UÊ HƯƠNG VIỆT NAM
Đặc Điểm Kiến Trúc Văn Hóa Việt Nam
Bảo tồn di tích công trình Phật giáo
Năm
ngoái, trong cuộc hội thảo về di sản văn hóa, nhà sử học, Giáo sư Phan
Huy Lê gây kinh ngạc khi kể lại câu chuyện hướng dẫn vị Đại sứ Nhật Bản tham quan chùa Tây Phương, đã phát hiện người ta đem sơn mới phết lên các pho tượng gỗ La hán
nổi tiếng, gọi là để bảo quản các pho tượng quý này. Tìm hiểu ra mới
hay việc đó do tổ chức văn hóa địa phương thiếu kiến thức bảo tồn tiến
hành. Điều này nói lên việc giao khoán công tác bảo tồn di sản văn hóa
cho các hội quần chúng mà không có sự hỗ trợ của chuyên gia văn hóa.
Chùa Tây Phương - Miền Bắc Việt Nam, một ngôi chùa có kiến trúc văn hóa Việt đặc thù, bạn nên đến hành hương
Kiến
trúc sư Hoàng Đạo Kính hôm đó cũng cảnh báo về 3 xu hướng sai lệch xuất
hiện thường xuyên hiện nay trong lĩnh vực bảo tồn. Đó là đơn giản giao
trách nhiệm bảo tồn cho ngành xây dựng (thường có hiểu biết rất hạn chế
về lĩnh vực này), việc tôn tạo không đúng phương pháp và quy cách (tự ý
thêm thắt, làm mới lung tung) và nhất là xu hương rất đáng báo động hiện
nay là “du lịch hóa”di sản. Di tích Phật giáo cũng không thoát khỏi
tình cảnh này.
Sự phát triển trong thời kỳ nhiều
biến động ngày nay đang tác động từng ngày từng giờ đến di sản văn hóa
đất nước, trong đó có không ít di tích Phật giáo, đã gây nhiều bức xúc
chẳng những cho giới làm lịch sử, văn hóa nghệ thuật mà của đông đảo
Phật tử và nhân dân cả nước. Phải chăng chúng ta đang đối mặt với mâu
thuẫn: Một mặt, mà cứ khư khư giữ nguyên trạng cứng nhắc chỉ có tác dụng
làm đóng băng di sản, và về lâu dài sẽ đưa đến sự xuống cấp, hủy hoại
chúng, di tích biến thành phế tích. Nhưng mặt khác, nếu phát huy chúng
một cách bừa bãi, không tôn trọng các nguyên tắc bảo tồn mang tính khoa
học thì di tích cũng sẽ bị hủy hoại hoặc biến mất.
Trong
vài thập kỷ gần đây, bảo tồn di tích đã trở thành một ngành nghiên cứu
và thực hành mang tính chuyên môn cao, tuân thủ các nguyên tắc nghiêm
ngặt theo thông lệ được cộng đồng quốc tế chấp nhận. Nghĩ rằng đã đến
lúc di tích công trình Phật giáo ở nước ta ngày nay cũng phải được bảo
tồn và phát huy theo hướng này.
Chưa đáp ứng được yêu cầu mới thời đại
Kiến
trúc chùa chiền, gồm bảo tồn phát huy cái cũ và xây dựng cái mới, ngày
nay cũng không thoát khỏi tình trạng chung của kiến trúc đất nước được
mô tả là “năng động mà hỗn loạn”. Kiến trúc chùa chiền nhìn chung rất
phong phú và đa dạng nhưng cũng khá lộn xộn trong kiểu cách.
Theo
đánh giá chuyên môn về mặt kiến trúc, công trình chùa chiền cũ đang bị
hủy hoại nghiêm trọng. Đã có hiện tượng mạnh ai nấy làm, làm biến dạng
không ít di tích chùa quý giá ở nước ta, có nguy cơ phá vỡ những nét cổ
mà các vị tổ sư đã dày công tôn tạo.
Công trình
Phật giáo xây mới lại có hiện tượng sa đà vào chủ nghĩa hình thức, nặng
về sáo mòn sao chép vốn cổ hoặc giả cổ, với trang trí thường lòe loẹt,
nặng về phô trương hình thức bên ngoài mà nhẹ về bố cục nội dung bên
trong. Điều đáng suy ngẫm là phải chăng ta đang làm mai một đi bản sắc
văn hóa đã được khẳng định để lao vào việc tạo dựng lên các công trình
mới không đáp ứng được yêu cầu của thời đại, của lớp Phật tử ngày càng
trẻ trung và có kiến thức hơn.
Ngôi chùa ở thành
phố ngày nay thường nằm lọt thỏm trong phố thị chật hẹp thì lại càng khó
thể hiện được tính thần mà một cơ sở thờ tự tôn nghiêm cần có. Loại
hình chùa chiền kiểu đó cũng khá phổ biến tại các cộng đồng người Việt
sinh sống ở nước ngoài.
Tuy vậy, cũng đã có một số
ngôi chùa, đa số thuộc Thiền tông, có nỗ lực trong việc hướng về cái
mới đồng thời tạo được cái đẹp dung dị, hòa mình vào thiên nhiên-vốn là
nét đặc trưng kiến trúc Phật giáo nước ta. Hình như, rất tiếc, chúng ta
chưa rút ra được các bài học từ những thể nghiệm cách tân kiến trúc chùa
Phật những thập niên qua. Ví như các ngôi chùa xây dựng mới ở Sài Gòn
vào những năm 1950-1960, nào Xá Lợi, Vình Nghiêm…
Khảo
sát ra bên ngoài, tôi đã nhìn thấy nhiều ngôi chùa cũ được chăm chút
bảo quản khá tốt và chùa mới của các tông phái Phật giáo Nhật Bản, Thái
Lan, Sri Lanka thì kết hợp được tính chách hiện đại và bản sắc Phật giáo
địa phương. Trường hợp đó cũng xuất hiện trong các công trình chùa Việt
ở nước ngoài, như Trúc Lâm thiền viện ở ngoại ô Paris (Pháp), Viên Giác
ở giữa thành phố Hannover (Đức), Huyền KHông ở ngay trung tâm thành phố
Montréal (Canada), nhiều ngôi chùa Việt tại California (Hoa Kỳ) kết hợp
khá nhuần nhuyễn tính hiện đại của công trình tôn giáo thời đại mới và
bản sắc rất riêng của ngôi chùa Việt.
Đặc điểm kiến trúc của Việt
Giáo
lý của đạo Phật cũng như đặc điểm nổi bật của kiến trúc Phật giáo là
tính giản dị, đại chúng, bình đẳng, trí tuệ. Chùa Phật vừa là trung tâm
tôn giáo, vừa là trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Tuy vậy, kiến
trúc chùa Việt Nam cũng như chùa Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản ở vùng
Đông Á chịu ảnh hưởng chủ yêu từ truyền thống Bắc tông, nghiêng về văn
hóa, nghệ thuật Trung Hoa hơn là truyền thống Nam tông Ấn Độ hóa của hầu
hết các nước Phật giáo Đông Nam Á như Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan,
Campuchia, Lào. Chùa Phật truyền thống luôn là một tổng thể kiến
trúc-cảnh quan hài hòa.
Kiến trúc chùa cũng có
những đặc điểm riêng tùy theo phong tục, tập quán và thời tiết khí hậu
từng địa phương. Nếu ngôi chùa Hoa, Nhật có mái lớn và nặng, nhằm chống
lại cái lạnh giá, mưa bão và mong muốn tạo một bầu khí u trầm, kín đáo
của một nơi chốn tĩnh tu, thì trái lại, chùa Thái, Khờ-me, Lào với mái
chống nhiều lớp, thanh thoát nhằm tạo thông thoáng trong môi trường
nhiệt đới, màu sắc tươi vui của một trung tâm cộng đồng hấp dẫn.
Nếu
chùa Việt dung hòa cả hai truyền thống đó và cơ bản vẫn là ngôi nhà gỗ
dân gian nhưng đã đạt được cái đẹp trong sự hạn chế phương tiện, thô
mộc, bình dị, hòa mình vào thiên nhiên. Nếp chùa là một phức hợp kiến
trúc gồm nhiều công trình, đặt ở những vị trí cảnh quan đẹp nhất. Truyền
thống bố cục mang tính mở, đại chúng với sân rộng, hành lang lớn hai
bên phải trái (Đông lang , Tây lang) đón khách thập phương. Chùa Phật
rất khác với đền miếu Khổng giáo, Đạo giáo vì có tháp, gác chuông và cả
nơi ở, tu tập của Tăng Ni lẫn nhà khách. Điện thờ là trung tâm chùa, gồm
tiền đường (nơi vân tập thiện nam tín nữ), tòa thiêu hương hay bái
đường (nơi hành lễ) và thượng điện hay chánh điện (nơi đặt tượng Phật).
Ở
nước ta, tuy nếp chùa truyền thống Bắc-Nam cơ bản không mấy khác nhau,
nhưng chùa ở miền Bắc, miền Trung vẫn còn nặng nề với mái lớn, đầu đao,
khép kín, trang trí rườm rà, trong khi chùa ở miền Nam hàng ba thoáng
mở bốn phía, mái bốn vạt kiểu bánh ít, trang trí giản dị, thể hiện rõ
nét sinh hoạt bình dị của người di dân Nam tiến trong khung cảnh thời
tiết mưa nắng hai mùa. Chùa phương Nam cũng chịu nhiều ảnh hưởng của nếp
chùa Hoa, chùa Khờ-me bản địa trong trang trí và bố cục sân vườn.
Bảo tồn và phát huy
Bảo
tồn di tích công trình Phật giáo nay cũng cần dựa trên cơ sở khoa học
và pháp lý. Nước ta đã ban hành Luật Di sản từ năm 2001 để làm cơ sở
pháp lý, ngoài ra chúng ta cũng đang tiếp thu kinh nghiệm quốc tế…Từ đó
đang đề ra các quy chế cụ thể bảo tồn di tích, trong đó có không ít di
tích công trình Phật giáo.
Thông lệ quốc tế thì
thường dựa vào văn kiện tiêu biểu là Hién chương Venice 1964, với sự xác
nhận của Công ước về di sản văn hóa thế giới của UNESCO 1972. Sau này
bổ sung thêm văn kiện Nara 1994.
Hiến chương
Venice đòi hỏi việc gìn giữ tính nguyên gốc của di sản nhắm tránh làm
sai lạc các chứng cứ lịch sử và khoa học. Sỡ dĩ Hiến chương nhấn mạnh
điều đó là do phương Tây đã kinh qua kinh nghiệm phục hồi chua xót di
sản vào thời Phục hưng, đã từng tùy tiện nâng cấp cải tạo hoặc trùng tu
thêm thắt theo phong cách mới thời đại hoặc thị hiếu cá nhân.
Tuy
nhiên gần đây nhiều hội nghị quốc tế đã chỉ ra rằng Hiến chương Venice
nay đã phần nào lỗi thời trong quan niệm “giữ gìn nguyên gốc”và hướng
sang đề cao “Văn kiện Nara”.
Nhật Bản là nước từng
có thông lệ từ thế kỷ thứ VII là cứ 20 là họ tiến hành trùng tu lại các
công trình tôn giáo Thần đạo tại khu Ise truyền thống. Điều này rõ ràng
là không phù hợp với tinh thần châu Âu của Hiến chương Venice. Vì vậy
mà vào năm 1994, các chuyên gia đầu ngành bảo tồn di sản của các tổ chức
quốc tế và 25 nước đại diện các châu lục đã họp tại Nara đề ra các điều
bổ sung mới về tính nguyên bản của di sản. Nghĩa là phải tính đến các
yếu tố phi vật thể, phù hợp với thực tế của thời đại như các yếu tố chức
năng và tác dụng, truyền thông và kỹ thuật, tinh thần và tình cảm…Hiện
nay, thông lệ quốc tế khuyến khích giữ gìn nguyên trạng di sản nhưng
cũng uyển chuyển áp dụng các qui định mới, nhằm biến di sản văn hóa sinh
động hơn và không “đóng băng”chúng trong thờigian kinh tế thị trường.
Tại
các nước tiên tiến luôn có cơ quan phụ trách di sản và hoạt động rất
tích cực, khá hữu hiệu như lập hồ sơ, quy định công tác quản lý, bảo vệ
và tôn tạo công trình.
Riêng đối với di sản công
trình tôn giáo cổ nêu còn đang sử dụng thì tổ chức tôn giáo tự mình bảo
quản, tôn tạo là chính, cơ quan bảo tồn chỉ can thiệp để bảo vệ công
trình không bị xâm hại, yểm trợ việc trùng tu, phục hồi cho đúng nguyên
trạng. Nhiều cơ sở nghiên cứu kiến trúc tôn giáo, khảo cổ, các trường mỹ
thuật và kiến trúc, quỹ tài trợ văn hóa cũng tham gia tích cực vào các
công tác nêu trên. Nếu các công trình mang tính chất di sản văn hóa tiêu
biểu cấp quốc gia thì nhà nước phải tham dự nhiều hơn vào công tác
trùng tu, bảo tồn.
Ở nước ta do tình hình khó khăn
chung về nhiều mặt, trước mắt nhà nước khó mà đảm trách hết mọi việc.
Cho nên, việc yểm trợ từ nhiều phía sẽ giúp ích cụ thể cho việc gìn giũ,
tôn tạo các di tích chùa chiền.
Tôi nghĩ, một mặt
nhà nước nên chấn chỉnh lại nạn lấn chiếm di sản chùa chiền kéo dài
nhiều năm qua. Mặt khác sắp xếp quy hoạch, phân khu chức năng đô thị và
nông thôn mới cần dự kiến quỹ đất đáp ứng nhu cầu tinh thần và tâm linh
cho cộng đồng khi dự trù mặt bằng cần thiết cho công trình tôn giáo. Mặt
khác, Giáo hội Phật giáo cũng nên có bộ phận chuyên trách bảo tồn di
tích, kết hợp với các chuyên gia bảo tồn công trình Phật giáo lên phương
án trùng tu, bảo quản và tôn tạo lâu dài cho đúng quy cách.
Đây
là một việc cần phải làm ngay, vì nếu cứ để tình hình hỗn loạn này kéo
dài, thì chúng ta có tội lớn, chẳng những đối với Phật giáo mà cả đối
với tiền nhân và lịch sử văn hóa Việt Nam.
Source: Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 62
Đình Chùa Cổ Việt Nam.
Hình ảnh độc đáo về đình, chùa cổ Việt Nam
Chùa Thiên Niên (Hà Nội), hay còn gọi là chùa Trích Sài nằm ngay sát bờ hồ Tây, thuộc làng Trích Sài, phường Bưởi, quận Tây Hồ. Chùa xuất hiện từ thời Lý Nam Đế (544 - 548). Chùa đã được bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch đánh giá
Các tác phẩm ảnh về những ngôi chùa, đình, đền nổi tiếng tại Hà Nội, Bắc Ninh, Ninh Bình, Sài Gòn.. được đưa ra triển lãm nhân dịp Phật đản Liên hợp quốc hồi đầu tháng 5.
Chùa Thiên Niên (Hà Nội), hay còn gọi là chùa Trích Sài nằm ngay sát bờ hồ Tây, thuộc làng Trích Sài, phường Bưởi, quận Tây Hồ. Chùa xuất hiện từ thời Lý Nam Đế (544 - 548). Chùa đã được bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch đánh giá, xếp hạng và tổ chức trùng tu nhân sự kiện 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Chùa Trấn Quốc (Hà Nội) là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nằm cạnh Hồ Tây bên đường Thanh Niên. Chùa được xây từ thời Lý Nam Đế ở gần sông Hồng, đến năm 1615, được di dời vào vị trí ngày nay. Nơi đây có vườn tháp cổ u tịch, có nhiều tượng Phật giá trị, đặc biệt là tượng Thích Ca nhập Niết Bàn và là di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
Đền Quán Thánh (Hà Nội), tên chữ là Trấn Vũ Quán, có từ đời Lý Thái Tổ (1010 - 1028). Nơi đây thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, là một trong bốn vị thần được lập đền thờ để trấn giữ bốn cửa ngõ thành Thăng Long khi xưa. Bốn ngôi đền đó gồm Đền Bạch Mã, Voi Phục, Kim Liên và Quán Thánh. Đền Quán Thánh nằm gần Hồ Tây cùng với Kim Liên và Trấn Quốc tạo nên sự hài hoà trong kiến trúc cảnh quan và văn hoá tín ngưỡng đối với cả khu vực phía Tây Bắc của thủ đô.
Đình Chèm là đình của làng Chèm (Thủy Phương), phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm. Đình là công trình kiến trúc có nghệ thuật chạm khắc độc đáo, thờ Thượng đẳng Thiên vương Lý Ông Trọng (Lý Thân hay Đức Thánh Chèm), một nhân vật huyền thoại và Hoàng phi Bạch Tĩnh Cung sống vào thời An Dương Vương. Đình Chèm là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam. Từ nghìn năm nay, đình Chèm vẫn là nơi thờ cúng tín ngưỡng của người dân ba làng gồm làng Hoàng, làng Mạc và làng Chèm (Đông Ngạc, Bắc Từ Liêm).
Đình Bảng là một ngôi đình nằm ở làng Đình Bảng (xưa là làng Cổ Pháp), thị xã Từ Sơn (Bắc Ninh). Đình được xây dựng vào cuối thế kỷ 18 thờ các vị thành hoàng gồm Cao Sơn Đại vương (thần Núi), Thủy Bá Đại vương (thần Nước) và Bách Lệ Đại vương (thần Đất) đồng thời thờ sáu vị có công lập lại làng vào thế kỷ 15.
Chùa Tiêu hay còn gọi là chùa Thiên Tâm, Tiêu Sơn tự, nằm trên lưng chừng núi Tiêu thuộc xã Tương Giang, huyện Tiên Sơn (Bắc Ninh). Ðây là nơi trụ trì của thiền sư Lý Vạn Hạnh, người đã có công nuôi dạy Lý Công Uẩn.
Chùa Bút Tháp (Bắc Ninh). Chùa nằm hiện lên với vẻ cổ kính và trang nghiêm và nằm dưới chân đê của con sông Cầu thơ mộng. Tên chữ là Ninh Phúc Tự, được xây dựng từ thời vua Trần Thánh Tông theo kiểu “nội công ngoại quốc” với một hệ thống các công trình hài hoà, cân xứng và sinh động. Đây còn là nơi lưu giữ bức tượng Phật nghìn mắt, nghìn tay cổ độc nhất vô nhị Việt Nam.
Chùa Cần Linh (Nghệ An), thường được gọi là chùa Sư Nữ, tọa lạc ở phường Cửa Nam, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, xây dựng vào thời Hậu Lê. Năm 1942, sư bà Diệu Viên đã tổ chức đại tu ngôi chùa, bảo tồn được nhiều tượng cổ. Sau đó đến Ni sư Diệu Niệm trong 20 năm trụ trì đã trùng hưng ngôi chùa thành một danh lam xứ Nghệ ngày nay.
Chùa Nhất Trụ (Ninh Bình), được tạo lập năm 995. Vua Lê Đại Hành đã cho dựng cột kinh (trụ đá) để khắc kinh dâng nhà Phật và xây dựng theo kiểu chữ Đinh, hướng chính Tây, gồm có cột kinh, chính điện, nhà tổ, phòng khách, nhà ăn, tháp… Chùa có tên Nhất Trụ vì trước chùa có cột đá cao hơn 3m, tiết diện hình bát giác. Trên thân cột ngoài 3 phần chữ khắc gồm có Lạc khoản, Kệ, Kinh còn có các chữ “Đệ tử Thăng Bình Hoàng đế tả đạo” ("Hoàng đế Thăng Bình" tức vua Lê Hoàn). Chùa nằm ở vị trí trung tâm, là di tích quan trọng nhất, là nơi tu hành và họp bàn việc nước của các nhà sư thế kỉ X như Pháp Thuận, Khuông Việt và Vạn Hạnh. Trải qua các thời kì lịch sử của dân tộc, trước thử thách của gió bão, bom đạn chiến tranh, trụ đá vẫn còn đứng mãi với thời gian.
Chùa Cổ Lễ thuộc thị trấn Cổ Lễ huyện Trực Ninh (Nam Ðịnh), cách thành phố Nam Định 15 km về phía Nam. Chùa do Hoà thượng Phạm Quang Tuyên xây dựng tháng 11/1920, có quy mô kiến trúc rộng lớn, hài hòa, được kết hợp các yếu tố cổ truyền Việt Nam với kiến trúc gothic châu Âu.
Chùa Đồng Đắc thuộc thôn Đồng Đắc, xã Đồng Hướng (Ninh Bình), là chùa lớn nhất ở vùng Công giáo huyện Kim Sơn. Năm 1829, một nhà sư họ Lê đã đến nơi đây và được Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ ủng hộ chọn một khu đất cao nhất ở trung tâm xã Đồng Đắc để xây dựng chùa.
Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang là một biểu tượng Phật giáo tâm linh của người dân Quảng Trị. Chùa được hình thành từ thời chúa Nguyễn Hoàng khi mới vào Nam lập nghiệp. Đây là một trong những ngôi tổ đình có mặt sớm nhất và có ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo và văn hóa của xứ Đàng Trong. Ngày 15/11/1991, Nhà nước đã chính thức xếp hạng chùa là di tích cấp quốc gia hạng A1.
Phóng to Chùa Bửu Long có kiến trúc vừa hoành tráng vừa hiện đại nhưng cũng có nhiều nét cổ kính nhất của nền văn minh Suvannabhumi cổ đại trong vùng Đông Nam Á. Chùa có ảnh hưởng của văn minh Phật giáo Ấn Độ thời đại vua Asoka. Thiền Viện Tổ Đình Bửu Long nguyên là một Tịnh Thất có khuôn viên rộng hơn 11 ha, tọa lạc trên ngọn đồi phía Tây ngạn sông Đồng Nai, trong công viên Lịch sử Văn hóa Dân tộc tại khu phố Thái Bình 1, phường Long Bình, Quận 9 (Sài Gòn).
Nguyễn Thịnh - Thúy Hồng
Bảy Hiền sưu tầm
Đình Chùa Cổ Việt Nam.
Hình ảnh độc đáo về đình, chùa cổ Việt Nam
Chùa Thiên Niên (Hà Nội), hay còn gọi là chùa Trích Sài nằm ngay sát bờ hồ Tây, thuộc làng Trích Sài, phường Bưởi, quận Tây Hồ. Chùa xuất hiện từ thời Lý Nam Đế (544 - 548). Chùa đã được bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch đánh giá
Các tác phẩm ảnh về những ngôi chùa, đình, đền nổi tiếng tại Hà Nội, Bắc Ninh, Ninh Bình, Sài Gòn.. được đưa ra triển lãm nhân dịp Phật đản Liên hợp quốc hồi đầu tháng 5.
Chùa Thiên Niên (Hà Nội), hay còn gọi là chùa Trích Sài nằm ngay sát bờ hồ Tây, thuộc làng Trích Sài, phường Bưởi, quận Tây Hồ. Chùa xuất hiện từ thời Lý Nam Đế (544 - 548). Chùa đã được bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch đánh giá, xếp hạng và tổ chức trùng tu nhân sự kiện 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Chùa Trấn Quốc (Hà Nội) là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nằm cạnh Hồ Tây bên đường Thanh Niên. Chùa được xây từ thời Lý Nam Đế ở gần sông Hồng, đến năm 1615, được di dời vào vị trí ngày nay. Nơi đây có vườn tháp cổ u tịch, có nhiều tượng Phật giá trị, đặc biệt là tượng Thích Ca nhập Niết Bàn và là di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
Đền Quán Thánh (Hà Nội), tên chữ là Trấn Vũ Quán, có từ đời Lý Thái Tổ (1010 - 1028). Nơi đây thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, là một trong bốn vị thần được lập đền thờ để trấn giữ bốn cửa ngõ thành Thăng Long khi xưa. Bốn ngôi đền đó gồm Đền Bạch Mã, Voi Phục, Kim Liên và Quán Thánh. Đền Quán Thánh nằm gần Hồ Tây cùng với Kim Liên và Trấn Quốc tạo nên sự hài hoà trong kiến trúc cảnh quan và văn hoá tín ngưỡng đối với cả khu vực phía Tây Bắc của thủ đô.
Đình Chèm là đình của làng Chèm (Thủy Phương), phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm. Đình là công trình kiến trúc có nghệ thuật chạm khắc độc đáo, thờ Thượng đẳng Thiên vương Lý Ông Trọng (Lý Thân hay Đức Thánh Chèm), một nhân vật huyền thoại và Hoàng phi Bạch Tĩnh Cung sống vào thời An Dương Vương. Đình Chèm là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam. Từ nghìn năm nay, đình Chèm vẫn là nơi thờ cúng tín ngưỡng của người dân ba làng gồm làng Hoàng, làng Mạc và làng Chèm (Đông Ngạc, Bắc Từ Liêm).
Đình Bảng là một ngôi đình nằm ở làng Đình Bảng (xưa là làng Cổ Pháp), thị xã Từ Sơn (Bắc Ninh). Đình được xây dựng vào cuối thế kỷ 18 thờ các vị thành hoàng gồm Cao Sơn Đại vương (thần Núi), Thủy Bá Đại vương (thần Nước) và Bách Lệ Đại vương (thần Đất) đồng thời thờ sáu vị có công lập lại làng vào thế kỷ 15.
Chùa Tiêu hay còn gọi là chùa Thiên Tâm, Tiêu Sơn tự, nằm trên lưng chừng núi Tiêu thuộc xã Tương Giang, huyện Tiên Sơn (Bắc Ninh). Ðây là nơi trụ trì của thiền sư Lý Vạn Hạnh, người đã có công nuôi dạy Lý Công Uẩn.
Chùa Bút Tháp (Bắc Ninh). Chùa nằm hiện lên với vẻ cổ kính và trang nghiêm và nằm dưới chân đê của con sông Cầu thơ mộng. Tên chữ là Ninh Phúc Tự, được xây dựng từ thời vua Trần Thánh Tông theo kiểu “nội công ngoại quốc” với một hệ thống các công trình hài hoà, cân xứng và sinh động. Đây còn là nơi lưu giữ bức tượng Phật nghìn mắt, nghìn tay cổ độc nhất vô nhị Việt Nam.
Chùa Cần Linh (Nghệ An), thường được gọi là chùa Sư Nữ, tọa lạc ở phường Cửa Nam, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, xây dựng vào thời Hậu Lê. Năm 1942, sư bà Diệu Viên đã tổ chức đại tu ngôi chùa, bảo tồn được nhiều tượng cổ. Sau đó đến Ni sư Diệu Niệm trong 20 năm trụ trì đã trùng hưng ngôi chùa thành một danh lam xứ Nghệ ngày nay.
Chùa Nhất Trụ (Ninh Bình), được tạo lập năm 995. Vua Lê Đại Hành đã cho dựng cột kinh (trụ đá) để khắc kinh dâng nhà Phật và xây dựng theo kiểu chữ Đinh, hướng chính Tây, gồm có cột kinh, chính điện, nhà tổ, phòng khách, nhà ăn, tháp… Chùa có tên Nhất Trụ vì trước chùa có cột đá cao hơn 3m, tiết diện hình bát giác. Trên thân cột ngoài 3 phần chữ khắc gồm có Lạc khoản, Kệ, Kinh còn có các chữ “Đệ tử Thăng Bình Hoàng đế tả đạo” ("Hoàng đế Thăng Bình" tức vua Lê Hoàn). Chùa nằm ở vị trí trung tâm, là di tích quan trọng nhất, là nơi tu hành và họp bàn việc nước của các nhà sư thế kỉ X như Pháp Thuận, Khuông Việt và Vạn Hạnh. Trải qua các thời kì lịch sử của dân tộc, trước thử thách của gió bão, bom đạn chiến tranh, trụ đá vẫn còn đứng mãi với thời gian.
Chùa Cổ Lễ thuộc thị trấn Cổ Lễ huyện Trực Ninh (Nam Ðịnh), cách thành phố Nam Định 15 km về phía Nam. Chùa do Hoà thượng Phạm Quang Tuyên xây dựng tháng 11/1920, có quy mô kiến trúc rộng lớn, hài hòa, được kết hợp các yếu tố cổ truyền Việt Nam với kiến trúc gothic châu Âu.
Chùa Đồng Đắc thuộc thôn Đồng Đắc, xã Đồng Hướng (Ninh Bình), là chùa lớn nhất ở vùng Công giáo huyện Kim Sơn. Năm 1829, một nhà sư họ Lê đã đến nơi đây và được Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ ủng hộ chọn một khu đất cao nhất ở trung tâm xã Đồng Đắc để xây dựng chùa.
Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang là một biểu tượng Phật giáo tâm linh của người dân Quảng Trị. Chùa được hình thành từ thời chúa Nguyễn Hoàng khi mới vào Nam lập nghiệp. Đây là một trong những ngôi tổ đình có mặt sớm nhất và có ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo và văn hóa của xứ Đàng Trong. Ngày 15/11/1991, Nhà nước đã chính thức xếp hạng chùa là di tích cấp quốc gia hạng A1.
Phóng to Chùa Bửu Long có kiến trúc vừa hoành tráng vừa hiện đại nhưng cũng có nhiều nét cổ kính nhất của nền văn minh Suvannabhumi cổ đại trong vùng Đông Nam Á. Chùa có ảnh hưởng của văn minh Phật giáo Ấn Độ thời đại vua Asoka. Thiền Viện Tổ Đình Bửu Long nguyên là một Tịnh Thất có khuôn viên rộng hơn 11 ha, tọa lạc trên ngọn đồi phía Tây ngạn sông Đồng Nai, trong công viên Lịch sử Văn hóa Dân tộc tại khu phố Thái Bình 1, phường Long Bình, Quận 9 (Sài Gòn).
Nguyễn Thịnh - Thúy Hồng
Bảy Hiền sưu tầm
Ở Việt Nam, nhắc đến ăn chay không thể không nhắc tới Huế, nơi có nhiều món ăn chay nhất, thậm chí việc nấu đồ ăn chay ở Huế đã trở thành một nghệ thuật.
Việc ăn chay đã thịnh hành từ thời Lý – Trần cho đến đời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), Huế trở thành thủ phủ của Phật giáo, tục ăn chay cũng bắt đầu phổ biến ở Huế trong cả tầng lớp quý tộc lúc bấy giờ.Cho đến ngày nay, người Huế, từ bình dân đến quý tộc, đều có truyền thống ăn chay, cốt để cho tâm hồn thanh tịnh.
Nếu như bạn có dịp ghé thăm Huế vào những dịp lễ, đến các ngôi chùa ở nơi đây, bạn sẽ được thưởng thức cỗ chay mà nhà chùa thường làm để đãi phật tử bốn phương. Mâm cỗ chay rất đơn giản chỉ gồm tương, muối, rau, dưa… đều là những sản vật do các vãi cùng những phật tử trồng ngay trong vườnchùa. Bữa cơm đạm bạc là thế nhưng lúc nào cũng thu hút rất nhiều người.
Người Huế không chỉ ăn chay vào ngày rằm, ngày mồng một hay ngày lễ, họ ăn chay như một thói quen thường nhật. Dường như quanh năm, cơm chay đều thường xuyên xuất hiện trong bữa ăn của những gia đình người Huế. Họ định ngày ăn chay trong tháng gọi là trai kỳ; ăn chay hai ngày rằm, ngày ba mươi gọi là nhị trai; ăn chay bốn ngày gọi là tứ trai. Và cứ ngày mười bốn và cuối tháng âm lịch hay ngày Phật đản, phần lớn các quán bún bò của Huế đều đổi món bán bún chay.
Ở Huế, hầu hết các gia đình đều tự nấu những món chay cho bữa ăn. Bữa cơm chay thanh đạm cũng là cách mà người Huế bày tỏ sự quý mến và tấm chân thành với bạn bè. Đây là một nét văn hóa độc đáo mà có lẽ chỉ có riêng ởxứ Huế. Bữa ăn ngày Tết cũng vậy, mâm cỗ ngày Tết ở Huế thường là mâm cỗ chay, cho đến ngày nay, tuy đã có nhiều thay đổi, nhưng món chay vẫn là những món không thể thiếu trong mâm cỗ ngày Tết của người Huế.
Đến với Huế, bạn sẽ được thưởng thức từ cơm chay, bún chay… cho đến đùi gà chay, cá chay, giò chay… Củ, quả, đậu, dầu thực vật phút chốc đều biến thành những món ăn bắt mắt và hấp dẫn vô cùng. Đủ các món sơn hào hải vịtừ nem công, chả phượng, giò lụa, thịt gà đến tôm hùm, cá rán nom đẹp mắt vô cùng nhưng đều được chế tác từ thực vật. Điểm đặc biệt là ngay khi thưởng thức, vẫn cứ ngỡ như là thịt cá thật. Đó chính là cái tài chếtác từ những bàn tay nội trợ điệu nghệ xứ Huế. Sự kết hợp hài hòa màu sắc của rau, đậu, hoa quả đã được xào nấu bằng dầu thực vật, xì dầu, hoặc những món rau sống, khế chua, dưa hành, nộm hoa chuối...v.v, rồi bày trí các món ăn trên bàn ăn sao cho đẹp mắt cũng rất được quan tâm.
Các món ăn thường được bày ít, và xếp trên những chiếc đĩa nho nhỏ,
khiến thực khách thưởng thức rồi mà vẫn có cảm giác thòm thèm muốn ăn
thêm chút nữa. Món khai vị cho một bữa tiệc chay ở Huế thường là cà
rốt,đu đủ được tỉa thật khéo để trang trí xung quanh những lát chả phù
đượclàm từ lá phù chúc màu vàng mơ, xen lẫn là mì căn gói bánh tráng
chiên giòn làm nem rán. Súp măng cua được nấu từ bắp non, nấm rơm, hạt
sen… Vàtất nhiên không thể thiếu cơm và xôi rồi.
Không chỉ vậy, bạn còn có thể được thưởng thức bánh bèo, bánh lọc, bánh ít… với nhân chay. Và một món ăn quen thuộc thường xuất hiện trong những bữa cơm chay của người Huế chính là món chao. Chao là món ăn có vị gần giống như một món mặn, được chế biến từ đậu nành, làm thành đậu khuôn, đậu khuôn ủ lên men thì thành chao. Chao có hương vị rất hấp dẫn và bảo quản được lâu ngày.
Đất Huế thơ mộng, lại mang nét văn hóa ăn chay độc đáo, thật dễ khiến lòng người nhớ mãi không nguôi…
Bánh ướt lâu năm ở ngã tư Bảy Hiền
Đây là một trong những quán thuộc dạng quán lâu đời và rất nổi tiếng khu Tân Bình. Quán chỉ bán duy nhất mỗi món chính là bánh ướt, ăn kèm bánh tôm chiên nóng giòn rất ngon.
Trước hết phải nói là hàng bánh cuốn này giá không rẻ chút nào hết. Một phần bánh cuốn với miếng chả lụa to (nhưng hơi mỏng), nem chua và miếng bánh tôm chiên có giá là 32k. Ăn ở đây muốn “đã miệng” phải gọi thêm chả và bánh tôm cho nên tính ra giá thành sẽ hơi chát với các bạn teen. Tuy nhiên, giá cả có vẻ không thành vấn đề khi nơi này luôn đông khách, cảnh buôn bán ở đây diễn ra tấp nập rộn ràng của góc đường ngã tư Bảy Hiền (đối diện bệnh viện Thống Nhất).
Một phần bánh ướt giá 32k
Lý do cho việc bán đắt nhưng vẫn đông có lẽ nằm ở cái bánh tôm. Bánh tôm ở đây khá đặc biệt, không giống những chỗ khác. Bánh tôm được chiên bằng bột mỏng với con tôm tươi ở giữa. Một cái bánh tôm sẽ được cắt làm đôi cho vào phần bánh ướt, cùng chả - nem và rau giá, nước mắm. Bánh tôm được nhiều người thích nên hay được gọi thêm (8 – 10k/ cái), bánh chiên liên tục nên nếu may mắn bạn còn có thể thưởng thức một cái bánh nóng giòn, thơm phức.
Bánh tôm cắt đôi
Nem chua
Chả lụa to, ngon nhưng khá mỏng
Nước mắm ngày xưa của quán rất ngon nhưng khoảng vài năm sau này giảm hẳn chất lượng, ăn có cảm giác pha nhiều quá nên mất đi cái đậm đà của vị ngon xưa. Quán bán đem về khá nhanh nhẹn (chắc do phục vụ nhiều năm nên chuyên nghiệp), nước mắm đem về luôn được hâm nóng cho cảm giác ngon hơn khi ăn.
Hành phi thơm và giòn
Bánh ướt dầy, dai - ngon
Nói chung, đây là một nơi có thể ăn thử để thưởng thức bánh tôm chiên ngon và lạ. Còn ăn dài dài thì tùy vào nhu cầu và khả năng tài chính của mọi người vì tính ra giá cả ở đây đắt gấp đôi những hàng bánh ướt bình thường.
Ngã tư Bảy Hiền, bên trái là đường Lý Thường Kiệt, bên phải đường Hoàng Văn Thụ, phía trước đường Trường Chinh
Ảnh: Bảy Hiền
Những thương hồ cuối cùng giữa lòng Sài Gòn
Khi dự án cải tạo kênh Tân Hoá - Lò Gốm sắp hoàn thành cũng là lúc các thương hồ gắn bó lâu năm như anh Thành, ông Khảm lại mất ngủ vì chưa biết phiêu dạt về đâu.
Vài năm trước, trên khúc sông Tàu Hủ - Bến Nghé (TP HCM) có cả một xóm nổi các ghe thương hồ nhộn nhịp, thi vị. Khi đoạn sông này cải tạo, chỉnh trang, một bộ phận nhỏ chuyển về bên cầu Lò Gốm tiếp tục hành nghề thương hồ giữa lòng Sài Gòn. Người thành phố ít ai để ý đến mấy chiếc ghe chuối, ghe chở hàng đậu trên dòng kênh đen, bốc mùi vì ô nhiễm và thân phận thương hồ vô danh vì thế vẫn nhọc nhằn.
Ngoài những ghe chở chuối từ miền Tây lên Sài Gòn bán, số còn lại là ghe vận tải, chở thuê hay các ghe bán hàng lưu động trên sông nước. Các ghe này về Sài Gòn ăn hàng rồi chở đi các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Hàng đến là phải vận chuyển ngay cho kịp, vì thế, bất kể trời nắng hay mưa gió đều phải được bốc vác luôn.
Anh Thành (42 tuổi) chủ ghe ngụ tại Cần Đước (Long An) cho hay, dòng kênh ngày càng bị ô nhiễm nặng luôn bốc mùi hôi nồng nặc, nhiều lần trượt chân làm hàng hoá rơi xuống sông là phải bơi ra để lấy.
Sống ở trên kênh, dù không lặn ngụp dưới đó thì người vẫn ngứa ngáy khó chịu, nổi mẩn đỏ như dị ứng. "Vì cuộc sống mà phải bám trụ ở đây chứ dân thương hồ sông nước khoáng đạt sao chịu nổi cảnh ao tù nước đọng", anh Thành cảm thán.
Gia đình anh Thành lấy hàng từ các nhà buôn rồi chở đi giao khắp các tỉnh miền Tây. 15 năm rong ruổi anh đã có 4 đứa con nhưng việc học hành của chúng đều không trọn vẹn vì phải nay đây mai đó cùng gia đình.
Anh cũng rất lo cho an toàn những đứa con của mình, đi lại từ ghe lên bờ chỉ là miếng ván bắc qua, nhiều khi sơ ý sẩy là té ngay, rất nguy hiểm.
Cũng cùng hoàn cảnh như gia đình anh Thành, gia đình chị Nguyễn Ngọc Chi 34 tuổi ở Cần Đước, Long An có gần 10 năm xuôi ngược Sài Gòn và các tỉnh miền Tây. Chị có 2 con, con gái lớn nay cũng phải phụ chị lo sổ sách bán buôn và lo cho em chứ cũng không thể ăn học tới nơi tới chốn.
Khi đêm xuống lại là một cuộc sống hoàn toàn khác biệt, không còn bon chen. Các ghe neo đậu gần nhau, cùng sinh hoạt chung, ăn uống và trò chuyện và chia sẻ kinh nghiệm làm ăn.
Ông Phan Văn Khản năm nay đã 43 tuổi có hơn 10 năm gắn bó với bến sông này. Cứ tối đến ông lại cùng các ghe bạn hàng uống rượu để quên đi lo toan của một ngày mệt nhọc và tìm niềm vui cho ngày mới.
Em Phan Minh Trường (15 tuổi, con trai ông Khản) phải bỏ học từ năm lớp 6. Vì theo ghe lâu ngày, không bạn bè nên em cũng trầm tính, hiền lành. Em cho biết sau này là sẽ nối nghiệp cha trở thành một thương hồ nay đây mai đó.
Những ngày này, khi con kênh đang được hoàn thiện ở giai đoạn nước rút, dù ban ngày lao động cực nhọc, vất vả nhưng anh Thành vẫn không thể ngon giấc. Anh lo lắng cho cuộc sống ngày mai của cả gia đình cũng như tương lai của những đứa con.
Nhiều đêm ngồi trên nóc ghe ngắm mảnh trăng treo trên đầu, nghĩ về thân phận, anh Thành và các bạn thương hồ không khỏi chạnh lòng.
Chỉ vài ngày nữa, những chiếc ghe thương hồ như của chị Trâm lại nhổ neo, dắt díu nhau đi tìm bến mới để mưu sinh. Người dân thành phố rồi sẽ chẳng còn ai nhắc nhớ đến nhúm ghe tàu đậu trên kênh Lò Gốm đen đúa. Anh Thành và đàn con chưa biết sẽ neo lại ở đâu. Còn ông Khản nghe nói muốn về lại quê từ giã nghề buôn sông bán hồ. Những thương hồ cuối cùng giữa lòng Sài Gòn chẳng biết phiêu bạt về đâu.
Dự án cải tạo kênh Tân Hóa – Lò Gốm được khởi công từ cuối năm 2011 với tổng nguồn vốn gần 2.000 tỷ đồng. Dự án đi qua địa bàn các quận 6, 11, Tân Phú từ đoạn tiếp giáp đường Âu Cơ (quận Tân Phú) đến đại lộ Võ Văn Kiệt (quận 6).
Theo thiết kế, đoạn kênh từ đường Âu Cơ (quậnTân Phú) đến cầu Hòa Bình (quận11) dài 3 km sẽ được lắp đặt cống hộp, bên trên làm đường rộng từ 7 m đến 13 m.
Hiện, về cơ bản tuyến đường này đã hoàn thành. Đoạn kênh 7,4 km từ cầu Hòa Bình đến cầu Lò Gốm sẽ là kênh hở với bờ kè bêtông, hai bên là đường rộng 7 m. Đến nay các nhà thầu đang tiến hành gấp rút thi công những đoạn bờ kè còn lại, sau đó tiến hành nạo vét toàn bộ tuyến kênh để đảm bảo thoát nước.
Dự kiến đến đầu tháng 9/2014 toàn bộ dự án Tân Hoá - Lò Gốm sẽ hoàn thành.
5 địa điểm nổi tiếng của Sài Gòn sẽ chỉ còn trong ký ức.
Chẳng bao lâu nữa, những địa điểm nổi tiếng này của Sài Gòn sẽ mãi biến mất, hoặc sẽ được di dời để nhường chỗ cho những công trình mới hơn, hiện đại hơn. Và có lẽ, người ta sẽ chỉ còn được nhớ về nó bằng những hình ảnh đẹp, kí ức đẹp...
Thông tin về việc đóng cửa Thương Xá Tax, một công trình kiến trúc được xây dựng từ những năm 1880 khiến bất cứ ai có ký ức gắn với nơi đây bỗng cảm thấy có chút hụt hẫng và tiếc nuối. Đối với nhiều người, Thương Xá Tax không đơn thuần là một nơi để mua sắm, mà còn là nơi họ đặt chân tới để tìm những hoài niệm của Sài Gòn năm xưa, hay đơn giản là lục lại ký ức, những khi mua cuốn vở, cây bút, món quà sinh nhật nho nhỏ... cũng đạp xe tới đây, háo hức chọn đồ. Công trình hơn 130 tuổi sắp không còn, khiến nhiều người dân thành phố lại một lần nữa hoài niệm về những biểu tượng gắn liền với Sài Gòn đã/sắp mất đi, để nhường chỗ cho những công trình mới hơn, hiện đại hơn phục vụ cuộc sống của người dân thành phố.
Đó là những hàng cây cổ thụ xanh mướt nằm cạnh công viên Lam Sơn của ngày nào, hay bùng binh Cây Liễu một thời luôn là điểm nhấn vô cùng quen thuộc mỗi khi bạn muốn ghé ngang Thương Xá Tax. Rồi vòng xoay với tượng đài vị tướng Trần Nguyên Hãn hùng dũng, nằm ngay giữa giao lộ 7 ngõ quan trọng của trung tâm thành phố. Tất cả những nơi này đều là nhân chứng lịch sử, chứng kiến Hòn ngọc Viễn Đông trải qua biết bao thăng trầm.
Chẳng bao lâu nữa, những biểu tượng không thể nào quên này của Sài Gòn sẽ mãi biến mất, hoặc sẽ được di dời để nhường chỗ cho những cái mới hơn, đó là công trình ga tàu điện ngầm đầu tiên của tuyến Metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên và tòa nhà 40 tầng ngay tại vị trí hiện tại của Thương Xá Tax. Dù biết "đôi khi phải chấp nhận mất đi những cái cũ, để có thể đón những cái mới", nhưng có lẽ vì những nơi này đã quá quen thuộc, chứa đựng rất nhiều kỷ niệm và tình cảm của người Sài Gòn nhiều thế hệ, nên đến nay, phần lớn họ còn mang trong mình sự tiếc nuối và lưu luyến về một Sài Gòn của năm nào, với hàng cây ấy, con đường ấy, vòng xoay ấy,...
Hàng cây cổ thụ "trứ danh" trên đường Lê Lợi
Nếu Sài Gòn khi xưa nổi tiếng với những hàng gòn xanh mát, thì Sài Gòn của sau này cũng nổi tiếng với những hàng dầu kiên cố, chắc khỏe. Đặc biệt những hàng dầu ở khu trung tâm thành phố, như Công Trường Lam Sơn đổ dài về đường Lê Lợi đã nằm ở đó từ rất lâu. Có những cây đến nay đã gần trăm năm tuổi, nên sẽ chẳng quá nếu nói hai hàng dầu này là những bậc lão tiền bối, "người" đã may mắn chứng kiến Sài Gòn thay đổi qua nắng mưa.
Hàng cây xanh mướt từng phủ xanh một góc Sài Gòn hoa lệ của ngày nào
Giờ chỉ là những "kỷ niệm đã qua"
Thời gian vô tình, cuộc sống tấp nập cứ thế kéo người ta càng xa với hồi ức, cho đến khi tận mắt nhìn thấy từng hàng cây, gốc dầu bị đốn hạ, không ít người mới cảm nhận được sự luyến tiếc đến thẫn thờ rằng: "Thường ngày ta vẫn đi qua, đi lại nhưng chẳng có cảm xúc chi, thế mà bây giờ lại quá buồn khi thấy chúng đi".
Giờ thì mỗi lần đi ngang qua đây, dù vẫn con đường ấy, vẫn những tòa nhà, hàng quán ấy,... nhưng chắc chắn bạn sẽ cảm thấy sự trống trải, trơ trọi vô cùng kỳ lạ vì đã vắng đi những hàng dầu cao tít tắp của năm nào.
Góc nhà hát Thành Phố mát mẻ trở nên trống trải hẳn
Không chỉ vậy, bạn còn có thể được thưởng thức bánh bèo, bánh lọc, bánh ít… với nhân chay. Và một món ăn quen thuộc thường xuất hiện trong những bữa cơm chay của người Huế chính là món chao. Chao là món ăn có vị gần giống như một món mặn, được chế biến từ đậu nành, làm thành đậu khuôn, đậu khuôn ủ lên men thì thành chao. Chao có hương vị rất hấp dẫn và bảo quản được lâu ngày.
Đất Huế thơ mộng, lại mang nét văn hóa ăn chay độc đáo, thật dễ khiến lòng người nhớ mãi không nguôi…
Bánh ướt lâu năm ở ngã tư Bảy Hiền
Đây là một trong những quán thuộc dạng quán lâu đời và rất nổi tiếng khu Tân Bình. Quán chỉ bán duy nhất mỗi món chính là bánh ướt, ăn kèm bánh tôm chiên nóng giòn rất ngon.
Trước hết phải nói là hàng bánh cuốn này giá không rẻ chút nào hết. Một phần bánh cuốn với miếng chả lụa to (nhưng hơi mỏng), nem chua và miếng bánh tôm chiên có giá là 32k. Ăn ở đây muốn “đã miệng” phải gọi thêm chả và bánh tôm cho nên tính ra giá thành sẽ hơi chát với các bạn teen. Tuy nhiên, giá cả có vẻ không thành vấn đề khi nơi này luôn đông khách, cảnh buôn bán ở đây diễn ra tấp nập rộn ràng của góc đường ngã tư Bảy Hiền (đối diện bệnh viện Thống Nhất).
Lý do cho việc bán đắt nhưng vẫn đông có lẽ nằm ở cái bánh tôm. Bánh tôm ở đây khá đặc biệt, không giống những chỗ khác. Bánh tôm được chiên bằng bột mỏng với con tôm tươi ở giữa. Một cái bánh tôm sẽ được cắt làm đôi cho vào phần bánh ướt, cùng chả - nem và rau giá, nước mắm. Bánh tôm được nhiều người thích nên hay được gọi thêm (8 – 10k/ cái), bánh chiên liên tục nên nếu may mắn bạn còn có thể thưởng thức một cái bánh nóng giòn, thơm phức.
Bánh tôm cắt đôi
Nem chua
Nước mắm ngày xưa của quán rất ngon nhưng khoảng vài năm sau này giảm hẳn chất lượng, ăn có cảm giác pha nhiều quá nên mất đi cái đậm đà của vị ngon xưa. Quán bán đem về khá nhanh nhẹn (chắc do phục vụ nhiều năm nên chuyên nghiệp), nước mắm đem về luôn được hâm nóng cho cảm giác ngon hơn khi ăn.
Hành phi thơm và giòn
Bánh ướt dầy, dai - ngon
Nói chung, đây là một nơi có thể ăn thử để thưởng thức bánh tôm chiên ngon và lạ. Còn ăn dài dài thì tùy vào nhu cầu và khả năng tài chính của mọi người vì tính ra giá cả ở đây đắt gấp đôi những hàng bánh ướt bình thường.
Ngã tư Bảy Hiền, bên trái là đường Lý Thường Kiệt, bên phải đường Hoàng Văn Thụ, phía trước đường Trường Chinh
Ảnh: Bảy Hiền
Những thương hồ cuối cùng giữa lòng Sài Gòn
Khi dự án cải tạo kênh Tân Hoá - Lò Gốm sắp hoàn thành cũng là lúc các thương hồ gắn bó lâu năm như anh Thành, ông Khảm lại mất ngủ vì chưa biết phiêu dạt về đâu.
Vài năm trước, trên khúc sông Tàu Hủ - Bến Nghé (TP HCM) có cả một xóm nổi các ghe thương hồ nhộn nhịp, thi vị. Khi đoạn sông này cải tạo, chỉnh trang, một bộ phận nhỏ chuyển về bên cầu Lò Gốm tiếp tục hành nghề thương hồ giữa lòng Sài Gòn. Người thành phố ít ai để ý đến mấy chiếc ghe chuối, ghe chở hàng đậu trên dòng kênh đen, bốc mùi vì ô nhiễm và thân phận thương hồ vô danh vì thế vẫn nhọc nhằn.
Ngoài những ghe chở chuối từ miền Tây lên Sài Gòn bán, số còn lại là ghe vận tải, chở thuê hay các ghe bán hàng lưu động trên sông nước. Các ghe này về Sài Gòn ăn hàng rồi chở đi các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Hàng đến là phải vận chuyển ngay cho kịp, vì thế, bất kể trời nắng hay mưa gió đều phải được bốc vác luôn.
Anh Thành (42 tuổi) chủ ghe ngụ tại Cần Đước (Long An) cho hay, dòng kênh ngày càng bị ô nhiễm nặng luôn bốc mùi hôi nồng nặc, nhiều lần trượt chân làm hàng hoá rơi xuống sông là phải bơi ra để lấy.
Sống ở trên kênh, dù không lặn ngụp dưới đó thì người vẫn ngứa ngáy khó chịu, nổi mẩn đỏ như dị ứng. "Vì cuộc sống mà phải bám trụ ở đây chứ dân thương hồ sông nước khoáng đạt sao chịu nổi cảnh ao tù nước đọng", anh Thành cảm thán.
Gia đình anh Thành lấy hàng từ các nhà buôn rồi chở đi giao khắp các tỉnh miền Tây. 15 năm rong ruổi anh đã có 4 đứa con nhưng việc học hành của chúng đều không trọn vẹn vì phải nay đây mai đó cùng gia đình.
Anh cũng rất lo cho an toàn những đứa con của mình, đi lại từ ghe lên bờ chỉ là miếng ván bắc qua, nhiều khi sơ ý sẩy là té ngay, rất nguy hiểm.
Cũng cùng hoàn cảnh như gia đình anh Thành, gia đình chị Nguyễn Ngọc Chi 34 tuổi ở Cần Đước, Long An có gần 10 năm xuôi ngược Sài Gòn và các tỉnh miền Tây. Chị có 2 con, con gái lớn nay cũng phải phụ chị lo sổ sách bán buôn và lo cho em chứ cũng không thể ăn học tới nơi tới chốn.
Khi đêm xuống lại là một cuộc sống hoàn toàn khác biệt, không còn bon chen. Các ghe neo đậu gần nhau, cùng sinh hoạt chung, ăn uống và trò chuyện và chia sẻ kinh nghiệm làm ăn.
Ông Phan Văn Khản năm nay đã 43 tuổi có hơn 10 năm gắn bó với bến sông này. Cứ tối đến ông lại cùng các ghe bạn hàng uống rượu để quên đi lo toan của một ngày mệt nhọc và tìm niềm vui cho ngày mới.
Em Phan Minh Trường (15 tuổi, con trai ông Khản) phải bỏ học từ năm lớp 6. Vì theo ghe lâu ngày, không bạn bè nên em cũng trầm tính, hiền lành. Em cho biết sau này là sẽ nối nghiệp cha trở thành một thương hồ nay đây mai đó.
Những ngày này, khi con kênh đang được hoàn thiện ở giai đoạn nước rút, dù ban ngày lao động cực nhọc, vất vả nhưng anh Thành vẫn không thể ngon giấc. Anh lo lắng cho cuộc sống ngày mai của cả gia đình cũng như tương lai của những đứa con.
Nhiều đêm ngồi trên nóc ghe ngắm mảnh trăng treo trên đầu, nghĩ về thân phận, anh Thành và các bạn thương hồ không khỏi chạnh lòng.
Chỉ vài ngày nữa, những chiếc ghe thương hồ như của chị Trâm lại nhổ neo, dắt díu nhau đi tìm bến mới để mưu sinh. Người dân thành phố rồi sẽ chẳng còn ai nhắc nhớ đến nhúm ghe tàu đậu trên kênh Lò Gốm đen đúa. Anh Thành và đàn con chưa biết sẽ neo lại ở đâu. Còn ông Khản nghe nói muốn về lại quê từ giã nghề buôn sông bán hồ. Những thương hồ cuối cùng giữa lòng Sài Gòn chẳng biết phiêu bạt về đâu.
Dự án cải tạo kênh Tân Hóa – Lò Gốm được khởi công từ cuối năm 2011 với tổng nguồn vốn gần 2.000 tỷ đồng. Dự án đi qua địa bàn các quận 6, 11, Tân Phú từ đoạn tiếp giáp đường Âu Cơ (quận Tân Phú) đến đại lộ Võ Văn Kiệt (quận 6).
Theo thiết kế, đoạn kênh từ đường Âu Cơ (quậnTân Phú) đến cầu Hòa Bình (quận11) dài 3 km sẽ được lắp đặt cống hộp, bên trên làm đường rộng từ 7 m đến 13 m.
Hiện, về cơ bản tuyến đường này đã hoàn thành. Đoạn kênh 7,4 km từ cầu Hòa Bình đến cầu Lò Gốm sẽ là kênh hở với bờ kè bêtông, hai bên là đường rộng 7 m. Đến nay các nhà thầu đang tiến hành gấp rút thi công những đoạn bờ kè còn lại, sau đó tiến hành nạo vét toàn bộ tuyến kênh để đảm bảo thoát nước.
Dự kiến đến đầu tháng 9/2014 toàn bộ dự án Tân Hoá - Lò Gốm sẽ hoàn thành.
5 địa điểm nổi tiếng của Sài Gòn sẽ chỉ còn trong ký ức.
Chẳng bao lâu nữa, những địa điểm nổi tiếng này của Sài Gòn sẽ mãi biến mất, hoặc sẽ được di dời để nhường chỗ cho những công trình mới hơn, hiện đại hơn. Và có lẽ, người ta sẽ chỉ còn được nhớ về nó bằng những hình ảnh đẹp, kí ức đẹp...
Thông tin về việc đóng cửa Thương Xá Tax, một công trình kiến trúc được xây dựng từ những năm 1880 khiến bất cứ ai có ký ức gắn với nơi đây bỗng cảm thấy có chút hụt hẫng và tiếc nuối. Đối với nhiều người, Thương Xá Tax không đơn thuần là một nơi để mua sắm, mà còn là nơi họ đặt chân tới để tìm những hoài niệm của Sài Gòn năm xưa, hay đơn giản là lục lại ký ức, những khi mua cuốn vở, cây bút, món quà sinh nhật nho nhỏ... cũng đạp xe tới đây, háo hức chọn đồ. Công trình hơn 130 tuổi sắp không còn, khiến nhiều người dân thành phố lại một lần nữa hoài niệm về những biểu tượng gắn liền với Sài Gòn đã/sắp mất đi, để nhường chỗ cho những công trình mới hơn, hiện đại hơn phục vụ cuộc sống của người dân thành phố.
Đó là những hàng cây cổ thụ xanh mướt nằm cạnh công viên Lam Sơn của ngày nào, hay bùng binh Cây Liễu một thời luôn là điểm nhấn vô cùng quen thuộc mỗi khi bạn muốn ghé ngang Thương Xá Tax. Rồi vòng xoay với tượng đài vị tướng Trần Nguyên Hãn hùng dũng, nằm ngay giữa giao lộ 7 ngõ quan trọng của trung tâm thành phố. Tất cả những nơi này đều là nhân chứng lịch sử, chứng kiến Hòn ngọc Viễn Đông trải qua biết bao thăng trầm.
Chẳng bao lâu nữa, những biểu tượng không thể nào quên này của Sài Gòn sẽ mãi biến mất, hoặc sẽ được di dời để nhường chỗ cho những cái mới hơn, đó là công trình ga tàu điện ngầm đầu tiên của tuyến Metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên và tòa nhà 40 tầng ngay tại vị trí hiện tại của Thương Xá Tax. Dù biết "đôi khi phải chấp nhận mất đi những cái cũ, để có thể đón những cái mới", nhưng có lẽ vì những nơi này đã quá quen thuộc, chứa đựng rất nhiều kỷ niệm và tình cảm của người Sài Gòn nhiều thế hệ, nên đến nay, phần lớn họ còn mang trong mình sự tiếc nuối và lưu luyến về một Sài Gòn của năm nào, với hàng cây ấy, con đường ấy, vòng xoay ấy,...
Hàng cây cổ thụ "trứ danh" trên đường Lê Lợi
Nếu Sài Gòn khi xưa nổi tiếng với những hàng gòn xanh mát, thì Sài Gòn của sau này cũng nổi tiếng với những hàng dầu kiên cố, chắc khỏe. Đặc biệt những hàng dầu ở khu trung tâm thành phố, như Công Trường Lam Sơn đổ dài về đường Lê Lợi đã nằm ở đó từ rất lâu. Có những cây đến nay đã gần trăm năm tuổi, nên sẽ chẳng quá nếu nói hai hàng dầu này là những bậc lão tiền bối, "người" đã may mắn chứng kiến Sài Gòn thay đổi qua nắng mưa.
Hàng cây xanh mướt từng phủ xanh một góc Sài Gòn hoa lệ của ngày nào
Giờ chỉ là những "kỷ niệm đã qua"
Thời gian vô tình, cuộc sống tấp nập cứ thế kéo người ta càng xa với hồi ức, cho đến khi tận mắt nhìn thấy từng hàng cây, gốc dầu bị đốn hạ, không ít người mới cảm nhận được sự luyến tiếc đến thẫn thờ rằng: "Thường ngày ta vẫn đi qua, đi lại nhưng chẳng có cảm xúc chi, thế mà bây giờ lại quá buồn khi thấy chúng đi".
Giờ thì mỗi lần đi ngang qua đây, dù vẫn con đường ấy, vẫn những tòa nhà, hàng quán ấy,... nhưng chắc chắn bạn sẽ cảm thấy sự trống trải, trơ trọi vô cùng kỳ lạ vì đã vắng đi những hàng dầu cao tít tắp của năm nào.
