Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Wednesday, 14 December 2016

THƠ

NGÔ MINH HẰNG * NGUYỆN ƯỚC CUỐI CÙNG

NGUYỆN ƯỚC CUỐI CÙNG

Khi tôi chết, điều mà tôi ước nguyện
Lá cờ vàng xin phủ áo quan tôi
Bởi vì tôi từ thuở biết yêu đời
Đã tha thiết yêu màu cờ dân tộc
Màu cờ ấy biểu trưng cho nòi giống
Là hồn thiêng tổ quốc Việt Nam tôi
Là anh linh xương máu tự bao đời
Là đại diện cho tinh thần, lý tưởng
Màu cờ ấy, màu ba miền đất nước
Màu tự do, màu nhân bản, yêu thương
Dưới màu cờ, tôi có một quê hương
Dân được sống với nhân quyền, hạnh phúc
Cờ hạ xuống, quê tôi đầy tủi nhục
Dân căm hờn nhìn nước mất nhà tan
Thấy dân lành trong áp bức dã man
Tim tôi đập những nhịp đời thống khổ
Tôi đã than những lời đau của gió
Đã thở dài đất thở tiếng ưu tư
Những hồn thiêng từ các nẻo âm u
Đã nghiêng xuống thơ tôi, dòng tâm sự
Hồn tôi đấy, đau chung hồn quốc sử
Máu từng dòng theo lệ chảy thành thơ
Nhịp tim buồn thao thức đập bơ vơ
Sẽ ấm lắm khi cờ vàng tươi lại
Dẫu tôi chết, hồn tôi còn sống mãi
Xin một lần cờ phủ áo quan tôi
Vì tình yêu từ thuở chớm đôi mươi
Sẽ viên miễn thăng hoa cùng lẽ sống
Đấy, duy nhất, một điều tôi ước vọng
Rất hồn nhiên, xuất phát tự lòng tôi
Lá cờ vàng dân tộc qúy yêu ơi
Rồi sẽ lại huy hoàng trên đất Việt
Ngô Minh Hằng

THƠ TRẦN HỒNG CHÂU

NÚI, ĐI VÀO HỒN XANH MƯỚT
Trần Hồng Châu


Suddenly,I realize
that if I stepped out of my body I would break
into bloosom.
J.Wright


Mưa tạnh
Núi vẽ mày
Điểm trang
Mắt xanh
Tóc thề xanh
Ta nằm cuộn tròn
Núi tử cung ôm ấp
Người tình mẹ
Mặc cảm ấu thơ
Nuốt hoa mật
Nuốt sao trời
Không dưng đôi cánh mọc thân gầy
Níu chặt
Níu chặt
Ngón buồn
Cao xanh
Ta vào xanh
Tan núi lam
Màu khí quyển
Ảo giác không gian
Áo biếc
Ảo giác thời gian
Tím ngát trầm hương
Đi vào hồn xanh mướt
Hoa lá cỏ cây
Bể dầy vĩnh cửu
Đạo hàm vô biên
Đi vào âm vang
Hơi ấm cửa mình núi
Nguồn cảm miên trường
Đi vào quạnh hiu mênh mông
Đắng hạt muối trong lòng sóng lớn...
(NHỚ ĐẤT THƯƠNG TRỜØI)


NGUỲỄN VỸ * HOÀNG HÔN

Hoàng Hôn
  Nguyễn Vỹ



  Một đàn
Cò con
Trắng nõn
Trắng non
Bay về
Sườn non.
Gió giục
Mây dồn,
Tiếng gọi
Hoàng hôn
Buồn bã
Nỉ non
Từ giã
Cô thôn ...
Còn con
Cò con
Trắng non
Nào kia,
Lạc bầy,
Lại bay
Vào mây,
Ô kìa!



SƠN TRUNG * ANH SẼ ĐƯA EM VỀ

ANH SEÕ ÑÖA EM VEÀ
Ngaøy mai khoâng coøn maøu côø ñoû
Anh seõ ñöa em veà thaêm queâ xöa
Anh seõ ñöa em veà Sôn Taây,
Thaêm queâ em Thaïch Thaát
Anh seõ cuøng em leân Saøi Sôn
Thaêm chuøa Thaày
Chuùng mình seõ ñi khaép
Moät traêm gian chuøa coå.
Anh seõ cuøng em,
Thaêm chuøa Taây Phöông
Ñaõnh leã Boà taùt nghìn maét traêm tay.
Anh seõ cuøng em leân nuùi Taûn,
Cao choùt voùt chín taàng maây.
Thaêm ñoäng phuû cuûa Sôn Tinh ñaïi thaéng
Anh seõ ñöa em veà Haø Noäi,
Thaêm phoá phöôøng naêm cöûa OÂ xöa
Anh seõ cuøng em ñi daïo Bôø Hoà
Thaêm chuøa Traán Quoác,
Thaêm ñeàn Ngoïc Sôn
Thaêm nhöõng haøng bia Vaên Mieáu
Thaêm cung ñieän cuûa Ngoïc Haân, Nguyeãn Hueä.
Anh seõ cuøng em ñi traãy hoäi Chuøa Höông
Thaêm am Phaät Tích,
Thaêm ñoäng Tuyeát Quynh
Vaø caàu nguyeän chö Phaät möôøi phöông!
Anh seõ ñöa em veà Baéc Ninh
Queâ höông Quan hoï
Ñeâm traêng raèm nghe khuùc haùt aân tình.
Anh seõ cuøng em
Gheù phuû Töø Sôn
Tìm nhöõng khuùc ca aân aùi
Cuûa Tröông Quyønh Nhö vaø Phaïm Thaùi.
Anh seõ ñöa em veà Quaûng Bình
Qua soâng Gianh
Queâ höông anh,
Boán beà nuùi soâng vaây phuû
Nghe aâm vang thôøi Trònh Nguyeãn phaân tranh!
Anh seõ ñöa em vaøo ñaát Thaàn Kinh
Ñeå nghe tieáng chuoâng chuøa Thieân Muï
Ñeå nhìn nöôùc soâng Höông xanh
Ñeå leân thaêm nuùi Ngöï Bình
Ñeå vaøo trong Ñaïi Noäi
Thaêm cung ñieän caùc ñeá vöong ñôøi tröôùc!
Anh seõ ñöa em leân Ñaø Laït,
Thaêm Cao nguyeân boán muøa thoâng baùt ngaùt.
Anh seõ cuøng em thaêm hoà Than Thôû,
Thaêm thaùc Cam Ly
Thaêm tuaàn traêng maät!
Roài chuùng ta seõ trôû veà Ñoàng Nai
" Nhaø Beø nöôùc chaûy chia hai,
Traêm naêm nghìn kieáp chöa phai aân tình!"
Em ôi!
Vöøng traêng khoâng bao giôø maát,
Vaø muoân naêm coøn nhöõng buoåi bình minh!


ĐẶNG PHÙNG QUÂN * TỰ TRUYỆN

TỰ TRUYỆN
ĐẶNG PHÙNG QUÂN

            Ngăn kéo thứ nhất                                           

       Tôi thường có thói quen buổi sáng vào ngồi uống                 

      cà phê ở một quán trung tâm thành phố trước khi đến             

      lớp dạy.Ngoài trời còn nhá nhem, những ô cửa                      

      kính mờ hơi sương, những ngọn đèn lục khuất ở các                

      góc tường vẫn cháy sáng, một vài khuôn mặt quen thuộc          

      trầm ngâm trước ly trà bốc khói.Trong sớm mai nỗi               

      nhọc nhằn của một ngày mới bắt đầu.Tôi vẫn thường              

      tự hỏi quanh ta những âm mưu thử thách nào sắp sửa             

      bắt đầu                                                                  

Barthes không quan niệm không có tác phẩm, nhưng ông nhận định tác phẩm hiện đại không thể khả hữu, khi nhà văn với văn tự của ông còn ở trong một mâu thuẫn không lối thoát :                            

 Trong bất kỳ hình thức văn chương nào, cũng có sự chọn lựa tổng   

   quát một thái độ, một thái độ đạo đức, chính vì những tương      

    quan giữa suy tưởng của nhà văn về xử thế xã hội đối với hình     

    thức và sự chọn lựa của mình, chọn lựa một luân lý về hình thức  

    chọn lựa không khí xã hội mà trong đó nhà văn quyết định xác    

    nhận bản chất ngôn ngữ của mình.Tóm lại nhà văn định vị trên    

    một thực tế hàm hồ : giao ngộ tương tác giữa nhà văn và xã hội;  

    từ cứu cánh tính xã hội này, đưa đẩy nhà văn tới những nguồn     

    lực cần thiết trong sự sáng tạo của ông, bằng một thứ chuyển      

    hoán bi đát.Chính vì không có tư tưởng nào không cần ngôn ngữ  

    mà Hình thức là phán quyết đầu tiên và sau cùng của trách        

    nhiệm văn chương, và chính vì xã hội không hòa giải mà ngôn      

    ngữ, tất yếu và thiết yếu bị chỉ huy, đã tạo dựng cho nhà văn một 

    thân phận xâu xé, xót xa.

                                 

                                                                                     

                                                                                     

  Trong văn chương chỉ có những nhân vật thực (thực sự)

  Trong triết học chỉ có những nhân vật phi thực (thực chất)

  Cuộc hành trình của nàng gần ba mươi năm, qua gần nửa vòng trái đất mới gặp lại người yêu (cũ).Cuộc tình tưởng chừng không bao giờ được thuật lại, ví như một câu thơ ngẫu hứng (dở dang) trên trang giấy trắng trơn

              chim sẻ về mùa này trên những cành hoang trong



bỗng nhiên chàng hiểu đó không là ảo tưởng nhưng tập hồ sơ lý lịch thứ nhất trong đời người.



    Ngăn kéo thứ hai



         Người đàn bà ấy đã nhắc nhở lại nơi chàng cả một thời tuổi  trẻ.Những cơn mưa trên phố xá Đà lạt.Chao ơi, lâu lắm rồi   chàng mới xuôi về mối tình đầu thưở cũ.Con đường dốc quanh   co lên đỉnh đồi dẫn đến ngôi nhà ở chênh vênh cạnh rừng thông   bạt ngàn đó.Nhớ.Lúc kéo cao cổ áo, đốt một điếu thuốc, ngừng  lại nghỉ một giây mệt mỏi rồi bước trên lối đi lát gạch, bâng  khuâng đứng bên cửa nghe tiếng nàng hát nho nhỏ (dường như chỉ để  nghe một mình) trong lúc làm bếp.Cô thiếu nữ mười lăm  ấy, với khuôn mặt trăng rằm (chàng thường chế nhạo như thế,   cộng với cái răng khểnh làm dáng) là một thế giới thứ nhất đã  mất của chàng.                                                                       

thành phố của nàng nhìn ra Thái bình dương, nơi nhà thơ lưu vong Czeslaw Milosz đã viết những viễn tưởng Widzenia nad Zatoka San Francisco --nàng có biết điều đó ?

thành phố của nàng mỗi sớm mai chuyến tàu điện chạy ngược từ lâm viên quốc gia về khu thị tứ, tiếng chuông bạt trong gió, nàng cũng đã ra khỏi nhà, đi ngang quảng trường ngăn con lộ chính của trục giao thông nam bắc với khuôn viên Đại học, con đường nhỏ và thảm cỏ được cắt tỉa thành hàng như đánh dấu lối đi vì ngày nào nàng cũng thức giấc đều đặn vào lúc năm giờ ngồi tĩnh tâm đợi ngoài trời sáng rõ (có những buổi sương mù giăng tỏa ngập không gian, nàng nhìn qua khung cửa sổ chờ ngọn đèn trên nóc cao ốc xa tắt để đánh dấu ngày mới), như một công chức hành chính làm việc đúng giờ, nàng qua khỏi quảng trường để đón chuyến xe sớm nhất tới Dale, chuyến xe với những khuôn mặt quen thuộc theo một lịch trình nhất định, có nhắm mắt nàng cũng tưởng tượng được mỗi người khách đó ngồi ở hàng ghế nào (như) thể một định mệnh ràng buộc (nàng tự cười thầm về ý nghĩ vơ vẩn) trong khi những âu lo mỗi ngày sắp đặt trong đầu như một con toán đố thuở học trò (gọi cho người cán sự mới nhận việc - đo nhiệt độ - làm công việc vệ sinh buổi sáng - hâm nóng thức ăn sửa soạn từ tối hôm trước - đã đến ngày gội đầu - trước khi tắm - trải nệm giường mới - thay tã - mặc áo mới - chải tóc sau khi lau khô cẩn thận để tránh nhiễm cảm - đặt ngồi ở ghế bành với gối dựa êm, chắc - kể từ lúc bà cụ ngã bệnh, căn bệnh của tuổi tám mươi cầm cự theo ngày tháng) nàng thốt lên nho nhỏ trong miệng như vừa chợt khám phá ra một điều mới lạ, như thể sự khó chịu ấm ách trong lồng ngực vừa được cởi bỏ nghe nh- nhõm (nàng vừa nhận ra cơn đau ngang thắt lưng bấy lâu là vì chiếc giường bệnh kê cao quá so với tầm vóc của nàng, mỗi khi nàng đỡ m- từ chỗ nằm sang phòng tắm),

lại một chuyện bận rộn chiếm khoảng trống trong trí mấy ngày (và  nàng cảm thấy hạnh phúc với điều đó)

những ngày tháng khi còn làm trợ giáo ở Min., nơi nàng tự đặt cho một cái tên là Xứ Tuyết, nghe như tên một tiểu thuyết Nhật bản, mùa hạ cũng nóng bốc lửa, công việc không ràng buộc như bây giờ nhưng sao nàng không cảm thấy chút tự do như giây phút ngồi trên một lộ trình hàng ngày nhất định lúc này.Nàng không thể kể lể cho

người nào.

thành phố của nàng, nơi chàng đã đặt chân đến vào tháng mười

mang theo câu thơ của Milosz

  Bylo nas wielu, z Jass i Koloszwaru, Wilna i Bukaresztu, Sajgonu   

  i Marakesz                                                                      

  Wstydliwie pamietajacych domowe zwyczaje

  lũ chúng ta đến từ Jassy và Koloshvar, Wilno và Bucharest, Saigon với

  Marrakesh nguợng ngùng nhớ lại những tập quán nơi quê nhà         

tâm sự thường xảy đến với những người di dân đến chốn này, một thành phố đang thất lạc trong trí nhớ -  bạn có biết mỗi con đường chỉ những con số (lục lạo trong tiềm thức để hình dung cuộc hẹn)/năm sinh, giờ bay và điện thoại dự liệu nếu khi tới/sự biến đến với nàng - hình dung một Đà lạt của riêng nàng và chàng lúc này (tôi vẫn tưởng tượng nàng đứng ở dưới chân dốc, khép tà áo tung lên trong gió, trông theo cho đến lúc xe chạy khuất cuối đường vòng), tôi vẫn tưởng mang đi được cả hình ảnh tuổi mới lớn của nàng (song thất bại) dẫu chiếm đoạt tất tận những giấc mơ khi nàng xa rời trường học (sống với nhau trọn kiếp) - dường như thuở ấy chiến tranh còn ở tận góc chân trời nào,

(chiến tranh, chia ly, đời sống chỉ là những khái niệm thật mơ hồ đối với nàng) -                                                                        

đó là câu chuyện ba mươi năm về trước đối với chàng, ở một thành phố khác khi chàng khởi cuộc hành trình này - theo đuổi một nhân vật của chàng

         người đàn bà ở một góc khác - không, tất cả chỉ là sự mơ hồ,

         bắt đầu cho cuộc sáng tạo, hay thật ra chỉ là cơn ái tình làm 

         xong, kéo tới, bao vây lấy cơn buồn ngủ lúc này rủ rê, vỗ về ngã

         mình xuống tấm nệm để thiếp đi, quên hết trong khi thân hình

         nhớp nhúa, ý nghĩ thì bồng bềnh trên một khoảnh khắc vừa đoạn

         lìa với khí hậu của căn phòng 3x4 thước chỉ chứa đủ một cái 

         giường sắt không treo mùng đặt song song với cái bàn xếp những

         tạp chí nhiều hình ảnh (những cái gáy nhiều màu sắc, dễ nhận 

         ra) khung ảnh chữ nhật mặt nhựa trong suốt lồng chân dung một

         người đàn bà, nét mặt mờ ảo dưới ánh sáng, đang cười, cái phin

         cà phê để trên chiếc ly bằng sành nung                           

người đàn bà giờ này đã thật trưởng thành (thật sự ở vào lứa tuổi bốn mươi đã tự coi là già lắm rồi, không còn gì để mơ tưởng - như nàng thường nói) - bỗng dưng thời khắc xáo trộn vì chàng xuất hiện

         tưởng anh không còn sau cuộc biến động/ý nghĩ của chàng cũng

         vậy/như một lần tự sát/có thể nào mình gặp lại nhau - ngày xưa

         mình đã vô tình vì nghĩ sự gần gũi chẳng thể có gì chia      

         cách/bây giờ em sợ vô tình/thành phố như một căn phòng ngủ

         khi hai thân xác kề bên nhau                                        

giữa những thân xác khác, biến dời và nghiêng lệch tùy theo ý nghĩa, thấm nhuần xung quanh và vượt qua ý nghĩa thân xác, luôn luôn cầu khẩn và thu phục nội dung, tự biến đóng kín châu thân, trong nội tại cũng như qua các tri thức đắc thủ, những kinh nghiệm từng trải, những cảm tình nuôi dưỡng, đồng thời cũng khám phá cái trống vắng,

sự xóa bỏ mọi nội dung, sự lược giảm hiện diện vào tha tính       

    

    Căn phòng đường Sloat



     Ngay từ buổi đầu tiên khi gặp lại nhau, khí hậu tháng mười nơi thành phố nàng ở đã chớm lạnh, cái lạnh không ẩm thấp làm se da thịt, lúc bước chân vào căn phòng, chàng đỡ chiếc áo khoác ngoài của nàng vắt lên thành ghế, họ đã ôm chầm lấy nhau - nàng dụi mặt vào ngực chàng, nghe như thấm những giọt nước mắt tự nhiên ứa ra (và nàng nức nở không nguôi) - rồi một khoảnh khắc nào đó, họ đã nằm bên nhau, thân thể của nàng (người đàn bà chưa qua lần sinh đẻ nào) không một dấu ngấn, đầu vú tròn, đỏ nhỏ xinh xắn, làn da mịn dưới những cảm giác của bàn tay chàng (và chàng nhận ra một nốt ruồi son ở phía bụng dưới của nàng), chàng thầm thì nói điều đó với nàng

- hai người cùng thốt lên cười trong lúc thân xác đã kề bên nhau - họ cùng chia xẻ một ý nghĩ trong ba mươi năm qua đi tìm kiếm thấy lại một điều gì đó riêng tư của chính mình trong xát-na này (ngày xưa, tại sao? em nhát lắm, có thể vì khung cảnh thời trung cổ Đà lạt, có thể để chờ đợi một ngày thực sự em sẽ là của anh, cái ngày ấy đã trở

thành ngày dài nhất suốt cuộc hành trình đời người, nghe như tiếng than vãn của nàng/của chàng), cái riêng tư ấy đến thật muộn trên thành phố lạ mặt.

    Mười mấy năm sau khi chàng đặt chân đến xứ sở này, chuyến xe đón người tị nạn ở phi trường đã chạy ngang thành phố về hướng thung lũng, cho đến ngày hẹn đến thăm nàng, chàng mới có dịp trở lại, kể cho nàng nghe lúc lái xe trên con lộ mười chín, chàng đã lạc đường đến tận vùng đồi sát bờ biển (đứng ở trên mỏm đất cao nhìn ra trùng dương xa, chân trời mờ mịt trong sương chiều, hình dung nàng cũng nhạt nhòa) bây giờ hiển hiện trong từng cảm giác, chàng thú thực vẫn như ảo tưởng, "ôm chặt em đi" - nàng thầm thì khuyến khích, từ lâu rồi...một nơi để trở về, căn phòng, nơi mà tôi (sẽ) phải đến bởi vì không thể là nơi nào khác - thế giới đã dành cho chúng ta một chỗ này, chàng mơ hồ nhớ như đã đọc (viết) ở đâu đó, một chỗ ngồi với nhau ở thềm cát ngoài bãi biển, ngó mông về phía những đợt sóng trùng trùng lớp lớp dội vào bờ thấy một người đàn ông dáng vẻ Á đông đang thổi chiếc kèn đồng, âm thanh dạt lại theo chiều gió, nàng tưởng tượng tiếng nhạc đó như nói với mình                                                           

                                                                                     

     Ngăn kéo thứ ba                                              

                                                                       

       Khởi đầu là tình yêu.Giống như Cựu Ước viết : Berechit/bara elohim et hachchamáim veet haárets.Derrida cũng khởi từ phần thứ ba trong Rechtsphilosophie của Hegel để viết : Tôi bắt đầu với tình yêu.Con đường gai góc để nói đến Hegel, đến Genet, đến Freud.Có phải tất cả chỉ là phỉnh gạt ? Hãy tin vào sự khởi đầu, vì tình yêu là một khoảnh khắc của Sittlichkeit.

