Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 15 December 2016

XUÂN VŨ= HÀ THÚC SINH =HỮU LOAN =HOÀNG NGỌC LIÊN =HỒ TRƯỜNG AN

XUÂN VŨ * GIẤC NGỦ 30 NĂM

Giấc Ngủ 30 Năm Tôi là trung tá Hồng Long, bí thư Võ Đại Tướng. Năm 1952, tôi được gửi vào Nam để làm chính ủy Tiểu đoàn 307 ở Nam Bộ. Đáng lý ra chức vụ của tôi chỉ là chính trị viên Tiểu đoàn (Trung đoàn trở lên mới có Chính ủy) nhưng vì tính chất quan trọng của đơn vị nên Bộ tư lệnh miền Tây đặc cách cho nó một chính ủy cũng như Trung đoàn 99, mà tiền thân là Chi đội 19 do Đại đoàn phó Đồng Văn Cống chỉ huy vậy. Trong trận đánh với bộ đội Ba Cụt ở Chắc-Cà-Đao năm 1954, trước một ngày hiệp định giơnevơ được ký kết, viên đạn mồ côi lạ lùng của trận chiến bay vào một cành cây và văng tạt trúng cột sống tôi. Một nửa người từ lưng quần trở xuống bị bại hoàn toàn. Ra Hà Nội tôi được hầu hết các danh y Đông Tây chữa trị nhưng vẫn không khỏi bệnh. Tôi được để nằm trên một chiếc giường lót thạch cao để nuôi dưỡng tủy xương sống hầu ngăn chặn sự tê liệt của phần trên thân người tôi. Quả thật, nhờ vậy đầu óc tôi vẫn sáng suốt và hai tay tôi vẫn hoạt động như thường. Tôi buồn vô cùng. Là một cán bộ luôn luôn hoạt động, một chiến sĩ chiến đấu liên tục, một thanh niên được kết nạp đảng vào tuổi 19, tôi luôn luôn vươn tới những mục tiêu cao cả của cách mạng do đảng lãnh đạo. Bây giờ vừa hòa bình xong, biết bao nhiêu hoạt động ngoài đời tôi lại nằm trong bệnh viện, một bước không đi được. Nhiều đêm nằm nhớ lại những kỷ niệm trong cuộc kháng chiến cực kỳ vinh quang và anh dũng của dân tộc tôi không cầm được nước mắt. Bỗng tôi nhớ lời thề khi vào đảng: "hy sinh chiến đấu tới hơi thở cuối cùng". Tôi lấy lại được niềm vui: Mình còn khối óc và hai bàn tay, vậy còn có thể cống hiến cho đảng tim óc của mình. Tôi vẽ ngay ra một kế hoạch học tập trên giường bệnh. Nó gồm có hai phần: Đọc sách và học tiếng Liên Sô. Tôi nhờ bệnh viện mượn cho tôi trước nhất những quyển sách viết về Hồ Chủ tịch gồm có "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" của Trần Dân Tiên, "Bác Hồ của chúng ta" của các nhà văn Việt Nam được vinh dự gặp Bác, "Giấc ngủ Mười Năm" của Trần Lực. Mục đích của tôi là học tập gương phấn đấu chiến thắng nghịch cảnh của Hồ Chủ tịch. Phần học tiếng Liên Sô thì hơi khó thực hiện vì tôi không đến trường được. Tiếng Liên Sô không phải gốc Latin nên không giống tiếng Pháp hay tiếng Việt. Phát âm lại khó hơn các thứ tiếng này. Nhưng tôi quyết chí học cho bằng được cái ngôn ngữ của một dân tộc đã làm nên cuộc cách mạng tháng Mười lừng danh thế giới. Trong bốn năm liền, nhờ sự cố gắng hết mức và sự giúp đỡ của các đồng chí chuyên gia hoặc tùy viên văn hóa Liên Sô tôi đã có thể dịch được tiếng ta ra tiếng Liên Sô và ngược lại. Tôi bắt đầu dịch quyển "Nữ Anh Hùng Dôi A", người con gái Nga bị phát xít Đức bắt, bị hành hình nhưng vẫn anh dũng mắng kẻ địch chứ không bị mua chuộc hoặc đầu hàng. Quyển sách dịch ra tiếng ta xong, được nhà xuất bản Kim Đồng nhận in liền. Sau khi sách được phát hành xong, có cả một buổi lễ long trọng cử hành tại bệnh viện để tuyên dương công trạng của tôi với danh hiệu anh hùng quân đội. Đại tướng Tổng tư lệnh đã đến tận giường, bắt tay tôi và gắn huân chương Chiến công hạng ba cho tôi. Nhiều đồng chí Liên Sô đến tặng quà, chụp hình tôi, bảo là sẽ đem về Mạc Tư Khoa in lên báo. Còn vợ tôi thì được lãnh tiền nhuận bút của nhà xuất bản để sống. Con trai tôi đến khoe với tôi chiếc khăn quàng đỏ nó vừa nhận được của trường. Thế là tôi toại nguyện vô cùng. Tôi cảm thấy cuộc đời của mình còn có ý nghĩa cho cách mạng chứ không đến đổi là một vật phế thải. Ở Liên Sô cũng có một nhà văn trẻ viết trên giường bệnh. Ông ta viết lại chính cuộc đời cách mạng của mình và đã thành công to lớn. Tác phẩm của ông ta đã góp phần giáo dục lý tưởng Cộng sản cho hàng chục triệu thanh niên Liên Sô. Nhà văn này tên là Ốt-trốp-xư-ki. Trong truyện ông ta tự cho mình tên Paven Cóoc-sa-ghin. Cả hai tên đều khó đọc, khó nhớ, nhưng tôi đã thuộc lòng từ khi đọc lần thứ nhất. Quả thật là một người anh hùng suốt đời phấn đấu cho chủ nghĩa Cộng sản và phấn đấu chống bệnh tật của bản thân mình mà tác phẩm của ông, Thép Đã Tôi, là một biểu hiện tuyệt vời. Tôi có ý định dịch quyển này ra tiếng mẹ đẻ để cống hiến lứa tuổi thanh niên ngõ hầu thúc giục họ sống theo kiểu Paven. Nhưng tôi vừa chuẩn bị thì đã có nhà xuất bản đã in ra rồi. Tôi bèn quay sang tìm quyển khác để dịch. Đó là quyển "Giấc Ngủ Mười Năm" của Trần Lực. Tác giả là ai tôi không được biết nhưng bút danh Trần Lực đã khá quen thuộc trong hàng ngũ cán bộ ở Việt Bắc từ 1946. Lúc được lệnh vào Nam tôi có mang theo một cuốn. Vào đến Nam Bộ tôi đưa cho phòng Chính trị Bộ Tư lệnh tái bản. Trong truyện tác giả kể lại rằng có một anh chiến sĩ đánh giặc bị thương hồi năm 1946, được đem vào nhà thương chích thuốc mê để chữa trị. Vết thương đã lành nhưng có lẽ hệ thống thần kinh bị hỏng nhẹ nên anh ta đã ngủ một giấc mê man. Khi tỉnh ra thì thấy cảnh vật và con người đều thay đổi. Đất nước đã không còn bom đạn, cuộc sống phì nhiêu và người dân ta giàu có tươi đẹp lạ lùng như cảnh thiên đàng mặt đất. Hỏi ra thì mới biết thời gian trôi qua là mười năm. Do đó tác giả đặt tên quyển truyện là "Giấc Ngủ Mười Năm". Tác giả hàm ý rằng cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta sẽ kết thúc trong vòng mười năm và từ đó toàn dân sẽ sống cảnh thiên đàng. 
 
