Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday 15 December 2016

PHAN NHẬT NAM*HỒ VĂN CHÂM * LÂM CHƯƠNG=NGUYỄN THIÊN THỤ

LEO TOLSTOY * ĐẤT VÀ NGƯỜI

ñÃt Và NgÜ©i
` Nguyên tác: Leo Tolstoy
DÎch giä: NguyÍn Væn Sâm


NgÜ©i chΠljn thæm cô em gái ª vùng quê. ChÒng cô chÎ bán tiŒm ª
thành phÓ, chÒng cô em là m¶t nông phu trong làng. Khi hai chÎ em
chuyŒn trò bên tách trà, cô chÎ b¡t ÇÀu khoe khoang vŠ tiŒn l®i
cûa Ç©i sÓng thÎ thành, vŠ quÀn áo ÇËp cûa h† và con cái, chuyŒn
æn ngon uÓng sܧng, chuyŒn Çi coi hát hò, dåo chÖi, giäi trí...
NgÜ©i em bÎ ch†c tÙc nên phÌ báng låi Ç©i bán tiŒm và biŒn h¶ cho
Ç©i sÓng cûa ngÜ©i ª thôn quê:
- Em không Ç°i cách sÓng cûa em lÃy cách sÓng cûa chÎ Çâu. Có th‹
em sÓng kham kh° Çó, nhÜng ít ra em không vܧng bÆn lo âu. ChÎ có
cu¶c sÓng khá hÖn nhÜng phäi bon chen, nên thÜ©ng Ç‹ mÃt nh»ng gì
Çã có. ChÎ bi‰t mà, tøc ng» nói "vào l‡ hà ra l‡ h°ng" cho nên kÈ
giàu "nÙt ÇÓ Ç° vách" hôm nay æn mày tØng håt cÖm ngày mai xäy ra
hà rÀm. ñ©i chúng em an toàn hÖn. Làm nghŠ nông thì không giàu
chÌ Çû Çút l° miŒng, nhÜng th†. Tøi em không th‹ giàu xø, giàu hú
ÇÜ®c, nhÜng bao gi© cÛng ÇÀy Çû, có æn có Ç‹.
NgÜ©i chÎ khinh khÌnh:
-ñÀy Çû à? ­! Tøi bây ª chung ª ln v§i heo v§i bò thì có. MÀy
Çâu có bi‰t lÎch s¿ sang tr†ng là cái giÓng gì Çâu? M¥c dÀu th¢ng
chÒng mày làm quÀn quÆt cách mÃy Çi n»a, tøi bây cÛng së ch‰t
theo cách tøi bây sÓng, trong s¿ dÖ dáy bÅn thÌu, và lÛ con cûa
tøi bây sau này cÛng vÆy mà thôi.
-¯! VÆy thì có sao? Cô em trä l©i. Dï nhiên công chuyŒn ª Çây c¿c
nh†c khó khæn Çó, nhÜng mà bù låi nó ch¡c ch¡c. ChÒng em không
phäi quy løy ai h‰t. Trong khi Çó anh chÎ ª thành phÓ bi‰t bao
nhiêu là cám d‡, bây gi© thì có th‹ m†i chuyŒn ÇŠu tÓt ÇËp Çó,
nhÜng mà bi‰t Çâu ngày mai ma ÇÜa lÓi qu› dÅn ÇÜ©ng anh sa vô tÙ
Ç° tÜ©ng thì tÃt cä së tan tành h‰t.
ChÎ bi‰t mà, mÃy chuyŒn Çó xäy ra nhÜ cÖm b»a.
Pahom ngÜ©i chÒng, n¢m trên nóc lò, l¡ng tai nghe mÃy ngÜ©i Çàn
bà nói tÀm xàm tÀm lj, nghï thÀm:
- Phäi. TØ nhÕ t§i l§n ÇÀu t¡t m¥t tÓi cày sâu cuÓc bÄm tøi tui
Çâu có thì gi© nghï t§i mÃy chuyŒn tr©i Öi ÇÃt hªi Çó. ChÌ lo là
không có Çû ÇÃt Çai Ç‹ trÒng tr†t thôi. N‰u mà có nhiŠu hä, chÃp
luôn QuÌ SÙ - BiŒt cºa s®!
MÃy ngÜ©i Çàn bà uÓng xong tuÀn trà, nói thêm ba ÇiŠu bÓn chuyŒn
vŠ quÀn áo, giày dép rÒi d†n dËp Çi ngû.
NhÜng có m¶t con Qu› SÙ Çang núp ª ngoài sau cái lò sܪi nghe tÃt cä
nh»ng ÇiŠu Pahom vØa nói. Nó khoái chí khi thÃy bà v® cûa Pahom
Çã dÅn d¡t ông chÒng vào câu nói phách lÓi r¢ng là n‰u h¡n có
thÆt nhiŠu ÇÃt Çai h¡n së không s® chính ngay cä qu› sÙ. "ñÜ®c
rÒi" con qu› sÙ nói thÀm, chúng ta làm m¶t cu¶c thách ÇÃu. Ta së
cho nhà ngÜÖi ÇÃt Çai ÇÀy Çû và b¢ng sÓ ÇÃt Çai này, ta së Ç¥t mi
dܧi quyŠn l¿c cûa ta.

