Monday, September 17, 2012
KHÚC HÀ LINH * NGUYỄN NHƯỢC PHÁP
Nguyễn Nhược Pháp nhà thơ tài hoa mệnh yểu
Tác Giả: Khúc Hà Linh + Giang Hoàng.
Tác Giả: Khúc Hà Linh + Giang Hoàng.
Chúng ta thường biết đến nhà thơ
Nguyễn Nhược Pháp qua bài thơ: Đi chùa Hương, nhưng ít người biết đến
đời sống và tình yêu của nhà thơ này. Bài này gồm 2 phần:
Phần 1:
Tuổi thơ Nguyễn Nhược Pháp, chuyện ít người biết
- Hai tuổi mồ côi mẹ, hưởng dương tròn hai Giáp (24 năm), người con trai của học giả Nguyễn Văn Vĩnh thật là điển hình của sự bất công tạo hóa.
Thế nhưng tạo hóa đã bù lại, ban cho con người những thiên bẩm, tài hoa đặc biệt. Đó là một trang nam nhi tuấn tú, đa tài, gắn trên bầu trời thi ca nước Việt những ánh sao lung linh - nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp.
Phần 1:
Tuổi thơ Nguyễn Nhược Pháp, chuyện ít người biết
- Hai tuổi mồ côi mẹ, hưởng dương tròn hai Giáp (24 năm), người con trai của học giả Nguyễn Văn Vĩnh thật là điển hình của sự bất công tạo hóa.
Thế nhưng tạo hóa đã bù lại, ban cho con người những thiên bẩm, tài hoa đặc biệt. Đó là một trang nam nhi tuấn tú, đa tài, gắn trên bầu trời thi ca nước Việt những ánh sao lung linh - nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp.
Nguyễn Nhược Pháp là kết quả mối tình sét đánh giữa học giả Nguyễn Văn Vĩnh, một người đa tài, đa tình đất Hà thành và cô gái Lạng Sơn, Phan Thị Lựu.
Năm 1913 ông Vĩnh có khách sạn Trung Bắc ở nhà 50 phố Hàng Trống, gần hồ Gươm - Hà Nội… Cô Lựu thường qua lại trọ ở khách sạn, nên quen biết ông Vĩnh. Rồi do duyên số, họ nên vợ nên chồng.
Khách sạn Trung Bắc nằm trong khuôn viên rộng mấy nghìn mét vuông. Mặt trước quay chính phố Hàng Trống, mặt sau quay ra phố Lý Quốc Sư. Cả hai mặt đều có cổng lớn, bên trong xung quanh có vườn, cây cối xanh tươi và cổ thụ. Giữa khuôn viên này là một biệt thự ba tầng, trang bị hiện đại để làm nhà khách sạn.
Bà Phan Thị Lựu ở tầng hai. Tại mảnh đất thơ mộng này, ngày 12-12-1914, Nguyễn Nhược Pháp ra đời, sau này tên tuổi in đậm trong “Thi nhân Việt Nam”.
Ông Vĩnh đi làm, đến trưa thì nghỉ lại khách sạn với người vợ hai, tối mới về phố Mã Mây với vợ cả và các con. Tưởng thế cũng là yên ổn, nhưng số phận con người đa tài, đa tình lại vướng bận thêm nhiều và không thể dừng ở đó.
Vừa tuổi lên 2 (năm 1916), Nguyễn Nhược Pháp mồ côi mẹ. Khi biết tin ông Vĩnh có thêm một người đàn bà khác, mà là một cô đầm lai đẹp như thiên thần, thì Phan Thị Lựu không làm chủ được tình cảm của mình. Nỗi ghen tuông đã trào lên và bà đã tìm cái chết để giải thoát.
Chập chững những bước chân trên đường đời, Nguyễn Nhược Pháp được bà Đinh Thị Tính - vợ cả ông Vĩnh - mẹ cả đón về nuôi như con đẻ, với một câu thở than: Cái bà Lựu ghen ngược. Người ghen phải là tôi…
Từ đó cho đến lúc lìa đời, suốt 22 năm (1916- 1938), Nguyễn Nhược Pháp đều sống với những người anh em cùng cha khác mẹ, trong một đại gia đình, thật vui vẻ và nhiều kỷ niệm sâu sắc.
Đọc những trang hồi ức của những người thân trong gia đình phần nói về tuổi thơ Nguyễn Nhược Pháp, mới thấy rằng đây là một con người có nhiều phẩm chất cao quý, khi còn ấu thơ.
Năm 1923, gia đình Nguyễn Văn Vĩnh đã chuyển từ phố Mã Mây về phố Thụy Khuê, trước trường Bưởi (trường Chu Văn An bây giờ) gần hồ Tây.
Đây là một trong những tài sản lớn của ông F.H Schneider- một người Pháp, vốn là đồng nghiệp làm nhà in, xuất bản báo, vì yêu mến ông Vĩnh đã chuyển nhượng cho trước khi ông này về hưu ở cố quốc.
Nhà ông Vĩnh đông người, nhiều con, lại thêm bạn các con ở tỉnh lẻ về ở nhờ để tiện bề ăn học… vậy mà vẫn rất thoải mái.
Gia sản đất đai của Schneider là một khu đất rộng hơn ba nghìn mét vuông. Trong này có biệt thự hai tầng, có xưởng máy giấy mái vòm, bê tông cốt thép, không cột. Ông Vĩnh sửa lại thành nhà thờ và nhiều phòng để ở. Có mười gian nhà ngang, có bếp, nhà để xe, các phòng cho người nhà sinh hoạt…
Bấy giờ hai người con lớn của bà Vĩnh là Nguyễn Hải và Nguyễn Giang đang đi học ở nước ngoài. Còn ba người con gái: Nguyễn Thị Loan, Nguyễn Thị Nội, Nguyễn Thị Vân đã lớn, được ở khu biệt thự với bà Vĩnh và một người cô ruột là bà Nguyễn Thị Tý, làm dược sỹ ở nhà thương Phủ Doãn… Nguyễn Nhược Pháp được ở chung với 7 anh chị em còn nhỏ tuổi ở khu nhà ngang.
Trong đó có Nguyễn Thị Mười, Nguyễn Dực, Nguyễn Hồ còn quá nhỏ, không tự lực được trong sinh hoạt, nên có một u già trông nom… Họ sống rất thoải mái, tự do và khép kín, tự quản, dường như người lớn không ai để ý đến…
Buổi sáng hằng ngày, Nhược Pháp cùng anh chị em học chữ nho khoảng nửa giờ do ông tú tài Phùng Năng Tĩnh người Bát Tràng làm gia sư, dạy dỗ. Rồi họ đạp xe đi học trường tư. Mọi sinh hoạt khác như giặt quần áo, cơm nước đã có người lo hết.
Trong số 7 anh em, Nhược Pháp là con bà hai, được coi là anh, mặc dù sinh sau Nguyễn Dương (con mẹ cả) mấy tháng. Thời xưa xã hội coi những người con vợ bé, chỉ là con thêm vợ nhặt. Nhưng nhà ông Vĩnh không hành xử theo lối ấy.
Theo kể lại, Nguyễn Nhược Pháp thông minh, đẹp trai, học giỏi có đầu óc tổ chức, nhiều sáng kiến, làm đầu tầu cho các em trong các hoạt động, sinh hoạt thể thao, vui chơi rất văn hóa.
Nhược Pháp có sáng kiến làm một bản hợp đồng nội bộ, cấm nói nhảm nhí. Cậu soạn ra khoảng 50 câu thông dụng hằng ngày mọi người cần tránh, ví như những từ ngữ: đếch, bỏ mẹ, bỏ xừ…, hoặc những câu chửi thề không ai được nói… Ai lỡ lời nói, người nào nghe thấy, có quyền cốc vào đầu, véo tai, coi như một hình thức phạt.
Nhược Pháp bày trò tập bơi. Khi thì hồ Tây, khi thì ra ao đình làng Thụy Khuê, lúc đến hồ Trúc Bạch. Bảy anh em đều biết bơi kể cả con gái. Nhược Pháp yêu môn bơi lội nhất. Cho tới những ngày mới bị bệnh, anh vẫn chưa chịu bỏ bơi.
Ngày chủ nhật, Nhược Pháp tổ chức đua xe quanh Hồ Tây, có giải thưởng, thu hút các bạn học cùng tham gia. Lại tổ chức trượt pa-tanh. Ban đầu chơi trên đường Hoàng Hoa Thám, sau đường đua dài đến Quần Ngựa, vòng trở về lối Thụy Khuê… Rồi tổ chức tham quan du lịch bằng xe đạp, quanh Hồ Tây, rồi quanh Hà Nội và đi xa hơn.
Mỗi tuần, cha thường cho các con tiền đi xem chiếu bóng, Nhược Pháp rủ rê mấy anh chị lớn hơn, để dành tiền ấy, làm vốn in báo Tuổi Cười. Nhược Pháp làm chủ nhiệm, Nguyễn Phổ làm chủ bút, Nguyễn Kỳ quản lý nhà in. Báo in thạch, hai màu đỏ và tím.
Mỗi tháng một số, có 16 trang, khổ 15x20 cm. Nội dung tờ báo là thông báo những tin tức gia đình, nêu tên ai học giỏi, phê phán những việc xấu. Lại có trang thể thao, biểu dương kỷ lục mới( trong gia đình ), có quảng cáo các buổi diễn kịch, diễn xiếc do anh chị em tổ chức trong nhà. Trang cuối có in thơ của Nhược Pháp sáng tác.
Mỗi số ra 10 tờ, bán 5 xu cho người lớn và các anh chị lớn. Báo phát hành được mấy năm. Sau này lớn lên, Nhược Pháp đã chọn những bài thơ trong báo Tuổi Cười, thành tập thơ Ngày Xanh.
Nhược Pháp còn tổ chức một đội kịch gia đình, mà chính anh viết kịch bản và đạo diễn… Các anh chị em làm diễn viên.
Nhà có xưởng in rộng, họ kê bàn ghế thành sân khấu, tạm dùng câu đối nhà thờ trang trí, lại làm phông màn, chăng điện… nghĩa là như sân khấu thật. Giá vé 5 xu một chỗ ngồi.
Những người lớn trong nhà cũng mua vé và ngồi xem cổ vũ con em mình… Có buổi ông Vĩnh cũng ngồi xem các con diễn, ông thấy lòng tràn ngập niềm vui… Nhược Pháp còn hướng dẫn thành lập đội xiếc, phân vai diễn: Người diễn xiếc xe đạp, người làm ảo thuật,, người dậy thú, người thổi kèn.
Nguyễn Nhược Pháp có những thú vui thật giản dị, không giống bất cứ một thiếu gia nào thời bấy giờ. Chăm chỉ học hành, yêu quý mọi người, và biết tự lập. Viết xong một bài thơ, một truyện ngắn, vở kịch…khi có tiền nhuận bút thì rủ một hai em, hay vài bạn bè đi ăn phở xách Nghi Xuân bang thất ở phố Hàng Đàn, giá 5 xu một bát…
Nhược Pháp đã viết được một số vở kịch, và có một ước mơ, là cùng với Phạm Huy Thông, bạn học thời ở Trung học Albert Saraut, tri kỷ văn chương, cùng nhau tổ chức một Đoàn kịch không chuyên, đưa lên sân khấu vở kịch Người học vẽ của mình.
Nhược Pháp như một trang giấy trắng thơm, một bông hoa thanh khiết. Vào những năm cuối đời, trái tim chàng thi sỹ, tác giả bài thơ Chùa Hương đã xôn xang trước một cô gái áo đen, phố Hàng Đẫy, như một lời tỏ tình.
Đó là một tiểu thư, một trong tứ mỹ Hà thành bấy giờ. Hằng ngày đạp xe qua nhà, đứng bên này đường nhìn vào vườn nhà em, ngắm nhìn bóng em thấp thoáng. Rồi hình ảnh cô gái áo đen trong vườn của nhà họ Đỗ ở phố Hàng Đẫy, cứ sống mãi trong tim Nhược Pháp...
Nhược Pháp chưa tường mặt thân mẫu của mình, nhưng được mẹ cả hết lòng yêu thương, như con đẻ. Trước khi nhắm mắt ra đi về cõi vĩnh hằng, bà dặn lại Hãy đặt mộ của tôi nằm bên cạnh Nhược Pháp.
Nguyễn Nhược Pháp sinh ra là hoạt động, cả đến khi nhuốm bệnh vẫn không ngừng ý chí vươn lên vượt qua số mệnh.
Từ 2 tuổi Nhược pháp sống với mẹ cả ở Mã Mây rồi đi học vỡ lòng. 6 năm tiếp theo học phổ thông trường Trí Tri (phố Hàng Đàn và Trung Bắc học hiệu- phố Lý Quốc Sư). 14 tuổi thi đỗ lớp 6 Trường trung học Albert Saraut. 20 tuổi đỗ tú tài phần nhất, 1935 đỗ tú tài phần hai, vào Đại học luật. Nhược Pháp luôn học giỏi, xứng đáng cho các em noi theo.
Từ năm 1930 trở đi, kinh tế gia đình Nguyễn Văn Vĩnh bắt đầu khó khăn trầm trọng. Nguyễn Nhược Pháp vừa đi học để thi tú tài, thi đại học Luật, vừa làm ở tòa báo An Nam mới, viết thơ… để có tiền nhuận bút, giảm bớt chi tiêu của gia đình cho mình…
Từ sau khi chị Nội đang đi học Luật năm thứ ba mắc bệnh mất (1933), rồi cha mất( 1936), chị Vân mất( 1938), và tin anh Hải mất trong Nam… Nhược Pháp buồn đau, nhuốm bệnh lao hạch…
Ngày 19-11-1938 ông trút hơi thở cuối cùng tại Bệnh viện Đồn Thủy, hưởng dương 24 tuổi.
Ông để lại ba bức thư. Một bức viết bằng chữ Pháp, cám ơn các thầy thuốc đã hết lòng cứu chữa. Một bức thư vĩnh biệt mẹ cả và gia đình( khi ấy ông Vĩnh mất được
hai năm).
Một bức gửi cho người anh là nhà thơ Nguyễn Giang, với tâm nguyện, hãy chăm sóc mẹ cả và các em nhỏ tốt hơn nữa.
Ban đầu, thi hài Nhược Pháp được mai táng ở nghĩa trang Hợp Thiện, Quỳnh Lôi, Mai Động, Hà Nội, sau được bốc mộ về làng Phượng Dực, quê cha.
Phần 2:
Giai nhân áo đen của Nguyễn Nhược Pháp
Bà Đỗ Thị Bính, người đẹp phố Hàng Đẫy lâu nay vẫn được xem là bóng hồng mà thi sĩ tài hoa Nguyễn Nhược Pháp “thầm thương trộm nhớ”. Để rồi trong những bài thơ: Đi chùa Hương, Tay Ngà, Sơn Tinh – Thủy Tinh... thấp thoáng hình bóng của một “tuyệt sắc giai nhân”...
Người đẹp áo đen
Nếu như cuộc đời của người đẹp Vương Thị Phượng phố Hàng Ngang đúng là “hồng nhan bạc phận” thì cuộc đời của người đẹp thứ hai trong “Hà thành tứ mĩ” lại bình lặng hơn nhiều. Bây giờ, ngồi trong căn nhà biệt thự Pháp ở số 3A, phố Yên Thế bà Đỗ Thị Quyên, em gái bà Bính đã ngấp nghé tuổi 90 nhưng trên khuôn mặt lẫn nụ cười dáng vóc vẫn phần nào cho thấy vẻ đẹp của người chị gái từng được mệnh danh là “giai nhân Hà thành” khi xưa.
Nhấp chén nước, giọng sang mà ấm, bà Quyên nhớ lại: Đỗ Thị Bính sinh năm 1915, là kiều nữ của cụ Đỗ Lợi, nhà tư sản thầu khoán lớn nhất Hà Thành khi đó. Cụ Đỗ Lợi thuộc dòng họ Đỗ thôn Tiên Lữ (Lập Thạch, Vĩnh Phúc).
Vốn làm việc trong sở Lục lộ, vừa giàu có lại tài năng, lên Hà Nội, ông lấy bà Nguyễn Thị Quỹ, một người con gái xinh đẹp, sắc sảo làm nghề buôn bán tại Phà Đen làm lẽ. Đỗ Thị Bính là người con đầu trong ba người con của ông Lợi và bà Quỹ.
Những năm 1930, ông Đỗ Lợi là nhà tư sản có tiếng ở Hà thành. Những người già cả ở Ngõ Văn Hương bây giờ hẳn vẫn còn nhớ ngõ Đỗ Lợi, hồ Đỗ Lợi và trại sản xuất gạch hoa Vạn Cẩm, nơi ông sản xuất gạch hoa, đúc cống xi măng cung cấp cho các công trình xây dựng của người Pháp.
Công việc kinh doanh phát đạt, ông Đỗ Lợi chuyển sang lĩnh vực thầu khoán. Gần hai mươi công trình lớn ở Hà Nội khi đó đều do Đỗ Lợi làm chủ thầu. Giàu có, trại gạch hoa Vạn Cẩm khi đó còn là nơi nhà tư sản nuôi hàng chục con ngựa đua, một thú chơi công phu và thuộc vào hàng xa xỉ lúc bấy giờ.
Đang học lớp nhì tại trường Brieux, tên thông thường là trường Hàng Cót, một buổi chiều tan học, trong lúc mải ríu rít với bè bạn, Đỗ Thị Bính bị một chiếc xe hơi cán phải. Lo lắng cho cô con gái rượu, cụ Đỗ Lợi đã không cho người đẹp đến trường mà mời thầy về nhà để dạy riêng. Với tư chất thông minh và sự ham học, bà Bính vừa thông thạo tiếng Pháp lại có thể chơi được đàn thập lục hay dương cầm.
Trong số hơn chục nhà biệt thự ở rải rác ở khắp Hà Nội, gia đình bà Bính sinh sống ở căn nhà số 30 Nguyễn Thái Học, ngày xưa là phố Hàng Đẫy. “Chị tôi có thói quen mặc đồ đen nên người đương thời thường gọi là “người đẹp áo đen”.
Nếu được ông bà mua cho quần áo khác màu thì cất đi hoặc cho em chứ tuyệt nhiên không mặc màu gì khác ngoài màu đen. Màu đen đã làm cho vẻ đẹp của giai nhân thêm vẻ huyền bí, tôn thêm làn da trắng, sự sang trọng, nghiêm trang của người đẹp”, bà Đỗ Thị Quyên cho biết.
Mặc dù là người có vẻ đẹp nhất nhì Hà thành khi đó, thế nhưng, người đẹp không hề có tính kiêu sa của những tiểu thư khuê các. Trái lại, bà Bính nhất mực hoà đồng, giản dị và gần gũi với mọi người. Trong trí nhớ của người em gái thì bà Bính có một khuôn mặt trái xoan, đặc biệt là tính tình hiền hậu, nhân từ, dịu dàng. “Chị tôi ăn chay, không ăn thịt cá bao giờ. Xuân về gia đình lại đi chùa Hương cầu kinh niệm Phật. Mỗi khi đi nghỉ ở Sầm Sơn, thấy trẻ con xách lồng chim đi bán, chị tôi gọi lại mua hết rồi mở cửa lồng cho chim bay đi”.
“Bóng hồng” trong thơ
Trong bao nhiêu trái tim mê đắm người đẹp có chàng thi sĩ tài hoa Nguyễn Nhược Pháp – con trai của Nguyễn Văn Vĩnh, ông chủ nhà in Trung Bắc Tân Văn lớn nhất Bắc Kỳ lúc bấy giờ. Ngang tàng hay bình dân chả biết, nhưng cụ Vĩnh sau lần đi Pháp đã đặt luôn cái tên ấy cho cậu con trai sinh cuối năm 1914. Sau khi đậu tú tài rồi vào trường Cao đẳng Luật Đông Dương, Nguyễn Nhược Pháp không sung vào bất kỳ ngạch quan lại lẫn công chức nào mà đi làm văn, làm báo...
So về tuổi tác, Nguyễn Nhược Pháp hơn người đẹp Bính một tuổi. Chàng thư sinh nhỏ bé, với sự yếu đuối thư sinh, với cái bẽn lẽn của một hồn thơ mộng mơ đã thầm thương nhớ trộm cô tiểu thư Đỗ Thị Bính tự bao giờ.
Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ. Cho nên, để biết cái vẻ “sắc nước hương trời” của một trong bốn “mỹ nhân Hà thành” xưa, chỉ cần đọc tập thơ Ngày xưa cũng đủ để hình dung chân dung Đỗ Thị Bính “Tóc xanh viền má hây hây đỏ/Miệng nàng bé thắm như san-hô/Tay ngà trắng nõn, hai chân nhỏ”.
Đó là sự hồn nhiên của cô gái đi trây hội Chùa Hương: “Cùng thầy me em dậy/ em vấn đầu soi gương/ Khăn nhỏ đuôi gà cao/ Lưng đeo dải yếm đào/ Quần lĩnh áo the mới/ Tay cầm nón quai thao …”. Là “Cúi đầu nàng tha thướt/Yêu kiều như mây qua/Mắt xanh nhìn man mác/ mỉm cười về cành hoa…”
Trước hiên nhà ở phố Nguyễn Thái Học có hai giò phong lan và đặc biệt ba rặng hoa hồng nở hương thơm ngát. Chiều chiều, người đẹp lại ngồi nhởn nha trên ghế đá đọc sách, ngắm hoa. Khi ấy, Nguyễn Nhược Pháp đang làm việc tại tòa báo L’ Annam nouveau.
Ngày nào chàng thi sĩ cũng kiếm cớ đi qua đi lại ngôi nhà có người đẹp ở, để được nhìn thấy nàng cho khuây nỗi nhớ. “Ta lặng nhìn hơi lâu/Nhưng thì giờ đi mau...Nàng chợt nghiêng thân ngà/Thoáng bóng người xa xa...Ta mơ chưa lại hồn/Nàng lẹ gót lầu son/Vừa toan nhìn nét phượng/Giấy thẹn bay thu tròn...”
Chuyện này kéo dài và cả hai gia đình đều biết. Gia đình cô Bính cho là chuyện phải lòng của anh chàng nhà thơ trẻ cũng như nhiều chàng trai khác si mê người đẹp mà thôi. Bằng cớ là mỗi dịp xuân tới, người đẹp Đỗ Thị Bính vẫn nhận được rất nhiều hoa từ những địa chỉ vô danh.
Mỗi bài thơ của chàng thi sĩ là một nét đẹp của người con gái khuê các áo đen, là chất chứa bao niềm thương nhớ. Nhưng năm 1938, căn bệnh lao đã cướp đi sinh mệnh của nhà thơ tài hoa ở tuổi hai tư. Để rồi, tình yêu của tài tử, giai nhân được lưu giữ trong tập thơ mang tên “Ngày xưa” tha thiết ấy…
Cuộc đời bình dị
Sau khi Nguyễn Nhược Pháp mất được một năm, gia đình thuyết phục cô Bính lấy một chàng trai du học bên Pháp về. Đó chính là Bùi Tường Viên, em trai út của Luật sư nổi tiếng Bùi Tường Chiểu. Mười sáu tuổi, Bùi Tường Viên sang Pháp học về ngành silicat và là một trong những kỹ sư đầu tiên của Việt Nam. Đám cưới giữa người đẹp phố hàng Đẫy và nhà trai ở phố Quán Thánh với hàng chục xe ô tô rước dâu hạng sang được xem là một trong những đám cưới lớn nhất ở Hà thành thời bấy giờ.
Ảnh cưới của người đẹp áo đen với ông Bùi Tường Viên.
Chiến tranh nổ ra, bà Bính hoạt động trong phong trào bình dân học vụ, rồi cả gia đi tản cư lên mãi huyện Sơn Dương, Tuyên Quang. Mặc dù sống giữa cảnh núi đồi heo hút nhưng hai ông bà đi đâu cũng vẫn khoác tay nhau theo phong cách châu Âu khiến cho không ít người ngưỡng mộ. Bằng những kiến thức cơ bản, bà đã cứu sống cho rất nhiều người thoát khỏi căn bệnh sốt rét hiểm nghèo, trong đó có cả những người con của chính mình.
Đất nước hòa bình. Trở về Hà Nội, bà Bính lại cùng chồng, con sống cuộc sống bình thường trong một ngôi nhà giản dị. Tất cả mười tám ngôi biệt thự khang trang của nhà tư sản Đỗ Lợi lúc bấy giờ đã hiến tặng cho Chính phủ. Bà tích cực tham gia phong trào bình dân học vụ, chống giặc dốt. Từ đó cho đến khi về hưu, bà công tác tại Phòng Giáo dục khu Hai Bà Trưng.
Trong ký ức của những người con, người đẹp Đỗ Thị Bính là một giai nhân tài sắc vẹn toàn. “Ngay đến bữa ăn cùng gia đình chồng, khi nào mẹ tôi cũng là người ăn sau cùng, phục vụ cho bố mẹ chồng, chồng con ăn trước…
Cho đến những ngày tháng cuối đời, bà vẫn giữ thói quen không bao giờ đến ăn ở các hàng quán, mà nhất mực trung thành với những món ăn do tự tay mình chế biến”, ông Bùi Tường Quân, con trai Bà Bính cho biết.
Ông Bùi Tường Quân, con trai út của người đẹp Đỗ Thị Bính và bức ảnh của người đẹp được "truyền thần" sang chiếc đĩa sứ.
Người đẹp Đỗ Thị Bính đã cùng chồng đi qua cuộc chiến tranh, sống cuộc sống bình dị như biết bao người Hà Nội khác. Trở về với đất, gia đình, người thân khoác cho bà bộ quần áo nhiễu đen quen thuộc, như là một sự trân trọng với vẻ đẹp của người phụ nữ Hà Nội một thời.
Bài thơ: Đi chùa Hương
Hôm nay đi Chùa Hương,
Hoa cỏ mờ hơi sương.
Cùng thầy me em dậy,
Em vấn đầu soi gương.
Khăn nhỏ, đuôi gà cao,
Em đeo giải yếm đào;
Quần lĩnh, áo the mới,
Tay cầm nón quai thao.
Me cười: «Thầy nó trông!
Chân đi đôi dép cong,
Con tôi xinh xinh quá!
Bao giờ cô lấy chồng?»
Em tuy mới mười lăm
Mà đã lắm người thăm,
Nhờ mối mai đưa tiếng,
Khen tươi như trăng rằm.
Nhưng em chưa lấy ai,
Vì thầy bảo người mai
Rằng em còn bé lắm!
(Ý đợi người tài trai.)
Em đi cùng với me.
Me em ngồi cáng tre,
Thầy theo sau cưỡi ngựa,
Thắt lưng dài đỏ hoe.
Thầy me ra đi đò,
Thuyền mấp mênh bên bờ.
Em nhìn sông nước chảy
Đưa cánh buồm lô nhô.
Mơ xa lại nghĩ gần,
Đời mấy kẻ tri âm?
Thuyền nan vừa lẹ bước,
Em thấy một văn nhân.
Người đâu thanh lạ thường!
Tướng mạo trông phi thường.
Lưng cao dài, trán rộng.
Hỏi ai nhìn không thương?
Chàng ngồi bên me em,
Me hỏi chuyện làm quen:
«Thưa thầy đi chùa ạ?
Thuyền đông, trời ôi, chen!»
Chàng thưa: «Vâng thuyền đông!»
Rồi ngắm trời mênh mông,
Xa xa mờ núi biếc,
Phơn phớt áng mây hồng.
Dòng sông nước đục lờ.
Ngâm nga chàng đọc thơ.
Thầy khen: «Hay! Hay quá!»
Em nghe rồi ngẩn ngơ.
Thuyền đi, Bến Đục qua.
Mỗi lúc gặp người ra,
Thẹn thùng em không nói:
«Nam Mô A Di Đà!»
Réo rắt suối đưa quanh.
Ven bờ, ngọn núi xanh,
Nhịp cầu xa nho nhỏ.
Cảnh đẹp gần như tranh.
Sau núi Oản, Gà, Xôi,
Bao nhiêu là khỉ ngồi.
Tới núi con Voi phục,
Có đủ cả đầu đuôi.
Chùa lấp sau rừng cây.
(Thuyền ta đi một ngày.)
Lên cửa chùa em thấy
Hơn một trăm ăn mày.
Em đi, chàng theo sau.
Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giàu.
Thầy me đến điện thờ,
Trầm hương khói tỏa mờ.
Hương như là sao lạc,
Lớp sóng người lô nhô.
Chen vào thật lắm công.
Thầy me em lễ xong,
Quay về nhà ngang bảo:
«Mai mới vào chùa trong.»
Chàng hai má đỏ hồng
Kêu với thằng tiểu đồng
Mang túi thơ bầu rượu:
«Mai ta vào chùa trong!»
Đêm hôm ấy em mừng.
Mùi trầm hương bay lừng.
Em nằm nghe tiếng mõ,
Rồi chim kêu trong rừng.
Em mơ, em yêu đời!
Mơ nhiều... Viết thế thôi!
Kẻo ai mà xem thấy,
Nhìn em đến nực cười!
Em chưa tỉnh giấc nồng,
Mây núi đã pha hồng.
Thầy me em sắp sửa
Vàng hương vào chùa trong.
Đường mây đá cheo veo,
Hoa đỏ, tím, vàng leo.
Vì thương me quá mệt,
Săn sóc chàng đi theo.
Me bảo: «Đường còn lâu,
Cứ vừa đi ta cầu
Quán Thế Âm Bồ Tát
Là tha hồ đi mau!»
Em ư? Em không cầu,
Đường vẫn thấy đi mau.
Chàng cũng cho như thế.
(Ra ta hợp tâm đầu.)
Khi qua chùa Giải Oan,
Trông thấy bức tường ngang,
Chàng đưa tay lẹ bút
Thảo bài thơ liên hoàn.
Tấm tắc thầy khen: «Hay!
Chữ đẹp như rồng bay.»
(Bài thơ này em nhớ,
Nên chả chép vào đây.)
Ô! Chùa trong đây rồi!
Động thắm bóng xanh ngời.
Gấm thêu trần thạch nhũ,
Ngọc nhuốm hương trầm rơi.
Me vui mừng hả hê:
«Tặc! Con đường mà ghê!»
Thầy kêu: «Mau lên nhé!
Chiều hôm nay ta về.»
Em nghe bỗng rụng rời
Nhìn ai luống nghẹn lời!
Giờ vui đời có vậy,
Thoảng ngày vui qua rồi!
Làn gió thổi hây hây,
Em nghe tà áo bay,
Em tìm hơi chàng thở.
Chàng ôi, chàng có hay?
Đường đây kia lên trời,
Ta bước tựa vai cười.
Yêu nhau, yêu nhau mãi!
Đi, ta đi, chàng ôi!
Ngun ngút khói hương vàng,
Say trong giấc mơ màng,
Em cầu xin Trời Phật
Sao cho em lấy chàng
On Tue, 9/11/12, HUONG NGUYEN
LÊ THỊ XUÂN * THIÊN ĐƯỜNG ĐỎ
Thiên Đường
Đỏ
Tác
Giả: Cựu Thiêu-Úy CSQG Lê Thị Xuân
|
Thứ Tư, 12 Tháng 9 Năm 2012
21:07
|
Tối ngày 28.6.1975 tôi bị di
chuyển cùng chung với chồng từ Trường Trung Học Nguyễn Bá Tòng tại Sài Gòn
đến Trại Suối máu được khoảng 1
tuần lại bị chuyển đến trại Thành Ông Năm, Hóc Môn do đoàn 500 cộng sản
quản lý.
Trại chia làm hai khu: Nữ Sĩ Quan
(SQ) Quân đội, và Nữ SQ/ CSQG. Chúng tôi bị chia thành từng B và phải chen
lấn lẫn nhau trong một diện tích chỉ đủ để nằm nghiêng . Lúc nầy tôi mang
thai cháu đầu lòng gần 7 tháng. Đây là thời gian thai nhi phát triển, nên
thai phụ cần được nghĩ ngơi, thoãi mái, tránh bị những áp lực và thai phụ
cần phải được thực phẫm dinh duỡng vừa tinh khiết vừa đầy đủ. Nhưng với
tôi thì hoàn toàn trái ngược. Ngoài môi truờng sống quá thiếu vệ sinh, lại
phải ngồi nghe học tập, thảo luận. đấu tố. Thể chất mệt mõi, tâm trí lúc
nào cũng lo sợ cho bản thân, cho gia đình, và cho chồng .
Thai nhi càng lúc càng phát triển nên tôi thèm ăn lắm, nhưng bụng thì lúc nào cũng đói, dinh dưỡng chẳng có, áp lực càng lúc càng nặng và rồi hai chân tôi bị qụy, chỗ kín bị ra máu, không đuợc chữa trị hoặc thuốc men . Tôi đuối sức! Trước tình trạng sức khỏe tồi tệ và mạng sống của tôi bị đe dọa, ngày 12.8.75 Cộng sản (CS) thả tôi về với lý do :”tạm hoãn quản huấn vì sắp đẻ”(nguyên văn).
Về đến nhà thì ba mẹ và các em
nhỏ của tôi đã bị lùa ra khỏi Sài gòn theo chương trình gọi là hồi hương
lập nghiệp tại Sa-Đéc. Sức khỏe quá yếu, không đi được tôi đành ở lại căn
nhà củ (bấy giờ thì gia đình thím tôi đang ở).
Đến đầu tháng 9.75 đau chuyển bụng, tôi đến bảo sanh viện Từ Dũ . Sau khi sinh cháu bé, tôi mệt lắm, nhưng gắng gượng xem mặt cháu, biết cháu là gái, thấy khuôn mặt con hao hao giống bố, lòng mình dâng nỗi nhớ chồng và dào dạt thương con, tôi ôm con vào lòng và ngất đi vì bị băng huyết. Tĩnh dậy tôi trở về tâm trạng củ, May mắn cho tôi là CS chưa kịp đưa người của chúng vào nên nhân viên và bác sĩ vẫn còn tấm lòng nhân ái và phong cách Miền Nam và nhờ đó tôi thoát khỏi luỡi hái tử thần. Vì lý lịch, nên tôi bị tống ra khỏi bịnh viện sau 4 ngày mặc dầu tôi còn yếu và cháu bé gầy guộc chỉ được 2kg. Tôi lại phải bế cháu tìm đường về Sa Đéc.
Khi chiếc tàu đò đậu trước cửa
nhà, lòng tôi càng thêm não nề. Đây là khu hoang địa, xưa kia là khu oanh
kích tự do và không có dân cư, vì thế vùng nầy có rất nhiều hố bom. Thấy
gia đình lam lũ, tôi vô cùng xót sa, vì vậy tôi ráng sức phụ giúp gia đình
và tôi lại thêm lần nữa ngã qụy. Đúng vào thời gian nầy, khi cháu được hơn
một tháng thì mẹ con tôi bị bắt trở lại trại giam.
Sáng hôm ấy, đang cho con bú, tôi
nghe tiếng ghe máy và tiếng người, rồi tiếng chân dồn dập nhảy lên bờ.
chạy phía nhà tôi. Sống trong vùng cộng sản kiễm soát tâm trạng tôi luôn
luôn hồi hộp lo sợ.
Đang còn hoang mang thì tôi đã
thấy họ bao quanh nhà tôi, những mũi súng chĩa thẳng vào mẹ con tôi. Tôi
nghe đạn lên nòng và tiếng ra lịnh của tên chỉ huy: - Các đồng chí vào vị
trí sẳn sàng tác chiến.
Sau đó tiếng quát ra lịnh: - Chị
Lê Thị Xuân, tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh, không được chống đối, chấp
hành lệnh quản chế, thì sẽ đuợc cách mạng khoan hồng !
Tiếp theo là hai tên có võ trang
tiến sát vào giường mẹ con tôi. Tôi biết là tôi đã bị bắt. Tôi không sợ,
nhưng tôi thương con quá, phần không muốn phải xa con, phần sợ con phải
chịu cảnh lao tù. Tôi thật sự lúng túng vì cả nhà tôi đang làm ngoài
ruộng.
Tôi ngỏ ý chờ người nhà tôi về.. Nhưng chúng nhất định không cho. Bị thúc hối quá cấp bách; tôi chỉ viết vội là đã bị bắt lại cho gia đình biết, rồi gom nhanh ít tả lót, ít quần áo, vật dụng cho hai mẹ con và theo chúng xuống xuồng máy giữa hai hàng súng “ dàn chào bảo vệ”của chúng. Sau nầy tôi biết tên hung tợn chỉ huy cuộc vây bắt hai mẹ con tôi tên là Hiếu. Tôi đã có lần gặp hắn tại sài gòn trong nhà người cùng quê với mẹ tôi. Người nầy là SQ Quân Lực VNCH che chở cho hắn trốn quân dịch, lúc ấy hắn làm phụ thợ hồ.Trước ngày tôi định cư tại Mỹ thì hắn là Phó chủ tịch Nông nghiệp huyện Thạnh Hưng, tỉnh Đồng tháp và dĩ nhiên là rất hống hách, ngang tàng và giàu có.
Bọn chúng chở hai mẹ con tôi về
trại giam Đám Lát thuộc huyện Lấp Vò, Tỉnh Đồng Tháp. Trại giam nằm trên
gò đất, chung quanh có nhiều hàng rào giây kẽm gai bao bọc, chúng cẩn thận
gài mìn và chất nổ đề phòng sự trốn trại của tù. Trại nầy giam đủ thứ
thành phần từ SQ chế độ củ, tôn giáo, đảng phái chính trị… đến thường
phạm. Vì có con nhỏ nên chúng cho mẹ con tôi ở riêng một góc xó nhà bếp.
vách nhà làm bằng đất sình trộn với trấu, nên hôi hám và nhiều bụi dơ; gió
mang theo hơi nóng làm rát da. Tôi mượn nhà bếp hai tấm bao bố gạo làm
chiếu và mền đắp cho con, còn mình thì nằm hẳn trên đất. Mỗi buổi chiều mẹ
con tôi đuợc nữ quản giáo dẫn xuống một cái đìa nhỏ để tắm giặt. Vì cái
đìa nhỏ nầy khi nuớc triều cường mới có chút ít nuớc từ sông cái tràn vào,
do vậy mà những chất dơ bẩn không kịp thóat ra, vì thế nuớc có màu đen của
dơ, màu váng của phèn; mùi hôi thối luôn luôn phản phất, đó cũng là mần
mống bịnh hoạn.
Thức ăn không đủ nuôi cơ thể thì
làm sao có sữa để nuôi con! Vì thế, các bạn tù đồng ý cho tôi mỗi ngày
đuợc lưng chén nuớc cơm có lẫn dăm hạt gạo đang sôi để phụ cùng với giòng
sữa hiếm hoi nuôi con. Phải sống trong hoàn cảnh tù đày dưới chế độ cộng
sản mới hiểu thế nào là đói, mới hiểu giá trị miếng ăn và mới hiểu đó là
sự hy sinh, là tấm lòng nhân ái mà Xã hội Quốc Gia đã giáo dục cho
họ.
Tôi biết ơn các bạn tù, cơn đói không lúc ngưng dày vò, trí óc chỉ ước mơ đến chưyện ăn, như mơ được một chén cơm lưng, thẻ đường, hột muối, giọt mỡ. Ôi miếng ăn sao “vĩ đại” đến thế!
Ngoài cái đói triền miên hành hạ,
tôi lại phải đối phó với muỗi. Khi bóng đen tràn tới cũng là lúc từng đàn
muỗi xuất hiện. Chiếc mùng củ lúc mang theo, bây giờ cũng rách mục như số
phận làm người trong xã hội “thiên đường”cộng sản.
Tôi ngậm ngùi thương con, tôi lo
cho sự an nguy của chồng, tôi lo cuộc sống lao đao vất vả của gia đình,
thấy nhớ ba mẹ và các em thơ dại của tôi, tôi tội nghiệp cho bà mẹ chồng
hiền lành và nỗi bất hạnh triền miên đè lên số phận bà. Dường như giọt lệ
lúc nào cũng lưng lưng trong khóe mắt, thế nhưng miệng tôi thì lúc nào
cũng phải nói những điều trái ngược. Tôi cảm thấy danh dự xúc
phạm.
Do thiếu thốn vật chất, tinh thần
hoang mang lo sợ cho tương lai mờ mịt tối tăm, và thương nhớ người thân –
tôi mõi mòn và dần dần kiệt sức, con tôi thì còm cõi, yếu ốm và những bệnh
do thiếu dinh dưỡng, do môi trường dơ bẩn cùng một lúc “hiệp đồng” tấn
công trên cơ thể èo uột của tôi và của cháu.
Lúc nầy thì con tôi tóc bết dính và lầy lụa mũ máu vì bị sài lở, toàn thân cháu nổi lên những mụn nhọt nhỏ li ti như muỗi đốt, móng tay như bị long và sứt rớt ra. Tôi lo qúa, có lần tôi đành gạt nước mắt chịu nhục, hạ mình xin thuốc cho cháu; nhưng bọn người lòng thú ấy dững dưng, lạnh lùng và dường như trong ánh mắt chúng có đôi chút hả hê của lòng thù hận. Ôi đồng bào tôi đấy, ôi phẫm cách và lòng khoan hồng “cách mạng!”. Sự tàn nhẫn kinh khiếp ấy của giống “người” cộng sản làm ý chí tôi bỗng dưng phát triển mãnh liệt. Tôi hối hận về sự cầu cứu ấy và tự nhủ lòng sẽ không bao giờ cầu xin chúng, tôi dấu nỗi uất hận, không để lộ niềm đau. Dù chưa biết phải làm gì, nhưng tôi thấy tinh thần của lý sinh tồn và lòng tự trọng trong tôi vững vàng lắm!
Sắp đến ngày 2 tháng 9, ngày
“quốc khánh” của chúng, một phái đoàn không biết từ đâu và cấp nào đến
thanh tra. Một người trong bọn họ thoáng dừng lại trước mẹ con tôi, chúng
phải bịt mũi vì mùi hôi từ chúng tôi. Có lẻ nhờ thế mà hôm sau, ngày
30.8.76 mẹ con tôi được chúng thả ra về với ba năm quản chế.
Về đến nhà, toàn cả gia đình tôi
sống héo hắc, cùng cực vất vả, thiếu thốn, tôi đã hiểu tại sao gần năm qua
tôi không có thư từ tin tức gia đình và tôi lại khóc, lòng tự trọng thúc
đẩy tôi lao hết sức mình cho gia đình, cho đứa con muôn ngàn yêu dấu. Cậu
em trai kế tôi, có gia đình, còn ở Sài gòn cho tôi hay rằng người mẹ chồng
hiền lành của tôi đã chết! Tôi thương và mừng cho bà đã thóat được cái
thiên đường man rợ của lũ “vượn người cộng sản”.
Tôi nguyện cầu cho bà sớm đuợc về cõi Phật như lòng bà hằng mong ước. Tôi xót sa cho chồng và mẹ chồng trong cuộc chia tay vĩnh viễn không được gặp nhau, không đuợc có mảnh khăn trắng ghi nhớ công ơn của mẹ hiền, không được cầm tay đứa con trai út mà bà nuôi nhiều kỳ vọng. Bỗng dưng tôi thở dài ngao ngán cho kiếp nhân sinh trong chế độ cộng sản.
Gần sáu năm sau kể từ ngày tôi
đuợc thả ra lần thứ hai thì chồng tôi mới đuợc thả về. Giây phút đầu tiên
gặp lại nhau, tôi quá đỗi bất ngờ và cũng quá xúc động. Toàn thân tôi
điếng lặng. Tôi không nhúc nhích, cử động gì được, nhưng giọt lệ cứ trào
ra, lăn dài xuống đôi gò má thanh xuân nhưng đã sớm tàn phai vì thống
thiết đau buồn, thương nhớ.
Nhìn cảnh nhà sa sút nghèo khổ và
cũng vì có lần quá cơ cực tôi có ý định cùng với chồng con quyên sinh, nên
ngay hôm sau ngày sum vầy chồng tôi bắt tay ngay vào cuộc sinh tồn. Dù
cường quyền địa phuơng ngăn cản, luôn tìm cách tạo bất an, gây phiền
nhiễu, khó khăn, anh vẫn quyết chí phấn đấu từ làm thuê, vác mướn, bán
dạo… gia đình tôi lần hồi bước dần ra cảnh bần hàn.
Nhưng tai họa lại ập đến! Bởi lao
nhọc, thiếu thốn và di hại trong lao tù, chồng tôi ngã bịnh nặng. Bác sĩ
cho biết một lá phổi anh bị khô nước, màng phổi bị dày dính nên kéo và làm
trái tim bị lệch và thòng xuống, có dấu hiệu bị sạn thận, xơ gan. Bao
nhiêu tiền bạc do công lao và tiện tặn dành dụm được đành phải bỏ hết ra
để giành mạng sống của anh. Khi đồng bạc cuối cùng ra đi thì may thay, tôi
gặp đuợc người chị cả của chồng tôi, hai chị em thất lạc từ thuở anh chưa
chào đời. Nhờ chị, chúng tôi thoát nạn. Cũng kể từ đó, đời sống tinh thần
và vật chất của chúng tôi được an ủi, khuyến khích và nâng đở. Chị trở
thành người mẹ thứ hai của chồng tôi.
Bây giờ nhớ lại và kinh rợn chuỗi
ngày sống dưới ách bạo tàn khắc nghiệt cộng sản , lòng bùi ngùi thương cảm
cho những người còn trong nanh vuốt man rợ cộng sản. Xin thành kính
nghiêng mình trước những bậc anh hùng đã ngã xuống vì muốn cứu nỗi bất
hạnh của quê huơng, xin được khóc những giòng lệ cho những oan khuất tội
tình của đồng bào tôi bị bàn tay máu của cộng sản áp bức khống
chế.
Xin cúi đầu tưởng niệm hằng triệu
chiến sĩ Quốc Gia, Con yêu của Tổ Quốc Việt Nam đã không tiếc máu xương vì
sự an tòan và phát triển cho quê hương. Xin tưởng niệm 58 ngàn con yêu của
Hiệp Chủng Quốc Hoa kỳ vĩnh viễn nằm xuống trong cuộc chiến đấu cho công
lý và tự do trên quê huơng tôi.
Xin cám ơn lòng hào hiệp của nhân
dân và chính phủ Hoa kỳ đã cứu vớt và đưa chúng từ nơi tối tăm bi thãm,
nơi tầng cuối cùng của địa ngục trần gian đến vùng đất hứa, nơi tuyệt đối
tôn trọng nhân phẫm con người.
Xin cám ơn những ân nhân, vì tình
nhân ái, vì nghĩa Đồng Bào mà điển hình là bà Khúc Minh Thơ và hội Gia
Đình Cựu Tù nhân Chính Trị đã không bỏ rơi chúng tôi, đã không quản ngại
gian khó tốn kém cả tiền của lẫn thời gian và sức lực, đã ra sức đánh động
cho Thế giới và nhất là Hoa kỳ biết nỗi thống hận ngút ngàn mà cộng sản
trả thù bằng cách làm khô máu lên cuộc đời những chiến sĩ Quốc gia từng
một thời dũng lược, nay đành thúc thủ.
Học theo Quý vị, chúng tôi nhất
định không bỏ quên những người đang cần đến chúng tôi,. Chúng tôi giữ gìn
đạo lý và văn hóa Việt, chúng tôi nuôi dưỡng giáo dục các thế hệ tiếp nối
về lòng nhân bản để trở thành công dân hữu dụng cho xã hội và cho sự tồn
vong của Dân tộc. Thiết nghĩ dó là lời cảm ơn chân thành và thiết thực
nhất.
Việt Nam là Dân tộc biết mang ơn
và biết cách đền ơn . Đó là lời cuối cùng của giòng tâm sự hôm nay của
chúng tôi.
Little Sài Gòn, ngày Truyền thống
CSQG/VNCH -
Cựu Thiêu-Úy CSQG LÊ THỊ
XUÂN
|
THANH THANH * THƠ SONG NGỮ
NHỚ CHỊ GIỮA MUÀ THU LÁ VÀNG
Chiếc lá vàng rơi hay cánh bướm
Ðến đậu vai em một sớm Thu
Mình em trở lại con đường cũ
Kỷ niệm -- xua đi lớp sương mù
Thương em cách trở miền quê ấm
Chẳng quản đường xa chị đến thăm
Quê hương là chị, là Hà Nội
Trà sen, hương cốm thắm ân tình
Chị chải suối tóc thời con gái
Nhẹ bay trong chiều nắng lung linh
Em ngồi ngắm chị qua khung cửa
Ấm lòng ngỡ tưởng... giữa quê mình
Chị đến -- ngày Thu mới chớm vàng
Giờ đây Thu đổ lá mênh mang
Dòng sông nhớ chị đìu hiu chảy
Mới đấy... đã xa, thật ngỡ ngàng
Thời gian xếp lá vàng muôn lối
Nhớ chị lòng em lại bồi hồi
Những ngày bên chị -- trăng Thu tỏ
Hỡi người chị gái mến thương ơi
La Rochelle (France) le 30-12-2001
THU MINH
I MISS YOU IN THE YELLOW FALL
A yellow leaf – or, is it a butterfly? –
Has alighted on my shoulder this autumn morn.
I am going back, by myself, to the old path
And my remembrance dispels the haze lorn.
Pitying me, separated from the cosy abode,
You passed long distances to visit me here:
Our mother country is you, Ha Noi City -
Lotus tea, green rice flavor – loves so dear.
In the shimmering afternoon sun, you combed
Your hair that fluttered – the light girlish
strand.
Thru the doorframe, I sat contemplating you,
So heart-warming as back in our homeland.
You came – those days just grew yellowish;
Now, fall has dropped dead leaves all around.
Missing you, even the river flow is desolate:
Then there, now far-away – just to confound.
Time spreads yellow leaves on every side;
Thinking of you I feel by sadness seared.
How I remember – in the clear moonlight
Being beside you, sister, my very endeared!
Translation by THANH-THANH
NGUYỄN VĂN SÂM * NGƯỜI THẦY KHÔNG DÁM ĐỨNG LỚP
Người Thầy Không Dám Đứng Lớp_Nguyễn Văn Sâm.
Thứ năm, 21 Tháng 6 2012 18:24
Email In
Người Thầy Không Dám Đứng Lớp
(Nhà văn thường nhìn chuyện đời theo con mắt vừa ngây thơ vừa đầy chủ
quan mà chính họ không hay biết. NVS)
Tôi chưa biết mình nên ngồi vào bàn nào. Đứng lửng thửng, xớ rớ giữa
phòng, chung quanh lắm cặp mắt ngó mình thì dị quá. Bối rối. Chờ đợi như
lúc nhỏ chờ người lớn ai đó chọn giùm để mình khỏi một quyết định khó
cân phân. Cũng hơi lâu. Thôi thì tự lo vậy, ai cũng bận bịu bạn bè, cũng
tíu tít tay bắt mặt mừng người quen có khi vài ba năm mới gặp lại. Ai
cũng lo chào người mới đến, gần như quên hết hoạt cảnh chung quanh. Tôi
liếc mau một vòng. Bàn Giáo Sư thì nghiêm chỉnh phát sợ, thầy cô đều
trên dưới bảy mươi, lại chỉ có độ một phần ba là quen mặt, chắc khó nói
chuyện cho thuận tai thuận miệng. Bàn học trò thì chắc chắn vui hơn, trẻ
trung, có bàn mình quen biết hầu hết. Tôi ngồi xuống một bàn khi thấy
vài nụ cười chào đón quen quen, bàn của các Nứng. Như vậy dễ xử cho ban
tổ chức, dễ cho mình khỏi lấn cấn.
Những câu chuyện cũng rôm rả như thường lệ dầu tôi ít nói, chỉ góp phần
bằng tiếng cười hay những câu vuốt đuôi biểu đồng tình. Như là đến tuổi
nào đó thì tính bén nhạy trong sự phát ngôn không còn nữa, những gì mình
muốn nói hầu như đã có người nói giùm vài phút trước. Và trí mình luôn
luôn lơ mơ suy nghĩ nầy nọ về câu nói đó tuy rằng nó cũng chẳng quan
trọng hay mới mẻ gì cho lắm. Cứ như vậy trí tôi nhảy theo đuôi những câu
nói trong khi chính mình im như củ khoai, ngồi thừ mơ màng.
Và tôi vui với bàn của mình. Chỉ cần cười góp cũng đủ lãng quên đời.
Nâng ly vô vô dầu uống chẳng bao nhiêu, thiên hạ năm mươi hay chăm phần
chăm tôi chỉ uống từng ngụm nhỏ, tiếng vô cũng nhỏ nhẹ, góp phần có mặt,
góp hào hứng nhiều hơn là hưởng ứng uống, vô.
Và câu chuyện nầy dẫn đến chuyện kia tôi quên mất là mình đi với vợ, với
bạn.
Một cái vỗ vai thân mật:
- Mầy tính ngồi đây luôn với mấy rể hả? Qua ngồi với tụi tao đi!
Tôi ngước lên cùng lúc với những tiếng chào nho nhỏ của nhiều người
chung bàn chào người mới nói: Thưa thầy, Thưa thầy.
Có tiếng nói nhỏ của người biết chuyện:
- Thầy Tâm đó, xưa ổng chuyên môn đi tới gần cổng trường mới nhét áo vô
quần, vừa ra khỏi lớp là kéo áo bỏ ra ngoài liền, rủ học trò đi đánh
bi-da.
- Không tao ngồi đây được rồi. Xin miễn cho lên ngồi chiếu trên lúc nầy.
Bổn phận các nứng là ngồi chung bàn với nhau. Nhường bàn quí Thầy lại
cho tụi bây.
Thằng bạn tôi uống cạn ly với vài người học trò già của nó rồi khật
khưởng đi qua bàn khác. Chắc chắn là hắn ta đi qua bàn khác, ông trời
con nầy chẳng chịu về bàn mình liền đâu, tôi biết chắc mẳm điều đó. Một
người thân mật nói với tôi:
- Bàn nứng của mình vui ha! Năm nay nứng lại về nữa ta!
Tôi gật đầu cười, trong khi hất hàm về phía người bạn vừa mới đi:
-Chừng nào anh ta còn sống thì tôi còn về. Đó là cái cớ dễ thương phải
không các nứng rể?
Một anh khác:
- Già như nứng còn đi được là tốt quá rồi. Nghe nói ngồi máy bay mấy
chục giờ liền. Cũng mệt. Khá lắm đó!
Một câu khen hình như của người thiệt biết chuyện, nói lớn mà không cần
biết nói với ai:
- Nứng coi đầu bạc trắng nhưng tâm hồn còn trẻ trung chán, ngồi với anh
em mình thì hợp quá. Nứng về để tìm tòi sách vỡ cũ xưa, nhứt là sách
Nôm.
Nhiều người day qua hỏi nhỏ bạn ngồi kế "Sách Nôm là sách gì?"
Tôi lên tiếng, cũng là cái phao đổi thay đề tài:
- Sách của ông bà mình viết trước khi người Pháp đến nước ta, trước khi
có chữ quốc ngữ. Loại chữ đó già còn hơn ông cố tôi, lâu rồi, hiện giờ
còn rất ít người biết.
Một anh chàng ngổ ngáo lớn tiếng vui vui:
- Bù trất. Biết chết liền. Thôi kệ nó ba cái chữ Nôm, mình vô chút coi!
Khát nước rồi.
Không khí coi bộ vui hơn. Tôi hào hứng cũng uống hai ba ngụm lớn.
Một người hơi chửng chạc, ngập ngừng hỏi:
- Hình như anh trước đây có dạy ở trường nầy?
- Ờ, có mà như không có, tôi về trường nhận việc cuối năm 1963, vừa ngay
sau khi ông Diệm bị đảo chánh, lâu lắm rồi, lúc vừa mới bước qua tuổi
hai mươi vài năm. Thế nhưng lại không dám đứng lớp. Chuyện hơi dài dòng.
Cả bàn im phăng phắc.
***
Người thanh niên rụt rè trình Sự Vụ Lịnh cho ông Hiệu Trưởng, cũng thuộc
lứa tuổi mình. Ông Hiệu Trưởng thân mật mời khách ngồi xuống ghế trước
mặt rồi xin phép khách chờ chút xíu, cầm Sự Vụ Lịnh qua phòng nói là nhờ
Giám Học xếp giờ liền.
Độ mười phút sau ông về, tươi cười:
- Anh bắt đầu dạy tuần tới nha, bây giờ cũng lở cở, tuần tới dạy nguyên
tuần cho tiện, anh dạy 12 giờ. Hai lớp Đệ Tam, một lớp Đệ Ngũ, Việt Văn,
hai lớp Đệ Thất, Công Dân.
Khách chỉ cười, không phát biểu ý kiến. Họ biết mình tay mơ nên chỉ xếp
những lớp nhẹ nhàng. Lớp Đệ Tam học trò ít chuyên cần, nhứt là môn Việt
Văn, không có chuyện mất căn bản nên học sinh thường dưỡng sức cho năm
sau.
Một lúc sau Giám Học bước vào, đi với người anh của khách:
- Anh Xuân, xin giới thiệu, anh Thơm, bạn cùng khóa với tôi ở Đại Học Sư
Phạm, anh của ông Giáo Sư mới nầy.
Không khí coi bộ thân mật hơn.
Ông Hiệu Trưởng nói trong khi dượm đứng dậy:
- Anh Lục, sao mình không dẫn anh S. đi một vòng thăm lớp của anh ấy cho
quen lớp, quen học trò?
Bốn người ra tới cửa văn phòng thì ông nói thêm:
- Mà thôi! Nhờ anh! Tôi sực nhớ lại là mình còn mấy chuyện cần giải
quyết liền.
Khách thả bàn toán trong trí: Ông Hiệu Trưởng ngoại giao ghê, và tế nhị
nữa. Có thể ông muốn để không khí thân mật lại cho ba người vốn quen
biết nhau trước.
Đến trước một lớp đang im phăng phắc, Lục nói nhỏ:
- Lớp của anh Sơn, dạy Lý Hóa. Sơn dạy hay, vui mà học sinh đều ngán vì
thường bị truy bài.
S nheo mắt với Sơn. Biết nhau quá mà!Tối qua cả bọn đi đánh bi-da trả
tiền bàn và chầu cà phê, về khuya bị chủ nhà khóa cổng, Thầy giáo phải
tháo giày để leo rào vô. Sáng nay trông hắn nghiêm chỉnh khác thường.
Một cô học trò áo dài trắng thanh tú cầm viên phấn, tay buông thỏng,
đang đứng trước bảng đen, dáng e thẹn ngại ngùng khi thấy khách..
Lại một màn giới thiệu thầy mới cho tuần tới.
Cả lớp hơi ồn ào bàn tán. Ánh mắt cô học trò đương đứng trên bảng, liếc
nhìn đánh giá người thầy mới. S. thấy đôi mắt đẹp, trong sáng và thơ
ngây. Cặp mắt có chút hoang dại của người Miên với tròng đen tròn lớn,
vành mắt sâu, chút lãng mạng và cao sang của người Tàu của một chút xếch
nhẹ thật nhẹ ở đuôi mắt. Người con gái cúi đầu xuống nhìn chân mình như
bối rối. S. kéo nhẹ áo hai người kia nhắc là thôi để Sơn nó làm việc…
***
Và tôi ở lại nhà trọ của các bạn chơi hoang luôn cả tuần để rồi về
Sàigòn không xuống nữa.
Vậy đó, tôi đến và đi như cơn gió thoảng. Bước vào lớp như một người sẽ
làm thầy, và bỏ trường đi vì trốn chạy một ánh mắt.
Có nhiều tiếng ồ ồ, ngạc nhiên và suy nghĩ.
Người ngồi kế bên hỏi S.
- Nứng vẫn còn chưa nói hết. Có gặp ánh mắt, có thấy một cử chỉ nhưng
tại sao bỏ trường, chúng tôi vẫn chưa hiểu.
Chuyện không có gì. Nhưng phải nói cho dài dòng tâm sự. Tôi thích tỉnh
nhỏ yên bình, yêu những ngôi chùa Miên có kiến trúc Khmer đặc biệt màu
vàng với nhiều đường nét cong cong. Những địa danh Kế Sách, Xẻo Gừa, Bố
Thảo,Vũng Thơm, Đại Ngãi, cù lao Dung, Bãi Xàu…Với những cánh đồng lúa
mút tận chơn trời quyến luyến lòng tôi. Chùa Năm Ông, Chùa Ông Bổn, Bún
mắm, Bánh pía, mè láu… đặc danh, và những người đàn bà Miên nói tiếng
Việt lơ lớ thiệt thà cho tôi một cảm giác thiệt là thanh bình dầu trong
một đất nước đương có chiến tranh. Thế nhưng có một sự kiện nho nhỏ…
Tiếc quá! Cô nữ sinh có đôi mắt mê hồn kia lại ở kế bên nhà trọ của
chúng tôi. Dì của nàng làm chủ nhà trọ và nấu cơm cho các thầy. Người dì
thường nhờ nàng dọn cơm cho chúng tôi. Sự bẻn lẻn rụt rè ban đầu đã từ
từ vơi đi. Tôi thấy thích cặp mắt đó. Những ngày chót của tuần lễ trên
bàn dùng làm phòng khách có cắm nhiều hoa. Tôi nghĩ rằng mình không nên
dạy ở đây vì có một người con gái đương chờ tôi ở Sàigòn. Tôi trốn chạy
để bảo vệ một ánh mắt đẹp miền quê thì đúng hơn.
Câu chuyện riêng tư nầy kể ra chỉ có mục đích trả lời câu hỏi trên.
Có tiếng ai đó trầm ngâm, giọng triết lý:
Thật ra là trốn chạy ánh mắt của lương tâm, ánh mắt Caen.
Vâng! Đúng! Mọi chuyện đều có thể xảy ra. Khi thấy mầm xấu bắt đầu xuất
hiện thì phải hủy nó ngay. Để cho tới khi đã thành cây thì hơi khó. Ở
đây nếu nói là Tình Yêu thì tự thân nó là điều thánh thiện, nhưng có lẽ
trong vị trí của tôi lúc đó, sự nghiêm khắc với chính mình là điều cần
thiết, dù sao tôi cũng mới ra trường, sự nghiệp giáo dục là một lý tưởng
của tôi...
Gần năm mươi năm rồi, tôi vẫn còn nhớ vóc dáng mảnh mai đó, cặp mắt man
dại và đài các pha trộn hai ba dòng máu đó, nhưng không có ý định đi tìm
quá khứ. Định mệnh con người như sự di chuyển của những thiên thể và
những đám tinh vân trong vũ trụ. Hội tụ đầy đủ những điều kiện nào đó
thì hai bên được gặp nhau, khi điều kiện hết thì cuộc hành trình của ai
tiếp tục theo quỹ đạo nấy. Điều kiện khoa học đó ông bà mình gọi bằng từ
dễ hiểu là duyên. Có duyên thì gặp không có duyên thì lìa. Sự suy nghĩ
của mỗi người để quyết định tạo sự hợp/lìa cũng là do cái duyên điều
khiển, thúc đẩy gián tiếp mà ta không hay biết.
Hình như sau câu nói của S. tất cả chín nứng ngồi cùng bàn đều quay về
tìm ánh mắt duyên của mình.
S. nói thêm sau khi hớp một ngụm bia:
Chúng ta không cải sửa được điều đã xảy ra. Ánh mắt kia tôi đã chọn thái
độ là buông cho mất đi để bảo toàn nó. Sau đó thì dầu muốn cũng không
thể nào tìm lại được nữa. Thế nhưng đây cũng chưa chắc là điều thiệt
thòi. Có được ánh mắt của lương tâm không phải là chuyện dễ. Và có được
một ánh mắt để làm hành trang trong đời còn quí hơn là chiếm đoạt nó…
Dường như bàn của các nứng im lặng hơn các bàn chung quanh, ít nhứt cũng
là năm bảy phút. Tiếng nhạc hơi ồn nhưng giọng ca lãnh lót của cô ca sĩ
mới nổi láy mấy câu Nỗi Buồn Hoa Phượng của nhạc sĩ Thanh Sơn nghe tê
tái không diễn tả được: Ngày mai xa cách, hai đứa hai nơi. Phút gần gũi
nhau mất rồi… Người xưa biết đâu mà tìm.
Victorville, CA, June 2012
Nguyễn Văn Sâm
(Viết riêng cho tập san Kỷ niệm 50 năm thành lập trường Hoàng Diệu.)
@DDNguoiDanVietNam
Sunday, September 16, 2012
TIN TỨC VÀ BÌNH LUẬN VỀ VIỆT NAM
Việt Nam tuần qua
RFA 15.09.2012
Chính phủ Việt Nam lại mở thêm một đợt trấn áp mới nhắm vào giới bloggers và các trang blog “lề trái”.
Screen capture
Văn bản của Văn phòng chính phủ cho biết là, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo Bộ Công an phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan chức năng phải tập trung điều tra và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân đăng tải thông tin thuộc dạng “lề trái” như các trang thông tin điện tử “Dân làm báo”, “Quan làm báo”, “Biển Đông”…
Cấm blog “lề trái”
Về lý do “xử lý” các trang blog này, chỉ thị của Thủ tướng chính phủ nêu rõ: “Các trang mạng trên đã đăng tải thông tin vu khống, bịa đặt, xuyên tạc nhằm bôi nhọ bộ máy lãnh đạo, chống Đảng và nhà nước Việt Nam”. Ngoài chuyện phải “xứ lý” các trang blog này, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng yêu cầu các lãnh đạo địa phương không được xem, không sử dụng và phổ biến các thông tin trên các trang mạng được xem là “phản động” trên.Phản ứng trước quyết định trấn áp mới này của chính phủ Việt Nam, giới viết blog trong nước đã ngay lập tức lên tiếng phản đối.
Trả lời Thanh Quang của Đài Á Châu Tự Do, từ Hà Nội, blogger Nguyễn Hữu Vinh bày tỏ:
“Tôi nghĩ rằng văn bản thông báo có những trang này trang khác phổ biến những thông tin bịa đặt, xuyên tạc nhằm mục đích này, mục đích kia thì nói như thế là không phù hợp.
Bởi vì vấn đề là các trang mạng đó nếu đưa lên những nội dung không chính xác, thì hẳn độc giả người ta biết những cái gì đúng và những gì sai.
Nói rằng những trang đó đưa lên những vấn đề bịa đặt, xuyên tạc, do các nhóm thù địch này khác, thì tôi nghĩ điều đó phía chính quyền phải có trách nhiệm, có trách nhiệm ở chỗ là tại sao những thông tin gọi là thù nghịch, những thông tin gọi là bịa đặt như vậy thì được mọi người xem?Điều nói rằng trang blog này trang mạng kia nói đúng hay là không đúng thì tôi nghĩ độc giả Việt Nam sẽ có nhận xét tốt hơn và chính những người đó sẽ đánh giá chính xác.
Blogger Nguyễn Hữu Vinh
Điều thứ hai là nói rằng những trang đó đưa lên những vấn đề bịa đặt, xuyên tạc, do các nhóm thù địch này khác, thì tôi nghĩ điều đó phía chính quyền phải có trách nhiệm, có trách nhiệm ở chỗ là tại sao những thông tin gọi là thù nghịch, những thông tin gọi là bịa đặt như vậy thì được mọi người xem?
Nếu Việt Nam thực sự có tự do hoàn toàn, có được tự do báo chí, truyền thông để người dân nắm bắt những thông tin trung thực thì rõ ràng những trang kia không có chỗ đứng, bởi vì hơn 700 tờ báo nhà nước đã đáp ứng được nhu cầu thông tin của người dân.
Nhưng ngược lại, nếu nhà nước không đáp ứng được thông tin của người dân thì là vấn đề khác.
Nói cụ thể, nếu văn phòng thủ tướng chính phủ đã đưa văn bản như vậy thì chính họ phải chứng minh được chỗ nào đúng, chỗ nào sai, sự thật ở chỗ nào, là như thế nào, thì điều đó hầu như người dân không nghe đến. Mà khi người dân không được nghe thì người ta phải tìm đến một con đường khác thôi.”
Nguyên nhân của lệnh cấm?
Cũng theo ông Nguyễn Hữu Vinh, việc chính phủ qui chụp cho trang web này đưa thông tin độc hại, trang blog kia loan truyền các thông tin phản động là không cần thiết và không còn phù hợp với xu thế truyền thông xã hội hiện nay. Theo lập luận của blogger Nguyễn Hữu Vinh thì trong thời truyền thông xã hội ngày nay, độc giả, thính giả, khán giả có lẽ là những người biết rõ nhất đâu là thông tin độc hại, đâu là thông tin bổ ích. Ông nói:“Tôi thấy điều này khá hài hước. Hài hước tức là chỉ đạo người ta không xem, không tuyên truyền này khác thì tôi nghĩ rằng điều đó hơi lạ. Làm gì có chuyện anh có thể ngăn chặn những người có tư cách công dân của họ, họ có quyền cần thông tin, cần tự do ngôn luận, tự do này khác của họ.
Vậy thì vấn đề là anh phải làm sao đó để người ta nhận thức được rằng những thông tin mà anh chỉ trích là không đúng sự thật, còn thông tin của anh là đúng sự thật. Chứ không thể nói chuyện ngăn chận thông tin như thế được. Bởi vì cái não trạng của anh cách nào đó là của thế kỷ thứ 19 chứ không phải của thế kỷ 20 hay 21 như bây giờ.
Điều đó tôi cảm thấy rất lạ. Sao lại có chuyện cấm người ta tiếp cận thông tin? Họ phải có quyền tiếp cận thông tin, nhưng nếu thông tin nào không đúng thì người ta sẽ loại bỏ. Chứ làm gì có chuyện chỉ đạo người nọ, người kia không xem, không này khác thì tôi cho đó chỉ là chuyện hài hước thôi.”
Và cũng nhanh nhạy không kém gì khi đưa tin về các vấn đề thời sự của đất nước, các trang blog bị Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu tên yêu cầu “xử lý” đã nhanh chóng phản bác lại các lập luận cho rằng họ loan tin vu khống, bịa đặt, và phản động.
Sao lại có chuyện cấm người ta tiếp cận thông tin? Họ phải có quyền tiếp cận thông tin, nhưng nếu thông tin nào không đúng thì người ta sẽ loại bỏ.Trong một văn bản phổ biến cho độc giả cũng như các cộng tác viên, những người chủ trương trang blog “Dân Làm Báo” kêu gọi….
Blogger Nguyễn Hữu Vinh
"Danlambao không chấp nhận và khuất phục trước mọi hành động bịt mồm, bịt mắt, bịt tai của bất kỳ nhà nước, đảng cầm quyền nào. Không ai có quyền phán xét và tự quyết định những gì mà công dân Việt Nam được đọc, nghe và trao đổi.
Do đó, Danlambao sẽ tiếp tục cung cấp thông tin và quan điểm đa chiều của mọi thành phần nhân dân, tạo diễn đàn để chính dân “độc giả” chúng ta tự làm tin, tự thông tin, tự đại diện cho cái nhìn, quan điểm của chính mình, tự cất tiếng nói về những vấn đề chúng ta quan tâm trong đời sống."
Sự kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu các cơ quan chức năng phải “xử lý” các kênh thông tin “lề trái” diễn ra trong bối cảnh nhiều scandal tài chính – ngân hàng, các tập đoàn quốc doanh liên tiếp xảy ra tại Việt Nam, càng khiến cho công luận đặt ra nhiều câu hỏi về lý do thực chất của lệnh cấm này???
Hầu như tất cả các trang blog nằm trong danh sách cần “xử lý” của thủ tướng chính phủ đều là các trang thông tin đi đầu trong việc loan tải tin tức nhanh nhạy nhất về các vụ bê bối này, đi kèm là các chi tiết về các mối liên hệ với cá nhân cũng như gia đình các quan chức cao cấp trong Đảng và chính phủ Việt Nam.
Và điều thú vị là nếu trong thời gian các vụ bê bối xảy ra tại Việt Nam, các trang blog này đã thu hút được một lượng người xem đáng kể, thì lệnh “xử lý” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hôm thứ Tư 12 tháng 9 lại càng làm cho số người vào đọc các tin này tăng vọt.
Theo các thống kê chưa đầy đủ, chỉ một ngày sau lệnh của thủ tướng chính phủ, đã có thêm hàng chục ngàn lượt người vào xem các trang blog này, trong đó có cả độc giả trong nước, ngoài nước và thậm chí là người nước ngoài quan tâm đến tình hình Việt Nam.
Dự luật Nhân quyền
Lệnh trấn áp giới bloggers của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không những thu hút sự quan tâm của dư luận, mà còn một lần nữa đánh động thế giới về tình trạng độc quyền thông tin tại Việt Nam. Như một sự trùng hợp ngẫu nhiên, văn bản “xử ký” các trang blog phản động của Thủ tướng Việt Nam được ban hành chỉ không đầy một ngày sau khi Hạ viện Hoa Kỳ thông qua Dư luật Nhân quyền cho Việt Nam với đa số tuyệt đối, trong đó lên án chính phủ Hà Nội ngày càng gia tăng việc bắt giam, sách nhiễu và ngăn cấm các tiếng nói đối kháng trên mạng internet.Đây là một sự khích lệ đối với những người đang đấu tranh dành tự do dân chủ cho đất nước.Phát biểu tại diễn đàn Hạ viện Hoa Kỳ trước khi biểu quyết thông qua Dự luật hôm thứ Ba 11 tháng 9, nhiều nhà lập pháp Mỹ đã lớn tiếng tố cáo tố cáo chính sách vi phạm nhân quyền của Việt Nam, lên án việc lợi dụng những luật lệ mơ hồ như điều 79, điều 88 trong bộ luật hình sự để bắt giữ, giam nhốt những người bất đồng chính kiến, những người bày tỏ quan điểm một cách ôn hòa trên internet.
LM Phan Văn Lợi
Và cũng như những lần trước, dự luật nhân quyền Việt Nam của Hạ viện Mỹ đã gặp phải sự phản đối của chính phủ tại Hà Nội nhưng lại được giới tranh đấu trong nước hoan nghênh đón nhận.
Nếu tại Hà Nội, phát ngôn viên Bộ ngoại giao Lương Thanh Nghị cho rằng dự luật Nhân quyền cua Hạ viện Mỹ đã dựa trên những thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình thực thi quyền con người Việt Nam; thì từ Huế, Linh mục Phan Văn Lợi – một thành viên của Khối Dân Chủ 8406 cho rằng:
“Sau khi Hạ Viện của Hoa Kỳ đưa ra dự luật Nhân quyền cho Việt Nam, các nhà đấu tranh dân chủ trong nước và các phong trào đấu tranh hết sức vui mừng, và xin cám ơn quý vị dân biểu trong Hạ Viện. Đây là một sự khích lệ đối với những người đang đấu tranh dành tự do dân chủ cho đất nước.”
Thủy điện Sông Tranh 2?
Và cuối cùng, nên hay không nên tiếp tục đưa công trình thủy điện Sông Tranh 2 vào sử dụng giữa lúc xảy ra nhiều trận động đất liên tục, đe dọa đến sinh mạng của hàng trăm ngàn người dân trong khu vực? Cho đến thời điểm này, đây vẫn còn là câu hỏi bỏ ngỏ. Vì trong lúc Tập đoàn điện lực Việt Nam EVN cho rằng đập thủy điện Sông Tranh bảo đảm các yếu tố an toàn và cho tiếp tục tích nước để vận hành; thì chính quyền tỉnh Quảng Nam đã công khai lên tiếng phản đối.Tuần này, đích thân Bí thư tỉnh ủy Quang Nam, ông Nguyễn Đức Hải đề nghị chấm dứt sự họat động của thủy điện Sông Tranh 2 nếu công trình này không an toàn cho người dân.
Chúng tôi có ý kiến là, làm gì thì làm phải tuyệt đối an toàn trước đã, an toàn tính mạng của nhân dân.Theo Bí thư tỉnh ủy Nguyễn Đức Hải, với những gì đã xảy ra trong thời gian gần đây, muốn an dân thì cần phải hy sinh công trình này. Ông Hải cũng đề nghị các nhà khoa học và các cơ quan chức năng cần tập trung làm rõ để công khai với người dân Quảng Nam.
Ô. Nguyễn Thế Tài
Quan điểm của Bí thư tỉnh ủy Quảng Nam đã nhanh chóng nhận được sự đồng tình của các giới chức địa phương tại nơi có công trình thủy điện Sông Tranh 2.
Trả lời Nam Nguyên của Đài Á Châu Tự Do tối 13/9, ông Nguyễn Thế Tài, bí thư Huyện ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân Huyện Bắc Trà My phát biểu:
“Chúng tôi có ý kiến là, làm gì thì làm phải tuyệt đối an toàn trước đã, an toàn tính mạng của nhân dân. Hôm qua (12/9) cấp ủy đã họp rồi, đã có ý kiến của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy và sẽ chờ kết luận của Trung ương.”
Trước những thực tế đang xảy ra, có lẽ đây là một chọn lựa rất khó khăn cho những nhà làm chính sách của Việt Nam; giữa một bên là hy sinh một công trình mà chính phủ đã phải đầu tư đến hơn 5 ngàn 2 trăm tỉ đồng; và bên kia là mối đe dọa đến sinh mạng của hàng ngàn cư dân trong vùng
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-weekly-review-show-87-09152012135106.html
Liệu có khủng hoảng kinh tế tại Việt Nam? (phần 1)
Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2012-09-14
Thực trạng một nền kinh tế với các khoản nợ xấu ngân hàng chồng chất, bất động sản đóng băng và nhất là niềm tin của người dân và các nhà đầu tư nước ngoài giảm sút trước sự bất ổn của Chính phủ Việt Nam, nhiều lời đồn đoán rằng Việt Nam sẽ rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế.
RFA file
Tải xuống - download
Nguyên nhân
Ngay sau vụ bắt giữ Nguyễn Đức Kiên, một nhà tài phiệt trong giới ngân hàng Việt Nam, như giọt nước làm tràn ly, nhiều nhà bình luận cả trong nước lẫn quốc tế cho rằng nguyên nhân dẫn đến tình trạng khó khăn hiện tại của Việt Nam chính là do sự bất ổn chính trị.Ngay trong bản tin hôm 27/8, AFP với tiêu đề “tranh đoạt quyền lực trên con thuyền kinh tế chơi vơi” trích nguồn từ bài viết của công ty Stratfor nhận định rằng vụ bắt giữ ông Kiên cho thấy có một “cuộc tranh giành quyền lực trong hàng ngũ lãnh đạo Đảng” và rằng “mối quan ngại to lớn hơn nằm ở nguy cơ bất ổn chính trị… việc bắt giữ Nguyễn Đức Kiên có thể mang ý nghĩa của sự bất hòa ngày càng gia tăng giữa những nhân vật ở thượng tầng và các phe phái chính trị.”
Đồng thời, bản tin AFP cũng trích lời một cựu đại biểu quốc hội Việt Nam rằng “chưa bao giờ xã hội Việt Nam đối diện với nhiều chuyển biến đến thế, những chuyển biến làm yếu đi nền lãnh đạo của đảng Cộng Sản và đe dọa toàn bộ chế độ chính trị.”
Theo quy luật sự ổn định về mặt chính trị luôn là nhân tố chủ chốt bao trùm lại toàn bộ đời sống xã hội, kinh tế, phúc lợi… của một quốc gia, khi có sự đấu đá trong hàng ngũ lãnh đạo, thì đó cũng là lúc cả xã hội và nền kinh tế dù trực tiếp hay gián tiếp, thông qua các chính sách vĩ mô cũng sẽ phải hứng chịu những hệ lụy không thể tránh khỏi. Và điều
này được minh chứng khá rõ tại Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên, mà hàng loạt những vụ bê bối về kinh tế lớn ở Việt Nam thời gian qua đều xuất phát hoặc có dính dáng tới Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, châm ngòi là vụ Vinashin và đỉnh điểm là vụ bắt giữ bầu Kiên, khiến hàng loạt các trang blogs trong nước cũng như các tổ chức truyền thông nước ngoài có chung nhận định khi sự tập trung quyền hành quá lớn vào tay một người là Thủ tướng, cộng với sự bất đồng trong hàng ngũ chóp bu, thì phần chìm của tảng băng đã bị mang ra “hành quyết.”
Và điều gì đến sẽ phải đến, đó là “khủng hoảng lòng tin” của người dân vào sự ổn định chính trị bị lung lay, nhận xét về điều này, T.S Vũ Ngọc Xuân, giảng viên chính khoa Kinh tế trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết:
"Nghiêm trọng nhất là khủng hoảng niềm tin, vừa rồi một số vụ liên quan đến vụ bắt giữ một số nhân vật được cho là đại gia trong lĩnh vực ngân hàng ảnh hưởng tới tâm lý thị trường.
Ở Việt Nam hay tuân theo tin đồn, gần đây một số tin đồn xuất hiện trên blogs, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân vào ổn định chính trị, một số tin đồn liên quan đến việc đấu đá chính trị cấp cao, ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống tài chính."
Theo T.S Xuân phân tích, hệ thống tài chính, nơi cung cấp tiền bạc và tín dụng cho nền kinh tế bị xáo trộn, người dân dồn dập rút tiền khỏi ngân hàng và chuyển những khoản tiết kiệm này sang kênh vàng, không đầu tư hay tiết kiệm nữa.
Điều nguy hiểm là, trong bối cảnh nợ xấu ngân hàng tăng cao chưa có thuốc chữa, ngân hàng thiếu tính thanh khoản, thì cùng lúc dòng vốn lại bị người dân rút khỏi “huyết mạch” kinh tế, khi không đủ vốn thì hàng loạt ngân hàng lại quay sang rút tiền khỏi các công ty đầu tư chứng khoán.
Và cái vòng luẩn quẩn thiếu vốn, thiếu tiền cộng với các khoản nợ xấu, đang biến hệ thống ngân hàng, tài chính Việt Nam vốn đang ở thời kỳ cực thịnh chỉ một vài năm trước, nay bước vào “ cơn bĩ cực.”
Nghiêm trọng nhất là khủng hoảng niềm tin, vừa rồi một số vụ liên quan đến vụ bắt giữ một số nhân vật được cho là đại gia trong lĩnh vực ngân hàng ảnh hưởng tới tâm lý thị trường
TS Vũ Ngọc Xuân
Dấu hiệu khủng hoảng
Thời kỳ “cực thịnh” kia của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, khiến người ta liên tưởng lại giai đoạn tín dụng được Việt Nam bơm ra ào ạt.Trong bản tin của AFP hôm 27/8 nhận xét rằng, sau khi mở cửa kinh tế, quyền lực chuyển dần từ Đảng Cộng Sản sang tay Chính phủ, mà cụ thể là vào tay của Thủ tướng Dũng khi ông lên nắm quyền năm 2006.
Trong thời kỳ sung mãn, bằng mọi giá để đánh đổi lấy sự tăng trưởng, tín dụng đã được bơm ra mạnh mẽ, khiến kinh tế Việt Nam liên tục được ca ngợi như một hình mẫu của sự tăng trưởng với hơn 7%.
Nhưng rồi, giờ đây khi mất đi đà tăng trưởng, người ta mới thấy rõ những mặt tiêu cực trong chính sách phát triển quá nóng của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng tại Việt Nam không chỉ đến từ rủi
ro của hệ thống tài chính mà nó còn được thể hiện ở dòng vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam sụt giảm, tính đến đầu tháng 8, nguồn vốn trực tiếp đã giảm đến hơn 1/3 so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoài những lý do như bất ổn kinh tế, cơ sở hạ tầng yếu kém hay tiền lương nhân công tăng cao thì sự bất ổn trong đời sống xã hội tại Việt Nam cũng là một nguyên nhân. Tiếp tục phân tích, T.S Vũ Ngọc Xuân nói tiếp:
"Mối lo ngại nhất của các nhà đầu tư là sự bất ổn liên quan đến chính trị, vấn đề chính trị ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế.
Bây giờ hầu hết mọi người là nghe ngóng thông tin xem có vấn đề gì không, có nhiều đồn đoán đến có sự can thiệp chính trị từ bên ngoài, vấn đề Biển Đông cũng gây sự chú ý lớn của dư luận trong nước, người ta lo ngại một cuộc chiến tranh trên Biển Đông chẳng hạn, những điều này ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước, họ không an tâm đầu tư lâu dài tại Việt Nam."
Mối lo ngại nhất của các nhà đầu tư là sự bất ổn liên quan đến chính trị, vấn đề chính trị ảnh hưởng rất lớn đến kinh tếTrên cả 2 khía cạnh, sức mạnh nội tại của nền kinh tế (hệ thống tài chính ngân hàng) lẫn những động lực bên ngoài để kích thích sự tăng trưởng (dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài), Việt Nam đều đang đối mặt với nhiều trở ngại ít nhiều có liên quan đến bất ổn và chia rẽ bè phái trong tầng lớp chính trị tại Việt Nam.
TS Vũ Ngọc Xuân
Tuy nhiên, với câu hỏi nguyên nhân nào dẫn tới những tiềm ẩn bất ổn kinh tế vĩ mô của Việt Nam hiện nay, T.S Ngô Trí Long, một chuyên gia tài chính trả lời khái quát rằng:
"Hiện nay Việt Nam căn bệnh gọi là trầm kha rất cố hữu mà ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ mô là năng suất, chất lượng hiệu quả còn rất thấp, tham nhũng chưa triệt được tận gốc, những tiềm năng bất ổn kinh tế vĩ mô rất lớn".
Một trong ba lý do lớn dẫn tới sự bất ổn kinh tế Việt Nam mà T.S Ngô Trí Long nhận xét đó chính là vấn đề tham nhũng. Điều này cũng giải thích tại sao trong Nghị quyết TW Đảng lần thứ 4, vấn đề tham nhũng được đặt lên làm trọng tâm đối với hơn 3 triệu đảng viên tại Việt Nam.
Nhắc đến đây, làm chúng tôi nhớ lại lời G.S Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam của Học viện Quốc phòng Australia nhận định “chủ tịch nước Sang và Tổng Bí thư Trọng đang lặp đi lặp lại một điệp khúc cũ nhưng chính xác rằng tham nhũng là một trong những thách thức lớn nhất đối với tính chính danh của chế độ độc đảng ở Việt Nam.”
Hơn nữa, ông Thayer còn nói thêm “một trận tranh đấu phe phái đã bắt đầu” và “trận địa chính là cải cách kinh tế bao gồm khu vực nhà nước và khu vực ngân hàng và triệt tiêu tình trạng tham nhũng ở mức độ lớn đã ăn sâu vào hệ thống chính trị.”
Phải chăng với một sự bất ổn chính trị, đấu đá phe cánh đến hồi cao trào cộng với sự bất bình của công chúng đối với các quan chức tham nhũng đang là nguyên nhân châm ngòi nổ có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng kinh tế tại Việt Nam.
Trong phần sau của loạt bài này, chúng tôi sẽ gửi tới quý vị ý kiến của các chuyên gia về dự đoán này.
Theo dòng thời sự:
- Thanh trừng nội bộ hay kịch bản của ngoại bang?
- Hiệu ứng Boomerang
- TS Lê Đăng Doanh: vụ “Bầu” Kiên là hệ quả việc thiếu giám sát quyền lực
- Tổng giám đốc Tập đoàn tài chính ACB Nguyễn Đức Kiên bị bắt
- Thị trường chứng khoán Việt Nam hốt hoảng trước tin Bầu Kiên bị bắt
- “Đại gia” hay “trọc phú” thời hiện đại?
- Công ty Cổ phần thủy sản Bình An thanh toán tiền nợ
- Nông dân Cần Thơ đòi Bianfishco phá sản
- Vỡ Nợ Dây Chuyền- Tháp Cao Sụp Đổ?
- Phó vụ trưởng Bộ Tài chính bị truy nã vì tội lừa đảo
- TGĐ công ty CP sàn bất động sản Việt Nam tù chung thân
Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/will-vn-eco-cris-09142012104327.html
Liệu có khủng hoảng kinh tế tại Việt Nam? (phần 2)
Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2012-09-15
Tiếp tục loạt bài về liệu sẽ có khủng hoảng kinh tế tại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, trong phần 2 của bài sẽ tổng hợp ý kiến của một số chuyên gia và giảng viên kinh tế về vấn đề này.