Nhà văn Trần Lực đã tiên tri trúng phóc. 1945-1955 không mười năm là gì? Phải chăng ông ta là Khổng Minh tái thế? Phải khó khăn lắm tôi mới tìm lại được quyển truyện này. Nó được một cán bộ giữ kỷ trong ba lô mang từ Việt Bắc về thủ đô và Viện Bảo tàng Cách mạng đã chiếm giữ ngay để trình bày trong viện. Tôi phải nhờ Cục Tuyên huấn Quân Đội can thiệp và bảo đảm mới được mượn quyển sách quý giá này và chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ Cục Tuyên huấn phải mang trả lại. Tôi vồ lấy quyển sách đọc lại, quên cả cơm nước. Những dòng chữ ngày xưa đã từng chạy dưới mắt tôi như một cuộc hành quân thần tốc, nay lại hiện ra như những đoàn thiếu nữ xinh tươi đáng yêu vô cùng. Xương máu mười năm kháng chiến đổ ra, trong đó có máu của tôi, đã không uổng. Tôi phải trả lại quyển sách một cách lưu luyến như lúc từ biệt vợ tôi để vào Nam hồi ở Việt Bắc. Tôi thấy đất nước hiện ra huy hoàng như một vườn hoa muôn màu mà người làm vườn là đảng. Thằng con trai tôi sinh năm tôi chia tay vợ tôi nay đã lên 7. Hồng phước của gia đình! Cho nên tôi đặt cho nó cái tên là Hồng Sơn. Cũng như tôi, khi vào đảng lấy bí danh là Hồng Long, tức là con rồng đỏ, với ý nghĩa vừa là dân tộc vừa là đảng. Nằm trên giường bệnh tôi ngẫm nghĩ thấy cái tên của mình thật hay. Tôi nổi tiếng nhanh chóng như một anh hùng lập được một kỳ tích trong thời kỳ hòa bình. Nhân dân Thủ đô đều đến thăm tôi hàng ngày. Nhiều đoàn thể của nhà máy, đảng bộ v.v.. chẳng những đến thăm, biếu quà mà còn tặng cho tôi những chức vụ danh dự của đoàn thể, cơ quan họ. Tôi đếm được,bên cạnh chức vụ Trung tá, anh hùng quân đội chính thức của tôi, trên 100 chức vụ hàm, nghĩa là có chức nhưng không làm gì hết. Năm 1960, một danh dự lớn đến với tôi. Tôi được đoàn thanh niên cộng sản Kôm-Xô-Môn Mạc Tư Khoa tặng cho tước hiệu "đoàn viên danh dự", với cấp bằng và tượng đồng Lê Nin. Tôi đưa cho vợ tôi đem về treo ở nhà. Cũng năm này, một lần vào thăm tôi, vợ tôi đã báo cho tôi một tin mừng khác rằng: thằng Hồng Sơn được chọn đi học Liên Sô cùng với đoàn con em của liệt sĩ anh hùng có công với cách mạng. Ngồi bên đầu giường, vợ tôi kể lại sinh hoạt bên ngoài bệnh viện. Mặc dù tôi có đọc báo Nhân Dân hàng ngày và nghe đài hàng giờ (bằng chiếc đài của sứ quán Liên Sô tặng) nhưng nghe tin từ miệng vợ tôi, tôi vẫn cảm nhận được bên ngoài cụ thể hơn, giá một lạng thịt, một ký gạo, một bó rau muống, một cái đùi gà v..v.. Đặc biệt là sự biến chuyển to lớn trong guồng máy kinh tế: ở nông thôn đảng đã xóa hết những sai lầm cũ và đưa nông thôn lên hợp tác xã trung cấp. Nhiều nơi, theo báo Nhân Dân, đã có hợp tác xã cao cấp. Tôi vui mừng nghĩ là sẽ chẳng bao lâu những hợp tác xã này trở thành những Kholkhoz gương mẫu. Nông thôn ta 80 năm bùn lầy nước đọng sẽ chỉ nở rợp lúa vàng, nhân dân sẽ đời đời ấm no hạnh phúc như dân Liên Sô. Lại cũng vào năm này, ở đại hội thứ 20 đảng cộng sản Liên Sô đồng chí Khơ-rút-sốp dõng dạc tuyên bố cùng nhân loại trên cả địa cầu, - có lẽ lời tuyên bố làm giật mình cả thần thánh đang ngự trị trên Trăng Sao, - rằng: "Thế hệ thanh niên này sẽ được sống trong chủ nghĩa cộng sản trên đất nước họ". Như vậy là Liên Sô sẽ là thiên đàng đầu tiên trên mặt đất: giấc mơ ngàn đời của nhân loại được thực hiện. Ít lâu sau, vợ tôi lại vào thăm tôi và cho biết rằng ở ngã tư Tràng Tiền, vừa dựng xong một tấm áp phích chạy dài suốt một khu phố mặt ngó ra bờ Hồ, người vẽ to bằng người thật, toàn là dân Liên Sô, nhảy múa tưng bừng để minh họa câu tuyên bố trên kia của đồng chí Khơ-rút-sốp. Thôi vậy là xong rồi. Mình chẳng còn gì để mơ ước thêm. Chết cũng yên tâm. Đang lúc tôi dịch quyển "Giấc Ngủ Mười Năm" ra tiếng Liên Sô xong thì bệnh tôi trở nặng. Nhà nước đã hết lòng chạy chữa nhưng tôi vẫn cứ chết như thường. Ô, cái chết nhẹ nhõm thảnh thơi của một người dâng trọn đời mình cho dân tộc. Tôi nghe rõ tiếng đinh đóng vào hòm tôi và tiếng than khóc của đồng bào đồng đội cùng là vợ con tôi. Nằm trong hòm tôi mỉm cười, tự bảo: - Tôi chỉ ngủ một giấc ngủ dài năm năm, mười năm hay lâu hơn nữa rồi sẽ mở mắt ra nhìn quê hương mình đổi mới gấp trăm lần! Với vợ tôi, tôi muốn bảo: "Anh không chết! Bởi vì Hồng Long tái sinh trong Hồng Sơn! Màu hồng sẽ không bao giờ tắt trên cuộc đời này." Tôi được chôn cất rất trọng thể với lễ nghi an táng một anh hùng nơi nghĩa trang quân đội, tổ ấm cuối cùng của hàng vạn đồng đội và đồng chí của tôi. Không, tôi không bị vùi xác ở nghĩa trang, tôi đang sống giữa lòng dân tộc! Không, tôi không chết, tôi chỉ ngủ một giấc ngủ dài, giấc ngủ của ông Trần Lực. Chính tôi là nhân vật của ông Trần Lực. Khi liệm thân xác tôi, người ta không quên đem theo quyển truyện cho tôi làm việc tiếp ở dưới mồ. Do đó tôi vẫn còn nhớ và tự nhắc mình chỉ nên ngủ mười năm rồi thức giấc để ngẩng lên xem quê hương đổi mới. Hôm nay, tôi lại thức giấc, đúng vào ngày... tháng... năm 1990. Từ ngày lìa trần tôi chỉ ngủ có ba giấc, mỗi giấc đúng mười năm. Nếu như ngày tháng ở cõi tiên và thế gian khác nhau như trong truyện Lưu Nguyễn lạc Thiên Thai thì đất nước tôi bây giờ đã sống trong giàu có sung túc nhung lụa gấm hoa, bởi vì Lưu Nguyễn vào động đào nguyên chỉ có một ngày mà khi trở về quê cảnh thổ quê hương đều thay đổi: những đứa trẻ đều đã trở thành cụ già lọm khọm. Hóa ra trên tiên một ngày bằng trăm năm dưới thế. Huống chi tôi đã nằm trong nghĩa trang 30 năm. Thì trên quê hương tôi ắt hẳn là bao nhiêu trăm năm đã qua. Và như vậy là chủ nghĩa cộng sản đã ban phước cho hàng mấy chục thế hệ rồi. Tôi xin phép Diêm Vương về thăm quê và được chuẩn y ngay, không phải hối lộ. Diêm Vương lại còn dán cho tôi lá bùa sau lưng nên tôi đi đứng được bình thường. Tôi về đến Hà Nội thì trời sẩm tối. Cảnh vật mập mờ dưới những ngọn đèn đường tù mù. Để khỏi lạc tôi đến ngã tư Bờ Hồ là nơi thị tứ nhất thủ đô để rồi từ đó tôi tìm hướng về nhà hoặc đi đâu thì đi. Sực nhớ ra tấm áp phích về chủ nghĩa cộng sản dựng ở đây, tôi ngẩng lên tìm. Một khoảng mênh mông trên đầu tôi. Đoàn người giả đã biến khỏi cuộc đời thật. Những tấm áp phích tuyên truyền về chủ nghĩa cộng sản không còn cần thiết nữa bởi vì cuộc đời thật chắc còn đẹp hơn nhiều. Tôi bách bộ về nhà. Đi qua những hàng bách hóa cửa đóng im ỉm, tôi nghĩ thầm chắc bên trong đầy ắp những nhu yếu phẩm. Giá thịt lợn, thịt gà và tiền lương cán bộ công nhân đã tiến bộ nhảy vọt để mọi người có thể sống trong cảnh làm tùy sức hưởng tùy nhu cầu. Tôi vừa đi đến cuối phố Tràng Tiền thì một chiếc xích lô rà lại sát bên tôi. Lâu quá tôi mới thấy lại chiếc xích lô thật. Cũng thứ xe thời Pháp thuộc khi tôi còn đi học nhưng có phần ọc ạch hơn. Nhìn nó, tôi hơi ngạc nhiên: Vậy ra sinh hoạt có gì thay đổi? - Nhưng bỗng một chiếc xe hòm đen nhánh vụt qua. Rồi hàng chục chiếc khác nối đuôi nhau chạy qua mặt tôi. Tôi tự nhủ thầm: Có thế chứ! Nhân dân ta bây giờ đã làm chủ được những chiếc xe hơi đẹp đẽ. Tôi đang đứng ngẩn người ra thì anh xích lô hỏi: - Bác có muốn đi "tươi mát" không? - Tươi mát là nghĩa gì? Tôi hỏi. Sự thực, tiếng ấy chẳng có gì là lạ tai. Trước kia tôi đã từng nghe trong các buổi phát thanh, từng đọc báo và cũng từng nói không biết bao nhiêu lần, nhưng lần này nghe có gì là lạ trong giọng của anh xích lô. Thấy tôi lừng khừng, anh ta tiếp: - Tối nay có "múa đôi" thi đua. Có nhiều "phò" đẹp lắm. Bác muốn "tàu nhanh, tàu chậm" đều được cả. Đến mau kẻo hết vé. Khách quốc tế đông như kiến cỏ. - "Phò" là gì? - Đến đó sẽ biết. Bác ở đâu lạc đến mà có vẻ quê một cục vậy? - À á... tôi ở thành phố Bác mới ra! Tôi nhanh trí đẩy cây làm quen. - Ở trong đó có Đường Sơn Quán, ngoài này có khách sạn Xuân Hồng chư bộ thua à? Tôi tự trách mình lạc hậu. Mà lạc hậu là phải. Đã "đi" xa Hà Nội 30 năm rồi còn gì nữa. Cứ gì phải Lưu Nguyễn lạc Thiên Thai trở về mới thấy cuộc đời đã qua trăm năm. Mà sống ngay trong xã hội xã hội chủ nghĩa ta vẫn thấy điều đó. "Một ngày bằng hai mươi năm!" Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đã không nói thế trước kia là gì! cho nên bây giờ Hà Nội đã đổi khác, đổi từ ngôn ngữ trở đi. Thành phố Bác tức là Vinh, nay lại có Đường Sơn Quán? Đường Sơn Quán là gì? Cái tên nghe lạ quá! Quê hương Bác đã to đẹp hơn xưa nhiều. - Có ba bốn chỗ. Giảng Võ, Phú Gia, Câu lạc bộ Quốc tế? Bác muốn đi chỗ nào? Gã xích lô nhấp nhấp bàn đạp xe có vẻ sốt ruột và tiếp: - Ở Câu lạc bộ Quốc tế thì giá vé đắt nhưng chất lượng cao hơn các nơi khác. Tôi quyết định đi lên Câu lạc bộ Quốc tế để xài tiếng Liên Sô lâu nay không dùng chắc quên bộn. Gã xích lô quay vút đầu xe ra đường và đạp nhanh như gió. Đến đầu đường Cột Cờ thì gã dừng xe lại. Ở đây có một anh chàng đầu chải tém đít vịt đứng bên chiếc xe máy hút thuốc. Đóm lửa rít lên có vẻ như sốt ruột chờ tình nhân, vừa trông thấy chiếc xe đã kêu lên: - Mau mau. Tớ vừa "chặt" một cậu ấm được hai trăm. - Đây là khách Đường Sơn Quán! - Gã xích lô thắng gấp xe sát nghiến lề đường phóng xuống đất và nói với tôi - Bác đi với ông này. Đây là ông trưởng ban tiếp tân động Thiên Thai! - Ồ vậy thì còn gì bằng? Đất nước mình đã có thiên thai thiệt, cần gì phải mơ ước như Lưu Nguyễn? Ông trưởng ban tiếp tân nổ máy xe và bảo như ra lệnh cho tôi: - Ta đi Câu lạc bộ Quốc tế mới có nhiều cú "phăng", Thiên Thai lạc hậu rồi! Đi thì đi! Tôi nghĩ thầm. Chốc nữa sẽ về nhà cũng chẳng muộn. Xe chạy như tên bắn. Đến đường Hoàng Văn Thụ hắn tốp bớt để rẽ phải. Thừa lúc máy xe nổ nhỏ, hắn nói: - Ở Hà Nội cũng có kém gì thành phố Bác. Bác muốn gì có nấy. "Phò" trẻ lắm. Toàn dưới 20 cả. Bác muốn trường múa cũng có. - Tôi vô trường múa làm gì? Tôi cãi lại. - Cái ông này, bộ ông chưa đi Câu lạc bộ Quốc tế lần nào hả? Tôi ngồi lặng im, không đối đáp nữa vì sợ bị chê nhà quê. Chập sau xe đến đường Quan Thánh. Hắn trỏ về phía ánh đèn xanh lét chói lòa, bảo: - Mười ngàn một tích kết. Giờ này họa lắm mới còn. Bác có "xín" đó không? - "Xín" là gì? - Cái này này, để "bỉ" cho các "nhót". Tôi không hiểu hắn nói gì nhưng cũng gật bừa. - Giá đặc biệt 15 ngàn một cái, ô kê? - Cái Ô kê là cái gì mà đắt dữ vậy? - Vào đi! Rồi biết! Hắn thắng xe đổ tôi xuống, khóa xe và dắt tôi vào, và bảo tôi đưa xín. Thì ra tôi mới hiểu xín là tiền. Cũng may, lúc cho phép tôi đi Diêm Vương có lì xì tôi một số đô la. Có lẽ, ngài biết thứ giấy này rất có giá trị ở xứ tôi. Tôi vội vã móc ra một mớ đưa cho hắn. Hắn vồ lấy ngay và rên rĩ: - Đế quốc tư bản muôn năm! Không sợ tôi bắt tội mất lập trường, hắn đưa mấy tờ giấy bạc lên mũi hít hít và nói như những tờ giấy bạc biết nghe - Anh đợi em ba mươi năm đời ta có đảng. Với một phần mười của số tiền ấy hắn mua được một tấm vé màu đỏ có in ngôi sao vàng trên cùng nhỏ hơn giá tiền ở góc dưới. Hắn vung tay la to, át cả tiếng nhạc rập rình eo éo. - Khách quý từ thành phố Bác đây các... cháu! Nãy giờ nghe danh từ thành phố Bác, ngỡ là Vinh, bây giờ ngẫm ra có lẽ không phải. Tôi vừa định hỏi thì một tốp bốn năm thiếu nữ ăn mặc lạ lùng ùa đến vây quanh tôi làm tôi hồn bất thủ xác. Ông trưởng ban tiếp tân lôi tất cả ngồi vào chiếc bàn gần nhất và giới thiệu từng cô: - Đây là Hồng Hoa sinh viên sinh lý học của Sở Vật lý trị liệu thành phố, đây là Thanh Tùng học sinh lớp 10 sắp lên đại học thể dục thể thao uốn dẽ...ẽo, đây là Điêu Huyền cán bộ Tài chánh Sở Giáo Dục Phổ thông, còn đây là Nguyên Trinh học sinh lớp Tám phổ thông ở Thanh Hóa mới ra Hà Nội thăm bà con! Bác muốn giúp đỡ em nào cũng tốt cả. Bác cứ áp dụng năm quy luật duy vật biện chứng pháp và sáu cặp phạm trù thì đúng ngay chóc, chẳng có phải sửa sai cái lập trường quá cứng hay quá mềm đối với các em, cả đối với kẻ thù truyền kiếp hoặc đối với bọn bành trướng tân thời. Hà hà... Một gã đàn ông mặc theo kiểu cách của Bác hồi thời đảng Cộng Sản Đông Dương còn trứng nước bên Tây, với chiếc khăn lông trắng nuốt trên tay, từ đâu mọc ra, trong mặt mũi rất trí thức, quần áo sang trọng mà cử chỉ thì lại bồi bàn. Gã rạp mình đúng 45 độ như lễ nghi quân đội có phấn quá lố. - Các vị dùng món chi? - Có gì đặc biệt? Ông trưởng ban tiếp tân hất hàm. - Dạ bia Lênin, rượu mạnh Tiểu Bình, phở Gan Bác. Còn nếu muốn đặc biệt hơn thì có tiết canh Ruma, dưa mận Thiên An vừa nhập cảng qua hữu nghị quan ạ. Ông trưởng ban uy nghi: - Được rồi! Còn khai vị có gì? - Dạ có bia hơi Đổi Mới đi với lòng lợn luộc Cởi Mở! Hai món này đi với rau muống ODP thì tuyệt ạ! Trước kia thì có ngò ba lá Cải Tạo nhưng món ấy phải kèm với rau muống giống mới này ạ. - Ăn xong có chỗ ngồi để khách tâm tình với "phò" không? - Dạ cái vụ đó thì có rư đấy ạ! Chúng tôi sẽ mời quý khách ra sau vườn Sọ ngồi trên những mảnh tường Bá Linh vừa được đồng chí Hônéccơ gởi tặng đồng chí Nguyễn Không Linh nhà ta nhân dịp đồng chí sang dự lễ quốc khánh cuối cùng của nước cộng hòa phi dân chủ Đức đấy ạ! Ông trưởng ban lên giọng lãnh tụ con: - Sao những vật quý báu như vậy lại đặt ở đây mà không để ở Bảo tàng Hồ Chí Minh hoặc Bảo tàng Cách mạng ở bờ sông, hả? - Dạ đồng chí Linh bảo là hai cái bảo tàng đó bây giờ chẳng có ai coi. Dân chúng đi vào các động Thiên Thai nhiều hơn ạ. Ở bảo tàng chưng toàn đồ ngụy tạo của một đám cán bộ chuyên nghiệp sang học lóm bên Nga rồi về sáng tác ra từ cái quần tiều của Bác đến cái cây bút chì của đồng chí Trần Phú dùng viết luận cương của đảng Cộng Sản Đông Dương, rồi bây giờ bày ra cây tầm vông của Nam Bộ kháng chiến, chiếc khăn rằn của bà Định chứ đâu có món nào thứ thiệt. Gần đây là di chúc của Bác họ cũng phịa ra, bây giờ không có thứ gì là thiệt cả. Chỉ có những mảnh tường Bá Linh mà đồng chí Không Linh tặng cho Câu lạc bộ Kháng chiến... của Câu lạc bộ Quốc tế của chúng tôi là thiệt mà thôi. - Sao chắc là thiệt? - Dạ những mảnh tường này có dính tóc vàng hoe và máu đỏ tươi của dân vượt tường. Đồng chí Nguyễn Không Linh muốn để những mảnh tường ở đây cho những ai lăm le muốn vượt biên thấy sẽ trở lại con đường Bác Hồ đã chọn. - Cậu đã đi lạc đề rồi. - Vâng, xin ông làm ơn làm phước đưa tôi trở lại. - Vấn đề tàu nhanh, tàu chậm ở đây như thế nào? Ngồi nghe hai bên đối thoại với nhau tôi hoàn toàn không hiểu gì hết. Từ những danh từ, những địa danh và những sự kiện này nọ đều xa lạ với tôi. Bà Định là ai và chiếc khăn rằn của bả tại sao được để vào Bảo Tàng Cách Mạng? Di chúc của Bác có hồi nào và ai dám phịa ra nó v..v.. Tôi cố lắng tai nghe để đoán già đoán non nhưng không mò ra. Quả thật cách mạng đã đổi mới đất nước, da thịt lẫn tim gan. Nhìn những ông đi qua, những bà đi lại, toàn quần là áo lượt, cà vạt đỏ, nơ đen, giày bé-ca-na bóng loáng, cười nói râm rang, rượu nổ bôm bốp, tiếng Tây, xen lẫn tiếng Anh, tiếng Nga, tóc vàng, tóc quăn lượn quanh tóc đen tóc mướt... và âm nhạc nữa! Những bản Chiến Thắng Điện Biên, Người Hà Nội, Tiến Về Hà Nội, Thăng Long Hành Khúc... có lẽ đã lạc hậu nên chẳng nghe ở đây. Cả tôi nữa, tôi cũng không còn thích hợp với những khung cảnh đổi mới của đất nước ngày hôm nay. Một ngày bằng hai mươi năm. Ba mươi năm, bao nhiêu ngày là bấy nhiêu hai mươi năm! Đất nước đã sống trong chủ nghĩa Cộng Sản hàng bao nhiêu thế hệ rồi. Trong kia, toàn dân nhảy múa, toàn dân ăn uống no say, thức ăn thừa mứa trên các bàn trải thảm trắng tinh, rượu uống không hết người ta đổ lên đầu nhau, vài người ăn no quá, chạy ra cửa gần chỗ tôi ngồi, nôn thốc nôn tháo ra rồi trở vào tiếp tục gọi những món mới, ăn tiếp. Quang cảnh bây giờ khác với ba mươi năm trước. Không còn cảnh xếp hàng mua ký gạo, lạng thịt, bao diêm như hồi tôi còn nằm trong bệnh viện. Tôi bất giác quay sang ông trưởng ban tiếp tân: - Cậu làm gì trong cơ quan? - Cơ quan gì ạ? -Cơ quan nhà nước, cơ quan đảng chứ cơ quan gì! - Dạ bây giờ đâu còn nhà nước, đâu còn đảng điếc gì nữa đâu! Tất cả đều tan ra nước. Ông trưởng ban thấy có một bàn tay ngoắc lia nên vội vã đứng dậy chạy đi. Tôi đã đoán đúng mà! Nước ta đã sống trong cộng sản chủ nghĩa từ lâu nên không còn nhà nước. Đến đảng là cái lõi mà cũng đã tan ra nước. Bây giờ nhân dân tự quản lý. Không cần cả cảnh sát. Chung quanh đây có đồng chí áo vàng nào đâu! Ông trưởng ban trở lại ngồi vào ghế và trịnh trọng cất giọng nói với tôi: - Bây giờ bác nên quyết định đi. Giải khát món nào, khai vị món nào... để cho các nữ đồng chí ta phục vụ. - Món nào cũng được! Tôi đáp như máy. - Còn vấn đề tàu nhanh tàu chậm, bác thích thứ nào? Tôi đoán hắn muốn biết chốc nữa khi về nhà tôi sẽ đi tàu điện chậm rì hay là hắn đèo cho nhanh hơn. Quả thật tôi ớn cái kiểu hắn chạy bạt mạng lúc nãy nên đáp: - Cho tôi đi tàu chậm, để tôi có thể ngắm núi Nùng sông Nhị thích hơn! Cả bọn phá lên cười. Các cô cười thích thú nhất. Cô Hồng Hoa và cô Điêu Huyền cười khoe cả răng lẫn lợi. Cô Nguyên Trinh thì nghiêng mặt và che tay cười sau vai Hồng Hoa. Còn cô Thanh Tùng há mồm mà không ra tiếng nên tôi không biết cô khóc hay cười. - Trông bác còn khỏe ra phết! Ông trưởng ban vuốt. - Tôi bị thương hồi trước đình chiến mới vừa khỏi đây thôi! - Bác đi tàu chậm để ngắm nghía núi đồi sông lạch mới thú chớ còn đi nhanh chỉ dăm phút chẳng kịp biết gì hết. Nhoáng cái là xong, phí của giời! Bác có biết đồi cao lũng cạn gì đâu! - Tôi xa Hà Nội có ba chục năm nên không còn nhớ cảnh thổ quê hương nữa, nhớ chú em hướng dẫn dùm để khỏi mò mẫm mất thì giờ. - Bác đi tàu chậm thì không phải lo, thua trận này gầy trận khác. 24 tiếng tha hồ nằm, ngồi, đứng, nằm nghiêng, muốn gì mà không được. Chỉ phải cái là đắt lắm. - Bao nhiêu! - 200! - Gì chứ trả 200 mà đi vòng quanh 24 tiếng thì tôi sẵn sàng. - Nhưng bốn em này bác bắt em nào? - Bắt đi đâu và để làm gì ạ? - Thì đem về phòng bác để chạy. Phải có ít nhất một em thì tàu bác mới chạy được chứ, nếu không bác chạy vô đâu? Hay bác muốn cả bốn? Tôi nhìn các cô, cô nào cũng đẹp cả và chưa đáng tuổi con tôi. 
 