   Hegel ghi nhận trong thiên mở đầu Gia đình :

       Liebe heisst uberhaupt das Bewusstseyn meiner Einheit mit  

       einem Anderen, so dass ich fur mich nicht isolirt bin, sondern

       mein Selbstbewusstseyn nur als Aufgebung meines Fursichseyns

       gewinne, und durch das mich Wissen, als der Einheit meiner 

       mit dem Anderen, und des Anderen mit mir                    

       tình yêu nói chung mang ý nghĩa ý thức tính thống nhất của ta

       với tha nhân, đến độ ta không còn bị cô lập trong ta nữa, nhưng

       ta có thể thắng cái tự thức như thể từ bỏ cái ta quy nội, và kể

       từ cái tự kiến này mà thống nhất được ta với tha nhân cũng như

       tha nhân với ta                                                           

tình yêu lại là Empfindung - die Liebe ist aber Empfindung - sự tìm kiếm cái thất lạc trong nhau, khi phút ban đầu của tình yêu là không muốn sống một mình/dass ich keine selbststandige Person fur mich seyn will/ta thấy ta trong tha nhân/dass ich mich in einer anderen Person gewinne

tình yêu là điều mâu thuẫn không ngờ - die Liebe ist daher der ungeheuerste Widerspruch                                                      

Marx hẳn không thể hiểu quá trình biện chứng này                     

       mâu thuẫn biện chứng của tình yêu với Hegel vượt lên khỏi nhận

       thức lý luận/den der Verstand nicht losen kann - những mặt đối

       lập (chung/riêng, khách/chủ, tổng thể/cá thể...); mâu thuẫn gắn  

       bó với Aufhebung/Vereinigung, những vận động dàn trải khắp tư

       tưởng Hegel khi ông viết tình yêu không có tha thể vì bạn hãy   

       yêu tha nhân như chính bạn - als einen der du ist, vì yêu chính  

       mình là một tiếng không có ý nghĩa (ein Wort ohne Sinn)

tôi không đưa bạn vào con đường hữu thần luận của Hegel (bạn có thể theo chân Derrida đọc lại Freud khi phân tích  sinh thực khí trong cổ thoại hy lạp, kể rằng mỗi khi nhìn thần Medusa là biến thành tượng đá : khủng cụ của Medusa là niềm khủng cụ bị thiến hoạn gắn liền với cái nhìn, bởi vì đứng trước cái đầu bị cắt và miệng mở rộng chính là đứng trước âm hộ của người m-; trong nghệ phẩm biểu hiện tóc trên đầu Medusa bằng hình tượng những con rắn bắt nguồn từ mặc cảm thiến hoạn vì tuy chúng có vẻ dọa nạt nhưng lại làm giảm vẻ khủng khiếp, vì chúng thay thế dương vật mà nguyên ủy của khủng khiếp là do thiếu vắng dương vật (dessen Fehlen die Ursache des Grauens ist) - nhìn đầu Medusa làm bạn sợ cóng đến độ biến thành đá, cóng biểu hiện cương cứng có nghĩa là vẫn còn dương

vật)

Hegel nói đến phân hóa thành hai là cội nguồn của nhu cầu triết học (Entzweiung ist der Quell des Bedurfnisses der Philosophie), mối quan tâm của lý trí nhằm chế giảm sự phân hóa này.Đó chẳng qua là một cách nói của quyền năng thống nhất (Macht der Vereinigung), cho nên cần đến triết học chưa hẳn là triết học.Triết học chỉ bắt đầu

bằng chính nó.Từ triết học từ tự nhiên đến triết học về tinh thần diễn ra cái vòng biện chứng, khởi từ nhu cầu đến cảm thụ cái khuyết, cái khuyết của cá thể trong giống, cái chia cách của giống trong cá thể, như vận động hàn gắn vết cắt, làm đầy chỗ khuyết như hành động giao hợp của chủng loại (Begattung), làm tình giữa giống cái với

giống đực (Geschlechtsverhaltnis).

     tình yêu là mâu thuẫn nằm ngay trong phân hóa giữa hai giống và chỉ trong giao hợp mới lấy đi sự phân hóa này.Cái cơ động của Aufhebung là quan hệ giữa giao cấu và khu biệt đực cái, nhưng giống đực và cái không đối lập như hai từ mà khu biệt của bất phân và phân hoá, như mồng đóc giống với dương vật nhưng thụ  động, cái hình thành tiểu âm thần giống như túi dịch hoàn và đường rãnh ngọc hành làm thành âm đạo nơi đàn bà - giao hoan là thụ cảm (das Empfangen) của đàn bà và cử hoạt (das Tatige) của đàn ông, một bên nhận và một bên mất đi

Cái vòng vo chạy đuổi theo nhau như cút bắt trong cuộc làm tình nơi đàn ông/đàn bà thăng hoá thành Aufhebung trong triết lý Hegel âm u đến thế

nhà thơ như Francis Ponge vỡ lẽ tại sao khoái đọc ngụ ngôn La Fontaine hơn Schopenhauer hay Hegel vì bớt mệt, lại nhiều thú vị , sạch sẽ hơn và ít lợm (moins fatigant, plus plaisant; plus propre, moins degoutant)

Derrida khi đi tìm hiểu điều đó đã tự hỏi :

    Hegel (le philosophe) n'est pas très propre, et il faut, après l'avoir lu, se laver, on dirait même s'en laver les mains...

    Pourquoi les philosophes seraient-ils, sans compter toutes leurs  autres insuffisances, sales?

    Hegel (triết gia) không sạch lắm đến nỗi sau khi đọc ông, ta phải đi tắm nếu không  muốn nói phải rửa tay nữa

    Tại sao các triết gia lại bẩn, chưa kể tới những khiếm khuyết khác?

trong muôn vàn lý do, cái tội nhất của mấy triết gia là cứ "huyên thuyên bất tận"/"volumenplusieurstomineux", không biết cắt ngắn đi và ký tên vì ông nào cũng chối bỏ đặc ngữ của cái tên mình mà chỉ nói những khái niệm và khái quát chẳng sạch sẽ/thích đáng/impropres



     Hành trạng của viết



      Tất cả là quyển sách - cuộc phiêu lưu của chữ viết bắt đầu.Nhưng tại sao lại hành trạng ? Có gì liên quan giữa cuộc đời (bio) và chữ  viết (graphie) ? Quyển sách được khai sinh, những chữ được viết ra, dường như tất cả từ hư vô đổ xô dồn lại; không phải vậy, chỉ có sự phân cách mỏng manh giữa hai biên giới : bên trong và bên  ngoài cuộc đời

  Quyển sách triết học đầu tiên chàng đọc là bản dịch của H.Albert từ tác phẩm Zur Genealogie der Moral sang tiếng Pháp, Mercure de France xuất bản mua lại từ quầy sách cũ, chủ nhân là một bà già (mù chữ ? chàng đoán mò thế vì mặt hàng của bà đầy sách báo ngoại ngữ tạp nhạp, kẹo và thuốc lá) đặt xế cửa quán cà phê Mai Hương (?) ở

Saigon thuở ấy - nhiều năm sau này quầy sách cũ và bà cụ đã biến đi trong những biến động nhiễu nhương.Quyển sách cũng thất lạc, giờ đây chàng chỉ còn giữ nguyên bản copyright 1930 của Alfred Kroner Verlag ở Leipzig.

    Nietzsche kể lể những kẻ thù của Schopenhauer như Hegel, đàn bà, thú nhục dục và toàn bộ ý chí để tồn tại, ngoan cố nên trên hết thẩy là tình dục mà Schopenhauer coi như kẻ thù cá nhân (als personlichen Feind):

     Jedes Tier, somit auch la bête philosophe, strebt instinktiv nach  einem Optimum von gunstigen Bedingungen, unter denen es seine  Kraft ganz herauslassen kann und sein Maximum im Machtgefuhl  erreicht; jedes Tier perhorresziert ebenso instinktiv und mit einer  Feinheit der Witterung, die "hoher ist als alle Vernunft", alle Art  

Storenfriede und Hindernisse, die sich ihm uber diesen Weg zum  Optimum legen oder legen konnten (es ist nicht sein Weg zum  "Gluck", von dem ich rede, sondern sein Weg zur Macht, zur Tat, zum machtigsten Tun, und in den meisten Fallen tatsachlich  sein Weg zum Ungluck).Dergestalt perhorresziert der Philosoph die Ehe samt dem, was zu ihr uberreden mochte,- die Ehe als Hindernis und Verhangnis auf seinem Wege zum Optimum.Welcher grosse   

Philosoph war bisher verheiratet? Heraklit, Plato, Descartes, Spinoza, Leibniz, Kant, Schopenhauer - sie waren es nicht; mehr noch, man kann sie nicht einmal denken als verheiratet.

     Mọi loài thú, kể cả loài thú triết gia, phấn đấu theo bản năng để  đạt tới cái tối hảo từ những điều kiện thuận lợi, nhờ đó nó có thể khai triển sức lực và hoàn thành cảm năng quyền lực tối đa; cũng do bản năng và nhận thức tinh tế cái gì "ở trên hết thảy lý trí", mọi loại xâm nhập hay chướng ngại có thể cản đường tới cái tối hảo  (tôi không nói con đường dẫn đến "hạnh phúc", mà là con đường tới quyền lực, hành động, hoạt động uy quyền nhất, và trong mọi trường hợp ý nghĩa nhất thực sự là con đường dẫn đến bất hạnh).Thế nên triết gia kinh hãi hôn nhân, cùng với những gì có thể thuyết  phục được, - hôn nhân là chướng ngại và tai họa đối với con đường đến chỗ tối hảo.Có ai trong những triết gia lớn lấy vợ đâu ? Như  Heraklit, Plato, Descartes, Spinoza, Leibniz, Kant, Schopenhauer  đều không lấy vợ; hơn nữa không ai có thể tưởng tượng họ lấy vợ

cũng Nietzsche cho Sokrates là trường hợp ngoại lệ, nằm trong nguyên lý hài kịch của ông

thế những triết gia như Khổng Khưu, Thích Ca, Aristoteles, Hegel, Husserl, Heidegger...ở trong hàng ngũ nào ?

còn những Lão Đam, Jesus ở trong nguyên lý nào ?

Nietzsche viết tinh thần tự do chỉ có khi nói không với mọi sự nô dịch rồi đi vào sa mạc (nein sagten zu aller Unfreiheit und in irgend eine  Wuste gingen)

há đó không phải là hình ảnh Lão Đam

triết gia không từ khước tồn tại mà xác quyết tồn tại của chính mình (ở một chỗ nào đó, chàng viết (đọc) : chấp nhận trần gian, tọa thị  thẳng thắn trên mặt trái đất, con người là sự nghiệp của mình ở đời

pereat mundus, fiat philosophia, fiat philosophus, fiam

Maine de Biran trong Nhật ký ca ngợi triết lý là suy tưởng trong quay cuồng thế giới cũng như trong cô tịch thư phòng đạt tới đỉnh cao vòi vọi, trong khi những tinh thần nhỏ nhoi của thế nhân chỉ nghĩ trong hoàn cảnh và thời khắc nhất định khi đầu óc và bao tử ổn định - đến chín phần mười cuộc đời chẳng dành cho tư tưởng

Sau bao năm tháng trôi qua, tôi vẫn đi trên một lối mòn và không bao giờ quay trở lại

Ecce enim breves anni transeunt, et semitam per quam non revertar,  ambulo

Những căn phòng trọ, những thành phố không tọa độ, những hình ảnh người đàn bà trong đời, cuộc hành trình vô định như thể viết, mãi không ngừng nghỉ (nàng hỏi, chàng hay tôi phải ký tên)



đặng phùng quân














 