RFA
Mới đây, trong bản tin của hãng Bloomberg trích dẫn lời ông Đinh Tuấn Minh, một thành viên của nhóm tư vấn chính sách kinh tế vĩ mô của Quốc hội và đồng tác giả của “Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012” rằng, Việt Nam có thể cần đến cứu trợ quốc tế để tạo quỹ “tái cấu trúc hệ thống ngân hàng” nhằm giải quyết nợ xấu khổng lồ cho hệ thống này. Cùng thời điểm này, trong cuộc họp Thượng đỉnh APEC tại Nga, Tổng thống Indonesia Susilo Yudhoyono cho biết các thành viên của ASEAN cũng như bản thân Indonesia sẽ sẵn sàng giúp Việt Nam vượt qua “khủng hoảng” để không cần cứu trợ từ IMF. Với những thông tin như vậy, cộng với khả năng phục hồi kinh tế chậm chạp cũng như triển vọng không mấy sáng sủa trong thời gian trước mắt, nhiều lời đồn đoán cho rằng Việt Nam có thể bước vào ngưỡng của một cuộc khủng hoảng kinh tế.
Tùy vào cải cách của chính phủ
Tuy nhiên, để khẳng định có hay không một cuộc khủng hoảng là một câu hỏi không dễ trả lời, vì có rất nhiều tác nhân quyết định đến khái niệm “khủng hoảng”. Ở một số quốc gia thì khủng hoảng bắt nguồn từ hệ thống tài chính ngân hàng hoặc bắt đầu bằng tình trạng bong bóng địa ốc; trong khi đó ở quốc gia khác thì khủng hoảng lại bắt đầu từ sự bất ổn chính trị, chiến tranh hoặc quốc gia mất khả năng trả nợ quốc tế. Khái niệm khủng hoảng kinh tế ở mỗi quốc gia mang những đặc tính khác nhau, dựa trên những yếu tố như lạm phát, tốc độ tăng trưởng, cán cân thanh toán, dòng tiền lưu thông trong nền kinh tế của nước mình. Tại Việt Nam, nếu có một cuộc khủng hoảng kinh tế thì cũng sẽ mang “màu sắc” khác bởi thể chế chính trị cũng như khả năng can thiệp của Chính phủ vào điều hành nền kinh tế ở mức độ khác với các nước từng trải qua khủng hoảng trong khu vực. Chúng tôi liên hệ với TS Lê Đăng Doanh, nguyên viện trưởng Viện quản lý Kinh tế Trung ương để tìm hiểu về khả năng có xảy ra một cuộc khủng hoảng tại Việt Nam hay không, TS Doanh cho biết:“Việc có khủng hoảng hay không thì đó là điều mà trong giới học thuật cũng như trong giới chính trị cho đến nay chưa có kết luận, cho nên tôi chưa muốn nói gì đến chuyện gì đến việc đó.”
Tình hình kinh tế năm tới phụ thuộc rất nhiều vào hành động cải cách của Chính phủ, nếu không có những hành động cải cách kiên quyết có hiệu quả thì tình hình khó có khả năng cải thiện.Mặc dù không trả lời thẳng liệu có hay không một cuộc khủng hoảng, nhưng TS Doanh cho biết khả năng nền kinh tế Việt Nam vẫn còn rất nhiều khó khăn và kinh tế có cải thiện được hay không còn tùy thuộc vào các chính sách điều tiết của Chính phủ với các biện pháp cải cách kiên quyết, ông nhận xét:
TS Lê Đăng Doanh
“Tình hình kinh tế năm tới phụ thuộc rất nhiều vào hành động cải cách của Chính phủ, nếu không có những hành động cải cách kiên quyết có hiệu quả thì tình hình khó có khả năng cải thiện. Phải cải cách cả bộ máy, cả thể chế, phải cải cách đầu tư công, doanh nghiệp Nhà nước và hệ thống ngân hàng.”
Trong thời gian qua, Việt Nam đã nhiều lần nhắc tới việc phải tái cấu trúc nền kinh tế và ngay TS Lê Đăng Doanh cũng đã lên tiếng cho rằng Việt Nam cần phải có một sự đổi mới kinh tế lần 2 theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu để phù hợp với tình hình kinh tế hiện tại. Mặc dù đề án tái cấu trúc đã được giao cho Bộ Kế hoạch Đầu tư chủ trì thực hiện, nhưng đề án này đã bị hoãn lại cho đến năm sau.
Không cần vay vốn
Tuy nhiên, ở góc độ vay nợ quốc tế để cứu trợ cho các khoản nợ xấu của hệ thống ngân hàng như một số chuyên gia cảnh báo, TS Vũ Ngọc Xuân, giảng viên chính khoa Kinh tế trường ĐH Kinh tế Quốc Dân cho rằng khả năng đó rất khó xảy ra tại Việt Nam do dự trữ ngoại hối của Việt Nam vẫn ở mức an toàn, cũng như sự ổn định của tỷ giá giữa đồng nội tệ và đồng đô la Mỹ. TS Xuân cho biết: “Nhìn chung khả năng khủng hoảng của Việt Nam mà cần đến các tổ chức tài chính quốc tế cứu trợ như IMF, World Bank thì điều đó rất khó có khả năng xảy ra. Điều đó chỉ có thể xảy ra nếu Việt Nam có sự bất ổn liên quan đến chính trị, gây ra khủng hoảng niềm tin thì sẽ cần đến sự cứu trợ của các tổ chức quốc tế.Cho nên Việt Nam mặc dù khó khăn nhưng vẫn không cần đến sự cứu trợ của các tổ chức quốc tế.Nhưng với tình hình dự trữ ngoại hối của Việt Nam hiện nay, cũng như sự ổn định tỷ giá giữa đồng VN và đồng USD thì khả năng đó rất là thấp. Cho nên Việt Nam mặc dù khó khăn nhưng vẫn không cần đến sự cứu trợ của các tổ chức quốc tế.”
TS Vũ Ngọc Xuân
Mặc dù không cho rằng những bất ổn chính trị có thể là ngòi nổ cho một cuộc khủng hoảng kinh tế, TS Nguyễn Quang A nhận xét tương lai kinh tế Việt Nam sẽ vẫn còn có những trở ngại nếu chừng nào chưa có sự xác định rõ ràng vai trò của Đảng Cộng sản, chưa phân định được rõ ràng vai trò của Nhà nước và vai trò của khối các doanh nghiệp làm kinh tế, TS Quang A bình luận:
“Tôi nghĩ rằng chừng nào Đảng Cộng sản Việt Nam chưa thay đổi đường lối của mình, chừng nào họ chưa có một nhìn nhận rất rõ là việc gì là việc của nhà nước và việc gì là việc của các doanh nghiệp mà vẫn còn lẫn lộn như thế thì tôi nghĩ rằng tình hình kinh tế khó có khả năng sáng sủa hơn.”
Không hẳn
Nếu nhìn vào các chỉ số kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn gần đây có thể thấy tình hình đã có những cải thiện, nhưng chưa nhiều, tốc độ tăng trưởng nửa đầu năm ở mức 4.4% so với mức ban đầu 6.5%, số lượng các doanh nghiệp khai phá sản hoặc ngừng nộp thuế vẫn tăng cao, những rủi ro của bất ổn vĩ mô vẫn lớn. TS Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương thừa nhận bản thân nội tại của nền kinh tế vẫn còn những khó khăn nhưng khả năng dẫn đến một cuộc khủng hoảng thì không có. Ông nhận xét: “Vẫn thừa nhận là rủi ro bất ổn vĩ mô vẫn còn và có một số vấn đề thí dụ như nợ xấu trong hệ thống ngân hàng khá là nghiêm trọng, thứ hai là tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đang tăng chậm lại, nền kinh tế còn rất nhiều khó khăn về các hoạt động sản xuất kinh doanh.Nhưng đến mức Việt Nam không thể xử lý được mình thì tôi nghĩ nó không hẳn như vậy.Nếu mà nói có nguy cơ xảy ra khủng hoảng hay không thì trong bối cảnh kinh tế hiện nay của thế giới và khu vực cũng còn rất nhiều khó khăn thì kinh tế Việt Nam cũng khó khăn và nội tại kinh tế của Việt Nam cũng có nhiều khó khăn. Nhưng đến mức Việt Nam không thể xử lý được mình thì tôi nghĩ nó không hẳn như vậy.”
TS Võ Trí Thành
Ngoài ra TS Võ Trí Thành cũng cho biết theo dự báo có thể nền kinh tế Việt Nam năm tới sẽ khá hơn một chút, dần dần vượt qua được những khó khăn với những biện pháp quyết liệt từ cấp vĩ mô, theo đó các hướng cải cách sẽ tập trung mạnh vào hệ thống ngân hàng, khối doanh nghiệp Nhà nước và đầu tư công.
Xin được nhắc lại, trong ngày 13/9, khi trả lời TTXVN, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng khẳng định với điều kiện kinh tế vĩ mô, Chính phủ Việt Nam sẽ không có nhu cầu vay vốn của IMF cũng như của các nước ASEAN + 3 để xử lý các vấn đề trong nước, Thủ tướng nhận định Việt Nam đã bắt đầu đã có những dấu hiệu tích cực trên các mặt như tài khoản vãng lai, dự trữ ngoại hối, xuất nhập khẩu…
Có thể nói, với những dấu hiệu cả tiêu cực lẫn tích cực mà nền kinh tế Việt Nam đang thể hiện, cộng với bức tranh sáng tối đan xen của nền kinh tế toàn cầu, rất khó để kết luận Việt Nam sẽ bước vào thời kỳ khủng hoảng với việc vay vốn cứu trợ của các tổ chức quốc tế để giúp giải quyết nợ xấu của hệ thống ngân hàng. Bất kỳ một kết luận nào được đưa ra hiện tại chắc chắn sẽ cần phải có thêm thời gian để tìm hiểu và nghiên cứu.
Chủ nghĩa cộng sản: một thế giới viễn mơ
Quỳnh Chi, phóng viên RFA
2012-09-15
Nguyễn Chí Đức, từng là một sinh viên năng nổ tham gia vào ĐCSVN với những tâm huyết tuổi trẻ vừa viết đơn xin ra khỏi ĐCSVN. Năm 2010, tiến sĩ Đỗ Xuân Thọ yêu cầu bỏ học thuyết Mác-Lê và tuyên bố đốt thẻ Đảng. Liệu đây là một trong những biểu hiện cho thấy lý thuyết cộng sản không áp dụng được trong thực tế?
AFP photo
Quỳnh Chi hỏi chuyện ông Lữ Phương, lý luận gia Marxist và là nhà nghiên cứu chính trị về đảng Cộng sản Việt Nam. Nói về việc xin ra khỏi ĐCSVN của Nguyễn Chí Đức, ông Lữ Phương nhận xét:
Tuyệt vọng từ lâu
Lữ Phương: Đây thực sự chỉ là một hình thức công khai mà thôi, nghĩa là khi có điều kiện thích hợp thì nó bộc lộ ra. Nhưng theo tôi hiểu bên trong có rất nhiều đảng viên (ĐCSVN) chính thức thì chưa ra nhưng họ đã bỏ hoàn toàn những sinh hoạt vì họ mất hoàn toàn niềm tin; không còn tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng có thể đưa đất nước đi lên. Cuối cùng thì tôi nghĩ những người có lương tri đều từ bỏ ĐCSVN hết thôi. Nó khác hẳn một thời khác.Quỳnh Chi: Thế thì điểm khác nhau nhất giữa giai đoạn mà người ta bắt đầu tham gia vào ĐCSVN cách đây 70-80 chục năm chẳng hạn so với giai đoạn sau này là gì?
Cuối cùng thì tôi nghĩ những người có lương tri đều từ bỏ ĐCSVN hết thôi.Lữ Phương: Trước đây, thời kỳ giành độc lập dân tộc thì Đảng là một đảng rất mạnh, được tin tưởng, hòa vào cùng khát vọng dân tộc là đòi hỏi một đất nước có độc lập chủ quyền và trên cái độc lập đó xây dựng một xã hội mới. Đó là một lý tưởng, là một viễn cảnh mà các đảng viên (ĐCSVN) tham gia hy sinh tranh đấu. Nhưng khi thời kỳ đó chấm dứt, chuyển sang xây dựng hòa bình thì đường lối lãnh đạo (của ĐCSVN) hoàn toàn đi ngược lại, hầu như phủ nhận hoàn toàn lý tưởng đó.
Ô. Lữ Phương
Quỳnh Chi: Như ông đã nói, lúc tham gia vào ĐCSVN, người ta đều có một lý tưởng là mang đến một điều tốt đẹp cho đất nước. Tuy nhiên, bây giờ đường lối của ĐCSVN lại đi theo một hướng khác (như ông nói) thì những thế hệ tham gia tranh đấu cho đất nước như các ông chẳng hạn, có thấy thất vọng không?
Lữ Phương: Rất nhiều trí thức đã tuyệt vọng từ lâu rồi. Từ sau năm 1954 và sau khi giải phóng rồi thì nó biểu hiện thấy rõ như vụ Văn Nhân Giai Phẩm chẳng hạn; nhưng vì tình hình đất nước vẫn còn chiến tranh, thế này thế khác cho nên người ta phải chịu thôi. Do chính quyền còn đó nên sự phản ứng của trí thức vẫn cứ tiếp tục dưới nhiều hình thức. Cho đến ngày nay nó cũng chỉ là tiếp tục của những gì từ những ngày đầu thôi chứ không có gì lạ cả.
Lý thuyết không tưởng
Quỳnh Chi: Một số người cho rằng những thất bại trong đường lối của ĐCSVN (như trong kinh tế, tham nhũng, và các chính sách xã hội) đã chứng minh rằng chủ thuyết cộng sản rất đẹp về lý thuyết nhưng khi đưa vào thực hiện trong thực tế thì lại không được như vậy. Là một người am hiểu về lý thuyết chủ nghĩa cộng sản, ông suy nghĩ thế nào? Lữ Phương: Tôi thấy nếu nói rằng chủ nghĩa cộng sản mà đẹp thì nó không phải đẹp về lý thuyết mà về sự không tưởng của nó, tức là một thế giới viễn mơ, một ước mong, một khát vọng, một sự tưởng tượng về tương lai. Nhưng có những thời kỳ, cái đó (lý thuyết cộng sản) có tác động đến thực tế, nó hỗ trợ cho những cuộc tranh đấu thực tiễn.Nguyên nhân chính người ta vào Đảng là thực tiễn chẳng hạn như vấn đề yêu nước hay công bằng xã hội. Cái lý thuyết không tưởng kia nó “chấp” vào để tạo cho người ta một động lực để hy sinh phấn đấu. Lúc đầu người ta chưa có điều kiện để kiểm chứng thực tiễn đó thế nào. Sau khi giành được độc lập dân tộc thì họ bắt đầu đem lý thuyết đó (cộng sản) ra thực hiện. Trước thực tế thì lý thuyết không tưởng bộc lộ hết cái sự tàn khốc của nó ra.
Quỳnh Chi: Đảng Cộng sản Việt Nam hiện vẫn kiên định với đường lối đi lên XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI (tháng 01-2011) cũng tiếp tục khẳng định điều này. Một số người đặt câu hỏi là “Liệu Việt Nam có tới được XHCN không?” Theo ông thì “tới” hay không?
Tôi thấy nếu nói rằng chủ nghĩa cộng sản mà đẹp thì nó không phải đẹp về lý thuyết mà về sự không tưởng của nó, tức là một thế giới viễn mơ, một ước mong, một khát vọng, một sự tưởng tượng về tương lai.Lữ Phương: Tôi đã nói từ rất lâu rồi là không có cái gọi là CNXH mà là CNXH Marxist. Bởi CNXH là một khái niệm rộng, có nhiều xu hướng khác nhau. Nhưng cái CNXH mà các đảng CS hiện thực từ Liên Xô đến Trung Quốc, Việt Nam đang làm là hoàn toàn không có cái gọi là CNXH. Đó là cái “phản CNXH”. Không có con đường nào đi lên “phản CNXH” cả. Nếu người ta muốn tìn một CNXH thì có một CNXH khác để đi lên chứ không phải thứ CNXH này.
Ô. Lữ Phương
Quỳnh Chi: Ông có thể nói rõ hơn?
Lữ Phương: Đứng về mặt lý thuyết, tư tưởng thì người ta có rất nhiều quan niệm khác nhau. Mô hình này, mô hình khác… rất nhiều tư tưởng của những triết gia và đem ra thực hiện. Vấn đề đặt ra là “anh” thực hiện nó như thế nào. Về quyền tự do thì “anh” cứ đưa ra đường lối đó nhưng “anh” phải thực hiện bằng con đường dân chủ. Còn cái CNXH hiện thực nó không thực hiện bằng con đường dân chủ mà bằng áp bức, bạo lực, trấn áp… cái đó là đi ngược hoàn toàn xu hướng thế giới và không thể nào tồn tại được.
Quỳnh Chi: Văn phòng Chính phủ vừa thông báo ý kiến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về việc điều tra, xử lý những trang web được cho là “có nội dung chống Đảng và Nhà nước”. Một số người cho rằng việc này đi ngược lại vấn đề “phê bình và tự phê bình” – được xem là một trong những nguyên tắc của ĐCSVN. Ông nhận xét thế nào?
Lữ Phương: “Phê và tự phê” từ xưa đến giờ là một trò hề, chẳng có gì nghiêm chỉnh cả. Nó chỉ là hình thức chứ không phải thực tế. Việc làm này của ông Nguyễn Tấn Dũng là một hình thức trấn áp. Việc tự phê bình không tác dụng gì cả nên phải bộc lộ hết thực chất bên trong là biện pháp trấn áp. Quỳnh Chi: Một số nguồn tin chưa kiểm chứng cho rằng đang có sự cạnh tranh và đấu đá nhau trong Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ông thấy có chuyện đó không?
Lữ Phương: Việc đấu tranh giành quyền lực trong nội bộ Đảng là việc triền miền từ xưa đến giờ dưới nhiều hình thức ngay cả trong thời kỳ chưa có chính quyền. Ở những nước dân chủ thì sự “đấu đá” quyền lực được biểu hiện công khai trên báo chí, nghị trường, xã hội. Nhưng ở những nước cộng sản thì việc đó không được không khai bày tỏ ra nên cuộc “đấu đá” diễn ra âm thầm trong nội bộ nhiều khi rất tàn khốc. Nếu nói đang diễn ra thì nó chỉ là một hình thức mới trong giai đoạn mới thôi.
Quỳnh Chi: Xin cám ơn ông đã chia sẻ.
Theo dòng thời sự:
- Anh Nguyễn Chí Đức ra khỏi Đảng Cộng Sản VN
- Thêm một đảng viên từ bỏ chủ nghĩa Mác Lê Nin
- Có nên từ bỏ “Chủ nghĩa Mác-Lê” hay không?
- Vì sao nhiều đảng viên CSVN trả thẻ Đảng?
- Tội ác của Cộng sản với nhân loại
- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ra lệnh xử lý nhiều trang blog
- TBT Nguyễn Phú Trọng ca bài XHCN
- "Ngôi nhà Đảng" đã quá mục rữa
Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/luphuong-communisms-theory-is-imaginative-09152012110850.htmlhttp://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/luphuong-communisms-theory-is-imaginative-09152012110850.html
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/luphuong-communisms-theory-is-imaginative-09152012110850.htmlhttp://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/luphuong-communisms-theory-is-imaginative-09152012110850.html
Việt Nam: con hổ khốn cùng
Việt Long RFA, lược dịch từ "The Economist"
2012-09-14
Với ít ỏi triển vọng cải tổ có ý nghĩa, nền kinh tế sẽ còn lung lay thêm nữa.
National Geographic photo
Cơn ác mộng
Những tuần lễ vừa qua là cả một cơn ác mộng cho giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam, những người tự hào là đã đem lại ổn định chính trị và kinh tế cho 90 triệu người dân Việt.Những ngân hàng bị khách đổ xô tới rút tiền, những giám đốc bỏ trốn, bị bắt giam, khủng hoảng tín dụng bùng nổ với số lượng cao hơn nhiều năm từ trước tới nay cộng lại.
Cơn sốt cao độ khiến phó thống đốc ngân hàng trung ương hồi cuối tuần trước, (rồi đến Thủ tướng chính phủ vào tuần này), phải vội vã bác bỏ tin đồn chính phủ hỏi vay tiền của Quỹ tiền tệ quốc tế để tránh phá sản. Chỉ một nhóm chuyên viên của IMF xuất hiện ở thủ đô Hà Nội cũng có vẻ như gây nên sự chao đảo niềm tin.
Tuy nhiên sự khó chịu gần đây nhất thực sự phát khởi từ hôm 20 tháng 8 với vụ bắt giam ông Nguyễn Đức Kiên, một doanh gia thích khoa trương, sáng lập viên Ngân hàng thương mại cổ phần châu Á, ACB, một trong những ngân hàng lớn nhất trong nước.
Tuy ông Kiên đã rời khỏi Hội đồng quản trị ngân hàng từ năm ngoái, vụ bắt giam với những cáo buộc mơ hồ gọi là “kinh doanh bât hợp pháp” cũng đủ khơi mào cho việc rút tiền ồ ạt, kèm theo một thời kỳ lao dốc của thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh.
Niềm tin càng lung lay khi Tổng giám đốc ACB lại bị bắt tiếp theo, với cáo buộc “sai phạm trong quản trị kinh tế”.
Báo "The Economist" viết tiếp: Toàn bộ sự kiện nhắc cho giới đầu tư rằng sau nhiều năm quản trị kém cỏi và cho vay bừa bãi, các ngân hàng Việt Nam rơi vào tình cảnh tuyệt vọng, và nạn tham nhũng cùng lãng phí đã tràn ngập nền kinh tế.
Đó chẳng phải là điều bí mật gì, nhưng trong những vie con số gọi là “được nhìn nhận” đó.
Bế tắc tại Hà Nội
Thế là niềm tin vào kinh tế Việt Nam, nhất là của giới đầu tư phương Tây, bắt đầu đổ vỡ. Lượng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) vào Việt Nam, lên tới 8 tỉ đô la trong 7 tháng đầu của năm, giảm 1 phần ba so với 1 năm trước đó. Nhật Bản là nước chiếm phân nửa toàn mức đầu tư từ nước ngoài.Cố gắng lạc quan, một số doanh gia trong nước ca ngợi Ngân hàng Trung ương về việc ít ra cũng đã nhìn nhận con số đáng buồn về nợ xấu – mà trong quá khứ không ai coi là chuyện đương nhiên. Tương tự, họ cũng nói việc bắt ông Kiên chứng tỏ quyết tâm mới của chính phủ trong việc trừng trị những hành động quá đáng.
Thực ra, những vụ bắt giữ và sa thải những nhân vật “nổi” đã xảy ra nhiều trong năm nay. 9 nhân viên quản trị của Vinashin bị tuyên án, người nặng nhất là 20 năm tù, sau khi tập đoàn đại công ty đóng tàu và là một trong những xí nghiệp Nhà nước lớn nhất từng chi phối nền kinh tế, gần phá sản với mối nợ 4 tỉ rưỡi đô la.
Người đứng đầu một xí nghiệp khổng lồ khác, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, bị sa thải sau khi tập đoàn này lỗ hơn 1 tỉ vào năm ngoái. Trong tháng này công an cũng bắt giam nguyên giám đốc công ty Nhà nước vận tải đường biển Vinaline, người đã bỏ trốn từ tháng ba sau một vụ điều tra tham nhũng ở công ty.
Giữa bối cảnh đó, một nhà đầu tư lâu năm ở Việt Nam biện giải vụ bắt ông Kiên “nhìn chung thì vẫn là tích cực và cần thiết”, và là chỉ dấu cho thấy xu hướng chống tham nhũng bắt đầu có trớn.
Những nhà phân tích khác tỏ ra hoài nghi hơn, nói rằng những vụ bắt bớ ít liên quan đến chiến dịch chống tham nhũng, mà liên quan nhiều hơn đến hậu quả của một cuộc tranh giành quyền lực ở thượng từng kiến trúc của đảng Cộng sản, đặc biệt là giữa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Nhóm quản trị Vinashin và Nguyễn Đức Kiên có mối liên kết chặt chẽ với vị thủ tướng, và sự suy sụp của họ làm giảm vị thế của ông Nguyễn Tấn Dũng.
Hơn thế nữa, nhà kinh tế độc lập Nguyễn Quang A đưa ra lý luận rằng mặc dù những vụ bắt bớ đó quả có là “điềm” báo trước một chiến dịch phối hợp để loại trừ những “ông chủ” tham nhũng, nhưng nó cũng khó lòng chạm đến bề mặt của những vấn đề kinh tế có cội rễ sâu xa của Việt Nam.
Khu vực ung nhọt
Vẫn theo bài báo "Vietnam: a tiger at bay", vị trí đầy ưu quyền của các xí nghiệp Nhà nước- chiếm 40% sản lượng quốc gia- là nơi chịu trách nhiệm chính yếu cho tất cả những vụ hối lộ, lạm dụng tài nguyên, cùng với nạn chi tiêu như điên dại, đã kéo Việt Nam xuống dốc.Giới quản trị ngoại quốc cho rằng làm ăn ở Việt Nam là cả một cơn ác mộng.
Nhà kinh tế Nguyễn Quang A cho rằng toàn hệ thống cần được thay đổi, không phải chỉ đem nhốt một số người vào tù là xong.
Giống như tại Trung Quốc, những người Cộng Sản bám chặt lấy các xí nghiệp quốc doanh như một phương tiện để giữ quyền kiếm soát chính trị trên nền kinh tế.
Tuy nhiên điều đó có nghĩa là những tay quản trị có mối liên kết chính trị nhưng kém khả năng lại có quyền dựng nên những “đế quốc” lan tràn ăn cánh với nhau – điển hình là những công ty taxi, những ngân hàng, khách sạn… và còn nhiều hơn nữa – tất cả đều chẳng đem lại lợi ích gì về kinh tế.
Hệ thống ấy chỉ làm giàu một số ít “chủ nhân” nhưng đã chất chồng lên những công ty quốc doanh kia hằng đống nợ nần mà rốt cuộc chính phủ phải gánh vác.
Nhưng mới năm ngoái đảng Cộng Sản vẫn còn nhắc lại lời khẳng định như đinh đóng cột rằng khu vực quốc doanh phải nằm giữ “vai trỏ chủ đạo” trong nền kinh tế. Không nơi nào mà đảng Cộng sản tỏ ra quyết tâm dùng quyền lực chính trị để kiểm soát hơn là khu vực quốc doanh.
Năm nay chính quyền hung hăng đàn áp những tiếng nói đối lập một cách bất thường, nhất là đối với những người kêu gọi thêm dân chủ.
Đặc biệt là các blogger, bị tách riêng và gắn lên những án tù nặng nề vì “tội tuyên truyền chống lại Nhà nước”.
Hành vi ấy khó có thể được coi là cung cách của một chính phủ có ý hướng cải tổ hệ thống.
Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 231
LÃN ÔNG - CHUYỆN NƯƠC NON - MỸ
Tuesday, September 25, 2012
HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG
HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC (1720 - 1791) quê ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, Hải
Dương...(nay là huyện Mỹ Văn, Hưng Yên) nhưng ông về quê mẹ là làng Tình Diệm,
huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh sinh sống bằng nghề bốc thuốc ngay từ khi còn trẻ. Ông
lấy hiệu là Lãn Ông tức ông già lười.
Tuy nhiên, ông chỉ lười công danh, lười đua chen ở chốn quan trường còn sự nghiệp y học thì ông rất chăm chỉ nghiên cứu và trở thành danh y bậc nhất thời bấy giờ. Ông có bộ sách y học đồ sộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 65 quyển đúc kết kinh nghiệm 40 năm bốc thuốc chữa bệnh cứu người, một bộ sách y học lớn nhất từ trước tới nay.
....
Cũng vì tiếng tăm của ông vang dội đến tận Kinh đô mà năm 1781 chúa Trịnh Sâm triệu ông ra Thăng Long để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Ông đã ghi chép lại toàn bộ chuyến đi này trong tác phẩm Thượng Kinh ký sự (Ký sự lên Kinh). Đây là một tác phẩm văn chương đặc sắc, đề cập đến đời sống sinh hoạt của tầng lớp vua chúa, quan lại và thị dân ở chốn Kinh thành vào cuối thế kỷ XVIII.
Trong chuyến lên Kinh lần này, Lê Hữu Trác tình cờ gặp lại người tình xưa, trong một trường hợp rất đặc biệt. Nguyên do là, khi còn nhỏ ở nhà, Lê Hữu Trác đã được bố mẹ hỏi cho một cô gái con nhà quan làm vợ. Các thủ tục dạm hỏi đã hoàn tất, chỉ chờ ngày cưới.
Nhưng sau đó do gặp trắc trở, ông từ hôn rồi vào quê mẹ ở Hương Sơn (Hà Tĩnh) sinh sống.
Cô gái đó sau này không lấy ai nữa, vì cho rằng mình đã có nơi gá nghĩa rồi. Cô ở nhà chăm sóc cha mẹ. Khi cha mẹ mất, cô gửi thân vào chốn cửa thiền. Hơn 40 năm sau, bây giờ cô gái năm xưa đã trở thành một nhà sư già. Bà đi khuyến giáo thập phương để về đúc chuông chùa làng và tình cờ gặp ông trong một nhà trọ ở Kinh thành.
Chuyện như sau:
“Một ngày kia, có hai lão ni đến chỗ tôi ngụ, nói rằng: chùa Huê Cầu đúc chuông lớn, công quả chưa thành, chúng tôi đến đây khuyến hoá”. Thế rồi một lão ni tự giới thiệu mình là trụ trì chùa núi An Tử, còn lão ni kia thì giới thiệu mình là con gái quan tả thừa ty Sơn Nam , quê ở Huê Cầu. “Tôi nghe nói giật mình như tỉnh giấc mơ”, Lãn Ông viết. Sau đó ông tìm cách “hỏi nhỏ một tiểu cô trong bọn tòng hành mới biết đây là người cũ của mình”. Rõ ràng một lão ni tìm đến một quan nhân (lúc này Lãn Ông đang làm quan thầy thuốc ở trong triều) để khuyến hoá mà lại xưng cái “lý lịch cá nhân” của mình ra như thế, phải có lý do gì chứ. Và đúng vậy, chỉ mới nghe qua địa danh Sơn Nam, Huê Cầu thôi, đã đủ làm cho Lãn Ông choáng váng, “giật mình như tỉnh giấc mơ”. Chuyện đúc chuông, khuyến hoá chẳng qua là cái cớ để cho bà có dịp gặp lại ông.
Tưởng tượng coi, lão ni – người tình cũ của Lãn Ông – đã phải trần tình năn nỉ, thuyết phục sư bà ra sao để sư bà động lòng chịu cùng xuống núi một phen. Tuy biết khá rõ rồi, nhưng vốn thận trọng, Lãn Ông mới “trắc nghiệm” lại lần nữa, vì biết đâu chỉ là một sự tình cờ, ông bèn kể rõ họ tên quê quán… “Lúc đó chỉ thấy ni cô chùa Huê Cầu mặt đỏ bừng, vẻ thẹn thùng, bảo sư bà trụ trì rằng : "Thôi, chúng ta đi đi thôi”. Một lão ni nghiêm trang cẩn mật, tuổi tác già nua mà “mặt đỏ bừng, vẻ thẹn thùng” rồi phải hối thúc sư bà “đi đi thôi” trong một tâm trạng như là dỗi hờn thì thật là đáng kinh ngạc. Lãn Ông rất lúng túng, tìm cách “lưu họ lại không được, mới mang ra một ít hương tiền để cúng” rồi hỏi: “Hai lão ni trọ tại nơi nào?”. Họ đáp: “Chưa có nơi nào”, rồi vội vàng từ biệt ra đi. Lãn Ông đâu dễ chịu ngồi yên, ông “vội gọi một tên người nhà linh lợi bảo đi theo sau họ, mà không cho họ biết…”.
Thế rồi Lãn Ông nhớ lại mối tình xưa. Lỗi tại ông. Ông đã nộp đủ lễ vấn danh, lễ nạp thái, vậy mà rồi vì một lý do riêng, ông hồi cư về Hương Sơn quê mẹ và xa luôn người vợ sắp cưới của mình để bà phải mỏi mòn trông đợi đến hôm nay mới bất ngờ gặp lại.
Rồi người thiếu phụ đó ra sao? Lãn Ông có dọ hỏi thì biết bà “thề chung thân ở vậy”.
Nhiều người đi hỏi cưới, bà cương quyết từ chối. Sau cùng, bà vào chùa tu. Lãn Ông viết tiếp “Tôi nghe biết vậy thì tâm thần kinh loạn, than rằng: Vì ta bất cẩn trong việc này. Có thuỷ mà không có chung, khiến cho người mang hận, mà ta mang tiếng là người bạc bẽo. Ta bối rối không biết cách nào để gỡ cái mối ra, mới vội vàng đến Huê Cầu mà tìm hiểu sự việc”. Quả thật, bà đã từ hôn nhiều người chỉ vì lòng bà chỉ có Lãn Ông thôi. Bà thà đi tu chớ không lấy ai khác nữa!
Bà nói: “Đã có người hỏi mình làm vợ thì mình (coi như) đã có chồng rồi, chẳng qua vô phận mà chồng bỏ…”. Trách chi Lãn Ông không tan nát cõi lòng, “tâm thần kinh loạn”. Để chuộc lỗi mình, ông xin bà cho ông được coi bà như “cô em gái nhỏ”, bảo dưỡng bà suốt đời từ đây. Vì bà đã đi tu nên ông đề nghị cất cho bà cái chùa nhỏ, trong một cảnh vườn vằng vẻ yên tĩnh: “Mùa đông cũng như mùa hè, lạnh ấm đều sẽ do ta lo liệu, một là để báo ân, hai là để chuộc lỗi…”. Bà cố cầm giọt lệ: “Quan nhân có hậu tình, còn tôi chẳng gặp chồng, cái thân cô khổ cũng là do số mệnh vậy, đâu có dám trách ai… Nay tôi được biết tấm lòng tốt này cũng an ủi cảnh linh lạc vậy”. Và bà đã từ chối. Và Lãn Ông làm thơ. Phải, bởi vì đâu có thứ thuốc nào sắc ba chén còn bảy phân mà chữa được cái bệnh của ông bây giờ! Ông viết: “Tôi lấy làm thương tình, mới giải lòng trong một bài thơ như sau:
Vô tâm sự xuất ngộ nhân đa,
“Một ngày kia, có hai lão ni đến chỗ tôi ngụ, nói rằng: chùa Huê Cầu đúc chuông lớn, công quả chưa thành, chúng tôi đến đây khuyến hoá”. Thế rồi một lão ni tự giới thiệu mình là trụ trì chùa núi An Tử, còn lão ni kia thì giới thiệu mình là con gái quan tả thừa ty Sơn Nam , quê ở Huê Cầu. “Tôi nghe nói giật mình như tỉnh giấc mơ”, Lãn Ông viết. Sau đó ông tìm cách “hỏi nhỏ một tiểu cô trong bọn tòng hành mới biết đây là người cũ của mình”. Rõ ràng một lão ni tìm đến một quan nhân (lúc này Lãn Ông đang làm quan thầy thuốc ở trong triều) để khuyến hoá mà lại xưng cái “lý lịch cá nhân” của mình ra như thế, phải có lý do gì chứ. Và đúng vậy, chỉ mới nghe qua địa danh Sơn Nam, Huê Cầu thôi, đã đủ làm cho Lãn Ông choáng váng, “giật mình như tỉnh giấc mơ”. Chuyện đúc chuông, khuyến hoá chẳng qua là cái cớ để cho bà có dịp gặp lại ông.
Tưởng tượng coi, lão ni – người tình cũ của Lãn Ông – đã phải trần tình năn nỉ, thuyết phục sư bà ra sao để sư bà động lòng chịu cùng xuống núi một phen. Tuy biết khá rõ rồi, nhưng vốn thận trọng, Lãn Ông mới “trắc nghiệm” lại lần nữa, vì biết đâu chỉ là một sự tình cờ, ông bèn kể rõ họ tên quê quán… “Lúc đó chỉ thấy ni cô chùa Huê Cầu mặt đỏ bừng, vẻ thẹn thùng, bảo sư bà trụ trì rằng : "Thôi, chúng ta đi đi thôi”. Một lão ni nghiêm trang cẩn mật, tuổi tác già nua mà “mặt đỏ bừng, vẻ thẹn thùng” rồi phải hối thúc sư bà “đi đi thôi” trong một tâm trạng như là dỗi hờn thì thật là đáng kinh ngạc. Lãn Ông rất lúng túng, tìm cách “lưu họ lại không được, mới mang ra một ít hương tiền để cúng” rồi hỏi: “Hai lão ni trọ tại nơi nào?”. Họ đáp: “Chưa có nơi nào”, rồi vội vàng từ biệt ra đi. Lãn Ông đâu dễ chịu ngồi yên, ông “vội gọi một tên người nhà linh lợi bảo đi theo sau họ, mà không cho họ biết…”.
Thế rồi Lãn Ông nhớ lại mối tình xưa. Lỗi tại ông. Ông đã nộp đủ lễ vấn danh, lễ nạp thái, vậy mà rồi vì một lý do riêng, ông hồi cư về Hương Sơn quê mẹ và xa luôn người vợ sắp cưới của mình để bà phải mỏi mòn trông đợi đến hôm nay mới bất ngờ gặp lại.
Rồi người thiếu phụ đó ra sao? Lãn Ông có dọ hỏi thì biết bà “thề chung thân ở vậy”.
Nhiều người đi hỏi cưới, bà cương quyết từ chối. Sau cùng, bà vào chùa tu. Lãn Ông viết tiếp “Tôi nghe biết vậy thì tâm thần kinh loạn, than rằng: Vì ta bất cẩn trong việc này. Có thuỷ mà không có chung, khiến cho người mang hận, mà ta mang tiếng là người bạc bẽo. Ta bối rối không biết cách nào để gỡ cái mối ra, mới vội vàng đến Huê Cầu mà tìm hiểu sự việc”. Quả thật, bà đã từ hôn nhiều người chỉ vì lòng bà chỉ có Lãn Ông thôi. Bà thà đi tu chớ không lấy ai khác nữa!
Bà nói: “Đã có người hỏi mình làm vợ thì mình (coi như) đã có chồng rồi, chẳng qua vô phận mà chồng bỏ…”. Trách chi Lãn Ông không tan nát cõi lòng, “tâm thần kinh loạn”. Để chuộc lỗi mình, ông xin bà cho ông được coi bà như “cô em gái nhỏ”, bảo dưỡng bà suốt đời từ đây. Vì bà đã đi tu nên ông đề nghị cất cho bà cái chùa nhỏ, trong một cảnh vườn vằng vẻ yên tĩnh: “Mùa đông cũng như mùa hè, lạnh ấm đều sẽ do ta lo liệu, một là để báo ân, hai là để chuộc lỗi…”. Bà cố cầm giọt lệ: “Quan nhân có hậu tình, còn tôi chẳng gặp chồng, cái thân cô khổ cũng là do số mệnh vậy, đâu có dám trách ai… Nay tôi được biết tấm lòng tốt này cũng an ủi cảnh linh lạc vậy”. Và bà đã từ chối. Và Lãn Ông làm thơ. Phải, bởi vì đâu có thứ thuốc nào sắc ba chén còn bảy phân mà chữa được cái bệnh của ông bây giờ! Ông viết: “Tôi lấy làm thương tình, mới giải lòng trong một bài thơ như sau:
Vô tâm sự xuất ngộ nhân đa,
Kim nhật tương khan khổ tự ta.
Nhất tiếu tình đa lưu lãnh lệ,
Song mâu xuân tận kiến hình hoa.
Thử sinh nguyện tác can huynh muội,
Tái thế ứng đồ tốn thất gia.
Ngã bất phụ nhân nhân phụ ngã,
úng nhiên như thứ nại chi hà?”
(nguyên văn chữ Hán)
Mà Ngô Tất Tố đã chuyển dịch:
Mà Ngô Tất Tố đã chuyển dịch:
Vô tâm nên nỗi luỵ người ta
Trông mặt nhau đây luống xót xa
Gượng cười khôn giấu đôi hàng lệ
Tóc bạc che mờ nửa mặt hoa
Kiếp này hãy kết làm huynh muội
Kiếp khác xin hoàn nghĩa thất gia
Ai nỡ phụ ai, ai nỡ phụ
Dở dang, dang dở biết ru mà?
bản dịch của Bùi Hạnh Cẩn:
"Vô tâm nên nỗi lỡ người ta
Nay lại nhìn nhau luống thẫn thờ
Một nụ cười tình, châu lệ lạnh
Đôi tròng xuân cạn nét tài hoa
Đời nay xin kết anh em ngãi
Kiếp tới nên tròn phận thất gia
Ta chẳng phụ người, người nỡ phụ
Đành thôi như thế, biết sao mà!".
Cảm động vì bài thơ “giải
lòng” đó mà bà đã tha thứ cho ông. Lãn Ông viết: “Từ đó thời thường qua lại hỏi
thăm nhau”.
Chuyện rồi kết thúc ra sao?
Tuổi hạc ngày càng cao, bà chỉ xin ông mua gỗ ở Nghệ An đóng cho bà một cổ quan tài. Vâng, phải đúng gỗ ở Nghệ An bà mới chịu, vì đây là vùng Hương Sơn quê mẹ Lãn Ông (Lãn Ông quê gốc Hải Dương, nhưng sống và thành danh ở Hương Sơn). Có lẽ bà nghĩ lúc sống đã không được nên duyên vợ chồng thì lúc chết ít ra cũng được âu yếm nằm trong một cổ quan tài do ông đóng cho bà từ thứ gỗ của quê hương ông."
Đó, chuyện tình của Lãn Ông, “Ông Làm Biếng” làng Hải Thượng, một chuyện tình thủy chung, nhân hậu của một thầy thuốc, ông Tổ của ngành Y, làm ta thấy càng gần gũi với ông hơn, càng quý trọng ông hơn.
Tuổi hạc ngày càng cao, bà chỉ xin ông mua gỗ ở Nghệ An đóng cho bà một cổ quan tài. Vâng, phải đúng gỗ ở Nghệ An bà mới chịu, vì đây là vùng Hương Sơn quê mẹ Lãn Ông (Lãn Ông quê gốc Hải Dương, nhưng sống và thành danh ở Hương Sơn). Có lẽ bà nghĩ lúc sống đã không được nên duyên vợ chồng thì lúc chết ít ra cũng được âu yếm nằm trong một cổ quan tài do ông đóng cho bà từ thứ gỗ của quê hương ông."
Đó, chuyện tình của Lãn Ông, “Ông Làm Biếng” làng Hải Thượng, một chuyện tình thủy chung, nhân hậu của một thầy thuốc, ông Tổ của ngành Y, làm ta thấy càng gần gũi với ông hơn, càng quý trọng ông hơn.
__._,_.___
Thursday, September 20, 2012
TRẺ RANH LUẬN CHÍNH
CHUYỆN NƯỚC NON
Truyện dài đấu đá trong hàng ngũ lãnh đạo Đảng Cộng Sản VN
Phe Tổng bí thư Đảng Cộng Sản VN Nguyễn Phú Trọng liên kết với
phe chủ tịch nước CHXHCNVN Trương Tấn Sang đã nắm chắc trong tay hai bộ trưởng
quốc phòng và Công An là đại tướng Phùng Quang Thanh và thượng tướng Trần Đại
Quang liền mở ngay cuộc tấn công vào phe thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.Kết quả là
công an và Tổng Cục 2 bộ Quốc Phòng đã thình lình bắt giữ ông trùm mafia VN tên
Nguyễn Đức Kiên một đại tài phiệt đồng minh thân thiết của Nguyễn Thanh Phượng
ái nữ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Lý Xuân Hải Tổng Gíam Đốc ngân hàng
ACB.
Trước đòn tấn công của địch thủ, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ""tỉnh queo""họp ủy ban trung ương chống tham nhũng của chính phủ biểu dương công an bắt trùm mafia Nguyễn Đức Kiên nghĩa là thủ tướng Dũng đã thí xe để tránh bị chiếu bí trong ván cờ đấu đá nội bộ.Phe các ông Trọng và Sang thừa thắng xông lên cho Tổng Cục 2 cử điệp viên sang Mên bắt cóc Dương Chí Dũng Tổng Gíam Đốc Tập Đoàn Vinalin[ngươi thân của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang đào tẩu tại Miên].
Ngươi ta tưởng phen này thủ tướng Dũng chới với nhưng ông đã cho lệnh tờ Năng Lượng Mới cơ quan ngôn luận của Tập doàn dầu khí VN tấn công ông đại biểu quốc hội Đặng Thành Tâm người chi tiền cho chủ tịch nước Trương Tấn Sang làm chánh trị.Đồng thời với chuyện này thủ tướng Dũng còn yêu cầu đồng minh Nguyễn Sinh Hùng chủ tịch quốc hội sửa soạn hồ sơ đuổi đai biểu quôc hội Đăng Thanh Tâm khỏi quốc hội như đã đuổi bà Đặng Hoàng Yến chị ông Tâm
Trước đòn tấn công của địch thủ, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ""tỉnh queo""họp ủy ban trung ương chống tham nhũng của chính phủ biểu dương công an bắt trùm mafia Nguyễn Đức Kiên nghĩa là thủ tướng Dũng đã thí xe để tránh bị chiếu bí trong ván cờ đấu đá nội bộ.Phe các ông Trọng và Sang thừa thắng xông lên cho Tổng Cục 2 cử điệp viên sang Mên bắt cóc Dương Chí Dũng Tổng Gíam Đốc Tập Đoàn Vinalin[ngươi thân của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang đào tẩu tại Miên].
Ngươi ta tưởng phen này thủ tướng Dũng chới với nhưng ông đã cho lệnh tờ Năng Lượng Mới cơ quan ngôn luận của Tập doàn dầu khí VN tấn công ông đại biểu quốc hội Đặng Thành Tâm người chi tiền cho chủ tịch nước Trương Tấn Sang làm chánh trị.Đồng thời với chuyện này thủ tướng Dũng còn yêu cầu đồng minh Nguyễn Sinh Hùng chủ tịch quốc hội sửa soạn hồ sơ đuổi đai biểu quôc hội Đăng Thanh Tâm khỏi quốc hội như đã đuổi bà Đặng Hoàng Yến chị ông Tâm
Thiên hạ đồn rùm lên là phe các ông Trọng và Sang đang tích
cực tìm cách truất phế thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khỏi chức thủ tướng chánh phủ bằng hội nghị ban chấp
hành nhiệm kỳ 11 lần thứ 6.Đảng Cộng Sản
VN vốn có truyền thống dùng hội nghị ban chấp hành trung ương để hạ bệ nhau như
Hồ Chí Minh dùng hội nghị 10 khóa 2 họp tháng 10 năm 56để hạ bệ tổng bí thư Trường
Chinh và kỷ luật ủy viên bộ chánh trị Lê văn Lương vì vụ''""đấu tố""
đểHồ Chí Minh làm chủ tịch Đảng kiêm Tổng bí thư luôn và ba năm sau Hồ Chí Minh
họp hội nghị 15 đưa Lê Duẩn lên làm bí thư thứ nhất Đảng Cộng Sản VN.Tiếp theo
là hội nghị 25 khóa 3 họp tháng 10 năm 76 Lê Duẩn loại Hoàng Văn Hoan ra khỏi bộ
chánh trị và hội nghị 5 khóa 5 họp tháng
12 năm 83 Lê Duẩn làm nhục Võ Nguyên Gíap loại Gíap khỏi bộ chánh trị chỉ còn ủy
viên trung ương và bổ nhiệm làm chủ tịch ủy ban kế hoạch hóa gia đình do đó dân
gian có câu vè
""ngày xưa đại tường cầm quân./Ngày nay đai tướng tụt quấn chị em"".
Lúc Lê Duẩn hấp hối Lê Đưc Thọ trưởng ban tổ chức trung ương kiêm trưởng ban nội chính tổ chức hội nghị 10 khóa 5 đấu Lê Duẩn với ý đồ lên làm Tổng bí thư nhưng phe Phạm Văn Đồng Võ Nguyên Gíap Phạm Hùngkết hợp với phe Trường Chinh đưa Trường Chinh lên làm Tổng bí thư và Nguyễn văn Linh thường trưc ban bí thư.
Tiếp theo Trường Chinh tổ chức đai hội 6,đưa ra giải pháp tất cả rút lui về tuyến sau làm cố vấn để Nguyễn văn Linh làm Tổng bí thư Phạm Hùng làm thủ tướng..Lên làm Tổng bí thư ,Nguyễn văn Linh có Phạm Hùng yểm trơ phất cao ngọn cờ Đổi Mới cho nên khi ủy viên bộ chánh trị Trần Xuân Bách cổ súy đa nguyên đã bị Tổng bí Thư Nguyển văn linh họp hội nghị 8 khóa 6 đuổi Trần xuân Bách ra khỏi Bộ Chính Trị.Thấy Nguyễn văn Linh làm quá Lê Đưc Thọ cho lệnh đàn em giết Phạm Hùng khiến cho Nguyễn văn Linh mất hết nhuệ khí không dám tái cử
.Khi thủ tướng Võ Văn Kiệt căng với Tổng bí thư Đỗ Mười ,Đỗ Mười họp hội nghị 10 khóa7 khai trừ khỏi Đảng Ủy viên bộ chánh trị Thường Trưc ban bí thư Nguyễn Hà Phan và bắt nhốt vì tội làm việc với CIA.Hội nghị 4 khóa 8 Võ Văn Kiệt liên kết với Lê Đức Anh triệu tập hạ bệ Đỗ Mươi đưa Lê Khả Phiêu lên làm Tổng bí thư Phan văn Khải làm thủ tướng Võ Văn Kiệt làm cố vấn
.Hội nghi11 khóa 8 phải họp hai lần Avà B vì chuyện Lê Khả Phiêu giải tán ban cốvấn mới tới kết luân triệu tập đại hội 9 loại Lê Khả Phiêu đưa Nông Đức Mạnh lên làm Tổng bí thư.Hội nghị chuẩn bị cho đai hội 11 trong lúc thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị ông Trương Tấn Sang thường trực ban bí thư qua ông Nguyễn Văn Chi ủy viên bộ chánh trị trưởng ban kiểm tra trung ương '""khui"" vụ Vinashin đánh thủ tướng Dũng tơi tả,ai cũng nghĩ phen này thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ""đi đoong""Nhưng bất ngờ trong hội nghị chuẩn bị đai hội 11 thủ tương Nguyễn Tấn Dũng tung ra trước hội nghị videoclip quay cảnh ông Hồ Đức Việt ủy viên bộ chánh trị.kiêm trưởng ban tổ chưc trung ương Đảng ứng cử viên tổng bí thư sáng giá chức danh Tổng bí thư chơi gái ở bên Nhật thế là ông Việt thân bại danh liên ông Nguyễn Phú Trọng chủ tịch quốc hội ứng cử viên chức danh Tổng bí thư vội vàng liên kết với thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng để đối phó với ứng cử viên Trương Tấn Sang hiện là thường trực ban bí thư Trung ương Đảng Cộng Sản VN thế là Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng trở thành ngươi cầm đầu thế lực mạnh trong Đảng ông tái cử ghế Thủ Tương nhiệm kỳ 2
""ngày xưa đại tường cầm quân./Ngày nay đai tướng tụt quấn chị em"".
Lúc Lê Duẩn hấp hối Lê Đưc Thọ trưởng ban tổ chức trung ương kiêm trưởng ban nội chính tổ chức hội nghị 10 khóa 5 đấu Lê Duẩn với ý đồ lên làm Tổng bí thư nhưng phe Phạm Văn Đồng Võ Nguyên Gíap Phạm Hùngkết hợp với phe Trường Chinh đưa Trường Chinh lên làm Tổng bí thư và Nguyễn văn Linh thường trưc ban bí thư.
Tiếp theo Trường Chinh tổ chức đai hội 6,đưa ra giải pháp tất cả rút lui về tuyến sau làm cố vấn để Nguyễn văn Linh làm Tổng bí thư Phạm Hùng làm thủ tướng..Lên làm Tổng bí thư ,Nguyễn văn Linh có Phạm Hùng yểm trơ phất cao ngọn cờ Đổi Mới cho nên khi ủy viên bộ chánh trị Trần Xuân Bách cổ súy đa nguyên đã bị Tổng bí Thư Nguyển văn linh họp hội nghị 8 khóa 6 đuổi Trần xuân Bách ra khỏi Bộ Chính Trị.Thấy Nguyễn văn Linh làm quá Lê Đưc Thọ cho lệnh đàn em giết Phạm Hùng khiến cho Nguyễn văn Linh mất hết nhuệ khí không dám tái cử
.Khi thủ tướng Võ Văn Kiệt căng với Tổng bí thư Đỗ Mười ,Đỗ Mười họp hội nghị 10 khóa7 khai trừ khỏi Đảng Ủy viên bộ chánh trị Thường Trưc ban bí thư Nguyễn Hà Phan và bắt nhốt vì tội làm việc với CIA.Hội nghị 4 khóa 8 Võ Văn Kiệt liên kết với Lê Đức Anh triệu tập hạ bệ Đỗ Mươi đưa Lê Khả Phiêu lên làm Tổng bí thư Phan văn Khải làm thủ tướng Võ Văn Kiệt làm cố vấn
.Hội nghi11 khóa 8 phải họp hai lần Avà B vì chuyện Lê Khả Phiêu giải tán ban cốvấn mới tới kết luân triệu tập đại hội 9 loại Lê Khả Phiêu đưa Nông Đức Mạnh lên làm Tổng bí thư.Hội nghị chuẩn bị cho đai hội 11 trong lúc thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị ông Trương Tấn Sang thường trực ban bí thư qua ông Nguyễn Văn Chi ủy viên bộ chánh trị trưởng ban kiểm tra trung ương '""khui"" vụ Vinashin đánh thủ tướng Dũng tơi tả,ai cũng nghĩ phen này thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ""đi đoong""Nhưng bất ngờ trong hội nghị chuẩn bị đai hội 11 thủ tương Nguyễn Tấn Dũng tung ra trước hội nghị videoclip quay cảnh ông Hồ Đức Việt ủy viên bộ chánh trị.kiêm trưởng ban tổ chưc trung ương Đảng ứng cử viên tổng bí thư sáng giá chức danh Tổng bí thư chơi gái ở bên Nhật thế là ông Việt thân bại danh liên ông Nguyễn Phú Trọng chủ tịch quốc hội ứng cử viên chức danh Tổng bí thư vội vàng liên kết với thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng để đối phó với ứng cử viên Trương Tấn Sang hiện là thường trực ban bí thư Trung ương Đảng Cộng Sản VN thế là Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng trở thành ngươi cầm đầu thế lực mạnh trong Đảng ông tái cử ghế Thủ Tương nhiệm kỳ 2
Hội nghị 6 có ba khả năng xẩy ra,một là huề cả làng chẳng ai
làm sao,hai là cả thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lẫn Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và
chủ tịch nước Trương Tấn Sang ra đi hết, bầu lại cả,ba là thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng làm binh biến lên làm tổng thống
.Điều đang chú ý là theo nhà tiên tri Trần Dần quốc sư của các tổng thống Mỹ Bush cha,Bush con Clinton và Obama thì mãi năm 2014 thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mới bị người của Trung Quốc ám sát chết và sau đó quân đội làm binh biến lật đổ Đảng Cộng Sản VN
.Điều đang chú ý là theo nhà tiên tri Trần Dần quốc sư của các tổng thống Mỹ Bush cha,Bush con Clinton và Obama thì mãi năm 2014 thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mới bị người của Trung Quốc ám sát chết và sau đó quân đội làm binh biến lật đổ Đảng Cộng Sản VN
Nữ sĩ Trùng Quang trăm năm tuổi về cõi vĩnh hằng
Nữ sĩ Trùng Quang tên
khai sinh Lê Thị Tuyên người sáng lập và là Hội Trưởng Hội Phụ Nữ Tương Tế năm
1951 hội phụ nữ đầu tiên ở Việt Nam
chuyên lo việc giúp đỡ ngươi cùng giới bà sinh ngày 1 tháng năm 1912, tuổi ta
102 bà đã ăn sinh nhật lần thứ 101 và là hội viên sáng lập Thi Đàn Quỳnh Giao
cùng với Cao Ngọc Anh Mộng Tuyết Vân Nương Như Hiên Tuệ Mai Cao Mỹ Nhân.Lưu
vong sang Mỹ bà đã cùng thi sĩ Hà Thượng Nhân dịch lại bản Bình Ngô Đại Cáo của
Nguyễn Trãi và xuất bản cuốn Bình Ngô Đai Cáo báo động hiểm họa của dân tộc VN
từ phương Bắc.Khi nữ sĩ Trùng Quang rời cõi thế ngày6 tháng 9 năm 2012 nhà thơ
Đông Anh đã có bài thơ tiễn biệt bất hủ với hai câu
Bắc đẩu trời cao sao vội tắt
Để cho thương nhớ đến muôn đời
Chuyện động trời
Mạng Wikileaks vừa tiết lộ những bức điện của bộ Ngoai Giao
Mỹ cho biết vụ VN cho Trung Quốc khai thác bauxit ở Tây Nguyên Tổng bí thư Đảng
Cộng Sản VN Nông Đưc Mạnh nhận được 300 triệu USD,Thủ tương Nguyễn Tấn Dũng 150
triệu USD.Đúng là những chuyện động trời khó tin nhưng lại có thật.
Khóc cho nền giáo dục VN
Tiến sĩ giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn ngươi từng làm thứ trưởng bộ
Gíao dục và cũng là một trong những tiến sĩ đầu tiên người VN làm luận án ở Liên Xô trong một cuộc trao đổi
với nhà thơ Hồng Thanh Quang Phó Tổng biên tập báo CAND đươc đăng trên ANTG giữa
tháng 9 đã đọc ai điếu cho nền Gíao Dục VN khi tuyên bố 60 phần cô cậu tú tài ở
VN không có trình độ tú tài còn tiến sĩ trình luận án ở VN toàn tiến sĩ dởm
Theo tiến sĩ Nguyễn Cảnh Toàn hiện tương trên xẩy ra là do lãnh đạo không dám
dùng người tài,ngươi tài như giáo sư Tạ Quang Bửu chỉ vì nói thẳng không bợ đỡ
cũng bị loại.Bộ Gíao dục là bộ chủ trương bắt học sinh học tủ khi ban hành bộ đề
thi đai học nên nền giáo dục VN càng ngày càng tụt hậu
Ngân Hàng Nhà Nước độc quyền làm giá vàng ở VN cho một nhóm
lợi ích
Sau khi Ngân Hàng Nhà Nươc trình chính phủ ban hành nghị định
cho phép ngân hàng nhà nước độc quyền kinh doanh vàng miếng và chỉ có loại vàng
SJC đươc phép lưu hành trên thị trường thì vàng SJC sai biệt giá với các loại
vàng khác trên 2 triệu đồng và sai biệt với giá thị trương vàng thế giới cũng
trên hai triệu có lúc là ba triệu.Như vậy là rõ ràng là cái nghị định của Ngân
Hàng Nhà Nước đươc chính phủ chấp nhận là vì một nhóm lợi ích trongđó có
thống đốc ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình và chủ nhân công ty vàng SJC
Quan lớn làm báo điện tử chui
Sau khi nhà báo Bùi Tin phát giác tờ báo điện tử xuất bản ""chui""Quan Làm Báo là của
hai ông lớn cộng sản Viêt Nam Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ Tịch nước
Trương Tấn Sang thì thủ tướng chánh phủ VN
Nguyễn Tấn Dũng ra thông báo cho ý kiến
ban tuyên giáo trung ương Đảng Cộng Sản VN và bộ Thông Tin Truyền Thông
chánh phủ phải dẹp và đưa ra pháp luật xử lý tờ báo này.Chuyện cứ như đùa vậy,không
ngờ khi các quan lớn""choảng ""nhau cũng y chang như con
nít.Chuyện ly kỳ hơn là báo Quân Đội Nhân Dân cơ quan ngôn luận của Quân Đội nước
CHXHCNVN đã đăng bài bình luận đả kích tờ Quan Làm Báo
\
\
Ngân Hàng sẽ bể tùm lum
Sau khi ông Trần Xuân
Gía chủ tịch Hội Đồng Quản Tri ngân hàng ACB[ngân hàng thương mại ÁChâu] và
ông Phạm Trung Cang phó chủ tịch Hội Đồng Quản Tri ngân hàng
Exim[Ngân hàng xuất nhập khẩu ] xin từ nhiệm và sau đó thống đốc ngân hàng nhà
nươc bãi nhiệm rồi bị công an câu lưu điều tra ngươi gửi tiền ùn ùn tới hai
ngân hàng này rút tiền,giới ngân hàng cổ phần ở VN chấn động.Thiên hạ đồn rùm hệ
thống ngân hàng VN sẽ bể tùm tùm\
Nhưng lời tuyên bố láo lếu
Chuyện Trung Quôc vẽ bản đồ đường lưỡi bò trên biển Đông chiếm
đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của VN chiếm một số đảo trên quần đảo Trường Sa
rồi gọi thầu khai thác dầu khí trên vùng biển đảo Phú Qúi của VN thành lập
Thành phố Tam sa bao gồm hải phận và thềm lục đia cũng như vùng đặc quyền kinh tế của VN rõ như
ban ngày thế mà Tổng bí thư Đảng Cộng Sản VN tuyên bố đó là chuyện nhỏ Ly kỳ
hơn nữa chủ tich nước Trương Tấn Sang dám nói vói Tổng bí thư Đảng Cộng Sản kiêm chủ tịch nước Trung Quôc Hồ Cẩm Đào là
hãy gác bất đồng về biển Đông bàn chuyện
hợp tác VN Trung Quốc trên căn bản hai bên cùng có lợi.Trơ tráo hơn nữa
thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh thứ trưởng bộ Quốc Phòng VN khẳng định""""VN
khôngcó bất cứ băn khoăn gì khi hợp tác với TrungQuốc trên mọi lãnh vưc giải
quyết với Trung Quốc mọi bất đồng""
TRẺRANH
CÁC NHÂN VẬT THẾ GIỚI
Thật hay và quá công phu, mời cùng thưởng
thức. Bức Tranh Tuyệt Vời đây có thể nói là một bức tranh độc đáo, vì
người tạo ra nó đã tốn khá nhiều thời gian để lập trình. Qua sự sắp xếp
các nhân vật nổi tiếng từ Cổ chí Kim, những người đã sống cách đây vài
chục năm, vài trăm năm lại với nhau, tác giả đã hoàn thành bức tranh như
một bức hình chụp. Nếu muốn thưởng thức trọn vẹn phải mất nhiều thời
giờ, có khi cả ngày. Bức tranh có kích thước rất rộng và phải rê chuột
từ phải sang trái mới thấy hết được. Muốn biết tên nhân vật nào chỉ cần
chỉ mũi tên vào thì tên nhân vật đó sẽ hiện ra, và tiếp tục double click
(nhấp chuột 2 lần) vào nhân vật đó thì sẽ hiện ra toàn bộ thân thế và
sự nghiệp của nhân vật đó. Khi hiện ra thân thế sự nghiệp của nhân vật
bằng tiếng Anh. Lúc hiện bảng tiếng Anh thì xin mời nhìn sang phía bên
trái, mục languages và chọn ngôn ngữ của mình thì sẽ tự động chuyển.
Chúc mọi người thành công. Xin mời click vào đường link dưới đây để
thưởngthức.http://cliptank.com/PeopleofInfluencePainting.htm =
Tuesday, September 18, 2012
TS.PHẠM TRỌNG CHÁNH * HỒ XUÂN HƯƠNG
TS PHẠM TRỌNG CHÁNH – ĐỌC LƯU HƯƠNG KÝ CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG DO GIÁO SƯ NGUYỄN NGỌC BÍCH PHIÊN ÂM & CHÚ THÍCH
14.09.2012Để lại phản hồi
Giữa
thời điểm các nhà sách hải ngoại thi nhau đóng cửa, người đọc tiếng
Việt ngày càng thưa thớt, tác giả gửi sách đi cho các nhà sách, không hy
vọng gì tiền gửi
trả về. Tại Paris, nhà sách tiếng Việt hiếm hoi Khai Trí chỉ sống nhờ
bán bánh mì thịt nguội. In ấn một quyển sách đẹp là một hy sinh to lớn,
nhất là của các tác giả tuổi đã về hưu. Trong nước, quyển Hồ Xuân Hương
của bà Hoàng Bích Ngọc chỉ in 300 quyển, nhiều sách giá trị chỉ in 500,
1000 quyển cho một dân tộc 90 triệu dân trong nước và 4 triệu người tại
hải ngoại, có ký
giả đi 3 tuần lễ trong thành phố mới tìm thấy một người cầm sách đọc,
thì thảm trạng đọc sách người Việt Nam đã xuống tới mức độ nào ?
Cầm
quyển Lưu Hương Ký trong tay, và xem hình ảnh trường thuật buổi ra mắt
Lưu Hương Ký tại quận Cam, California, Hoa Kỳ với 40 người phần lớn ông
cụ bà cụ, có cả người từng là học trò cụ Cử Nguyễn Văn Tú, tôi thật cảm
động. Hai trăm năm Hồ Xuân Hương , nằm dưới mộ trong lòng nước Hồ Tây
chắc cũng mỉm cười. Nhất là GS Hoàng Xuân Hãn, người khao khát được đọc
chữ Nôm, chữ Hán trong Lưu Hương Ký và giải mã những ẩn số quan trọng
cuộc đời thi hào hàng đầu của dân tộc, hẵn vui lòng. Mừng một bảo vật
quốc gia mọi người được chiêm ngưỡng rộng
rãi, được
in kèm theo trong sách.
Viết bài này, tôi không dám gọi là
phê bình, vì tôi biết bao công lao khổ cực hy sinh để làm ra quyển sách.
Viết không khéo làm đau lòng tác giả, làm tàn rụi những ý chí nghiên
cứu khảo cứu hiếm hoi, chẳng được lợi gì về vật chất. Sự ra đời một
quyển sách, dù có nhiều sai lầm cũng là nguyên nhân thúc đẩy người khác
viết hay hơn, sửa chữa những lầm lỗi khiến cho việc nghiên cứu ngày càng
tiến bộ như thuyết tương sinh nhà Phật : « Cái này có thì cái kia có,
cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt ». Tôi rất
trân trọng công việc làm của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, tạo ra một cơ hội
cho mọi người từ bốn phương trời tiếp cận được di sản quý báo của dân
tộc. Nó không còn cái độc quyền của
riêng của ông Đào Thái Tôn cất dấu suốt hơn 40 năm. Sự độc quyền ấy chỉ
làm chậm trể bước tiến của mọi công việc nghiên cứu. Tôi chỉ dám mong
bổ túc những ý kiến để cho công trình nghiên cứu được hoàn hảo. Phần
tôi, tôi sẽ hoàn thành « Hồ Xuân Hương toàn tập » trong một ngày gần
đây. Tôi không dám mong cầu toàn, nhưng nếu nó có hay hơn cũng nhờ công
lao những người đi trước, nhất là ước nguyện của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn
đã trao cho tôi..
Bây giờ tôi xin góp với Giáo Sư vài ý kiến về quyển sách Lưu Hương
Ký : So với các thơ Lưu Hương Ký tôi góp nhặt được từ sách ông Bùi Hạnh
Cẩn, ông Đào Thái Tôn, ông Nguyễn Lộc thì chỉ thiếu bài số 36 là chưa
thấy công bố, chứ không phải ¾ chưa công bố như Giáo Sư nói. Bài này tôi
cho rằng Hồ Xuân Hương viết năm 1794 tả lòng mình lúc Nguyễn Du giả từ
về Hồng Lĩnh vì có câu : « Ả Hằng biết có soi chăng nhé ? » Hai người
thường hẹn hò dưới trăng nên bài Nhân tặng.. Hồ Xuân Hương gửi Nguyễn Du
có câu : « Cậy có vầng xanh tỏ tấm lòng ». Bài Ký hữu (Gửi bạn), trong
Thanh Hiên thi tập Nguyễn Du trả lời có câu : « Nhất thiên minh nguyệt
giao tình tại » ( Một vầng trăng sáng tình ta đó). Hẹn dưới trăng, thề
thốt dưới trăng chỉ có nơi hai tình nhân, chứ không ở hai người bạn
trai.
Nói chung ngoài những bài đã được học giả Trần Thanh Mại dịch và
Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn đã sửa chữa, các bài còn lại trong Lưu Hương Ký
mới xuất bản, hoặc chép lại của ông Đào Thái Tôn, đọc và dịch, câu đọc
chưa thông suốt, đôi
khi chối tai, âm thanh, vần điệu cũng như niêm luật thơ Đường. Có thể
làm người đọc hiểu lầm tài năng thi ca của Hồ Xuân Hương. Xuân Hương làm
thơ » tầm thường và dỡ » đến mức này chăng ?
Trang 19 : «
Ông Bùi Hạnh Cẩn còn được thấy trong tủ sách gia đình ông Trần Văn Hảo
một tài liệu mang tên Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập, ông cũng cho là của
Hồ Xuân Hương trong đó có 9 bài thơ chữ Hán ». Tôi xin bổ túc cùng Giáo
Sư :
Tạp chí Văn Học tháng 3 năm 1974, ông Trần Tường trong quá trình đi
tìm thơ văn Hồ Xuân Hương tại Nam Định ba tập thơ trong tủ sách cụ
Trần Xuân Hảo, xã Hải Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Hà ba tập thơ :
-Quốc âm thi tuyển khắc in năm Kỷ Dậu 1909 chủ yếu là Xuân Hương di
cảo.(Văn bản này trước văn bản
Nguyễn Ngọc Xuân in năm 1913) -Một tập thơ nôm khác mất tờ bìa và tờ
đầu nhưng có nhiều bài thơ Hồ Xuân Hương hơn tập trước. Một tập thơ chữ
Hán chép tay nhan đề Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập mất phần cuối chỉ còn 9
bài thơ Đường Luật và một bài thơ dài theo thể song thất lục bát. Ngoài
ra ông còn tìm lại được bài văn Xuân Đường đàm thoại của Mai Nham, Tam
Nguyên Vị Xuyên Trần Bích San viết năm 1869, và các tài liệu liên quan
đến Phạm Viết Đại tri phủ Vĩnh Tường quê ở Trà Lũ.
Tin tức khám phá này rất quan trọng vì tôi cho rằng Hồ Xuân Hương
những năm sống ở Yên Quảng (1816-1819) có tập hợp thơ mình thành một tập
thơ thứ hai, gồm 9 bài thơ Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập, 8 bài thơ Vịnh
Hạ Long(nay còn 5 bài), 9 bài thơ Vịnh
Cảnh Đồ Sơn, và những bài thơ khác vịnh cảnh quanh vùng Yên Quảng, như
Vịnh Bãi Bình Than… Tập thơ vịnh cảnh này truyền đến kinh đô Phú Xuân
cho nên tại Kinh đô các nhà thơ đương thời như Trương Đăng Quế, Tùng
Thiện Vương, các nhà nho Trung Quốc như Trương Bỉnh Thuyên, Hoàng Diệu
Khuê so sánh nữ sĩ Mai Am ( tức Lại Đức công chúa tên Trinh Thận, tự
Thúc Khanh, con gái thứ 28 của vua Minh Mạng, em cùng mẹ với Tùng Thiện
Vương Miên Thẩm) với Hồ Xuân Hương và Phạm Lam Anh. Không ai đem so
sánh công chúa với một nhà thơ dâm tục được.
Trang 20. 31 bài thơ đi với bài tựa Lưu Hương Ký, tôi dịch và xét
kỷ, tất cả đều là thơ Tốn Phong viết tặng Hồ Xuân Hương, và đều ca tụng
tài sắc Xuân Hương, chẳng lẽ Xuân Hương lại làm thơ tự ca tụng
tài sắc mình ?, không có bài nào ý tứ do Xuân Hương viết..(xin xem bài
Chân dung Hồ Xuân Hương qua 31 bài thơ tình Tốn Phong đang trên,
Khoahocnet, vanhoanghean, langhue và được đang lại trên nhiều site khác)
Trang 29-36. Bài 1. Thuật ý kiêm trình giản hữu nhân Mai Sơn Phủ. Giáo
sư sử dụng lại bản dịch ông Đào Thái Tôn. Bản dịch có nhiều câu thật ngớ
ngẩn và buồn cười :
« Lộc ao ao, nhạn ngao ngao » (Nai xôn
xao, nhạn lao chao) dịch thành : Hươu ao ao, Nhạn ngao ngao. Con hươu và
chim én sao kêu giống mèo thế !
« Giang bát bát, Thủy hoạt hoạt, Ngã tư quân hoài tương khế khoát,
Lệ ngân chiêm hạ sát » (Sông bát ngát, nước chảy xiết. Lòng ta cùng
lòng chàng khắn khít, Lệ rơi trên áo thấm ướt) dịch thành : « Sông bát
ngát, nước ào ạt, Ý
thiếp lòng chàng cùng vu khoát. Lệ rơi thêm mặn chát ». Chao ôi, có ông
Cao Bá Quát ở đây chắc ông sẽ bịt mũi : « câu thơ thi xã con thuyền
Nghệ An », mắm Nghệ An còn thơm, chỉ có mắm làm dỡ hôi thối mới mặn
chát, chớ nước mắt làm gì mặn chát.
« Minh tần phi, Bút tần huy. Nhất trường đô bút thiệt : Hà xứ thị
tình nhi ? (Trà thường pha, bút nở hoa. Đâu chẳng ngâm chẳng uống, Mà
chàng ở đâu xa ?) dịch thành : « Trà mà chi ? Bút mà chi ?. Cũng là
thiên lý cả. Ai là kẻ tình nhi ? ». Đoạn trên Hồ Xuân Hương mời Mai Sơn
Phủ : Dã ưng quân bút phát (chàng ơi cất bút viết) thế mà đoạn dưới lại
bảo chàng : « Viết mà chi ? » Đến hai câu : « Cũng là thiên lý cả. Ai
là kẻ tình nhi ? » thì thật là ngớ ngẫn, chẳng hiểu thiên lý ở đâu ra.
Viết thơ cho chàng mà còn hỏi : « Ai là kẻ tình nhi ? » thì chàng chắc
ghen mà nổi trận tam bành chàng lên.
Dịch như thế mà ông Đào
Thái Tôn giữ Lưu Hương Ký làm con tin hơn 40 năm, đòi nhà nước trả tiền
cho 300 triệu thì thật là quá đáng. Chắc là ông phải chỉa súng Hội đồng
Xét duyệt mới cấp tiền cho ông !
Trang 39, 40 bài 3 . Giáo sư sử dụng lại bản dịch ông Đào Thái Tôn :
« Nhất viên hồng hạnh bích thanh song, Phồn hoa tích dĩ không. Kim
triêu hựu kiến sổ chi hồng. Oanh nhi mạc đái xuân phong khứ, Chỉ khủng
đào yêu vô lực tiếu đông phong ».(Một vườn hồng hạnh biếc xanh xanh, Mơ
hoa tỉnh giấc nồng. Oanh ơi đừng rủ xuân đi nhé. Ta sợ đào hoa không đủ
sức cười với gió đông ! ) Những câu thơ tuyệt tác hay vô cùng thế mà qua
tay
ông Đào Thái Tôn : « Một vườn hồng hạnh biếc xanh thông. Phồn hoa tưởng
đã không. Sớm nay bỗng nở mấy nhành hồng. Chim quyên chớ quyến xuân đi
nhé. Ta sợ « đào hoa vô lực tiếu đông phong ». Cây thông ở đâu vào, hồng
hạnh mà trồng chung với thông, lá thông có chất át xít, rụng đầy thì
hồng hạnh chẳng sống nỗi. Chim quyên ở đâu vào ?, người ta thường lầm
chim uyên với chim cuốc (uyên là vịt Nhật bản con trống đủ màu thường
đi với con mái tên là chim ương) cuốc gọi mùa hè, mà rũ mùa xuân đi sao
?. Các câu chữ « phồn hoa », « đào hoa vô lực tiếu đông phong » ông
dịch mà để nguyên đọc nghe như ăn cơm gặp viên sỏi lớn, gảy răng !
Trang 43 bài 4 Thu dạ hữu hoài. « Dạ thâm nhân tỉnh độc trù trừ.
Vân lâu tửu lãnh ngân hoàn bán.
Thủy khoát, phong trường ngọc lậu cô. Hoa hoa nguyệt nguyệt chủ nhân
ngô. Xuân tịch tịch. Xuân hứng bất đa hồ ? Nhạn ảnh hà quy vân tự trụ,
Trùng thanh như khóc thủy không lưu. Tuế án tu liên .( Đêm tàn người
thức lòng ngơ ngẫn. Rượu lạnh lầu mây bạc ánh tà. Nước chảy gió đùa trơ
giọt ngọc. Hoa hoa nguyệt nguyệt nỗi lòng ta. Xuân vắng vẻ. Xuân hứng
chẳng nhiều ư ? Bóng nhạn về đâu mây ở lại. Dế trùng như khóc nước trôi
hoài. Năm tàn thêm lo !)
Giáo sư NNB dịch thành : « Đêm khuya người lặng, mình bơ thờ ; Lầu
mây rượu lạnh nửa vầng thơ. Nước rộng, gió dài, đồng hồ tịch ; Hoa hoa ,
nguyệt nguyệt chủ nhân cô ! . Xuân tịch lặng, lòng xuân chan chứa !
Bóng nhạn về đâu ? Mây đứng yên ! Bọ lúa như kêu nước mãi trôi. Năm muộn
than
ôi ! ”. Lưu ý giáo sư : “ ngân hoàn bán” là ánh sáng trăng nửa đêm đã
bạc, thời Hồ Xuân Hương chưa có nhập cảng đồng hồ quả lắc của Thụy Sĩ,
theo Lê Quý Đôn thì cả nước có ông Nguyễn Văn Tú qua Hoà Lan học nghề và
chế được một cái đồng hồ quả lắc, nhưng dân chúng nhà khá giả thì dùng
hồ đồng là hồ bằng đồng nước nhỏ giọt ở giữa, có một cây sắt khắc từ 1
đến 100, đầu hôm người ta đổ nước đầy cho nước giọt xuống, tùy mức nước
người ta đoán giờ. Thời gian như nước chảy gió đùa chỉ nghe tiếng nước
hồ đồng như giọt ngọc rơi đều. Chủ nhân ngô là cõi lòng ta, chứ không
phải là chủ nhân cô hay cô chủ nhân. Trùng thanh là tiếng côn trùng, dế
trùng, tiếng dế, tiếng ểnh ương, còn con bọ lúa là con gì, có ai
thấy nó bao giờ đâu ?. Bài thơ này Xuân Hương làm gửi Nguyễn Du. Chàng
là chim hồng nhạn bay đi, em là mây ở lại, nghe tiếng dế trùng than khóc
trong ngày tháng như nước trôi. Trong bài Thu Dạ I, Nguyễn Du đã đáp
lại : Anh cũng thấy đêm bạc màu sương, tiếng dế lạnh than khóc nơi tường
đông. Vạn dậm (chim hồng bay) chỉ nghe tiếng thu rung lá rụng. Vì mây ở
lại bên em nên trời Hồng Lĩnh chỉ có khí lạnh không một vầng mây.. Cuối
năm anh nằm bệnh bên bờ sông Quế Giang (sông Lam).
Trang 44 bài Thu Tứ Ca. Bài này theo tôi là của Mai Sơn Phủ, vì Hồ
Xuân Hương là người đẹp rồi, thì có thể nào “Hoài giai nhân hề bất năng
vương” (Nhớ người đẹp chừ lòng không quên) GS dùng lại bản dịch ông Bùi
Hạnh Cẩn: Nhớ người đẹp chừ sông sao “guơn”.
Guơn nghĩa là gì tôi tra tự điển không thấy, có lẽ vì túng vận ông Cẩn
đặt ra ! Mai Sơn Phủ dùng lại bốn câu thơ nổi tiếng của vua Hán Vũ Đế
Lưu Triệt (156 trước CN-87 sau CN). Thường trong Hát Nói người ta hay
hát hai câu nổi tiếng của một tác giả cổ điển để làm đề tài hay lấy đà
nói tiếp, chẳng cần trích dẫn là của ai, Mai Sơn Phủ ăn gian, lấy đà hát
đến 4 câu rồi nói, xổ nho thay vì tiếng nôm để trả lời bài Kể ý mình
trình bạn Mai Sơn Phủ của Hồ Xuân Hương: “ Thơ cùng ngâm, rượu cùng
châm. Tự lúc buồn ly biệt. Nửa lòng ai ấm chăn ? Chớ đàn ly khúc oán tri
âm”. Mai Sơn Phủ nói: “Ta có rượu chừ không bạn uống, Ta có đàn chừ
không tri âm. Không chuốc rượu chừ không gảy đàn, mà chỉ uống chè xanh
thôi để nhớ nàng
“.
Trang 47,48 bài Nguyệt dạ ca Bài I là của Mai Sơn Phủ đi
về Vinh và viết thơ về, vì có câu : Uyển cố nhân hề thiên nhai,( Người
yêu dịu dàng ơi giờ nơi phương trời). Hồ Xuân Hương không thể gọi Mai
Sơn Phủ là Uyển cố nhân được. Bài II là bài trả lời của Hồ Xuân Hương.
“Câu thúc vãng lai hề chiếu dư hoài”( Sáng lấp lánh chừ chiếu lòng ta)
ông Đào Thái Tôn dịch:” Vụt qua lại chừ soi chiếu lòng ta”, thì ngây ngô
chẳng thành thơ tí nào !. Câu: Tình chi sở chung (Nơi nào gặp lại) thật
đơn giản ông dịch thành: “Nơi tình hội tụ “, tiếng Việt chẳng ai nói
thế bao giờ !
Trang 51 bài 8 Ngư ông khúc hành. Câu : “Dã ông đạm bạc diệc phồn
hoa, Thác nhận đào yên thị hệ la” (GS đọc nhầm đào yêu thị tệ la) có
nghĩa là: Ông
già quê xa lánh chốn phồn hoa, tự nhận mình cùng họ hàng (họ Ngư) với
anh chài đánh cá Vũ Lăng đã đi đến chốn đào nguyên, trong Đào Nguyên Ký
của Đào Tiềm. GS dịch thành “Ông dù đạm bạc vẫn phồn hoa, Lầm tưởng đào
non giăng lưới ra”, thì ngược ngạo chẳng ai hiểu gì cả ?. Người nào vừa
đạm bạc vừa phồn hoa ? ông giăng lưới đánh cá để hái đào non chăng ? Câu
“Hàn sơn thảo sắc thong thong, Tô giang ký đáo thanh phong tự nhàn.”
(Non hàn mái cỏ tranh buông, Sông Tô đến đấy thong dong gió nhàn) dịch
thành: “Cỏ bời núi lạnh xanh xanh. Sông Tô hằng đến hưởng thanh phong
nhàn”. Về mái nhà tranh, câu cá nơi sông Tô mới thong dong hưởng gió mát
nhàn hạ chứ nơi “ cỏ bời núi lạnh” thì hưởng thanh phong nhàn nỗi gì ?
Trang 55 bài số 10
Hoài Cựu theo tôi là bài thơ là bài thơ Hồ Xuân Hương làm sau khi gặp
Nguyễn Du làm Chánh Sứ năm 1813 tại Thạch Đình bên sông Vị Hoàng, nàng
không gặp được mà chỉ nhìn Nguyễn Du từ xa vì quan trên trông xuống,
người ta dòm vào, lính lệ chặn đường quan khắp nơi (không có chuyện quan
lớn đi bắt tay từng người dân như ngày nay). Sau cuộc gặp gỡ này Hồ
Xuân Hương viết hai bài: Hoàng Giang ngộ hỷ phú (Mừng gặp bạn trên sông
Vị Hoàng) và bài Hoài Cựu.
Bài này có vài chữ cần đọc lại cho đúng: Câu 3, chữ “con”, đọc là
“còn”, câu 5 chữ “ chuộc” đọc thành “ trả”. Vay trả câu thơ nhẹ nhàng
hơn vay chuộc. Chữ “đưa đẩy” thì thật là hay. Nàng đến nơi sông Hoàng
Giang nhớ lại kỷ niệm, ngày xưa từng giả từ Nguyễn Du, nhìn phong
cảnh nàng có vui đâu vì nơi này gửi tâm sự cả nàng rất nhiều, (cả tiễn
đưa Mai Sơn Phủ cũng nơi này !). Nàng đón người yêu xưa Nguyễn Du, nhưng
bị lính lệ đẩy ra dẹp đường cho quan Chánh Sứ đi, thế mới biết ông Trời
(tay đại tạo) đã sắp xếp cho mình như thế nào, mình chỉ là cánh hoa
trôi theo nước thủy triều lên xuống, nàng bị đám đông chen lấn đẩy nàng
ra xa. Các cụ ngày xưa đọc hai câu này chắc vỗ đùi khoái khẩu. Tóm lại
bài Hoài Cựu :
Chữ tình ngang ngữa biết bao nhiêu,
Một chút duyên xưa dở lắm điều.
Bèo lạc không kinh còn trẻ lại,
Hoa trăng thêm tủi cái già theo.
Tài tình nợ ấy vay nên trả,
Phong cảnh vui đâu gửi đã nhiều.
Đưa đẩy biết tường tay đại tạo,
Cánh
hoa trên nước thấm tin triều.
Trang 56 bài 11 Thu nguyệt hữu
ức Mai Sơn phủ ký: Câu 1 chữ “ ru” có người đọc là “du”. Câu: Lá ngọc
chiều thu giận hẳn ru, nếu hiểu “Chắc hẳn anh giận tôi rồi hay không ?”
có gì chưa ổn. Xuân Hương làm gì mà Mai Sơn Phủ giận ?. Tôi nghĩ nên
hiểu: Mùa thu lá vàng rơi, những chiếc lá xanh như ngọc giận mùa thu vì
khí lạnh trở nên vàng không còn ở trên cành. Câu hai chữ “ thâu” đọc
thành “thu”. Câu 3, Hồ Xuân Hương gọi chùa một cột trên hồ sen là am thì
thật là chính xác, vì nó quá bé nhỏ, đúng là cái am. Câu 4 : Ngọn nước
Tam kỳ chảy lại đâu , tôi hiểu là ba con sông Nghĩa Trụ, Kim Ngưu và Đại
Bi hợp lại thành sông Nhĩ Hà rồi chảy về đâu ? , Hà Nội và làng Nghi
Tàm có sông Tô Lịch, nhưng có giòng
nước nào ngày xưa có tên Tam Kỳ ?. Câu 7 Trăm năm có biết duyên thừa
nữa. Hồ Xuân Hương trao thân cho Mai Sơn Phủ rồi mà vẫn thắc mắc chàng
đã có vợ hay chưa. Phong tục kết dây tơ đỏ trên tay khi chia tay có nơi
người Mường, người Lào, thời Hồ Xuân Hương người Việt có làm thế không ?
Trang 59 bài 12. Cảm cựu tống Tân xuân chi tác. Đây là hai bài thơ
Đường Luật rõ ràng vì có từng cặp 3,4 và 5,6 đối nhau. Bài I I, câu đầu
có thể vận trắc chữ “ngọt”, là bình thường trong thơ Đường, chỉ cần
“nhị tứ lục phân minh”, chữ 2,4,6 đúng niêm luật. Nên chia lại làm hai
bài. 16 câu mà gọi là trường thi thì không đúng. Như thế thì giải quyết
được một bài đếm thiếu của ông Trần Thanh Mại. Câu 3: chữ “ Cửa động”
thay vì chữ
“Cửa đông”. Chú thích: Xuân phải hiểu là “đông quân” là mùa xuân vừa
người yêu. “Tân Xuân” phải hiểu là “người yêu mới” thì chẳng hiểu gì cả
về bài này.