Cô Hồng Hoa mặc váy ngắn màu hồng khoe cả đùi non, cô Điêu Huyền thì hở nửa ngực và đôi bắp tay trần sát nách. Còn cô Nguyên Trinh thì mặc váy dài hở lưng kín ngực nhưng vải mỏng như cánh chuồn nhìn thấu giai cấp cơ bản. Riêng cô Thanh Tùng thì mặc áo sơ mi bỏ vô quần tây trắng. - Bác cứ đi cả đi! Các cô đều chất lượng cả. Cô Hoa là con của Cục trưởng Tuyên Huấn Quân Đội, cô Huyền là cháu của ông Kẹ gộc, còn cô Trinh, cô Tùng là cháu họ xa với đồng chí Bộ Trưởng Bộ Bị Gậy đấy. Cả bốn cô đều chuẩn bị đi Liên Sô tu dưỡng nghiệp vụ dài hạn ở bờ biển Bát Tích hay Bình Tích gì đấy nhưng vì dân Lita-Nha lộn xộn sao đó nên nước bạn không nhận du học sinh sang nữa, thành ra các cô tu trong nước, tạm thời làm tiên nữ trong động này. Khách buộc boa bao nhiêu các cô nhận cả, ngoài ra còn lãnh lương cao hơn Thủ Tướng - Vậy là đúng lý tưởng "ăn ngon mặc đẹp" của đảng ta rồi! Ông ta quay lại các cô: - Các cháu vô chuẩn bị phòng đi, để bác khai vị xong, bác sẽ vô - rồi nói nhỏ với tôi - Bác có cần dùng thuốc rượu Minh Mạng không, để "đi" tàu cho khỏi nhọc. -
 
 Làm thế mất lập trường! Mình không nên xài đồ của phong kiến đế quốc. - Vậy dùng Xá Xị Bành Trướng, Tôm khô Xét Lại với Dưa chua Giáo Điều để săn gân trước khi lên tàu nhé! Các cháu hiếu chiến lắm đấy. Tôi lờ lợ không hiểu đầu cua tai nheo gì cả, nhưng khách đông hỏi han bất tiện. Ai nấy có vẻ chú ý nhìn tôi như một kẻ ngờ nghệch, ngơ ngáo, ngớ ngẩn ở giữa nơi lạ lùng này. Vả, tôi cũng có chút tự ái nên không chịu hỏi dò cho kỹ trước khi gật hay lắc. Hồi kháng chiến chống Pháp, cán bộ gọi đó là bệnh "dấu dốt". Lần này tôi nhất định tìm biết Xá Xị Bánh Trướng là Xá Xị gì? Nó có bà con với nước ngọt Hồng Hà mà Bác Hồ đã mời đồng chí Dương Bạch Mai một chai qua tay cô chiêu đãi viên ở ngoài hành lang buổi họp khoáng đại Quốc Hội tại Ba Đình năm trước không? Uống có ba hớp, đồng chí ta ngả lăn hộc máu chết tươi. Vừa định hỏi thì một người đàn ông trên 40 đầu chải bảy ba, láng đến mức "ruồi đậu phải chống gậy" ở đâu xấn xả đi vào ngơ ngáo nhìn quanh: - Có cậu "ấm" Hủi vô đây không? Ông trưởng ban tiếp tân cười khè khè, có lẽ đã nhận ra người quen: - Thằng ấy nó lủi vô động Phú Gia chứ đâu? - Tớ đã vào đó lục lọi khắp xó mà không thấy! - 
 
Đằng ấy có đến Cung Việt Sô Hữu Nghị không? Nó đang trốn học ở Liên Sô về bố nó bắt trở sang nên nó chui vào đó nấp gấu váy mấy con "phò" vừa chỉ huy vừa chạy mối cho đám "phò" non mới nhảy rào - Gã tiếp - Phải gọi hắn là cậu ấm quỵt mới đúng. Vừa rồi nó đi tàu nhanh con người ta, nó bảo quên đem tiền để về nhà lấy, nó đi tuốt không chường mặt nữa, làm tôi mất uy tín với mấy em đằng Cung Hữu Nghị, lâu nay tôi không dám tới đó. Người kia vuốt mồ hôi trán: - Mất uy tín sao bằng tôi bữa nay. - Uy tín gì mà mất dữ vậy? - Số là một cậu ấm Bò hẹn tôi xỏ mũi con nghé quê còn quàng khăn đỏ! Hắn hứa để một cây. - Bố chúng nó có đứa lận lưng một phát cả trăm cây. - Thằng này hứa lấy rồi không đến. Con nghé này mới u cặp sừng con còn khờ quá! - Ngữ ấy thì biết trò trống gì? - Tớ cho uống thuốc kích dục chớ ạ! - Cậu mổ bao nhiêu? - Còn tùy thằng mua. - Công thức 50/50 hay 6/4? - 75/25. 
 
Tớ 75. Con bé 25. Mẹ nó đau cần thuốc. Nhà thương không nhận vì không đóng đủ tiền nhập viện. Anh nó bán cho tớ với giá trên, nhưng tớ hấp cho thằng ấm Bò một cây. Tớ bảo tớ chỉ lấy cây hoặc 500 đô, không lấy rúp lô can. Mối mang xong cả rồi lại hỏng. - Tụi cán cối đàng trong ra đây chơi bạo lắm. Nhốt kỹ để đó tớ tìm mối Nam cho. - Tụi đó ra Hà Nội là để hội nghị nhì nhằng đâu có sẵn đô. Có chăng, toàn cụ, chán lắm. Thứ ấy các động không xài. - Cậu nhầm! Có một đám giám đốc lấy xe nhà nước đi trao đổi văn hóa xuyên qua Hữu Nghị Quan, chúng nó toàn là xài đô và cây thôi. Chúng thường tấp vào đây nghỉ ở khách sạn Xuân Hồng bên cầu Long Biên. Bọn đó chi đẹp nhất. Bao nhiêu bi, tiền bạc không thành vấn đề. Con nghé cậu cất ở đâu đưa tôi hấp cho. - Theo công thức nào? - 3 - 3 - 3, được không? - Cụp ngay! Người lạ gật và chạy biến đi.

HÀ THÚC SINH * NGƯỜI TÙ

NGƯỜI TÙ
Hà Thúc Sinh



Xe về tới Sài Gòn vào một chiều cuối năm, đến ngã ba rẽ vào Khám Lớn thì kẹt. Người tù bấn loạn vì mót tiểu tiện. Biết xin xỏ lúc này vô ích, anh cắn răng chịu cho đến lúc ướt hết đũng quần. Cái hỉnh mũi khó chịu làm giảm nét vô cảm trên khuôn mặt người công an trẻ áp giải. Nhưng chắc đã quen với phía trái "thiên đường," anh ta yên lặng.
Người tù nhìn ra dòng đời ngoài ô cửa lưới. Nắng chiều óng cơn mưa nhỏ, khói đè thấp mái quán, bước chân người như dính lối đi. Xa quá, tách biệt quá, cảnh đời không hàm chứa một khơi dậy nào cho anh, dẫu là sự tò mò gần với bản năng, thậm chí chút buồn. Anh quay vào như tránh nhìn một tấm gương vừa soi rõ thân anh như hòn sỏi, quen đến lỳ sự trầm tích dưới sức nặng thời gian. Hai mươi mốt năm hết nhà tù này sang nhà tù nọ, anh tự hỏi sao lòng dửng dưng, đến nỗi buồn cũng trắng? May, có thế chứ! Anh vừa nghe đâu sâu trong tâm khảm máy động chút luyến tiếc những năm đầu tù tội. Ôi tuổi trẻ đâu cũng là tuổi trẻ, dù tuổi trẻ trong tù. Thân xác màu mỡ ngày ấy gánh nặng đời chưa đè nổi hạt mầm hy vọng. Đó là khoảng thời gian anh còn chia xẻ được với các bạn bóng lồng lộng một người nữ không có thực, còn ăn ngon lành món ăn tưởng tượng sợ chưa từng hưởng trong đời, còn mơ được loài chim cánh rộng phủ mát bầu trời ngoài khung cửa hẹp, một đốm lửa đầu thuốc nghĩ ra cả một đám cháy lớn, nghe ra tiếng chấn động càn khôn của chú dế đêm tưởng là nhỏ bé lạc loài.
Lao tù tiêu hoang đời anh nhưng anh không chận tay nó được. Hết rồi, mơ mộng ấy sẽ không bao giờ còn nữa?
"Ỉa đấy à?"
"Dạ không."
"Thối quá!"
Anh tính nói lâu rồi anh đã xa lạ mùi thơm nhưng yên lặng. Người công an áp giải đốt thuốc hút một mình, một lát lại ngứa miệng hỏi, kiểu mông lung:
"Cuối năm sao chuyển trại mỗi mình ha?"
"Dạ đâu biết."
"Phản động tội to như cột đình, va sưng trán thế kia mà cứ không biết. Trước nghề gì?"
"Tôi dạy học."
"À, trí thức..."
Người công an bỏ lửng nhưng anh hiểu. Nén lắm anh mới không bật cười. Từ bình minh nhân loại trai săn bắn gái hái lượm, lời ca ngợi bộ óc chế ra lưỡi dao, mũi tên, cái thúng, cái rổ lớn mãi theo quá trình thăng tiến, dè đâu có lúc bị chận đứng ở cuối thế kỷ 20. Bộ óc hoá thành đối tượng cần thủ tiêu của chế độ. Cũng tốt thôi! Nhưng không nên nói điều đúng hơn vào tai kẻ vốn đã tin lời y là đúng nhất, anh dặn lòng, rồi anh tự xoa dịu bằng ý nghĩ y coi mình là tội phạm nguy hiểm nhưng cấm sao được mình coi y là một nạn nhân đáng thương. 

Xe lại chuyển bánh. Thấp thoáng xa xa cánh cổng dẫn vào Khám Lớn. Những hàng gòn, trứng cá xanh quanh năm bên đàng không giúp anh nhớ rõ anh đã trở lại chốn cũ bao lần. Nhưng khác gì nhau dù chỗ này chỗ nọ, khi mà chỗ nào cũng chỉ phản ảnh mặt tiêu cực nhất của sự căm thù vô lối? Đó là chỗ cũng con người cho ăn mới được ăn, cho ngủ mới được ngủ, cho sống được sống, bắt chết phải chết; chỗ con người trở lại sự trần truồng không ngượng ngập buổi đầu đời, và sự sống hoàn toàn tuỳ thuộc như trẻ sơ sinh, có hiện tại mong manh và tương lai là điều bất khả ý thức.
Xe đậu. Người công an áp giải chà tay trên báng súng, đột ngột lên tiếng, "Thế nào chả gặp lại đồng cảnh cũ, vui nhá!" Anh tính nói "tôi có hàng triệu đồng cảnh, đâu chả gặp," nhưng thôi. Người công an nhìn ra ngoài sân nhốn nháo những đồng nghiệp, nhớ cả ngày đường tên tù không làm phiền điều gì, anh ta buột miệng gia ân cho tí tin vui:
"Lúc này thả nhiều đấy, nếu được thả tính làm gì nào?"
"Sẽ dạy đốt."
"Hả?"
"Cái di sản u tối kiên cố kia."
Người công an trẻ biến sắc. Anh ta mở cửa, nói nhỏ với mấy đồng nghiệp, kế hất mũi súng ra lệnh cho anh bước xuống. "Đ.m. mày tính thiêu sống các ông đấy!" Anh lầm lũi bước theo một cai tù già có bộ mặt hằn học vừa chửi xéo anh. Đầu anh nảy ý nghĩ vui vui: Hoá ra lão ta chưa vô cảm.
Rời phòng giám thị lão khua xâu chìa khoá dẫn anh về khu giam, giữa đường nghĩ sao, bảo:
"Dám sắp được về đấy, giữ lấy mồm mép."
"..."
"Mà này, nếu được đi nước ngoài, đi không?"
Anh đáp, lời như đã hờm sẵn từ lâu:
"Không."
"Điên à?"
Giọng anh hơi đanh:
"Đi hết ai dạy trẻ?"
"Dạy gì?"
"Thì dạy đốt."
"Nữa!"
"Thế đấy, đốt sạch lao tù đã giam cầm hết tuổi trẻ chúng ta."
Cánh cửa sắt khép lại. Trí nhớ anh khi không hồi phục, ít ra đủ để anh nhớ những lần trước nó sập cách thô bạo, lạnh lùng; lần này nhẹ, hơi lưỡng lự nữa. Anh nhủ lòng biết đâu có người cai tù vừa hiểu ra ngọn lửa không tàn ác của một người tù.
Rồi anh nằm xuống gối tay trong bóng tối, thoáng chốc mơ lại giấc mơ vẫn thơm cuộc đời dẫu đã trộn mùi nước mắt, có tiếng cười tuổi trẻ bất chấp ran ran, có loài chim tung khung cửa hẹp phủ cánh mát trời, có lửa cháy và nhất là có hạt hy vọng nảy mầm vào một bình minh mới. Tiếng dế lại vang vang, chấn động. Anh xoay nghiêng, mở mắt cười vào góc tối, nói khẽ, "Mày, vẫn y nguyên, không suy suyển chút nào!
Alhambra 10-95
   

QUẢNG THUẬN * TRẢ LẠI SAIGON

TRẢ LAI. DÂN TÔI TÊN PHỐ SÀI GÒN

Trả lại dân tôi tên phố Sài Gòn
Hòn Ngọc Viễn Đông một thời vang bóng
Thành Phố Cảng thủ đô đầy sức sống
Sài Gòn Lục Tỉnh vựa lúa ngập đồng
Nước phù sa cuồn cuộn khắp giòng sông
Đã một thời vượt xa các lân quốc.
Trả lại dân tôi tên phố Sài Gòn
Vườn hoa muôn sắc trăm hoa đua nở
Không nhiễm máu cờ buá liềm man rợ
Cho tự do dân chủ toả rợp trời
Hảy trả lại tên Sài Gòn muôn thua?
Cho moi. người sống tươi vui hăm hở.
Trả lại dân tôi tên Cảng Sài Gòn
Ngọn hải đăng cho dân chủ sống còn
Sánh vai cùng Đông Nam Á khắp nơi
Sài Gòn cùng nhau công góp xây đời
Cho tự do, dân chủ , quyền con người
Cho Việt Nam ngẫng cao mặt với đời.
Từ thành phố cảng mang tên Sài Gòn
Mọi tầng lớp chung sức sống hòa đồng
Không độc tài không áp bức bất công
Cùng chiêm ngưởng gương Quang Trung, Phù Đỗng
Cùng tận hưởng tia nắng ấm trời Đông
Cùng chung sống dưới ngọn cờ Dân Tộc.
Quảng Thuận
28/3/2001