NGÔ SỸ HÀN* GIA ĐÌNH CÓ NGƯỜI LÀM TRÂU

GIA ĐÌNH CÓ NGƯỜI LÀM TRÂU
 
Ngô Sỹ Hân
thân tặng Phạm Văn Tố và Ngô Thị Ngọc-Dung
     Cũng như các cô giáo khác, đa số bạn bè của cô Nga là dân chợ. Khi hay tin cô sắp lấy chồng về quê, họ ngạc nhiên lườm:
     - Thành thị không ở, lại đút đầu về quê?
     Những người khác ớn cái cảnh theo ông xã nhà binh rày đây mai đó, lại muốn lấy chồng thầy giáo, hoặc kẹt lắm thì đức phu quân ít nhất cũng là công chức cho hạnh phúc đến đầu bạc răng long:
     - Bộ hết người rồi sao?
     Cô giáo Nga cười phân bua:
     - Không phải hết người, nhưng tìm hoài nay mới gặp người trong mộng!
     Các cô bạn mỉa mai:
     - Chà! Lý tưởng dữ ha!
     Cô Nga hơi mắc cở, phang ngang:
     - Kệ tôi. Thời buổi trai thiếu gái thừa, tôi sợ ở giá như bà dì! Không khéo già kén chẹn hom nghe các con!
     Họ cũng trả lời:
     - Kệ tôi. Bà lo thân bà đi!
     Nga khích:
     - Ừ! Thì thân ai nấy lo. Tôi rán chống mắt đặng xem mấy bà về tỉnh thành hay về quê!
     Như vẫn còn ấm ức, cô giáo Nga gỡ gạc:
     - Sợ lấy chồng nhà binh hả? Coi chừng cuối cùng rồi cũng lên núi sống với cọp hay về rừng chơi với vắt và ngủ dưới giao thông hào!
     Cô giáo Nga nghĩ cũng phải! Thời buổi chiến tranh, không lấy chồng nhà binh chỉ có nước thành gái già! Thanh niên học đại học nửa chừng hoặc mới vừa xong trung học đút đầu vào lính, chưa kịp lập gia đình, mới còn độc thân. Còn mấy ông thầy giáo và công chức sống thọ thì đã có người đặt hàng nâng khăn sửa túi từ trước; làm lễ ra trường xong là vội hớn hở bước lên xe hoa để sớm rút kinh nghiệm cuộc đời cay đắng, “đâu tới phiên mình -trẻ lắm cũng hăm bốn hăm lăm!”.
     Các cô vớt vát:
     - Rồi đời con sẽ khổ nghe con!
     Mặc các cô bạn nói gì thì nói, cô giáo Nga lấy chồng về nhà quê thật. Nhưng cô có ở dưới quê ngày nào đâu mà khổ! Ông xã dám về làm đám cưới đúng truyền thống của tổ tiên chỉ để vui lòng gia đình. Ông anh chồng phải nhờ người bạn, trước học cùng lớp, cho một trung đội Địa Phương Quân giữ an ninh cho đám cưới nhà binh. Đấy là ảnh lo xa vậy thôi. Sau Mùa Hè Đỏ Lửa, mấy anh cách mạng nằm vùng biến đâu mất tiêu hết, chắc đang co cụm. Vành đai an ninh quận nới rộng ra đến tận bên này bờ sông Vàm Cỏ. Có lẽ chỉ trừ đám lá Tối Trời bên quận Bình Phước và quận Tân Trụ còn là chỗ dung thân cho những cán bộ còn sống sót. Lúc này nếu có ai cắc cớ tìm một anh cách mạng để xin đóng thuế đỏ con mắt cũng không ra. Từ ngày lấy chồng cho đến lúc trời xập, cô giáo Nga cũng chưa từng nhìn thấy một tên cách mạng thật bằng xương bằng thịt!  
     Hết cái cảnh đào đường cuốc lộ, hết cái cảnh phóng loa kêu gọi lính Nghĩa Quân bỏ đồn theo giặc. Lính tráng và cán bộ Xây Dựng Nông Thôn vô tới tận thôn làng. Họ chơi với con nít, dạy đám trẻ hát, giúp bà con sửa nhà chữa cửa, làm ruộng làm nương; tối lại còn nhậu với đám thanh niên và mấy ông già gân. Điện chưa về làng nhưng ánh sáng văn minh lấp ló đâu đây. Sáng tinh sương trên con đường làng dẫn đến chợ, các cô gái yêu đời nhí nhảnh trong những bộ đồ bà ba cổ trái tim màu mè, cười giỡn líu lo như là sống trong cảnh thái bình. Dĩ nhiên, hơi quê mùa nhưng không đến đổi nào. Rải rác cũng có người học hành đỗ đạt làm công chức, làm thầy cô giáo ngoài thành, và đi sĩ quan khắp bốn vùng chiến thuật. Là dân chợ, cô tự an ủi tại vì hai người “yêu nhau hết biết” thì phải chịu thiệt thòi một chút cũng không sao!
     Tuy nhiên, điều khiến cô giáo tự hào về gia đình chồng không phải là ngôi nhà ngói móc ba gian hai chái, cái sân gạch tàu phơi lúa rộng thênh thang, và vườn dừa sai trái hầu như bốn mùa..., mà là một gia đình nhân từ và đạo đức, được nể vì của lối xóm. Ông cha chồng không học nhiều nhưng còn nhớ đủ để trâm tiếng Tây được với anh Thống học sinh ngữ thứ hai Pháp văn với thầy Lê Văn Nguyện. Ngược lại, bà mẹ chồng mù chữ như đa số người đàn bà ở quê vào lứa tuổi ấy. Bà rất mực nhân từ nhưng nếu diễn tả thì nhiều khi vô tình hay vụng về làm giảm cái lòng nhân ái của bà đi. Ông bà, do cha mẹ đặt đâu ngồi đấy, ở với nhau từ hồi chưa đến tuổi hai mươi cho tới lúc bạc đầu, chỉ sinh được hai thằng con trai rồi ông trời bắt nghỉ luôn không cho biết lý do. Ông anh lớn làm thầy giáo chưa lập gia đình, chỉ một mình phu quân của cô giáo là sĩ quan. Bà con lối xóm nói nhà có phước mới có người làm quan!
     Nhưng sau ngày cách mạng thành công, gia đình bác Tám “có phước mới có người làm quan!” tự nhiên trở thành ngụy, mặc dầu từ trên xuống dưới ai ai cũng mẫu mực đàng hoàng, chớ không hề đầu môi chót lưỡi, giả nhân giả nghĩa, và tranh sống bằng cái mánh lới mới của cách mạng! Con nít lối xóm gọi bác là ông nội ông ngoại như ruột thịt. Đám trẻ xem hai bác như cha mẹ, tá điền lớn tuổi thì coi như anh cả, ông bà già thì như anh em bè bạn; trong vùng này không ai có thể lớn tuổi hơn bác được nữa. Từ bao nhiêu đời, dòng họ ông không có truyền thống tham gia chính quyền làm ông cả ông chủ trong làng, chỉ là thường dân Nam bộ. Dù vậy, cũng nhờ có hai thằng con ăn học mà gia đình được thơm lây. Cưới hỏi, đình đám, đơn từ một tay hai anh học trò. Tết nhất họ mang quà tặng đầy nhà cho dù ông bà không nhận họ cũng bỏ đấy, chạy băng qua cái sân gạch mà về. 
     Ngay tại ngỏ, dù không có cổng như đình làng hay của những gia đình khá giả khác, bác Tám kiểu cách trồng hai khóm hoa dâm bụt cao tới cổ người lớn, lá xanh mướt và bông đỏ lòng thòng trông không giống như cái lồng đèn xưa thu nhỏ lại. Phía bên trong khóm hoa khoảng hai thước là cái cầu thấp dùng để rửa chân trước khi bước lên hai hàng gạch xi-măng ước chừng bốn năm mươi thước dẫn vào nhà. Người ta không thấy tượng Phật, hình Chúa, Khổng Tử, Lão Tử, Quan Công..., mà chỉ thấy hình ông bà tổ tiên theo thứ tự ba đời trên bàn thờ. Bộ trường kỷ chạm trỗ cầu kỳ ở gian giữa dùng tiếp khách quý trang trọng khi có đám tiệc; hai bên là hai bộ ván gõ đỏ lên nước bóng láng nhờ bác trai ở trần ngủ trưa hầu như quanh năm, mãi cho đến cái ngày lỡ khóc lỡ cười!    
     Lúc mới đổi đời, tự nhiên thằng Hai Cò mua ve chai được làm bí thư xã. Con vợ nó giờ đây đổi lốt cho khác với đám đàn bà con gái thường dân; trong bụng không có bếp lò mà nó cũng hét ra lửa được! Tay chân bộ hạ của vợ chồng thằng Hai đa số dân cô hồn các đảng miệng bằng tay tay bằng miệng nên dân ngụy phải sợ! Nếu thế cũng chưa đủ, nó phải dùng thêm một số con nít mới lớn biết đọc biết viết để làm giấy tờ. Không biết do lệnh trên hay chạy theo mốt cách mạng, mấy cô cậu cách mạng ba mươi người nào cổ cũng quấn khăn rằn đỏ, mang một cái túi dết cán bộ nhập từ miền Bắc, và mang dép râu của bộ đội nên đi đường đồng trợt lên trợt xuống!     
Thằng Hai Cò mang súng lục đi với thằng phụ tá đến từng nhà ra lệnh bắt treo cờ xanh đỏ sao vàng và hình ông già râu lên bàn thờ. Bác Tám không thể làm trái nhưng có ý kiến khác với văn hóa cách mạng một chút. Ông tửng tửng theo kiểu kẻ cả:
     - Bàn thờ ngay chánh giữa nhà là để thờ tổ tiên ông bà. Cờ và hình thì tao có treo rồi đó!
     Anh bí thư bây giờ phát tài phát tướng thành bí thơ Hai Mập, không còn là thằng Hai Cò nữa. Nó làm lớn như thế mà không hiểu sao sau lưng hắn, người ta vẫn gọi bằng thằng, thằng bí thơ. Nó nài nỉ:
     - Còn hình Bác Hồ? 
     Hình như Bác Tám khoảng tuổi con heo hoặc con chuột hay trẻ lắm cũng con cọp, biết thằng bí thơ Hai Mập dốt đặc, nói đại: 
     - Tuổi ổng là bác của tụi bây chớ bác tao sao được?
     Thằng Hai Mập, không biết Bác Hồ của nó bao nhiêu tuổi, nhìn theo ngón tay bác Tám chỉ:
     - Bây xem hình tao treo chỗ cao nhứt và sạch sẽ nhứt đó! Tao vẫn kính trọng ổng, tao kêu ổng bằng ông Hồ hay ông chủ tịch mà! 
     Hai Mập đuối lý nói lảng qua chuyện khác để gỡ gạc. Gương mặt hồng hào của nó chuyển sang màu “đấu tranh chánh trị”:
     - Anh Thống có nhiều nợ máu với nhân dân, cách mạng...
     Hiểu thằng bí thơ sắp trả bài, bác Tám cướp lời:
     - ... Thôi! Nó có tội để cách mạng trị nó, không liên quan gì tới tao. Cách mạng vẫn nói “ai làm nấy chịu” mà!
     Mấy ông anh của bác Tám trước khi hy sinh cho cách mạng có nói “ai làm nấy chịu” nên chính quyền Quốc Gia không dám làm gì gia đình ông hết! Nghe phong thanh hình như chính bác Tám cũng có tham gia một thời gian. Anh thầy giáo kể lại rằng Hiệp định Sơ Bộ mồng Sáu tháng Ba tăng cường thêm sự hoài nghi của bác Tám. Hoặc là im lặng nhịn nhục tới đâu hay tới đó hay là đi mò tôm [1]. Cách phản đối tiêu cực nhất và đỡ nguy hiểm nhất là bỏ về. Thừa kế chưa tới một mẫu, ông già gân suốt cuộc đời làm lụng vất vả mới dư được mấy mẫu ruộng và căn nhà ngói, và ráng cho hai thằng con trai ăn học nên người. Thằng anh nối gót theo chú nó đi dạy thầy giáo rồi. Còn thằng nhỏ, thời buổi giặc giã, phải đi lính thôi, chớ chẳng lẽ bỏ vô bưng theo mấy thằng thất học:
     - Thắng làm vua, thua là giặc. Chuyện đời mà!
     Nhiều lúc nhìn mông lung ra ngoài, bác mơ màng đến những mùa xuân thanh bình cách đây không lâu. Lúc ấy tụi trẻ con tung tăng trong những bộ quần áo còn thơm mùi hồ đi chúc Tết ông bà để hí hửng nhận những đồng tiền lì xì mới còn thẳng nếp mang theo vào giấc ngủ mộng mơ. Bác nghĩ đến những nương mạ non màu đọt chuối đầu mùa và màu xanh lúa trổ đòng đòng mởn mơ con gái. Bác nghĩ đến cánh đồng lúa vàng trĩu hạt mùa gặt, gánh về phơi đầy sân gạch. Trả công trâu cày và thợ thầy xong, dư tới mấy thiên. Cái bồ lúa ba tầng cao gần đụng nóc nhà kho. Thuế má có bao nhiêu, chẳng qua như tiền ăn bánh! Chỉ cần mấy mẫu ruộng đồng cũng đủ sống tàng tàng -ngôn ngữ của bác- ở cái xứ quê mùa này: 
     - Hồi thời ông Diệm bình yên biết mấy! Cả đến thời ông Thiệu, họ cũng đâu có hành mình như mấy thằng này!
     Bác gái nghĩ đời nào mình cũng làm dân, ai làm hội đồng xã hay chủ tịch nước cũng được, nhưng hoang mang không ít:
     - Thời buổi gì kỳ: Muốn làm gì thì làm, muốn nạt ai thì nạt, muốn lấy của ai thì lấy! Coi dân như con nít. Thời Tây đô hộ cũng chưa đến đổi như vầy!
     Như mọi khi, ông an ủi:
     - Bà à! Hết rồi những ngày tháng bình yên.... Tôi đã nói trước. Còn gì nữa mà tiếc!
     Không biết gia đình ngụy này có bị ghi tên vô sổ bìa đen của anh bí thư cách mạng ba mươi không nhưng anh ta không ép nữa. Cờ đến tay, vợ chồng Hai Cò dẹp cái nghề mua bán ve chai khổ nhọc. Hồi trào ngụy, nó chỉ mơ được một chân làm lao công ở trường học Tiểu học Tân Chánh cho nhàn tấm thân và đỡ vợ con. Chính nó cũng không ngờ nó nhảy một bước đến chín tầng mây xanh. Đúng như cách mạng nói “chết là cùng -chết là hy sinh cho cách mạng còn hơn sống vất vưởng, mà thắng thì cái gì cũng có...”. Nhưng không dưng người ta mang của đến cho mình à?! Cũng phải dùng cái gì đó mới khiến người ta đưa tiền chớ! Dâng tiền mà ngược lại họ phải cám ơn mình đã nhận nữa! Sống cuộc đời cán bộ cách mạng ở cái xứ này, giấc mơ đã thành hiện thực: Nhà đúc bê-tông, mái ngói móc, tường tô...; nếu ở chợ thì anh cũng phải có cái ô-tô con! 
     Cuối cùng thì không thấy hình ông già râu gian ác đâu. Bác Tám xối nước trây đất cho lem luốt đem dấu đi ở một góc kẹt nào đó. Ông chuẩn bị câu trả lời nếu bị nó hỏi:
     - Bị mưa dột ướt hết trơn rồi. Để mai mốt tao sẽ mua cái khác đàng hoàng đẹp đẽ hơn thay.
     Thấy ông cương với thằng bí thơ Hai Mập, bác Tám gái lo lắng nhìn ông:
     - Ông à! Thời buổi sâu bọ làm người, ông coi chừng tụi nó! Tụi này không hiền đâu!
     Trái với tâm tính nhân từ và độ lượng, tướng tá bác Tám cao lớn, vạm vỡ, và mặt mũi bặm trợn. Bác chỉ cần đứng dậy là anh bí thư tưởng bị tấn cống, định chạy liền:  
     - Bà đừng lo! Tôi biết đánh thì tôi phải biết đỡ chớ!
     Bác gái cũng ậm ừ:
     - Ờ! Để đó cho ông đỡ!
     Bác Tám cương thêm:
     - Má nó à! Trâu già đâu nệ dao phai!
     Ông già trong tư thế chuẩn bị hoài mà nó không đánh cho ông có dịp đỡ. Rồi thời gian nhục nhằn ngày này qua ngày khác chồng thêm gánh nặng khiến tâm hồn bác trai chai đá và lưng bác gái còng thêm. Hai bác không biết ông bà tổ tiên đã sống ở cái đất này từ hồi nào. Nhưng mở mắt ra là bác đã nghe tên và lớn lên chút nữa là biết cái bến đò Bà Nhờ, cái Xóm Vồng, Ấp Chợ, Xóm Bà Lựu, Xóm Lưới...; kéo lên đến ngã ba Tân Lân, Nhà Dài, và con tỉnh lộ 18; đổ xuống Kinh Nước Mặn, đồn Rạch Cốc; qua Cầu Nổi, Mỹ Lợi, tới Vàm Láng.... Bác biết cả tiên nhơn của mấy thằng cách mạng ba mươi và thằng bí thơ này không sót một chỗ nào. Tụi nó mượn nợ ai rồi quịt luôn thế nào, đi ăn trộm bị lính Nghĩa Quân bắt quả tang ra sao, bác biết hết mà bác chưa hề kể cho ai nghe.
     Bác trai giải thích:
     - Hồi xưa chánh quyền người ta dùng người có chữ nghĩa. Bây giờ không xài mấy thằng này thì xài ai? Người có học và đàng hoàng ai chịu làm tay sai cho tụi nó! 
     Khi có dịp ngồi chung với gia đình, bác gái tâm sự:
     - Ba má ít học không có nhiều tiền của ruộng nương. Ăn hiền ở lành chỉ mong để đức lại cho con cháu.
     Còn ông già thì xác quyết như đinh đóng cột:
     - Ở hiền gặp lành. Ở ác gặp ác. Ông trời coi vậy mà có con mắt. Quả báo nhãn tiền chớ chẳng đâu xa!
Nhưng điều xác quyết của bác Tám ít nhất tới ba bốn năm rồi chưa ứng nghiệm. Mới trước ngày ông Dương Văn Minh tuyên bố buông súng, lối xóm còn nể nang và vồn vã gia đình có người làm thầy giáo và làm quan, mà bây giờ tự nhiên xa lánh. Họ lấm la lấm lét, không dám nói chuyện cũng không dám lại gần, chắc sợ vạ lây! “Liên hệ với ngụy quân ngụy quyền” mất mạng như chơi, “nếu không chết thì cũng èo uột khó nuôi”, không sợ sao được?! Gia đình sĩ quan và công chức chế độ cũ trong xóm ấp cũng cùng chung số phận, chớ không riêng gì gia đình bác Tám.
     Trong hai người con của bác, anh Hai làm thầy giáo chỉ mới bị xài xể sơ sơ nên chưa mất dạy, bị buộc tội gián tiếp dạy cho “bọn ngụy tụi nó” đỗ đạt đi sĩ quan chống phá lại cách mạng. Còn anh Thống đi giang đoàn hay giang thuyền hay giang đĩnh gì đó không hề làm hại một sợi lông của cách mạng. Anh chỉ giết mấy thằng Việt cộng phá làng phá xóm thôi, theo lời thành thật khai báo khi ở tù! Thậm chí anh cũng không trực tiếp cầm súng bắn mà chỉ ra lệnh cho xạ thủ bóp cò. Vì không có nhiều nợ máu với nhân dân nên ở tù chưa tới ba năm thì được về sớm. Hộ khẩu thì Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã chuyển sang Hoa Kỳ từ năm 1975, vợ chồng anh sĩ quan và cô giáo trẻ phải về quê ông già làm ruộng. Nhưng cách mạng đã lấy gần hết rồi, còn lại mấy sào gia đình năn nỉ cách nào họ cũng không chịu cày cho mình.
     Nước đã nổi, hầu hết ruộng người ta đã cày rồi, chỉ phần của đám ngụy quân ngụy quyền là còn nguyên. Anh con trai dù lo lắng nhưng có vẻ chịu đựng, nhìn cha mẹ:
     - Ba má đừng lo! Con đã có cách.
     Bác Tám trai nôn nóng:
     - Cách gì? Nói tao với má mày nghe đi!
     Anh Thống giải thích:
     - Tụi nó không cày thì mình làm trâu cày!
     Sống từ đầu thế kỷ Hai Mươi tới lúc Đức đánh các nước Âu châu, rồi đến Nhật đánh Pháp tại Đông Dương, bà con và gia đình bác sống lầm than khổ sở trăm điều, nhưng bác Tám cũng không hình dung có cái ngày này, cái ngày thành công của cuộc cách mạng vô sản, mà thằng con sĩ quan nhà ông phải thế trâu cày ruộng!
     Bác nghi ngờ: 
     - Được không? 
     Anh Thống nhìn ông già:
     - Mỗi bên ba con trâu người! 
     Bác Tám thở dài:
     - Coi vậy mà không dễ như hồi xưa tao làm trâu cho hai đứa bây cỡi đâu! 
     Cái lưng thớt của bác gần bằng cái mặt ghế, bác gái cỡi còn được huống hồ gì trẻ con! Thằng em ngồi trước, thằng anh sau, kẹp chân vào bụng và ngực ông già; hai anh em khoái chí cười “hắc hắc”, còn nhún lên nhún xuống khiến bác gái xót ruột cho ông chồng, cứ sợ gãy xương sống nằm một chỗ chẳng làm ăn gì được. Bác bảo các con phải nhẹ nhàng như cỡi con nghé! Ông thầy giáo và ông sĩ quan tiếc rằng từ lúc bắt đầu đi học lớp vỡ lòng - kể như người lớn - thì hết còn đặc ân ấy nữa!
     Bác Tám gái lên tiếng:
     - Hồi xưa ông chỉ làm trò cho tụi nó cỡi thôi! Bây giờ phải thế trâu kéo cây cày thiệt!
     Quay sang Thống chia sẻ, bà hỏi:
     - Làm sao kéo nỗi, con?
     Thống quả quyết:
     - Trong tù, tụi con đã cày rồi!
     Cô giáo Nga bủn rủn tay chân. Không có bầu mà cái cổ dài ra, tong teo ốm yếu vì phải đi bộ hàng ngày và ăn độn khoai lang. Bụng lép, ngực cũng lép; ai không biết cứ tưởng là đứa học trò con nhà nghèo chừng khoảng mười một mười hai tuổi. Vậy mà cô vào lớp sau khi có trớn, người ta không ngờ trong thời xã hội chủ nghĩa lại có một bộ óc đề kháng khôn ngoan đến đổi vài lần bị mời lên văn phòng làm việc! Cô nhớ lại bài học bồi dưỡng chính trị cho giáo viên nói từng bước xây dựng xã hội chủ nghĩa -một xã hội khoa học tiên tiến, phải hiểu ý nghĩa sâu xa là hồi trước dùng máy cày thay trâu, bây giờ dùng sức người thế máy cày!
     Nhìn khuôn mặt nhợt nhạt thất vọng của vợ, anh Thống an ủi:
     - Nga đừng có quá bi quan!
     Cô giáo sư dạy sử địa xuất thân trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn tên Ngô Thùy Ngọc-Nga nhỏ thó như đứa con gái suy dinh dưỡng và vàng vọt như người mắc bệnh sốt ngã nước, ngồi đây, mắt mở mà như đứng tròng nhìn những người thân tàn lụi dần theo năm tháng. Cô cũng như đa số thầy cô giáo trong tỉnh được lưu dụng để tiếp tục làm kỹ sư tâm hồn cho thế hệ kế tiếp cũng may mắn nhờ ông Trưởng Ty Giáo Dục tỉnh Long An gốc là thầy giáo hồi kết! Dù cách dạy và những gì phải dạy không đúng theo ý mình hoàn toàn nhưng ít ra cũng còn là sở trường. Nhưng những nơi khác, và nhất là sỹ quan, công chức, và cán bộ, trình độ đại học mà đi làm ruộng, cuốc đất trồng khoai để mỗi ngày cầm hơi bằng bữa đói bữa lép và giải trí bằng đọc báo quốc doanh! 
     Chiều lại anh Thống bàn với đám “ngụy quân ngụy quyền”:
     - Hộ khẩu ở đây, làm sao đi đâu được? Hết cách rồi! Mình áp dụng bài bản cũ trong tù đi! 
     Vì mấy người bạn không ở chung trại Trảng Lớn -Tây Ninh nên còn thắc mắc:
     - Là sao, mậy?
     - Cày người ông ạ! Ba thằng bằng một con trâu!
     Mọi người mới vỡ lẽ ra, thở dài chán ngán:
     - Tưởng tù-trong chúng nó bắt mình cày không cách gì tránh được, không ngờ tù-ngoài mình cũng phải tự nguyện bổn cũ soạn lại!  
     Thế là mấy người tù-ngoài trong phút chốc trở thành trâu hết, không anh nào thoát được. Nhưng nếu được làm trâu thật cũng sướng chán! Chỉ làm việc chừng nửa năm là cùng, có nơi chỉ trong mấy tháng. Không bị mấy thằng cóc cắn hành hạ đánh đập như các anh cải tạo. Cây roi chỉ để hù cho đừng lơ là công việc đồng áng. Cày bừa xong về nhà nằm nhơi cỏ, mùa lúa thì nhơi rơm khô còn hơn khoai mì H34 tồn kho hư mốc. Không ngủ, mắt lim dim nhìn mấy anh chị cách mạng ba mươi, mà khinh bỉ trong lòng, mong có ngày họ sáng con mắt ra. Lại khỏi đi họp tổ mỗi buổi tối để nhàm tai nghe mấy ông quan con cách mạng ba mươi nói xàm nói điên, và để ngoáy lỗ tai nghe những lời chửi rủa buộc tội.
     Trong một xóm nhỏ, nghèo, và kém văn minh như thế, dễ gì mà kiếm đủ bảy ông quan để thành lập một ê-kíp cày. Không đủ sĩ quan làm trâu, phải bắt công chức chế độ cũ; ngoài ra, còn phải tập cho thanh niên em út của gia đình ngụy quân ngụy quyền làm trâu luôn mới đủ trâu cày. Bộ đồ nghề cày có sẵn, nhưng dây dàm và cây roi không xài tới! Cái ách nhà nghề đẽo cong cong cho vừa cái cổ trâu cũng không dùng nữa, mà cái ách bây giờ phải đủ dài cho sáu người, nhưng cũng không quá ngắn cho “trâu” khỏi đụng nhau. Cây dẽo quá thì oằn, mà dùng loại gỗ cứng quá thì dễ gãy, ngay chính giữa dành cột cây đõi nối với cái cày mà một con người làm việc nhẹ -đàn bà con gái cũng được, không kỳ thị nam nữ- theo sau để thá dí cho khỏi lõi đất. Quý quan chuẩn bị đâu đó xong xuôi, quyết định ngày hôm sau ra quân.
     Quen kỷ luật nhà binh, ngay sáng sớm khi mặt trời cách mạng chưa thức dậy, quý quan đã tập hợp điểm danh như trước khi hành quân thật, hay ít nhất trong quân trường. Dù được coi là cải tạo tốt mới được cách mạng khoan hồng cho về đoàn tụ với gia đình và làm trâu thế con trâu thật mà cày, nhưng quý quan cũ vẫn chưa bỏ được lối sống tiểu tư sản! Bên đống lửa lùi khoai lang vừa để đuổi bù mắc, còn có café, trà hoa ngâu, và thuốc rê Long Khánh -vẫn hơn dế[2] và thuốc giả[3] trong tù!
     Một anh nhìn những sợi khói lửng lơ tan chậm vào không gian, hồi tưởng:
     - Như tráng đoàn đi cắm trại!
     Anh khác nhớ cuộc tình dang dở và ngày tự nguyện xách ba-lô rào rọ: 
     - Thật không ngờ! Như giấc mơ!
     Một anh ngồi bẹp trước lò dã chiến đang dùng cây que khều khều những cục than hồng, thấm thía về quyết định ở lại vì không nỡ bỏ người yêu. Giá anh đi thì cuộc tình vẫn đẹp:
     - Mơ còn có thể gặp em. Ác mộng thì có!
     Anh nào đó xổ nho:
     - ĐM! Sáng tạo xã hội chủ nghĩa mà!
     Cứ nghĩ chuyện chưa đánh đấm đã phải buông súng, anh khác hằn hộc:
     - Tao cứ ấm ức hoài! Đâu phải mình dở! Phải chi tụi nó giỏi hơn mình và văn minh hơn mình cũng cam! Giải phóng cái gì? Mình không giải phóng nó thì thôi! Sao nó lại giải phóng mình?
     Anh Thống vốn ít nói ngồi nghe các bạn thảo luận kinh nghiệm xã hội chủ nghĩa cho đã, hai bàn tay đang vấn điếu thuốc rê. Anh le lưỡi liếm cho mép nó dính lại:
     - Tụi bây phải học tánh kiên nhẫn của Nguyễn Công Trứ! 
     - Thắng không kiêu bại không nản!
     - Không phải đâu! “Thắng không kiêu bại không nản!” là binh thư. Còn của Nguyễn Công Trứ là lên voi xuống chó cũng tàng tàng như nhau! 
     Đang nói, bất chợt anh Thống xuống hò dứt câu sáu vọng cổ, tất cả cùng cười vui vẻ cứ như là ở đơn vị khi xưa. Bề ngoài có vẻ an phận, nhưng trong tận cùng, tuy các anh không nói, người ta cảm giác có cái gì cay đắng mỉa mai!
     Anh vừa phát biểu cãi:
     - Đảo đời chớ lên voi xuống chó gì? Lên voi xuống chó khác!
     Một anh gắp cục than đưa cho Thống:
     - Lửa nè, Thống!
     Anh khác phê bình:
     - Chà! Ngon lành như còn làm sếp!
     Anh phân bua:
     - Kệ, để tao điếu đóm cho nó! Coi như phần thưởng cho mầm non văn nghệ! Còn sếp tao hả? Đừng có hòng! Chuyện này để tụi nhỏ làm!
     Không khí mát dịu nhưng ẩm thấp. Nghe mùi cỏ quê hương ngọt lịm từ dưới những bàn chân đất. Lâu lắm mới nghe lại tiếng chim ríu rít trong tàng cây. Lâu lắm mới gặp lại giọt sương long lanh buổi sớm.   
     Đến giờ, anh Thống ôn tồn kết luận:
     - Thôi bỏ mấy chuyện đó đi! Bây giờ rán hy sinh chịu cực để mai mốt con cháu mình được khổ! 
     Đồng ý “Bây giờ chịu cực đặng mai mốt chịu khổ”, theo sự phân công trước, quý vị sĩ quan chiếu theo nhiệm vụ thi hành mang đồ nghề ra ruộng. Dù có mấy năm kinh nghiệm trong trại, không dễ sắp xếp một dàn cày với sáu người cao thấp không đều nhau. Ruộng dân và ruộng chính sách trâu đã cày xong, bây giờ dân cách mạng hay có hơi hướng cách mạng lo làm cỏ, bang đất, phản bờ, chuẩn bị đất, trong lúc ruộng ngụy mới bắt đầu. Nước lên cao quá cũng khó cày cho chính xác mà không bị lõi. Cày trâu cách mạng dù gì cũng không bằng cày trâu thật!
     Không biết anh nào có óc văn nghệ lên tiếng:
     - Nếu có máy hình, đứa nào đứng ngoài chụp một pô đặng tao gởi đi tranh giải phóng sự nhiếp ảnh, và đồng thời ghi vào sách kỷ lục Guinness! 
     Vậy là cả làng Tân Chánh phải học sáng kiến của mấy anh tù này. Quả là hiện tượng lạ lùng, rất mới mẻ, dân miền Nam vốn lạc hậu, từ tạo thiên lập địa tới giờ chưa hề nghe sách vở nào nói, và cũng chưa bao giờ dám nghĩ tới. Cả đám dân cách mạng hồ hỡi xem quên thôi. Họ trầm trồ “không ngờ mấy ông ngụy đi cải tạo được cách mạng dạy cho phương pháp tận dụng nhân lực”. Đúng là thời cách mạng, cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật..., dưới sự lãnh đạo của đỉnh cao trí tuệ loài người! Trước khi cách mạng thành công, rải rác đã có người mua máy cày nên trâu bán đi cho những vùng khác. Rồi máy cày cũng được cách mạng trưng dụng về nông trại của quý anh lớn trên tỉnh Long An hay ngoài trung ương Hà Nội!   
     Trong khi Thống và đám bạn tù-ngoài làm trâu cách mạng cày dưới ruộng, cô Nga xăng quần xách dép lội ra quận cách nhà ba cây số làm giáo sư dạy sử địa đệ nhị cấp. Chính nơi này trước đây mấy năm, máy cày thế trâu cho nhiều năng suất, thì mới chỉ hơn ba năm sau, viễn ảnh đất nước rừng vàng biển bạc qua cuộc cách mạng vô sản khiến sĩ quan công chức thay trâu kéo cày. Nga tưởng tiền nhân đời thứ nhất theo bà tổ Âu Cơ lên núi lập nghiệp đang làm việc. Cô xây xẩm tối mặt như bị máu xâm. Chân phải đá chân trái nhiều lần, cố kềm cho khỏi té. Nhưng khi khom xuống lượm đôi dép lại làm rớt cái cặp. Hai củ khoai lang lăng long lóc ra ngoài. Tập soạn bài phải trình cho hiệu trưởng duyệt dính đất lem luốt. Thân 38 ký mà như nặng ngàn cân khiến cô có cảm giác như ngồi trên phi cơ phản lực đang cất cánh. Nếu không nghĩ đến lời chồng chắc cô sẽ bỏ cuộc. Nếu không nhớ tới thái độ của ông cán bộ cách mạng chắc cô đứng dậy không nổi.
     Ông cán bộ đó không ai xa lạ mà là bạn học của anh chồng cô. Anh chồng của cô đi học sư phạm làm thầy giáo, còn ông ấy bỏ học đi theo giặc từ những ngày giặc mới nổi. Dù sau này khi được tín cẩn ông đi đâu cũng kè kè khẩu súng sáu bẻ cổ, nhưng người ta vẫn gọi ông là Mười Búa, vì trước kia ông có thói quen xử tử người ta bằng búa. Khi cách mạng thành công, ông Mười Búa còn sống sót trở về làm trưởng ban giáo dục huyện Cần Đước. Trong buổi họp giáo viên quận, ông sỉ vả những cô giáo có chồng cải tạo, trong số đó có cả những cô đã dạy ông ta học. Không biết sự thể thế nào, Mười Búa buộc tội ông thầy của ông ta trước kia là giáo sư Lê Kim Tiếng làm tay sai cho CIA đã chỉ điểm cho Cảnh Sát Quốc Gia bắt mấy đồng chí của ông nằm vùng trong đám học sinh Trường Trung học Cần Đước.     
     Sau khi qua cái cầu nhỏ xóm Cẩm Hà, cô giáo Nga ghé bệ đá bờ sông rửa chân mang dép vào trước khi bước lên con đường đá đỏ dẫn tới trường. Đối diện với cổng trường là ngôi nhà cha mẹ nơi cô sinh và lớn lên và ở suốt thời gian dài cho đến khi chồng ở tù trở về.
     Bác Tư dịu dàng nhìn con gái khóe mắt đỏ hoe:
     - Con có chuyện buồn?
     Tự nhiên như hồi còn con nít bị giật đồ chơi, cô òa lên khóc ngon lành không cầm được. Bác Tư nắm tay con, vuốt mấy sợi tóc trên trán và sau ót ướt đẫm mồ hôi, như những lần cô gặp tình huống khó xử trong đời. Bà chuyên môn may áo dài mà cô giáo con gái bà mặc áo bà ba cũ đi dạy học. Cách mạng thành công mới chừng ba năm mà con gái bà đã thực hiện một bước cách mạng nhảy vọt! Sao nó tiều tụy quá? Dáng dấp nó trông giống cô Hai Đàm bưng rổ bánh khoai mì bán dạo thường ngang qua nhà bà mấy năm nay.
     Bác Tư nhẹ nhàng như van lơn:
     - Có chuyện gì nói má nghe!
     Cô Nga nghẹn ngào ngập ngừng:
     - Hồi sáng này... mấy ảnh làm... trâu... cày!
     Bác Tư chưa hiểu:
     - Con nói cái gì trâu cày?
     Cô giáo giải thích sáng kiến của chàng rể cho mẹ nghe:
     - Không ai chịu cày. Mấy ảnh phải thế con trâu làm con trâu mà cày ruộng!
     Sống qua mấy thời kỳ bị giặc đô hộ, Bác Tư có nằm mơ cũng không tưởng tượng nổi với kiến thức của một sĩ quan, dưới ánh sáng quang vinh của cuộc cách mạng vô sản, bây giờ cày thế trâu!
     Qua ngấn lệ, bà nghẹn lời: 
     - Trời ơi! Rồi cày được không?
     - Con không biết. Nhưng không được cũng phải được thôi!
     Ngừng một chút, cô Nga mỉa mai:
     - Cách mạng dạy phải khắc phục mà!
     Bà bồi thêm:
     - Ờ thì khắc phục. Khắc phục là tự lo liệu. Khắc phục là chịu đựng. Khắc phục là bảo sao nghe vậy mà!
     Bác Tư nhìn con. Nó học ngôi trường này. Nó học sư phạm rồi có thời gian cũng về dạy ở ngôi trường này. Cấp trên của nó có giáo dục và lịch sự chớ không vô học và sỉ nhục giáo sư như thời này. 
     Chợt nhớ ra, bác Tư nghĩ không biết có nên nói hay không:
     - Có thằng gì nó nói bạn học cũ của con ghé tìm con.  
     Cô Nga tỉnh táo:
     - Con biết rồi. Nó đã ghé trường.
     Bác Tư hốt hoảng:
     - Con làm sao?
     - Không việc gì má phải sợ! Bộ ỷ cách mạng thì muốn làm gì thì làm sao?
Không biết bác Tư sợ gì nhưng bà vẫn sợ. Chắc bà sợ hơi cách mạng! Không nói rõ ràng nhưng cách mạng muốn làm gì thì làm, ai biết được. Cách mạng đã đưa bác trai đi cải tạo cho dù bác chẳng có dính líu gì tới lính tráng. Làm chủ cái tiệm may áo dài ọp ẹp như thế mà cách mạng cũng bắt bà đi học chính sách cải tạo công thương nghiệp.... Theo lý luận của cách mạng thì trong miền Nam ai cũng có tội. Thậm chí mấy người theo cách mạng có con cháu làm công chức hay lính tráng cũng có tội thì còn ai khỏi? Bây giờ thằng bạn theo giặc học chung với nó hồi đó muốn ỷ thế cách mạng đặng cưỡng đoạt đứa con gái của bà nữa sao:
     - Má đã nói với nó: Thôi cháu đừng tìm con Nga nữa. Nó đã có gia đình. Hơn nữa, chồng của nó cũng là bạn hoạc cũ của cháu. Đúng ra đạo đức cách mạng dạy cháu không nên tìm nó nữa! 
     Cô giáo làm thinh. Người mẹ tiếp:
     - Nó bảo thằng Thống bây giờ te tưa trụi lũi còn gì nữa? Phó thường dân còn chưa được!
     Cô uất ức nổi sung lên:
     - Thằng khốn nạn! Đồ vô liêm sỉ! Nếu nó không nói gì, con còn coi nó là bạn. Má đừng lo cho con. Giả dụ Thống có chết trong tù, con có ế chồng đi nữa cũng không tới cái thứ đó!
     Nó nói động tới anh Thống là cô giáo không tha thứ cho nó được. Hai vợ chồng hồi học chung một lớp là kẻ thù của nhau, bởi vì cả hai cùng học giỏi, tranh nhau từng tấc đất! Hai kẻ thù thay phiên nhau giật giải xuất sắc khi trong lớp hoặc khi toàn trường. Hai anh chị gầm gừ nhau cho đến khi cô Nga lên đại học thì hết, vì không còn đối tượng để mà trả thù! Anh Thống tới tuổi động viên phải vào Hải Quân. Trước khi mang ba-lô lên đường, anh Thống thức trọn một đêm, uống ba ly café đen và hút hết hai gói thuốc Bastos xanh, chong đèn ngồi nắn nót viết. Sáng hôm sau, anh ngập ngừng tạt ngang trao bức thư tỏ tình đầu đời cho cô Nga, mà bình thường anh không có can đảm làm. Bức thư của kẻ thù ra đi để sầu để nhớ cho kẻ thù ở lại suốt thời gian bốn năm đại học.      
     Bác Tư không biểu lộ nhưng hãnh diện về con gái, vì trong số các anh chị, tính cô Nga giống bác nhất: thâm trầm nhưng cương quyết. Từ hồi rất trẻ, bác gái đã cương quyết tuyệt tình vì cái tội bay bướm của bác trai. Thật ra thì bác trai cũng không có tội tình gì trầm trọng cho lắm! Chỉ là văn nghệ văn gừng, nhưng chẳng may bị bật mí![4]. Ở cái tuổi chưa tới ba mươi, người phụ nữ nào không cần một vòng tay đàn ông ôm ấp và chở che, nhưng bác dứt khoát. Sau biến cố, bác trai làm việc ở Sài Gòn, ở luôn trên đó lâu lắm mới về thăm con. Với cái tiệm may áo dài nho nhỏ, một bàn tay bác gái lo cho các anh chị nên người, mà thân cận nhất là cô Nga. Và cô Nga, giáo sư dạy sử địa lớp Mười Hai, có người chồng sĩ quan sau cuộc đảo đời làm con trâu cày!  
     Làm trâu cày khi ở tù-trong ù ơ ví dầu thế nào cũng được, nhưng ở tù-ngoài thu hoạch không đủ thì lấy lúa đâu mà đóng thuế cho nhà nước xã hội chủ nghĩa! Có người nghĩ các bà tù-ngoài khổ hơn các ông tù-trong. Ở lâu quá thì các ông liều mạng không cần biết đến ngày mai. Còn các bà ở tù-ngoài một nách mấy đứa con phải chống chọi cùng một lúc nhiều mối hiểm nguy! Cho nên về ở tù-ngoài, quý quan kê vai chia sẻ gánh cái khổ đó cho vợ con. Ngày đầu mới ra quân quý quan chịu không thấu nên về sớm cho trâu dưỡng sức. Bỏ cái ách ra, con trâu người bị thương nhưng còn gắng gượng lo dọn dẹp vườn tược. Ngôi nhà này, cái sân này, vườn dừa này, những con mương ngăn luống dừa này... tất cả không thay đổi nhưng khác xưa. Anh nghe thật rõ ràng tiếng lá xạc xào từng cơn gió đi qua. Anh cảm giác từng cơn gió mát ve vuốt tâm hồn. Nhìn ra thửa đất dưới ánh nắng có sao, một khung trời cách biệt. Ở đó những con người cách mạng đang hồ hỡi tiến tới thiên đường xã hội chủ nghĩa theo sách vở vẽ ra!  
     Ông sĩ quan nằm tại gốc cây không biết bao lâu. Không nhìn thấy tương lai huy hoàng trước mặt mà mơ về quá khứ êm đềm sau lưng. Anh nhớ con đường ướt sương buổi sáng, nhớ cái gò mả đôi tại ngã ba lộ đất, nhớ rặng trâm bầu nhà bác Sáu Tứ thợ mộc, và nhớ bụi mắc cở ven đường mà một trăm lần như một anh rắn mắc phải đá một cái cho lá nó khép lại.... Đến khi nghe tiếng rửa chân của cô giáo từ cái cầu thấp ngoài ngỏ, ông chồng sĩ quan, một tay đang xoa lên cổ đứng dậy bước ra ngoài đón. Trời không còn nắng. Trong cái không khí ảm đạm buổi chiều nhá nhem chỉ còn đủ để nhìn rõ mặt người thân, cô giáo dáng dấp tiều tụy mệt mỏi. Anh Thống nắm tay vợ, an ủi:
     - Nga cực lắm hả?
     Cô giáo nhìn chồng, thở dài:
     - Nga chỉ khổ!
     Ông sĩ quan nhẹ nhàng:
     - Có chuyện gì vậy Nga?
     Cô Nga trấn an: 
     - Thống đừng lo! Không phải chuyện ở trường đâu!
     Ông sĩ quan cố né tránh dấu cái cổ đỏ đang xát dầu dừa, nhưng không qua được mắt cô giáo:
     - Thống đưa cái cổ cho Nga xem!
     Cái cổ con trâu người làm sao bằng của con-trâu-cổ cày chuyên nghiệp! Cái cổ như cái cổ cò được gắn trên cây xương đòn gánh, bây giờ không gánh trách nhiệm quá trừu tượng mà mang cái ách cho cụ thể, nổi đỏ và sưng phù lên. Cô Nga nghẹn lời rươm rướm nước mắt, gục đầu lên vai Thống.
     Một tay vỗ vỗ lên lưng Nga, anh Thống an ủi:
     - Hồi trong tù, Thống còn cực hơn nữa!
     Cô Nga im lặng nuốt những giọt lệ. Anh Thống tiếp:
     - Ruộng tù đang cày, phân người nổi lềnh bềnh. Chúng nó gọi là phân Bắc. 
     Nga lại im lặng. Tiếng cười của Thống méo mó:
- Ruồi nhặng bay đầy! Riết rồi mũi mình hết biết mùi luôn!
     Cô Nga buồn mửa như bị thai hành. Thống không thêm lời nào. Ánh mắt ông sĩ quan đanh lại. Chuyến hải hành thằng bạn nói hôm nọ hiện ra trước trước mắt. 
     Anh Thống cụng trán vợ thì thầm:
     - Nga à! Mình phải đi!
     Cô Nga vói tay bá cổ anh Thống chia sẻ và tìm sự an ủi. Hai vợ chồng ôm nhau, im nghe hai trái tim cùng nhịp đập.
Ngô Sỹ Hân


