Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 15 December 2016

DƯ THI DIỄM BUỒN=LÊ XUYÊN= HỒ HỮU TƯỜNG=

DƯ THI DIỄM BUỒN * NHỮNG MÙA TRUNG THU

Dư Thị Diễm Buồn
Những Mùa Trung Thu

E m ra đời mùa thu năm đó, vào ngày rằm tháng tám Âm lịch. Đem so với ngày dương lịch đúng y chang trong tờ giấy khai sanh của em.
Mẹ thường kể cho cả nhà nghe, vào những ngày mừng em sinh nhựt:
- Nằm trong nhà bảo sanh mẹ nghe tiếng hò, tiếng hát, reo vui của thiếu nhi cùng tiếng phèn la, tiếng chiên trống múa lân của đoàn dâng cộ đèn mừng Tết Trung Thu, hay Tết Nhi Đồng của nước ta thuở đó, vào thời Việt Nam Cộng Hòa. Theo lẽ mẹ đặt cho con cái tên là Thu, là Nguyệt, là Hằng, là Nga, là Thu Nga, là Thu Hằng, là Nguyệt Thu hay Thu Nguyệt… mới đúng nghĩa với ngày sanh tháng đẻ của con. Nhưng lần về thăm đâu mấy tháng trước khi con ra đời. Lúc ra đi, ba đưa cho mẹ phong thư, bảo chừng nào làm khai sanh thì dỡ ra xem. Ba đã đặt tên cho con cái tên rồi!
Mẹ em chép miệng trầm ngâm một hồi, rồi tiếp:
- Quê hương mình chinh chiến triền miên. Ba con theo đơn vị đóng quân mãi ở miệt rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ… tận Cà Mau lận. Tôi nghiệp ba, biết khoảng giữa tháng đó đứa con đầu lòng chào đời, mà ông hằng mong đợi nhưng vẫn không ở nhà được, để nghe “Con khóc “oa, oa… khi lọt lòng mẹ. Còn ông bà, họ hàng thì cười tươi vui mừng đón con…”.
Em lớn khôn dần trong vòng tay mẹ, và tình thương yêu vô bờ của hai đấng sanh thành. Ba em là lính chiến luôn xa nhà, cả trong những mùa Trung Thu là ngày ra đời con gái cưng của ông cũng ít khi có dịp về!
Rồi mùa Trung Thu năm em vào học lớp Năm (lớp một) của trường nữ Tiểu học Trưng Vương. Ngôi trường nữ, hai tầng có vách tường, mái ngói màu gạch tôm, khang trang nằm trên đường ông bà Nguyễn Trung Long (Mỹ Tho) đường ra bến bắc Rạch Miễu qua sông có nhiều cồn nhỏ, cồn lớn… Còn Ông Đạo Dừa, rồi đi về tỉnh Bến Tre.
Địa phận tỉnh Định Tường có Thành phố Mỹ Tho, nổi tiếng hiền hòa nằm mơ màng trên dòng sông Cửu Long… Mà những câu hò, câu hát bình dân khen ngợi ở một khía cạnh nào đó về thành phố khá ái nầy. Miệng truyền miệng từ đời nầy qua đời khác trong dân gian:
“Mỹ Tho đẹp lắm, đi tắm Cầu Dầu/ Anh hỏi em đang ở nơi đâu? Để cha mẹ anh đến cau trầu cưới em…”
Hoặc là câu: “Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ/ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu/ Anh về học lấy chữ nhu/ Chín trăng em đợi, mười thu em chờ…”
Còn có câu: “Mỹ Tho có kẹo hột điều/ Có cô thôn nữ mỹ miều dễ thương/Ai về Chợ Cũ, Trung Lương/ Hồng đào chín mộng, có đường mạch nha/ Đêm thu đẹp ánh trăng ngà/ Mái chèo dưa đẩy qua nhà thăm em…”

Ở xứ mình, thường tiệm buôn bán trong các chợ, chủ nhà ở phía sau, hoặc trên lầu, còn phía trước, mặt tiền thì bày hàng để buôn bán.
Mỗi năm, cứ vào cuối tháng sáu, đầu tháng bảy Âm lịch là thành phố Mỹ Tho trong các cửa tiệm thấy rõ rệt màu sắc tươi vui rộn rang. Bởi các dãy phố tiệm ở chợ gần như đều trưng bày bán các loại bánh Trung Thu. Họ còn treo bán đầy đủ các loại lồng đèn giấy màu sặc sở, có vẽ thêm những nét đặc biệt lên hình dáng mỗi thứ lồng đèn như: Đèn kéo quân, đèn cá chép, đèn con rồng, đèn ngôi sao, đèn máy bay, đèn xe tăng, thiết giáp, đèn tàu, đèn chuồn chuồn, đèn trái bí, đèn bướm…
Bánh Trung thu thập cẩm có bốn trứng, ba trứng, hai trứng, một trứng hột vịt muối để trong nhưn thập cẩm, có lạp xưởng, thịt khô, vi cá… đó là bánh mặn. Còn bánh thập cẩm chay không có thịt và hột vịt, bánh nhưn đậu đỏ, nhưn mứt. Cùng bánh dẻo nhưn mứt, nhưn đậu xanh…
Riêng em thích nhứt vẫn là bánh ông Địa. Chắc là bánh có hình dáng như ông Địa trên bàn thờ nên gọị là bánh ông Địa? Trên đầu bánh còn có sợi chỉ đỏ dài. Bánh ông địa ăn ngọt, giòn thơm mùi trái vị, ngũ vị hương, mùi quế… rất đặc biệt.
Trong dãy phố công chức đó, có nhà của gia đình em ở. Vào tối mười ba, mười bốn, rằm tháng tám là trẻ con đốt lồng đèn cầm chạy chơi quanh xóm. Nhà nhà đốt lồng đèn, hương khói nhang, mùi bánh Trung Thu thơm tho cúng ở bàn thờ Ông Thiên, cùng mùi trà Tàu, hoa, quả… thơm lừng trong gió thoảng bay.
Em vui vẻ tung tăng chạy nhảy, theo đuôi các bạn quanh quẩn trước sân năm bảy căn nhà quen biết trong xóm sát bên … Vì mẹ đã căn dặn em từ mấy ngày trước:
- Tối con được đốt lồng đèn chơi trong vài nhà gần. Để khi mẹ gọi thì nghe mà lên tiếng… Không được đi xa, mẹ gọi, con không nghe để trả lời thì sẽ có đòn nghe chưa…
Em vâng dạ nghe lời, vì không phải mẹ em không có lý do… Bởi gần đây giặc giã càng sôi động… Đêm đêm Việt cộng thường pháo kích ầm ầm vào thành phố… Đạn pháo vô tình tàn phá nhà cửa, thây phơi, máu đổ… khiến sanh linh đồ thán, trời sầu, đất thảm… Tuổi thơ em sớm nhuốm màu chinh chiến!

Đã hai mùa Trung Thu rồi, bận rộn ba em không về. Vì đoàn quân ba em trấn giữ, chặn thù… khi ở Vị Thanh, Cờ Đỏ (một địa danh ở mền Tây), khi Tịnh Biên, Đồng Tháp Mười nơi nổi tiếng đĩa lội như bánh canh. Còn thường trực ở chỗ có muỗi kêu như sáo thổi và nhiều con vắt là rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ… Bởi ba em là lính chiến thuộc Sư Đoàn 21BB, còn có biệt danh là Sét Miền Tây.
Từ chạng vạng, phố xá đã lên đèn… Tiếng hát vang vang rền vọng, tiếng chiên trống lân giục giã trên các nẻo đường của thành phố, làm lòng dạ em nôn nao, náo nức lắm… Mấy đứa cùng xóm đến trước rào nhà, rủ rê nhập bọn đi dâng cộ đèn, hoặc cầm đèn qua nhà chúng chơi.
Nghe lời má dặn, và nhớ ba muốn khóc! Em lắc đầu xua tay nguầy nguậy có ý bảo với chúng là em không đi. Ba em đang dãi dầu ngoài trận tuyến! Với những người lính chiến như ba em thì không có ngày lễ. Cho dù là lễ Tết hay phép thường niên cũng vậy, ít khi được như ý… Ba em chợt đi, chợt đến ghé thăm nhà bất ngờ không hẹn trước.
Đêm nay các nhà trong xóm đều đốt lồng đèn trước cửa. Hương trầm, bánh, trái, hòa với mùi thơm của nước trà Tàu… ấm cúng mừng đón Trung Thu. Riêng nhà em lạnh lẽo vắng tanh! Má không buồn đốt đèn dù là đèn điện. Chiều đi học về sau khi ăn cơm, má còn dặn:
- Con ra sân đốt lồng đèn chơi một mình, đừng đi đâu nghe… Nhà mình ba không về nên đêm nay không có mừng Trung Thu… Ít bữa ba về mình sẽ ăn Trung Thu muộn, nhe con…
Em cầm lồng đèn đi tới đi lui trong sân nhà với chú mèo tam thể, “meo, meo…” tiếng kêu, quấn quít bên chân em. Gió hiu hiu mát rượi, đưa đẩy cây lệ liễu hông nhà, làm những cành lá tha thướt lay động, và lồng bóng trăng tròn. Trăng rực rỡ tỏa ánh sáng trong thanh thoát xuống muôn loài… Em nghe trẻ hàng xóm trước nhà hát những bài Trung Thu:“…Đêm Trung Thu em đốt đèn đi chơi… Em đốt đèn đi khắp phố phường… Đèn Ông Sao với đèn cá chép, đèn thiên nga với đèn trái bí…”
Và em còn nghe anh chị con nhỏ Bạch Nhạn nhà bên cạnh hát ca líu lo. Khiến em ganh tị thấy mắc ghét lắm… Em cũng biết hát vậy chớ bộ! Liền rống họng, em cất tiếng hát lanh lảnh, cố tình cho tui nó ngán chơi:
“Hôm nay đêm rằm, rằm là rằm tháng Tám? Ông Trăng kia đã lên cao rồi ông nhìn chúng em ông tủm tỉm cười! Ông Trăng ơi, nầy ông Trăng ơi, xuống đây với chúng em cùng vui chơi! Ông Trăng ơi nầy ông Trăng ơi, Xuống đây chúng ta cùng ca hát vang trời… Có chi nữa không? Có trống ếch cà lùng tùng xèng… Có chi nữa không? Có bánh ngọt thơm phưng phức… Có chi nữa không? Có những đèn Trung Thu ở miền Nam tự do, ấm no hạnh phúc… ông Trăng ơi! Ông Trăng ơi, xuống đây với chúng em cùng vui chơi… Xuống đây chúng ta cùng ca hát vang trời… ông Trăng ơi… nầy ông Trăng ơi, ơi…”
Tiếng vỗ tay lớn và nhanh, làm em ngạc nhiên quá đỗi! Mèn ơi, ai mà vỗ tay khen tặng em dữ vậy cà? Chắc chị anh mấy con nhỏ hàng xóm chớ gì? Còn khuya à, chúng nó ganh tị chẳng thèm nghe em hát, thiếu điều muốn bịt hai cái lỗ tai lại nữa kìa. Chớ ở đó mà chúng vỗ tay khen em hát…
Sừng Sững lồng ánh trăng lộng lẫy của đêm rằm! Người lính chiến hiên ngang, oai phong đứng đó! Ông mặc bộ trây-di màu cỏ úa, đầu nón sắt, trên thắt lưng cây súng nhỏ… Giầy sô cao ống bám bụi đường xa, mùi nắng cháy khen khét quen thuộc… trìu mến nhìn em mỉm miệng cười. Rồi ông hơi khum lưng xuống, đưa hai tay đón chờ…
Thảy cái lồng đèn dưới sân, em phóng tới ôm chầm thật chặt lấy ba. Hôn tứ tung lên mặt, lên mũi, lên ngực, lên áo ba… Giọng rộn ràng, vui mừng em ơi ới gọi lớn:
- Mẹ ơi, mẹ ơi ba về! Ba về, ba về mẹ ơi…
Trong nhà nhanh chân bước ra tới hàng ba. Mẹ nhìn hai cha con em nở nụ cười mà mắt hoen lệ vui mừng hạnh phúc.
Đèn điện nhà em được thắp sáng! Lồng đèn treo hai bên cửa trước, trong nhà, và sân sau… ba châm lửa đốt đèn cầy. Ánh lửa dạ giấy màu, hồng, vàng, tím xanh… tươi trẻ, vui mắt. Má lúi húi nấu nước châm trà. Ba cắt bánh Trung Thu… Em vui mừng chạy qua mẹ, rồi chạy sang ba… Em ôm cổ ba, nói cười líu lo như con chim chích chòe vào buổi bình minh… Và nhà em, những nhà trên trần thế… được thắp sáng ánh trăng vàng của đêm Trung thu.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam bị giặc cưỡng chiếm! Năm đó trẻ con chúng em không có lễ Trung Thu! Ba em bị bắt tù cải tạo… Nhà cửa em trống trơn vì phải bán lần, bán hồi các đồ vật trong nhà… Rồi má em đi bán chợ trời… Đó là kế sinh nhai duy nhứt của mẹ con em, và chắt chiu dành dụm để dành đi thăm nuôi ba.
Những năm về sau, vào đêm rằm tháng tám không ai còn nghe tiếng hát hò, trống múa lân của đoàn dâng cộ đèn nữa. Chợ búa không có bánh trung thu bày bán khắp nơi như xưa. Có chăng họ chỉ làm chui, bán lén… vì đó là mặt hàng xa xí phẩm! Nhà nhà xác xao, cửa đóng then gày.
Những đứa nhỏ hàng xóm em thưa dần, vì chúng theo gia đình về quê ngoại, quê nội, hoặc đi kinh tế mới… Và em không có đèn lồng trái bí dễ xếp cất, dễ đốt mẹ mua cho như những năm qua!
Sau bao nhiêu năm giặc chiếm miền Nam. Là mấy năm ba em bị giặc nhốt trong tù cải tạo! Hôm nay không định trước, mẹ dắt em đi thăm ba, lại lọt đúng vào mùa Trung Thu.
Mẹ con em vượt qua biết bao nhiêu chặng đường lồi lõm có khi bằng xe hơi. Có lúc lội bộ, có lúc đi xe tàu mo, đò chèo… Khi thì mẹ gánh em ngồi trong thúng bên đầu gióng nầy, đầu gióng kia chất chồng đồ ăn, áo quần cũ, thuốc men. Đi từ một hai giờ khuya đến chiều tối hai ngày sau mới đến nơi!
Khi đến nơi thì đã quá giờ thăm nuôi, nên mẹ con em và một vài bà khác cũng đi thăm nuôi chồng con... Những kẻ lỡ bước được chủ vườn ở gần trại tù (cách mấy cây số) tốt bụng cho ngủ trong trại ruộng của nhà họ.
Tối đó, mọi người lỡ đường vùi mình vào đống cỏ khô dưới nền đất sét nứt nẻ, thiếp đi vì mệt mỏi… May mà cả đêm qua trời không mưa, nhưng gió núi tê tái lạnh lùng. Hai mẹ con em nằm chèo queo một góc trong tại ruộng không vách, không phênh.
Em nhìn trăng qua nhiều lỗ trống không trên mái chòi. Trăng rằm lên cao, càng lên cao ánh trăng càng sáng vằng vặt. Sương khuya xuống mờ đỉnh núi và chập chờn trên dải đồi mờ ảo xa xa. Tiếng côn trùng về đêm, hòa cùng tiếng dế tỉ tê… Những con chim ăn đêm bay qua ẩn hiện mịt mờ, kêu oan oát trên trời cao… Tiếng gió hú qua đồi làm xào xạc nhành cây lá chung quanh, khiến em sợ hãi rúc vào lòng mẹ.
Để rồi sáng dậy ra mặt, tay, chân… người nào cũng đầy vết muổi cắn. Bầy muổi đêm qua được ăn bữa giỗ no nê. Chúng thiệt là ác độc, nỡ đành hút máu của những kẻ lỡ đường ngủ trong trại ruộng!
Mẹ em lồm cồm ngồi dậy khi nghe vẳng tiếng gà gáy trong xóm xa… Bà sửa soạn lại túi nải chờ rạng đông đi vào trại thăm ba. Bỗng hai bóng đen lù lù xuất hiện khi mờ khi tỏ trong màng sương sớm. Càng lúc họ đến càng gần… Mẹ sợ quá gọi mấy người kia thức dậy, để cùng đối phó nếu rủi gặp kẻ xấu, hoặc chuyện không may!
Họ càng đến gần trời cũng sáng thấy rõ hơn… Thì ra là hai người thanh niên đi giỡ bẫy chim, chuột, gà rừng… Nói chuyện một hồi thì mấy bà cùng mẹ con em vào nhà cha mẹ họ là chủ trại ruộng nầy.

