Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Wednesday 14 December 2016

PHÙNG CUNG =

PHẠM TOÀN * PHÙNG CUNG

Nhân sự kiện tập thơ Xem đêm của nhà thơ Phùng Cung ra mắt

Phạm Toàn

Những con chữ hiện lên
từ đáy chén trà
Tự giới thiệu
Ngày 28 tháng 6 năm 2012, tại hội trường lớn Trung tâm Văn hóa Pháp tại Hà Nội (L’Espace) có cuộc Hội thảo về tập thơ Xem đêm của nhà thơ Phùng Cung. Những nhà tổ chức mời tôi viết một bài tham luận. Tôi đã viết bài bên dưới đây.
Sau cuộc Hội thảo, tôi chờ các báo đưa tin. Nhưng tịnh không thấy một lời nào về Phùng Cung và về tập thơ hai trăm bài có tên Xem đêm của nhà thơ. Vì thế, tôi thấy mình có trách nhiệm phải công bố bài viết làng nhàng này.
Do tính chất làng nhàng của bài viết, nên tác giả xin phép nhấn mạnh thêm một chút để bạn đọc tập trung chú ý giùm: bài viết này nói về TỰ DO, sự tự do cố hữu trong con người, nhưng nó là nét nổi bật ở nhà thơ, không phải vì nhà thơ vĩ đại hơn thiên hạ, mà vì phẩm tính của thơ ca LÀ PHẨM TÍNH TỰ DO. Và thế là, nhờ “bó thân về với Thơ Ca” nên nhà thơ có điều kiện đến sớm hơn với TỰ DO và bộc lộ mạnh mẽ hơn phẩm tính tự do của mình qua bản chất tự do của thơ ca.
Chú thích cần thiết: Chỉ khi nào bó thân về với Thi Ca Đích Thực thì mới có Tự Do. Còn đi chung đường với thứ hạng thơ vớ vẩn, hạng thơ chim gái, hạng thơ nói leo, thì mãn kiếp vẫn chẳng thể có tự do.
Vì sao, bạn đọc biết tỏng rồi.
Phạm Toàn
         Thời xưa, nhờ bản dịch Bông hòng vàng, bạn đọc được biết chi tiết ông trùm truyện ngắn Nga Anton Chekhov có lần viết về “thiên truyện ngắn nằm chờ dưới đáy lọ mực” – một sự “nằm chờ” dẫu sao cũng như là của bắt được, như là của Trời cho.
Thời nay, Phùng Quán mô tả Phùng Cung làm thơ theo cách khác, thi vị không kém, và lên hết chất nhà thơ:
Sau mười hai năm cách ly đời thường, Phùng Cung như xa lạ với môi trường văn nghệ. Được trả lại tự do, việc đầu tiên là anh cùng với vợ sửa lễ “Tạ ơn cao rộng cho được sống để trở về quê quán”. Rồi yên phận hẩm hiu, anh tránh thật xa mùi bút mực. Anh xoay trần làm nghề đập đinh, phụ với vợ thêm nghề bánh rán, nuôi ba đứa con trai đang sức ăn, sức lớn. Song hình như mùi dầu nhờn, gỉ sắt, mỡ rán vẫn không át được mùi bút mực. Những lúc rảnh tay, anh ngồi buồn thiu, thỉnh thoảng chấm ngón tay vào đáy chén trà cặn, viết một từ gì đó lên mặt bàn… “ (Phùng Quán, “Hằng Nga ngủ trong rừng”, talawas).
Cái lợi thế của nhà thơ là ở chỗ ấy: trong khi người nhạc sĩ cần một dàn nhạc, chí ít cũng một cây đàn, để thể hiện cái ngôn ngữ âm nhạc mới nảy sinh trong đầu mình; trong khi họa sĩ cần hàng đống toan và màu, chí ít cũng phải một quyển vở ghi ký họa, để biểu đạt những chợt đến chợt đi bằng màu sắc và hình khối…; ta có thể mở rộng thí dụ đến vô tận cho hết sáu bảy bộ môn nghệ thuật…; trong khi đó, nhà thơ chỉ cần đến một chữ, và cái chữ ấy, nếu thiếu giấy và mực, nhà thơ chỉ cần một ngón tay chấm vào đáy chén trà uống cạn từ giữa đêm là đủ viết ra.
Như trong tập thơ hai trăm bài Xem đêm này, chắc chắn đó là kết quả của nhiều lần nhúng tay vào đáy chén trà, mỗi lần chỉ nhớ lấy một chữ coi như là đã quá đủ: này Bèo, Lạt, Mẹ, Vạc, Rắn, Ao, Đò, Bạn, Làng, Chiều, Ốm, Em, Gió, và rất nhiều lần Nắng, Nắng, Nắng,… rất nhiều xanh, tím, đỏ, hồng, vàng… và rồi nhà thơ có đi đâu lang thang rất xa, rồi quẩn quanh lại về với con chữ đầu tiên gần như duy nhất mở màn cho cả đoàn quân trong “Xem đêm”, đó là chữ bèo, bèo, bèo,… nổi nênh bèo, dào dạt bèo, quăng quật bèo, muôn dặm bèo, hiu hắt bèo, quê xanh bèo, và cuối cùng là ao cạn bèo ngay từ đầu cuốn sách mà đau đáu đi theo bạn đọc suốt bao nhiêu dặm xem đêm
Lênh đênh muôn dặm
nước non
Dạt vào ao cạn
Vẫn còn lênh đênh

* * *
Hai trăm bài Xem đêm…
Thân phận nhà thơ, thời nào cũng thế, không riêng thời hiện đại, thời toàn trị, cái thời nhà thơ có thể bị “triệu tập” và đi suốt cả chục năm không thấy mặt ai … đó là thân phận của kẻ giống như đứa trẻ con, ngủ ngày cày đêm – nhưng trẻ con thì còn được ngủ ngày đẫy giấc để ban đêm thức mà quấy nhiễu người lớn, nhà thơ thì không.
Nhà thơ ban ngày làm lụng tất bật, ban đêm vẫn thức mà Nghe mưa (“Thính vũ”, Nguyễn Trãi), nghe cả tiếng người đêm đêm vẫn vẳng nghe tiếng ếch bên tai, để mà giật mình còn ngỡ tiếng ai gọi đò, tiếng gọi đò bên con sông đã thành bãi bồi (Sông Lấp, Trần Tế Xương), còn cả tiếng gì tai nghe mà như nhìn thấy những ngón tay mưa dương cầm trên mái (Dương Tường) …
Không giống nhiều nhà thơ ưa sống về đêm, Phùng Cung cũng thức đêm để Xem đêm, nhưng lại là “xem” những cảnh-ngộ-đêm ngay giữa thanh thiên bạch nhật, đôi khi là những ban-ngày-giữa-đêm, rất lắm khi xem đêm giữa các màu nắng khác nhau và những sắc độ màu khác nhau, nắng Âu Cơ, nắng bổ cau, nắng ngả tương, mặt trời cốm Đông Đô, hoàng hôn đỏ gạch, hoàng hôn dạt tím, hoa gạo cắm cờ, hoa chuối tiêu lầm lũi, ngay cả khi trời tạnh mưa, cũng vẫn còn ban ngày đây gà rình mổ hạt nắng non …  Ôi thương quá, chẳng mổ được cái gì mà ăn, chỉ mổ được hạt nắng non, hạt nắng chỉ riêng nhà thơ Phùng Cung nhìn thấy!
Ngờ rằng đêm ở đây với Phùng Cung là cả một thân phận. Như nhà thơ Hoàng Hưng người về từ cõi ấy / vợ khóc một đêm / con lạ một ngày… Có thể vợ khóc ròng nhiều đêm nhiều ngày, nhưng chỉ kể thế thôi, khóc một đêm… Phùng Cung cũng từ “cõi ấy” trở về, thời gian ở “cõi ấy” của nhà thơ Phùng Cung dài gần gấp ba lần nhà thơ Hoàng Hưng… Phùng Cung phải ít nhất hai trăm lần xem đêm cũng là điều dễ hiểu thôi. Hai trăm ư? Hơn thế, hơn thế nhiều lần, hơn thế rất nhiều lần, cả đời xem đêm, bởi vì anh ta là nhà thơ, và thân phận nhà thơ là xem đêm, xem thân phận mình, suốt một đời, xem thân phận đời, suốt một đêm dài bằng một đêm mất ngủ.
Có xem nhiều và ngẫm nghĩ nhiều đến vậy mới thấm thía được cái thân phận bèo dù đã dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh… Sợ quá! Cánh bèo dạt tới đường cùng rồi mà vẫn còn say sóng, vẫn còn trôi dạt nổi nênh ngay khi được nằm im, vẫn chịu dập vùi ngay khi đã được sống lại cuộc đời cứ tạm gọi là ổn định.
Xin đừng nghĩ đó là nỗi đau khổ của nhà thơ. Đã là nhà thơ chân chính thì ai ai cũng cồng kềnh, ở không yên ổn ngồi không vững vàng… ma đưa lối quỷ đưa đường, chỉ tìm những chốn đoạn trường mà đi…  Nguyễn Du đã tự bốc quẻ cho mình và cho tất cả các nhà thơ như vậy rồi mà. Nhưng cũng lại nên nghĩ rằng nhà thơ – Phùng Cung và các nhà thơ khác – đã tự đi tìm đau khổ mà sống. Họ không tìm đến đau khổ theo lối sadique song dù có đau khổ thì cũng chẳng có gì bợn đến làn da nhạy cảm của họ. Điều đó lý giải tại sao họ làm thơ ở ngay “cõi ấy”. Và do cái thuận lợi bản thể của thơ, là chỉ cần một vụt hiện gửi trong một chữ (ý của Hoàng Hưng) là đủ sinh ra cả một bản trường ca, huống hồ hai trăm bài xem đêm ngắn như thơ haika Nhật Bản. Hệ thống nhà tù giam giữ không xét xử không tiên liệu được toàn bộ sự tình đó. Nhà thơ chân chính nào cũng mạnh hơn cả hệ thống trại giam. Đã là nhà thơ thì đã Tự Do rồi.
Hệ thống toàn trị không sao bắt nhà thơ im tiếng được, vì nhà thơ có cần cất tiếng nói thành lời đâu? Họ nghiền ngẫm một tứ thơ trong đầu và tứ thơ đó gửi trong chỉ một chữ đã là quá đủ. Lúc có điều kiện, cái tứ thơ đó vọt ra thành bài thơ, thế rồi giản dị như ngôi Lời, lời thơ tự nó bay đến với người đồng điệu (kể cả người trong hàng ngũ những kẻ làm công việc áp bức các nhà thơ). Đơn giản thôi: ở biên giới của Tự Do và không tự do, chỉ những kẻ đã tha hóa hết sức mới không còn là con người bình thường nữa để có thể đến với nhà thơ đang lên tiếng ngày và đêm và đêm và ngày, vào những lúc họ xem đêm – họ xem đêm suốt ngày!
Và đây nữa, một sức mạnh của Tự do nhà thơ: con mắt hài hước yêu đời. Thật sự chẳng có gì đau đớn cả khi mô tả cánh bèo ngay khi dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh.
Lúc nào cũng sẵn sàng thấy cái đẹp trong mọi chốn mọi lúc, ngay trên Sông lũ, ngay lúc thấy mặt nước đầy căng thì vẫn còn
Sông chảy bồn chồn hoa nắng
Chim chả nguệch bàn cờ
bến vắng
          Bóng xanh trôi.
Sẽ là thiếu sót với nhà thơ Phùng Cung nếu quên đi cái khí phách của anh. Khí phách nhà thơ lúc nào cũng vấn vương cái đẹp trên mảnh đất quê hương. Ngay cái màu của bông hoa chuối tiêu lầm lũi mang màu tím Tam Giang (“Nôn nao”). Khí phách khi nước sôi quất bã trà năm lần bảy lượt, song dù trà đau nát bã rồi đấy, mà vẫn không đổi giọng Tân Cương…  
Và đây nữa, xin đừng nghĩ đó là chuyện kể khổ, mà đây cũng là khí phách chứ đâu phải chuyện nói ngược cho vui:
Nắng – đạp cánh đồng
xơ xác
Bước liêu xiêu
Cái vạc ăn ngày.
(“Vạc”)
          Thế đó, cần gì vạc cứ phải ăn đêm? Thách thức của họ nhà vạc đấy! Đâu có phải chuyện vì hoàn cảnh mà vạc phải kiếm ăn ban ngày.

* * *
Anh Phùng Cung cùng thế hệ với tôi. Nhưng khi các anh tham gia đòi dân chủ, đòi chấn hưng nghệ thuật (Lê Hoài Nguyên), thì tôi lẳng lặng vào thư viện để học. Tôi học để rút ngắn cuộc bắt kịp cái thời chín năm phải tạm ngừng sự học theo đúng nghĩa. Chưa kể là, khi đọc Con ngụa già của chúa Trịnh khi đó, tôi cũng đã dự cảm được một trận bão. Chưa kể là tôi cũng nhát gan. Nhưng sau cơn sóng Nhân Văn ấy, tôi lại tha thẩn đến với hầu hết bọn người bị tù tội hoặc bị kỷ luật đó. Người ta hạch tôi. Tôi nói rõ “vì tôi thấy chị Khuê vợ anh Dần khó có thể là một tên nữ gián điệp như một tờ báo lớn đã lên án”.
Tôi gặp lại hầu hết các anh chị, và tôi chơi thân với hầu hết các anh chị. Trong đám người ấy, vì nhiều lẽ, tôi chỉ chưa được gặp Phùng Cung.
Thế rồi số phận dẫn dắt tôi đến với tập Xem đêm này. Nhà thơ hiện hữu qua những con chữ như thế này, chứ không hiện hữu qua lý lịch trích ngang trích dọc. Xem đêm là phần lai lịch quan trọng của nhà thơ Phùng Cung. Tôi đã biết tới cái phẩm chất thực sự không đóng dấu Nhân Văn hoặc gì gì khác. Mà là một cái dấu son với hai chữ Xem đêm.
          Nhà thơ nằm trong đó. Sự Tự do của nhà thơ cũng nằm trong đó. Đặc trưng của nghề Thơ bảo lãnh cho Tự do nhà thơ nằm trong đó. Chẳng có gì để mà hơn các ngành khác để mà tự hào, nhưng cũng lại có đủ những cản trở để mà vượt qua và thành cái cớ cho sự cần thiết phải tự hào. Cám ơn anh, Phùng Cung, anh đã giúp tôi nhận ra những điều trên.
Hà Nội, 17 tháng 6 năm 2012

NGUYỄN MINH CẦN * PHÙNG CUNG



Những Hạt Ngọc Kết Tinh Từ Máu Lệ

Nguyễn Minh Cần
Sứ mệnh thơ ơi!
Trong sáng tuyệt vời!
(Thơ Phùng Cung)


Bạn đọc yêu thơ sắp có dịp được thưởng thức những vần thơ độc đáo của một nghệ sĩ tài ba bị đày đoạ suốt bốn mươi năm trời dưới chế độ cộng sản toàn trị. Đó là tập thơ "Trăng Ngục" in trong cuốn "Phùng Cung, Truyện và Thơ Chưa Hề Xuất Bản" do Nhà xuất bản Văn Nghệ ấn hành.
Ở nước ta, còn quá ít người biết về nhà thơ Phùng Cung (1928-1997)! May lắm là chỉ biết sơ sơ - anh đã tham gia trào lưu "Nhân Văn - Giai Phẩm" hồi giữa thập niên 50, đã cho đăng truyện ngắn "Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh" trên báo Nhân Văn số 4, tháng 10 năm 1956, sau đó bị đấu tố tơi bời, rồi bị cầm tù ròng rã 12 năm, ra tù còn bị hành hạ, sách nhiễu cho đến ngày qua đời. Còn với tính cách một nhà thơ thì hầu như không ai biết! Tập thơ "Xem Đêm" của anh, tuyển chọn những bài sáng tác vào các thời kỳ khác nhau, được xuất bản một cách thầm lặng ở trong nước cách đây không lâu, bị giới phê bình "cung đình" ém nhẹm, nên cũng ít ai được biết tới.
Vì thế lần này, tập thơ "Trăng Ngục" trong cuốn "Phùng Cung, Truyện và Thơ Chưa Hề Xuất Bản" chắc chắn sẽ đem lại một sự bất ngờ thú vị cho nhiều người yêu thơ. Tập "Trăng Ngục" gồm có 35 bài làm trong thời gian 12 năm bị giam cầm tại những nhà tù khét tiếng độc ác của chế độ cực quyền cộng sản Việt Nam, như Hỏa Lò, Bất Bạt, Yên Bái, Phong Quang... Có những bài được sáng tác ngay trong xà lim biệt giam - dưới một số bài tác giả có ghi rõ những dòng chữ: "Biệt giam Bất Bạt 61", "Biệt giam Yên Bái 65", "Biệt giam Lao Cai 71", "Biệt giam Bảo Thắng, Lao Cai 72".... Chỉ có một bài làm khi mới ra tù - Đêm Vó Ngựa.
Chính trong "ngục luyện" vô cùng ác độc đó của chế độ cộng sản, đã rèn đúc nên tính chất, ý chí, phong cách, bút pháp của nhà thơ, đã mài giũa ngòi bút của người nghệ sĩ thêm sắc bén, thêm sức mạnh tấn công vào chế độ tàn bạo lầy lụa máu và nước mắt của những người dân vô tội. Vì nhận thức rõ "sứ mệnh trong sáng tuyệt vời" của thơ, nên Phùng Cung đã dùng ngòi bút của mình vạch trần những tội ác của chế độ đang đày đoạ biết bao dân lành, trong đó có cá nhân anh. Chắc ai cũng đều biết là sáng tác trong tù ngục của chế độ độc tài Việt Nam, khi sự kiểm soát của đám cai tù - mệnh danh là "quản giáo"! - vô cùng nghiệt ngã, khi không có một tý giấy bút nào trong tay, đã là một điều rất khó. Mà sáng tác với nội dung như Phùng Cung tự đề ra cho mình đúng với quan niệm của anh về "sứ mệnh" thi ca, thì cái khó đó lại nhân lên hàng chục lần! Vì nó đòi hỏi tác giả phải có ý chí và dũng khí sắt đá, đòi hỏi nhà thơ phải kiên trì cao độ, phải học thuộc, ghi kỹ vào "kho nhớ", và khi ra tù thì phải khôi phục lại, chép ra giấy, rồi cất giấu kỹ... để có ngày, như hôm nay, bạn đọc được nâng niu những sáng tác đó trong tay.
Qua tập "Trăng Ngục", bạn đọc nghe rõ tiếng khóc da diết của một con tim chan chứa tình yêu quê hương, đất nước, yêu dân tộc lầm than, xót xa trước bi kịch của quê hương "đường quan lầy nước mắt", của "xóm làng queo quắt", đất nước bị lũ "rắn rết đang hoành hành dữ dội Biết bao dân lành ngày đêm rên siết", "dối trá đê hèn Trùm muôn cửa ngõ", cả nước tuồng như chìm đắm trong "nhật thực triền miên Ngày tối hơn đêm"... Nhà thơ khóc cho số phận bao người dân khốn khổ, nghèo nàn, bất hạnh - đó là những người vợ, người mẹ có chồng con bị bắt đi lính "hòng hõng mong thư tuyến lửa", "văng vẳng nỉ non tiếng lòng chinh phụ", những thiếu phụ khóc chồng tử trận "hòng hõng đợi người chồng tử trận Mấy chục năm rồi Đã mỏi xanh ! Nước mắt hoa râm Câm trôi duyên phận", là bà mẹ khóc con mới mười sáu tuổi đầu bị lấy đi chiến tranh, chết bỏ xác ở Khe Sanh - Dốc Miếu, là những cụ già cô đơn "dờ dệt sức già - gãi đất" vì "tuổi trẻ - gái trai Bị lôi đi - đi hết" để ném vào cuộc chiến tranh ở miền Nam, là những người dân khốn khổ bị "cái đói lăn kín bốn mùa", là những oan hồn ngày đêm "thổn thức dưới mồ", là những trí thức, văn nhân, nghệ sĩ "bơ vơ một nẻo", bị Đảng "hết móc ruột moi gan Lại réo tên chỉ mặt" "nửa thế kỷ bị lưu đầy Trong cõi tung hô", là "Em Quỳnh", em bé gái 12-13 tuổi, lần lượt bị "đồng chí chủ nhiệm, đảng viên cốt cán", "chú bí thư đảng uỷ mới bầu" lợi dụng thoả mãn tình dục, rồi tống vào trại tù để "giáo dưỡng", ở đây em lại bị "bác cảnh binh, chánh giám thị Quê làng Sen trọ trẹ" "tự xưng danh chức Đại diện bác Hồ Đại diện đủ ba lực lượng Đảng tiền phong - chính quyền - quốc hội" giở trò cưỡng hiếp, em "dại dột khóc to", chánh giám thị sợ tai tiếng tìm cách lấp liếm, buộc tội cho em rồi đẩy em đến toán lao động cực nhọc cho em chết thảm trong tù, v.v... Triệu triệu giọt nước mắt của những con người bất hạnh đó trên đất nước đau thương lã chã nhỏ xuống và nhà thơ cảm thấy dường như chúng rúng động cả thiên cầu làm muôn vàn sao băng xao xuyến rơi...

...Tôi đứng trong đêm
Ngửng đầu nhìn cao xa
Vọng hỏi
Có phải nước mắt con người
Đằm đằm dội xuống
Mà trên thiên cầu
Bao vì sao xao xuyến đổi ngôi.
Lòng ái quốc, tinh thần nhân bản sáng ngời trên mỗi vần thơ!
Đất nước ơi
Tôi mến người
Như khi nhìn em bé ngủ
Tôi thương người
Như thương mẹ ốm
Vì đâu
Người khoác manh áo đỏ
Thừa sai - cũn cỡn
Tủi nhục tháng ngày
Long đong chiều sớm
Ôi ! có bao giờ
Người đau đớn như thế này không.

Trong 12 năm tù ngục, tiếng thổn thức của nhà thơ cho số phận đất nước, quê hương không ngớt vang lên: "Tổ quốc kính yêu ơi! Văn hiến - thuần phong mỹ tục Phút chốc bàn tay cộng sản dập vùi"... "Quê hương ơi! Đường quan lầy nước mắt", "Ơi đất nước sa cơ Già - trẻ bơ vơ nheo nhóc"... "Ơi quê hương Hỡi những ngày xưa! Thuỷ chung - nhân ái Tất cả chìm - ngâm Trong lừa dối cuồng điên"... "Quê nôi" ơi ! Dối trá đê hèn Trùm muôn cửa ngõ"...
Đọc "Trăng Ngục", đồng thời chúng ta cũng nghe được tiếng thét căm hờn đối với chế độ cường bạo, độc tài chuyên chế, đầy sắt máu. Bạn đọc nhận thấy Phùng Cung, vốn là một người cộng sản - do "lòng cả tin - nhẹ dạ" thời niên thiếu - đã tự "lột xác" triệt để như thế nào. Nhà thơ tuyên bố dứt khoát "quyết khước từ bước chân cộng sản Lội máu dân lành Hàng thế kỷ chưa ngơi". Không chút kiêng nể, e sợ, anh dám chĩa thẳng mũi nhọn tố cáo vào chính những "vật thờ thiêng liêng nhất" của chế độ cộng sản toàn trị, như "thò lò muôn mặt lê-mác-mác-lê" "mạ màu mao-ít", "đảng tiền phong - chính quyền - quốc hội", "bác Hồ". Anh "vả mạnh tim đen quyền lực", vả mạnh vào chính những biểu tượng của quyền lực độc tôn - "tàn bạo lên ngôi", "sừng sững dựng khải hoàn môn máu", "cờ máu rợp trời Lợm gió!", "máu cờ đỏ phấp phới hờn ghen", "bóng cờ ma", "nghênh ngáo quốc huy", ..."Thề phanh thây uống máu!..." - "có quốc thiều nào man rợ thế không", "đài phát thanh Bắc Việt Vẫn tối ngày bốn lần leo lẻo"... Anh dám lớn tiếng tố cáo thẳng thừng sự lừa dối bịp bợm và độc ác của đảng cộng sản cầm quyền, vạch rõ bộ mặt thật của giai cấp thống trị, "bản chất nó là cuồng bạo" lại "huênh hoang lấp biển vá trời "Kiến tạo địa đàng - hạnh phúc", v.v... Có một điều đáng nói là ngay từ cuối thập niên 50-đầu thập niên 60, nhà thơ đã âm thầm lo lắng trước âm mưu của tập đoàn thống trị chuẩn bị nội chiến. Anh "đã ưu tư" về điều đó trong bài "Sông Thương - Sao Thương" sáng tác năm 64:

...Ôi ! lòng đã ưu tư
Lại thai nghén chiến tranh
Hoạ cơm áo !
Vẫn giằng co súng gươm oan trái
Chăn viện trợ phủ kín biên thuỳ...

Và trong nhiều bài khác cái tinh thần chống chiến tranh, chống cảnh huynh đệ tương tàn cũng thường bật lên một cách mãnh liệt:

...Chính chúng nó
Phường cộng sản
Lái buôn binh lửa
Ôi ! Binh lửa triền miên
Tuổi trẻ gái - trai
Bị lôi đi - đi hết...
...Quan hà lộng gió chinh phu
Rừng thu tắm máu
Máu thu gội chiều
Tơ vàng nhỏ giọt lệ điều
Đăm đăm tay vẫn chiều chiều quay xa...
... Khe Sanh - Dốc miếu là đâu
Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn
Máu chiều gội đỏ hoàng hôn
Nghĩa trang mồ giả, nắm xương không mồ
Đồng chiều gió tím mấp mô
Nén hương đẹn khói, mấy mùa khóc vay.
... Tôi biết em khóc nhiều
Vì chồng em tử trận
Em khóc lúc hừng đông
Nước mắt cử hành
Mặt nạ tay hèn
Lẻn vào đong đếm...
... Em khóc lúc hoàng hôn
Thì quanh em
Lộng gió cô đơn
Từng giọt rực sáng
Trong nhiều thế giới...
... Não lòng thay !
Mảnh đất bán khai
Tình nguyện tiền đồn
Đăng cai binh lửa...
... Tổ quốc kính yêu ơi !
Khói lửa ngút trời
Cháy gia phả
Cháy tình bằng hữu
Cháy cơi trầu bách niên giai lão
Cháy tia trăng thơm
Trên làn tóc trẻ thơ
Hiếu chiến thừa sai
Ruổi cờ dẫn lộ
Giàn cầu lửa
Di lăn - bách hại
Ngập máu !

Lời thơ Phùng Cung nhẹ nhàng, thanh thoát, trang nhã, ý nhị, sâu thẳm và giàu hình tượng, với những ngôn từ chắt lọc, sắc cạnh, đặt đúng nơi đúng chỗ, đem lại cho người yêu thơ nỗi xúc động bàng hoàng và nhiều khoái cảm đê mê. Bài "Trăng Ngục" - mà tác giả dùng làm nhan đề cho tập thơ - chỉ có hai mươi tám chữ, mà vô cùng xúc động. Bài thơ ghi lại một hoạt cảnh nhỏ của cuộc sống trong xà lim chật chội, tối tăm, lạnh lẽo, hôi hám - giữa đêm khuya tĩnh mịch, ánh trăng lọt qua song sắt vào tận ngục thăm nhà thơ, lúc đó đang lơ mơ ngủ, bỗng anh chợt tỉnh và lặng người đi vì xúc động: anh cảm thấy trăng thương xót cảnh tù biệt giam cô đơn, đã nhẹ nhàng "vá lụa" trên vai áo sờn rách của anh. Và tác giả thốt lên vô cùng ai oán: "Ôi, cái ngày tự do xưa kia, sao mà cứ xa mãi, biết bao giờ quay trở lại!". Bài này, theo tôi, đáng coi là một tuyệt tác!

Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh - sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi !
Xa mãi đến bao giờ.

Mà không chỉ một bài "Trăng Ngục" đó! Còn bao nhiêu bài hay nữa, như Biển Cả, Em Quỳnh, Tổ Quốc, Quê Hương, Nước Mắt, Cung Trời, Thu Xa, Dòng Sông, Quê Xa, Mỏi Xanh, Mẹ, Sông Thương - Sao Thương, Sống Chết, Bước Vô Định, Tội Nghiệp...
Về thơ Phùng Cung, còn có thể viết nhiều nữa, nhưng ở đây tôi chỉ xin giới thiệu vài đoạn dể thấy rõ cái tình cảnh bi thảm của nhà thơ, cũng như ý chí bất khuất của anh.

...Ta một con người
Nạn nhân đang vòng tù ngục
Đêm ngày chân rỉ máu cùm lim
Linh hồn bất khuất
Trên đầu là thượng đế
Dưới chân là mặt đất hiếu sinh
Bức xúc lương tri
Ta phải xuống đường...
...Còng sắt cùm lim ngấy máu tù
Vầng dương mãi bỏ quên ta
Bóng du nguyệt chưa qua đã khuất
Thâu ngày đêm
Bị sự im lặng quấy rầy
Tóc mủn trạt vai chờ di chúc
Trái tim vẫn đều đặn
Mô phỏng nhịp trữ tình...

Trong cảnh đoạ đày khủng khiếp như vậy, "đêm ngày chân rỉ máu cùm lim" đến nỗi "còng sắt cùm lim ngấy máu tù", bản thân anh thì bị lao phổi, viêm loét dạ dày mạn tính do bị tù ngục, lại phải sống trong những điều kiện khủng khiếp - hoàn toàn thiếu ánh nắng, ánh trăng thì chỉ thoáng qua trong giây lát, "đêm xà lim lạnh buốt", bị sự im lặng giày vò, tóc đã mủn ra rồi chỉ chờ ngày chủ của chúng vĩnh biệt cõi trần, nhưng... lương tri của nhà thơ vẫn giục giã xuống đường, trái tim của anh vẫn đập theo nhịp trữ tình của Nàng Thơ. Thật là đẹp biết bao! Một tâm hồn cao thượng biết bao! Chính vì thế anh đứng trên cao khinh bỉ nhìn xuống bọn thống trị - "tụi mặt dày""tim rắn" - và xót xa vì đất nước bị lọt vào tay chúng. Đất nước tôi

Triền miên bất hạnh
Tụi mặt dày - tay bẩn
Tim rắn - lời cừu
Văn hoá lớp hai
Điều hành cuộc sống
Tránh làm sao
Khỏi nát ngọc nhân quyền...

Ngay cả lúc chúng thét gào dữ tợn thì thái độ nhà thơ vẫn ung dung, tự tại, không chút khiếp sợ:

...Ôi ! Bao yên lặng thanh cao
Đang chìm lăn
Trong thét gào man rợ
Thì nhắm mắt
Thì bưng tai
Phải đâu khiếp sợ
Chỉ điếc đui vừa đủ
Để làm ngơ...

Và anh suy tư, suy tư rất nhiều, "nghiễm nhiên thành triệu phú trầm tư", vất vả "lặn lội" để kiếm tìm "sứ mệnh trong sáng tuyệt vời" của thi ca!

...Nhà thơ chân đất
Đãy vải - gió đưa
Kiếm tìm sứ mệnh
Mỗi ý nghĩ trong ta
Đều trải qua lặn lội
Như phận chiếc cò
Lặn lội trong phong dao...

Bài "Xuống Đường", làm trong xà lim biệt giam Lao Cai hồi năm 71, là một trong những bài thơ vừa có sức mạnh tố cáo, vừa nêu bật ý chí mãnh liệt của nhà thơ.

Lãnh thổ mến yêu ơi !
Nai lưng trần dưới vòm trời nhiệt đới
Xứ sở của thi ca
Của lòng cả tin - nhẹ dạ
Của đói nghèo nhẫn nhục
Úp mặt - rủi may - đắp đổi
Khóc mếu tối ngày...

Thế rồi, cái "học thuyết Rắn-hổ-mang-vua" (tôi đoán nghĩa của chữ lạ trong bài như thế) đội lốt công nông từ trời Tây du nhập vào, lúc đầu - khi chưa nắm được chính quyền - nó làm ra vẻ ngoan ngoãn, hiền lành lắm, thậm chí còn tình nguyện làm ngựa làm trâu cho người dân (cái ý này có xuất xứ của nó: tôi còn nhớ trong một cuộc kỷ niệm của Đảng cộng sản Việt Nam - hồi còn đội lốt Đảng lao động - ông Hồ có đọc hai câu thơ của một tác giả Trung Quốc để ví với Đảng lao động, không sợ bất kỳ kẻ địch nào, nhưng lại nguyện làm trâu ngựa cho nhân dân: "Liếc mắt xem khinh nghìn lực sĩ, Cúi đầu làm ngựa đứa nhi đồng"):

Học thuyết King-cô-bra
Đội lốt công nông - rình rập
Từ trời tây ập tới
Lúc thoát thai
Nó vờ xin rửa tội
Trộm cắp ánh tà dương
Trước mọi người
Nó khoanh tay - quỳ gối - cúi đầu
Tình nguyện đời đời
Làm ngựa làm trâu
Khi gấp khúc nó ngoan ngoãn
Giành hoàn thiện chức năng gia cẩu
Hầu hạ phấn son
Len lỏi trong lẵng hoa
Trong đồ chơi em bé...
Thế nhưng, khi nắm được chính quyền rồi thì nó gây biết bao thảm hoạ cho nhân dân...
Mong hiện nguyên hình
Như dưới vòm trời bất hạnh - hôm đây
Bản chất nó là cuồng bạo
Huênh hoang lấp biển vá trời
"Kiến tạo địa đàng - hạnh phúc"

Tiếc thay, những người thường dân ngây thơ, mộc mạc đã trót lỡ chìa tay cho nó, nên nó càng mặc sức gây ra muôn vàn đau thương cho dân chúng. Có những đoạn trong thơ làm người đọc liên tưởng đến cuộc cải cách ruộng đất đầy tội ác ở miền Bắc...

...Khốn nạn thay !
Chân đất đầu trần chót chìa tay
Đã lỡ !
Thảm hoạ triền miên
Ôi ! tay chúng cầm lê
Đâm người - dấu mặt
Lại vội lau tay - vu cáo - gây thù
Cha con nghi ngờ
Vợ chồng cảnh giác
Già trẻ xóm giềng
Nhìn nhau len lén
Di hoạ đứng rình
Trong tối lửa tắt đèn
Ngột ngạt - tối tăm - quằn quại
Vô phương khả đảo...

Bắt chước "thiên triều" đỏ ở Liên Xô và Trung Quốc, tập đoàn thống trị cộng sản Việt Nam đã làm biết bao điều bạo ngược.

...Nhịp bước thiên triều
Giày xéo thuần phong mỹ tục
Lăng nhục miếu đền
Sừng sững dựng khải hoàn môn máu
Quay quắt đổi đầu
Thò lò muôn mặt Lê-mác-mác-lê...
Còn người dân Việt Nam khốn khổ thì
Lầm than buộc bụng vác cờ
Tung hô bỏng họng
...Thiên triều tiếp sức
Õng ẹo điệu ương ca
Mạ màu mao-ít
Ma thuật ngoan tay
Tạt độc dược vào tâm - vào não...

Và khi người dân "trúng độc" rồi, chúng lại càng thêm bạo ngược:

...Cờ máu ngợp trời
Lợm gió !
Tiếng quốc thiều Tăng âm cực đại thét gào
..."Thề phanh thây uống máu !..."
Ta lùng trong kho nhớ
Nhẩm biên niên sử
Xin hỏi loài người
Có quốc thiều nào man rợ thế không
Trước mặt sau lưng
Ngàn trùng khóc lóc
Ôi ! mỗi tiếng chim kêu
Đếm từng đọi máu
Sóng máu ào ào
Tràn bờ thế kỷ...

Trong tình cảnh đó, nhà thơ dù đang trong vòng tù ngục cũng thấy lương tri giục giã phải xuống đường tranh đấu, cái ý chí đó vô cùng mạnh mẽ, quyết hy sinh mình vì sự sống của muôn dân. Hình ảnh "mài gươm dưới nguyệt" của Đặng Dung trong bài "Cảm Hoài" hồi đầu thế kỷ 15, đã được Phùng Cung khéo dùng lại để tạo nên một tứ thơ mới nói lên ý chí của mình - "nước mắt mài gươm", vừa hợp với hoàn cảnh của nhà thơ, lại gây ấn tượng mạnh.

...Phải xuống đường
Tìm sinh trong tử
Nước mắt mài gươm
Gươm bén dân lành
Ta chắp tay - ngửa mặt
Cầu xin các đấng linh thần
Cho ta sức mạnh phi trần
Đủ tung hoành, xông xáo
Tận cùng hang ổ
Băm xả vào đầu con rắn đỏ
Cây cỏ vươn reo
Mượn gió nhắn bốn phương
Con rắn đỏ tử thương - rãy giụa
Nó lí nhí van xin chôn cất...

Còn có thể nói rất nhiều nữa về thơ Phùng Cung, nhưng thiết tưởng với chừng ấy cũng đủ để bạn đọc thấy chúng ta đang có trong tay những di sản quý báu của thi ca nước nhà. Chỉ riêng việc những vần thơ này được trân quý, bảo trọng còn lại cho đến ngày nay và tới tay bạn đọc đã là một điều kỳ diệu! Chắc điều đó đáp ứng được phần nào ước nguyện thầm kín mà nhà thơ hằng ấp ủ mấy chục năm trường khi còn ở cõi trần.
Hy vọng rằng những "hạt ngọc" quý mà người nghệ sĩ Phùng Cung chiết ra từ máu và nước mắt của mình để hiến cho đời, sẽ càng thêm phô sắc, thêm rực rỡ dưới ánh mặt trời và đem lại cho bạn đọc Việt Nam nhiều xúc động và khoái cảm, đồng thời cũng đem lại những suy tư về trách nhiệm và hành động của mỗi người trong sự nghiệp cứu nước, cứu dân./.
Hè Moskva 03.08.03
Nguyễn Minh Cần


THỤY KHUÊ * PHÙNG CUNG

Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm – Chương 14: Phùng Cung

Posted: 10/07/2011 in Biên Khảo / Phê Bình, Thụy Khuê
Thẻ:,
Thụy Khuê



Phùng Cung (1928-1998)
I. Tại sao Phùng Cung bị bắt, bị tù biệt giam 11 năm không có án?
Tư tưởng của Phùng Cung độc đáo và ngược hướng với những người cùng thời, kể cả các thành viên NVGP và thế hệ ngày nay, trên nhiều địa hạt: Bảo tồn văn hoá, lòng ái quốc, cách mạng mùa thu, kháng chiến chống Pháp, chiến tranh Nam-Bắc, tình nước và tình người. Chưa một nhà thơ, nhà văn nào dám đi xa như thế, viết những lời đả phá mãnh liệt như thế về quốc ca, quốc thiều, về cách mạng mùa thu, về chính sách văn hoá của Đảng Cộng Sản, về những tín điều đã mê hoặc người Việt Nam trong suốt thế kỷ qua. Và đó là lý do chính khiến Phùng Cung bị 12 năm tù, không có án. Tìm hiểu Phùng Cung là tìm hiểu nguồn tư tưởng yêu nước đối lập với quan niệm chính thống và đi ngược lại niềm tự hào dân tộc cố hữu, nhưng sẽ là kim chỉ nam cho một con đường dân tộc mới: con đường chuyển giáo dục chiến tranhgiáo dục hận thù thành giáo dục hoà bìnhgiáo dục văn hoá.