Hai bài thơ này có điểm lạ là người ta thường nói
“Tống cựu nghinh tân”, tiễn năm cũ mừng năm mới, ở đây “nhớ chuyện cũ,
tiễn xuân mới”. Tại sao như thế ?
Theo tôi Hồ Xuân Hương viết năm 1814, trước khi gặp Tốn Phong để đưa chàng viết tựa: thời điểm năm 1804 với ý nghĩa như sau:
Bài
I. Hết cơn bỉ cực đến hồn thái lai, mùa xuân này không còn như
những mùa xuân xưa, mười năm lận đận, nhìn những ngày khổ cực, nàng chua
chát cho những mối tình đến muộn màng, lúc này Xuân Hương đã trải qua
nhìều kinh nghiệm nhân sinh, nhất là về tình ái,
trước mắt nàng là bình hương nguội, tựa như lòng đã tưởng không còn yêu
ai được nữa, đã lạnh với phong lưu. Gặp một người đúng như mình mơ ước
thật khó, đời như chiếc gối mơ (tích Du tiên chẩm). Ở tuổi tưởng như đã
muộn màng bổng dưng treo giá ngàn vàng, nhiều mối duyên quá khiến cho
nàng ngơ ngẩn.
Bài II. Cuộc đời suy nghiệm nàng thấy: có vị chua lẫn vị ngọt, như
trời đất có nắng thì có mưa. Dù chưa phải là tri âm hoàn toàn như mình
mong muốn. Những lời chê bai tiếng thì thầm nay đã thưa dần. Nàng đã tìm
ra người tâm đầu ý hợp, quan Tham Hiệp Yên Quảng, như vụ “mía tháng ba
ngọt ra đầu ngọn”. So với ngày xưa đời vắng lặng soi gương lạnh ngắt một
mình. Còn mối tình nào hơn thế nữa, nàng tự hỏi từ nay đã phải như
thế chưa .
Trang 65 bài 15 Họa Nhân không phải là Hoạ bài
người khác. Nhân có người vào Hồng Lĩnh, Hồ Xuân Hương gửi thơ cho
Nguyễn Du khoảng năm 1796 báo tin: Vài hàng viết gửi thơ thăm anh mà
nước mắt rơi lai láng. Nghĩ tưởng rằng em có thể chờ đợi được anh lâu.
Lá đã nhuộm màu sương lam, lòng em càng thêm thẹn. Nhìn sương pha màu
khói biếc mà rộn thêm cơn sầu. (Mẹ đã nhận trầu cau ăn hỏi, gia đình anh
Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, nhà cửa đang sửa soạn chưng diện.) Em thẩn
thơ trước nhà đang sửa soạn “khoe với gió”. Bên tai em (những lời tán
tỉnh anh Lang) như tiếng địch thổi chói tai. Muốn hỏi với trăng già sao
khe khắc với tình duyên ta, trêu nhau chi mà xe những mối tơ không trọn
vẹn để đôi ta khổ sở với nhau.
Trang 67 bài 16
Tặng Tốn Phong Tử. Có câu thơ 7, 8,9,10 quan trọng: Tấm lòng tôi ngay
thẳng tỏ rõ với chàng. Ông tơ bà nguyệt có thể xe được ba mối: chàng, vợ
chàng và tôi vào một. Chàng là khách đa tình có hay rằng (tôi đã có
kinh nghiệm làm lẽ với Tổng Cóc) nên năm canh nghĩ đến rất sợ hải tình
như thế này. Do đó chữ bơ bải có nghĩa là hơ hải hay bơ phờ, bải hoải.
Tóm lại bốn câu này đã nói ngược lại sáu câu trước là từ chối lời cầu
hôn của chàng.
Xuân Hương cám ơn Tốn Phong lâu nay đã thường đến chơi. Xa nhau
nhớ viết thơ cho nhau. Lòng tôi dám đâu như mưa gió mà ăn nói như trở
bàn tay. Những lời đàm tiếu của người đời như sóng nước. Rồi đây anh về
Nghệ Tĩnh, Nam Bắc xa nhau bao dậm. Tưởng là những thề non hẹn biển để
lại cho đời
sau… nhưng mà:nói thẳng với chàng, ông tơ bà nguyệt có thể nào xe được
ba mối tơ, chàng là khách đa tình có biết rằng tôi sợ lắm. Nhưng thật
ra Xuân Hương từ chối Tốn Phong vì làm lẽ một anh đồ nghèo, chẳng danh
phận, chạy ra Bắc vào Nam dạy học kiếm ăn. Giàu như Tổng Cóc Nguyễn Công
Hòa nàng còn khổ sở với bà lớn. Nhưng Xuân Hương nhận lời quan Tham
Hiệp Yên Quảng vì bà lớn thường ở lại cai quản gia trang tại quê quán,
chỉ có bà bé theo chồng nơi trấn nhậm.
Trang 69 bài 17 Thạch Đình tặng. Bài này ông Trần Thanh Mại, Đào
Thái Tôn đều lầm tưởng của một người tên là Thạch Đình như Cư Đình, Thực
Đình người đương thời. Nhưng không phải, thạch đình chỉ là cái đình đá,
nơi bến sông Vị Hoàng, Nam Định vì đó là bến cảng
lớn của ngày xưa, vì cạnh biển, mưa gió, bão táp nên đình được xây kiên
cố bằng đá. Từ đây đi vào Nghệ Tĩnh, Phú Xuân tiện lợi nhanh chóng vì
không leo núi đèo Tam Điệp hay truông nhà Hồ, phá Tam giang.. Làng Tiên
Điền có Giang Đình là cái đình bên sông, một trong tám thắng cảnh Hồng
Lĩnh. Hồ Xuân Hương tiễn Nguyễn Du năm 1794, tiễn Mai Sơn Phủ năm 1801
và đón quan Chánh Sứ Nguyễn Du năm 1813 nơi này.
Bài này theo tôi là của Nguyễn Du. Bài này GS đọc chữ nôm có nhiều
chữ không ổn: câu 1, chữ “vẽ vời “ thay vì “ vả vê” (chữ Nôm, chữ quốc
ngữ không thấy có chữ vả vê, ngày xưa chữ Nôm vần ời, ề,i là thông vận
không bị xem là thất vận). Câu 2: chữ “luống” thay vì chữ “lúc “. Câu 3:
chữ “Cung Hoàng” thay vì “Cung vàng”. Là
khúc Phượng Cầu Kỳ Hoàng của Tư Mã Tương Như. Chữ “đường” đọc là
“dường”. Câu 4 “Đường nguyệt” thay vì “Điếm nguyệt” nhà Xuân Hương là
Cổ Nguyệt Đường, là một ngôi nhà lớn Tốn Phong gọi là đình, Mai đình,
hay viện. là một học đường, không phải là ngôi nhà nhỏ, tạm bợ như điếm
canh hay lữ điếm. Câu 6 chữ “ quyến” thay vì chữ “thấy“ . Câu 7 chữ
“phụ” thay vì chữ “rất”. Câu 8, chữ “Tròn trặn” thay vì “Tròn trăng”,
bị thất niêm, chữ “gương tình” thay vì “ gương tạnh”. Bài thơ không ổn
nên đọc không hiểu gì cả.
Bài thơ Nguyễn Du tặng (Hồ Xuân Hương) nơi Thạch Đình
Đường nghĩa bấy nay trót vẽ vời,
Nước non sầu nặng luống đi về.
Cung Hoàng dịu vợi dường khôn
lọt,
Đường Nguyệt mơ màng giấc hãy mê.
Đã chắc hương đâu cho lửa bén,
Lệ mà hoa lại quyến xuân đi.
Xanh vàng chẳng phụ lòng ân ái,
Tròn trặn gương tình cũng có khi.
Bài thơ ý nói: Bấy lâu nay ta quen biết nhau, nay nặng lòng vì nước
non anh phải về quê (để xây dựng lại từ đường họ Nguyễn Tiên Điền) Khúc
Phượng Cầu Kỳ Hoàng, lời tỏ tình anh chưa nói cùng em, nơi Cổ Nguyệt
Đường em hãy còn mơ màng giấc chiêm bao. Chúng ta có thật yêu nhau không
cho lửa tình cháy bén, hay em chỉ khóc vì hoa rụng quyến theo mùa xuân
đi. Trời xanh, trăng vàng nếu chẳng phụ lòng ân ái, thì có khi chúng ta
sẽ thành vợ chồng với nhau.
Bài thơ này chứng tỏ Nguyễn Du còn rất lừng khừng trong tình yêu
với Hồ Xuân
Hương vì chàng chưa có công danh, không muốn ra làm quan với Tây Sơn
như anh Nguyễn Nể, như Đoàn Nguyễn Tuấn. Nguyễn Du phục Nguyễn Quýnh
khởi nghĩa chống Tây Sơn nhưng không thể lập lại như Nguyễn Quýnh vì
làng Tiên Điền sau trận làm cỏ của tướng Tây Sơn Lê Văn Dụ, người sống
sót chẳng còn ai theo và Nguyễn Du đã có ý muốn vào Nam theo Nguyễn Ánh.
Tương lai không rõ ràng, nên không cưới Hồ Xuân Hương để đem nàng về
Tiên Điền, vì làng chỉ còn một bãi chiến trường nhà cháy, đồng ruộng
hoang phế và vì Nguyễn Du còn sẽ ra đi, Nguyễn Du cũng không ở lại Thăng
Long vì chỗ dựa là anh Nguyễn Nể phải về Phú Xuân được phong chức Đông
Các bên cạnh Vua Cảnh Thịnh , khi Vua Quang Trung mất năm 1892 mới lên
10. Anh Nguyễn Nể giao tiền bạc cho hai em cùng cha
cùng mẹ là Nguyễn Du và Nguyễn Ức nhiệm vụ xây dựng lại từ đường và
làng Tiên Điền. Nguyễn Nể không thể trực tiếp trông coi và cũng không
thể giao ai khác.
Trang 71, bài 18 là thơ Hồ Xuân Hương gửi
Hiệp Trấn Trần Ngọc Quán, để báo cáo tình hình mời các danh sĩ Hoan châu
tham gia tao đàn Cổ Nguyệt Đường, và mách : có người đặt cho nàng là
thèo đảnh (lắm chuyện, tào lao). Bài 19 là thơ Trần Ngọc Quán gửi Hồ
Xuân Hương trêu chọc và tỏ tình với nàng. Nàng đã khoe tài lạ trước, thì
tôi như Lưu Nguyễn theo lối quen xưa mà vào chốn đào nguyên. Bao nhiêu
tài tử giai nhân đó, riêng tôi có nợ bình sinh phải trả cho nàng.
Trang 75 bài 20. Hoạ Mai Sơn phủ chi tác. Bài thơ này trả lời bài
Thu Tứ ca của Mai Sơn Phủ. Mai Sơn Phủ thề thốt
không uống rượu, không gảy đàn vì thiếu nàng là tri âm. Thề chỉ uống
trà xanh thôi để chung tình với nàng. Hồ Xuân Hương nhắc lại : chúng ta
là kẻ chung tình biết với nhau và nhắc lại kỷ niệm.Tiễn nhau đi ba bước
đã nên câu thơ. Nàng chờ đợi thơ nên cứ mở thơ cũ ra đọc, đọc xong khép
lại, rồi lại mở ra đọc.. Ngày tháng đi về nhanh như vó câu, ban ngày đi
trên lối cũ nước mắt ướt cả hoa, đêm ngủ thao thức nhớ mùi hương chàng
trên nệm. Vắng nhau mới biết rõ tình nhau. Chỉ hai ta là kẻ chung tình
biết với nhau. Bài thơ này là một bài thơ tình tuyệt tác của thi ca Việt
Nam thế kỷ 18, 19.
Trang 76 bài 21 Tốn Phong đắc mộng.. Tốn Phong nằm mơ thấy mộng :
Sông Tô tuy hẹp ấy Ngân Hà. Mộng thấy qua cầu giấc tối qua (Thơ Tốn
Phong bài
16). Tốn Phong muốn cưới nàng để đôi bên không còn là Ngưu Lang, Chức
Nữ. Trái với lời bàn trang 76. Bài này Xuân Hương đã từ chối khéo léo : «
Tâm sự em đây, nói ra chàng có hiểu chăng ? Chúng ta đồng tâm sự hợp
nhau lắm, nhưng chúng ta bạn với nhau thế này là đủ, cưới nhau vì nhục
dục (hoa liễu) có vui đâu, chàng còn phải lo học hành thi cử để lập công
danh trả nợ với non sông. Tình ái lâu ngày nồng nàn sẽ nhạt. Lời thề dù
nặng biết đâu rồi sẽ phai. Còn em xin chịu duyên phận hẩm hiu số kiếp
đã định. Sau này có nhớ nhau xin nghĩ đến chuyện Xương Giang : Xương
Giang một giải nông sờ, bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia ».
Trăng 81 bài 23. Mừng gặp bạn trên sông Hoàng Giang. Bài này Hồ
Xuân Hương đón và gặp Nguyễn Du trên đường
đi sứ tháng hai năm Quý Dậu ( 1813). Từ Phú Xuân, đoàn cống sứ gồm 27
người, đi thuyền đến Thạch Đình, bến sông Vị Hoàng. Từ Vị Hoàng được
Tổng Trấn Nguyễn Huỳnh Đức tiếp đón đưa về Nha Tuyên Vũ (Chùa Quán Sứ)
nghỉ ngơi. Sau đó đi đường bộ, mỗi địa phương đều có quan Tri huyện,
quan Hiệp Trấn đón rước lên đến tận Lạng Sơn. Từ ải Nam Quan các quan
địa phương Trung Quốc tiếp rước chu cấp cho sứ đoàn đến Bắc Kinh. Bài
thơ có ý như sau : Từ lúc em biết yêu lần đầu, thời gian tình nghĩa yêu
đương em xem trọng như mấy cân vàng. Một lần hẹn nhau em nhớ cả kiếp,
tình cảm nặng nề em không quên dù có đến trăm thân. Cạn dòng sông Tô
Lịch vẫn còn duyên nợ đôi ta. Đầy sông Hoàng Giang những giọt nước mắt
ái ân em tiễn chàng. Hai
câu cuối : « Nồng nhạt mặc dù đâu nhẽ dám ; Tấc son này vẫn thắm mười
phân ». Dù chàng có nồng nàn hay lạnh nhạt em đâu dám gặp chàng, vì
chàng đường đường là một vị Chánh Sứ, quan trên trông xuống, muôn cặp
mắt lính tráng, dân chúng nhìn vào. Riêng lòng son em vẫn yêu chàng trọn
vẹn như ngày nào.
Trang 83 bài 24 Thệ viết hữu cảm.Bài này Hồ Xuân Hương làm năm
1801, sau khi thề với Mai Sơn Phủ. Từ lúc yêu Nguyễn Du năm 1790 đến
năm 1801, mười mấy năm sau Hồ Xuân Hương mới biết có người tỏ tình với
nàng. Duyên tơ này có lẽ ông tơ bà nguyệt đã sắp sẳn. Buổi lễ ăn thề
thường cử hành lúc canh khuya có ba sao giữa trời chứng giám, lấy tích
trong Kinh Thi thuộc Đường phong có câu Tam tinh tại thiên (Sam Sung,
công ty Đại Hàn lấy tích này)
ba sao giữa trời, ý nói vợ chồng gặp nhau lúc canh khuya. Mỗi người cắt
một đoạn tóc, (đàn ông ngày xưa tóc dài búi tóc) trộn vào nhau, sau đó
lấy dao cắt làm hai chia mỗi người phân nửa (Tóc mây một mái dao vàng
chia đôi. Kiều) Lấy kim trích máu từ ngón tay hoà trong hai chén chung
rượu, một chén tử và một chén sinh. Sau đó hai người cùng đọc lời thề :
(Có chép mẫu trong nguyên tác Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân do Tô
Nam Nguyễn Đình Diệm dịch ; Sàigon 1957. Phạm Đan Quế. Truyện Kiều đối
chiếu. nxb Hà Nội 1991 tr 100) : Chúng tôi hai kẻ đồng tâm là Mai Sơn
Phủ và Xuân Hương Hồ Phi Mai. Mai Sơn sinh năm.. tháng… ngày… giờ … Phi
Mai sanh năm… tháng… ngày… giờ… Nay kính cần đốt nén hương lòng, dâng
ly rượu tịnh, thề trước hoàng thiên hậu thổ
linh thiêng. Chúng tôi trộm nghĩ: Vợ chồng trọng nghĩa, nghĩa phải thủy
chung không rời. Nhi nữ đa tình, tình dẫu tử sinh không phụ. Trước đây
Phi Mai muốn lấy chồng. Mai Sơn mong có vợ, thương mộ tài sắc đã nguyền
đôi chữ đồng tâm. Ngày nay Mai Sơn lo buổi mới Phi Mai sợ về sau, tạc dạ
ghi lòng, cùng thề đến khi mãn kiếp. Sau giờ minh thệ, ví thử chẳng may
gặp cảnh bất thường, quyết không thay đổi. Ai mà phản bội lời ước “sẽ
bị dao búa phanh thây xẻ thịt”.? Cứu xin thần thánh xét soi.
Sau đó hai người quỳ lạy thiên địa quay vào chén thù chén tạc… và
động phòng. Có lẽ Mai Sơn Phủ đã bội bạc nên chết trong chiến tranh, «
bị dao búa phanh thây xẻ thịt », không thấy chàng trở về.
Trang
85, hai bài Tự Thán số 25, 26. Hồ Xuân
Hương viết năm 1801 sau khi Mai Sơn Phủ đi về Vinh. Câu « Nghĩ cùng thế
sự lòng như đốt » cho ta thấy tâm sự Hồ Xuân Hương trước tình trạng
khẩn trương của chiến tranh. Từ tháng ba năm 1801 Nguyễn Ánh đánh chiếm
doanh Quảng Nam, sau đó thừa thắng đánh Đà Nẵng. Tháng 5 năm Nhâm Tuất
lại đánh Phú Xuân, Vua Quang Toản bỏ chạy ra Bắc. Nguyễn Ánh Lên ngôi
xưng danh hiệu Gia Long, và tiến quân ra Bắc, trận chiến tiếp diễn. Có
nguy cơ Thăng Long và làng Nghi Tàm sẽ trở thành nơi đóng quân và bãi
chiến trường đẩm máu. Người người thúc dục nhau tản cư. Câu 2 bài II «
Vi đâu đeo đẳng với nơi này ? (chữ « này » thay vì chữ « vầy » ). Hồ
Xuân Hương vẫn ở lại để đợi tin Mai Sơn Phủ, nhưng vẫn bặt tin, miệng
lưỡi người trong làng nói ra nói vào những
tiếng chua cay, nàng không nói được với ai. Nàng uống trà tiêu khát để
nghe mình còn giọng nói không, uống chén rưọu mừng xuân đã thấy say.
Tình cảm chàng phải chăng chỉ là một sự lường gạt của người thích sắc
dục. Càng nghĩ càng thương chính mình. Tại sao nợ hay duyên mà ra thế
này ?
Trang 93 bài 29 – 30 .hai bài Chí Hiên tặng. Theo tôi Chí Hiên là
một bút hiệu khác của Nguyễn Du sử dụng từ năm 1786 đến 1896, do sự kiện
sau khi nhà Trịnh sụp đổ Nguyễn Du chạy sang Vân Nam cùng với Nguyễn
Đại Lang tức Cai Gia và Nguyễn Sĩ Hữu tức Nguyễn Quýnh vì Nguyễn Khản
làm Thượng Thư Bộ Lại kiêm cả binh quyền Thái Nguyên, Hưng Yên, Sơn Tây.
(Hưng Yên do con rễ Nguyễn Huy Tự làm Trấn Thủ cùng hai em Nguyễn Trứ
và Nguyễn Nghi. Sơn Tây Nguyễn Điều làm
Trấn Thủ, Nguyễn Nể phụ tá). Tại Thái Nguyên, Nguyễn Du nắm giữ đội
quân hùng hậu nhất, : Chánh Thủ Hiệu quân Hùng hậu hiệu, Nguyễn Quýnh,
chức Trấn Tả Đội với sự cố vấn quân sư của Cai Gia, là một tay giặc già
Trung Quốc, phản Thanh phục Minh, sang đầu quân dưới trướng Nguyễn Khản,
Nguyễn Du có kết nghĩa sinh tử với Cai Gia nên gọi là anh cả. Trong thơ
chữ Hán Thanh Hiên thi tập ông cho biết ông ở vùng núi có tuyết, dân
cư trưởng giả ăn mặc theo nhà Hán, và không theo lịch nhà Tần. Đến Vân
Nam ông bị bệnh ba tháng nên chia tay cùng Nguyễn Đại Lang hẹn gặp lại
ba năm sau ở Hàng Châu (Trung Châu) chia tay với Nguyễn Sĩ Hữu trở về
làm chủ Hồng Lĩnh khởi nghĩa chống Tây Sơn. Hết bệnh Nguyễn Du không đến
Nam Ninh với Vua Lê Chiêu Thống mà đi chu
du lên Trường An, và xuống Hàng Châu (Nguyễn Du có các bài thơ làm năm
1787-1790 Dương Quý Phi cố lý, Bùi Tấn Công mộ, Phân Kinh thạch đài và 5
bài thơ bên miếu Nhạc Phi không nằm trên đường đi sứ năm 1813) « Giang
Bắc Giang Nam cái túi không », không tiền nhưng muốn theo gương Lý
Bạch, tuổi trẻ đi chu du khắp Trung Quốc. Nguyễn Du đã trở thành một nhà
sư đội mũ vàng « Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế » (đi bộ khoảng 5000
km). Nguyễn Du đi giang hồ trong 3 năm, (thơ Nguyễn Hành có nhắc chuyện
này) bằng cách tụng kinh Kim Cương làm công quả tại các chùa trên đường
đi để kiếm ăn. « Tôi đọc kinh Kim Cương nghìn lượt », (365 ngày X 3
,tức ba năm, bài Phân Kinh Thạch Đài). Hành trang bên mình Nguyễn Du là
quyển « Kinh Kim Cương chú giải » của Lê Quý Đôn, một
quyển sách yêu chuộng của giới trí thức Bắc Hà thời bấy giờ. Nguyễn Du
xưng danh hiệu là Chí Hiên. Chí lấy từ danh Chí Thiện Thiền Sư, chưởng
môn danh tiếng phái Thiếu Lâm thời Vua Càn Long trở thành đề tài nhiều
bộ sách, và Hiên của gia đình, cha là Nghị Hiên, anh là Quế Hiên. Đến
Hàng Châu điểm hẹn với Nguyễn Đại Lang là miếu Nhạc Phi, nơi đây Nguyễn
Du dừng khá lâu nên làm 5 bài thơ về Nhạc Phi, Tần Cối và Vương Thị và ở
gần đó, ngôi chùa Hổ Pháo nơi Từ Hải từng tu hành, nơi đây Nguyễn Du
tiếp xúc với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đang bán và nổi
tiếng tại Hàng Châu, và từ đó trở thành quyển sách bên mình Nguyễn Du.
Sau đó nhờ Cai Gia chu cấp Nguyễn Du đi xe song mã lên Yên Kinh và trở
về đến Hoàng Châu (Hà Bắc) thì
gặp Đoàn Nguyễn Tuấn và anh Nguyễn Nể trong sứ đoàn Tây Sơn. Đoàn
Nguyễn Tuấn có hai bài thơ bàn luận sôi nổi với văn nhân họ Nguyễn tại
Hoàng Châu, và viết bài về Hồng nhan đa truân trên đường đi sứ (Hải Ông
thi tập). Sau đó Nguyễn Du trở về Long Châu, Nam Đài chờ đợi và về Thăng
Long mùa xuân năm 1790 cùng sứ đoàn của anh.(Xem Phạm Trọng Chánh.
Nguyễn Du, mười năm gió bụi. Khuê Văn Paris xb 2011)
Bài thơ Chí Hiên tặng, Nguyễn Du viết năm 1796 sau khi Hồ Xuân
Hương bị mẹ ép gả cho Thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nguyễn Du sau khi
ra khỏi tù ở Hà Tĩnh, ban đêm trốn ra Thăng Long. Viết bài Chí Hiên
tặng I. Bài thơ có nhiều chổ đọc sai, nên ý tứ không thông. Xin sửa
lại.. Đã giao du nguyền ước đã mấy năm tròn(Chữ giao nguyền với mấy năm
tròn) Buổi sơ giao làm lễ kết nghĩa có lời thề xe nón: Người cỡi xe
người đội nón, khi gặp nhau người sẽ xuống xe vái chào nhau (Xe nón tình
kia mãi mãi còn). Tôi chẳng biết dạ nàng tệ bạc (Chẳng biết dạ người
đen tựa mực) Lòng tôi vẫn yêu nàng (Sao hay lòng khách đỏ như son) Tai
tôi chưa quên lời hứa hẹn của nàng (Tai còn chửa lãng lời vàng ngọc)
Nàng có mắt nàng hãy xem tôi làm nên sự nghiệp với nước non (Có mắt càng
xem mặt nước non) Chớ bảo rằng nàng chờ đợi tuổi xuân đã mỏi mệt (Chớ
trách chúa xuân lòng mỏi mệt). Tình nàng sớm mận tối đào như thế có xứng
đáng với dòng dõi con nhà không ? (Mận đào được thế tiếng công môn).
Bài II. Rủi may nào xá gì, theo Kinh Dịch cùng tắc thông (Rủi may
nào sá nghĩ cùng thông) Chưa dễ
tri âm có thể biết nỗi lòng (Chưa dễ tri âm tỏ nỗi lòng). Ra Bắc phen
này mong làm được việc (Ra Bắc phen này mong nổi việc) Vào Nam lúc
trước, tính tìm cứ địa, tìm bạn cùng chí hướng ở Hà Tỉnh không ai hưởng
ứng, muốn vào Nam theo Nguyễn Ánh cũng bị bắt tù (Vào Nam ngẫm trước
cũng hoài công) Đến nhà bạn thơ, cuối năm cũng chỉ đãi mâm trà pha
nhạt.( Bạn tao năm hết mâm trà nhạt) Ở quán khách chờ đêm chóng qua vì
lạnh áo quá mong manh (Quán khách canh chày mảnh áo mong). Trông ra chỉ
thấy mịt mù khói biển (Gớm nhẽ trông ra mù khói bể) Người yêu trong sáng
nơi Cổ Nguyệt Đường nào thấy ( Nguyệt Đường bao nả thấy gương trong)
Trang 95 bài 31 Hoạ Thanh Liên nguyên vận. Bài này Hồ Xuân Hương
họa bài Thạch Đình tặng của Nguyễn Du. Câu 1 Chữ
« dạy » thay chữ « đây ». Câu 2 chữ « chi » thay chữ « gì ». Câu 3 chữ
« xem » thay chữ « hay ». Câu 5 chữ « Thử » thay chữ « Thức », chữ «
tầng » hay « từng » thay chữ « tăng ». Câu 7 chữ « thắm » thay chữ « đỏ
». Tuy nhiên Thanh Liên là bút hiệu thi hào Lý Bạch. Có thể nào có người
lấy bút hiệu Lý Bạch làm bút hiệu mình chăng ?. Tôi cho rằng đây là
một lầm lẫn. Có thể là Chí Hiên hay Thanh Hiên. Bài thơ chữa lại như sau
:
Họa Chí Hiên nguyên vận
Khúc Hoàng tay Nguyệt còn chờ dạy,
Cánh phượng đường mây đã vội chi.
Chua xót lòng xem lời để lại,
Hững hờ duyên bấy bước ra đi,
Thử vàng đá nọ treo tầng giá,
Phong gấm hoa kia nở có thì,
Đào thắm mận xanh còn thú
lắm,
Xuân ơi đành nỡ dứt ra về.
Hồ Xuân Hương có
học đàn Nguyệt cầm với Nguyễn Du, một cây đàn được yêu chuộng thời bấy
giờ (Thơ Tốn Phong, thơ Phạm Đình Hổ có nói đến nàng gảy đàn), nàng chờ
Nguyễn Du dạy khúc Phượng Cầu Kỳ Hoàng, lời tỏ tình của Tư Mã Tương Như
với Trác Văn Quân. Chàng như cánh chim phượng hoàng đường công danh như
mây thênh thang, đã vội chi. Chua xót đọc lời thơ Thạch Đình chàng tặng
em. Vì sao chàng hững hờ với duyên em mà nỡ ra đi. Đá thử vàng, lòng em
treo giá ngọc đợi anh. Hoa dù đẹp như phong gấm hoa còn nở có thì. Lòng
đôi ta còn nhiều niềm vui như đào đang nở sắc thắm, mận còn xanh, chàng
ơi, sao chàng nỡ dứt ra đi . Bài này cho ta thấy cái tài tình đối đáp
xướng họa của Hồ Xuân Hương.
Bài thơ tuyệt tác, sai một chữ là mất hay ngay.
Trang 96, bài
32 Nhân tặng. Bài này có lẽ có một tựa đề dài dòng:” Nhân có ông ..
về Hồng Lĩnh gửi tặng Nguyễn Tiên Điền bài thơ” bài này theo tôi được Hồ
Xuân Hương viết khoảng năm 1795 lúc Nguyễn Du đã về Hồng Lĩnh. Nguyễn
Du đã trả lời lại bài thơ này bằng bài Ký Hữu (gửi bạn) trong Thanh Hiên
thi tập. Hồ Xuân Hương viết: “Cậy đã vầng xanh tỏ tấm lòng”. Nguyễn Du
đáp lại: “Một vầng trăng sáng tình ta đó “ (Nhất thiên minh nguyệt giao
tình tại)
Trang 99 bài 33 Tưởng đáo nhân tình minh nhiên hạ lệ nhân nhi tẩu
bút phụng trình (Nghĩ tới tình đời sũt sùi rơi lệ, nhân đó cầm bút viết
thư gửi trình.) Theo tôi bài thơ Hồ Xuân Hương viết năm 1793, khi nghe
tin Nguyễn Du sửa
soạn về Hồng Lĩnh để xây dựng lại từ đường, nhiệm vụ do anh Nguyễn Nể
giao phó và trao tiền bạc , Nguyễn Nể cũng về Phú Xuân nhận chức vụ mới
Đông Các học sĩ, thầy dạy bên cạnh Vua Quang Toản. Bài thơ có chép chữ
Tốn Phong tác bút không đúng. Vì đối với Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương có
thái độ rất kính cẩn: chờ dạy, phụng trình, kiêm trình. Đối với Tốn
Phong thì nàng nghi ngờ: không biết là duyên hay nợ, Xuân Hương có cảm
tình, nhưng nhìn với nửa con mắt. Bài thơ có nhiều chữ sai: Câu 2 chữ
“ngỡ“ thay chữ “khéo“ . Câu 5 Chữ “chuông chắn” thay chữ “buông chặn”.
Theo tôi chuông chắn là một chữ cổ thời Lê Trịnh, câu thơ có nghĩa lời
nguyền không gì có thể ngăn cản được. Vần chắn câu thơ thích hợp hơn.
Trang 100. Bài 34
Theo tôi đây là bức thơ mời các bạn tham gia tao đàn Cổ Nguyệt Đường.
Trang
100 bài 35. Theo tôi bài này Hồ Xuân Hương ghi lại tình cảm mình sau
khi gặp Tri Phủ Tam Đái Trần Phúc Hiển khoảng năm 1811. Trần Phúc Hiển
trấn nhậm tại Tam Đái (tên cũ phủ Vĩnh Tường) trong ba năm. Đến tháng 12
năm Gia Long thứ 12 (1813) mới được thăng chức Tham Hiệp Trấn Yên
Quảng. Bài thơ có hai địa danh Sông Bắc và Lầu Nam. Sông Bắc là Tam Đái
giang, phía Bắc Thăng Long. Lầu Nam, phố Nam thành Thăng Long, lúc này
Hồ Xuân Hương còn ở hiệu sách phố Nam thành Thăng Long. Thời gian này Hồ
Xuân Hương “mẹ già, nhà túng” nên đi buôn khắp nơi, nghề buôn bán sách,
giấy, bút là nghề của vợ và con gái các ông đồ; thường họ mở kế bên
một trường học, Hồ Xuân Hương mở
ở phố Nam, kế bên trường ông Nghè Phạm Quý Thích gần đền Lý Quốc Sư,
có khi đem sách, bút, giấy đi bán cho các hội làng, cho các phú hộ, các
quan các nơi, nhân đó mà quen biết với Trần Phúc Hiển, Trần Quang Tĩnh.
Trang 103 Bài 37. Bài này Xuân Hương trả lời cho bài 19 của Trần
Ngọc Quán (trang 71) Trận bút xông pha quyết giật cờ. Đáp lời tán tỉnh
Trần Ngọc Quán, Hồ Xuân Hương cho biết nàng đã nhận lễ hỏi Quan Tham
Hiệp Yên Quảng sẽ về Vịnh Hạ Long (Non cao bể rộng vâng lời cả). Còn
việc xướng họa sinh hoạt hội tao đàn vẫn tiếp tục như xưa (Nước chảy hoa
trôi vẫn ý xưa).
Trang 104. Bài 38. Bài này của Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển.
Bài này cho thấy Trần Phúc Hiển đến rước Hồ Xuân Hương vào tháng 12 năm
1813 tại Cổ
Nguyệt Đường (Người đẹp nhà hoa lại gặp cùng). Nhà Xuân Hương trồng rất
nhiều mai, bóng mai lạnh đã nở buổi đầu đông dịp tết (Non mai bóng lạnh
buổi đầu đông) Xưa chưa từng gặp mặt nghe tiếng danh nàng làm thơ đã
mến mộ.(Chưa từng gặp mặt lòng đà mến) Há phải xướng họa thơ cùng nhau ý
mới nồng nàn ( Há phải trao thơ ý mới nồng) Hồ Xuân Hương đã bày tiệc
xuân ăn hỏi nơi Cổ Nguyệt Đường với láng giềng và một buổi lễ nơi bàn
thờ Phật để trình với mẹ lễ hỏi cưới. Nàng khóc có lẽ vì thương mẹ già,
cảnh một mẹ một con nay phải xa mẹ sẽ đi lấy chồng (Chưa khỏi tiệc xuân
đôi mắt lệ. Ai khua đài Phật tiếng chuông rung). Và Xuân Hương sẽ tiễn
Trần Phúc Hiển đến sông Lục Giang và sẽ về vì phải chờ sau khi chàng thu
xếp
việc trấn nhậm xong mới làm lễ cưới rước nàng về Vịnh Hạ Long. (Ân cần
lưu lại trăng trời biển. Một biệt non tây lại vạn trùng.) Nhưng sau đó
vì mẹ mất, Xuân Hương phải cư tang nên đầu năm 1816 mới về Hạ Long. Bản
dịch trên của ông Bùi Hạnh Cẩn rất chỉnh và rất hay từng chữ, từng câu
rất chính xác.
Trang 104 bài 39 Bài này đối đáp với bài 38 của Hồ Xuân Hương. Bấy
lâu ngưỡng mộ nay tương phùng với nhau. Được tiếp dung nghi chàng đường
đường chính chính như mặt trời mọc hướng chính đông.(Bấy lâu ngưỡng mộ
nay tương phùng, Được tiếp dung nghi: nhật chính đông) dịch là: “Lại
tiếp dung nghi lúc rạng đông”, tôi cho là không đúng, vì từ Tam Đái đi
đến Cổ Nguyệt Đường đi bằng thuyền. Trần Phúc Hiển phải đi ban đêm
thì mới đến Thăng Long lúc rạng đông. Ngày xưa quan đi trấn nhậm thì
ngày đi, đêm dừng thuyền nghỉ. Vả lại gặp nhau lúc rạng đông thì có gì
để nói do đó nhật chính đông có nghĩa là mặt chàng đường đường chính
chính như mặt trời mới mọc, chứng tỏ Hồ Xuân Hương rất trân trọng người
bạn tình của mình. Bài này tôi dịch như sau:
Bấy lâu ngưỡng mộ nay tương phùng,
Được tiếp dung nghi: nhật chính đông.
Nhã ý biết nhau lòng đạm bạc,
Chén tình vừa nhấp đã say nồng.
Châu ta thanh khí cùng tương đắc,
Chung đúc tài tình một chữ đồng,
Tay nắm nói đi, chàng chớ ngại,
Lục giang một biệt cách ngàn trùng.
Trang
105 bài 40 Bài này là bài họa của Hồ Xuân Hương họa lại bài 41
của Trần Quang Tĩnh.Bài 41 Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ Trần Quang Tĩnh trấn
nhậm tại Nam Định từ tháng giêng năm Đinh Mão (1807) đến tháng 4 năm Kỷ
Tỵ (1809) được hai năm bốn tháng, ông bị bệnh xin về nghỉ. Ông lên
Thăng Long cáo từ quan Tổng Trấn Bắc Thành nhân đó ông đến từ biệt Xuân
Hương. Xuân Hương bày tiệc dưới trăng tiễn đưa. Hai câu 5, 6 bài 41.” Ta
thẹn không tài thơ Bạch Tuyết, Khen bạn duyên cao sinh Cửa Son”. Điển
tích Bạch Tuyết (tuyết trắng) và Dương Xuân là hai khúc hát do Sư Khoáng
thời Xuân Thu Chiến Quốc làm ra Tống Ngọc viết: khi hai khúc hát này
hát ra cả nước chỉ năm ba người họa theo được. Ý nói Xuân Hương có tài
làm những bài thơ hay vần điệu ít người họa được. và khen bạn có duyên
cao sinh cửa nhà quyền quý dòng dõi quan
Hoàng Giáp Hồ Sĩ Đống, nhiều đời làm quan to. Bài 40 là bài thơ hay
nhất thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương, dùng những điển tích: Phượng Cầu,
Hán Khuyết, Hồ Môn, Sảnh Nữ thật tài tình. Nhất là hình ảnh Sãnh Nữ
thoát xác đi theo chồng. Trần Quang Tĩnh đã quyến dụ nàng như Tư Mã
Tương Như gảy khúc Phượng Cầu Kỳ hoàng, Xuân Hương chờ đợi chim Khách
báo tin, nhưng chàng không tới.? Vì sao chàng không như Tào Tháo chuộc
tiếng kèn nàng Thái Diệm về đất Hán. Lòng thiếp tự thẹn đã vượt ra ngoài
khuôn mẫu vọng tộc họ Hồ. Chia tay nhau hôm nay lòng thiếp lưu luyến .
Hồn ngất ngây muốn thoát xác như nàng Sảnh Nương để đi theo cùng chàng
(về Gia Định)
Trang 109 bài 42. Thổ phượng tài cao nhất thế kinh. Bài thơ này của
Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng
Trần Ngọc Quán làm khi mới tới gặp Hồ Xuân Hương. Từ kinh đô Phú Xuân
mới đến Thăng Long, nghe nàng tiếng danh vang như chuông (thính huyền
linh) nay mới được gặp. Bài 43 Hồ Xuân Hương sử dụng chữ “quán nhĩ
linh” có nghĩa là ăn trộm bịt tai đi trộm chuông thật là dí dõm, khiêm
nhường và tài tình. Tài tôi thẹn kém có ai kinh đâu. Mười năm qua, chẳng
qua tôi lận đận trong gió bụi phong trần như ăn trộm bịt tai đi trộm
chuông. Mười năm gió bụi lận đận của Hồ Xuân Hương là năm nào ? Tôi cho
rằng đó là thời điểm từ 1801 đến 1811. Từ lúc chia tay với Mai Sơn Phủ,
có lẽ đã chết trong chiến tranh lúc nhà Tây Sơn sụp đổ. Hồ Xuân Hương
tản cư lên Vĩnh Phú, làm lẽ Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà. Sau khi nhận được
bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký của
Nguyễn Du năm 1804, nàng dứt khoát không buồn khổ và chết như nàng Tiểu
Thanh. Xuân Hương bỏ Tổng Cóc , “dù anh có cho tôi ngàn vàng tôi cũng
như cóc bị bôi vôi không bao giờ về lại với anh” (Nghìn vàng khôn chuộc
dấu bôi vôi) . Xuân Hương về lại Tây Hồ viết bài Chơi Tây Hồ
nhớ bạn trả lời bài Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du. Xuân Hương có mang 6
tháng, sinh con, con chết. Xuân Hương mở hiệu sách ở Nam phố gần trường
ông Nghè Phạm Quý Thích và chùa Lý Quốc Sư, hiệu sách ế ẩm, nàng lại
gia nhập vào tầng lớp thương gia phụ nữ đem sách vở, giấy, lụa, lĩnh đen
làng Nghi Tàm bán cho các hội làng, các phú hộ các nơi. Xuân Hương đi
rất nhiều, trên đường đi đùa vui với bạn bè đã để lại những bài thơ đùa
bỡn.
Những
bài thơ được truyền tụng rộng rãi vì thế Xuân Hương gọi mình là “ăn
trộm bịt tai đi trộm chuông”(quán nhĩ linh) làm gì ai cũng nghe cũng
biết. Năm 1811 tình hình vùng Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ bất an vì có
cuộc khởi loạn của Đặng Trần Siêu, Võ Đình Lục (1810-1822) thường chận
đường cướp của các thương nhân. Cũng là năm Tử Minh mất, người bạn gia
đình thân nhất, (không ruột nhưng mà thương quá ruột) đã để lại lớp học,
làng Nghi Tàm lại mời Xuân Hương dạy học, danh tiếng Xuân Hương lại lên
vì có những quan lớn, những danh sĩ đến thăm cầu duyên: (Nguyễn Du,
Trần Quang Tĩnh, Tốn Phong, Trần Phúc Hiển, Trần Ngọc Quán..). Thơ
truyền tụng có những bài Xuân Hương làm lúc thanh xuân như: Con cua,
bánh trôi, thiếu nữ ngủ ngày, giếng nước.. Phần
lớn những bài đặc sắc làm trong mười năm lận đận: Lấy chồng chung, Già
kén kẹn hom, Dệt vải tát nước, Cô hàng sách, tranh Tố nữ, Cái Quạt, Quán
Khánh, Qua sông phụ sóng, Chữa hoang, Kẽm Trống, Quán Khánh, Đá Ông
Chồng Bà Chồng, Vịnh Chùa Hương Tích, Đèo Ba Dội.. Và những bài viết vào
cuối đời mang tâm sự người goá bụa: Thả thuyền chơi trăng, Chiếc Bách,
Tự Tình, Khóc Phúc Hiển..
Trang 112 bài 44 “ Ma diệt thông minh giảm kiến linh” là bài thơ Hồ
Xuân Hương Hồ tâm sự cùng Hiệp Trấn Trần Ngọc Quán, nàng xem người
đồng hương như anh, vì nàng đã có nơi, sẽ về Yên Quảng.
Về phần phụ lục có vài điểm cần lưu ý:
Trang 119, Minh Thanh là bút hiệu một nữ bác sĩ, và là một nhà thơ
có xuất bản thơ bằng Pháp ngữ sinh
sống tại Paris. Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn trong “Tình Sử Hồ Xuân Hương”.
Tạp Chí Khoa Học Xã Hội Paris 1983 trang 127 có ghi rõ: Tình bạn Hồ Xuân
Hương với Nguyễn Du vào khoảng 1790-1793, do đó bài Mộng đắc thái liên,
trong Nam Trung tạp ngâm, Nguyễn Du làm khoảng năm 1805 ở Phú Xuân,
nhìn hồ sen hồ Tịnh Tâm mà nhớ đến những kỷ niệm đi hái sen với Hồ Xuân
Hương ở Nghi Tàm, chứ không phải là mối tình khoảng năm 1804-1813.
Trang 136 Trần Phúc Hiển không
phải là người chồng đầu của Hồ Xuân Hương mà là người chồng thứ ba
(1816-1819). Hai người chồng đầu là Thầy lang xóm Tây làng Nghi Tàm, bài
Bà Lang khóc chồng khoảng năm 1796, thầy Lang mất sớm. Và người thứ hai
là Tổng Cóc Nguyễn Công Hòa ở Vĩnh Yên khoảng năm 1802-1804.
Tóm lại Lưu Hương
Ký do Tổ Hợp Xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ ra đời năm 2012, là một công
trình, đáng hoan nghênh. Nhưng nếu độc giả đọc thơ Hồ Xuân Hương trong
Lưu Hương Ký không thấy hay thì nên tìm trên internet các bản dịch, và
phiên âm trong các bài viết khác để so sánh. Ví dụ : câu: “Thức vàng đá
nọ treo tăng giá” của GS Nguyễn Ngọc Bích đọc lên nghe như thơ của Mã
Giám Sinh, ”cò kè bớt một thêm hai” đối đáp với bà mối. Thơ Lưu Hương
Ký của Hồ Xuân Hương đọc nghe trang trọng “Thử vàng đá nọ treo tầng
giá”.Thơ Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương Ký hay và hay tuyệt vời, mỗi bài
thơ như một viên bích ngọc hoàn hảo không thể đổi một chữ, nếu bạn đọc
thấy dỡ là lỗi tại GS Nguyễn Ngọc Bích và ông Đào Thái Tôn.Tác giả bài
này cũng xin lỗi GS Bích,
bất đắc dĩ phải làm công việc nhặt sạn trong một quyển sách, xin GS tha
thứ và xem đây cũng là một “ngâm dỡn khúc”.
TS Phạm Trọng Chánh*
Tiến Sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne.
Monday, September 17, 2012
HÌNH ẢNH THÚ VI
ĐIÊU KHẮC BẰNG CÁT Ở CANADA
SAND
SCULPTURES ON PRINCE EDWARD ISLAND , CANADA
View SlideshowDownload All
25 Attached files| 1.6MB
VIỆT NAM & THẾ GIỚI
Tin tức / Thế giới / Châu Á
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ quan ngại về tranh chấp biển đảo ở Châu Á
Cảnh sát Trung Quốc ngăn chặn người biểu tình gần lãnh sự quán Nhật Bản ở Thượng Hải, ngày 16/9/2012
CỠ CHỮ
16.09.2012
Dãy đảo tranh chấp giữa Nhật Bản và Trung Quốc
- Người Nhật gọi Senkaku, người Trung Quốc gọi Điếu Ngư.
- Gồm 8 đảo không người ở.
- Nằm trong khu vực có nhiều dầu khí và thủy sản phong phú.
- Diện tích đất tổng cộng của 8 đảo là 6 kilomet vuông.
Ông Panetta bày tỏ quan ngại khi nói chuyện với các nhà báo trước khi tới Tokyo hôm nay, nơi ông khởi sự chuyến đi thăm kéo dài một tuần lễ.
Bộ trưởng Quốc phòng Panetta nói ông lo ngại rằng các hành động khiêu khích có thể dẫn tới phán đoán sai lầm của một hay cả 2 bên dẫn tới nguy cơ bạo động xảy ra.
Các cuộc biểu tình chống Nhật bản đã lan rộng trên khắp Trung Quốc hôm nay, trong sự cố mới nhất để bày tỏ sự phẫn nộ của công chúng Trung Quốc đối với Nhật Bản liên quan tới các hòn đảo đang tranh chấp giữa hai nước trong vùng biển phía Đông của Trung Quốc.
Cả hai nước đều đòi chủ quyền trên vùng quần đảo giàu tài nguyên khoáng sản này.
Ông Panetta kêu gọi cả hai nước hãy tránh những cách hành sử có tính cách khiêu khích.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ nói ông sẽ kêu gọi Trung Quốc tham gia đối thoại với các quốc gia thành viên của Hiệp Hội các Quốc gia Đông Nam Á, tức ASEAN. Mục tiêu là để thành lập một khung sườn hành động nhằm giải quyết những cuộc tranh chấp lãnh thổ tương tự.
Một số các cuộc biểu tình bài Nhật đã trở nên bạo động.
Đại sứ quán Nhật Bản nói những người biểu tình đã phóng hỏa đốt các hãng xưởng của Nhật, phá hoại các dây chuyền sản xuất, hôi của các cửa hàng, và phá cửa xông vào các cơ sở doanh thương Nhật.
Thủ Tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda hôm nay lên án bạo động và kêu gọi cả hai bên hãy chia sẻ thông tin và duy trì liên lạc.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ cảnh báo tranh chấp lãnh thổ tại châu Á có thể gây ra chiến tranh
Những người biểu tình chống Nhật tại Thành Đô ngày 16/09/2012. Dòng chữ trên biểu ngữ bên phải: "Hãy khởi chiến với Nhật Bản!"
REUTERS/Jason Lee
Hôm nay 16/09/2012, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta bắt
đầu chuyến thăm Nhật Bản trong vòng công du châu Á. Tại Tokyo, khi được
hỏi về căng thẳng trong tranh chấp chủ quyền giữa Nhật Bản và Trung
Quốc, đối với quần đảo Senkaku / Điếu Ngư ở biển Hoa Đông, lãnh đạo Bộ
Quốc phòng Hoa Kỳ bày tỏ sự lo ngại là tranh chấp lãnh thổ tại châu Á có
thể dẫn đến chiến tranh.
Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta tuyên bố : « Tôi lo ngại
khi nhìn thấy các nước có những hành động khiêu khích khác nhau và điều
này có thể dẫn đến những bạo lực và cuối cùng là dẫn đến xung đột ». Ông Panetta nhấn mạnh : « Cuộc xung đột này có thể còn lan rộng ra ».
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tiến hành vòng công du châu Á trong bối cảnh từ vài ngày qua, các cuộc biểu tình chống Nhật đã xẩy ra ở nhiều thành phố Trung Quốc. Căng thẳng đã tăng thêm một nấc sau khi chính phủ Nhật Bản quyết định mua lại một số hòn đảo thuộc quần đảo Senkaku mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư và khẳng định là Bắc Kinh có chủ quyền đối đối với các hòn đảo này. Ngày mai, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ sẽ hội đàm với đồng nhiệm Nhật Bản, trước khi ông lên đường sang Trung Quốc.
Các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông cũng làm cho Hoa Kỳ quan ngại khi mà Trung Quốc không chấp nhận từ bỏ các đòi hỏi về chủ quyền đối với gần như toàn bộ diện tích vùng biển này. Quan hệ giữa Trung Quốc và một số nước trong khu vực như Việt Nam và Philippines cũng đang căng thẳng.
Hà Nội và Manila tố cáo Bắc Kinh có thái độ quyết đoán và hù dọa trong các tranh chấp chủ quyền.
Hoa Kỳ tuyên bố không đứng về bên nào trong cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo, nhưng ủng hộ các nước ASEAN xây dựng một bộ luật ứng xử tại Biển Đông. Mặt khác, Washington nhấn mạnh là Mỹ có lợi ích quốc gia trong việc bảo đảm tự do thông thương hàng hải ở Biển Đông.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tiến hành vòng công du châu Á trong bối cảnh từ vài ngày qua, các cuộc biểu tình chống Nhật đã xẩy ra ở nhiều thành phố Trung Quốc. Căng thẳng đã tăng thêm một nấc sau khi chính phủ Nhật Bản quyết định mua lại một số hòn đảo thuộc quần đảo Senkaku mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư và khẳng định là Bắc Kinh có chủ quyền đối đối với các hòn đảo này. Ngày mai, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ sẽ hội đàm với đồng nhiệm Nhật Bản, trước khi ông lên đường sang Trung Quốc.
Các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông cũng làm cho Hoa Kỳ quan ngại khi mà Trung Quốc không chấp nhận từ bỏ các đòi hỏi về chủ quyền đối với gần như toàn bộ diện tích vùng biển này. Quan hệ giữa Trung Quốc và một số nước trong khu vực như Việt Nam và Philippines cũng đang căng thẳng.
Hà Nội và Manila tố cáo Bắc Kinh có thái độ quyết đoán và hù dọa trong các tranh chấp chủ quyền.
Hoa Kỳ tuyên bố không đứng về bên nào trong cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo, nhưng ủng hộ các nước ASEAN xây dựng một bộ luật ứng xử tại Biển Đông. Mặt khác, Washington nhấn mạnh là Mỹ có lợi ích quốc gia trong việc bảo đảm tự do thông thương hàng hải ở Biển Đông.
Tin tức / Việt Nam
Việt Nam: Giá vàng cao nhất từ 12 tháng qua
CỠ CHỮ
16.09.2012
Theo xu hướng quốc tế, giá vàng tại Việt Nam trong hai ngày cuối tuần ở
mức cao nhất từ 12 tháng qua, khoảng 47,40 triệu đồng một lượng, tương
đương với 2.273 đôla Mỹ.
Tuy nhiên, nếu so với giá của thế giới – 1.772,60 đôla một ounce, thì giá vàng Việt Nam cao hơn giá thế giới từ 2,8 đến 3 triệu đồng, khoảng 140 đến 150 đôla.
Các chuyên viên tại Việt Nam nói lý do khác biệt này bắt nguồn từ sự kém hiệu quả trong các biện pháp của Ngân hàng Nhà nước nhằm kiểm soát thị trường vàng trong nước.
Tháng 2 vừa qua, chính phủ Việt Nam có Nghị định số 24, giao cho Ngân hàng Nhà nước kiểm soát việc sản xuất và mua bán vàng, các ngân hàng thương mại không được huy động vốn và cho vay bằng vàng.
Nguồn: Xinhua, livetradingnews.com
Tuy nhiên, nếu so với giá của thế giới – 1.772,60 đôla một ounce, thì giá vàng Việt Nam cao hơn giá thế giới từ 2,8 đến 3 triệu đồng, khoảng 140 đến 150 đôla.
Các chuyên viên tại Việt Nam nói lý do khác biệt này bắt nguồn từ sự kém hiệu quả trong các biện pháp của Ngân hàng Nhà nước nhằm kiểm soát thị trường vàng trong nước.
Tháng 2 vừa qua, chính phủ Việt Nam có Nghị định số 24, giao cho Ngân hàng Nhà nước kiểm soát việc sản xuất và mua bán vàng, các ngân hàng thương mại không được huy động vốn và cho vay bằng vàng.
Nguồn: Xinhua, livetradingnews.com
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 231
TRUYỆN KÝ- VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Tuesday, September 25, 2012
THÙY LINH * SỰ TRẢ THÙ MẤT TRÍ
SỰ TRẢ THÙ MẤT TRÍ
Thùy Linh
NQL:
Mình đọc xong bài này và ngồi khóc. Mình đã còm trong blog TL, cô em
gái văn chương thân thương của mình: “Đau và đắng ngắt. Chưa bao giờ đọc
ở TL một bài chất đầy đau đớn và đắng cay như thế này”.
Bình thường không dám đăng nhưng bây giờ thì đăng.
Bài của TL:
Ảo tưởng ban đầu về một nhà nước vì dân, do dân, của dân khiến người ta tự nguyện thế chấp sổ đỏ Hoài bão
để tham gia cuộc đấu tranh long trời lở đất. Khi giành được chính quyền
mọi người hân hoan và cho rằng, sự thế chấp sổ đỏ đó là xứng đáng.
Để chính quyền đó tồn tại và phát triển, người dân tiếp tục tự nguyện thế chấp sổ đỏ Hy sinh.
Họ hy sinh xương máu, chịu đựng mọi gian khó để chính quyền không bị
xâm hại. Vẫn tin tưởng sự hy sinh đó sẽ được tưởng thưởng xứng đáng. Khi
chính quyền bộc lộ những yếu kém, người dân cố gắng thế chấp sổ đỏ Ảo tưởng
rằng, để chính quyền vững mạnh, cần có những thất bại để làm bài học
cho tương lai. Và chính quyền đang nỗ lực vì một tương lai cho chính họ
và gia đình họ. Ảo tưởng khiến người dân tiếp tục hy sinh, chịu đựng.
Tới lúc chính quyền bộc lộ quá nhiều khiếm khuyết, hạn chế người dân kiên nhẫn gán nợ sổ đỏ Cam chịu
để hy vọng sự hồi tâm của kẻ có chức quyền – những người mà họ đã từng
cưu mang, bảo vệ khi chiến tranh, loạn lạc, nghèo đói. Sự cam chịu lâu
đến mức trở thành nét tính cách khiến họ bị “thua lỗ” trong cuộc thế
chấp mịt mùng không lối thoát.
Sau những gì chính quyền của dân, do dân, vì dân thể hiện, người ta không còn tự nguyện mà bị cưỡng bức thế chấp sổ đỏ Niềm tin.
Tước đoạt sổ đỏ này, chính quyền viện trợ “không hoàn lại” sự tuân
phục. Tới đây người dân bắt đầu bị phân hóa: người cúi đầu ngoan ngoãn
sử dụng sự tuân phục không hé lời; kẻ biến sự tuân phục có lợi cho bản
thân mình trong con đường hoan lộ danh lợi, tiền tài…
Khi không còn gì hết ngoài sổ đỏ Chán ngán
thì chính quyền thu gom theo nhiều cách, mà cách thông thường nhất là
thu hồi đem tiêu hủy. Nhiều người buông xuôi để người ta sử dụng sổ đỏ
đó theo tùy thích vì họ cũng không biết dùng để làm gì ngoài sự bất mãn,
khó chịu. Số người khác đem sổ đỏ này đi thế chấp để mua Sự thật một
cách âm thầm theo những cách có thể. Biết sự thật để thêm đau đớn, khổ
sở, và sẽ càng khốn khổ nếu như họ lâm vào tình thế bất lực. Số ít không
cam chịu nên dùng sổ đỏ Chán ngán đầu tư cho Niềm tin của mình và nhiều
người khác.
Tới lúc người dân không còn gì,
ngoài lòng căm hận thì chính quyền độc tài tung dự án Đàn áp ra để chiếm
đoạt sổ đỏ Tự do của con người. Sẽ có người bị khuất phục như là lý lẽ
cuộc sống. Nhưng phần lớn là thất bại như là chân lý của lẽ phải. Vì có
kẻ độc tài nào thu gom được Tự do tâm hồn? Tù đày, giam cầm, án phạt,
bạo lực chỉ càng khiến những chiến binh thực thụ củng cố, tăng trưởng Tự
do cho tâm hồn họ. Với những chiến binh này chính quyền đừng hy vọng
bắt họ thế chấp sổ đỏ của Tự do – mà
cao cả nhất, điều mà không một sức mạnh nào có thể tước đoạt được, đó
là tự do tâm hồn. Những 12, 10 hay 4 năm tù đày chỉ là thời gian giam
cầm thân xác, nhưng sức mạnh của những tâm hồn tự do kia có thể dẫn
truyền đến hàng triệu người có lương tri trên toàn thế giới – một sức
mạnh hơn cả bom nguyên tử, một sức mạnh không thể hủy diệt.
Bản án dành cho những blogger
cất tiếng nói ôn hòa gấp ba lần án tù cho những kẻ khoác áo công quyền
để giết người đã là bản án tự kết án cho chế độ được tạo ra từ những
nghịch lý: Ảo tưởng, Bất tin, Bất tín, Căm hận, Chán ngán…Và người xưa
đã đúc kết: “bạo phát, bạo tàn”. Nếu chính phủ tiếp tục phát hành những
“trái phiếu độc đoán, chuyên chế” thì họ sẽ gặt về dự án Sụp đổ như đã
từng trước đây với những Vinashin, Vinaline…Bởi nhân dân không còn gì để
thế chấp, không còn gì để họ có thể cướp bóc, đàn áp ngoài sự oán thán,
căm hận – những cái mà chính quyền không hề muốn nhân về.
Không biết còn kéo dài bao lâu nữa sự trả thù mất trí này?
QUÊ CHOA
TRẦN MINH KHÔI * LẠI TÍNH NHẦM
Lại tính nhầm
Trần Minh Khôi
Vụ
án xử những người trong Câu lạc bộ Nhà báo Tự do hôm nay ở Sài Gòn là
một vụ án chính trị, nghĩa là từ các thủ tục, thời điểm của phiên xử –
ngay trước kỳ họp của Bộ Chính trị và của Hội nghị Bản Chấp hành Trung
ương 6 để giàn xếp các vấn đề của sự suy thoái quyền lực – đến các bản
án đều phục vụ đích chính trị. Với các bản án phi lý và bất công đó,
mười hai năm cho Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, mười năm cho Tạ Phong Tần, và
bốn năm cho Phan Thanh Hải, các thế lực cầm quyền muốn gởi thông điệp
gì? Và cho ai?
Hiển nhiên nó nhằm vào mục đích răn đe
những gương mặt đang vận động chống bá quyền Trung Quốc và cho dân chủ,
tự do ở Việt Nam. Nhưng nếu chỉ mục đích này thôi thì tòa án Việt Nam
cũng hiểu rằng không cần một bản án mười hai năm. Một bản án bốn năm
năm, như thường thấy trong các trường hợp tương tự, cũng đã có thể phục
vụ mục đích đó mà không phải gây ra thêm nữa phản ứng bất lợi cho chính
quyền từ các thế lực xung đột trong Đảng, từ các tầng lớp đông đảo trí
thức, từ các tổ chức nhân quyền quốc tế, và quan trọng hơn là từ các
quốc gia tự do ở Phương Tây.
Một lý do khác cho những bản án
chính trị loại này là phục vụ vào việc thế lực cầm quyền dùng chúng để
sau này thương lượng với các thế lực bên ngoài cho những mục tiêu quyền
lực và kinh tế khác. Một bản án mười hai năm giảm xuống sáu bảy năm đem
đến cho nhà nước một ấn tượng tốt đối với quốc tế về thái độ biết điều
của nó hơn là một nguyên án sáu bảy năm. Bên cạnh đó, quan trọng hơn, là
những mối lợi tương nhượng khác. Một trong những hành xử kinh tởm nhất
của các thế lực độc tài là dùng ngay chính các bản án tù tội đối với
công dân mình để mặc cả với các quốc gia cổ xúy tự do và dân chủ trên
thế giới cho mục đích duy trì quyền lực. Xưa nay nhà nước Việt Nam vẫn
làm điều này. Nhưng một bản án mười hai năm tù cho một người chỉ xuống
đường biểu tình chống ngoại bang và bày tỏ quan điểm chính trị của mình
vẫn là một bản án chính trị không bình thường.
Trong tình huống lộn xộn của
những xung đột nội bộ, của những cuộc thanh trừng và bắt bớ đối với các
thế lực tài chính và chính trị, của những hứa hẹn cải cách hiến pháp và
thể chế,… các bản án nặng nề đối với nhóm Câu lạc bộ Nhà Báo Tự do, đặc
biệt là đối với Điếu Cày, người đã tạo được sự quý trọng trong đông đảo
các tầng lớp sinh viên và trí thức bằng sự chính trực và ý chí không
khuất phục của anh, gợi cho chúng ta nhớ lại bản án tử hình mà các thế
lực độc tài Hàn Quốc đã giáng xuống cho Kim Dae Jung hồi những năm 80
của thế kỷ trước. Rõ ràng là nhà nước sợ Điếu Cày. Có lý do để tin rằng
các thế lực cải cách trong Đảng đã thỏa hiệp với giải pháp cách ly Điếu
Cày ra khỏi xã hội trong khi họ đang xoay xở giàn xếp xung đột nội bộ và
thực hiện những toan tính cải cách nhằm cứu vãn khủng hoảng.
Và đây chính là sai lầm của họ. Họ đã tính nhầm.
Sự sợ hãi lớn nhất của các thế
lực cải cách là họ sẽ không kiểm soát được sự bùng nổ của xã hội một khi
các định chế đóng vai trò gọng kìm duy trì bạo lực và bất công của nhà
nước đối với xã hội được nới lỏng. Nếu sự bùng nổ xã hội xảy ra thì
không ai dám chắc, kể cả những người mới hôm qua đang ở đỉnh của quyền
lực, có thể thoát khỏi sự giận dữ của bạo lực quần chúng. Do đó, một
cách bản năng, các thế lực độc tài, trước khi toan tính cải cách, có kế
hoạch tiêu diệt hoặc cách ly những gương mặt đối lập có uy tín với mục
đích là giữ quyền chủ động trong toàn bộ tiến trình cải cách. Trực giác
nói với họ rằng đó là một cách làm an toàn. Nhưng thực tế chứng minh
ngược lại: nếu không có những gương mặt có đủ thẩm quyền đạo đức, như
triển vọng đang hình thành từ sự chính trực và lòng dũng cảm của Điếu
Cày, đứng ra lãnh đạo xã hội dân sự thì tất cả mọi cố gắng cải cách xuất
phát từ xung đột quyền lực ở thượng tầng đều thất bại và xã hội sẽ rơi
ngay vào bạo loạn một khi các định chế rạn nứt.
Xã hội Việt Nam ở giai đoạn này
đã tích lũy một sự dồn nén quá lâu của những bất công xã hội mà trong
ngắn hạn không có hướng điều tiết và hóa giải. Sức ép của sự dồn nén bất
công này ngày càng có dấu hiệu bùng nổ. Nó chỉ chờ một cơ hội khi các
định chế bạo lực nhà nước đã tạo ra sự bất công này rạn nứt. Những thế
lực cải cách trong Đảng sẽ mắc phải sai lầm rất lớn nếu nghĩ rằng họ có
khả năng kiểm soát sức ép này. Thứ nhất, họ không có đủ tính chính đáng
chính trị để làm điều này. Thứ hai, họ không có đủ quyết đoán để dùng
bạo lực. Thứ ba, ngay cả khi họ đủ quyết đoán hoặc do tình huống của
những toan tính điên rồ, bạo lực nhà nước có nguy cơ sẽ làm sức ép bất
công xã hội bùng nổ mãnh liệt hơn và thiêu cháy chính họ.
Nói ngắn lại: không có những
gương mặt đối lập có đủ thẩm quyền đạo đức, nghĩa là có đủ sự chính trực
và kiên định, để lãnh đạo xã hội dân sự, duy trì sự ổn định, thì mọi cố
gắng cải cách thể chế ở thượng tầng đều có nguy cơ gây nên bạo loạn.
Gọi nó là quy luật hay gọi nó là
kết quả của ý chí dân sự thì dân chủ vẫn là một tiến trình không thể
đảo ngược. Các thế lực đang cầm quyền cũng đã hiểu ra điều này. Vấn đề
còn lại là làm thế nào để có một cuộc chuyển tiếp dân chủ ôn hòa, không
có bạo động, không có đổ vỡ, không có sự trả thù đối với thế lực cầm
quyền độc đoán đã gây nên bất công và thảm họa, và quan trọng hơn cả là
không để cho những thế lực cơ hội chính trị thao túng vì quyền lợi riêng
tư. Một cuộc chuyển tiếp dân chủ như thế chỉ có thể xảy ra với sự tham
dự của xã hội dân sự được lãnh đạo bởi những gương mặt đối lập có đủ
thẩm quyền đạo đức để kiểm soát quyền lực, kiểm soát sự chuyển giao
quyền lực giữa các phe nhóm, và để điều tiết nguy cơ bùng nổ của bạo
loạn do sự dồn nén của bất công gây ra.
Chúng ta, những người bạn của
Điếu Cày và của Câu lạc bộ Nhà báo Tự do có lý do để lạc quan; các bản
án nặng nề đối với anh và bạn bè anh một lần nữa khẳng định tính chính
trực và lòng dũng cảm, không khuất phục của họ. Nhà tù và sự sợ hãi của
quyền lực đối với họ khẳng định thẩm quyền đạo đức của họ.
Thế lực cầm quyền đã tính nhầm
với những bản án phi lý và bất công cho Điếu Cày và các bạn của anh.
Nhưng ở trong lao tù hay được tự do, cuộc vận động chuyển tiếp dân chủ
ôn hòa của chúng ta vẫn rất cần những người như họ.
Chúng ta chúc họ chân cứng đá mềm.
Theo blog FB của TMK
QUÊ CHOA
QUÊ CHOA
TRẦN MỘNG TÚ * QUÁN TRÀ
QUÁN TRÀ THINH LẶNG
TRUYỆN NGẮN TRẦN MỘNG TÚ
TRUYỆN NGẮN TRẦN MỘNG TÚ
Hà Nội là cả một thế giới bí mật, nó luôn luôn giấu những bất ngờ nho nhỏ ở một chỗ ta không hình dung ra được. Một may mắn tình cờ nào đó ta tìm thấy cái bí mật đó ngay trước mặt ta, ta bàng hoàng như được ai mời một chén rượu quý. Cái ngọt của ruợu cứ vương mãi ở cổ như một bài thơ chưa đọc đến câu cuối cùng. Câu thơ đó có thể ở lại với ta suốt một đời người.
Một buổi chiều, tôi lang thang trên đường phố Hà Nội, đi một mình trong khi chờ đợi chồng con (được một ngày mẹ cho) đang phân tán trong phố cổ trở về đi ăn tối. Vừa đi vừa ngắm nghía hai bên: phố, người, xe tấp nập buổi tan tầm, chạy đâm vào nhau, như những con rối trong tuồng múa rối nước. Cái cảnh này trên thế giới chỉ có ở những nơi đất hẹp người đông như Hà Nội, Sài Gòn Việt Nam ta có lẽ là hai nơi điển hình nhất. Chen giữa bước chân đi là những hàng ăn, hàng uống bầy cả ra hai bên phố. Ngay trước các cửa hiệu hàng hóa, ai muốn bán thì cứ bầy ra bán. Ở một con ngõ vào xóm người ta cũng có thể giăng một tấm bạt từ vách tường của nhà bên phải sang vách tường của nhà bên trái ở ngay đầu ngõ làm thành một quán cà phê hay một quán bán chè, bán cháo. Ai may mắn có được cái mặt tiền độ ba thước vuông là thành một cửa hiệu khang trang lắm rồi, còn không thì cứ bầy ngay ra trên lối đi, trên một nắp miệng cống cũng để vừa một gánh hàng rong. Khách hàng xúm xít ngồi xuống ăn uống rất là tự nhiên, giản dị, thưởng thức món ăn rất hạnh phúc, chẳng kém gì những người khách ở trong một nhà hàng sang trọng thưởng thức món ăn của mình.
Tôi hòa mình vào trong cái dòng sinh mệnh đông đảo đó. Lang thang mãi, mỏi chân và khát nước, thấy thèm một ly trà quá. Thật may, một cái quán bán nước trà, kẹo lạc (đậu phọng) đơn sơ ngay góc đường Tôn Ðức Thắng và Ðoàn Thị Ðiểm. Quán không có bảng hiệu, vài cái bàn thấp và ghế đẩu, nhưng gần như mọi người đã ngồi hết, tôi đứng loay hoay một vài giây chưa biết làm sao, bỗng có người giúi cho vào tay chiếc ghế đẩu, mà chẳng nói câu gì. Tôi vội vàng cám ơn và nhận được một nụ cười. Ngồi xuống chưa kịp gọi, thì chủ quán, một người đàn bà trẻ khoảng ngoài ba mươi đã đem đến trước mặt tôi một ly nước trà, và cái đĩa nhỏ có mấy chiếc kẹo. Chị không nói câu nào, đặt ly nước trà bốc khói, thơm ngát xuống ngay một một góc bàn đã có bốn người ngồi trước mặt tôi với một nụ cười, tôi cũng cười lại đáp lễ, cúi xuống nhìn vào ly nước một giây, rồi uống một ngụm nhỏ. Nước trà vừa chát, vừa ngọt, vừa thơm. Ðúng là trà mộc Thái Nguyên. Uống ngụm trà mà như uống một nụ cười. Hình như những người ở trong quán này ai ai cũng hào phóng nụ cười.
Nước trà làm tôi tỉnh hẳn người, lúc đó tôi mới để ý nhìn chung quanh. Quán trà nhỏ xíu nhưng ấm cúng và giản dị. Chị chủ quán đang loay hoay với nhũng chiếc ấm, những hộp, những gói trà và những chiếc ly thủy tinh. Ánh lửa ở chiếc lò ga hắt lấp lóe lên một bên má chị, nhìn thấy cả đuôi lông mày của con mắt bên đó, kéo dài một nét thanh thanh, cái bóng nhỏ bé của chị hắt một vệt rất mờ lên vách. Cả quán có ba chiếc bàn vuông và một chiếc bàn dài, bàn vuông ngồi được hai người, bàn dài ngồi được bốn người. Quán rất hẹp nên các bàn kê gần nhau lắm. Bàn nào hình như cũng chêm thêm ghế, khách ngồi sát vào nhau rất thân mật. Họ chụm đầu vào nhau trò chuyện, nhai kẹo lạc ròn thành tiếng. Khói trà nghi ngút bốc lên ngang mặt mọi người, nhưng sau làn khói mỏng manh đó, những con mắt vẫn ánh lên khi họ nhìn nhau trò chuyện. Thỉnh thoảng họ lại giơ tay đập vào vai nhau rất thân thiện.
Quán trà binh dân này không có tiếâng hát, tiếng nhạc vỡ ra từ máy phát thanh hay truyền hình như ở các quán khác, nên không khí rất êm ả. Khách nói chuyện với nhau rất khẽ, khẽ đến nỗi không nghe được tiếng, chỉ thấy những bàn tay xòe ra, nắm vào, những ngón tay chỉ vào ngực mình, hay chỉ vào mũi người khác thi nhau múa lên. Nếu họ nói thành tiếng thì chắc quán đang ồn lắm. Mặc cho tiếng ồn ào của xe gắn máy, tiếng còi xe bóp inh ỏi, tiếng người gọi nhau ơi ới, tiếng rao hàng và cả đôi khi chen vào cả tiếng cãi cọ trước cửa quán. Những người vào đây uống trà họ giữ được không khí rất thinh lặng. Nói rất khẽ và cười rất nhẹ. Chị chủ quán luôn luôn biết ý khách hàng. Không đợi gọi. Kẹo chưa hết đã đem ra, trà lúc nào cũng được rót đầy ly đem tới. Chị thong thả chuyên nước sôi từ ấm sang bình. Tiếng nước sôi trên bếp cũng nhẹ nhàng như tiếng guốc chị di chuyển, hình như tôi nghe được cả tiếng thở của chị.
Tôi uống đến ly trà thứ hai và ăn gần hết chiếc kẹo, tỉnh hẳn người, lúc đó mới quan sát kỹ đến những người khách chung quanh mình. Phần đông còn trẻ, người lớn tuổi nhất chắc chỉ khoảng bốn mươi, họ đang nói chuyện với nhau bằng những bàn tay múa khoa lên trong quán. Cách nói chuyện của họ làm tôi liên tưởng đến một lớp Sign Language ở College tôi đã theo học cách đây mấy năm. Câu đầu tiên chúng tôi học là lấy ngón tay chỉ vào giữa ngực mình, xong xòe bàn tay ra áp vào bên trái ngực, rồi chỉ ngón tay vào người đối điện. Như thế có nghĩa là I love you. Tôi đã học hết khóa vỡ lòng và có thể nói chuyện vài ba câu thông thường với người câm, điếc. Bẵng đi một thời gian không học tiếp theo, bây giờ khó mà nhớ lại được hết những điều mình đã học.
Chị chủ quán đã đến gần tôi với một mảnh giấy, đưa cho tôi đọc. “Ðây là quán Trà của người câm và điếc, bà cần gì thêm xin viết xuống đây” Tôi ngẩn người ra nhìn chị, chị nhìn lại tôi cũng vẫn với nụ cười. Tôi viết lên tờ giấy của chị vừa đem đến, hỏi chị mở quán này bao lâu? Thì chị cho biết là mới hai năm, sau khi vừa lập gia đình, anh cũng là người dùng ngôn ngữ thinh lặng như chị. Chúng tôi tiếp tục bút đàm với nhau, chị nói khi mới mở quán trà, muốn bán cho tất cả mọi người, nhưng khách nói được đến uống trà thấy cứ phải bút đàm với chủ quán mất nhiều thời giờ quá trong khi khách không nói được thì cứ giơ tay chỉ trỏ vào họ, nên họ bỏ đi. Dần dần những người câm, điếc rủ nhau đến đây uốâng trà, coi như quán này mở ra chỉ để dành riêng cho họ, những người đối thoại thinh lặng.
Tôi ngồi im trong bóng chiều chập choạng, một vài cửa tiệm đã lên đèn, chị chủ quán cũng bật lên một ngọn đèn điện ở một góc quán, ngonï đèn không được sáng lắm, nhưng cũng soi rõ những bàn tay đưa ra, những ngón tay chỉ trỏ vào nhau, tôi ngắm nhìn những bàn tay đó cố vận dụng vốn liếng ít ỏi đã học được của mình, dần dần tôi hiểu họ đang nói với nhau về việc làm, giá sinh hoạt, có người có con vừa ở bệnh viện ra, có người vừa thất nghiệp. Tôi dở quá nên nghe được mà không nói được. Nếu tôi còn nhớ để nói chuyện được với họ thì hay biết bao!
Nếu ai đã từng được thưởng thức tuồng Nô của người Nhật, là một loại tuồng trong đó các diễn viên sơn mặt trắng toát giống nhau, khi diễn kịch không nói tiếng nào, chỉ diễn tả bằng cách khoa tay múa chân, người xem phải đoán được cảm xúc của họ qua những cử chỉ đó, thì thấy những người đang uống trà trong quán này giống như họ vậy, có khác một điều là những người này không phải kịch sĩ, không quét sơn trắng lên mặt, nên ta đọc được cảm xúc trên từng cái cau lông mày, cái cười mệt mỏi nửa miệng, hay nụ cười nở tung ra như một đóa hoa. Tôi phải nhờ chị chủ quán thông dịch lại cái ngôn ngữ thinh lặng này. Tôi viết xuống giấy câu hỏi, rồi chị chủ quán dùng tay nói lại với họ. Chị cho biết phần đông những người này không biết đọc, biết viết. Nếu tôi muốn nói chuyện với họ, phải nói thật to, không được dùng tay che miệng, họ sẽ nhìn miệng tôi mà đoán tôi đang nói câu gì.
Có người rút ở trong túi ra một tờ giấy, có bọc plastic với một dòng chữ in sẵn: Tôi vừa câm vừa điếc. Không biết chữ. Xin nói to và đừng che miệng. Tôi nhìn tờ giấy được giữ gìn cẩn trọng như một tờ căn cước mà trong lòng rưng rưng, thấy nghèn nghẹn ở cuống họng, vội cúi xuống uống ngay một ngụm trà.
Tôi ngồi chuyện trò với họ bằng sự trợ giúp của chị chủ quán, chúng tôi nói với nhau về những đời thường. Chuyện gia đình, chuyện học của con, chuyện việc làm của cha mẹ. Họ hỏi tôi về cái đất nước xa xăm tôi sống, ở đó những người câm, điếc được giúp đỡ thế nào? Chúng tôi hỏi nhau cả về chuyện uống trà. Câu chuyện càng lúc càng thân thiện cởi mở, họ nói năng tự nhiên, ước mơ giản dị, chỉ mong kiếm đủ ngày hai bữa, có chút tiền dành dụm phòng khi con cái ốm đau và đủ tiền đóng học phí cho con mỗi khóa học.
Nhưng buổi chiều tan việc, họ bỏ lại tất cả nhọc nhằn khuân vác trên bến dưới thuyền ở những bãi sông; những túi xi măng, những viên gạch, tảng đá ở nơi xây cất; cái cuốc cái xẻng ở một con đường đang đào, đắp nào đó, ghé uống mấy ly nước trà và gặp những người cùng chung ngôn ngữ với họ, ngôn ngữ thinh lặng trong quán trà thinh lặng này.
Tôi ngắm nhìn họ cầm ly uống trà rất là bình dân, với vẻ sảng khoái, hình dung ra ở một nơi uống trà khác của những người được gọi là thanh lịch. Những quán trà dành cho tao nhân mặïc khách có những nghi thức cầu kỳ gọi là Trà Ðạo. Khi cho trà vào ấm thì gọi là Ngọc Diệp Hồi Cung. Khi tráng trà thì gọi là Cao Sơn Trường Thủy ( rót nước 60 độ, cao cách trà 20-30 phân) Khi pha trà thì gọi Hạ Sơn Nhập Thủy ( rót sát miệng ấm, nước sôi đủ 100 độ) Khi nhấc chén trà lên thì mấy ngón tay cũng được thăng hoa gọi là ba con rồng Tam Long Giá Ngọc, trước khi uống ngụm trà đó phải từ tốn đưa lên mũi từ trái sang phải thưởng thức mùi thơm của trà gọi là Du Sơn Lâm Thủy.* Chao ôi là nghi lễ, là cầu kỳ.
Những người uống trà trong quán trà Thinh Lặng này họ giản dị lắm, trà do chị chủ quán pha một bình lớn, rót ra sẵn trước mặt, họ cầm lấy chén trà, nhìn nhau bằng những ánh mắt thân mật, ngửa cổ lên uống một hơi đầy, uống theo cả mệt nhọc của một ngày lao động vất vả vào lồng ngực. Họ chỉ vào ngưc mình, ngực bạn, nói lòng quý mến nhau. Những tiếng động bên ngoài đường của xe cộ, của âm thanh ầm ĩ, họ bỏ cả ngoài tai. Trong những lồng ngực đơn sơ đó cái âm thanh tĩnh lặng kéo dài theo nhịp đập êm ả của trái tim.
Tôi chào họ ra về, mang theo quán trà Thinh Lặng trong trái tim nhiều tiếng động đời thường của mình, nước mắt bỗng ứa ra.
Chao ôi, là quê hương yêu dấu! Mỗi chỗ giấu một điều bí mật, ta có may mắn tìm thấy, khác nào như những người tìm được châu báu trong kho tàng cổ tích thần tiên.
Trần Mộng Tú
03/2008
Trích Ký-Những Mảnh Quê Nhà.
* Cách pha trà ở Lư Trà Quán, Thanh Xuân- Hà Nội.
PHAN BÁ THỤY DƯƠNG * TRẦN HOÀI THƯ
Qua Ô CỬA của Trần Hoài Thư, Nghĩ và Viết Về Thơ Chiến Tranh Miền Nam.
Tác giả: Phan Bá Thụy Dương
• ảnh THT
Herbert Hoover vị tổng thống thứ 31 của Hoa Kỳ đã nói: “Giới lãnh đạo già tuyên bố chiến tranh nhưng chính giới trẻ là người phải chiến đấu và chịu chết.” [1] Chiến tranh đã tạo nên không biết bao nhiêu cảnh ly tán, hủy diệt không biết bao nhiêu sinh mạng một cách oan uổng và làm kiệt quệ trầm trọng tài nguyên quốc gia. Nhưng, nếu nhìn từ một góc độ khác, chiến tranh cũng đã sản xuất, tạo nên nhiều vĩ nhân lừng danh trong quân sử, những văn thi sĩ lỗi lạc trong nền văn học sử thế giới.
Bài viết ngắn này không phải là một luận đề về thơ chiến tranh toàn cầu mà chỉ giới hạn trong thơ Chiến Tranh VN, trong giai đoạn tàn khốc nhất, từ thập niên 60 cho đến ngày miền Nam rơi vào tay chế độ Cộng Sản Hà Nội. Hạn hẹp hơn nữa, người viết chỉ muốn truyền đạt, giới thiệu đến bạn đọc một số cảm xúc, hình ảnh, tâm tư... của người lính chiến Trần Hoài Thư [THT] đã phản ảnh qua tác phẩm của anh: Ô Cửa.
Tuy nhiên, để có thêm hương vị, khải triển chủ đề rộng hơn đôi chút, người viết sẽ đề cập, dẫn trích thêm một số ít thơ về chiến tranh của các văn thi sĩ Việt, Mỹ khác - những người đã trực tiếp cùng THT tham dự cuộc chiến “ý thức hệ” trong giai đoạn đầy nhiễu nhương đó. Nếu thấy cần thiết, sau này người viết sẽ trở lại, bàn về đề tài sâu rộng hơn, với nhiều thi sĩ tiêu biểu cho cả 2 miền Nam Bắc, cùng những khuynh hướng đối kháng hay quan điểm tương đồng.
Theo lời tác giả, Ô Cửa là một tổng hợp của 5 thi tập: Thơ THT, Qua Sông Mùa Mận Chín, Tháng Bảy Hành Quân Xa, Ngày Vàng và Người Lính, mà anh đã xuất bản trước đây - sau khi nhuận sắc, tuyển chọn lại. Tập thơ dày 380 trang, với 237 bài, in trên giấy đặc biệt, tranh bìa của Thân Trọng Minh, do Thư Ấn Quán của anh ấn hành. Bản đẹp, dành tặng thân hữu nên không thấy ghi giá bán.
Danh từ “thơ chiến tranh” kể từ Homer đã trở nên càng ngày càng phổ biến một cách rộng rãi, nhất là sau khi chiến cuộc VN kết thúc. Hiện nay các quốc gia đồng minh của VNCH và đã từng trực hay gián tiếp tham chiến trên lãnh địa VN, mỗi nước đều có rất nhiều cơ quan, thư viện… lưu trữ, quảng bá thi ca viết về cuộc chiến VN, được sáng tác bởi những cựu chiến binh của họ. Cho đến bao giờ thì thi ca về thể loại này của các tác giả miền Nam trước 75 mới được các tổ chức văn hóa, chính trị hải ngoại hay nội địa dành cho nó một vị trí nghiêm túc, sáng sủa hơn, để bảo tồn những ấn chứng quan trọng trong giai đoạn lịch sử đã qua, đã được khép lại?
1. Trực diện với chiến tranh, tiếp cận với tử thần
Bây giờ chúng ta hãy bước qua Ô Cửa, thử đi vào nội dung cuốn sách để xem người chiến binh này đã trình bày, muốn chuyển gởi những gì tới người đọc, qua những năm dài phục vụ dưới cờ, trong thời tao loạn, nhiễu nhương:
Giòng sông phân tranh hai vùng thù nghịch. Đêm xuống đồi gặp con nước nổi. Súng đạn đưa khỏi đầu. Từng con một vượt sông. Rồi trước khi trèo ngọn Kỳ Sơn. Anh lạc trên cánh đồng trăng mênh mông. Không biết nơi nào là cõi dữ. Trên đôi vai anh nặng nề lịch sử. (“Đêm Vượt Sông,” tr 5)
Từ giã giảng đường chật hẹp, nóng bức, người sinh viên mang đầy lý tưởng, hoài bão và mộng mơ ấy đã chấp nhận đi vào nơi thâm sâu cùng cốc, theo lời kêu gọi của núi sông. Ngoài trách nhiệm thi hành nghĩa vụ công dân, có thể anh còn coi việc đó như một lần đi thám hiểm, khai phá về những chân trời mới, quyến rũ hơn, để thưởng ngoạn thiên nhiên, giao lưu nhân thế, thử thách định mệnh:
Ở đây đèo ải ngăn sông lộ. Trăm đứa lên có mấy đứa về. Giày trận bám bùn mưa tối mặt. Mùa hè gió thổi bụi tê tê. Thanh niên ta bỏ miền trung thổ. Theo mảng mây trời trên bản xa. Núi dựng. Rừng bạt rừng. Lá mục. Phơi ngàn năm lạnh cắt xương da. Ta về ngơ ngác cơn sinh diệt. Ngỡ làm tên ẩn sĩ tìm trầm...(Về Với Núi, tr 55)
Cũng trong ý niệm chấp nhận khoác chinh y để bảo vệ quê hương, giữ gìn lãnh thổ, t ừng l ớp, t ừng l ớp lớp thế hệ tuổi trẻ đã đành bỏ cả tương lai, hoài bảo, rồi mang theo cuộc tình để tham dự vào cuộc chiến đấu gian lao, mà tự thân họ không có quyền lựa chọn, hoặc từ chối:
“…Vào giờ G ta ra mặt trận - nón sắt bần thần theo gót giày sô - hiu hắt đường mưa tiến về âm phủ - vừa cảnh giác đời, vừa ủ chiêm bao - khẩu súng cạc bin chúi đầu xuống đất - như muốn nói gì với cánh Rừng Lăng -
Xuân Phổ bên kia chập chờn bóng địch - lập cập hồn ai, bèo vướng chân mày ? - nước lạnh môi khô lóe lên đóm nhớ - màu mắt bên màu hoa súng ngày xưa - ta vẫn yêu em, yêu toàn nhân loại - nên gắng khom lưng, tiến chiếm Xóm Dừa…” [Luân Hoán * Trên Đường Lững Thững Hành Quân, Đạn Thù Có lẽ Ngập Ngừng Tránh Ta]
để lãnh nhiệm vụ trấn thủ biên cương xa xăm, tiền đồn heo hút, dẫy đầy hiểm nguy, bất trắc. Vì chưng, họ đã lỡ sinh ra vào một giai đọan lịch sữ đen tối, vào thời buổi loạn ly, máu lửa với đạn bom và nước mắt:
“…Giặc cứ pháo xá gì cơn bão giạt - nón sắt che cho đỡ lạnh mái đầu - đêm nến thắp ánh hỏa châu hiu hắt - sinh nhật ai máu đỏ giữa canh thâu - đường truông núi hai mươi năm chất ngất - tuổi lang thang vào xương máu bàng hoàng - mai về phố với hồn chai lạnh ngắt - mua tình vui dồn trống chuỗi mênh mang - khúc chinh chiến đã từ lâu quên hát - vầng trăng treo mầu úa hướng mong chờ - mai xuống núi tiếp một ngày phiêu bạt - tìm lại mình đánh thức một cơn mơ” [Nguyễn Mạnh Trinh * Kontum Bài Thơ Cũ]
Có người tuy dấn thân, tham dự vào cuộc chinh chiến với thái độ thản nhiên, xem đó như là chuyện tai trời ách nước, một trò tiêu khiển, nhưng chắc hẳn trong thâm tâm anh cũng khó thoát khỏi những ray rức, trăn trở hoặc suy tư, đau xót về thực trạng rợn người phơi bày trước mắt:
“Bốn bề sương muối bủa quanh - hỏa châu đỏ rực năm canh rợn người - ta về tham dự cuộc chơi - rựơu cần, súng đạn với lời kêu thương.” [Huy Lực * Đêm Tiền Đồn Pleime ]
Nghĩa vụ gìn giữ biên cương, lãnh thổ, quả là một gánh nặng luôn đè trên vai những chàng lính trận tiền phương. Từng hốc đá, cánh rừng, từng bờ sông, ngọn suối, từng chân núi, triền đồi mãi mãi là nơi hiểm địa, tử địa, dể dàng hủy diệt, cướp đi mạng sống của mình:
Một chút cay cay mà lòng buồn tủi. Buồn thì về đừng nán lại thằng em. Không sao cả lên đồi cao xuống vực. Đất mở rồi ở lại cũng buồn thêm... Cùng đứng lại hai chân nghiêm cúi mặt. Đây hàng quân đọc lại thiếu tên em. Người lính trẻ chưa đầy hai mươi tuổi. Nhớ thì về cốc rượu để phần em. (Viết Cho Thằng Em Cùng Trung Đội, tr 35.)