[1] Mò tôm: Hình thức xử tử phổ biến thời bấy giờ của Việt Minh. Nạn nhân bị cho vào bao bố thả xuống sông.
[2] Dế: Tiếng lóng chỉ đuôi thuốc lá trong tù. Những anh em nghèo không có tiếp tế lượm chừng mươi cái đuôi rồi “recycle” lại hút cho đỡ ghiền! Lúc đầu mắc cở vì sỉ diện, nhưng riết rồi xem như thường! Ngặt là dế trong tù không to như dế ở ngoài!!!     
[3] Thuốc giả: Lấy bất cứ lá gì phơi khô quấn hút như “hút thuốc”!
[4] Bật mí: Tiếng lóng nói lái nghĩa là lộ bí mật.



BS. HỒ VĂN CHÂM * VĂN HÓA

Quan Điểm Về Một Số Vấn Đề
Chính trị Và Văn Hóa Việt Nam
Lời Kết
Minh Vũ Hồ Văn Châm
(Tác giả Minh Vũ Hồ Văn Châm vừa đưa lên mạng Trang Nhà http://www.geocities.com/chamho, ấn bản 2004, trình bày quan điểm của tác giả về một số vấn đề chính trị và văn hóa Việt Nam. Quan điểm của tác giả, về mặt chính trị, đặt cơ sở trên chủ nghĩa quốc gia, theo đó, quốc gia là tối thượng, và về mặt văn hóa, xoay quanh sự kiện Việt Nam là địa bàn tranh chấp ảnh hưởng giữa phương bắc và phương tây xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Sau Lời Mở Đầu đã giới thiệu ở số trước, Tạp Chí Cách Mạng xin giới thiệu Lời Kết của tác phẩm để bạn đọc biết quan điểm của tác giả về các vấn đề được nêu lên).
Đã có Lời Mở Đầu để khai trương tất nhiên phải có Lời Kết để cô đọng những điều vừa trình bày trên mấy trăm trang sách trước đây thành một lời khuyến cáo rằng đã đến lúc người Việt Nam chúng ta cần phải điều chỉnh lại góc nhìn và thế đứng khi đề cập đến một số vấn đề chính trị và văn hóa Việt Nam.
Trong thực tế, các vấn đề chính trị và văn hóa Việt Nam trong tập sách này tuy mang tính chất đa tạp nhưng thường thường lại đan kết với nhau. Mỗi một vấn đề nhiều khi lại bao gồm cả các mặt chính trị và văn hóa, thậm chí lan qua cả các lĩnh vực kinh tế và xã hội. Do đó, trong phần đúc kết này, tác giả xin tóm lược quan điểm của mình thành những ý kiến xây dựng, có khi liên quan đến từng vấn đề, mà cũng có lúc chung cho nhiều vấn đề, và không nhất thiết phân biệt tách bạch khía cạnh chính trị hay văn hóa.
Trước hết là vấn đề quốc gia với cộng sản. Ngườì Việt Nam chúng ta từ trước tới nay quen đem quốc gia ra đối kháng với cộng sản. Tàu Tưởng với Tàu Mao đánh nhau thì gọi là chiến tranh Quốc Cộng. Việt Minh với Quốc Dân Đảng kình chống nhau thì gọi là phân tranh Quốc Cộng. Hễ cái gì chống cộng sản thì được gộp lại thành một danh xưng chung chung là quốc gia. Như vậy là không được chính xác. Từ quốc gia bao hàm nhiều ý niệm cao sâu, không thể tùy tiện dùng làm đối vị với từ cộng sản. Đối vị chính xác của từ cộng sản là cụm từ ‘không cộng sản’.
Mặt khác, đối vị của quốc gia là quốc tế và địa phương. Quốc gia là nước. Lớn hơn nước là quốc tế, nhỏ hơn nước là địa phương. Quốc tế có thể mang nhiều hình thái. Quốc tế có thể là chính trị, là quân sự, là tôn giáo, là kinh tế, là văn hóa, là xã hội. Một khi đã là quốc tế, thì quốc gia bị phủ lấp, quyền lợi quốc gia không được tôn trọng, phúc lợi dân tộc phải chịu hy sinh cho nghĩa vụ quốc tế. Tinh thần địa phương cũng tác hại không kém. Địa phương xói mòn, phá nát sự thống nhất quốc gia. Địa phương phân hóa, hủy hoại tình đoàn kết dân tộc. Tinh thần địa phương làm nẩy sinh sự đố kỵ giữa các địa phương, sự bất phục tùng trung ương, đưa đến hậu quả cát cứ và nội chiến, quốc gia vỡ vụn thành nhiều mảnh, dân tộc chia rẽ thành nhiều nhóm sống trong hận thù.
Quốc gia là không cộng sản, vì lẽ cộng sản là quốc tế. Nhưng cộng sản Việt Nam trong quá khứ lại thường gian trá đội lốt quốc gia, và triệt để khai thác tình tự dân tộc. Thực tế phũ phàng là đối với cộng sản Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản mới là cứu cánh, còn quốc gia chỉ là chiêu bài, dân tộc chỉ là phương tiện. Tuy vậy, cộng sản Việt Nam ngày nay vẫn tiếp tục lừa mị quần chúng ngây thơ, nhất là trí thức và tuổi trẻ nhiệt tình, sử dụng các hình thái văn nghệ tâm lý chiến để kích động lòng yêu nước thương dân của các thành phần này, đồng thời mập mờ khoác trở lại lên mình cái lốt mới quốc gia dân tộc. Bởi vậy, người Việt Nam chúng ta ngày nay vẫn cần phải cảnh giác thủ đoạn quỉ quyệt của người cộng sản để ý thức rằng người cộng sản luôn luôn đặt quyền lợi Đảng Cộng sản của họ lên trên quyền lợi quốc gia và không đếm xỉa gì đến phúc lợi dân tộc. Mọi hành vi và ngôn ngữ yêu nước thương nòi chỉ là những màn kịch khéo đóng.
Quốc gia là chống cộng, nhưng ngược lại, không phải bất cứ cơ cấu chống cộng nào cũng có thể gộp chung lại thành một tổng thể để mệnh danh là quốc gia. Thực vậy, nếu có những cơ cấu chống cộng ở phạm trù cả nước thì cũng có những cơ cấu chống cộng mang tính chất quốc tế hoặc địa phương. Mặt khác, đã từng có những cơ cấu chống cộng tự nhận là quốc gia nhưng không lấy quyền lợi quốc gia làm cứu cánh, lấy phúc lợi dân tộc làm đối tượng, mà trong thực tế, chỉ nhằm vào việc đấu tranh với đảng cộng sản cầm quyền để tranh giành đặc quyền đặc lợi cho một thiểu số thành phần nhân dân mang tính chất giai cấp, tôn giáo, địa phương, hoặc chủng tộc. Quốc gia và chống cộng có chung một mục tiêu đấu tranh là thực hiện sự giải thể chế độ cộng sản và triệt tiêu chính quyền chuyên chính vô sản, nhưng quốc gia với chống cộng cực đoan có sự khác biệt tế nhị là quốc gia chống cộng nhưng không bao giờ vì sự nghiệp chống cộng mà đi ngược quyền lợi tối thượng của quốc gia và hy sinh phúc lợi của đại khối dân tộc.
Tinh thần quốc gia là yếu tố căn bản để thực hiện và củng cố sự thống nhất quốc gia và tình đoàn kết dân tộc. Song song với sự nghiệp bảo vệ đất nước chống lại các hình thái xâm lược hoặc áp đảo của các thế lực quốc tế, người Việt Nam chúng ta ngày nay cần phải nhanh chóng tìm cách giải tiêu tinh thần địa phương vốn là uyên nguyên của tình trạng kỳ thị và chia rẽ nam bắc của đất nước chúng ta xuyên suốt chiều dài lịch sử phát triển dân tộc. Các yếu tố lịch sử và địa lý đã hình thành trên quốc gia Việt Nam hai khu vực lớn chung quanh Hà Nội và Sài Gòn. Hai trung tâm này kèn cựa nhau để tranh giành ngôi vị thủ đô nước Việt Nam thống nhất. Tình trạng này quả tình là không thuận lợi cho chính sách trung ương tập quyền. Muốn củng cố sự thống nhất thì cần thực hiện ngay sự phân quyền rộng rãi cho địa phương. Trung ương chỉ cần nắm chính cương chính sách, và một vài lĩnh vực trọng yếu trên phạm trù quốc gia như ngoại giao, quốc phòng, tiền tệ, năng lượng v.v... Mọi việc khác nên để cho địa phương tự trị. Địa phương sẽ tùy nghi huy động nhân tài vật lực cơ hữu để phát triển khu vực của mình dưới sự điều hợp của trung ương cho ăn nhịp với chính sách chung của cả nước.
Hà Nội và Sài Gòn đều là đại địa, là trung tâm của những miền rộng đất, đông dân và nhiều của. Tuy vậy, chính quyền trung ương của nước Việt Nam thống nhất không nên đóng ở Hà Nội hoặc Sài Gòn. Nếu thủ đô đóng ở một trong hai trung tâm lớn này thì trung tâm kia sẽ cảm thấy bị thua thiệt, bị lấn ép, bị khai thác, vì nghĩ rằng trung ương qui tụ nhân tài và tập trung vật lực của cả nước vào việc tô bồi, tân tạo và phát triển thủ đô. Cứ cái đà này thì mâu thuẫn bắc nam mỗi ngày một thêm trầm trọng, tinh thần kỳ thị địa phương mỗi ngày một thêm sâu sắc, nguy cơ cát cứ và phân ly mỗi ngày một thêm đè nặng lên nền thống nhất quốc gia và tình đoàn kết dân tộc. Bởi vậy, song hành với việc để các địa phương nam bắc được tự trị rộng rãi, chính quyền trung ương của nước Việt Nam thống nhất nên đặt ở một nơi khác, không nam không bắc. Nếu Việt Nam chia làm hai miền tự trị thì chính quyền trung ương đặt ở Huế. Nếu Việt Nam chia làm ba miền Trung Nam Bắc thì chính quyền trung ương đặt ở Đà Lạt.
Nếu Việt Nam chia làm hai miền thì từ Quảng Trị trở ra thuộc về Hà Nội, từ Quảng Nam trở vào thuộc về Sài Gòn. Nếu Việt Nam chia làm ba miền thì Thanh Hóa thuộc về miền Bắc, Bình Thuận thuộc về miền Nam, từ Nghệ An đến Ban Mê Thuột và Khánh Hòa là miền Trung. Để phát triển khu vực miền Trung ngang tầm với hai miền Nam Bắc, cần gộp hai thành phố Huế và Đà Nẵng thành một phức hợp đô thị có một tổ chức quản lý hành chánh duy nhất. Huế-Đà Nẵng sẽ vừa là trung tâm địa lý, chính trị, kinh tế và văn hóa của miền Trung, vừa là nền móng vững chãi để củng cố sự thống nhất lãnh thổ và sự hòa hợp nhân tâm của quốc gia và dân tộc Việt Nam. Huế có thế mạnh lịch sử và văn hóa, Đà Nẵng có thế mạnh địa lý và kinh tế. Tổ chức lại thành một phức hợp đô thị, Huế-Đà Nẵng sẽ bổ khuyết cho nhau để tự giải hóa các mặt yếu, đồng thời phát huy được tối đa các mặt mạnh. Nằm ở đầu mối giao thông hàng không hàng hải quốc tế, Đà Nẵng lo việc giao lưu với bên ngoài. Nằm ở đầu mối hành lang đông tây, Huế phụ trách việc thâm nhập và khai thông nội địa.
Mỗi khi đề cập các vấn đề chính trị và văn hóa của đất nước, cũng như thảo luận các vấn đề phát triển kinh tế và cải tiến dân sinh, người Việt Nam chúng ta ngày nay nên nâng tầm nhìn lên cao để bao quát toàn bộ lãnh thổ quốc gia, từ bắc xuống nam, từ biển lên rừng, chứ không nên khư khư tự khép mình trong khuôn khổ một khu vực, một địa phương. Nhìn lại quá khứ, chúng ta không nên tự giới hạn lãnh thổ ban đầu của chúng ta trong mỗi một huyện Tây Vu hoặc quận Giao Chỉ. Nước Văn Lang hay Môn Lang, có nghĩa là làng của người Môn, đất nước của người Môn, vươn dài lên tới hồ Động Đình. Cha rồng họ Lạc, mẹ tiên họ Âu, rõ ràng đất nước thời hồng hoang đã bao gồm cả Bắc Việt (Lạc Việt) lẫn Lưỡng Quảng (Âu Việt).
Công nghiệp của Thục Phán và Triệu Đà đều nên được xem như là nỗ lực thống nhất dân tộc, nghĩa là thâu gồm các lãnh thổ vụn vặt thành một đất nước rộng lớn, tập hợp các vương quốc nhỏ bé thành một quốc gia hùng mạnh, trên nền móng một quốc dân hợp nhất là chủng tộc Bách Việt. Sự kiện này được nhìn nhận trong bức thư của Hán Văn Đế gửi Triệu Vũ Vương, cũng như qua quyết định của Hán Vũ Đế duy trì toàn thể lãnh thổ Nam Việt trong một tổ chức riêng biệt gọi là Giao Chỉ Bộ, mà về sau được đổi lại là Giao Châu. Nếu Thục Phán đã dược nhận là người sáng lập nhà Thục, nếu Sĩ Nhiếp đã được tôn là Sĩ Vương, là Nam Giao Học Tổ, thì lẽ nào Triệu Đà, người đã đưa dân ta từ văn minh đồ đồng tiến lên văn minh đồ sắt, lại không được thừa nhận là vua chúa Việt Nam.
Cũng cùng một chiều hướng, việc Khu Liên ở huyện Tượng Lâm dựng nền tự chủ, lập ra nước Lâm Ấp, phải được xem như là sự nghiệp giải phóng cư dân bản địa thoát khỏi sự đô hộ của người Tàu. Vào thời điểm này, cư dân bản địa ở huyện Tượng Lâm không có gì khác biệt với cư dân bản địa ở huyện Tây Quyển hoặc ở huyện Tây Vu. Mặt khác, một số vua chúa Lâm Ấp buổi đầu như Phạm Văn, Phạm Phật, Phạm Hồ Đạt lại là di dân gốc Hán, y hệt Triệu Đà ở Nam Hải, Sĩ Nhiếp ở Thương Ngô, Lý Bôn ở Giao Chỉ. Vua Lâm Ấp Phạm Dương Mại II lại đã từng đòi hỏi nhà Tống (Nam Bắc triều) giao trả quyền thống lĩnh toàn bộ Giao Châu. Bởi vậy, cuộc chiến tranh ở biên cương giữa Lâm Ấp với Giao Châu phải được người Việt Nam chúng ta ngày nay xem là cuộc đấu tranh với quân giặc xâm lược để tiếp tục hoàn chỉnh sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Nếu Thục Phán và Triệu Đà đã được sử cũ xem là vua chúa Việt Nam thì vua chúa Lâm Ấp cũng như vua chúa Chiêm Thành về sau phải được người Việt Nam chúng ta ngày nay thừa nhận là vua chúa Việt Nam, ít nhất cũng ngang tầm với vua chúa các thời đại đất nước qua phân Mạc, Lê Trung Hưng, Trịnh, Nguyễn, và Tây Sơn.
Với góc nhìn và thế đứng được điều chỉnh lại, song hành với việc tái tổ chức lãnh thổ và việc phân quyền rộng rãi cho các địa phương, người Việt Nam chúng ta ngày nay, một mặt sẽ gột bỏ được tinh thần kỳ thị địa phương, chia rẽ nam bắc, mặt khác sẽ rũ sạch tâm lý phục Tàu, sợ Tàu, chạy theo đuôi Tàu, đồng thời sẽ có thái độ thân ái hơn, cư xử bình đẳng hơn, không còn mang nặng đầu óc tự tôn quá đáng trong khi giao tiếp với các sắc tộc anh em trong cộng đồng dân tộc. Chúng ta nâng tầm nhìn lên cao để bao quát cả khu vực cư dân Bách Việt, rọi ánh sáng tìm tòi lùi xa trở lại thời sơ sử mịt mù, chúng ta sẽ hóa giải mưu mô thâm độc của người Hán cứ tìm mọi cách để chúng ta tự mình đồng hóa với người Tàu. Cha rồng họ Lạc, mẹ tiên họ Âu đều là người đồng chủng. Làm gì có chuyện Âu cơ vốn là người bắc (người Hán), muốn đem 50 con về bắc nhưng bị Hoàng Đế đem binh ngăn trở. Lúc bấy giờ, Hoàng Đế còn ở tận trên thảo nguyên Cam Túc, đâu đã có mặt ở Giang Nam. Thực tế lịch sử là không hề có liên hệ huyết thống giữa Việt tộc và Hán tộc vào thời bấy giờ. Chỉ từ khi Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư mang quân đi đánh Bách Việt, sự hỗn chủng mới xẩy ra. Do yếu tố di dân Hán mà phát sinh sự phân hóa cư dân Tiền Việt thành hai tộc Việt Mường riêng rẽ, nhưng người Việt vẫn không phải là người Hán, người Việt vẫn bảo lưu được nhiều đặc điểm nhân chủng và yếu tố văn hóa cội nguồn, nhờ vậy mà người Việt không bị tuyệt giống.
Người Việt Nam chúng ta ngày nay cần ý thức rằng cho dù gia phả chúng ta còn ghi tiên tổ xa xưa vốn người Chân Định (Triệu Đà) hay người nước Lỗ (Sĩ Nhiếp), người đất Mân (Trần Thủ Độ) hay người Triết Giang (Hồ Quý Ly), thì trong máu thịt chúng ta cũng vẫn có ít nhiều yếu tố bản địa, khiến đầu chúng ta đa số có chỉ số sọ dài, khiến máu chúng ta đa số thuộc nhóm máu loại O. Dứt khoát chúng ta là người Việt chứ không phải là người Hán. Chúng ta phải chấm dứt việc sử dụng góc nhìn và thế đứng rập khuôn theo người Tàu mỗi khi đề cấp đến các vấn đề chính trị và văn hóa Việt Nam. Chúng ta đừng theo đuôi người Tàu gọi bà Triệu là con mụ Triệu (Triệu Ẩu). Chúng ta cũng đừng theo đuôi người Tàu gọi người Lâm Ấp là dân man, gọi các đạo binh Lâm Ấp đánh vào Nhật Nam, Cửu Chân và Giao Chỉ là quân giặc cướp, bởi lẽ tiên tổ người Lâm Ấp-Chiêm Thành cũng là di dân người Môn Nam Á đợt hai đã từ Hoa Nam tiến vào bờ biển Tượng Lâm cùng thời với đám di dân tiến vào bờ biển Giao Chỉ, và thực tế lịch sử đã chứng minh rằng mục đích tiến quân của Lâm Ấp lên phía bắc là để đánh đuổi quân Tàu xâm lược ra khỏi Giao Châu, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Người Việt Nam chúng ta thường xuyên phải đối đầu với âm mưu của người ngoài luôn luôn toan tính xé nát quốc gia Việt Nam làm nhiều mảnh, chia rẽ quốc dân Việt Nam thành nhiều nhóm, bằng nhiều hình thức tinh tế và đa dạng nhằm mục đích khoét sâu các dị biệt nam bắc, các bất đồng địa phương, các mâu thuẫn sắc tộc. Với góc nhìn và thế đứng được điều chỉnh lại như thế, chúng ta dễ dàng phát huy tinh thần quốc gia, vun quén tình tự dân tộc, và củng cố sự đoàn kết quốc dân, để vô hiệu hóa các kế hoạch thâm độc của người ngoài. Thực tế lịch sử là không hề có sự kiện vương quốc Đại Việt thôn tính vương quốc Chiêm Thành, sắc dân Kinh đồng hóa sắc dân Thượng. Quốc gia Việt Nam ngày nay là kết quả của sự thống nhất An Nam với Việt Thường, được hình thành từ thuở hồng hoang trên cùng chung một cơ sở đất nước và con người : Văn Lang, hay Môn Lang, làng của người Môn, đất nước của người Môn.
Minh Vũ Hồ Văn Châm

