nội bộ''.Tác giả cũng cho ta biết về công việc của nông nghiệp xã. Làm ruộng theo lối tập đoàn thì quan liêu, mệnh lệnh và lãng phí thì giờ:

Ai làm đất ''phần trăm'' thì tự ý mà ra ruộng ngay. Ai theo công điểm với đội, ra ngồi ở bờ tre đầu nhà ông đồ Khang tập trung. Cũng như mọi ngày, mọi buổi phải tiếng rưỡi, hai tiếng, những người đến trước, thả sức tán chuyện trên trời và dưới đất, chuyện thanh cao và trần tục đến lúc van vản mới tập trung đầy đủ theo người trong ban chỉ huy đội đi làm công việc gì đó (78).


Tuy nói vắn tắt đôi giòng nhưng tác giả đã nói lên đưọc nỗi cơ cực của nông dân.Nông dân sống bằng gì? Tác giả chỉ nói qua một chữ thôi, đất ''phần trăm''. Người nông dân làm ăn tập thể tập đoàn thì được tính công, tính điểm. Nông dân bị bóc lột, một năm một công chỉ có ba xu, trong khi một cân gạo năm hào (78).

Ai làm giỏi thì được thưởng một công ba xu, còn không thì một hay hai xu một ngày. Ngoài ra, mỗi hộ được cấp khoảng 5% ( đất phần trăm) đất đai canh tác riêng, dân sống là do đất này!Mỗi hộ được một, hai, ba thước ? Không biết. Việc này tùy địa phương và tùy các lãnh đạo tại đây! Nông nghiệp xã có nhiều năm thất bát nhưng trong báo cáo của xã không năm nào chịu đi xuống (78)

Ngày xưa dân chúng mất mùa, quan lại tâu vua xin giảm thuế và xin cứu đói, nhưng cộng sản luôn luôn báo cáo nông nghiệp đi lên, luôn vượt chi tiêu để lập thành tích thi đua! Thành thử dân chúng không được cứu đói mà còn bị cướp hết thóc lúa nộp cho trung ương. Dân chúng đói khổ nhưng cộng sản thì quang vinh!Ngoài ra, nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật rất sâu sắc.Nhìn chung, tác giả viết nhẹ nhàng xa xôi nhưng đầy ý nghĩa.


B. TRUYỆN LÀNG CUÔI


Tác phẩm dày 77 trang. Qua tên tác phẩm, chúng ta có thể biết sơ nội dung của tác phẩm.Trong ngôn ngữ và văn học Việt Nam, cuội là dối trá, là khoác lác.


Khởi đầu là truyện một xác chết trôi, không ngở là xác của mẹ ông Hiếu, phó chủ tịch tỉnh. Một lũ cường hào thôn quê đầy mưu lược đã ăn nhậu say sưa trong khi hội họp tìm cách làm tiền thiên hạ trong dịch vu xác chết. Cái tục ăn uống, nhậu nhẹt đã bị Ngô Tất Tố và nhiều nhà văn hiện thực phê phán đả kích, và đảng cộng sản cũng ra sức bài trừ trong những ngày đầu tháng 8-1945 nhưng nay vẫn sống và sống mạnh hơn trước.

Tác giả đem chuyện 1931 để tố cán bộ xã huyện:Các quan trên như quan huyện đây dâm đãng, tham lam, vu oan, giá họa, hà hiếp dân chúng, làm cho hàng ngàn dân làng điêu đứng, sống dở chết dở, còn bẩn hơn thằng ăn mày. (10)


Tác giả đã dắt ta trở về những ngày Việt Minh lên. Việt Minh là một đảng khủng bố gây hãi hùng cho dân chúng:

Việt Minh là gì ?. . . Đừng nói ra! Mất đầu như chơi (22). Việt Minh là một cuộc khủng bố và cũng là một trò cuội: Mai kia Việt Minh lên là dân chúng không còn bị cùm kẹp giam hãm, không còn bị đói rét như bây giờ đâu (22).

Tác giả cũng nói đến trò ''cuội'' '' cải cách'' của cộng sản. Kiêm, chồng của Đất, là một cán bộ Việt Minh từ những ngày đầu. Kiêm đã bị Pháp bắt và tra tấn, sau đuợc thả, trở về hoạt động, làm huyện ủy viên kiêm bí thư chi bộ xã. Kiêm tổ chức phong trào cải cách rầm rộ, giới thiệu đội cải cách. Nhưng đội cải cách ra mặt đêm hôm trước, đến đêm hôm sau đã ra lệnh bắt Kiêm, cùm hai chân và trói hai tay ''giật cánh khỉ'' để ở miếu ông Cuội [. . .]. Tối hôm trước là người đứng đầu xã, tối hôm sau là đầu sõ (60-61).


Không phải riêng Kiêm mà nhiều người khác cũng bị tương tự.Tối hôm trước, anh đội Quyền vẫn bắt rễ, nằm ba cùng, tối hôm sau đã thành kẻ tội phạm nguy hiểm không ai có thể đến gần.[. . ] Nhà anh ba đời là cố nông. Cố nông nghĩa là không có tấc đất cắm dùi. Đời ông đi ở. Đời cha đánh dậm, và chạy te. Đời anh lại đi ở ( 61)


Một hai ngày sau, anh đội Lãng đã tìm ra hồ sơ của Kiêm:Nguyễn Văn Kiêm đại phản động địa chủ, cường hào ác bá gian ác [. . ] .Kiêm vốn xuất thân gia đình trung nông lớp trên đã lưu manh hóa.[ .. ]. Kiêm liên lạc với tổng Lời làng Cuội Trung làm tay sai cho Pháp Nhật.[. ..] Kiêm được cài vào làm cán bộ Việt Minh huyện rồi chuyển sang bộ đội [. . ]. Hắn đã leo lên đến chức huyện ủy viên trực tiếp làm bí thư chi bộ thực chất là chi bộ Quốc dân đảng và v. v. . (65).


Lê Lựu là một trong những người hiếm hoi viết về sự thật cải cách ruộng đất tại miền Bắc. Thời kỳ này thân phận người dân thật bi đát vì ai cũng có quyền bắt họ, trói họ:Ngày ấy sức mạnh của cán bộ đội và xóm là lệnh bắt.Lúc nào trong túi áo cũng có một nắm giấy lệnh bắt người,lệnh tịch thu, lệnh tịch biên, lệnh tạm giữ. Có lệnh đã viết từ trước. Có lệnh đến chỗ tội phạm mới kê xuống đầu gối viết vào tờ lệnh có dấu lưu không.Còn vũ khí của du kích là thừng. Anh nào cũng có vài ba dây thừng cuốn kiểu khoanh giò dài chừng gang tay nhét vào cạp quần, bất cứ lúc nào cũng có thể rút ra trói. Lệnh giấy hay lệnh mồm cũng trói.


Trưởng xóm, phó xóm, xóm đội ai cũng có quyền ra lệnh trói (67)

Cộng sản dùng cải cách ruộng đất để khủng bố dân chúng cho nên không những cán bộ gốc vô sản như Kiêm, Quyền, ngay cả thị Đất cũng bị quy là địa chủ, là phản động. Kiêm bị giết. Tình mẹ con, vợ chồng không còn nữa. Cộng sản lợi dụng quyền thế để hãm hiếp phụ nữ và vu oan giá họa cho người mà chúng ghét. Phải dẫm lên xác chết của người khác để lên cao. Đó là phong cách của cộng sản, và đó là kết quả của cải cách ruộng đất.Lê Lưụ là một cây viết về nông thôn, ông viết rất chi tiết và trung thực về nông thôn Việt Nam. Truyện của ông là một phần của lịch sử Việt Nam hiện đại

Monday, March 16, 2009

TRUNG QUỐC XÂM CHIẾM CAO NGUYÊN

==





TRUNG QUỐC KHAI THÁC TÂY NGUYÊN
VÔ DANH



Đến trung tâm thị trấn, ngay chỗ chợ Bảo Lâm, theo mũi tên chỉ dẫn quẹo trái vào 200m sẽ đến khu điều hành khai thác Bauxit.



Nơi đây bao gồm nhà ở của các chuyên gia Trung Quốc và các quan chức của tập Đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam. Còn mỏ Bô Xít thì cách đó chừng 5 km.

Cả một vùng trên 100 mẫu đã được san bằng nằm giữa 3 khu vực: Thị trấn Lộc Thắng- xã Lộc Phú và xã B’Lá. Hai xã này đều thuộc huyện Bảo Lâm.

Khác với sự dè dặt trên ĐăkNông, tại Bảo Lâm người ta thoải mái nói về Bauxit hơn. Từ quốc lộ 20 có bảng chỉ dẫn đường vào vùng khai thác mỏ và nơi điều hành khai thác. Và an ninh cũng có phần lỏng lẻo hơn ĐăkNông.






Người Trung Quốc bao gồm các chuyên gia và công nhân tràn ngập thị trấn Lộc Thắng. Các hàng quán phục vụ người Trung Quốc mọc lên rất nhiều bằng các bảng hiệu song ngữ Việt - Tàu.


Theo một cán bộ phòng Lao Động thương binh tại thị xã Bảo Lộc thì hiện nay có khoảng 500 người Trung Quốc gồm các chuyên gia và công nhân đang phục vụ mỏ và cho biết khi nhà máy đi vào hoạt động sẽ có hơn 6000 người Trung Quốc phục vụ tại đây.

Các chuyên gia Trung Quốc thì ở ngoài thị trấn Lộc Thắng trong khu cao cấp biệt lập nằm ven thị trấn trên một hồ nước thơ mộng. Cuối tuần khu này vắng vẻ do họ về Sài Gòn hay lên Đà Lạt ăn chơi. Họ đi lại bằng xe biển số xanh 49B do tỉnh Lâm Đồng cung cấp.

Còn công nhân Trung Quốc thì ở ngay tại khu mỏ. Từ thị trấn Lộc Thắng đi 5 Cây số về hướng ĐăkNông đến ngã 3 Cát Quế, họ sống trong những ngôi nhà thấp lè tè lợp tôn màu xanh. Hiện có khoảng 8 dãy nhà dành cho công nhân ở.


=




Chúng tôi gặp chị Hương đang lo nấu ăn cho 1 dãy nhà gồm 45 công nhân Trung Quốc cho biết: “ Hiện có khoảng 300 công nhân Trung Quốc ở đây, mỗi dãy nhà họ thuê 2 người nấu ăn, lương mỗi người là 150 000 VND".

Theo chị Hương thì cách ăn uống của công nhân Trung Quốc khác lạ, buổi sáng ăn cháo trắng với cá khô kho mặn và họ sống rất hà tiện. Họ giao 700 ngàn đồng cỡ 40 Mỹ Kim cho chị Hương bảo phải đi chợ nấu ăn cho 45 người.

Không riêng gì nhóm chị Hương mà người nấu cho các nhóm khác đều kêu ca.

Người dân thị trấn Lộc Thắng cho hay mỗi sáng sớm và chiều tối hàng tốp công nhân Trung Quốc kéo nhau đi dạo và vào các hàng quán. Một điều dễ nhận là họ mua cái gì cũng trả giá từ cục xà phòng, hộp kem dù giá bán lẻ in ngay ngoài vỏ hộp nhưng họ cũng trả thấp hơn một phân nữa.





Anh HVX, một công nhân lao động phổ thông, 20 tuổi ở ngay thị trấn Lộc Thắng cho hay hiện có rất nhiều người dân địa phương và người miền Bắc vào làm công nhân tại mỏ. Giá tiền công là 90 ngàn cho một ngày làm việc. Đó là công giá sau khi qua các tay cò trung gian, nếu làm trực tiếp cho các người thầu Trung Quốc thì giá được trả là 150 ngàn VND .








Công việc chính của các công nhân Việt Nam là đào móng và các việc lặt vặt khác. Mỗi ngày có khoảng 300 người Việt nam làm việc nơi đây.

Anh NVQ, 25 tuổi, người Đà Nẵng, kỹ sư tốt nghiệp Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng làm việc tại đây được 3 tháng cho biết anh đang làm việc chung với nhóm chuyên gia Trung Quốc và có 4,5 thông dịch viên.

Công việc của anh là hướng dẫn công nhân Việt nam đào các móng. Mỗi trụ móng 1mét vuông nhưng chiều sâu đến 13,5 mét. Khu nhà máy rộng đến 60 hecta, chỉ làm đúng kích cỡ do các chuyên gia Trung Quốc chỉ dẫn, sau đó họ đem nhà máy của họ qua đây lắp vào các trụ móng đào sẵn.

Anh Q. cũng cho biết lương kỹ sư của anh là 6 triệu đồng 1 tháng thấp hơn lương công nhân Trung Quốc là 10 triệu đồng. Công nhân Trung Quốc họ đến từ các vùng miền núi, nông thôn không có học hành gì.

Anh Q. dẫn chúng tôi vào sâu trong vùng mỏ. Đi đâu cũng thấy bảng chỉ dẫn bằng 2 thứ tiếng: Việt- Hoa.

Một cán bộ làm việc tại văn phòng UBND huyện Bảo Lâm cho biết nhà máy đã khởi công gần 1 năm nay rồi, nhưng công tác đào tạo đã chuẩn bị trước đây 4 năm. Học Đại Học 4 năm thì học ở Trung Quốc, các sinh viên là con em địa phương, thi đại học Bách Khoa Sài Gòn hay Bách Khoa Đà Nẵng bị rớt mà trên 10 điểm cho 3 môn thì được gởi đi học 4 năm ở Trung Quốc. Toàn bộ chi phí do phía Trung Quốc đài thọ. Khóa đầu tiên hơn 50 em đã học được 3 năm rồi. Còn học hệ Cao Đẳng thì học tại Hải Phòng, công nhân học hệ Trung cấp thì học ở Bảo Lộc

Anh Nguyễn Tín, người dân thị trấn Lộc Thắng cho biết thêm, toàn bộ đợt đầu đi học là con của cán bộ huyện Bảo Lâm và thị xã Bảo Lộc, còn dân thường muốn gởi con đi học thì phải tốn 25 triệu đồng lo lót. Các đợt sau thì rẻ hơn chỉ 20 triệu thôi, anh cũng muốn gởi con anh đi học xuất ngoại cho biết nhưng con anh không chịu do sợ tốn kém gia đình.

Người dân Lộc Thắng thì đi đâu cũng bàn tán xôn xao về mỏ Bauxit.



Họ kể về những gia đình được nhận đền bù tiền giải tỏa để giao mặt bằng nhận trên 1 tỷ đồng nhưng ra thị trấn hay xuống thị xã mua nhà vẫn không đủ.


Có người không chịu đi bị cưỡng chế, sau đó tiền đền bù mất hơn 400 triệu trừ vào chi phí cưỡng chế. Có người tiếc vườn cà phê, vườn chè quyết ôm cột nhà không đi ...còn bị kết tội là chống người thi hành công vụ.


Cũng có nhiều người nhận ra là Bauxit rất độc hại. Họ biết rõ là Trung Quốc đóng cửa các nhà máy Bauxit của họ và qua đây khai thác Bauxit của mình nhằm tránh độc hại cho dân họ, còn dân mình thì lãnh hết hậu quả.






Từ ngã 3 Cát Quế ngay tâm điểm vùng mỏ tại Bảo Lâm đi khoảng 40 cây số nữa sẽ đến mỏ Bô Xít ở ĐăkNông . Dọc đường chúng tôi bắt gặp nhiều người dân tộc Châu Mạ sống đói khổ trong những căn nhà sàn xập xệ rách nát. Họ vẫn hồn nhiên trên những nương chè ngút màu xanh. Mùa này chè tươi được mua với giá 1000 đồng cho 1 kí lô.


Những thung lũng mát màu xanh của thông, chè, cà phê có nguy cơ bị hủy diệt lần này không phải bởi chất độc màu da cam mà bởi những bụi đỏ và bùn đỏ của Bauxit.

Rồi đây 20 năm nữa vùng hạ lưu sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, và Hồ Trị An sẽ nhiễm độc và các cháu bé bại liệt, què quặt, ngây ngô chắc sẽ được công kênh qua Tàu để kiện Bắc Kinh chăng?

Những người đang nhẫn tâm đặt bút ký đủ loại quyết định cho Trung Quốc vào khai thác Bauxit tại Tây Nguyên liệu lúc đó có còn sống để thấy hậu quả việc họ làm không?


==











==

Sunday, March 15, 2009

TÔN GIÁO & CHÍNH TRỊ

=

TÔN GIÁO VÀ CỘNG SẢNSơn Trung


Cộng sản cho tôn giáo là thuốc phiện, đã hành hạ, khủng bố những người có tín ngưỡng, sát hại các lãnh tụ tôn giáo không theo chúng như đức Huỳnh Giáo chủ. Từ 1945, chúng đã phá hủy nơi chùa chiền lấy đình miếu làm cơ sở ủy ban , kho hàng hay cơ sở hợp tác xã. Sau 1975, ai theo chúng thì vào trong Phật giáo quốc doanh như Minh Châu, Trí Thủ, Võ Đình Cường. Ai không theo chúng, vẫn giữ bảng hiệu Phật giáo VNTN như Quảng Độ, Huyền Quang, Không Tánh thì bị khủng bố. Cộng sản nhắm tiêu diệt tôn giáo nhưng vẫn lợi dụng tôn giáo làm tay sai cho chúng, và phỉnh lừa nhân dân vì một số tín đồ vẫn tin ở các vị tu hành.


Cộng sản bán nước và cướp đất của nhân dân ngày càng công khai và trắng trợn. Trước đây chúng cướp Viêt Nam Quốc Tự, và gần đây, chúng đã cướp đất Thái Hà. Chúng lấy đất để bán cho Trung Cộng, nay mai khắp Việt Nam sẽ là cơ sở kinh tế của Trung Cộng mà thực tế là căn cứ quân sự từ Lạng Sơn cho đến Cà Mâu. Một số tu sĩ bị quản thúc nhưng một số xuất nhập tự do như Phạm Minh Mẫn, Thanh Từ, Trí Dũng. . .Như vậy rõ ràng là họ có sứ mạng dặc biệt, là quyên góp tiền và ra chỉ thị cho bọn nằm vùng phá hoại hải ngoại.


Họ không những làm tay sai cho Việt Cộng mà còn làm tay sai cho Trung Cộng trong chủ trương bành trướng toàn cầu. Họ là tai mắt, là tình báo cho Trung cộng tại Âu MỸ chuẩn bị thế chiến thứ ba tiêu diệt Mỹ để độc bá xưng hùng. Nếu Trung Cộng chưa công khai tấn công Mỹ bây giờ về quân sự, chúng cũng tấn công về kinh tế và chính trị. Những cái vòi của con bạch tuộc Trung Cộng thì rất kinh khủng. Hồ Chí Minh và bọn trung ương đảng đều là người Tàu hoặc bán mạng cho Tàu để được vinh thân phì gia.



Một số giám mục và linh mục đã làm tay sai cho cộng sản như Phạm Minh Mẫn, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, nhưng cũng có nhiều giám mục và linh mục như Ngô Quang Kiệt, Nguyễn Hữu Lễ, Nguyễn Văn Lý, Đinh Xuân Minh, Phan Văn Lơi , Nguyễn Hữu Giải. . . đã tích cực tranh đấu cho dân chủ và tự do Việt Nam. Lúc 18h ngày 9.9.2008, trong nhà khách của Tu viện Thái Hà xuất hiện rất nhiều linh mục. Trong và ngoài nhà thờ giờ này cũng đã hết chỗ trống, có khoảng 65 linh mục quyết tâm tranh đấu cho Thái Hà.


Một số mục sư Tin Lành bị khủng bố, bị bắt giam như các Mục sư Trần Mai, Đinh Thiên Tứ, Trần Đình Ái , Hồ Tấn Lộc, Tô Đình Trung , Đinh Mộng, Đinh Văn Rập bị nhốt tù và nhiều lần đem ra giữa dân để đấu tố trong khi một số mục sư làm tay sai cho cộng sản, quyên tiền dưới danh nghĩa cứu trợ mà thật tế là dâng đô la cho cộng sản. Hầu hết các tổ chức từ thiện do người Việt hải ngoại chủ trương đều là thi hành NQ-36 VC lừa bịp mị dân, lợi dụng lòng từ tâm của mọi người để moi tiền bỏ túi hay ăn chia với VC. (Đỗ Vẫn Trọn gây quỹ cứu Mù; Vũ Thành An gây quỹ Từ Thiện Teresa; Cô Tim, Ngôi nhà May mắn; Mục sư Nguyễn Xuân Bảo cứu đói; Trúc Giang, nhóm Sưỡi Ấm; Quốc Nam cứu Làng bán máu; Võ Thành Đông, cứu trợ thương phế binh v.v…).



Phật giáo Việt Nam chiếm 80% dân số Việt Nam. Phật giáo Việt Nam đã cùng dân tộc Việt Nam đấu tranh cho Độc Lập và Tự Do cho Nhân Dân Việt Nam từ Đinh Lê Lý Trần Lê.

Trong cuộc chiến vứa qua, một số Cộng sản đã len lỏi vào các tôn giáo. Phật giáo đã bị cộng sản ẩn nấp phá hoại. Sau 1975, các tăng ni chân chính đã cùng nhân dân Việt Nam chống lại chủ nghĩa cộng sản đã đàn áp nhân dân, bóp nghẹt tự do tôn giáo, mặc dầu một số tăng ni cúi đầu tuân lệnh cộng sản, hoặc họ là cộng sản nằm vùng.

Cộng sản đã dùng tiền bạc, âm mưu lừa đảo và khủng bố đối với Phật giáo Việt Nam Thống Nhất. Tại quốc nội, Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ đã đầu hàng cộng sản. Tại hải ngoại một số đã ló đuôi giáo gian tiếp tay cho cộng sản bán nước phản dân như Trần Quang Thuận, Vĩnh Hảo đã làm rầm rộ cho nhóm Thân Hữu Già Lam. Các giáo gian đã về ủng hộ Đại lễ Vesak LHQ 2008 do Hà Nội đăng cai tổ chức như Thích Giác Nhiên (Mỹ), Minh Tâm, Tánh Thiệt, Như Điển, (Âu Châu) , Như Huệ, Bảo Lạc, Quảng Ba (Úc châu).. Rõ rệt là họ đã về với cộng sản, họ đã theo giặc, theo bọn ác, đâu còn tư cách kẻ tu hành thiện nhân. Một số vẫn chưa ra mặt. Việc hai vị Huyền Quang và Quảng Độ ban giáo chỉ 9 là kịp thời chận đứng âm mưu tráo trở của bọn giáo gian và bọn tay sai đội lốt sư.



Thế lực cộng sản và giáo gian đã lan ra đến hải ngoại, ban đầu họ còn náu mặt, nay thì nhiều ông công khai chống Hoà Thượng Quảng Độ và Phật Giáo Thống Nhất. Một số ông đã không còn ở trong GHPGVNTN nhưng vẫn xưng là GHPGVNTN. Một số lập giáo phái mới mà vẫn xưng là GHPGVNTN, và một số lập giáo phái mới, ra mặt công kích Phật Giáo Thống Nhất và lực lượng nhân dân yêu nước chống cộng sản độc tài bán nước, hại dân. Nay bốn ông Minh Tâm, Minh Huệ, Trí Chơn và Bổn Đạt lập một tổ chức mới mà vẫn xưng là GHPGVNTN nhằm đánh lận con đen.

Đường lối cộng sản là dùng bọn này để đánh phá Phật giáo để làm cho thiên hạ tưởng là " sư đánh sư" mà thật ra là cộng sản khủng bố phá hoại những tăng ni không theo chúng. Chúng sẽ gây chia rẽ, phao tìn nhảm, và vu khống. Tất cả bọn họ vâng lệnh NQ 36 đồng khởi, rồi họ sẽ bị tiêu diệt như bọn Việt Cộng ló lên sau tết Mậu thân (1968).

Triều Thanh đã phỏng vấn ông Võ Văn Ái về việc này. Xin quý độc giả theo dõi cuộc phỏng vấn này để hiểu rõ âm mưu độc địa của cộng sản và bọn tay sai phản quốc hại dân.

2009-03-11 PTTPGQT

PARIS, ngày 11.3.2009 (PTTPGQT) -

Khoảng 12, 13 vị Tăng sĩ đến từ Hoa Kỳ, Canada, Châu Âu họp nhau tại Úc và tung ra bản Thông bạch ngày 1.1.2009 thiết lập cái gọi là “Văn phòng Điều hợp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại Liên châu” trụ sở đặt tại chùa Khánh Anh ở Pháp. Việc thành lập một tổ chức mới trong cộng đồng người Việt Hải ngoại là chuyện bình thường. Vì ở hải ngoại đã có hàng nghìn tổ chức khác nhau được thành lập trong mấy mươi năm qua. Nhưng việc làm dư luận thắc mắc là nội dung vu cáo của Thông bạch này.

Thứ nhất, Thông bạch tố cáo Viện Hóa Đạo trong nước và Văn phòng II Viện Hóa Đạo hoạt động không đúng Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ;
Thứ hai, Thông bạch tố cáo những văn kiện của Viện Hóa Đạo gây ra đại nạn chia rẽ Phật giáo và không đúng với “sinh hoạt dân chủ ở xã hội ngày nay” ;
Thứ ba, Thông bạch tố cáo những người Việt “nhân danh chống Cộng” gây rối sự tu học của các chùa viện, Tăng Ni, Phật tử ở hải ngoại.

Sự thật như thế nào ? Những lời tố cáo của ba Hòa thượng Thích Minh Tâm, Thích Như Huệ, Thích Trí Chơn và Thượng tọa Thích Bổn Đạt ký tên dưới Thông bạch có đúng với thực tại Phật giáo và đất nước ngày nay không ?


Ký giả Triều Thanh của Đài Phật giáo Việt Nam đã phỏng vấn ông Võ Văn Ái trong mục “Câu Chuyện Cuối Tuần” về tất cả những thắc mắc nói trên. Cuộc phỏng vấn đã được phát đi trong chương trình tối thứ sáu 6.3.2009. Toàn bộ cuộc phỏng vấn thu thanh dài 34 phút. Nhưng thời lượng phát thanh của Đải Phật giáo Việt Nam giới hạn 30 phút, vì vậy đã có một số đoạn bị cắt. Trong thông cáo báo chí hôm nay, chúng tôi chép lại sau đây toàn bộ cuộc phỏng vấn không cắt bỏ để bạn đọc theo dõi :

Triều Thanh :
Thưa ông Võ Văn Ái, gần đây có 3 Hòa thượng và một Thượng tọa họp nhau tại Úc châu rồi cho ra đời bản Thông bạch về việc thành lập Văn phòng Điều hợp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại Liên châu. Ông nghĩ sao về nội dung Thông bạch và sự ra đời ngoài khuôn khổ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ?

Võ Văn Ái :

Chúng ta đang sống tại các nước văn minh, dân chủ, tôi nghĩ rằng ba Hòa thượng Như Huệ, Minh Tâm, Trí Chơn và Thượng tọa Bổn Đạt có toàn quyền thành lập tổ chức mới theo ước vọng, ý kiến và lập trường riêng của họ. Ta theo hoặc không theo thì được, nhưng chẳng ai có quyền cấm cản, phê bình, chỉ trích. Vì đây là chuyện riêng tư, cá nhân của họ. Họ đâu có nhân danh chúng ta mà chúng ta lên tiếng ?

Triều Thanh :

Nhưng bức Thông bạch nói trên nhân danh Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để hình thành tổ chức và dời đô về chùa Khánh Anh ở Pháp kia mà ?

Võ Văn Ái :

Việc này đã giải quyết qua Thông bạch số 31 của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), ký ngày 24.8.2008, tuyên cáo Thượng tọa Thích Bổn Đạt và 2 Hòa thượng Thích Như Huệ, Thích Minh Tâm tiếm danh GHPGVNTN khi dùng cái gọi là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Canada, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan, và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Âu châu. Còn Hòa thượng Thích Trí Chơn thì đã ly khai GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ khi cùng với 7 vị khác đứng ra thành lập tổ chức mới mang tên “Cộng đồng Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ” do Hòa thượng Thích Giác Nhiên đứng đầu. Hòa thượng Gíac Nhiên là người đã về Việt Nam cộng tác với nhà cầm quyền Cộng sản.

Tiếm danh có nghĩa dùng danh xưng một giáo hội lịch sử và có pháp lý, nhưng lại không tuân thủ Hiến chương, đường lối, lập trường, kỷ cương của Giáo hội này.

Triều Thanh :

Nhưng thưa ông, trong Thông bạch của ba Hòa thượng và một Thượng tọa ký tên, họ khẳng định họ tuân thủ Hiến chương GHPGVNTN, lại còn tố cáo Viện Hóa Đạo trong nước và Văn phòng II Viện Hóa Đạo ở hải ngoại “không đi đúng Hiến chương, mà còn trái nguyên tắc sinh hoạt dân chủ của xã hội ngày nay” ?

Võ Văn Ái :

Sinh hoạt dân chủ của xã hội ngày nay là gì ? Dân chủ là dân chủ, làm gì có thứ dân chủ ngày xưa và dân chủ ngày nay ? Thế là bốn vị Minh Tâm, Như Huệ, Trí Chơn, Bổn Đạt phủ nhận nền dân chủ Lục hòa do Phật chế cách nay gần ba nghìn năm sao ? Tạm thời ta thử xem xét thứ “dân chủ của xã hội ngày nay” mà bốn vị đang mường tượng để tố cáo Viện Hóa Đạo, và xem bốn vị hành xử dân chủ tới cỡ nào.

Sự việc cụ thể là khi nhà cầm quyền Hà Nội tiến công đợt mới nhằm xóa sổ GHPGVNTN, phản ứng chuyến viếng thăm và cứu trợ Dân oan của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ tại Văn phòng 2 Quốc hội ở Saigon hôm 17.7.2007, thì Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang và toàn Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo nhận giấy công an triệu đi làm việc. Báo hiệu một chiến dịch đàn áp, bắt bớ như đã xẩy ra các năm 1977 và 1982. Để đối ứng tình hình, Đức Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành Giáo chỉ số 9 thiết lập Văn phòng II Viện Hóa Đạo ở hải ngoại cáng đáng cuộc đấu tranh của Phật giáo một khi hai Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo trong nước bị truy quét bức tử.


Trước tình hình sinh tử của Giáo hội, Hòa thượng Thích Hộ Giác, Chủ tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo, biên thư gửi chư tôn đức Tăng Ni, Phật tử mời về tham dự Đại hội bất thường ngày 10.11.2007 tại chùa Bửu Môn, thành phố Port Arthur, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ, để cùng nhau trao đổi và tìm phương đối phó. Thế nhưng 4 vị nói trên cùng 7 vị khác tại Hoa Kỳ không về tham dự nhằm tìm phương cứu nguy Giáo hội trong nước. Chẳng những thế, hai Hòa thượng có chức vụ trong Giáo hội, Thích Thắng Hoan và Thích Tín Nghĩa cùng với một số vị khác tổng cộng 8 người, biên thư công khai đưa lên mạng Internet tẩy chay Đại hội.

Chưa đủ, họ còn châm biếm Giáo chỉ số 9 là “Giáo chỉ giả”, nói lời bất kính với Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, với Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, đánh phá các Cận sự trọng yếu của Giáo hội. Hành xử vô nguyên tắc, vô chính phủ như thế đâu có thể gọi là “nguyên tắc sinh hoạt dân chủ của xã hội ngày nay”, phải không ? Bốn vị này ở Pháp, ở Hoa Kỳ, Canada, Úc châu mấy chục năm qua mà không biết nguyên tắc tối thiểu của dân chủ là trao đổi, bàn bạc thông qua một Đại hội ? Nội chừng đó đủ biết bốn vị Như Huệ, Minh Tâm, Trí Chơn, Bổn Đạt dân chủ hay phản dân chủ.



Triều Thanh :

Xin ông cho biết GHPGVNTN trong nước và hải ngoại đã làm gì hớ hênh khiến ba Hòa thượng và một Thượng tọa kết án “làm không đúng Hiến chương” và “bị thúc đẩy bởi các thế lực chính trị bên ngoài” ?

Võ Văn Ái :

Các bậc cao tăng như Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, làm sao có thể có những hành xử gọi là “hớ hênh” ? Quá trình 34 năm tù đày, quản chế ngay trên mảnh đất quê hương nhằm bảo vệ Giáo hội và đạo pháp trước tà thuyết ngoại lai Mác – Lê, khiến Hà Nội phải kiên dè, công luận thế giới ca ngợi, là một bằng chứng, mà bốn vị nói trên không thể nói ngược. Nhất là khi sự tu luyện, kiến thức, tuổi tác của bốn vị đứng vào hàng con em của hai Ngài.