Góc nhà hát Thành Phố mát mẻ trở nên trống trải hẳn
Công viên Lam Sơn
Nằm ngay cạnh những hàng dầu là một đoạn của công viên Lam Sơn, đây được xem là nơi cực kỳ lý tưởng để nhiều bạn trẻ, các cặp đôi và những gia đình cùng nhau tụ họp ngắm cảnh, vui chơi vào mỗi tối cuối tuần.
Nói là công viên, nhưng thực chất, nơi này giống với một khu vườn nhỏ, giúp điểm xuyến thêm chút xanh, tạo cảm giác nhẹ nhàng, gần gũi với thiên nhiên hơn cho toàn khu cao ốc thô ráp đã chắn hết 4 bề xung quanh. Vì thế cũng dễ dàng hiểu tại sao mỗi khi có dịp ra đến nhà hát Thành Phố hoặc khu trung tâm, mọi người lại có cảm giác muốn được ngồi ở trong công viên này để tìm chút không gian thư giãn. Thỉnh thoảng, nơi này còn là điểm lưu đọng các khoảnh khắc đẹp, giới thiệu những cột mốc lịch sử hay khung cảnh Việt Nam đến với khách du lịch nước ngoài, qua các buổi triển lãm tranh công cộng. Nên dù xét về mặt nào thì công viên Lam Sơn cũng là nơi tạo được nhiều kỷ niệm đẹp và có lợi ích rất cao đối với người Sài Gòn lẫn du khách quốc tế.
Công viên Lam Sơn của vài tháng trước vẫn còn nhộn nhịp và "hoành tráng" như thế này
Nhưng nay nó lại hoàn toàn khác hẳn
Tuy nhiên "số phận" của khu công viên này cũng giống như những hàng dầu kia, chấp nhận biến mất để nhường chỗ cho những ga tàu mới của thành phố. Không còn công viên để các đôi bạn trẻ đến tâm tình, không còn chỗ cho các em bé, gia đình vui đùa với nhau,... khiến nhiều người cảm thấy tiếc đến ngẩn ngơ.
Hàng cây năm nào, dãy ghế đá với những ly trà sữa mỗi tối chắc sẽ lâu lắm mới được quay trở lại
Mỗi khi đi ngang qua đây, tất cả đều hy vọng con đường này sẽ nhanh hoàn thiện để mọi người lại có nơi thư giãn, vui chơi.
Bùng binh Cây Liễu
Được xem là giao lộ đẹp và sôi động nhất của Sài Gòn, bùng binh Cây Liễu hay còn được gọi là bùng binh Nguyễn Huệ (cắt Nguyễn Huệ và Lê Lợi), là một trong những biểu tượng tồn tại suốt trăm năm qua của Sài Gòn. Một vòng xoay mà lúc nào cũng được phủ kín với những hàng liễu nhẹ nhàng, thanh thoát, nó đẹp và quen đến mức được gọi thành tên thì chắc không nơi nào có được.
Bùng binh Cây Liễu của trước đây
Nếu bạn nào có dịp lục lại những ảnh cũ về Sài Gòn, hẳn sẽ thấy, từ thời xưa, bùng binh Cây Liễu này đã được xem là một trong những nơi đẹp và nhộn nhịp bậc nhất của Sài Gòn với hình ảnh xe cộ qua lại tấp nập, một địa điểm tập trung của toàn những người trong giới thượng lưu. Đến nay, dù thời gian có thay đổi, nhưng về cơ bản thì bùng binh Cây Liễu năm nào vẫn giữ nguyên cái "chất", cái "vị" như thế.
Không những thế, ngay tại góc bùng binh này còn là nơi tổ chức đường hoa Nguyễn Huệ, một nét đẹp văn hóa tồn tại được đúng 10 năm mà người Sài Gòn vô cùng yêu quý và nhất định phải đến một lần vào dịp Tết. Khung cảnh tấp nập, tiếng người rộn ràng đi chơi Xuân, những tác phẩm được làm từ hoa vô cùng đặc sắc gắn liền với hình ảnh con đường, bùng binh Nguyễn Huệ này chắc chắn sẽ không thể nào khiến người Sài Gòn quên được.
Những ngày lễ Tết, bùng binh Cây Liễu lung linh hơn, nổi bật một góc Sài Gòn.
Lưu lại khoảnh khắc để nhớ thêm chút kỷ niệm xưa, cái ngày còn bùng binh Cây Liễu một thời.
Không còn hàng liễu và đại lộ rộng, hẳn cái Tết năm nay của người Sài Gòn sẽ trở nên khác biệt hơn rất nhiều.
Thương Xá Tax
Được xây dựng từ năm 1880, trải qua nhiều cái tên từ Les Grands Magazins Charner (GMC) rồi đến Thương Xá Tax, trong suốt hơn 130 năm qua, tòa nhà mang phong cách Pháp xen lẫn nhiều nét đặc trưng của Á Đông này cũng là một địa điểm không thể nào quên của người Sài Gòn.
Trước đây, tòa nhà này nổi tiếng là điểm ăn chơi, tiêu tiền vào những món đồ đắt giá của các "ông lớn", giới thượng lưu và đại điền khắp Nam kỳ Lục tỉnh, toàn bán các mặt hàng ngoại được nhập trực tiếp từ châu Âu. Ngày nay cũng thế, Thương Xá Tax vẫn là một trong những trung tâm thương mại buôn bán sầm uất với đủ các mặt hàng Tây, Ta đa dạng để đáp ứng được các yêu cầu của người dùng. Ngoài ra, vào những dịp Giáng sinh hoặc Tết Âm lịch, Dương lịch, Thương Xá Tax còn là điểm đến để người Sài Gòn vui chơi, chụp ảnh sau khi nó được trang trí và lên đèn.
Thương Xá Tax sầm uất và vô cùng nổi bật khi về đêm.
Bùng binh Cây Liễu nhìn qua Thương Xá Tax
Khu thương xá nổi tiếng một thời rồi cũng đã "quá già", nhường chỗ cho những cái mới hơn.
Tất cả cửa hàng đều đã trở nên vắng vẻ.
Vị trí đắc địa của Thương Xá Tax nằm ngay hai con đường lớn của Sài Gòn là Lê Lợi và Nguyễn Huệ.
Những bằng khen, chứng nhận mà một thương xá phải tồn tại suốt hơn 130 năm mới có được.
Vòng xoay tượng đài Trần Nguyên Hãn
Chắc hẳn cái tên vòng xoay tượng đài Trần Nguyên Hãn rất ít bạn nào biết, hoặc đã nghe qua nhưng lại quen gọi nó với một cái tên khác là vòng xoay chợ Bến Thành. Như thế cũng đủ để hiểu, hình ảnh vòng xoay và chợ Bến Thành có sự liên kết, thân thuộc đến nhường nào trong mắt người Sài Gòn.
Hầu hết trong những tấm hình chụp tại điểm này thì vòng xoay và chợ Bến Thành luôn xuất hiện cùng nhau, rất ít khi tách rời. Bởi cả hai đều là biểu tượng cho sự tồn tại, phát triển mà vẫn giữ được những nét rất riêng của Sài Gòn khi xưa.
Vòng xoay và chợ Bến Thành là hai hình ảnh luôn đi cùng nhau.
Và sắp tới tượng đài này sẽ được di dời về công viên Phú Lâm, quận 6, đểđảm bảo mặt bằng thi công cho dự án tuyến đường sắt đô thị số 1 Bến Thành – Suối Tiên.
Tượng đài Trần Nguyên Hãn được xây dựng từ trước năm 1975 ở trung tâm thành phố đã trở thành hình ảnh quen thuộc của người dân Sài Gòn.
Đối với người Sài Gòn mà nói, đây là lần đầu tiên họ được tận mắt chứng kiến sự thay đổi vô cùng lớn về diện mạo của thành phố đã quá quen thuộc. Nên dù ít dù nhiều, ai ai cũng có cho mình một cảm xúc riêng, một sự luyến tiếc khi không nỡ mất đi những cái cũ. Tuy nhiên, đây cũng là một cơ hội rất tuyệt vời để bạn có thể ôn lại những kỷ niệm đẹp mà bản thân đã gắn liền với những nơi này.
Công trình xây dựng nhà ga trung tâm Bến Thành (Q.1) nằm ở vị trí phía trước chợ Bến Thành (khu vực vòng xoay Quách Thị Trang) và nối dài đến công viên 23-9, được xây dựng ở độ sâu khoảng 40m dưới lòng đất.Nhà ga metro Bến Thành được xây dựng và lắp đặt các thiết bị có công nghệ hiện đại như các nước tiên tiến phục vụ hành khách đi lại. Đồng thời cùng với việc phục vụ hành khách đi metro, nhà ga còn tận dụng không gian ngầm làm trung tâm thương mại nhằm mang tới các dịch vụ tiện nghi cho hành khách đi mua sắm. Nhà ga nằm ở khu vực trung tâm TP nên các cửa lên, xuống nhà ga sẽ kết nối với các khu thương mại dịch vụ ở các khu vực xung quanh như chợ Bến Thành, khách sạn và các trung tâm mua sắm trên các tuyến đường lân cận.Nhà ga sẽ có bốn tuyến metro hoạt động bảo đảm phục vụ hành khách đi lại trên các tuyến đường từ khu trung tâm đến các cửa ngõ TP, dự kiến cuối năm nay sẽ làm công tác sơ tuyển nhà thầu, trong năm 2015 triển khai thi công và dự kiến hoàn thành công trình vào cuối năm 2018 hoặc đầu năm 2019.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 327
(Tạp Chí Khởi Hành và Chân dung nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ )
Nguyễn Tà Cúc
(Khởi Hành số 207-208, March-April 2014)
Lời Người Phỏng Vấn:
Trong mấy nhà văn nữ của Miền Nam trước 1975, người viết muốn đặc biệt phỏng vấn nhà văn Thụy Vũ. Bà tên thật là Nguyễn Băng Lĩnh, sinh năm 1937, quê ở Vĩnh Long. Bà dạy tiểu học 5 năm trước khi lên Sài Gòn vào năm 1961.
Lên Sài gòn, bà vừa đi học Anh văn vừa đi dạy Anh văn cho các cô bán”snack bar” hay các cô điếm cho lính Mỹ. Bà đoạt giải nhì Bộ Môn Văn – Giải Văn học Nghệ Thuật Toàn quốc năm 1970 (Người đoạt giải nhất là nhà văn Túy Hồng). Song song với việc sáng tác, bà còn lập nhà xuất bản Hồng Đức và Kẻ Sĩ với nhà thơ Tô Thùy Yên.
Sau 1975, tác phẩm của bà bị cấm toàn diện. Bà đem các con về Lộc Ninh làm rẫy, có lúc làm lơ xe đò để lo cho gia đình. Người viết muốn phỏng vấn bà về hai vấn đề chính: thứ nhất, trường hợp một nhà văn nữ không sợ tai tiếng và thành kiến xã hội, đã giao du với đám phụ nữ cùng khốn nhất của xã hội và thứ hai, thái độ can đảm của bà sau 1975 trước sự đe nẹt công khai của các tay quản giáo văn nghệ. Qua sự dàn xếp của nhà văn Văn Quang người phỏng vấn đã có một cơ hội để tìm biết câu trả lời cho hai thắc mắc ấy.
* Qua Trận Gió Kinh Thiên là nhan đề một tác phẩm của Thụy Vũ.
Nguyễn Tà Cúc: Nếu Tà Cúc nhớ không nhầm thì chị Thụy Vũ có lần nói đâu đó là chị dậy các cô bán bar học tiếng Anh và qua đó, họ xuất hiện trong tác phẩm của chị. Như vậy, họ đến học với chị Thụy Vũ qua cách nào? Như đến nhà chị hay sao?
Nhà Văn Thụy Vũ: Tôi đang dạy ở Vĩnh Long được 5 năm (bậc tiểu học). Sau đó tôi lên Sài Gòn đi học Hội Việt Mỹ được hơn 1 năm. Tiếng Anh của tôi chưa đầy một lá mít, nhưng tại sao tôi dám nhận dạy kèm cho mấy cô lấy Mỹ? Lúc đó tôi có một anh bạn học cùng lớp (lớp 2)Hội Việt Mỹ. Anh ấy ngồi cạnh tôi. Anh ta làm bài tập không giỏi nên tôi thường giúp anh ấy làm bài. Tôi hơi ngạc nhiên là anh ta nói tiếng Mỹ dòn tan như bắp rang mà không lý tới văn phạm.
Một hôm vào giờ ra chơi, anh ta đề nghị tôi dạy thêm tiếng Anh cho mấy cô bán bar quen biết với anh ấy để có thêm chút tiền trả tiền học. Các cô gái đó đang thuê phòng của nhà anh ta để ngủ với mấy tên lính Mỹ.
Tôi từ chối thẳng thừng và nói ông đừng chọc quê tôi. Tôi với ông mới học 2 khóa mà dạy ai đây? “Bạn cứ yên tâm nhận lời đi, tôi sẽ có cách…” Khi hẹn tới nhà anh ta vào ngày chủ nhật tôi mới biết anh ta là “ma cô.”
Anh ta dắt tôi đi từng phòng và giới thiệu tôi sẽ là cô giáo dạy kèm cho họ. Tôi càm ràm anh trước khi ra về và hẹn hôm sau quay lại thử thời vận. “Bạn biểu tôi dạy gì cho họ đây?” - “Tôi đã dặn họ rồi cô giáo dạy gì thì học nấy. Chớ có hỏi lôi thôi nghẹn.” Tôi không ngờ họ chưa hề biết đọc tiếng Việt thì làm sao đây?
Công – bạn tôi nhanh nhẩu nói: “Bạn dạy i – tờ cho họ trước cái đã, rồi sau đó mỗi ngày bạn chỉ cần cho họ biết viết tiếng Anh một vài chữ trong một lần học là được rồi.”
Tôi không ngờ là cách kéo dài thời gian của Công để tôi còn tiếp tục đi học với hắn. Họ nói tiếng “bồi” lưu loát không thể chê. Tôi cảm thấy ngài ngại thế nào vì tôi không thể nói như họ được.
Họ thuê tôi dạy không phải học mà để có người tâm sự thì đúng hơn. Hình như mỗi cô đều có hoàn cảnh na ná giống nhau. Họ lên Sài Gòn làm để giúp gia đình khó khăn ở quê nhà. Tiếp xúc với họ lâu ngày tôi cảm thấy thân thiện như những người bạn. Tôi vừa đi dạy vừa viết truyện ngắn về cuộc đời của họ. Họ bắt đầu xuất hiện trong những tác phẩm của tôi.
Nguyễn Tà Cúc: Chị viết rất thật, hết sức thật. Một ưu điểm của văn chương Thụy Vũ là người đọc có thể cảm nhận ngay rằng tác giả đã dựa sự sáng tạo trên những hoàn cảnh thật, nhân vật thật và sử dụng những kinh nghiệm của nhân vật thật ấy để bày họ ra trên những trang giấy, dĩ nhiên là của sự tưởng tượng; nhưng những hình dáng đó, những tâm cảnh đó không là sản phẩm của một sự tưởng tượng quá nghèo nàn đến nỗi tố cáo sự bịa đặt của tác giả. Viết truyện về gái điếm tưởng là dễ nhưng mà rất khó! Tà Cúc từng đọc một cuốn truyện tả tình cảnh của vài cô bán bar rồi làm điếm cho lính Mỹ –cùng đề tài nhân vật với chị– nhưng chỉ cần đọc những câu đối thoại là người ta biết ngay tác giả của nó chưa bao giờ có cơ hội nói chuyện với các cô làm điểm nên mới “sáng tác” ra những câu đối thoại hay cách suy nghĩ của cái kiểu “Nếu một tiểu thư đi làm gái điếm.” Và dĩ nhiên cái kiểu giả tạo đó không tốt đẹp gì cho cả cô tiểu thư lẫn cô làm gái điếm.
Thụy Vũ: Tác phẩm cửa tôi có thể nói là đến 70 phần trăm dựa trên sự thực. Nó thực đến nỗi một hôm, hồi tôi ở sau đình Phú Thạnh, sau khi cuốn Lao Vào Lửa xuất bản thì có một anh lính mặc đồ rằn ri coi ghê lắm nghe giới thiệu mới chạy tới ôm tôi và hỏi “Phải cô là gái điếm không?”
Tôi đẩy anh ta ra và la lên: “Tôi chỉ viết truyện chớ tôi làm gái điếm hồi nào?!
Anh ta mới nói tôi viết y như thiệt vậy. Nói thiệt chớ hồi đó họ cũng không biết tôi viết về họ đâu nghe. Nếu họ biết chắc họ rầy chết. Có khi tôi vừa ra bài cho họ thì trong khi họ làm bài, tôi ngồi viết về họ. Nhiều lần họ nói với tôi sẽ làm mai cho tôi một anh chàng Mỹ đàng hoàng chớ không phải đám GI như mấy cổ nhưng tôi từ chối. Tôi có thể nói là tôi đã đi tới hầu hết mấy ổ điểm sang nhứt ở Sài gòn. Nơi nào có học trò là nơi đó tôi tới.
Nguyễn Tà Cúc: Cảm tưởng nào mạnh mẽ nhất mà chị Thụy Vũ còn giữ được sau mấy chục năm dạy họ? Chị có nghĩ về số phận đàn bà nói chung khi dạy họ không?
Thụy Vũ: Mấy chục năm đã qua, chị hỏi về cảm tưởng mạnh mẽ nhất, có lẽ tôi không thể nhớ nổi rõ ràng. Nhưng dường như những hình ảnh của những cô gái bán bar đó còn vương vấn trong tôi. Nỗi đau âm thầm của họ giấu kín sau những son phấn lòe loẹt và những tiếng cười, những câu chuyện hoang toàng, tôi tưởng như chính những thứ đó đang phá nát tâm hồn họ, đang như cái xe đang lao dốc. Tôi thầm thương họ, thông cảm với họ và cũng chẳng biết làm sao hơn.
Mỗi người một hoàn cảnh, cái điểm chung chính là nỗi nghèo khổ đã dồn họ vào con đường cùng. Cũng như bây giờ, rất nhiều cô gái quê ở Việt Nam, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhiều cô gái được gia đình đưa lên Thành phố Sài Gòn để “tuyển vợ” cho mấy chú Đài Loan, Đại Hàn hoặc đi Singapore làm đủ nghề kiếm sống.
Tàn nhẫn hơn, ở những vùng sát biên giới Trung Quốc, chẳng thiếu gì chuyện những cô gái quê nghèo đó tự nguyện hoặc bị lừa bán sang Trung Quốc lưu lạc vào những ổ điếm, lấy những ông chồng già bệnh hoạn, làm việc như nô lệ… Phải chăng đó là thân phận hay số phận của phụ nữ nghèo Việt Nam? Tôi tự hỏi như thế và biết đến bao giờ xã hội mới có được một đời sống công bằng cho phụ nữ VN nói chung?
Nguyễn Tà Cúc: Cũng lạ là hồi đó những năm 60 mà chị dám sống như vậy, dám đi cùng khắp khách sạn như vậy. Chị ở với ai, không sợ ba má la sao? Tà Cúc nhớ là ngay chính gia đình Tà Cúc đây, tối tối là đóng sập cửa lại, báo hại cứ trốn nhà đi chơi. Mà tóc thì không được uốn, không được son phấn nhiều…
Thụy Vũ: Có chớ. Bà má tôi cứ sợ tôi hư nhưng tôi nói tôi viết về gái điếm chớ có làm điếm đâu. Hồi tôi mới lên Sài gòn thì tôi ở chung với Hồ Trường An, em tôi. Nó thua tôi một tuổi, bằng tuổi Viên Linh đó. Tôi viết mấy truyện bị ông già la quá vì lấy cảm hứng từ nhân vật trong gia đình ra mà viết đó chớ.
Nguyễn Tà Cúc: Nói về chuyện người thật, việc thật, Tà Cúc nhớ lại là hồi đọc truyện ngắn “Lòng Trần” (tức là truyện “Muỗng nước mắm”) của chị, Tà Cúc thích quá và tự nhủ là nếu mai sau dù có bao giờ mà gặp tác giả thì sẽ hỏi coi là tại sao mà bà ấy biết được cái thèm “nước mắm” của một người ăn chay. Nhân vật chính trong truyện bà cô Năm Thàng. Anh Hồ Trường An tóm tắt cốt truyện như sau:
“Năm Thàng là cô đào hát bội, thanh sắc lẫy lừng được một ông phú hộ say mê. Ông tình nguyện gia nhập gánh hát để được theo bước lưu diễn của cô. Ông săn sóc cô và soạn tuồng để cô diễn. Cảm động tấm chung tình của ông, cô bỏ nghề hát để làm vợ ông. Rồi đó, ông chồng chết vì tai nạn sét đánh, đứa con của cả hai cũng chết sau đó ít lâu. Cô Năm Thàng cắt tóc đi tu, lấy pháp danh là Diệu Tâm, sống khổ hạnh, giữ trai giới rất nghiêm nhặt cho tới tuổi già bóng xế. Ngờ đâu, trong phút hấp hối, sư nữ Diệu Tâm đòi húp một muổng nước mắm.
Nhưng họ hàng thân tộc của bà cho rằng bà sắp thành chánh quả mà còn bị quỉ ma theo quấy phá để bà bị tội phạm giới. Cho nên họ nhất định không chiều theo ý của bà. Bà chết trong cơn hành hạ của thể xác, trong cơn thèm thuồng không được thỏa mãn. Càng chua xót hơn, trong phút lâm chung, bà quên mình là kẻ tu hành mà chỉ nhớ mình là cô đào hát bội Năm Thàng…”
Tà Cúc muốn hỏi chị là chị có ăn chay hay không mà sao tả cái thèm nước mắm này hay quá. Vì thiệt tình, có khi người ta thèm nước mắm thôi chứ không thèm thịt cá gì hết.
Thụy Vũ: À, chuyện này bắt nguồn từ cuộc đời cô ruột của tôi do ba tôi kể lại. Dĩ nhiên là 30 phần trăm còn lại thì là hư cấu. Phần tôi, hồi đó tôi không có ăn chay. Mới ăn chay có bốn năm nay thôi, Tà Cúc à.
Nguyễn Tà Cúc: Nói về cuộc đời, về cuộc đời thiệt và cuộc đời trên sân khấu hát bội, Tà Cúc lại nhớ chuyện sau 1975.
Anh Hồ Trường An có thuật lại như sau:
- “Gần ngày mãn khóa, Nguyễn Thụy Long, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nhật Tiến bị hai nhà văn Cộng sản là Bùi Đức Ái (Anh Đức), Nguyễn Sáng và các ông cán bộ cục R là Sáu Lăng, Hai Khuynh, Phan Đắc Lập cùng các nhà văn nằm vùng như Vũ Hạnh, Thế Nguyên mời lên văn phòng…
Cả ba Long, Vũ, Tiến bị chỉ định làm bài tự phê tự kiểm… Thụy Vũ bước lên “giàn hỏa” trước hết. Nhưng để trả lời câu hạch tội của Bùi Đức Ái trong văn phòng, chị tôi nói:
- “Anh Bùi Đức Ái đã hỏi tôi động lực nào đẩy tôi viết văn đồi trụy, dù tôi viết về gái điếm có khuynh hướng tốt. Tôi xin thưa, không ai bắt buộc tôi cả.” [...] Thụy Vũ điềm nhiên, sắc mặt nguội như tảng bánh đúc: “Thưa toàn toàn không. Tôi tự do sáng tác. Sở dĩ tôi viết khiêu dâm táo bạo là vì mãi tới 28 tuổi, tôi muộn chồng, xấu xí và không được anh chàng nào ngó ngàng tới và tôi bị ẩn ức sinh lý”[...]
“… Trong buổi học sau, tôi dọn chỗ để ngồi gần hai ông anh tiểu thuyết gia hiền lành của tôi là Trọng Nguyên và Thanh Thủy. Họ cùng ngồi một dãy với chị Vinh, anh Nhật Tiến và chị Đỗ Phương Khanh. Họ xếp tôi ngồi gần chị Đỗ. Tôi cứ ngủ gục hoài làm anh Trọng Nguyên cứ gọi từng chập” “- Mày cứ ngủ hoài, họ để ý mày đó.”
Vào cái hôm một nhà văn nữ làm màn tự phê tự kiểm, thấy đương sự vật vã van xin cộng sản cho mình cầm bút trở lại, chị Đỗ Phương Khanh(1) đứng dậy dõng dặc: “- Cô muốn xin viết lại thì nên xin cho riêng cô, đừng xin cho chúng tôi làm gì.”
Cũng trong buổi hôm đó, có tên cán bộ cộng sản tên Mai Quốc Liên(2), dù là kẻ dự thính, nhưng hắn đã khinh miệt bảo phe cầm bút loại trên: “- Xin các anh chị đừng tiếc rẻ cái văn nghệ miền Nam nữa. Đó là thứ văn nghệ chợ trời, hiện đem bán sold chẳng ai mua.”
Các hình này lấy từ đài NHK/World.
Một sự mĩa mai nực cười to lớn (big irony): trong nước, Việt Cộng chiếm đất của dân oan, giao
quyền sử dụng cho công ty nước ngoài xây cơ sở. Trong hợp đồng nhà nước giữ 51% cồ phần và công ty nước ngoài có 49% cổ phần; như thế nhà nước có lợi, nên tha hồ mà đánh dân oan. Nhưng sự chuyển nhượng quyền sử dụng đảo Gac Ma, Trung Cộng bắt Việt Cộng phải ký hợp đồng mà Việt Cộng không có cổ phần và cũng không có lợi nhuận. Sư sợ hãi và bối rối lộ rõ trên mặt Lê Hồng Anh khi ngồi với Tập Cẩm Bình.
Đã có quyền đồng sử dụng quần đảo Trường Sa, Trung Cộng đã uy hiếp máy bay thám thính của Mỹ và sẽ xác định không phận cấm bay trên quần đảo Trường Sa. Cửa vào Biển Nam Đông (the South East Sea) đã có nút chặn tại Gạc Ma và cửa ra đã có tiền đồn Trung Cộng tại quần đão Hoàng Sa.
Nền kinh tế Việt Nam sa sút thê thảm: không có nguyên liệu của Trung Quốc, tất cả công ty ngưng sản xuất. Các nguyên liệu nhập từ Nhật, Nam Hàn hay Ấn Độ giá cao, giá thành phẩm tăng, nên khó xuất cảng. Dịch vụ du lịch đóng cửa vì không có khách... Nợ xấu của CSVN lên tới cả trăm tỷ... Hà Nội đang mong chờ dự án xây dựng tàu điện ngầm tại Saigon để có tiền chi trả và vay nợ để ăn...
Tuy nhiên cái ôm thắm thiết giữa Bodi và Abe (Thủ tướng Ấn độ và Nhật) gây lo sợ cho Hà nội. Ấn độ béo bở hơn Việt nam vì cùng một chế độ dân chủ, dễ tin nhau hơn và đông dân hơn.
Các nhà bình luận Việt Nam không nhận thấy sự mĩa mai nực cười nói trên, đã có những nhận định không chính xác vì không dựa vào sự kiện cụ thể.
Ý đồ của Trung Cộng đã rõ nét: Biển Việt Nam sẽ là "the South China Sea" có nút chặn ở cửa vào và cửa ra. Bộ Chinh Trị và Trung ương đảng Việt Cộng sẽ bị gạt ra, Lê Hồng Anh và các bí thư tỉnh phải thi hành lệnh của Bắc Kinh...
Nhà trí thức yêu nước Huỳnh Kim Báu nhìn thấy sự mĩa mai đó, đau khổ mà chập nhận sai lầm của đời ông và của các nhà Cách mạng Mùa Thu.
Quí vị phải làm một điều gì để rửa sach bàn tay nhúng chàm của quí vị. Mong lắm thay!
Tuy nhiên vị trí chính xác của giàn khoan này không được tiết lộ, và cũng không rõ giàn khoan này có đặt gần vùng biển tranh chấp hay không.
Trung Quốc và Nhật Bản vẫn tranh cãi về vùng đặc quyền kinh tế của mình trên biển. Trung Quốc cho biết họ phát hiện một mỏ khí đốt thiên nhiên dưới đáy biển trong vùng đặc quyền kinh tế của mình vào năm 1995.
Nhật Bản cũng đã cho biết họ có thể khai thác mỏ khí này trải dài vào bên trong khu vực tranh chấp.
Hai bên nhất trí cùng hợp tác khai thác mỏ này vào năm 2008 nhưng đã có không có tiến bộ nào kể từ đó.
Một thông cáo của đơn vị lắp ráp giàn khoan cho biết giàn khoan khởi sự suôn sẻ bất chấp có những khó khăn vì bão.
Thông cáo cũng cho biết giàn khoan sẽ khoan đến độ sâu 5.200 mét.
Nguồn: South China Morning Post/China.org.cn
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-dua-gian-khoan-moi-den-bien-dong-trung-hoa/2437748.html
Quan hệ Việt Trung sau sứ mạng Lê Hồng Anh bắt đầu được chi phối từ “nguyên tắc ba điểm” mà hai bên đạt được ngày 27/8/2014 ở Bắc Kinh. Có vẻ cuộc khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981 đã chìm vào dĩ vãng, để hai Đảng Cộng sản khôi phục và tăng cường quan hệ và tất nhiên là sự hợp tác toàn diện giữa hai nhà nước.
Trả lời câu hỏi này, TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS một tổ chức tư nhân tự giải thể, từ Hà Nội phát biểu:
"Có lẽ là như vậy bởi vì ba điểm này quay trở lại thỏa thuận tháng 10/2011 giữa ông Hồ Cẩm Đào và ông Nguyễn Phú Trọng thì thực sự nó quay trở lại như cũ. Và cái như cũ đó đã thực sự thất bại không giải quyết được điều gì khi mà Trung Quốc tiếp tục gây hấn trong thời gian vừa qua đặc biệt hồi tháng 5/2014. Tôi nghĩ nó không giải quyết được một cái gì cơ bản.”
Thông Tấn xã Việt Nam và báo chí do nhà nước quản lý đã đưa tin về nội dung nguyên tắc ba điểm, cho thấy hai Đảng và hai Nhà nước phải làm hết sức để tăng cường hợp tác giữa hai bên trên mọi lĩnh vực như chính trị ngoại giao, quốc phòng, an ninh, kinh tế. thương mại, thực thi pháp luật, nhân văn và nhiều lĩnh vực khác. Hai bên tuân thủ các nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc,” sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc các giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, kể cả vấn đề hợp tác cùng phát triển; kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; duy trì đại cục quan hệ Việt Trung và hòa bình ổn định trên Biển Đông.
“Tôi rất ngại là nó đúng như thế. Đó là một thảm họa chứ không có một chút gì tích cực cả, bởi vì cả một chính sách như thế đã tỏ ra thất bại. Tất cả những hành động trước chuyến đi của ông Đặc phái viên vài ngày, cũng như trong khi ông ấy ở Bắc Kinh thì đều thấy tình hình rất không thuận lợi đối với Việt Nam. Và tôi nghĩ, gần như là một sự quay trở lại sự qui phục trước khi ông ấy đi, người ta đưa tin về chuyện Việt Nam tự nhận lỗi rồi để cho công nhân Trung Quốc vào rất là đông ở Vũng Áng và các nơi khác; rồi kiểm soát chặt chẽ vấn đề Internet; rồi xử vụ Bùi Thị Minh Hằng một cách hết sức là lố lăng. Tôi nghĩ đấy là những dấu hiệu tất cả chỉ theo một hướng mà tôi nghĩ là không hay ho gì.”
Đối những ý kiến lo ngại về việc Hà Nội và Bắc Kinh trở lại thực hiện ba nhận thức chung, vốn dĩ là những thỏa thuận giữa hai bên từ thời kỳ Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào, có thể dẫn tới việc Trung Quốc và Việt Nam sẽ cùng khai thác tài nguyên ở vùng biển đông thuộc chủ quyền VN, tương tự như thỏa thuận 2011 ở vịnh Bắc Bộ. TS Nguyễn Quang A nhận định:
“Đó là chuyện rất là nguy hiểm và trong trường hợp chưa giải quyết một cách rõ ràng. Tôi đồng ý việc các bên song phương, đa phương phải giữ nguyên trạng và sau đó có một thỏa thuận với nhau như thế nào đó, vạch rõ rằng phần nào là của ai…v..v…Chỉ sau đó mới tính chuyện khai thác như thế nào, phần của ai thì khai thác, lúc ấy phía bên kia cũng có thể tham gia vào như một đối tác quốc tế bình đẳng. Chứ còn ở trong tình trạng nhập nhằng ai cũng bảo của mình mà bảo cùng khai thác, tôi không cũng không hiểu cùng khai thác kiểu như thế nào. Trường hợp này chỉ có kẻ mạnh là lấn lướt áp đảo mà thôi. Nó sẽ là mầm mống của những xung đột tiếp theo và tôi nghĩ cách giải quyết như thế này chỉ là mua thời gian và để cho những xung đột tiềm ẩn vẫn còn nguyên ở đó và nó có thể lại hiện ra dưới dạng này dạng khác và có thể ở mức độ nguy hiểm hơn.”
Ảnh hưởng Trung Quốc quá lớn
TS Nguyễn Thanh Giang, một nhà phản biện nhiều kinh nghiệm, nhìn nhận một thực tế là Việt Nam không thể thoát khỏi ảnh hưởng Trung Quốc. Trả lời Kính Hòa Đài ACTD, TS Nguyễn Thanh Giang phát biểu từ Hà Nội:
“Không thể quay lưng lại với Trung Quốc. Không nên đẩy họ thành kẻ thù của chúng ta mà luôn luôn giữ tình hữu nghị. Nhưng phải luôn luôn cảnh giác, vì cái bài học lịch sử nó cho thấy như thế. Đó là một sự cay đắng, đối với hàng xóm láng giềng thì lúc nào chúng ta cũng muốn hữu hảo, nhưng bài học lịch sử lẫn cái thời gian gần đây đều cho thấy là chơi với họ thì nguy hiểm lắm.
Cho nên hữu nghị thì vẫn phải hữu nghị, không nên đặt vấn đề đối chọi với họ. Cho nên tôi rất mong các nhà lãnh đạo đề cao cảnh giác với Trung Quốc, và đề cao cảnh giác với trong cả nội bộ lãnh đạo, xem có những người nào có tư tưởng thần phục Trung Quốc, dựa vào Trung Quốc để giữ lợi riêng, giữ lấy ghế của mình, thì phải loại họ khỏi thành phần lãnh đạo, ra khỏi dân tộc.”
Trong giai đoạn khủng hoảng giàn khoan trên Biển Đông kéo dài 10 tuần lễ, Việt Nam nỗ lực tranh thủ bè bạn quốc tế trong đó Hoa Kỳ, Nhật Bản và những tưởng chính sách xoay trục châu Á của Washington là một cơ hội giúp Việt Nam bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Thỏa thuận mang tên “nhận thức chung nguyên tắc ba điểm về tiếp tục phát triển quan hệ Việt-Trung” có thể làm Việt Nam vuột mất cơ hội tạo thế đứng độc lập với sự giúp đỡ của bè bạn quốc tế. TS Nguyễn Quang A nhận định:
“Tôi nghĩ rằng có thể Việt Nam đã bỏ lỡ một cơ hội rất là quan trọng. Và nếu bảo rằng bỏ mất một cơ hội ngả về bên này hay bên kia thì chưa chắc là đúng. Nhưng mà để có một thế đứng vững vàng độc lập hơn có thể có nhiều hơn mối liên kết, nhiều hơn mối liên minh để mà bảo vệ quyền lợi của mình thì tôi nghĩ rằng những khả năng như thế cũng vẫn còn chứ không phải hoàn toàn không có.
Chúng ta chưa biết một cách chi tiết những nội dung đó như thế nào và mới chỉ được báo chí nêu là thống nhất ba điểm ấy. Rõ ràng đánh giá ngay có thể là còn sớm.”
Vấn đề Biển Đông, quan hệ Việt Trung và thỏa thuận nhận thức nguyên tắc ba điểm sẽ vẫn còn tạo ra mầm mống của những xung đột tiếp theo và cách giải quyết này, theo lời TS Nguyễn Quang A, chỉ là mua thời gian và duy trì những xung đột tiềm ẩn. Nó sẽ có dịp hiện ra dưới dạng này hay dạng khác và có thể ở mức độ nguy hiểm hơn.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/ReviewOnlineDomesticPress/a-bad-choice-is-taken-nn-08292014131643.html
Trước căng thẳng leo thang với Ukraina và khả năng bị phương
Tây trừng phạt nặng thêm, Mátxcơva lại gợi lên vấn đề cắt khí đốt bán
sang Châu Âu, một kịch bản với những hậu quả khác nhau mà giới chuyên
gia không xem thường. Ngày 29/08/2014, Bộ trưởng Năng lượng Nga
Alexandre Novak đã tuyên bố có « nguy cơ khí đốt mà tập đoàn Gazprom
chuyển sang Châu Âu bị Ukraina lấy bớt một cách bất hợp pháp cho nhu
cầu của họ ».
NGUYỄN TÀ CÚC * THỤY VŨ
(Tạp Chí Khởi Hành và Chân dung nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ )
Nguyễn Tà Cúc
(Khởi Hành số 207-208, March-April 2014)
Lời Người Phỏng Vấn:
Trong mấy nhà văn nữ của Miền Nam trước 1975, người viết muốn đặc biệt phỏng vấn nhà văn Thụy Vũ. Bà tên thật là Nguyễn Băng Lĩnh, sinh năm 1937, quê ở Vĩnh Long. Bà dạy tiểu học 5 năm trước khi lên Sài Gòn vào năm 1961.
Lên Sài gòn, bà vừa đi học Anh văn vừa đi dạy Anh văn cho các cô bán”snack bar” hay các cô điếm cho lính Mỹ. Bà đoạt giải nhì Bộ Môn Văn – Giải Văn học Nghệ Thuật Toàn quốc năm 1970 (Người đoạt giải nhất là nhà văn Túy Hồng). Song song với việc sáng tác, bà còn lập nhà xuất bản Hồng Đức và Kẻ Sĩ với nhà thơ Tô Thùy Yên.
Sau 1975, tác phẩm của bà bị cấm toàn diện. Bà đem các con về Lộc Ninh làm rẫy, có lúc làm lơ xe đò để lo cho gia đình. Người viết muốn phỏng vấn bà về hai vấn đề chính: thứ nhất, trường hợp một nhà văn nữ không sợ tai tiếng và thành kiến xã hội, đã giao du với đám phụ nữ cùng khốn nhất của xã hội và thứ hai, thái độ can đảm của bà sau 1975 trước sự đe nẹt công khai của các tay quản giáo văn nghệ. Qua sự dàn xếp của nhà văn Văn Quang người phỏng vấn đã có một cơ hội để tìm biết câu trả lời cho hai thắc mắc ấy.
* Qua Trận Gió Kinh Thiên là nhan đề một tác phẩm của Thụy Vũ.
Nguyễn Tà Cúc: Nếu Tà Cúc nhớ không nhầm thì chị Thụy Vũ có lần nói đâu đó là chị dậy các cô bán bar học tiếng Anh và qua đó, họ xuất hiện trong tác phẩm của chị. Như vậy, họ đến học với chị Thụy Vũ qua cách nào? Như đến nhà chị hay sao?
Nhà Văn Thụy Vũ: Tôi đang dạy ở Vĩnh Long được 5 năm (bậc tiểu học). Sau đó tôi lên Sài Gòn đi học Hội Việt Mỹ được hơn 1 năm. Tiếng Anh của tôi chưa đầy một lá mít, nhưng tại sao tôi dám nhận dạy kèm cho mấy cô lấy Mỹ? Lúc đó tôi có một anh bạn học cùng lớp (lớp 2)Hội Việt Mỹ. Anh ấy ngồi cạnh tôi. Anh ta làm bài tập không giỏi nên tôi thường giúp anh ấy làm bài. Tôi hơi ngạc nhiên là anh ta nói tiếng Mỹ dòn tan như bắp rang mà không lý tới văn phạm.
Một hôm vào giờ ra chơi, anh ta đề nghị tôi dạy thêm tiếng Anh cho mấy cô bán bar quen biết với anh ấy để có thêm chút tiền trả tiền học. Các cô gái đó đang thuê phòng của nhà anh ta để ngủ với mấy tên lính Mỹ.
Tôi từ chối thẳng thừng và nói ông đừng chọc quê tôi. Tôi với ông mới học 2 khóa mà dạy ai đây? “Bạn cứ yên tâm nhận lời đi, tôi sẽ có cách…” Khi hẹn tới nhà anh ta vào ngày chủ nhật tôi mới biết anh ta là “ma cô.”
Anh ta dắt tôi đi từng phòng và giới thiệu tôi sẽ là cô giáo dạy kèm cho họ. Tôi càm ràm anh trước khi ra về và hẹn hôm sau quay lại thử thời vận. “Bạn biểu tôi dạy gì cho họ đây?” - “Tôi đã dặn họ rồi cô giáo dạy gì thì học nấy. Chớ có hỏi lôi thôi nghẹn.” Tôi không ngờ họ chưa hề biết đọc tiếng Việt thì làm sao đây?
Công – bạn tôi nhanh nhẩu nói: “Bạn dạy i – tờ cho họ trước cái đã, rồi sau đó mỗi ngày bạn chỉ cần cho họ biết viết tiếng Anh một vài chữ trong một lần học là được rồi.”
Tôi không ngờ là cách kéo dài thời gian của Công để tôi còn tiếp tục đi học với hắn. Họ nói tiếng “bồi” lưu loát không thể chê. Tôi cảm thấy ngài ngại thế nào vì tôi không thể nói như họ được.
Họ thuê tôi dạy không phải học mà để có người tâm sự thì đúng hơn. Hình như mỗi cô đều có hoàn cảnh na ná giống nhau. Họ lên Sài Gòn làm để giúp gia đình khó khăn ở quê nhà. Tiếp xúc với họ lâu ngày tôi cảm thấy thân thiện như những người bạn. Tôi vừa đi dạy vừa viết truyện ngắn về cuộc đời của họ. Họ bắt đầu xuất hiện trong những tác phẩm của tôi.
Nguyễn Tà Cúc: Chị viết rất thật, hết sức thật. Một ưu điểm của văn chương Thụy Vũ là người đọc có thể cảm nhận ngay rằng tác giả đã dựa sự sáng tạo trên những hoàn cảnh thật, nhân vật thật và sử dụng những kinh nghiệm của nhân vật thật ấy để bày họ ra trên những trang giấy, dĩ nhiên là của sự tưởng tượng; nhưng những hình dáng đó, những tâm cảnh đó không là sản phẩm của một sự tưởng tượng quá nghèo nàn đến nỗi tố cáo sự bịa đặt của tác giả. Viết truyện về gái điếm tưởng là dễ nhưng mà rất khó! Tà Cúc từng đọc một cuốn truyện tả tình cảnh của vài cô bán bar rồi làm điếm cho lính Mỹ –cùng đề tài nhân vật với chị– nhưng chỉ cần đọc những câu đối thoại là người ta biết ngay tác giả của nó chưa bao giờ có cơ hội nói chuyện với các cô làm điểm nên mới “sáng tác” ra những câu đối thoại hay cách suy nghĩ của cái kiểu “Nếu một tiểu thư đi làm gái điếm.” Và dĩ nhiên cái kiểu giả tạo đó không tốt đẹp gì cho cả cô tiểu thư lẫn cô làm gái điếm.
Thụy Vũ: Tác phẩm cửa tôi có thể nói là đến 70 phần trăm dựa trên sự thực. Nó thực đến nỗi một hôm, hồi tôi ở sau đình Phú Thạnh, sau khi cuốn Lao Vào Lửa xuất bản thì có một anh lính mặc đồ rằn ri coi ghê lắm nghe giới thiệu mới chạy tới ôm tôi và hỏi “Phải cô là gái điếm không?”
Tôi đẩy anh ta ra và la lên: “Tôi chỉ viết truyện chớ tôi làm gái điếm hồi nào?!
Anh ta mới nói tôi viết y như thiệt vậy. Nói thiệt chớ hồi đó họ cũng không biết tôi viết về họ đâu nghe. Nếu họ biết chắc họ rầy chết. Có khi tôi vừa ra bài cho họ thì trong khi họ làm bài, tôi ngồi viết về họ. Nhiều lần họ nói với tôi sẽ làm mai cho tôi một anh chàng Mỹ đàng hoàng chớ không phải đám GI như mấy cổ nhưng tôi từ chối. Tôi có thể nói là tôi đã đi tới hầu hết mấy ổ điểm sang nhứt ở Sài gòn. Nơi nào có học trò là nơi đó tôi tới.
Nguyễn Tà Cúc: Cảm tưởng nào mạnh mẽ nhất mà chị Thụy Vũ còn giữ được sau mấy chục năm dạy họ? Chị có nghĩ về số phận đàn bà nói chung khi dạy họ không?
Thụy Vũ: Mấy chục năm đã qua, chị hỏi về cảm tưởng mạnh mẽ nhất, có lẽ tôi không thể nhớ nổi rõ ràng. Nhưng dường như những hình ảnh của những cô gái bán bar đó còn vương vấn trong tôi. Nỗi đau âm thầm của họ giấu kín sau những son phấn lòe loẹt và những tiếng cười, những câu chuyện hoang toàng, tôi tưởng như chính những thứ đó đang phá nát tâm hồn họ, đang như cái xe đang lao dốc. Tôi thầm thương họ, thông cảm với họ và cũng chẳng biết làm sao hơn.
Mỗi người một hoàn cảnh, cái điểm chung chính là nỗi nghèo khổ đã dồn họ vào con đường cùng. Cũng như bây giờ, rất nhiều cô gái quê ở Việt Nam, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhiều cô gái được gia đình đưa lên Thành phố Sài Gòn để “tuyển vợ” cho mấy chú Đài Loan, Đại Hàn hoặc đi Singapore làm đủ nghề kiếm sống.
Tàn nhẫn hơn, ở những vùng sát biên giới Trung Quốc, chẳng thiếu gì chuyện những cô gái quê nghèo đó tự nguyện hoặc bị lừa bán sang Trung Quốc lưu lạc vào những ổ điếm, lấy những ông chồng già bệnh hoạn, làm việc như nô lệ… Phải chăng đó là thân phận hay số phận của phụ nữ nghèo Việt Nam? Tôi tự hỏi như thế và biết đến bao giờ xã hội mới có được một đời sống công bằng cho phụ nữ VN nói chung?
Nguyễn Tà Cúc: Cũng lạ là hồi đó những năm 60 mà chị dám sống như vậy, dám đi cùng khắp khách sạn như vậy. Chị ở với ai, không sợ ba má la sao? Tà Cúc nhớ là ngay chính gia đình Tà Cúc đây, tối tối là đóng sập cửa lại, báo hại cứ trốn nhà đi chơi. Mà tóc thì không được uốn, không được son phấn nhiều…
Thụy Vũ: Có chớ. Bà má tôi cứ sợ tôi hư nhưng tôi nói tôi viết về gái điếm chớ có làm điếm đâu. Hồi tôi mới lên Sài gòn thì tôi ở chung với Hồ Trường An, em tôi. Nó thua tôi một tuổi, bằng tuổi Viên Linh đó. Tôi viết mấy truyện bị ông già la quá vì lấy cảm hứng từ nhân vật trong gia đình ra mà viết đó chớ.
Nguyễn Tà Cúc: Nói về chuyện người thật, việc thật, Tà Cúc nhớ lại là hồi đọc truyện ngắn “Lòng Trần” (tức là truyện “Muỗng nước mắm”) của chị, Tà Cúc thích quá và tự nhủ là nếu mai sau dù có bao giờ mà gặp tác giả thì sẽ hỏi coi là tại sao mà bà ấy biết được cái thèm “nước mắm” của một người ăn chay. Nhân vật chính trong truyện bà cô Năm Thàng. Anh Hồ Trường An tóm tắt cốt truyện như sau:
“Năm Thàng là cô đào hát bội, thanh sắc lẫy lừng được một ông phú hộ say mê. Ông tình nguyện gia nhập gánh hát để được theo bước lưu diễn của cô. Ông săn sóc cô và soạn tuồng để cô diễn. Cảm động tấm chung tình của ông, cô bỏ nghề hát để làm vợ ông. Rồi đó, ông chồng chết vì tai nạn sét đánh, đứa con của cả hai cũng chết sau đó ít lâu. Cô Năm Thàng cắt tóc đi tu, lấy pháp danh là Diệu Tâm, sống khổ hạnh, giữ trai giới rất nghiêm nhặt cho tới tuổi già bóng xế. Ngờ đâu, trong phút hấp hối, sư nữ Diệu Tâm đòi húp một muổng nước mắm.
Nhưng họ hàng thân tộc của bà cho rằng bà sắp thành chánh quả mà còn bị quỉ ma theo quấy phá để bà bị tội phạm giới. Cho nên họ nhất định không chiều theo ý của bà. Bà chết trong cơn hành hạ của thể xác, trong cơn thèm thuồng không được thỏa mãn. Càng chua xót hơn, trong phút lâm chung, bà quên mình là kẻ tu hành mà chỉ nhớ mình là cô đào hát bội Năm Thàng…”
Tà Cúc muốn hỏi chị là chị có ăn chay hay không mà sao tả cái thèm nước mắm này hay quá. Vì thiệt tình, có khi người ta thèm nước mắm thôi chứ không thèm thịt cá gì hết.
Thụy Vũ: À, chuyện này bắt nguồn từ cuộc đời cô ruột của tôi do ba tôi kể lại. Dĩ nhiên là 30 phần trăm còn lại thì là hư cấu. Phần tôi, hồi đó tôi không có ăn chay. Mới ăn chay có bốn năm nay thôi, Tà Cúc à.
Nguyễn Tà Cúc: Nói về cuộc đời, về cuộc đời thiệt và cuộc đời trên sân khấu hát bội, Tà Cúc lại nhớ chuyện sau 1975.
Anh Hồ Trường An có thuật lại như sau:
- “Gần ngày mãn khóa, Nguyễn Thụy Long, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nhật Tiến bị hai nhà văn Cộng sản là Bùi Đức Ái (Anh Đức), Nguyễn Sáng và các ông cán bộ cục R là Sáu Lăng, Hai Khuynh, Phan Đắc Lập cùng các nhà văn nằm vùng như Vũ Hạnh, Thế Nguyên mời lên văn phòng…
Cả ba Long, Vũ, Tiến bị chỉ định làm bài tự phê tự kiểm… Thụy Vũ bước lên “giàn hỏa” trước hết. Nhưng để trả lời câu hạch tội của Bùi Đức Ái trong văn phòng, chị tôi nói:
- “Anh Bùi Đức Ái đã hỏi tôi động lực nào đẩy tôi viết văn đồi trụy, dù tôi viết về gái điếm có khuynh hướng tốt. Tôi xin thưa, không ai bắt buộc tôi cả.” [...] Thụy Vũ điềm nhiên, sắc mặt nguội như tảng bánh đúc: “Thưa toàn toàn không. Tôi tự do sáng tác. Sở dĩ tôi viết khiêu dâm táo bạo là vì mãi tới 28 tuổi, tôi muộn chồng, xấu xí và không được anh chàng nào ngó ngàng tới và tôi bị ẩn ức sinh lý”[...]
“… Trong buổi học sau, tôi dọn chỗ để ngồi gần hai ông anh tiểu thuyết gia hiền lành của tôi là Trọng Nguyên và Thanh Thủy. Họ cùng ngồi một dãy với chị Vinh, anh Nhật Tiến và chị Đỗ Phương Khanh. Họ xếp tôi ngồi gần chị Đỗ. Tôi cứ ngủ gục hoài làm anh Trọng Nguyên cứ gọi từng chập” “- Mày cứ ngủ hoài, họ để ý mày đó.”
Vào cái hôm một nhà văn nữ làm màn tự phê tự kiểm, thấy đương sự vật vã van xin cộng sản cho mình cầm bút trở lại, chị Đỗ Phương Khanh(1) đứng dậy dõng dặc: “- Cô muốn xin viết lại thì nên xin cho riêng cô, đừng xin cho chúng tôi làm gì.”
Cũng trong buổi hôm đó, có tên cán bộ cộng sản tên Mai Quốc Liên(2), dù là kẻ dự thính, nhưng hắn đã khinh miệt bảo phe cầm bút loại trên: “- Xin các anh chị đừng tiếc rẻ cái văn nghệ miền Nam nữa. Đó là thứ văn nghệ chợ trời, hiện đem bán sold chẳng ai mua.”
(Nhà văn Đỗ Phương Khanh)
Lập tức, chị Đỗ Phương Khanh đứng lên: “- Anh Liên! Anh nhân danh ai mà
nói câu ấy? [...] Chị vừa thét vừa khóc nức nở, làm cơn buồn ngủ tôi tan
biến đâu mất…” (Hồ Trường An, Giai thoại hồng – Hồi ký văn nghệ, trang
302, 324-325)
Đó là Thụy Vũ trong “Khoá bồi dưỡng chính trị” cho văn nghệ sĩ Miền Nam trong mùa hè năm 1976 tại Sài Gòn. Đó là lúc Miền Bắc gửi ngay nhiều cán bộ cao cấp vào Nam để mở màn công cuộc thanh trừng và “cải tạo” văn nghệ sĩ Miền Nam. Nhà văn Nhật Tiến cũng xác nhận thái độ đàn áp thô bạo gần như man rợ của đám người cũng mệnh danh cầm bút này qua một đoạn tường thuật về Khóa bồi dưỡng đó:
- “Mai Quốc Liên tuyên bố trong khóa bồi dưỡng kể trên rằng ‘miền Nam các anh các chị làm gì có văn hóa!” Người phản ứng đầu tiên ngay sau khi Mai Quốc Liên buông câu nhục mạ là nhà văn Đỗ Phương Khanh, biên tập viên các báo Dân Chủ, Hòa Bình, Tân Phong, Đông Phương, Thiếu Nhi.
Đỗ Phương Khanh đã đứng phắt dậy, chỉ vào mặt Mai Quốc Liên và cao giọng:
“Anh vào Nam bao lâu, đọc được bao nhiêu cuốn sách rồi mà anh nói miền Nam không có văn hóa…”
Mai Quốc Liên không thể trả lời câu hỏi này, trong khi tôi và Nguyễn Thụy Long cùng đứng dậy để chất vấn thêm về câu tuyên bố mục hạ vô nhân này, nhưng Chủ tọa đoàn đã vội vã tuyên bố nghỉ giải lao vì bầu không khí sục sôi của nhiều người tham dự.
Một cán bộ, tôi không nhớ tên, đã tới ngay bên Nguyễn Thụy Long để kè anh đi ra. Còn tôi cũng bị nhà văn Vũ Hạnh kèm sát ra sân sau và nói: “Anh đừng có nóng! Anh phản ứng như thế người ta sẽ cho là anh phá hoại khóa học.” (Nhà văn Vũ Hạnh hiện còn sinh sống ở Sài Gòn)… (Nhật Tiến, “Cuối cùng thì ông Mai Quốc Liên đã công nhận miền Nam có văn hóa”)
Phản ứng của (các) chị (và các anh) lúc ấy thực là can đảm. Phản ứng đó cho thấy cái tương lai là họ sẽ không bao giờ đàn áp được văn nghệ sĩ Miền Nam như họ đã làm tại Miền Bắc, thí dụ như họ đã làm với nhóm Nhân Văn – Giai phẩm.
Thụy Vũ: Khi tôi trả lời rằng tôi vì khủng hoảng sinh lý nên viết văn “đồi trụy” để trả lời cho họ việc họ kết án tôi là tôi viết văn “đồi trụy” rồi đi xuống thì chị Nguyễn Thị Vinh ôm tôi khóc:“Ôi em không biết gì về Cộng sản hết!” Nhưng sao tôi không sợ. Trước đó, họ biểu tôi nghĩ sao thì cứ nói, nhưng nói trong phạm vi ở đây chứ ra ngoài mà nói thì họ “không bảo đảm an ninh”cho tôi được. Tôi mới hỏi lại là “Mấy anh có bảo đảm được không? Còn tôi thì tôi sẽ không nói dối.” Sau khi phát biểu phần tôi thì nhà văn Nguyễn Quang Sáng bầy tỏ là ông rất thích cái cách của “dân Nam Kỳ nghĩ sao nói vậy.”
Nguyễn Tà Cúc: Có lẽ chị không sợ dù trong tình cảnh “đằng đằng sát khí” ấy vì họ đã xúc phạm đến tác phẩm -tức là linh hồn là cốt tủy của con người chị. Họ có thể làm người ta sợ khi họ hăm dọa phần thể xác nhưng khi xúc phạm tới cốt tủy của một con người, ở đây là tác phẩm của một nhà văn thì nhà văn đó sẵn sàng chết cho cái cốt tủy ấy sống.
Cho nên, phải nói Tà Cúc rất tiếc khi phải chứng kiến cảnh một nhà văn cũng có tiếng của Miền Nam mà bao lâu nay lại quyết định im lặng trước sự xấc xược của những “anh gù tại nhà thờ Đức Bà” (3) tới tác phẩm của mình. Nếu mà tới thời buổi này, đám dân ngu khu đen vẫn còn phải chạy đôn chạy đáo lên tiếng bênh vực cho các anh nhà văn – mà lẽ ra phải là ngược lại – thì không có gì đáng để các anh nhà văn đó tự hãnh diện hay đáng được người khác vinh danh ca ngợi cả (4). Chính phủ Việt Nam có cho xuất bản tác phẩm nào của chị chưa?
Thụy Vũ: Chưa. Cách đây không lâu, họ có xin tôi truyện ngắn “Muỗng nước mắm” mà Tà Cúc nhắc đó để in trong một tạp chí nhưng tôi không cho họ đăng. Sách của tôi còn bị cấm toàn diện.
Nguyễn Tà Cúc: Sau cùng, nếu chị được làm lại từ đầu, chị có chọn làm nhà văn không?
Thụy Vũ: Không, giữa làm nhà văn và được là một người vợ hạnh phúc thì tôi chọn hạnh phúc.
Nguyễn Tà Cúc: Tác giả Thụy Vũ có thể không muốn làm nhà văn nhưng độc giả Nguyễn Tà Cúc lại muốn chị cứ là nhà văn để được đọc những tác phẩm hoặc là nghệ thuật hoặc là phản ảnh một phần xã hội Miền Nam bấy giờ. Cảm ơn chị đã nói chuyện với Tà Cúc và cảm ơn anh Văn Quang đã dàn xếp cho hai chị em có dịp hàn huyên.
Sài Gòn – California, ngày 19.3.2014
Nguyễn Tà Cúc
(Khởi Hành số 207-208, March-April 2014)
Chú thích:
(1) Đỗ Phương Khanh (bà Nhật Tiến) sinh tại Nam Định, xuất hiện lần đầu với truyện ngắn Đi Mua Giầy trên Giai Phẩm Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh. Sau khi Văn Hóa Ngày Nay đình bản, bà qua cộng tác với tạp chí Tân Phong của nhà văn Nguyễn Thị Vinh với nhiều truyện ngắn khác, sau xuất bản thành tập truyện Hương Thu do Đông Phương ấn hành. Sau biến cố Tết Mậu Thân 1968, bà về làm quản lý cơ sở ấn loát Hồng Lam ở Sài Gòn do Linh Mục Cao Văn Luận làm Giám Đốc.
Đầu thập niên 70, bà giữ vai trò quản lý trị sự cho tuần báo Thiếu Nhi đồng thời phụ trách trang Vườn Hồng và sinh hoạt với Gia Đình Thiếu Nhi là một tập hợp độc giả của tuần báo này cho tới năm 1975. Cũng trong thời gian này, Đỗ Phương Khanh phụ trách trang nhi đồng cho nhật báo Hòa Bình với bút hiệu Mai Loan và là người phụ trách trang Phụ Nữ của nhật báo Dân Chủ cho tới năm 1975. Bà cũng là giám đốc vườn trẻ Anh Vũ, một cơ sở mẫu giáo chuyên dạy trẻ em theo phương pháp Montessori từ năm 1973 tới 1975. Tại Hoa Kỳ, bà dịch những tài liệu về Bảo Vệ Loài Vật và những câu chuyện của J. Krishnamurti với những bút hiệu Danny Việt, Vy Khanh …, đồng thời biên soạn “Chương trình tìm hiểu Phật pháp Tuệ Đăng” phát thanh hằng tuần trên Little Saigon Radio và Hồn Việt TV với bút hiệu Liên Hương. Bà hiện cư ngụ tại Nam California.
(http://phuongkhanhdo.wordpress.com/category/trang-chinh/)
(2) Mai Quốc Liên nguyên quán tại Điện Phước, Điện Bàn, Quảng Nam, là giám đốc Trung tâm Quốc học, giáo sư đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh v.v. Ông cũng là người viết tựa và đỡ đầu cho bộ Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác – một người từng có mặt trong buổi họp đó, sau vượt biển sang Hoa Kỳ làm chủ nhiệm chủ bút báo Văn Học. Khi bộ truyện này được nxb Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 1998 tại Sài gòn. Thật không đáng tiếc: một người bị mắng như thế mà không có phản ứng thì sự quay về nhờ vả kẻ mắng mình cũng không có gì là lạ.