2.
Cånh làng có m¶t ngÜ©i Çàn bà, chû m¶t mänh ÇÃt trung trung
khoäng 300 mÅu. Bà sÓng hòa thuÆn v§i nông dân trong vùng cho t§i
khi bà Ç¥t m¶t ngÜ©i lính giäi ngÛ vào vai trò quän lš cÖ sª cûa
mình. Lão này phåt vå dân chúng luôn. M¥t dÀu Pahom cÓ g¡ng cÄn
tr†ng nhÜng mà khi thì con ng¿a cûa anh dÅm vào Çám lúa kiŠu måch
cûa bà ta, khi thì m¶t con bò låc chân vào vÜ©n, khi thì cä Çàn bò
bæng ngang ÇÒng cÕ khi‰n anh ta luôn bÎ phåt vå.
Pahom Çóng tiŠn phåt, nhÜng anh ta càu nhàu rÒi vŠ nhà v§i b¶ m¥t
cáu kÌnh g¡t gÕng v® con. SuÓt trong mùa hè, Pahom g¥p r¡c rÓi vô
cùng v§i lão quän lš này cho nên khi mùa Çông ljn thì anh vui vÈ
v§i viŒc bÀy súc vÆt Çã có chuÒng Çàng hoàng. M¥c dÀu anh phäi
thêm công viŒc cho súc vÆt æn khi chúng không th‹ thänh thÖi g¥m
cÕ trên ÇÒng nhÜng ít ra anh cÛng Çã thoát khÕi nh»ng lo âu bÆn
bÎu.
Mùa Çông có tin ÇÒn vŠ bà chû ÇÃt s¡p bán mi‰ng ÇÃt và m¶t
ngÜ©i chû quán tr† miŠn trên Çang trä giá. Khi các nông dân trong
vùng nghe chuyŒn, h† Çã vô cùng lo l¡ng.
H† nghï. N‰u mà anh chàng chû quán tÆu ÇÜ®c mi‰ng ÇÃt, chúng mình
së bÎ phåt vå còn n¥ng hÖn cái lão quän lš cûa bà chû cÛ n»a.
Chúng ta tùy thu¶c mi‰ng ÇÃt này mà.
Vì vÆy, tÃt cä nông dân, nhân danh H¶i ñÒng Làng yêu cÀu bà chû
ÇÃt ÇØng bán cho lão chû quán, h† ÇŠ nghÎ mua ÇÃt v§i m¶t giá cao
hÖn. Bà ta ÇÒng š chuyŒn này. H†, k‰ Çó cÓ g¡ng dàn x‰p H¶i ñÒng
Làng mua cä mi‰ng ÇÃt Ç‹ toàn th‹ nông dân cùng làm chû. H† hi
h†p hai lÀn Ç‹ thäo luÆn ÇiŠu Çó, nhÜng vÅn không giäi quy‰t ÇÜ®c
vÃn ÇŠ. Con qu› sÙ gieo r¡c mÓi bÃt hòa gi»a m†i ngÜ©i nên dân
làng không Çi ljn ÇÜ®c m¶t thÕa thuÆn nào. CuÓi cùng h† quy‰t ÇÎnh månh ai nÃy mua phÀn mình tùy theo túi tiŠn. Bà chû ÇÃt cÛng ÇÒng š v§i
chÜÖng trình này.
M§i Çây Pahom nghe r¢ng lão láng giŠng Çang mua næm mÜÖi mÅu, bà
chû ÇÃt Çã ÇÒng š nhÆn m¶t nºa tiŠn m¥t, cho chÎu phÀn còn låi
ljn sang næm.
Pahom cäm thÃy tÙc tÙc.
H¡n nghï thÀm: BÕ mË, ÇÃt bÎ lÃn lÀn mòn, rÒi ta không có mi‰ng
nào cho coi! H¡n bàn v§i v®:
H† mua ÇÃt, mình cÛng phäi mua Ƕ 20 mÅu ch§! Cu¶c sÓng trª nên
khó khæn rÒi. Lão quän lš Çang làm bÀm làm giÆp mình v§i mÃy cái
vø phåt vå.
V® chÒng vùng nhau bàn thäo cách mua. H† Çã Ç‹ dành ÇÜ®c m¶t træm
rub. H† bán m¶t con ng¿a con, nºa sÓ ong mÆt, Ç® m¶t th¢ng con
lÃy tiŠn trܧc, mÜ®n phÀn còn låi tØ ngÜ©i anh em c¶t chèo, tÃt
cä góp låi ÇÜ®c nºa sÓ tiŠn mua ÇÃt.
Xong, Pahom l¿a m¶t mi‰ng ÇÃt Ƕ 40 mÅu, m¶t phÀn có nhiŠu cây
cÓi, rÒi ljn bà chû ÇÃt thäo luÆn. Hai Çàng cuÓi cùng ÇÒng š
nhau, h¡n b¡t tay bà ta Ç‹ giao k‰t, Ç¥t m¶t sÓ tiŠn c†c rÒi cùng
nhau ra tÌnh kš b¢ng khoán. Theo kh‰ ܧc, anh trä phân nºa tiŠn
trܧc, phÀn còn låi trä trong vòng hai næm.
Bây gi© Pahom có ÇÃt Çai cûa riêng mình, anh vay håt giÓng, gieo
trÒng trên mãnh ÇÃt Çã mua. Mùa màng thu hoåch khá, trong vòng
m¶t næm thì Pahom Çã trä ÇÜ®c tÃt cä n® nÀn cä cho chû ÇÃt lÅn
ngÜ©i anh c¶t chèo... Gi© Çây Pahom nghiÍm nhiên thành chû ÇÃt,
cÀy x§i, gieo trÒng trên ÇÃt mình, c¡t rÖm trên ru¶ng mình, ch¥t
cây trên ÇÒng cÕ mình. Khi ra ÇÒng v« ÇÃt hay nhìn luÓng b¡p Çang lên
ho¥c ngó thäm cÕ xanh trên ÇÒng, lòng h¡n r¶n rã. CÕ m†c, hoa nª nÖi
Çây ÇÓi v§i h¡n có vë gì khác v§i cÕ hoa nÖi khác. Trܧc Çây khi Çi
ngang qua cÛng mãnh ÇÃt này, tâm trång h¡n dºng dÜng nhÜ khi Çi
qua bÃt cÙ mãnh ÇÃt nào khác, nhÜng nay lòng h¡n khác h¤n.
3. Cho nên Pahom rÃt b¢ng lòng, và m†i chuyŒn së ti‰p tøc tÓt ÇËp
n‰u ngÜ©i ta chÌ viŒc ÇØng Çi bæng qua ru¶ng lúa hay ÇÒng cÕ cûa
h¡n. PhÀn l§n h¡n phän ÇÓi h† lÍ phép, nhÜng mà h† chÙng nào tÆt
nÃy: b»a thì tøi chæn bò Ç‹ bò cûa làng Çi thÖ thÄn trong ÇÒng
cÕ, b»a thì ng¿a dÅm nát rÅy b¡p, Pahom lÀn nào cÛng Çu°i súc vÆt
Çi và bÕ qua, trong m¶t khoäng th©i gian thÆt dài h¡n nhÅn nhÎn
không truy tÓ ai. NhÜng sau cùng h¡n mÃt kiên nhÅn và kiŒn ª Tòa
Án ÇÎa phÜÖng. H¡n bi‰t r¢ng chuyŒn này xäy ra vì mÃy ngÜ©i nông
dân Çó cÀn ÇÃt, và không có š xÃu xa trong vø này, nhÜng rÒi h¡n
nghï: "Không th‹ bÕ qua vø này ÇÜ®c, n‰u không h† së phá nát h‰t
cÖ nghiŒp cûa mình. H† phäi ÇÜ®c dåy cho ‡t bài h†c". Vì vÆy h¡n
m©i h† ljn, giäi thích cho h†, m¶t lÀn, hai lÀn, rÒi thì vài
ngÜ©i bÎ phåt vå. Sau m¶t th©i gian, nh»ng ngÜ©i láng giŠng cûa
Pahom ác cäm v§i h¡n vŠ chuyŒn Çó, thÌnh thoäng h† cÓ š Ç‹ cho
súc vÆt dÅm vào ÇÃt cûa h¡n. Ngay cä m¶t ngÜ©i nào Çó Çêm ljn
xông vào rØng cûa h¡n ÇÓn ngã næm cây chanh còn non. M¶t hôm
Pahom Çi qua rØng, nhÆn thÃy có khoäng trÓng. H¡n ljn gÀn hÖn và
thÃy mÃy thân cây Çã tróc vÕ n¢m læn lóc dܧi ÇÃt cånh Çó trÖ trÖ
mÃy gÓc còn sót låi. Pahom n°i cÖn tam bành:
"N‰u chÌ ÇÓn räi rác thì cÛng ÇÜ®c Çi, Ç¢ng này th¢ng Ç‹u Çó ÇÓn
cä m¶t lùm. Tao mà bi‰t ÇÜ®c th¢ng nào hã, tao trä ÇÛa liŠn,
không nhÎn Çâu".
H¡n n¥n óc nghï coi ngÜ©i nào. Sau cùng h¡n quy‰t ÇÎnh, chÌ có
cái th¢ng Simon thôi, hÕng ai vô Çó ÇÜ®c. RÒi h¡n ljn tråi cûa Si
mon Ç‹ quan sát, nhÜng không thÃy gì, låi thêm gây ra cãi vã Çôi
co. Tuy nhiên bây gi© thì h¡n ch¡c nhÜ m¶t v§i m¶t là hai là
Simon Çã làm chuyŒn này và h¡n ÇÜa ÇÖn khªi tÓ. Simon bÎ m©i ra
hÀu tòa. Vø kiŒn xº t§i lui nhÜng rÓt cuc Simon cÛng ÇÜ®c tr¡ng
án vì không có Çû y‰u tÓ bu¶c t¶i. Pahom còn cäm thÃy bÃt bình
hÖn, h¡n trút n°i giÆn h©n cûa mình lên ÇÀu mÃy vÎ bô lão và các
quan tòa. "Tøi bây æn xôi chùa nên ngÆm miŒng, h¡n c¢n nh¢n, n‰u
tøi bây thanh khi‰t thì Çâu có Ç‹ cho th¢ng æn tr¶m ÇÜ®c t¿ do
Çâu".
Và Pahom cãi vã cä mÃy ông quan tòa lÅn mÃy ngÜ©i hàng xóm. Có
l©i hæm d†a nhà h¡n së bÎ ÇÓt. Cho nên m¥c dÀu Pahom có nhiŠu ÇÃt
Çai hÖn nhÜng mà ÇÎa vÎ cûa h¡n trong c¶ng ÇÒng còn tŒ hÖn trܧc
nhiŠu.
Khoäng th©i gian này có tin ÇÒn vŠ nhiŠu ngÜ©i sºa soån di chuy‹n
ljn vùng khác.
Pahom nghï: "Tao không cÀn Çi Çâu h‰t. Th¢ng nào Çi Ǫ th¢ng nÃy,
rng ch‡, tao mua låi ÇÃt, n§i rnang trang tråi ra. SÓng dÍ thª
hÖn. Bây gi© còn tù túng quá, chÜa ÇÜ®c thoäi mái".
M¶t hôm Pahom Çang ngÒi ª nhà m¶t ngÜ©i nông dân Çi qua làng tình
c© ghé låi nhà h¡n. Anh ta ÇÜ®c cho ngû qua Çêm và Çäi cÖm tÓi.
Pahom ti‰p chuyŒn anh ta, hÕi tØ Çâu t§i. NgÜ©i lå cho bi‰t ljn
tØ bên kia b© sông Volva. ChuyŒn này dÅn qua chuyŒn kia, ngÜ©i lå
ti‰t l¶ có rÃt nhiŠu ngÜ©i sÓng ª Çó. Anh cho bi‰t lš do tåi sao
ngÜ©i làng anh ljn Çó. Ÿ Çây h† gia nhÆp c¶ng ÇÒng m§i, m‡i ÇÀu
ngÜ©i ÇÜ®c t¥ng 25 mÅu ÇÃt. ñÃt Çai rÃt trù phú tÓt ljn n‡i lúa
måch cao khÕi ÇÀu ngÜ©i, dÀy Ç¥c quÖ chØng vài liŠm là ÇÀy m¶t
bó. Có m¶t ngÜ©i nghèo r§t mÒng tÖi ljn Çó, tay không chÜn ÇÃt mà
bây gi© có t§i sáu con ng¿a, hai con bò.
Lòng ham muÓn cûa Pahom ÇÜ®c khêu g®i.
"Tåi sao mình låi chÎu kh° sª ª cái xó xÌnh này trong khi có th‹
sÓng khá hÖn ª ch‡ khác? Mình së bán ÇÃt Çai và trang tråi ª Çây.
V§i sÓ tiŠn Çó mình låi b¡t ÇÀu m¶t lÀn n»a ª ch‡ m§i, mua m†i thÙ
låi. Ÿ cái ch‡ Çng tiên phäi t§i tÆn m¡t coi xem sao cái Çã".
Khoäng hè thì h¡n ta Çã s¤ng sàng ra Çi. H¡n Çi vŠ phía hå lÜu
sông Volva trên m¶t chi‰c tàu, t§i Samara rÒi l¶i b¶ 300
d¥m n»a m§i t§i ch‡. ñúng nhÜ l©i ngÜ©i lå cho bi‰t, nông dân ª
Çây có rÃt nhiŠu ÇÃt: 25 mÅu công ÇiŠn cÃp cho m‡i ngÜ©i Ç‹ cày
cÃy, ngoài ra có tiŠn cÛng có th‹ mua thêm ÇÃt ngoài v§i giá m¶t
rub rÜ«i m¶t mÅu, mua bao nhiêu cÛng có.
Bi‰t ÇÜ®c tÃt cä nh»ng ÇiŠu cÀn thi‰t, Pahom trª vŠ nhà khi mùa
thu t§i, b¡t ÇÀu bán Çi nh»ng gì h¡n sª h»u. H¡n bán ÇÃt có l©i,
bán tråi Ãp, bán trâu bò, rút chân h¶i viên làng, chÌ còn ch© ljn
mùa xuân Ç‹ cùng gia Çình lên ÇÜ©ng th¿c hiŒn m¶t cu¶c ÇÎnh cÜ
m§i.
4. Sau khi Pahom và gia Çình ljn ch‡ cÜ ngø m§i h¡n liŠn xin gia
nhÆp h¶i ÇÒng cûa m¶t ngôi làng to l§n. H¡n ta b® Ǫ các vÎ Bô
Lão và ÇÜ®c cÃp nh»ng giÃy t© cÀn thi‰t. Næm phÀn ÇÃt công cûa
làng ÇÜ®c c¡t cho các con h¡n sº døng: nghïa là 125 mÅu (không
phäi m¶t mi‰ng l§n mà là nh»ng mãnh nhÕ tách r©i nhau) ngoài cánh
ÇÒng cÕ cûa làng ÇÜ®c sº døng chung cho m†i ngÜ©i.
Pahom d¿ng nhà cºa, mua trâu bò. ChÌ riêng ÇÃt thôi, h¡n Çã có
gÃp 3 lÀn ª ch‡ cÛ mà ÇÃt låi rÃt thích h®p v§i lúa mì. H¡n Çã
thâu huê l®i mÜ©i lÀn nhiŠu hÖn trܧc. H¡n có rÃt nhiŠu ÇÃt trÒng
tr†t cÛng nhÜ ÇÒng cÕ nên có th‹ nuôi bao nhiêu trâu bò tùy š.
Ban ÇÀu, trong tình trång l¶n x¶n cûa viŒc xây d¿ng trang tråi
m§i và °n ÇÎnh ch‡ æn ª, Pahom vØa lòng v§i tÃt cä m†i chuyŒn,
nhÜng sau khi Çã quen nܧc quen cái, h¡n b¡t ÇÀu nghï r¢ng ch‡
này cÛng không Çû ÇÃt cho h¡n. Næm ÇÀu h¡n trÒng lúa mì trên ÇÃt
công ÇÜ®c chia, mùa màng thu hoåch rÃt khä quan. H¡n muÓn ti‰p
tøc trÒng lúa mì n»a, nhÜng låi không Çû ÇÃt công, ÇÃt næm ngoái
không th‹ sº døng låi ÇÜ®c liŠn vì lúa mì phäi gieo trÒng trên
ÇÃt m§i hay ÇÃt hÜu canh. Trong m¶t hay hai næm thì phäi cho ÇÃt
nghÌ cho ljn khi cÕ hoang m†c phû tràn rÒi m§i trÒng ÇÜ®c. Ai
cÛng thích ÇÃt m§i nên không Çû cho m†i ngÜ©i, ngÜ©i ta cãi nhau