Bao nhiêu người bị liên lụy trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm.
1- Danh sách những người trong nhóm “phá hoại” Nhân Văn Giai Phẩm được chính thức ghi nhận trong cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toà Án Dư Luận năm 1959, như sau:
Qua sự phát hiện của hai cuộc hội nghị [Thái Hà ấp] nói trên, chúng ta được biết nhóm phá hoại “Nhân văn-Giai phẩm” bao gồm những tên “đầu sỏ”, những “cây bút” đã viết “hoặc nhiều hoặc ít” cho “Nhân văn-Giai phẩm” như: Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Phan Khôi, Trần Duy, Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Phùng Quán, Hoàng Tích Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Phan Vũ, Hoàng Huế, Huy Phương, Vĩnh Mai, Như Mai tức Châm Văn Biếm, Hữu Thung, Nguyễn Khắc Dực, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Yến, Thanh Bình, Yến Lan, Nguyễn Thành Long, Trần Lê Văn, Lê Đại Thanh v.v…
Nhưng đó không phải là tất cả (còn những tên chưa ra mặt). Và cũng không phải tất cả những “cây bút” trên đây đều có những hành động phá hoại giống nhau, hoặc phá hoại với những mức độ giống nhau. Có bọn đầu sỏ, có bọn phụ họa, có người bị lôi cuốn vì ngây thơ chính trị… (Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toà Án Dư Luận, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1959, trang 309-310).
Trong danh sách trên đây có 34 người bị nêu tên.
2- Danh sách những người có tên trên 5 số báo Nhân Văn và 5 tập Giai Phẩm: Nguyễn Hữu Đang, Minh Đức (Trần Thiếu Bảo), Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao, Trần Duy, Nguyễn Sáng, Phùng Quán, Sỹ Ngọc, Tử Phác, Tô Vũ, Nguyễn Bính, Quang Dũng, Phan Khôi, Hữu Loan, Phùng Cung, Trần Lê Văn, Phác Văn, Huy Phương, Lê Đại Thanh, Hoàng Yến, Nguyễn Tư Nghiêm, Trần Công, Hoàng Huế, Hồng Lực, Bùi Xuân Phái, Trương Tửu, Đào Duy Anh, Bùi Quang Đoài, Mai Hạnh, Chu Ngọc, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trúc Lâm, Phan Vũ, Hoàng Tích Linh, Đặng Văn Ngữ, Trần Thịnh, Hữu Tâm, Thanh Bình, Trần Phương, Thanh Châu, Châm Văn Biếm, Hoàng Tố Nguyên, Cao Nhị, Trần Hải An… gồm 47 người.
Hai danh sách trên đây không hoàn toàn giống nhau, vì ngoài Nhân VănGiai Phẩm, còn có một số sách báo khác, cùng xu hướng, như Đất mới của Sinh viên, hoặc Tự do diễn đàn (nghị luận, số 1, ra ngày 10/12/ 56 Minh Đức xuất bản, vừa phát hành đã bị tịch thu), Sách Tết 1957, do Minh Đức in đầu năm 1957; hoặc tạp chí Sáng tạo (kịch trường và điện ảnh) của nhóm Trần Thịnh-Trần Công. Ngoài ra còn có những bài in trên các báo khác như báo Văn năm 1957, sau khi NVGP bị đình bản.
3- Trong một tài liệu mới nhất, LHN cho biết: “Số người gọi là tham gia NVGP tại Hà Nội do Bộ Công an và Công an Hà Nội quản lý, dotác giả [LHN] thống kê được gồm khoảng 170 người. Số bị xử lý nặng khoảng gần 100 người,còn số bị đưa vào danh sách để phân loại xử lý tính trên toàn miền Bắc ở tất cả các lĩnh vực phải tới hàng ngàn người. Bởi vì các ấn phẩm của phong trào NVGP đã được đón nhận nồng nhiệt, được hưởng ứng không chỉ ở Hà Nội, mà xuống đến tận các vùng nông thôn miền núi.(Trích bài nghiên cứu chưa công bố của LHN).
Như vậy chúng ta tạm nhận con số gần 100 người bị xử lý nặng, do LHN đưa ra, cho đến khi nào có những chứng từ khác.
Trong danh sách chính thức năm 1959, thiếu tên hai người: Phan Tại và Phùng Cung, mặc dù cả hai đều bị đi tù, có thể vì Phan Tại và Phùng Cung, năm 1959, chưa bị tố giác. Nhưng hai trường hợp này cần tìm hiểu.
Phan Tại không viết bài trên cả Nhân Văn lẫn Giai Phẩm. Còn Phùng Cung với truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh, tác phẩm có giá trị tương đương với Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy, nhưng ý nghĩa kín đáo, khó có thể kết tội công khai được.
Phan Tại và nhóm Sáng Tạo trong điạ hạt điện ảnh kịch trường
Trong phiên toà ngày 19/1/1960, xử Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Thiếu Bảo, Lê Nguyên Chí (người giúp Nguyễn Hữu Đang trốn vào Nam), Phan Tại bị kết án 6 năm tù giam và 3 năm mất quyền công dân.
Tại sao kịch tác gia Phan Tại, chủ đoàn kịch Sông Nhị, lại bị kết án nặng như vậy? Tội của ông là tội gì?
Tổng hợp lời những nhân chứng, những bài viết, ông đã “phạm những tội” sau đây:
- “Chứa chấp” Thụy An (bà Thụy An ở chung nhà với ông bà Phan Tại).
- Nhà Phan Tại – Thuỵ An là một “câu lạc bộ văn nghệ” (tập kịch, chiếu phim, hội họp).
- “Nhóm” Thụy An-Phan Tại cùng với nhóm Sáng Tạo của Trần Thịnh-Trần Công chủ trương thành lập một hội điện ảnh độc lập. Đả phá phim tuyên truyền của Liên Xô. Đổi mới kịch nghệ và điện ảnh theo đường lối Tân hiện thực (Néoréalisme) Ý và Nhật. Thụy An, Cao Nhị, Nắng Mai Hồng, Vũ Phạm Từ, Kỳ Nam…viết những bài giới thiệu, phê bình điện ảnh. Tổ chức chiếu lại những phim hay đã chiếu ở Hà Nội trước 1954, do Thụy An viết thuyết minh. Chiếu những kiệt tác tân hiện thực như Miếng cơm cay đắng (Riz amer), Chiếc xe đạp (La bicyclette) của Ý, Rashomon, Những đứa trẻ Hiroshima, Anh gắng nuôi con của Nhật…
Những người trong Sáng Tạo nhưđạo diễn Trần Thịnh (chủ nhiệm Sáng Tạo), Trần Công, Chu Ngọc, Phan Vũ, Cao Nhị, v.v… đều có bài đăng trên NVGP.
Trong bài Đi tìm dấu tích tờ báo Sáng Tạo (Hà Nội, 1956) công bố trên Talawas ngày 3/2/2010, Lại Nguyên Ân cho biết: Sáng Tạo ra được hai số: Số 1 (5/11/1956) và số 2 (20/11/1956). Trong đợt đánh Sáng Tạo, Trần Đức Hinh, chủ nhiệm tờ Điện Ảnh của Cục điện ảnh, viết:
“Nửa tháng “Liên hoan phim Liên Xô” khai mạc vào ngày 7-11-56, thì đúng ngày 5-11-56, Giai phẩm mùa thu tập III xuất bản, trong đó có đăng bài “Chúng ta gắng nuôi con”,hoạt cảnh của Chu Ngọc, đả kích không tiếc lời vào phim Liên Xô. Cùng ngày 5-11-56, báo Sáng Tạo ra số đầu, đã lộ ngay ý định xấu đối với phim Liên Xô (…) Những bài như trên phải được đặt bên cạnh bao nhiêu bài khác của Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Lê Đạt, Trần Dần, v.v… đang nhan nhản lúc bấy giờ ở các số Nhân văn, Giai phẩm thì mới thấy đầy đủ tính chất nguy hiểm của nó”(Trần Đức Hinh “Tẩy sạch nọc độc của chủ nghĩa xét lại trong việc giới thiệu, phê bình phim ảnh”, Điện ảnh số 14, ngày 1/5/58, tài liệu của Lại Nguyên Ân).
Như vậy, có thể nói: song song với Nhân Văn và Giai Phẩm, đã có một phong trào điện ảnh kịch trường, do hai nhóm Phan Tại-Thụy AnTrần Thịnh-Trần Công chủ trương.
Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm như vậy, không chỉ giới hạn trong phạm vi văn học, mà còn lan rộng ra các ngành nghệ thuật khác, để trở thành cuộc cách mạng văn hóa toàn diện của các trí thức văn nghệ sĩ miền Bắc, đòi tự do sáng tác và tự do dân chủ.
Phan Tại, bị đi tù 6 năm, kèm 3 năm quản thúc, có thể vì những tội: “cấu kết” với Thụy An, là một trong những người “lãnh đạo” phong trào điện ảnh kịch trường cùng với Trần Thịnh-Trần Công trong nhóm Sáng Tạo.
Trường hợp Phùng Cung
Phùng Cung đại diện cho tất cả những người bị tù không có án, thậm chí không có lý do, hoặc lý do mơ hồ, khó hiểu, trong danh sách hàng trăm người bị xử lý nặng, hoặc hàng ngàn người, đã “liên hệ” xa gần với NVGP, với nhóm “Xét lại chống đảng” những năm sáu mươi.
Mỗi cá nhân là một trường hợp, là một chân dung bị xoá, bị đưa đi biệt tích, trong cô đơn, đau khổ.
Phùng Cung cũng là khuôn mặt văn nghệ sĩ cuối cùng trong nhóm NVGP mà chúng tôi đề cập trong loạt bài chân dung này, trước khi bước sang địa hạt trí thức. Nhưng không có nghiã là những người khác không có giá trị: Mỗi con người đã góp phần vào việc đấu tranh cho dân chủ của đất nước Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến ngày nay là một giá trị, một biệt cách. Chỉ riêng trong phong trào NVGP không thôi, sự can trường của Hữu Loan không giống sự can trường của Phùng Cung. Lòng nhiệt tình của Phùng Quán không dễ ai sánh được. Sự góp phần của Bùi Xuân Phái không giống Nguyễn Sáng. Kịch của Hoàng Tích Linh không giống kịch của Chu Ngọc… Mỗi nghệ sĩ, mỗi tác giả là một chân dung, mà ký ức lịch sử và văn học sẽ không thể bỏ qua.
Sau này, khi nhắc đến Phùng Cung, người ta thường cho rằng ông bị tù vì truyện “Con ngựa già của chúa Trịnh”. Sự thực có lẽ phức tạp hơn nhiều, nó nằm trong toàn bộ thái độ sống và sáng tác của Phùng Cung. Bài viết này cố gắng tìm hiểu những nguyên do sâu xa đã đưa Phùng Cung vào vòng tù tội và bị theo dõi suốt đời. Nguyên do ấy có thể tóm tắt như sau:
- Một tinh thần bất khuất không đầu hàng bạo lực cách mạng.
- Một sự nghiệp thơ văn chống lại chiến tranh và xây dựng văn hoá dân tộc.
Tiểu sử Phùng Cung
Những chi tiết đáng tin cậy nhất về Phùng Cung nằm trong bài Nhà thơ Phùng Cung của Phùng Hà Phủ, con trai Phùng Cung, nay đã qua đời.
Phùng Cung sinh ngày 18/7/1928 tại làng Kim Lân, xã Hồng Châu, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên. Mất ngày 9/5/1998 tại Hà Nội. Quê tổ ở xã Cam Lâm, quận Đường Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây. Vĩnh Yên (quê sinh) và Hà Tây (quê tổ) của Phùng Cung đều thuộc tỉnh Sơn Tây. Họ Phùng ở Cam Lâm dòng dõi Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương).
Là con trưởng một gia đình giàu có, đông con. Phùng Cung được gửi đi trọ học ở thị xã Sơn Tây. Có bằng Trung học (Brevet). Tháng 4/45, Nhật đảo chính Pháp, Phùng Cung trở lại quê nhà. Tháng 9/45, Phùng Cung (17 tuổi) được bầu làm chủ tịch liên xã Hồng Châu-Liên Châu. Tên xã do ông đặt và tên ấy vẫn còn giữ đến ngày nay. Phùng Cung làm chủ tịch xã được 2 năm. Đến tháng 10/1947, Pháp chiếm Tông và Sơn Tây, Phùng Cung chạy lên Việt Bắc cùng mấy anh em trai. Tại quê nhà, gia đình ông bị liên lụy vì có con đi làm cách mạng.
Phùng Hà Phủ viết: “Khi lên chiến khu, bố tôi làm công tác thông tin ở liên khu 10 Việt Bắc, cơ quan thông tin của ông Nguyễn Tấn Gi Trọng (bác sĩ Trọng sau này làm công tác chuyên môn tại trường Ðại học Y Dược Hà Nội và là người giúp mẹ tôi theo học lớp dược tá khi hòa bình lập lại). Sau một thời gian làm tại liên khu 10, bố tôi mới chuyển sang an toàn khu và làm công tác văn nghệ, cùng sống và làm việc với các ông Ngô Tất Tố, Phan Khôi, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài,… cho đến khi hòa bình lập lại (1954) thì cùng với cơ quan Hội văn nghệ về tiếp quản thủ đô Hà Nội.”(Phùng Hà Phủ, Nhà thơ Phùng Cung, in trong Phùng Cung truyện và thơ chưa hề xuất bản (Văn Nghệ, California 2003); in lại trong Phùng Cung (Trung tâm dân chủ cho Việt Nam, Canada 2004); bài có trên Talawas).
Trong thời kỳ Cải cách ruộng đất, gia đình ông bị quy vào thành phần địa chủ cường hào. Cha ông bị đem ra đấu tố, rồi bị đưa lên giam giữ ở trại Cò Nỉ – Thái Nguyên. Khi ấy, Phùng Cung đang làm việc trong cơ quan văn nghệ kháng chiến ở Tuyên Quang.
Phùng Hà Phủ viết: ” Khi bố tôi hay tin, bố rất nóng lòng chuyện nhà và muốn quay về xem sự thể ra sao. Những bạn bè thân trong cơ quan biết chuyện như ông Tô Hoài (lúc này đang phụ trách công tác Ðảng – Ðoàn của Cơ quan văn nghệ) đều khuyên nên thật bình tĩnh, chờ Ðảng sẽ sửa sai. Trong một lần kết hợp đi công tác, bố tôi có tìm lên thăm và những mong gặp mặt để tiếp tế cho cụ. Nhưng tới nơi thì được một người bạn tù già cùng lán với cụ, chưa kịp nói câu nào vội vã dẫn bố lên khu đồi trọc phía sau trại giam và chỉ cho bố lùm đất mà ngọn sắn làm dấu mới héo lá. Quá bất ngờ trước cái chết của cụ, bố tôi quay ngay về Hà Nội, bố rất buồn, suy nghĩ nhiều và tránh mọi sự tiếp xúc với bên ngoài.” (Bài đã dẫn)
1954, Phùng Cung làm việc tại Hội Văn nghệ.
1956, ông tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm với truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh đăng trên Nhân Văn số 4.
Tháng 5/1961 (theo Phùng Hà Phủ), công an đến nhà bắt Phùng Cung. Theo Nguyễn Hữu Hiệu, thì đó là ngày “19 tháng Chạp năm Canh Tý” [tức là 4/2/1961]. Ông bị tịch thu tất cả bản thảo và bị giam vào Hỏa Lò Hà Nội. Rồi bị chuyển đi các trại Bất Bạt (Sơn Tây), Yên Bình (Yên Bái) và Phong Quang (Lào Cai), bị tù 12 năm, với 11 năm biệt giam, không có án.
Trong suốt thời gian từ tháng 2/58 (bắt đầu lớp Thái Hà) đến tháng 5/61, khi ông bị bắt, trong hơn ba năm, Phùng Cung vẫn sáng tác đều và không hề nhụt tay trong sự lên án chế độ.
Tháng 11/1972 ông được tha về.
Ông làm nghề thợ đinh trong những ngày tháng còn lại, ông vẫn âm thầm sáng tác, vẫn bị công an đến thăm dò và kiểm soát. Ông phải chép bản thảo làm nhiều bản gửi nhiều nơi.
Phùng Cung mất năm 1998 tại Hà Nội.
Sáng tác và sáng tác trong tù
Bản thảo và gửi giữ bản thảo
1- Nguyễn Chí Thiện cho biết ông gặp Phùng Cung tại trại Phong Quang, Yên Bái năm 1970, Phùng Cung đang nằm bệnh xá vì bị lao phổi. Trong những trao đổi của ông với Phùng Cung có câu:
“- Anh tù đã 10 năm rồi, anh sáng tác được nhiều không?
Anh Cung lắc đầu:
- Mấy năm đầu rầu rĩ, lo nghĩ về vợ con, không làm gì được. Sau đó có viết một số truyện ngắn trong đầu, nhưng không nhớ nổi. Đành chuyển sang thơ. Làm cũng được ít thôi, độ vài chục bài” (Nguyễn Chí Thiện viết về Phùng Cung, Phùng Cung truyện và thơ, nxb Văn Nghệ, 2003, phần phụ lục, trang 397).
2- Phùng Quán viết: Sau mười hai năm cách ly đời thường, Phùng Cung như xa lạ với môi trường văn nghệ. Được trả lại tự do, việc đầu tiên là anh cùng với vợ sửa lễ “Tạ ơn cao rộng cho được sống để trở về quê quán”. Rồi yên phận hẩm hiu, anh tránh thật xa mùi bút mực. Anh xoay trần làm nghề đập đinh, phụ với vợ thêm nghề bánh rán, nuôi ba đứa con trai đang sức ăn, sức lớn. Song hình như mùi dầu nhờn, gỉ sắt, mỡ rán vẫn không át được mùi bút mực. Những lúc rảnh tay, anh ngồi buồn thiu, thỉnh thoảng chấm ngón tay vào đáy chén trà cặn, viết một từ gì đó lên mặt bàn” (Phùng Quán, Hằng Nga thức dậy, tài liệu Talawas).
3- Về việc bản thảo và giữ gìn bản thảo, Ngô Minh thuật lại bối cảnh khi được Phùng Quán dẫn đến gặp Phùng Cung lần đầu, năm 1986:
“… rồi ông đứng lên mở ngăn kéo bàn lục tìm hồi lâu mới lấy ra một tập vở bé bằng bàn tay, bìa bọc giấy xi măng cáu bẩn, cầm đến đưa cho Phùng Quán: “Sau mười hai năm khổ ải, mình về với vợ con là mừng. Nghĩ đến tù đày là sợ lắm.” Phùng Cung trầm ngâm: “Quán ạ, mình cố quên hết văn chương. Nhưng không sao quên được. Đêm ngủ thơ nó cứ kéo về trong mộng. Thế là mình thủng thẳng ghi lại từng ngày. Như là viết nhật ký. Đây là những bài thơ nho nhỏ về chuyện quê nhà. Nhưng bây giờ thì gay rồi. Hôm qua chú công an khu vực đến chơi nhà, bỗng dưng chú cười hỏi: ‘Chào bác Phùng Cung, nghe nói dạo này bác lại viết thơ nữa à?’. Chỉ câu hỏi vui thế mà làm mình nổi da gà. Sợ quá. Tập thơ này toàn hình ảnh quê, mình viết để giải khuây, không có “chuyện gì” trong đó cả. Nhưng nếu mà họ thu mất thì tiếc lắm. Nên Quán cứ giữ hộ cho mình cho chắc.”(…)
Phùng Quán đưa cho tôi xem tập thơ chép tay. Tập vở mỏng, giấy học trò đen hùn. Trong đó mỗi trang chép một đến hai bài thơ, bài nào cũng ngắn, có bài chỉ hai ba câu, bốn năm câu giống như thơ Haiku của Nhật Bản, nét chữ Phùng Cung viết bằng bút chì rất nắn nót, hoa tay, nhưng không ghi tên tác giả. Tôi liếc bài thơ hai câu đầu tiên nhan đề là “Bèo”, bỗng nổi da gà: Thơ ghê quá, bất ngờ quá:
Lênh đênh muôn dặm nước non
Dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh (…)
Trên đường về lại Hồ Tây, tôi bảo anh Quán: “Anh để em giữ tập thơ này cho. Anh giữ cùng chưa chắc an toàn”. Anh Phùng Quán đồng ý. Thế là tôi mang vào Huế.(…)
Tôi đã chọn hai chùm thơ Phùng Cung và đưa tập thơ viết bút chì của Phùng Cung cho nhà văn Nguyễn Khắc Phê, lúc đó là phó Tổng biên tập Sông Hương, sau này một giai đoạn là Tổng biên tập. Tạp chí Sông Hương năm 1988 đã hai lần giới thiệu thơ Phùng Cung với những bài như “Nghiêng lụy”, “Bèo”, “Người làng”, “Chiếc lá rụng”, “Cô lái đò”, rút trong tập thơ chép tay bằng bút chì ấy. Có thể nói văn chương Phùng Cung lần đầu tiên sau 32 năm kể từ Con ngựa già Chúa Trịnh (1956) mới được xuất hiện trở lại, đã gây ấn tượng mạnh đối với độc giả Sông Hương và cả nước. Chắc chắn những ngày cuối năm 1988 ấy ông vui lắm.
Gần đây tôi mới biết, khi nhà thơ Phùng Quán còn sống, một lần nữ nhà văn Hà Khánh Linh ở Huế ra Hà Nội, anh Phùng Quán cũng dắt đến thăm nhà thơ Phùng Cung ở Bưởi. Buổi trưa hôm đó Phùng Cung, Phùng Quán và ông Nguyễn Hữu Đang mời cơm nữ sĩ Hà Khánh Linh. Tại bữa cơm ấy Phùng Cung cũng đưa cho Hà Khánh Linh một tập thơ chép tay như thế, nhưng viết bằng bút mực, chứ không phải bút chì (…) Mới hay, gửi cho bạn bè giữ hộ là cách “lưu trữ” thơ của Phùng Cung. Ông phải chép thành nhiều bản để đề phòng bị mất…” (Ngô Minh, Phùng Cung trong tôi, Huế, 3-2008, tài liệu Talawas)
Xuất hiện lại trên văn đàn
Như vậy, lần đầu tiên tác phẩm của Phùng Cung xuất hiện trở lại, là trên báo Sông Hương ở Huế năm 1988, với các bài thơ “Nghiêng lụy”, “Bèo”, “Người làng”, “Chiếc lá rụng”, “Cô lái đò”.
Nguyễn Hữu Hiệu, trong một thời gian dài, hay về nước, ông đã gặp Phùng Cung và nhiều nhà văn trong nhóm NVGP. Ông đã đem được bản thảo của Phùng Cung ra hải ngoại: Bài Dạ Ký được đăng lần đầu trên tạp chí Khởi Hành của Viên Linh (bộ mới, số 1 và 2, tháng 11 và 12/1996); tiếp đó là Ván cờ khai xuân (Khởi Hành số 4, tháng 2/1997) và Phòng tuyên truyền địa ngục (số 7 và 8, tháng 6 và 7/ 1997).
Năm 1995, nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin in tập Xem đêm của Phùng Cung, gồm 200 bài thơ. “Tập thơ Xem đêm được in ra có phần cổ vũ, trợ giúp không nhỏ về tài chính của ông Đang và sự nhiệt tình của ông Quán. Ngoài ra cũng phải kể đến sự quý trọng và can thiệp trong khâu kiểm duyệt bài của nhà thơ Quang Huy, giám đốc nhà xuất bản đồng thời là người viết tựa cho cuốn sách này” (Phùng Hà Phủ, bđd).
Năm năm sau khi Phùng Cung qua đời, Lâm Thu Vân cho in tại hải ngoại, cuốn Phùng Cung truyện và thơ (chưa hề xuất bản) (Văn Nghệ, 2003), gồm tập thơ Trăng ngục (35 bài làm trong tù, từ 1961 đến 1972) và 11 truyện ngắn (10 truyện mới và Con ngựa già của chúa Trịnh). Năm sau, sách tái bản dưới tựa Phùng Cung Trăng ngục (Trung Tâm dân chủ cho Việt nam, 2004) có thêm 74 bài thơ trích trong tập Xem đêm.
Về tập Xem đêm, Nguyễn Hữu Đang viết: “Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin đã sốt sắng nhận làm bà mụ đỡ đẻ cho đứa con tinh thần này của Phùng Cung. Khi đón nhận nó với cái tên ngộ nghĩnh Xem Đêm, tôi nghĩ ngay đến một câu của thi hào cổ đại Horace như đã “ứng” vào trường hợp này: “Tôi sẽ không chết tất cả” (nguyên văn tiếng La Tinh Non omnis moriar), ngụ ý sau khi thi sĩ qua đời, tác phẩm của ông là một phần con người ông sẽ còn sống mãi), Phùng Cung cũng hoàn toàn tin tưởng lạc quan ở sức sống lâu dài của thơ ông như Horace nghĩ về thơ mình. Và cố nhiên bấy lâu ông hằng mong thơ ông chóng thoát ly bản thảo để sức sống kia được thử thách và cống hiến” (Nguyễn Hữu Đang, Con người Phùng Cung và những bài thơ hay trong tập Xem Đêm, Hợp Lưu số 94, tháng 4-5/2007).
Thơ Phùng Cung in được, nhờ Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang là hai bạn đồng hành và vài người “ngoài cuộc” như Quang Huy, nhóm Ngô Minh-Hà Khánh Linh và báo Sông Hương, ở Huế, ủng hộ. Còn sĩ phu Bắc Hà thì sao?
Xem đêm ra mắt độc giả trong nước từ 1995. Về mặt giá trị văn học, thơ Phùng Cung không thua gì những tập thơ khác của các bạn trong NVGP đã được in ra. Nhưng “giới sành thơ” ngoài Bắc không mấy ai nhắc đến. Từ điển văn học cũng không có mục từ về Phùng Cung trong khi Văn Cao, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Phùng Quán, có cả.
Phải chăng vì Phùng Cung chưa bao giờ được chính thức “xoá án”? Chưa bao giờ được công khai “hồi phục” như những thành viên khác của NVGP?
Nhưng còn một lý do nữa, có lẽ quan trọng hơn cả: là mọi người ngại, không nhắc đến Phùng Cung, không phải vì Xem đêm, mà vì nội dung toàn bộ tác phẩm của Phùng Cung, dù chưa in ở trong nước, nhưng đã có nhiều người biết hoặc đã đọc qua.
Cái làm cho người ta ngại, chính là tư tưởng của Phùng Cung. Một tư tưởng độc đáo và ngược hướng những người cùng thời, kể cả các thành viên NVGP và thế hệ ngày nay, trên nhiều địa hạt: Bảo tồn văn hoá, lòng ái quốc, cách mạng mùa thu, kháng chiến chống Pháp, chiến tranh Nam-Bắc, tình nước và tình người.
Chưa một nhà thơ, nhà văn nào dám đi xa như thế, viết những lời đả kích mãnh liệt như thế về quốc ca, quốc thiều, về cách mạng mùa thu, về chính sách văn hoá của Đảng Cộng Sản, về những tín điều đã mê hoặc người Việt Nam trong suốt thế kỷ qua. Và đó là lý do chính khiến Phùng Cung bị 12 năm tù. Rồi khi được thả, ông vẫn bị gạt ra ngoài vòng chấp nhận của nhiều người trong và ngoài đảng.
Tìm hiểu Phùng Cung là tìm hiểu dòng tư tưởng yêu nước đối lập với các quan niệm chính thống và đi ngược lại niềm tự hào dân tộc cố hữu, nhưng sẽ là kim chỉ nam cho một con đường dân tộc mới: con đường chuyển giáo dục chiến tranhgiáo dục hận thù thành giáo dục hoà bìnhgiáo dục văn hoá.
Phùng Cung và lớp chỉnh huấn Thái Hà ấp
NVGP bị đình bản cuối tháng 12/1956. Trong năm 1957, mọi việc “bình thường” trở lại. Đến tháng 2/1958 sự thanh trừng mới bắt đầu với hai “lớp học” ở ấp Thái Hà.
1- Một số dữ kiện được ghi lại trong nhật ký Trần Dần, về những ngày sắp dự lớp học Thái Hà:
27/2/58 PhCung: Tự dưng học hành đến nơi mà Liên Hiệp Hội lại cho PhCung nghỉ công tác. PhCung lo. Không hiểu sao. Có phải vì các ông ấy sợ mình ở đấy đâm lộ chuyện hay không? Hay là vì cái “giả viá”, các ông ấy mới cho mình là cái thằng mất dậy? Đã mất dậy thì thôi, không dậy cho nữa, để mà biết tay!
Tôi hỏi PhCung xem cái “giả viá” ấy có gì?
PhCung cười hì hì, kể lại:
- Cũng chả có gì hì… Có một chỗ mình bảo là cái “đảng mạ”, hì, nghiã là cái thứ mạ, mình gọi là “đảng mạ”, dùng tiếng quê vậy cho nó vui, hì… Lại có chỗ mình định ca ngợi các đồng chí chuyên gia, thì mình cũng dùng tiếng quê, bảo là “các ông ấy béo mà phương phi như tây đoan”, “cái đệm các ông ấy nằm mà bà con ta nằm thì ngủ không biết khi nào trở dậy được”, hì, mình cứ nói tiếng quê vậy, để bà con nhân dân ta đọc cho nó vui… hì…
Tôi lo dựng tóc gáy:
Anh viết thế mà anh bảo là tiếng quê! Anh có bị đánh mất xác cũng không oan…
Về sau tôi hỏi HtLinh. Linh bảo:
- Cái thằng, nó cứ có cái lối thế. Nó cho rằng viết phải đả cái gì một tí thì mới oai. Anh em khỏi cười.
- Ai bảo nó thế?
- Ấy thế mới khỉ!…Nó cứ nghĩ như thế cơ chứ! (Trần Dần ghi, Văn Nghệ, 2001, trang 238-239)
Những dòng này chứng tỏ, trước lớp Thái Hà, Phùng Cung vẫn sáng tác đều và bút pháp của ông vẫn không hề nhụt tay trong sự châm biếm Đảng.
2- Phùng Quán, trong bài Hằng Nga thức dậy, cho biết về số truyện ngắn Phùng Cung viết trong thời kỳ này:
“Anh còn một tập truyện ngắn, đâu như tám truyện thì phải, cũng một dòng “ngựa, voi”, chưa kịp ra mắt bạn đọc thì đã bị cái khách quan khắc nghiệt “bảo lưu” cùng với tài năng của tác giả. Truyện nào viết xong anh cũng đưa tôi đọc. Truyện nào cũng làm tôi say mê vì vẻ đẹp của ngôn từ. Cái kho ngôn từ dân dã của anh dường như vô tận. So với tất cả văn xuôi của tôi đã in ra, tôi có cảm giác mình là người nước ngoài viết tiếng Việt.”
Phùng Hà Phủ viết: “Cũng khoảng thời gian này, [thời gian báo NV bị cấm] bố tôi bị đình chỉ công tác để làm kiểm thảo. Bố tôi ít đến cơ quan và chỉ viết ở nhà, một số bạn thân của bố tôi thường lui tới như Trần Dần, Hoàng Cầm, Ðặng Ðình Hưng…”
Như vậy, từ cuối năm 1956 đến 1961 (khi bị bắt) Phùng Cung vẫn sáng tác, Phùng Quán được đọc một số, ngoài Phùng Quán, nhiều người khác cũng được đọc, vì theo Tô Hoài, (trích dẫn ở dưới) bài Dạ Ký lúc bấy giờ, đã nổi tiếng lắm, đã đến tai ôngô.
3- Phùng Cung là đảng viên (vào đảng từ khi ở Việt Bắc, chưa xác định rõ năm nào). Vậy ông phải đi cả hai lớp Thái Hà (cho đảng viên và cho người ngoài đảng). Trong kỳ học tập này, chắc ông chưa bị “tố giác”.
Hoàng Cầm viết: “Tôi đi động viên Phùng Cung viết chuyện, và khi Phùng Cung viết “Con ngựa già của Chúa Trịnh” đưa tôi xem bản thảo đầu tiên, tôi có góp ý kiến vào viêc diễn tả: “Chỗ con ngựa vào cung Vua, nên tả cho đáng ghét hơn”. Khi Phùng Cung đưa bản thảo lần thứ hai, tôi chữa văn và thêm nhiều câu diễn tả cảnh đẹp, diễn tả con ngựa càng ngày càng béo…” (Những lời thú nhận của Hoàng Cầm, Văn Nghệ, số 12, tháng 5 năm 1958)
Lê Đạt viết: “Tôi lại viết “lời toà soạn” cho chuyện “Con ngựa già” của Phùng Cung đả kích và vu khống lãnh đạo văn nghệ không chú ý đến các nhà văn trẻ”. (Những lời thú nhận của Lê Đạt, Văn Nghệ, số 12, tháng 5 năm 1958).
Hai lời “thú nhận” trên đây chứng tỏ Hoàng Cầm, Lê Đạt đều muốn “che tội” cho Phùng Cung hơn là tố giác.
4- Thái độ của Phùng Cung ở lớp Thái Hà được Trần Dần ghi trong nhật ký như sau:
29/4/58 Phùng Cung
- Nhục lắm. Mẹ nó. Mình xin về nhà có được không nhỉ? (…) Có nên xin ra biên chế không? Tôi nhìn PhCung, ái ngại cho anh quá. Đâu như trong khi học tập, anh ta “hỗn” quá, bị đuổi khỏi lớp làm sao ấy… Tôi khuyên anh, rằng nên đầu hàng đi; rằng chỉ có một con đường, “họ” là chân lý, mình đầu hàng, là phải; rằng không nên xin ra biên chế, lúc này việc ấy có thể là một sự tiến công của tư tưởng thù địch; rằng không nên coi là nhục, oan ức gì nữa, mà cứ nghĩ lại xem tổng cộng cái bồ chữ mình đã chửi vào lãnh đạo nó to như thế nào, còn oan và nhục gì nữa? PhCung xem ý không thông gì lắm. Tôi thấy khổ! Một con người có cái gan “tử vì đạo” là PhCung, than ôi, cái đạo anh định chết vì nó chính là cái đạo phản cách mạng, sao mà anh chưa tỉnh ngộ ra hử anh?” (Trang 253)
Vậy theo nhật ký Trần Dần, ở lớp học Thái Hà, Phùng Cung đã lựa chọn thái độ cứng rắn, không đầu hàng, “tử vì đạo”. Trong khi Tôi khuyên anh, rằng nên đầu hàng đi.
5- Tháng 5/58, tức là thời gian ngay sau lớp Thái Hà, Trần Dần ghi tiếp về sự phải tự tố trong các bài kiểm thảo:
Ngày 7/5/58 Kiểm thảo sáng tác.
Đảng đoàn HNVăn để cả một tuần này, để cho Nhân Văn viết lại cái phần kiểm thảo sáng tác! Theo như đồng chí NxSanh [Nguyễn Xuân Sanh] nói, thì tuần trước, phần đó viết chưa sâu, vì thiếu thời giờ, thì tuần này viết lại cho kỹ. Mà phải viết sao cho có thể dùng in công khai được. Sau khi mọi người đã nộp cái của quốc cấm, nghiã là cả một đống những Nhân Văn Giai Phẩm rồi, thì tập trung ở cả một phòng, viết kiểm thảo. (…) Anh nào anh nấy lăn vào viết. Lắm hình dung từ, lắm tiếng tự phê dao búa! (…)
Tôi cũng không kém. Bao nhiêu hình dung từ phản cách mạng, phản động, phản Đảng, phản bội, chống chế độ, xét lại, tờ-rốt-kít. Không còn thiếu chữ gì. Giặc bút, viên đạn xét lại, mũi tên độc địa của chủ nghĩa cá nhân đồi trụy, chủ nghĩa vô chính phủ và đầu óc làm phản v.v… Tôi sáng tác thêm nhiều chữ nữa để mà miêu tả chân tướng mình, cho nó hết lòng một thể.
Chắc các đồng chí lãnh đạo đọc một loạt kiểm thảo bọn tôi lần này thì phải bựt cười lắm đấy! “Trước kia thì nói nhẹ chúng cũng không nghe. Bây giờ thì chúng lại còn tự sỉ vả gấp triệu lần sự phê bình của lãnh đạo!” (trang 257)
6- Trần Dần mô tả tâm trạng ông và các bạn trong tình hình ấy:
Ngày 12/5/58 Tình hình
Cuộc đấu tranh cứ lộn đi lộn lại từ B [văn nghệ sĩ] sang A [trí thức], lại A sang B, báo chí cứ xoay đi xoay lại mãi, cứ như một cái nồi khổng lồ của vô sản chuyên chính, ninh đi ninh lại cho nó dừ cái chủ nghiã xét lại ra.
Tôi chịu cái hình phạt ấy, nhẫn nại và đau khổ. Hình phạt của một người bị bung dừ. Không còn cách nào. Đây không phải là một sự trừng trị cá nhân; mà đây là “chúng ta” trừng trị một phong trào, một trào lưu tư tưởng của chủ nghiã xét lại… Tôi vừa là một tội nhân. Vừa phải cố tách mình ra, làm một đao phủ thủ, hành hạ cái chủ nghĩa xét lại có thực trong tôi và đám Nhân Văn” (trang 260).
Sau cùng, Trần Dần kể lại chiến thuật của mình, ông giải thích tại sao phải tố các bạn để tìm lối thoát và tố như thế nào:
21/5/58
“Thực ra, trước khi HCầm báo cáo, tôi dự định là giữ VCao và ĐđHưng lại, như là “giữ một nửa thành phố, chỉ đầu hàng một nửa” (…). Nên báo cáo tổ, bị hỏi, bị dồn, bị truy nữa, tôi vẫn giấu quanh, không chịu thúc thủ cái một nửa thành phố đó!
Đến lúc HCầm báo cáo, tức HCầm “rendre” [khai] hai ông bạn quý đó rồi. PhVũ lên tố thêm VCao. LĐạt thì chỉ xác nhận, tố thêm tí tỉnh, còn bao che ĐdHưng nhiều. Hơn nữa, qua báo cáo HCầm và LĐạt, thì tôi “được” đưa lên mũi nhọn, “được” hội trường chờ đợi rất ghê!
Bão lúc ấy chầu chực trên đầu lâu tôi!
Tôi phải tính kế, vừa thoát thân, vừa thoát cho 4 thằng đang bị dồn đánh ghê gớm (TD, HC, LĐ, TPh) [Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Tử Phác] vừa để sao cho VCao, ĐdH hiểu mình, qua cái ý ngầm của bản báo cáo!
Cụ thể, tức là tôi nghĩ rằng: “Bây giờ chỉ còn con đường duy nhất, là đầu hàng Đảng. Không có con đường khác. Mà đã hàng thì hàng thực sự, về sau mới thực sự trời êm bể lặng được. Thế nào là hàng thực sự? Hàng thực sự là: mỗi người phải ra mà gánh lấy cái phần bão, do chính trách nhiệm mình gây ra! 4 thằng đang chịu cái trận bão đó rồi, còn hai ông anh VCao, ĐdHưng thì xin nhờ đến vai hai ông, mang vác lấy cái phần của các ông! (…)
Thực tế đã chứng minh cho giá trị chủ trương đó. Quả nhiên: ngay trong lớp học, bão cũng đã ngàn đi dần dần trên đầu 4 thằng, và sau khi chuyển mạnh sang đầu 2 thằng kia ít bữa, rồi nó cũng ngàn đi.
Đến sau lớp học nữa, thằng nào cũng đều được sống trong một không khí được giải vây tương đối dễ thở. Với thời gian chắc nó sẽ càng dễ thở hơn.
Chỉ có cái là trong bộ 6 [Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Văn Cao, Tử Phác, Đặng Đình Hưng] thì có một sự phân hoá của trách móc, hằn thù… HCầm có vẻ khổ! LĐạt tự cho mình là oai nhất, “đúng nhất, vừa mức nhất, không vấy cho ai!”, LĐạt cho tôi là “quá mức!”, ĐdHưng thì kẻ cả: “Tất nhiên có chuyện đó, nhưng đã thuộc lịch sử rồi. TPhác khó hiểu, vừa ghét HCầm, vừa ghét VCao mà vẫn nối lại một phần, còn đối tôi thì lại bảo là: “anh ghê nhất, anh giỏi nhất!” (trang 267-268).
Những trang nhật ký trên đây của Trần Dần, giải thích sự kiện tại sao những con người như ông phải đầu hàng trước hệ thống cưỡng bách thẩm vấn trong chế độ toàn trị, chúng cho biết thêm về điều kiện viết những bản tự thú hoặc tố giác người khác, đồng thời vô hiệu hoá giá trị những văn bản này trong một chế độ dân chủ.
Phùng Cung bị bắt
1- Họa sĩ Trần Duy, cựu thư ký toà soạn báo Nhân Văn, trong bài “Một câu hỏi còn chưa được trả lời” đăng ngày 10/7/2009 trên Talawas, viết:
“Chính việc anh Phùng Cung bị bắt làm tôi rất lo sợ và đau buồn, vì Phùng Cung không tham gia Nhân văn ngoài bài viết “Con ngựa già của Chúa Trịnh” nhằm vào một nhân vật có tên tuổi trong Hội Nhà văn (Nguyễn Tuân). Nhưng vì anh Phùng Cung có một số bài viết đầu tay đã chuyển cho một số đàn anh xem để biết, rồi không hiểu bằng cách nào đó những bản thảo ấy lại vào tay lãnh đạo (tôi không được đọc những bài viết ấy) (…)
Tôi nhớ một cuộc họp tại trụ sở Hội Nhà văn ở đường Nguyễn Du năm 1957 dưới sự chủ tọa của Hà Minh Tuân, Nguyên Hồng… người đến họp có đông văn nghệ sĩ, trong đó có Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần…, qua những câu hỏi, những lời xác minh của các anh Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần thì đúng Phùng Cung là tác giả của những bài viết kể trên, và như vậy bản án đã úp lên đời Phùng Cung một tội trạng. Tôi còn nhớ câu của Nguyên Hồng nói sau khi kết thúc buổi họp: “Các anh lúc bình thường đối xử với nhau có vẻ trí thức lắm, nhưng lúc có sự việc xảy ra thì các anh đối xử với nhau không bằng lũ chăn trâu!”. Ra đến cổng anh Nguyên Hồng vỗ vào vai tôi và bảo: “Đã biết sợ chưa!”.
Quả tình tôi rất sợ, tất nhiên sợ về pháp luật là chính nhưng sợ hơn nữa là nhân tâm con người, sự tàn nhẫn của những con người đã bán rẻ nhân phẩm của mình để tự cứu mình, giẫm lên sinh mạng của những người khác để tự thoát thân”.
Theo họa sĩ Trần Duy, thì việc Phùng Cung bị tố giác xẩy ra năm 1957, và Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần là những người tố, việc tố này đã khiến Phùng Cung bị kết án.
Chúng tôi so sánh với những tài liệu khác thì không thấy nơi nào ghi năm 1957 đã có việc tố giác Phùng Cung. Vậy có thể họa sĩ Trần Duy đã nhớ lầm vài năm. Hầu hết đều ghi sự việc bắt đầu vào khoảng cuối năm 1960 trở đi, nghiã là sau lớp học Thái Hà hơn một năm.
2- Phùng Hà Phủ viết:”Một buổi sáng như thường lệ, khi mẹ tôi đi làm (lúc đó hai anh em tôi còn nhỏ, chưa đến tuổi đi học), thì ở nhà, căn hộ mà gia đình tôi ở bị công an mang xe ô tô đến vây bắt khám xét. Sau khi khám nhà và tịch thu toàn bộ sách vở, tài liệu, bố tôi bị đưa ngay vào giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Ðó là tháng 5/1961. Kể từ ngày đó mãi cho đến thời gian chuẩn bị ký hiệp định Paris (1973), tức là 12 năm sau, bố tôi mới được tha về nhà. Thời gian đầu bố tôi bị giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), sau đó đưa lên Bất Bạt (Sơn Tây), rồi Yên Bình (Yên Bái), Phong Quang (Lào Cai)”.
“Bố tôi bị bắt và giam giữ nhưng không có án mà gọi là đi tập trung cải tạo (…)
Sau này lúc mãn hạn tù, mẹ tôi mới biết bố tôi luôn là đối tượng bị giam cấm cố trong xà lim, bị hạn chế tôi đa tiếp xúc với thân nhân.
Nhớ lại theo bố tôi kể “khi xẩy ra chuyện”, buổi sáng đó bố tôi được triệu tập tới cơ quan để họp. Đến nơi thấy mọi người xung quanh đều có ý lảng tránh mình, thậm chí không dám mời nhau uống chén nước. Ngay cả những bạn rất thân và thường lui tới nhà cũng tìm cách lánh mặt. Ngay sau đó bố tôi bị đem ra kiểm điểm trước cuộc họp, mà thực chất gần như một buổi đấu tố thời “cải cách” của liên hiệp Hội văn học nghệ thuật (gồm cả đại diện bên văn nghệ quân đội). Chủ trì cuộc đấu tố gồm các ông Võ Hồng Cương, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh… Cảm tưởng đau xót và ngỡ ngàng nhất đối với bố tôi là những bạn thường ngày chơi thân với bố tôi như vậy đều tham gia vào việc “đấu tố”. Ngày hôm đó, ông Trần Dần là người đứng lên “tố” để hai ông Lê Đạt và Hoàng Cầm làm chứng dối. Tội chính mà bố tôi bị “tố” là mang lòng hận thù cách mạng sau cái chết của bố mình. Lôi kéo người khác cùng về hùa để lăng mạ lãnh đạo và còn viết nhiều chuyện chưa in khác – Tất cả nội dung đều tập trung vào lãnh tụ và Đảng cộng sản như: Dạ ký, Chiếc mũ lông, Quản thổi, Kép Nghế… Việc bố tôi bị bắt sau đó là do tham gia làm báo Nhân Văn nhưng theo mẹ tôi còn nhiều lý do khác nữa (…)
Từ ngày ra tù bố tôi sống như người bị câm, hầu như không quan hệ với ai ngay trong các bạn văn quen biết cũ. Những người trực tiếp “tố” bố tôi ngày xưa đều cảm thấy hối hận về việc làm của mình và xin lỗi bố tôi.” (Trích Phùng Cung truyện và thơ (Văn Nghệ 2003)
Phùng Hà Phủ, không ghi rõ ngày “xẩy ra chuyện” (khi đó hai anh em mới 4 tuổi và 2 tuổi), chỉ thuật những gì nghe cha mẹ kể lại, có những chi tiết phù hợp với những điều Nguyễn Hữu Hiệu viết trên báo Khởi Hành.
3- Nguyễn Hữu Hiệu viết:
“Theo lệ thường, mỗi năm, hội viên Hội Nhà Văn phải viết bá cáo, tự thuật, tự đánh giá mình đọc trước lãnh đạo.
Trong đợt học tập cuối năm 1960, tổ học tập gồm bọn bốn người cứng đầu kia [Phùng Cung, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt] bị trực tiếp đặt dưới quyền tổ trưởng Võ Hồng Chương [chắc là Võ Hồng Cương]. Trong đợt học tập này T.D. được lãnh đạo viết bản tố cáo dài gần 40 trang viết tay chữ nhỏ như kiến. Phùng Cung bị đấu hai buổi trước đông đảo văn nghệ sĩ tại trụ sở Hội Nhà Văn; bị tố cáo là tên phản động ngoan cố nhất của “Nhân Văn Giai Phẩm”.
Chế Lan Viên, cuối cùng, mới đứng lên đề nghị phải lập tức điều Công an đến khám nhà và bắt Phùng Cung.
Nỗi đau nhục bị phản bội chưa qua thì họa khám nhà đã đến. Ngày 19 tháng Chạp năm Canh Tý 1960[thực ra ngày 19 tháng Chạp năm Canh tý là ngày 4/2/1961]. Công an vây kín ngõ, xồng xộc vào nhà, lục soát, dầy xéo lung tung, tịch thu toàn bộ bản thảo gồm trên ba chục truyện ngắn và rất nhiều thơ. Phùng Cung bị đưa vào Hỏa Lò Hà Nội.
Sau đó, ông bị đưa đi biệt giam qua các trại Bất Bạt (Sơn Tây), Yên Bình (Yên Bái), Bảo Thắng (Lào Kai) từ đầu 1961 đến cuối 1972. Suốt trong mười một năm bị biệt giam, Phùng Cung bị lao nặng và nhiều bệnh trầm kha khác. Khi được phóng thích ông vẫn bị quản chế rất chặt tại địa phương”
Khi làn sóng Dân chủ đích thực -giấc mơ đời của Phùng Cung- dâng lên de dọa nhận chìm Liên Xô “Thành đồng của Cách Mạng” thì Phùng Cung không được làm “bất cứ việc gì liên quan đến chữ nghĩa” kể cả việc làm gia sư. Đều đặn hàng tuần Công an đến nhà thăm hỏi sức khoẻ, ngồi ì trong nhà khiến không ai dám bén mảng tới. Đông Âu sụp đổ, hình thức quản chế cũng theo đà “đổi mới” theo, nghiã là Công an vẫn đến thăm hỏi như xưa nhưng nhẹ nhàng và ít thường xuyên hơn.
Hiện Phùng Cung đang sống lây lất với gia đình tại một căn nhà âm u, lụp xụp tại vùng Quần Ngựa ngoại thành cũ”. (Nguyễn Hữu Hiệu, Phùng Cung, Khởi Hành, Bộ mới số 1, tháng 11/1996, trang 7).
Chế Lan Viên ra lệnh bắt Phùng Cung
Tổng hợp những thông tin của Phùng Hà Phủ, Nguyễn Hữu Hiệu và Trần Duy, chúng ta có thể xây dựng lại một thực tại như sau:
Trong đợt học tập cuối năm 1960, T.D. [chắc là Trần Dần], được chỉ định viết bản tố cáo dầy gần 40 trang, [Trần Dần cũng xác nhận việc phải khai các bạn, và các bạn khai mình, để tìm lối thoát, trong nhật ký]. Sau bài tố của Trần Dần, Hoàng Cầm và Lê Đạt, phải đứng lên phụ họa, xác định các tác phẩm mà Phùng Cung viết trong mấy năm qua ngụ ý chống đảng là có thật.
Màn bi kịch này có thể đã được dàn dựng trước, với những yếu tố sau đây:
- Sau khi NVGP bị đình bản, Phùng Cung vẫn tiếp tục sáng tác và ngoài bộ ba Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt còn nhiều người được đọc các sáng tác này, vì họ vẫn công khai trao đổi văn chương ở trụ sở Hội Nhà Văn (khoảng 18 tháng, từ đầu năm 1957 đến tháng 8/58 khi Trần Dần, Lê Đạt bị đi cải tạo đợt đầu). Đặc biệt bài Dạ Ký, dường như đã “nổi tiếng” lắm trong giới văn họccông an đương thời:
Nghe nói Phùng Cung hay chén chú chén anh với đám Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, được phong chức “tay truyện ngắn nhất Đông Dương”. Chắc là ở chiếu la đà với nhau, ăn nói càng ganh nhau, ngổ ngáo, bạt mạng. Đương viết tập Dạ Ký đã nghe đồn là tài lắm, dữ lắm” (Tô Hoài, Cát bụi chân ai).
“Quả thật sau đợt học tập này [Thái Hà], những anh em “Nhân Văn” hầu hết đều không dám qua lại nhà nhau, có chạm mặt ở cơ quan cũng không dám chào hỏi nhau, len lén cúi đầu sợ sệt. Riêng có bọn “chúng nó bốn thằng” là Phùng Cung, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt vẫn bất chấp, ngang nhiên quấn quýt, trao đổi văn chương, chuyện trò rôm rả, nhất là khi gặp nhau tại trụ sở Hội Nhà Văn 84 Nguyễn Du. Thái độ ngông nghênh này làm gai mắt lãnh đạo. Khi nào Công an chịu bỏ qua?” (Nguyễn Hữu Hiệu).
- Cuối 1960, đầu 1961, khi Phùng Cung bị gọi lên kiểm thảo, bộ ba Trần Dần, Hoàng Cầm Lê Đạt đã bị đánh tan nát. Trần Dần, Lê Đạt, phải đi chăn bò, chăn trâu, bị cách ly. Trong hoàn cảnh như vậy, liệu họ còn có thể từ chối khi “được” chỉ định phải tố Phùng Cung hay không?
- Hay đây chỉ là sự dàn cảnh để mọi người thấy rõ “bộ mặt tồi tệ của bọn Nhân Văn”, “bọn chúng tố cáo lẫn nhau” đây, và để cho Chế Lan Viên có cớ ra lệnh khám nhà và bắt “tên phản động” Phùng Cung.
- Chế Lan Viên đã đóng đúng vai trò Tố Hữu trong việc bắt Trần Dần, nhưng một cách “đường đường chính chính”, không ám lậu như Tố Hữu.
- Ba người nắm hồ sơ và hoạt động đắc lực nhất trong vụ thanh trừng NVGP là Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông và Đào Vũ. Nhưng Chế Lan Viên khôn khéo hơn hai người kia, ông không viết bài đánh nên không có văn bản “để đời”.
Nhưng ông thù Phùng Cung vì bài Dạ Ký, trong đó Phùng Cung vẽ biếm họa một số chân dung văn học, đặc biệt bốn vị “tứ bất tử”: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh và Nguyễn Đình Thi, có thêm “đương kim vô địch khôn” Tô Hoài, và vẽ cả các bạn đồng hành Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Lê Đạt.
Tất nhiên Chế Lan Viên không thể thích bức chân dung “nhà thơ giả thiểu số” chuyên dùng khoa “Phật vận” tức là “lấy tiếng chó làm chuẩn để cân đong đánh giá sự gian ngay” mà Phùng Cung hoạ về mình. Bài Dạ Ký đối với bốn vị lãnh đạo văn nghệ “tứ bất tử” là không thể chấp nhận được. Đặc biệt với Chế Lan Viên, sự “phạm thượng” có thể sánh ngang vụ Việt Bắc đối với Tố Hữu.
- Phùng Cung bị bắt và bị tịch thu toàn bộ bản thảo gồm trên ba chục truyện ngắn và rất nhiều thơ (theo Nguyễn Hữu Hiệu). Vậy những bản thảo này hiện ở đâu? Từ khi được tha về cho đến lúc mất, Phùng Cung chỉ viết lại (hay sửa lại) được 10 truyện ngắn, in năm 2003 tại hải ngoại.
Như vậy, có thể nói, bài Dạ Ký là cái họa lớn của Phùng Cung, lớn hơn Con ngựa già của chúa Trịnh.
Trong Cát bụi chân ai, viết về Phùng Cung năm 1990, giọng Tô Hoài vẫn còn cay đắng:
“Tan lớp ở Thái Hà ít lâu, Phùng Cung bị bắt. Phùng Cung công tác chạy hiệu ở văn phòng cơ quan hội văn nghệ từ trên Tuyên Quang. Ở rừng những việc tủn mủn không tên, sổ sách công văn, giữ thư viện, làm lán mới, đi chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm ra trạm xá, thui chó liên hoan… Nghĩ đến Phùng Cung, tôi nhớ những việc linh tinh hàng ngày ở cơ quan kháng chiến (…) Phùng Cung ở cơ quan nào dạt đến, không nhớ. Chơi vui, cũng không để ý, kể cả việc hệ trọng khi tôi nhờ Phùng Cung đi đưa chị Nam Cao xuống Hoàng Đan tìm mộ anh ấy. Đọc truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh” của Phùng Cung đăng trên báo Nhân Văn tôi cũng gật gù đại khái “thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm cháo đấy, con ạ”. Cũng điếu đóm tập tành như mình ngày xưa, đâu đã mà có sừng có mỏ ngay.
Phùng Cung bị bắt khi “nhân văn, nhân võ” đã được dọn dẹp êm ắng, đã tàn. Nghe nói Phùng Cung hay chén chú chén anh với đám Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, được phong chức “tay truyện ngắn nhất Đông Dương”. Chắc là ở chiếu la đà với nhau, ăn nói càng ganh nhau, ngổ ngáo, bạt mạng. Đương viết tập Dạ Ký đã nghe đồn là tài lắm, dữ lắm”.
Tôi không thể tưởng tượng một Phùng Cung thế nào, tôi không biết được. Tôi vẫn mơ màng chúng tôi, cây số ba, cây số bảy trên Tuyên, phở Dơi, cà phê Pháo, anh chàng mặt xanh xám vỏ dưa hấu về vệt vết nặn trứng cá, cứ ngồi lừ rừ bên bàn đọc sách, có lúc gãi ghẻ hay lúi húi làm gì, con mắt đo đỏ mà tinh vặt, như chú mèo vờ lù rù rình chuột. Về Hà Nội, đôi ba lần chúng tôi láng cháng lên cà phê Phúc Châu phố trên. Hình như Phùng Cung quê ở Sơn Tây và nỗi nhà địa chủ phú nông thế nào đấy, cũng không bao giờ nói và tôi cũng không hỏi.
Lại bao nhiêu năm sau. Chặp tối, một người bước vào cửa. Dáng cù rù, mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà là cái bóng Phùng Cung trên tờ giấy tẩy chì mờ mờ.
- Phùng Cung phải không?
- Tôi đây.
- Còn sống về được à?
- Cũng không hiểu tại sao anh ạ.
(…)
- Anh có biết tôi phải tù bao nhiêu năm?
- Không biết.
- Vâng tù biệt giam mười một năm.
Đã tù, lại biệt giam, lại bệnh lao, thế mà không chết rũ tù. Thế nào, người tù biệt giam mười một năm vẫn hiện được về. Lại lâu lắm không gặp gỡ. Ngỡ như Phùng Cung đã làm sao. Nhưng một hôm, có người sở Công an đến nhờ tôi ký chứng nhận quãng công tác ở cơ quan sau cùng Phùng Cung làm việc, trước khi phải tù.
Tôi hỏi người công an trẻ tuổi cầm giấy.
- Chứng nhận để làm gì?
- Có liên tục công tác mới đủ năm cầm sổ hưu. Thủ tục ạ.
- Liên tục cả ở cơ quan nhà tù?
Anh công an cười hồn nhiên, chào”cám ơn bác”.
Gần đây, nghe Phùng Cung đã chuyển lên ở trên Quần Ngựa. Nghe nói đã khấm khá, làm nhà mới. Lại thấy bảo đương viết, viết hồi ký-hay tiếp tục Dạ ký, sau hơn ba mươi năm, hả đời? Định có hôm nào lên chơi, vẫn chưa đi được.” (Cát bụi chân ai, Bản Hồng Lĩnh, Cali, 1993, trang 120-123).
Những dòng trên đây phản ảnh khá rõ tình cảm Tô Hoài dành cho cái xóm “nhà lá” mà ông gọi mỉa là “nhân văn, nhân võ”. Đặc biệt Phùng Cung, hồi trẻ, được ông mô tả: “anh chàng mặt xanh xám vỏ dưa hấu về vệt vết nặn trứng cá, cứ ngồi lừ rừ bên bàn đọc sách, có lúc gãi ghẻ hay lúi húi làm gì, con mắt đo đỏ mà tinh vặt, như chú mèo vờ lù rù rình chuột”. Người thanh niên này làm việc dưới quyền ông, chỉ được ông giao cho việc vặt, đại loại “công tác chạy hiệu”, “Ở rừng”, làm “những việc tủn mủn”, “đi chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm ra trạm xá, thui chó liên hoan”… Việc quan trọng nhất được ông sai là “đưa chị Nam Cao xuống Hoàng Đan tìm mộ anh ấy”. Và khi đọc Con ngựa già của chúa Trịnh, ông nghĩ “thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm cháo đấy, con ạ”. Sau khi đi tù 12 năm, về, đến thăm, ông rủa thầm “Đã tù, lại biệt giam, lại bệnh lao, thế mà không chết rũ tù”…. Thế mà vẫn không chừa, vẫn lại chứng nào tật ấy: “Lại thấy bảo đương viết, viết hồi ký-hay tiếp tục Dạ ký, sau hơn ba mươi năm, hả đời?”
Những dòng này viết năm 1990, hơn bốn mươi năm sau khi NVGP bị dẹp, mà giọng Tô Hoài vẫn chưa thôi miệt thị và hằn học, như vậy đủ biết mấy trang Dạ Ký của Phùng Cung, nặng nợ như thế nào.
Nhưng chỉ một Dạ Ký thôi, có lẽ chưa đủ để lĩnh án 12 năm. Dạ Ký là cái cớ đầu tiên cho những người lãnh đạo văn nghệ bị Phùng Cung biếm họa nổi giận. Để Chế Lan Viên ra lệnh bắt. Việc tù tội tiếp sau, dựa trên toàn bộ tác phẩm thơ văn của Phùng Cung, một nội dung đào sâu vào tận gốc chính sách tiêu diệt văn hoá của đảng, áp dụng từ cách mạng tháng Tám:
“Giải thoát”“Mộ phách” viết về sự bức tử nghề ca trù và tuồng chèo cổ.
“Biệt tích” là sự thủ tiêu nghề thợ mộc chân chính.
“Mạt kiếp” là cái đói và cái chết của người cùng đinh.
“Phòng tuyên truyền điạ ngục” là cơ quan dụ dỗ con người bỏ trần gian để về với thiên đường địa ngục…
II. Mộ phách – Mồ chôn văn hóa
Truyện ngắn Mộ phách là tiếng khóc tiễn đưa thi ca, âm nhạc về bên kia thế giới trong một thời mà nghệ thuật đích thực bị xử lý như một phạm nhân. Với Mộ phách, Phùng Cung đã để lại những âm giai bất tử về sự bức tử một cây đàn và sự tuẫn tiết của một cỗ phách, qua đó là sự tàn phá nền văn hoá cổ dân gian thời Cách mạng tháng Tám, 1945. Mười năm sau, khi mộ phách đã xanh cỏ, diễn ra sự triệt hạ Nhân Văn Giai Phẩm 1956. Và mười chín năm sau là sự triệt hạ Văn học miền Nam, 1975.
Chính sách chôn vùi văn hoá đã kéo dài trong nhiều thập kỷ từ 1945 đến ngày nay.
Tác phẩm của Phùng Cung chia làm hai phần: Văn xuôi và Thơ
Phần văn xuôi đả phá chính sách văn hóa của chính quyền cộng sản, đi từ gốc của vấn đề: Phùng Cung đề cập đến sự thủ tiêu văn hoá từ những ngày đầu cách mạng: việc tiêu diệt tuồng, chèo, ca trù… trên đất tổ Hùng Vương. Mộ phách (mồ chôn phách) là tác phẩm tiêu biểu. Chính sách văn hóa này, sau Mộ phách, sẽ tiếp diễn với sự chôn vùi các văn nghệ sĩ và trí thức tinh hoa của dân tộc trong phong trào NVGP, thiêu hủy Văn học miền Nam sau 1975, và vẫn còn tiếp diễn đến ngày nay, qua các việc tịch thu sách, cách chức tổng biên tập, chia đất, bán rừng, coi nhẹ di sản văn hoá của tiền nhân… Một cái nhìn rộng và xa như vậy về thời toàn trị, phải được khởi viết từ đất Tổ: Phùng Cung, người Sơn Tây- nước Văn Lang.
Đất Sơn Tây – nước Văn Lang
Sơn Tây phát sinh hai tài năng lớn trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm: Quang Dũng và Phùng Cung.
Quang Dũng sinh năm 1921, tại xã Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Sơn Tây (nay là Hà Tây, thuộc Hà Nội). Hình ảnh vùng đất tổ khắc trong lòng người Việt qua những câu thơ Quang Dũng:
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì”
Quang Dũng đi vào lòng người miền Nam, không qua ngả Tây tiến mà qua Đôi mắt người Sơn Tây do Phạm Đình Chương phổ nhạc. Đại gia đình Thăng Long (Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc) có một người anh chết ở Sơn Tây trong kháng chiến. Có lẽ vì vậy mà Phạm Đình Chương đã phổ thơ Quang Dũng bằng những nét nhạc tuyệt vời, với một tâm hồn đồng điệu. Nhờ bản nhạc Đôi mắt người Sơn Tây của Phạm Đình Chương mà nước “sông Đáy chậm buồn qua phủ Quốc” thấm vào hồn người nghe, dù họ chưa hề đặt chân lên đất tổ bao giờ. Những nghệ sĩ đích thực luôn luôn có khả năng truyền cảm vượt tuyến, nối tình đất và tình người trong khoảng khắc câu thơ, tiếng nhạc.
*
Còn Phùng Cung? Là người thông bác lịch sử, gắn bó với đất đai và văn hóa lâu đời của dân tộc, Phùng Cung, đã dùng ngôn ngữ quật khởi, “rừng rú” của Đường Lâm để bảo tồn nền văn hoá Việt một cách quyết liệt và toàn diện, trong thời kỳ toàn trị.
Bài của Nguyễn Hữu Hiệu có một thông tin về nguồn gốc họ Phùng: “Quê tổ của Phùng Cung ở Đường Lâm, Sơn Tây, vốn dòng dõi Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng”. Chỉ Phùng Cung mới có thể cung cấp cho Nguyễn Hữu Hiệu thông tin này. Bởi lẽ: Đường Lâm là một tên xưa, đã biến mất từ thời Lê, chỉ người gốc ở Đường Lâm mới biết, và khi Nguyễn Hữu Hiệu viết câu này năm 1996, Đường Lâm chắc chưa được “khôi phục” lại với khu “di tích lịch sử- văn hoá Đường Lâm”, như ngày nay (không rõ việc khôi phục này có do các nhà khảo cổ giám định, hay chỉ là sự bài trí màu mè để lôi kéo du khách). Vậy việc Phùng Cung dòng dõi Phùng Hưng là điều khả thể. Nhưng không phải cứ dòng dõi Phùng Hưng thì trở thành anh hùng. Dòng dõiđất sinh có thể giải thích sự can trường và lòng bất khuất ở một con người như Phùng Cung. Sinh trưởng trong nôi lịch sử Sơn Tây, từ một dòng họ chống ngoại xâm lâu đời nhất, Phùng Cung tự hun đúc và tạo nên cái khí phách ấy. Bởi sự kiên cường ấy, không thể giải thích cách nào khác, ngoài đất đai, sông núi và lịch sử.
Nhưng trước hết, tại sao lại Sơn Tây?
Đất Sơn Tây có gì đáng nói?
Miền Bắc có bốn vùng đất cổ có kinh đô xưa:
- Sơn Tây là nước Văn Lang, có kinh đô của Hùng Vương, Trưng Vương, Phùng Vương và Ngô Vương.
- Ninh Bình, có kinh đô Hoa Lư của nhà Đinh, Tiền Lê, và những năm đầu nhà Lý.
- Hà Nội là kinh đô Thăng Long của nhà Lý, Trần và Hậu Lê.
- Thanh Hoá có Lam kinh còn gọi là Tây kinh (kinh đô đầu tiên của nhà hậu Lê, do Lê Thái Tổ dựng lên ở phía đông núi Lam Sơn), có cung điện nhà Lê ở phủ Yên Trường và Vạn Lại, có gò Phật Hoàng (mộ tổ nhà Lê), có Thành nhà Hồ (thành Tây đô), có Ly cung của nhà Hồ (huyện Vĩnh Lộc)…
Trong bốn vùng lịch sử có kinh đô xưa, Sơn Tây lâu đời nhất.
Sơn Tây là vùng rộng lớn, tới cuối thế kỷ XIX, bao trùm nhiều tỉnh và thị trấn ngày nay: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Tây và một phần các tỉnh Hoà Bình và Tuyên Quang.
Sơn Tây có hai huyện quan trọng: Huyện Phúc Thọhuyện Bạch Hạc:
Huyện Bạch Hạc (Việt Trì) (thuộc phủ Vĩnh Tường), trung tâm Sơn Tây, là đất Phong châu, kinh đô nước Văn Lang. Sông Lô và Sông Thao gặp nhau ở Ngã ba Bạch Hạc.
Huyện Phúc Thọ (thuộc phủ Quảng Oai), đời Hán là đất Mê Linh, nơi Hai Bà sinh trưởng và đóng đô. Có Hát giang (tức sông Đáy). Có xã Cam Lâm thuộc quận Đường Lâm là nơi sinh của Phùng Hưng và Ngô Quyền. Có đền Phùng Vương và Ngô Vương ở xã Cam Lâm. Có miếu Hai Bà ở xã Hát Môn.
Hai huyện Tùng ThiênBất Bạt có núi Ba Vì (truyền thuyết Sơn Tinh Thuỷ Tinh), ba ngọn rất cao, hình tròn như cái tán, lớn nhất đất Bắc
Theo Ngô Thì Sĩ và Phan Huy Chú, Đường Lâm là đất hai huyện Hoài An [nay là huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây] và Mỹ Lương [nay là đất các huyện Chương Mỹ tỉnh Hà Tây và Lương Sơn, Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình].
Vì những lẽ trên mà trải các triều Đinh, tiền Lê, Lý, Trần, hậu Lê, Nguyễn, các vua, dù có gọi là lộ, là trấn, là thành, là xứ, không vua nào đụng đến “bờ cõi” Sơn Tây, bởi đó là “bờ cõi” nước Văn Lang do vua Hùng dựng nên. Với những bia, miếu, đền… những địa danh lịch sử như Phong Châu, Mê Linh, sông Hát… Sơn Tây còn là trung tâm của nước Việt cổ, một địa điểm chiến lược và tâm lý. Vì vậy, khi dàn trận thu đông 1947, Phápđã chiếm Tông và Sơn Tây trước, để làm bàn đạp đánh lên Việt Bắc, cũng là một đòn tâm lý đánh vào não trạng người Việt.
Sự sát nhập Sơn Tây vào Hà Nội
Năm 1965, chính quyền miền Bắc sát nhập Sơn Tây vào Hà Đông. Từ 1975 đến 1978, Sơn Tây bị nhập vào Hà Sơn Bình. Từ 1978 đến 1991, Sơn Tây bị nhập vào Hà Nội. Từ 1991, Sơn Tây bị nhập vào Hà Tây. Đến tháng 8/2007, Thị xã Sơn Tây, (gồm hai huyện Phúc Thọ và Minh Nghiã, thuộc phủ Quảng Oai) được nâng cấp lên thành phố Sơn Tây và năm 2009, toàn bộ tỉnh Hà Tây bị sát nhập vào thủ đô Hà Nội. Đường Lâm, như vậy, ngày nay đã thuộc vào tỉnh Hà Nội.
Những “sát nhập” này, luôn luôn thay đổi, tùy tiện và lúng túng, dường như không do một chính sách địa lý, chính trị và văn hoá có nghiên cứu khoa học và lịch sử làm hậu thuẫn:
- Sự “sát nhập” toàn bộ thành phố Hà Tây (trong có thị trấn Sơn Tây) năm 2009 vào Hà Nội [cũng như việc ủi nền cổ thành Đại La để tổ chức lễ hội ngàn năm Thăng Long, bất chấp ý kiến của các chuyên viên khảo cổ mới đây] có thể hiểu như thế nào?
- Rằng để kịp thời phục vụ “lễ hội ngàn năm Thăng Long”, nên cần làm đẹp Hà Nội và “bành trướng” Hà Nội về phía đất tổ Hùng Vương chăng?
- Rằng để cho nhà, đất lên giá theo đúng đơn đặt hàng của các nhà đầu cơ bất động sản?
- Rằng để xác định sự chính thống của nhà nước Việt nam, tự xưng thời đại toàn trị như một triều đại “mở nước”, ngang với triều Lý, với tổ Hùng Vương?
Những thông tin mới nhất về việc nhà nước định “rời đô” về chân núi Ba Vì, bất chấp ý kiến các chuyên gia, lại càng làm cho các giả thuyết trên đây, đặc biệt giả thuyết sau cùng, thêm vững chắc.
Sự phá vỡ bờ cõi nước Văn Lang, cũng không đi ra ngoài quỹ đạo truyện ngắn của Phùng Cung. Truyện của ông xoáy vào toàn bộ chính sách văn hoá của đảng cộng sản: từ việc loại trừ phần văn hóa dân gian, như chèo, tuồng, ca trù, thời kháng chiến; đến sự phá vỡ vùng đất tổ Hùng Vương hiện nay chỉ là hậu quả của chính sách phi văn hoá do Trường Chinh đề xướng từ 1943.
Người và Chó
Trong các truyện ngắn của Phùng Cung, xã hội Việt Nam được trình diện như một xã hội phân chia giai cấp theo cái nhìn của tác giả: Chó và Người.
Giai cấp mà ông gọi là chó thuộc thành phần những kẻ “úp mặt hôn mê liếm lộc”, những kẻ “cưỡng bức ngữ ngôn”, những kẻ “tình nguyện trọn kiếp bút nô”, những kẻ “ngợi ca tội ác”… Và trong bối cảnh, chó đô hộ người, các công tác dò thám, hãm hại, thủ tiêu, đạt đỉnh điểm. Sự triệt tiêu văn hoá trở thành quốc sách.
Chưa một ngòi bút nào đi xa đến thế trong việc mô tả xã hội toàn trị.
Tư tưởng chủ đạo này chi phối toàn bộ tác phẩm của Phùng Cung và mỗi truyện có nhiệm vụ biểu trưng một vấn đề mà nhà văn đưa ra. Cách nhìn xã hội chó-người này, sẽ sống lại trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, với những chiều hướng khác, sau này.
Con ngựa già của chúa Trịnh, là tác phẩm duy nhất của Phùng Cung in trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, ám chỉ đám quần thần, như những con ngựa già, suốt đời quen nhắm mắt bịt tai, cúi đầu phục vụ thế quyền.
Ngay từ Con ngựa già của chúa Trịnh, đất Sơn Tây đã làm nền cho tác phẩm: từ vùng đất tổ, phát xuất giống ngựa nòi, sau này sẽ bị thế quyền làm mai một, mất giống. Lão Nông là hình ảnh đầu tiên về người nông dân chân chính của vùng đất tổ.
Con ngựa già của chúa Trịnh viết về con thần mã Kim Bông của lão Nông ở Sơn Tây, có sức vượt nghìn dặm với cái thế “cao đầu phóng vĩ” của nòi ngựa chiến. Bất cứ cuộc đua nào, Kim Bông cũng đứng đầu. Tin đồn đến tai chúa Trịnh, nhà chúa bèn cử người đến mua con ngựa quý. Dù luyến tiếc vô cùng, lão Nông bắt buộc phải giao ngựa về kinh. “Kim Bông phi như gió, trả lại đằng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn Tây. Chỉ trong nửa ngày đã về đến Thăng Long”. Về kinh, Kim Bông trở thành con vật sủng ái, được kéo xe hầu chúa. Sống trong nhung lụa, thần mã được ngự tại mã đài ngày ngày chỉ ăn và tắm. Chúa ban áo mão cân đai, đặc biệt cái mũ cánh chuồn, như hai chiếc lá đa che tai, che mắt, chỉ để lộ mỗi con ngươi nhìn thẳng về phía trước. Rồi đến lúc can qua, chúa cần con ngựa chiến dũng mãnh ngày xưa, nhưng than ôi, con thần mã đã quen thói cung đình, bao nhiêu năm bị che tai, bịt mắt, khi tháo mũ áo ra, nó hoa mắt, đầu choáng váng, chân không phóng được nữa. Thần mã cố sức bình sinh, dốc hết tàn lực rồi ngã vật xuống đất, đứt ruột mà chết.
Kim Bông tượng trưng cho những tài năng lớn, khi đã mũ ni che tai, quỳ gối, úp mặt, phục vụ thế quyền, để tìm bổng lộc thì đều trở thành những con ngựa già, vô dụng. Kim Bông là “nhân vật” đầu tiên, từ “thần mã” xuống “chó” mà Phùng Cung mô tả.
Là một trong những truyện ngắn hay nhất thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, cùng với Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy, Con ngựa già của chúa Trịnh mang tính chất ẩn dụ tế nhị, kín đáo và sâu sắc, khó có thể đưa ra để kết tội công khai tác giả.
Dạ kýlà một bút ký tưởng tượng hài hước về những nhân vật chính trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, bên nguyên cũng như bên bị, mập mờ những chân dung: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Tô Hoài…, cả người thầy học cũ của tác giả cũng có mặt… đến Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Tử Phác, Lê Đạt… Không chỉ tứ trụ triều đình được phác họa dưới những nét châm biếm, mà cả những bạn đồng hành cũng không thoát khỏi… tất cả đều bị cuốn theo cơn lốc, dưới chân một ngọn tháp, “trên đỉnh tháp là một tàn vàng chóe loé, hơi giống mặt trời chiều lúc gần xuống núi; có phần sáng hơn mặt trời. Bên cạnh tàn vàng là một lá cờ đại, xung quanh lá cờ đại là hàng ngàn cờ nhỏ – đều màu đỏ rực. Từ cờ đại đến cờ nhỏ đều quay tròn. Diềm cờ không dính tua kim tuyến mà là lưỡi câu thép ngoại. Cờ tạo gió, gió nhân thành bão, thì ra cờ bay mà tiếng gầm rú hãi hùng như vậy. Tôi lạnh cả người, cầm sẵn trong tay một cái chết móc hàm” (Phùng Cung truyện và thơchưa hề xuất bản Văn Nghệ, 2003, trang 312).
Dạ Ký biếm họa cả một thời đại cuồng điên, mà con người người người lớp lớp phục xuống, trước một ngọn tháp vĩ đại, “chạy vòng quanh tháp-như đèn kéo quân”;hàng ngàn cờ nhỏ – đều màu đỏ rực”, “một rừng cờ” có “lưỡi câu thép ngoại”; “cờ bay mà tiếng gầm rú hãi hùng”… Chưa có tác giả miền Bắc nào dám viết về bác Hồ, về cờ búa liềm và ngày 19/8 như thế. Dạ ký là bức tranh châm biếm hãi hùng về sự tung hoành của lá “cờ có lưỡi câu thép ngoại”, là điềm báo hiệu 12 năm tù không án của Phùng Cung.
Nhưng “tội” của Phùng Cung, không chỉ là đã nặn ra một “con ngựa già”, và vài trang “dạ ký” phạm thượng, mà còn ở những truyện ngắn sâu xa khác, tất cả viết trong khoảng 1957 đến 1960, thời kỳ NVGP bị đàn áp sôi sục nhất. Chính những tác phẩm này mới đưa đến 11 năm biệt giam. Chúng bày ra những cảnh trường bi đát của một thời đại u tối mà ngày nay chúng ta đang muốn và đang cần tìm hiểu.
Ðó là số phận Mạt kiếp của những người như lão Thiều, suốt đời sống trong đói nhục, cuối cùng, lão đục đáy cót ngô để ăn cắp, bị ngô tưới xuống đè chết. Truyện Mạt kiếp là một trong những truyện ngắn thê thảm nhất về cái đói, gián tiếp mô tả xã hội chó-người.
Vẫn trong bối cảnh Sơn Tây, Ba Vì, vẫn trên nền đất tổ. Ngay từ dòng đầu, không khí bạo lực bốc lên qua giọng văn mạnh, phũ, như một bức họa phổ nhạc, với những âm thanh loang lổ, màu sắc hoắc loạn: “Chiều xuống chới với trên đầu làng Chu Trần. Một con chó vàng nhạt, hơi gầy đứng trên bờ đê nghến phía tây nam nơi mặt trời như một chậu máu, loang vãi từ đỉnh Ba Vì hắt lại. (…)
Thình lình tiếng tù và rúc ba hồi dữ dằn từ cầu Ðạc Ba -điếm tuần của làng- gió tiếp âm, gom tiếng dữ trình làng. Mấy nhà gần điếm còn nghe được cả tiếng “hự hự” của kẻ phạm pháp đang chịu đòn bằng đấm đá, lên gối vào ngực, vào bụng. Nghe đủ tiếng động, đàn chó làng cất tiếng tập thể tru lên một lúc rồi im bặt, quý hồ đủ tư cách chó, bởi dẫu có mỏi mõm cũng chẳng ăn nhằm gì.” (Mạt kiếp, trang 27).
Ðó là khúc chó tru dạo đầu cho thân phận lão Thiều. Thiều không phải tên của lão, lão tên là Vị, Thiều là tên đứa cháu ngoại. Lão có một quá khứ tù mù, có thể trước lão đã có thời chân đi giày săng đá, đầu đội mũ chào mào khố xanh, khố đỏ, nhưng bây giờ thân tàn ma dại, không biết vợ bỏ hay vợ chết, lão ở nhờ nhà con rể cả chục năm rồi. Ăn uống phải tự túc, gặp lúc nhà ai có việc gọi đến, lão còn được miếng no. Nhiều ngày chẳng ai đoái hoài, lão đói rã họng, đành thậm thọt vụng trộm củ khoai, bắp ngô của làng. Bị tuần bắt được trói gô vào cột đình, đánh, lão chày mặt ra chửi đổng. Lão nghĩ bụng “no nên bụt, đói ra ma”, “ngũ cốc còn ghê hơn thuốc phiện, chưa rã họng chưa biết!”, “trên đời này ông sợ nhất cái đói, ông khinh nhất cái đói, ông căm thù nhất cái đói” (trang 31).
Ăn nói kiểu Chí Phèo, Chúa, Phật, chả coi ra gì, bất kỳ quỷ ma thần thánh gì lão cũng theo tuốt miễn có cái bỏ vào mồm, lão làm tất tần tật: đánh thần trùng, bốc mả, nhảy xuống ao cứu trẻ chết đuối, không từ một việc nào. Vì cứu trẻ ở xóm đạo, lão đã được mang tên thánh Phê Đô Vị, rồi xóm đạo hết việc, lão mon men đến chùa, giúp bà vãi đốn tre, cạp rổ cạp rá… Lão đã trải hết các “thời”, vậy mà lão vẫn sống.
Cho tới cái năm ấy. Lão cố nhớ lại: “Năm ấy là năm gì nhỉ? Nước sông Hồng vua Thủy dâng to hơn mọi năm nhiều. Nước tràn lên đánh úp bờ bãi, cướp trắng hoa màu chưa đến tuổi thu hoạch, đe dọa đê điều đe dọa cả một vùng đói kém!” (trang 56).
Chẳng biết lão Thiều có ý nói kháy cái năm thần thánh ấy, cái năm quái gở trùng hợp đói, lụt và biến cố lịch sử vĩ đại nào không. Dám lắm, đến nước này, lão còn nể gì. Lão đổ tội cho cái năm thổ tả ấy, vì nó mà lụt lội tràn lan khắp nơi. Đói quá, lão Thiều chẳng còn nể nang gì nữa, lão chửi cái đói “Mày đang tâm biến người thành chó, chó thành người!” (trang 67). Lời chửi đổng của lão cũng mập mờ đầy ý nghiã, chẳng biết lão chửi cái đói, chửi thần thánh, hay thoá mạ cách mạng. Đường cùng, lão tính nước cờ chót: liều chết, lội lụt vào tận đáy cót ngô của nhà Tư Tâm, đục cót cho ngô chảy xuống, lão hứng bằng hai ống quần, nhưng không ngờ, ngô chảy mạnh quá. “Ðói, lạnh, nặng, cả ba lực giáp công, lão không sao ngóc đầu lên được. Chỉ trong chớp mắt lão nghỉm hẳn”.
Mạt kiếp được viết với bút pháp lạnh lùng gần như châm biếm, vô cảm hóa nghịch cảnh, và đó chính là nghệ thuật trình bày cái bi đát trong thân phận con người sâu sắc nhất: Từ cái năm ấy, Lão Thiều bị nghiền nát nhân phẩm, lão cố ngóc đầu lên để được sống làm người, sống như người, nhưng cuối cùng lão bị quật ngã, bị tiêu diệt.
Biệt tích là truyệnphó Lâm, người thợ không hội nhập được với “đời sống mới”‘. Người thợ mộc đầy lương tâm và nhân cách này không thể chấp nhận lối “ăn thật làm dối” của ủy ban nhân dân. “Với phó Lâm, tua, mộng là tuyệt kỹ, khi vào mộng, không tháo ra, chêm lại làm đau gỗ!” (trang 155), nhưng bây giờ ủy ban lại bắt Phó Lâm phải làm nhanh, bắt đóng bàn không cần tua, mộng gì cả, cứ ghép lại bằng đinh năm phân, chặt bỏ mũ, đóng ngậm là đủ. Ông chủ tịch xã còn ra lệnh:
“- Cứ mẫu ấy mà đóng!
Phó Lâm lo âu xoa hai bàn tay vào nhau:
- Dạ! Thưa ủy ban không làm được ạ!”
Phó Lâm lẩm bẩm trả lời bằng những dạ thưa, không làm được ạ, dạ thưa, khó quá ạ.… cho tới lúc bị đuổi về. Ít lâu sau, phó Lâm đi đâu biệt tích…
Có người đồn thấy phó Phó Lâm vai vác rìu, tay sách hòn đục ngược dòng sông lên núi Tản Viên, bước trên nước như đi đường vậy. Bà Lâm được tin lạnh cả người! Ở đây không ai còn lạ gì chuyện đức Thánh trên đỉnh núi Tản cứ ba năm lại một lần xuống núi tìm thợ giỏi lên sửa điện đài trên ấy. Bà Lâm chờ chồng ba năm, sáu năm, rồi chín năm… không thấy về, bà chọn tháng bẩy ngày rằm xá tội vong nhân làm giỗ.
Biệt tích phác những nét mơ hồ nhưng vô cùng xác thực về một thời mà những cái chết bí ẩn, những sự mất tích, biệt tích của con người khá thường xuyên. Thời mà những giá trị đạo đức nghề nghiệp không còn chỗ đứng. Thời mà dốt nát, cẩu thả, lên ngôi. Phó Lâm, kẻ muốn bảo tồn đạo đức nghề nghiệp, đã bị gọi về trời. Phó về trời, như bị mất tích, như bị thủ tiêu, như tự thăng cùng thần núi Tản, để giữ mãi cái chân chất của nghề tổ, giữ trọn phong cách của một nghệ nhân chân chính.
Chủ trương của đại hội văn nghệ 1950 ở Việt Bắc: chôn sống tuồng chèo, cải lương và dân ca, được thể hiện lại trong hai tác phẩm: Giải thoátMộ phách. “Từ nay cái nghề ca trù càn rỡ dông dài phải tự tay đào sâu, chôn chặt, không để nấm mồ, không luyến tiếc” (Mộ phách, trang 204).
Nếu Biệt tích ghi lại sự thủ tiêu nghề thợ mộc, thì Giải thoát, viết về sự phá sản của nghề hát chèo ở làng Ô. Cái thế “cao đầu phóng vĩ” của con Kim Bông, loài ngựa chúa, được thể hiện lại trong nhân vật Cả Miêng, hay Trùm Nhất ở làng Ô, kẻ được coi là “Bố cái đại vương” của làng Vân Ô, nơi ngự trị của thần tổ nghề hát chèo, trên “một giải đất cao, thế đất chim Phượng”, cạnh dòng sông Hát (sông Đáy). Giọng văn Phùng Cung luôn luôn có cái uy của đất tổ, cái đẹp của nghề tổ, cái trách nhiệm của bố cái (cha mẹ) trong nhiệm vụ bảo tồn văn hoá và lịch sử.
Ở thế “cao đầu phóng vĩ” như thế, Phùng Cung một mình một ngựa, cầm cương chống lại giai cấp mà ông gọi là “chó” của bọn tàn phá văn hoá dân tộc, tàn phá những nghề tổ: nghề mộc, nghề chèo, nghề ca trù… nuôi sống con người. Bỏ nghề đi, là cắt đứt cuộc sống, là tiêu diệt nghệ thuật cùng miếng cơm, manh áo.
Mộ phách
Đặc sắc nhất trong mười truyện, viết về thời kỳ cấm ca trù, đập đàn đáy, chôn phách. Bi kịch của vợ chồng kép Tư Chản và Ðào Khuê trong Mộ Phách cả đời gắn bó với cây đàn tiếng hát, không khỏi gợi nhớ đến Cô Tơ và Chánh Thú trong Chùa đàn của Nguyễn Tuân. Tư Chản có hai con, một trai một gái, chỉ mong sao cho chúng sau này lớn lên nối tiếp nghề tổ để được no ấm một đời “Thằng Thuyên, con trai độc nhất, khi nó mới biết lẫy, ông đã nắn ngắm bàn tay của nó và lấy làm mãn nguyện. Ngón tay dài, ắt hẳn dài hơn tay bố, mai ngày nhẹ nhàng nhấn, vuốt dây tơ…” (trang 205).
Ngoài thằng con, Tư Chản chỉ còn cây đàn là quý: “Ðàn này của cụ Kép thân sinh của Tư Chản để lại”, “cụ Kép chọn gỗ, thuê thợ Kim Sa đóng cây đàn này lúc Tư Chản mới tám tuổi. Ðáy đàn bằng gỗ dâu vàng, cần đàn bằng gỗ xâng chun, trục vặn bằng gỗ sứa. Phần trên của đáy đàn, hai khoáy gỗ đối nhau như hai con mắt. Cây đàn lên tiếng ngân vang gần một nửa thế kỷ. (…) Ba ngôi âm thanh của đàn đáy “Tiếng tòng! tiếng dụng! tiếng dênh!” hợp thành đựng trong bầu đáy; nhà nghề gọi là “hồn đàn bất tử!” (trang 207)
Được hưởng một gia tài như thế, Tư Chản, coi đàn như một người cha, một ông tổ, đàn là nguồn nghệ thuật và nguồn sống:
“Tư Chản quan tâm đến cây đàn nằm đây như nâng giấc một người cha ốm. Trên bàn thờ sát vách bên trái, -cố để khuất mắt người lạ- cây đàn được nằm trong tư thế, dày, trục nghiêm trang. Trên đáy phủ tấm khăn the màu hoàng yến, nay đã ngả màu lõi mít che bụi và che tất cả.
Ngày nào ông cũng hai lần nâng tấm khăn, nhìn kỹ toàn cây đàn. Sóc, vọng hai lần mỗi tháng; vào buổi tối, ông đều lau bụi, và bàn tay lại chạm khẽ lên dây tơ, lặng nghe tiếng xa xưa vọng lại. Ông đứng ngẩn ngơ, quên, nhớ, mông lung. Trước khi quay lưng ông không quên chắp tay thành kính vái cây đàn đủ bốn vái.” (Mộ Phách, trang 207-208).
Thế rồi thời thế thay đổi, thằng Thuyên lớn lên đi bộ đội cầm súng thay đàn… Vợ chồng Tư Chản không còn được tự do đàn hát kiếm sống như trước nữa, nhưng trong lòng vẫn “nhớ dồn thương góp”, âm thầm lấy đêm 17 tháng 8 cúng tổ tiễn thu. (Ngày 17/8 có một ý nghiã chính trị). Họ chờ lúc trăng khuya, cổng đóng then cài, tìm lại nghề cũ, tiếng đàn chen tiếng phách, nổi chìm giọng ngâm tha thiết của những đêm xưa… “Khúc “Cung bắc” đang chơi vơi như đò chưa cập bến. Bỗng tiếng chó sủa rộ từ phía nhà thím Vượng hắt sang. Ðàn phách im bặt. Hai linh hồn đang rong ruổi quá khứ vụt trở về thực tại. Chó vẫn sủa dai dẳng. Ngờ đâu tiếng tơ, tiếng phách đã leo rào, lọt đến tai người, va vào miệng chó”. (trang 210).
Từ đêm đàn ca vụng trộm đó, hai vợ chồng nơm nớp lo sợ, sợ người và sợ chó, sợ cả chó người.
Rồi chuyện gì phải đến đã đến. Thuyên, đứa con trai duy nhất, đang đợi được kết nạp vào Ðảng, dưới sự chỉ đạo của Đáng, đã ra tay xử lý cây đàn. Thuyên khẳng định: cây đàn đáy chính là “đồn địch”. Và như một chiến sĩ can trường, Thuyên xông vào tóm lấy cổ “địch”: “Thuyên hăng hái nhảy tới bên cạnh bàn thờ, tóm lấy cây đàn đáy – Cây đàn va vào vách “Cang!” một tiếng từ đàn đáy vọng ra như tiếng kêu cứu thất thanh của một tội nhân đến giờ hành quyết” (trang 233).
Kêu cứu cũng vô ích, cây đàn không thoát khỏi định mệnh oan trái của mình. Sau khi bị đập tan tành, xác đàn bị hoá kiếp lần nữa: trở thành mớ củi nấu nước tắm cho cậu quý tử: “Lửa cháy vù vù dưới thùng nước tắm. Ông Chản đang loạn bước ngoài ngõ, ngoài vườn, xéo nát cả luống rau mới cấy. Tai ông nghe lửa réo và ngửi thấy mùi đàn cháy khen khét như một vật có xương có thịt. Ông thảng thốt nghe rõ tiếng đàn từ trong cháy phi ra. [...] Ông hỏi vợ có nghe tiếng gì không? (trang 234).
Từ đấy, Tư Chản cứ trầm trầm đi tìm lại tiếng đàn, mấy tháng sau ông mất. Đào Khuê chọn ngày cúng chồng rồi tìm miếng lụa liệm cỗ phách của mình, nó tên là Kim phách. Kim phách cũng có một sử thi lẫy lừng không kém cây đàn đáy của Tư Chản. Đào Khuê mai táng Kim phách trong ngôi mộ chôn cạnh bờ ao.
Mộ phách ngân lên như tiếng khóc tiễn đưa thi ca, âm nhạc về bên kia thế giới trong một thời mà nghệ thuật đích thực bị xử lý như một phạm nhân. Với Mộ phách, Phùng Cung đã để lại những âm giai bất tử về sự bức tử một cây đàn và sự tuẫn tiết của một cỗ phách. Và qua đó là sự tàn phá nền văn hoá cổ Văn Lang.
Từ bà Huyện Thanh Quan đến Phùng Cung
Sau khi thống nhất nước Nam, Nhà Nguyễn gỡ cung điện Thăng Long đem về Huế. Năm 1831, vua Minh Mạng lấy Hà Nội (tên một tỉnh nhỏ phía bắc nước Tàu) đặt cho Thăng Long. Việc gỡ cung điện vua Lê và đổi tên Thăng Long thành Hà Nội, của nhà Nguyễn nhằm xoá tinh thần phò Lê trong lòng người dân đất Bắc, không qua mắt được nhà thơ: Bà Huyện Thanh Quan, thày dạy con gái vua Minh Mạng, sáng tác Thăng long thành hoài cổ như một kiệt tác hoài Lê, một sự phản kháng âm thầm của kẻ sĩ Bắc hà “nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc, thương nhà mỏi miệng cái gia gia”, tuy Gia Long không hề đốt sách, và Minh Mạng không dám lấy tên Gia Long đặt cho Bắc thành.
175 năm sau, khi thống nhất Nam-Bắc, chính quyền miền Bắc đổi tên Sài gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh, sách lược học lại của nhà Nguyễn, kèm thêm chương trình học tập cải tạo và sự tiêu diệt gần như toàn bộ văn học miền Nam. Kết quả: 35 năm sau, cái tên “mới” của thủ đô miền Nam vẫn chưa hề thu phục được lòng người, mà đối với người dân miền Nam, nó vẫn chỉ là vết tích tủi nhục của sự bại trận, của sự “mất nước” như tình cảm bà Huyện Thanh Quan đã dành cho nhà Nguyễn.
Ở thời đại nào, chính sách văn hoá vẫn luôn luôn là cốt tuỷ. Đối xử một cách văn hoá với người bại trận là có thể chiếm được lòng người. Bởi văn hoá ở trên chính trị. Đối với văn hoá, không thể áp dụng chính sách tiêu diệt địch thủ như trong chiến tranh.
Không phải cứ loại được Tự lực văn đoàn ra ngoài, thì văn học xã hội chủ nghiã sẽ trở thành lãnh đạo. Không phải cứ loại được Nhân Văn Giai Phẩm ra ngoài, thì những ngôi sao Tố Hữu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi… sẽ ngời sáng mãi mãi trên nền trời văn học Việt Nam. Không phải cứ loại được Văn học miền Nam ra ngoài, thì Văn học miền Bắc sẽ trở thành độc nhất vô nhị.
Bởi đất văn học không phải là một vùng chiến địa, để một còn một mất, mà là đất hoà bình, sống chung, càng nhiều tác phẩm hay, nền văn học của một nước càng thêm sáng giá. Việc loại trừ những giá trị, những tác giả lớn của văn học Việt nam trong thế kỷ XX ra ngoài vì lý do chính trị, đã thu nhỏ nền văn học Việt Nam trong một bàn tay. Và bàn tay này đã cắt hết ngón, là những tinh tuý của dân tộc, chỉ còn lại những tác giả công thần, tự bịt tai, bịt mắt như những Con ngựa già của chú Trịnh mà Phùng Cung mô tả.
Đó là tiếng kêu tha thiết nhất mà Phùng Cung để lại trong tác phẩm, tiếng chim báo bão về nền văn hoá Việt đang bị thu gọn và tự hủy, kể từ việc bảo tồn đất tổ Hùng Vương đến giá trị tinh thần của một nền văn học nghệ thuật toàn diện của dân tộc.
(Xem tiếp Chương 3: Thơ Phùng Cung: Trường phái Đường lâm, một nền thơ chống chiến tranh và tù ngục)
*
III. Thơ Phùng Cung: Đường Lâm thi chí
Một nền thơ chống chiến tranh và tù ngục
Quan niệm phản chiến trong thơ Phùng Cung
Hầu như tất cả văn nghệ sĩ đều đứng lên ủng hộ phong trào toàn quốc kháng chiến. Sự quyết chí đánh Pháp trong toàn khối dân tộc, không chỉ xuất phát từ một lịch sử nghìn năm bị đô hộ, mà còn do nền giáo dục, luôn đề cao tinh thần chống ngoại xâm, coi nhẹ các giải pháp hoà bình. Những chủ trương hoà hoãn với người Pháp, để nâng cao trình độ văn hoá và dân chủ của người dân trước đã, của Phan Châu Trinh, Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh, Nguyễn Tường Long… đều không phát triển được, đôi khi còn bị đánh giá sai lầm, bị buộc tội phản quốc.
Tóm lại tinh thần người Việt luôn được chuẩn bị cho một thái độ chủ chiến.
Những người trong NVGP đều tham gia kháng chiến, nhưng sau chiến tranh, họ đã có những suy nghĩ khác:
- Ở Văn Cao, là niềm hăng say tuyệt đối ban đầu: vào đội trừ gian, sáng tác bài quốc ca nẩy lửa. Sau khi hoà bình lập lại, ông không còn sáng tác ca khúc nữa.
- Ở Hoàng Cầm, chiến thắng chỉ là giấc mộng, kể cả trong giai đoạn sôi nổi nhất của Đêm liên hoan.
- Ở Lê Đạt, là hình ảnh hãi hùng tiêu thổ kháng chiến, là tội lỗi của kẻ đốt quê hương. Tâm tư Lê Đạt sau này thấy lại ở Phan Nhật Nam trong trận chiến Nam-Bắc.
- Ở Trần Dần là bản hùng ca lụa Việt Bắc mà đói khát và bệnh tật phủ lên xác anh hùng.
- Ở Quang Dũng là hình ảnh hãi hùng của đoàn quân không mọc tóc.
Tất cả các thi sĩ trên đây đều thấy hậu quả của chiến tranh, và rút ra bài học của mình.
Phùng Cung có một hướng đi khác hẳn: ông không nhìn hậu quả của chiến tranh để hối hận như các bạn. Ông cũng không đổ trách nhiệm trên đầu kẻ thù như phần đông người khác. Phùng Cung coi chiến tranh (chống Pháp và chiến tranh Nam-Bắc) đều phát xuất từ một căn bệnh của dân tộc: bệnh hiếu chiến. Chứng nan y này đã thấm vào máu, khó có thể chữa được.
Ở điểm này, Phùng Cung đối lập với Văn Cao trong quan niệm yêu nước. Và Phùng Cung, nhiều lần trong thơ cũng như trong văn, đem bài quốc ca ra phê bình.
Trăng ngục là bản hùng ca phản chiến, kết tội Cách mạng mùa thu, nhìn sự hiếu chiến của dân tộc như nguyên nhân sau xa nhất của hai cuộc chiến trong thế kỷ XX: chống Pháp (46-54) và thống nhất đất nước bằng võ lực [chống Mỹ và chiếm miền Nam (54-75)].
Tập thơ Trăng ngục tập hợp những sáng tác trong tù. Vì không có giấy bút, không thể viết truyện nhẩm, nên Phùng Cung “bắt buộc” phải làm thơ.
Tập thơ Trăng ngục biểu hiệu những tư tưởng đối lập khác lạ, đầy bất khuất, trong những dòng chữ bị cầm tù suốt đời của tác giả. Tác phẩm chứa đựng những lời thơ mạnh, khẳng khái, đanh thép, như những mũi dao nhọn, đục thủng màng lưới bủa vây nhà thơ, đánh sụp bức tường tù tội, để lộ diện con người tự do, sẵn sàng chịu trả giá cho hành động và tư tưởng của mình, chống lại toàn bộ hệ tinh thần yêu nước chủ chiến.
Vào đầu là bài Biển cả, làm tại trại biệt giam Bất Bạt năm 1961, ngục tù tại chính Sơn Tây, vùng đất tổ. Nhà thơ ví chế độ toàn trị như biển cả:
Biển cả khoác triều phục đại dương
Hợm mình – uy nghi đồ sộ
Song đòi phen
Nghiêng ngửa – đáng thương (…)
Hỡi biển cả!
Diện tuy rộng
Nhưng thiếu những giác quan cần thiết
Lòng tuy xanh – sâu
Xanh sâu đầy mặn chát….
Nộ cuồng sóng vỗ
Trống trải bơ vơ
Chiều quả phụ
Bình minh vô vọng phương mờ…
Ôi! Bao yên lặng thanh cao
Ðều chìm
Trong thét gào man rợ…
Khi Bố Cái đã bị bắt, bị tù trên đất Đường Lâm: tất cả đều đã sụp đổ.
Dân tộc, bây giờ không đứng trước quân nhà Đường phương Bắc, mà phải đối diện với biển cả mênh mông của chế độ cực quyền.
Người dân hỏi ý cha. Bố Cái trả lời:
Biển cả mênh mông
Như biển cả
Trước mắt trẻ thơ
Mỗi tinh cầu
Chỉ là chấm nhỏ
Càng tối đen càng nhìn rõ xa xanh.
Nhà thơ trình bày trước mắt chúng ta hai thực thể, một bên là cái thế quyền lồng lộng, khoác “Triều phục Đại dương”; một bên là sinh linh “trăm họ”, những con người.
Đại dương ấy có đầy đủ phương tiện để vùi lấp trăm vạn sinh linh trong một trận thủy triều. Còn con người, con người lấy gì chống lại? Con người chỉ có ánh mắt. Và mắt trẻ thơ.
Dưới ánh mắt của đứa bé, cái thế quyền lồng lộng ấy là gì?
Nhà thơ trả lời: Chẳng là gì cả, nó chỉ là con số không.
Bởi vì, dưới mắt đứa bé: “mỗi tinh cầu chỉ là chấm nhỏ, càng tối đen, càng nhìn rõ xa xanh”.
Vẫn giọng bố cái, nhà thơ chỉ cho dân, cách đối phó với bạo lực cách mạng:
Thì nhắm mắt
Thì bưng tai
Nhưng phải đâu khiếp sợ
Chỉ điếc đui vừa đủ
Để làm ngơ.
Bài Biển cả tung trên trang đầu tập thơ Trăng ngục như một thách đố trí tuệ, gói gọn triết lý tương đối và trung dung của tác giả. Phùng Cung đòi hỏi sự hài hoà trong vũ trụ, đòi hỏi quyền sống cho những cái nhỏ, cái lớn, đòi hỏi sự bình đẳng không những về mặt chính trị văn hóa mà cả về thiên nhiên môi trường.
Bài Trăng ngục rất ngắn, tập trung những tái tê bất hạnh của một đời tù:
Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh – sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi!
Xa mãi đến bao giờ…
Trong tù, chỉ có vầng trăng, chỉ còn vầng trăng. Trăng quấn quýt. Trăng là áo. Trăng là ngày xưa. Trăng là vợ. Trăng là tri kỷ.
Trên vai áo tù trăng vá lụa là một câu tuyệt bút, là sự hài hoà giữa mềmcứng, giữa lụa, giữa trăngáo, giữa xagần, giữa xót xaâu yếm, giữa tự dotù tội. Nhà thơ đã kêu gọi sự hài hoà đó trong bài biển cả, nhưng không thấy biển cả trả lời, chỉ có vầng trăng đáp lại.
Ai liều tảo mộ chiều nay
Phản chiến là tư tưởng chủ yếu trong tập Trăng ngục. Phản chiến toàn diện, bất cứ “thể loại chiến tranh” nào, vì đối với Phùng Cung “dấu tích tàn phá của chiến tranh vệ quốc hay xâm lược” cũng như nhau. “Tất cả chỉ là sự bày đặt, buôn bán máu xương của ma vương quỷ dữ!” (Dạ ký, trang 286).
Trong bài Gãi đất Phùng Cung gọi những kẻ chủ chiến là bọn:
Lái buôn binh lửa
Ôi! binh lửa triền miên
Tuổi trẻ gái – trai
Bị lôi đi – hết
Dờ dịt sức già gãi đất.
Bởi chiến tranh nào cũng chôn sạch tuổi trẻ, chỉ để lại những người già ngồi gãi đất.
Thu xa là bài chinh phụ ca mới, phản bác những anh hùng ca chính thống của Tố Hữu, Chính Hữu… và cả những anh hùng ca bàng thống của Trần Dần, Phùng Quán…
Thu xa là giấc mơ phản chiến chống lại Cách mạng mùa thu, là sự kết án chiến tranh, kêu gọi con người hãy làm tình yêu, làm hoà bình, đừng làm chiến tranh, hãy thôi chém giết:
Gió vàng đếm lá vàng rơi
Mười hai bến nước
Em ngồi quay xa
Xa quay gấp
Làn tơ vội đứt
Em nhủ lòng
Tơ đứt vì xa
Tơ vương vó ngựa quan hà
Xa in dấu ngựa
Canh gà gọi thu
Quan hà lộng gió chinh phu
Rừng thu tắm máu
Máu thu gội chiều
Tơ vàng nhỏ giọt lệ điều
Đăm đăm tay vẫn chiều chiều quay xa
Xa quay nhẹ
Làn tơ vẫn đứt
Em hỏi lòng
Tơ đứt vì đâu
Sông ngân lỡ bắc nhịp cầu
Mà người trần thế
Mang sầu thiên cung.
Trong các thi sĩ miền Bắc, chưa ai dám đả động đến “chính nghĩa” của cuộc “Cách mạng Mùa thu” như thế, bởi đó là “chân lý tuyệt đối” được “tất cả mọi người” công nhận. Trừ Phùng Cung. Phùng Cung không. Phùng Cung đi ra ngoài quỹ đạo. Phùng Cung là người đầu tiên dám dùng những hình ảnh kinh hoàng như “Rừng thu tắm máu, máu thu gội chiều” để viết về Cách mạng mùa thu.
Rồi hai chữ quay xa, tại sao lại quay xa mà không quay tơ ? Chữ xa nhập nhoè nhiều ý nghĩa: xa vừa là guồng tơ, guồng cửi; nhưng xa còn là bánh xe chiến tranh như chiến xa; xa còn là xa lià đứt đọan. Người chinh phụ ở đây, không chỉ là nạn nhân của chiến tranh, chịu hậu quả của chiến tranh như những người chinh phụ thời xưa nữa, mà chính nàng cũng góp phần vào bộ máy chiến tranh, nàng đang quay bánh chiến xa, nàng đang “tắm máu rừng thu” như chồng. Ống kính độc đáo của nhà thơ, quay cảnh toàn thể dân tộc lao vào cuộc chiến tàn khốc: ống kính duy nhất của thi ca Việt nam đã chụp bắt được trách nhiệm mỗi cá nhân trong chiến tranh, nam cũng như nữ.
Nhưng Phùng Cung không chỉ dừng lại ở đấy, ông còn đi sâu hơn, để truy lùng thủ phạm chiến tranh, ông đã đụng đến cả những biểu tượng được tôn sùng nhất:
Cờ máu rợp trời
Lợm gíó!
Tiếng quốc thiều tăng âm
Cực đại thét gào
…”Thề phanh thây uống máu!…”
Ta lùng trong kho nhớ
Nhẩm biên niên sử
Xin hỏi loài người
Có quốc thiều nào man rợ thế không?
Hỏi tội cách mạng mùa thu chưa đủ, nhà thơ còn hỏi tội quốc ca, quốc kỳ.
Chưa nhà thơ nào dám đưa ra những lời buộc tội gay gắt về những biểu tượng “thiêng liêng” như thế: Có quốc thiều nào man rợ thế không?
Bên cạnh những hình ảnh dễ sợ của “cờ máu rợp trời lợm gió”, bên cạnh những lời buộc tội không khoan nhượng, rằng trong “kho nhớ của loài người”, không thấy có cái “quốc thiều nào man rợ” như thế; là những lời thơ trữ tình đẫm lệ gửi cho Quê hương tan nát vì chiến tranh, lầy máu và nước mắt:
Quê hương ơi!
Ðường quan lầy nước mắt
Ðiệu sáo hết du dương
Mây chìm
Gió ngủ (…)
Sông sâu bặt tiếng gọi đò
Chim hãy cùng ta
Gọi cành xanh ngóc dậy
Để một lần
Quê hương thấy lại quê hương
Ráng chiều ngụy tạo bình minh
Lá thuyền tình
Chỉ lênh đênh giữa dòng.
Phùng Cung là người chữ duy nhất ở đất Bắc, đối với hai cuộc chiến, đã nhìn thấy và đã dám nói ra cái giá quá đắt phải trả cho hòa bình đã mất. Dưới mắt nhà thơ, chiến tranh không chỉ là những thúc giục lên đường, không chỉ là những tiếng hô xung phong, mà đằng sau tất cả cờ xí rợp trời là bộ mặt kinh hoàng của thần chết:
Phát lệnh chia bôi…
Ngọn gió giao liên
Gửi tiếng xa gần
Trống phát dẫn
Gia nô thần chết cầm dùi
Dấm dúi vùi nông
Chiều bạc mệnh
Khói hương ơi!
Ðền miếu tan rồi!…
Năm tận tháng cùng
Hòng hõng mong thư tuyến lửa.
Những hình ảnh “gia nô thần chết” trong thơ Phùng Cung, hoà cùng những xác “người chết hai lần” trong ca từ Trịnh Công Sơn, đã hợp thành dòng máu của anh em chém giết.
Trong buổi liên hoan mừng chiến thắng, Phùng Cung âm thầm đếm lại những đốt xương tàn:
Tiếng gia tiên
Thổn thức dưới mồ
Những lúc chim về
Tím lịm chân mây
Ai liều tảo mộ chiều nay
Mà hương tảo mộ bay đầy hoàng hôn.
Hướng về những linh hồn quá trẻ đã bị vay tuổi để xuất trận, Phùng Cung tảo mộ con và liệm hồn mẹ, những người mẹ bạc đầu hương khói trên những nghiã trang giả không có xác trong mồ:
Con vừa mười sáu tuổi đời
Nửa đêm vay tuổi lấy người chiến tranh
Ðèn con tiễn đến cổng đình
Quay về hụt bước ngỡ mình chiêm bao
Khe Sanh – Dốc miếu là đâu
Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn
Máu chiều gội đỏ hoàng hôn
Nghiã trang mồ giả, nắm xương không mồ
Ðồng chiều gió tím mấp mô
Nén hương đẹn khói, mấy mùa khóc vay.
Và dưới mồ tiếng Phùng Cung nhắn lên, ngược dòng với Văn Cao, Lưu Hữu Phước: Này thanh niên ơi! Đừng bao giờ chọn giải pháp chiến tranh cho dân tộc.
*
Xem đêm là tập thơ của người Việt cổ, “người Rừng”, thơ Đường Lâm thi chí, của Bố Cái bị cầm tù trên Bất Bạt. Tất cả đã bị tàn phá, từ thân cây ngọn cỏ, đến cả đọt sương, đến cả tâm hồn, đến cả khổ đau và hạnh phúc, cũng không còn như xưa…
Xem đêm là một hình tượng mới, một hành động chữ mới, mỗi chữ là tinh cầu, chỉ cần vài câu đã gói trọn bầu trời nhật nguyệt thực, sau Nhân Văn. Ở Hoàng Cầm là những đêm kim, đêm mộc, đêm thủy, đêm hoả, đêm thổ. Ở Phùng Cung là nghe đêm, xem đêm…
Xem đêm là một vũ trụ không ánh sáng của những số kiếp bọt bèo, những người bị tù chung thân vì tội chữ:
Lênh đênh muôn dặm nước non
Dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh (Bèo)
Xem đêm là sự đậm đặc của những con chữ nguyên chất, những con chữ quê mùa, chưa bị văn minh xâm lấn, chưa bị lừa lọc tấn công, chưa bị chủ nghiã nhiễm độc, chưa bị chuẩn hoá theo một mẫu mực nào.
Trong đêm miên viễn ấy, người và vật nhập quyện vào nhau trong một trạng thái dung hợp vật chất, tinh thần. Thơ cô đọng như Đường thi, một vài chữ đủ gánh cả phận người. Sự giao thoa giữa vật thể, tiếng động, không gian là đặc tính của Đường Lâm thi chí:
Đêm về khuya
Trăng ngả màu hoa lý
Tiếng gọi đò căng chỉ ngang sông (Đò khuya)
Đêm, trăng, hoa lý, tiếng gọi đò, sông… là những yếu tố của một cảnh đêm có thể chất hoàn toàn khác nhau. Nhờ một hành động chữ, chúng đã hoá mộng. Để được sống lại trong một không gian khác, để tạo ra nghịch cảnh của một đời người.
Sự cô đơn tuyệt đối của con người bị cô lập suốt đời, được nhà thơ biểu hiện dưới một màn trăng đêm không người, mà có “tiếng gọi đò” như “con nhện vô hình” giăng nối hai bờ xa cách.
Hai quang cảnh, một của thiên nhiên hiện thực, diễm ảo: Đêm về khuya trăng ngả màu hoa lý và một của tâm thức cô đơn tuyệt đối Tiếng gọi đò căng chỉ ngang sông, của kẻ bị cách ly, lưu đầy, bị đoạt tự do và cướp ánh sáng mà Nguyễn Mạnh Tường gọi là un excommunié, kẻ bị khai trừ.
Nhưng tất cả nghịch cảnh, cách ly, đều đã mà đều đã không. Đã xẩy ra và đã không còn nữa: sắc sắc không không, như một sự giao thoa triết học đông tây phi thường, mới lạ.
Một bài thơ khác:
Quất mãi nước sôi
Trà đau nát bã
Không đổi giọng Tân Cương (Trà)
Đây chính là thơ Đường Lâm nói chí.
Chỉ có ba “nhân vật”: Trà, nước, giọng, ba yếu tố thuần khiết của một cuộc thiết trà.
Bỗng chữ quất hiện lên như một hung thần và chữ Tân Cương sừng sững như một người Rừng, một chí lớn, một sự cương cường mới bị giam hãm ở đất Tân Cương, trại tập trung các trí thức Trung Hoa bị Mao Trạch Đông đày đi gánh phân; biến cuộc thiết trà thành một cuộc tra vấn tàn phũ, mà kẻ thẩm tra quất trà đến nát bã nhưng trà sĩ vẫn không khai, không đổi giọng bất khuất. Thơ Phùng Cung có chí Phùng Hưng.
Một bài thơ về mẹ:
Mồ hôi mẹ
Tháng ngày đăm đăm
nhỏ giọt
Con níu giọt mồ hôi
Đứng dậy làm người (Mẹ)
Một giọt mồ hôi mẹ, đủ tác thành khí phách con. Chữ đi từ núi Tản, mỗi chữ là một giọt thép. Đọc thơ ấy, sẽ hiểu tại sao con người ấy bị biệt giam 11 năm. Bởi không có phép gì “cải tạo” được tâm hồn và chí khí của ngọn Ba Vì.
Vẫn về người phụ nữ, lần này là người vợ:
Lưng áo em
Ngoang vôi trắng xóa
Cái trắng này vắt tận trong xương (Mồ hôi xương)
Chân dung người vợ cũng toát ra cái can trường trắng của đất Mê Linh. Sự can trường dũng cảm hàng ngày của người vợ phải đương đầu với miếng cơm manh áo, để nuôi con, để tồn tại.
Và một tinh thần phản chiến, kiên cường và dứt khoát, rùng rợn, trong cung cách Đường thi:
Mỗi chiến thắng
Một lần gươm tắm rượu
Ruồi vẫn qua lùng máu
sa trường (Gươm báu)
Bài Nghe đêm gói trọn nỗi cô đơn cuối đời của con người bị lưu đầy, vì chữ nghiã, từ tuổi thanh niên đến lúc đầu bạc:
Đêm chợt nghe
Trong gối vọng tiếng ru
Lắng tai mới rõ
Tiếng tóc mình chuyển bạc (Nghe đêm)
Đó là sự cô đơn của kẻ một mình một ngựa trên hành trình mở nước và dựng nước về phía văn hóa, tình nước và tình người.
© Copyright Thụy Khuê [http://thuykhue.free.fr]
Nguồn: Tác giả gửi