(3) Chữ của Viên Linh chỉ Vũ Hạnh trong bài viết “Anh Lùn Cạnh Nhà Thờ Đức Bà” đăng trên tuần báo Nghệ Thuật số 27 tháng 4.1966. [VL chú thích]: Nguyên tháng 2.1966 trên tờ Tin Sách của Trung tâm Bút Việt (Văn Bút V.N.) Vũ Hạnh chê thơ tự do đang suy mòn và “thơ tự do hiện tại là con đẻ của lý trí nhất thời, đã bị lý trí từ khước, và nếu nó còn tồn tại ở mức nào là nhờ nó được nuôi dưỡng ở lòng tự ái nhiều hơn.” Ở đoạn khác ông ta viết: “Không có một cái nội dung dân tộc cụ thể, mọi sự đổi mới cũng sớm trở thành trừu tượng mâu thuẫn và xa dần dân tộc.”
Lúc đó ai cũng biết nhóm VC nằm vùng (trong có Vũ Hạnh), lúc nào cũng mang chiêu bài dân tộc làm một cái khiên để bôi nhọ các nhà văn gốc Bắc di cư vào Nam sau 1954 và chia rẽ họ với đồng bào trong Nam. Bài trên ông ta viết chỉ trích cuốn tiểu luận nhan đề Tiếp Nối của Trần Thanh Hiệp do Sáng Tạo xuất bản, nhân đó phỉ báng thơ tự do, phỉ báng các nhà thơ qua mấy chữ “thơ tự do còn tồn lại là nhờ được nuôi dưỡng bằng lòng tự ái” [của những người làm thơ].
Tôi dùng hình ảnh anh lùn để chỉ Vũ Hạnh, như một người có khuyết tật (như anh gù Quasimodo của Victor Hugo) sống cạnh nhà thờ là bám víu vào lòng bác ái của các tín đồ ngoan đạo, kiểu cán bộ Vũ Hạnh bám víu vào hai chữ dân tộc để che mắt miền Nam hầu sống còn trong khi mưu đồ của họ là khác. Ít nhất ông ta cũng che mắt được hai ông Thanh Lãng và Phạm Việt Tuyền, chủ tịch và TTK hội Bút Việt, để cứu ông ta ra khỏi tù, rồi còn dùng tờ báo của hội để hoạt động cho cộng sản trong nhiều năm.
(4) Lạ lùng hơn nữa là cái thái độ im lặng khả nghi ấy kèm thêm cái sự thực là mấy tác giả được cho in lại nhiều tác phẩm sau 1975 thì được tung hô vạn tuế ầm ầm trong khi sự can đảm của những phụ nữ như Thụy Vũ, như Đỗ Phương Khanh v.v… trong lúc đổi đời với loại tòa án nhân dân với những kẻ vô văn hóa như Mai Quốc Liên thì hầu như không nói tới. Điều phi lý ở đây là, nếu một tác giả Miền Nam cho phép các nhà xuất bản của chính phủ tái bản tác phẩm trước 1975 để vừa có danh vừa có tiền tác quyền, như trường hợp nhà văn Dương Nghiễm Mậu, thì khi bị tấn công, anh (hay chị) phải chịu trách nhiệm, chứ không thể ngồi chờ người khác lên tiếng cho mình trong khi các “người khác” vẫn bị cấm xuất bản hay tái bản.
Dĩ nhiên, không ai có thể phán xét ai (người viết không có lời bàn nào về sự im lặng của Dương Nghiễm Mậu tại đây, trong bài phỏng vấn này) nhưng nói chung, đời nào lại có chuyện dễ dàng mà oái oăm như thế: anh vừa được nhà nước — cái nguồn đàn áp dân ngu khu đen và đồng nghiệp Miền Nam trước 1975 — cho phép tái-xuất bản rồi anh lại mong hay đợi cái đám nạn nhân bị đàn áp — đám dân ngu khu đen và nhất là đám đồng nghiệp Miền Nam trước 1975 vẫn còn bị cấm tái bản hay xuất bản — phí giấy và phí chữ bênh vực cho anh khi anh bị quản giáo văn nghệ tấn công?!
• Oái oăm hơn nữa là nếu cứ im lặng đi thì cũng là một nhẽ, đằng này lại có kẻ viết bài cả gan gán cho sự im lặng đó những danh hiệu cao quý do anh ta đoán ra để choàng những vòng hoa hâm mộ lẽ ra chỉ dành cho người tuẫn tiết vì đã dám lên tiếng! Sự thực là nếu ai cũng im lặng hết thì người Miền Nam lấy gì để chứng minh là họ đã không đầu hàng, không quy xuống? Và tiếp tục không quy xuống dù đã phải tiếp tục trả cái giá rất đắt cho đời văn của họ cho tới nay? Như Thụy Vũ? Và như bao nhiêu tác giả khác nữa?
• Chú thích thêm của Thày Cò Ca Hát:
1. Cách đây 7, 8 năm, một văn hữu từ V.N. hỏi chúng tôi có phải tờ Khởi Hành trước 75 từng bị tịch thu vì đã đăng bài thơ mà nhạc sĩ Phạm Duy sau đó phổ nhạc không? (Bài thơ đó có những. câu như “anh trở về dang dở đời em”). Không hề có chuyện đó và Khởi Hành không bao giờ bị tịch thu vì bất cứ nguyên do gì. Tôi có hỏi: Tại sao giờ này các anh muốn rêu rao là hồi VNCH thơ văn các anh bị tịch thu, để làm gì? Có phải các anh muốn đánh tiếng cho chế độ hiện hành tin rằng hồi xưa sáng tác của các anh bị tịch thu, vì các anh chống VNCH đấy chứ? Các anh cần đến nỗi phải bịa ra chuyện không có là Khởi Hành bị tịch thu vì đăng thơ anh.
2. Chuyện tương tự mới xảy ra một hai tháng nay: một nhà văn ở miền gió cát mới viết một bài bênh vực bạn mình, rằng bạn mình từng viết trên tờ Thời Tập của Viên Linh hồi đầu năm 75 rằng “nhất quyết ở lại, không chạy theo Mỹ, vì không làm chó săn cho chủ.” Giờ này (2014) anh rêu rao là hồi 1975 anh đã tuyên bố không di tản là nhằm ý gì? Để chứng tỏ với chế độ hiện hành là anh có công, anh từng có lòng “ở lại với cách mạng” từ 1975 chăng? Anh cứ yên tâm, lòng anh ra sao người ta đều biết cả.
Hết bài phỏng vấn!
__Tham khảo:
Nhà Văn Thụy Vũ: – một tác giả nữ bắt đầu xuất hiện trên văn đàn miền Nam từ những năm 60s trên Bách Khoa- cùng thời với một Túy Hồng điên “cơn điên tím” rất Huế, một Nguyễn Thị Hoàng chói chang (& rạo rực?!?) nắng hạ của “vòng tay học trò”, một Nhã Ca nói chuyện Huế Mậu Thân và “đời sống ôi buồn như cỏ khô”...Nguyễn Thị Thụy Vũ hiện ra với một hình ảnh trần trụi khác, đời sống của một tầng lớp khá đặc biệt trong xã hội miền Nam thời đó – đời sống của gái bán bar – nơi đó không có những chất vấn siêu hình, những suy tư thời cuộc, thân phận… như đã từng bắt gặp đâu đó trong những truyện ngắn, dài của các tác giả nữ cùng thời…mà chỉ là một trần trụi của đời sống & một cách thế sống riêng tây của một “tầng lớp” như thế, nhưng rốt ráo, họ vẫn là những con người, niềm riêng đầy đau đớn, sần sùi lại bị quăng quật vào một phông nền phi lý của chiến tranh – mặc dù trong nhiều truyện của Nguyễn Thị Thụy Vũ, bà chỉ như viết ra những diễn biến thấy ngay trước mắt – nhưng gieo vào lòng người đọc những suy nghĩ về những cái thỏa hiệp (phải có) với đời sống, cái nồng tanh của đời sống thay vì chỉ là những phong hoa tuyết nguyệt, những vuốt ve mơn man… Cách viết ấy, nếu có thể tượng hình, có thể đó là cái đau điếng quật xuống của làn roi, phô bày hết những nhức nhối.
Tuy nhiên, sau cái sự trần trụi ấy (trần trụi của cuộc sống gái bán bar, lấy Tây hay những mảnh đời đặc biệt, nhiều “ẩn ức” khác) – trần trụi từ ngôn ngữ của các nhân vật..cho đến ngôn ngữ xây dựng câu chuyện của tác giả – là một khát khao sống…sống ngay cả trong đống bùn của đời sống mang đến, của thân phận, sống trong những chông chênh của cuộc nội chiến, (mặc dù nhiều khi là) giành giựt nhau sống, tranh chấp nhau sống….Vượt thoát & sống! Sự phóng túng và nuông chiều chính bản thân trong những khát khao tầm thường, bản năng… buộc mình trôi theo dòng … làm rúng độc độc giả của miền Nam một thời là như thế…
Trong bài PV có nhắc đến truyện Muỗng Nước Mắm (cũng xuất hiện trong tuyển tập Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta 1974 với tên là Lòng Trần), một sự kiện về Vũ Hạnh, tôi cũng xin cung cấp tài liệu đó trên blog này
Viên Linh gọi Vũ Hạnh là “Anh Lùn Cạnh Nhà Thờ Đức Bà” trên tuần báo Nghệ Thuật số 27 tháng 4.1966. [VL chú thích]: Nguyên tháng 2.1966 trên tờ Tin Sách của Trung tâm Bút Việt (Văn Bút V.N.) Vũ Hạnh chê thơ tự do đang suy mòn và “thơ tự do hiện tại là con đẻ của lý trí nhất thời, đã bị lý trí từ khước, và nếu nó còn tồn tại ở mức nào là nhờ nó được nuôi dưỡng ở lòng tự ái nhiều hơn.” Ở đoạn khác ông ta viết: “Không có một cái nội dung dân tộc cụ thể, mọi sự đổi mới cũng sớm trở thành trừu tượng mâu thuẫn và xa dần dân tộc”.
Lúc đó ai cũng biết nhóm VC nằm vùng (trong có Vũ Hạnh), lúc nào cũng mang chiêu bài dân tộc làm một cái khiên để bôi nhọ các nhà văn gốc Bắc di cư vào Nam sau 1954 và chia rẽ họ với đồng bào trong Nam. Bài trên ông ta viết chỉ trích cuốn tiểu luận nhan đề Tiếp Nối của Trần Thanh Hiệp do Sáng Tạo xuất bản, nhân đó phỉ báng thơ tự do, phỉ báng các nhà thơ qua mấy chữ “thơ tự do còn tồn lại là nhờ được nuôi dưỡng bằng lòng tự ái” [của những người làm thơ]. Tôi dùng hình ảnh anh lùn để chỉ Vũ Hạnh, như một người có khuyết tật (như anh gù Quasimodo của Victor Hugo) sống cạnh nhà thờ là bám víu vào lòng bác ái của các tín đồ ngoan đạo, kiểu cán bộ Vũ Hạnh bám víu vào hai chữ dân tộc để che mắt miền Nam hầu sống còn trong khi mưu đồ của họ là khác}
Đó là Thụy Vũ trong “Khoá bồi dưỡng chính trị” cho văn nghệ sĩ Miền Nam trong mùa hè năm 1976 tại Sài Gòn. Đó là lúc Miền Bắc gửi ngay nhiều cán bộ cao cấp vào Nam để mở màn công cuộc thanh trừng và “cải tạo” văn nghệ sĩ Miền Nam. Nhà văn Nhật Tiến cũng xác nhận thái độ đàn áp thô bạo gần như man rợ của đám người cũng mệnh danh cầm bút này qua một đoạn tường thuật về Khóa bồi dưỡng đó:
- “Mai Quốc Liên tuyên bố trong khóa bồi dưỡng kể trên rằng ‘miền Nam các anh các chị làm gì có văn hóa!” Người phản ứng đầu tiên ngay sau khi Mai Quốc Liên buông câu nhục mạ là nhà văn Đỗ Phương Khanh, biên tập viên các báo Dân Chủ, Hòa Bình, Tân Phong, Đông Phương, Thiếu Nhi.
Đỗ Phương Khanh đã đứng phắt dậy, chỉ vào mặt Mai Quốc Liên và cao giọng:
“Anh vào Nam bao lâu, đọc được bao nhiêu cuốn sách rồi mà anh nói miền Nam không có văn hóa…”
Mai Quốc Liên không thể trả lời câu hỏi này, trong khi tôi và Nguyễn Thụy Long cùng đứng dậy để chất vấn thêm về câu tuyên bố mục hạ vô nhân này, nhưng Chủ tọa đoàn đã vội vã tuyên bố nghỉ giải lao vì bầu không khí sục sôi của nhiều người tham dự.
Một cán bộ, tôi không nhớ tên, đã tới ngay bên Nguyễn Thụy Long để kè anh đi ra. Còn tôi cũng bị nhà văn Vũ Hạnh kèm sát ra sân sau và nói: “Anh đừng có nóng! Anh phản ứng như thế người ta sẽ cho là anh phá hoại khóa học.” (Nhà văn Vũ Hạnh hiện còn sinh sống ở Sài Gòn)… (Nhật Tiến, “Cuối cùng thì ông Mai Quốc Liên đã công nhận miền Nam có văn hóa”)
Phản ứng của (các) chị (và các anh) lúc ấy thực là can đảm. Phản ứng đó cho thấy cái tương lai là họ sẽ không bao giờ đàn áp được văn nghệ sĩ Miền Nam như họ đã làm tại Miền Bắc, thí dụ như họ đã làm với nhóm Nhân Văn – Giai phẩm.
Thụy Vũ: Khi tôi trả lời rằng tôi vì khủng hoảng sinh lý nên viết văn “đồi trụy” để trả lời cho họ việc họ kết án tôi là tôi viết văn “đồi trụy” rồi đi xuống thì chị Nguyễn Thị Vinh ôm tôi khóc:“Ôi em không biết gì về Cộng sản hết!” Nhưng sao tôi không sợ. Trước đó, họ biểu tôi nghĩ sao thì cứ nói, nhưng nói trong phạm vi ở đây chứ ra ngoài mà nói thì họ “không bảo đảm an ninh”cho tôi được. Tôi mới hỏi lại là “Mấy anh có bảo đảm được không? Còn tôi thì tôi sẽ không nói dối.” Sau khi phát biểu phần tôi thì nhà văn Nguyễn Quang Sáng bầy tỏ là ông rất thích cái cách của “dân Nam Kỳ nghĩ sao nói vậy.”
Nguyễn Tà Cúc: Có lẽ chị không sợ dù trong tình cảnh “đằng đằng sát khí” ấy vì họ đã xúc phạm đến tác phẩm -tức là linh hồn là cốt tủy của con người chị. Họ có thể làm người ta sợ khi họ hăm dọa phần thể xác nhưng khi xúc phạm tới cốt tủy của một con người, ở đây là tác phẩm của một nhà văn thì nhà văn đó sẵn sàng chết cho cái cốt tủy ấy sống.
Cho nên, phải nói Tà Cúc rất tiếc khi phải chứng kiến cảnh một nhà văn cũng có tiếng của Miền Nam mà bao lâu nay lại quyết định im lặng trước sự xấc xược của những “anh gù tại nhà thờ Đức Bà” (3) tới tác phẩm của mình. Nếu mà tới thời buổi này, đám dân ngu khu đen vẫn còn phải chạy đôn chạy đáo lên tiếng bênh vực cho các anh nhà văn – mà lẽ ra phải là ngược lại – thì không có gì đáng để các anh nhà văn đó tự hãnh diện hay đáng được người khác vinh danh ca ngợi cả (4). Chính phủ Việt Nam có cho xuất bản tác phẩm nào của chị chưa?
Thụy Vũ: Chưa. Cách đây không lâu, họ có xin tôi truyện ngắn “Muỗng nước mắm” mà Tà Cúc nhắc đó để in trong một tạp chí nhưng tôi không cho họ đăng. Sách của tôi còn bị cấm toàn diện.
Nguyễn Tà Cúc: Sau cùng, nếu chị được làm lại từ đầu, chị có chọn làm nhà văn không?
Thụy Vũ: Không, giữa làm nhà văn và được là một người vợ hạnh phúc thì tôi chọn hạnh phúc.
Nguyễn Tà Cúc: Tác giả Thụy Vũ có thể không muốn làm nhà văn nhưng độc giả Nguyễn Tà Cúc lại muốn chị cứ là nhà văn để được đọc những tác phẩm hoặc là nghệ thuật hoặc là phản ảnh một phần xã hội Miền Nam bấy giờ. Cảm ơn chị đã nói chuyện với Tà Cúc và cảm ơn anh Văn Quang đã dàn xếp cho hai chị em có dịp hàn huyên.
Sài Gòn – California, ngày 19.3.2014
Nguyễn Tà Cúc
(Khởi Hành số 207-208, March-April 2014)
Chú thích:
(1) Đỗ Phương Khanh (bà Nhật Tiến) sinh tại Nam Định, xuất hiện lần đầu với truyện ngắn Đi Mua Giầy trên Giai Phẩm Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh. Sau khi Văn Hóa Ngày Nay đình bản, bà qua cộng tác với tạp chí Tân Phong của nhà văn Nguyễn Thị Vinh với nhiều truyện ngắn khác, sau xuất bản thành tập truyện Hương Thu do Đông Phương ấn hành. Sau biến cố Tết Mậu Thân 1968, bà về làm quản lý cơ sở ấn loát Hồng Lam ở Sài Gòn do Linh Mục Cao Văn Luận làm Giám Đốc.
Đầu thập niên 70, bà giữ vai trò quản lý trị sự cho tuần báo Thiếu Nhi đồng thời phụ trách trang Vườn Hồng và sinh hoạt với Gia Đình Thiếu Nhi là một tập hợp độc giả của tuần báo này cho tới năm 1975. Cũng trong thời gian này, Đỗ Phương Khanh phụ trách trang nhi đồng cho nhật báo Hòa Bình với bút hiệu Mai Loan và là người phụ trách trang Phụ Nữ của nhật báo Dân Chủ cho tới năm 1975. Bà cũng là giám đốc vườn trẻ Anh Vũ, một cơ sở mẫu giáo chuyên dạy trẻ em theo phương pháp Montessori từ năm 1973 tới 1975. Tại Hoa Kỳ, bà dịch những tài liệu về Bảo Vệ Loài Vật và những câu chuyện của J. Krishnamurti với những bút hiệu Danny Việt, Vy Khanh …, đồng thời biên soạn “Chương trình tìm hiểu Phật pháp Tuệ Đăng” phát thanh hằng tuần trên Little Saigon Radio và Hồn Việt TV với bút hiệu Liên Hương. Bà hiện cư ngụ tại Nam California.
(http://phuongkhanhdo.wordpress.com/category/trang-chinh/)
(2) Mai Quốc Liên nguyên quán tại Điện Phước, Điện Bàn, Quảng Nam, là giám đốc Trung tâm Quốc học, giáo sư đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh v.v. Ông cũng là người viết tựa và đỡ đầu cho bộ Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác – một người từng có mặt trong buổi họp đó, sau vượt biển sang Hoa Kỳ làm chủ nhiệm chủ bút báo Văn Học. Khi bộ truyện này được nxb Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 1998 tại Sài gòn. Thật không đáng tiếc: một người bị mắng như thế mà không có phản ứng thì sự quay về nhờ vả kẻ mắng mình cũng không có gì là lạ.
(3) Chữ của Viên Linh chỉ Vũ Hạnh trong bài viết “Anh Lùn Cạnh Nhà Thờ Đức Bà” đăng trên tuần báo Nghệ Thuật số 27 tháng 4.1966. [VL chú thích]: Nguyên tháng 2.1966 trên tờ Tin Sách của Trung tâm Bút Việt (Văn Bút V.N.) Vũ Hạnh chê thơ tự do đang suy mòn và “thơ tự do hiện tại là con đẻ của lý trí nhất thời, đã bị lý trí từ khước, và nếu nó còn tồn tại ở mức nào là nhờ nó được nuôi dưỡng ở lòng tự ái nhiều hơn.” Ở đoạn khác ông ta viết: “Không có một cái nội dung dân tộc cụ thể, mọi sự đổi mới cũng sớm trở thành trừu tượng mâu thuẫn và xa dần dân tộc.”
Lúc đó ai cũng biết nhóm VC nằm vùng (trong có Vũ Hạnh), lúc nào cũng mang chiêu bài dân tộc làm một cái khiên để bôi nhọ các nhà văn gốc Bắc di cư vào Nam sau 1954 và chia rẽ họ với đồng bào trong Nam. Bài trên ông ta viết chỉ trích cuốn tiểu luận nhan đề Tiếp Nối của Trần Thanh Hiệp do Sáng Tạo xuất bản, nhân đó phỉ báng thơ tự do, phỉ báng các nhà thơ qua mấy chữ “thơ tự do còn tồn lại là nhờ được nuôi dưỡng bằng lòng tự ái” [của những người làm thơ].
Tôi dùng hình ảnh anh lùn để chỉ Vũ Hạnh, như một người có khuyết tật (như anh gù Quasimodo của Victor Hugo) sống cạnh nhà thờ là bám víu vào lòng bác ái của các tín đồ ngoan đạo, kiểu cán bộ Vũ Hạnh bám víu vào hai chữ dân tộc để che mắt miền Nam hầu sống còn trong khi mưu đồ của họ là khác. Ít nhất ông ta cũng che mắt được hai ông Thanh Lãng và Phạm Việt Tuyền, chủ tịch và TTK hội Bút Việt, để cứu ông ta ra khỏi tù, rồi còn dùng tờ báo của hội để hoạt động cho cộng sản trong nhiều năm.
(4) Lạ lùng hơn nữa là cái thái độ im lặng khả nghi ấy kèm thêm cái sự thực là mấy tác giả được cho in lại nhiều tác phẩm sau 1975 thì được tung hô vạn tuế ầm ầm trong khi sự can đảm của những phụ nữ như Thụy Vũ, như Đỗ Phương Khanh v.v… trong lúc đổi đời với loại tòa án nhân dân với những kẻ vô văn hóa như Mai Quốc Liên thì hầu như không nói tới. Điều phi lý ở đây là, nếu một tác giả Miền Nam cho phép các nhà xuất bản của chính phủ tái bản tác phẩm trước 1975 để vừa có danh vừa có tiền tác quyền, như trường hợp nhà văn Dương Nghiễm Mậu, thì khi bị tấn công, anh (hay chị) phải chịu trách nhiệm, chứ không thể ngồi chờ người khác lên tiếng cho mình trong khi các “người khác” vẫn bị cấm xuất bản hay tái bản.
Dĩ nhiên, không ai có thể phán xét ai (người viết không có lời bàn nào về sự im lặng của Dương Nghiễm Mậu tại đây, trong bài phỏng vấn này) nhưng nói chung, đời nào lại có chuyện dễ dàng mà oái oăm như thế: anh vừa được nhà nước — cái nguồn đàn áp dân ngu khu đen và đồng nghiệp Miền Nam trước 1975 — cho phép tái-xuất bản rồi anh lại mong hay đợi cái đám nạn nhân bị đàn áp — đám dân ngu khu đen và nhất là đám đồng nghiệp Miền Nam trước 1975 vẫn còn bị cấm tái bản hay xuất bản — phí giấy và phí chữ bênh vực cho anh khi anh bị quản giáo văn nghệ tấn công?!
• Oái oăm hơn nữa là nếu cứ im lặng đi thì cũng là một nhẽ, đằng này lại có kẻ viết bài cả gan gán cho sự im lặng đó những danh hiệu cao quý do anh ta đoán ra để choàng những vòng hoa hâm mộ lẽ ra chỉ dành cho người tuẫn tiết vì đã dám lên tiếng! Sự thực là nếu ai cũng im lặng hết thì người Miền Nam lấy gì để chứng minh là họ đã không đầu hàng, không quy xuống? Và tiếp tục không quy xuống dù đã phải tiếp tục trả cái giá rất đắt cho đời văn của họ cho tới nay? Như Thụy Vũ? Và như bao nhiêu tác giả khác nữa?
• Chú thích thêm của Thày Cò Ca Hát:
1. Cách đây 7, 8 năm, một văn hữu từ V.N. hỏi chúng tôi có phải tờ Khởi Hành trước 75 từng bị tịch thu vì đã đăng bài thơ mà nhạc sĩ Phạm Duy sau đó phổ nhạc không? (Bài thơ đó có những. câu như “anh trở về dang dở đời em”). Không hề có chuyện đó và Khởi Hành không bao giờ bị tịch thu vì bất cứ nguyên do gì. Tôi có hỏi: Tại sao giờ này các anh muốn rêu rao là hồi VNCH thơ văn các anh bị tịch thu, để làm gì? Có phải các anh muốn đánh tiếng cho chế độ hiện hành tin rằng hồi xưa sáng tác của các anh bị tịch thu, vì các anh chống VNCH đấy chứ? Các anh cần đến nỗi phải bịa ra chuyện không có là Khởi Hành bị tịch thu vì đăng thơ anh.
2. Chuyện tương tự mới xảy ra một hai tháng nay: một nhà văn ở miền gió cát mới viết một bài bênh vực bạn mình, rằng bạn mình từng viết trên tờ Thời Tập của Viên Linh hồi đầu năm 75 rằng “nhất quyết ở lại, không chạy theo Mỹ, vì không làm chó săn cho chủ.” Giờ này (2014) anh rêu rao là hồi 1975 anh đã tuyên bố không di tản là nhằm ý gì? Để chứng tỏ với chế độ hiện hành là anh có công, anh từng có lòng “ở lại với cách mạng” từ 1975 chăng? Anh cứ yên tâm, lòng anh ra sao người ta đều biết cả.
Hết bài phỏng vấn!
__Tham khảo:
Nhà Văn Thụy Vũ: – một tác giả nữ bắt đầu xuất hiện trên văn đàn miền Nam từ những năm 60s trên Bách Khoa- cùng thời với một Túy Hồng điên “cơn điên tím” rất Huế, một Nguyễn Thị Hoàng chói chang (& rạo rực?!?) nắng hạ của “vòng tay học trò”, một Nhã Ca nói chuyện Huế Mậu Thân và “đời sống ôi buồn như cỏ khô”...Nguyễn Thị Thụy Vũ hiện ra với một hình ảnh trần trụi khác, đời sống của một tầng lớp khá đặc biệt trong xã hội miền Nam thời đó – đời sống của gái bán bar – nơi đó không có những chất vấn siêu hình, những suy tư thời cuộc, thân phận… như đã từng bắt gặp đâu đó trong những truyện ngắn, dài của các tác giả nữ cùng thời…mà chỉ là một trần trụi của đời sống & một cách thế sống riêng tây của một “tầng lớp” như thế, nhưng rốt ráo, họ vẫn là những con người, niềm riêng đầy đau đớn, sần sùi lại bị quăng quật vào một phông nền phi lý của chiến tranh – mặc dù trong nhiều truyện của Nguyễn Thị Thụy Vũ, bà chỉ như viết ra những diễn biến thấy ngay trước mắt – nhưng gieo vào lòng người đọc những suy nghĩ về những cái thỏa hiệp (phải có) với đời sống, cái nồng tanh của đời sống thay vì chỉ là những phong hoa tuyết nguyệt, những vuốt ve mơn man… Cách viết ấy, nếu có thể tượng hình, có thể đó là cái đau điếng quật xuống của làn roi, phô bày hết những nhức nhối.
Tuy nhiên, sau cái sự trần trụi ấy (trần trụi của cuộc sống gái bán bar, lấy Tây hay những mảnh đời đặc biệt, nhiều “ẩn ức” khác) – trần trụi từ ngôn ngữ của các nhân vật..cho đến ngôn ngữ xây dựng câu chuyện của tác giả – là một khát khao sống…sống ngay cả trong đống bùn của đời sống mang đến, của thân phận, sống trong những chông chênh của cuộc nội chiến, (mặc dù nhiều khi là) giành giựt nhau sống, tranh chấp nhau sống….Vượt thoát & sống! Sự phóng túng và nuông chiều chính bản thân trong những khát khao tầm thường, bản năng… buộc mình trôi theo dòng … làm rúng độc độc giả của miền Nam một thời là như thế…
Trong bài PV có nhắc đến truyện Muỗng Nước Mắm (cũng xuất hiện trong tuyển tập Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta 1974 với tên là Lòng Trần), một sự kiện về Vũ Hạnh, tôi cũng xin cung cấp tài liệu đó trên blog này
Viên Linh gọi Vũ Hạnh là “Anh Lùn Cạnh Nhà Thờ Đức Bà” trên tuần báo Nghệ Thuật số 27 tháng 4.1966. [VL chú thích]: Nguyên tháng 2.1966 trên tờ Tin Sách của Trung tâm Bút Việt (Văn Bút V.N.) Vũ Hạnh chê thơ tự do đang suy mòn và “thơ tự do hiện tại là con đẻ của lý trí nhất thời, đã bị lý trí từ khước, và nếu nó còn tồn tại ở mức nào là nhờ nó được nuôi dưỡng ở lòng tự ái nhiều hơn.” Ở đoạn khác ông ta viết: “Không có một cái nội dung dân tộc cụ thể, mọi sự đổi mới cũng sớm trở thành trừu tượng mâu thuẫn và xa dần dân tộc”.
Lúc đó ai cũng biết nhóm VC nằm vùng (trong có Vũ Hạnh), lúc nào cũng mang chiêu bài dân tộc làm một cái khiên để bôi nhọ các nhà văn gốc Bắc di cư vào Nam sau 1954 và chia rẽ họ với đồng bào trong Nam. Bài trên ông ta viết chỉ trích cuốn tiểu luận nhan đề Tiếp Nối của Trần Thanh Hiệp do Sáng Tạo xuất bản, nhân đó phỉ báng thơ tự do, phỉ báng các nhà thơ qua mấy chữ “thơ tự do còn tồn lại là nhờ được nuôi dưỡng bằng lòng tự ái” [của những người làm thơ]. Tôi dùng hình ảnh anh lùn để chỉ Vũ Hạnh, như một người có khuyết tật (như anh gù Quasimodo của Victor Hugo) sống cạnh nhà thờ là bám víu vào lòng bác ái của các tín đồ ngoan đạo, kiểu cán bộ Vũ Hạnh bám víu vào hai chữ dân tộc để che mắt miền Nam hầu sống còn trong khi mưu đồ của họ là khác}
TƯỞNG NĂNG TIẾN * TIỀN HỒ
Monday, September 1, 2014
Năm Ngàn & Năm Cắc - Tưởng Năng Tiến
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến (Danlambao)
Lão bà nghỉ chợ bần thần
Đem tiền (Cụ Hồ) ra đếm mấy lần chửa xong
Xếp riêng rồi lại xếp chung
Miệng thời lẩm bẩm mà... (không rõ nhời)!
Năm Ngàn & Năm Cắc - Tưởng Năng Tiến
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến (Danlambao)
Lão bà nghỉ chợ bần thần
Đem tiền (Cụ Hồ) ra đếm mấy lần chửa xong
Xếp riêng rồi lại xếp chung
Miệng thời lẩm bẩm mà... (không rõ nhời)!
Lão Nông
Vài bữa sau, sau ngày đổi tiền ở miền Nam, tờ Sài Gòn Giải phóng (số ra hôm 27 tháng 9 năm 1975) đã gửi đến những người dân ở vùng đất này đôi lời an ủi:
“Nhiệm vụ của đồng bạc Sài Gòn (là) giữ vai trò trung gian cho Diệm xuất cảng sức lao động của đồng bào ta ở miền Nam cho Mỹ... Làm trung gian để tiêu thụ xương máu nhân dân miền Nam, làm trung gian để tiêu thụ thân xác của vô số thiếu nữ miền Nam, làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ miền Nam, làm lụn bại cả phẩm chất một số người lớn tuổi... Nó sống 30 năm dơ bẩn, tủi nhục như các tên chủ của nó, và nay nó đã chết cũng tủi nhục như thế. Đó là một lẽ tất nhiên, và đó là lịch sử... Cái chết của nó đem lại phấn khởi, hồ hởi cho nhân dân ta.”
Ba mươi tám năm sau, nhà báo Huy Đức lại có lời bàn thêm, và bàn ra, nghe như một tiếng thở dài: “Không biết ‘tủi nhục’ đã mất đi bao nhiêu... nhưng rất nhiều tiền bạc của người dân miền Nam đã trở thành giấy lộn.” (Bên thắng cuộc, tập I. OsinBook, Westminster, CA: 2013).
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” ở nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm!
Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai.
Đồng tiền 50 xu, năm cắc, in hình ông Ngô Đình Diệm, phát hành năm 1960
Tờ một đồng, phát hành năm 1955
Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn - vào năm 1960 - khi mới vừa biết sài tiền?
Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá bào nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản - hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát - để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi cho đến khi xi rô bạc hết cả mầu mới ngừng tay, lễ phép xin thêm:
- Cho con thêm chút xi rô nữa được không?
- Được chớ sao không. Bữa nào tụi bay cũng vậy mà còn làm bộ hỏi!
Năm cắc đủ cho một chén bò viên, dù chỉ được một viên thôi nhưng khi nắp thùng nước lèo mở ra là không gian (của cả Sài Gòn) bỗng ngạt ngào hương vị. Chút nước thánh đó - sau khi đã nhai thiệt chậm miếng thịt pha gân vừa ròn, vừa ngậy - hoà nhẹ với chút xíu tương đỏ, tương đen, cùng ớt xa tế ngọt ngọt cay cay có thể khiến cho đứa bé xuýt xoa mãi cho đến... lúc cuối đời.
Năm cắc cũng đủ làm cho chú Chệt vội vã thắng xe, mở ngay bình móp, lấy miếng kem - xắn một phần vuông vắn, cắm phập vào que tre - rồi trịnh trọng trao hàng với nụ cười tươi tắn. Cắn một miếng ngập răng, đậu xanh ngọt lạnh thấm dần qua lưỡi, rồi tan từ từ... suốt cả thời thơ ấu.
Năm cắc là giá của nửa ổ bánh mì tai heo, nửa má xoài tượng hay một xâu tầm ruột ướp nước đường, một cuốn bò bía, một trái bắp vườn, một ly đậu xanh đậu đỏ bánh lọt, một dĩa gỏi đu đủ bò khô, một khúc mía hấp, năm cái bánh bò nước dừa xanh đỏ, mười viên cái bi ròn ròn cái bi ngon ngon nho nhỏ...
Một một đồng thì (Trời ơi!) đó là cả một trời, và một thời, hạnh phúc muôn mầu!
Một đồng mua được hai quả bóng bay. Chiều Sài Gòn mà không có bong bóng bay (cầm tay) để tung tăng e sẽ là một buổi chiều... tẻ nhạt. Những chùm bóng đủ mầu sẽ rực rỡ hơn khi phố mới lên đèn và sẽ rực rỡ mãi trong trong ký ức của một kẻ tha hương, dù tóc đã điểm sương.
Còn hai đồng là nguyên một tô cháo huyết có thêm đĩa dà trá quẩy ròn rụm đi kèm. Hai đồng là một tô mì xắt xíu với cái bánh tôm vàng ươm bên trên, và nửa cọng rau xà lách tươi xanh bên dưới. Tờ giấy bạc với mệnh giá quá lớn lao và rất hiếm hoi này, không ít lúc, đã khiến cho tuổi thơ của tôi vô cùng phân vân và bối rối!
Tờ bạc hai đồng, phát hành năm 1955
Và trong cái lúc mà tôi còn đang suy tính, lưỡng lự, cân nhắc giữa bốn cái kem đậu xanh năm cắc, bốn cuốn bò bía, bốn ly nước mía, hay một tô hủ tíu xắt xíu thịt bằm béo ngậy (cùng) giá hai đồng thì ở bên kia chiến tuyến người ta đã quyết định cho ra đời Mặt trận Giải phóng Miền Nam - vào ngày 20 tháng 12 năm 1960.
Hệ quả thấy được, vào mười lăm năm sau - vẫn theo báo Sài Gòn Giải phóng, số thượng dẫn:
“Miền Nam đã có một nền tiền tệ mới, khai sinh từ sự độc lập toàn vẹn của xứ sở, nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã nâng niu từng tờ bạc của Ngân hàng Việt Nam với một niềm hãnh diện chưa từng thấy sau bao nhiêu thế kỷ mất nước phải ép mình sống với đồng bạc của ngoại bang.”
Niềm hãnh diện được nâng niu từng tờ bạc mới (nếu có) cũng nhỏ dần sau từng đợt đổi tiền. Rồi với thời gian những tờ bạc này đã từ từ biến thành... giấy lộn - như tường thuật của nhà báo Bạch Nga, đọc được trên Vietnamnet hôm 21 tháng 5 năm 2012:
“Trong khi ngồi đợi xe ở trạm trung chuyển xe bus Long Biên, tôi được dịp chứng kiến cảnh một bà lão ăn xin chê tiền của khách.
‘Cô tính thế nào chứ 2 nghìn bây giờ chả đủ mua mớ rau, lần sau đã mất công cho thì cho ‘tử tế’ nhá!’
Câu nói của bà lão ăn xin khiến nhiều người phải sốc...
Chị Hương (Cầu Giấy – Hà Nội) chia sẻ câu chuyện có thật mà như đùa: ‘Nói thật, có lần gặp hai chị em nhà này đi ăn xin, thương tâm quá tôi liền rút ví ra đưa cho chúng 3 nghìn lẻ. Ngay lập tức, nó gọi tôi lại, giơ tờ 5 nghìn đồng lên trước mặt tôi bảo: cho chị thêm 2 nghìn cho đủ mua mớ rau nhé.”
Và đó là chuyện xẩy ra năm trước. Năm nay - sau khi dự phiên họp ngày 14 tháng 5 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, sau khi nghe các báo cáo của Chính phủ và Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính về ngân sách những tháng đầu năm 2013 - Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan bỗng (chợt) nhận ra rằng: “Tình hình kinh tế gay go lắm rồi!”
Ủa, “gay go” thiệt sao?
Mà “gay go” tới cỡ nào lận?
Ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, người đã từng lạc quan tuyên bố “năm 2015 sẽ có một Vinashin mới” nay đã bắt đầu đổi giọng: “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới 100.000 doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn hơn 65%.” Và đã đến nước này thì ông phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương,Nguyễn Xuân Cường, cũng đành phải (xuôi xị) nói theo thôi: “Tình hình đúng là hết sức đáng lo ngại.”
Điều lo ngại nhất là bó rau muống sẽ không ngừng ở giá năm ngàn đồng bạc. Dù với số tiền này - vào năm 1960 - đủ để mua hai ngàn tô phở gánh, hay hai ngàn năm trăm tô mì xe, hoặc mười ngàn chiếc bong bóng đủ mầu.
Tiền việt cộng
Bù lại, vẫn theo lời của bà Phó Chủ Tịch Nước Nguyễn Thị Doan, là mọi người được sống với“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân... khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản.”
Cái giá của “dân chủ” (cũng như Độc lập - Tự do - Hạnh phúc) của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, rõ ràng, hơi mắc. Dân Việt, tội thay, không những đã hớ mà còn mua nhầm đồ giả và đồ đểu nữa mới chết (mẹ) chớ!
Tưởng Năng Tiến
danlambaovn.blogspot.com
Vài bữa sau, sau ngày đổi tiền ở miền Nam, tờ Sài Gòn Giải phóng (số ra hôm 27 tháng 9 năm 1975) đã gửi đến những người dân ở vùng đất này đôi lời an ủi:
“Nhiệm vụ của đồng bạc Sài Gòn (là) giữ vai trò trung gian cho Diệm xuất cảng sức lao động của đồng bào ta ở miền Nam cho Mỹ... Làm trung gian để tiêu thụ xương máu nhân dân miền Nam, làm trung gian để tiêu thụ thân xác của vô số thiếu nữ miền Nam, làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ miền Nam, làm lụn bại cả phẩm chất một số người lớn tuổi... Nó sống 30 năm dơ bẩn, tủi nhục như các tên chủ của nó, và nay nó đã chết cũng tủi nhục như thế. Đó là một lẽ tất nhiên, và đó là lịch sử... Cái chết của nó đem lại phấn khởi, hồ hởi cho nhân dân ta.”
Ba mươi tám năm sau, nhà báo Huy Đức lại có lời bàn thêm, và bàn ra, nghe như một tiếng thở dài: “Không biết ‘tủi nhục’ đã mất đi bao nhiêu... nhưng rất nhiều tiền bạc của người dân miền Nam đã trở thành giấy lộn.” (Bên thắng cuộc, tập I. OsinBook, Westminster, CA: 2013).
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” ở nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm!
Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai.
Đồng tiền 50 xu, năm cắc, in hình ông Ngô Đình Diệm, phát hành năm 1960
Tờ một đồng, phát hành năm 1955
Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn - vào năm 1960 - khi mới vừa biết sài tiền?
Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá bào nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản - hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát - để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi cho đến khi xi rô bạc hết cả mầu mới ngừng tay, lễ phép xin thêm:
- Cho con thêm chút xi rô nữa được không?
- Được chớ sao không. Bữa nào tụi bay cũng vậy mà còn làm bộ hỏi!
Năm cắc đủ cho một chén bò viên, dù chỉ được một viên thôi nhưng khi nắp thùng nước lèo mở ra là không gian (của cả Sài Gòn) bỗng ngạt ngào hương vị. Chút nước thánh đó - sau khi đã nhai thiệt chậm miếng thịt pha gân vừa ròn, vừa ngậy - hoà nhẹ với chút xíu tương đỏ, tương đen, cùng ớt xa tế ngọt ngọt cay cay có thể khiến cho đứa bé xuýt xoa mãi cho đến... lúc cuối đời.
Năm cắc cũng đủ làm cho chú Chệt vội vã thắng xe, mở ngay bình móp, lấy miếng kem - xắn một phần vuông vắn, cắm phập vào que tre - rồi trịnh trọng trao hàng với nụ cười tươi tắn. Cắn một miếng ngập răng, đậu xanh ngọt lạnh thấm dần qua lưỡi, rồi tan từ từ... suốt cả thời thơ ấu.
Năm cắc là giá của nửa ổ bánh mì tai heo, nửa má xoài tượng hay một xâu tầm ruột ướp nước đường, một cuốn bò bía, một trái bắp vườn, một ly đậu xanh đậu đỏ bánh lọt, một dĩa gỏi đu đủ bò khô, một khúc mía hấp, năm cái bánh bò nước dừa xanh đỏ, mười viên cái bi ròn ròn cái bi ngon ngon nho nhỏ...
Một một đồng thì (Trời ơi!) đó là cả một trời, và một thời, hạnh phúc muôn mầu!
Một đồng mua được hai quả bóng bay. Chiều Sài Gòn mà không có bong bóng bay (cầm tay) để tung tăng e sẽ là một buổi chiều... tẻ nhạt. Những chùm bóng đủ mầu sẽ rực rỡ hơn khi phố mới lên đèn và sẽ rực rỡ mãi trong trong ký ức của một kẻ tha hương, dù tóc đã điểm sương.
Còn hai đồng là nguyên một tô cháo huyết có thêm đĩa dà trá quẩy ròn rụm đi kèm. Hai đồng là một tô mì xắt xíu với cái bánh tôm vàng ươm bên trên, và nửa cọng rau xà lách tươi xanh bên dưới. Tờ giấy bạc với mệnh giá quá lớn lao và rất hiếm hoi này, không ít lúc, đã khiến cho tuổi thơ của tôi vô cùng phân vân và bối rối!
Tờ bạc hai đồng, phát hành năm 1955
Và trong cái lúc mà tôi còn đang suy tính, lưỡng lự, cân nhắc giữa bốn cái kem đậu xanh năm cắc, bốn cuốn bò bía, bốn ly nước mía, hay một tô hủ tíu xắt xíu thịt bằm béo ngậy (cùng) giá hai đồng thì ở bên kia chiến tuyến người ta đã quyết định cho ra đời Mặt trận Giải phóng Miền Nam - vào ngày 20 tháng 12 năm 1960.
Hệ quả thấy được, vào mười lăm năm sau - vẫn theo báo Sài Gòn Giải phóng, số thượng dẫn:
“Miền Nam đã có một nền tiền tệ mới, khai sinh từ sự độc lập toàn vẹn của xứ sở, nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã nâng niu từng tờ bạc của Ngân hàng Việt Nam với một niềm hãnh diện chưa từng thấy sau bao nhiêu thế kỷ mất nước phải ép mình sống với đồng bạc của ngoại bang.”
Niềm hãnh diện được nâng niu từng tờ bạc mới (nếu có) cũng nhỏ dần sau từng đợt đổi tiền. Rồi với thời gian những tờ bạc này đã từ từ biến thành... giấy lộn - như tường thuật của nhà báo Bạch Nga, đọc được trên Vietnamnet hôm 21 tháng 5 năm 2012:
“Trong khi ngồi đợi xe ở trạm trung chuyển xe bus Long Biên, tôi được dịp chứng kiến cảnh một bà lão ăn xin chê tiền của khách.
‘Cô tính thế nào chứ 2 nghìn bây giờ chả đủ mua mớ rau, lần sau đã mất công cho thì cho ‘tử tế’ nhá!’
Câu nói của bà lão ăn xin khiến nhiều người phải sốc...
Chị Hương (Cầu Giấy – Hà Nội) chia sẻ câu chuyện có thật mà như đùa: ‘Nói thật, có lần gặp hai chị em nhà này đi ăn xin, thương tâm quá tôi liền rút ví ra đưa cho chúng 3 nghìn lẻ. Ngay lập tức, nó gọi tôi lại, giơ tờ 5 nghìn đồng lên trước mặt tôi bảo: cho chị thêm 2 nghìn cho đủ mua mớ rau nhé.”
Và đó là chuyện xẩy ra năm trước. Năm nay - sau khi dự phiên họp ngày 14 tháng 5 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, sau khi nghe các báo cáo của Chính phủ và Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính về ngân sách những tháng đầu năm 2013 - Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan bỗng (chợt) nhận ra rằng: “Tình hình kinh tế gay go lắm rồi!”
Ủa, “gay go” thiệt sao?
Mà “gay go” tới cỡ nào lận?
Ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, người đã từng lạc quan tuyên bố “năm 2015 sẽ có một Vinashin mới” nay đã bắt đầu đổi giọng: “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới 100.000 doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn hơn 65%.” Và đã đến nước này thì ông phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương,Nguyễn Xuân Cường, cũng đành phải (xuôi xị) nói theo thôi: “Tình hình đúng là hết sức đáng lo ngại.”
Điều lo ngại nhất là bó rau muống sẽ không ngừng ở giá năm ngàn đồng bạc. Dù với số tiền này - vào năm 1960 - đủ để mua hai ngàn tô phở gánh, hay hai ngàn năm trăm tô mì xe, hoặc mười ngàn chiếc bong bóng đủ mầu.
Tiền việt cộng
Bù lại, vẫn theo lời của bà Phó Chủ Tịch Nước Nguyễn Thị Doan, là mọi người được sống với“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân... khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản.”
Cái giá của “dân chủ” (cũng như Độc lập - Tự do - Hạnh phúc) của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, rõ ràng, hơi mắc. Dân Việt, tội thay, không những đã hớ mà còn mua nhầm đồ giả và đồ đểu nữa mới chết (mẹ) chớ!
Tưởng Năng Tiến
danlambaovn.blogspot.com
LƯU QUANG VŨ
Ký ức về những lần kiểm duyệt kịch Lưu Quang Vũ
Hà Linh
Thứ sáu, 29/8/2014 | 09:59 GMT+7
Thứ sáu, 29/8/2014 | 09:59 GMT+7
Giá trị phát hiện và phơi bày thực trạng xã hội trong kịch Lưu QuangVũ đã khiến các đạo diễn “trầy vi tróc vẩy” với những quy chụp nói xấu chế độ ở cái thời “ai cũng có quyền kiểm duyệt”.
NSND Phạm Thị Thành và
NSƯT Hoàng Quân Tạo là hai đạo diễn gắn bó với kịch Lưu Quang Vũ. Phạm
Thị Thành từng dựng 24 vở của anh, còn Hoàng Quân Tạo đã thắp đèn cho
hàng chục sân khấu từ Bắc chí Nam với bộ ba Tôi và Chúng ta, Khoảnh khắc và vô tận, Quyền được hạnh phúc… 26 năm sau khi Lưu Quang Vũ qua đời, bằng những cách lưu giữ khác nhau, ký ức của họ về anh lại sống dậy.
Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ (1948 – 1988).
|
Đạo diễn Phạm Thị Thành có một kho tư liệu nhỏ chứa ảnh, ghi chép, tờ chương trình, tờ quảng cáo… về những vở kịch bà từng dựng với Lưu Quang Vũ. Vừa chỉ tay vào một tấm ảnh trong cuốn album
đã úa vàng, bà vừa nói: “Vũ đây, cao to, lãng tử, chụp ảnh lúc nào cũng
đứng sau hoặc hai rìa mép. Anh ấy viết giỏi hơn nói; hay nép mình ở chỗ
đông người nhưng lại phơi bày đến tận cùng những khát khao của bản thân trên trang
viết”. Khát khao đó, nữ đạo diễn lý giải, là nói lên sự thật, vạch ra
những mặt trái và đòi hỏi sự minh bạch trong cuộc sống đương thời. Đạo
diễn Hoàng Quân Tạo mô tả: “Vũ hiền, hay cười, ít nói, trẻ tuổi nhưng
suy nghĩ rất già dặn, rất nhiều trăn trở”.
Sự già dặn, trăn trở ấy kết hợp với chất văn học của
kịch nói tạo nên tầm tư tưởng lớn cho những vở kịch của anh. Ở những năm
1980, khi phần lớn tác giả chỉ quen viết một chiều, nhìn một phía, phản ánh niềm tin tuyệt đối, thì các nhân vật của Lưu Quang Vũ luôn nghi
ngờ, luôn phản biện, thậm chí nói thẳng ra rằng: “Các đồng chí không
muốn hoặc không dám nhìn thẳng sự thật”; “Nguyên tắc sinh ra là để phục
vụ sự sống chứ không phải phục vụ những nguyên tắc” (Hoàng Việt – Tôi và Chúng ta); “Vẫn biết bác là đầy tớ của nhân dân nhưng đến được nhà các ông đầy tớ khó lắm” (Quých – Tôi và Chúng ta)… Giới phê bình nhận định, kịch Lưu Quang Vũ đã phát hiện, vạch ra gần như mọi sự bất ổn, xung đột của xã hội đương thời và dự báo, bảo vệ những mầm mống của cái mới, cái tiến bộ.
Chính vì tiếng nói mạnh mẽ, đi trước thời đại
đó, mà để đến được với công chúng ở cái thời “ai cũng có quyền kiểm
duyệt”, các đạo diễn, diễn viên đã phải trầy vi tróc vẩy. Đạo diễn Hoàng Quân Tạo chiasẻ,
bây giờ ngẫm lại, ông chỉ biết cười xòa nhưng những ngày đó, mỗi lần
dựng vở Lưu Quang Vũ là một lần ông phải trầy trật chỉnh lên sửa xuống
với bao nhiêu tầng kiểm duyệt. Ông kể, dựng Tôi và Chúng ta –
vở kịch về sự lạc hậu của cơ chế bao cấp, sự xung đột giữa cá nhân và
tập thể – ông phải qua ít nhất 12 lần duyệt. Đạo diễn ví dụ, chỉ với câu
thoại nhân vật Quých nói với Bộ trưởng: “Ở dưới các bác còn nhiều người
lợi dụng chức quyền làm khổ chúng tôi [...] mà các bác thì như giời ấy,
giời ở cao quá, không đến được”, ông phải lên gặp cơ quan kiểm duyệt
nhiều lần chỉ để trả lời câu hỏi: “Tại sao anh lại để nhân vật nói như
thế này?”.
Diễn viên Hoàng Cúc – người nổi tiếng với vai Thanh trong vở này – kể lại: “Thoại của nhân vật bị sửa chỗ này một chút, chỗ kia
một chút. Diễn viên chúng tôi rất khốn khổ, vừa tập vừa lo, vì chỉ cần
một người quên thoại, vấp thoại là vở có khả năng đứt mạch”. Khi Tôi và Chúng ta
được diễn cho các lãnh đạo Trung ương xem, đạo diễn Hoàng Quân Tạo quả
quyết: “Dám làm dám chịu, phải giữ lại bản gốc của Lưu Quang Vũ”. Trong
khi diễn, ở cánh gà bên này, một vị lãnh đạo phụ trách kiểm duyệt theo
sát từng chuyển động của diễn viên; ở cánh gà bên kia, Hoàng Quân Tạo
như ngồi trên đống lửa. Kết thúc cảnh một, trong lúc giải lao, ông hồi
hộp xuống khán đài hỏi ý kiến của Ủy viên Bộ Chính trị – Tố Hữu và Ủy
viên Ban bí thư Trung
ương Đảng – Hoàng Tùng. Tố Hữu nhận xét: “Hay! Tuyệt vời”, còn Hoàng
Tùng nói: “Đúng, tôi tán thành ý kiến của anh Lành”. Nghe vậy, ông mới
thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng không phải vở nào cũng may mắn như vậy. Ông kể,
có những vở đã được duyệt, phông đèn, ánh sáng đã xong xuôi, vé cũng đã
bán, đột nhiên, đạo diễn nhận được lệnh “ngừng diễn, thời điểm này chưa
thích hợp”. Những trường hợp như vậy, theo ông Tạo, không phải là hiếm.
Đạo diễn Phạm Thị Thành nhớ lại, bà gặp khó khăn nhất với ba vở của Lưu Quang Vũ: Mùa hạ cuối cùng, Nếu anh không đốt lửa và Người tốt nhà số 5. Với Mùa hạ cuối cùng
– vở kịch lấy đề tài trường lớp và những gian dối trong thi cử – bà và
tác giả kịch bị cho là “nói xấu 18 ban ngành”. “Việc bóc trần tiêu cực
trong thi cử bị cho là bêu xấu ngành giáo dục; chuyện học trò chê phim
Việt Nam bị nghi là xỏ xiên ngành điện ảnh, rồi họ còn tìm ra những chi
tiết liên quan đến Hội phụ nữ, các cơ quan đoàn thể khác, nhiều đến mức
tôi không nhớ nổi”, bà kể.
Khán giả đi xem vở Khoảnh khắc và vô tận của
Lưu Quang Vũ. Đạo diễn Hoàng Quân Tạo nhớ lại, vé một vở kịch lúc bấy
giờ khoảng bằng giá một bát phở chín (ba đồng phở tái, năm đồng phở
chín). Người đi xem rất đông, dù rạp lợp bằng mái tôn rất nóng nực. Ảnh tư liệu.
|
Còn với vở Nếu anh không đốt lửa phê phán
mạnh cơ chế quan liêu, bao cấp, “cặp bài trùng” Lưu Quang Vũ – Phạm Thị
Thành trải qua những giây phút nghẹt thở khi diễn cho Tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh xem. Bà nhớ lại: “Chúng tôi vừa theo dõi vở diễn, vừa phán
đoán thái độ của ông. Lúc gần kết vở, một người trợ lý của ông đi đến
chỗ chúng tôi nhắn: Tổng bí thư yêu cầu tập hợp dàn diễn viên để tặng
hoa, ông rất hài lòng. Lúc đó chúng tôi như trút được gánh nặng”.
Người tốt nhà số 5 cũng vấp phải những chỉ
trích mạnh mẽ sau khi công diễn với lý do “nói xấu chế độ”. “Họ nói,
phản ánh như thế là bôi đen, có 5 hộ thì đến 4 nhà ích kỷ, xấu xa; chỉ
có duy nhất một người tốt. Nhưng rất may, ông Trần Độ, Trưởng ban Văn
hóa Văn nghệ Trung ương lúc đó, rất ủng hộ chúng tôi. Vở kịch vì thế
được đưa đi tham dự Hội diễn sân khấu 1985 tại Vinh, Nghệ An và đoạt
giải Vàng”, nữ đạo diễn kể.
Bất chấp cơ chế kiểm duyệt phức tạp, kịch Lưu
Quang Vũ đã góp phần đưa thập niên 1980 trở thành thời kỳ đỉnh cao trong
lịch sử sân khấu dân tộc. Diễn viên Hoàng Cúc cho biết, vở Tôi và Chúng ta,
đoàn kịch diễn ròng rã hàng tháng trời ở một điểm, mỗi ngày ba suất mà
suất nào cũng đông. “Còn Lưu Quang Vũ được chúng tôi gọi là ‘Bà mẹ Âu
Cơ’ vì anh khả năng ‘đẻ’ phi thường. Đoàn nào cũng đặt hàng, thúc giục
và đòi kịch của anh”.
Đạo diễn Phạm Thị Thành có một cuốn sổ nhỏ, bìa nâu, các trang
giấy đã úa vàng. Trong sổ, bà ghi chép cụ thể chi tiết những lần duyệt
vở Lưu Quang Vũ. Đoạn chú thích trên là các ý kiến khi kiểm duyệt vở Mùa hạ cuối cùng, trong đó, Trần Độ nhận xét: “Vở tốt lắm, vấn đề đặt ra hay, giải quyết được, bắt người xem phải suy nghĩ”.
|
Đạo diễn Phạm Thị Thành và Hoàng Quân Tạo giải thích,
sân khấu những năm 1980 phát triển hoàng kim bởi những tài năng như Trần
Quán Anh, Xuân Trình, Lưu Quang Vũ… một mặt bị thúc bách bởi những yêu
cầu của thực tiễn về việc cất lên tiếng nói phản biện. Mặt khác, bên
cạnh cơ chế kiểm duyệt khắt khe, họ cũng được tạo “cú hích” bởi chính
sách mở cửa, “cởi trói” cho văn nghệ sĩ giữa những năm 1980. Tháng
10/1987, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh có cuộc gặp gỡ với đông đảo văn
nghệ sĩ để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của họ. Trong sự kiện này, Lưu
Quang Vũ đã chia sẻ mong muốn phá bỏ “bao cấp về tư tưởng”, phá bỏ “tình
trạng một người suy nghĩ cho mọi người”, để tôn trọng sự sáng tạo trong
văn hóa, nghệ thuật.
Ngay cả khát vọng đó, theo ông Hoàng Quân Tạo, đến nay
vẫn còn giá trị. Ông kể: “Tôi và Vũ từng rất nản, rất trăn trở nhưng
chưa từng trách giận những người kiểm duyệt. Bởi đơn giản, họ chỉ làm
công việc của mình. Nhưng tôi mong kiểm duyệt không chỉ là chăm chắm soi
những chi tiết gây suy diễn mà còn phải phát hiện, nâng đỡ cái hay, cái
tốt, những yếu tố tích cực để khuyến khích sáng tạo”.
Ngày 29/8/1988, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh và con trai
họ – cháu Lưu Quỳnh Thơ – ra đi trong một tai nạn giao thông. Đó là tổn
thất to lớn cho nền văn học nghệ thuật Việt Nam. Riêng với sân khấu
kịch, đến nay, người ta vẫn chưa tìm thấy một Lưu Quang Vũ thứ hai.
Hoàng Cúc nói: “Tôi chưa thấy nhà viết kịch nào được như anh – một người
lúc còn sống khiến cho người khác tỏa sáng lên cùng mình; và khi chết
đi khiến cho người ta muốn khóc đến giọt nước mắt cuối cùng”.
Những năm gần đây, hàng loạt vở kịch của Lưu Quang Vũ
được dàn dựng lại. Năm 2013, Liên hoan Các vở diễn của tác giả Lưu Quang
Vũ do Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam tổ chức thu hút 9 đoàn với 12 vở
tham gia, tạo nên không khí sôi động cho sân khấu kịch. Khán giả vẫn tiếp tục khóc, cười, thậm chí “nổi giận” với những vở kịch của ông.
Năm nay, chỉ tính riêng ở sân khấu Hà Nội, có 5 tác phẩm được trình diễn để tưởng nhớ Lưu Quang Vũ, gồm: Bệnh sĩ, Lời thề thứ 9, Chèo Nàng Sita, Mùa hạ cuối cùng và Hồn Trương Ba, da Hàng Thịt.
Nhằm khuyến khích khán giả thưởng thức những tác phẩm hay của sân khấu,
giá vé được bán với mức trung bình từ 120.000 đến 150.000 đồng. Các vở
kịch được biểu diễn tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội.
Lịch biểu diễn 5 tác phẩm Lưu Quang Vũ:
– Vở kịch Bệnh sĩ: 20h ngày 28/8.