loån xå. Nh»ng ngÜ©i ÇÜ®c mùa Çòi ÇÜ®c ÇÃt Ç‹ låi trÒng lúa mì,
kÈ thÃt mùa Çòi giao ÇÃt cho ngÜ©i trung gian Ç‹ có th‹ lÃy tiŠn
trä thu‰. Pahom muÓn trÒng lúa mì thiŒt nhiŠu và mùa màng thiŒt
là tÓt tÜÖi. NhÜng ÇÃt låi ª quá xa làng, lúa mì phäi chª vŠ xa cä
chøc d¥m. Sau m¶t th©i gian, Pahom nhÆn chân r¢ng mÃy ngÜ©i nông
dân trung gian sÓng ª các trang tråi räi rác dÀn dÀn trª nên giàu
có.
H¡n nghï bøng:
"N‰u ta mua vài mi‰ng ÇÃt ngoài và cÃt trang tråi trên Çó, chuyŒn
Ç©i së khác h¤n. Không cÀn phäi chª t§i chª lui xa xôi". ChuyŒn
mua ÇÃt ám änh h¡n ta thÜ©ng tr¿c.
H¡n ti‰p tøc cách làm æn cÛ trong 3 næm, mܧn ÇÃt và trÒng lúa
mì. Mùa màng tÓt tÜÖi, huê l®i dÒi dào cho nên h¡n b¡t ÇÀu Ç‹
dành tiŠn. H¡n có th‹ sÓng m¶t Ç©i thoäi mái nhÜng h¡n låi chán
chuyŒn phäi mܧn ÇÃt cûa thiên hå h¢ng næm, chán luôn chuyŒn
tranh giành Ç‹ ÇÜ®c mܧn. Ÿ Çâu mà có ÇÃt tÓt thì nông dân Ç° xô
vŠ chp lÃy ngay, cho nên phäi Çánh hÖi thiŒt giÕi, n‰u không thì
không ÇÜ®c mi‰ng nào. Næm thÙ ba h¡n và m¶t ngÜ©i trung gian
chung nhau mܧn m¶t cánh ÇÒng cÕ cûa vài ngÜ©i nông dân, xong vø
cÀy x§i ÇÃt thì chuyŒn cãi vã xãy ra và mÃy ngÜ©i nông dân Çem
t§i tøng Çình. TÃt cä chuyŒn làm æn Çó dËp bÕ luôn, bao nhiêu
công sÙc bÕ ra trª thành công cóc. Pahom nghï, n‰u ÇÜ®c ÇÃt cûa
mình, thì Çâu có bÎ lŒ thu¶c ai, Çâu có mÃy chuyŒn b¿c mình b¿c
mÅy này. RÒi Pahom b¡t ÇÀu ki‰m mua ÇÃt. H¡n ta ljn m¶t ngÜ©i Çã
có 1300 mÅu, gi© Çang g¥p khó khæn nên muÓn bán rÈ. Pahom trä giá
lên xuÓng v§i ông ta, sau cùng hai bên ngã giá 1500 rub, trä
trܧc b¢ng tiŠn m¥t m¶t phÀn, phÀn còn låi trä sau. TÃt cä m†i
chuyŒn thu x‰p xong, chÌ còn ch© k‰t thúc b¢ng giÃy t© thì m¶t
ngÜ©i con buôn mÍ cÓc Çi ngang qua làng tình c© ghé låi nhà Pahom
m¶t ngày Ç‹ cho ng¿a æn. Anh ta dùng trà v§i Pahom và hai bên
chuyŒn vãn v§i nhau. NgÜ©i thÜÖng nhân cho bi‰t anh ta vØa m§i
trª vŠ tØ vùng ÇÃt cûa ngÜ©i Bashkirs, rÃt xa, ª Çó anh ta mua 13
ngàn mÅu ÇÃt chÌ v§i giá m¶t ngàn rub. Pahom hÕi t§i thì thÜÖng
nhân Çáp: "ChÌ cÀn làm bån v§i thû lãnh cûa h†. Tôi bÕ ra vài món
hàng nhÜ quÀn áo b¢ng tÖ, thäm, trÎ giá khoäng 100 rub, ki‰m thêm
m¶t thùng trà, m¶t sÓ rÜ®u cho mÃy tay ham uÓng, và tôi mua ÇÜ®c
mi‰ng ÇÃt, tính ra không t§i 3 kopeck m‡i mÅu. Anh ta ÇÜa tÃm
b¢ng khoán cho Pahom xem, nói:m¶t thäo nguyên chÜa hŠ ÇÜ®c khai
thác trÒng tr†t gì".
Pahom hÕi Çi hÕi låi nhiŠu câu, thÜÖng nhân nói:
-"ñÃt ª Çó h¢ng hà sa sÓ, anh Çi m¶t næm cÛng không h‰t, tÃt cä
ÇŠu thu¶c vŠ ngÜ©i Bashkirs. H† hiŠn nhÜ ÇÃt cøc, ta có th‹ mua
ÇÃt v§i giá rÈ måt".
Pahom nghï thÀm. Hùm! V§i m¶t ngàn rub tåi sao mình chÌ tÆu ÇÜ®c
có 1300 mÅu mà låi còn gánh n®. N‰u t§i Çó mua ÇÃt, mình có th‹
có hÖn mÜ©i lÀn, cÛng v§i sÓ tiŠn Çó...
5.
Pahom hÕi kÏ lÜ«ng vŠ cách t§i ch‡ Çó. LiŠn sau khi thÜÖng nhân
mÍ cÓc tØ giä, h¡n ta sºa soån ra Çi. H¡n Ç‹ v® ª nhà lo chuyŒn
nông tråi lên ÇÜ©ng v§i m¶t ngÜ©i giúp viŒc. Trên ÇÜ©ng Çi, h†
ngØng låi mt thành phÓ mua thùng trà, m§ rÜ®u, thêm vài món quà
theo l©i chÌ dÅn cûa gã buôn bán mÍ cÓc.
H† Çi, Çi mãi, hÖn 300 d¥m, ljn ngày thÙ bäy cûa cu¶c hành trình
h† ljn ch‡ ngÜ©i Bashkirs d¿ng lŠu. ñúng nhu ngÜ©i kia nói, dân
ª Çây sÓng trên m¶t thäo nguyên, cånh sông, trong nh»ng túp lŠu
phû nÌ. H† không trÒng tr†t cÛng không æn nh»ng thÙ làm b¢ng b¶t
mì. Møc súc và ng¿a cûa h† æn cÕ trên ÇÒng hoang. Ng¿a con ÇÜ®c
c¶t sau lŠu, ng¿a cái ÇÜ®c dÅn ljn cho bú m¶t ngày hai lÀn. H†
v¡t s»a ng¿a cái làm kumiss. ñàn bà làm kumiss, h† cÛng làm
phó-mát n»a. ñàn ông chÌ viŒc uÓng kumiss, uÓng trà, æn thÎt cØu,
hút thuÓc. H† rÃt cÜ©ng tráng và vui vÈ. Trong suÓt mùa hè h†
không bao gi© bÆn tâm làm bÃt cÙ chuyŒn gì. H† thÃt h†c, không
bi‰t ch» nghïa nhÜng vÓn là nh»ng kÈ tÓt bøng.
Khi thÃy Pahom, tØ trong lŠu h† chåy túa ra vây quanh. M¶t ngÜ©i
thông ngôn ÇÜ®c m©i t§i. Pahom cho bi‰t h¡n ljn Çây vì chuyŒn ÇÃt
Çai. NgÜ©i Bashkirs tÕ vÈ vui thích, dÅn h¡n ta vào cái lŠu ÇËp
nhÃt, m©i ngÒi xuÓng m¶t cái gÓi Ç¥t trên thäm, h† ngÒi vây
quanh. Pahom ÇÜ®c Çãi kumiss và trà. H† cÛng gi‰t cØu m©i h¡n
n»a. Pahom lÃy quà và trà ra chia cho m†i ngÜ©i. H† vô cùng hÙng
khªi, nói chuyŒn v§i nhau liŠn miŒng, sau cùng bi‹u ngÜ©i thông
ngôn dÎch låi phÀn cÀn thi‰t.
- H† muÓn nói v§i ông h† thích ông, phong tøc cûa chúng tôi là
làm tÃt cä nh»ng gì có th‹ làm ÇÜ®c Ç‹ vui lòng khách và Çáp låi
nh»ng món quà Çã nhÆn. Ông Çã cho chúng tôi, bây gi© ông nói Çi,
ông thích nhÃt nh»ng gì cûa chúng tôi, nói Çi, có th‹ chúng tôi
së t¥ng cho ông.
Pahom trä l©i:"Món làm tôi thích nhÃt ª Çây là ÇÃt Çai cûa các
ông. ñÃt Çai ª vùng tôi Çông Çúc quá và Çã c¢n c‡i, ÇÃt cûa các
ông thì cò bay th£ng cánh, dòm mút m¡t thêm n»a låi phì nhiêu.
Tôi chÜa tØng thÃy ÇÃt nào nhÜ vÆy".
NgÜ©i thông ngôn nói låi v§i ngÜ©i Bashkirs nh»ng gì Pahom Çã
nói. H† bàn cãi v§i nhau m¶t chÆp. Pahom không th‹ hi‹u h† nói
gì, chÌ thÃy h† quá vui và nghe h† reo hò, cÜ©i giªn. RÒi thì h†
yên l¥ng ngó chæm chæm Pahom khi ngÜ©i thông ngôn nói:
-"H† bäo tôi nói v§i ông, Ç‹ Çáp låi quà cáp cûa ông, h† rÃt vui
lòng t¥ng ông ÇÃt, ông muÓn bao nhiêu cÛng ÇÜ®c. Ông cÙ viŒc chÌ
ra, ÇÃt Çó së thu¶c vŠ ông".
Dân chúng Bashkirs låi nói chuyŒn v§i nhau m¶t lúc thì b¡t ÇÀu
bàn cãi. Pahom hÕi xem h† bàn cãi chuyŒn gì, ngÜ©i thông ngôn cho
bi‰t có ngÜ©i muÓn hÕi š ông x‰p, không nên quy‰t ÇÎnh trong lúc
ông ta v¡ng m¥t trong khi m¶t sÓ khác cho r¢ng không cÀn thi‰t
phäi Ç®i ông ta trª vŠ.
6.
Trong khi ngÜ©i Bashkirs bàn luÆn, m¶t ngÜ©i Ƕi m¶t cái nón da
chÒn rÃt l§n xuÃt hiŒn. M†i ngÜ©i yên l¥ng ÇÙng dÆy. NgÜ©i thông
ngôn nói:" ñây chính là ông x‰p cûa chúng tôi Çó".
Pahom liŠn løc ra b¶ quÀn áo ÇËp nhÃt và 5 cân trà dâng t¥ng cho
ông ta. Ông x‰p nhÆn t¥ng phÄm và ngÒi xuÓng ª ch‡ danh d¿. NgÜ©i
Bashkirs tÙc thì b¡t ÇÀu k‹ cho ông ta ÇiŠu gì Çó. Ông x‰p l¡ng
nghe m¶t lúc, b¡t ÇÀu ra hiŒu bäo h† im rÒi nói v§i Pahom b¢ng
ti‰ng Nga:
-"ChuyŒn Çó ÇÜ®c mà. Ch†n bÃt cÙ mi‰ng ÇÃt nào anh muÓn, chúng
tôi có h¢ng-hà-sa-sÓ".
"Sao mình låi có th‹ lÃy bao nhiêu cÛng ÇÜ®c cà?" Pahom nghï
thÀm, "mình phäi Çòi cho ÇÜ®c m¶t b¢ng khoán Ç‹ ch¡c æn, n‰u
không bây gi© h† nói cûa anh Çó sau này h† låi lÃy låi thì cÛng
nhÜ không."
Pahom nói l§n: "RÃt cám Ön vŠ lòng tº t‰ cûa ngài. Ngài có nhiŠu
ÇÃt, tôi chÌ muÓn ít thôi, nhÜng tôi muÓn ch¡n ch¡n mi‰ng nào là
cûa tôi. Ngài có th‹ cho Ço và Ç¥t dܧi quyŠn sº døng cûa tôi
không? Con ngÜ©i sÓng nay ch‰t mai. Quí vÎ tº t‰ cho tôi, nhÜng
con cái cûa quí vÎ bi‰t Çâu låi muÓn Çòi låi sau này?".
NgÜ©i x‰p nói: "Anh nói rÃt chí lš. Chúng tôi së Ç¥t ÇÃt Çai dܧi
quyŠn sº døng cûa anh".
Pahom ti‰p tøc: "Tôi nghe trܧc Çây Ngài Çã cho m¶t ngÜ©i bán
buôn mÍ cÓc m¶t sÓ, và Çã kš b¢ng khoán Çàng hoàng. Tôi xin ÇÜ®c
Ngài làm giÓng nhÜ vÆy".
NgÜ©i x‰p Çã hi‹u.
-"ñÜ®c", ông ta Çáp: ChuyŒn Çó thì ÇÜ®c thôi, dÍ dàng. Chúng tôi
có m¶t bän mÅu, chúng tôi së Çi ra thành phÓ v§i anh và làm b¢ng
khoán theo Çúng thû tøc".
Pahom hÕi: "NhÜng mà giá cä ra sao?".
-Giá cä cûa chúng tôi thì trܧc sao sau vÆy: M¶t ngàn rub m¶t
ngày."
Pahom không hi‹u.
-"M¶t ngày? ño Çåc theo ki‹u gì vÆy? M¶t ngày là bao nhiêu mÅu?".
-"Chúng tôi không bi‰t tính ra là bao nhiêu, ngÜ©i x‰p Çáp, "chúng tôi
bán theo ngày. Anh Çi b¶ vòng quanh trong m¶t ngày. Bao nhiêu ÇÃt
trong Çó së thu¶c vŠ anh, và giá là 1000 rub m¶t ngày."
Pahom ngåc nhiên h‰t sÙc.
"NhÜng mà m¶t ngày Çi vòng quanh nhiŠu l¡m".
NgÜ©i x‰p cÜ©i: "TÃt cä së thu¶c vŠ anh. NhÜng v§i m¶t ÇiŠu kiŒn.
N‰u anh không trª vŠ trong ngày nÖi ch‡ anh khªi hành, anh së mÃt
tiŠn."
-NhÜng mà làm sao ghi Çoån ÇÜ©ng tôi Çi qua?"
-"Này nhé! Chúng tôi së ljn ch‡ anh chÌ ÇÎnh, ÇÙng ª Çó, anh phäi
b¡t ÇÀu tØ Çó và Çi m¶t vòng, mang theo m¶t cái xu°ng. Ch‡ nào
anh thÃy cÀn, thì Çánh dÃu. M‡i ch‡ quËo Çào m¶t cái l‡ và chÃt
m¶t ÇÓng cÕ làm dÃu. Sau Çó chúng ta së Çi m¶t vòng v§i cái cày
våch l¢n nÓi tØ l‡ m¶t. Anh våch cái vòng l§n bao nhiêu kŒ anh,
nhÜng mà trܧc khi m¥t tr©i l¥n anh phäi trª vŠ Çi‹m khªi hành.
Vùng ÇÃt trong vòng anh Çã Çi qua së thu¶cc vŠ anh".
Pahom thích thú không cùng. Cu¶c Çi ÇÜ®c ܧc ÇÎnh vào sáng s§m
ngày mai. H† nói chuyŒn m¶t chÆp, và sau khi uÓng xong m¶t chút
kumiss æn thêm vài mi‰ng thÎt trØu, h† låi dùng trà. Tr©i tÓi. H†
ÇÜa cho Pahom m¶t tÃm nŒm lót lông Ç‹ ngû.
NgÜ©i Bashkirs giäi tán hÙa së h¶i låi sáng hôm sau ngay khi tr©i
m© sáng Ç‹ ljn ch‡ ÇÜ®c ch†n trܧc khi m¥t tr©i m†c.
7.
Pahom êm Ãm trên nŒm lông nhÜng không th‹ d‡ giÃc. H¡n miên man
nghï vŠ ÇÃt Çai.
"RÒi Çây mình së Çánh dÃu m¶t mi‰ng ÇÃt thÆt là b¿. Mình Çi b¶
m¶t ngày 35 d¥m dÍ dàng. Mùa này ngày låi dài n»a. Trong m¶t cái
vòng 35 d¥m thiŒt là khÓi ÇÃt.