Muốn tố cáo hai Ngài, tức hàng giáo phẩm lãnh đạo Viện Tăng thống, Viện Hóa Đạo, và Văn phòng II Viện Hóa Đạo “bị thúc đẩy bởi các thế lực chính trị bên ngoài”, thì phải viện dẫn chứng cớ cụ thể. Không thể nói bâng quơ, kết án bừa bãi kiểu công an cộng sản. Phải trưng dẫn thế lực nào, tên gì, ở đâu, thúc đẩy Hội đồng Lưỡng Viện hoạt động phản lại Hiến Chương hay phản bội lập trường cố hữu của GHPGVNTN ? Không minh chứng được tức nói ngoa, đặt điều vu khống, nếu không là hàm huyết phún nhân.

Là người bàng quan, chúng ta vẫn có thể thấy đâu là sự thật đằng sau sự vu khống này. Hãy đọc lại tất cả những văn kiện do Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang viết đầu thập niên 90, đặc biệt là hai văn kiện lịch sử “Tuyên cáo Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn” ngày 20.11.1993, và “Ngày Sám hối và Chúc sinh toàn quốc” ngày 21.4.2000, rồi đem so với tất cả các Giáo chỉ, Thông điệp, Thông bạch, Thông tư của Hội đồng Lưỡng Viện trong nước từ ấy đến nay, năm 2009, xem lập trường và đường hướng của Giáo hội có nhích một ly nào không, mà dám lên giọng nói rằng “bị thúc đẩy bởi các thế lực chính trị bên ngoài” ? Chính bốn vị này mới thay đổi, thoát ly khỏi lập trường cố hữu của GHPGVNTN và hoạt động ngược với Hiến chương.

Triều Thanh :

Thế nhưng, thưa ông Võ Văn Ái, bốn vị này khư khư bám vào Hiến chương GHPGVNTN để đề cao tổ chức họ. Ông trả lời như thế nào đây ?



Võ Văn Ái :

Hiến chương mà họ nói đi nói lại trong Thông bạch thành lập Văn phòng bốn châu chỉ quanh quẩn ở Lời Nói Đầu mà thôi. Mục đích họ đề ra qua Thông bạch là : “Liên kết các Giáo hội để phục vụ nhân loại và dân tộc theo tinh thần Lời Mở Đầu của Hiến chương của GHPGVNTN đã minh định”. Phục vụ nhân loại như thế nào ? Phục vụ dân tộc ra sao ? Nói nghe lớn lối, nhưng thực tế bốn vị này không cho người đọc biết nhân loại ở đâu ? dân tộc họ phục vụ là dân tộc nào ? Dân tộc Việt Nam của con cháu Vua Hùng, hay dân tộc Xã hội chủ nghĩa, dân tộc Xô viết Nghệ Tĩnh ?


Hiến chương GHPGVNTN bản tu chính ngày năm 1973 tại Đại hội khóa 5 ở Saigon, ngoài Lời Nói Đầu chỉ có tính cách dẫn nhập mà bốn vị bấu víu, còn có thêm 11 chương, 40 điều xác định cơ cấu tổ chức, cách thế điều hành Giáo hội, và quyền hạn của các nhân sự thuộc hai Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo cùng những nguyên tắc họp hành, biểu quyết. Ấy là chưa nói ngoài Hiến chương còn có bản Nội quy Viện Hóa Đạo. Điều này có nghĩa họ phải tuân thủ 11 chương, 40 điều trong Hiến chương và 9 chương, 83 điều trong Nội quy Viện Hóa Đạo. Chứ không phải chỉ giỡn đùa để y cứ khơi khơi vào 7 chữ trong Lời Nói Đầu “phục vụ nhân loại và dân tộc”.

Triều Thanh :

Nói như ông là có cả thảy 11 chương, 40 điều trong Hiến chương, và 9 chương, 83 điều trong Nội quy Viện Hóa Đạo. Vậy ông có thể cho biết, bốn vị Như Huệ, Minh Tâm, Trí Chơn, Bổn Đạt có tuân thủ hay vi phạm điều nào trong Hiến chương hay Nội qui Viện Hóa Đạo mà ông vừa dẫn không ?



Võ Văn Ái :

Bốn vị này chưa một lần nhắc đến Nội quy Viện Hóa Đạo gồm 9 chương, 83 điều. Có lẽ họ chưa biết tới văn kiện này. Còn Hiến chương GHPGVNTN với 11 chương, 40 điều thì họ chỉ biết có Lời Nói Đầu qua 7 chữ “phục vụ nhân loại và dân tộc”. Người đọc Thông bạch của bốn vị không hề biết bốn vị “phục vụ” như thế nào ? Nhân loại gồm những ai, và dân tộc họ phục vụ là dân tộc nào ?

Nay bốn vị đã ly khai khỏi Giáo hội dân tộc, họ chỉ cố ý tiếm danh GHPGVNTN làm lá chắn để không bị 3 triệu người Việt tị nạn và tín đồ phê phán hay hỏi thăm.

Bốn vị này không ngừng khiếm nhã chỉ trích Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, nhưng bốn vị chẳng biết phép tắc quy định ở điều 5 trong Nội quy Viện Hóa Đạo. Quyền hạn của vị Viện trưởng được ấn định như sau :

“Viện trưởng Viện Hóa Đạo điều khiển và thi hành các quyết định của Ban Chỉ đạo, Hội đồng Viện Hóa Đạo. Viện trưởng Viện Hóa Đạo thay mặt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trên phương diện pháp lý liên quan đến sự hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (…) Viện trưởng Viện Hóa Đạo bổ nhiệm tất cả nhân viên văn phòng Viện Hóa Đạo, tất cả các chức vụ quan trọng thuộc phạm vi các Tổng vụ, Viện trưởng Viện Đại học Phật giáo, Đại diện Miền, Tỉnh, Thị xã, Quận và các Đại diện tại ngoại quốc, sau khi được Ban Chỉ đạo chấp thuận”.

Bốn vị Như Huệ, Minh Tâm, Trí Chơn, Bổn Đạt cũng như TẤT CẢ, tôi nhấn mạnh TẤT CẢ các Tăng Ni bốn châu do bốn vị cầm đầu, không có một vị nào có chức vụ trong Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo hay Hội đồng Viện Hóa Đạo, thì lấy tư cách gì bốn vị dám cả gan phê bình Viện Hóa Đạo “không đúng Hiến chương mà còn trái nguyên tắc sinh hoạt dân chủ của xã hội ngày nay” ? Làm gì có thứ dân chủ cấp dưới phủ nhận cấp trên, Xã trưởng phủ nhận quyết định của Tổng thống hay Quốc hội ?

Triều Thanh :

Cám ơn lời ông giải thích rõ ràng, mà lâu nay chúng tôi khó hiểu, vì chỉ nghe phía ly khai tuyên bố. Thông bạch của ba Hòa thượng và một Thượng tọa quy trách nhiệm cho Viện Hóa Đạo và Văn phòng II Viện Hóa Đạo gây ra “đại nạn Phật giáo, không những gây chia rẽ trầm trọng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất mà còn ảnh hưởng đến phần lớn Tăng Ni của các Giáo hội và tổ chức Phật giáo khác tại hải ngoại”. Ông trả lời thế nào về cáo buộc này ?

Võ Văn Ái :

Bốn vị làm Thông bạch do hoảng hốt nên gắp lửa bỏ tay người đó thôi ? Tôi xin hỏi : Ai gây chia rẽ trầm trọng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ? Cộng sản chứ ai khác, từ cuộc bố ráp năm 1977 cho tới dựng lập Giáo hội Phật giáo Nhà nước năm 1981 làm công cụ cho Đảng Cộng sản. Và nay Cộng sản dùng các món lợi dưỡng lôi kéo một số Sư và Phật tử thi hành chiến thuật “Sư đánh Sư, Phật tử nện Phật tử”.

Lũng đoạn Phật giáo hải ngoại là Hòa thượng Thích Minh Tâm, chủ soái Nhóm Về Nguồn hợp đồng với nhóm Thân hữu Già Lam đánh phá GHPGVNTN chỉ vì GHPGVNTN không chịu thỏa hiệp với Cộng sản. Tôi nói có chứng cớ. Thời Hòa thượng Minh Tâm còn giữ chức vụ và còn là thành viên GHPGVNTN Hải ngoại, Hòa thượng đã không “sinh hoạt dân chủ như xã hội ngày nay”, Hòa thượng bất chấp Hiến chương Giáo hội và Nội quy Viện Hóa Đạo, khi tự ý triệu tập cuộc họp Tăng Ni hải ngoại ngày 6 và 7.1.2007.

Từ cuộc họp này, Hòa thượng cho thành lập một tổ chức mới mang tên “Tăng Ni Việt Nam Hải ngoại” và được bầu làm "Trưởng Ban Điều Hợp”. Đã có GHPGVNTN Hải ngoại tại các châu rồi thì tại sao lập tổ chức mới Tăng Ni Việt Nam Hải ngọại làm gì, nếu không là âm mưu phát triển thành các nhóm chống đối ở các các châu Âu, Mỹ, Úc, Canada, nhằm ly khai và đối đầu với GHPGVNTN Hải ngoại ? Tiếp đấy, nhóm “Tăng Ni Việt Nam Hải ngoại” tổ chức 3 ngày Về Nguồn (21, 22 và 23.9.2007) tại chùa Pháp Vân của Thượng tọa Tâm Hòa ở thành phố Toronto, Canada, chuẩn bị cho việc vận động chư Tăng Ni và Phật tử về Việt Nam tham dự Đại lễ Vesak LHQ 2008 do Hà Nội đăng cai tổ chức.

Từ 5 năm qua, chứ không phải mới đây, chùa Pháp Vân của Thượng tọa Tâm Hòa là pháo đài chửi bới, mạ lỵ chư Tăng, Cư sĩ thành viên của GHPGVNTN, bất kính với Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ. Tất cả những bài viết đều nặc danh, viết theo ngôn ngữ của nền văn hóa khạc nhổ Cộng sản tập trung đăng tải trên Trang Nhà chùa Pháp Vân.

Do nhận thức tính chất ly khai và phản bội GHPGVNTN của hai nhóm đồng hợp Về Nguồn và Thân hữu Già Lam, đồng bào Phật tử và đồng bào các giới thông qua các Cộng Đồng Tị nạn phản ứng chống đối mạnh mẽ. Vì động ổ nên Ngày Về Nguồn ở chùa Pháp Vân, Canada, bỏ dự tính công khai hóa tổ chức Phật giáo mới ở hải ngoại đối đầu với GHPGVNTN, nên quay ra giải thích Ngày Về Nguồn chỉ là Ngày Hiệp Kỵ nhớ ơn lịch đại tổ sư và chư vị hữu công. Năm ngoái, 2008, Hòa thượng Minh Tâm lại lặn lội sang Mỹ chỉ huy đại hội Về Nguồn tại chùa Bát Nhã ở Santa Anna trong các ngày 18, 19.9.

Sự kiện cụ thể này chứng minh rõ ai ly gián, ai phân hóa GHPGVNTN Hải ngoại, ai xé bỏ Hiến chương Giáo hội và ai phản tinh thần dân chủ trong sinh hoạt Phật giáo ?

Triều Thanh :

Nhưng tại Đại hội Về Nguồn tháng 9 năm ngoái ở chùa Bát Nhã, “Cộng đồng Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ” do Hòa thượng Thích Giác Nhiên đứng đầu với 15 vị, lại một lần nữa, trở về lấy lại danh xưng “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hoa Kỳ” là tại làm sao, thưa ông ?

Võ Văn Ái :

Dễ hiểu trên hai phương diện ý thức và chiến thuật. Ý thức thì chứng tỏ tập thể 15 vị Tăng ấy bị giật dây nên chẳng ý thức mình làm gì. Cho nên nay ly khai GHPGVNTN đổi tên thành “Cộng đồng Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ”. Rồi gần một năm sau lại trở về tiếm danh GHPGVNTN. Còn chiến thuật, thì những kẻ giật dây sau hậu trường thấy đỏ tưởng chín, tưởng là có thể lũng đoạn và thanh toán GHPGVNTN ở hải ngoại. Nào ngờ không thanh toán được, mà GHPGVNTN còn kiện toàn và phát triển. Điều họ bất ngờ là không tiên liệu sự tự phát mạnh mẽ của đồng bào Phật tử và đồng bào các giới trong Cộng đồng hải ngoại hậu thuẫn GHPGVNTN. Bởi thế các chiến thuật gia giật dây sau hậu trường mới chỉ thị đường lối mới : không phá được từ bên ngoài thì trở vào lại bên trong trường kỳ mai phục chờ thời cơ.

Phá từ bên ngoài là ly khai Giáo hội ra thành lập các nhóm Về Nguồn, Tăng Ni Việt Nam Hải ngoại, Thân hữu Già Lam. Còn trường kỳ mai phục bên trong là trở lại tiếm danh GHPGVNTN theo kiểu vừa thực hiện ở Úc trong cái đại hội trá hình gồm 12, 13 Tăng sĩ để thành lập cái gọi là “Văn phòng Điều hợp GHPGVNTN Liên châu” nhập nhằng đánh lận con đen.

Triều Thanh :

Ông nghĩ sao về số lượng 96 Tăng Ni và Phật tử tham dự đại hội Về Nguồn ở chùa Pháp Vân, thành phố Toronto bên Canada, năm 2007. Và nay nhích lên 104 Tăng Ni, Phật tử qua “Tuyên bố chung” của Hòa thượng Minh Tâm chống phá GHPGVNTN công bố ngày 9.9.2008 ?

Võ Văn Ái :

Đạo Phật là đạo của Trí tuệ và Từ bi, chưa bao giờ là đạo quân của những con số lính hay binh đoàn. 96 rồi 104 Tăng Ni, Phật tử chỉ là những con số, so với ba triệu người Việt hải ngoại có bao lăm ? Nhìn vào hai con số này người ta chỉ biết những tên quen thuộc của 15 vị ở Hoa Kỳ do Hòa thượng Thích Giác Nhiên cầm đầu, mà Hòa thượng Giác Nhiên thì ai cũng rõ mặt khi ngài đứng chụp hình trước Lăng ông Hồ Chí Minh nhân về dự Phật đản LHQ 2008 ở Hà Nội, ở Âu châu thì có các vị Minh Tâm, Tánh Thiệt, Như Điển, Úc châu thì các vị Như Huệ, Bảo Lạc, Quảng Ba. Đa số các vị kia chẳng ai biết họ là ai, họ chưa từng xuất hiện hay làm gì mấy mươi năm qua cho cuộc đấu tranh dân tộc đòi hỏi tự do tôn giáo và nhân quyền.

Hiện trạng các sư thuộc Giáo hội Nhà nước gửi ra nước ngoài gần đây hàng mấy trăm người, thì muốn có số trăm đâu khó. Vấn đề số trăm số nghìn không quan trọng bằng những con số ấy làm gì hữu dụng cho nhân sinh và đất nước. Năm 1981 cả nước chỉ có hai vị Đại sư đứng lên chống đối nhà nước độc tài Cộng sản là Hòa thượng Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Độ. Tôi xin hỏi : hai người là ít hay nhiều ?

Hồi Hòa thượng Minh Tâm tung bản “Tuyên bố chung” chống phá GHPGVNTN ngày 9.9.2008 với 104 chữ ký, có nhiều vị ở Âu châu nói với tôi là họ không hề được hỏi ý kiến, không hề được đọc Tuyên bố ấy. Các vị này nói Hòa thượng Minh Tâm để bừa tên họ vào cho đông thôi. Điển hình là Hòa thượng Thích Trí Minh điện thoại phản đối khi thấy tên ngài trong bản tuyên bố, nên mới được Hòa thượng Minh Tâm rút tên ngài ra. Nếu không, ta đã có 105 người. Trường họp 96 vị ở đại hội Về Nguồn bên Canada cũng thế. Có một số các vị Tăng Ni nói với tôi là nghe quảng cáo có Hòa thượng Thích Hộ Giác tham dự nên họ mới đến. Tới chùa Pháp Vân không thấy Hòa thượng Hộ Giác, mới vỡ lẽ là bị lừa.

Công tâm mà nói, 96 vị rồi lên 104 vị chẳng mang ý nghĩa gì. Vấn đề là chính nghĩa, là chất lượng, là chánh pháp chứ không là con số. Nhà cầm quyền Hà Nội không ngớt khoe Đảng và Nhà nước có tới 40.000 Tăng Ni phục vụ Đảng, và Đảng cai quản gần 20.000 ngôi chùa ở Việt Nam. Nhưng đó có là Chánh Pháp ? có là Phật giáo Việt Nam của hai nghìn năm lịch sử không ? Hỏi là đã trả lời.

Triều Thanh :

Thế thì xin ông cho biết chính nghĩa hay đường lối lập trường của bốn vị nói trên, nói khác đi, của Văn phòng Điều hợp của cái gọi là GHPGVNTN Liên châu đặt tại chùa Khánh Anh ở Pháp của Hòa thượng Minh Tâm là gì ?

Võ Văn Ái :

Xin hãy đọc Thông bạch của bốn vị phát hành tại Úc châu hôm 1.1.2009 tất rõ. Hiến chương GHPGVNTN mà họ bênh vực chỉ thu bé tối đa vào Lời Nói Đầu. Lời Nói Đầu mà họ đề cao thu nhỏ vào 7 chữ “phục vụ nhân loại và dân tộc” nhưng không cho biết nhân loại ở đâu và dân tộc nào.

Lập trường ghi trong Thông bạch rất đại khái. Tôi xin trích đọc :

Thứ nhất, “Đồng hành với nguyện vọng chung của Dân Tộc và Đất Nước, các Giáo Hội luôn đứng bên ngoài các tranh chấp chính trị và các thị phi thế tục. Phật Giáo quyết không làm công cụ cho bất cứ thể chế và các thế lực chính trị nào”.

Thứ hai, “Nếu các Giáo Hội cần lên tiếng thì chỉ là sự lên tiếng của những người con Phật với lý tưởng từ bi, trí tuệ, giải thoát, yêu chuộng công bằng và lẽ phải, mong đem lại an vui phúc lợi cho tha nhân, tuyệt nhiên không phải là của thế lực này đối đầu với thế lực khác”.

Đọc xong tôi xin bình luận vì sao tôi nói lập trường này rất đại khái, chẳng có gì mới lạ mà lại tối nghĩa nếu không là phản nghĩa. Câu thứ nhất nói trên tự nó đã mâu thuẫn với chính nó. Nói chí nguyện của ba Hòa thượng và một Thượng tọa là “Đồng hành với nguyện vọng chung của Dân Tộc và Đất Nước”, nhưng liền đó lại thụt lùi ba bước khi khẳng định bốn giáo hội Úc, Âu, Mỹ, Canada của ngài Minh Tâm là “các Giáo Hội luôn đứng bên ngoài các tranh chấp chính trị và các thị phi thế tục”.


Đứng bên ngoài, thì làm sao có thể “đồng hành với nguyện vọng chung của Dân tộc” ? Hóa ra Dân tộc mà bốn vị nhắc tới đang còn trên mặt trăng chăng ? Toàn thể dân tộc 85 triệu người hiện nay đang đối diện với nạn độc tài toàn trị gây thành tệ nạn khủng khiếp trong xã hội, đạo đức suy thoái, văn hóa suy đồi. Ấy là chưa kể tình trạng mất đất, mất biển, mất hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào tay Trung quốc. Nguy cơ mất nước là thao thức lớn của 85 triệu dân trong nước. Xin hỏi bốn vị “đồng hành” như thế nào trước nguyện vọng cầu cứu của 85 triệu người, khi các vị khư khư “đứng bên ngoài” ?

Câu thứ hai trong Thông bạch nói rằng “Nếu các Giáo Hội cần lên tiếng thì chỉ là sự lên tiếng của những người con Phật với lý tưởng từ bi, trí tuệ, giải thoát, yêu chuộng công bằng và lẽ phải, mong đem lại an vui phúc lợi cho tha nhân, tuyệt nhiên không phải là của thế lực này đối đầu với thế lực khác”. Đọc nghe toàn những chữ cao xa, vĩ đại, nào là lý tưởng, tử bi, trí tuệ, giải thoát, công bằng, lẽ phải… thực chất chỉ là một câu nói inh tai của cái thùng rỗng, vì nó vô nghĩa, vô tâm và vô nhân đạo. Có ai bắt các vị phục vụ thế lực này chống thế lực kia đâu ?


Nhưng có cái thế lực khổng lồ đang đè nén chình ình trên các ngôi chùa, thảm sát, đàn áp chư Tăng Ni, Phật tử trong nước, thì bốn vị làm gì đây để “đem lại an vui phúc lợi cho tha nhân” ? Vì các vị là trưởng tử của Như Lai, phát nguyện đi theo con Đường Phật để giáo hóa và cứu khổ chúng sinh, nên quần chúng Phật tử và quần chúng các giới mới yêu cầu các vị phải lên tiếng và hành động cứu nguy dân Việt ra khỏi ba thảm trạng làm cho đất nước điêu linh, nhân dân khốn khó, Phật giáo biến thành công cụ chính trị cho đảng Cộng sản. Bản thảm trạng ấy là :
1. Một chính quyền tự thị ;
2. Một chính quyền ly khai dân ;
3. Một chính quyền lệ thuộc nước ngoài, từ ý thức hệ đến cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, làm đảo lộn xã hội và nhân văn Việt.


Ngoài lập trường vu vơ, đại khái của bốn vị, phần “Dự định việc cần làm” trong Thông bạch cũng không thấy có chi mới. Điều mới mẽ nhất, nhưng có tính thụt lùi vào tháp ngà xa cách quần chúng khổ đau đang trầm thống kêu cứu. Đó là biến tất cả cuộc hành hoạt cao quý hai nghìn năm lịch sử Phật giáo vào việc cúng kiến Hiệp Kỵ như bốn vị đã thực hiện trong ba Ngày Về Nguồn tại pháo đài chùa Pháp Vân ở thành phố Toronto bên Canada tháng 9 năm 2007. Nay khẳng định lại trong Thông bạch của 4 vị như sau :

“Kế thừa tinh thần truyền đăng tục diệm, để làm tỏ rạng dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam, của chư vị Lịch Đại Tổ Sư hai ngàn năm qua. Do vậy, ngày Hiệp Kỵ Chư Tổ là ý nghĩa cao đẹp trên tinh thần phụng hành của Tăng đoàn”.

Triều Thanh :


Xin ông câu hỏi chót. Trong Thông bạch của bốn vị, từ phần dẫn nhập cho đến phần “Dự định việc cần làm”, bốn vị kết án, tôi xin trích : “một thiểu số cực đoan, lạm dụng danh nghĩa bảo vệ Phật Giáo, nhân danh đấu tranh chống cộng, tiếp tục bôi nhọ, vu hãm, gây rối các sinh hoạt tu tập và hoằng pháp của Tăng Ni tại các tự viện hải ngoại, khiến cho nhiều Phật tử mới vào đạo phải hoang mang, ngờ vực, thối thất tâm bồ đề”. Ông có đồng tình với lời kêu gọi hay tố cáo này không ?

Võ Văn Ái :

Tôi không đồng ý vì ba lẽ. Một là các văn kiện, phát ngôn của Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, chưa hề có một lời lẽ nào “bôi nhọ, vu hãm, gây rối các sinh hoạt tu tập và hoằng pháp của Tăng Ni tại các tự viện hải ngoại”. Trái lại, dưới các ngòi bút nặc danh trong các nhóm Về Nguồn, Tăng Ni Việt Nam Hải ngoại và Thân hữu Già Lam tung lên mạng Internet hàng chục bài chửi bới tục tằng, vu hãm nhân sự trong GHPGVNTN thì có. Ở đây chúng ta chứng kiến nỗi buồn của thời đại khi thấy ngôn ngữ từ hòa Phật giáo của chư Tăng, Phật tử được cải tạo theo nền văn hóa chửi bới của Cộng sản, xuống cấp thành thứ ngôn ngữ khạc nhổ, thứ ngôn ngữ chợ trời.

Hai, là bốn vị khinh miệt quần chúng cư sĩ và khinh thường sự phê phán của đồng bào các giới trong Cộng đồng tị nạn. Tôi có đọc trên mạng Internet một số bài viết của đồng bào các giới không là thành viên của GHPGVNTN. Những vị này, vì tấm lòng hào hiệp đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ, họ hậu thuẫn Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ cũng như hậu thuẫn Giáo chỉ số 9 của Giáo hội. Chẳng hạn như sự lên tiếng công khai của Cộng đồng Người Việt Tự do Úc châu, Cộng đồng Người Việt Nam California, Cộng đồng Á châu, Tuyên cáo của Ủy ban phối hợp đấu tranh yểm trợ Quốc nôi ở miền Đông Hoa Kỳ, v.v…


Do tấm lòng hào hiệp này, có một số bài thống trách các giáo hội ly khai và tiếm danh của các vị Như Huệ, Minh Tâm, Trí Chơn, Bổn Đạt. Một số bài khác đưa chứng cớ về vấn đề hủ hóa phụ nữ của một số Hòa thượng, Thượng tọa trong bốn châu. Nếu các bài viết phê phán, từ lập trường dân tộc đến đạo hạnh cá nhân của các vị không đúng, xin các vị có văn thư minh thị không đúng ở chỗ nào. Tiến xa hơn nữa, các vị có thể dùng luật pháp để minh thị. Thay vì làm như thế, các vị im lặng trước các lời chất vấn, lại có tố cáo ngược đồng bào “bôi nhọ, vu hãm, gây rối”. Thế là không thuyết phục.

Thứ ba, là bốn vị coi thường nếu không nói khinh miệt ba triệu người Việt nước ngoài khi hạ bút viết rằng “nhân danh đấu tranh chống cộng, tiếp tục bôi nhọ, vu hãm, gây rối các sinh hoạt tu tập và hoằng pháp của Tăng Ni”. Làm gì có chuyện đó ?! Chống Cộng là điều xấu xa, sai lạc hay sao ? Thế Cộng sản trong nước thảm sát, đàn áp các sinh hoạt tu tập và hoằng pháp của Tăng Ni thì bốn vị tính sao ? Các vị làm gì trước thực tế ấy ? Không làm gì, thì cứ tụ thủ bàng quang như lâu nay, nhưng tại sao quay ra tố cáo các Cộng đồng chống Cộng đang hậu thuẫn Phật giáo ?

Không, không thể hồ đồ cả vú lấp miệng em như vậy được.

Triều Thanh :

Xin cám ơn ông Võ Văn Ái và xin hẹn quý thính giả ở Câu Chuyện Cuối Tuần vào thứ Sáu tuần tới, cũng vào giờ phát thanh này.

http://www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=1178

Cộng sản nhiều tiền, nhiều lính, có thể huy động hàng trăm, hàng ngàn công an đóng vai sư để lừa bịp nhân dân trong nước và quốc tế. Nay mai có thể chúng lập một giáo hội ma có hàng ngàn tu sĩ ký tên Thích Trung Cộng, Thích Đô La, Thích Bán Nước, Thích Cướp Đất, Thích Dâm Dục, Thich Gian Ác . . ra đời để đánh phá hải ngoại. Chúng đã đưa hàng ngàn công an, gián điệp và tay sai ra hải ngoại, việc đánh phá, uy hiếp, lừa bịp không khó. Tuy chúng mạnh, chư tăng chân chính và bất khuất cùng đồng bào Phật tử yêu Tổ Quốc, yêu Nhân Dân và Đạo Pháp vẫn anh dũng tranh đấu chống cộng sản độc tài phản quốc hại dân.

Trong nước,Hòa Thường Huyền Quang và Quảng Độ đã nêu gương sáng , tranh đấu không lùi bước dù tuổi già sức yếu. Nay hoà thượng Huyền Quang viên tịch, hòa thượng Quảng Độ và Không Tánh vẫn cương quyết cứu nguy Dân Tộc và Đạo Pháp.Tại hải ngoại, những tăng ni chân chính, những cư sĩ thuần thành như hòa thượng Hộ Giác, Chánh Lạc, Viên Lý, Võ Văn Ái và hàng hàng lớp lớp đồng bào hải ngoâi yêu tự do dân chủ và Phật Tử yêu Tổ Quốc, trọng Chánh Pháp đã thể hiện tinh thần Bi Trí Dũng chống lại cộng sản dù cộng sản đánh phá, xuyên tạc. . ..

Tinh thần Phật giáo bất diệt. Lớp này ngã xuống, lớp khác lại đứng lên, công cuộc chiến đấu chống cộng sản không bao giờ ngừng cho đến khi nào dân ta được giải phóng khỏi ách cai trị của cộng sản. Đồng bào Phật tử và chư tăng ni chân chính kết đoàn với các tôn giáo bạn như Thiên Chúa giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành và anh em Phật giáo Tây Tạng quyết chống lại ách thống trị cộng sản.



Hòa Thượng Thích Không Tánh là một vị lãnh đạo Phật giáo Việt Nam Thống nhất kề cận hòa thượng Quảng Độ. Phóng viên đài SBTN đã phỏng vấn Hòa Thượng Thích Không Tánh tại Sài Gòn ngày8-3-2009. Hòa thượng đã tố cáo âm mưu cộng sản đã dùng một số công an nằm vùng và giáo gian hải ngoại để đánh phá Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất ( 3-8-2009 Chuyen Chua Ai Biet - Phong Van Hoa Th... ) Cuộc phỏng vấn gồm ba phần, xin nghe cuộc đối thoại tại các địa chỉ:
http://www.youtube.com/v/4__t6IlcmvI&hl=en&fs=1

http://www.youtube.com/watch?v=4__t6IlcmvI

Hoặc xem tại:
http://vanhoavn.blogspot.com/2009/03/tin-tuc-phat-giao-viet-nam-thong-nhat.html
http://son-trung.blogspot.com/2009/03/tin-tuc-phat-giao-viet-nam-thong-nhat.html



Nay đài Phát thanh Phật giáo đã nói lên tiếng nói bất khuất và oai hùng của Phật giáo Việt Nam . Xin chư vị nghe chương trình phát thanh Phật giáo vào thứ sáu hàng tuần

http://daiphatgiao.free.fr/listen/2009-03-13.html




Cộng sản và dân chủ tự do , cộng sản và trí thức, cộng sản và tôn giáo là những thế lực đối chọi nhau vì chánh và tà bất lưõng lập. Những ai đi ngược lại chân lý này tức là những kẻ gian trá, cộng sản đội lốt tu hành, hoặc trí thức cam tâm làm nô lệ, hoặc kẻ gian ác bán nước hại dân.


==

RFA *CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT




CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT

TÀI LIỆU ĐÀI RFA

Cuộc cải cách ruộng đất 50 năm trước đây tại miền bắc (Bài 1)
2006-05-15
Nguyễn An, phóng viên đài RFA



Thưa quý thính giả, kể từ hôm nay, và liên tiếp trong chín buổi phát thanh, ban Việt ngữ đài Á châu tự do xin gửi đến quý thính giả loạt bài về cuộc Cải Cách ruộng đất diễn ra đầu thập niên 1950 tại miền bắc Việt Nam. Loạt bài do Nguyễn An thực hiện. Mời quý thính giả theo dõi bài thứ nhất qua sự trình bày của Phương Anh.


Bấm vào đây để nghe bài này
Download story audio
Hình ảnh được trưng bày tại Triển lãm cải cách ruộng đất tổ chức tại Hà Nội từ tháng 3 đến tháng 5/1956.
50 năm trước, tại miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam, tức là đảng Cộng sản sau này, đã diễn ra một cuộc cách mạng được chính những người phát động mô tả là “long trời lở đất”. Đó là cuộc cải cách ruộng đất.

Nói đúng ra thì năm 1956 chỉ là năm cuối của giai đoạn 5, tức cũng là giai đoạn cuối của cuộc cải cách ruộng đất đã bắt đầu bẩy năm trước đó. Tuy nhiên, mốc thời gian này đáng nhớ thứ nhất vì cuộc cải cách ruộng đất đến năm đó đã đụng trần, với những án tử hình thi hành tại chỗ, những án tù dài hạn, mà hầu hết nạn nhân đều chết trong khi đang bị giam cầm, và một bầu không khí nặng nề, đe doạ đã lan rộng khắp nơi, khiến ngừơi dân phải chìm đắm trong nỗi e sợ mênh mông.
“Đào tận gốc, trốc tận rễ”

Thống kê chính thức của nhà nước được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam tập hai cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông, là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” nghĩa là không bị bắn tại chỗ thì cũng bị lãnh án tù rồi chết trong nhà giam.

Con số này có thể không chính xác, nhưng số nạn nhân quyết không thể thấp hơn thế được vì nó được ghi trong Văn kiện đảng toàn tập do nhà xuất bản chính trị quốc gia ấn hành, và vì nó không nói gì đến những người bị kết án là Quốc Dân đảng thừơng thì bị bắn ngay tại chỗ. Trong số này, có cả những đảng viên Cộng sản trung kiên, mà trước khi chết vẫn còn hô to khẩu hiệu, đảng Cộng sản muôn năm.