– Đêm thơ Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ và vở kịch Lời thề thứ 9: 20h ngày 29/8. – Vở kịch Hồn Trương Ba, da Hàng Thịt: 20h ngày 30/8. – Vở chèo Nàng Sita: 20h ngày 31/8. – Vở kịch Mùa hạ cuối cùng: 20h ngày 1/9. |
Hà Linh
********
Nguồn:
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/san-khau-my-thuat/san-khau/ky-uc-ve-nhung-lan-kiem-duyet-kich-luu-quang-vu-3044211.html
Thứ Hai 1-09-2014
_____________________________
CÁI CHẾT CỦA LƯU QUANG VŨ VÀ NHỮNG "TAI NẠN" NGẪU NHIÊN ĐÁNG NGỜ
Tim Phạm
29-8-2014
Hôm nay là ngày kỷ niệm 26 năm ngày nhà văn Lưu Quang Vũ, nhà thơ Xuân Quỳnh, cùng con trai là Lưu Quỳnh Thơ từ giã cõi đời trong một vụ “tai nạn giao thông” đầy bí ẩn và đầy hoài nghi vào ngày 29/08/1988.
29-8-2014
Hôm nay là ngày kỷ niệm 26 năm ngày nhà văn Lưu Quang Vũ, nhà thơ Xuân Quỳnh, cùng con trai là Lưu Quỳnh Thơ từ giã cõi đời trong một vụ “tai nạn giao thông” đầy bí ẩn và đầy hoài nghi vào ngày 29/08/1988.
Nhà văn Lưu Quang Vũ là một trong số rất ít những người thuộc
thành phần trí thức thời bấy giờ đã dám hưởng ứng cái gọi là phong trào “Nói Thẳng,
Nói Thật” mà lịch sử đã chứng minh chỉ là một cái bẫy để tiêu diệt những thành
phần bất mãn trong nội bộ đảng, và những người bất đồng chính kiến. Bằng ngòi bút
vô cùng sắc bén của mình, nhà văn Lưu Quang Vũ đã viết nên những tác phẩm, những
vở kịch vô cùng độc đáo để châm biếm và lên án một chế độ cộng sản độc tài, bất
công, hủ lậu, xấu xa, và ngu dốt.
Những tác phẩm của anh đã tố cáo và vạch trần sự gian trá, xảo quyệt, bịp bợm của chủ nghĩa cộng sản và của các đảng viên cộng sản tại Việt Nam. Những vở kịch như: Tôi Và Chúng Ta, Chiếc Ô Công Lý, Ông Không Phải Là Bố Tôi, Lời Nói Dối Cuối Cùng, v.v… đã lột trần bộ mặt giả dối, độc ác, và vô nhân của chế độ cộng sản. Những vở kịch này cũng đã nói lên được những điều mà người dân Việt Nam cả hai miền Nam, Bắc thấy được nhưng không có đủ can đảm để vạch trần.
Những tác phẩm của anh đã tố cáo và vạch trần sự gian trá, xảo quyệt, bịp bợm của chủ nghĩa cộng sản và của các đảng viên cộng sản tại Việt Nam. Những vở kịch như: Tôi Và Chúng Ta, Chiếc Ô Công Lý, Ông Không Phải Là Bố Tôi, Lời Nói Dối Cuối Cùng, v.v… đã lột trần bộ mặt giả dối, độc ác, và vô nhân của chế độ cộng sản. Những vở kịch này cũng đã nói lên được những điều mà người dân Việt Nam cả hai miền Nam, Bắc thấy được nhưng không có đủ can đảm để vạch trần.
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi của những năm đó, cả nước
háo hức chờ xem những vở kich của Lưu Quang Vũ. Những vở kịch đó đã là những đề
tài để mọi người bàn luận và những câu nói trong những vở kịch đó đã được mọi
người dùng để giễu cợt và châm biếm chế độ một cách rất thích thú và hả hê!
Ngay cả những cán bộ cộng sản tập kết ra Bắc trước năm 1954 và tỉnh ngộ ngay
sau ngày cộng sản chiếm miền Nam cũng rất hả hê và cười đến “té ghế“ khi xem những
vở kịch này.
Thế nhưng, những người hiểu biết hơn về cộng sản thì luôn
hoài nghi về cái phong trào “Nói Thẳng, Nói Thật” đó và họ luôn ái ngại, lo lắng
về những chuyện không may có thể xảy ra cho một nhà văn tài hoa, dũng cảm, và
được mọi người yêu mến. Họ đã nghe hoặc học đươc những bài học tương tự và kết
quả thảm khốc của những Nhân Văn Giai Phẩm ở miền Bắc và Trăm Hoa Đua Nở ở
Trung Quốc.
Cuối cùng thì việc sẽ đến đã đến. Ngày 29/08/1988 cả nước
đau đớn và bàng hoàng khi nghe tin Lưu Quang Vũ, nhà thơ Xuân Quỳnh, và con
trai Lưu Quỳnh Thơ bị tử nạn trong một vụ tai nạn giao thông ở Hải Dương. Những
hoài nghi, lo lắng của những người hiểu biết về cộng sản hoàn toàn đúng! Mọi
người rỉ tai nhau rằng gia đình Lưu Quang Vũ đã bị chế độ độc tài cộng sản hãm
hại mặc cho báo đài của cộng sản vẫn tung tin về cái chết của gia đình Lưu
Quang Vũ như là một tai nạn giao thông.
Sao ngẫu nhiên vậy? Và nếu nói về ngẫu nhiên thì CSVN chắc hẳn
phải là nhà sản xuất những sự ngẫu nhiên thuộc hàng bậc nhất thế giới! Trong lịch
sử của đảng CSVN, tất cả những người bất đồng chính kiến hay bất mãn chế độ đều
kết thúc cuộc đời trong những cái chết vô cùng ngẫu nhiên, bất đắc kỳ tử, và bởi
những “tai nạn” rất đáng nghi ngờ và những chứng bệnh vô cùng khó hiểu.
Trớ trêu thay và ngẫu nhiên thay, vụ an ninh cộng sản đâm thẳng
xe vào Luật sư Nguyễn Bắc Truyển lại xảy ra chỉ một ngày trước ngày kỷ niệm 26
năm cái chết đầy oan ức của gia đình Lưu Quang Vũ. Rất may là Luật sư
Truyển đã không bị nguy hiểm đến tánh mạng, nếu không thì các báo, đài của cộng
sản sẽ lại có thêm một tai nạn vô cùng ngẫu nhiên nữa để lừa gạt người dân cả
nước!
Rồi sẽ có thêm bao nhiêu những vụ “tai nạn giao thông” nữa
được nhà cầm quyền cộng sản giàn dựng để hãm hại những người bất đồng chính kiến?
Và rồi sẽ có mấy ai tin còn rằng đó là những tai nạn giao thông? Chúng ta đã biết
quá nhiều về cộng sản để có thể tin vào những tai nạn quá ngẫu nhiên như vậy!
Xin được cầu chúc cho hương hồn nhà văn Lưu Quang Vũ, nhà
thơ Xuân Quỳnh, và Lưu Quỳnh Thơ được yên nghỉ nơi cõi vĩnh hằng, nơi mà những
“Lời Nói Dối Cuối Cùng” của cộng sản sẽ được phơi bày ra ánh sáng mà không có một
“Cái Ô Công Lý” nào có thể che đậy được!
CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN LÀ MỘT SAI LẦM
Chọn Chủ nghĩa Cộng sản là sai lầm'
Cập nhật: 09:34 GMT - thứ bảy, 30 tháng 8, 2014
Media Player
Việc lựa chọn chủ nghĩa cộng sản là một 'sai lầm' theo ý kiến của một cựu Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước TP. Hồ Chí Minh.
Trao đổi với BBC nhân bà Võ Thị Thắng, nguyên Ủy
viên Trung ương Đảng mới qua đời ở Sài Gòn, ông Huỳnh Kim Báu, cựu đồng
chí của bà Thắng trong thời gian trước 1975 tại Sài Gòn, nói:
"Chủ nghĩa Cộng sản là một sai lầm. Phải đấu tranh để loại bỏ nó đi, xây dựng một xã hội dân chủ. Chứ không thể nào duy trì một chế độ độc tài độc đảng như hiện nay"
Ông Huỳnh Kim Báu
"Khi hòa bình, chúng tôi mới tiếp cận tài liệu
và qua thực tế, thì chúng tôi mới thấy rằng chọn Chủ nghĩa Cộng sản là
một sai lầm.
"Phải đấu tranh để loại bỏ nó đi, xây dựng một
xã hội dân chủ chứ không thể nào duy trì một chế độ độc tài độc đảng như
hiện nay."
Về giới cầm quyền hiện nay ở Việt Nam, ông Hùynh Kim Báu nêu nhận xét:
"Còn giới cầm quyền, bây giờ gọi là Đảng đấy, thì đều bị tha hóa rồi, họ không còn thực hiện lý tưởng như hồi chúng tôi chọn."
Theo ông Báu, bà Võ Thị Thắng, sau khi nghỉ hết
các chức vụ đảng và chính quyền có 'chia sẻ' các suy nghĩ này của các
cựu đồng chí của bà.
"Vâng đúng rồi, chúng tôi cùng một quan điểm, cùng một lập trường mà," ông Báu khẳng định.
Ở phần mở đầu cuộc trao đổi với BBC, ông Báu đưa
ra nhận xét về con người và nhân cách của bà Võ Thị Thắng, cũng như về
một 'nghi án' chính trị chống lại bà Thắng từ trong nội bộ Đảng và chính
quyền Việt Nam.
Ông Huỳnh Kim Báu nguyên là giáo viên tại
miền Nam Việt Nam, từng tham gia các phong trào sinh viên có liên hệ với
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền nam Việt Nam ở Sài Gòn và Nam bộ, từng
là tù chính trị trong chế độ ở miền Nam trước 30/4/1975.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2014/08/140829_huynhkimbau_party_vothithang.shtml
"Chọn Chủ Nghĩa Cộng Sản là Sai Lầm,"
Huỳnh Kim Báu, một "Trí Thức Yêu Nước" nói.
Phan Vũ
Hai danh từ đối chọi nhau: Trí Thức và Sai Lầm. Galileo (1564-1642) nhà trí thức không sai lầm. Trí thức phải hoài nghi (douteux, doubtful). Khi không hồ nghi sẽ sai lầm. Trần Đức Thảo sai lầm năm 1954 và năm 1982 (?) Lê văn Thới thấy sai lầm nên "đi chui" và bị bắt lại... Năm sau, Nguyễn Hữu Thọ và bà Ngô Bá Thành phát biểu sai lầm nên mất chức. Năm nay 2014, Võ thị Thắng và Huỳnh kim Báu mới nhận sai lầm: Trễ còn hơn không; tuy nhiên bàn tay các người đã nhúng chàm đậm. Làm sao tẩy cho sạch đây?
Tình trạng đất nước rất bi đát về đất đai, biển đảo và kinh tế. Đất nước và đảo thuộc về sở hữu tập thể cộng đồng (collective ownership) của Nhân dân nhưng Đảng Việt Cộng và nhà nước quản lý: Chính phủ toàn quyền qui hoạch và cấp quyền sử dụng. Phạm văn Đồng ký giao cho Trung Cộng quyền sử dụng quần đảo Hoàng Sa.
Từ tháng 2 năm 2014, Trung Cộng thổi cát nới rộng mặt bằng đảo Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa. Tháng 7 năm 2014, Trung Cộng đã xây trại lính, kho chứa nhiên liệu, trung tâm liên lạc, đặt các giàn hỏa tiễn, xây đường băng sân bay trên sáu (6 ) đảo và bắt đầu xây dựng đảo thứ 7. Muốn hợp thức hóa bằng văn kiện, Ban thường vụ Trung Cộng mời ban bí thư Đảng Việt Công sang Bắc Kinh họp bàn vấn đề hợp tác cùng phát triễn chung giữa hai quốc gia và không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp. Nói cách khác, Lê Hồng Anh sang ký văn kiện xác nhận "sự kiện đã có rồi" (de facto) trên quần đảo Trường Sa. Lê Hồng Anh, bộ trưởng Công An "không đi không được" (Ngô Vĩnh Long). Lê Hồng Anh đã phải ký bản hợp tác cùng phát triển sử dụng quần đảo Trường Sa. Rất hợp lý theo nội dung bản chỉ đạo quan hệ song phương. Văn kiện giao quyền sử dụng đảo Gạc Ma cho Trung Cộng người dân Việt gọi là Sổ Đỏ.
"Chọn Chủ Nghĩa Cộng Sản là Sai Lầm,"
Huỳnh Kim Báu, một "Trí Thức Yêu Nước" nói.
Phan Vũ
Hai danh từ đối chọi nhau: Trí Thức và Sai Lầm. Galileo (1564-1642) nhà trí thức không sai lầm. Trí thức phải hoài nghi (douteux, doubtful). Khi không hồ nghi sẽ sai lầm. Trần Đức Thảo sai lầm năm 1954 và năm 1982 (?) Lê văn Thới thấy sai lầm nên "đi chui" và bị bắt lại... Năm sau, Nguyễn Hữu Thọ và bà Ngô Bá Thành phát biểu sai lầm nên mất chức. Năm nay 2014, Võ thị Thắng và Huỳnh kim Báu mới nhận sai lầm: Trễ còn hơn không; tuy nhiên bàn tay các người đã nhúng chàm đậm. Làm sao tẩy cho sạch đây?
Tình trạng đất nước rất bi đát về đất đai, biển đảo và kinh tế. Đất nước và đảo thuộc về sở hữu tập thể cộng đồng (collective ownership) của Nhân dân nhưng Đảng Việt Cộng và nhà nước quản lý: Chính phủ toàn quyền qui hoạch và cấp quyền sử dụng. Phạm văn Đồng ký giao cho Trung Cộng quyền sử dụng quần đảo Hoàng Sa.
Từ tháng 2 năm 2014, Trung Cộng thổi cát nới rộng mặt bằng đảo Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa. Tháng 7 năm 2014, Trung Cộng đã xây trại lính, kho chứa nhiên liệu, trung tâm liên lạc, đặt các giàn hỏa tiễn, xây đường băng sân bay trên sáu (6 ) đảo và bắt đầu xây dựng đảo thứ 7. Muốn hợp thức hóa bằng văn kiện, Ban thường vụ Trung Cộng mời ban bí thư Đảng Việt Công sang Bắc Kinh họp bàn vấn đề hợp tác cùng phát triễn chung giữa hai quốc gia và không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp. Nói cách khác, Lê Hồng Anh sang ký văn kiện xác nhận "sự kiện đã có rồi" (de facto) trên quần đảo Trường Sa. Lê Hồng Anh, bộ trưởng Công An "không đi không được" (Ngô Vĩnh Long). Lê Hồng Anh đã phải ký bản hợp tác cùng phát triển sử dụng quần đảo Trường Sa. Rất hợp lý theo nội dung bản chỉ đạo quan hệ song phương. Văn kiện giao quyền sử dụng đảo Gạc Ma cho Trung Cộng người dân Việt gọi là Sổ Đỏ.
Các hình này lấy từ đài NHK/World.
Một sự mĩa mai nực cười to lớn (big irony): trong nước, Việt Cộng chiếm đất của dân oan, giao
quyền sử dụng cho công ty nước ngoài xây cơ sở. Trong hợp đồng nhà nước giữ 51% cồ phần và công ty nước ngoài có 49% cổ phần; như thế nhà nước có lợi, nên tha hồ mà đánh dân oan. Nhưng sự chuyển nhượng quyền sử dụng đảo Gac Ma, Trung Cộng bắt Việt Cộng phải ký hợp đồng mà Việt Cộng không có cổ phần và cũng không có lợi nhuận. Sư sợ hãi và bối rối lộ rõ trên mặt Lê Hồng Anh khi ngồi với Tập Cẩm Bình.
Đã có quyền đồng sử dụng quần đảo Trường Sa, Trung Cộng đã uy hiếp máy bay thám thính của Mỹ và sẽ xác định không phận cấm bay trên quần đảo Trường Sa. Cửa vào Biển Nam Đông (the South East Sea) đã có nút chặn tại Gạc Ma và cửa ra đã có tiền đồn Trung Cộng tại quần đão Hoàng Sa.
Nền kinh tế Việt Nam sa sút thê thảm: không có nguyên liệu của Trung Quốc, tất cả công ty ngưng sản xuất. Các nguyên liệu nhập từ Nhật, Nam Hàn hay Ấn Độ giá cao, giá thành phẩm tăng, nên khó xuất cảng. Dịch vụ du lịch đóng cửa vì không có khách... Nợ xấu của CSVN lên tới cả trăm tỷ... Hà Nội đang mong chờ dự án xây dựng tàu điện ngầm tại Saigon để có tiền chi trả và vay nợ để ăn...
Tuy nhiên cái ôm thắm thiết giữa Bodi và Abe (Thủ tướng Ấn độ và Nhật) gây lo sợ cho Hà nội. Ấn độ béo bở hơn Việt nam vì cùng một chế độ dân chủ, dễ tin nhau hơn và đông dân hơn.
Các nhà bình luận Việt Nam không nhận thấy sự mĩa mai nực cười nói trên, đã có những nhận định không chính xác vì không dựa vào sự kiện cụ thể.
Ý đồ của Trung Cộng đã rõ nét: Biển Việt Nam sẽ là "the South China Sea" có nút chặn ở cửa vào và cửa ra. Bộ Chinh Trị và Trung ương đảng Việt Cộng sẽ bị gạt ra, Lê Hồng Anh và các bí thư tỉnh phải thi hành lệnh của Bắc Kinh...
Nhà trí thức yêu nước Huỳnh Kim Báu nhìn thấy sự mĩa mai đó, đau khổ mà chập nhận sai lầm của đời ông và của các nhà Cách mạng Mùa Thu.
Quí vị phải làm một điều gì để rửa sach bàn tay nhúng chàm của quí vị. Mong lắm thay!
TIN THẾ GIỚI
Thứ Tư, 03/09/2014
Trung Quốc đưa giàn khoan mới đến biển Đông Trung Hoa
- Trung Quốc tuyên bố không theo đuổi bá quyền trong khu vực
- Vụ xử ngư dân TQ tại Philippines nêu bật căng thẳng ở Biển Đông
- Trung Quốc mở tour du lịch mới ra Hoàng Sa
- Phong trào dân chủ Hong Kong tuyên bố không lùi bước
- TQ đánh dấu ngày Nhật Bản bị đánh bại trong Thế Chiến thứ 2
- Nhật Bản, Philippines hợp tác chống thái độ khiêu khích của TQ
- Đài Loan không muốn bị loại khỏi các cuộc đàm phán Biển Đông
03.09.2014
Tuy nhiên vị trí chính xác của giàn khoan này không được tiết lộ, và cũng không rõ giàn khoan này có đặt gần vùng biển tranh chấp hay không.
Trung Quốc và Nhật Bản vẫn tranh cãi về vùng đặc quyền kinh tế của mình trên biển. Trung Quốc cho biết họ phát hiện một mỏ khí đốt thiên nhiên dưới đáy biển trong vùng đặc quyền kinh tế của mình vào năm 1995.
Nhật Bản cũng đã cho biết họ có thể khai thác mỏ khí này trải dài vào bên trong khu vực tranh chấp.
Hai bên nhất trí cùng hợp tác khai thác mỏ này vào năm 2008 nhưng đã có không có tiến bộ nào kể từ đó.
Một thông cáo của đơn vị lắp ráp giàn khoan cho biết giàn khoan khởi sự suôn sẻ bất chấp có những khó khăn vì bão.
Thông cáo cũng cho biết giàn khoan sẽ khoan đến độ sâu 5.200 mét.
Nguồn: South China Morning Post/China.org.cn
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-dua-gian-khoan-moi-den-bien-dong-trung-hoa/2437748.html
Trung Quốc đưa giàn khoan Khải Hoàn 1 đến biển Hoa Đông
Một giàn khoan dầu của tập đoàn Trung Quốc CNOOC
(DR)
Theo tờ South China Morning Post của Hồng Kông hôm nay
03/09/2014, Bắc Kinh đã đưa một giàn khoan mới đến thăm dò tại biển Hoa
Đông, khu vực bao gồm cả vùng biển tranh chấp với Nhật Bản. Trang web
của chính phủ Trung Quốc cũng đưa tin « Giàn khoan Khải Hoàn 1 đi vào hoạt động tại biển Hoa Đông ».
Công ty đóng giàn khoan này là Cosco Shipyard (Tập đoàn Viễn
dương Trung Quốc) không muốn tiết lộ vị trí chính xác của giàn khoan
Khải Hoàn 1 (Kaixuan-1). South China Morning Post nói rằng không thể
biết được khu vực đặt giàn khoan Khải Hoàn 1 có gần vùng biển thuộc quần
đảo Senkaku/Điếu Ngư tranh chấp với Nhật Bản hay không.
Trang china.org.cn, khi loan tin giàn khoan này đi vào hoạt động tại biển Hoa Đông, đã khoe rằng đây là giàn khoan tự nâng, tiêu biểu cho công nghệ tiên tiến nhất thế giới. Theo trang mạng chính phủ Trung Quốc, tuy trước đây có thông tin cho rằng Khải Hoàn 1 hướng về vùng biển Điếu Ngư (tức quần đảo Senkaku hiện do Nhật quản lý) để tiến hành hoạt động, nhưng nay chưa có chứng cớ nào củng cố cho cáo buộc này.
Cũng theo trang web trên, Khải Hoàn 1 do tập đoàn Cosco Shipyard đặt ở Nam Thông (Nantong) tự thiết kế, là giàn khoan tự hành hiện đại nhất được đóng tại Trung Quốc. Giàn khoan này có khả năng khoan đến độ sâu 5.200 mét, có khu vực lưu trú cho 150 nhân viên sống và làm việc tại chỗ. Ban đầu, Khải Hoàn 1 được đóng cho công ty KS Energy của Singapore, nhưng sau ICBC Financial Leasing mua và cho China Oilfield Service thuê lại theo hợp đồng ký ngày 17/07.
Theo thông cáo của Cosco Shipyard, Khải Hoàn 1 đã khởi đầu hoạt động khoan thăm dò suôn sẻ mặc cho các cơn bão đe dọa. China Oilfield Service và China National Offshore Oil không trả lời các câu hỏi của tờ South China Morning Post về giàn khoan này.
Tờ báo Hồng Kông nói thêm, bên cạnh vấn đề chủ quyền quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, Trung Quốc và Nhật Bản tranh chấp kịch liệt vùng đặc quyền kinh tế tại biển Hoa Đông. Bắc Kinh vào năm 1995 loan báo phát hiện được một mỏ khí dưới đáy biển được đặt tên là Xuân Hiểu (Chunxiao), được cho là thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, nhưng Tokyo tuyên bố Nhật cũng có thể khai thác các mỏ dầu khí trải dài theo khu vực tranh chấp. Hai nước đã ký một thỏa thuận năm 2008 để cùng khai thác mỏ Xuân Hiểu, nhưng từ đó đến nay chưa có tiến triển gì.
Trong những năm gần đây, Bắc Kinh đấu khẩu dữ dội với các láng giềng để tranh giành chủ quyền lãnh thổ, nhất là với Việt Nam và Philippines tại Biển Đông. South China Morning Post nhắc lại, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc đã diễn ra tại Việt Nam hồi tháng Năm, sau khi Bắc Kinh tự tiện đưa giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa. Giàn khoan này được kéo trở ra vào tháng Bảy, sớm hơn dự kiến một tháng, và Bắc Kinh nói rằng do công việc đã hoàn tất.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20140903-trung-quoc-dua-gian-khoan-khai-hoan-1-den-bien-hoa-dong
Trang china.org.cn, khi loan tin giàn khoan này đi vào hoạt động tại biển Hoa Đông, đã khoe rằng đây là giàn khoan tự nâng, tiêu biểu cho công nghệ tiên tiến nhất thế giới. Theo trang mạng chính phủ Trung Quốc, tuy trước đây có thông tin cho rằng Khải Hoàn 1 hướng về vùng biển Điếu Ngư (tức quần đảo Senkaku hiện do Nhật quản lý) để tiến hành hoạt động, nhưng nay chưa có chứng cớ nào củng cố cho cáo buộc này.
Cũng theo trang web trên, Khải Hoàn 1 do tập đoàn Cosco Shipyard đặt ở Nam Thông (Nantong) tự thiết kế, là giàn khoan tự hành hiện đại nhất được đóng tại Trung Quốc. Giàn khoan này có khả năng khoan đến độ sâu 5.200 mét, có khu vực lưu trú cho 150 nhân viên sống và làm việc tại chỗ. Ban đầu, Khải Hoàn 1 được đóng cho công ty KS Energy của Singapore, nhưng sau ICBC Financial Leasing mua và cho China Oilfield Service thuê lại theo hợp đồng ký ngày 17/07.
Theo thông cáo của Cosco Shipyard, Khải Hoàn 1 đã khởi đầu hoạt động khoan thăm dò suôn sẻ mặc cho các cơn bão đe dọa. China Oilfield Service và China National Offshore Oil không trả lời các câu hỏi của tờ South China Morning Post về giàn khoan này.
Tờ báo Hồng Kông nói thêm, bên cạnh vấn đề chủ quyền quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, Trung Quốc và Nhật Bản tranh chấp kịch liệt vùng đặc quyền kinh tế tại biển Hoa Đông. Bắc Kinh vào năm 1995 loan báo phát hiện được một mỏ khí dưới đáy biển được đặt tên là Xuân Hiểu (Chunxiao), được cho là thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, nhưng Tokyo tuyên bố Nhật cũng có thể khai thác các mỏ dầu khí trải dài theo khu vực tranh chấp. Hai nước đã ký một thỏa thuận năm 2008 để cùng khai thác mỏ Xuân Hiểu, nhưng từ đó đến nay chưa có tiến triển gì.
Trong những năm gần đây, Bắc Kinh đấu khẩu dữ dội với các láng giềng để tranh giành chủ quyền lãnh thổ, nhất là với Việt Nam và Philippines tại Biển Đông. South China Morning Post nhắc lại, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc đã diễn ra tại Việt Nam hồi tháng Năm, sau khi Bắc Kinh tự tiện đưa giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa. Giàn khoan này được kéo trở ra vào tháng Bảy, sớm hơn dự kiến một tháng, và Bắc Kinh nói rằng do công việc đã hoàn tất.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20140903-trung-quoc-dua-gian-khoan-khai-hoan-1-den-bien-hoa-dong
Chuyến đi khôi phục 16 chữ vàng và 4 tốt
Ba điểm thống nhất được công khai sau chuyến làm việc tại Bắc Kinh
của ông Lê Hồng Anh, Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị Đảng Cộng sản
Việt Nam, khiến dư luận quan ngại. Lý do là Hà Nội không thay đổi gì
trong quan hệ với Bắc Kinh sau sự cố giàn khoan Hải Dương 981 mà Trung
Quốc hạ đặt trái phép trong vùng biển Việt Nam.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, là một trong số những người có quan ngại như vừa nêu.
Gia Minh có cuộc nói chuyện với ông và trước hết ông đưa ra nhận
định về những điều có thể được trao đổi tại Bắc Kinh trong chuyến đi của
ông Lê Hồng Anh mà không được báo chí loan tin.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi chưa biết là có ký kết gì không nhưng theo những thông báo chung thì hai bên đồng ý khôi phục quan hệ Việt- Trung.
Nhưng tôi cho rằng thông báo công khai là một chuyện thôi, mà tôi
thấy ông Lê Hồng Anh sang Trung Quốc lần này trong khi Trung Quốc vẫn
duy trì quan điểm ở Biển Đông. Mặc dù vừa qua (họ) mới rút giàn khoan
đi, nhưng vẫn tuyên bố lập trường của Trung Quốc ở Biển Đông không thay
đổi. Như thế nghĩa là Trung Quốc vẫn cứ cứng rắn. Thế nhưng ông Lê Hồng
Anh lại sang thăm trong thế Việt Nam yếu; (mà trong thế Việt Nam yếu),
rất khó thảo luận bình đẳng mà bên có thế mạnh thế nào họ cũng tìm cách
áp đặt. Theo tôi, họ có thể nêu ra vấn đề gác tranh chấp, cùng khai
thác. Trong thông báo công khai cũng có ý đó rồi. Thứ hai nữa, họ muốn
nói thôi không nói đến chuyện trước đây nữa, về tranh chấp trước đây để
khỏi thương tổn đến quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Thứ ba là họ muốn
nói vẫn tiếp tục thực hiện cái ’16 chữ với 4 tốt’. Và có thể họ nêu vấn
đề không nên kiện Trung Quốc. Và cũng có thể họ nêu vấn đề đừng quá quan
hệ mật thiết với Mỹ.
Họ muốn nói vẫn tiếp tục thực hiện cái ’16 chữ với 4 tốt’. Và có thể họ nêu vấn đề không nên kiện Trung Quốc. Và cũng có thể họ nêu vấn đề đừng quá quan hệ mật thiết với Mỹ
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh
Tôi cho rằng trong hội đàm họ có thể nêu những vấn đề như thế.
Gia Minh: Như ông nói Việt Nam ở thế yếu và với ba điểm (
thống nhất như thế thì sẽ có những nguy hiểm gì cho Việt Nam trong thời
gian sắp tới?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Tất nhiên, từ trước đến giờ họ
luôn âm mưu thôn tính Việt Nam. Ít nhất cũng trói buộc Việt Nam vào sự
lệ thuộc của họ như kiểu thuộc địa kiểu mới. Họ vẫn thực hiện thế thôi.
Tức là lúc nào Việt Nam cũng đứng trước những nguy hiểm từ Trung Quốc.
Gia Minh: Biết như vậy, nhưng theo ông vì sao những vị lãnh
đạo Việt Nam, nhất là những vị trong đảng vẫn luôn kiên trì đường lối cũ
như thế?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Điều này tôi không có thẫm quyền để nói gì.
Đó là lãnh đạo của chúng tôi mà tôi không đồng ý; tôi không đồng ý
quá thân thiện với Trung Quốc, chỉ thân thiện với Trung Quốc. Nhưng đó
là quyền của lãnh đạo, tôi biết làm sao được!
Họ nắm quyền và họ cứ làm thế. Mà không phải một mình tôi, nhiều
người cũng phản đối; nhưng họ nắm quyền họ cứ thực hiện theo con đường
của họ thôi.
Gia Minh: Như thiếu tướng vừa nói nếu theo đường lối như lâu
nay thì Việt Nam luôn đứng trước mối nguy hiểm của Trung Quốc, vậy qua
những động thái vừa rồi trong quan hệ với Trung Quốc, việc xây dựng niềm
tin với những nước khác, đặc biệt với Hoa Kỳ, thì có thể khiến cho
người ta tin tưởng để có thể có những hợp tác có lợi cho Việt Nam không?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Theo tôi vẫn hợp tác mật thiết hơn nữa với Hoa Kỳ. Đó là lợi ích của cả Việt Nam và của cả Hoa Kỳ.
Gia Minh: Như vậy vẫn có bị cản trở trong vấn đề này?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi đã nói rồi, tổng bí thư của
chúng tôi thân Trung Quốc, cho nên vẫn là cản trở khó có thể có quan hệ
mật thiết hơn nữa với Hoa Kỳ.
Đến một lúc mà đẩy nhân dân đến chân tường, tôi nghĩ có khi phải ‘tức nước, vỡ bờ’ thôi
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh
Gia Minh: Như thiếu tướng nói không chỉ bản thân ông mà nhiều
vị khác không đồng ý và hiện nay hình như dư luận dân chúng họ cũng thấy
được vấn đề?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Có thể một bộ phận nhân dân
theo dõi tình hình, người ta cũng đồng tình như thế. (Nhưng) đại đa số
nông dân ở nông thôn, ở nơi xa xôi họ không có điều kiện cập nhật những
tin tức theo ‘lề mạng’, họ chỉ đọc báo của ‘lề phải’ và xem tivi thì
không bao giờ thấy được sự thật.
Gia Minh: Sự xuất hiện của nhiều nhóm dân sự hiện nay, theo
thiếu tướng tác động để giúp cho những người khác nhận thấy vấn đề đang
theo chiều hướng ra sao?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Chiều hướng đó tiếp tục đẩy
mạnh, tuy nhiên lãnh đạo cũng tìm mọi cách để cản trở. Nhưng xu hướng
tiến bộ người ta vẫn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của người ta.
Gia Minh: Nhiều người cho rằng với xu hướng tất yếu như thế, việc cản trở như thế sớm hay muộn gì cũng không thể thành công?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Đến một lúc mà đẩy nhân dân đến chân tường, tôi nghĩ có khi phải ‘tức nước, vỡ bờ’ thôi.
Gia Minh: Hiện nay, mọi người có hướng đến đại hội đảng lần
thứ 12 năm 2016 diễn ra trong tình hình có những vụ việc như vụ giàn
khoan, đảng đang đứng trước những thách thức. Nhưng rồi qua chuyến đi
của ông Lê Hồng Anh thì mọi người thấy những thách thức đó vẫn chưa thể
được hóa giải?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi cũng nghĩ như thế.
Gia Minh: Vậy điều trông chở vào đại hội đảng lần thứ 12 này là gì?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: (Cười) Hiện nay có bao nhiêu
góp ý kiến, kể cả tôi góp ý kiến, nhưng tôi tin người ta không nghe đâu.
Họ vẫn đi theo con đường mòn của họ thôi.
Gia Minh: Và như thiếu tướng vừa nói, làm như thế là dồn nhân dân vào đường cùng?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Nhưng vấn đề cần có thời gian.
Gia Minh: Cần có thời gian để có những điều kiện chín muồi hơn?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Đúng rồi, phải thời gian lâu chứ không phải là trước mắt đâu!
Gia Minh: Chân thành cám ơn thiếu tướng đã giành cho cuộc nói chuyện vừa rồi.
Con đường lệ thuộc vừa được gia cố
Quan hệ Việt Trung sau sứ mạng Lê Hồng Anh bắt đầu được chi phối từ “nguyên tắc ba điểm” mà hai bên đạt được ngày 27/8/2014 ở Bắc Kinh. Có vẻ cuộc khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981 đã chìm vào dĩ vãng, để hai Đảng Cộng sản khôi phục và tăng cường quan hệ và tất nhiên là sự hợp tác toàn diện giữa hai nhà nước.
Trả lời câu hỏi này, TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS một tổ chức tư nhân tự giải thể, từ Hà Nội phát biểu:
"Có lẽ là như vậy bởi vì ba điểm này quay trở lại thỏa thuận tháng 10/2011 giữa ông Hồ Cẩm Đào và ông Nguyễn Phú Trọng thì thực sự nó quay trở lại như cũ. Và cái như cũ đó đã thực sự thất bại không giải quyết được điều gì khi mà Trung Quốc tiếp tục gây hấn trong thời gian vừa qua đặc biệt hồi tháng 5/2014. Tôi nghĩ nó không giải quyết được một cái gì cơ bản.”
Thông Tấn xã Việt Nam và báo chí do nhà nước quản lý đã đưa tin về nội dung nguyên tắc ba điểm, cho thấy hai Đảng và hai Nhà nước phải làm hết sức để tăng cường hợp tác giữa hai bên trên mọi lĩnh vực như chính trị ngoại giao, quốc phòng, an ninh, kinh tế. thương mại, thực thi pháp luật, nhân văn và nhiều lĩnh vực khác. Hai bên tuân thủ các nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc,” sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc các giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, kể cả vấn đề hợp tác cùng phát triển; kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; duy trì đại cục quan hệ Việt Trung và hòa bình ổn định trên Biển Đông.
Không thể quay lưng lại với Trung Quốc. Không nên đẩy họ thành kẻ thù của chúng ta mà luôn luôn giữ tình hữu nghị. Nhưng phải luôn luôn cảnh giác, vì cái bài học lịch sử nó cho thấy như thế.Phải chăng Việt Nam-Trung Quốc hai đảng hai nước sẽ lại tiếp tục con đường cũ, Việt Nam sẽ tiếp tục ràng buộc với Trung Quốc về mọi lĩnh vực từ kinh tế cho tới chính trị và quân sự. Chúng tôi nêu câu hỏi này với TS Nguyễn Quang A và được ông trả lời:
- TS Nguyễn Thanh Giang
“Tôi rất ngại là nó đúng như thế. Đó là một thảm họa chứ không có một chút gì tích cực cả, bởi vì cả một chính sách như thế đã tỏ ra thất bại. Tất cả những hành động trước chuyến đi của ông Đặc phái viên vài ngày, cũng như trong khi ông ấy ở Bắc Kinh thì đều thấy tình hình rất không thuận lợi đối với Việt Nam. Và tôi nghĩ, gần như là một sự quay trở lại sự qui phục trước khi ông ấy đi, người ta đưa tin về chuyện Việt Nam tự nhận lỗi rồi để cho công nhân Trung Quốc vào rất là đông ở Vũng Áng và các nơi khác; rồi kiểm soát chặt chẽ vấn đề Internet; rồi xử vụ Bùi Thị Minh Hằng một cách hết sức là lố lăng. Tôi nghĩ đấy là những dấu hiệu tất cả chỉ theo một hướng mà tôi nghĩ là không hay ho gì.”
Đối những ý kiến lo ngại về việc Hà Nội và Bắc Kinh trở lại thực hiện ba nhận thức chung, vốn dĩ là những thỏa thuận giữa hai bên từ thời kỳ Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào, có thể dẫn tới việc Trung Quốc và Việt Nam sẽ cùng khai thác tài nguyên ở vùng biển đông thuộc chủ quyền VN, tương tự như thỏa thuận 2011 ở vịnh Bắc Bộ. TS Nguyễn Quang A nhận định:
“Đó là chuyện rất là nguy hiểm và trong trường hợp chưa giải quyết một cách rõ ràng. Tôi đồng ý việc các bên song phương, đa phương phải giữ nguyên trạng và sau đó có một thỏa thuận với nhau như thế nào đó, vạch rõ rằng phần nào là của ai…v..v…Chỉ sau đó mới tính chuyện khai thác như thế nào, phần của ai thì khai thác, lúc ấy phía bên kia cũng có thể tham gia vào như một đối tác quốc tế bình đẳng. Chứ còn ở trong tình trạng nhập nhằng ai cũng bảo của mình mà bảo cùng khai thác, tôi không cũng không hiểu cùng khai thác kiểu như thế nào. Trường hợp này chỉ có kẻ mạnh là lấn lướt áp đảo mà thôi. Nó sẽ là mầm mống của những xung đột tiếp theo và tôi nghĩ cách giải quyết như thế này chỉ là mua thời gian và để cho những xung đột tiềm ẩn vẫn còn nguyên ở đó và nó có thể lại hiện ra dưới dạng này dạng khác và có thể ở mức độ nguy hiểm hơn.”
Ảnh hưởng Trung Quốc quá lớn
TS Nguyễn Thanh Giang, một nhà phản biện nhiều kinh nghiệm, nhìn nhận một thực tế là Việt Nam không thể thoát khỏi ảnh hưởng Trung Quốc. Trả lời Kính Hòa Đài ACTD, TS Nguyễn Thanh Giang phát biểu từ Hà Nội:
“Không thể quay lưng lại với Trung Quốc. Không nên đẩy họ thành kẻ thù của chúng ta mà luôn luôn giữ tình hữu nghị. Nhưng phải luôn luôn cảnh giác, vì cái bài học lịch sử nó cho thấy như thế. Đó là một sự cay đắng, đối với hàng xóm láng giềng thì lúc nào chúng ta cũng muốn hữu hảo, nhưng bài học lịch sử lẫn cái thời gian gần đây đều cho thấy là chơi với họ thì nguy hiểm lắm.
Cho nên hữu nghị thì vẫn phải hữu nghị, không nên đặt vấn đề đối chọi với họ. Cho nên tôi rất mong các nhà lãnh đạo đề cao cảnh giác với Trung Quốc, và đề cao cảnh giác với trong cả nội bộ lãnh đạo, xem có những người nào có tư tưởng thần phục Trung Quốc, dựa vào Trung Quốc để giữ lợi riêng, giữ lấy ghế của mình, thì phải loại họ khỏi thành phần lãnh đạo, ra khỏi dân tộc.”
Trong giai đoạn khủng hoảng giàn khoan trên Biển Đông kéo dài 10 tuần lễ, Việt Nam nỗ lực tranh thủ bè bạn quốc tế trong đó Hoa Kỳ, Nhật Bản và những tưởng chính sách xoay trục châu Á của Washington là một cơ hội giúp Việt Nam bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Thỏa thuận mang tên “nhận thức chung nguyên tắc ba điểm về tiếp tục phát triển quan hệ Việt-Trung” có thể làm Việt Nam vuột mất cơ hội tạo thế đứng độc lập với sự giúp đỡ của bè bạn quốc tế. TS Nguyễn Quang A nhận định:
“Tôi nghĩ rằng có thể Việt Nam đã bỏ lỡ một cơ hội rất là quan trọng. Và nếu bảo rằng bỏ mất một cơ hội ngả về bên này hay bên kia thì chưa chắc là đúng. Nhưng mà để có một thế đứng vững vàng độc lập hơn có thể có nhiều hơn mối liên kết, nhiều hơn mối liên minh để mà bảo vệ quyền lợi của mình thì tôi nghĩ rằng những khả năng như thế cũng vẫn còn chứ không phải hoàn toàn không có.
Chúng ta chưa biết một cách chi tiết những nội dung đó như thế nào và mới chỉ được báo chí nêu là thống nhất ba điểm ấy. Rõ ràng đánh giá ngay có thể là còn sớm.”
Vấn đề Biển Đông, quan hệ Việt Trung và thỏa thuận nhận thức nguyên tắc ba điểm sẽ vẫn còn tạo ra mầm mống của những xung đột tiếp theo và cách giải quyết này, theo lời TS Nguyễn Quang A, chỉ là mua thời gian và duy trì những xung đột tiềm ẩn. Nó sẽ có dịp hiện ra dưới dạng này hay dạng khác và có thể ở mức độ nguy hiểm hơn.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/ReviewOnlineDomesticPress/a-bad-choice-is-taken-nn-08292014131643.html
Chống châu Âu : Vũ khí khí đốt của Nga sẽ không còn hữu hiệu ?
Trụ sở tập đoàn dầu khí Nga Gazprom tại Mátxcơva. Ảnh chụp ngày 03/06/2014.
REUTERS/Maxim Shemetov
Trước căng thẳng leo thang với Ukraina và khả năng bị phương
Tây trừng phạt nặng thêm, Mátxcơva lại gợi lên vấn đề cắt khí đốt bán
sang Châu Âu, một kịch bản với những hậu quả khác nhau mà giới chuyên
gia không xem thường. Ngày 29/08/2014, Bộ trưởng Năng lượng Nga
Alexandre Novak đã tuyên bố có « nguy cơ khí đốt mà tập đoàn Gazprom
chuyển sang Châu Âu bị Ukraina lấy bớt một cách bất hợp pháp cho nhu
cầu của họ ».
Vào giữa tháng 06/2014, Nga đã cắt nguồn khí đốt cung cấp cho
Ukraina, viện cớ Kiev không chấp nhận việc Gazprom tăng giá ga sau khi
phe thân phương Tây lên nắm quyền. Theo bộ trưởng Novak, Kiev hiện nợ
Nga 5,3 tỷ đô la tiền khí đốt
Giới chuyên gia lo ngại là việc chuyển vận khí đốt từ Nga sang Châu Âu lại bị tác hại, tương tự như khi nổ ra cuộc ‘chiến tranh khí đốt’ trong những năm 2006 và 2009 giũa Nga và Ukraina. Một nửa khí đốt sang Châu Âu trung chuyển qua lãnh thổ Ukraina. Họ cũng không loại trừ khả năng Ukraina lấy bớt khí như Matxcơva nêu lên.
Theo bà Marie Claire Aoun, thuộc Viện Quan hệ Quốc tế Pháp IFRI, Ukraina cho đến giờ đang sử dụng khí đốt dự trữ của mình, nhưng đến một lúc nào đó, họ sẽ phải lấy khí chuyển sang Châu Âu nếu lâm vào tình cảnh thiếu hụt.
Ukraina vừa qua cũng đã công nhận là không đủ khí đốt dự trữ để sử dụng trong mùa đông này. Vào tháng Sáu, Kiev cũng đã lên tiếng cam kết không lấy khí đốt dành cho Châu Âu.
Theo giới quan sát, nếu lấy khí dành cho Châu Âu, Ukraina sẽ lại gây thêm căng thẳng và lần này là với Châu Âu, trong lúc mà Kiev tỏ ý muốn gia nhập NATO.và yêu cầu phương Tây giúp đỡ về mặt quân sự. Nhưng họ cũng đánh giá không phải lúc nào ‘lý trí cũng thắng’.
Các biện pháp ứng phó của Liên Hiệp Châu Âu
Tuy nhiên Châu Âu hiện đã có chuẩn bị để đối phó với mọi tình huống.
Thierry Bros, nhà phân tích về thị trường khí đốt của Ngân hàng Pháp Société Générale, đánh giá không thể tránh khỏi việc nguồn khí đốt bị nghẽn, nhưng ông ước tính chỉ độ khoảng mươi ngày mà thôi, thời gian để giới chính trị tìm một giải pháp cho việc trả nợ cho Gazprom.
Còn tác động của việc gián đoạn cung cấp khí đốt này sẽ tùy thuộc vào hai yếu tố : Thời gian cắt và thời tiết trong mùa đông sắp tới, và cũng tùy theo từng vùng : Các nước Đông Âu sẽ chịu tác động nghiêm trọng hơn là Pháp chẳng hạn, chỉ sử dụng độ 15% khí đốt của Nga.
Tuy nhiên nếu việc cắt khí đốt của Nga kéo dài, theo ông Bros, giá khí đốt ở Châu Âu sẽ tăng mạnh, khiến cho kinh tế Châu Âu có thể bị suy thoái.
Có điều khác với tình hình trước đây, năm 2009, Châu Âu đã cải thiện khả năng đối phó. Dự trữ khí hiện còn ở mức quan trọng. Tính đến ngày 28/08 vừa qua, dự trữ vẫn còn đến 87%.
Theo bà Marie Claire Aoun, Châu Âu đã chuẩn bị từ nhiều tháng qua. và cũng có các ngã cung cấp khác không qua Ukraina, như đường ống dẫn khí Northstream nối liền Nga và Đức, vận chuyển hơn 1/3 khí Châu Âu mua của Nga.
Na Uy, nguồn cung cấp khí đốt thứ hai của Châu Âu, cũng có thể tạm thời bù đắp một phần lượng khí đốt bị Nga cắt giảm.
Nhìn về dài hạn, những nước lệ thuộc nhiều về khí đốt của Nga có thể đa dạng hóa nguồn cung cấp. Chẳng hạn như Rumani và Moldavia đã khai trương một đường ống dẫn khí giũa hai nước, bắt đầu chuyển khí ngay vào ngày 01/09 này.
http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20140830-ukraina-vu-khi-khi-dot-cua-nga-se-khong-con-huu-hieu
Giới chuyên gia lo ngại là việc chuyển vận khí đốt từ Nga sang Châu Âu lại bị tác hại, tương tự như khi nổ ra cuộc ‘chiến tranh khí đốt’ trong những năm 2006 và 2009 giũa Nga và Ukraina. Một nửa khí đốt sang Châu Âu trung chuyển qua lãnh thổ Ukraina. Họ cũng không loại trừ khả năng Ukraina lấy bớt khí như Matxcơva nêu lên.
Theo bà Marie Claire Aoun, thuộc Viện Quan hệ Quốc tế Pháp IFRI, Ukraina cho đến giờ đang sử dụng khí đốt dự trữ của mình, nhưng đến một lúc nào đó, họ sẽ phải lấy khí chuyển sang Châu Âu nếu lâm vào tình cảnh thiếu hụt.
Ukraina vừa qua cũng đã công nhận là không đủ khí đốt dự trữ để sử dụng trong mùa đông này. Vào tháng Sáu, Kiev cũng đã lên tiếng cam kết không lấy khí đốt dành cho Châu Âu.
Theo giới quan sát, nếu lấy khí dành cho Châu Âu, Ukraina sẽ lại gây thêm căng thẳng và lần này là với Châu Âu, trong lúc mà Kiev tỏ ý muốn gia nhập NATO.và yêu cầu phương Tây giúp đỡ về mặt quân sự. Nhưng họ cũng đánh giá không phải lúc nào ‘lý trí cũng thắng’.
Các biện pháp ứng phó của Liên Hiệp Châu Âu
Tuy nhiên Châu Âu hiện đã có chuẩn bị để đối phó với mọi tình huống.
Thierry Bros, nhà phân tích về thị trường khí đốt của Ngân hàng Pháp Société Générale, đánh giá không thể tránh khỏi việc nguồn khí đốt bị nghẽn, nhưng ông ước tính chỉ độ khoảng mươi ngày mà thôi, thời gian để giới chính trị tìm một giải pháp cho việc trả nợ cho Gazprom.
Còn tác động của việc gián đoạn cung cấp khí đốt này sẽ tùy thuộc vào hai yếu tố : Thời gian cắt và thời tiết trong mùa đông sắp tới, và cũng tùy theo từng vùng : Các nước Đông Âu sẽ chịu tác động nghiêm trọng hơn là Pháp chẳng hạn, chỉ sử dụng độ 15% khí đốt của Nga.
Tuy nhiên nếu việc cắt khí đốt của Nga kéo dài, theo ông Bros, giá khí đốt ở Châu Âu sẽ tăng mạnh, khiến cho kinh tế Châu Âu có thể bị suy thoái.
Có điều khác với tình hình trước đây, năm 2009, Châu Âu đã cải thiện khả năng đối phó. Dự trữ khí hiện còn ở mức quan trọng. Tính đến ngày 28/08 vừa qua, dự trữ vẫn còn đến 87%.
Theo bà Marie Claire Aoun, Châu Âu đã chuẩn bị từ nhiều tháng qua. và cũng có các ngã cung cấp khác không qua Ukraina, như đường ống dẫn khí Northstream nối liền Nga và Đức, vận chuyển hơn 1/3 khí Châu Âu mua của Nga.
Na Uy, nguồn cung cấp khí đốt thứ hai của Châu Âu, cũng có thể tạm thời bù đắp một phần lượng khí đốt bị Nga cắt giảm.
Nhìn về dài hạn, những nước lệ thuộc nhiều về khí đốt của Nga có thể đa dạng hóa nguồn cung cấp. Chẳng hạn như Rumani và Moldavia đã khai trương một đường ống dẫn khí giũa hai nước, bắt đầu chuyển khí ngay vào ngày 01/09 này.
http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20140830-ukraina-vu-khi-khi-dot-cua-nga-se-khong-con-huu-hieu
TRÂN ĐÌNH NGỌC * CA DAO * CỘNG SẢN * LÃO HỦ
Wednesday, September 3, 2014
TRÂN ĐÌNH NGỌC * MỘT CHUYẾN THĂM SÀIGÒN
Truyện Ngắn
MỘT CHUYẾN THĂM SÀIGÒN
Bút Xuân Trần Đình Ngọc
Người anh bà Đượm, ông Dường nguyên là lính cụ Hồ phục viên, đã vào Sàigòn từ cuối tháng 11 năm 1975 vì ông muốn vào xem Sàigòn ra sao sau 21 năm dưới chế độ khác hẳn ngoài Bắc.
Trước năm 1950, ông Dường đã xung vào lính cụ bởi nếu không vào lính cụ thì phải đi dân công vác đạn, khiêng súng vất vả lắm mà không có quyền lợi gì như bộ đội. Nhưng cũng chính vì đi bộ đội mà ông Dường không di cư vào Nam được mặc dù ông muốn đi vì nghe nhiều người nói chế độ trong Nam tự do dân chủ, làm ăn dễ dàng chứ không khó khăn và nghèo nàn như miền Bắc. Giá như đơn vị của ông được về Hà Nội sau 20-7-1954 như nhiều đơn vị quân đội khác thì có lẽ ông đã liều đào ngũ rồi xuống tầu vào Nam với vợ con. Nhưng đơn vị của ông lúc đó lại được lệnh lên đóng ở Cao bằng chịu trách nhiệm ba tỉnh Cao-Bắc-Lạng nên ông không cách gì tìm đường ra Hải Phòng vì chỉ Hải Phòng mới có tầu há mồm chuyển người ra quân vận hạm Mỹ hay Pháp đưa người di cư vào Nam.
Nghe người ta đồn trong Nam đói kém, ăn toàn thức ăn của ngựa là bobo, ông Dường bỏ vào cái bao tải (dùng đựng một tạ gạo) ba lon sữa bò gạo để mang vào cho ông anh thúc bá là ông Nhân. Ông Nhân có đi Quân Đội QG từ thời Quốc trưởng Bảo Đại nhưng giải ngũ đã lâu lắm nên chẳng ai còn nhớ. Khi người anh em Bắc Việt vào miền Nam thì ông Nhân đang buôn xe đạp, chỉ là một thương gia. Ông cũng có công đi tù 6 tháng nhưng sau đó được tha về quản chế tại Phường vì người lắm bệnh quá, vả lại cũng nhờ bà vợ “tốt lễ dễ kêu”.
Người Bắc còn ầm ĩ nói trong Nam không có cái bát mẻ mà ăn, phải dùng vỏ dừa khô cưa đôi làm bát nên ông Dường hừng chí bỏ vào bao thêm ba cái bát đàn do làng Bát tràng làm. Ông nghĩ ông Nhân nhìn thấy gạo và bát sẽ sáng rỡ mắt vì miền Bắc sung túc quá, sẽ hối hận đã vào Nam di cư năm 1954, mất cả một cuộc đời!.
Ông
Nhân gia nhập quân đội Quốc gia ở Hà Nội từ thời Quốc trưởng Bảo Đại nhận nước
Việt Nam độc lập từ tay Tổng thống Pháp Vincent Auriole năm 1949. Nhận chức Cố
vấn cho chính phủ Liên Hiệp của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mà Chủ tịch nước
là ông HCM, Phó CT: ông Nguyễn hải Thần, BT Ngoại giao: ông Nguyễn tường Tam,
BT Thông Tin Tuyên Truyền: ông Trần huy Liệu v.v…từ sau ngày 19-8-1945, vua Bảo
Đại để lại câu nói bất hủ: “Thà làm công dân một nước độc lập còn hơn làm vua
một nước nô lệ.”
Sau
đó vua Bảo Đại đi công tác ở Hồng Kông rồi tự ý ở lại, không về. Ông đã nhìn
thấy những gì khác lạ nơi chính phủ Liên hiệp do ông Hồ chí Minh làm chủ tịch.
Quả thế, chính phủ Liên hiệp (các đảng phái) và cả Quốc hội cũng giải tán sớm
để thành lập một chính phủ và Quốc Hội hoàn toàn của Cộng sản. Vua Bảo Đại, do
lời mời của Tổng Thống Pháp, đứng trong Khối Liên Hiệp Pháp, lập chính phủ và
Quân đội cho phe Quốc Gia để chống với phe CS.
Ông
Dường đi tầu thuỷ từ quê lên Hà nội, rồi từ Hà Nội đáp tầu Thống Nhất vào Nam.
Tiền bạc không sẵn lại vốn tính dè sẻn, ông Dường lấy vé hạng tư là hạng chót
dành cho hành khách.
Khi
bước lên toa xe lửa, mắt ông tối sầm vì chẳng nhìn thấy gì, có lẽ do vừa từ
ngoài ánh nắng chói chang vào. Đứng một lát cho mắt quen, ông mở mắt nhìn thấy
toa xe ngổn ngang người là người. Đa số ngồi, chỉ có dăm người nằm, mắt nhắm
nhưng không biết là ngủ hay thức vì nóng và ngộp hơi thế này dễ gì ngủ được?
Người ngồi trên ghế, trên sàn tầu, trong góc kẹt. Một anh mặc quần áo xanh bộ
đội nằm trên cái võng ngáy như kéo gỗ, mồm anh ta há hốc, từng dòng rãi từ mép
chảy xuống lưng một bà già nằm dưới. Góc kia, một ông già cũng nằm trên võng, cái
khăn mặt đen đúa che từ trán xuống qua cằm. Hai chị có con nhỏ đang dỗ dành con
vì chúng khóc mãi, kế bên là hai anh chồng mở thao láo mắt nhìn vợ con, một anh
thỉnh thoảng lại chửi thề bâng quơ:”Đ. mẹ ló, ló nhét ông vào cái toa người
ngồi lứt da ra thế lày thì chắc gì ông vào tới Sègòn.”
“Ló”
đây có lẽ là anh xếp chỗ. Xếp chỗ cứ nhìn vé mà xếp chứ xếp khác sao được. Vé
hạng tư chỉ có vậy. Không đi thì lên cho được việc.
Ông
Dường đứng nhìn chán rồi cũng phải kiếm chỗ. Ông bước qua một người đàn bà đang
nằm, không may dẵm phải tay mụ ta, mụ la chói lói:
“Sư
bộ đựa nào dặm lên tay bà đau thậu xương, mặt mù hay sao? Còn dặm nựa là bà tệ
mồ tổ mi cho đện khi vào Sègòn!”
Vì chật quá, ông Dường có chạm chứ không dẵm lên, ông nhớ thế mà sao mụ
đanh ác vu oan giá hoạ vậy. Ông rán bước qua một đứa nhỏ và mẹ nó để vào trong
giữa. Ông chỉ sợ lọng ngọng té xuống đè vào đứa nhỏ thì nó gẫy xương nhưng may
ông bước qua được. À, kia còn một chỗ. Ông len tới, ngồi xuống thở vì dùng sức
không mấy nhưng dùng trí óc nhiều. Khi ông ngồi xong mới nhận ra mình ngồi ngay
dưới cái võng của anh lính mình đã nhìn thấy cơ nãy. Thôi kệ, kiếm được chỗ này
đã là tốt chán. Ông có mua mấy cái bánh nếp ở ga Hàng cỏ, ngồi đàng hoàng rồi,
thấy đói, ông bóc một cái bánh, cắn ăn, cảm thấy rất sung sướng, có lẽ
phần nhiều là từ cái bánh.
Hành khách vẫn tấn lên ào ào. Cả vài ba chục người đứng ở chỗ lúc
nãy ông Dường đứng. Họ đứng lâu hơn ông để nhìn vào bên trong toa tầu, kiếm
chỗ. Chẳng còn chỗ nào hở. Một anh cậy ta là bộ đội bước bừa vào kiếm chỗ vì
đứng đã quá lâu. Không may cho anh ta dẵm lên tay (hay đụng nhẹ) vào mụ đàn bà
ông Dường đụng lúc nãy. Chị ta ré lên ngay như quả mìn Claymor bị kích hoả:
“Tộ sư cha mi. Tay bà chự cọ phải cại nội đi của mi đâu mà mi cự
tay bà mi dặm. Tộ sư cha thằng lợn con bẹ không biệt trạnh tay bà ra...”
Mụ cứ thế đào cha bới ông đứa đã dẵm lên tay mụ. Anh lính bộ đội
đã vào đến bên trong, anh ta quay người lại:
“Lè con mụ khốn lạn kia. Tao nà bộ đội biên phòng, dù tao có nỡ
đụng vào tay mụ một chút, mụ không được
phép chửi hỗn như thế. Xuống đến ga có công an sắc phục, mụ sẽ biết thân!”
Ý
chừng mụ sợ bộ đội và công an, mụ liền im thin thít.
Tầu
Thống nhất vào đến Sàigòn khoảng 8 giờ sáng. Người và xe ở đâu mà đông thế! Người
quần áo sạch sẽ, đẹp đẽ chứ không lèng xèng như người Bắc, thấy rõ cái nghèo.
Xe hơi, xe gắn máy, taxi, xe đạp…đủ hết chứ không như Hà Nội chỉ thấy xe đạp,
mãi sau này mới có các thứ xe khác.
Ông
Dường hân hoan khoác cái bao tải lên vai, kiếm lối xuống. Nhà ga rộng rãi và
đẹp quá, ông khen thầm. Vừa ra đến lề đường, hai, ba anh lơ xe bu lại:
“Chú
đi đâu? Chú lên xe cháu?”
Ông
Dường gạt hai ba anh này ra rồi tìm cách băng qua đường. Ông không có nhiều
tiền nên không dám gọi xe nào hết, ông định hỏi thăm rồi cuốc bộ.Vào một cửa
tiệm bán quần áo trẻ con phía bên kia, ông hỏi thăm đường về khu Bàn Cờ. Người
đàn bà chủ tiệm nói ông không quen đường có chỉ cũng không đi tới, có khi bị
lạc còn mệt hơn, ông nên thuê một chiếc xích lô hay taxi.
Kiếm
một bác xích lô đạp, mà cả về khu Bàn cờ, ông Dường bấm bụng lên xe vì e cuốc
bộ kiếm không thấy như lời chị chủ tiệm bán quần áo.
Bác
phu xích lô rướn người đạp trong khi ông Dường ngắm phố xá. Nhà hai, ba, bốn
tầng đâu mà nhiều thế! Đường xá rộng rãi, sạch sẽ, xe hơi và xe gắn máy nhiều
chứ không như Hà Nội, toàn xe đạp. Người đi đuờng ăn mặc cũng đẹp hơn Hà Nội,
ông Dường chợt nhớ lời bác và đảng bảo người trong Nam đàn ông đàn bà đều có
một cái đuôi vì họ đói quá phải giết thịt trẻ con ăn, ăn lắm trẻ con nên mọc
đuôi ra. Ông nhìn kỹ sau lưng họ, ông lẩm bẩm chắc họ giấu trong quần! Ông muốn
hỏi chuyện bác xích lô nhưng ngại không biết có nên không?