Mời đọc:


Sunday, September 9, 2012


LAN HƯƠNG * PHÙNG CUNG

Trò chuyện với ông Nguyễn Minh Cần về Phùng Cung
Lan Hương thực hiện - 10/2003)




Nhà xuất bản Văn Nghệ vừa in xong cuốn sách “Phùng Cung, truyện và thơ chưa hề xuất bản”. Đây là tuyển tập gồm 10 truyện ngắn và 35 bài thơ của nhà văn Phùng Cung chưa bao giờ được ra mắt bạn đọc. Nhân dịp này, Lan Hương, phóng viên ĐCV đã phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần, một trong những người đầu tiên được đọc bản thảo của tập sách này. 
Ông Nguyễn Minh Cần cũng là người đã viết một bài tiểu luận hết sức chi tiết về tư trào Nhân văn Giai Phẩm vào năm 1994 để nói lên những nỗi oan, những nỗi đau của những văn nghệ sỹ đã từng bị đàn áp trong suốt mấy chục năm sau đó, trong đó có Phùng Cung.

--------------------------------------------------------------------------------

- Một quyển sách đặc biệt đã phải chờ gần 50 năm mới ra mắt độc giả !
- Một nạn nhân của vụ đàn áp Nhân Văn – Giai Phẩm ở miền Bắc
- Một tinh thần bất khuất trước bạo quyền : nhà văn Phùng Cung,nhà thơ Phùng Cung 

--------------------------------------------------------------------------------

Giá bán : 30 Gia-kim tại Canada, 26 Mỹ-kim trong Bắc Mỹ, 32 Mỹ-kim ngoài Bắc Mỹ. Xin gửi money order về:
BS. Lâm Thu Vân, TTDCCVN, 6420 Victoria # 4, Montreal H3W 2S7, Qc, Canada.

--------------------------------------------------------------------------------

Muốn biết thêm chi tiết, xin đọc:
Tiểu Sử Phùng Cung
Phùng Cung Truyện và Thơ (Chưa hề xuất bản)
 


 

--------------------------------------------------------------------------------

Phóng viên: Nhà xuất bản Văn Nghệ vừa xuất bản cuốn sách “Phùng Cung, truyện và thơ chưa hề xuất bản”. Ông là một trong những người đầu tiên được đọc bản thảo của cuốn sách này, xin ông cho biết những cảm nghĩ của ông về sự kiện này ạ?

Nguyễn Minh Cần (NMC): Theo tôi đây là một sự kiện lớn đối với văn học nước nhà. Tôi dùng chữ “lớn” này, không hề nói ngoa một chút nào cả, vì trong những tác phẩm xuất bản lần này, các bạn sẽ thấy có những bài rất hay, rất đặc biệt, có thể nói đó la ønhững hạt ngọc hiếm thấy trong nền văn chương Việt Nam đương đại. Cho nên việc đưa những tác phẩm này ra ánh sáng là một sự kiện lớn, một sự kiện quan trọng để dân chúng có thể thưởng thức, có thể xét đóan, tuyển trọn và trân trọng đặt nó vào một vị trí xứng đáng trong nền văn học của nước ta.

Phóng viên: Những tác phẩm của Phùng Cung được ra mắt bạn đọc lần này, như ông đánh giá là một sự kiện quan trọng để đưa những hạt ngọc quý báu ra ánh sáng, vậy xin ông cho biết cái hành trình vất vả mà những tác phẩm này đã phải trải qua để đến được với các độc giả lần này.

NMC: Phải nói, cái gian truân nhất ở đây, là cái gian truân của chính tác giả. Bởi vì sáng tác ở trong tù, hoặc sáng tác trong điều kiện mất tự do là điều hết sức khó khăn. Những chuyện ngắn mà Phùng Cung viết ra trong tuyển tập lần này, sau khi ông đã bị đấu tố trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP), ông viết trong điều kiện bị theo dõi, còn những bài thơ của ông có 35 bài thì 34 bài viết trong ngục tù. Như chúng ta đều biết, sáng tác trong ngục tù của cộng sản Việt Nam thật vô cùng khó: không có giấy, không có mực, mà nếu cai tù biết được thì ngay cả tính mệnh của người sáng tác cũng hết sức nguy hiểm. Thêm nữa sáng tác xong rồi, trong điều kiện không có giấy mực, nên tác giả phải học thuộc, phải ghi vào trong bộ nhớ, và khi ra tù thì phải khôi phục lại. Thêm vào đó, khi khôi phucï lại được rồi lại phải cất kỹ ở một nơi nào đó vì nếu công an, mật vụ mà biết thì sẽ gây nguy hiểm cho tác giả, cho gia đình nhà thơ. Ngoài ra, trong việc này có một cái cơ duyên đặc biệt, một cơ duyên trời cho, khi con trai của Phùng Cung, tức là Phùng Hà Phủ đến được Canada, gặp được bác sỹ Lâm Thu Vân. Có điều đặc biệt là một người sống ở miền Bắc, một người sống ở miền Nam, hai người sống trong hai điều kiện hết sức khác nhau, nhưng khi gặp nhau thì có một sự đồng cảm hết sức gần gũi, tìm thấy nhau rất dễ. Chính nhờ sự đồng cảm đó mà hai cô cháu rất nhanh chóng tin cậy nhau. Phùng Hà Phủ đã nói hết nỗi lòng của mình, kể về cuộc đời của bố, sáng tác của bố và ý nguyện của bố. Mà ý nguyện của bố là làm sao để những sáng tác của ông được phổ biến. Bác sỹ Lâm Thu Vân là người đầu tiên hưởng ứng điều đó, và hết sức ủng hộ ý định này. Hai cô cháu bàn nhau để những bản thảo được đưa ra khỏi bức màn che của chế độ. Nhưng khốn thay, những bản thảo này khi ra nước ngoài không rơi trực tiếp vào tay bác sỹ Lâm Thu Vân, mà vào qua một người khác, nên họ ngâm lại trong nhiều năm. Cuối cùng sau một sự đấu tranh rất lâu dài, bản thảo mới trở về tay bác sỹ Lâm Thu Vân. Đến nay bác sỹ Lâm Thu Vân cũng không kiểm chứng được số lượng tác phẩm chuyển ra đã đủ chưa, vì khốn thay, sau khi trờ về Việt Nam một thời gian ngắn thì Phùng Hà Thủ cũng qua đời. Riêng tôi, tôi biết có hai tác phẩm hết sức đặc biệt thì không có trong lần này.

Phóng viên: Cho đến nay người ta biết đến Phùng Cung qua câu chuyện “Con ngựa già của Chúa Trịnh” in trong báo Nhân Văn số 4 tháng 10 năm 1956, vậy theo ông, văn phong của Phùng Cung trong mười truyện ngắn vừa ra mắt lần này có gì giống, khác, so với phong cách của Phùng Cung trong chuyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh” ngày xưa?

NMC: Nhà văn Phùng Cung tham gia vào tư trào NVGP bằng một truyện ngắn duy nhất là “Con ngựa già của Chúa Trịnh”. Thực ra truyện “Con ngựa già của Chúa Trịnh” rất hay, nhưng dù sao nó cũng chỉ là một cách nói bóng bẩy, xa xôi, dù vậy, những người lãnh đạo văn nghệ hồi bấy giờ cũng suy luận rằng, đây là một lối nói hai mặt, để chĩa vào Đảng, chĩa vào những tầng lớp bồi bút, văn nô của Đảng, vì khi Phùng Cung tả con ngựa, lúc đầu là một con tuấn mã, nhưng khi vào cung của Chúa Trịnh, ăn no, béo tốt rồi thì cũng không làm gì được nữa, cũng như nhiều nhà văn thời tiền chiến trước năm 1954 thì viết rất xuất sắc, nhưng khi đã chịu cúi đầu khuất phục, theo đường lối văn nghệ của Đảng thì họ không sáng tác gì đáng giá. Thêm vào đó người ta cho rằng Phùng Cung sử dụng hình tượng của Chúa Trịnh để ám chỉ Đảng, mà Chúa Trịnh như chúng ta biết, là một vị Chúa tiếm quyền của Vua Lê, cũng là cách để ám chỉ Đảng tiếm quyền của dân. Chính vì vậy, chỉ vì một bài văn thôi mà Phùng Cung bị đánh tơi bời, nặng nề. Và dù bị đàn áp như vậy, nhưng Phùng Cung vẫn tiếp tục sáng tác một cách ngấm ngầm bí mật. Tổng cộng có mười truyện ngắn, hay thực ra phải có ít nhất mười hai truyện, nhưng ở đây đã thất lạc mất hai truyện, mà Phùng Cung viết trong thời kỳ bị đấu tố căng thẳng. Trong mười truyện, “Mộ phách”, “Biệt tích” là những truyện rất cảm động. Ở đây văn phong của Phùng Cung vừa nhẹ nhàng, nhưng cũng sâu sắc vô cùng.

Phóng viên: Ngoài mười truyện ngắn, trong tuyển tập Phùng Cung lần này còn giới thiệu với độc giả ba mươi lăm bài thơ của ông. Xin ông cho biết cảm nghĩ của ông về những bài thơ này ạ?

NMC: Như tôi đã nói, trong số ba mươi lăm bài thơ này, chỉ có một bài viết sau khi Phùng Cung ra tù, còn lại ba mươi tư bài ông viết trong thời kỳ bị tù, và thậm chí nhiều bài ông viết trong xà lim biệt giam, trong cảnh gông cùm. Phải nói rằng, chính trong cảnh gông cùm, cay nghiệt như Phùng Cung diễn tả là “Đêm ngày chân rỉ máu cùm lim”, nên nhà thơ cảm xúc một cách thấm thía vô cùng sự đàn áp của chế độ cộng sản đối với con người. Trong ba mươi lăm bài thơ của Phùng Cung, hầu hết là những bài vang lên tiếng thét đau thương đối với tình trạng bi đát của đất nước, của Tổ quốc. Đây là những bài mà người ta thấy rõ Phùng Cung đau đớn như thế nào trước tình trạng của Tổ quốc bị đè nén bởi chế độ độc tài.

Phóng viên: Nói về Phùng Cung, người ta không thể không nhắc tới tư trào nhân văn giai phẩm từ năm 1956. Vậy xin ông cho biết về sự tham gia của Phùng Cung trong tư trào này và sự ảnh hưởng của tư trào Nhân Văn Giai Phẩm đối với cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Phùng Cung.

NMC: Chỉ đóng góp có một bài thôi, đó là chuyện ngắn “Con ngựa già của Chúa Trịnh”, mà đảng cộng sản Việt Nam (CSVN) khủng bố anh rất tàn tệ .So với tất cả những người khác cùng tham gia phong trào, Phùng Cung là một trong những người bị đàn áp nặng nhất, bị giam đến 12 năm trời, và sau khi ra khỏi ngục tù, thì vẫn tiếp tục bị theo dõi, bao vây, một cách khốn đốn. Có thể nói trong suốt 40 năm trời, Phùng Cung không ngẩng mặt lên được. Phùng Cung là một nghệ sỹ, một nhà văn, một nhà thơ có tài, nhưng sự đàn áp của đảng cộng sản làm cho tài năng của ông bị mai một đi rất nhiều, lẽ ra anh còn có thể phát huy được khả năng của mình hơn nữa. Sự đàn áp của đảng CSVN đối với tư trào NVGP đã gây nên một hậu quả hết sức nặng nề đối với nền văn học, nó làm thui chột không biết bao nhiêu tài năng, làm thui chột nền văn học mà hàng chục năm không ngóc đầu lên được. Và nó gây nên một nỗi sợ triền miên trong các nhà văn, trong giới trí thức cho đến tận bây giờ.



LÊ MINH À * PHÙNG CUNG

Lê Minh Hà
Phùng Cung, đời người, đời chữ

 
Thơ - với ai đấy - trước khi là nghiệp thì đã là nghề. Dù nhuận bút cho thơ luôn ít ỏi đến tội nghiệp thì đó vẫn là nhuận bút. Và đôi khi, nhuận bút nhỏ nhoi kia vẫn có thể bị coi là nhiều, bởi với người yêu thơ, thơ không bao giờ được là thế phẩm.

Với Phùng Cung, thơ có lẽ chỉ là nghiệp. Hẳn là thế! Vì nếu không, người thơ ấy đã phải răn mình treo bút sau bao nông nỗi mà duyên do là chữ nghĩa. Hơn mười năm ở tù vì vài ba phúng dụ nghệ thuật vượt ra khỏi khuôn khổ quy phạm của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa - Con ngựa già của chúa Trịnh, Dạ ký - ấy là cái giá Phùng Cung đã trả cho những đam mê chữ nghĩa của mình, ấy cũng là cái phần đau khổ người thơ đã gánh cùng bạn bè nghệ sĩ trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

Trong Cát bụi chân ai, Tô Hoài đã rất thâm trầm (hay là giễu cợt?) cho người đọc thấy những thống khổ mà Phùng Cung đã trải. Chân dung người tù mãn hạn Phùng Cung ấy sẽ khiến ta trọng hơn một Phùng Cung khác: làm đinh và làm thơ; làm đinh để sống và để vật lộn với chữ nghĩa, khó nhọc và mê mải chẳng khác gì một Hàn Dũ, một Giả Đảo thời xưa.
Tài tình ấy của Phùng Cung với thơ đã được thấu hiểu bằng tài tình của một người thơ khác - Phùng Quán. Trên một số Diễn Đàn năm ngoái, giới thiệu thơ Phùng Cung, Phùng Quán đã cho biết sẽ đi đọc thơ xuyên Việt hòng đủ tiền giúp Phùng Cung khai sinh thơ mình. Dưới suối vàng chắc hẳn Phùng Quán cũng ngậm cười vì người anh em thơ của mình rốt cục cũng đã ra mắt được tập thơ đầu tay. Ở tuổi sáu nhăm. Vâng, đúng, ở tuổi ấy.
Tôi hình dung Xem Đêm của Phùng Cung nằm khiêm nhường trên giá của một hiệu sách Hà Nội, lẫn giữa bao nhiêu bìa sách đỏ và xanh khác. Ở cái thời loạn sách, một cô sinh viên năm thứ hai cũng có thể được bố mẹ chi tiền in một tập thơ, những câu chữ rút ruột mà thành của Phùng Cung sẽ có tác động thế nào đến tâm thế con người?







Nếu dừng ở số lượng bài in trong tập Xem Đêm thì ắt phải giật mình: 200 bài. Hai trăm bài thơ, bài nào cũng buộc ta phải lắng mình lại mà ngẫm nghĩ. Tự nghĩ, đây không phải là một sự xa xỉ lời ca ngợi. Cũng tự nghĩ: Dễ mấy người làm được thế trong thơ.
Thơ Phùng Cung là thứ thơ kiệm chữ, phảng phất gợi nhớ Tanca, Haiku của Nhật. Thơ ấy buộc mỗi chữ phải ở thế thăng hoa. Xem Đêm đạt tới độ ấy: tứ không lộ và chữ thì như nhập hồn. Ví dụ mùa nước lụt, với Phùng Cung, đã là Mùa nước mắt:


Đê tiền triều gãy khúc
Đồng ngập trắng
Con lềnh đềnh cõng - vắng - bơi - suông
Thương em đứng giữa mùa nước mắt.

Ở một bài bất kỳ nào khác, cũng có thể tìm minh chứng cho điều đã nói, chẳng hạn Gặp em.


Lâu lắm gặp em
Em chỉ khóc quay đi
Bước - héo
Áo - gầy
Gió - va - nón - cũ
Tôi hiểu em
Tôi chẳng nói được gì.

Có thể là do hoàn cảnh sống riêng, Phùng Cung buộc phải đứng bên lề thế sự và do thế phải luôn luôn hướng nội, một đặc điểm của Xem Đêm là không có bài nào động chạm trực tiếp tới các biến cố lịch sử trong đời sống dân tộc suốt mấy chục năm qua. Nhưng trung thành với mình như thế thì đã là một bản lĩnh nghệ thuật, và bản lĩnh thơ của Phùng Cung ở Xem Đêm là ở chỗ thơ ông chứa chở không phải là các biến cố đến rồi đi mà là cái hồn vía của hiện thực được soi ngắm qua một đôi mắt thức.
Ấy là những mảng cắt từ một nông thôn Việt Nam khó nghèo, như Cua đồng:


Phận - lấm
Tối ngày đào khoáy
Lưng nắng - vẽ
Hoa văn tiền sử
Chài chãi đồng chiêm
Mấy kiếp rồi

Hay Vạc:


Nắng - đạp cánh đồng

xơ xác
Bước liêu xiêu
Cái vạc ăn ngày.

Phùng Cung, ở mặt này của hiện thực, đã đạt tới độ sâu sắc chưa từng thấy trong thơ ca Việt Nam mấy chục năm đổ lại đây. Thơ ông nói rất giỏi, rất giản dị về cái nghèo, cái lam lũ, cái thanh sạch và cam chịu cho đến giờ vẫn thống trị nông thôn Việt Nam. Thật khó tìm trong diện mạo thơ hôm nay những nét thơ này nếu không phải là chỉ có ở một thơ Phùng Cung. Thơ ông có cái kiệm lời của người từng trải:


Gió mưa sùi sụt
Lửa mất
Bếp còn
Âu rỗng chuột rình khua khoắng
Ba vua bếp già lo lắng lườm nhau.
(Bếp)




Bước em xéo bóng
Đi về hai buổi
Càm cắp queo hông
Nắm rau nón củi
Se sém nỗi ong vàng
Điếng nắng - hoa - ngâu.
(Nắng hoa ngâu)

Nếu nói về tài quan sát của Phùng Cung ở đây thì thật chưa đủ. Có bao nhiêu hòa nhập, yêu thương, gắn bó trong những câu chữ đó.
Và những yêu thương ấy lại tụ về chất chứa ở một người thôi - Phùng Cung. Trọn tập Xem Đêm, không có bài nào nói tới những oan khiên trong đời nhà thơ, nhưng lại có rất nhiều bài nói tới những mất mát, thiếu hụt, những sự dữ của đời người, ví như một Ao hoang, Gãi đất, Quyên giáo, Đậu mùa... Xuất hiện với tần suất gần như thế là những bài dường như chỉ vờn họa lại cái thuần khiết của sáng, chiều, trưa, của nắng mưa... Nhưng có bao giờ thơ tả cảnh lại chỉ là tả cảnh thôi đâu, với những tài thơ thực sự? Ví như chỉ ở một bài bất kỳ này của Xem Đêm:


Dưa héo sào phơi
Em đi đâu
Chĩnh nước gốc cau
Ôm khoanh - trời cũ
Lá bưởi đầu hồi
Loáng thoáng phân chim.
(Vắng)

Có chăng mối liên hệ hữu cơ giữa hiện thực và kẻ nghiền ngẫm nó ở hiện tượng làm nên một đặc điểm thi pháp này của Phùng Cung?





Để mới hóa thơ, nhà thơ có thể đưa ra một tuyên ngôn thơ mang tính bùng nổ. Và biến tuyên ngôn thành hiện thực bằng những thi phẩm tân kỳ mà buổi đầu xuất hiện có thể làm người đọc sững sờ, phẫn nộ. Cũng có thể, người thơ sẽ lặng lẽ tiến chiếm những tiêu chí trên con đường hiện đại hoá thơ ca chỉ bằng những vần thơ nặng những tự tình. Người yêu thơ cuối thế kỷ này đang được chứng kiến lại một hiện tượng đã xảy ra từ đầu thế kỷ: thơ đang quẫy cựa, đang đòi tung phá, đang được mới hóa. Góp phần vào tiến trình đó của thơ ca là những Lê Đạt với Bóng Chữ; Đặng Đình Hưng với Bến Lạ và Ô Mai; là những Đỗ Kh; Hoàng Hưng; Dương Tường; Khế Iêm... Rất nhiều tên tuổi nữa. Dường như Phùng Cung không đi chung một con đường với các nhà thơ vừa nói, nhưng vẫn là một đích ấy. Không thể coi là ngẫu nhiên hiện tượng Phùng Cung ưa một lối viết ngắn, súc tích hơn cả thơ Đường, cũng như liên tục tạo từ mới hoặc tạo hàm nghĩa mới cho từ... Có không ít bài ở Xem Đêm chỉ gồm có một câu.


Lặng nhịp sương rơi
Chiều - gạo - đổ
Dế gào chân mộ
Trăng lên...
(Nghĩa Trang)




Này em
Cây khế gãy rồi
Nỗi chua vẫn hỏi thăm
Người trồng cây.
(Cây Khế)

(Nghiến đứt hình thức thông thường của thơ sáu tám là hiện tượng thường thấy ở thơ ca hiện nay song chưa thấy ai ngắt nhịp 5/3 như ở câu tám bài trên (?Rất lạ!)







Khó có thể phủ nhận rằng trong văn xuôi đương đại, Tô Hoài là người đi dai nhất, xa nhất trong việc khai thác khả năng biểu cảm của tiếng Việt, cũng như làm phong phú nó. Dù có là họa sỹ cũng không dễ gì diễn tả cho hết các sắc độ của màu vàng qua sự mô tả của Tô Hoài. Phùng Cung chính là một người như thế của thơ ca Việt Nam đương đại. Nắng của Phùng Cung là nắng - Âu Cơ, nắng - ngả - tương, nắng - non, nắng - phơi - rơm, nắng - đồng - trinh, nắng - hàn - vi, nắng - hoa - ngâu, nắng - thừa, nắng - cũ... Và gió nữa: gió cỡn, gió quần, gió trong cả hình ảnh váy lộng buồm... Nắng gió đấy là nắng gió của thị giác mà trước hết là nắng gió của tiềm thức. Và những hình ảnh như thế xô dạt trong suốt Xem Đêm như là sáng tạo riêng của họ Phùng thi sĩ.

Phùng Cung mang lại cho thơ sự vi diệu khi làm sống dậy những hình ảnh của khứu giác. Chưa hề thấy ở đâu sự xuất hiện thường xuyên đến thế của kiểu hình ảnh này như ở Xem Đêm: Gió quần lùm ngải cứu - Mùi ngộ cảm đầy vườn; mùi cháo - canh; mùi tép rang hàng xóm thơm - nghiêng, trứng nhà ai rán - thơm - mùi - thiếu mỡ; Ai đốt rác lá tre bên ngõ - Lối đi đầy mùi - khói - cuối - năm, mùi - dòng - giống... Sự cụ thể hóa cái tưởng chừng khó cụ thể ấy đã là một nét đặc sắc của không gian nghệ thuật thơ Phùng Cung.

Phùng Cung tỉ mỉ nhạy cảm trong quan sát, cẩn trọng trong cấu tạo hình ảnh. Đó tuyệt nhiên không phải là cái tỉ mỉ của lối tư duy liệt kê. Sau câu chữ như họa như khắc kia là những miền tâm cảm của một người ít ngủ. Hình ảnh này của chủ thể trữ tình thường hay thấy ở thơ những bậc ưu thời mẫn thế thuở xưa. Phùng Cung Xem Đêm, những đêm của họ Phùng là những 'đêm - nghiêng - gió - chập - chờn - mưa - gõ - lá; ngọn đèn con đòi - lay - gió - cả ao sâu cá quẫy nhắn mưa rào; là Đêm xá tội, là những Đêm chợt nghe


Trong gối vọng tiếng ru
Lắng tai mới rõ
Tiếng tóc mình chuyển bạc.

Phải đọc những Nghe đêm, Xem đêm ấy mới có được hình dung không sai về gương mặt thơ Phùng Cung. Phùng Cung dồn chứa trong thơ cái tinh tế trước đời sống vi mô và cả vĩ mô. Đọc Xem Đêm, thấy mừng vì mình còn biết nhân hậu, và đôi lúc thấy rùng mình chắc sẽ là cảm giác của không phải một người, khi đọc (chẳng hạn) bài này:


Tội nghiệp nhà thơ
Hợm mình
Lầm lạc
Bởi không biết sống
Nên không biết chết
Nửa thế kỷ
Bị lưu đày
Trong cõi tung hô.
(Tội nghiệp)

Thơ Phùng Cung là thế, thâm trầm, thấm thía, tan trong tình và thăng hoa từ tình.





Rồi có thể có một ngày, thơ ca Việt Nam sẽ chuyển hẳn sang cái mà hôm nay ta gọi là thơ hiện đại hay hậu hiện đại hay (sẽ gọi là) hậu bình phương lập phương hiện đại và đi xa hơn thế. Thơ sẽ có thể chỉ gồm những nguyên âm hoặc phụ âm; sẽ xuống dòng nhiều như nhảy cầu thang hoặc sẽ không xuống dòng như trôi miên man trên biển, sẽ được cắt dán bằng các vật liệu tưởng chừng phi thơ hoặc sẽ được bẻ gãy như những đoạn chiến hào còn sót lại ở một góc rừng hoang sau nhiều năm im tiếng súng; Thơ có thể khai tử toàn bộ chấm và phẩy và toàn bộ các ký hiệu dấu /; ( ) hoặc đơn giản chỉ là một hay nhiều trang giấy trắng hoang tưởng giữa một tập sách...Và người yêu thơ sẽ giải mã được toàn bộ các ký hiệu âm thanh và vô thanh ấy. Hoặc không giải mã được thì cũng sẽ chấp nhận...

Tôi nhớ tới sự toàn thắng của Thơ Mới năm mươi năm hơn về trước. Trước khi tuyên xưng Thơ Mới, Hoài Thanh, Hoài Chân đã Cung chiêu anh hồn Tản Đà như là người bắc cầu cho hai thế kỷ thơ. Người ta không thể gọi Phùng Cung là một nhà thơ hiện đại hiểu theo nghĩa trên, mà chắc gì nhà thơ muốn vậy, nhưng bằng phong cách đoạn tuyệt với nền thơ đương thời mà vẫn chất chứa cái hồn cốt của thơ Việt Nam muôn thuở, chắc chắn thơ Phùng Cung sẽ làm thiên hạ tốn không ít giấy mực và thời gian. Như Tản Đà đã từng.

Thơ đang rất cần những kẻ âm thầm sống cho thơ như thế, và tài như thế. Tiếc thay, không nhiều!

1996

NAM DAO * PHÙNG CUNG

NAM DAO


Phùng Cung,tho và người
Kính viếng Phùng Cung
Phùng Hà Phủ
Năm 14 tuổi, tôi đọc Con Ngựa Già của Chúa Trịnh. Đọc lén vì bản thảo nằm trong một cái tủ cha tôi khóa kỹ, thỉnh thoảng mở ra rồi thận trọng nhét vào một cái hồ sơ trên có đề chữ mật. Chữ này đầy mãnh lực, hấp dẫn đến đỗi quên ăn quên chơi ngay ở tuổi tôi đang lớn. Tôi đánh được chìa, mở tủ lấy hồ sơ, leo lên trần nhà. Ghé vào những khoảng sáng hắt qua kèo cột, tôi say sưa đọc, mồ hôi nhễ nhại trong cái hừng hực nóng của mùa hè Sài Gòn đổ lửa. Năm sau, cụ Hoàng văn Chí in Trăm Hoa đua nở trên đất Bắc. Tôi lại đọc lại, lần này đàng hoàng đọc. Nhưng tôi chưa thật hiểu thế nào là ẩn dụ, tuy bụng vẫn quặn thắt đau cái nỗi đau của con ngựa chiến đứt ruột chạy vòng cuối, cái vòng khốn nạn của thứ định mệnh oái oăm.
Lần đầu tôi đọc Phùng Cung khi ông ta vừa 30 tuổi. Về Cải Cách Ruộng Đất, ông Võ Nguyên Giáp đã công khai nhận sai xót, và như một hình thức kỷ luật, ông Trường Chinh thôi chức Tổng Bí Thư Đảng Lao Động. Vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm đã yên ắng. Tuy thế, người ta vẫn xử lý nội bộ, định tội, bắt đi "thực tế", bỏ tù và vô hiệu hóa những người dám đòi lại quyền lãnh đạo văn chương-nghệ thuật về tay chính những kẻ làm văn chương-nghệ thuật mà không chịu uốn cong ngòi bút phục vụ những tiêu chí thuần chính trị, những khẩu hiệu vô hồn, những ý đồ được khôn khéo che đậy bằng thứ ngôn từ uốn éo như rắn hổ mang chui ra từ những chiếc lồng khi nghe tiếng kèn phù thủy. Năm sau, tình hình miền Nam sôi sục. Những người tập kết xốn xang tung hô khẩu hiệu giải phóng miền Nam, bộ xe-pháo Duẩn-Thọ phất cờ, trong khi mâu thuẫn giữa Trung Quốc mao-ít và Liên Xô xét-lại đã hóa ra công khai. Với miền Nam, giải phóng thế nào đây? Chiến tranh cách mạng kiểu Bắc Kinh hay vận động chính trị trong bối cảnh chung sống hòa bình Mốt-cơ-va? Đột nhiên, cái gọi là "xét lại chống Đảng" được xì xào như một mối nguy cơ, và nhân đấy đám thân Tầu tiếp tục cuộc "chỉnh đốn tổ chức" đã phải bỏ lưng chừng trong đợt sửa sai Cải Cách Ruộng Đất. Những mối thâm thù lại có cơ tác quái, và mọi thứ bạo lực từ những động cơ ngu muội tô hồng bằng bạo lực Cách Mạng được sử dụng nhằm thanh trừng nội bộ, xoán chiếm quyền lực mông muội. Tiểu tư sản-trí thức thành thị- cái anh tạch tạch sè- thình lình thành đối tượng đấu tranh của giai cấp nông dân (được nâng cấp thành liên minh công-nông). Vào năm 1961, người ta bắt Phùng Cung khi chị Thoa -vợ anh- có 2 đứa con còn cắp nách.
Tại sao?
Hơn bốn mươi năm sau khi đọc Con Ngựa Già của Chúa Trịnh, đầu tôi vẫn cứ một câu tại sao? Phùng Cung xưa phụ trách nhà in, không "chính trị" như Nguyễn Hữu Đang, uy tín như Phan Khôi, và cũng không là chiến tướng như những Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán…Trừ Đang và Thụy An, tất cả đều đi thực tế, một cách cải tạo không phải là gay gắt nhất. Sau thực tế thì về Hà Nôị nhưng bị treo bút, cô lập. Khổ nhất là bị cô lập, không ai dám "dây với hủi", kể cả những người trong gia đình!
Năm 1999, tôi có dịp hỏi một nhân chứng ruột thịt của Phùng Cung. Con anh, là Phùng hà Phủ, đến thăm tôi vào dịp Giáng Sinh. Phủ kể, "…thời Cải Cách Ruộng Đất, ông nội cháu lo vì có thể bị qui là địa chủ cường hào, và quả là sau ông bị đấu tố rồi đưa lên giam trên Thái Nguyên. Bố cháu lên thăm, nhưng đến nơi thì mộ ông cháu mới đắp, trên chỉ có một ngọn sắn lá đã héo để đánh dấu, đất còn ướt…". Phủ châm thuốc lá, rít một hơi, thở dài "thế mà trước đó bố cháu cứ tin rằng có một bày con đi kháng chiến thì sẽ chẳng đến nỗi nào!". Nói qua quít để an ủi, tôi bâng quơ "chắc ông ấy hận lắm…". Cời thanh củi cho cháy bùng lên trong lò sưởi, Phủ khe khẽ lắc đầu. Lát sau, Phủ trầm ngâm "Bố cháu hận thì không, nhưng buồn thì có. Buồn đến độ bố cháu chẳng còn muốn gặp ai… Sau, bố cháu kể, oan thì có oan, sai thì có sai, nhưng thời đó chuyện ấy đầy rẫy, cải cách rồi sửa sai…". Nghe Phủ thì thào, tôi thốt nhiên chột dạ. Tôi nhớ đến lời những lãnh tụ nhắn nhủ, cứ vừa làm vừa học, rút kinh nghiệm, hễ thấy sai thì sửa. Trời ơi, nhưng sai mà gây ra án mạng, cướp sống những cuộc đời vùi vào ba tấc đất oan khiên mất rồi thì sửa làm sao? Nhưng sai mà phá tan nát cái cấu trúc cơ bản làng xã, kích thích lòng tham lam và hận thù khiến nhân nghĩa lộn lạo, thì sửa làm sao?
Sửa thế nào được khi những con rắn giáo ba đầu sáu tay lẩn vào ước mơ và dùng ngôn từ để ngóc đầu nhe răng phun nọc!
Phùng Cung chỉ buồn? Anh tiếp tục công tác trong cơ quan hội Văn Nghệ. Đến khi Nhân Văn ra đời, anh đợi đến số 4, tháng 10, năm 1956 mới đưa in Con Ngựa già của Chúa Trịnh. "Thế thì 5 năm sau, tức vào năm 1961, người ta lại bắt bố cháu đi tù? Và tù liền 12 năm? Tại sao?"
Phủ không trả lời, chỉ thở dài. Nhưng sao tôi nghe đâu đây như có tiếng ngựa hí? Không, ở xứ này giờ đây là mùa Đông, ngoài trời lạnh –20 độ C, nước chỉ dăm phút là đóng đá. Gió rít lên, lửa trong lò sưởi chập chờn, tuyết bay bám vào cửa kính vẽ mơ hồ những đoá hoa trước lúc hóa băng.
Tại sao?
Lại tiếng ngựa, nó hí, vó đạp lộp cộp xuống mặt đất co cứng. Con Kim Bông chăng? Chắc nó đang "cao đầu phóng ’, cái thế con Thiên lý mã lệnh xông xáo trận mạc ven sông Gianh. Mà nào đâu sông Gianh, nay hòa bình lập lại rồi. Đây là Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Như vậy thì Kim Bông đang hàm ân thánh đế, ở mã đài, để bọn mã phu dăm bảy đứa chải bờm tỉa lông. Rồi một ngày:
"…khi mã phu buông tay; lạ lùng lắm, nó thấy hai vật gì to bằng cái lá đa che ngang hai bên mắt, khiến nó có thể nhìn thẳng phía trước mà thôi. Rồi mã phu đẩy nó lùi lại, đứng vào giữa hai càng gỗ sơn son thếp vàng. Ủa lạ quá chừng, những cái gì mà đẹp thế này? Ta sẽ làm gì đây? Nó rùng mình, thấy hãnh diện như được sống một kiếp sống khác, sung sướng hơn trước.
Bỗng dưng hai càng gỗ dúi mạnh một cái, cổ nó bệt xuống, miệng nó gần chạm đất, nó vừa ngóc được thì dây cương đã ghìm thẳng. Nó cất bước thấy nặng; cái nặng quái gở, như bóp nghẹt lấy cổ, có lúc bềnh bồng nhẹ đi một chút nhưng rồi gáy nó càng như lún xuống …Khi nghe tiếng bánh xe nghiền trên mặt đá nó mới biết là nó đang kéo xe cho Chúa.
Nó gục đầu xuống lủi thủi kéo chiếc xe qua sân, hai mắt lờ đờ nhìn thẳng, mỏi mệt, chán ngán…" (Trích Con Ngựa già của Chúa Trịnh)
Phủ tiếp, giọng trầm hẳn xuống, Bố cháu ra tù khi hai anh em cháu đâu mười một, mưòi hai. Một hôm, cả nhà cháu đi bộ trên lề phố Trần Hưng Đạo, khúc gần Bà Triệu, thì có tiếng gọi, Cung ơi, Cung. Mọi người quay lại. Bác Dần đứng lề bên kia vẫy. Bố cháu chưa kịp phản ứng thì mẹ cháu giằng lấy tay, miệng van vỉ, em lậy anh, đi thôi…Em và các con đã khổ lắm rồi…Đi thôi, anh ơi! Ra tù, bố cháu cách ly với bạn bè, chỉ chuyện áo cơm cũng đã khổ sở. Đập đinh, rồi làm bánh. Và khi có việc thì nề, mộc…Thế mà công an họ cứ đến "làm việc", khủng bố tinh thần đến độ mẹ cháu bảo thà là ở trong tù còn hơn…
Tại sao? Hay là…
"Nó gục đầu xuống lủi thủi kéo chiếc xe qua sân, hai mắt lờ đờ nhìn thẳng, mỏi mệt, chán ngán.
Nhưng chẳng bao lâu, những chậu thóc trộn mật vừa ngọt vừa bùi, những bó lá trúc quân tử vừa thơm vừa dòn sậm sựt đã cùng những buồn tủi sầu muộn, cùng những ước mơ trôi qua ruột, tống ra ngoài trả lại cho quá khứ. Con thiên lý dần dần quen với chức vị. Nó thấy mình phải phò Chúa đến hơi thở cuối cùng mới xứng danh Thiên lý mã" (Trích Con Ngựa già của Chúa Trịnh).
Chức vị nào trong Hội? Hội Nhà Văn hay liên hiệp hội Văn Học Nghệ Thuật? Ông Nguyễn đình Thi? Hay là ông Tố Hữu? Hay cả hai. Hoặc lại ông Tô Hoài, con dế mèn phiêu lưu nó phình to hơn chính người ông, như Phùng Cung từng nhắc lại sau này trong một truyện ngắn? Tôi không biết. Và nay, có những người đã nằm xuống. Nghĩa tử là nghĩa tận. Tôi chép bài thơ Bụi sao rơi, rất Phùng Cung, gửi viếng họ:
Đèn bên sông
Hay bụi – sao rơi
Mà hiu hắt cơ hồ muốn tắt
Có phải bóng hình người
Đã khuất
Mộng công hầu chưa đạt
Nay lại lần về mượn cửa
tái sinh.
Cơn bão tuyết đêm qua đánh tan những đám mây khiến sáng dậy mặt trời nở ra rực rỡ. Dưới ánh nắng tươi vàng, hai chú cháu đi dạo trên những con đường tuyết phủ trinh bạch, chưa một vết chân, chưa có gì thừa thãi, dẫu một lời, dẫu một hơi thở. Chúng tôi bước trong giấc mơ nguyên thủy, khi lời nói còn âm điệu tiếng chim ban sơ. Phủ ngừng chân, buột miệng "…tiếc là bố cháu chưa gặp chú!". Chép miệng, tôi ngần ngừ, duyên phận cả. Phủ kể, bố cháu một hôm nắm tay cháu, cao hứng đọc thơ cho cháu nghe. Bố bảo họ Phùng nhà ta chẳng có gì, chỉ có cái này, tay đưa cháu một tập bản thảo, toàn chữ là chữ. Cháu còn ngơ ngác thì bố cháu đập tay lên vai, cười, "…có cái này là có đóng góp cho đời…Con phải biết hãnh diện!".
Tôi nói, Phủ nhớ, đọc một bài đi. Phủ rưng rưng:
…mồ hôi Mẹ
Tháng ngày đăm đăm nhỏ giọt
Con níu giọt mồ hôi
Đứng dậy làm người
Tôi lặng đi, lần đầu nhớ một người chưa gặp.
Lát sau, nhìn Phủ, máu mủ của cái con người ấy, tôi thành thực "…Chú gặp bố cháu rồi đấy. Gặp ở cái thế Đứng. Đứng dậy làm người". Vừa dứt lời, tôi ứa nước mắt. Vâng, dẫu nước mắt là cái chẳng một ai dám tưởng mình có thừa!
Vào đầu thập niên 80 tôi có hỏi nhưng không một ai biết gì ngoài Con Ngựa già của Chúa Trịnh. Như vậy, chẳng phải những Truyện Ngắn viết từ 56 đến 59 nhưng không phổ biến đã là cái đẩy Phùng Cung vào cảnh tù tội. Thế thì Tại sao? Nói đến chức vị thôi, làm sao có thể gây thâm thù đến độ đày đọa nhau đến thế? Bỗng đâu tiếng chân ngựa lại chậm rãi lộp cộp. Có phải vẫn Kim Bông, con ngựa Mã lệnh mang danh Thiên lý nay kéo xe
"…Từ ngày vào phủ Chúa, lần đầu nó được đi ra ngoài. Nó ao ước thăm cảnh cũ. Xe ra khỏi phủ Chúa, bon bon trên con đường đất rộng thênh thang. Nhìn thẳng phía trước, nó lấy làm lạ, nó kêu í í trong cổ như tự hỏi "Làm sao con đường này ngày xưa rộng mà nay nhỏ bé như thế này!" Đi được một quãng nó nhìn lên phía trên, lại đứng tự hỏi: "Ô hay, ngôi chùa kia, ngày xưa rõ ràng nằm bên cạnh một quả đồi lớn, mà bây giờ quả đồi lại nhỏ bằng con đường ta đi là nghĩa làm sao?" Tất cả những cảnh vật trước mắt nó đều nhỏ lại, và thẳng tắp. Nó nhìn cánh đồng, cánh đồng cũng chỉ là một đường thẳng. Rồi cây cỏ, núi đồi cho đến mầu giời xanh cũng chỉ thu lại là một đường thẳng. Nó không ngờ hai chiếc lá đa che hai bên mắt chỉ cho nó nhìn được một chiều."
(Trích Con Ngựa già của Chúa Trịnh).
Anh Cung, chịu anh! Quả đồi cũng thẳng, mầu trời xanh cũng thẳng nốt, và tất cả đều nhỏ bé lại bằng con đường ta đi. Anh nói thế là chạm nọc rồi, và lại nói gần năm mươi năm trước như một lời tiên tri, ở thời điểm có kẻ lu loa rất "khoa học" là có sức người sỏi đá cũng thành cơm!
Ôi cái thân trâu ngựa! Kim Bông hỡi Kim Bông! Con ngựa chiến đi kéo xe, ‘‘trước hơi thở cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngóc đầu lên cao, co co hai chân trước, thẳng thẳng hai chân sau, chừng như cố để giữ lấy cái thế "cao đầu phóng vĩ". (Trích Con Ngựa già của Chúa Trịnh).
Cái thế đó còn gọi là cái thế có kẻ ao ước làm một tên hát rong, un chantre, mà Tố Hữu kể cho Phùng Quán nghe vào lúc thất thế cuối đời. Chantre, là kiểu Văn Cao gọi Trịnh Công Sơn. Và đến nay tôi vẫn chưa hình dung ra nổi sự tương đồng giữa Sơn và nguyên Ủy viên Bộ Chính Trị ĐCSVN Tố Hữu. Ô hay, tôi ơi, đừng tuyệt vọng!
Đến giữa những năm 90 người ta mới biết có Xem Đêm, và câu chuyện cảm động Nguyễn Hữu Đang mang hết tiền dành dụm chắt bóp cùng Phùng Quán tìm cách in thơ Phùng Cung. Phủ nói, cháu có tâm nguyện in cho bố cháu một tuyển tập. Dẫu có đọc, nhưng đọc chút ít, tôi khuyên, thơ không cần nhiều, nhưng phải hay. Một đời thơ chỉ 5,10 bài là đủ. Phải đến khi Phủ chuyển cho tôi, tôi mới biết dòng thơ Phùng Cung có cái chất long lanh của những hạt sương đậu trên cánh lá non xanh một sáng tinh mơ của vạn vật. Mời nhau cùng nghe:
Lá súng lát mặt ao
đốm ngọc
Con sộp phàm vồ hão
Bóng hoa lay
Lá tre rụng
Nhuộm hoàng hôn đỏ gạch
Tiếng cuốc bèo da diết
Gọi Ngày Mai
Đố con sộp là con gì? Tôi mở Từ Điển Tiếng Việt do Trung Tâm Ngôn Ngữ ở Hà Nội in năm 1992, nguyên Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Phạm Văn Đồng có viết tay trân trọng giới thiệu, là quyển từ điển đầu tiên ở nước ta do một tập thể cán bộ ngôn ngữ học biên soạn trên cơ sở tư liệu tương đối đầy đủ. Tra xem sao:
Sộp t (kng.) Sang, tỏ ra nhiều tiền và hào phóng. Khách sộp, Vớ được món sộp.
Thế thì con sộp là cái quái gì? Từ điển im như hến. Vậy xin mách, sộp, danh từ, là một loại cá sống trong ao. Còn phàm. Dễ thôi. Con Mực phàm ăn vồ hão cục xương. Nhà thơ phàm danh vồ hão những con chữ trống trơn. Thế mà sao Nhà Nước ta không mời Phùng Cung vào làm Từ Điển nhỉ?
Nhưng thôi, cho tôi quay về với thơ, không chơi trò chiết tự nữa. Đầu tiên, phải nể cái kho chữ Phùng Cung. Chữ thôn dã, nhưng anh nâng lên thành một vẻ đẹp hồn nhiên, chẳng khác cái duyên thầm không tô son điểm phấn, mà sao nét cười quanh vành nón cứ vấn víu lòng ai. Xin kể: Đêm về khuya. Trăng ngả màu thiên lý. Tiếng gọi đò. Căng chỉ sang sông. Hay là Gió bạc cánh. Chưa hết vòng kim cổ. Làng cách làng. Từng quãng – phong dao. Hoặc Chó sủa làng xa. Sủa hơn xóc ốc. Sáo diều ai hóc – gió ven sông. Quay lại cấu trúc thơ, dẫu câu có cắt ra 3 hay 4 chữ, ta vẫn dễ dàng nhận ra gốc gác Đường thi. Nhưng trong thơ Phùng Cung, ngôn ngữ và hình ảnh thuần ca dao, nâng cái đẹp chân quê lên mức hết sức trang trọng với mặt ao đốm ngọc, hoàng hôn đỏ gạch. Và không chỉ có cái đẹp hình thức, nhà thơ đột nhiên để tiếng cuốc bèo da diết gọi Ngày Mai nói thay cho lòng mình, tức là chuyển đi cái nội dung mà thơ hay văn, bất kể hình thức nào, cũng cần có để sống còn với thời gian.
Anh Cung, tiếng cuốc trong thơ anh chắc cũng đau đáu cái nỗi đau con quốc quốc của Bà Huyện Thanh Quan. Nhưng chỗ tụ lửa trong tâm hồn anh, tôi đồ, vẫn là Ngày Mai anh viết hoa. Và anh vẫy gọi. Da diết gọi.
Nhưng Ngày Mai ở đâu? Và bao giờ, hở anh?
Lần cuối về Hà Nội, tôi đến thăm anh Hoàng Cầm và báo tin Phùng hà Phủ đã qua đời. Phủ đi làm về, ghé quán bia với bạn, bỗng ngật người đi hôn mê, đưa vào cấp cứu nhưng không qua được bàn tay tử thần. Rủ nhau xuống chia buồn với chị Thoa, nhưng mấy ngày sau anh Cầm lại bị ngã gẫy xương chậu, nằm bẹp. Thế là chịu. Thôi thì cứ ngày ngày đến chia sẻ với anh Cầm, mong anh có được chút niềm vui trong những ngày nằm bệnh. Chuyện trò, anh lại kể. Con người Phùng Cung là một con người của những thái cực. Xưa, Trần Dần nhận biết anh ấy là loại tử vì đạo, im lặng thì có nhưng đầu hàng thì không. Một vai, anh ấy âm thầm gánh cái nặng của anh em, giọng "kiểm thảo" vẫn cứ ngoan cố lửng lơ, đúng là theo kiểu cao dầu phóng vĩ của một con ngựa chiến không chịu thành gia súc cho nhà Chúa. Khi anh ấy bị đưa đi quản thúc trên Bất Bạt, chị Thoa lên thăm nuôi, nhưng anh ấy nhất định không nhận chị Thoa là vợ, không cho nhìn mặt, trả lại tiếp tế và khăng khăng một mực là mình không còn liên hệ gì với thế giới bên ngoài. Lần đầu, chị khóc sướt mướt. Đành về, rồi ít lâu sau chị lại lên. Anh Cung vẫn thế. Quản giáo vặn, lý lịch anh khai là đã kết hôn, thế là khai man. Anh đáp, thời ấy Đảng không đồng ý cho tôi lấy vì cô ấy thuộc giai cấp phong kiến, mà tôi thì mê mẩn, mất lập trường giai cấp. Nay tôi tỉnh ngộ, nhận có chung sống ngày trước, nhưng từ bây giờ tôi xin chấp hành…Thế thì anh lợi dụng hủ hóa, thêm một tội, quản giáo gằn giọng. Ừ thì thêm một tội. Thêm một chứ mười tôi cũng chịu…Chị Thoa lại về, để tiếp tế lại chia chác cho anh em tù. Và chị cứ lên. Anh tiếp tục ruồng rẫy. Ba lần, bốn lần…
Tôi thở dài, có lẽ là anh Cung mong chị quên anh ấy đi, chứ đã mang cái án miệng là phản động, là chống Đảng, bôi bác lãnh đạo như anh ấy thì biết ngày nào ra! Vả lại, chị Thoa khi ấy còn trẻ…Anh Cầm chép miệng, chắc vậy! Nhưng chị Thoa vẫn cứ đều đặn lên thăm nuôi, cho đến một ngày, hơn hai năm sau, hai vợ chồng mới lại nhìn lại nhau…Và chị Thoa sống cảnh chia ly như vậy suốt 12 năm đằng đẵng!
Tại sao? Tôi muốn hỏi lại, một lần cuối, tại sao? Đọc Xem Đêm, tôi nói với anh Cầm, tôi chưa hề thấy Phùng Cung mang thù hận vào thơ. Anh buồn và xót xa. Nhưng anh vẫn nhân hậu. Anh vẫn trong trẻo. Thậm chí độ lượng. Anh Cầm giơ tay xoa mặt, mắt đờ đẫn nhìn vào khoảng không choãi về phía nơi quá khứ còn nương náu. Tại sao ư? Đó là câu chuyện của những con ngựa cung đình. Chúng không thể để dăm con ngựa chiến tồn tại để phủ nhận chính chúng. Còn Vua Chúa, thói thường là họ yên tâm với những con ngựa đã thuần, leo lên lưng, ra roi, nắm bờm và chờ tiếng hí đã rập khuôn rắp mẫu. Nhưng có hoạn nạn, anh Cầm cao giọng, thì Cung nó mới có thơ hay như vậy! Anh cười, thế là bội thu đấy. Anh tiếp tục cười, nhưng tôi nghe có gì như tiếng nấc ừng ực…
Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều, thực lòng tôi chưa bao giờ quan tâm đến cái thuyết Tài Mệnh tương đố, bảo Cung có tài nên trời xanh ghen với má hồng đánh ghen. Tôi cho rằng Phùng Cung trả giá chẳng phải vì anh thâm thù chuyện cha anh bị đấu tố mà hóa ra "chống phá Cách Mạng". Tôi tin Phùng Cung trả giá chỉ vì anh níu giọt mồ hôi Mẹ, đứng dậy Làm Người. Và ở cái tư thế làm người, anh không muốn nhìn một chiều kiểu con ngựa cung đình có hai chiếc lá chắn che mắt, chỉ thấy con đường ta đi nhỏ bé trước mặt, thẳng tắp cho đến độ màu xanh da trời cũng thẳng. Vì thế, anh không đành tâm để Vua Chúa cưỡi lên lưng khiến anh làm con ngựa tôi đòi. Anh chẳng thể cuống cuồng nhai danh vọng trộn với thóc và mật ngọt trước khi chạy những vòng đua nịnh hót. Và anh lại chẳng như Hữu Loan xuôi ra Thanh Hóa, như Nguyên Hồng bỏ lên Bắc Giang, đi cho khuất mắt những con ngựa cung đình rắp ranh bổng lộc. Anh sờ sờ ở Hà Nội, nơi ngựa cung đình nhởn nhơ nhưng chưa an tâm. Đợi dịp, chúng xúm lại, hóa thân thành giống biết sủa biết cắn và biết đẩy anh vào cái thân phận tội đồ.
Trong tù, anh chỉ còn thơ. Và trăng.
Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh
Sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi!
Xa mãi đến bao giờ.
Ra tù sau 12 năm, giam ở Hỏa Lò, rồi Bất Bạt,Yên Bình, Phong Quang, anh còn gia đình. Và bè bạn. Và nhất là anh có một Di cảo Thơ-Văn anh đã dặn dò Phủ "…Có cái này là có đóng góp cho đời… Con phải biết hãnh diện!".
Không phải chỉ có Phủ hãnh diện, những ai theo gót anh cũng hãnh diện, anh Cung ạ! Cuốn sách Phùng Cung 11 Truyện Ngắn Tập thơ Trăng Ngục Thơ Xem Đêm được in và phát hành ở hải ngoại chẳng phải là cách tưởng niệm anh, một nhà văn ở cái nghĩa đúng nhất, hay sao.
NAM DAO
18-06-2004