NhÜ®ng låi hay là cho tøi nông dân khoäng nào xÃu, gi» mi‰ng ÇÃt
tÓt Ç‹ khai thác. Mua c¥p bò Ç¿c, mܧn thêm vài ngÜ©i phø. BÕ ra
khoäng 150 mÅu làm ÇÃt ru¶ng, phÀn còn låi làm ÇÒng cÕ nuôi møc
súc."
Pahom n¢m trao tráo cä Çêm, chÌ ch®p m¡t chút ÇÌnh trܧc bình
minh. Khó ngû ngon khi n¢m mÖ. H¡n mÖ thÃy mình n¢m trong cái lŠu
này, nghe ti‰ng ai Çó cÜ©i vui ª ngoài. H¡n không bi‰t là ai nên
ngÒi dÆy Çi ra, thÃy ông x‰p cûa dân Bashkirs Çang ngÒi trܧc lŠu
ôm bøng cÜ©i ng¥t nghËo. ñ‰n gÀn ông ta. Pahom hÕi:
"Ông cÜ©i gì vui vÆy?. NhÜng h¡n thÃy ngay Çó không còn là ông
x‰p n»a mà là ngÜ©i buôn mÍ cÓc m§i Çây Çã tØng ª nhà h¡n, Çã
mách cho h¡n vŠ chuyŒn ÇÃt Çai. Trܧc khi Pahom kÎp hÕi ông ta
ljn Çây lâu chÜa thì Çã không còn là ông ta n»a mà là ngÜ©i nông
dân ljn tØ sông Volga tØ lâu l¡m, ª nhà cÛ cûa h¡n. RÒi thì h¡n
thÃy Çó cÛng không phäi là ngÜ©i nông dân Çó n»a, bây gi© låi là
con qu› sÙ v§i Çû cä móng chân và sØng, ngÒi cÜ©i vui, và trܧc
m¥t nó, n¢m phû phøc trên m¥t ÇÃt m¶t ngÜ©i chân không, chÌ m¥c
m‡i cái quÀn và cái áo thung lá. Vía cûa Pahom nhìn kÏ hÖn Ç‹ xem
coi ai n¢m Çó, h¡n thÃy ngÜ©i này ch‰t, mà chính låi là h¡n.
Gi¿t mình kinh hãi, h¡n thÙc dÆy.
"Chiêm bao kÿ cøc thiŒt!". H¡n càu nhàu trong bøng.
Nhìn quanh quÃt, qua cánh cºa mª h¡n thÃy bình minh Çang ló dång.
H¡n nghï thÀm: "T§i gi© Çánh thÙc tøi nó dÆy rÒi. Phäi b¡t tay
vào viŒc". H¡n ÇÙng dÆy, Çánh thÙc ngÜ©i làm (Çang ngû trong xe)
bi‹u h† th¡ng yên cÜÖng và g†i ngÜ©i dân Bashkirs dÆy:
-"ñã t§i gi© ljn ch‡ Ço ÇÃt".
NgÜ©i Bashkirs thÙc dÆy, tø tÆp. Cä ông x‰p cÛng ljn. H† b¡t ÇÀu
uÓng kumiss, m©i Pahom dùng trà, nhÜng Pahom không th‹ Ç®i ÇÜ®c,
h¡n nói: "ñi! T§i gi© rÒi. TrÍ quá!".
8.
Nh»ng ngÜ©i Bashkirs Çã s¤n sàng, tÃt cä cùng lên ÇÜ©ng: ngÜ©i Çi
ng¿a, kÈ lên xe. Pahom lái chi‰c xe nhÕ v§i ngÜ©i giúp viŒc, Çem
theo m¶t cái xu°ng. Khi h† ljn khu ÇÃt, m¥t tr©i ÇÕ bình minh
chi‰u r†i nh»ng tia n¡ng ÇÀu tiên. H† leo lên cái ÇÒi nhÕ (ngÜ©i
dân Bashkirs g†i là Shikkan), xuÓng xe, xuÓng ng¿a tø låi m¶t ÇÎa
Çi‹m.
NgÜ©i x‰p ljn gÀn Pahom dang tay vŠ phía cánh ÇÒng th£ng t¡p nói:
-"Coi nè, tÃt cä ª Çây, xa t§i mút m¡t anh, ÇŠu thu¶c vŠ anh. Anh
có th‹ ch†n phÀn nào anh muÓn".
M¡t Pahom ng©i sáng, tÃt cä thäo nguyên, b¢ng ph¤ng nhÜ lòng bàn
tay, Çen nhÜ håt dÈ, trong nh»ng ch‡ ÇÃt lòng chäo nhiŠu loåi cÕ
m†c cao ngang t§i ng¿c.
NgÜ©i x‰p l¶t cái nón b¢ng da chÒn xuÓng, Ç¥t trên m¥t ÇÃt nói:
-ñây làm dÃu ch‡ này. B¡t ÇÀu tØ Çây và trª låi Çây. TÃt cä vùng
ÇÃt bao gÒm ª trong ÇÜ©ng anh Çi qua së thu¶c vŠ anh".
Pahom lÃy tiŠn bÕ vô nón. H¡n cªi áo khoác, chÌ Ç‹ låi cái áo
thung lá không tay. H¡n mª dây nÎch c¶t ch¥t phía dܧi bøng, bÕ
vô trong áo m¶t gói nhÕ bánh mì, c¶t m¶t chai nܧc vô dây nÎch,
kéo Çôi lûng lên cao, gi¿t lÃy cái xu°ng tØ tay ngÜ©i làm, ÇÙng
trong tÜ th‰ s¤n sàng khªi hành. H¡n dòm quanh quÃt m¶t lúc Ç‹
coi Çi vŠ phía nào cho có l®i - bÓn phía ÇŠu có vë hÃp dÅn, m©i
g†i.
-"Không cÀn", h¡n quy‰t ÇÎnh, mình Çi vŠ phía m¥t tr©i m†c'.
H¡n quay m¥t vŠ hܧng Çông, làm vài Ƕng tác dän gân cÓt trong
khi ch© m¥t tr©i nhú lên khÕi chân tr©i.
"ñØng mÃt thì gi©" h¡n nghï. "Khi tr©i còn mát, Çi là tÓt nhÃt".
Nh»ng tia n¡ng lóa lên khÕi chân tr©i lúc Pahom vác xu°ng
trên vai Çi xuÓng ÇÒi vŠ phía thäo nguyên.
Pahom b¡t ÇÀu Çi thong thä. Sau khi Çi ÇÜ®c khoäng 1000 yard, h¡n
ngØng låi Çào m¶t cái l‡, chÃt cÕ lên thành ÇÓng cho dÍ thÃy, rÒi
låi ti‰p. Bây gi© thì h¡n Çã quen, nên Çi mau hÖn. Sau m¶t chÆp
h¡n låi Çào m¶t cái l‡ khác. H¡n dòm vŠ phía sau, ng†n ÇÒi thÃy
rõ ràng trong ánh n¡ng, ngÜ©i lÓ nhÓ lÃp lánh nh»ng vành s¡t bánh
xe. H¡n ܧc lÜ®ng mình Çã Çi ÇÜ®c 3 d¥m. Tr©i Ãp áp hÖn. H¡n l¶t
áo thung ra, v¡t ngang vai ti‰p tøc Çi n»a. Tr©i Ãm. H¡n ngó m¥t
tr©i - ljn lúc phäi æn sáng.
PhÀn thÙ nhÃt th¿c hiŒn suôn sÈ, nhÜng mà còn 3 phÀn n»a. Còn quá
s§m. Pahom ngÒi xuÓng, lt giày, móc vô giây nÎt, ti‰p tøc Çi.
Bây gi© thì Çi dÍ dàng. Mình phäi Çi thêm 3 d¥m n»a, h¡n nghï
thÀm rÒi quËo trái, ch‡ này ÇÃt tÓt quá, bÕ u°ng. Càng Çi sâu vào
ÇÃt dÜ©ng nhÜ càng tÓt hÖn. H¡n Çi th£ng m¶t chÆp và khi h¡n nhìn
quanh, ng†n ÇÒi Çã khó thÃy, ngÜ©i trên Çó ch£ng khác nào nhÜ Çàn
ki‰n Çen, h¡n chÌ thÃy mÃy cái cây gì Çó lÃp lánh dܧi m¥t tr©i.
A há! Pahom nghï: Phía này nhÜ vÆy là Çû rÒi. QuËo ÇÜ®c rÒi. HÖn n»a, mÒ hôi ranhiŠu quá. Khát nܧc rát c° h†ng.
H¡n ngØng låi Çào m¶t cái l‡ l§n. ChÃt cÕ lên thành ÇÓng. Mª cái
chai, uÓng mi‰ng nܧc, quËo g¡t vŠ phía trái. H¡n Çi mãi, trong
cÕ cao dܧi tr©i nóng cháy da.
Pahom b¡t ÇÀu thÃm mŒt, h¡n ngó tr©i. M¥t tr©i Çúng ng†. Nghï cái
Çã.
H¡n ngÒi xuÓng, æn vài mi‰ng bánh mì, uÓng mÃy h§p nܧc, nhÜng
không dám n¢m s® ngû quên. NgÒi ÇÜ®c m¶t chÆp, h¡n ti‰p tøc Çi
n»a. Ban ÇÀu h¡n Çi dÍ dàng, th¿c phÄm tæng thêm sÙc månh, nhÜng
tr©i n¡ng kinh khûng khi‰n h¡n buÒn ngû. H¡n vÅn ti‰p tøc lê
bܧc, nghï bøng ngày nay nܧc båc, ngày sau cÖm vàng.
VŠ hܧng này h¡n cÛng Çi m¶t Çoån ÇÜ©ng dài, khi ÇÎnh quËo trái
n»a thì h¡n thÃy m¶t vùng ÇÃt trûng Äm thÃp. BÕ khu này cÛng
u°ng, trÒng cây Çai ª Çây h‰t sÄy. H¡n Çi qua luôn ch‡ ÇÃt Çó và
Çào mt cái l‡ ª b© bên kia trܧc khi quËo g¡t phía trái. VŠ phía
ÇÒi, hÖi nóng làm cho không gian mÆp m© nhÜ giao Ƕng; qua cái l©
m© Çó, h¡n thÃy ngÜ©i trên Çó m© nhåt, hÜ äo.
Cha! Mình Çi mÃy cái chiŠu trܧc có b¶ hÖi dài, chiŠu này phäi
cho ng¡n låi b§t. H¡n Ço theo chiŠu thÙ ba, bܧc nhanh hÖn. H¡n
ngó m¥t tr©i: Çang xeo xéo vŠ phía chân tr©i mà h¡n thì chÜa Çi
ÇÜ®c 2 d¥m cûa chiŠu thÙ ba này cûa cái hình ch» nhÆt. Còn 10
d¥m n»a m§i t§i Çích. Không ÇÜ®c, ki‹u này mi‰ng ÇÃt cûa mình méo.
Óm mÃt, phäi Çi th£ng ÇÜ©ng m§i ÇÜ®c. Mình có th‹ Çã Çi quá xa
Çó, nhÜng mà ÇÜ®c nhiŠu ÇÃt cÛng Ǫ.
Vì vÆy Pahom Çào m¶t cái l‡ và quËo th£ng vŠ phía ng†n ÇÒi.
Pahom th£ng vŠ phía ng†n ÇÒi nhÜng mà bây gi© h¡n Çi m¶t cách khó
khæn. N¡ng vÆt h¡n mŒt lã, hai bàn chân không giày bÎ c¡t nát,
Çùi c£ng rã r©i. Mong muÓn ÇÜ®c nghÌ ngÖi, nhÜng h¡n s® trª vŠ
không kÎp trܧc khi m¥t tr©i l¥n. M¥t tr©i không Ç®i ch© ai, Çang
càng lúc chìm xuÓng thÃp dÀn.
BÆy, mình Çã ham Çi quá. N‰u trÍ thì hÜ b¶t hÜ ÇÜ©ng h‰t.
H¡n ngó vŠ phía ng†n ÇÒi rÒi ngó m¥t tr©i. VÅn còn xa Çích quá và
m¥t tr©i thì Çã gÀn chân tr©i rÒi.
Pahom ti‰p tøc Çi, Çi khó nh†c nhÜng h¡n Çi càng lúc càng mau.
Tuy v¶i vã, nhÜng h¡n còn xa ch‡ phäi ljn. H¡n b¡t ÇÀu chåy,
liŒng cái áo, vÃt Çôi ûng, quæng chai nܧc, bÕ cái nón, chÌ gi»
låi chi‰c xu°ng làm nån Ç‹ chÓng.
Làm sao bây gi©? Mình chøp quá nhiŠu cho nên hÜ chuyŒn. Không th‹
nào vŠ kÎp trܧc khi m¥t tr©i l¥n ÇÜ®c.
ñiŠu lo ngåi làm cho h¡n càng høt hÖi hÖn. Pahom ti‰p tøc chåy,
Áo quÀn ܧt ÇÄm mÒ hôi dính Çeo vô ngÜ©i h¡n. MiŒng h¡n khô khÓc
khô rang. Ng¿c h¡n phÒng lên xËp xuÓng nhÜ Óng thøt lò rèn, tim
h¡n ÇÆp månh nhÜ búa nŒn, chân h¡n xiêng xËo, nhÜ không thu¶c vŠ
h¡n n»a. Pahom kinh hãi e r¢ng mình së bÎ ch‰t vì cÓ g¡ng quá
sÙc.
M¥c dÀu s® ch‰t, h¡n vÅn không th‹ ngØng låi.
MŒt lÙ ÇØ tØ sáng t§i gi©, bây gi© bÕ cu¶c thì có là ngu.
H¡n ti‰p tøc chåy mãi, ljn gÀn ng†n ÇÒi, h¡n Çã có th‹ nghe ngÜ©i
Bashkirs reo hò c° võ; nh»ng ti‰ng Òn ào này kích thích h¡n hÖn.
H¡n gom tàn hÖi chåy ti‰p.
M¥t tr©i xuÓng gÃp gÀn chân tr©i, Än dܧi l§p sÜÖng mù, trông to
l§n và ÇÕ nhÜ máu. Bây gi©, vâng bây gi©, m¥t tr©i gÀn l¥n rÒi.
M¥t tr©i thÃp thÆt Çó, nhÜng h¡n cÛng Çã gÀn t§i Çích rÒi. Pahom
có th‹ ngó thÃy ngÜ©i ª trên ÇÒi vÅy hÓi h¡n. Có th‹ thÃy rõ ràng
cái nón da chÒn cûa ngÜ©i x‰p trên m¥t ÇÃt, ôm bøng cÜ©i. Và
Pahom nh§ låi giÃc mÖ. Quá nhiŠu ÇÃt, nhÜng mà tr©i có Ç‹ cho
hܪng không? Mình ch‰t mÃt! Mình ch‰t mÃt! Mình không bao gi© t§i
Çó ÇÜ®c.
Pahom ngó m¥t tr©i Çã chåm m¥t ÇÃt, m¶t phÀn Çã bÎ che. V§i tÃt
cä sÙc l¿c còn låi h¡n rÃn t§i, chÒm ngÜ©i t§i trܧc Ç‹ cho khÕi
ngã. Khi h¡n vØa t§i chân ÇÒi thì thình lình tr©i søp tÓi. H¡n
ngó lên, m¥t tr©i Çã l¥n.
H¡n kêu lên công cÓc cä và ÇÎnh dØng låi, nhÜng h¡n nghe ngÜ©i
Bashkirs vÅn còn reo hò nên nh§ låi là h¡n Çang ª dܧi thÃp cho
nên tܪng m¥t tr©i Çã l¥n trong khi h† ª trên ÇÒi nên vÅn còn
thÃy ÇÜ®c. H¡n hít m¶t hÖi dài và chåy lên ÇÒi. VÅn còn ánh sáng
ª Çó. H¡n ljn ÇÌnh ÇÒi và thÃy cái nón. Trܧc nón ngÜ©i x‰p ngÒi
ôm bøng cÜ©i. M¶t lÀn n»a Pahom nh§ t§i giÃc m¶ng, h¡n kêu lên,
chân h¡n høt hÅng, h¡n ngã vŠ Çàng trܧc, hai tay v§i chøp cái
nón. NgÜ©i x‰p kêu lên thÆt to:
-Th¢ng cha này giÕi thiŒt, ÇÜ®c thiŒt là nhiŠu ÇÃt ha!!
NgÜ©i giúp viŒc cûa Pahom chåy lên cÓ Ç« h¡n dÆy, nhÜng miŒng h¡n
Çã trào máu. H¡n Çã trút linh hÒn.
Dân chúng Bashkirs thÜÖng håi ch¡c lÜ«i.
NgÜ©i giúp viŒc lÜ®m cái xu°ng lên Çào m¶t l‡ huyŒt dài vØa Çû
chÙa Pahom, chôn h¡n trong Çó.
Thܧc mÃy, tØ ÇÀu t§i gót là tÃt cä sÓ ÇÃt h¡n cÀn.
Leo Tolstoy