Năm 1956 cũng là năm mà ông Hồ Chí Minh và đảng Lao động công khai lên tiếng nhận sai sót trong quá trình thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, rồi thực hiện một số biện pháp kỷ luật và tiến hành sửa sai. Bản thống kê chính thức cho biết là trong số 172.008 ngừơi bị quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất thì 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 71,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế.
Nhà thơ Tố Hữu lúc bấy giờ là trưởng ban tuyên truyền trung ương đảng sau này nhớ lại đã phải nói: “Không thể tả hết được những cảnh tượng bi thảm mà những người bị quy oan là địa chủ, ác bá (mà trong thực tế là trung nông) phải chịu đựng ở những nơi được phát động.”
Bạn nghĩ gì về cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam và những hậu quả của chính sách này? Xin email về Vietweb@rfa.org




Lời dặn “nhân ái”

Trong “Nội san cải cách ruộng đất” số ra ngày 25 tháng hai năm 1956, có đăng toàn văn lời căn dặn của ông Hồ Chí Minh rằng: “Nhục hình là lối dã man” và “ tuyệt đối không được dùng nhục hình, nếu dùng nhục hình là trái chính sách của đảng, của chính phủ, trái tác phong của cách mạng.”
Căn cứ trên thời gian phát hành của báo, thì lời căn dặn “nhân ái” này được đưa ra bốn năm sau khi bắt đầu thực hiện thí điểm, và chỉ ba tháng trước khi cuộc cải cách ruộng đất chấm dứt bằng đợt sửa sai. Khi đó, nhục hình đã phổ biến khắp nơi và sự sợ hãi đến mụ mẫm cả người đã bao trùm toàn lãnh thổ.


Cũng xin nhắc rằng ngay từ khi thực hiện thí điểm, địa chủ đã bị xác định là kẻ thù của nhân dân, như lời ông Nguyễn Minh Cần, nguyên phó chủ tịch thành phố Hà nội kể lại: "Trước đây, chúng ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, nhưng bây giờ thì không phải như vậy rồi. Bây giờ thì địa chủ không phải là nhân dân. Nhân dân chỉ là nhân dân thôi, còn địa chủ thì không phải, đó là những ngừơi chống lại nhân dân, là kẻ địch của nhân dân."

Không chỉ những nạn nhân đau đớn, mà gia đình họ cũng chịu hoạ lây vì bị xã hội cô lập theo chính sách của đảng. Không chỉ gia đình của những người bị kết tội địa chủ phải chịu nhục nhằn, mà những cảnh tượng diễn ra hàng ngày ở mọi nơi những năm đó vẫn còn in dấu cả mấy chục năm sau nơi những chứng nhân.


Ngay trong đề cương báo cáo của bộ chính trị đảng năm 1956 mỗi khi nói đến các cuộc thanh trừng thời cải cách ruộng đất cũng đều phải dùng hình dung từ “tàn khốc” để nói lên những gì xẩy ra hàng ngày, hàng giờ tại miền bắc trong suốt mấy năm trời cao điểm của Cải cách ruộng đất.
Nhà văn Dương Thu Hương trong cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Đinh Quang Anh Thái của Little Saigon Radio mới đây vẫn còn nhắc lại: "Đối với tôi, lý tưởng Cộng sản là một cái gì đó khủng khiếp và xa lạ. Vì ngay trứơc cổng nhà tôi là một người chết treo năm cải cách ruộng đất, và tám tuổi, tôi đã phải đi theo các đoàn học sinh để chứng kiến những cụôc đấu đá địa chủ. Sau lưng nhà tôi, đừơng tàu, cũng là xác một ngừơi tự tử chết bằng cách tự đặt cổ mình vào đường ray. Khi tôi tám tuổi, buổi sáng tôi đi tưới rau, tôi đã thấy những ngừơi chết đó, và điều đó làm cho tôi vô cùng khủng khiếp."



Và nhà văn Trần Mạnh Hảo cũng trong một cuộc phỏng vấn của ký giả Đinh Quang Anh Thái, khi nói lên lý do tại sao ông muốn từ bỏ chủ nghĩa Mác đã phát biểu: "Tôi nhận ra cái điều này cũng lâu rồi, mà nhận từ từ, bởi vì tôi đã đựơc chứng kiến cụôc cải cách ruộng đất ở ngoài miền Bắc mà gia đình tôi là nạn nhân. Tôi thấy nó rất là khủng khiếp. Tôi không hiểu cái chủ nghĩa gì mà nó chỉ có một biện pháp duy nhất là trấn áp ngừơi ta, mang người ta ra đấu tố và bắn bỏ ngừơi ta, mà không có xét xử công minh, cũng không có bằng cớ gì cả. Cuộc cải cách ruộng đất là một cuộc diệt chủng như là Pon Pot và Yeng Sari (đã làm bên xứ chùa Tháp) mà thời đó tôi đã chứng kiến.
Gia đình nhà tôi may mắn là ông nội tôi và các chú các cô, toàn bộ đã di cư vào nam. Bố tôi là con trưởng nên phải ở lại để giữ đất, cho nên không di cư đựơc, phải gánh chịu cái tai hoạ của ông nỗi cũng như các chú, một mình phải chịu trận, cho nên rất là khổ."


Còn nhà văn Vũ Thư Hiên mới đây, khi nói chuyện về cuộc cải cách ruộng đất với đài Á châu tự do, đã nhớ lại lời bà cô của ông dặn dò như sau: "Tôi có một bà cô ruột ấy, chồng bà cũng bị đấu, mà ông ấy là chủ nhiệm Việt Minh của một xã, mà lại có chân trong Liên Việt huyện, Liên Việt tức là Mặt Trận Tổ Quốc bây giờ. Ông ấy bị đấu, bị giam trong chuồng trâu chuồng bò, nói chung là khổ lắm, rồi ăn uống kém cỏi, đến lúc đựơc thả về nhà thì ông ấy chết, chết tại nhà. Bà cô tôi chỉ nói, cháu ạ, mình phải lựa bạn mà chơi. Cái bọn Cộng sản nó gian ác và bất nhân lắm đấy. Tôi nói, nhưng bố cháu là Cộng sản cơ mà! (Bà cô trả lời) Thì bố cháu không hiểu, bố cháu mới đi với bọn ấy."


Vết thương chưa lành


Cuộc cải cách ruộng đất chấm dứt 50 năm trước đây quả nhiên vẫn còn là một vết thương chưa lành đối với quá nhiều con người dù có trực tiếp là chứng nhân hay không. Đáng tiếc là những sách báo viết về giai đoạn ấy quá ít, lại thường bị tịch thu ngay sau khi phát hành, và dù 50 năm đã qua đi, thì cải cách ruộng đất vẫn còn là một đề tài cấm kỵ, trong khi những chứng nhân cứ già đi và chết đi dần.
Đó là lý do khiến ban Việt ngữ đài Á châu tự do chúng tôi quyết định thực hiện một loạt bài về cuộc cải cách ruộng đất để vẽ lại bức tranh thực xẩy ra của một thời mà không ai không xót xa khi nhớ lại.


Loạt bài sẽ bắt đầu với nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng. Ông sẽ điểm lại tám đợt phát động quần chúng giảm tô và 5 đợt cải cách ruộng đất kéo dài suốt bẩy năm kể từ năm 1949. Sau đó, là lời kể lại của ông Nguyễn Minh Cần là người từng trực tiếp tham gia đoàn cải cách ruộng đất cũng như công tác sửa sai.


Xen kẽ sẽ là lời kể của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện từng chứng kiến từ đầu đến cuối một phiên xử của toà án nhân dân, của ông Trần Anh Kim có ông nội và bố đều là nạn nhân của Cải cách ruộng đất, lời kể của nhà văn Vũ Thư Hiên khi ông có dịp qua những nơi đã diễn ra cuộc cách mạng được gọi là “long trời lở đất” ấy, của nhạc sĩ Trịnh Hưng là người bạn chí cốt của nhà thơ Hữu Loan, tác giả màu tím hoa sim, vốn là người mà những biến chuyển của đời sống gắn liền với cuộc cải cách ruộng đất.

Trước khi bắt đầu vào loạt bài cải cách ruộng đất kể từ buổi phát thanh tới, ban Việt ngữ trân trọng cảm ơn các vị vừa nêu tên đã nhiệt thành cộng tác và giúp đỡ chúng tôi trong cố gắng lật lại bộ hồ sơ đầy oan khuất này.


Quý thính giả vừa nghe bài đầu tiên trong loạt chín bài về cuộc Cải cách ruộng đất diễn ra tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước. Trong buổi phát thanh tới, nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng sẽ nói về các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất kéo dài từ năm 1949 đến 1956. Mong quý thính giả đón nghe.


==

Các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất (phần 2)
2006-05-16
Nguyễn An, phóng viên đài RFA
Bài 2: Phỏng vấn nhà nghiên cứu Sử Trần Gia Phụng (phần 1)
Bấm vào đây để cuộc phỏng vấn này
Download story audio


Hìnhbìa cuốn sách "Án tích Cộng Sản Việt Nam" của nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng
Mở đầu loạt bài về cuộc cải cách ruộng đất diễn ra tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước đây, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả cuộc phỏng vấn của BTV Nguyễn An với nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng về các giai đoạn của cuộc Cải Cách Ruộng đất bắt đầu từ năm 1949 và chấm dứt vào năm 1956. Ông Trần Gia Phụng hiện đang sinh sống tại Canada.



Ông Trần Gia Phụng đã tốt nghiệp khoa sử địa đại học sư phạm Huế và cử nhân giáo khoa Sử đại học Văn khoa Huế năm 1965. Trong vòng 10 năm trở lại đây, ông đã xuất bản 14 đầu sách nghiên cứu về Sử, trong đó liên quan đến chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam có các cuốn, Án tích Cộng Sản Việt Nam xuất bản năm 2001 và Lột trần huyền thoại Hồ Chí Minh xuất bản năm 2003.
Nguyễn An: Trước hết, xin anh cho biết bối cảnh và mục đích của cuộc cải cách ruộng đất.
Ông Trần Gia Phụng: Muốn nói đến bối cảnh và mục đích của cuộc cải cách ruộng đất thì có lẽ chúng ta phải bắt đầu từ đầu. Tức là bắt đầu từ cuộc chiến tranh 46-54. Cuộc chiến tranh này có thể chia ra làm hai giai đoạn: từ 46-49 và từ 49-54.


Năm 1949 là năm cần phải chú ý, thưa anh, là vì năm này có hai sự kiện quan trọng. Sự kiện thứ nhất là chính phủ Bảo Đại ra đời sau hiệp định Élysée năm 1949. Thứ hai là nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập vào 1/10/1949. Khi chính phủ Bảo Đại được thành lập, nhiều người rời bỏ chiến khu để về thành thị sinh sống theo chính phủ Bảo Đại.


Ngoài hậu quả chính trị, thì việc trở về thành thị làm cho Việt Minh mất đi nguồn nhân lực, nhất là thiếu thanh thiếu niên để đưa vào bộ đội. Còn về phía Trung Hoa, khi mà Đảng CS lên cầm quyền ở Trung Hoa thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thì Trung Hoa viện trợ cho Việt Minh vũ khí và vừa cả nhân sự nữa. Cho nên Việt Minh chuyển từ du kích chiến qua vận động chiến mở những trận đánh lớn chống Pháp. Thành ra, năm 1949 mà mốc giới quan trọng trong chiến tranh Việt Nam.


Ngoài ra, nếu tính từ năm 1946 chiến tranh đã xảy ra cho đến năm 1949 (chiến tranh đã xảy ra 3 năm) thì dân chúng tản cư từ vùng này sang vùng khác, hoặc là bỏ vùng quê ra thành thị sinh sống nên có nhiều đất đai bỏ hoang, không canh tá. Vì vậy mà Việt Minh mở cuộc cải cách ruộng đất để giải quyết hai nhu cầu trên của họ.
Nguyễn An: Thưa, nhu cầu thứ nhất là thiếu người, và nhu cầu thứ hai là...
Ông Trần Gia Phụng: Lương thực cho bộ đội.
Nguyễn An: Thế như vậy cuộc cải cách ruộng đất như anh vừa nói thì có thể coi như bắt đầu từ năm 1949?


Ông Trần Gia Phụng: Dạ vâng!
Nguyễn An: Và nó kéo dài đến năm 1956, như vậy nó qua bao nhiêu giai đoạn?
Ông Trần Gia Phụng: Thưa anh, nó qua tất cả là 5 giai đoạn.
Nguyễn An: Thưa, là những giai đoạn nào?
Ông Trần Gia Phụng: 5 giai đoạn này bắt đầu là nó được đánh dấu bằng sắc lệnh cải cách ruộng đất. Thứ nhất là từ năm 1949, năm này để khuyến khích nông dân ra sức cày bừa thì nhà cầm quyền Việt Minh ra sắc lệnh để thành lập hội đồng giảm tô. Họ ấn định rằng các chủ đất phải giảm tối thiểu và đồng bộ tiền thuê đất (tô tức là tiền thuê đất) cho tá điền (tức là nông dân cày ruộng). Có nơi giảm đến 35% tiền thuê đất.


Sau đó, thông tư liên bộ của năm 1949 đưa ra nguyên tắc chủ yếu về phân chia tạm thời ruộng đất cho nông dân mà những ruộng đất này họ tịch thu được từ điền chủ của người Pháp, từ điền chủ là những người mà Việt Minh gọi là Việt gian, tức là những người mà Việt Minh kết tội thông Pháp hoặc là những người không cộng tác với Việt Minh.
Bạn nghĩ gì về cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam và những hậu quả của chính sách này? Xin email về Vietweb@rfa.org

Nguyễn An: Thưa, giai đoạn này kéo dài bao lâu ạ?
Ông Trần Gia Phụng: Thưa, giai đoạn này cũng chỉ trong năm 1949 thôi! Bởi vì trong năm 1950 đã thay đổi. Sắc lệnh ngày 12 tháng 2 năm 1950 tổng động viên toàn bộ nguồn nhân lực (tức là người), vật lực (gia súc và nông cụ) và tài lực (tức là tiền bạc) cho tổ quốc.
Trong năm 1950 này, xuất hiện cùng một lúc 2 sắc lệnh, cùng một ngày nữa. Sắc lệnh thứ nhất là xoá bỏ tất cả các hợp đồng vay nợ giữa tá điền và điền chủ ký kết trước năm 1945 và xoá bỏ các hợp đồng ký sau năm 1945 nếu con nợ đã trả đủ 100%
Nguyễn An: Như vậy, cả lãi lẫn vốn đã trả rồi mà bằng cái số vốn vay ban đầu thì xoá luôn?

















Ông Trần Gia Phụng: Dạ, xoá luôn! Cùng sắc lệnh thứ hai đó là quốc hữu hoá tất cả những đất đai bỏ hoang trong 5 năm liên tục, thì sẽ những đất đai này lấy và chia lại cho nông dân. Nhưng mà ngang đây, tức là năm 1950 thì nó có những sự kiện quan trọng mà cái quan trọng nhất là ông Hồ Chí Minh qua thăm Bắc Kinh tháng 1/1950 rồi qua thăm Mạc Tư Khoa.
Trong cuộc gặp gỡ tại Mạc Tư Khoa giữa ông Hồ và Stalin, thì Stalin thúc bách ông Hồ thực hiện 2 việc: việc thứ nhất là ông Hồ phải tái công khai Đảng CS, và việc thứ hai là ông Hồ phải đẩy mạnh cuộc cải cách ruộng đất theo đường lối CS. Để chuẩn bị cho việc cải cách ruộng đất thì ông Hồ mở phong trào chỉnh huấn theo đường lối của CS Trung Hoa
Nguyễn An: Và sau chuyến đi của ông Hồ thì bắt đầu cho giai đoạn 3 chăng?

Ông Trần Gia Phụng: Dạ vâng! Thì sau đó chuẩn bị bắt đầu cho giai đoạn 3. Trước giai đoạn 3, ông Hồ đã cử phái đoàn sang Trung Họa để học khoá học về chủ nghĩa Mac-LeNin ở Bắc Kinh. Nhưng thật sự ra đó là học về phương thức cải cách ruộng đất theo đường lối của Trung Cộng. Và phái đoàn này trở về thì đượcĐảng CS tổ chức gởi thí điểm tất cả các nơi ở Bắc và Bắc Trung Việt; còn ở trong Nam cũng có nhưng mà ở những miền sâu, còn những miền bán Bình Nguyên là những miền đồng bằng gần với các tỉnh thì ít thấy xuất hiện.


Nguyễn An: Thưa, như vậy thì giai đoạn 3 kéo dài bao lâu và đặc điểm của nó là gì?
Ông Trần Gia Phụng: Nó bắt đầu bằng sắc lệnh ngày 20 tháng 4 năm1953 đăng trên công báo của Việt Minh. Đặc điểm của nó là ngoài luật lệ thêm vào thì luật mới là quyết định tịch thu tất cả tài sản của đế quốc Pháp, của Việt gian, của địa chủ ác ôn. Và nó có một đặc điểm nữa đó là giai đoạn 3 này bắt đầu thành lập uỷ ban Nông Nghiệp các cấp.


Ủy ban Nông Nghiệp trung ương do thủ tướng đứng đầu, và ở các thành phố đến cấp xã cũng có uỷ ban Nông Nghiêp Và bắt đầu thấy xuất hiện những cuộc đấu tố. Nhưng mà khi đó bắt đầu sửa soạn hội nghị Geneva, cho nên Việt Minh nhẹ tay để tránh làm xôn xao dư luận.
Thế còn qua giai đoạn 4 là nó bắt đầu quy định toà án nhân dân để xét xử những thành phần chống lại cuộc cải cách ruộng đất. Nhưng mà giai đoạn 4 mới tiến hành thì xảy ra hiệp định Geneva. Tuy có toà án nhân dân nhưng chưa xảy ra vụ đấu tố rùng rợn như sau năm 1954.
Quý thính giả vừa nghe phần đầu cuộc trao đổi giữa BTV Nguyễn An của ban Việt ngữ và nhà nghiên cứu Sử Trần Gia Phụng về các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất diễn ra tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước đây. Trong chương trình phát thanh tới, cuộc trao đổi sẽ tập trung vào giai đoạn 5, cũng là giai đoạn cuối, đầy máu và nước mắt của cuộc Cải cách ruộng đất. Mong quý thính giả đón nghe.
Thông tin trên mạng:
- Trang web có những hình ảnh về Cuộc cải ruộng đất


==

Giai đoạn cuối của cuộc cải cách ruộng đất (phần 3)2006-05-17
Nguyễn An, phóng viên đài RFA
Bài 3: Phỏng vấn nhà nghiên cứu Sử Trần Gia Phụng (phần 2)
Bấm vào đây để cuộc phỏng vấn này
Download story audio

Hìnhbìa cuốn sách "Án tích Cộng Sản Việt Nam" của nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng
Kỳ trước, chúng tôi đã gửi đến quý thính giả phần đầu cuộc phỏng vấn của biên tập viên Nguyễn An với nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng về các giai đoạn của cuộc Cải Cách Ruộng đất bắt đầu từ năm 1949. Nay xin gửi đến quý vị phần thứ hai của cuộc phỏng vấn, nói về giai đoạn 5 và cũng là giai đoạn cuối đầy máu và nước mắt của cuộc cải cách ruộng đất.
Ông Trần Gia Phụng hiện đang sinh sống tại Canada. Ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Huế khoa Sử địa và cử nhân giáo khoa Sử đại học Văn Khoa Huế năm 1965. Trong vòng 10 năm trở lại đây, ông đã xuất bản 14 đầu sách nghiên cứu về Sử, trong đó liên quan đến chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam có các cuốn, Án tích Cộng Sản Việt Nam xuất bản năm 2001 và Lột trần huyền thoại Hồ Chí Minh xuất bản năm 2003.


Ông Trần Gia Phụng: Ngày 14 tháng 6 năm 1955, ông Hồ Chí Minh mới ký sắc luật về cải cách ruộng đất đợt 5, sắc luật ngày 14 tháng 6 năm 1955, tuy dựa trên căn bản của hai sắc lệnh năm 1953, nhưng mà họ còn có những hành động gắt gao hơn là thành lập cái ủy ban cải cách ruộng đất từ trung ương do Trường Chinh cầm đầu, rồi ở mỗi địa phương họ thành lập những đội cải cách ruộng đất, rồi họ thành lập tòa án nhân dân, thì cái giai đoạn này chính là thảm họa của nông dân Bắc Việt.

Tòa án nhân dân là cái công cụ để thanh lọc hàng ngũ nông thôn, truy xét tận gốc rễ lý lịch của tất cả cái thành phần nông thôn, và đồng thời tòa án nhân dân cũng là cái công cụ để tiêu diệt tất cả những thành phần lãnh đạo xã hội cũ.
Nguyễn An: Tất cả những thảm kịch đó xảy ra là trong đợt 5, thưa anh tại sao cuộc cải cách ruộng đất lại dừng lại năm 1956? Có phải là vì họ đã đạt dược mục đích không hay là bởi có quá nhiều lời kêu ca, có quá nhiều trường hợp oan ức cho nên họ phải dừng lại?


Ông Trần Gia Phụng: Đây là một câu hỏi lý thú, lý thú là vì cái chỗ này này: Đứng trên quyền lợi dân tộc, đứng trên lập trường của đại đa số quần chúng Việt Nam, nghĩa là đứng trên lập trường của một người Việt Nam thì rõ ràng ai cũng thấy là CSVN sai lầm trong cải cách ruộng đất, nhưng đứng trên quyền lợi của đảng CSVN, của thiểu số chóp bu trong đảng, họ không sai lầm. Đứng về phương diện chuyên môn nông nghiệp, cuộc cải cách ruộng đất không thúc đẩy được nông nghiệp phát triển, không thăng tiến được đời sống nông dân mà còn làm tan nát nền nông nghiệp cổ truyền ở ngoài Bắc và đưa mọi người vào cảnh nghèo đói.


Tuy nhiên, đứng trên quan điểm của đảng CS thì họ đã thành công trong cải cách ruộng đất. Hồ Chí Minh và đảng CS phải chấm dứt cái đợt cải cách ruộng đất năm 1956 vì hai lẽ. Lẽ thứ nhất là vấn đề nội bộ Bắc Việt là cuộc cải cách ruộng đất đã đạt được những mục tiêu chính trị của họ. Cái mục tiêu chính trị của họ là gì?


Mục tiêu chính trị của họ, thứ nhất là xóa bỏ cái cái giới hào mục lãnh đạo hạ tầng cơ sở ở nông thôn và thay vào đó là lớp lãnh đạo mới là những đảng viên CS, cái mục tiêu chính trị nữa là họ chận đứng sự trà trộn của những điệp viên địch thủ trong dân chúng, họ xóa bỏ toàn bộ nền văn hóa cổ truyền nổi tiếng là bảo thủ từ bao nhiêu đời ở nông thôn, họ thay thế bằng cái chủ trương của CSVN theo chủ nghĩa Mác xít.


Ngoài ra, cái liều lượng khủng bố của CS đối với nông dân trong cuộc cải cách ruộng đất đợt 5 đủ để khuất phục nông dân, đủ để làm cho nông dân khiếp sợ, làm cho họ ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, sống luôn luôn trong sự sợ hãi tột cùng và ghép họ vào trong khuôn phép CS, ổn định một cách kiên cố hạ tầng cơ sở xã hội nông thôn miền Bắc. Nhưng nếu làm quá đi, đẩy họ đến cùng thì nông dân họ sẽ nổi dậy như vụ ở Quỳnh Lưu, Nghệ An tức là quê hương của ông Hồ Chí Minh năm 1956 và ông Hồ Chí Minh phải điều động cả một sư đoàn tới đó mới dẹp yên.

CSVN đã đạt được cái mục đích là tiêu diệt cũng như là xóa sạch những cái thành phần “phản động” ở nông thôn, đưa nông dân vào hợp tác xã do nhà nước quản lý, lấy lại cái đất đai mà lâu nay đã cấp cho nông dân hoàn toàn làm chủ cái phương tiện sản xuất nông nghiệp, quản lý cái kho lúa gạo trên toàn miền Bắc, áp đặt và củng cố vững vàng cái chính sách chỉ huy nông nghiệp, thì ông Hồ Chí Minh và đảng của ông ta, đảng CS lúc đó có cái tên là đảng Lao Động ngưng cuộc cải cách ruộng đất để quay qua ổn định tình hình ở thành phố. Tôi nói như vậy đó là đứng trên phương diện nội bộ Bắc Việt.


Nguyễn An: : Anh vừa dùng chữ nội bộ Bắc Việt, như vậy thì yếu tố thứ hai chắc phải là từ bên ngoài vào?
Ông Trần Gia Phụng: Dạ vâng, thứ hai là trên bình diện quốc tế, cái này mình phải chú ý, bởi vì phải đặt cái tình hình Việt Nam trong toàn bộ cái tình hình CS và toàn bộ tình hình thế giới. Trên cái tình hình quốc tế thì lúc đó ở tại Nga, nhà độc tài Stalin chết năm 1953, thì trong cuộc tranh giành quyền lực đấu đá với nhau, ông Khrushốp trồi lên và nắm được chính quyền, nắm được đảng CS và trong đại hội lần thứ 20 của đảng CS Liên Sô năm 1956 tại Moscow thì Khrushốp đã đọc một bài diễn văn nảy lửa kể hết tội lỗi độc tài, tàn ác, tôn sùng cá nhân của Stalin, cái bài diễn văn này làm cho cả thế giới kinh ngạc và ông Khrushốp hứa hẹn sẽ mềm dẻo hơn, sẽ sống chung hòa bình với các nước không đồng chế độ chính trị và ông hứa hẹn sẽ dân chủ hóa Liên Sô.


Sau khi vững vàng rồi, Khrushốp mới gởi đại diện đi các nước cộng sản, và riêng CSVN thì ông Mikoyan đến Hà Nội vào tháng 4 năm 1956, ông giải thích chính sách mới của đại hội đảng 20 của Liên Sô và vì vậy mà CSVN không thể đi ngược lại đường lối mới của Liên Sô, cho nên nhân cái cuộc tổng kết cải cách ruộng đất đợt 5 vào tháng 7 năm 1956, ông Hồ vì những cái lý do trong nước và ngoài nước thì ông Hồ cho ngưng cái cuộc cải cách ruộng đất và bắt đầu chương trình sửa sai và ông đổ trách nhiệm cho những người thừa hành mà người gần ông nhất là ông Trường Chinh, nên ông cách chức ông Trường Chinh, cất chức nhưng sau rồi ông Trường Chinh cũng ra lại và rồi cất chức những nhân vật khác như là Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Hồ Viết Thắng và các nhân vật này sau cũng được trọng dụng trở lại hết, rồi bồi thường thiệt hại và xét lại một cách tượng trưng cho vài trường hợp quá đáng mà thôi


Quý thính giả đã nghe cuộc trao đổi giữa biên tập viên Nguyễn An của ban Việt ngữ và nhà nghiên cứu Sử Trần Gia Phụng về các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất diễn ra tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước đây.
Trong chương trình phát thanh tới, BTV Nguyễn An sẽ trao đổi với ông Nguyễn Minh Cần về các diễn tiến của cuộc cải cách ruộng đất từ khi chuẩn bị cho đến khi kết thúc bằng nhận lỗi và sửa sai. Ông Nguyễn Minh Cần nguyên là một cán bộ cấp cao của chế độ, và đã tham gia từng bước của cuộc cải cách ruộng đất. Mong quý thính giả đón nghe.
Thông tin trên mạng:
- Trang web có những hình ảnh về Cuộc cải ruộng đất
- Cải cách ruộng đất - Wikipedia


===

Cuộc cải cách ruộng đất 50 năm trước đây tại miền Bắc VN (bài 4)2006-05-17
Nguyễn An phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần

Đảng và nhà nước CSVN đã chuẩn bị thế nào cho cuộc cải cách ruộng đất
Trong các buổi phát thanh trước, chúng tôi đã gửi đến quý thính giả phần đầu cụôc phỏng vấn của biên tập viên Nguyễn An với nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng về các giai đoạn của cuộc Cải Cách Ruộng đất bắt đầu từ năm 1949 đến năm 1956.
Bấm vào đây để nghe bài này
Download story audio

Hình ảnh được trưng bày tại Triển lãm cải cách ruộng đất tổ chức tại Hà Nội từ tháng 3 đến tháng 5/1956.
Kỳ này xin gửi đến quý thính giả cuộc phỏng vấn với ông Nguyễn Minh Cần về sự chuẩn bị của Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam trước khi bắt đầu cuộc Cải cách ruộng đất. Cuối giai đoạn chuẩn bị là thí điểm với vụ án bà Cát Thanh Long từng gây xôn xao dư luận một thời.
Ông Nguyễn Minh Cần trong giai đoạn ấy là một cán bộ trung cấp. Ông từng là bí thư quận uỷ ngoại thành Hà nội trước khi ra công khai, trở thành phó chủ tịch uỷ ban hành chính Hà nội vào năm 1954. Ông thấu hiểu từng bước của cụôc cải cách ruộng đất và đã trực tiếp làm công tác sửa sai sau đó tại ngoại thành Hà nội. Hiện ông Cần sinh sống tại Matxcơva.


Mời quý thính giả theo dõi cuộc trao đổi giữa biên tập viên Nguyễn An và ông Nguyễn Minh Cần về những chuẩn bị mọi mặt của đảng Cộng Sản và nhà nước Việt Nam cho cuộc cải cách ruộng đất, khi đó đựơc gọi là một cuộc cách mạng long trời lở đất.
Nguyễn An: Kính chào ông Nguyễn Minh Cần, ông có thể cho biết là ông HCM và đảng CS đã chuẩn bị cho cuộc cải cách ruộng đất như thế nào?


Ông Nguyễn Minh Cần: Trong năm 1951 và 1952 ông HCM đã cùng với Thường vụ trung ương đảng, bây giờ ta gọi là Bộ chính trị, lúc bấy giờ gọi là Thường vụ trung ương đảng, họ chuẩn bị về mọi mặt. Chuẩn bị quan trọng đầu tiên là chuẩn bị về mặt tư tưởng, làm cho cán bộ, đảng viên, quân đội thông suốt về tư tưởng.
Vì vậy họ đã tiến hành chỉnh huấn và chỉnh quân. Trong này có một điều đáng chú ý nhất, tức là người ta nói rằng trước đây người ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, mà bây giờ không phải như vậy rồi. Bây giờ địa chủ không phải là nhân dân, nhân dân chỉ là nhân dân và địa chủ tức là những người chống lại nhân dân - kẻ địch của nhân dân.



Điểm đó là điểm mà xoay chiều tư tưởng rất lớn ở trong cán bộ. Lúc bấy giờ cũng có nhiều cán bộ thắc mắc, đại thể tôi muốn nói một kinh nghiệm, khía cạnh như vậy để thấy rằng lúc đầu tư tưởng của cán bộ cũng không phải nhất trí trong vấn đề đánh địa chủ đâu, mà có những thắc mắc như vậy. Thế nhưng mà những cuộc chỉnh huấn có nhiệm vụ làm thế nào để dẹp hết tất cả những tư tưởng thắc mắc đó để tạo một sự nhất trí bắt buộc ở trong đảng, ở trong quân đội và ở trong các đoàn thể. Trong giới trí thức cũng có những cuộc chỉnh huấn.



Vì vậy họ đã tiến hành chỉnh huấn và chỉnh quân. Trong này có một điều đáng chú ý nhất, tức là người ta nói rằng trước đây người ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, mà bây giờ không phải như vậy rồi. Bây giờ địa chủ không phải là nhân dân, nhân dân chỉ là nhân dân và địa chủ tức là những người chống lại nhân dân - kẻ địch của nhân dân.
Việc thứ hai, chuẩn bị mặt tổ chức thì tôi muốn nói rõ thêm là về mặt tổ chức lúc bấy giờ theo sự phân công giữa Mao Trạch Động và ông HCM thì Stalin có nói rằng Trung Quốc ở gần Việt Nam và đã từng có kinh nghiệm cải cách ruộng đất rồi, thế thì Trung Quốc sẽ giúp cho Việt Nam làm việc đó.


Vì vậy cho nên Việt Nam mời các cố vấn sang. Tổng cố vấn lúc bấy giờ là Lã Quý Ba, ông ta đồng thời là đại sứ của Bắc Kinh, đại sứ mà lại đồng thời là tổng cố vấn. Tổng cố vấn về quân đội là Vi Quốc Hân?, tổng vấn về cải cách ruộng đất là Triểu Hiểu Quang. Ông này là phó bí thư tỉnh ủy Quảng Tây, là tỉnh cũng đã làm cải cách ruộng đất.


Như vậy là trùm lên trên về mặt tổ chức là hệ thống cố vấn. Đồng thời về mặt tổ chức thì thành lập cái gọi là Ủy ban cải cách ruộng đất trung ương, dưới trung ương có các đoàn cải cách ruộng đất. Mỗi đoàn cải cách ruộng đất thì có một đoàn ủy lãnh đạo. Dưới các đoàn là các đội cải cách ruộng đất.