MẠC ĐÌNH * PHÙNG CUNG

Mạc Đình
Nhân Văn Giai Phẩm
Phùng Cung 
 
Trong bản thú tội của Hoàng Cầm có một đoạn như sau: " Tôi đi động-viên Phùng Cung viết chuyện, và khi Phùng Cung viết "Con ngựa già của Chúa Trịnh" đưa tôi xem bản thảo đầu tiên, tôi có góp ý-kiến rào việc diễn-tả :"Chỗ con ngựa vào cung Vua, nên tả cho đáng ghét hơn". Khi Phùng Cung đưa bản thảo lần thứ hai, tôi chữa văn và thêm nhiều câu diễn-tả cảnh đẹp, diễn-tã con ngựa càng ngày càng béo ... ". Ngụ ý của bài này là đã kích bọn văn-sĩ trước kia có tài như Xuân Diệu, Hoài Thanh, Cù huy Cận, chỉ vì ham miếng đỉnh chung mà cam tâm làm tôi mọi cho chế-độ và đời sống tôi mọi đã tiêu diệt hết tài năng trước kia của bọn họ. Cứ xét thấy khả-năng văn-nghệ của mấy ông Xuân Diệu, Hoài Thanh, Cù huy Cận, lâu nay gần như mất hẳn, chúng ta thấy lời phê bình của tác-giả quả có đúng. Sự thật thì bất cứ nhà văn nào đã dùng ngòi bút ca-tụng chế-độ để mong vinh thân phì gia thì văn-chương của họ không thể nào hay được. _____________ Trích báo Nhân-Văn số 4
CON NGựa già CủA CHúA TRịNH
Phương-Lộ là một làng nhỏ hẻo lánh, nằm lọt trong một thung lũng phía Nam chân núi Tản, cách chợ Đan-Lâm chừng bẩy dậm. Từ Đan-Lâm vào Phương-Lộ, trên con đường đất mòn, ngoằn ngoèo men theo dòng suối; phải qua một chiếc cầu bằng đá vắt ngang suối, bên cạnh một ngôi đền nhỏ. Trong làng có lão già họ Nông, hai đời chuyên nghề buôn ngựạ Ông cụ sinh ra lão ngày trước là mã-phu của triều Trần; khi mãn lính, trở về làng làm nghề buôn ngựạ Năm mười bốn tuổi, lão đã theo cha ra chợ Đan-Lâm học nghề. Lớn lên, lão đã nổi tiếng khắp vùng về môn xem tướng ngựạ Lão Nông có con ngựa trắng, mình kim, lông trắng như bông, lại lấp lánh như có nạm kim-cương, nên lão đặt tên nó là Kim-Bông. Lão thường khoe con ngựa này lão tìm mua được từ lúc nó chưa phát nha ở tận miền Nước-Haị Lão đã từng đi nhiều nơi mà chưa thấy có con nào tướng phách toàn-mỹ như nó; có sức vượt hàng nghìn dặm với cái thể "cao đầu phóng vĩ" của nòi ngựa chiến. Từ khi con Kim-bông bắc yên, ngày ngày lão cưỡi nó đi các nơi để buôn ngựạ Hàng năm những cuộc đua ngựa miền này, không cuộc đua nào vắng lãọ Không cuộc đua nào con Kim-Bông không đoạt giải nhất. Từ đó tiếng con ngựa hay, mỗi ngày được truyền rộng ra khắp nơi và lọt đến tai chúa Trịnh. Thuở ấy chúa Trịnh đang cần tuyển-mộ một đoàn kỵ-binh để bình-định đất nước, nên liền ủy một viên quan hầu-cận, tìm đến tận nơi hỏi muạ Lão nông tuy luyến tiếc con Kim-Bông, nhưng nghĩ đến cái tài của nó lão sẵn sàng trao lại cho viên quan mà rằng :"Con ngựa của bần-dân thuộc loại quý mã, là vật, nhưng nó hiểu tiếng ngườị Bấy lâu nay nó sống với bần-dân ở nơi sơn-lâm hẻo lánh này, ăn cỏ núi, uống nước suối, tài nó có mà không được dùng, thật lòng bần-dân cũng tiếc cho đời nó lắm ! Nay chúa-công lại cho vời nó về chốn triều-đình để dùng nó xông pha chiến trận, bần-dân cũng được hả dạ vì đã làm vừa ý con quý mã và cũng bõ công nuôi nấng tập luyện". Lão Nông miệng nói tay trao cương cho viên quan. Con Kim-Bông cũng dỏng hai tai gật gật cái đầu như biết mình sắp được từ giã cảnh sơn lâm hiu quạnh, để về vùng vẫy chốn kinh-thành. Trên đường về, viên-quan hết lời khen ngợi con quý mã; Kim-Bông phi như gió, giả lại đàng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn-tâỵ Chỉ trong nửa ngày đã về đến Thăng-Long. Viên quan vào tâu với chúa Trịnh, hắn tả lại tướng phách cùng nước bay, nước kiệu của con ngựạ Chúa Trịnh lấy làm toại nguyện, và truyền cho các tướng tá chọn ngày mở hội đua dể kén ngựa chiến. Một buổi sáng, trên các ngã đường, nhân-dân các vùng lân-cận nghe tin, lũ lượt dổ về xem như nước chảỵ Hàng nghìn ngựa tốt từ các nơi đem về được sắp hàng tề chỉnh bên cạnh những kỵ binh nai nịt gọn gàng. Con Kim-Bông ngơ ngác trước quang cảnh mới lạ, lòng nó rộn ràng, mắt nó đăm đăm nhìn thẳng phía cuối đua trường : như để dương oai với đồng loại, nó nín hơi, tóp bụng, cất tiếng hí dài, lanh lảnh nghe sởn óc. Người kỵ binh đứng bên cạnh, bổng né sang một bên, lao đao tưởng ngã. Bọn ngựa trố mắt nhìn Kim-Bông và cũng cất tiếng hí theọ Sau ba hồi trống lệnh, các kỵ binh lên yên, ra roi, bắt đầu rời vạch. Đoàn ngựa lồng lên trong bụi lốc mịt mù, những miếng đất bắn ra tứ phía như mưa rào, nhân-dân reo hò vang dậỵ Chỉ trong chớp mắt, con Kim-Bông đã vượt lên hàng đầu, vừa hí, vượt lên, chân trước khoăm lại như móc sắt, đuôi bay như giải phướn, tưởng như chân nó không hề chạm đất. ở phía xa người ta nhìn nó chỉ còn thấy một bóng trắng lấp lánh, oằn lên, oằn xuống như một con rồng trắng uốn khúc. Nó bay tới phía nào là tiếng reo hò phía ấy vang lên không ngớt. Hằng loạt ngựa thấy sức mình không sánh kịp con Kim-Bông, bỏ dở cuộc đua, đứng dừng cả lại, hí hí nhìn theo cái bóng trắng nhỏ dần .. trong bụi nắng lòa của kinh-thành. Khi dứt hồi trống, con Kim-Bông dừng lại, tai nó ù đi vì tiếng reo hò ca ngợi của xung quanh, nó càng nức lòng, chân nó dậm xuống đất cồm cộp như muốn bay thêm hàng nghìn vòng nữa mới phỉ sức. Khi tiếng trống lệnh chuyển sang phi nước kiệu, con Kim-Bông rời vạch một cái, là bốn chân nó băm liền trên mặt đất như guồng nước, tiếng chân vỗ rồn rã như mõ đổ hồi, đuôi trải ra trắng như một dòng nước chảy sốị Nó chạy hết một vòng mà trên lưng nó một kỵ binh bưng một bát nước đầy, bát nước không sánh ra ngoài một giọt. Lúc này nó thấy tất cả đua trường đều hướng nhìn về nó, trầm trồ ca ngợi tài nó. Nó lại hí lên một tiếng thật dài kiêu hãnh. Sau cuộc đua này, nó được cả đua trường tặng danh là "Bạch long Thiên-lý-mã" và chọn làm mẫu mực để luyện tập cho cả đoàn ngựa chiến của triều-đình. Cho nên chẳng bao lâu các đồng loại của nó cũng trở thành những chiến-mã lành nghề. Và từ đó nó cùng bầy ngựa chiến xông pha chiến trận, trải nhiều trận vào sanh ra tử. Nó nhớ nhất là trận quần chiến bên bờ sông Gianh. Thế địch mạnh, quân địch đã thắt vòng quanh nó, nhiều đồng loại nó đã phơi thâỵ Nó gắng hết sức mạnh, vùng lên như hổ đói, phá vỡ vòng vây, hạ thủ tướng địch, giành toàn thắng. Sau trận này, nó được chúa Trịnh chọn làm mã lệnh và được vào ở trong phủ Chúạ Chúa Trịnh truyền cho quân lính, xây một chiếc hồ bán nguyệt, phía Nam vườn Thượng-uyển, để làm chổ tắm cho mã lệnh, và cử hai mươi mã-phu ngày ngày trong nom săn sóc ngựa quý của Chúạ Lần đầu tiên con "Thiên-lý" đặt chân tới Hoàng-cung. Trước mặt nó toàn những lâu đài nguy nga tráng lệ, trông phía nào cũng thấy vàng son chói lọị Dưới chân nó toàn những đá xanh nhẵn bóng. Những cảnh vật mới lạ khiến nó sợ hãị Nó toát mồ hôi, run lên cầm cập, khi đặt chân lên những phiến đá hoa, được dịp đưa mắt nhìn hai hàng thị vệ tả hữu, đứng cắp gương trần bên hành lang. Nó rụt rè, co cổ lại khi mã phu dắt nó vào mã đài, nó tưởng mã phu đưa nhầm nó vào nơi ở của một tướng lỉnh. Con Thiên-lý được vào ngự hẳn trong mã đài ngày ngày chỉ ăn và tắm. Mỗi buổi chiều nó phải đứng một chổ để dăm bảy mã phu mang kéo tỉa từng sợi mao, vuốt ve từng chiếc lông đuôị Nó càng cảm thấy bận bịu, tù cẳng. Nó bắt đầu mơ ước những cảnh sống khi còn ở bên ngoài cung cấm : "Ôi chao ! Còn đâu những buổi sáng ta cùng đồng loại trên đua trường hàng vạn người ca ngợi tài ba ? Với cái sức khỏe bay hàng nghìn dặm, với cái thể "cao đầu phóng vĩ" hùng dũng như ta, đã bao phen sông pha trận tuyến, đời ta tù túng như thế này thì ta sống sao được ? Sao Chúa không cho ta được đem tài ra vùng vẫy trên chiến trường ? Hay Chúa đã quên ta là kẻ có tài ?". Một buổi sáng, nó đang đứng trong Mã-đài, hai con mắt đăm đăm vọng ra ngoài bức thành cao ngất, nó bỗng thấy một mã-phu nai nịt gọn ghẽ, khác ngày thường, đến giắt nó ra đứng dưới mái hiên, phía tả hành lang. Nó sững sốt, tưởng phen này lại được xung trận. Một mã-phu khác trải lên lưng nó một tấm gấm điều, xung quanh thêu kim tuyến. Nó ngoái cổ lại, bỗng thấy mình đẹp như phượng hoàng. Hai mã-phu nữa mang đến đàng sau nó một vật gì vuông vắn giống như một nhà lầu, gấm vóc xanh đỏ phủ quanh. Một mã-phu nữa mang cương đóng vào gáy nó. Bộ cương quý giá và đẹp dẻ làm sao ? Đời nó chưa từng thấỵ Hàm thiếc bằng bạc : hai đầu nạm vàng sáng lóẹ Nó sung sướng gục đầu xuống nạp hàm thiếc một cách ngoan ngoãn. Khi mã-phu buông tay : lạ lùng lắm, nó thấy hai vật gì to bằng hai cái lá đa che ngang hai bên mắt khiến nó chỉ có thể nhìn thẳng phía trước mà thôị Rồi một mã-phu đẩy nó lùi lại, đứng giữa hai càng gỗ sơn son thếp vàng. ủa lạ quá chừng, những cái gì mà đẹp thế này ? Ta sẽ làm gì đây ? Nó rùng mình, thấy hãnh diện như được sống một kiếp sống khác, sung sướng hơn trước. Bỗng dưng hai càng gỗ dúi mạnh một cái, cổ nó bệt xuống, miệng nó gần chạm đất, nó vừa ngốc được lên thì giây cương đã ghìm thẳng. Nó cất bước thấy nặng; cái nặng quái gở, như bóp nghẹt lấy cổ, có lúc bềnh bồng nhẹ đi một chút, nhưng rồi gáy nó càng như lún xuống. Nó phải cố lấy gân bốn bó mới giữ được cái thế đứng đường bệ. Rồi bỗng có một ngọn roi da quất nhẹ vào mông, nó cắm cổ đị Khi nghe tiếng bánh xe nghiền trên mặt đá, nó mới biết là nó đang kéo xe cho chúạ Nó gục đầu xuống lủi thủi kéo chiếc xe qua sân, hai mắt nó lờ đờ nhìn thẳng, mỏi mệt, chán ngán. Nhưng chẳng bao lâu, những chậu thóc trộn mật vừa ngọt vừa bùi, những bó lá trúc quân-tử vừa thơm vừa ròn sậm sựt đã cùng những buồn tủi sầu muộn, cùng những ước mơ trôi qua ruột, tống ra ngoài trả lại cho quá khứ. Con thiên-lý dần dần quen với chức vị. Nó thấy mình phải phò Chúa cho đến hơi thở cuối cùng mới xứng danh Thiên-lý-mã. Trong những buổi chầu nó thấy hàng trăm đôi hia, ủng và đủ các loại ống quần,tà áo, văn có, võ có, lướt đi lướt lại trước mắt, nó càng thấy chức vị nó to tát ghê gớm ! Chốn thâm nghiêm cung cấm nào mà chân nó không bước tới ? Có việc quốc-sự triều-đình nào vắng mặt nó ? Nó đi đến đâu cũng thấy người chấp tay khấu đầu tung-hô Vạn-tuế. Đời nó quả là đã sang một bước đường hiển hách, hơn tất cả những lúc oai-phong chiếm giải đầu trên các trường đuạ Một buổi chiều, trên cổng thành đã nổi trống thu không, mặt trời đã khuất hẳn mái lầu tây, mặt hồ đã gợn lên một mầu đỏ nhạt của giáng chiều, nó sung sướng kéo Chúa cùng Bà Phi đi ngoạn cảnh. Đi chẳng cần đến đâu, nó được đôi lúc thong-dong đứng lại, soi bóng dưới nước. Chà ! mắt nhìn mặt, ta uy nghi lộng lẫy đến thế này ư ? Kìa hai lá đa che mặt ta có khác gì hai cánh mũ của vị đại thần ? Hai càng gỗ khác gì tay ngai ngày ngày Chúa vẫn ngự ! Phải chăng giời đã an bài cho số phận ta ! Nó càng nhìn càng thấy bóng nó dưới nước to ra, to mãi, uy nghi trong sắc nước lẫn sắc trờị Nó đang say sưa ngắm bóng bỗng giây cương lại giật mạnh. Mép nó găng thẳng ra, nó lại bắt đầu cất bước. Xe tới đầu vườn thượng-uyển, có lệnh dừng lạị Tức thì hai bên tay ngai dìm mạnh cổ nó xuống rồi lại bềnh lên nhẹ bổng. Nó vừa ngóc đầu lên thì một luồng gió mát, lướt đưa vào lỗ mũi nó những hương thơm ngào ngạt của muôn hoạ Nó phồng hai cánh mũi hớn mặt lên thì gấu xiêm mầu thiên-thanh của Bà Phi phất nhẹ qua mặt nó. Nó cảm thấy một vị thơm đầm đậm. Nó đưa mắt nhìn theo chỉ thấy từ ngang lưng trở xuống của Chúa và Bà Phị Gió hồ lồng vào vạt áo Chúa và giải xiêm Bà Phi, làm căng phồng lên và đú đởn múa may trước mặt nó. Nó cảm-động, đứng ngẩn ra, hai mắt dương thao láo : "Chà ! Thật là ngoạn mục ! Ôi ! Giời đã ban cho ta đôi nhãn ngọc để riêng ta được nhìn những vưu-vật của trần-gian, ta đội ơn Trời ". Càng nhìn theo càng thấy ngoạn mục, nó càng thấy hối hận với những sự việc ngày trước. Nó dậm chân xuống đất cộp cộp mắt nó nhắm lại, đầu nó đập vào hai càng xe như để nhận lấy một hình phạt xứng đáng với tội lỗi của mình. Vừa đập dầu vừa kể tội : "Tội thứ nhất là khi chưa vào phủ Chúa ta đã để cho Chúa và Bà Phi phải vất vả khó nhọc biết chừng nào ! Tội thứ hai : Sao ta dám đem một việc nhỏ bé tầm thường so sánh với chức mã lệnh đáng tôn kính của Chúa đã ban cho như thế chẳng phải trước đây ta đã phụ ơn Chúa hay sao ? Tội ta thật là đáng phanh thây mới phảị Nếu ta chỉ nghĩ đến cuộc đời phóng khoáng, chỉ nghĩ đến những lúc cùng đồng loại đua tranh, thì lấy ai để cùng Chúa gánh vác giang-sơn, làm cho trăm họ được an-cư lạc-nghiệp ! Ơn hưởng lộc Chúa, sức ta ngày một cường tráng, thì cái vượt hàng ngàn dậm đối với ta cò gì đáng kể ". (Đoạ.n này diễu lối thú tội và ăn năn trong các lớp chỉnh-huấn). Sống một cuộc đời lặng lẽ trong phủ Chúa, bằng sự kiêu hãnh với chức mã lệnh, chẳng bao lâu trên bờm, mao con Thiên-lý đã trồi lên một lớp lông vàng sòẹ Trước mã-đài nó đã nhìn thấy những cây cảnh bao lần đổi lá. Nhưng nó không biết đời nó đã chuyển dần về già. Tài nó cũng đã mòn mỏị Nó vẫn tưởng nó còn sức chạy dư ngàn dậm. Có một buổi sáng, nó được kéo xe để Chúa cùng Bà Phi ra ngoạn cảnh ngoại thành. Từ ngày vào phủ Chúa, lần đầu nó được đi ra ngoàị Nó ước ao được thăm cảnh cũ. Xe ra khỏi phủ Chúa, bon bon trên con đường đất rộng thênh thang. Nhìn thẳng phía trước, nó lấy làm lạ, nó kêu í í trong cổ như tự hỏi : " Làm sao con đường này ngày xưa rộng mà nay nhỏ bé như thế này ! ". Đi được một quãng nó nhìn lên phía trên, lại dừng lại tự hỏi : "Ô hay, ngôi chùa kia, ngày xưa rõ ràng nằm bên cạnh một quả đồi lớn, mà bây giờ lại nhỏ bằng con đường ta đang đi là nghĩa làm sao ?". Tất cả những cảnh vật trước mắt nó đều nhỏ lại, và thẳng tắp. Nó nhìn cánh đồng, cánh đồng cũng chỉ là một con dường thẳng. Rồi cây cỏ, núi đồi cho đến mầu giời xanh cũng chỉ thu nhỏ lại là một đường thẳng. Nó không ngờ hai chiếc lá đa che hai bên mắt chỉ cho nó nhìn được một chiềụ ... Xe đi mãị Lúc gần đến một thao trường, nó bỗng nghe tiếng hí của đồng loạị Tự dưng nó hớn hở : "Chắc các chú em bao lâu không gặp ta, sẽ khấu đầu chúc tụng ". Vừa nghĩ nó vừa cất nhanh bước. Xe vừa tới thì đồng loại nó cũng nhảy bổ đến trước mặt nó, miệng hí chân cất tiền, cất hậu như chê bai nước đi và tướng mạo của nó. Nó tím gan, hí lên một tiếng như để quở mắng : "Bọn nhãi kia, tội các chú đáng chặt đầu làm lệnh ! Các chú không biết ta là ai ư ? Đã quên tài của anh đấy rồi sao ?". Tất cả đồng loại nó, nhe cả răng, và í í lại trong cổ : "Chúng tôi biết bác lắm, biết bác ngày xưa là kẻ có tài nhưng bây giờ chúng em nhìn qua đã thấy bật cười về tài của bác. Thôi bác ạ ! Đững khoe tài nữa, chúng em đây ngại bác không rời được khỏi cái xe của Chúa ! Rời ra thì thóc kia trộn mật ai ăn ?". Con Thiên-lý uất lên, muốn thoát khỏi xe xông thẳng ra ngoài để tỷ sức, nhưng trên xe lại dật cương. Nó bực lắm nhưng cũng phải cắm đầu đị Vừa đi vừa nghĩ : "Những kẻ ngu si hèn mạt kia, ở đời này bay chỉ nhìn có một chiềụ Bây không biết được ta làm đây dể mấy kẻ đã làm được ! Sức bay được mấy nả mà vội kiêu ngạo, bay chạy được vài dậm đã phờ mao sều dãị Rồi đây ta sẽ cho bay biết tài ba !". Và hình ảnh một trường đua gió lộng, bụi cuốn, cờ bay, bỗng hiện ra, như thách thức. Con Thiên-lý-mã vẫn tin mình còn đủ sức phi lên hàng đầụ Sự đời biến đổị Sau đó ít lâu, chúa Trịnh được tin nhiều tướng tá thua trận ở bên bờ sông Gianh. Chúa định thân chinh đi, nên truyền cho viên tướng trông coi về kỵ binh mang mã lệnh ra đua trường để ôn dượt trước khi xung trận. Viên tướng liền cúi đầu tâu lại : "Muôn tâu Chúa-công, hiện nay trong triều-đình thiếu gì ngựa chiến có dư sức vượt hàng nghìn dậm, và đã từng dự trên dưới một trăm trận. Xin chúa-công để tiểu tướng được chọn dâng một con mã chiến có sức khỏe vào bực nhất. Còn như con mã-lệnh, cứ nên để nó kéo xe; vì từ khi đem nó vào phủ Chúa, nó ăn thì nhiều, lại không hề luyện tập, tài nó ắt không được như trước. Nếu chúa-công dùng con mã lệnh để ra trận, tiểu tướng áy náy lắm ! ". Nghe tâu trình, chúa Trịnh cũng thấy viên tướng là có lý, nhưng chúa vẫn còn tin ở tài con mã lệnh, Chúa bèn hạ lệnh cho mang con mã lệnh ra tỉ sức cùng các chiến mã khác để tiện bề kén chọn. Con Thiên-lý-mã được dịp rời phủ Chúa ra đua trường. Hai cái lá đa đã được cất đị Nó bàng hoàng nhìn giời, nhìn đất, mắt nó hoa hoa,. đầu nó choáng váng. Cảnh vật như quay chong chóng, cây như mọc ngược, núi như đổ xuống. Vừa gặp đồng loại một cái, nó cố dóng hai tai tóp bụng lại lấy hơi hí một tiếng để dương oaị Nhưng tiếng hí của nó vừa ré lên thì cụt lủn như vật gì nút lấy mõm. Các đồng loại của nó cũng nhe răng ra cười rồi cùng cất tiếng hí làm cho nó càng uất. Không chờ tiếng trống lệnh, nó đã lồng lên, tức thì các đồng loại của nó cũng bỏ rạch vượt theọ Tiếng trống liên hồi, con Thiên-lý càng cắm cổ chạỵ Nó đã tưởng mình thắng cuộc, nó đắc chí ngoáy đầu lại thì bọn ngựa chiến đã tới sát đàng saụ Chỉ trong chớp mắt nó bị tụt lạị Không chịu, nó càng lồng lên. Bổng nó thấy nhói một cái ở trong ngang bụng như bị một nhát gươm chém mạnh nó ngã vật xuống, vùi đầu trong bụi lốc của đàn ngựa bay qua, nó biết là đứt ruột, không thể sống được. Nó gắng mở to hai mắt, rên lên một tiếng như nói rằng : " Tiếng tăm lừng lẫy của ta chỉ có thể chết ở chiến-trường. Nhưng, than ôi ! Bãi cỏ này cũng là bãi chiến-trường, chết thế này cũng là chết vì giang-sơn, vì Chúa ! ". Trước hơi thở cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngốc đầu lên cao, co co hai chân trước, thẳng thẳng hai chân sau, chừng như để cố giữ lấy cái thế "cao đầu phong vĩ". Hà-nội 10-1956

NGÔ MINH * PHÙNG CUNG


Phùng Cung, một đời thơ 'chữ quê' đau đớn
 NGÔ MINH

Khoảng năm 1986, tôi được mời đi dự trại viết văn dành cho người viết văn trẻ ở Việt Trì một tháng, xong về Hà Nội nằm ở “Chòi ngắm sóng” của Phùng Quán chơi thêm cả tuần nữa.

Nhà thơ Phùng Cung  - Ảnh: N.Đ.Toán
Những ngày đó ngày nào anh Quán cũng đạp chiếc xe đạp cuốc Liên Xô cao lênh khênh, giải thưởng cuộc thi viết về Lênin, truyện ngắn “Như con cò vàng trang cổ tích”, chở tôi đi ăn các món Hà Nội và thăm các đại gia văn chương như Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt…
Một buổi sáng, uống xong tuần trà, anh bảo : “Hôm nay mình sẽ chở Ngô Minh đến thăm một người lạ lùng, người trả giá đắt nhất cho văn chương. Một người mà chỉ một truyện ngắn đã phải đánh đổi cả một đời người, một “nhà thơ chữ quê đặc sắc”- đó là anh Phùng Cung…

Nghe đến tên Phùng Cung tôi đã nhớ ngay đến Con ngựa già Chúa Trịnh, cái truyện ngắn mà  ông anh trai mê văn chương của tôi ở cái làng Thượng Luật heo hút góc biển Quảng Bình ấy dấm dúi tha về không biết từ đâu bản chép tay trong cuốn vở học trò cho tôi đọc thời còn học cấp hai trường làng.

Hồi đó tôi không hề biết truyện  ấy bị cấm, nên cứ đọc vô tư. Hơn nữa tôi đọc truyện mà chưa hiểu hết ý tứ sâu xa gì, chỉ  thương  hoài con ngựa Kim Bồng Thiên lý mã khi đã già, vì bao nhiêu năm chỉ lo phục vụ trong phủ Chúa với hai chiếc lá đa che hai bên mắt, không xông pha nơi chiến trận.

Nên khi ra trận sống mái  cuối cùng  ngựa Kim Bồng “chỉ trong chớp mắt nó tụt lại. Không chịu, nó càng lồng lên. Bỗng nó thấy nhói một cái ở ngang bụng như bị một nhát gươm chém mạnh. Nó ngã vật xuống, vùi đầu trong bụi lốc của đàn ngựa bay qua…”. Tôi giục anh Quán: “Đi ngay đi anh, “Con Ngựa già Chúa Trịnh” phải không ?”…

Anh Quán đạp xe chở tôi từ trường Chu Văn An bên Hồ Tây về đến 135 phố Mai Hắc Đế thì dừng lại. Cửa đóng kín. Anh Quán dựng xe đạp rồi  gõ cửa nhẹ.

Một ông già thanh mảnh, lịch lãm mặc quần ngủ màu trắng, đi guốc mộc, đôi mắt thăm thẳm, long lanh hiền dịu, đeo kính lão dày cộp, ra mở cửa. Thấy Phùng Quán, gương mặt ông đang từ ưu tư căng thẳng chuyển sang tươi cười niềm nở.

Anh Quán quay sang tôi chữ nghĩa ý tứ : “Đây là nhà văn Phùng Cung, vừa mới được về với đời từ mấy năm nay”, rồi  lại quay sang giới thiệu với Phùng Cung: “Thưa anh, em đưa đứa em làm thơ ở Huế quê em đến thăm anh”.

Ông bắt tay tôi rồi giục: “Vào nhà đi, đứng ngoài này nói chuyện không tiện!”. Ông dẫn chúng tôi lên gác. Tôi quan sát thấy ở ban công  nhà có  cây cau cảnh đặt cạnh cái vại nước nhỏ, một cảnh thu nhỏ thường ở các làng quê Bắc Bộ.


Tôi đã từng trọ học ở Kim Động, Hưng Yên, thấy nhà nào trong xóm cũng có vại nước đặt ở đưới cây cau cao ở sân dùng để rửa chân mỗi khi đi đâu về. Còn cây cau đến mùa ra hoa thơm lừng, hoa rụng lấm tấm đầy mặt nước, thơm lâng lâng.

Sau này gia đình nhà thơ Phùng Cung đã chuyển về khu vực Bưởi. Một lần  tôi cũng theo anh Phùng Quán đến thăm,  cũng thấy ở sân ông  trồng cây cau, phía dưới có vại nước.

Trước khi nhà thơ mất vài tháng, ông chỉ cây cau và nói với một người bạn tên là Lữ đến thăm nhà: “Anh thấy không, cây cau nhà tôi èo uột, không  lớn nổi vì thiếu ánh sáng. Nhưng mỗi lần nhìn nó thì tôi nghĩ đến thân phận…, và tôi càng thấy thương người dân mình hơn. Không giận ai được, chỉ có thương thôi” (Lữ - Cây cau của Phùng Cung).

“Cây cau - vại nước” là một hình ảnh đặc trưng, ám ảnh mà mỗi khi  nhắc đến Phùng Cung tôi lại nhớ, lại hình dung ra gương mặt thân thuộc của ông.

Suốt buổi sáng hôm ở phố Mai Hắc Đế ấy, Phùng Cung điềm đạm pha trà, thủng thỉnh làm từng động tác một. Hình như ông vừa pha trà vừa nghĩ tới điều gì đó lung lắm. Tôi thấy  ông như một thầy giáo vừa nghiêm trang vừa từ tốn.

Sáng ấy chủ yếu hai người Phùng Cung - Phùng Quán nói chuyện với nhau, còn tôi chỉ ngồi nghe. Tôi biết  anh Quán cố tình gợi chuyện để  Phùng Cung kể cho tôi nghe cuộc đời ông.

Phùng Cung kể  chuyện đám cưới của ông do  Phan Khôi làm chủ hôn, mặc dù cơ quan không đồng ý vì gia đình bên vợ thuộc “thành phần giai cấp phong kiến bóc lột”, chuyện bí mật làm thơ trong tù…

Chốc chốc ông quay sang hỏi tôi đôi điều về Cố đô Huế, như thể hiện sự quan tâm đến “khách đường xa”. Tôi  thấy thỉnh thoảng Phùng Cung đang  câu chuyện sôi nổi lại liếc ra cửa với thái độ rất cảnh giác.

Qua câu chuyện tôi biết Phùng Cung mới 17 tuổi đã làm Chủ tịch liên xã Hồng Châu - Liên Châu, huyện Yên Lạc, Vĩnh Yên khi Cách mạng Tháng Tám thắng lợi.

Có lẽ ông là một cán bộ xã thuộc loại trẻ nhất thời ấy. Cái xã là do ông đặt người ta vẫn giữ đến bây giờ. Vì hồi ấy ông là người cách mạng có chữ nhất trong xã. Rồi sau đó, Pháp tái chiếm Vĩnh  Yên, ông lên chiến khu Việt Bắc hoạt động văn nghệ. Rồi vào Đảng.

Ông kể ông có hoàn cảnh đau buồn trong Cải cách ruộng đất, bố ông bị quy là địa chủ cường hào, bị bắt và chết trong tù Cò Nỉ, Thái Nguyên. Ông tìm đến nhà tù để thăm bố nhưng rồi phục xuống khóc và thắp nhang lạy bố, vì bố đã thành nấm cỏ trên đồi…

Sau này đọc cuốn Cát bụi chân ai của Tô Hoài (NXB Hội Nhà văn, 1992) tôi mới biết thêm một số nét về cuộc sống của Phùng Cung ở trong tù. Tô Hoài kể rằng, Phùng Cung mới ra tù, đến thăm Tô Hoài “Dáng cù rù, mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà cái bóng của Phùng Cung trên tờ giấy tẩy chỉ mờ mờ. - Còn sống về được à ? - Cũng không hiểu tại sao anh ạ”…

Tô Hoài kể, tan lớp kiểm điểm văn nghệ sĩ ở Thái Hà ít lâu, Phùng Cung bị bắt tù 12 năm không có án, trong đó biệt giam 11 năm. Đã tù biệt giam, lại bị bệnh lao, thế mà không chết, mới lạ. 

Có lẽ nỗi đau đó đã lặn vào hồn, vào tim, đã rèn nên tính suy tư thế sự cuộc đời vô cùng  sâu sắc trong văn chương Phùng Cung  chăng?
Tôi  rụt rè hỏi ông: “Em đọc Con ngựa già Chúa Trịnh thấy truyện hay thế, nhân văn thế sao lại sự tình khốn khổ thế hở anh?”. Ông chớp chớp mắt, thở dài: “Chuyện dài lắm. Nhưng thôi đừng nói chuyện này nữa, Quán nhỉ…”.

Nói rồi ông đứng lên mở ngắn kéo bàn lục tìm hồi lâu mới lấy ra một tập vở bé bằng bàn tay, bìa bọc giấy xi măng cáu bẩn, cầm đến đưa cho Phùng Quán: “Sau mười hai năm, mình về với vợ con là mừng. Nghĩ đến tù đày là sợ lắm”. 

Phùng Cung trầm ngâm : “Quán ạ, mình  cố quên hết văn chương. Nhưng không  sao quên được. Đêm ngủ thơ nó cứ kéo về trong mộng. Thế là mình thủng thẳng ghi lại từng ngày. Như là viết nhật ký. Đây là những bài thơ nho nhỏ về chuyện quê nhà.

Nhưng  bây giờ thì gay rồi. Hôm qua chú công an khu vực đến chơi nhà, bỗng dưng cười hỏi: “Chào bác Phùng Cung, nghe nói  dạo này bác lại  viết thơ  à ?”.  Chỉ câu hỏi vui thế mà làm mình nổi da gà. Sợ quá.

Tập thơ này toàn hình ảnh quê, mình viết để giải khuây, không có “chuyện gì” trong đó cả. Nhưng  nếu mà họ thu mất thì tiếc lắm. Nên Quán cứ giữ hộ cho mình cho chắc".

Anh Quán nhận tập vở thơ rồi  nói vui: “Anh suốt ngày xoay trần làm nghề đập đinh, rồi rán bánh giúp chị Thoa để bán  kiếm tiền nuôi ba con nhỏ đi học, tưởng anh đã quên mùi bút mực rồi, hóa ra vẫn còn vương vấn”. 

Phùng Quán  đưa cho tôi xem tập thơ chép tay. Tập vở  mỏng, giấy học trò đen hùn. Trong đó mỗi trang chép một đến hai bài thơ, bài nào cũng ngắn, có bài chỉ hai ba câu, bốn năm câu giống như thơ Haicu của Nhật Bản, nét chữ Phùng Cung viết bằng bút chì rất nắn nót, hoa tay, nhưng không ghi tên tác giả. Tôi liếc bài  thơ hai câu đầu tiên tựa đề là “Bèo”, bỗng nổi da gà: Thơ ghê quá, bất ngờ quá:

Lênh đênh muôn dặm nước non
Dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh
(Sau này in trong tập thơ Xem đêm, câu thứ hai được ngắt ra thành hai câu: Dạt vào ao cạn / Vẫn còn lênh đênh).

Chỉ một cánh bèo quê đơn sơ thôi mà khái quát được  cả một phận người! Loại thơ kiệm chữ mà đầy ngẫm nghĩ này hiếm lắm, quý lắm. Tập thơ nhỏ hút hồn tôi.

Thế là tôi vừa tò mò lắng nghe hai ông anh nói chuyện với nhau, lại đọc ngấu nghiến hết cả tập thơ. Có thể nói lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với một loại “thơ quê” ấn tượng như thế. Nó vừa dân gian vừa bác học, vừa tâm can vừa chữ nghĩa.

Áo cũ gối đầu / Đêm tỉnh giấc / Sao khuya dạt chân rêu / Lạnh biếc / Bầu buông chày ngọc/ Cõi Lam Kiều / Về bên góc sân con (Góc sân con); Đêm về khuya/ Trăng ngả màu hoa lý / Tiếng gọi đò căng chỉ ngang sông (Đò khuya); Quất mãi nước sôi / Trà đau nát bã / Không đổi giọng Tân Cương (Trà)…

Chao ôi là chữ! Rất nhiều, rất nhiều, toàn chữ quen mà quá lạ. Người ta nói mồ hôi da chứ ai nói mồ hôi xương? Vậy mồ hôi xương là mồ hôi gì? Có lẽ đó là những giọt mồ hôi cuối cùng của con người lao lực, bị vùi dưới đáy xã hội chẳng ai quan tâm.

Rót nước vào ấm trà là “quất nước sôi”, “quất” chứ không phải “rót”. “Quất” là “đánh”. Đánh đến mức trà mới “đau nát bã”. Nhưng kỳ diệu là “không đổi giọng Tân Cương”. Phải chăng ông đang nói về đời mình!

Lao động thơ ghê gớm lắm mới chiết ra được những chữ quê hút hồn người như thế. Có lẽ ông đã nghĩ đến những con chữ ấy bao nhiêu lần trong những năm tháng ngồi một mình nơi biệt giam. Nó giống như gỗ lũa.

Vâng, đời chữ là đời người. Chữ của Phùng Cung là chữ đẻ ra, luyện nên từ cánh đồng, bờ tre, mái rạ, hương lúa, hương cau, ánh sáng đom đóm, từ đớn đau, chiêm nghiệm một đời người  trầm luân khổ ải.

Tôi cứ nghĩ, chữ ấy mới  là chữ của  hồn thơ Việt. Thơ là để cho người đọc xúc động, chia sẻ, thơ  phải làm cho người đọc nổi da gà, ứa nước mắt, mới là  thơ thật.

Thơ Phùng Cung “ý tại ngôn ngoại”, là loại thơ làm người đọc nổi da gà! Phùng Cung gọi mùa nước lụt là mùa nước mắt  là rất thật đối với người nông dân đồng bằng sông Hồng, cũng như chính đời ông: Đê tiền triều gãy khúc / Đồng ngập trắng / Con lềnh đềnh cõng - vắng - bơi - suông / Thương em đứng giữa mùa nước mắt. Không phải đó là sự quan sát, ghi nhận, mà đó là tâm cảm, là chiêm nghiệm, chiêm cảm.

Trên đường về lại Hồ Tây, tôi bảo anh Quán: “Anh để em giữ tập thơ này cho. Anh giữ cùng  chưa chắc an toàn”. Anh Phùng Quán đồng ý. Thế là tôi mang vào Huế.

Năm 1988, nhờ không khí đổi mới, tạp chí Sông Hương do nhà văn Tô Nhuận Vỹ làm Tổng biên tập đã đăng rất nhiều thơ, truyện ngắn, bài viết về “đổi mới văn chương”.

Tôi đã chọn  hai chùm thơ Phùng Cung và đưa tập thơ viết bút chì của Phùng Cung cho nhà văn Nguyễn Khắc Phê, lúc đó là phó Tổng biên tập Sông Hương, sau này một giai đoạn là Tổng biên tập.

Tạp chí Sông Hương năm 1988 đã hai lần giới thiệu thơ Phùng Cung với những bài như Nghiêng lụy, Bèo, Người làng, Chiếc lá rụng, Cô lái đò, rút trong tập thơ chép tay ấy.

Có thể nói văn chương Phùng Cung lần đầu tiên sau 32 năm kể từ Con ngựa già Chúa Trịnh (1956) mới được xuất hiện trở lại, đã gây ấn tượng mạnh đối với độc giả Sông Hương. Chắc chắn những ngày cuối năm 1988 ấy ông vui lắm.

Gần đây tôi mới biết, khi nhà thơ  Phùng Quán còn sống, một lần nữ nhà văn Hà Khánh Linh ở Huế ra, anh Phùng Quán cũng dắt đến thăm nhà thơ Phùng Cung ở Bưởi.

Buổi trưa hôm đó Phùng Cung, Phùng Quán và ông Nguyễn Hữu Đang mời cơm Hà Khánh Linh. Tại bữa cơm ấy Phùng Cung cũng  đưa cho Hà Khánh Linh  một tập thơ chép tay như thế, nhưng viết bằng bút mực, chứ không phải bút chì. Có lẽ để nhờ chị giữ hộ chứ không phải tặng, vì không thấy đề tặng.

Khát vọng
Ai giùm tôi thủ tục làm 
     vô tận
Thỏa thích trải trời xanh
     cõi không cùng
Tôi khát khao huy động
Những chùm sao đẹp
Đêm về lung linh trên xóm nghèo sao
Ăn năn
Vạn thuở hồn cỏ xanh
Mặt đất thơ gắn bó
Bất hạnh nào hơn
Già rụi quê người
*
Lúc ra đi
Đãy quê thao thức gối đầu
Trót - dông dài - trăng nước
Mặt - va giông chớp
Rạc mái phong lưu
Gót nhọc
Men về thung cũ
Quỳ dưới chân quê
Trăm sự cúi đầu
Xin quê rộng lượng
Chút thổ phần bò xéo
     cuối thôn !
(Rút từ tập Xem đêm - Phùng Cung)
Tập thơ gồm 106 bài chép trên giấy in rô-nê-ô màu vàng rơm, bìa tập vở học trò bọc giấy can bản vẽ cũ.

Ở trang đầu cuốn vở  đề tên là Phó Châu. Có lẽ  thơ ghi trong hai cuốn vở mà tôi đã đưa cho tạp chí Sông Hương và chị Hà Khánh Linh đang giữ đã được chọn vào tập Xem đêm (200 bài, NXB Văn hoá thông tin 1995).

Nhưng kẹp trong tập thơ chép tay chị Linh đang giữ  còn có  bài thơ mới làm ghi trên hai mặt một tờ giấy cũ là bài Chiều cun cút, nhưng không thấy trong tập “Xem đêm”: Áo song chàng / Nón lá / Phới về quê / Dệt dạt tối ngày khoai dáy / Lúc thảnh thơi / Quần vận khấu bò / Rong ruổi chốn rau dưa / Tôi gõ rỗ/ Khe khẽ ê a / Chiều cun cút / Một mình / Không lửa không đèn / Nhòm nhõm thâu đêm / Chết thèm cái bóng / Xa là trời sao / Gần là đom đóm. Mới hay, gửi cho bạn bè giữ hộ  là cách “lưu trữ” thơ của Phùng Cung. Ông phải chép thành nhiều bản để đề phòng bị mất…

Tôi rất vinh hạnh được gặp Phùng Cung một số lần nữa ở nhà Phùng Quán. Ông vẫn từ tốn, đĩnh đạc, như cuộc đời chưa từng bị phong ba bão táp gì. Bao giờ cũng cười tủm tỉm với ánh mắt chứa chan đồng cảm.

Ông cùng mang họ Phùng, nhưng không có huyết thống với Phùng Quán. Phùng Cung quê ở Sơn Tây còn Phùng Quán quê ở Huế.

Trong “đám” tài tử thời ấy, cho đến khi “nằm dài dưới đáy huyệt”, hai người Phùng Cung - Phùng Quán luôn thủy chung son sắt.

Phùng Quán ngưỡng mộ Phùng Cung vì đó là một người luôn sống và viết thực lòng mình, đó là một người anh cả về tuổi tác cũng như tài năng văn chương chữ nghĩa.

Phùng Quán đã làm hết sức mình để tập thơ Xem đêm của Phùng Cung ra mắt độc giả. Còn Phùng Cung  thì luôn yêu thương, tin cậy đối với Phùng Quán, coi Phùng Quán như một người em chí cốt.

Nên khi Phùng Quán mất, Phùng Cung là người được bạn bè và gia đình Phùng Quán chọn mời làm trưởng ban tang lễ. Ông đã đọc bài điếu văn “Sống là thể phách, còn là tinh anh” cực kỳ cảm động và súc tích. Bài điếu văn ấy cũng là một áng văn chương tình nghĩa và đẹp thâm hậu mà tôi đã đưa lên trang đầu trong tập sách “Nhớ Phùng Quán” (NXB Trẻ 2002).

Trong tôi, Phùng Cung luôn là một nhà thơ tầm cỡ, một nhà văn có bản lĩnh sáng tạo và nhân văn đặc sắc. Tiếc là văn chương của ông đã không được đến nhiều với độc giả.

Tôi cứ mong ước lúc nào đó xuất bản một tuyển tập văn thơ Phùng Cung chắc thú vị lắm... Nhưng đến bao giờ? Trong tập thơ Xem đêm có một bài thơ nhà thơ nhắn gửi với những người làm thơ hôm nay, đó là bài Tội nghiệp.

Để kết thúc bài viết, mời bạn đọc cùng tôi đọc lại  bài thơ đó: Tội nghiệp nhà thơ / Hợm mình / Lầm lạc / Biết không biết sống / Nên không biết chết / Nửa thế kỷ / Bị lưu đày / Trong cõi tung hô… Tôi biết ông đang nói điều gì!

Huế, 3/2008

Ngô Minh
 Nguồn: Tiền phong
 http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=4218


NGUYỄN THỤY KHA * PHÙNG CUNG

Gặp nắng lạ trong thơ Phùng Cung

Chủ nhật 08/07/2012 08:00
Phùng Cung là một trong những nhà thơ Việt Nam đi theo con đường của nghệ thuật tối giản. Thơ Phùng Cung đặc sắc bởi thi tứ, thi ảnh, thi từ, thi điệu, thi pháp đậm đặc chất đồng bằng châu thổ Bắc Bộ.
Gặp nắng lạ trong thơ Phùng Cung
Bởi vậy, thế giới thơ Phùng Cung rất cần thiết được nghiên cứu kỹ càng. Tuy nhiên, công việc này đòi hỏi một thời gian dài lâu.

Cảm nhận đầu tiên về thơ Phùng Cung với riêng tôi, là cảm nhận ấn tượng khi gặp những cái nắng lạ trong những câu thơ của ông. Cái nắng rất đa sắc nhưng không phải của màu mà là của văn minh sông Hồng. Cái nắng lấp lánh trong đêm mà Phùng Cung đã dẫn dắt mọi người cùng xem.

Bèo

Lênh đênh muôn dặm
nước non
Dạt vào ao cạn
Vẫn còn lênh đênh

Sông lũ

Mặt nước đầy căng
Sông chảy bồn chồn hoa nắng
Chim chả nguệch bàn cờ
bến vắng
Bóng xanh trôi

Xem đêm

Trở giấc xem đêm
Cuối trời trăng - mỏi
Trái gấc chín - ngập ngừng
Tóc rụng trạt lối đi
***
Trở giấc xem đêm
Thiên hà ngọc vụn
Gió thổi một mình
Mặt đất tròng trành
Ma hoa nhảy múa
 
Đấy là cái “Nắng Âu Cơ” – cái nắng từ tổ tiên thuở hồng hoang khi ông nghĩ về tổ quốc. Đấy là cái nắng “Nhuộm hoàng hôn đỏ gạch” rơm rớm bên “Ao con”. Đấy là “sông chảy bồn chồn hoa nắng” mùa lũ lên. Đấy là cái “nắng ngả tương” oai oải mùi hương quê. Đấy là cái “nắng hẩy gió lên” để rồi bóng râm rẽ lối sang sông. Đấy là “hạt nắng non” hồn nhiên rây qua kẽ lá như hạt ngô non khiến gà nhầm rình mổ. Đấy là cái nắng “ấp úng rạng đông”, cái “nắng cũ” ngời trong khóe mắt đồng chiêm, cái “nắng thả chào mào” nghiêng nghé căn nhà lụp xụp tồi tàn, cái “nắng phơi rơm” bồng bềnh mùa gặt, cái “nắng vắt ngọn tre đuôi én” mùa gieo mạ, cái nắng trong bước chân con vạc ăn ngày “đạp cánh đồng xơ xác”.

Đấy là những “chiều vừa đuối nắng” nơi con sông vặn dòng, là cái “nắng vẽ” trên lưng cua đồng chài chã đời đời kiếp kiếp lấm lem, là “trời thu thả nắng” bâng khuâng mùi ổi chín, là cái đuôi nắng uể oải cuối chiều trong tiếng bò rống, là cái “nắng đồng trinh” trong “chiều hoa râm”, là cái “nắng hàn vi” mỏng mảnh hoa rau sam, là “nắng hoa ngâu” se sém nỗi ong vàng chết điếng, là “cuối nắng” có con đò lá tre lênh đênh. Đấy là “chút nắng thừa” trong chiều khây khẩy cơn sốt rét run rẩy mảnh chăn chiên, là “nắng thắm quết trầu dốc bến”, là “nắng ánh cam” nhuộm nương ngô, là “nắng trôi lụa” xa xăm đẹp đến huyền diệu với cánh bướm vẫy.

Viết về nắng mùa rươi “tháng chín đôi mươi- tháng mười mồng năm” tài tình đến nhất mực: “Nắng đổ xanh chổi cốm hoa rươi”. Đấy là chút “nắng ghé” trên mảnh rêu chiều mênh mang, là “hoa khế đỏ màu cua chết nắng”, là gương mặt phong trần “chịu nắng”, là tia “nắng xéo” mo cơm lủng lẳng sau lưng người tha phương.

Đấy là “Nắng chiêm thành quanh quất tháp hoang” đầy bi tráng, là “nắng dứ” đầu mùa đậm nhạt, là tia “nắng tía” lay lay hàng râm bụt khúc khích tiếng cười, là cái nắng có sợi tơ trời nghiêng bay, là màu “nắng son” đổ vụn trên ngưỡng cửa trưa hè, là chút nắng hong khi mùa xuân đã vãn, là tia nắng hoang giữa cánh rừng, là cái nắng dạt liệm vào chiều chia biệt bạn bè, là cái nắng lạnh chuyển mùa chiều hiu hắt, là cái nắng hanh góc sân quê, là tia nắng lay trên con đường gánh gồng thuê mướn lam lũ, là tia nắng chột trong tiếng cóc ho, là cái nắng chói chang vắt kiệt đồng quê in dấu chân cua trốn nắng, là tia nắng quái nhắm vàng trên hoa chua me đất, là nắng thơm mật đồng mía, là tia nắng tắt tần ngần trên sào phơi váy.

Nắng lạ trong thơ Phùng Cung khiến ta nhận ra sự lấp lánh của phía bên kia bán cầu tưởng tượng mà người thơ ngồi trong đêm phía bán cầu bên này hy vọng về một đời thường bình dị mà quá đỗi khó khăn. Đời thường ấy hôm nay đã mất giữa một thời chao đảo, thời mà con người chỉ được sống trong bóng đêm bí ẩn của chính mình.

Cuối tháng 6 vừa qua, tại L’Epace (Hà Nội), Công ty văn hoá và truyền thông Nhã Nam (đơn vị liên kết với NXB Hội Nhà văn xuất bản tuyển tập thơ “Xem đêm” của nhà thơ Phùng Cung (222 trang khổ 15x23cm) đã tổ chức hội thảo về ông.

Số phận Phùng Cung thật trắc trở. Không mấy bạn đọc, nhất là các thế hệ bạn đọc trẻ biết đến ông. Ông sinh năm 1928 tại Vĩnh Yên, năm 1945 tham gia cách mạng. Năm 1949 ông hoạt động văn hoá văn nghệ tại Việt Bắc. Dính dáng vào “Nhân văn giai phẩm” nên từ 1961 đến 1973, ông bị bắt giam. Mãi đến năm 1994, tập thơ mỏng (cũng có tên là) “Xem đêm” của ông được ra mắt bạn đọc. Ông mất năm 1997 tại Hà Nội.

Phùng Cung có viết nhiều truyện ngắn, nhưng quả thật, thơ mới làm nên tên tuổi của ông. Những nhà thơ cùng thời, bạn bè thân thiết của ông đã nhận xét: “Có lẽ từ xưa đến nay, ở nước ta chưa có một tập thơ nào về một vùng quê nghèo khổ lại súc tích, cô đọng mang tính truyền thống và hiện đại sâu sắc như tập “Xem đêm”... Mỗi bài thơ, có khi chỉ một câu, đều như những luồng điện không giật chết người, nhưng cứ thắt vào tim những rung động thấm rất sâu... (Hoàng Cầm) hoặc nhận xét của Phùng Quán: “Đọc thơ anh, có bài chỉ vài câu, tôi bỗng thấy thiên nhiên quanh tôi vụt giàu có lên bất ngờ và trở nên đẹp đẽ đến xao xuyến tận đáy lòng - những vẻ đẹp từ trước đến nay tôi vẫn nhìn nhưng không thấy...”.

Cuộc toạ đàm nhỏ này chưa thể nói gì nhiều về thơ Phùng Cung. Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha cũng vậy, chỉ bàn góp thêm về “những cái nắng lạ” trong thơ Phùng Cung.
 http://laodong.com.vn/Van-hoa/Gap-nang-la-trong-tho-Phung-Cung/72936.bld

TƯỞNG NĂNG TIẾN * PHÙNG CUNG

sổ tay thường dân

Tưởng Năng Tiến

Phùng Cung Giữa Trăng Sao và Mộ Chí



L.T. Đ: Nhà văn Nguyễn Mộng Giác qua đời đã từ trần vào lúc 10 giờ 15 phút tối ngày 2 tháng 7 năm 2012 tại tư gia – thành phố Westminster, Orange County – thọ 73 tuổi. Bài viết sau đây có nhắc lại đôi chút kỷ niệm về ông. Chúng tôi xin phép được đăng lại nơi đây như một nén hương lòng để tưởng niệm những người đã khuất.
Tưởng Năng Tiến


Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh – sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi!
Xa mãi đến bao giờ…

(Trăng Ngục – Phùng Cung)

Những người không uống rượu thường (hơi) nhạt nhẽo. Tôi ít khi giao du với họ. Ông Nguyễn Mộng Giác là một người như thế. Bởi thế, trong suốt thời gian ông ấy còn sống độc thân (tại chỗ) chúng tôi có thể ngồi lâu với nhau – đằm thắm và tuơng đắc – duy chỉ một lần. Tất nhiên, với rượu.
Hôm ấy, ông Giác có tâm sự chi buồn, và (xem chừng) buồn lắm lận. Thoáng thấy tôi – đương sự mừng ra mặt – lật đật chạy đi kiếm một chai, loại chiến, và hào sảng rót ngay ra hai ly đầy ắp.


Nguyễn Mộng Giác 1940 -1973. Ảnh: Bình Hoàng

Sau vài lần cạn ly đầy (rồi đầy ly cạn) thì nhà văn Nguyễn Mộng Giác (bỗng) biến thành một … nhà thơ. Ông cao giọng đọc thơ Phùng Quán:
Thơ ai như thơ ông
Mỗi chữ đều như róc
Từ xương thịt cuộc đời
Từ bi thương phẫn uất …
Rồi trầm giọng bình thơ Khoa Hữu:
Thơ không còn là món trang điểm đua tranh sức chói lọi nơi cung đình. Thơ không còn là món đưa cay trong những cuộc say túy lúy. Thơ không còn là cái áo giáp cho ngươì ta phùng xòe trước đám đông và che dấu những thân thể suy nhược.Thơ không còn là khẩu hiệu cho những cuộc biểu dương lực lượng… Thơ là chiếc nạng vững chắc cho người già, là chỗ dựa cho những người thất thế từ đó đứng lên làm lại cuộc đời…” (*)
Coi: mới hết có nửa chai mà thằng chả đã “xỉn” hết biết luôn! Thay vì nói rằng “tiền là chiếc nạng vững chắc cho người già, là chỗ dựa cho những người thất thế từ đó đứng lên làm lại cuộc đời...” thì ông Nguyễn Mộng Giác nói lộn ra “thơ”. Ở đâu mà ra cái thứ thơ văn bảnh bao và ngon lành (quá cỡ) như vậy chớ?
Tôi cũng thường xuyên uống quá chén, và nói quá lời như thế, nên chả bao giờ bận tâm đến những câu phát ngôn (ẩu tả) theo kiểu đó. Tưởng đâu là nghe qua rồi bỏ, và sẽ quên luôn – như thường lệ. Tưởng vậy mà không phải vậy.
Hôm rồi, chị Lâm Thu Vân ghé qua California và có cho tôi tập Truyện Và Thơ của Phùng Cung (**). Tôi đọc gần hết đêm, rồi thức luôn tới sáng chỉ vì (chợt) nhớ lại những câu thơ mà Nguyễn Mộng Giác đã lớn tiếng ngâm nga nhiều năm về trước:
Thơ ai như thơ ông
Mỗi chữ đều như róc
Từ xương thịt cuộc đời
Từ bi thương phẫn uất …
Bữa rượu hôm ấy, không chừng (dám) tôi say chớ không phải là ông Giác. Nhận là mình uống say, hay viết dở, là điều (hơi) khó đối với rất nhiều người – trong số đó có tôi. Dù vậy, xem xong thơ Phùng Cung tôi không chối được rằng:
Sứ mệnh thơ ơi
Trong sáng tuyệt vời!
Thơ quả đã giúp cho Phùng Cung sống sót, sau những năm dài tù ngục, và là chỗ dựa cho những người thất thế (như ông) đứng lên làm lại cuộc đời.
Và cuộc đời te tua, tả tơi, bầm dập của Phùng Cung cũng khiến tôi thốt nhớ đến những người cầm viết khác – cùng thời với ông – những kẻ đã dựa vào thơ văn chỉ để kiếm chút công danh, hay bổng lộc.
Theo giáo sư Nguyễn Huệ Chi, sở dĩ ông Trần Thanh Mại được mời về làm cột trụ ở Viện Văn Học là nhờ vào công lao chống … Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Tuy nhiên, trong cuốn Trần Thanh Mại Toàn Tập (Văn Học xuất bản năm 2004) người ta đã không thấy có in lại những bài viết đấu tranh quyết liệt và nẩy lửa này.
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã nhắc đến sự “thiếu xót” đó với đôi chút mỉa mai, như sau:
“… toàn tập chỉ là những gì còn ‘ăn khách’ được với hôm nay? Còn những ‘miếng xấu hổ’ ‘khạc chẳng ra nuốt chẳng vào’ thì thôi, đành theo ý ai đấy giấu nhẹm đi để người ta quên đi một thời người cầm bút phải thoá mạ nhau túi bụi ‘cho vừa lòng bề trên’ … Có lẽ như thế cũng là cách xử sự hữu lý chăng?” (http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=3622&rb=0102&von).
Giời ạ! Tưởng sao chứ như thế thì có gì đâu là lạ. Trước đó 20 năm, năm 1984, người ta cũng đã chứng kiến cách “xử sự cho vừa lòng bề trên” (gần như thế) trong Tuyển Tập Xuân Diệu.
“Nếu khi khai sinh, nhiều bài thơ của ông có lời đề tặng ở bên cạnh như Đi thuyền tặng Khái Hưng, Đây mùa thu tới tặng Nhất Linh, Vô biên tặng Hoàng Đạo thì trong công trình mà ông đích thân tham gia chuẩn bị là Tuyển tập Xuân Diệu ở trên vừa nói, những giây mơ rễ má đó được ông xoá sạch.”
“Sợ liên lụy vì những người bạn cũ, trong các tài liệu chính thức, chẳng hạn, tiểu sử bản thân, đề ở đầu Tuyển tập Xuân Diệu (mà đọc kỹ thấy đúng giọng ông, tức do ông tự tay viết ra) nhà thơ giấu biệt chuyện mình đã từng là một thành viên của Tự lực”
“Và có lẽ chịu sự chi phối của ông – những lời năn nỉ thiết tha – nên các tài liệu nghiên cứu về ông, các giáo trình đại học viết về văn học trước 1945, hoặc trong Từ điển văn học in ra năm 1984, chuyện này cũng được lờ đi hoàn toàn.”
“Đúng là Xuân Diệu chưa kịp viết hồi ký. Nhưng giá có viết nữa, thì chắc ông không định viết tiểu sử như ông có thực, mà sẽ chỉ viết tiểu sử của ông như nó nên có, như ông muốn bạn đọc biết”. (Vương Trí Nhàn, Cây Bút Đời Người, Phương Nam Corp., 2002, 319 -320).
Xuân Diệu đã không có dịp “đẽo gọt đời mình cho vừa với lịch sử” nhưng Tố Hữu thì có. Cuối đời, ông ấy đã cố “đẽo” mình theo hình ảnh … Bụt! Những lời tâm sự của Tố Hữu – trước khi nhắm mắt – nghe (rất) đôn hậu, thiết tha và (vô cùng) thương cảm:
- Tôi đặc biệt cảm ơn nghệ sĩ Hoàng Cầm về những lời phê bình sắc sảo, chính xác và chân thành của anh bốn mươi năm trước đây đối với thơ tôi.
- Tôi khâm phục tài năng và ý chí của nghệ sĩ Đặng Đình Hưng. Đối với tôi, cuộc đời anh Hưng là một bài giảng cao cấp về niềm tin ở sự thật.
- Trần Đức Thảo là một mẫu mực của lòng say mê nghiên cứu và sáng tạo vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên lĩnh vực triết học. Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường đã góp phần khẳng định được vị trí tiên phong của đội ngũ trí thức cách mạng kiệt xuất và hùng mạnh …
- Văn Cao là một trong những nhạc sĩ lớn nhất…
- Quang Dũng là một trong những cánh chim đầu đàn của nền thơ cách mạng Việt Nam thế kỉ 20.
- Sau Quang Dũng và Hoàng Cầm, Trần Dần cũng là cây bút hạng nặng…
- Ngoài ra, phải kể đến Hữu Loan, Lê Đạt và Phùng Quán, ba nhà thơ ba vẻ khác nhau nhưng cùng sâu sắc, nóng bỏng tính chiến đấu không kém phần lãng mạn.
- Nhà văn Phùng Cung cũng cần phải được minh oan cùng với truyện ngắn Con ngựa già của chuá Trịnh.Cần lắm. Con ngựa già của chúa Trịnh chỉ là con ngựa già của chúa Trịnh mà thôi, không có ẩn ý gì xấu như bốn mươi năm trước đây một số người lầm tưởng…
(Nhật Hoa Khanh, Gặp Tố Hữu Tại Biệt Thự 76 Phan Đình Phùng, 2004, không ghi nhà xuất bản http://www/talawas.org)
Mô Phật! Cuối cùng Tố Hữu đã buông đao, sau khi đã làm cho vô số cuộc đời bị “rạn vỡ, bị ruồng bỏ và bị lưu đầy” – nếu nói theo lời Phùng Quán. Và đó chỉ là những chuyện nhỏ, những hiện tượng lẻ tẻ và cá biệt của văn học thời “cách mạng”.