NGUYÊN SA * MÙA XUÂN

Mùa Xuân Buồn Lắm Em Ơi

Nguyên Sa


 

Mùa xuân buồn lắm em ơi
Anh vẫn đạp xe từ Saigon lên trường đua Phú Thọ
Đạp xe qua nhà em
Nhìn vào ngưỡng cửa
Nhà số 20
Anh nhớ em má hồng...

Anh nhớ nhà em có cửa sơn xanh
Có một hàng rào, có thầy, có mẹ ...
Có ngựa chạy trong trường đua, người đi ngoài phố
Nên anh đạp xe đi
Rồi đạp xe về
Mà chẳng có đôi ta ...

Mùa xuân buồn lắm em ơi
Mỗi lần đạp xe về anh vẫn nghe lòng bỡ ngỡ
Chiếc xe còn nguyên màu sơn xanh
Nhưng tâm hồn đã ngả sang màu sắt dỉ

Bởi vì từ Saigon lên tận trường đua Phú Thọ
Hết cả tiến uống một ly nước mía
Mà cũng không gặp em
Nên khát đắng linh hồn

Không phải anh ngại đường xá xa xôi
Anh cần gì đường dài
Anh cần gì nước mía
Anh cần gì hoa thơm và chim cười trong lá biếc
Cũng chẳng cần cỏ thêu xanh cánh đồng xa biền biệt
Nhưng làm sao không có bóng hai người đè lên cỏ úa
Để anh nghe em cười mà thấy cả mùa xuân...
Làm sao chỉ có một mình anh
Vừa đạp xe, vừa ngâm thơ (mà đường vẫn dài)
Ngửa mặt lên cao, trời xanh biêng biếc
Làm sao em không ngó xuống linh hồn?...

Sao mùa xuân mà chẳng có mưa bay
Chẳng có người đi bên cạnh cầm tay
Anh chẳng được hôn lên trán ái tình
Và nói năng những lời vô nghĩa ...

Sunday, September 9, 2012

NGUYỄN ĐỨC CUNG * THỂ U MẶC

VỀ MỘT TRƯỜNG HỢP CỦA THỂ VĂN U-MẶC:
ĐỌC LẠI “GIÀY SÔ, NÓI PHÉT VÀ ĐÀN BÀ”
 CỦA HUỲNH VĂN PHÚ. *
Nguyễn Đức Cung




     Trong một loạt bài nghiên cứu có nhan đề “Tiểu thuyết Việt Nam thế hệ 1932- 1945”, đăng trên Tạp chí Đại Học 1 của Viện Đại Học Huế, giáo sư Thanh Lãng đã viết về khuynh hướng hài biếm trong nền văn chương Việt Nam như sau: “Có nhiều nhà văn viết ra là để cười đùa hay châm biếm. Đặc tính của con người hài biếm không phải là giầu tình cảm mà thường là giầu tưởng tượng, linh lợi, ranh mãnh. Dùng cái cười để đặt ra một vấn đề bắt thiên hạ phải suy nghĩ, lấy cái bông đùa để mà gói ghém một chủ trương... Ý hướng hài biếm thường đi đôi với ý hướng tâm lý hay phong tục. Vì cười đùa thì là cười đùa một nét tâm lý kỳ quặc hay một tập quán dở hơi.” 2

     Ý kiến của vị giáo sư đại học và cũng là nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng của Miền Nam Việt Nam cách đây hơn bốn mươi năm đã cho người đọc một số gợi hứng để đọc lại tác phẩm ký và phiếm mang tựa đề “Giày Sô, Nói Phét và Đàn Bà” của nhà văn Huỳnh Văn Phú, xuất thân từ binh chủng Thủy Quân Lục Chiến vốn đã có tác phẩm in trước năm 1975 tại Miền Nam 3.

     Trước hết ý hướng hài biếm của nền văn chương u-mặc vốn hiện diện trong tâm thức của bất cứ dân tộc nào, dù tản mạn hay tập trung. Hai chữ u-mặc là do người Trung Hoa dịch từ chữ humour của người Anh. Tự điển Larousse có định nghĩa về hai chữ đó diễn ý như sau: “Hình thái trí tuệ che dấu trong dáng vẻ nghiêm túc, một sự trào lộng cay độc, một tình huống phi lý hay đáng phì cười” 4. Trong văn học Trung Hoa, ngòi bút chua cay của văn hào Lỗ Tấn (1881-1936) qua danh tác Ả Q Chính Truyện đã nêu được cái sâu sắc của tư tưởng hài hước khi phải đối phó với những biến cố, sự việc đau khổ, phũ phàng trong cuộc sống đời thường. Ý hướng hài hước (sense of humour) vốn là ý hướng thường hằng trong mỗi con người nhưng vấn đề triển khai ra được bên ngoài hay không dưới hình thức này hay phương cách khác lại tùy thuộc vào nhiều yếu tố và trường hợp khác nhau nhất là thông qua các yếu tố đặc thù như môi trường xã hội, gia đình, huyết thống, nghiệp vụ v.v...

     Đối với dân tộc Việt Nam, khuynh hướng hài biếm vốn ăn sâu trong tâm tư, dòng máu và được thể hiện ra bên ngoài trong rất nhiều trường hợp thí dụ qua truyền thống văn hóa gia đình, làng xóm, trong các cuộc thi đua tranh tài để một phần biểu lộ sự thông minh, nhanh trí trong đối đáp hoặc giữa trai với gái tại các cuộc hội ngộ ở làng quê, hoặc do truyền thống đặc thù của sinh hoạt dân quê nơi làng xã, thôn ấp. Ở một làng thuộc miền quê tỉnh Quảng Trị, làng Huỳnh Công Tây, “làng kể chuyện trạng”, thuộc xã Vĩnh Tú, Vĩnh Linh  có những nhân vật hiện thời nổi tiếng về tài “nói dóc” hay “tán phét” như bà Trần Thị Liệu, 64 tuổi và chị Võ Vân Nương năm nay 42 tuổi và hiện tượng đó được coi như là “một di sản văn hóa phi vật thể ”.5 Ngoài ra tác dụng của khuynh hướng hài biếm còn giúp thành vũ khí sắc bén của những giới thấp cổ bé miệng đánh trả lại bọn cường quyền sâu mọt thường có trong mọi thời, mọi nơi giữa một xã hội mà sự bất công vốn đầy đẫy. Khuynh hướng đó thể hiện trong các câu chuyện tiếu lâm, các bài thơ trào lộng đầy tính mỉa mai, châm chọc. Xã hội càng có nhiều bất công, các loại văn chương phúng thích này càng phong phú, đa dạng. Khi vào trại tập trung Long Thành ngày 17 tháng 6 năm 1975, tôi thấy người cán bộ Cộng Sản thường rất cay cú về việc ngành thông tin VNCH đem chuyện “bảy thằng du kích Việt Cộng đánh đu vào một cành đu đủ mà không gãy” để chế diễu sự đói ăn thiếu uống của bọn này.

     Trong tập Bút ký Tôi Phải Sống, linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã ngẫu nhiên minh họa thêm về nền văn chương u-mặc được sử dụng ở tầm mức cao của quốc gia như sau:

     “Đầu năm 1979, chiến tranh Trung Quốc – Việt Nam lên tới cao điểm. Đêm đêm, cái loa của đài phát thanh trong trại vang lên inh ỏi tin tức chiến sự và những lời chửi bới Trung Quốc. Tiếng chửi bới cứ ra rả ngày đêm rót vào tai chúng tôi. Họ dùng đủ mọi hình thức và mọi kiểu để chửi Trung Quốc, từ tin tức, bình luận, kịch nghệ, âm nhạc v.v... Từ chửi thanh tới chửi tục, kiểu gì cũng có. Tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao các thợ viết kịch của chế độ cộng sản Việt Nam đã sáng tác được những vở kịch chửi Trung Quốc nhanh và hay đến thế. Những khẩu hiệu ngày trước Hồ Chí Minh dùng để ca ngợi người anh em Trung Quốc “núi liền núi, sông liền sông”, bây giờ không còn nữa. Thay vào đó, lúc này họ “ca ngợi” Trung Quốc bằng hai câu thơ mà đêm nào chúng tôi cũng nghe trong chương trình phát thanh Quân Đội Nhân Dân. Nghe mãi rồi tôi thuộc nằm lòng:

              “Quốc kỳ là váy đàn bà,

          Quốc huy là cái bội gà mang theo!”

Sở dĩ có hai câu thơ hạ cấp ấy vì theo họ nói, lính Trung Quốc đánh tràn qua các làng mạc Việt Nam ở vùng biên giới, đã vơ vét tài sản của dân chúng không từ một thứ gì kể cả váy đàn bà và cái bội nhốt gà.” 6

     Đối với tác phẩm “Giầy Sô, Nói Phét và Đàn Bà” viết dưới thể loại hài biếm của Huỳnh Văn Phú, người ta không thể không nhớ đến câu nói của nhà văn Buffon (1707- 1788) “Văn tức là người” (Style, c’est l’homme), nơi nhà văn gốc quân đội cũ này thể hiện một tinh thần trào lộng, lạc quan nhất là ý thức quốc gia và tinh thần chống Cộng của một người cầm bút, sinh ra và trưởng thành dưới chế độ tự do dân chủ của Miền Nam Việt Nam. Dùng văn tài trong ý hướng hài hước để trình bày một số hiện tượng về tâm lý và xã hội, nhà văn Huỳnh Văn Phú đã không quên một môi trường cung cấp cho anh rất nhiều chất liệu cho ngòi bút trào lộng đó là xã hội của cái gọi là đỉnh cao trí tuệ cùng mọi cơ cấu của chủ nghĩa ngoại lai phi nhân bản này.

     Khi đọc tác phẩm dưới hình thức ký và phiếm, tôi đã sống lại những hồi ức xa xưa và có dịp đối chiếu với những điều tác giả đề cập đến trong cuốn “Giày Sô, Nói Phét và Đàn Bà” này, nhất là phần đầu nói về những kỷ niệm buồn vui, cười ra nước mắt của tác giả trong những ngày đầu vào trường Võ Bị Đà Lạt. Bài ký  “Tôi Vào Võ Bị” đưa tác giả và người đọc vào một thế giới mới, thế giới quân trường mà ở đó nguyên tắc hành sử của một tân khóa sinh là nhẫn nại chịu đựng và vâng lệnh tuyệt đối, đồng thời nó cũng giúp khiến tôi nhớ lại những ngày tháng 4 năm 1968 khi nhận được giấy động viên vào khóa 3/68 trường bộ binh Thủ Đức, giã từ bục gỗ bảng đen của nhà trường giữa lúc cường độ chiến tranh đang tăng lên mãnh liệt trên các chiến trường Miền Nam sau Tết Mậu Thân. Những hình thức hành xác trong hai tháng huấn nhục của trường võ bị Đà Lạt có lẽ cũng giống Thủ Đức qua bài ký này đôi lúc cũng làm cho những ai vướng vào vòng binh nghiệp cảm thấy bực bội những đều chấp nhận đó là những đoạn đường bắt buộc phải trải qua, bởi lẽ châm ngôn đanh thép và khôn ngoan của mọi quân trường đều là “thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”. Ở trường Bộ binh Thủ Đức, tôi đã có nghe một bài hát khích lệ tinh thần chịu đựng gian khổ mang nội dung châm ngôn đó.

     “- Các anh mang xách lên vai chạy theo tôi.

     Tên nón nhựa  nói xong và chạy trước. Chạy được vài bước, anh ta quay đầu lại thấy đoàn quân “dân chính” vẫn đi tà tà, anh ta bèn phùng mang trợn mắt hét lớn:

     - Các anh có chạy không? Chạy theo tôi ngay. Các anh “ngoan cố” hả?

     Anh chàng dân sự đi đầu toán thấy sự “trở mặt” trong cách đón tiếp một cách quá  nhanh như thế, hơi ngớ người ra và có vẻ ngạc nhiên. Trong khi đó thì tên “ác ôn nón nhựa” vẫn giữ một thái độ vô cùng hung ác, luôn mồm hò hét: “Chạy, chạy theo tôi ngay”. Thế là chàng dân sự nhà ta nhỏm giò chạy. Đoàn người nhếch nhác lang thang đi sau thấy người trước chạy, cũng chạy theo. Và tôi, theo phản ứng dây chuyền cũng không thể đứng ỳ ra đó được” (trang 17).

     Đoạn văn mang tiểu đề “Chạy theo tôi” bỗng dưng đưa tôi trở lại với hình ảnh ông chuẩn úy già tên Kim, người Nam có lẽ lên cấp bậc từ hàng hạ sĩ quan, cũng đã “dợt” cho tôi tơi tả từ những ngày đầu nhập quân trường Quang Trung (vì các khóa động viên lúc bấy giờ quá đông, Thủ Đức không đủ chỗ chứa, phải huấn luyện nhờ ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung tại Hốc Môn), ở đại đội 3, tiểu đoàn Nguyễn Huệ của đại úy Hiến khét tiếng nghiêm khắc.

     “Màn chạy vòng quanh sân trường chấm dứt, mấy tên “ác ôn” không để cho bọn tôi nghỉ ngơi phút nào, tập hợp bọn tôi trên sân cỏ huấn luyện cái màn chào tay và xưng danh. Chào đúng theo cách chào của các Sinh Viên Sĩ Quan trường Võ Bị West Point đấy các cụ ạ! Sao mà phiền nhiễu thế. Chào không đúng cách ư? Hãy nghe một tên “nón nhựa” ra lệnh:

     - Anh kia chào chưa đúng. Anh đứng dựa lưng vào tường và tập chào 50 lần. Mỗi lần bỏ tay xuống thì phải đánh bàn tay vào tường một cái cho mạnh. Và sau 50 cái tập chào, tay đánh mạnh vào tường, bàn tay của chàng dân sự kia không còn “mềm mại như con gái” nữa. Màn chào tạm ổn dù chưa được nhuyễn lắm. Thời gian còn dài, lo chi. Bàn tay còn nhiều dịp thử độ rắn của bức tường mà.” (trang 19).

     Những tên “đội nón nhựa”, “ác ôn” được Huỳnh Văn Phú cẩn thận cho vào trong ngoặc kép, những huynh trưởng thuộc khóa đàn anh ngày nay có nhiều người đã trở thành “những người muôn năm cũ”, đã trả nợ núi sông trên chiến địa hay về sau trong lao tù Cộng Sản, hoặc phiêu bạt nương nhờ cuộc sống cuối đời trên mọi miền thế giới, chắc chắn tất cả đều đã thấm qua cái nguyên tắc bất di bất dịch đó là “trước khi anh làm quan, anh phải làm lính cái đã” (trang 22).

     Qua những trang nói nhiều đến các màn “hành xác” thời gian tân khóa sinh, độc giả khó mà nín cười khi đọc qua những đoạn mang tên “Anh có quen tôi không?”, “Vuông góc”, “Xuống tóc”, “Dã chiến, “Sau đây...”, “Hôn em nghìn lần” v.v... Tất cả những mệnh lệnh đầy phi lý, sự tuân phục với mức độ nhẫn nhục rất cao, các cố gắng từ tinh thần đến thể lý của những người trai thời loạn dù chọn binh nghiệp là “nghề nghiệp tiến thân” (carrière) của mình hay “tạm nghiệp” (động viên), mọi cái đều hiện diện như những thử thách, những trở ngại phải vượt qua để trui rèn bản thân cho mục tiêu phụng sự lý tưởng của đất nước. Tuy nhiên, sau những cái cười thoải mái chỉ kéo dài được trong một vài phút  là nỗi luyến tiếc khôn nguôi về cả một công trình xây dựng từ hơn nửa thế kỷ qua từ những ngày đầu hình thành Quân Đội Quốc Gia Việt Nam đến những bước phát triển và trưởng thành của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thoáng chốc đã tan tành sụp đổ chỉ không đầy hai tháng trước ngày Miền Nam sụp đổ. Nào đâu hình ảnh các quân trường ở Bắc, Trung, Nam ? Nào đâu những địa danh mang dấu tích huấn luyện tài cầm binh và xử trí ở chiến trường của người trai thời loạn ? Những tên gọi Đập Đá (Huế), Nước Ngọt (Bà Rịa), Đồng Đế (Nha Trang), Quang Trung (Hốc Môn), Thủ Đức, Đà Lạt với hình ảnh bao quát của các vũ đình trường nay còn đâu? Bài ký “Tôi Vào Võ Bị” của Huỳnh Văn Phú với những lời kết như :

     “Một điều gì đó rất vô tình giữ anh lại, không cho anh làm bậy, không cho phép anh được hèn, không được khiếp nhược trước kẻ thù và bao giờ cũng đặt quyền lợi của quốc gia, dân tộc lên trên hết...” (trang 57) chính là một điều nhắc nhở về đạo làm người là chung thủy, trung thành nhưng đau đớn thay, trong thực tế những kẻ đã từng đi dưới rừng biểu ngữ tung hô, ngồi ghế chủ tọa các lễ mãn khóa tại vũ đình trường, nắm trong tay vận mệnh của cả một dân tộc, đã sớm bỏ đồng đội chạy trước hết, phản bội lý tưởng chiến đấu của đất nước. Nỗi ngậm ngùi của mối hờn mất nước tuy không được tả rõ nơi tác phẩm này nhưng cái “truyền thống” mà tác giả gửi gắm ở trang 51 chính là truyền thống không đầu hàng giặc, vì tự cổ chí kim không có binh thư, binh pháp nào dạy đầu hàng cả.

     Trong những tháng ngày qua, tôi có dịp đọc lại mấy bộ quân sử của sử gia Phạm Văn Sơn, nhất là Quân sử 4 có tên là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong giai đoạn hình thành 1946-1955, với nổi buồn chất ngất. Sử gia Phạm Văn Sơn trong thời gian đi tù ở Vĩnh Quang, đã phát bệnh hủi và chết một cách đau thương, cô quạnh trong trại tù Cộng sản 7. Bộ quân sử  nói riêng và tất cả các công trình nghiên cứu sử học của vị đại tá sử gia nói chung này đã dành cho ông một chỗ ngồi xứng đáng trong tòa nhà sử học Việt Nam. Đọc công trình nghiên cứu về quân sử của Phạm Văn Sơn, tôi càng chua xót và tiếc cho một quân đội đã được xây dựng từ trong biết bao lớp máu xương và kinh nghiệm gian khổ như vậy mà phút chốc tan rã một cách đau thương để thấy rõ tầm mức tội trạng của giới lãnh đạo Miền Nam khi bỏ hàng ngũ, bỏ đồng đội để chạy trước, ai chết mặc ai.