THƠ HỮU LOAN

  • Ngày mai


    March20
    Khi nắng chiều tắt thở
    Trên hàng cau úa vàng
    Bóng từng đoàn nạng gỗ
    Đi kêu trên đường làng
    Đàn ai
    Trong chiều tàn
    Tiếng âm rơi
    Tan vỡ
    Có đem dư hưởng về
    Xa thẳm
    Em đến
    Mồ xưa biếc cỏ vàng
    Em hiền như chị
    Mắt ngời xanh lam
    Em mang trong tóc
    Nắng thơm hoa ngàn
    Em là đôi mắt
    Xưa ngời xanh lam
    Của chàng lính trẻ
    Say em hát
    Ngồi lặng hình dung
    Mắt một nàng
    Em là chân mất
    Là tay mất
    Của một chàng trai
    Của một chàng
    Áo quần loang vết mủ
    Vết thương nhày
    Hôi tanh
    Em đem về giặt giũ
    Chong đèn
    Vá thâu canh
    Mai những người vui
    Có áo lành
    Bờ ao vang tiếng cú
    Một bông hoa
    Lìa cành
    Kim chùng
    Tay rớm máu
    Long lanh
    Ngày mai em đi khỏi
    Ai thương người
    Thương binh?
    Rằng:
    - Em từ đâu lại?
    Mắt lam màu
    Xa vời
    Ngày xưa có
    Chuyện đẹp
    Nàng tiên đi
    Thử người!
    Từ khóa: , ,
    Bình luận (0)
  • Đèo Cả


    March19
    Núi cao vút
    Mây trời Ai Lao
                          sầu
                               đại dương
    Dặm về heo hút
    Đá bia mù sương
    Bên quán Hồng Quân
                                   người
                                            ngựa
                                                   mỏi
    Nhìn dốc ngồi than
                               thương ai
                                              lên đường
    Chầy ngày
                   lạc
                       giữa suối
    Sau lưng
                 suối vàng
                              xanh
                                      tuôn
    Dưới khe
                  bên suối độc
                                    cheo leo
                                                chòi canh
                                                              ven rừng hoang
    Những người
                       đi
                          Nam Tiến
    Dừng lại đây
                      giữa
                             đèo núi quê hương
    Tóc tai
              trùm
                     vai rộng
    Không nhận ra
                         người làng
    Rau khe
                cơm vắt
                            áo
                               pha màu
                                           sa trường
    Ngày thâu
                   vượn hót
    Đêm canh
                    gặp hùm
                                 lang thang
    Gian nan lòng không nhợt
    Căm hờn trăm năm xa
    Máu thiêng trôi dào dạt
    Từ nguồn thiêng ông cha
    Giặc
            từ trong
                        tràn tới
    Giặc
             từ Vũng Rô
                              bắn qua
    Đèo Cả
               vẫn
                    giữ vững
    Chân đèo
                    máu giặc
                                 mấy lần
                                             nắng khô
    Sau mỗi trận thắng
    Ngồi bên suối đánh cờ
    Kẻ hái cam rừng ăn nheo mắt
    Người vá áo thiếu kim mài sắt
    Người đập mảnh chai vểnh cằm cạo râu
    Suối mang
                    bóng người
    Trôi những về đâu….
    Từ khóa: , ,

HOÀNG NGỌC LIÊN * ÔNG GIÀ MƯỜNG CƠI

Ông Già Mường Cơi

Kính tặng Lão Ông và gia đình
từ Thái Lan về làng Mường Cơi (Sơn La)

Tôi không bao giờ quên được ông già Mường Cơi. Tôi nghĩ rằng ông cũng chưa quên tôi. Mặc dù ông và tôi không hề biết tên tuổi của nhau, nhưng ông đã đối xử với tôi bằng một sự quan tâm thật chân thành.
Tôi gọi ông là Ông Già Mường Cơi, chỉ vì ông “định cư” ở làng này chứ ông không phải người thiểu số. Cũng như chúng tôi, khoảng giữa năm 1976, ông và gia đình được di chuyển bằng tàu thủy ra “miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa”. Nhưng ông lại khởi hành từ miền đông bắc Thái Lan!
Gia đình ông được “cổ vũ” về quê hương “xây dựng đất nước”, sau mấy chục năm ở xứ người! Ông đã hỏi đi hỏi lại “cán bộ” là có chắc chắn gia đình ông được về lại quê cũ, làng Ngọc Đồng, tỉnh Hưng Yên không, thì “cán bộ” vui vẻ gật đầu:
-Dĩ nhiên. Đất nước đã độc lập, thống nhất, sạch bóng quân thù. Đồng bào sẽ đem tất cả tài sản về sinh sống tại quê nhà. Có hạnh phúc, tự do!
Ông bà bùi tai. Nghĩ mình đã lớn tuổi, con cái thành tài, ở đâu cho bằng nơi quê cha đất tổ.
Thế rồi chuyến tàu chở nhiều gia đình cập bến Vũng Tàu, rồi đi Hải Phòng, chuyển lên xe lửa chạy trên đường Hải Phòng - Hà Nội. Nhưng tàu không ngưng lại ga Hưng Yên mà chạy tuốt ra... Yên Báy!
Ông bà ngơ ngác nhìn cảnh lạ ngoài khung cửa sổ tàu. “Cán bộ” mất... tích, không còn ai để hỏi cho ra lẽ. Người ta hướng dẫn gia đình ông bà xuống phà, qua bên kia sông Hồng rồi lên xe hàng... đến ven một khu rừng thuộc làng Mường Cơi này.
Bao nhiêu tài sản do công lao dành dụm của ông bà và con cháu từ mấy chục năm qua, không còn thấy vết tích gì nữa.
Tiền Thái Lan đã được đổi thành vàng ròng. Trước khi tàu nhổ neo về quê, “cán bộ” đã ký nhận của từng gia đình. không những vàng, mà cả các “phương tiện sản xuất” như máy cày, máy bơm nước, máy phát điện, máy may...; các phương tiện chuyên chở như xe hơi, xe gắn máy...; các tiện nghi sinh hoạt như máy thu thanh, TV, Cassette..., quạt máy, máy lạnh... cũng đều được ký nhận. Cán bộ cho xếp trước tất cả xuống hầm tàu. Chừng nào về đến quê cũ, biên nhận nào trả theo vật dụng đó. Mất mát đi đâu được mà sợ! “Nhà Nước” giàu có vô cùng, đời nào lấy ba cái “lặt vặt” của đồng bào đem từ “nước ngoài” về!
Trong khi chờ đợi “làm đơn” xin lại tài sản (!), trước mắt, gia đình ông bà được cấp một khu đất để tự túc cất lấy nhà mà ở. Rừng vầu, tre, nứa... không thiếu thứ gì để làm nhà. Lá buông, tranh trên rừng, rạ ngoài đồng; muốn lợp nhà bằng gì tuỳ ý. Vậy lao động là ... vinh quang”, ông bà và con cháu muốn về quê hương để lao động xây dựng đất nước thì nay đã được như nguyện. Khỏi cần mơ ước thêm gì nữa. Mọi người... tự do sống thoải mái trong khu rừng này. Có điều chỉ là hơi... cách biệt với thế giới bên ngoài. Thư viết gửi đi các nơi chẳng bao giờ có hồi âm, kể cả thư về Hưng Yên - mà trước đây ông bà vẫn có tin họ hàng. Nói gì đến thư gửi qua Thái Lan!
Ông già Mường Cơi đặt ly nước chanh trước mặt tôi rồi nói tiếp:
- Nếu sau này, có bao giờ ông đi được đâu đó, làm ơn nhắn giùm đồng bào mình ở Thái, đừng bao giờ dại dột tình nguyện về quê...
Tôi ngượng ngùng:
- Thưa ông, nếu có duyên may nhắn được như vậy, tôi xin hết lòng. Chỉ ngại là không còn cơ hội đi phà qua hữu ngạn sông Hồng nữa!
Thấy đã đến giờ phải gánh hai bó tranh đến Trại 2 cho anh em lợp nhà - trước đó, trại này đã bị bà hỏa thiêu rụi -, tôi đứng lên từ giã ông già:
- Cảm ơn ông cho uống nước chanh giải khát. Thật không ngờ trên đường đi mệt, khát, lại được gặp may. Xin cầu chúc ông và gia đình sức khỏe để thích ứng với cuộc sống này. Cũng xin chia sẻ với ông về tình trạng sinh sống tồi tệ ở đây. Mong sẽ có ngày ông và gia đình được trở về xuôi!
Ông già cầm tay tôi:
- Chúng ta gặp nhau trong khoảnh khắc, nhưng là cái duyên trong vòng tao ngộ. Cũng xin chúc quí ông sớm thoát cảnh tù khổ sai này.
Tôi xiết chặt tay ông già:
-Cảm ơn ông. Xin từ giã ông!

Đi được một quãng, lúc đến ngã ba quẹo lên Trại 2, tôi còn nhìn lại căn nhà tường nứa, mái tranh của ông già Mường Cơi.
Gia đình ông bị “Cán bộ” cho vào xiếc. Còn khuya mới xin lại được tài sản mà cán bộ “quản lý” giùm, trên đường hồi hương! Tôi biết chắc chắn rằng những trường hợp “ông già Mường Cơi” sẽ chẳng bao giờ còn có dịp trở về quê cũ, trừ phi lại có chuyện đổi đời, mà trong những tháng năm trong tù, chúng tôi thật chẳng thấy tia sáng nào trong màn đêm dày đặc.
Năm 1979, chúng tôi được “chuyển trại” về huyện Sông Thao, tỉnh Vĩnh Phú.
Bước chân xuống phà, tôi được nghe ông lão “phụ trách phà” nói nhỏ với mấy anh em đứng gần:
-Lão “đứng phà” bốn chục năm nay. Chưa bao giờ thấy ai đi qua bên này sông mà còn trở lại bên kia sông. Hôm nay quí ông được trở lại, vậy là sống rồi! Xin có lời mừng!
Nhìn người “đứng phà”, tôi sực nhớ lại ông già Mường Cơi! Tôi thầm cầu nguyện cho gia đình ông có dịp qua được bên kia bờ sông... T

Hoàng Ngọc Liên
(Trích Viên Đạn Cuối Cùng)

NGUYỄN THIÊN THỤ * VẠN HẠNH THIỀN SƯ

vån hånh thiŠn sÜ ( ? - 1018)


Vån Hånh thiŠn sÜ quê ª làng C° Pháp ( ñình bäng, phû TØ SÖn, tÌnh B¡c Ninh), vÓn h† NguyÍn, gia Çình th© PhÆt lâu Ç©i, còn Ngài tinh thông Nho, Lão PhÆt. Thuª nhÕ thông minh xuÃt chúng, næm 20 tu°i xuÃt gia cùng ñÎnh HuŒ thiŠn sÜ theo h†c ThiŠn Ông ñåo Giä. ThiŠn Ông cÛng là ngÜ©i C° Pháp , tu ª chùa Song Lâm, làng Phù Ninh, phû Thiên ñÙc, tÎch næm k› mão, niên hiŒu Thái Bình Ç©i ñinh Tiên Hoàng (979), th† 78 tu°i.
 
Vån Hånh tu ª chùa Løc T°, chuyên tu pháp môn T°ng trì Tam Ma ñÎa sau khi ThiŠn Ông ñåo Giä mÃt. M‡i l©i nói cûa Ngài ÇŠu thành sÃm ng» rÃt Ùng nghiŒm. Vua Lê ñåi Hành thÜ©ng m©i Ngài t§i hÕi viŒc nܧc. Niên hiŒu Thiên Phúc nguyên niên ( 980), tܧng TÓng là Hàu Nhân Bäo sang xâm læng, quân ÇÎch Çóng CÜÖng Giáp, (Lång SÖn ), vua m©i Ngài ljn hÕi viŒc quân, Ngài Çáp: ‘Ba bäy, lúc m¥t tròi ÇÙng bóng, quân gi¥c thua.’
Khi vua muÓn Çi Çánh Chiêm Thành, Ngài khuyên vua nên Çánh gÃp thì th¡ng , quä nhiên ta Çåi th¡ng. Lê Long ñÌnh tàn ác, Ngài bi‰t trܧc Lš Công UÄn s¡p lên ngôi nên Ngài bäo hai anh em Ngài r¢ng: Thiên tº thæng hà, chÌ vài ngày n»a Lš Thân VŒ tÃt Ç܆c thiên hå.



蓋三月之內,
親衛登住社稷。
落茶印國字,
十口水土去,
遇聖號天德。
Thân vệ đăng trụ xã tắc.
Lạc trà ấn quốc tự,
Thập khẩu thuỷ thổ khứ,
Ngộ thánh hiệu Thiên Đức. 

Trong vòng ba tháng nữa,
Thân vệ lên nối ngôi.
Cây đa in chữ "quốc",
Đất Cổ Pháp này thôi,
Gặp thánh hiệu Thiên Đức.


Ngài biết Đỗ Ngân mưu hại ngài cho nên ngài có thơ:

寄杜銀
土木相生艮畔金,
為何謀我蘊靈襟。
當時五口秋心絕,
直至未來不恨心。


Ký Đỗ Ngân
Thổ mộc tương sinh cấn bạn câm
Vị hà mưu ngã uẩn linh khâm?
Đương thì ngũ khẩu thu tâm tuyệt,
Trực chí vị lai bất hận tâm. 

Gửi Đỗ Ngân
"Kim cấn" liền đôi như "thổ mộc",
Cớ sao toan chước hại nhau ngầm?
Thoạt nghe, bụng tớ "rầu" khôn xiết,
Nhưng thực về sau chẳng bận tâm.


Ngày r¢m tháng giêng næm thÙ chín niên hiŒu ThuÆn Thiên (1018), Ngài không bÎnh mà tÎch . Vua Lš Thái t° và các ÇŒ tº hÕa táng rÒi Çem tro xây tháp Ç‹ th©. TrÜÖc khi tÎch, Ngài có bài kŒ:

 示弟子

身如電影有還無,
萬木春榮秋又枯。
任運盛衰無怖畏,
盛衰如露草頭鋪。


THỊ  ĐỆ TỬ
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

DẠY ĐỆ TỬ
Thân như bóng chớp, có rồi không,
Cây cối xuân tươi, thu não nùng.
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.
(Ngô Tất Tố dịch)

 Các thiền sư thường chăm lo việc thiền định tu tập, it khi làm thơ. Nếu có làm thơ cũng chỉ một hai bài ngắn gọn, súc tích, trình bày tư tửng của mình cho các đệ tử. Trong bài thơ trên, Ngài đa nêu lên vũ trụ quan và nhân sinh quan của Phật giáo. Thế giới là vô thường, vạn vật là vô thường. Đời sống con người vô cùng ngắn ngủi nếu đem so sánh với núi sông, và vũ trụ. Đời người chỉ là ánh chớp lóe lên rồi tắt. Cây cỏ có lúc xanh tuơi, có lúc cằn khô. Đó là quy luật của tự nhiên. Chúng ta phải biết rõ quy luật đó, đừng bao giờ lo già, sợ chết. Đừng bao giờ mong mình đẹp mãi, giàu mãi, vinh hoa phú quý đời đời. Chúng ta phải thản nhiên chấp nhận, biết an nhiên tự tại thì ta hạnh phúc, ta vui vẻ. Còn lo âu, sợ hãi, đau khổ thì suốt đời sẽ sống trong địa ngục.