PHONG VŨ * KẺ LY HƯƠNG TÂM SỰ

 KẺ LY HƯƠNG TÂM SỰ
Tặng Phạm Hoài Việt

Năm chục ở tù ra (1)

Con út tuổi mười ba,

Con đầu đi bên nớ,

Ba nó không về nhà!...

Hai mấy năm trôi qua,

Đau khổ thấu tận da!

Tinh thần không nao núng

Lập trường vẫn Quốc Gia...

PHONG VŨ

PHẠM HOÀI VIỆT * DẤN BƯỚC



 DẤN BƯỚC


Hừng đông vạn vật chuyển mình
Cầu xin dân Việt nặng tình quê hương
Vần xoay vũ trụ nhiễu nhương
Trong sâu sâu thẳm - vấn vương ba miền
Bắc Trung Nam - dân đảo điên
Cũng vì lũ vượn bạo quyền bất lương !
Bao năm lệ đổ tang thương
Gìn vàng giữ ngọc khói sương bời bời
Nát lòng vận nước nổi trôi
Dân nghèo đói khổ đổi đời... làm phu !
Trăm điều bị đảng "tiếp thu"
Rời làng, bỏ chợ, nhà tù khắp nơi !
Thương dân đói rách tả tơi
Trẻ em thất học cả đời loay hoay
Cơm nghèo ăn độn sắn khoai
Cứ nghe cộng sản ra tài mị dân
Ai người rủ áo từ quan
Hãy mau tỉnh thức về làng cứu dân
Bây giờ quê Mẹ điêu tàn
Anh, tôi dấn bước dù gian nan kề ./.
Phạm Hoài Việt
July 2003