Ở bình diện tập thể, còn nhiều vụ đáng ngại hơn nhiều. Xin đơn cử một thí dụ.
Trong cuốn Lịch Sử Và Văn Hoá Việt Nam, Những Gương Mặt Trí Thức, tập Một, do Dương Trung Quốc, Nguyễn Quang Ân và Tạ Ngọc Liễn sưu tầm và biên tập, nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin Hà Nội xuất bản năm 1998, các soạn giả đã chọn ra 71 nhân vật mà họ vinh danh là những trí thức Việt Nam tiêu biểu trải qua 770 năm lịch sử, với 9 thời đại và thời kỳ (Trần, Hồ, Lê, Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Nguyễn, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa V.N.)”.
Nhưng nhìn vào danh sách là chúng ta thấy ngay sự ăn gian của những người làm sách: trong suốt 720 năm (1225 – 1945) họ chỉ chấm có 38 nhân vật tức 53 %. Ðó là Trần Thái Tông, Lê Văn Hưu, Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Chu Văn An, Tuệ Tĩnh, Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn Trãi, Triệu Thái, Lê Thánh Tông, Lê Sĩ Liên, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Lê Hữu Trác, Nguyễn Thiếp, Lê Qúi Ðôn, Lê Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Trần Văn Kỷ, Võ Trường Toản, Phan Huy Chú, Vũ Phạm Khải, Nguyễn Ðình Chiểu, Phạm Thuật Duật, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Truờng Tộ, Nguyễn Quang Bích, Lương Văn Can, Nguyễn Phạm Tuân, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn An Ninh, và Phạm Tuấn Tài.”
Trong 50 năm sau cùng (1945 – 1995), họ đưa ra một số lượng khổng lồ là 33 nguời, tức 47 %. Trong số 33 tên, chỉ trừ giáo sư Hoàng Xuân Hãn sống ở Pháp, còn lại 32 tên không ai khác hơn là những đảng viên cao cấp của Ðảng Cộng Sản Việt Nam và những nguời phục vụ chế độ cộng sản. Ðó là Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Truờng Chinh, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát ….” (Trần Anh Tuấn, “Khi Chính Trị Chi Phối Văn Hoá,” Khởi Hành Aug. 1999).
Theo truyền thống, những người độc quyền lãnh đạo cũng sẽ là những kẻ độc quyền đi vào lịch sử. Truyền thống này được giữ vững suốt từ thời phong kiến đến … nay, ở Việt Nam. Nó chỉ chấm dứt khi bắt đầu có hiện tượng viết … chui. Phùng Cung là một trong những người làm thơ chui như thế.
Khi cố “đẽo gọt” đời mình cho thành một “thi sĩ bồ tát”, chắc chắn, Tố Hữu đã không biết rằng chân dung (cũng như chân tướng) của ông đã được “tạc” xong – vào năm 1972, tại trại biệt giam Bảo Thắng, Lào Cai – bởi Phùng Cung:
Tội nghiệp nhà thơ!
Bơ vơ một nẻo
Hết móc ruột moi gan
Lại réo tên chỉ mặt
Bởi không biết sống
Nên không biết chết
Nửa thế kỷ
Bị lưu đầy
Trong cõi tung hô.
Tương tự, khi quí vị lãnh đạo đảng CSVN chen lấn để đi quá giang (cho bằng được) vào lịch sử – có lẽ – không ai ngờ rằng nhân cách và trình độ trí thức của họ cũng đã được Phùng Cung ghi nhận từ lâu, trước đó:
Đất nước tôi
Triền miên bất hạnh
Tụi mặt dầy – tay bẩn
Tim rắn – lời cừu
Văn hoá lớp hai
Điều hành cuộc sống
Đám “văn hoá lớp hai” này (chắc) “chưa bao giờ nhìn kỹ vào những nấm mồ hay để cả một buổi tối nhìn lên bầu trời thăm thẳm, lấp lánh những ngôi sao im lặng… Bởi vì bất kỳ ai trò chuyện với các nấm mồ, đối thoại với các vì sao đều sẽ tốt hơn, nâng cao được nhân bản, giảm đi sự tàn ác, bất công với đồng loại. Họ đều sẽ hiểu cái phù du, cái vô nghĩa lý của kiếp người” [Bùi Ngọc Tấn, Chuyện Kể Năm 2000 (Toronto: Thời Mới, 2000), 279].
Phùng Cung cũng đã nhiều lần ngước nhìn như thế, với nỗi băn khoăn tương tự:
Tôi đứng trong đêm
Ngửng đầu nhìn cao xa
Vọng hỏi
Có phải nước mắt con người
Đằm đằm dội xuống
Mà trên thiên cầu
Bao vì sao xao xuyến đổi ngôi.
Tôi (trộm) nghĩ thêm rằng nếu chợt có lúc “nhìn kỹ vào những nấm mồ hay để cả một buổi tối nhìn lên bầu trời thăm thẳm, lấp lánh những ngôi sao im lặng” thì “tụi mặt dầy tay bẩn” (rất có thể) cũng sẽ thôi làm những chuyện lố lăng, kịch cỡm – như đẽo gọt đời mình, hay chen chân cho lọt vào lịch sử.
Tưởng Năng Tiến
———————————————————————-
(*) Nguyễn Mộng Giác, ed. Thơ Khoa Hữu. California: Văn Học, 1977.
(**) Truyện Và Thơ Chưa Hề Xuất Bản. Phùng Cung. California: Văn Nghệ, 2003.



THƠ PHÙNG CUNG


Thơ Phùng Cung



Bèo 
Lênh đênh muôn dặm nước non

Dạt vào ao cạn

Vẫn còn lênh đênh.


Mẹ


Mồ hôi Mẹ

Tháng ngày đăm đăm nhỏ giọt
Con níu giọt mồ hôi
Đứng dậy làm người.



Tội nghiệp


Tội nghiệp nhà thơ

Hợm mình
Lầm lạc
Bởi không biết sống
Nên không biết chết
Nửa thế kỷ
Bị lưu đầy
Trong cõi tung hô

                 Biệt giam Bảo Thắng – Lào Cai 72             


Bếp


Gió mưa sụt sui

Lửa mất
Bếp còn
Âu rỗng chuột rình khua khoắng
Lo lắng lườm nhau.
                1983

Vắng

Dưa héo sào phơi

Em đi đâu
Chĩnh nước gốc cau
Ôm khoanh – trời cũ
Lá bưởi đầu hồi
Loáng thoáng chân chim.

Điềm đói


Bàn tay héo xước măng rô

Bới trang lịch Tàu
Nhăn mặt – Tháng ba thừa
Trời giở quẻ
Giội hoàng hôn máu cá
Tập tàng, rau rệu được mùa
Đêm nghe xào xạc mùi thất bát
Sáng dậy trẻ già đắng miệng
Bãi Tân bồi ngâm rét muộn
Ngô loa kèn
Dọa thổi gió Đông non.



SAY
Ai chuốc rượu
Cánh buồm say lảo đảo
Quanh quẩn quãng sông chiều
Quên nẻo ra khơi.
BUỒNG THƠM
Đêm vắng
Buồng thơm
Em soi gương trộm
Ngọn đèn mượn gió nghé nghiêng.
Ê ẨM
Chợt nghe động trống
Trâu bò nhớn nhác
Dùi quật liên hồi
Ê ẩm tấm da khô.

                                      Phùng Cung


PHÙNG CUNG * DẠ KÝ

Phùng Cung
Dạ ký
 
Thời tiết gì mà lạ vậy, trời đã vào thu mà đêm còn oi bức như nung, như thiêu. Thời tiết lạc hậu! Ðêm lạc hậu! Hay đây là điềm thiên thời ra tay ủng hộ để cái nóng nấn ná đòi đốt cháy giai đoạn? Mở mắt to hơn nhìn thấy cái lợi lớn thì nóng thế này chứ nóng nữa, nóng hơn cả giữa mùa hè cũng khắc phục được hết. Trong số nhà 135 Mai Hắc Ðế gồm bảy hộ - trong đó có gia đình tôi - thì sáu hộ có trẻ con ốm. Gia đình tôi chiếm một phòng trên gác, cả thẩy bốn nhân khẩu: hai vợ chồng tôi và hai thằng cháu nhỏ. Với mười hai mét vuông, so với sáu hộ khác còn xênh xang hơn nhiều - "Ăn hết nhiều ở hết bao nhiêu!" Câu đầu lưỡi được các cụ ta ngày xưa tổng kết đã, đang và sẽ còn giá trị!

Rủi ro thay! Gia đình tôi hai cháu ốm cả hai: Mẹ chúng bị đau lưng vào nằm viện đã được hơn hai tuần.

Dưới nhà, chẳng biết hộ nào vụng trộm nhang khói cầu khẩn cho người ốm; mùi hương thầm thoảng đầy mê tín. Lại có tiếng càu nhàu văng bậy từ số nhà bên cạnh chửi cái nóng, chửi lung tung! Phải khẳng định những người này chưa thấm nhuần tiến bộ văn minh còn phải học tập, còn phải được giáo dục nhiều. Những hành vi ấy dẫu là bán công khai cũng đều rất ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt. Tôi chẳng hương khói, chẳng văng bậy, chẳng chửi; khó khăn phải khắc phục mà! Khắc phục được hết; nó là khẩu hiệu tiên quyết thắng lợi mọi mặt - Có thể khẳng định một thủ đô pha lê; một thành phố pha lê đã nằm trong tầm tay hoạch định của trên. Ai ai cũng nức lòng lạc quan - không phải lạc quan tếu - lạc quan cách mạng!...

Thỉnh thoảng tôi vèo xe đạp vào viện thăm vợ; vẫn phải nói với vợ bằng lời: "Yên trí! Tất cả đều tốt!" Cái lối động viên quen tai rất thời thượng - xuất xứ từ đâu? - Cửa miệng quái nào cũng có thể thốt ra được, ở bất luận trường hợp nào xét thấy cần thiết - nó khoanh trong cái vòng "người tốt, việc tốt". Ðơn giản mà nghĩ, tôi thấy lời của mình nói với vợ là láo toét! Là nói điêu, là dối trá nhưng được hơn là thành thật. Trong cõi hệ lụy thiên định, nhân định này, chỉ có những phù thủy giấu mặt, cao tay màu nhiệm "úm ba la" đổi trắng thành đen, đổi đen ra đỏ mà, văn hóa mới, văn minh mới chưa lùng chụp được - khiến số ít người còn bán tín, bán nghi, sợ sệt và coi khinh - Phù thủy thì khiếp lắm! Nó pháp thuật, người thành ma, ma thành người. Dân thường làm gì mà biết được.

Mình là người dân, là công dân, chỉ nên nói đến chuyện trong phạm vi công dân - Vinh dự cầm chặt trong tay thẻ cử tri, phiếu bầu cử là đủ tự hào quyền làm chủ! Nhất thiết phải có nghĩa vụ vinh quang! Sự đãi ngộ, hưởng thụ cũng rất khoa học, phải có tiêu chuẩn rõ ràng, không có lộn xộn như xa xưa; cái gì cũng "... giai do tiền định" - đừng hòng! - Phải thời đại hóa "Nhất ẩm nhất trác giai do tiêu chuẩn." - Bản thân tôi, một mình phải đương đầu, đánh vật với miếng ăn, miếng uống; đánh vật với bệnh tật của vợ con; đánh vật với đủ thứ rủi ro: nhòm ngó, nghe ngóng - mình đâu phải là Quan Âm Phật bà ngàn mắt ngàn tay mà lường hết được; - đánh vật với chính mình! thâu ngày, thâu đêm còn đâu hơi sức để tỉnh táo, để định thần, để khôn ngoan, để phớt cẳng vượt lên tiêu chuẩn cao hơn - không ai cấm đoán; còn khuyến khích động viên nữa là khác.

Hai cháu, thằng anh bốn tuổi, hơn thằng em hai tuổi; cộng cả hai là sáu tuồi - đang trong vòng "tuổi mụ" - nói như thời xưa là chúng đang được bàn tay bà mụ che chở cho đến tuổi mười hai. Bây giờ thì chẳng có mụ mẫm gì, ai dám cả gan tin; lên tiếng thử xem? Tất nhiên tôi cũng chẳng dám tin, dại gì chuốc vạ vào thân! Hai đứa cứ như thi đua lên cơn sốt, đã bốn ngày, năm đêm, kể cả đêm nay.

Từ đêm chúng vắng mẹ, đêm nào tôi cũng phải nằm dang hai tay ra hai bên như một cây thánh giá; mỗi cánh tay làm gối đầu cho một đứa. Chúng đều nóng hầm hập; ngày sốt ít, đêm sốt nhiều; chừng như chúng lên sởi. Cả hai đều rên khe khẽ, nghe rất tội nghiệp! Hai cháu ngoan, biết nằm im, rồi ngủ thiếp đi khiến tôi đỡ bối rối. Nằm giữa chúng, tôi lơ mơ ngủ, lơ mơ thức; có thể nói là ngủ trong thức, thức trong ngủ. Tôi cứ nằm trong cái thế "chịu tử nạn!", ê ẩm hai cánh tay, không dám cựa, chỉ mong chút im lặng để chợp mắt.

Ðêm lặng, hơi có gió nhưng là gió nóng; có lẽ gió từ dưới đất lên. Tôi cảm thấy hai mắt đang được băng lại bằng lụa mỏng - một thứ lụa chuyên dùng của thần ru ngủ? Tai tôi vẫn còn thức, nhờ gió đón nhận được những âm thanh của đêm thu. Âm thanh cũng đứt, nối, nổi, chìm, to, nhỏ, gió ý thức điều chỉnh?... "Thề phanh thây, uống máu... cùng tiến lên!..." Thì ra trong tôi cơ hồ bị thất thoát khái niệm thời gian. Những bài ca cách mạng hùng tráng; xa, gần, các giới, đoàn thể đang tập luyện để long trọng đón kỷ niệm ngày đại lễ của đất nước - Cách mạng Tháng Tám, ngàn thu ghi nhớ! Âm thanh ấy đang dẫn dắt tôi, hoặc tôi níu lấy nó để đưa mình vào cõi chập chờn...

... Một không gian đỏ, xanh, vàng, tím bao la quay cuồng biến ảo; bóng tối bưng lấy mắt, rồi lại thay bằng một thứ ánh sáng dìu dịu của đêm trăng, rồi ngả sang màu ánh sáng của bình minh ảo - không gian phù thịnh. Tôi đang thông thả bước trên một đường phố - trước kia rải nhựa nay đầy những vết xe tăng để lại nham nhở. Tôi mất phương hướng, mất cả lập trường, lại không phải nhà quân sự nên không nhìn nhận rõ đây là dấu tích tàn phá của chiến tranh vệ quốc hay xâm lược. Tôi tiếc con đường nên nghĩ dông dài thô thiển: Tất cả chỉ là sự bày đặt, buôn bán máu xương của ma vương quỷ dữ!... Bỗng một bàn tay đập vào vai tôi, tôi giật mình. Tôi chỉ nghĩ chứ đâu đã nói ra, nên tôi lại định thần quay lại. Ai nhỉ? Một người mà tôi thường hàng ngày chạm mặt. Vẻ mặt dễ mến này hẳn tôi đã lưu giữ trong tiềm thức nhưng vẫn không sao nhớ được tên - Nói theo tiếng xưng hô - hóm hỉnh - mỡ nạc - vui tính - hàng ngày của nhà văn Kim Lân, là "người anh em". Tôi hỏi "Người anh em đi đâu?" Người này chỉ cười, không trả lời; càng cười càng tỏ vẻ dễ dãi. Trong chuỗi cười, nói lên cả một lời khuyên nhủ "Ðồng hành!" Tôi vốn có thói quen trực giác cảm thấy đáng tin, là tôi sẵn sàng thả lã sự giao tiếp ngay; không chút đắn đo, ngần ngại. Anh ta đi trước, giữa tôi và anh ta có mấy thứ khoảng cách; khoảng cách tuổi tác, tôi kém anh ta ít cũng ba trăm sáu lăm ngày nhân bốn hoặc năm; khoảng cách chức vị xã hội thì dài lắm, bởi tôi chẳng là cái gì; khoảng cách bước đi vừa bằng chiều dài một con chó. Kẻ trước, người sau đều bước, tôi vẫn băn khoăn, không sao nhớ được tên. Ði là đi, tôi cũng chưa kịp hỏi là đi đâu, bởi tôi tin theo sau anh là vô hại, nếu chưa nghĩ đến là lợi lộc. Ði được một quãng, anh ta nói với tôi bằng cái giọng quyến rũ, tiếng to, tiếng nhỏ, tôi nghe câu được câu chăng: "đường vinh quang" hay "đài vinh quang!"... gì đó. Tôi bụng bảo dạ: "hay rồi!" Anh ta cứ nói, tôi cứ nghe. Xem chừng đã mỏi chân, khát nước, muốn tìm chỗ nghỉ để rồi lại đi. Thình lình tôi quay lại, không thấy anh ta đâu, rõ ràng tiếng nói của anh ta còn bám trên vành tai tôi. Tôi lấy làm lạ, nhìn đông, nhìn tây không thấy. Anh ta đi đâu nhỉ? - rẽ lối nào? - để làm gì? - Tại sao mình lại không biết? Tất nhiên tôi chẳng mất mát gì; chẳng có gì để mất mát. Ẩn hiện kiểu này chỉ là thần hoặc ma, tôi đâm ra lo sợ. Giữa thanh thiên bạch nhật lại xảy ra chuyện kỳ lạ nhường này! Tôi vừa đi vừa nghĩ, cố rà lại trong kho lưu trữ của mình để ghép dựng lại con người anh ta. Tôi tiến hành theo cái kiểu làm dồi lợn, được đoạn nào buộc đoạn đó - biết mình đầu óc kém khoa học, kém tổng kết, hay để sổng ý nghĩ - dễ xáo trộn lung tung. Trước hết tôi lần nhớ dáng đi của anh ta, lon ton, lon ton - lối vận hành của quan hoạn - À! nhớ ra rồi! Kho nhớ của tôi về anh ta như ổ khoá mở đúng chìa; thậm chí tôi có thể biết cả sơ yếu lý lịch của anh ta - Con trai thứ của một viên chức loại thường ở thành phố cảng, nhà lại có cửa hàng cửa hiệu; học vấn đã qua tú tài, và đã qua vài năm trường luật - nhờ tham gia cách mạng từ thời Nhật thuộc - trình độ văn hóa - giữa lúc mà Bác mình đang kêu gọi diệt giặc dốt - thì anh ta thuộc loại có hạng. Bởi vậy anh ta được giao công tác "tuổi trẻ chức cao". Hình hài xếp loại đẹp giai, trông rất đàn ông, da ngăm ngăm, mũi cao, mày rậm, mắt sáng, râu quai nón - lúc nào cũng cạo nhẵn - khi chưa kịp cạo, râu hơi lờm sờm càng đẹp vẻ mày râu.

Anh ta được trên sủng ái; cái giọng nói to nhỏ từ miệng khuôn ra toàn đạo đức; mới nghe ngọt sớt nhưng ngẫm nghĩ thì nó lộ nguyên hình mỹ ký. Chả biết anh ta học ai mà nhuần nhuyễn bài bản mỹ ký đến thế; chẳng lẽ bẩm sinh? - Hẹp hòi, ích kỷ, thù vặt, đầy người - kể cũng được việc lắm! Văn, thơ, kịch cọt, nhạc nhiếc, triết trủng, anh ta tự hào "thập bát ban võ nghệ tinh thông!" Nhờ tài hoa ấy mà đời anh ta thông bén luồng lạch! ngóc ngách công tác cũng như riêng tư. Tôi được biết nhiều phụ nữ từ quan hệ công tác - môi trường tạo gần gụi, ngụy trang - chị em phái yếu nhà mình không ít nhẹ dạ, nhẹ như xăng - như thùng xăng. Anh ta rất nhạy bén đánh hơi khi thùng xăng hở nút, hoặc rò rỉ, quẹt diêm đúng lúc - Dẫu đội quân cứu hoả nhà trời cũng đừng hòng tắt ngay được! Hậu quả chị em đã bị anh ta làm cho khốn khổ; chị em đã có chồng con không xiêu nhà nát cửa, cũng mang hận suốt đời! Kiêng nể cách mạng nên phụ nữ không dám lên án anh ta là tên "Sở Khanh cách mạng" mà chỉ nhổ hơi nặng bãi nước bọt! Anh em trong ngành văn nghệ đã phong tặng anh ta danh hiệu "con chó dái đầu bảng!"

Con người như thế phải là như thế. Khi vợ anh ta bị bệnh lao phổi, chết tại Việt Bắc, biến đau thương thành hành động; anh ta lao vào công tác vừa phần rảnh thân kiếm bạn đời, rảnh cẳng lông nhông...

Chẳng hay, cấp trên trực tiếp, gián tiếp có biết đầy đủ về con người anh ta không? - Sáng suốt nhường ấy thì chắc chắn phải biết. Có phải vì văn thơ kịch cọt của anh ta hợp khẩu vị - mà trên làm ngơ, hoặc đang có tác dụng này nọ; cân nhắc thấy những "nhược điểm nhỏ" của anh ta không ảnh hưởng gì đến nền đạo đức cách mạng, chỉ là cá tính vô hại. - Anh ta cũng đã mấy lần lầm lữa - giở quẻ - hợm mình - nâng giá! lên voi xuống chó, những lúc ấy trông anh ta thiểu não, ai cũng động lòng - người trong ngành nhận định chỉ là sự "giơ cao đánh khẽ" để vào khuôn phép, kỷ cương! - Nhận định như vậy hình như đúng - Trên đường hoạn lộ anh ta vẫn được đàn anh dấm dúi thập toàn đại bổ. "Nhược điểm nhỏ" anh ta cũng có phải trả giá - giá chợ chiều.

Tóm lại đâu vẫn hoàn đấy; vẫn lông nhông leo thang; công tác vẫn ngon lành. Thế mới biết con người ta đều có số phận cả!

Biết rõ anh ta là ai rồi nhưng tôi vẫn thắc mắc về sự ẩn hiện của anh. Theo truyền ngôn, nước ta chỉ có "Tứ bất tử", các vị này đều dày công tu luyện đạo gì, đạo gì đó. Vậy chẳng lẽ anh ta đã bổ sung vào hàng ngũ đó sao? Chẳng lẽ học thuyết Mác Lê Nin cũng là đạo sao? Vô thần cơ mà! - Ừ thì cứ cho là đạo vô thần đi - Ðạo vô thần mà lại lắm phép lạ đến thế thì khiếp thật! Và đương nhiên anh ta phải là bực chân tu chính đạo! Tôi tự thấy mình hoá thành kẻ đa sự nên vội trụt ý nghĩ lại. Từ lúc trong đầu bận tập trung suy nghĩ về anh ta, quen chân, đều bước cũng chẳng biết mình đã đi bao xa và đi đến đâu. Chỉ thấy chân mỏi nhừ, khát nước bỏng cổ họng. Tôi trở lại cái thói quen thiển cận, những điều gì không tự giải đáp nổi cho quên béng đi, là thượng sách...

Trời đã ngả chiều, từ trên cao chợt có tiếng "quạ nổ pháp miệng" - Tiếng của làng quê tôi như thế - Tôi nhìn lên ngọn cây chòi mòi kề bên cổng một ngôi đền cổ kính. Không am tường ngôn ngữ chim muông nhưng tôi đoán đó là một dạo khúc bản Sê-rê-nát quạ. Con quạ khoang vươn cổ réo lên đủ bảy tiếng chiều - vấp nhịp - bốc cánh bay đi; vừa bay vừa ỉa thản nhiên. Tôi muốn ghé nơi cảnh vắng này để độ chân, luôn thể ăn mày ngụm nước. Tôi vừa bước khỏi cổng, bỗng thấy khác lạ: rõ ràng vừa rồi là một cổng đền, nay lại biến thành một tam quan đẹp - Chùa hay đền? - Tôi chẳng hiểu gì về kiến trúc, chẳng phải tín đồ, con hương, đệ tử. Tôi chẳng có cương vị quan tâm. Tôi bước thêm dăm bước. Chợt tiếng "đậu phụ chùa" sủa dữ dằn. Tôi để mắt tìm chẳng biết con vật ấy đâu. Tiếng sủa từ bốn phía giáp công giòn giã đan vây. Tôi biết làm gì đây để thanh minh mình không phải là kẻ gian phi. Tôi cố gắng nhìn ngó muốn tìm đến chủ của chúng dù là nhà sư hay là ông từ để nói lên cái yêu cầu không nhỏ của mình. Rất tiếc, tôi chẳng thấy bóng một ai! Chẳng biết sức gì lôi cuốn, khiến tôi tò mò ngoan bước. Vào đến thềm đại bái, tôi chợt nghe tiếng lịch kịch bên trong như tiếng thu dọn đồ đạc. Tôi bước hẳn vào bên trong, nhìn lên tam bảo uy nghi. Cái mắt tò mò chuộng lạ của tôi dè dặt tôn kính từ ba vị tam thế, đến hai bên hành lang, đủ loạt: tượng Phật, tượng thánh gỗ hay đất chẳng biết, đều sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Trời! Tôi bỗng rủn cả người! Các tượng tĩnh toạ ở cái thế thiên thu bất biến, nhất loạt chăm chắm nhìn tôi. Tôi rẽ sang hành lang bên tả, các vị cũng nhất loạt đánh mắt sang tả lườm tôi! Tôi rẽ sang hành lang bên hữu, các vị cũng nhất loạt đánh mắt sang hữu - Còn nhanh hơn - lườm tôi! Sự hoạt động của nhãn tượng nhạy bén tựa cái vô lăng ô tô quành trái, quành phải trên con đường chữ chi, ổ gà, do một tay lái tột bậc, điều khiển. Tôi cảm thấy lạnh toát người; tôi cố trấn tĩnh làm nhanh bản tự thuật trong đầu. Tôi vẫn biết đã là tự thuật là thành khẩn tự nhận tội lỗi là cốt lõi của vấn đề. Tôi tự nhủ có lẽ con mắt của thần, Phật; chỉ con mắt thần Phật mới nhìn thấu hết. Hẳn kiếp trước mình là kẻ bất lương, bất hảo!...

Tôi khép nép đi lùi theo lối cận thần sau khi vào bệ kiến đức vua mà tôi đã có nhiều dịp chứng kiến trên các chiếu hát chèo. Lùi đến khi gót chân va vào bậc cửa tôi mới dám cúi đầu quay ngang và bước hẳn xuống thềm.

Khát quá! Nhìn thấy một bể nước kề sát tường, tôi vội nghĩ: thôi thì dẫu sao mình cũng đã bị kiềm kim ấn ba kiếp thì liều thành tâm ăn mày trộm ngụm thanh thủy! Rủi thay! tôi nhìn vào bể chẳng còn lấy một giọt nước, đáy bể đã chớm rêu. Góc bể phía trong, một con cá đã chết từ bao giờ trong môi trường thiên định, chỉ còn nguyên bộ xương trắng màu gạo hẩm! Chờ ăn vạ, hay đợi thời gian mài giũa để siêu thoát, hay chờ bàn tay mầu nhiệm cho tái sinh? Duyên kiếp người cũng như ngư, điểu đều may ít, rủi nhiều, cứ nằm đấy mà chờ đợi! Tôi trộm nghĩ lõm bõm lời Phật tổ: "Nước bốn đại dương dồn chứa chưa bằng nước mắt chúng sinh trong thế giới ba ngàn!" Nếu được xét tái sinh hẳn con cá này sẽ được thung thăng ưu ái trong nước mắt mênh mông vô tận - Coi chừng, kẻo uổng phí kiếp tái sinh!
Bộ xương cá đòi bằng được chỗ đứng trong kho lưu trữ đầu tôi, làm tôi nao nao; cá đã chết rũ xương trong môi trường thì còn biết thế nào mà lường được! Môi trường đang là cái lò sát sinh được ngụy trang chăng?

Tôi vừa đi vừa nghĩ bỗng cơn mưa ập đến, nghe tiếng mưa rào rào, tôi nhìn xa gần để tìm nơi trú. Nhưng lạ thay, mưa mà quần áo tôi không ướt. Mới ở chùa ra, có lẽ mưa tưởng tôi là người nhà Phật, hay ít cũng vương mùi Phật nên kiêng nể chăng? Lại thình lình một mũi giày đá vào mông tôi. Ðá khá mạnh nhưng không đau. Tôi lại giật mình quay lại. Chẳng phải ai xa lạ, ông bạn cao tuổi, nhà thơ giả thiểu số - Tôi hơi bất bằng cái lối mở đầu sự gặp gỡ kiểu này, nhưng không tiện tỏ thái độ, chưa hẳn sợ anh mà là ngại anh thì đúng hơn. Anh đá tôi bằng giày vải quân đội nước bạn Trung Hoa viện trợ - Trong giày nó có sức điều tiết lúc êm, lúc đau - phát đá hữu nghị giao hảo thì nghe êm; ngược lại thì gấp ngàn vạn lần giày săng đá của lính Lê dương. Anh hất hàm hỏi tôi: "Ðã thật thành khẩn chưa?" Tôi chưa kịp trả lời mà nghĩ nhanh: sao anh ta lại hỏi đột ngột thế nhỉ? Anh ta có ở trong đầu mình đâu mà biết được bản tự thuật lúc nãy mình chỉ mới nghĩ, chứ có viết hoặc nói ra đâu. Lạ thật! Chẳng lẽ tiếng lịch kịch khi tôi nghe thấy lúc còn đứng ở thềm đại bái lại là tiếng do anh ta tạo nên. Có lẽ anh ta nấp đâu ở trong chùa mà tôi không biết. Cái khoa "Phật vận" của anh làm tôi phục anh sát đất. Cũng có thể do anh ta quen tin lấy tiếng chó làm chuẩn để cân đong đánh giá sự gian ngay chăng? - Như người bị bắt quả tang, tôi cứ ngớ ra: Chút bình tĩnh dần dần được hồi phục, vì mình không khuất tất, không trộm cắp gì. Vả lại nhà tôi cũng có nuôi chó. Người lạ đến nhà là nó sủa; bất kể là ai. Nhiều con khôn còn biết sủa lập công phò chủ. Tôi ít nhiều bị chúng hiểu lầm nhưng chẳng đáng để ý. Anh nhà thơ lên mặt giáo dục tôi: "Chưa được thành khẩn, phải đào sâu suy nghĩ, còn phải, bộc lộ!..." Tôi nghĩ đây đâu phải là đang cuộc chỉnh huấn. Nếu là chỉnh huấn tôi cũng chẳng tiếc gì vài cái gãi đầu đấm ngực, lên án mình - dù thật hay vờ miễn học ủy gật đầu chấp nhận... Anh nhà thơ lại hạ giọng: "Cũng tạm được, cũng đã có ít nhiều chuyển biến!...". Nói xong anh quay đi, đi rảo bước cho kịp một người bạn đồng hành của anh. Tôi được giải thoát, tôi thở phào nhìn theo hai người. Quái lạ! Anh nhà thơ, lúc nãy tôi có thấy anh ta cầm cái gì đâu. Bây giờ lại thấy tay phải cầm ngang một chiếc côn gỗ đầu đen, đầu đỏ - Nếu là côn đầu trắng đầu đỏ thì tôi đã biết nó là côn công sai - côn thủy hoả! Nhưng loại côn này thì tôi chịu. Người cùng đi với anh, không nhìn mặt tôi cũng biết. Vóc dáng cao lớn, gầy, đen, tứ thời đầu húi móng lừa, tứ thời bận đồ nâu - kể cả khi bận com-plê cũng nâu - na ná một ông sư Cao Miên - đó là một nhà văn, nhà lý luận - lối lập luận thời thượng nhất - vừa mũi nhất - Anh em trong ngành văn học nghệ thuật nói vụng với nhau là "Tên đầu bếp vụng, nhưng được kẻ ăn khen ngon!"...
Nhà lý luận một tay bá cổ nhà thơ, một tay cũng một cái côn, giữa sơn vàng, hai đầu đỏ, màu sắc tất nhiên khác hẳn côn của nhà thơ - Nó tượng trưng cho cái gì thì tôi cũng xin chịu - Côn nào cũng có tính năng của nó, không phải chuyện trang trí, tạo dáng.

Một lúc sau, không biết hai người đã rẽ lối nào, tôi chẳng quan tâm, ngả ba, ngả tư thiếu gì. Ðến một ngả ba, thấy lối rẽ bên phải đường nhẵn cát pha, tôi liền rẽ theo ngả này. Ôi! Vô phúc thế nào lại dẫn thân vào nơi cấm địa; lầu son, gác tía dựng ngay trước mặt. Tại sao mắt tôi không nhìn thấy từ xa nhỉ. Tôi dừng chân nhìn một ngôi hoá hai, hai hoá ba, ba hoá bốn, hoá năm, liên khu lâu đài, biệt thự - như trời hoá phép vậy! Tôi tưởng đây chỉ là ảo giác. Tôi xoa mắt, định thần. Tôi đứng bên ngoài hàng rào cấm, nhìn lên thấy một tấm biển màu đỏ, chữ vàng, chữ loà nhoà tôi không đọc rõ - treo ngay ngắn trước một biệt thự chính giữa. Hai hàng người quần áo đồng màu cắp côn đỏ, xếp thứ tự nghiêm chỉnh từ dưới chín cấp lên tận cửa son. Ðứng đầu hàng bên tả là người nào tôi không biết; đầu hàng bên hữu là ông anh đẹp trai tôi gặp lần đầu - ông anh rất chững chạc, rất điệu có vẻ điêu luyện nhất: Hẳn ông anh đang giữ chức chỉ huy, bên cửa son. Cặp mắt hau háu, trai lơ, sung mãn! Lúc này tôi mới chợt nghĩ lại mấy tiếng "vinh quang" mà tôi đã được nghe anh nói; hẳn là chốn này đây! Chả có công việc gì mà cứ luẫn quẫn nhìn ngó dễ bị xơi đòn nên tôi liền lảng nhanh. Tôi đang nghĩ tiếng "vinh quang", hẳn là anh đó khoe mình đang vinh quang, hoặc chỉ nhủ tôi đi xem "vinh quang" mà thôi. Như vậy là tôi đã được biết cái vỏ vinh quang, còn tất cả bên trong là như thế nào, ngữ tôi làm gì được biết. Tôi nghĩ: "đi một ngày đàng học một sàng khôn". Học cái gì, khôn cái gì? toàn là những điều không thực dụng, vô bổ.

Khát cứ khát, đói cứ đói, chân cứ đòi bước như thể tự mình dẫn độ mình trong vô định. Ðang đi trong lối đi của thành phố, trong đầu cứ bẵng đi một cái lại gặp một sự lạ. Ðường phố rõ ràng thoắt biến thành lối đi đèo dốc miền thượng du. Hai bên rừng rậm rập, tiếng chim hót đủ loại, nhiều nhất là vẹt và khướu bách thanh, hai loại này tay có nghề mà kiếm được vài cặp nuôi dạy làm mồi thì tuyệt vời!

Tôi chợt nghe giọng âm ấm ngâm câu thơ "Mai Châu mùa em thơm nếp côi..." Tôi nghĩ ai đó đang ngâm nga câu thơ của Quang Dũng thì thấy đúng Quang Dũng xuất hiện. Tôi cảm thấy may mắn, gặp anh. Tôi vội hỏi anh đi đâu đến chốn này. Anh cười vẻ buồn buồn: "Ở Tây tiến về! Hôm nay sinh nhật mình, mình đang muốn tìm bạn dự sinh nhật!" Tôi nghĩ bụng: Thế thì đúng lúc, mình đang đói, khát, lại có bạn rủ đi sinh nhật thì còn gì bằng. Tôi ngỏ lời chấp thuận. Thế là anh ta kéo tôi ngồi xuống gốc cây bên cạnh giở trong bọc ra mấy củ khoai lang luộc, và tháo từ nách ra một bi đông - bi đông nhôm hơi méo đựng nước chè xanh. Hai thằng cùng ăn khoai, cùng uống nước - Anh ta giới thiệu khoai quê mình đấy, chè thì ở Gốt cũng gần quê mình - Ta lấy khoai làm bánh kẹo, lấy nước chè làm rượu - Anh vừa nói vừa cười hỏi tôi: "Cậu chúc gì mình nào?" Tôi đáp: "Chúc ông làm nhiều thơ hay!" - Anh ta lắc đầu, im lặng. Tôi thấy sinh nhật một nhà thơ sơ sài quá! đơn giản quá! Nhưng tôi lấy nội dung làm chính. Anh ta lại nói: "Khoai lang ăn nó dễ đi ỉa, nhuận tràng; chè xanh mát ruột!" Tôi cũng miễn cưỡng cho là phải - và đang nhìn mơ hồ lên bầu trời cao xanh. Bỗng tôi thấy anh lấy từ trong túi đựng khoai ra một con dao dài chừng một gang tay, chuôi đồng, lưỡi dao sáng loáng, anh ta vừa nhổ nước bọt vào gan bàn chân, vừa liếc dao, vừa khóc! Nước mắt lăn rơi đầy mặt! Liếc dao xong, anh ta đứng phắt dậy, mắt gườm gườm nhìn tôi. Tôi sửng sốt không hiểu nổi cái gì sẽ xẩy ra đây? Tôi cũng đứng dậy. Anh ta cầm lăm lăm con dao sắc trong tay: "Tao thiến mày!" Tôi hoảng sợ nhưng vẫn nghĩ là anh đùa: "Ðừng đùa dại thế anh!" - Anh nhảy bước tới tôi. Tôi lùi nhanh. Anh nói: "Ðùa à! Tao thương mày, mày có muốn làm quan hoạn không?" Tôi nghĩ: Thằng này phát điên hay sao đây mà lại quái gở thế này? - Anh ta nói liền liền: "Tao thương mày! Tao thương mày! Cùng quê nhau cả, tao giành cho mày mọi sự ưu ái!" Nhấp nhỏm có ý rình miếng chụp gọn lấy tôi. Tôi vừa sợ, vừa nghĩ: anh ta phát điên hẳn rồi! Ưu ái - quan hoạn - lộn xộn chẳng còn biết ra thế nào! Tôi lùi một bước, anh ta tiến một bước, tôi lùi hai bước, anh ta tiến hai bước. Anh ta một tay múa dao, một tay chuẩn bị chụp bộ hạ tôi. Chạy là thượng sách! Tôi phá chạy, anh ta huỳnh huỵch đuổi theo sau. Rõ ràng tôi cắm cổ gắng sức mà vẫn như chạy tại chỗ. Anh ta cũng không đuổi kịp được tôi. Chạy được một lúc, tôi ngoái nhanh cổ nhìn lại, không phải Quang Dũng mà là một nữ du kích; đầu chít khăn đen kiểu mỏ quạ, áo cánh nâu, quần đen có chít ống, trông cũng xinh xinh. Tôi vừa chạy vừa nghĩ chẳng lẽ Quang Dũng tàng hình hay cô du kích tàng hình. Tôi cứ chạy lối chữ chi như để tránh luồng đạn. Chạy mệt quá! đứt hơi rồi. Tôi đành nhắm mắt gửi thân cho số phận. Ngồi thụp xuống thở. Và cũng chẳng thấy ai đuổi mình. Người ấy biến đâu? Thế là thoát! Tôi ngồi nghỉ lấy lại sức, nhờ có vài củ khoai và vài ngụm chè xanh sinh nhật, cái đói khát cũng đã tạm ổn.

Trên đường toàn những khách văn chương, thời thịnh văn chương! Cũng như người ta nói: "Ra ngõ gặp anh hùng", là rất có cơ sở, rất có lý. Ngay nơi gia đình tôi đang ở, cũng hàng chục Hùng - Hùng Sơn, Hùng Việt, Hùng Anh, anh Hùng, thậm chí có cả Hùng Nhèm, Hùng Giẻ Rách v.v... Cũng là thời thịnh anh Hùng nên người ta ngưỡng mộ cái danh hiệu cao sang ấy mà đặt tên không ngoài sự khuyến khích "hướng hùng". Nhà thơ tôi may mắn gặp đây - sau một phen hết hồn bị thiến trượt - là Hoàng Cầm: Một người bạn vong niên kể tuổi đời tuổi văn thơ cũng xứng đáng là bậc "liền anh" của tôi. Anh có dáng thư sinh nho nhã - nghe nói cũng có đôi người phái đẹp chê anh là ẽo uột! - Với tư thế một sĩ quan văn học trong đoàn quân bách chiến, trời phú trong cổ họng có cái còi mạ vàng; nhờ đó anh sổng giọng vàng mười sang sảng khi ngâm thơ - Có người đố kị bảo thơ anh đầy vẻ lấp lánh trang kim hàng mã - Cũng vẫn lối đố kị có vẻ khen anh nổi tiếng nhờ ngâm thơ chứ không phải vì thơ hay. Cứ cho là đúng; cứ cho là không đúng đi - Tất cả đều là phù phiếm có giới hạn - Nhờ tài hoa, duyên phận, anh đã "cuỗm" được một phụ nữ nạ dòng "đờ luých" - đó là lời đùa quá trớn của bạn anh - chẳng thấy cần phải nêu tên; nhưng thôi, tôi cứ nêu béng tên ra để khỏi mập mờ - đó là Tử Phác. Tôi biết Tử Phác với Hoàng Cầm có thể nói là đôi bạn nối khố nhưng, cũng không ít lời cay độc ngay trong lúc trò chuyện với nhau. Hình như Tử Phác ta cũng ít nhiều có sự ghen tị với Hoàng Cầm về đường phu thê? Tử Phác độc quyền châm chọc Hoàng Cầm, ai khác cũng nói lời của Tử Phác như vậy; tức thì Tử Phác bênh bạn chầm chập: "Ôi chà! nạ dòng loại chúa như thế còn gấp triệu lần loại váy đụp lên ngôi - loại váy đụp đã lên ngôi thì khiếp lắm!... - được thôi mà!..." Ðương nhiên cái lối nói này lạc hậu tầm cỡ quốc tế! Nên chỉ là nói vụng.

Thật là đẹp đôi! Thật là trai tài gái sắc! Cái đất Hà Thành này, cái đất quanh vùng Hoàn Kiếm này, - theo tôi - nếu không muốn nói là hiếm thì cũng không nhiều - trong mâm ăn hàng ngày chắc có cơm tám chả chim.

Hoàng Cầm nắm vai tôi hổn hển: "Mình đang nghỉ giải lao, đang bận tập, nếu không thì mời cậu về nhà chơi". Tôi vội hỏi, "Tập tành gì?" Hoàng Cầm quay sau lưng, lấy tay chỉ chỏ. Tôi nhìn theo tay anh, thấy một bãi tập rộng, cỏ mọc xanh rờn xung quanh đều có hàng rào thép gai cao chừng hai tầm đầu người lớn. Hai bên phía bãi tập là mấy ngôi biệt thự mới: cái thì mái cong như mái chùa; cái thì mái vòm, trên nóc có hình củ tỏi. Bỗng một hồi chuông vang lên, Hoàng Cầm định bắt tay tôi để vào bãi. Nhưng anh lại dừng ngay và nói với tôi: "chưa đến đợt bọn mình!" Tôi lại hỏi anh: "Tập tành gì vậy - và nơi đây là gì?" Anh trả lời: "Cứ đứng đây nhìn sẽ biết".

Tôi nhìn vào trong đã thấy sáu bảy hàng người, mỗi hàng chừng vài chục. Có hai người đang đứng trước những hàng người, nói gì tôi không nghe rõ. Một người cao đen, mà trong anh em văn nghệ mệnh danh là đầu bếp vụng; người kia là nhà thơ giả thiểu số. - Theo Hoàng Cầm cho biết người cao đen là giáo sư viện trưởng qua đào luyện theo hệ Nam Hải. Người nhà thơ là giáo sư viện phó, qua đào luyện theo hệ Ðông Phương. Cả hai tôi đều biết, nhưng tôi thắc mắc: Nam Hải là gì? Ðông Phương gì? sao anh lại nói mập mờ khó hiểu vậy - tôi không tiện hỏi. Sau mấy tiếng hò hét của hai vị giáo sư - Giáo sư viện trưởng, vươn ra một cái lưỡi đỏ, dài hàng trượng và hơn thế nữa. Cái lưỡi cứ ngoằn ngoèo lượn như xiếc Trung Hoa múa lụa vậy. Mấy hàng học viên do giáo sư này chỉ huy cũng phóng lưỡi đỏ, cũng ngoằn ngoèo nhưng còn ngắn hơn giáo sư nhiều - Còn vị phó giáo sư thì phóng một loại lưỡi khác thẳng đơ như dùi cao su, bề dài cũng hàng trượng, có kém cũng không đáng kể - Cái lưỡi của vị phó giáo sư không múa liệng mà cứ đập lên đập xuống, cái lối dẻo cứng. Theo tôi đúng là một trăm phần trăm cao su nhân tạo hay thiên nhiên thì không biết - Mấy hàng học viên dưới sự huấn luyện của vị này cũng phóng lưỡi ra cũng đập lên đập xuống, tất nhiên so với phó giáo sư còn kém nhiều! Tôi nhìn thấy cũng ngoạn mục, cũng lại sờ sợ. Tôi chưa được nghe ai nói về sự việc này - Nay đột nhiên được thấy tận mắt mới biết mình còn ngờ nghệch nhiều trong cuộc sống! Ðột nhiên tôi thấy một người nhỏ thó, mắt hơi lé, nói giọng kim từ đâu vừa đến. Viện trưởng, viện phó cung kính cúi nửa người - Hẳn có lắp bản lề trong lưng. Rồi lại thẳng người, vươn lưỡi lăng qua, lăng lại - nghi thức lễ tân của học viên chào thượng cấp. Tôi hỏi Hoàng Cầm xem ai đó. Hoàng Cầm nói nhỏ: "Thi hào, viện trưởng danh dự của viện!". Tôi cố hỏi Hoàng Cầm: "Học viện gì và làm sao anh lại được vào theo học?" Hoàng Cầm khẽ trả lời: "Học viện múa lưỡi đấy!" Anh còn thố lộ với tôi, trong viện có nhiều giáo sư và tuy cùng một viện nhưng hai ngành múa khác nhau. Thỉnh thoảng hai ngành có thi đấu. Lưỡi nọ quấn lưỡi kia vẫn chưa phân thắng bại: Về lý thuyết thì hai bên đều đầy sức thuyết phục. Cũng theo anh kết luận thì hình như lưỡi lụa đang có đà thắng thế. Anh cũng thè lưỡi cho tôi xem. Tuy đã được nhận vào viện nhưng lưỡi anh cũng mới dài gấp hai lưỡi người thường. Anh tâm sự: có lẽ phải bỏ dở, vì vốn anh không có sở trường: bỏ thì cũng tiếc, nếu theo hết khóa, ra viện thì cũng có chỗ đứng vững vàng - Tôi muốn ngỏ ý được xem trận đấu lưỡi, chỉ một lần thôi. Hoàng Cầm huơ tay ra hiệu: "Không được! không được! Ðây là việc cơ mật của quốc gia!" Tôi thấy anh nói vậy, cũng không dám vật nài. Anh còn cẩn thận vỗ vai tôi khuyên: "Chớ có bép xép - oan gia đấy!" Tôi cũng khuyên lại anh, nếu như cảm thấy không hợp sở trường thì xin thôi mà làm thơ, ngâm thơ, tội gì mà lao vào, cho mệt. Hoàng Cầm suỵt! một tiếng khẽ, vừa đủ tôi nghe: "Lúc vào viện, viện thấy không đủ khả năng thì viện sẽ loại, chứ tự mình xin ra thì trước hết mất lưỡi; lưỡi mất, còn ngâm ngợi cái gì. Ðến kẻ hành khất cũng phải nhờ cái lưỡi, mới sống nổi. Cậu khuyên dại dột thế!" Tôi câm miệng, cảm thấy hãi hùng! Tôi lại tò mò hỏi anh với điều kiện nào mà được tuyển vào viện? Hoàng Cầm cười: "Trải qua một quá trình thử thách; trời phú cho mình cái bản chất co giãn, lúc nào cần thì cứng cũng xương đồng da sắt, lúc nào cần mềm thì cũng nhũn nhùn nhùn như bánh đa nhúng nước; nhờ vậy đấy!" Nói vừa dứt lời. Hoàng Cầm liền biểu diễn sức co giãn; anh gồng người lên, tôi sờ vào quả cứng thật; anh làm mềm, tôi sờ vào người anh chẳng thấy có xương cốt gì hết toàn thịt và gân nhẽo nhèo. Anh còn cho tôi biết đây mới chỉ là hình thể nhìn thấy bằng mắt, còn cái phần vô hình - tâm hồn, tư tưởng - sức co giãn còn gấp ba bốn lần là ít. Tôi phục anh, bằng lời nói vui "Chịu ông anh!" Hoàng Cầm hắt nhanh lời vào mặt tôi đầy vẻ tự phụ: "Chứ sao!"

Gặp nhau đã được một lúc, tôi sợ anh quên lỡ giờ tập, tôi nhắc anh. Anh nói cho biết, anh là học viên dự bị, ít giờ tập chỉ bằng một phần tư chính khoá. Anh liền phàn nàn với tôi lẽ ra anh không phải qua dự bị lâu đến thế, tất cả chỉ vì thằng em kết nghĩa nó làm hại. Tôi hỏi anh xem thằng nào? Anh tỏ vẻ bực mình "Cái thằng cùng họ với cậu chứ thằng nào!" Tôi gật đầu biết đó là Phùng Quán, nhưng tôi muốn biết Phùng Quán đã làm việc gì mà gọi là làm hại? Anh vẫn bực nhưng giọng nói đã có phần mềm mại: Nó mua, trồng cho tôi cây ổi. Khi ổi chín phóng ra toàn mùi "nàng tiên nâu" mới chết người chứ! Tôi vội hỏi: "Sao lại có cái mùi tên lạ vậy?" Anh cười khẩy: "Sao tối dạ thế! Nó là mùi thuốc phiện!" Tôi trách: "Sao anh không nói toạc ra mà còn dùng lời bóng bẩy để làm gì?" Anh chặc lưỡi: "Thì mình có nghề văn thơ thấy chữ đẹp thì dùng - chữ của đàn anh mình đấy!" Tôi đang mót nghe cái việc lạ lùng mà tôi khó tin này. Anh như đoán biết được ý nghĩ của tôi, nên nắm vai tôi đẩy nhìn đàng sau: "Ðây! Ðây!" Tôi quay lại như là thần thông biến hoá - tôi đã đứng tại sân nhà anh, cạnh gốc cây ổi. Nhà đi vắng không có ai ngoài tôi và anh. Tôi nhìn lên cây ổi, quả không sai mấy, quả nào cũng bằng nhau, quả nào cũng đỏ da chu; quả nào cũng giống hệt cái tẩu Thổ Hà. Anh lấy cái móc giật xuống vài quả. Tôi bửa ra thấy đúng là ổi nghệ, nhưng sực mùi thuốc phiện. Anh hỏi tôi: "Thấy chưa?" Tôi lấy làm lạ quá! tôi không sao tưởng tượng nổi. Tôi khuyên anh: "Sao không phong nó đi?" Anh bĩu môi: "Sao dễ thế!" Tôi hỏi: "làm sao?" Anh lắc đầu liền mấy cái: "Cây bản mệnh đấy! Nó chết thì mình cũng đi Văn Điển chứ còn sao!" Tôi quay hỏi anh, Phùng Quán có hay qua đây không; anh nói: "Mất mặt gần một năm rồi!" Cái quan hệ kết nghĩa và cây ổi khiến tôi càng ngổn ngang; thậm chí hơi hoang mang; không có đầu không có cuối. Chẳng hay Phùng Quán có biết việc này không? Tôi cũng muốn tìm Phùng Quán để hỏi xem, nhưng tìm Phùng Quán lúc này thì khó lắm. Theo chỗ tôi biết thì anh ta - mang thói xứ sở - như bản đơn ca được ông anh kết nghĩa Thanh Tịnh phối âm, phong phú - chỉ ẩn hiện quanh Hồ Tây vào ban đêm. Gặp được anh ta vào lúc ấy, chỗ ấy có khi mình có số lại mang thân vào cho muỗi đồn công an nó mở đại tiệc chưa biết chừng - Thôi cứ để thư thả - Tôi nghĩ vậy. Tôi đang cần đi tiểu tiện, Hoàng Cầm biết ý, chỉ cho tôi cái chỗ cố định. Tôi ra tới nơi - xin lỗi! - đang mới cởi khuy quần; quay lại xem có ai theo quán tính trước khi "khởi sự". Ôi! chẳng thấy Hoàng Cầm đâu? Chẳng thấy cây ổi đâu? Chẳng thấy nhà Hoàng Cầm đâu? Trước mặt tôi lại có cái biển cấm: "Cấm đái ở đây!" Chữ viết bằng vôi trắng, dễ đọc - Hoá ra tôi đang đứng trên một con đường quang quẻ sạch sẽ - ánh sáng như pha lê đang tới tấp từ đâu dội đến - Tôi nghĩ bỗ bã: có lẽ từ ý nghĩ dội đến!

Tôi cứ theo con đường đầy ánh sáng pha lê mà đi. Phía trước tôi không xa là mấy bà đồng nát lông vịt, vừa đi vừa rao mua; tiếng rao cất lên như đồng ca hai bè của bản hành khúc "Ðồng nát - lông vịt". Tôi nghe cũng được, giá như tiếng ca nhỏ bớt chút nữa thì đỡ chối tai hơn. Mỗi lúc họ càng tấu to hơn, ra điều ta đây đang làm chủ mặt đường, làm chủ ít nhất cũng một khoảng không gian tương đối rộng lớn. Tôi đành dừng lại chờ cho họ đi khuất. Dư âm bản đồng ca cũng không còn lảng vảng bên tai. Thính giác tôi đã trở lại bình thường; nó đón nhận tiếng ồn ào, ồn ào từ phía xa xôi bên trái. Tôi biết đó là tiếng họp chợ. Tôi liền rẽ bước theo hướng đó, đi chừng hơn một dặm thì đến một cái chợ. Chẳng để mua bán gì, nhưng phởn dạ bước chân muốn học đòi du khách rẽ vào chơi chơi. Chỉ nhìn thoáng cũng đủ nhận biết đây là một cái chợ pha tỉnh, pha quê, gần giống như chợ Mơ; gần giống chợ Chi Đông, Phúc Yên; gần giống chợ Nghệ Sơn Tây; gần giống chợ Rồng Nam Định. Bụng bảo dạ: Cả đến cái mặt chợ búa trên trần gian - cũng cứ na ná giống nhau, huống hồ trăm, ngàn, vạn mớ những cái khác khiến người ta dễ nhầm lẫn là phải. Khi tôi để ý nhìn lên đầu tường của một quán gạch lợp ngói - chìa bày mấy chữ đắp bằng vôi, xung quanh chữ cũng đóng khung vôi vuông vắn như một bức phù điêu - tất cả đều cùng một màu vôi vàng đã cũ. Mấy chữ Pháp lộn chữ Việt "Marché de Yên Thái". Thôi đúng là chợ Bưởi! Hẳn là từ thời vong quốc "đề huề" mà bàn tay của hôm nay hoặc bỏ quên chưa xoá; hoặc để làm lưu niệm; hoặc để làm một cáo trạng ngắn gọn của dấu chân đô hộ; hoặc để làm gì khác? Thắc mắc trong đầu là quyền mình; nếu như muốn chất vấn, muốn được giải đáp thì chất vấn cái mặt tường vôi ư?...

Chợ họp chính phiên. Ba bốn quán ngói, còn xung quanh là quán lá, lợp rơm rạ, hoặc trải lên tấm lá cót sơ sài - bao giờ cũng như bao giờ; tiếng thế nó cũng đầy vẻ vĩnh cửu - Chợ đông, đủ các loại hàng bán. Cái chợ Bưởi được "cưới" từ ngày nào, thời nào, ai biết? Tôi thiết nghĩ: có lẽ người vùng này cũng đã quên gốc tích nó. Qua cái giọng đặc thù kẻ Bưởi của mấy làng thì quả là trộn không lẫn. Chợ Bưởi còn là nơi đảm nhiệm gây giống gia súc và cây trồng; nhất là cây hoa, cảnh cho nhiều vùng. Chợ còn nổi tiếng: tháng năm cũng gọi khách kinh kỳ; những quý miệng sành ăn, lui tới đặt lưỡi vào của "trái chua"; đó là bò thui đặc chủng. Nói theo lối nói của một nhà văn thì chợ Bưởi đây cũng đã một thời "vang bóng bò thui". Nhưng vì hy sinh cho một nền công nghiệp phát triển, bò bê cũng đã được đổi mới từ thui sang lột!...

Bỗng có tiếng huyên náo khác thường nhưng êm dịu vì không pha chút thét gào. Tôi lét mắt phía ồn ào thấy lối dãy hàng tôm, hàng cá nối liền dãy hàng chó mèo có một giai nhân xuất hiện. Quần lĩnh nhóng nhánh; áo cũng lĩnh nhóng nhánh; khăn cũng lĩnh nhóng nhánh - đội rất điệu đàng - Trên cõi mặt da hoa phấn duyên dáng, răng cũng đen nhóng nhánh - tất nhiên không phải răng lĩnh - chẳng qua để cho nó "uy ni" mềm mại. Giai nhân bước đi nhẹ nhàng tha thướt uốn éo nhún nhẩy, nhún nhẩy nhịp "đánh bồng". Miệng tủm tỉm, mắt liếc qua, liếc lại - Khi giai nhân đi đến cách tôi quãng một tầm nước bọt, tôi sững cả người: "Anh Tô Hoài!", tôi thốt ngầm trong bụng. Một người anh về tuổi đời cũng như về văn chương. Từ rừng Việt Bắc trong các khuôn mặt đàn anh quắc thước, sành sứ thì tôi chọn mặt anh để "gửi vàng". Anh Xuân Diệu lại nhìn anh bằng con mắt xanh khen "Toujours aimable!" - Tôi không lầm. Anh đã giúp đỡ tôi nhiều về mọi mặt. Quá khứ ân tình ấy tôi có muốn quên cũng không sao quên được. Nhưng liệu có phải anh thật không? Cái valy cũng đen bóng màu lĩnh, bên tay trái người đẹp. Tôi níu vào cái nghề cổ truyền lĩnh Bưởi quê anh để đỡ ngộ nhận. Nhìn cho rõ thì hoàn toàn là một "com-ra-đe " hãng dệt lĩnh. Nếu tôi khẳng định như vậy thì nảy ra một thắc mắc làm sao anh phải đổi nghề? Tôi thiết tưởng sự kiếm sống bằng nghề nghiệp tầm cỡ, có bề dày rất đáng kể về thời gian, tôi chưa nói đến bề dày quyền lực cũng như mọi bề dày khác. Cái gì đã thôi thức đổi nghề? Nếu không muốn nói đến số phận. Cái mũi thèm văn cố hữu của tôi; tôi đánh hơi thấy mùi sách trong chiếc valy căng phồng. Nếu có tiền, nếu cá cược, tôi xin đặt giá mười ăn một; trong valy không có vải lĩnh! Ðầu tôi đang muốn được giải toả cái tiếng "com-ra-đe"! Song tôi vẫn nghi hoặc, vẫn rất băn khoăn. Một thứ băn khoăn rối lộn, nó chao qua, chao lại như đánh võng trong đầu, khiến tôi phải nhắm mắt lại. Khi mở mắt không thấy bóng giai nhân đâu cả. Chẳng biết cái gì đã đẩy tôi đến một không gian khác. Anh Tô Hoài hoàn toàn Tô Hoài, nhà văn Tô Hoài. Tầm vóc anh không thay đổi, chỉ có con dế mèn bên cạnh anh là to lớn khác thường, nó xấp xỉ một con ngựa - loại ngựa gié - đang tuổi phát nha. Anh đã dắt nó, hay nó dắt anh không rõ - tranh thủ đại diện ruổi rong đất lạ, ê hề! Nay đang cùng nhau nghỉ dưới một gốc cây đa cổ thụ rợp bóng mát. Con dế đang lóm lém ăn cỏ, còn anh cũng đang ngồi đọc bản thảo, tay phải cầm bút máy thỉnh thoảng có ghi thêm hay sửa chữa gì đó. Cả người và vật toát lên đầy vẻ hả hê, sung túc. Trước mặt anh là một quan lộ, một dãy người gánh toàn sách là sách. Họ gánh đi bán rong hay chuyển đi phân phối cho đại lý. Họ nhìn anh, anh nhìn họ gật gù cười cười, rõ ràng là quen thuộc nhau cả. Có người nói văn anh đang hợp thời vận! Quyển nào anh viết ra cũng có tẩm ít mùi dế mèn nhưng chẳng thấm tháp mấy. Có thể ví như người bán trà ấm, vảy vài giọt ét-te sen, nhài vậy. Anh đã đạt tới mức quán quân thực hiện khẩu hiệu "nhanh, nhiều, tốt, rẻ". Sách anh được phát hành số lượng không hạn định, bầy tại quầy sách quốc doanh; cứ như gạo cửa hàng mậu dịch vậy. - Làm gì có chuyện đong gạo ngoài cửa hàng! Lòng nhân ái, sợ người người đói văn khát sách nên anh trổ tài đáp ứng. Ngồi chỗ nào anh cũng viết được. Ðứng chỗ nào anh cũng viết được, tay cứ thoăn thoắt tài nhả đều đều. Có người nói anh viết như đan len! Và anh đã chiếm lĩnh một góc trong cái tam giác thơm Tô Hoài - Lê Văn Trương - Hồ Biểu Chánh.

Ngồi nghỉ đã lâu lâu, anh đúng dậy, kéo theo con dế, anh vỗ vào lưng dế như vỗ vào lưng ngựa! Hẳn anh đang lấy lưng dế làm chuẩn, tập thể dục, thể thao. Anh cứ nhấp nhổm nhảy mãi vẫn không qua lưng con dế mèn! Anh bị ngã! Chống tay nhổm dậy; nhìn trước, nhìn sau, xem có ai nhìn thấy không? Anh đứng hẳn dậy, lắc đầu ngán ngẩm...

Tại sao anh lại lắc đầu ngán ngẩm nhỉ? Ngã thì lại dậy. Phải chăng anh đã nghĩ xa xôi sợ "sinh nghề, tử nghệ". Theo thiển nghĩ của tôi thì anh lầm rồi! Nghệ của anh chỉ có sinh làm gì có tử!

Tôi đang bận tâm suy nghĩ; tôi vừa chớp mắt một cái bỗng lại thấy mình đang ở giữa chợ. Trong đầu tôi lại nối vào cái mạch cũ, từ khi gặp giai nhân. Mối nghi ngờ dâng lên mỗi lúc một cao - không sao tự mình giải đáp được. Tôi định rẽ hẳn vào dãy hàng chó xem người ta bán, mua, người ta khen, chê tướng mạo lũ chó má. Chợt cùi tay ai đó huých nhẹ vào sườn tôi. Qua cái kiểu huých ấy, tôi đoán ngay là cùi tay của bạn thân. Tôi quay cổ lại, đúng là Ðào Công Ðạt - Lê Ðạt - cái tên do anh Nguyễn Huy Tưởng đặt cho từ rừng Việc Bắc. Lê Ðạt, tôi rất có cảm tình với anh, phục anh, mặc dù anh ra đời sau tôi tám tháng. Anh thông minh, anh có tú tài Tây và còn học cao hơn nữa. Dầu toàn quốc kháng chiến anh còn theo học trường pháp lý - Ðỗ Xuân Sảng. Còn tôi không dám giấu giếm, chỉ có cái trung học - phải thi lại lần hai. Anh hay lắp bắp, lắp bắp vui miệng như tép nhảy. Tôi chỉ hơi khó chịu với anh một chút vì bất cứ với ai anh hay giở giọng "lãnh tụ non". Tôi cũng đại khái biết anh, có giai đoạn anh đã nhậm chức secrétaire particulier cho một vị cỡ nào đó - anh nói chuyện hay chen tiếng Pháp - khi đang nói, anh ngừng lại, đấm nhẹ lên trán, để tìm từ Việt cho thích hợp - na ná như người ở Pháp lâu năm mới trở về nước - bất đắc dĩ có kinh nghiệm - phụt tiếng Pháp. Theo tôi không chắc chắn lắm - phần nào để tạo dáng kẻ nhiều chữ?

Lê Ðạt là người sòng phẳng, ngay thẳng, đôn hậu, chỉ phải nỗi: tính đôi khi tắt mắt; hoặc hay cầm nhầm - có kinh nghiệm chữ của người khác khảm sâu trong sáng tác văn thơ của mình - dẫu có vết, thì ngọc vẫn là ngọc! Tôi còn quý anh ở một điểm nữa là anh hay cho tôi đi ăn phở. Có lần tôi vui miệng hỏi anh: "Tiền đâu mà cậu cứ cho mình ăn phở mãi thế?" Anh nói nhỏ vừa đủ tôi nghe: "Bà cụ mình vẫn có chút buôn bán nhỏ kiếm thêm!..." Tôi cười, không phải chê bai gì. Nhưng anh hiểu lầm như là tôi có ý chê việc buôn bán - Vào cái thời mà gia đình cán bộ vẫn phần nào dựa vào buôn bán để cải thiện đời sống đều bị coi là thiếu trong sáng - Anh liền cười văng tục: "Chả thế lấy đéo đâu ra cho mày ăn!.." Tôi chẳng phật ý về câu nói. Tóm lại tôi vẫn thấy có bổn phận đối với anh như bát nước đầy.

Hôm nay, gặp nhau đây, anh lại hỏi tôi: "Ðã ăn gì chưa? Phở chứ?" Tôi đón lòng thảo của anh: "Gì cũng được!" Nhân dịp gặp anh, tôi khẳng định sự nhìn nhận của mình về anh Tô Hoài, về giai nhân. Tôi đưa mắt hỏi anh, không chần chừ Lê Ðạt khẳng định: "Đúng lúy!" Tôi hỏi lại: "Có chắc không?" Lê Ðạt nói: "Chắc!" Tôi lại hỏi tiếp: "Sao lại như vậy nhỉ?" Lê Ðạt cười: "Ai mà biết được, ông anh lắm mưu nhiều mẹo; có thể nói là đương kim vô địch đấy!" Tôi ngỡ ngàng hỏi: "Về cái gì?" Lê Ðạt đập mạnh bàn tay vào vai tôi: "Thôi đừng vờ! Mày mà không biết à?" Tôi nói: "Không biết thật mà!" Bây giờ Lê Ðạt mới nói toạc ra: "Về cái khôn chứ cái gì!" Tôi công nhận lời nói của Lê Ðạt; chẳng những Lê Ðạt mà anh em trong văn nghệ thường cũng nói như vậy. Lê Ðạt lúc nào cũng lại đưa tay vỗ vỗ lên trán nói: "Tao nghĩ, về văn ông anh đã bội thu, còn muốn gì nữa cho nhọc xác!" Tôi chưa kịp đáp lời, Lê Ðạt mau miệng tiếp: "Bọn mình nhặt được vài hạt khôn của ông anh rơi vãi thì cũng lấy làm mãn nguyện phải không mày?"

Tôi bần thần cả người, tâm trạng tôi ngổn ngang, không vui, cũng chẳng buồn, chẳng ước ao hay nuối tiếc gì cái hạt khôn của anh Tô Hoài để rơi vãi.

Tiếc thay! Nếu anh không ủ một mưu mẹo gì cao hơn; đến bây giờ mới ngoặt bước sang một đường mới khác thì hơi muộn. Dẫu sao thì cũng là giả. Có lẽ anh nhạy bén trong lúc thật giả lộn sòng nên mới quyết tâm như vậy chăng? Tôi nghĩ trách ông Xanh kia vẫn còn õng ẹo, đã cho người ta cái ngoại hình hấp dẫn thế này, sao không phóng tay mà còn bủn xỉn đắn đo tiếc rẻ không cho nốt cái chút nhỏ bé cần thiết; để người ta được trở thành một giai nhân hoàn mỹ; để người ta mang cái thân hình ngà ngọc ngay từ tuổi mâng mâng bẻ gẫy sừng trâu, hành hương trên đường tìm Chân Mỹ. Tôi chẳng dại dột gì mà dính Mỹ với Thiện ở đây. Nếu người ta không đem được cái Chân Mỹ dáng hoa ban phát nơi nơi thì ít nhất cũng cho một vùng không nhỏ. Mặt này thiết tưởng người ta còn gặt hái gấp bao nhiêu lần gặt hái văn chương. Cái tháp ngà Chân Mỹ hẳn mở rộng cửa đón chờ. Người ta khỏi phải khéo khôn, loay hoay; khỏi bị ngộ nhận, rất tội nghiệp!