Nhớ lại đã bao nhiêu năm rồi mới đi thăm nuôi chồng. Ba đói khổ lắm, má em liền cởi chiếc nhẫn cưới bằng vàng 18K đang đeo trên ngón tay áp út ra. Đó là di vật sau cùng của ba tặng bà trong ngày đính hôn! Má đem đổi lấy con gà giò (gà mới lớn nhổ lông xong, còn hơn nắm tay) và lít gạo trắng của chủ nhà… Rồi mượn nồi niu của họ làm gà rô ti và nấu nồi cơm còn nóng hồi đem cho ba em!
Bao nhiêu năm tù tội, là bấy nhiêu năm vợ, chồng, con mới gặp lại nhau! Má em khóc sướt mướt chẳng nói nên lời! Ba ôm em vào lòng nghẹn ngào thổn thức… Ba trông thật tiều tụy, ông ốm gầy, tay chân lỏng thỏng, mặt mày hốc hác, mắt hõm sâu, da đen chì, mét chẹt, nắng cháy nám đen… Chân tay ghẻ chốc, thẹo vít chỗ lành, chỗ lở…
Ba em già quá nhiều! Nếu bất ngờ gặp ngoài đường không ai nói, chắc em sẽ không nhận ra, và sẽ không tin tù nhân đó chính là cha của mình! Em xót xa thương ba vô cùng, ôm chặt ba nức nở khóc òa…
Gần hết giờ thăm nuôi, mẹ đưa cho ba tất cả đồ đem theo, trong đó có con gà được chặt ra làm bốn và nồi cơm đầy… Ba em múc hết nồi cơm, cạo lấy luôn cơm cháy, đưa nồi không còn dính một hột để chút nửa đây trên đường về má em ghé trả lại người cho mượn. Ba lấy hai cục thịt gà (nửa con) đưa cho má và em.
Mắt ông rưng rưng dòng lệ mỏng, nhẹ giọng bảo:
- Em và con đem theo ăn, trên đường về. Chắc con và em đói khổ lắm? Thôi mẹ con về đi, anh sẽ giữ gìn sức khỏe. Đường xa xôi, khó khăn đừng lên thăm nữa…
Má em lật đật lấy gà để trở vào gói cho ba, mếu máo:
- Ở nhà không gì vất vả cả, chỉ lo cho anh thôi. Anh đem gà vào ăn đi. Mẹ con em tới bến xe sẽ mua ăn, thiếu gì…
Dáng ba thất thểu đi, cổng vào trại tù kéo đóng lại! Mẹ em nát dạ tan lòng đứng nhìn theo, rồi lủi thủi dắt con ra về… Vừa đi bà vừa lau dòng lệ lả chả chảy dài xuống má. Còn em nước mắt cũng trào tuôn…

Đường về nhà em còn xa xôi lắm, lại gặp cơn nắng cháy, mưa sa! Hai mẹ con không ai nói với ai lời nào, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình… Trong đầu óc thơ ngây bé nhỏ của em lúc bấy giờ! Ba em tội tình gì mà họ bắt nhốt trong tù nơi xa xôi hiểm trở? Để ba em và đồng đội đau không thuốc uống, đói không có ăn, lạnh không đủ ấm! Lại bị nhốt trong vùng hoang dã đìu hiu đi cả ngày không thấy bóng người như thế nầy?
Đã đi gần đến tối mà vẫn chưa đén nhà. Giờ đây mẹ con em vừa khát và mỏi mệt cả tứ chi. Em kêu đói bụng, mẹ chép miệng bảo:
- Ráng nhịn về nhà sẽ có đồ ăn, vì mẹ chỉ còn đủ tiền để đi xe thôi. Lúc nãy mẹ định bới cơm cho ba, còn miếng cơm cháy mẹ con ăn cho đỡ dạ đi về. Nhưng thấy ba vét sạch nồi cơm nên mẹ làm thinh! Tội nghiệp ba ở trong tù đói khát nhọc nhằn lắm con ơi…
Nói đến đó, mẹ em nghẹn lời sụt sùi dòng lệ khổ! Về đến nhà, em không sao ngủ được. Hoàn cảnh trại tù, ba em và đồng đội của ông bị hành hạ đọa đày… cứ lởn vởn trong đầu óc thơ dại của em. Từ đó nỗi hờn oán nhen nhúm ngày càng lớn trong tâm hồn em: “Không bao giờ! Phải, không bao giờ em quên, và tha thứ cho những kẻ đã đày đọa ba, và đồng đội của ba em…”
Em thẩn thờ ngồi bên cửa sổ vò võ nhìn bầu trời cao rộng, trong sáng ánh trăng thu! Và con mèo tam thể dễ thương vẫn cào, kéo… lai quần em, và chạy nhảy tung tăng giỡn trăng như để làm vui cô chủ nhỏ.
Thấy em buồn, má cũng chẳng vui gì hơn! Một lúc sau, bà tìm ra cái lồng đèn trái bí mấy năm trước đã cũ mèm, giấy dán đổi màu và bị chuột cắn tưa mấy lỗ. Nhớ lại lâu lắm rồi, em đã cẩn thận nhét cái lồng đền nầy dưới vào thùng sách truyện, và báo cũ của ba…
Đã mấy mùa Trung Thu qua đi, ba vẫn chưa được thả về. Em lơ là nhìn cái lồng đèn nghe chừng xa lạ, mà cảm thấy lòng xao xác héo hắt buồn loan! Làm sao em vui được khi ba em còn bị đày nơi rừng sâu Việt Bắc, nơi nổi tiếng rừng thiêng, và nước độc! Nước độc đến nỗi, từ bờ suối bên nầy, lội qua suối thì lông chân bị rụng hết! Ở đó họ chỉ uống được nước mưa, và đi cả mấy ngày trời không thấy bóng sơn nhân hay lâm nhân…
Em lại càng xót xa đau buồn nhức nhối hơn, khi bắt gặp nửa đêm trở giấc nghe mẹ khóc lén, khóc thầm!
Thế nhân dù có buồn vui! Nhưng đêm nay trăng thu vẫn ngạo nghễ lên cao. Càng lên cao, trăng càng trải ánh sáng ngà ngọc xuống muôn loài. Gió thu vẫn nhè nhẹ man mác và mây thu vẫn bàng bạc bay bay. Những cánh chim đêm thu, in chập chờn trên không gian rồi hối hả bay đi… Chúng như ngầm hiểu nỗi thống khổ đoạn trường của con người theo vận nước nổi trôi! Và cảm thông trời miền Nam tự do ấm no từ đây không còn nữa… Cả loài chim muông còn biết buông tiếng kêu áo nảo như oán, hờn, trách, hận…