PHAN NHẬT NAM * KHU KIÊN GIAM

Khu Kiên Giam Phan Nhật Nam

Khu Kiên Giam nầy vốn được lập nên từ 1995, lúc Út tui mới tới Mỹ chưa đầy hai năm, mùi vi-xi còn vướng vất sau hai mươi năm di họa cộng sản. Lúc ấy, tui có ý nghĩ, chắc vì "huyết hải thâm thù" quá độ với mấy giả nên văn phong, văn ý mới nức lên mùi "đường vinh quang xây xác quân thù"- theo như "tinh thần và lời văn" kêu gào máu chảy, thịt rơi của bài chào cờ vi-xi bắc kỳ, vốn là bài hát "tiến quân ca" của văn cao – cần mở cái ngoặt đơn ở đây - tài năng không biết bao nhiêu nhưng ngôn ngữ "sa-đích" gớm guốc như kia thì Út tui mười mươi cũng vất. Nhưng phe ta (trong đó có Uùùt) đã lầm to… Hóa ra, người quốc gia ta không hề biết thù hận gì ráo, và mấy giả mới là thật sự hung hiểm, quá quắt gấp gấp vạn nghìn lần. Nói có sách, mách có chứng, hãy điểm qua "cái gọi là cơ quan trung ương của đảng cộng sản việt nam - báo nhân dân" mà dân chúng bên nhà không thể dùng vào việc gì khác ngoài thay giấy…vệ sinh. (Những chữ đáng viết hoa mà Uùt tui đánh ra chữ thường là do cố ý, sẽ giải thích sự cố ý nầy sau). Tui không hề dựng chuyện. Ông "phản chiến" một thời, Nguyễn Ngọc Lan đã trả lời với đài RFI của Pháp như thế, và ký giả Robert Templer thuật lại trong "Shadows And Wind", NXB Penguin, Newyork, 1988 sau ba năm nghiên cứu tại hiện trường… Cùng ăn, ở, ị… với vi-xi, mới viết ra một câu, mà nghe xong thì phải bịt mũi ngay: "Vietnameses may have found Nhan Dan useful in bathroom… Trang 165, sách vừa dẫn ra". Ông bạn Tưởng Năng Tiến với "tầm nhình hạn hẹp, và phãn động của tụi viết văn ngụy" không mấy tin tưởng câu chuyện dơ dáy kia, và ngạc nhiên một cách ngây thơ: "Làm gì có thứ báo nào mà quá độ tồi tệ như thế. Hơn nữa, báo nầy lại vừa được cho mề-đay, "đơn vị anh hùng lao động". Không lẽ chỉ có mỗi "công tác ở nhà vệ sinh" mà thành anh hùng lao động sao?!" Tưởng Năng Tiến sau đó đọc kỹ hơn để biết thêm giá trị "báo đảng ta", thì lại khám phá ra rằng, báo nầy còn có nhiệm vụ… công an phường nữa, bằng cách đi làm survey ba láp để buộc nên tội: "cái gọi là linh mục nguyễn văn lý âm mưu với các thế lực thù địch nước ngoài phá hoại giáo hội công giáo, cõng rắn cắn gà nhà, phản bội dân tộc!!". Ðể làm sáng tỏ thắc mắc của Tưởng Năng Tiến, bài viết nầy được "nhuận sắc" lại. Ðây là lý do thứ nhất. Thứ hai, các Bạn Trẻ trong nước qua tạp chí ÐẤT ÐỨNG, đặt vấn đề với "cái gọi là giáo sư trần bạch đằng". Các bạn ấy cho rằng, "giáo đằng ba xạo", vì tay nầy nói chắc như bắp: "chủ nghĩa xã hội nhất định toàn thắng như ta đã từng đánh cho mỹ cút, đánh cho ngụy nhào!!".
Nhận thấy hai chủ đề với người, và việc như kể trên đã được Uùt một lần "tiên tri" trong Khu Kiên Giam, nên hôm nay tui viết lại để bà con, bạn bè xa gần đọc chơi, xong sẽ cùng nhau đồng ý về chân lý: "KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ÐỘC LẬP TỰ DO- BỞI VÌ QUÁ QUÝ NÊN KHÔNG…CÓ". Và, "cái gọi là bác" kia là hay cậu ba bồi tàu là tên xạo ke, điếm chẩy" nhất Bắc Kỳ, không có nhì ở Ðông Dương". Và chỉ có mấy giả, và "thằng bần" mới là những "đối tượng" không cha, không mẹ mà chỉ có - bác- vốn làm nghề chứa thổ, đổ hồ, cờ gian, bạc lậu, cách mạng hôi của mà thôi! Thế nên, chúng ta có thể thêm vào câu ca dao sẵn có như sau:
Cờ bạc là "bác" thằng bần
Cụ hồ là "bác" mấy "ông vi-xi"…
Nghe hơi ngang ngang nhưng cũng chẳng sao, miễn "đạt mục đích yêu cầu công tác" là "tốt thôi".
Út lu,
người miệt vườn Lái Thiêu.
Viết đúng dịp Tháng Tư.
I- KỲ TẬP TRUNG CẢI TẠO THỨ NHẤT- "BÁO ÐẢNG TA"
Trong quá trình bị giam giữ ngoài Bắc (1976-1989), ngồi miết trong bóng tối, dần dà tui phải tự bật cười vì tìm ra lẽ: "...Sợ cái gì thì càng dính cái ấy". Ví thử như "sợ ở tù" – Uùt đã viết hẳn ra như thế (Dọc Ðường Số I, Ðại Ngã, Sài Gòn 1969), thì lại bị ở tù kỹ hơn ai hết. Trong tổng số trăm ngàn, triệu người bị chế độ vi-xi bắc kỳ bỏ tù, bức hại từ trước tới nay (kể từ 1945, khi hệ thống bạo lực cộng sản mới nắm được quyền trên một vài địa phương vùng quê phía Bắc nước ta); nếu lấy ra khoảng năm, mười người điển hình, chắc thế nào cũng có tên Út trong đám người tối thậm bất hạnh này. Nếu thua kém phần khốn khổ, đau thương chăng là so với Nguyễn Công Thành, Lính Biệt Kích của Ðại Úùy Nguyễn Hữu Luyện - Người Tù Kiệt Xuất- Chữ của Huynh Trưởng, Ký Giả Lô-răng, Trung Tá Phan Lạc Phúc nói về những Biệt Kích Quân VNCH bị kiên giam từ những năm đầu thập niên 60, mà tui nghe ra tiếng trong hầm tối trại Lam Sơn, Thanh Hoá, Bắc Việt Nam, tháng 2, năm 1979... Chẳng biết giờ nầy những hào kiệt vô danh ấy sống nơi đâu? Chết khi nào? Những Biệt Kích Quân giữ nguyên vẹn bản lãnh, ý chí của Người Lính - Dẫu sau năm 1975, Miền Nam đã hoàn toàn bị bức tử, thất trận, bẽ súng, gẫy cờ - Sức chiến đấu không khoan nhượng của những người lính không đơn vị, không số quân nầy vượt lên mọi ý niệm về tính kiên cường, bất khuất, mà ý chí con người có thể thực hiện đượïc trong những điều kiện khắc nghiệt, khốn cùng nhất ở cảnh sống nhân sinh. Kể cả sự chết. Trong số 78 Biệt Kích Quân dưới cảnh huống chỉ huy của Ðại Uùy Nguyễn Hữu Luyện, đã có người bị chôn sống ở trại Quyết Tiến, Hà Giang. Sợ rằng những chữ nghĩa không đủ để nói lên.
Sợ thứ hai là "sợ đọc báo đảng", thì hằng đêm, lúc còn ở trại ngoài với anh em, trước ngày phải vào hầm kiên giam (7 tháng 9, 1979), cứ đến tối là tui phải choong cây đèn hạt đậu, ngồi đọc ra rã một hơi đến hai, ba tờ báo cho cả toàn buồng tù ngồi nghe – giờ nghe báo đảng, "báo nhân dân, cơ quan trung ương đảng cộng sản Việt Nam" - thứ báo đặc nghịt chữ in nhem nhuốc, đầy những nội dung, mà dù ngón tay đang lần dở qua trang, mắt ngủ gật, mồm vẫn có thể ong óng:"..đồng chí x, y...ủy viên bộ chính trị cùng các đồng chí lãnh đạo thuộc ban bí thư, thành ủy hà nội, ban nghiên cứu lịch sử đảng, đoàn báo cáo viên... ra sân bay đón đoàn, ôm hôn thắm thiết các đồng chí v, z, w… thể hiện tình đoàn kết chiến đấu...v..v. Ðống báo đảng do bị đọc đến mờ người nên những "bài viết" của Lê Nin, Lê Duẫn riết đâm... quen, và tui có thể viết, nói lại, chỉ sai vài chữ, dấu chấm, phết!
Năm 1995, từ yêu cầu của tờ báo đang cộng tác, Báo Quốc Dân, Houston, Texas của Nguyên Vũ, tui lại phải đọc một hơi bốn, năm tờ báo Xuân của "đảng ta". Hỏi thử gánh nặng cực hình lớn đến bao nhiêu? Nhưng chuyển họa thành phúc, tui tìm thấy ở trong những giòng chữ "sự thật" kia đủ điều hay ho. "Sự Thật", tên nhà xuất bản, và báo bình luận chính trị ở Hà Nội, và bên... Liên Xô! Nên tiện thể tui hành luôn nghề "giáo dục" để "bước đầu có tiến bộ nhất định.", lại một chữ của vi-xi. Chỉ khác, đối tượng bị cải tạo kỳ này là các "đồng chí" và cái tờ báo của "đảng ta".
Thứ nhất, chúng ta điểm về chính trị, giềng mối của tất cả sự việc - Sức mạnh của "đảng ta". Và từ, với sức mạnh này, "ta" sẽ thực hiện mục tiêu chung cuộc: "Dân giàu, Nước mạnh, Xã hội công bằng, văn minh". Ðúc kết trong lời phát biểu của võ văn kiệt tại kỳ họp thứ 6, quốc hội khóa IX. Vâng, cái mục tiêu đó, không những đẹp mà lại "thơm" (chữ của phạm văn đồng, trong đại hội văn hoá toàn quốc 1948) như thế kia thì ai có thể cãi vào đâu nữa. Vậy chúng ta hãy xem thử đám cầm quyền tại hà nội đã làm những gì để "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh." Nói như thế tức đã chấp thuận tiền đề: "Mục tiêu của đảng và nhà nước là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh…" Vậy ai phê phán, chống đối đảng, nhà nước tức là "không muốn dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh." Ðấy, bạn đã thấy người cộng sản khôn ra gì chưa (mấy trự ở bộ chính trị lại càng văn minh tiên tiến, lên tới mé đỉnh cao trí tuệ gấp vạn lần hơn), phe ta đừng suy diễn chủ quan có ngày vỡ mặt như đã từng bị rất nhiều lần. Ðể xác nhận, và giải thích nguyên nhân đưa đến thành quả mạnh (về chính trị) này, trần văn giàu, lý thuyết gia của đảng "giáo dục" theo đường vòng từ xa, với bài viết đầy tính "trí tuệ". Lại "trí tuệ" nữa?! Xin bạn đọc chịu khó thông cảm, chữ nào người viết đặt trong dấu ngoặt, in nghiêng, hoặc in đậm, và lập đi lập lại nhiều lần là "sản phẩm đỉnh cao trí tuệ" của mấy giả, cháu của bác ởø hà nội, chứ không phải từ tư tâm, tư ý. Và cách viết chữ thường những danh từ riêng chỉ tên người là do thói "hạ mục vô nhân" được đảng giáo dục cho "nhân dân tiên tiến" (tiên tiến mới được dạy thêm trò vô lại, chứ nhân dân "không tiến bộ" thì đừng có hòng) từ hơn nửa thế kỷ nay, để đến bây chừ thành quen thói… mất dạy, nên tràn lan khắp nơi, trên miệng lưỡi, trong sử, sách, kể cả sách gọi là "giáo khoa", dạy con nít mần cách mạng, đâu đâu cũng thấy lối gọi người xách mé, láu cá vặt.. "tổng tài phan thanh giản, đời vua tự đức; tổng thống mỹ ry-gân; giáo hoàng giăng-bôn II" v…v.. Hôm nay tui đem xài, chỉ là cách trả lại chén đắng cho mấy giả. Ðứa nào chơi gươm sẽ chết bởi cái liềm cắt cỏ. Xong, "bây giờ ta bắt đầu làm việc".
Qua bài "Những yếu tố nào trong Văn Hóa Văn Lang để nước này khỏi bị đồng hóa sau 1,000 năm Bắc thuộc", giáo giàu phân giải: Nước Văn Lang là một thực tế lịch sử, một nước bền vững lâu dài, có bờ cõi, chế độ xã hội, phong tục tập quán riêng của mình". Nước này sở dĩ tồn tại được, thoát khỏi áp lực đồng hóa mạnh mẽ của văn minh, văn hóa Hoa Hạ đã tác động toàn cõi Ngũ Lĩnh, mạn nam sông Dương Tử, bởi đã hội đủ, thực hiện các điều kiện:
- Ðã có một "thực thể nội tại" liên kết bền bỉ - Nghĩa đồng bào - Thể hiện qua câu thơ "Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng.
- Từ đầu nguồn, "Nhân Dân ta" (viết hoa) đã có tính đoàn kết, hiện thực qua việc tổ chức 15 Bộ nên thành một khối thống nhất, chứ không chia năm, xẻ bảy như những dân tộc (viết thường) khác ở sơ kỳ dựng nước; kiểu chiến tranh giữa người Troy, và Hy Lạp, có thêm sự tham dự của các vị thần theo hai phe. Sự kiện thần linh giúp người thành Troy và Hy Lạp đánh nhau là "phản ảnh phân hóa xã hội phong kiến đồi trụy của văn minh Ðịa Trung Hải", chứ "Tổ Quốc ta", với nền văn minh khai phóng, nhuần nhuyễn, yêu hòa bình, yêu công lý, tiên tiến, tiên phong thì không hề có! Không bao giờ.
- Thứ ba, trong quá trình dựng nước và giữ nước, xuất hiện liên tục "những Anh Hùng Dân Tộc vì nước quên mình." Ví dụ, đánh xong giặc Ân, Thánh Gióng bay ngựa về trời chứ không ở lại trần gian làm vua như bọn phong kiến đồi trụy, phản động(!) Ðây là một sức mạnh văn hóa tinh thần tinh tế, cao đẹp "kết hợp trong huyền sử và sử thi", chứ không là sức mạnh bắp thịt thô tục kiểu Hercule, Samson. Sức mạnh này cao quý, và sâu sắc hơn nhiều so với cung cách gồng bắp thịt, giương cung bắn ó, diều tầm phào của bên Tây. Ðể tăng thêm "sử tính" cho Gióng (gọi Gióng là để "nhân gian hóa, quần chúng hóa" chứ không phải vì trịnh thượng, hỗn hào, thấy Gióng quá anh hùng mà lôi vào với nhân dân ta), giáo giàu thay vì cho "kẻ thù" của Gióng là giặc Ân (như trong cổ tích, truyền thuyết), nay trở thành quân Nam Hạ của Tần Thủy Hoàng. Chuyện Gióng thuộc "thời đại Hùng Vương", cách chúng ta 4,000 năm (Nên mới có cụm từ "4,000 năm văn hóa").
- Thứ tư, qua truyền thuyết (vẫn chỉ là truyền thuyết), Lạc Long Quân diệt Hồ Tinh, Mộc Tinh, Ngư Tinh, "Lịch Sử Việt Nam xác minh luôn có mặt hàng loạt Anh Hùng Dân Tộc sẵn sàng Trừ bạo An Dân."
- Thứ năm, cuối cùng. Nước Văn Lang thay vì thờ các vị thần vớ vẩn (kiểu thần Zeus ở Hy Lạp; Jupiter của La Mã, hoặc các ông trời như Jehovah, Allah... Lưu ý, "thần, trời "bên tây là sản phẩm của bọn phản động phong kiến, chủ nô, nên không xứng đáng cho được viết chữ hoa! Ðáng kiếp!), thì chỉ thờ chính tổ tiên mình, và các "Anh Hùng Dân Tộc" của mình. (Nghe nói đi nói lại cứ sốt cả ruột vì dân tộc ta quá lạm "anh hùng").
Vâng, bài viết phân tích sâu sắc trên vì quá nồng nhiệt nên bị hai điểm quá đỗi "tích cực," thay vì "tiêu cực" như người cộng sản thường phê bình và tự phê. Ðấy là:
- Vì e ngại khi gọi kẻ thù của "Gióng" (nghĩa là của dân tộc ta) là giặc Ân thì có vẻ không được oai, vì "giặc Ân" là thằng cha ba Tầu nào, quả thật không ai biết?! Nên giáo giàu phải thay màu da chết - Ðổi quân bạ lũ giặc vô danh kia thành "quân Nam Hạ của Tần Thủy Hoàng", tức là thằng cha giết người, chôn sống học trò, tịch thu "văn hoá phẩm phản động," lùa dân đi "cưỡng bách lao động", xây Vạn Lý Trường Thành mà "nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới" đã lên án và phỉ nhổ..." Lính của "hoàng" (gọi như thế là cố ý xỏ xiên luôn Tiên Ðế nhà Nguyễn- Nguyễn Hoàng) chắc chắn phải là tụi "ác ôn, có nợ máu với nhân dân", nên cho "chiến sĩ Gióng" đánh bọn "xâm lược Nam Hạ" thì đạt thành tích "cách mạng giai cấp vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc" lẫy lừng hơn. Nhưng khổ thay, đời Hùng Vương (Theo Ủy Ban Nghiên Cứu Thời Ðại Hùng Vương của Uỷ Ban Khoa Học Xã Hội Hà Nội) cách chúng ta 4,000 năm, mà đời anh vua phản động Tần Thủy Hoàng chỉ ở Thế Kỷ thứ Hai trước Công Nguyên. Lính của anh vua này làm sao đánh được với "chiến sĩ cách mạng Gióng" hở trời? Vậy, tui đề nghị kiếm ngay một đám "Trung Quốc bành trướng xâm lược" khác cho Gióng. Nhưng, muốn cho Gióng có một kẻ thù thích hợp, đúng tầm cỡ như thế, thì khổ thay, Giang Trạch Dân vừa thăm Hà Nội tháng 11/1994, và ông này có thể đã "đồng ý với quan điểm" của Tần Thủy Hoàng trong chính sách đối với sinh viên, học sinh qua vụ Thiên An Môn, tháng 5/1989! Thế nên, biết đâu đây cũng là một cách chơi xỏ, vừa chửi được Tần Thủy Hoàng, vừa xách mé tổng bí thư Giang. Vị "giáo sư nhân dân" nầy giàu "đảng- điếm- tính" thật.
- Ðiểm tích cực thứ hai: Nói điều này ra thì e bị... chửi. Nhưng thấy phải thì cứ nói thôi. Ấy là hai câu thơ:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Dù gan liều cách mấy cũng không thể bảo đã có từ đời... Hùng Vương!! Bởi một lẽ giản dị: "Văn Lang không biết xuất hiện từ đâu? Chỗ nào? Và cũng không ai ghi lại vì... chưa có chữ". Vẫn là lời dẫn nhập của quý giáo sư. Tuy nhiên, bài viết vẫn "đạt mục đích yêu cầu" vì đã nêu bật chủ điểm "Thời Ðại Hùng Vương ấy có Thật - Hiện thực hôm nay với thời đại Hồ Chí Minh". Bởi bác (lại "bác ta", chứ không ai khác) đã nói:
Các Vua Hùng có công dựng nước
Bác, cháu ta có công giữ nước.
Bác nói thì còn sai vào đâu, giáo giàu vì khiêm tốn không viết rõ ra mà thôi. Vì những lẽ trình bày trên, cuối cùng Uùt tui phải kết luận ngợi ca như thế này:
Từ Hùng Vương vào thời đại chúng ta
Cứ như Hà Nội thẳng Mát-cơ-va
Muốn được dân giàu, nên nước mạnh
Vượt biên đi Mỹ, chớ qua Nga.
Từ chuyện chính trị, tất nhiên ta tiếp qua hoạt động ngoại giao là mặt sống động sôi nổi của nó. Từ đầu năm (1995), Thủ Tướng Singapore đến thăm Hà Nội (Tháng Ba); một ngày sau, ông Tổng Thống Mông Cổ đến, 3/3; cô công chúa Anne nước Anh ý hẳn buồn chuyện chồng con lại không coi lịch (hoặc không xem phim 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới) nên đi trùng ngày với Ông Thủ Tướng Singapore, hay là cô này và ông kia có ý gì với nhau hẹn gặp ở Hà Nội chăng? Ðức Ông Claudio Celli của Vatican theo tiếp sau mấy ngày, 13 tháng 3. Và được đà làm tới, các ông Thủ Tướng Thái Lan, Tổng Thốùng Phi Luật Tân, Thủ Tướng Slovakia, Chủ Tịch Lào, Thủ Tướng Mali ...Và cuối cùng, Hoàng tử Phillipe, Vương Quốc Bỉ đến Hà Nội ngày 6/12/1995.
Bạn đến ta, thì ta đi thăm bạn. Ðỗ mười đi Malaysia; lê đức anh đi Indonésia; nguyễn thị bình đi năm nước Châu Phi và Pháp; nông đức mạnh đi Tầu, Ấn Ðộ; võ văn kiệt đi Campuchia, Singapore và Myanmar; phan văn khải, trần đức lương, và nguyễn khánh đi Ba Lan, Brazil, Canada, Hung, Roumanie, Singapore, Tầu, và cuối cùng nguyễn mạnh cầm luôn "trên đường đi"!!
Xin bạn đọc đừng sốt ruột, tui đã bỏ, lược đi rất nhiều, bởi cũng như các bạn, Uùt đã nhiều lần tui tự hỏi, "quái, đi, và đến để tế cái mả cha nó hay sao mà cứ hà rầm như rứa?"Bởi ngày xưa, lúc còn ở Bắc Kỳ với vi-xi, tui đã phải hành nghề "đọc báo"- Tức là ngồi đọc ra rã cho một đám tù đói, khổ, ngồi ngủ gật, nghe suốt hai giờ vào mỗi đêm (gọi là giờ học tập, đọc báo "đảng ta" như đã nói ở phần dẫn nhập), nên đâm quen với những lời văn được "formated" như sau: Nhận lời mời của Trung Ương Ðảng ta, Ðồng Chí Phó Chủ Tịch Hội Nghiên Cứu và Báo Cáo của Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng Nhân Dân Cách Mạng Mông Cổ... đã đến thăm nước ta. Cùng đi với đoàn có các đồng chí... Ủy Viên Trung Ương Ðảng, Bí Thư Thứ Nhất Ban Nghiên Cứu lịch sử Ðảng Nhân Dân Cách Mạng... Với chữ viết hoa liền tù tì thoải mái, và cứ thế kể đến người cuối cùng của đoàn. Xong qua phần thứ hai của bài viết thế nào cũng có đoạn… "Ra sân bay đón đoàn có Ðồng Chí Nguyễn..., Ủy Viên Trung Ương Ðảng, Bí Thư Thứ Nhì Ban Nghiên Cứu, và Báo Cáo, Thứ Trưởng Bộ..." Biết rồi khổ lắm, và kể đến người cuối cùng với đầy đủ tên, đảng cấp, chức vụ. Xong "ta" có kết luận: "Các em bé thủ đô đã dâng lên (chủ tịch, bí thư v.v...) bó hoa tươi thắm."
Mô tả lượt ngày về, cũng nội dung trên với kết luận:… các đồng chí Lãnh Ðạo Ðảng, và Nhà nước đã ôm hôn các đồng chí trong đoàn thắm thiết, biểu hiện tình đoàn kết chiến đấu (có thể thay đổi vài chữ tùy theo đối tượng đực, cái, đón, và đưa).
Sau quá trình đọc báo kia Út tui có ý nghĩ: "Ở hà nội ắt hẳn phải có những người chuyên hành nghề "đón và tiễn đoàn", và không biết cái gọi là "ban lễ tân nhà nước" kia làm thế nào để luôn "điểm hẹn lại lên sân bay đón đoàn" dai nhách kiên cường như thế (Ðiểm Hẹn Lại Lên - Tên cuốn phim do nhà nước vi-xi làm, chiếu cho cả nước xem sau 1975).
Tưởng là ý nghĩ tầm phào quấy quá, nào ngờ hôm nay trên tờ "Xuân Công An", (tờ báo có kể các cuộc đi, đến vừa nêu trên) có lời "khen" của Thủ Tướng Indonesia "Việt Nam như cô gái đẹp đang tuổi xuân, mọi người cứ dành mà đến?!" Không biết lời khen này thật hay xỏ lá, chỉ biết qua tờ báo có sự kiện:"Ở Hà Nội chưa kịp gỡ tấm bảng khẩu hiệu (banderole) đón đoàn này thì đoàn kia đã đến". Nghĩa là, đoàn trước vừa vào nhà khách thì đoàn sau đã qua cầu Sông Hồng lên Bến Nứa. Thế nên, cô công chúa Anne được đọc băng chào mừng bằng chữ Mông Cổ:"Hân hoan chào đón Ngài Tổng Thốùng và Phu Nhân". Nhưng cũng là chuyện "tốt thôi", lãnh đạo đảng ta bao giờ cũng "vận độïng sáng tạo mọi tình huống, khắc phục mọi khó khăn, tận dụng mọi khả năng" để "ôm hôn thắm thiết, sâu, sát" cô công chúa nước Anh không chút bối rối dưới banderole bằng tiếng Mông Cổ. Mà cũng thật, các trự lãnh đạo như đỗ mười, lê đức anh có phân biệt tiếng Mông Cổ khác với tiếng Anh như thế nào đâu. Vẽ.
Nhưng thực hiện "đón và công tác tiễn đoàn" để sau đó mô tả trong những bài phóng sự thổ tả như trên hẳn chưa đạt tiêu chuẩn tiến bộ, công tác tốt, khó có thể được cấp huy chương "anh hùng lao động", nên năm nay, 2001, nhân việc các nhà lãnh đạo tôn giáo ở Việt Nam dậy lên phong trào đòi Tự Do, Dân Chủ cho người dân, cho giáo hội, báo đảng "triển khai công tác công an phường", đi tìm đối tượng "tiên tiến" phản công lại các vị lãnh đạo tôn giáo. Chúng ta hãy xem một đoạn survey của "anh hùng lao động – báo (hại) nhân dân": Ông Ca-nát, dân tộc châu Mạ, ấp Hiệp Nghĩa, huyện Ðịnh Quán, tỉnh Ðồng Nai đã phát biểu: "Hôm rồi, xem truyền hình, nghe đài truyền thanh, tôi biết ở xã Nguyệt Biều, thành phố Huế có ông linh mục gọi là nguyễn văn lý gởi một lá thư gọi là "lời chứng", dài mấynghìn từ cho ủy ban quốc tế tôn giáo của quốc hội hoa kỳ nói chính sách tôn giáo của Ðảng, và Nhà Nước ta" cực kỳ tàn bạo mang chủ đích bóp chết tôn giáo"... Ấp tôi có 210 hộ, 1,015 khẩu, mỗi hộ một cách thờ, người thờ chúa, hộ thờ phật, thờ ông bổn, cũng có hội chỉ thờ Bác Hồ. Nhà nước đâu có cấm đoán gì đâu. Người theo đạo thiên chúa vừa lễ ở nhà, vừa lễ ở nhà thờ, ít nhất là một tuần một lần. Vào dịp lễ giáng sinh, chính quyền địa phương cùng với ban hành giáo tổ chức cho giáo dân đón lễ vui tươi, an toàn, tiết kiệm. Riêng tôi theo đạo tin lành, nhàcó bàn thờ chúa ở chỗ trang trọng nhất, gắn bóng điện nhấp nháy suốt ngày đêm..." Bài báo còn dài, nhưng đánh máy đến đây thì Uùt tui quá bực mình nên phải đi vào rest room (không xài báo nhân dân)... Vừa đi "cụ hồ" (nói theo cách lính tráng của Uùt từ mươi năm trước), vừa lẫm bẩm... Các anh đểu cáng cũng phải có chừng miực thôi – chẳng những Linh Mục Nguyễn Văn Lý, mà ngay cả Chúa Trời cũng không được viết nên một chữ hoa, và nhà anh người Thượng nào theo Ðạo Tin Lành lại có đèn nhấp nháy suốt ngày đêm, chỉ thiếu dàn Karaoké, và vài bộ phim vidéo loại XXX là chưa được kể ra để hoàn toàn cảnh tượng mẫu mực:"dân giàu, nước mạnh, giáo hội vui tươi". Hai mươi năm trước, Ðức Hồng Y Trịnh Như Khuê cũng bị gán cho từ ngữ, "Giáo Hội Việt Nam là một giáo hội vui tươi" ở lời tuyên bố của Ngài khi nhận chức Thánh.
Hóa ra, năm mươi năm "công tác lao động tiên tiến" mà chỉ sản xuất ra đặng dăm ba từ ngữ thổ tả, nhà quê như... "chấp hành nghiêm chỉnh, tranh thủ mọi điều kiện, khắc phục mọi khó khăn, vận động mọi khả năng; lên sân bay đón đoàn, lên sân bay tiễn đoàn; hoàn thành công tác tốt, đạt chỉ tiêu yêu cầu... giáo hội vui tươi, lành mạnh, tiết kiệm, an toàn làm lễ giáng sinh... Với quyết tâm giữ vững lập trường vô sản bằng cách không viết hoa chữ, tên của bọn phản động, diễn tiến hòa bình, tay sai các lực lượng thù địch xã hội chủ nghĩa....)
Người, Việc, và Viết như trên thì còn chỗ nào xứng đáng hơn là nhà vệ sinh, chỗ phóng uế để dành riêng lưu dụng cái gọi là "báo đảng ta".