Lê Ðạt kéo vai tôi lên trên đường, tìm ăn phở, vừa để hóng mát, quanh quẩn dưới chợ, thế đã đủ rồi. Tôi và Lê Ðạt vừa lên khỏi dốc, đến đầu hàng cây cảnh. Lê Ðạt đang bận để mắt tìm hàng phở. Tôi đứng xem cây cảnh. Bỗng từ trong chậu cảnh hoa giấy phơi phới màu đỏ, một người bước ra, dáng vẻ mãn nguyện đàng hoàng như từ Pô-đê-ga bước ra. Lẽ ra tôi phải kinh hãi cái lối tàng hình hoá phép. Nhưng không hiểu sao tôi lại coi là chuyện bình thường; chuyện tầm thường! Tóc rẽ cánh phượng, trên khuôn mặt chim, trộn không lẫn. Nách trái cặp một tập nhạc. Tôi biết ngay là ai rồi. Hình như anh ta đã nhìn thấy hai chúng tôi; anh ta đưa bàn tay lên che miệng cười - cái thói quen cố hữu. Lê Ðạt quay đầu lại lắp bắp lên tiếng trước: "Chào cụ Tiên". Chỉ mấy tiếng của Lê Ðạt, tôi có cảm tưởng như anh đang giỡn, đang yêu cầu con tầu lịch sử dân tộc cài số lùi hàng vài thập kỷ - cái thời Tiên thứ chỉ, đầu gà má lợn - cái thứ bông phèng thiếu ý thức ấy mà lọt đến tai trên thì kiểm điểm mệt! Cụ Tiên hỏi: "Tụi mày đi đâu đến đây?" Lê Ðạt trả lời gặn: "Chơi!" Cụ Tiên ta lại che miệng cười: "Có thể dẫn tao đi Văn Phú hàng Lạng được chứ?" Lê Ðạt hơi ngần ngừ, đưa mắt cho tôi. Cụ Tiên kịp thời theo mắt Lê Ðạt hỏi tôi: "Khá không? Nghe Phùng Quán nói dạo này sáng nào mày cũng luyện thái cực quyền à?" Tôi chưa hiểu hai tiếng "khá không" là khá về mặt nào, khá cái gì? Tôi trả lời: "Múa may vài cái cho nó qua giờ ăn sáng chứ côn quyền gì đâu!" Tôi cũng tin rằng anh ta hỏi là hỏi chứ cũng biết thừa hoàn cảnh tôi nghèo lõ ra chứ có gì. Lê Ðạt đầu cứ gật gật khẽ - gật đầu kiểu này không phải là đồng ý. Cụ Tiên chép miệng: "Bấy lâu nay tao chưa xem lại cái tiết mục Náo long cung!" Thật ra lúc này tôi mới hiểu rõ ý muốn của cụ Tiên. Cách đây mấy năm, đoàn xiếc Tề Tề Cáp Nhĩ Trung Hoa có sang biểu diễn tại nhà hát nhân dân; trong đó có tiết mục "náo long cung" gồm đủ loại thủy tộc, ba ba, lươn, ếch nhào lộn. Từ đấy cửa hàng ăn Văn Phú mới đặt tên cho một thực đơn là "náo long cung". Tôi cũng đã có một vài lần được các ông anh Hoàng Cầm, Tử Phác, Ðặng Đình Hưng, Cụ Tiên và cả Lê Ðạt, cho đến dự tiết mục đó - ai trả tiền thì không nhớ.

Trước mặt nhau đây, thấy "Cụ Tiên" vui vẻ tôi cũng mới dám chuyện trò cởi mở. Với "Cụ Tiên" tôi vốn ngại, sợ thì đúng hơn. Bởi tôi biết cụ Tiên có kèm một công tác đặc nhiệm; và đã vài lần lập chiến công tuy thầm lặng nhưng hiển hách. Tôi có lần được Tử Phác nói cho biết chơi với cụ Tiên là vẫn phải cảnh giác. Vui vẻ đấy nhưng lỡ miệng chuyện nọ xọ chuyện kia, cụ Tiên cho là phạm vào "tín điều", "đẹt" cho một cái, mình toi mạng! Bởi vậy, cũng như hôm nay, mỗi lần gặp cụ Tiên,tôi chỉ giao tiếp lấy lệ để cụ Tiên khỏi mếch lòng. Tôi vẫn tính bài lảng.

Phở chưa ăn, Văn Phú chưa quyết, chưa đi. Bỗng một loạt đại bác, chẳng biết từ đâu, chẳng biết vì sao, ầm ầm rung chuyển cả một không gian. Dưới chợ, trên đường huyên náo, người người đổ xô chen lấn, la hét, gà lợn chó má cũng kêu lên thất thanh. Kẻ chạy xuôi, người chạy ngược, xéo lên nhau mà chạy - đều chạy người không - bỏ của chạy lấy người - Cụ Tiên và Lê Ðạt đã biến nẻo nào rồi?

Trong cơn kinh hoàng, hoảng loạn, một mình tôi bơ vơ, không biết nên chạy đi đâu? Tiếng nổ mỗi lúc một dữ dội tưởng như vỡ trái đất; tưởng như phụt núi lửa, tưởng như trời sập; tưởng như Trân Châu cảng hay Hi-rô-si-ma. Cuồng phong, bảo tố nổi lên tiếp tay cho tiếng nổ. Cây cối ngả nghiêng, đất, trời chao đảo. Trên không trung, mây ngũ sắc xanh vàng tím đỏ vun vút như cờ thiên lôi từ bắc phương tràn xuống, từ tây phương đổ về. Vừa bay vừa đổi màu biến sắc. Tất cả gặp nhau, tụm lại, tạo một vòm trời đỏ như máu. Tôi đứng dưới vòm trời, ba hồn bảy vía chỉ may ra còn lại một hai.

Tôi tự hỏi thế này là thế nào? Ðời tôi chưa được nghe ai kể; chỉ khi còn thơ ấu được nghe ông lão hàng xóm nói chuyện đổi đời; nghe xong ngày đêm sợ hãi. Lần ấy chị gái tôi cũng còn bé, chị cóp được mấy hào, nghe nói sắp đổi đời đến nơi, hai chị em rủ nhau đem tiền mua kẹo bánh ăn bằng hết, kẻo bỏ phí. Câu chuyện đó tôi lớn lên vẫn còn bán tín, bán nghi; khi trưởng thành thì quên mất...

Câu chuyện ông lão hàng xóm kể có lẽ là lúc này đây! Ðã bơ vơ vì bạn, lại bơ vơ vì thiếu mặt gia đình! Lúc này thì tiếng nổ không còn, chỉ còn tiếng gầm rú của bão tố như ngàn vạn tiếng hổ gầm, voi rống, nghe càng hãi hùng! Dưới vòm trời tất cả đều nhuộm nhanh màu đỏ. Tôi bỗng choáng váng, đầu nhức, mắt hoa lên! Tôi phải đưa hai bàn tay đậy lên mặt, vì cảm thấy mặt đất quá cheo leo! Tôi sợ ngã!

Tôi vừa mở hai bàn tay không biết từ lúc nào và từ trên trời lao xuống, hay từ dưới đất trồi lên, một trái núi - trái núi hình nón - có lẽ là ngọn tháp, tôi chưa kịp phân biệt. Thì cứ gọi là một ngọn tháp khổng lồ. Ngọn tháp rung rinh lay động. Trên đỉnh tháp là một tàn vàng chóe lóe, hơi giống mặt trời chiều lúc gần xuống núi; có phần sáng hơn mặt trời. Bên cạnh tàn vàng là một lá cờ đại; xung quanh lá cờ đại là hàng ngàn cờ nhỏ - đều màu đỏ rực. Từ cờ đại đến cờ nhỏ đều quay tròn. Diềm cờ không đính tua kim tuyến mà là lưỡi câu thép ngoại. Cờ tạo gió, gió nhân thành bão, thì ra do cờ bay mà tiếng gầm rú hãi hùng như vậy. Tôi lạnh cả người, cầm sẵn trong tay một cái chết móc hàm!

Ngọn tháp mỗi lúc một to ra, cao lên, cờ cũng nhiều gấp bội. Có thể nói: đây mới đúng là rừng cờ, là nguồn sinh của cờ - cũng đều diềm lưỡi câu, cũng quay tít. Tôi đưa mắt nhìn kỹ thêm ngọn tháp từ chân tới đỉnh toàn người là người lớp nọ cưỡi lên cổ lớp kia ngất ngứ. Cái tháp người này sẽ là kỳ quan thứ mấy của thế giới đây? - Tôi nghĩ vậy - Thật là một sự kỳ lạ! Tạo được ngọn tháp này phải là các nghệ sĩ xiếc có hạng. Ai ở trên đỉnh chót nhỉ? - Tôi tự hỏi?

Thoắt một cái, chẳng biết từ đâu, người người lớp lớp đang chạy vòng quanh tháp - như đèn kéo quân. Chạy theo hướng cờ bay, chạy dưới bóng cờ. Từ chân tháp đổ ra không sao đếm xuể được số vòng trong, vòng ngoài là bao nhiêu. Tôi cũng là kẻ đang chạy vòng ngoài cùng. Tôi ngỡ ngàng không hiểu do sự xắp xếp nào mà tôi có mặt trong vòng chạy này? Làm sao tôi không biết? Vòng nào cũng đủ các loại người già, trẻ, đàn bà, đàn ông - bách tính tứ dân: sĩ, nông, công, cổ - Nhiều nhất vẫn là dân áo vải, chân lấm tay bùn - Hình như có cả Tây lai. Người nào cũng cầm vũ khí từ tối tân đến thô sơ: Tối tân đây là súng; nào là Rơ-manh-tông, Mút-cơ-tông, Anh-đô-si-noa, cả súng hỏa mai; nào là cuốc, xẻng, mai, thuổng, đòn càn, đòn gánh, nào là tay thước, dao quắm, mã tấu. Có cả mấy vị Trư Bát Giới cũng vác cào lệch ệch, hoặc xích trượng; cả mấy vị áo chùng thâm vác thánh giá chạy vòng gần chân tháp. Trong đế của đại tháp, tôi thấy đủ mặt: ông anh đẹp giai tay cầm một côn đỏ, Viện trưởng, Viện phó viện múa lưỡi. Cụ Tiên hai tay hai súng lục. Ông anh Tô Hoài, cả Hoàng Cầm, Lê Ðạt cùng bao nhiêu người khác tôi đã từng gặp mặt ở chiến khu Việt Bắc; điều kết thành một khối tháp vững chắc sống động. Các dòng người đều nhất loạt hướng tai lên đỉnh tháp nghe lệnh sang sảng "Kẻ thù phía trước! Kẻ thù phía trước!" Giữa người nọ với người kia nhất tề giữ đúng khoảng cách một tầm lê đâm trộm!

Ðêm xuống lúc nào không biết. Ðỏ pha đen, không gian là một màu huyết dụ; một thứ mùi rờn rợn, tanh tanh như mùi thép rỉ vây quanh. Tay tôi, chẳng biết ai đã trao cho một dùi gỗ, và tôi đã nhận làm vũ khí từ lúc nào? Dùi gỗ dài chừng nửa thước tây - bết máu. Chắc là chiến lợi phẩm thu được của kẻ thù tử trận. Ôi chao! Tôi nhìn gáy người phía trước tôi. Chẳng phải ai, chính là ông thầy học của mình. Trông vóc dáng của thầy; nhất là sau gáy có hai nút ruồi đen, to, liền nhau. Tôi khẽ lên tiếng: "Phải thầy Ðoàn đây không?" Thầy Ðoàn giật mình, không dám ngoái đầu, không dám lên tiếng. Nước mắt tôi trào ra, cổ tôi nghẹn lại, tôi lại hỏi tiếp: "Cung đây! Thầy còn nhận ra con không?" Thầy Ðoàn giật mình, co cổ lại. Thầy Ðoàn biết mình đang ở vị trí kẻ thù của tôi!!! Tôi bàng hoàng! Tôi đang là kẻ thù của ai phía sau tôi?

Tôi rùng mình kinh hãi, hai chân lảo đảo, loạng choạng, xéo phứa lên một bãi cứt. Tôi bị trượt chân văng ra khỏi vòng hiểm hoạ, ngã sấp mặt, nhờ một "bãi cứt cứu sinh". Tôi đau ê ẩm, nhưng vô cùng sung sướng. Tôi định thần, để ghi nhớ công cứu sống tôi. Tôi nghĩ sau này tôi phải viết một bài "Cứt tụng". Dù ai có chê bai cũng đành chịu vậy thôi. Trong đầu tôi mới xuất được một tứ: "Cứt không thèm với tay vịn gió đổi mùi; nguyện hôi thối hết mình để người đời khỏi ngộ nhận!..."

Tôi nằm ngơi; lúc này tôi mới nhận biết mình đang nằm trên đống máu - máu chiến thắng kẻ thù đồng loại! Gió mặt đất va vào tai tôi những tiếng khóc thê thảm tập thể từ đâu vọng lại. Tội nghiệp thầy Ðoàn bây giờ ở đâu? Thầy Ðoàn đang là kẻ thù của ai? - Tôi cầu khẩn đất trời ra tay cứu vớt để những đau thương tràn ngập được giải thoát. Lòng tha thiết bằng an của tôi có lừa dối tôi không? Chiêm bao trong chiêm bao - Vậy hẳn là tụi trẻ con mất dạy tinh nghịch bày trò chơi dại dột!

Chợt có tiếng từ đỉnh tháp đài sang sảng lói tai: "Bắt lấy nó! Băm nát thằng đào ngũ!" Tôi sợ quá, cứt máu đầy người vùng dậy chạy trốn. Tiếng súng ưu binh "chíu chíu" cùng tiếng chân huỳnh huỵch đuổi phía sau tôi. Nghe mỗi lúc một gần, tôi không dám quay đầu nhìn lại. Tôi cắm cổ chạy, hờm đá cheo leo, vực thẳm ngay trước mặt. Hàng ngàn vạn con rắn đỏ, rắn vàng, to bằng thân cây cau, dựng đầu, giương bành, múa đuôi ầm ầm như bão tố dưới vực. Cùng đường, trước mặt, sau lưng, hai cái chết rùng rợn! Vừa lúc lại một loạt đạn rít lên sát vành tai bên trái, tôi nghiêng đầu tránh đạn, sẩy chân đâm vút xuống vực, chỉ kịp rú lên một tiếng "Trời!" Tôi giật mình choàng tỉnh! Một cơn ác mộng khủng khiếp!

Cánh tay tôi làm bật cả hai thằng con ốm xô vào nhau trên ngực tôi. Chúng hoảng hốt, ngơ ngác. Dưới ánh sáng của bóng đèn bốn mươi nến, trống ngực tôi rộn rã liên hồi. Từ vô thức tôi buột miệng: "Dẫu sao thì thằng anh vẫn là anh thằng em!"
Hà Nội 9-1959

LÊ MINH HÀ * THƠ PHÙNG CUNG

Lê Minh Hà & Thảo Trần
Le Bruit Du Temps


Trong gối vọng tiếng ru
Lắng tai mới rõ
Tiếng tóc mình chuyển bạc.

Phùng Cung

En me privant des mers, de l'élan, de l'envol
Pour donner à mon pied l'appui forcé du sol:
Quel brillant résultat avez-vous obtenu?
Vous ne m'avez pas pris mes lèvres qui remuent!

Mandelstam

[Mi lấy của ta
Biển
Trời
Gió
Cùm chân ta vào ?ất:
Làm sao mi cấm môi ta run?]

Nhà thơ biết rằng mặc dù sự cô ?ơn, tủi nhục, tiếng môi run sẽ có một ngày nghe ?ược,
và thơ, như cái chai ném xuống biển, sẽ có ngày vượt biển ?ợi, tới bờ mong.
Tại Voronej, vùng Crimé, chốn lưu ?ầy, cảm thấy giờ phút cuối cùng ?ã ?iểm,
tiếng môi run chẳng vì thế mà câm nín:

Ta không muốn, như một cánh bướm trắng kia,
Trả lại mặt ?ất chút tro than vay mượn.
Ta muốn cái thân xác này
Biến thành ngã  tư, ngã năm, ngã bẩy,
Thành phố, thành ?ường....

Hãy học cùng với Mandelstam, nghệ thuật khó khăn:
Lắng Nghe Tiếng Thời Gian.
[Như học cùng Phùng Cung:
Lắng Nghe Mới Rõ
Tiếng Tóc Mình Chuyển Bạc]

Nilkiata Struve

Lời Tựa "Tiếng Thời Gian"
(tập thơ xuôi của nhà thơ Nga Ossip Ẹ Mandelstam)

"Pour moi, pour moi, pour moi dit la révolution"
"Tout seul, tout seul, tout seul répond le monde"

On vivait mieux auparavant,
A vrai dire, on ne peut comparer
Comme le sang bruissait alors
Et comme il bruit maintenant.
Mandelstam

Phùng Cung - ?ời người, ?ời chữ

Thơ - với ai ?ấy - trước khi là nghiệp thì ?ã là nghề. Dù nhuận bút cho thơ luôn ít ỏi ?ến tội nghiệp thì ?ó vẫn là nhuận bút. Và ?ôi khi, nhuận bút nhỏ nhoi kia vẫn có thể bị coi là nhiều, bởi với người yêu thơ, thơ không bao giờ ?ược là thế phẩm.

Với Phùng Cung, thơ có lẽ chỉ là nghiệp. Hẳn là thế! Vì nếu không, người thơ ấy ?ã phải răn mình treo bút sau bao nông nỗi mà duyên do là chữ nghĩa. Mười hai năm ở tù vì vài ba phúng dụ nghệ thuật vượt ra khỏi khuôn khổ quy phạm của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa - 'Con ngựa già của chúa Trịnh'; 'Dạ kÝ - ấy là cái giá Phùng Cung ?ã trả cho những ?am mê chữ nghĩa của mình, ấy cũng là cái phần ?au khổ người thơ ?ã gánh cùng bạn bè nghệ sĩ trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

------------

Trong 'Cát bụi chân aí, Tô Hoài ?ã rất thâm trầm cho người ?ọc thấy những thống khổ mà Phùng Cung ?ã trải. Chân dung người tù mãn hạn Phùng Cung ấy sẽ khiến ta trọng hơn một Phùng Cung khác: làm ?inh và làm thơ; làm ?inh ?ê? sống và ?ê? vật lộn với chữ nghĩa, khó nhọc và mê mải chẳng khác gì một Hàn Dũ, một Giả ?ảo thời xưa.

Tài tình ấy của Phùng Cung với thơ ?ã ?ược thấu hiểu bằng tài tình của một người thơ khác - Phùng Quán. Trên một số Diễn ?àn năm ngoái, giới thiệu thơ Phùng Cung, Phùng Quán ?ã cho biết sẽ ?i ?ọc thơ xuyên Việt hòng ?ủ tiền giúp Phùng Cung khai sinh thơ mình. Dưới suối vàng chắc hẳn Phùng Quán cũng ngậm cười vì người anh em thơ của mình rốt cục cũng ?ã ra mắt ?ược tập thơ ?ầu tay. Ở tuổi sáu nhăm. Vâng, ?úng, ở tuổi ấy.

Tôi hình dung Xem ?êm của Phùng Cung nằm khiêm nhường trên giá của một hiệu sách Hà Nội, lẫn giữa bao nhiêu bìa sách ?o? và xanh khác. Ở cái thời loạn sách, một cô sinh viên năm thứ hai cũng có thể ?ược bố mẹ chi tiền in một tập thơ, những câu chữ rút ruột mà thành của Phùng Cung sẽ có tác ?ộng thế nào ?ến tâm thế con người?

*.

Nếu dừng ở số lượng bài in trong tập Xem ?êm thì ắt phải giật mình: 200 bài. Hai trăm bài thơ, bài nào cũng buộc ta phải lắng mình lại mà ngẫm nghĩ. Tự nghĩ, ?ây không phải là một sự xa xỉ lời ca ngợi. Cũng tự nghĩ: Dễ mấy người làm ?ược thế trong thợ

Thơ Phùng Cung là thứ thơ kiệm chữ, phảng phất gợi nhớ Tanca, Haiku của Nhật. Thơ ấy buộc mỗi chữ phải ở thế thăng hoa. Xem ?êm ?ạt tới ?ô. ấy: tứ không lộ và chữ thì như nhập hồn. Ví dụ mùa nước lụt, với Phùng Cung, ?ã là 'Mùa nước mắt':

?ê tiền triều gãy khúc

?ồng ngập trắng

Con lềnh ?ềnh cõng - vắng - bơi - suông

Thương em ?ứng giữa mùa nước mắt.

Ở một bài bất kỳ nào khác, cũng có thể tìm minh chứng cho ?iều ?ã nói, chẳng hạn 'Gặp em'.

Lâu lắm gặp em

Em chỉ khóc quay ?i

Bước - héo

Áo - gầy

Gió - va - nón - cũ

Tôi hiểu em

Tôi chẳng nói ?ược gì.

-----------------

Có thể là do hoàn cảnh sống riêng, Phùng Cung buộc phải ?ứng bên lề thế sự và do thế phải luôn luôn hướng nội, một ?ặc ?iểm của Xem ?êm là không có bài nào ?ộng chạm trực tiếp tới các biến cố lịch sử trong ?ời sống dân tộc suốt mấy chục năm qua. Nhưng trung thành với mình như thế thì ?ã là một bản lĩnh nghệ thuật và bản lĩnh thơ của Phùng Cung ở Xem ?êm là ở chỗ thơ ông chứa chở không phải là các biến cố ?ến rồi ?i mà là cái hồn vía của hiện thực ?ược soi ngắm qua một ?ôi mắt thức.

Ấy là những mảng cắt từ một nông thôn Việt Nam khó nghèo:

Như 'Cua ?ồng'

Phận - lấm

Tối ngày ?ào khoáy

Lưng nắng - vẽ

Hoa văn tiền sử

Chài chãi ?ồng chiêm

Mấy kiếp rồi

Hay Vạc

Nắng - ?ạp cánh ?ồng

xơ xác

Bước liêu xiêu

Cái vạc ăn ngày.

--------------

Phùng Cung, ở mặt này của hiện thực, ?ã ?ạt tới ?ô. sâu sắc chưa từng thấy trong thơ ca Việt Nam mấy chục năm ?ổ lại ?ây. Thơ ông nói rất giỏi, rất giản dị về cái nghèo, cái lam lũ, cái thanh sạch và cam chịu cho ?ến giờ vẫn thống trị nông thôn Việt Nam. Thật khó tìm trong diện mạo thơ hôm nay những nét thơ này nếu không phải là chỉ có ở một thơ Phùng Cung. Thơ ông có cái kiệm lời của người từng trải:

Bếp

Gió mưa sùi sụt

Lửa mất

Bếp còn

Âu rỗng chuột rình khua khoắng

Ba vua bếp già lo lắng lườm nhau.

Nắng hoa ngâu

Bước em xéo bóng

?i về hai buổi

Càm cắp queo hông

Nắm rau nón củi

Se sém nỗi ong vàng

?iếng nắng - hoa - ngâu.

----------------

Nếu nói về tài quan sát của Phùng Cung ở ?ây thì thật chưa ?ủ. Có bao nhiêu hòa nhập, yêu thương, gắn bó trong những câu chữ ?ó.

Và những yêu thương ấy lại tụ về chất chứa ở một người thôi - Phùng Cung. Trọn tập Xem ?êm, không có bài nào nói tới những oan khiên trong ?ời nhà thơ, nhưng lại có rất nhiều bài nói tới những mất mát, thiếu hụt, những sự dữ của ?ời người, ví như một 'Ao hoang', 'Gãi ?ất', 'Quyên giáó, '?ậu mùá... Xuất hiện với tần suất gần như thế là những bài dường như chỉ vờn họa lại cái thuần khiết của sáng, chiều, trưa, của nắng mưa... Nhưng có bao giờ thơ tả cảnh lại chỉ là tả cảnh thôi ?âu, với những tài thơ thực sự? Ví như chỉ ở một bài bất kỳ này của Xem ?êm:

Vắng

Dưa héo sào phơi

Em ?i ?âu

Chĩnh nước gốc cau

Ôm khoanh - trời cũ

Lá bưởi ?ầu hồi

Loáng thoáng phân chim.

--------------

Có chăng mối liên hệ hữu cơ giữa hiện thực và kẻ nghiền ngẫm nó ở hiện tượng làm nên một ?ặc ?iểm thi pháp này của Phùng Cung?

*.

?ê? mới hóa thơ, nhà thơ có thể ?ưa ra một tuyên ngôn thơ mang tính bùng nổ. Và biến tuyên ngôn thành hiện thực bằng những thi phẩm tân kỳ mà buổi ?ầu xuất hiện có thể làm người ?ọc sững sờ, phẫn nộ. Cũng có thể, người thơ sẽ lặng lẽ tiến chiếm những tiêu chí trên con ?ường hiện ?ại hoá thơ ca chỉ bằng những vần thơ nặng những tự tình. Người yêu thơ cuối thế kỷ này ?ang ?ược chứng kiến lại một hiện tượng ?ã xảy ra từ ?ầu thế kỷ: thơ ?ang quẫy cựa, ?ang ?òi tung phá, ?ang ?ược mới hóa. Góp phần vào tiến trình ?ó của thơ ca là những Lê ?ạt với Bóng Chữ; ?ặng ?ình Hưng với Bến Lạ và Ô Mai; là những ?ỗ Kh; Hoàng Hưng; Dương Tường; Khế Iêm... Rất nhiều tên tuổi nữa. Dường như Phùng Cung không ?i chung một con ?ường với các nhà thơ vừa nói, nhưng vẫn là một mục ?ích ấy. Không thể coi là ngẫu nhiên hiện tượng Phùng Cung ưa một lối viết ngắn, súc tích hơn cả thơ ?ường, cũng như liên tục tạo từ mới hoặc tạo hàm nghĩa mới cho từ... Có không ít bài ở Xem ?êm chỉ gồm có một câu.

Nghĩa Trang

Lặng nhịp sương rơi

Chiều - gạo - ?ổ

Dế gào chân mộ

Trăng lên...

Cây Khế

Này em

Cây khế gãy rồi

Nỗi chua vẫn hỏi thăm

Người trồng cây.

----------------

(Nghiến ?ứt hình thức thông thường của thơ sáu tám là hiện tượng thường thấy ở thơ ca hiện nay song chưa thấy ai ngắt nhịp 5/3 như ở câu tám bài trên (? Rất lạ!)

*.

Khó có thể phủ nhận rằng trong văn xuôi ?ương ?ại, Tô Hoài là người ?i dai nhất, xa nhất trong việc khai thác khả năng biểu cảm của tiếng Việt, cũng như làm phong phú nó. Dù có là họa sỹ cũng không dễ gì diễn tả cho hết các sắc ?ô. của màu vàng qua sự mô tả của Tô Hoài. Phùng Cung chính là một người như thế của thơ ca Việt Nam ?ương ?ại. Nắng của Phùng Cung là nắng - Âu Cơ, nắng - ngả - tương, nắng - non, nắng - phơi - rơm, nắng - ?ồng - trinh, nắng - hàn - vi, nắng - hoa - ngâu, nắng - thừa, nắng - cũ... Và gió nữa: gió cỡn, gió quần, gió trong cả hình ảnh váy lộng buồm... Nắng gió ?ấy là nắng gió của thị giác mà trước hết là nắng gió của tiềm thức. Và những hình ảnh như thế xô dạt trong suốt Xem ?êm như là sáng tạo riêng của ho. Phùng thi sĩ.

________

Phùng Cung mang lại cho thơ sự vi diệu khi làm sống dậy những hình ảnh của khứu giác. Chưa hề thấy ở ?âu sự xuất hiện thường xuyên ?ến thế của kiểu hình ảnh này như ở Xem ?êm: Gió quần lùm ngải cứu - Mùi ngộ cảm ?ầy vườn; mùi cháo - canh; mùi tép rang hàng xóm thơm - nghiêng, trứng nhà ai rán - thơm - mùi - thiếu mỡ; Ai ?ốt rác lá tre bên ngõ - Lối ?i ?ầy mùi - khói - cuối - năm, mùi - dòng - giống... Sự cụ thể hóa cái tưởng chừng khó cụ thể ấy ?ã là một nét ?ặc sắc của không gian nghệ thuật thơ Phùng Cung.

--------------

Phùng Cung tỉ mỉ nhạy cảm trong quan sát, cẩn trọng trong cấu tạo hình ảnh. ?ó tuyệt nhiên không phải là cái tỉ mỉ của lối tư duy liệt kê. Sau câu chữ như họa như khắc kia là những miền tâm cảm của một người ít ngủ. Hình ảnh này của chủ thể trữ tình thường hay thấy ở thơ những bậc ưu thời mẫn thế thua? xưa. Phùng Cung Xem ?êm, những ?êm của ho. Phùng là những '?êm - nghiêng - gió - chập - chờn - mưa - gõ - lá; ngọn ?èn con ?òi - lay - gió - cả ao sâu cá quẫy nhắn mưa rào; là '?êm xá tộí, là những '?êm chợt nghé

Trong gối vọng tiếng ru

Lắng tai mới rõ

Tiếng tóc mình chuyển bạc.

------------

Phải ?ọc những 'Nghe ?êm', 'Xem ?êm' ấy mới có ?ược hình dung không sai về gương mặt thơ Phùng Cung. Phùng Cung dồn chứa trong thơ cái tinh tế trước ?ời sống vi mô và cả vĩ mộ ?ọc Xem ?êm, thấy mừng vì mình còn biết nhân hậu, và ?ôi lúc thấy rùng mình chắc sẽ là cảm giác của không phải một người, khi ?ọc (chẳng hạn) bài này:

Tội nghiệp

Tội nghiệp nhà thơ

Hợm mình

Lầm lạc

Bởi không biết sống

Nên không biết chết

Nửa thế kỷ

Bị lưu ?ày

Trong cõi tung hộ

---------------

Thơ Phùng Cung là thế, thâm trầm, thấm thía, tan trong tình và thăng hoa từ tình.

*.

Rồi có thể sẽ tới một ngày, thơ ca Việt Nam sẽ chuyển hẳn sang cái mà hôm nay ta gọi là thơ hiện ?ại hay hậu hiện ?ại hay (sẽ gọi là) hậu bình phương lập phương hiện ?ại và ?i xa hơn thế. Thơ sẽ có thể chỉ gồm những nguyên âm hoặc phụ âm; sẽ xuống dòng nhiều như nhảy cầu thang hoặc sẽ không xuống dòng như trôi miên man trên biển, sẽ ?ược cắt dán bằng các vật liệu tưởng chừng phi thơ hoặc sẽ ?ược bẻ gãy như những ?oạn chiến hào còn sót lại ở một góc rừng hoang sau nhiều năm im tiếng súng; Thơ có thể khai tử toàn bộ chấm và phẩy và toàn bộ các kỶ hiệu dấu /; ( ) hoặc ?ơn giản chỉ là một hay nhiều trang giấy trắng hoang tưởng giữa một tập sách... Và người yêu thơ sẽ giải mã ?ược toàn bộ các kỶ hiệu âm thanh ấy. Hoặc không giải mã ?ược thì cũng sẽ chấp nhận...

------------

Tôi nhớ tới sự toàn thắng của Thơ Mới năm mươi năm hơn về trước. Trước khi tuyên xưng Thơ Mới, Hoài Thanh, Hoài Chân ?ã 'Cung chiêu anh hồn Tản ?á như là người bắc cầu cho hai thế kỷ thơ. Người ta không thể gọi Phùng Cung là một nhà thơ hiện ?ại hiểu theo nghĩa trên, mà chắc gì nhà thơ muốn vậy, nhưng với một phong cách ?oạn tuyệt với nền thơ ?ương thời mà vẫn chất chứa cái hồn cốt của thơ Việt Nam muôn thuở, chắc chắn thơ Phùng Cung sẽ làm thiên hạ tốn không ít giấy mực và thời gian. Như Tản ?à ?ã từng.

----------------------

Thơ ?ang rất cần những kẻ âm thầm sống cho thơ như thế, và tài như thế. Tiếc thay, không nhiều!

1996

 Lê Minh Hà


BULUKHIN * PHÙNG CUNG

VỚI BÁC PHÙNG CUNG
Jan 14, '12 10:35 PM
for everyone

XEM ĐÊM
Thơ của Phùng Cung
  NXB Hội nhà văn 2011 
BULUKHIN
Vào nhà sách Đông Hải ở Vũng Tàu em khấp khởi mừng được gặp bác trên bìa tập thơ XEM ĐÊM.  Tay trái bác kẹp điếu thuốc, không thấy sợi khói bốc lên, chắc là lửa tắt rồi.  Khuôn mặt bác nhân hậu, chiếc kính lão to tướng hướng vào cõi xa xăm. Sau khi bác về trời 35 ngày, nhà thơ Hoàng Cầm đến nhà bác thắp hương tưởng nhớ, và để lại lưu bút có câu: " Cung ơi! Cứ đi đi rồi về ngay nhé". Thì bây giờ, tại nhà sách Đông Hải này, em gặp bác đã về thật.  XEM ĐÊM của bác ra mắt bạn đọc năm 1995 từ những đồng tiền dè xẻn của nhà Văn hóa Nguyễn Hữu Đang và sự nhiệt tình vô hạn của nhà thơ Phùng Quán. Số là bác Quán đến phố Mai Hắc Đế thăm bác, nhân thể biếu bác con diếc, con trôi vừa câu trộm được. Rồi cũng bữa đó bác Quán mê luôn bản thảo tập thơ XEM ĐÊM của bác đang xếp xó vì không có tiền in. Dạo ấy bác nghèo lắm, làm nghề dập đinh giúp vợ thì chỉ đủ sống lai rai, trong khi in tập thơ phải mất vài triệu. Nhà thơ Phùng Quán quyết chí đi đọc thơ rong của bác trong một năm khắp ba miền Bắc Trung Nam để có tiền cho bác in thơ, nhưng chưa kịp đi thì bác Nguyễn Hữu đang ngăn lại bảo, tôi sẽ cho chú Cung tiền in thơ, chú Quán khỏi đi đâu hết. Kể về những đồng tiền ki cóp được của nhà Văn hóa bị lưu đày Nguyễn Hữu Đang thì rơi nước mắt…Và như cách nói của Phùng Quán, nàng Hằng Nga của Phùng Cung ngủ vùi trong rừng đã gặp Hoàng Tử đánh thức dậy. 
     Bác Phùng Cung à, Cho đến nay em đã đọc "Con ngựa già của chúa Trịnh" của bác in hồi 1956 không dưới năm lần, và giá có đọc thêm năm mươi lần nữa thì em vẫn không hiểu nỗi bác đã chống Đảng, chống nhà nước Việt Nam ở chỗ nào để đến nỗi bị người có quyền bỏ tù suốt 12 năm (1961- 1973). Cái truyện ngắn ấy đâu khoảng 3000 từ, mà tóm tắt lại chỉ vài dòng: Ở làng Phương Lộ có người buôn ngựa họ Nông mới tậu được con ngựa Kim Bông trắng như tuyết, phi như thần. Bao nhiêu người gạ mua, ông họ Nông không bán, nhưng khi người của chúa Trịnh hỏi mua để tăng cường cho kỵ binh thì ông bán liền. Chúa Trịnh nghe kể về Kim Bông thì rất vui và tổ chức một cuộc đua để thử tài. Trong cuộc đua hôm ấy Kim Bông không chỉ thắng mà vượt xa đám ngựa còn lại, mọi người ngỡ như Kim Bông thi với đàn cừu. Mấy lần vào xông trận ở Linh Giang  Kim Bông tả xung hữu đột, chiến thắng lẫy lừng. Chúa Trịnh bèn đưa nó vào phủ, phong là Mã Lệnh, chuyên làm mẫu để huấn luyện cho đàn ngựa phủ Chúa. Kim Bông vốn ăn cỏ núi uống nước suối rừng, nay thấy đâu đâu cũng lâu đài nguy nga thì mất vẻ tự nhiên.Tài nghệ ở nơi trận mạc của Kim Bông không được dùng đến nên lâu ngày cũng mai một đi. Công việc kéo xe hầu chúa với hai cái lá đa che bớt mắt để chỉ được nhìn thẳng làm nó bỡ ngỡ…Dần dà Kim Bông già nua, không còn là ngựa thần như ngày xưa nữa. Vào thời điểm đó mặt trận ở giới tuyến Linh Giang có nguy cơ bị chúa Nguyễn áp đảo. Kỵ binh phải vào cuộc, Mã Lệnh Kim Bông cũng được lên đường chiến đấu. Trong các cuộc tỷ thí với kẻ thù Kim Bông đã nổ lực đến tối đa, nhưng sức cứ đuối dần đến nỗi đứt ruột…Trước khi nhắm mắt lìa đời nó rên khẻ như nói rằng chết thế này cũng là chết vì giang sơn, vì Chúa.
       Trong tập XEM ĐÊM của bác có 303 bài thơ, nhưng em không thấy một bài nào bác ta thán nỗi đời đen bạc, khiến bác ma dại thân tàn. Trong nỗi đau tận cùng ấy bác chỉ nói đến cái đẹp thuần phác của một vùng quê bắc bộ thanh bình và đầy ắp tình người.  Rung động thẩm mỹ của một tù nhân biệt giam chỉ ngời lên những ruộng lúa, nương dâu, luống ngô, bãi sắn, với những con người lam lũ hiền lành, với cô con gái "ý tứ soi gương đáy nón", với người mẹ trẻ "sữa con so ướt yếm", với những con vật làm nên kỷ niệm tuổi thơ "Đủng đỉnh điệu cu cườm. Lay nhịp-gió may", "Cánh chuồn chuồn lia từng bóng râm con". Không gian trong thơ bác yên bình đến mức âm thanh đọng thành hình khối.

Đêm về khuya.
Trăng ngả màu hoa lý.
Tiếng gọi đò căng chỉ ngang sông
 (Đò khuya).

Tình thương trong bác không kém gì một vị Bồ tát.
 Bác thương người phụ nữ thảo hiền tất bật
Bước sấp ngữa
Em về chợ tối
Gió bãi khoai quấn quýt
Làm em mau nước mắt
Đèn con xóm trại đang chờ
(Về chợ tối)

Thương sang cánh bèo
Lênh đênh muôn dặm nước non
lạc vào ao cạn vẫn còn lênh đênh
(Bèo).

Thương đến lũ trâu bò hốt hoảng khi nghe tiếng trống phát lên từ tấm da khô của đồng loại
Chợt nghe trống dộng.
Trâu bò nhớn nhác.
Dùi quậy liên hồi.
Ê ẩm tấm da khô.
 (Ê ẩm).
Sinh thời, nhà thơ Hoàng Cầm có viết "Có lẽ từ xưa đến nay, ở nước ta chưa có một tập thơ nào về một vùng quê nghèo khổ lại súc tích cô đọng, mang tính truyền thống và hiện đại sâu sắc như tập XEM ĐÊM…Một bài thơ, có khi chỉ một câu đều như những luồng điện không giật chết người nhưng cứ thắt vào tim những luồng rung động thấm rất sâu".
     Trong trái tim Bồ tát của bác không có chỗ cho sự thù hận, dẫu cho cái ác có là nước sôi trăm độ thì càng làm bừng lên hương vị chân chính của trà

Quất mãi nước sôi.
Trà đau nát bã.
Không đổi giọng Tân - Cương
(Trà).     

NGUYỄN ĐÌNH TOÀN * THƠ PHÙNG CUNG

Thơ Phùng Cung
Saturday, May 08, 2004 

 Nguyễn Đình Toàn



Tuy được in chung trong tuyển tập truyện ngắn, nhưng “Trăng Ngục” của Phùng Cung là một phần riêng biệt.

Có thể coi “Trăng Ngục” như tập nhật ký trong tù của Phùng Cung. Một tập nhật ký không đề ngày tháng.

Những người từng bị ở tù cộng sản rồi, ở tù mà không biết vì sao, không xét xử, không án lệnh, không biết bao giờ được tha, sẽ hiểu rằng sau một năm, hai năm, và càng lâu hơn, người ta càng không còn để ý hay biết đến ngày tháng nữa. Người ta tồn tại chứ không còn sống nữa. Và tồn tại trong những điều kiện gần như không một con vật nào chịu đựng nổi chẳng hạn chỉ làm chứ không được ăn, đừng nói đến những cái khác.

Dấu hiệu duy nhất để người ta biết chắc mình còn sống trong những ngày địa ngục ấy là người ta còn suy nghĩ được.

Thơ của Phùng Cung là những điều ông suy nghĩ trong những ngày như thế.

Những ngày như thế là một chuỗi trắng, một cái khuôn, hay dùng chữ của Ôn Như Hầu cái “lò cừ” [lò cừ nung nấu sự đời] không cần ghi dấu.

Trong bài “Vay Nóng”, Phùng Cung viết:

Đất nước tôi

Triền miên bất hạnh

Tụi mặt dày - tay bẩn

Tim rắn - lời cừu

Văn hóa lớp hai

Điều hành cuộc sống

Tránh làm sao
Khỏi nát ngọc nhân quyền

Nhân danh một nạn nhân

Đứng giữa mênh mông

Cùm lim - rào kẽm

Khản cổ - chìa tay

Khấn xin những quốc gia

Văn minh - từ thiện

Cho dân Việt Nam tôi

Vay nóng chút dân quyền

“Vay nóng”? Lâu lắm người ta mới được đọc, mới được nghe lại hai cái từ buồn bã đó. Vay nóng. Vay xổi. Vì cần thiết quá. Tự mình không còn biết kiếm ở đâu ra nữa. Vay cũng hàm ý là sẽ trả. Trông cậy vào đâu để trả chỉ có người vay biết.

Thật tàn nhẫn khi đọc những lời như thế, viết trong những hoàn cảnh như thế, mà người ta lại muốn nó phải hay, phải văn chương, phải có ý mới, hình tượng mới, ngôn ngữ mới...

Đáng lẽ vấn đề chỉ nên được nêu ra là: làm thế nào con người có thể sống được, tồn tại được trong hoàn cảnh như thế?

Thơ cứu rỗi người ta chăng?

Trước mắt trẻ thơ, mỗi tinh cầu chỉ là chấm nhỏ

Càng tối đen càng nhìn rõ xa/xanh

Mắt phàm tục đăm đăm vương chút lệ

Chút lệ này xuất hành từ trí tuệ con người

Hỡi biển cả

Diện tuy rộng nhưng thiếu những giác quan cần thiết

Lòng tuy xanh - sâu

Xanh sâu đầy mặn chát

Bỏ mất mênh mông, chuốc lấy ồn ào

Tự thao túng - cái thói hư nộ cuồng sóng vỗ

Trống trải bơ vơ, chiều quả phụ

Bình minh vô vọng phương mờ

Ôi! Bao yên lặng thanh cao

Đều chìm lặn trong thét gào man rợ
Thì nhắm mắt, bưng tai

Nhưng phải đâu khiếp sợ

Chỉ điếc đui vừa đủ, để làm ngơ

Ai cho phép ngươi tự dành phần hương hỏa nhỏ to

Một giọt nước

Vẫn tình nguyện tách đôi

Để cùng thấy rõ

Vậy dẫu vô cùng lớn lao gì đó

Ta chỉ yêu cầu phải hài hòa
Với vô cùng bé nhỏ mà thôi!

Điều khiến người đọc rùng mình khiếp sợ tự hỏi, thế những người vợ, những đứa con, người ta đi công tác vài ba năm, có khi dăm bảy năm mới được phép về thăm nhà một lần/ để lại/ đâu/ không thấy nhà thơ nhắc đến nhỉ?

Tổ quốc, quê hương, ý nghĩa cuộc đời là những điều to lớn đã chiếm hết tâm trí người ta hay sự thực là người ta phải quên những điều nhỏ bé kia đi mới sống nổi?

Tổ quốc ư?

Đây là những lời Phùng Cung nói với tổ quốc:

Tổ quốc kính yêu ơi

Văn hiến - thuần phong - mỹ tục

Phút chốc bàn tay cộng sản dập vùi

Định nghĩa - tên người

Tôi không nói được

Nếu bị dồn hỏi
Tôi chỉ có thể trả lời

Bằng hai hàng nước mắt

Tổ quốc kính yêu ơi!

Quê hương ư?

Đây là những điều Phùng Cung nói với quê hương:

Quê hương ơi!

Đường quan lầy nước mắt

Điệu sáo hết du dương

Mây chìm, gió ngủ

Chiều nắng da bò

Vẫn nhằm biên giới ưu tư

Rầu rầu đổ bộ

Sông sâu bặt tiếng gọi đò

Chim hãy giùm ta

Gọi cành xanh ngóc dậy

Quê hương thấy lại quê hương

Ý nghĩa cuộc đời ư?

Còn có gì quan trọng hơn sống, chết?
Phùng Cung nói về sống chết như sau:

Sống quá khó khăn

Chết chẳng dễ dàng

Ta phải sống

Vì ta còn phải chết

Ơi! Những cánh buồm xanh biếc

Ngược dòng ngân - lộng gió

Có phải đang đưa những oan hồn

Về bên Thượng Đế chí nhân?

Thơ Phùng Cung là những gì được vắt ra từ trí não và tàn lực của một người, bị treo giữa đời sống và cái chết, hay nói như chính ông: “Sống quá khó khăn, chết chẳng dễ dàng”. Nó là những tiếng kêu thất thanh nhưng lại chỉ thốt ra trong yên lặng, bằng chữ viết. Những câu thơ người ta có thể phải trả giá bằng mạng sống. Và, quả thật ông đã trả giá bằng chính mạng sống của mình. Những câu thơ như vậy, chúng ta phải đọc thế nào cho phải đây?


Nguyễn Đình Toàn


THỤY KHUÊ * PHÙNG CUNG

Thụy Khuê
Phùng Cung,
Ai liều tảo mộ chiều nay
 
Phùng Cung sinh ngày 18 tháng 7 năm 1928 tại Vĩnh Yên và mất ngày 9 tháng 5 năm 1997 tại Hà Nội, năm năm sau, mùa đông 2003, nhà xuất bản Văn Nghệ California cho phát hành cuốn "Phùng Cung, truyện và thơ", do Lâm Thu Vân ở Canada chủ trương và tập hợp những sáng tác của Phùng Cung chưa bao giờ được xuất bản. Sách dày hơn bốn trăm trang, gồm hai phần: Phần truyện có 10 truyện ngắn cùng phụ lục in lại "Con ngựa già của chúa Trịnh", đã đăng trên Nhân văn số 4 (tháng 10 năm 1956) và phần thơ là tập "Trăng ngục" gồm 35 bài thơ làm trong 12 năm tù từ 1961 đến 1972, tại các trại biệt giam Bất bạt (Sơn tây), Yên Bái, Lào Cai, v.v...
Nói đến Phùng Cung, chúng ta không khỏi nghĩ đến câu hỏi: "Trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, Phùng Cung chỉ là một người viết trẻ, vừa nổi tiếng với truyện ngắn "Con ngựa già của chúa Trịnh", vậy tại sao ông lại phải chịu kỷ luật khắt khe 12 năm tù như một tội nhân chính trị, khác hẳn một số đồng nghiệp nhà văn, nhà thơ đương thời đã tham gia NhânVăn Giai Phẩm. Tại sao?"
"Con ngựa già của chúa Trịnh" là một tác phẩm đặc sắc, đầy tính ẩn dụ, viết về con thần mã Kim Bông của lão Nông ở Sơn Tây, nó có sức vượt hàng nghìn dặm với cái thế "cao đầu phóng vĩ" của nòi ngựa chiến. Bất cứ cuộc đua nào Kim Bông cũng đứng đầu. Tin đồn đến tai chúa Trịnh, nhà chúa bèn cử người đến mua con ngựa quý. Dù luyến tiếc vô cùng, lão Nông bắt buộc phải giao ngựa về kinh. "Kim Bông phi như gió, trả lại đằng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn Tây. Chỉ trong nửa ngày đã về đến Thăng Long". Về kinh, Kim Bông trở thành con vật sủng ái của chúa, chuyên kéo xe hầu nhà chúa. Sống trong nhung lụa, nó được ngự trong mã đài ngày ngày chỉ có việc ăn và tắm. Nó được nhà chúa ban áo mão cân đai, đặc biệt là cái mũ cánh chuồn, như hai chiếc lá đa che tai, che mắt, chỉ để lộ mỗi con ngươi nhìn thẳng về phía trước. Rồi đến lúc can qua, chúa cần con ngựa chiến dũng mãnh ngày xưa, nhưng than ôi, con thần mã đã quen thói cung đình, bao nhiêu năm bị che tai, bịt mắt, khi tháo mũ áo ra, nó hoa mắt, đầu choàng váng, chân không phóng được nữa. Thần mã cố sức bình sinh, dốc hết tàn lực rồi ngã vật xuống đất, đứt ruột mà chết. Kim Bông tượng trưng cho những thành phần tài năng của đất nước, nhưng khi đã một đời úp mặt phục vụ thế quyền để tìm bổng lộc thì đều trở thành những con ngựa già, vô dụng.
Là một trong những truyện ngắn hay nhất của thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, "Con ngựa già của chúa Trịnh" mang tính chất ẩn dụ tế nhị kín đáo chứ không đả phá trực tiếp như một số những sáng tác thơ văn thời đó. Phải chăng vì nó mà tác giả đã phải trả nợ 12 năm tù, hay vì những lý do khác, trải dài trong thân thế, tài năng và nhân cách sống của Phùng Cung?
Những tác phẩm in trong tuyển tập Phùng Cung truyện và thơ, viết trong khoảng từ 57 đến 60, tức là trước khi ông bị bắt, và hơn bốn mươi năm sau mới được đến với độc giả, nhưng chúng vẫn giữ nguyên phong độ của những tác phẩm có sức vượt thời gian. Ðó là những đoản thiên hiện thực viết về những kiếp người như lão Thiều trong Mạt kiếp, sống trong cái đói triền miên, lão đục đáy cót ngô để ăn cắp, bị ngô tưới xuống đè chết. Truyện Mạt kiếp, là một trong những truyện ngắn thê thảm nhất về cái đói của con người.
Ngay dòng đầu, không khí bạo lực đã hực lên trong một mạch văn có chất họa và chất nhạc, đầy khí phách và quyết liệt : "Chiều xuống chới với trên đầu làng Chu Trần. Một con chó vàng nhạt, hơi gầy đứng trên bờ đê nghến phía tây nam nơi mặt trời như một chậu máu, loang vãi từ đỉnh Ba Vì hắt lại. (....)
Thình lình tiếng tù và rúc ba hồi dữ dằn từ cầu Ðạc Ba -điếm tuần của làng- gió tiếp âm, gom tiếng dữ trình làng. Mấy nhà gần điếm còn nghe được cả tiếng "hự hự" của kẻ phạm pháp đang chịu đòn bằng đấm đá, lên gối vào ngực, vào bụng. Nghe đủ tiếng động, đàn chó làng cất tiếng tập thể tru lên một lúc rồi im bặt, quý hồ đủ tư cách chó, bởi dẫu có mỏi mõm cũng chẳng ăn nhằm gì." ( trích Mạt kiếp, trang 27).
Ðó là khúc chó tru dạo đầu cho thân phận lão Thiều. Thiều không phải tên của lão, lão tên là Vị, Thiều là tên đứa cháu ngoại. Lão có một quá khứ tù mù, có thể trước lão đã có thời chân đi giày săng đá, đầu đội mũ chào mào khố xanh, khố đỏ thật, nhưng bây giờ lão thân tàn ma dại, vợ lão bỏ hay vợ lão chết cũng không ai biết. Lão phải ở nhờ nhà con rể cũng đến cả chục năm rồi. Ăn uống lão phải tự túc. Gặp lúc nhà người ta có việc gọi đến, lão còn được miếng no. Nhiều ngày chẳng ai đoái hoài, lão đói rã họng, đành thậm thọt vụng trộm củ khoai, bắp ngô của làng. Bị tuần bắt được trói gô vào cột đình đánh, lão chày mặt ra chửi đổng. Lão nghĩ bụng "no nên bụt, đói ra ma", "ngũ cốc còn ghê hơn thuốc phiện, chưa rã họng chưa biết!", "trên đời này ông sợ nhất cái đói, ông khinh nhất cái đói, ông căm thù nhất cái đói" (trang 31). Lão Thiều ăn nói phạm thượng rất Chí Phèo; Chúa, Phật lão chả coi ra gì, quỷ ma thần thánh lão cũng theo tuốt miễn là có cái gì bỏ vào miệng. Lão làm tất tần tật, từ việc đánh thần trùng, bốc mả, nhảy xuống ao cứu trẻ chết đuối, không từ một việc nào. Vì cứu trẻ ở xóm đạo, lão đã được mang tên thánh Phê Đô Vị, rồi xóm đạo hết việc, lão mon men đến chùa, giúp bà vãi đốn tre, cạp rổ cạp rá... Lão đã trải hết các "thời", vậy mà "ngày tháng lão lại vẫn lênh đênh trong bể trần đầy thèm khát". Cho tới cái năm ấy. Lão cố nhớ lại: "Năm ấy là năm gì nhỉ? Nước sông Hồng vua Thuỷ dâng to hơn mọi năm nhiều. Nước tràn lên đánh úp bờ bãi, cướp trắng hoa màu chưa đến tuổi thu hoạch, đe dọa đê điều đe dọa cả một vùng đói kém!" (trang 56). Chẳng biết lão Thiều có ý nói kháy đến cái đói năm nảo năm nào trùng hợp với biến cố lịch sử nào không. Dám lắm, mồm mép lão còn nể gì ai. Nhưng dù sao thì lão cứ nhấn mạnh vào cái năm thổ tả ấy làm cho người ta đâm nghi ngờ, năm ấy, lão Thiều đến bước đường cùng, lão thoá mạ cái đói "Mày đang tâm biến người thành chó, chó thành người!" (trang 67). Lão bèn tính một nước cờ chót, lão lội lụt vào tận đáy cót ngô của nhà Tư Tâm, đục cót cho ngô chảy xuống , lão hứng bằng hai ống quần, nhưng không ngờ, ngô chảy mạnh quá. "Ðói, lạnh, nặng, cả ba lực giáp công, lão không sao ngóc đầu lên được. Chỉ trong chớp mắt lão nghỉm hẳn". Truyện Mạt kiếp, được viết với một gịong văn lạnh lùng, châm biếm, hài hước hoá nghịch cảnh khá tài tình và đó là nghệ thuật trình bày cái bi đát trong thân phận con người sâu sắc nhất. Lão Thiều bị cái đói nghiền nát nhân phẩm, lão cố ngóc đầu lên để được sống làm người, sống như người nhưng cuối cùng lão cũng bị quật ngã, bị tiêu diệt.
Biệt tích là truyện ông Lâm, một người thợ mộc, không thể hội nhập được với "đời sống mới". Nói đúng ra thì người thợ đầy lương tâm và nhân cách này không thể chấp nhận lối "ăn thật làm dối" trong cái "đời sống mới" này được. "Với phó Lâm, tua, mộng là tuyệt kỹ, khi vào mộng, không tháo ra, chêm lại làm đau gỗ!" (trang 155). Nhưng bây giờ ủy ban lại ra lệnh cho phó Lâm phải làm nhanh, phải đóng bàn không có tua, có mộng gì cả, chỉ ghép lại bằng đinh năm phân, chặt bỏ mũ, đóng ngậm là đủ. Ông chủ tịch xã ra lệnh:
"- Cứ mẫu ấy mà đóng!
(...)
-Dạ! Thưa ủy ban không làm được ạ!"
Phó Lâm cứ lẩm bẩm trong miệng những: dạ thưa, không làm được ạ, dạ thưa, khó quá ạ.... cho tới lúc bị ủy ban đuổi về.
Ít lâu sau, phó Lâm đi đâu biệt tích...
Có người đồn rằng họ thấy phó Lâm, vai vác rìu, tay sách hòn đục đi ngược dòng sông lên núi Tản Viên. Phó Lâm đi trên mặt nước mà như người đi trên đường vậy. Bà Lâm được tin lạnh cả người! Ở đây ai cũng biết chuyện đức Thánh trên đỉnh núi Tản cứ ba năm lại một lần xuống núi tìm thợ giỏi lên sửa điện đài trên ấy. Bà Lâm chờ chồng ba năm, rồi sáu năm, rồi chín năm... không bao giờ thấy chồng trở lại, bà chọn tháng bẩy ngày rằm "xá tội vong nhân" làm ngày giỗ chồng
Biệt tích có những nét thần thoại mơ hồ và đầy ẩn dụ về một thời mà sự mất tích, biệt tích của con người có nhiều ý nghiã mờ ám, tối tăm và những giá trị đạo đức nghề nghiệp không còn chỗ đứng trong sự lên ngôi của dốt nát, lười biếng, cẩu thả. Phó Lâm chỉ muốn bảo tồn đạo đức nghề nghiệp của mình, nhưng không thể được và cuối cùng phó Lâm đã phải về trời, về với thần núi Tản, để được tự do sáng tạo, giữ trọn phong cách của một nghệ nhân chân chính.
Mộ phách đặc sắc nhất trong mười truyện. Mộ phách viết về thời kỳ cấm ca trù, đập đàn đáy, chôn phách, vì, người ta cho rằng: " từ nay cái nghề ca trù càn rỡ dông dài phải tự tay đào sâu, chôn chặt, không để nấm mồ, không luyến tiếc" (Mộ phách, trang 204).
Truyện vợ chồng kép Tư Chản và Ðào Khuê, cả đời gắn bó với cây đàn tiếng hát, không khỏi gợi nhớ đến Cô Tơ và Chánh Thú trong Chùa đàn của Nguyễn Tuân. Ông bà Tư Chản có hai con, một trai một gái, chỉ mong sao cho chúng sau này lớn lên nối tiếp nghề tổ để một đời có đủ cơm no áo ấm. "Thằng Thuyên, con trai độc nhất, khi nó mới biết lẫy, ông đã nắn ngắm bàn tay của nó và lấy làm mãn nguyện. Ngón tay dài, ắt hẳn dài hơn tay bố, mai ngày nhẹ nhàng nhấn, vuốt dây tơ..." (trang 205).
Ngoài thằng con trai, Tư Chản chỉ còn cây đàn là quý: "Ðàn này của cụ Kép thân sinh của Tư Chản để lại. Cụ kép Ðiều đã thành người thiên cổ; khi cụ Kép chọn gỗ, thuê thợ Kim Sa đóng cây đàn này lúc Tư Chản mới tám tuổi. Ðáy đàn bằng gỗ dâu vàng, cần đàn bằng gỗ xâng chun, trục vặn bằng gỗ sứa. Phần trên của đáy đàn, hai khoáy gỗ đối nhau như hai con mắt. Cây đàn lên tiếng ngân vang gần một nửa thế kỷ.(...) Ba ngôi âm thanh của đàn đáy "Tiếng tòng! tiếng dụng! tiếng dênh!" hợp thành đựng trong bầu đáy; nhà nghề gọi là "hồn đàn bất tử!
Tư Chản quan tâm đến cây đàn nằm đây như nâng giấc một người cha ốm. Trên bàn thờ sát vách bên trái, -cố để khuất mắt người lạ- cây đàn được nằm trong tư thế, dày, trục nghiêm trang. Trên đáy phủ tấm khăn the màu hoàng yến, nay đã ngả màu lõi mít che bụi và che tất cả.
Ngày nào ông cũng hai lần nâng tấm khăn, nhìn kỹ toàn cây đàn. Sóc, vọng hai lần mỗi tháng; vào buổi tối, ông đều lau bụi, và bàn tay lại chạm khẽ lên dây tơ, lặng nghe tiếng xa xưa vọng lại. Ông đứng ngẩn ngơ, quên, nhớ, mông lung. Trước khi quay lưng ông không quên chắp tay thành kính vái cây đàn đủ bốn vái." (Mộ Phách, trang 207-208)).
Rồi thời thế thay đổi, thằng con trai lớn lên đi bộ đội cầm súng thay đàn...
Vợ chồng Tư Chản "nhớ dồn thương góp", âm thầm lấy đêm 17 tháng 8, cúng tổ tiễn thu. Họ chờ lúc trăng khuya, cổng đóng then cài, tìm lại nghề cũ, tiếng đàn chen tiếng phách, nổi chìm giọng ngâm tha thiết của những đêm xưa... "Khúc "Cung bắc" đang chơi vơi như đò chưa cập bến. Bỗng tiếng chó sủa rộ từ phía nhà thím Vượng hắt sang. Ðàn phách im bặt. Hai linh hồn đang rong ruổi quá khứ vụt trở về thực tại. Chó vẫn sủa dai dẳng. Ngờ đâu tiếng tơ, tiếng phách đã leo rào, lọt đến tai người, va vào miệng chó". (trang 210). Từ đêm đàn ca bất hạnh vụng trộm đó, hai vợ chồng nơm nớp lo sợ, sợ người và sợ chó, sợ chó dưới dạng người.
Và chuyện gì phải đến đã đến. Chính người con trai duy nhất của họ, đang đợi được kết nạp vào Ðảng, đã đứng ra xử lý cây đàn, Thuyên khẳng định: trước mắt, đồn địch là cây đàn đáy và như một chiến sĩ, Thuyên xông vào tóm lấy cây đàn "Thuyên hăng hái nhảy tới bên cạnh bàn thờ, tóm lấy cây đàn đáy - Cây đàn va vào vách "Cang!" một tiếng từ đàn đáy vọng ra như tiếng kêu cứu thất thanh của một tội nhân đến giờ hành quyết" (trang 233). Kêu cứu thất thanh cũng vô ích, cây đàn không thoát khỏi định mệnh oan trái của mình. Sau khi bị đập tan tành nó được dùng làm củi nấu nước tắm cho cậu quý tử: "Lửa cháy vù vù dưới thùng nước tắm. Ông Chản đang loạn bước ngoài ngõ, ngoài vườn, xéo nát cả luống rau mới cấy. Tai ông nghe lửa réo và ngửi thấy mùi đàn cháy khen khét như một vật có xương có thịt. Ông thảng thốt nghe rõ tiếng đàn từ trong cháy phi ra. (...) Ông hỏi vợ có nghe tiếng gì không? (trang 234).
Và từ đấy, ông cứ trầm trầm đi tìm lại tiếng đàn, mấy tháng sau ông mất. Bà Chản chọn ngày cúng chồng rồi tìm miếng lụa liệm cỗ phách quý của mình, nó tên là Kim phách. Kim phách cũng có một sử thi lẫy lừng không kém cây đàn đáy của chồng. Bà mai táng Kim phách trong ngôi mộ chôn cạnh bờ ao.
Mộ phách là một trong những truyện ngắn hay nhất mà chúng ta có thể đọc được trong những thập niên gần đây. Tác phẩm ngân lên như một khúc nhạc cổ điển ai oán, não nề, nó là bài điếu văn cho thi ca, cho âm nhạc trong một thời mà nghệ thuật đích thực không còn chỗ đứng. Với Mộ phách, Phùng Cung đã để lại một chứng từ, một âm giai không bao gìờ tắt với thời gian về cái chết bức tử của cây đàn và sự thủ tiết của cỗ phách.
Trăng ngục
Như trên đã nói, hầu hết những truyện ngắn của Phùng Cung đều được viết trước 1960, thời kỳ chưa bị bắt, có lẽ vì vậy mà nhà văn còn giữ thái độ tương đối ôn hoà, ông dùng rất nhiều hình thức ẩn dụ để nói lên bộ mặt thực của đời sống hàng ngày. Tuy vậy, những vấn đề mà Phùng Cung đưa ra, thường có tính cách xoáy sâu vào nền tảng của chế độ cực quyền, mà thực chất dựa trên sự kiểm soát gắt gao mỗi hành động của người công dân. Một mặt khác, tư tưởng của Phùng Cung, không chỉ khoanh vùng trong sự đả phá chế độ chính trị mà còn mở rộng ra nhiều lãnh vực, đặc biệt trong phạm vi chống chiến tranh, đả phá sự kích lệ lòng căm thù, đả phá chính sách tuyên truyền giục giã con người xung trận và đó là điều ông trình bày rất rõ, trong thơ.
Ðiểm khác biệt sâu xa giữa Phùng Cung và phần lớn những thành viên trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm và tất cả các nhà văn nhà thơ miền Bắc có lẽ là ở chỗ ấy.
Bởi hầu như tất cả đều chấp nhận cái lý tưởng chung ở miền Bắc thời ấy là "giải phóng dân tộc", nói đúng hơn là thống nhất đất nước bằng mọi giá xương máu; chỉ có một vài người như Phùng Cung... ở ngoài Bắc và Trịnh Công Sơn... trong Nam, nhìn thấy tính cách bạo tàn của chiến tranh nồi da xáo thịt và họ đã cất tiếng thơ, tiếng hát, hát cho những xác người. Sự phản đối chiến tranh của Trịnh Công Sơn, thời ấy được một nửa nước say mê, tôn thờ. Còn sự phản chiến của Phùng Cung đã bị vùi sâu trong ngục thất, rất có thể là vì nó mà tác giả đã phải trả giá 12 năm tù, hoặc vì những lý do khác, trải dài trong thân thế, "lý lịch" của Phùng Cung.
Nhưng trước khi đi xa hơn, có lẽ chúng ta nên tìm hiểu sâu hơn về thân thế, lý lịch của Phùng Cung.
Phùng Hà Thủ, nay cũng đã qua đời, kể lại trong bài viết "Nhà thơ Phùng Cung" như sau: "Là con trưởng của một gia đình đông con và giàu có. Ngay từ lúc nhỏ, bố tôi đã được cha mẹ gửi trọ học ở Sơn Tây. Ðến khi Nhật đảo chính Pháp mới trở lại quê nhà. Khi cách mạng nổi dậy cướp chính quyền (9-1945), vốn tuổi trẻ, năng nổ lại là người có văn hoá, bố tôi được dân bầu làm chủ tịch liên xã Hồng Châu - Liên Châu năm mới 17 tuổi. Và tên của địa phương do bố tôi đặt vẫn còn giữ cho đến tận bây giờ. Làm chủ tịch được vài năm thì "phá tề", thực dân Pháp quay trở lại càn quyét tái chiếm, bố tôi phải trốn lên chiến khu Việt Bắc và kéo theo mấy em trai còn ít tuổi theo cùng. Tại quê nhà, gia đình họ hàng bố tôi gồm bố, mẹ và các anh chị em khác đều bị liên lụy vì có con trốn đi làm cách mạng.(....)
Trong suốt thời gian tham gia cách mạng, bố tôi ít có điều kiện trở lại quê nhà (...). Một lần nhân dịp tết Nguyên đán, về thăm gia đình, thấy cảnh tượng cửa nhà, ruộng đất bị chia cướp, phá phách. Ông nội tôi rất lo lắng vì gia đình đang sợ bị quy là thành phần đia chủ cường hào. Bố tôi có an ủi động viên ông: "Con đi làm cách mạng, thoát ly đã lâu thì thế nào gia đình mình cũng được chiếu cố. Cùng lắm là nhà nước lấy lại hết ruộng đất chia cho người nghèo hơn, bố cứ yên tâm, đừng lo lắng gì cả, vả lại bố cũng nhiều tuổi rồi". Nhưng thật không ngờ, sau đợt về thăm nhà và trở lại cơ quan được ít lâu, thì bố tôi được tin gia đình bị quy là địa chủ cường hào ngay trong đợt phát động tiếp theo. Thực ra, ông nội tôi là người sống rất phân minh và tốt bụng, rất quý người và không ai trong số họ đứng ra tố cáo ông cụ. Sau khi bị tổ chức đấu tố tại địa phương mất mấy ngày, ông cụ lại tiếp tục bị bắt đưa đi giam ở trại Cò Nỉ - Thái Nguyên.(...) Trong một lần kết hợp đi công tác, bố tôi có tìm lên thăm và những mong gặp mặt để tiếp tế cho cụ. Nhưng tới nơi thì được một người bạn tù già cùng lán với cụ, chưa kịp nói câu nào vội vã dẫn bố lên khu đồi trọc phiá sau trại giam và chỉ cho bố lùm đất mà ngọn sắn làm dấu mới héo lá. Quá bất ngờ trước cái chết của ông cụ, bố tôi quay ngay về Hà nội, rất buồn, suy nghĩ nhiều và tránh tiếp xúc với bên ngoài.
Năm 1956, một nhóm văn nghệ sĩ gồm những người tham gia kháng chiến cũ tập họp nhau đứng ra thành lập báo Nhân Văn và Giai phẩm. Ông Nguyễn Hữa Ðang đến gặp và bảo bố tôi tham gia viết bài. Truyện Con ngựa già của chúa Trịnh đăng trên báo Nhân Văn ngay sau đó." (Phùng Cung truyện và thơ, trang 16- 17).
Như chúng ta đã biết, rồi báo Nhân Văn ra được sáu số thì bị đình bản. Trong thời kỳ này, Phùng Hà Thủ kể tiếp: "Cũng trong thời gian này, bố tôi bị đình chỉ công tác để làm kiểm thảo. Bố tôi ít đến cơ quan và chỉ viết lách ở nhà, (...)
Một buổi sáng như thường lệ, khi mẹ tôi đi làm (lúc đó hai anh em tôi còn nhỏ, chưa đến tuổi đi học), thì ở nhà, căn hộ mà gia đình tôi ở bị công an mang xe ô tô đến vây bắt khám xét. Sau khi khám nhà và tịch thu toàn bộ sách vở, tài liệu, bố tôi bị đưa ngay vào giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà nội). Ðó là tháng 5, 1961. Kể từ ngày đó mãi cho tới thời gian chuẩn bị ký hiệp định Paris, tức là 12 năm sau, bố tôi mới được tha về nhà. Thời gian đầu bố tôi bị giam ở Hỏa lò, sau đó đưa lên Bất Bạt (Sơn Tây), rồi Yên Bình (Yên Bái), Phong quang (Lào cai).
Bố tôi bị bắt và giam giữ nhưng không có án mà gọi là đi tập trung cải tạo(....) Khi bố tôi mới bị giam giữ thì nghe nói thời hạn tập trung là ba năm, sau đó là sáu năm và chín năm hơn cũng chẳng thấy được tha về."(trang 18).
Qua lời chứng của Phùng Hà Thủ, chúng ta được biết, tháng 11 năm 1972, Phùng Cung được tha về cùng với hai người nữa là Ông Vũ Thế Hùng bên công giáo và ông Doãn tỉnh trưởng Vĩnh Yên cũ. Bài viết này làm lộ một số uẩn khúc trong cái án không có án của Phùng Cung và làm sáng tỏ thái độ tư tưởng của Phùng Cung.
Tập thơ Trăng ngục biểu hiệu cho chiều hướng tư tưởng đối lập đầy chất bất khuất, tác phẩm chứa đựng những lời thơ mạnh, khẳng khái, "có chất thép", như những mũi dao nhọn đục thủng màng lưới bủa vây nhà thơ, chọc thủng bức tường tù tội, để lộ diện con người tự do, sẵn sàng chịu trả giá cho hành động và tư tưởng của mình.
Vào đầu là bài Biển cả, làm tại trại biệt giam Bất Bạt năm 61. Nhà thơ ví chế độ cực quyền như biển:
Biển cả khoác triều phục đại dương
Hợm mình - uy nghi đồ sộ
Song đòi phen
Nghiêng ngửa- đáng thương (...)
Hỡi biển cả !
Diện tuy rộng
Nhưng thiếu những giác quan cần thiết
Lòng tuy xanh - sâu
Xanh sâu đầy mặn chát....
Nộ cuồng sóng vỗ
Trống trải bơ vơ
Chiều quả phụ
Bình minh vô vọng phương mờ...
Ôi! Bao yên lặng thanh cao
Ðều chìm
Trong thét gào man rợ...
Ðối diện với một thế quyền vũ bão như thế, con người là gì? Phùng Cung trả lời:
Biển cả mênh mông
Như biển cả
Trước mắt trẻ thơ
Mỗi tinh cầu
Chỉ là chấm nhỏ
Càng tối đen càng nhìn rõ xa xanh.
Lời thơ hào hùng bầy ra trước mắt chúng ta hai thực thể: một bên là cái thế quyền lồng lộng, khoác triều phục đại dương, mênh mông như biển cả, sẵn sàng vùi sâu mọi sinh linh, nhưng trước mắt đứa bé, thế quyền lồng lộng ấy là gì?
-Chẳng là gì cả, nó chỉ là con số không, bởi vì, dưới mắt trẻ thơ: "mỗi tinh cầu chỉ là chấm nhỏ, càng tối đen, càng nhìn rõ xa xanh".
Và đối với người lớn - người lớn ở đây là những con người bất khuất, trải nhiều đau khổ, đã chịu những đè nén nhục nhằn, nhưng không hề quy phục - thì họ làm gì?
Thì nhắm mắt
Thì bưng tai
Nhưng phải đâu khiếp sợ
Chỉ điếc đui vừa đủ
Để làm ngơ.
Giọng thơ hào hùng, phù hợp với tinh thần kẻ sĩ của một thời, thời Nhân Văn Giai Phẩm, nay không còn nữa
Bài Biển cả tung ra trên trang đầu tập thơ Trăng ngục như một thách đố đầy tính cách trí tuệ, gói gọn triết lý tương đối và trung dung của tác giả, đòi hỏi sự hài hoà trong vũ trụ, đòi hỏi quyền sống cho những cái nhỏ, bên cạnh cái lớn, đòi hỏi sự bình đẳng không những về mặt chính trị văn hóa mà cả về thiên nhiên môi trường để cùng nhau hiện hữu.
Vẫn giọng hào hùng ấy, tiếng thơ không dứt được lãng mạn của tình riêng, bài Trăng ngục chỉ có vài câu, nhưng đã tập trung tất cả những tái tê bất hạnh của người tù, tình tù mà chỉ có vầng trăng, chỉ còn vầng trăng, vầng trăng thay áo, vầng trăng là người bạn tri kỷ để nhà thơ tâm sự:
Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh- sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi!
Xa mãi đến bao giờ...
Hình ảnh "trên vai áo tù trăng vá lụa" thật đẹp, thật êm ái, thật tri âm tri kỷ, đó là sự hài hoà giữa cái lớn và cái nhỏ, giữa xa và gần, người và trăng, biển và người như nhà thơ thầm ước, trong bài biển cả, nhưng không thấy biển cả trả lời mà chỉ có vầng trăng đáp lại.
Phản chiến là tư tưởng chủ yếu trong tập Trăng ngục. Phản chiến toàn diện, bất cứ "thể loại chiến tranh" nào. Trong bài Gãi đất Phùng Cung gọi những kẻ chủ trương chiến tranh là bọn:
Lái buôn binh lửa
Ôi! binh lửa triền miên
Tuổi trẻ gái- trai
Bị lôi đi- hết
Dờ dịt sức già gãi đất.
Chiến tranh nào cũng chôn hết những tài hoa anh hùng , chỉ để lại người già ngồi gãi đất.
Bài Thu xa viết nên những lời tâm sự tha thiết của người chinh phụ trong chiến tranh, Thu xa đẹp như một giấc mơ cổ điển của thời nay, với những yếu tố, vần điệu đầy những nét thơ mộng của thời xưa:
Gió vàng đếm lá vàng rơi
Mười hai bến nước
Em ngồi quay xa
Xa quay gấp
Làn tơ vội đứt
Em nhủ lòng
Tơ đứt vì xa
Tơ vương vó ngựa quan hà
Xa in dấu ngựa
Canh gà gọi thu
Quan hà lộng gió chinh phu
Rừng thu tắm máu
Máu thu gội chiều
Tơ vàng nhỏ giọt lệ điều
Đăm đăm tay vẫn chiều chiều quay xa
Xa quay nhẹ
Làn tơ vẫn đứt
Em hỏi lòng
Tơ đứt vì đâu
Sông ngân lỡ bắc nhịp cầu
Mà người trần thế
Mang sầu thiên cung.
Có lẽ trong các thi sĩ Việt Nam, nhất là miền Bắc, chưa ai dám đả động đến "chính nghĩa của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc" như thế. Đó là một "chân lý tuyệt đối", đụng đến khói hương là trở thành "phản quốc", cho nên chưa ai dùng hoặc dám dùng những hình ảnh đẹp và khốc liệt như "Rừng thu tắm máu, máu thu gội chiều", để viết về một mùa thu như thế. Rồi tất cả những chữ khác như quay xa, tại sao nhà thơ lại viết "quay xa" mà không viết quay tơ, bởi vì chữ xa nhập nhoè nhiều ý nghĩa: xa vừa là bánh xe của guồng tơ guồng cửi, xa còn là bánh xe chiến tranh, chiến xa, xa còn là xa lià đứt đọan. Người chinh phụ thời mới này, không chỉ là nạn nhân của chiến tranh, chịu hậu quả của chiến tranh như những người chinh phụ thời xưa, mà chính nàng cũng góp phần vào bộ máy chiến tranh, nàng cũng quay bánh chiến xa, nàng cũng "tắm máu rừng thu" như chồng. Đó là cái nhìn táo bạo và độc đáo của nhà thơ, người đã sáng suốt nhận thức được trách nhiệm mỗi cá nhân trong chiến tranh, nam cũng như nữ. Phùng Cung không chỉ dừng lại ở đấy, để truy lùng thủ phạm chiến tranh, ông còn đi sâu hơn, ông đã đụng đến cả những biểu tượng được tôn sùng nhất:
Cờ máu rợp trời
Lợm gíó!
Tiếng quốc thiều tăng âm
Cực đại thét gào
...."Thề phanh thây uống máu!..."
Ta lùng trong kho nhớ
Nhẩm biên niên sử
Xin hỏi loài người
Có quốc thiều nào man rợ thế không.
Bên cạnh những lời hỏi tội tầy đình như vậy, là những lời thơ trữ tình đẫm lệ, bài Quê hương, đưa ra một hình ảnh đất nước tang thương đầy máu và nước mắt:
Quê hương ơi!
Ðường quan lầy nước mắt
Ðiệu sáo hết du dương
Mây chìm
Gió ngủ (...)
Sông sâu bặt tiếng gọi đò
Chim hãy cùng ta
Gọi cành xanh ngóc dậy
Để một lần
Quê hương thấy lại quê hương
Ráng chiều ngụy tạo bình minh
Lá thuyền tình
Chỉ lênh đênh giữa dòng.
Trên mảnh đất quê hương này, dưới mắt nhà thơ, chiến tranh không chỉ là những tiếng thúc giục giã lên đường, không chỉ là những tiếng hô thắng trận, mà đằng sau tất cả những cờ xí rợp rã đó là bộ mặt kinh hoàng của thần chết:
"Phát lệnh chia bôi...
Ngọn gió giao liên
Gửi tiếng xa gần
Trống phát dẫn
Gia nô thần chết cầm dùi
Dấm dúi vùi nông
Chiều bạc mệnh
Khói hương ơi!
Ðền miếu tan rồi!...
Năm tận tháng cùng
Hòng hõng mong thư tuyến lửa".
Những hình ảnh chết chóc cứ sừng sững và rũ liệt đi vào lòng người đọc như thế. Những cái chết "không trẻ ", "không mới" như hình ảnh "người chết hai lần" của Trịnh Công Sơn (ra đời cùng thời với thơ Phùng Cung, nhưng ở phía Nam). Thơ Phùng cổ điển hơn lời ca của Trịnh, có lẽ vì Phùng lớn tuổi hơn, vì không cùng một hệ suy tưởng, cho nên thơ Phùng đạo đức "gia tiên" hơn nhạc Trịnh. Tuy cùng viết về một nỗi đau, nhưng Bắc Nam giọng điệu có khác, Phùng Cung viết:
Bấm dốt ngón tay (....)
Nhớ người thiên cổ
Cạn máu kho thiêng
Kho thiêng rạn vỡ
Tiếng gia tiên
Thổn thức dưới mồ
Những lúc chim về
Tím lịm chân mây
Ai liều tảo mộ chiều nay
Mà hương tảo mộ bay đầy hoàng hôn.
Và để tạm biệt Phùng Cung, chúng tôi gửi đến các bạn bài thơ Vay tuổi, như một điếu văn những linh hồn trẻ đã mãi mãi nằm xuống, và cũng để khâm liệm tâm hồn những bà mẹ già trong đêm tối bạc đầu vì nhớ thương, hương khói:
Con vừa mười sáu tuổi đời
Nửa đêm vay tuổi lấy người chiến tranh
Ðèn con tiễn đến cổng đình
Quay về hụt bước ngỡ mình chiêm bao
Khe Sanh- Dốc miếu là đâu
Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn
Máu chiều gội đỏ hoàng hôn
Nghiã trang mồ giả, nắm xương không mồ
Ðồng chiều gió tím mấp mô
Nén hương đẹn khói, mấy mùa khóc vay.
Dưới mồ, dường như có tiếng Phùng Cung nhắn lại: thanh niên ơi! Đừng bao giờ chọn giải pháp chiến tranh cho đất nước này.
Thụy Khuê, tháng 3, 2004