Xe
xích lô thắng lại, bác xích lô nói:”Tới rồi.”
Ông
Dường mở gói giấy báo lận trong lưng quần lấy tiền trả bác xích lô xong lật đật
vác cái bao bố đi vào ngõ hẻm, ngoài có biển: Hẻm 156 Bàn Cờ. Đúng đây rồi, tên
con hẻm này ông đã thuộc từ lúc lên tầu Thống Nhất. Đi sâu mãi vào trong hẻm
rồi ông cũng kiếm được số nhà. Cái số nhà này chính là nó. Ông Dường đứng nhìn
căn nhà ba tầng, ông nghi hoặc có lẽ đâu anh Nhân có cái nhà “to đùng” như thế
này sao? Nghe nói anh ấy nghèo lắm cơ mà. Có đứa nhỏ khoảng 15, 16 tuổi đi
ngang qua, ông Dường chận nó lại hỏi:
“Này
cháu, cho bác hỏi thăm, có phải nhà này là nhà của ông Bùi ân Nhân không?”
Con
bé đáp:
“Cháu
chỉ biết là nhà của Đại Úy Nhân, còn họ cháu không biết.”
“Thôi
đúng rồi,” ông Dường lẩm bẩm, quên cả cám ơn con bé, “nhà anh ấy đây rồi!”
Ông
hồi hộp đứng trước cửa, gõ cửa. Một người đàn bà ra mở.
“Xin
lỗi bà, đây có phải là nhà ông Bùi ân Nhân?”
Người
đàn bà trân trối nhìn ông Dường, nhận ra giọng nói rồi la lên:
“Có
phải chú Dường?”
Ông
Dường bấy giờ cũng nhận ra giọng người chị dâu đã từng nói chuyện với ông nhiều
lần trên điện thoại.
“Thưa
chị, em Dường đây. Anh đâu chị?”
“Nhà
tôi đi công chuyện, sẽ về giờ. Mời chú vào trong nhà!”
Ông
Dường thấy nhà sang quá, nhìn lại bộ quần áo của mình tồi tàn, ba hôm đi tầu
chưa thay, hôi hám quá.
“Mời
chú ngồi. Để tôi lấy nước chú uống kẻo khát.”
Ông
Dường không dám ngồi mạnh trên cái ghế sa-lông gỗ trắc nâu khảm xà cừ. Ông đảo
mắt nhìn xung quanh phòng khách. Tủ trưng bày đồ quý, đôn, ghế, cái quạt điện
đứng cao đến ngực người đang chạy vù vù. Một bức hoạ lớn treo tường ngay chính
giữa vẽ cảnh xuân với hoa đào, chim, bướm. Ngắm chỗ nào ông Dường cũng thấy đẹp
mắt mà cả đời ông chưa hề thấy.
“Chú
dùng ly nước cam vắt cho mát.” bà Nhân bảo.
Ông
Dường đang uống ly nước thì ông Nhân cùng cô con gái về.
“Chào
anh Nhân. Em là Dường vào thăm anh chị, các cháu.”
Ông
Nhân tiến đến ôm lấy người em họ.
“Cảm
ơn chú còn nghĩ đến chúng tôi. Tôi đề nghị thế này, chúng ta còn nhiều thì giờ
trò chuyện. Chú đi từ Bắc vào đây ngồi tầu cũng mệt, chú lên lầu tắm rửa cho
mát, sau đó xuống ăn cơm rồi chúng ta rỉ rả nói chuyện.”
Từ
lúc vào, ông Dường thấy mang ba lon gạo với ba cái bát sành cho anh là sai rồi.
Họ khá giả lắm chứ có đói khổ như ngoài Bắc tuyên truyền đâu. Giờ sao đây với
hai món đó.
Ông
Nhân quay qua thấy cái bao tải, hỏi:
“Cái
bao gì của chú đây?”
Ông
Dường ngượng ngập:
“Có
một bộ quần áo của em với....với mấy lon gạo và ba cái bát đàn em định đem biếu
anh chị vì ngoài Bắc nói trong Nam không có gạo, toàn ăn bobo, cũng không có
cái bát mẻ, toàn cưa gáo dừa làm bát!”
Vợ
chồng ông Nhân cười ngất:
“Chú
không nhớ miền Nam là vựa lúa của Đông Nam Á à? Tụi tôi đói phải ăn bobo thì nhiều
nơi khác phải ăn củ chuối hay ăn thịt người.”
Quay
qua ghé vào tai người em, ông Nhân nói nhỏ:
“Nói
để chú hiểu, từ ngày 30-4 đến giờ, người miền Nam phải cất giấu hết, không dám
để tự nhiên như ngày xưa vì e bị tội. Nóng thế này mà không có cái quạt thì
chịu không nổi. Sofa, bàn ghế, tủ, tranh có đem bán, rẻ rề, không ai mua. Đành
phải giữ lại. Khó khăn lắm chú ạ!”
Ông
Dường gật đầu đồng ý, chợt nhớ ra:
“Thưa
anh chị, tha lỗi cho em. Họ nói trong Nam người nào cũng có một cái đuôi vì đói
quá ăn thịt trẻ con mà mọc đuôi. Có thật không anh chị?”
Ông
bà Nhân lại cười sặc sụa:
“Làm
gì có chuyện đó! Chú chớ nghe đồn nhảm!”
Ông
Dường tính nói không phải đồn nhảm đâu mà có trong tài liệu học tập đàng hoàng
cán bộ thông tin tuyên truyền trên loa phường nói ra rả mỗi tối bắt mọi người
phải nhắc đi nhắc lại cho kỳ thuộc nằm lòng.
Ông
Dường nghĩ thế nhưng lại ngại nên im luôn.
“Để
cháu dẫn chú lên lầu tắm rửa cho mát đã.”
Ông
quay gọi thằng con:
“Nhượng
đâu, dẫn chú lên lầu chỉ phòng tắm cho chú. Lấy cái khăn bông mới trong tủ đưa
chú.”
Ông
Dường mở bao tải lấy bộ quần áo đẹp nhất mang đi từ nhà. Bộ quần áo giở ra, một
mùi khai nhức mũi bay lên làm ông chun mũi lại. Chẳng biết đứa phải gió nào
trên xe lửa đái vào bộ quần áo, ướt lan cả sang gạo. Có lẽ hai người đàn bà có
hai đứa nhỏ khóc ra rả nằm gần ông. Ông Nhân cũng ngửi thấy mùi khai. Ông nhanh
trí:
“Quần
áo đi tầu dễ hôi hám lắm vì đi ba ngày đường. Để chị bỏ máy giặt, cháu lấy
pyjama của tôi, chú mặc đỡ.”
Khi
ông Dường từ nhà tắm xuống với bộ pyjama mới và đôi dép Nhật, trông ông đẹp hẳn
ra và trẻ trung dăm bảy tuổi. Ông bảo ông Nhân:
“Anh
có làm cái hồ nuôi cá trê nhưng hơi bé một chút. Bằng đó chỉ thả được dăm con,
anh làm to gấp ba thì thả được 15 con tha hồ ăn. Nhà em ở Bắc cũng có ao thả cá
trê ăn quanh năm.”
Bà
Nhân ngạc nhiên:
“Nhà
tôi làm gì có hồ thả cá đâu chú?”
“Giữa
phòng tắm đấy thôi, men sứ trắng và cao cỡ này này.” Ông Dường giang tay làm
cỡ.
Ông
Nhân bảo:
“Cái
bàn cầu đấy chú, không phải để nuôi cá trê đâu!”
Ông
Dường ngạc nhiên:
“Rõ
ràng là cái để nuôi cá trê mà!”
“Bàn
cầu để đi đại tiện đấy chú. Thế ngoài Bắc không có à?”
Ông
Dường biết là mình sai, thẹn đỏ mặt, ông chữa thẹn:
“Từ
thuở cha sinh mẹ đẻ, chưa bao giờ em nhìn thấy cái này. Ngay ở thủ đô Hà Nội
cũng không có. Ai dám ngồi lên đó mà …mà…đi đại tiện.
Trời
ơi, trong Nam phí của quá. Cái bồn men sứ trắng tinh vậy lại làm bàn cầu. Thế
rồi phân thì nó đi đâu?”
“Nó
chui xuống hầm, sạch sẽ và không có mùi hôi.” Ông Nhân trả lời.
Ông
Dường tru tréo:
“Anh
chị ơi, phân Bắc, nước tiểu, người ngoài Bắc không phí đi đâu tí nào, đem bón
rau, bón lúa, tốt như thổi. Đây lại chôn đi thế thì lấy gì mà bón lúa, bón rau?
Có mùa hút phân chuồng, tụi em phải giấu đi để dành để nộp Hợp tác xã không thì bị phạt tiền.”
Ông
Nhân nhỏ nhẹ:
“Người
ta có phân hoá học đấy chú. Thôi, chú ngồi đây dùng cơm!”
Những
cái bát Giang tây men trắng tươi, những cái dĩa Pháp, dĩa Nhật thật đẹp, cái
thì ra chợ trời, cái bị đào hố chôn, nhưng đám bát đĩa hạng nhì bà Nhân sắp lên
bàn cũng làm ông Dường xuýt xoa khen lấy khen để. Rồi ông Dường lại nhớ đến ba
cái bát đàn của mình, và ba lon gạo, ông đã cố ôm theo giờ nghĩ lại còn thấy
mặt nóng bừng!
(còn tiếp)
Bút
Xuân Trần Đình Ngọc
NGU YEN * CA DAO
Ca Dao Qua Văn Bản
Ngu Yên
Con mèo, con chó có lông
Cây tre có mắt, nồi đồng có quai.
Tìm hiểu ca dao cũng như tìm hiểu thơ văn trong môi trường tìm hiểu văn học và văn hóa, nên dựa vào những phương pháp "khoa học ngôn ngữ" và những lý thuyết hiện hành có hiệu quả tìm hiểu văn học.Trước hết là học thuyết Văn bản. Lý thuyết gia Pháp gốc Bulgaria, Julia Kristeva (1941-) nói về cách phân tách văn bản rất thuyết phục. Qua văn bản, chẳng những tìm ra ý nghĩa, ẩn ngữ, ẩn dụ mà còn tìm ra tâm lý của tác giả và quan trọng là tâm lý chung, hệ thống chung trong xã hội của thời đại.
Bên cạnh đó là học thuyết Cấu trúc và ký hiệu của Roland Gérard Barthes (1915-1980). và vào thời kỳ cuối trong đời, ông đã nghiêng về Phân Tích Văn Bản. (1)
Nói như vậy có vẻ mang dao mổ bò đi cắt cổ gà. Thật ra, dù là một cụm chữ cũng có lý do tại sao nó hiện hữu và tồn tại qua năm tháng. Với thời gian và sự đổi thay của trí tuệ và tâm tình qua từng thời đại sẽ làm cho chữ nghĩa trong câu văn năm xưa hoặc xa xưa trở nên ngớ ngẩn, hời hợt hay u tối, có khi vô nghĩa. Vì vậy những phương pháp khoa học về nghệ thuật sẽ giúp việc tìm hiểu gần sát với ý nghĩa ban đầu hoặc giá trị mà tác giả gởi gấm.
Đặc thù của ca dao là văn vần truyền khẩu, truyền văn qua nhiều đời. Sao đi, tán lại. Khiến cho câu văn mất nhiều cơ sở về phân tích. Điều này sẽ làm cho luận lý dễ bị sơ hở.
Đặc tính của ca dao là:
Nhắc nhở: Nhắc cho người khác nhớ hoặc dạy cho người đương thời những chuyện cần biết "Tháng Giêng là tháng ăn chơi. Tháng Hai trồng đậu, trồng khoai trồng cà....."
Khuyên răn:
Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn..."
Ghi lại một hoàn cảnh chung, một tâm sự chung, một chuyện không hay thường xảy ra để cảnh giác người sau. " Trèo lên cây bưởi hái hoa. ......Em có chồng anh tiếc lắm thay...(Hay nhất là).. Cá cắn câu biết đâu mà gở. Chim vào lồng biết thuở nào ra..."
Còn có nhiều mặt khác nhưng xin tạm dừng vì bài viết không có chủ đích nghiên cứu.
Ca dao diễn đạt bằng cách:
Bạch văn: văn chương bình dân, dễ hiểu.
Ẩn dụ, biểu tượng.
Cách sơn đả ngưu.
Dọn đường một chút để dễ tìm hiểu câu ca dao trên.
1- Con mèo, con chó thuộc về sinh vật. cây tre thuộc về thực vật. Nồi đồng thuộc về đồ vật. Chỉ có nồi đồng là do người tạo ra. Ba thứ kia thuộc về tạo hóa.
Nếu giả thuyết rằng: Câu ca dao này dùng những luận lý xác định: Con mèo phải có lông, Con chó phải có lông, cây tre phải có mắt, nồi đồng phải có quai; để nói đến một điều khác, một cách sống trong đời, một qui lệ xã hội cần phải tuân giữ. Ví dụ như trai lớn phải lấy vợ. gái lớn phải lấy chồng. Như luật trời và người đã định. Như mèo chó có lông. Như tre có mắt. Như nồi có quai. Không nên làm khác.
Giả thuyết này có thể hiểu được vì dân chúng ngày xưa ít học. Không quen suy tư. Trí óc đơn giản. Những câu ca dao dễ hiểu dễ nhớ dễ truyền là cách "học" nhanh và thấm nhất.
2- Giải thích thứ nhất đưa sang câu đố:
Con mèo, con chó có lông
Cây tre có mắt, xương rồng có gai.
Đố là con gì?
Con gì thật ra không cần biết. Ở đây, cụm " xương rồng" thay thế cho cụm "nồi đồng", khiến cho sự suy tư trở về lại văn bản. Câu "ca dao" đố này rất cân phương. Con mèo con chó ở câu trên, cây tre, cây xương rồng ở câu dưới. Cũng cùng một mục tiêu là nhắc nhớ người đời sau phải giữ theo nề nếp hoặc luật trời đất đã định sẵn. Quan điểm ở đây là không có nồi đồng. Không có con người xuất hiện. Qui luật thiên nhiên là chính.
3- Xét văn bản, chữ "nồi đồng" mang ý tứ quan trọng. Bởi con mèo con chó đương nhiên là có lông. Con kia da trơn không phải mèo chó, có thể là trâu bò. Con khác da sần sùi, không phải mèo chó, có thể là cóc là cá sấu. Cây tre có mắt cũng vậy.
Nếu mắt ở đây là mắt thấy. Ẩn ngữ để ám chỉ chuyện đời không thể giấu diếm. Không có gì bí mật dưới ánh sáng mặt trời. Thì cụm chữ " nồi đồng phải có TAI ". Vì văn bản là nồi đồng có quai nên chữ mắt của cây tre không phải ẩn ngữ.
Còn lại: Nồi đồng có quai. Tại sao có quai?
Văn bản có quai, cho biết rằng đã có một thời nồi đồng không có quai. Nồi đất cho tới ngày nay vẫn có nồi không có quai. Nhưng nồi đồng phải có quai vì khi nấu nồi đồng rất nóng. Nóng gấp chục lần nồi đất. Cái quai xuất hiện sau đã giúp cho người nấu tiện lợi bưng cầm, di dời nồi đồng.
Thời xưa, cái nồi giữ vị trí thân thuộc và ích lợi cho gia đình. Nó tạo ra thức ăn, nước uống. Nồi đất hay bể nên nồi đồng được yêu chuộng hơn. Trong nhiều gia đình, nồi đồng trở thành báu vật. Và hợp lý khi có câu ca dao nhắc nhở về nồi đồng.
Chưa kể có những nồi đồng lớn, dùng để nấu cho cả làng ăn trong những
ngày lễ hội. Chiếc nồi này được xem như linh hồn của dân làng. Ví dụ như
Nồi đồng khổng lồ của dân tộc Thái vùng xứ Thanh (2). Chi tiết này đóng
góp vai trò quan trọng của nồi đồng thời chưa văn minh. Trong bài viết
Những Câu Chuyện Ly Kỳ Xung Quanh Các Cổ Vật Pù Luông (2), có đoạn nói
về quai của nồi đồng:
"Nếu thân nồi bằng đồng có thể giữ nhiệt rất lâu thì hai cái quai không
bao giờ nóng, dù nồi có để trên lửa cả ngày, khi cần chỉ việc nhấc nồi
xuống bình thường, không cần dùng đến miếng vải đệm tay. Điều đặc biệt
này đã được ông Tân xác nhận khi có người lặn lội xe đò vài trăm cây số
đến nhà ông chỉ xin mua duy nhất hai cái quai nồi. Chủ nhân của nó dù đã
gắn bó đến gần hết cuộc đời cũng không đưa ra được lý giải chính xác về
chất liệu hai cái quai khác biệt như thế nào với thân nồi. "
Câu chuyện này lại càng xác nhận lợi ích của đôi quai trên nồi đồng. Vì
vậy nếu có ca dao nhắc nhở nên làm quai khi đúc nồi đồng cũng là chuyện
bình thường.
Câu ca dao này khuyên răn người đời sau: Nồi đồng phải có quai thì mới
như mèo chó có lông, tre có mắt. Nồi đồng phải có quai mới hoàn tất hình
hài và cách sử dụng. Câu ca dao này cũng có thể diễn dịch nghĩa bóng
trong nhiều hoàn cảnh khác.
Tìm vào tài liệu:
Nếu câu ca dao có gốc Quảng Nam thì xem: Quảng Nam Phủ Tập Ký Sự của Mai
Thị do Lê Đăng Hiển sao lục 1824 đời Minh Mạng (Nội dung viết 400 năm
cũ). Có ghi việc Ông Bùi Tá Hán, đô tướng Quảng Nam dinh, dạy dân Quảng
cách sinh hoạt thường ngày, như: xây nhà ba gian, tám cột... đào
giếng...và phải làm nồi đồng, nồi đất có quai ở cổ để nấu nướng tiện
việc bưng lên bưng xuống....(3)
Qua những suy diễn thô sơ và gọn nêu trên, có thể đi đến kết luận, cách
giải thích thứ 3 là gần gũi nhất với sự phân tích và giải quyết qua văn
bản.
Ngu Yên
================================
(1) Barthes định nghĩa văn bản như sau: “Văn bản, theo nghĩa hiện đại và hiện tại (…), khác biệt một cách cơ bản với tác phẩm văn học: nó không phải là một sản phẩm thẩm mỹ, nó là một công việc biểu đạt; nó không phải là một cấu trúc [‘structure’], nó là một sự lập thành cấu trúc [‘structuration’]; nó không phải là một đối tượng, nó là một công việc và là một trò chơi; nó không phải là một tập hợp các ký hiệu khép kín, được ban cho một nghĩa mà nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm ra cái nghĩa đó, nó là một khối lượng các dấu vết di chuyển; cấp phán xét dành cho một Văn bản không phải là ý nghĩa, mà là Cái Biểu đạt, theo nghĩa ký hiệu học và tâm phân học của thuật ngữ này; Văn bản vượt trội hơn tác phẩm văn học theo nghĩa cũ;” (tr. 13).
(L’Introduction à l’analyse structurale des récits (1966))
Trích bài viết của tác giả Nguyễn Văn Dân. Nguồn Văn Nghệ số 37, ngày 11-9-2010
(2) http://laodong.com.vn/lao-dong-doi-song/nhung-cau-chuyen-ly-ky-
xung-quanh-cac-co-vat-o-pu-luong-139099.bld
(3) Tôi đưọc biết chuyện này và sách này qua một bài báo đã đọc lâu ngày. Không nhớ tác giả là ai và bài viết lưu trử nơi nào. Đành xin cáo lỗi cùng tác giả và bạn đọc. Xin cảm tạ tác giả.
Riêng Quảng Nam Phủ Tập Ký Sự, xin xem:
http://www.baodanang.vn/channel/5433/201010/chuyen-xua-xu-quang-may-net-quang-nam
-xua-qua-tap-sach-cu-2010777/
http://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i_T%C3%A1_H%C3%A1n
Tuesday, September 2, 2014
THẾ GIỚI CHUNG QUANH TA
THẢM HỌA PHÓNG XA FUKUSHIMA
Rau quả biến dạng kỳ dị sau thảm họa phóng xạ tại Fukushima ngày 11/3/2011
Lá mọc ngay trên quả dưa chuột vì nhiễm phóng xạ. Điều này chứng tỏ phóng xạ hạt nhân có sức hủy diệt, gây đảo lộn những điều bình thường đến mức nào.
Thảm họa phóng xạ cách đây 2 năm ở Nhật khiến cho những loại rau, quả và hoa trở nên dị dạng đến khó tin.
2 năm sau thảm họa sóng thần khiến nhà máy điện hạt nhân ở Fukushima, Nhật Bản, rò rỉ, cây cối nơi đây trở nên dị dạng.
Lá mọc ngay trên quả dưa chuột vì nhiễm phóng xạ. Điều này chứng tỏ phóng xạ hạt nhân có sức hủy diệt, gây đảo lộn những điều bình thường đến mức nào.
Một quả cà tím cũng biến dạng thành nhiều nhánh quả.
Viếng thăm Nara
Mời xem chuyện lạ-NARA Thành phố HƯƠU tại NHẬT BẢN-
Hươu biết tuân thủ luật giao thông.
Mời bấm vào đường dẫn sau đây:
LK 16/8/2014Hươu biết tuân thủ luật giao thông.
video will be live at:http://youtu.be/BIDqpqf0fEA
Preview YouTube video 228- LK- NARA Thanh pho HUOU tai NHAT BAN (15 Aug 14)HD
228- LK- NARA Thanh pho HUOU tai NHAT BAN (15 Aug 14)HD
Nara cổ kính
Đây là thành phố của chùa chiền, lăng tẩm, mang nét cổ xưa, tĩnh lặng và thơ mộng. Những ngôi chùa, những bức tượng Phật chủ yếu được làm bằng gỗ quý. Muốn thăm hết các ngôi chùa ở Nara cũng phải mất ít nhất vài ngày, mặc dù toàn thành phố có diện tích chỉ khoảng 211,6km2.
Thời Nara (năm 710), đạo Phật được chính quyền Nhật Bản ủng hộ mạnh mẽ. Lúc đó, Nhật Bản cũng có quan hệ rất tốt với Trung Quốc - thời nhà Đường đang phát triển hưng thịnh - Nara trở thành nơi tiếp thu những sản phẩm văn hóa, nghệ thuật của đại lục. Những công trình xây dựng, nghệ thuật, điêu khắc... vẫn còn lưu giữ đến nay và được xếp vào tài sản quốc gia của đất nước Hoa anh đào.
Di sản văn hóa quan trọng nhất của Nara là quần thể chùa Todai (TodaiJi) được xây từ năm 743 và hoàn thành năm 751 trong một vùng chia thành 64 khu thuộc phía Đông của Nara. Chùa Todaiji là một trong những ngôi chùa lâu đời và nổi tiếng bậc nhất, đồng thời là một trong những thắng cảnh tuyệt vời của Nhật Bản. Theo truyền thuyết, đã có đến 420.000 người cúng tiền và 2.180.000 người tham gia xây dựng chùa. Bức tượng Đại Phật do một nghệ sĩ đến từ vương quốc Baekje, Triều Tiên, thiết kế. Đây là bức tượng bằng đồng mạ vàng lớn nhất thế giới - nằm trong một công trình làm toàn bằng gỗ tên là Đại Phật Điện.
Chùa Todaiji còn sở hữu vô số báu vật văn hóa với hơn 20 pho tượng Phật và tác phẩm nghệ thuật được xếp loại di sản quốc gia. Đại Phật Điện có chiều cao 48 mét, mặt bằng chữ nhật 56 mét x 50 mét, là công trình gỗ lớn nhất thế giới. Dù có kích thước đồ sộ như vậy, người ta vẫn cho rằng Đại Phật Điện còn chưa đủ rộng để chứa pho tượng. Đại Phật bên trong ngôi điện ngày nay, khách tham quan phải rất chật vật khi tìm khoảng rộng để ngắm nhìn được toàn bộ pho tượng.
Quần thể chùa Todaiji ngoài Đại Phật Điện mà còn cả hai ngôi tháp bảy tầng, một giảng viện và khu tịnh xá. Một dãy hành lang bao quanh Đại Phật Điện tương tự như thiết kế của quần thể chùa Horyuji nổi tiếng. Toàn bộ quần thể chùa Todaiji trải dài 1 cây số theo trục Bắc - Nam là hàng loạt công trình lịch sử, trong đó có Kho báu Hoàng gia - nơi chứa kho bảo vật của Thiên hoàng Shomu.
Một điểm đến hấp dẫn khác ở Nara là Công viên Nara được xây dựng vào năm 1880 bao gồm hầu hết những thắng cảnh của Nara như đền Todaiji, đền Kofukuji, lăng Kasuaga Taisha, đền Gangoji, đền Yakushiji, đền Toshodaiji, cung Heijo... Bảo tàng quốc gia Nara tập trung vô số những sưu tập về nghệ thuật Phật giáo. Đây cũng là nơi ở của hàng trăm con hươu hoang dã tự do lang thang. Theo đạo Shinto, hươu được xem là sứ giả của các thần linh, do đó những con hươu ở Nara đã trở thành biểu tượng của thành phố
Theo văn hóa dân gian địa phương, 1 vị thần tên là Takemikazuchi đã cưỡi 1 con nai trắng đến cố đô, vị thần như chính người bảo vệ của nó. Từ truyền thuyết trên, 1300 năm qua, hươu ở Nara được xem là biểu tượng thiêng liêng và thần thánh. Giết chết 1 con hươu là hành vi phạm tội và phải bị trừng phạt bằng cái chết, luật này được áp dụng đến năm 1637. Sau Thế chiến II, hươu không còn được xem là biểu tượng thiêng liêng nữa, nhưng được đưa vào danh sách bảo vật quốc gia và được bảo vệ.
Nara còn có hàng loạt lễ hội và sự kiện văn hóa được tổ chức hàng năm. Đến Nara, du khách có thể tìm đến những làng nghề thủ công gia truyền như hàng mỹ nghệ, đặc biệt là mì sợi Nhật Bản và tận hưởng không gian bình lặng của những con đường khoáng đạt, những khuôn viên xanh của cỏ và thông.
Đây là thành phố của chùa chiền, lăng tẩm, mang nét cổ xưa, tĩnh lặng và thơ mộng. Những ngôi chùa, những bức tượng Phật chủ yếu được làm bằng gỗ quý. Muốn thăm hết các ngôi chùa ở Nara cũng phải mất ít nhất vài ngày, mặc dù toàn thành phố có diện tích chỉ khoảng 211,6km2.
Thời Nara (năm 710), đạo Phật được chính quyền Nhật Bản ủng hộ mạnh mẽ. Lúc đó, Nhật Bản cũng có quan hệ rất tốt với Trung Quốc - thời nhà Đường đang phát triển hưng thịnh - Nara trở thành nơi tiếp thu những sản phẩm văn hóa, nghệ thuật của đại lục. Những công trình xây dựng, nghệ thuật, điêu khắc... vẫn còn lưu giữ đến nay và được xếp vào tài sản quốc gia của đất nước Hoa anh đào.
Di sản văn hóa quan trọng nhất của Nara là quần thể chùa Todai (TodaiJi) được xây từ năm 743 và hoàn thành năm 751 trong một vùng chia thành 64 khu thuộc phía Đông của Nara. Chùa Todaiji là một trong những ngôi chùa lâu đời và nổi tiếng bậc nhất, đồng thời là một trong những thắng cảnh tuyệt vời của Nhật Bản. Theo truyền thuyết, đã có đến 420.000 người cúng tiền và 2.180.000 người tham gia xây dựng chùa. Bức tượng Đại Phật do một nghệ sĩ đến từ vương quốc Baekje, Triều Tiên, thiết kế. Đây là bức tượng bằng đồng mạ vàng lớn nhất thế giới - nằm trong một công trình làm toàn bằng gỗ tên là Đại Phật Điện.
Chùa Todaiji còn sở hữu vô số báu vật văn hóa với hơn 20 pho tượng Phật và tác phẩm nghệ thuật được xếp loại di sản quốc gia. Đại Phật Điện có chiều cao 48 mét, mặt bằng chữ nhật 56 mét x 50 mét, là công trình gỗ lớn nhất thế giới. Dù có kích thước đồ sộ như vậy, người ta vẫn cho rằng Đại Phật Điện còn chưa đủ rộng để chứa pho tượng. Đại Phật bên trong ngôi điện ngày nay, khách tham quan phải rất chật vật khi tìm khoảng rộng để ngắm nhìn được toàn bộ pho tượng.
Quần thể chùa Todaiji ngoài Đại Phật Điện mà còn cả hai ngôi tháp bảy tầng, một giảng viện và khu tịnh xá. Một dãy hành lang bao quanh Đại Phật Điện tương tự như thiết kế của quần thể chùa Horyuji nổi tiếng. Toàn bộ quần thể chùa Todaiji trải dài 1 cây số theo trục Bắc - Nam là hàng loạt công trình lịch sử, trong đó có Kho báu Hoàng gia - nơi chứa kho bảo vật của Thiên hoàng Shomu.
Một điểm đến hấp dẫn khác ở Nara là Công viên Nara được xây dựng vào năm 1880 bao gồm hầu hết những thắng cảnh của Nara như đền Todaiji, đền Kofukuji, lăng Kasuaga Taisha, đền Gangoji, đền Yakushiji, đền Toshodaiji, cung Heijo... Bảo tàng quốc gia Nara tập trung vô số những sưu tập về nghệ thuật Phật giáo. Đây cũng là nơi ở của hàng trăm con hươu hoang dã tự do lang thang. Theo đạo Shinto, hươu được xem là sứ giả của các thần linh, do đó những con hươu ở Nara đã trở thành biểu tượng của thành phố
Theo văn hóa dân gian địa phương, 1 vị thần tên là Takemikazuchi đã cưỡi 1 con nai trắng đến cố đô, vị thần như chính người bảo vệ của nó. Từ truyền thuyết trên, 1300 năm qua, hươu ở Nara được xem là biểu tượng thiêng liêng và thần thánh. Giết chết 1 con hươu là hành vi phạm tội và phải bị trừng phạt bằng cái chết, luật này được áp dụng đến năm 1637. Sau Thế chiến II, hươu không còn được xem là biểu tượng thiêng liêng nữa, nhưng được đưa vào danh sách bảo vật quốc gia và được bảo vệ.
Nara còn có hàng loạt lễ hội và sự kiện văn hóa được tổ chức hàng năm. Đến Nara, du khách có thể tìm đến những làng nghề thủ công gia truyền như hàng mỹ nghệ, đặc biệt là mì sợi Nhật Bản và tận hưởng không gian bình lặng của những con đường khoáng đạt, những khuôn viên xanh của cỏ và thông.
Chùa Kofuku, Nara
Chùa Todai ( 東大寺), Nara
Tượng Phật tại chánh điện và tượng các vị La Hán trong chùa Todai, Nara
Bức
ảnh đồ ăn cho các chú hươu dưới đây, bánh gạo senbei, chụp vào năm 2011
cho thấy giá là 150 yen, có vài bức ảnh của mod.PN đưa ở trên có hình
chụp các chú nai vây quanh chỗ của ông lão bán esa (đồ ăn cho thú nuôi)
cho chúng có bảng giá ghi 150 yen cho một gói senbei .
Bộ ảnh đẹp Không Lực các Quốc Gia trên thế giới!
F4 Phantom
F4 Phantom là một loại phản lực siêu âm ném bom, có tầm bay xa, phòng lái 2 người. Có thể hoạt động trong mọi thời tiết và chiếm nhiều ưu thế trên không.
F4 Phantom được hãng McDonnell Douglas thiết kế chế tạo trước tiên cho Hải quân Hoa Kỳ từ năm 1960 đến năm 1996.
Trong thời chiến tranh Việt Nam, F4 Phantom đã có mặt với sự tham gia của lực lượng không quân Hoa kỳ
Ngoài ra F4 Phantom cũng được trang bị cho quân đội nhiều nước khác, và cho đến năm 2001 vẫn còn hơn 1.000 máy bay F4 đang được sử dụng ở 11 nước trên thế giới.
Tuy ra đời từ lâu nhưng F4 Phantom vẫn giữ được nét độc đáo cho đến thời điểm hiện nay với nhiều chức năng kỷ thuật khá hoàn hảo
F-4 Phantom trên chiến trường Việt Nam
Những "con ma" cất cánh từ Đệ Thất Hạm Đội trên Vịnh Bắc Bộ (1969 - 1972)
Và nếu đã nhắc tới F-4 Phantom tham chiến trên chiến trường VN thì sẽ không thể không nói tới một loại chiến đấu cơ hiện đại khác nữa vào thời đó . Đây là hai chiến đấu cơ chỉ pilots Mẽo lái. Có bác nào còn nhớ chiếc dưới đây không ?
Những "con ma" cất cánh từ Đệ Thất Hạm Đội trên Vịnh Bắc Bộ (1969 - 1972)
Và nếu đã nhắc tới F-4 Phantom tham chiến trên chiến trường VN thì sẽ không thể không nói tới một loại chiến đấu cơ hiện đại khác nữa vào thời đó . Đây là hai chiến đấu cơ chỉ pilots Mẽo lái. Có bác nào còn nhớ chiếc dưới đây không ?
*F-15E Strike Eagle :
Đệ để ý khi cất hay hạ cánh thỉnh thoảng trên lưng
máy bay nó bật cái miếng gì ra để làm gì ko biết ? có huynh nào biết thì giải
thích giùm đệ với !!!
*Stealth bomber F -117A Nighthawk :
*F-16
Fighting Falcon : Loại máy bay chiến đấu rất được ưa chuộng trong các lực lượng
không quân hiện nay .
Sukhoi : Su-30 MK có nhiều phiên bản - Nghe nói không quân V+ cũng có trang bị
loại máy bay này .
*F-4 Phantom : Vẫn còn rất được ưa chuộng trong
không quân Nhật , Đức , Thổ nhĩ Kỳ , Netherland ...với những phiên bản nâng cấp
hiện đại khác nhau .
br />
br />
* Mig -29 :
* Chiếc này biên chế trong không lực Đức :
* Chiếc này biên chế trong không lực Đức :
* C-130 Spectre : Việt + từng nếm mùi con này dọc
theo dãy Trường Sơn .
1/ Các loai Oanh tạc cơ hạng nặng :
*Rockwell B1b-Lancer:
*Tupolev -160s:
*B-52H Stratofortress:
*Tu -95MS Bear :
*B-2 Spirit:
*Không biết phải cốc chủ lái chiếc ni ko nữa:
*TU-22M :
*Rockwell B1b-Lancer:
*Tupolev -160s:
*B-52H Stratofortress:
*Tu -95MS Bear :
*B-2 Spirit:
*Không biết phải cốc chủ lái chiếc ni ko nữa:
*TU-22M :
HỎA TIỂN TỐI TÂN CHỐNG TĂNG TỪ TRÊN KHÔNG
HOT là hỏa tiển chống tăng dẫn đường bán tự động bằng dây dẫn được sản
xuất bởi Euromissile (nay thuộc tập đoàn MBDA). Hỏa tiển được đưa vào
sử dụng trong quân đội Đức và Pháp từ năm 1978. HOT có thể phóng từ bệ
phóng trên xe thiết giáp hoặc từ trực thăng. Pháp trang bị hỏa tiển HOT
cho trực thăng đa năng SA-342M Gazelle với 4 hỏa tiển . Đức trang bị
trên trực thăng Bo-105 PAH-1 với 6 hỏa tiển . Gần đây, hỏa tiển HOT
được trang bị cho trực thăng tấn công Tiger với 8 hỏa tiển . HOT có
chiều dài 1.300 mm, đường kính 150 mm, trọng lượng phóng 24,5 kg. Hoả
tiển có tầm bắn tối đa 4.300 mét, khả năng xuyên giáp từ 800-1.250 mm
tùy biến thể. Ảnh: Army-technology
Pars-3 LR thuộc loại hỏa tiển "bắn - quên" và là sản phẩm của tập đoàn
MBDA, châu Âu. Pars-3 LR là hỏa tiển chống tăng thế hệ 3 được thiết kế
để tiêu diệt các mục tiêu mặt đất cũng như trên không. Hỏa tiển Pars-3
LR được đưa vào hoạt động cùng trực thăng tấn công
Tiger trong quân đội Đức từ năm 2012. Pars-3 LR được đóng gói trong một
hộp phóng lớn chứa 4 đạn. Mỗi trực thăng Tiger có thể mang theo hai hộp
phóng với 8 đạn hỏa tiển . Pars-3 LR được dẫn hướng tự động bằng cảm
biến hồng ngoại hoặc cảm biến hình ảnh kỹ thuật số. Hỏa tiển Pars-3 có
chiều dài 1.600 mm, đường kính 159 mm, trọng lượng phóng 49 kg, tầm bắn 7
km, khả năng xuyên giáp 1.000 mm sau giáp phản ứng nổ. Ảnh:
Chivethebrigade
Hỏa tiển diệt tăng 9M120 Ataka (NATO định danh AT-9 Spiral-2) được sản
xuất bởi Phòng thiết kế máy móc KBM, Nga. AT-9 được đưa vào trang bị từ
năm 1985. Hỏa tiển có thể phóng từ giá phóng trên xe thiết giáp hoặc từ
trực thăng. 9M120 là hỏa tiển chống tăng chủ lực của trực thăng tấn
công Mi-28 và Mi-35. AT-9 được dẫn hướng bán tự động bằng sóng radio với
khả năng kháng nhiễu khá cao. 9M120 có chiều dài 1.830 mm, đường kính
130 mm, trọng lượng phóng 49,5 kg. AT-9 có tầm bắn từ 400-6.000 mét mang
theo đầu đạn liều đúp nặng 7,4 kg với khả năng xuyên giáp từ 800-950 mm
sau giáp phản ứng nổ. Ảnh: Wikipedia
TênHỏa tiển chống tăng Brimstone đã khiến lực lượng tăng thiết giáp
quân đội Libya không còn đất sống. Chỉ trong ngày 26/03/2011, các hỏa
tiển Brimstone phóng đi từ máy bay Tornado của Không quân Hoàng gia
Anh đã tiêu diệt 5 xe bọc thép của quân đội Gaddafi. Brimstone thuộc
loại hỏa tiển "bắn - quên" được dẫn hướng tự động bằng radar bước sóng
milimet. Cơ chế dẫn đường của hỏa tiển có độ chính xác ngay cả với
những mục tiêu di chuyển. Brimstone có chiều dài 1.800 mét, đường kính
178 mm, trọng lượng 48,5 kg, tầm bắn từ 20-60 km tùy biến thể. Hiện tại,
Brimstone là hỏa tiển chống tăng chủ lực của Tornado GR4. Nó cũng
được trang bị cho phi cơ EF-2000 Typhoon. Ảnh: Wikipedia
Nimrod là hỏa tiển chống tăng hạng nặng. Nó được thiết kế để phóng từ
máy bay cánh cố định, trực thăng hoặc xe thiết giáp. Ngoài nhiệm vụ
chính là chống tăng hỏa tiển còn có thể tiêu diệt các mục tiêu mặt đất
khác. Nimrod được dẫn hướng bằng laser bán tự động cả ngày lẫn đêm với
tầm bắn khoảng 26 km. Hỏa tiển được lưu trữ trong ống phóng kiêm bảo
quản có tổng trọng lượng 150 kg. Hiện tại, Nimrod đang được trang bị
trên biến thể sửa đổi từ trực thăng vận tải CH-53 trong quân đội Israel.
Ảnh: Wikipedia
AGM-114 Hellfire được đưa vào trang bị từ năm 1984 và là hỏa tiển chống
tăng chủ lực của trực thăng tấn công AH-64D Apache. Mỗi chiếc AH-64D có
thể mang theo đến 16 hỏa tiển Hellfire. AGM-114 được dẫn hướng bán tự
động bằng laser ngoại trừ biến thể AGM-114L được dẫn hướng bằng radar
bước sóng milimet. Hỏa tiển Hellfire có chiều dài 1.630 mm, đường kính
178 mm, trọng lượng phóng 49 kg, tầm bắn từ 800-8.000 mét. AGM-114 được
sử dụng một cách rộng rãi trong các chiến dịch quân sự của Mỹ và đồng
minh trong thời gian qua. Hellfire cùng với trực thăng tấn công Apache
đã phá hủy lực lượng tăng thiết giáp hùng hậu của Iraq năm 2003. Ảnh:
Wikipedia
9K121 Vikhr (NATO định danh AT-16 Scallion) được chế tạo bởi Phòng thiết
kế máy móc công cụ KBP Tula. Nó ra đời để đánh bại những xe tăng chiến
đấu chủ lực hiện đại nhất. 9K121 được dẫn hướng bám chùm laser bán tự
động với độ chính xác rất cao. AT-16 có chiều dài 2.800 mm, đường kính
130 mm, trọng lượng phóng 45 kg.Hỏa tiển có tầm bắn từ 8-12 km mang
theo đầu đạn liều đúp nặng 8-12 kg với khả năng xuyên giáp lên đến 1.000
mm sau khi phá giáp phản ứng nổ. AT-16 là hỏa tiển chống tăng tối tân
nhất của Nga hiện nay.
TRUYỆN CƯỜI
Thứ Mọi Qúy Bà Đều Thích
Một phụ nữ đi máy bay có một viên kim cương mà không biết làm cách nào qua được hải quan. Thấy một linh mục đang đi ngang, bà bèn nhờ cha đem qua hải quan dùm.
Đến chỗ khai báo, nhân viên hải quan hỏi:
- Cha có gì khai báo không?
Cha cố tính nói không nhưng chợt nhớ viên kim cương trong túi quần và không quên lời Chúa răn nên cha nói:
- Từ thắt lưng cha trở lên không có gì quý giá, còn từ thắt lưng trở xuống thì có một vật mà quí bà đều thích.
Nghe vậy, nhân viên hải quan cười nói:
- Cha vui tính quá! Mời Cha qua.
Có một cô gái nuôi được một con vẹt rất khôn, biết nói đủ chuyện. Một hôm thấy con vẹt dơ dáy wá cô gái bèn mang nó vào nhà tắm và tắm cho nó. Sau khi tắm cho con vẹt thì quần áo bị ướt nên cô gái cởi quần áo tắm luôn. Trong lúc đứng rũ lông cho khô con vẹt cứ đứng nghiêng ngó rồi lải nhải:
- Thấy hết rồi nha, thấy hết rồi nha!.
Cô gái bực quá bèn xách con vẹt ra vặt hết lông trên đầu nó cho chừa cái tội nói bậy.
Mấy hôm sau, có một nhà sư đến nhà của cô gái nọ thăm. Con vẹt nghiêng ngó nhìn cái đầu của vị sư một hồi rồi rụt rè hỏi: Bộ cũng thấy hết rồi hả???
Cha xứ của một xóm đạo nhỏ có nuôi một con chim rất khôn.
Cha rất quý con chim này. Một hôm, con chim của cha bị mất,cha nghĩ rằng xứ đạo mình nhỏ, chắc ai cũng biết là mình có con chim. Nghĩ vậy nên trong bài giảng trước nhà thờ hôm đó, cha xứ hỏi :
"Ai ở trong nhà thờ này có con chim thì đứng dậy ?", tức thì tất cả đàn ông trong nhà thờ đứng dậy.
Cha biết mình đã lầm nên chữa lại : "Ai ở trong nhà thờ này từng thấy con chim thì đứng dậy ?",
tức thì tất cả đàn bà trong nhà thờ đứng dậy. Cha biết mình lại lầm nên chữa lại tiếp :
"Ai ở trong nhà thờ này đã thấy con chim của cha thì đứng dậy ?", tức thì tất cả các sơ trong nhà thờ đều đứng dậy.
Nguời Nhật đào đất sâu xuống 500m thấy được 1 sợi dây điện thoại, liền kết luận rằng cách đây 500 năm nguời Nhật đã dùng điện thoại đặt ở bàn.
Nguời Mỹ cũng đào đất xuống 1000m và thấy được 1 sợi dây cáp, kết luận rằng cách đây 1000 năm nguời Mỹ đã dùng truyền hình cáp.
Nguời Việt Nam liền vào cuộc, đào sâu xuống 2000m mà chẳng thấy được gì hết, nhưng vẫn kết luận rằng cách đây 2000 năm nguời Việt Nam đã dùng điện thoại di động.
Lỗi tại bà
Một cặp vợ chồng già trên 80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh, vi họ ăn uống theo chế độ và tập thể dục thuờng xuyên. Không may hai cụ qua đời do một tai nạn xe buýt. Họ lên thiên đàng và được Thánh Pierre đón tiếp nồng hậu. Thánh Pierre đua hai nguời đi tham quan nhà bếp, hồ bơi, phòng tắm hơi, sân chơi tennis ... Lóa mắt vì sự sang trọng của ngôi nhà, cụ ông hỏi Thánh Pierre :
- Chúng tôi có phải trả tiền các dịch vụ không ?
- Tất cả đều miễn phí, đây là thiên đàng mà. - Thánh Pierre trả lời..
Ðến giờ ăn, Thánh Pierre đưa hai cụ đến bàn bày thức ăn linh đinh. Cụ ông hỏi:
- Tất cả các món ăn này đều miễn phí ?
- Tất nhiên. Thánh Pierre trả lời.
- Chúng tôi có thể ăn tùy thích, không phải lo ngại dư mỡ, đuờng, cholesterol à ?
- Không, tôi đã bảo là cụ đang ở trên thiên đàng. Cụ có thể ăn uống no say tùy thích mà không sợ bị béo phì, đái đuờng hay nhồi máu cơ tim ...
Bỗng nhiên mặt cụ ông trở nên đỏ gay, và quay sang bà vợ quát thật to :
- Tất cả do lỗi của bà. Nếu bà không ép tôi phải ăn uống kiêng cữ và tập thể dục, thì tôi đã lên đây sớm hơn 10 năm.
Đúng thế....
Một người Pháp, một người Mỹ và một người VN tranh luận xem Adam và Eva là nguời nước nào .
Nguời Pháp :
- "Trần truồng và trụy lạc ngay truớc mặt Thượng đế như thế, chỉ có thể là dân Pháp".
Nguời Mỹ :
- " Yêu tự do đến mức lẽ ra có thể sống hạnh phúc, chỉ cần đừng đụng đến trái táo, vậy mà họ vẫn không chịu nổi sự cấm đoán đó thì chỉ có thể là dân Mỹ ".
Nguời VN lúc ấy mới lên tiếng :
- " Quần áo chẳng có, nhà cửa chẳng có, thậm chí đến ăn một trái táo cũng bị cấm, thế mà vẫn bảo là sống trên thiên đuờng thì chỉ là dân VN !!! ".
Help!!!help! !!
Trong 1 cuộc thi nhịn đói gồm 3 nước Anh, Nhật và Việt Nam .
Mỗi nguời bị nhốt trong 1 cái hộp sắt và có gắn chuông, hễ ai không chịu nổi thì giật dây chuông "reng ... reng" sẽ được ra ngoài, ai chịu đựng lâu nhất sẽ thắng.
Thí sinh người Anh chịu được 3 ngày thì "reng ... reng" .
Thí sinh người Nhật chịu được 5 ngày phải bò ra .
Qua tới ngày thứ 7 thấy thí sinh Việt Nam vẫn im hơi lặng tiếng,......
Ban giám khảo quyết định cho VN thắng. Nhưng khi mở hộp thì thấy thí sinh VN nằm chết từ lúc nào rồi, trên vách còn ghi những dòng chữ bằng máu: " Ð.m. thằng nào cắt chuông tao".
Sau khi bị đánh rớt trong kỳ thi, một sinh viên Luật khoa liền đến vị giáo sư vừa thông minh vừa rành về luật pháp rồi hỏi rằng:
- Thưa thầy, có phải thực sự thầy am hiểu tất cả về môn học này?
- Dĩ nhiên rồi, nếu không thì tôi đã không phải là giáo sư.
- Vậy em xin phép được hỏi thầy một câu, nếu thầy nói đúng thì em chấp nhận bị rớt, còn nếu không thì phải cho em điểm A.
- Được, nói đi, câu hỏi gì vậy?
- Thưa thầy: Việc gì hợp pháp nhưng không hợp lý, hợp lý nhưng không hợp pháp, vừa không hợp pháp cũng không hợp lý?
Vị giáo sư cố nặn óc ra, nhưng vẫn không tìm được câu trả lời; cuối cùng phải chịu thua, và theo giao ước, ông đành phải cho chàng sinh viên này điểm A thay vì đánh rớt.
Vị giáo sư này tiếp tục suy nghĩ câu hỏi suốt buổi trưa, nhưng vẫn không thể nào tìm được câu trả lời; nên cuối cùng ông đành triệu tập những đệ tử xuất sắc nhất của mình và lập lại câu hỏi hóc búa của chàng sinh viên: “Việc gì hợp pháp nhưng không hợp lý, hợp lý nhưng không hợp pháp, vừa không hợp pháp cũng không hợp lý?”
Thật là ngạc nhiên và bối rối rối cho vị giáo sư, vì tất cả các đệ tử ruột của ông đều giơ tay xin trả lời. Vị giáo sư này liền chỉ một đệ tử đắc ý nhất của mình. Anh này giải thích:
- Thưa thầy, câu trả lời này cũng dễ thôi: Như thầy biết đó, thầy đã 75 tuổi rồi mà lại cưới một cô 30 tuổi là hợp pháp nhưng không hợp lý; vợ của thầy lén bắt bồ với một anh sinh viên 23 tuổi là hợp lý nhưng không hợp pháp; còn thầy lại đi cho tình địch của thầy điểm A sau khi anh ta bị chính thầy đánh rớt thì vừa không hợp pháp cũng không hợp lý!
Help..!
Một cô bé bị một con chó dữ đuổi theo nên vừa chạy vừa kêu to: "Help...help. ..help... "
Một ông lão ngồi trong nhà nhìn ra, rồi gật gù nói với bà lão ngồi kế bên: "bà coi con nhỏ điên kia kìa....... chó rượt mà cứ kêu là heo, heo, heo...?!?"
Hai đứa trẻ ngồi đọc sách sinh vật, chúng bàn cãi một lúc không đứa nào chịu thua, cuối cùng thằng anh đi đến hỏi bà nội của chúng đang ngồi gần đó :
- Bà ơi, bà có thể đẻ được em bé không ạ ?
- Các cháu ơi, bà không thể đẻ tại vì ...
Thằng em liền ngắt lời bà và quay sang nhìn thằng anh nói một cách đắc thắng:
-Thấy chưa, em đã nói với anh là bà nội thuộc giống đực mà!!!
Bia ôm
Một anh nông dân vào quán bia ôm uống bia. Sợ đắt tiền anh ta gọi:
- Chủ quán, cho 2 suất bia không ôm.
- Anh yên tâm ở đây chúng tôi không tính tiền ôm.
- Vậy thì cho 2 suất ôm không bia !!
Trời ơi, hụt!
Một đại gia mời một một tu sĩ đi đánh gôn. Cú đánh đầu tiên hụt, ông đại gia kêu lên:
- Trời ơi, hụt!!!
Vị tu sĩ liền nói:
- Thí chủ đừng kêu Trời như vậy, sẽ bị thiên lôi nổi giận mà đánh đấy.
Đến phát thứ hai hụt, ông đại gia lại kêu lên:
- Trời ơi, hụt!!!
Vị tu sĩ bèn can lần nữa:
- Thí chủ đừng kêu nữa, kêu lần nữa sẽ bị sét đánh đấy.
Phát thứ ba hụt, ông ta lại kêu lên:
- Trời ơi, hụt!!!
Đột nhiên có tiếng nổ rất to, mọi người quay lại thì thấy vị tu sĩ bị sét đánh cháy đen thui.
Bỗng từ trên trời có tiếng nói rất to vọng xuống:
- TRỜI ƠI, HỤT !!
Cố vấn
Thí sinh thi trượt lần thứ 3, hỏi bạn mình viết thư như thế nào cho gia đình. Người bạn cố vấn:
- Cậu chỉ cần viết ngắn gọn : "Kỳ thi đã kết thúc, kết quả không có gì mới "
Sập bẫy
Anh chàng mới xin làm bảo vệ đêm cho một công ty. Sau hôm làm việc đầu tiên, giám đốc công ty hỏi:
- Thế nào, đêm đầu tiên ở đây, anh ngủ ngon chứ?
- Dạ cám ơn Sếp, em ngủ rất ngon ạ.
- Vậy thì anh có thể nghỉ việc được rồi đấy.
Hỏi ai?
Ba phạm nhân A, B, C mới vào tù, đứng trước một cai ngục mắt lé (mắt lác).
Cai ngục trợn mắt nhìn phạm nhân A, hằm hằm hỏi:
- Mày phạm tội gì?
Phạm nhân B vội nói:
- Dạ, tôi phạm tội trốn thuế.
Cai ngục nhìn sang phạm nhân B hét lên tức giận:
- Tao đâu có hỏi mày mà mày trả lời!
Phạm nhân C sợ quá rú lên:
- Dạ nãy giờ em đứng yên, em đâu có trả lời !
Bao nhiêu tuổi?
Trên một chuyến tàu, hai phụ nữ nằm ở 2 giường tầng 1 nói chuyện với nhau. Một phụ nữ hỏi:
- Chị bao nhiêu tuổi rồi?
- Tôi chỉ mới hơn 20 một chút. Thế còn cô?
- Em mới hơn 18 tuổi một tẹo.
- Ông khách giường trên nghe thấy thế liền lộn cả người xuống nhìn hai “cô gái”.
Sau khi chiêm ngưỡng hai "thiếu nữ" 18, 20, ông liền ngã quay xuống đất.
Hai bà giật mình kêu lên:
- Anh từ đâu ra thế này?
- Tôi không biết nữa, tôi vừa mới sinh ra.
Thuật ngữ chuyên môn
Một phụ nữ suốt đời làm nghề dọn dẹp nhà vệ sinh. Về già, bà muốn lo chu đáo cho phần mộ sau này của mình nên đặt làm một tấm bia.
Ông thợ hỏi:
- Thế bà muốn tôi khắc gì trên đó?
Không cần suy nghĩ, bà trả lời:
- Ở trong đang có người.
Chồng say
lướt khướt trở về nhà, vợ càu nhàu:
- Hứa mãi rồi, vẫn uống nhiều, lại say bét nhè!
- Nhiều nhặng gì đâu, có một chai cho ba người.
- Thế sao lại say đến thế này?
- À, tại hai thằng kia hẹn nhưng chả thấy đến.
Kiện ông Điện Lực
Tại Tòa Án hôm nay rất đông người đến dự khán phiên xữ vụ ông Bác sĩ kiện ông Điện Lực.
Chánh Án :
- Yêu cầu ông Bác sĩ kể rõ sự việc
Bác sĩ :
- Trước mặt quý Tòa là Nam bệnh nhận mà tôi chữa trị làm chứng. Hôm đó bệnh nhân "nằm sấp" để tôi xem xét bệnh "trĩ", sau đó tôi đến tủ thuốc lấy thuốc thì bị cúp điện. Đối với bệnh này việc chữa trị không có gì khó khăn, cứ dùng thuốc bôi vào "cục trĩ" là xong, vài ngày sau tự nó rụng mất.
- Vậy chuyện gì mà kiện ông Điện Lực?
- Khi điện cúp, bệnh nhân tưởng ngưng chữa bệnh
- ???
- Bệnh nhân "nằm ngửa…"
- !!!
- Tôi bôi thuốc vào chỗ đó.
Một cô Giáo viên người Kinh công tác giảng dạy ở một làng Thượng, thời gian sau mang bầu. Hội Đồng Làng xét xữ hỏi cô Giáo,
- Yêu cầu cô Giáo cho biết có "bầu" với ai ?
Cô Giáo :
- Dạ chính là anh K. Rong Pleime,
Hội Đồng Làng :
- Anh K. Rong Pleime có nhận tội không?
K. Rong Pleime :
- Không
Hội Đồng Làng :
- Tội rành rành sao không nhận?
- Giết người mới có tội, còn tôi làm ra người sao gọi là có tội.
??
Khai lý lịch
Một thanh niên làng quê mang Tờ khai Lý lịch đến cơ quan…chứng nhận,
Viên chức nhà nước :
- Tại sao nơi sinh anh không ghi vào?
- Khó ghi lắm
- Tại sao?
- Ông cũng biết mà
- Biết cái gì?
- Thì ông cũng sinh ra ở chổ đó của Má ông, ghi mà chi.
- ???
Vợ thấy chồng đi làm về, chạy ngay ra đón chồng, hôn 1 cái vào má và thỏ thẻ:
- Anh ơi, em trễ 2 tháng rồi, chắc chúng ta có em bé quá!
Chồng vui mừng khôn siết vì sắp được làm bố... 2 vợ chồng cùng nhau xem ti vi và đi ngủ.
Sáng hôm sau, chồng lại đi làm, chỉ có mỗi bà vợ ở nhà. Có 1 anh nhân viên Điện lực đến bấm chuông
-Tôi có thể giúp gì cho anh?
-À không, tôi đến đây chỉ để báo cho bà biết là bà đã trễ 2 tháng rồi nhá!!!"
- Hả? Sao các anh lại biết?
- Bà đừng có cố tỏ vẻ ngạc nhiên như thế, bà trễ dù là 1 bữa chúng tôi cũng biết chứ đừng nói chi đến 2 tháng như vậy!
Quá hoảng sợ, bà vợ nói: "thôi đợi chồng tôi nói chuyện với các anh"
rồi đóng sập cửa lại.
Ngay sáng hôm sau ông chồng đến ngay công ty điện lực và gặp anh nhân viên thu tiền hôm trước, vỗ bàn hét :"Này anh kia, anh muốn gì ở vợ chồng chúng tôi?"
- Cũng đơn giản thôi, ông bà vui lòng đưa chúng tôi tiền là mọi việc sẽ ổn thỏa.
Ông chồng nghĩ đang bị tống tiền , nên càng thêm bực tức:
- Nếu tao không đưa tiền cho mày thì sao?
- Bắt buộc chúng tôi phải cắt của ông thôi - anh nhân viên thu tiền trả lời.
Ông chồng há hốc miệng: "Cắt rồi vợ tôi xài cái gì?"
- Kêu bà ta xài đỡ đèn cầy vậy!
VĂN QUANG * 60 NĂM SÀI GÒN TRONG TÔI
Văn Quang – Viết từ Sài Gòn
60 NĂM SÀI GÒN TRONG TÔI
Hai tuần nay người Sài gòn xôn xao về một số công trình xưa cũ sẽ bị phá bỏ lấy đất làm tàu điện ngầm. Rầm rộ nhất là khu thương xá Tax đã bị “bao vây” bởi những hàng rào chắn chạy dài và tất cả các cửa hàng trong thương xá này phải dời đi vào tháng 10 này để làm một siêu thị 40 tầng văn minh hơn. Hầu như cả thành phố xôn xao, người ta kéo đến mua hàng giảm giá đông như hội. Và cũng có nhiều người đến để nhìn lại chút kỷ niệm xưa với một công trình kiến trúc được xây dựng từ xa xưa khiến bất cứ ai dù chỉ sống ở thành phố này ít năm cũng cảm thấy tiếc nuối. Lứa tuổi già đã có từng hơn nửa thế kỷ với Sài Gòn bỗng nhận ra cái khu thương xá đó không chỉ gắn liền với thành phố mà còn gắn liền với cả gia đình mình.
Hầu như gia đình nào cũng đã từng đưa nhau vào
đây mua sắm vài thứ đồ dùng lặt vặt hoặc chỉ dạo quanh, ăn một ly kem, uống một
ly cà phê. Nỗi buồn vẩn vơ thật nhưng lại rất sâu sắc như người ta vừa lấy đi một
phần đời mình. Bởi cái mất đi đã từng có những kỷ niệm với người thân quen
không bao giờ tìm lại được nữa. Người mất kẻ còn, người ra đi, kẻ ở lại đã từng
cùng nhau đến đấy.
Và còn một số công trình gắn liền với Sài Gòn chẳng
phải chỉ là biểu tượng mà còn là da thịt của một thành phố từng được vinh danh
là “hòn ngọc viễn đông” này cũng sắp mãi mãi biến mất để nhường chỗ cho công
trình ga tàu điện ngầm đầu tiên của tuyến Metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên. Dẫu
biết vạn vật đổi dời không có gì là vĩnh cửu cả nhưng cái gì quá thân quen mất
đi cũng thấy lòng trống rỗng. Có khi chỉ một cửa hàng như quán cơm bình dân Bà
Cả Đọi, tiệm cắt tóc Đàm, nước mía Viễn Đông… mất tích vĩnh viễn, thay vào đó
là những tòa nhà chọc trời, những cửa hàng choáng lộn cũng thấy nó lạnh lùng xa
lạ.
Người còn ở trong nước xót xa, người Việt ở nước ngoài tiếc nuối, đó là điểm những người thân quen gặp nhau ở nỗi nhớ nhung tiếc nuối này. Tôi đã đọc khá nhiều bài viết từ nước ngoài và e mail của bạn bè chia sẻ nỗi hoài niệm đó. Như Thế Hải từ Hawai đã mượn hai câu thơ bất hủ của Bà Huyện Thanh Quan, chia sẻ cùng bè bạn khắp nơi khi nhớ về những cái sắp mất đi của Sài Gòn: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”.