TRẦN BÌNH NAM * BẦU CỬ Ở MỸ

TỪ CALIFORNIA ĐẾN HOA THỊNH ĐỐN
Trần Bình Nam


Hôm Thứ Tư 23 tháng 7, ông Kevin Shelly, bộ trưởng ngoại giao của bang California, một bộ có chức năng điều hành việc ứng cử, bầu cử, hồi phiếu (recall) của tiểu bang sau khi nhận được báo cáo kết quả kiểm chứng các chữ ký trên bản kiến nghị đòi hồi phiếu thống đốc Gray Davis (thuộc đảng Dân Chủ) từ 58 quận (county) của bang California tuyên bố các điều kiện hồi phiếu đã hội đủ và một cuộc bỏ phiếu để hỏi cử tri có cách chức thống đốc của ông Gray Davis không sẽ được tổ chức trong thời hạn từ 60 đến 80 ngày.
Đảng Cộng Hòa, đứng sau lưng những người đòi hồi phiếu ông Gray Davis, kết ông vào tội quản trị tiểu bang cẩu thả làm cho ngân sách thâm thủng quá đà trong nhiệm kỳ thứ nhất (1998 đến 2002) và tội thứ hai là che dấu tình trạng ngân sách để đắc cử trong cuộc bầu cử tháng 11 năm 2002. Ông đã thắng ứng cử viên Bill Simon Jr. của đảng Cộng Hòa một cách khít khao (47% chống 42%).
Sáng ngày 24 tháng 7 phó thống đốc Cruz Bustamante (cũng thuộc đảng Dân Chủ) tuyên bố cuộc hồi phiếu và bầu chọn tân thống đốc sẽ được tổ chức vào ngày 7 tháng 10 năm 2003. Ai muốn ra ứng cử thống đốc phải nộp hồ sơ tranh cử trước ngày 9 tháng 8, tức 59 ngày trước ngày bầu cử.
Diễn biến chính trị này làm nhiều người sửng sốt. Trước hết thủ tục hồi phiếu để cách chức một viên chức cấp tiểu bang được ghi vào Hiến pháp California năm 1911 chưa được áp dụng lần nào. Thứ hai người ta nghĩ rằng bộ máy chính trị của California ở trong tay của đảng Dân Chủ nên đảng này sẽ dùng mọi thủ thuật chính trị để chận sự hồi phiếu, hoặc nếu không chận được cũng trì hoãn việc hồi phiếu cho đến tháng Ba năm 2004 cùng lúc cử tri đi bầu vòng đầu chọn ứng cử viên tổng thống của hai đảng. Vào dịp này cử tri Dân Chủ đi bầu đông đảo may ra cứu được ông thống đốc Gray Davis khỏi bị cách chức. Cá nhân ông thống đốc Gray Davis đã vận động cựu bộ trưởng ngoại giao Warren Christopher, một người được dân chúng California kính nể lên tiếng cảnh cáo rằng một cuộc hồi phiếu sẽ đem đến hỗn loạn cho tiểu bang. Đồng thời những người ủng hộ thống đốc Gray Davis nộp đơn tại tòa án kiện thủ tục thu góp chữ ký bất hợp lệ vì dùng người ở ngoài tiểu bang. Ngoài ra ông bộ trưởng ngoại giao Kevin Shelly, thuộc đảng Dân Chủ có thể giúp ông Gray Davis bằng cách lấy lý do cần thời gian kiểm chứng giá trị của các chữ ký để trì hoãn.
Nhưng mọi cố gắng của đảng Dân Chủ thất bại vì số chữ ký kiến nghị hồi phiếu được kiểm chứng là có giá trị tại các quận đã nhanh chóng vượt quá số 10% cử tri luật định. Các tòa án tiểu bang hình như cũng không muốn can thiệp.
Sau khi Gray Davis tái đắc cử thống đốc ngày 5 tháng 11 năm 2002, tình trạng ngân sách thật sự được trưng bày ra ánh sáng. Ngày 14 tháng 11 năm 2003 quốc hội California tiết lộ ngân sách tiểu bang thâm thủng 21,1 tỉ mỹ kim. Hơn một tháng sau (18/12/2003) con số thâm thủng ngân sách được tính lại lên đến 34,8 tỉ, và hiện nay con số chính thức là 38 tỉ mỹ kim. Tiểu bang California đang bị phá sản.
Ngày 26/3/2003 đảng Cộng Hòa mở đầu cuộc vận động thu góp chữ ký hồi phiếu ông Gray Davis. Trong vòng bốn tháng đạt được hơn 1.600.000 chữ ký trong đó giới chức bầu cử tại các địa phương cho biết có ít nhất 1.100.000 chữ ký có giá trị. Theo luật chỉ cần 897,158 chữ ký.
Sự hồ hởi ký kiến nghị hồi phiếu cho thấy dân California đã chán ông Gray Davis và tin rằng ông đã che dấu sự thật về ngân sách để tái đắc cử . Trong bối cảnh đó ông Gray Davis có phần chắc sẽ bị mất chức vào ngày 7/10/03. Và đảng Cộng Hòa sẽ là người toàn thắng trong cuộc hồi phiếu này.
Nhưng hệ lụy của cuộc hồi phiếu không giới hạn tại California, và người bị thiệt thòi không phải chỉ là đảng Dân Chủ. Ảnh hưởng của nó sẽ băng qua lục địa Hoa Kỳ và tạo chấn động tại Hoa Thịnh Đốn.
Từ đây cho đến ngày hồi phiếu, cử tri toàn quốc sẽ được cuộc vận động tại California nhắc nhở đến con số thâm thủng khổng lồ của ngân sách quốc gia, và điều này không có lợi cho tổng thống Bush.
Đầu năm 2001 khi George W. Bush vừa đắc cử, ngân sách quốc gia dư thừa 127 tỉ mỹ kim, và Sở Ngân Sách Quốc Hội Hoa Kỳ (Congressional Budget Office) dự báo thặng dư thêm 2.900 tỉ mỹ kim từ năm 2003 cho đến năm 2008. Báo chí hỏi ông định dùng tiền dư làm gì ông nói, ông sẽ dùng một nửa để cứu quỹ An Sinh Xã Hội sẽ thiếu hụt khi thế hệ baby boomers bắt đầu lãnh tiền hưu, một phần tư dùng cho những chương trình quan trọng khác và một phần tư dùng bù vào tiền giảm thuế. Nhưng không may cho ông Bush, ông vừa đắc cử thì kinh tế đi vào chu kỳ thoái trào, tiếp theo đó là cuộc khủng bố ngày 11/9/2001 làm cho ngân sách quốc gia trở nên thiếu hụt. Ngày 15/7/2003 Sở Ngân Sách Quốc Hội Hoa Kỳ cho biết ngân sách năm 2003-2004 thiếu hụt 455 tỉ mỹ kim. Số thiếu hụt này do ba nguyên nhân: thứ nhất, thất thu thuế do kinh tế thoái trào; thứ hai, chi phí chiến tranh, quốc phòng, an ninh nội địa, phòng chống khủng bố tăng; và sau cùng, giảm thuế lợi tức.
Hiện nay điều quan tâm chính của tổng thống Bush là đắc cửû nhiệm kỳ hai. Trước hết là quyền lợi chính trị cá nhân và quan trọng hơn là tự ái của dòng họ Bush. Thân phụ ông đã thất cử nhiệm kỳ hai năm 1992 sau khi chiến thắng huy hoàng tại Trung Đông và chủ tọa sự sụp đổ của Liên bang Xô viết chỉ vì không quan tâm đến tình trạng kinh tế quốc gia. Cho nên sách lược tranh cử của tổng thống Bush là bằng mọi giá phải vực nền kinh tế quốc gia dậy. Giảm thuế là phương thuốc của tổng thống. Giảm thuế ngàn đời vẫn là một chính sách được lòng dân. Mặt khác, theo lý thuyết, giảm thuế sẽ giúp cho giới doanh nhân có thêm tiền đầu tư sinh ra công ăn việc làm, kích thích sinh hoạt kinh tế và tăng thu cho ngân sách. Ngoài ra tổng thống Bush còn dự trù thực hiện một số chương trình làm vui lòng cử tri cao niên như đề nghị luật trả tiền thuốc cho người cao niên đã nghỉ hưu. Cả hai chương trình này đều làm cho ngân sách thêm thâm thủng.
Dưới nhãn quan của tổng thống Bush ngân sách thâm thủng chính yếu do chu trình thoái trào kinh tế và do những chi tiêu bất khả kháng (quốc phòng, chống khủng bố ...), chứ không nhất thiết do quyết định cắt giảm thuế lợi tức và tăng chi cần thiết của ông. Hơn nữa sự dư thừa hay thâm thủng của ngân sách chỉ là một hiện tượng nhất thời.
Nhưng cử tri toàn quốc có thể sẽ không nhìn vấn đề như vậy. Họ có thể cho rằng sự thiếu hụt ngân sách nặng nề là do tổng thống đã quá lo bảo vệ chiếc ghế của tổng thống mà không quan tâm đúng mức ảnh hưởng lâu dài của nó đối với thế hệ tiếp nối.
Nếu cử tri toàn quốc cảm nhận như vậy, và nhất là nếu kinh tế quốc gia không ra khỏi sự trì trệ vào cuối năm 2004 thì chấn động tại California đưa Cộng Hòa lên, kéo Gray Davis xuống cũng có thể dội tới Hoa Thịnh Đốn và làm lung lay chiếc ghế tổng thống của Bush.
July 24, 2003
Trần Bình Nam
BinhNam@earthlink.net
http://www.vnet.org/tbn
  