PHÙNG CUNG * CON NGỰA GIÀ CỦA CHÚA TRỊNH

CON NGỰA GIÀ CỦA CHÚA TRỊNH
Phung Cung


Phùng Cung

Truyện ngắn này của Phùng Cung đã đăng trong báo Nhân Văn số 4 tháng 10.1956. Vì truyện "Con ngựa già của chúa Trịnh", Phùng Cung bị đình chỉ công tác, bị đem đấu tố trước Hội Văn Học Nghệ Thuật, bị khai trừ khỏi đảng CSVN và sau đó bị bắt giam suốt 12 năm (1960-1972). Cuộc đời và văn nghiệp của Phùng Cung gắn liền với truyện ngắn này.


Phương Lộ là một làng hẻo lánh, nằm lọt trong một thung lũng phía Nam chân núi Tản, cách chợ Đan Lâm chừng bảy dậm. Từ Đan Lâm vào Phương Lộ, trên con đường đất mòn, ngoằn nghèo men theo dọc bờ suối, phải qua một chiếc cầu bằng đà vắt ngang suối, bên cạnh một ngôi đền nhỏ. Trong làng có lão già họ Nông, hai đời chuyên nghề buôn ngựa. Ông cụ sinh ra lão ngày trước là mã phu của triều Trần; khi mãn lính, trở về làng làm nghề buôn ngựa. Năm mười bốn tuổi, lão đã theo cha ra chơ Đan Lâm học nghề. Lớn lên, lão đả nổi tiếng khắp vùng về môn xem tướng ngựa.

Lão Nông có con ngựa trắng, mình kim, lông trắng như bông, lại lấp lánh như có nạm kim cương, nên lão đặt tên nó là Kim Bông. Lão thường khoe con ngựa này lão tìm mua được từ lúc nó chưa phát nha ở tận miền Nước Hai. Lão đã từng đi nhiều nơi mà chưa thấy con nào tướng phách toàn mỹ như nó: có sức vượt hàng nghìn dậm với cái thế "cao đầu phóng vĩ" của nòi ngựa chiến.

Từ khi con Kim Bông bắt yên, ngày ngày lão cưởi nó đi các nơi để buôn ngựa. Hàng năm những cuộc đua ngựa miền này, không cuộc đua nào vắng bóng lão.. Không cuộc đua nào con Kim Bông không đoạt giải nhất. Từ đó tiếng ngựa hay, mỗi ngày truyền rộng ra khắp nơi và lọt đến tai chúa Trịnh.

Thuở ấy chúa Trịnh đang cần tuyển mộ một đoàn kỵ binh để bình định đất nước, nên liền uỷ một viên quan hầu cận, tìm đến tận nơi hỏi mua.

Lão Nông tuy luyến tiếc con Kim Bông, nhưng đến cái tài của nó, lão sẵn sàng trao lại cho viên quan mà rằng: "Con ngựa của bần dân thuộc loài quý mã, là vật nhưng nó hiểu tiếng người. Bây lâu nó sống với bần dân ở nơi sơn lâm hẻo lành này, ăn cỏ núi, uống nước suối, tài nó có mà không được dùng, thật lòng bần dân cũng tiếc đời cho nó lắm! Nay chúa công lại co vời nó về chốn triều đình để dùng nó xông pha chiến trận, bần dân cũng được hả dạ vì đã làm vừa ý con quý mã và cũng bõ công nuôi nấng tập luyện". Lão Nông miệng nó tay trao cương cho viên quan. Con Kim Bông cũng dỏng hai tai gật gật cái đầu như biết mình sắp được từ giã cảnh sơn lâm hiu quạnh, để về vùng vẫy chốn kinh thành.

Trên đường về, viên quan hết lời khen ngợi con quý mã: Kim Bông phi như gió, trả lại đằng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn Tây. Chĩ trong nửa ngày đã về đến Thăng Long.

Viên quan vào tâu với chúa Trịnh, hắn tả lại tướng phách cùng nước bay, nước kiệu của con ngựa. Chúa Trịnh lấy làm toại nguyện, và truyền cho các tướng tá chọn ngày mợ hội đuu đề kén ngựa chiến.

Một buổi sáng, trân các ngả đường, nhân dân các vùng lân lận nghe tin, lũ lượt đỏ về xem như nước chảy. Hàng nghìn ngựa tốt từ các nơi đem về được sắp hàng tề chỉnh bên cạnh những kỵ binh nai nịt gọn gàng. Con Kim Bông ngơ ngày trước quan cảnh mới lạ, lòng nó rộn ràng, mắt nó đam đam nhìn thẳng phía cuối đua trường: như để dương oai với đồng loại,nó nín hơi, tóp bụng, cất tiếng hí dài, lanh lảnh nghe sởn óc. Người kỵ binh đứng bên cạnh, nỗng né sang một bên, lao đoa tưởng ngã. Bọn ngựa trố mắt nhìn Kim Bông và cũng cất tiếng hí theo.

Sau ba hồi trống lệnh, các kỵ binh lên yên, ra roi, bắt đầu rời vạch. Đoàn ngựa lồng lên trong bụi lốc mịt mù, những miếng đất bắn ra tứ phía như mưa rào, nhân dân reo hò vang dậy, Chỉ trong chớp mắt con Kim Bông đã vượt lên hàng đầu, vừa hí, vượt lên, chân trước khoăm lại như móc sắt, đuôi bay như giải phướn, tưởng như chân nó không hề chạm đất. Ở phía xa người ta nhìn nó chỉ còn thấy một bóng trắng lấp lành, oằn lên, oằn xuống như một con rồng trắng uốn khúc. Nó bay tới phía nào là tiếng hò reo phía ấy vang lên không ngớt. Hàng loạt ngựa thấy sức mình không sánh kịp con Kim Bông, bỏ dở cuộc đua, đứng dừng cả lại, hí hí nhìn theo cái bóng trắng nhỏ dần... trong bụi nắng loá của kinh thành. Khi dứa hồi trống, con Kim Bông dừng lại, tai nó ù đi vì tiếng rao hò ca ngợi của xung quanh, nó càng nức lòng, chân nó dậm xuống đất cồm cộp như muốn bay thêm hàng nghìn vòng nữa mới phỉ sức.

Khi tiếng trống lệnh chuyển sang phi nước kiệu, con Kim Bông rời vạch một cái, là bốn chân nó bàm liền trên mặt như guồng nước, tiếng chân vỗ rồn rã như mõ đổ hồi, đuôi trải ra trắng như một dòng nước chảy sối. Nó chạy hết vòng mà trên lưng nó một kỵ binh bưng một bát nước đầy, bát ước không sánh ra ngoài một giọt.

Lúc này nó thấy tất cả trường đua đếu hướng nhìn về nó, trầm trồ ca ngợi tài nó. Nó lại hí lên một tiếng thật dài kiêu hãnh.

Sau cuộc đua này, nó được cả đua trường tặng danh là "Bạch long Thiên lý mã" và chọn làm mẫu mực để luyện tập cho cả đoàn ngựa chiến của triều đình. Cho nên chẳng bao lâu các đồng loại của nó cũng trở thành những chiến mã lành nghề. Và từ đó, nó cùng bầy ngựa chiến xông pha chiến trận, trải nhiều trận vào sinh ra tử. Nó nhớ nhất là trận quần chiến bên bờ sông Gianh. Thế địch mạnh, quân địch đã thắt vòng quanh nó, nhiều đồng loại đã phơi thây. Nó gắng hết sức mạnh, vùng lên như hổ đói, phá vở vòng vây, hạ thủ tướng địch, giành toàn thắng. Sau trận này, nó được chúa Trịnh chọn làm mã lệnh và được vào ở trong phủ Chúa.

Chúa Trịnh truyền cho quân lính xây một chiếc hộ bán nguyệt, phía Nam vường Thượng Uyển, để làm chỗ tắm cho mã lệnh, và cử hai mươi mã phu ngày ngày trâong nom săn sóc ngựa quý của Chúa.

Lần đầu con "Thiên Lý" đặt chân tới Hoàng cung. Trước mặt nó toàn những lâu đài nguy nga tráng lệ, trông phía nào cũng thấy vàng son chói lọi. Dưới chân nó toàn là những đá xanh nhẵn bóng. Những cảnh vật mới khiến nó sợ hãi. Nó toát mồ hôi, run lên cầm cập, khi đật chân lên những phiến đá hoa, được dịp đưa mắt nhìn hai hàng thị vệ tả hữu, đứng cắp gươm trần bêb hàng lang. Nó rụt rè, co cổ lại khi mã phu giắt nó vào mã đài, nó tưởng mã phu đưa nhầm nó vào nơi ở của một tướng lĩnh.

Con Thiên lý được vào ngự hẳn trong mã đài ngày ngày chỉ ăn và tắm. Mỗi buổi chiều nó phải đứêng một chỗ để dăm bảy mã phu mang kéo tỉa từng sơi mao, vuốt ve từng chiếc lông đuôi. Nó càng cảm thấy bận bịu, tù cẳng. Nó bắt đầu mơ ước cảnh sống ki còn bên ngoài cung cấm: "Ôi chao! Còn đâu những buổi sáng cùng đồng loại trên đua trường hàng vạn người ca ngợi tài ba? Vời cái sức khoẻ bay hàng nghìn dậm, với cái thế "cao đầu phòng vĩ" hùng dũng như ta, đã bao phen xông pha trận tuyến, đời ta tù túng như thế này thì ta sống sao được? Sao Chúa không cho ta được đem tài ra vùng vẫy trên chiến trường? Hay Chúa đã quên tqa là kẻ có tài?"

Một buổi sáng, nó đang đứng trong Mã đài, hai con mắt đăm đăm vọng ra ngoài bức thành cao ngất, nó bỗng thấy một mã phu nai nịt gọn ghẽ, khác ngày thường, đến giắt nó ra đứng dưới mái hiên, phải tả hành lang. Một mã phu khác trải trên lên nó một tấm gấn điều, xung quanh có thêu kim tuyến. Nó ngoái cổ lại, bỗng thấy mình đẹp như phượng hoàng. Hai mã phu nữa mang đến đằng sau nó một vật gì vuông vắn giống như một cái nhà lầu, gấm vóc xanh đỏ phủ quanh. Một mã phu nữa mang cương đóng vào gáy nó. Bộ cương quý giá và đẹp đẽ làm sao! Đời nó chưa tùng nhìn thấy. Hàm thiếc bằng bạc; hai cái đầu nạm vàng sáng loé. Nó sung sướng gục deầu xuống nhạp hàm thiếc một cách ngoan ngoãn. Khi mã pu buông tay; lạ lùng lắm, nó thấy vật gì to bằng cái lá đa che ngang hai bên mắt, khiên nó có thể nhìn phía trước mà thôi. Rồi một mã phu đẩy nó lùi lại, đứng giữa hai càng gỗ sơn son thếp vàng. Ua lạ quá chừng, những cái mà đẹp thế này? Ta sẽ làm gì đây? Nó rùng mình, thấy hãnh diện như được sống một kiếp sống khác, sung sướng hơn trước.

Bỗng dưng hai càng gỗ dúi mạnh một cái, cổ nó bệt xuống, miệng nó gần chạm đất, nó vừa ngóc được lên thì giây cương đã ghìm thẳng. Nó cất bước thấy nặng; cái nặng quái gở, như bóp nghẹt lấy cổ, có lúc bồng bềnh nhẹ đi một chút nhưng rồi gáy nó càng như lún xuống. Nó phải cố lấy gân bốn vó mới giữ được cái thế đứng đường bệ. Rồi có một ngọn roi da quất nhẹ vào mông, nó cắm cổ đi. Khi nghe tiếng bánh xe nghiền trên mặt đá, nó mới biết là đang kéo xe cho Chúa.

Nó gục đầu xuống, lủi thủi kéo chiếc xe qua sân, mỏi mệt, chán ngán.

Nhưng chằng bao lâu, những chậu thóc trộn mặt vừa ngọt vừa bùi, những bó lá trúc quân tử vừa thơm vừa dòn sậm sựt đã cùng những buồn tủi sầu muộn, cùng những ước mơ trôi qua ruột, tống ra ngoài tả lại cho quá khứ. Con Thiên lý dần dần quen với chức vụ. Nó thấy mình phải phò Chúa cho đến hơi thở cuối cùng mới xứng danh Thiên lý mã.

Trong những buổi chầu nó thấy hàng trăm đôi hia, ủng và các loại ống quần, tà áo, văn có, võ có, lướt đi lướt lại trước mắt, nó càng thấy chức vị to tát ghê gớm! Chốn thâm nghiêm cung cầm nào mà chân nó không bước tới? Có việc quốc sự của triều đình nào vắng mặt nó? Nó đi đến đâu cũng thấy người chấp tay khấu đầu tung hô Van tuế. Đời nó quả là đã sang một bước đường hiển hách, hơn tất cả những lúc oai phong chiếm giải đầu trên các trường đua.

Một buổi chiều, trên cồng thành đã nổi trống thu không, mặt trời đã khuất hẳn mái lầu tây, mặt hồ đã gợn lên một mầu đỏ nhạt của giáng chiều, nó sung sướng kéo Chúa cùng bà Phi đi ngoạn cảnh. Đi chẳng cần đến đâu, nó được đôi lúc thong dong đứng lại, soi bóng xuống nước. Chà! Mắt nhìn mặt, ta uy nghi lộng lẫy đến thế này ư? Kìa hai lá đa chê mặt ta có khác gì hai cánh mũ của vị đại thần? Hai càng gỗ khác gì tay ngai ngày ngày Chúa vẫn ngự! Phải chăng trời đã an bài cho số phận ta! Nó càng nhìn càng thấy bóng nó dưới nước to ra, to mãi, uy nghi trong sắc ước lẫn sắc trời.

Nó đang say sưa ngắm bỗng giây cương lại giật mạnh. Mép nó căng thẳng ra, nó lại bắt đầu cất bước. Xe tới vường thượng uyển có lệnh dừng lại. Tức thì hai bên tay ngai dìm mạnh cổ nó xuống rồi lại bồng lên nhẹ bỗng. Nó vừa ngóc đầu lên thì một luồng gió mát, lướt đưa vào lỗ mũi nó những hương thơm ngào ngạt của muôn hoa. Nó phồng hai cánh mũi, hớn mặt lên thì gấu xiêm mài thiên thanh của bà Phi phất nhẹ qua mặt nó. Nó cảm thấy một vị thơm đầm đậm. Nó đưa mắt nhìn theo chỉ thấy từ ngang lưng trở xuống của Chúa và bà Phi. Giò lồng vào vạt áo Chúa và bà Phi, lảm căng phồng lên và đú đởn múa ngay trước mặt nó. Nó cẩm động, đứng ngẩn ra, hai mặt dương thao láo: "Chà! Thật là ngoạn mục! Ôi! Trời đã ban cho ta đôi nhãn ngọc để riêng ta được nhìn những vưu vật của trần gian, ta đội ơn Trời."

Càng nhìn theo càng thấy ngoạn mục, nó càng thấy hối hận với những sự việc ngày trước. Nó dậm chân xuống đất cộp cộp, mắt nó nhắm lại, đầu nó đập vào hai càng xe như để nhận lấy một hình phạt xứng đáng với tội lỗi của mình. Vừa đập đầu vừa kể tội: "Tội thứ nhất là khi chưa vào phủ Chúa, ta đã để cho Chúa và bà Phi phải vất vả khó nhọc biết chừng nào! Tội thứ hai: Sao ta dám đem một việc nhỏ bé tầm thường so sánh với chức mã lệnh đáng tôn kính của Chúa đã ban cho, như thế chẳng phải trước đây ta đã phụ ơn Chúa hay sao? Tội ta thật đáng phanh thây mới phải. Nếu ta chỉ nghĩ cuộc đời phóng khoáng, chỉ nghĩ đến cùng đồng loại đua tranh, thì lấy ai để cùng Chúa gánh vác giang sơn, làm cho trăm họ được an cư lạc nghiệp! Ơn hưởng lội Chúa, sức ta ngày một cường tráng, thì cái vược ngàn dậm đối với ta có gì đáng kể".

Sống cuộc đời lặng lẽ trong phủ Chúa, bằng sự kiêu hãnh với chức mã lệnh, chẳng bao lâu trên bờm, mao con Thiên lý đã trồi lên một lớp lông vàng soè. Trước mã đài, nò đã nhìn thấy những cây cảnh bao lần đổi lá. Nhưng nó không biết đòi nò đã chuyển dần về già. Tài nó cũng đã mòn mỏi. Nó vẫn tưởng nó còn sức chạy dư ngàn dậm.
Có một buổi sáng. nó được kéo xe để Chúa và bà Phi ra ngoạn cảnh ngoại thành. Từ ngày vào phủ Chúa, lần đầu nó được đi ra ngoài. Nó ước ao được thăm cảnh cũ. Xe ra khỏi phủ Chúa, bon bon trên con đường đất rộng thênh thang. Nhìn thẳng phía trước, nó lấy làm lạ, nó kêu í í trong cổ như tự hỏi: "Làm sao con đường này ngày xưa rộng mà nay nhỏ bé như thế này!" Đi được một quãng nó nhìn lên phía trên, lại đứng lại tự hỏi: "Ô hay, ngôi chùa kia, ngày xưa rõ ràng nằm bên cạnh một quả đồi lớn, mà bây giờ quả đồi lại nhỏ bằng con đường ta đi là nghĩa làm sao?" Tất cả những cảnh vật trước mắt nò đếu nhỏ lại, và thẳng tắp. Nó nhìn cánh động, cánh đồng cũng chỉ là một đường thẳng. Rồi cây cỏ, núi đồi cho đến màu trời xanh cũng chỉ lại là một đường thẳng. Nó không ngờ hai chiếc lá đa che hai bên mắt chỉ cho nó nhìn được một chiều.

... Xe đi mãi. Lúc gần đến một thao trường, nó bỗng nghe tiếng hí của đổng loại. Tự dưng nó hớn hở: "Chắc các chú em bao lâu không gặp ta, sẽ khầu đầu chúc tụng". Vừa nghĩ nó vừa cất nhanh bước. Xe vừa tới thì đồng loại nó cũng nhảy bổ cả đến trước mặt nó, miệng hí chân cất tiền, cất hậu, như chê bai nước đi và tướng mạo của nó. Nó tím gan, hí lên một tiếng như để quở mắng: "Bọn nhãi kia, tội các chú đắng chắt đầu làm lệnh! Các chú không ta là ai êu? Đã quên tài của anh rồi sao?" Tất cả đồng loại nó, nhe cả răng, và lại í í trong cổ: "Chúng tôi biết bác lắm,biết bác ngày xưa là kẻ có tài nhưng bây giờ chúng em nhìn qua đã thấy bật cười về tài của bác. Thôi bác ạ! Đừng khoe tài nữa, chúng em đây ngại bác không rời được khỏi cái xe của Chúa! Rời ra thì thóc kia trộn mật ai ăn?"

Con Thiên lý uất lên, muốn thoát khỏi xe xông thẳng ra ngoài để tỷ sức, nhưng trên xe lạơi dật cương. Nó bực lắm nhưng cũng phải cắm đầu đi. Vừa đi vừa nghĩ: "Những kẻ ngu si hèn mạt kia, ở đời này bây chỉ nhìn có một chiều. Bây không biết được ta làm đây dễ mấy kẻ làm được! Sức bây được mấy nả mà vội kiêu ngạo, bây chạy được vài dậm đã phồ mao sều dãi! Rồi đây ta sẽ cho bây biết tài ba!"

Và hình ảnh trường đua gió lộng, bụi cuốn, cờ bay, bỗng hiện ra, như thách thức. Con Thiên lý mã vẫn tin mình còn đủ sức phi lên hàng đầu.

Sự đời biến đổi. Sau đó ít lâu, chúa Trịnh được tin nhiều tướng tá thua trận ở bờ sông Gianh. Chúa định thân chinh đi, nên truyền cho viên tướng trông coi về kỵ binh mang mã lệnh ra đua trường để ôn dượt trước khi xung trận. Viên tường liền cúi đầu tâu lại:

"Muôn tâu Chúa công, hiện nay trong triều đình thiếu gì ngựa chiến có dư sức vược hàng nghìn dậm, và đã từng trên dưới trăm trận. Xin Chúa công để tiểu tướng được chọn dâng một con mã chiến có sức khoẻ vào bực nhất. Còn như con mã lệnh, cứ nên để nó kéo xe; vì từ khi đem nó váo phủ Chúa, nó ăn thì nhiều, lại không hề luyện tập, tài nó ắt không được như trước. Nếu Chúa công dùng mã lệnh để ra trận, tiểu tướng áy náy lắm!"

Nghe tâu trình, chúa Trịnh cũng thấy viên tướng là có lý, nhưng Chúa vẫn tin ở tài con mã lệnh. Chúa bèn hạ lệnh cho mang con mã lệnh ra tỉ sức củng các chiến mã khác để t iện bề kén chọn.

Con Thiên lý được dịp rời phủ Chúa ra đua trường. Hai cá lá đa đã được cất đi. Nó bàng hoàng nhìn giời, nhìn đất, mắt nó hoa hoa, đầu nó choáng váng. Cảnh vật như quay chong chóng, cây như mọc ngược, núi nư đổ xuống. Vừa gặp đồng loại một cái, nó cố dóng hai tai tóp bụng lại lấy hơi hí một tiếng để dương oai. Nhưng tiếng hí của nó vừa hé ra thì cụt lủn như có vật gì nút lấy mõm. Các đồng loại của nó nhe răng ra cười rồi cùng cất tiếng hí làm cho nó càng uất. Không chờ tiếng trống lệnh, nó đã lồng lên, tức thì các đồng loại của nó cũng bỏ vạch rượt theo. Tiếng trống liên hồi, con Thiên lý càng cắm đầu chạy. Nó tưởng mình thắng cuộc, nó đắc chí ngoảy đầu lại thì bọn ngựa chiến đã tới sát đằng sau. Chĩ trong chớp mắt nó bị tụt lại. Không chịu, nó càng lồng lên. Bỗng nó thấy nhói một cái ở ngang bụng như bị một nhát gươm chém mạnh nó ngã vật xuống, vùi đầu trong bụi lốc của đàn bay qua, nó biết là đứt ruột, không thể sống được. Nó gắng mở to hai mắt, rên lên một tiếng nói rằng:

"Tiếng tăm lửng lẫy của ta chỉ có thể chết ở chiến trường. Nhưng than ôi! Bãi cỏ này cũng là bãi chiến trường, chết như thế này cũng chế vì giang sơn, vì Chúa!"

Trước hơi thở cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngóc đầu lên cao, co co hai chân trước, thẳng thẳng hai chân sau, chừng như cố để giữ lấy cái thế "cao đầu phóng vĩ".q


Hà Nội 10.1956

Phùng Cung


NGUYỄN MẠNH TRINH * PHÙNG CUNG

 Biểu tượng Ngựa-Người trong văn chương thời thế
Saturday, October 08, 2005 

 Nguyễn Mạnh Trinh

Nhà văn Xuân Vũ đã có một hình ảnh ví von hết sức đặc biệt. Ông ví thân phận những người nghệ sĩ sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa như những con ngựa kéo xe. Mắt thì bị che kín chỉ để nhìn duy nhất một hướng theo tay cương điều khiển của người mã phu. Và đằng trước là nhành cỏ non treo phơ phất, gần nhưng không bao giờ đụng đến được. Cái đích đến của chú ngựa là chồm lên về phía trước để làm sao đạt được nhành cỏ non hấp dẫn trước mũi. Và cứ thế mà lao tới đằng trước kéo theo cỗ xe nặng nề. Người mã phu đã dùng cái mồi treo cỏ non thơm hương để khuyến dụ chú ngựa kéo đi theo chỉ dẫn cũng y hệt như những “lãnh đạo” của Đảng đã o ép văn nghệ sĩ bằng những đề cương văn hóa và những biện pháp lúc nhu, lúc cương thay đổi tùy lúc, tùy thời.

Xuân Vũ nay đã quá cố, là một nhà văn Nam Bộ đã tập kết ra Bắc, sau vào Nam đi B., và hồi chánh khi có dịp vì hiểu quá rõ sách lược và thủ đoạn của Đảng đối với trí thức và văn nghệ sĩ. Với chủ trương văn nghệ phục vụ chính trị, văn chương miền Bắc trở thành một khối thuần nhất, chữ nghĩa thành khẩu hiệu và văn nghệ sĩ chỉ là công cụ không hơn không kém. Với am hiểu của một người đã sống qua từ thời Nhân Văn Giai Phẩm, đã sinh hoạt lâu năm trong ngành văn nghệ và trải qua bao nhiêu biến cố trong đời, cái ví von ấy của Xuân Vũ lột tả được một phần nào cái thân phận của trí thức trong nền văn học được mệnh danh là “hiện thực xã hội chủ nghĩa.”

Khi Nguyễn Văn Linh lên làm Tổng Bí Thư của Đảng, rộ lên một phong trào đổi mới trong sinh hoạt của cả nước. Trên bình diện văn học, nhiều nhà văn đã nhân cơ hội để nói lên những điều muốn nói nhưng hồi trước không dám. Phê phán, đụng chạm tới những chuyện mà trước đây bị coi là có “vấn đề”, một thời văn học đã có những tác phẩm nói lên được cái khao khát tự do sáng tác của người cầm bút. Họ không muốn bị như những con ngựa kéo xe lao vào đằng trước theo một mục đích không tưởng của người cầm cương. Có một bài thơ của Bùi Chí Vinh đăng ở báo chí trong nước sau được trích đăng trong tạp chí Hợp Lưu số 11 năm 1993. Không phải là những ví von ẩn dụ nữa mà là những ngôn ngữ tả thực, thẳng băng, ai đọc cũng hiểu: Bài thơ “Ngựa-Anh”:

“Tụi nó cưỡi lên anh làm ngựa

Khiến lưng anh trổ lông

Và gáy mọc ra bờm

Anh vừa hí

Vừa vặn mình nôn mửa

Một đống lạ lùng nửa áo, nửa cơm

Tụi nó lại treo trước mặt anh

Một giỏ hoa thơm

Có mùi văn chương, có hương nghệ thuật

Anh nghiến răng nhai vội cuống cuồng

Đến khi ợ mới biết mồm tàn tật

Tụi nó lại bắt anh ăn tươi sự thật

Nên nước mắt em đã đông đặc thành chuông

Anh cố sải dù bốn chân cà nhắc

Để thấy rằng mình còn một quê hương.”

Đọc xong bài thơ, lại thấy giống y như ý tưởng của nhà văn Xuân Vũ. Chữ “tụi nó” là ai, là chú mã phu cầm cương, là “lãnh đạo” văn hóa Đảng? Và “mình” là ai, có phải những văn nghệ sĩ tự nhiên lưng trổ lông và gáy mọc ra bờm? Những vật vã bi thảm của những người biết mình làm những việc không phải nhưng vẫn tự nguyện làm để thỏa mãn chút áo cơm...

Trước đó, thời Nhân Văn Giai Phẩm, cũng có một người vì dùng ẩn dụ ngựa-người mà bị truy diệt và tù tội suốt chục năm trời. Đó là nhà văn Phùng Cung và “Con Ngựa Già của Chúa Trịnh”. Truyện ngắn này đăng trong Nhân Văn Giai Phẩm số 4, tháng 10, năm 1956, đã gây chấn động trong dư luận và sau đó là cả một chuỗi đầy ải tù tội với Phùng Cung cho đến lúc ông nhắm mắt. Trong “Cát Bụi Chân Ai” , Tô Hoài viết lên một sự thực dù trong cách nói tỏ ra ít thiện cảm với tác giả “Con Ngựa Già của Chúa Trịnh”:

“...Phùng Cung hỏi tôi:

- Anh biết tôi phải tù bao nhiêu năm?

- Không biết.

- Vâng, tù biệt giam mười một năm.

Đã tù lại biệt giam lại bệnh lao, thế mà không chết rũ tù. Thế nào, người tù biệt giam mười một năm vẫn hiện được về. Lại lâu lắm không gặp gỡ. Ngỡ như Phùng Cung đã làm sao. Nhưng, một hôm có người ở sở Công An đến nhờ tôi ký chứng nhận quãng công tác ở cơ quan sau cùng Phùng Cung làm việc trước khi phải tù.

Tôi hỏi người công an trẻ tuổi cầm giấy:

- Chứng nhận để làm gì?

- Có liên tục công tác mới đủ năm cầm sổ hưu. Thủ tục ạ.

- Liên tục cả ở cơ quan nhà tù? Anh công an cười hồn nhiên, chào, “cảm ơn bác.”

Đọc đến đoạn này, tôi mới thấy được cái hay và hơi mỉa mai của từ ngữ “hồn nhiên”. Cái “hồn nhiên” chết người, của một sự thực khó tưởng tượng nổi nhưng lại tiếp diễn hàng ngày đến thành bình thường. Tự nhiên tôi lại nhớ đến câu trả lời cũng rất “hồn nhiên” của một nhà trí thức “xã hội chủ nghĩa” Hoàng Ngọc Hiến khi trả lời Talawas “cái nước mình nó thế, buồn cười lắm!” Bao nhiêu chuyện kỳ quặc lạ đời, bao nhiêu oan khuất chập chùng, bao nhiêu bất công, bao nhiêu áp bức, rốt lại cũng thành quen thuộc. Và trong xã hội ấy, lẽ phải cũng như công đạo chẳng còn giá trị... Người ta tranh nhau sống, làm mọi chuyện, dù có tồi tệ thế nào chăng nữa để sống còn.

Cũng trong “Cát Bụi Chân Ai”, Tô Hoài viết “...Đọc truyện ngắn Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh đăng trên báo của Nhân Văn tôi cũng gật gù đại khái ‘thằng này viết được’. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm cháo đấy, con ạ.” Cũng điếu đóm tập tành như mình ngày xưa, đâu đã mà có sừng có mỏ ngay.

Phùng Cung bị bắt khi “nhân văn nhân võ” đã được dọn dẹp êm ắng, đã tàn. Nghe nói Phùng Cung hay chén chú chén anh với đám Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, được phong chức “tay truyện ngắn nhất Đông Dương.” Chắc là ở chiếu la đà với nhau ăn nói cũng ganh nhau, ngổ ngáo, bạt mạng. Đương viết tập Dạ Ký nghe đồn là tài lắm, dữ lắm.

Một người bị oan ức như Phùng Cung mà lại bị một cây viết thuộc loại cổ thụ bỉ thử như thế thì người đọc tìm ở đâu cái nhân ái, cái đẹp đẽ của văn chương. Cũng như, Tô Hoài đã đề cập đến những Hiếu Chân, Doãn Quốc Sỹ, Phan Nhật Nam,... của Văn Học miền Nam bằng những hằn học, bỉ thử tương tự. Kẻ sĩ mà đối xử với nhau như kẻ thù sao? Tô Hoài, là một người khôn khéo và theo cái lối viết phải đạo, gió chiều nào xoay chiều ấy để được cái bả vinh hoa. Và, cái lối viết của ông cũng chập chờn bên này, bên kia, lúc cảnh tỉnh, lúc mê muội... Y hệt như cái chính sách của Đảng về văn hóa mà Hoàng Ngọc Hiến đã đề cập đến khi trả lời một câu hỏi của Talawas:

“HNH: Chiến lược của nhà nước này, nhất là trong văn hóa văn nghệ là chập chờn khi thế này, khi thế kia, khi đóng, khi mở. Cái chập chờn này theo tôi có cái lý của nó, thứ nhất nó vẫn phải đáp ứng đòi hỏi phát triển, cấp tiến của thời đại, mà lại là thời đại thông tin, nhưng nó cũng phải làm khác đi để đáp ứng giới bảo thủ, tuyên huấn tỉnh chẳng hạn, họ có thể gửi thẳng kiến nghị lên Bộ Chính Trị, rồi còn tuyên huấn công an, A25,... Thế nên chỉ còn cách chập chờn.”

Và, nhà văn cứ chập chà chập chờn, lăng ba vi bộ trong đầu óc lúc nào cũng gườm gườm đôi mắt công an theo dõi. Và, cứ chơi trò đu dây ba phải là tốt nhất. Bởi làm gì có điều gì minh bạch rõ ràng để làm chỉ nam. Trong chế độ Cộng sản, có điều lúc trước được xem là chân lý thì lúc sau lại trở thành nhớm nhuốc, bẩn thỉu cần diệt trừ. Nhà văn trở thành những người đi câu danh câu lợi bằng tim óc chữ nghĩa của mình. Hoặc bình thường hơn, làm một nhà văn tầm thường không sáng tạo, không dám vượt qua cái chung được cho phép, được ấn định... Vì, khai phá làm sao được như chú ngựa bị che mắt hai bên chỉ còn một hướng độc nhất...

Truyện ngắn Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh là một truyện về con tuấn mã đã có một thời tung hoành trăm trận, một loại thiên lý thần câu dũng mãnh trở thành một con “mã lệnh” kéo xe cho chúa ngự đỏm dáng tầm thường. Cái bả vinh hoa hưởng thụ, của lọng tía yên vàng cương ngọc, của thóc ngon tẩm mật đã làm hư hỏng cả về tâm hồn lẫn thể xác để đến nỗi khi trở lại chiến trường xưa con chiến mã ngày nào đã thành một thứ bị thịt vô dụng. Truyện của loài vật mà sao mang mang phảng phất những suy tưởng nào đến nỗi trong lời kết tội tác giả đã cho rằng ám chỉ đến lãnh tụ này, đến hình tướng kia của Đảng. Hậu quả tàn khốc đã đến với nhà văn, ngục tù đầy ải vùi dập cả một đời.

Một truyện ngắn khác của Phùng Cung, mà tôi đọc và tự nhiên thấy như lạc vào một thế giới nào chỉ toàn đêm đen và bóng tối. Tuyệt nhiên không có một chút ánh sáng nào của mặt trời. Đọc “Dạ Ký”, cũng có những nhân vật thực ngoài đời, cũng có những nét sống thực nhưng cũng pha lẫn những hư cấu của những mênh mang bất định, của những u uất phải dồn nén trong tâm không thố lộ được. Dạ Ký, thiên truyện ngắn mà Tô Hoài đã nhắc đến, về cái cõi sống nửa thực, nửa mơ của những người đang sống mà tha hóa dần vào cõi chết. Cũng có những tên tuổi thật những Hoàng Cầm, Lê Đạt, Tô Hoài, Tử Phác, Nguyễn Huy Tưởng,... của văn chương thật nhưng cũng có những nhân vật khác chỉ là một mệnh danh, có những tính chất chung cho một thời đại mà chân lý và nhân đạo chẳng có giá trị gì và văn chương chỉ là cái bánh vẽ không thực nhưng vẫn làm nhiều người thèm khát. Từ những hư cấu, câu chuyện kể mang những ám ảnh của ác mộng và đời thường trộn lẫn nhau, của hư thực không phân biệt. Trong môi trường ấy, con người bị lôi cuốn vào một đêm đen thăm thẳm và khôn cùng. Của một cõi âm dằng dặc mù mịt đầy sương khói và bóng tối...

Làm nhà văn trung thực nên Phùng Cung đã bị búa rìu chế độ trừng phạt. Theo lời của người con là Phùng Hà Phủ kể lại, những hồi ức đau xót của một người nghiêng vai chịu làm thánh giá cho đời...

“...Nhớ lại theo bố tôi kể “khi xảy ra chuyện” buổi sáng đó bố tôi được triệu tập tới cơ quan để họp. Đến nơi thấy mọi người chung quanh đều có ý lảng tránh mình, thậm chí không dám mời nhau uống chén nước. Ngay cả những người bạn rất thân và thường lui tới nhà cũng tìm cách lánh mặt. Ngay sau đó bố tôi bị đem ra kiểm điểm trước cuộc họp mà thực chất gần như một buổi đấu tố thời “cải cách” của Liên hiệp Hội văn học nghệ thuật (gồm cả đại diện bên văn nghệ quân đội). Chủ trì cuộc đấu tố gồm ông Võ Hồng Cương, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh,... Cảm tưởng đau xót và ngỡ ngàng nhất đối với bố tôi là những bạn thường ngày chơi thân với bố tôi như vậy đều tham gia vào việc đấu tố. Ngày hôm đó ông Trần Dần là người đứng lên “tố” để hai ông Lê Đạt và Hoàng Cầm làm chứng dối. Tội chính mà bố tôi bị tố là mang lòng hận thù cách mạng sau cái chết của bố mình. Lôi kéo người khác cùng về hùa để lăng mạ lãnh đạo và còn viết nhiều chuyện chưa in khác - tất cả nội dung đều tập trung vào lãnh tụ và Đảng Cộng Sản như: Dạ Ký, Chiếc Mũ Lông, Quản Thổi, Kép Nghế,... Việc bố tôi bị bắt sau đó là do tham gia làm báo Nhân Văn nhưng theo mẹ tôi thì còn nhiều lý do khác nữa...”

Với những lãnh tụ Đảng, Phùng Cung là kẻ tử thù vì đã “tạc tượng” họ một cách tài tình để cho sau này hậu thế nhìn vào soi chung. Như Tố Hữu được mô tả:

Tội nghiệp nhà thơ

Bơ vơ một nẻo

Hết móc ruột moi gan

Lại réo tên chỉ mặt

Bởi không biết sống

Nên không biết chết

Nửa thế kỷ

Bị lưu đầy

Trong cõi tung hô

Thơ Phùng Cung về sau như tập “Xem Đêm” và “Trăng Ngục” là những thiên bi ký nhục nhằn thống hận của một người sinh lầm thời đại. Một thời đại của những tên “tụi mặt dầy, tay bẩn. Tim rắn, lời cừu. Văn hóa lớp hai. Điều hành cuộc sống.”

Thơ và trăng, ngục tối và bao la cõi rộng, chỉ là một của một người luôn tự nhủ mình phải đứng dậy kiên trì trong cái nỗ lực đi tìm nét đẹp của cuộc đời:

“Trăng qua song sắt

Trăng thăm ngục

Bỗng ta chợt tỉnh, sững sờ

Trên vai áo tù

Trăng vá lụa

Ngày xưa ơi! Xa mãi đến bao giờ...”

Ngựa-Người. Người-Ngựa. Có một liên hệ nào để một thi sĩ miền Nam nào tôi không nhớ tên đã viết:

Ngựa trận ơi ngựa trận

Trùng vây ơi trùng vây

Tiếng hí sao thảm thiết

Lồng lộng mấy từng mây

Từng tung hoành ngang dọc

Trăng sao dưới gót giày

Bây giờ trong cõi chật

Thân phận kẻ lưu đày

Ngựa trận ơi ngựa trận

Trùng vây ơi trùng vây

Anh hùng không biết khóc

Sao se lòng heo may?




THỤY KHUÊ * PHÙNG CUNG *THƠ CHỐNG TÙ NGỤC

Phần XIV: Phùng Cung - Chương 3: Đường Lâm thi chí, một nền thơ chống chiến tranh và tù ngục

Bìa tập thơ Trăng Ngục của Phùng Cung
Bìa tập thơ Trăng Ngục của Phùng Cung

Thụy Khuê
Phùng Cung là nhà thơ đầu tiên dùng những hình ảnh khốc liệt như "Rừng thu tắm máu, máu thu gội chiều" để viết về Cách mạng mùa thu. Tập thơ Trăng ngục biểu hiệu những tư tưởng đối lập khác lạ, đầy bất khuất. Tác phẩm chứa đựng những lời thơ khẳng khái, đanh thép, chống lại toàn bộ hệ tinh thần yêu nước chủ chiến. Phùng Cung coi chiến tranh (chống Pháp và chiến tranh Nam-Bắc) phát xuất từ căn bệnh nan y của dân tộc: bệnh hiếu chiến và nhà thơ hỏi tội quốc ca: Ta lùng trong kho nhớ-Nhẩm biên niên sử-Xin hỏi loài người-Có quốc thiều nào man rợ thế không?

Quan niệm phản chiến trong thơ Phùng Cung  
Hầu như tất cả văn nghệ sĩ đều đứng lên ủng hộ phong trào toàn quốc kháng chiến. Sự quyết chí đánh Pháp trong toàn khối dân tộc, không chỉ xuất phát từ một lịch sử nghìn năm bị đô hộ, mà còn do nền giáo dục, luôn đề cao tinh thần chống ngoại xâm, coi nhẹ các giải pháp hoà bình. Những chủ trương hoà hoãn với người Pháp, để nâng cao trình độ văn hoá và dân chủ của người dân trước đã, của Phan Châu Trinh, Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh, Nguyễn Tường Long... đều không phát triển được, đôi khi còn bị đánh giá sai lầm, bị buộc tội phản quốc. Tóm lại tinh thần người Việt luôn được chuẩn bị cho một thái độ chủ chiến.

Những người trong NVGP đều tham gia kháng chiến, nhưng sau chiến tranh, họ đã có những suy nghĩ khác:
- Ở Văn Cao, là niềm hăng say tuyệt đối ban đầu: vào đội trừ gian, sáng tác bài quốc ca nẩy lửa. Sau khi hoà bình lập lại, ông không còn sáng tác ca khúc nữa.
- Ở Hoàng Cầm, chiến thắng chỉ là giấc mộng, kể cả trong giai đoạn sôi nổi nhất của Đêm liên hoan.
- Ở Lê Đạt, là hình ảnh hãi hùng tiêu thổ kháng chiến, là tội lỗi của kẻ đốt quê hương. Tâm tư Lê Đạt sau này thấy lại ở Phan Nhật Nam trong trận chiến Nam-Bắc.
- Ở Trần Dần là bản hùng ca lụa Việt Bắc mà đói khát và bệnh tật phủ lên xác anh hùng.
- Ở Quang Dũng là hình ảnh hãi hùng của đoàn quân không mọc tóc.
Tất cả các thi sĩ trên đây đều thấy hậu quả của chiến tranh, và rút ra bài học của mình.

Phùng Cung có một hướng đi khác hẳn: ông không nhìn hậu quả của chiến tranh để hối hận như các bạn. Ông cũng không đổ trách nhiệm trên đầu kẻ thù như phần đông người khác. Phùng Cung coi chiến tranh (chống Pháp và chiến tranh Nam-Bắc) đều phát xuất từ một căn bệnh của dân tộc: bệnh hiếu chiến. Chứng nan y này đã thấm vào máu, khó có thể chữa được. Ở điểm này, Phùng Cung đối lập với Văn Cao trong quan niệm yêu nước. Và Phùng Cung, nhiều lần trong thơ cũng như trong văn, đem bài quốc ca ra phê bình.

Trăng ngục là bản hùng ca phản chiến, kết tội Cách mạng mùa thu, nhìn sự hiếu chiến của dân tộc như nguyên nhân sau xa nhất của hai cuộc chiến trong thế kỷ XX: chống Pháp (46-54) và thống nhất đất nước bằng võ lực [chống Mỹ và chiếm miền Nam (54-75)].

Tập thơ Trăng ngục tập hợp những sáng tác trong tù. Vì không có giấy bút, không thể viết truyện nhẩm, nên Phùng Cung "bắt buộc" phải làm thơ.

Tập thơ Trăng ngục biểu hiệu những tư tưởng đối lập khác lạ, đầy bất khuất, trong những dòng chữ bị cầm tù suốt đời của tác giả. Tác phẩm chứa đựng những lời thơ mạnh, khẳng khái, đanh thép, như những mũi dao nhọn, đục thủng màng lưới bủa vây nhà thơ, đánh sụp bức tường tù tội, để lộ diện con người tự do, sẵn sàng chịu trả giá cho hành động và tư tưởng của mình, chống lại toàn bộ hệ tinh thần yêu nước chủ chiến.

Vào đầu là bài Biển cả, làm tại trại biệt giam Bất Bạt năm 1961, ngục tù tại chính Sơn Tây, vùng đất tổ. Nhà thơ ví chế độ toàn trị như biển cả:
Biển cả khoác triều phục đại dương
Hợm mình - uy nghi đồ sộ
Song đòi phen
Nghiêng ngửa - đáng thương (...)
Hỡi biển cả!
Diện tuy rộng
Nhưng thiếu những giác quan cần thiết
Lòng tuy xanh - sâu
Xanh sâu đầy mặn chát....
Nộ cuồng sóng vỗ
Trống trải bơ vơ
Chiều quả phụ
Bình minh vô vọng phương mờ...
Ôi! Bao yên lặng thanh cao
Ðều chìm
Trong thét gào man rợ...
 
Khi Bố Cái đã bị bắt, bị tù trên đất Đường Lâm: tất cả đều đã sụp đổ.
Dân tộc, bây giờ không phải chống lại quân nhà Đường phương Bắc, mà phải đối diện với biển cả mênh mông của chế độ cực quyền.
Người dân hỏi ý cha. Bố Cái trả lời:
Biển cả mênh mông
Như biển cả
Trước mắt trẻ thơ
Mỗi tinh cầu
Chỉ là chấm nhỏ
Càng tối đen càng nhìn rõ xa xanh.

Nhà thơ trình bày trước mắt chúng ta hai thực thể, một bên là cái thế quyền lồng lộng, khoác "Triều phục Đại dương"; một bên là sinh linh "trăm họ", những con người.
Đại dương ấy có đầy đủ phương tiện để vùi lấp trăm vạn sinh linh trong một trận thủy triều. Còn con người, con người lấy gì chống lại? Con người chỉ có ánh mắt. Và mắt trẻ thơ.

Dưới ánh mắt của đứa bé, cái thế quyền lồng lộng ấy là gì?
Nhà thơ trả lời: Chẳng là gì cả, nó chỉ là con số không.
Bởi vì, dưới mắt đứa bé: "mỗi tinh cầu chỉ là chấm nhỏ, càng tối đen, càng nhìn rõ xa xanh".

Vẫn giọng bố cái, nhà thơ chỉ cho dân, cách đối phó với bạo lực cách mạng:
Thì nhắm mắt
Thì bưng tai
Nhưng phải đâu khiếp sợ
Chỉ điếc đui vừa đủ
Để làm ngơ.

Bài Biển cả tung trên trang đầu tập thơ Trăng ngục như một thách đố trí tuệ, gói gọn triết lý tương đối và trung dung của tác giả. Phùng Cung đòi hỏi sự hài hoà trong vũ trụ, đòi hỏi quyền sống cho những cái nhỏ, cái lớn, đòi hỏi sự bình đẳng không những về mặt chính trị văn hóa mà cả về thiên nhiên môi trường.

Bài Trăng ngục rất ngắn, tập trung những tái tê bất hạnh của một đời tù:
Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh - sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi!
Xa mãi đến bao giờ...

Trong tù, chỉ có vầng trăng, chỉ còn vầng trăng. Trăng quấn quýt. Trăng là áo. Trăng là ngày xưa. Trăng là vợ. Trăng là tri kỷ.
 Trên vai áo tù trăng vá lụa là một câu tuyệt bút, là sự hài hoà giữa mềmcứng, giữa lụa, giữa trăngáo, giữa xagần, giữa xót xaâu yếm, giữa tự dotù tội. Nhà thơ đã kêu gọi sự hài hoà đó trong bài biển cả, nhưng không thấy biển cả trả lời, chỉ có vầng trăng đáp lại.
 
Ai liều tảo mộ chiều nay

Phản chiến là tư tưởng chủ yếu trong tập Trăng ngục. Phản chiến toàn diện, bất cứ "thể loại chiến tranh" nào, vì đối với Phùng Cung "dấu tích tàn phá của chiến tranh vệ quốc hay xâm lược" cũng như nhau. "Tất cả chỉ là sự bày đặt, buôn bán máu xương của ma vương quỷ dữ!" (Dạ ký, trang 286).

Trong bài Gãi đất Phùng Cung gọi những kẻ chủ chiến là bọn:
Lái buôn binh lửa
Ôi! binh lửa triền miên
Tuổi trẻ gái - trai
Bị lôi đi - hết
Dờ dịt sức già gãi đất.
Bởi chiến tranh nào cũng chôn sạch tuổi trẻ, chỉ để lại những người già ngồi gãi đất.

Thu xa là bài chinh phụ ca mới, phản bác những anh hùng ca chính thống của Tố Hữu, Chính Hữu... và cả những anh hùng ca bàng thống của Trần Dần, Phùng Quán...
Thu xa là giấc mơ phản chiến chống lại Cách mạng mùa thu, là sự kết án chiến tranh, kêu gọi con người hãy làm tình yêu, làm hoà bình, đừng làm chiến tranh, hãy thôi chém giết:

Gió vàng đếm lá vàng rơi
Mười hai bến nước
Em ngồi quay xa
Xa quay gấp
Làn tơ vội đứt
Em nhủ lòng
Tơ đứt vì xa
Tơ vương vó ngựa quan hà
Xa in dấu ngựa
Canh gà gọi thu
Quan hà lộng gió chinh phu
Rừng thu tắm máu
Máu thu gội chiều
Tơ vàng nhỏ giọt lệ điều
Đăm đăm tay vẫn chiều chiều quay xa
Xa quay nhẹ
Làn tơ vẫn đứt
Em hỏi lòng
Tơ đứt vì đâu
Sông ngân lỡ bắc nhịp cầu
Mà người trần thế
Mang sầu thiên cung.

Trong các thi sĩ miền Bắc, chưa ai dám đả động đến "chính nghĩa" của cuộc "Cách mạng Mùa thu" như thế, bởi đó là "chân lý tuyệt đối" được "tất cả mọi người" công nhận. Trừ Phùng Cung. Phùng Cung không. Phùng Cung đi ra ngoài quỹ đạo. Phùng Cung là người đầu tiên dám dùng những hình ảnh kinh hoàng như "Rừng thu tắm máu, máu thu gội chiều" để viết về Cách mạng mùa thu.

Rồi hai chữ quay xa, tại sao lại quay xa mà không quay tơ ? Chữ xa nhập nhoè nhiều ý nghĩa: xa vừa là guồng tơ, guồng cửi; nhưng xa còn là bánh xe chiến tranh như chiến xa; xa còn là xa lià đứt đọan. Người chinh phụ ở đây, không chỉ là nạn nhân của chiến tranh, chịu hậu quả của chiến tranh như những người chinh phụ thời xưa nữa, mà chính nàng cũng góp phần vào bộ máy chiến tranh, nàng đang quay bánh chiến xa, nàng đang "tắm máu rừng thu" như chồng. Ống kính độc đáo của nhà thơ, quay cảnh toàn thể dân tộc lao vào cuộc chiến tàn khốc: ống kính duy nhất của thi ca Việt Nam đã chụp bắt được trách nhiệm mỗi cá nhân trong chiến tranh, nam cũng như nữ.

Nhưng Phùng Cung không chỉ dừng lại ở đấy, ông còn đi sâu hơn, để truy lùng thủ phạm chiến tranh, ông đã đụng đến cả những biểu tượng được tôn sùng nhất:
Cờ máu rợp trời
Lợm gíó!
Tiếng quốc thiều tăng âm
Cực đại thét gào
 ..."Thề phanh thây uống máu!..."
Ta lùng trong kho nhớ
Nhẩm biên niên sử
Xin hỏi loài người
Có quốc thiều nào man rợ thế không?

Hỏi tội cách mạng mùa thu chưa đủ, nhà thơ còn hỏi tội quốc ca, quốc kỳ.
Chưa nhà thơ nào dám đưa ra những lời buộc tội gay gắt về những biểu tượng "thiêng liêng" như thế: Có quốc thiều nào man rợ thế không?

Bên cạnh những hình ảnh dễ sợ của "cờ máu rợp trời lợm gió", bên cạnh những lời buộc tội không khoan nhượng, rằng trong "kho nhớ của loài người", không thấy có cái "quốc thiều nào man rợ" như thế; là những lời thơ trữ tình đẫm lệ gửi cho Quê hương tan nát vì chiến tranh, lầy máu và nước mắt:

Quê hương ơi!
Ðường quan lầy nước mắt
Ðiệu sáo hết du dương
Mây chìm
Gió ngủ (...)
Sông sâu bặt tiếng gọi đò
Chim hãy cùng ta
Gọi cành xanh ngóc dậy
Để một lần
Quê hương thấy lại quê hương
Ráng chiều ngụy tạo bình minh
Lá thuyền tình
Chỉ lênh đênh giữa dòng.

Phùng Cung là người chữ duy nhất ở đất Bắc, đối với hai cuộc chiến, đã nhìn thấy và đã dám nói ra cái giá quá đắt phải trả cho hòa bình đã mất. Dưới mắt nhà thơ, chiến tranh không chỉ là những thúc giục lên đường, không chỉ là những tiếng hô xung phong, mà đằng sau tất cả cờ xí rợp trời là bộ mặt kinh hoàng của thần chết:

Phát lệnh chia bôi...
Ngọn gió giao liên
Gửi tiếng xa gần
Trống phát dẫn
Gia nô thần chết cầm dùi
Dấm dúi vùi nông
Chiều bạc mệnh
Khói hương ơi!
Ðền miếu tan rồi!...
Năm tận tháng cùng
Hòng hõng mong thư tuyến lửa.

Những hình ảnh "gia nô thần chết" trong thơ Phùng Cung, hoà cùng những xác "người chết hai lần" trong ca từ Trịnh Công Sơn, đã hợp thành dòng máu của anh em chém giết.
Trong buổi liên hoan mừng chiến thắng, Phùng Cung âm thầm đếm lại những đốt xương tàn:

Tiếng gia tiên
Thổn thức dưới mồ
Những lúc chim về
Tím lịm chân mây
Ai liều tảo mộ chiều nay
Mà hương tảo mộ bay đầy hoàng hôn.

Hướng về những linh hồn quá trẻ đã bị vay tuổi để xuất trận, Phùng Cung tảo mộ con và liệm hồn mẹ, những người mẹ bạc đầu hương khói trên những nghiã trang giả không có xác trong mồ:
Con vừa mười sáu tuổi đời
Nửa đêm vay tuổi lấy người chiến tranh
Ðèn con tiễn đến cổng đình
Quay về hụt bước ngỡ mình chiêm bao
Khe Sanh - Dốc miếu là đâu
Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn
Máu chiều gội đỏ hoàng hôn
Nghiã trang mồ giả, nắm xương không mồ
Ðồng chiều gió tím mấp mô
Nén hương đẹn khói, mấy mùa khóc vay.

Và dưới mồ tiếng Phùng Cung nhắn lên, ngược dòng với Văn Cao, Lưu Hữu Phước: Này thanh niên ơi! Đừng bao giờ chọn giải pháp chiến tranh cho dân tộc.
* 
Xem đêm là tập thơ của người Việt cổ, "người Rừng", thơ Đường Lâm thi chí, của Bố Cái bị cầm tù trên Bất Bạt. Tất cả đã bị tàn phá, từ thân cây ngọn cỏ, đến cả đọt sương, đến cả tâm hồn, đến cả khổ đau và hạnh phúc, cũng không còn như xưa...

Xem đêm là một hình tượng mới, một hành động chữ mới, mỗi chữ là tinh cầu, chỉ cần vài câu đã gói trọn bầu trời nhật nguyệt thực, sau Nhân Văn. Ở Hoàng Cầm là những đêm kim, đêm mộc, đêm thủy, đêm hoả, đêm thổ. Ở Phùng Cung là nghe đêm, xem đêm...

Xem đêm là một vũ trụ không ánh sáng của những số kiếp bọt bèo, những người bị tù chung thân vì tội chữ:
               Lênh đênh muôn dặm nước non
               Dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh (Bèo)

Xem đêm là sự đậm đặc của những con chữ nguyên chất, những con chữ quê mùa, chưa bị văn minh xâm lấn, chưa bị lừa lọc tấn công, chưa bị chủ nghiã nhiễm độc, chưa bị chuẩn hoá theo một mẫu mực nào.
Trong đêm miên viễn ấy, người và vật nhập quyện vào nhau trong một trạng thái dung hợp vật chất, tinh thần. Thơ cô đọng như Đường thi, một vài chữ đủ gánh cả phận người. Sự giao thoa giữa vật thể, tiếng động, không gian là đặc tính của Đường Lâm thi phái:

Đêm về khuya
Trăng ngả màu hoa lý
Tiếng gọi đò căng chỉ ngang sông (Đò khuya)

Đêm, trăng, hoa lý, tiếng gọi đò, sông... là những yếu tố của một cảnh đêm có thể chất hoàn toàn khác nhau. Nhờ một hành động chữ, chúng đã hoá mộng. Để được sống lại trong một không gian khác, để tạo ra nghịch cảnh của một đời người.
Sự cô đơn tuyệt đối của con người bị cô lập suốt đời, được nhà thơ biểu hiện dưới một màn trăng đêm không người, mà có "tiếng gọi đò" như "con nhện vô hình" giăng nối hai bờ xa cách.