Với một người còn ở lại như tôi, đã hơn nửa thế kỷ gắn bó với hòn ngọc viễn đông này, hai tuần nay càng thấy lòng hoài cổ dâng trào. Nhớ, nhớ đến từng chi tiết từ cái bước chân đầu tiên đặt lên đất Sài Thành, nhớ từng ngõ ngách, từng nhân vật thuộc về quá khứ ấy cho đến ngày nay. Mặc cho Sài Gòn đã có nhiều tang thương dâu biển, từ cái tên thành phố đến những con đường đã thay họ đổi tên, từ con người đến xã hội cho đến cả cái cách sống cũng đã khác xưa nhiều lắm. Chẳng trách khi xã hội đổi thay, người ta chép miệng than: “Trời làm một trận lăng nhăng, ông hạ xuống thằng, thằng nhảy lên ông, con đĩ đánh bồng nhảy lên bà lớn” cũng chẳng sai. Nhưng với tôi, Sài Gòn vẫn là Sài Gòn từ trong tâm thức mình, từ trong tận cùng tim óc mình. Thế là đủ và tôi lại phải sống cũng như những người Sài Gòn khác, bất chấp gian khổ. Có chăng chỉ là nỗi ngẩn ngơ khi những dấu tích xưa dần mất đi, chẳng bao giờ tìm lại được.
Trong nỗi hoài niệm sâu sắc ấy nhiều buổi chiều đứng trong hành lang hẹp chung cư, nhìn lên khung trời cao, hướng về ánh đèn đêm mơ hồ của thành phố, tôi cố tưởng tượng lại đó vẫn là khung trời xưa, tôi nhớ lại những năm tháng dài tôi sống ở Sài Gòn. Ở đây không chỉ có cảnh quan mà còn có cả những nhân vật là bạn hoặc là người tôi đã từng gặp, từn
từng quen, từng biết đến. Người ở đâu bây giờ?
Có biết Sài Gòn của chúng ta đang có rất nhiều người đang nhớ đang mong các “bạn
ta” không?
Bước chân đầu tiên trên đất Sài Gòn
Thế mà 60 năm rồi đấy,
kể từ ngày tôi mới đặt chân lên thành phố Sài Gòn. Tôi nhớ như in, ngày đầu
tiên ấy. Cuối tháng 1 năm 1954, sau 2 tháng học ở Trường sĩ quan Thủ Đức, ngày
thứ bảy chúng tôi được đi phép ở Sài Gòn. Niềm mơ ước của tôi từ những ngày còn
nhỏ ở trường trung học, ước gì có ngày mình được vào Sài Gòn. Niềm mơ ước ấy
còn rộn ràng hơn khi khóa học sĩ quan khai giảng. Thủ Đức – Sài Gòn chỉ có hơn
10 cây số, tuy chỉ cách thành phố rất gần nhưng theo đúng chương trình khóa học,
hai tháng sau chúng tôi mới được đi phép. Mấy anh “Bắc kỳ” nôn nao hỏi thăm mấy
ông bạn “Nam Kỳ” về Sài Gòn. Từ cái xe taxi nó ra sao, đi thế nào, bởi hồi đó
miền Bắc chưa hề có taxi, cho đến Chợ Lớn có những gì… Mấy ông bạn Nam Kỳ tha hồ
tán dóc. Đấu óc tôi cứ lơ mơ về cái chuyến đi phép này.
Rối ngày đi phép cũng đến, một nửa số sinh viên sĩ quan (SVSQ) đi phép mặc bộ tenue sortie là ủi thẳng tắp, áo bốn túi, chemise trắng tính, thắt cravate đen đàng hoàng, giầy đánh bóng lộn có thể soi gương được. Vô phúc quên cái gì là bị phạt ở lại ngay. Nhưng hầu như chưa có anh nào bị
phạt. Đoàn xe GMC của
trường chở chúng tôi chạy vèo vèo vào thành phố. Ôi cái cửa ngõ vào thành phố hồi
đó chưa có gì lộng lẫy mà chúng tôi cũng mở to mắt ra nhìn. Đoàn xe “diễu” qua
vài con phố rồi dừng lại trên đường Hai Bà Trưng (hồi đó còn gọi là đường Paul Blanchy), ngay phía sau Nhà hát lớn Thành phố mà sau này là Trụ sở Hạ Nghị Viện
VNCH.
Cú nhảy từ sàn xe GMC xuống con đường Hai Bà Trưng là bước chân đầu tiên của tôi đến đất Sài Thành hoa lệ. Ông Hồ Trung Hậu là dân miền Nam chính hiệu, ông đã hứa hướng dẫn tôi đi chơi… cho khỏi “ngố”. Chúng tôi đi bộ vào con đường nhỏ bên hông nhà hát Thành phố và khách sạn Continental, vòng ra trước bùng binh Catinat – Lê Lợi (hồi đó còn gọi là Boulevard Bonard) và Nhà hát TP. Nhìn mặt trước nhà hát TP có mấy bức tượng bà đầm cứ tưởng… mình ở bên Tây. Lúc đó đã có nhà hàng Givral rồi, nhưng tôi vẫn còn “kính nhi viễn chi” cái nhà hàng văn minh lịch sự giữa thành phố lớn rộng đó, chưa dám mơ bước chân vào. Ông Hậu vẫy một cái taxi chở chúng tôi về nhà ông. Taxi hồi đó toàn là loại deux cheveaux, nhỏ hẹp sơn 2 màu xanh vàng. Khi bước lên xe, đồng hồ con số chỉ là 0, đi quãng nào số tiền nhảy quãng đó.
Trong ngày đầu tiên,
tôi ngu ngơ làm quen với không khí Sài Gòn qua gia đình anh em ông Hậu. Hôm sau
ông bạn tôi đi với bồ nên tôi bắt đầu cuộc solo giữa thành phố xa lạ này. Tất cả
Sinh viên SQ đều không được đi xe buýt hay xích lô, phải đi taxi. Nhưng lệnh là
lệnh, chúng tôi học các đàn anh khóa trước, cởi áo bốn túi, bỏ cravate, cất cái
nón đi là lại tha hồ vung vẩy.
Trở thành người Sài Gòn từ bao giờ
Nơi tôi đến đầu tiên là Chợ Lớn. Một cuốc taxi từ giữa trung tâm TP đến
cuối Chợ Lớn mất 12 đồng. Tôi tìm đến khách sạn rẻ tiền của mấy thằng
bạn Bắc Kỳ ở đường Tản Đà, một con phố nhỏ, ba bốn thằng thuê chung 1
phòng cũng chẳng có “ông mã tà” nào hỏi đến. Chợ Lớn hồi đó tấp nập hơn ở
Sài Gòn, con phố Đồng Khánh chi chít những khách sạn, hàng ăn, cửa tiệm
tạp hóa lu bù tưởng như mua gì cũng có. Chúng tôi cũng biết cách chui
vào Kim Chung Đại Thế Giới xem thiên hạ đánh bạc. Hôm đó có anh Nguyễn
Trọng Bảo cùng Đại Đội tôi nhưng lớn hơn chúng tôi vài tuổi và là 1 cặp
với Nguyễn Năng Tế (lúc đó mới là người yêu của nữ diễn viên điện ảnh
Kiều Chinh). Anh thử đánh “tài xỉu”, may mắn làm sao, một lúc sau đó anh
được khoảng
vài trăm ngàn. Thế là
chúng tôi xúi anh “ăn non”, không chơi nữa, rủ nhau đi ăn.
Bắt đầu từ hôm đó
chúng tôi đi “khám phá” Sài Gòn và rồi theo cùng năm tháng trở thành người Sài
Gòn lúc nào không biết. Càng có nhiều thăng trầm chúng tôi càng gắn bó với Sài
Gòn hơn.
Lần thứ hai trở lại Sài Gòn
Tôi lại nhớ ngày trở về
Sài Gòn sau hơn 12 năm đi tù cải tạo từ Sơn La đến Vĩnh Phú rồi Hàm Tân. Đó là
vào buổi chiều tháng 9 năm 1987. Khi đoàn xe thả tù cải tạo bị giữ lại nhà giam
Chí Hòa nghe các ông quan chức trấn an về số phận chúng tôi khi được trở về,
khoảng hơn 5 giờ chiều chúng tôi mới được thoát ra khỏi cánh cửa sắt nhà tù Chí
Hòa. Ngay từ cổng trại tù đã có đoàn quay phim đợi sẵn để quay cảnh “vui mừng đoàn
tụ” của tù nhân, chắc là để chứng tỏ cái sự “khoan hồng bác ái” của nhà nước
cho những thằng may mắn không chết trong ngục tù. Lại là lần thứ hai tôi đặt
chân lên đất Sài Gòn nhưng với tư cách khác giữa một thành phố đã đổi chủ.
Thấy cái cảnh sẽ bị
quay phim, Trần Dạ Từ kéo tôi lên vỉa hè đi lẫn trong đám thân nhân được vận động
ra đón tù cùng những người dân tò mò nhình “cảnh lạ”. Tránh được cái máy quay
phim, chúng tôi đi gần như chạy ra khỏi con phố nhỏ này. Ra đến đường Lê Văn
Duyệt, chúng tôi đi chậm lại, nhìn đường phố mà cứ thấy đường phố đang nhìn
chúng tôi với một vẻ xa lạ và xót thương? Trần Dạ Từ còn lại ít tiền, anh rủ
tôi ghé vào đường Hiền Vương ăn phở. Chẳng biết là bao nhiêu năm mới lại được
ăn tô phở Hiền Vương đây. Tôi chọn quán phở ngay sát cạnh tiệm cắt tóc Đàm mà mấy
chục năm tôi cùng nhiều bạn bè vẫn thường đến cắt tóc. Có lẽ Trần Dạ Từ hiểu rằng
anh về đoàn tụ cùng gia đình chứ còn tôi, vợ con đi hết, nhà cửa chẳng còn, sẽ
rất cô đơn, nên anh níu tôi lại. Ngồi ăn tô phở tưởng ngon mà thấy đắng vì thật
ra cho đến lúc đó tôi chưa biết sống ra sao giữa thành phố này. Ỏ tiệm phở bước
ra, chúng tôi đi bên nhau dưới ánh đèn chập choạng của con đường Duy Tân mà Phạm
Duy gọi là con đường Đại học “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt”. Đến ngã
tư Phan Đình Phùng, tôi chia tay người bạn tù Trần Dạ Từ, đi lang thang trong cô
đơn, trong bóng tối của chính đời mình. Bây giờ tôi mới hiểu hết nghĩa của sự
cô đơn là thế nào. Tôi bắt đầu cuộc sống lưu lạc trên chính quê hương mình.
Tôi tìm về nhà ông anh
rể đã từng nuôi nấng tôi suốt những năm tháng trong tù. Bắt đầu từ đó tôi trở
thành người Sài Gòn khác trước. Và rồi với những cùng khổ, những khó khăn, tôi
đã tự mình đứng lên. Bởi tôi thấm thía rằng thằng bạn đồng minh xỏ lá đã phản
phé mình, lúc này không ai cứu mình cả, anh không vượt qua nó, nó sẽ đè chết anh. Vì thế cho đến bây
giờ sống giữa Sài Gòn, tôi phải là người Sài Gòn và mãi mãi sẽ là người Sài
Gòn. Làm được cái gì hay chết bẹp dí là do mình thôi.
Đi tìm hoài niệm
Tôi không lan man về chuyện cũ tích xưa nữa, bởi nói tới những ngày tháng đó chẳng biết bao giờ mới đủ. Cho đến hôm nay, 25 tháng 8 năm 2014, hơn 60 năm ở Sài Gòn, mọi người đang xôn xao về những đổi thay lớn của Sài Gòn, tôi không thể ngồi yên. Tôi muốn chính mắt mình được nhìn thấy những thay đổi ấy. Mặc dù qua 2 lần nằm bệnh viện và với cái tuổi trên tám mươi, tôi đã mất sức nhiều, hầu như suốt ngày ngồi nhà đã từ ba tháng nay. Tôi điện thoại cho Thanh Sài Gòn rủ anh đi thăm “cảnh cũ người xưa”. Chúng tôi vào phở Hòa, môt tiệm phở nổi tiếng từ trước năm 1975 cho đến nay. Con đường Pasteur đan kín xe cộ, tiệm phở Hòa có vẻ tấp nập hơn xưa. Bạn khó có thể tìm lại một chút gì đó của “muôn năm cũ”. Tô phở bị “Mỹ hóa” vì cái tô to chình ình và miếng thịt cũng to tướng, có lẽ ông bà chủ đã học theo phong cách những tiệm phở VN ở Mỹ. Nó “to khỏe” chứ không còn cái vẻ “thanh cảnh” như xưa nữa.
Sau đó, nơi tôi tìm đến
đầu tiên chính là Thương xá Tax. Vừa đến đầu 2 con đường gặp nhau Pasteur – Lê
Lợi đã nhìn thấy một hàng rào bằng tôn chạy dài. Đường Lê Lợi chỉ còn đủ một lối
đi nhỏ dẫn đến thương xá Tax và công viên Lam Sơn. Chiếc xe gắn máy len lỏi cho
đến tận cuối đường Lê Lợi sát mép đường Tự Do. Chúng tôi đứng trước cửa TX Tax
đang bày ra cảnh vô cùng vắng vẻ, chỉ có tôi và anh bảo vệ nhìn nhau. Anh thừa
biết tôi đến đây để làm gì. Anh bảo vệ cũng không còn làm cái nhiệm vụ cao quý
là mở cửa đón khách, anh để mặc tôi tự do đẩy cánh cửa kính nặng chịch đi vào
trong khu thương mại. Đèn đuốc vẫn thắp sáng choang, chiếc thang máy cuốn vẫn lặng
lẽ chạy không một bóng người. Nó mang một vẻ gì như người ta vẫn lặng lẽ theo
sau một đám tang.
Trong quầy hàng đầu
tiên, điều khiến tôi chú ý là hàng chữ nổi bật hàng đại hạ giá (Big Sale) tới
70% đỏ loét chạy dài theo quầy hàng và hàng chữ “TẠM BIỆT THƯƠNG XÁ TAX”.
Tôi cố gợi chuyện với
cô chủ hàng xinh xắn: Cô phải đề là “TỪ BIỆT” THƯƠNG XÁ TAX mới đúng chứ, sao lại
là “TẠM BIỆT”? Cô hàng trẻ đẹp thở dài ngao ngán: “Ấy người ta còn hứa khi nào căn
nhà 40 tầng làm xong sẽ cho chúng tôi được ưu tiên thuê cửa hàng đấy”. Nhưng
ngay sau đó cô lại lắc đầu: “Hứa là hứa chứ khi đó mình không cổ cánh, đút lót
thì đừng hòng bén mảng tới, ông có tin không?”. Bị hỏi ngược, tôi đâm lúng túng
ấp úng nói lảng: Phải đợi tới lúc đó mới biết được. Cô bán hàng quay đi, dường
như cô chẳng tin gì cả.
Các quầy hàng khác vẫn
mở cửa, mỗi gian hàng chỉ còn lại vài ba người, chắc toàn là những ông bà chủ.
Tôi nghĩ họ đang làm công việc khác chứ không để bán hàng. Có ai mua đâu mà
bán. Tôi đến hỏi thăm vài ông bà chủ cửa hàng, không tìm thấy bất cứ nụ cười
nào trên những khuôn mặt buồn hiu ấy.
Có lẽ vài tuần nay,
người đi tìm đồ hạ giá đã “khuân” đi khá nhiều rồi, lúc này những thứ hàng còn
lại không còn giá trị nữa. Tuy nhiên cửa hàng nào cũng còn bề bộn hàng ế. Nhìn
lên tầng lầu cũng vậy, nó còn vắng vẻ thê thảm hơn.
Tôi bước lên mấy bậc của
bục gỗ, ghé vào một tiệm bán máy hình còn nguyên si bởi ông chủ quyết không giảm
giá.
Tôi hỏi lý do, ông có
vẻ liều:
- Thà
- Thà ế chứ không giảm.
Tôi lại tò mò hỏi tiếp:
- Vậy là ông có một cửa
hàng ở nơi khác nữa?
Ông lắc đầu: - Không.
Tôi hỏi: Vậy ông sẽ
làm gì? Câu trả lời của ông cụt lủn:
Tôi yên lặng trước sự
bất bình đó. Đứng nhìn hàng loạt máy hình, máy quay phim đủ loại còn nằm rất thứ
tự trong tủ kính sáng bóng. Tôi lại hỏi:
- Chắc họ phải đền bù
cho ông những thiệt hại này chứ?
- Chưa có xu nào cả. Thời
hạn bắt di dời nhanh quá, trở tay không kịp.
Tôi nghĩ chắc ông này
cũng chỉ là người đi thuê lại cửa hàng của một ông nhà giàu nào đó mà thôi, ông
có vẻ bất cần đời. Tôi từ giã, ông chỉ gật đầu nhẹ.
Nhìn sang hàng loạt cửa
hàng vàng bạc đá quý gần như vẫn còn nằm nguyên vẹn và không một bóng khách
vãng lai. Các bà, các cô tha hồ nhìn nhau ăn cơm hộp. Tôi có cảm tưởng một
thành phố chết vì chiến tranh gần kề hay vì một nạn dịch nào đó.
Vậy mà tôi vẫn còn đi
vơ vẩn trong cái không gian như nghĩa trang sống đó. Tôi đi tìm hình bóng của một
thời dĩ vãng, nào vợ con, nào bè bạn, nào những người xa lạ trong cái nhịp thở
rộn ràng thân thiện của tất cả Sài Gòn xưa ở chốn này. Chẳng bao giờ trở lại.
Tôi muốn gọi tên tất cả trong hoài niệm tận cùng sâu lắng.
Ngậm ngùi nhìn công viên Lam Sơn trống rỗng
Rồi tôi cũng phải bước
ra. Trở về với thực tại, nhưng vẫn gặp cái vắng lặng của vỉa hè chạy dài theo đại
lộ Nguyễn Huệ. Dường như chỉ còn có Thanh Sài Gòn ngồi ngất ngư với “người xưa
trong ảnh” của một ô quảng cáo vuông vắn phía ngoài thương xá.
Cuối cùng tôi trở lại
nơi mà lần đầu tiên tôi đặt chân lên TP Sài Gòn. Tôi đã nhảy xuống xe GMC ở
đây, đúng nơi này, phía sau nhà hát TP, bây giờ là trụ sở của Tổng công ty cấp
nước của TP. Mặt đường nhựa chẳng có gì thay đổi, nó cũng nhẵn mòn như những
con đường nhựa khác, nhưng với tôi nó là một dấu son đáng nhớ nhất trong đời. Vậy
mà đã đúng 60 năm rồi sao?
Mai này Sài Gòn sẽ còn
mất đi nhiều thứ nữa như vòng xoay trước cửa Chợ Bến Thành, một biểu tượng mà bất
cứ ai đã đến Sài Gòn dù chỉ một lần cũng không thể nào quên. Đó là những thứ sẽ mất đi
để làm tuyến metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên. Ngoài tuyến metro số 1, còn xây
dựng thêm 6 tuyến metro khác. Chúng ta sẽ mất đi nhiều di tích xưa cũ. Sài Gòn
sẽ đổi khác rất nhiều, để lại trong người Sài Gòn dù ở đâu cũng thấy cảm thấy
một nỗi bùi ngùi, nhớ tiếc. 60 năm Sài Gòn, hồn ở đâu bây giờ?
Văn Quang- 29 tháng 8-2014
Hình:
01- Đường Lê Lợi phía
thương xá TAX chỉ còn một lối đi nhỏ.
02- Văn Quang trước
Thương xá Tax ngày 25-8-2014.
03- Thanh Saigon với
hoài niệm “người xưa” trong ảnh quảng cáo trên vỉa hè bên hông Thương xá Tax.
04- Tạm biệt Thương xá
Tax và hàng giảm giá.
05- Tất cả các cửa
hàng trong thương xá vắng hoe.
06- Những chiếc thang
máy không người vẫn chạy đều đều.
07- Các tầng lầu càng
vắng khách.
08- Chủ cửa hàng bán
máy ảnh sẽ về quê làm ruộng.
09- Các cửa hàng đá
quý vàng bạc càng vắng vẻ.
10- Tác giả thẫn thờ đứng
nhìn công trường Lam Sơn đang bị phá bỏ
11- Tượng đài Thủy
Quân Lục Chiến giữa công viên Sài Gòn xưa.
12- Trước cửa Cty Cấp Nước TP, nơi tác giả đặt chân lên TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI SÀI GÒN THÊ THẢM
Nhiều chủ cửa hàng buôn bán kinh doanh đã hơn nửa đời người nay dở khóc, dở cười. Chủ cửa hàng số 86 đường Nguyễn Huệ phải treo tấm bảng mời gọi khách: “Các hộ kinh doanh vẫn giao dịch bình thường, xin mời quý khách đi xe vào”.
Tấm biển dở khóc, dở cười của các tiểu thương.
Tấm bảng này đã được treo từ hơn 1 tuần nay, để vớt vát phần nào lượng khách tại khu vực lâu nay được xem là buôn bán sầm uất nhất Sài Gòn.
Dày đặc các bảng quảng cáo cho thuê nhà
Cô Phan Minh Tâm, chủ cửa hàng kinh doanh quần áo trên đường Lê Lợi than ngắn, thở dài, nói với giọng buồn buồn: “Giờ tất cả các hộ kinh doanh, buôn bán đều chung một hoàn cảnh là… chết chùm".
Bà con đi không được mà buôn bán cũng không xong, chỉ biết dài cổ chờ qua ngày thôi. Nhân viên cũng cắt giảm gần hết, tiền mặt bằng kí hợp đồng dài hạn nên cố cầm cự”.
Bà con đi không được mà buôn bán cũng không xong, chỉ biết dài cổ chờ qua ngày. Nhân viên cũng cắt giảm gần hết.
Ghi nhận tại 2 tuyến đường Lê Lợi, Nguyễn Huệ hiện nay đơn vị thi công đã đào bới, lập lô cốt, rào chắn đường ở một số đoạn.
Buổi tối đèn điện không có, tối om nên tuyến đường sầm uất nhất giờ trở nên vắng teo, ít người qua lại khiến cho các hộ kinh doanh trở nên lao đao, không có lối thoát.
Đường Nguyễn Huệ chỉ còn xe đạp chạy.
Theo yêu cầu của UBND thành phố, thương xá tax cũng sẽ hoàn tất việc di dời trước đầu tháng 10 và bàn giao 500 m2 ở số 39 Lê Lợi cho Ban Quản lý đường sắt đô thị để thi công tháp thông gió nhà ga của tuyến metro số 1, và chuẩn bị khởi công trung tâm thương mại mới cao 40 tầng.
Saigon Tourist bị rào chắn cô lập
Thương xá Tax sầm uất nay còn đâu.
Đường Lê Lợi rào chắn chỉ còn một phần đường nhỏ.
Buôn bán bị tê liệt.
Monday, September 1, 2014
MARIANNE BROWN * VIỆT CỘNG CHỈ TRÍCH CỘNG ĐẢNG
Thứ hai, 01/09/2014
Một số lãnh đạo Đảng CSVN chỉ trích mối quan hệ Việt-Trung
31.07.2014
Việt Nam, hôm thứ Năm nói
chính sách ngoại giao nhắm mục đích bảo vệ nền độc lập của đất nước.
Thông tín viên Marianne Brown tường trình cho đài VOA từ Hà Nội rằng
nhận định này được đưa ra tiếp sau một bức thư của các đảng viên có uy
tín của Đảng Cộng sản gởi các nhà lãnh đạo cấp cấp trong nước đề nghị
cải cách chính trị và kinh tế để chấm dứt sự lệ thuộc vào Trung Quốc. .
Bộ Ngoại giao Việt Nam bênh vực chính sách ngoại giao của Hà Nội tiếp
theo một câu hỏi liên quan đến một bức thư ngỏ của những đảng viên có
uy tín của Đảng Cộng sản kêu gọi chấm dứt mối quan hệ chặt chẽ với Trung
Quốc.
Phát biểu tại một cuộc họp báo thường lệ ở thủ đô, phát ngôn viên Lê
Hải Bình nói chính sách hiện nay của Việt Nam nhắm mục đích “bảo vệ sự
độc lập, hỗ trợ và đa dạng hóa” các mối quan hệ quốc tế.
Ông Bình nói:
Ông Bình nói:
“Việc thực hiện chủ trương nhất quán này đã mang lại một vị thế quốc
tế của Việt Nam ngày càng cao trên trường quốc tế cũng như đóng góp tích
cực vào việc xây dựng và bảo vệ đất nước.”
Trước đây trong tuần, khoảng 60 đảng viên có uy tín của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã gởi một bức thư ngỏ lên Ban chấp hành Trung ương Đảng, nói
rằng Hà Nội đã trả một giá quá cao vì đã nhượng bộ quá nhiều những đòi
hỏi của Trung Quốc.
Bức thư này được đưa ra vài tuần lễ sau cuộc khủng hoảng ngoại giao,
châm ngòi hồi tháng 5 năm nay khi Trung Quốc điều động một giàn khoan
dầu đến vùng biển Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền. Bắc Kinh đã di dời
giàn khoan này trước đây trong tháng để tránh bão đến.
Giáo sư Tương Lai, cố vấn cho hai Thủ tướng, là một trong những người ký tên vào lá thư gửi các nhà lãnh đạo cao cấp. Ông nói:
“Lá thư này khác những lá thư trước, những kiến nghị, những tuyên bố
trước vì lá thư này nhân danh những đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam
gửi cho Ban chấp hành Trung ương Đảng và toàn thể đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam.”
Ngoại giao giữa hai nước căng thẳng trong vài tháng qua, đặc biệt sau
khi những cuộc biểu tình chống Trung Quốc gây ra bạo động tại những Khu
công nghiệp Việt Nam vào tháng 5 làm cho một số công nhân Trung Quốc
thiệt mạng. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.
Bức thư cũng gồm một đề nghị là Hà Nội kiện Trung Quốc ra Tòa án Luật Biển Quốc tế.
Giáo sư Tương Lai nói tiếp:
“Việc cúi đầu lệ thuộc Trung Quốc ấy nó đánh mất lý do mà đảng có thể
tập họp được nhân dân, tức là đảng đánh mất ngọn cờ độc lập và dân
chủ.”
Một người ký tên khác là bà Phạm Chi lan, 69 tuổi, cựu phó chủ tịch
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, và là cựu thành viên của ủy
ban Nghiên cứu của Thủ tướng. Bà vẫn còn làm việc trong tư cách cố vấn
cho một vài bộ.
Bà Chi Lan nói:
“Tôi nghĩ nếu Việt Nam hội nhập tốt hơn vào những nền kinh tế khác,
ví dụ như phát triển đồng đều hơn ngoài Trung Quốc cùng với một nền kinh
tế trong khu vực như Ấn Độ chẳng hạn hoặc các nền kinh tế khác như Hàn
Quốc, Nhật Bản, các nền kinh tế ASEAN thì sẽ đỡ hơn là lệ thuộc vào
Trung Quốc.”
Bà Chi Lan nói thêm Việt Nam cũng cần thực hiện những cải cách định
chế chẳng hạn như nếu đảng vẫn còn muốn phát triển “một nền kinh tế thị
trường với định hướng xã hội chủ nghĩa” như hiện nay thì sẽ rất khó khăn
vì định nghĩa thuật ngữ này không rõ rệt.
Giáo sư Tương Lai nói khái niệm không phải là lật đổ Đảng Cộng sản mà
là xây dựng đảng. Nhưng xây dựng có nghĩa là cải cách. Ông nói:
“Nếu đảng không thay đổi, đảng sẽ sụp đổ vì sự tin tưởng của người dân rất thấp.”
GS. HUỲNH CHIẾU ĐẲNG * VÀI LỜI TÂM TÌNH
VÀI LỜI TÂM TÌNH CỦA
GS. HUỲNH CHIẾU ĐẲNG
Kính thưa quí bạn,
Tuy là cái email nầy ngắn, nhưng phần đầu quan trọng lắm, các bạn nên
đọc chậm chậm. Mà thôi, các bạn không đọc thì rán chịu, mắc mớ chi tôi.
Hôm nay, tôi muốn nhắc các bạn cẩn thận khi dùng email và internet. Ngày
nay chuyện gian dối quá nhiều. Đã nhiều lần tôi thấy những email gởi
đến kêu gọi gia nhập các trang web xã hội thí dụ như Face Book, như
nhiều lắm quên mất tên… Cũng có nhiều trang web bắt ghi danh mới cho
xem. Đa số bạn ta vô tình lọt bẫy. Internet là chốn giang hồ toàn là bí
danh ẩn danh, người lương thiện và kẻ ác đều y nhau, các bạn nên cẩn
thận lắm lắm.
1. Thí dụ ngày nào đó các bạn nhận được email của tôi gởi đến mượn các
bạn chừng năm bảy trăm hay một vài ngàn đô vì lý do đi du lịch ngoại
quốc bị mất hết giấy tờ và tiền bạc. Có bạn thấy thương tình bèn gởi
tiền cho mượn. Té ra là đưa tiền cho kẻ gian.
2. Chuyện điển hình khác là các bạn nhận được email thông báo vừa trúng
rút thăm của Google, của Microsoft …. Được 500,000 đô. Muốn nhận số tiền
nầy thì các bạn phải ghi chi biết tên tuổi nghề nghiệp ngày sinh số
account trong ngân hàng, địa chỉ…số phone… Vậy mà cũng có người mắc mưu
kẻ gian khai hết “lý lịch” cũng như ghi danh gia nhập.
Hoặc có khi các bạn nhận được email nói rằng “tôi” là “đốc tờ” XYZ, chức
vụ nầy nầy trong ngân hàng (tên và địa chỉ lạ hoắc) thấy có số tiền vô
chủ. Nếu các bạn hợp tác với “tôi” thì mình chia đôi… Muốn hợp tác thì
cho tôi biết tên tuổi và gia phả ba đời của bạn...
Hoặc tôi là nhân vật chức sắc ở quốc gia “Công Gô” có vài trăm triệu đô
muốn chuyển ra ngoại quốc, nếu bạn hợp tác thì tôi sẽ chia cho bạn vài
triệu đô đánh bài chơi. Muốn vậy thì bạn đưa gia phả của bạn cho tôi.
3. Chuyện gạt nhau khác nhẹ hơn là những webpage xin tiền phước thiện.
Kế đó là loại email xin tiền để mổ tim, cắt bướu cho cháu bé mầm non Nụ
Hồng nào đó. Gởi đi càng nhanh, càng nhiều càng tốt. Các bạn lầm thì rán
chịu, nhưng vô tình hại bạn bè khi forward chúng đi tiếp theo lời kêu
gọi “càng nhanh, càng nhiều càng tốt”. Tại sao loại email nầy có hại các
bạn tự tìm hiều. Viết hoài mỏi tay quá rồi.
4. Chuyện thứ tư tinh vi hơn là kêu gọi ký tên thình nguyện thư chống
một chuyện gì đó. Thí dụ qua email kêu gọi hãy log vô website nầy nầy để
ký tên thỉnh nguyện thư kêu gọi nhà “cầm đồ” Lào ngưng xây đập trên
sông Mekong (hay đem cầm nguyên cả đất nước), hoặc ký tên kêu gọi chánh
phủ đừng làm một chuyện nầy chuyện nọ. Nhiều bạn thấy hữu lý vội vã làm
ngay mà không kịp suy nghĩ coi website đó là do ai làm ra, nhóm người
lập ra đó là những người tin được không?
Khi mà các bạn ký tên vào “thỉnh nguyện thư” rồi thì có khi tên tuổi các bạn được thu thập gởi về… để ghi vào sổ đen.
5. Chuyện kế tiếp là có khi các bạn sẽ nhận được email xin vài chục đô
gây quỹ. Nếu các bạn cho qua credit card thì eo ôi Ông Địa, người ta
biết số credit card và lý lịch các bạn rồi, không biết tương lai họ có
dùng credit card của các bạn để mua hàng hoá hay đi Las Vegas đánh bài
không. Ngay cả các bạn gởi biếu tấm check đi nữa thì số tiền trong check
đó chạy vô túi ai các bạn đâu biết dù cho trên check ghi rõ là trả cho
“Quỹ cứu trợ nạn lụt năm Ất Dậu”.
Ngày nay một đứa bé cũng có thể lập một webpage lớn để mọi người log vô
thấy tưởng là do tổ chức nào có uy tín lắm. Có những website buôn bán
hàng hoá khi log vô tưởng là của một công ty có hàng ngàn nhân viên, đâu
có ngờ đó là webpage do một người duy nhất làm ra. Người nầy vừa là chủ
nhân, vừa là thơ ký, vừa là nhân viên bán hàng, vừa là nhân viên giao
hàng.
Nhân đây nói thêm: Nếu các bạn thường dùng credit card để mua sắm qua Internet thì nhớ dùng cái credit card có mức tiền tối thiểu chừng $1500 thôi, đừng dùng cái credit card có limit vài chục ngàn đô.
Các bạn biết có nhiều chuyện mình đâu nói “trần” ra được. Nếu các bạn quan tâm và muốn tránh cho tương lại không bị mắc bẫy thì nên đọc từ từ hay đọc lại một lần. Với mấy hàng trên các bạn nên đọc những chữ vô hình nằm giữa hai hàng chữ thật.
Cũng vì những lý do đó mà tôi gọi Internet là chốn giang hồ có nhiều chông gai cạm bẫy. Hoa thơm cỏ lạ cũng có nhưng hiếm lắm, đa số là những kiến thức chết người, là hình “Photoshop”. Kẻ ngây thơ như đa số chúng ta thì “ngàn đời” vẫn bị gạt. Muốn tránh được phần nào thì phải luôn luôn có “chánh niệm” khi đi xách keyboard và bình cà phê dấn thân vào chốn giang hồ.
Huỳnh Chiếu Đẳng
Bàn về "Chuyện Thuốc" của Gs. Huỳnh Chiếu Đẳng và Reply
Thử điểm những thứ mà người Việt chúng ta tự bày ra (hay bắt chước người
Mỹ hoặc người Tàu mà bày ra): Nhìn chung thì hầu như mọi thứ thực phẩm
quanh ta đều được email vàwebpage ca tụng lên mây xanh là “thần dược”.
Nhàu Noni vang bóng một thời, người bày đã hốt nhiều chục triệu bạc xong
lặn mất. Kế đó là nước măng cụt, bây giờ còn chút tiếng vang. Kế nữa là
Canh Dưỡng Sinh, được phe ta uống như điên trong thời gian chừng sáu
tháng rồi tịt ngòi. Kế đó thì dưa chuột, rồi thì lá đu đủ, rồi thì mãng
cầu. Hai thứ sau nầy đang phất cờ tiến mạnh vào niềm tin của bà con ta.
Chắc chừng năm sau sập tiệm, tuy nhiên mấy vị nhanh tay chế viên mãng
cầu, nước mãng cầu cũng kiếm được mươi triệu đô. Sau đó là dầu dừa được
ca ngợi (do công ty Tây Mỹ bày bán, kiểu bán mỡ rắn thời nẩm), có một vị
MTC suy’t chết vì nó, vị nầy ở Hố Nai.
Hiện giờ thì trái sung, cây bồ công anh, trước đó thì kim thất tai (sao
bây giờ ít nghe nói tới coi ai đã dùng và kết quả ra sao). Hiện cũng
đang hoành hành là cây lượt vàng, trước đây là cây cần tây, nay cây cần
tây lặn mất rồi. Vài năm trước thì là trà xanh là thần dược, trà mọi
loại là tiên dược, những vị uống trà ngừa và trị bịnh hiện nằm nhà
thương hay ra vào nhà thương (tôi nói ẩu) cũng bộn nên hết hơi sức để
vuốt đuôi ca ngợi theo gian thương Trung Quốc. Nay thì được biết người
ta né trà rồi, lý do là thuốc trừ sâu (và đủ thứ hương thơm hóa chất vô
danh) ướp vào trong đó, kể cả trà ướp xác chết cũng được bán ta cho bà
con ghiền thưởng thức (chuyện nầy nói thật, có thật, không nói ẩu đâu).
Sau khi chê trà thì bà con ta sang ca ngợi cà phê. Hình như trong tâm
trí một số phe ta phải có cái gì đó ca ngợi mới sống được chăng? Hiện
trứng gà được một vị tung lên tới mây xanh (kết quả là thống kê vừa công
bố những vị nam giới ăn 7 trứng gà hay hơn mỗi ngày thì mau chết hơn
những vị không ăn). Còn gì nữa, cà chua, sả, xoài, trái chuối chín rục
đều “trị được ung thư”, trước đó một chút thì chanh giết tế bào ung thư
(Chắc mấy tiệm bán chuối chế ra chuyện để tiêu thụ chuối chín thâm đen
cho khỏi bỏ thùng rác?) Trước chanh trị ung thư thì có giấm táo và mật
ong. Hiện giờ thì mật ong và bột quế. Hiện đang có phong trào củ cải
trắng chanh và nghệ.
Nói chung thì: Bất cứ rau trái nào trước mặt các bạn đều cũng là thần
dược trị ung thư hay trị được những thứ bịnh mà Tây Y còn đang vật lộn!
Quên nữa còn gạo đen(dân Gò Công gọi: “gạo nhum”) cũng trị ung thư và
bịnh ngặt, trước đó gạo lức được tâng lên làm thần dược, nay thì gạo lức
rang pha nước uống là “thần” dược. Gạo lức được dân BBC gọi là gạo nâu
đó nghe bà con.
Thưa quí bạn, những thứ được kể bên trên là tôi chợt nhớ ra, chắc mới liệt kê được chừng phân nửa mà thôi. Hôm nào tôi ghi lại coi tất cả mọi thứ thực phẩm chúng ta ăn coi có món nào KHÔNG phải là thần dược hay không.
Huỳnh Chiếu Đẳng (22-Jul-2013)
REPLY
Một đọan phản hồi cho “những bài thuốc” (trích trong bài viết “Bà Nội Tướng Của Tôi”)
“…Chẳng hạn như tôi nói với nàng là có người mách cho một bài thuốc rất
đơn giản, chỉ cần gạo đem rang rồi nấu nước uống hằng ngày như uống trà
thì có công hiệu rất tốt cho cơ thể như ngủ ngon, giảm huyết áp, giảm mỡ
vv… thì nàng hỏi lại tôi bộ miracle hả? Gạo rang hay không rang cũng là
gạo, tại sao nấu cơm ăn hằng ngày thì chỉ chữa bệnh đói còn đem đi
rang, cho qua lửa luyện tội lại trở thành “dược phẩm” là sao, vô lý quá
vậy. Ấy vậy mà tôi cũng đòi nàng phải rang gạo nấu nước “thánh” cho tôi
hết một thời gian hai ba tháng. Nàng bực mình lắm, tuy chìu ý tôi nhưng
trong lòng không phục cho là what a silly vớ vẩn!
Có một thời gian, người ta đua nhau đi kiếm mua rau má đỏ con mắt, nói
là rau này chữa được bệnh thấpkhớp làm tôi cũng rang đi tìm cho được (vì
là mùa đông nên khó kiếm chớ mùa hè thì loại rau này mọc đầy dãy trong
vườn nhổ không kịp) thì nàng bảo rau cỏ nào mà không có dược tính . Theo
nàng biết thì rau má có tác dụng giải nhiệt, khi nào nóng trong người
uống vô sẽ hạ hỏa nhưng nếu lạm dụng nó thì sẽ sinh hàn. Mà thấp khớp
thì kỵ hàn. Uống riết chắc đi không nổi phải bò luôn. Rồi còn nhiều
phương thuốc khác nữa như Lô hội, trái Nhào, đậu nành, canh dưỡng sinh
gì đó lung tung, thứ nào cũng chữa bá bệnh như là thần dược. Tôi thì thứ
nào cũng muốn thử coi có hiệu nghiệm không chớ nàng thì nhứt định giữ
vững lập trường không là không. Nàng nói thời buổi y học tân tiến này,
có biết bao là thuốc hay thầy giỏi, bệnh gì thuốc đó, chữa còn không
được, ở đó mà nghe người ta bày. Muốn bào chế một viên thuốc, người ta
phải nghiên cứu dung hòa bao nhiêu chất trong đó chớ đâu phải đơn giản
một thứ một mà được. Phàm cái gì cũng vậy, phải có chừng mức, cứ một thứ
mà tống vào cho cố xác thì có hại chớ sao. Có thể nó chữa được bệnh
này nhưng lại phản ứng sinh bệnh khác, hễ có hợp thì có khắc, có lành
tính thì cũng có ác tính. Vì vậy trung dung là thượng sách hơn cả, rủi
ai phát giác ra là có hại thế nào đó thì mình cũng không đến đổi nào,
còn trở tay kịp.
Cụ thể như một lọai cải có tên là Phi Long (English spinach) mà tất cả
các giống dân âu, á, trung đông gì cũng rất ưa chuộng (nhứt là Lebanese,
mua một lần cả trolley) vì nó có rất nhiều chất sắt làm tăng cường sinh
lực đến đổi có một phim cartoon muốn khuyến khích trẻ con ăn vegies đã
bịa ra chuyện một nhân vật tên Popye.
Spinach and Purines
Spinach contain naturally occurring substances called purines. Purines are commonly found in plants, animals, and humans. In some individuals who are susceptible to purine-related problems, excessive intake of these substances can cause health problems. Since purines can be broken down to form uric acid, excess accumulation of purines in the body can lead to excess accumulation of uric acid. The health condition called "gout" and the formation of kidney stones from uric acid are two examples of uric acid-related problems that can be related to excessive intake of purine-containing foods. For this reason, individuals with kidney problems or gout may want to limit or avoid intake of purine-containing foods such as spinach. For more on this subject, please see "What are purines and in which foods are they found?"
http://blogue.viteunerecette.ca/cuisine/epinards
https://www.youtube.com/watch?v=pcOrSWr2HLU
Anh Popye này nhờ ăn thật nhiều spinach nên mới có đủ sức mạnh để đấu
lại mấy thằng baddies. Đó là nói về mặt lợi ích của lọai cải này, nhưng
đồng thời nó cũng có tác hại gây bệnh gout (thống phong) nếu ăn nhiều
(không biết nhiều là bao nhiêu) vì nó cũng chứa hàm lượng uric acid rất
cao. Như vậy thì tốt nhứt là đừng nghe ai cả mà hãy nghe chính mình. Mỗi
tuần nấu canh họặc xào ăn hai ba lần là đủ liều rồi, cứ coi đó là
thức ăn thôi, còn muốn làm thuốc thì để cho pharmacist họ làm, đâu có
tới phiên mình. Cũng như rượu, mỗi ngày một ly nhỏ cho máu lưu thông
điều hòa thì có ích cho tim mạch nhưng nếu cứ uống cạn ly đầy, rót đầy
ly cạn thì sơ gan đứng tim luôn là cái chắc.”
PHẠM CÔNG BẠCH * VŨ-HOÀNG-CHƯƠNG
Giai thoại về thi sĩ Vũ Hoàng
Chương
Chỉ biết làm thơ và dạy học,
không làm chính tri.
TẠI SAO VŨ-HOÀNG-CHƯƠNG
BỊ VIỆT CỘNG BẮT VÀO TÙ KHÁM LỚN?
Phạm-công Bạch, CVA 57
Đã là cựu học sinh Chu-văn-An, ai không biết thi sĩ Vũ-hoàng-Chương là
một vị giáo-sư Việt Văn rất đáng mến. Quả thật vậy, trong cuộc đời thi sĩ, Ông
đã từng xuất bản cả chục tập thơ và kịch thơ , cũng như trong nghề dạy học, ai
đã từng là học trò Ông thảy đều thương
kính, coi Ông như một vị giáo sư có đầy đủ tác phong về đạo đức và sư phạm. Hơn
thế nữa, hãy xem nhà văn Song-Thao (cũng là một cựu học sinh Chu-văn-An) mô tả
Ông trong tập truyện “Chốn cũ” vừa xuất bản:
“Thầy
đi quanh lớp bằng những bước chân nhẹ nhàng, đầu nghểnh cao, mắt xa vắng, giảng
bài bằng cái giọng nhừa nhựa thanh thanh. Có những lúc mắt thầy như nhắm hẳn
lại, đầu lắc lắc từng chặp. Những lúc đó thầy như thoát hồn bay về một trời thơ
nào đó. Thầy say thơ. Thầy ngâm thơ như một người đồng thiếp. Như không còn
thầy. Như không có trò. Như không phải là một lớp học. Chỉ có một cõi thơ lồng
lộng bát ngát. Chúng tôi cũng thấm thơ. Vô cùng nồng nàn là những dòng thơ đất
Việt. Chỉ có tiếng chuông báo hết giờ học mới có thể kéo thầy trò ra khỏi cơn
mê văn chương…”
Làm thơ đã hay, dạy học thì say mê như thế, Vũ-hoàng-Chương không hề
làm chính trị. Hồi toàn quốc kháng chiến
năm 1946, Ông cũng chỉ tản cư
khỏi thành phố một thời gian rồi lại hồi
cư, chứ không ra bưng. Từ năm 1954 khi di cư vào Saigon,
Ông cũng không tham gia một đảng phái nào. Thế nhưng cuộc đổi đời ” tháng tư
đen” đã đưa Ông vào tù và chỉ được tha
về khi kiệt lực gần chết. Chúng ta thử tìm hiểu nguyên do nào đã đưa Ông vào
vòng lao lý gần một năm trời. Với thân hình gầy còm và “ả phù dung” dằn vặt làm
sao Ông sống nổi. Kể ra cũng có nhiều lý do xa gần.
Bài thơ hoạt cảnh Tết Con Rồng.
Miền nam ViệtNam bị mất về tay
cộng sản tháng tư năm 75 thuộc năm Mão. Cuộc đổi đời đã gây ra nhiều cảnh éo le
cả về hoàn cảnh xã hội lẫn nhân tình thế thái. Vũ-hoàng-Chương bị kẹt lại và
Ông đã mắt thấy tai nghe và ngay cả chính Ông cũng là nạn nhân của sự thế .
Cuối năm bước sang năm Thìn là tết con rồng, Ông đã làm một bài thơ tức cảnh
như sau:
Vịnh tranh gà lợn
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành,
Gà lợn om sòm rối bức tranh.
Rằng vách có tai, thơ có hoạ
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh.
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành.
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.
Đây đích thực là hoạt cảnh của miền Nam sau mấy tháng về tay chủ mới: Chính
quyền tiếp thu vào tay cộng sản chưa hoàn toàn kiểm soát được xã hội vốn vẫn
thoải mái trong nếp sống từ bao năm qua. Dân chúng vẫn hoài nghi cách mạng cho
nên tình thế chưa thấy gì làm sáng sủa. Mặt khác đa số người thuộc chế độ
cũ không tin miền Nam có thể dễ dàng rơi
vào tay cộng sản như vậy nên thầm kín trong lòng vẫn ước mong lật ngược thế cờ
khỏi cảnh tối tăm hiện tại.
Với bối cảnh xã hội như vậy, kẻ hồ hởi, người âm thầm cho nên nẩy sinh
ra lắm vẻ, biết ai là ai bây giờ. Bức tranh xã hội thật là rắm rối. Cộng sản đi
đến đâu thì mạng lưới công an rình rập nhòm ngó tới đó. Kẻ thân trong nhà cũng
còn nghe lén để báo cáo lập công thì còn biết tin ai bây giờ. Cho nên nhìn bề
ngoài đố biết lòng dạ ai thế nào.
Ngay như chính tác giả cũng đã là nạn nhân của lòng người đổi trắng
thay đen. Số là Vũ-hoàng-Chương và gia đình đã từ lâu vẫn ở nhờ trên căn gác
nhỏ trong biệt thự của bà Mộng-Tuyết (phu-nhân thi sĩ Đông-Hồ), Ông đã từng đặt
tên đây là “gác mây” để Ông bạn với “ nàng thơ” và “nàng tiên nâu”. Thế nhưng
từ khi có cán bộ từ ngoài bắc vào, Bà Mộng-Tuyết thì hồ hởi tiếp đón, còn
Vũ-hoàng-Chương thì lặng lờ như không Cho nên Bà muốn đỡ phiền lụy sau này đã
ngỏ ý muốn Ông dời nhà đi ở chỗ khác. Chính vì vậy mà thi sĩ họ Vũ đã phải dời
sang Khánh hội ở nhờ nhà em vợ là thi sĩ Đinh-Hùng. Ôi tình nghiã bao năm như
vậy mà chỉ vì một chút “quáng” đã làm cho huynh đệ ly tan ! Riêng đối với Ông,
con người còn tình người, chân thật và chất phác thì vẫn “một tấc thành” không
a dua xu nịnh với ai.
Bây giờ xuân và tết đến, thôi hãy quên hết moi sự mà nghe khúc tân
thanh của năm con rồng. Theo tôi, ý giả của câu cuối bài thơ này là như vậy;
nhưng nghĩ kỹ hơn,nếu chúng ta ở Saigon trong thời điểm đó thì “khúc tân thanh”
ở đây chính là những loa tuyên truyền ra rả sáng chiều mà cộng sản đặt ở khắp
phường phố. Cũng có thể nghĩ xa hơn, khúc tân thanh chỉ là sự rút gọn của “khúc
Đoạn trường tân thanh” mà từ nay còn phải ngâm mãi. Với một bài thơ xuân như
thế được phổ biến ra ngoài, thi sĩ Vũ-hoàng-Chương tránh sao khỏi bị bắt vì tội
phản động. Nhưng chưa hẳn như vậy.
Món quà chiêu dụ bất thành .
Hãy trở lại vài chục năm về trước, chúng ta được biết thi sĩ Vũ sinh
năm 1916. Hai chục năm sau vào thời điểm thi sĩ trưởng thành thì phong trào thi
ca lãng mạn nở rộ do ảnh hưởng của văn chương Pháp. Cùng thời với
Vũ-hoàng-Chương còn có rất nhiều văn nhân thi sĩ khác cùng nổi tiếng trên văn
thi đàn, trong đó có Huy-Cận (tên thật là Cù-huy-Cận) sinh năm 1919. Huy-Cận
cũng là một nhà thơ nổi tiếng, điển hình là bài “Ngậm ngùi” đã được phổ nhạc mà
chúng ta thường nghe. Huy-Cận kém Vũ-hoàng-Chương ba tuổi và xuất bản tập thơ
đầu “Lửa Thiêng” sau khi Vũ-hoàng-Chương đã có thi tập “Thơ say” và “Mây” đang
sắp phát hành. Vì thế Huy-Cận coi thisĩ Vũ như anh.
Hai người cũng chơi với nhau khá thân. Một hôm Huy-Cận bất ngờ gặp
Vũ-hoàng-Chương và rủ Ông đi ăn phở. Vì
mới ra tập thơ đầu lại cũng có ý thân mật so sánh nên Huy-Cận nửa đùa nửa thật
vỗ vai Vũ-hoàng-Chương nói rằng:
“Đã lâu lại gặp ‘chàng Say’
‘Lửa Thiêng’ xin đốt chờ ‘Mây’ xuống trần
Vũ-hoàng-Chương cũng hơi khựng
một chút, nhưng vui vẻ đáp ngay:
‘ Mây’ kia chẳng chịu xuống trần
Lửa ơi theo khói lên gần
với ‘Mây’.
Hai người đối đáp với nhau như thế, vừa có ý kiêu ngạo, vừa có ý thân
thiện, thật xứng đôi. Rồi thời gian trôi qua, năm 1946 Huy-Cận ra bưng theo
kháng chiến dùng thi tài của mình để phục vụ bác và đảng, được sủng ái nên đã
có thời leo lên đến chức Thứ trưởng bộ Văn hóa. Vũ-hoàng-Chương thì chạy tản
cư, cũng có làm một số bài thơ ái quốc, nhưng sau đó hồi cư về lại Hanoi rồi di cư vào Saigon
theo hiệp định Genève năm 1954, vẫn tiếp tục nghiệp thơ và sinh sống bằng nghề
dạy học.
Vật đổi sao dời, năm 1975 miền nam bị bỏ rơi và cộng sản thắng đại cái
“đại thắng muà xuân”.Và hai thi nhân lại có dịp gặp nhau trong hoàn cảnh éo le
quốc cộng. Huy-Cận được cử vào Saigon cùng với một phái đoàn với mục đích thăm
dò và chiêu dụ các văn nghệ sĩ miền Nam.
Dĩ nhiên người mà Huy-Cận muốn gặp đầu tiên là Vũ-hoàng-Chương cũng vì
tình bạn cũ và cũng nghĩ rằng nếu chiêu dụ được Vũ theo cách mạng thì mình lập
được công lớn. Vì vậy Huy-Cận đã sửa soạn cuộc thăm viếng rất trọng thể. Lễ vật
đến thăm Vũ-hoàng-Chương gồm một chai rượu quí, một lọ đầy thuốc phiện và cũng
không quên mang theo một bức hình Hồ chí Minh. Rượu và thuốc thì để biếu bạn,
còn bức hình thì Huy-Cận ước mong sẽ được Vũ-hoàng-Chương đề tặng cho mấy vần
ca ngợi để có bằng chứng báo cáo lấy công đầu.
Cuộc gặp gỡ diễn ra tốt đẹp sau bao năm xa cách. Vũ-hoàng-Chương đón
Huy-Cận như một bạn cố tri nồng nàn vui vẻ. Sau khi Huy-Cận ngỏ ý muốn Vũ đề
thơ thì Ông trầm mặc không nói gì. Huy-Cận khi ra về có hẹn ba ngày sau sẽ cho
người đến xin lại bức hình, Vũ-hoàng-Chương cũng chỉ ậm ừ tiễn bạn.
Đúng ba ngày sau khi nhân viên của Huy-Cận tới thì thấy trên bàn vẫn
còn y nguyên hai món lễ vật và bức hình, Vũ-hoàng-Chương không hề đụng tới mặc
dù rượu với thuốc phiện đối với Ông là rất quí hiếm. Còn bức hình thì vẫn chỉ
là bức hình như khi đem tới,không một nét chữ đề. Được báo cáo lại, dĩ nhiên là
Huy-Cận tím mặt. Nhưng Ông biết tính họ Vũ là ngưòi không dễ lung lạc nên cũng
đành thôi.
Vũ-hoàng-Chương, ông qủa là một người có khí phách. Ông có một cơ hội
an thân nhưng Ông đã không làm, chỉ vì tấm lòng Ông “một tấc thành” nên Ông
phải giữ tiết tháo không a dua theo thời cuộc. Thế là lại có thêm một cái
‘họa’. Nhưng như thế vẫn chưa hết.
Chê thơ Tố-Hữu và dạy cộng sản cách làm thơ.
Theo một bài đăng trên “net” của tác giả Sông-Lô viết về Vũ-hoàng-Chương nhận xét thơ
Tố-Hữu, được biết phái đoàn từ bắc vô
nam cùng với Huy-Cận như đã nói ở đoạn trên còn có nhiều nhân vật sáng giá khác
như Tố-Hữu, Hoài-Thanh, Xuân-Diệu,
Vũ-đình-Liên…. Phái đoàn được ký giả nằm vùng Thanh-Nghị tiếp đón và tổ chức
một đêm”họp mặt văn nghệ” với các nhân vật gạo cội miền Nam để cùng đánh giá
văn hoá hai miền ngõ hầu thống nhất tư tưởng về một mối. Buổi họp này
Vũ-hoàng-Chương đã được mời và có tham dự. Đề tài được đưa ra là mấy câu thơ
của Tố-Hữu đã làm để khóc Stalin khi ông trùm đỏ Nga-sô này chết vào năm 1953. Hai câu thơ đã gắn
liền với cuộc đời và sự nghiệp cùng đầy đủ tiếng khen chê đối với tên trùm văn nghệ cộng sản này là câu:
“Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười “
Thanh-Nghị với tư cách nằm vùng theo cộng sản từ lâu, coi như đại diện miền
nam, dĩ nhiên ca ngợi thơ Tố-Hữu hết mình. Rồi lần lượt đến Xuân-Diệu, Huy-Cận,
Vũ-đình-Liên từ ngoài bắc vào lên diễn đàn thì khỏi nói. Cũng cần có một tiếng
nói miền nam cho xôm tụ, cho nên Hoài-Thanh khẩn khoản mời Vũ-hoàng-Chương lên
phát biểu với dụng ý là họ Vũ, một thi bá đương thời, nhưng vốn người trầm mặc
hiền hoà chắc cũng chỉ vuốt theo mà không nói điều gì nghịch ý. Xin trích
nguyên văn sau đây một đoạn của Sông-Lô:
“Ai đã biết Vũ-hoàng-Chương ắt phải biết
cái đanh thép bên trong tấm thân nhỏ bé ọp ẹp của ông. Đôi ba lần tạ từ không
được, đành nhảy vào ưỡn ngực “ hò kéo pháo”, nhưng trước khi vào cuộc họ Vũ đã
yêu cầu cử tọa thông cảm nếu có chỗ nào thất thố vì ông sợ rằng những gì ông
muốn trình bày sẽ làm tổn thương cái
‘sáng giá’ của đêm họp ‘văn nghệ đặc biệt’ này, bởi vì ‘tất tần tật’
đã thẩm định rồi.”
Sau đây là lời của Vũ-hoàng-Chương;
“Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động
vào tâm cảnh của mình, để hồn trí phản ứng theo thất tình con người mà vận dụng
thi tứ phổ diễn nên lời một tình tự nào đó, rồi đãi lọc thành thơ. Sự vận dụng
càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao.
Cảm xúc trước cái chết của một thần
tượng được ‘đóng khung’ tự bao giờ trong tâm cảnh mình, Tố-Hữu đã xuất thần vận
dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ
thật tầm thường, ít thi tính, đãi lọc nỗi u hoài của mình thành một tiếng nấc
rất tự nhiên, đạt đến một mức độ điêu luyện cao. Lời thẩm định của Thanh-Nghị
thật xác đáng,tôi chịu. Nhưng thơ không phải chỉ có thế.Xuất thần khẩu chiếm
thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đã có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế thì thơ
chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt; tức chưa phải là hay. Thơ hay cần phải
khéo như thế vừa phải đạt thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của tình tự phổ diễn nên
lời. Tình tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép. Vấn đề của thơ,nói cho đến
nơi, là ở đây, có nghiã là thơ phải thực.
Tố-Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng
một bà mẹ Việtnam, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ
Việtnam yêu cụ Stalin thay cho mình. Cũng chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật
của thi ca; nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việtnam có cùng tâm cảnh với mình
không, có chung một mối cảm xúc hay không?
Tôi biết
chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài ‘Đời đời
nhớ Ông’ Tố-Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:
“Yêu biết
mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu
lòng con gọi Stalin “
Chắc chắn là
không có một bà mẹ Việtnam nào, kể cả Bà Tố-Hữu, mà thốt được những lời như vậy
một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai
câu sau ta đang mổ xẻ.
Một tình tự không chân thực, dù đươc luồn vào
những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp,thơ
hay, mà chỉ là thơ khéo làm; đó chỉ là
thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành
nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đòi hỏi một tuyên
truyền nào đó. Tố-Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà
mẹ Việtnam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm“.
Vẫn theo lời kể của Sông-Lô thì
lời thẩm định này đã gây sôi nổi trong đám thính giả có mặt hôm đó. Muốn
phản bác luận điệu của Vũ-hoàng-Chương, có người đã yêu cầu Ông nói về thơ để
hòng bắt bẻ này nọ, nhưng Ông vẫn ôn tồn phát biểu:
“Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là
tách rời thực tế, nhưng mộng trên những tình tự thực. Không chấp nhận loại thơ
tình tự hoang. Có khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói
đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ
không bất chấp, không chối bỏ sự thực. Nhà thơ không được láo; nhà thơ phải
thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên
sự thực muôn đời đạt đến chân lý cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy.
“Tôi xin nhắc ; sự thực muôn đời là cơ
sở duy nhất của thi ca; vì có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng
một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao quát không gian,thời
gian, chân lý cuộc sống.”
Sau đêm hôm ấy, hình như có một buổi họp khẩn cấp của các “nhân vật
then chốt” cộng sản, và Vũ-hoàng-Chương
đã bị bắt. Như vậy cái tội phản động của thi sĩ họ Vũ không phải là một mà có
đến ba : bắt đầu từ bài thơ thời sự , kế đến không nể nang tình bạn và sau cùng
là đã dạy khôn cho kẻ đang thắng thế. Theo Sông-Lô thì Vũ-hoàng-Chương không
phải là người dại, cũng không phải người can đảm mà Ông chính là người của tự
do không phải quị lụy trước bất cứ một áp lực nào.
Niềm hãnh diện cuối đời : Thủ-tướng bưng bô.