     Bước qua phạm trù ngôn ngữ để tìm chất liệu cho tác phẩm của mình, Huỳnh Văn Phú đã có sáng kiến sưu tầm những lời nói, kiểu nói, phương tiện diễn đạt tư tưởng và cô động chúng tại trong một bài ký có tên “Cách nói chuyện thường nhật của những đỉnh cao trí tuệ”. Sự đổi thay của ngôn ngữ do cách biệt địa lý, qua sự cọ xát với các cuộc tiếp xúc giữa mọi giai tằng trong xã hội với nhiều trình độ văn hóa thấp cao cũng đã có nhiều biến thái và thường được các nhà văn ghi lại trong tác phẩm của mình.

     Trong bài “Đọc “Dạ Ký” Của Phùng Cung”, Nguyễn Minh Cần cho biết năm 1954, tại Hà Nội “khi vào thành phố, cán bộ, đảng viên, và bộ đội du nhập theo một loại từ ngữ hết sức xa lạ và khó hiểu với người dân địa phương, nào là tiến bộ, lạc hậu, phản động, khắc phục khó khăn, thành khẩn bộc lộ, thực sự cầu thị, đãi ngộ, hưởng thụ, tiêu chuẩn, đốt cháy giai đoạn, v.v... Người dân cũng rất kinh ngạc về những “tập tục” lạ lùng, như trai gái tìm hiểu nhau hay muốn cưới nhau thì trước hết phải báo cáo và xin phép “tổ chức”, họ chẳng hiểu nổi “tổ chức” là cái “ông” gì mà lớn hơn cả bố mẹ.” 8  Hơn bốn mươi năm sau, Huỳnh Văn Phú cho thấy trình độ sáng tác loại ngôn từ mới mà Nguyễn Minh Cần vừa nhắc tới còn vượt xa hơn nữa. Lối giải thích hóm hỉnh và rất đúng nghĩa của tác giả “Giày Sô, Nói Phét và Đàn Bà” trước mỗi một chữ dùng, cách nói của người cán bộ Cộng sản cấp bậc khác nhau, nhất nhất từng trường hợp đều có những loại ngôn từ khác nhau.

     “Này nhé, bạn đang đi ngoài phố, miệng phì phèo điếu thuốc lá. Một tên bộ đội, tay cầm điếu thuốc chưa đốt, nếu anh ta muốn mồi lửa, anh ta sẽ tiến đến bạn và nói”

     - Cho tôi xin “quan hệ” tí lửa.”

     Từ trang 59 đến 69, Huỳnh Văn Phú đã cung cấp cho các nhà làm tự điển sau này rất nhiều danh từ mới, hoặc cụm từ quái lạ do cán bộ cách mạng du nhập vào miền Nam sau ngày 30-4-75 hay trong các trại tù có mỹ danh là trại cải tạo.

     “Mời các bạn nghe tiếp mẫu đối thoại giữa hai mụ công an nói chuyện với nhau:

     - Nếu đi từ “trực quan sinh động” đến “tư duy trừu tượng” thì tôi nói với đồng chí là “thị trường thịt” hôm nay “căng” lắm nhưng giữa tôi và đồng chí có mối “quan hệ hữu cơ” với nhau nên tôi sẽ để lại cho đồng chí một nửa số thịt tôi hiện có với giá “hữu nghị” mà thôi” (trang 62).

     Ở một đoạn khác, Huỳnh Văn Phú dám đoan chắc với chúng ta rằng:

     “Bây giờ, thử tưởng tượng bạn đi vào một nhà thổ và cô gái ăn sương có nhiệm vụ tiếp bạn là một người sinh ra và lớn lên dưới chế độ Cộng Sản, tôi  bảo đảm với bạn rằng bạn sẽ nghe cô ta nói với bạn những lời lẽ sau:

      Này anh, trước khi ta “tiến hành”, tôi có mấy “quy định và yêu cầu cụ thể “ sau:

     Thứ nhất: Phải giữ “cự ly”

     Thứ hai: Thời gian không “khống chế”

     Thứ ba: Không được “nóng vội”

     Thứ tư: Không cần “đảm bảo mỹ quan”

     Thứ năm: Trả tiền “nghiêm chỉnh” (trang 62).

     Sau khi Cộng sản thắng thế tại Miền Nam, ngoài việc bọn cán bộ các cấp từ trên xuống dưới tranh nhau giành giựt chiến lợi phẩm từ việc cướp nhà, cướp đất, cưỡng đoạt tài sản, hiếp đáp, đày ải hàng triệu người dân của phe bại trận, chúng còn tiến những bước xa hơn trong lãnh vực tiêu diệt nền văn hóa gọi là đồi trụy phản động của Mỹ ngụy. Chính sách “phần thư khanh nho” (đốt sách, chôn sống học trò) của bạo chúa Tần Thủy Hoàng đã được đảng CSVN thực hiện rất chu đáo, quyết liệt. Tất cả các sách vở của Miền Nam, sách báo ngoại quốc, sách tôn giáo, khoa học, chuyên môn, kể cả các cuốn tự điển đều bị công an phường, khóm tịch thu chất đầy hàng trăm xe ba gác chở về các trụ sở và chúng bí mật tẩu tán vì biết đó là những kho tàng vô giá có thể khai thác sau này. Năm 1985, khi ở trại tù Nam Hà, tôi có gặp giáo sư Trần Quốc Vượng và ông này cho biết giáo sư Nghiêm Thẩm, nguyên Giám đốc Viện Khảo cổ Sài gòn bị đập chết bằng búa tại tư gia của ông đường Công Lý vì ông là chủ nhân một thư viện tại nhà riêng có rất nhiều tài liệu quý giá mà ông đã để cả một đời để sưu tầm. Đối với hàng trăm nhà trí thức, văn nghệ sĩ Miền Nam mà dưới con mắt của Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh thì “trí thức không bằng cục phân”, nhà thơ Trần Dạ Từ đã cho biết “Với ngày 3 tháng Tư, 1976 chỉ bằng một cái búng tay của bạo lực, cộng sản cầm tù được cả trăm văn ũi xe hai hoặc ba toa trống mui trần chất đầy bao cát để phòng xe bị giật mìn, thường thì toa đầu bị trúng nhưng nhờ biện pháp đó mà thương vong sẽ giảm thiểu, khoảng giữa là một toa quân nhân hộ tống và nối sau là các toa khách. Không khí căng thẳng và nơm nớp trên mỗi chuyến đi tăng thêm và cũng vì đó các chuyến xe lửa xuyên Việt thưa dần khách... Đọc lại tác phẩm của Huỳnh Văn Phú không phải là để sống với niềm tự tôn văn hóa của những người vốn trưởng thành tại Miền Nam nhưng là để có dịp nói cho công luận rõ những cái hơn hẳn của một nền văn hóa dân tộc vốn có từ trong Nam ra ngoài Bắc, thuộc từ bao nhiêu thế hệ xưa tới nay, về một đại khối dân tộc so với nền văn hóa què mù của đảng CSVN từ ngày có chính quyền năm 1945 đến nay luôn cố gắng áp đặt trên dân tộc, và nhất là giai cấp cầm quyền hiện nay mà Bùi Tín gọi là “những người lùn chính trị”.

     Ngoài ra, sự hóm hỉnh độc đáo và đầu óc ranh mãnh của nhà văn họ Huỳnh còn đi xa hơn nữa trong bài viết về cái biểu tượng của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (là con bìm bịp để cho đúng với bản chất lừa bịp của CSVN) hay bài phiếm “Nói Phét” hoặc “Tranh Vẽ Đói”, “Mẫu Hàng Mới” tuy diễn tả dưới hình thức bỡn cợt nhưng có một dụng ý trào lộng nhằm tố cáo chế độ Cộng Sản phi phân đã và đang đày đọa, vùi dập hàng chục triệu con người Việt Nam trong vòng đói rách, ngu dốt và mất hết nhân phẩm của con người, lừa bịp nhân dân trong nước và các nước trên thế giới. Các mũi dùi cay độc nhắm vào chủ nghĩa cộng sản, hướng về thần tượng “bác Hồ”, dưới ngòi bút của Huỳnh Văn Phú gói gọn trong hai câu “Nói phét muôn năm” hoặc “Nói phét sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta” (trang 98).

     Sống ở thành phố Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania thuộc vùng đông bắc Hoa Kỳ là nơi có tuyết thường xuyên trong mùa đông, Huỳnh Văn Phú đã có nhiều kinh nghiệm để viết về tuyết với tất cả sự quan sát tinh tế, sành sõi, kèm theo nỗi “ngán ngẫm” hay thậm chí “khiếp sợ” của mình đối với...tuyết.

     “Đối với tôi, kể từ cơn bão tuyết “Blizzard of 96” khủng khiếp nhất từ 70 năm qua với những trận mưa tuyết liên tục ào ào đổ xuống thành phố Philadelphia suốt 35 tiếng đồng hồ không dứt, bao phủ toàn vùng một lớp tuyết dày hơn nửa thước, nhiệt độ lúc nào cũng dưới độ đông của nước, tôi không còn nhìn thấy một tí gì cái đẹp của những bông tuyết rơi. Tôi khiếp sợ tuyết và đã xem tuyết như một “tai họa” của con người và tôi đã lẩn thẩn so sánh tuyết cũng y hệt như đàn bà.” (trang 136)

     Ở một chỗ khác, Huỳnh Văn Phú đưa ra một nhận xét khá vui tếu mà cũng vững như đinh đóng cột: “Đàn bà không tin bất cứ điều gì ngoại trừ nói láo”(trang 141). Sự giao thoa về ý tưởng của tuyết với sự suy nghĩ về người đàn bà qua một lối văn trình bày khá tự nhiên và độc đáo, khắc họa nét tài tình trong nghệ thuật cầm bút của anh.

     Những mẫu chuyện khác như “Chuyện người có hai vợ”, “Ôi! đàn bà”, “Rồi cũng qua đi...”nêu bật những tình trạng éo le, khó xử, hoặc đau thương giữa những cặp vợ chồng Việt Nam trong cuộc sống tị nạn tại Hoa Kỳ, với những cảnh ngộ đáng khóc hơn là cười, những cảnh dang dở trong đời sống vợ chồng, những bi thảm mang đầy kịch tính của  phản bội, lọc lừa, điêu trá.

     Một nhà văn Tiệp Khắc, Milan Kundera, người đã bị ngược đãi sau khi Hồng quân Liên Xô tiến vào Praha năm 1968, và bị tống xuất ra khỏi nước năm 1975, rất nổi tiếng với tác phẩm “The Joke” (Chuyện Khôi Hài”), đã từng tâm sự: “Tôi học được giá trị của hài hước trong giai đoạn khủng bố của Stalin. Tôi có thể nhận biết được một người, không phải là tín đồ của chủ nghĩa Stalin, một người mà tôi không cần phải sợ hãi, qua cung cách ông ta cười. Một cảm quan hài hước là một dấu hiệu nhìn nhận đáng tin cậy, từ đó, tôi cảm thấy kinh hãi cái thế giới đã đánh mất cảm quan hài hước.” 14

     Nietzsche, một triết gia Đức đã từng nói: “Hài hước là biểu hiệu của lành mạnh. Trái lại bất cứ Tuyệt đối nào cũng đều thuộc bệnh lý cả.” (L’ironie... signe (s) de santé. Tout absolu relève de la pathologie.- Par delà le bien et le mal, 154). Khi đọc những chuyện phiếm mang tựa đề “Long thể bất an”, “Chuyện những người đẻ gần kho đạn”, “Lại bàn về nói phét”, “Chuyện những người đẻ gần nhà đèn, “Tuyết và đàn bà”, “Chuyện tầm ruồng” ... chúng ta thấy Huỳnh Văn Phú đã vận dụng khả năng sáng tạo để biến những mẫu chuyện bình dị thường ngày trở thành những cơ hội hài hước, góp vui cho cuộc sống vốn rất căng thẳng vì nhu cầu ăn mặc, nhà ở, phương tiện di chuyển, việc làm của chúng ta trên xứ sở đầy văn minh và tiện nghi này. Nếu có người như Tú Gàn đã từng cho rằng “Cười là tiếng ca đại thắng” 15 thì tiếng cười của Huỳnh Văn Phú lại mang những nét thâm trầm, kín đáo, tinh nghịch (Mẫu hàng mới, trang 87, Long thể bất an, trang 101, Tuyết và đàn bà, trang 141). Chủ nghĩa cộng sản luôn luôn mơ màng xây đắp những cái tuyệt đối, không tưởng trong thực tế đã từng bị vào sọt rác lịch sử, chính vì đã chứa đầy những căn tính của bệnh hoạn theo như cảm nghiệm của Nietzsche. Cuộc sống đầy lo toan về việc làm, chật vật về giờ giấc của chúng ta nhiều khi quá căng thẳng cũng là dấu hiệu của bệnh lý. Ý niệm hài hước từ trong môi trường sống có lúc từng được ví như chiếc sào dài giúp cho người đi xiếc trên dây cáp giữ được thế thăng bằng, sẽ làm cho cuộc đời bớt đi những phiền lụy, lo toan, và hạnh phúc thoải mái hơn, đúng như câu “Một tiếng cười bằng mười thang thuốc bổ”. Một số các nhà tâm lý học như Rod Martin và Herbert Lefcourt gần đây đã có công thu thập nhiều bằng chứng, tư liệu để nêu rõ vai trò làm giảm sự căng thẳng tinh thần của ý thức hài hước và họ đã chứng minh rằng những người có được ý thức hài hước cao đã không bị bầm dập vì những biến cố bất lợi trong đời sống của mình 16.

     Tóm lại, văn chương trào lộng mà tôi gọi là nền văn chương u-mặc vốn có những lợi khí sắc bén để đả phá, châm chích, quật đổ một thần tượng nào đó khi cần thiết. Trong một quốc gia có dân chủ thật sự,  việc viết lách tương đối có tự do, thoải mái ít bị cảnh sát, công an dòm ngó, theo dõi hay chế độ kiểm duyệt ít khi cắt bỏ bài viết hoặc cấm đoán ấn phẩm lưu hành, như ở Miền Nam trước đây. Trong một quốc gia văn minh và tự do như Hoa Kỳ, công việc sáng tác của nhà văn không bị bất cứ một trở ngại nào có tính cách chính trị cho nên các tác phẩm có tính cách hài biếm như “Giày Sô, Nói Phét và Đàn Bà” của Huỳnh Văn Phú mới được “rộng cánh cò bay”. Đối với một số các tác giả không được lòng chế độ như chế độ Cộng sản chẳng hạn, việc viết chui, in sách chui thật làvạn phần nguy hiểm nhất là những loại văn chương có tính cách phúng thích, trào lộng, bóng gió đả kích chế độ, lãnh tụ như trường hợp Dạ Ký của Phùng Cung mà ông Nguyễn Minh Cần mới đây đã đưa ra trước công luận trên một số báo chí và phương tiện truyền thông hải ngoại. Cái giá của văn chương dĩ nhiên phải đắt hơn so với những món hàng khác.

     Nếu ký và phiếm nằm trong tiểu thuyết như Nelly Cormeau quan niệm là một lối nói dối đẹp đẽ và hợp lý (Le roman est toujours un mensonge, un beau mensonge cohérent) 17 thì tác phẩm “Giày Sô, Nói Phét Và Đàn Bà” của Huỳnh Văn Phú xác định quan điểm tương đối chấp nhận được của Nelly Cormeau đồng thời cũng cho người đọc những chất liệu giải trí lành mạnh giữa cuộc sống thập phần nhiêu khê này.

     Nguyễn Đức Cung



CHÚ THÍCH :



1.- Tạp chí ĐẠI HỌC là cơ quan nghiên cứu của Viện Đại Học Huế xuất bản hai tháng một kỳ, do Linh mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Đại Học Huế làm Chủ nhiệm, giáo sư Nguyễn Văn Trung, chủ trương biên tập, ra đời từ tháng giêng năm 1958. Sau khi Linh mục Luận rời khỏi Viện Đại Học Huế năm 1966, tạp chí đình bản. Đây là một cơ quan ngôn luận đã đăng tải những bài viết rất có giá trị của nhiều giáo sư Viện Đại học Huế và các học giả trong nước và ngoại quốc.

2.- Thanh Lãng, Tiểu thuyết Việt Nam thế hệ 1932- 1945,  Tạp chí ĐẠI HỌC số 3, tháng 7- 1961, trang 72.

3.- Tác giả Huỳnh Văn Phú sinh năm 1940 tại Nha Trang, Khánh Hòa, khóa 19 Võ Bị Đà Lạt. Trước 75, phục vụ trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Sau 75, đi “cải tạo” nhiều năm trong các trại tù Cộng Sản từ Nam ra Bắc. Sang Mỹ theo diện H.O. năm 1990. Hiện cùng gia đình định cư tại Philadelphia, Pennsylvania.

Các tác phẩm đã xuất bản: Mùa Xuân Âm Thầm (Tập truyện, 1969), Cuộc Tình Dấu Mặt (Truyện dài, 1971), Dòng Sông Trước Mặt (Tuyển tập, 1971, viết chung với Song Linh, Định Nguyên, Phạm Văn Bình và Trần Ngọc Toán), Chiến Trường Trị Thiên Và Những Người Lính Mũ Xanh (Phóng sự chiến trường, Tháng 4/75. Chưa kịp phát hành), Ở Một Nơi Dễ Tìm Thấy Thiên Đường (Tập truyện, Hoa Kỳ, 1995), Giày Sô, Nói Phét và Đàn Bà (Ký và Phiếm, Hoa Kỳ, 1997. Tái bản 1999), Quỷ Ma Và Học Trò (Truyện và Phiếm, Hoa Kỳ, 1999), Cõi Người Trong Văn Chương Bình Dân (Văn Mới xuất bản, Hoa Kỳ, 2000).

* Bài viết này là bổ túc một số nhận định đã được trình bày trong buổi trình diện tác phẩm tổ chức tại Philadelphia tháng 5/1997, dựa trên cuốn Giày Sô, Nói Phét, Và Đàn Bà bản in lần thứ hai, do Nhật Thanh xuất bản, mà tác giả vừa gửi tặng.

4.- Nguyên văn: “Forme d’esprit qui dissimule sous un air sérieux une raillerie cruelle, une situation absurde ou comique”. Larousse, Petit Larousse Illustré, 17, rue du Montparnasse, 75298 Paris Cedex 06, 1987, trang 503.

5.- Nhật báo Nhân Dân điện tử, vanhoa/ 011203/dchay_huynhcongtay.htm

6.- Nguyễn Hữu Lễ, Bút ký Tôi Phải Sống, Quí Mùi 2003, trang 353.

7.- Gọi Đàn, báo điện tử trước đây có viết một bài rất cảm động về những ngày cuối cùng của sử gia Phạm Văn Sơn trong nhà tù Vĩnh Quang, Bắc Việt. Tiếc thay tôi quên mất tên tác giả và không truy cập được bài báo này. Phạm Văn Sơn là tác giả kỳ cựu viết về lịch sử Việt Nam với các tác phẩm như: Việt Nam Tranh Đấu Sử, Việt Sử Tân Biên (5 cuốn), Quân sử Việt Nam (4 cuốn). Quan điểm sử học của ông không có gì mới mẻ, việc cẩn án tài liệu tuy không được áp dụng trong việc biên soạn sử phẩm nhưng công trình của ông cũng giúp cho nhiều giới có thêm kiến thức lịch sử nước nhà.

8.- Nguyễn Minh Cần, Đọc “Dạ Ký” Của Phùng Cung”, Tạp chí CÁCH MẠNG, Diễn Đàn Dân Chủ của Đại Việt Cách Mạng Đảng, số 38, tháng 2 năm 2004, trang 19.

Xin xem thêm Homepage: www.daiviet.org

9.- Trần Dạ Từ, Sức mạnh thức tỉnh từ chính thân xác người cầm bút, Thế Kỷ 21, Bộ 1, số 6 ngày 1 tháng 10 năm 1989, trang 14.

10.- Jonathan D. Spence, The Search For Modern China, W.W. Norton Company, New York, London 1990, trang 60.

11.- Qiang Zhai, China & The Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, trang 40.

12.- Thanh Lãng, Bài báo đã dẫn, trang 72.

13.- Trong cuốn băng dài 30 tiếng đồng hồ do thư viện Johnson Library ở Austin, Texas, công bố ngày 28.2.2003, Tổng Thống Johnson đã gọi các tướng Miền Nam Việt Nam được Hoa Kỳ thuê làm đảo chính lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm là “một bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” (a goddam bunch of thugs). Tú Gàn, Bọn ác ôn côn đồ, Tuần báo Sài Gòn Nhỏ ngày 8.11.2003.

14.- Đặng Phùng Quân, Văn chương lưu đày, Gió Việt xuất bản, Houston, 1985, trang 180.

15.- Tên một tập phiếm luận của Lữ Giang tức Tú Gàn, Cười là tiếng ca đại thắng, xuất bản tại California, năm 1995.

16.- Michael Schulman & Eva Mekler, Bringing Up A Moral Child, September 1990, trang 251.

17.- Lê Tuyên, Tiểu luận về Hiện Hữu Của Tiểu Thuyết, Tạp chí ĐẠI HỌC, Năm Thứ IV, Số 2, Tháng 4 năm 1961, trang 162.


HÀ THÚC SINH * CHIẾU CHẮN CÒM

CHIẾU CHẮN CÒM
Hà Thúc Sinh



Xong rồi một cõi u minh,
Ngựa Hồ chim Việt biến hình mà đi. (*)

Đinh thi sĩ nhẩm nhanh hai câu cuối bài thơ ghi vội rồi nhét mẩu giấy vào túi, gỡ mũ ngước nhìn những ngọn thông cao vút, hít sâu một hơi, rồi thở ra, than thầm, "Thật, chẳng chiều quái nào như cái chiều nay!"

Đó là một buổi chiều không giống buổi chiều nào thật, và ông Đinh thi sĩ có than như thế chắc cũng không ai nỡ bảo ông thậm xưng để nhân cớ ấy xén bớt tí tính đáng quý vốn có ở ông là tính thận trọng dùng chữ.

Ông Lê nhà văn lục túi tìm gói thuốc, sực nhớ ra chỗ mình đứng lại thôi. Nhìn về phía quan tài ông chắt lưỡi nói như nói với ma:

"Đi lúc nào không đi, nhè ngay lúc cuối năm."

Ông Lý ký giả khẽ thêm:

"Và cuối thế kỷ."

Ông Trần nhạc sĩ chưa chịu, thêm tí nữa:

"Cuối luôn một thiên niên kỷ."

Tất cả yên lặng. Một cụ tiên chỉ vừa đọc xong bài điếu. Câu cuối có bị sự xúc động làm mờ đi nhưng năm ông tai còn thính lắm, họ nghe rõ cả: "... Thôi, chào anh, ngàn thu vĩnh biệt anh!"

Ông Nguyễn diễn viên vốn quen thói giễu giữa đường, chẳng giữ ý tứ nói như thở hắt ra:

"Bảy lăm tiễn tám mươi đào đâu ra ngàn thu. Tạm biệt nghe thật hơn."

Ông Trần nhạc sĩ lớn tuổi nhất đám, nói:

"Tới nữa phiên ai đây?"