Hai quang cảnh, một của thiên nhiên hiện thực, diễm ảo: Đêm về khuya trăng ngả màu hoa lý và một của tâm thức cô đơn tuyệt đối Tiếng gọi đò căng chỉ ngang sông, của kẻ bị cách ly, lưu đầy, bị đoạt tự do và cướp ánh sáng mà Nguyễn Mạnh Tường gọi là un excommunié, kẻ bị khai trừ.
Nhưng tất cả nghịch cảnh, cách ly, đều đã mà đều đã không. Đã xẩy ra và đã không còn nữa: sắc sắc không không, như một sự giao thoa triết học đông tây phi thường, mới lạ.

Một bài thơ khác:
 Quất mãi nước sôi
Trà đau nát bã
Không đổi giọng Tân Cương (Trà)
 
Đây chính là thơ Đường Lâm nói chí.
Chỉ có ba "nhân vật": Trà, nước, giọng, ba yếu tố thuần khiết của một cuộc thiết trà.
Bỗng chữ quất hiện lên như một hung thần và chữ Tân Cương sừng sững như một người Rừng, một chí  lớn, một sự cương cường mới, bị giam hãm ở đất Tân Cương, trại tập trung các trí thức Trung Hoa bị Mao Trạch Đông đày đi gánh phân; biến cuộc thiết trà thành một cuộc tra vấn tàn phũ, mà kẻ thẩm tra quất trà đến nát bã nhưng trà sĩ vẫn không khai, không đổi giọng bất khuất. Thơ Phùng Cung có chí Phùng Hưng.

Một bài thơ về mẹ:
               Mồ hôi mẹ
               Tháng ngày đăm đăm
                                                   nhỏ giọt
               Con níu giọt mồ hôi
               Đứng dậy làm người (Mẹ)

Một giọt mồ hôi mẹ, đủ tác thành khí phách con. Chữ đi từ núi Tản, mỗi chữ là một giọt thép. Đọc thơ ấy, sẽ hiểu tại sao con người ấy bị biệt giam 11 năm. Bởi không có phép gì "cải tạo" được tâm hồn và chí khí của ngọn Ba Vì.

Vẫn về người phụ nữ, lần này là người vợ:
               Lưng áo em
               Ngoang vôi trắng xóa
               Cái trắng này vắt tận trong xương (Mồ hôi xương)
Chân dung người vợ cũng toát ra cái can trường trắng của đất Mê Linh. Sự can trường dũng cảm hàng ngày của người vợ phải đương đầu với miếng cơm manh áo, để nuôi con, để tồn tại.

Và một tinh thần phản chiến, kiên cường và dứt khoát, rùng rợn, trong cung cách Đường thi:
               Mỗi chiến thắng
               Một lần gươm tắm rượu
               Ruồi vẫn qua lùng máu
                                       sa trường (Gươm báu)

Bài Nghe đêm gói trọn nỗi cô đơn cuối đời của con người bị lưu đầy, vì chữ nghiã, từ tuổi thanh niên đến lúc đầu bạc:
Đêm chợt nghe
Trong gối vọng tiếng ru
Lắng tai mới rõ
Tiếng tóc mình chuyển bạc (Nghe đêm)
 
Đó là sự cô đơn của kẻ một mình một ngựa trên hành trình mở nước và dựng nước về phía văn hóa, tình nước và tình người.

(Hết phần thứ XIV)

SƠN TRUNG * PHÙNG CUNG

truyện ngắn
Phùng Cung
( 1928 - 1997)

     SƠN TRUNG


Phùng Cung sinh  ngày 18 tháng 7 năm 1928 tại  Kim Lân, Hồng Châu, Yên Lạc, Vĩnh Yên,
là con trưởng trong một gia đình đông con và khá giả. Thân phụ  ông bị cộng sản .quy là
địa chủ bị giam  tại Thái Nguyên  mà chết.   Lúc trẻ , ông trọ học tại Sơn Tây,  đến 1945 thì
tham gia kháng chiến chống Pháp, được bầu làm chủ tịch liên xã Hồng Châu -  Liên Châu
 lúc 17 tuổi. Vốn có tài văn nghệ,ông ở trung ban Văn Nghệ ở Việt Bắc, chung với các ông
 Ngô Tất Tố, Phan Khôi, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan.  . . Sau 1954 về Hà Nội, tham
gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, viết truyện ngắn ’’ Con ngựa già của chúa Trịnh’’,
 đăng trong Nhân V?n số 4 vào tháng 10, 1956. Vì bài này, Phùng Cung bị đưa ra cơ quan
 đấu tố, đình ch? công tác, rồi đưa đi  cải tạo học tập , làm một tù nhân không án gần 12 n?m
(từ tháng 5, 1961 đến tháng 11, 1972), trải qua các trại nổi tiếng độc ác và tàn bạo như 
Tuyên Quang, Lai Khê. Trong tù, Phùng Cung đau yếu liên miên, lao phổi và loét dạ
dày, lắm phen tưởng đã phảiHỏa Lò, Bất Bạt, Yên Bái, Phong   chết trong tù. Đến tháng
 11, 1972, PhùngCung được cho về với gia đình, nhưng không có công ăn việc làm lại bị
‘’rút phép thôngcông’’ nghĩa là không được giao thiệp với ai, và chẳng ai dám giao thiệp.
Công an luôn đến nhà tra vấn đủ thứ chuyện.
Trước khi ông bị tù, còn là hội viên hội Văn Nghệ Việt Nam, ông cũng như Trần Dần
đã bị đảng can thiệp vào vấn đề hôn nhân của ông. Hội Văn Nghệ cử Kim Lân, Hoàng Thượng
Khanh, Lê Thọ Hợp về quê điều tra lý lịch, và kết luận gia đình người yêu của Phùng Cung
không thuộc diện địa chủ nhưng lại liên hệ với phong kiến. Phùng Cung bất chấp ý kiến phản
bác của Đảng, làm lễ cưới ở Hà Nội, do Phan Khôi. đùng chủ hôn.
Khoảng 1991, Phùng Quán đã đi thăm Nguyễn Hữu Đang và Phùng Cung. Ông đã
xem thơ Phùng Cung và ông lấy làm thích thú, bèn đi khắp Việt Nam quyên một số tiền
để in thơ Phùng Cung. Nguyễn Hữu Đang cũng đem số tiền bốn triệu do bằng hữu tặng
để in thơ họ Phùng. Đó là tập thơ Xem Đêm , gồm 200 bài thơ.
Vào khoảng 1986, Nguyễn Văn Linh lên làm Tổng Bí Thư , bắt chước Trung Quốc
mở cửa, và chủ trương ‘’ cởi trói’’ cho văn nghệ sĩ. Nhờ vậy mà Phùng Quán và Nguyễn
Hữu Đang đã giúp đỡ tiền bạc và giấy phép để nhà xuất b?n Văn Hóa-Thông tin cho
in tập thơ ‘’Xem ?êm’’ gồm 200 bài thơ tả cảnh tả tình. Nguyễn Hữu Đang có viết một
bài phê bình tỉ mỉ tập thợ này, trong đó có những bài được ông cho là kiệt tác.
Tập thơ này đã ra đời năm 1995, sau khi Phùng Quán mất, vào lúc Phùng Cung 66 tuổi.
               Phùng Cung bị bệnh ung thư dạ dày, mất ngày 9 tháng 5 năm 1997 lúc 2 giờ tại
 Hà Nội, thọ 68 tuổi, đám tang cử hành ngày 11 tháng năm, an táng tại cánh đồng làng
 Đông Ngạc, ở ngoại ô Hà nội.
Gần đây bà Lâm Thu Vân, Trung Tâm Dân Ch? Cho Vi?t Nam/ Montréal và nhà xuất bản
Văn Nghệ ấn hành sách "Phùng Cung, truy?n và th? (Ch?a h? xu?t b?n)" vào tháng
12/2003. Sách gồm 10 truyện ngắn và tập thơ ‘’TrăngNgục’’ với 35 bài thơ đặc s?c của
nhà văn Phùng Cung .
Đây là 10 truyện ngắn viết sau ‘’Con ngựa già của Chúa Trịnh’’:
Mạt kiếp Cốc, tháng 8, 1957
Ván cờ khai xuân Rau Cốc, Xuân đinh dậu 1958
Chiếc mũ lông Hà Nội, tháng 7, 1958
Con muông nòi Hà Nội, tháng 9, 1958
Biệt tích Hà Nội,10 tháng 9, 1958
Giải thoát Hà Nội, tháng 12, 1958
Mộ phách Hà Nội, tháng 12, 1958
Phòng tuyên truyền địa ngục . Hà Nội, tháng 4, 1959
Dạ ký Hà Nội, tháng 9, 1959
Hương Dạ hợp Hà Nội cuối tháng 10, 1959
Điều này chứng tỏ rằng chế độ cộng sản đã không chận đứng nổi sức sáng tác
của Phùng Cung. Trăng Ngục, gồm 35 bài thơ sáng tác lúc Phùng Cung bị đày đọa
trong các trại tù Bắc Vi?t, và về sau được ông chép tay trên giấy học trò, lúc đã ra khỏi trại
tù. Đó là Những bài thơ sáng tác từ 1961 tới 1972, lúc bị biêt giam trong các trại Yên Bái,
Lào Cai, Bảo Thắng, Bất Bạt....
Tác phẩm trên ra đời tại hải ngoại là do Phùng Hà Phủ con trai của tác giả mang
từ Việt Nam sang Canada cho bác sĩ Lâm Thu Vân, nhưng nó lại bị ngăn cách bởi
một người khác. Phải một thời gian khó khăn, nay di cảo của Phùng cung mới ra
mắt độc giả hải ngoại.
Năm 2004, bà Lâm Thu Vân cho tái bản tập Phùng Cung dày 375 trang, ta có thể
chia làm bốn phần:
Phần I. Truyện: gồm mười truyện trên, thêm Con ngựa già của chúa Trịnh
Phần II. Tập thơ Trăng Ngục , 35 bài thơ.
Phần III .Tập thơ Xem Đêm , 72 bài thơ.
Phần IV. Phụ Lục. Các bài viết vê Phùng Cung. Đặc biệt là bài viết của Nguyễn
Chí Thiện và Nguyễn Hữu Đang.
Tóm lại, lần tái bản, thêm truyện Con ngựa già của chúa Trịnh , còn về thơ bổ
sung Thơ Xem Đêm. Chúng tôi tham khảo quyển sau vì tài liệu nhiều hơn.
Mãy chục năm trước, ông nổi tiếng với truyện Con ngựa già của chúa Trịnh,
đăng ở Nhân Văn số 4 tháng 10 năm 1956, nên ông bị cộng sản bỏ tù. Ông trải qua
nhiều trại tù. Ông đã sống tại trại tù Thanh Phong, Yên Bái với Nguyễn Chí Thiện.
Năm 1977, Nguyễn Chí Thiện và Phùng Cung được phóng thích, ra tù phải sống
trong nghèo khổ. Ông trở về làm đinh mà sinh sống. Và ông vẫn tiếp tục làm thơ.
Mười một truyện ngắn của Phùng Cung được viết trong khoảng 1956 đến 1959,
nghĩa là viết trước khi ông bị tù. Truyên Con ngựa già của Chúa Trịnh , viết xong
tháng 10-1956, được đăng trên Nhân Văn số 4, ngày 5-11-1956. Còn các truyện
khác thì chưa đăng báo.
Truyện ngắn Con ngựa già của Chúa Trịnh đã làm Phùng Cung nổi tiếng trong
văn học, nhưng chính nó cũng là oan khiên của đời ông. Đây là một truyện loài vật,
mang tính chất ngụ ngôn, kể một con chiến mã của chúa Trịnh được đem dùng
làm ngựa kéo xe cho chúa. Con ngựa đưọc ăn uống dầy đủ trở nên béo phì, và
sức khoẻ cũng kém với tuổi già cho đến một ngày nó ngã xuống vì không đủ sức kéo.
Ngụ ý truyện này chỉ tríc bọn cộng sản sau khi về Hà Nội đã quen cuộc sống hưởng
thụ và làm nô lệ đảng. Chúng trở thành hèn yếu, chỉ biết mù quáng tuân lệnh chủ để
được vinh thân phì gia.. .
Trước tiên, Phùng Cung đã nêu lên những thành tích oai hùng của con ngựa chiến:
Một buổi sáng, trên các ngả đường, nhân dân các vùng lân cận nghe tin, lũ lượt đổ
về xem như nước chảy. Hàng nghìn ngựa tốt từ các nơi đem về được sắp hàng tề
chỉnh bên cạnh những kỵ binh nai nịt gọn gàng. Con Kim Bông ngơ ngác trước
quang cảnh mới lạ,lòng nó rộn ràng, mắt nó đăm đăm nhìn thẳng phía cuối đua trường
: như để dương oai với đồng loại, nó nén hơi, tóp bụng, cất tiếng hí dài, lanh lảnh
nghe sởn óc [. . .]. Sau ba hồi trống lệnh, các kị binh lên yên, ra roi, bắt đầu rời vạch.
Đoàn ngựa lồng lên trong bụi lốc mịt mù, những miếng đất bắn ra tứ phía như mưa
rào, nhân dân reo hò vang dậy. Chỉ trong chớp mắt con Kim Bông đã vượt lên
hàng đầu, vừa hí, vượt lên, chân trước khoăm lại như móc sắt, đuôi bay như giải
phướn, tưởng như chân nó không hề chạm đất. Ở phía xa ngườI ta nhìn nó chỉ
còn thấy một bóng trắng lấp lánh, oằn lên, oằn xuống như một con rồng trắng
uốn khúc. Nó bay tới phía nào là tiếng reo hò phía ấy vang lên không ngớt. . .
Sau một thời gian tham gia các trận đánh, con Bạch Long thiên lý mã đã lập được
nhiều chiến công, và được chúa Trịnh yêu quý, cho nó vào trong vương phủ. Chúa chọn
nó làm mã lệnh, sai lập hồ tắm riêng, suốt ngày sống sung sướng, không còn phải xông
pha nguy hiểm:
Một buổi sáng, nó đang đứng trong mã đài, hai con mắt đăm đăm vọng ra ngoài
bức thành cao ngất, nó bỗng thấy một mã phu nai nịt gọn ghẽ, khác ngày thường, đến
dắt nó ra đứng dưới mái hiên, phía tả hành lang. Nó sửng sốt, tưởng phen này lại được
xung trận. Một mã phu khác trải lên lưng nó một tấm gấm điều, xung quanh thêu kim
tuyến. Nó ngoái cổ lại, bỗng thấy mình đẹp như phụng hoàng. Hai mã phu nữa mang
đến đàng sau nó một vật gì vuông vắn giống như một nhà lầu, gấm vóc xanh đỏ phủ
quanh. Một mã phu nữa mang cương đóng vào gáy nó. Bộ cương quý giá và đẹp
đẽ làm sao! Đời nó chưa từng nhìn thấy. Hàm thiếc bằng bạc: hai đầu nạm vàng
sáng lóe. Nó sung sướng gục đầu xuống nhạp hàm thiếc một cách ngoan ngoản.
Khi mã phu buông tay, lạ lùng lắm, nó thấy hai vật gì to bằng hai cái lá đa che
ngang hai bên mắt, khiến nó chỉ nhìn thẳng phía trước mà thôi. Rồi một mã phu
đẩy nó lùi lại, đứng giữa hai càng gỗ sơn son thiếp vàng.Được chúa thương yêu,
cho vào vương phủ, được hưởng đặc ân, được phủ bề ngoài hào nhoáng, con ngựa
thấy mình đẹp đẽ, oai vệ vô cùng. Một đôi khi nó cũng có cảm giác xấu hổ, buồn tủi
vì mất tự do, mất cái thú tung hoành ngang dọc, nhưng nỗi buồn đó chỉ thoáng
qua, mà cái tự hào, thỏa mãn ngự trị mạnh mẽ hơn:
Bỗng dưng hai càng gỗ dúi mạnh một cái, cổ nó bệt xuống, miệng nó gần
chạm đất, nó vừa ngóc được lên thì giây cương đã ghìm thẳng. Nó cất bước thấy nặng;
cái nặng quái gở, như bóp nghẹt lấy cổ, có lúc bềnh bồng nhẹ đi một chút nhưng rồi
gáy nó càng như lún xuống. Nó phải lấy gân bốn bó mới giữ được cái thế đứng đường
bệ. Rồi bỗng có một ngọn roi da quất nhẹ vào mông, nó cắm cổ đi. Khi nghe tiếng
bánh xe nghiền mặt đá, nó mới biết là nó đang kéo xe cho chúa. Nó gục đầu đầu
xuống, lủi thủi kéo chiếc xe qua sân, hai mắt nó lờ đờ nhìn thẳng, mỏi mệt,
chán ngán.
Nhưng chẳng bao lâu, những chậu thóc trộn mật vừa ngọt, vừa bùi, những bó
lá trúc quân tử vừa thơm vừa ròn sậm sựt đã cùng những buồn tủi sầu muộn, cùng
những ước mơ trôi qua ruột, tống ra ngoài trả lại cho quá khứ. Con thiên lý mã quen
dần với chức vị. Nó thấy mình phải phò chúa cho đến hơi thở cuối cùng mới xứng
danh thiên lý mã.
Cuộc đời luôn luôn thay đổi, quân Trịnh đã thất bại tại chiến trường sông Gianh, chúa Trịnh muốn đem thiên lý mã ra thao trường tập dượt trước khi ra trận, song mấy lâu nay sống thanh nhàn, không luyện tập, vả lại tuổi già sức yếu, con Thiên lý mã cuối cùng đã ngã xuống sau một lúc gắng sức trổ tài:
Con thiên lý mã được dịp ra đua trường. Hai cái lá đa đã đuợc cất đi. Nó bàng hoàng nhìn trời, nhìn đất, mắt nó hoa hoa, đầu nó choáng choáng. Cảnh vật như quay chong chóng, cây như mọc ngược, núi như đổ xuống. Vưà gặp đồng loại một cái, nó cố gắng dóng hai tai, tóp bụng lại lấy hơi hí một tiếng để dương oai. Nhưng tiếng hí của nó vừa hé ra thì cụt lủn như có vật gì nút lấy mõm. Các đồng loại của nó cũng nhe răng ra cười rồi cùng cất tiếng hí làm cho nó càng uất. Không chờ nghe tiếng trống lệnh, nó đã lồng lên, tức thì các đồng loại của nó cũng bỏ vạch rượt theo. Tiếng trống liên hồi, con thiên lý mã càng cắm đầu cắm cổ chạy. Nó đã tưởng mình thắng cuộc, nó đắc chí ngoảy đầu lại thì bọn ngựa chiến đã tới sát đàng sau. Chỉ trong chớp mắt nó bị tụt lại. Không chịu nó càng lồng lên. Bỗng nó thấy nhói một cái ở trong ngang bụng như bị một nhát gươm chém mạnh nó ngã vật xuống, vùi đầu trong bụi lốc của đàn ngựa bay qua, nó biết là đứt ruột, không thể sống được. . .
Vì Phùng Cung gọi bọn cộng sản bằng loài ngựa kéo ,làm tôi mọi cho chế độ, một chế độ độc tài, quan liêu và thối nát như thời vua Lê chúaTrịnh cho nên bọn chúng căm tức, bỏ tù ông. Trong chế độ dân chủ khác, bài viết của ông không đem lại phiền hà cho ông như trong chế độ cộng sản. Cộng sản bao giờ cũng dùng người này đánh người kia, cài vào cái thế mọi người nghi ngờ, thù hận nhau như lời Phùng Cung đã nói trong Trăng Ngục:
Ôi! Tay chúng cầm lê
Đâm người - dấu mặt
Lại vội lau tay - vu cáo - gây thù
Cha con nghi ngờ
Vợ chồng cảnh giác
Già trẻ xóm giềng
Nhìn nhau len lén
Di họa đứng rình
Trong tối lửa tắt đèn
(xuống đường)
Họ đã dùng những người trong Nhân Văn, Giai Phẩm như Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt để tra hỏi, vu khống và kết tội Phùng Cung. Những người yếu đuối dễ ngã lòng và cúi đầu làm theo cộng sản. Theo lời khai của Hoàng Cầm thì chính Hoàng Cầm đã góp ý kiến với họ Phùng khi ông viết truyện này, làm sao cho con ngựa đáng ghét. Truyện này, chỉ là một ngụ ngôn, nhắm châm biếm những sủng thần của chế độ, được địa vị cao, hưởng bổng lộc trọng nên mất hết khả năng, tài lực. Họ chỉ là những bị thịt, những túi cơm giá áo. Hạng này đầu hiện hữu trong mọi chế độ. Bài này làm cho những kẻ như Tố Hữu, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Huy Cận. . . phải nóng mặt vì họ nghĩ Phùng Cung đã ám chỉ họ, cho rằng bọn họ có chút tài năng nhưng nay tham miếng đỉnh chung, cam tâm làm con ngựa phục vụ chúa, đuợc ‘ gấm vóc xanh đỏ phủ quanh,.. .hai cái lá đa che ngang hai bên mắt, khiến [họ] chỉ nhìn thẳng phía trước mà thôi.. .mà nay thì mất hết tài năng, chỉ còn những thơ văn nịnh hót, giả dối, không hồn. Bài này nếu được viết dưới thời quân chủ hoặc thời Pháp thuộc, thì độc giả chỉ nở một nụ cười thích thú mà nhà cầm quyền cũng chẳng để ý đến những điều nhỏ nhặt trong văn học. Nhưng khổ thay, Phùng Cung đã sinh ra dưới thời cộng sản cho nên mỗi câu văn, mỗi chữ viết đều là tội. . .Nguyễn Chí Thiện cho rằng truyện Con ngựa gìà của chúa Trịnh của Phùng Cung là đặc sắc nhất về hình thức cũng như về nội dung[1].
Ông bị cộng sản bắt giam 12 năm. Tháng 7 năm 1979, Nguyễn Chí Thiện bị bắt trở lại và phải ngồi tù 12 năm vì tội trao tập thơ của ông cho tòa đại sứ Anh tại Hà Nội. Năm 1991, Nguyễn Chí Thiện dược thả, 1992, Nguyễn Chí Thiện và Phùng Cung viết thiệp mời các văn nghệ sĩ và Đỗ Mười, Lê Đức Anh dự lễ mừng thọ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi. Ngày Phùng Quán mất, Phùng Cung đã đứng ra tổ chức tang lễ khiến cho cộng sản lo ngại vì người tham dự qua đông với hàng chữ Một kẻ sĩ bất khuất!
Ngoài tài viết truyện, Phùng Cung cũng có tài làm thơ. Thơ của ông rất xuất sắc. Thơ của ông phản chiếu trung thực cuộc đời ông và xã hội ông.
Trước khi đưa ông vào tù, bọn Tố Hữu đã đưa ông ra đãu tố. Buồn nhất là chúng đã đưa các bạn ông là Trần Dần, Lê Đạt và Hoàng Cầm tố ông. Con trai ông, Phùng Hà Phủ, khi sang Canada đã viết như sau về cuộc đãu tố này:
Chủ trì buổi đấu tố gồm các ông Võ Hồng Cương, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh. Cảm tưởng xót xa và ngỡ ngàng nhất đối với bố tôi là những bạn thường ngày chơi thân với bố tôi đều tham gia vào việc đấu tố. Ngày hôm đó, ông Trần Dần là người đứng lên tố để hai ông Lê Đạt và Hoàng Cầm làm chứng dối. Tội chính mà bố tôi bị tố là mang lòng hận thù cách mạng sau cái chết của bố mình (bị quy là địa chủ bị giam đên chết trong trại tù), lôi kéo người khác cùng về hùa để lăng mạ lãnh đạo... (xv-xvi).
Bài thơ ‘’Cảm ơn’’(296) của Phùng Cung và truyện ‘’Dạ ký’’ (223-248) có nhắc đến cuộc đãu tố này :
Bùn trát đầytôi
Đá nặng xô tôi.
Dưới vực thẳm
Tôi vẫn thấy trời xanh lắm.
Tôi chân thành cảm ơn
Ba bạn Dần, Cầm, Đạt
Đã giùm tôi
Cất gánh nặng luân hồi
(C?m ?n)
Vũ Thư Hiên viết về việc cộng sản ‘’ xuyên nguyên giục bị’’để cho bạn bè, anh em tố nhau rồi thù nhau:
. . . những nhà lãnh dạo của ta rất gỉỏi xui nguyên dục bị. Sau trận đánh, hàng ngũ văn nghệ sĩ tan tác, người nọ sợ người kia, người này hận người khác, mọi người nói xấu nhau.. . . Trong không khí chỉnh huấn, con người có thể bị biến đổi do tự kỷ ám thị trong một tập thể tự kỷ ám thị như trong cuộc lên đồng.
(Đêm Giữa Ban Ngày 116-117)
Sau khi mãn tù, Phùng Cung kể lại cho vợ con biết rằng mặc dù là đối tượng bị kiên giam biệt lập, nhưng khi biết rõ Phùng Cung là tác giả của ‘’Con ngựa già của chúa Trịnh’’ thì rất nhiều tù nhân khác tìm đến thăm hỏi, xem mặt, động viên, giúp đỡ. Nhất là thời gian đau ốm, được các bạn tù chăm sóc tận tình.
Tô Hoài, một trung thần của chế độ, trong Cát Bụi Chân Ai đã tỏ thái độ hằn học với các văn nghệ sĩ miền Nam như Hiếu Chân, Doãn Quốc Sỹ, Phan Nhật Nam và lộ vẻ mỉa mai trịch thượng với Phùng Cung :
Đọc truyện ngắn ‘’ Con ngựa già của chúa Trịnh đăng trên báo của Nhân Văn tôi cũng gật gù đại khái ‘’thằng này viết được’’ . Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm cháo đãy, con ạ’’ Cũng điếu đóm tập tành như mình ngày xưa, đâu đã mà có sừng có mỏ ngay!’’
Mười truyện còn lại hầu hết mang tính chất tố cáo.Những truyện này tấn công trực diện vào bản chất gian manh và tàn ác của chủ nghĩa cộng sản. Một số truyện còn dài hơn Con ngựa già của chúa Trịnh. Còn nội dung có thể bằng hoặc sâu cay hơn. Những truyện này mang tính cách tượng trưng và ẩn dụ.
Ván cờ khai xuân mang tính cách ẩn dụ. Không gian của truyện là làng Việt, ngụ ý là đất nước Việt Nam. Nhân vật chính trong truyện là ông Ba, là hình ảnh của Hồ Chí Minh :
Ông Ba dạt đi từ bao giờ, làm gì, ở đâu, chẳng ai biết. Người làng Việt chỉ thấy ông Ba bỗng nhiên xuất hiện ở làng từ trước ngày Nhật đảo chính Pháp. . .Khi ấy ông ba đã bước sang tuổi già, nhưng còn tráng kiện lắm.! Giọng nói của ông hơi lơ lớ hạ phang hoặc mán, Thổ . . ( 68)
Ông Ba là một kẻ gian manh khoác bộ mặt đạo đức. Ông tỏ ta là người thanh cao, giản dị, thich quảng giao,thích gần gũi mọi người và mến trẻ con (68-69). Ông giảng đạo đức cho con ông nhưng ông lại làm trò lừa đảo với cả con ông, một đứa trẻ con mới mười hai tuổi. Bị con ông vạch trần âm mưu gian lận, ông xấu hổ, ông dùng biện pháp đàn áp dã man để khủng bố con mình.
Giải thoát cũng là một truyện tố cáo lãnh tụ cộng sản gian manh. Nhân vật chính là ông Cả Miêng ( Miêng tức là Minh ). Ông là trùm phường chèo và cũng là trùm cờ gian bạc lận, và cũng là một tay đạo đức giả. Ông Cả Miêng đem đoàn chèo đi trình diễn khắp nơi, được mọi người trong đoàn coi như là một thứ ‘’ Bố Cái đại vương của làng Vân Ô ‘’ (143). Ông gian lận cờ bạc nhưng tự an ủi rằng ông đánh bạc với mục đích rất cao cả là
‘’ cướp của kẻ giàu san sẻ cho người nghèo’’ (144). Một mùa xuân, trong tnhững đêm tổ tôm tại làng Mai Khê, ông thua nhẵn, đang đêm ông bèn lấy trộm tiền bạc của các anh em trong gánh chèo để gỡ gạc, và càng đánh, ông càng thua cháy túi!
Con muông nòi nhằm châm biếm chủ trương tuyên truyền khoác lác của cộng sản. Nhân vật chính là lão Năm Xuân, người ổ Nha, đi chợ Đợ mua chó. Khi về gặp ông Ba Đường di bán bánh kẹo, Năm Xuân khoác lác về những hiểu biết về nuôi chó. Y quả quyết và tự hào về con chó mới mua :
- Nó mến tôi lắm đãy! Bây giờ tôi có buông dây, nó vẫn cứ kéo ống chạy theo cho mà xem. .
-Ấy chớ! Ba Đường vốn cẩn thận- Chó mới mua, ta cũng nên ‘’cẩn tắc vô áy náy’’ thì hơn!
Lời khuyên của Ba Đường chẳng những không vào tai Năm Xuân, lại ngầm sự thách thức, kích động lòng tự ái , xúc phạm sự uyên thâm, từng trải của bực thầy. Năm Xuân kéo Ba Đường dừng bước :
-Đây tôi buông xích cho bác xem (118).
Kết thúc là một màn bi kịch:
Con chó thấy Năm Xuân thong thả bước tới, nó cũng thong thả kéo xích bước đi, thấy lão đi nhanh, nó cũng đi nhanh , Năm Xuân thoáng thấy bối rối , lão dùng mẹo nhãng nhanh định dẫm lấy đầu dây, nhưng trượt chân lão ngã ngồi. Con chó chồm lên phi nước đại ( 119).
Dạ ký là những ác mộng của tác giả, và là những nét hý họa về các văn nghệ sĩ cộng sản. Ông đề cập phớt qua về các nhà văn Kim Lân, Tô Hoài, Xuân Diệu, Hoàng Càm, Lê Đạt. Phùng Cung kết hợp nghệ thuật cũ và mới cho nên truyện của ông vừa mang tính trào phúng lẫn ngụ ngôn. Ông hóm hinh kể cho ta nghe về Viện luyện lưỡi với hai trường phái Nam Hải và Đông Phương tại Hà Nội :
Sau mấy tiếng hò hét của hai vị giáo sư - giáo sư viện trưởng vươn ra một cái lưỡi đỏ, dài hàng trượng và hơn thế nữa.Cái lưỡi cứ ngoằn ngoèo lượn như xiếc Trung Hoa múa lụa vậy. Mấy hàng học viên do giáo sư này chỉ huy cũng phóng lưỡi đỏ, cũng ngoằn ngoèo nhưng còn ngắn hơn giáo sư nhiều- Còn vị phó giáo sư thì phóng một loại lưỡi khác thẳng đơ như dùi cao su, bề dài cũng hàng trượng, có kém cũng không đáng kể- Cái lưỡi của vị phó giáo sư không múa liệng mà cứ đập lên đập xuống, cái lối dẽo cứng. Theo tôi đúng là một trăm phần trăm cao su nhân tạo hay thiên nhiên thì không biết.- Mãy hàng học viên dưới sự huấn luyện của vị giáo sư này cũng phóng lưỡi ra cũng đập lên đập xuống, tất nhiên so với phó giáo sư còn kém nhiều (235).
Phần cuối của truyện là cảm nghĩ của tác giả về cuộc sống của các văn nghệ sĩ dưới ách cộng sản. Ông viết với một giọng đầy cay đắng về bản chất dối trá và nịnh hót của văn nghệ sĩ khi bẻ cong ngòi bút phục vụ cường quyền:
Tôi nghĩ sau này tôi phải viết một bài ‘’Cứt tụng’’. Dầu ai có chê bai cũng đành chịu vậy thôi. Trong đầu tôi mới xuất được một tứ : Cứt không thèm với tay vịn gió đổi mùi, nguyện hôi thối hết mình để người đời khỏi ngộ nhận!. . .(246)
Phòng tuyên truyền địa ngục nói hết về những thủ đoạn tuyên truyền dối trá của cộng sản để dẫn dụ những kẻ thiếu kinh nghiệm. Truyện Biệt tích, Mộ phách trình bày nỗi đau khổ của người dân bị cộng sản cưỡng bức , đàn áp bắt giam và giết hại.
Nói tóm lại, truyện của Phùng Cung là những bức tranh rất thực, rất sống động về xã hội cộng sản. Tại đây dân chúng bị lừa bịp, một số hiểu rõ bộ mặt thật tàn bạo và xảo trá của cộng sản thì họ đã mất mọi thứ tự do, bị đàn áp , khủng bố và giết hại. Bản thân của Phùng Cung cũng là một trường thiên tiểu thuyết về địa ngục cộng sản.


NGUYỄN THIÊN THỤ * THƠ PHÙNG CUNG



ThÖ Phùng Cung
(1928-1997 )
TÆp thÖ này do NguyÍn H»u ñang và Phùng Quán vÆn Ƕng tài chánh Ç‹ Ãn hành, låi ÇÜ®c s¿ bênh v¿c trong khâu ki‹m duyŒt cûa nhà thÖ Quang Huy cÛng là nhà xuÃt bän cho nên quy‹n thÖ Xem ñêm gÒm 200 bài thÖ Çã ÇÜ®c Ãn hành næm 1995 tåi ViŒt Nam. TÆp thÖ này tuy‹n ch†n nh»ng bài thÖ sáng tác vào nh»ng th©i Çi‹m khác nhau, trong Çó có cä th©i gian ª trong tù. Làn tái bän tåi Montreal næm 2004, gÒm 73 bài thÖ.
Nh»ng bài thÖ trong tÆp này phÀn l§n ÇÜ®c vi‰t sau khi ông ra tù. Ý tܪng các bài thÖ hÀu h‰t là kín Çáo và bình thÜ©ng Ç‹ qua ÇÜ®c khâu ki‹m duyŒt. Xem ñêm là vi‰t vŠ làng xóm cûa tác giä và tâm tÜ cûa tác giä khi Çêm vŠ.
Xem ñêm trܧc tiên là cäm xúc cûa tác gÌä khi Çi tù vŠ. Ban ÇÀu tác giä có ít nhiŠu b« ng« nhÜng dÀn dÀn, ông cÛng tìm låi ÇÜ®c nh»ng mÓi thân thi‰t ngày xÜa:
Båc tóc trª vŠ quê
B« ng« tìm b‰n Çò m§i
Nhìn dáng låt bó rau
NhÆn ÇÜ®c ngÜ©i làng
(NgÜ©i làng)
Sau bao næm
Tôi m§i ÇÜ®c vŠ quê
Tên cây cÕ cÛng Çã quên nhiŠu ít
Con sông quê càm Çi
Bao dÃu tìch
VÅn ca khúc chìm trôi
Trong n¡ng -phÖi- rÖm
( N¡ng phÖi rÖm)
Ra khÕi tù, Phùng Cung cÛng vÅn e ngåi nh»ng sóng gió bÃt kÿ :
M¡t trܧc, m¡t sau
Kinh hoàng di løy
(tím cÖ hàn)
Trª vŠ v§i gia Çình, ông bÎ c¶ng sän bao vây kinh t‰ và bao vây hành chánh, ông trª thành m¶t kÈ sÓng thØa, cûa ki‰p ‘’ gà què æn quÄn cÓi xay’’ :
QuÏ Çåo tôi
ThÜ thái lo¢ng ngo¢ng
Xó b‰p b© ao.
Cäm Ön cao r¶ng
Tôi may m¡n
ñÜ®c dìu vŠ bän quán
Thanh thän tháng ngày
B© ao xó b‰p
(thanh thän)
Ông Çã nói ljn n‡i khÓn kh° cûa ông vŠ cÖm áo gåo tiŠn :
Thân phÆn tôi
TrÀy tråt lÜng cÖm, dži cháo
Tôi råp Çàu
Båc tóc råp Çàu
Låy håt gåo thiêng
(håt gåo)
Nºa Ç©i
Nܧc thäi
HÜu non
Vã mÒ hôi - son
Täo tÀn chiŠu s§m
QuÓc lûi lÜng vÖi
NgÃm câu thành ng»
M¡t trܧc m¡t sau
Kinh hoàng di løy
Tóc båc - vào - mùa
Ræng hÖi bÎ ÇuÓi
TrŒu tråo trái sung
Ru¶t tím cÖ hàn
( tím cÖ hàn)
ñi‹m thÙ hai, Xem ñêm là quan sát cänh vÆt ban Çêm, là vi‰t vŠ quang cänh ban Çêm cûa quê hÜÖng tác giä :
ñêm vŠ khuya
Træng ngä màu hoa lš
Ti‰ng g†i Çò
Cæng chÌ ngang sông
( Çò khuya)
Lúp xúp quê xanh
Giäi y‰m b¡c cÀu m¶t thuª
Gió båc cánh
ChÜa h‰t vòng kim c°
Làng cách làng
TØng quãng phong dao
(quê xanh)
Trª giÃc xem Çêm
CuÓi tr©i træng - mÕi
Trái gÃc chín - ngÆp ngØng
Tóc røng tråt lÓi Çi
Trª giÃc xem Çêm
Thiên hà ng†c vøn
Gió th°i m¶t mình
M¥t ÇÃt tròng trành
Ma hoa nhäy múa
(xem Çêm)
TuyXem ñêm vi‰t vŠ cänh ban Çêm nhÜng cÛng có nh»ng cänh ban ngày :
N¡ng hÄy gió lên
Hoa bÀu røng
Lèo tèo tóp m«
Pháo ÇÃt ‘’bÓp!’’ b© ao
Con cò cái giÆt mình ‘’ giÛ løa!’’
Bóng râm rë n¡ng sang sông
( n¡ng gió)
ñuôi n¡ng u‹ oäi
VÜ©n °i chín - Çùa
Bò rÓng v®i - chiŠu
LÛy tre xóa bóng
(chiŠu xuÓng)
Là thi sï, ông Çã xúc Ƕngtrܧc nh»ng cái ÇËp cûa quê hÜÖng, dù là nh»ng nét rÃt ÇÖn sÖ và bình thÜ©ng nhÜ mùi °i chín, ao bèo, gi‰ng Çình, b‰n Çò, dàn bÀu, con ong:
Trª dÆy g¥p thu
Không gian ngÆp mùi °i chín
Mùi - næm ngoái
ñáy nܧc ao bèo
Mây tr¡ng lênh Çênh
Bâng khuâng mình t¿ hÕi mình
Tr©i thu thä - n¡ng
Gi‰ng Çình v¡ng ai.
(g¥p thu)
Sông Çëp dòng
ñò vui b‰n
Cô lái vÜon mình
Trôi dáng - nhån
Gió ng« buÒm quen. . .
Våt áo nâu non khép v¶i tà
( dáng nhån)
Gió søc dàn bÀu
Con ong xanh lång cánh
Ch°i mo ngÆt ÇÀu hè ngáng lÓi
Sào phÖi tÃm áo s¡p rÖi
(gió ÇËp)
ñi‹m cuÓi cùng, Xem ñêm vi‰t vŠ ÇÃt nܧc, vŠ ch‰ Ƕ. Xem ñêm có khá nhiŠu bài vi‰t vŠ n‡i kh°, cänh Çen tÓi cûa ÇÃt nܧc, và cûa tác giä. Xem ñêm tÙc là quan sát cu¶c sÓng kh° äi cûa nhân dân, là vi‰t vŠ hiŒn th¿c Çen tÓi cûa ÇÃt nܧc ViŒt Nam. ViŒt Minh cܧp chính quyŠn, c¶ng sän n°i lên là cÖn dông bão l§n Çã tàn phá ViŒt Nam :
Giông bão trÄy qua xóm nhÕ
DÆp gãy h‰t rÒi
Ngô Ƕn chuÓi xanh
Xì x¢ng qua b»a
Kèng thúc ngÛ liên
Sæn lùng Çào ngÛ
ChÅu m¡t mù
Nhìn - Çóng - c†c vào Çêm
(dÆp gãy )
Dܧi ch‰ Ƕ c¶ng sän, dÃt nܧc ViŒt Nam không có t¿ do cÛng nhÜ hoa Çào héo úa, mùa xuân không nª hoa :
ThÜÖng cây Çào Óm
Xuân vŠ ch£ng nø hoa
Lá gÀy run gió lånh
Cây cÛng có th©i vÆn Ü?
( cây Çào)
Cänh vÆt ÇŠu nhu¶m màu tang tóc :
Chång vång chiŠu - rÖi
Trên xóm nhÕ
Con chó hoang
Ngoåm vành khæn tang
VÜ®t theo lòng xóm
T§i ngã ba nh§n nhác
Låi c¡m ÇÀu rÜ®t ti‰p
Phía trܧc m¥t tr©i Çang t¡t
Vàng træng Çang m†c phía sau
( chång vång)
Dân t¶c này khao khát t¿ do cÛng nhÜ con ngÜ©i khát nܧc ‘’ khát muÓn ch‰t! ’’
( Khát). Dù Çäng hÙa hËn và ÇÜa ra bao chính sách, dân t¶c này nhÜ lÛ cua ÇÒng lao Ƕng suÓt Ç©i vÅn không Çû æn :
PhÆn - lÃm
Tói ngày Çào khoáy
LÜng n¡ng - vë
Hoa væn tiŠn sº
Chài chãi Çòng chiêm
Mãy ki‰p rÒi
( cua ÇÒng)
TÃt cä m†i ngÜ©i ÇŠu kh° trong Çó có v® ông và bän thân ông :
Em vÃt vä
Tói ngày tÃt tä
LÜng áo em
Ngoang vôi tr¡ng xóa
Cái tr¡ng này
V¡t tÆn trong xÜÖng
( mÒ hôi xÜÖng)
Ông thÜÖng Ç©i, ông thÜÖng gia Çình ông và ông thÜÖng ông. Trong ÇÎa ngøc, tÃt cä là màu Çen tÓi cûa Çêm Çen, loài vÆt cây cÕ cÛng Çau kh° trong cái sÓ phÆn chung cûa ÇÎa cÀu, cûa ÇÃt nܧc. Ông thÜÖng cánh bèo dåt, ông xót cánh Çào Óm, cánh buÒm say, phÆn chó gÀy, cái våc æn ngày, phÆn cua Çòng tÓi ngày Çào khoáy. . .
Nh»ng n‡i Çau kh° trong Ç©i Çã làm ông suy tÜ và nhiŠu Çêm mÃt ngû ljn n‡i røng tóc båc ÇÀu :
Trª giÃc xem Çêm
CuÓi tr©i træng - mÕi
Trái gÃc chín - ngÆp ngØng
Tóc røng tråt lÓi Çi. . . .
(xem Çêm)
ñêm ch®t nghe
Trong gÓi v†ng ti‰ng ru
L¡ng tai m§i rõ
Ti‰ng tóc mình chuy‹n båc
( nghe Çêm)
Xem ñêm là vi‰t vŠ cu¶c Ç©i và con ngÜ©i, mang tính cách tri‰t lš. ñ©i ngÜ©i trong cõi th‰ cÛng nhÜ cu¶c Ç©i Phùng Cung là cu¶c Ç©i bèo trôi nܧc chäy :
Lênh Çênh muôn d¥m nܧc non
Dåt vào ao cån
VÅn còn lênh Çênh
(bèo)
Ông quan niŒm Ç©i là m¶t trò chÖi, sÓng hay ch‰t ÇŠu rÃt khó :
Sóng quá khó khæn
Ch‰t ch£ng dÍ dàng
Tôi phäi sÓng
H£n tôi còn Ç܆c ch‰t
Ch‰t là chÖi nÓt
M¶t trò chÖi
Mãn khóa h‡n sinh
(trò chÖi)
NguyÍn H»u ñang Çã gi§i thiŒu Xem ñêm b¢ng nh»ng l©i sau :
Ngoài nguÒn cäm hÙng thÙ nhÃt ( vŠ thÄm mÏ) cûa Xem ñêm là nh»ng vÈ ÇËp nông thôn, m¶t nguÒn cäm hÙng n»a ( vŠ tÜ tܪng) là tình thÜÖng cao cä trong con ngÜ©i Phùng Cung. Không phäi ông chÌ thÜÖng sÓ phÆn bÃt hånh cûa nh»nmg con ngÜ©i mà thÜÖng cä sÓ phÆn bÃt hånh cûa nh»ng loài vÆt, cÕ cây là nh»ng sinh vÆt (373).
III. TRˆNG NGøC
Xem ñêm là thÖ công khai, còn Træng Ngøc là thÖ bí mÆt. Xem ñêm ghi th©i gian nhÜng không ghi ÇÎa Çi‹m. M¶t sÓ bài trongTr¥ng Ngøc ghi th©i gian và không gian sáng tác. Th©i gian là khoäng 1961( Bi‹n cä ) ljn 1974 ( ñêm vó ng¿a), hÖn mÜ©i næm tr©i. Và không gian ª Çây là nh»ng tråi tù nhÜ BÃt Båt (1961), Yên Bái (1965), và Lào cai (1971).
Trܧc tiên, Træng Ngøc là cänh tù, là tâm trång Çau kh° cûa m¶t tù nhân lÜÖng tâm :
Ta m¶t con ngÜ©i
Nån nhân Çang vòng tù ngøc
ñêm ngày chân rÌ máu cùm lim.
( xuÓng ÇÜ©ng)
... Cùng tr©i trái - hút
Còng s¡t cùm lim ngÃy máu tù
VÀng dÜÖng mãi bÕ quên ta
( cùng tr©i)
Ông Çã cho ta thÃy m¶t vài nét vŠ cänh tù :
Còi giám thÎ
Nºa Çêm Çæp dÆy
LoÈng xoÈng xích xiŠng
Quát lŒnh - Çi!
Bܧc vô Çînh
VØa mÜa vØa tÓi. . .
( bܧc vô ÇÎnh)
Cu¶c Ç©i ông trong tù cÛng nhÜ cu¶c Ç©i con chích chòe bÃt hånh :
T° tan
TrÙng mÃt
Có tr©i bi‰t vì sao
BÕ hót
ChÌ kêu
MÕ run run r§m máu
ThÜÖng con chích chòe
Làm t° v¶i
Trên cành - gài bÅy
(chim chích chòe)
Sau khi ra khÕi tù, cänh tù Çày vÅn ám änh ông:
Thánh thÀn Öi
Phäi Çâu
NhÆt th¿c triŠn miên
Ngày tÓi hÖn Çêm
ñêm vó ng¿a
Quÿ gÓi chÓng tay
VÅn còn s® ngã
M¥t ÇÃt quá cheo leo
( Çêm vó ng¿a)
CÛng nhÜ NguyÍn Chí ThiŒn, ông là m¶t chi‰n sï bÃt khuÃt :
Linh hÒn bÃt khuÃt
Trên ÇÀu là thÜ®ng lj
Dܧi chân là m¥t ÇÃt hi‰u sinh
( xuÓng ÇÜ©ng)
Ông tôn tr†ng chân lš và Çåo ÇÙc, ông cÛng nhÜ NguyÍn ñình Chi‹u ghét cay ghét Ç¡ng b†n gian tà:
Trên ÇÀu tôi ngÜ«ng v†ng
M¶t bàn tay
Quy‰t không chÃp nhÆn
Nh»ng bàn tay hôi bÄn
Nh»ng bàn tay rình ‘’ mÜ®n gió’’
( mÜa)
Ông cÛng nhÜ Phùng Quán là ngÜ©i ngay th£ng, thûy chung :
Chim không Ç°i gi†ng. . .
. . . Hoa dÅu tàn, hoa vÅn là hoa.
( dòng sông)
Ông muÓn ÇÜa lÜng làm m¶t tÃm thäm, tÃm thäm rÃt Ç¥c biŒt :
Quy‰t khܧc tØ bܧc chân c¶ng sän
L¶i máu dân lành
Hàng th‰ k› chÜa nguôi
(ÇËp)
Ông Çã Çi kháng chi‰n, và ông là nhà væn, nhà thÖ có lš tܪng. Ông cho r¢ng ngÜ©i cÀm bút có sÙ mŒnh cao cä :
... Nhà thÖ chân ÇÃt
ñãy väi - gió ÇÜa
Kiêm tìm sÙ mŒnh
M‡i š nghï trong ta
ñŠu träi qua l¥n l¶i
NhÜ phÆn chi‰c cò
L¥n l¶i trong phong dao ...
. . . . . . .
SÙ mŒnh thÖ Öi !
Trong sáng tuyŒt v©i !
(giòng sông)
Ông kêu g†i nhân dân và væn nghŒ sï phäi xuÓng ÇÜ©ng, phäi tích c¿c Çãu tranh chÓng c¶ng:
... Phäi xuÓng ÇÜ©ng
Tìm sinh trong tº
Nܧc m¡t mài gÜÖm
GÜÖm bén dân lành
Ta ch¡p tay ng»a m¥t
CÀu xin các ÇÃng linh thÀn
Cho ta sÙc månh phi trÀn
ñû tung hoành, xông xáo
TÆn cùng hang °
Bæm xä vào ÇÀu con r¡n ÇÕ
Cây cÕ vÜÖn reo
MÜ®n gió nh¡n bÓ phÜÖng
Con r¡n ÇÕ tº thÜÖng - rãy giøa
Nó lí nhí van xin chôn cÃt ...
( xuÓng ÇÜ©ng)
Ông là ngÜ©i yêu nܧc, ông rÃt Çau kh° khi nhìn thÃy dân chúng Çói kh°, ÇÃt nܧc Çiêu tàn :
ñÃt nu§c Öi
Tôi m‰n ngÜ©i

NhÜ khi nhìn em bé ngû
Tôi thÜÖng ngÜ©i
NhÜ thÜÖng mË Óm
Vì Çâu
NgÜ©i khoác manh áo ÇÕ
ThØa sai - cÛn c«n
Tûi nhøc tháng ngày
Long Çong chiŠu s§m
Ôi ! có bao gi©
NgÜ©i Çau ǧn nhÜ th‰ này không.
(ÇÃt nu§c)
Ông nhÆn ÇÎnh r¢ng chính c¶ng sän là thû phåm Çã gây ra bao Çau kh° cho gia Çình ông và cho nhân dân ViŒt Nam:
T° quÓc kính yêu Öi !
Væn hi‰n - thuÀn phong - mÏ tøc
phút chÓc bàn tay c¶ng sän dÆp vùi.
ñÎnh nghïa - tên ngÜ©i
tôi không nói ÇÜ®c.
N‰u bÎ dÒn hÕi
tôi chÌ có th‹ trä l©i
b¢ng hai hàng nܧc m¡t.
TÒ quÓc kính yêu Öi!
(TÒ quÓc)
Ông tÓ cáo c¶ngsän ngu dÓt, chuyên phá hoåi ÇÃt nܧc, tàn sát nhân dân:
ñÃt nܧc tôi

triŠn miên bÃt hånh.

Tim r¡n - l©i cØu
væn hóa l§p hai
ñiŠu hành cu¶c sÓng
Tránh làm sao
khÕi nát ng†c nhân quyŠn .
(vay nóng)
C¶ng sän dùng chi‰n tranh Ç‹ bành trܧng th‰ l¿c, gây Çau thÜÖng kh¡p nÖi. Trong thÖ Træng Ngøc, ông không nói quanh co, bóng bäy. CÛng nhÜ NguyÍn Chí ThiŒn , ông nói th£ng, ông kêu Çích danh c¶ng sän Ç‹ tÓ cáo. Ông nh¡m th£ng vào c¶ng sän mà n° súng. Ông k‰t t¶i c¶ng sän làm tay sai cho lj quÓc Nga, Hoa, gây chi‰n tranh khi‰n dân ta Çau kh°, còn b†n chúng hܪng l®i l¶c. Ông våch rõ các t¶i ác cûa c¶ng sän, trong Çó có t¶i gây chi‰n tranh, tåo nên cänh núi xÜÖng sông máu, con xa cha v® xa chÒng:
... Chính chúng nó
PhÜ©ng c¶ng sän
Lái buôn binh lºa
Ôi ! Binh lºa triŠn miên
Tu°i trÈ gái - trai
BÎ lôi Çi - Çi h‰t ...
( gãi ÇÃt)
Muôn phÜÖng
B†n ÇÕ Çê hèn
Xui xi‹m - mÜu toan
Cung tên tåo hình thánh giá
(tº thÜÖng)
... Quan hà l¶ng gió chinh phu
RØng thu t¡m máu
Máu thu g¶i chiŠu
T© vàng nhÕ gi†t lŒ ÇiŠu
ñæm Çæm tay vÅn chiŠu chiŠu quay xa ...
(thu xa)
... Khe Sanh - DÓc mi‰u là Çâu
V¡ng con nh§ ljn båc ÇÀu cô ÇÖn
Máu chiŠu g¶i ÇÕ hoàng hôn
Nghïa trang mÒ giä, n¡m xÜÖng không mÒ
ñÒng chiŠu gió tím mÃp mô
Nén hÜÖng
ÇËn khói, mây mùa khóc vay.
(vay tu°i)
... Tôi bi‰t em khóc nhiŠu
Vì chÒng em tº trÆn
Em khóc lúc hØng Çông
Nܧc m¡t cº hành
M¡t nå tay hèn
LÈn vào Çong ljm ...

... Em khóc lúc hoàng hôn
Thì quanh em
L¶ng gió cô ÇÖn
TØng gi†t r¿c sáng
Trong nhiŠu th‰ gi§i ...
( nܧc m¡t)

... Não lòng thay !
Mänh ÇÃt bán khai
Tình nguyŒn tiŠn ÇÒn
ñæng cai binh lºa ...
( trÆn cuÓi cùng)
C¶ng sän luôn dùng thû Çoån gian manh lØa gåt và bóc l¶t dân chúng:
÷i! quê hÜÖng
H«i nh»ng ngày xÜa!
Thûy chung - nhân ái
TÃt cä chìm nghïm
Trong lØa dÓi cuÒng Çiên!
( quê hÜÖng)
Tàn båo lên ngôi
MÜu toan bÄn thÌu
SÃp m¥t bùn
Nghêng ngáo quÓc huy
Dây këm gai b†c løa
Giä hiŒu k‰t Çoàn. . . .
( dòng sông)
C¶ng sän luôn khoe khoang yêu nܧc nhÜng s¿ thÆt là h† phän quÓc, bán nܧc cho Nga Hoa, Ç¥t ViŒt Nam dܧi ách thÓng trÎ cûa c¶ng sän quÓc t‰:
. . .Thiên triŠu ti‰p sÙc
¾ng Ëo ÜÖng ca
Må màu mao-it
Ma thuÆt ngoan tay
Tåt Ƕc dÜ®c vào tâm vào não
( xuÓng ÇÜ©ng
... T° quÓc kính yêu Öi !
Khói lºa ngút tr©i
Cháy gia phä
Cháy tình b¢ng h»u
Cháy cÖi trÀu bách niên giai lão
Cháy tia træng thÖm
Trên làn tóc trÈ thÖ
Hi‰u chi‰n thØa sai
Ru°i c© dÅn l¶
Giàn cÀu lºa
Di læn - bách håi
NgÆp máu !
( trÆn cuÓi cùng)
Ông tÓ cáo h†c thuy‰t Marx là m¶t loåi rÃn rÃt Ƕc, và rÃt xäo quyŒt:
Thò lò muôn m¥t Lê mác mác lê
LÀm than bu¶c bøng vác c©
Tung hô bÕng h†ng
. . . . . . .
H†c thuy‰t King-cô-bra
ñ¶i lÓt công nông - rình rÆp
TØ tr©i tây Æp t§i
Lúc thoát thai
Nó v© xin rºa t¶i
Tr¶m c¡p ánh tà dÜÖng
Trܧc m†i ngÜ©i
Nó khoanh tay - quÿ gÓi - cúi ÇÀu
Tình nguyŒn Ç©i Ç©i
Làm ng¿a làm trâu
Khi gÃp khúc nó ngoan ngoãn
Giành hoàn thiŒn chÙc næng gia cÄu
HÀu hå phÃn son
Len lÕi trong l¤ng hoa
Trong ÇÒ chÖi em bé ...
Mong hiŒn nguyên hình
NhÜ dܧi vòm tr©i bÃt hånh - hôm Çây
Bän chÃt nó là cuÒng båo
Huênh hoang lÃp bi‹n vá tr©i
"Ki‰n tåo ÇÎa Çàng - hånh phúc"
( xuÓng ÇÜ©ng )
Ông tÓ cáo c¶ng sän tôn sùng Mao Tråch ñông, lÃy viŒc gi‰t ngÜ©i làm quÓc ca , b¡t dân chúng, nhÃt là gi§i væn nghŒ sï phäi luôn quÿ låy, tung hô:
... C© máu ng®p tr©i
L®m gió !
Ti‰ng quÓc thiŠu
Tæng âm c¿c Çåi thét gào

... "ThŠ phanh thây uÓng máu !..."
Ta lùng trong kho nh§
NhÄm biên niên sº
Xin hÕi loài ngÜ©i
Có quÓc thiŠu nào man r® thế
không
Trܧc m¥t sau lÜng
Ngàn trùng khóc lóc
Ôi ! m‡i ti‰ng chim kêu
ñ‰m tØng dži máu
Sóng máu ào ào
Tràn b© thế
k› ...
( xuÓng ÇÜ©ng )
Ông xót thÜÖng nh»ng væn nghŒ sï cam tâm làm tay sai cho c¶ng sän, tung hô c¶ng sän, k‹ cä nh»ng ngÜ©i nay chÓng Çäng mai låi hoan hô Çäng.
T¶i nghiŒp nh»ng nhà thÖ
H®m mình
LÀm låc
Bªi không bi‰t sÓng
Nên không bi‰t ch‰t
Nºa th‰ k› bÎ lÜu Çày
Trong cõi tung hô!
(T¶i nghiŒp)
Quan l¶ ngÀm Ç¥t hÀm chông
Gài bÅy vàng son
Giây phút mÖ hÒ
Sa chân gøc ngã
Úp m¥t - hôn mê - li‰m l¶c
Ngóc ÇÀu thóa må tâm linh
Cu«ng bÙc ng» ngôn
Ng®i ca t¶i ác
Tình nguyŒn tr†n ki‰p bút nô. .. .
( dòng sông)
H† nhÜ lÛ ma trành, quy‰n rÛ thêm ngÜ©i khác cho bÀy qu› thêm Çông vui:
Ng¶ Ƕc rÒi. . . .
ñ‹ rÒi låi chuÓc Ƕc lÅn nhau. . .
( xuÓng ÇÜ©ng)
ThÖ Phùng Cung là thÖ nói vŠ phÆn mình, phÆn ngÜ©i, nhÜng cay Ç¡ng nhÃt là phÆn mình. ThÜÖng em cÛng là m¶t bài thÖ xuÃt s¡c. Nhân vÆt chính trong bài này là ngÜ©i yêu cûa ông, vì ông tù t¶i mà biŒt ly, hay v® ông Çã vì ông mà kh° Çau, hay cä dân t¶c này. m¶t dân t¶c Çã khóc rÃt nhiŠu non nºa th‰ k› dܧi båo quyŠn?
ñê tiŠn triŠu gãy khúc
ñÒng ngÆp tr¡ng
Con lŠnh ÇŠnh cõng - v¡ng-bÖi- suông
ThÜÖng em ÇÙng gi»a mùa nܧc m¡t.
Phùng Cung là con ngÜ©i hào hùng, bÃt khuÃt nhÜng trái tim ông không phäi s¡t Çá. Ông vi‰t nhiŠu vŠ nܧc m¡t và Ç¡ng cay:
Này em
Cây kh‰ gãy rÒi
N‡i chua vÅn hÕi thæm
NgÜ©i trÒng cây
( Cây kh‰)
CÛng nhÜ NguyÍn Khuy‰n, TrÀn T‰ XÜÖng, ông vi‰t vŠ mình. M¶t cái nhìn bi Çát cho ngÜ©i ngã ng¿a. Ông Çã chÎu tù Çày suÓt 20 næm. Ông không than thª, ông không k‹ l‹, ông chÌ diÍn tä vŠ ngÜ©i khác mà trong Çó ta thÃy rõ chân dung ông, tâm tÜ và cu¶c Ç©i ông. G¥p em là m¶t bài thÖ hay:
Lâu l¡m g¥p em
Em chÌ khóc quay Çi
Bܧc- héo
áo - gÀy
Gió - va - nón - cÛ
Tôi hi‹u em
Tôi ch£ng nói ÇÜ®c gì!
Ông cÛng giÓng các ông già b¡t ÇÀu suy nghï vŠ cu¶c Ç©i khi thÃy tóc mình ch§m båc:
Trong gÓi v†ng ti‰ng ru
L¡ng tai m§i rõ
Ti‰ng tóc mình chuy‹n båc
( ñêm ch®t nghe)
CÛng nhÜ thÖ TrÀn T‰ XÜÖng, thÖ Phùng Cung là thÖ nghèo, nhÜng thÖ h† Phùng khác thÖ h† TrÀn. ThÖ h† TrÀn là nói vŠ cái nghèo cûa cá nhân mình, còn thÖ h† Phùng nói vŠ cái nghèo cûa m¶t dân t¶c, vÓn Çã nghèo nay låi nghèo thêm, và Çó là cái nghèo tÆp th‹ trong xã h¶i chû nghïa:
Gió mÜa sùi søt
Lºa mÃt
B‰p còn
Âu r‡ng chu¶t rình khua khoáng
Ba vua B‰p già lo l¡ng lÜ©m nhau.
Trong khung tr©i nghèo kh° mênh mông, c¢n khô ho¥c lånh giá, n°i bÆt hình dáng nh»ng con ngÜ©i héo hon, tÃt bÆt trong tu°i thanh xuân. Trong khi nh»ng nhà thÖ khác ca tøng xã h¶i chû nghïa tÜÖi ÇËp, Phùng Cung tä nh»ng con ngÜ©i xã h¶i chû nghïa, nh»ng nông dân ª quê ông, nh»ng v® hiŠn áo rách, nh»ng mË già còm cõi:
Bܧc em xéo bóng
ñi vŠ hai bu°i
Càm c¡p queo hông
N¡m rau nón cûi
Se sém n‡i ong vàng
ñi‰ng n¡ng - hoa - ngâu
( N¡ng hoa ngâu)
. . . mÒ hôi MË
Tháng ngày Çæm Çæm nhÕ gi†t
Con níu gi†t mÒ hôi
ñÙng dÆy làm ngÜ©i
( MË)
CÛng nhÜ thÖ NguyÍn Khuy‰n, thÖ Phùng Cung là thÖ tä cänh. Cänh cûa NguyÍn Khuy‰n thì êm ÇŠm và có thi vÎ, còn cänh cûa Phùng Cung hoang v¡ng, lånh lëo vì Çó là cänh tù, và cänh quê lÜu Çày:
Træng qua song s¡t
Træng thæn ngøc
B‡ng ta ch®t tÌnh - s»ng s©
Trên vai áo tù
træng vá løa
Ngày xÜa Öi!
Xa mãi ljn bao gi©. . .
(Træng ngøc)
Lá súng lát m¥t ao
ÇÓm ng†c
Con s¶p phàm vÒ hão
Bóng hoa lay
Lá tre røng
Nhu¶m hoàng hôn ÇÕ gåch
Ti‰ng cuÓc bèo da di‰t
G†i Ngày Mai
DÜa héo sào phÖi
Em Çi Çâu
ChÌnh nܧc gÓc cau
Ôm khoanh - tr©i cÛ
Lá bܪi ÇÀu hÒi
Loáng thoáng phân chim
( V¡ng )
L¥ng nhÎp sÜÖng rÖi
ChiŠu - gåo - Ç°
D‰ gào chân m¶
Træng lên. . .
( Nghïa trang)
ThÖ cûa Phùng Cung là s¿ k‰t h®p gi»a m§i và cÛ. Nói là cÛ vì hÒn thÖ ông là mang hình änh quê hÜÖng, thân phÆn ViŒt Nam. Nó mang nét u buÒn uÃt hÆn cûa ñ¥ng Dung, cûa TrÀn T‰ XÜÖng, NguyÍn Khuy‰n. Và nó mang hình änh quê hÜÖng ViŒt Nam v§i hình änh cây kh‰, hoa bܪi, khói, lá tre. . .
ThÖ cûa Phùng Cung là s¿ hòa hài tuyŒt diŒu gi»a bóng bäy và th£ng th¡n. ñôi khi thÖ ông giÓng thÖ NguyÍn Chí ThiŒn g†i Çích danh ‘’chúng nó’’ mà tÓ cáo, không e dè, không s® hãi, quanh co. Ông g†i c¶ng sän là b†n lái buôn chi‰n tranh:
... Chính chúng nó
PhÜ©ng c¶ng sän
Lái buôn binh lºa
Ôi ! Binh lºa triŠn miên
( gãi ÇÃt)
T° quÓc kính yêu Öi!
Væn hi‰n - thuÀn phong - mÏ tøc
phút chÓc bàn tay c¶ng sän dÆp vùi.
( t° quÓc)
Ông cÛng dùng Än dø nhÜ con cua, con våc Ç‹ nói vŠ thân phÆn ngÜ©i dân quÀn quÆt suÓt ngày mà vÅn thi‰u æn:
PhÆn - lÃm
TÓi ngày Çào khoáy
LÜng n¡ng - vë
Hoa væn tiŠn sº
Chài chãi ÇÒng chiêm
Mãy ki‰p rÒi
( Cua ÇÒng)
N¡ng - Çåp cánh ÇÒng
xÖ xác
Bܧc liêu xiêu
Cái våc æn ngày
( Våc)
Ông cÛng dùng th‹ hÙng nhÜ ca dao, nhân viŒc này nói viŒc khác:
ñê tiŠn triŠu gãy khúc[.. .]
ThÜÖng em ÇÙng gi»a mùa nܧc m¡t
( Mùa nܧc m¡t)
Lúc ª tråi Phong Quang, Phùng Cung và NguyÍn Chí ThiŒn g¥p nhau lÀn ÇÀu và trª nên tâm Ç¡c vì câu hÕi sau đây cûa Nguyễn Chí ThiŒn :’’Anh có hÓi hÆn vì theo ñäng kháng chiến chÓng Pháp không ‘’? Phùng Cung trä l©i ngay lÆp tÙc :’’Theo ñäng thì hÓi hÆn, kháng chi‰n chÓng Pháp thì không’’. ñÓi v§i Phùng Cung, c¶ng sän là b†n phän dân, håi nܧc. Ÿ Çây, nét chính cûa væn chÜÖng Phùng Cung tØ thuª ÇÀu Nhân Væn Giai PhÄm cho ljn chót vÅn là thÖ tranh Çãu, không bao gi© cúi ÇÀu trܧc båo l¿c. .
ThÖ Phùng Cung cÛng là m¶t loåi thÖ m§i. Ông cÛng nhÜ TrÀn DÀn, Lê ñåt luôn tìm cách canh tân cho thÖ. ThÖ Phùng Cung là thÖ tÜ®ng trÜng nhÜ nhóm Imagism, và cÛng có phÀn giÓng hài cú NhÆt Bän dùng l©i súc tích, cô džng mà chú tr†ng ª hình änh và š nghïa. ñó là ti‰ng nói cûa n¶i tâm, cûa tiŠm thÙc. Sau ñoàn Phú TÙ, có lë Phùng Cung là m¶t trong nh»ng ngÜ©i hi‰m hoi Çã thành công vŠ lÓi thÖ này. TruyŒn cûa Phùng Cung nhÜ Con ng¿a già cûa chúa TrÎnh Çã Çi vào lÎch sº, nh»ng truyŒn khác cûa ông cÛng së Çi vào lÎch sº væn h†c ViŒt Nam. Ông là m¶t thi nhân tài hoa, m¶t chi‰n sï bÃt khuÃt cûa th‰ k› XX.

 

 




No comments:

Post a Comment