Sau khi ba em được thả về, gia đình đùm túm dùng thuyền chài vượt biển Đông! Mười mấy ngày lênh đênh trên biển cả, gió vồn, sóng dập, đói khát thảm thê. Tưởng chừng cả gia đình dìm dưới mồ huyệt lạnh của đại dương rồi… Hành trình vượt biên trùng trùng hiểm nguy thừa chết thiếu sống! Nhờ Ơn Trên, rồi gia đình em cũng trôi giạt vào Nam Dương (Indonesia) quần đảo với những kẻ chung chuyến tàu.
Sống lang thang từ đảo nầy qua đảo khác: Pacikata, Terrempa, Ku Ku, rồi Galang (Trung tâm tị nạn Cộng sản vùng Đông Nam Á) Tại trại tị nạn Galang, nếp sống của người tị nạn Cộng sản có quy củ hơn…
Nơi đây có trường học dạy Anh văn, có nhà thương, có nhà thờ, có chùa, có bệnh viện… Có văn phòng Cao ủy tị nạn làm việc, để nhận người vào đệ tam Quốc Gia… Và nhiều tiệm buôn bán gia dụng nấu ăn của dân bản xứ… Dần dà có quán phở, quán hủ tíu, quán nhạc, quán cà-phê, quán sinh tố…
Galang là một trong những hòn đảo đẹp của Nam Dương. Chùa được cất trên đồi cao gần các dãy trại, để dân tị nạn dễ dàng chiêm ngưỡng và cúng bái. Ngôi chùa khang trang có nhiều tượng phật cao lớn hơn người… được tàu và trực thăng chở đến… Phí tổn của ngôi chùa nầy, nghe đâu do các thương gia ở Nam Dương và Singapore góp gom để xây cất…
Sáng sớm và chiều tối nào em cũng theo ba má lên chùa. Vì trên chùa gió mát, và đôi khi em được sư cho trái cây hoặc bánh, kẹo… của bá tánh đã cúng phật. Ở đảo đói khát thấy mồ, em thèm đủ mọi thứ, hôm nào được đồ ăn dư của Phật thì mừng húm rồi!
Đi lên sau chùa chừng hơn trăm thước cao nữa. Phóng tầm mắt nhìn, chúng ta có thể thấy rõ bốn hướng của biển cả mênh mông vô bờ, vô tận…
Em hạnh phúc đứng bên ba má em nhìn hoàng hôn xuống. Mặt trời ráng màu đỏ nghệ như quả trứng gà, treo lơ lững trên nền trời nhiều mây có vân ngũ sắc. Nắng vàng ánh trải trên mặt thủy triều bao la xanh ngát một màu. Ánh nắng lung linh chấp chóa lúc mây tạnh gió yên. Và những buổi sáng mờ sương, biển thanh thoát và hiền dịu vô cùng… Mặt nước lăn tăn gợn sóng theo từng đợt gió đùa… Nền trời trong như ngọc, lác đác từng làn mây trắng mỏng như nằm bất động có pha những sắc màu rực rỡ: ửng hồng, tím, xanh, vàng, xám, thiên thanh, hồ thủy... do những tia nắng bắn ra từ mặt trời cao ngạo vừa nhú lên ở phương đông.
Rồi sương mờ dần tan, chỉ trong chốc lác thôi… Biển tịnh yên, mặt biển xanh lơ, và vầng hồng rạng rỡ cho nắng ấm, gió the the man mác lay nhẹ chòm lau, khóm đước và hòa cùng lá thông reo… Hải âu xoãi cánh bàng bạc loang loáng trong ánh bình minh… “Chim én không làm thành mùa xuân/ Nhưng có chim én mùa xuân thêm phần ý nghĩa” Ở chốn hải đảo nầy, em xin nói lên thiển ý của mình rằng: “Nếu biển cả không có cánh hải âu thì biển cả mất đi phần thi vị”.
Có hôm em dưới mái hiên phóng tầm mắt nhìn trời biển động! Gió thổi vùn vụt cây cối ngả nghiêng. Sấm ầm ầm, sét nổ giòn chớp sáng lòe rội phụt tắt! Mưa tầm tả ào ào, từng cột sóng dâng cao nhhư muốn đảo lộn càn khôn! Thật dễ sợ trước sự cuồng nộ của biển cả! Em ngồi co ro chợt nhớ câu: “Đời không đau khổ đời vô vị/ Biển chẳng phong ba, biển chẳng hùng”.
Ba em khéo tay làm cho em cái lồng đèn trái bí bằng lon nhôm coca cola, trong mùa Trung Thu ở trên hải đảo Galang. Lon nhôm sau khi rửa sạch, lau khô, ba em kiên nhẫn dùng nhiều cục đá có cạnh nhọn, bén… Ông đụt từng đường dài, nhắm sao cho ngay và đều… Ba ngồi cả ngày trời tẳn mẳn đụt, chà cạnh cho hết bén… Rồi nhẹ tay bóp cho những cọng lon nhôm cong (không gãy) mà ông đã bỏ không biết bao nhiêu cái lon nhôm. Bị xuể tay, rướm máu mới làm được một cái lồng đèn trái bí, tạm vừa ý cho con gái mình!
Thuở đó gần cuối năm 1979, đảo Galang có mấy chục ngàn người dân tị nạn Cộng sản, đại đa số là từ miền Nam Việt Nam. Họ bôn đào khi miền Nam bị Cộng sản và Việt cộng cưỡng chiếm!
Chiều đến cầm lồng đèn trái bí ba làm cho, lòng em tươi vui phơi phới như hoa nở mùa xuân. Len ten theo bọn trẻ con, em đi dâng cộ đèn vòng vòng trong các trại do những anh chị hướng dẫn.
Ôi hải đảo phủ ánh trăng thanh thoát giữa vùng mây nước, có tiếng sóng biển bủa rạt rào, tiếng gió vi vu hòa cùng tiếng hát mừng Trung Thu vang dội, rền vọng ngút trời xanh, của những đứa trẻ cùng gia đình trốn chạy khỏi vùng Cộng sản để đi tìm phương trời tự do…
Đêm Trung Thu, chúng em được ăn nhiều bánh kẹo, uống nước trái cây thơm ngọt, từ các nhà hảo tâm của xứ người chở đến cả tàu, cả xe đến tặng. Họ đem cho cả lồng đèn làm đủ kiểu hình thù các con vật… được sơn phết, dán giấy, vẽ, tô đẹp đẽ, màu sắc rực rỡ, chói lộng hấp dẫn và quyến rủ vô cùng… Nhưng em không nhận, bởi ba đã làm cho em lồng đèn trái bí bằng lon nhôm rồi. Em quý cái lồng đèn nầy hơn tất cả mọi lồng đèn trên thế giới, trong mùa Trung Thu. Bởi cái lồng đèn trái bí bằng lon coca làm thành đó, ngoài tốn nhiều công sức, còn là tâm ý và gói ghém cả tình cha thương con của ba em…
Mùa Trung Thu ở trại tị nạn Cộng sản Galang, khắc ghi đậm nét trong đời, và cho em niềm nhớ không nguôi… Đó còn là hành trang mang theo trong ký ức em trên khắp nẻo đường lưu lạc.

Đã mấy mươi năm lưu lạc xứ người… Ba má em vất vả nuôi dưỡng chăm lo cho em học hành đỗ đạt nên người… Ngày nay em đã thành nhân, ông bà có cháu ngoại để bồng bế thương yêu, nuông chiều… Và thời gian thắm thoát trôi mãi trôi, nay ba má em đã ngoài tám mươi! Ông bà ở cái tuổi “Bát thập cổ lai hy” Cái tuổi dễ bịnh hoạn, và gần đất xa trời!
Em buồn đau thắm thía trong lòng, mỗi khi nghĩ đến! Nhưng phải làm sao đây? Vì đó là định luật của tạo hóa, mà trót sanh ra làm kiếp con người thì kẻ trước, người sau không một ai tránh khỏi…
Rồi ngày đó cũng đã đến! Một mất mát lớn cho gia đình! Má em đã qua đời! Giờ đây, đêm đêm em luôn nguyện cầu, xin Ơn Trên cho ba em ăn ngon, ngủ khỏe… Và em cố gắng làm mọi thứ để ba được an ổn tâm hồn, vui vẻ hạnh phúc trong thời gian còn lại bên cháu con!
Dẫu biết rằng, trong cuộc đời có đầy dẫy hỉ, nộ, ái, ố… thăng trầm, dâu bể, phế hưng… Nhứt là trên quê hương khốn khổ Việt Nam của em sau ngày Cộng sản và Việt cộng chiếm đóng! Giặc đã mang nền giáo dục (ở mọi khía cạnh, mọi phương diện) của làn sóng đỏ từ ngoài miền Bắc tràn vào miền Nam.
Hoàn cảnh xã hội miền Bắc mấy mươi năm theo chế độ Cộng sản. Đã gây và ảnh hưởng tác hại mọi mặt, tâm lý, cách sống, đời sống… Đã thấm nhuần, ăn sâu trong tâm hồn, trong máu huyết của con người từ trong gia đình, ra ngoài xã hội. Với những điều nghịch lý, giả nhân, giả nghĩa, lừa bịp, dối gian, tính toán, tinh ma… Đã xẩy ra hàng ngày với cha con, anh em, bạn bè… thì nói chi đến tình nghĩa vợ chồng!
Vì thế, những đổ vỡ của gia đình nhan nhản xẩy ra hàng ngày trước mắt, và khắp nơi… không sao đếm cho xuể! Khuôn ngọc thước vàng từ nghìn xưa ông cha ta để lại “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” dưới chế độ Cộng sản vô thần, giờ đây đã bị thui chột, vô nghĩa hết rồi! Thì thử hỏi xã hội Việt Nam ngày nay làm sao không rối bời? Và quê hương đất nước Việt Nam làm sao không nát tan, không bị chia năm xẻ bảy… hiến dâng cho ngoại bang!
Hôm nay là ngày rằm tháng Tám, đã vào chánh mùa Trung Thu. Em đẩy ba ngồi trên xe lăn chầm chậm rẻ vào chợ (vì cả hai chân ba đều yếu). Vùng gia đình em tạm cư, có rất nhiều chợ Á Đông. Cả tháng nay, tiệm nào cũng bán đầy dẫy bánh trung thu. Bánh trung thu đủ loại ở địa phương, nội địa sản xuất… và bánh từ các nước khác nhập vào. Bánh nằm phơi phới trong các hộp vẽ hoa bướm màu sắc tươi trẻ rực rỡ. Các hộp đều có nắp đậy bằng kiếng, nhìn thấy rõ bánh bên trong, gợi thèm cho khách vào ra chợ…
Năm nay các bánh được làm từ nước Tàu Cộng, Việt Cộng chắc hẳn ít ai dám rớ tới? Vì lợi ích riêng, họ không nghĩ đến sức khỏe của người tiêu thụ, đã dùng quá nhiều hóa chất … Ăn vào dễ, lấy ra khó, sẽ hại cho thân thể, và có khi còn chết người!
Ba em nhìn từng hộp bánh… trong tủ kiếng. Ông lựa rồi chỉ tay, muốn mua một hộp bánh Trung Thu có trứng, và lấy thêm hộp bánh dẻo nữa. Nhà em ngoài ba, chỉ có hai vợ chồng em và hai đứa nhỏ (nhưng chúng không thích bánh trung thu) Ai cũng sợ ngọt, nên chắc chắn sẽ ăn không hết… Chỉ cần mua một hộp, hai bánh nầy, hai bánh kia đủ rồi. Nhưng em lấy hai hộp bánh người bán đặt vào bao xách, máng trên xe cho ba vui lòng.
Ba em chỉ hai chiếc lồng đèn treo trên vách. Em biết ba mua cho hai cháu ngoại… Trả tiền xong em định đẩy ba đi ra, nhưng ông chỉ thêm cái lồng đèn trái bí, làm em ngạc nhiên nhìn ba?
Ông nhìn em mỉm cười, trìu mến:
- Ba mua lồng đèn trái bí cho con! Nhớ thuở con còn bé nhỏ thích chơi đèn Trung Thu với đám trẻ con trong xóm… Năm đó đi lính xa, bất ngờ được về thăm nhà trong đêm Trung Thu. Ba đứng sau lưng cả buổi mà con không hay! Khi thấy ba, con phóng tới ôm chầm thật chặt như sợ ba vuột mất. Rồi con mừng rỡ, líu lo gọi mẹ báo tin ba về…
Mắt già nua trắng dã, ba em cảm động nghẹn lời! Ông tiếp:
- Ba mua bánh về cúng má, lúc sanh thời bả ưa bánh Trung Thu và bánh dẻo lắm… Cho dù con gái ba bây giờ tuổi đời có lớn hay già đi nữa, nhưng trong mắt ba lúc nào con cũng còn nhỏ bé! Và tình thương con trong lòng ba càng ngày càng lớn vô bờ, vô tận… con ơi!
Em dang đôi tay ôm chầm lấy ba! Hôn lên trán ba em, mà mắt rưng rưng dòng lệ kính yêu và hạnh phúc!
Em may mắn được sanh ra trong miền Nam! Em diễm phúc được thừa hưởng rất nhiều, rất nhiều thứ mà chỉ ở miền tư do dưới Chánh thể Cộng Hòa mới có… Em đã nghe được câu nói của ai đó, để riêng mình thẩm thấu và nghiệm thấy rằng: “Trên cõi đời ô trọc nầy, có hai người đàn ông để cho em kính nể và yêu thương nhứt. Đó là ba em và chồng em!”
Đường phố đã lên đèn, nhưng ánh trăng thu rực rỡ cao ngạo, thanh thoát áp chế ánh đèn đường vàng võ. Cha con em dừng lại bên lề nhìn đoàn múa lân dẫn đầu, các thiếu nhi dâng cộ đèn náo nhiệt đi qua. Trên đất nước tự do, các em vô tư, thảnh thơi, mặt mày hớn hở nhịp nhàng cất vang tiếng hát vang vang: “Đêm Trung Thu em đốt đèn đi chơi/ Em đốt đèn đi khắp phố phường/ Đèn ông sao với đèn trái bí/ Đèn xe tăng với đèn cá chép…Em đốt đèn đi khắp phố phường…”
Mùa Trung Thu, năm 2011
Tệ xá Diễm diễm Khánh an
DƯ THỊ DIỄM BUỒN