Nhớ thì về cốc rượu để phần em. Câu thơ chứa đầy trìu mến, thể hiện một thứ tình huynh đệ chi binh thắm thiết. Đó là lời của một người anh dành cho đứa em vắn số, chứ không phải loại ngôn từ của một cấp chỉ huy nói với kẻ trực thuộc. Thứ tình huynh đệ chi binh và s ự trìu mến này, người ta cũng thấy hiện rõ nét trong thơ của Pete Agriostuthes dành cho người tiền sát viên tên Nam qua bài “He was a Chiêu Hồi”, hoặc qua thơ của Kevin Bowen, Steve Mason, Sarge Lincetum, Wilfred Owen, Walter McDonald... Đặc biệt là của Yusef Komunyakka, người đã chiếm Pulitzer Prize năm 94 với tuyển tập Neon Vernacular xuất bản năm 93, trong đó chứa đựng phần lớn các bài của tập thơ mang tựa đề Việt ngữ “Điên Cái Đầu”, vốn đã phát hành từ năm 88.
Súng đạn vô tình nào biết né tránh ai. Khi một người chiến sĩ không may, vĩnh viễn nằm xuống thì người đời thường cho rằng anh ta đã vị quốc vong thân, là một người anh hùng, là kẻ đáng được tuyên dương, ca ngợi. Có đúng vậy không hay ta cần thử suy gẫm, xét nghiệm lại câu nói lừng danh, mang hơi hám, tư tưởng phản chiến dưới đây của "papa" tức văn hào Ernest Hemingway -người đoạt giải Nobel 54 về Văn học, khi ông phát biểu: “Ngày trước người ta nói rằng: Hy sinh cho quốc gia của mình là một hành động cao cả và xứng đáng. Nhưng trong cuộc chiến hiện đại không có gì là vẽ vang hay thích nghi khi anh mất đi. Anh sẽ chết như một con chó cho một lý do chẳng có gì là tốt đẹp.”[2]
Xin mời bạn đọc tiếp những vần thơ nóng bỏng, hồi hộp khác của chàng thám báo trẻ tuổi THT:
Băng đồng, băng đồng đêm hành quân. Người đi ngoi ngóp nước mênh mông. Về đây Bình Định ma thiêng lãnh. Mỗi địa danh rờn rợn oan hồn. Trung đội những thằng trai tứ chiến. Những thằng bỏ lại tuổi thanh xuân. Diều hâu bôi mặt hù ma quỉ. Thuở đất trời bày đặt nhiễu nhương. Đêm của âm binh về xứ khổ. Poncho phơ phất gió hờn oan. Trên vai cấp số hai lần đạn. Không một vì sao để chỉ đường. (Trung Đội, tr 31)
Những cảnh tượng bi tráng, nghiệt ngã như thế cũng thể hiện đầy dẩy trong thi ca của các chiến hữu đồng minh, như Marko Whiteley đã viết tại mật khu Hố Bò qua Lonely in the Reservoir, Thoughs of War..., như W.H McDonald viết ở Phú Lợi với “I Learned About War Last Night” hoặc Sarge Lintecum qua “Ambush” và nhất là bài thơ được phổ nhạc của ông, rất phổ cập, được mọi người ưa chuộng: " The Vietnam Blues".
Xin hãy đọc thêm những dòng diễn tả vừa chân thật, vừa ngộ nghĩnh, thanh thản của người “lính sửa” trong những ngày đầu nhận lãnh trách nhiệm dẫn dắt đơn vị:
Ta trở về giáp mặt chiến tranh. Đồi cháy lửa mặt trời nhuộm lửa. Thau rượu đế mừng ta thằng lính sửa. Dzô ông thầy hữu sự có thằng em. Trung đội ta về hai mươi mấy thằng con. Đứa gốc người Kinh, đứa Nùng, đứa Thượng... Trên đầu ta mũ rừng nhẹ hẫng. Trong túi ta một gói chuồn chuồn. Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm. Để thấy miền Nam lính hiền ghê gớm. (Ta Lính Miền Nam , tr 36)
Qua 2 câu cuối của bài thơ, ta có thể thấy rõ phong cách của ngưòi chiến binh miền Nam khi đối xử với tù binh, hàng binh, dù mới cách đó không lâu đồng đội của mình đã bị giết, bị thương. Cũng với tâm trạng, bản chất đó, ta thử đọc xem Tô Thùy Yên đã trò chuyện như thế nào với người tử sĩ bên kia chiến tuyến trong đoạn thơ dưới đây:
‘…Ở cõi âm nào người vốn không tin. Hỏi nhau chơi thỏa chút tính bông đùa. Người cùng ta ai thật sự hy sinh. Cho tổ quốc Việt Nam - một tổ quốc...? Các việc người làm, Người tưởng chừng ghê gớm lắm. Các việc ta làm, Ta xét chẳng ra chi.” [Tô Thùy Yên * Chiều Trên Phá Tam Giang]
Hay những ngôn từ phóng khoáng, thân thiện, chứa chan hào khí, tình giang hồ của một quân nhân VNCH khác khi anh giáp mặt, trực diện đối phương:
“…Kẽ thù ta ơi, các ngài du kích - hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo - hãy tránh xa ra ta xin xí điều - lúc này đây ta không thèm đánh giặc - thèm uống chai bia, thèm châm điếu thuốc - thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh - kẻ thù ta ơi, những đứa xâm mình - ăn muối đá và hăng say chiến đấu - ta vốn hiền khô, ta là lính cậu - đi hành quân rượu đế vẫn mang theo - mang trong đầu những ý nghĩ trong veo - xem chiến cuộc như tai trời ách nước.
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước - vì căn phần ngươi xuôi khiến đó thôi - chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi - suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí - lũ chúng ta sống một đời vô vị - nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau - mượn trời đêm làm nơi đốt hỏa châu - những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc - mượn bom đạn chơi trò pháo tết - và máu xương làm phân bón rừng hoang.” [Nguyễn Bắc Sơn * Chiến Tranh và Tôi]
Chiến tranh. Ôi chiến tranh. Người ta đã nhân danh nó để hủy diệt không biết bao nhiêu nguồn sinh lực sáng lạng của quê hương, triển vọng của tổ quốc. Người ta đã nhân danh nó để làm tan rã không biết bao nhiêu cuộc tình nồng thắm và mái ấm gia đình. Lòng không mang hận thù, họ là các chiến binh VNCH đi bảo vệ lãnh địa, cương thổ. Họ là những cán binh “quân đội nhân dân” bị tuyên truyền, xô đẩy, lôi cuốn vào tình huống bi thảm “sinh Bắc tử Nam” để giới chóp bu CS mau chóng thực hiện ý đồ cướp đất, xăm lăng miền Nam. Bản thân họ nào được gì ngoài những thua thiệt, mất mát:
“Em hỏi anh bao giờ trở lại - Xin trả lời mai mốt anh về - Không bằng chiến trận Pleime - Hay Đức Cơ - Đồng Xoài - Bình Giả - Anh trở về hàng cây nghiêng ngã - Anh trở về hòm gỗ cài hoa - Anh trở về bằng chiếc băng ca - Trên trực thăng sơn màu tang trắng - Mai trở về chiều hoang trốn nắng - Poncho buồn liệm kín hồn anh - Mai trở về bờ tóc em xanh - Vội vã chít khăn sô vĩnh biệt.
Mai anh về em sầu thê thiết - Kỷ vật đây viên đạn mầu đồng - Cho em làm kỷ niệm sang sông - Đời con gái một lần dang dở - Mai anh về trên đôi nạng gỗ - Bại tướng về làm gã cụt chân - Em ngại ngùng dạo phố mùa xuân - Bên người yêu tật nguyền chai đá - Thì thôi hãy nhìn nhau xa lạ - Em nhìn anh - ánh mắt chưa quen - Anh nhìn em - anh sẽ cố quên - Tình nghĩa cũ một lần trăn trối.” [Linh Phương * Kỷ V ật Cho Em]
trong một cuộc nội chiến tương tàn mà bản thân những chiến sĩ miền Nam có lúc phải phân vân, tự vấn, suy tư:
“…những thằng lính thời nay không mang thù hận - bạn hay thù chẳng có một lằn ranh - thôi hãy uống. mọi chuyện bỏ lại sau - nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu - bày làm chi trò chơi xương máu - để đôi bên nuôi mầm mống hận thù - ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu - chỉ có bạn, có ta là người thua cuộc.
người yêu của bạn ở ngoài phương bắc - giờ này đang hối hả tránh bom - hay thẫn thờ dõi mắt vào Nam - để chờ người yêu mình trở thành liệt sĩ - rồi cũng sẽ quên, như bao điều suy nghĩ - tình yêu như một thứ điểm trang - che đi chút dối lòng, nhẹ bớt đi chút nhọc nhằn - uống với bạn hôm nay ta phải thật say - để không phải còn nhìn nhau hận thù ngun ngút.” [Phan Xuân Sinh * Uống Rượu Cùng Người Lính Bắc Phương]
Đọc những áng thơ hiền hòa, nhẹ nhàng kia, tôi tự nhiên như thấy lại bóng dáng của 2 ngưòi bạn gốc "cùi" là Vĩnh Nhi thủ khoa khóa 17, Hoàng Thọ Khương khóa 19 của trường Võ Bị Lâm Viên - Đà Lạt và người bạn trẻ yêu thơ Trần Phước Chí khóa 18 của đồi Tăng Nhơn Phú - Thủ Đức, hiển hiện về trước mắt.
Những chiến sĩ can trường thuộc Sư đoàn Phượng Hoàng này, khi bắt tù binh, họ luôn luôn cho đối phương ăn uống tử tế, mời mọc thuốc lá, rồi mới chuyển giao về hậu cứ. Họ không bao giờ cho sĩ quan an ninh đánh đập, dù đôi khi cần khai thác tin tức sơ khởi tại mặt trận. Rất tiếc, 3 chiến hữu tốt, hiền hòa này đều lần lượt ra đi, trước và sau biến động Tết Mậu Thân không lâu trước mắt tôi, trong những ngày tôi còn dấn thân, phục vụ tại khu chiến Tiền giang. Người viết, lúc đó, chẳng biết làm gì hơn ngoài việc viết bài chiêu niệm trên trang Văn Nghệ Quân Đội và mục Viết Cho Người Nằm Xuống để an ủi linh hồn người chết, và gia quyến họ.
Những biểu tượng đầy nhân bản tính trên đối với người khác giới tuyến của họ, cộng với sự thái độ, cảm nghỉ của THT, TTY, NBS, PXS... khiến tôi nhiều lần thấm thía tự thầm hỏi mình. Phải chăng những quân nhân này và còn nhiều, còn nhiều những anh em, chiến binh trong các quân binh chủng khác, đã luôn luôn mang theo trái tim loại “grand coeur” của d’Amacis, trên đường hành quân? Hay họ là những đệ tử ngoan của cụ Winston Churchill - vị anh hùng, nhà chính trị khét tiếng của thế kỷ 20, người đã được trao giải Nobel năm 53, vì họ luôn tuân thủ lời khuyên của ân sư: "Tác phong là một việc nhỏ, nhưng nó tạo nên những khác biệt lớn lao. Biểu lộ một chút lịch sự, tử tế cũng chẳng tốn kém, mất mát gì."[3]
Sau khi Sàigòn thất thủ, tôi thường nghe thiên hạ bảo nhau: Một trong những yếu tố quan trọng đưa đến việc mất nước là vì dân quân miền Nam đã quá hiền hòa và đối xử nhân đạo với kẻ thù. Những người cùng chung một tiếng nói bên kia lằn ranh giòng sông chia cắt, bên kia vĩ tuyến có phải là kẻ thù của chúng tôi không? Thật sự, chúng tôi có cần xem họ là kẻ thù không, sau khi cuộc đụng độ đã tàn, khói lửa đã nguội tắt, chỉ vì họ bị cưỡng bức làm những con chốt đáng thương, trong ván cờ tham vọng bành trướng chủ thuyết CS lỗi thời Mác-Lê-Mao?
Mời bạn đọc thử xem qua những hình ảnh đáng trách, dể làm nản lòng người đang dấn thân ở các tuyến đầu. Tình trạng tương phản tương ấy đã được phản ảnh dưới góc nhìn của tác giả Ô Cửa. Lời thơ tuy có man mác nỗi uất hận, phẩn nộ nhưng cũng đầy thương cảm, ngậm ngùi như một khúc bi ca:
Đất nước ta cường quốc bán buôn. Hậu phương ăn chơi biểu tình, đảo chánh. Lúc đồng đội ta chết lên chết xuống. Một đám ở nhà nhảy nhót thâu đêm. Lãnh chúa ta ăn trước ngồi trên. Hùng hổ lắm nhưng mạt hèn cũng lắm. Khóa của ta trên mấy trăm thằng tình nguyện. Đi Nhảy Dù, Thủy Bộ, Thám Báo "ác ôn". Đứng đợi cả ngày để bắt lá thăm. Toàn thứ dữ mà vui như chợ Tết. Có đứa mang bằng kỹ sư về nước. Chọn Cọp Ba Đầu Rằn làm lính tiền phong. Ta lính miền Nam hề vận nước ngửa nghiêng. Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp. Ta trèo lên cây hỏi rừng có biết. Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam ? (Ta Lính Miền Nam , tr 36)
Giữa lúc vận nước lâm nguy như thế thì dường như một số giới lãnh đạo chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng tư, một số người hậu tuyến chỉ lo hưởng thụ, phó mặc việc giải trừ, giải tỏa áp lực dồn dập của Bắc phương trong tay những quân nhân thiếu kém quyền lực, tiền bạc, lúc nào cũng đứng trước đầu sóng ngọn gió, ồ ập vũ bão.
Trong lúc người lính chiến VNCH đang trực diện với sự sống chết để bảo vệ lãnh địa thì đồng minh của anh ta đã đóng vai trò gì trong việc ngăn chống sự xâm nhập, mưu đồ thôn tính của giới lãnh tụ Hà Nội, với sự trợ giúp không ngừng của các nước CS đàn anh Nga, Tàu? Hãy thử nhìn qua bối cảnh, hoạt động hằng ngày của những người lính chiến Mỹ từ những dòng thơ mang đầy tử khí của Marko Whiteley thuộc Tiểu Đoàn 1/TQLC trong "Thoughs of War":
“Cuộc chiến đấu thật khốc liệt khi lâm vào trận phục kích. Sự sôi nổi rồi cũng tan biến đi trong những ánh mắt sáng ngời. Lúc này chẳng phải riêng gì đối phương mà cả anh cũng mất mạng. Màn đêm đã sắp buông, đó là lúc thuận lợi cho địch quân. Họ biết rằng địa thế không thể nhìn rõ ràng về đêm. Qua màn đen của đêm sâu thăm thẳm. Kẻ bị thương thì rên rỉ, người còn lại thì tiếp tục đánh nhau. Tâm trí khởi sự báo trước một nỗi kinh hoàng”.[4]
Những tình cảnh đó có khác xa bao nhiêu trong "Đêm Đột Kích ở Nho Lâm" (trang 42), "Đêm Đột Kích" (trang 157), hay "Những Ngày Quân Về Những Ngày Quân Đi" (trang 168). Hay thử nhìn sang tâm trạng phân vân của người "Đánh Núi" trong hoàn cảnh, tình huống tiến thối lưỡng nan:
Tiến lên lại sợ phục. Rút về sợ lột lon. Hét hoài cổ họng khan. Chỉ mình ta lãnh đủ. Đi lên dao mở lối. Gai xước rách thịt da. Đau quá tức chửi cha. Những thằng già ngoài Bắc. (Đánh Núi, tr 147)
Qua bao lần đụng trận, đánh nhau ác liệt như thế, có mấy ai tránh khỏi viên đạn vô tình thoát đi từ nòng súng của người bên kia? Cho nên THT - cây sậy mỏng manh trước những cơn bão tố của chiến trường, cũng đã hơn một lần bị đổ máu, dập vùi, lưu dấu các vết tích đạn thù trên thân thể còm cỏi:
Viên đạn đồng đã cắt thịt tôi. Tôi đau quá mà em không xót. Khi tôi biết mình vừa thoát chết. Tôi cuống cuồng sợ hãi thành điên. Lần bị thương đầu tôi vẫn anh hùng rơm. Lần bị thứ hai tôi nằm thin thít. Tôi đang ở phòng trần gian hậu chiến. Đêm cứ trôi hoài từng giọt hồi sinh. Tôi ước đến điên cuồng một giọt lệ em. (Trong Phòng Cấp Cứu, tr 311)
Tuy có áy náy, lo sợ, nhưng sau 3 lần bị thương với những ngày phép dưỡng bệnh ngắn ngủi sau khi xuất viện, người lính thám báo THT vẫn thản nhiên trở về với cương vị của một người chiến binh, tiếp tục hiến thân phục vụ dưới cờ cho đến ngày nước mất, quân tan.
2. Ghi nhận về chiến tranh qua những ngày dưỡng quân, những giờ chuyển quân
Cuộc sống của người lính trận luôn gắn liền với những lần di chuyển bất ngờ, bất định. Có khi chuyển quân ra trận mạc. Cũng có được điều động tới các địa điểm gần chiến trường để làm nút chặn, làm lực lượng trừ bị, sẵn sàng tiếp ứng cho những đơn vị cơ động đang giao tranh. Vì để bảo toàn tối đa bí mật quân sự, cho nên đôi lúc nhiều cấp chỉ huy đơn vị nhỏ chỉ nhận được lệnh hay sơ đồ hành quân vào phút chót, trước giờ xuất phát, di quân. Những vần thơ sau đây đã thể hiện đầy đủ vai trò và thân phận nghiệt ngã của các chiến sĩ tiền phương đó:
Những lần chuyển quân dù chẳng biết về đâu. Nhưng chúng tôi biết những gì chờ đợi sẵn. Như thể khi viên đạn đồng trong lòng cơ bẩm. Xẹt ra khỏi nòng rồi kiến cắn tê mê. Chỉ khi nào anh cảm nhận đau tê. Có nghĩa là anh biết mình vẫn còn sống sót. Anh hãnh diện là đã đi về phía trước. Là máu hồng anh đã đổ xuống tặng em. Và khi anh trở về ôm lấy vết thương. Anh mới biết đời vô cùng độ lượng. (Người Lính Trở Về Với Chiến Trường, tr 7)
Ta hãy xem thêm thi sĩ họ Trần đã ghi nhận lại những mất mát nào qua “Chia Tặng Chung Nhau” (trang 128), hay trong những hình ảnh máu lửa tiêu biểu của chiến trường mà anh vẽ lại dưới đây - máu lửa, bom đạn, tiếng kêu đau thương, tuyệt vọng:
Xin trả lại bên trời vầng trăng đỏ máu. Và tiếng dội ầm ầm của đám trực thăng. Và cả một biển rừng lửa bốc xung quanh. Và sườn lũng cháy đen thành than củi. Người lính cũ mắt nhìn trong bóng tối. Nghe văng vẳng bên mình lời rên rỉ: Cứu em. (Xin Trả Lại, tr 11)
để từ đó anh bồi hồi, ngậm ngùi trước những hoang phế, điêu linh rồi nghi vấn, suy tư về thân phận mình và kiếp người…:
Mặt trận đổ theo bìa Đệ Đức. Nghe cận kề lửa hưóng Tam Quan. Bồng Sơn mây ám toàn tin dữ. Chiều chưa buông quận đóng năm giờ. Giặc chiếm cận sơn người chạy loạn. Còn bên cầu trơ trọi cây đa. Cây đa có mặt khi nào nhỉ. Có phải nơi này là quê hương. Có phải mỗi con người trôi dạt. Cất trong tim bóng mát thiên đường. Cây đa vươn giữa trời bi lụy. Những thổ thần hoang lạnh lư nhang. Lửa cháy Trường Lưu đò đã chặn. Chị ra sông ơi ới đoạn trường. (Cây Đa Bên Cầu, tr 20)
Địch tan, chiếm lại đất đai chưa kịp vui mừng thì người lính trận lại phải đương đầu, đối diện trước những bức tranh mang đầy dấu vết hoang tàn, đổ nát , trước “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”:
Ta đã về dành lại quê hương. Dành lại quận đường hoang tàn đổ nát. Dành lại ngôi trường lời ca tiếng hát. Ta đã về nhìn bầy chim cút côi. Nhưng ta lại không dành được em gái ta yêu. Chúng ủ rũ như lòng ta ủ rũ. Lũ bé quì bên xác người cô trẻ. Ðặt chùm hoa mếu máo gọi cô về... Em bé quê ơi cho ta một nhánh bông. Một nhánh bông quì vàng như màu áo. Ta đặt tên em. Trống trường ảo não. Như những hồi mặc niệm em tôi. Ta đã về và đã trễ em ơi. (Đêm Tiếp Cứu Chợ Huyện, tr.28)
"Ta đã về và đã trễ em ơi". Câu thơ như một tiếng kêu thống thiết, chứa chan huyết lệ, thể hiện tình quân dân cá nước.
Một hình ảnh thê lương khác đã được Anh Thuần - người phóng viên chiến trường gan lì của Cục Tâm Lý Chiến và Đài Phát Thanh Quân Đội, đã phát họa lại đậm nét khi anh đang bám trụ trên "quốc lộ máu" năm 72 để ghi nhận, tường thuật về tin tức chiến sự:
“Em về đâu, hỡi người em lạc lõng - chiều đã buông và mây đã giăng mờ - trong lửa đạn máu tanh thời chiến loạn - còn mong gì tìm được chốn an cư.” [Anh Thuần * Chiều Chiến Loạn]
Sống ở, thác về. Người lính trận miền xa nào mà chẳng ý thức được số phận mỏng manh của mình. Bởi vì, người xưa đã trải nghiệm rồi truyền lại: “cỗ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, thì sự mất còn đối với họ cũng chỉ như lẽ tan-tụ tất yếu của mây nổi, của hoa biển. Trong lòng kẻ trấn thủ lưu đồn - lúc nghĩ ngơi, có chăng là nỗi nhớ nhung về những con đường tình đã qua và hoài niệm về sự mất mát của bạn bè, đồng đội:
“Nằm đây thương những con đường - kể em nghe chuyện chiến trường được chưa - lòng anh thơ dại bóng cờ - ngủ yên đâu dám định giờ xuất quân - đã lâu võ nghiệp quen dần - thấy người đi cũng ân cần muốn đi - hỏi người: ai chết đêm khuya - bảo: không, ngựa lạc đường về cõi xưa.” [Hoàng Lộc * Đêm Đóng Quân Ở Định Quán]
Cùng những ngỡ ngàng của thi nhân Trần Tuấn Kiệt, người đã chiếm giải nhất về thơ của Tổng Thống năm 71, qua các cảnh tượng ảm đạm của những ngày biến loạn xảy ra ngay tại các vùng ven đô của Saigon đầu Xuân Mậu Thân 68:
“…Ra nhìn khói lửa đạn bay - khói lên từng cụm đạn cày mênh mông - qua đêm ngủ giấc say nồng - tĩnh ra bốn phía chập chùng núi non - trời xa mây bạc vô cùng - sao ta nằm ngủ giữa vùng máu xương.” [Trần Tuấn Kiệt * Tết Mậu Thân Nhậu Với Bùi Giáng]
THT tuy là người chiến sĩ dạn dày phong sương, nhưng lời thơ của anh lại rất nhẹ nhàng thi vị, man mác tâm tình của một nghệ sĩ yêu người, yêu đời và yêu quê hương sâu sắc, đậm đà:
Tôi về đây. Tôi đã trở về đây. Đồi xưa tôi gọi đồi không hay. Ai đi bỏ lại hoàng hôn lạnh. Đỏ ối đồi xưa ôm lấy mây... Có ai như thể người binh Thượng. Ngồi khom trên bờ đá thổi kèn. Hôm qua có những hồn ma lẻ. Lạc tìm về buôn bản cao nguyên. Có ai dưới lớp mồ hoang dã. Nằm xuỗi chân mắt mở trợn trừng. Chiều nay sao mọc về phương Bắc. Sao ruột lòng vứt bỏ phương Nam . Cỏ tranh lớp lớp che đường dốc. Phòng tuyến buồn hiu nhuộm nắng chiều. Trận đánh cũng đi vào quên lãng. Sao còn rờn rợn những hồn xiêu. (Đồi Xưa, tr 43)
Cảnh tượng nào sau chiến trận mà không thê thảm. Không có chiến trận nào mà không có người phải hy sinh? Ngay cả những chiến sĩ đồng minh sang phụ giúp chúng ta - để chống sự xâm lược, dành dân chiếm đất của Việt Cộng vào lãnh thổ VNCH, cũng không tránh khỏi rơi vào tuyệt lộ bi thương nói trên. Xin hãy đọc thử bài thơ “As The Sun Sets In The Dark Sky” của Guy L. Jones thuộc tiểu đoàn 43 Truyền Tin. Người lính chiến Hoa kỳ này đã nghe thấy, cảm nhận gì trong cảnh "hồn tử sĩ gió ù ù thổi," trong cảnh tịch mịch dưới màn đen, trời mờ Pleiku:
“…Khi ánh thái dương chìm khuất trong bầu trời u ám, tôi nghe âm thanh của những người lính chiến đang đi đều bước và kêu gọi nhau từ một khoảng xa. Tôi nghe họ bảo rằng đừng nhỏ lệ vì họ, bởi những nỗi đau đớn của họ giờ đã tan biến cả rồi và hiện giờ họ đang đi về với Thượng đế trong cảnh an bình vĩnh cữu.
Khi ánh mặt trời lan dần về phía chân trời, hình ảnh của những người di hành đó đã vượt khỏi tầm mắt của tôi, nhưng không phải là những lời trối trăn mà họ đã nói, vì những di ngôn của từng mỗi người đó tôi vẫn ghi giữ mãi trong tiềm thức.
Tôi đã thì thầm đáp lại cho cho họ biết là tôi sẽ thông truyền những lời trối trăn ấy tới mọi người, cho bất cứ những ai muốn nghe di ngôn của họ do tôi tường thuật lại. Công việc này tôi xin hứa với tất cả các anh, tôi sẽ làm mãi mãi khi mà tôi vẫn còn sinh tồn. Xin chào vĩnh biệt các chiến hữu, xin chào”[5]
Nhà toán học, nhà tư tưởng siêu quần Blaise Pascal đã từng ví von nhận định rằng: “Con người là một cây sậy, loại mềm yếu nhất trong vạn vật, nhưng là một cây sậy biết tư duy” [6]. Thân phận người chiến binh ngoài tuyến đầu dỉ nhiên mong manh, nhưng là người biết suy tưởng, có tình cảm, thì dù ở trong cảnh trạng khói Iửa đạn bay đi nữa, mấy ai tránh khỏi nỗi niềm mơ ước. Mơ ước, hoài vọng về một viễn ảnh sớm chấm dứt chiến tranh, đất nước sớm an bình:
“…giọt máu trên ngọn cỏ mềm - của ai không biết nằm im như tờ - đằng xa sau lớp bụi mờ - mới nhìn tôi tưởng con cờ thí thân - toán tôi vừa tới bìa rừng - đã nghe đạn nổ muốn bưng cái đầu - rạp mình xuống đất nâu nâu - mặt tôi chạm nắm cỏ khâu xanh rì.
ừ thì chú cũng như tôi - cũng khiêng sông núi trên đôi vai mình - mong cho đất nước thanh bình - chớ ai mong cảnh chiến tranh bao giờ - ừ thì anh cũng như em - cũng đem tổ quốc treo trên ngọn cờ - buồn buồn bày đặt làm thơ - vui vui thì lấy súng phơ một tràng…” [Phan Ni Tấn * Rừng Tâm Sự 5 Năm Lính]
Dẫu rằng vấn nạn ấy chỉ là mộng con hay loại “nhược đại mộng” của người lính xa nhà, trong đêm buồn tênh gối súng, nằm ngắm trăng sao, mây nổi rồi mơ ước cảnh đoàn viên:
“…Trước thượng đế hai đứa đồng cúi lạy - xin Hoa-Thương-Yêu nở khắp mọi nhà - ruộng đất không còn làm bãi tha ma - sắt thép loài người đem xây tổ ấm - dưới sương gió mây ngàn bên xóm vắng - riêng chúng mình tình tự ngắm trăng non - sớm sớm chiều chiều em sẽ dạy con - bài hát đầu tiên ngợi ca Tình-Ái.” [Phan Bá Thụy Dương * Nói Với Người Mang Tên Một Loài Chim Mùa Xuân]
Đời sống của những người lính trận, vì thường xuyên phải đối diện với thần chết nên mỗi lần được nghĩ phép, dưỡng quân là cơ hội bằng vàng cho họ tìm gặp bằng hữu, anh em để cùng nhau ngã nghiêng, ngất ngây bên ly rượu, hầu tạm quên những giây phút ác liệt, nghẹt thở, bâng khuâng ngoài chốn tiền phương:
Nửa đêm như thể ngày xưa ấy. Mấy thằng trải chiếu dưới đêm trăng. Trăng sáng phơi trên hàng kẽm lạnh. Rồi chảy vào bát rượu bâng khuâng. Nửa đêm mấy đứa chưa buồn ngủ. Buồn ngủ làm sao, ta chiêm bao. Lính trận dưỡng quân nhờ tí tửu. Để mai nằm xuống hồn bay cao. Nửa đêm doanh trại đèn leo lét. Người lính canh ngồi như tượng đêm. Ma quỉ muốn chơi xin hoãn chiến. Để ta cùng đụng với anh em. (Nửa Đêm Uống Rượu Với Bạn Bè, tr 149)
Cũng không ít anh em quân nhân quan niệm r ằng : Đánh tr ận xong rồi thì ta đánh chén. Trong lúc rãnh rỗi, dưỡng quân thì ta đánh chén trước, rồi chờ ngày đánh trận sau. Lính và rư ợu. Rượu và lính cơ hồ như đôi tình nhân luôn luôn gắn bó mật thiết. Cho dù kẻ ấy là lính “tò te” mới ra “lò” hay là người đã dạn dày chiến trận, khí phách, coi thường sinh tử. Lời thơ trích dẩn dưới đây, tuy bộc lộ rõ nét ngang tàng, khoáng đạt ấy, nhưng dường như phần nào cũng mang mang ý niệm, tư tưởng hiện sinh. Bởi vì, như ai cũng biết, từ hạ bán thập niên 50 trở đi các tác phẩm hiện sinh, lãng mạn như “ Bonjour Tristesse”, “Dans Un Mois, Dans Un An”, “Un Certaine Sourire”… của nữ văn sĩ Francoise Sagan đã ảnh hưởng khá sâu đậm như thế nào với xã hội, đặc biệt là với giới trí thức trẻ, miền Nam:
“…hãy cụng ly chết bỏ - tôm cua cá lươn sò - lương ta còn nguyên vẹn - còn cả cái Seiko - Cửu long giang ra biển - sẽ chẳng trở về đây - chiến tranh hề gặp gỡ - có chắc lần thứ hai - lai mỗi thằng mỗi ngã - thằng Cà Mâu Năm Căn - thằng Bình Dương, Bình Giã - thằng địa ngục thiên đàng - nhưng ta không sợ chết - (hơi ngán què đôi chân).
còn mày sao lại khóc - cứ cười lên đi con - ta anh hùng tứ xứ - há thua những bông hồng - nơi rừng U Minh Hạ - còn dám nở dưới bom - cứ cười như họng súng - bắn cuộc đời vỡ toang...”[Hà Thúc Sinh * Hành Quân Qua Bến Phà Mỹ Thuận Gặp Bạn Đánh Chén, Say Mèm]
Dĩ nhiên bên cạnh đó còn có sự tác động mạnh mẽ hơn của các triết gia hiện sinh hàng đầu như S. Kierkegaard, JP Sartre, F. Nietzche, A. Camus… Có thể cũng với tâm trạng, khái niệm yêu cuồng sống vội, bất kể ngày mai ấy, cùng với sự cảm nhận về nỗi bấp bênh của mình trước đầu tên mủi đạn, nên tác giả Ô Cửa nghĩ rằng có thể ngày mai anh sẽ không còn cơ hội sinh tồn. Nên hôm nay có rượu thì chết bỏ, hãy cứ hăng hái tiếp nối cuộc vui “đưa cay” với bạn bè, ngay cả với linh hồn người khác địa đầu chiến tuyến:
Xin cô hàng thêm một két bia. Hôm nay lãnh lương tôi dành đãi hết. Cô hàng ơi một mai tôi chết. Ai tiêu dùm tôi ba tháng lương... Cô hàng ơi cho một ly không. Tôi rót mời một người lính Bắc. Hắn nằm băm thây dưới hầm bí mật. Trên người còn sót lại bài thơ. (Một Ngày Không Hành Quân, tr. 45)
4 câu thơ chót là 4 câu thơ đã nói l ên đầy đủ tính chất nhân bản. Phải chăng đây là một tuyên ngôn? Tuyên ngôn về tình người - tình người không biên giới, tình chung giống nòi, huyết thống VN.
Làm lính trận miền cao là sống với rừng núi khô cằn, bụi mốc. Có mấy ai khi được nghỉ ngơi về với phố thị tránh khỏi sự rung động, khi nhìn những tà áo tha thướt, phất phơ bay bay trong gió của giai nhân, của em gái hậu phương:
Thành phố nọ trở về vui một bữa. Quán cà phê và bạn hữu tao mày. Phố xanh hồng sáu chục cũng còn say. Huống bọn trẻ ở trên rừng vắng gái. Gác chân lên bàn đôi giày vạt đế. Cốc xây chừng ngầy ngậy giọt bơ thơm. Ánh mặt trời đọng lại trong ly con. Gió sông thổi tà áo màu tha thướt. Vỉa phố trời cho rộng vài ba thước. Đường phố không dài nên đi xuống đi lên. Muốn theo gót nàng nhưng không dám làm quen. Thôi chỉ biết ngồi lì mòn cả ghế. Để cố uống một lần mai từ giã. Những mái trường, những cửa tiệm, đám đông. Đàn bướm màu làm đẹp cả hoàng hôn. Để gìn giữ làm của thời tuổi trẻ. (Về Với Phố, tr 162)
3. Thân phận, ki ếp sống gian lao và nỗi u hoài của người chiến binh sau ngày miền Nam bị nhuộm đỏ
Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ của ông bị thảm sát do nhóm tướng lãnh chóp bu đảo chánh ngày 1/11/63, tình hình chính trị và an ninh miền Nam dần dần rơi vào trạng thái càng ngày càng bất an. Có phải cái chết của cụ Ngô như là hồi chuông báo tử trước cho Tổng Thống Kennedy và sự cáo chung của chế độ VNCH? Chỉ hơn một năm sau khi người Mỹ rút khỏi miền Nam , cắt đứt viện trợ, thì quân lực Cộng hoà càng lúc càng bị trói tay, thúc thủ, do thiếu quân cụ, nhiên liệu, đạn dược... Thêm vào đó là với lệnh buông súng “lạ lùng, khó hiểu” của tướng "big Minh" đã dễ dàng đưa toàn quốc rơi vào tay lực lượng xăm lăng CS.
Trước và sau ngày dâu biển đó, người ta truyền tụng khắp nơi rằng không biết bao nhiêu quân nhân các cấp đã tự tuẫn tiết vì chẳng chịu đầu hàng. Đa số những người khác thì vì vướng bận thê nhi, cha mẹ... đã bị đưa vào các trại tập trung lao động, tẩy não, mà kẻ chiến thắng gọi là trại cải tạo, kể cả những viên chức dân sự. Bối cảnh náo loạn, bi đát của ngày tàn chiến cuộc ấy đã được thi sĩ Diên Nghị xúc cảm
ghi lại một cách sâu sắc:
“Tháng 4 - vợ ngóng chồng đầu ngõ. Nón sắt giày sô vất bỏ dọc đường. Mưa sớm khai mùa tuôn xối xả. Đất trời xúc động nỗi tai ương. Thương binh lê lết ra y viện. Tà quyệt nào tha phận tật nguyền. Đơn vị rã hàng tàn chinh chiến. Hỏi người nhân đạo với nhân danh. Có người lính trẻ không buông súng. Ngẩng mặt hiên ngang trước kẻ thù. Thà ngã dưới cờ tròn danh dự. Dày trang sử Việt sáng thiên thu” . [Diên Nghị * Tháng Tư]
Cũng như những quân cán chính khác, bạn tôi, một người vừa là người làm báo, vừa là một cưu quân nhân ngành quân báo đã lâm vào thế bị cưỡng bức tập trung. Anh cũng như nhiều người khác tin tưởng rằng chiến tranh đã kết thúc thì việc xách khăn gói đi trình diện học tập trong mười ngày, một tháng theo lệnh của ủy ban quân quản CS là một điều tất yếu, để sau đó mọi người trong nước cùng nhau nối vòng tay lớn xây dựng, hàn gắn lại quê hương. Nhưng tất cả những kỳ vọng ấy đã được trả bằng những sự đói rét, khổ nhục trường kỳ và những đòn thù khắc nghiệt:
“Heo hút đồi cao bụi phủ mờ - những thân còm cõi dáng chơ vơ - bốn vòng gai sắc như dao nhọn - đâm suốt hồn ai nhát hững hờ - đã mấy Mùa Xuân trong đớn đau - cao su vàng lá úa u sầu - bọn ta chung kiếp tù tăm tối - ngày tháng chừng trôi qua rất lâu...” [Vũ Uyên Giang * Bài Gửi Dương Hùng Cường]
Nếu không có sự tin tưởng này thì với lực lượng quân dân cán chính can trường, bất khuất bị lường gạt ấy sẽ ứng phó ra sao? Giới cầm quyền mới có dể dàng, yên ổn thu gọn cuộc chiến thắng mà họ đã luôn tự hào, rêu rao là thần thánh kia chăng? Việc CS dồn người, đem giam giữ vào các trại tập trung xa xôi, ngấm ngầm để các nơi, các cơ cấu phụ thuộc tổ chức đưa người vượt biên hoặc cho phép các cựu tù miền Nam sang Mỹ định cư chẳng phải là nhằm vào mục đích giải trừ, tránh đi hậu hoạn về những sự đối kháng, nổi dậy nguy hiểm hay sao? Hơn ai hết, nhóm đầu não lãnh đạo phương Bắc có thể tiên liệu, biết chắc chắn là mối họa này không thể không xảy ra?
Rồi con số người bị hành hạ, chết chóc trong các trại cải tạo mỗi ngày một gia tăng. Con số người dân tìm đường vượt thoát chế độ độc tài càng ngày càng nhiều, dù họ đều biết rằng mình có thể sẽ vùi thây trong lòng biển cả hay một xó rừng, góc núi nào đó. Còn những kẻ sau thời gian bị nhục hình trong các trại tập trung trở về, người thì bị đày lên vùng kinh tế mới, kẻ thì lâm vào cảnh "anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than", tìm trầm quế, "chém tre đẵn gỗ trên ngàn"... dọc theo dãy Trường Sơn hay tiếp tục những gánh nặng oan khiên khác bằng nghề đẩy xe thồ, đạp xe xích lô... tự an ủi mình bằng ý nghĩ "không có nghề nào tồi tệ, xấu xa, chỉ có con người tồi tệ, xấu xa thôi" [7]. Những hình ảnh được trình dẩn dưới đây là một trong những minh chứng về chánh sách đọa đày, ngược đãi đối với những người cựu tù sống sót đã được họ tha, cho về từ những lò ô nhục mà ngôn ngữ kẻ chiến thắng gọi là trại cải tạo:
“Cõng con dắt vợ leo đồi - phá rừng làm rẫy cất chòi tịnh tâm - vợ con tắm vũng trâu nằm - lưng gùi tay rựa quanh năm cuốc cày - đầu trần chân đất hôm nay - mai sau rồi cũng bóng mây lưng đèo.” [Tr ần Văn Sơn * Tù Về, Lên Rừng Làm Rẫy]
Nơi các trại tù tập trung lao động cũng có nhi ều ngư ời bất khuất, không chịu được sự ngược đãi đã liều mình bỏ trốn. Có nhi ều ngư ời bị bắt lại, bị giết. Cũng có nhi ều ngư ời vùi thây nơi vùng Việt Bắc, nơi rừng sâu nước độc, hoang dã đầy sương lam, chướng khí trên đường tìm về. Cũng có nhi ều ngư ời vượt thoát sau bao đói khổ, truân chuyên được hội ngộ với gia đình. Nguyên Hoàng Bảo Việt là một trong số những người may mắn hiếm hoi đó. Anh là một trong những người đầu tiên đã chiếm giải Văn Chương Toàn Quốc trong thập niên 60. Hiện nay anh là nhân vật quan trọng trong Ủy Ban Bảo Vệ Nhân Quyền và trung tâm Văn Bút Âu Châu. Nhờ “Kẻ Sống Sót” này mà chúng ta có thể hình dung được thảm cảnh oan khiên của những người “ngã ngựa” phải chịu đựng triền miên trong địa ngục trần gian. Trong một nơi cực khổ, đói lạnh dai dẳng, thiếu ánh sáng:
“…Đêm đã xuống - Trên đường trốn về Nam - Tìm sao để định hướng - Con chim Việt còn nhớ cành - Sau lưng tôi - Bạn bè ở lại - Giữa trại tù tập trung - Nào ai biết - Dù màn sắt hay màn tre - Ngục hình của Cộng sản - Ngàn lần hơn Lao Bảo - Trăm lần hơn Côn Nôn - Luật rừng thời trung cổ - Khổ sai và tẩy não - Chung thân - Chết đói và tuyệt vọng - Muôn năm - Xích xiềng và liềm búa - Khua vang - Khua vang…” [ Nguyên Hoàng Bảo Việt * Kẻ Sống Sót]
Tác giả Ô Cửa thì may thay được cho về sớm để rồi bùi ngùi nhìn cảnh đổi thay, vợ con nheo nhóc. Người lính thám báo, người giáo sư yêu đời năm xưa đã mạnh dạn tìm phương tiện sinh nhai bằng một nghề mà người có học, kẻ sĩ trên khắp hoàn vũ nằm mơ, hoang tưởng mấy cũng không thể hình dung, ngờ được. Nhưng có lẽ nhờ tâm hồn nhạy cảm, dể rung động của thi nhân cùng với một nhân sinh quan cởi mở, nên có lúc THT cũng tìm thấy được phần nào nét trào phúng, ý nhị nhỏ nhoi, hài hòa trong công việc dãi dầu mưa nắng. Dẫu sao anh cũng còn cảm thấy được phần nào tự do, sung sướng hơn những năm bị lưu đày:
Ta trở về ôm những nhánh tang thương. Cúi đầu bước đi giữa lòng phố cũ. Con phố của ta ruột rà trăm ngõ. Sao bây giờ mỗi khúc mỗi đau. Ta đã trở về bốn năm phù du. Hồn hóa đá người thành dã thú. Ta dỗ dành ta tai trời ách nước. Thôi đã hết rồi món nợ tiền khiên... Sau cuộc chiến tranh làm tên sống sót. Sau cuộc tội tù đi bán cà rem. Ta bán cà rem hề, ta bán cà rem. Lắc chiếc chuông đồng khua vang làng xã... Chiếc áo trận xanh xạm màu khói lửa. Chiếc mũ rơm đan vương miện tội tù. Ta qua những miền thiên cổ âm u. Ta đập vào thùng nghêu ngao ca hát. Ta bán cà rem hề, kem đường kem chảy. Thêm kem oan cừu chất ngất miền Nam . (Ta Bán Cà Rem Hề, tr.24)
Lời thơ tuy êm êm, lãng đãng như sương khói đầu cành, nhưng sao lại ẩn tiềm, phảng phất đâu đây một nỗi cay đắng tái tê. Những dòng thơ chuyên chở những sắc thái ý nhị này người đọc có thể phát hiện dễ dàng trong toàn tuyển tập Ô Cửa của anh, điển hình như: “Sợi Tóc Nhớ Nhung” (tr. 108), “Tôi Đã Về Em Ạ Đêm Nay” (tr. 165), “Xa lạ” (tr. 201), “Hoàng Hôn Trên Bản Địa” (tr. 313)...
Trận đánh nào rồi cũng đi vào quên lãng. Thời gian nhọc nhằn, tủi nhục nào rồi cũng chìm lắng, nhạt nhòa dần với thời gian. Kết cuộc có còn chăng là những nỗi niềm u uẩn, cay đắng khôn nguôi, những vết sẹo mãi mãi hằn in trên thân thể gầy mòn của người lính tiền sát bị thất trận oan ức:
Những mảnh đời như những cơn giông. Đã xé toạc cả tiếng đời tục lụy. Đã dữ dội như trăm ngàn tạc đạn. Đã rũ mềm lê lết cất không lên... Bụi thì mù, mây thì phủ tai ương. Con ngựa đứt dây, hí hoài trên núi. Bàn tay cắt vào mảnh chai tươm máu. Hồ trường này đây, đập cốc. Về đâu? Ta thì ngậm cả tang hồ rách nát...(Cuồng Ngâm Của Tên Thất Trận, tr 124)
và có còn chăng trong lòng, trong ký ức sâu kín là niềm kiêu hãnh, sự tưởng niệm mang mang, thấm thía:
May mà tôi vẫn còn một hoài niệm xanh. Dù chỉ là nỗi niềm tự hào buồn bã. Trên ngực lép vẫn còn chiến thương ngày cũ. Như đáp đền ân lượng của quê hương. (Niềm Kiêu Hãnh Buồn Bã, tr 233)
Người bạn đồng minh James M. Hopkins thuộc Sư Đoàn 1 BB - người đã từng dẫm chân trên các nẻo đường hành quân vùng Bình Dương, Tây Ninh, khu “tam giác sắt” cũng có chung một tâm trạng như “Đêm Mất Ngủ” của THT (trang 252). Nhưng trái với sự mong đợi. Khi anh và các chiến hữu trở về không may đã bị các lực lượng phản chiến hung hăng thời đó coi như những tội đồ, thậm chí là kẻ sát nhân. Do mặc cảm tội lổi hay vì tâm trạng chua chát, tái tê trước phản ứng phủ phàng của dư luận mà bài thơ mang tựa “SONG” diển tả về tâm trạng của người lính hồi hương này đã mang nặng màu sắc bi thảm, bi quan, chán chường, để rồi anh ta phải dấu kín tâm tư, không thổ lộ được cùng ai:
“…Người lính chiến không quên được. Có lẽ -trong nhiều năm- anh ta sẽ trăn trở trong mỏi mệt. Chờ đợi giấc ngủ, chẳng bao giờ đến. Không ai có thể thoát khỏi được. Những gì anh ta đã chứng kiến, và những sự việc anh ấy đã dự phần, đều bị chôn vùi trong những giấc mơ, trong thầm lặng và câm nín…” [8]
Sao người ta lại nhìn tác động, hiệu quả của chiến trận dưới con mắt đạo đức để chỉ thấy mặt trái, đàng sau của tấm huy chương? Điều đó có oan ức cho những người vì nhiệm vụ phải thi hành trong lúc đối diện địch quân? Hơn nữa trong lúc chiến đ ấu, giết giặc - ít nhất, cũng để bảo toàn được mạng sống của mình, mà cũng bị xem là một hành vi tội lổi, phi đạo đức được chăng và như vậy thì sự công bình đối v ới tha nhân ở đâu?
Những ray rứt về những ngày ngang dọc, gian truân xa xưa như cứ đeo đẳng, bám sát tâm trí người lính trận THT. Cho dù đến nay anh đã trở thành công dân của một quốc gia khác, mà quê huơng yêu dấu cũ thì đã ngàn trùng cách ly. Nỗi hoài nhớ này được dàn trải qua 2 bài lục bát ngắn gọn dưới đây:
Bên kia lạnh nến hai hàng. Phố kia và những con đường lặng im. Nhà kia đóng cửa im lìm. Sao ta không đóng nỗi niềm muội mê. (“Hỏi lòng,” tr 256)
Tôi lạc rồi em biết không. Tôi đang quờ quạng giữa vùng mù sương. Cũng vì cái ngạnh cái ương. Ngỡ mình là lính tiền phương thuở nào. (Lạc Đường, tr257)
Dù tập thơ quá dày không thể giới thiệu thêm, nhưng người viết nhận thấy mình sẽ thiếu sót lớn nếu không đề cập đến bài thơ mang tựa của tuyển tập, mang linh hồn của cả 5 ấn phẩm mà tác giả đã chọn, gom góp lại thành một kiệt tác:
Ngôi trường cũ có bao nhiêu ô cửa. Để tôi về đếm những đám mây bay. Tôi sẽ gọi một bầy chim sẻ nhỏ. Những con chim từng xa vắng lạc bầy. Tôi sẽ đứng như một người thiên cổ. Lớp học buồn như từ cõi cô đơn. Thầy ngồi đó đôi vai gầy tóc bạc. Chút ngậm ngùi cơn nắng đọng hoàng hôn... Tôi sẽ nhớ một người tôi yêu dấu. Người nào đâu về lại buổi hôm qua. Dấu chân nhỏ như vết hài vạn cổ. Đôi mắt nào theo mãi cuộc đời tôi... Và người ấy qua dòng sông sương muối. Tôi lên rừng theo dòng thác binh đao. Và người ấy theo sông về với biển. Tôi về Đông, về Bắc, biết về đâu? Trăng thiếu phụ tôi mang vào song cửa. Cho một lần, cho vô tận ý thiên thu. (Ô Cửa, tr 14)
Tôi đoan chắc những hoài niệm triền miên, những ray rứt về các mất mát trên với niềm kiêu hãnh buồn bã nọ sẽ mãi mãi vương vấn trong tâm hồn, ký ức của người thi sĩ đa cảm, đa tình này. Tuy phần lớn trong số 237 bài là thơ chiến tranh - trực hay gián tiếp, nhưng trong Ô Cửa cũng có nhiều bài thơ tình nồng nàn, rất đáng cho người đọc ngâm nga, thưởng ngoạn như: “Nha Trang” (tr. 30), “Con đường Trăng” (tr. 52), “Thơ của Văn” (tr. 62), “Dư niệm” (tr. 196), “Từ buổi ta về” (tr. 268), “Hẹn lòng” (tr.350)
4. Lời kết
Ai cũng biết con số người Việt Nam làm thơ chiến tranh không phải là ít. Nhưng theo tôi, THT là người đã sáng tác nhiều nhất Trong nhiều tác phẩm mà tôi có trong tay do anh gởi tặng, tôi thấy hầu như bài nào, cuốn sách nào, anh cũng vẽ cho người đọc thấy những hình ảnh linh hoạt, bi hùng của nhũng người lính chiến như anh, sự thống khổ của đồng bào mà anh và những chiến hữu khác thuộc quân lực miền Nam có nhiệm vụ bảo vệ, che chở bằng tất cả nhiệt tình, nhiệt huyết.
Ô Cửa là một tuyển tập thi ca có tầm vóc lớn. THT lại biết tự chọn cho mình một hướng đi, một bản sắc riêng về thi loại, đề tài: chuyên biệt về Chiến Tranh. Thơ anh được cấu tạo bằng những thi ngữ, ngôn từ qui ước bình dị, chân phương. Nhưng bằng những cảm xúc nồng ấm, cùng lối kết từ điêu luyện, nên Ô Cửa dễ dàng lôi cuốn người đọc vào những tình tự tan hợp, những biến động tràn ngập máu lửa, khói súng trong thời loạn lạc đã qua, mà anh là một nhân chứng sống. Chất liệu nòng cốt trong thơ anh là tình nghĩa, dành cho đồng đội, tình yêu thương, trìu mến dành cho người tình, cho những người dân lành ở khắp các làng mạc, thị trấn lẻ, mà gót chân anh đã từng in dấu.
Thơ chiến tranh là một thi loại đặc thù, khó gây được sự rung cảm sâu xa trong tâm hồn người đọc. Nhưng nhờ sự biết phối hợp, hài hòa các thi ảnh, thi ngữ vào tác phẩm đúng mức nên thơ của anh trở nên dịu vợi hơn và dễ thẩm thấu vào nội tâm người thưởng ngoạn. Ô Cửa xứng đáng là một tập thơ có giá trị cao, hiếm hoi trong nền văn học hiện đại.
¤ Vài nét về Trần Hoài Thư .
THT là một người có lòng với nền văn học miền Nam . Từ khi định cự tại một tiểu thuộc miền Đông Hoa kỳ đến nay anh đã lặn lội đi các thư viện lớn để suy tầm tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ cũ để in ấn lại và lưu truyền ở hải ngoại bằng phương tiện thô sơ khiêm tốn qua Thư Ấn Quán của mình.
Ngoài ra anh và một số thân hữu còn chủ trương tập san Thư Quán Bản Thảo cứ ba rồi bây giờ là 2 tháng một lần - từ nhiều năm nay, để đăng tải các tác phẩm của bằng hữu. Đặc biệt là của những cây bút còn ở tại miền Nam VN. Tập san này không bán mà chỉ biếu tặng theo yêu cầu của những người mến mộ các văn thi sĩ cũ trước tháng 4 năm 1975.
Trần Hoài Thư tên thật Trần Quý Sách, sinh ngày 6.12.1942 tại Ðà Lạt. Anh khởi viết năm 1960 và nguyên là cựu sĩ quan VNCH ngành Thám báo. Tốt nghiệp cao học toán tại Hoa kỳ. Cựu chuyên viên điện toán của công ty điện thoại AT&T. Hiện hồi hưu và an cư tại tiểu bang New Jersey .
Một số tác phẩm tiêu biểu đã xuất bản:
Nỗi Bơ Vơ Của Bầy Ngựa Hoang ( Ý Thức)
Những Vì Sao Vĩnh Biệt (Ý Thức)
Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi (Ý Thức)
Một Nỏi Nào Ðể Nhớ (Con Ðuông)
Ra Biển Gọi Thầm (1995)
Ban Mê Thuộc Ngày Ðầu Ngày Cuối (1997)
Về Hướng Mặt Trời Lặn (1998)
Thơ Trần Hoài Thư (1998)
Mặc Niệm Chiến Tranh - Ô Cửa (2006)…
PHAN BÁ THỤY DƯƠNG - 5/2010.
• trích thơ của các tác giả:
Anh Thu ần, Diên Nghị, Hà Thúc Sinh, Linh Phương, Hoàng Lộc, Huy Lực, Luân Hoán, Nguyên Hoàng Bảo Việt, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, PBTD, Phan Ni Tấn, Phan Xuân Sinh, Tô Thùy Yên, Trần Tuấn Kiệt, Trần Văn Sơn, Vũ Uyên Giang.
• tạm dịch từ nguyên bản:
[1] Herbert Hoover: The old men declare war. But it is the youth who must fight and die.
[2] Ernest Hemingway: They wrote in the old days that is sweet and fitting to die for one’s country. But in the modern war, there is nothing sweet nor fitting in your dying. You will die like a dog for no good reason.
[3] Winston Churchill: Attitude is a little thing that makes a big differences. It costs nothing to be polite.
[4] Marko Whiteley: Right onto the ambush the fighting is fierce. The wildness is gone the glint in the eyes. For now it is you not just them to die. Through the blackness of the deeping night. The wounded scream the rest to fight. The mind starts to scream a terrible warning.
[5] Guy L. Jones: As the sun sets in the darken sky. I hear the voices of those who march off to the distant and calling one to another. I hear them say do not weep for us for our pain is over with now and we go to our God in peace. As the sun passes over the horizon, the image of these marching men pass from the light of my eyes but not the words they said, which I hold onto and the memory of each and very one of them. I whisper back to them I’ll pass on your words to all who hear them from me. This I promise to all of you as long as I live. Farewell my friends, farewell.
[6] Blaise Pascal: L’homme est un roseau, le plus faible de la nature, mais un roseau pensant.
[7] Winona Ryder: il n’y a pas de sot métier, il n’y a que de sottes gens.
[8] James M. Hopkins: The combat soldier, do not forget who (for perhaps years) will toss sweat, waiting for sleep, that won’t come. No one escapes. What his eyes have seen, and the things he has been, are buried in dreams, mute and dumb.
Herbert Hoover vị tổng thống thứ 31 của Hoa Kỳ đã nói: “Giới lãnh đạo già tuyên bố chiến tranh nhưng chính giới trẻ là người phải chiến đấu và chịu chết.” [1] Chiến tranh đã tạo nên không biết bao nhiêu cảnh ly tán, hủy diệt không biết bao nhiêu sinh mạng một cách oan uổng và làm kiệt quệ trầm trọng tài nguyên quốc gia. Nhưng, nếu nhìn từ một góc độ khác, chiến tranh cũng đã sản xuất, tạo nên nhiều vĩ nhân lừng danh trong quân sử, những văn thi sĩ lỗi lạc trong nền văn học sử thế giới.
Bài viết ngắn này không phải là một luận đề về thơ chiến tranh toàn cầu mà chỉ giới hạn trong thơ Chiến Tranh VN, trong giai đoạn tàn khốc nhất, từ thập niên 60 cho đến ngày miền Nam rơi vào tay chế độ Cộng Sản Hà Nội. Hạn hẹp hơn nữa, người viết chỉ muốn truyền đạt, giới thiệu đến bạn đọc một số cảm xúc, hình ảnh, tâm tư... của người lính chiến Trần Hoài Thư [THT] đã phản ảnh qua tác phẩm của anh: Ô Cửa.
Tuy nhiên, để có thêm hương vị, khải triển chủ đề rộng hơn đôi chút, người viết sẽ đề cập, dẫn trích thêm một số ít thơ về chiến tranh của các văn thi sĩ Việt, Mỹ khác - những người đã trực tiếp cùng THT tham dự cuộc chiến “ý thức hệ” trong giai đoạn đầy nhiễu nhương đó. Nếu thấy cần thiết, sau này người viết sẽ trở lại, bàn về đề tài sâu rộng hơn, với nhiều thi sĩ tiêu biểu cho cả 2 miền Nam Bắc, cùng những khuynh hướng đối kháng hay quan điểm tương đồng.
Theo lời tác giả, Ô Cửa là một tổng hợp của 5 thi tập: Thơ THT, Qua Sông Mùa Mận Chín, Tháng Bảy Hành Quân Xa, Ngày Vàng và Người Lính, mà anh đã xuất bản trước đây - sau khi nhuận sắc, tuyển chọn lại. Tập thơ dày 380 trang, với 237 bài, in trên giấy đặc biệt, tranh bìa của Thân Trọng Minh, do Thư Ấn Quán của anh ấn hành. Bản đẹp, dành tặng thân hữu nên không thấy ghi giá bán.
Danh từ “thơ chiến tranh” kể từ Homer đã trở nên càng ngày càng phổ biến một cách rộng rãi, nhất là sau khi chiến cuộc VN kết thúc. Hiện nay các quốc gia đồng minh của VNCH và đã từng trực hay gián tiếp tham chiến trên lãnh địa VN, mỗi nước đều có rất nhiều cơ quan, thư viện… lưu trữ, quảng bá thi ca viết về cuộc chiến VN, được sáng tác bởi những cựu chiến binh của họ. Cho đến bao giờ thì thi ca về thể loại này của các tác giả miền Nam trước 75 mới được các tổ chức văn hóa, chính trị hải ngoại hay nội địa dành cho nó một vị trí nghiêm túc, sáng sủa hơn, để bảo tồn những ấn chứng quan trọng trong giai đoạn lịch sử đã qua, đã được khép lại?
1. Trực diện với chiến tranh, tiếp cận với tử thần
Bây giờ chúng ta hãy bước qua Ô Cửa, thử đi vào nội dung cuốn sách để xem người chiến binh này đã trình bày, muốn chuyển gởi những gì tới người đọc, qua những năm dài phục vụ dưới cờ, trong thời tao loạn, nhiễu nhương:
Giòng sông phân tranh hai vùng thù nghịch. Đêm xuống đồi gặp con nước nổi. Súng đạn đưa khỏi đầu. Từng con một vượt sông. Rồi trước khi trèo ngọn Kỳ Sơn. Anh lạc trên cánh đồng trăng mênh mông. Không biết nơi nào là cõi dữ. Trên đôi vai anh nặng nề lịch sử. (“Đêm Vượt Sông,” tr 5)
Từ giã giảng đường chật hẹp, nóng bức, người sinh viên mang đầy lý tưởng, hoài bão và mộng mơ ấy đã chấp nhận đi vào nơi thâm sâu cùng cốc, theo lời kêu gọi của núi sông. Ngoài trách nhiệm thi hành nghĩa vụ công dân, có thể anh còn coi việc đó như một lần đi thám hiểm, khai phá về những chân trời mới, quyến rũ hơn, để thưởng ngoạn thiên nhiên, giao lưu nhân thế, thử thách định mệnh:
Ở đây đèo ải ngăn sông lộ. Trăm đứa lên có mấy đứa về. Giày trận bám bùn mưa tối mặt. Mùa hè gió thổi bụi tê tê. Thanh niên ta bỏ miền trung thổ. Theo mảng mây trời trên bản xa. Núi dựng. Rừng bạt rừng. Lá mục. Phơi ngàn năm lạnh cắt xương da. Ta về ngơ ngác cơn sinh diệt. Ngỡ làm tên ẩn sĩ tìm trầm...(Về Với Núi, tr 55)
Cũng trong ý niệm chấp nhận khoác chinh y để bảo vệ quê hương, giữ gìn lãnh thổ, t ừng l ớp, t ừng l ớp lớp thế hệ tuổi trẻ đã đành bỏ cả tương lai, hoài bảo, rồi mang theo cuộc tình để tham dự vào cuộc chiến đấu gian lao, mà tự thân họ không có quyền lựa chọn, hoặc từ chối:
“…Vào giờ G ta ra mặt trận - nón sắt bần thần theo gót giày sô - hiu hắt đường mưa tiến về âm phủ - vừa cảnh giác đời, vừa ủ chiêm bao - khẩu súng cạc bin chúi đầu xuống đất - như muốn nói gì với cánh Rừng Lăng -
Xuân Phổ bên kia chập chờn bóng địch - lập cập hồn ai, bèo vướng chân mày ? - nước lạnh môi khô lóe lên đóm nhớ - màu mắt bên màu hoa súng ngày xưa - ta vẫn yêu em, yêu toàn nhân loại - nên gắng khom lưng, tiến chiếm Xóm Dừa…” [Luân Hoán * Trên Đường Lững Thững Hành Quân, Đạn Thù Có lẽ Ngập Ngừng Tránh Ta]
để lãnh nhiệm vụ trấn thủ biên cương xa xăm, tiền đồn heo hút, dẫy đầy hiểm nguy, bất trắc. Vì chưng, họ đã lỡ sinh ra vào một giai đọan lịch sữ đen tối, vào thời buổi loạn ly, máu lửa với đạn bom và nước mắt:
“…Giặc cứ pháo xá gì cơn bão giạt - nón sắt che cho đỡ lạnh mái đầu - đêm nến thắp ánh hỏa châu hiu hắt - sinh nhật ai máu đỏ giữa canh thâu - đường truông núi hai mươi năm chất ngất - tuổi lang thang vào xương máu bàng hoàng - mai về phố với hồn chai lạnh ngắt - mua tình vui dồn trống chuỗi mênh mang - khúc chinh chiến đã từ lâu quên hát - vầng trăng treo mầu úa hướng mong chờ - mai xuống núi tiếp một ngày phiêu bạt - tìm lại mình đánh thức một cơn mơ” [Nguyễn Mạnh Trinh * Kontum Bài Thơ Cũ]
Có người tuy dấn thân, tham dự vào cuộc chinh chiến với thái độ thản nhiên, xem đó như là chuyện tai trời ách nước, một trò tiêu khiển, nhưng chắc hẳn trong thâm tâm anh cũng khó thoát khỏi những ray rức, trăn trở hoặc suy tư, đau xót về thực trạng rợn người phơi bày trước mắt:
“Bốn bề sương muối bủa quanh - hỏa châu đỏ rực năm canh rợn người - ta về tham dự cuộc chơi - rựơu cần, súng đạn với lời kêu thương.” [Huy Lực * Đêm Tiền Đồn Pleime ]
Nghĩa vụ gìn giữ biên cương, lãnh thổ, quả là một gánh nặng luôn đè trên vai những chàng lính trận tiền phương. Từng hốc đá, cánh rừng, từng bờ sông, ngọn suối, từng chân núi, triền đồi mãi mãi là nơi hiểm địa, tử địa, dể dàng hủy diệt, cướp đi mạng sống của mình:
Một chút cay cay mà lòng buồn tủi. Buồn thì về đừng nán lại thằng em. Không sao cả lên đồi cao xuống vực. Đất mở rồi ở lại cũng buồn thêm... Cùng đứng lại hai chân nghiêm cúi mặt. Đây hàng quân đọc lại thiếu tên em. Người lính trẻ chưa đầy hai mươi tuổi. Nhớ thì về cốc rượu để phần em. (Viết Cho Thằng Em Cùng Trung Đội, tr 35.)
Nhớ thì về cốc rượu để phần em. Câu thơ chứa đầy trìu mến, thể hiện một thứ tình huynh đệ chi binh thắm thiết. Đó là lời của một người anh dành cho đứa em vắn số, chứ không phải loại ngôn từ của một cấp chỉ huy nói với kẻ trực thuộc. Thứ tình huynh đệ chi binh và s ự trìu mến này, người ta cũng thấy hiện rõ nét trong thơ của Pete Agriostuthes dành cho người tiền sát viên tên Nam qua bài “He was a Chiêu Hồi”, hoặc qua thơ của Kevin Bowen, Steve Mason, Sarge Lincetum, Wilfred Owen, Walter McDonald... Đặc biệt là của Yusef Komunyakka, người đã chiếm Pulitzer Prize năm 94 với tuyển tập Neon Vernacular xuất bản năm 93, trong đó chứa đựng phần lớn các bài của tập thơ mang tựa đề Việt ngữ “Điên Cái Đầu”, vốn đã phát hành từ năm 88.
Súng đạn vô tình nào biết né tránh ai. Khi một người chiến sĩ không may, vĩnh viễn nằm xuống thì người đời thường cho rằng anh ta đã vị quốc vong thân, là một người anh hùng, là kẻ đáng được tuyên dương, ca ngợi. Có đúng vậy không hay ta cần thử suy gẫm, xét nghiệm lại câu nói lừng danh, mang hơi hám, tư tưởng phản chiến dưới đây của "papa" tức văn hào Ernest Hemingway -người đoạt giải Nobel 54 về Văn học, khi ông phát biểu: “Ngày trước người ta nói rằng: Hy sinh cho quốc gia của mình là một hành động cao cả và xứng đáng. Nhưng trong cuộc chiến hiện đại không có gì là vẽ vang hay thích nghi khi anh mất đi. Anh sẽ chết như một con chó cho một lý do chẳng có gì là tốt đẹp.”[2]
Xin mời bạn đọc tiếp những vần thơ nóng bỏng, hồi hộp khác của chàng thám báo trẻ tuổi THT:
Băng đồng, băng đồng đêm hành quân. Người đi ngoi ngóp nước mênh mông. Về đây Bình Định ma thiêng lãnh. Mỗi địa danh rờn rợn oan hồn. Trung đội những thằng trai tứ chiến. Những thằng bỏ lại tuổi thanh xuân. Diều hâu bôi mặt hù ma quỉ. Thuở đất trời bày đặt nhiễu nhương. Đêm của âm binh về xứ khổ. Poncho phơ phất gió hờn oan. Trên vai cấp số hai lần đạn. Không một vì sao để chỉ đường. (Trung Đội, tr 31)
Những cảnh tượng bi tráng, nghiệt ngã như thế cũng thể hiện đầy dẩy trong thi ca của các chiến hữu đồng minh, như Marko Whiteley đã viết tại mật khu Hố Bò qua Lonely in the Reservoir, Thoughs of War..., như W.H McDonald viết ở Phú Lợi với “I Learned About War Last Night” hoặc Sarge Lintecum qua “Ambush” và nhất là bài thơ được phổ nhạc của ông, rất phổ cập, được mọi người ưa chuộng: " The Vietnam Blues".
Xin hãy đọc thêm những dòng diễn tả vừa chân thật, vừa ngộ nghĩnh, thanh thản của người “lính sửa” trong những ngày đầu nhận lãnh trách nhiệm dẫn dắt đơn vị:
Ta trở về giáp mặt chiến tranh. Đồi cháy lửa mặt trời nhuộm lửa. Thau rượu đế mừng ta thằng lính sửa. Dzô ông thầy hữu sự có thằng em. Trung đội ta về hai mươi mấy thằng con. Đứa gốc người Kinh, đứa Nùng, đứa Thượng... Trên đầu ta mũ rừng nhẹ hẫng. Trong túi ta một gói chuồn chuồn. Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm. Để thấy miền Nam lính hiền ghê gớm. (Ta Lính Miền Nam , tr 36)
Qua 2 câu cuối của bài thơ, ta có thể thấy rõ phong cách của ngưòi chiến binh miền Nam khi đối xử với tù binh, hàng binh, dù mới cách đó không lâu đồng đội của mình đã bị giết, bị thương. Cũng với tâm trạng, bản chất đó, ta thử đọc xem Tô Thùy Yên đã trò chuyện như thế nào với người tử sĩ bên kia chiến tuyến trong đoạn thơ dưới đây:
‘…Ở cõi âm nào người vốn không tin. Hỏi nhau chơi thỏa chút tính bông đùa. Người cùng ta ai thật sự hy sinh. Cho tổ quốc Việt Nam - một tổ quốc...? Các việc người làm, Người tưởng chừng ghê gớm lắm. Các việc ta làm, Ta xét chẳng ra chi.” [Tô Thùy Yên * Chiều Trên Phá Tam Giang]
Hay những ngôn từ phóng khoáng, thân thiện, chứa chan hào khí, tình giang hồ của một quân nhân VNCH khác khi anh giáp mặt, trực diện đối phương:
“…Kẽ thù ta ơi, các ngài du kích - hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo - hãy tránh xa ra ta xin xí điều - lúc này đây ta không thèm đánh giặc - thèm uống chai bia, thèm châm điếu thuốc - thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh - kẻ thù ta ơi, những đứa xâm mình - ăn muối đá và hăng say chiến đấu - ta vốn hiền khô, ta là lính cậu - đi hành quân rượu đế vẫn mang theo - mang trong đầu những ý nghĩ trong veo - xem chiến cuộc như tai trời ách nước.
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước - vì căn phần ngươi xuôi khiến đó thôi - chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi - suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí - lũ chúng ta sống một đời vô vị - nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau - mượn trời đêm làm nơi đốt hỏa châu - những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc - mượn bom đạn chơi trò pháo tết - và máu xương làm phân bón rừng hoang.” [Nguyễn Bắc Sơn * Chiến Tranh và Tôi]
Chiến tranh. Ôi chiến tranh. Người ta đã nhân danh nó để hủy diệt không biết bao nhiêu nguồn sinh lực sáng lạng của quê hương, triển vọng của tổ quốc. Người ta đã nhân danh nó để làm tan rã không biết bao nhiêu cuộc tình nồng thắm và mái ấm gia đình. Lòng không mang hận thù, họ là các chiến binh VNCH đi bảo vệ lãnh địa, cương thổ. Họ là những cán binh “quân đội nhân dân” bị tuyên truyền, xô đẩy, lôi cuốn vào tình huống bi thảm “sinh Bắc tử Nam” để giới chóp bu CS mau chóng thực hiện ý đồ cướp đất, xăm lăng miền Nam. Bản thân họ nào được gì ngoài những thua thiệt, mất mát:
“Em hỏi anh bao giờ trở lại - Xin trả lời mai mốt anh về - Không bằng chiến trận Pleime - Hay Đức Cơ - Đồng Xoài - Bình Giả - Anh trở về hàng cây nghiêng ngã - Anh trở về hòm gỗ cài hoa - Anh trở về bằng chiếc băng ca - Trên trực thăng sơn màu tang trắng - Mai trở về chiều hoang trốn nắng - Poncho buồn liệm kín hồn anh - Mai trở về bờ tóc em xanh - Vội vã chít khăn sô vĩnh biệt.
Mai anh về em sầu thê thiết - Kỷ vật đây viên đạn mầu đồng - Cho em làm kỷ niệm sang sông - Đời con gái một lần dang dở - Mai anh về trên đôi nạng gỗ - Bại tướng về làm gã cụt chân - Em ngại ngùng dạo phố mùa xuân - Bên người yêu tật nguyền chai đá - Thì thôi hãy nhìn nhau xa lạ - Em nhìn anh - ánh mắt chưa quen - Anh nhìn em - anh sẽ cố quên - Tình nghĩa cũ một lần trăn trối.” [Linh Phương * Kỷ V ật Cho Em]
trong một cuộc nội chiến tương tàn mà bản thân những chiến sĩ miền Nam có lúc phải phân vân, tự vấn, suy tư:
“…những thằng lính thời nay không mang thù hận - bạn hay thù chẳng có một lằn ranh - thôi hãy uống. mọi chuyện bỏ lại sau - nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu - bày làm chi trò chơi xương máu - để đôi bên nuôi mầm mống hận thù - ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu - chỉ có bạn, có ta là người thua cuộc.
người yêu của bạn ở ngoài phương bắc - giờ này đang hối hả tránh bom - hay thẫn thờ dõi mắt vào Nam - để chờ người yêu mình trở thành liệt sĩ - rồi cũng sẽ quên, như bao điều suy nghĩ - tình yêu như một thứ điểm trang - che đi chút dối lòng, nhẹ bớt đi chút nhọc nhằn - uống với bạn hôm nay ta phải thật say - để không phải còn nhìn nhau hận thù ngun ngút.” [Phan Xuân Sinh * Uống Rượu Cùng Người Lính Bắc Phương]
Đọc những áng thơ hiền hòa, nhẹ nhàng kia, tôi tự nhiên như thấy lại bóng dáng của 2 ngưòi bạn gốc "cùi" là Vĩnh Nhi thủ khoa khóa 17, Hoàng Thọ Khương khóa 19 của trường Võ Bị Lâm Viên - Đà Lạt và người bạn trẻ yêu thơ Trần Phước Chí khóa 18 của đồi Tăng Nhơn Phú - Thủ Đức, hiển hiện về trước mắt.
Những chiến sĩ can trường thuộc Sư đoàn Phượng Hoàng này, khi bắt tù binh, họ luôn luôn cho đối phương ăn uống tử tế, mời mọc thuốc lá, rồi mới chuyển giao về hậu cứ. Họ không bao giờ cho sĩ quan an ninh đánh đập, dù đôi khi cần khai thác tin tức sơ khởi tại mặt trận. Rất tiếc, 3 chiến hữu tốt, hiền hòa này đều lần lượt ra đi, trước và sau biến động Tết Mậu Thân không lâu trước mắt tôi, trong những ngày tôi còn dấn thân, phục vụ tại khu chiến Tiền giang. Người viết, lúc đó, chẳng biết làm gì hơn ngoài việc viết bài chiêu niệm trên trang Văn Nghệ Quân Đội và mục Viết Cho Người Nằm Xuống để an ủi linh hồn người chết, và gia quyến họ.
Những biểu tượng đầy nhân bản tính trên đối với người khác giới tuyến của họ, cộng với sự thái độ, cảm nghỉ của THT, TTY, NBS, PXS... khiến tôi nhiều lần thấm thía tự thầm hỏi mình. Phải chăng những quân nhân này và còn nhiều, còn nhiều những anh em, chiến binh trong các quân binh chủng khác, đã luôn luôn mang theo trái tim loại “grand coeur” của d’Amacis, trên đường hành quân? Hay họ là những đệ tử ngoan của cụ Winston Churchill - vị anh hùng, nhà chính trị khét tiếng của thế kỷ 20, người đã được trao giải Nobel năm 53, vì họ luôn tuân thủ lời khuyên của ân sư: "Tác phong là một việc nhỏ, nhưng nó tạo nên những khác biệt lớn lao. Biểu lộ một chút lịch sự, tử tế cũng chẳng tốn kém, mất mát gì."[3]
Sau khi Sàigòn thất thủ, tôi thường nghe thiên hạ bảo nhau: Một trong những yếu tố quan trọng đưa đến việc mất nước là vì dân quân miền Nam đã quá hiền hòa và đối xử nhân đạo với kẻ thù. Những người cùng chung một tiếng nói bên kia lằn ranh giòng sông chia cắt, bên kia vĩ tuyến có phải là kẻ thù của chúng tôi không? Thật sự, chúng tôi có cần xem họ là kẻ thù không, sau khi cuộc đụng độ đã tàn, khói lửa đã nguội tắt, chỉ vì họ bị cưỡng bức làm những con chốt đáng thương, trong ván cờ tham vọng bành trướng chủ thuyết CS lỗi thời Mác-Lê-Mao?
Mời bạn đọc thử xem qua những hình ảnh đáng trách, dể làm nản lòng người đang dấn thân ở các tuyến đầu. Tình trạng tương phản tương ấy đã được phản ảnh dưới góc nhìn của tác giả Ô Cửa. Lời thơ tuy có man mác nỗi uất hận, phẩn nộ nhưng cũng đầy thương cảm, ngậm ngùi như một khúc bi ca:
Đất nước ta cường quốc bán buôn. Hậu phương ăn chơi biểu tình, đảo chánh. Lúc đồng đội ta chết lên chết xuống. Một đám ở nhà nhảy nhót thâu đêm. Lãnh chúa ta ăn trước ngồi trên. Hùng hổ lắm nhưng mạt hèn cũng lắm. Khóa của ta trên mấy trăm thằng tình nguyện. Đi Nhảy Dù, Thủy Bộ, Thám Báo "ác ôn". Đứng đợi cả ngày để bắt lá thăm. Toàn thứ dữ mà vui như chợ Tết. Có đứa mang bằng kỹ sư về nước. Chọn Cọp Ba Đầu Rằn làm lính tiền phong. Ta lính miền Nam hề vận nước ngửa nghiêng. Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp. Ta trèo lên cây hỏi rừng có biết. Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam ? (Ta Lính Miền Nam , tr 36)
Giữa lúc vận nước lâm nguy như thế thì dường như một số giới lãnh đạo chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng tư, một số người hậu tuyến chỉ lo hưởng thụ, phó mặc việc giải trừ, giải tỏa áp lực dồn dập của Bắc phương trong tay những quân nhân thiếu kém quyền lực, tiền bạc, lúc nào cũng đứng trước đầu sóng ngọn gió, ồ ập vũ bão.
Trong lúc người lính chiến VNCH đang trực diện với sự sống chết để bảo vệ lãnh địa thì đồng minh của anh ta đã đóng vai trò gì trong việc ngăn chống sự xâm nhập, mưu đồ thôn tính của giới lãnh tụ Hà Nội, với sự trợ giúp không ngừng của các nước CS đàn anh Nga, Tàu? Hãy thử nhìn qua bối cảnh, hoạt động hằng ngày của những người lính chiến Mỹ từ những dòng thơ mang đầy tử khí của Marko Whiteley thuộc Tiểu Đoàn 1/TQLC trong "Thoughs of War":
“Cuộc chiến đấu thật khốc liệt khi lâm vào trận phục kích. Sự sôi nổi rồi cũng tan biến đi trong những ánh mắt sáng ngời. Lúc này chẳng phải riêng gì đối phương mà cả anh cũng mất mạng. Màn đêm đã sắp buông, đó là lúc thuận lợi cho địch quân. Họ biết rằng địa thế không thể nhìn rõ ràng về đêm. Qua màn đen của đêm sâu thăm thẳm. Kẻ bị thương thì rên rỉ, người còn lại thì tiếp tục đánh nhau. Tâm trí khởi sự báo trước một nỗi kinh hoàng”.[4]
Những tình cảnh đó có khác xa bao nhiêu trong "Đêm Đột Kích ở Nho Lâm" (trang 42), "Đêm Đột Kích" (trang 157), hay "Những Ngày Quân Về Những Ngày Quân Đi" (trang 168). Hay thử nhìn sang tâm trạng phân vân của người "Đánh Núi" trong hoàn cảnh, tình huống tiến thối lưỡng nan:
Tiến lên lại sợ phục. Rút về sợ lột lon. Hét hoài cổ họng khan. Chỉ mình ta lãnh đủ. Đi lên dao mở lối. Gai xước rách thịt da. Đau quá tức chửi cha. Những thằng già ngoài Bắc. (Đánh Núi, tr 147)
Qua bao lần đụng trận, đánh nhau ác liệt như thế, có mấy ai tránh khỏi viên đạn vô tình thoát đi từ nòng súng của người bên kia? Cho nên THT - cây sậy mỏng manh trước những cơn bão tố của chiến trường, cũng đã hơn một lần bị đổ máu, dập vùi, lưu dấu các vết tích đạn thù trên thân thể còm cỏi:
Viên đạn đồng đã cắt thịt tôi. Tôi đau quá mà em không xót. Khi tôi biết mình vừa thoát chết. Tôi cuống cuồng sợ hãi thành điên. Lần bị thương đầu tôi vẫn anh hùng rơm. Lần bị thứ hai tôi nằm thin thít. Tôi đang ở phòng trần gian hậu chiến. Đêm cứ trôi hoài từng giọt hồi sinh. Tôi ước đến điên cuồng một giọt lệ em. (Trong Phòng Cấp Cứu, tr 311)
Tuy có áy náy, lo sợ, nhưng sau 3 lần bị thương với những ngày phép dưỡng bệnh ngắn ngủi sau khi xuất viện, người lính thám báo THT vẫn thản nhiên trở về với cương vị của một người chiến binh, tiếp tục hiến thân phục vụ dưới cờ cho đến ngày nước mất, quân tan.
2. Ghi nhận về chiến tranh qua những ngày dưỡng quân, những giờ chuyển quân
Cuộc sống của người lính trận luôn gắn liền với những lần di chuyển bất ngờ, bất định. Có khi chuyển quân ra trận mạc. Cũng có được điều động tới các địa điểm gần chiến trường để làm nút chặn, làm lực lượng trừ bị, sẵn sàng tiếp ứng cho những đơn vị cơ động đang giao tranh. Vì để bảo toàn tối đa bí mật quân sự, cho nên đôi lúc nhiều cấp chỉ huy đơn vị nhỏ chỉ nhận được lệnh hay sơ đồ hành quân vào phút chót, trước giờ xuất phát, di quân. Những vần thơ sau đây đã thể hiện đầy đủ vai trò và thân phận nghiệt ngã của các chiến sĩ tiền phương đó:
Những lần chuyển quân dù chẳng biết về đâu. Nhưng chúng tôi biết những gì chờ đợi sẵn. Như thể khi viên đạn đồng trong lòng cơ bẩm. Xẹt ra khỏi nòng rồi kiến cắn tê mê. Chỉ khi nào anh cảm nhận đau tê. Có nghĩa là anh biết mình vẫn còn sống sót. Anh hãnh diện là đã đi về phía trước. Là máu hồng anh đã đổ xuống tặng em. Và khi anh trở về ôm lấy vết thương. Anh mới biết đời vô cùng độ lượng. (Người Lính Trở Về Với Chiến Trường, tr 7)
Ta hãy xem thêm thi sĩ họ Trần đã ghi nhận lại những mất mát nào qua “Chia Tặng Chung Nhau” (trang 128), hay trong những hình ảnh máu lửa tiêu biểu của chiến trường mà anh vẽ lại dưới đây - máu lửa, bom đạn, tiếng kêu đau thương, tuyệt vọng:
Xin trả lại bên trời vầng trăng đỏ máu. Và tiếng dội ầm ầm của đám trực thăng. Và cả một biển rừng lửa bốc xung quanh. Và sườn lũng cháy đen thành than củi. Người lính cũ mắt nhìn trong bóng tối. Nghe văng vẳng bên mình lời rên rỉ: Cứu em. (Xin Trả Lại, tr 11)
để từ đó anh bồi hồi, ngậm ngùi trước những hoang phế, điêu linh rồi nghi vấn, suy tư về thân phận mình và kiếp người…:
Mặt trận đổ theo bìa Đệ Đức. Nghe cận kề lửa hưóng Tam Quan. Bồng Sơn mây ám toàn tin dữ. Chiều chưa buông quận đóng năm giờ. Giặc chiếm cận sơn người chạy loạn. Còn bên cầu trơ trọi cây đa. Cây đa có mặt khi nào nhỉ. Có phải nơi này là quê hương. Có phải mỗi con người trôi dạt. Cất trong tim bóng mát thiên đường. Cây đa vươn giữa trời bi lụy. Những thổ thần hoang lạnh lư nhang. Lửa cháy Trường Lưu đò đã chặn. Chị ra sông ơi ới đoạn trường. (Cây Đa Bên Cầu, tr 20)
Địch tan, chiếm lại đất đai chưa kịp vui mừng thì người lính trận lại phải đương đầu, đối diện trước những bức tranh mang đầy dấu vết hoang tàn, đổ nát , trước “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”:
Ta đã về dành lại quê hương. Dành lại quận đường hoang tàn đổ nát. Dành lại ngôi trường lời ca tiếng hát. Ta đã về nhìn bầy chim cút côi. Nhưng ta lại không dành được em gái ta yêu. Chúng ủ rũ như lòng ta ủ rũ. Lũ bé quì bên xác người cô trẻ. Ðặt chùm hoa mếu máo gọi cô về... Em bé quê ơi cho ta một nhánh bông. Một nhánh bông quì vàng như màu áo. Ta đặt tên em. Trống trường ảo não. Như những hồi mặc niệm em tôi. Ta đã về và đã trễ em ơi. (Đêm Tiếp Cứu Chợ Huyện, tr.28)
"Ta đã về và đã trễ em ơi". Câu thơ như một tiếng kêu thống thiết, chứa chan huyết lệ, thể hiện tình quân dân cá nước.