Vũ-hoàng-Chương bị bắt vào khám Chí hòa, giam chung cùng một số nhà trí
thức khác. Với thân hình gầy yếu sẵn có, phải ăn cơm tù đạm bạc lại thêm thiếu
thuốc phiện thì làm sao mà Ông chịu nổi. Có thể nói bao nhiêu ngày trong tù,
Ông đau yếu cả bấy nhiêu ngày. Sức lực Ông kiệt quệ dần dần, đã có lúc phải nằm
liệt giường. Chính quyền “giải phóng” biết Ông không còn sống nổi bao lâu, nên
sau thời gian giam giữ đã quyết định thả Ông về để tránh tiếng Ông bị bức tử
trong tù. Về nhà gặp lại vợ con, dĩ nhiên là Ông mừng rỡ, nhưng trong đáy lòng
hình như Ông có điều gì thỏa mãn vì tuy nằm bep trên giường Ông không có vẻ sầu
héo bi lụy của một người gần đất xa trời. Một hôm Ông thố lộ là ở trong tù Ông
có phần thích thú vì đã được Thủ-tướng bưng bô vệ sinh cho mình. Mãi sau người
nhà Ông mới biết bị giam chung cùng với Ông là Bác sĩ Phan-huy-Quát. Bác sĩ
Quát đã có thời làm Thủ-tướng chính phủ dân sự do Cụ Phan-khắc-Sửu là Quốc
trưởng. Vì mến thương Vũ-hoàng-Chương và vì lương tâm của người y sĩ, trong
thời gian bị giam chung, Bác sĩ Quát đã tận tình chăm sóc cho nhà thi sĩ bất
hạnh đau yếu, và không ngần ngại giúp đỡ cả việc vệ sinh hàng ngày. Đó là niềm
vui cuối cùng của thi sĩ họ Vũ trước khi Ông lìa đời ngày 6 tháng 9 năm 1976.
,_._,___
nday, September 1, 2014
CỘNG SẢN VẪN BÁN NƯỚC PHẢN DÂN
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh Nhận Định Về Chuyến Đi Sứ Của Ông Lê Hồng Anh
Gia Minh, RFA - 31.8.2014: Chuyến đi khôi phục 16 chữ vàng và 4 tốt
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-peop-wl-rise-up-08312014063849.html
Ba điểm thống nhất được công khai sau chuyến làm việc tại Bắc Kinh của
ông Lê Hồng Anh, Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt
Nam, khiến dư luận quan ngại. Lý do là Hà Nội không thay đổi gì trong
quan hệ với Bắc Kinh sau sự cố giàn khoan Hải Dương 981 mà Trung Quốc hạ
đặt trái phép trong vùng biển Việt Nam.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, là một trong số những người có quan ngại như vừa nêu.
Gia Minh có cuộc nói chuyện với ông và trước hết ông đưa ra nhận định về những điều có thể được trao đổi tại Bắc Kinh trong chuyến đi của ông Lê Hồng Anh mà không được báo chí loan tin.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi chưa biết là có ký kết gì không nhưng theo những thông báo chung thì hai bên đồng ý khôi phục quan hệ Việt- Trung.
Nhưng tôi cho rằng thông báo công khai là một chuyện thôi, mà tôi thấy ông Lê Hồng Anh sang Trung Quốc lần này trong khi Trung Quốc vẫn duy trì quan điểm ở Biển Đông. Mặc dù vừa qua (họ) mới rút giàn khoan đi, nhưng vẫn tuyên bố lập trường của Trung Quốc ở Biển Đông không thay đổi. Như thế nghĩa là Trung Quốc vẫn cứ cứng rắn. Thế nhưng ông Lê Hồng Anh lại sang thăm trong thế Việt Nam yếu; (mà trong thế Việt Nam yếu), rất khó thảo luận bình đẳng mà bên có thế mạnh thế nào họ cũng tìm cách áp đặt. Theo tôi, họ có thể nêu ra vấn đề gác tranh chấp, cùng khai thác. Trong thông báo công khai cũng có ý đó rồi. Thứ hai nữa, họ muốn nói thôi không nói đến chuyện trước đây nữa, về tranh chấp trước đây để khỏi thương tổn đến quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Thứ ba là họ muốn nói vẫn tiếp tục thực hiện cái ’16 chữ với 4 tốt’. Và có thể họ nêu vấn đề không nên kiện Trung Quốc. Và cũng có thể họ nêu vấn đề đừng quá quan hệ mật thiết với Mỹ.
Tôi cho rằng trong hội đàm họ có thể nêu những vấn đề như thế.
Gia Minh: Như ông nói Việt Nam ở thế yếu và với ba điểm ( thống nhất như thế thì sẽ có những nguy hiểm gì cho Việt Nam trong thời gian sắp tới?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Tất nhiên, từ trước đến giờ họ luôn âm mưu thôn tính Việt Nam. Ít nhất cũng trói buộc Việt Nam vào sự lệ thuộc của họ như kiểu thuộc địa kiểu mới. Họ vẫn thực hiện thế thôi. Tức là lúc nào Việt Nam cũng đứng trước những nguy hiểm từ Trung Quốc.
Gia Minh: Biết như vậy, nhưng theo ông vì sao những vị lãnh đạo Việt Nam, nhất là những vị trong đảng vẫn luôn kiên trì đường lối cũ như thế?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Điều này tôi không có thẫm quyền để nói gì.
Đó là lãnh đạo của chúng tôi mà tôi không đồng ý; tôi không đồng ý quá thân thiện với Trung Quốc, chỉ thân thiện với Trung Quốc. Nhưng đó là quyền của lãnh đạo, tôi biết làm sao được!
Họ nắm quyền và họ cứ làm thế. Mà không phải một mình tôi, nhiều người cũng phản đối; nhưng họ nắm quyền họ cứ thực hiện theo con đường của họ thôi.
Gia Minh: Như thiếu tướng vừa nói nếu theo đường lối như lâu nay thì Việt Nam luôn đứng trước mối nguy hiểm của Trung Quốc, vậy qua những động thái vừa rồi trong quan hệ với Trung Quốc, việc xây dựng niềm tin với những nước khác, đặc biệt với Hoa Kỳ, thì có thể khiến cho người ta tin tưởng để có thể có những hợp tác có lợi cho Việt Nam không?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Theo tôi vẫn hợp tác mật thiết hơn nữa với Hoa Kỳ. Đó là lợi ích của cả Việt Nam và của cả Hoa Kỳ.
Gia Minh: Như vậy vẫn có bị cản trở trong vấn đề này?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi đã nói rồi, tổng bí thư của chúng tôi thân Trung Quốc, cho nên vẫn là cản trở khó có thể có quan hệ mật thiết hơn nữa với Hoa Kỳ.
Gia Minh: Như thiếu tướng nói không chỉ bản thân ông mà nhiều vị khác không đồng ý và hiện nay hình như dư luận dân chúng họ cũng thấy được vấn đề?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Có thể một bộ phận nhân dân theo dõi tình hình, người ta cũng đồng tình như thế. (Nhưng) đại đa số nông dân ở nông thôn, ở nơi xa xôi họ không có điều kiện cập nhật những tin tức theo ‘lề mạng’, họ chỉ đọc báo của ‘lề phải’ và xem tivi thì không bao giờ thấy được sự thật.
Gia Minh: Sự xuất hiện của nhiều nhóm dân sự hiện nay, theo thiếu tướng tác động để giúp cho những người khác nhận thấy vấn đề đang theo chiều hướng ra sao?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Chiều hướng đó tiếp tục đẩy mạnh, tuy nhiên lãnh đạo cũng tìm mọi cách để cản trở. Nhưng xu hướng tiến bộ người ta vẫn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của người ta.
Gia Minh: Nhiều người cho rằng với xu hướng tất yếu như thế, việc cản trở như thế sớm hay muộn gì cũng không thể thành công?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Đến một lúc mà đẩy nhân dân đến chân tường, tôi nghĩ có khi phải ‘tức nước, vỡ bờ’ thôi.
Gia Minh: Hiện nay, mọi người có hướng đến đại hội đảng lần thứ 12 năm 2016 diễn ra trong tình hình có những vụ việc như vụ giàn khoan, đảng đang đứng trước những thách thức. Nhưng rồi qua chuyến đi của ông Lê Hồng Anh thì mọi người thấy những thách thức đó vẫn chưa thể được hóa giải?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi cũng nghĩ như thế.
Gia Minh: Vậy điều trông chở vào đại hội đảng lần thứ 12 này là gì?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: (Cười) Hiện nay có bao nhiêu góp ý kiến, kể cả tôi góp ý kiến, nhưng tôi tin người ta không nghe đâu. Họ vẫn đi theo con đường mòn của họ thôi.
Gia Minh: Và như thiếu tướng vừa nói, làm như thế là dồn nhân dân vào đường cùng?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Nhưng vấn đề cần có thời gian.
Gia Minh: Cần có thời gian để có những điều kiện chín muồi hơn?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Đúng rồi, phải thời gian lâu chứ không phải là trước mắt đâu!
Gia Minh: Chân thành cám ơn thiếu tướng đã giành cho cuộc nói chuyện vừa rồi.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, là một trong số những người có quan ngại như vừa nêu.
Gia Minh có cuộc nói chuyện với ông và trước hết ông đưa ra nhận định về những điều có thể được trao đổi tại Bắc Kinh trong chuyến đi của ông Lê Hồng Anh mà không được báo chí loan tin.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi chưa biết là có ký kết gì không nhưng theo những thông báo chung thì hai bên đồng ý khôi phục quan hệ Việt- Trung.
Nhưng tôi cho rằng thông báo công khai là một chuyện thôi, mà tôi thấy ông Lê Hồng Anh sang Trung Quốc lần này trong khi Trung Quốc vẫn duy trì quan điểm ở Biển Đông. Mặc dù vừa qua (họ) mới rút giàn khoan đi, nhưng vẫn tuyên bố lập trường của Trung Quốc ở Biển Đông không thay đổi. Như thế nghĩa là Trung Quốc vẫn cứ cứng rắn. Thế nhưng ông Lê Hồng Anh lại sang thăm trong thế Việt Nam yếu; (mà trong thế Việt Nam yếu), rất khó thảo luận bình đẳng mà bên có thế mạnh thế nào họ cũng tìm cách áp đặt. Theo tôi, họ có thể nêu ra vấn đề gác tranh chấp, cùng khai thác. Trong thông báo công khai cũng có ý đó rồi. Thứ hai nữa, họ muốn nói thôi không nói đến chuyện trước đây nữa, về tranh chấp trước đây để khỏi thương tổn đến quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Thứ ba là họ muốn nói vẫn tiếp tục thực hiện cái ’16 chữ với 4 tốt’. Và có thể họ nêu vấn đề không nên kiện Trung Quốc. Và cũng có thể họ nêu vấn đề đừng quá quan hệ mật thiết với Mỹ.
Tôi cho rằng trong hội đàm họ có thể nêu những vấn đề như thế.
Gia Minh: Như ông nói Việt Nam ở thế yếu và với ba điểm ( thống nhất như thế thì sẽ có những nguy hiểm gì cho Việt Nam trong thời gian sắp tới?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Tất nhiên, từ trước đến giờ họ luôn âm mưu thôn tính Việt Nam. Ít nhất cũng trói buộc Việt Nam vào sự lệ thuộc của họ như kiểu thuộc địa kiểu mới. Họ vẫn thực hiện thế thôi. Tức là lúc nào Việt Nam cũng đứng trước những nguy hiểm từ Trung Quốc.
Gia Minh: Biết như vậy, nhưng theo ông vì sao những vị lãnh đạo Việt Nam, nhất là những vị trong đảng vẫn luôn kiên trì đường lối cũ như thế?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Điều này tôi không có thẫm quyền để nói gì.
Đó là lãnh đạo của chúng tôi mà tôi không đồng ý; tôi không đồng ý quá thân thiện với Trung Quốc, chỉ thân thiện với Trung Quốc. Nhưng đó là quyền của lãnh đạo, tôi biết làm sao được!
Họ nắm quyền và họ cứ làm thế. Mà không phải một mình tôi, nhiều người cũng phản đối; nhưng họ nắm quyền họ cứ thực hiện theo con đường của họ thôi.
Gia Minh: Như thiếu tướng vừa nói nếu theo đường lối như lâu nay thì Việt Nam luôn đứng trước mối nguy hiểm của Trung Quốc, vậy qua những động thái vừa rồi trong quan hệ với Trung Quốc, việc xây dựng niềm tin với những nước khác, đặc biệt với Hoa Kỳ, thì có thể khiến cho người ta tin tưởng để có thể có những hợp tác có lợi cho Việt Nam không?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Theo tôi vẫn hợp tác mật thiết hơn nữa với Hoa Kỳ. Đó là lợi ích của cả Việt Nam và của cả Hoa Kỳ.
Gia Minh: Như vậy vẫn có bị cản trở trong vấn đề này?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi đã nói rồi, tổng bí thư của chúng tôi thân Trung Quốc, cho nên vẫn là cản trở khó có thể có quan hệ mật thiết hơn nữa với Hoa Kỳ.
Gia Minh: Như thiếu tướng nói không chỉ bản thân ông mà nhiều vị khác không đồng ý và hiện nay hình như dư luận dân chúng họ cũng thấy được vấn đề?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Có thể một bộ phận nhân dân theo dõi tình hình, người ta cũng đồng tình như thế. (Nhưng) đại đa số nông dân ở nông thôn, ở nơi xa xôi họ không có điều kiện cập nhật những tin tức theo ‘lề mạng’, họ chỉ đọc báo của ‘lề phải’ và xem tivi thì không bao giờ thấy được sự thật.
Gia Minh: Sự xuất hiện của nhiều nhóm dân sự hiện nay, theo thiếu tướng tác động để giúp cho những người khác nhận thấy vấn đề đang theo chiều hướng ra sao?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Chiều hướng đó tiếp tục đẩy mạnh, tuy nhiên lãnh đạo cũng tìm mọi cách để cản trở. Nhưng xu hướng tiến bộ người ta vẫn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của người ta.
Gia Minh: Nhiều người cho rằng với xu hướng tất yếu như thế, việc cản trở như thế sớm hay muộn gì cũng không thể thành công?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Đến một lúc mà đẩy nhân dân đến chân tường, tôi nghĩ có khi phải ‘tức nước, vỡ bờ’ thôi.
Gia Minh: Hiện nay, mọi người có hướng đến đại hội đảng lần thứ 12 năm 2016 diễn ra trong tình hình có những vụ việc như vụ giàn khoan, đảng đang đứng trước những thách thức. Nhưng rồi qua chuyến đi của ông Lê Hồng Anh thì mọi người thấy những thách thức đó vẫn chưa thể được hóa giải?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi cũng nghĩ như thế.
Gia Minh: Vậy điều trông chở vào đại hội đảng lần thứ 12 này là gì?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: (Cười) Hiện nay có bao nhiêu góp ý kiến, kể cả tôi góp ý kiến, nhưng tôi tin người ta không nghe đâu. Họ vẫn đi theo con đường mòn của họ thôi.
Gia Minh: Và như thiếu tướng vừa nói, làm như thế là dồn nhân dân vào đường cùng?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Nhưng vấn đề cần có thời gian.
Gia Minh: Cần có thời gian để có những điều kiện chín muồi hơn?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Đúng rồi, phải thời gian lâu chứ không phải là trước mắt đâu!
Gia Minh: Chân thành cám ơn thiếu tướng đã giành cho cuộc nói chuyện vừa rồi.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-peop-wl-rise-up-08312014063849.html
Lộ trình bán nước của giới lãnh đạo đảng CSVN không hề thay đổi
Phỏng vấn Ts Hà Sĩ Phu về chuyến sang Tàu của sứ thần Lê Hồng Anh, nhà báo Trần Quang Thành thực hiện.
“Trong tình hình chính trị hiện nay thì nắm cái gì là cái gốc để khỏi dao động trước những diễn biến lặt vặt cụ thể? Cái gốc là ĐCSVN đã bán dần chủ quyền đất nước mình cho Trung Quốc, để trở thành một nước chư hầu hoặc thành một tỉnh của Trung Quốc, còn những hoạt động cụ thể lúc thì tô điểm, lúc thì thích nghi, lúc thì đánh lừa, song cái thế “bán nước” đã định hình không có thay đổi...” - Hà Sĩ Phu
“Trong tình hình chính trị hiện nay thì nắm cái gì là cái gốc để khỏi dao động trước những diễn biến lặt vặt cụ thể? Cái gốc là ĐCSVN đã bán dần chủ quyền đất nước mình cho Trung Quốc, để trở thành một nước chư hầu hoặc thành một tỉnh của Trung Quốc, còn những hoạt động cụ thể lúc thì tô điểm, lúc thì thích nghi, lúc thì đánh lừa, song cái thế “bán nước” đã định hình không có thay đổi...” - Hà Sĩ Phu
*
Vào đầu tháng 5 vừa qua, khi giới bành trướng, bá quyền Bắc Kinh đưa
giàn khoan HD 981 xâm phạm lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế của Việt
Nam, một số nguồn tin cho biết, ông Tổng bí thư Nguyễn Phũ Trọng đã ngỏ
lời xin đến Trung Quốc để hội kiến nhưng đã bị từ chối.
Vào những ngày cuối tháng 8 năm 2014 này, khi sự kiện giàn khoan tạm
thời lắng xuống, ông Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban
bí thư đã được phép đến Bắc Kinh với tư cách là đặc phái viên của ông
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Vào phút chót, trước khi kết thúc chuyến đi, ông Lê Hồng Anh cũng được
gặp Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình để nghe huấn dụ.
Về sự kiện này, từ thành phố Đà Lạt, tiến sĩ Hà Sĩ Phu (HSP) đã có đôi
lời bình luận qua cuộc phỏng vấn của phóng viên Trần Quang Thành (TQT).
- TQT: Xin chào TS Hà Sĩ Phu.
- HSP: Vâng, xin chào nhà báo Trần Quang Thành thân mến.
- TQT: Thưa TS HSP, sứ thần Lê Hồng Anh đã sang Trung Quốc 2 hôm nay,
ngày 26 và 27 tháng 8, TS có theo dõi chuyến đi này của sứ thần LHA
không ạ?
- HSP: Mấy hôm nay tôi bị đau nên không theo dõi được chi tiết nhưng
cũng nắm được khái quát tình hình. Trước đó có hai đại biểu Hoa Kỳ, ông John McCain
và tướng Demsey, sang thăm Việt Nam thì nhiều người đã hy vọng về quan
hệ Việt Mỹ có thể cải thiện, lại thấy rằng ngay cả cánh bảo thủ Việt Nam
cũng muốn liên kết với Mỹ thì tình hình đã có chút hy vọng trong việc
cân bằng với Trung Quốc. Nhưng nay thấy ông Lê Hồng Anh sang Trung Quốc,
muốn nói lời đền bù, xin lỗi về một số lời phát biểu có thể làm phật
lòng Trung Quốc, nay xin “khôi phục” lại tình hữu nghị thì khác nào một
cuộc “tiểu Thành Đô”, thế nên bây giờ nhiều người mới ngã ngửa ra rằng
tình hình nó chẳng có thay đổi gì cả. Tôi muốn nhắc đến một câu thế này:
“Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Câu này không phải câu của riêng ông
Hồ đâu, sách vở chữ nho đã có từ trước rồi, nghĩa là phải nắm vững, nắm
chắc những điều cơ bản, từ gốc rễ, thì mới có thể hiểu và ứng xử những
điều chi tiết ở trên ngọn.
Trong tình hình chính trị hiện nay thì nắm cái gì là cái gốc để khỏi dao
động trước những diễn biến lặt vặt cụ thể? Cái gốc là ĐCSVN đã bán dần
chủ quyền đất nước mình cho Trung Quốc, để trở thành một nước chư hầu
hoặc thành một tỉnh của Trung Quốc, còn những hoạt động cụ thể lúc thì
tô điểm, lúc thì thích nghi, lúc thì đánh lừa, song cái thế “bán nước”
đã định hình không có thay đổi. Muốn thay đổi thì phải có những áp lực
gì? Về áp lực của thế giới, đòi hỏi phải có dân chủ nhân quyền thì mới
được thế này thế kia, nhưng thực tế nước nào cũng vì quyền lợi của mình
nên chưa có áp lực gì thật quan trọng cả.
Áp lực trong nước thì nhân dân từ chỗ tay trắng đã làm được như hôm nay, khoảng 2 chục tổ chức xã hội dân sự đã hình thành, đã ngồi lại được với nhau, chúng ta đã cố gắng rất nhiều nhưng bấy nhiêu cũng chưa đủ thành áp lực. Áp lực về kinh tế thì đáng kể, nếu phá sản, vỡ nợ, hệ thống ngân hàng sụp đổ thì đúng là áp lực, nhưng biết đâu Việt nam lại càng dựa vào Trung Quốc để cứu nguy? Giới trí thức thường có 2 điều ngộ nhận. Thứ nhất là tin vào quy luật “cùng tắc biến”, đến tận cùng thì nó phải đổ! Nhưng trong khi chưa có lực lượng tốt đủ mạnh tiếp cận vào để kéo nó đi, thì có khi nó lại biến thành một cái gì đó xấu hơn. Nói một cách nôm na cho dễ hiểu thì ví dụ có một thằng khốn nạn đến bước đường cùng phải đổ, nhưng nó lại biến thành một thằng khốn nạn khác, chứ chắc gì đã thành một người tử tế, khi cái lực lượng bắt nó phải thành tử tế thì chưa có, chưa đáng kể.
Áp lực trong nước thì nhân dân từ chỗ tay trắng đã làm được như hôm nay, khoảng 2 chục tổ chức xã hội dân sự đã hình thành, đã ngồi lại được với nhau, chúng ta đã cố gắng rất nhiều nhưng bấy nhiêu cũng chưa đủ thành áp lực. Áp lực về kinh tế thì đáng kể, nếu phá sản, vỡ nợ, hệ thống ngân hàng sụp đổ thì đúng là áp lực, nhưng biết đâu Việt nam lại càng dựa vào Trung Quốc để cứu nguy? Giới trí thức thường có 2 điều ngộ nhận. Thứ nhất là tin vào quy luật “cùng tắc biến”, đến tận cùng thì nó phải đổ! Nhưng trong khi chưa có lực lượng tốt đủ mạnh tiếp cận vào để kéo nó đi, thì có khi nó lại biến thành một cái gì đó xấu hơn. Nói một cách nôm na cho dễ hiểu thì ví dụ có một thằng khốn nạn đến bước đường cùng phải đổ, nhưng nó lại biến thành một thằng khốn nạn khác, chứ chắc gì đã thành một người tử tế, khi cái lực lượng bắt nó phải thành tử tế thì chưa có, chưa đáng kể.
- TQT: Bảy mươi năm dân ta sống dưới chế độ do ĐCSVN cầm đầu, đã thấy
nhiều lần ĐCSVN thay đổi, thí dụ đổi ĐCS thành đảng Lao động Việt Nam,
rồi lại đổi thành ĐCS, bây giờ có người lại muốn nó trở lại thành đảng
Lao động Việt Nam? Ông thấy thủ đoạn đó có thể làm cho Việt Nam này thay
đổi hay không thưa ông?
- HSP: (Xin nhắc lại điều vừa nói), trí thức ta học nhiều nên cứ tin vào
quy luật, “cùng thì tắc biến”, rồi nó cũng phải tốt thôi. Nghĩ thế là
rất sai, tôi thường nói bỗ bã với anh em, bước đường cùng thì một thằng
tồi tệ thường biến thành một thằng tồi tệ khác, chứ tin nó phải thành
người tử tế thì chẳng có quy luật nào như thế cả. Một khi cái độc tài
toàn trị được chủ động thiết kế con đường thay đổi của nó thì nó bỏ cái
xấu cũ và thực hiện cái xấu mới thôi. Đất nước hiện nay chưa có có lực
lượng nào có thể đối trọng với cái độc tài toàn trị. Tôi muốn trở lại
với ý kiến: Muốn thoát khỏi ách nô dịch của Trung Quốc thì dứt khoát
phải thoát khỏi ách Cộng sản. Hai việc ấy phải làm đồng thời. Thủ phạm
làm mất nước là chế độ CS độc tài toàn trị. Quý vị nói Thoát Trung là
phải thoát bằng Văn hóa, tức là chĩa mũi nhọn vào văn hóa, chĩa mũi nhọn
vào 4000 năm lịch sử, quy tội vào tất cả mọi người Việt Nam, thì cái
anh Cộng sản nó sướng quá! Thực ra Văn hóa là cái nền nhưng cái nền rất
xa, đừng quên thủ phạm trực tiếp là Cộng sản!
- TQT: Thưa TS HSP, có người nói rằng chúng ta công nhận đa nguyên đa
đảng, có nghĩa là rồi đây vẫn có ĐCS nên họ lưu lại để làm cho đảng của
họ tốt hơn. Vậy ý kiến của ông về điều này thế nào?
- HSP: Nói đa nguyên đa đảng là phải đa nguyên đa đảng thật, bình đẳng,
chứ đa đảng mà lại dưới sự lãnh đạo của một đảng, thì cũng giống như
Trung Quốc, cũng 8-9 đảng chứ có phải không có đâu, nhưng thế là đa đảng
cuội. Đa đảng thật thì đảng cộng sản tất nhiên cũng có quyền tồn tại
như các đảng khác, nhưng trong điều kiện bình đẳng như thế thì đảng cộng
sản không thể trở thành một đảng lãnh đạo được, vai trò lịch sử của
đảng cộng sản chỉ là vai trò đối trọng, phản biện khi chủ nghĩa tư bản
còn man rợ, chứ khi trở thành một đảng cầm quyền để lãnh đạo xây dựng
đất nước thì đảng cộng sản bao giờ cũng là một đảng tồi, là một đảng nhỏ
yếu, thực tế khắp thế giới đã chứng minh điều đó, vì chủ nghĩa cộng sản
vốn là một lý thuyết phi khoa học và phản dân chủ, phản quy luật, nhân
loại đã đào thải, cho nên tôi không tin rằng cứ là cộng sản mà lại chân
chính, ví như cả một tà giáo đã không chân chính thì tín đồ của nó sao
lại chân chính được? Nói thế là ngụy biện. Hiện nay những đảng viên còn
trong đảng cũng có một vai trò trong cuộc đấu tranh cho dân chủ, nếu quả
thực muốn đấu tranh, chứ hy vọng ở lại trong đảng để xây dựng một thứ
cộng sản chân chính thì chỉ là ảo tưởng.
Xin nói tiếp về 2 nhận thức sai lầm: sai lầm thứ nhất là cứ tin vào quy
luật rằng cuối cùng nó sẽ phải tốt. Sai lầm thứ hai, nói rằng ta chỉ cần
chống độc tài toàn trị chứ không cần chống cộng sản, nếu cộng sản lại
dân chủ, lại tử tế lại thì ta cũng chấp nhận chứ sao. Đó chỉ là cái bệnh
lý thuyết của trí thức, thực tế không có điều ấy xảy ra. Đảng cộng sản
chỉ có thể tốt khi chưa cầm quyền, chứ khi đã cầm quyền thế nào cũng tha
hóa, đi vào tồi tệ, không thể trở thành dân chủ. Nhân loại đã từng hy
vọng có một “chủ nghĩa cộng sản với bộ mặt dân chủ” nhưng thực tế không
có. Không ít người nghĩ cứ theo ông Hồ là sẽ tử tế thì rất sai lầm. Dựa
vào ông Hồ là sẽ đi lại vết xe cũ.
- TQT: Vậy thì theo TS HSP, việc ông Phạm Quang Nghị sang Mỹ, rồi sứ
thần Lê Hồng Anh sang Tàu đều là những hoạt động dối gian của đảng cộng
sản phải không ạ?
- HSP: Dù là động tác này hay động tác kia thì đều phục vụ cho chính
sách độc tài toàn trị và đầu hàng Tàu, những động tác đó đều có Tàu nó
“duyệt” cả, Tàu không đồng ý chắc chẳng dám làm. Chuyến đi của ông Nghị
cũng có một dư luận thế này tôi cứ nói để ta nghiên cứu thêm: mục đích
giới thiệu đây là một ứng cử viên tổng bí thư tương lai thì đã đạt,
nhưng việc tặng chủ nhà 2 tấm ảnh vớ vẩn như “chửi” vào mặt chủ nhà thì
nhằm mục đích gì? Phải chăng tặng phẩm 2 tấm ảnh lố bịch là để che cho
một tặng phẩm nào đó to hơn, biếu Mỹ một quyền lợi gì đó của đất nước,
hay chỉ nhằm nói với Trung Quốc rằng “tôi chơi đểu” với Mỹ đấy, xin đừng
giận chúng tôi?
Những động tác ấy cũng là xoa vuốt cả thôi, chẳng có lợi ích quan trọng gì cho đất nước cả. Tôi cứ hình dung rằng bỗng nhiên giới lãnh đạo Việt Nam rất yêu nước, chống Tàu, và bỗng nhiên Mỹ muốn gắn bó giúp đỡ Việt Nam hết sức như giúp Nhật Bản hay Đài Loan thì cũng chẳng giải quyết được tình hình, một khi Trung Quốc nó đã khống chế khắp cả từ trên xuống dưới bao nhiêu năm nay rồi, ra thế nào được? Chỉ còn mỗi khả năng phụ thuộc vào nhân dân, nếu nhân dân có sức mạnh để giải thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản thì mới cứu được nước chứ chẳng ai cứu được.
Những động tác ấy cũng là xoa vuốt cả thôi, chẳng có lợi ích quan trọng gì cho đất nước cả. Tôi cứ hình dung rằng bỗng nhiên giới lãnh đạo Việt Nam rất yêu nước, chống Tàu, và bỗng nhiên Mỹ muốn gắn bó giúp đỡ Việt Nam hết sức như giúp Nhật Bản hay Đài Loan thì cũng chẳng giải quyết được tình hình, một khi Trung Quốc nó đã khống chế khắp cả từ trên xuống dưới bao nhiêu năm nay rồi, ra thế nào được? Chỉ còn mỗi khả năng phụ thuộc vào nhân dân, nếu nhân dân có sức mạnh để giải thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản thì mới cứu được nước chứ chẳng ai cứu được.
- TQT: Xin cảm ơn TS HSP đã có một cuộc trò chuyện rất là thẳng thắn, rất rõ ràng, thái độ không có mơ hồ.
- HSP: Vâng, xin cảm ơn.
CHU CHỈ NAM * TẬP CẬN BÌNH
Thanh trừng của Tập Cận Bình
Từ ngày lên ngôi tới nay, chưa đầy 2 năm, Tập Cận Bình đã làm nhiều
đợt thanh trừng, từ nhỏ tới lớn, mà người Trung cộng cho rằng từ việc
đập ruồi cho đến giết hổ, dưới danh nghĩa chống tham nhũng, nhưng thực
tế là củng cố quyền lực, tiêu diệt tất cả những người chống đối mình,
chống đối trước đây cũng như chống đối hiện nay. Việc thanh trừng này
đang nhằm vào một con hổ lớn, Chu Vĩnh Khang, đã từng là nhân vật đầy
quyền thế của Trung cộng.
Liệu cuộc thanh trừng này có dám động đến Giang Trạch Dân, cựu Chủ tịch
nước, cựu Tổng bí thư đảng, con hổ lớn nhất. Đây là câu hỏi mà nhiều nhà
báo Trung cộng và ngoại quốc đang đặt ra.
Chúng ta hãy xem xét từ diễn tiến sự việc cho tới nguyên nhân rồi đưa ra một vài tiên đoán khiêm nhượng cho vấn đề.
I) Tập cận Bình, ông là ai
Tập Cận Bình sinh vào ngày 01/6/1953, tại Bắc Kinh, nhưng quê quán thật
của ông là ở Thiểm Tây, con của ông Tập Trọng Huấn (1913-2002). Ông vào
đảng Cộng sản lúc 16 tuổi, có học trường Thanh Hoa, trường đào tạo cán
bộ cao cấp của đảng. Nhiều báo chí ngoại quốc và ngay cả báo chí Hồng
Kông, Trung cộng cho rằng ông Tập Trọng Huân là một trong 8 đại gia của
đảng, được lập ra bởi Đặng Tiểu Bình, để tránh việc chuyển quyền một
cách bạo động, đẫm máu. Thực ra không phải vậy, Tập Trọng Huân là một
trong những phó Thủ tướng thời họ Đặng nắm quyền, nhưng không nằm trong 8
đại gia. Đó là: 1) Đặng Tiểu Bình (1905-1997), 2) Dương Thượng Côn
(1907-1998), 3) Văn Chấn (1908-1993), 4) Trần Vân (1905-1995), 5) Lý
tiên Niệm (1909-1992), 6) Bành Chân (1902-1997), 7) Tống Nhiệm Cùng
(1909-2005), 8) Bạc Nhất Ba (1908-2007), cha của Bạc Hy Lai.
Nhiều nhà báo, nhất là ở Trung cộng và Việt cộng, khen ông là người có
nhiều bằng cấp, nào là cử nhân chính trị học, kỹ sư hóa chất, thạc sĩ và
tiến sĩ luật. Họ còn khen ông là người thận trọng, kín đáo. Tuy nhiên
điều đó cũng nói nên mặt trái của nó: Đó là nhiều bằng cấp, chứng tỏ là
ham danh, nhất là hiện nay ở Trung cộng và Việt Nam, bằng cấp giả đầy
đường, mua bằng lợi hay dùng quyền thế để có bằng, nhưng thực tài học
chẳng có gì. Một con người thận trọng, kín đáo thường là một con người
ít cởi mở, thâm độc, hay đá giò lái, hay đâm sau lưng. Có người cho rằng
ông là tay em của Giang Trạch Dân. Quả đúng như vậy. Họ Giang đã cài họ
Tập vào làm nhân vật thứ nhì của nhóm lãnh đạo Trung cộng trong suốt
thời gian Hồ Cẩm Đào làm Tổng bí Thư và Chủ tịch nước, Chủ tịch Quân Ủy
hội, với ý đồ là kiểm soát họ Hồ và trong tương lai, khi họ Hồ không còn
tại chức, họ Tập lên ngôi, thì họ Giang dễ dàng khống chế, sai khiến họ
Tập.
Nhưng có lẽ tình hình hoàn toàn đi ngược lại những dự đoán của Giang
Trạch Dân. Từ ngày Tập Cận Bình lên ngôi tới nay, chưa đầy 2 năm, từ
cuối năm 2012, ông lên chức Tổng bí thư vào tháng 11/2012, sự kiện đã
diễn ra không có lợi cho chính Giang Trạch Dân.
Có người cho rằng Tập Cận Bình là tay em của Giang Trạch Dân, làm sao có
sự kiện này. Quả thực họ Tập là tay em của họ Giang, nhưng trong lịch
sử Tàu, chuyện học trò phản thầy, gia nô phản chủ là chuyện cơm bữa.
Trở lại sơ qua về lịch sử Tàu hiện đại, theo một số chuyên gia thì sau
Biến cố Thiên An Môn 1989, trong một buổi họp Ban Thường vụ Bộ chính
trị, Đặng Tiểu Bình đề cử Hồ Cẩm Đào lên thế Triệu Tử Dương trong chức
vụ Tổng bí thư, vì ông này bị tố cáo là đã nhân nhượng với sinh viên học
sinh và những người biểu tình. Dương Thượng Côn không đồng ý và đã phản
ứng lại bằng cách đề cử Giang Trạch Dân, lúc đó đang nắm quyền ở Thượng
hải. Ông nói: "Đồng chí Đặng, ở đời không tái tam ba bận, trong quá
khứ Đồng chí đã đề nghị 2 người Tổng bí thư là Hồ Diệu Bang và Triệu Tử
Dương. Nhưng không xong. Lần này không nên có lần thứ ba." Chính vì
vậy mà có sự dàn xếp để họ Giang lên chức Tổng bí thư, họ Hồ làm phó. Sự
bất đồng giữa Dương Thượng Côn và Đặng tiểu Bình bắt đầu từ đây.
Dương Thượng Côn là tay em của họ Đặng từ lâu, từ thời Chiến tranh với
Nhật, họ Đặng làm tư lệnh Quân đoàn V I I I, họ Dương làm phó, cả hai
người đều học ở Liên sô về. Họ Dương là người thứ 28 học trường Đông
phương mà những người cộng sản cho rằng đó là một trường đại học do
Lénine mở ra, nhưng thực sự thì trình độ rất kém, để được vào học, chỉ
cần có 2 chứng chỉ làm việc 2 năm ở các công xưởng. Ở Tàu, chúng ta thấy
có Chu Ân Lai, Trần Vân, Đặng Tiểu Bình, Dương Thượng Côn v.v... Ở Việt
Nam chúng ta thấy có Hồ Chí Minh, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai
v.v...
Họ Đặng và họ Dương thân nhau từ thời đi học, sau đó làm chung với nhau
suốt một thời gian dài. Sau năm 1978, họ Đặng trở lại chính quyền, đã
nâng đỡ họ Dương, cho làm đến chức Quân Ủy toàn quân, rồi Chủ tịch Nhà
nước. Trong thời gian biến cố Thiên An Môn 1989, người ra phi trường đón
Gorbatchev, lúc đó còn là Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên sô, là Dương
Thượng Côn.
Ở Tàu, ngay cho đến nay, tinh thần phong kiến, gia tộc, bang trưởng, cha
truyền con nối còn rất nặng. Dương Thượng Côn sau khi làm Chủ tịch
nước, thì truyền lại cho con mình làm Quân Ủy toàn Quân. Đấy là chưa nói
đến việc họ Dương còn có người con rể làm Tham mưu trưởng quân đội. Để
đàn áp biểu tình Thiên An Môn chính là quân đội của con cháu Dương
Thượng Côn. Trong tám Đại gia vào thời bấy giờ, đứng đầu là họ Đặng,
đứng thứ nhì là họ Dương. Đứng thứ ba là Văn Chấn, một người tướng vô
học, nhưng đánh hơi theo chiều rất giỏi, đã đi theo Đặng Tiểu Bình, và
được ông này đặt cho biệt hiệu: "Cây đại bác đáng yêu của tôi."
Trở về việc thanh trừng: Ngày 29/7 vừa qua, Tập Cận Bình ra thông cáo
điều tra Chu Vĩnh Khang. Nhiều người nói rằng họ Tập đã phạm vào những
cấm kỵ, luật truyền miệng, bất thành văn, đặt ra bởi Đặng Tiểu Bình, đó
là không được điều tra những người đương kim hay những người cựu Ủy viên
trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị.
Thực ra thì chính Đặng Tiểu Bình đã vi phạm đầu tiên luật bất thành văn,
cấm kỵ này. Vì sau khi Giang Trạch Dân lên ngôi, chưa đầy 3 năm, thì họ
Đặng đã cùng họ Giang ép Dương Thượng Côn từ chức Chủ tịch nước vào năm
1992, ông này còn sống đến năm 1998.
Nhưng "Gậy ông lại đập lưng ông", đó là họ Đặng chết năm 1997, chỉ 2 năm
sau thì Giang Trạch Dân ra lệnh điều tra tài sản của con cháu, gia đình
họ Đặng; và mặc dầu không nói ra, nhưng Giang Trạch Dân đã ra lệnh
ruồng bắt, thủ tiêu những người theo Pháp luân công, một giáo phái, theo
tinh thần tổng hợp tôn giáo, triết lý, Phật, Khổng, Lão, Nho, theo châm
ngôn Chân, Thiện, Nhẫn (Trọng Sự thật, Làm điều Thiện và Cố Kiên nhẫn).
Ngoài việc luyện tập thân thể cân bằng, cường tráng, còn có việc luyện
tập tinh thần trong sạch, trọng sự thật, làm điều thiện, kiên nhẫn,
không nói dối, không làm điều ác, như vừa nói. Một tâm hồn trong sạch
trong một thân thể khỏe mạnh. Đó là mục đích của Pháp luân công. Pháp
luân công được phép hoạt động chính thức ở Tàu bởi Đặng Tiểu Bình, sau
biến cố Thiên An Môn. Phải chăng cho phép Pháp luân công hoạt động chính
thức ở Tàu, là Đặng tiểu Bình đã nghĩ đến việc thay thế triết học Mác
Lê Mao, trở về nền triết học cổ truyền. Đây là một câu hỏi lớn nhưng
chưa có câu trả lời dứt khoát.
Điều người ta biết là từ sau khi họ Đặng chết, Giang Trạch Dân đã đàn áp
thẳng tay giáo phái này, nạn nhân lên tới cả triệu người, vừa bị vào
tù, vừa bị thủ tiêu, hành quyết, lấy những bộ phận con người bán ra nước
ngoài để làm giàu, và người làm việc này là Chu Bân, con trai Chu Vĩnh
Khang.
Họ Tập lên chức Tổng bí thư Đảng vào cuối năm 2012. Từ đó đến nay, chưa
đầy 2 năm, nhưng đã thi hành một cuộc thanh trừng nội bộ rộng lớn, vi
phạm tất cả những cấm kỵ theo luật bất thành văn được Đặng Tiểu Bình
thiết lập lên. Cuộc thanh trừng này lấy nhãn hiệu là chống tham nhũng,
nhưng thực chất bên trong là đấu đá nội bộ, tranh giành quyền lực giữa
những phe phái với nhau: Phe Tập Cận Bình, đương kim Tổng bí thư, phe
Giang Trạch Dân, cựu Tổng bí thư, phe Hồ Cẩm Đào, Tổng bí thư vừa hết
nhiệm kỳ. Nhưng tranh chấp có vẻ gay cấn nhất chính là giữa phe Giang
Trạch Dân và Tập Cận Bình.
Có người nói họ Tập là tay em của họ Giang, sao lại thế?
Quả thật họ Tập là tay em của họ Giang, được họ Giang cài vào nhóm lãnh
đạo dưới thời Hồ Cẩm Đào, nghĩ rằng họ Tập là người "kín đáo, ít biểu lộ
lập trường, không có lập trường rõ rệt", vừa để kiểm soát Hồ Cẩm Đào,
vừa nghĩ sau khi ông này không còn tại vị, Tập Cẩm Bình lên thế ngôi,
thì Giang Trạch Dân dễ khuynh loát hơn.
Việc hai cuộc họp toàn bộ Trung Ương đảng vào giữa năm 2012, với sự có
mặt của Giang Trạch Dân, mang ý nghĩa là họ Giang muốn chứng tỏ họ Tập
là tay em của minh trước công chúng.
II) Diễn tiến cuộc thanh trừng từ ngày Tập Cận Bình lên ngôi
Nhiều người cho rằng cuộc thanh trừng của Tập Cận Bình bắt đầu từ sự
kiện Bạc Hy Lai bị rớt đài và bị đưa ra tòa vào ngày 19/3/2012. Người ta
còn nhớ Vương Lập Quân, nhân vật thứ 2 của Trùng Khánh, đặc trách công
an, mật vụ, tay em đắc lực của vợ chồng Bạc Hy Lai, làm bất cứ việc gì
do vợ chồng này sai bảo. Bỗng một hôm ông ta chạy vào tòa Tổng Lãnh sự
Hoa kỳ ở Trùng Khánh xin tỵ nạn chính trị, nói rằng vợ chồng họ Bạc muốn
giết ông.
Tất nhiên tòa Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ chấp nhận bảo vệ ông, trong đó có
những cuộc thẩm vấn, lấy tin tức hay không thì không rõ. Một thời gian
sau thì Vương Lập Quân được người của Trung ương từ Bắc Kinh xuống hộ
tống đưa về Bắc Kinh, và sự việc Bạc Hy Lai nổ ra. Sự việc Bạc Lai Hy
không phải chỉ là tham nhũng và chuyển tiền ra nước ngoài của vợ Bạc mà
còn liên quan đến án mạng, một tài phiệt Anh quốc, bị bà này giết chết,
mà đằng sau, theo nhiều nhà báo, là sự việc chính trị, đảo chính cướp
quyền.
Giang Trạch Dân, sau khi thấy không thể khống chế được Tập Cận Bình, đã
đứng đằng sau Chu Vĩnh Khang, người nắm quyền công an, cảnh sát, pháp
luật, dầu khí, nhân vật thứ 4, Bạc Hy Lai, Tỉnh trưởng Trùng Khánh, nhân
vật đang lên lúc bấy giờ và Từ Tài Hậu, Phó Quân Ủy Trung Ương, nhân
vật thứ nhì trong quân đội. Cả 3 nhân vật này cùng nhiều người khác phát
động chính biến, bị Hồ Cẩm Đào, đương kim Tổng bí thư khám phá và trấn
áp, theo nguồn tin bán chính thức nhưng đáng tin cậy. Trước và sau cuộc
họp Bắc Đới Hà, Chu Vĩnh Khang đã 2 lần tìm cách bí mật ám sát Tập Cận
Bình nhưng không thành.
Như trên đã nói, từ ngày họ Tập lên ngôi đến giờ chưa đầy 2 năm, thế mà
cuộc thanh trừng tham nhũng, nhãn hiệu bề ngoài, thực chất là cuộc đấu
đá nội bộ, đã kỷ luật 182 000 viên chức, trong đó có 36 thứ trưởng, và 3
con hổ lớn là Chu Vĩnh Khang, Từ Tài Hậu và Bạc Hy Lai.
Tóm lược một vài sự kiện quan trọng dựa theo ngày tháng năm:
Giang Trạch Dân làm Tổng bí thư từ năm 1989 tới 2001, Hồ Cẩm Đào từ năm
2001 tới gần cuối 2012, Tập Cận Bình lên chức Tổng bí thư vào tháng
11/2012. Tháng 2/2012, Vương Lập Quân, tay em của Bạc Hy Lai, đặc trách
về Công An, mật vụ, tình báo tại Trùng Khánh chạy trốn vào tòa Tổng lãnh
sự Hoa Kỳ ở Trùng Khánh, sau đó được bảo vệ đưa lên Bắc Kinh, lúc này
Hồ Cẩm Đào vẫn là Tổng bí thư.
Tập Cận Bình, sắp lên Tổng bí thư, Hồ Cẩm Đào đương kim Tổng bí thư, Ôn
Gia Bảo, đương kim Thủ tướng, lập thành liên minh, truy tố Bạc Hy Lai.
Ngày 19/3/2012, Bạc Hy Lai bị đưa ra tòa. Sau khi Bạc Hy Lai rớt đài,
Chu Vĩnh Khang, tay chân của Giang Trạch Dân, đặc trách về an ninh, tình
báo và dầu khí, phát động cuộc chính biến, nhưng bị Hồ Cẩm Đào điều
quân trấn áp.
Tháng 9/2012, Tập Cận Bình biến mất trong 2 tuần, theo nhiều nguồn tin
thì trong một cuộc họp Ban Thường vụ Bộ Chính trị họ Tập bị một đồng
nghiệp dùng ghế ném vào ông làm ông bị trật xương sống.
Sau cuộc họp Đới Hà đầu năm 2013, hai lần Chu Vĩnh Khang tìm cách bí mật ám sát Tập Cận Bình, nhưng không thành.
Ngày 30/6/2014, Tập Cận Bình mở Hội nghị Cục Chính trị, tuyên bố khai
trừ Từ Tài Hậu, nhân vật thứ nhì trong quân đội, ra khỏi Đảng cộng sản
Trung cộng. Ngày 29/7/2014, Đảng Cộng sản Trung cộng tuyên bố án điều
tra Chu Vĩnh Khang.
Gần đây nhất, ở Bắc Kinh, có nhiều tin đồn về đảo chánh, do Phạm Trường
Long, Phó Quân Ủy thứ nhất, cùng Phòng Phong Huy, Tham mưu trưởng, nhưng
nhiều người nói đứng đằng sau là Quách Bá Hùng, nguyên Phó Quân Ủy. Có
người còn nói thêm là có dính dáng với Trường Vạn Toàn, đương kim Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng.
Ngày 1/8/2014 có một cuộc họp mặt quân đội, cũng đồng thời là lễ sinh
nhật của Quách Bá Hùng, được 87 tuổi, Tập Cận Bình, đương kim Tổng bí
thư, và Lý Khắc Cường, đương kim Thủ tướng, có tới tham dự, nhưng ra về
rất sớm. Theo như nhiều nguồn tin từ cuộc họp mặt đưa ra thì một số cựu
Ủy viên, cũng như một số tân Ủy viên trong quân Ủy hội đã họp và bàn bạc
rất lâu, sau đó còn rời đi họp chỗ khác. Từ đó có người cho rằng họp để
bàn tính việc đảo chính. Việc này không thể tiên đoán cưỡng ép được. Vì
dù sao cũng chỉ là tin đồn. Việc chắc chắn là đang có một cuộc tranh
quyền khốc liệt ở Trung cộng, một cuộc đấu tranh quyền lực sống còn,
kiểu: "Anh sống thì tôi chết. Tôi sống thì Anh chết" giữa họ Giang và họ
Tập.
III) Nguyên nhân:
- Nguyên nhân sâu xa từ chế độ quân chủ phong kiến Tàu mà chế độ
cộng sản hiện nay chỉ là sự kéo dài, là mặt trái của chế độ này.
Một nhà tư tưởng kiêm sử gia đã viết: "Lịch sử Tàu là một chuỗi dài đấu tranh quyền lực, chiếm đất và thôn tính các quốc gia khác. "
Thật vậy nhìn vào lịch sử dòng dài của Tàu, lấy một vài thời đại tiêu biểu, trong hạn hẹp của bài này:
Thời Xuân thu - Chiến quốc (722-256, trước Tây Lịch), đây
là một thời huy hoàng về tư tưởng, văn hóa, triết lý của Tàu với Lão tử,
Khổng tử, Tôn tử, Bách gia chư tử, nhưng đây cũng là một thời đại của
sự tranh quyền, cướp nước, thôn tính lẫn nhau lên đến cao độ.
Thời nhà Đường (618-907), một triều đại to lớn của lịch sử
Tàu. Người lập ra nhà Đường là Lý Uyên, nhưng trong đó phải kể đến Lý
thế Dân, người được coi là một đại Hoàng đế của Tàu. Cũng vì tranh
quyền, cướp nước, ông đã phải giết 2 người anh em của ông là Lý kiến
Thành và Lý nguyên Các, ép bố ông là Lý Uyên thoái vị, lên làm Thái
thượng hoàng. Sau đó chính các con ông đã cũng vì tranh giành quyền lực,
làm cuộc đảo chính ông, nhưng không thành. Cũng dưới thời nhà Đường với
nhân vật nổi tiếng mà người Tàu ai cũng biết là Võ tắc Thiên (625-705),
người đàn bà đầu tiên và duy nhất lên làm vua nước Tàu. Bà được Lý thế
Dân tuyển vào làm tài nhân lúc mới 14 tuổi.
Trước khi Lý thế Dân chết,
bà đã tằng tịu với con trai út của Lý thế Dân là Lý Trị. Sau khi Lý thế
Dân chết, bà phải đi vào tu ở chùa Cảm Nghiệp và Lý Trị lên ngôi. Chỉ
một thời gian ngắn bà được Lý Trị đưa về làm cung phi, sau lên quí phi.
Vì muốn giành ngôi hoàng hậu, bà đã không ngần ngại giết chết con gái sơ
sinh của mình và đổ tội cho hoàng hậu, sau đó bà này bị Lý Trị truất
phế, đưa bà lên ngôi hoàng hậu. Từ khi Lý Trị bị bệnh thong manh (không
nhìn rõ), bà lên ngôi nhiếp chính bán chính thức, rồi nhiếp chính chính
thức sau khi ông chết. Trong thời gian nhiếp chính, bà đã nhiều lần đưa
con của mình lên ngôi vua, rồi lại truất phế, đến nỗi bà ép một người
con của bà là Lý Hiền phải treo cổ tự tử chết. Sau đó bà chính thức lên
làm vua.
Trở về thời đại gần chúng ta hơn là triều đại nhà Thanh (1644-1911)
trước thời Dân quốc và Cộng sản hiện nay. Đây cũng là một triều đại lớn
của Tàu, với những ông vua giỏi và cầm quyền lâu như Khang Hi, cầm quyền
từ năm 1662 đến 1722, Càn Long từ năm 1735 đến 1795.
Chỉ lấy thời Khang Hi, ông có 9 con trai. Chín người này, mặc dầu là anh
em, nhưng đã tranh giành ngôi Thái tử, đến nỗi đầu độc lẫn nhau, rồi
giết chết nhau. Ngày xưa người ta gọi 9 người con của Khang Hi là 9 con
rồng tranh ngôi (Cửu long tranh ngôi); ngày hôm nay, người ta gọi những
người trong Bộ Chính trị là những con hổ tranh quyền thì cũng vậy.
Cuộc tranh giành quyền lực giữa những con hổ đang diễn ra ở Trung cộng,
không những nó mang tất cả tính chất khốc liệt của thời quân chủ phong
kiến Tàu, mà nó còn mang tính man dại của cộng sản, vì chủ nghĩa cộng
sản, bắt đầu từ Marx, cho rằng con người sinh ra là từ con vật, thêm vào
đó lại chủ trương phá hủy mọi hàng rào đạo đức, không còn cái gì là
liêm sỉ. Chúng ta cứ lấy cuộc thanh trừng của Tập cận Bình hiện nay thì
rõ. Hô hào chống tham nhũng, nhưng bắt đầu từ Tập cận Bình cho tới một
anh cộng sản nhỏ, ai mà không tham nhũng. Điều này, dân Tàu biết rất rõ.
Khổng Tử ngày xưa có nói: "Nhân vô liêm sỉ hà như vật dã." (Người không có liêm sỉ chỉ là con vật).
Miệng hô hào chống tham nhũng, nhưng chính mình tham nhũng. Thử hỏi liêm sỉ để ở đâu?
- Nguyên nhân từ chủ nghĩa cộng sản đã biến người cộng sản, nhất là giới lãnh đạo thành "Quỷ nhập tràng."
Ông Lê Xuân Tá, cựu Phó Trưởng Ban Khoa học và Kỹ thuật đảng Cộng sản Việt Nam, từ bỏ đảng, có viết: "Sự
ngu dốt và sự thấp hèn tự nó không đáng trách. Nhưng sự ngu dốt và thấp
hèn mà được trao quyền lực, và được cấy vào vi trùng ghen tị, thì nó
trở thành quỷ nhập tràng. Và con quỉ này nó ý thức rất sớm và rất rõ
rằng cái đe dọa quyền và lợi của nó chính là sự hiểu biết, văn hóa và
văn minh; nên nó đã đánh những thứ này một cách tàn bạo, vô nhân đạo và
không thương tiếc. Cách mạnh Hồng vệ binh ở bên Tàu là thế; vụ Nhân văn
giai phẩm ở Việt Nam là vậy. Nhưng vì nó là ngu dốt và thấp hèn, nên
những thứ này lâu ngày đã trở nên sỏi thận, sỏi mật, sơ gan, cổ chướng
trong lục phủ, ngũ tạng của chế độ, làm cho chế độ này (ý nghĩa chỉ chế độ cộng sản - Lời chú thích của tác giả bài này) không ai đánh mà tự chết. "
Còn ông Yakolek, cựu Ủy vên Bộ Chính trị, cựu Cố vấn của Gorbatchev, cũng có viết: "Giới
lãnh đạo cộng sản là một loài sâu bọ, con mới đẻ nằm lên xác con già,
con già đè lên xác con trẻ. Nhưng trong đó có một con khỏe nhất, leo lên
chỗ cao nhất. Tuy nhiên để được địa vị này, thì nó phải giẵm lên xác
không biết bao con khác."
Thật vậy bắt đầu ngay từ Lénine, mặc dầu xuất thân trong một gia đình
trung lưu khá giả, có học đến cử nhân luật, nhưng đây là con người mang
nhiều ý nghĩ, tư tưởng hận thù, không độ lượng, nhất là sau khi cái chết
của người anh vì chống lại chính quyền Nga hoàng đương thời. Ông hoạt
động chính trị, đi theo phong trào cộng sản, bị trục xuất khỏi Nga, sống
lang thang ở Âu châu, hoạt động trong Đệ Nhị quốc tế cộng sản. Tuy
nhiên ông không phải là người sáng chói trong tổ chức này, trước ông còn
có Kautski, Rosa Luxemboug v.v... Ngay ở trong nước, những người hoạt
động trong Đệ Nhị Quốc tế Cộng sản, lập ra đảng Xã hội, Dân chủ, Thợ
thuyền Nga giỏi hơn ông nhiều, chẳng hạn như Plékhanov, Axelrod và ngay
cả Trotski. Tuy nhiên thời cơ lúc đó là gần chấm dứt Đại Chiến Thứ Nhất
(1914 -1918), nước Đức đang phải đương đầu với 2 mặt trận: Đông bắc với
chính quyền Nga Hoàng Nicolas 2, Tây nam với Pháp. Bộ tham mưu Đức muốn
dồn nỗ lực vào mặt trận phía Tây nam.
Lợi dụng thời cơ, lúc đó đang ở
Thụy sĩ, Lénine tuyên bố « Hòa bình bằng bất cứ giá nào. Trả đất cho dân
và ngay cả nhượng đất để có quyền. » Chính vì vậy mà Bộ Tham mưu Đức đã
đưa ông về trong một toa xe lửa bọc sắt, bên trong có cả những người
công an, tình báo Đức, nói tiếng Nga rất giỏi. Với sự giúp đỡ của Đức
ông đã cướp được chính quyền. Cướp được quyền, mang sẵn trong đầu lý
thuyết của Marx, chủ trương bạo động lịch sử, đấu tranh giai cấp, đây là
"Vi trùng ghen tị" mà ông Lê xuân Tá nói, Lénine đã áp dụng lý thuyết của Marx và đã "Trở thành quỷ nhập tràng" là
vậy. Một con quỉ khác con người ở chỗ là đối với nó trên không có Trời,
dưới không có đất, không xem đạo đức, lễ nghĩa ra gì cả, làm bất cứ
việc gì để thành công, trong đó có việc nói dối, lừa đảo và giết người.
Những người lãnh đạo cộng sản sau này, từ Mao, Đặng, Hồ, Lê Duẫn và con
cháu cũng chỉ là quỉ nhập tràng, vì được Lénine, Staline lượm về trao
quyền lực, lợi dụng tình thế sau Đệ Nhị Thế Chiến, rồi cấy vào vi trùng
ghen tị là lý thuyết Mác Lê. Thế rồi cha dạy con, con dạy cháu cho tới
ngày hôm nay.
Vấn đề nói dối, thông tin tuyên truyền sai sự thật, lừa đảo dân đã trở
thành quốc sách của chính quyền từ thời Lénine, được tăng cường bởi
Staline và được tiếp nối bởi những giới lãnh đạo cộng sản sau này.
Theo như nhà kinh tế Nga, ông Girsh Itsykovich Khanin, kinh tế Nga từ
năm 1928 tới năm 1985, tổng sản lượng quốc gia không tăng trưởng 84 lần
như những con số chính thức của chính quyền, mà chỉ tăng trưởng gấp 6,6
lần. Như từ năm 1928 tới năm 1940, theo con số của nhà nước thì tăng
trưởng là 13,9%, thực tế chỉ là 3,2% ; từ năm 1980 tới 1985, theo con số
nhà nước thì tăng trưởng 3,5%, thực tế chỉ là 0,6%. (Theo báo Capital -
Hors série - Juin, Juillet 2014).
Theo như Abraham Lincoln: "Người ta có thể nói dối một hai lần, nhưng
người ta không thể nói dối mãi. Người ta có thể lừa đảo một hai người,
nhưng người ta không thể lừa đảo cả một dân tộc."
Sự thật sớm muộn sẽ được phơi bày.
Sự thật nước Tàu của Tập Cận Bình hiện nay là kinh tế càng ngày càng trở
nên khó khăn, mức tăng trưởng không phải ở 2 con số nữa, trong khi đó
nạn tham nhũng, hối lộ không dẹp nổi như nhiều chính quyền vừa qua hứa,
mà càng ngày càng tăng. Hối lộ tham nhũng nặng nề nhất là trong đảng
cộng sản, vì là độc đảng và lại nắm chính quyền.
Chính vì vậy mà ngay Tập Cận Bình có lúc đã tuyên bố: "Đảng cộng sản Trung cộng là nơi chứa những thành phần thối tha nhất của xã hội."
IV) Tiên đoán hậu quả sự việc
Phải chăng Tập Cận Bình đang mắc vào một cái sai lầm to lớn như
Gorbatchev trước đây, đó là cố cải cách một chế độ không thể cải cách
được, rồi đi đến hậu quả là làm chế độ sụp đổ?
Có thể như vậy, đầu năm 2014, qua chỉ thị của họ Tập, Ban Tư tưởng, Ý
thức hệ của Đảng đã ra lệnh cho các đảng viên, nhất là những người cao
cấp, phải đọc và học hỏi Tocqueville (1805-1859), vào thời sau Cách mạng
Pháp 1789, với hai quyển sách nổi tiếng, quyển đầu là "De la Démocratie en Amérique"
(Về Vấn đề Dân chủ ở châu Mỹ), được giới trí thức Mỹ ngay cho tới ngày
hôm nay, vẫn cho rằng đây là một trong những quyển sách quan trọng nhất
nói về dân chủ, văn hóa và văn minh Hoa kỳ; quyển sách thứ nhì mang tên "L’Ancien Régime et la Révolution" (Chế độ cũ và Cách mạng). Đây là quyển sách mà Đảng Cộng sản Tàu yêu cầu đảng viên nghiên cứu học tập vì trong đó có câu: "Thời gian nguy hiểm nhất cho một chế độ, đó là lúc mà chế độ này bắt đầu cải cách." Theo như Tocqueville thì Chế độ cũ của Pháp, thời vua Louïs XVI (L’Ancien Régime) đã sụp đổ vì chế độ này bắt đầu cải cách.