HỒ ÔNG *KHO BÁU TRONG TÁC PHẨM CỦA LÊ XUYÊN

Kho Báu Trong Tác Phẩm Của Lê Xuyên
Hồ Ông
Từ quê nhà, Nhà văn Văn Quang đã sớm gửi bản tin ngắn cho tôi
báo tin một người anh em cũ, Nhà văn Lê Xuyên vừa qua đời.
Kèm theo là 4 tấm hình gồm: một tấm chân dung Lê Xuyên vào
thời kỳ còn dọc ngang trong làng viết Sài-gòn, một tấm chụp di thể
được đặt trên giường với nải chuối trên bụng, hai tấm khác chụp
chị Lê Xuyên cùng người con gái út vào tấm sau cùng là quang
cảnh chuẩn bị tang lễ.
Chưa bao giờ những tấm hình lại giữ được nhiều chi tiết về một
đời người như vậy. Có lẽ tại vì khoảng cách thời gian với bao
nhiêu biến đổi vô thường đã tô đậm thêm những nét hình bất di
bất dịch được lưu giữ qua ống kính, hoặc còn tồn tại trong trí nhớ.
Tôi mày mò phóng lớn tấm chân dung thời trung niên của Lê
Xuyên trên màn hình máy vi tính. Từ đôi mắt của anh, bao nhiêu
mảng rời của một thời đã qua của làng báo quen thuộc năm xưa
lại trổi dậy xôn xao...
Tôi nhớ vào khoảng năm 1970, lúc đó với sức trẻ và lòng yêu
nghề cuồng nhiệt, tôi đã viết cùng lúc cho 4 tờ báo gồm: Nhật báo
là Tự Do (Chủ nhiệm Phạm Việt Tuyền, Tổng thư ký Nguyễn
Trọng), Nhật báo Thời Thế (Chủ nhiệm Hồ Anh, Tổng thư ký Lê
Xuyên), Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong (Chủ nhiệm Hồ Anh,
Tổng thư ký Tử Vi Lang) và Tuần báo trào phúng Con Ong (Chủ
nhiệm "Chí sĩ" Minh Vồ, Chủ bút Thương Sinh, tức Duyên Anh).
Tuy có thể la cà đàn đúm với anh em ở bất cứ toà soạn nào mà
mình cộng tác bài vở thường xuyên, nhưng tôi vẫn thích đóng đô
ở toà soạn báo Con Ong hơn vì toà soạn tờ báo này là chỗ duy
nhất có thể đến đó nói và nghe... chuyện tục được!
Tuy cùng cộng tác chung ở Nhật báo Thời Thế, nhưng tôi chưa có
duyên tiếp xúc với Nhà văn Lê Xuyên, Tổng thư ký của báo này.
Nguyên do vì tôi thường đến sớm đưa bài cho người thư ký của
toà báo Văn nghệ Tiền Phong, và luôn tiện nhờ chuyển cho Nhật
báo Thời Thế, rồi rút ngay về bên toà soạn Con Ong hưởng ứng
những cuộc đấu hót hết từ toà soạn đến mấy cái quán xá nằm
trên đường Võ Tánh.
Chính vì thế đối với nhà văn Lê Xuyên, mặc dù tôi rất ái mộ lời
văn "đối thoại dấm dẳng" pha chất sex nhẹ nhàng kiểu "cởi cái nút
áo người yêu cả tuần lễ chưa xong", rất Lê Xuyên, rất Nam Bộ với
những ngôn ngữ địa phương thuần tuý, không hề bị pha trộn với
ngôn ngữ của thời đại... nhưng tôi vẫn chưa một lần được đối
diện để xem "Chú Tư Cầu" ngoài đời chịu chơi đến mức nào. Cứ
căn cứ vào các nhân vật "Chú Tư Cầu", "Rặng Trâm Bầu", tôi
tưởng nhà văn Lê Xuyên phải là một ông Nam Bộ bậm trợn lắm
mới viết rành lối văn "dấm dẳng ướt át" đến độ độc giả nào đã
2 | P a g e
theo dõi "fueilleton" của anh trên Nhật báo là không thể nào bỏ
qua được tờ báo xuất bản vào ngày hôm sau. Có lần tôi thắc mắc
hỏi "Chí sĩ" Minh Vồ, thì anh cười toáng lên, nói: "Cậu lầm rồi, Lê
Xuyên nó còn hiền lành hơn thầy tu, nhát hơn con gái nhà lành
nữa đấy. Nghe nói tục là nó biến ngay, đố dám!".
Cùng làm việc lâu với Minh Vồ, tôi biết tay "Chí sĩ" này chỉ giỏi
phùng mang trợn mắt nói tục sùi cả bọt mép cho anh em vui, chứ
không hề nói dóc những chuyện không có chủ đích để gây cười
một cách vô tội vạ. Tuy thế tôi vẫn không tin và lòng thầm nghĩ thế
nào cũng phải gặp Lê Xuyên ở Nhật báo Thời Thế một lần cho
biết. Nhưng tôi không phải đợi lâu. Chỉ ít ngày sau, trong một buổi
tôi và Minh Vồ cùng Dê Húc Càn, Hùng Phong rủ nhau ra ăn sáng
tại quán hủ tíu ở "mũi tàu" Võ Tánh - Lê Văn Duyệt gần tượng
Phù Đổng Thiên Vương. Đang đấu hót rôm rả trong lúc chờ đợi
đồ ăn, bất chợt Minh Vồ đứng vụt dậy chạy ra ngoài kêu lớn: "Lê
Xuyên! Lê Xuyên! Vào đây ăn sáng với tụi tao đã!". Nghe thế tôi
cũng mừng rỡ vì tình cờ lại được gặp người mình vẫn thường ái
mộ. Tôi nhìn ra ngoài thấy Minh Vồ đang tíu tít nắm chiếc guidon
xe Vespa giữ ghịt lại như sợ Lê Xuyên bận rộn sẽ không chịu vào
quạn
Lê Xuyên, năm đó trạc khoảng trên 40 tuổi, người hơi nhỏ con, ăn
mặc tươm tất. Anh vừa kịp kéo ghế ngồi xuống và Minh Vồ thay vì
giới thiệu, đã chỉ tôi bô bô hỏi Lê Xuyên: "Mày chắc biết thằng Hồ
Ông, nó viết báo Thời Thế bên mày nó ký bút hiệu Gã Kéo Màn
đó?". Lê Xuyên nhìn tôi và đưa tay bắt tay tôi, nhẹ lắc đầu: "Nghe
tên thì quen nhưng hôm nay mới gặp. Gã Kéo Màn còn trẻ quá
há!". Tôi chưa kịp nói gì, Minh Vồ đã quát chủ quán cho thêm một
tô hủ tíu, rồi quay qua nói với Lê Xuyên: "Tao bắt gặp quả tang
mày hôm thứ bảy". Lê Xuyên thực thà hỏi: "Quả tang chuyện
chi?" - "Mày còn giả bộ hỏi nữa". Nghe Minh Vồ nói thế, Lê Xuyên
càng ngạc nhiên: "Mà chuyện chi chớ?". Minh Vồ cười một tràng
lớn rồi oang oang nói: "Hôm thứ Bảy tao lái xe ngang trường Hai
Bà Trưng, tao thấy mày chạy xe Vespa yên sau chở một em thơm
như múi mít, thơm hơn em Phấn trong Chú Tư Cầu của mày, nó
ôm eo ếch mày, duỗi cặp giò trường túc trắng muốt. Tao còn nhớ
nó mặc mini-jupe ngắn lòi cả cái quần sì-líp màu hồng, lông nách
nó thì bay phất phới, phất phới!". Giọng Minh Vồ bình thường vốn
đã lớn, nhưng có lẽ nhằm chủ đích chọc Lê Xuyên, nên anh càng
cố nói oang oang cho cả quán cùng nghe, khiến ai cũng quay
nhìn về phía bàn chúng tôi.
Lúc đó Lê Xuyên mặt đỏ gay, đứng dậy không kịp chào ai, bước
vụt ra xe Vespa phóng một mạch. Minh Vồ đắc ý cười hô hố, quay
nói với tôi: "Đó cậu thấy tôi nói có sai đâu! Lê Xuyên viết văn thì
dữ dằn như thế, nhưng ngoài đời hắn còn hiền hơn cả mấy ông
thầy tu nữa!".
Đấy là lần đầu tiên tôi gặp tác giả "Chú Tư Cầu", Lê Xuyên. Sau
đó ít lâu, khi gặp lại anh ở quán Tần Phương Khanh, kế toà báo
Muỗi Sài-gòn của Thanh Chiêu Nhữ Văn Uý (sau là Dân Biểu,
Chủ tịch Uỷ ban Thông Tin, Hạ Nghị Viện), Lê Xuyên hình như
3 | P a g e
vẫn còn bối rối và mắc cỡ về câu chuyện dựng đứng của Minh Vồ,
đã cười cười nói với tôi: "Minh Vồ thiệt là bậm trợn, nói năng bậy
bạ không ai bằng. Tôi sợ hắn luôn!".
Tính cách của Lê Xuyên là như thế. Anh không giống các nhân
vật nam trong tiểu thuyết của mình ở khía cạnh quan hệ trai gái,
nhưng tự cốt tuỷ lại rất phù hợp với tính cách chân chất, mộc mạc
và hiền lành của những người dân quê Nam Bộ.
Khi còn làm ở báo Dân Việt, tôi nhận được thư của Thủy Tinh,
một cây viết trẻ độc đáo đã có những bài viết đã thu hút được
nhiều cảm tình của mọi tầng lớp độc giả qua tờ Dân Việt trước
đây và Văn Nghệ Tuần Báo sau này. Trong thư, Thủy Tinh kể
chuyện trong chuyến về Việt Nam thăm gia đình, anh có gặp "ông
già bán thuốc lá" thật tội nghiệp ở ngã tư đường Bà Hạt - Ngô
Quyền. Qua mấy người bạn, Thủy Tinh mới biết ông già tội
nghiệp đó là Nhà văn Lê Xuyên lừng lẫy một thời. Qua câu
chuyện, Thủy Tinh có hỏi nhà văn Lê Xuyên: "Cháu thấy một số
tờ báo ở hải ngoại có đăng lại tác phẩm của Bác, họ có gửi trả
nhuận bút cho Bác không?". Lê Xuyên cười tủm tỉm hiền lành:
"Anh em họ vẫn nhớ đến tôi, nên mới đem truyện cũ của tôi ra
đăng, như vậy là quý lắm rồi, mình còn đòi hỏi chi nữa!".
Thế đấy, dù già yếu bệnh tật mà vì hoàn cảnh sống phải lê thân ra
đường, nhưng Lê Xuyên vẫn thoải mái, rộng lượng với các đồng
nghiệp cũ và mới. Anh không vội nghĩ anh em đã lợi dụng tên tuổi
và tác phẩm ăn khách của mình, mà chỉ nghĩ đến cái tình.
Cũng qua Thủy Tinh, tôi được biết địa chỉ của anh và anh em Dân
Việt lúc đó, có thêm sự đóng góp của anh P.L.P và N.G bên Nhật
báo Chiêu Dương đã gửi về biếu anh một chút tiền nhỏ để chi xài.
Sau này, qua lời kêu gọi của anh Văn Quang, anh em Văn Nghệ
cũng gửi về anh chút quà. Từ đó, bẵng đi hơn một năm và rồi
bỗng nghe tin anh đã qua đời...
Trong một lần nói chuyện thân mật với cây bút trẻ Thủy Tinh, mới
37 tuổi, kỹ sư điện toán ở Adelaide, Thuỷ Tinh cho biết anh rất
khoái thứ ngôn ngữ đặc thù của người dân quê Nam Bộ qua các
tác phẩm tiêu biểu của Lê Xuyên như Chú Tư Cầu, Rặng Trâm
Bầu, Vợ Thầy Hương, Thủy Tinh nói rằng anh đọc sách của
Vương Hồng Sển nói về cái thú chơi đồ cổ, anh cũng khoái lắm,
nhưng không đủ khả năng tiền bạc để chơi thứ của nhà giàu đó.
Nhưng theo anh có một thứ "đồ cổ" vô cùng quý giá không thể để
mai một đi và ai cũng có thể "chơi" được - đó chính là thứ ngôn
ngữ của người dân quê Nam Bộ như những hạt ngọc quý lấp lánh
trong các tiểu thuyết đồng quê của Nhà văn Lê Xuyên. Người ta
có thể đọc bất cứ trang nào, cuốn tiểu thuyết nào của tác giả này
cũng vẫn dễ dàng bắt gặp. Chẳng hạn như một đoạn đối thoại
nhỏ sau đây giữa Tư Cầu và cô Phấn trong tiểu thuyết Chú Tư
Cầu:
........
4 | P a g e
"-Coi, anh có làm phiền thằng chả cái gì đâu? Có em chạy tới
chạy lui lo cho anh nầy nọ, chớ thằng chả cứ ở miết trong tiệm và
có chịu nhúc nhích cục cựa gì đâu! Vậy mà thằng chả còn cằn
nhằn em nhức xương nhức cốt nữa!
Tư Cầu lắc đầu:
-Thì làm phiền chú Ba là ở chỗ đấy em ơi! Đã đành rằng hai đứa
mình là... tình xưa nghĩa cũ. Nhưng bây giờ, bề nào chú cũng là
chồng của em... Anh nói có phải vậy hông?
- Thì phải... nhưng ai biểu hồi đó...
- Biểu khỉ gì! Cũng có em... tham dự vô chớ bộ một mình ên chú
mà... mà xảy ra chuyện đó sao? Kể ra chú Ba cũng hiền lắm chớ
đứng vào địa vị anh mà lại có vợ con bạt mạng như em, thì nhứt
định anh vặn họng bẻ hầu nó liền chớ đâu có để luồng tuông vậy
được!
- Xí, anh hổng biết mốc gì hết mà cũng nói! Thằng chả mà hiền!
Em vì thương anh nên em mới bất kể như vậy, chớ bộ anh nói dễ
chịu đựng với thằng chả lắm hả? Có điều là thằng chả khôn cải
trời cho nên không dám làm gì tới vì sợ em liều bỏ đi luôn, và
nhứt là sợ tùm lum lên, rủi ro anh có bề gì thì cũng kẹt luôn thằng
chả vô trỏng nữa.
........
Văn Lê Xuyên không chải chuốt, nhưng vẫn ẩn hiện chất bóng
mướt như mái tóc chải dầu dừa pha hương sả của cô thôn nữ
đồng quê. Không khai thác độc thoại, nội tâm, triết lý, nhưng vẫn
thể hiện được chiều sâu của tâm hồn nhân vật. Không tả tình tả
cảnh dài dòng, nhưng vẫn nêu bật được thời gian và không gian
sống của nhân vật truyện qua những câu đối thoại sống động. Dù
người đọc có thể đọc thiên kinh vạn quyển nhưng với chỉ một
đoạn văn ngắn ngủi, chưa chắc đã đủ sức để gọi lại đúng tên tác
giả. Với Lê Xuyên thì khác, chỉ một đoạn văn ngắn ngủi như nêu
trên, người ta có thể dễ dàng gọi đúng tên Lê Xuyên mà không sợ
lầm lẫn với ai.
Nếu nói theo cách của Thủy Tinh, thì mỗi tác phẩm của Lê Xuyên
là một kho chứa "đồ cổ" quý giá với những ai còn nặng tình với
quê hương. Lê Xuyên đã trở về với cát bụi, nhưng chắc chắn
"Chú Tư Cầu" vẫn mãi rực rỡ với "kho đồ cổ ngôn ngữ" như báu
vật một thời đã qua cần lưu giữ vì trong đó còn chứa cả tình quê.
Hồ Ông

NGUYỄN NGU Ý * HỒ HỮU TƯỜNG

Hồ Hữu Tường Trò Chuyện Với Nguyễn Ngu Í

03-12-2010

LTS. Sau đây là một số đoạn chứng tôi trích từ cuốn "Sống và viết với Hồ HữuTường," do Nguyễn Ngu Í viết lại những cuộc trò chuyện với Hồ Hữu Tường, bắtđầu từ năm 1946 ỏ Hà Nội, kết thúc vào 1966 ở Sài Gòn. Nguyễn Ngu Í viếtquyển này theo lối chữ quốc ngữ cải cách của ông, chúng tôi đánh máy lại sửathành chữ thường để độc giả dễ đọc.