Nguyễn An: Xin ông nói rõ thêm về đội cải cách ruộng đất, là những người trực tiếp thực hiện và dân chúng còn mô tả là có quyền hành hơn cả Trời. Nhất đội nhì Trời kia mà.
Ông Nguyễn Minh Cần: Mỗi đội cải cách ruộng đất, theo xã to hay nhỏ gồm khoảng 30 hoặc 40 người. Phần nhiều là những người ở các địa phương khác, tức là họ giữ một nguyên tắc là không để cho người địa phương nơi nào phải đi làm cải cách ruộng đất ở nơi ấy. Vì họ sợ như vậy sẽ tạo điều kiện bao che cho tổ chức cũ, bao che cho địa chủ quen biết v.v... Đấy là một nguyên tắc.

Như vậy là cả một đạo quân để đi làm cải cách ruộng đất. Bây giờ để chuẩn bị một bước thứ ba nữa tức là chuẩn bị mặt chính sách. Năm 1952, Bộ chính trị tổ chức làm thí điểm cải cách ruộng đất ở 6 xã thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, là một tình căn cứ của Việt Minh thời kỳ bấy giờ.
Trong lần thí nghiệm này có một sự kiện động trời, tức là tòa án cải cách ruộng đất tử hình bà Nguyễn Thị Năm (còn có tên gọi khác là bà Cát Thanh Long).



Nguyễn An: Thưa ông, vụ án này nổi tiếng lắm, ông vui lòng kể thêm một số chi tiết về vụ án này.
Ông Nguyễn Minh Cần: Bà là một người mà thời kỳ trước cách mạng đã từng che giấu, nuôi ăn, giúp đỡ các ông lớn nhất của đảng CS lúc bấy giờ là ông Trường Chinh, ông Hoàng Quốc Việt, ông Lê Đức Thọ, ông Phạm Văn Đồng, ông Lê Thanh Nghị và ông Lê Giảng.
Bạn nghĩ gì về cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam và những hậu quả của chính sách này? Xin email về Vietweb@rfa.org

Còn trong thời kỳ "Tuần lễ vàng", là sau khi đã có chính phủ Việt Nam DCCH rồi thì gia đình bà đã dâng nộp100 lạng vàng cho chính quyền mới. Bà lại hoạt động trong hội phụ nữ, lại có con trai làm trung đoàn trưởng. Thế mà bà lại bị quy là địa chủ, cường hào gian ác và bị đoàn cải cách ruộng đất xử án tử hình.


Ủy ban cải cách ruộng đất trung ương do Trường Chinh cầm đầu đã duyệt và thường vụ trung ương, tức là bộ chính trị cũng đã chuẩn y và tất nhiên cả ông Hồ Chí Minh lúc bấy giờ cũng biết sự kiện đó chớ không phải không. Nhưng họ lại lạnh lùng chuẩn y một án tử hình như vậy.
Phát súng đầu tiên của cải cách ruộng đất nổ vào đầu một người phụ nữ yêu nước, đã từng giúp đỡ cho những người CS!
Phát súng đó đã nói rằng nó nói lên nhiều về tâm địa của những lãnh tụ CS, nó báo hiệu trước một tai họa khôn lường cho toàn dân ở miền Bắc lúc bấy giờ.
Nguyễn An: Xin được hỏi thêm ông về vụ xử tử bà Cát Thanh Long. Về sau mỗi khi tòa án tuyên án tử hình thì án được thi hành liền. Thế tại sao án tử hình của bà Cát Thanh Long lại còn phải đưa lên trên để xin ý kiến.


Ông Nguyễn Minh Cần: Vì đây là thí điểm đầu tiên, vừa làm vừa rút kinh nghiệm cho nên có sự thận trọng. Về sau này thì lại khác, tức là quyết định của tòa án là bắn luôn.
Từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 4/12/1953 thì kỳ họp thứ 3 của quốc hội khóa I, tại đó chủ tịch HCM đọc báo cáo "tình hình trước mắt và nhiệm vụ cải cách ruộng đất". Đến ngày 4/12 thì quốc hội nhất trí thông qua luật cải cách ruộng đất và chủ tịch HCM đã ký sắc lệnh ban hành luật. Từ đó bắt đầu các đợt cải cách ruộng đất.

Lúc đầu, mỗi đợt cải cách ruộng đất thì ở một vùng, số lượng xã ít hơn, nhưng dần dần thì mở rộng ra. Đến năm 1956, tức là đợt 5 là đợt cuối cùng, diễn ra ở hầu hết các đồng bằng Bắc bộ và các vùng trước đây bị Pháp chiếm đóng. Quý thính giả vừa nghe phần đầu cuộc trao đổi giữa biên tập viên Nguyễn An của ban Việt ngữ và ông Nguyễn Minh Cần về những chuẩn bị của đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam cho cụôc cải cách ruộng đất diễn ra tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước đây.
Trong chương trình phát thanh tới, ông Nguyễn Minh Cần sẽ kể lại với quý thính giả một cách cụ thể diễn tiến một đợt cải cách ruộng đất, bắt đầu từ lúc đội cải cách xuống xã. Mong quý thính giả đón nghe.


==

Diễn biến cụ thể một đợt Cải cách ruộng đất (Bài 5)2006-05-18
Nguyễn An phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần
Phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần (phần 2)


Nguyễn An: Thưa ông Nguyễn Minh Cần, kỳ trước ông có nói là trong cuộc cải cách ruộng đất thì cả một đạo quân được chuẩn bị thật là kỹ lưỡng để ra trận. Mà mũi xung kích xuống từng xã là đội cải cách ruộng đất. Vậy thì đội cải cách ruộng đất đó hoạt động như thế nào?
Bấm vào đây để nghe cuộc phỏng vấn này
Download story audio
Ông Nguyễn Minh Cần. RFA Photo

Ông Nguyễn Minh Cần: Tôi xin giới thiệu chương trình của một đợt cải cách ruộng đất ở một xã để bạn nghe đài hiểu được là vì bây giờ đã lâu, nhiều người không biết quá trình làm như thế nào. Tức là khi đội xuống xã, việc đó rất là bí mật - coi như đợt đột kích ở trên đưa xuống.
Khi đội cải cách xuống xã rồi thì việc đầu tiên là người ta hạn chế việc đi ra đi vào. Người ta sợ việc phân tán tài sản của địa chủ. Người ta đình chỉ công việc của các ủy ban lãnh đạo, người trưởng công an cho đến người chỉ huy du kích v.v... Lúc bấy giờ toàn bộ công việc do đội nắm.
"Đội sẽ xây dựng nhóm người gọi là "bần cố nông" cốt cán theo cách thức mà nhà văn Vũ Thư Hiên kể lại như sau:

"Có anh đội, anh đội về đấy là ở trong nhà nông dân là 3 cùng: ăn cùng, ở cùng, lao động cùng. Thăm nghèo hỏi khổ, tức là hỏi xem hồi xưa sống như thế nào, địa chủ nó bốc lột ra sao. Xong rồi "bắt rễ", tức là anh này tin tưởng được thì bắt anh này làm rễ.
Từ anh bắt rễ thì hỏi ngày xưa khổ như anh thì có ai, cũng làm tá điền như anh thì có những ai, anh biết ai khổ nhất. Tìm một anh A, chị B nào nữa thì gọi là "xâu chuỗi". Những từ lúc bấy giờ mà tôi còn nhớ là nó như vậy."

Ông Nguyễn Minh Cần: Tất cả những lời tố khổ của những người cốt cán đó thì đều được ghi chép lên hồ sơ, nhìn vào để phân biệt được địa chủ, phân biệt được phản động, phân biệt được nhân dân.
Rồi cũng qua lời tố khổ đó, để hiểu được và phân định thành phần ai là công nông, ai là bần cố nông. Khi đã xác định được lên hồ sơ ai là địa chủ rồi thì việc đầu tiên là phải bao vây gia đình đó, không cho đi ra khỏi nhà. Tiếp tục ngay lập tức là truy tài sản.
Tôi xin giới thiệu chương trình của một đợt cải cách ruộng đất ở một xã để bạn nghe đài hiểu được là vì bây giờ đã lâu, nhiều người không biết quá trình làm như thế nào. Tức là khi đội xuống xã, việc đó rất là bí mật - coi như đợt đột kích ở trên đưa xuống.












Vì vấn đề này là vấn đề mà theo mục đích cải cách là để sau này còn có của để chia cho bần cố nông. Của nỗi thì rõ rồi, nhưng của chìm là vàng bạc, tiền thì rất khó cho nên phải truy tài sản. Nhưng nói thực ra anh em họ vẫn gọi là "truy của" hay "tra của". Truy ngày, truy đêm liên tục. Tôi còn nhớ khi tôi đi cải cách ruộng đất ở Thái Bình thì có nghe một câu than như thế này, đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ:
Truy đêm rồi lại truy ngày Tra lui tra tới của mày để đâu Sân vườn, chuồng lợn, bờ ao Đào tung, xới hết chẳng sao: có vàng Trời ơi, oan thật là oan Thân con quá khổ biết làm sao đây
Còn việc lập hồ sơ các loại địa chủ, cường hào v.v... thì chủ yếu dựa vào lời tố của bần cố nông. Nhưng có một điều có thể nói là người ta đánh vào lòng tham lam, vào lòng hận thù. Có khi bà con lúc đầu họ không muốn tố, nhưng nếu mà không tố thì tức là dường như mình có liên quan đến địa chủ, mình chưa có thái độ dứt khoát.


Và người ta nói rằng ai tố nhiều thì sau này bả thực, tức là chia tiền, chia ruộng đất, chia tài sản v.v... thì sẽ được nhiều. Cho nên, nói thật đánh vào lòng tham, đánh vào lòng hận thù, cho nên cũng nhiều người tố rất bừa bãi. Ở nông thôn lúc bấy giờ gọi là "tố điêu" hoặc "tố đại hội", "tố bừa".
Nhưng khốn nỗi, tất cả những lời tố đó đều coi như những bằng chứng để kết tội người địa chủ, hoặc người đối tượng mà mình coi là phản động hay đảng phái v.v... Cho nên sau khi lên hồ sơ rồi, tức là đưa lên đoàn cải cách ruộng đất, tức là đoàn duyệt xong và chuẩn bị cho việc đấy và xử án.
Nguyễn An: Vậy là coi như hồ sơ xử án đã xong rồi, thế bây giờ chính phiên xử của tòa án nhân dân thì diễn ra như thế nào?


Ông Nguyễn Minh Cần: Tổ chức tòa án là tổ chức cuộc đấu. Trước đó bao nhiêu ngày phải chuẩn bị, người ta làm như là một diễn tập cho một vỡ kịch, tức là mỗi người nông dân lên tố như thế nào, rồi ý cho họ chỉ mặt như thế nào, tức là xỉa vào mặt của địa chủ, bắt quì xuống như thế nào... v.v... tất cả những cái đó được đạo diễn trước một cách rất cẩn thận.
Nguyễn An: Có vẽ họ tập dợt trước tất cả mọi thứ, cả ai nói gì, phản ứng ra sao, hô khẩu hiệu như thế nào?
Ông Nguyễn Minh Cần: Đúng rồi, khi nào địa chủ nói cái gì mà có thể gây ra điều tự bênh vực hoặc gì đấy, thì để lấn áp thì lúc bấy giờ phải hô khẩu hiệu như thế nào v.v... Có cả một kế hoạch, diễn tập như diễn một vỡ tuồng.
Bạn nghĩ gì về cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam và những hậu quả của chính sách này? Xin email về Vietweb@rfa.org



Như vậy đấu, có khi đấu 2-3 ngày tùy theo "tình trạng nghiêm trọng" của địa chủ hay số người v.v... Sau khi kết án thì hành quyết ngay ở trước mặt. Đấy là đợt sau này nó mới vậy.
Nguyễn An: Dường như là vào lúc bấy giờ các đoàn cố vấn của Trung Quốc nói rằng phải làm sao để có tỷ lệ 5% trên tổng số dân là địa chủ. Điều đó có không và họ đã thực hiện như thế nào?
Ông Nguyễn Minh Cần: Cái đó chính là một cái khó khăn nhất của các đội, như vậy là cái này không chỉ là cố vấn đưa ra mà phải nói rằng ngay cả ông Trường Chinh cũng nói như vậy trong hội nghị giải thích cho cán bộ về cải cách ruộng đất. Sự thật ra tỷ lệ này, một sự chủ quan rất trầm trọng về tỷ lệ như vậy. Cho nên có tình trạng là ép các đội phải nông lên, gọi là "kích thành phần".
Chính cái đó đã gây ra một thảm họa cho dân chúng trong cải cách ruộng đất. Có nhiều khi vì bí quá, cho nên các đội, và đoàn cũng nói: "thà sai hơn sót", đấy là chữ mà người ta thường nói, hoặc là "oan một tí, nhưng không để lọt lưới". Đấy là những câu nói cửa mồm của các đoàn và các đội. Nhưng sự thật ra "oan một tí" lại trở thành oan một trăm tí, một nghìn tí...



Trong hai buổi phát thanh vừa qua, quý thính giả đã nghe cuộc trao đổi giữa BTV Nguyễn An của ban Việt ngữ và ông Nguyễn Minh Cần về những chuẩn bị của đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam cho cụôc cải cách ruộng đất, và diễn tiến thực tế một đợt cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước đây.
Trong buổi phát thanh tới, quý thính giả sẽ nghe một nhân chứng tại chỗ là nhà thơ Nguyễn Chí Thiện tường thụât lại một vụ xử án địa chủ của toà án nhân dân tại ngoại thành Hà Nội.


==

Diễn biến cụ thể một vụ xử án địa chủ: Lời kể của một nhân chứng (Bài 6)2006-05-18
Nguyễn An, phóng viên đài RFA
Phỏng vấn ông Nguyễn Chí Thiện
Bấm vào đây để nghe cuộc phỏng vấn này
Download story audio
Một cảnh trích trong phim Chúng Tôi Muốn Sống.


Trong buổi phát thanh trước, chúng tôi đã gửi đến quý thính giả cuộc phỏng vấn của BTV Nguyễn An với ông Nguyễn Minh Cần về một đợt cải cách ruộng đất, bắt đầu từ khi đội cải cách xuống xã đến khi toà án nhân dân tuyên án.
Kỳ này, xin gửi đến quý thính giả lời kể của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, từng tận mắt chứng kiến một phiên xử của toà án nhân dân tại ngoại thành Hà nội.

Ông Nguyễn Chí Thiện: Hồi làm cải cách ruộng đất ở Thái Hòa ấp, ở đấy có một ông địa chủ, tôi còn nhớ tên là ông Bảy Dần. Ông ta là một người cũng có ruộng đất nhưng không phải giàu lắm đâu anh ạ. Ông ta chỉ có vài chục mẫu ruộng thôi và ông ta còn lại là một ông đồ dạy học nữa.
Chính tôi có đi xem buổi đấu tố cuối cùng đó, nó tổ chức đông người đi lắm, Hà Nội kéo nhau đi rất đông. Tôi đến nơi, lúc bấy giờ tôi cũng len lên được hàng đầu để mà xem. Ông Bảy Dần cũng mặc áo the, cũng ăn mặc tử tế lắm, đội khăn hẳn hoi. Ông ta thế là bị trói vào cột - bị trói vào cột.
Nguyễn An: Tức là đem ra trước tòa án nhân dân phải không ạ?


Ông Nguyễn Chí Thiện: Gọi là tòa án nhân dân. Trước hết ông ta bị trói vào cột và đàng sau cột độ mươi thước thôi thì có một cái hố đào sẵn. Người ta nói là đào cả hàng tuần trước rồi. Buổi đấu tố hôm đó nó diễn ra cả ngày, từ sáng đến tận khoảng 5, 6 giờ chiều mới kết thúc.
Nguyễn An: Xử thì cứ xử thôi nhưng kết quả thì đã biết trước rồi phải không ạ?
Ông Nguyễn Chí Thiện: Phải biết trước, chứ còn làm sao mà sống nỗi. Lên đấu tố thì đủ các người lên đấu tố. Sự thật họ đấu tố, tôi phải vô tư mà nói, phải nói thật anh ạ, thì đa phần là phụ nữ. Họ lên đấu tố khiếp lắm, chớ không phải bị cưỡng bức, nghĩa là họ hăng say họ đấu tố.
Trong số hàng mấy chục người lên đấu tố thì cũng có vài ba người là miễn cưỡng. Những người miễn cưỡng thì mình biết ngay, chớ còn những người hăng hái đấu tố, chỉ chỏ vào mặt, cứ lồng lên như những con hổ cái thì nhiều.


Nguyễn An: Theo ông nhận xét thì tự họ họ làm chứ không phải họ bị ép buộc hay là gì cả?
Ông Nguyễn Chí Thiện: Họ bị kích động nhiều, bị kích động hơn là bị ép buộc anh ạ. Nhưng số người mà sau này họ hăng say lao theo thì đông, chứ còn số người miễn cưỡng lên thì ít thôi.
Nhưng phải nhớ một điều là từ đầu đã có một sự cưỡng bức rồi. Những người hăng say thì không phải là tự họ họ lên đâu, mà họ không lên cũng không được. Qua quá trình kể khổ rồi khơi sâu lòng hận thù thì nhiều người trở thành hận thù thật. Họ lên họ làm việc đó.
Chỉ riêng trong gia đình thôi thì là một sự miễn cưỡng rõ rệt anh ạ. Thí dụ như con dâu mà lên tố bố chẳng hạn, tố là ông ấy hiếp mình thế nọ thế kia thì ăn nói nó có vẻ gượng gạo, không có tinh thần hăng say như những người khác.


Có một điều đặc biệt là, ông ta đã ngoài 60 rồi, mà ông ta vẫn cứ phải xưng cháu hoặc xưng con với bất cứ một người nào lên đấu tố, dù người lên đấu tố chỉ đáng tuổi con ông thôi. Thâm chí tôi còn nhớ một cô con gái lên tố ông ta thì ông ta cũng phải xưng con với người con gái đó - con gái mình đẻ ra đấy ạ.
Bây giờ nói đến tòa án nhân dân mà ngồi xử thì toàn là nông dân thôi, toàn là nông dân họ sắp xếp lên ngồi thôi. Chị làm "chánh án", tôi còn nhớ chị ấy còn mù chữ nữa anh ạ, không biết viết a,b,c thế mà lại lên làm chánh án.
Sau một ngày đấu tố nhục nhã như thế rồi thì họ bắt đầu họ tuyên án. Họ tuyên án với tất cả những tội ác mà địa chủ đã phạm phải, mà toàn bộ là bịa đặt thôi. Người ta tuyên án ông ấy tử hình.
Đặc biệt là trong quá trình đấu tố thì ông địa chủ này không có quyền cãi mà chỉ có quyền bất cứ ai đấu tố thế nào đều chỉ có quyền "nhận tội" - nhận tội lỗi của mình chớ không hề có một lời cãi nào được phép cả.


Nguyễn An: Tức là ai nói gì thì nói, phản ứng duy nhất mà ông được phép là cứ nhận thôi?
Ông Nguyễn Chí Thiện: Và phải nhận ngay lập tức. Họ đã diễn tập nhiều lần rồi anh ạ. Đấy không phải là lần đầu tiên mang ra, trước khi mang ra làm thật như vậy thì đã có những cuộc diễn tập trước đó anh ạ. Diễn tập trong một số nhỏ người để cho ông này phải quen lối phục tùng như thế.
Buổi hôm đó, tôi còn nhớ là sau khi đấu tố xong thì lập tức có 6 anh du kích. 6 anh du kích này đứng cách khoảng độ 2 mét... thế là bắn chết ông ta ngay. Sau khi bắn chết xong thì chặt dây thừng - không phải là cởi nữa mà là chặt dây thừng, lấy con dao chặt dây thừng ra và lôi ông ta ra chỗ cái hố đó. Xin nhớ một điều, không có áo quan anh nhá. Thế là họ vất tụt xuống hố đó là lấp đất ngay lập tức thôi.
Lấp đất xong thì đất ấy cũng không được đấp thành mộ mà đấp bằng như bình thường thôi chớ không đấp gồ lên như một khối u như là một mộ phần anh ạ. Đấy là điều mà tôi chứng kiến tận mắt.
Nhưng tôi muốn nói thêm, chính vì chứng kiến đó cho nên sau này tôi vào tù, tôi nằm nghĩ lại. Để bàn về cải cách ruộng đất thì tôi chỉ làm một bài thơ thôi - đây chính là vụ Bảy Dần:
Bạn nghĩ gì về cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam và những hậu quả của chính sách này? Xin email về Vietweb@rfa.org



Được nghe bà kể khổ Con thấy đời con thực là đáng chết Con đã đi bóc lột để nuôi bà Con bây giờ không dám nhận là cha Dù bà là do con đẻ ra Con - thành phần địa chủ thối tha Trước nhân dân, trước đảng, trước bà Xin thành khẩn cúi đầu chịu tội Đó là lời của cụ đồ ở ngoại thành Hà Nội Giữa đấu trường giăng giối với con.
Tôi làm bài như vậy. Khi tôi đọc bài này cho anh Nguyễn Huy Thiệp nghe ở quán cơm của anh hồi tôi ra tù năm 91-92 thì anh có nói một câu thế này: thôi, ông làm một bài thơ về cải cách ruộng đất như thế cũng đủ rồi.

Nhưng tôi nghĩ là nó không đủ đâu anh ạ. Nó còn rất nhiều chuyện mà chúng ta phải bàn đến.
Quý thính giả vừa nghe nhà thơ Nguyễn Chí Thiện tường thuật lại một phiên xử của toà án nhân dân mà bị cáo là một địa chủ trong cuộc cải cách ruộng đất. Kỳ tới, chúng tôi sẽ gửi đến quý thính giả lời kể của ông Trần Anh Kim, có ông nội, bác và bố đều là nạn nhân trực tiếp của cuộc cải cách ruộng đất. Mong quý thính giả đón nghe.






==

Diễn biến cụ thể một vụ xử án địa chủ: Lời kể của một nạn nhân (bài 7)


2006-05-19
Việt Hùng, phóng viên đài RFA
Phỏng vấn ông Trần Anh Kim
Bấm vào đây để nghe cuộc phỏng vấn này
Download story audio



Ông Trần Anh Kim
Trong buổi phát thanh trước, chúng tôi đã gửi đến quý thính giả cụôc phỏng vấn của BTV Nguyễn An với nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, đã tận mắt chứng kiến một phiên xử của toà án nhân dân tại ngoại thành Hà nội. Kỳ này, xin gửi đến quý thính giả lời kể của ông Trần Anh Kim, hiện đang sống tại Thái Bình.

Ông Kim có ông nội, bác và bố là nạn nhân của cụôc cải cách ruộng đất, bị quy là quốc dân đảng và địa chủ, bị đem ra đấu tố và xử tội. Mời quý thính giả nghe câu chuyện đau thương này của gia đình ông Trần Anh Kim qua cuộc phỏng vấn do Việt Hùng thực hiện.
Việt Hùng: Lập lại trang sử về cuộc cải cách ruộng đất, trường hợp gia đình ông như thế nào, thưa ông?
Ông Trần Anh Kim: Ông nội tôi là người sớm giác ngộ cách mạng, cho nên khi được tư tưởng của ông HCM trao dồi vào tư tưởng của cụ thì cụ giáo dục tất cả gia đình hết lòng vì cách mạng. Về đào hầm bí mật, mà mới ngay gần đây thôi chúng tôi vừa đào một hố ga thì trúng hầm bí mật đó, tôi định gọi ủy ban xác định là hầm bí mật nhà tôi đây.


Ông tôi ủng hộ, hưởng ứng "tuần lễ vàng" của Hồ chủ tịch phát động, cho nhà nước mượn 1075 vuông vải để may áo mùa đông binh sĩ để cho du kích mặc để đánh giặc.
Đấy là ông nội tôi. Còn bố tôi mua 1000 công phiếu kháng chiến, ủng hộ 9 áo sợi. Bố tôi hoạt động cách mạng từ năm 21 tuổi, tức là từ năm 1942. Đến năm 1948 thì bố tôi được kết nạp vào đảng CSVN. Đến cải cách ruộng đất, sau năm 1954 giải phóng, sau đó thì giảm tô, đến cải cách ruộng đất thì người ta quy cho ông tôi là địa chủ, và quy cho bố tôi là Quốc Dân Đảng.


Bố tôi là phó bí thư Quốc Dân Đảng và bác tôi là bí thư Quốc Dân Đảng. Bác tôi bị bắn luôn, ông ấy nhận thì bị bắn luôn. Còn bố tôi thì kiên quyết không nhận. Không nhận thì người ta tra tấn, người ta thắt hai dây thừng vào hai ngón chân cái rồi người ta kéo lên sàn nhà, bố tôi đau quá, kêu khóc, xin thả xuống. Kêu khóc to quá thì người ta lấy rơm, lấy rạ nhét vào mồm.
Toàn bộ những cái bố tôi kể thì tôi còn ghi được nguyên cuốn băng. Cứ làm như thế, hàng ngày làm như thế, làm để bắt nhận là QDĐ. Bố tôi không nhận QDĐ, bố tôi bảo rằng bố tôi chẳng biết QDĐ là ai cả, chỉ biết đảng viên đảng CS thôi. Thế người ta không quy được cho bố tôi QDĐ thì người ta lại đưa bố tôi lên địa chủ luôn.


Địa chủ ngày đó là địa chủ "phân" anh ạ. Thí dụ mỗi một thôn là mấy địa chủ thì cứ thế người ta đưa lên thôi. Cuối cùng thì cũng bị tù không án, hai năm. Mà khốn nạn hơn thời tôi tù nhiều. Tức là tay thì trói cánh khuỷu ra đàng sau, chân thì cùm, quần áo thì chẳng có mặc, cứ nằm như thế ở dưới sàn chuồng trâu thôi.

Lúc bấy giờ tôi còn nhỏ, khoảng 10 tuổi, tôi mang cơm cho bố tôi thì khổ thế này: đầu tiên mang ra ngõ thì mình cũng chẳng biết gì cả, lúc bắt bố tôi thì tôi biết nhưng bắt ông tôi thì tôi không biết. Lúc bắt bố tôi thì tôi chỉ biết khóc thôi. Tôi thấy tự nhiên người ta đến nhà mình, 5 người đến, người ta dằn bố mình ra người ta trói mang đi, nói thằng này là QDĐ, trói mang đi thì mình chỉ biết khóc thôi. Không biết làm gì cả.


Đến trưa mẹ tôi về, kể chuyện cho mẹ tôi nghe thì mẹ tôi cũng lăn ra khóc luôn. Thế là hai mẹ con cùng khóc. Lúc bấy giờ mẹ chỉ động viên, thôi bây giờ con mang cơm cho bố con với cho ông thôi...
Ra ngõ thì gặp đội, thế là nó quát ầm lên: "thằng này con nhà QDĐ, cháu địa chủ, tại sao mày gặp chúng tao mày không chào, mày không quì xuống". Lúc bấy giờ biết đâu được, chỉ khóc thôi. Tôi khóc và bắt đầu quỳ xuống, nó bảo từ nay trở đi mày gặp chúng tao mày phải quỳ xuống, mày lạy các ông đội, xin phép các ông đội, xin phép các ông cốt cán để tôi mang cơm cho ông tôi, cho bố tôi, thế thì chúng tao cho đi.


Thế thì cuối cùng từ đấy thì cứ quen như vậy. Cứ ra ngõ gặp người ta là phải quỳ xuống, xong lại xin phép các ông cốt cán để tôi mang cơm cho ông tôi, cho bố tôi. Gọi là cơm nhưng có cơm đâu, chủ yếu là khoai thôi.

Nắm cơm mang xuống thì thế này. Người ta dùng ngay cái trét xúc cứt đấy ông ạ, xúc phân gà, nó xắn vào chén cơm. Tôi cũng chẳng biết gì cả, tôi chỉ biết người ta làm như vậy thôi. Nhưng ông thôi thì rất hăng. Ông tôi bảo tại sao lại phải làm như vậy thì nó bảo là phải kiểm tra xem bọn địa chủ nó có tiếp tế cho nhau không, nó có thông tin cho nhau không, chúng ta phải kiểm tra.
Có hôm thì họ làm như vậy, có hôm thì không có trét, nó rút ngay cái cọc ở chuồng lợn bên cạnh con trâu, thế thì họ chọc vào cơm, chọc luôn vào khoai, bảo chúng tao phải kiểm tra. Năm đó thì có gì đâu, có cái gáo dừa thôi mà. Cái gáo dừa treo hai cái dây lủng là lủng lẳng đem nước vô cho ông - nó đổ đi một nữa xong nó đái vào đấy. Tôi cũng chẳng biết gì, chỉ biết như thế thôi.



Nhưng ông tôi quát rầm lên thì nó bảo rằng cho chúng mày uống để mà sáng mắt ra, cho chúng mày hết tư tưởng bóc lột, hết tư tưởng ức hiếp nhân dân. Nó cứ chửi ông tôi như thế - tôi cũng chỉ biết khóc, chẳng biết làm thế nào cả. Mình chỉ mang đi cho ông, mang đến chỗ thì lại về rồi.
Việt Hùng: Chúng tôi xin được chia sẻ những nỗi đau của gia đình và lật lại một trang sử thì chúng tôi cũng muốn đi tìm lại những sự thật. Thưa ông Trần Anh Kim, ông nói rằng ông cụ thân sinh ra ông cũng bị quy kết vào thành phần địa chủ trong vụ cải cách ruộng đất, ông nội cũng vậy, ông bác thì bị bắn chết vì nhận là QDĐ. Ông nói rằng cuốn băng mà ông cụ thân sinh kể lại...



Ông Trần Anh Kim: Tôi vẫn còn ạ. Mà kể lại cho đồng đội tôi nghe thì anh em đồng đội nó ghi chớ thật ra mà nói nhà tôi cũng chẳng có máy ghi âm. Đồng đội nó nghe cũng phát khóc lên vì chuyện ấy.
Việt Hùng: Ông nói là lúc đó ông mới có 10 tuổi. Lúc những cuộc đấu tố đó, ông còn nhớ là vào thời điểm nào?
Ông Trần Anh Kim: Chính xác ngày thì tôi không nhớ, tôi phải về nhà tôi hỏi lại.
Việt Hùng: Vậy thì ông nội ông và ông cụ thân sinh của ông tên là gì ạ?
Ông Trần Anh Kim: Ông nội tôi là ông Trần Ngọc Toản, còn bố đẻ tôi là Trần Ngọc Chất. Khi bố tôi và ông nội tôi ra thì có một cái như thế này. Sau khi ra rồi thì lúc bấy giờ là sửa sai, sửa sai thì...
Việt Hùng: Như vậy là tù bao nhiêu năm?
Ông Trần Anh Kim: Hai năm.

Việt Hùng: Ông nói rằng hôm ông bác của ông bị bắn chết khi nhận là QDĐ...
Ông Trần Anh Kim: Ông bác tôi là đảng viên đảng CS, ông bác tôi nhát hơn bố tối, nên khi bị tra tấn nặng quá thì ông nhận, nhận cái thì nó bắn luôn.
Bạn nghĩ gì về cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam và những hậu quả của chính sách này? Xin email về Vietweb@rfa.org



Việt Hùng: Và chuyện đó xảy ra ở tại thôn nào...
Ông Trần Anh Kim: Xóm La Xuyên, xã Bố Tiến huyệnVũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Việt Hùng: Thế còn trường hợp ông cụ thân sinh của ông đưa ra để đấu tố, cũng như ông nói rằng buộc dây thừng vào hai ngón chân cái để kéo lên trần nhà là ở tại địa phương hay ở đâu ạ?
Ông Trần Anh Kim: Ở tại địa phương, tại chuồng trâu nhà ông Dụng ngay cùng xóm. Nhưng bố tôi vẫn cứ để trong lòng thôi. Bạn bè đến động viên thì bây giờ mới kể lại, kể lại thì mới đem máy ghi âm ghi lại hết được cái đó.

Việt Hùng: Trước khi qua đời thì ông cụ thân sinh của ông có kể lại cho những người đồng đội cũ thì mọi người có ghi được cuốn băng ghi âm đó à. Thời gian đó là thời gian nào thưa ông?
Ông Trần Anh Kim: Có ạ. năm 1993.
Việt Hùng: Một tuổi thơ của ông đã bị hằn trong tâm tư, vào lúc mà ông nói khi ông lên 10 tuổi. Bây giờ nếu mỗi lần nhớ lại thì cảm tưởng của ông như thế nào?
Ông Trần Anh Kim: Bố tôi với ông tôi, sau khi sửa sai thì ra vẫn cứ động viên tôi là thôi con à bây giờ bác hồ làm sai bác hồ sửa rồi thì bỏ qua tất cả đi, xong gia đình nhà ta trở lại vị trí cũ thôi, vẫn tinh thần cách mạng thôi.