Ông Lý ký giả nói:

"Ưu tiên ấy không ai giành ông."

Lâu lắm ông Lê nhà văn mới thở dài:

"Chắc cuốn chiếu mất thôi, tiên (**) đi nhanh quá."

Ông Đinh thi sĩ bảo:

"Luỵ tình mới bịn rịn, thu vén xong rồi thì nhanh."

Ông Nguyễn diễn viên bảo:

"Ối dào, đời toàn lăm le đì nhau, ù nhau, đi như thế kể đã lề mề. Hồi cụ mới lò dò sang tôi có nhắc đấy. Chẳng ân oán với ai cụ về lại bên đó hay hơn. Tôm lèo dù gì nó cũng tươi cũng ngọt hơn, hành quân nó khí thế hơn mà làm thơ nó cũng hứng hơn. Có nghe đâu!"

Ông Đinh thi sĩ cố giấu cái nhíu mày, bảo:

"Chưa ăn nhạt chưa biết thương đến mèo."

Ông Nguyễn tính giương cổ cãi nhưng ông Đinh đã vội giơ một ngón tay lên miệng. Không gian thốt im như tờ. Trong nắng ngai ngái, trong gió ngây ngây, những lời thơ như lời cầu siêu bỗng trổi lên qua một giọng ngâm nữ không được xuất sắc:

Vũ trụ thiền hành tiết điều hơi thở
Vũ trụ mỉm cười tiến lên thong thả
Vũ trụ vận hành êm ả thảnh thơi
Chuyện gì rồi cũng bỏ qua thôi (***)

    

Từ 1975 kẻ trước người sau nối nhau tha hương, sau cùng họ tái ngộ trong một chiếu chắn. Họ hay tụ ở nhà ông Trần nhạc sĩ. Người mình đặt tên nhau đến hay, vừa chính xác lại vừa thực tế. Ông Trần trải chiếu, thu hồ, lo hầu tiếp nhưng không chơi được gọi bưng tô. Cứ thế, theo phong thái hay cá tính ứng với quân bài, ông Đinh có biệt hiệu gàn, ông Lê con cá, ông Lý võ, ông Nguyễn bị gậy hoặc ăn mày. Trừ tiên thi sĩ mà tuổi tác đáng được thông qua mọi chuyện, còn giữa năm ông không thế. Họ có thể giống nhau rất nhiều chỉ trừ tí cỏn con, cái mũi. Không tin cứ quăng ra tí danh lợi mà xem. Cảnh sẽ vui đáo để. Sẽ có kẻ lì lợm xốc tới bảo thơm và có kẻ tháo chạy bảo thối. Lạ thay việc này lại vô phương thoả hiệp. Tại sao? Được cái họ không bỏ nhau. Vả bỏ nhau chơi với ai, với Mỹ ư, Mỹ nó đoái hoài gì đến trò chơi của một nhúm tị nạn lạc loài. Họ vẫn bên nhau. Họ giống những cột đền của Khalil Gibran, dù cùng nhau đội chung một mái đền nhưng không bao giờ đứng sát vào nhau; sự gần gũi thân mật ấy hoạ chăng chỉ để ban cho cái giá móc mũ, chiếc kệ để bản tin hay cái thùng đựng giấy lộn nho nhỏ.

Ông Đinh gàn suốt đời sợ bẩn tay, không muốn dính vào việc gì sâu nên không việc gì thành. Ông Lê con cá luôn mồm ca bài chống chính trị hoá văn học nghệ thuật nhưng lại dám vất vả đi đêm; lâu rồi ông bị chứng hồi hộp, vì cứ đêm đêm đèn sáng lại thấy một cái bóng đen có tác phong lãnh tụ về đứng ngắm nghía ông. Ông Lý võ thời còn thịnh cầm bút như cầm dao, trong ứng xử lộ bản chất hiếu sát, giờ sống vất vưởng như chờ quả nghiệp. Hai ông sau nghệ sĩ trình diễn, pháp thuật tất nhiên cao cường trong đấu trường danh lợi; mấy ông cầm bút bảo họ bạn ngoại vi, mặt tán thưởng hay sửa trị nên dành toàn quyền cho quần chúng. Giờ cả năm đều đã đi vào thời thiếp ngủ trước những pha gay cấn trên máy truyền hình. Họ vui vẻ lấy nguyên một hàng ghế như thế làm mẫu số chung. Chính cái mẫu số chung này đã ngẫu nhiên tạo thành một lớp vỏ bọc quanh đời họ. Nó bảo vệ được gì cho họ? Không, chỉ giúp họ che bớt phần nào vài đặc tính không nên phát huy của giới gọi là sinh ra đời như văn nghệ sĩ. Hôm nay có vẻ họ gắn bó chứ không như lúc ngồi trên chiếu chắn. Họ đi tiễn một bậc tiền bối đến chỗ rồi họ sẽ đến.


Xong đám họ nhẩn nha thả một vòng. Hai mươi lăm năm không ít bạn bè đã rủ rê nhau về ngủ chốn này. Khi ra tới bãi đậu xe vừa ba giờ chiều. Người cho họ quá giang không còn đó. Có xe buýt về Bolsa nhưng họ không đón. Đã đồng ý sẽ không bao giờ nữa có một chiều như chiều hôm nay, cớ gì họ phải vội vã. Họ quyết định thả bộ nói chuyện cho vui.

Chuyện giữa họ thường lan man và có hậu ý hay không còn tuỳ tạng người. Dù sao nó nhảy như cóc, cứ đang chuyện nọ xọ chuyện kia, tạo dịp cho ông Đinh gàn thở dài, bảo vớ vẩn. Nhưng giá có ngoắt một cái chuyện vớ vẩn biến thành chuyện gay go cũng lại là thường. Óc sáng tạo, tính khôi hài, lòng chủ quan và sự độc đáo là bốn điều xưa nay vốn khó kiểm soát. Họ hay kể về dĩ vãng với chút tưởng tiếc dù khi bị hỏi họ vẫn bảo việc họ làm là một trò chơi. Ấy thế chứ họ lại khó chịu lắm mỗi khi tự kiểm điểm thấy mình chơi vẫn chưa tới. Và giá bị hỏi thêm tới là tới thế nào, tới để làm gì thì họ đâm ú ớ ngay. Có ai nhập cuộc chơi này mà không từng bị cụ Tiên Điền cấy cho một phát sinh tử phù bất tri tam bách dư niên hậu...!? Chính cái tâm trạng có màu ngổn ngang khi về chiều ấy sẽ có lúc cho họ cái gan cười xoà bảo nhau, "Rõ khỉ, vênh váo cho lắm hoá ra mình chỉ là một bọn từng hăm hở kéo nhau đi săn nai trong sở thú." Đấy, đấy sẽ là thời sự hăng tiết cáo chung. Sự lăm le làm lại, nếu có, cũng nhấp nhô trồi sụt như kẻ sắp chết đuối. Rồi cái giọng sang sảng vốn có ở họ một ngày thấp hẳn, không quá đáng nhưng đủ thích hợp cho một thông tin bàng hoàng, chẳng hạn, "Ông ơi còn nhớ X. chứ, vừa đi làm về tim nó giật một phát đi luôn mất rồi"; hoặc cho một thông báo hân hoan, đại loại, "Này bạn hiền, thử loại giảm đau nhức Y. mới ra chưa, tuyệt, tuyệt cú mèo."


Nhưng có thể văn nghệ sĩ hơi khác người ta ở chỗ dễ mủi lòng hơn, dễ cám cảnh hơn, thành thử tuy không quên những đố kỵ (đôi khi tệ hơn) họ vẫn độ lượng với nhau. Cứ xem như ông Lý võ. Ông từng là thảm hoạ cho ngay vài vị trong chiếu, nhưng khi hết thời, đến trước cửa nhà ông Trần bưng tô quy hàng, ông ngửa mặt nhổ lên trời một bãi to tướng rồi lạnh lùng rút khăn lau mặt, thẳng thắn nói, "Xin các ông anh nghĩ đến tôi như kẻ lầm lỗi mà không là kẻ tội lỗi." Ông được bỏ qua khi tiên thi sĩ thều thào, "Môi sinh thế này chỉ mới cắn nhau đã là quý lắm." Lại thí dụ khác. Chẳng hạn mươi mười lăm năm trước làm gì có mẩu đối thoại thế này:

Ông Nguyễn bị gậy tâm sự:

"Nhớ lại việc cũ, ngượng lắm."

Ông Lê con cá gật gù:

"Thế là đã thấy được ngõ trúc xa xa."

Ông Lý võ giọng vẫn khó hiểu:

"Giễu thua Phi Thoàn việc đếch gì phải ngượng."

Về mặt nghề nghiệp ông Trần bưng tô gần với ông Nguyễn bị gậy, vì thế lời an ủi có nôm na và đầy đặn hơn.

Ông nói:

"Con gà cho trứng con công cho múa. Ngon mồm ngon mắt đều cần. Trên sân khấu đời ông đóng vai ông. Ừ, việc đếch gì phải ngượng."

Ông Nguyễn bị gậy mát ruột lắm. Và như để đền ơn tri ngộ, lần đầu trong đời ông ban cho bạn tí cảm tưởng ông cũng biết khiêm tốn như ai, biết tự phê tự kiểm như ai.

Ông đáp:

"Tất nhiên là vậy. Trời sinh ra tôi để múa thì tôi múa. Khổ cái, chậc chậc, đôi khi xem lại những thước phim cũ cứ giật bắn cả mình. Chả hiểu vội vã thế đếch nào mà lắm phen ra sân khấu cứ quên kéo phẹc-mơ-tuya."

Thấy tội, ông Đinh gàn cũng giúp cho đôi chữ:

"Càng mát."


Đi một lát vừa đói vừa khát, họ đến trước một thánh đường ngồi nghỉ. Ông Trần là người háu đói. Mặc ai chuyện trò ông vẫn thản nhiên mở túi dết lấy ra cặp bánh dầy chả cốm sửa soạn ăn. Những người khác khởi sự một đề tài mới. Lần này nó trở thành nghiêm trọng khá nhanh vì họ đã lôi nhau vào chuyện khôn dại. Vừa liếc nhanh ông Trần đang hộc tốc chạy ra sân sau thánh đường, ông Đinh giơ bàn tay khẽ can mọi người:

"Chuyện khác đi!"

Ông Lý không chịu:

"Sống trên đời cần biết dại khôn, sao lại tránh?"

Ông Đinh chắt lưỡi:

"Người khôn đã thành tổ tiên."

Ông Nguyễn ngạc nhiên:

"Thế không có hy vọng nào cho đứa còn sống?"

Ông Lê ơ hờ nhìn ông Trần vừa trở lại chỗ ngồi. Cái trán ông ta nhăn nhăn, đôi mắt hấp háy ra chiều đang nghĩ ngợi gì đó, lung lắm. Ông Lê đột ngột hỏi, "Này ông bưng tô, thành thật nhá, ông nghĩ ông khôn hay dại?"

Ôi thôi cả bọn một phen kinh hãi. Ông Trần bất giác thét một tiếng, lần nữa vùng chạy biến ra sân sau. Tất cả lục tục chạy theo và họ thấy ông bạn già đang đứng nhìn một dãy thùng rác vò đầu vò cổ. "Ối cha ối mẹ tôi ơi," ông ta gào lên. "Thế này thì có khác gì quỷ thần nó vặn răng tôi." Ra thế. Ban nãy ông Trần đã nhổ vội miếng bánh dầy thiu có dính hai hàm răng giả, và giờ ông không thể nhớ ông đã nhổ nó vào cái thùng nào.

Ông Đinh bảo khẽ vào tai ông Nguyễn, "Bưng tô là người sắp có hy vọng."

Rốt cuộc như bao giờ họ đành chín bỏ làm mười, ít ra bề ngoài. Cùng chiếu cả đấy thôi. Trừ ông Đinh, tất nhiên, còn thì họ đồng ý ở một mức độ không thống nhất đời người khôn nhiều hơn dại (có thế mới tồn tại được). Và cũng đồng ý luôn chính điều đó là nguyên nhân làm mờ, làm mất đi sự tinh khôi đời nghệ sĩ. Xem, sao càng già càng bết? Tiên thi sĩ nói một đàng làm một nẻo, đi một bước người dìu một bước, ăn ỉ... cứ hiên ngang tại chỗ. Sao thế? Phải chăng trăm sự đều do cái gánh nặng vô hình gồm toàn những món gọi là kinh nghiệm, nôm na là lõi đời, tắt là khôn cụ vác trên lưng?

Chẳng mấy tiếng nữa lịch sử nhân loại sang trang, họ bâng khuâng nghĩ ngợi.


Nắng oải ra trên hoa cỏ. Bóng chiều đã lấp ló đâu đó từ những chân mây trên trời quận Cam. Các ngả đường gió Thái Bình Dương thơm dậy. Bóng người bộ hành vội vã. Lá khô chạy lao xao. Một chiều cuối năm như thế gây chấn động lớn trong hồn kẻ tha hương. Năm người bạn bất giác nhìn nhau, rồi như cám cảnh, lần đầu họ nghĩ đến nhau cách đằm thắm không ngờ. Ồ, nhớ bao năm qua họ đâu hề có tâm trạng xiêu xiêu như thế. Rồi họ lẩn thẩn bàn cách giải trừ cái khôn, cách cứu lấy sự tinh khôi của tâm hồn dù là vớt vát. Liệu có muộn quá chăng?

Ông Đinh muốn chữa cái bầu khí bi luỵ và bồng bột hơi bất thường do các bạn ông gây ra. Đấy, cứ đòi khôn đến khi có khôn lại hoảng lên vì nó. Dù sao ông thâm cảm. Ông hiểu chẳng qua các bạn đang cơn rối trí. Ở mỗi người giờ mới thực có thêm một đám ma lữ thứ, thêm một mất mát xứ người. Nhưng làm sao giúp họ dịu xuống? Có tiếng chuông bán kem. Ông chận thằng bé tính mua đưa mỗi bạn một cây, khi lục túi mới biết không đem ví theo. Ông Nguyễn nhanh nhẩu bảo để tôi, rồi quay hỏi thằng bé:

"Kem hả, mấy một cây?"

"Dạ một đô."

"Không đi học à?"

"Dạ Mễ lậu."

"Bốn đô năm cây được không?"

Thằng bé nhăn nhó:

"Dạ không."

Ông Nguyễn moi ra tờ hai chục:

"Có tiền thối?"

Thằng bé hơi bối rối nhưng cười ngay. Tự nhiên ông thích nụ cười của nó. Chỉ trẻ con biết lao động kiếm sống khi thấy đồng bạc mới có nụ cười thế này. Nó đặt thùng kem xuống, chỉ tiệm tạp hoá 7-Eleven bên kia đường, đề nghị:

"Ông coi giùm cháu thùng kem, cháu đi đổi."

Rồi nó cầm tờ hai chục mau mắn băng qua đường. Nhưng nó không trở lại. Mãi không trở lại. Ông Đinh tò mò nhẹ mở nắp thùng kem -- một cái thùng ép bằng bấc nhựa đã khá sứt mẻ.

Lần đầu tiên các bạn thấy ông Đinh mất biến nét chừng mực cố hữu. Ông cứ rú lên cười, từng cơn.


Vào chiều cuối thế kỷ XX chẳng ai biết có năm ông văn nghệ văn gừng từng trôi dạt đến Mỹ từ xứ An Nam lòng rỗng toác (như cái thùng kem rỗng) vừa được hoá sinh trở thành con trẻ. Họ khoác vai nhau đi hàng ngang trên phố Bolsa, cười nói rần rần, bất cần người đồng hương có thể mắng thầm, "Mấy anh già mất nết!" hay bọn Mỹ qua đường hỉnh mũi nghĩ bụng, "Mấy thằng gay da vàng!" Họ hoá sinh vì họ vừa cùng ngộ ra rằng đời chẳng có quái gì là tuyệt đối, là hết sức, là cực kỳ, là vô cùng quan trọng cả. Giờ này tháng sau, năm sau, vài năm sau nữa, ngay trong đám họ còn ai nhớ tới tiên thi sĩ với trọn vẹn tinh anh thể phách như cụ vốn là? Một ngày mọi người đều mỏi mệt. Ngay thứ gọi là tình cũng có lúc đầy lưng và sẽ thành gánh nặng; sẽ có lúc người ta phải ngồi lại bên đường, lựa lọc và ném bỏ dần cho nhẹ hành trang.

Một xe rác tấp tới nâng một kiện rác lớn đổ vào lòng xe. Tiếng sắt thép va chạm gây một chấn động đau ngắn.

Ông Lý chợt hỏi, khơi khơi:

"Còn ông anh nào ngủ hay mơ không nhỉ? Lạ, giấc mơ tôi lâu rồi cứ như vượt biên mất tiêu."

Mãi mới có giọng ông Trần:

"Tiếc gì cái nguồn gốc phù hư. Thực tế là ta cần duy trì cái chiếu chắn đây này, cho vui, được ngày nào hay ngày nấy. Nhưng làm sao trải chiếu khi thiếu một tay?"

Ông Lê bảo:

"Ông tập chơi là vừa."

Ông Trần đáp:

"Nhiều quân quá, mãi không nhớ."

Ông Nguyễn bảo:

"Trước tôi cũng thế."

Ông Trần nhăn nhó:

"Khổ cái tứ đổ tường riêng món này tôi lại đếch mê."

Ông Lý bảo:

"Chưa mê thuê trăm bạc cầm hộ một ván lắc ngay, mê rồi trả năm trăm bảo hoàn còn lắc dữ."

Ông Trần bảo:

"Thế à, thế nhắc lại coi."

Giọng ông Đinh bấy giờ mới trổi lên, dặn dò y một ông giáo tận tuỵ:

"Nhớ nhá. Cỗ bài một trăm hai mươi quân, có ba hàng văn, sách, vạn..."
___
(*) thơ Viên Linh; (**) tên các quân bài được gọi dựa theo hình vẽ: tiên (nhất văn), múa võ (nhất vạn), bị gậy hay ăn mày (nhị sách), bưng tô (tứ văn), gàn (bát sách), con cá (bát vạn); (***) thơ Võ Phiến.

THANH THANH * XUÂN VÀ NÀNG THƠ


 XUÂN VÀ NÀNG THƠ
Ta vẫn là ta của thuở hai mươi,
Mũi bút chưa cùn, nguồn hứng chưa vơi;
Nhưng từ đổ vỡ bao nhiêu thần-tượng,
Tết này ta không làm thơ cho ngươi!
Thiên-hạ ngàn xưa sống kiếp đau-thương,
Mơ một ngày mai đời đầy hoa hương,
Một nụ cười tươi, một tia nắng đẹp
(Dấu hiệu vui lành), tôn ngươi ngôi vương.
Từ đó, người đời tiếp-tục lầm-than;
Phép mầu đâu ngươi mà hòng ngươi ban?
Chỉ có đất mầu, thuận mùa, hợp tiết,
Với mồ-hôi người lao-động hòa chan!
Chiếc áo hàng hoa, miếng bánh chưng xanh,
Đối đỏ, nêu cao, thịt mỡ, dưa hành...
Ngươi kể công-lao mà không tự thẹn:
Suốt cả năm trường nhờ ai lo quanh?
Sao ngươi không tìm sưởi ấm tha-ma?
Không tạo an-hòa giữa chốn trường-sa?
Suối ngot, quả lành, không ban biển cát?
Nam Bắc băng-dương sao không đơm hoa?
Thôi đừng kiêu-căng, xuân ơi, xuân ơi!
Giá-trị nhân-sinh hãy trả cho Người!
Ta vừa lật đổ bao nhiêu thần-tượng,
Tết này ta không làm thơ cho ngươi!
THANH-THANH
Văn-Nghệ Tiền-Phong
số đặc-biệt xuân quý-mão (1963)

DU TỬ LÊ * CHẲNG CHIẾN CHINH



Chẳng Chiến Chinh Mà Cũng Lẻ Đôi

 Du Tử Lê

 

Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
Chim về góc biển . Bóng ra khơi
Lòng tôi lũng thấp . Tâm hiu quạnh
Chẳng chiến chinh mà cũng lẻ đôi

Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
Buổi chiều chăn gối thiếu hơi ai
Em đi để lại hồn thơ dại
Tôi vó câu buồn sâu sớm mai

Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
Em còn gương lược dấu đường ngôi
Nằm mơ thấy tóc thơm vai hẹn
Và khoảng trời xanh đến rợn người

Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
Bàn tay dư mấy ngón chia phôi
(Tặng nhau chín ngón không đeo nhẫn)
Và những tàn phai đầy tuổi tôi

Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
Như trời nhớ đất (rất xa xôi)
Nắng mưa nhớ mãi hàng hiên đợi
Thư nhớ hồi âm - Lệ nhớ môi

Chỉ nhớ người thôi sông đủ cạn
Nói gì kiếp khác với đời sau
Đôi khi nghe ấm trên da thịt
Như thể ai đi mới trở v

TRẦN THỊ LÝ ĐỔ XÂM HƯỜNG

ĐỔ XĂM HƯỜNG
Trần thị Lý



--------------------------------------------------------------------------------


Một trong những lễ tiết quan trọng của người Việt là Tết Nguyên Đán, thường được quen gọi tắt là Tết. Đây là dịp nghỉ ngơi giải trí chung của mọi người, mọi giới và kéo dài qua nhiều ngày. Việt Nam trước đây vốn là một xứ trọng nông, người dân quanh năm khổ nhọc với công việc đồng áng, chỉ được thư thả, nhàn rỗi vào mùa xuân. Vào dịp này khắp nơi đều có mở hội mừng Xuân, hội chợ Tết. Tùy theo điều kiện khí hậu và tập quán từng địa phương, nơi này mở hội vào tháng Giêng, nơi khác vào tháng Hai hay tháng Ba:
Tháng Giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè. (Ca dao)

Nhưng tựu trung dù bất cứ ở địa phương nào, ba ngày đầu năm vẫn là ba ngày TẾT chính thức:
Mồng Một ăn Tết nhà cha,
Mồng Hai nhà vợ, mồng Ba nhà thầy. (Ca dao)

Nhiều nơi việc vui xuân thường chỉ diễn ra trong vòng tháng Giêng:
Tháng Giêng là tháng ăn chơi,
Tháng Hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà... (Ca dao)

Trên khắp mọi miền đất nước, những thú vui xuân thật không thể nào kể hết, được gọi chung là bách hí: múa lân, đốt pháo, đua thuyền, hát đối... và đặc biệt một thú vui rất phổ thông không thể thiếu, đó là chơi cờ bạc. Gặp nhau vào ngày đầu xuân, sau lời chúc tụng, người ta thường hỏi nhau “đã thử thời vận chưa?”, “đã khai xuân chưa?”. Thử thời vận hay khai xuân đều có hàm ý là bói xem sự may rủi trong năm qua canh bạc. Người ta tin rằng việc được thua, hên xui qua canh bạc đầu xuân là điềm báo hiệu về công việc làm ăn trong suốt cả năm. ỞÛ trong nhàø cùng với bà con và bạn bè, người ta chơi tứ sắc, bài xẹp, bài tới, tam cúc, tổ tôm..., về sau có thêm những trò chơi bài tây như xì phé, xì lát, xập xám, cạc-tê v.v... Ở những nơi công cộng thì có những môn xóc đĩa, bài vụ, nhứt lục, bài chòi, lô-tô, tài xỉu... Đặc biệt có môn chơi “đổ xăm hường”, lúc ban đầu bắt nguồn từ cố đô Huế, về sau lan rộng ra nhiều nơi khác. Bài bạc tuy là để mua vui, tiêu khiển nhưng có nhiều môn ngoài chuyện hên xui may rủi còn có thêm phần đấu trí cao thấp mà đôi khi còn kèm theo cả mưu mẹo và thủ đoạn. Chỉ riêng “đổ xăm hường” là thú chơi thực sự lành mạnh, tao nhã, thuần túy giải trí, không có tính cách sát phạt; số người tham dự không phải chỉ giới hạn ba hay bốn tay như bài xẹp, tứ sắc; cũng không xô bồ quá nhiều đến hàng chục người như xóc đĩa, nhứt lục... mà có thể du di từ bốn tới bảy hay nhiều khi có thể tùy nghi thay đổi thêm bớt hơn thế nữa.