Một hình ảnh thê lương khác đã được Anh Thuần - người phóng viên chiến trường gan lì của Cục Tâm Lý Chiến và Đài Phát Thanh Quân Đội, đã phát họa lại đậm nét khi anh đang bám trụ trên "quốc lộ máu" năm 72 để ghi nhận, tường thuật về tin tức chiến sự:
“Em về đâu, hỡi người em lạc lõng - chiều đã buông và mây đã giăng mờ - trong lửa đạn máu tanh thời chiến loạn - còn mong gì tìm được chốn an cư.” [Anh Thuần * Chiều Chiến Loạn]
Sống ở, thác về. Người lính trận miền xa nào mà chẳng ý thức được số phận mỏng manh của mình. Bởi vì, người xưa đã trải nghiệm rồi truyền lại: “cỗ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, thì sự mất còn đối với họ cũng chỉ như lẽ tan-tụ tất yếu của mây nổi, của hoa biển. Trong lòng kẻ trấn thủ lưu đồn - lúc nghĩ ngơi, có chăng là nỗi nhớ nhung về những con đường tình đã qua và hoài niệm về sự mất mát của bạn bè, đồng đội:
“Nằm đây thương những con đường - kể em nghe chuyện chiến trường được chưa - lòng anh thơ dại bóng cờ - ngủ yên đâu dám định giờ xuất quân - đã lâu võ nghiệp quen dần - thấy người đi cũng ân cần muốn đi - hỏi người: ai chết đêm khuya - bảo: không, ngựa lạc đường về cõi xưa.” [Hoàng Lộc * Đêm Đóng Quân Ở Định Quán]
Cùng những ngỡ ngàng của thi nhân Trần Tuấn Kiệt, người đã chiếm giải nhất về thơ của Tổng Thống năm 71, qua các cảnh tượng ảm đạm của những ngày biến loạn xảy ra ngay tại các vùng ven đô của Saigon đầu Xuân Mậu Thân 68:
“…Ra nhìn khói lửa đạn bay - khói lên từng cụm đạn cày mênh mông - qua đêm ngủ giấc say nồng - tĩnh ra bốn phía chập chùng núi non - trời xa mây bạc vô cùng - sao ta nằm ngủ giữa vùng máu xương.” [Trần Tuấn Kiệt * Tết Mậu Thân Nhậu Với Bùi Giáng]
THT tuy là người chiến sĩ dạn dày phong sương, nhưng lời thơ của anh lại rất nhẹ nhàng thi vị, man mác tâm tình của một nghệ sĩ yêu người, yêu đời và yêu quê hương sâu sắc, đậm đà:
Tôi về đây. Tôi đã trở về đây. Đồi xưa tôi gọi đồi không hay. Ai đi bỏ lại hoàng hôn lạnh. Đỏ ối đồi xưa ôm lấy mây... Có ai như thể người binh Thượng. Ngồi khom trên bờ đá thổi kèn. Hôm qua có những hồn ma lẻ. Lạc tìm về buôn bản cao nguyên. Có ai dưới lớp mồ hoang dã. Nằm xuỗi chân mắt mở trợn trừng. Chiều nay sao mọc về phương Bắc. Sao ruột lòng vứt bỏ phương Nam . Cỏ tranh lớp lớp che đường dốc. Phòng tuyến buồn hiu nhuộm nắng chiều. Trận đánh cũng đi vào quên lãng. Sao còn rờn rợn những hồn xiêu. (Đồi Xưa, tr 43)
Cảnh tượng nào sau chiến trận mà không thê thảm. Không có chiến trận nào mà không có người phải hy sinh? Ngay cả những chiến sĩ đồng minh sang phụ giúp chúng ta - để chống sự xâm lược, dành dân chiếm đất của Việt Cộng vào lãnh thổ VNCH, cũng không tránh khỏi rơi vào tuyệt lộ bi thương nói trên. Xin hãy đọc thử bài thơ “As The Sun Sets In The Dark Sky” của Guy L. Jones thuộc tiểu đoàn 43 Truyền Tin. Người lính chiến Hoa kỳ này đã nghe thấy, cảm nhận gì trong cảnh "hồn tử sĩ gió ù ù thổi," trong cảnh tịch mịch dưới màn đen, trời mờ Pleiku:
“…Khi ánh thái dương chìm khuất trong bầu trời u ám, tôi nghe âm thanh của những người lính chiến đang đi đều bước và kêu gọi nhau từ một khoảng xa. Tôi nghe họ bảo rằng đừng nhỏ lệ vì họ, bởi những nỗi đau đớn của họ giờ đã tan biến cả rồi và hiện giờ họ đang đi về với Thượng đế trong cảnh an bình vĩnh cữu.
Khi ánh mặt trời lan dần về phía chân trời, hình ảnh của những người di hành đó đã vượt khỏi tầm mắt của tôi, nhưng không phải là những lời trối trăn mà họ đã nói, vì những di ngôn của từng mỗi người đó tôi vẫn ghi giữ mãi trong tiềm thức.
Tôi đã thì thầm đáp lại cho cho họ biết là tôi sẽ thông truyền những lời trối trăn ấy tới mọi người, cho bất cứ những ai muốn nghe di ngôn của họ do tôi tường thuật lại. Công việc này tôi xin hứa với tất cả các anh, tôi sẽ làm mãi mãi khi mà tôi vẫn còn sinh tồn. Xin chào vĩnh biệt các chiến hữu, xin chào”[5]
Nhà toán học, nhà tư tưởng siêu quần Blaise Pascal đã từng ví von nhận định rằng: “Con người là một cây sậy, loại mềm yếu nhất trong vạn vật, nhưng là một cây sậy biết tư duy” [6]. Thân phận người chiến binh ngoài tuyến đầu dỉ nhiên mong manh, nhưng là người biết suy tưởng, có tình cảm, thì dù ở trong cảnh trạng khói Iửa đạn bay đi nữa, mấy ai tránh khỏi nỗi niềm mơ ước. Mơ ước, hoài vọng về một viễn ảnh sớm chấm dứt chiến tranh, đất nước sớm an bình:
“…giọt máu trên ngọn cỏ mềm - của ai không biết nằm im như tờ - đằng xa sau lớp bụi mờ - mới nhìn tôi tưởng con cờ thí thân - toán tôi vừa tới bìa rừng - đã nghe đạn nổ muốn bưng cái đầu - rạp mình xuống đất nâu nâu - mặt tôi chạm nắm cỏ khâu xanh rì.
ừ thì chú cũng như tôi - cũng khiêng sông núi trên đôi vai mình - mong cho đất nước thanh bình - chớ ai mong cảnh chiến tranh bao giờ - ừ thì anh cũng như em - cũng đem tổ quốc treo trên ngọn cờ - buồn buồn bày đặt làm thơ - vui vui thì lấy súng phơ một tràng…” [Phan Ni Tấn * Rừng Tâm Sự 5 Năm Lính]
Dẫu rằng vấn nạn ấy chỉ là mộng con hay loại “nhược đại mộng” của người lính xa nhà, trong đêm buồn tênh gối súng, nằm ngắm trăng sao, mây nổi rồi mơ ước cảnh đoàn viên:
“…Trước thượng đế hai đứa đồng cúi lạy - xin Hoa-Thương-Yêu nở khắp mọi nhà - ruộng đất không còn làm bãi tha ma - sắt thép loài người đem xây tổ ấm - dưới sương gió mây ngàn bên xóm vắng - riêng chúng mình tình tự ngắm trăng non - sớm sớm chiều chiều em sẽ dạy con - bài hát đầu tiên ngợi ca Tình-Ái.” [Phan Bá Thụy Dương * Nói Với Người Mang Tên Một Loài Chim Mùa Xuân]
Đời sống của những người lính trận, vì thường xuyên phải đối diện với thần chết nên mỗi lần được nghĩ phép, dưỡng quân là cơ hội bằng vàng cho họ tìm gặp bằng hữu, anh em để cùng nhau ngã nghiêng, ngất ngây bên ly rượu, hầu tạm quên những giây phút ác liệt, nghẹt thở, bâng khuâng ngoài chốn tiền phương:
Nửa đêm như thể ngày xưa ấy. Mấy thằng trải chiếu dưới đêm trăng. Trăng sáng phơi trên hàng kẽm lạnh. Rồi chảy vào bát rượu bâng khuâng. Nửa đêm mấy đứa chưa buồn ngủ. Buồn ngủ làm sao, ta chiêm bao. Lính trận dưỡng quân nhờ tí tửu. Để mai nằm xuống hồn bay cao. Nửa đêm doanh trại đèn leo lét. Người lính canh ngồi như tượng đêm. Ma quỉ muốn chơi xin hoãn chiến. Để ta cùng đụng với anh em. (Nửa Đêm Uống Rượu Với Bạn Bè, tr 149)
Cũng không ít anh em quân nhân quan niệm r ằng : Đánh tr ận xong rồi thì ta đánh chén. Trong lúc rãnh rỗi, dưỡng quân thì ta đánh chén trước, rồi chờ ngày đánh trận sau. Lính và rư ợu. Rượu và lính cơ hồ như đôi tình nhân luôn luôn gắn bó mật thiết. Cho dù kẻ ấy là lính “tò te” mới ra “lò” hay là người đã dạn dày chiến trận, khí phách, coi thường sinh tử. Lời thơ trích dẩn dưới đây, tuy bộc lộ rõ nét ngang tàng, khoáng đạt ấy, nhưng dường như phần nào cũng mang mang ý niệm, tư tưởng hiện sinh. Bởi vì, như ai cũng biết, từ hạ bán thập niên 50 trở đi các tác phẩm hiện sinh, lãng mạn như “ Bonjour Tristesse”, “Dans Un Mois, Dans Un An”, “Un Certaine Sourire”… của nữ văn sĩ Francoise Sagan đã ảnh hưởng khá sâu đậm như thế nào với xã hội, đặc biệt là với giới trí thức trẻ, miền Nam:
“…hãy cụng ly chết bỏ - tôm cua cá lươn sò - lương ta còn nguyên vẹn - còn cả cái Seiko - Cửu long giang ra biển - sẽ chẳng trở về đây - chiến tranh hề gặp gỡ - có chắc lần thứ hai - lai mỗi thằng mỗi ngã - thằng Cà Mâu Năm Căn - thằng Bình Dương, Bình Giã - thằng địa ngục thiên đàng - nhưng ta không sợ chết - (hơi ngán què đôi chân).
còn mày sao lại khóc - cứ cười lên đi con - ta anh hùng tứ xứ - há thua những bông hồng - nơi rừng U Minh Hạ - còn dám nở dưới bom - cứ cười như họng súng - bắn cuộc đời vỡ toang...”[Hà Thúc Sinh * Hành Quân Qua Bến Phà Mỹ Thuận Gặp Bạn Đánh Chén, Say Mèm]
Dĩ nhiên bên cạnh đó còn có sự tác động mạnh mẽ hơn của các triết gia hiện sinh hàng đầu như S. Kierkegaard, JP Sartre, F. Nietzche, A. Camus… Có thể cũng với tâm trạng, khái niệm yêu cuồng sống vội, bất kể ngày mai ấy, cùng với sự cảm nhận về nỗi bấp bênh của mình trước đầu tên mủi đạn, nên tác giả Ô Cửa nghĩ rằng có thể ngày mai anh sẽ không còn cơ hội sinh tồn. Nên hôm nay có rượu thì chết bỏ, hãy cứ hăng hái tiếp nối cuộc vui “đưa cay” với bạn bè, ngay cả với linh hồn người khác địa đầu chiến tuyến:
Xin cô hàng thêm một két bia. Hôm nay lãnh lương tôi dành đãi hết. Cô hàng ơi một mai tôi chết. Ai tiêu dùm tôi ba tháng lương... Cô hàng ơi cho một ly không. Tôi rót mời một người lính Bắc. Hắn nằm băm thây dưới hầm bí mật. Trên người còn sót lại bài thơ. (Một Ngày Không Hành Quân, tr. 45)
4 câu thơ chót là 4 câu thơ đã nói l ên đầy đủ tính chất nhân bản. Phải chăng đây là một tuyên ngôn? Tuyên ngôn về tình người - tình người không biên giới, tình chung giống nòi, huyết thống VN.
Làm lính trận miền cao là sống với rừng núi khô cằn, bụi mốc. Có mấy ai khi được nghỉ ngơi về với phố thị tránh khỏi sự rung động, khi nhìn những tà áo tha thướt, phất phơ bay bay trong gió của giai nhân, của em gái hậu phương:
Thành phố nọ trở về vui một bữa. Quán cà phê và bạn hữu tao mày. Phố xanh hồng sáu chục cũng còn say. Huống bọn trẻ ở trên rừng vắng gái. Gác chân lên bàn đôi giày vạt đế. Cốc xây chừng ngầy ngậy giọt bơ thơm. Ánh mặt trời đọng lại trong ly con. Gió sông thổi tà áo màu tha thướt. Vỉa phố trời cho rộng vài ba thước. Đường phố không dài nên đi xuống đi lên. Muốn theo gót nàng nhưng không dám làm quen. Thôi chỉ biết ngồi lì mòn cả ghế. Để cố uống một lần mai từ giã. Những mái trường, những cửa tiệm, đám đông. Đàn bướm màu làm đẹp cả hoàng hôn. Để gìn giữ làm của thời tuổi trẻ. (Về Với Phố, tr 162)
3. Thân phận, ki ếp sống gian lao và nỗi u hoài của người chiến binh sau ngày miền Nam bị nhuộm đỏ
Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ của ông bị thảm sát do nhóm tướng lãnh chóp bu đảo chánh ngày 1/11/63, tình hình chính trị và an ninh miền Nam dần dần rơi vào trạng thái càng ngày càng bất an. Có phải cái chết của cụ Ngô như là hồi chuông báo tử trước cho Tổng Thống Kennedy và sự cáo chung của chế độ VNCH? Chỉ hơn một năm sau khi người Mỹ rút khỏi miền Nam , cắt đứt viện trợ, thì quân lực Cộng hoà càng lúc càng bị trói tay, thúc thủ, do thiếu quân cụ, nhiên liệu, đạn dược... Thêm vào đó là với lệnh buông súng “lạ lùng, khó hiểu” của tướng "big Minh" đã dễ dàng đưa toàn quốc rơi vào tay lực lượng xăm lăng CS.
Trước và sau ngày dâu biển đó, người ta truyền tụng khắp nơi rằng không biết bao nhiêu quân nhân các cấp đã tự tuẫn tiết vì chẳng chịu đầu hàng. Đa số những người khác thì vì vướng bận thê nhi, cha mẹ... đã bị đưa vào các trại tập trung lao động, tẩy não, mà kẻ chiến thắng gọi là trại cải tạo, kể cả những viên chức dân sự. Bối cảnh náo loạn, bi đát của ngày tàn chiến cuộc ấy đã được thi sĩ Diên Nghị xúc cảm
ghi lại một cách sâu sắc:
“Tháng 4 - vợ ngóng chồng đầu ngõ. Nón sắt giày sô vất bỏ dọc đường. Mưa sớm khai mùa tuôn xối xả. Đất trời xúc động nỗi tai ương. Thương binh lê lết ra y viện. Tà quyệt nào tha phận tật nguyền. Đơn vị rã hàng tàn chinh chiến. Hỏi người nhân đạo với nhân danh. Có người lính trẻ không buông súng. Ngẩng mặt hiên ngang trước kẻ thù. Thà ngã dưới cờ tròn danh dự. Dày trang sử Việt sáng thiên thu” . [Diên Nghị * Tháng Tư]
Cũng như những quân cán chính khác, bạn tôi, một người vừa là người làm báo, vừa là một cưu quân nhân ngành quân báo đã lâm vào thế bị cưỡng bức tập trung. Anh cũng như nhiều người khác tin tưởng rằng chiến tranh đã kết thúc thì việc xách khăn gói đi trình diện học tập trong mười ngày, một tháng theo lệnh của ủy ban quân quản CS là một điều tất yếu, để sau đó mọi người trong nước cùng nhau nối vòng tay lớn xây dựng, hàn gắn lại quê hương. Nhưng tất cả những kỳ vọng ấy đã được trả bằng những sự đói rét, khổ nhục trường kỳ và những đòn thù khắc nghiệt:
“Heo hút đồi cao bụi phủ mờ - những thân còm cõi dáng chơ vơ - bốn vòng gai sắc như dao nhọn - đâm suốt hồn ai nhát hững hờ - đã mấy Mùa Xuân trong đớn đau - cao su vàng lá úa u sầu - bọn ta chung kiếp tù tăm tối - ngày tháng chừng trôi qua rất lâu...” [Vũ Uyên Giang * Bài Gửi Dương Hùng Cường]
Nếu không có sự tin tưởng này thì với lực lượng quân dân cán chính can trường, bất khuất bị lường gạt ấy sẽ ứng phó ra sao? Giới cầm quyền mới có dể dàng, yên ổn thu gọn cuộc chiến thắng mà họ đã luôn tự hào, rêu rao là thần thánh kia chăng? Việc CS dồn người, đem giam giữ vào các trại tập trung xa xôi, ngấm ngầm để các nơi, các cơ cấu phụ thuộc tổ chức đưa người vượt biên hoặc cho phép các cựu tù miền Nam sang Mỹ định cư chẳng phải là nhằm vào mục đích giải trừ, tránh đi hậu hoạn về những sự đối kháng, nổi dậy nguy hiểm hay sao? Hơn ai hết, nhóm đầu não lãnh đạo phương Bắc có thể tiên liệu, biết chắc chắn là mối họa này không thể không xảy ra?
Rồi con số người bị hành hạ, chết chóc trong các trại cải tạo mỗi ngày một gia tăng. Con số người dân tìm đường vượt thoát chế độ độc tài càng ngày càng nhiều, dù họ đều biết rằng mình có thể sẽ vùi thây trong lòng biển cả hay một xó rừng, góc núi nào đó. Còn những kẻ sau thời gian bị nhục hình trong các trại tập trung trở về, người thì bị đày lên vùng kinh tế mới, kẻ thì lâm vào cảnh "anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than", tìm trầm quế, "chém tre đẵn gỗ trên ngàn"... dọc theo dãy Trường Sơn hay tiếp tục những gánh nặng oan khiên khác bằng nghề đẩy xe thồ, đạp xe xích lô... tự an ủi mình bằng ý nghĩ "không có nghề nào tồi tệ, xấu xa, chỉ có con người tồi tệ, xấu xa thôi" [7]. Những hình ảnh được trình dẩn dưới đây là một trong những minh chứng về chánh sách đọa đày, ngược đãi đối với những người cựu tù sống sót đã được họ tha, cho về từ những lò ô nhục mà ngôn ngữ kẻ chiến thắng gọi là trại cải tạo:
“Cõng con dắt vợ leo đồi - phá rừng làm rẫy cất chòi tịnh tâm - vợ con tắm vũng trâu nằm - lưng gùi tay rựa quanh năm cuốc cày - đầu trần chân đất hôm nay - mai sau rồi cũng bóng mây lưng đèo.” [Tr ần Văn Sơn * Tù Về, Lên Rừng Làm Rẫy]
Nơi các trại tù tập trung lao động cũng có nhi ều ngư ời bất khuất, không chịu được sự ngược đãi đã liều mình bỏ trốn. Có nhi ều ngư ời bị bắt lại, bị giết. Cũng có nhi ều ngư ời vùi thây nơi vùng Việt Bắc, nơi rừng sâu nước độc, hoang dã đầy sương lam, chướng khí trên đường tìm về. Cũng có nhi ều ngư ời vượt thoát sau bao đói khổ, truân chuyên được hội ngộ với gia đình. Nguyên Hoàng Bảo Việt là một trong số những người may mắn hiếm hoi đó. Anh là một trong những người đầu tiên đã chiếm giải Văn Chương Toàn Quốc trong thập niên 60. Hiện nay anh là nhân vật quan trọng trong Ủy Ban Bảo Vệ Nhân Quyền và trung tâm Văn Bút Âu Châu. Nhờ “Kẻ Sống Sót” này mà chúng ta có thể hình dung được thảm cảnh oan khiên của những người “ngã ngựa” phải chịu đựng triền miên trong địa ngục trần gian. Trong một nơi cực khổ, đói lạnh dai dẳng, thiếu ánh sáng:
“…Đêm đã xuống - Trên đường trốn về Nam - Tìm sao để định hướng - Con chim Việt còn nhớ cành - Sau lưng tôi - Bạn bè ở lại - Giữa trại tù tập trung - Nào ai biết - Dù màn sắt hay màn tre - Ngục hình của Cộng sản - Ngàn lần hơn Lao Bảo - Trăm lần hơn Côn Nôn - Luật rừng thời trung cổ - Khổ sai và tẩy não - Chung thân - Chết đói và tuyệt vọng - Muôn năm - Xích xiềng và liềm búa - Khua vang - Khua vang…” [ Nguyên Hoàng Bảo Việt * Kẻ Sống Sót]
Tác giả Ô Cửa thì may thay được cho về sớm để rồi bùi ngùi nhìn cảnh đổi thay, vợ con nheo nhóc. Người lính thám báo, người giáo sư yêu đời năm xưa đã mạnh dạn tìm phương tiện sinh nhai bằng một nghề mà người có học, kẻ sĩ trên khắp hoàn vũ nằm mơ, hoang tưởng mấy cũng không thể hình dung, ngờ được. Nhưng có lẽ nhờ tâm hồn nhạy cảm, dể rung động của thi nhân cùng với một nhân sinh quan cởi mở, nên có lúc THT cũng tìm thấy được phần nào nét trào phúng, ý nhị nhỏ nhoi, hài hòa trong công việc dãi dầu mưa nắng. Dẫu sao anh cũng còn cảm thấy được phần nào tự do, sung sướng hơn những năm bị lưu đày:
Ta trở về ôm những nhánh tang thương. Cúi đầu bước đi giữa lòng phố cũ. Con phố của ta ruột rà trăm ngõ. Sao bây giờ mỗi khúc mỗi đau. Ta đã trở về bốn năm phù du. Hồn hóa đá người thành dã thú. Ta dỗ dành ta tai trời ách nước. Thôi đã hết rồi món nợ tiền khiên... Sau cuộc chiến tranh làm tên sống sót. Sau cuộc tội tù đi bán cà rem. Ta bán cà rem hề, ta bán cà rem. Lắc chiếc chuông đồng khua vang làng xã... Chiếc áo trận xanh xạm màu khói lửa. Chiếc mũ rơm đan vương miện tội tù. Ta qua những miền thiên cổ âm u. Ta đập vào thùng nghêu ngao ca hát. Ta bán cà rem hề, kem đường kem chảy. Thêm kem oan cừu chất ngất miền Nam . (Ta Bán Cà Rem Hề, tr.24)
Lời thơ tuy êm êm, lãng đãng như sương khói đầu cành, nhưng sao lại ẩn tiềm, phảng phất đâu đây một nỗi cay đắng tái tê. Những dòng thơ chuyên chở những sắc thái ý nhị này người đọc có thể phát hiện dễ dàng trong toàn tuyển tập Ô Cửa của anh, điển hình như: “Sợi Tóc Nhớ Nhung” (tr. 108), “Tôi Đã Về Em Ạ Đêm Nay” (tr. 165), “Xa lạ” (tr. 201), “Hoàng Hôn Trên Bản Địa” (tr. 313)...
Trận đánh nào rồi cũng đi vào quên lãng. Thời gian nhọc nhằn, tủi nhục nào rồi cũng chìm lắng, nhạt nhòa dần với thời gian. Kết cuộc có còn chăng là những nỗi niềm u uẩn, cay đắng khôn nguôi, những vết sẹo mãi mãi hằn in trên thân thể gầy mòn của người lính tiền sát bị thất trận oan ức:
Những mảnh đời như những cơn giông. Đã xé toạc cả tiếng đời tục lụy. Đã dữ dội như trăm ngàn tạc đạn. Đã rũ mềm lê lết cất không lên... Bụi thì mù, mây thì phủ tai ương. Con ngựa đứt dây, hí hoài trên núi. Bàn tay cắt vào mảnh chai tươm máu. Hồ trường này đây, đập cốc. Về đâu? Ta thì ngậm cả tang hồ rách nát...(Cuồng Ngâm Của Tên Thất Trận, tr 124)
và có còn chăng trong lòng, trong ký ức sâu kín là niềm kiêu hãnh, sự tưởng niệm mang mang, thấm thía:
May mà tôi vẫn còn một hoài niệm xanh. Dù chỉ là nỗi niềm tự hào buồn bã. Trên ngực lép vẫn còn chiến thương ngày cũ. Như đáp đền ân lượng của quê hương. (Niềm Kiêu Hãnh Buồn Bã, tr 233)
Người bạn đồng minh James M. Hopkins thuộc Sư Đoàn 1 BB - người đã từng dẫm chân trên các nẻo đường hành quân vùng Bình Dương, Tây Ninh, khu “tam giác sắt” cũng có chung một tâm trạng như “Đêm Mất Ngủ” của THT (trang 252). Nhưng trái với sự mong đợi. Khi anh và các chiến hữu trở về không may đã bị các lực lượng phản chiến hung hăng thời đó coi như những tội đồ, thậm chí là kẻ sát nhân. Do mặc cảm tội lổi hay vì tâm trạng chua chát, tái tê trước phản ứng phủ phàng của dư luận mà bài thơ mang tựa “SONG” diển tả về tâm trạng của người lính hồi hương này đã mang nặng màu sắc bi thảm, bi quan, chán chường, để rồi anh ta phải dấu kín tâm tư, không thổ lộ được cùng ai:
“…Người lính chiến không quên được. Có lẽ -trong nhiều năm- anh ta sẽ trăn trở trong mỏi mệt. Chờ đợi giấc ngủ, chẳng bao giờ đến. Không ai có thể thoát khỏi được. Những gì anh ta đã chứng kiến, và những sự việc anh ấy đã dự phần, đều bị chôn vùi trong những giấc mơ, trong thầm lặng và câm nín…” [8]
Sao người ta lại nhìn tác động, hiệu quả của chiến trận dưới con mắt đạo đức để chỉ thấy mặt trái, đàng sau của tấm huy chương? Điều đó có oan ức cho những người vì nhiệm vụ phải thi hành trong lúc đối diện địch quân? Hơn nữa trong lúc chiến đ ấu, giết giặc - ít nhất, cũng để bảo toàn được mạng sống của mình, mà cũng bị xem là một hành vi tội lổi, phi đạo đức được chăng và như vậy thì sự công bình đối v ới tha nhân ở đâu?
Những ray rứt về những ngày ngang dọc, gian truân xa xưa như cứ đeo đẳng, bám sát tâm trí người lính trận THT. Cho dù đến nay anh đã trở thành công dân của một quốc gia khác, mà quê huơng yêu dấu cũ thì đã ngàn trùng cách ly. Nỗi hoài nhớ này được dàn trải qua 2 bài lục bát ngắn gọn dưới đây:
Bên kia lạnh nến hai hàng. Phố kia và những con đường lặng im. Nhà kia đóng cửa im lìm. Sao ta không đóng nỗi niềm muội mê. (“Hỏi lòng,” tr 256)
Tôi lạc rồi em biết không. Tôi đang quờ quạng giữa vùng mù sương. Cũng vì cái ngạnh cái ương. Ngỡ mình là lính tiền phương thuở nào. (Lạc Đường, tr257)
Dù tập thơ quá dày không thể giới thiệu thêm, nhưng người viết nhận thấy mình sẽ thiếu sót lớn nếu không đề cập đến bài thơ mang tựa của tuyển tập, mang linh hồn của cả 5 ấn phẩm mà tác giả đã chọn, gom góp lại thành một kiệt tác:
Ngôi trường cũ có bao nhiêu ô cửa. Để tôi về đếm những đám mây bay. Tôi sẽ gọi một bầy chim sẻ nhỏ. Những con chim từng xa vắng lạc bầy. Tôi sẽ đứng như một người thiên cổ. Lớp học buồn như từ cõi cô đơn. Thầy ngồi đó đôi vai gầy tóc bạc. Chút ngậm ngùi cơn nắng đọng hoàng hôn... Tôi sẽ nhớ một người tôi yêu dấu. Người nào đâu về lại buổi hôm qua. Dấu chân nhỏ như vết hài vạn cổ. Đôi mắt nào theo mãi cuộc đời tôi... Và người ấy qua dòng sông sương muối. Tôi lên rừng theo dòng thác binh đao. Và người ấy theo sông về với biển. Tôi về Đông, về Bắc, biết về đâu? Trăng thiếu phụ tôi mang vào song cửa. Cho một lần, cho vô tận ý thiên thu. (Ô Cửa, tr 14)
Tôi đoan chắc những hoài niệm triền miên, những ray rứt về các mất mát trên với niềm kiêu hãnh buồn bã nọ sẽ mãi mãi vương vấn trong tâm hồn, ký ức của người thi sĩ đa cảm, đa tình này. Tuy phần lớn trong số 237 bài là thơ chiến tranh - trực hay gián tiếp, nhưng trong Ô Cửa cũng có nhiều bài thơ tình nồng nàn, rất đáng cho người đọc ngâm nga, thưởng ngoạn như: “Nha Trang” (tr. 30), “Con đường Trăng” (tr. 52), “Thơ của Văn” (tr. 62), “Dư niệm” (tr. 196), “Từ buổi ta về” (tr. 268), “Hẹn lòng” (tr.350)
4. Lời kết
Ai cũng biết con số người Việt Nam làm thơ chiến tranh không phải là ít. Nhưng theo tôi, THT là người đã sáng tác nhiều nhất Trong nhiều tác phẩm mà tôi có trong tay do anh gởi tặng, tôi thấy hầu như bài nào, cuốn sách nào, anh cũng vẽ cho người đọc thấy những hình ảnh linh hoạt, bi hùng của nhũng người lính chiến như anh, sự thống khổ của đồng bào mà anh và những chiến hữu khác thuộc quân lực miền Nam có nhiệm vụ bảo vệ, che chở bằng tất cả nhiệt tình, nhiệt huyết.
Ô Cửa là một tuyển tập thi ca có tầm vóc lớn. THT lại biết tự chọn cho mình một hướng đi, một bản sắc riêng về thi loại, đề tài: chuyên biệt về Chiến Tranh. Thơ anh được cấu tạo bằng những thi ngữ, ngôn từ qui ước bình dị, chân phương. Nhưng bằng những cảm xúc nồng ấm, cùng lối kết từ điêu luyện, nên Ô Cửa dễ dàng lôi cuốn người đọc vào những tình tự tan hợp, những biến động tràn ngập máu lửa, khói súng trong thời loạn lạc đã qua, mà anh là một nhân chứng sống. Chất liệu nòng cốt trong thơ anh là tình nghĩa, dành cho đồng đội, tình yêu thương, trìu mến dành cho người tình, cho những người dân lành ở khắp các làng mạc, thị trấn lẻ, mà gót chân anh đã từng in dấu.
Thơ chiến tranh là một thi loại đặc thù, khó gây được sự rung cảm sâu xa trong tâm hồn người đọc. Nhưng nhờ sự biết phối hợp, hài hòa các thi ảnh, thi ngữ vào tác phẩm đúng mức nên thơ của anh trở nên dịu vợi hơn và dễ thẩm thấu vào nội tâm người thưởng ngoạn. Ô Cửa xứng đáng là một tập thơ có giá trị cao, hiếm hoi trong nền văn học hiện đại.
¤ Vài nét về Trần Hoài Thư .
THT là một người có lòng với nền văn học miền Nam . Từ khi định cự tại một tiểu thuộc miền Đông Hoa kỳ đến nay anh đã lặn lội đi các thư viện lớn để suy tầm tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ cũ để in ấn lại và lưu truyền ở hải ngoại bằng phương tiện thô sơ khiêm tốn qua Thư Ấn Quán của mình.
Ngoài ra anh và một số thân hữu còn chủ trương tập san Thư Quán Bản Thảo cứ ba rồi bây giờ là 2 tháng một lần - từ nhiều năm nay, để đăng tải các tác phẩm của bằng hữu. Đặc biệt là của những cây bút còn ở tại miền Nam VN. Tập san này không bán mà chỉ biếu tặng theo yêu cầu của những người mến mộ các văn thi sĩ cũ trước tháng 4 năm 1975.
Trần Hoài Thư tên thật Trần Quý Sách, sinh ngày 6.12.1942 tại Ðà Lạt. Anh khởi viết năm 1960 và nguyên là cựu sĩ quan VNCH ngành Thám báo. Tốt nghiệp cao học toán tại Hoa kỳ. Cựu chuyên viên điện toán của công ty điện thoại AT&T. Hiện hồi hưu và an cư tại tiểu bang New Jersey .
Một số tác phẩm tiêu biểu đã xuất bản:
Nỗi Bơ Vơ Của Bầy Ngựa Hoang ( Ý Thức)
Những Vì Sao Vĩnh Biệt (Ý Thức)
Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi (Ý Thức)
Một Nỏi Nào Ðể Nhớ (Con Ðuông)
Ra Biển Gọi Thầm (1995)
Ban Mê Thuộc Ngày Ðầu Ngày Cuối (1997)
Về Hướng Mặt Trời Lặn (1998)
Thơ Trần Hoài Thư (1998)
Mặc Niệm Chiến Tranh - Ô Cửa (2006)…
PHAN BÁ THỤY DƯƠNG - 5/2010.
• trích thơ của các tác giả:
Anh Thu ần, Diên Nghị, Hà Thúc Sinh, Linh Phương, Hoàng Lộc, Huy Lực, Luân Hoán, Nguyên Hoàng Bảo Việt, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, PBTD, Phan Ni Tấn, Phan Xuân Sinh, Tô Thùy Yên, Trần Tuấn Kiệt, Trần Văn Sơn, Vũ Uyên Giang.
• tạm dịch từ nguyên bản:
[1] Herbert Hoover: The old men declare war. But it is the youth who must fight and die.
[2] Ernest Hemingway: They wrote in the old days that is sweet and fitting to die for one’s country. But in the modern war, there is nothing sweet nor fitting in your dying. You will die like a dog for no good reason.
[3] Winston Churchill: Attitude is a little thing that makes a big differences. It costs nothing to be polite.
[4] Marko Whiteley: Right onto the ambush the fighting is fierce. The wildness is gone the glint in the eyes. For now it is you not just them to die. Through the blackness of the deeping night. The wounded scream the rest to fight. The mind starts to scream a terrible warning.
[5] Guy L. Jones: As the sun sets in the darken sky. I hear the voices of those who march off to the distant and calling one to another. I hear them say do not weep for us for our pain is over with now and we go to our God in peace. As the sun passes over the horizon, the image of these marching men pass from the light of my eyes but not the words they said, which I hold onto and the memory of each and very one of them. I whisper back to them I’ll pass on your words to all who hear them from me. This I promise to all of you as long as I live. Farewell my friends, farewell.
[6] Blaise Pascal: L’homme est un roseau, le plus faible de la nature, mais un roseau pensant.
[7] Winona Ryder: il n’y a pas de sot métier, il n’y a que de sottes gens.
[8] James M. Hopkins: The combat soldier, do not forget who (for perhaps years) will toss sweat, waiting for sleep, that won’t come. No one escapes. What his eyes have seen, and the things he has been, are buried in dreams, mute and dumb.
HOÀNG NGỌC LIÊN * SƯ THANH LONG
Truyện Hoàng
Ngọc Liên
Nhân
Năm Rồng, kể thêm về
Cố
Thượng Tọa Thanh Long
"Nhà Sư Của Tôi" đã bênh vực "ÔngCha Nghiêu" như thế nào?Hay là "Nhà Sư Của Tôi" đã phải làm "kiểm điểm" Rút Kinh Nghiệm về việc Ngài liệng chiếc mền đỏ cho một thanh niên "dân tộc"!
Ðể
Tưởng niệm "Nhà Sư Của Tôi"
Cầu chúc Ngài sớm siêu thăng Lạc Quốc.
Hoàng Ngọc Liên
Cầu chúc Ngài sớm siêu thăng Lạc Quốc.
Hoàng Ngọc Liên
Bữa tôi ra mắt sách tại Orlando, cựu Ðại Tá Nguyễn Quốc Quỳnh, Hội Trưởng Hội Cao Niên Orlando và Vùng Phụ Cận, có nhắc tôi là bài "Nhà Sư Của Tôi" (NSCT) trong cuốn tạp văn "Viên Ðạn Cuối Cùng" còn thiếu nhiều chi tiết. Tôi cảm ơn cụ Quỳnh và hứa là nhân dịp Tân Niên Canh Thìn (y2k) tức Năm Rồng đầu thiên niên kỷ mới, tôi sẽ kể thêm về những câu chuyện tại Trại "cải tạo" Thanh Phong, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Cụ Nguyễn Quốc Quỳnh và kẻ viết bài này đều có nhiều kỷ niệm tại đây, nhất là với cố Thượng Tọa Thích Thanh Long, nguyên Giám Ðốc Nha Tuyên Uùy Phật Giáo Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sở dĩ bài NSCT thiếu một vài câu chuyện về Ðại Sư Thanh Long, vì là bài viết ngắn để đăng trên Bản Tin Chùa Vạn Hạnh (Raleigh, North Carolina) mà số trang có hạn. Lẽ ra trước khi in bài này trong tập tản văn, tôi phải bổ túc, nhưng đã sơ xuất. Nay xin... chuộc lỗi bằng bài viết này.
Do một cơ duyên... tiếp nối với cụ Thanh Long, cả gần mười năm sau khi Ðại Sư viên tịch tại chùa Giác Ngạn Sài Gòn, tôi viết về Cụ. Và một chuỗi sự việc liên quan đến Cụ do bài NSCT, đưa tới việc Thượng Tọa Thích Thiện Tâm về Trụ Trì tại Chùa Vạn Hạnh; việc tôi liên lạc với thân hữu bên nước Ðức sau khi bài này được đăng lại trên Nguyệt San Viên Giác của Thượng Tọa Thích Như Ðiển; việc tôi có thêm nhiều thân hữu là Phật Tử, vì tôi là người theo Thiên Chúa Giáo mà viết bài rất trân trọng sùng kính một vị Chân Tu bên Phật Giáo.
Mỗi lần chúng tôi, những anh em đồng cảnh tù "cải tạo", nhắc đến Thượng Tọa Thích Thanh Long, ai nấy đều thành kính nhớ về Cụ như một vị anh hùng trong lòng chúng tôi.
Ở một cõi không còn hệ lụy, vị sư già của chúng tôi biết được điều này hẳn không vui lòng. Bởi Cụ vẫn cho mình là một Oâng Sư Nhà Quê, bình thường, giản dị, không muốn ai đề cao mình.
Cụ chia sẻ phần ăn của mình cho bạn tù, như một hành động phải làm như thế mà không hề có ý hành thiện để gây công đức. Thỉnh thoảng được Phật Tử - chùa Giác Ngạn -, hay vợ chồng người Công Giáo gần nhà thờ Ba Chuông ra thăm nuôi, Cụ chia thức ăn cho kỳ hết, sau đó lại nhận phần "bo bo" như... thường. Nhiều bạn tù thấy dưới chân sàn nằm của mình có bịch "ni-lông" thức ăn, đều chắp tay vái, hướng về phía chỗ cụ nằm. Anh em biết là của cụ cho. Trong đồng cảnh "đói muôn năm", ngoài cụ ra, ít ai còn có thể bớt phần ăn, phần "thăm nuôi" của mình để phân chia bằng hết cho các bạn tù, như Cụ?
Bọn "chèo" không ưa cụ, dĩ nhiên, vì:
- Anh Nong, Anh nề mề thế?
Cụ thong thả:
- Nào tôi có lề mề bao giờ đâu!
- Anh còn cãi hả?....
và:
- Anh vất túi bo bo qua hàng rào cho bọn bên kia nhận, anh tưởng cán bộ không biết sao? Anh vi phạm nội quy...
- Thì bọn trẻ đói quá...
- Anh nà bướng nắm! Tôi cảnh cáo anh!
Cụ bị làm "kiểm điểm nhiều lần mà lần nặng nhất là tội "mua bán đổi chác" với một thanh niên dân tộc thiểu số. Xin kể lại chuyện này hầu bạn đọc, như sau:
Trong thời gian làm "Trực Buồng", Cụ Thanh Long có nhiệm vụ xuống nhà bếp gánh hai thùng nước sôi về "chế" vào các "gô" - lon sữa guigoz được bạn tù dùng để nấu nướng hay đựng nước uống. Vào một buổi chiều cuối năm, vừa xuống nhà bếp - trên dốc bờ suối chạy ngang qua trại Thanh Phong - Cụ nhác thấy thấp thoáng có một thanh niên Thượng đi ngang qua. Hé mắt nhìn qua hàng rào cọc tre, cụ thấy người này co ro trong manh áo hở hang. Cái lạnh mùa đông miền núi với những cơn mưa bụi khiến mặt anh tái mét. Nhìn quanh không thấy có gì trở ngại, cụ lên tiếng vừa đủ cho anh nghe:
- Này!
Thanh niên nhìn qua kẽ hở của hàng rào:
- Cụ bảo gì?
- Anh đợi đó, tôi đi lấy cho chiếc mền!
- Mền?
- Phải rồi, là cái chăn cho ấm!
Thanh niên mừng rỡ nhìn theo Cụ thoăn thoắt đi vào phía trong.
Chỉ một lát sau. Cụ guộn chiếc mền đỏ - một trong hai cái mền màu đỏ mà "Trại" phát cho tù, cùng với chiếc áo trấn thủ cũ mèm, còn dính máu, là tất cả phương tiện "chống rét" theo tiêu chuẩn - qua hàng rào cọc tre.
Nhưng Cụ già sức yếu, đã lấy đà để liệng chiếc mền qua nhưng nó chỉ qua được gần phân nửa, phần còn lại bị máng trên đầu những cọc tre nhọn hoắt. Bên ngoài, anh càng kéo mép mền xuống, nó càng dính chặt vào đầu cọc.
Ðúng vào lúc đó, tên chèo ngồi trên vọng gác nhận ra sự việc bất thường. Gã báo động. Thấy tình trạng nguy hiểm cho người bên ngoài, Cụ bảo anh:
- Ði lẹ đi!
Thanh niên vừa chạy xuống bờ suối thì tên "cán bộ trực trại" hầm hầm bước tới. Y lớn tiếng:
- Anh Nong! Anh nàm gì ở đây?
Cụ điềm tĩnh:
- Tôi lấy nước về cho Ðội!
Y chỉ tay lên chiếc mền đỏ máng trên hàng rào?
- Anh vất chiếc chăn này cho ai bên ngoài?
- Tôi đâu biết là ai?
Y nạt lớn:
- Anh chối hả?
Cụ vẫn thong thả:
- Nào tôi có chối gì đâu?
- Tại sao anh vất chiếc mền cho người bên ngoài?
- Vì tôi thấy anh ta lạnh quá!
Y dằn từng tiếng:
- Anh... mua bán đổi chác hả?
Cụ cười:
- Cán bộ nghĩ coi, trên người anh ta chỉ có chiếc quần đùi và manh áo rách, có gì đểø tôi... mua bán đổi chác?
- Anh còn cãi hả. Anh vi phạm nội quy. Nẽ ra tôi cùm anh một chân...
- Tùy cán bộ thôi!
- Nhưng thấy anh già yếu, tôi bắt anh nghiêm chỉnh nàm kiểm điểm. Anh nghe rõ chưa?
- Nghe rõ, cán bộ!
Trước khi quay đi, y còn dọa Cụ:
- Anh phải thành thật khai báo, nghiêm khắc kiểm điểm và nộp nên văn phòng tôi ngay chiều nay. Anh nắm được chưa?
Cụ muốn phì cười khi trả lời y:
- Nắm được rồi, cán bộ.
Chiều hôm ấy, khi chúng tôi xếp hàng .. vô chuồng. Tên trực trại nói với cụ Thanh Long, khi cụ bước qua trước mặt y:
- Anh Nong! Sao chưa nộp kiểm điểm?
Cụ vẫn thong thả:
- Tôi trực buồng làm bao nhiêu việc, thì giờ đâu mà viết. Cán bộ lại chưa cho giấy bút, tôi lấy gì để viết?
Y nạt liền:
- Viết thư cho gia đình thì anh có giấy bút...
Cụ không chịu:
- Nào tôi có gia đình đâu mà viết thư...
Có tiếng cười phía sau của bạn tù còn đợi vào buồng. Tên trực trại quay lại nhưng không bắt được kẻ nào vừa phát ra tiếng cười ấy, y khoát tay:
- Vào buồng đi. Tôi sẽ cho anh giấy bút nàm kiểm điểm. Sáng mai nộp cho tôi!
Sáng hôm sau, tên trực trại đòi nộp bài kiểm điểm thì cụ làm ra bộ không hiểu:
- Tôi nghĩ sáng nay viết thì chiều nay nộp, nếu tôi tranh thủ viết kịp...
Y quát:
- Tại sao tối qua anh không viết?
Cụ cười:
- Làm sao tôi thấy đường viết, khi không đủ ánh sáng?
- Không nôi thôi với anh! Anh nà bướng lắm. Trưa nay anh phải viết xong tờ kiểm điểm, nếu không, tôi cùm anh!
Cụ không trả lời nữa. Tên trực trại bỏ đi.
Sau đó, Cụ không làm trực buồng nữa, ra lao động như trước.
- Anh Nghiêu đâu?
Linh Mục Nghiêu đứng lên:
- Có tôi!
- Anh nên đây! Ðứng bên cạnh tôi và nhìn xuống sân tập kết.
Chờ cho vị linh mục già an vị, tên trực trại ... phát:
- Trước toàn Trại, tôi cảnh cáo trại viên Nghiêu về tội nề mề trong nao động, gây ảnh hưởng xấu đến phong trào thi đua sản xuất vụ Ðông Xuân!...
Một cánh tay giơ lên, cùng với giọng nói quen thuộc của Thượng Tọa Thích Thanh Long mà phần đông anh em tù đều kêu là bố:
- Tôi có ý kiến!
Tên trực trại vốn không có hảo cảm với Cụ, y chưa kịp phản ứng thì Cu đãï lớn tiếng:
- Thưa cán bộ trực trại, tôi không đồng ý cho rằng ông cha Nghiêu...
Y ngắt lời cụ:
- Cho anh nói nại: anh Nghiêu! Không có ông cha nào ở đây cả!
Cụ nói tiếp:
- Tôi không đồng ý cho rằng anh Nghiêu lề mề trong lao động. Tôi nhận thấy anh Nghiêu rất... tích cực, luôn đạt chỉ tiêu do trại đề ra. Chỉ là anh Nghiêu lớn tuổi nên không được nhanh nhẹn...
Tên trực trại xua tay:
- Anh Nong ngồi xuống! Tôi nhắc: Trại cảnh cáo anh Nghiêu, cảnh cáo nuôn anh Nong về tội cũng nề mề nao động, còn thêm tội bao che nữa. Nếu các anh không sửa đổi, Trại sẽ có biện pháp.
Y nhìn qua phía ông cha Nghiêu:
- Anh Nghiêu và anh Nong sáng nay nên phòng cán bộ trực trại "nàm việc".
... Chúng tôi nhìn theo nhị vị chân tu trở về buồng.
Nhiều năm sau, những anh em tù từng chứng kiến khung cảnh một vị Thượng Tọa lớn tiếng bênh vực một vị linh mục ngay trong ngục tù cộng sản bất chấp mọi hậu quả,không bao giờ quên được.
Còn nữa, hình ảnh các ông sư, ông cha ngồi chồm hổm nấu nướng ngoài sân rồi ăn chung với nhau... luôn hiện ra trong những giấc mơ của tôi, dù đang sống ở Hoa Kỳ.
Tôi còn được biết Linh Mục Tống Thiện Liên (TX) đã "meo" món quà 100 mỹ kim để Welcome Thượng Tọa Thiện Tâm (hồi ngài còn ở Atlanta), khi vị sư khả ái này mới tới Mỹ.
Thử hỏi những sự thật này, mấy ai nghĩ được là đã xảy ra?
Các vị tu hành khả kính trong tù, chỉ cảm nhận tình người của nhau, không bao giờ có chuyện mất đoàn kết giữa những chiến sĩ quốc gia, vì màu sắc tôn giáo. Quý vị ấy mến thương nhau thănh khẩn khiến bạn tù đều được noi gương. Sau khi ra tù, các vị thường qua lại, thăm hỏi nhau thân thiết từ trong cũng như ngoài Nước.
Thế mà ở đâu đó sau này, ngay trên những nước Tự Do, vẫn còn những chuyện chia rẽ giữa một số - dù rất ít - con người Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo!
Cụ Thanh Long, "Nhà Sư Của Tôi", thần thông quảng đại, hẳn đau lòng về những chuyện chia rẽ, nếu còn xảy ra trong công đồng người Việt Quốc Gia, như thế.
Miền
Ðông Hoa Kỳ, Cuối năm 1999
Hoàng Ngọc Liên
Hoàng Ngọc Liên
TÔ KIỀU NGÂN * ĐINH HÙNG & VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương
Những thi sĩ không… nhà !
TÔ KIỀU NGÂN
Những thi sĩ không… nhà !
Tác giả : Tô Kiều Ngân
Lịch sử văn học
Việt Nam đã ghi nhận tên tuổi họ, nhưng trong biến thiên của lịch sử dân
tộc không ít văn thi sĩ tên tuổi phải chìm nổi cùng vận mệnh đất
nước....Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương là những nhà thơ nổi tiếng từ hồi
“phong trào thơ mới”.Họ đều là những “đại gia” trong làng thơ nhưng cả
hai, không ai tự tạo được cho mình một mái nhà mà suốt đời toàn đi ở nhà
thuê.
Năm 1954, khi vào
Sài Gòn, hai người thuê một căn nhà lợp tôn, vách ván tại xóm Hòa Hưng.
Vũ Hoàng Chương cùng vợ ở trên gác, dưới nhà là tổ ấm của gia đình Đinh
Hùng. Nhị vị này là anh em: Vũ Hoàng Chương lấy chị ruột Đinh Hùng là bà
Đinh Thị Thục Oanh nên hai nhà sống chung với nhau trong bước đầu nơi
xứ lạ, quê người là điều dễ hiểu.Tuy nhiên thực tế lại rất… khó sống.
Quen với cảnh “miếu nguyệt, vườn sương”, “cách tường hoa ảnh động” nay
phải giam mình trong căn gác gỗ nóng hầm hập, hơi nóng từ mái tôn phả
xuống như muốn luộc chín người,Vũ Hoàng Chương cảm thấy nguồn thơ đang
bị nắng Sài Gòn làm cho khô cạn.
Dưới nhà, Đinh
Hùng cũng chẳng hơn gì, anh cũng đánh trần ra, vừa quạt, vừa nắm viết
“Kỳ Nữ gò Ôn Khâu”, “Đao phủ thành Đại La” cho các nhật báo Sài Gòn thời
đó. Ngoài viết tiểu thuyết dài từng kỳ, anh còn vẽ tranh vui và giữ
luôn mục “Đàn ngang cung” là mục thơ trào phúng ký tên Thần Đăng.Vũ
Hoàng Chương dạy học tại trường Văn Lang. Đinh Hùng viết báo và bình thơ
tại Đài phát thanh.Cả hai kiếm tiền không đến nỗi chật vật nhưng cả hai
đều không tậu được cho mình một mái ấm là vì họ trót dính đến nàng tiên
nâu nên kiếm tiền bao nhiêu đều tan thành mây khói.
Để kiếm một chỗ ở
thoải mái hơn họ Đinh và họ Vũ tạm chia tay nhau, mỗi gia đình đi thuê
một nơi ở khác.Tác giả “Thơ Say” dọn về chợ Vườn Chuối (đường Nguyễn
Đình Chiểu bây giờ).Họ Đinh thì mướn một căn gác hẹp ở xóm lao động gần
đường Frères Louis (trước 1975 là đường Võ Tánh, nay là Nguyễn Trãi).
Xóm lao động này có ngõ dẫn ra đường Lê Lai.Con đường nằm bên cạnh ga xe
lửa Sài Gòn, hồi đó chưa lập thành công viên như bây giờ, quang cảnh
còn rất vắng. Chỗ ở mới cũng không hơn gì căn nhà ở xóm Hòa Hưng, chật
hẹp, tối tăm, nóng bức.
Mỗi lần xong việc ở
đài phát thanh, Đinh Hùng thường rủ chúng tôi về nơi anh ở, không phải ở
nhà anh mà là họp nhau tại một quán rượu ở gần nhà, đường Lê Lai.Đường
này thường đêm vắng ngắt, có lần uống say, Đinh Hùng cao hứng mở cuộc
thi… bò ra đường xem ai bò nhanh. Thế là Thanh Nam, Tô Kiều Ngân, Đinh
Hùng, Thái Thủy, Hoàng Thư, Quách Đàm… hăng hái tham gia môn vận động
chưa từng diễn ra ở bất cứ vận động trường nào! Bò xong rồi nằm lăn ra
đường, vừa đọc thơ, vừa cười
.Ít lâu sau, Đinh
Hùng lại đổi nhà. Lần này anh thuê được một căn gác, nhà tường hẳn hoi,
tại đường Trần Văn Thạch, gần chợ Tân Định, nay đổi tên là Nguyễn Hữu
Cầu.Nhà lợp ngói lại ở mặt tiền nhưng vào nhà chẳng thấy bàn ghế gì, chỉ
thấy một chiếc giường nằm chình ình ngay giữa nhà. Trên giường chất
chồng đủ thứ: mền gối, sách vở, ấm chén và có một thứ không thể thiếu đó
là chiếc bàn đèn thuốc phiện. Đinh Hùng nằm lọt thỏm vào giữa “giang
sơn” của anh, vừa “dìu hồn theo cánh khói” vừa tìm ý thơ.Tác giả “Đường
vào tình sử” có thói quen nằm mà viết. Anh nằm vắt chân chữ ngũ, đặt tập
giấy lên đùi.Có lẽ lâu ngày nên quen, trong tư thế đó, chữ viết anh vẫn
bay bướm, rõ
ràng, không dập xóa, trang bản thảo nào cũng sạch sẽ, xinh đẹp.
Khi cần đi đâu ,
họ Đinh lại vớ lấy chiếc sơ mi đã mặc bốn, năm hôm trước, quàng bên
ngoài chiếc áo vét cũ, cà vạt đàng hoàng.Tắm ư, chỉ cần vào “toa-let” mở
nước ở “la-va-bô”, nhúng đầu vào bồn nước rồi hất lên, chảy xơ qua là
xong. Trông Đinh Hùng lúc nào cũng ăn mặc chỉnh tề nhưng đừng ai ngồi
quá gần anh, vì anh ít khi… tắm.
Vũ Hoàng Chương
lại đổi nhà một lần nữa. Lần này anh mướn nhà ở đường Nguyễn Khắc Nhu, ở
gần nhà Bình Nguyên Lộc.Tuy được đi dự Hội nghị Thi Ca quốc tế ở nước
ngoài, có thơ dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, tiền kiếm được có thể mua
một căn nhà bực trung nhưng họ Vũ vẫn đi ở nhà thuê.
Vào các năm 1973 -
1975, vợ chồng anh được nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội mời về cho ở
một căn gác tại toà biệt thự đồ sộ của bà ở đường Nguyễn Trọng Tuyển.Nói
là cho ở nhưng họ Vũ phải trả tiền điện, tiền nước và tiền điện thoại.
Anh đặt tên chỗ ở mới này là “Gác Mây”.
Nơi đây, tôi và
bạn bè đã có lần uống rượu với Vũ Hoàng Chương, nghe anh đọc thơ Tuy Lý
Vương và phát hiện ra cái thôn Vỹ Dạ ở Huế đã đi vào thơ Hàn Mạc Tử
không phải là Vỹ Dạ mà là Vỹ Dã (cánh đồng lau).
Nhưng rồi Vũ Hoàng Chương cũng không an trú lại “Gác Mây” được bao lâu.
Sài Gòn 75 , bạn
bè của chủ nhân Mộng Tuyết vào ra thăm bà tấp nập.Có lẽ thấy sự hiện
diện của Vũ Hoàng Chương ở tại nhà mình có sự không tiện nên bà đánh
tiếng để họ Vũ dọn đi. Phải đi thôi nhưng phải đi đâu?Thời buổi khó
khăn, tiền đâu để đặt cọc, thuê nhà? Anh đành dắt díu vợ con về tá túc
tại căn nhà bé bằng bàn tay của bà quả phụ Đinh Hùng bên khu Khánh Hội.
Đinh Hùng ra đi
trước Vũ Hoàng Chương. Anh mất vì bệnh ung thư tại bệnh viện Bình Dân,
an táng tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Đám tang trọng thể.Thuở sinh thời,
Đinh Hùng từng viết trong thơ:
Khi tôi chết các em về đấy nhé
Cảm tấm lòng tri ngộ với nhau xưa
Tay cầm hoa, xoả tóc đến bên mồ…
Khi tôi chết các em về đấy nhé
Cảm tấm lòng tri ngộ với nhau xưa
Tay cầm hoa, xoả tóc đến bên mồ…
Điều mong ước đó,
kỳ diệu thay lại biến thành hiện thực: trong đám tang của anh người ta
thấy có hai chục cô thiếu nữ mặc áo trắng, xỏa tóc, tay cầm hoa lặng lẽ
sắp hàng đi theo linh cửu.Họ đến bên mồ và lặng lẽ thả những bó hoa
xuồng lòng huyệt, ngậm ngùi tiễn đưa người thi sĩ. Hiện tượng này không
do một sự sắp đặt mà do một cảm ứng tự nhiên.
Đinh Hùng mất rồi,
vợ anh phải trả căn nhà ở gần chợ Tân Định lại cho chủ.Đang chưa biết ở
đâu thì may thay, một vị tướng quân hồi đó, rất yêu thơ mà lại có chức
quyền nên đã vận động cấp cho bà quả phụ Đinh Hùng một căn nhà ở khu
Khánh Hội.
Bà Đinh Hùng với
con trai là Đinh Hoài Ngọc không thể ôm một căn nhà lớn để mà nhịn đói
nên đã bán căn nhà đó đi rồi rút lui vào vùng sâu, vùng xa của bến Phạm
Thế Hiển lúc đó còn đìu hiu lau lách, dựng một mái chòi để sống qua
ngày.
Chính nơi đây, Vũ
Hoàng Chương đã cùng vợ con sống chui rúc những ngày cuối đời của anh
trước khi “được” đưa đến ở một toà nhà to lớn, kiên cố, có lính gác ngày
đêm, đó là… khám Chí Hoà!
Vũ Hoàng Chương
bệnh hoạn, suy sụp rất nhanh nên ít lâu sau khi được thả ra, anh lặng lẽ
ra đi.Đám tang anh cũng cử hành trong lặng lẽ, nghèo nàn, hiu hắt.
Năm 76, Sài Gòn
xong, mọi người còn bận rộn với những vấn đề to lớn, đa số bạn bè và
người hâm mộ anh kẻ đi tập trung cải tạo, kẻ đi nước ngòai, người còn
lại thì do không biết tin anh chết nên đám tang anh chỉ thưa thớt dăm
người đi đưa, trong đó có nhà thơ Bàng Bá Lân và Tôn Nữ Hỷ Khương
Mười
năm sau, 1986 mộ Vũ Hoàng Chương được cải táng về chôn tại nghĩa địa
của chùa Giác Minh tại Gò Vấp.Suốt một đời lận đận vì nỗi không nhà, giờ
đây hai con người tài hoa kia đã có một chỗ ở trang trọng, miên viễn đó
là chỗ ngồi lâu bền trong văn học sử và điều an ủi lớn nhất là họ còn
sống mãi trong tâm hồn những khách yêu thơ.
TÔ KIỀU NGÂN
VÕ PHƯỚC HIẾU-THƠ- HOÀNG SA-TRUNG QUỐC NGHÈO
Friday, September 28, 2012
NGUYỄN THIÊN THỤ * VÕ PHƯỚC HIẾU
VÕ PHƯỚC HIẾU
Võ Phước Hiếu tên thật là Võ Phước Lộc, còn có bút hiệu là Võ Đức Trung, sinh năm 1933 ( quý dậu) tại làng Thanh Hà, quận Châu Thành, tỉnh Chợ Lớn, sau Chợ Lớn thuộc đô thành Sàigòn- Chợ Lớn. quận này trở thành Bến Lức, tỉnh Long An. Võ Phuớc Hiếu thuộc gia đình giáo chức, cha và mẹ đều là giáo viên tỉnh Chợ Lớn.
Ông làm công chức thời đệ nhất cộng hòa, đến thời đệ nhị cộng hòa chuyển qua làm nhà xuất bản, ông là giám đốc nhà xuất bản Lửa Thiêng tại Sài gòn. Ông cũng đã từng làm báo, viết văn trước 1975. Ông cùng gia đình vượt biên tháng 6-1979 và đến Nam Dương. Tị nạn chánh trị tại Pháp từ tháng 11-1979 đến nay. Khi ra hẳi ngoại, ông càng chuyên về sáng tác thơ và truyện ngắn.
Tác phẩm:
THƠ
Le Chemin vers La Mer. Présence Vietnamienne, 1988.
Coeur de Mère. Présence Vietnamienne, 1989.
Thắp Sáng Hoàng Hôn. Cửu Long, 1989.
TÂP TRUYỆN:
Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá. Làng Văn, Canada.2000
Hùm Chết Để Da . Làng Văn, Canada, 2001,
Như Nước Trong Nguồn . Hương Cau, Paris. 2004.
TUYỂN T
P THƠ:
Một Phần Tư Thế Kỷ Thi Ca Việt Nam Hải Ngoại I, II (1975-2000)
Văn Hóa Pháp Việt, 2004.
Đọc Võ Phước Hiếu, chúng ta thấy rõ cấu trúc của ba tập truyện như sau:
Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá : Đồng quê + thực trạng Việt Nam
Hùm Chết Để Da : Đồng quê+ Thực trạng Việt Nam ( Bạn bè) + Đạo Lý
Như Nước Trong Nguồn : Đồng quê+ Tình Mẫu tử ( gia đình)
Đồng quê là mẫu số chung , là chủ đề chính cho các tập truyện của Võ Phước Hiếu. Ngoài ra còn có những chủ đề khác như :Thực trạng Việt Nam, Đạo Lý và Tình mẫu tử.
I. Đồng Quê
Ba tác phẩm của Võ Phước Hiếu mang cùng một nội dung là đồng quê Nam Kỳ. Ông sinh trưởng ở tỉnh Chợ Lớn ngày xưa mà nay là Bến Lức tỉnh Long An. Tâm hồn ông đã gắn liền với quê hương và dân tộc. Bây giờ, ông cũng như bao triệu người Việt sau biến cố 1975 phải rời bỏ quê hương với bao niềm khổ đau và thương nhớ. Những tác phẩm của ông viết ra là để hoài niệm quê hương yêu dấu. Trong các tác phẩm của ông, chúng ta nhận thấy có hai miền Nam: Một miền Nam thanh bình và một miền nam tang thương. Ta có thể nói đồng quê tức là miền Nam thanh bình. Còn miền Nam tang thươnglà đồng quê điêu tàn, tức là thực trạng đất nước trong bàn tay cộng sản.
1.Người và đất
Như Nước Trong Nguồn dày 300 trang, mang sắc thái chung là quê hương miền Nam. Tác giả đã phác họa vài nét dơn sơ về quê hương của ông:
Tôi sinh trưởng và lớn lên nơi làng Thanh Hà hẻo lánh quê mùa, đèo heo hút gió. Một làng nhỏ nhắn nên thơ với âm hưởng đặc trưng của vùng sông nước bạt ngàn phương Nam, nguyên sơ và kỳ bí. Nhà cửa vốn lưa thưa, không được bao nhiêu tộc họ quây quần trong nếp sống gia đình truyền thống ‘tứ đại đồng đường’, mấy thế hệ sum hợp, chung lưng đâu cật vui vẻ và hạnh phúc dưới một mái ấm duy nhất .
Xa xa về phía bên kia Vàm Cây Trôm, khỏi xóm Rạch Chung ngót nghét đôi ba cây số ngàn, chỉ thấy ruộng tân lập bát ngát và rừng chồi, rừng tràm tiếp nối chạy dài mút mắt (21-22).
Nơi chôn nhau cắt rốn của Võ Phước HIếu là nơi thôn dã, đầy vẻ hoang vu nhưng có nhiều màu sắc tươi đẹp của một thiên nhiên phong phú cảnh sắc:
Sự sống ở đây được nhận diện qua những đàn chim se sẻ hay dồng dộc từng chập bay lượn vù vù trong bầu trời xanh thẩm. Chúng lướt ngay cả trên đỉnh đầu người hoặc sà xuống những cánh đồng lúa mênh mông nghe rờn rợn. Các đàn chim này to lớn lắm, đông vô số kể, đôi khi che hẳn mặt trời làm sẫm tối một vùng đất.
Đó đây không biết cơ man nào mà kể cho hết các loại cò rất đa dạng như cò lửa, cò cá, cò ma, cò quắm, cò đúm và nhất là cò trắng bông bưởi. . . . rồi nào là diệc, điên điển, còng cọc, quấc. . . chen chúc chạy nhảy, tranh nhau đi săn mồi hay quây quần trửng giỡn trên chót vót những ngọn tràm. Tất cả tạo một màu sắc đẹp mắt, nổi bật hẳn trên bức họa thiên nhiên với nền xanh nõn nà mườm mượt của cây của lá, của ruộng lúa ngày mùa, thấp thoáng ẩn hiện xa xa nhưng lại gần gũi, nồng nàn sâu đậm (24-25)
Võ Phước Hiếu đã đưa ta trở về khoảng hai trăm năm trước, khi miền Nam mới được khai phá.Tác giả nói cho chúng ta biết nguồn gốc của tổ tiên ông là những người ưa phiêu lưu mạo hiểm, từ miền Trung đã theo chân các chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp. Khởi đầu họ ở vùng Bà Điểm, Hóc Môn, sau tiến dần về phương Nam, khai phá vùng Bến Lức hoang vu thành ruộng đồng (26). Họ đã thực sự lao động, đã đổ mồ hôi để tạo đựng gia sản và tạo dựng miền Nam trù phú. Họ đã thành công và biết dạy dỗ con cháu để con cháu tiến lên trong lao động, và học tập. Họ cũng biết yêu thương đồng bào, giúp đỡ những kẻ khốn khó. Lịch sử của gia dình ông cũng là lịch sử của bao triệu gia đình người Nam trong đó có gia đình Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đình Chiểu đã từ miền Trung vào Nam lập nghiệp. Và đó cũng là lịch sử của miền Nam, lịch sử của Nam tiến.
Võ Phước Hiếu viết về xóm Rạch Rít của ông:
Cái xóm Rạch Rít nơi ông bà tôi an phận tuổi già được thành lập không lâu. Các hàng bô lão thuộc hàng thổ công đaon chắc chỉ ngót nghét một hai trăm năm là cùng. Nhưng bây giờ xóm không đến đỗi quạnh hiu lắm so với những nơi sâu hút khác hoang vu cùng cốc với đôi ba nóc tranh lè tè, hoặc năm bẩy mái lá xác xơ, khép nép nằm khuất sâu hóm sau những vườn cây ăn trái tạp nhạp đủ loại, giữa một vùng sông nước bạt ngàn.
Xóm gồm trên dưới vài chục sinh mạng quanh năm dạn dày sương nắng, gió mưa.Từ đó có thể đoán ra dễ dàng nếp sống của họ đa số vẫn còn ở mức khó nghèo triền miên dai dẳng nhưng quyết tâm sinh tử của họ trên mảnh đất nghèo khổ đó mà họ đã đắn đo lựa chọn vẫn không hề thay đổi. Nhà của họ nơi này một cụm, nơi kia một cụm, hú gọi một tiếng lớn là có thể truyền đạt với nhau nhanh chóng (30).
2. Tình quê
Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá dày 238 trang, gồm bảy bút ký: Vét ao ăn tết; Trâu già chẳng nệ dao phay; Con quỷ giò bướm quê tôi; Nhứt phá sơn lâm, nhì đâm Hà Bá; Đồ quân ăn cướp, Văng vằng tiếng chuông; Đám cháy đầu xuân.
Tập truyện này đã trình bày nhiều sắc thái của đồng quê miền Nam. Võ Phước Hiếu đã tô vẽ hai cảnh Việt Nam mâu thuẫn nhau. Đó là miền Nam trước 1945, là một miền Nam thanh bình với lúa xanh, mây trắng và miền Nam sau 1945, 1954 và sau 1975. là một miền Nam tràn ngập áo đen cờ đỏ.
Cảnh trong các truyện đều ở xóm Rạch Rít quê mùa, nơi sinh trưởng của tác giả. Các nhân vật là những người dân quê chân lấm tay bùn, tâm hồn chất phác giản dị. Họ có những cái hay như chăm chỉ làm việc, chịu khó dầm mưa dãi nắng và cũng có những tính xấu như uống rượu, bài bạc, chửi lộn, và ngồi lê đôi mách. Một số truyện của Võ Phước Hiếu nói lên tình người ở nơi thôn quê miền Nam.Vét ao ăn tết viết về cuộc sống bình an ở nơi thôn quê Việt Nam trước 1945. Trong gia đình nghèo, như gia đình Bảy Sô, vợ chồng già thương yêu nhau, vui buồn có nhau, đúng theo nghĩa ‘’tương kính như tân’’. Xóm làng dù có những mâu thuẫn , người này nói xấu người kia nhưng khi cần hợp tác để làm việc công ích lại đoàn kết với nhau, tích cực lao động như việc vét ao.
Trâu già chẳng nệ dao phay đề cao tình yêu quê hương. Chú Năm Nghê từng đi lính bên tây, hết hạn đăng lính, chú không ở lại Pháp như một số người mà trở về Việt Nam bởi vì Chú thương cái xóm Rạch Rít. Chú nhớ quê hương, bà con lối xóm (64). Chú ở trong cái nhà nhỏ, không cha mẹ vợ con, nhà chú trở thành nơi tụ hội cả xóm vì chú có tài kể truyện. Chú nghèo nhưng hảo tâm, ai đến chú đều tiếp đãi tử tế. Chú ít học, nhưng từng trải, đã đi đó đi đây. Chú có lòng nhân hậu và có một lý tưởng cao quý: chú yêu thương mọi người, và vui với hiện tại .
Đời rất hấp dẫn, chất chứa bao lôi cuốn quyến rũ. Đời lại muôn hình vạn trạng.Mỗi người nhìn một góc cạnh nào đó của cuộc đời để qua cái đẹp mình vừa khám phá , đón nhận đời với niềm vui hạnh phúc tự tạo. Từ đó dẫn dắt mình thêm thương yêu cuộc sống, thêm thương yêu những gì chung quanh mình như yêu người, yêu thiên nhiên, yêu nội tâm, yêu ngoại cảnh, yêu tất cả, bao la không biên giới ( 68-69)..
3. Cảnh quê và cuộc sống nơi thôn quê ngày xưa
Võ Phước Hiếu đã đưa ta trở về cuộc sống êm đềm và thú vị của thời trước 1945. Đó là những cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp của lao động.
Cái thú ở thôn quê hẻo lánh thuở thanh bình là được tham dự cảnh đạp lúa trâu những đêm trăng sáng huyền diệu xuống cánh đồng vàng mơ thơm phức mùi rạ mới.Gió mát trong lành phơn phớt từng cơn nhẹ nhàng sảng khoái. Bốn bề tĩnh mịch. Nguời ta chỉ nghe tiếng thở khìn khịt từng chập của đôi trâu đen ngòm mập
lút và tiếng nhắc nhở thúc hối của bác nông dân già phía sau.
Cảnh đạp lúa đôi vui nhộn lắm. Ít ra cũng năm bảy bãi lúa lớn đại. Mỗi bãi có một hay hai đôi trâu quần thảo không ngưng.Thêm người sởi lúa, vô bao chỉ xanh, kẻ khuân chất ngay ngắn trên cộ tải về lẫm trại. Gặp lúc cuối năm giáp Tết, cảnh náo nhiệt còn tưng bừng hơn.ai ai cũng quyết tâm, ganh đua nhau dứt điểm sớm để kịp rước ông bà, hỉ hạ ba ngày xuân ( Con quỷ Gò Bướm quê tôi 102).
Người Việt Nam ta đi đến đâu, việc đầu tiên là lập một cảnh chùa, dù chỉ là vách lá đơn sơ. Cái niềm tin Phật giáo đã có từ ngàn xưa, thể hiện ở cái chùa làng của Võ Phước Hiếu. Chùa là trái tim của nhân dân và cũng là cảnh trí của đất nước, quê hương:
Chùa làng tôi cổ lắm. Mái ngói cũ kỹ, rong rêu đóng dày cộm, xám sậm ẩm i. Chùa được xây cất lâu đời, khoảng thế kỷ trước trên ngôi đất ven rạch, tiện lợI cho khách thập phương và bổn đạo đến viếng vào thời buổi vàng son thịnh hành của ghe xuồng, sông nước. Chung quanh cây cối um tùm. Nhiều cây to san sát hùng vĩ tăng thêm vẻ huyền bí mờ mờ ảo ảo của nơi tín ngưỡng thiêng liêng.
Ngoài vườn, có khi sát bên thềm chùa, rải rác nhiều tháp cao, lắm từng, chất chồng với đỉnh chót vót chỉa thẳng lên không trung. Tháp xây bằng đá tảng, hoặc đá xanh hay đá ong trét bằng ô dước, cũng rêu phong trùm phủ lốm đốm. Mãy liếp chuối bạt ngàn xanh nhạt vớI những quày dài cả thước tây, bao bọc những luống rau luống cà ( Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá, 180- 181).
Còn bao tục lệ đáng yêu như chia thịt , rước ông bà ngày xuân , và bao nhọc nhằn khi bọn trộm cướp hoành hành trong những ngày giáp Tết ( Đám cháy đầu xuân ) đã đuợc ông kể tường tận. Điểm này cho chúng ta thấy tại lục tỉnh cũng giống như ngoài Bắc ngày xưa vẫn có những bọn cướp hoành hành nhất là trong dịp Tết mà triều đình phải bó tay.
Ngoài ra, trong Như Nước Trong Nguồn, Võ Phước Hiếu cũng cho ta biết những nếp sống và phong tục của quê ông như tôn sư trọng đạo, việc giáo dục ở thôn quê, việc trồng thuốc lá và hút thuốc lá, tục uống trà, tục xem phong thủy, tục nấu rượu và tệ nạn cờ bạc ở thôn quê trước 1945, nhât là cuộc sống thiếu phương tiện y tế ( bà mụ đỡ đẻ).
3. Kỷ niệm thời thơ ấu
Trong Như Nước Trong Nguồn, Võ Phước Hiếu đã nhắc đến những kỷ niệm thời thơ ấu của ông. Đó là hình ảnh cậu Võ văn Thọ bảy tuổi đuợc cha cho đi học tư ở nhà ông thầy Huế. Lớp học tư võn vẹn có bốn học trò là Thọ, Đực Nhỏ, Hai Đớt và Bảy Rái. Tác giả giới thiệu sơ lược về ông thầy Huế. Cũng như ông thầy Quảng của Hồ Hữu Tường, ông thầy Huế của Võ Phước Hiếu cũng có một lai lịch và hành tung bí mật:
Đối với người dân xóm Rạch Rít, ông thầy Huế đến đây lúc nào không ai biết và cũng không ai quan tâm để ý tìm hiểu làm chi. Ở vùng đất khẩn hoang tất bật, đất trời bất biết này, người tứ xứ đến lập nghiệp không phải ít. . . . Chỉ biết những năm gần đây, ông thầy Huế rất có uy tín trong thôn xóm. Ông được lòng bà con từ đầu thôn đến cuối xóm, có thể nói chẳng sót một người. Ai cũng dành cho ông một sự tiếp đón niềm nở với cảm tình nồng hậu, chan chứa nghĩa ân. . . Tông tích ông thầy Huế phủ một màn bí mật dầy đặc. Riêng ông tôi biết rõ ngọn ngành ngay từ thuở ông thầy Huế lang thang đi bán thuốc dạo trên chiếc ghe lường có mui che mưa nắng kín đáo, xuôi ngược quanh năm trên sông nước, từ đầu thôn cuối xóm, làng này qua làng khác để cứu đời và cũng để sinh nhai.. . . Ông thầy Huế thuộc lớp sĩ phu miền Trung, nơi sinh sản những tâm hồn bất khuất, yêu nước nồng nàn, cái nôi của cách mạng dân tộc chống thực dân và phong kiến vào đầu thế kỷ trước. Ông quả có dính liếu quốc sự, chống Pháp xâm lăng cướp nước và triều đình Huế quan liêu bất lực.
Có lẽ những người đồng chí cùng tham gia những phong trào bí mật với thầy, kẻ bị kết án tử hình qua các máy chém lưu động, người bị tù tội đầy ải chung thân cấm cố, một đi không hẹn ngày về tận Côn Đảo xa khơi. Tổ chức bị mật thám liên bang phá vỡ. Thầy bắt buộc phải đổi vùng, vào miền đất mới Nam Kỳ tránh tai họa, tránh sự truy lùng gắt gao bủa vây ngày càng thắt chặt của thực dân đế quốc.. . (61- 69)
Sau lớp học này, Võ Phước Hiếu đi học trường làng. Đó là những sự vật, những hình ảnh rất tầm thường trong cuộc dời nhưng với tác giả lại là những nền tảng của tình cảm, của tâm tư đã ăn sâu trong lòng tác giả.
Buổi chiều lúc tan trường, mặt trời vẫn còn lủng lẳng trên không trung, chúng tôi thừa mứa thì giờ rong chơi phá phách.
Giờ này thằng Mười có thói quen la cà chạy dỡn với đám lục lăn lục lửa chúng tôi đến sẫm tối vẫn chưa chịu về chùa. Có lẽ đó là giờ khắc tự do của nó, thoát khỏi sự dòm ngó của bề trên. Chúng tôi thường gặp nhau ở bờ đê, ở Gò Bướm,, Gò Vua hay quán bà Tư Trầu, nơi bày bán bánh trái được trình bày tươm tất trong hàng chai keo đậy nắp kín mít hoặc treo lòng thòng lủng lẳng trước cửa quán. Những thứ tạp nhạp màu sắc đó có ma lực lôi cuốn sự thèm thuồng của chúng tôi mỗi khi đi ngang quán (Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá , 176)
Ngày nay, tác giả sống ở Pháp, lòng vấn vương vấn quê hương Việt Nam, thương nhớ xóm Rạch Rít:
Tôi nhớ quê hương
Tôi nhớ xóm Rạch Rít
Tôi nhớ ông bà và mẹ tôi.
Tôi nhớ ông giáo Sử và nhứt là ông thầy Huế ngày xưa
(Như Nước Trong Nguồn ,79)
Ngày nay, ông mang tâm trạng lưu đày của người xa xứ. Trong bài thơ Đón Mẹ, ông viết:
Ở những chặng đường đầy chông gai
Suốt cả tháng ngày
Con sống kiếp lưu đầy cô lẻ.
. . . . . . . . .
Con đến mảnh đất dung thân
Nhưng Mẹ ơi,
Con đã khóc bao nhiêu lần?
Kiếp ly hương
Một chuỗi phũ phàng!
Con chỉ thấy quê hương con là đẹp
(Như Nước Trong Nguồn, 10-11)
Ông luôn hoài niệm làng xóm, quê hương của ông:
Tôi nhớ chòm xóm, bà con cật ruột, ngay cả cây cỏ chim chóc quen thuộc. . . tất cả những gì đã gắn liền với cuộc sống của tôi trước đây, từ gốc rạ khô nằm mẹp dưới chân ngườI, cọng cỏ dại chết rũ quăn queo ở vệ đường đến những lờI ra78n dạy ngà ngọc quý hiếm của ông bà tôi, của mẹ tôi, của thầy tôi thuở tôi còn ở trần trùng trục rong chơi, khét nắng hôi trâu, hực mùi rơm rạ và bùn non xà xịn. . . . . . Nay tóc muối tiêu, tuổi xế chiều, nhưng sao những hình ảnh thân thương ấy vẫn rõ nét trong tôi. Những hình ảnh chợt đến chợt đi đo cứ chập chờn trên xóm Rạch Rít buổn tênh của tôi thấp thoáng ẩn hiện xa xa. . . (Như Nước Trong Nguồn, 79).
II. THỰC TR[1]NG MIỀN NAM ( ĐỒNG QUÊ TANG THƯƠNG)
Võ Phước Hiếu chưa quên quá khứ thì làm sao ông quên hiện tại, một hiện tại nay đang biến thành quá khứ đã và đang vây phủ bao người Việt xa xứ? Chính cái biến cố 1945, 1954, và gần hơn, biến cố 1975 đã làm cho miền Nam diêu tàn, tang tóc. Cứ mỗi bút ký là một vài nét chấm phá về lịch sử Việt Nam hiện đại. Chính mỗi kỷ niệm về làng xóm thân thương lại mang thêm nhiều giọt lệ cho quê hương, cho bà con ruột thịt còn ở lại trong tủi nhục hay những người đã nằm xuống trong uất hận, và đau thương.Trong Phá Sơn Lâm, Đâm Hà Bá, Võ Phước Hiếu đã cho ta rõ về việc một số người dân đã chết oan , hay đau khổ trong bàn tay cộng sản, và bao thảm họa giáng xuống những người dân miền Nam yêu chuộng hòa bình. Đó là thằng Ba La trong 1945 chết oan vì Việt Minh hành quyết về tội Việt gian :
Phong trào bắt VIệt gian làm nhiều người chết oan ức. Tám Thôi chưa kịp hòn hồn sau vụ bắt cụ Bùi ở chùa Giác Hải bỗng nghe lũ trẻ la ó bắt được Việt gian sắp dẫn ngang nhà. Anh lật đật phóng ra xem. Mắt mở to tròn xoe trâng tráo, tay chân bủn rủn, miệng ấp úng không nói ra lời. Thì ra thằng Ba La, bạn chí thân của anh, bị trói thúc ké. Nó bị đảy ra trước về hướng cầu Bình Tiên. Theo sau là nhóm ngườI hằn học võ trang gậy gộc dao mác và lũ trẻ quần xà lỏn, ở trần trùng trục, la ó nói cườiầm vang hỗn độn.
Ông hàng xóm tỏ vẻ hiểu biết ghé tai anh bảo rằng thằng Ba La bị bắt tại nhà. Nó bị kêu án tử hình và sẽ bị hành quyết ngay tại sân đá banh bên hông cầu Rờ Nô Bình Tiên.
Đầu óc anh rối loạn. Anh ngẩn người chưa kịp có phản ứng gì bỗng nghe rõ ràng tiếng nói quaen thuộc của thằng Ba La. Nó khóc òa, gào thét kêu oan ức thảm thiết lắm. Người ta hò hét xô đẩy nó đi từng buớc một. Tám Thôi không dám theo chứng kiến cảnh hành quyết nó nhưng anh nghe kể lại nó bị đâm bằng gươm Nhật từ mạn hang cua bên trái thấu xuống lút tim, xác vất ở sông Ông Buôn. Anh cảm thấy ray rứt và xấu hổ vì bất lực không dám ra bào chữa cho nó truớc khí thế đám đông không cách gì ngăn cản được. Thằng Ba La hiền như cục bột. Khốn nỗi, chắc có nguời nào xớn xác nhìn lầm nó với tên biện Chà cảnh sát ngày xưa nên nó phải mang chịu mang họa vào thân (140-141).
Đó là cuộc đời của Tám Thôi. Sau 1945, thấy Sài gòn đầy cảnh máu tanh, Tám Thôi lui về quê, dùng số tiền cần kiệm khi làm việc cho nhà thuốc Ông Tiên để cưới vợ và mua ruộng đất. Tám Thôi có hai đứa con lớn, sau 1975 phải di ngồi tù, hai đứa con dâu phải về nương náu nhà ông. Tám Thôi phải quay về nghề câu tôm câu cá để nuôi sống gia đình. Cảnh khổ của ông cũng là cảnh khổ của đa số dân chúng xóm Rạch Rít khi cộng sản xâm chiếm miền Nam. Và con sông quê ông cũng mang số phận đau thương của dân tộc:
Bây giờ trong xóm ai cũng đổ bung ra sông ra rạch chăn ví, săn đuổi cá tôm, tranh nhau đắp đổi qua ngày. Tôm cá bây giờ càng hiếm hoi. Cuộc sống thêm vất vả buồn nôn.
Ngày xưa con sông này không lớn không nhỏ nhưng rất thơ mộng. Nó lạnh lẽo vô tri thật nhưng đối với ông, vố gắn bó gần gũi, hội nhập vào nó, nó chất chứa mang chở một cái gì thiêng liêng tiềm ẩn khiến ông càng quyến luyến khắng khít với nó luôn. Ngày nay cái hồn nước, hồn sông đó trở nên nhạt nhòa với cuộc đời nghiệt ngã (148).
Đó là cuộc đời của chú Năm Nghê con người vui vẻ nhưng sau 1975 bị ‘’ghép vào thành phần phản động chống chế độ’’, họ cấm dân chúng tụ họp cho nên nhà chú không còn ai dám lai vãng, chú bệnh và chết trong cô đơn và nghèo khổ ((73) .
Rồi bao biến cố xảy ra cho đất nước Việt Nam mà xóm Rạch Rít của Võ Phước Hiếu cũng không thoát khỏi cơn đại hồng thủy. Nào là học tập cải tạo, nào là sản xuất tập thể hóa nông nghiệp (146-147), .Hai ông giáo trong Như Nước Trong Nguồn là những con người bất khuất, có quá khứ chống Pháp , ông thầy Huế chết già, còn ông giáo Sử bị Việt Minh giết vì ông yêu tự do, không chịu khuất phục đảng vô sản, đảng của thiểu số người ngông cuồng không tưởng, rắp tâm muốn áp đặt bằng võ lực và hận thù (75).
Trong Hùm Chết Để Da và Như Nước Trong Nguồn, tác giả đã nói về cuộc đời của tác giả và các bạn bè vì chịu không thấu khổ ách cộng sản phải bỏ nước mà đi:
Tháng 6 năm 1979, sau thời gian mấy năm bị vùi dập trong những ‘’ chiến dịch cải tạo’’ , ‘’ đánh tư sản mại bản’’, ‘’ kiểm kê công thương nghiệp’’ và ‘’bài trừ văn hóa đòi trụy’’. . . . do cộng sản độc tài độc trị chủ trương nhằm trả thù và cướp của của bà con miền Nam, tôi lặng lẽ cúi đầu tủi nhục, thấm thía bước xuống chiếc tàu cây định mệnh (Như Nước Trong Nguồn, 77).
Dù miền Nam chìm dắm trong đau thương, người dân vẫn sáng suốt nhận xét vè cộng sản. Họ tranh đãu một cách kín đáo. Họ công kích văn học, nghệ thuật cộng sản. Chú Năm Nghê và Bảy Bèo trong Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá tiêu biểu cho những người Nam Kỳ bộc trực, luôn nói thẳng, nói thật. Chú đã phê bình bài thơ Ta đi tới của Tố Hữu và nhận xét về xã hội chủ nghĩa rất chí lý:
Tao thì ít chữ lại thiển cận nhưng tao nghĩ nhà thơ hạng nhất của chế độ
hồ hởi dự phóng con đường đi tới trước mặt, con đường thênh thang ở tương lai mà chỉ rộng có tám thước, không ổn chút nào hết. Hồi lâu ở bên Tây,, tận vùng phía bắc nước Pháp, tức xa thủ đô ánh sáng Ba Lê vài trăm cây số, những con đường rộng rãi na ná như thế không thiếu gì, nhan nhản khắp nơi. Đàng này, xây dựng tương lai chế độ với những con đường rộng tám thước đã huênh hoang hãnh diện, đã thỏa mãn mừng húm, tao cho đó là đầu óc nông dân hạng bét, cục bộ thiển cận, thua hẳn bà con khai rừng phá rẫy của mình ngày xưa quá cỡ thợ mộc. Thật đúng y chang các ông bí thư, các bà chủ tịch bù trơ bù trất, nhìn xa không quá mũi của xã mình. Đất nước Việt Nam để cho những hạng người đó lãnh đạo, chỉ lối chỉ đuờng làm sao trở thành rồng? Tao dám nói không sợ lắm, tụi nó sẽ biến xứ sở thành rắn ráo hay liu điu thôi (87).