Thế thì vào năm 1958, vào hợp tác xã thì lại là gia đình gương mẫu và vào hợp tác xã đầu tiên. Còn được bao nhiêu của cải làm được lại góp vào hợp tác xã hết. Tôi lúc bấy giờ, năm 58, thì lên 12 tuổi. Bắt đầu đi học cấp một rồi. Lao động hết mình đấy ông ạ. Bởi vì tôi vào thiếu niên, vừa làm đội trưởng đội thiếu niên, rồi sang làm chỉ huy liên đội. Chuyên môn đi kẻ khẩu hiệu, kẻ băng biển, hô khẩu hiệu. Có nghĩa là mình biết làm công tác chính trị ngay từ nhỏ ông ạ. Lúc bấy giờ thì quên hết những nỗi đau đi thôi, để phục vụ cho "cách mạng" thôi.
Việt Hùng: Thưa ông, ở tại tỉnh Thái Bình, những gia đình trong vụ cải cách ruộng đất theo ghi nhận thì có nhiều không?

Ông Trần Anh Kim: Những người bị oan ức bây giờ kể lại thì rất nhiều. Nếu bây giờ tôi đi lại tất cả những nhà đó thì ai người ta cũng kể như thế. Như lúc đầu tôi nói là địa chủ "phân" mà. Giả sử một xóm tôi có 2, 3 địa chủ chẳng hạn, thì cứ tỷ lệ thì nhân lên.
Coi như là địa chủ phân, nghĩa là chưa được như thế là chưa đạt được tiêu chuẩn, nhân lên và cứ phân như thế thôi. Bây giờ cần nhân thì có thôi, một thôn khoảng 3 địa chủ thì một xã có bao nhiêu thì nhân lên thì nó thành ra ngay thôi.


Việt Hùng: Thưa ông, bây giờ cụ cải cách ruộng đất đã đi qua. Cá nhân ông, tuổi thơ của ông đã chứng kiến những cảnh như vậy và gia đình ông là nạn nhân. bây giờ nhìn lại, mỗi lần nhắc đến lịch sử đau buồn này thì...
Ông Trần Anh Kim: Nghĩ đến lịch sử đau buồn này thì tôi vẫn nói với bạn bè rằng gia đình tôi 3 đời bị cộng sản đè nén, áp bức rồi, bị cướp trắng tay rồi, đời ông nội tôi, đời bố tôi, rồi đến đời tôi, cướp trắng tay như vậy rồi. Cho nên tôi vẫn nói với anh em, bạn bè rằng tao không căm thù chế độ này thì thôi chớ chế độ này lấy quyền gì để căm thù tao.
Thế còn đời tôi, tôi nói là đời tôi từ nhỏ đến giờ tôi luôn luôn giữ trong sạch, và chính vì giữ trong sạch cho nên tôi mới dám vạch trần những thối tha, những bẩn thỉu. Bây giờ tôi gọi là cái thác lọan của cái chế độ này.


Quý thính giả vừa nghe Việt Hùng trao đổi với ông Trần Anh Kim hiện đang ở Thái bình về tấn thảm kịch mà gia đình ông là nạn nhân trong cuộc cải cách ruông đất 50 năm trước tại miền Bắc Việt Nam. Kỳ tới, chúng tôi sẽ gửi đến quý thính giả câu chuyện của một nạn nhân khác: ông Nguyễn Văn Thủ, lúc đó ở Hưng Yên. Mong quý thính giả đón nghe.
Thông tin trên mạng:
- Trang web có những hình ảnh về Cuộc cải ruộng đất

=

Câu chuyện của ông Nguyễn Văn Thủ và nhà thơ Hữu Loan (bài 8)2006-05-19
Phương Anh, phóng viên đài RFA
Trong buổi phát thanh trước, chúng tôi đã gửi đến quý thính giả câu chuyện của gia đình ông Trần Anh Kim, một nạn nhân trực tiếp của cuộc cải cách ruộng đất diễn ra 50 năm trước đây tại miền Bắc Việt Nam.

Bấm vào đây để nghe cuộc phỏng vấn này
Download story audio
Nhà thơ Hữu Loan và nhạc sĩ Trịnh Hưng chụp năm 2005. Hình của nhạc sĩ Trịnh Hưng.
Kỳ này, mời quý vị nghe chuyện của một gia đình nạn nhân khác, đó là ông Nguyễn Văn Thủ, quê ở tỉnh Hưng Yên, năm nay 72 tuổi, hiện nay đang sống ở Hà Nội. Ông Thủ kể lại với Phương Anh về những tại hoạ bất ngờ đổ xuống gia đình ông hồi cải cách ruộng đất.
Và trong phần cuối, nhạc sĩ Trịnh Hưng, người bạn thân của nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim, kể lại hoàn cảnh của chính nhà thơ Hữu Loan. Trước tiên, là trường hợp của ông Thủ. Ông nói về hoàn cảnh lúc bấy giờ:
Câu chuyện của ông Nguyễn Văn Thủ
Ông Nguyễn Văn Thủ: Dân trí thì thấp, đời sống thì đói…Lúc ấy, miền Bắc được “giải phóng”, còn miền Nam thì…, chia làm hai chế độ. Ngoài này, thực hiện chính sách giảm tô cải cách để có ruộng cho người nông dân cầy.


Đường lối đưa ra là đánh đổ địa chủ, cải tạo tư sản, tư bản…để lấy đất chia cho nhân dân, cho những người nghèo. Cho nên, có những người bị thiệt thòi. Lúc ấy, lộn xộn, chẳng ai giữ đạo làm người, con tố bố, vợ tố chồng…mất cả đạo đức con người.
Phương Anh: Thưa ông, xin ông cho biết chuyện gì đã xảy ra cho gia đình ông? Ông Nguyễn Văn Thủ: Gia đình tôi, cụ (ông nội) công tác rất tốt, đến lúc ấy tự nhiên qui cho cụ tôi là thành phần đối kháng, bắt cụ đi đấu tố, gia sản bị tịch thu hết. Tôi bị coi là con nhà địa chủ, khổ lắm, đi ra ngoài đường là phải chào ông bà nông dân. Dù nó là con là cháu mình, cũng phải gọi nó là “Ông” là “Bà”.. của cải mất hết, chả còn gì cả.


Tôi là con nhà địa chủ, bị trong cảnh xem từng người tố bố mình, toàn bịa chuyện. Lúc ấy dân ngu dốt lắm, chả hiểu gì cả, cứ nói bưà, nói theo kiểu “mớm” lời, toàn là bịa ra, chúng (đội cải cách) bảo thế nào thì người nông dân nói thế. Lúc đó, trình độ của chúng có ra cái gì đâu.
Bạn nghĩ gì về cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam và những hậu quả của chính sách này? Xin email về Vietweb@rfa.org
Phương Anh: Thưa ông, biết là năm nay tuổi đã cao, nhưng ông có còn nhớ được cảnh đấu tố những người bị qui là địa chủ không?
Ông Nguyễn Văn Thủ: Ôi..Tôi còn nhớ như thế này, tôi chưa bao giờ thấy lịch sử con người lại ngược đời như thế, đến nỗi phải nói là thời đại trâu bò đi “bí tất”, cóc nhái nhẩy lên làm người, mõ sãi ngày xưa nhẩy lên làm chánh án, làm thẩm phán. Thậm chí ngồi trên toà đấu bố mình. Tả lại thì nhiều lắm, khí thế của nhân dân nó vùng lên, đánh đổ địa chủ mà!


Ông bà nông dân họp riêng với nhau, người ta họp thế nào đó, xong rồi “đùng” một cái, nhà mình bị qui là đối kháng luôn, mặc dù nhà là một thành phần rất tốt, có công với cách mạng, thế mà “đùng” một cái, ngược lại hết! Nó đến nó tịch thu, nó đuổi mình ra khỏi nhà. Trong người mặc quần áo thế nào thì đi ra thế đấy.
Tôi đi học về, cắp cái cặp, là chỉ có thế… thế là hết, và mấy mẹ con dắt nhau ra ngồi một chỗ, nhìn ông bà nông dân chia của. Sau đó, ông bà nông dân tập hợp ra, ngồi đông lắm, cảnh đấu tố đông lắm, các “vị” thì ngồi trên toà, làm cái toà trên cao đàng hoàng, kê ở ngoài đình, cánh đồng, như sân khấu vậy, rồi bắt nông dân lên đấu tố, địa chủ phải cúi mặt xuống, họ trói, cùm kẹp, thậm chí còn tra tấn…


Phương Anh: Thưa ông, được biết người đấu tố ông bà nội và bố ông lại chính là bà xui gia và cũng là người láng giềng, từng được ông cụ, tức ông nội của ông giúp đỡ trong nhiều năm. Vậy, ông còn nhớ bà ấy đã làm những gì khi đó? Và kết quả cuộc đấu tố lúc bấy giờ ra sao?
Ông Nguyễn Văn Thủ: Bà ấy lên, lật ngửa mặt cụ ra, rồi chỉ vào tận mặt và nói: con Ly, tên bà cụ là Ly, vợ chồng mày ép buộc tao, phải gả con gái cho con mày…rồi bà ấy khóc hu hu lên…rồi xin đội cải cách cho đem con gái về… rồi bà ấy bảo là mày dụ dỗ con tao đi Nam để cho bố mẹ lià con…
Lúc ấy, tự nhiên nó như ma quỉ cám dỗ, người ta nhìn thấy nhà tôi, người ta như muốn ăn thịt luôn, họ muốn làm gì thì làm. Lúc ấy, người nào càng hăng hái, càng tốt, càng đấu tố, càng đánh đập, thì càng tốt. Có những người bị tử hình, ông cụ tôi bị kết án tử hình, bắn chết ngay, lôi ra bắn chết ngay, bắn ngay trước mặt mọi người, con cháu…







Đấu tố bố mình, bắt phải ra nhìn…Còn những người khác bị tra tấn, bị chết thì cho là họ tự tử, bắn thì rõ ràng rồi, mấy trường hợp…Cuối cùng thì sửa sai, biết là sai lầm, rồi xin lỗi, thế thôi !








(Cộng sản đấu tố xong chôn sống nạn nhân, rồi tổ chức nhảy múa)





Phương Anh: Sau khi bị đấu tố, cuộc sống của gia đình ông như thế nào?
Ông Nguyễn Văn Thủ: Sau đó thì mò cua bắt ốc mà nuôi nhau, nhà không có, phải đi ở nhờ, nằm đất, không có cái chiếu để nằm. Ông bà nông dân phải tránh xa mình. Ông bà nông dân nào có thương mình đi chăng nữa thì phải để trong lòng, nếu không thì đội nó qui cho, cũng chết luôn!
Đi ra ngoài thì phải chào ông bà nông dân, xưng “con”, chả muốn đi đâu cả, nhưng vì cuộc sống, nên lúc ấy, cũng phải đi ra ngoài đồng để kiếm rau, con cua, con cá…mẹ con bắt ốc nuôi nhau, vẫn phải cúi mặt xuống để mà tránh né, cho qua ngày, biết làm thế nào được…Giai đoạn lịch sử nó là thế đấy!


Trường hợp của vợ nhà thơ Hữu LoanPhu nhân nhà thơ Hữu Loan, một nạn nhân trực tiếp của cuộc cải cách ruộng đất. Hình của nhạc sĩ Trịnh Hưng.
Vưà rồi là cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Thủ, hiện đang ở Hà Nội, một nạn nhân trong cuộc cải cách ruộng đất. Một trường hợp khác mà nạn nhân chính là vợ của nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ nổi tiếng suốt mấy chục năm qua, Mầu Tím Hoa Sim.
Chúng tôi không thể liên lạc với nhà thơ Hữu Loan được vì gia đình ông hiện đang ở một xã nhỏ thuộc tỉnh Thanh hoá, không có điện thoại. Tuy nhiên, được biết nhạc sĩ Trịnh Hưng hiện đang ở Pháp, là người bạn thân của nhà thơ và mới đây có về thăm nhà thơ, chúng tôi liên lạc và được ông kể lại:


“Ông ấy kể tôi nghe là: Lúc ấy, ông ấy là Trưởng ban Tuyên Huấn của đoàn 304, do tướng Nguyễn Sơn phụ trách, quân đội thì đói khổ lắm, chỉ có ăn khoai, ăn sắn, không có gạo mà ăn…Ông địa chủ đó thì giầu, tháng nào cũng đem gạo đến, để nuôi quân cho…Chính tướng Nguyễn Sơn tháng nào cũng làm lễ vinh danh cho ông ta, ban thưởng huân chương.
Năm 1953, bị đấu tố, lan đến Thanh Hoá, ông bà địa chủ ấy bị giết chết. Nhà thì chỉ có một cô con gái thôi. Nó cấm tất cả mọi người, con trai, hay con gái, không được kết hôn với con nhà địa chủ, không được nuôi con nhà địa chủ.

Ông ấy (nhà thơ Hữu Loan) thấy thế bực quá, mới bỏ về làng, đi qua làng ấy, ông ghé vào thăm, ông biết rằng ông bà cụ bị giết chết rồi, cô con gái không ai nuôi cả, cô ấy phải đi mót sắn, mót khoai ở ngoài đồng, ăn sống, để sống thôi, quần áo rách rưới, bẩn thỉu lắm, ngủ ở đường, ở đình làng, ông thấy thế, thương hại và đem về nhà nuôi…và bây giờ là vợ ông ấy!”


Trong hai buổi phát thanh vừa qua, quý thính giả đã nghe chuyện của những nạn nhân trực tiếp trong cuộc cải cách ruộng đất diễn ra 50 năm trước đây ở miền Bắc Việt Nam. Không thể biết chính xác số nạn nhân của cuộc cách mạng được gọi là “long trời lở đất” này là bao nhiêu vì nhiều người đã chết, nhiều người không muốn nói ra, và nhiều người không dám nói ra.

Tuy nhiên, qua các lời kể, quý thính giả cũng có thể hình dung được những đau khổ tận cùng mà những người dân lúc đó phải chịu đựng, do chính những người cùng làng cùng xóm với mình gây ra theo chỉ đạo của các đội cải cách ruộng đất. Kỳ tới, chúng tôi sẽ nói về đợt sửa sai được phát động sau khi trung ương đảng thừa nhận sai lầm. Mong quý thính giả đón nghe.
Thông tin trên mạng:
- Trang web có những hình ảnh về Cuộc cải ruộng đất
- Cải cách ruộng đất - Wikipedia
- Land Reform in China and North Vietnam
- A Special Supplement: In North Vietnam (The New York Review of Book)
- The Solzhenitsyn of Vietnam
- Statistics Of Vietnamese Genocide And Mass Murder
© 2006 Radio Free Asia




===


Diễn tiến của việc công khai nhận sai lầm và tiến hành sửa sai (Bài 9)
2006-05-20
Thy Nga, phóng viên đài RFA

Trong 8 chương trình vừa qua, quý thính giả đã nghe những chuyện liên quan đến cuộc cải cách ruộng đất diễn ra tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước. Cuộc cách mạng được gọi là long trời lở đất ấy chấm dứt vào mùa thu năm 1956. Ðảng cộng sản và nhà nước và nhà nước công khai nhận sai lầm và tiến hành sửa sai.
Bấm vào đây để nghe cuộc phỏng vấn này
Download story audio

Từ tháng bẩy năm 1956, đã có nhiều hội nghị của bộ chính trị, ban bí thư và ban chấp hành bàn về những sai lầm trong cải cách ruộng đất và sửa sai. Cao điểm là hội nghị trung ương 10 vào tháng chín. Đó là hội nghị họp dài ngày nhất cho đến lúc bấy giờ, họp làm hai lần cho đến tháng 11 mới xong.
Hình ảnh được trưng bày tại Triển lãm cải cách ruộng đất tổ chức tại Hà Nội từ tháng 3 đến tháng 5/1956.
Trong cuốn hồi ký “Giọt nứơc trong biển cả”, ông Hoàng Văn Hoan nguyên phó chủ tịch quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà kể lại rằng trong hội nghị, các đại biểu đã nêu lên những sai lầm khá đầy đủ và rõ rệt trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất. Ông viết như sau:
“Người phụ trách Uỷ ban cải cách ruộng đất là Trường Chinh, tuy không chối cãi đựơc, nhưng cứ lý luận rằng cải cách đã đưa lại ruộng đất cho nông dân là một thắng lợi lớn, còn những sai lầm thì né tránh, không thừa nhận một cách thẳng thắn. Hoàng Quốc Việt cũng không nhận sai lầm. Chỉ có Lê Văn Lương, trưởng ban tổ chức trung ương đảng là thành thực nhận sai lầm trong việc chỉnh đốn tổ chức…


Hội nghị trung ương đáng lẽ phải có một nghị quyết tổng kết kinh nghiệm về cải cách ruộng đất, nhưng Trường Chinh, vừa là tổng bí thư, lại vừa là trưởng ban cải cách ruộng đất, vì tư tưởng chưa thông, nên dự thảo nghị quyết mấy lần đều không đựơc hội nghị trung ương chấp thuận.”
Bốn năm sau, khi đảng họp đại hội lần thứ ba vào năm 1960, nghị quyết ấy cũng chưa có, và lúc bấy giờ cũng chẳng ai nhắc lại nữa. Đó là lần đầu tiên, một hội nghị trung ương quan trọng như thế mà lại không có nghị quyết tổng kết. Ông Hoàng Văn Hoan còn nói thêm rằng, ngay trong quá trình sửa sai, Trừơng Chinh vẫn không dứt khoát.


Điều đó có thể giải thích rằng, mặc dù bị tạm thời hạ tầng công tác như một biện pháp kỷ luật, nhưng Trường Chính chắc vẫn cho rằng ông không phải là ngừơi chịu trách nhiệm cao nhất.
Cuối tháng 10 năm 1956, có mít tinh lớn tại nhà hát nhân dân Hà nội, Uỷ viên bộ chính trị đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt ông Hồ Chí Minh và trung ương đảng chính thức công nhận những sai lầm nghiêm trọng trong cải cách rụông đất. Cả hai nhân vật lãnh đạo cao cấp nhất và phải chịu trách nhiệm nặng nhất là Ông Hồ và ông Trường Chinh đều không ra mặt.
Bạn nghĩ gì về cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam và những hậu quả của chính sách này? Xin email về Vietweb@rfa.org




Sau khi công nhận sai lầm, đảng bắt đầu sửa sai.Cuộc cải cách ruộng đất đầy oan khuất, đầy máu và nứơc mắt đã chấm dứt. Đã có tổng số tám đợt phát động quần chúng và năm đợt cải cách ruộng đất đựơc thực hiện tại 3563 xã.
Một câu hỏi phải đặt ra là tại sao đảng Cộng sản lại ngưng cuộc cải cách ruộng đất vào lúc đó? Nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng trả lời:

“Hồ Chí Minh và đảng CS phải chấm dứt đợt cải cách ruộng đất năm 1956 vì hai lẽ.
Lẽ thứ nhất trong nội bộ Bắc Việ,t là cuộc cải cách ruộng đất đã đạt được các mục tiêu chính trị của họ. Mục tiêu chính trị của họ là gì? Mục tiêu chính trị của họ, thứ nhất là xóa bỏ giới hà bộc lãnh đạo hạ tầng cơ sở ở nông thôn và thay vào đó lớp lãnh đạo mới, là những đảng viên cộng sản.

Mục tiêu chính trị của họ nữa là chận đứng sự trà trộn của những điệp viên địch thủ trong dân chúng. Họ xóa bỏ toàn bộ nền văn hóa cổ truyền nổi tiếng là bảo thủ từ bao nhiêu đời ở nông thôn và họ thay thế bằng chủ trương của CSVN theo chủ nghĩa Mác Xít.
Thứ hai là trên bình diện quốc tế thì ông Michael Young đến Hà Nội vào tháng 4 năm 1956. Ông ấy giải thích chính sách mới của đại hội đảng 20 của Liên Xô. Vì vậy mà CSVN không thể đi ngược lại với đường lối mới của Liên Xô. Cho nên nhân cuộc tổng kết cải cách ruộng đất đợt 5 vào tháng 5 năm 1956, ông Hồ vì những lý do ở trong và ngoài nước thì ông Hồ cho ngưng cuộc cải cách ruộng đất và bắt đầu chương trình sửa sai.”


Đảng đã sửa sai thế nào? Mời quý thính giả nghe lời kể của ông Nguyễn Minh Cần, lúc đó là phó chủ tịch thành phố Hà nội, và trực tiếp tham gia công tác sửa sai tại ngoại thành Hà nội:
“Hồ Chí Minh và đảng CS phải chấm dứt đợt cải cách ruộng đất năm 1956 vì hai lẽ.
Lẽ thứ nhất là vấn đề nội bộ Bắc Việt là cuộc cải cách ruộng đất đã đạt được các mục tiêu chính trị của họ. Mục tiêu chính trị của họ là gì? Mục tiêu chính trị của họ, thứ nhất là xóa bỏ giới hào mục lãnh đạo hạ tầng cơ sở ở nông thôn và thay vào đó lớp lãnh đạo mới, là những đảng viên cộng sản.
Mục tiêu chính trị của họ nữa là chận đứng sự trà trộn của những điệp viên mà địch thủ trong dân chúng. Họ xóa bỏ toàn bộ nền văn hóa cổ truyền nổi tiếng là bảo thủ từ bao nhiêu đời ở nông thôn và họ thay thế bằng chủ trương của CSVN theo chủ nghĩa Mác Xít.

Thứ hai là trên bình diện quốc tế thì ông Mikoyan đến Hà Nội vào tháng 4 năm 1956. Ông ấy giải thích chính sách mới của đại hội đảng 20 của Liên Xô. Vì vậy mà CSVN không thể đi ngược lại với đường lối mới của Liên Xô. Cho nên nhân cuộc tổng kết cải cách ruộng đất đợt 5 vào tháng 7 năm 1956, ông Hồ vì những lý do ở trong và ngoài nước thì ông Hồ cho ngưng cuộc cải cách ruộng đất và bắt đầu chương trình sửa sai.”

Một người khác là nhà thơ Nguyễn Chí Thiện kể lại về sửa sai như sau:
“Sửa sai ở đây là không phải sửa sai cho địa chủ mà sửa sai cho những người vốn là đảng viên hoặc là những người vốn rất có công với kháng chiến nhưng bị vu cho là Đại Việt, Quốc Dân Đảng, vu cho là gián điệp... đủ thứ.

Những người đã giết rồi thì thôi, không nói làm gì rồi. Thế nhưng những người còn sót lại thì tha. Thế còn thực tế, những người bị quy là địa chủ mà đã vào tù rồi, chết rồi thì tôi không nói, đấu tố bắn ngay tôi không nói, nhưng vào tù rồi thì công bằng mà nói thì cả huyện của tôi là huyện Bình Dục, sau này tôi về chơi thì không có ông nào được tha cả.

Ngay làng tôi thôi có hai cha con ông Chánh Hồ, cũng bị quy là địa chủ, mà ông ta có giàu có gì đâu, bị quy là địa chủ. Ông ta trước kia là người chuyên môn đón bộ đội về làng, bộ đội là đến nhà ông ấy mà.
Thế là nhà ông Phó Liêm nữa. Những ông đó, một ông thì tự tử chết, hai người đi tù. Một ông nữa là ông Chánh Điểm cũng đi tù. Tất cả mấy người đi tù đó đều chết trong tù hết. Cả những làng xung quanh tôi không thấy ai về.
Mãi đến tận năm 1961, lần đầu tiên tôi đi tù thì tôi gặp không biết bao nhiêu là địa chủ vẫn còn nằm nguyên trong tù thôi.
Đến tù lần thứ hai năm 1966, tôi sống trong tù đến năm 1977 mới ra, thì vẫn còn những bác địa chủ vẫn bị sống trong tù - tuy là chết nhiều lắm rồi.” Sau cùng, xin đựơc kết thúc bài về sửa sai này bằng bài thơ mà ông Nguyễn Minh Cần nghe đựơc khi công tác sửa sai tại một làng thụôc huyện Đông Anh ở ngoại thành Hà nội:

Bác Hồ nói chuyện sửa sai
Sai thì cứ sửa, sửa rồi cứ sai
Đảng ta có lắm anh tài
Sai hoài sai mãi, sửa hoài cứ sai

Thông tin trên mạng:
- Trang web có những hình ảnh về Cuộc cải ruộng đất
- Cải cách ruộng đất - Wikipedia



Thành quả của cuộc cách mạng “long trời lở đất” (bài 10)
2006-05-21
Nguyễn An, phóng viên đài RFA

Trong những buổi phát thanh vừa qua, ban Việt ngữ chúng tôi đã gửi đến quý thính giả loạt bài nói về cuộc cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trứơc đây do Nguyễn An thực hiện. Kỳ này là bài thứ 10 và cũng là bài cuối, tổng kết về cuộc cách mạng được gọi là long trời lở đất để đem lại ruộng đất cho người nông dân, đã được thực hiện trong suốt mấy năm trời trên toàn lãnh thổ Việt Nam dân chủ cộng hoà trứơc khi đảng Cộng sản nhận sai lầm và sửa sai.
Bấm vào đây để nghe cuộc phỏng vấn này
Download story audio

Cuộc cải cách rụông đất tại miền Bắc đã chấm dứt và cuộc sửa sai bắt đầu từ mùa thu năm 1956. Nói về thành quả của cuộc cách mạng đựơc coi là “long trời lở đất” này, nhà nghiên cứu Sử Trần Gia Phụng nhận định:
“Đứng về phương diện chuyên môn nông nghiệp, cuộc cải cách ruộng đất không thúc đẩy được nông nghiệp phát triển, không thăng tiến được đời sống nông dân mà còn làm tan nát nền nông nghiệp cổ truyền ở ngoài Bắc và đưa mọi người vào cảnh nghèo đói. Tuy nhiên, đứng trên quan điểm của đảng CS thì họ đã thành công trong cải cách ruộng đất, đã đạt được những mục tiêu chính trị của họ.
Hình ảnh được trưng bày tại Triển lãm cải cách ruộng đất tổ chức tại Hà Nội từ tháng 3 đến tháng 5/1956.

Mục tiêu chính trị của họ, thứ nhất là xóa bỏ giới hào mục lãnh đạo hạ tầng cơ sở ở nông thôn và thay vào đó lớp lãnh đạo mới, là những đảng viên cộng sản.
Mục tiêu chính trị của họ nữa là chận đứng sự trà trộn của những điệp viên trong dân chúng. Họ xóa bỏ toàn bộ nền văn hóa cổ truyền nổi tiếng là bảo thủ từ bao nhiêu đời ở nông thôn và họ thay thế bằng chủ trương của CSVN theo chủ nghĩa Mác Xít.


Ngoài ra, liều lượng khủng bố của cộng sản đối với nông dân trong cuộc cải cách ruộng đất đợt 5 đủ để khuất phục nông dân, đủ để làm cho nông dân khiếp sợ, làm cho họ ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, sống luôn luôn trong sự sợ hãi tột cùng, và ghép họ vào trong khuôn phép cộng sản, ổn định một cách kiên cố hạ tầng cơ sở của xã hội nông thôn miền Bắc”.
Nhà văn Vũ Thư Hiên, trong cuộc phỏng vấn mới đây dành cho đài Á châu tự do đã đưa ra hình ảnh so sánh vùng quê ở miền Bắc trứơc và sau khi tiến hành cải cách ruộng đất như sau:
“Bây giờ thì cần phải nói như thế này, cái này là kinh nghiệm cá nhân. Vào đầu cuộc kháng chiến chống Pháp thì tôi tham gia một đoàn tuyên truyền xung phong. Chúng tôi đi đâu mà còn có cái ăn thì đó là những người giàu có, sau này thì bảo đó là những địa chủ.


Nhưng lúc đó thì chúng tôi chẳng hiểu họ là địa chủ hay họ là cái gì. Họ là những người hằng tâm, hằng sản nuôi bộ đội, cho cán bộ và cho chúng tôi nữa (đoàn tuyên truyền xung phong), đến là có cái ăn. Tất cả những người đó khi chúng tôi hỏi thăm thì đều bị đấu tố, bị vứt ra ngoài lề của xã hội mà họ gọi là mới.
Về sau này tìm hiểu thì tôi thấy có một cái tệ, tức là đấy không phải là một cuộc cải cách ruộng đất. Bởi vì nếu là một cuộc cải cách ruộng đất thì trước cải cách ruộng đất phải có điều tra tình hình ruộng đất.

Tôi nhớ, vào giai đoạn đó tôi không đọc được một bản điều tra nào về tình hình ruộng đất ở Việt Nam cả. Sự phân bổ ruộng đất, bao nhiêu phần trăm là địa chủ, bao nhiêu phần trăm là trung nông, phú nông, bần nông, chẳng hạn như thế. Họ không cần cải cách ruộng đất, tức là không muốn phân bố lại ruộng đất sao cho nó hợp lý. Mà căn bản, đó là một cuộc đấu tranh chính trị.
Ruộng đất đối với cải cách ruộng đất là một cái cớ để cào xới lại, đưa lại rất nhiều những quyền lợi, mà cũng không phải rõ ràng lắm, cho nông dân. Nông dân vùng lên đấu tranh làm cách mạng, người cày phải có ruộng.

Thế nhưng thật sự ra thì khi tiến hành tất cả những cái đó thì ruộng đất có một thời gian là có cắm cờ, rồi phân thửa ruộng này là của ông A, ông B rồi đóng cọc. Các bạn có xem những cái phim, chắc là bây giờ còn lại trong tư liệu, còn cả đấy. Nhưng cũng chỉ trong một thời gian rất ngắn thôi thì nó là tổ vần công, tổ đổi công xong thì họ lại cũng không có gì nữa.”
Lời kể của người trong cuộc
Ông Nguyễn Minh Cần, một người từng là phó chủ tịch Uỷ ban hành chính thành phố Hà nội và trực tiếp tham gia chiến dịch sửa sai cũng phân tích về những hậu quả của cụôc cải cách ruộng đất. Mời quý thính giả theo dõi cuộc trao đổi giữa BTV Nguyễn An và ông Nguyễn Minh Cần sau đây:
Nguyễn An: Thưa ông, bây giờ trở lại cuộc cải cách ruộng đất cách đây 50 năm. Theo ông thì cuộc cải cách ruộng đất đó để lại những hậu quả gì, những di hại gì?
Ông Nguyễn Minh Cần: Cái cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam để lại những hậu quả hết sức nghiêm trọng về rất nhiều mặt.

Nguyễn An: Xin Ông vui lòng phân tách từng điểm một?
Ông Nguyễn Minh Cần: Điểm thứ nhất: Đây là một cuộc tàn sát dân lành một cách vô tội vạ. Nếu nói theo từ ngữ hiện nay thì phải nói đây là một cuộc diệt chủng vì kỳ thị giai cấp. Bổng dưng lập ra lệnh cải cách ruộng đất, đưa những đoàn người về và tha hồ qui người ta lên là địa chủ.
Bạn nghĩ gì về cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam và những hậu quả của chính sách này? Xin email về Vietweb@rfa.org
Trên 172.000 người là nạn nhân. Tôi cón phải nói đến số người mà người ta oan ức quá, bực bội quá, người ta tự tử. Số đó cũng không phải là ít. Theo tôi, hậu quả đó rất lớn, nó gây ra một tâm trạng sợ sệt, khủng khiếp của người dân.
Hậu quả thứ hai là phá hoại truyền thống hòa hiếu của nông thôn, là vì từ trước ải nói dù rằng có thể có bóc lột, có thể có gì đấy với nhau, nhưng người nông dân sống với nhau là lá lành đùm lá rách, rất hòa hiếu với nhau.

Cuộc cải cách ruộng đất về xúi người này bới móc tội lỗi của người kia, và có thể những tội hoàn toàn không có cũng bới ra. Và dựa vào những thù cũ rồi gây ra thù hận giữa các tầng lớp với nhau. Chính cái đó nó phá hoại truyền thống đoàn kết lâu đời của người Việt Nam mình ở nông thôn.
Nguyễn An: Thưa ông, có phải ông muốn nói rằng cuộc cải cách ruộng đất đặt trên cơ sở là gây sự căm thù để phát động quần chúng, và sau đó sự căm thù đó lớn rộng và nó tiếp tục còn lại sau khi cuộc cải cách ruộng đất đã chấm dứt không?
Ông Nguyễn Minh Cần: Đúng như vậy.
Nguyễn An: Thưa , điểm thứ ba là gì?