Vua Lý Nhân tông ( 1072- 1127) có bài thơ ca tụng Ngài:

 追贊萬行禪師


萬行融三際,
真符古讖詩。
鄉關名古法,
拄錫鎮王畿。

 Truy tán thiền sư Vạn Hạnh
Vạn Hạnh dung tam tế,
Chân phù cổ sấm thi.
Hương quan danh Cổ Pháp,
Trụ tích trấn vương kỳ. 
Vạn Hạnh thông ba cõi,
Lời ông nghiệm sấm thi.
Quê hương làng Cổ Pháp,
Chống gậy trấn kinh kỳ.

Vua Lš Nhân Tông Çã ca tøng Ngài rÃt m¿c. Quä thÆt, Vån Hånh thiŠn sÜ là m¶t bÆc Çåi trí thÙc cûa ÇÃt nܧc ta th©i bÃy gi©, Çåi thiŒn tri thÙc cûa PhÆt giáo, là rÜ©ng c¶t cûa PhÆt giáo và t° quÓc ViŒt Nam.

(1) Tam t‰: TØ này có nhiŠu nghïa.
Tam tài: thiên, ÇÎa ,nhân.
Tam th‰: quá khÙ, hiŒn tåi, tÜÖng lai
Tam giáo: Nho, Lão, PhÆt.

ACHARA * ANTI HANOI ACTIVISTS

Anti-Hanoi activist
gets day in court to
explain leaflet assault
Vietnam 'too late' to participate in probe

Achara Ashayagachat
The former Vietnamese army fighter pilot who hijacked a plane to dump
anti-Hanoi leaflets in Vietnam will testify in Rayong on April 18.
Ly Tong, 52, who hijacked the two-engine plane and its pilot in November
during the visit to Vietnam of former US president Bill Clinton, will be
represented in court by Somsak Samrej.
Mr Somsak told the Bangkok Post the US citizen had yet to sign
documents formally appointing him as his lawyer.
The hijacker was admitted to Niti Jitwet (Forensic Psychiatric) Hospital on
Bhuddhamonthon 4 road in March after he went on hunger strike, sources
said. Bail was refused because of the seriousness of the crime.
Ly Tong entered Thailand on Nov 14 and hired a four-seat two-engine
plane from Hua Hin for the Nov 16-17 mission. He forced the pilot, Teera
Sukying, to fly the plane through Cambodia and into Ho Chi Minh City, and
was subsequently arrested by Thai police on his return.
In January, police charged the Vietnam War veteran with hijacking,
unauthorised control of outbound aviation, forcing others to commit an
offence, and travelling out of Thailand through unpermitted ports.
According to 1978 Aviation Act, he could be sentenced to death, life
imprisonment, or 10-20 years behind bars if found guilty of hijacking.
For unauthorised control of aviation out of the country, he could be fined
50,000 baht or sentenced to 10 years imprisonment, according to the 1954
Aviation Act.
Article 309 of the Criminal Act could put him behind bars for three years or
exact a fine of 6,000 baht or both if he is found guilty of forcing others to
commit a crime.
For travelling out of the country through non-permitted ports, he could be
imprisoned for two years, or fined up to 20,000 baht, according to the 1989
Immigration Act.
The US embassy provided Ly Tong with a list of lawyers but he has not
decided to appoint anyone yet.
"Our position is to ensure he receives basic welfare as a United States
citizen but we will not give him any special treatment or get involved in the
judicial process," a US embassy official said in a statement.
Ly Tong had been taking fluids and fruits and was no longer considered in
danger, the official said.
"He has gained weight and seems to be in good humour. He has also
received lots of visitors, mail and magazines, and is probably planning his
own defence."Hanoi has taken the case seriously and regards Ly Tong's
actions as a threat to the country's sovereignty and national security.
Ly Tong escaped from a Vietnam "re-education" camp in 1981. After
gaining US citizenship, he hijacked a Vietnam Airlines plane in Bangkok in
1992 and forced the pilots to dump anti-communist leaflets on Ho Chi Minh
City. He was imprisoned in Vietnam for 20 years but released after six
years.
Vietnam's request for participation in the investigation came too late, said
Foreign Minister Surakiart Sathirathai, during his March 7 visit to Hanoi.
Police had already completed the process and prosecutors brought the case
to court in early February.
Hanoi has yet to decide what further action to take other than seek his
extradition.
Thailand would be willing to co-operate with Vietnam on the basis of
reciprocity, even though the two countries do not have an extradition
agreement, a ministry source said.
BANGKOK POST

SƠN TRUNG * THE XANIEN

The xanien



I don’t know if this word comes from the Chinese or Cambodian language, but it means the wild person..
In my country, some persons who go in the forest to look for sandalwood, which is as precious as gold, have to put “ ngai” - a kind of magic grass in their mouth.
Thanks to this medicine, they feel healthy, not hungry nor thirsty. But they must go home on time. If they do not obey this instruction, by losing their way, or by forgetting the due date, they will become wild persons, unconscious and dumb, with long hair covering the body.
After 1975, the Communists occupied the South of Viet Nam, a lot of Vietnamese became wild persons wandering in the towns and countries, without clothes and food, crying and shouting because they lost their children, their husbands, their wives and their property. Maybe they did not remember where their houses or what their names were.
And after 1975, a number of Vietnamese escaped the Communists by passing through the forest or by crossing the ocean. The boat people could be drowned in the sea or arrested by the communist policemen on their way to freedom. The women were gathered concentration camps. They were inspected and touched everywhere on their bodies by the communists who were looking for gold or diamonds. The policemen robbed all their golden rings, watches, money and clothes .
They must work hard in the field or in the forest without clothes as the primitive people in prehistory !
One evening, in the sunset, I went home from Phu Lam, a country side of Saigon, and I saw a naked woman with the sun burnt body and the long black hair running on the rice field toward the town. Was she a ” xanien”? No! Although I was a long distance from her, I saw she was very young and healthy. She ran as quickly as an athlete in a cross country race. I thought that she was a woman just escaping from the prison and now she was on the way home.
On my way home, I always asked myself:
-“ Where is her house?”
-” What about her family?”
-” Do they still remain at the usual address or did they move?”
-” Did she get home safely ?”
Son Trung

TỔNG MỤC TẠP CHÍ SÁNG TẠO

Dương Nghiễm Mậu – Thanh Tâm Tuyền, những người bạn và tạp chí Sáng Tạo (Phần cuối)