(...)
Một đêm mùa hạ, năm l954. Anh sắp sửa lên đường sang Pháp để rồi đi Genève vận động cho "trung lập chế," tôi ở lại chơi với anh có hơi khuya, và bởi căn phố anh ở hẻm Frère Louis ấy tối đến muỗi khá nhiều, nên chúng tôi chui vô mùng trò chuyện. Bỗng anh hỏi tôi có đọc Phong Kiếm Xuân Thu?
Tôi gật đầu.
- Thế anh phục ai?
- Tôi đọc lúc lên mười. Đúng hơn là đọc cho bà chủ trọ nghe trong những ngày nghỉ học lúc ở Phú Lâm. Không nhớ mình phục ai, song thương ai thì lại nhớ rõ!
- Ai vậy?
- Tôn Tẩn.
- Chắc vì Tôn Tẩn bị chặt cụt chân.
- Vì nạn ấy thì ít mà vì Tôn Tẩn quá thương mẹ, quá yêu Tổ quốc mình mà đem hết sức chống lại nhà Tần, tuy biết rằng "số Trời" đã định, Tần Thỉ Hoàng sẽ gồm thâu Lục quốc.
Anh im lặng một hồi, rồi chậm rãi:
- Trường hợp bi đát của Tôn Tẩn ám ảnh tôi từ thuở nhỏ. Và bây giờ, tôi càng thông cảm cái nỗi bi đát ấy của họ Tôn. Tâm sự với anh một chút trước khi đi. Từ cuối năm ngoái, tôi được biết Pháp và Việt cộng đã bí mật điều đình với nhau: chia hai đất nước mình. Như thế là một đại họa cho dân tộc. Miền Bắc Cộng sản sẽ bị áp bức và bóc lột nặng nề; miền Nam Quốc gia sẽ bị Cộng sản dùng sách thuật "thả sâu vào quả" mà chịu cảnh nội chiến triền miên. Thế là sau mười năm máu lửa, nước mình không được thống nhút, dân mình còn bị lầm than và chết hại, "số Trời" định thế đó, tôi nghĩ ra biện pháp "Trung lập chế" thuyết trình trước một số thính giả chọn lựa, đăng trên báo Phương Đông (l) rồi sắp đích thân đi vận động ở Genève, là tôi muốn "cãi số Trời" như Tôn Tẩn thuở xưa.
Im lặng một chặp.
- Tôi có khi đâm ra lẩn quẩn. Không tin rằng dân tộc ta đã dùng sắt máu để tiêu diệt dân Chàm, mà đã đồng hóa họ nhờ văn hóa cao hơn, thế mà sao đôi lúc tôi nghĩ rằng tổ tiên ta đã "làm sao ấy" đối với họ cho nên con cháu ngày nay phải trả cái "nợ" nặng nề kia. Có vùng vẫy đến đâu, rốt cuộc rồi bi đát cũng hoàn bi đát!
Và tôi nghe một tiếng thở dài. Nhưng liền sau đó:
- Nhưng đã là con thằn lằn đã chọn nghiệp (2) thì "cãi số Trời" cứ cãi cho đến hơi thở cuối cùng xem sao!

*


Một trưa mùa thu năm 1946, ở thủ đô Hà Nội. Tôi ngừng ở lại đầu thang gác. Anh đang chăm chú sửa ấn cảo một cuốn sách, trông anh có vẻ một học giả lừ đừ hơn là một chiến sĩ say sưa, hay một công nhân lanh lẹ, hai hình ảnh quen thuộc của anh lúc ở trong Nam. Tôi ngừng lại ở đầu thang gác, vì lần đầu bắt gặp ở anh hiện thân của sự đau buồn: cái lưng khom khom như mang gánh nặng vô hình, đầu tóc dài kém trật tự như không hề làm bạn với cái lược cái gương, đôi mắt có vẻ mệt mỏi, có dáng nặng nề, gương mặt hằn nỗi lo âu của sự luôn luôn phải đối phó, ở trong căn gác im lìm bày biện sơ sài, cạnh chiếc nôi mà thỉnh thoảng anh với tay đẩy nhẹ. Mấy người bạn đường cũ, nay cỏ đã xanh mồ, riêng anh ngồi đây, giỡn chữ, đưa con.
- Người chưa chết đang làm gì đó?
Anh quay lại, tròn đôi mắt, mỉm cười:
- Đang sửa di chúc đây.
Tôi bước lại gần anh:
- Di chúc để lại cho ai?
- Chịu khó đọc vậy.
- Tương lai văn hóa Việt Nam. "Tặng X. T. độc giả vị lai của quyển này ..."
Tôi nhìn "đứa con đỏ" đang nằm ngủ trong nôi, rồi nhìn anh:
- Để cho hai chục năm về sau?
- Ba chục năm.
- Tam thập nhị lập... À, anh khinh người đồng thời mà trọng kẻ đến sau. Anh "làm phách," thế mà "thiên hạ" chưa cho anh mò tôm nhá!
Anh không đáp, chỉ cười, một cái cười buồn, rất buồn.

*


( ... )
Xét lại đời anh trong hai mười lăm năm nay, hết thất bại này đến thất bại khác. Anh thì chắc sau những phen mệt mỏi, chán ngán không tránh khỏi, sẽ liên tục con đường "cãi số Trời" của mình đến hơi thở cuối cùng "để xem sao." Nhưng còn người bạn đời mà tù đày đã giành hết phân nửa thời gian chung sống với chồng?
- Chị có thất vọng về anh không?
Chị nhìn tôi, như chưa hiểu câu tôi hỏi.
- Anh cứ đuổi theo những mộng mà thiên hạ cho là khó thành, để mình chị gánh vác bao nhiêu là bổn phận, hẳn chị có lúc cũng thấy ông chồng "kỳ khôi" của mình làm mình thất vọng phần nào.
- Tôi hiểu chú muốn gì rồi. Tôi có những lúc khổ vì nhà tôi thật, mà không thất vọng. Vì ba mươi năm về trước, khi nhận lời làm vợ nhà tôi, thì nhà tôi là một anh chàng công nhân, mà tôi không biết tên thật là gì.
- Sao lạ vậy chị?
- Lúc đó chúng tôi là đồng chí, hoạt động trong bí mật.
- Việc cũng ly kỳ. Nếu chẳng có gì bí mật, chị có thể cho biết sơ qua cái thuở ban đầu gặp gỡ ấy ...
- Năm ấy, tôi hoạt động trong một chi bộ ở Cà Mau, thì được lệnh lên Sài Gòn. Bắt được liên lạc với người đồng chí cao cấp ấy rồi, tôi kín đáo theo anh xuống dưới gầm cầu Móng. Gặp một đồng chí lạ, mặc áo công nhân. Đó là đồng chí Năm, mà tôi phải sống chung làm một cặp "vợ chồng đối phó" để tiện bề hoạt động.
- Vậy anh chị đóng vai vợ chồng giả trong bao lâu thì thành "vợ chồng thật"?
- Ba tháng sau, chú à.

*


Năm đã hầu tàn. Anh có phần rỗi rãi. Tôi lợi dụng khoảng thời gian anh hết bận rộn vì chức vụ Phó viện trưởng và Giáo sư viện Đại học Vạn Hạnh mà quấy rối anh.
- Nhờ anh cho biết anh bắt đầu viết lúc nào.
- Lúc tôi mười sáu tuổi, đang theo học Đệ nhị trường Trung học Cần Thơ. Tôi viết báo, báo tay với anh em cùng lớp. Chủ bút là người anh biết, Trúc Hà Trần Thiêm Thới, sau này sẽ đi xa trong báo giới và học giới; trong bộ biên tập, có hai anh này sau sẽ đi xa về Quân sự và Chánh trị, là Nguyễn Văn Tây và Ung Văn Khiêm. Lâu quá, tôi quên tên tờ báo học trò ấy. Nhưng tôi không quên việc tréo cẳng ngỗng này: báo Quốc ngữ, mà anh em giao tôi mỗi kỳ cố "rặn" cho ra một bài xã thuyết bằng tiếng Tây. Đố anh biết để chi? Để rủi báo có bị tịch thâu thì ông đốc Tây biết ngay đại ý tờ báo muốn nói gì.
- Chắc bài này không ký tên.
- Có chớ. Ký biệt hiệu Tây đàng hoàng: Vu-Tren!
- Vu-Tren?
- Nói lái là Ventru. Ventru nghĩa là "Bụng bự." Lúc đó bụng tôi to hơn mức bình thường, anh em gọi đùa tôi là "Tường bụng."
- Hồi đó, mà anh đã tỏ ra "rắc rối" rồi! May mà anh chưa biết biện chứng pháp... phổ thông! Không thì bạn học còn "ngán" anh đến đâu!
- Tờ báo tay ấy có thọ không, anh?
Anh lắc đầu:
- Nhân vụ án Nguyễn An Ninh, bọn chúng tôi tham gia phong trào bãi khóa, và bị đuổi. Sang Pháp, tôi lại viết báo... bằng tiếng Pháp lần nữa, và ở một trường hợp đặc biệt. Anh Thâu đang viết loạt bài "Après Yên-Bái, que faire?" (3) trong tờ La Vérité, thì bị trục xuất vì dự cuộc biểu tình trước điện Élysée phản đối việc xử tử Nguyễn Thái Học với 12 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Tôi và anh Hùm nhờ lẹ chân trốn sang Bỉ nên khỏi bị đuổi về nước. Tôi thay anh Thâu viết tiếp loạt bài bỏ dở.
- Après Yên-bái, que faire? Ký tên ai?
- Ký: Un émigré indochinois (4).
- Thế bao giờ anh mới bắt tình với báo Việt?
- Năm 1931. Khi ở Pháp về. Anh Thâu có người thày cũ rất thương anh, anh Nguyễn Văn Bá, lúc ấy nghỉ dạy và trông nom tờ Công Luận. Anh Thâu đưa tôi lại thăm thầy cũ, và trổ tài hùng biện để kéo thầy cũ theo chủ nghĩa của mình. Ảnh nói nhiều, không để thày nói bao nhiêu. Làm ông Bá bực. Còn tôi vốn trầm lặng, ít nói, nên ngồi làm thinh mà nghe. Ông Bá hỏi, tôi mới trả lời; ông có cảm tình với tôi ngay và mời tôi cộng tác. Tôi nhận lời, và bút hiệu Bửu Liên của tôi xuất hiện từ đó.

- Báo Tây, báo Ta, báo công khai ... giờ anh cho biết về báo ... bí mật, thứ báo chẳng thấy trưng bày trong cuộc triển lãm 100 năm Báo chí vừa qua ở nhà Văn hóa.
- Tôi chắc anh em bây giờ không ai còn giữ được số nào. Có trên ba chục năm rồi, và biết bao nhiêu phen máu lửa xảy ra! Họa may Công an còn giữ số nào chăng, nếu được thực dân Pháp không chở về Tây để làm của quý! Anh nhờ nói đến việc này, là anh làm tôi trẻ lại như hồi mới hai mươi! Viết bài, thì tôi viết. Anh Đào Hưng Long, chữ tốt, đóng vai trò "thợ sắp chữ," nghĩa là ảnh chép lại những bài của tôi bằng mực tím đậm rồi giao cho "nhà in," tức là những nữ đồng chí có nhiệm vụ "in" ra trên xu xoa. Anh chắc cũng biết qua lối "in" này. Úp bản cái lên mặt khuôn xu xoa, vuốt cho đều tờ giấy, để đó mười lăm phút cho mực thấm vô xu xoa, vuốt cho giấy sát. Rồi gỡ bản cái ấy lên, mình có bản chánh "in" ngược lên xu xoa. Giờ chỉ còn lấy giấy để lên mặt xu xoa, vuốt giấy cho sát, để chừng một phút, gỡ ra. "In" độ năm mươi bản thì chữ mờ. Tôi có nghĩ ra một cách có lợi cho việc "in xu xoa" này. Thói thường là nấu xu xoa, đổ vô một cái khuôn, và chỉ dùng được có mặt xu xoa ở trên mà thôi. Tôi cho cắt những tấm kiếng bằng nhau để trong khuôn, tấm này cách tấm kia độ một phân (giữa hai tấm kiếng ở hai đầu, có cây cạnh cao chừng một phân), đổ xu xoa vô, thì mỗi lớp xu xoa có hai mặt, mặt trên in cũng được, mà lật lại mặt dưới, in cũng được. Ví như ta có năm tấm kiếng thì ta có sáu miếng xu xoa, tức là mười một mặt xu xoa in được.
- Chẳng khác nào trước ta có một máy in, mà giờ ta có mười một máy in vậy. Thế mà anh chẳng làm đơn xin bằng phát minh cũng uổng!