Bảy Bèo , một nông dân trẻ, trước có đi lính quốc gia, so sánh giáo dục quốc gia và giáo dục cộng sản:
Thơ gì đọc chỏi tai quá trời. Hồi xưa ở trường, tôi có đọc những bài như Qua đèo Ngang tức cảnh của bà huyện Thanh Quan hay mùa thu ngồi câu cá của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, nghe êm tai, chan chứa tình cảm, vần điệu rung động khiến tâm hồn man mác.. . . Đằng này, thơ gì cộc lốc, cứ xúi dục chém giết thù hận, cứ nhè đồng bào ruột thịt mình mà nguyền rủa, sỉ vả và nặng lời khiến tôi rùng mình nhớ lại cảnh chặt cổ sởn đầu, mổ bụng dồn trấu, thọc huyết cho mò tôm hay bắn tét gáy những năm khủng bố (83-84).
Tác phẩm của Võ Phước Hiếu đã trình bày khá đầy đủ những nét chính yếu của lịch sử miền Nam từ trước 1945 cho đến nay.
III. Đ[1]O LÝ
Hùm Chết Để Da dày 253 trang, gồm 6 truyện ngắn:
Hùm chết để da
Chút tình để lại
Giấc chiêm bao cuối năm
Cây cầu ông Hiệu
Niềm đau cuối đời
Âm đương hội ngộ
Tập truyện này giống tập trước là xây dựng trên bối cảnh và nhân vật miền Nam thời trước 1945. Nhưng khác với tập trước ở điểm luân lý. Ta có thể nói tập truyện này mang tính cách đạo lý.Ông cũng như Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc muốn truyền cho người đọc ánh sáng của đạo lý, của tình người.Truyện đầu là truyện ông đốc Thường, xuất thân gia đình nghèo khó nhưng được nhà trường cấp học bổng để ăn học. Thành tài, ông không muốn gặp cha ruột là một nông dân quê mùa, vì ông sợ bạn bè chê cười. Sau ông tích cực phục vụ cho Pháp làm nhiều điều bất nghĩa. Viết truyện này, Võ Phước Hiếu nhằm chỉ trích những kẻ hữu tài mà vô hạnh. Truyện thứ hai nhắm ca tụng bà Năm Tơ Hồng, một người bình dân it học nhưng có tinh thần xã hội và nhân ái, mục đích sống của bà là đem lại hạnh phúc cho mọi người. Bà luôn đề cao tình nghĩa vợ chồng, nghĩa là đề cao gia đình, vì đó là nền tảng của xã hội. Bà Năm Tơ Hồng nói:
Ở đời, chỉ có tình yêu là quan trọng hơn cả. Nó là đầu mối không thể thiếu sót được để xây dựng, củng cố và phát triển mọi thứ tình khác trên thế gian thực hư hư thực này (93).
Truyện Giấc chiêm bao cuối năm nói về thuyết nhân quả của đạo Phật. Võ Phước Hiếu là một Phật tử, đã hiểu rõ triết lý nhà Phật, và đã trình bày triết lý nhà Phật qua truyện này. Ba truyện sau cùng viết về những nguời bạn thân đã và đang sống dưới chế độ cộng sản cùng việc tác giả vượt biên qua Pháp.
IV. TÌNH MẪU TỬ
Như Nước Trong Nguồn, 187 trang, khởi đầu một bài thơ, tiếp theo là ba hồi ký và kết thúc bằng hai bài thơ, tổng cộng ba bài thơ và ba hồi ký:
Đón Mẹ (thơ)
Ngày ấy qua mau
Như nước trong nguồn
Hương lòng thắp muộn
Và mẹ ra đi (thơ)
Ainsi tu t’en vas (thơ)
Tuy là ba hồi ký nhưng cùng chung một chủ đề Mẹ, và ý tứ liên tục cho nên có thể coi như là một . Khác với hai tác phẩm trên, tác phẩm này có nội dung hoài niệm về người Mẹ của tác giả. Thực ra, ở trong tập này, tác giả hoài niệm tổ tiên, ông bà và cha me, nhưng Mẹ được tô những nét rất đậm dà.
Đón Mẹ là một bài thơ mở đầu tập truyện.. Tác giả đã nói lên nỗi đau khổ của ông trong đêm chia tay mẹ để vượt biên:
Lúc chia tay
Con nhớ mãi
Ở những chặng đường đầy chông gai
Suốt cả tháng ngày
Con sống kiếp lưu đày cô lẻ
Con không dám thẳng nhìn mặt Mẹ
Để ghi rõ dung nhan Mẹ lần cuối
Mẹ đứng đó
Như tượng đá đêm đông
Mẹ đã chết trong lòng
Khi dõi mắt theo con (10)
Trong tập này, tác giả đã tỏ lòng yêu thương thân mẫu và nhạc mẫu. Nhạc mẫu của tác giả đã mất khi 83 tuổi, nhưng vong linh của bà vẫn theo dõi đứa con xa:
Mẹ!
Mẹ!
Mẹ ơi!
Mẹ kiệt sức rồi
Tám ( mươi ) ba tuổi chẵn da mồi tóc sương
Mẹ còn lặn lội dặm trường
Tìm con tản lạc bốn phương quê người (15).
Trong tập Như Nước Trong Nguồn , tác giả cho biết cha mất sớm, thân mẫu của ông đã hy sinh cuộc đời thanh xuân để nuôi con khôn lớn và cho ăn học. Bà đã thương yêu dạy dỗ ông, nhất là đã đau khổ khi con trai bỏ xứ ra đi vào nơi sóng gió hiểm nguy:
Tôi nhớ mẹ tôi khôn nguôi. Tôi nhớ hình ảnh thân thương, nhớ những lờI ra78n dạy ngọc ngà quý báu, nhớ những hy sinh cao cả vô bờ người dành cho tôi suốt cuộc đời ba đào sóng gió trên quê hương tôi máu lửa triền miên (Như Nước Trong Nguồn , 137).
Võ Phước Hiếu tả cảnh, tả tình rất chi tiết. Đôi khi lời văn hơi dài theo cách viết của Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của. Ở một vài nơi, ông viết rất lưu loát, và say mê theo dòng cảm hứng tràn đầy như đoạn ông tả tâm sự kẻ hoài hương:
Người tị nạn Việt Nam, từ hơn hai mươi năm nay, nhứt là những người trọng tuổi, có một quá khứ nằng nặng dài lê thê sau lưng mình, hay nhắc nhớ thuở xa xôi ấy, nay dù đã bị lớp bụi thời gian vô tình phủ mờ đôi chút. Họ cố tìm kiếm trong các ngăn ngách chằng chịt và phức tạp của vùng tâm thức, một chút gì đó gắn bó với nguồn gốc cội rễ, thường là những cảnh đẹp, nét diễm kiều của quê hương cách ngăn diệu vợi.
Họ lâng lâng bắt gặp đâu đây những con đường mòn một màu nâu sậm, quanh co uốn éo rất thân quen với tầm mắt họ, nơi họ từng in dấu chân tung tăng liếng thoắng, rong chơi khét nắng hôi trâu thời son trẻ hồn nhiên.
Nơi đây những bờ mẫu trơn trợt lún phún cỏ mai cỏ chỉ cùng vài loại hoa dại ú màu vào mùa mưa dầm mịt trời mịt đất, bị cắt đoạn từng khoản do lổ chỗ bể vỡ, nước chảy róc rách.
Nơi kia con lộ đất đỏ nhỏ hẹp vừa đủ cho hai chiếc xe bò leo lề tránh nhau trong khổ nhọc, con lộ duy nhất đó chạy dài ngút mắt, cắt ngang xóm nghèo vớI những chiếc cộ trâu xuôi ngược ngùn ngụt rơm rạ và thóc lúa.
Họ sung sướng trong cảm giác đê mê, ẩn hiện một chút gì mênh mông sâu rộng, còn rơi rớt khi nhìn ngắm mặt trời đỏ ửng từ từ khuất dạng sau chòm cây hay đám lá tối om dầy mịt nơi cuối chân trời, nhường chỗ cho mầu sẫm tối chầm chậm chiếm lấy không gian, mang lại thôn ấp làng quê sự dịu dànbg thơi thới, như để đền bù cả một ngày dài oi nồng đẫm mặn mồ hôi, nặc nồng mùi rơm rạ khô cằn vào những mùa gặt hái ( Như NƯớc Trong Nguồn, 147).
Ông đã cho chúng ta thấy cảnh đẹp của miền quê và công phu khai thác ruộng vườn , đất đai của những người đi tiên phong. Họ đã xây dựng nên một mảnh giang sơn gấm vóc nhưng chủ nghĩa cộng sản đã biến mảnh đất hiền hòa thành nơi tang tóc, đau thương. Tác phẩm của ông mang tính chất hoài niệm nhưng cũng mang tính chất tố cáo và tranh đãu. Tác phẩm của ông man mác tình cảm nhưng cũng thành thật theo bút pháp hiện thực, phản chiếu lịch sử Việt Nam trước và sau 1975.
NGUYỄN MẠNH TRỊNH * TRẦN HỒNG CHÂU
“ Suối Tím “ tác phẩm cuối của nhà thơ Trần Hồng Châu Thursday, September 16, 2004 4:20:05 PM |
|
Thi
sĩ Trần Hồng Châu, tức giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, khoa trưởng đại học
Văn Khoa, người đã xây đắp một nền tảng vững chắc cho ngôi trường đại
học còn sơ khai. Cũng như, là chủ nhiệm tạp chí văn chương “ Thế Kỷ Hai
Mươi”, góp phần vào sự phát triển của văn học miền Nam thời kỳ ấy.
Nhưng,
trước sau ông vẫn là người đa mang với thi ca. Ông yêu thi ca và hiểu
được tính vĩnh cửu của vần điệu ngôn ngữ. Bàn luận về thơ, ông có niềm
say mê của một người đi tìm chân lý. Thơ, là một phần đời sống của ông.
Trước khi ông qua đời , chúng
tôi có vào bệnh viện thăm viếng và nghe được ông nhắc đến “Suối Tím” như
một gửi gấm cuối đời của một người làm thơ. Với đám môn sinh hiện diện
lúc đó, ông nói với tất cả tâm huyết của mình lúc cuối đời…
Tôi đọc tập thơ này nhiều lần trong những thời điểm
khác nhau. Tôi cầm trên tay tập thơ mà tưởng nhớ đến tác giả. Sách vẫn
đây mà tác giả của nó đã đi vào chốn hạc nội mây ngàn rồi. Giở những
trang, để thấy bầu trời thi ca lồng lộng. Có những nỗi niềm giàn trải
qua ngôn ngữ hình tượng. Có tấm lòng kẻ sĩ , mang mang theo thời thế mịt
mù…
Sống
ở trong một thời đại đầy biến động như bây giờ, giữ cái tâm vằng vặc
quá khứ. Huống chi, vẫn tính lãng mạn văn nghệ bẩm sinh, thêm chất
nghiêm túc phải có của một nhà giáo, thành một khuôn mẫu văn chương như
ông cũng là một hiếm hoi trong cuộc sống này. Trong thơ Trần Hồng Châu, từ ‘
Nửa khuya giấy trắng”, “ Nhớ đất thương trời”, “ Hạnh phúc đến từng
phút giây” , thơ bay bổng thăng hoa vượt qua những nhiễu nhương của thời
thế. Thơ, là kết tinh của trầm lắng suy tư có từ những hệ lụy của cuộc
đời…
Một
điều cảm nhận thật rõ ràng với tôi, từ “ Suối tím “ nói riêng và toàn
khối thơ ông nói chung, có nét trầm mặc xương kính của phong thái Đông
phương trong nề nếp suy tư luận lý Tây Phương. Thơ , như giao diểm hội
tụ của hai đường tàu, tưởng song song nhưng thật ra vẫn gặp nhau tronh
từng cảm giác.
Lạ
lùng, đọc thơ mà tôi tưởng mình đi tìm công án. Mỗi mỗi trang, tưởng
tượng những khuôn cửa mở ra vào những lãnh địa riêng. Có cảm thấy những
đè nặng của tư duy triết học, nhưng chất luận lý thoảng qua để còn lại
những gợi ý bức xúc từ những tượng ảnh mơ hồ chỉ có trong những không
gian, thời gian của thi ca. Thơ ông, có vóc dáng của một chân dung vĩnh
hằng, của những kiếm tìm nỗ lực cái thẩm mỹ quan có sẵn từ cổ đại. Ngôn
ngữ, có khi là những viên gạch lót đường để bước nghĩ thong dong tới,
nhưng cũng có lúc là tảng lân tinh rực rỡ lóe lên như tinh đẩu dẫn lối
soi đường. Thơ, chính là thông điệp gửi trao, của những đêm thức trắng
ngậm ngùi, của những ngày lũi lầm trong cảnh bụi trần cát lấm của cuộc
nhân sinh.
“Suối
tím “ có dòng thi ca đồng nhất. Kể cả ba bài tùy bút, là những bài thơ
văn xuôi mà không gian chính là biển trời thi ca rộng khắp muôn trùng.
Con chữ lấp lánh, phản chiếu một cuộc sống nội tâm phong phú. Thực tế
đời thường, nếu có những cơn huyễn mộng, thì cũng là lộ trình thoảng qua
để đến chốn vô cùng. Ngôn ngữ- hình ảnh – vần điệu , là xuôi dòng về nguồn, nơi chốn mà sáng tạo đã thành yếu tố để tầm mắt người thơ cao hơn, xa hơn, thăm thẳm hơn…
Nhiều lúc tôi tự hỏi. Ở tuổi già, liệu tâm tư sẽ ra sao? Chán nản. Hy vọng. Bình thản. Chờ đợi. Hay là tất cả trộn lẫn lại. Tôi chưa biết. Mỗi người một tâm sự một
cách sống riêng. Nhưng, có lẽ từ những thi sĩ, nhất là thi sĩ Việt nam,
với chất lãng mạn trầm mặc Đông phương, thì lúc cuối đời, có lẽ là lúc
tự tìm kiếm bản lai diện mục mình. Thơ, sẽ thành một phác họa chân dung
nhân bản nhất, để, đôi khi, những dông bão hiện thành từ nỗi quặn đau
thiên cổ…
Viết và làm thơ, với đất nước và thời thế, chỉ là những phác họa gián tiếp. Nỗi đau dường như là
những xúc cảm được che dấu lại. Mượn những điển tích xưa, dùng những
tên tuổi cũ, để gợi ý thành, để nhắc nhở tới một đẽo gọt của thơ, từ đá
tảng nguyên sinh thành những phù điêu dáng tượng hiển hiện cho đời. Bức
tượng ấy, từ những nhát dao sáng
tác, có chất chứa những nỗi niềm đa mang của cả một thế hệ. Kiêm lời
nhưng giàu ý, tôi có cảm giác thơ thành những vòng tay ôm choàng khắp
đến vô cùng. Nét riêng của một người, như chuyên chở nỗi đau của muôn
người trong dẫy đầy biến cố của Việt Nam bất hạnh…
Đại cương toàn khối thì như thế,
bây giờ đọc lại những trang thơ để tìm những đoạn tiêu biểu thì tôi lại
ngại ngần. Làm sao để có những chọn lựa chính xác? Làm sao để nổi bật
cái toàn thể trong cái hạn hẹp trích dẫn? Câu hỏi khó, với tôi. Thơ,
mênh mông như mây trời, sao có thể nhét dồn trong khuôn khổ hẹp…
Thì thôi, đành lấy cái tương đối để mong biểu hiện được cái thơ không cùng rộng vậy…
Bài
“ Kỷ niệm về khuya, trừ tịch “, với chữ Em viết hoa, là hiện thực của
cảm giác bềnh bồng, của tiến trình tìm bắt hoài hủy trong chuỗi suy tư.
Em, có phải là hình bóng đời thường, của son phấn lụa là, của vóc dáng
kiều nữ xa hoa? Hay, là tượng
hình sáng tạo chỉ có trong tâm tưởng những người mong mỏøi tìm đến chốn
lãng mạn vô cùng. Những câu thơ, của một vấn nạn mờ ảo trong tâm thức.
Vô vọng, nhưng mê đắm nhường bao…
“… Ta vùng dậy đuổi bắt các Em.
Trong hương sắc cầu vồng hồi tưởng
Hiện thực đắm say
Aûo giác vơi đầy
Các Em , gấm hoa tình cảm của muôn đời
Hay chỉ là bụi phù vân của giấc mơ dài
Đến với ta lúc năm tận tháng cùng…”
Những
câu thơ. Aùo xuân ngàn nếp còn vương vấn. Buồn thu vạn cổ vẫn chờ mong.
Em hư vô hay hiện hữu tuyệt vời . Em độc nhất hay hóa thân muôn vạn… Có
phải từ mơ phai kỷ niệm? Hay từ dồn dập nhịp đập trái tim của dĩ vãng
thuở nào? Cũ xưa, nào ai định nghĩa? Trăm năm? Ngàn năm? Vạn triệu năm? Có phải không tuổi tác là những cảm giác mới nguyên của lúc ban đầu? Đời thường, còn có những mốc cắm
xác định thời gian. Chứ trong cái hư ảo của cõi hư vô, làm sao phân
biệt được giữa sát na giây phút với miên viễn tận cùng. Trong hành trình
mù mịt thiên lý cõi xa, vó ngựa cuồng như ngôn ngữ lẩn khuất vào vần
điệu. Có ai đánh thức. Một giấc mơ…
‘ …Khi tỉnh giấc
Chỉ thấy trăng khuya chìm đáy ly cạn
Chỉ thấy mây trời treo cửa song thưa
Đào lý hồng hạnh
Lan hương vương giả
Mưa, mưa hoa
Bao phủ khắp châu thân
Hồn say đây bỏ ngỏ
Hơi thở những thiên ha
Đến với ta lúc năm tận tháng cùng
Ta vùng dậy
Oâm tơ trăng mây gió và sắc hoa gầy
Ta thành Em
Em kỷ niệm
Chúng ta thành trang Tình Sử
Mở rộng cho muôn đời…”
Tôi
yêu những trang tùy bút. Những thành phố trong hồi tưởng. Những thời
điểm đã qua mất hút. Nhưng mầm kỷ niệm vẫn còn , ngút xanh. Hà nội.
Paris. Trường An Tây Vọng. Những nơi chốn của một người và của một thời.
Những bài thơ văn xuôi diễn tả bằng một trời tâm tưởng. Tùy
bút Nguyễn Tuân sang cả. Tùy bút Mai Thảo kiêu sa. Còn tùy bút Trần
Hồng Châu lãng mạn khơi mở những dòng nguồn trác tuyệt của thi sĩ.
Viết về chợ hoa của đất ngàn năm văn vật xưa, thi sĩ như muốn sống lại một thời nào xa lắm, từ hơn nửa thế kỷ xa xôi:
“…
Ở đây, màu sắc quả là siêu đẳng nghệ thuật. Chợ Đồng Xuân ngày trước
Tết là một trời hoa. Hoa giấy, hoa cây và hoa người. Hoa ngoài chợ, hoa
trong chợ… khách si giữa hoa, thở hương hoa, chiêm ngưỡng sắc hoa… AI đã
dồn về đây tất cả người đẹp của băm sáu phố phường? Ai đã xê dịch những
vườn hoa còn đẫm sương mai của Yên Phụ, Nghi tàm về đây, về trung tâm
Hà Nội?
Cúc
vàng , cúc trắng, hồng nhung, thược dược, lan nhất điểm,… một bản nhạc
hoa mà nhạc công là những cô hàng, áo tứ thân, điểm thêm một giải thắt
lưng màu hoa lý hay cá vàng, vì
Tết sắp đến.. Hoa sống và hoa cây tự tô điểm rồi cảm thông với nhau. Và
tại sao hôm nay trong vườn hoàng cúc giữa chợ Đồng Xuân tôi lại gặp một
bạn gái mặc áo vàng, trùng tên với hoa mùa thu? Có những tình cờ, những
chuyện thực, nghe hoang đường như một bịa đặt, tuy vẫn là chuyện thực…”
Viết về bước chân của người học trò cũ trở về trường xưa, nhớ lại đã hơn gần nửa thế kỷ.
“..
Tôi bước vào sân trong. Trời xanh lồng lộng. Những phiến đá vuông nhỏ
vẫn dội vang tiếng ngàn xưa dưới chân du khách. Những bậc hè cẩm thạch
vẫn trắng tronh như lòng tuổi trẻ. Những hàng hiên cửa võng vẫn vươn
mình lên, mình cánh cung, như xưa. Tôi hơi rùng mình. Thời gian như
ngưng đọng. Cái nhìn của Sorbonne. Của người me. Của người tình.
Mẹ Sorbonne da mồi tóc bạc
Nhưng không tuổi và trẻ hơn hiện tại
Những
giây phút huyền nhiệm. Có lúc người và vật dường như cảm thông quấn
quýt lấy nhau. Trói buộc lẫn nhau bằng ngàn sợi dây vô hình, bằng màng
lưới thần giao. Tôi đứng sững giữa sân trường. Chết đứng. Nước mắt thấm
ướt gò má. Sao lại có thể như vậy? Uûy mị, yếu đuối quá đi thôi! Bèn lấy
kính mát ra đeo, dằn lại dòng điện cảm xúc đã làm rung chuyển toàn
thân. Bốn mươi năm rồi còn gì! Tứ thập niên gian hựu phùng quân. Lý, Đỗ
và họ Tô ở Hàng Châu! Hãy cho tôi vay muôn ngôn và
từ để nói lên một xúc động chưa từng kinh qua. Cho tôi giải tỏa niềm
ngậm ngùi reo vui này. Như một mảng khí áp, một khối tích tụ chăn nganh
lồng ngực vừa trải qua cơn địa chấn…”
Suối Tím có những câu thơ như:
“ Nước trôi suối ngọc tê hồn đắm
Aâm sắc tím chim gọi ngàn năm
Buồn cây chìm bóng cỏ đu võng
Vết thương sỏi trắng đau bộ lạc
Nằm nghiêng nôi lạnh có buồn không? “
Màu tím mênh mang buồn. Nhưng mênh mang sâu thẳm mà biền biệt. Cầm tập thơ nâng niu trên tay, nghĩ đến nỗi niềm trao gửi. Đọc
thơ mà tưởng đến người nay đã khuất bóng. Thấy lại nụ cười hiền hòa.
Thấy lại những tình cảm đôn hậu bao dung khi nói đến những lớp cầm bút
đi sau. Và đôi mắt sáng đã từng mơ mộng đã từng ngâm ngùi đã từng vui
buồn theo thời thế đẩy đưa.
Tôi đọc trang thơ, không trầm hương mà sao quyện lẫn trong không khí những mùi thơm cổ kính từ thiên cổ tạt về…
Nguyễn Mạnh Trinh
|
Wednesday, September 26, 2012
DƯ THỊ DIỄM BUỒN * MẸ ĐƯA CON VAO LỚP VỞ LÒNG
MẸ ĐƯA CON VAO LỚP VỞ LÒNG
Con năm tuổi đi học trường mẫu giáo
Mẹ gọi thức dậy mỗi sáng tinh sương
Chiếc bàn chải sẵn kem cùng quần áo
Đây cháo khoai, đỡ dạ trước đến trường
Cả tháng đầu mẹ trông chờ mệt nhọc
Dù đứng xa cũng thấy được con luôn
Lòng quanh quẩn theo sân trường lớp học
Bởi mẹ sợ con mẹ khóc vì buồn!
Gió bấc lạnh lùng, mưa bay lướt thướt
Mẹ cõng con, tay ôm cặp che dù
Áo vải mũ, con mặc vào khỏi ướt
Còn Mẹ hiền nhòa đẫm nước mưa thu
Những chữ cái trong cuốn vần Quốc Ngữ
Học thuộc lòng, tập vẽ viết ở trường
Cha xa vắng, mẹ chắt chiu mọi thứ
Cầm tay con đồ đậm chữ Quê Hương
Trời tháng giêng, nắng như thiêu như đốt
Mẹ đến cổng trường chờ trống ra chơi
Miệng suýt soa, con giỡn mèo bắt chuột
Té lấm áo quần, lem luốc mặt môi
Nơi xứ người, mùa đông cay nghiệt lắm!
Vì thương con chẳng kể đến thân mình
Cha đã mất, mẹ dải dầu mưa nắng
Con hiểu dần lòng mẹ, đức hy sinh...
Nghĩa trang lạnh, mẹ ơi nằm chi đó?
Con về thăm, sao mẹ chẳng mừng vui?
Nhớ lần đầu, đi xa về đến ngõ
Mẹ ôm chầm âu yếm gọi "con tôi!"
Nắng chênh chếch giữa chiều vàng bóng xế
Mồ cỏ xanh, bia đá dựng chơ vơ
Kể từ khi mẹ hiền lìa cõi thế
Con chỉ còn gặp mẹ ở trong mơ...
Dư Thị Diễm Buồn
KHUYẾT DANH * CHỒNG VIỆT
Nữ Việt kiều: Tôi sợ đàn ông Việt
Cập nhật lúc 02-07-2012 10:31:19 (GMT+1)Ảnh minh họa internet |
Chồng
tôi rất thích kết thân với những người có chức vị và giàu có, cho dù họ
xuất thân từ bất cứ thành phần nào dù xấu xa nhất của xã hội. Là đàn
ông nhưng anh rất thích trau chuốt hình thức của mình để có thể dụ tất
cả cô gái quen biết qua mạng lên giường.
Chào các bạn!
Tôi đã theo dõi rất nhiều bài viết của tất cả chị em phụ nữ cũng như đàn ông trên mục Tâm sự, và tôi nhận thấy đa số phụ nữ VN thật là khổ vì chồng. Ở đây tôi không vơ đũa cả nắm là tất cả đàn ông VN, nhưng con số đàn ông hoàn hảo chỉ đếm trên đầu ngón tay mà thôi, mà có lẽ số đó cũng từ hải ngoại về VN, vì sống ở nước ngoài từ nhỏ, nên cách giáo dục cũng khác hơn.
Đó là hệ lụy của việc trọng nam khinh nữ bắt nguồn theo quan niệm xa xưa, ai cũng muốn có con trai nối dõi. Trong nhà, bố mẹ thường không muốn con trai làm bất cứ việc gì, con gái phải làm hết. Khi lớn lên, con trai thường có tư tưởng quyền uy với mẹ, với chị em gái. Sau lấy vợ thì tỏ uy quyền với vợ con. Gia tài thì cha mẹ chia cho con trai hết 7 phần, con gái chỉ có 3.
Tôi nghĩ không biết đến bao giờ phụ nữ VN mới hết cảnh khổ vì chồng, khi trong lòng họ luôn còn 4 chữ tư tưởng phong kiến. Nhất là các chị em ở thôn quê học vấn ít ỏi nên khổ nhiều hơn chị em ở thành phố.
Tôi có 2 đời chồng, người chồng đầu tiên thật sự là người hoàn hảo, vì anh là người nước ngoài. Anh không giàu có, nhưng cũng là một thương gia giỏi, biết sống nhân hậu, biết thương yêu vợ con, cha mẹ, anh em và nhân viên của mình. Anh không bao giờ làm điều gì khiến ai buồn vì mình, tất cả những tật xấu của người đàn ông Việt hầu như anh không có, trừ khi ngoại cảnh bắt buộc. Anh được tất cả mọi người yêu quý, nhưng anh đã qua đời từ lâu rồi.
Tôi đã theo dõi rất nhiều bài viết của tất cả chị em phụ nữ cũng như đàn ông trên mục Tâm sự, và tôi nhận thấy đa số phụ nữ VN thật là khổ vì chồng. Ở đây tôi không vơ đũa cả nắm là tất cả đàn ông VN, nhưng con số đàn ông hoàn hảo chỉ đếm trên đầu ngón tay mà thôi, mà có lẽ số đó cũng từ hải ngoại về VN, vì sống ở nước ngoài từ nhỏ, nên cách giáo dục cũng khác hơn.
Đó là hệ lụy của việc trọng nam khinh nữ bắt nguồn theo quan niệm xa xưa, ai cũng muốn có con trai nối dõi. Trong nhà, bố mẹ thường không muốn con trai làm bất cứ việc gì, con gái phải làm hết. Khi lớn lên, con trai thường có tư tưởng quyền uy với mẹ, với chị em gái. Sau lấy vợ thì tỏ uy quyền với vợ con. Gia tài thì cha mẹ chia cho con trai hết 7 phần, con gái chỉ có 3.
Tôi nghĩ không biết đến bao giờ phụ nữ VN mới hết cảnh khổ vì chồng, khi trong lòng họ luôn còn 4 chữ tư tưởng phong kiến. Nhất là các chị em ở thôn quê học vấn ít ỏi nên khổ nhiều hơn chị em ở thành phố.
Tôi có 2 đời chồng, người chồng đầu tiên thật sự là người hoàn hảo, vì anh là người nước ngoài. Anh không giàu có, nhưng cũng là một thương gia giỏi, biết sống nhân hậu, biết thương yêu vợ con, cha mẹ, anh em và nhân viên của mình. Anh không bao giờ làm điều gì khiến ai buồn vì mình, tất cả những tật xấu của người đàn ông Việt hầu như anh không có, trừ khi ngoại cảnh bắt buộc. Anh được tất cả mọi người yêu quý, nhưng anh đã qua đời từ lâu rồi.
Người chồng thứ hai của tôi hiện tại là người VN. Anh có bộ mặt hiền lành, nhưng sau một thời gian sống chung, tôi phát hiện trong anh hội đủ những khiếm khuyết mà tất cả các chị em gặp phải, có nghĩa là trong tứ đổ tường thì chỉ có cướp giật là anh không có phạm vào. Thêm vào đó là chồng tôi rất thích kết thân với những người có chức vị và giàu có, cho dù họ xuất thân từ bất cứ thành phần nào dù xấu xa nhất của xã hội.
Là đàn ông nhưng anh rất thích trau chuốt hình thức của mình để có thể dụ tất cả cô gái quen biết qua mạng lên giường. Anh thích có một lối sống hưởng thụ cho bản thân quá nhiều, tư tưởng của tôi đã không còn đau khổ vì những điều đó. Tôi chỉ ngao ngán nhìn chồng mà nghĩ thương xót cho phận phụ nữ VN, cũng như cảm thương cho những đứa trẻ có người cha nhân cách kinh khủng như thế.
Thế kỷ 21 này, con người đã biết thám hiểm lên tới mặt trăng, bắc cực, khoa học tiến bộ văn minh vượt bậc, phụ nữ VN ở nước ngoài ít khi đau khổ vì chồng, bởi trong tư tưởng của họ đã thoát khỏi 4 chữ đó. Tôi muốn khuyên tất cả chị em phụ nữ đang đau khổ sống ở VN, các bạn hãy đứng lên, mạnh mẽ, tự tin, và mạnh dạn dứt thoát khỏi tư tưởng phong kiến mà nó đã ăn sâu vào tiềm thức của người phụ nữ Việt.
Hãy biết tự bảo vệ mình và con mình trước những người chồng, người cha đáng hổ thẹn, họ không xứng đáng để các bạn phải đau khổ, than khóc, tủi nhục. Nếu các bạn lùi là họ sẽ lấn tới, và hãy lùi một bước để tiến lên 3 bước. Đừng sông khép mình, hãy sống cởi mở chan hòa với mọi người, đừng sống cam chịu để rồi phải nuối tiếc.
Theo Viet Info
Tuesday, September 25, 2012
THƠ SONG NGỮ
MUÔN ĐỜI DIỄM TUYỆT
tặng Lê Mộng Bảo
Bạn hỏi thăm tôi nơi viễn phương:
Chắc còn tha thiết nhớ Quê Hương,
Tiếc thương kỷ niệm thời sung mãn,
Thuở nắng thanh bình vạn thuở vương?
Muôn đời diễm tuyệt bức tranh quê!
Nhớ cánh diều bay tận cuối đê;
Nhớ bóng cò đi bên ruộng lúa,
Mục đồng thổi sáo cưỡi trâu về;
Nhớ con đường nhỏ, lũy tre xanh;
Nhớ mấy hàng cau đón gió lành;
Nhớ chuyến đò ngang soi bóng nước,
Tiếng hò giã gạo dưới trăng thanh.
Quán nước làng mây nhớ thuở nào
Chúng mình đối ẩm ngắm trăng sao:
Hương quê thơm ngát vần thơ họa,
Hồn ngỡ say men cốc rượu đào...
Ngày nay, kẻ ở lại, người đi,
Man mác bên lòng hận biệt ly;
Bạn rủi sa chân vòng khổ ải,
Tôi còn lận đận kiếp tu mi.
Tôi sợ hoàng hôn, sợ bóng đêm,
Thời gian khêu gợi nhớ nhung thêm!
Quê hương, quyến thuộc, thân bằng đã
Cách biệt muôn trùng mỏi cánh chim!
PICTURESQUE FOR EVER
You inquired after me, while in exile, into my
sand
Whether I have ever felt missing our motherland,
Pitied and regretted the abundance of the past
When the peaceful sun everywhere was shining fast?
Yes, be it picturesque for ever the countryside,
With kites flying over the far end of the dyke,
White storks walking alongside many a rice field,
Some flute herding buffaloes home so sweet a
yield!
Narrow roads, green bamboo hedges surrounding,
Rows of arecas swaying in the fresh wind mounting,
The ferry-sampan reflecting in the water its
image,
Rice-pestling songs echoing in the moonlit
village.
And admiring the immense universe, those times,
While tasting scented tea we compose our rhymes,
Pervaded with the flavor of our native place,
Both souls leavened under the starred space.
But, at present, one at stay, the other at large,
Our separation is on my heart a resentful charge.
You, unfortunate, have gotten caught in damnation,
And I, though free, involved in human situation.
I am afraid of twilight, of shadow of night,
Of time arousing more and more grief in my plight.
Oh, homeland, relatives and friends! No assistance
Of any eagle could bridge such an infinite
distance!
Translation by THANH-THANH
TIN TỨC GẦN XA
Những ai biết Hoàng Sa là của Việt Nam?
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2012-09-25
Những phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trước Phó chủ tịch Tập Cận Bình tại Nam Ninh vừa qua không được dư luận đồng tình.
AFP photo
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tham gia Triển lãm Nam Ninh đang khi tình hình các ngân hàng và nợ xấu trong nước có dấu hiệu nguy ngập khiến người ta nghĩ tới khả năng ông muốn hướng dẫn dư luận tránh chảo lửa kinh tế tài chánh mà ông là người trách nhiệm trực tiếp, sang một một mối lo khác tuy lớn hơn nhưng được chia sẻ bởi hai người là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Ngôn ngữ ngoại giao
Vấn đề Biển Đông nếu được Thủ tướng Dũng đem ra lần này tại Nam Ninh để nói chuyện một cách ngang hàng với Phó chủ tịch nước Tập Cận Bình thì ít ra người ta cũng còn một cái cớ để đặt những gì đang xảy ra hiện nay sang một bên khi mà báo chí quốc tế cùng lúc cho rằng Thủ tướng là người có quá nhiều khiếm khuyết khi điều hành một chính phủ chỉ lấy sự phân phát quyền lực làm bổng lộc cho cấp dưới, cho gia đình và thuộc hạ bất chấp lầm than đang diễn ra khắp nơi trên toàn quốc.Trong lần gặp gỡ này, một tuyên bố rõ ràng như Malaysia đòi hỏi Bắc kinh phải nhanh chóng thực hiện DOC tuy không phải là điều gì to tát nhưng ít ra cũng cho báo chí quốc tế thấy được Malaysia là một nước độc lập và Phó thủ tướng của họ dõng dạc nhắc nước chủ nhà những việc cần phải làm. Philippines không nói gì nhiều nhưng những hành động của họ trong khi tranh chấp bãi cạn Scarborough đã khiến Tập Cận Bình cẩn thận hơn khi phát biểu. Theo AFP ông Tập Cận Bình chỉ ngỏ ý mong hàn gắn những rạn nứt sau biến cố Scarborough chứ không hề lập lại điệp khúc kẻ cả thường thấy khi nói về Biền Đông mà Bắc kinh gọi là Biển Nam Trung Hoa.
Trong khi đó Thú tướng Nguyễn Tấn Dũng mang tới Nam Ninh bài nói chuyện quá cũ, đã từng được các đại diện Việt Nam lập đi lập lại nhiều lần tại Bắc Kinh trước đây. Vì cũ nên không phù hợp với diễn tiến từng ngày một trên hồ sơ Biển Đông, nhất là tiếng nói chung của các nước ASEAN mà Việt Nam là một thành viên.
Người dân Việt Nam không thể quên được bài phát biểu đầy lửa của ông Thủ tướng trong phiên chất vấn trước Quốc hội vào sáng ngày 25 tháng 11 năm 2011. Từ phát biểu này dấy lên niềm tin mạnh mẽ một chính sách cứng rắn đối với kẻ xâm lược vẫn được toàn dân hưởng ứng sẽ được chính phủ theo đuổi chấm dứt một thời kỳ dài im lặng:
“Ít nhất là từ thế kỷ thứ 17 chúng ta làm chủ khi hai quần đảo này chưa thuộc bất kỳ quốc gia nào. Chúng ta đã làm chủ trên thực tế và liên tục, hòa bình. Nhưng đối với Hoàng Sa năm 1956 Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các đảo phía Đông của quần đảo Trường Sa. Đến năm 1974 thì cũng Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý của chính quyền Sài Gòn, tức là chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, thì chính quyền Sài Gòn, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã lên tiếng phản đối, lên án cái việc làm này và đề nghị Liên Hiệp Quốc can thiệp. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam của chúng ta lúc đó cũng đã ra tuyên bố phản đối cái hành vi chiếm đóng này.”
Rõ ràng không ai kỳ vọng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lập lại câu nói này trước mặt Phó chủ tịch Tập Cận Bình tại Nam Ninh, nhưng một lời nhắc nhở khéo léo của ông về sự thật lịch sử vẫn vạn lần mạnh hơn các sáo ngữ cùng một giai điệu như đối phương đang sử dụng.
Đừng trở thành chiếc đũa thứ ba
Sự đồng thuận của ASEAN chỉ có ý nghĩa khi Việt Nam cùng một tiếng nói với Malaysia, Philippines, Indonesia và ngay cả Brunei. Trong khi hai chiếc đũa Campuchia và Lào đang bị Trung Quốc tách ra khỏi bó, liệu sự tránh né trong phát biểu của Việt Nam có làm tổn thương cho sự đoàn kết của toàn khối hay không? Sự nhún nhường này dưới cái nhìn của các nước ASEAN đồng nghĩa với mập mờ và thỏa hiệp ngầm sau lưng họ. Trong khi Philippines tuy chưa mất tấc đất nào về tay Trung Quốc nhưng cách mà nước này đối phó với Bắc Kinh tỏ ra rất hiệu nghiệm. Manila sẵn sàng cứng rắn trong ngôn ngữ ngoại giao thậm chí trả đũa những hành động vô văn hóa của Đại sứ Trung quốc tại Manila và đối mặt một cuộc chiến không cân xứng với Trung Quốc bằng những tố cáo hành vi ngang ngược của Bắc Kinh ngay trong hội nghị ASEAN.Việt Nam có cách hành xử ngược lại hoàn toàn, chỉ lên tiếng đòi hỏi chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa rất mềm mỏng thậm chí rụt rè trong tinh thần hòa bình hữu nghị mặc dù đang có trong tay các bằng chứng không thể chối cãi về hành vi xâm lăng của Trung Quốc vào năm 1974.
Hệ lụy Thành Đô
Trí thức trong nước lộ rõ bất bình khi tình hữu nghị Việt Trung được hâm nóng lại từ Hội nghị Thành Đô năm 1990 không những xóa tan dấu vết của cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 mà còn im lặng hóa sự kiện xâm lăng Hoàng Sa của Trung Quốc đối với Việt Nam dưới chiêu bài Chủ nghĩa Xã hội của hai nước anh em.
Phát biểu của Thủ tướng về Hoàng Sa trước diễn đàn Quốc hội chỉ có
thể làm cho dân chúng vui mừng trong một thời gian rất ngắn. Phát biểu
đó nếu đem ra giữa hội nghị ASEAN thì sự thể đã khác. Ngay cả một nhắc
nhở theo cung cách ngoại giao với Phó chủ tịch Tập Cân Bình tại Nam Ninh
trước báo chí quốc tế thì có lẽ sẽ không xảy ra việc Trung Quốc tiếp
tục hoành hành trên vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam trong khi tuyên bố
hữu nghị của hai phía tại Nam Ninh vẫn chưa ráo mực.
Hoàng Sa nay đã trở thành Tam Sa sở dĩ phát triển ngày một kiên cố và
vững chắc như là phần đất có từ ngàn xưa của Trung Quốc vì giới
chứcViệt Nam tự bịt miệng mình trên các diễn đàn quốc tế. Loan tải các
vi phạm trong vấn đề Hoàng Sa mà nay là Tam Sa trên báo chí Việt Nam chỉ
để cho người dân trong nước đọc trong khi Thời báo Hoàn Cầu của Trung
Quốc được phát hành toàn thế giới với hai thứ tiếng Hoa và Anh văn và dĩ
nhiên tờ báo này không gặp bất cứ cấm kỵ nào khi nói đến Tam Sa nếu so
với báo chí Việt Nam trong một thời gian rất dài bị đóng khung trong hai
từ "nhạy cảm".
Chủ quyền quốc gia không thể nhân nhượng khi nhân danh thứ tình hữu
nghị vừa giả dối lại mơ hồ giữa hai nước tự nhận là anh em nhưng khi
giao tiếp lại phải cần phiên dịch. Những phát biểu cốt mua sự an toàn
cho bản thân, cho chế độ hay đảng phái không thể qua mắt nhân dân. Con
mắt phán xét của lịch sử rất công bình, không bao giờ bỏ qua mọi diễn
biến dù nhỏ nhất trong đàm phán chính trị khi cố tình lấp liếm hay tảng
lờ thậm chí đổi chác.
Bài phát biểu về Hoàng Sa nổi tiếng của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ
có giá trị như một thang thuốc chống đau tạm thời không hơn không kém
nếu tinh thần của nó không được mang theo ra trước diễn đàn quốc tế đặc
biệt đối với Trung Quốc khi Bắc Kinh lúc nào cũng làm ra vẻ rất vô tư
xem Hoàng Sa là phần đất máu thịt của tổ tiên người Hán.
VẠN MỘC CƯ SĨ BÌNH:
Đúng là ngôn ngữ Việt cộng hèn hạ bán nước cầu vinh !Thăm nhà người dân nghèo Trung Quốc
Angus Foster
Phóng viên BBC từ Bắc Kinh
Cập nhật: 15:42 GMT - thứ hai, 24 tháng 9, 2012
Chủ đề liên quan
Nhưng nếu nhìn kỹ hơn người ta có thể thấy đã có thay đổi xã hội lớn tới cả một thế hệ. Bức ảnh chụp đôi vợ chồng nông dân lớn tuổi bên ngoài căn nhà vách đất của họ cho thấy tài sản của họ còn có chiếc chảo thu vệ tinh, máy DVD và điện thoại.
"Cuộc sống của người dân thay đổi nhiều lắm. Có thể thu nhập của họ không bị ảnh hưởng như ở thành phố nhưng suy nghĩ thì đã thay đổi," ông Hoàng, 42 tuổi, người hiện sống tại Bắc Kinh, nói.
Ông Hoàng chụp bức ảnh đầu tiên khi ở tuổi thiếu niên nhờ được một người bác khuyến khích khi mà thanh thiếu niên thời đó ham mê thư pháp và hát. Ông mua chiếc máy ảnh đầu tiên vào năm 18 tuổi và đó là tài sản có giá trị nhất trong nhà.
Ý tưởng làm một bộ ảnh về tài sản vật chất của con người đến với ông năm 2003 với một vài bức ảnh ông chụp cho tạp chí National Geography Trung Quốc. Nhưng dự án đã không thực sự bắt đầu cho tới năm 2006 khi ông Hoàng bắt đầu đi khắp Trung Quốc để tìm những người và nơi chốn phù hợp cho bộ sưu tập.
"Hầu hết mọi người cho rằng điều tôi đề nghị là không bình thường. Khi tôi giải thích tôi muốn chụp một bức ảnh mà muốn làm được việc đó thì phải mang tất cả mọi thứ từ trong nhà của họ ra bày ở ngoài cửa. Và để làm được điều đó đã phải giải thích rất dài dòng," ông nói.
"Nhưng phần lớn tất cả mọi người sau đó đều hiểu điều tôi muốn làm."
Một trong những lợi thế của việc đi tới những vùng xa xôi hẻo lánh là người dân không có nhiều tài sản.
"Họ không giống với người dân thành phố. Dân thành phố có quá nhiều đồ đạc, và nếu quý vị yêu cầu họ làm như thế này thì sẽ là một việc phải cố gắng quá mức," ông nói.
Một số bức ảnh chỉ mất vài ngày để chụp, có những bức mất vài tháng khi ông phải đợi một cặp vợ chồng chuyển nhà. Ngôi nhà của họ, cũng giống như hàng triệu người khác, bị phá để xây các khu nhà hay văn phòng mới. Có thể thấy cảnh họ ngồi trên giường và bức tường phía sau lưng họ có mấy chữ "phá đổ."
Thay đổi của đất nước
Dự án của ông Hoàng đã đưa ông tới 14 trong số 33 tỉnh của Trung Quốc, và đã đem lại cho ông một cái nhìn rộng lớn về những thay đổi của đất nước này. Ông khá lạc quan về quá trình thay đổi này và hướng mà nó sẽ đi tới."Tại nhiều làng quê Trung Quốc, chính phủ đã làm đường và đưa điện về. Đây là một thay đổi lớn. Nếu có đường xá thì người dân có thể đi lại. Nếu có điện thì có thể có TV, được nghe tin và biết được những gì đang diễn ra ở thế giới bên ngoài.
"Vấn đề lớn nhất ở vùng nông thôn hiện nay là làm sao để có một nền giáo dục tốt hơn cho trẻ em và được chăm sóc y tế tốt hơn," ông nói.
Nhiều bức ảnh dường như đã chụp được cả những gì đã mất. Có những gia đình cắm trại như họ sắp sửa rời đi. Xung quanh những gia đình này là những căn nhà mới được sửa sang đắt tiền hoặc sắp bị phá đổ.
Hầu hết các gia đình đều có TV, một số có cả máy giặt. Chiếc máy khâu từng là vật mơ ước của mỗi gia đình thời thế hệ cha mẹ họ - vốn được coi một trong bốn đồ vật quan trọng - có thể thấy xếp ở phía sau trong một số bức ảnh.
Những bức ảnh "Tài sản gia đình" không được biết đến rộng rãi bên ngoài Trung Quốc mặc dù một số đã được triển lãm tại Paris và New York.
Sang năm sẽ đánh dấu 10 năm bức ảnh đầu tiên được chụp và ông Hoàng Thanh Quân dự định sẽ trở lại những nơi ông đã từng tới - một số nơi vẫn có thể nhận ra được, để xem có những thay đổi như thế nào.
"Trong 10 năm qua Trung Quốc đã có tăng trưởng rất nhanh và tôi muốn trở lại để xem những ảnh hưởng của nó tới cuộc sống của người dân tại đây," ông nói.
Ông cũng hy vọng sẽ mở rộng phạm vi của dự án, đưa cả những viên chức chính phủ và các doanh gia vào bộ ảnh.
"Những bức ảnh đó có lẽ sẽ không thể chứa hết mọi tài sản mà họ có nhưng nó có thể đưa vào những vật dụng mà họ dùng hàng ngày.
"Từ những vật sở hữu của mỗi gia đình trong cuộc sống thường nhật của họ, quý vị có được một khái niệm rõ nét về cuộc sống của người dân Trung Quốc."
Hoa Kỳ và Châu Âu kêu gọi Việt Nam trả tự do cho ba blogger
Biểu tình tại Sài Gòn ủng hộ ba blogger Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần và Phạm Thanh Hải.
DR
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, hôm qua 24/09/2012, đã ra thông cáo cho
biết Washington « quan ngại sâu sắc » về việc ba blogger Việt Nam bị
kết án từ 4 đến 12 năm tù vì tội tuyên truyền chống Nhà nước, đòi phải
trả tự do cho họ. Cũng trong hôm qua, Bộ Ngoại giao Pháp tuyên bố « vô
cùng lấy làm tiếc » về bản án trên, còn Cao ủy phụ trách đối ngoại của
Liên Hiệp Châu Âu đòi trả tự do ngay lập tức cho ba blogger.
Bà Victoria Nuland, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố : « Chúng
tôi quan ngại sâu sắc về việc kết án ba blogger Việt Nam, mà chừng như
họ không làm gì khác hơn là sử dụng quyền tự do ngôn luận ». Thông cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ còn đòi hỏi chính quyền Việt Nam phải trả tự do cho ba blogger trên, và nhấn mạnh rằng « tự do báo chí là điều cốt yếu cho một xã hội cởi mở và công bằng ».
Người đứng đầu ngành ngoại giao của Liên Hiệp Châu Âu, bà Catherine Ashton tố cáo bản án trên là « đặc biệt nặng nề », và nhắc nhở « quyền cơ bản của mọi con người về việc tự do bày tỏ quan điểm của mình một cách hòa bình ».
Trong khi vẫn ca ngợi quan hệ tốt đẹp giữa Liên Hiệp Châu Âu và Việt
Nam, bà Ashton yêu cầu chính quyền Hà Nội nên tôn trọng những nghĩa vụ
quốc tế và trả tự do « ngay lập tức » cho các blogger vừa bị án tù.
Về phía Pháp, thông cáo của Bộ Ngoại giao Pháp hôm qua cho biết Paris « vô cùng lấy làm tiếc » về bản án dành cho ba blogger, bị tù vì « các quan điểm mà họ tin rằng có thể tự do bày tỏ ». Nước Pháp nhắc lại sự gắn bó với quyền tự do ngôn luận và tự do tư tưởng, kể cả trên internet, tại mọi nơi trên thế giới.
Xin nhắc lại, hôm qua trong một phiên xử diễn ra chỉ trong vài giờ,
ba blogger Nguyễn Văn Hải tức Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Phan Thanh Hải tức
Anhbasg, đã bị kết án lần lượt 12, 10 và 4 năm tù, kèm theo từ 3 đến 5
năm quản chế. Họ phải ra tòa vì tội danh « tuyên truyền chống Nhà nước » và « âm mưu lật đổ chế độ », có khung hình phạt lên đến 20 năm tù, vì đã viết blog tố cáo tham nhũng, bất công và chính sách đối ngoại của Hà Nội.
Việt Nam hiện đứng thứ 172/179 về tự do báo chí, theo bảng xếp hạng
của Phóng viên Không Biên giới. Tổ chức này, hôm qua, trên trang web của
mình đã nêu rõ, blogger Nguyễn Văn Hải đã bị giám sát nghiêm ngặt sau
khi phản đối rước đuốc Olympic đến Thành phố Hồ Chí Minh nhân Thế vận
hội Bắc Kinh 2008, cũng như việc ông tham gia biểu tình chống chính sách
xâm lược của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa. Còn blogger Phan
Thanh Hải thì viết về tranh chấp chủ quyền trên biển với Trung Quốc, và
chỉ trích việc khai thác mỏ bauxite ở Tây nguyên.
Friday, October 14, 2016
ĐẠT LAI LẠT MA - SẤM KÝ TRẠNG TRÌNH
Friday, September 28, 2012
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với phật tử Việt Nam : Chủ nghĩa Mác đã chết
Lãnh đạo tinh thần Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma
REUTERS
Phân chia tài sản đồng đều là một nguyên tắc hấp dẫn của chủ
nghĩa Mác, nhưng không bao giờ được thực hiện, còn các chế độ cộng sản
luôn luôn tìm cách kiểm soát đời sống và tư lưởng con người. Điều này
không thể chấp nhận được. Trên đây là thông điệp của Đức Đạt Lai Lạt Ma
trong buổi pháp đàm dành cho phái đoàn 102 phật tử Việt Nam tại
Dharamsala, Ấn Độ, nơi đặt bản doanh của chính phủ Tây Tạng lưu vong.
Theo bản tin của Asia News ngày 27/09/2012, một phái đoàn
phật tử Việt Nam theo hệ phái Tây Tạng đã đến Dharamsala, Ấn Độ, trong
lúc cộng đồng Tây Tạng lưu vong họp đại hội quyết định đường lối đấu
tranh mới với Bắc Kinh trong bối cảnh xẩy ra hàng loạt vụ tự thiêu tại
Hoa lục.
Phái đoàn này, một nửa từ Sài Gòn, một nửa từ Hà Nội, tổng cộng 102
người thành viên của Câu lạc bộ Giám đốc điều hành Việt Nam CEO’s Club,
một tổ chức doanh nhân phật tử “có ít nhiều cảm tình” với chính quyền.
Trong buổi pháp thoại đặc biệt dành cho đoàn phật tử Việt Nam, Đức
Đạt Lai Lạt Ma phân tích, chủ thuyết cộng sản chỉ mới có 200 năm mà đã
suy đồi, trong khi Phật giáo và các tôn giáo khác đã nhiều ngàn năm mà
vẫn thu hút cả thế giới. Ngài lưu ý phật tử là một số nguyên tắc của
chủ nghĩa cộng sản như là “chia sẻ tài sản đồng đều” nghe rất hấp dẫn. Nhưng trong thực tế, các chính quyền tự xưng là cộng sản “không bao giờ áp dụng” mà lại còn "kềm chế, kiểm soát tự do tư trưởng con người”, một điều mà Ngài khẳng định là “không thể chấp nhận được”.
Đức Đạt Lai Lạt Ma tỏ vẻ ưu ái phật tử Việt Nam, Ngài trả lời mọi
thắc mắc từ tình mẫu tử, từ câu hỏi của một người mẹ làm sao tạo ra cuộc
sống hạnh phúc gia đình cho đến chuyện Trung Quốc tranh giành chủ quyền
ở Hoàng Sa và Trường Sa. Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, “ phải giáo dục con trẻ trong tinh thần tự do ”, bản thân mình phải mở rộng lòng thương và sống tích cực trong mọi hoàn cảnh.
Trước thái độ xâm lược của Trung Quốc, Ngài khuyên là nên tìm cách
chuyển hóa họ trong tinh thần Bi, Trí, Dũng. Khi một phật tử mời Ngài du
lịch đảo Hoàng Sa hoặc Trường Sa, nơi Việt Nam đang xây một ngôi chùa
thì Đức Đạt Lai khuyên là nên xây trung tâm Phật học tại Hà Nội và
Sàigòn. Theo Khôi nguyên Nobel Hòa bình 1989, lập một tu viện tại Sàigòn
và Hà Nội vẫn hữu ích hơn ở hòn đảo nhỏ.
Theo Asia News, phái đoàn phật tử doanh nhân Việt nam gặp khó khăn
trước khi xin được visa sang Ấn Độ để tu học với Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Truyền thông Tây Tạng lưu vong rất quan tâm, quảng bá sự kiện này và
nhấn mạnh đến quan hệ chặt chẽ giữa đảng Cộng sản Trung Quốc và đảng
Cộng sản Việt Nam.
Đây là lần thứ hai, lãnh đạo tinh thần Tây Tạng giảng trực tiếp cho
phái đoàn phật tử Việt Nam. Lần đầu vào tháng 11 năm 2011 cũng tai
Dharamsala.
Một blogger Việt Nam, Quechoa, viết những dòng khâm phục : “Đức Đạt Lai Lạt Ma dù chưa tới Việt Nam bao giờ vẫn có thể nhìn thấu những vấn đề căn bản của đất nước này”.
Đề cập khả năng thay đổi tại Tây tạng
Lãnh đạo tinh thần Tây Tạng thẩm định là với thế hệ mới sắp lên cầm
quyền tại Bắc Kinh, hy vọng tình hình Tây Tạng sẽ thay đổi. Tập Cận Bình
sẽ không có con đường nào khác ngoài giải pháp toàn diện phục vụ quyền
lợi lâu dài của hai dân tộc.
Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, suốt chiều dài cuộc tranh đấu bền bỉ chống
chính quyền Trung Quốc, người dân Tây Tạng luôn nắm bắt mọi cơ hội để
giữ tinh thần lạc quan. Do vậy với sự kiện một thế hệ mới sắp lên cầm
quyền tại Trung Quốc đã tạo ra một tia hy vọng mới.
Từ Dharamsala, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận định là ban lãnh đạo mới tại Bắc Kinh « phải
chứng tỏ phải biết phân biệt phải trái và phải có một lập trường toàn
diện để phục vụ lợi ích lâu dài. Vì không có con đường nào khác”.
Ngài cảnh báo Trung Quốc là nếu tiếp tục dùng vũ lực, dùng kiểm duyệt để bóp nghẹt xã hội thì sẽ đi đến tiêu vong.
Theo AFP, một trong những tín hiệu cho phép lãnh đạo tinh thần Tây Tạng hy vọng Trung Quốc “thay đổi”
là thân phụ của ông Tập Cận Bình là Tập Trọng Huân đã từng gặp Đức Đạt
Lai Lạt Ma trong những năm đầu của thập niên 1950 trước khi có cuộc tổng
nổi dậy.
Tập Trọng Huân sau đó lên làm phó thủ tướng và có tiếng là thông hiểu
nguyện vọng của các sắc tộc thiểu số trong chế độ Trung Quốc. Giới
phân tích hy vọng nhân vật này đã “truyền” lại cho con trai tinh thần cởi mở này.
Dalai Lama nói về căng thẳng Việt-Trung
Cập nhật: 13:00 GMT - thứ năm, 27 tháng 9, 2012
Facebook
|
Đức Dalai Lama cho rằng không
nên xây đền chùa trên đảo để khẳng định chủ quyền ở Biển Đông, trong
buổi giảng cho một đoàn đến từ Việt Nam.
Một đoàn 102 người thuộc Câu lạc bộ Giám đốc
điều hành Việt Nam (Vietnam CEO Club) đã tham dự buổi pháp thoại từ hôm
24/9 với lãnh tụ tinh thần Tây Tạng lưu vong đang sống ở Ấn Độ.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Một người đã hỏi Ngài về căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc vì quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Người này hỏi sự phẫn nộ của Việt Nam có giúp
giải quyết tranh chấp và rằng nhiều người muốn mời Đức Dalai Lama ra xây
đền ở một trong các đảo.
Đức Dalai Lama trả lời: “Tôi không đặc biệt ủng
hộ việc xây tu viện hay đền thờ, tôi muốn nhìn thấy một trung tâm học
thuật, có thể làm trung tâm nghiên cứu triết học Phật giáo, Đạo giáo và
đạo đức thế tục.”
“Nếu một trung tâm như vậy có thể thành lập, có lẽ tốt hơn là đặt ở Sài Gòn hay Hà Nội thay vì trên một trong các đảo này.”
Đầu năm nay, Việt Nam đã gửi một số chư tăng ra các đảo ở Trường Sa để tiếp quản các ngôi chùa trên đảo.
Vị lãnh tụ tinh thần Tây Tạng cũng nói giận dữ không đem lại kết quả với người Trung Quốc.
“Tốt hơn là tìm cách gây ảnh hưởng bằng phương
cách thân thiện, dĩ nhiên có thể làm điều này từ vị thế cứng cỏi,” theo
tường thuật trên trang mạng chính thức của Ngài.
Ngài nhắc lại vào năm 1979, khi “Trung Quốc định dạy Việt Nam một bài học, họ đã gặp phải một quân đội thiện chiến, cứng cỏi”.
Marxist và Phật giáo
Trong buổi giảng, Đức Dalai Lama bày tỏ ngưỡng mộ dành cho kinh tế học Marxist, đặc biệt là tư tưởng phân chia của cải đồng đều.
Ngài nhấn mạnh mình phản đối chủ nghĩa toàn trị.
Ngài nói mặc dù mình có thể là một người Marxist, nhưng Ngài không đi
theo chủ nghĩa cộng sản do Lenin áp đặt.
Theo ngài, mặc dù chủ nghĩa Marx không nói về
kiếp trước đời sau nhưng có chia sẻ với Phật giáo ở niềm tin rằng định
mệnh do con người làm chủ.
“Một xã hội hạnh phúc phải do chính con người
tạo dựng, không phải chỉ qua cầu nguyện mà bằng hành động,” Đức Dalai
Lama nhận xét.
Đây là lần thứ hai một đoàn đi từ Việt Nam đến dự buổi thuyết giảng của Đức Dalai Lama.
Tháng 11 năm ngoái, tại Tu viện Namgyal ở
Dharamsala, Ấn Độ, Ngài cũng giảng bài cho hơn 120 người, trong đó có
những ngôi sao Việt Nam như diễn viên Hồng Ánh, ca sĩ Thanh Lam.
VẠN MỘC CƯ SĨ * BÀN VỀ SẤM KÝ & TƯƠNG LAI VIỆT NAM
I. NHÌN VỀ QUÁ KHỨ VIỆT NAM
Trong
lịch sử Việt Nam, giữa những trang tranh đấu xương máu hiện thực, có
nhiều trang ghi lại những chuyện tâm linh huyền bí.Lẽ tất nhiên, bá nhân
bá tính, có kẻ tin người không vì xã hội ta là xã hội tự do. Tuy xã hội
quân chủ là tư do mà là một xã hội đạo đức, chứ không phải mang hai mặt
như truyền thống Marx Lenin :một mặt hung bạo, gian manh, một mặt xưng
thần xưng thánh !
Các nhà viết sử, một mặt mang tính khách quan của sử học, ghi chép sự thực, vua và triều đình không được dòm ngó việc của sử quan. Một mặt các sử quan tin vào Trời Phật, tức là thuộc phái Duy Tâm như phe Marx nhận định.Vì vậy trong sử ta có nhiều đoạn viết về sấm.Sấm, hay sấm ngôn là những lời, những bài thơ ngắn hoặc dài, thường là ngắn, có nội dung tiên đoán tương lai của một ông vua hay một triều đại, hay một biến cố quan trọng sắp xảy đến cho một quốc gia, dân tộc. Tôi xin đưa một vài dẫn chứng về sử:
Theo sử sách, nhà tiên tri đầu tiên của Việt Nam là sư Định Không (730-808), thuộc đời thứ 8 dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Thuở nhỏ, Ngài thông về lý số, được mọi người tôn trọng, gọi ngài là trưởng lão. Khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (765-804) nhà Đường, sư lập chùa Quỳnh Lâm tại quê nhà. Lúc đào đất đắp nền, sư được một quả hương và 10 cái khánh. Sư đem xuống ao rửa, một cái khánh lăn xuống tận đáy ao. Sư làm bài tụng:
Địa trình pháp khí
Các nhà viết sử, một mặt mang tính khách quan của sử học, ghi chép sự thực, vua và triều đình không được dòm ngó việc của sử quan. Một mặt các sử quan tin vào Trời Phật, tức là thuộc phái Duy Tâm như phe Marx nhận định.Vì vậy trong sử ta có nhiều đoạn viết về sấm.Sấm, hay sấm ngôn là những lời, những bài thơ ngắn hoặc dài, thường là ngắn, có nội dung tiên đoán tương lai của một ông vua hay một triều đại, hay một biến cố quan trọng sắp xảy đến cho một quốc gia, dân tộc. Tôi xin đưa một vài dẫn chứng về sử:
Theo sử sách, nhà tiên tri đầu tiên của Việt Nam là sư Định Không (730-808), thuộc đời thứ 8 dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Thuở nhỏ, Ngài thông về lý số, được mọi người tôn trọng, gọi ngài là trưởng lão. Khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (765-804) nhà Đường, sư lập chùa Quỳnh Lâm tại quê nhà. Lúc đào đất đắp nền, sư được một quả hương và 10 cái khánh. Sư đem xuống ao rửa, một cái khánh lăn xuống tận đáy ao. Sư làm bài tụng:
Địa trình pháp khí
Nhất phẩm tinh đồng.
Trị Phật pháp chi hưng long
Lập hương danh Cổ Pháp.
法 器 出 現, 十 口 銅 鐘
李 興 王, 三 品 成 功
李 興 王, 三 品 成 功
Bài
sấm này tiên đoán họ Lý làng Cổ Pháp sẽ lên làm vua. Tam phẩm có hai
nghĩa : Nghĩa thứ nhất, ở triều Lê, Lý Công Uẩn làm Tả thân vệ Điện tiền
chỉ huy sứ có thể vào bậc tam phẩm. Nghĩa thứ hai là chữ Uẩn vì chữ Uẩn
gồm hai chữ giống chữ tam và chữ phẩm. Quả nhiên, hai trăm năm sau, Lý
Công Uẩn lên làm vua tức Lý Thái tổ (1010- 1225). Sư lại nói thêm:
Thập khẩu thủy thổ khứ
Cổ pháp danh hương hiệu.
Kê cư loan nguyệt hậu,
Chánh thị hưng tam bảo.
十 口 水 土 去
古 法 名 鄕 號.
雞 居 鸞 月 後
正 是 興 三 寶
十 口 水 土 去
古 法 名 鄕 號.
雞 居 鸞 月 後
正 是 興 三 寶
( Thập, khẩu, thủy, thổ, khứ
Tên làng là Cổ Pháp.
Gà ở sau loan nguyệt,
Tam bảo được hưng vượng)
Quả
nhiên năm kỷ dậu (1009), Lê Long Đỉnh chết, Lý Công Uẩn lên ngôi, Phật
giáo toàn thịnh. Sau sư trụ trì chùa Thiền Chúng ở làng Dịch Bảng, sau
đổi là Đình Bảng, phủ Thiên Đức ( Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Trước khi viên
tịch, sư dặn đồ đệ là Thông Thiện như sau:
Ta
muốn mở rộng làng nhà, nhưng e sau này sẽ có tai họa, vì người lạ sẽ
đến phá hoại cảnh thổ ta. Sau khi ta viên tịch, ngươi phải giữ gìn đạo
pháp của ta. Khi gặp người họ Đinh, thì truyền cho y, như vậy chí nguyện
của ta mới thỏa.
Nói xong thì tịch, thọ 79
tuổi. Thông Thiện dựng tháp thờ sư ở chùa Lục Tổ, ghi lời sư dặn vào đá.
Khoảng năm ất dậu (865), Cao Biền sang Việt Nam làm Tiết Độ sứ, Cao
Biền làm phép trấn yểm nhiều nơi, trong đó có làng Cổ Pháp, đúng như sư
Định Không tiên đoán.
Sư La Quý An là đệ tử đời thứ
mười dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi, sư họ Đinh, thuở nhỏ tham yết khắp các thầy.
Sau gặp sư Thông Thiện ở chùa Thiền Chúng, nghe sư nói một lời liền
giác ngộ, bèn theo Thông Thiện. Khi Thông Thiện sắp viên tịch, gọi sư
lại mà bảo:
Xưa thầy
ta là Định Không dặn rằng : Hãy gìn giữ pháp của ta, gặp người họ Đinh
sẽ giao truyền. Vậy ngươi hãy nhận lấy trách nhiệm này, ta từ giã đây'
Sư
Thông Thiện mất, La Quý An đi tìm đất dựng chùa, truyền giảng chánh
pháp, lời sư nói đều là sấm ngữ. Sư đúc tượng lục tổ bằng vàng nhưng sợ
trộm cướp bèn chôn xuống đất. Sư có di chúc:
Đại sơn long đầu khởi
Cù vĩ ẩn chu minh
Thập bát tử định thành
Miên thụ hiện long hình
Thố kê thử nguyệt nội
Định kiến nhật xuất thanh.
大 山 龍 頭 起
虬 尾 隱 朱 明
十 八 子 定 成
綿 樹 現 龍 形
兔 雞 鼠 月 內
定 見 日 出 清
Đại
sơn : Đinh Bộ Lĩnh ( Lĩnh là núi cao), Đinh Bộ Lĩnh lên làm vua năm mậu
thìn (968). Chu minh : ánh sáng đỏ, tức ánh sáng mặt trời. Chỉ Lê Hoàn (
trong chữ Hoàn có chữ Nhật), nhưng đây là mặt trời bị mây che ( ẩn ) vì
trên dưới đều có chữ nhất ngăn chận, và cây cối che lấp ( bên cạnh có
chữ mộc) . Lê Hoàn lên ngôi cuối năm canh thìn 980 ( cù vĩ). Thập bát tử
họp lại thành chữ Lý .Nhà Lý lên thay Tiền Lê. Miên thụ cây bông gạo.
Chữ Miên và chữ Uản giống nhau, đều là cây bông, cây gai dùng dệt vải
may quần áo. Uẩn là cây gai và Uản là súc tích thông nghĩa. Thố, kê,
thử nguyệt : trong khoảng tháng mão, tháng dậu, tháng tí, Lý Công Uẩn
lên ngôi. Quả vậy, ngày quý sửu, tháng mười, năm kỷ dậu (1909), Lý Công
Uẩn lên ngôi, mở một kỷ nguyên thái bình thịnh trị.
Năm thứ năm, niên hiệu Thái Bình (974), đời Đinh Tiên Hoàng, trong dân gian truyền tụng bài sấm sau:
Đỗ Thích thí Đinh Đinh,
Lê gia xuất thánh minh.
Cạnh đầu đa hoành nhi ,
Đạo lộ tuyệt nhân hành.
Thập nhị xưng đại vương
Thập ác vô nhất thiện
Kế đô nhị thập thiên.
杜 釋 弒 丁 丁
黎 家 出 聖 明
競 頭 多 宏 兒
道 路 絕 人 行
十 二 稱 大 王
十 惡 無 一 善
計 都 二 十 天
Dịch
Đỗ Thích thí Đinh, Đinh (Đỗ Thích giết hai người họ Đinh) : tháng mười, năm kỷ mão (979), Đỗ Thích giết Đinh Tiên hoàng và Việt Nam vương Đinh Liễn.
Lê gia xuất thánh minh ( Họ Lê làm vua sáng)
Đinh Toàn lên ngôi mới sáu tuổi, binh quyền lọt vào tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Bà Dương Thái hậu tư thông với Lê Hoàn, trao ngôi vua cho Lê Hoàn tức vua Lê Đại Hành. Lê Đại Hành lên ngôi đánh thắng quân Tống xâm lược.
Cạnh đầu đa hoành nhi ( Các trẻ tranh giành nhau). Đại lộ tuyệt nhân hành ( Trên đường cái, không người qua lại). Lê Đại Hành lên ngôi, cho con thứ ba là Lê Long Việt làm thái tử. Lê Đại Hành mất ( 1005), các con tranh giành nhau, đem binh chém giết nhau trong bảy tháng trường, ngoài đường không ai dám qua lại.
Thập nhị xưng đại vương. Thập ác vô nhất thiện
( Thập nhị tự xưng làm vua). Thập nhị là Lê Long Đỉnh giết anh là Lê Long Việt mà lên làm vua ( Trong chữ Đỉnh có Nhâm chiết tự là Thập Nhị). Long Đỉnh là người tàn ác ( Mười điều ác không có một điều lành) .
Thập bát tử đăng tiên : (Thập bát tử họp lại thành chữ Lý ) họ Lý sẽ lên làm vua.
Kế đô nhị thập thiên : Đô nhị thập thiên : bốn chữ này hợp thành Trần giả .
Năm thứ năm, niên hiệu Thái Bình (974), đời Đinh Tiên Hoàng, trong dân gian truyền tụng bài sấm sau:
Đỗ Thích thí Đinh Đinh,
Lê gia xuất thánh minh.
Cạnh đầu đa hoành nhi ,
Đạo lộ tuyệt nhân hành.
Thập nhị xưng đại vương
Thập ác vô nhất thiện
Kế đô nhị thập thiên.
杜 釋 弒 丁 丁
黎 家 出 聖 明
競 頭 多 宏 兒
道 路 絕 人 行
十 二 稱 大 王
十 惡 無 一 善
計 都 二 十 天
Dịch
Đỗ Thích thí Đinh, Đinh (Đỗ Thích giết hai người họ Đinh) : tháng mười, năm kỷ mão (979), Đỗ Thích giết Đinh Tiên hoàng và Việt Nam vương Đinh Liễn.
Lê gia xuất thánh minh ( Họ Lê làm vua sáng)
Đinh Toàn lên ngôi mới sáu tuổi, binh quyền lọt vào tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Bà Dương Thái hậu tư thông với Lê Hoàn, trao ngôi vua cho Lê Hoàn tức vua Lê Đại Hành. Lê Đại Hành lên ngôi đánh thắng quân Tống xâm lược.
Cạnh đầu đa hoành nhi ( Các trẻ tranh giành nhau). Đại lộ tuyệt nhân hành ( Trên đường cái, không người qua lại). Lê Đại Hành lên ngôi, cho con thứ ba là Lê Long Việt làm thái tử. Lê Đại Hành mất ( 1005), các con tranh giành nhau, đem binh chém giết nhau trong bảy tháng trường, ngoài đường không ai dám qua lại.
Thập nhị xưng đại vương. Thập ác vô nhất thiện
( Thập nhị tự xưng làm vua). Thập nhị là Lê Long Đỉnh giết anh là Lê Long Việt mà lên làm vua ( Trong chữ Đỉnh có Nhâm chiết tự là Thập Nhị). Long Đỉnh là người tàn ác ( Mười điều ác không có một điều lành) .
Thập bát tử đăng tiên : (Thập bát tử họp lại thành chữ Lý ) họ Lý sẽ lên làm vua.
Kế đô nhị thập thiên : Đô nhị thập thiên : bốn chữ này hợp thành Trần giả .
Kế đô nhị thập thiên tức là họ Trần sẽ kế tiếp làm vua.
Trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, ở hương Duyên Uẩn, châu Cổ Pháp, có cây gạo bị sét đánh, trong ruột cây có chữ:
Thụ căn diễu diễu ,
Mộc biểu thanh thanh.
Hòa đao mộc lạc,
Thập bát tử thành.
Đông A nhập địa
Dị mộc tái sinh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình
樹 根 杳 杳
木 表 青 青
和 刀 木 落
十 八 子 成
東 阿 入 地
異 木 再 生
震 宮 見 日
兌 宮 隱 星
六 七 年 間
天 下 太 平
樹 根 杳 杳
木 表 青 青
和 刀 木 落
十 八 子 成
東 阿 入 地
異 木 再 生
震 宮 見 日
兌 宮 隱 星
六 七 年 間
天 下 太 平
Sư Vạn Hạnh giải thích như sau :
Vua
thì non yểu, tôi thì cường thịnh. Họ Lê mất, họ Lý nổi lên. Họ Trần làm
vua, rồi đến Lê. Sau đó, họ Mạc nổi lên rồi nhà Lê trung hưng. Rồi họ
Trịnh mất. Trải qua năm, sáu năm, thiên hạ thái bình.(1)
Sấm Trạng Trình phần đầu cũng nhắc lại các việc trên:
7-Việt Nam khởi tổ xây nên
8 - Lạc Long ra trị đương quyền một phương
9 - Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
10 - Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
11 - Đến Đinh hoàng nối ngôi cửu ngũ
12 - Mở bản đồ rũ áo chấp tay
13 - Nhự đao phút chốc đổi thay
14 - Thập bát tử rày quyền đă nổi lên
15 - Đông a âm vị nhi thuyền
16 - Nam phương kỳ mộc bổng liền lại sinh
17 - Chấn cung hiện nhật quang minh
18 - Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
19 - Đoài cung vẽ rạng trăng thu
20 - Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn.
Trong
dân gian từ xưa đến vẫn có sấm. Sấm là do những bậc tiên tri nhưng cũng
có thể là do những tay chính trị làm ra. Nhưng ta phải phân biệt vì
những tiên tri thường là xuất hiên trước các sự kiện. Sấm ký nhiều khi là những ý
kiến bình luận.
Tại Hà Tĩnh, người ta ca tụng về họ Nguyễn Du:
"Bao giờ ngàn Hống hết cây,
Sông Rum hết nước, họ này hết quan."
Tại Nghệ An trước thời Lê đã truyền tụng:
+Bao giờ Bò Đái thất thanh,
Nghệ An sinh thánh rành rành chẳng sai."(Ca dao)
Nguyễn Thiếp thì nói:
+Đụn sơn phân giái,
Bò Đái thất thanh,
Đông Thành (2) phát thánh
Bò Đái thất thanh,
Đông Thành (2) phát thánh
Nhưng Nguyễn Thiếp thì nói câu sấm đó không đúng. (3)
Bò
Đái là một địa danh, là một cái suối kêu vang. Tại Nghệ An có hai ông
vang danh thiên ha. Một là Phan Bội Châu, hai là Nguyễn Tất Thành tức
Nguyễn Ái Quốc, là Hồ Chí Minh . Nhưng hai ông này đều quê Nam Đàn chứ
không phải quê Đông Thành . Hơn
nữa, ông Hồ là Quỷ vương, không phải là thánh vì ông cũng như Lenin,
Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot giết nhiều người quá, và ông rốt cuộc
cũng chỉ là kẻ bán nước cầu vinh, phản quốc hại dân! SAu này Hồ Chí Minh
và bọn cộng sản sửa lại là: Bò Đái thất thanh,
Nam Đàn sin h thánh.
Nam Đàn sin h thánh.
Thật ra ở Thái Nguyên cũng có suối Bò Đái.
Một lão nhân kể truyện trước 1945, cụ đi xin cơ bút.Trong thơ tiên có câu:
" Nhất nhật đằng vân quy Bắc hải"(
một ngày sau sẽ bay về biển băc) . Vì vậy sau di cư vào Nam, cụ tin
tưởng có ngày cả nhà trở về đất Bắc! Nhưng thực tế hơi khác điều cụ
nghĩ. Sau 1980, dần dần cả nhà đi máy bay ( đằng vân) sang định cư tại
Bắc Hải tức là Mỹ và Canada! Nhưng biết đâu sau này con cháu cụ sẽ trở
về Hà Nội trong ngày vinh quang?
Gần đây, người ta thường suy nghĩ về đoạn sấm ký dưới đây:
109- Ô hô thế sự tự bình bồng
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông ?
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch
Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng.
113- Kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc
Ngưu xuất lam điền nhật chính đông
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng
Tứ phương thiên hạ thái bình phong.
Trưóc
đây tôi nghĩ về đoạn này. Trong chiến tranh, nhất là khi Nam Băc chia
cắt, đường sắt Việt Nam cũng bị cắt đôi. Sau 1975, cộng sản tái lập giao
thông toàn quốc, Cục Đường Sắt lập ra "Xe lửa Thống Nhất" chạy suốt Nam Bắc. Tôi nghĩ câu sấm Trạng Trình rất đúng;
Trạng Trình đặt ra câu hỏi và trả lời:
Khi nào thì đường sắt Việt Nam nối liền?
Lả
khi Hồ Chí Minh (1890- 1969) và Mao (1893- 1976) chết. Chính trong giai
đoạn này đã xảy ra cuộc hải chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng Hòa và
Hải quân Trung Quốc. Hải quân Trung Quốc được Phạm Văn Đồng hoan hô
nhiệt liệt với công hàm công nhận chủ quyền Trung Quốc ở
biển đông:
Ngày 4 tháng 9 năm 1959, Bắc Kinh ra tuyên bố chính thức về hải phận của họ, bao gồm 12 hải lý từ bất kỳ mốc lãnh thổ nào của Trung Quốc, "trong đó tính gồm cả các đảo Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa.... tức là Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam"
Mười ngày sau, Thủ tướng Việt Nam Phạm văn Đồng gởi công hàm chính thức cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai.
Và
rõ ràng là ở thế kỷ XVI, Trạng Trình (1491-1585) đã thấy xe lửa Việt
Nam, cuộc hải chiến này và việc cộng sản chiến thắng miền Nam. Cũng có
thể ngài nhìn xa hơn nữa.
Nhân đây, tôi xin kể thêm một việc nhỏ. Giáo sư Bửu Cầm trước 1975 kể cho tôi nghe rằng người Mỹ đã tìm đến giáo sư và hỏi câu:
Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng. Có phải là chiến tranh ngoài biển không?Nay
những biến cố về biển đông dồn dập, uy hiếp sự tồn vong của nhân dân
Việt Nam, lòng tôi không nén được kinh hãi. Câu trên vẫn có thể hiểu một
cách khác.
Có ba sự kiện:
+Toàn cầu: Trung Cộng xâm lăng kinh tế khắp thế giới
Có ba sự kiện:
+Toàn cầu: Trung Cộng xâm lăng kinh tế khắp thế giới
+Về mặt biển: Cộng sản chiếm Hoàng Sa, Trường Sa và
vẽ lại bản đồ thềm lục địa hình lữỡi bò. Trung Cộng nửa đùa nửa thực đề
nghị với Mỹ đòi chia đôi Thái Bình Dương. Hơn nữa Trung Cộng đã đem
chiến thuyền diễn hành khắp nơi từ Á sang Phi.
+Về mặt bộ, Trung cộng đã trúng thầu nhiều mối làm ăn, nhất là việc làm đường xe lửa Trung Quốc Việt Nam mà địa điểm đầu là Hà Nội:
Công ty quốc doanh Đường Sắt số 6 của Trung quốc vừa trúng thầu xây dựng hệ thống đường sắt nội đô Hà Nội trị giá gói thầu $350.57 triệu, theo tin từ Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư CSVN được hãng tin tài chính Dow Jones thuật lại.
+Về mặt bộ, Trung cộng đã trúng thầu nhiều mối làm ăn, nhất là việc làm đường xe lửa Trung Quốc Việt Nam mà địa điểm đầu là Hà Nội:
Công ty quốc doanh Đường Sắt số 6 của Trung quốc vừa trúng thầu xây dựng hệ thống đường sắt nội đô Hà Nội trị giá gói thầu $350.57 triệu, theo tin từ Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư CSVN được hãng tin tài chính Dow Jones thuật lại.
Tin này
được đưa ra không thấy hệ thống báo chí trong nước loan tải vào lúc đang
có nhiều chuyện tố cáo các nhà thầu Trung Quốc trúng thầu hầu hết các
dự án đầu tư xây dựng lớn ở Việt Nam và họ đem lậu hàng ngàn công nhâu
đủ loại vào Việt Nam thay vì thuê mướn nhân công địa phương.
“Cổng thông tin điện tử” của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư CSVN phần tiếng Việt cũng không thấy đưa tin này.
Theo nguồn tin Dow Jones thuật lại từ bản tin của Bộ vừa nói cho biết
công ty của Trung quốc sẽ lập đồ án và xây dựng hệ thống 13.5 km đường
sắt cũng như cung cấp 52 toa xe trong vòng 5 năm.
Đường sắt sẽ xây dựng chạy từ trung tâm ở thủ đô tới quận Hà Đông nằm
phía Tây Nam thành phố, với phí tổn chung cho dự án là $552.86 triệu. Hà
Đông trước đây là thị xã của tỉnh Hà Tây nhưng nay trở thành một phần
của thủ đô khi được sát nhập vào thành Hà Nội mở rộng.
http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=142950
Phải chăng chiến tranh ngoài hải phận Việt Nam sẽ xảy ra trong thời gian làm xe lửa Trung Việt (Nam Bắc hà thời thiết lộ thông? ).
Phải chăng chiến tranh ngoài hải phận Việt Nam sẽ xảy ra trong thời gian làm xe lửa Trung Việt (Nam Bắc hà thời thiết lộ thông? ).
Suy
nghĩ lại, tôi thấy hai cuộc hải chiến khác nhau. Cuộc hải chiến Việt
Nam Cộng Hòa và Trung Quốc 1974 hay cuộc giao phong giữa hải quân Việt
Cộng và Trung cộng 1988 là không đúng ý nghĩa của Trạng Trình bởi hai
điều:
- Cuộc chiến trên chỉ hư hại vài chiếc tàu và chỉ chết mấy chục người thì không đáng kể.
- Cuộc chiến trên xảy ra khi Ưng khứ ( Mỹ bỏ đi) còn cuộc chiến tương lại là Ưng lai ( Mỹ trở lại) Trạng Trình muốn nói đến cuộc hải chiến kinh khiếp máu loang biển đông. trong tương lai . Từ trước, Mỹ chưa bao giờ đổ đại quân lên Trung Hoa lục địa, trong thế chiến, Mỹ chỉ gửi các phái bộ đến giúp cả hai phe Quốc cộng. Phải chờ thế chiến thứ ba, quân Mỹ mới tiến đánh Trung Cộng . Chính lúc này con chim ưng đạp đầu, mổ mắt con sư tử -- Nhược đãi Ưng lai Sư tử thượng --- Mỹ là chim ưng, Tàu được mệnh danh là con sư tử Á châu), thì thế giới mới hòa bình.
- Theo thiển ý , đoạn trên có ý nghĩa như sau:Bao giờ đường xe lửa Bắc Nam thông suốt? Bắc Nam đây là Việt Nam và Bắc Quốc Trung Hoa chứ không phải Bắc Kỳ- Nam Kỳ!Đó là giai đoạn Hồ Cẩm Đào ẩn dật, hay chết. .(Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch)Hải chiến rất khủng khiếp, máu loang biển động.Hai câu năm và sáu không rõ. Phải chăng chiến tranh chấm dứt năm dậu ?Và vị lãnh đạo Việt Nam tuổi sửu sẽ thống nhất đất nước ( Kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc)Ngưu xuất lam điền nhật chính đông)
- Chữ đãi có ý nghĩa sâu xa. Việt Nam và các nước lân cận sẽ bị Trung cộng khống chế hoặc xâm lược và phải cúi đầu cam chịu một thời gian. Phải chờ đợi quân Mỹ và đồng minh tiến công thì Việt Nam và thế giới mới được hòa bình.Trong hai cuộc thế chiến, bao giờ Mỹ cũng ra tay chậm. Chậm để chế tạo thêm vũ khí, chậm để quan sát. Chậm để cho các nước trắng mắt khi nhìn rõ bộ mặt thật của Trung Cộng, nhất là nhân dân Việt Nam ...những ai còn tin Hồ CHí Minh anh minh, đảng Cộng sản quang vinh và mối tình thắm thiết Việt Hoa.
Nhưng chờ đợi không lâu lắm ( trực đãi). Khi Mỹ và liên quân tấn công thì tình hình biến chuyển nhanh chóng.
Một
số người Việt Nam không tin thần thánh, bói toán. Đó là tự do của họ.
Đừng có nửa nạc nửa mỡ như các ông cộng sản lúc thì phỉ báng thần thánh,
mạ lị khoa học tiên đoán tương lai để rồi bắt giam người ta và khủng bố
người ta như họ đã làm với các tôn giáo và thầy bói, đồng bóng! Nhưng
nay cộng sản lại tin đồng bóng, thờ cúng, cụ thể là họ làm rầm rộ cái mà
họ gọi là "môn ngoại cảm"!Họ luôn luôn oai phong mà không chút xấu hổ
về những điều họ đã nói và làm trong quá khứ! Theo Nguyễn Đăng Mạnh
thuật lời Trần Quốc Vương, hồi kháng chiến
chống Pháp, Trung ương có giao cho ông Trần Huy Liệu bình tán những câu
sấm Trạng Trình ứng vào Cụ Hồ rồi cho truyền đi để tạo thành dư luận
quần chúng. (Hồi Ký 131). Như vậy là Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đã
xuyên tạc Sấm ký, dùng sấm Ký cũng như bao trò khác như Lê Văn Tám, ..
để dối gạt nhân dân. Còn chúng ta thì suy xét những bí ẩn đànfg sau
sấm ký để tìm tương lai cho dân tộc.