(Tiếp theo chương 4)
TỔNG MỤC LỤC TẠP CHÍ SÁNG TẠO (bộ cũ: 1956-1959; bộ mới: 1959-1960)
Tạp chí Sáng Tạo (bộ cũ): tạp chí văn nghệ xuất bản hàng tháng, Mai Thảo chủ trương biên tập. Đây là bảng mục lục từng số tạp chí từ số 1 phát hành tháng 10 năm 1956 đến số 31 tháng 9 năm 1959.
———-
SÁNG TẠO số 1 tháng 10 năm 1956
Nội dung:
MAI THẢO Sàigòn , thủ đô văn hóa Việt Nam | trang 1
NGUYÊN SA Kiến thức rộng và chuyên môn | trang 6
VĂN SIÊU Quán cháo lú | trang 13
MẶC ĐỖ Công việc dịch văn | trang 19
THƯƠNG Xét qua nguyên-lý âm nhạc trong căn bản ngôn ngữ | trang 25
VŨ KHẮC KHOAN Sân khấu và vấn đề xây dựng con người | trang 32
THÁI TUẤN Một vài nhận xét về nghệ thuật | trang 36
NGUYỄN SỸ TẾ Một quan niệm nhận thức Nguyễn Du | trang 44
———-
SÁNG TẠO số 2 tháng 11 năm 1956
Nội dung:
VĂN SIÊU Thử định nghĩa văn hóa | trang 1
VŨ KHẮC KHOAN Ba người bạn | trang 8
TRẦN THANH HIỆP Say những chuyến mùa đi-Chắp nối-Bài thơ yêu | trang 21
DUY THANH Trường hợp Picasso | trang 24
QUÁCH THOẠI Xanh | trang 28
HOÀNG THÁI LINH Giáo dục: Áp bức hay giải phóng | trang 29
THANH TÂM TUYỀN Sự tầm thường cần thiết của ngày khai trường | trang 35
TÔ KIỀU NGÂN Mùa xuân nhớ người | trang 38
NGUYÊN SA Tự do | trang 41
DOÃN QUỐC SỸ Đi tìm dân tộc tính trong những chuyện cổ tích
Việt Nam | trang 42
MẶC ĐỖ Đọc La Chute của A. Camus | trang 51
NGUYÊN SA Kinh nghiệm Hemingway | trang 52
———-
SÁNG TẠO số 3 tháng 12 1956
Nội dung:
VĂN SIÊU Thử định nghĩa văn hóa | trang 1
MAI THẢO Những ngón tay bắt được của trời | trang 7
QUÁCH THOẠI Cờ dân chủ | trang 15
NGUYÊN SA Hồ Xuân Hương người lạ mặt | trang 17
THƯƠNG Tìm đường sống cho âm nhạc | trang 21
DUY THANH Khép cửa | trang 28
THANH TÂM TUYỀN Hơi thở ngực tôi | trang 38
ĐÀO SỸ CHU Hội họa Trung Hoa | trang 40
NGUYỄN SỸ TẾ Ý thức siêu nhân trong thơ văn Nguyễn Công Trứ | trang 47
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: HÀM THẠCH: Tôi không còn cô độc – thơ Thanh Tâm Tuyền (52); NGUYÊN SA: | trang Tử tinh hoa – Khảo luận của Nguyễn Duy Cần (54); TRẦNNGUYỄN: Thành Cát Tư Hãn kịch của Vi Huyền Đắc (53); TRƯỜNG GIANG: Hội nghị quốc tế về thơ tại Bruxelles (55)
———-
SÁNG TẠO số 4 tháng 1 năm 1957
Nội dung:
NGUYỄN SỸ TẾ Thần trí và hồn tính của dân tộc Việt Nam | trang 1
NGUYÊN SA Tôi sẽ sang thăm em – Nước ngọt – Tiễn biệt | trang 6
TRẦN THANH HIỆP Hai lần nhìn một Calcutta | trang 9
TÔ THÙY YÊN Tình anh em | trang 14
TRẦN VĂN HIẾN MINH Vấn đề thống nhất ngôn ngữ | trang 15
THÁI TUẤN Siêu thực và ấn tượng | trang 17
THANH TÂM TUYỀN Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest | trang 23
NGUYÊN SA Cái chết của người thi sĩ | trang 24
DOÃN QUỐC SỸ Xây dựng một nền đại học Việt thuần túy | trang 29
THÁI BẠCH Ca dao miền Nam | trang 35
TRẦN THANH HIỆP Đêm phố Delhi – Mahatma Mahatma- Gautama Gautama | trang 42
TÔ KIỀU NGÂN Khảo về hò Huế | trang 43
TẠ TỴ Thu trên đất Lào | trang 49
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: DUY THANH: Triển lãm hội họa và sơn mài do Hội văn hóa Việt Nam tổ chức (52); HÀM THẠCH: Sợ Lửa của Doãn Quốc Sỹ (53); TRẦNNGUYỄN: Kịch từ nước ngoài đến nước mình (56); TRƯỜNG GIANG: Giải thưởng văn chương 1956 (53); Hội liên hiệp những nhà văn tự do (54); Giải thưởng nghệ thuật quốc tế tại Venise (55)
———-
SÁNG TẠO số 5 tháng 2 năm 1957. SỐ MÙA XUÂN
Nội dung:
SÁNG TẠO Lời tòa soạn gửi bạn đọc | trang 1
DOÃN QUỐC SỸ Cánh đồng xanh | trang 2
THANH TÂM TUYỀN Bài ngợi ca tình yêu | trang 16
THANH NAM Người trong tranh | trang 21
ĐINH HÙNG Khi mới nhớn | trang 33
NGUYÊN SA Lớp học mùa xuân | trang 35
DUY THANH Đống rác | trang 43
TRẦN THANH HIỆP Himalaya | trang 51
QUÁCH THOẠI Giấc ngủ đêm xuân | trang 53
TÔ KIỀU NGÂN Hội mùa xuân | trang 55
TRẦNNGUYỄN Các em đi vào mai sau | trang 63
TẠ TỴ Người trước cửa | trang 65
VŨ HOÀNG CHƯƠNG Bao giờ có nguyệt | trang 73
NGƯỜI SÔNG THƯƠNG Sự bí mật của đời nàng | trang 74
NGUYÊN SA Bài hát Cửu Long | trang 82
MẶC ĐỖ Khung cửa mở | trang 83
HUY QUANG Đất quê hương | trang 89
———-
SÁNG TẠO số 6 tháng 3 năm 1957
Nội dung:
VĂN SIÊU Phong độ văn hóa | trang 1
NGƯỜI SÔNG THƯƠNG Trời xanh con chim nhỏ | trang 6
NGUYÊN SA Hãy đưa tôi ra bờ sông | trang 7
TÔ THÙY YÊN Tuyên ngôn | trang 8
DOÃN QUỐC SỸ Chiếc chiếu hoa cạp điều | trang 9
NGUYỄN SỸ TẾ Khuynh hướng siêu thoát trong văn chương Việt Nam| trang 16
LÝ HOÀNG PHONG Cái nhìn | trang 26
NGUYÊN SA Triết học là gì? | trang 33
THANH TÂM TUYỀN Thức giấc | trang 39
LANGSTON HUGHES Nostalgic Blues (Thanh Tâm Tuyền dịch) | trang 39
QUÁCH THOẠI Tôi quét | trang 40
MẶC ĐỖ Nem hiaba haltak meg | trang 41
TRẦN THANH HIỆP Để giải quyết mâu thuẫn trong Đoạn trường tân thanh | trang 44
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: HÀM THẠCH: Tiếu lâm tân thời của Ba Vui (53); TRẦNNGUYỄN: Xem phim Đất lành (54); TRƯỜNG GIANG: Các giải thưởng văn nghệ quốc tế (55); THÁI TUẤN: Vài nhận xét về triển lãm hội họa Tạ Tỵ (56)
———-
SÁNG TẠO số 7 tháng 4 năm 1957
Nội dung:
TRẦN THANH HIỆP Vấn đề định nghĩa triết học | trang 1
THANH TÂM TUYỀN Bao giờ | trang 7
QUÁCH THOẠI Đường tự do | trang 8
DUY THANH Hoang | trang 9
MAI THẢO Cửa hiệu tạp hóa | trang 10
DOÃN QUỐC SỸ Cái chết của một người | trang 16
THANH TÂM TUYỀN Trèon cây bưởi hái hoa | trang 21
TẠ TỴ Nửa đêm về sáng | trang 25
THÁI TUẤN Hội họa sẽ đi về đâu? | trang 33
NGUYỄN SỸ TẾ Hệ thống trào phúng của Trần Tế Xương | trang 36
NGUYÊN SA Đẹp | trang 47
TÔ THÙY YÊN Cánh đồng con ngựa chuyến tàu | trang 48
NGUYỄN PHỤNG Giáo dục âm nhạc | trang 49
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: NGUYỄN ĐĂNG: Phê bình Vượt Sóng của Phan Minh Hồng (53); DUY THANH: Triển lãm của Shungo Sekiguchi (54); TRƯỜNG GIANG: Triển lãm hội họa và thời đại (55) – Nổi danh sau khi chết (55); MAI THẢO: Phê bình Chữ Tình truyện ngắn của Võ Phiến (55)
———-
SÁNG TẠO số 8 tháng 5 năm 1957
Nội dung:
NGUYỄN SỸ TẾ Vấn đề phân chia thời đại và khuynh hướng
văn học Việt Nam | trang 1
NGUYÊN SA Tôi sẽ bỏ đi rất xa | trang 8
CUNG TRẦM TƯỞNG Đà Giang | trang 9
TÔ THÙY YÊN Tôin tiếng | trang 10
NGUYÊN SA Vấn đề triết học căn bản | trang 11
LÝ HOÀNG PHONG Con sông | trang 17
VĨNH LỘC Mái nhà | trang 25
DUY THANH Nói về hội họa | trang 30
NGƯỜI SÔNG THƯƠNG Người bỏ quên | trang 35
TRẦN THANH HIỆP Vài điểm gợi ý về thơ tự do | trang 41
THANH TÂM TUYỀN Bài ngợi ca tình yêu | trang 48
TÔ KIỀU NGÂN Về một ánh nắng | trang 50
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: NGUYỄN ĐĂNG: Phê bình Xác lá rừng thu, thơ Diên Nghị (53); TRƯỜNG GIANG: Tranh áp phích và các giải thưởng – Chung quanh cuộc đời Van Gogh (54); Triển lãm Picasso (55); THANH NAM: Một ý kiến về U Hoài của Doãn Quốc Sỹ (55); HẦU ANH: Nhà văn Herve Bazin và một triệu quan – Đại hội điện ảnh lần thứ 18 tại Venise (56)
———-
SÁNG TẠO số 9 tháng 6 năm 1957
Nội dung:
NGUYÊN SA Con đường triết học | trang 1
THẠCH CHƯƠNG Tôi khóc hôm nay | trang 7
NGUYỄN SỸ TẾ 1802 | trang 9
MAI THẢO Những vị sao thứ nhất | trang 15
DUY THANH Em đã nghe gì trong bài thơ hôm nay | trang 23
CUNG TRẦM TƯỞNG Khoác kín | trang 24
DOÃN QUỐC SỸ Gìn vàng giữ ngọc | trang 25
NGUYỄN VĂN MÙI Nguyễn Khuyến thi sĩ của đồng quê nước Việt | trang 38
NGUYỄN PHỤNG Dân ca, một yếu tố nhân loại của việc giáo dục | trang 44
NGUYÊN SA Có phải em về đêm nay | trang 47
THÁI TUẤN Hội họa cổ điển | trang 49
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: NGUYỄN ĐĂNG: Giới thiệu sách mới: Một nhân chứng của Vương Văn Quảng – Chiều cuối năm của Đỗ Tấn (54); TRƯỜNG GIANG: 9 bức tranh mới của Cézanne – Một cuộc triển lãm hội họa Á Châu (55); HẦU ANH: Triển lãm tranh kiếng của Văn Huê; NGUYỄN ĐĂNG: Thực hiện cuốn phim Tiếng chuông Thiên Mụ (56)
———-
SÁNG TẠO số 10 tháng 7 năm 1957
Nội dung:
NGUYỄN SỸ TẾ Tinh thần văn học đờiThánh Tôn | trang 1
NGUYÊN SA Lò luyện người | trang 7
THANH TÂM TUYỀN Khai từ của một bản anh hùng ca | trang 13
HOÀNG THÁI LINH Văn chương và siêu hình học | trang 19
DOÃN QUỐC SỸ Trạng Quỳnh đi sứ | trang 25
VĂN SIÊU Chôn sống các tôn thất nhà Lý | trang 34
CAO PHAN Sự tiến triển của ngành âm nhạc thiếu nhi | trang 44
VĨINH LỘC Mùa thu lá vàng | trang 50
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: NGUYỄN ĐĂNG: Sách mới: Thơ Bàng Bá Lân – Người đi qua lô cốt, tiểu thuyết của Tô Kiều Ngân (54) Đường thi của Trần Trọng San (55); TRƯỜNG GIANG: Qua các cuộc triển lãm ở Saigon (56)
———-
SÁNG TẠO số 11 tháng 8 năm 1957
Nội dung :
DOÃN QUỐC SỸ Nền đại học văn khoa Việt Nam | trang 1
NGUYÊN SA Triết học của Kant | trang 11
NGƯỜI SÔNG THƯƠNG Chuyến xe lô | trang 17
VŨ KHẮC KHOAN Một khía cạnh tâm sự của Ôn Như Hầu | trang 25
THANH TÂM TUYỀN Một chỗ trên ôtô buýt | trang 30
DUY THANH Bài thư tình số 13 | trang 30
CUNG TRẦM TƯỞNG Tôi còn yêu , còn yêu , tôi còn yêu | trang 32
LÝ HOÀNG PHONG Ngoài hàng dậu | trang 33
THÁI TUẤN Nhận xét về hội họa trừu tượng | trang 43
TÔ THÙY YÊN Tại sao không? – Tôi | trang 44
TRẦN THANH HiỆP Cảm xúc | trang 45
THANH TÂM TUYỀN Sớm mai | trang 46
KIÊM MINH Con thuyền giấy | trang 48
TRẦN THANH HIỆP Nguồn rung cảm trong văn nghệ Ấn Độ | trang 50
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: NGUYỄN ĐĂNG: Xưởng kịch của những người yêu kịch (54); QUAN SƠN: Thêm một ý kiến về cuốn Văn học Việt Nam thời Lý củaVăn Siêu (54); TRƯỜNG GIANG: Khai mạc xưởng họa Tú-Duyên – Triển lãm tranh thuốc nước và bột mầu của bà Wainright (55); HẦU ANH: Con bọ hung vàng, truyện của Edgar Poe – Nghệ thuật nhiếp ảnh Nguyễn Mạnh Dân (56)
———-
SÁNG TẠO số 12 tháng 9 năm 1957
Nội dung:
TÁM TÁC GIẢ Bảnn tiếng của tám tác giả Việt Nam | trang 1
Doãn Quốc Sỹ – Duy Thanh – Mai Thảo
Mặc Đỗ – Nguyễn Sỹ Tế – Thanh Tâm Tuyền
Trần Thanh Hiệp – Vũ khắc Khoan
HOÀNG THÁI LINH Thông cảm | trang 2
NGUYÊN SA Triết học của Kant II | trang 9
TÔ THÙY YÊN Đám cưới | trang 13
NGUYÊN SA Bài thơ ngắn | trang 15
SAO BĂNG Trắng | trang 15
THỦY THỦ Một mình | trang 16
DUY THANH Khung cửa – Giòng sông | trang 17
NGƯỜI SÔNG THƯƠNG Người lữ khách trong thành phố chúng ta | trang 18
DOÃN QUỐC SỸ Trăng sao | trang 25
THÁI TUẤN Thái độ cần thiết khi xem tranh | trang 33
VĂN SIÊU Biên kinh trên lá chuối | trang 38
THANH NAM Con mèo hoang | trang 42
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: MAI THẢO: Ai có qua cầu, tâm bút của Hoai Dồng Vọng (53); HẦU ANH: Tặng phẩm của trùng dương của Anne Morrow Lindbergh (53); MẶC ĐỖ: Đọc Nam et Sylvie của Nam Kim (54); NGUYỄN ĐĂNG: Chống Mác Xít của Nguyễn Kiên Trung (56)
———-
SÁNG TẠO số 13 tháng 10 năm 1957
Nội dung:
MAI THẢO Một vài ý nghĩ gửi bạn đọc | trang 1
NGUYÊN SA Tâm sự | trang 9
DOÃN QUỐC SỸ Góp ý kiến xây dựng quốc học | trang 10
NGUYÊN SA Triết học và ngôn ngữ | trang 15
THANH TÂM TUYỀN Isabelle | trang 25
TRẦN THANH HIỆP Điện ảnh quốc tế và Việt Nam | trang 35
NGY CAO UYÊN Tự họa | trang 39
THẠCH TRÂN Cung thầm | trang 39
NGUYỄN THANH GIÁ Cho tôi nói một điều | trang 40
VƯƠNG TÂN Chúng mình | trang 41
NGUYỄN SỸ TẾ Sự tích Đông phương | trang 42
NGUYỄN PHỤNG Ca khúc bình dân và dân ca | trang 47
LÔI TAM Cách biệt | trang 49
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: HÀM THẠCH: Bức tranh Cây văn hiến củaVăn Siêu và Tú Duyên (54); TRƯỜNG GIANG: Triển lãm của Trần Văn Thọ (54); NGUYỄN ĐĂNG: Nội cỏ của thiên đường, truyện dịch của Vĩnh Sơn Lang (55) Chiếc áo thiên thanh, truyện ngắn chọn lọc của nhà xuất bản Trùng Dương – Số Phụng Sự, đặc san văn nghệ quân đội – Chiếc áo cưới màu hồng của Nguyễn Vỹ (56)
———-
SÁNG TẠO số 14 tháng 11 năm 1957
Nội dung:
NGUYỄN SỸ TẾ Văn chương cổ điển Việt Nam | trang 1
THÁI TUẤN Tìm hiểu hội họa mới: Trường biểu hiện | trang 8
HÀN SINH Người bạn cũ | trang 13
TRẦN THANH HIỆP Những người đi trong tình cờ | trang 17
NGUYÊN SA Gọi em | trang 22
VƯƠNG TÂN Đổi thay | trang 23
SAO BĂNG Màu trắng | trang 23
THẠCH TRÂN Tôi còn sống giữa đời | trang 24
DOÃN QUỐC SỸ Đoàn quân xung phong | trang 25
NGUYÊN SA Nhận định đại cương về triết học hiện hữu | trang 34
MẶC ĐỖ Một buổi họp mặt | trang 41
THAO TRƯỜNG Hương gió lướt đi | trang 46
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: NGUYỄN ĐĂNG: Sách mới: Tiếng võng dưa, thơ Bàng Bá Lân – Tình hương dạ lý của nhà xuất bản Hướng Dương (52) Tuyển tập Tình thương của U.B.C.Đ. C.D.T.C. Bộ quốc phòng (53); MAI THẢO: Đi tìm một căn bản tư tưởng của Nghiêm Xuân Hồng (54); HẦU ANH: Triển lãm Thuận Hồ; TRƯỜNG GIANG: Trưng bày họa phẩm ở hội chợ triển lãm Thị Nghè (55)
———-
SÁNG TẠO số 15 tháng 12 năm 1957
Nội dung:
NGUYỄN SỸ TẾ Văn chương cổ điển Việt Nam | trang 1
THÁI TUẤN Loại tranh mộc bản Việt Nam | trang 8
PHẠM NGUYÊN VŨ Nước mắt | trang 13
THÁI BẠCH Thơ trào phúng miền Nam | trang 21
DOÃN QUỐC SỸ Đoàn quân xung phong II | trang 25
VĂN SIÊU Trả lời ông Ngô Quân về sách Nếp sống tình cảm của người Việt Nam | trang 36
TÔ THÙY YÊN Hú tim – Bọt nước | trang 43
DUY THANH Bài thơ nga | trang 43
PHẠM NGUYÊN VŨ Và tiếng nói | trang 44
NHỊ Chưa | trang 45
NGUYÊN SA Nguyễn Du trên những nẻo đường tự do | trang 46
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: TRƯỜNG GIANG: Các cuộc triển lãm hội họa ở Sàigon (54) – Lập một phòng triển lãm thường trực ( 55); NGUYỄN ĐĂNG: Sách mới: Bốn mươi của Mặc Đỗ – Người nữ danh ca và Hồng Ngọc của Thanh Nam (55) – Đoàn kết luận của Thái Lăng Nghiêm (56)
———-
SÁNG TẠO số 16 tháng 1 năm 1958
Nội dung:
NGUYÊN SA Vấn đề thượng đế trong văn chương V.N. | trang 1
DUY THANH Nói về hội họa | trang 8
THANH TÂM TUYỀN Thoại ơi ! Thoại ơi ! Không biết khóc | trang 12
QUÁCH THOẠI Thơ | trang 16
LỮ HỒ Thơ, tục: Hồ Xuân Hương | trang 20
DOÃN QUỐC SỸ Căn nhà hoang | trang 25
THÁI BẠCH Đỗ Minh Tâm, một nhà thơ trào phúng | trang 33
THAO TRƯỜNG Hai thế kỷ | trang 38
NGUYỄN ĐÌNH HÒA Phương pháp học và dạy sinh ngữ | trang 43
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: QUAN SƠN: Nguồn sáng mới của Trí Siêu Tuệ Quang (51); Huỳnh Văn Phẩm: Triển lãm thường niên hội họa và sơn mài của Hội văn hóa Việt Nam (51) – Triển lãm Thái Tuấn (53) – Triển lãm BéKy (54); NGUYỄN ĐĂNG: Sách mới: Người tù của Võ Phiến – Bão rừng của Nguyễn Văn Xuân – Những năm trưởng thành của Van wick Brooxs, bản dịch của Từ An Tùng (55-56)
———-
SÁNG TẠO số 17 tháng 2 năm 1958. Số Mùa Xuân Mậu Tuất
Nội dung:
NGUYỄN SỸ TẾ Kinh thành | trang 5