Chúng tôi cùng cười. Rồi anh tiếp:
- Đến khoảng 1935, chúng tôi có ý chẳng ngu này: làm sao báo bí mật của đoàn thể mình "in" bằng chữ nhà in, mà gạt được bọn mật thám Tây. Nghĩa là làm sao cho chúng nó bảo nhau báo này không thể in ở Việt Nam được, mà in ở bên Pháp; được thế, chúng không tìm ở bên này, mà lo kiếm ở bên Pháp để làm cho ướt ngòi từ Mẫu quốc.
"Chúng tôi tổ chức một cuộc ăn cắp. (Anh mỉm cười). Chuyện đã xưa rồi, bây giờ khai ra đây, chắc không ai bắt thường bắt tội mình đâu. Chúng tôi tổ chức một đám trẻ em, xin vô làm nhà in Ardin, học nghề sắp chữ. Anh còn nhớ nhà in Pháp này ở đường Catinat chớ? Nhà in lớn, có chú hạch gác cửa, giờ về, chú khám thợ thuyền, sợ ăn cắp chữ. Thế mà không khỏi tay ... các "tiểu đồng chí" của chúng tôi. Mò túi, rờ lưng, chú hạch chẳng bắt được gì. Thế mà về đến cơ quan, các em nộp "chiến lợi phẩm" cho chúng tôi: trung bình mỗi ngày bốn gói, mỗi gói độ vài chục chữ. Đố anh biết các em làm sao qua mặt chú Chà-và gác dan kia không? Chữ ăn cắp, các em giấu trong... ghi đông xe đạp. Kiến tha lâu đầy ổ. Rồi một ngày nào đó, chúng tôi "đủ sức" dựng một cái "nhà in" bí mật. Nói dựng nhà in cho oai, chớ thật ra là cất một cái chòi, để các em ở đó. Ban ngày lại nhà in thực dân, học; ban đêm, về nhà in của mình, thực hành. Tôi còn nhớ anh bạn phụ trách "nhà in" này, anh tên X hiện ở Paris. Sắp chữ xong xuôi, "mi" rồi, là vỗ. Công phu nhất là phần việc chót này. Vỗ cho cẩn thận, cho khéo léo, thì tờ báo xem i hệt như là in máy thật. Tờ Thường Trực Cách Mạng "in" bí mật theo lối này, làm bọn mật thám bứt đầu bút cổ. Số in à? Thường thì vài trăm. Gặp trường hợp đặc biệt, tới mấy ngàn.
Và mắt anh như mơ màng. Chẳng biết anh nhớ đến một thời hay những bóng hình ai.

Tôi thì nhớ dịp kỷ niệm trăm năm Báo chí, nên chưa muốn rời địa hạt này. Huống hồ chi lại định hỏi anh về tờ báo đã từng đóng một vai trò lịch sử trong công cuộc chống thực dân và phong kiến, mà đời hoạt động cách mạng của anh lúc đầu "ăn chịu" nhiều với báo.
- Anh bật mí báo chí bí mật do anh điều khiển, bao nhiêu đó cũng tạm đủ. Nhờ anh cho biết về tờ báo công khai La Lutte. Mấy anh dính líu mật thiết với nó đã bị Đệ tam sát hại cả, chỉ còn có mình anh. Gợi kỷ niệm xưa, chắc anh buồn, nhớ những bạn đồng hành xấu số, nhưng anh lại giúp cho anh em đến sau một số tài liệu sống của người trong cuộc.
Anh hơi mỉm cười:
- Nói ra, thì khó tin, nhưng nguyên nhân ra báo là một trò "giỡn chơi." Mà giỡn chơi với nhà cầm quyền Pháp. Số là sắp có cuộc tranh cử Hội đồng thành phố. Anh em có ý đưa ra một sổ đối lập với các sổ tay sai thực dân. Lấy tên là sổ Lao động, gồm có mười hai người. Tôi chỉ nhớ tên sáu người là Nguyễn Ván Tạo, Trần Văn Thạch, Lê Văn Thử, Lê Văn Lưỡng, Huỳnh Văn Tài. Đứng trong sổ Lao động nên nghề nghiệp anh em đưa ra đều có màu sắc Lao động cả, trái lại với các ông điền chủ nhà giàu. Tạo làm nghề viết báo, Thạch làm nghề dạy học. Thử với "chức": thợ nhà in, Lưỡng: thợ máy, Tài: lon ton. Có sổ rồi, phải có báo, vì có báo ai mà dám cổ động cho bọn tay làm hàm nhai này. Ra báo chữ Tây cho khỏi phải chịu chế độ kiểm duyệt. Chúng tôi nhờ ông Ganofsky làm quản lý. Ông là một nhà báo, có tinh thần cấp tiến, nên vui lòng tham gia "trò chơi" này. Anh em thì nghèo mà số đầu cần ra gấp, tiền chạy chưa đủ. May thay, ông huyện Của, chủ nhà in Union và cũng là chủ tờ báo kỳ cựu Lục tỉnh tân văn, vui lòng cho in chịu. Báo chạy. Trả nợ nhà in và lo tiền cho số kế. La Lutte đợt đầu chỉ bán ra có bốn số, trong thời vận động tranh cử. Đến số bốn, mới có tôi.

- Thế lúc ấy, anh ở đâu?
- Tôi bị kẹt trong tù. Kẹt sáu tháng. Về tội... "báo bí mật." Và lãnh ba năm tù treo. Sẵn đây, tôi kể anh nghe vì sao tôi từ bí mật ra hoạt động công khai. Cũng do một người bạn "giỡn chơi." Vừa ra tù, tôi đi dự một cuộc họp ở rạp hát Thầy đội Có ở Tân Định, do các ứng cử viên đối lập với sổ Lao động tổ chức để vận động cử tri. Những cuộc họp như thế, có chất vấn, có tranh luân, nên mở đầu là giới thiệu người vào chủ tọa đoàn. Anh Nguyễn Bá Tường (giờ là một nhà triệu triệu phú, một trụ cột của xưởng thuốc điếu Bastos) muốn phá tôi chơi, bèn giới thiệu tôi làm thị sự (ascesseur). Tôi đành phải bước lên diễn đàn. Thính giả cười ồ. Vì tôi mới ở khám ra, "cái đầu trọc lóc như trái dừa khô." Anh bạn nhân đó bồi thêm một chưởng: "Đây là một nhà chánh trị thứ thiệt. Thành tích chống thực dân ở ngay trên đầu. Để đồng bào tiện bề kiểm soát!" Cả rạp vỗ tay. Từ trước, tôi hoạt động trong bí mật, có viết bài ở báo công khai, thì đều ký biệt hiệu, nên đại chúng chẳng biết tôi làm chánh trị. Lần này vì bạn phá chơi, tôi kẹt, mà phải ra công khai từ đó. À, tôi quên nói là việc xảy ra năm 1933. Còn có điều đáng nói là trong những buổi tổ chức như thế, anh em trong sổ Lao động thường "cướp diễn đàn." Nhờ kinh nghiệm quần chúng, nhờ tài hùng biện, nhờ tài xoay xở. Người ta tốn của mướn rạp, tốn công mời công chúng, mình chỉ có chờ cơ hội là nhảy ra bắt bí diễn giả đối lập, làm họ tắc tị, hay khiến họ làm trò cười cho thính giả, rồi mình lôi cuốn công chúng về phe mình, và tha hồ tuyên truyền, cổ động cho "gà" nhà. Người ta dọn cỗ sẵn để mình ăn !
Anh như toan nói gì thêm, nhưng lại dừng. Sao tôi lại đoán rằng anh định nói: "Sân khấu Chánh tri ba mươi năm về trước coi vui nhộn hơn bây giờ nhiều."

- Theo anh, thì ra La Lutte đợt đầu là để "giỡn chơi" trong mùa tranh cử Hội đồng thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, nhưng còn qua năm sau, các anh cho ra lại La Lutte, cơ quan binh vực quyền lợi cho giới lao động, thì lần này là "làm thiệt" chớ?
Anh gật đầu.
- Vậy vì nguyên do nào?
- Hơi dài dòng đó. Năm 1934, phái đoàn Cộng sản Pháp đo Gabriel Péri cầm đầu qua xem xét tình hình, thấy hàng ngũ Đệ tam tan rã gần hết, Péri mới tìm Nguyễn An Ninh để bàn bạc (Anh Ninh vốn là một chiến sĩ thuần túy quốc gia, nhưng anh không ngần ngại gì bắt tay với các tổ chức quốc tế để chống thực dân, nên có cuộc đối thoại mà tôi rút gọn như sau:)
Péri - Thất bại trong bí mật, sao Đệ tam không tìm ra công khai?
Ninh - Vì không đủ tài.
Péri - Không đủ tài thì bước đầu hợp tác với những ngươi có tài. Rồi sau sẽ tủy cơ ứng biến. Nhóm nào có năng lực?
Ninh - Nhóm Tờ rôt kít.
Péri - Có đông không?
Ninh - Năm, sáu đứa
Pérl - Họ bằng lòng hợp tác?
Ninh - Tụi nó dễ chịu lắm.
Thế là Péri chuyển đề nghị qua Moscou. Moscou chấp nhận. Paris mới đưa ra chỉ thị cho Sài Gòn; anh Ninh làm mối lái. Anh em chúng tôi bằng lòng: nhóm La Lutte thật sự ra đời sau đó. Nó gồm có những phần tử Đệ tam, Đệ tứ và những phần tử chân chánh quốc gia như Nguyễn An Ninh, Trịnh Hưng Ngẫu. Tờ La Luttelại ra đời, đánh số 5 ngày 4-l0-1934. Qua tháng hai năm sau, nhóm quyết định đưa người ra tranh cử Hội đồng Quản hạt. Bản tuyên ngôn của nhóm (Aux électeurs des classes moyennes: Gởi cử tri các giai cấp trung lưu), Thâu và tôi thảo. Anh em bảo tôi ra, tôi không chịu, vì không thích, mà cũng vì tôi trẻ nhất trong đám anh em, thiếu hai tuổi để làm ứng cử viên. Nhưng anh em cứ biên đại tên tôi, đứng cùng sổ với Phan Văn Hùm, Nguyễn Văn Nguyễn, ra quận 1, gồm những tỉnh Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một. À, chút nữa quên, còn Côn Nôn nữa!
Tôi cười:
- Quả là tiền định. Ba anh ra ứng cử cái quận có Côn Nôn, nên về sau, anh nào cũng nếm mùi Côn Đảo. Con anh thì thiếu hai tuổi... nên duyên nợ với nó đến hai lần! Mà này, như thế, thì hai Đệ tứ và một Đệ tam ra ứng cử. Đệ tam chịu lép vế sao?
- Đâu có, còn sổ thứ nhì: Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Thạch ra ứng cử quận nhì (tức Sài Gòn, Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho). Nam kỳ lúc đó chia ra làm năm quận bầu cử.
- Nhưng chuyến "xuất quân" đầu tiên ấy thắng hay bại?
- Bại. Chúng tôi thất cử vì bị ăn gian thăm.

- Trong thời làm báo La Lutte, có gì vui không anh? Tranh đấu, thì có lúc bại, lúc thắng, khi buồn, khi vui ...
- Tôi còn nhớ hai cái khoái. Một là ủng hộ Trần Văn Thạch trong việc mở mục Petits clous (Đinh cúc), và góp ý với ảnh để ảnh dùng giọng văn trào phúng mà viết mục bài phong kiến, đả thực dân này. Anh Thạch viết Pháp văn rất cừ và có duyên, nên mục Đinh Cúcđược độc giả hoan nghênh. Anh biết hạng độc giả nào đọc mục châm biếm này nhiều nhất không? Ba phần tư là... người Pháp. Thực dân Pháp ghét cay ghét đắng tờ La Lutte. Nhưng lại thích đọc mục Petits clous (có những người mua La Lutte để chỉ đọc có mỗi mục này), và buồn cười, là họ lại cho chúng tôi tuy dô để viết bài "hạ" đồng bào họ nữa chớ. Đó là cái khoái thứ nhất. Cái khoái thứ nhì là việc hạ uy tín Nguyễn Phan Long ở phe Lập hiến. Bọn chúng tôi biết được hiện tượng kỳ cục này: thiên hạ phục Nguyễn Phan Long, chẳng phải vì đường lối chính trị của ông, mà vì ông viết tiếng Tây hay. Vậy muốn hạ con "Rồng" có uy tin với đồng bào này, thì tìm cách chứng minh rằng ông ta viết tiếng Pháp... sai mẹo. Anh em đọc thật kỹ các bài của ông Long, hễ thấy lỗi là mách cho anh Thạch. Anh Thạch bèn viết bài bắt bẻ Gờ ram me ông Long. Vài lần, là ông Long mất mặt với độc giả. Uy tín riêng của ông - và cả uy tín của đảng Lập hiến - sút đi vì vụ này. Các bạn trẻ bây giờ hẳn không tin đó là sự thật. Phải sống vào thời kỳ ấy, mới thấy có lúc không thể lấy cái "lô gíc" (logique) mà giải thích một hiện tượng xã hội.