Ông Nguyễn Minh Cần: Hậu quả thứ ba là phá hoại đạo lý luân thường của dân tộc. Từ xưa đến nay cha đối với con, mẹ đối với con, vợ chồng đối với nhau, họ hàng cha chú đối với nhau đều có một luân thường đạo lý. Nhưng cải cách ruộng đất về xúi dục con tố cha, vợ tố chồng, nàng dâu tố mẹ chồng, bố chồng v.v... đấu đá lẫn nhau như vậy.
Nguyễn An: Và gọi mày tao mi tớ hết?
Ông Nguyễn Minh Cần: Vâng. Như vậy, luân thường đạo lý tan hoang. Nguyễn An: Thưa ông, theo ông thì những cái mà phá hoại nền tảng luân lý đạo đức, rồi sự hòa hiếu ở trong nông thôn đó cách đây 50 năm thì được khai thác tối đa để hoàn thành cuộc cải cách ruộng đất... tinh thần như thế sau bao nhiêu lâu mới phục hồi được? Hay bây giờ nó vẫn còn là những vết thương rỉ máu?
Ông Nguyễn Minh Cần: Theo tôi, vì cho đến nay chưa có một sự sám hối rõ ràng. Chưa có một tuyên bố rằng chính sách hận thù giai cấp là một chính sách không đúng. Phải nói thật rằng bây giờ thì 50 năm đã qua thì người ta yên như vậy, nhưng lòng hận cũ không phải là đã hết.
Còn một điểm tôi cũng muốn nói nữa là hậu quả thứ tư: Nó phá hủy truyền thống tâm linh và văn hóa của dân tộc. Vì khi làm cải cách ruộng đất thì các ông đều có cái ý hướng là tiêu diệt các tôn giáo, chèn ép các tôn giáo, tước đoạt tài sản của các tôn giáo để làm cho các tôn giáo không tồn tại được một cách độc lập.

Quý thính giả có thể đọc toàn văn bài phân tích của ông Nguyễn Minh Cần về những hậu quả của cụôc cải cách ruộng đất trong phần Tư liệu trong Website của ban Việt ngữ ở địa chỉ www.rfa.org/vietnamese/tulieu. Quý vị cũng có thể viết Email góp ý và gửi về Vietweb@rfa.org, hay để lại lời nhắn trong hộp thư thoại 202 530 7775.
Thông tin trên mạng:
- Trang web có những hình ảnh về Cuộc cải ruộng đất
- Cải cách ruộng đất - Wikipedia
- Land Reform in China and North Vietnam
- A Special Supplement: In North Vietnam (The New York Review of Book)
- The Solzhenitsyn of Vietnam
- Statistics Of Vietnamese Genocide And Mass Murder
© 2006 Radio Free Asia


www.rfa.org/vietnamese/tulieu

Thác Bản Giốc

Trần Khải Thanh Thuỷ“… Dân Nam ơi nhớ lấy lời của thác: Bọn Tàu cộng chia cắt thác làm đôi! Đất biên giới vạn lần ta yêu dấu …”


Viết nhân ngày hoàn thành việc cắm mốc biên giới

Thác Bản Giốc năm nào ta qua đấy
Lắng lòng mình trước đá núi, lá hoa
Ai biết trước nơi này thành máu chảy
Đất biên thuỳ nay hoá đất Trung Hoa?
Cho lòng tôi ngược lại năm tháng cũ
Làm một nhành cây ôm thác đêm ngày
Làm mặt đất ru hồn con suối chảy
Làm cảnh đẹp gọi du khách dừng chân
Tai tôi nghe tiếng kêu gào thấu ruột
Tiếng đau thương người gục xuống năm nào
Tiếng rì rầm của tiền nhân thuở trước
Vang vọng về từ đỉnh ngọn thác cao
Cho lửa cháy lòng tôi bao dao cắt
Khúc bi thương đau suốt nghìn đời
Dân Nam ơi nhớ lấy lời của thác
Bọn Tàu cộng chia cắt thác làm đôi
Đất biên giới vạn lần ta yêu dấu
Nơi in bóng hình, sông núi, ông cha
Thêm cháy ruột mong mọi người vững bước
Bắt độc tài đền tội trước can qua.

Khâm Thiên - Hà Nội 4-1-2009

Trần Khải Thanh Thuỷ


(Thác Bản Giốc qua một bưu ảnh thời Pháp thuộcSao không thấy bóng dáng Tàu phù nào nhỉ?)

HỘI NGHỊ G20 TẠI LONDON





Đôi nét hội nghị G20 ở London

Bộ trưởng tài chính khối G20 hiện còn có bất đồng

Các nhà lãnh đạo thế giới sẽ nhóm họp ở London vào ngày 02 tháng Tư để thảo luận về kế hoạch đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay.

BBC giải thích về lý do triệu tập hội nghị này và hy vọng sẽ đạt được điều gì.

G20 là gì?

G20 là nhóm những quốc gia mạnh nhất thế giới, chiếm 85% nền kinh tế thế giới. Nhóm này bao gồm các cường quốc công nghiệp như Hoa Kỳ và Đức, cũng như những thị trường mới nổi như Trung Quốc và Brazil.
Nhóm G20 được lập ra sau khủng hoảng tài chính châu Á năm 1999 đề bàn về hợp tác quốc tế giữa các bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng trung ương.

Tuy nhiên, G20 có sứ mệnh mới do kinh tế thế giới chững lại và cuộc họp đầu tiên của giới đứng đầu chính phủ 20 nước đã diễn ra cuối tháng 11 năm ngoái tại Washington.

Tại lần nhóm họp này các nhà lãnh đạo đã cam kết phối hợp hành động để giải quyết cuộc khủng hoảng.

Nay Anh Quốc, hiện nắm ghế chủ tịch luân phiên của G20, đã triệu tập cuộc họp ở London để bàn tiếp các biện pháp đối phó với cuộc khủng hoảng.

Mục đích hội nghị ở London

Thủ tướng Gordon Brown tin rằng mục đích của hội nghị thượng đỉnh ở London không gì khác ngoài việc tái cấu trúc hệ thống tài chính thế giới.

Trước tiên, các nhà lãnh đạo muốn đạt được thỏa thuận nhằm phối hợp hành động để vực dậy nền kinh tế thế giới, bao gồm cả việc cắt lãi suất và chính phủ các nước tăng chi nhằm thoát khỏi cuộc khủng hoảng.

Thứ hai, sẽ có những nỗ lực để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng trong tương lai bằng cách tăng cường các quy định quốc tế đối với khu vực ngân hàng và các định chế tài chính.

Thứ ba, họ cũng hy vọng sẽ thống nhất được lộ trình cho cải cách trong tương lai, bao gồm thay đổi tại các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhằm tạo điều kiện lắng nge các nước nghèo nhiều hơn nữa.

Nói chung, người ta hy vọng rằng hội nghị thượng đỉnh ở London sẽ phòng xu hướng tiến tới việc bảo hộ kinh tế nội địa bằng cách thuyết phục các quốc gia rằng làm việc cùng nhau sẽ có hiệu quả hơn nhằm chống chọi với cuộc khủng hoảng.

Những trở ngại chính

Barack Obama hiện chưa tỏ rõ cam kết hợp tác quốc tế toàn diện

Có một số vấn đề trong nỗ lực đạt được thỏa thuận toàn diện về cải cách nền kinh tế thế giới.

Trước hết, các kế hoạch sẽ chỉ có kết quả với sự tham gia toàn diện của Hoa Kỳ, nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Tân Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama hiện chưa tỏ ý rõ ràng về qui mô ủng hộ hợp tác quốc tế.

Người ta thấy có thể có bất đồng lớn về việc làm thế nào để điều tiết kinh tế thế giới, với Hoa Kỳ nhiều khả năng không đồng ý với một tiêu chuẩn mà có thể cũng áp dụng cho các lĩnh vực tài chính nội địa theo đề nghị của một số nước Âu châu.

Đề xuất cơ cấu lại các tổ chức tài chính quốc tế cũng nhiều khả năng gây tranh cãi vì tạo thêm quyền cho các nước đang nổi lên như Trung Quốc và Brazil. Tức là ảnh hưởng từ các nước Châu Âu trong IMF và Ngân hàng Thế giới sẽ bị giảm bớt.

Khả năng xảy ra

Với nhiều quốc gia đã đưa ra các kế hoạch kích thích kinh tế thì việc ủng hộ cho các biện pháp này về nguyên tắc là tương đối dễ dàng.

Nhưng hiện không rõ là cuộc họp sẽ thực sự đưa ra được cam kết mới của các chính phủ với kế hoạch chi thêm như mua lại nợ hay không.

Hơn nữa không rõ các thị trường tài chính có ủng hộ kế hoạch như vậy hay là không.

Hiện nhiều khả năng không có bất kỳ biện pháp cụ thể nào nhằm khống chế biến động tỷ giá hối đoái hiện đang gây ảnh hưởng lớn tới các nước đang phát triển.

Và các quốc gia nhỏ hơn có thể thất vọng vì tiếng nói của họ không được lắng nghe nhiều.

Rốt cùng, kế hoạch đưa ra một hệ thống mới quy định về tài chính toàn cầu có thể chỉ đi tới việc thống nhất được các biện pháp có tính khả thi.

Tức là trước hết phải đạt được đồng thuận trên nguyên tắc về qui định mới đó là gì và liệu qui định đó có thay thế các qui định hiện hành hay không. Chẳng hạn như thay thỏa ước Basel vốn khống chế các hoạt động trong khu vực ngân hàng.

Thành viên của G20 bao gồm Argentina, Úc, Brazil, Canada, Trung Quốc, Pháp, Đức, Ấn Độ, Indonesia, Ý, Nhật Bản, Mexico, Nga, Ả rập Saudi, Nam Phi, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và EU.


Saturday, March 14, 2009

CHÍNH TRI & TÔN GIÁO

(Mậu thân, tội ác Cộng sản Việt Nam)
=

TRƯỜNG HỢP GIÁM MỤC WILLIAMSON và TẾT MẬU THÂN 1968Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh

____________________________________________________________


Trong những tháng đầu năm 2009, tại nhiều nước trong Liên Hiệp Âu Châu và nhất là tại Đức quốc, dân chúng bàn tán khá sôi nổi về Giám Mục Williamson và việc làm của Tòa thánh La Mã đối với vị Giám Mục này. Đi đâu cũng nghe thiên hạ bàn tán, chỉ trích phê bình. Williamson là đầu đề câu chuyện.

“Sự kiện Williamson” là gì ? Giám Mục Williamson là ai? Và liên quan gì đến trường hợp Tết Mậu Thân 1968?



Ngày 25.01.1959, 50 năm trôi qua, kể từ ngày Đức Cố Thánh Cha Gioan XXIII, triệu tập Công Đồng Vatican II. Một sự việc gây đầy ngạc nhiên, vì vị “cha già giáo hội” trên 80 tuổi, còn đủ sức triệu tập một Công Đồng mang tính vĩ đại trong lịch sử giáo Hội.

Cùng gần ngày này, năm 2009 năm nay, “sự kiện Williamson”, tạo bầu khí bàn cãi sôi nổi trong mọi tầng lớp, từ già đến trẻ, từ người Công giáo đến tín đồ tin lành, từ các nhà chính trị gia đến những vị tu sĩ Công giáo, Tin lành, đến những vị lãnh đạo tinh thần Do thái giáo, và Thống đốc giáo v.v.. Họ tranh luận, họ bênh vực ủng hộ giáo hội La Mã, họ phê bình về sự việc: Tòa Thánh bãi bỏ rút lại quyết định “treo chén” của giám Mục Williamson. Ngài là một trong bốn Giám mục của hội Anh em Linh Mục Piô, được chịu chức Giám Mục, nhưng không được phép của Tòa Thánh.



Công Đồng Vatican I, đươc khoáng đại vào năm 1870/71, nhưng chưa kết thúc. Nguyên nhân không phải chỉ riêng về chiến tranh. Khi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan XXIII, vào tháng Giêng 1959, kêu gọi triệu tập Công Đồng Vatican II, là mở lại những ưu tư và chương trình đã có sẵn từ Công Đồng Vatican I.

Từ năm 1870 đến năm 1959, gần 90 năm trôi qua, có qúa nhiều thay đổi. Giáo hội đón nhận luồng gió mới và cảm nhận cần phải cởi mở và nới rộng hơn. Nhiều ý kiến đóng góp muốn đổi mới giáo hội, đặc biệt trong phạm vi kinh thánh và nghi thức mục vụ.

Canh tân đổi mới, cởi mở, mở rộng và đáp ứng nhu cầu vấn nạn thời kỳ văn minh tân tiến cận đại là điều đòi hỏi cần thiết và cấp bách cho giáo hội hoàn vũ. Tuy nhiên, sự cố gắng này đã dẫn tới sự chia rẽ bè phái khó hòa giải được, giữa khuynh hướng “cấp tiến” và khuynh hướng “bảo thủ”. Công đồng đã cố gắng bằng mọi cách, đưa ra những phương thức hòa giải, hầu hàn gắn mọi khuynh hướng con Chúa quy về một mối.

Khuynh hướng “cấp tiến” chủ trương gìn giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp, nhưng muốn tân tiến Giáo hội. Sau 4 năm thảo luận cam go, giáo hội đã phải đưa ra 16 Tuyên ngôn, Tông huấn và Huấn dụ của Công Đồng, vạch ra hướng đi tương lai cho giáo hội.

Những qúi Hồng Y, Giám Mục đã có những nhận xét khác nhau về tính cách duy trì giá trị truyền thống, nhưng đồng thời, qúi ngài vẫn sẵn sàng chấp nhận sự canh tân giáo hội với những giá trị qúi gía này. Đặc biệt, hầu hết mọi Nghị Phụ Công Đồng đều đồng thuận trong công việc canh tân nghi thức mục vụ.

Ngày nay, con dân Giáo hội, và nhất là giới trẻ, cám ơn Giáo Hội đã có Công đồng Vatican II. Họ lớn lên và hấp thụ những tinh hoa của tinh thần Công đồng này. Họ đón nhận sự thay đổi này, như mùa Xuân Giáo hội. Con cái của Chúa sẵn sàng dấn thân, hăng say phục vụ cho giáo hội, tranh đấu cho NHÂN PHẨM con người, bảo vệ CÔNG LÝ và HÒA BÌNH, làm chứng nhân cho SỰ THẬT, bất kỳ ở đâu nơi nào, với niềm TIN YÊU HY VỌNG, theo tinh thần Công đồng Vatican II.



Mỗi Công đồng đều cần thời gian phát triển, để thấm nhuần tư tưởng mới trong lòng giáo hội, và đi thâm sâu vào mỗi giáo hội địa phương. Quy luật này, cũng không ngoại trừ cho sự phát triển của Công Đồng Vatican II.

Sau năm 1965, việc áp dụng nghi thức mục vụ mới xem ra không dễ, bởi lẽ, trên toàn thế giới, trong mọi xã hội và văn hóa, đã có những biến cố xẩy ra làm cho người dân, nhất là giới trẻ, chối bỏ hoàn toàn mọi giá trị truyền thống. Chúng ta nghĩ đến phong trào Hip-pi thập niên 60 và 70: tự do yêu cuồng loạn; bình đẳng mọi giới; chống mọi tư tưởng bảo thủ (đã gây đến đại chiến II); phủ nhận những phương thức giáo dục độc đoán và cổ võ lối sống vô hiệu hóa luân lý “lỗi thời”. Những trào lưu này cũng dần xâm nhập giáo hội. Chính vì lẽ đó, một phần quyết định của Công đồng cũng đã bị một số tu sĩ giáo dân không chấp thuận. Một số nhỏ thì phản đối mạnh mẽ và trở lên cực đoan hơn, nhằm duy trì giá trị truyền thống giáo hội bất di bất dịch.



Trong tình huống nước sôi lửa bỏng này, đáng tiếc, đã hình thành những bè nhóm không cần thiết. Càng ngày, những nhóm này trở thành những tổ chức khép kín và dần dần tách rời khỏi giáo hội Mẹ, trong đó có nhóm của Tổng Giám Mục Pháp Lefebvre. Năm 1969, nhóm này đã sát nhập khuynh hướng của nhóm Đức Giáo Hoàng Piô X. Đầu thế kỷ 20, ngài chống lại đức tin giả dối tân tiến. Từ đó, nhóm Lefebvre còn được gọi là “cộng đoàn anh em linh mục Piô X”. Cộng đoàn này thu hút một số những linh mục và giáo dân bất mãn lối sống tân tiến và cách phát triển “vô chiều hướng” của giáo hội. Một phần, họ không hài lòng với những trào lưu văn hóa, chính trị xáo trộn lẫn lộn trong xã hội. Việc tranh cãi không chỉ chung quanh vấn đề cải tổ nghi thức thánh lễ, song còn bất tuân chống lại những giáo điều của Công đồng đưa ra, trong đó có chiều hướng cố gắng Ökumene (hòa đồng sinh hoạt với tôn giáo ly khai, dẫn tới hiệp nhất lên một trong giáo hội).



Dù tòa thánh đã bao nhiêu lần cố gắng hàn gắn, nhưng năm 1988 đã dẫn tới sự nạn rứt chia rẽ trầm trọng với phong trào Lefebvre, chấm dứt mọi liên lạc, vì đức TGM Lefebvre phong chức 4 giám mục, nhưng không có sự chấp thuận của tòa thánh.

Đức Giáo Hoàng đương kim, Benetiktô XVI, truớc khi lên Giáo chủ, là tổng trưởng bộ đức tin, kiêm chủ tịch ủy ban Kinh thánh và ủy ban quốc tế Thần học, có trách nhiệm duy trì và hàn gắn sự thống nhất giáo hội Thiên Chúa Giáo. Nay là Giáo chủ, việc thống nhất con cái chúa còn là trọng trách thêm của ngài, và đó cũng là mối lo lắng, ưu tư riêng của ngài (Đây cũng là lý do, tại sao ngài lấy tước hiệu Benediktô). Năm 1991, TGM Lefebvre mất. Sự hòa giải với nhóm ly khai Lefebvre có lẽ có nhiều phần hậu thuẫn hơn. Ngài chắp nối quan hệ lại với giáo phái Lefebvre, kêu gọi thống thiết những con “chiên lạc” quay trở lại với giáo hội mẹ.

Bước đầu, để dẫn tới việc sáp nhập giáo Hội, Ngài bãi bỏ lệnh treo chén (Exkommunikation) bốn giám mục này, nhưng không có nghĩa là phục hồi (Rehabilitierung) quyền giám mục, càng không có nghĩa là chấp thuận hoàn toàn gia nhập vào giáo hội (volle Wiederaufnahme). Không ngờ, một trong bốn vị giám mục này, nhân dịp cuộc phỏng vấn đài truyền hình Thụy điển trung tuần tháng giêng 2009, đã phủ nhận sự kiện lịch sử Holocaust: Cả hàng triệu người Do thái bị chết hơi ngạt. Họ bị tiêu diệt vì chủ thuyết kỳ thị dân tộc Do thái dưới chế độ ác độc Hitler, trong thời đệ II thế chiến.

Trong khi Tòa thánh đang chờ đợi sự lên tiếng cải chính của Giám mục Williamson người Anh Quốc, thì báo chí truyền thanh đã đưa tin này trong công luận, làm xáo trộn dư luận trong quần chúng cho rằng, tòa thánh gián tiếp ủng hộ khuynh hướng kỳ thị chống người Do thái (antisemitismus).

Khi giám mục Williamson chối bỏ sự kiện Holocaust được công khai hóa, thì bốn ngày sau, Đức thánh Cha Benêtiktô XVI đã lên tiếng bày tỏ rõ lập trường của mình và của Giáo Hội. Ngài khẳng định rằng, những ai chối bỏ sự kiện lịch sử Holocaust là chống lại lịch sử nhân bản nhân loại và không thể chấp thuận và chấp nhận thành viên giáo hội Công giáo La mã, cần khai trừ khỏi giáo hội.

Trong những cuộc tranh luận đề tài này, có luồng tư tưởng hỏi rằng, phủ nhận sự kiện Holocaust là hành vi chống lại nhân phẩm con người và đồng thời vô hiệu hóa những sự gian ác đã gây ra cho nhân loại, do chế độ độc tài gian manh Phát-xít gây ra. Vậy, chế độ Cộng sản còn hung tàn không thua kém gì chế độ Đức Quốc xã. Tại sao giáo hội không lên tiếng chống lại những vị giám mục, linh mục nào phủ nhận sự kiện hàng triệu người là nạn nhân do chế độ cộng sản gây ra tại Liên Xô, Trung Quốc, Bắc hàn, Việt Nam và tại Campuchia?

Tại sao giáo hội không có biện pháp “treo chén” những Giám mục, Linh mục cộng tác với chế độ Cộng sản gian manh? Khi sẵn lòng tiếp tay cho chế độ này, họ có trực tiếp hay gián tiếp, công khai hay âm thầm, chối bỏ những hành động dã man do chế độ Cộng sản gây ra không?

Sự kiện thảm sát Mậu thân năm 1968 tại Huế, là hành động diệt chủng do chế độ Cộng sản chủ mưu. Vậy, nếu qúi tu sĩ nam nữ hay giáo dân nào phủ nhận “sự kiện lịch sử Cộng sản tiêu diệt chủng tộc Mậu thân 1968”, có phải lãnh hình phạt Exkommunikation (không được phép thuộc vào giáo hội) hay không? Ai đang tiếp tay cho chế độ gian tà này? Ai đang chối bỏ sự kiện Mậu thân 1968?

Ai đang chống lại chính nhân phẩm con người đồng loại, đồng chủng? Ai đang nhúng tay đóng đinh Chúa Giêsu thêm lần nữa? Ai đang đứng trong bóng tối làm hậu thuẫn gây thêm ra nhiều tội gian ác nữa? Ai đang bênh vực tội ác của chủ nghĩa cộng sản?

Tại Nga, vào ngày 2/03/2009, Đảng Yabloko đề nghị ra luật trừng phạt những ai phủ nhận các tội ác thời Xô Viết. (Trần Trung Thực và nhóm sinh viên Sử, nhóm Trần Hiền Thảo lược dịch). Dân chúng và quốc hội Nga đang đòi đưa Stalin ra xử về những tội ác hắn gây ra.

Trưởng công tố Nga, Yuri Chaika ủng hộ quan điểm của Bộ trưởng Sergei Shoigu thuộc đảng Nước Nga Thống Nhất cho rằng ai phủ nhận cuộc chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại sẽ phải bị xử phạt hình sự.

Ở châu Âu, hơn 10 nước đã ban hành luật xét xử trách nhiệm hình sự đối với những ai phủ nhận chiến công tiêu diệt chủ nghĩa phát xít và tội ác diệt chủng người Do Thái do Đức Quốc xã và bè lũ Phát-xít gây ra từ năm 1933 đến năm 1945. Trong những nước này có Pháp, Thụy Sĩ, Bỉ, Ba Lan. Ở Áo, Romania, Cộng hòa Czech, ai phủ nhận lịch sử, bị xử phạt từ sáu tháng đến 10 năm tù giam. Còn tại Đức và Do Thái, mức phạt tù từ sáu tháng đến 5 năm.

Trong xã hội thời hậu Cộng sản, phải có những luật pháp công minh xét xử những ai phủ nhận sự kiện lịch sử tiêu diệt chủng tộc tại Huế, năm 1968, do Chế độ Cộng sản hung bạo gây ra.

Là người Thiên chúa giáo, chúng ta có mang tội vạ tuyệt thông và mất quyền thông công vào ơn ích giáo hội không, khi phủ nhận vụ tàn sát Mậu thân tại Huế?

Ai chối từ sự kiện Holocaust và ai phủ nhận vụ sát hại dã man người dân vô tội tại Huế năm 1968, đối với lập trường giáo hội, không là thành viên của giáo hội Công giáo. Họ đã gián tiếp tự ngăn cách và tự tách mình ra khỏi giáo hội Công Giáo và chống lại tất cả giá trị nhân phẩm nhân loại con người. Họ đang nhẫn tâm dẫm châm trà đạp nhân cách con người mang hình ảnh Thiên Chúa. Họ đang đắm chìm trong tội lỗi, và đồng lõa với sự ác.

(Đức quốc, thứ năm ngày 11.03.2009)

Friday, March 13, 2009

TIN TỨC THẾ GIỚI






TIN TỨC TRUNG CỘNG, Á CHÂU & THÁI BÌNH DƯƠNG
==

Trung Cộng đang tìm cách chứng tỏ chủ nghĩa bá quyền trong vùng biển đông
http://www.tinvietonline.com/bidvertiser336.php;

Mar 11, 2009



Như tin đã loan vào ngày hôm qua, một tàu nghiên cứu khoa học của Hải quân Mỹ trong khi hoạt động tại khu vực biển Nam Hải đã bị 5 tàu hải quân Trung Cộng bao vây. Vụ khiêu khích xảy ra trong hải phận quốc tế, các tàu Trung Cộng tỏ nhiều dấu hiệu khiêu khích cũng như yêu cầu tàu Mỹ phải ra khỏi vùng biển mà họ cho là thuộc chủ quyền của họ. Hoa Kỳ đã chính thức phản đối sự việc này qua Đại sứ Trung Cộng tại Washington DC. Giáo sư Carl Thayer, nguyên là chuyên gia c ốvấn cho Bộ Quốc Phòng Úc trong cuộc phỏng vấn dành cho báo chí đã cho rằng đây là trường hợp đặc biệt khác với lần trước xảy ra vào năm 2001.


Lần này tàu của Mỹ là một chiếc tàu nghiên cứu hải dương học và không trang bị vũ khí. Vùng biển này thuộc hải phận quốc tế nên việc làm của Trung Cộng sẽ khiến nhiều nước trên thế giới quan ngại khi có các hải hành ngang khu vực biển Nam Hải. Việc làm này của Trung Cộng là bất hợp pháp và sẽ dẫn đến nhiều vấn đề khác. Trung Cộng đã từng bắn tàu đánh cá Việt Nam trong vùng biển này và Việt Nam không thể làm gì khác hơn là chỉ lên tiếng phản đối, nhưng Hoa Kỳ thì khác, không thể đơn giản là một việc lầm lẫn mà đây là vấn đề có tầm quan trọng lớn hơn nhiều. Trung Cộng đã tự tuyên bố hải phận của họ khác với quy định của công pháp quốc tế.



Điều này làm nảy sinh ra vấn đề chủ quyền quốc gia của họ được vẽ lại và cũng ngầm chứng tỏ cho các nước trong khu vực thấy sức mạnh quân sự mà họ có.Giáo sư Carl Thayer cho rằng đối với tàu đánh cá nhỏ hay tàu hải quân Việt Nam thì Trung Cộng đã dùng sức mạnh quân sự như muốn răn đe các nước láng giềng, nhưng đối với hải quân Mỹ thì khác mặc dù chiếc tàu này không trang bị vũ khí nhưng vẫn là tàu Mỹ. Hơn nữa họ đang hoạt động tại vùng biển quốc tế nên Trung Cộng không thể cho là thuộc hải phận của họ được. Sự kiện xảy ra khi tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ là đô đốc hải quân Robert Willard đang viếng thăm Hà Nội, giáo sư Thayer cho rằng hai việc không liên quan gì với nhau. Mới đây thì Ngoại trưởng Hillary Clinton đã công du Trung Cộng và hai bên hứa hẹn nhiều sự hợp tác quan trọng. Hơn nữa cũng sắp tới ngày Tổng thống Obama và Chủ tịch nhà nước Cộng sản Trung Hoa Hồ Cẩm Đào gặp gỡ nhau trong cuộc họp thượng đỉnh thì Trung Cộng sẽ không muốn có sự kiện gì lớn xảy ra trước đó.



Ông nghĩ rằng việc này chỉ nhằm chứng tỏ sức mạnh của họ đối với các nước trong khu vực biển Đông mà thôi. Ông cũng cho rằng Hoa Kỳ sẽ vẫn tiếp tục theo đuổi chính sách của họ như từ trước đến nay và việc tàu hải quân Mỹ di chuyển trên hải phận quốc tế thì dĩ nhiên họ vẫn tiếp tục làm như vậy bất kể tiềm năng quân sự của Trung Cộng ra sao. Việc làm của hải quân Trung Cộng có thể giải thích theo như nhiều nước trong khu vực từng làm là họ chứng tỏ chủ nghĩa bá quyền của mình, tuy nhiên ông không nghĩ rằng họ có thể áp dụng chủ trương này đối với Mỹ.Trung Cộng tố cáo ngược Mỹ vi phạm luật quốc tế và luật Trung CộngNgày hôm nay phía Trung Cộng đã đáp trả cáo buộc gây hấn mà Mỹ đưa rằng bằng cách khẳng định tàu Mỹ đã vi phạm luật quốc tế và cả luật Trung Cộng, khi cho rằng tàu USNS Impeccable tiến hành các hoạt động tại vùng đặc quyền kinh tế của Trung Cộng ở biển Đông mà chưa có sự cho phép của Bắc Kinh.




Phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung cộng là Triều Húc tuyên bố Bắc Kinh yêu cầu Hoa Kỳ ngừng ngay các hoạt động liên quan trên vùng biển này và có biện pháp ngăng ngừa không để xảy ra một lần nữa chuyện như vậy ở đây. Tuyên bố này của Trung Cộng đưa ra sau khi Bộ Quốc phòng Mỹ đã cáo buộc Trung Cộng khiêu khích trên biển Đông bằng việc cho tàu chiến lượn quanh khu vực đóng hạm đội của Mỹ tại đây, sự kiện xảy ra ra khi tàu thăm dò đại dương USNS Impeccable của Hoa Kỳ đang hoạt động thường lệ tại lãnh hải quốc tế cách đảo Hải Nam 75 dặm về phía Nam, tức là gần khu vực đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Bộ Quốc phòng Mỹ cho hay, các thuỷ thủ trên các tàu Trung Cộng đã vẫy cờ Trung Cộng và yêu cầu tàu Mỹ rời khỏi nơi này, có lúc tiến sát đến gần tàu Mỹ chỉ cách khoảng 7 thước. Phía Mỹ đã buộc phải xịt hơi chữa cháy vào tàu Trung Cộng để tự vệ.


Các viên chức Bộ Quốc phòng Mỹ coi đây là sự kiện hết sức bất ngờ và khó chịu, nên đã cáo buộc hành động của Trung Cộng đã vi phạm luật quốc tế về sử dụng lãnh hải. Hoa Kỳ đã chính thức gửi công hàm ngoại giao phản đối đến tòa đại sứ Trung cộng ở Hoa Thịnh Đốn, cũng như triệu tùy viên quân sự Trung cộng đến họp tại bộ Quốc Phòng Mỹ.



Biểu tình chống Trung Cộng tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn




Hàng trăm người mang theo quốc kỳ Tây Tạng đã tập trung trước Tòa Bạch Ốc để biểu tình phản đối Trung Cộng chiếm đóng Tây Tạng. Hồng quân Trung Cộng đã xâm lăng Tây Tạng trong năm 1950 với chiêu bài giải phóng nước này thoát khỏi chế độ quân chủ phong kiến.Người biểu tình đã hát quốc ca Tây Tạng, vẫy những biểu ngữ đòi Trung Cộng cho tự do báo chí và trả tự do cho Tây Tạng.



Cô Yangchen Lhamo là một du sinh Tây Tạng Tự do nói cô xuống đường để cùng với hàng chục ngàn người trên thế giới tưởng niệm lần thứ 50 vụ đứng dậy trong năm 1959 của Tây Tạng. Họ kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ áp lực để Bắc Kinh phải nói chuyện với đức Đạt Lai Lạt Ma, và chân thành đàm phán để trả tự do cho Tây Tạng. Một người biểu tình khác là anh Tsering Palden, một thành viên của Nghị hội Thanh niên Tây Tạng ở New York và New Jersey nói anh tiếp tục tranh đấu cho tới khi nào Tây Tạng được tự do. Hiện nay Tây Tạng là nước bị đóng kín với thế giới bên ngoài, không có báo chí, không có người ngoại quốc và ký giả quốc tế được phép đến Tây Tạng, cả đất nước Tây Tạng bị quân sự hóa, bị đặt trong tình trạng thiết quân luật. Cách nay một năm chư tăng Tây Tạng đã lãnh đạo một cuộc biểu tình chống sự chiếm đóng của Trung Cộng, đưa tới vụ bạo động ngày 14 tháng 3 làm 19 người Hán và người Tây Tạng thiệt mạng. Vụ bạo động đã đưa tới vụ đàn áp thăƯng tay của Trung Cộng.



Các nhóm tranh đấu ở hải ngoại nói ít nhất 200 người Tây Tạng đã tử nạn vì đàn áp của bộ đội Trung Cộng. Bắc Kinh đã nói đức Dạt Lai Lạt Ma chủ trương tách rời Tây Tạng khỏi lãnh thổ Trung Cộng, nhưng đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố ngài chỉ tranh đấu để Tây Tạng được quyền tự trị rộng rãi hơn mà thôi. Kể từ năm 2002, đại diện Trung Cộng và đức Đạt Lai Lạt Ma đã đàm phán 8 lần nhưng không đem lại kết quả nào.Kỷ niệm 50 năm ngày Đức Đạt Lai Lạt Ma sống lưu vongTrong lúc thế giới đánh dấu 50 năm ngày Đức Đạt Lai Lạt Ma sang Ấn Độ lánh nạn, thì những người Tây Tạng tại quê nhà đang phải sống dưới sự canh phòng nghiêm ngặt của chính quyền Trung Cộng tìm cách làm im tiếng nghững người chống đối, để đề phòng một vụ biến động như đã từng xảy ra tai thủ đô Lhasa cách đây gần 1 năm.