Tập cận Bình, Đảng Cộng sản Tàu, muốn học hỏi thời Cách mạng Pháp và
nhất là thời cải cách của Gorbatchev, để rút tỉa kinh nghiệm.
Tuy nhiên ý thức được, nhìn được sự nguy hiểm, nhưng tránh được hay
không lại là một chuyện khác. Chẳng khác nào như ai cũng muốn thành
công, ai cũng muốn trở nên giàu có, nhưng giàu có hay thành công được
hay không, lại là một việc.
Trong lịch sử, từ cổ chí kim, biết bao chế độ, triều đại, đế quốc đã sụp đổ!
Những chế độ, những triều đại, đế quốc này sụp đổ, không có nghĩa là họ
không nhìn thấy những nguy cơ đe dọa mình nhưng nhiều khi vì quá trễ,
hay mắc vào những "Tất yếu lịch sử" không thể đi ngược lại, càng đi
ngược lại, càng đâm đầu vào chỗ chết, đó là những chế độ dựa trên một
nền tảng triết lý, đạo đức sai lầm, đi ngược lại lòng dân, đi trái chiều
tiến bộ của lịch sử nhân loại. Chẳng khác nào như một căn nhà, khi nền
móng đã ọp ẹp, những cột chính đã mục nát, thì càng sửa đổi càng làm cho
căn nhà chóng sụp đổ.
Căn nhà Trung cộng, dựa trên nền tảng triết lý sai lầm, đó là lý thuyết
Mác Lê, đã được thử nghiệm 70 năm nay, nhưng đã thất bại; những cột trụ
chính là những cựu hay đương kim Ủy viên Bộ Chính trị, ai cũng tham
nhũng, hối lộ. Chống tham nhũng hối lộ nhiều khi lại là chống lại chính
mình, đó là cái bình phong bên ngoài để che giấu sự đấm đá, tranh quyền
nội bộ.
Đây là một trong những viễn tượng hậu quả của cuộc thanh trừng đang tiến
hành của Tập Cận Bình. Đấy là chưa nói đến trường hợp tồi tệ: 19 con hổ
già, cựu Ủy viên Bộ Chính trị, liên kết với một vài con hổ mới, đương
kim Ủy viên, bao vây con hổ Tập cận Bình, bị coi là con hổ lạc đàn,
nhưng lại tìm cách khống chế chúng, bằng cách ám sát một lần nữa, đảo
chính một lần nữa; vì có những tin đồn, nhưng không phải là không đáng
tin cậy, theo đó, Giang Trạch Dân đứng sau Chu Vĩnh Khang và Bạc Hy Lai,
đã làm đảo chính hụt cũng như nhiều lần ám sát hụt họ Tập.
Nhưng nếu họ Tập thành công, thắng trong cuộc thanh trừng chống tham
nhũng, hối lộ, làm cho chế độ trở nên trong sạch, lấy lại được niềm tin
của dân, chế độ trở nên tự do, dân chủ, đi đúng chiều hướng của văn minh
nhân loại, hội nhập được vào cộng đồng thế giới, thì dù muốn hay không
muốn, Tập Cận Bình sẽ trở thành một vĩ nhân của lịch sử Trung quốc cận
đại.
Suy đi tính lại, khả thế thành công của Tập Cận Bình rất là mong manh.
Có thể đến một lúc nào họ Tập phải ngừng cuộc thanh trừng, thỏa hiệp với
những con hổ già, để được tại vị; mặc dầu họ Tập tuyên bố rất cứng rắn
trong cuộc họp Ban Thường trực Bộ Chính trị, ngày 26/6 vừa qua, theo
tiết lộ của một số nguồn tin bán chính thức, nhưng đáng tin cậy: "Tôi
không màng đến sự sống chết, không màng đến việc tiếng tăm của tôi còn
hay mất, tôi nhất quyết chống tham nhũng, lấy lại lòng tin của dân. "
(1)
Paris ngày 30/08/2014
_________________________________________
PHAN CHÂU THÀNH * DI CHUC CÁO GIÀ
Những điều gian trá của đảng CSVN về cái gọi là “di chúc” của Hồ
Phan Châu Thành (Danlambao) - Mấy hôm nay trên các báo lề đảng rộ lên các bài ca ngợi cái gọi là “di chúc” của Hồ, thấy “chướng” quá nên tôi xin có mấy dòng vạch ra năm điều dối trá chính của CSVN liên quan di chúc Hồ để các bạn cùng góp ý thêm.
Điều gian trá thứ nhất: Sự chứng kiến của Duẩn?
Hồ để lại 3 bản di chúc dở dang viết vào tháng 5 các năm 1965, 1968 và 1969, và CSVN/Lê Duẩn đã chọn công bố bản di chúc 1965 “vì có chứng kiến của đồng chí TBT Lê Duẩn” Tạm
bỏ qua chuyện di chúc sau phải có hiệu lực thay di chúc trước, chúng ta
xem lại sự “chứng kiến” Hồ viết di chúc ngày 15 tháng 5 năm 1965 của
Duẩn có thực không?
Theo tài liệu lưu trữ của CSVN (1), Hồ viết di chúc lần đầu từ 10/5 đến
14/5/1965 rồi ngày 15/5/1965 Hồ đi thăm Trung quốc, như sau:
Trích lịch làm việc viết di chúc năm 1965 của Hồ:
"40 năm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bản Di chúc của Bác viết năm 1965
12:53 | 09/06/2009
(ĐCSVN) - Năm 1965, khi tròn 75 tuổi, Bác Hồ bắt tay vào viết “Tuyệt
đối bí mật” chúc. Lúc này, đồng bào và chiến sĩ cả nước đang sôi nổi thi
đua lập thành tích chúc thọ Bác.
Từ ngày 10 đến ngày 14-5-1965, mỗi ngày Người dành từ một đến hai
tiếng để viết và đã hoàn thành bản thảo Di chúc đầu tiên gồm 3 trang, do
chính Người tự đánh máy, ở cuối đề ngày 15-5-1965.
Ngày 10-5, từ 9h đến 10h sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu thảo tài liệu“Tuyệt đối bí mật” - Di chúc.
Ngày 11-5, từ 5h 45' sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi tiễn đoàn đại
biểu Đảng Cộng sản Italia về nước. Sau đó từ 9h đến 10h, Người viết tiếp
tài liệu “Tuyệt đối bí mật”.
Ngày 12-5, từ 9h đến 10h sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục viết tài liệu“Tuyệt đối bí mật”.
Ngày 13-5, từ 9h đến 10h sáng Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục viết tài liệu“Tuyệt đối bí mật”.
Ngày 14-5, sáng sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Hợp tác xã nông nghiệp Phương Đông (Từ Liêm, Hà Nội).
10h sáng, Người họp Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng bàn về công
tác đào tạo cán bộ. Từ 14h đến 16h, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết phần cuối
tài liệu“Tuyệt đối bí mật”.
18h, Người tiếp các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng đến chúc thọ Người.
Ngày 15-5, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Hà Nội đi thăm Trung Quốc.”
Vậy, Duẩn chứng kiến Hồ viết di chúc ngày 15/5/1965 như CSVN công bố, là khi nào? Ngày 14/5 Hồ đã viết xong và ngày 15/5/1965 thì Hồ “đi thăm Trung Quốc”...
Trong khi đó, chính CSVN nói về việc công bố di chúc của Hồ như sau:
Trích Wikipedia (2), phần về di chúc Hồ:
“Tại cuộc họp bất thường Ban chấp hành Trung ương ngày 3 tháng 9 năm 1969,
theo giới thiệu của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Vũ Kỳ báo cáo với Bộ Chính
trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, từ năm 1965, Hồ
Chí Minh bắt đầu suy nghĩ và viết sẵn một số điều dặn lại cho toàn thể
đảng viên và đồng bào của ông, phòng khi ông qua đời. Hồ Chí Minh dặn Vũ
Kỳ, khi ông mất thì chuyển tài liệu này cho Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.
Ngày 9 tháng 9 năm 1969, tại Lễ truy điệu trọng thể Hồ Chí Minh, một
phần những trang viết trong tài liệu tuyệt đối bí mật đã được những nhà
lãnh đạo cấp cao của Đảng Lao động Việt Nam công bố với tên gọi là "Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh".
Như vậy, ngày 3/9/1969 Lê Duẩn mới nhận được “tài liệu tuyệt mật”
ba bản di chúc của Hồ từ Vũ Kỳ, rồi từ đó Duẩn xào nấu, pha chế ra bản
mà CSVN công bố chính thức ngày 9/9/1969, sau 6 ngày Duẩn “nghiên cứu
sáng tác”, chọn lọc, sửa đổi, cắt xén, lắp ghép... và ký “chứng kiến”
vào phần cuối bản di chúc Hồ viết năm 1965 mà Duẩn chọn...
Duẩn chỉ chứng kiến “sáng tác di chúc Hồ”, của chính mình, và ký nó trước ngày 9/9/1969 nhưng sau ngày 3/9/1969, tức sau khi Hồ chết, thì là Duẩn “chứng kiến” di chúc của Hồ sao?! Sic!
Điều gian trá thứ hai: Sự dối trá về thời gian Hồ chết - Và tại sao?
Hồ chết lúc 10 giờ 47 phút ngày 02/9/1969 nhưng CSVN đã đợi đến 3/9/1969
mới công bố (sau Hội nghị bất thương BCH TƯ ngày 03/9/69), và công bố
rằng Hồ chết lúc 10 giờ 47 phút ngày 03/9/1969. Lý do của sự dối trá
này: vì ngày 2/9 là ngày Quốc khánh VN.
Thế nhưng, 20 năm sau, ngày 19/8/1989, CSVN lại công bố ngày chết thật
của Hồ? Tại sao vậy? Vì còn nhiều sự dối trá khác của CSVN về di chúc
của Hồ mà họ không thể gian dối mãi. Bởi vì dấu diếm một sự gian dối của
những kẻ khác vào năm 1969 (Lê Duẩn và Ban CHTW Khóa III) bằng sự gian
dối khác của kẻ hậu sinh năm 1989 (Ban CH TƯ Khóa VI với Nguyễn Văn
Linh), là việc khó. Nhất là, khi những kẻ hậu sinh của CSVN với BCH TW
Khóa VI 1989 với Linh là TBT mới, đang muốn đưa Duẩn lên giàn thiêu tế
thần cúng Trung Cộng ở Thành Đô 1990...
Kết luận ở đây là, CSVN không bao giờ quan tâm hay áy náy chuyện chúng
có gian dối với dân hay thay đổi sự kiện lịch sử khách quan, mà chúng
chỉ quan tâm việc sử dụng sự kiện cho lợi ích cầm quyền của chúng...
Điều gian trá thứ ba: Sự lựa chọn bản “di chúc cuối cùng” của Hồ
Việc CSVN (cụ thể là Duẩn, sau gần 1 tuần ngâm cứu) đã chọn bản di chúc
năm 1965 của Hồ được Duẩn tủy tiện sửa đổi và thêm bớt bằng vài phần từ
các bản di chúc của Hồ năm 1968 và 1969, và công bố đó là “di chúc cuối
cùng” của Hồ, thể hiện họ bất chấp nguyên tắc cơ bản bất di bất dịch
trong các văn bản di chúc là ước nguyện cuối cùng của “thân chủ” phải là
ước nguyện được di chúc lại. Trong trường hợp của Hồ, đó là toàn bộ nội
dung bản di chúc năm 1969 phải là ưu tiên số 1 để công bố, rồi đến di
chúc năm 1968, đến các sửa đổi bổ sung năm 1967, rồi mới đến di chúc năm
1965 - những phần không được nói lại hay nói đến sau đó...
Tại sao họ làm thế? Chả lẽ họ không biết gì về nguyên tắc “ước nguyện
cuối cùng” của người viết di chúc? Tất nhiên họ biết, nhưng là kẻ thừa
kế Hồ, họ muốn có một bản di chúc thuận lợi nhất cho họ từ Hồ, tiếp tục
giúp họ lừa bịp và dẫn dắt nửa dân tộc Việt bị lừa bịp vào cuộc nội
chiến đẫm máu nhất lịch sử loài người thế kỷ 20, nên họ (mà cụ thể là
Duẩn và Ban CH TW Khóa III) đã nhất trí bỏ qua “ước nguyện cuối cùng”
của Hồ.
Điều gian trá thứ tư: Sự sự sửa đổi thô bạo, tùy tiện, coi thường tác giả vào nội dung di chúc
Luật thừa kế của bất cứ quốc gia nào cũng đều không công nhận một di
chúc bị can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào nội dung, càng không bao
giờ chấp nhận một di chúc bị sửa đổi thô bạo và tùy tiện một cách rất
khinh thường tác giả như di chúc của Hồ bị CSVN thay đổi.
Cái gọi là “di chúc của Hồ” là một văn bản được CSVN xáo nấu, thay đổi,
thêm bớt tùy tiện từ ba bản di chúc của Hồ sau khi Hồ chết, vì mục đích
của CSVN dùng danh hão của Hồ và cơ hội dùng di chúc của Hồ... để tiếp
tục lừa bịp dân đen đưa vào lửa đạn chiến tranh.
Tất nhiên, tôi hay bất kỳ ai đều có thể dành nguyên một hay vài bài viết
cho các chi tiết lừa bịp thô thiển về nội dung cắt xén, sửa đổi, chắp
ghép “tàn bạo” di chúc Hồ bởi Duẩn và Ban CH TƯ CSVN năm đó, để thấy
chúng đã chà đạp thô thiển lên niềm tin ngu muội của dân Việt vào Hồ và
lên chính “lãnh tụ” Hồ của chúng thế nào, nhưng để làm gì?
Điều gian trá thứ năm: Hoàn toàn không thực hiện theo mong muốn của Hồ trong di chúc...
Có rất nhiều điều, hầu như tất cả mọi điều, trong nội dung di chúc của
Hồ đã không được CSVN tôn trọng và thực hiện từ 1969 đến nay, như từ
điều đầu tiên Hồ nói về đảng phải đoàn kết đến điều cuối cùng Hồ nói về
việc riêng muốn được hỏa táng... tất cả đều không được tôn trọng và thực
hiện.
Hay như dân gian thường đùa, di chúc Hồ để lại là câu 9 chữ “Không có gì
quí hơn độc lập tự do” thì sau 45 năm CSVN đã thực hiện được một phần
ba, tức là “không có gì”...
Riêng về điều cuối cùng, tưởng chừng như nhỏ nhoi và linh thiêng của một
con người với mong muốn cuối cùng cho riêng mình của Hồ là được hỏa
táng, với tinh thần nghĩa tử là nghĩa tận của người Việt, thì việc thực
thi tưởng chừng như rất dễ dàng, hợp lý hợp tình hợp lẽ, hợp điều kiện
và văn hóa Việt, hợp cả lòng người nếu biết đó là mong muốn của Hồ, thì
CSVN lại cố tình làm ngược lại bất chấp mọi khó khăn về vật chất nghèo
nàn, kỹ thuật lạc hậu, điều kiện chiến tranh khó khăn của VN, để... ướp
xác Hồ, từ đó.
Lý do: “để đồng bào miền Nam được chiêm ngưỡng Bác”! Không biết 45 năm
qua đã có bao nhiêu “đồng bào miền Nam” ra “chiêm ngưỡng” xác khô dị
dạng của Hồ? Nhưng chi phí mà CSVN đã bỏ ra cho cả một Bộ tư lệnh Lăng
Hồ do một viên tướng phụ trách phụ trách, và cả một “binh chủng” mới
được ra đời từ 1969 là binh chủng “Bộ đội Lăng” để phục vụ xác Hồ (dân
gọi là bộ đội canh “ma” hay bộ đội “ma”...), cùng chi phí xây dựng lăng,
bảo dưỡng lăng, tu bổ, trang điểm... xác Hồ suốt 45 năm qua phải rất là
khủng khiếp... Chắc chắn, đó sẽ là chi phí nuôi một con ma đắt nhất -
ma Hồ, trong lịch sử không chỉ dân Việt mà cả lịch sử loài người?!
Bỗng nhiên có một niềm an ủi xót xa: nhờ có những chi phí khổng lồ đó
suốt gần nửa thế kỷ qua mà dân Việt ta vẫn có cái xác khô đó của Hồ để
làm kiểm nghiệm ADN và xác nhận là Hồ không phải là người Việt - phá nát
niềm tin mong manh của người dân hay cộng sản Việt cuối cùng còn tin Hồ
là người Việt?!
Hay đó là chủ ý của Lê Duẩn và một số trong Ban CHTW đảng CSVN Khóa III?
Chỉ biết, gần đây, báo đảng lại rộ lên mong muốn “thực hiện di chúc”
Hồ, tức mang xác khô Hồ đi hỏa táng, vẫn là vì lý do “lý trấu” là “đáp
ứng lòng mong mỏi của nhân dân ba miền Bắc Trung Nam” - mỗi nơi sẽ được
một nắm... tro Hồ mà thờ cúng...
Có vẻ như, năm 1965-1969 Hồ nhận chỉ thị
(từ Trung cộng, tất nhiên) là phải chết phi tang (tiêu xác), nên đã yêu cầu kiên quyết được hỏa táng, mà CSVN kiên quyết không chịu vì “quá yêu” Hồ. Nay, 45 năm sau, lại vẫn theo lệnh Tàu, CSVN phải tiếp tục hoàn tất việc phi tang (tiêu xác) Hồ - tức là “vì vẫn quá yêu Hồ” thì hãy thực hiện di chúc Hồ là hỏa xác...?
(từ Trung cộng, tất nhiên) là phải chết phi tang (tiêu xác), nên đã yêu cầu kiên quyết được hỏa táng, mà CSVN kiên quyết không chịu vì “quá yêu” Hồ. Nay, 45 năm sau, lại vẫn theo lệnh Tàu, CSVN phải tiếp tục hoàn tất việc phi tang (tiêu xác) Hồ - tức là “vì vẫn quá yêu Hồ” thì hãy thực hiện di chúc Hồ là hỏa xác...?
Chúng ta hãy chờ xem, cuối cùng thì CSVN sẽ làm gì với cái xác Hồ, vì
thực chất đó chính là cái xác khô của chính cái đảng CSVN đó?!
Nếu còn “nó” - ma Hồ, dân ta nước ta còn đau khổ, còn đói nghèo, còn hèn
nhục. Nếu nó được CSVN biến thành ba cái lăng tro khủng ở ba miền đất
nước thì sự nhục nhã, khổ đau, hèn kém của dân Việt nước Việt sẽ còn
tăng gấp ba, gấp mười, gấp vạn!
Nếu “nó” bị dân ta lôi ra trả về quê Tàu nhà nó thì dân ta sẽ/đã thoát
nạn CS và ma Hồ rồi, đất nước ta sẽ sang trang mới - không bị ma Hồ và
quỉ cộng ám hại nữa mà cùng đứng lên đánh đuổi chúng đi, để không còn
bóng dáng CS ma quỉ nào trên đất nước Việt Nam!
EM BỤI * BÁC CÁO
Tâm sự của một... "nguyên" cháu ngoan bác Hồ nhân ngày 2.9
- Trước hết, Em Bụi gửi lời cảm ơn tất cả cô bác, anh chị em còm sĩ đã
dành cho Bụi một tình cảm, một sự ưu ái đặc biệt trong bài "Tôi là một Thành viên Dân Làm Báo".
Bởi trước đó, sau khi viết xong bài, Bụi đã đắn đo mất gần một ngày chỉ
để đưa ra quyết định "gửi bài" hay "không gửi bài" tới BBT. Bụi sợ khi
đọc bài, mọi người sẽ cho là sến, là ngốc xít, hơn nữa Bụi lại mới ngoài
20, đang sống giữa mảnh đất Hà Thành, kinh nghiệm không có nhiều, mọi
suy nghĩ, hiểu biết còn nông cạn, để viết một bài và phân tích sâu sắc
như những tác giả trên Dân Làm Báo thì... thực sự quá khó đối với Bụi.
Nhưng đọc những comment của mọi người, Bụi có một cảm giác ấm áp trong
lòng và được khích lệ rằng "cứ viết tiếp đi, hãy viết những gì mình
nghĩ, mình cho là đúng, đừng xuyên tạc láo khoét như các trang báo của
đảng và nhà nước... là được". Hay như lời khích lệ của một người anh sau
khi đọc bài của Bụi "you see, just write it down!!!"....
Bài viết này ra đời sau cuộc nói chuyện trao đổi về "cụ Hồ" với một
người em mới tốt nghiệp trường Luật, Bụi hay gọi "hắn" là "Luật sư thối"
- một người luôn ủng hộ mọi quyết định của Bụi, tuy nhiên nhiều lần
khuyên Bụi đừng tham gia các hoạt động này nữa, bởi em sợ sẽ mất Bụi, sợ
Bụi phải "ngồi tù"...
Bụi: Em, nếu bây giờ chị nói với em về con người thực của cụ Hồ, nói
không tốt về cụ... em có giận, ghét hay nghỉ chơi với chị không?
Luật sư thối: e không ghét chị, mỗi người đều có một tư tưởng riêng.
Bụi: Nhưng em nghĩ thế nào? điều đó đúng hay sai?
Luật sư thối: Đối với em thì em tin, em tin Bác.
Bụi: Ừm, có khi nào em tìm hiểu và đọc một tài liệu ngoài luồng không?
Luật sư thối: em có, sau những gì chị chia sẻ, em có tìm và đọc hết, nhiều khi em nghĩ...
Bụi: Em nghĩ gì? Chị chưa bao giờ chia sẻ với em quan điểm của chị về "bác".
Luật sư thối: Nếu thật sự có một bên thứ 3... Thôi em không nói
chuyện đó với chị, em sẽ không bao giờ nói chuyện đó, và không bao giờ
có chuyện đó.
Bụi: Why not? Chị muốn nghe tâm sự của một luật sư.
Luật sư thối: Em biết chị có tư tưởng của riêng mình, đó là quyền tự
do dân chủ của mỗi người, em yêu chị vì chị là chị của em. Ngoài ra
những thứ khác không quan trọng.
Bụi: Thế bây giờ chị thử viết một cái gì đó, đại loại về "cụ"... được không hén?
Luật sư thối: Chị viết đi... em sẽ đọc.
...
*
Và Bụi đã viết sau đó. Viết về hành trình "đến và đi" của mình đối với
một người mà từ khi Bụi sinh ra và trưởng thành đã bị gắn sâu vào trong
tâm hồn ngờ nghệch của mình một mỹ từ: "cha già dân tộc".
Thời trẻ trâu và hình tượng cụ Hồ
Cái thời mặc quần luôn có 2 cái "ti vi" (mảnh vá) ở mông, Bụi giống như
bao đứa trẻ khác trong làng, lúc nào cũng phấn đấu có được thật nhiều
điểm 10 để "dâng bác", ráng học thật giỏi thật ngoan để mang trên mình
danh hiệu cháu ngoan "Bác Hồ". Nhưng cuối kỳ có một điều lạ, cái thèng
cùng bàn chuyên gia chôm cục tẩy và bắt nạt Bụi cũng như các nữ trong
lớp... cũng có danh hiệu "cháu ngoan Bác Hồ". Thiệt là bất công. Nhưng
không sao, chắc ai đi học cũng có danh hiệu 'cháu ngoan Bác Hồ'.
Hồi đó, Bụi với đám bạn đâu biết bác Hồ là ai, chỉ biết ảnh, tượng bác
được dán khắp nơi, tới trường có, về nhà cũng có (nhà Bụi thì đặc biệt
hơn, vì là người Công Giáo nên chỉ thờ phượng một Đấng duy nhất là Thiên
Chúa)... rùi đứa nào cũng phải thuộc làu làu 5 điều bác Hồ dạy; người
lớn, cô giáo thì chỉ "bác là chủ tịch Hồ Chí Minh là vị cha già kính yêu
của dân tộc Việt Nam, các con phải yêu kính bác..." Nhiều hôm mấy đứa
chơi trò gia đình, lấy đất nặn nặn bóp bóp, cuối cùng cũng ra 1 hình
'qoái qoái' và gọi là tượng "bác Hồ", chúng nó kêu đặt "trong nhà" cho
đầy đủ tiện nghi.
Lớn lên một chút, Bụi luôn phấn đấu trở thành đoàn viên thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh gương mẫu, rồi bất chợt cũng nhận ra rằng "Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, mặt trời chân lý chói qua tim"
(Từ ấy - Tố Hữu)... Trời ơi, lúc ấy đoàn, đảng, lý tưởng của bác đẹp vô
cùng tận, biết ai đã được kết nạp vô đảng là mắt sáng long lanh đầy
lòng ngưỡng mộ...
Rồi những ngày cấp 3 đi trọ xa nhà, đêm nào cũng nằm nghe radio, tự
nhiên có kênh nào đó nói về công hàm 1958 (lúc ấy không biết nó là cái
gì), điều làm Bụi chú ý là họ dùng cách xưng hô rất lạ, nào là ông Hồ,
ông Đồng, ông Giáp... Ủa, ông Hồ... ông Hồ là ai ta? Phải chăng là bác
Hồ? ừ đúng rùi, vì họ có nhắc tới Hồ Chí Minh, nhưng tại sao họ lại gọi
là ông Hồ? Tại sao họ gọi Hồ Chí Minh mà không phải chủ tịch Hồ Chí
Minh? hay đó là cách gọi 'thân mật'?...
Ngày hôm sau, trong giờ lịch sử, lóc cóc lên hỏi thầy, "ủa thầy, sao
người ta không gọi bác Hồ, hay chủ tịch Hồ Chí Minh mà chỉ gọi ông Hồ,
hay Hồ Chí Minh thầy?". "Em nghe ở đâu vậy? Đó là những tư tưởng phản
động, không được nghe những tư tưởng đó nữa". Phản động?! tự nhiên Bụi
thấy rùng mình, và hơi sợ (ngày đó, trong suy nghĩ non nớt, Bụi tin phản
động là những con người thật sự ghê sợ, và là những thành phần khủng bố
cần phải tránh xa). Bụi stop, không bao giờ nghe lại nữa. BBC, VOA,
RFA... đang sống Bụi cho chúng chuyển sang từ trần. Hình ảnh bác vẫn đẹp
trong em. Bác đang từ trần nhưng vẫn sống mãi trong em!
Lên đại học, những chương trình thiện nguyện của CLB luôn chất chứa hình
ảnh bác ở trong đó, viết thư ngỏ xin tài trợ cũng dẫn 2 câu "yêu
thích":
"Trẻ em như búp trên cành,
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan"...
Nhiều em từ miền núi xuống, Bụi liền dẫn tới thăm lăng Bác; tết Trung
thu, tết Thiếu nhi là lên ngay kế hoạch dẫn những em khuyết tật, em có
hoàn cảnh khó khăn trong nội thành Hà Nội tới thăm lăng bác Hồ...
Như vậy đó, hình ảnh Hồ Chí Minh luôn sống cùng chúng cháu mọi lúc mọi nơi mọi hành động... Những bài hát "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng...", "Ai yêu bác Hồ Chí Minh...", "Bác Hồ người cho em tất cả"...
là chúng em thuộc làu làu, thuộc tới tới mức hay ví von, dù có bị đập
đầu vào tường vẫn có thể ngóc đầu dậy hát hết bài mới chết được. Hay cứ
đến rằm tháng 8, là nghĩ ngay tới câu thơ...
'Trung thu Trăng sáng như gương
Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng".
Yêu nước là yêu đảng hở bác?
Hồi mới tham gia vào bước đi trên con đường phản động, Bụi cứ phơi phới
như gái nhà quê mới lên tỉnh, thấy được những điều lạ lẫm là mang ngay
về làm quà cho những người 365 ngày chỉ biết tiếp cận thông tin từ màn
hình tivi hay trên radio. Đi đâu cũng kể về những hoạt động của mình, kể
về người bạn, người anh mới quen, kể về cảm xúc khi xuống đường biểu
tình hay kể về những vụ án oan, những phiên tòa "bỏ túi" mà Bụi trực
tiếp tham gia...
Có nhiều người lắc đầu nói "việc đó đã có đảng và nhà nước lo", "con bé
này được bố mẹ cho ăn học 4 năm trời rồi về làm phản động, thật không
tin nổi". Bố con bạn thân nhất thì góp ý: "cháu làm gì thì làm chú không
ngăn cản, nhưng tuyệt đối không được nói xấu bác Hồ - vị lãnh tụ vô
cùng kính yêu của dân tộc". Và không riêng gì chú ấy, rất rất nhiều
người đều phán "có thể nói xấu các vị lãnh đạo, nói xấu đảng và nhà nước
nhưng tuyệt đối không được nói xấu bác Hồ". (Từ lúc sinh ra, hầu như
tất cả trẻ con trong làng ngoài việc được tuyên truyền bởi trường lớp,
báo đài thì bố mẹ cũng là người trực tiếp truyền đạt cho văn hóa "yêu
bác hồ".)
Lúc đó thì Bụi chưa hề biết sự thật về ông, nên cứ dạ dạ vâng vâng và
nhe răng cười, nhưng đến một hôm vô tình xem được một video phơi bày sự
thật của Hồ Chí Minh (trái ngược với những gì mình được nghe được kể),
Bụi đã bị... sốc nặng. Phản ứng ban đầu của Bụi (có lẽ giống như bao
nhiêu người khác từng yêu quý bác) là nổi giận, tức tối, ngột ngạt, cảm
giác như chính bản thân mình bị xúc phạm vậy... Nhưng càng đọc, đọc
thêm, đọc thêm nữa, và từ những dẫn chứng, hình ảnh, tài liệu (bằng
tiếng Anh, tiếng Việt) cụ thể đã chinh phục được Bụi. Và Bụi tin, tin
một cách có khoa học, cơ sở, lý luận, dựa vào bằng chứng chứ không mù
quáng, tin Hồ Chí Minh là kẻ buôn dân bán nước, tất cả những gì ghi
trong sách vở về ông tại Việt Nam là một sự bịa đặt, giả dối, nó chỉ
nhằm mục đích xây dựng ông như một vị thánh đã chết nhưng sống mãi trong
lòng dân tộc.
Yêu nước không thể yêu "bác". Yêu "bác" đồng nghĩa với yêu những tội ác
"bác" đã làm. Và điều mà Bụi làm được lúc đó là share những video, những
bài mình đọc được lên FB, tuy nhiên chỉ nhận lại được một cái nhìn
"hình viên đạn", mọi người nhảy vào chửi bới, dọa nạt như thể Bụi là tác
giả của của những bài viết kia vậy. Thấy một chút gì đó tủi thân và
thương cảm, thương cảm cho những người chỉ mù quáng tin vào một sự thật
nhưng không phải là sự thật, thương cho những người đọc nó nhưng lại hất
hủi và không một lần đặt ra câu hỏi "có phải đây mới là sự thật?".
Quay lại những gì chúng ta được biết trong sách lịch sử (cấp 2, cấp 3),
mọi người có thấy điều gì đó kỳ lạ không? Mọi người đã bao giờ đặt ra
câu hỏi trong cuộc CCRĐ (1953-1957), tại sao bác lại "để 200.000
người dân già, trẻ, gái trai phải chết một cách oan uổng đau đớn, nhiều
người thân nhân không được phép chôn cất, xác bị để phơi mưa phơi
nắng..."
Bác vĩ đại, vậy tại sao lại làm một việc thất đức tới không tưởng. Hổ dữ
cũng không ăn thịt con, mà ở đây những 200.000 con của đất Việt. Đặc
biệt sau khi kết thúc cuộc CCRĐ ông còn lớn tiếng khẳng định rằng, CCRĐ là "một thắng lợi vô cùng to lớn" và "có thắng lợi này là nhờ đảng và chính Phủ ta có chính sách đúng đắn"
(Trích trong một lá thư, đề ngày 18/08/1956, gởi đến "đồng bào nông
thôn" nhân dịp CCRĐ căn bản đã hoàn thành). Vậy theo mọi người, thắng
lợi đó là việc giết chết người dân một cách oan uổng, thắng lợi là việc
đưa cả bố mẹ mình ra để đấu tố (Trường Chinh Đặng Xuân Khu), hay thắng
lợi trong việc xử bắn một người phụ nữ (Bà Nguyễn Thị Năm ở Đại Từ -
Thái Nguyên) đã từng che giấu, nuôi dưỡng các lãnh đạo cấp cao trong quá
trình hoạt động bí mật như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn
Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản...
Bác vĩ đại thế sao?...
Hay trong cuộc cách mạng văn hóa chống Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP - nơi
quy tụ những người trí thức can đảm nhất ở miền Bắc lúc bấy giờ
1957-1960), hàng ngàn Trí thức, Nhà Văn, Nhà báo có tư tưởng dân chủ bị
vào tù, nhiều người bị chết trong ngục tối khi họ chỉ muốn hướng tới một
quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật thực sự và mục đích của họ là giúp
cho sự tự do suy nghĩ, tự do trong sáng tác của các văn nghệ sĩ... Điều
họ làm là sai?
Đó chỉ là 2 tội ác điển hình và ghê tởm nhất do ông Hồ Chí Minh đứng
đằng sau chỉ đạo, chưa kể tới những sự thật như, ông là ai? ông đã bán
đứng cụ Phan Bội Châu như thế nào? Trong chiến dịch "chống xét lại" (từ
năm 1963) ông đã bức hại bao nhiêu đảng viên, đồng chí của ông? ông đã
chỉ thị Phạm Văn Đồng ký công hàm 1958 bán nước ra sao? Hay trong chiến
dịch tết Mậu Thân (1968) ông đã có trách nhiệm tàn sát bao nhiêu người
dân thường tại Thành Phố Huế?... Còn nhiều lắm, nhiều lắm, nhưng chúng
ta có bao giờ được biết trọn vẹn sự thật?...
Tất cả những việc ác của ông đã làm băng hoại toàn bộ giá trị văn hóa và
đạo đức dân tộc, "tái bản'"một loạt những con người có "tư tưởng đạo
đức" giống ông và hệ quả thì kéo dài cho mãi tới ngày hôm nay.
Để tiếp nhận những thông tin này và tin vào điều đó thực sự là rất khó,
nhưng tin Bụi đi, hãy một lần đọc và suy ngẫm, hãy một lần đưa lịch sử
trong sách ra mổ xẻ, hãy một một lần đi tìm kiếm sự thật... bạn sẽ được
rất nhiều...
Hãy nghĩ đến những người như Bụi trước đây
Đến đây thì Bụi là nhớ đến con nhỏ bạn luật sư thối. Nó là một người rất
tốt, giàu tình cảm, thương người. Bụi cũng nhớ đến nhiều đứa bạn khác
nữa bi chừ vẫn mê bác như bác mê các cháu nhi đồng. Bụi nhớ lại Bụi của
mới mấy năm về trước, nhớ lại những cảm xúc giận dữ khi đọc những điều
thô tục xúc phạm đến "bác của mình". Nhớ hết để muốn thưa với các bác,
các cô, các chú và các anh chị một điều rất thành thật:
Nếu muốn xóa bỏ "thần tượng" thì nên nghĩ đối tượng nhắm đến là những người như Bụi hôm qua, như con nhỏ luật sư thối ngày hôm nay, những người xem "bác" như là "thần tượng".
Viết làm sao, trình bày như thế nào, thái độ lọc lựa ra sao để cho
những nhỏ bạn của Bụi có thể tò mò đọc tiếp và tìm hiểu xem người ta nói
về "thần tượng" của mình ra sao, thay vì khó chịu quay
đi. Đối tượng của các cô chú không phải là những người đã biết rõ Hồ Chí
Minh là tội đồ dân tộc, để rồi nói, viết cho họ đọc, hay chửi Hồ Chí
Minh cho nhau nghe mà thôi. Cách đó sẽ làm cho con luật sư thối nó bám
cứng vào ông "Bác" của nó mà thôi.
LÃO HỦ * CHUYỆN QUÊ NHÀ
CHUYỆN QUÊ NHÀ
Phe Nguyễn Phú Trọng đã bắt tay với Mỹ
Sau khi tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng cử con gà nòi của
mình là ủy viên bộ
chánh
trị ĐCSVN kiêm bí thư Thành ủy Hà nội Phạm Quang Nghị
sang Mỹ ""tiếp thị""món hàng
đổi mới của Đảng CSVN sau đai hội 12 khi ộng Nghị lên làm Tổng
bí thư là ĐCSVN sẽ đổi mới
theo kiểu Myanmar Đảng CSVNsẽ biến thành quân đội Myanmar và tổng bí
thư Phạm Quang Nghị sẽ thành ông Then Sein,VN sẽ có quốc hội đa nguyên, nhà nước
đa nguyên,
nền chánh
trị đa nguyên,
phía Mỹ
đã cử thượng nghị sĩ J M Cain và đai tướng Tổng tham mưu trưởng liên quân Mỹ Martin Dempsey sang
thăm VN gặp Tổng bí
thư ĐCSVN.Nguyễn Phú Trọng
Sau chuyến thăm VN của các nhân vật Mỹ,thiên hạ đồn Mỹ sẽ bán vũ khí sát thương cho VN đổi lại
VN sẽ cho Mỹ lập căn cứ quân sự ở Đà Nẵng và Cam Ranh như vậy là phe Tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng
đã câu đươc con mồi Mỹ, phe thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
chắc chắn phải có đòn mới để đối phó với tình thế này
Theo tiên
đoán của nhà
văn Chu Tấn và luật
sư Lê Công
Đinh thì Đảng
CSVN phải tự chuyển biến về hướng dân chủ và dân tộc nếuĐảng CSVN không tự chuyển biến thìĐảng CSVN sẽ bị lich sử đào thải.Đảng CSVN tự chuyểnbiến thì bước tiến của lich sử VN sẽ nhanh hơn còn không thì chậm lại,sự níu kéoĐảng CSVN chậm chuyển biến là
một tội ác lich sử, dân tộc VN nhất đinh không thể nào tha thứ.
Chuyện ông Lê Hồng Anh sang Tầu
Võ thi Thắng người tù cộng sảnVN ra tòa án quân sự VNCH dám cười ngạo nghễ tuyên bố một câu xanh rờn""
các ông không còn thời gian để bỏ tù tôi"",ra tù Võ Thị Thắng thành ủy viên trung ương Đảng
CSVN tới hai khóa và làm tới Tổng cục trưởng Tổng Cục du lich VN và từng bị một ông phó chủ nhiệm văn phòng chánh
phủ thời thủ tướng Phan Văn Khải bắt cóc tra tấn bắt phải nhận
là nhân viên tình báo CIA nhưng bà nhất
đinh không nhận rồi bà đươccông an được giải thoát ông này phải ra tòa lãnh
án tù. Chuyện tưởng đến đó là hết
nào ngờ bà Thắngvừa qua đời lúc 8giờ 15 phút sáng 22 tháng 8 năm 2014 vì bệnh ung thư não, nhà văn Đào
Hiếu sau đóđã tiết lộ trên mạng
internet rằng năm 1996 bà từng bị một tổ chức
bí mật tố cáo trước Bộ chính trị ĐCSVN Võ Thị
Thắng là nhân
viên của
tổ chức tình
báo CIA đang hoạt động
tại VN mà không
một nhân vật Bộ Chánh trị Đảng CSVN nào tin nhưng cũng chẳng ai bào chữa cho bàNăm
1999 tổ chức bí mật
này đã cho""sát thủ""
sang Mỹ chờ ám sát bà Thắng khi bà
đươc mời công du Mỹ nhưng may là bà bỏ
chuyến đi Mỹ mà công
du Trung Quôc nào
ngờ khi bà về
VN tổ chức này lại
cho người mai phục đón
xe bà để
bắt cóc bà nhưng không ngờ khi ấy
bà bị lạc va li hành lý chưa ra xe đươc
,xe đi đón
chờ mãi không liên lạc
được với bà đành về không, mấy giờ
sau bà tìm được va li đi tắc
xi để về nhà .Bà Thắng
phải mãi tới khi nghỉ hưu mới hết bị tổ chức bí mật nọ đánh
phá.Điều
đáng chú ý là bà Thắng luôn đươc một
nhân vật dấu tên gọi
điện cho biết trước những gì
tổ chức bí mật kia sắp""chơi"" bà.Theo
chỗ Lão Hủ biết thìcái tổ chức
bí mật'"" chơi"" bà Thắng chính làTổng cục 2 bộ Quốc phòng
do tướng Nguyễn Chí Vịnh chỉ huy và
người phá vụ án bắt cóc bà Thắng là nguyên thượng tướng công
an Nguyễn Khánh Toàn
Sau khi Tòa án tối cao bang Victotia[Úc] ban hành
lệnh kiểm duyệt liên quan
tới vụ án in tiền polymer có nêu
tên một số quan chưc cao cấp nước ngoài trong đó có VN. Việc làm này xúc phạm danh dự cá nhân lãnh đao VN cũng như hình ảnh đất nước VN Bộ ngoại giao VN mời đai sứ Úc ở
VN tới yêu cầu Úc giải thích nghiêm chỉnh lệnh kiểm duyệt này và công khai khách quan về vụ án để mọi người hiểu sự thật
TTXVA một thông tấn xã vỉa hè trên mạng internet vừa tố
nhà báo con nhà
cộng sản nòi Phạm
Chi Dũng người từng là
nhân viên ban
An ninh Nội chính Thành ủy Đảng CSVN TPHCM và thư ký riêng
cho ông TrươngTấn Sang khi ông Sang là
thường trưc ban bí thư là ""công an nằm vùng""trong lưc lương dân chủ ở VN. Sự tố cáo của TTXVAlàm
Lão Hủ liên hệ
ngay tới chuyện ông Uyên
Thao giám đốc nhà xuất bản Tiếng Quê Hương ở Mỹ vừa xuất bản một cuốn sách của
Phạm Chi Dũng ở Mỹ. Tại nước Mỹ in sách tiếng Việt phải có tài trợ, ông
Uyên Thao nổi tiếng là ngươi in sách ở Mỹ nhận tài trợ từ
nguồn an ninh văn hóa VN.
Theo tiết lộ của nhà văn Toàn Phong Nguyễn xuân Vinh thì hai cuốn sách
ảnh hương tới cả đời ông đó
là cuốn Tâm hồn Cao Thương bản dich một cuốn sách của tác
gia ngươi Ý tên Ed
mondo Amicis của nhà giáo Hà
Mai Anh và cuốn truyện ngắn Hoa Vông Vang của nhà văn Đỗ Tốn. Điều đáng chú ý là Toàn
Phong Nguyễn Xuân Vinh từng đoạt giải thương văn chương toàn quốc dươi chế độ đệ nhất Cộng Hòa.
Đèn
cù là
tự truyện của Trần Đĩnh [tác giả lại cọi là truyện tôi]đươc báo Người Việt xuất bản ở Mỹ .Theo nhà báoNgô
Nhân Dụng cây bút trụ
cột của báo Người
Việt thì Trần
Đĩnhlà một cây
bút do Trường
Chinh đào tạo
ra từng là cây bút chủ chốt của báo Sự Thật[tiền thân của báo Nhân Dân]Điều ly kỳ là Đèn
Cù đề cập toàn chuyện thâm cung bí sử của các
lãnh tụ ĐCSVN nhất là nhân
vật Hồ Chí Minh
.Theo Trần Đĩnh Hồ Chí Minh là một ông Tầu già rất đa dâm ngày nào cũng phải có gái cho ông già này.Hồ Chí Minh nói giỏi
tiếng Hẹ [Khách gia]và sống sinh hoạt ăn uống theo kiểu
ngươi Hẹ[đúng như Hồ Tuấn Hùng viết trong cuốn Hồ Chí Mnh sinh bình khảo Hồ chí Minh là một điệp
viên của Cục Tình Báo Hoa Nam và là một ngươi Trung Quôc thuộc dân tộc Hẹ].
Sau 45 qua đời mãi tới năm nay Đảng CSVN mới tổ chức cúng giỗ Hồ Chí
Minh tại hai nơi là Phủ
chủ tịch[dinh toàn quyền cũ ở Hà
nội]và Cao Bằng.Tai
Hà nội người ta thấy Trương Tấn Sang chủ tịch nước,Nguyễn
Tấn Dũng,Thủ tướng chánh phủ ,Nguyễn Sinh Hùng chủ tịch Quốc Hộivà Trần đai Quang tới thắp
nhang cúng giỗ, tại Cao Bằng người ta thấy Lê Thanh Hải bí thư thành ủy
TPHCM tơi thắp nhang khấn vái tuyệt nhiên không thấy bóng ngài Tổng
bí thư ĐCSVNNguyễn
Phú Trọng đi cúng giỗ Hồ chí Minh.
Theo nhà
báo Phan Châu Thành viết trên báo
điện tử Dân Làm Báo thì
năm 1955 Trần Đăng Ninh là
nhân vật đứng hàng thứ
hai trong Quân ủy trung ươngViệt Cộng người thứ nhất là Võ Nguyên Gíáp
,người thư hai là Trần
Đăng Ninh,người thư ba là
Nguyễn Chí Thanh
nhưng vì Trần
Đăng Ninh biết Hồ Chí Minh
là người Tầu nhân viên cục tình báo Hoa Nam nên Hồ chí Minh đã quyết đinh giết Trần Đăng Ninh băng độc dược thế là Trần
Đăng Ninh chết và được truy điệu rồi đươc đặt tên đường ở Hà nội.
Sau khi liên
đoàn luật sư VN có văn
thư phản đối thông tư số 28 ngày
7 tháng 7
năm 2014 của bộ công an""Qui định về công tác điều tra hìnbh
sự trong Công An Nhân Dân"" nâng cao vai trò của điều tra viên ,hạ thấp vai trò của luật sư,đoàn luật sư Hà nội liền tổ chưc hội thảo về thông tư 28 tại hội
trương Viện Hàn Lâm
Khoa Học Xã Hội vào ngày 16 tháng
8.Đoàn luật sư Hà nội
đang tiến hành tổ chưc hội thảo thì bất ngờ chiều 15 tháng 8 nhận đươc điện thoại
của chánh văn phòng Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội cho biết Viện phải chấp nhận đề nghị của công an không
cho thuê hội trường để tổ chức hội thảo về thông tư 28 được.Viện sẽ bồi thường thiệt
hại cho Đoàn luật sư Hà nội mong Đoàn luật sư Hà nội thông cảm.
Ông Trương Vĩnh Trọng là một trong những ủy viên bộ chánhtri
thuộc loại trong sáng
dám nghĩ dám làm dám chống tham nhũng
nhưng tới đai hội 11 bị yêu cầu rút lui .Trước khi Trương Vĩnh Trọng nghỉ bộ chánh trị thì tướng Tư Bốn[trung
tướng Nguyễn Việt Thành
ngươi cầm đấu phá án Năm Cam cũng bị cho về hưu.Mới đây tường Tư Bốn cho báo chí biết có khả năng ông sẽ bị
ra tòa về
vụ đánh án NămCam tại Bình Dương và ông mới thăm nguyên ủy viên bộ chánh trị Trương Vĩnh Trọng
được biết ông Trọng có năm khối
Trang mạng Gió O
của Lê Thị
Huệ vừa đăng bài của
tác giả Trịnh BìnhAn đoc truyện ngắn
Măc Đỗ khá thú vị,Lão Hủ xin tóm lược để quí
độc gia yêu văn chương tỏ tường
Hiện nay trong thế giới những người VN viết văn bằng tiếng Anh nổi lên mấy nhân vật
như Phùng Lý Lê[Hayslip] Nguyễn Phan Quế Mai và Cao Lan,Lữ Thị Anh Thư hai ngươi trên là phụ
nữ Việt lấy chồng ngừoi Mỹ mà dân gian gọi là me Mỹ,hai ngươi dưới một là con gái
đại tướng QLVNCH Cao Văn Viên,một là con gái trung tướngQLVNCH Lữ
Lan.Hai ngươi trên nổi nhất là Hay slip Phùng
Lý Lệ học chưa hết trung học nhưng truyện của bà
từng được đao diễn lừng danh Hollywood
Olive Stone đưa lên phim ảnhcòn Nguyễn Phan Quế Mai học cao hơn nhưng viết kém hơn tuy nhiên lại giỏi nịnh Việt Cộng.Hai con nhà tướng thì Cao Lan đã trở thành nhà văn viết tiếng Anh có sách bán chạy còn Lữ Anh Thư thì vẫn nhì nhằng.
Hai nhà báo Trầm ngư và Nhị độ trong bài Mùi người tình đăng trênANTG cuối tháng 8 có một đoạn văn chương
Tầu khá thú vị Lão Hũ xin trích đăng lại nguyên văn""Văn học Trung
Hoa thời hiện đai có một đoan tả mùi
của người tình khá đăc biệt trong tác phẩm nổi tiếng Phế Đô của Gỉa Bình Ảo.Tả cảnh ái ân của Trang
Chí Diệp[nhân vật chính]
với người tình A Xán ở chương 18 tác giả viết
""A Xán kéo anh xuống anh ngửi
chỉ thấy một mùi thơm lạ lùng.A Xán nói :người em thơm đấy.Mục Gỉa Nhân đã từng bảo thế,thằng
nhóc con em cũng nói
như vậy,anh ngửi ở dưới thì biết chỗ ấy mới
thơm.Trang Chí Diệp phủ phục xuống quả nhiên có một luồng khí thơm bốc lên nóng hổi liền cảm thấy mình
như ở trong sương mù""
Con trai lớn của cố tổng thống VNCH Trần Văn Hương tên Trần Văn Dõi vốn là một Thanh Niên Tiền Phong năm 1946 lẻn lên tầu Pasteur ra Bắc với mục đích tìm
vũ khí
cho miền Nam nhưng tới Hà nội thì lại
đúng dịp""toàn
quốc kháng chiến""ông Dõi xung vào đội tư vệ thành ở Việt Nam Học Xá rồi vào
""đội quyết tử cho tổ quốc quyết sinh'"".Khi chiến dịch Điện
Biên
Phủ xẩy ra ông dõi được cử làm lãnh đao binh đoàn tiếp vận cùng với Trần Đăng Ninh.Sau Điện Biên Phủ ông Dõi bị bỏ rơi,ông Dõi chính là ngươi ma chay cho cố
tống thống VNCH Trần Văn Hươngvà cả cuộc đời ông Dõi
là quả chanh vắt hết nươc bị quăng đi.Ly kỳ là báo Tuổi Trẻ đã trích đăng một phần nhật ký của ông Dõi.
Ông Lê Hồng
Anh ủy viên bộ
chánh
trị thường trực Ban bí thư Đảng CSVN vừa đươc Tổng bí thư Đảng CSVN Nguyễn
Phú Trọng
cử làm
đăc phái
viên
sang Tầu""nói chuyện "" với Đảng CSTQ.Như mọi ngươi đã biết ông Anh vốn là cánh tay phải của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,ông Anh sang Tầu nói chuyện với Đảng
CSTQ tuy là
đăc phái
viên của
Tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng, nhưng cũng là ngươi thân cận của Thủ Tướng Dũng mà lập trường của Thủ Tương Dũng là quyết liệt chống Tầu nên
ông Anh dù gặp Tổng bí thư Đảng CSTQ nhưng
chắc chắn cũng chẳng làm cho tình hình bang giao VNTQ khả quan gì
vì lập trường của thủ tướng Dũng là quyết đòi Trung Quốc phải trả
VN quần đảo Hoàng Sa
Theo tin của trang mạng Cầu
Nhật Tân thì sau chuyến đi thăm Trung Quốc của ông Lê Hồng Anh có thể có một thỏa hiệp Thành
Đô 2 Thành Đô 1 VN thành khu tự trị của
Trung Quôc từ 2020 Thành Đồ2 chưa biết VN sẽ
thê thảm thế n ào.
Gíao
sư Tương Lai bắt giò chủ tịch nướcTrươngTấn Sang
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
có viết một bài báo trên tạp chí Cộng Sản về chuyện kỷ niệm 45 năm công bố di chúc Hồ chí Minh trong đó có một đoan trích một câu trong hịch tướng sĩ của Hưng Đao Đai Vương
Trần Quôc Tuấn đó là câu ""rút củi đáy nồi"" để nói
về thủ đoan chánh
trị ""đu giây"".Theo giáo
sư Tương Lai chủ tịch nước Trương Tân Sang đã dẫn sai ý của Hưng Đạo Đai Vương
Trần Quốc Tuần vì rút củi đáy nồi và thủ đoan chánh trị đu giây hoàn toàn khác
nhau
Ông Nguyễn Trung chơi trò lạ
Ông Nguyễn Trung người từng chấp bút viết thư cho cố thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi những lá thư nổi tiếng cho Bộ Chánh
trị Đảng CSVN và cũng từng là đai sứ VN tại Thái Lan vừa viết một loạt bài
về đai hội lần thư 12 của ĐCSVN,ông đề nghị thay vì
Đảng thành
lập ban trù bị đai hội Đảng nên
thành lập ban ad học chỉ với ba thành viên là phó thủ tướng Vũ Đức Đam
phó thủ tướng Phạm Bình
Minh và
bộ trưởng kế hoạch đấu tư.Bùi Quang Vinh Banadhọc
với nhiệm vụ soạn thảo các văn kiện đai hội Đảng
12 như
1-
Dự án cải cách thể chế chánh trị
2-
Dự án hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
3-
Dự án cải tổ ĐCSVNthành
chính đảng dân tộc và
dân chủ
Những đề nghị của ông Nguyễn
Trung khá
hay nhưng chắc chắn chẳng đời nào Bộ Chánh
TrịĐCSVN chịu chấp nhận và đai hội 12 ĐCSVN' sẽ
lại""vũ như cẫn""thôi Lúc
này thiên hạ nghĩ có thể một nhân vật trong bộ Chánh
TriĐCSVN sẽ làm một cái gì đó,để ""tự
chuyển hóa""ĐCSVN,lúc
đó có`` thể những đề nghị
của ông Nguyễn Trung sẽ đươc áp dụng.
Võ thị Thắng đã về cõi vĩnh
hăng
Điều đáng chú ý nhà văn Đào Hiếu là em rể luât sư Trần
Quốc Thuận mà
luật sư Thuận nguyên phó chủ nhiệm văn phòng quốc hội đã nghỉ hưu chính
là chồng bàVõ Thị Thắng.
VN la hoảng gì đây
Đươc biết các nhân vật VN đươc nêu tên trong bài kiểm duyệt là nguyên tổng
bí thư Đảng
CSVN Nông Đưc Mạnh,nguyên thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước
VN Lê Đưc Thúy và đương kim thủ tương VN Nguyễn Tấn Dũng
Tòa
đai sứ Úc đã trả lờibộ ngoại giao VN một
cách khá nghiêm
chỉnh rằng tòa tối
cao bang Victoria[Úc] ban hành lệnh kiểm duyệt liên quan tới vụ án in tiền
polymer có nêu tên một số quan chức nước
ngoài trong đó có VN vì cuộc điều tra của tòa chưa có kết quả cuối cùng ,tòa muốn
bảo vệ những người liên quan nên kiểm
duyệt chứ không có ý gì khác. VN làm om sòm vụ này chắc chắn nội bộ đang có vấn đề
đâu đá ở cấp cao.
Làm gì có mà tìm
Đài phát thanh Áchâu tự do [RFA]ngày 24
tháng 8 vừa rồi dẫn theo Thời báo Kinh
tế Saigon thì ông Bùi Quang Vinh bộ trưởng Bộ Kế Hoạch Đầu Tư mới tuyên bố một câu được coi
làcâu nói vàng trời''Chúng ta cứ nghiên cứu mãi mô hình Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà có tìm ra đâu,vì sự thật làm gì có thứ đó mà tìm""
Nhà báo Phạm chí Dũng bị TTXVA ""tố''
Nhà văn Toàn phong Nguyễn xuân Vinh và cuốn sách ảnh hưỏng cả đời.
Đèn cù
Đám giỗ Hồ chí Minh
Hồ chí Minh giết Trần Đăng Ninh
Đoàn luật sư Hà nội tổ chức hội thảo về thông tư 28 bị ngăn cản
Đài truyền hình ANTV tuyên dương Đảng Đai Việt Duy Dân
Đài truyền hình ANTV cơ quan ngôn luận của bộ Công An VN trong buổi phát hình chiều
18 tháng 8 năm 2014 đã nói về cuộc khởi nghĩa ngày 18 tháng 8 năm 1960do các chiến sĩ Đảng Đai Việt
Duy Dân phát động ở hai tỉnh Nam Định và Thái Bình mà công An Việt Cộng đã đàn áp khiến cả trăm người hi sinh cả ngàn người bị bắt.
Trương Vĩnh Trọng ung thư gan
u trong gan đang điều trị bệnh
ung thư gan ở giai đoan cuối.
Trưởng ban nội chính trung ương nhiễm xạ
Theo tin trên Internet và được con trai ông
Nguyễn Bá Thanh xác nhận thì ông
Nguyễn Bá Thanh trưởng ban nội chính
trung ương Đảng CSVN kiêm phó trưỏng ban chống tham nhũng cũng của Đảng CSVN đã
sang Mỹ chữa bệnh hiểm nghèo từ trung tuần tháng tám.Theo tin của mạng Cầu
Nhật Tân thì ông
Thanh bị nhiễm xạ nặng phải sang Mỹ vào bệnh viện Johns
Hopskins Medecine ghép tủy vì bị nhiễm xạ từ khi
ra Hà nội làm trưởng ban nội chính chỉ huy đánh án 0272,một vụ án làm 50 sĩ quan công an
nhiễm xạ trong đó có ông Nguyễn bá Thanh,nhiều sĩ quan
công an cao cấp tham gia vụ đánh án 0272 đã tử vong vì
nhiễm xạ.
Thơ của Phan thị Vàng Anh
Nhà
văn Nhật Tuấn vừa đưa lên mạng hai câu thơ của
Phan Thị Vàng Anh mà ông cholàđáng ghi vào bia đá ,hai câu đó như sau
Bác
Mao nào ở đâu xa
Bác
Hồ ta đó chính là bác Mao
Đáng
chú ý
Phan thị VàngAnh là con gái cưng của nhà thơ Chế Lan Viên.
Trịnh Bình An đọc truyện ngắn Măc Đỗ
Theo Trịnh Bình An thì Măc Đỗ viết văn hơn
nửa thế kỷ nhưng tìm trên mạng chỉ thấy ghi là dich giả và tác giả mấy truyện ngăn nên
Trinh Bình
vớ đươc tuyển tập truyện ngăn của Măc Đỗ trên
Gió O thì đoc liền và thấy lối viêt của Măc Đỗ từa tựa
Somerset Maugham nhưng kết truyện lại giống Guy De Maupassant.
Nói về
chuyện Măc Đỗ bị Võ Phiến chê là
văn chương làm dáng Trịnh Bình An trich đoan nhàvăn Măc Đỗ trả lơi nhà báo Nguyễn Tà Cúc trong đó Măc Đỗ khẳng đinh
hai chữ làm dáng là của Măc Đỗ dùng
chỉ một nhân vật trong truyện dài Siu Cô Nương của ông và Thanh Tâm Tuyền sau khi dìm
không cho đăng truyện ngắn của ông trên tạp chi Sáng Tao đã mượn hai chữ này
khi viết bài văn chương làm
dángVõ Phiến chỉ là
ngươi nhai lại chữ Thanh Tâm Tuyền mượn của ông
sau khi dìm không cho đăng truyện ngắn của ông trên tạp chi Sáng tạo viêt bài bôi bác ông với tựa đề văn chương làm
dáng
Theo Măc Đỗ cái bút danh Măc Đỗ do thầy
ông đặt cho ông ý nói ông là một người họ Đỗ khiêm
nhường[ông tên khai sinh là Đỗ Quang Bình]
Không biết thầy của họ Đỗ lúc đăt bút
danh Măc Đỗ cho người hoc trò Đỗ Quang Bình
có biết trước đó nhà
nhà thơ Trần Mai Ninh đã viết nhiều truyện ngắn truyện dài đăng trên tuần báo Bạn Đường của Hướng
Đao Sinh VN do huynh trưởng Trần Điền làm chủ nhiệm kiêm chủ bút không.Điểm đang chú ý là Trần
Mai Ninh ở trong bộ biên tập báo Bạn
Đương cùng
nhà
văn Nguyễn Tuân.
Văn chương me Mỹ và văn chương con nhà
Tướng
Văn chương Tầu
Văn chương Tầu hiện đai khiếp
quá
Ngày
Đôc Lập
Luật sư Lê Công Định quả quyết ngày
Độc Lập của nước Việt Nam phải là ngày 11 tháng 3 năm 1945,ngày hoàng đế Bảo Đai ra tuyên
cáo Việt Nam Độc Lập,chứ không thể là ngày 2 tháng 9 năm 1945 .Theo luật sư Lê
Công Đinh ngày 2 tháng 9 chỉ có thể là ngày khai sinh ra nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Việt Cộng.Luật
sư Đinh quả là người biết nghiên
cứu lich sử.
Báo
Tuổi Trẻ đăng nhật ký của con trai lớn cốTổng
Thống Trần Văn Hương
LÃO HỦ
No comments:
Post a Comment