"Lại còn một điều tức cười này. Tòa soạn La Lutte ở 99 đường Lagrandière, giờ là đường Gia Long. Chắc chắn đó là toà soạn nhỏ hẹp nhất của báo... công khai. Nửa căn phố thôi vì phân nửa đầu bị cái thang lầu chiếm gần hết. Nhỏ, hẹp lại bất tiện, nên chẳng ai thèm mướn. Phố của chú Hỏa. Chúng tôi chỉ phải trả tiền phố tháng đầu. Những tháng sau - mà chúng tôi ở đó tới hai năm - chú Hỏa không dám thâu tiền phố chúng tôi.
- Không dám? Anh chủ quan rồi đó. Chú Hỏa cũng thuộc về đám... thực dân da vàng, thì có sợ gì đám dân lao động bị trị các anh. Chẳng qua là chú Hỏa biết các anh nghèo, nên... thương tình, không nỡ thâu tiền phố đó thôi. Vả lại người Tàu vốn thấy xa, nên chú tư bản này bắt đầu thực hiện khẩu hiệu: "lao tư hợp tác"' mà các anh vì say cái thuyết tranh đấu nên chẳng hiểu cái "lo- gíc" ấy!
Chúng tôi cùng cười.
- Bây giờ, hỏi anh đôi cái bí mật trong nghề đây. Tuần báo La Lutte mỗi kỳ in bao nhiêu số?
- Một ngàn.
- Cái vốn để ra báo ...
- Anh em chúng tôi góp tiền kẻ ít người nhiều. Rồi các nhà trí thức hảo tâm giúp đỡ, nên phần tài chánh cũng nhẹ lo. Hơn nữa, lần lần tờ báo tự túc được.
- Làm báo mà khỏi lo "chạy tiền" là các anh thành công trên mặt thương mãi rồi đó.
- Nhưng làm báo để tranh đấu, thành ra vẫn cứ "chạy tiền" như thường. Cần tổ chức những cuộc đình công, bãi thị để chống thực dân, thì phải sẵn tiền để giúp đỡ anh chị em cơm nước hoặc thuốc men trong suốt thời gian tranh đấu.
- Anh còn nhớ mỗi lần tổ chức một cuộc tranh đấu như thế, cần bao nhiêu tiền?
- Một ngàn. Nhưng ngàn đồng lúc đó lớn hơn ngàn đồng bây giờ nhiều. Anh muốn hỏi "chạy" đâu ra một số tiền lớn thế? Thì đi quyên. Những người bạn hay quen biết giầu có mà ghét thực dân, không phải ít. Họ luôn luôn sẵn lòng. Kẻ công người của!
- Có chút thắc mắc nầy, vừa dính đến báo lại dính đến sách. Có vài người nói quyển "Phong kiến là gì?" của anh ký Duy Minh, do nhà Minh Đức xuất bản năm 1946 ở Hà Nội là gồm những bài báo trước đăng ở Công luận, ký Phan Văn Hùm. Chẳng hay chị Hùm - Mai Huỳnh Hoa (5) - có tìm anh để hỏi đầu đuôi câu chuyện chưa?
Anh "à" lên một tiếng.
- Chị Hùm - Mai Huỳnh Hoa (để nói theo anh) tới nay chưa làm "khó dễ" gì tôi về vụ "sang đoạt" này. Chắc là chỉ chưa hay. Số là dạo ấy, năm 1935, nếu tôi nhớ không lầm, "ông già" Phan Khôi có viết một bài dài, cho rằng nước Việt ta không có gì là phong kiến cả, và những kẻ nào nói có, là những kẻ dốt. Rồi ông lại kêu đích danh Phan Văn Hùm ra bút chiến với ông. Anh Hùm không thể làm thinh. Nhưng khổ nỗi là ảnh chuyên về Triết học, mà không chuyên về Xã hội học. Trong anh em, tôi là người đã nghiên cứu chút ít về môn này, nên lãnh cái "nợ viết những bài trả lời lão tướng Phan Khôi. Anh Hùm sửa lại cho có "giọng" của anh và ký tên ảnh. Tuy thế, vốn là người cẩn trọng, ảnh chú rằng tài liệu vốn mượn của tôi.
- À ra thế!
- Trong những phong trào chính trị, thường thì người này viết tài bệu, rồi để người khác ký tên. Các sử gia về sau nếu chỉ căn cứ theo những gì nằm trên giấy trắng mực đen, thì làm sao tìm cho ra sự thật! Tôi xin đưa ra một trường hợp của tôi: chính tôi là người điều khiển tạp chí bí mật Thường trực Cách Mạng, nhưng khi đổ vỡ, thì một đồng chí đứng ra "chịu tội" trước pháp luật. Mai sau, có sử gia nào đó tìm tòi trong hồ sơ của tòa án, thấy tên người đồng chí nọ, vội bằng lòng với kết quả đó, rồi công bố trong sách vở mình, trong khi "chánh danh thủ phạm tên là thằng tôi!" Và nếu lúc ấy, những người trong cuộc không còn, thì sự sai lầm kia được truyền mãi về sau, như là một chân lý!

Nhân trường hợp của tôi mà suy ra, tôi mong những ai muốn viết về lịch sử nước nhà trong thời Pháp thuộc - nhất là về những đảng Cách mạng - phải hết sức cẩn trọng và chớ có bằng lòng những tài liệu đã có trong sách, trong báo. Khảo cứu mà làm như Nguyễn Văn Tố trước kia, tôi cho là hẹp hòi, máy móc, khó tiìm ra sự thật.
- Tôi nhớ anh có đem "ông cụ" Ứng Hòe nhà ta mà ngạo trong Phi Lạc sang Tàu, với bốn câu hỏi đặt vào miệng ông ấy: "Ngài dựa vào sách nào? Trang mấy? Tờ a hay tờ b? Dòng thứ mấy?"
- Tôi dụng ý công kích cái tinh thần "nệ sách" của một hạng người khảo cứu mà điển hình là "Tố tiên sinh!"
- Thế là anh đả kích phương pháp sử học của Âu - Mỹ mà các "sử gia" của ta tốt nghiệp tại các trường Sorbonne, Harvard, Columbia đang áp dụng trong khi nghiên cứu sử nước nhà hoặc đang truyền lại cho sinh viên "bản xứ."
- Tôi đâu dám phê bình phương pháp sử học Tây phương, vì tôi không phải là một sử gia, mà cũng không phải là người rành sử. Chẳng qua là tôi muốn góp chút ý mọn của mình, là hoàn cảnh nước nhà nó có khác, vậy nên uyển chuyển trong việc nghiên cứu sử của dân tộc, chớ còn một mực áp dụng phương pháp học ở phương trời Tây, thì e kết quả thâu thập có phần thiếu sót, không sống động, đôi khi còn có thể sai lạc. Bởi vì nước ta thường sống trong cảnh loạn ly, tài liệu chép, in mất đã nhiều, mà còn tệ một nỗi là triều đại sau có cái thói hủy diệt dấu tích triều đại trước nếu triều đại này vốn là thù nghịch; lại còn ngàn năm thuộc Tàu, trăm năm thuộc Pháp. Viết sử nước nhà trong hai thời này, mà chỉ căn cứ vào tài liệu của sử gia Tàu, Tây (hoặc sử gia người mình mà mất gốc), thì hẳn là khó mà đầy đủ, khó mà chính xác. Tôi tưởng ta không thể bỏ qua loại văn chương truyền khẩu thời Bắc thuộc, văn chương "quốc cấm" thời Pháp thuộc ở trường hợp này.
"Tôi mong sao các sử gia của ta xuất thân từ các trường dạy sử danh tiếng Âu - Mỹ, ngoài các phương pháp của Seignobos, còn cố tìm phương pháp của văn chương sử liệu."
...

- Tác phẩm mà tôi mong được dịch ra tiếng Pháp, Anh... va xuất bản ở Âu Mỹ để làm bức thơ cám ơn chung cho những ai ở ngoại quốc và ở trong nước đã ký tên xin ân xá cho tôi, là bộ Thuốc trường Sanh.
Tôi viết nó ở trong tù Côn Đảo, tháng 4 và tháng 5-1958. Đó là một quyển khảo cứu về Triết học, trình bày dưới hình thức tiểu thuyết, có tánh chất thời đại. Nó khảo cứu về thuyết nhân quả, về hành động, về đức tin. Các nhà văn Âu châu tả sự cô đơn của cá nhân; trong Thuốc Trường Sanh, tôi tả sự cô đơn tập thể, sự cô đơn của nhóm Tuyết-Lê, trong thế giới hai phe đương chống đối nhau kịch liệt bằng máu lửa, mà không theo một bên nào được, nên đuổi theo mộng "lập cái hố của đấu tranh, của hận thù." Và nhân vật chánh trong tiểu thuyết tượng trưng này, tôi dành cho loài cọp, mà tôi thấy hơn loài người: cọp giết người vì bản tánh tự nhiên, còn người giết người lắm khi vì một cớ không đâu.
- Anh viết nó chắc là không giống như mấy lần trước: bị anh em giao cho trách nhiệm viết tuyên ngôn, thuyết trình, khảo cứu, bị vợ hụt tiền chợ xúi anh bán văn, bị ở vào cảnh không còn sanh kế nào khác, như có lần ở Côn Đảo anh viết thơ cho tôi, khi tôi phỏng vấn anh về truyện ngắn hay cho Bách Khoa.
- Đúng vậy. Lần này, không bị ai hay bị gì bắt mình phải viết. Mà chính mình buộc mình phải viết. Và viết có chương trình hẳn hoi. Để quên cái ám ảnh bị chết mòn. Vì rời khám Chí Hòa, vô ngục Côn Nôn, chúng tôi thấy ngay anh em họ Ngô Đình quyết tình giết chúng tôi một cách từ từ mà chắc chắn: chân bị còng, đồ ăn nuốt chẳng vô: mắm chưng thì mục nát, cơm đỏ thì hẩm, lộn dầy thóc sạn. Tôi cắm đầu cắm cổ viết, trừ giờ ngủ và giờ ăn.
- Hẳn lúc ấy, anh viết một cách say sưa?
- Không đâu. Tôi say sưa hành động thì có, còn say sưa viết thì không. Tôi viết đều đều, chậm chậm. Anh đã thấy bản thảo mấy tác phẩm tôi viết ở Côn Dào thì rõ: tuồng chữ đều đều, chẳng có vẻ gì là "chuếnh choáng hơi men" cả, thỉnh thoảng mới bôi hay thêm đôi chữ.

- Với bộ Thuốc Trưòng Sanh, hẳn là anh phải làm một cái dàn trước?
- Làm sơ trong đầu thì có, chớ làm trên giấy thì không. Mà quyển nào cũng thế, trước kia cũng như bây giờ. Nuôi đề tài trong trí, rồi cầm viết lên là viết. Chỉ trừ một lần. Mà lần này, chẳng phải tôi làm cho tôi, mà cho anh Khái Hưng. Việc xảy ra ở Hà Nội, năm 1946. Tôi có bàn với anh Khái Hưng nên đưa hình thức tiểu thuyết mới, vì từ 1945, quần chúng bước ra sân khấu lịch sử, vai trò của cá nhân phải lu mờ trước vai trò của đoàn thể. Vậy, nội dung và thể tài của tiểu thuyết này phải khác. Anh Khái Hưng đồng ý, và chúng tôi hợp tác với nhau để viết chung một bộ tràng giang tiểu thuyết. Tôi chọn đề tài dựng sườn, phác họa nhân vật; anh Khái Hưng viết. Tên bộ tiểu thuyết: Gái nước Nam làm gì? Quyển đầu có tên: Nổi cơn gió bụi, mượn ở câu đầu "Chinh phụ ngâm": Thuở Trời Đất ...
- Chớ không phải Thu Hương?
- Không. Thu Hương, Chị Tập là hai phần trong bộ Gái nước Nam làm gì? cũng như Jean Valjean, Fantine, Cosette, Mrius, trong bộ Les Misérables của Victo Hugo.
- Nhưng sao lại chọn đề tài Gái nước Nam làm gì? mà không Trai nước Nam làm gì? như một cuốn sách viết về thanh niên của anh Hoàng Đạo Thúy?
- Vì người con gái hành động do tình cảm, theo bản năng, mà rất nhẹ về lý trí. Tôi thấy lúc ấy lịch sử sắp lật qua trang mới, nên tôi muốn đặt lại vấn đề: "Hành động phải làm sao?" trong bộ Gái nước Nam làm gì? Anh Khái Hưng sửa soạn bắt tay vào việc, thì chiến tranh toàn quốc bùng nổ. Anh tản cư rồi bị hại. Tôi bị quân Pháp bắt về Hà Nội, rồi tôi về Sài Gòn. Tôi mới viết hai phần giữa rút ra trong bộ ấy. Thu Hương, rồi Chị Tập ra đời trên nhật báo Ánh sáng,rồi sau in thành sách. Đây chỉ là hai phác họa trong cái bích họa dự định để đánh dấu sự chỗi dậy của dân tộc khởi từ 1945, mà sự chỗi dậy này chẳng những đánh dấu lịch sử nước mình, mà cũng đánh dấu lịch sử nhân loại, vì do đó mà khơi mào cuộc chiến tranh nguội giữa hai khối Cộng sản và Tư bản. Tôi vẫn luyến tiếc cái dự định văn chương này, nên ra ngoài ngày tôi sẽ khởi đầu viết để đăng trên Hòa đồng.