Sáng nay một giới chức cao cấp của Trung Cộng nói họ đã điều động lực lượng chống bạo loạn đến Tây Tạng để ngăn ngừa bất cứ biến động nào. Bắc Kinh cũng đã gia tăng kiểm soát tại khu vực này trong lúc người Tây Tạng kỷ niệm 50 năm ngày Đức Đạt Lai Lạt Ma phải chạy sang Ấn Độ sống lưu vong, và cũng là ngày mà những người Tây Tạng đã cũng đã kỷ niệm vào hồi năm ngoái rồi biến thành bạo động. Đưòng xá cũng đã bị ngăn chặn dọc theo lộ trình dẫn đến những tu viện từng xảy ra biến động vào hồi năm ngoái, để ngăn ngừa những người ngoại quốc đến viếng thăm, và để đề phòng nhập lậu vũ khí vào. Tại một tu viện ở thị trấn Kumbum thuộc vùng ngoại ô thành phố Tây Ninh trong tỉnh Thanh Hải ở miền tây bắc Hoa Lục là nơi mà an ninh ít được tăng cường, các cư dân tại đây nói tu viện này đã không tham dự vào vụ biến động vào hồi năm ngoái.



Hàng trăm sư tăng đã tụ tập tại tu viện này để cầu nguyện trong lúc những tín đồ cũng được tự do vào hành lễ. Những nhà sư và người hành hương đã cố tình né tránh nói chuyện trước ống kính về lễ kỷ niệm ngày 10 tháng 3, vì họ biết đây là một vấn đề chính trị nhạy cảm. Cách đây 1 năm, các cuộc biểu tình do các sư tăng lãnh dạo chống lại sự cai trị của Trung Cộng tại vùng thủ đô Lhasa đã biến thành vụ nổi loạn vào ngày 14 tháng 3, khi những người Tây Tạng tấn công những cơ sở thương mại của người Hán và người Hồi và gây tử vong cho 19 người. Vụ nổi loạn đã khiến cho Bắc Kinh vận dụng quân đội đàn áp những người Tây Tạng trong khu vực này.



Những nhóm tranh đấu cho người Tây Tạng tại hải ngoại nói có hơn 200 người đã bị giết trong vụ đàn áp nói trên.Chính quyền Trung Cộng phủ nhận sự cáo giác này, những người Tây Tạng nói họ vẫn còn lo ngại cho tưong lai bất chất vụ nổi loạn đã được dẹp tan vào năm ngoái. Theo dự trù vào hôm nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ kỷ niệm 50 năm ngày Ngài sống lưu vọng bằng cách đòi quyền tự trị rộng rãi hơn cho ng Tây Tạng, vì những đồng đạo của Ngài tại quê nhà nói sự cai trị của Bắc Kinh đã khiến cho họ như đang sống trong địa ngục trần gian. An ninh cũng được tăng cường tại tỉnh Thanh Hải giáp giới với Tây Tạng, cảnh sát đã được điều động đến ngăn chặn những con đường không cho dân chúng được vào tu viện tại thị trấn Đồng Nhân mà người Tây Tạng gọi là Rabkong. Thế nhưng bất an cũng đã xảy ra tại vùng cực tây vào sáng hôm qua, khi những quả bom tự tạo đã gây thiệt hại cho 2 chiếc xe cảnh sát kiểm lâm của chính quyền trong khu vực sinh sống của người Tây Tạng ở tỉnh Thanh Hải.



Tân Hoa Xã nói vụ nổ diễn ra sau khi dân chúng tụ tập tại một đồn cảnh sát để hậu thuẫn cho một tài xế xe vận tải chở gỗ đã bị cảnh sát chặn tại một chốt kiểm soát vào hôm Chủ Nhật. Hôm qua Chủ tịch nhà nước Trung Cộng là Hồ Cẩm Đào báo động là chính quyền có thể sẽ không nới lỏng sự kiểm soát tại vùng rừng núi mà Hồng quân Trung hoa của Mao Trạch Đông từng cưỡng chiến vào năm 1950.Bắc Kinh nói Đức Đạt Lai Lạt Ma đòi được quyền tự trị rộng rãi hơn là để muốn cho Tây Tạng được độc lập. Trung Cộng cáo giác ngài là kẻ ly khai đã tìm cách gây xáo trộn khu vực này vào hồi năm ngoái, là điều mà ngài phủ nhận. Bắc Kinh lo ngại ngày kỷ niệm hôm nay có thể sẽ gây nên các cuộc biểu tình mới, nên họ đã điều động quân đội và cảnh sát để nhanh chóng dẹp tan nguy cơ nổi loạn có thể xảy ra.



Hoa Kỳ và Nam Hàn tiếp tục cuộc tập trận hàng năm

Nam Hàn và Hoa Kỳ vẫn tiếp tục cuộc tập trận chung hàng năm giữa lúc vùng bán đảo Triều Tiên trở nên căng thẳng, sau khi Bắc Hàn tuyên bố là quân đội của họ được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Quốc gia Cộng sản miền Bắc đã phẫn nộ vì cuộc tập trận của miền Nam ở gần vùng biên giới được canh phòng cẩn mật và sẽ kéo dài cho đến ngày 20 tháng này.




Trong một bản tuyên bố vào sáng hôm qua, quân đội Bắc Hàn nói cuộc tập trận này là một hành động khiêu khích quân sự và có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh. Bắc Hàn đang chuẩn bị phóng thử nghiệm phi đạn tầm xa, nói bất cứ một vụ bắn rớt hỏa tiễn nào của họ cũng được coi là một hành động chiến tranh. Hôm qua Bắc Hàn cũng đã đóng cửa biên giới với Nam Hàn và cắt đứt đường dây điện thoại nóng là phương tiện liên lạc chính thức giữa 2 nước. Sáng nay Bắc Hàn đã cho phép những công nhân Nam Hàn được vào công viên kỹ nghệ tại thị trấn Kaesong nằm trong vùng lãnh thổ Bắc Hàn ở gần biên giới giữa 2 nước để tiếp tục làm việc. Hán Thành đã mở khu kỹ nghệ này vào năm 2004 trong một nỗ lực nhằm thiết lập mối liên hệ khắng khít hơn với miền bắc, để trở thành nơi cung cấp ngoại tệ cho nước Cộng sản nghèo đói này qua việc sử dụng khoảng 35 ngàn nhân công rẻ tiền của miền bắc. Hiện nay đang có khoảng 800 công nhân Nam Hàn đang ở trong khu vực này, và họ được tự do trở về Nam Hàn nếu họ thích. Những ngày gần đây Bắc Hàn lại lớn miệng hăm dọa Bắc Hàn khi họ nói là lực lượng gồm hơn 1 triệu bộ đội của họ đã sẵn sàng chiến đấu chống lại cuộc tập trận tại miền nam và đang chuẩn bị phóng phi đạn tầm xa, tức là chống lại lệnh cấm của Liên Hiệp Quốc. Đa số những lời lẽ phẫn nộ của Bắc Hàn là nhắm vào chính quyền bảo thủ tại Nam Hàn, khi Tổng Thống Lee Myung-bak nói Hán thành chỉ viện trợ cho Bình Nhưỡng nếu đất nước Cộng sản này thực tâm từ bỏ tham vọng nguyên tử.


Dân chúng Nam Hàn lo ngại tình hình căng thẳng trong vùng bán đảo triều tiênVùng bán đảo Triều Tiên đã trở nên căng thẳng vào sáng nay khi Bắc Hàn tuyên bố là quân đội của họ đã được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu, để đáp lại cuộc tập trận hàng năm giữa Nam Hàn và Hoa Kỳ. Tuy không có bất cứ một dấu hiệu chiến tranh nào giống như những lời lẽ đe dọa của Bắc Hàn tại vùng biển tranh chấp giữa 2 nước ở ngoài khơi duyên hải miền tây, nhưng các cư dân tại đây cũng lo lắng về những lời hăm dọa này. Mặc dù chính quyền trên hòn đảo Yeonpyeong tọa lạc cách bờ biển của của Bắc Hàn khoảng 11 cây số nói mọi việc đang ở duới sự kiểm soát, nhưng các ngư phủ và gia đình của họ đang phải sống trong lo âu và hồi hộp.

( Mỹ và Nam Hàn diễn tập quân sự)

Dân chúng tại đây có thể nhìn thấy vùng đất Bắc Hàn trong những ngày trời quang đãng, và họ cũng có thể đọc được những tấm biển ngữ ca ngợi Chủ Tịch Kim Chánh Nhật cùng chế độ Cộng sản. Khoảng 1600 người đang sống trên hòn đảo rộng khoảng 7 cây số vuông này là nơi nổi tiếng về kỹ nghệ cua biển, họ đã từng chứng kiến 2 trận hải chiến nhỏ ở ngoài khơi mà gần nhất là vào năm 2002. Một số cư dân trên hòn đảo này lo sợ Bắc Hàn có thể phóng phi đạn vào vùng biển của họ. Trong lúc các ngư phủ đang chuẩn bị mùa cua, thì những cư dân lớn tuổi tham gia dọn dẹp sạch sẽ bãi biển. Một cư dân tại đây nói bà cảm thấy hồi hộp vì những trái phi đạn của miền Bắc. Cụ bà Hong Sun-hae 84 tuổi, nói bà rất hồi hộp, vào lúc 6 giờ sáng hôm qua bà nghe tin tức nói Bắc Hàn đang chuẩn bị chiến tranh nên bà rất lo lắng và ngày nào bà cũng theo dõi tin tức. Trên nguyên tắc Bắc Hàn và Nam Hàn đang ở trong tình trạng chiến tranh, vì sau khi kết thúc chiến tranh Cao ly vào năm 1953, cả 2 bên đều chưa ký kết một bản hòa ước nào.Phó tổng thống Joe Biden tham dự hội nghị NatoPhó Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã kêu gọi các nước đồng minh NATO nỗ lực giúp Hoa Kỳ đối phó với tình hình Afghanistan, Pakistan và vùng Trung Á; nói tình hình tại đây đang đe dọa không chỉ riêng Hoa Kỳ mà cho cả Tây Phương. Phó Tổng thống đã thảo luận với Tổng thư ký NATO là tướng Jaap de Hoop Scheffer trước khi nói chuyện với đại diện 26 nước thành viên NATO. Ông đã tuyên bố Hoa Kỳ muốn tham khảo với các nước đồng minh về chiến lược mới của Hoa Kỳ trong vùng, cũng như hứa hẹn sẽ tôn trọng ý kiến của mọi nước và cùng với các nước đưa ra một chiến lược chung.



Tổng thư ký NATO Jaap de Hoop Scheffer nói trong lúc Ngoại trưởng Hillary Clinton đến tham dự Hội nghị, NATO đã đồng ý cùng nỗ lực chung ở Afghanistan qua lực lượng ISAF. Trong tháng vừa qua Tổng thống Obama đã chấp thuận tăng viện cho lực lượng Hoa Kỳ ở Afghanistan thêm 17,000 quân. Taliban đã mở rộng khả năng hoạt động và Afghanistan đang ở trong giai đoạn bạo động chưa từng có kể từ năm 2001. Ông Obama cho biết ông sẽ loan báo chính sách Hoa Kỳ ở Afghanistan trước khi NATO họp hội nghị thượng đỉnh ở Pháp trong tháng tới.

http://www.tinvietonline.com/1/0/2009/3/329124/Trung-Cong-dang-tim-cach-chung-to-chu-nghia-ba-quyen-trong-vung-bien-dong.html


==

NGA & NATO



Nato tái tục quan hệ với Nga


Ngoại trưởng Mỹ gặp Ngoại trưởng Ý tại hội nghị Nato
Các bộ trưởng Nato đã nhất trí sẽ tái tục việc gặp gỡ cấp cao với Nga, thực hiện điều mà Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton gọi là bước "khởi đầu lại".
Nga chào đón động thái này, được đưa ra sau sáu tháng kể từ khi Nato quyết định ngừng hoạt động của Hội đồng Nga-Nato để phản đối cuộc chiến ngắn ngủi giữa Nga và Gruzia vào mùa hè năm ngoái.



Bà Clinton nói các lĩnh vực mà hai bên cùng quan tâm bao gồm cả Afghanistan.
Tuy nhiên, Ngoại trưởng Anh David Miliband nói với đài BBC rằng quan hệ với Nga không phải là "công chuyện bình thường".
Quyết định này là bước đi đúng hướng
Bộ Ngoại giao Nga
Bà Clinton nói thêm rằng Nato phải mở cửa để Gruzia và Ukraine, thuộc Liên bang Xô viết cũ, được gia nhập vào khối Nato.


Trước đó, đặc sứ của Nga tại Nato đã bảo vệ cuộc chiến của nước này chống lại Gruzia, nói rằng bất cứ quan hệ mới nào giữa Nga và Nato sẽ phải dựa trên điều kiện mà Nga đưa ra.
Phóng viên BBC chuyên về ngoại giao, Jonathan Marcus, nhận định Nato vẫn là trụ cột chính trong quan hệ xuyên Đại Tây Dương, nhưng tổ chức này đang chịu nhiều thách thức lớn về chính trị và quân sự tại Afghanistan. Nếu Nato thất bại tại đây thì sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng về độ khả tín.
Chính sách ngoại giao của Mỹ giờ đây tập trung nhiều vào sự hợp tác của các bên, và phó Tổng thống Joe Biden sẽ có mặt tại Brussels vào thứ Ba tới để chia sẻ thêm quan điểm về Afghanistan.
‘Đi đúng hướng'


Ngoại trưởng Đức (giữa) và Ngoại trưởng Pháp (phải) tại hội nghị
Ngoại trưởng Slovakia, Miroslav Lajcak, nói: "Chúng tôi sẽ tái tục đối thoại trong hội đồng Nato-Nga sớm, ngay sau thượng đỉnh của Nato (vào tháng Tư)".
Một tuyên bố từ Bộ Ngoại giao Nga nói: "Quyết định này là bước đi đúng hướng".
Ngoại trưởng Clinton thì nói: "Đã đến lúc phải có bước khởi đầu lại".
"Chúng ta có thể và buộc phải tìm ra các biện pháp để làm việc mang tính xây dựng với Nga ở những lĩnh vực mà chúng ta cùng chia sẻ sự quan tâm, trong đó có việc giúp người dân Afghanistan".
Bà Clinton đề xuất tổ chức một hội thảo quốc tế về Afghanistan - có thể do Liên Hiệp Quốc tài trợ - với sự tham gia của Mỹ, các đồng minh Nato và Pakistan cũng như đại diện từ Afghanistan.


==
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2009/03/090305_nato_russia.shtml

=

Quyền lợi đôi bên khiến Nga Mỹ gần lại


http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2009/03/090308_usrussiarelations.shtml

=

TIN TỨC BIỂN ĐÔNG




==


MỸ ĐIỀU TÀU CHIẾN ĐẾN BIỂN ĐÔNG

TIN BBC, Thứ Sáu, 13 Tháng 3, 2009
=



Các nguồn tin cho hay Hoa Kỳ quyết định điều tàu chiến có trang bị vũ khí tới hộ tống tàu thăm dò của nước này tại khu vực biển Đông (Nam Hải), sau khi có sự cố với tàu Trung Quốc hồi cuối tuần.
Một quan chức quốc phòng Mỹ giấu tên được hãng AFP trích lời nói tàu chiến sẽ hộ tống tàu thăm dò trong "thời gian trước mắt". Hoạt động hộ tống này chỉ áp dụng cho vùng biển Đông.
Báo Times của Anh nói chính Tổng thống Barack Obama đã đưa ra quyết định này, mà có thể sẽ dẫn tới khả năng tăng cao bất đồng Trung-Mỹ.

Hoa Kỳ cáo buộc tàu Trung Quốc đã áp sát và gây hấn với tàu thăm dò đại dương Impeccable hôm Chủ nhật 8/3, khiến chút nữa xảy ra va chạm.
Một ngày sau khi sự việc xảy ra, tàu chiến USS Chung-Hoon đã được trao nhiệm vụ tháp tùng tàu Impeccable, vốn có mục đích dò tìm tàu ngầm và chướng ngại vật dưới nước tại khu vực.
Phóng viên của tờ Times có mặt tại Washington nói trong ngày ông Obama gặp Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì, tức thứ Năm 12/3, Bắc Kinh không tỏ vẻ nhún nhường.
Sự việc đã làm phức tạp thêm quan hệ vốn nhiều sóng gió về mặt quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc, mới chỉ cải thiện chút đỉnh sau cuộc hội đàm quốc phòng song phương tại Bắc Kinh hồi tháng trước.



Nó cũng thu hút sự chú ý của các nước trong khu vực biển Đông. Chính phủ Việt Nam phản ứng bằng tuyên bố: "Việt Nam cho rằng mọi hoạt động trên biển Đông cần được tiến hành trên cơ sở tuân thủ Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia ven biển".



Thêm đối thoại
Tổng thống Obama trong cuộc gặp với Ngoại trưởng Dương đã kêu gọi tăng cường đối thoại quốc phòng với Trung Quốc. Nhà Trắng ra thông cáo cho hay: "Ông tổng thống nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng tầm và tần số đối thoại giữa hai quân đội".
Việt Nam cho rằng mọi hoạt động trên biển Đông cần được tiến hành trên cơ sở tuân thủ Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia ven biển.

Người phát ngôn bộ Ngoại giao VN Lê Dũng

Tháng Tư năm ngoái, bộ quốc phòng Mỹ và Trung Quốc đã thiết lập đường dây nóng, tuy xem ra chưa hoạt động nhiều.
Khác biệt giữa hai bên về nhận thức là điều cơ bản trong ứng xử tại biển Đông. Hoa Kỳ nói tàu của Mỹ có quyền hoạt động trong hải phận quốc tế nhưng Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với hầu hết diện tích khu vực này.


Bắc Kinh luôn tuyên bố đây là "lãnh thổ lịch sử và chủ quyền không thể chối cãi" của Trung Quốc.
Nước này vừa lên tiếng phản đối mạnh mẽ việc Philippines thông qua đạo luật về đường cơ sở tại biển Đông, đồng thời loan báo kế hoạch tổ chức tour du lịch ra đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa.

Phản ứng về việc này, người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Dũng nói: "Việt Nam hết sức quan ngại và phản đối việc Trung Quốc cho phép Công ty du lịch quốc tế Châu Giang mở tour du lịch ra đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam".
"Việc này đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, không có lợi cho tiến trình đàm phán tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề trên biển giữa hai bên."


http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2009/03/090313_us_southchina_sea.shtml

==

Biến động tại Biển Đông

TIN RFA
Tàu Mỹ Impeccable mới được tàu chiến hộ tống, sau vụ đối đầu với tàu Trung Quốc trên biển Đông. Vịêc này có ý nghĩa gì, và vụ rắc rối vừa qua nảy sinh vì nguyên do nào?


Tàu Chung-Hoon là một trong những khu trục hạm tối tân nhất của Hoa Kỳ, xuất phát từ căn cứ Hawaii đến Biển Đông


==

Hoa Kỳ đưa khu trục hạm tối tân vào Biển Đông Từ Ngũ giác Đài, hôm thứ năm, phóng viên quốc phòng của hãng thông tấn AP tường trình rằng tàu Impeccable hiện đã được khu trục hạm Chung-Hoon hộ tống, tiếp tục công tác trên biển Đông. Tàu Chung-Hoon là một trong những khu trục hạm tối tân nhất của Hoa Kỳ, xuất phát từ căn cứ Hawaii.
Tàu Impeccable hiện đã được khu trục hạm Chung-Hoon hộ tống, tiếp tục công tác trên biển Đông. Tàu Chung-Hoon là một trong những khu trục hạm tối tân nhất của Hoa Kỳ, xuất phát từ căn cứ Hawaii.
Tin AP.


Theo tin AFP, tàu Impeccable không chỉ là tàu thăm dò hải dương, mà là loại tàu được thiết kế để theo dõi hoạt động của các tàu ngầm, đúng như Trung Quốc đã tố giác.
Phóng viên của AFP cũng cho biết một viên chức quốc phòng Mỹ, không muốn nêu tên, nói rằng các tàu khu trục của Mỹ, trang bị hùng hậu, sắp sửa hộ tống những tàu thăm dò của Mỹ trong khu vực biển Nam Trung Hoa.
Hoa Kỳ nói là tàu Impeccable hoạt động hợp pháp trong hải phận quốc tế, đang thăm dò đại dương vào lúc bị ngăn chặn và sách nhiễu.


Bộ ngoại giao Trung Quốc bác bỏ điều này, coi đó là sự vi phạm trầm trọng lãnh hải Trung Quốc, và là điều không thể chấp nhận được.
Sau hai ngày tranh cãi, Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Hillary Clinton tuyên bố bà và Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết trì đã đồng ý hợp tác để những sự kịên như vậy không xảy ra trong tương lai.
Tổng thống Barack Obama và cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ, tướng James Jones, khi tiếp kiến Ngoại trưởng Trung Quốc hôm thứ năm cũng nhắc lại điều này.
Cùng ngày, có tin xác nhận bộ quốc phòng Mỹ cho tàu chiến hộ tống các tàu thăm dò của họ ở biển Đông từ hôm trước.



Tàu Impeccable không chỉ là tàu thăm dò hải dương, mà là loại tàu được thiết kế để theo dõi hoạt động của các tàu ngầm, đúng như Trung Quốc đã tố giác.
Theo tin AFP

Tàu Impeccable theo dõi hoạt động của tàu ngầm?

Các viên chức quốc phòng Mỹ còn cho hay tàu Impeccable đang thi hành nhiệm vụ tìm tòi những mối đe doạ như của tàu ngầm nước khác, và đang kéo một dụng cụ sonar dò chấn động để tìm và nghe tiếng hoạt động của tàu ngầm, thuỷ lôi và mìn.
Vô số những căn cứ hải quân của Trung Quốc ở đảo Hải Nam khiến hải quân Mỹ khá bận rộn trong công tác này. Căn cứ tàu ngầm tối tân của Trung Quốc ở thành phố Tam Sa cực nam đảo này lôi kéo sự chú ý nhiều nhất.
Hình ảnh của căn cứ này chụp hồi năm ngoái, được Hội khoa học gia Hoa Kỳ đăng trên Internet, cho thấy ngõ vào và một chiếc cầu tàu của căn cứ tàu ngầm, có cả một tàu ngầm nguyên tử loại Jin đậu ở đó.
Căn cứ này giúp Quân đội Nhân dân Trung Quốc đường tiếp cận hàng hải cốt yếu qua thuỷ lộ đông đúc nhất trên thế giới, hành lang giao thông mà mọi tàu bè đến Nhật Bản và Đông Bắc Á phải sử dụng.



Trung Quốc muốn xác nhận quyền bảo mật, trong khi Hoa Kỳ càng muốn biết thêm về lực lượng tàu ngầm của một cường quốc đại dương đang lên ở Thái Bình Dương, cùng với địa thế lòng biển của biển Đông.
Nhũng vụ đối đầu như vừa rồi, tuy được cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ làm giảm tầm quan trọng trong hai hôm nay, vẫn có thể gia tăng.
Trung Quốc muốn xác nhận quyền bảo mật, trong khi Hoa Kỳ càng muốn biết thêm về lực lượng tàu ngầm của một cường quốc đại dương đang lên ở Thái Bình Dương, cùng với địa thế lòng biển của biển Đông.



Nhà phân tích chính sách đại dương Mark Valencia nêu quan điểm ấy, cho rằng những sự kiện nguy hiểm như vừa rồi rất có thể tái diễn, và còn liên quan đến nhìêu quốc gia khác ngoài Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Bành trướng ảnh hưởng trên biển Đông

Trung Quốc vẫn khăng khăng nhận chủ quyền trên toàn bộ biển Đông, cùng với hằng trăm hải đảo và đá, bãi lớn nhỏ của vùng này, bao gồm cả những hải đảo như vậy của năm bảy nước trong vùng. Điều này chắc chắn sẽ dẫn tới đụng chạm và đối đầu nay mai. Lực lượng hải quân đang lớn mạnh của Trung Quốc hậu thuẫn cho hành động dành chủ quyền trên biển.








Trung Quốc đã mua của Nga mười mấy chiếc tàu ngầm chạy diesel loại Kilô, những chiếc khu trực hạm loại Sovremeny trang bị những phi đạn siêu âm chống tàu loại Sunburn và Sizzler. Tàu ngầm kiểu lấy tên các triều đại Thương, Tống, Nguyên của Trung Quốc đang được chế tạo gấp rút. Một tàu hàng không mẫu hạm sẽ được hạ thuỷ trong năm nay.


Trung Quốc vẫn khăng khăng nhận chủ quyền trên toàn bộ biển Đông, cùng với hằng trăm hải đảo và đá, bãi lớn nhỏ của vùng này, bao gồm cả những hải đảo như vậy của năm bảy nước trong vùng. Điều này chắc chắn sẽ dẫn tới đụng chạm và đối đầu nay mai.




Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, chủ tịch đảng Cộng Sản và quân uỷ trung ương, hôm thứ tư kêu gọi quân đội tăng tốc hiện đại hoá để kiên quyết bảo vệ chủ quyền, an ninh và sự toàn vẹn lãnh thổ.
Trung Quốc diễn dịch Công ước luật biển của Liên Hiệp Quốc theo hướng được quyền cấm đoán nhiều loại hoạt động của các nước khác trong phạm vi các đặc khu kinh tế của họ.
Luận điểm đó mâu thuẫn với quan điểm của Hoa Kỳ là vùng biển đó thựôc hải phận quốc tế, và tàu hải quân Mỹ có quyền hoạt động hợp pháp trong đó.




Mối mâu thuẫn này từng đưa tới cuộc đối đầu trầm trọng giữa hai quân đội hồi năm 2001, khiến một phi cơ chiến đấu Trung Quốc rớt xuống biển sau khi đụng vào phi cơ trinh sát của Mỹ. Phi công thiệt mạng, và máy bay Mỹ phải đáp xuống đảo Hải Nam.
Lần này, Bắc Kinh có vẻ càng bảo vệ lập trường cứng rắn hơn, vịên dẫn cả công ước luật biển lẫn luật pháp quốc gia của họ, theo lời phát ngôn viên họ Mã của bộ ngoại giao Trung Quốc.

NGUYỄN THIÊN THỤ * ĐẶC TÍNH VĂN HỌC ĐỜI NGUYỄN




(H1. Ngọ Môn)


ĐẶC TÍNH VĂN HỌC ĐỜI NGUYỄN
*
Nguyễn Thiên Thụ


Nhà Nguyễn là vương triều cuối cùng của Việt Nam, và văn học đời Nguyễn là một nền văn học rất lớn của nền văn học Việt Nam, bao gồm văn ïchương chữ Hán và văn chương chữ Nôm. Nhà Nguyễn tồn tại 133 năm (1802-1945), nhưng thực tế, văn học cổ điển đã ngưng lại năm 1919 vào khoa thi Hội cuối cùng, để sau đó văn học quốc ngữ và ngôn ngữ, văn tự Pháp thay thế địa vị chủ yếu trong giáo dục và hành chánh Việt Nam. Như vậy, văn học cổ điển đời Nguyễn tồn tại hơn một trăm năm nhưng đã đào tạo được một số tác giả đông đảo và xây dựng được một số tác phẩm phong phú bằng hoặc hơn văn học đời Lê đã trường trị gần 400 năm.

Văn học cổ điển đời Nguyễn có nhiều sắc thái đặc biệt. Tuy nhiên ở trong bài khảơ cứu này, chúng tôi chỉ trình bày một vài nét chính yếu, một vài nét tiêu biểu của văn học đời Nguyễn như trữ tình, lãng mạn, hiện thực, chiến đấu và trào phúng.
(H2. Phan Thanh Giản)


I.TRỮ TÌNH

Thi ca trữ tình VIệt Nam đã khởi phát từ đời Lê. Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi là một bài thơ ca tụng cảnh nhàn nhưng âm điệu và nghệ thuật trữ tình đã lên cao bậc nhất thời đại.Đến cuối đời Lê, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán, Ai Tư Vãn nối nhau tạo thành một không gian màu tím ngát của buồn thương, than khóc cho mình và thân phận con người. Tính chất trữ tình càng phát triển mạnh trong văn học đời Nguyễn. Không ai có thể phủ nhận thiên tài Nguyễn Du trong Văn tế Thập Loại Chúng sinh, Long Thành Cầm giả ca mang màu sắc nhân bản. TựÏ Tình Khúc của Cao Bá Nhạ và Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm của Đinh Nhật Thận là tâm trạng tuyệt vọng và đau khổ thật sự của hai tù nhân.
Chúng ta còn phải kể đến Nguyễn Khuyến với bài khóc bạn là một áng văn chương tuyệt diệu cả Hán và quốc âm.


已矣楊 大年
雲樹心懸懸
回憶登科後
與君晨夕聯
相敬且相愛
遭逢如宿緣
輓同年雲享進士楊上書





Dĩ hỉ Dương đại niên,
Vân thụ tâm huyền huyền.
Hồi ức đăng khoa hậu
Dữ quân thần tịch liên
Tương kính thả tương ái
Tao phùng như túc duyên.. .
(Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư)


Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lỏng ta.
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau,
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời
( Khóc bạn)


Trước nay, dường như rất itù thi nhân nói về tình gia thất. Ở đời Nguyễn, tình chị em, anh em, tình bác cháu, nhất là tình vợ chồng đã có những sằc thái nổi bật. Trương Đang Quế là một tấm gương trung hậu. Ộng luôn nghï đến anh em chi em là những người đã lo lắng cho ông khi ông ra Huế thi cử:


(H3. Nguyễn Khuyến)

始我出門時
爲我求學力
妻爲縫其衣
姊爲贈其食
臨行送我門
時時好安息
(長安遊)


Thủy ngã xuất môn thì
Vị ngã cầu học lực
Thê vị phùng kỳ y
Tỷ vị tặng kỳ thực
Lâm hành tống ngã moan
Thời thời hảo an tức
(Trường An du)


Lần đẩu ra khỏi nhà,
Vì học phải đi xa,
Quần áo vợ may sắm
Lương thực chị cho ta.
Chị tiễn ta ra ngõ
Chúc thuận buồm xuôi gió.
( Đi Trường An.- Nguyễn Thiên Thụ dịch, các bài thơ sau nếu do Nguyễn Thiên Thụ dịch thì sẽ không ghi tên dịch giả )


Phan Thanh Giản hai vai gánh nặng. Ông lo việc nước, ông nặng tình nhà. Ông nhớ ngày ra kinh dự thí, cả nhà quan tâm, lo lắng:


親姑年七十
老病起凭牀
聞我來吿別
無言摧衷腸


中表有二兄
聚首最相愛
弟去莫復問
舅叔我分內


新婦纔七日
代我具餐食
今我事遠遊
井臼乃之職
家別



. . . Thân cô niên thất thập
Lão bệnh khởi bằng sàng
Văn ngã lai cáo biệt
Vô ngôn tồi trung tràng



Trung biếu hữu nhị huynh
Tụ thủ tối tương ái.
Đệ khứ mạc phục vấn
Cửu thúc ngã phận nội



Tân phụ tài thất nhật,
Đại ngã cụ xan thực,
Kim ngã sự viễn du
Tỉnh cửu nãi chi chức .( Gia biệt)


Cô già tuổi bảy mươi
Đau ốm nằm liệt giường.
Nghe cháu đến cáo biệt,
Không nói lòng xót thương!


Trong họ có hai anh,
Đối đãi rất chân thành.
Việc săn sóc cậu mợ,
Em đi, xin nhờ có anh.



Vợ cưới được bảy bữa
Lo nấu nướng suốt ngày
Nay ta phải đi vắng
Mọi việc cậy nàng thay. . .
(Giã nhà - .- Nguyễn Thiên Thụ dịch)




Nghệ thuật và tình cảm của các tác giả miền Nam như Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản hoặc người Trung như Trương Đăng Quế rất chất phác, thành thật.
Một bước trưởng thành của thi ca đời Nguyễn là lối hát ả đào. Đây là một hình thức xướng ca có nguồn gốc từ đời Lê nhưng đến đời Nguyễn thành một phong trào, một phong thái văn nghệ mà nội dung là thi nhạc trữ tình, trong đó cũng có phần lãng mạn và tinh thần Lão Trang.