Dân ta
một số nông nổi. Vừa theo Tây phương ít tháng, vừa nghe cộng sản vài
ngày đã lên tiếng chỉ trích duy tâm thần bí, mê tín dị đoan. Không ai
phủ nhận Mỹ là khoa học kém nhưng người Mỹ bộ môn nào người ta cũng
nghiên cứu kỹ dù duy tâm hay duy vật. Xem như chuyện giáo sư Bửu Cầm
(đã mất tháng 6-2010 tại Việt Nam) và chuyện về tài liệu ông Đạo Nhỏ mà CIA lấy
đi thì sẽ thấy rõ người Mỹ nghiên cứu kỹ lưỡng như thế nào.TÀI LIỆU VỀ CÁC NHÀ TIÊN TRI
II.NHỮNG ĐIỀM BÁO TRƯỚC VỀ
TÐ÷NG LAI VI ỆT - NAM
Trong hơn hai mươi năm sống trong chế độ cộng sản, tôi luôn nghĩ
đến tương lai dân tộc Việt Nam chúng ta. Là một người chịu nhiều ảnh
hưởng Nho giáo, tôi tin tưởng chính sẽ thắng tà. Vả lại, theo kinh
Dịch, cực dương sinh âm, cực âm sinh dương,sự vật phát triển đến tận
cùng sẽ trở nên suy thoái. Nhất định một ngày không xa, chủ nghĩa cộng
sản sẽ bị đập tan. Bây giờ thành trì Liên Xô đã tan vỡ, Bắc kinh đã và
đang biến dạng. Nói chung, mô thức cộng sản đã không còn thích hợp trong
việc cứu quốc và kiến quốc. Ngay tại Việt Nam, người ta đã chạy theo
kinh tế thị trường, người ta ước mong được làm tay sai tư bản. Không
hiểu người cộng sản sẽ nghĩ sao về lời Mác dạy : "vật chất quyết định
tinh thần " , " hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc " ? Nay
họ theo hạ tầng cơ sở là kinh tế tư bản, thì cái thượng tầng kiến trúc
lại theo cộng sản được ư ?
Tôi rất tin tưởng thuyết định mệnh. Tôi nghĩ rằng tương lai Việt Nam đã được an bài từ trước mà chúng ta it ai đuợc biết. Phải đến khi sự kiện xảy ra rồi, chúng ta mới hiểu đươc ý nghĩa sâu xa của cổ nhân, hoặc ý nghĩa của những điềm báo trước.
Thật vậy, những việc lớn, việc nhỏ trong đời đều được báo trước. Tên người, địa danh, tên nước, quốc kỳ, quốc ca, những biến cố xảy ra như sao chổi, côn trùng, mưa gió .. .đều có những ý nghĩa.
鉞 là một ý nghĩa. Có người giải thích rằng nước ta ngày xưa là một quốc gia trồng lúa sớm nhất và tốt nhất thế giới . Lúc bấy giờ dân ta phần đông dùng búa nhỏ hay dao nhỏ để trồng lúa.Búa hay dao nhỏ này là Việt ( trong nghĩa phủ việt ). Nhưng nhiều người lại viết lầm thành chữ Việt
越 là vượt ( trong nghĩa việt dã , siêu việt ) . Nay thì ta dùng theo chữ và nghĩa thứ hai này.Tôi rất tin tưởng thuyết định mệnh. Tôi nghĩ rằng tương lai Việt Nam đã được an bài từ trước mà chúng ta it ai đuợc biết. Phải đến khi sự kiện xảy ra rồi, chúng ta mới hiểu đươc ý nghĩa sâu xa của cổ nhân, hoặc ý nghĩa của những điềm báo trước.
Thật vậy, những việc lớn, việc nhỏ trong đời đều được báo trước. Tên người, địa danh, tên nước, quốc kỳ, quốc ca, những biến cố xảy ra như sao chổi, côn trùng, mưa gió .. .đều có những ý nghĩa.
鉞 là một ý nghĩa. Có người giải thích rằng nước ta ngày xưa là một quốc gia trồng lúa sớm nhất và tốt nhất thế giới . Lúc bấy giờ dân ta phần đông dùng búa nhỏ hay dao nhỏ để trồng lúa.Búa hay dao nhỏ này là Việt ( trong nghĩa phủ việt ). Nhưng nhiều người lại viết lầm thành chữ Việt
Việt Nam nghĩa là vượt về, tiến về phương Nam. Nếu chúng ta tin rằng nước ta xưa thuôc gia đình Bách Việt, sau bị nhà Tần thống trị, các giống Việt khác nay đã trở thành châu huyện của Trung quốc, riêng Việt Nam đã chiến đấu và chiến bại nên chạy về phương Nam, định cư tại Hồng hà. Sau đó, cũng vì định mệnh an bài, chúng ta phải mở đường Nam tiến cho đến mũi Cà Mâu.
Đại dương đã ngăn cách bước tiến cha ông, nhưng cũng vì định mệnh an bài, chúng ta năm 1954, bỏ miền Bắc di cư vào Nam, và sau 1975, chúng ta cũng chạy về phương Nam, vượt biên qua Thái Lan, Phi Luật Tân, Indonesia tránh nạn cộng sản. Từ đó, người Việt Nam đi khắp thế giới. Nếu sự sụp đổ của cộng sản ở Đông Âu là một ngạc nhiên cho thế giới, thì sự ra đi bằng thuyền của nửa triệu người Việt cũng gây chấn động cho lương tri nhân loại.Không những người miền Nam ra đi mà người miền Bắc cũng ra đi. Họ cũng ra đi non nửa triệu, khoảng 200 ngàn ở lại Trung quốc, gần 300 ngàn đi sang các nước tự do,nhất là Hoa kỳ ! Sau khi Liên Xô tan rã, những anh hùng lao động, những con ông cháu cha trong đám lao công quốc tế đã chạy sang các nước tự do, hoặc ở lại Đức, Nga..đã nâng tổng số người Việt bỏ nước ra đi lên hàng triệu.
Từ trước, Việt Nam không có quốc kỳ. Nghe nói khi sứ bộ Phan Thanh Giản sang Pháp, người ta yêu cầu trương quốc kỳ Việt Nam, nhưng Việt Nam lại không có quốc kỳ cho nện Phan Thanh Giản phải lấy chiếc khăn màu vàng vua ban làm quốc kỳ. Cờ này treo lên làm nước Pháp rúng động vì theo luật hàng hải lúc bấy giờ,tàu treo cờ vàng là tàu có dịch hạch. Báo hại, các vị sứ thần phải giải thích nhiều bề !
Sau khi Nhật đầu hàng, năm 1945, chính phủ Trần trọng Kim ra đời, lấy cờ quẻ Ly☲ làm quốc kỳ. Ly 離 là lệ, là đẹp, là tươi sáng , là lửa , mặt trời, có ý mong mỏi Việt Nam trở thành một quốc gia đẹp đẽ, giàu mạnh. Cờ này màu vàng, giữa có ba sọc đỏ. Màu vàng là chính sắc, là trung ương thổ, tượng trưng cho vua, và cũng tượng trưng cho giống da vàng. Hai sọc hai bên dài, sọc giữa ngắt đôi ( ly trung hư nghĩa là quẻ Ly ở giữa rỗng ). Nhưng 離 cũng có nghĩa xấu vì ly là chia lìa, nhất là ly trung hư, giữa rỗng lại càng làm rõ sự chia cắt, đứt đoạn. Về sau này, có lẽ bị chê bai , vua Bảo Đại đã nối vạch dứt cho nên quẻ Ly thành quẻ Càn ☰ , gồm ba sọc đỏ dài bằng nhau. Đó là quốc kỳ Việt Nam thời quốc trưởng Bảo Đại cho đến Việt Nam cộng hòa.
Tuy vua Bảo Đại có ý mong mỏi Việt Nam tươi sáng, nhưng thiên ý chuyển vần sang nghĩa xấu. Ly là hỏa, là phương Nam, là chia lìa cho nên cờ này ra đời mở đầu cuộc chiến tranh non thế kỷ trên đất Việt. Ly còn có nghĩa là chia lìa cho nên đất nước chia đôi, lòng người ly tán, kẻ theo quốc gia, người theo công sản gây ra cuộc huynh đệ tương tàn. Chính chủ nhân nó, quốc trưởng Bảo Đại phải bỏ ngai vàng mà đi, bỏ nước mà đi, bỏ hết cơ nghiệp nhà Nguyễn.Và chúng ta, những người dân của chế độ, của đất nước cũng phải bỏ nước, bỏ địa vị, tài sản, bỏ gia đình mà đi, hết vào Nam lại ra ngoại quốc !
*
cờ quẻ ly * cờ quẻ càn
Có tài liệu nói cờ quẻ Càn là do họa sĩ Lê Văn Đệ ở Huế vẽ ra và vua Bảo Đại chấp nhận vào năm 1948. Tuy nhiên cũng có ý kiến rằng cờ vàng ba sọc đỏ là ý kiến của linh mục Trần Hữu Thanh. Sửa quẻ Ly thành quẻ Càn thì khá hơn nhưng áo rách vá lại, bình vỡ mà hàn gắn cũng là bất toàn. Kiền hay Càn ý nghĩa rất tốt là nguyên hanh lợi trinh 元, 亨, 利, 貞 vì Kiền tượng trưng TRời, là To lớn, Cứng, Ich lợi, Hanh thông, Quẻ Kiền tượng trưng cho Trời, Mặt trời nên các chính phủ miền Nam có chính nghĩa, tương đối có tự do, dân chủ, không gian manh tàn ác như cộng sản.
Quẻ Kiền Hào từ giảng :Rồng bay trên trời, ra mắt đại nhân thì lợi.
Cửu ngũ: phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân. 九五。飛龍在天,利見大人。Phi 飛 bay. Điều này cho biết Quốc gia được các đại cường giúp đỡ thì có lợi.Thật vậy, các cường quốc đã giúp Quốc gia chống cộng, và sau cũng giúp thuyền nhân Việt Nam định cư ở các nước.
Tuy nhiên quẻ Kiền cũng có vài khuyết điểm:
Về hình tượng, Kiền cũng như Ly ba vạch riêng lẻ cũng chỉ sự chia cắt. Hơn nữa, các hào của quẻ Kiền cũng có vài điểm xấu .
(1). Hào từ do Chu công giải thích về hào sơ: Sơ cửu: tiềm long vật dụng. 初九。潛龍勿用。 (Rồng gặp khó khăn phải ẩn náu, không thể hành động. )- Điều này cho thấy quốc gia từ đầu đã bị cộng sản cướp quyền, và chúng ra sức phá hoại, cho nên quốc gia không phát triển, không an ninh.
(2). Hào từ, Chu công giải thích về hào tam. Cửu tam: quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược, lệ, vô cữu.九三。君子終日乾乾。夕惕若,厲,無咎。( Người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn thận trọng như lo sợ, Nguy hiểm nhưng không có lỗi.) Điều này cho biết cộng sản khủng bố, phá hoại, nhân dân và chính phủ không được yên ổn. Dù chiến tranh, chính phủ Quốc gia cũng không hề thi hành các chính sách tàn bạo như cộng sản, nghĩa là không vi phạm những sai lầm đáng trách.
Không riêng gì Việt Nam, cờ các quốc gia khác cũng có ý nghĩa, nhất là cờ Trung hoa quốc gia. Cờ này là cờ " Thanh thiên bạch nhật, mãn địa hồng ". Góc bên trái màu xanh ( thanh thiên) ý mong muốn chủ nghĩa Tam Dân mở đầu môt kỷ nguyên mới, thái bình (thanh thiên) dân chủ và phát triển ( bạch nhật ), ba phần tư còn lại của nền cờ là màu đỏ ( mãn địa hồng , ý nói dân chúng ấm no hạnh phúc vì màu đỏ là màu vui tươi của Trung quốc) . Nhưng thiên ý lại khác. Cờ này đã tóm gọn đầy đủ tương lai của Trung hoa quốc gia :
-Thanh thiên : diệt trừ chế độ quân chủ nhà Mãn Thanh. ( thanh toán thiên tử )
-Bạch Nhật : đuổi quân Nhật Bản.
-Mãn địa hồng : trọn lục địa bị xích hóa, bị Mao Trạch Đông thôn tính. Nếu cờ này không có màu đỏ, có lẽ lịch sử Trung Hoa và Việt Nam đã đổI khác ! Cờ Liên Xô,Trung cộng, Việt Nam màu đỏ,biểu thị màu máu. Búa Liềm là hai vật riêng lẻ, một bên tiêu biểu công nghiệp, một bên tiêu biểu nông nghiệp. Hai cái này chồng lên nhau nghĩa là bỏ xó, nghĩa là công nghiệp, nông nghiệp lụn bại. chế độ suy sụp, Búa liềm cũng tượng trưng cho vũ khí của bọn khủng bố. Cờ cộng sản đều dùng sao vàng. Sao thuộc âm, ban đêm, là gian trá, không quang minh chính đại. Cờ đỏ sao vàng là cờ đại gian, dại ác, mở đầu một kỷ nguyên cộng sản tắm máu và khủng bố. Đây không phải là duy tâm, thần bí mà là cái nhìn xuyên suốt chính xác mà sau này Khrushchev đã vạch rõ tội ác Stalin, và quyển sách đen đã tố cáo cộng sản đã giết hại khoảng 150 triệu người dân trên thế giới!
Trên thế giới chỉ có hai quốc gia có lịch sử tương tự và quốc kỳ tương tự, đó là Nam Việt Nam và Nam Triều Tiên., hai nước này đều lấy kinh dịch làm quốc kỳ. Nam Triều Tiên lấy thái cực đồ làm quốc kỳ, âm dương lưỡng cực nói lên sự phân chia đất nước giữa hai thế lực tương tranh Quốc, Cộng.
Cái tên cũng là một điềm báo. Hồi vua Bảo đại mới lên ngôi, đồng bào Thiên chúa giáo đã rỉ tai :Bảo Đại là bãi đạo. Điều này sai vì vua Bảo Đại không kỳ thị tôn giáo,không cấm truyền đạo Gia tô. Nhưng điều này cũng đúng vì trong thời vua Bảo Đại trị vì, thời vua Bảo Đại còn sống, cộng sản đã bách hại tôn giáo.
Bảo Đại có tên là Vĩnh Thụy, Thuỵ là ngọc tốt, là điềm lành nhưng than ôi, thiên ý khác với nhân tâm , Thụy còn có nghĩa là tên người chết, vĩnh thụy có nghĩa vĩnh viễn là tên của một người đã chết, cho nên suốt đời, vua Bảo Đại đã không làm được gì cho đất nước. Thời Pháp ngài bị Pháp tước quyền, thời Việt Minh ngài bị Việt Minh cướp ngôi, thời Ngô Đình Diệm,ngài bị họ Ngô phản bội . Ba sọc vàng của quẻ Ly hoặc quẻ Càn đều cho thấy Ngài bị hai lần mất quyền, ba lần bỏ nước ra đi, luôn chịu cảnh yên lặng trong một nấm mồ!
Cụ
Nguyễn Sinh Sắc có hai trai, ngưới anh tên là Nguyễn Sinh Khiêm, người
em là Nguyễn Sinh Cung.(Nguyễn Sinh Cung sau này là Hồ Chí Minh ) và
một gái sau bị kết tội là địa chủ ,và bị giết chết trong Cải cách ruộng
đất cho nên dân miền Bắc rất khinh bỉ ông Hồ Chí Minh về tội đã giềt
chị ruột. Chúng ta nên biết rằng giọng Nghệ an rất nặng, và cũng có
thể do kiêng tên đã phát âm chữ CUNG, thành CÔÔNG, KHIÊM thành KHƠM Tài
liệu đảng ủy Nghệ An cho biết cụ Nguyễn Sinh Sắc cùng hai con phải cày
sâu cuốc bẫm mới có cơm ăn. Khi nào nhà có khách, ba cha con phải nghỉ
tay tiếp khách. Khách ra về, cụ bảng than thở với hai con :
Khơm (Khiêm ), Côông ( Cung ) ơi! Hôm nay mình khôông cơm rồi !
Cái hay ở đây là cụ Bảng nói lái : KHƠM CÔÔNG thành KHÔÔNG CƠM !
Thiên hạ đệ nhất gia mà không cơm thì nhân dân ta nghèo đói là phải !
Lại nữa, thiếu gì tên hay mà chủ tịch nhà ta lại lấy họ Hồ ! Và không hiểu tại sao, ông lại không muốn người dân gọi ông là bác Minh mà lại gọi là bác Hồ ? Đối với nhân dân ta, Hồ là hồ ly, Hồ là cáo, là chồn ,là loài gian xảo. Lại nữa, miền Trung nghèo đói, miền Trung là xứ dân gầy vì đất hẹp, vùng gần biển thì nước mặn, miền gần núi thì sỏi đá cho nên hoa màu luôn luôn thất bát. Nhất là xứ Nghệ Tĩnh rất nghèo. Gần làng Sen của họ Nguyễn có một làng chuyên môn đi ăn xin quanh năm .Những năm đói kém, người ta không ăn cơm đã đành, người ta cũng không dám ăn cháo mà chỉ ăn hồ, nghĩa là húp một thứ cháo rất loảng ! Cái họ Hồ đã báo trước dưới ách thống trị của ông, dân ta bị lừa đảo, bị đói khổ vô cùng !Ngoài ra, cái tên Chí Minh tưởng là hay nhưng đã báo trước đó là lời của nhân dân nguyền rủa và chỉ vào mặt:"
Chính mi! Chính mi đã gây tội ác! Chính mi đã bán nước hại
dân!
Quốc kỳ Quốc gia lại có một vấn đề rắc rối vì cờ quốc gia mà lời là lời của Lưu Hữu Phước, một anh cộng sản. Cũng bởi vì thuở ban đầu Hồ Chí Minh còn dùng bình phong quốc gia dân tộc cho nên dân ta và các nhà chính trị chưa nhìn rõ bộ mặt cộng sản của họ.
Như đã nói, cái tên là một định mệnh. Lúc bấy giờ nhà Hồ suy yếu, không cự nổi quân Trương Phụ, bèn chạy vào Hà Tĩnh. Các phụ lão bèn khuyên Hồ Quý Ly không nên chạy vào đây, vì núi Thiên Cầm có nghĩa là sẽ bị trời bắt giam. Hồ Quý Ly tức giận giết các bô lão để rồi bị bắt sang Kim Lăng.
Theo thiển kiến, đêm 22 rạng 23 tháng 4 âm lịch (tức 5, 6 tháng 7 năm 1885), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, đánh Pháp thất bại, vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), sau đó chạy ra huyện Tuyên Hóa ( Quảng Bình) . Tại Tuyên HÓa có động Minh Cầm rất lớn. Dù là Thiên Cầm, Minh Cầm, Cầm có nghĩa gì đi nữa thì cũng có nghĩa là bị bắt, bị giam, bị cầm tù. Vì vậy vua Hàm Nghi đã bị bắt sống. Nếu vua Hàm Nghi chạy ra Bắc, có lẽ tình thế đã đổi khác.
Chuyện này có ghi trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cuả Ngô Sĩ Liên. Tam Quốc Chí cũng có chuyện tương tự. Phụng Sồ đi đến đồi Lạc Phụng cho nên bị giết chết!
Nếu Cộng sản không đăt tên là Giải Phóng Miền Nam thì sự thể có lẽ đã khác.
Quốc ca Việt Nam cũng là một điềm báo. Cờ cộng sản màu máu, quốc ca cũng sặc mùi máu : Thề phanh thây uống máu quân thù !
Quốc ca của chúng ta báo trước rằng khi mặt trận Giải phóng của cộng sản ra đời thì sẽ có những mùa hè đỏ lửa ở Quảng Trị, những cuộc rút quân từ cao nguyên về Nha Trang, là những cuộc di tản bi thương dưới làn mưa đạn của cộng sản và những cuộc ra đi trên biển cả hoặc trong rừng sâu của bao dân chúng và chiến sĩ cộng hòa :Này công dân ơi ! Quốc gia đến ngày giải phóng ! Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống !
Thật vậy, quốc gia mà gặp Giải Phóng là gặp quỷ thì nhân dân phải liều chết mà chạy dù xông vào lửa hay băng qua rừng sâu hay trên biển cả cũng phải ra đi tìm tự do không tiếc mạng sống!
Ông bà ta nói: "khôn ngoan hiện ra mặt, què quặt hiện ra chân tay."Ngoài ra cái mặt của ông Hồ rất kinh khủng, rõ là mặt gian ác. Ở nước ta, có những khuôn mặt rất nổi bật, không cần học tướng pháp cũng biết. Đó là ông Hồ, Trường Chinh, ông Vô Hạnh và ông Nguyễn Cao! Những bộ tướnng này nay càng hiện rõ trong hành động mà cả nước đều biết là do Hồ Chí Minh, Trường Chinh giết hại dân, đem nước ta lệ thuộc Trung Quốc! Và hai ông kia đã khom lưng làm tay sai cho cộng sản bất chấp liểm sỉ!
Khơm (Khiêm ), Côông ( Cung ) ơi! Hôm nay mình khôông cơm rồi !
Cái hay ở đây là cụ Bảng nói lái : KHƠM CÔÔNG thành KHÔÔNG CƠM !
Thiên hạ đệ nhất gia mà không cơm thì nhân dân ta nghèo đói là phải !
Lại nữa, thiếu gì tên hay mà chủ tịch nhà ta lại lấy họ Hồ ! Và không hiểu tại sao, ông lại không muốn người dân gọi ông là bác Minh mà lại gọi là bác Hồ ? Đối với nhân dân ta, Hồ là hồ ly, Hồ là cáo, là chồn ,là loài gian xảo. Lại nữa, miền Trung nghèo đói, miền Trung là xứ dân gầy vì đất hẹp, vùng gần biển thì nước mặn, miền gần núi thì sỏi đá cho nên hoa màu luôn luôn thất bát. Nhất là xứ Nghệ Tĩnh rất nghèo. Gần làng Sen của họ Nguyễn có một làng chuyên môn đi ăn xin quanh năm .Những năm đói kém, người ta không ăn cơm đã đành, người ta cũng không dám ăn cháo mà chỉ ăn hồ, nghĩa là húp một thứ cháo rất loảng ! Cái họ Hồ đã báo trước dưới ách thống trị của ông, dân ta bị lừa đảo, bị đói khổ vô cùng !Ngoài ra, cái tên Chí Minh tưởng là hay nhưng đã báo trước đó là lời của nhân dân nguyền rủa và chỉ vào mặt:"
Chính mi! Chính mi đã gây tội ác! Chính mi đã bán nước hại
dân!
Quốc kỳ Quốc gia lại có một vấn đề rắc rối vì cờ quốc gia mà lời là lời của Lưu Hữu Phước, một anh cộng sản. Cũng bởi vì thuở ban đầu Hồ Chí Minh còn dùng bình phong quốc gia dân tộc cho nên dân ta và các nhà chính trị chưa nhìn rõ bộ mặt cộng sản của họ.
Như đã nói, cái tên là một định mệnh. Lúc bấy giờ nhà Hồ suy yếu, không cự nổi quân Trương Phụ, bèn chạy vào Hà Tĩnh. Các phụ lão bèn khuyên Hồ Quý Ly không nên chạy vào đây, vì núi Thiên Cầm có nghĩa là sẽ bị trời bắt giam. Hồ Quý Ly tức giận giết các bô lão để rồi bị bắt sang Kim Lăng.
Theo thiển kiến, đêm 22 rạng 23 tháng 4 âm lịch (tức 5, 6 tháng 7 năm 1885), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, đánh Pháp thất bại, vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), sau đó chạy ra huyện Tuyên Hóa ( Quảng Bình) . Tại Tuyên HÓa có động Minh Cầm rất lớn. Dù là Thiên Cầm, Minh Cầm, Cầm có nghĩa gì đi nữa thì cũng có nghĩa là bị bắt, bị giam, bị cầm tù. Vì vậy vua Hàm Nghi đã bị bắt sống. Nếu vua Hàm Nghi chạy ra Bắc, có lẽ tình thế đã đổi khác.
Chuyện này có ghi trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cuả Ngô Sĩ Liên. Tam Quốc Chí cũng có chuyện tương tự. Phụng Sồ đi đến đồi Lạc Phụng cho nên bị giết chết!
Nếu Cộng sản không đăt tên là Giải Phóng Miền Nam thì sự thể có lẽ đã khác.
Quốc ca Việt Nam cũng là một điềm báo. Cờ cộng sản màu máu, quốc ca cũng sặc mùi máu : Thề phanh thây uống máu quân thù !
Quốc ca của chúng ta báo trước rằng khi mặt trận Giải phóng của cộng sản ra đời thì sẽ có những mùa hè đỏ lửa ở Quảng Trị, những cuộc rút quân từ cao nguyên về Nha Trang, là những cuộc di tản bi thương dưới làn mưa đạn của cộng sản và những cuộc ra đi trên biển cả hoặc trong rừng sâu của bao dân chúng và chiến sĩ cộng hòa :Này công dân ơi ! Quốc gia đến ngày giải phóng ! Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống !
Thật vậy, quốc gia mà gặp Giải Phóng là gặp quỷ thì nhân dân phải liều chết mà chạy dù xông vào lửa hay băng qua rừng sâu hay trên biển cả cũng phải ra đi tìm tự do không tiếc mạng sống!
Ông bà ta nói: "khôn ngoan hiện ra mặt, què quặt hiện ra chân tay."Ngoài ra cái mặt của ông Hồ rất kinh khủng, rõ là mặt gian ác. Ở nước ta, có những khuôn mặt rất nổi bật, không cần học tướng pháp cũng biết. Đó là ông Hồ, Trường Chinh, ông Vô Hạnh và ông Nguyễn Cao! Những bộ tướnng này nay càng hiện rõ trong hành động mà cả nước đều biết là do Hồ Chí Minh, Trường Chinh giết hại dân, đem nước ta lệ thuộc Trung Quốc! Và hai ông kia đã khom lưng làm tay sai cho cộng sản bất chấp liểm sỉ!
Quyển Kim Cô Kỳ Quan , Tứ Thánh ở trong Nam là những quyển sách rất lạ. Nó ra đời rất lâu, có thể là đầu thế kỷ XX, trong đó có câu :
Xót thương chú Cộng chan dầm,
Đánh đông dẹp bắc mà lầm kế ai !
Thế là đầu thế kỷ XX, người ta đã biết cộng sản sẽ thất bại vì mắc mưu Trung Cộng, Việt Cộng sẽ bị Trung Cộng bắt làm nô lệ, Việt Nam sẽ bị Trung Cộng xâm lược, nhưng sau này Việt Nam sẽ đánh bại Trung Cộng, và xây dựng Việt Nam hùng mạnh
Nước Nam là một cái lầu,
Bốn phương thiên hạ đến chầu xung quanh.
Theo Trạng Trình và và các chân sư Hòa Hảo, vị lãnh đạo phục quốc là người họ Nguyễn, đã ra ngoại quốc và sẽ trở về diệt cộng xây dựng lại Việt Nam :
Tôi đã có lần ngồi uống cà phê với các bạn, bàn luận văn chương, thi phú,sấm ký. Tôi nói rằng có nhiều sấm ký giả tạo như về thời Ngô Đình Diệm có câu :
Theo Trạng Trình và và các chân sư Hòa Hảo, vị lãnh đạo phục quốc là người họ Nguyễn, đã ra ngoại quốc và sẽ trở về diệt cộng xây dựng lại Việt Nam :
Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về!
Tôi đã có lần ngồi uống cà phê với các bạn, bàn luận văn chương, thi phú,sấm ký. Tôi nói rằng có nhiều sấm ký giả tạo như về thời Ngô Đình Diệm có câu :
Khi nao ba tháng đủ liền,
Nhà chùa đổ máu, Ngô quyền ra tro.
Nhà chùa đổ máu, Ngô quyền ra tro.
Một ông bạn chưa quen biết , nói rằng những câu đó có từ lâu trong
tủ sách nhà anh,lúc mười tuổi, anh đã được đọc. Có nhiều câu hiện nay
vẫn được truyền tụng như :
Khi nao đá nổi lông chìm,
Đồng khô, hồ cạn, búa liềm ra tro!
Ý nghĩa rất rõ rệt. Khi nào Tưởng Giới Thạch ( đá nổi), và Mao trạch Đông chết ( lông chìm) , và khi Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh chết thì cộng sản ( búa liềm) tiêu tan.
Ngày nay dân ta vẫn truyền tụng Sấm ký Trạng Trình. Sấm Trạng Trình có lẽ có thể giải thích ứng vào nhiều giai đoạn. Nay Trung Cộng xưng hùng, muốn đánh Mỹ và chiếm thế giới. Cuộc chiến có thể xảy ra nay mai cuối 2012 đầu 2913 như Sấm Trạng Trình đã nói:
Khi nao đá nổi lông chìm,
Đồng khô, hồ cạn, búa liềm ra tro!
Ý nghĩa rất rõ rệt. Khi nào Tưởng Giới Thạch ( đá nổi), và Mao trạch Đông chết ( lông chìm) , và khi Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh chết thì cộng sản ( búa liềm) tiêu tan.
Ngày nay dân ta vẫn truyền tụng Sấm ký Trạng Trình. Sấm Trạng Trình có lẽ có thể giải thích ứng vào nhiều giai đoạn. Nay Trung Cộng xưng hùng, muốn đánh Mỹ và chiếm thế giới. Cuộc chiến có thể xảy ra nay mai cuối 2012 đầu 2913 như Sấm Trạng Trình đã nói:
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,
Can qua xứ xứ khởi đao binh.....
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình
Trước đây, Lê Quý Kiệt là con trai học giả Lê Quý Đôn có nói với các quan nhà Lê: Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về,
Nguyễn Huệ sẽ ra Bắc lần nữa thì bọn họ không chỗ chôn thây! Như vậy,
Nguyễn Hoàng đi vào Thuận Hóa thì Nguyễn Huệ ra Bắc, Nguyễn Huệ bỏ đi
thì Nguyễn Hữu Chỉnh lại về; Nguyễn Huệ về Nam rồi lại ra Bắc đánh tan
quân Thanh;Nguyễn Huệ chết thì sau đó Nguyễn Ánh lại về Thăng Long tiêu
diệt Tây Sơn. Họ Nguyễn này đi thì họ Nguyễn khác về, cứ liên tiếp như
vậy...
Thân dậu niên lai kiến thái bình.
Năm ất dậu 1945 chấm dứt thế chiến đệ nhị, có lẽ đệ tam thế chiến chấm dứt 2018?
Chúng ta thử tìm hiểu một đoạn khác:
410.Cửu cửu kiền khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập trường an.
Bảo Giang thiên tử xuất
415. Bất chiến tự nhiên thành
Lê dân đào bão noãn
Tứ hải lạc âu ca
Dục thức thánh nhân hương
Qua kiều cư Bắc phương
420. Danh vi Nguyễn gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang
(Bản Sở Cuồng)
Đoạn này có nhiều giải thích.
(1). Một số cho rằng Hồ binh là quân Mãn Thanh vào Thăng Long, nhưng quân Mãn Thanh vào Thăng Long tháng một năm mậu thân ( 1788), và Tết kỷ dậu (1789) Nguyễn Huệ đánh tan quân Thanh.. Vả lại, việc này Trạng Trình đã nói trước rồi:
Gà đâu sớm gáy bên tường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thủy binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
85. Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
(2). Cũng có vị giải thích đó là việc quân Tưởng tiến vào Hà Nội, nhưng đó là tháng 9- 1945, tức tháng 8 năm ất dậu. Việc này cũng không đúng tiết Thanh Minh và năm ngọ, mùi.
(3). Cũng có vị giải thích đó là lúc Cộng sản tiếp thu Hà Nội 1954, Hiệp đinh Geneve ký tháng 7-1954, Cộng sản vào Hà Nội tháng 10-1954, tức tháng chín năm giáp ngọ. Như vậy cũng không đúng vào tiết thanh minh, nhưng đúng năm ngọ và con số 9 ( cửu cửu càn khôn dĩ định) tức năm 1954, hai con số tận cùng 9 nút...
Ngày nay, chúng ta có thể suy nghĩ một cách khác.Phải chăng năm ngọ, mùi (2014-2015), khoảng tháng tư dương lịch tức tháng ba âm lịch tiết Thanh minh, , quân Trung Quốc tiến vào Hà Nội? Việt Nam nhờ liên quân Hoa Kỳ đánh bại Trung Cộng mà đắc thắng ( Bất chiến tự nhiên thành).
. Vị thánh nhân tương lai hiện định cư tại Bắc Mỹ (Qua kiều cư Bắc phương), họ Nguyễn, tuổi sửu (420. Danh vi Nguyễn gia tử ,Kim tịch sinh ngưu lang).
Cu Trạng dùng chữ rất chính . "Kiều cư" nghĩa là người nước ngoài sống tại Bắc phương chứ không phải dân Âu Mỹ chính cống. Đây nói rõ là người tị nạn cộng sản. Bắc Mỹ cũng có dân XHCN nhưng họ yêu đảng, yêu bác, tôn thờ Mao Trạch Đông, Xit ta lin vĩ đại, họ là tôi đòi của Tàu Cộng thì làm sao chống Việt Cộng và Trung Cộng cho nên trong cuộc phục quốc tương lai, e không có những người này!
Tại sao đoán là Bắc Mỹ vì nơi này có nhiều người quốc gia. Tuổi sửu thì có nhiều, ất sửu (1925) nay 87, đinh sửu (1937) nay 75 đã già, có lẽ tuổi tân sửu (1961) nay 63 hoặc quý sửu ( 1973) nay 51 tuổi.
Nhiều đoạn sấm ký cũng nói về họ Nguyễn và tuổi sửu:
-Kê minh ngọc thụ thi ên khuynh Bắc
Ngưu xuất lam điền nhật chính Đông
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng
Tứ phương thiên hạ
thái bình
-Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay
Lục thất cho biết ngày dài
Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê
Có thầy nhân thập đi về
162. Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay
Lục thất cho biết ngày dài
Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê
Có thầy nhân thập đi về
162. Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh
-Bảo Giang thiên tử xuất
415. Bất chiến tự nhiên thành
Lê dân đào bão noãn
Tứ hải lạc âu ca
Dục thức thánh nhân hương
Qua kiều cư Bắc phương
420. Danh vi Nguyễn gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang
415. Bất chiến tự nhiên thành
Lê dân đào bão noãn
Tứ hải lạc âu ca
Dục thức thánh nhân hương
Qua kiều cư Bắc phương
420. Danh vi Nguyễn gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang
- 450. Danh vi Nguyễn gia tử
Tinh bản tại Ngưu lang
Tinh bản tại Ngưu lang
- 480. Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm.
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm.
-Phá điền thiên tử xuất,
Bất chiến tự nhiên thành). (câu 35).
(bản Phùng Thượng Thư)
Chữ điền 田 cắt đôi là chữ sửu 丑
Cũng có vị giải thích phá điền là năm sửu. Nhưng câu trên Kê minh là nói năm dậu hòa bình, thì sửu là nói về tuổi. Vả lại, bản Thượng Thư có nói kim tịch sinh ngưu lang. Như vậy tuổi sửu cólẽ đúng.
Cũng có vị giải thích phá điền là năm sửu. Nhưng câu trên Kê minh là nói năm dậu hòa bình, thì sửu là nói về tuổi. Vả lại, bản Thượng Thư có nói kim tịch sinh ngưu lang. Như vậy tuổi sửu cólẽ đúng.
Đây là một đoạn của cơ bút bà Liễu Hạnh (1938)
Khỉ về Gà gáy oa oa
Khắp nơi lại dấy can qua kinh trời
Quỉ Ma đến lúc đi đời
Phụ Nguyên Trời đã định ngôi sẵn sàng
Chó mừng tân chủ rõ ràng
Bốn phương tấp nập lên đàng hồi hương
Không lâu nữa đâu, chúng ta hãy chờ đợi cơ trời sẽ xảy đến trước mắt
VẠN MỘC CƯ SĨ
____
1.Ngô Sĩ Liên. Toàn Thư I, bản dịch Viện Sử Hoc, KHXH,-186).
2.Bò Đái : Lao Tuyền (Khe Bò). Khe này ở xã Bích Triều, huyện Thanh Chương, Nghệ An. Nguyễn Thiếp có câu thơ nhắc đến câu sấm trong dân gian:Đụn sơn phân giái, Bò Đái thất thanh, Đông Thành phát thánh.(Khi nao núi Đụn nứt đôi,
Bò im tiếng,thánh sinh Đông Thành). Hoàng Xuân Hãn. La Sơn Phu Tử. Minh Tân. Paris.1952, chù, tr.62.
2.Bò Đái : Lao Tuyền (Khe Bò). Khe này ở xã Bích Triều, huyện Thanh Chương, Nghệ An. Nguyễn Thiếp có câu thơ nhắc đến câu sấm trong dân gian:Đụn sơn phân giái, Bò Đái thất thanh, Đông Thành phát thánh.(Khi nao núi Đụn nứt đôi,
Bò im tiếng,thánh sinh Đông Thành). Hoàng Xuân Hãn. La Sơn Phu Tử. Minh Tân. Paris.1952, chù, tr.62.
3.
Huyện Đông Thành thuộc phủ Diễn Châu, ở gần Thanh Hóa (Phan Huy Chú. Dư
Địa Chí, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, tr.69.Còn huyện Nam Đường ở
miền thượng du và biển,sau cải thành Nam Đàn, thuộc phủ Anh Đô sau là
Anh Sơn , ở giữa trấn Nghệ An. tr.72)
4. Trường Sa 1988 là tên gọi của cuộc xung đột trên biển Đông năm 1988 giữa Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa với Hải quân Nhân dân Việt Nam để chiếm các đảo thuộc quần đảo Trường Sa vào ngày 14 tháng 3 năm 1988 mà kết quả thắng lợi thuộc về Trung Quốc, phía Việt Nam mất 3 hải vận hạm của hải quân Việt Nam, 64 thủy binh Việt Nam đã chết.Trong các tài liệu của Hải quân Nhân dân Việt Nam, sự kiện này được biết đến với tên gọi CQ-88 (Chủ quyền-88). http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A3i_chi%E1%BA%BFn_Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_Sa_1988
4. Trường Sa 1988 là tên gọi của cuộc xung đột trên biển Đông năm 1988 giữa Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa với Hải quân Nhân dân Việt Nam để chiếm các đảo thuộc quần đảo Trường Sa vào ngày 14 tháng 3 năm 1988 mà kết quả thắng lợi thuộc về Trung Quốc, phía Việt Nam mất 3 hải vận hạm của hải quân Việt Nam, 64 thủy binh Việt Nam đã chết.Trong các tài liệu của Hải quân Nhân dân Việt Nam, sự kiện này được biết đến với tên gọi CQ-88 (Chủ quyền-88). http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A3i_chi%E1%BA%BFn_Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_Sa_1988
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 231
TƯỞNG NIỆM TRẦN HỒNG CHÂU-
Friday, September 28, 2012
HOÀNG NGUYÊN NHUẬN * TRẦN HỒNG CHÂU
Người Thi Triển Túy Quyền Trên Bục Giảng
Vào đề - Bài này được viết ra như một lời cám ơn khi
Hoàng tôi nhận được tác phẩm Dăm Ba Ðiều Nghĩ Về Văn Học
Nghệ Thuật của Thầy tôi gửi cho. Hoàng tôi vừa được tin
Thầy đã giã biệt cõi tạm. Xin mừng Thầy đã chuyển nghiệp,
xin thành kính phân ưu cùng tang quyến, môn đồ và bằng hữu
của Thầy.
Trại Ðỗ Quyên 11 giờ trưa ngày 13 tháng 12 năm 2003.
* *
Hàng năm ngày Tết chúng tôi có lệ lôi ra một tập thơ mình ưa
thích ra để bói... Kiều. Năm nay, chúng tôi dùng Hạnh
Phúc Ðến Từng Phút Giây (Văn Học, California 1999) của
Trần hồng Châu, vốn là... Thầy Hoạch ngày xưa của cả hai đứa.
Nhân đó, Hoàng tôi cũng hứa với Lệ Hằng sẽ viết một vài cảm
nghĩ về tập thơ này. Rủi cho tôi, lúc đó cũng là thời gian
Lệ Hằng nhảy choi choi như gà mắc đẻ vì bao nhiêu chuyện
điên đầu lỉnh kỉnh quanh việc di tản từ Phong Trang trên
Blue Mountains u nhã về Trại Ðỗ Quyên phồn hoa bụi bặm. Bà
ấy động tâm tán loạn làm tôi cũng lắc lư ‘điên’ theo, thế
nên lời hứa với đàn bà có khi trầm trọng chí tử mà có khi
cũng dễ theo gió bay đi? Trong khi tôi lửng lơ chưa giữ lời
hứa thì lại nhận thêm cho quyển DBÐNVVHNT (Trần Hồng Châu -
Dăm Ba Ðiều Nghĩ Về Văn Học Nghệ Thuật - Văn Nghệ,
California 2001).
Lệ Hằng lại đi Mỹ, phần chính cũng vì trắc ẩn đối với
một con nợ văn bi thảm tội nghiệp của Bà ấy. Nhà vắng cuối
tuần, không lý cứ lơ mơ quanh quẩn rồi than dài như Trịnh
công Sơn /thừa đôi tay dư làn môi/ hay /bạn bè rời
xa chăn chiếu/ ô hay mình vẫn cô liêu/ nên Hoàng tôi tôi
tự cho mình cấm trại mấy ngày để đọc một mạch cho xong
DBÐNVVNNT. Ðọc lần đầu, đã hẳn. Bởi những điều Trần hồng
Châu viết - kể cả thơ, không phải là những gì để chỉ đọc một
lần rồi thôi.
Chẳng hiểu sao mỗi lần nghĩ đến Trần hồng Châu, tôi lại
liên tưởng đến Thế Kỷ 20, xuất hiện rồi tuyệt tích
trên văn đàn Miền Nam đồng thời với Sáng Tạo bộ mới
và Hiện Ðại. Tôi đã quên hầu hết nội dung của Thế
Kỷ 20 số ra mắt, trừ bài đầu, nhất là mấy chữ đầu của
câu đầu: ‘Như một lẵng hoa...’, câu trực khởi rất Tây hấp
dẫn tôi như phù chú. (Trong bài này, tất cả những câu, những
chữ trong ngoặc đơn đều là từ DBÐNVVHNT). Sao có liên tưởng
đó? Có phải vì thuở ấy, tôi có điều khát khao cần được giải
tỏa và trông đợi tìm thấy chìa khóa nơi Thế Kỷ 20
nhưng Thế Kỷ 20 yễu tử khiến tôi thất vọng? Có phải
vì bài chủ lực của Thế Kỷ 20 số ra mắt là một trong
những bài văn luận bằng tiếng mẹ đẻ hay và... hậu hiện đại
nhất tôi được đọc thời đó? Ðó cũng là thời, vì mê bài tựa
truyện Kiều của Chu mạnh Trinh, Hoàng tôi đã ước ao thực
hiện một tuyển tập gồm những bài tựa, bài giới thiệu, bài
bạt... hay nhất cả bằng chữ Hán, chữ Nôm và ‘quốc ngữ’. Ước
vọng đó cho đến nay vẫn còn dang dở.
Năm 1997, khi ghi lại một vài cảm nghĩ về Trần hồng
Châu, tôi có nhắc đến tạp chí Thế Kỷ 20 rằng: ‘Tôi
đón nhận Thế Kỷ 20 của ông như đồ đệ vô danh đón nhận
‘lẵng hoa đầu xuân’ thầy mình gởi cho. Lẵng hoa đó không
tươi mãi được bởi ông không muốn trồng hoa... nylon hay chơi
hoa vải trong khi hoàn cảnh lịch sử quê hương không cho phép
những người không chịu sắp hàng được thong dong làm văn học
theo sở nguyện. Thế Kỷ 20 biến mất và những đồ đệ nam
nữ của ông lục tục đứa vào quân trường, đứa đi nếm mùi lao
lý, đôi đứa phải chạy qua bên kia dù không muốn sắp hàng
nhưng chẳng còn cách nào khác hơn vì lũ chúng tôi chỉ có hai
đường để lựa chọn hoặc vất vưỡng trong đống rác của tư bản
rừng rú hoặc chết ngộp trong chiếc lồng đầy hoa vô sản quốc
tế... Tôi đã chọn đường vẫy vùng giải hoặc và lạc mất ông từ
dạo đó cho đến khi có duyên may đọc lại văn thơ của ông nơi
chốn lưu đày...’ (Hoàng Nguyên Nhuận - Một Góc Trần Hồng
Châu). Ðó cũng là cảm nghĩ của tôi về Trần hồng Châu hơn
30 năm trước. Thật vậy, trên nguyệt san Vấn Ðề của Vũ
Khắc Khoan số 50 tháng 9.1971, tôi có viết: ‘Sự rã tan của
nhóm Quan Ðiểm đã gây ra một thứ trống không văn hóa góp
phần thành công cho nhóm Sáng Tạo, nơi phát sinh một
số cây bút có thế giá trong nhiều năm sau này. Nhưng Sáng
Tạo, rồi Thế Kỷ 20... chỉ sống được một thời gian
ngắn vì nội dung lạc lỏng, vì cố gắng tạo một sinh khí mới
nhưng chẳng biết để làm gì’. (Tùy Anh - Cuộc Khủng Hoảng
Trí Thức Việt Nam). Tôi ghi xuống những cảm nghĩ ấy
trong liên tưởng về dòng dẫn nhập của Trần hồng Châu trong
Thế Kỷ 20 số ra mắt. Dòng dẫn nhập ấy nguyên văn:
‘Như một lẵng hoa xuân trong mùa lửa hạ vô cùng tận
của miền Nam đất nước’. Mùa lửa hạ vô cùng tận... mấy
chữ dường như báo trước định phận của đứa con tinh thần
của Trần hồng Châu. Miền Nam đang triền miên tắm gội bằng
Napalm, B.40, chất Da Cam và những ý thức hệ ngoại lai xung
đối nên bó hoa xuân của Trần hồng Châu và thân hữu muốn hiến
cho đời chớp mắt đã bị thiêu rụi. Bài dẫn nhập này đã được
in lại trong DBÐNVVHNT hôm nay, vẫn long lanh như một hạt
ngọc.
Các đại học miền Nam trước 1975 không thiếu gì những
‘ông thầy Văn Khoa’. Nhưng theo tôi, thực sự dạy văn - đặc
biệt là Việt văn - với tất cả những nghiêm cẩn say mê nghiệp
dĩ không phải là nhiều. Sài Gòn có Thầy Nguyễn khắc Hoạch,
Huế có Thầy Lê Tuyên. Trong khi các thầy khác chỉ loanh
quanh giảng giải – expliquer, thì Thầy Hoạch, Thầy Tuyên vi
vút huê dạng với tài triển khai – expliciter, rất chi là
Hiện Tượng luận. Chỉ khác một điểm. Thầy Tuyên lên lớp phải
có giấy, như một thợ cắt kim cương lành nghề, tài hoa nhưng
chuẩn xác, không thiếu một câu không thừa một chữ. Thầy
Hoạch thì tay không, như kẻ nhàn du bát phố, như một nhân
vật võ lâm đang thi triển... Tuý quyền. Trên bục giảng, Thầy
Tuyên nghiến ngầm như kẻ xướng hịch, Thầy Hoạch ung dung như
một kẻ cầm chầu Hát Nói. Phải chăng vì vậy mà đa số những
tác phẩm trình đời của Thầy Tuyên là văn luận thì của Thầy
Hoạch lại là thơ? DBÐNVVNNT là đứa em... áp út chào đời sau
một đàn anh tùy bút (Thành Phố Trong Hồi Tưởng - An
Tiêm, California 1991), và ba đàn chị thơ (Nửa Khuya Giấy
Trắng - Thanh Văn, California 1992; Nhớ Ðất Thương
Trời - Thế Kỷ, California 1995 và Hạnh Phúc Ðến Từng
Phút Giây ). Nghĩ như Trần hồng Châu rằng: ‘Sống những
giờ phút yêu đương, thể hiện yêu đương trong cuộc đời chắc
có thể thú vị hơn viết vài pho sách mổ xẻ tình yêu!’ thì
tránh sao khỏi móng vuốt của kiều nữ Ly Tao?! Trong câu này,
‘thú vị’ nhất có lẽ là ba chữ ‘chắc có thể’. Ðã chắc
lại còn có thể, đã có thể lại còn chắc...
Chỉ có tiếng Việt và những người chủ động tiếng Việt bản
lãnh như Trần hồng Châu mới biết lúc nào cần ghép ba chữ đó
lại với nhau một cách... Thiền vị như thế. Có phải vì bản
tâm Trần hồng Châu dịu dàng hòa ái, hay vì không muốn cọ xát
với hồng trần phồn hoa, nên Trần hồng Châu chọn con đường
thơ vì dù ‘... thơ ít có liên quan với thực tại và thực
tiễn!’ nhưng chính thơ mới đủ sức ‘đưa ta thẳng vào tận
trung tâm sự vật, để vươn tới xứ sở của Chân Thiện
Mỹ’?
Một điểm hấp dẫn nữa của DBÐNVVHNT là tiếp sau phần
‘giảng bài’- kể cả bài điểm quyển hồi ký của Giáo sư Nguyễn
đình Hòa vốn là đồng nghiệp của Trần hồng Châu và bài tiểu
luận về ‘vận nước nổi trôi’ của Bác sĩ Hoàng văn Ðức tiếp
sau các phần kiến giải về tư tưởng Xuân Thu và nghệ thuật
thịnh Ðường, về tình yêu trong truyện Nôm, về Nguyễn công
Trứ, về Albert Camus - là phần châu phê những học trò xuất
sắc - hay như chính lời Trần hồng Châu, ‘những học trò siêng
năng, gần gũi của ông thầy Văn Khoa’. Trong phần châu phê
này, Trần hồng Châu thư thái biểu diễn những cách ‘nghĩ về
văn học nghệ thuật’ của ông cũng như chiều hướng và khả năng
sáng tạo ông muốn truyền thụ cho họ thực hành, trong khi ân
cần chỉ cho họ thấy rõ hơn và tự tin hơn vào những sở trường
cần triển khai nơi chính họ. Thủ thuật này hiển lộ qua cách
Trần hồng Châu đặt tiểu đề cho toàn bộ tác phẩm hay riêng
một tác phẩm mà ông giới thiệu. Trần hồng Châu phê Phạm xuân
Ðài của Hà Nội Trong Mắt Tôi là ‘con người yêu chân,
thiện, mỹ quay đầu nhìn về quê hương khổ đau’. Bụi và Rác
của Nguyễn xuân Hoàng là ‘nỗi đau của tất cả chúng ta
hôm nay’. Nghề Làm Vua của Lệ Hằng là ‘bản cáo trạng
nhắm thẳng vào cường quyền trong suốt chiều dài lịch sử’.
Tiểu luận của Hồ đình Chữ về Tản Ðà và Tình Yêu là ‘đường
vào tình sử’. Sử Ca của Nguyễn xuân Thiệp là ‘thơ và
huyền thoại trên thượng nguồn dòng sông lịch sử’. Tập Văn
Luận của Lưu Nguyễn Ðạt là tấm gương phản ánh ‘một người
‘phải lòng’ tiếng Việt’. Từ Ðiển tiếng Huế của Bùi
minh Ðức là ‘cuốn từ điển phương ngữ viết bằng trái tim’.
Hồng khắc Kim Mai qua hai tập thơ Mắt Màu Nâu
và Em Cho Ta Tình Thơ là hình ảnh của ‘Bạch Tuyết,
một mình giữa bão lốc thời đại’. Trong Mê Cung của
Nguyễn trung Hối là ‘vũ trụ hư cấu của kẻ đào thoát khỏi
bản ngã và kỷ niệm’. Ðỗ quý Toàn là kẻ ‘đi vào mê hồn trận
của thơ và tiếng nói’ trong Tìm Thơ Trong Tiếng Nói
... Lối châu phê tài tình bay bướm này nhắc Hoàng tôi nhớ
đến một vị Thầy quý mến hồi Ðệ Tứ. Thầy Cao hữu Triêm, một
dị nhân kiệt xuất trong giới nhà giáo Huế. Thay vì trừng trị
Hoàng tôi ham... trốn học lang thang hay đi trễ về sớm, Thầy
Triêm chỉ phê đại để... Học khá, nhưng xuất hiện phi
thường! Tôi chỉ khổ vì phải giải thích cho gia đình tôi
mấy chữ đó trong học bạ có nghĩa gì.
Cho đến bây giờ hình như chưa nghe ai than là bị ‘ông
thầy Văn Khoa’ phê oan, do đó cũng không nghe ai khiếu nại
là thầy thương không đều cả. Chính qua phần châu phê này mà
người ta thấy rõ cái trăn trở và can trường trí thức, cái
tài lăng ba vi bộ của một kẻ đứng giữa lằn ranh mong manh
của một bên là ‘nghề’ văn khoa phải bám sát các lý thuyết mỹ
học và phê bình văn học, một bên là cố gắng vươn lên, cố
gắng đóng ngoặc những lý thuyết đó vì nghiệp dĩ sáng tạo.
DBÐNVVHNT là một thủ bản có thế giá về phê bình và lý
luận văn học nghệ thuật. Vốn là một sản phẩm sáng giá của
Sorbonne quyền quý tao nhã, dĩ nhiên cái nhìn của Trần hồng
Châu nặng Tây Âu hơn là Anglo-saxon. Ðó là một điều may cho
người đọc. Bởi trong thế giới hiện đại, phê bình và lý luận
văn học nề nếp chững chạc nhưng rất người vẫn là của Tây Âu,
nhất là Pháp. Hay nói như Trần hồng Châu: ‘người Pháp, người
Ý, có lẽ khôn ngoan, hồn nhiên, đi sâu vào nghệ thuật sống
hơn người Mỹ, người Anh’.
Phong cách suy tưởng của Trần hồng Châu ‘nặng’ Tây Âu
nhưng Trần hồng Châu không hề tỏ ra xu phụ hay thần phục,
ngay cả chạy dọi theo đuôi những nhân vật đầu đàn trong
ngành phê bình và lý luận mỹ học của Tây Âu như một số
chuyên gia phê bình lý luận văn học - hải ngoại cũng như
trong nước, đã và đang làm. Từ sau những đợt đánh phủ đầu
của thực dân Pháp, một số trí trức Việt Nam - hữu cũng như
tả - trở nên lòa mắt khớp mấy ông thần bà thánh triết lý,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật của Tây phương, cũng thuần
thành như cácx bậc trưởng thượng của họ ngày xưa thuần thành
với lề lối suy tư Tử viết hay /đạo thầy thứ nhất là Nho/
hay giáo chủ này phán rằng, giáo chủ kia dạy rằng. Trần hồng
Châu là một trong những biệt lệ, học Tây phương nhưng lại
không hành xử như những học trò của Tây phương. Trần hồng
Châu đan cử những tư tưởng, liệt kê những tên tuổi bậc thầy
của Tây phương không phải như những á thánh, những tín điều
hay những định đề, nhưng chỉ như là những ví dụ, hiển chứng
hay trang hoàng cho điều Trần hồng Châu muốn nói. Trần hồng
Châu có sự tự trọng và tự ái của một kẻ tự mình biết thế nào
là phải và trái, toàn cầu và tổ quốc, dân tộc và nhân loại.
Trong cuộc phỏng vấn năm 1995 của nguyệt san Văn
Học, Trần hồng Châu thú nhận: ‘Tôi thường thấy mệt mỏi
với lý thuyết văn nghệ’. Một năm sau, khi trả lời nguyệt san
Khởi Hành, Trần hồng Châu lại nhắc: ‘Tôi ít để ý đến
lý thuyết, trường phái, mới cũ hay Ðông Tây’ chỉ làm cho
người ta ‘sa lầy trong những tranh luận lý thuyết trừu tượng
và không tưởng’. Hai năm sau, trong bài phỏng vấn trên đài
RFI tháng 3.1998, Trần hồng Châu lại nói: ‘Dần dần tôi cảm
thấy mệt mỏi, bảo hòa’ (với những quan điểm và lý thuyết
sáng tạo). Mệt mỏi bảo hòa vì những lý thuyết đó chỉ là ‘màu
xám của lý trí trừu tượng, xa rời cái sống động, nóng hổi và
xanh tốt của nhân sinh’ trong khi những lý thuyết mới như
Tân tiểu thuyết, Tân phê bình, Cơ cấu luận, chủ trương Hủy
tạo lại ‘xa rời nhân sinh, phản văn nghệ và không phát triển
được’. Lý thú hơn nữa là, như một thiền sư dùng thét và gậy
khai tâm cho môn đồ, Trần hồng Châu ‘quại’ luôn người phỏng
vấn vốn là kẻ đang... e lệ ngập ngừng đi vào thế giới phê
bình văn học dưới ánh sáng của cơ cấu luận và hủy tạo!
Qua DBÐNVVHNT, bằng phong thái và bút pháp của một ‘trí
thức sáng tạo’ tự tín khiêm cung và lịch lãm, Trần hồng Châu
kiến giải những vấn đề gai góc của văn học nghệ thuật một
cách bình dị, không rườm rà khúc mắc, không kinh viện nặng
nề, không dung tục trịch thượng và cũng không nhũn nhặn tự
ty. Trần hồng Châu biết mình nói gì, những gì cần nói và nói
như thế nào, bằng một ngôn từ lịch sự khoan hòa trong bóng.
DBÐNVVHNT là một thứ bí kíp, một bài ‘Hiệp Khách Hành’ để
lại cho ‘văn lâm’ của miền Nam Việt Nam trước 1975 và lưu
vong hôm nay - mà theo Trần hồng Châu có cùng một bản chất,
một ý hướng và một định phận. Qua DBÐNVVHNT, Trần hồng Châu
rành mạch kiến giải những vấn đề như sáng tạo văn học nghệ
thuật, và riêng văn học nghệ thuật Việt Nam trong bối cảnh
văn học nghệ thuật thế giới, vấn đề văn học nghệ thuật Miền
Nam trước 1975 và lưu vong hiện nay đứng ở đâu và đi về
đâu...
Trần hồng Châu thú nhận mình là kẻ ‘tha thiết hướng về
Chân Thiện Mỹ’, chân thành, tự hào và tam ‘độc’ - độc nhất,
độc lập, độc đáo. Trần hồng Châu đề cao ‘Tâm Thiện’ khi sáng
tạo, trong khi có kẻ ồn ào sửa lưng Nguyễn Du sai khi bảo
chữ Tâm bằng ba chữ Tài. Sai! vì chỉ có tài mới là động năng
đẩy người sáng tạo theo mới, theo ‘tân’, mới đủ sức làm ‘phá
thể’, ‘hủy tạo’, ‘tân tiểu thuyết’, ‘tân phê bình’.
Trần hồng Châu không dựa vào phe này để chơi phe kia,
không lấy lý thuyết chọi lý thuyết, không lấy ý thức hệ dập
ý thức hệ bởi vì, trong khi sinh hoạt văn học nghệ thuật chỉ
huy tuột dốc vào hố thẳm ‘U mê, cuồng tín, ác độc và lòng
tham không đáy’, thì nền văn học nghệ thuật tự do dân chủ
lại dậm chân tại chỗ trong ‘những lớp bụi bậm của lý trí
lạnh lẽo, ‘mốt’ thời thượng, phấn son làm dáng, ấu trĩ tầm
thường, khuôn mòn bảo thủ ù lì hay cái ‘mới’ a dua, giả tạo,
hung hăng...’.
Trần hồng Châu cảnh giác về hiện tượng tiếng Việt như
một chủng loại trên đà tận diệt: ‘Trong hoàn cảnh hiện tại,
ở hải ngoại, ta còn có thể cầm cự trong một vài thập niên
nữa, cho tới khi không còn người ‘sản xuất’ cũng như người
‘tiêu thụ’ văn nghệ...’. Trần hồng Châu nghiêm cẩn nhắc đến
hai chứng bệnh đang tiếp tay cho sự tàn phai đó. Ðó là ‘cái
a dua thời thượng, cái giả tạo đôi lúc ồn ào quá mức... và
cái ‘hội chứng phe nhóm’. Ðồng thời Trần hồng Châu cũng vạch
ra đường sống và con đường tiến tới của văn học nghệ thuật
hải ngoại đó là ‘phải vươn tới cái khối hơn bẩy mươi triệu
dân Việt ở trong nước, loại độc giả đang thèm khát những
luồng gió mới’. Ðây là một gợi ý nghiêm túc, thiết thực. Và
can đảm nữa. Can đảm vì đi ngược với cái ‘a dua thời thượng’
và ‘giả tạo ồn ào’ của văn học nghệ thuật lưu vong vốn có
khuynh hướng nhìn Việt Nam như một bế tắc tuyệt vọng. Khuynh
hướng này đòi hỏi người làm văn học nghệ thuật phải tỏ ra
tiếc hận, bi phẫn, hay ít ra cũng hờ hững xa cách, hoài nghi
hay trịch thượng khi nói về hay viết về bất cứ gì của Việt
Nam. Nếu không thì có thể bị tố là lội ngược dòng, là không
thời thượng, không chính thống, không thuần túy, không dứt
khoát.
Thuần thành và dứt khoát tôn trọng cái tự do của người
sáng tạo như một tâm nguyện thiêng liêng, Trần hồng Châu
cũng cố gắng níu sáng tạo văn học nghệ thuật ở lại với trần
gian, không phải là một trần gian mơ hồ vô xứ, nhưng là một
trần gian có tên Quê Hương. Tìm được cán cân quân bằng giữa
toàn cầu và địa phương, giữa nhân loại và dân tộc là một
trong những bận tâm của Trần hồng Châu. Ðó là một điều rất
khó - mà hình như cũng là rất dễ, với những kẻ vì nghiệp dĩ
lịch sử phải sống đời lưu vong để rồi phải luôn luôn xao
xuyến trằn trọc giữa lưu đày và quê nhà như lối nói
của Camus. Cho nên, trong khi đa số đang lặp đi lặp lại hai
chữ ‘toàn cầu’ ‘quốc tế’ như bùa chú, trong khi một số người
chỉ muốn nghĩ đến chuyện lìa xa tổ quốc, chôn chặt bản lai
diện mục ‘Mít’ của mình, Trần hồng Châu lại chủ trương tuy
phải ‘vượt ra ngoài biên giới địa phương mỗi khi suy luận về
văn nghệ. Nhưng khi sáng tạo thì cần hòa hợp nhiều yếu tố
trong đó yếu tố quê hương vẫn chiếm phần quan trọng. Vì, chỉ
khi chúng ta hoàn toàn là chúng ta, là quê hương chúng ta,
chúng ta mới đạt tới cái khái quát, cái toàn diện của con
người, của nhân loại... Trên con đường dài, giữa cảnh núi
rừng bao la, nhiều khi người thám hiểm cũng cảm thấy cô đơn
hay mỏi mệt, đôi lúc thấy phải dừng chân về thăm hay tưởng
nhớ lại quê cũ và truyền thống xưa, để tìm ở đấy những điểm
tựa, những niềm an ủi, những lý do tin tưởng, hầu mong vững
lòng tiến xa hơn nữa’.
Một tình yêu quê hương đậm đà, một phong thái bay bướm
nhàn nhã, đó là hai bản sắc của Trần hồng Châu mà Hoàng tôi
cố theo, cố học. ‘Phải dừng chân về thăm hay tưởng nhớ lại
quê cũ và truyền thống xưa, để tìm ở đấy những điểm tựa,
những niềm an ủi, những lý do tin tưởng...’ Ðó chính là bí
kíp sáng tạo của Trần hồng Châu - một người từng ăn pâté
chaud của Pháp và hot dog Mỹ đến mòn răng, một người biết
Pháp biết Mỹ đến độ... thập thành - chứ không phải chỉ biết
sơ sơ ba rọi. Ðọc những vần thơ cổ kính của Trần hồng Châu
mới thấy được cái cảm thức /cử đầu vọng minh nguyệt/ đê
đầu tư cố hương/ hay /bao năm cúc nở riêng sầu/
của ông sâu đậm và quay quắt đến mức nào.
Nhận được
quyển DBÐNVVHNT, liếc nhìn tựa sách, tôi mĩm cười và tưởng
tượng mình đang hầu chuyện với ông Thầy mình cách xa vạn
dặm: ‘Thưa Thầy, sao lại dăm ba điều mà không phải
dăm điều, ba điều hay ít nữa cũng là những điều
hay đôi điều’?! Hỏi thì hỏi, tôi thừa biết, một nhà
mô phạm thường ‘không lý giải, không lý luận’ như Thầy, Thầy
sẽ không hơi đâu dài dòng, Thầy sẽ trả lời tôi bằng một câu
hỏi: ‘Tại sao cậu hỏi vậy’? Cho nên tôi lại mườn tượng nghe
tiếng mình: ‘Vì, thưa Thầy, Thầy dạy con hỏi chứ không dạy
con nhắm mắt nhận những câu trả lời sẵn có’. Ngôn từ nếu
không giải phóng tâm tư thì cũng không thể là cùm xích trói
buộc con người. Des mots, des maux mà! Vị thầy lý tưởng là
kẻ có cách bắt học trò tự thắp đuốc lên mà đi, phải tra hỏi
rồi tự tìm lấy câu trả lời.
Nghiệp dĩ của đứa học trò của Thầy là hành động, hắn
thường cần những công thức để quyết định và ra tay, nên hắn
ham hỏi.Với hắn, dăm là dăm, ba là ba. Nhưng
bản chất của Thầy hắn là một nhà mô phạm, một nhà thơ. Tiêu
ngữ của nhà mô phạm là ‘giáo đa thành oán’. Tiêu ngữ của nhà
thơ là vần điệu. Cho nên Thầy không quyết dăm mà cũng
chẳng chọn ba, chẳng phải vì Thầy sợ bị lâm vào cảnh
phải nhận lời trách móc kiểu Hồ xuân Hương: /Sao nói rằng
năm lại có ba/ mà chỉ vì Thầy thấy dăm ba, vừa
nhẹ, vừa thư thái, vừa... thơ nữa? Với Thầy, thơ mới là đáng
kể.
Nói đến
thơ, Hoàng tôi lại liên tưởng đến sáng tạo. Tôi thường nghe
nói đại khái có một khác biệt văn hóa, một khác biệt theo
miền, trong hai đường lối sáng tạo của Tây phương và Ðông
phương. Sự khác biệt này sâu đậm đến đâu, tôi không biết.
Ðiều chắc chắn là tôi không thể nào trừu tượng hay bỏ quên
sự khác biệt đó để chỉ nhìn thấy điều được gọi là phổ biến
hay toàn cầu trong hành động sáng tạo. Cho nên, dù Thầy ‘ít
để ý đến lý thuyết, trường phái, mới cũ hay Ðông Tây’, Hoàng
tôi vẫn mong có cơ duyên trình Thầy: ‘Thưa Thầy, Thầy dạy
tụi con sáng tạo, nhưng Thầy không chịu nói rõ cho tụi con
chút nữa sáng tạo là gì? Làm thơ là gì?’
Người ta thường nói Tây phương sáng tạo kiểu từ không
ra có, ex nihilo, biến cái thông thường thành cái lạ
lùng, cái chưa từng có. Sáng tạo là đem nhân cách nghệ sĩ áp
đặt vào nghệ phẩm. Trong khi Ðông phương sáng tạo thường là
thích ứng nhân cách đặc thù của cá nhân nghệ sĩ với đối
tượng, nhập thân với đối tượng, là khám phá cái phổ biến
trong cái đặc thù, là biến cái ‘kho trời chung’ thành cái
‘vô tận của mình riêng’ Tranh thủy mạc chẳng hạn. Ðó là
những đại cảnh không phải từ ngoài nhìn vào hay từ trên nhìn
xuống như không ảnh. Tranh thủy mạc được vẽ từ trong ra, hài
hòa và gần gũi. Hay Nguyễn Du chẳng hạn. Cả quyển truyện
Kiều không có một câu, một chữ nào nhắc đến Việt Nam dù là
gián tiếp, thế nhưng không có một người Việt nào không thấy
một chút gì của mình trong đó. Chung chung là như thế. Nhưng
đó chỉ mới trả lời câu hỏi sáng tạo như thế nào, chứ
không phải sáng tạo là gì?
Trần hồng Châu nói: ‘Chung cuộc chỉ còn lại dăm ba điều
nghĩ, một vài xúc cảm và ấn tượng, hoàn toàn gắn bó với thẩm
quan và nhiệt tình của một cá nhân sáng tạo văn nghệ, thân
mật đi bên những người đồng điệu, giữa một vườn hoa nhiều
màu sắc. Với cả tấm lòng tha thiết hướng về Chân Thiện Mỹ.
Với phong thái rộng mở của con người không muốn bị ràng buộc
bởi bối cảnh, thiên kiến, nhóm phái hay ý thức hệ nào cả.
Một con người mong mỏi được hoàn toàn thoải mái, đuổi
theo và ghi lại mọi vẻ đẹp rơi rớt trên giải đất trần
gian mến yêu của tất cả chúng ta’. Như vậy, sáng tạo là đuổi
theo và ghi lại. Phút giây đó Trần hồng Châu mượn lời Hồ
Dzếnh để gọi là ‘phút linh’. Trần hồng Châu và Hồ Dzếnh đợi
thơ, nhưng thơ có thể đến và phút linh đó cũng có khi không
đến. Có phải van Gogh chờ mãi phút linh đó không đến nên nổi
nóng tự hớt mất vành tai? Hay Nguyễn tất Nhiên chịu đựng
không nổi những phút giây đó dồn dập ùa tới nên đành từ giã
cõi đời trong sân chùa một đêm giá lạnh? Cũng như có những
nhà thơ, không đủ kiên trì chờ thơ đến, không đủ tài năng
đón nhận thơ nên đành phải làm như thể nàng thơ đã đến, bằng
những quái thai đẻ non của mình gọi là... thơ tự do, bất cần
người đọc, bất cần vần điệu, bất cần chữ nghĩa. Nhưng đã tự
do mút chỉ như thế rồi thì thích ghi gì xuống giấy - hay
trên màn computer, cứ ghi, thích viết kiểu nào cứ viết,
thích nguệch ngoạc cứ nguệch ngoạc, sao lại còn ràng buộc
mình vào một thể sáng tạo gọi là thơ?! Nói như thế, không có
nghĩa Hoàng tôi đã biết rõ thơ là gì vì thực ra Hoàng tôi
chỉ nghĩ rằng khi đã gọi là thơ tự do thì nhà thơ phải biết
mình nói thơ tự do chứ không phải thơ niêm luật, không phải
văn, không phải câu đối, không phải vè, không phải hô bài
chòi.
Phút linh đó là tiếng réo gọi âm thầm khi người sáng tạo
đối diện với quản bút và tờ giấy. Là phút giây người sáng
tạo cảm thấy cần ‘ghi lại’ và có thể ‘ghi lại’. Nhưng nếu
theo quan điểm của Công tôn Long chỉ có trắng là trắng, ngựa
là ngựa chứ không có ngựa trắng thì ghi lại cái gì? Ghi lại
‘sự vật’ đã thấy, hay ghi lại ‘cái đẹp’ nơi sự vật đã thấy?
Bức La Joconde chẳng hạn. Leonardo da Vinci ghi lại
người thiếu phụ? hay ghi lại người thiếu phụ đẹp? hay ghi
lại vẻ đẹp của người thiếu phụ?
Ghi lại sự vật hay ghi lại cái đẹp của sự vật, đàng nào
cũng phải có ‘phút linh’, phải chờ phút linh và nhờ phút
linh. Mà chờ phút linh là phải ‘đóng ngoặc’ cuộc đời, đóng
ngoặc đối tượng chứ không phải bám sát hay chạy trốn cuộc
đời hay đối tượng. Hiện thực chủ nghĩa, nếu không phải là
một thứ ngụy tín thì cũng là một chủ nghĩa còn cực đoan hơn
chủ nghĩa duy tâm. Ðóng ngoặc cuộc đời hay đóng ngoặc đối
tượng để thấy được rằng: /Giả diệc chân thời chân diệc
giả/Vô vi hữu xứ hữu diệc vô./ như một nhân vật trong
trong Hồng Lâu Mộng đã thấy. Sáng tạo là ghi lại cái thật
không phải là thật, cái giả không phải là giả, cái có như là
không, cái không như là có. Hoa hướng dương của Van Gogh
không phải là hoa hướng dương thật mà thật là hoa hướng
dương. Chân là Mỹ, Mỹ cũng là Thiện, Thiện cũng là Chân.
Phải chăng vì vậy mà Trần hồng Châu không buộc nghệ thuật
phải vị nghệ thuật hay đòi nghệ thuật phải vị nhân sinh mà
để cho nghệ thuật phải vị cả hai, hay đúng ra chẳng cần
thiên vị một cái gì cả? Nói thế khác, Trần hồng Châu không
hoài công với chuyện duy tâm - duy vật, trừu tượng - hiện
thực... trong sáng tạo.
Nhưng điều khó khăn cho người sáng tạo là phút linh qua
rồi nhường chỗ cho phút trần lụy. Người nghệ sĩ chỉ đóng
ngoặc cuộc đời, đóng ngoặc đối tượng trong phút giây sáng
tác, khi chờ phút linh. Phút linh đến, sáng tác xong bài
thơ, bài nhạc, bức tranh, bài văn thì phải mở ngoặc, phải
trở lại cuộc đời, phải sống, phải lựa chọn. Bi kịch và bế
tắc chính là chỗ đó. Và đây có thể là một bế tắc nữa mà Trần
hồng Châu thấy chưa cần nói đến?
Thật vậy, khi đóng ngoặc cuộc đời để sáng tạo, người
ta muốn vị gì cũng được, hay nghĩ rằng mình tha hồ muốn vị
gì thì vị. Nhưng cuộc đời lại chỉ vị ‘bối cảnh, thiên kiến,
nhóm phái, ý thức hệ’. Bế tắc và bi kịch chính là ở chỗ nhảy
qua rồi quên nhảy về, đóng ngoặc rồi quên mở ngoặc. Chiến
tranh, hận thù, chém giết cũng thế. Ở nơi trận tiền, nếu ai
cũng tránh không vơ đũa cả nắm, hay nói như Sartre ai cũng
nghĩ ‘il a volé, il n’est pas donc voleur’ thì làm sao hươi
đao múa kiếm hay bóp cò? Muốn giết, muốn bỏ tù, muốn trấn áp
thì phải đóng ngoặc đối phương, phải giản lược đối phương để
chỉ thấy ‘hắn’ là kẻ ác ôn đơn giản có tên là ngụy, là cộng
sản, là vô sản khát máu hay tư bản rừng rú, chứ không thể
nghĩ rằng tên ác ôn đó còn là cha, là chồng, là anh em, là
đồng bào, đồng loại, là nhà tu, nhà thơ, nhà văn... Qua cơn
chém giết hận thù thì phải mở ngoặc, phải trở lại cuộc đời
với ‘mọi vẻ đẹp rơi rớt trên giải đất trần gian mến yêu của
tất cả chúng ta’ như Trần hồng Châu nói. Ðã giã từ vũ khí
thì không thể di tản cả chiến trận về trong phòng ngủ hay
phòng khách nhà mình. Trên bờ vực thẳm cheo leo của cuộc đổi
đời, người làm văn học nghệ thuật không thể đi tới, chưa thể
nhảy vào tương lai của đại khối ‘hơn bẩy mươi triệu dân Việt
ở trong nước’ chỉ vì họ không thoát được cái gông cùm quá
khứ. Phải chăng đây là cái bế tắc thứ ba?
Và phải chăng bi kịch thứ ba của nền văn học nghệ thuật
lưu vong cũng chính là bi kịch của nền văn học nghệ thuật
miền Bắc chưa rũ bỏ được ám ảnh khủng bố trắng của những
nghị quyết chính trị như cái vòng kim cô trên đầu Tôn Ngộ
Không? Hoàng tôi chợt phân vân như thế khi Trần hồng Châu
bảo: ‘Còn văn học miền Bắc ngày hôm nay, chỉ là một dòng
phụ, tuyệt đối lệ thuộc vào chính trị, nên không được đề cập
tới ở đây. Ðó là một thực thể hoàn toàn khác biệt... đến từ
một hành tinh xa lạ’. Phải chăng vì muốn kiến giải hay triển
khai một nền văn học nghệ thuật mà bản chất có thể là ‘u mê,
cuồng tín’ nô lệ chính trị thì phải có một nền lý luận phê
bình kinh viện độc thiện khép kín là điều Trần hồng Châu
không muốn nên Trần hồng Châu đành nhắm mắt đóng ngoặc dòng
văn học nghệ thuật miền Bắc trong DBÐNVVHNT?
Lịch sử văn học nghệ thuật cho thấy không phải lúc nào
độc tài cũng giết chết được quyết tâm đóng ngoặc cuộc đời để
sáng tạo. Ðộc tài phong kiến sản xuất ra Cao Bá Quát. Ðộc
tài thực dân vẫn để lọt Tú Xương, Tú Mỡ, Ðôi Bạn, Ðoạn
Tuyệt, Nửa Bồ Xương Khô, Bộ Áo Cà Sa Nhuộm Máu... Ðộc
tài nhân vị đâu ngăn nổi Vũ Hoàng Chương viết Lửa Từ Bi,
đâu ngăn được Nguyễn đăng Thục lăng ba vi bộ với... tư tưởng
Việt Nam và triết lý Ðông phương. Vô sản chuyên chính đâu
ngăn nổi Bùi Giáng làm thơ và dân chúng chơi chữ, ‘nói lái’.
Một người anh em của Hoàng tôi kể chuyện là sau 1975, trong
thời kỳ cãi tạo xã hội bằng cách sắp hàng mua nhu yếu phẩm
kể cả thuốt hút, ngoài thuốc lá hiệu Vàm Cỏ, Nông Nghiệp,
Nhà Nước cho ra đời thêm một loại mới tên là BTC. Mấy tháng
sau thì hiệu thuốc mới này biến mất, có lẽ vì tiếng cười dí
dõm của dân chúng khi đọc ba vần BTC thành: Bộ Chính Trị
- Bảo Chúng Ta - Bỏ Công Tác - Bán Chợ Trời đến tai Ban
Văn Hóa Tư Tưởng trung ương? Hồi ở chung với Hoàng anh Tuấn
tại T.4 Phan đang Lưu, Hoàng tôi đã có lần nghe Ông Thần
Nước Ngọt này chơi chữ bằng cách rút gọn tên các nhà lãnh
đạo đương quyền là Lê Duẫn, Phạm văn Ðồng, Trường Chinh,
Nguyễn lương Bằng, Tôn đức Thắng thành một câu rất đơn giản
là Ba đồng chinh bằng tôn! Ngày xưa, Thầy Pháp văn
tếu một cách thâm trầm của Hoàng tôi là Cao hữu Hoành thường
cười khoái trá mỗi khi nói đến Lettres Persannes của
Montesquieu hay cụm từ ‘les deux moitiés inégales’ của
Voltaire. Hôm nay, nếu Thầy Cao hữu Hoàng còn sống, Thầy
liệu có còn cười hô hố khoái chí trước lối chơi chữ đó
không?
Mặt khác, tự do không hẳn là điều kiện ắt có và đủ để
sáng tạo. Nguyễn chí Thiện làm được mấy trăm câu vè thời còn
lận đận bầm dập với những kẻ ông ấy xỉa xói là ác ôn côn đồ.
Ðến Tây phương cực lạc tha hồ tự do rồi ông ấy làm thêm được
bao nhiêu câu vè đáng kể nữa? Solzhenitsyn được giải Nobel
văn chương năm 1970, được làm công dân Mỹ năm 1974. Mãi sáu
năm sau ông mới cho ra đời một quyển tự truyện rồi tịnh khẩu
gác bút, ngay cả khi Bức Tường Bá Linh và chế độ Nga sô-viết
ầm ầm sụp đổ quanh ông.
Lại nữa, chế độ độc tài - bất cứ hình thức độc tài nào
- không hẳn đã giết chết khả năng sáng tạo. Một số bài nhạc
xuất sắc để đời của Phạm Duy được viết ra trong lúc ông thật
lòng tin vào kháng chiến chống Pháp như Bà Mẹ Gio Linh,
Ngày Trở Về. Một số khác chào đời sau khi ông dinh Tề
theo Phan văn Giáo như Tình Ca, khi ông nhập Ðàm
Trường Viễn Kiến của Nguyễn đức Quỳnh như Việt Nam! Việt
Nam, Nửa Hồn Thương Ðau, Chiều Về Trên Sông, khi ông tin
vào cuộc cách mạng 1.11.63 như Con Ðường Cái Quan,
Giọt Mưa Trên Lá, khi ông tin Mỹ sẽ Bắc phạt và trọn đời
bảo bọc Miền Nam như Hùng Ca Một Người Mang Tên Quốc, Thà
Như Giọt Mưa, Ngày Xưa Hoàng Thị, Kỷ Vật Cho Em. Hoàng
tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh Phạm Duy tần ngần mơ màng
trước hàng trúc của Phong Trang hay lẩm bẩm ‘Ðâu bằng núi
đồi Tây Bắc của mình!’ khi nhìn dãy Blue Mountains xanh rì
nhấp nhô xa tắp. Chưa kể những tác phẩm được gọi là của
những thành phần đối kháng, chưa kể một số tác phẩm của
Phùng Quán, Trần Dần viết trong thời chuyên chính vô sản.
Cho nên, dù ‘văn nghệ luôn luôn gắn bó với tự do và cần tự
do’ nhưng không phải là không có những lúc thiên tài nghệ
thuật và lựa chọn chính trị vận hành như hai đường tàu song
song. Bởi lý, độc tài tư tưởng, độc tài ý thức hệ - với bất
cứ màu sắc nào, bất quá chỉ là những nhát đao chém nước. Và
như vậy thì có nên lặp lại cái sai lầm bất công của việc
biến văn học nghệ thuật thành con trâu kéo cày ý thức hệ
trên mảnh đất nứt nẻ vì hạn hán tình người không?
DBÐNVVHNT của Trần hồng Châu chưa phải là chiếc giày
của Empédocle. Ðã hẳn. Vì Trần hồng Châu vẫn ‘hy vọng sẽ
viết tiếp về những gì đã xảy ra trong thế giới văn nghệ và
học thuật, từ 1950 đến nay, trong một bài nghiên cứu chi
tiết và đầy đủ. Hiện nay chỉ xin đưa ra vài nét sơ lược’.
Hoàng tôi rất mừng khi Lệ Hằng cho biết đã hầu thăm
Thầy, rằng đã vượt bức tường thất thập cổ lai hy nhưng Thầy
vẫn linh hoạt sắc bén. Như vậy thì hy vọng của Hoàng tôi
được Trần hồng Châu khai tâm về một nền văn học nghệ thuật
Việt Nam không Nam không Bắc, không trước này sau nọ, không
dưới chế độ này trên chế độ kia, khi mà Hoàng tôi có thể
thong dong dùng mấy chữ Việt Nam của Tôi làm đề sách
chứ không phải ngậm ngùi vì mấy tiếng cố quốc, chắc
hẳn không phải là hy vọng xa xôi.
Trại Ðỗ Quyên, 20.8.2002.
Hoàng Nguyên Nhuận
Nguyễn Mạnh Trinh
Trong văn chương:
Trần Hồng Châu, ngoài đời thường: Nguyễn Khắc Hoạch, hai
danh tính ấy, chỉ là một: thi sĩ. Dù, nhà văn Trần Hồng Châu
là chủ nhiệm tạp chí văn học nổi tiếng một thời Thế kỷ Hai
Mươi, là tác giả của nhiều tập biên khảo, tùy bút. Và, giáo
sư Nguyễn Khắc Hoạch đã giữ chức Khoa Trưởng Đại Học Văn
khoa ở Việt Nam trước 1975, cũng như là giáo sư thỉnh giảng
của nhiều đại học nổi tiếng ở Pháp và Hoa Kỳ.
Nhà văn Mai Thảo đã có một nhận xét xác đáng về văn chương của một thi sĩ, mà cũng là nhà giáo dục danh tiếng cũng như nhà biên khảo và viết tùy bút xuất sắc :
“ Đọc thơ và văn xuôi Trần Hồng Châu, tôi nghĩ tới hai điều trái ngược.Về một thời đã mất. Và một sự thể không bao giờ mất, bởi nó chẳng hề bị giam cầm trong giới hạn của một thời nào. Sự thể ấy là văn chương, nơi thơ văn Trần Hồng Châu.”
Không biết ý của nhà văn chủ nhiệm tạp chí Sáng Tạo có phải là văn chương của tác gỉa “ Thành Phố Trong Hồi Tưởng “ đã vượt qua được sự đãi lọc của thời gian? Nhất là, cái tâm vằng vặc của kẻ sĩ Đông Phương, trân trọng với văn học biểu lộ qua chữ nghĩa. Ông đã mất, đã khởi hành chuyến tàu đi vào miên viễn nhưng thơ văn vẫn sống, vẫn còn truyền sinh lực cho những lớp cầm bút đi sau. Chất trí tuệ lãng mạn, mà nguồn gốc cả từ Đông Phương lẫn Tây Phương đã làm sâu sắc thêm những suy tưởng, và thành chỉ nam cho những cuộc kiếm tìmtrong hành trình làm mới trong sáng tạo.
Đọc “ Dăm ba điều nghĩ về văn học nghệ thuật”, để thấy cái tâm của một người đã hiểu được sự mông mênh của biển cả kiến thức. Dù là một nhà khoa bảng, dù là một người có đủ tư cách để bàn luận văn chương ở vị trí dẫn dắt. Thế mà, chỉ là “ dăm ba điều nghĩ “mà thôi. Nhan đề tác phẩm không có những liên tưởng đến những tư tưởng vĩ đại, những danh từ to lớn. Thế mà, đọc từng trang, từng chữ mới thấy là một đại dương tư tưởng, một tâm cảm sâu sắc đầy tính sáng tạo.
“ Chung cuộc chỉ còn lại dăm ba điều nghĩ, một vài xúc cảm và ấn tượng, hoàn toàn gắn bó với thẩm quan và nhiệt tình của một cá nhân sáng tạo văn nghệ, thân mật đi bên những người đồng điệu giữa một vườn hoa nhiều màu sắc. Với cả tấm lòng tha thiết hướng về Chân Thiện Mỹ. Với phong thái rộng mở của con người không muốn bị ràng buộc bởi bối cảnh, thiên kiến, nhóm phái hay ý thức hệ nào cả. Một con người mong mỏi được hoàn toàn thoải mái đuổi theo và ghi lại mọi vẻ đẹp rơi rớt trên giải đất trần gian mến yêu của tất cả chúng ta.
Tất cả mọi vẻ đẹp. Vội vã, đam mê nắm bắt, ôm cho được nhiều, thật nhiều trong vòng tay hạn hẹp!
Vội vã, bởi chúng ta đều biết cuộc đời ngắn ngủi và nghệ thuật thì vẫn là con đường muôn dặm, đường đi không tới! Đam mê, bởi Keats từng nói lên sự thực “ Một vật đẹp muôn năm vui” Nghệ thuật và Đẹp là nguồn suối hoan lạc không bao giờ ngừng chảy. Đam mê, bởi trong những chiều tâm sự với Delacroix, bên cột đèn mờ ảo của Place Furstenberg, hay trong phòng tranh độc đáo của Constantin Guys, Beaudelaire luôn luôn chủ trương gạn đục khơi trong để chỉ nhìn , chỉ giữ lại phần tích cực, phần đẹp, tạm quên những gì mà theo một nhãn quan khác, có thể gọi là khuyết điểm nơi các tác phẩm ( critique des beautés ).
Độc giả hãy cùng người viết khoan thai, nhẹ nhàng mở cửa vào vườn hoa của chúng ta. Tạm bỏ quên các hệ thống, các lý thuyết ở ngoài cửa. Không lý giải, không lý luận. Người viết tự coi đó chỉ là phong cách riêng của mình. Và biết rõ là trên văn đàn còn nhiều thái độ phê bình, nhiều cách thế, nhiều ý hệ khác nữa, khi đến với tác phẩm văn nghệ. Theo quan niệm nào, thái độ nào cũng có phần tích cực và xây dựng. Miễn là hăng say nhập cuộc, không thờ ơ nguội lạnh. Miễn là chân thành tìm hiểu, tất cả bởi và cho văn nghệ…”
Như một bản tuyên ngôn, không có một thái độ dấn thân nào hơn thế nữa. Tất cả “ bởi và cho” văn nghệ. Có nhiều con đường để đến chân lý và đứng ở đoạn đường này không thể phủ định hoặc chê bai con đường người khác đi. Thái độ không cực đoan, lý luận không một chiều, dễ đi đến những nhận định chính xác hợp lý.