Đổ xăm hường, thắng bại hoàn toàn dựa vào thời vận. Sáu hột súc sắc gieo xuống chiếc tô sành, kết quả do may rủi tự nhiên, người chơi không thể chủ động theo ý riêng của mình như ở nhiều môn chơi khác.

Thành phần bộ xăm hường
- Bộ hột: Có tất cả sáu (6) hột súc sắc hay còn gọi là tào cáo có hình khối vuông, cạnh dài khoảng 15mm, góc được gọt hơi tròn để các hột dễ lăn và khỏi kê gối lên nhau. Trên mỗi mặt hột có những chấm lõm tròn được sơn màu theo thứ tự nhứt, nhì, tam, tứ, ngũ, lục (tức 1, 2, 3, 4, 5, 6). Hai mặt nhứt (1) và tứ (4) sơn màu đỏ, các mặt khác màu xanh hay đen.

- Bộ thẻ: Gồm sáu (6) loại thẻ khác nhau về kích thước, có giá trị đơn vị từ 1 điểm cho thẻ nhất hường đến 32 điểm cho thẻ trạng anh, dựa theo thang học vị của Trường Thi ngày xưa. Tổng giá trị mỗi loại trong bộ thẻ là 32 điểm . Tổng số điểm của toàn bộ xăm hường là 192 điểm (32x6=192). Các thẻ làm bằng tre, gỗ, xương hay ngà .

1). Nhất hường là loại thẻ nhỏ nhất có giá trị 1 điểm, có một nốt chấm sơn màu đỏ ở giữa, mang học vị Tú Tài, gồm tất cả 32 thẻ.

2). Nhị hường có giá trị 2 điểm, có hai nốt chấm sơn đỏ, học vị cử nhân, gồm 16 thẻ.

3). Tứ tự có giá trị 4 điểm, trên mặt thẻ có ghi số 4, học vị Tiến sĩ, gồm 8 thẻ.

4). Tam hường giá trị 8 điểm, mặt thẻ ghi số 8, học vị Hoàng Giáp, gồm 4 thẻ.

5). Trạng em giá trị 16 điểm, ghi số 16, học vị Bảng nhãn hay Thám Hoa, 2 thẻ.

6). Trạng anh giá trị 32 điểm, mặt thẻ ghi số 32, học vị Trạng nguyên, chỉ một thẻ.

Trên các thẻ trạng có khắc hay vẽ đầu một vị khoa bảng đội mũ cánh chuồn, có mang râu.

Bộ Xăm Hường ở những gia đình bình dân được lưu giữ giản dị trong một chiếc hộp; ở những gia đình trưởng giả, quyền quí thì được sắp xếp trên một giá gỗ theo ngôi thứ học vị (cho ba thẻ trạng) và trong một chiếc ống bằng gỗ hay tre được sơn màu như ống xăm nơi các đền, chùa (cho các loại thẻ khác), được trưng bày như một loại đồ trang trí.

Các nguyên tắc của môn xăm hường
Nhân số: Số người tham dự cuộc chơi “đổ xăm hường” được du di từ bốn tới bảy nhưng lý tưởng nhất là sáu. Tuy nhiên, khi thấy hứng thú thì dù chỉ hai người hay khi số người có mặt đông mà muốn cùng chung vui, thì dù tới tám, cuộc chơi vẫn có thể thực hiện được. Người chơi nắm gọn sáu hột súc sắc trong lòng bàn tay, gieo xuống một chiếc bát sành có đáy rộng để hột khỏi kênh chồng lên nhau, rồi tính điểm theo kết quả trên sáu mặt hột.

Cách tính điểm:
- Tính điểm theo mặt tứ: Mặt tứ còn gọi là mặt hường vì bốn nốt sơn trên mặt này màu hường hay hồng. Nốt sơn trên mặt nhất cũng màu hồng nhưng không được gọi là hường. Điểm được tính theo số mặt tứ hiện ra trên 6 mặt hột, nếu có:

- 1 mặt tứ gọi là nhất hường, nhận một thẻ Nhất hường, tính 1 điểm.

- 2 mặt tứ gọi là nhị hường được thẻ Nhị hường, tính 2 điểm.

- 3 mặt tứ gọi là tam hường được thẻ Tam hường, tính 8 điểm.

- 4 mặt tứ gọi là tứ hường được thẻ Trạng anh, 32 điểm.

- 5 mặt tứ gọi là ngũ hường được luôn cả thẻ trạng anh và 2 thẻ trạng em, tính 64 điểm. Vì đoạt hết cả ba trạng nên người ta thường nói là ngũ hường đoạt tam khôi.

- 6 mặt tứ gọi là lục phú hường, được quyền thu tóm tất cả sáu loại thẻ từ nhất hường đến trạng anh nghĩa là được toàn bộ tổng số 192 điểm. Những người khác phải chịu thua gấp hai lần số điểm mình bắt buộc cần phải có tính theo số người tham dự. Ví dụ nếu có 6 người chơi thì mỗi người phải thua 64 điểm (32 x 2 = 64).

- Trường hợp đặc biệt 1: chỉ có hai mặt tứ nhưng bốn mặt còn lại là hai ngũ và hai lục gọi là “hạ mã”, được một thẻ trạng em 16 điểm.

- Trường hợp đặc biệt 2: chỉ có ba mặt tứ nhưng ba mặt còn lại đều giống nhau (cùng là nhất, nhị, tam, ngũ hay lục) gọi là Phân song tam hường, được một thẻ trạng em và một thẻ tam hường, tổng cộng 24 điểm.

Tính điểm theo các mặt khác (nhất, nhì, tam, ngũ và lục):
- 4 mặt giống nhau gọi là Tứ tự, được thẻ Tứ tự, tính 4 điểm.

- 4 mặt giống nhau và 1 mặt tứ gọi là Tứ tự nhất hường, được 1 thẻ tứ tự và 1 thẻ nhất hường, cộng 5 điểm.

- 4 mặt giống nhau và 2 mặt tứ gọi là tứ tự nhị hường, được 1 thẻ tứ tự và 1 thẻ nhị hường, cộng 6 điểm.

- 4 mặt giống nhau mà hai mặt kia cộng lại bằng mặt giống nhau đó thì gọi là Tứ Tự Cáp, được thẻ trạng em 16 điểm; ví dụ tứ tự nhì tức 4 mặt giống nhau là nhì, mà 2 mặt kia đều là nhất cộng lại bằng nhì thì gọi là tứ tự nhì cáp; một ví dụ nữa: tứ tự ngũ tức 4 mặt ngũ mà hai mặt kia là 1 và 4 hoặc 2 và 3 đều cộng lại bằng 5 thì gọi là tứ tự ngũ cáp. Trường hợp tứ tự nhất tức 4 mặt giống nhau là mặt nhất, thì hai mặt còn lại cộng chung không thể nào bằng 1 được nên người ta chấp nhận cho mặt 6 và mặt 5, cộng chung bằng 11 là tứ tự nhất cáp.

- Hai cặp gồm ba mặt giống nhau (như 3 nhất và 3 tam chẳng hạn) gọi là phân song, được thẻ trạng em 16 điểm. Khi một trong hai cặp đó là 3 tứ thì gọi là Phân song tam hường (đã được nói ở đoạn trên).

- Ba cặp mặt giống nhau liên tiếp: 2 nhất 2 nhì và 2 tam gọi là Thượng mã, 2 tứ 2 ngũ 2 lục gọi là Hạ Mã (đã nói ở đoạn trên) thì được thẻ trạng em 16 điểm. Nếu ba cặp liên tiếp là 2 nhì, 2 tam 2 tứ hay 2 tam 2 tứ 2 ngũ thì chỉ tính như nhị hường, chỉ được thẻ nhị hường 2 điểm mà thôi.

- Năm mặt giống nhau gọi là ngũ tử được thẻ Trạng anh 32 điểm.

- Sáu mặt giống nhau gọi là Lục phú, được thu tóm tất cả sáu loại thẻ từ nhất hường tới trạng anh, những người khác trở thành tay trắng, phải chịu thua toàn bộ số điểm phần mình phải có. Trường hợp đặc biệt khi 6 mặt giống nhau là tứ thì gọi là Lục phú hường, phần thắng tăng lên gấp hai lần những thứ lục phú khác (như đã được nói ở phần trên).

- Sáu mặt đều khác nhau: nhất, nhì, tam, tứ, ngũ, lục gọi là suốt, được lấy thẻ trạng em, 16 điểm.

Thẻ thay thế
Mới bắt đầu vào ván chơi, hễ ai đổ được loại thẻ nào thì lấy thẻ đó. Sau một hồi, vài loại thẻ lớn đã bị hết không còn nữa, người ta dùng những thẻ kế tiếp nhỏ hơn để thay thế, giá trị góp lại tính bằng điểm của thẻ đổ được. Ví dụ đổ được trạng em 16 điểm nhưng thẻ trạng em không còn, người ta nhận thay bằng 2 thẻ tam hường hay1 thẻ tam hường và 2 thẻ tứ tự... nếu các thẻ tam hường hay tứ tự cũng không còn đủ thì tiếp tục thay thế bằng các thẻ loại nhỏ hơn như nhị hường và nhất hường.
Tuổi trạng

Mỗi lần đổ được trạng, giá trị cao thấp của trạng được định theo số tuổi.

Tuổi trạng được tính dựa vào tổng số 2 mặt thứ 5 và 6 còn lại của trạng tứ hường hay vào mặt thứ 6 còn lại của trạng ngũ tử và của trạng ngũ hường đoạt tam khôi.

- Tuổi trạng tứ hường là tổng số chấm sơn trên 2 mặt còn lại, ví dụ 2 mặt nhứt là 2 tuổi, 2 mặt lục là 12 tuổi. Giá trị từ cao xuống thấp gồm:

1). Hai mặt nhì: Cáp chính.

2). Một mặt nhứt và một mặt tam: Cáp xiên.

3). Hai mặt lục: 12 tuổi.

4). Một lục, 1 ngũ: 11 tuổi.

5). Hai ngũ: 10 tuổi.

Cứ tiếp tục như thế đến tuổi thấp nhất là 2 tuổi, ngoại trừ 4 tuổi tức là cáp chính hay cáp xiên được xem như cao hơn cả 12 tuổi và cáp chính cao hơn cáp xiên.

- Tuổi trạng ngũ tử tính dựa theo số chấm sơn trên mặt thứ 6 còn lại. Giá trị từ cao xuống thấp gồm:

1). Mặt tứ: Ngũ tử đại ấn.

2). Mặt lục: Sáu tuổi.

3). Mặt ngũ: năm tuổi.

Cứ tiếp tục như thế đến thấp nhất là mặt nhất (1 tuổi), ngoại trừ mặt tứ tức Ngũ tử đại ấn là cao nhất, trên cả 6 tuổi.

- Tuổi trạng Ngũ hường tính từ cao nhất 6 tuổi xuống thấp nhất 1 tuổi, không có trạng ngũ hường 4 tuổi vì ngũ hường 4 tuổi chính là lục phú hường.

Đoạt trạng
Còn gọi là giật trạng hay cướp trạng. Khi cùng trong một ván chơi mà trạng được đổ ra nhiều lần, sẽ có chuyện đoạt trạng rất hào hứng, vui nhộn. Việc đoạt trạng được qui định theo tuổi trạng cao thấp. Ngoài lục phú (được thu tóm toàn bộ các thẻ) hay lục phú hường (có giá trị gấp đôi lục phú thường) khiến ván chơi được kết thúc ngay, thì, nếu trong cùng một ván, người đổ ra trạng trước có tuổi thấp sẽ bị người đổ ra trạng sau có tuổi cao hơn “cướp trạng”. Trạng tứ hường chỉ được đoạt của loại tứ hường, trạng ngũ tử đoạt của loại ngũ tử. Trạng ngũ hường đoạt của loại ngũ hường và cố nhiên đoạt của tất cả các loại tứ hường và ngũ tử. Thứ tự cao thấp của các loại trạng đã được trình bày theo tuổi trạng ở phần trên.

Người đổ ra trạng sau nếu tuổi trạng thấp hơn của người đổ ra trước, sẽ không cướp được trạng nhưng lại được nhận một số thẻ mà tổng số điểm tương đương với 32 (nếu là tứ hường hay ngũ tử) hoặc tương đương với 64 (nếu là ngũ hường), chọn lấy trong số thẻ còn lại bắt đầu từ thẻ lớn nhất trở xuống; hoặc nhận tất cả số thẻ còn lại nếu giá trị tổng số điểm của những thẻ này ít hơn số điểm mình được hưởng. Trường hợp này có lợi hơn cướp trạng của người trước vì mỗi khi không giữ trạng trong tay thì sẽ không bị ai cướp của mình ngoài trường hợp có người đổ ra lục phú; nhưng lại bất lợi trong trường hợp chơi bảy tay hay tám tay “bán trạng” sẽ nói ở phần sau.

Đấu thẻ
Khi đang cùng một ván, các thẻ nhỏ đã hết sạch, chỉ còn lại thẻ cao điểm nhất là trạng anh mà chờ lâu quá chưa ai đổ ra được, để bớt buồn tẻ sốt ruột, cần gây không khí sôi động hào hứng, người ta bày ra trò đấu thẻ. Những người tham dự cuộc đấu, cùng góp một số thẻ ngang nhau, ai đổ ra nhiều mặt hường nhất sẽ được thắng. Khi có hai người đổ được cùng số hường ngang nhau thì cuộc đấu xem như hòa và cứ tiếp tục cho tới mức ăn thua hoặc nhiều khi còn góp dồn thêm một số thẻ khác nữa gọi là “châm thêm”.

Phạt điểm
Trường hợp 1:
- Người chiếm được trạng anh ở ván trước sẽ đổ đầu tiên mở màn cho ván kế tiếp. Nhưng, nếu rủi ro lần đổ khai màn đó không có mặt hường nào cả thì sẽ bị phạt một điểm bằng một thẻ nhất hường. Lần thứ nhì, thứ ba... nếu cứ tiếp tục không có mặt hường cũng sẽ bị phạt cho đến khi nào đổ ra được mặt hường mới thôi.

Trường hợp 2:
- Khi trạng anh “chưa đi” nghĩa là chưa có ai đổ được, nếu có ai vô ý lúc gieo hột để rơi ra ngoài bát sành, thì cứ mỗi hột bị rơi ra ngoài là bị phạt một điểm bằng một thẻ nhất hường. Những thẻ phạt này sẽ được sung làm hầu cận cho thẻ trạng anh và thay vì 32, điểm của trạng anh sẽ tăng lên thành 33, 34 hay 35..., rồi sau đó ai đổ ra trạng sẽ được lấy tất cả.

Kết toán được thua
Khi tất cả các thẻ đã vào tay người chơi, giữa làng không còn thẻ nào hết, thì ván chơi coi như kết thúc. Mọi người bắt đầu đếm kiểm số điểm của mình, người có thừa sẽ bán bớt, kẻ còn thiếu phải mua thêm, sao cho ai ai cũng phải có đủ số điểm qui định.

Tùy vào số người tham dự, số điểm qui định cần có đủ như sau:

- Hai người: mỗi người phải có 96 điểm, tương đương “ba trạng”.

- Ba người: mỗi người 64 điểm hay “hai trạng”.

- Bốn người: mỗi người 48 điểm hay “một trạng rưỡi”.

- Năm người: mỗi người 38 điểm (tổng cộng năm người: 38 x 5 = 190 điểm) còn thừa 2 điểm (192-190 = 2) không thuộc về ai hết nên người ta giảm bớt 2 thẻ nhất hường trong cuộc chơi này.

- Sáu người: mỗi người 32 điểm hay “một trạng”.

- Bảy người: mỗi người 32 điểm trừ người chiếm được trạng thì không cần phải có điểm nào cả. Trường hợp này gọi là “bảy tay bán trạng”.

- Tám người: mỗi người 32 điểm trừ người giữ được trạng không cần có điểm nào mà còn có quyền bán thêm 32 điểm cho những ai còn thiếu gọi là “bán trạng hai lần”.

Được, thua nhiều hay ít tùy thuộc vào sự giao ước về giá trị mỗi điểm: 1 xu, 5 xu, 10 xu, 25 xu v.v... và tùy theo thời vận đỏ hay đen. Một ván xăm hường đôi khi kéo dài suốt 1 hay 2 giờ mà mức ăn thua chỉ chừng vài đồng bạc. Các cụ ông, cụ bà lúc khỏe thì ngồi ngay ngắn, khi mỏi mệt có thể nghiêng mình thoải mái tựa lên một chiếc gối giữa không khí thân tình của con cháu trong gia đình, bên bà con, cùng bạn hữu...

Hòa với tiếng khánh leng keng trong gió trên đầu ngọn cây nêu dựng bên ngoài cổng hay với tiếng pháo đì đùng từ nhà hàng xóm vọng sang, quyện theo khói trầm hương nghi ngút trên bàn thờ tổ tiên, tiếng vang rộn rã của các hột súc sắc khi được gieo vào lòng chiếc bát sành cùng với tiếng reo hò vui nhộn mỗi khi có ai đổ ra trạng, nhất là khi có người cướp đoạt trạng của kẻ khác, tạo nên một khung cảnh chan hòa ấm cúng thân thương, làm cho không khí những ngày đầu xuân càng thêm thơ mộng.

Đổ Xăm Hường còn có người gọi là Đổ Tam Hường, Đổ Xem Hường hay Đổ Xâm Hường. Trong bốn nhóm chữ đó thì Đổ Xăm Hường đạt được ý nghĩa chính xác nhất. Xăm có nghĩa là quẻ để bói thời vận (ống xăm, thẻ xăm, xin xăm...), Đổ Xăm Hường là môn chơi bói quẻ theo mặt hường để đoán trước thời vận trong năm. Còn Tam Hường chỉ là tên của một trong sáu loại thẻ của toàn bộ, không có ý nghĩa bao quát. Xem Hường lại còn cạn nghĩa hơn. Xâm Hường thì càng tối nghĩa hơn nữa.

Ngày nay khi Tết đến xuân về nơi quê người đất khách, trong cảnh sống tha hương, những thành viên cùng chung một gia đình gồm nhiều thế hệ: ông bà, cha mẹ, con cháu... hay những bạn bè thân thiết, nếu quay quần được bên nhau quanh bộ xăm hường, trước để mua vui sau để thử thời vận, thì cũng là một chuyện hay: vừa cho bản thân có được chút khuây nguôi về nỗi sầu xa xứ, vừa ôn nhớ lại được những kỷ niệm đẹp của thuở nào xa xưa nơi quê hương yêu dấu:
Ngày Tết quê hương một thuở nào,
Mộng tràn tuổi ngọc lắm trăng sao.
Bàn tay em đẹp khi gieo hột,
Hương vị đầu xuân bỗng ngọt ngào.(Thơ Hồ văn Mẫn)




--------------------------------------------------------------------------------

Trần thị Lý, Montréal



VƯƠNG NGỌC LONG * TÌNH YÊU

Bội Số Tình Yêu
Vương Ngọc Long


Ngỡ rằng máy kiếp thanh tu,
Kiếp này mới được ngàn thu bên nàng.
Nhắn ai lên hỏi trăng ngàn,
Trăng bao nhiêu tuổi, yêu nàng bấy nhiêu.
Ai cầm nhật nguyệt xoay chiều,
Cho tôi xin hỏi đôi điều thế thôi.
Ai sinh ra đám sao trời,
Sao bao nhiêu cánh, yêu người bấy nhiêu!
Nàng là bội số phì nhiêu,
Tôi nhân , nhân mãi, lên nhiều yêu thương.
Hồn tôi là một mảnh vườn,
Trăm hoa đua nở, ngàn hương dịu hiền.
Biết ai thấu được nỗi niềm,
Tâm tôi là cả một miền tương tư.

TRẦN HỒNG CHÂU * CẦU KIỀU

Tôi đi trên những cầu kiều
Trần Hồng Châu



Tôi đi trên những cầu kiều,
Từng con phố nhỏ quạnh hiu trong lòng
Bâng khuâng mây trắng xây thành
Từng cơn nhung nhớ bên mành nhớ nhung
Cầu xưa vua đắp còn đây
Cầu em giải yếm cũng gầy tương tư
Tôi đi trên những cầu kiều
Từng nơi hò hẹn tiêu điều dấu chân
Ngậm ngùi vạt áo Hà đông
Một con bướm trắng bên sông hững hờ
Cầu xưa lá rụng tơi bời
Cầu tôi đuôi mắt mấy trời đam mê
Tôi đi trên những cầu kiếu
Từng hồn thu cũ bóng chiều chưa phai

TRẦN NHẬT TÂN * NÀNG XUÂN

Thư Gửi Nàng Xuân
                        Trần Nhật Tân
                                                    Gửi m.g


                Thiên hà di chuyển độ lượng ta cúi đầu chào em đêm nay Nàng
            Xuân kiều diễm.
                Họa mi hát lên một khúc đoản thi khắc trên chiếc bình cổ Hi
            lạp ta muốn gõ cửa một Ngôi Nhà vô thanh dội lại lòng  mình
           cũng quạnh hiu không gian rủ chùm chiêm bao ta muốn gõ cửa một
            Ngôi Nhà- là- đôi-mắt-em-có màu thời-gian-nguyên-thủy.

                Ta kể em nghe một câu chuyện có một người đi hái hoa Kì-Ảo
            bên kia chân trời dĩ vãng nấc lên những điệp-khíc đêm tim ta rướm máu
            trên hoành độ thi nhạc em gục đầu bên một chén ngọc ngâm mặt trời
            trong rượu thời gian em em ơi hãy cho ta lại những phút ngọt ngào
            xa xưa những nét mi thanh tân nguồn lửa nuôi anh.
                Anh đang lơ lởng ngoài tinh cầu chờ em.
                Em hãy trả lại cho ta một hừng đông rực rỡ thuở trước ta cắn đôi
            môi chiều ngọc đọng lại hoài hương ôm vòng cổ thụ hãy cho ta em em ơi
            một quá khứ ngạo nghễ trong mắt em chiều yêu anh.

                Hãy cho anh lại bài thơ Muôn Thuở trên bia mộ thi nhân một-thời
            để- yêu- em trên cánh tay em dấu răng anh còn vĩnh cừu hồng trên môi
            em lời tạ từ còn  xanh như đường đi của Thời Gian trôi về hư không.
                Bây giờ anh đang nằm trong lưng sóng nhạc nghe tóc em ru ru
            ta xin đa tạ em một cuộc tình- vĩnh-viễn-nhớ từng cánh hoa huyết dụ
            nở trong thơ.
                                                                       (CÕI THƠ)
                                                                         Sg1986.
 
 

No comments:

Post a Comment