- Trước Thu Hương, Chị Tập, có Phi Lạc sang Tàu sáng tác dài đầu tay này hẳn làm anh mệt, như phần đông sáng tác đầu lòng?
Anh xác nhận rằng anh rất mệt vì cái quyển tiểu thuyết trào phúng này. Bởi anh phải giải quyết một bài toán hết sức khó, gồm năm phương trình:
1) Làm sao mà trình một văn kiện chánh trị vạch rõ được tiền đồ, chiến lược và triển vọng của dân tộc Việt?
2) Làm sao mà văn kiện này lọt qua lưới kiểm duyệt của Việt Minh cũng như của Pháp?
3) Làm sao mà văn kiện này, tuy lọt qua lưới kiểm duyệt, mà vẫn để cho quần chúng hiểu được nó nói gì?
4) Làm sao mà nó thâm nhập được trong nhân gian mau lẹ và có thể ảnh hưởng được thời cuộc nước nhà?
5) Làm sao mà độc giả xem qua một lần, không ném nó một bên lại đành để mà đọc đi đọc lại, và nhờ ánh sáng của thời cuộc rọi, mỗi lần đọc lại thấy phong phú và xác đáng hơn?
Do đó mà nói chuyện nước Tàu (Quốc, Cộng đánh nhau) để nói chuyện nước nhà sẽ phải chia hai, và chọn hình thức tiểu thuyết với thể tài trào phúng vốn được dân gian thích, rồi đến dùng sấm kí của Tàu và của Ta (dân ta thích nghe sấm, bàn sấm và suy nghĩ về sấm); họ của nhân vật chánh nhắc lại Quang Trung với chiến lược trước thành công ở Nam, sau thu công ở Bắc (nhưng không dùng biện pháp quân sự, mà phải dùng biện pháp chánh trị và đạo đức, tức là Minh đạo) và tên là tượng trưng cho đường lối dân tộc.

- Anh mà bạc đầu sớm cũng vì "mang nặng" đứa con so nầy. Như thế, hẳn khi đẻ nó cũng đau chớ?
- Mang nặng thì có, mà đẻ không đau. Lúc bấy giờ - năm 1948 - cả ngày lo chạy sống, gặp bạn bè xa gần, rồi khoảng bốn giờ chiều, ngồi lại, viết một mạch. Báo Sài gòn mới cho tùy phái đến, viết được trang nào họ lấy trang nấy, tôi không thì giờ để đọc lại nữa.
- Anh tạo nhân vật chánh của bộ Ngàn năm một thuở ấy, cái anh chàng Phi Lạc chỉ đem cái miệng tài mà chọc Tàu, phá Mỹ, bỡn Nga, chắc cũng do một nhân vật thật nào đó...
- Do một nhân vật tưởng tượng mà người Việt nào cũng biết và cũng thích: đó là Cống Quỳnh.
- Còn nàng Thu Hương, cô sinh viên xinh đẹp và khả ái, tham gia phong trào cách mạng năm 45, và đi buôn lậu cho đoàn thể?
- Không có Thu Hương sinh viên, nhưng có Thu Hương buôn lậu mà tôi và anh Thâu đi nhờ xe từ Huế ra Hà Nội, sau khi tôi xoay cho cổ một cái giấy phép của ông bộ trưởng Tiếp tế, như trong sách đã kể.
- Việc cũ rồi qua việc mới. Một số anh em bực mình vì những gì anh viết sau này thường hay nói đến cái "tôi." Mà cái "tôi" của anh lại là cái "tôi" đặc biệt: anh thông minh, anh nhớ giỏi, anh có dính dấp đến những người, những việc lịch sử...
Anh cười.
- Thì tôi xin các anh em ấy đừng đọc những gì tôi viết nữa.
Rồi anh chau mày:
- Nghĩ cũng buồn: ta học thầy Pháp rồi đem cái câu "cái tôi đáng ghét" (Le moi est haissable) của Pascal nói từ thế kỷ XVII mà áp dụng cho ngày nay. Ngày nay, các nhà tư tưởng trên thế giới đều nhận cái học nó minh mông vô cùng, không ai dám nhận rằng mình nắm được chân lý, mình thấu hiểu tất cả, không ai dám nói với cái giọng tuyệt đối. Cho nên phải nói đến kinh nghiệm cá nhân của mình. Vì lẽ đó mà các nhà tư tưởng lớn hiện đại đều nói đến cái "tôi" của họ cả. Tôi đem cái "tôi" của tôi ra, chẳng phải để cho mình là một nhà tu tưởng lớn, mà để chịu trách nhiệm những gì mình nói. Kinh nghiệm bản thân tôi là thế. Tôi đã nghe như thế, tôi đã thấy như vầy, tôi đã nghĩ như vậy, tôi đã làm như ri, tôi đã là thế đó. Trong không gian nào, trong hoàn cảnh nào. Tôi thành thật với chính tôi. Tôi cho những ai hành động như thế mới đích thị là khiêm tốn. Tôi thẳng thắn: tôi không dùng ngôi thứ ba, tôi không nhờ một ai khác vỉết. Còn những anh em nào đó lại cho như thế là thiếu khiêm tốn, là tự đề cao, là khoe khoang khoác lác, thì tôi còn biết nói sao.
Ngừng một chặp anh tiếp:
- Tôi viết tự truyện Thằng Thuộc, con nhà nônglà để tôi tìm hiểu lại tôi, cái tôi thật ẩn náu tận đáy lòng, ở trong tiềm thức sau này tô lên một lớp sơn dày. Mà Thằng Thuộc, con nhà nông cũng là quyển đầu của bộ Một kinh nghiệm sống. Quyển kế sẽ là Căm hờn, tả nỗi lòng của tôi từ khi ý thức được thân phận của mình, thân phận của con một nhà nông nghèo bị đè đầu, bị hiếp đáp, bị bóc lột; phải phục thù, tôi chụp lấy cái khí giới Mác-Lê. Quyển ba là Mê li đồ: người tín đồ cuồng tín của chủ nghĩa Mác-Lê là tôi đã hành động, rồi băn khoăn để tỉnh ngộ ra sao, đó là đại ý quyển này.
...

- À, tôi muốn biết anh em, ngoài "cái tôi của tôi" còn thắc mắc gì nữa?
- Còn ba điều. Anh em muốn biết rõ vì sao anh công khai rời bỏ chủ nghĩa Mác-Lê mà anh đã phụng sự hết mình?
- Có nhiều nguyên do. Nhưng tựu trung có hai nguyên do chánh. Sau 1936, phong trào thợ thuyền ở Pháp xẹp, cuộc cách mạng bình dân ở I-pha-nho bị bỏ rơi, tôi thấy cuộc Cách mạng vô sản thế giới mà chủ nghĩa hứa hẹn sẽ không bao giờ có , tôi mất đức tin từ đó. Rồi tính năng nguyên tử xuất hiện, loài ngươi mà cứ theo thuyết tranh đấu, sẽ tận diệt lẫn nhau. Tôi thấy chủ nghĩa Mác- Lê lỗi thời nên tìm một ý thức hệ khác cao đẹp hơn (6).
- Điều thứ hai: anh em thắc mắc sao khi đọc hai tiểu thuyết trào phúng mới cửa anh đăng trên Hòa đồng: Tiểu Phi Lạc náo Sài GònDiễm Hồng xuất giá. Họ thấy trong đó, anh "nói xuôi cũng ngược, nói ngược cũng xuôi." Chẳng biết đâu mà rờ!
Anh cười:
- Đó là tôi cố ý chứng minh rằng "biện chứng pháp" chỉ là một... luật sư. Luật sư ăn tiền thì dầu biết thân chủ mình có tội cũng cãi xuôi rót. Với biện chứng pháp, hễ "ở đâu" muốn nó "trắng" thì nó biện luận ra cho trắng, mà ở đâu muốn nó đen, thì nó làm ra cho đen. Không thể nhờ nó mà tìm ra Chân lý được. Thế là tôi đã giải hai điều anh em thắc mắc. Còn điều thứ ba?
- Điều thứ ba ... còn khuya! Để bao giờ thế chiến thứ ... ba nổ, tôi sẽ cho anh biết. À này, anh ở tù nhiều lần, lại nhiều năm, hẳn lắm kỷ niệm. Anh kể cho đôi cái làm quà cho bạn đọc.
- Cha! người ta khó dễ với nhau để làm tiền, anh khó dễ với tôi để làm kỷ niệm. Thì tôi kể cho anh một kỷ niệm có tánh chất... lưu manh vậy.

"Lần tôi ở Côn Lôn kỳ nhất, có hai anh bạn trẻ rất mến tôi. Anh L. và anh N. Sau này, một anh làm khu trưởng, một anh làm bộ trưởng. Hai anh mến tôi đến đỗi học nghề ăn cắp để ăn cắp đồ ăn chia cho tôi! Ở tù, lúc nào mà no được, nên được một miếng khi đói trong hoàn cảnh ấy, bằng mấy gói khi no.
"Coi bộ anh muốn 'làm' một kỷ niệm nữa. Thì đây: lần này trong đất liền. khám Ca-Ti-Na, năm 1932. Tôi bị nhốt vào xà lim. Một lần nọ, người nhân viên gác khám trao qua cái lỗ vuông ở cửa một cái hộp quẹt, bảo nhỏ rằng trong đó có một bức thơ, của một cô 'rất ngộ' bị nhốt ở xà lim đằng kia nhờ gởi cho tôi, dặn tôi coi rồi thì nhai cho nhỏ rồi bỏ lỗ cầu tiêu. Tôi mở hộp quẹt ra, bức thơ là một bài thơ tứ tuyệt:
Thươngngười tình nghĩa nặng oằn vai,
Hồ hải tang bồng cả chí trai.
Hữu chí vô phần thân phải lụy,
Tường cao ngăn đón bực anh tài!

"Năm qua, có lúc buồn chán quá, tôi lại nhớ đến người-rất-ngộ-nạn mà mình không biết mặt, cũng chẳng biết tên. Và buồn cười, là tôi có lúc bắt gặp mình như chờ đợi một bà già tóc bạc đến tìm mình, mở đầu: "Ba mươi năm về trước, một đêm vừa..."

*


Anh tỏ ý muốn tôi kết thúc bài này bằng một chuyện ngụ ngôn do anh đặt từ Côn Đảo, nhưng tôi không đồng ý với anh, mà lại chấm dứt bằng bốn câu của một bài thơ do anh làm ở Hà Nội (và anh đặt vào miệng một nhân vật đứng vào hạng chót trong xã hội nước nhà) nhưng lại đổi đi một dấu chấm câu: Việc đời may rủi hỡi này ai, Thành bại nào do một chữ Taì? Lắm lúc không mong mà lại được, Cho hay chờ đợi hóa ra sai?
Thủ đô nước Việt, đầu năm Ngựa (1966)

Sống và viết với Hồ Hữu Tường - Nguyễn Ngu Í, Sài Gòn, 1966

(Thế Kỷ 21 số 170 June 2003)

Chú thích:
(1) Số 12, ngày 13-3-1964
(2) Con Thằn lằn chọn nghiệp, tên một truyện ngắn triết lý của anh đăng ỏ tuần báo Mới, số 28, ngày 16-5-1956, sau đăng trong quyển "Nợ tinh thần," 1965. Bạn thân thường gọi đùa anh là "Thằn lằn chưa chọn nghiệp"
(3) "Sau Yên-Bái, làm gì đây?"
(4) Một người dân Đông Pháp kiều cư.
(5) Gọi dài dòng thế) vì có tới hai chị Phan Văn Hùm; chị Hùm trên đây vừa là bạn đời vừa là bạn văn của tác giả "Nỗi Lòng Đồ Chiểu."
(6) Tôi nghĩ đến hai câu ca này của Phạm Duy ờ bài hát Kẻ thù ta trong "Mười bài Tâm ca" vừa xuất bản:
Kẻ thù ta đâu có phải là người
Giết người đi thì ta ở với ai?




Bài viết về Hồ Hữu Tường

Nhà Văn Hồ Hữu Tường (Nguyễn Văn Sâm)
(Trần Nguơn Phiêu, VnThuQuan)
(Đỗ Thái Nhiên, DCVOnline)
(Phan Chính, Talawas)
Tiểu Sử (Wikipedia)

Tác phẩm

Nợ Tinh Thần (Scribd)
Kể Chuyện (Hội Đồng Tâm)


Tác Giả

Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Bùi Giáng (Nguyễn Hưng Quốc, Phạm Xuân Đài, T.V.Phê)
Phụng Hiến (Hồng Vân ngâm)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nguyễn Mạnh Côn (Viên Linh, Tạ Tỵ, Thế Uyên, ...)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Mai Thảo (Trần T. Hiệp, Nguyễn H. Quốc, Hoàng Khởi Phong)
Thanh Tâm Tuyền (Bùi Vĩnh Phúc, T.V.Phê)
Tô Thùy Yên (Phan Lạc Phúc, Đặng Tiến, Thụy Khuê, ...)
Viên Linh (Lê Huy Oanh, Nguyên Sa, Đặng Tiến, ...)
Y Uyên (NG~, Trần T. Uyên Ngọc, Tạp chí TQ Bản Thảo)
Trần Hoài Thư (Phạm Văn Nhàn, Nguyễn Lệ Uyên, ...)
Vũ Hữu Định (Phạm Duy, Võ Phiến, Đặng Tiến ...)
Nguyễn Bắc Sơn (Võ Phiến, Trần Hoài Thư, Nguyễn Lệ Uyên, Lê Mai Lĩnh ...)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê -

No comments:

Post a Comment