GS.NGUYỄN CAO HÁCH * KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TỰ DO

Free Market Economy:
In search of a path for the advance of our nation
Prof. HACH CAO NGUYEN
The writer starts with certain famous sentences of Friedrich List:
"In the science of economics, theory and practice are virtually divorced from one another -- to the detriment of both. Economists condemn practical men as mere followers of routine who fail to appreciate either the truth or the grandeur of the doctrines enunciated by economists. Practical men, on the other hand, regard economists as mere doctrinaires who ignore the facts of life and inhabit a dream world of economic theories that exists only in their imagination".

(Friedrich List: The Natural System of Political Economy, 1837).
And another famous paragraph by John Maynard Keynes:
"It is not a correct deduction from the Principles of Economics that enlightened self-interest always operates in the public interest... Many of the greatest economic evils of our time are the fruits of risk, uncertainty, and ignorance. It is because peculiar individuals fortunate in situation or abilities, are able to take advantage of uncertainty or ignorance, and also because for the same reason, big business is often a lottery, that great inequalities of wealth come about; and these same factors are also the cause of the unemployment of labor, or the disappointment of reasonable business expectations, and
the impairment of efficiency and production. Yet the cure lies outside the operation of individuals. It may even be to the interests of individuals to aggrevate the disease".

(John Maynard Keynes: The End of Laissez-Faire, 1926)
Karl Polanyi, a great writer, has another point of view:
"The idea of a self-adjusting market implied a stark utopia. Such an institution could not exist for any length of time without annihilating the human and material substance of society... To allow the market mechanism to be the sole director of the fate of human beings and their natural environment, indeed, even of the amount and use of purchasing power, would result in the demolition of society"
(Karl Polanya, the Great Transformation, 1944)
What destination is the world aiming to? What progressive trend has humankind adopted in today's world?
Should Vietnam move to the world's main stream or should it find a separate path?
Why were the French colonists driven away a half century ago, the Americans and the Saigon government out almost 30 years, most Vietnamese are still very poor today?
Why are the group of rulers so rich, in the meantime the masses so poor ?
To find the answers to these questions, the writer will study the moving path of humankind that has taken place in the new era.
The quoted paragraphs above are only some introductory notes to an extremely difficult task of development...
Hach Cao Nguyen
VNI
KINH TEÁ TÖÏ DO:
Ñeå tìm moät höôùng tieán cho Vieät Nam GS NGUYEÃN CAO HAÙCH
Soaïn giaû môû ñaàu baèng maáy caâu noåi tieáng cuûa Friedrich List:
"Trong khoa kinh teá hoïc, lyù thuyeát vaø thöïc haønh gaàn nhö hoaøn toaøn caùch bieät -
khieán cho caû lyù thuyeát vaø thöïc haønh ñeàu bò thieät. Lyù thuyeát gia chæ trích ngöôøi
thöïc haønh laø chæ bieát theo thoùi quen cuûa veát xe cuõ neân khoâng thöôûng thöùc ñöôïc
söï thaät hay laø khiaù caïnh cao caû cuûa caùc lyù thuyeát do kinh teá gia dieãn giaûng. Nhöng
ngöôøi thöïc thi kinh teá laïi nghó raèng caùc kinh teá gia chæ chuyeân moân veà lyù thuyeát
neân khoâng bieát gì veà söï thaät cuûa cuoäc soáng; hoï vuøng vaãy trong söï mô töôûng cuûa
caùc lyù thuyeát kinh teá maø trí töôûng töôïng cuûa hoï ñaõ taïo ra."
Nguyeân vaên nhö sau:
"In the science of economics, theory and practice are virtually divorced from one another -- to the detriment of both. Economists condemn practical men as mere followers of routine who fail to appreciate either the truth or the grandeur of the doctrines enunciated by economists. Practical men, on the other hand, regard economists as mere doctrinaires who ignore the facts of life and inhabit a dream world of economic theories that exists only in their imagination". (Friedrich List: The Natural System of Political Economy, 1837).
Vaø sau ñaây laø moät ñoaïn vaên noåi tieáng khaùc cuûa John Maynard Keynes:
"Töø cuoán saùch coå ñieån Principles of Economics, nhieàu ngöôøi ñaõ suy luaän sai laàm laø
khi quyeàn lôïi tö kyû ñöôïc suy ñoaùn moät caùch saùng suoát thì bao giôø noù cuõng phuø
hôïp vôùi quyeàn lôïi chung. Nhieàu cuoäc suy traàm kinh teá khuûng khieáp cuûa thôøi ñaïi
hoaøng kim laø keát quaû cuûa ruûi may, baát traéc vaø baát tri. Chính vì coù moät soá caù
nhaân ñaëc bieät, gaëp tình theá may maén hoaëc coù khaû naêng vöôït chuùng, ñuû söùc suy
ñoaùn ñeå xeùt roõ trong nhöõng tröôøng hôïp baát traéc hoaëc toái taêm, vaø cuõng vì caùc
cuoäc ñaïi kinh doanh nhieàu khi chaúng khaùc gì moät cuoäc xoå soá, neân môùi coù nhöõng
keû giaøu ngöôøi ngheøo caùch bieät nhau quùa xa. Vaø caùc yeáu toá ñoù cuõng laø nguyeân
do ñöa tôùi nhaân coâng thieåu duïng, vaø noù cuõng gaây thaát baïi cho nhieàu cuoäc kinh
doanh ñaõ ñöôïc khaûo cöùu kyõ löôõng, noù khieán cho khaû naêng saûn xuaát hôïp lyù vaø
keát quaû thöïc teá nhieàu khi khoâng ñi ñoâi. Nhöng khoâng caù nhaân naøo ñuû khaû naêng
giaûi quyeát caùc vaán ñeà ñoù; nhieàu khi quyeàn lôïi caù nhaân xuùi duïc ngöôøi ta coá laøm
taêng caên beänh"
("It is not a correct deduction from the Principles of Economics that enlightened self-interest always operates in the public interest... Many of the greatest economic evils of our time are the fruits of risk, uncertainty, and ignorance. It is because peculiar individuals fortunate in situation or abilities, are able to take advantage of uncertainty or ignorance, and also because for the same reason, big business is often a lottery, that great inequalities of wealth come about; and these same factors are also the cause of the unemployment of labor, or the disappointment of reasonable business expectations, and the impairment of efficiency and production. Yet the cure lies outside the operation of individuals. It may even be to the interests of individuals to aggrevate the disease")
(John Maynard Keynes: The End of Laissez-Faire, 1926)
Vaên haøo Karl Polanyi ñaõ coù moät nhaän xeùt khaùc:
"Quan nieäm raèng thò tröôøng töï ñoäng thích nghi laø moät aûo töôûng thoâ keäch. Moät
ñònh cheá nhö theá khoâng theå toàn taïi laâu daøi maø laïi khoâng huõy dieät tinh tuùy cuûa
xaõ hoäi caû veà nhaân phaåm laãn vaät chaát... Ñeå maëc cho guoàng maùy thò tröôøng ñoäc
chuyeân ñieàu khieån soá phaän cuûa nhaân loaïi vaø caû hoaøn caûnh chung quanh, ñieàu
khieån caû soá löôïng vaø caùch xöû duïng maõi löïc, taát ñi tôùi söï huõy hoaïi caû xaõ hoäi"
("The idea of a self-adjusting market implied a stark utopia. Such an institution could not
exist for any length of time without annihilating the human and material substance of
society... To allow the market mechanism to be the sole director of the fate of human
beings and their natural environment, indeed, even of the amount and use of purchasing
power, would result in the demolition of society")
(Karl Polanya, the Great Transformation, 1944)
Theá giôùi ñang ñi veà ñaâu? Traøo löu tieán hoùa cuûa nhaân loaïi ñang theo chieàu
höôùng naøo?
Vieät Nam theo chieàu höôùng chung hay laø tìm moät ñöôøng ñi rieâng reõ?
Taïi sao ñuoåi heát thöïc daân Phaùp ñaõ nöûa theá kyû roài, "Myõ cuùt, nguïy nhaøo" ñaõ
gaàn 30 naêm, maø ñaïi chuùng Vieät Nam vaãn ngheøo maït reäp?
Taïi sao nhoùm caàm quyeàn quaù giaøu coù, maø ñaïi chuùng laïi cöïc kyø ngheøo khoå?
Ñeå thöû tìm moät caâu traû lôøi, soaïn giaû seõ nghieân cöùu höôùng tieán hieän nay
cuûa nhaân loaïi.
Maáy ñoaïn vaên trích daãn treân ñaây chæ laø vaøi caâu daãn nhaäp cho moät baøi toaùn
quaù khoù khaên...
GS Nguyeãn Cao Haùch

No comments:

Post a Comment