NGUYÊN SA Người con gái trong truyện Liêu trai | trang 15
VŨ HOÀNG CHƯƠNG Tuổi xanh | trang 26
QUÁCH THOẠI Chiều tiễn biệt – Trăng thiếu phụ | trang 27
TRẦNNGUYỄN Ngày tháng rời của cửa cuộc đời | trang 29
TRẦN THANH HIỆP Tuổi trẻ | trang 36
ĐINH HÙNG Thảo dã xuân tình – Gửi Thạch Lam | trang 41
MAI THẢO Căn nhà vùng nước mặn | trang 43
THANH TÂM TUYỀN Ba chị em | trang 49
KIÊM MINH Về trường hợp một đôi môi | trang 64
NGƯỜI SÔNG THƯƠNG Nhớ biển | trang 69
DUY THANH Thơ của một người – Những bài thơ chữ một | trang 75
VĨNH LỘC Ánh trăng trên sông | trang 77
DOÃN QUỐC SỸ Hồ Thùy Dương | trang 83
VƯƠNG TÂN Làm thi sỹ không tên không tuổi | trang 112
TÔ THÙY YÊN Ký thác | trang 113
SAO BĂNG Đôi mắt – Hai mươi lăm | trang 114
DUY THANH Giấc ngủ | trang 115
THANH NAM Người đóng kịch | trang 122
PHẠM NGUYÊN VŨ Ngoài vườn xuân | trang 127
TRẦNNGUYỄN Giao duyên | trang 137
HUY QUANG Sau mười năm | trang 139
TÔ KIỀU NGÂN Thư quê hương | trang 143
TRẦN THANH HIỆP Bài chiến ca ánh sáng | trang 147
LÝ HOÀNG PHONG Tình ca | trang 150
LỮ HỒ Chung quanh một tin vặt | trang 157
TÔ THÙY YÊN Sàigòn, ngày … | trang 165
TẠ TỴ Cuốn sách tặng | trang 172
HỌA PHẨM Thôn nữ: THÁI TUẤN
Chiều ngoài khuôn của: TẠ TỴ
Thiếu nữ: DUY THANH
Ngoại ô: NGỌC DŨNG
———-
SÁNG TẠO số 18 tháng 3 năm 1958
Nội dung:
MAI THẢO Về một hiện tượng trưởng thành của nghệ thuật | trang 1
VĨNH LỘC Giấc ngủ buổi chiều | trang 10
LÝ HOÀNG PHONG Những giờ cuối cùng của Thoại | trang 17
NGUYỄN SỸ TẾ Sĩ phu V.N. trước cuộc xâm lăng của người Pháp | trang 24
PHẠM NGUYÊN VŨ Hành khúc | trang 32
TẠ TỴ Những viên sỏi | trang 33
THANH TÂM TUYỀN Những bài thơ của tháng chạp đau buồn | trang 46
LỮ HỒ Bài ca của một cuồng sĩ | trang 51
DOÃN QUỐC SỸ Dòng sông định mệnh | trang 61
THÁI TUẤN Đường nét và màu sắc | trang 73
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: NGUYỄN ĐĂNG: Đọc Vũ nữ Sàigon của Hoàng Hải Thủy (78) – Khúc nhạc màu xanh thơ Tuấn Giang (79); MAI THẢO: Đọc Trên vỉa hè Sàigon của Triều Đẩu (78) – Thần Tháp Rùa, truyện ngắn của Vũ Khắc Khoan (79)
———-
SÁNG TẠO số 19 tháng 4 năm 1958
Nội dung:
NGUYỄN SỸ TẾ Chủ thuyết siêu thực | trang 1
VĂN SIÊU Hà Ô Lôi, tiếng hát giết người | trang 12
QUÁCH THOẠI Những tiếng giày | trang 29
TUẤN GIANG Ánh mắt | trang 29
THẠCH TRÂN Ngậm ngùi | trang 30
ĐOÀN ĐÌNH QUỲNH Cầu nguyện | trang 31
SAO BĂNG Yêu | trang 31
TÔ THÙY YÊN Dù sao | trang 32
LÔI TAM Phía mặt trời mọc | trang 33
THÁI BẠCH Một nữ sĩ miền nam | trang 38
DOÃN QUỐC SỸ Dòng sông định mệnh | trang 41
NGUYỄN PHỤNG Hệ thống âm nhạc Nhật Bản | trang 60
TẠ TỴ Bài thơ của một người | trang 65
MAI THẢO Chiếc xe đạp cũ | trang 67
NGUYÊN SA Con người trong triết học hiện đại | trang 72
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: NGUYỄN ĐĂNG: Xóm nghèo, tập truyện ngắn của Nguyễn Thị Vinh – Bốn truyện ngắn Anh Văn chọn lọc, bản dịch của Võ Hà Lang (78); NGUYỄN TRUNG: Một ý kiến về triển lãm Duy Thanh (79); MAI THẢO: Lịch trình diễn tiến của Phong trào quốc gia Việt Nam của Nghiêm Xuân Hồng (80)
———-
SÁNG TẠO số 20 tháng tháng 5 năm 1958
Nội dung:
MAI THẢO Vấn đề sân khấu Việt Nam | trang 1
NGUYỄN DUY DIỄN Phân tích nghệ thuật | trang 11
VÕ PHIẾN Kể trong đêm khuya | trang 15
NGƯỜI SÔNG THƯƠNG Chuyến xe chiều – Nghẹn ngào
Khúc hát một búc tranh | trang 27
NGỌC DŨNG Đêm | trang 27
NGUYÊN SA Ngỏ ý | trang 28
LỮ HỒ Vấn đề dạy văn quốc ngữ | trang 29
DOÃN QUỐC SỸ Dòng sông định mệnh | trang 33
THÁI BẠCH Bạch mai thi xã | trang 49
HOÀNG BẢO VIỆT Đi tìm thế giới trẻ con | trang 53
TÔ THÙY YÊN Trong vườn địa đàng | trang 58
NGUYỄN ĐÌNH HÒA Thân thế thi sĩ H.W. Longfellow | trang 62
THẠCH TRÂN Trăng đốm đèn | trang 67
NGUYÊN SA Sự cô độc thiêt yếu | trang 71
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: TRẦN THANH HIỆP: Ban ca vũ nhạc Huế trình diễn ca vũ nhạc cổ Việt Nam (77); NGUYỄN TRUNG: Triển lãm hội họa Nguyễn Văn Quế (78); TRƯỜNG GIANG: Triển lãm Đình Trọng và Huy Tường (79); NGUYỄN ĐĂNG: Sách mới: Trăng Nước Đồng Nai của Nguyễn Hoạt (80)
———-
SÁNG TẠO số 21 tháng 6 năm 1958
Nội dung:
NGUYỄN SỸ TẾ Bàn về văn học sử Việt Nam | trang 1
TRẦN THANH HIỆP Chúng ta hình thành văn nghệ | trang 9
QUÁCH THOẠI Đêm | trang 16
THẠCH CHƯƠNG Đòi sống | trang 17
LÔI TAM Tôi cúi đầu đi đêm nay | trang 18
VÕ PHIẾN Kể trong đêm khuya | trang 19
THÁI BẠCH Khái luận về đặc tính của văn nghệ miền Nam | trang 33
DUY THANH Thằng Khởi | trang 38
CAO PHAN Sáng tác nhạc thiếu nhi | trang 44
PHẠM NGUYÊN VŨ Tình bằng hữu chiến đấu | trang 49
TIÊU HÀ Hải đăng | trang 52
TÔ THÙY YÊN Tội nghiệp – Cảm giác | trang 52
DOÃN QUỐC SỸ Dòng sông định mệnh | trang 53
NGUYÊN SA Kinh nghiệm thi ca | trang 65
VƯƠNG TÂN Bản hành ca số một | trang 73
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: MẠC SƠN: Đọc sách: Những vấn đề của Đông Nam Á của Tạ Văn Nho (75); NGUYỄN TRUNG: Triển lãm Hà Hồng Liên (77); THÁI TUẤN: Xem triển lãm hội họa Phi Luật Tân (78); TRƯỜNG GIANG: Triển lãm Stephane Magnard (79); NGUYỄN ĐĂNG: Đọc sách Nhận định của Nguyễn Văn Trung – Triển lãm hội họa của Nghi Cao Uyên tại Phi Luật Tân (80)
———-
SÁNG TẠO số 22 tháng 7 năm 1958
Nội dung:
NGUYỄN SỸ TẾ Vấn đề xác định một thời hiện đại
trong văn học Việt Nam | trang 1
NGUYÊN SA | trang – Đêm mưa | trang 8
THANH TÂM TUYỀN Dạ khúc | trang 17
TRẦN THANH HIỆP Tôi còn gì nữa | trang 17
TÔ THÙY YÊN Bi hành khúc – Bài học về vạn vật | trang 19
NGUYỄN DUY DIỄN Xây dựng | trang 20
NGUYỄN THIỆU LÂU Một thành tích của một quân nhân Việt Nam | trang 22
DUY THANH Cầu thang | trang 25
HÒNG THÁI LINH Trường hợp Francoise Sagan | trang 33
MAI TRUNG TĨNH Hạnh phúc | trang 46
VƯƠNG TÂN Chiều | trang 47
THÁI TUẤN Hình thể trong hội họa | trang 48
DOÃN QUỐC SỸ Sách ước | trang 52
NGUYỄN DUY DIỄN Cao Bá Quát , một chiến sĩ cách mạng | trang 71
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: MẠC SƠN: Đọc sách: Đem tâm tình viết lịch sử của Nguyễn Kiên Trung (76); THÁI TUẤN: Triển lãm hội họa của các em học sinh (77); HẦU ANH: Triển lãm Phạm Huy Tường – Triển lãm Văn Đen (78) – Giải thưởng văn chương văn hóa vụ 1957 (78); MAI THẢO: Đọc sách: Những thiên đường lỡ của Triều Đẩu (79)
———-
SÁNG TẠO số 23 tháng 8năm 1958
Nội dung:
MƯỜI TÁC GIẢ Chúng tôi thành lập ban kịch: Đêm Hà Nội | trang 1
THAO TRƯỜNG Đàn ông | trang 4
PHAN VĂN DẬT Bài thơ khóc Thị Bằng không phải của
vua Nguyễn dực Tông | trang 8
HOÀNG BẢO VIỆT Thầm hiểu | trang 17
MAI TRUNG TĨNH Khi anh đến | trang 18
DUY THANH Điệu buồn | trang 19
NGƯỜI SÔNG THƯƠNG Quyển sách | trang 20
THÁI BẠCH Nữ sĩ Trần Kim Phụng | trang 27
THANH TÂM TUYỀN Tư | trang 33
HUY OANH Khảo về thơ Beaudelaire | trang 42
TRẦNNGUYỄN Phương 2 | trang 54
VƯƠNG TÂN Cô liêu | trang 55
TRẦN THANH HIỆP Sân khấu | trang 56
QUÁCH THOẠI Hương Giang dạ nguyệt | trang 57
LỮ HỒ Định mệnh văn học | trang 58
DOÃN QUỐC SỸ Khu vườn bên cử sổ | trang 65
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: Bá cáo của Viện Đại Học Huế (76); MAI THẢO: Tìm về sinh lộ, truyện dài của Kỳ Văn Nguyên (76); THÁI TUẤN: Triển lãm của Thuận Hồ – Triển lãm Trần đình Thụy (77); VỊ XUYÊN: Xây dựng một ban kịch tuyên truyền của Nguyễn Hoài Văn (79)
———-
SÁNG TẠO số 24 tháng 9 năm 1958
Nội dung:
THANH TÂM TUYỀN Những người đã chết đều có thực | trang 1
TÔ THÙY YÊN Nhân nói về một danh từ | trang 10
DUY THANH Câu hỏi – Thu | trang 10
MAI TRUNG TĨNH Bao giờ – Buổi sáng | trang 11
NGUYỄN DUY DIỄN Sáng thế kỷ | trang 13
TUẤN HUY Hành trình ngày mai | trang 14
NGƯỜi SÔNG THƯƠNG Con đường | trang 15
HUY OANH Khảo về thơ Beaudelaire | trang 23
DOÃN QUỐC SỸ Khu vườn bên cửa sổ | trang 33
VƯƠNG TÂN Mênh mang – Vời vợi | trang 44
TRẦNNGUYỄN Anh | trang 45
VŨ NGUYÊN Mùa xuân xa | trang 47
TÔ THÙY YÊN Những ý nghĩ vào buổi chiều | trang 48
VIỆT TỬ Cao bá Quát | trang 49
LỮ HỒ Có chăng một bà Hồ Xuân Hương | trang 67
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: THÁI TUẤN: Triển lãm Nguyễn văn Phương (75) –Triển lãm sơn dầu của họa sỹ Bon Nguyên (76); THANH NAM: Hoa bên vườn cũ của Trần Phương Như (76); DUY THANH: Triển lãm Phạm kim Khải – Triển lãm Võ Minh Nghiêm (78); HỒ NAM: Thuyền thơ – thi tập của Đông Xuyên (79)
————
SÁNG TẠO số 25 tháng 10 năm 1958. Kỷ niệm đệ nhị chu niên – số đặc biệt Hà Nội
Nội dung:
SÁNG TẠO Gửi bạn đọc | trang 1
NGƯỜI SÔNG THƯƠNG Chị tôi | trang 2
TRẦN THANH HIỆP Bài ca của những người – Tiếng nói | trang 4
THANH TÂM TUYỀN Thành phố – Tên người yêu dấu | trang 6
NGỌC DŨNG Ngoại ô | trang 9
TRẦN THANH HIỆP Ý nghĩa | trang 10
MAI THẢO Quê hương trong trí nhớ | trang 19
TRƯỜNG DZI Tuổi trẻ | trang 26
DOÃN QUỐC SỸ Tiền kiếp | trang 33
VƯƠNG TÂN Về cái chết của một người bạn | trang 43
DUY THANH Bài thơ trong phố vắng | trang 48
MAI TRUNG TĨNH Lịch sử | trang 49
TRẦNNGUYỄN Nguyện ước | trang 50
VƯƠNG TÂN Tâm sự | trang 51
TÔ THÙY YÊN Thủ đô | trang 53
THANH NAM Quyên | trang 56
TÔ KIỀU NGÂN Phố Hàng Khay | trang 62
THANH TÂM TUYỀN Cuối đường | trang 65
VĨNH LỘC Mưa lúc hoàng hôn | trang 72
DUY THANH Tím | trang 80
Những lá thư Hà Nội | trang 82
PHẠM NGUYÊN VŨ Tiếng động dưới cỏ | trang 90
TÔ THÙY YÊN Vẻ buồn của tình yêu – Và hội họa | trang 100
HUY TRÂM Điệp khúc | trang 101
HOÀNG BẢO VIỆT Nước trôi về nguồn | trang 102
MAI TRUNG TĨNH Trước ngàyn đường | trang 110
ĐINH HÙNG Bao giờ em lấy chồng | trang 116
DUY NĂNG Nguồn | trang 118
Đ. MINH Bài ca hai mươi | trang 120
NGUYỄN SỸ TẾ Mái đầu những Hà Nội | trang 122
———-
SÁNG TẠO số 26 tháng 11 năm 1958
Nội dung:
MAI THẢO Họp mặt ngày giỗ bạn | trang 1
TRẦN THANH HIỆP Thế giới Quách Thoại | trang 9
VƯƠNG TÂN Ở lại | trang 16
NGỌC DŨNG Bài thơ hoang | trang 17
HOÀNG BẢO VIỆT Tìm em | trang 17
NGUYỄN SỸ TẾ Tạp luận | trang 21
DUY THANH Sợi giây | trang 25
THANH TÂM TUYỀN Nhân nghĩ về hội họa | trang 33
TÔ THÙY YÊN Thân phận thi sĩ | trang 39
TRẦN DẠ TỪ Có ai – Mộng đầu – Bước đi | trang 41
DUY THANH Thời gian – Đêm | trang 43
HỒ NAM Thơ Nhật Bản | trang 44
NGUYỄN THIỆU LÂU Một công tác kiến thiết | trang 47
THAO TRƯỜNG Đò dọc | trang 50
THÁI BẠCH Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa | trang 56
HUY QUANG Người Hà Nội | trang 62
THỦY THỦ Nỗi buồn trên đất liền | trang 66
LỮ HỒ Truyện Kiều hấp hối | trang 69
HOÀNG KHANH Hà Nội còn nữa | trang 75
DUY NĂNG Tâm hồn | trang 75
VƯƠNG TÂN Hiu quạnh | trang 76
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: NGUYỄN THỤY: Giàn nhạc đại hòa tấu của V.N.N.H. (77); MẠC SƠN: Duy thức học thông luận của Thạc Đức (77); VƯƠNG TÂN: Giải thưởng Nobel văn chương 1958 (78); NGUYỄN ĐĂNG: Tiếng bên trời của Hà Liên Tử (79) – Gõ đầu trẻ truyện ngắn của Nguyên Sa (80)
———-
SÁNG TẠO số 27 tháng 12 năm 1958
Nội dung:
NGUYỄN SỸ TẾ Triết lý đoạn trường | trang 1
HỒ NAM Khái luận về thi ca Việt Nam | trang 9
VÕ PHIẾN . Dừng chân – Tâm sự | trang 14
NHẬT HƯƠNG Gục đầu | trang 15
NGỌC DŨNG Số hai | trang 16
NGUYỄN THIẾU LĂNG Hờn lưu lạc | trang 16
VƯƠNG TÂN Tĩnh vật – Ngoài phố | trang 17
THẾ HOÀI Mầu mắt người yêu | trang 19
LỮ HỒ Nghĩ về Nguyễn Công Trứ | trang 27
DOÃN QUỐC SỸ Bão vũ trụ | trang 33
NGUYỄN QUANG ĐÀM Vài ý kiến về trường đại học | trang 39
THÁI BẠCH Bộ mặt Đồng Tháp | trang 45
CAO THIÊN LƯƠNG Mây đầu núi | trang 51
TRẦN DẠ TỪ Một bài thơ – Và chủ nhật – Mỏi | trang 55
MAI TRUNG TĨNH Nửa đêm | trang 57
VĨNH LỘC Những chiều mưa | trang 58
TRẦN PHONG Đôi mắt | trang 60
TÔ THÙY YÊN Để phục hồi hội họa | trang 68
NGỌC BÍCH Câu truyện khiếm đề | trang 72
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: THÁI TUẤN: Triển lãm sơn dầu và sơn mài của Văn Thịnh vàThy (77) – Phòng tranh của bà Hồ thị Linh (78); THANH MỴ: Triển lãm H. Hưu (78) –Triển lãm Phạm Tòng (79); HỒ NAM: Juan Ramon Zimenez (80)
———-
SÁNG TẠO số 28 – 29 tháng 1 – 2 năm 1959. Giai phẩm mùa xuân Kỷ Hợi
Nội dung:
SÁNG TẠO Gửi bạn đọc | trang 1
THANH TÂM TUYỀN Đêm | trang 2
LỮ HỒ Hoa muộn | trang 11
NGUYỄN SỸ TẾ Nghĩ thầm | trang 17
TRẦN THANH HIỆP Ngày cũ | trang 24
DOÃN QUỐC SỸ Hương nhân loại | trang 30
HOÀNG ANH TUẤN Điệu nhạc tắt đèn | trang 39
THÁI TUẤN Sáng tạo | trang 42
QUANG NINH Khái niệm về chủ nghĩa hiện sinh | trang 43
LAN ĐÌNH Thương nhau thì về | trang 49
HOÀNG BẢO VIỆT Tình yêu , thình bạn , mùa xuân | trang 59
NGUYÊN SA Đằng sau | trang 66
MAI TRUNG TĨNH Những hạt ba dăng của Niêm | trang 71
TRẦN DẠ TỪ Bài kỷ niệm | trang 80
VƯƠNG TÂN 30 tháng chạp – Ngày đầu năm – Đi trốn | trang 84
THÁI BẠCH Lân Sài goong | trang 87
THAO TRƯỜNG Xác chết | trang 92
VƯƠNG TÂN Mùa xuân căn gác đầy người | trang 97
PHẠM NGUYÊN VŨ Thơ cho Helena Okavitch | trang 103
THẠCH CHƯƠNG Đối thoại | trang 105
DƯƠNG NGHIỄM MẬU Rươu , chưa đủ | trang 109
NGUYÊN SA Tương tư – Mời | trang 119
DUY THANH Xuân – Một mình – Giản đơn | trang 121
MAI THẢO Những ngày tháng mới | trang 122
———-
SÁNG TẠO số 30 tháng 5 năm 1959
Nội dung:
THẠCH CHƯƠNG Sonnet | trang 1
THANH TÂM TUYỀN Barbara (dịch thơ Jacques Prevert) | trang 1
DIÊN NGHỊ Thương nhớ | trang 3
HOÀNG BẢO VIỆT Hy vọng | trang 4
SAO BĂNG Người ở đâu | trang 7
NGUYỄN SỸ TẾ Chờ sáng | trang 15
SONG LINH Bức tranh | trang 19
MAI TRUNG TĨNH Ao ước | trang 27
LAN ĐÌNH Hàng xóm | trang 28
PHẠM NGUYÊN VŨ Dạ khúc | trang 29
DOÃN QUỐC SỸ Đoàn người hóa khỉ | trang 33
VIỆT TƯ Nguyễn công Trứ | trang 43
THẠCH CHƯƠNG Một đóa hồng cho Emily | trang 50
LÔI TAM Cơn mưa | trang 59
NGUYỄN THIỆU LẬU Tìm hiể non nước nhà | trang 65
THAO TRƯƠNG Riêng tư | trang 70
QUA CÁC BỘ MÔN VĂN NGHỆ: NGUYỄN SỸ TẾ: Việt Nam văn học toàn thư của Hoàng Trọng Miên (76); TRẦN THANH HIỆP: Để hiểu Đạo Phật của Phương Bối (77); THANH TÂM TUYỀN: Trí thức làm dáng (78); HỒ NAM: Giòng thơ sang mùa của Hà Phương – Kịch Buôn M”Rong (80)
———-
SÁNG TẠO số 31 tháng 9 năm 1959
Nội dung:
THANH TÂM TUYỀN Nỗi buồn trong thơ hôm nay | trang 1
NGUYÊN SA 20 – Tháng sáu trời mưa | trang 7
TRẦNNGUYỄN Đôi mắt | trang 10
TÔ THÙY YÊN Trời mưa đêm xa nhà | trang 11
CUNG TRẦM TƯỞNG Nghĩa địa – Ngủ | trang 12
THAO TRƯỜNG Làm quen | trang 13
CUNG THƯ Nhân những vấn đề về chủ âm tính trong
âm nhạc Tây phương | trang 22
TRẦNNGUYỄN Nhật ký | trang 35
DƯƠNG NGHIỄM MẬU Tiếng nói | trang 41
TẠ TỴ Nếu một ngày nào | trang 51
HUY OANH Verlaine , nhà thơ tượng trưng | trang 54
DOÃN QUỐC SỸ Đoàn người hóa khỉ | trang 72