II. LÃNG MẠN

Lãng mạn là một khuynh hướng mạnh mẽ trong văn chương Việt Nam, đã thể hiện trong ca dao Việt Nam. Trong thi ca của Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông chúng ta đã thấy phảng phất nỗi nhớ thương về những giai nhân. Đến đời Nguyễn, tình yêu thầm lặng, kín đáo vẫn là những đóa hoa ướp thơm trang văn học.
Thơ Trịnh Hoài Đức mang tính cách lãng mạn của Đường thi:


鏡中美人
英華嫌外露
寶鏡隱嬋媛
冰玉春心照
菱花綵袖翻
月宮奔羿婦
銀漢渡天孫
塵海徑遷變
紅顏愛永存

KÍNH TRUNG MỸ NHÂN
Anh hoa hiềm ngoại lộ,
Bửu kính ẩn thuyền viên.
Băng ngọc xuân tâm chiếu
Lăng hoa thái tụ phiên
Nguyệt cung bôn Nghệ phụ
Ngân hán độ Thiên tôn
Trần hải kinh thiên biến,
Hồng nhai ái vĩnh tồn

MỸ NHÂN TRONG GƯƠNG
Hoa đẹp lộ ra ngoài
Người đẹp trong gương cười.
Lòng xuân băng ngọc hiện
Áo gấm hoa lăng tươi
Chị Hằng ở nguyệt điện,
Chức nữ qua Ngân hà
Bể trần nhiều biến chuyển,
Hồng nhan muốn đẹp hoài
( Nguyễn Thiên Thụ dịch, các bài sau cũng vậy)

Trương Đăng Quế cũng một thời lãng mạn. Bài thơ sau nay viết về một giai nhân:














推粧
香奩此日花前探
桂樹何時月裏攀
細問素娥寂無語
依依清影近人間



(H4. Trương Đăng Quế)


THÔI TRANG
Hương liêm thử nhật hoa tiền thám,
Quế thụ hà thời nguyệt lý phan?
Tế vấn tố nga tịch vô ngữ
Y y thanh ảnh cận nhân gian.


GIỤC TRANG ĐIỂM
Ngày ấy thăm hoa, tráp ngát hương
Bao giờ vin quế ở cung Hằng?
Tố Nga nghe hỏi mà không đáp,
Hình ảnh rạng ngời khắp thế gian.



Qua thơ của Tuy Lý Vương, ta thấy Ngài như vương mắc một mối tình sầu:

(H5, TuyLý vương)



=


雨脚如麻夜復密
漫漫癡雲四野黑
燈昏欲蕊螢亂飛
幽衾潑水粟生肌
埯卷起座有所思
我思乃在勾曲之陽 (湘水湄)

Vũ cước như ma dạ phục mật,
Mạn mạn si văn tứ dã hắc,
Đăng hôn dục nhụy, huỳnh loạn phi,
U khâm bát thủy, túc sinh ky.
Yêm quyển khởi tọa, hữu sở ty,
Ngã ty nãi tại câu khúc chi dương.
(Tương thủy mi )

Mưa như sợi chỉ, đêm mênh mông,
Mây đen kịt che tối ruộng đồng.
Đèn leo lét, đóm bay tứ tung.
Chân như tẩm nước, da mọc ốc,
Xềp sách ngồi dậy, lòng vấn vương
Vấn vương đôi bờ sông Tương. . .
(Bờ sông Tương)



感君有情情能癡
嗟我有心心自知
相逢且託巫陽夢
莫向人間訴別離
(夜座吟)




. . . Cảm quân hữu tình, tình năng si,
Ta ngã hữu tâm, tâm tự tri
Tương phùng thả thác Vu dưong mộng,
Mạc hướng nhận gian tố biệt ly.
(Dạ tọa ngâm)


. . . Thương nàng có tình, tình tha thiết
Thương ta có lòng, lòng tự biết
Chỉ được gặp nhau trong giấc mơ
Trần thế xin đừng nói ly biệt
( Ban đêm ngồi ngâm)



Những tác giả và tác phẩm kể trên cũng thuộc trào lưu lãng mạn nhưng mà là lãng mạn cổ điển, tình yêu kín đáo như những trang Đường thi. Lãng main thật sự phải kể Phạm Thái là một kiện tướng. Ông đã sống rất thực trong cuộc chiến đấu cô đơn và mối tình tuyệt vọng cùng kết thúc bi thảm. Tình yêu của ông và Trương Quỳnh Như đã nở hoa, thành những bài thơ và ngưng đọng thành truyện tình Sơ Kính Tân Trang mà nội dung như là Roméo và Juliette của Việt Nam. Phạm Thái và Trương Quỳnh Như là hai tác giả lãng mạn ở cuối Lê đầu Nguyễn. Phạm Thái đã yêu Trương Quỳnh Như và gửi thơ cho nàng bày tỏ tình yêu:




Từ chốn thiềm cung trộm dấu hương,
Dễ xui tao khách mối sầu vương.
Gió thông réo rắt dong đàn oán,
Trăng hạnh chênh vênh rạng bóng dương.
Nếu đã tình duyên dun dủi phận,
Thì xin ân ái vẹn nên đường.
Phong lưu đôi lứa đà ai dễ,
Bụi tục chi cho bợn lóa gương.
Trương Quỳnh Như cũng đã gửi thư cho chàng:





TIỄN ÔNG CHIÊU LỲ VỀ QUÊ
Sắt đá lòng này đã biết chưa?
Se duyên nay mượn gió cung Đằng.
Vườn đào sực thấy oanh đưa tín,
Dặm liễu ai xui yến cách chừng.
Vàng ngọc nếu chăng cùng một ước,
Nước non thề đã có hai vầng.
Ai sang cây hỏi tri âm với,
Chớ phụ cầm thư đợi dưới trăng.




Tiểu thuyết ái tình Việt Nam đã ra đời vào triều Lê với Phan Trần, Hoa Tiên. Sau đó, Truyện KIều, Lục Vân Tiên ra đời, mang một sắc thái mới cho văn học đời Nguyễn. Nhưng đó là những bản sao truyện tình Trung Quốc. Sơ Kính Tân Trang mới là tác phẩm hoàn toàn Việt Nam. Phạm Thái sinh trưởng tại Việt Nam nếu ông sinh tại Anh, Pháp, có lẽ ông đã trở thành thủy tổ của trường phái lãng mạn Tây phương.






III. HIỆN THỰC


Văn chương hiện thực là văn chương nói về những sự thực trong xã hội, cho nên trước nay người ta cũng gọi là truyện xã hội, nói về bất công xã hội. Nguyễn Thiếp đời Lê là người tiên phong về khuynh hướng này trong bài nói về cảnh dân chúng đói khổ vì lụt lội ở Bắc.
Đời Nguyễn, khuynh hướng xã hội ra đời mạnh mẽ với Cao Bá Quát, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương. Là những trí thức, là bậc vương giả, họ đã đi sát nông dân, hiểu rõ đời sống quần chúng. Đó là căn bản tính thiện, bác ái, từ bi, và nhân nghĩa của Nho gia, Phật gia, khác với đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Marx.
Cao Bá Quát viết Đạo phùng ngạ phu để nói bất hạnh của con người trong vấn đề cơm áo.

家貧藝醫卜
我來走長安
長安無病人
群醫如邱山
零丁望歸路
(道逢餓夫)


Gia bần nghệ y bốc
Ngã lai tẩu Trường An,
Trường An vô bệnh nhân,
Quần y như khâu sơn.
Linh đinh vọng quy lộ. .
( Đạo phùng ngạ phu)



Nhà nghèo làm nghề thuốc,
Lên kinh đô kiếm sống.
Kinh thành không bệnh nhân,
Thầy thuốc ế cả đống
Phải trở về từng đàn. . .
( Giữa đường gặp người đói)



Tùng Thiện vương là cành vàng lá ngọc nhưng ngài hiểu thấu dân tình. Tấm lịnh ngài th ương cäm với nổi khổ của dân nghèo và những bất công xã hộI qua các bài Bần gia và Lưu dân thán.

貧家
辛苦貧家子
年年寒復饑 (H6. Tùng Thiện vương)枵腹蔬替飯
凍骨火為衣
遍地猶兵甲
旻天且疾威
朱門樂何事
夜飮達朝暉

BẦN GIA
Tân khổ bần gia tử
Niên niên hàn phục cơ
Hiểu trường sơ thế phạn,
Đống cốtt hỏa vi y.
Biển địa do binh giáp.
Mãn thiên thả tật oai,
Chu môn lạc hà sự
Dạ ẩm đạt triều huy.



NHÀ NGHÈO
Con nhà nghèo khổ đau
Quanh năm rét lại đói,
Bụng rỗng phải ăn rau.
Lấy lửa thay chăn gối.
Khắp đất là gươm đao,
Đầy trời là họa hại.
Vui vẻ thay nhà giàu,
Yến tiệc suốt đêm thâu.

Tuy lý vương lên tiếng tố cáo quan lai tham nhũng làm dân chúng khốn khổ:



土車謡
車轢轆轢轆.
土多折軸
不畏折軸
唯恐土覆
車一輪
人一身
愼勿遲延官場嗔
我亦父母之子王之臣




THỔ XA DAO
Xa lịch lộc! Lịch lộc!
Thồ đa chiết trục
Bất úy chiết trục
Duy khủng thổ phúc
Xa nhất luân
Nhân nhất thân
Thận vật trì diên, quan trường sân.
Ngã diệc phụ mẫu chi tử, vương chi thần.



BÀI CA XE CHỞ ĐẤT
Lộc cộc, lục cục,
Chở đất nhiều, xe gãy trục,
Gãy trục, chẳng sợ
Chỉ sợ xe đổ
Xe một cổ,
Người một thân.
Làm chậm trễ
Quan rầy la.
Ta là con của mẹ cha
Cũng là thần tử vua ta đương triều!




IV.TRANH ĐẤU

Năm 1862, thực dân Pháp đã bộc lộ dã tâm xâm chiếm nước ta. Một số rất it ra làm tay sai cho Pháp như Trương Vinh Ký, Trương Minh Ký, Tôn Thọ Tường, Trần Bá Lộc nhưng tuyệt đại đa số nhân dân trong đó có các nho sĩ yêu nước đã đứng lên tranh đấu cho độc lập Tổ quốc. Một số đã cầm quân đánh giặc, tham gia khởi nghĩa chống Pháp như Phan Đình Phùng, Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Thông, một số hoạt động chính trị vận động Duy Tân, Đông Du như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thức Kháng, Ngô Đức Kế. Một số bất cộng tác, hoạt động theo tinh thần bất bạo động như Phan Văn Trị, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Dương Lâm. . .Lớp này ngã xuống, lớp sau tiến lên. Các bậc trí thức đời Nguyễn đã đem xương máu tranh đấu cho độc lập Việt Nam, họ đã nêu cao tinh thần bất khuất của sĩ phu Việt Nam.
Mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp của triều đình, Nguyễn Thông đã tố cáo thực dân Pháp xâm lăng và ông đã bày tỏ nỗi đau đớn khi nghe tin Nam kÿ rơi vào tay Pháp:


書懷示營田副使裴伯昌
牛渚無端作戰場
卄年江海醉爲鄕
同來故郡唯君在
慣觸危機笑我狂
朝論空聞談五利
雲帆何日下重洋
只今燕趙悲哥客
熱血填應旅鬓霜


THƯ HOÀI THỊ DINH ĐIỀN PHÓ SỨ BÙI BÁ XƯƠNG
Ngưu chữ vô đoan tác chiến trường
Trấp niên giang hải túy vi hương.
Đồng lai cố quận duy quân tại,
Quán xúc nguy cơ tiếu ngã cuồng.
Triều luận không văn đàm ngã lợi,
Vân phàm hà nhật hạ trùng dương?
Chỉ kim Yên Triệu bi ca khách,
Nhiệt huyết điền ưng lữ mấn sương

Huỳnh Thúc Kháng dịch:

Bến Nghé gây nên cuộc chiến trường,
Làng say mấy lúc lại qua thường.
Cùng về xứ cũ người càng khoẻ
Chạm mãi cơn nguy, tớ muốn cuồng.
Chầu chợ đồn rầm mối lợi lớn,
Biển khơi bao thuở cánh buồm giương?
Chỉ lưa ca khúc người Yên Triệu.
Lòng nóng sôi lòng tóc nhuộm sương.

Cùng lúc này, Nguyễn Đình Chiểu ra sức tán dưong tinh thần hy sinh anh dũng của cha con nhà họ Phan, và ca tụng tinh thần của nghĩa quân như Trương Công Định, và nghĩa quân Cần Giuộc. Đoạn sau nay viết về tinh thần chiến đấu của nghĩa quân:

Trên cật một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; Trong tay cắp moat ngọn tầm vông, nào đơi sắm dao tu, nón gõ. . .
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ,trống giục, đạp rào bước tới, coi giặc cũng như không; Nào sợ thằng tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như không có. . ( Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)

Phan Bội Châu là một nhà cách mạng và là một văn hào yêu nước. Tác phẩm của ông là một kho tàng vĩ đại. Chúng tôi xin nêu lên một vài tác phẩm của Sào Nam Phan tiên sinh: -Bình Tây Thu Bắc (1883); -Song Tuất Lục (1886);- Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư (1903);- Khuyến Quốc Dân Du Học Văn (1905);-Việt Nam Vong Quốc Sử (1905);--Việt Nam Nghĩa Liệt Sử (1907);-Ngục Trung Thư; -Tự Phán. . .

Tất cả thi ca của ông đều nhằm vài việc giải phóng dân tộc. Thơ ông đã được dịch quốc ngữ truyền bá trong Đông Kinh nghĩa Thục và khắùp nước. Bài thơ sau nay do Phan Bội Châu viết ngày mồng hai tháng giêng năm ất tị (1905) lên đường sang Nhật Bản:

生爲男子要希奇
肯許乾坤自轉移
於百年中須有我
有千載下車無誰
江山死矣生圖汭
賢聖寥然誦亦痴
願欲長風東海去
千重白浪一齊飛

Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã
Hữu thiên tải hạ cánh vô thùy.
Giang sơn tử hỷ sanh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
Nguyện dục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.

Khác thường bay nhảy mới là trai,
Chẳng chịu vần xoay mặc ýtrời.
Trong cuộc trăm năm đành có tớ
Rồi sau muôn thuở há không ai.
Non sông đã mất, mình khôn sống,
Hiền thánh đâu còn, học cũng hoải.
Đông hải xông pha nương cánh gió,
Nghìn làn sóng bạc múa ngoài khơi!
( Ngục Trung Thư. Đào Trinh Nhất dịch)

Trong Hải Ngoại Huyết Thư, Phan Bội Châu làm nhiều bài văn thơ kêu gọi canh tân và chống Pháp:

腥風馥鼻唉劍挾之無忴
忿氣闐胸罔棍雄而交屬
皇天后土其監予心不乎
會黨昆徒其聽予言 不乎

Tình phong phốc tị, ai kiếm hiệp chi vô linh
Phẫn khí điền hung, võng côn hùng chi giao chúc.
Hoàng thiên hậu thổ ký giám dư tâm phủ hồ?
Hội đảng côn đồ, kỳ thỉnh dư ngôn phủ hồ?



Gió tanh sống mũi khó ưa
Gươm sao cắp nách mà ngơ cho đành.
Hòn máu uất, chất quanh đầy ruột
Anh em ôi, xin tuốt gươm ra
Có trời, có đất có ta,
Đồng tâm thế ấy mới là đồng tâm!
(Lê Đại dịch)



Phan Bội Châu là một văn hào, một nhà cách mạng chân chính của Việt Nam.



V. TRÀO PHÚNG

Tinh thần trào phúng xuất hiện đời Nguyễn với Hồ Xuân Hương cười cợt nhân thế với nghệ thuật tượng trưng mà đậm đà nhất là biểu tượng cái giống. Nụ cười của Hồ Xuân Hương bắt nguồn từ cái dâm và tục của người Việt Nam trong kho tàng tiếu lâm. Sau đó, khi thực dân xâm chiếm nước ta, nghệ thuật trào phúng nhắm vào thực dân, bọn tay sai và hủ tục gây ra do chế độ thực dân và chính quyền tạo ra những sân khấu mới và những tên hề mới. Đại biểu cho trào lưu này là Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Huỳnh Mẫn Đạt, Kỳ Đồng, Nguyễn Thiện Kế. . . .Trào phúng ở nay là vũ khí chống lại bất công và thối nát của xã hội và chống bọn thực dân xâm lược.
Nguyễn Khuyến đã chỉ trích bọn quan lại thời Pháp thuộc:

吾惟嗜飮食
雨非吾能為
神今且如 此
於民復奚疑
(禱雨)


Ngô duy thị ẩm thực
Vũ phi ngô năng vị
Thần kim thả như thử
Ư dân phục hề nghi
( Đảo vũ)



Ta chỉ biết ăn uống,
Ta không biết làm mưa
Bao nhiêu thần bây giờ
Chỉ làm khổ dân chúng ( Cầu mưa)

Ông mượn lời vợ người phường chèo để chỉ trích vua quan thời Pháp:

俳優皇帝且不惧.
何況爾為俳優官
(優婦詞 )



Bài ưu hoàng đế thã bất cụ
Hà huống nhĩ vi bài ưu quan
( Ưu phu từ)


Vua chèo còn chẳng ra chi
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề
( Nguyễn Khuyến dịch)


Trần Tế Xương lả một nhà thơ xuất sắc. Ông đem cái nghèo, cái thi hỏng của ông làm đề tài châm biếm. Ông cũng chỉ trích xã hội của ông gồm những quan lại và nho sĩ thời Phàp cai trị đất Bắc:



THẾ CŨNG ĐÒI THI
Cử nhân cậu ấm Kỷ
Tú tài con Đô Mỹ
Thi thế cũng đòi thi
Ơi khỉ ơi là khỉ!

LẮM QUAN
Ở phố hàng Song thực lắm quan,
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang.
Chồng chung, vợ chạ kìa cô Bố,
Đậïu lạy quan xin nọ chú Hàn!


Văn chương cổ điển đời Nguyễn rất phong phú, trong đó các văn nhân, các vua, các quan lại đã tích cựïc đóng góp cho văn học. Nổi bật nhất Siêu, Quát, Tùng Tuy. Thời này khác các đời trước là ai cũng có thi tập lẫn văn tập. Văn xuôi, văn bình luận đã ra đời khá nhiều. Công cuộc nghiên cứu sử học rất vĩ đãi. Trong mấy chục năm trời, các văn thần Quốc Sử quán như Phan Thanh Giản, Trương Đăng Quế, Nguyễn Thông, Cao Xuân Dục đã biên khảo nhiều bộ sử có giá trị như Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Đại Nam Thực Lục, Quốc Triều Chánh Biên. . .



Lối hát ả đào là một nghệ thuật mớI, kết hợp thi ca và nhạc. Loại Anh hùng ca đã có từ xưa, nay lại ra đời, phản chiếu trung thành lịch sử nước nhà trong giai đoạn đen tối với Nguyễn Nhược Thị, Nguyễn Văn Giai.Văn chương triều Nguyễn mang tính cách bi và hùng mà con người và sự nghiệp của Nguyễn Du, Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu và Phan Bội Châu là những khuôn mặt rạng ngời trong lịch sử dân tộc và lịch sử văn học triều Nguyễn. Các vua quan, văn nhân, thi sĩ đời Nguyễn đã sáng tác, nghiên cứu và tranh đấu anh dũng cho văn học, nghệ thuật và độc lập Việt Nam. Lịch sử muôn đời sẽ công quên công ơn và sự đóng góp lớn lao của họ.











(H7. Phan Bội Châu)








SOME CHARACTERESTICS OF
VIETNAMESE LITERATURE UNDER
THE NGUYEN DYNASTY ( 1802-1945)
by NGUYỄN THIÊN-THỤ

Under the Nguyễn dynasty, Vietnam had two writing systems: the Sino Vietnamese and the Nom. Although the Nguyen dynasty lasted 133 years, its literature last 117 years, because the year 1919 marked the end of its fate. From this year, French colonialists cancelled the old Vietnamese education and built a new one with French and Quốc Ngữ, a kind of Romanized Vietnamese.
Vietnamese literature under the Nguyen dynasty is a great literature because of a great number of famous authors and famous works. This literature also has some characteristics such as lyricism, romanticism, realism, combat, and satire.

I. LYRICISM
Lyricism was a traditional tendency in Vietnamese literature. In the Le dynasty, Chinh Phu Ngâm (Song of a Soldier's Wife ) by Đặng Trần Côn (1710-1745), Cung Oán Ngâm Khúc ( A Plaint Inside the Royal Harem) by Nguyễn Gia Thiều (1741-1798)
and Ai Tư Vãn (Lamentation) by Queen Ngọc Hân (1771-1804) were the most famous lyric poems. In the Nguyễn dynasty, Nguyễn Du (1765-1820) wrote Văn tế thập loại chúng sinh ( Calling All Wandering Souls) which was a well known lyric poem based on Vietnamese belief and Buddhist influence:
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Bóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hòa tứ hải quần chu,
Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương.

May Buddha rescue you from life and death
And ferry you to his Pure Land of Bliss!
Let his effulgent light dispel such gloom
As clouds the mind in ignorance and sin!
The over all fours seas his peace shall reign
To soothe all griefs and purge all hatred off.
May Buddha's power send the Wheel of the Law,
Through all three realms, through all cardinal points
(Transl. by Huynh Sanh Thông)

Nguyễn Khuyến (1835- 1909) wrote Khóc Dương Khuê ( Lamentation ) in both Chinese and Nôm, and this long poem is a poetic creation. Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm ( Nostalgy ) by Đinh Nhật Thận (1815- 1866), and Tư Tình Khúc ( Expression) by Cao Bá Nha (19th century)ï are the great works of two prisoners.
Giấc thanh dạ cơn say ,cơn tỉnh,
Ngày lưu niên, khi lạnh khi nồng.
Phần du nẻo Bắc ngừng trông,
Nước non cách mấy mươi trùng xa xa.
Câu lữ cảm lệ hòa nét mực,
Chữ gia tình thấm tắt lòng son (Tự Tình khúc)

At night, I can not sleep well,
In the exile, I am not happy.
I always look toward the North,
Where my home is
It is far away by mountains and rivers
In the foreign country,
I miss my family
I sadly write about my nostalgia
( Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)

II. ROMANCISM

Romanticism is a traditional tendency in Vietnamese literature. In the Le dynasty, Phan Trần,
( Story of Phan and Trần), Hoa Tiên ( Flowered Stationery) were the famous love stories. In the Nguyen dynasty, there were a lot of love stories appeared, but Truyên Kiều (The Tale of Kieu ) by Nguyễn Du and Lục Vân Tiên by Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) were the most popular works. Some Vietnamese stories such as The Tale of Kieu, Nhị Độ Mai, ( Plumtrees Blooming Twice ) are derived from the Chinese sources, but Sơ Kinh Tân Trang ( The Comb and the Mirror ) by Phạm Thái ( 1777-1813 )was written in 1804. It is an autobiographical work, disguised account of the love affair between the author and lady Trương Quỳnh Như. Lục Vân Tiên by Nguyễn Đình Chiểu is also an autobiographical work of the author, a student, who became a blind, and lost his fiancée .
In Vietnamese poetry under the Nguyễn dynasty, we can see a number of romantic poems. Nguyễn Văn Siêu (1799- 1872) wrote a short poem:

落花辰節又逢君
何辰雲水各天涯
腸斷春風萬里賒
萍梗此囬疑夢寐
忽添驚淚落如花



Meeting you when flowers are falling
In the horizon, how long have we been wandering?
In foreign country, the spring wind makes me sad
I think that we are dreaming.
Suddenly my tears drop as flowers falling!



Tùng Thiện Vương (1819-1870) was also a romantic poet. He expressed love and sadness of a young woman:

落花辰節又逢君
何辰雲水各天涯
腸斷春風萬里賒
萍梗此囬疑夢寐
忽添驚淚落如花



FROM THE DAY YOU GO
When you leave,
I did not weave
My soul, like the moon each night
It decreases its light



III. REALISM

Realism in Vietnamese literature began in the Lê dynasty with an poem entitled Phù Thạch phùng lão ngư ( An old fisherman on the Phù Thạch river ) by Nguyễn Thiếp (1723-1804). In the Nguyễn dynasty, this movement developed with Cao Bá Quát, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý vương. By influence of human love and compassion of Confucianism and Buddhism, many poets paid attention to the reality and life of poor people. Cao Bá Quát (1809- 1853) reported news from the North of Vietnam where had been in trouble time: people were killed and houses were burn by the robbers and the revolters:






怪事怪事不忍聞
自畫殺人全家去
軍吏過者顧之他
鄊里藏匿不敢語
語者十人無一生
家家灰盡成飛絮. . .

(人自北寧來言北寧事感作)



It is very strange to hear that news
They killed a whole family by day
Officials and soldiers were indifferent,
The village authorities did not dare to say!
Who speak truthfully will be killed
A lot of houses became ashes to fly away!. . .
( News from Bắc Ninh province, transl. by Nguyễn Thiên Thụ)

Although Tùng Thiện Vương was a king's relative, he took interest in poor people:


貧家
辛苦貧家子
年年寒復饑
枵腹蔬替飯
凍骨火為衣
遍地猶兵甲
旻天且疾威
朱門樂何事
夜飮達朝暉




Poor people
Poor people are unhappy
Every year cold and hungry,
They eat vegetables when
their stomachs are empty.
Fire instead of clothes in winter,
Land is full of swords
And sky disaster
Rich people are happy
Every night party and party.




IV PATRIOTISM

In 1859 the French colonialists began occupy Vietnam. Vietnamese people, especially the scholars struggled against them. A numbers of writers and poets became the generals or leaders of the revolutionary movements such as Phan Đình Phùng, Nguyễn Hữu Huân, Trương Công Định, Nguyễn Thiện Thuật and Phan Bội Châu. This war also created a new movement in literature that was the resistant literature, revolutionary literature, or patriotic literature.
Nguyễn Thông (1827- 1884) was a combatant. In 1859, the French occupied Gia Định, he followed general Tôn Thất Hiệp to fight French colonialists. In 1881, he became Chief of Education and a Chief of Agriculture of Binh Thuân province.
He was a patriot. Most of his poems expressed his love of country:

書懷示營田副使裴伯昌
牛渚無端作戰場
卄年江海醉爲鄕
同來故郡唯君在
慣觸危機笑我狂
朝論空聞談五利
雲帆何日下重洋
只今燕趙悲哥客
熱血填應旅鬓霜




LETTER TO MY FRIEND BÙI BÁ XƯƠNG
Saigon becomes a battle field,
I have been drinking.
In my countrymen, only you are still living.
Experiencing danger, I become mad.
Everywhere they discussed about negotiating.
I want to steer a cloud boat to the southern sea.
I am a stranger who lost his country and very sad.
My head became white, but my heart is burning.

Nguyễn Đình Chiểu recounted a scenery when the French attacked Gia Định:

CHẠY GIẶC
Tan chợ vừa nghe tiếng súng tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ chó lăng xăng chạy,
Mất ổ bay chim dáo dác bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh khói nhuốm màu mây.
Hởi trang dẹp loạn rày đâu vắng?
Nỡ để dân đen mắc nạn này!

AVOIDING the FRENCH INVADERS
After the market hour, the French troops fired,
In a minute, every thing changed and we failed.
The dogs quitted home and ran on the way,
Lost their nests, the frightened birds flied away.
In Bến Nghé, property became bubbles in a day
In Đồng Nai, houses were burnt to ashes quickly
Where were you? The heroes?
Why didn't you save our country?

Nguyễn Đình Chiểu praised the heroes such as Phan Thanh Giản, Phan Tòng, Trương Công Định., especially the peasants in Cần Giuộc in the fight on december, 14, 1861:
Bữa thấy bòng bong trắng lớp, muốn tới ăn gan; Ngày xem ống khòi đen sì, muốn ra cắn cổ.. .
Nào sợ thằng tây bắn đạn to, đạn nhỏ, xô cửa xông vào, liều mình như không có. . . .
Chẳng thà thác đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; Chẳng hơn còn chịu tiếng hàng tây, ở với man di rất khổ. . .( Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Seeing black French ships with white bubbles in the river, our men wanted to kill them all. . .
They didn't care of French guns, and considered their lives were nothing. . .
They wanted to die heroically like their brave ancestors, rather than to surrender the barbarians.
( Lamentation- Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
Phan Bội Châu (1867-1940 ), Phan Chu Trinh
( 1872- 1926), and Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) were the leaders of the Vietnamese Movement of Reform ( Phong trào Duy Tân ). Phan Bội Châu was a prominent revolutionist and a scholar, he wrote a lot of works in order to appeal to his compatriots to revolt against the French colonialism. The follwing poem was written in 1905 when he was on the way to Japan:

生爲男子要希奇
肯許乾坤自轉移
於百年中須有我
有千載下竟無誰
江山死矣生途芮
賢聖寥然誦亦痴
願欲長風東海去
千重白浪一齊飛 (獄中書)



I am a man, I have to achieve great success,
I try to save my country.
In this life, I have to fulfill my duty
In future, many people will continue my business.
If there is no more nation, my life will be useless.
There is no more saint, why I still study?
I will travel the stormy sea
Although thousand waves are in angry.
( Letter From the Prison- Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)

In Hải Ngoại Huyết Thư ( Blood Letter From the Oversea) , he accused the French colonialism, and called on the people to join him in the struggle to free Vietnam.

腥風馥鼻唉劍挾之無忴
忿氣闐胸罔棍雄而交屬
皇天后土其監予心不乎
會黨昆徒其聽予言 不乎


I hate bad smelling,
I can not take a sword with no intention
In my heart, my anger is rising
My friends, draw your weapons,
In the Heaven and earth, we stand
And hold together with hand in hand.
(Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)





V.SATIRISM

In oral literature , there are many humorous stories whereas in Sino Vietnamese and Nôm literatures, we have no a laughing. In the Nguyễn dynasty, a number of satirical poems appeared in Sino Vietnamese and in Nôm literatures. Hồ Xuân Hương, Nguyễn Văn Lạc, Kỳ Đồng , Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Thiện Kế were the prominent satirists.
When some poets focused on the individuals just for fun, the others aimed to criticise society, especially society under the French domination. Satire in this case is the weapon to struggle against our enemies.
Nguyễn Khuyến wrote many patriotic poems, he also composed a lot of satirical poems. A lot of his satirical poems criticized people and mandarins who followed the French invaders, became their tools, and their servants. His satirical poems were also his patriotic poems. He criticized Bastille Day, the French celebrated on 14 July in Hanoi:

Cậy sức, cây đu nhiều chị nhún
Tham tiền, cột mỡ lắm anh leo
Khen ai khéo vẽ trị vui thề
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!
(Hội Tây)

Relying on their strength, many women swing
Eager for money, on the grease pillars,
some men try climbing
Who displayed these games?
It is not a joy, but a shame.
( A French Festival- Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)

He criticized the education and examination under the French domination which caused corruption in the administration and bad habits in society. He described the paper dolls featuring the scholars with a doctor degree in the Mid Autumn Festival in Hà nội:

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh aấy m ới h ời!
Ghế tréo , l ọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!
(Tiến sĩ giấy)

His body with court dress is very light,
And the price of his fame is not high.
He is great in his throne with blue parasol,
Is this a real doctor? No, it is a toy for the child.
( An unreal doctor)
Trần Tế Xương (1870-1907) was a greatest satirical poet. His poverty and his failure in examination were his poetry subjects. He criticized himself and he attacked his society, a new society corrupted by French colonialists and servants.
He satirized a chief police in Ha nam province:
Hà Nam danh giá nhất ông cò,
Trơng thấy ai ai chẳng dám ho.
(Ông Cò )



A chief of police is a very important person
in Hanam province
Seeing him, everybody keep silent by fright.
(Mr. French Police officer)



He criticized the corrupted exam of his time:
Cử nhân cậu Ấm Kỷ,
Tú tài con đô Mỹ.
Thi thế cũng đòi thi,
Ôi ! khỉ ôi là khỉ! (Thế cũng đòi thi)

Uncle Kỷ passed his licentiate
Đô Mĩ ' s son got baccalaureate.
How can they pass?
What a monkey tricks!
( What an exam !- Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)


The Nguyễn dynasty had a number of great authors and works. The National History Institute
( Quốc Sử Quàn) with Phan Thanh Giản, Trương Đăng Quế, Nguyễn Thông, Vũ Xuân Cẩõn, Nguyễn Trọng Hơp, after many years of research, completed their great works such as:
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục,
Đại Nam Thục Lục,
Đại Nam Liệt Truyện
Đại Nam Nhất Thống Chi. . .,
There were many famous authors The Kings, generals mandarins and scholars were writers or poets. Each writer wrote both poetry and prose, in both Chinese and Nôm. Before the French domination, Vietnam was a peaceful country, therefore the majority of works were the love stories, lyrical poems, and realist works. But after the French occupied Vietnam, the combat literature and the revolutionary literature developed so much. Besides the patriotic literature, satirical literature became a kind of weapon to attack the French colonialists. We can conclude that Vietnamese literature under the Nguyễn dynasty expressed love of country, love of peace, and the struggle of Vietnamese people against the French invaders. The Vietnamese intellectuals were the vanguard force in politics, in culture and in military. They died on battle field, in the prison, or were executed on ground, but their works and their names still exist in the heart of Vietnamese people. History of Vietnamese literature was written by tears and blood of Vietnamese people through many centuries of building and protecting their country.


DÒNG VIỆT 23, 2009

 

No comments:

Post a Comment