Ở nhà thơ Trần Hồng Châu, văn chương là một thế giới khoảng khoát không biên giới phân biệt Đông Tây, là cả hai cõi nhân gian từ hai đầu trái đất hòa hợp trong cái bàng bạc mờ ảo để thành mơ mộng lãng mạn. Triết lý, có khi chỉ là phương cách phụ thuộc làm thơ văn hiển lộng.
Khi trả lời bà Thụy Khuê, ông đã tự thú nhận mình là người “ ngoại đạo” trong lãnh vực triết học:
“.. Tôi yêu tư tưởng và coi đó là chất liệu không thể thiếu được của văn nghệ, nhất là khi tư tưởng có gốc rễ có tương quan mật thiết với tình cảm và cuộc sống, nghĩa là có sự hài hòa cân đối giữa trái tim và khối óc, luôn luôn cửa để mở ngỏ..”
Có phải ngôn ngữ và hình ảnh đã tạo thành cảm quan văn chương để ấn tượng tạo ra sẽ in dấu trong bộ nhớ người đọc. Thơ phải vút cao, biển trời vô tận. Cũng như cái tâm, phải chính đính hiền hòa vằng vặc như trăng rằm và mênh mông như trang kinh không tuổi.
Ông cũng cho biết, chỉ làm thơ khi có cảm hứng, mà là cảm hứng thật sự:
“ Thơ là cái gì mung lung, dựa vào cảm xúc nhiều nên tôi cứ tự thả trôi theo thi hứng. Cho thơ hồn nhiên nở ở đầu cành như một bông hoa đến thời, đến lúc thì xuất hiện, tự nhiên ở đấy như do sự thúc đẩy của một nguồn sinh lực hữu cơ tiềm tàng nào đó. Hãy bỏ rơi rụng lại những lớp bụi bậm lý trí lạnh lẽo, mốt thời thượng phấn son làm dáng, ấu trĩ tầm thường, khuôn mòn bảo thủ ù lì hay cái “ mới “ a dua, giả tạo hung hăng.
Cuối cùng như tôi đã nói nhiều lần chỉ cần biết bài thơ có đạt, có tới hay không. Có tân kỳ, có độc đáo, có làm rung chuyển cả trí thức và tình cảm của người đọc không. Có chân chất, có thơ hay không? Thật ra những ý niệm này cũng rất mơ hồ, chỉ “ cảm “ thấy thôi mà cảm thì là chủ quan, khó phân tích khó định lượng. Nhưng trực cảm mặc dầu là phi ý thức, mặc dầu không đường biên rõ ràng vẫn là cái gì đưa ta thẳng vào tận trung tâm sự vật để vươn tới xứ sở của Chân Thiện Mỹ”
Đọc tập thơ mới nhất, để thấy rằng thi sĩ Trần Hồng Châu đã tận dụng những suy tư vào thi ca như thế nào. Suối Tím, tập thơ in lúc cuối đời dường như mang theo tất cả nỗi niềm của một người nặng lòng với chữ nghĩa.
Thuở đầu đời, là một nhà giáo dục nổi tiếng, là thầy của hàng ngàn vạn sinh viên mà về sau đã thành nhiều khuôn mặt quen thuộc của văn chương Việt Nam. Khi gần rời bỏ dương thế, vẫn nặng lòng với thi ca của những chân trời mơ mộng lãng mạn. Thi sĩ Trần Hồng Châu, tức giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, khoa trưởng đại học Văn Khoa, người đã xây đắp một nền tảng vững chắc cho ngôi trường đại học còn sơ khai. Cũng như, là chủ nhiệm tạp chí văn chương “ Thế Kỷ Hai Mươi”, góp phần vào sự phát triển của văn học miền Nam thời kỳ ấy.
Nhưng, trước sau ông vẫn là người đa mang với nghiệp thi ca. Ông yêu thi ca và hiểu được tính vĩnh cửu của vần điệu ngôn ngữ. Bàn luận về thơ, ông có niềm say mê của một người đi tìm chân lý. Thơ, là một phần đời sống của ông. Trước khi ông qua đời, chúng tôi có vào bệnh viện thăm viếng và nghe được ông nhắc đến “Suối Tím” như một gửi gấm cuối đời của một người làm thơ. Với đám môn sinh hiện diện lúc đó, ông nói với tất cả tâm huyết của mình lúc cuối đời…
Tôi đọc tập thơ này nhiều lần trong những thời điểm khác nhau. Tôi cầm trên tay tập thơ mà tưởng nhớ đến tác giả. Sách vẫn đây mà tác giả của nó đã đi vào chốn hạc nội mây ngàn rồi. Giở những trang, để thấy bầu trời thi ca lồng lộng. Có những nỗi niềm giàn trải qua ngôn ngữ hình tượng. Có tấm lòng kẻ sĩ, mang mang theo thời thế mịt mù…
Sống ở trong một thời đại đầy biến động như bây giờ, giữ cái tâm vằng vặc quá khó. Huống chi, vẫn tính lãng mạn văn nghệ bẩm sinh, thêm chất nghiêm túc phải có của một nhà giáo, thành một khuôn mẫu văn chương như ông cũng là một hiếm hoi trong cuộc sống này. Trong thơ Trần Hồng Châu, từ ‘ Nửa khuya giấy trắng”, “ Nhớ đất thương trời”, “ Hạnh phúc đến từng phút giây”, thơ bay bổng thăng hoa vượt qua những nhiễu nhương của thời thế. Thơ, là kết tinh của trầm lắng suy tư có từ những hệ lụy của cuộc đời…
Một điều cảm nhận thật rõ ràng với tôi, từ “ Suối tím “ nói riêng và toàn khối thơ ông nói chung, có nét trầm mặc xương kính của phong thái Đông phương trong nề nếp suy tư luận lý Tây Phương. Thơ , như giao diểm hội tụ của hai đường tàu, tưởng song song nhưng thật ra vẫn gặp nhau trong từng cảm giác.
Lạ lùng, đọc thơ mà tôi tưởng mình đi tìm công án. Mỗi mỗi trang, tưởng tượng những khuôn cửa mở ra vào những lãnh địa riêng. Có cảm thấy những đè nặng của tư duy triết học, nhưng chất luận lý thoảng qua để còn lại những gợi ý bức xúc từ những tượng ảnh mơ hồ chỉ có trong những không gian, thời gian của thi ca. Thơ ông có vóc dáng của một chân dung vĩnh hằng, của những kiếm tìm nỗ lực cái thẩm mỹ quan có sẵn từ cổ đại. Ngôn ngữ, có khi là những viên gạch lót đường để bước nghĩ thong dong chân tới nhưng cũng có lúc là tảng lân tinh rực rỡ lóe lên như tinh đẩu dẫn lối soi đường. Thơ, chính là thông điệp gửi trao, của những đêm thức trắng ngậm ngùi , của những ngày lũi lầm trong cảnh bụi trần cát lấm của cuộc nhân sinh.
“Suối tím “ có dòng thi ca đồng nhất. Kể cả ba bài tùy bút, là những bài thơ văn xuôi mà không gian chính là biển trời thi ca rộng khắp muôn trùng. Con chữ lấp lánh, phản chiếu một cuộc sống nội tâm phong phú. Thực tế đời thường, nếu có những cơn huyễn mộng, thì cũng là lộ trình thoảng qua để đến chốn vô cùng. Ngôn ngữ- hình ảnh – vần điệu , là xuôi dòng về nguồn, nơi chốn mà sáng tạo đã thành yếu tố để tầm mắt người thơ cao hơn, xa hơn, thăm thẳm hơn…
Nhiều lúc tôi tự hỏi. Ở tuổi già, liệu tâm tư sẽ ra sao? Chán nản. Hy vọng. Bình thản. Chờ đợi. Hay là tất cả trộn lẫn lại. Tôi chưa biết. Mỗi người một tâm sự một cách sống riêng. Nhưng, có lẽ từ những thi sĩ, nhất là thi sĩ Việt nam, với chất lãng mạn trầm mặc Đông phương, thì lúc cuối đời, có lẽ là lúc tự tìm kiếm bản lai diện mục mình. Thơ, sẽ thành một phác họa chân dung nhân bản nhất, để , đôi khi, những dông bão hiện thành từ nỗi quặn đau thiên cổ…
Víêt và làm thơ, với đất nước và thời thế, chỉ là những phác họa gián tiếp. Nỗi đau, dường như là những xúc cảm được che dấu lại. Mượn những điển tích xưa, dùng những tên tuổi cũ, để gợi ý thành, để nhắc nhở tới một đẽo gọt của thơ, từ đá tảng nguyên sinh thành những phù điêu dáng tượng hiển hiện cho đời. Bức tượng ấy, từ những nhát dao sáng tác, có chất chứa những nỗi niềm đa mang của cả một thế hệ. Kiêm lời nhưnmg giàu ý, tôi có cảm giác thơ thành những vòng tay ôm choàng khắp đến vô cùng. Nét riêng của một người, như chuyên chở nỗi đau của muôn người trong dẫy đầy biến cố của Việt Nam bất hạnh…
Đại cương toàn khối thì như thế, bây giờ đọc lại những trang thơ để tìm những đoạn tiêu biểu thì tôi lại ngại ngần. Làm sao, để có những chọn lựa chính xác? Làm sao, để nổi bật cái toàn thể trong cái hạn hẹp trích dẫn ? câu hỏi khó, với tôi. Thơ, mênh mông như mây trời, sao có thể nhét dồn trong khuôn khổ hẹp…
Thì thôi, đành lấy cái tương đối để mong biểu hiện được cái thơ không cùng rộng vậy…
Có bài thơ, tôi đọc trong sự cảm động. Thơ rất chân thành, có nét hiện thực của đời thường. Những dòng thơ phác thảo lại những thời điểm mà Đỗ Phủ của Trung Hoa hay Nguyễn Du của Việt nam đã sống, đã buồn, đã cảm, đã viết. Thời của ly loạn, mặc dù đã ngưng tiếng súng của những ngày sau 1975 đau thương:
“.. Đời loạn lạc
chó nhảy bàn độc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố đi bộ suốt Chợ Lớn Mới
Về Đại Thế Giới
Để dành tiền vé xe buýt
Bố mua hai đồng ô mai
Một gói đậu phụng
Bên cửa bếp
Hai bố con ngồi nhấm nháp
Vị xí muội mặn chát
Chua ơi là chua
Ôi men đắng cuộc đời
Ngọn gió nào bỗng thổi tứ tung
Vỏ lạc lá vàng bay
Hai bố con lặng lẽ
Cắn từng miếng me khô
Muối ớt cay cay
Từng quả cóc ngâm đường
Dôn dốt ngọt chua
Bố bảo : bố con mình, thế mà gân ra phết!
Bố nằm xuống đất rồi, lại càng thương bố..
Đời loạn lạc!”
Có liên tưởng nào đến bài thơ chữ Hán của cụ Tiên Điền Nguyễn Du ”Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng. Giang nam giang bắc nhất nang không..”(Kiếp cỏ bồng chân không bén rễ. Bắc rồi nam túi nhẹ ven sông.). Dù, một Hán tự, một Việt ngữ. Đời loạn lạc, thân phận kẻ sĩ thật là chán ngán. Thơ Trần Hồng Châu có nét xác thực, ngôn ngữ bình thường, nhưng trong phong thái ấy là một thái độ của một sĩ phu trong một thời kỳ đảo điên điên đảo của dân tộc và lịch sử. Một người đi đông đi tây, đã sinh sống nhiều nơi trên thế giới, mà lúc này, hai cha con chia nhau miếng quà nhỏ để dành từ tiền đi xe buýt. Chuyện cười ra nước mắt nhưng có thực của dân tộc chúng tôi. Đọc thơ, để thấy man mác nỗi niềm. Đọc thơ, để thấy những ngôn ngữ đời thường ấy có sức lôi cuốn biết bao . Và , qua đó , thấy được tấm lòng cha con thắm thiết biết bao…
Bài “ Kỷ niệm về khuya, trừ tịch “, với chữ Em viết hoa, là hiện thực của cảm giác bềnh bồng, của tiến trình tìm bắt hoài hủy trong chuỗi suy tư. Em, có phải là hình bóng đời thường, của son phấn lụa là, của vóc dáng kiều nữ xa hoa? Hay, là tượng hình sáng tạo chỉ có trong tâm tưởng những người mong mòi tìm đến chốn lãng mạn vô cùng. Những câu thơ, của một vấn nạn mờ ảo trong tâm thức. Vô vọng, nhưng mê đắm…
“… Ta vùng dậy đuổi bắt các Em.
Trong hương sắc cầu vồng hồi tưởng
Hiện thực đắm say
Ảo giác vơi đầy
Các Em, gấm hoa tình cảm của muôn đời
Hay chỉ là bụi phù vân của giấc mơ dài
Đến với ta lúc năm tận tháng cùng…”
Những câu thơ. Áo xuân ngàn nếp còn vương vấn. Buồn thu vạn cổ vẫn chờ mong. Em hư vô hay hiện hữu tuyệt vời. Em độc nhất hay hóa thân muôn vạn… Có phải từ mơ phai kỷ niệm? Hay từ dồn dập nhịp đập trái tim của dĩ vãng thuở nào? Cũ xưa, nào ai định nghĩa ? Trăm năm? Ngàn năm? Vạn triệu năm? Có phải không tuổi tác là những cảm giác mới nguyên của lúc ban đầu? Đời thường, còn có những mốc cắm xác định thời gian. Chứ trong cái hư ảo của cõi hư vô, làm sao phân biệt được giữa sát na giây phút với miên viễn tận cùng. Trong hành trình mù mịt thiên lý cõi xa, vó ngựa cuồng như ngôn ngữ lẩn khuất vào vần điệu. Có ai đánh thức. Một giấc mơ…
‘ …Khi tỉnh giấc
Chỉ thấy trăng khuya chìm đáy ly cạn
Chỉ thấy mây trời treo cửa song thưa
Đào lý hồng hạnh
Lan hương vương giả
Mưa, mưa hoa
Bao phủ khắp châu thân
Hồn say đây bỏ ngỏ
Hơi thở những thiên ha
Đến với ta lúc năm tận tháng cùng
Ta vùng dậy
Ôm tơ trăng mây gió và sắc hoa gầy
Ta thành Em
Em kỷ niệm
Chúng ta thành trang Tình Sử
Mở rộng cho muôn đời…”
Tôi yêu những trang tùy bút. Những thành phố trong hồi tưởng. Những thời điểm đã qua mất hút. Nhưng mầm kỷ niệm vẫn còn, ngút xanh. Hà nội. Paris. Trường An Tây Vọng. Những nơi chốn của một người và của một thời. Những bài thơ văn xuôi diễn tả bằng một trời tâm tưởng. Tùy bút Nguyễn Tuân sang cả. Tùy bút Mai Thảo kiêu sa. Còn tùy bút Trần Hồng Châu lãng mạn khơi mở những dòng nguồn trác tuyệt của thi sĩ.
Viết về chợ hoa của đất ngàn năm văn vật xưa, thi sĩ như muốn sống lại một thời nào xa lắm, từ hơn nửa thế kỷ xa xôi:
“… Ở đây, màu sắc quả là siêu đẳng nghệ thuật. Chợ Đồng Xuân ngày trước Tết là một trời hoa. Hoa giấy, hoa cây và hoa người. Hoa ngoài chợ, hoa trong chợ… khách si giữa hoa, thở hương hoa, chiêm ngưỡng sắc hoa… Ai đã dồn về đây tất cả người đẹp của băm sáu phố phường? Ai đã xê dịch những vườn hoa còn đẫm sương mai của Yên Phụ, Nghi tàm về đây, về trung tâm Hà Nội?
Cúc vàng, cúc trắng, hồng nhung, thược dược, lan nhất điểm,… một bản nhạc hoa mà nhạc công là những cô hàng, áo tứ thân, điểm thêm một giải thắt lưng màu hoa lý hay cá vàng, vì Tết sắp đến.. Hoa sống và hoa cây tự tô điểm rồi cảm thông với nhau. Và tại sao hôm nay trong vườn hoàng cúc giữa chợ Đồng Xuân tôi lại gặp một bạn gái mặc áo vàng, trùng tên với hoa mùa thu? Có những tình cờ, những chuyện thực, nghe hoang đường như một bịa đặt, tuy vẫn là chuyện thực…”
Viết về bước chân của người học trò cũ trở về trường xưa, nhớ lại đã hơn gần nửa thế kỷ.
“.. Tôi bước vào sân trong. Trời xanh lồng lộng. Những phiến đá vuông nhỏ vẫn dội vang tiếng ngàn xưa dưới chân du khách. Những bậc hè cẩm thạch vẫn trắng trong như lòng tuổi trẻ. Những hàng hiên cửa võng vẫn vươn mình lên, mình cánh cung, như xưa. Tôi hơi rùng mình. Thời gian như ngưng đọng. Cái nhìn của Sorbonne. Của người mẹ . Của người tình.
Mẹ Sorbonne da mồi tóc bạc
Nhưng không tuổi và trẻ hơn hiện tại
Những giây phút huyền nhiệm. Có lúc người và vật dường như cảm thông quấn quýt lấy nhau. Trói buộc lẫn nhau bằng ngàn sợi dây vô hình, bằng màng lưới thần giao. Tôi đứng sững giữa sân trường. Chết đứng. Nước mắt thấm ướt gò má. Sao lại có thể như vậy? Ủy mị, yếu đuối quá đi thôi! Bèn lấy kính mát ra đeo, dằn lại dòng điện cảm xúc đã làm rung chuyển toàn thân. Bốn mươi năm rồi còn gì! Tứ thập niên gian hựu phùng quân. Lý, Đỗ và họ Tô ở Hàng Châu! Hãy cho tôi vay muôn ngôn và từ để nói lên một xúc động chưa từng kinh qua. Cho tôi giải tỏa niềm ngậm ngùi reo vui này. Như một mảng khí áp, một khối tích tụ chăn ngang lồng ngực vừa trải qua cơn địa chấn…”
Suối Tím. Có những câu thơ như:
“ Nước trôi suối ngọc tê hồn đắm
Âm sắc tím chim gọi ngàn năm
Buồn cây chìm bóng cỏ đu võng
Vết thương sỏi trắng đau bộ lạc
Nằm nghiêng nôi lạnh có buồn không?
Màu tím mênh mang buồn. Nhưng mênh mang sâu thẳm mà biền biệt. Cầm tập thơ nâng niu trên tay, nghĩ đến nỗi niềm trao gửi. Đọc thơ mà tưởng đến người nay đã khuất bóng. Thấy lại nụ cười hiền hòa. Thấy lại những tình cảm đôn hậu bao dung khi nói đến nnhững lớp cầm bút đi sau. Và đôi mắt sáng đã từng mơ mộng đã từng ngâm ngùi đã từng vui buồn theo thời thế đẩy đưa.
Tôi đọc trang thơ, không trầm hương mà sao quyện lẫn trong không khí những mùi thơm cổ kính từ thiên cổ tạt về…
Nhà văn Mai Thảo đã có một nhận xét xác đáng về văn chương của một thi sĩ, mà cũng là nhà giáo dục danh tiếng cũng như nhà biên khảo và viết tùy bút xuất sắc :
“ Đọc thơ và văn xuôi Trần Hồng Châu, tôi nghĩ tới hai điều trái ngược.Về một thời đã mất. Và một sự thể không bao giờ mất, bởi nó chẳng hề bị giam cầm trong giới hạn của một thời nào. Sự thể ấy là văn chương, nơi thơ văn Trần Hồng Châu.”
Không biết ý của nhà văn chủ nhiệm tạp chí Sáng Tạo có phải là văn chương của tác gỉa “ Thành Phố Trong Hồi Tưởng “ đã vượt qua được sự đãi lọc của thời gian? Nhất là, cái tâm vằng vặc của kẻ sĩ Đông Phương, trân trọng với văn học biểu lộ qua chữ nghĩa. Ông đã mất, đã khởi hành chuyến tàu đi vào miên viễn nhưng thơ văn vẫn sống, vẫn còn truyền sinh lực cho những lớp cầm bút đi sau. Chất trí tuệ lãng mạn, mà nguồn gốc cả từ Đông Phương lẫn Tây Phương đã làm sâu sắc thêm những suy tưởng, và thành chỉ nam cho những cuộc kiếm tìmtrong hành trình làm mới trong sáng tạo.
Đọc “ Dăm ba điều nghĩ về văn học nghệ thuật”, để thấy cái tâm của một người đã hiểu được sự mông mênh của biển cả kiến thức. Dù là một nhà khoa bảng, dù là một người có đủ tư cách để bàn luận văn chương ở vị trí dẫn dắt. Thế mà, chỉ là “ dăm ba điều nghĩ “mà thôi. Nhan đề tác phẩm không có những liên tưởng đến những tư tưởng vĩ đại, những danh từ to lớn. Thế mà, đọc từng trang, từng chữ mới thấy là một đại dương tư tưởng, một tâm cảm sâu sắc đầy tính sáng tạo.
“ Chung cuộc chỉ còn lại dăm ba điều nghĩ, một vài xúc cảm và ấn tượng, hoàn toàn gắn bó với thẩm quan và nhiệt tình của một cá nhân sáng tạo văn nghệ, thân mật đi bên những người đồng điệu giữa một vườn hoa nhiều màu sắc. Với cả tấm lòng tha thiết hướng về Chân Thiện Mỹ. Với phong thái rộng mở của con người không muốn bị ràng buộc bởi bối cảnh, thiên kiến, nhóm phái hay ý thức hệ nào cả. Một con người mong mỏi được hoàn toàn thoải mái đuổi theo và ghi lại mọi vẻ đẹp rơi rớt trên giải đất trần gian mến yêu của tất cả chúng ta.
Tất cả mọi vẻ đẹp. Vội vã, đam mê nắm bắt, ôm cho được nhiều, thật nhiều trong vòng tay hạn hẹp!
Vội vã, bởi chúng ta đều biết cuộc đời ngắn ngủi và nghệ thuật thì vẫn là con đường muôn dặm, đường đi không tới! Đam mê, bởi Keats từng nói lên sự thực “ Một vật đẹp muôn năm vui” Nghệ thuật và Đẹp là nguồn suối hoan lạc không bao giờ ngừng chảy. Đam mê, bởi trong những chiều tâm sự với Delacroix, bên cột đèn mờ ảo của Place Furstenberg, hay trong phòng tranh độc đáo của Constantin Guys, Beaudelaire luôn luôn chủ trương gạn đục khơi trong để chỉ nhìn , chỉ giữ lại phần tích cực, phần đẹp, tạm quên những gì mà theo một nhãn quan khác, có thể gọi là khuyết điểm nơi các tác phẩm ( critique des beautés ).
Độc giả hãy cùng người viết khoan thai, nhẹ nhàng mở cửa vào vườn hoa của chúng ta. Tạm bỏ quên các hệ thống, các lý thuyết ở ngoài cửa. Không lý giải, không lý luận. Người viết tự coi đó chỉ là phong cách riêng của mình. Và biết rõ là trên văn đàn còn nhiều thái độ phê bình, nhiều cách thế, nhiều ý hệ khác nữa, khi đến với tác phẩm văn nghệ. Theo quan niệm nào, thái độ nào cũng có phần tích cực và xây dựng. Miễn là hăng say nhập cuộc, không thờ ơ nguội lạnh. Miễn là chân thành tìm hiểu, tất cả bởi và cho văn nghệ…”
Như một bản tuyên ngôn, không có một thái độ dấn thân nào hơn thế nữa. Tất cả “ bởi và cho” văn nghệ. Có nhiều con đường để đến chân lý và đứng ở đoạn đường này không thể phủ định hoặc chê bai con đường người khác đi. Thái độ không cực đoan, lý luận không một chiều, dễ đi đến những nhận định chính xác hợp lý.
Ở nhà thơ Trần Hồng Châu, văn chương là một thế giới khoảng khoát không biên giới phân biệt Đông Tây, là cả hai cõi nhân gian từ hai đầu trái đất hòa hợp trong cái bàng bạc mờ ảo để thành mơ mộng lãng mạn. Triết lý, có khi chỉ là phương cách phụ thuộc làm thơ văn hiển lộng.
Khi trả lời bà Thụy Khuê, ông đã tự thú nhận mình là người “ ngoại đạo” trong lãnh vực triết học:
“.. Tôi yêu tư tưởng và coi đó là chất liệu không thể thiếu được của văn nghệ, nhất là khi tư tưởng có gốc rễ có tương quan mật thiết với tình cảm và cuộc sống, nghĩa là có sự hài hòa cân đối giữa trái tim và khối óc, luôn luôn cửa để mở ngỏ..”
Có phải ngôn ngữ và hình ảnh đã tạo thành cảm quan văn chương để ấn tượng tạo ra sẽ in dấu trong bộ nhớ người đọc. Thơ phải vút cao, biển trời vô tận. Cũng như cái tâm, phải chính đính hiền hòa vằng vặc như trăng rằm và mênh mông như trang kinh không tuổi.
Ông cũng cho biết, chỉ làm thơ khi có cảm hứng, mà là cảm hứng thật sự:
“ Thơ là cái gì mung lung, dựa vào cảm xúc nhiều nên tôi cứ tự thả trôi theo thi hứng. Cho thơ hồn nhiên nở ở đầu cành như một bông hoa đến thời, đến lúc thì xuất hiện, tự nhiên ở đấy như do sự thúc đẩy của một nguồn sinh lực hữu cơ tiềm tàng nào đó. Hãy bỏ rơi rụng lại những lớp bụi bậm lý trí lạnh lẽo, mốt thời thượng phấn son làm dáng, ấu trĩ tầm thường, khuôn mòn bảo thủ ù lì hay cái “ mới “ a dua, giả tạo hung hăng.
Cuối cùng như tôi đã nói nhiều lần chỉ cần biết bài thơ có đạt, có tới hay không. Có tân kỳ, có độc đáo, có làm rung chuyển cả trí thức và tình cảm của người đọc không. Có chân chất, có thơ hay không? Thật ra những ý niệm này cũng rất mơ hồ, chỉ “ cảm “ thấy thôi mà cảm thì là chủ quan, khó phân tích khó định lượng. Nhưng trực cảm mặc dầu là phi ý thức, mặc dầu không đường biên rõ ràng vẫn là cái gì đưa ta thẳng vào tận trung tâm sự vật để vươn tới xứ sở của Chân Thiện Mỹ”
Đọc tập thơ mới nhất, để thấy rằng thi sĩ Trần Hồng Châu đã tận dụng những suy tư vào thi ca như thế nào. Suối Tím, tập thơ in lúc cuối đời dường như mang theo tất cả nỗi niềm của một người nặng lòng với chữ nghĩa.
Thuở đầu đời, là một nhà giáo dục nổi tiếng, là thầy của hàng ngàn vạn sinh viên mà về sau đã thành nhiều khuôn mặt quen thuộc của văn chương Việt Nam. Khi gần rời bỏ dương thế, vẫn nặng lòng với thi ca của những chân trời mơ mộng lãng mạn. Thi sĩ Trần Hồng Châu, tức giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, khoa trưởng đại học Văn Khoa, người đã xây đắp một nền tảng vững chắc cho ngôi trường đại học còn sơ khai. Cũng như, là chủ nhiệm tạp chí văn chương “ Thế Kỷ Hai Mươi”, góp phần vào sự phát triển của văn học miền Nam thời kỳ ấy.
Nhưng, trước sau ông vẫn là người đa mang với nghiệp thi ca. Ông yêu thi ca và hiểu được tính vĩnh cửu của vần điệu ngôn ngữ. Bàn luận về thơ, ông có niềm say mê của một người đi tìm chân lý. Thơ, là một phần đời sống của ông. Trước khi ông qua đời, chúng tôi có vào bệnh viện thăm viếng và nghe được ông nhắc đến “Suối Tím” như một gửi gấm cuối đời của một người làm thơ. Với đám môn sinh hiện diện lúc đó, ông nói với tất cả tâm huyết của mình lúc cuối đời…
Tôi đọc tập thơ này nhiều lần trong những thời điểm khác nhau. Tôi cầm trên tay tập thơ mà tưởng nhớ đến tác giả. Sách vẫn đây mà tác giả của nó đã đi vào chốn hạc nội mây ngàn rồi. Giở những trang, để thấy bầu trời thi ca lồng lộng. Có những nỗi niềm giàn trải qua ngôn ngữ hình tượng. Có tấm lòng kẻ sĩ, mang mang theo thời thế mịt mù…
Sống ở trong một thời đại đầy biến động như bây giờ, giữ cái tâm vằng vặc quá khó. Huống chi, vẫn tính lãng mạn văn nghệ bẩm sinh, thêm chất nghiêm túc phải có của một nhà giáo, thành một khuôn mẫu văn chương như ông cũng là một hiếm hoi trong cuộc sống này. Trong thơ Trần Hồng Châu, từ ‘ Nửa khuya giấy trắng”, “ Nhớ đất thương trời”, “ Hạnh phúc đến từng phút giây”, thơ bay bổng thăng hoa vượt qua những nhiễu nhương của thời thế. Thơ, là kết tinh của trầm lắng suy tư có từ những hệ lụy của cuộc đời…
Một điều cảm nhận thật rõ ràng với tôi, từ “ Suối tím “ nói riêng và toàn khối thơ ông nói chung, có nét trầm mặc xương kính của phong thái Đông phương trong nề nếp suy tư luận lý Tây Phương. Thơ , như giao diểm hội tụ của hai đường tàu, tưởng song song nhưng thật ra vẫn gặp nhau trong từng cảm giác.
Lạ lùng, đọc thơ mà tôi tưởng mình đi tìm công án. Mỗi mỗi trang, tưởng tượng những khuôn cửa mở ra vào những lãnh địa riêng. Có cảm thấy những đè nặng của tư duy triết học, nhưng chất luận lý thoảng qua để còn lại những gợi ý bức xúc từ những tượng ảnh mơ hồ chỉ có trong những không gian, thời gian của thi ca. Thơ ông có vóc dáng của một chân dung vĩnh hằng, của những kiếm tìm nỗ lực cái thẩm mỹ quan có sẵn từ cổ đại. Ngôn ngữ, có khi là những viên gạch lót đường để bước nghĩ thong dong chân tới nhưng cũng có lúc là tảng lân tinh rực rỡ lóe lên như tinh đẩu dẫn lối soi đường. Thơ, chính là thông điệp gửi trao, của những đêm thức trắng ngậm ngùi , của những ngày lũi lầm trong cảnh bụi trần cát lấm của cuộc nhân sinh.
“Suối tím “ có dòng thi ca đồng nhất. Kể cả ba bài tùy bút, là những bài thơ văn xuôi mà không gian chính là biển trời thi ca rộng khắp muôn trùng. Con chữ lấp lánh, phản chiếu một cuộc sống nội tâm phong phú. Thực tế đời thường, nếu có những cơn huyễn mộng, thì cũng là lộ trình thoảng qua để đến chốn vô cùng. Ngôn ngữ- hình ảnh – vần điệu , là xuôi dòng về nguồn, nơi chốn mà sáng tạo đã thành yếu tố để tầm mắt người thơ cao hơn, xa hơn, thăm thẳm hơn…
Nhiều lúc tôi tự hỏi. Ở tuổi già, liệu tâm tư sẽ ra sao? Chán nản. Hy vọng. Bình thản. Chờ đợi. Hay là tất cả trộn lẫn lại. Tôi chưa biết. Mỗi người một tâm sự một cách sống riêng. Nhưng, có lẽ từ những thi sĩ, nhất là thi sĩ Việt nam, với chất lãng mạn trầm mặc Đông phương, thì lúc cuối đời, có lẽ là lúc tự tìm kiếm bản lai diện mục mình. Thơ, sẽ thành một phác họa chân dung nhân bản nhất, để , đôi khi, những dông bão hiện thành từ nỗi quặn đau thiên cổ…
Víêt và làm thơ, với đất nước và thời thế, chỉ là những phác họa gián tiếp. Nỗi đau, dường như là những xúc cảm được che dấu lại. Mượn những điển tích xưa, dùng những tên tuổi cũ, để gợi ý thành, để nhắc nhở tới một đẽo gọt của thơ, từ đá tảng nguyên sinh thành những phù điêu dáng tượng hiển hiện cho đời. Bức tượng ấy, từ những nhát dao sáng tác, có chất chứa những nỗi niềm đa mang của cả một thế hệ. Kiêm lời nhưnmg giàu ý, tôi có cảm giác thơ thành những vòng tay ôm choàng khắp đến vô cùng. Nét riêng của một người, như chuyên chở nỗi đau của muôn người trong dẫy đầy biến cố của Việt Nam bất hạnh…
Đại cương toàn khối thì như thế, bây giờ đọc lại những trang thơ để tìm những đoạn tiêu biểu thì tôi lại ngại ngần. Làm sao, để có những chọn lựa chính xác? Làm sao, để nổi bật cái toàn thể trong cái hạn hẹp trích dẫn ? câu hỏi khó, với tôi. Thơ, mênh mông như mây trời, sao có thể nhét dồn trong khuôn khổ hẹp…
Thì thôi, đành lấy cái tương đối để mong biểu hiện được cái thơ không cùng rộng vậy…
Có bài thơ, tôi đọc trong sự cảm động. Thơ rất chân thành, có nét hiện thực của đời thường. Những dòng thơ phác thảo lại những thời điểm mà Đỗ Phủ của Trung Hoa hay Nguyễn Du của Việt nam đã sống, đã buồn, đã cảm, đã viết. Thời của ly loạn, mặc dù đã ngưng tiếng súng của những ngày sau 1975 đau thương:
“.. Đời loạn lạc
chó nhảy bàn độc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố đi bộ suốt Chợ Lớn Mới
Về Đại Thế Giới
Để dành tiền vé xe buýt
Bố mua hai đồng ô mai
Một gói đậu phụng
Bên cửa bếp
Hai bố con ngồi nhấm nháp
Vị xí muội mặn chát
Chua ơi là chua
Ôi men đắng cuộc đời
Ngọn gió nào bỗng thổi tứ tung
Vỏ lạc lá vàng bay
Hai bố con lặng lẽ
Cắn từng miếng me khô
Muối ớt cay cay
Từng quả cóc ngâm đường
Dôn dốt ngọt chua
Bố bảo : bố con mình, thế mà gân ra phết!
Bố nằm xuống đất rồi, lại càng thương bố..
Đời loạn lạc!”
Có liên tưởng nào đến bài thơ chữ Hán của cụ Tiên Điền Nguyễn Du ”Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng. Giang nam giang bắc nhất nang không..”(Kiếp cỏ bồng chân không bén rễ. Bắc rồi nam túi nhẹ ven sông.). Dù, một Hán tự, một Việt ngữ. Đời loạn lạc, thân phận kẻ sĩ thật là chán ngán. Thơ Trần Hồng Châu có nét xác thực, ngôn ngữ bình thường, nhưng trong phong thái ấy là một thái độ của một sĩ phu trong một thời kỳ đảo điên điên đảo của dân tộc và lịch sử. Một người đi đông đi tây, đã sinh sống nhiều nơi trên thế giới, mà lúc này, hai cha con chia nhau miếng quà nhỏ để dành từ tiền đi xe buýt. Chuyện cười ra nước mắt nhưng có thực của dân tộc chúng tôi. Đọc thơ, để thấy man mác nỗi niềm. Đọc thơ, để thấy những ngôn ngữ đời thường ấy có sức lôi cuốn biết bao . Và , qua đó , thấy được tấm lòng cha con thắm thiết biết bao…
Bài “ Kỷ niệm về khuya, trừ tịch “, với chữ Em viết hoa, là hiện thực của cảm giác bềnh bồng, của tiến trình tìm bắt hoài hủy trong chuỗi suy tư. Em, có phải là hình bóng đời thường, của son phấn lụa là, của vóc dáng kiều nữ xa hoa? Hay, là tượng hình sáng tạo chỉ có trong tâm tưởng những người mong mòi tìm đến chốn lãng mạn vô cùng. Những câu thơ, của một vấn nạn mờ ảo trong tâm thức. Vô vọng, nhưng mê đắm…
“… Ta vùng dậy đuổi bắt các Em.
Trong hương sắc cầu vồng hồi tưởng
Hiện thực đắm say
Ảo giác vơi đầy
Các Em, gấm hoa tình cảm của muôn đời
Hay chỉ là bụi phù vân của giấc mơ dài
Đến với ta lúc năm tận tháng cùng…”
Những câu thơ. Áo xuân ngàn nếp còn vương vấn. Buồn thu vạn cổ vẫn chờ mong. Em hư vô hay hiện hữu tuyệt vời. Em độc nhất hay hóa thân muôn vạn… Có phải từ mơ phai kỷ niệm? Hay từ dồn dập nhịp đập trái tim của dĩ vãng thuở nào? Cũ xưa, nào ai định nghĩa ? Trăm năm? Ngàn năm? Vạn triệu năm? Có phải không tuổi tác là những cảm giác mới nguyên của lúc ban đầu? Đời thường, còn có những mốc cắm xác định thời gian. Chứ trong cái hư ảo của cõi hư vô, làm sao phân biệt được giữa sát na giây phút với miên viễn tận cùng. Trong hành trình mù mịt thiên lý cõi xa, vó ngựa cuồng như ngôn ngữ lẩn khuất vào vần điệu. Có ai đánh thức. Một giấc mơ…
‘ …Khi tỉnh giấc
Chỉ thấy trăng khuya chìm đáy ly cạn
Chỉ thấy mây trời treo cửa song thưa
Đào lý hồng hạnh
Lan hương vương giả
Mưa, mưa hoa
Bao phủ khắp châu thân
Hồn say đây bỏ ngỏ
Hơi thở những thiên ha
Đến với ta lúc năm tận tháng cùng
Ta vùng dậy
Ôm tơ trăng mây gió và sắc hoa gầy
Ta thành Em
Em kỷ niệm
Chúng ta thành trang Tình Sử
Mở rộng cho muôn đời…”
Tôi yêu những trang tùy bút. Những thành phố trong hồi tưởng. Những thời điểm đã qua mất hút. Nhưng mầm kỷ niệm vẫn còn, ngút xanh. Hà nội. Paris. Trường An Tây Vọng. Những nơi chốn của một người và của một thời. Những bài thơ văn xuôi diễn tả bằng một trời tâm tưởng. Tùy bút Nguyễn Tuân sang cả. Tùy bút Mai Thảo kiêu sa. Còn tùy bút Trần Hồng Châu lãng mạn khơi mở những dòng nguồn trác tuyệt của thi sĩ.
Viết về chợ hoa của đất ngàn năm văn vật xưa, thi sĩ như muốn sống lại một thời nào xa lắm, từ hơn nửa thế kỷ xa xôi:
“… Ở đây, màu sắc quả là siêu đẳng nghệ thuật. Chợ Đồng Xuân ngày trước Tết là một trời hoa. Hoa giấy, hoa cây và hoa người. Hoa ngoài chợ, hoa trong chợ… khách si giữa hoa, thở hương hoa, chiêm ngưỡng sắc hoa… Ai đã dồn về đây tất cả người đẹp của băm sáu phố phường? Ai đã xê dịch những vườn hoa còn đẫm sương mai của Yên Phụ, Nghi tàm về đây, về trung tâm Hà Nội?
Cúc vàng, cúc trắng, hồng nhung, thược dược, lan nhất điểm,… một bản nhạc hoa mà nhạc công là những cô hàng, áo tứ thân, điểm thêm một giải thắt lưng màu hoa lý hay cá vàng, vì Tết sắp đến.. Hoa sống và hoa cây tự tô điểm rồi cảm thông với nhau. Và tại sao hôm nay trong vườn hoàng cúc giữa chợ Đồng Xuân tôi lại gặp một bạn gái mặc áo vàng, trùng tên với hoa mùa thu? Có những tình cờ, những chuyện thực, nghe hoang đường như một bịa đặt, tuy vẫn là chuyện thực…”
Viết về bước chân của người học trò cũ trở về trường xưa, nhớ lại đã hơn gần nửa thế kỷ.
“.. Tôi bước vào sân trong. Trời xanh lồng lộng. Những phiến đá vuông nhỏ vẫn dội vang tiếng ngàn xưa dưới chân du khách. Những bậc hè cẩm thạch vẫn trắng trong như lòng tuổi trẻ. Những hàng hiên cửa võng vẫn vươn mình lên, mình cánh cung, như xưa. Tôi hơi rùng mình. Thời gian như ngưng đọng. Cái nhìn của Sorbonne. Của người mẹ . Của người tình.
Mẹ Sorbonne da mồi tóc bạc
Nhưng không tuổi và trẻ hơn hiện tại
Những giây phút huyền nhiệm. Có lúc người và vật dường như cảm thông quấn quýt lấy nhau. Trói buộc lẫn nhau bằng ngàn sợi dây vô hình, bằng màng lưới thần giao. Tôi đứng sững giữa sân trường. Chết đứng. Nước mắt thấm ướt gò má. Sao lại có thể như vậy? Ủy mị, yếu đuối quá đi thôi! Bèn lấy kính mát ra đeo, dằn lại dòng điện cảm xúc đã làm rung chuyển toàn thân. Bốn mươi năm rồi còn gì! Tứ thập niên gian hựu phùng quân. Lý, Đỗ và họ Tô ở Hàng Châu! Hãy cho tôi vay muôn ngôn và từ để nói lên một xúc động chưa từng kinh qua. Cho tôi giải tỏa niềm ngậm ngùi reo vui này. Như một mảng khí áp, một khối tích tụ chăn ngang lồng ngực vừa trải qua cơn địa chấn…”
Suối Tím. Có những câu thơ như:
“ Nước trôi suối ngọc tê hồn đắm
Âm sắc tím chim gọi ngàn năm
Buồn cây chìm bóng cỏ đu võng
Vết thương sỏi trắng đau bộ lạc
Nằm nghiêng nôi lạnh có buồn không?
Màu tím mênh mang buồn. Nhưng mênh mang sâu thẳm mà biền biệt. Cầm tập thơ nâng niu trên tay, nghĩ đến nỗi niềm trao gửi. Đọc thơ mà tưởng đến người nay đã khuất bóng. Thấy lại nụ cười hiền hòa. Thấy lại những tình cảm đôn hậu bao dung khi nói đến nnhững lớp cầm bút đi sau. Và đôi mắt sáng đã từng mơ mộng đã từng ngâm ngùi đã từng vui buồn theo thời thế đẩy đưa.
Tôi đọc trang thơ, không trầm hương mà sao quyện lẫn trong không khí những mùi thơm cổ kính từ thiên cổ tạt về…
NGUYỄN THIÊN THỤ * TÌNH YÊU TRONG THƠ TRẦN HỒNG CHÂU
TÌNH YÊU TRONG THƠ TRẦN HỒNG CHÂU
(1921-2003)
Nguyễn Thiên Thụ
Trần Hồng Châu tên thật là Nguyễn Khắc Hoạch, sinh ngày 15-5-1921 tại Hưng Yên, đậu Tiến sĩ quốc gia văn chương Pháp tại Đại Học Sorbonne Pháp. Năm 1957, giáo sư về làm giáo sư dạy văn chương Pháp và văn chương Việt Nam tại trường Đại Học Văn Khoa Sài gòn và Sư Phạm Sàigòn, và giáo sư thỉnh giảng tại Đại Học Huế.
Khoảng 1967-1969, giáo sư làm khoa trưởng Đại Học Văn Khoa Sài gòn. Năm 1970-1974, giáo sư sang Mỹ dạy Đại học Illinois rồi trở lại Việt Nam và kinh qua cuộc đổi đời tại đây. Khoảng 1990, giáo sư sang Mỹ theo diện gia đình bảo lãnh, cư trú tại quận Cam, California. Giáo sư là một nhà văn, đã viết văn, làm thơ và biên khảo với các bút hiệu Hữu Minh, Lân Hồ, Hoàng Tuấn, Trần Hồng Châu. Trước 1945, giáo sư đã viềt các tạp chí Gió Mới, Tiền Phong (Hà Nội). Về Việt Nam, ngoài dạy học, giáo sư đã tích cực hoạt động văn hóa. Năm 1960, giáo sư sáng lập tạp chí Thế Kỷ XX Trong lúc này, giáo sư cũng đã cộng tác với tạp chí Văn Hóa Nguyệt San của Bộ Giáo Dục do giáo sư Nguyễn Đình Hòa làm chủ bút, và Văn Hóa Á Châu của giáo sư Nguyễn Đăng Thục. Ra ngoại quốc, giáo sư tiếp tục làm thơ, viết văn dưới bút hiệu là Trần Hồng Châu, cộng tác với Văn, Văn Học, và Thế Kỷ XXI. Giáo sư đã tạ thế ngày 7-12-2003 tại California, Mỹ quốc, thọ 83 tuổi.
Các tác phẩm :
-Ba Lan vận động độc lập, Hà Nội 1945.
- Le Roman Vietnamien aux 18e et 19e siècles. Đại Học Sorbonne, 1955.
- Contribution à l' Étude Critique et Biographique des principaux Romans en vers Vietnamiens. Đại học Sorbonne, 1955.
- Le Japon et le Traité de Paix de San Francisco, Đại học Paris, 1955.
- Les Relations Russo-Japonaises depuis 1951. Đại học Nancy, 1957.
- Xây Dựng và Phát Triển Văn Hóa Giáo Dục, Lửa Thiêng, Sàigòn, 1970.
- Thành Phố Trong Hồi Tưởng ( Tùy Bút). An Tiêm, Los Angeles, 1991.
- Nửa Khuya Giấy Trắng( Thơ), Thanh Vân,USA, 1992.
- Nhớ Đất Thương Trời ( Thơ), Thế Kỷ,USA, 1995.
- Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây( thơ). Văn Học, USA, 1999.
- Dăm Ba Điều Nghĩ Về Văn Học Nghệ Thuật. ( Tiểu Luận). Văn Nghệ, USA, 2002.
- Suối Tím. Văn Nghệ, USA, 2003.
- Tuyển Tập Trần Hồng Châu. Viện Việt Học, USA. 2004.
Đa số thi nhân đều làm thơ khi còn trẻ, dường như tuổi trẻ là tuổi mơ mộng, là mùa thơ. Chính yêu đương lúc trẻ trung là động cơ sáng tạo của thi ca . Có lẽ Trần Hồng Châu cũng vậy. Thi sĩ đã làm thơ, viết văn rất sớm nhưng vốn là người thận trọng, thi sĩ không muốn in vội tác phẩm của mình. Rồi cơn địa chấn và hỏa sơn bùng nổ tại Việt Nam năm 1975 đã phá hủy một quốc gia và những sự nghiệp văn học, nghệ thuật của cá nhân và của một thời đại. Các tác phẩm thi ca, tùy bút của thi sĩ chỉ mới xuất bản tại Mỹ sau khi thi sĩ rời bỏ Việt Nam, ở vào lứa tuổi thất thập. Trần Hồng Châu đã trở lại với thi văn đàn và đóng góp cho văn học hải ngoại một số tác phẩm quý giá.
Những tác phẩm của thi nhân đã chuyên chở tâm tình của thi nhân. Thi sĩ đã sống trong bao đêm dài bên cạnh những trang tâm tư đang rộng mở ( Nửa Khuya Giấy Trắng), Thi sĩ đã nhớ đến những thành phố Việt Nam thân yêu, và những thành phố của nhân loại mà thi sĩ đã đi qua và đã sống ( Thành Phố Trong Hồi Tưởng). Và bao giờ tâm hồn nhà thơ cũng rộng mở, ấp yêu vũ trụ ( Nhớ Đất Thương Trời). Thi ca và bút ký của Trần Hồng Châu biểu lộ một tình yêu tha thiết. Thi sĩ yêu quê hương, yêu gia đình , yêu giai nhân, yêu nghệ thuật, yêu vạn vật, và lòng lúc nào cũng thảnh thơi, an lạc ( Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây).
I. TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG
Trọng điểm của thơ Trần Hồng Châu là tình yêu quê hương. Ra khỏi quê hương Việt Nam yêu quý, thi sĩ luôn sống trong hồi tưởng:
chúng ta đứng giữa dòng sông ký vãng
dòng thời gian không gian bắt đầu và không tận cùng
chúng ta được kết tụ bằng muôn vàn phân tử của hồi tưởng xa xưa
chúng ta tắm trong quê hương tâm tưởng
trong tuổi ngọc miên trường
(Nửa Khuya Giấy Trắng.Về đây kỷ niệm)
Cũng như những nhà thơ, nhà văn hải ngoại, Trần Hồng Châu đã nhận thức được thân phận của kẻ lưu đày. Thi nhân đã đồng hóa mình với người áo xanh đất trích ngày xưa:
Ai đi mấy độ trăng tròn
Một ta đất trích mỏi mòn áo xanh
( Nửa Khuya Giấy Trắng .Cỏ vong Ưu)
Bên trời lận đận
Lau lách đìu hiu
Ta muốn hôn
Cánh vạc lẻ
Ngoài đầm vắng
Đất bùn xa lạ
Sình lầy quê hương
. . . . . . .
Cây si tùng bách
Linh hồn xứ lạ
Có những tổ chim
Nhìn về phương Đông
. . . . . . .
Người lữ khách cô độc
Bốn bề trùng vây
Thương cây hay thương mình? . . .
( Nhớ Đất Thương Trời. Florida)
sầu đông trong gió lộng
tuyết lạc hoàng hoa tư cố hương
( Hạnh Đến Từng Phút Giây, Hạnh Đến Từng Phút Giây)
Thi nhân đã đau khổ khi nhớ quê hương khổ đau bên kia đại dương:
Mây cho ta nhắn gửi
Lời về thăm cố lý
nơi có từng giọt nước mắt rơi
Trên từng hòn đất xót xa
Nơi có những nụ cười héo hắt
(Nửa Khuya Giấy Trắng . Xuân và biển thiếu quê hương)
Tại Việt Nam, thi sĩ vẫn còn người thân ở lại và thi nhân ước mong ngày trở lại:
Quê hương đau buốt mùa ly biệt
Mộng cũ đoàn viên sớm thỏa lòng
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Từ thuở vương xe mối chỉ hồng)
Thi nhân bao giờ cũng nhớ quê hương. Khi đến Florida, một miền nắng ấm đã khiến thi nhân liên tưởng đến Việt Nam:
Ôi cái nóng quê hương
Nóng vỡ tung mặt đất
Nóng nung mủ
Trái bơ xù xì
Nóng vọt máu
Trắi tim lựu đỏ
Nóng căng đứt thần kinh
Chùa Đàn sợi giây huyền thoại
Ta muốn hôn
Muốn hút từng giọt
Cái nóng quê hương
Trên bờ Đại Tây Dương
(Nhớ Đất ThươngTrời . Florida)
Thi sĩ đã sống tại Sài gòn cho nên nhớ Sài gòn nhiều nhất. Trong hồi tưởng của thi sĩ, ta thấy có hai quê hương. Một quê hương tươi đẹp của quá khứ xa xưa trước 1975, và một quê hương tàn tạ sau 1975. Thi sĩ đã tưởng nhớ một Sài gòn thơ mộng:
Ai lên Phú Nhuận Cầu Bông
Hỏi thăm cô Tú có chồng hay chưa?
Xe đi ngang dọc mấy mùa
Xe ơi có nhớ ngọt chua cuộc đời?
. . . . . . . . .
Xe đưa tôi về Nhà Bè nước chảy chia đôi
Lòng phân vân chẳng biết ở hay đi
Xe qua Tân cảng tới cầu ái ân
Cong cong mình liễu như màu mắt em
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Xe đi ngang dọc mấy mùa)
Trong tập bút ký Thành Phố Trong Hồi Tưởng, nhà văn Trần Hồng Châu đã viết về Cầu Ông Lãnh, đường Trần Hưng Đạo, và con đò Thủ Thiêm:
Năm tháng qua, như nước chảy dưới cầu Khánh Hội, như mây bay trên mười tám thôn Vườn Trầu, tôi vẫn không hết ngạc nhiên., xúc động đến thảng thốt, mỗi khi mưa Sài gòn bủa vây, tới tấp, hay khi nắng Sài gòn nung nấu đến rùng mình cả một bầu khí quyển đến siêu thực, vàng ánh như tranh Van Gogh với cái chói chang bỏng lửa của trưa hè đúng ngọ. Mỗi khi hoa mai bừng nở ở Minh Phụng hay khi con đò Thủ Thiêm đủng đỉnh bắc cầu cho những Sâm Thương thời đại. Mỗi khi sông Nhà Bè bồn chồn nước chảy chia đôi hy khi tấm lòng son của những trái dưa Hà Tiên bằng ngọc thạch được giải bày trên lề đường đi về Cầu Ông Lãnh trong những ngày đầu xuân. (Thành Phố Trong Hồi Tưởng, Buổi chiều hằng cửu).
Thi nhân đã nghĩ về trường đại học Văn Khoa Sài gòn, nơi ông đã giảng dạy, đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Ông viết với tất cả tấm lòng tha thiết bằng những lời rất đẹp:
Tôi yêu những tấm lòng trinh bạch và màu trắng đơn sơ, hồn hậu, màu thanh bần lạc đạo trên vách tường Văn Khoa, Văn Khoa linh hồn thầm kín của Đại học và quê hương trong những mùa lịch sử, nóng bỏng, sôi động. . . Tôi yêu màu trắng chiều đông, hơi ngả sang màu xám hay xanh nhạt, của trường cũ cũng như trường mới, thoáng gợi cái mong manh, u buồm của lớp phấn light blue shadow nằm dài trên mí mắt, khi những cửa sổ linh hồn bâng khuâng, ngỡ ngàng, dường như mở rộng, cuốn chúng ta vào muôn vạn nẻo đường mịt mùng, xa vời vợi, hun hút sâu như vực thẳm giữa lòng đại dương. . . .Nhớ thương luôn nên mắt có quầng viền!
Tôi yêu màu trắng ngà của tơ lụa nõn, của áo vân Hà Đông trên mình người nữ sinh viên, trên mình đàn bướm trắng biết tha thiết yêuVăn, Triết, Sử ( nhưng cũng biết rùng mình sợ chính những đối tượng quyến rũ đó. . . . những khi mùa hè xích lại gần hay hoa phượng nở nhiều thêm). Đàn bướm trắng ngày ngày chập chờn, tản mác trong giảng đường, ngoài dãy hành lang xa tít tắp và trên ngọn cỏ lá cây của khuôn viên Cường Đễ, lúc nắng chia nửa bãi chiều rồi. . . .
(Thành Phố Trong Hồi Tưởng. Tình khúc đại học)
Thi nhân hồi tưởng sông Hồng và các hệ thống của nó ở tam giác châu đất Băc trong đó có con sông nhỏ chảy qua Hưng Yên là quê hương của thi nhân:
Khởi đầu là dòng sông quê mẹ. Dòng sông bé nhỏ trong hệ thống giăng tơ và kết lưới của sông Hồng ngàn vạn cánh tay vừa dịu dàng, vừa cuồng nhiệt. Sông kia bên lỡ bên bồi. Nước phù sa mầu mỡ, đầy tình mẫu tử. Sông đỏ như son, sông đỏ rực những cánh hoa gạo rơi rắc trên bờ sông vắng lặng. Ai cũng có một dòng sông ấu thơ, một dòng sông quê mẹ. Nằm nôi trong dòng nước đó, nghe nhịp đời và nhịp nước âu yếm, vỗ về.
(Thành Phố Trong Hồi Tưởng, Dòng sông trầm tư)
Thi nhân nhớ đến Hà Nội của ba mưoi sáu phố phường ngày xưa:
Một mùa hương cốm vòng
Ta thở đến trăm năm
Một bàn tay Hàng Đào
Ta mê đến triệu ngày
Bàn tay Tố Tâm
Vàng phai khuê các
Trầm thủy Hồ Gươm
Bàn tay cô Phượng ngoài mồ
Tay Liên gánh hàng đỏ tóc xanh. . .
. ... . . . . . . . .
Rưng rưng sông Hồng
Nghiêng mãi mái thu
Nơi đó ta từng yêu
Những người con gái bàn tay búp măng. . .
( Hạnh Phúc đến Từng Phút Giây .Bàn tay hàng đào)
Ông cũng nhớ Huế:
Tôi nhớ sông Hương. Nhớ đến đau nhói, dòng nước như ngưng đọng trong thời gian ngưng đọng của một đô thành cổ kính, dường như cũng đứng ngoài cái trôi chảy không ngừng của lịch sử. Sông xanh như mắt. Sen nở quanh thành. Hương cỏ bồ và hồn huệ trắng của những người thanh nữ rất đỗi yêu thơ và yêu những người làm ra thơ.
(Thành Phố Trong Hồi Tưởng, Dòng sông trầm tư)
Trí tưởng đã đưa thi nhân trở về quá khứ xa xưa, Việt Nam là một quê hương đã nhiều năm nằm trong đạn bom, khói lửa:
Lạc bước phiếm du mùa đỏ lửa
Cố đô ly loạn khói mờ say
Ai đi chập chờn trong nắng biếc
Mái nhạt đền xưa ẩn bóng mây
(Nửa Khuya Giấy Trắng . Áo biếc mùa xưa)
Nhiều nhà thơ hải ngoại đã viết về lịch sử Việt Nam nhưng không ai viết rõ và thực với phong cách văn hoa bóng bảy như Trần Hồng Châu. Thơ của Trần Hồng Châu một phần mang tính hiện thực. Ông và dân tộc này cũng như Thuý Kiều đã qua khổ ải đoạn trường:
Mười lăm năm tang tóc,
Mười lăm năm hoang tàn.
Mười lăm năm trong sổ đoạn trường.
Có tên!
Thay đời đổi kiếp,
Hờ ơi! Bình minh nào
Đất trời mờ mịt bốn phương.
Lưỡi lê giáo mác chật đường âm binh.
Đô thành không người vuốt mắt,
Bức tử
Niềm oan khiên rừng rực
Thái hằng sơn!
( Suối Tím. Mười lăm năm)
Thi sĩ đã chứng kiến bao cuộc sống của Sài gòn đã bị vô sản hóa, bần cùng hóa sau 1975. Dưới ngọn bút của ông, chúng ta thấy từng cảnh một. Khởi đầu là hình ảnh những chuyến xe lam, xe bus:
Tôi đi xe bus Sài gòn
Xa cảng miền Tây
Xe Cây Mai Phú Thọ Hòa
Xe tã như giẻ rách
Trong lòng quê hương
Rách tơi bời!
Kính chiếu hậu vỡ từng mảng vụn
Như con ngươi mắt trợn trừng nhìn vào thực
tế phủ phàng
Mui xe gồ ghề mu rùa cong cong
Đập mạnh vào sọ não người tài xế già
theo nhịp bánh xe quay
. . . . . . . . . .
Xe nêm cối có đứa trẻ mồ côi
Mặt rầu rầu bán trái cóc với kẹo đồng đôi
Có anh thương phế binh gãy đàn tay trái
Chiều nay ta trở về bại tướng què chân. . .
Có thằng móc túi bị lôi phăng xuống bến
Vào trụ sở quân cướp ngày oai phong
Có hơi người nồng nặc giữa chiều đông
Có mùi rác rưởi trên xe gầy ốm tong teo
Đồng bào tôi áo chằng áo đụp
Mình võ vàng ngàn nỗi thiếu ăn
Đồng bào tôi đi về đâu chiều vô định
Giòng lịch sử lênh đênh chiếc bách
Đồng bào tôi có tội tình gì?
(Nhớ Đất ThươngTrời . Sài gòn xe bus nội ngoại thành)
Tiếp theo là cảnh dân đi kinh tế mới, vì quá khốn khổ phải lui về Sài gòn nằm ngổn ngang như những người tiền sử từ xa xăm hiện về:
Ngã Sáu Sài gòn có những bộ lạc về từ rừng sâu tiền sử
Từ kinh tế mới âu sầu mất hướng
Trại lưu đày dựng bên bờ đại lộ quê hương
Bên kim tự tháp rác rưởi trầm ngâm
Lửa hờn căm đốt sôi lòng nồi nhỏ
Sưởi ấm ruột gan rét cóng giữa trưa hè
Bằng những hạt cơm trừu tượng
Bằng vài lời hứa. . . thiên đường trần gian. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Tháng 4.. . Mưa Ngâu dầm dề)
Thi sĩ đã nói đến thân phận người ca sĩ trong chế độ mới:
chiều nhỏ lệ,
u mê trùm lên đầu thành phố âm u.
sân khấu Sàigon
ngàn năm lời nguyền rủa!
lời ca đoàn ngũ hóa
âm thanh đi vào hợp tác
sóng nhạc từng đợt quốc doanh
như tư tưởng và thơ
hơn một lần rách nát
trong máu sắt bàn tay quản lý.
Tám giờ đêm,
Nhà hát cửa đóng kín
như tâm hồn bức tử
vì cường quyền run sợ
trước mặt tuổi hai mươi
gươm quật khởi
em hát
thờ ơ buông xuôi
hồn đi chơi vắng
sông Volga lạnh buốt
chuông đồng hồ Cẩm Linh
đội vào lồng ngực đau nhói
( Suối Tím. Đoạn trường của ngườI nữ ca sĩ).
Không riêng Sài gòn mà toàn thể đất nuớc Việt Nam đều đau khổ:
Nội ngoại khoa với hằng hà sa số bệnh hoạn
Đau buồn, lở lói
Trong, ngoài trần gian
Trước, sau, hiện tại
Những bệnh căn đè nặng thập tự giá trên
vai con người trôi dạt trong thung lũng
nước mắt không hề vơi
Khoa da liễu vẫn còn ghi nhiều vết sẹo rằn ri
Trên da thịt người dân và đất nước thảm thương
(Nửa Khuya Giấy Trắng .Nhà thương )
Trong thơ, thi sĩ đã nói đến các thuyền nhân vì tự do, vì trốn tránh cộng sản mà bị chết oan ức:
nhưng dưới sâu
sâu nữa
vạn hồn thuyền nhân
sớm đi tối về
vẫn oan khiên
ngập tràn biển đông
. . . . . . .
đoàn hải khấu
ác điểu đen
bỗng đổ sập xuống một trời bóng tối
nữ tu, thôi hết nữ đồng trinh
nghĩa phu thê, thôi lời vĩnh biệt
em gái nhỏ, thôi nhé
dẫm nát một búp hồng non
. . . . . . . . . .
người thiếu nữ trên đảo san hô
ta sẽ dựng tượng em
giữa muôn trùng sóng
hãy nói lên niềm đau dân tộc
hãy vẽ lên dáng đứng quê hương!
(Nhớ Đất ThươngTrời.. Biển oan khiên)
Trần Hồng Châu kết án các cường quốc đã coi Việt Nam như một con tốt trên bàn cờ quốc tế. Và thi sĩ đã gọi chủ nghĩa Marx là ‘’ý thức hệ đen’’ đã gây ra bao thảm cảnh cho dân Việt Nam:
nước biển có giải oan
trắng tinh hồn nhược tiểu?
nước biển có mặn chát
vạn niềm đau?
nước biển có rửa sạch
ý thức hệ đen
đồ thán
chất ngất trời xanh?
(Nhớ Đất ThươngTrời.. Biển oan khiên)
Gần đây nhất là việc buôn bán người tại Việt Nam, do đảng ‘’xuất cảng lao động’’:
Tin AFP rao truyền khắp năm châu bốn biển
‘’Trong năm năm gần đây 5000 (hay 50,000?) con gái Việt Nam đã được bán buôn dưới nhiều hình thức’’
Những người con gái từng thấy trong ca dao
Trong thơ Nguyễn Bính chân quê
Trong thơ Hàn Mặc Tử chị ấy năm nay còn gánh
thóc dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
50 năm trước đây, thời thực dân mấy đời
bánh đúc có xương
Họ còn được là cô dâu trinh trắng nón quai thao về
nhà những chàng trai quan họ quần chùng
áo dài nguyên nếp tình quê
5000 ngưồi con gái Việt Nam ấy, hôm nay sau cơn mê sảng ý thức hệ,
mà họ không hề tạo nên,
đã là món hàng tươi sống xuất khẩu
1. Về những phường dạ lạc Hồng Kông
2. Về những xóm yên hoa Ma Cao
3. Về đảo quốc Đài Loan xả xui bằng chữ ngàn vàng
4. Về vùng Lưỡng Quảng chiều mưa biên giới em đi về đâu?
5. Về niềm tủi nhục ngửa nghiêng Vọng Các thủ đô
ổ nhện suốt sáng thâu đêm. . . .
( Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây. Mẹ Âu Cơ hôm nay khóc hay cười?)
Một đôi khi thi sĩ cũng châm biếm chủ nghĩa cộng sản:
Lằn đường, lane đường
Mù mịt tít mù
Chạy mút mùa như đời cải tạo không án lệnh
Chạy phân minh nhị nguyên
Như đường ranh tư bản dẫy chết. . . vẫn sống nhăn răng
Như đường ranh vô sản tiến nhanh tiến mạnh về thiên đường mù
(Hạnh Phúc đến Từng Phút Giây . Buổi chiều góc cạnh)
Thi sĩ tin tưởng một ngày kia dân Việt Nam sẽ vùng lên đập tan xích xiềng để giành lấy tự do:
nhất định
sấm sét cuồng phong sẽ vùng dậy
từ những đốm lửa nhỏ
từ những di động vi ba
Tần Thủy hoàng chết khô
Trong lửa đỏ Hàm Dương
phần thư! phần thư!
nhưng bài thơ vẫn tồn tại
trọn vẹn
ung dung
trên nẻo đường khai phá
nẻo đường tự do
(Hạnh Phúc đến Từng Phút Giây. Làm thơ sau cơn hồng thủy)
Trần Hồng Châu là người yêu nước, thương dân, là người quốc gia chân chính, người trí thức chân chính , và có ý thức chính trị rất cao.
II.TÌNH YÊU GIA ĐÌNH
Rất ít nhà thơ nói đến gia đình trong tác phẩm của mình. Trần Hồng Châu thì khác. Ông là một người thâu thái Tây học trọn vẹn nhưng vẫn giữ tâm hồn Á Đông với đầy đủ trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Thi sĩ đã thờ song thân rất mực hiếu thảo.
Thân phụ của thi sĩ đã cùng thi sĩ kinh qua những ngày đen tối sau 1975 và mất trước khi thi sĩ rời Việt Nam. Bài thơ khóc cha sau đây là một trong những bài thơ hay nhất trong văn học Việt Nam . Chúng ta đã có những bài thơ khóc vợ, khóc chồng, khóc bạn nhưng chưa có bài thơ nào khóc bố mẹ đạt nghệ thuật như bài này. Bài thơ này rất có giá trị vì tâm tình chân thành với nghệ thuật giản dị, câu thơ tự nhiên, mộc mạc không trau chuốt nhưng đã đi sâu vào trái tim người đọc. Bài thơ này cũng cho chúng ta biết tình cảm sâu xa của thi sĩ đối với cha già :
Bố nằm xuống
Bố nằm xuống đất rồi, càng thương bố
đời loạn lạc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố thèm chén rượu nhạt
( một đôi khi thôi, đâu có nghiện ngập gì!)
con cũng chẳng có tiền mua
túi sạch sành sanh
sau mấy chuyến đi chui chẳng thành công
Bố muốn bộ đồ xá xị tầm thường
để bận cho thoải mái
Con cũng chỉ mua được vải tám lai rai
Trông bố ăn
Rất ngon lành
Củ khoai lang buổi sáng
Con muốn khóc quá trời!
Đời loạn lạc
chó nhảy bàn độc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố đi bộ suốt Chợ lớn mới
về Đại thế giới
để dành tiền vé xe buýt
bố mua hai đồng ô mai
một gói đậu phụng
Bên cửa bếp
Hai bố con ngồi nhắm nháp
vị xá muội mặn chát
chua ơi là chua
ôi men đắng cuộc đời!
ngọn gió nào bỗng thổi tứ tung
vỏ lạc lá vàng bay
Hai bố con lặng lẽ
cắn từng miếng me khô
muối ớt cay cay
từng quả cóc ngâm đường
dôn dốt ngọt chua
bố bảo: bố con mình thế mà gân ra phết!
Bố nằm xuống đất rồi, lại càng thương bố
đời loạn lạc. . .
(Nhớ Đất Thương Trời)
Bài thơ này có giá trị ngang bài Thạch hào lại của Đỗ Phủ. Cả hai thi sĩ đều sống vào thời tao loạn và nói về cảnh thời loạn. Cả hai bài thơ đều có lời giản dị, trong sáng mang nghệ thuật tả thực và tính xã hội, nhưng thơ của Trần Hồng Châu còn mang tính chất riêng tư và mạnh mẽ của tình cảm gia đình, của tình phụ tử trong hoàn cảnh khó khăn của gia đình và của đất nước.
Thi sĩ Trần Hồng Châu còn làm thơ khóc mẹ khi thi nhân đã ngoại thất tuần.
Sau cơn sốt nhẹ mẹ đã ra đi trên đường thênh thang
Thanh thản
Nhẹ tênh một vẫy gọi hồn thu thảo
Bên kia bờ vĩnh hằng
Có còn giòng lệ đắng
Có còn đớn đau và biển lớn quên mình?
. . . . . . . . . . . .
Hôm nay Mẹ bước vào
Im lặng Yên Tĩnh Tịch Mịch
Để lại đằng sau các con mẹ cổ lai hy nhưng vẫn là
bé bỏng thuở nào
Hôm nay
Tàn hương và lời kinh bát minh hồng phấn
Rụng xuống cùng những quân bài số mệnh
Cùng nằm im bên chuỗi tràng
Trong sáu bức tường vàng - tâm ngát thơm lòng mẹ
Con máu thịt mẹ
Mẹ bồng một phần con ra đi
Con giữ lại một phần Mẹ
Ở đây bụi đỏ kinh thành
Ở đây bốn biển cùng đành sầu riêng. . . .
(Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây . Mẹ )
Thi sĩ Trần Hồng Châu cũng viết về người vợ hiền của thi sĩ. Hai ông bà đã sống bên nhau cho đến tóc bạc răng long, tình cảm rất thắm thiết. Có lẽ tình yêu ở những vợ chồng già cũng nồng đượm vì người già thì cảm thấy cô đơn. Các con đã lớn, đã đi xa, và bố mẹ cũng đã không còn ở trần thế, mà bạn bè cũng thưa thớt, kẻ mất người còn. Và giờ đây chỉ còn hai vợ chồng già với bao khó khăn của cuộc sống. Nhưng với một nụ cười, và một cử chỉ săn sóc ân cần cũng làm cho nhau hạnh phúc. Bài thơ ‘’Chỉ còn nụ cười em’’ có lẽ được viết trong hoàn cảnh này, lời thơ nhẹ nhàng, thắm thiết:
một bóng ta một mình
đèn khuya mờ giấy trắng
tấc lòng người xưa
trăn trở hôm nay
quá khứ ngàn cân
trùng điệp vẫn vòng vây
tương lai mịt mờ
đường hầm không lối sáng
đời khép kín
trắng đôi tay
hồn ngắt lạnh
chỉ còn nụ cười em
bình minh rực rỡ
ngoài chân trời cuộc sống
không sắc, không vị
không một thanh âm
chỉ còn nụ cười em
mỗi buổi sớm em mời anh
chén trà xanh đầu ngày!
(Hạnh Phúc đến Từng Phút Giây
III. TÌNH YÊU VÀ NGHỆ THUẬT
Nghệ sĩ nào cũng có hình ảnh một vài giai nhân trong tác phẩm. Trong thơ Trần Hồng Châu, chúng ta cũng thấy có nhiều bản tình ca rất đẹp. Bài Bướm trắng là một bài thơ hay:
Sóng xanh xanh, sông chở đầy ân ái
Trường hồng hồng, trường mang mãi tình non
Quá gần nhau sao vẫn còn quan ải
Mấy mưoi lớp phù kiều dáng mắt em!
Chủ nhật dây nắn nót chữ thơ hồng
Lòng phơi phới hội mở gió như nhung
Ghé Thiên Thai anh trao tình thứ nhất
Tay ghi dòng nhật ký buổi tương phùng
Áo trắng xưa bướm cũ còn vương vấn
Đêm thao thức hồn trĩu nặng buồn thơ
Mộng mơ anh say say mầu hồng phấn
Tóc huyền châu trong khung cửa trường bên
Bờ sông thơ gió vương tình áo trắng
Em đi nhanh nón nhỏ gót hồng son
Bỗng hoa lá chập chờn trong vắng lặng
Hồn bâng khuâng rực rỡ ánh lưu ly
Bước ngập ngừng vân vi mi chớp lẹ
Tình mang mang hò hẹn mái đò xưa
Mộng thanh xuân tuổi ngọc về đây nhé
Về đây nhé bướm trắng mộng thanh xuân
(Nửa Khuya Giấy Trắng)
Thi sĩ là người đa tình đa cảm. Thi sĩ đã ghi lại những xúc động khi gặp nhiều giai nhân trong những trường hợp khác nhau, và những góc độ cuộc đời khác nhau. Phải chăng những giai nhân ở đây tượng trưng cho cái đẹp muôn nơi muôn thuở của đất nước Việt Nam tự do, của nhân loại hòa bình? Bài thơ Em là ai? Từ phương trời nào? là một bài thơ xuất sắc:
Người đẹp bao nhiêu từng thoáng gặp
Như gió hội ngộ mây hồng trôi
Bốn phương trời rộng vẫn bồi hồi
Ngàn năm đâu có lại hẹn hò
Em là ai, từ phương trời nào tới?
Chỉ còn lại hương rơi tiếng đoạn trường
Em chợt đến chợt đi tinh cầu lạc
Một cánh bướm, trăng soi vạn nẻo đường. . .
Anh gặp em bé bỏng chiều dạ hội
Mình xoay xoay luân vũ nửa về khuya
Anh thấy em bâng khuâng chân bước vội
Mắt ngỡ ngàng đại lộ cửa thành đô
Anh gặp em vương mắc sầu thương cảng
Cánh buồm trắng ra khơi màu ly biệt
Anh thấy em trầm ngâm buông cây viết
Trong giảng đường tuổi trẻ mắt đầy sao
Anh gặp em reo vui chuyến tàu sớm
Sương gió lạnh anh mê tình sưởi ấm
Anh thấy tóc em mộng hái mơ vàng
Suối Giải Oan về em có giải oan?
Anh gặp em chân đỏ ruộng phù sa
Môi cắn chỉ hồng duyên nếp mới
Anh thấy em bến cũ trời hoa lá
Mái đò đưa sóng mắt gợi tình đầu
Em là mây gió nước sông đày
Em từ đâu tới em về đâu
Gặp em chớp mắt nhớ vạn ngày
Sớm chiều mưa nắng mắt em buồn
Anh đi ngang dọc kinh vỹ tuyến
Nửa đêm chợt tỉnh lại tình em
Lên non xuống biển mộng hư huyền
Tiên về bích động tình rơi cõi trần!
(Nhớ Đất Thương Trời)
Trên đây, Trần Hồng Châu viết bằng lời thơ giản dị, mộc mạc, nhưng qua phần này, thi nhân viết bằng nghệ thuật tượng trưng. Như một khúc đàn đang dạo những âm thanh nhịp nhàng, đều đặn, đến đây, âm thanh, tiết táu đổi khác, đưa người qua một khung trời khác.
Thi nhân lại đưa chúng ta qua một khung trời khác nữa. Thi nhân đưa chúng ta trở về khung trời ca dao với trầu quế, hoa bưởi của thời Nguyẽn Du, Hồ Xuân Hương. Một bài thơ của Trần Hồng Châu rất gần hồn thơ Nguyễn Bính:
Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương
Thời gian tỏa bóng đoạn trường
Thời gian che khuất nẻo đường thiên thai
Tôi từ kinh khuyết một hai
Núi cao cao mãi sông dài dài ghê
Nhớ nhung mấy thuở đi về
Cùng nhau sớm tối lời thề nước mây
. . . . . . . . .
Người thơ thơ cả bàn tay
Em xinh xinh cả nét mày gần xa
Nhà em ở xóm Chợ Ngà
Có giây trầu quế đậm đà ngọt chua
Nhà tôi bên ngõ giếng Chùa
Cuối thôn hoa bưởi nửa mùa ngát hương
Ước gì cho núi bình thường
Cho sông bé nhỏ tôi thường sang chơi. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Ước gì sông rộng một gang)
Bài thơ Em vẫn ngồi đây vầng trăng khuyết là một bài thơ rất đặc biệt vì thi sĩ đã dùng trí tưởng tượng trở về thời xưa khi còn những tráng sĩ, những vương tôn, công tử và những nàng ca kỹ tài sắc lừng danh.
Từ biên cương ruổi ngựa về bắc khuyết
Ta tìm em đâu phải mộng vương hầu
Ta tìm em lạc phách Tây hồ xưa
Những vương tôn ngõ liễu màu hồng phấn
Cung đàn say dàn trải mộng thanh xuân
Gió bụi kinh thành đường vạn dặm
Vàng son cửa võng ngói lưu ly
Em vẫn ngồi đây vầng trăng cũ
Nửa mùa ly loạn nét đan thanh?
Hoa cỏ ngàn năm cỏ hoa xuân
Mây trắng rưng rưng bước lữ hành
Mây trắng về đâu hồn bỏ ngỏ
Nhớ nhung đất Hứa có về chăng
Sông vẫn đò đưa chèo mái cũ
Núi vẫn giăng màn bóng mi xưa?
Em vẫn ngồi đây vừng trăng khuyết
Nửa mùa ly loạn nét điêu tàn
Phấn son lợt lạt buồn năm tháng
Thành quách đau lòng lớp phế hưng
Đá cũng pha phôi màu sương gió
Nhung lụa còn đâu dáng Ngọc Kiều
Đàn kêu như khóc lệ Tầm dương
Nhỏ máu năm dây khúc đoạn trường!
Bốn vách vơi đầy như xa cách
Người đi người ở mấy phương trời. . . .
Ngày mai đây xuất phát lại hoàng hoa
Bóng thời gian bạc ố những phím đàn
Đường Yên kinh vó ngựa chập chờn say
Ai khóc ta như ta đã khóc người
Thôi bút nghiên đàn phách cũng đều sai!
( Nhớ Đất Thương Trời)
Bài thơ này và Bài ca man rợ của Đinh Hùng giống nhau vì cả hai đều đặt bài thơ vào một không gian và thời gian xa xưa, tuy rằng một bên là truyện tình của một tráng sĩ, còn một bên là tâm sự của một dã nhân. Bài thơ này và bài Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ có điểm giống nhau vì cả hai đều dùng chữ và hình ảnh rất cổ kính và theo nghệ thuật tượng trưng.
Những bài Em là hồi tưởng em là âm vang, Chiều đô thành ( Nhớ Đất Thương Trời),Tro tàn kỷ niệm (Nửa Khuya Giấy Trắng) là những bản tình ca rất giá trị.
Một vài bài thơ của Trần Hồng Châu mang một ý nghĩa khác. Giai nhân ở đây là nàng Thơ, nàng Ly Tao:
Em Giáng Thơ kiều mị
Hôm nay ngày của Em
Ngày tôn vinh Thơ
Thơ xóa nhòa biên giới thời, không gian
Thơ không trường phái, không khẩu hiệu
Thơ hoàn toàn giải thoát. . . .
Em Giáng Thơ kiều mi
Gió đã lên!
Anh đang chắp cánh cho Em, cho Thơ
Trên hoa tiên những trang giấy rực màu ánh sáng!
( Nửa Khuya Giấy Trắng, Chắp cánh cho thơ)
Vắng em hồn mộng đỗ quyên
Nước non hiu hắt tiếng huyền bâng khuâng
Ly tao giòng cạn khơi vần
Mưa đan đan mãi giọt sầu ý thơ
( Nửa khuya giấy trắng )
Chính thi nhân đã gọi đó là ‘’em thơ trừu tượng’’:
Em thơ trừu tượng
Hoa vàng phương thảo
Anh sẽ cô đọng thời gian thành một tụ
điểm nóng bỏng đam mê
Để đốt cháy những sa mạc sầu tủi
những băng dương bàng bạc nhớ nhung. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng.’Em thơ trừu tượng’.)
Thi nhân cho mình là đấng Sáng Tạo , và giai nhân là những sáng tạo phẩm của thi nhân trên đỉnh Thi Sơn:
giờ hợp hôn tình giấy trắng
Anh bỗng thấy mình là người khổng lồ
Thổi sáo ngọc
Trên đỉnh Thi sơn sương mịt mờ
Là Hoàng thiên muôn trượng
Thượng đế cao siêu
Anh tạo nên Em
lấy thịt da Anh đắp tượng hình Em. . . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Anh , Em, bài thơ)
Giai nhân nhiều khi là ý niệm trừu tượng, và đó là nghệ thuật trừu tượng của Trần Hồng Châu::
Em và Thơ chỉ là ý niệm
Mông lung cõi trống vẫn muôn vàn
Chiều huyền không hoa trôi cửa động
Cánh bướm hồng vô thủy vô chung. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng .Ý niệm )
IV. TÌNH YÊU NHÂN LOẠI
Thuở thiếu thời, thi sĩ Trần Hồng Châu đã du học ngoại quốc, sau đó sang dạy học tại Mỹ, rồi trở lại Mỹ quốc sau 15 năm sống trong hỏa ngục. Cũng như đa số người Việt hải ngoại, đã ra ngoại quốc tất tâm hồn sẽ có chút rộng rãi, cởi mở. Là một người có tâm hồn nghệ sĩ và nhân ái, thi sĩ Trần Hồng Châu yêu quê hương , yêu cả loài người, và yêu vũ trụ. Tình yêu của thi sĩ vượt qua giới hạn quốc gia. Trong thơ cũng như trong tùy bút, thi sĩ đã ca tụng những con người và xứ sở đã nở hoa, và đã cho thi nhân những kỷ niệm êm đềm. Tấm lòng của thi nhân ở đây mới đích thực là tấm lòng nhân ái, và tình thương nhân loại:
Tôi yêu Tô Châu, Venise và Thuận Hóa
Sông xanh như mắt
Sen nở quanh thành
(Nửa Khuya Giấy Trắng Chắp cánh cho thơ)
Nhớ một bông hồng Fontenay
Một hành lang biển rộng Sorbonne
Một thảm cỏ đồi Montsouris
Nhớ đôi chân son và hồn song song giữa lòng
ga Saint Lazare một chiều ly bôi mà ánh vàng
cô đọng trên tóc xõa
và trong rượu mạch hoàng hoa. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng , Paris chiều chia ly)
Tôi là con tàu lênh đênh sóng vỗ
Lắc lư say theo nhịp hải hành
Về những thương cảng buồm thuyền như bướm lượn
Về những chân trời lộng gió biển mù khơi
. . . . . . . . . . .
Lòng Phi châu nóng bỏng
Bến Hồng Hải biển xanh
Aden, đen trong nắng xế
Suez mấy thuở ê chề!
. . . . . . .
Tôi nương theo hướng mặt trời mọc
Về thăm Hương Cảng một chiều xưa
. . . . . . . . . .
Tôi nương theo hướng mặt trời lặn
Về thăm Nữu Ước mỏi chờ mong. . . .
(Nhớ Đất ThươngTrời.. Ở biển về ngòi)
Trần Hồng Châu không những là du khách mà là một người sống trong hồi tưởng, là ngườI lãng tử trở lại quê nhà. Với Trần Hồng Châu, đi du lịch nghĩa là đi tìm lại quá khứ đã mất hay quá khứ mà mình chưa được sống. Trở lại Paris, lòng thi sĩ vô cùng xúc động. Thi sĩ tỏ ra yêu quý những mái trường đại học. Thi sĩ đã ca tụng đại học Sorbonne:
Tôi yêu màu xám Paris của nửa chừng thế kỷ trong những năm 50, màu xám quen thuộc, màu xám huyền diệu mà H. Miller vẫn bùi ngùi cảm động nhắc tới như một nguồn thơ trìu mến, dịu ngọt tuổi thanh xuân... Tôi yêu Sorbonne trước thời chỉnh trang đô thành cuả A. Malraux, Sorbonne chìm đắm trong màu xám ảo diễm đó, vừa mờ mờ ẩn hiện như sương đêm Bắc hải, vừa trong sáng như những lâu đài, đình tạ trầm ngâm soi bóng trên bờ biển Địa Trung.. (Thành Phố Trong Hồi Tưởng. Tình khúc đại học)
Thi sĩ xúc động khi đến đại học Cambridge:
Tôi yêu điệu blue ‘’ Dòng sông xanh’’ của Cambridge, điệu moderato tịch mịch, chầm chậm, nhẹ nhàng, buông lơi, điệu nhạc tươi sáng vừa dựng cho chính mình.. .Tôi yêu những lời nhỏ to của Cambridge thầm thì như rót vào tai.(Tình khúc đại học)
Ông ca tụng đại học Harvard:
Tôi yêu màu nâu pha đỏ, màu đỏ nâu, ấm áp, bền vững - màu bordeau, hay huyết dụ?- của tường nhà Harvard. Ấm áp ngay cả khi tuyết rơi trắng muốt, xóa mờ những bãi cỏ xanh. . .( Tình khúc đại học)
Thi sĩ Trần Hồng Châu yêu vũ trụ, yêu tất cả. Lúc tuổi ngoại thất tuần, thấy ngày ra đi đã gần kề, thi sĩ đã luyến thương những đồ vật đã sống bên thi sĩ nhiều năm.
Đã Ở Cùng Ta
Cánh trà lênh đênh chát
Ngọt chữ thảo Đường thi
Trên hổ phách buồn vui
Ấm chén ở cùng ta
Hồn xưa nhiều hò hẹn
Chữ nhỏ lắm vân vi
Mắt thơ nghiêng nhạc tóc
Sách vở ở cùng ta
Cái ghế ta nghiêng ngửa
Cái bàn ta gác chân
Cây bút mòn giấy trắng
Tay áo mực vết đau
Tất cả ở cùng nhau
Mai này có theo ta
Trong chuyến đi cùng tận
Lạnh đời đếm bơ vơ
Đã cùng ta ăn nằm
Nhớ cùng ta đi nhé!
(Hạnh Đến Từng Phút Giây)
Thế giới thơ của Trần Hồng Châu mang nhiều màu sắc. Thơ của ông có cái cao quý của trừu tượng, đôi khi giản dị và sát thực tế của nghệ thuật hiện thực. Thơ Trần Hồng Châu cũng như con người ông là sự kết hợp tài tình giữa kiến thức hiện đại với nghệ thuật truyền thống dân tộc. Những bài thơ tình của thi sĩ là những bản tình ca êm ái. Trái tim của ông luôn tràn ngập tình yêu quê hương, yêu gia đình, yêu nhân loại, yêu cái đẹp và yêu những sự vật xung quanh. Trong loại này, thơ của ông mang màu sắc tượng trưng nhẹ nhàng kiểu Vũ Hoàng Chương và Đinh Hùng, không khó hiểu như Đoàn Phú Tứ, Xuân Sanh.
Trần Ngọc Ninh đã nhận định khá chính xác về thơ Trần Hồng Châu:
Thơ Trần Hồng Châu là thơ trí thức đẹp một cách trang nhã với nhiều hương hoa kì diệu của bốn bể năm châu và một tâm hồn cao quý luôn luôn rung động theo âm hưởng với tất cả những cái đẹp vi tế của cuộc đời và những hoài ảnh văn chương cổ điển ( Tuyển Tập Trần Hồng Châu xvii).
Thật vậy, văn thơ của Trần Hồng Châu nội dung luôn luôn súc tích, nhưng lời thơ có khi bay bướm , có lúc bình dị, như cung đàn khi trầm khi bổng làm rung động tâm hồn người đọc. Ông là tổng hơp hồn thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ và nghệ của Rimbaud, Verlaine và Ezra Pound.
Nguyễn Thiên Thụ
Canada 2003
No comments:
Post a Comment