Tạp chí Sáng Tạo (bộ mới, 7 số)
Diễn đàn văn học nghệ thuật hôm nay. Tạp chí xuất bản ngày mùng 1 mỗi tháng, Chủ nhiệm: MAI THẢO, Quản lý: ĐẶNGKIM
BAN BIÊN TẬP: Doãn Quốc Sỹ – Duy Thanh – Mai Thảo – Nguyễn Sỹ Tế – Thái Tuấn – Thanh Tâm Tuyền – Tô Thùy Yên – Trần Thanh Hiệp
———-
SÁNG TẠO bộ mới số 1 tháng 7 năm 1960
Nội dung:
Bộ biên tập Lời nói đầu | trang 1
Tám tác giả Thảo luận: NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
Doãn Quốc Sỹ – Duy Thanh – Mai Thảo
Nguyễn Sỹ Tế – Thanh Tâm Tuyền – Trần
Thanh Hiệp – Tô Thùy Yên – Thái Tuấn | trang 1
THANH TÂM TUYỀN Mặt trời tìm thấy | trang 19
DUY THANH Chiếc lá | trang 26
DOÃN QUỐC SỸ Đại học xá | trang 33
THẠCH CHƯƠNG Sự chán chường trong việc phê bình văn nghệ | trang 52
TÔ THÙY YÊN Niềm bí ẩn trong cái chết của một thanh niên | trang 61
HUY OANH Giòng sông | trang 77
MAI THẢO Sau tám tháng im lặng | trang 87
TRẦN THANH HIỆP Để chúng ta được thấy mặt nhau | trang 100
NGUYỄN SỸ TẾ Giữa hai giấc ngủ | trang 107
———-
SÁNG TẠO bộ mới số 2 tháng 8 năm 1960
Nội dung:
Mười tác giả NÓI CHUYỆN VỀ THƠ BÂY GIỜ
Cung Trầm Tưởng – Doãn Quốc Sỹ – Duy Thanh
Mai Thảo –Huy Oanh – Nguyễn Sỹ Tế – Thanh
Tâm Tuyền – Tô Thùy Yên – Trần Thanh Hiệp | trang 1
THANH TÂM TUYỀN Buổi sáng ngoài bãi biển | trang 18
TÔ THÙY YÊN Ba dấu chân trên một quãng sầu | trang 31
THÁI TUẤN Đứng trước giá vẽ hôm nay | trang 36
DOÃN QUỐC SỸ Vỡ bờ | trang 41
MAI THẢO Về chuyến viễn du bí mật cuối cùng | trang 52
THẠCH CHƯƠNG Thơ – Thơ dịch | trang 68
SAO TRÊN RỪNG Ngàn khơi | trang 75
DUY THANH Lớp gió | trang 81
DƯƠNG NGHIỄM MẬU Tiếng động trên da thú | trang 90
THANH TÂM TUYỀN Thơ | trang 100
TRẦN THANH HIỆP Sự thưởng ngoạn nghệ thuật bây giờ | trang 103
———-
SÁNG TẠO bộ mới số 3 tháng 9 năm 1960
Nội dung:
Chín tác giả Nói chuyện: NGÔN NGỮ MỚI TRONG HỘI HỌA
Duy Thanh – Huỳnh Văn Phẩm – Mai Thảo
Ngọc Dũng – Nguyễn Sỹ Tế – Thái Tuấn
Thanh Tâm Tuyền – Tô Thùy Yên – Trần Thanh Hiệp | trang 1
NGUYỄN SỸ TẾn đèn | trang 22
TRẦN THANH HIỆP Độc thoại | trang 31
THANH TÂM TUYỀN Nghệ thuật đen | trang 35
DOÃN QUỐC SỸ Vỡ bờ | trang 49
HUY OANH Miếu âm hồn | trang 58
NGỌC DŨNG Biên giới của người điên | trang 66
THẠCH CHƯƠNG Trình bay và phê bình hai quan niệm nổi loạn
của Albert Camus | trang 68
DUY THANH Bài thơ sầu tám khúc | trang 89
TÔ THÙY YÊN Người đánh bạc | trang 93
MAI THẢO Những cái đích phóng về trước mặt | trang 100
———-
SÁNG TẠO bộ mới số 4 tháng 10 năm 1960
Nội dung:
Tám tác giả Nói chuyện:
NHÌN LẠI VĂN NGHỆ TIỀN CHIẾN Ở VIỆT NAM
Duy Thanh – Mai Thảo – Ngọc Dũng
Nguyễn Sỹ Tế – Thanh Tâm Tuyền – Thái Tuấn
Tô Thùy Yên – Trần Thanh Hiệp | trang 1
THANH TÂM TUYỀN Nguyên | trang 17
DUY THANH Chân dung | trang 21
THẠCH CHƯƠNG Tinh cầu | trang 23
NGUYỄN SỸ TẾ Ý thức nghệ thuật | trang 32
THAO TRƯỜNG Mầu và sắc | trang 42
VIÊN LINH Đời rút xuống | trang 47
DOÃN QUỐC SỸ Vỡ bờ | trang 49
HUY OANH Mưa trên thành phố | trang 59
FRANZ KAFKA Trầm tưởng ( Thạch Chương dịch) | trang 69
THANH TÂM TUYỀN Thềm sương mù | trang 72
DUY THANH Nói chuyện với Kazuo Kobagashi | trang 93
TRẦN THANH HIỆP Giưa hai người | trang 98
CUNG TRẦM TƯỞNG Thoát sác | trang 100
MAI THẢO Người línhdương | trang 102
———-
SÁNG TẠO bộ mới số 5 tháng 11 năm 1960
Nội dung:
Bảy tác giả KỶ NIỆM QUÁCH THOẠI
Thanh Tâm Tuyền – Trần Thanh Hiệp
Duy Thanh – Hồ Man – Ngọc Dũng
Lý Hoàng Phong – Mai Thảo | trang 1
HUY OANH Sáu bài thơ dịch | trang 14
THÁI TUẤN Bồng lai | trang 21
QUÁCH THOẠI Những bài thơ tình đầu tiên | trang 33
DOÃN QUỐC SỸ Vỡ bờ | trang 39
VIÊN LINH Trong giấc mộng tàn | trang 56
THANH TÂM TUYÊN Thềm sương mù | trang 59
ALBERTO MORAVIA Hai người bạn | trang 75
CUNG TRẦM TƯỞNG Tật nguyền | trang 80
VĨNH LỘC Khoảng lộ trình cũ | trang 82
THẠCH CHƯƠNG Giới thiệu một nhận thức siêu thực về nghệ thuật | trang 97
NGUYỄN SỸ TẾ Chết trong tâm hồn | trang 103
———-
SÁNG TẠO bộ mới số 6 tháng 12 năm 1960 và tháng 1 năm 1961
Nội dung:
MAI THẢO Con đường trở thành và tiến tới
của nghệ thuật hôm nay | trang 1
SAO TRÊN RỪNG Nỗi mệt mỏi của kiếp người | trang 16
DOÃN QUỐC SỸ Người ôm mùa xuân nguyên vẹn | trang 25
HUY OANH Hồi chuông báo tử | trang 41
ALBERT CAMUS Người đàn bà ngoại tình | trang 49
VIÊN LINH Sáu bài thơ lục bát | trang65
THANH TÂM TUYỀN Thềm sương mù | trang 69
TRẦN DẠ TỪ Buổi trưa về Thị Nghè | trang 86
VĨNH LỘC | trang 4 | trang 88
TRẦNNGUYỄN Màu đen | trang 95
DƯƠNG NGHIỄM MẬU Làm thân con gái | trang 99
———-
SÁNG TẠO bộ mới số 7 tháng 9 năm 1961
Nôi dung:
MAI THẢO Nghệ thuật , sự báo đông khẩn thiết
và thường trực của ý thức | trang 1
TRẦN THY NHÃ CA Rồi đôi chân của núi | trang 17
NGUYỄN ĐĂNG Đời sống trong biệt thự | trang 21
LAN ĐÌNH Hai mùa xuân hai cuộc đời | trang 32
VĨNH LỘC Chặp tối | trang 49
DƯƠNG NGHIỄM MẬU Buồn vàng | trang 59
VIÊN LINH Còn gì | trang 65
SAO TRÊN RỪNG Những ngày xuân hoang vu | trang 70
THẠCH CHƯƠNG Mắt nhọn | trang 78
THANH TÂM TUYỀN Thềm sương mù | trang 81
TRẦN DẠ TỪ Khúc dĩ vãng | trang 96
VƯƠNG TÂN Hai mươi | trang 100
TRƯỜNG DUY Những ngày ở biển | trang 102
———-
Tạp chí Sáng Tạo số 7 bộ mới tháng 9 năm 1961 là số báo cuối cùng. Hết bảng mục lục của tạp chí Sáng Tạo: 31 + 7 = 38 số
SÁCH BÁO THAM KHẢO
 NGƯỜI VIỆT – Tuần báo – số 1 xuất bản ngày 27/8/1955 tới số 4 ngày 15/10/1955. Chủ bút Doãn Quốc Sỹ.
 SÁNG TẠO – Tạp chí xuất bản hàng tháng. Từ số 1 (tháng 10/1956) tới số 31 (tháng 9/1959. Bộ mới từ số 1 (tháng 7/1960) tới số 7 (tháng 9/1961). Chủ trương biên tập: Mai Thảo.
 HIỆN ĐẠI – Tạp chí xuất bản hàng tháng. Từ số 1 ( tháng 4/1960) tới số 9 (tháng 12/1960). Chủ trương biên tập: Nguyên Sa.
 THẾ KỶ HAI MƯƠI – Tập san khảo luận sáng tác phê bình văn nghệ. Từ số 1 (tháng 7/1960) tới số 6 (tháng 12/1960). Giám đốc: Nguyễn Cao Hách. Chủ trương biên tập: Nguyễn Khắc Hoạch.
 NIÊN LỊCH CÔNG ĐÀN 1960-1961. Chủ biên: Nguyễn Ngọc Linh.
 THẾ GIỚI – Báo hàng tuần xuất bản ngày thứ bảy. Từ số 1 (ngày 20 tháng 10 năm 1949), tới số 14 (ngày 21/1/1950) Xuân Canh Dần. Chủ nhiệm:Hoài Lang. Thư ký tòa soạn: Dương Tử Giang.
 VĂN – Giai phẩm số tháng 11 năm 1973 – chủ biên Nguyễn Đình Vượng.
 VĂN HÓA NGÀY NAY – Giai phẩm – tập 8 – 1959. Chủ trương biên tập: Nhất Linh.
 HỢP LƯU – Tập san văn học nghệ thuật biên khảo số 24 tháng 8 & 9 năm 1995 – Chủ biên: Khánh Trường – Hoa Kỳ
 THẾ KỶ 21 – Tạp chí ra hàng tháng – số 204 tháng Tư 2006 – Số Tưởng Niệm Thanh Tâm Tuyền – Hoa Kỳ.
 ĐỌC KINH – đoản văn của Vũ Khắc Khoan – An Tiêm xuất bản tại Paris 1990.
 THẢO LUẬN – của 12 tác giả – Sáng Tạo xuất bản – Sài gòn 1965.
 VĂN HỌC MIỀN NAM TỔNG QUAN của Võ Phiến. Văn Nghệ xuất bản lần thứ 3 tại Hoa Kỳ.
 TUYỂN TRUYỆN SÁNG TẠO – Nguyệt san Tân Văn số 29 tháng 9 năm 1970.
 NGHỆ THUẬT – tuần báo – Chủ nhiệm, Chủ bút: Mai Thảo. Thư ký toàn soạn: Viên Linh.
 TỪ ĐIỂN VĂN HỌC bộ mới – Nhà xuất bản THẾ GIỚI – Hà Nội – 2004

No comments:

Post a Comment